Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Eragon 2 (Eldest) - Đại Ca

Chương 40: Đóa hoa đen rực rỡ 1


Hai thầy trò dọn bàn, đem bát đĩa ra ngoài lau chùi bằng cát. Oromis bẻ vụn phần bánh còn lại, rải quanh nhà cho chim.

Trở vào trong, Oromis lấy giấy bút cho Eragon, rồi dạy nó về Liduen Kvaedhí, một lối chữ viết của ngôn ngữ cổ, cao quý hơn chữ viết cổ của loài người và người lùn nhiều.

Eragon đặt hết tâm trí vào những con chữ tượng hình đầy bí ẩn, vui mừng vì có việc không đòi hỏi gì ngoài sự chăm chú học thuộc lòng nết chữ.

Một tiếng sau, Oromis ngoắt tay bảo:

- Đủ rồi, mai học tiếp.

Trong khi Eragon vươn vai, dựa ghế, ông với tay lấy từ trên tường xuống năm cuộn giấy:

- Hai cuộn này là ngôn ngữ cổ, còn ba cuốn là chữ viết loài người của con. Chúng sẽ giúp con hiểu biết cả hai ngôn ngữ.

Lấy xuống cuộn thứ sáu dày cộm, ông đặt lên đống giấy đã chất đầy trên tay Eragon:

- Đây là một cuốn tự điển. Hãy cố gắng đọc tất cả đi.

Khi sư phụ mở cửa cho nó, Eragon lên tiếng:

- Thưa sư phụ...

- Chuyện gì, Eragon?

- Bao giờ con bắt đầu luyện phép thuật?

- Phải tin tưởng vào thầy, thầy không trì hoãn việc rèn luyện con lâu đâu. Nào, bỏ mấy cuộn giấy lại bàn, thầy trò ta cùng đi khám phá những bí ẩn của ma thuật.

Trên bãi cỏ trước lều, Oromis đứng nhìn vực Tel'naer, quay lưng lại Eragon. Hai chân cân bằng với vai, hai tay chắp sau lưng, ông hỏi:

- Phép thuật là gì?

- Sử dụng cổ ngữ để điều khiển nội lực.

Im lặng một lúc, Oromis trả lời:

- Về căn bản thì con nói đúng đó. Nhiều người sử dụng phép thuật cũng không biết hơn vậy đâu. Tuy nhiên diễn tả như thế là con đã thất bại trong việc nắm bắt cái tinh hoa của phép thuật. Phép thuật là nghệ thuật tư tưởng, chứ không là sức mạnh hay ngôn ngữ. Như con đã biết, giới hạn ngôn ngữ không cản trở việc con sử dụng phép thuật. Phép thuật tùy thuộc vào sự rèn luyện trí năng. Để bảo đảm cho con có đủ khả năng sống còn, nên Brom đã không dạy cho con theo đúng bài bản, đã bỏ qua phần tinh túy của phép thuật. Thầy cũng sẽ chỉ tập trung dạy con những kỹ năng, rất có thể, con cần đến trong những trận chiến sắp tới. Tuy nhiên, trái với những kỹ năng thô thiển Brom đã truyền cho con, thầy sẽ dạy con những ứng dụng hoàn hảo hơn, những bí kíp dành riêng cho các bậc đại cao thủ trong hàng ngũ kỵ sĩ: như bằng cách nào, chỉ với một ngón tay, con có thể hạ gục kẻ thù, phương pháp di chuyển tức thì một vật từ nơi này tới nơi khác, chỉ với một câu thần chú đủ để con phát hiện độc dược trong món ăn thức uống, những cách thức khác nhau để con có thể thu hút công lực của kẻ khác để tăng cường nội lực của chính con; và bằng cách nào con có thể tăng cường nội lực tối đa khi cần thiết. Đây là những phương pháp rất hiệu nghiệm nhưng cũng tối nguy hiểm, không bao giờ được truyền cho các kỵ sĩ tập sự, nhưng trong hoàn cảnh này thầy phải truyền dạy cho con. Thầy tin tưởng con sẽ không lạm dụng chúng.

Rồi ông đưa cánh tay phải lên ngang vai, năm ngón tay cong lên như những cái vuốt.

- Aduma!

Eragon lom lom nhìn, từ dòng suối nhỏ bên lều, mặt nước xao động, kết thành một quả cầu, bồng bềnh trên không, rồi bay liệng qua những ngón tay của Oromis.

Dưới những tán cây rậm rạp, mặt suối thẫm đen, nhưng quả cầu nước trong suốt như thủy tinh, với những mảnh rêu, bụi đất trôi nổi bên trong.

Vẫn hướng mắt về chân trời, Oromis bật nói:

- Bắt lấy.

Ông ném quả cầu nước qua vai, về phía Eragon.

Eragon đón bắt, nhưng làn da tay vừa chạm quả cầu, nước vỡ ra tung tóe đầy ngực nó.

- Bắt bằng phép thuật chứ.

Bảo Eragon xong, ông lại niệm chú:

- Aduma!

Từ mặt suối, một quả cầu nước khác nhẹ nhàng bay lên tay ông, như một con chim ưng đã thuần thục vâng lời chú.

Lần này ông ném quả cầu không báo trước. Nhưng Eragon đã kịp sửa soạn, tay đón quả cầu, miệng la lên:

- Reisa du adurna.

Quả cầu ngập ngừng đứng lại trên bàn tay, nhưng cách làn da nó khoảng một ly.

Oromis gật gù:

- Không đúng cách, nhưng cũng có tác dụng.

Eragon tủm tỉm cười lẩm bẩm:

- Thrysta.

Quả cầu bay ngược về đường cũ, phóng thẳng tới mái tóc bạc của Oromis, nhưng nó không hạ đúng điểm theo ý định của Eragon, mà bay qua ông, quay vòng vòng rồi tăng tốc, lộn ngược về phía Eragon.

Quả cầu nước rắn chắc như một khối đá hoa cương, đập mạnh lên đầu nó, vang lên một tiếng "thịch".

Cú va chạm đẩy Eragon lăn đùng trên mặt cỏ, mắt nổ đom đóm.

Oromis lên tiếng:

- Câu thần chú chính xác hơn phải là letta hoặc kogthr.

Lúc này ông mới quay lại nhìn đệ tử, nhướng một bên mày, kinh ngạc:

- Con làm trò gì vậy? Đứng lên. Định nằm vạ cả ngày sao?

Eragon cố đứng dậy, rên rẩm:

- Vâng, thưa thầy.

Ông bắt đầu dạy Eragon những cách điều khiển nước khác nhau: tạo nước thành những nút thắt, thay đổi màu sắc ánh sáng phản chiếu, đông đặc nước thành hàng loạt hình thù theo ý muốn... Eragon thực hành tất cả những động tác đó không khó khăn chút nào.

Nhưng rồi buổi học kéo dài quá lâu làm Eragon đã có dấu hiệu lơ là thiếu tập trung. Nó cố không làm sư phụ nổi giận, nhưng chẳng hiểu mục đích của ông đang làm gì - dường như Oromis đang né tránh bất cứ câu thần chú nào đòi hỏi ông phải dùng đến chút sức lực. "Mình đã chứng tỏ hết khả năng rồi, sao sư phụ cứ bắt lập đi lập lại những điều căn bản?" Nghĩ vậy, Eragon lên tiếng hỏi:

- Sư phụ, con đã thuộc hết rồi, mình qua bài mới được chưa ạ?

Bắp cổ vị tiên ông cứng lại, hai vai gồng lên, thậm chí ông như nín thở trước khi bật ra câu hỏi:

- Có biết lễ độ là gì không, Eragon công tư? Hãy coi đây.

Nói xong ông lẩm nhẩm bốn câu cổ ngữ bằng một giọng quá trầm làm Eragon không hiểu nổi.

Nó chợt ú ớ kêu lên, vì cảm thấy từ bàn chân lên tận đầu gối bị bao bọc bằng một áp lực đang vặn, xiết chặt bắp chân, làm cho nó bất động, không thể di chuyển được. Hơn thế nữa, dường như nó đang bị gói trong một lớp vôi tôi.

Oromis bảo:

- Tự giải thoát đi.

Đây là một thử thách Eragon chưa từng trải qua bao giờ: làm cách nào phản công lại những câu thần chú của thần tiên. Nó có thể sử dụng một trong hai phương án để tháo gỡ sợi dây vô hình này. Để đạt hiệu quả cao nhất là phải biết, bằng cách nào Oromis đã làm nó thành bất động - sử dụng trực tiếp ảnh hưởng thân thể nó hay một nguồn lực từ bên ngoài -, lúc đó nó mới có thể chuyển ngượic nguồn lực đó, tấn công lại để hóa giải. Hoặc nó có thể sử dụng một câu thần chú chung chung trong mọi trường hợp để ngăn chặn phép thuật của sư phụ. Nhưng chiến thuật này sẽ dẫn đến một cuộc đấu sức trực tiếp giữa hai thầy trò. Nó tự nhủ: "Sẽ có lúc xảy ra chuyện đó và mình chẳng hy vọng gì thắng nổi một thần tiên."

Kết nối những câu cần thiết, Eragon lẩm bẩm:

- Losna kalfya iet.

Hãy buông chân ta ra.

Nội lực ào ào thoát ra nhiều hơn nó tưởng. Sự ê ẩm toàn thân suốt ngày nay, chuyển thành cảm giác rã rượi như vừa phải đi bộ qua một con đường dài từ sáng sớm. Rồi áp lực quanh chân nó biến mất, làm nó đứng lảo đảo khi ráng lấy lại thăng bằng.

Oromis lắc đầu:

- Ngốc! Đại ngu ngốc! Nếu thầy không kịp rút lại thần chú thì con đã chết rồi. Đừng bao giờ dốc toàn lực ra như thế.

- Dốc toàn lực?

- Không bao giờ được sử dụng một câu thần chú chỉ có thể đem lại hai hậy quả: thành công hay chết. Nếu con bị kẻ thù trói chân và kẻ thù đó lại mạnh hơn con, nếu con dốc toàn lực để bẻ gãy phép thuật của hắn, con sẽ chết ngay.

- Vậy con phải làm sao?

- Để an toàn hơn, con phải sử dụng câu thần chú theo một quy trình, giúp con kết liễu sự việc một cách thận trọng theo đúng ý mình. Thay vì nói "buông chân ta ra", đó là con đã dốc hết nội lực, con nên nói "giảm phép thuật đang trói chân ta xuống". Hơi rườm rà, nhưng con có thể thăm dò được sức lực của đối thủ, và khi cảm thấy an toàn hãy tiếp tục. Nào, thử lại lần nữa.

Oromis vừa lẩm nhẩm mấy câu thần chú, chân Eragon lại bị một áp lực vô hình trói chặt. Nó mệt tới nỗi không chắc mình có thể chống chọi nổi với lần thử thách này. Tuy vậy, Eragon vẫn phải gom nội lực niệm chú.

Chưa nói hết mấy câu cổ ngữ, Eragon đã nhận biết một cảm giác kỳ lạ khi áp lực nặng nề gò bó đôi chân nó nới lỏng dần. Cảm giác đó mơn trớn hai chân như nó đang được kéo khỏi một bãi bùn trơn và lạnh. Liếc nhìn sư phụ, nó thấy mặt ông căng thẳng như đang cố níu kéo một vật quý giá, không thể để mất. Một đường gân máu bên thái dương ông phập phồng đập mạnh.

Khi sợi dây kỳ bí trói chân Eragon không còn nữa, Oromis bật lùi ra sau như bị ong chích. Ông trừng trừng nhìn hay bàn tay, khung ngực gầy gò phồng lên. Ông cứ đứng như vậy chừng mấy phút, rồi lặng lẽ tới sát bờ vực. Hình ảnh đơn lẻ của vị tiên ông nổi bật trên nền trời nhợt nhạt.

Trong lòng Eragon đầy ân hận và thương cảm, giống như những cảm xúc lần đầu nó nhìn thấy cái chân tàn phế của rồng vàng Glaedr. Nó thầm rủa mình vì đã quá xấc xược với sư phụ, đã quá ơ hờ với sức khỏe suy yếu của ông, và đã thiếu niềm tin vào những lời ông đã phán đoán. Nó thầm nhủ: "Mình đâu phải là kẻ duy nhất phải chịu đựng những thương tích từ quá khứ."

Eragon đã không hiểu đầy đủ câu nói của ông: "Trong thầy chẳng còn bao nhiêu phép thuật và khí lực." Lúc này nó mới nhận ra một cách sâu sắc tình trạng và nỗi đau khổ của ông, nhất là đối với một thần tiên, đã được sinh ra và nuôi nấng bằng phép thuật.

Tiến tới trước sư phụ, Eragon quỳ gối, và theo đúng phong tục của người lùn, nó áp cái trán trầy trụa sát mặt đất nói:

- Ebrithil, con xin thầy tha thứ.

Vị lão tiên không tỏ dấu hiệu nào là đã nghe những lời nói của đệ tử.

Hai thầy trò lặng lẽ giữ yên vị thế cho đến khi mặt trời lặn, tiếng chim ca hót những bản nhạc chiều, và không khí lạnh dần trong hơi sương. Từ phương bắc, tiếng vỗ cánh trở về của Saphira và Glaedr thoáng vọng lại.

Bằng giọng trầm lắng xa xôi, Oromis lên tiếng nói:

- Ngày mai chúng ta sẽ trở lịa bài tập này và một số bài khác nữa. Con đồng ý chứ?

- Dạ, thưa thầy.

- Theo ta, tốt nhất là từ nay con nên cố gắng chỉ sử dụng cổ ngữ thôi. Đó là cách học nhanh nhất, vì chúng ta không còn bao nhiều thời gian nữa.

- Kể cả khi con nói chuyện với Saphira.

- Đúng vậy.

Eragon hứa:

- Vậy thì con sẽ ngưng giảm mọi chuyện, cho đến khi không chỉ suy nghĩ, mà thậm chí cả khi nằm mơ, cũng bằng ngôn ngữ của sư phụ.

- Nếu con đạt tới được trình độ đó, công việc của chúng ta sẽ sớm thành công.

Ngừng một lúc, ông tiếp:

- Từ sáng mai, thay vì bay thẳng tới đây, thầy sẽ cử một thần tiên hướng dẫn con tới địa điểm luyện kiếm của hoàng cung Ellesméra. Con sẽ tập luyện tạo đó một tiếng rồi trở về đây như thường lệ.

- Thầy không dạy con sao?

- Ta không còn gì để dạy con nữa. Tài nghệ con ngang ngửa những kiếm sĩ cao thủ ta từng gặp. Việc còn lại bây giờ là con phải duy trì tài năng đã có.

- Tại sao con không thể rèn luyện với thầy, thưa sư phụ?

- Vì ta không hào hứng bắt đầu một ngày bằng đối đầu, xung khắc.

Ông nhìn thẳng Eragon, rồi dịu giọng tiếp:

- Và cũng vì đó là dịp tốt để con làm quen với những thần tiên sống tịa nơi này. A, nhìn kìa, chúng đã trở về.

Hai con rồng lướt qua mặt trời bằng phẳng như một cái dĩa. Glaedr bay trước với tiếng vỗ cánh rào rào và thân hình đồ sộ in trên nền trời trước khi đáp xuống bãi cỏ, xếp gọn đôi cánh vàng, Saphira lẹ làng như một con én kế bên con đại bàng.

Để đảm bảo Eragon và Saphira quan tâm tới bài học của nhau, Oromis và Glaedr đăt hàng loạt câu hỏi. Bằng mối hợp tác và chia sẻ thông tin, Eragon và cô em rồng trả lời trôi chảy, chỉ hơi ngạp ngừng khi phải sử dụng cổ ngữ.

Tư tưởng Glaedr rầm rầm như sấm: "Khá lắm. Khá hơn nhiều rồi." Cúi nhìn Eragon, anh rồng vàng tiếp: "Ta và kỵ sĩ phải mau chóng cùng nhau tập luyện."

'Đúng vậy, Skulblaka."

Glaedr thở khì một tiếng rồi lò cò chân trước còn lại, bò tới bên Oromis. Saphira nhào lại, cắn đuôi anh rồng già, lắc mạnh đầu như đang cố vặn cổ một con nai. Cô ả rúm mình khi bị Glaedr quay phắt lại, nhe nanh ngoạm một miếng ngay cổ. Eragon nhăn nhó vì không kịp bịt tai khi tiếng gầm vang lồng lộng của rồng vàng cất lên. Phản ứng cấp kỳ của Glaedr đủ để Eragon đoán biết, đây không phải lần đầu trong ngày Saphira chọc ghẹo và làm Glaedr nổi sùng. Nó phát hiện một cảm giác sôi nổi thích thú trong Saphira – như đứa trẻ có món đồ chơi mới – và cô ả còn tỏ ra say mê, gần như mù quáng, đối với anh rồng kia.

"Bình tĩnh nào, Saphira."

Nghe Oromis nói, Saphira lùi lại, tuy nhiên thái độ nó không hề tỏ ra ân hận. Eragon lắp bắp nói lời xin lỗi, nhưng Oromis chỉ bảo:

- Hai con đi đi.

Eragon lẳng lặng leo lên con rồng. Nó phải thúc dục cô nàng mới chịu cất cánh và trước khi bay về Ellesméra. ả còn đỏng đảnh lượn mấy vòng.

- Mắc chứng gì em cắn người ta vậy?

- Em chỉ giỡn thôi mà.

Đó là sự thật, vì cả hai đang trao đổi bằng cổ ngữ, tuy nhiên Eragon nghi hoặc còn một sự thật lớn hơn: "Đùa giỡn gì kỳ vậy. Em không nhớ bổn phận mình sao? Với...". Cố tìm một từ chính xác nhưng không ra, Eragon đành phải sử dụng ngôn ngữ của loài người "... với kiểu khiêu khích như vậy, không chỉ Glaedr mà đến cả anh và sư phụ cũng phải tức điên lên. Em làm trở ngại công việc của chúng mình, em biết không? Trước kia em có bao giờ quá dở hơi như vậy đây."

"Đừng lên mặt dạy đời với tôi."

Eragon cười sằng sặc, quên là đang lơ lửng trên mây, thân mình nó suýt nhào khỏi vai Saphira: "Ôi! Làm gì mà ngoa ngoắt quá vậy cô em? Sau những lần em khuyên anh phải làm gì, anh chính là lương tâm của em, Saphira. Cũng như em là lương tâm của anh. Và bây giờ anh phải nhắc nhở em như em từng nhắc nhở anh: Đừng quấy rầy Glaedr nữa."

Ả rồng im thin thít.

"Saphira?"

"Nghe rồi."

"Tưởng điếc."

Lẳng lặng bay cả phút sau Saphira mới lên tiếng hỏi: "Bị hai cú choáng váng trong một ngày, anh sao rồi?"

Eragon nhăn nhó: "Ê ẩm và mệt đừ. Vừa vì tập quyền, vừa vì tập kiếm. Nhưng nhất là vì hậu quả của vết thương. Cứ như bị bao bọc trong mây mù. Hy vọng anh còn đủ tỉnh táo cho đến hết khóa huấn luyện này. Nhưng sau đó... anh không biết sẽ làm được gì. Với tình trạng này làm sao giúp Varden chiến đấu?"

"Đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. Anh không thể làm gì cho tình trạng sức khỏe của mình, mà càng nghĩ đến càng chỉ có hại thêm. Hãy cứ sống với hiện tại, nhớ về quá khứ và đừng sợ tương lai. Vì tương lai không tồn tại và có thể chẳng bao giờ xảy ra. Chỉ có hiện tại thôi."

Eragon vỗ vai cô em rồng, mỉm cười biết ơn. Bên phải nó, một con ó lượn vòng trên khoảng rừng thưa tìm mồi. Nhìn con chim, Eragon ngẫm nghĩ câu hỏi của thầy: "Con biện minh thế nào, khi cuộc chiến với Galbatorix sẽ là nguyên nhân gây ra bao tai ương, đau khổ?"

Saphira bỗng góp ý: "Em có câu trả lời rồi."

"Sao?"

"Là Galbatorix có..." Nó ngập ngừng rồi bảo: "Thôi, em không nói đâu. Anh phải tự tìm ra câu trả lời."

"Saphira, biết điều một chút coi."

"Em rất biết điều. VÌ nếu anh không biết vì sao những gì chúng ta làm là đúng, chẳng lẽ anh chấp nhận đầu hàng Galbatorix vì những việc tốt chúng ta sẽ làm sao?"

Dù hết lời năn nỉ, Eragon không thể moi thêm được gì từ cô em bướng bỉnh. Saphira đã phong tỏa tư tưởng trong vấn đề này.
 
Chương 41: Đóa hoa đen rực rỡ 2


Trở lại nơi nghỉ, Eragon ăn nhẹ xong, vừa định mở một trong mấy cuốn bài học sư phụ mới đưa, thì có tiếng gõ cửa.

- Mời vào.

Eragon nói, lòng hy vọng Arya trở lại.

Đúng là nàng.

Arya chào Eragon và Saphira rồi nói:

- Hôm qua chàng tỏ ra quan tâm tới cung điện Tialdarí và những khu vườn phụ cận, tôi nghĩ chàng muốn có dịp tới thăm, nếu hôm nay chàng không quá mệt.

Nhìn Arya trong bộ váy dài màu đỏ thêu những hoa văn bằng chỉ đen, màu sắc hài hòa làm gợi nhớ đến bộ áo của nữ hoàng và càng làm hai mẹ con giống nhau hơn.

Eragon gạt mấy cuốn giấy sang một bên:

- Tôi rất vui mừng được ngắm nhìn nơi ấy.

Saphira hấp tấp nói ngay: "Ý anh ấy muốn nói là: chúng tôi rất vui mừng."

Arya có vẻ ngạc nhiên khi thấy cả hai đều nói bằng cổ ngữ. Eragon vội cắt nghĩa đó là theo đề nghị của Oromis. Arya cũng nói bằng cổ ngữ:

- Một ý kiến rất tuyệt. Như vậy sẽ thích hợp hơn trong thời gian chàng sống tại đây.

Khi cả ba xuống tới gốc cây, Arya hướng dẫn Eragon và Saphira tiến về phía tây, tới một vành đai khác biệt của Ellesméra. Trên đường đi, họ gặp nhiều thần tiên và tất cả đều ngừng lại cúi đầu chào Saphira.

Một lần nữa Eragon lại nhận thấy: tuyệt nhiên không thấy bóng dáng tiên đồng ngọc nữ nào. Nó hỏi Arya. Cô nói:

- À, chúng tôi chỉ có vài trẻ em thôi. Hiện nay tại Ellesméra chỉ có Dusan và Alanna. Vì trẻ em rất hiếm, nên được chúng tôi coi như là những gì quí giá nhất trên đời. Có một đứa con chính là được ban tặng món quà đầy trách nhiệm và vinh hạnh cao quý nhất.

Sau cùng, họ tới trước một cửa vòm mọc ra giữa hai thân cây.Vẫn bằng cổ ngữ, Arya ngâm nga:

- Rễ cây, chùm nho, hãy để ta qua bằng chính máu này của ta.

Hai cánh cửa rung lên rồi bật mở. Năm con bướm lớn từ trong vỗ cánh bay lên bầu trời chạng vạng. Qua khỏi cửa là một vườn hoa rộng lớn được sắp đặt một cách tự nhiên, hoang sơ như một cánh đồng cỏ dại. Chỉ một chi tiết làm hé lộ sự tham gia của kỹ xảo: tràn ngập những loài cây khác nhau, rất nhiều loài hoa nở trái mùa, hoặc những loài tới từ những xứ có thời tiết nóng hơn hay lạnh hơn nơi này, những loài cây không thể phát triển nếu không có phép thuật của thần tiên. Toàn bộ khung cảnh được chiếu sáng bằng những ngọn đèn xanh ngọc không có lửa, tăng cường thêm bởi những bầy đom đóm nhào lộn trên không.

Arya nhắc nhở Saphira:

- Coi chừng, đừng để đuôi quét qua những luống hoa.

Qua khu vườn tới những hàng cây rải rác, rồi cây cối dày đặc hơn, mọc sát nhau thành một bức tường. Eragon nhận ra nó đang đứng trước một ngưỡng cửa, nếu không bước vào thì không thể ngờ bên trong là một đại sảnh bằng những thân cây bóng lộn.

Đại sảnh toát ra một không khí ấm áp, thân mật, vừa tĩnh lặng vừa thoải mái êm đềm. Tạo nên bằng ba thân cây, phía trong được lột vỏ và đánh bóng bằng dầu làm mặt gỗ sáng ngời như mã não. Giữa những thân cây là những lỗ hổng đều đặn dùng như ô cửa sổ. Hương lá thông nghiền vụn thơm lừng trong không khí.

Tất cả những thần tiên có mặt trong đại sảnh - vị viết, vị đang đọc và trong một góc tối mấy vị đang thổi sáo trúc - đều ngừng lại, cúi đầu khi thấy Saphira.

Arya nói với Eragon:

- Nếu không phải là rồng và kỵ sĩ, thì chàng và Saphira đã ngụ tại nơi này.

- Ở đây tuyệt quá.

Arya hướng dẫn Eragon và Saphira tới tất cả những nơi trong khu vực đủ rộng cho Saphira có thể tiến qua. Mỗi căn phòng là một ngạc nhiên thú vị, không căn nào giống căn nào. Nhưng tất cả đều có một cách thiết kế khác nhau để hài hòa cùng với rừng cây. Trong một phòng, một dòng suối bạc róc rách tuôn xuống từ những bức tường cây, êm đềm chảy qua mạch đá cuội trên sàn, rồi đổ ra ngoài trời. Phòng khác, chung quanh vách tràn ngập màu xanh của cây leo và những bông hoa loa kèn hai màu hồng và trắng.

Rất nhiều tác phẩm nghệ thuật từ những bức fairth (tác phẩm tạo ra bằng phép thuật) tới tranh vẽ, tượng điêu khắc, tranh kính nhuộm màu rực rỡ.

Trong ngôi lều vải nối liền hai ngôi nhà, họ gặp nữ hoàng Islanzadí. Bà hỏi thăm về chuyện học và tình trạng chấn thương trên lưng của Eragon. Nó lễ phép trả lời. Nữ hoàng có vẻ hài lòng, bà hỏi han Saphira vài câu rồi quay đi.

Sau cùng khi trở lại khu vườn, Eragon ngơ ngẩn lắng nghe giọng Arya bổng trầm cắt nghĩa sự khác nhau của đủ loài hoa muôn màu muôn vẻ: xuất xứ của chúng, chúng được bảo quản và biến đổi bằng phép thuật như thế nào. Cô chỉ một loại hoa giống như hoa độc dược trắng, bảo:

- Những cánh hoa này chỉ nở ra vào ban đêm.

Eragon hỏi:

- Nàng thích loài hoa nào nhất?

Arya mỉm cười, dẫn Eragon tiến tới một cây sát mé vườn, bên hàng sậy mọc quanh bờ ao. Cuốn quanh những cành thấp của cây là một dây khêu-ngưu-hoa với ba chiếc nụ đen mượt như nhung.

Cúi mình thổi nhẹ lên mấy nụ hoa, Arya thì thầm:

- Nở ra!

Những cánh hoa đen mun xào xạc xòe ra, để lộ lớp phấn ngay chính giữa. Một màu xanh vương giả lóng lánh tỏa từ đài hoa lên những cánh hoa u tối, như dấu hiệu của sự chuyển tiếp từ ngày qua đêm.

Arya hỏi:

- Đây không phải là những bông hoa đáng yêu và hoàn hảo nhất sao?

Eragon ngẩn nhìn, hoa và người giống nhau làm sao?

- Vâng... đúng vậy... rất đáng yêu...

Nó vụt nói thật nhanh:

- ... như nàng vậy.

Saphira kêu lên cảnh giác: "Eragon!"

Arya nhìn thẳng Eragon cho đến khi nó phải quay nhìn hướng khác. Khi lấy hết can đảm nhìn lại, nó bỗng ngượng chín người thấy nụ cười còn phảng phất trên môi Arya. Dường như nàng thích thú vì phản ứng của nó.

- Vì chàng quá tốt nên nói vậy đó thôi.

Arya nói nhỏ. Vuốt ve cánh hoa, cô ngước nhìn Eragon, tiếp:

- Vào một ngày hạ chí, cách nay đã lâu rồi, Faolin tạo ra loài hoa này dành cho riêng tôi.

Vừa nặng nề lê bước, Eragon vừa lẩm bẩm trả lời mấy câu vô nghĩa. Cảm thấy buồn bực, đau xót vì cô ta coi lời khen của nó chẳng là gì, Eragon chỉ muốn niệm một câu thần chú để biến khỏi đây ngay.

Nó ráng bình tĩnh nói:

- Xin lỗi Arya Svit-kona, muộn rồi, chúng tôi phải về thôi.

Nụ cười cô càng tươi hơn:

- Tôi hiểu mà, Eragon.

Tiễn khách tới vòm cửa chính, Arya nói:

- Chúc ngủ ngon, Saphira. Ngủ ngon nhé Eragon.

Saphira cũng nói: "Chúc ngủ ngon, công nương Arya."

Dù đang rất ngượng ngùng, Eragon cố hỏi:

- Chúng ta sẽ gặp lại ngày mai chứ?

Arya nghiêng đầu:

- Chắc là ngày mai tôi bận lắm.

Rồi cánh cửa khép lại, không để Eragon nhìn thấy Arya nữa.

Cúi gập mình trên lối đi, Saphira chúi mũi vào sườn Eragon: "Leo lên đi, đừng mơ mộng nữa."

Khi Eragon yên vị, Saphira vươn người đứng dậy. Bước được vài bước, cô rồng đủng đỉnh hỏi: "Anh phê phán thái độ của em đối với Glaedr, rồi anh lại hành động y như vậy. Anh nghĩ sao?"

"Em biết tình cảm của anh đối với Arya mà."

"Xì! Nếu lương tâm anh là của em, và lương tâm em là của anh, em phải có bổn phận nhắc nhở khi anh hành động như một con rối. Anh không sử dụng phương pháp lý luận sao cho hợp lý, như lời sư phụ vẫn dạy chúng ta. Anh mong chuyện gì xảy ra giữa anh và cô ta. Hãy nhớ Arya là một công chúa."

"Thì sao nào? Anh là một kỵ sĩ."

"Cô ta là thần tiên, anh là một con người."

"Càng ngày trông anh càng giống thần tiên đó thôi."

"Ôi trời, Eragon, cô ta hơn một trăm tuổi rồi đấy."

"Anh cũng sẽ sống lâu như nàng và bất cứ thần tiên nào khác."

"A, nhưng lúc này thì chưa. Vấn đề là ở đó. Anh không thể vượt qua được khoảng cách biệt lớn như vậy. Cô ta là một người đàn bà đã trưởng thành, còn anh..."

"Cái gì? Anh thì sao? Là một thằng nhóc? Em định nói vậy chứ gì?"

"Không. Sau những gì anh em ta đã thấy, đã làm, anh đâu còn là một chú nhóc nữa. Ý em là anh còn trẻ, kể cả so sánh với đời sống ngắn ngủi của loài người, chứ đừng nói chi tới người lùn, thần tiên hay loài rồng."

"Như em chứ gì?"

Câu bắt bẻ làm Saphira nín lặng một lúc, nhưng rồi nó lại tiếp:

"Eragon, em chỉ muốn bảo vệ anh. Thật tình chỉ có vậy thôi. Em mong anh có hạnh phúc, nên em sợ anh sẽ không được hạnh phúc nếu cứ khăng khăng theo đuổi Arya."

Cả hai vừa sửa soạn đi nghỉ, chợt nghe tiếng cửa chớp ngoài tiền sảnh bật mở và tiếng áo giáp lẻng kẻng như có người đang leo lên. Chụp thanh Zar'roc, Eragon nhảy tới sau cửa lưới, sẵn sàng nghênh chiến kẻ đột nhập. Nhưng nó buông thõng tay khi thấy Orik đứng dưới sàn. Ông lùn nâng chai tu ừng ực, rồi lườm Eragon:

- Cậu trốn đâu mất tăm vậy? Chẳng biết cậu ở đâu mà tìm, tôi phải lấy rượu giải sầu đây. Bây giờ vớ được cậu rồi, chúng ta sẽ nói gì đây, khi cả hai ta đều ở trong cái tổ chim quý hóa này.

Eragon nắm cánh tay Orik kéo lên, kinh ngạc vì ông lùn cứng rắn như một tảng đá thu nhỏ. Khi Eragon buông tay, Orik lảo đảo như chỉ chờ một khiêu khích nhỏ là lộn nhào ngay xuống dưới. Nó bảo:

- Vào đi, ở ngoài này ông bị cảm mất thôi.

Hấp háy đôi mắt tròn xoe, sâu hoắm, ông lùn lom lom nhìn Eragon:

- Khắp cái nơi lưu đầy toàn cây với lá này, tôi chẳng thấy cậu đâu. Cậu bỏ tôi với đám thần tiên. Khốn khổ! Toàn là lũ dở hơi. Chán không chịu nổi.

Eragon gường cười ân hận:

- Tôi xin lỗi không đến thăm ông, Orik. Nhưng tôi bận học quá. Nào, đưa áo khoác cho tôi. Ông uống gì vậy?

- Faelnirv. Sáng chế tuyệt vời nhất mà thần tiên làm được. Cái này hay lắm, nó làm mình ba hoa thoải mái. Những lời nói tuôn ra ào ào như tôm cá lách tách nhảy trên nước, cuồn cuộn như dòng sông...

Ông lùn có vẻ khoái trá vì những lời ví von độc đáo, để mặc cho Eragon đẩy vào phòng ngủ. Thấy Saphira, ông đưa cao chai rượu:

- Chào răng thép. Chúc mi rực sáng như than hồng trong lò rèn của Morgothal.

Saphira gối đầu lên thành giường nói: "Chào ông Orik. Chuyện gì làm ông ra nông nỗi này? Chẳng giống ông chút nào."

Eragon nói lại lời cô rồng. Orik hỏi lại:

- Chuyện gì ư?

Ngồi phịch xuống cái ghế Eragon mới đưa, hai chân đòng đưa cách mặt sàn mấy phân, Orik lắc đầu lia lịa.

- Thần tiên chỗ này, thần tiên chỗ kia. Tôi chết chìm trong đám thần tiên và những lễ nghi dở hơi của họ. Đúng là một đám lầm lì, tàn nhẫn. Suốt ngày chỉ toàn những kính thưa ngài có, bẩm thưa ngài không.

Ông rầu rĩ hỏi Eragon:

- Tôi biết làm gì trong suốt thời gian cậu bay bổng học tập lung tung khắp nơi? Ngồi lẩn thẩn bẻ ngón tay rồi hóa đá để theo về với tổ tiên ông bà sao? Nói đi, chàng kỵ sĩ tài ba.

- Ông không có công việc hay trò giải trí gì để giết thì giờ sao?

- A ha, có chứ, tôi là một tay thợ rèn đâu đến nỗi tồi. Nhưng vì sao tôi lại phải tạo ra những áo giáp, vũ khí sáng ngời cho những kẻ không biết quý trọng những thứ đó chứ? Ở đây tôi là một tên vô dụng. Vô dụng như một con dê Feldunost ba chân vậy.

Eragon đưa tay về phía chai rượu, nói:

- Tôi được phép chứ?

Orik hết nhìn chai rượu lại nhìn Eragon, rồi nhăn mặt, trao cho nó.

Rượu faelnirv trôi qua họng, lạnh buốt như nước đá. Uống hai ngụm lớn, Eragon trao chai lại cho Orik. Ông lùn tiếc rẻ nhìn chút xíu rượu còn lại, hỏi Eragon:

- Nào, cậu và Saphira moi được những gì từ ông tiên già Oromis?

Hết chặc lưỡi lại hít hà, ông lùn lắng nghe Eragon thuật lại việc huấn luyện, chuyện nó chúc phúc lầm cho đứa trẻ ở Farthen Dur, chuyện về cây Menoa và tất cả những gì xảy ra trong mấy ngày qua. Sau cùng kết thúc bằng đề tài nó đang tha thiết nhất lúc này: Arya. Thêm can đảm nhờ rượu, Eragon thổ lộ tình cảm của nó đối với Arya và cô nàng đã hờ hững với tấm lòng của nó như thế nào.

Orik xua xua ngón tay:

- Eragon, đừng đùa với số mệnh...

Uống thêm ngụm rượu, ông ậm ừ:

- Arya... Nhưng thôi, tôi là ai mà dám phê phán đúng sai chứ?

Saphira đang lim dim, chợt hỏi:

- Ông có vợ chưa, Orik?

Câu hỏi làm Eragon ngạc nhiên, vì nó cũng vẫn luôn thắc mắc về đời tư của ông lùn. Orik nói ngay:

- Eta. Chưa. Nhưng tôi đã hứa hôn với Hvedra, con gái của Thorgerd Một-Mắt và Himinglada. Chúng tôi định cưới mùa xuân này, thế rồi Urgal tấn công, sau đó đức vua Hrothgar phái tôi theo chuyến đi đáng nguyền rủa này.

- Cô ta thuộc dòng tộc Ingeitum?

- Tất nhiên. Tưởng tôi có thể cưới một cô gái ngoài dòng tộc sao? Cô ấy là cháu nội của bà dì Vardrun, họ hai đời của đức vua. Bắp chân cô ấy tròn và trắng mịn như sa tanh, má hồng như táo chín. Tôi chưa hề thấy cô gái lùn nào đẹp hơn Hvedra.

Eragon bảo:

- Tôi tin chắc, ông sẽ gặp lại nàng không lâu nữa đâu.

- Hừ, cậu tin có người khổng lồ không? Những người khổng lồ cao lớn, dũng mãnh, râu rìa, ngón tay to đùng như cán cuốc ấy.

- Tôi chưa bao giờ thấy, cũng chẳng hề nghe nói đến người khổng lồ như thế... ngoài chuyện cổ tích. Nếu có thật thì cũng ở đâu đó, làm gì có ở Alagaesia.

- A ha ha, vậy mà có đấy.

Ve vẩy cái chai trên đầu, Orik nói:

- Nào, kỵ sĩ, cho tôi biết, nếu thình lình một người khổng lồ đáng sợ như thế gặp cậu ngoài vườn, hắn sẽ gọi cậu là gì?

- Eragon, tôi đoán thế.

Thúc khuỷu tay lên mạn sườn Eragon, ông lùn cười ha hả:

- Không không. Hắn sẽ gọi cậu là thằng lùn. Vì với hắn cậu chỉ là một thằng lùn. Hiểu chưa? Thần tiên và loài người là những gã khổng lồ. Họ tràn lan trên mặt đất này. Họ nện chân thình thịch và phủ bóng lên chúng tôi. Ha ha ha...

Orik cười nghiêng ngả làm cái ghế lật ngửa ra sau, quăng ông lăn đùng xuống sàn.

Eragon nâng ông ta dậy, nói:

- Tôi nghĩ, tối nay ông nên ngủ lại đây. Tình hình này ông không lần mò xuống những bậc thang tối thui kia được đâu.

Ông lùn hoan hỉ đồng ý ngay, để Eragon cởi giáp, đẩy ông xuống giường. Sau đó nó thở dài, che đèn, rồi nằm ghé xuống đệm.

Lơ mơ ngủ, Eragon còn nghe tiếng ông lùn lảm nhảm:

- Hvedra... Hvedra... Hvedra của ta...
 
Chương 42: Bản chất của tội ác


Ngồi bật dậy vì tiếng rung của cái dụng cụ báo giờ, Eragon vơ vội con dao săn, nhảy khỏi giường, đề phòng bị tấn công. Nó há hộc mồm thở, toàn thân như kêu thét lên phản đối vì những lạm dụng quá sức trong hai ngày vừa qua.

Eragon chớp mắt nhìn quanh, trời đã sáng bạch, Orik có lẽ đã ra đi từ lúc tinh mơ. Nó rên lên một tiếng rồi tập tễnh như ông già bị thấp khớp, bước vào phòng tắm.

Sau mười phút cùng Saphira đứng chờ dưới gốc cây, Eragon mới thấy một thần tiên tóc đen, vẻ đạo mạo tiến lại, hai ngón tay chạm môi, cúi đầu rồi giành phần nói trước nó:

- Cầu xin số phận tốt lành đến với người.

Eragon cũng đặt ngón tay lên môi, cúi đầu đáp lễ:

- Cầu xin các vì sao bảo vệ người. Sư phụ Oromis phái người tới, phải không?

Không thèm nhìn lại và trả lời Eragon, vị tiên tóc đen quay sang Saphira:

- Xin chào, ta là Vanir thuộc tộc Halbthin.

Eragon bực tức rủa thầm trong khi Saphira cúi đầu chào lại. Lúc đó Vanir mới lên tiếng bảo Eragon:

- Ta sẽ hướng dẫn mi tới nơi luyện kiếm.

Hắn quay đi ngay không đợi Eragon kịp trả lời.

Rải rác trong sân luyện kiếm đã có những cặp hoặc từng nhóm thần tiên đang tập luyện. Với sức mạnh thiên phú, những đường kiếm của họ ào ào như vũ bão, lanh lẹ như tia chớp. Hàng loạt tiếng vũ khí va chạm rung lên như chuông ngân. Dưới những tán cây quanh sân, một số thần tiên tách riêng lẻ, đang luyện Xà-Hạc quyền với những chiêu thức biến ảo, duyên dáng và phức tạp. Eragon tự nhủ mình không bao giờ đạt đến mức tuyệt chiêu như vậy được.

Sau khi tất cả ngừng tay, cúi chào Saphira, Vanir rút khỏi bao thanh kiếm mảnh mai, bảo Eragon:

- Bàn-tay-bạc, nếu bảo vệ được kiếm mình, chúng ta có thể bắt đầu.

Eragon lo lắng nhìn những kiếm khách thần tiên phi phàm chung quanh, tự nhủ: "Mình chỉ sẽ làm trò cười cho họ mà thôi."

"Anh sẽ không sao đâu, đừng lo."

Tuy Saphira nói vậy, nhưng Eragon cảm thấy chính cô em rồng cũng đang lo lắng cho ông anh.

Hai tay Eragon run lên vì sợ khi cầm thanh Zar'roc thủ thế. Thay vì xông lên tấn công, nó đảo bước, né tránh từ xa, ráng không để bất cứ điều gì có thể gây thêm một lần bị choáng ngất nữa. Nhưng dù cố gắng thoát khỏi những đường kiếm của đối phương, Eragon vẫn bị bốn chiêu chớp nhoáng của Vanir đánh trúng mạn sườn, ống quyển, hai vai.

Vẻ mặt đạo mạo trầm tĩnh của Vanir lúc bắt đầu thoắt trở thành vẻ giễu cợt khinh khi. Phóng mình nhảy tới, hắn lướt nhẹ kiếm suốt chiều dài thanh Zar'roc, đồng thời xoay vòng Zar'roc, xoắn mạnh cườm tay Eragon. Không chịu nổi sức mạnh của thần tiên, Eragon buông thanh kiếm bay vọt khỏi tay.

Vanir dí mũi kiếm ngay cổ Eragon, nói:

- Chết.

Gạt lưỡi kiếm của Vanir, Eragon lê chân, cúi nhặt thanh Zar'roc. Vanir lại nói:

- Như vậy là chết rồi. Đánh đấm thế này, sao mi có thể mong hạ được Galbatorix? Dù biết mi là một con người yếu ớt, ta cứ tưởng mi khá hơn nhiều.

- Vậy sao mi không tự đi mà đánh với Galbatorix, thay vì trốn chui nhủi trong đất Du Weldenvarden này?

Vanir giận sôi gan, nhưng giọng nói vẫn lạnh lùng đầy ngạo mạn:

- Vì ta không phải là một kỵ sĩ rồng. Nếu là kỵ sĩ, chắc chắn ta sẽ không là một kỵ sĩ hèn nhát như mi.

Khắp bãi tập bỗng im lặng như tờ.

Quay lưng lại Vanir, Eragon ngửa mặt nhìn trời, thầm rít lên: "Đây là một thử thách nữa mình phải vượt qua."

Vanir vẫn tiếp tục:

- Ta nhắc lại: đồ hèn. Máu mi loãng như tất cả dòng giống loài người của mi. Ta nghĩ chắc Saphira đã mắc mưu Galbatorix, nên đã bối rối chọn lầm mi làm kỵ sĩ.

Các thần tiên chung quanh sững sờ trước những lời nói của Vanir, họ râm ran với nhau, công khai phản đối thái độ vi phạm thô bạo nghi thức xã giao của hắn.

Eragon nghiến răng. Nhục mạ nó, nó còn chịu nổi, nhưng không được đụng tới Saphira. Saphira lập tức chuyển động khi cảm thấy sự giận dữ, đau đớn, sợ hãi bùng lên trong lòng ông anh. Eragon quay phắt lại, mũi kiếm rít lên trong không khí.

Đường kiếm đó có thể giết chết Vanir, nếu hắn không kịp chống đỡ. Hắn kinh ngạc vì chiêu kiếm cực kỳ hung hãn của Eragon. Không trì hoãn một giây, Eragon đẩy lùi Vanir vào giữa sân, với những đường kiếm đâm, chém tới tấp; quyết tâm làm hắn phải bị thương. Nó rạch mạnh một đường trên hông Vanir đủ có thể làm tóe máu, dù thanh kiếm đã được bao phủ, làm cùn bằng phép thuật.

Nhưng ngay lúc đó, cơn đau như bẻ gãy lưng, Eragon nhận biết sự đau đớn bằng cả năm giác quan: tai nó ù lên như ào ào toàn tiếng thác đổ, lưỡi tanh mùi kim loại, nước mắt cay sè, hai lỗ mũi nồng nặc mùi chua như giấm; và trên tất cả là cảm giác. Tà Thần vừa xé banh lưng nó ra.

Nó còn có thể thấy Vanir đứng nhìn xuống nó với nụ cười nhạo báng. Lúc đó nó mới nhận ra Vanir còn rất trẻ.

Sau cơn choáng váng, Eragon chùi máu trên miệng, rồi xòe tay trước mắt Vanir, hỏi:

- Loãng lắm không?

Thay vì trả lời, Vanir tra kiếm vào bao, quay bước. Eragon hỏi lớn:

- Đi đâu? Việc chúng ta chưa xong mà.

- Sức khỏe mi không thể đấu được nữa.

- Cứ thử coi.

Dù thua sút thần tiên, nhưng nó không để cho họ có dịp coi thường. Nó sẽ làm họ phải nể phục, quyết đấu cho đến phút cuối cùng.

Sau khi Eragon hoàn tất luyện kiếm cùng Vanir đúng thời gian Oromis đã quy định, Saphira tiến tới, đặt cái móng to đùng lên ngực Vanir, nói: "Chết."

Các thần tiên vội lảng ra xa. Mặt Vanir xanh nhợt như tàu lá.

Vừa cất cánh lên cao, Saphira nói ngay: "Sư phụ nói đúng."

"Đúng chuyện gì?"

"Anh ráng sức hơn khi có đối thủ."

Trở về lều sư phụ, thời gian còn lại trong ngày tiếp tục như thường lệ: Eragon ở lại, còn Saphira bay theo Glaedr để học tập.

Hốt hoảng vì sư phụ ra lệnh luyện thêm mấy đường Xà-Hạc quyền mới, nhưng Eragon vẫn cố lấy can đảm tuân theo. Tuy nhiên mấy chiêu thức nhẹ nhàng không làm nó bị chấn thương.

Điều đó, cùng với sự tĩnh tọa trong trảng trống, cho nó cơ hội suy ngẫm câu hỏi sư phụ đã đưa ra ngày hôm trước.

Trong lúc suy ngẫm, Eragon quan sát bầy kiến đỏ của nó đang ào ạt xâm lăng và cướp lương thực của một tổ kiến nhỏ hơn. Kết thúc cuộc tàn sát, đối phương chỉ còn lại ít con sống sót – bơ vơ vô vọng – trêng khoảng trống đầy lá thông cằn cỗi.

"Giống như những con rồng ở Alagaesia", Eragon thầm nghĩ. Liên tưởng từ những con kiến vừa biến mất, nó so sánh với số phận hẩm hiu của rồng. Dần dần câu trả lời cho vấn đề của nó hé lộ. Một giải pháp làm nó có thể tin và ứng dụng vào cuộc sống.

Chấm dứt buổi tĩnh tọa, Eragon trở về lều.

Khi Oromis đang dọn ăn trưa, Eragon lên tiếng nói:

- Con hiểu vì sao dù hàng ngàn người có thể chết, việc chiến đấu cùng Galbatorix vẫn là điều đáng phải làm.

- Vậy sao? Hãy nói cho thầy biết.

- Vì suốt mấy trăm năm qua, sự đau khổ do Galbatorix đã gây ra, lớn hơn rất nhiều những gì chúng ta có thể gây ra trong một thế hệ. Chúng ta cũng không thể đợi chờ lão chết, vì lão không giống một bạo chúa bình thường. Lão còn có thể thống trị nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ - và suốt thời gian đó lão vẫn tiếp tục hành hạ, đày ải nhân dân - trừ khi chúng ta... bắt lão ngừng lại. Nếu lão trở nên mạnh hơn, lão sẽ tiến tới tàn sát và bắt làm nô lệ cả người lùn và thần tiên tại Du Weldenvarden này. Và...

Nó ngập ngừng tiếp:

- ...và vì việc giải thoát hai trứng rồng khỏi tay Galbatorix là cách duy nhất để cứu loài rồng.

Ấm nước trên lò than réo sôi sùng sục. Oromis đứng dậy, lấy ấm khỏi bếp, pha trà. Ông hỏi:

- Vậy là con đã hiểu?

- Con hiểu nhưng không được vui.

- Đúng là không vui. Nhưng bây giờ chúng ta có thể tin tưởng là con sẽ không chùn bước khi phải đối đầu với những bất công và tàn bạo mà Varden sẽ khó tránh không phạm phải. Chúng ta không muốn con bận trí vì những hoài nghi, thắc mắc; trong khi sức lực và sự tập trung của con là điều vô cùng cần thiết. Con có tin Galbatorix là kẻ độc ác không?

- Tất nhiên con tin.

- Con có tin là hắn cho mình là kẻ có tội không?

- Không, con không tin.

- Vậy thì chắc con tin Tà Thần Durza là quỷ dữ?

Những mảnh vụn quá khứ Eragon đã moi được từ Durza trong cuộc đấu tại Tronjheim trở lại trong tâm trí, gợi Eragon nhớ lại thời trai trẻ của Tà Thần – khi đó là chàng trai Carsaib, rồi khi hắn trở thành nô lệ của đám âm binh do chính hắn chiêu hồn, để trả thù cho cái chết của Haeg, sư phụ hắn.

- Bản thân hắn không là quỷ dữ, chính những âm binh điều khiển hắn mới là quỷ dữ.

Oromis nhấp ngụm trà, hỏi tiếp:

- Còn Urgal, chúng có phải là ác quỷ không?

Eragon nắm chặt cái muỗng đến nỗi làm những lóng tay nhợt hẳn ra:

- Mỗi khi nghĩ đến cái chết, mặt của một tên Urgal lại hiển hiện trước mắt con. Chúng xấu xa ghê tởm hơn cả loài ác thú. Những gì chúng đã làm...

Nó lắc đầu không thể nói tiếp nổi.

- Eragon, con sẽ nói sao về loài người, nếu tất cả những gì con biết, đều là những hành động của họ ngoài chiến địa.

- Điều đó không là... Không, đó lại là chuyện khác. Tụi Urgal đáng quét sạch không còn một mống.

- Kể cả đàn bà trẻ con? Những kẻ vô tội không – và có lẽ họ không bao giờ - muốn làm hại con? Con cũng sẽ giết họ và đày đọa tất cả dòng giống họ xuống đáy hỏa ngục sao?

- Nếu có dịp, chúng chẳng tha ta đâu.

- Eragon, thầy không bao giờ muốn nghe con bào chữa kiểu đó nữa. Không phải những gì kẻ khác làm, thì con cũng sẽ làm. Đó là sự nhỏ nhen, đố kỵ, thành kiến và là những biểu hiện của một tâm trí thấp kém, không sáng suốt. Con rõ chưa?

- Dạ, thưa thầy.

Suốt thời gian đưa cốc trà lên môi uống, mắt Oromis không rời Eragon:

- Thật sự con biết những gì về Urgal?

- Con biết sức mạnh và yếu điểm của chúng. Con biết phải giết chúng cách nào. Con chỉ cần biết bấy nhiêu thôi.

- Vì sao chúng căm hận và gây chiến với loài người? Lịch sử và truyền thuyết về chúng, hay chúng sinh hoạt ra sao? Con biết không?

- Chuyện đó có quan trọng không ạ?

Oromis thở dài, nhẹ nhàng nói:

- Hãy nhớ rằng, trên một phương diện nào đó, kẻ thù của con cũng có thể trở thành một đồng minh. Đó là chuyện rất tự nhiên trong đời.

Cố không cãi lại thầy, Eragon quậy cốc trà đến sủi bọt. Sau cùng nó lên tiếng hỏi:

- Có phải đó là lý do Galbatorix kết nạp Urgal?

- Đó không phải thí dụ ta định đưa ra, nhưng cũng đúng.

- Lão thỏa hiệp với Urgal dường như là một chuyện lạ lùng. Vì chính chúng là những kẻ đã giết con rồng của lão. Hãy nhớ lại những gì lão đã ra tay với các kỵ sĩ, mà kỵ sĩ có trách nhiệm gì với sự mất mát của lão đâu.

- A, có thể hắn điên, nhưng hắn vẫn cứ là một con chồn tinh quái. Ta đoán hắn có ý định sử dụng Urgal để tiêu diệt Varden và người lùn, và... cả các phe phái khác nữa. Nếu cuộc tấn công Farthen Dur vừa qua thành công, hắn trừ khử được hai kẻ thù, đồng thời làm suy kiệt Urgal, như vậy lão sẽ ung dung rảnh tay sai khiến chúng.

Buổi chiều, sau khi học cổ ngữ, hai thầy trò luyện phép thuật. Hầu hết bài giảng của Oromis hôm nay chú trọng vào phương pháp điều khiển những hình thức khác nhau của năng lượng như: ánh sáng, hơn nóng, điện năng... kể cả trọng lực. Ông cắt nghĩa, vì sức phá hủy của những nguồn lực này mạnh hơn bất cứ loại thần chú nào, chúng lại có sẵn trong thiên nhiên. Chỉ cần định hình chúng bằng phép thuật, thay vì phải cố gắng tạo ra từ cái không có.

Oromis bỗng chuyển đề tài, hỏi Eragon:

- Con sử dụng phép thuật để sát thủ như thế nào?

- Con sử dụng nhiều cách. Con đi săn với một viên đá cuội – di chuyển, nhắm con mồi, rồi phóng - giống như con niệm chú câu jierda để bẻ cổ vặn chân Urgal. Có lần, với câu thrysta, con đã lấy mạng một người.

- Còn nhiều phương pháp hiệu quả hơn. Eragon, điều gì gây nên cái chết của một con người? Một lưỡi gươm xuyên qua ngực? Một cú bẻ cổ? Sự thất thoát máu? Tất cả chỉ là làm cho một động mạch não nghẽn lại, hay nói rõ hơn là cắt đứt một vài dây thần kinh. Với một câu thần chú chính xác, con có thể xóa sổ một đoàn quân.

- Đáng lẽ con phải biết điều này từ khi ở Farthen Dur. Sư phụ, cho con hỏi lần nữa, vì sao ông Brom không dạy con phương pháp này?

- Vì hắn tưởng phải nhiều tháng, nhiều năm nữa con mới phải đối mặt kẻ thù. Hơn nữa, phương pháp này không dành cho những kỵ sĩ chưa qua kiểm tra năng lực.

- Nếu giết người dễ dàng như vậy, lý do gì chúng ta và Galbatorix phải thành lập quân đội?

- Nói ngắn gọn, đó là chiến thuật. Các pháp sư có những yếu điểm thể chất khi bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tinh thần. Do đó cần phải có những chiến binh để bảo vệ họ. Còn các chiến chiến binh cũng cần được bảo vệ, dù chỉ một phần, những khi bị tấn công bằng phép thuật, nếu không họ sẽ bị giết ngay. Những giới hạn này có nghĩa: khi hai đoàn quân đương đầu với nhau, pháp sư của họ được rải khắp trong hàng ngũ, gần giới tuyến, nhưng không gần quá để tránh nguy hiểm. Pháp sư của cả hai phe đều mở tâm tưởng để dò la đối phương có đang, hay sắp, sử dụng phép thuật không. Đề phòng địch thủ có thể là những tay cao thủ hơn, các sư còn tạo nên một rào cản quanh họ và các chiến binh, để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự tấn công từ xa, chẳng hạn như một hòn đá phóng từ cả dặm tới, trúng ngay đầu.

- Nhưng một con người chắc chắn không thể bảo vệ cho cả một đoàn quân.

- Một mình thì không. Nhưng có đầy đủ pháp sư, con có thể bố trí một lượng lớn bảo vệ hợp lý. Điều nguy hiểm nhất trong chiến thuật này là, một pháp sư cao tay có thể tìm ra cách tấn công độc đáo: lách qua rào cản phép thuật mà không bị phát hiện. Chính điều đó, có thể, đủ để quyết định trận chiến rồi. Ngoài ra, con nên nhớ một điều, dù trong loài nào cũng hiếm có kẻ vượt trội về khả năng sử dụng phép thuật. Thần tiên chúng ta cũng không ngoại lệ, mặc dù chúng ta là mảnh đất sản sinh ra nhiều cao thủ sử dụng phép thuật hơn bất cứ loài nào. Có dược kết quả đó là nhờ chúng ta đã sống khép kín từ bao nhiêu thế kỷ nay. Đa số những kẻ được ca tụng, phép thuật rất tầm thường, thậm chí không có chút tài năng nào. Chúng chỉ có khả năng chữa lành một vết thương nho nhỏ.

Eragon gật đầu. Nó đã từng gặp loại pháp sư này trong đoàn thể Varden.

- Thưa thầy, nhưng họ cũng cần một lượng nội lực tương đương để hoàn tất một công việc chứ ạ?

- Đúng vậy. Nhưng, những pháp sư yếu kém không dễ gì cảm nhận được dòng luân lưu của phép thuật. Họ bị phép thuật nhận chìm. Cũng có một vài pháp sư đủ mạnh để tạo ra mối đe dọa, uy hiếp cả một đoàn quân. Những người này thường sử dụng phần lớn thời gian ngoài mặt trận để theo dõi, lẩn tránh và chiến đấu với đối phương. Với người lính, đó là điều may mắn, vì nếu không nhờ vậy họ sẽ sớm bị mất mạng rồi.

Eragon áy náy nói:

- Varden ko có nhiều pháp sư.

- Đó là một lý do vì sao con quan trọng đến thế.

Một lát sau Eragon nhớ lại lời sư phụ nói về những "rào cản"!

- Những rào cản chỉ làm hao tổn nội lực của ta khi chúng hoạt động, phải không ạ?

- Phải.

- Vậy thì, nếu có đủ thời gian, ta có thể tạo ra vô vàn lớp rào cản thì... không có gì đụng được tới ta nữa, ta sẽ thành người bất khả xâm phạm sao?... Bất khả xâm phạm ngay cả với bất kỳ cuộc tấn công nào, dù là phép thuật hay con người?

- Rào cản tùy thuộc vào nội lực. Nếu sử dụng nội lực quá giới hạn, con sẽ chết. Bao nhiêu lớp rào cản không là vấn đề, vấn đề là con chỉ có thể ngăn được sự tấn công lâu chừng nào cơ thể con còn duy trì được việc tạo ra nội lực.

- Nội lực của Galbatorix mỗi năm mỗi mạnh hơn. Vì sao lão không thể làm được điều đó?

Oromis im lặng. Đôi mắt hình trái hạnh của ông chăm chú theo dõi ba con chim én bay vòng trên đầu. Eragon thấy ông đang cân nhắc cách tốt nhất để trả lời nó. Mấy con chim rượt đuổi nhau mấy phtú rồi bay vụt đi. Lúc đó Oromis lên tiếng:

- Lúc này chưa thích hợp để bàn luận vấn đề này.

Eragon kêu lên:

- Như vậy là sư phụ biết?

- Ta biết. Nhưng phải đợi tới sau này, khi con đã được huấn luyện thêm. Bây giờ con chưa được trang bị để sẵn sàng lãnh hội những điều này đâu.

Vừa nói ông vừa lom lom nhìn Eragon, như chờ nó phản đối. Nhưng Eragon chỉ cúi đầu nói:

- Tùy ý sư phụ.

Nó biết ông chỉ nói khi nào muốn, có năn nỉ cũng vô ích mà thôi. Tuy nhiên, nó vẫn tự hỏi, điều gì nguy hiểm tới nỗi Oromis không dám nói cho nó biết và giữ bí mật luôn cả với quân cách mạng Varden? Một ý tưởng chợt lóe trong đầu làm Eragon bật hỏi:

- Nếu những trận đánh được điều khiển bởi các pháp sư như thầy nói, vì sao thủ lãnh Ajihad để con chiến đấu tại Farthen Dur mà không có rào chắn phép thuật nào? Thậm chí con cũng không biết là phải mở tâm tưởng cho kẻ thù dò la, để mình phát hiện ra chúng; và tại sao Arya đã không giết nhiều, thậm chí tất cả tụi Urgal? Vì ngoài Tà Thần Durza, không có một pháp sư nào chống lại cô ta. Tà thần cũng đã không thể bảo vệ cho quân của hắn khi ở dưới đường hầm.

- Ajihad đã không bảo Arya hay một người trong nhóm Con đường Lãng du làm hàng rào bảo vệ con sao?

- Không, thưa sư phụ.

- Nhưng con vẫn chiến đấuu?

- Thưa vâng.

Đứng trầm ngâm trên bãi cỏ, một lúc sau sư phụ bỗng thốt lên:

- Ta đã lưu ý Arya chuyện này, và cô ấy bảo cặp sinh đôi đã được lệnh đánh giá khả năng của con. Chúng báo cáo lại với Ajihad là con đầy đủ khả năng trên mọi lãnh vực, kể cả rào chắn phép thuật. Cả Ajihad lẫn Arya đều không hề tỏ ra nghi ngờ nhận xét của chúng.

Eragon nghiến răng nguyền rủa:

- Hai thằng miệng trơn như bôi mỡ, đồ dòi bọ, đồ chó má xảo quyệt đó đã định làm con phải chết.

- Đừng làm ô uế không khí như thế chứ... Tuy nhiên, ta ngờ rằng cặp sinh đôi để con lâm trận không có rào chắn, không có ý định để con phải chết đâu, mà để Tà Thần Durza bắt được con.

- Sao ạ?

- Theo những gì con kể lại, thì khi Galbatorix khởi sự khủng bố các đồng minh của Varden một cách gần như chính xác, Ajihad đã nghi ngờ trong hàng ngũ Varden có kẻ phản bội. Anh em sinh đôi đã bị âm thầm theo dõi và bị phát hiện là những kẻ cộng tác với địch. Ngoài ra, chúng còn lùa con vào trung tâm Tronjheim; bằng cách đó chúng cách ly con khỏi Saphira và đặt con trong vòng tiếp cận của Tà Thần. Những điều đó cắt nghĩa rất logic, chúng là những kẻ phản bội.

- Nếu chúng thật sự phản bội cũng không thành vấn đề nữa. Anh em sinh đôi chết lâu rồi.

Oromis gật gù:

- Arya cho biết trong hàng ngũ Urgal có nhiều pháp sư trong trận Farthen Dur và chính cô đã từng chiến đấu với họ. Không pháp sư nào tấn công con sao?

- Thưa không.

- Càng thêm bằng chứng là con và Saphira không bị giết là để Tà Thần Durza bắt về cho Galbatorix. Một cái bẫy rất tinh vi.

Suốt một tiếng sau, Oromis dạy Eragon mười hai phương pháp sát thủ, phương pháp nào cũng nhẹ nhàng như việc cầm lên cây bút, không hề tốn hao công lực. Vừa thuộc lòng chiêu cuối xong, Eragon chợt tủm tỉm cười:

- Lần sau gặp lại, tụi Ra'zac đừng hòng thoát khỏi tay con.

Oromis cảnh giác đệ tử:

- Đối với chúng, con vẫn phải hết sức thận trọng.

- Vì sao ạ? Con chỉ lẩm bẩm ba câu là chúng hết ngáp.

- Hải âu ăn gì?

- Tất nhiên là cá rồi, thưa sư phụ.

- Vậy nếu một con cá nhanh hơn, thông minh hơn anh em nó, liệu nó có thoát khỏi cuộc săn đuổi của hải âu không?

- Khó lắm.

- Đó là vì hải âu được tạo ra để trở thành những thợ săn cá đại tài, cũng như sói là thợ săn trừu. Tất cả loài vật đều được phú cho một khả năng thích hợp. Cũng như Ra'zac được tạo ra để săn mồi là con người. Chúng là quái vật của bóng tối, là cơn ác mộng ám ảnh đồng loại của con.

Tóc gáy Eragon dựng lên vì khiếp đảm:

- Thật ra là chúng là sinh vật thuộc loài gì?

- Chẳng là thần tiên, không là người, người lùn hay rồng. Chúng không thuộc loài thú lông mao, lông vũ, bò sát hay côn trùng; chúng không thuộc bất kỳ loài sinh vật nào.

Eragon phì cười:

- Chẳng lẽ chúng là thực vật.

- Cũng chẳng phải là cây cối. Chúng sản sinh bằng cách đẻ trứng, giống như rồng. Khi mới nở, con nhỏ - hay có thể gọi là nhộng có lớp vỏ cứng bên ngoài giống hình dạng của người. Sự mô phỏng có vẻ kỳ dị, nhưng vẫn đủ để cho phép Ra'zac tiếp cận nạn nhân mà không gây nghi ngờ, cảnh giác nào. Nơi nào con người yếu đuối, thì Ra'zac mạnh mẽ. Chúng có thể nhìn trong đêm tối; đánh hơi thính hơn, nhảy cao hơn, di động lẹ làng hơn chó săn. Tuy nhiên ánh sáng chói chang làm chúng đau đớn và chúng sợ nước sâu đến bệnh hoạn, vì không biết bơi. Vũ khí lợi hại nhất của húng là hơi thở nồng nặc mùi xú uế, làm u mê đầu óc con người. Nhưng hơi thở ma quỷ đó lại kém tác dụng với người lùn và hoàn toàn miễn nhiễm đối với thần tiên.

Eragon rùng mình nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy Ra'zac, chân nó tê dại không thể nào bỏ chạy được.

- Vừa thấy chúng con tưởng như đang ở trong một giấc mơ, cố chạy nhưng không thể nào chạy được.

- Con diễn tả rất chính xác. Dù Ra'zac không thể sử dụng phép thuật, nhưng đừng bao giờ đánh giá thấp chúng. Nếu biết đang bị săn lùng, chúng sẽ lẩn ngay vào bóng tối – vì trong bóng tối chúng rất mạnh - rồi bày mưu phục kích, như chúng đã làm tại Dras-Leona. Kinh nghiệm như Brom còn bị sa vào bẫy chúng. Đừng bao giờ quá tự kiêu, vì sự cao ngạo sẽ làm con bất cẩn và kẻ thù sẽ lợi dụng yếu điểm đó của con.

- Con hiểu rồi, thưa thầy.

- Ra'zac lớn lên trong thân xác nhộng suốt hai mươi năm. Đêm trăng tròn thứ nhất của năm thứ hai mươi mốt, chúng lột bỏ vỏ ngoài, xòe cánh, hoàn toàn trưởng thành, sẵn sàng bay đi săn tất cả sinh vật khác, chứ không chỉ riêng loài người đâu.

- Còn vật mà chúng cưỡi, có thật là...

- À, đó là cha mẹ chúng.
 
Chương 43: Chân dung hoàn hảo


Eragon nghĩ: "Cuối cùng thì ta cũng đã hiểu được bản chất của kẻ thù." Từ lần đầu chúng xuất hiện tại làng Carvahall, Eragon đã sợ đến phát khiếp, không chỉ vì những hành vi tàn ác của chúng, mà còn vì nó biết quá ít về sinh vật này. Thiểu hiểu biết, nên Eragon đã tưởng Ra'zac đầy quyền lực phi phàm hơn là chúng thực có. Đối với Eragon, Ra'zac thực sự như những cơn ác mộng. Nhưng bây giờ, những lời dẫn giải của sư phụ đã lột hết hào quang kỳ bí của chúng. Ra'zac không còn quá khủng khiếp nữa. Chúng cũng có những nhược điểm, sợ ánh sáng, sợ nước sâu. Điều đó làm Eragon cảm thấy vững niềm tin: lần sau gặp lại, nhất định nó sẽ tiêu tiệt những con quái vật đã sát hại ông Brom và cậu Garrow của nó. Eragon hỏi:

- Thưa thầy, cha mẹ chúng cũng được gọi là Razac ạ?

- Không. Chúng ta gọi chúng là Lethrblaka. Trái với đầu óc tăm tối của những đứa con, Lethrblaka có đầy đủ trí khôn của một con rồng. Một con rồng thân hình xoắn vặn, xấu xa, tàn ác.

- Thưa thầy, chúng từ đâu tới?

- Từ những mảnh đất tổ tiên của con bỏ hoang. Có thể chính vì sự phá phách của những là nguyên nhân bắt buộc vua Palancar phảo di tản. Khi chúng ta và các kỵ sĩ phát hiện ra sự hiện diện đầy ghê tởm của Ra'zac tại Alagaesia, chúng ta đã cùng nhau, bằng mọi cách tiêu diệt chúng như diệt loài sâu ăn lá vậy. Bất hạnh là chúng ta chỉ thành công một phần. Hai Lethrblaka đã trốn thoát cùng với ấu trùng của chúng. Hai ấu trùng đó chính là hai Ra'zac đã gây cho con quá nhiều đau khổ trong thời gian qua. Sau khi giết thủ lãnh kị sĩ rồng Vrael, Galbatorix đã tìm bằng được chúng, thương lượng để chúng phục vụ lão, đáp lại lão sẽ bảo vệ và cung cấp những món ăn khoái khẩu cho chúng. Đó là lý do Galbatorix để cho chúng sống gần Dras-Leona, một thành phố lớn nhất của đế quốc.

- Chúng sẽ phải trả giá vì những gì đã gây ra.

Oromis gật đầu đồng ý, rồi vào lều, ôm ra sáu phiến đá khổ chừng 15x30 cm:

- Thôi, hãy tạm dẹp đề tài không vui đó sang một bên. Ta nghĩ con sẽ thích học cách tạo nên một bức fairth. Đây là một phương pháp tuyệt vời để con tập trung tư tưởng. Những phiến đã này đã được phủ đẫm hỗn hợp nhiều màu mực khác nhau. Chỉ cần tập trung vào hình ảnh muốn ghi lại, rồi nói: "Hãy sao lại chính xác những gì ta thấy bằng tâm tưởng lên mặt phiến đá này."

Eragon vuốt ve bề mặt trơn bóng của phiến đá. Oromis chỉ ra khoảng trống nói:

- Eragon, hãy nhìn quanh và tìm một thứ gì đó đáng để con lưu giữ.

Vật đầu tiên Eragon nhìn thấy, một bông cúc vàng ngay dưới chân, lại quá đơn giản tầm thường. Ngôi lều của sư phụ, dòng suối trắng đều chẳng có gì độc đáo. Chẳng có gì gây ấn tượng cho người ngắm về chủ đề của bức fairth và người sáng tạo. Phải tìm một chủ đề mong manh, thay đổi, dễ mất mới đáng để lưu lại. Mắt nó chợt sáng lên khi phát hiện một bướu cây màu xanh, kế bên là một cành cây bị gió giông đánh gãy, nhựa cây ứa ra thành những quả cầu nho nhỏ long lanh ánh sáng, bao phủ quanh vết thương của cành cây.

Eragon ngồi sát thân cây, để những viên nhựa cây ngược sáng đó đóng khung giữa những chồi lá non rực rỡ. In sâu hình ảnh đó vào tâm tưởng, Eragon lẩm nhẩm thần chú.

Mặt phiến đá bừng sáng, những đốm màu xuất hiện, trộn vào nhau tạo lên một sự hài hòa của sắc màu. Sau cùng, khi màu sắc ngừng di chuyển, Eragon ngẩn người nhìn bản sao kỳ lạ của những gì nó muốn ghi lại bằng tâm tưởng. Nhựa cây và những mầm lá non sống động, sắc sảo; còn tất cả những gì chung quanh đều lờ mờ như được nhìn qua một đôi mắt khép hờ. Bức fairth này khác xa toàn cảnh trong sáng trên bức của Oromis ghi lại cảnh Ilirea.

Nhận phiến đá từ tay đệ tử, Oromis quan sát mấy phút rồi nói:

- Cách suy nghĩ của con không bình thường. Nhiều người phải tập trung một cách khó khăn để có thể tạo ra một hình ảnh họ nhận thức được. Trái lại, dường như con qua sát hầu hết những gì con quan tâm. Vấn đề giống như khi con ngồi tĩnh tọa. Con phải thư giãn, mở rộng tầm mắt, thấm nhuần cảnh vật chung quanh, đừng cân nhắc những cảnh vật đó có quan trọng hay không với con.

Đặt bức tranh sang một bên, ông cầm phiến đá thứ hai, đưa cho Eragon:

- Thử lại lần nữa, nhớ những gì thầy đã...

- Khoan, kỵ sĩ!

Giật mình, Eragon quay lại. Orik và Arya đang cùng từ trong rừng chạy ra. Ông lùn vẫy tay chào. Hàm râu cắt tỉa gọn gàng, tóc chải ra sau, buộc thành đuôi ngựa. Ông mặc một áo mới màu nâu và đỏ, thêu chỉ vàng đàng hoàng; trông Orik không còn chút giấu vết nào của tình trạng bét nhè đêm qua.

Tất cả chào nhau theo đúng lễ nghi, rồi không dùng cổ ngữ, Oromis lên tiếng:

- Xin phép hỏi lý do cuộc thăm viếng này là gì đây? Rất hân hạnh đón mừng quý vị tới túp lều này, nhưng quý vị thấy đó, tôi đang bận việc với Eragon, và đây là một việc tối quan trọng.

Arya vội nói:

- Xin lỗi đã làm phiền tiền bối, nhưng...

Orik lên tiếng:

- Lỗi tại tôi. Tôi được đức vua Hrothgar phái tới đây là để bảo đảm Eragon được huấn luyện đúng quy cách. Tôi không dám nghi ngờ gì điều này, nhưng tôi bắt buộc phải đích thân thấy Eragon học tập, để khi trở về Tronjheim, mới có thể trình lên đức vua một cách trung thực những gì tai nghe mắt thấy.

- Nhưng những gì tôi dạy Eragon lại không thể chia sẻ được với bất kỳ ai. Những bí mật của kỵ sĩ chỉ dành riêng cho nó thôi.

- Tôi hiểu. Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thời đại bất an. Những gì rắn chắc, vững vàng như đá, bây giờ cũng có thể ngả nghiêng, đổ vỡ. Chúng ta phải thích nghi để sống còn chứ. Quá lệ thuộc vào Eragon, nên người lùn chúng tôi có quyền xác minh sự huấn luyện cậu ấy có tiến triển như hứa hẹn hay không. Ngài có nghĩ là đòi hỏi của chúng tôi... vô lý không?

- Nói năng giảo hoạt lắm. Tóm lại, đây là một phần trách nhiệm của ông?

- Trách nhiệm và danh dự.

- Không gì làm ông lùi bước?

- Tôi e là không, thưa Oromis tiền bối.

- Khá lắm. Ông được phép ở lại cho đến hết buổi tập. Ông hài lòng rồi chứ?

Orik nhăn mặt:

- Buổi học sắp xong rồi sao?

- Chúng tôi mới bắt đầu.

- Vậy thì được, tôi rất hài lòng. Ít ra là trong lúc này.

Trong khi sư phụ và ông lùn trao đổi, Eragon cố đón ánh mắt của Arya, nhưng cô chỉ chăm chăm nhìn vị tiên sinh già.

- ...Eragon!

- Dạ, thưa sư phụ?

- Đừng lơ đãng nữa. Thầy muốn con tạo một bức fairth khác. Khai triển tâm tưởng như thầy đã dạy.

- Vâng.

Eragon ngập ngừng nâng phiến đá, thoang lo âu trước con mắt quan sát của ông lùn và nàng tiên Arya. Nó muốn hoàn thành việc này thật hoàn hảo, để chứng tỏ Oromis là một ông thầy giỏi, nhưng nó không thể tập trung vào những cọng lá non và những hạt nhựa cây được nữa. Arya – như một miếng nam châm – níu kéo tâm trí nó về phía nàng mỗi khi nó tập trung nghĩ về một điều gì khác.

Sau cùng, đành tự thú nhận, không thể nào chống lại lực hấp dẫn đó, Eragon tạo một hình ảnh nàng trong tâm tưởng. Miệng lẩm bẩm cổ ngữ, nó trút tất cả say đắm, yêu thương, sợ hãi nàng vào câu thần chú.

Kết quả làm nó sững sờ.

Trên phiến đá, đầu và hai vai Arya nổi bật trên một hậu cảnh mơ hồ. Bên phải nàng ánh lửa ngời sáng, đôi mắt lịch lãm của nàng nhìn thẳng người đang ngắm tranh. Hình ảnh đó không thể hiện chính nàng, mà thể hiện những gì Eragon đã nghĩ về nàng: bí ẩn, xa cách và là một người đẹp tuyệt trần. Một chân dung không hoàn hảo, không giống hệt nguyên mẫu, nhưng chứa đựng tất cả những gì đầy khát khao, xúc động trong lòng Eragon.

Tiếng Saphira xa xôi thì thầm, cảnh giác: "Thận trọng..."

Oromis hỏi:

- Con dã ghi lại gì vậy?

- Con... con không biết...

Bối rối khi sư phụ đưa tay đón bức fairth, miễn cưỡng để mọi người quan sát "tác phẩm" mới hoàn thành, nhất là Arya, một lúc sau Eragon mới rời những ngón tay che trên mặt đá, trao bức tranh cho Oromis.

Thoáng nhìn, vị lão tiên nghiêm mặt quay lại Eragon làm cho nó sợ rúm người. Ông lẳng lặng trao phiến đá cho Arya.

Dù tóc phủ kín mặt, khi nàng cúi nhìn bức tranh, nhưng Eragon thấy những đường gân tay nàng phồng lên, nắm chặt phiến đá.

Ông lùn thắc mắc:

- Này này, cái gì vậy?

Vung cao tấm fairth khỏi đầu, Arya quăng mạnh xuống đất, làm phiến đá vỡ tan tành thành ngàn mảnh. Rồi, nàng thẳng người, nghiêm trang bước qua mặt Eragon, băng qua trảng trống, tiến vào khu rừng chằng chịt của Du Weldenvarden.

Ông lùn cúi nhặt một mảnh đá. Mảnh đá trống trơn. Hình ảnh đã tan biến khi phiến đá bị vỡ. Tay rờ rờ chòm râu, ông lẩm bẩm:

- Suốt mấy chục năm qua, chưa bao giờ tôi thấy Arya tức giận đến thế. Cậu đã làm gì vậy, Eragon?

Eragon thẫn thờ nói:

- Một bức chân dung cô ấy.

Orik nhăn mặt, thật sự bối rối:

- Chân dung? Vậy thì có gì mà...

Oromis nói:

- Tôi nghĩ tốt nhất là ông nên đi khỏi đây lúc này. Dù sao bài học cũng đã kết thúc, nếu muốn biết thêm về sự tiến bộ của Eragon, hãy trở lại ngày mai.

Liếc nhìn Eragon, ông lùn phủi bụi hai tay, nói:

- Phải, có lẽ tôi nên đi. Cám ơn tiền bối đã mất thời giờ với tôi.

Tiến về Ellesméra, ông ngoái lại bảo Eragon:

- Tôi ở một phòng trong điện Tialdarí, nếu thích chuyện trò, cứ đến.

Ông lùn đi khỏi, Oromis vén vạt áo, quỳ xuống gom góp những mảnh đã vụn. Eragon hỏi bằng cổ ngữ:

- Vì sao vậy, thưa sư phụ?

- Có lẽ... con đã làm Arya sợ.

- Sợ? Cô ấy chưa biết sợ bao giờ

Tuy nói vậy, nhưng thâm tâm Eragon biết điều đó không đúng. Arya rất có tài che dấu nỗi sợ thì đúng hơn.

Quỳ một chân, nó nhặt mảnh đá đặt vào tay sư phụ, hỏi:

- Xin sư phụ cho con biết, con đã làm gì để Arya sợ?

Oromis đứng dậy, tiến tới dòng suối, rải những mảnh đá lên bờ.

- Những bức fairth chỉ trình bày những gì con muốn thể hiện. Nghệ thuật ghi hình đó không lừa dối được. Để tạo ra những hình ảnh giả, đòi hỏi tài năng hơn con có hiện nay rất nhiều. Arya biết điều đó. Cô ta cũng biết hình ảnh trong bức fairth là một biểu hiện chính xác tình cảm của con đối với cô.

- Nhưng vì sao Arya lại sợ?

Oromis buồn rầu mỉm cười:

- Vì... điều đó tiết lộ sự mê cuồng đắm đuối của con. Eragon, ta thử phân tích vấn đề nhé. Trong khi con đủ khôn lớn để được coi như một người đàn ông trong xã hội loài người, thì trong con mắt chúng ta, con chẳng hơn gì một đứa trẻ.

Eragon nhíu mày, nhớ lại lời nói của Saphira đêm qua.

- Thường thì ta không so sánh tuổi tác giữa loài người và thần tiên, nhưng vì con chia sẻ tuổi thọ cùng chúng ta, con phải được xét đoán theo tiêu chuẩn của chúng ta. Con là một kỵ sĩ. Chúng ta tùy thuộc vào sự giúp sức của con để triệt hạ Galbatorix. Nếu con xao lãng việc học tập, sẽ là một thảm họa đối với tất cả mọi người đang sống trên nước Alagaesia. Vậy thì Arya đáp lại bức fairth của con bằng cách nào đây? Rõ ràng con đã nhìn cô ấy qua một lăng kính lãng mạn. Và thầy cũng không nghi ngờ tình cảm cô ấy dành cho con. Nhưng sự kết hợp đó không thể tránh khỏi tuổi trẻ, văn hóa, dòng giống và nhiệm vụ của con. Mối quan tâm của con chỉ đặt Arya vào một hoàn cảnh khó xử. Cô ấy không dám phản đối con, vì sợ con rối trí trong việc học. Là con gái của nữ hoàng, cô ta không thể liều lĩnh làm mất lòng một kỵ sĩ, nhất là một người đang gánh vác rất nhiều trách nhiệm... Kể cả nếu con là một vị hôn phu tương xứng, Arya vẫn phải nén lòng, để con có thể dâng hiến tất cả sức lực, tâm trí cho công việc trước mắt. Cô ta sẽ hy sinh hạnh phúc vì đại sự.

Giọng ông trầm hẳn xuống:

- Eragon, con phải hiểu rằng, việc giết Galbatorix quan trọng hơn bất cứ chuyện cá nhân nào.

Ông ngừng lại, dịu dàng nhìn Eragon:

- Bây giờ con còn thấy Arya tỏ ra quá lo sợ, vì e tình cảm của con dành cho cô ấy sẽ làm hỏng mưu đồ của chúng ta, là lạ lùng nữa không?

Eragon lắc đầu. Cảm thấy xấu hổ vì thái độ của nó là nguyên nhân làm Arya đau khổ, Eragon tự trách mình đã quá vụng về, non nớt. Nó tự nhủ: "Mình đã có thể tránh được tất cả những rắc rối này, nếu đủ bình tĩnh hơn."

Vỗ vai đệ tử, Oromis đưa nó trở vào lều:

Đừng nghĩ thầy là người vô tình. Eragon, bằng cách này hay cách khác, ai cũng có thời sôi nổi như con. Đó là một phần đời khi khôn lớn. Ta cũng biết con cảm thấy khó khăn ra sao. Nhưng đó là điều cần thiết để chúng ta đi đến chiến thắng.

- Con hiểu, thưa sư phụ.

Hai thầy trò ngồi bên bàn bếp, Oromis vừa bày bút giấy để dạy cổ ngữ cho Eragon, vừa nói:

- Thật vô lý nếu thầy mong con quên tình cảm với Arya, nhưng thầy rất mong con tạm quên để đừng xao lãng khi nghe thầy giảng dạy. Con hứa chứ?

- Vâng, thưa thầy, con xin hứa.

- Còn Arya? Con sẽ có hành động cao cả nào để giúp cô ấy trong tình trạng khó khăn này?

Eragon ngập ngừng:

- Con không muốn mất tình bạn của Arya.

- Đúng vậy.

- Vì vậy... con sẽ tìm Arya để xin lỗi và bảo đảm là sẽ không bao giờ làm nàng phải khó xử như thế nữa.

Rất khó thốt ra lời hứa đó, nhưng nói xong, Eragon thấy nhẹ hẳn lòng.

Mặt sư phụ rạng rỡ khi cất tiếng vui vẻ nói:

- Chỉ riêng hành động đó thôi, đủ chúng tỏ con đã trưởng thành.

Vuốt tấm giấy phẳng phiu trên mặt bàn, Eragon lặng nhìn màu trắng trải rộng trước mắt, rồi chấm ngọn bút lông vào bình mực, bắt đầu sao chép một hàng cổ ngữ. Mỗi nét móc sổ của mỗi con chữ nổi bật trên giấy trắng như những nét vạch của bóng đêm. Eragon chăm chú viết, để cố quên đi những cảm xúc đang rối bời trong lòng.
 
Chương 44: Quên lãng


Sáng hôm sau, Eragon đi tìm Arya để xin lỗi. Hơn một tiếng đồng hồ, nó vẫn không gặp được cô. Dường như Arya đã biến mất vào một nơi kín đáo nào đó trong hoàng cung Ellesméra. Một lần thoáng thấy cô gần lối vào điện Tialdarí, nó lên tiếng gọi, nhưng Arya lẩn ngay trước khi nó kịp lại gần. "Nàng cố tình tránh mặt ta". Sau cùng, Eragon mới nhận ra.

Suốt nhiều ngày sau đó, Eragon cắm cúi học, siêng năng tới nỗi sư phụ phải ngỏ lời khen.

Đêm ngày Eragon vùi đầu vào bài vở, học thuộc lòng những câu thần chú để phát triển, phong bế, thu hồi nội lực; tìm hiểu những tên thật sự của cây cối và loài vật; nghiên cứu những nguy hiểm khi sử dụng thần chú để biến hoá một sự vật; và cách hô mưa gọi gió, cùng vô vàn kỹ năng để hiểu biết những sức mạnh của thiên nhiên. Eragon vượt trội trong bài học về những câu thần chú để đương đầu với những năng lượng to lớn như: ánh sáng, hơi nóng, nam châm; vì nó có một tài năng đặc biệt, có thể phán đoán chính xác khi xuất chiêu tốn bao nhiêu công lực, hoặc chiêu thức đó có vượt quá năng lực của nó không.

Trong thời gina Oromis giảng giải hay Eragon một mình luyện tập những chiêu thức và những câu thần chú khó khăn, thỉnh thoảng ông lùn Orik đến quan sát, lẳng lặng đứng bên bờ vực, không phê phán gì.

Oromis bắt đệ tử hoàn thành nhiều bài học đầy thách thức: nấu ăn bằng phép thuật, phát hiện và vô hiệu hoá thuốc độc trong thực phẩm. Từ đó, nó phải kiểm tra nhiều nọc độc trong thực phẩm. Từ đó, nó phải kiểm tra nhiều nọc độc khác nhau mà sư phụ đã lén bỏ vào đồ ăn. Đã hơn một lần Eragon đành nhịn đói vì không tìm ra thuốc độc hoặc không có khả năng hoá giải chất độc. đã hai lần nó bị ói mửa và sư phụ phải ra tay chữa trị. Sư phụ còn bắt Eragon niệm những câu thần chú có những yếu tố khác nhau cùng một lúc. Việc này đòi hỏi nó phải tập trung cao độ để có thể nhằm trúng mục tiêu đúng ý định.

Oromis giảng giải hàng giờ về kỹ năng len lỏi vào mục tiêu bằng công lực, sau đó hoá giải hoặc tạo mục tiêu thành hình tượng theo ý muốn. Ông bảo:

- Đó là cách Rhunon đã yểm bùa cho những thanh kiếm của các kỵ sĩ để chúng không bao giờ bị cùn nhụt hay bị gãy; đó cùng là cách chúng ta ca hát cho cây lớn lên thành những khuôn mẫu theo ý chúng ta. Cũng bằng cách đó, chúng ta đã gài bẫy trong hộp, chỉ khi mở, bẫy mới hoạt động; và người lùn, cũng như chúng ta, dùng phương pháp này để chữa thương và tạo ra những Erisdar – đèn lồng. Đây là những câu thần chú hiệu nghiệm nhất, vì chúng đã âm thầm ngủ yên suốt hơn ngàn năm, nên khó mà nhận ra hay ngăn chặn được. Chúng tràn lan trên đất nước Alagaesia, tạo nên hình dáng đất đai sông núi và định mệnh của những con người sinh sống tại nơi này.

Eragon hỏi:

- Thần tiên có thể sử dụng phương pháp này để làm đổi thay thể xác không ạ? Hay...việc này quá nguy hiểm?

- Hỡi ôi! Con đã chạm tới yếu điểm lớn nhất của thần tiên chúng ta rồi: đó là tính phù phiếm, chỉ say mê cái đẹp. Chúng ta yêu cái đẹp trong muôn hình vạn vẻ và tìm cách tái hiện nét đẹp đó trong những biểu tượng của mình. Đó là lý do chúng ta được biết đến trong những chuyện thần tiên, cổ tích. Mỗi thần tiên đều có ngoại hình đúng y như vị đó mong muốn. Khi đọc thần chú tạo dáng và phát triển cho sinh vật, họ thường tìm cách làm thay đổi ngoại hình của chính họ, phản ảnh một dáng vẻ tốt về thẩm mỹ, họ đổi thay cấu trúc hình thể cho thích hợp với những gì chung quanh. Nhiều khi, trông họ giống muông thú nhiều hơn thần tiên. Con sẽ được thấy điều này trong Lễ-hội Huyết-thệ sắp tới. Rất hiếm có một vật chất thích hợp trong việc chứa đựng năng lượng hoà nhập vào chúng, trái lại, năng lượng đó tạo nên một sức mạnh phản hồi, mạnh đến nỗi, nếu con chạm tay vào sẽ bị một tia chớp xuyên qua người. Vật chất tốt nhất để sử dụng vào mục tiêu này là đá quý, như kim cương chẳng hạn. Thạch anh, mã não và những loại đá kém hơn đều không công hiệu bằng, nhưng tất cả đá quý đều thích hợp. Đó là lý do các chuôi kiếm của kỵ sỹ luôn có đính một viên ngọc. Đó cũng là lý do sợi dây chuyền người lùn cho con – làm toàn bằng kim loại - phải hút cạn nội công của con để lấy năng lực, vì bản thân nó không hề có chút năng lực nào.

Khi không có sư phụ, Eragon tự học thêm bằng cách đọc những gì ông đã trao cho nó. Thói quen đó tạo cho nó thành một con nghiện sách. Thời gian ở nhà, cậu Garrow chỉ dạy nó đủ biết làm sao cai quản ruộng vườn. Bây giờ những trang sách ngồn ngộn tri thức làm thoả mãn cơn khát hiểu biết của nó từ trước tới giờ, như những cơn mưa rào đổ xuống sa mạc khô cằn, nứt nẻ. Eragon ngốn ngấu từ địa lý, sinh vật, giải phẫu, triết học tới lịch sử. Quan trọng hơn, những hiểu biết đó đã mở đầu cho việc thay đổi nếp suy nghĩ của nó. Chúng bắt buộc Eragon phải xem xét lại tất cả những gì nó từng thừa nhận và tin tưởng, từ quyền lợi của cá nhân trong xã hội, tới nguyên nhân di động của mặt trời.

Thấy một tập đề cập đến Urgal và văn hoá của chúng, nhưng Eragon chỉ đọc phớt qua, dù sư phụ đã nhắc nhở đề tài này.

Hy vọng sẽ hiểu Arya nhiều hơn, Eragon nghiên cứu rất nhiều đề tài thần tiên. Nó rất ngạc nhiên khi phát hiện: thần tiên không thực sự kết hôn; nếu muốn, họ sẽ chỉ là đôi bạn trong một ngày hay...một thế kỷ. Trẻ con rất hiếm trong quần thể thần tiên. Có một đứa con được coi như là lời nguyện thề tuyệt đối của tình yêu.

Eragon cũng tìm hiểu được một điều: từ khi thần tiên và loài người gặp nhau, chỉ có vài cặp vững bền. Hầu hết là nam kỵ sĩ thuộc loài người gắn bó với bạn tình là thần tiên. Tuy nhiên, qua những tài liệu đầy ẩn dụ, đa số những mối tình này đều kết thúc trong bi thảm. Trong đó có lý do vì tuổi thọ và cái chết của con người, còn thần tiên thì thoát khỏi sự huỷ hoại của thời gian.

Những cuốn tiểu thuyết, thơ ca, sử thi...thu hút trí tưởng tượng của Eragon; vì trước kia nó mới chỉ được biết những chuyện ông già Brom thường ngâm nga trong làng Carvahall. Nó nhấm nháp những thiên anh hùng ca như thưởng thức bữa ăn thịnh soạn, nấn ná từng trang trong Chiến Công của Gada hoặc Cái Chết của Umhodan...

Saphira cũng rất tiến bộ trong học tập. Tư tưởng hai đứa luôn kết nối với nhau, nên Eragon nhận thấy dần dần rồng vàng Glaedr cũng bắt Saphira vượt qua một chế độ rèn luyện căng thẳng như nó. Cô nàng phải bay lượn, nhào xuống, phóng lên với một tảng đá quắp dưới chân. Để tăng sức chịu đựng, Glaedr bắt Saphira phun lửa suốt mấy tiếng lên một trụ đá, để làm đá phải tan chảy. Lúc đầu, Saphira chỉ có thể giữ ngọn lửa mỗi lần được mấy phút, nhưng rồi ngọn đuốc sáng rực ào ào tuôn ra từ miệng nó liên tục hơn nửa tiếng. Qua những bài học về rồng, Glaedr truyền đạt cho Saphira, Eragon hiểu biết một số chi tiết về lịch sử và đời sống của loài rồng. Điều này bổ sung cho những hiểu biết về nòi giống của mà Saphira mới chỉ có được nhờ bản năng. Nhưng có nhiều điều làm Eragon thắc mắc, không hiểu nổi. Nó ngờ cô em rồng đã che dấu những bí mật riêng tư của loài rồng, không thể tiết lộ cho bất kỳ ai. Tuy nhiên, Eragon cũng biết được một điều mà Saphira rất trân trọng: tên cha của cô nàng là Iormúngr và mẹ là Vervada. Vervada có nghĩa là Búa -Tầm-Sét trong cổ ngữ. Trong khi Iormúngr gắn bó với một kỵ sĩ, thì Vervada lại là một rồng hoang dã. Vervada sinh được rất nhiều trứng, nhưng chỉ chịu giao phó một trứng cho các kỵ sĩ, đó chính là Saphira. Cha mẹ Saphira đều bị chết trong thời kỳ kỵ sĩ suy tàn.

Có những ngày, Eragon và Saphira bay cùng sư phụ Oromis và Glaedr để tập hợp tác chiến trên không, hay đi thăm những tàn tích đổ nát ẩn trong vùng đất Du Weldenvarden. Lại có những ngày, chương trình thay đổi: Eragon bay và tập luyện cùng rồng, còn Saphira ở lại cùng sư phụ trên bờ vực Tel'naeir.

Mỗi buổi sáng Eragon lại luyện kiếm cùng Vanir và buổi nào cũng bị choáng váng một hai lần. Để làm vấn đề thêm tệ hại, anh chàng tiên trẻ luôn tỏ ra kiêu kỳ, hạ cố. Tuy nhiên anh ta cũng luôn giữ vẻ mặt lịch sự một cách khinh khỉnh và tỉnh bơ trước những lời châm chọc của Eragon. Dường như mỗi hành động của Vanir đều là một sự nhục mạ nó. Những bạn bè của Vanir – Eragon đoán chắc đều là thần tiên thế hệ trẻ - cũng ngấm ngầm coi thường nó, nhưng lại tỏ ra rất trọng nể Saphira.

Sự đố kỵ lên tới cao độ sau lần, chỉ trong một hiệp đấu Eragon bị hạ tới sáu lần. Vanir hạ thấp kiếm, nói:

- Lại chết. Khắc–Tinh của Tà-Thần, sao cứ tái diễn trò này mãi thế? Muốn tiếp tục không?

Eragon ậm ừ, lưng nó đau tới nỗi không thể thốt lên lời ganh đua cùng hắn ta nổi nữa. Nhưng Vanir vẫn không buông tha:

- Ta hơi tò mò muốn biết: chậm chạp như rùa vậy, thế mi đã giết Tà Thần Durza bằng cách nào? Thật tình ta không thể đoán nổi.

Eragon nén đau, cố trả lời:

- Ta tấn công bất ngờ.

- Xin lỗi, nếu ta không lầm thì chiến thắng này có mánh khoé lừa gạt?

Eragon nghiến răng, hổn hển:

- Nếu ta là một thần tiên và mi là một con người bình thường, mi cũng sẽ không kháng cự nổi với thanh kiếm của ta đâu.

- Có thể.

Vừa nói Vanir vừa trụ bộ, rồi chỉ trong vài giây với hai chiêu xuất ra, hắn nhẹ nhàng đoạt vũ khí của Eragon , ngạo mạn cười nói:

- Nhưng ta lại không nghĩ thế đâu. Đừng huênh hoang với một tay kiếm tài giỏi hơn mi, nếu không anh ta sẽ sớm cho mi về chầu tiên tổ đó.

Eragon giận điên lên, vận nội công, hết sức bình sinh thu gom phép thuật, bao nhiêu căm tức đều tuôn trào ra bằng câu thần chú "Malthinae!", để trói chân tay và làm hàm của Vanir bất động. Như vậy hắn sẽ không thể mở miệng để tự hoá giải và phản công được nữa. Mắt Vanir như lồi ra vì phẫn nộ. Eragon lên tiếng:

- Và mi cũng đừng huênh hoang với một người phép thuật cao cường hơn mình nữa.

Đôi lông mày đen kịt của Vanir nhíu sát nhau.

Không một âm thanh thoát ra từ miệng hắn, nhưng một sức mạnh vô hình dội mạnh lên ngực Eragon, quăng nó ngã ngửa trên bãi cỏ xa mấy thước, phổi nó vang lên một tiếng "hự". Cú va chạm làm rối loạn sự kiểm soát phép thuật của Eragon và giải phòng Vanir.

Eragon bàng hoàng tự hỏi: "Hắn làm cách nào vậy?"

Vanir đủng đỉnh tiến lại, nói:

- Đó là kết quả sự ngu ngốc của mi. Mi không hiểu mình nói gì. Cứ nghĩ đến chuyện mi là kẻ kế vị cố kỵ sĩ Vrael, mi được ngự trong nơi dành cho ông, mi được học hành với Hiền Nhân Sám Hối...

Hắn lắc đầu chán ngán:

- Ta phát ói vì những đặc ân đó lại ban phát cho một con người vô giá trị như mi. Thậm chí mi còn không biết phép thuật là gì, chứ đừng nói chi chuyện sử dụng phép thuật.

- Ta đã làm gì không phải với mi? Sao mi miệt thị ta quá vậy? Chẳng lẽ mi mong không có một kỵ sĩ nào tồn tại để gánh vác việc chống lại Galbatorix?

- Những lời ta nói đều có nguyên nhân của nó.

- Vậy thì nói ra đi.

- Như Nuala đã viết trong những biên bản hội nghị: sự lắng nghe là con đường khôn ngoan, nhưng phải là kết quả của một quyết định tỉnh táo, chứ không phải là một tri thức ngu si, vô giá trị.

- Đừng xa xôi bóng gió nữa, Vanir, nói rõ ra đi.

Vanir lạnh lùng mỉm cười:

- Xin tuân lệnh, ngài kỵ sĩ.

Ghé sát mặt Eragon, để nó có thể nghe được tiếng thì thầm, hắn tỉnh bơ nhỏ nhẹ:

- Suốt tám mươi năm, sau ngày suy tàn của các kỵ sĩ, chúng ta không còn nuôi hy vọng chiến thắng nữa. Chúng ta ẩn trốn để sống còn bằng mưu mô và phép thuật – dù chỉ tạm thời – vì dần dần Galbatorix sẽ đủ mạnh để tiến quân, quét sạch hàng rào phòng thủ của chúng ta. Thế rồi, sau thời gian dài đằng đẵng chúng ta đành phó thác cho số mệnh, Brom và Jeod giải thoát trứng của Saphira, một lần nữa chúng ta nuôi hy vọng lật đổ tiên bạo chúa. Tưởng tượng chúng ta đã vui mừng đến thế nào. Biết rằng để đương đầu với Galbatorix, vị tân kỵ sĩ sẽ phải dũng mãnh hơn các bậc tiền nhiệm, thậm chí mạnh hơn cả tiền bối Vrael. Vậy mà phần thưởng cho nỗi mòn mỏi đợi chờ đó của chúng ta là gì? Một con người đồng loại của Galbatorix. Tệ hơn nữa...một kẻ tàn tật. Eragon, mi làm tất cả chúng ta thất vọng, ngay từ giây phút mi chạm tay vào trứng Saphira. Đừng mong chúng ta phải hoan hỉ vì sự hiện diện của mi tại nơi này.

Nhẹ đặt hai ngón tay lên môi, Vanir tránh sang một bên, bước khỏi bãi tập, để Eragon thờ thần như bị chôn xuống đất: "Hắn nói đúng. Mình không xứng đáng được trao nhiệm vụ này. Bất cứ thần tiền nào, kể cả Vanir, đều sẽ là một kỵ sĩ tài giỏi hơn mình".

Saphira phóng mạnh tâm tưởng, giận dữ nói: "Eragon, anh coi sự phán đoán của em chẳng là gì sao? Anh quên rằng, khi còn trong trứng, Arya đã đặt em trước những tay thần tiên này, kể cả những thiếu niên của Varden? Và em đã từ chối tất cả. Em đã không chọn anh, nếu như anh không thể giúp giống nòi của anh, của em, của thần tiên – vì định mệnh đã ràng buộc ba loài của chúng ta. Đừng bao giờ quên, em đã chọn đúng người, đúng nơi chốn, đúng thời điểm."

"Dù có đúng như vậy, thì đó là chuyện trước khi anh bị tà thần gây thương tổn. Còn giờ đây anh chỉ thấy tương lai chúng ta đen tối quá. Anh không bỏ cuộc, nhưng anh thất vọng, vì có lẽ chúng ta không thể nào chiến thắng. Có thể công việc của anh em mình không phải là lật đổ Galbatorix, mà chỉ dọn đường cho một kỵ sĩ sẽ được một trứng rồng còn lại chọn lựa".

***

Trở về bờ vực, Eragon thấy sư phụ đang ở trong lều. Ngồi bên bàn, ông đang vẽ một bức phong cảnh bằng mực đen dưới những dòng chữ vừa viết xong.

Eragon quì gối.

- Con chào thầy.

Mười lăm phút trôi qua trước khi Oromis điểm xuyết thêm mấy lộc non lên cây trường xuân, rửa ngọn bút lông trong bình nước bằng đất nung, rồi ông mới nhìn Eragon, hỏi:

- Sao con tới sớm vậy?

- Con xin lỗi đã làm phiền sư phụ, nhưng Vanir đã ngưng ngang buổi luyện kiếm. Còn lại một mình, con không biết phải làm gì.

- Vì sao Vanir lại bỏ đi, Eragon thiếu hiệp?

Hỏi xong, ông xếp hai tay lên đùi, lắng nghe Eragon kể lại những đụng độ giữa nó và vị tiên trẻ. Sau cùng nó kết luận:

- Đáng lẽ con không nên mất bình tĩnh đến thế. Những lời nói và hành động của con chỉ càng chứng tỏ mình là một đứa ngu ngốc. Con đã làm thầy thất vọng.

- Đúng vậy. Con đã làm ta thất vọng. Cho dù bị Vanir châm chọc, con cũng không nên đáp trả bằng cung cách đó. Con phải biết cách kiềm chế cảm xúc. Eragon hãy nhớ rằng, nếu con để sự nóng giận ảnh hưởng đến suy tính trong khi giao đấu, có thể con sẽ phải trả giá bằng mạng sống. Hơn nữa, thái độ trẻ con đó, chỉ thêm bằng cớ để các thần tiên có thêm lý lẽ phản đối con. Việc đại sự của chúng ta, không thể để những lỗi lầm như vậy xảy ra được.

- Thưa sư phụ, con đã biết lỗi mình và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.

Oromis tỏ vẻ hài lòng, ngồi chờ tới giờ luyện quyền thuật. Eragon rụt rè hỏi:

- Thưa thầy, bằng cách nào mà Vanir không hề thốt ra một lời mà vẫn có thể sử dụng phép thuật?

- Hắn đã làm vậy sao? Có thể hắn được một thần tiên khác hỗ trợ.

Eragon lắc đầu:

- Không đâu. Ngày đầu tiên tới hoàng cung Ellesméra, con cũng đã thấy nữ hoàng Islanzadí chỉ vỗ tay một tiếng, mà tạo ra một cơn mưa hoa. Vanir còn bảo: con không hiểu các cách điều hành phép thuật là gì? Hắn nói vậy là sao?

- Một lần nữa con lại muốn biết những điều con chưa sẵn sàng được biết. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh này thầy chỉ có thể cho con biết một điều: chuyện con hỏi là điều không được truyền dạy cho các kỵ sĩ – cũng như không được truyền dạy cho các pháp sư của chúng ta - chỉ đến khi họ có khả năng làm chủ tất cả mọi phương diện về phép thuật, vì đây là bí mật đối với bản chất thật sự của phép thuật và cổ ngữ. Ai biết điều đó, sẽ đạt được quyền năng rất to lớn, đúng vậy, nhưng đồng thời cũng sẽ gặp những mối hiểm nguy vô cùng khủng khiếp.

Im lặng một lúc rồi ông hỏi:

- Cổ ngữ gắn bó với phép thuật như thế nào, Eragon?

- Cổ ngữ có thể phóng phép thuật lưu trữ trong cơ thể để hành động bằng một câu thần chú.

- A, nếu vậy thì theo ý con, một âm thanh, một sự rung động trong không khí cũng có thể khơi dậy năng lực này sao? Những âm thanh ngẫu nhiên phát ra từ một sinh vật hay đồ vật chẳng hạn?

- Dạ, đúng vậy, thưa thầy.

- Con không thấy điều đó...có vẻ kỳ cục, vô lý sao?

Bối rối, Eragon ngập ngừng nói:

- Thưa thầy, cho dù vô lý, nhưng...nó vẫn xảy ra. Trăng khuyết rồi tròn, bốn mùa thay đổi, chim bay về phương nam để trốn đông...Con có nên nghĩ những chuyện đó là kỳ cục và vô lý không?

- Tất nhiên là không. Nhưng làm sao mà âm thanh có thể làm được quá nhiều chuyện đến thế chứ? Có một cường độ âm thanh kiểu mẫu nào thật sự gây ra một loạt phản ứng cho phép ta điều khiển năng lượng không? Không, âm thanh không có tác dụng đối với phép thuật. Nói ra một từ hay một câu bằng cổ ngữ không là điều quan trọng. Điều quan trọng là khi con "suy tưởng" bằng cổ ngữ.

Với một cái lắc nhẹ cổ tay, một tia lửa vàng thoáng hiện trên bàn tay ông rồi vụt biến, Oromis nói tiếp:

- Tuy nhiên trừ khi cấp bách, chúng ta vẫn phải đọc to thần chú, để tránh xao lãng tư tưởng, làm đứt đoạn những câu muốn nói. Đó là một điều tối nguy hiểm ngay cả đối với những pháp sư cao tay, dày dạn kinh nghiệm nhất.

Nhớ lại khi gần chết đuối dưới thác hồ Kóstha-mérna, vì chìm nghỉm dưới nước, không thể mở miệng đọc thần chú, Eragon thầm nhủ: "Nếu sớm biết chuyện này, mình đã tự cứu được rồi". Nó nói:

- Thưa sư phụ, âm thanh không gây ảnh hưởng đến phép thuật, sao tư tưởng lại có thể điều khiển được phép thuật?

- Vì sao ư? Thầy phải nói ngay cho con biết, bản thân chúng ta không có nguồn phép thuật nào. Phép thuật tồn tại trong chính nó, không lệ thuộc vào bất cứ câu thần chú nào, giống như ma trơi trên đầm lầy gần Arough, như giếng thần trong hang động Mani của rặng nuí Beor, như những tinh thể trong suốt bồng bềnh trên Eoam. Những phép thuật hoang dại như thế ẩn hiện, bí hiểm và mạnh hơn bất cứ phép thuật nào do chúng ta tạo ra. Nhiều thế kỷ trước, phép thuật là như vậy. Để sử dụng chúng, không cần đòi hỏi gì ngoài khả năng nhận thức phép thuật bằng tâm tưởng - khả năng này, pháp sư nào cũng phải có - cộng với sức mạnh và lòng khát khao sử dụng phép thuật. Nhưng vì không có cơ cấu cổ ngữ, các pháp sư không thể làm chủ tài năng của họ, nên xảy ra rất nhiều tai hại, kết quả là hàng ngàn người bị chết. Qua thời gian, họ khám phá ra rằng diễn đạt ý định bằng cổ ngữ, giúp họ ổn định tư tưởng và tránh được những sai lầm to lớn. Tuy nhiên, cũng đã có một tai nạn khủng khiếp xảy ra, suýt tiêu diệt toàn thể sinh linh trên thế giới. Qua những trang viết còn sót lại, chúng ta mới được biết sự kiện này. Nhưng ai hay vật gì đã niệm câu thần chú tai hoạ đó thì vẫn còn là một điều bí ẩn với chúng ta.

Ông trầm ngâm rồi tiếp:

- Sau đó, cũng theo những bản viết tay, một loài được gọi là Người Xám (không phải thần tiên, vì khi đó chúng ta còn rất non trẻ) đã tập hợp năng lực của họ mà luyện nên một quyền năng phép thuật, có lẽ đó là một quyền năng lớn mạnh nhất từ trước đến mãi mãi về sau. Họ đã cùng nhau thay đổi bản chất của phép thuật. Họ làm cho phép thuật trở thành một công cụ của ngôn ngữ - ngôn ngữ cổ. Họ có thể nhìn ta, nghĩ về ta và nói "đốt cháy cánh cửa", phép thuật sẽ làm cánh cửa bùng cháy, chứ không đốt cháy ta. Họ còn làm cánh cửa bùng cháy, chứ không đốt cháy ta. Họ còn làm cho cổ ngữ có hai tính cách độc đáo: khả năng ngăn ngừa những người nói dối khi sử dụng cổ ngữ, và khả năng diễn tả bản chất thật sự của sự việc. Bằng cách nào họ làm được điều này vẫn còn là một bí ẩn. Nội dung những tài liệu còn lại rất khác nhau về những gì xảy ra với Người Xám, nhưng dường như chính bùa chú đã rút cạn kiệt năng lực của họ, làm cho họ chỉ còn lại như cái bóng của chính mình. Họ héo tàn dần, sống âm thầm trong các thành phố riêng biết cho đến khi đá tan thành cát bụi, hoặc kết duyên cùng những nòi giống trẻ hơn, và...do đó nòi giống họ như tan vào bóng tối.

Eragon hỏi:

- Vậy thì ta vẫn có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ?

- Với những gì chính con đã chứng kiến, con nghĩ sao về chuyện Saphira phun lửa? Saphira biến ngôi mộ bằng đá sỏi của Brom thành ngôi mộ kim cương? Và in dấu chúc phúc cho đứa trẻ tại Farthen Dur? Saphira có thốt lời nào đâu. Tâm trí rồng khác chúng ta, chúng không cần bảo vệ khỏi phép thuật. Trừ chuyện phun lửa, chúng không thể sử dụng phép thuật một cách có ý thức, nhưng khi tài năng thiên phú đó bật lên trong chúng thì sức mạnh của chúng không gì so sánh được...Này, con có vẻ bối rối, sao vậy Eragon?

Lom lom nhìn xuống hai bàn tay, Eragon hỏi:

- Nhưng chuyện này có ý nghĩa gì với con, thưa sư phụ?

- Nó có nghĩa là con phải tiếp tục học cổ ngữ, vì con có thể hoàn thành được nhiều việc rất phức tạp, nếu không những việc đó sẽ trở thành rất, rất nguy hiểm đối với con. Nó có nghĩa, nếu con bị bắt, bị làm cho bất động, con vẫn có thể nhiệm chú để tự giải phóng, như Vanir đã làm đó. Nó cũng có nghĩa là khi con bị bắt, bị đầu độc và không kêu lên nổi bằng cổ ngữ, phải, kể cả những lúc vậy, con vẫn có thể nghĩ đến một câu thần chú. Tuy nhiên, con vẫn có thể nghĩ đến một câu thần chú. Tuy nhiên, chỉ khi tình hình thật sự nghiêm trọng nhất con cũng có thể tạo ra một câu thần chú chưa từng có trong cổ ngữ. Nhưng phải hết sức thận trọng đối với ma lực của những khả năng này. Ngay cả những thần tiên phép thuật cao cường nhất cũng phải đắn đo không dám đùa giỡn với chúng, vì sợ chết, thậm chí còn tệ hơn cái chết nữa.

Sau đó, suốt thời gian ở lại Ellesméra, sáng nào Eragon cũng luyện kiếm cùng Vanir, nhưng không hề lần nào tỏ ra mất bình tĩnh, dù anh tiên trẻ khiêu khích mọi cách từ lời nói tới hành động.

Không phải Eragon quá nhiệt tình đua tranh, nhưng cơn đau của chấn thương lưng mỗi lúc mỗi thường xuyên hơn, vượt quá sức chịu đựng của nó. Những chiêu thức tới tấp công và thủ, trước đây không đến nỗi gây khó dễ cho nó, nhưng bây giờ làm nó choáng váng, quằn quại trên mặt đất. Ngay cả khi luyện Xà-Hạc quyền cũng làm nó lảo đảo khi phóng ra những chiêu thức mạnh. Eragon không còn đủ sức luyện tập ba bốn môn trong một ngày như vậy nữa.

Mặt mày hốc hác, Eragon đi đứng, hành động chậm chạp như người đang dưỡng sức. Nó không còn tỉnh táo khi suy nghĩ hoặc lắng nghe lời giảng giải của thầy. Đôi khi đầu óc nó như mụ mị đi. Những lúc rảnh rỗi hiếm hoi, Eragon lại lấy cái nhẫn cuốn vòng của Orik, tập trung tháo gỡ cho đầu óc bớt căng thẳng. Khi hai anh em có dịp gần nhau, Saphira năn nỉ Eragon lượn mấy vòng cho thoải mái.

Một sáng, đang bay cùng Saphira, Eragon tâm sự "Anh có một cái tên mới để gọi sự đau đớn"

"Tên gì?"

"Quên lãng. Vì khi đau đớn, người ta chẳng nghĩ đến gì nữa. Không tư tưởng, không cảm xúc. Chỉ mong một điều thoát khỏi nỗi đau. Khi cái đau tạm qua đi, sức khoẻ hồi phục, sự quên lãng mới rời khỏi ta, làm ta nhận ra mình là ai, mới nhận ra mình chỉ là một sinh vật nhỏ bé, một sinh vật chỉ có một khát vọng duy nhất: chạy trốn khỏi sự đau đớn. Saphira, cơ thể anh rã rời như một con ngựa già phải cày bừa quá nhiều thửa ruộng. Hãy gắn kết với anh bằng tư tưởng của em, nếu không anh có thể tan tác từng mảnh, chẳng nhớ mình là ai nữa".

"Em sẽ không bao giờ rời xa anh đâu."

Nhưng rồi ngay sau đó, Eragon cảm thấy như một nạn nhân bị tế thần với ba lần liên tiếp lên cơn đau dữ dội trong khi giao đấu với Vanir, tiếp theo là hai lần trong buổi tập Xà-Hạc quyền. Vừa gượng ngồi dậy sau một cú lăn lông lốc trên mặt đất, sư phụ nó đã nói ngay:

- Làm lại, Eragon. Con phải hoàn chỉnh thế cân bằng.

Khoanh chặt hai tay để che giấu sự run rẩy toàn thân, Eragon lắc đầu:

- Con không tâp nữa.

- Sao?

- Không tập nữa

- Đứng dậy ngay. Thử lại lần nữa.

- Không.

Oromis quì gối, đặt bàn tay mát lạnh lên má đệ tử, nhìn nó bằng ánh mắt đầy trìu mến. Eragon cảm thấy hết tấm lòng thương yêu của thầy dành cho nó, và nó cũng biết rằng - nếu có thể - ông sẵn lòng chịu đau đớn thay cho nó.

Oromis nhẹ nhàng nói:

- Đừng ngã lòng. Không bao giờ được mất niềm hy vọng, con ạ.

Dường như có một nguồn năng lực từ ông truyền sang Eragon khi nó nghe lời ông nói:

- Chúng ta là kỵ sĩ. Chúng ta đứng giữa ánh sáng và bóng tối, phải giữ thế cân bằng giữa hai ranh giới này. Ngu dốt, sợ hãi, ganh ghét đều là kẻ thù của chúng ta. Hãy chối bỏ chúng với tất cả ý chí của con, nếu không chắc chắn con sẽ gặp toàn thất bại.

Đứng dậy, ông đưa tay đón nó:

- Nào, đứng lên, Khắc-Tinh của Tà-Thần, hãy chứng tỏ con có thể chiến thắng bản năng yếu đuối của thể xác mình.

Hít sâu một hơi, Eragon nhăn mặt, chống tay cố đứng dậy. Hơi lảo đảo, rồi gượng đứng thẳng người, nó nhìn thẳng mắt sư phụ:

Vị tiên già gật đầu tươi tỉnh.

Eragon nín lặng cho đến sau buổi tập quyền, khi hai thầy trò ra suối tắm, nó mới lên tiếng:

- Sư phụ...

- Nói đi con.

- Vì sao con phải chịu đựng sự tập luyện như hành xác thế này? Với phép thuật, thầy có thể truyền cho con tất cả tài năng con cần thiết, thầy có thể định hình thân thể con như thầy đã làm cho cây cối mọc theo ý thầy.

- Ta có thể. Nhưng nếu ta làm vậy, con sẽ không hiểu bằng cách nào cơ thể và khả năng con được như thế; con cũng sẽ không biết giữ gìn chúng như thế nào. Không thể đi đường tắt được, Eragon.

Trầm mình xuống nước lạnh chỉ đến cổ, Eragon hụp đầu dưới mặt nước, ôm lấy tảng đá. Nó để thân mình sóng soài trong lòng suối, cảm thấy như mình là một mũi tên bay qua dòng nước.
 
Chương 45: Thị trấn Narda


Roran quỳ một gối, gãi gãi chòm râu mới mọc, nhìn xuống Narda.

Thị trấn nhỏ bé và chật chội, trông như những mảnh vụn bánh mì nhồi nhét trong một khe nứt dọc theo bờ biển. Qua khỏi thị trấn, biển đỏ như rượu nho lấp lánh dưới những tia nắng của mặt trời chiều. Roran mê mẩn nhìn mặt nước mênh mông, hoàn toàn khác hẳn với những gì nó thường nhìn thấy.

"Cuối cùng chúng ta cũng đã tới được nơi này." Roran thầm nhủ.

Rời mỏm đá, nó trở về lều, khoan khoái hít thật sâu làn không khí mặn nồng của biển.

Dân làng cắm trại dưới chân núi Spine, tránh sự phát hiện của bất kỳ kẻ nào có thể tố giác với triều đình.

Qua những nhóm ngồi quây quần dưới tán cây, Roran nhìn tình cảnh họ, vừa xót xa vừa căm phẫn. Hành trình cam go từ thung lũng Palancar đã làm nhêìu người ốm đau, kiệt sức; mặt mày họ vêu vao vì thiếu ăn; quần áo tả tơi. Hầu hết mọi người đều quấn giẻ hai bàn tay để tránh sương muối lạnh ngắt về đêm trên núi. Những tuần lễ mang vác nặng nề làm đôi vai kiêu hãnh của họ cong oằn xuống. Nhưng tội nghiệp nhất là đám trẻ con: gầy guộc, ngơ ngác...

Roran nghĩ: "Họ xứng đáng được hưởng tình trạng hơn thế này nhiều, vì nếu không có họ che chở thì giờ đây mình đã nằm trong tay hai tên Ra'zac rồi".

Nhiều người tiến lại gần Roran, hầu hết chỉ để vỗ vai anh hoặc để nói vài câu khích lệ. Có người mời anh một miếng đồ ăn. Không thể từ chối nổi, anh đành nhận, để rồi lại đem cho người khác. Có những người chỉ đứng xa tròn mắt nhìn Roran với đôi mắt nhợt nhạt. Anh biết họ đã nói gì về mình: Anh là một gã điên, anh bị quỷ thần ám và rằng kể cả Ra zac cũng đã không thể nào hạ nổi anh.

Xuyên qua núi Spine cam go hơn Roran tưởng. Đoàn người đống đúc phải len lỏi qua những lối mòn trong rừng chi chít như bàn cờ, chật hẹp, trơn dốc và khúc khuỷu. Dân làng phải chặt cây, phát bụi. Một công việc vừa vất vả vừa phải vô cùng thận trọng để không lưu lại dấu vết cho quân triều đình có thể lần theo. Tuy nhiên, nhờ vậy sức khoẻ của Roran dần hồi phục, dù trong một vài động tác vết thương trên vai vẫn còn hơi nhói đau.

Một tai hoạ ập đến làm đoàn người thêm tổn thất: mưa giông thình lình kéo đến khi họ đang cố vượt qua một ngọn đồi trọc. Ba người chết cóng trong tuyết, đó là Hida, Brenna và Nesbit, toàn người già yếu. Đêm đó, lần đầu tiên Roran nhận thức một điều: toàn thể dân làng có thể bỏ mạng vì đã theo anh.

Sau đó là vụ một đứa bé trai ngã gãy tay, rồi Southwell chết đuối trên dòng suối đóng băng. Gấu và chó sói giết hại gia súc bất chấp những bếp lửa canh gác mà dân làng đã nhóm ngay sau khi khuất khỏi tầm nhìn từ Palancar và đám lính triều đình. Lại thêm cái đói bám lấy đoàn người như loài ký sinh gặm nhấm bụng mọi người, ngấu nghiến sức lực của họ, làm cạn kiệt ý chí tiếp tục lên đường.

Vậy mà họ vẫn dai dẳng sống; ngoan cường, dũng cảm y như tổ tiên họ từng sống trong thung lũng Palancar: bất chấp nạn đói, chiến tranh và dịch bệnh. Dân làng Carvahall có thể chần chừ suốt một thời gian dài dằng dặc mới đi đến quyết định, nhưng một khi họ đã quyết tâm, không gì có thể cản ngăn họ đi tới cùng.

Bây giờ đã tới sát Narda, một tinh thần hồ hởi tràn trề hy vọng toả khắp trại. Không ai biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng sự thật hiển nhiên là họ đã vượt qua được đoạn đường quá xa, làm tất cả đều tin tưởng.

Roran thầm nhủ: "Chưa ra khỏi đế quốc này, vẫn chưa được an toàn. Chính mình phải đảm bảo làm sao cho dân làng không bị bắt. Mình có trách nhiệm với tất cả mọi người ở đây...".

Đó là một trách nhiệm Roran nhiệt tình nhận lãnh với tất cả con tim, vì trách nhiệm đó vừa là bảo vệ dân làng khỏi bàn tay tàn bạo của Galbatorix, vừa theo đuổi mục đích giải thoát Katrina.

"Nàng bị bắt quá lâu rồi, liệu còn sống sót không?" Roran rùng mình cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí. Nếu cứ ngẫm nghĩ mãi đến thân phận của Katrina, chắc chắn anh sẽ hoá điên lên mất.

Chạng vạng sáng, Roran cùng chú Horst, Baldor, bà lang Gertrude và ba người con trai của ông Loring lên đường vào Narda. Họ xuống núi, lẩn lút dọc lối mòn trước khi ra đường cái. Dưới vùng thấp này, Roran cảm thấy không khí đặc quánh, hơi thở khó khăn như đang chìm trong nước.

Roran nắm chặt cán búa dắt trong thắt lưng khi tiến tới cổng thị trấnh Narda.

Hai tên lính gác mặt mày khó đăm đăm, trợn mắt ngắm nghía nhóm người quần áo tả tơi của Roran, rồi cầm ngang cây rìu, chặn lối vào. Gã đứng bên phải chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, nhưng đầu tóc đã bạc trắng, lên tiếng hỏi:

- Từ đầu tới?

Chú Horst khoanh tay, ưỡn ngực trả lời:

- Loanh quanh trong thành Teirm ấy mà.

- Đến đây làm gì?

- Mua bán. Mấy ông chủ sai tụi này đi mua hàng trực tiếp tại Narda, thay vì cứ phải mua qua tay đám con buôn.

- Vậy sao? Hàng gì?

Chú Horst còn đang ngập ngừng, bà lang Gertrude nói ngay:

- Phần tôi thì mua thảo dược và mấy cây thuốc. Cây thuốc từ đây mang đến chỗ chúng tôi toàn là thứ cằn cỗi, thối mốc không à. Vì vậy mới phải lặn lội đến tận đây để tìm hàng tốt.

Darmmen tiếp:

- Còn anh em mình tới Narda để thương lượng với đám thợ đóng giày. Giày miền bắc đang là thời trang ở Dras-Leona và Uru'baen mà...

Hắn nhăn nhó nói thêm:

- Nhưng là phải do chúng tôi đặt theo mẫu mã kìa.

Chú Horst gật đầu, tự tin trở lại:

- Tớ thì tìm phương tiện vận chuyển hàng sắt thép cho lò rèn của ông chủ.

Tên lính chỉ cây rìu bên sườn Roran:

- Còn thằng này?

Roran bảo:

- Đồ gốm.

- Đồ gốm?

- Thì đã nói rồi đó, đồ gốm.

- Xách búa theo làm gì?

- Thế...anh tưởng lớp men phủ tự nứt ra à? Phải gõ chứ.

Roran nhìn đôi mắt nghi ngờ của gã đầu bạc, như thách hắn trả lời. Tên lính ậm ừ liếc cả bọn rồi nói:

- Trông các người chẳng giống dân buôn bán chút xíu nào, cứ như lũ mèo đói vậy.

Bà lang gật đầu:

- Phải đấy. Tụi này khốn khổ suốt dọc đường mà.

- Từ Teirm tới đây? Ngựa đâu?

- Để lại nơi tụi này cắm trại

Vừa nói Humund vừa chỉ về hướng nam, ngược chiều với nơi dân làng đang trú ẩn.

- Không có xu nào để trọ trong thị trấn chứ gì...

Tên lính lèm bèm, rồi ra hiệu cho gã kia dựng thẳng cây rìu, mở lối cho mọi người:

- Thôi được, qua đi. Khôn hồn, đừng lộn xộn, ấm ớ là bị gô cổ lại, đừng trách.

Vừa qua khỏi cổng, chú Horst kéo Roran vào lề đường, ghé tai cằn nhằn:

- Sao cháu ngốc vậy. Buôn đồ gốm mà lại gõ cho nứt men là cái gì? Muốn đánh nhau với tụi nó sao? Chúng ta không thể...

Bà lang bỗng thì thầm:

- Trông kìa

Bên trái lối vào, một tấm bảng dựng đứng với mái gỗ chem một miếng giấy vàng. Nửa bảng là thông tin cáo thị hành chính; nửa còn lại treo những bức vẽ chân dung đủ loại tội phạm. Trang trọng ngay chính giữa là bức hoạ Roran không có râu.

Giật mình, Roran vội nhìn quanh để biết chắc không có người lạ đứng gần, so sánh anh và bức hoạ, rồi mới chăm chú nhìn lên bảng. Dù vẫn chờ đợi ngày bị quân triều đình truy đuổi, nhưng nhìn chứng cứ này, anh không khỏi bàng hoàng. "Chắc chắn bạo chúa đã tung tin khắp nơi để lùng bắt dân làng và mình. Giờ đây hình ảnh mình chắc được dán khắp nước rồi".

Roran tủm tỉm cười, mừng vì đã không cạo râu và đã đồng ý cùng mọi người dùng tên giả khi ở Narda.

Giá trị tiền thưởng in ngay dưới bức hoạ. Garrow chưa bao giờ dạy Roran và Eragon đọc và viết, nhưng ông đã dạy hai anh em làm toán. Vì như ông nói: "Các con phải biết giá cả món hàng mình có và biết số tiền mình bán được là bao nhiêu, như vậy mới không bị những kẻ bất lương lừa gạt." Vì vậy, Roran mới biết tiền thưởng là mười ngàn crow, đủ sống thoải mái mấy chục năm trời. Một cách ương bướng, số tiền thưởng lại làm anh cảm thấy vui vui, vì bỗng nhiêu Roran trở thành một nhân vật quan trọng đến thế.

Roran liếc sang tấm hoạ kế bên.

Đó chính là Eragon!

Roran tự hỏi. Rồi qua cơn sững sờ, mối căm thù cũ về vai trò của thằng em họ gây ra cảnh cha chết, nhà tan cửa nát lại ngùn ngụt trong anh, cùng mối khát khao bỏng cháy muốn biết: vì sao triều đình lại săn lùng Eragon. "Chắc chắn phải có mối quan hệ giữa hòn đá xanh và việc tụi Ra zac lần đầu tiên tới làng Carvahall".

Một lần nữa Roran lại tự hỏi, anh và dân làng đang vướng mắc vào mưu ma chước quỷ gì đây?

Thay vì con số tiền thưởng, dưới bức họa của Eragon lại là hai dòng chữ cổ. Roran hỏi bà lang Gertrude:

- Nó bị tội gì vậy?

Những vết nhăn quanh mắt hằn sâu khi bà nhíu mày chăm chú đọc:

- Tội phản quốc. Cả hai anh em cháu. Thông cáo đó nói: Galbatorix sẽ ban thưởng tước hầu, tước bá cho ai bắt được Eragon, nhưng cũng cảnh giác kẻ nào làm việc đó phải thận trọng vì Eragon là một tội phạm vô cùng nguy hiểm.

Roran chớp mắt ngỡ ngàng. Thằng nhóc Eragon? Vô cùng nguy hiểm ư? Dường như Roran không thể nào tin nổi cho đến khi anh tự xét lại chính mình. "Mấy tuần vừa qua mình đã thay đổi đến thế nào. Trong huyết quản hai anh em chảy cùng dòng máu. Làm sao biết được, có lẽ từ ngày bỏ nhà ra đi Eragon còn làm nhiều việc động trời hơn cả mình".

Baldor thấp giọng:

- Này, tội giết lính của vua và chống đối lại Ra zac chỉ treo thưởng mười ngàn; tội gì mà treo thưởng cả một cái ghế quan to thế nhỉ?

- Đủ rồi. Giữ mồm giữ miệng một chút, Baldor. Còn Roran, đừng làm mọi người chú ý đến cháu nữa. Với số tiền thưởng đó, người ta sẽ xúm vào mà dòm ngó từng khách lạ để so sánh với bức hoạ. Nào, bây giờ chúng ta đều có việc phải làm. Trở lại đây vào buổi trưa, báo cáo diễn tiến thế nào.

Tất cả chia làm ba nhóm. Ba anh em Darmmen, Larne và Humund cùng nhau đi mua lương thực cho dân làng. Bà Gertrude đi tìm mua thảo dược, thuốc nước và thuốc mỡ. Chú Horst, Roran và Baldor tiến qua con đường dốc để đến cảng, hy vọng sẽ thuê được một con tàu chuyên chở dân làng tới Surda, hay ít ra cũng tới được thành phố Teirm.

Khi tới con đường lát ván trên bãi biển, Roran ngừng lại lom khom nhìn đại dương bao la. Mặt nước xám ngoét dưới bầu trời mây nặng nề xuống thấp. Anh không bao giờ tưởng tượng chân trời lại phẳng phiu đến thế. Tiếng nước vỗ ì ầm vào những cây trụ dưới chân, làm anh cảm thấy như mình đang đứng trên mặt một cái trống khổng lồ. Mùi cá – tươi, ươn, thối rữa - lấn át tất cả những mùi vị khác.

Chú Horst nhìn Roran rồi lại ngó Baldor - cả hai đều đang ngẩn ngơ trước biển.

- Đẹp quá, phải không?

Roran gật đầu:

- Dạ.

- Trước cảnh tượng này, người ta cảm thấy mình thật nhỏ bé, đúng không?

Baldor cũng chỉ biết gật đầu. Chú Horst nói tiếp:

- Cha nhớ lần đầu tiên thấy biển, cha cũng có cảm giác giống như vậy.

Ngoài những con hải âu đang bay liệng trên vịnh, Roran còn chú ý đến một loài chim khác thường đậu rải rác trên những bờ kè. Thân hình chúng xấu xí, vụng về với cái mỏ có sọc lặc lè trước ngực làm chúng giống như một lão già khó tính, tự cao tự đại. Một con bỗng vươn cổ, khoe cái túi da dài thòng lọng dưới mỏ.

Roran hỏi chú Horst:

- Lần đầu tiên chú thấy biển là khi nào?

- Bartram – ông chủ lò rèn - chết năm chú mười lăm tuổi. Mà việc học nghề còn một năm nữa mới hoàn tất, chú phải đi tìm một chủ lò rèn khác sẵn lòng truyền nghề. Vậy là chú tới Ceunon, một thành phố bên bờ biển bắc. Chsu đã gặp Kelton, một ông già khó tính cực kỳ, nhưng lại rất giỏi nghề. Ông ta đồng ý nhận chú...

Horst cười lớn:

- Ông ấy trái tính trái nết tới nỗi, học nghề xong chú không biết nên cám ơn hay...rủa cho ông một trận.

Baldor nói ngay:

- Cám ơn là cái chắc, vì nếu không cha đã không cưới được mẹ con.

Roran lèm bèm khi quan sát bến cảng:

- Chỉ lèo tèo có mấy con tàu...

Hai tàu đánh cá neo cuối cảng, chiếc thứ ba đậu bên kia cảng giữa mấy chiếc thuyền câu bé tí teo. Cặp thuyền đậu về hướng nam, một chiếc với cánh buồm rách tả tơi. Dù không có kinh nghiệm đi biển, nhưng Roran thấy không có thuyền nào đủ sức chuyên chở gần ba trăm dân làng.

Dò hỏi hết thuyền này tới thuyền khác, ba cha con chú cháu được biết các thuyền đều đã có người thuê bao. Chiếc có cánh buồm rách thì phải vài tháng nữa mới sửa chữa xong. Chiếc Waverunner, trang bị buồm da thì sửa soạn lên đường về phương bắc, tới những hòn đảo hắc ám, chuyên trồng cây dầu Seithr. Còn chiếc Albatross, chiếc cuối cùng, thì vừa từ Feinster xa xôi trở về, đang xảm trét lại để kịp chuyên chở hàng len.

Nghe chú Horst hỏi, một công nhân cảng hinh híc cười:

- Các ông đến vừa quá sớm lại vừa quá muộn. Vào mùa xuân như thế này, hầu hết tàu thuyền đến và đi ba tuần trước cả rồi. Một tháng nữa, gió mùa tây bắc bắt đầu mạnh, đám thợ săn hải cẩu trở về, thuyền bè từ Teirm và khắp nước mới đổ về đây mua da, thịt và đầu. Lúc đó các ông mới có thể thuê một thuyền trưởng và một chiếc tàu rảnh rỗi được.

Roran gặng hỏi:

- Không còn cách nào chở hàng từ đây tới Teirm sao? Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu. Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu.

Ông ta chỉ tay về mấy lán trại bằng gỗ bồng bềnh trên mặt nước, tiếp:

- Hắn có mấy xà lan chở ngũ cốc vào mùa thu. Thời gian còn lại trong năm, hắn chỉ câu cá kiếm sống cũng như tất cả mọi người ở Narda. Nhưng...các ông chở hàng gì? Cừu thì đã cắt lông rồi, còn mùa gặt lại chưa tới...

Chú Horst ném cho lão một đồng tiền, ỡm ờ:

- À, tụi này chở...cái này cái kia ấy mà.

Lão bỏ tiền ngay vào túi, nháy mắt:

- Hiểu. Nhìn qua là biết liền. Nhưng đừng lo, lão Ulric này kín miệng như bưng. Hẹn gặp lại các ông.

Lão vừa huýt sáo vừa rảo bước quay đi.

Không tìm thấy Clovis trên cảng, sau khi hỏi thăm, ba người đi khoảng nửa giờ mới tới nhà hắn ở phía cuối thị trấn Narda. Clovis đang trồng mấy củ diên vĩ dọc lối đi trước nhà. Đó là một người đàn ông to béo, mà rám nắng, râu muối tiêu.

Phải mất thêm cả giờ nữa để thuyết phục - bất chấp thời tiết, họ rất muốn được thuê mấy xà-lan của hắn mới làm Clovis đồng ý dẫn ba người tới lán gỗ. Hắn mở khoá, bên trong lán là ba chiếc xà-lan giống nhau, với những cái tên: Marybell, Edeline và Trăn đỏ.

Mỗi chiếc xà-lan dài chừng 22-23 mét, rộng khoảng 6 mét và đều sơn màu đỏ. Các khoang chứa hàng bỏ ngỏ, nhưng có thể phủ bằng vải dầu. Một cột buồm dựng đứng chính giữa, với một cánh buồm hình vuông. Mấy ca-bin nhỏ nằm trên sàn, phía cuối tàu (hay theo Clovis là...đuôi tàu).

Clovis bảo:

- Coi vậy chứ các ông đừng sợ chúng không chịu đựng nổi thời tiết xấu. Tuy nhiên phải cố tránh những cơn giông bão thật sự. Mấy chếc này không thiết kế để ra biển lớn, chỉ có thể di chuyển gần dất liền thôi. Tôi nói thật, thời gian này ra khơi là tệ nhất. Suốt tháng, chiều nào cũng có giông.

Roran hỏi:

- Ông có đủ thuỷ thủ đoàn cho cả ba chiếc chứ?

- Cũng hơi rắc rối đấy. Để coi nào....Hầu hết người của tôi đã đi săn hải cẩu, vì ở đây chẳng còn việc gì làm. Tôi chỉ cần họ sau mùa gặt, nên họ muốn đi đâu thì đi...Chắc quý ông cũng hiểu...

Clovis vừa cười cười vừa nhìn hết Roran tới Baldor, chẳng biết "quý ông" nào thật sự là người đứng ra thuê mướn xà lan của hắn.

Roran bước dọc chiều dài chiếc Edeline quan sát. Tuy cũ kỹ nhưng gỗ còn tốt và nước sơn còn mới. Anh hỏi Clovis:

- Nếu chúng tôi thay thế những người vắng mặt của ông, giá cả ba xà lan này tới Teirm là bao nhiêu?

- Cũng tuỳ. Thuỷ thủ được trả mười lăm xu một ngày, ăn thì thoải mái và...ngoài ra còn thêm tí ti rượu nữa. Tiền bạc tuỳ theo công việc chứ. Thường thì chúng tôi mướn bảo vệ đi theo, nhưng họ đã...

Họ cũng đã đi săn hải cẩu. Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ cung cấp bảo vệ cho ông.

- Vậy thì...quá tốt. Tôi chỉ tính hai trăm đồng crown cộng với khoản bồi thường thiệt hại những hư hỏng nếu người của các ông gây ra. Phần tôi - vừa là chủ vừa là thuyền trưởng sẽ hưởng hai phần trăm trên lợi nhuận món hàng của các ông.

- Chuyến đi này chúng tôi không có lợi nhuận gì hết

Câu hỏi của Roran có vẻ làm Clovis ngán ngẩm nhất. Hắn rờ cằm, lắp bắp mãi mới nói ra lời:

- Nếu vậy thì...phải thêm bốn trăm nữa là...trọn gói. Tôi...mạn phép hỏi, qúy ông vận chuyển thứ gì vậy?

"Mình làm hắn hoảng mất rồi", nghĩ vậy, Roran nói:

- Gia súc.

- Trừu, dê, bò hay ngựa?

- Đủ cả

- Chuyển tới Teirm làm gì?

- Chúng tôi có lý do riêng. Ông có định qua khỏi Teirm không?

- Ồ không đâu. Teirm là giới hạn cuối cùng. Xa hơn nữa, tôi mù tịt, không thuộc con nước. Vả lại tôi không muốn xa vợ con lâu.

- Bao giờ ông sẵn sàng lên đường?

- Có thể năm hoặc sáu hôm nữa. Không, không, phải một tuần nữa mới đi được, vì tôi có nhiều vịêc phải làm trước lúc lên đường.

- Tôi trả thêm mười đồng để khởi hành ngay ngày mai, được chứ?

- Tôi không...

- Mười hai.

- Ngày mốt đi. Tôi sẽ cố thu xếp.

Roran gật đầu, không nhìn Clovis, nói:

- Cho tôi một phút bàn bạc với người của tôi được chứ?

- Vâng, xin ông tự nhiên. Tôi đi loanh quanh một chút chờ các ông bàn tính.

Chưa ra tới cửa lán, hắn quay lại hỏi:

- Xin lỗi, đầu óc tôi lú lẫn quá, tên ông là gì nhỉ?

- Tên tôi là Cây-búa Dũng-mãnh.

- Tên hay đấy. Thật mà.

Cánh cửa khép lại, cha con chú Horst xúm lại Roran. Baldor hấp tấp nói:

- Chúng ta không thể mướn hắn được.

- Chúng ta không thể mướn hắn thì đúng hơn. Không có vàng để mua xà-lan, không biết lái tàu, trong khi sinh mạng của mọi người tuỳ thuộc vào chuyện đó. Mướn xà-lan vừa nhanh hơn vừa an toàn hơn.

Chú Horst bảo:

- Nhưng đắt quá.

Roran gõ tay lên thành xà-lan:

- Chúng ta đặt cọc hai trăm trước. Ngay khi tới Teirm, tôi đề nghị, chúng ta trộm xà-lan, áp dụng những gì học hỏi được trên chuyến đi, hoặc vô hiệu hoá Clovis và người của hắn, cho tới khi chúng ta có thể chuồn qua một phương tiện khác. Bằng cách đó, chúng ta không phải trả thêm bốn trăm nữa.

- Làm một công việc đàng hoàng mà lại đi lừa người khác như vậy, không hợp với bản tính chú.

- Cháu cũng đâu muốn vậy. Nhưng chú thử nghĩ coi, còn cách nào khác nữa đâu?

- Đưa mọi người xuống xà-lan bằng cách nào?

- Để họ đón Clovis dưới bãi, khuất tầm mắt nhìn từ Narda khoảng một dặm.

Chú Horst thở dài:

- Thôi được rồi, đành làm theo cách đó, nhưng chú vẫn cứ cảm thấy chua xót quá. Baldor, gọi Clovis vào đây, thu xếp cho xong.

******

Chiều hôm đó, dân làng tụ tập quanh đống lửa, nghe những gì đã diễn ra tại Narda. Roran quỳ gối, đăm đăm nhìn ánh than hồng, lắng nghe bà lang Getrude và ba người con trai oong Loring kể lại những chuyện họ thấy sau khi tách riêng nhóm. Vụ hình ảnh của Roran và Eragon làm mọi người rì rầm bàn tán.

Sau khi Darmmen dứt lời, chú Horst tóm tắt ngắn gọn về việc Narda đang khan hiếm tàu bè, việc người công nhân già giới thiệu Clovis và việc ngã giá với hắn ta. Nhưng ngay sau khi Horst vừa bật ra cầu "xà-lan", dân làng rầm rầm phản đối.

Loring tiến ra trước đám đông, đưa cao hai tay:

- Xà-lan? Chúng tôi không đời nào leo lên phương tiện ghê tởm đó đâu.

Nói xong ông nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất. Dân làng rào rào tán thành.

Delmin vội lên tiếng:

- Im lặng. Muốn chết cả đám hay sao mà la lối ầm lên như vậy? Tôi đồng ý với Loring. Không thể chấp nhận đi bằng xà-lan được. Vừa chậm chạp vừa rất dễ bị tấn công. Hơn nữa, nhồi nhét nhau lên xà-lan trong chuyến đi chẳng biết bao lâu mới tới là không thể được. Horst, nên nhớ là Elain đang mang bầu sáu tháng, không thể để chị ấy và những người già cả, đau yếu phơi nắng trong suốt mấy tuần lễ.

Horst trả lời:

- Chúng ta có thể che nắp khoang bằng vải nhựa. Không thoải mái lắm, nhưng cũng tránh được mưa nắng phần nào.

Brigit lên tiếng, tất cả ngừng cả bàn tán, nhường chỗ cho chị tiến đến trước đống lửa:

- Tôi lại quan tâm đến chuyện khác. Với hai trăm sẽ đưa Clovis và số tiền anh em Darmmen đã chi tiêu lương thực và vật dụng khác, chúng ta đâu còn bao nhiêu? Không như dân thành phố, tài sản của chúng ta không nằm trong vàng hay tiền mặt, mà là đất đai và gai súc. Đất không còn nữa, gia súc chỉ còn lại mấy con. Cho dù chúng ta trở thành hải tặc, cướp mấy chiếc xà-lan kia, lấy gì mua lương thực tại Teirm để tiếp tục lên đường đi xa hơn về miền nam?

Horst sôi nổi nói:

- Điều quan trọng là hãy tới Teirm trước đã, sau đó hãy lo chuyện khác. Phải chọn lựa phương án nghiêm trọng nhất chứ.

Bộ mặt gầy gò của Loring nhăn nhúm lại:

- Nghiêm trọng? Anh nghĩ thế nào mới là nghiêm trọng. Toàn thể cuộc phiêu lưu này không đủ là nghiêm trọng sao? Thây kệ anh nói gì thì nói, tôi nhất định không leo lên mấy cái xà-lan chết tiệt đó. Khốn khổ vượt qua được Spine để leo lên xà-lan à. Xà-lan chỉ dành cho ngũ cốc và trâu bò thôi. Điều chúng tôi mong muốn là một con tàu có phòng ốc, có giường tầng để được ngủ nghỉ cho thoải mái. Sao không đợi thêm ít tuần nữa, có thể có tàu cặp bến để chúng ta thuê? Tại sao không....

Lão tiếp tục suốt mười lăm phút, đưa ra cả trăm lý do để phản đối, trước khi để cho Thane và Ridley lên tiếng bàn cãi.

Sau đó, khi mọi tranh luận tạm lắng xuống, Roran duỗi thẳng chân đứng dậy. Tất cả dân làng nín lặng chờ đợi, hy vọng anh đưa ra những lời lẽ sâu sắc khác. Nhưng Roran chỉ buông mấy câu gọn lỏn:

- Xà-lan hoặc cuốc bộ. Tùy ý...

Rồi anh quay vào lều ngủ.
 
Chương 46: Búa lại vung lên


Trăng lên cao khi Roran rời lều ngủ chung cùng Baldor, ra thay phiên gác cho Albriech.

- Yên tĩnh, không có gì.

Albriech thì thầm rồi quay vào. Roran mắc dây nỏ, cắm ba mũi tên lông ngỗng xuống mặt đất, cuốn mền, ngồi dựa lưng vào tảng đá. Vị thế này cho anh một tầm nhìn khá tốt xuống dưới và qua những núi đồi chìm trong bóng tối.

Theo thói quen, Roran chia khung cảnh làm bốn phần, quan sát kỹ lưỡng từng phần, luôn cảnh giác từng dấu hiệu chuyển động hay một đốm sáng khả nghi, để kịp phát hiện nếu kẻ thù đang tiến tới. Nhưng chỉ được một lúc, tâm trí Roran lại vẩn vơ từ chuyện này sang chuyện khác với những giấc mơ chập chờn. Anh cắn hai má trong để tập trung vào nhiệm vụ canh phòng. Thời tiết êm dịu thế này, thật khó mà tỉnh táo nổi. Nhưng anh cũng mừng vì tránh được ca gác trước rạng đông, vì sau đó rất khó ngủ lại, sẽ bải hoải suốt cả ngày.

Một cơn gió bỗng thoảng qua làm hai tai anh nhột nhạt và da cổ nổi gai ốc, như báo hiệu một điềm chẳng lành. Cảm giác đó làm Roran hốt hoảng, không còn nghĩ đến điều gì khác, ngoài chuyện tin chắc anh và toàn thể dân làng đang gặp nguy hiểm. Toàn thân chấn động như lên cơn sốt, cố kềm mình không đứng bật lên, bỏ chạy. Thậm chí phải ráng sức, Roran mới nhổ được một mũi tên.

"MÌnh làm sao thế này", Roran tự hỏi.

Từ hướng đông, một bóng đen tách khỏi chân trời. Hình dạng vật đó như một khoảng không đen ngòm giữa các vì sao, bồng bềnh như một tấm mạng rách trôi qua bầu trời cho đến khi nó che phủ mặt trăng. Nhờ ánh trăng phía sau, Roran có thể thấy những màng cánh trong mờ của một con vật Ra zac từng cưỡi.

Con quái đen thui há mỏ, phát ra một tiếng rít lanh lảnh kéo dài. Roran đau đớn nhăn mặt. Tiếng rít như đâm qua màng nhĩ, làm máu anh như đóng băng, nó làm bao niềm vui, hy vọng thoắt trở thành tuyệt vọng. Tiếng tru tréo đó làm cả khu rừng thức giấc. Chim muông dã thú hàng dặm chung quanh bật lên những tiếng rên rỉ đau đớn. Roran lo lắng không biết bầy gia súc còn lại của dân làng sẽ sao đây.

Lẩn lút qua những gốc cây, Roran trở lại nơi cắm trại, thì thầm với những người anh gặp:

- Tụi Ra zac đó. Im lặng ở yên tại chỗ.

Toán gác khác cũng đang len lỏi giữa những người dân đang hoảng hốt căn dặn như Roran.

Fisk cầm cây giáo, nhào ra từ trong lều, la lớn:

- Mình bị tấn công à?

Roran xô gã thợ mộc, hai người cùng lăn đùng xuống đất làm vai anh đau nhói. Anh rít nho nhỏ vào tai hắn:

- Im. Razac đó.

Fisk đờ người, thì thào:

- Làm gì bây giờ?

- Giúp tôi làm bầy gia súc bớt hoảng đi.

Cả hai băng qua trại, tới bãi cỏ thả dê, trừu, lừa, ngựa. Các nông dân chủ bầy gia súc cũng đã thức dậy và đang vỗ về chúng.

Roran mừng vì anh đã lo xa, cương quyết bắt họ thả gia súc rải rác ngoài rìa bãi cỏ, nơi cây cối rậm rạp có thể ngụy trang, che phủ chúng.

Vừa vỗ về một con trừu, Roran vừa ngước nhìn bóng đen khủng khiếp vẫn còn đang che phủ mặt trăng như một con dơi khổng lồ.

Bóng đen bỗng bắt dầu di chuyển về hướng dân làng đang ẩn núp. Roran khiếp đảm nghĩ: "Nếu con quái đó lại tru lên, chúng ta sẽ chết mất."

Khi Ra'zac lượn vòng trên đầu, bầy gia súc im thin thít, nhưng một con lừa chợt lồng lộn hí vang. Không chút ngập ngừng, Roran quỳ một gối, gắn tên, bắn mũi tên xuyên qua giữa mạng sườn con vật. Con lừa đổ vật xuống, không một tiếng kêu.

Nhưng đã quá muộn. Tiếng lừa hí đã làm Ra'zac chú ý. Quái vật quay đầu, chuyển hướng về phía bãi cỏ. Há hốc mỏ, mùi hôi thối thốc tới trước, rồi nó xòe móng từ từ hạ xuống...

"Giờ là lúc ta thử xem có diệt nổi cơn ác mộng này không". Roran thầm nhủ, trong khi đó bên anh, Fisk thu mình trong khóm cỏ, nâng cây giáo, sẵn sàng phóng tới khi nhắm đúng tầm.

Roran vừa giương nỏ, bỗng tiếng huyên náo trong rừng làm anh dừng lại.

Bầy đoàn nai ào ạt phóng qua những bụi cỏ, bất chấp dân làng và gia dúc, chúng hoảng hốt tìm đường chạy trốn. Gần một phút bầy nai chen chúc vượt qua Roran, móng vuốt cày nát mặt đất và những đôi mắt chúng rực sáng dưới ánh trăng. Chúng chạy sat bên, đến nỗi Roran nghe rõ từng hơi thở hồng hộc của chúng.

Chắc chắn bầy nai đông đúc đã cứu dân làng, vì chỉ lượn thêm một vòng trên bãi cỏ, quái vật có cánh quay về phương nam, là là chìm xuống núi Spine, tan vào bóng tối.

Roran và các bạn sững sờ tại chỗ, như mấy con thỏ bị săn đuổi, nơm nớp sợ sự Ra'zac bỏ đi chỉ là một mưu mẹo hòng lùa họ ra khoảng trống, hoặc hai con quái sinh đôi sẽ bất ngờ xuất hiện phía sauHọ chờ đợi suốt hai tiếng, căng thẳng lo âu, chỉ dám nhúc nhích khi kéo sợi dây nỏ.

Khi trăng sắp lặn, tiếng tru tréo lạnh xương của Ra'zac vọng từ xa xa tới... rồi không gian hoàn toàn tĩnh lặng.

Thức dậy vào buổi sáng hôm sau, Roran thầm nhủ: "Chúng ta đã gặp may, nhưng không thể dựa vào may mắn để thoát chết lần sau được nữa."

Sau sự xuất hiện của Ra'zac, dân làng không còn phản đối việc ra đi bằng xà-lan nữa. Trái lại, họ nóng ruột muốn đi ngay thay vì phải đợi tới ngày mai. Roran bảo:

- Tôi cũng rất muốn vậy, nhưng chúng ta còn nhiều việc phải làm.

Anh cùng chú Horst và một toán đàn ông knữa lội bộ vào tận Narda ăn sáng. Biết rằng đi cùng họ là rất liều lĩnh, nhưng nhiệm vụ của họ rất quan trọng, ngoài ra anh tin diện mạo của mình hiện nay khác xa với hình vẽ, không ai có thể nhận ra.

Họ không gặp khó khăn khi qua cổng, vì bọn lính gác đã thay thế toán hôm qua. Roran lập tức hướng dẫn mọi người ra bến cảng và trao hai trăm cho Clovis.

Đang bận rộn giám sát nhóm người làm sửa soạn cho xà-lan sẵn sàng ra khơi, Clovis thắt chặt túi tiền vào thắt lưng bảo Roran:

- Cám ơn Cây-búa Dũng-mãnh. Không gì sướng hơn bắt đầu một ngày mới bằng những đồng tiền vàng sáng ngời như thế này.

Đưa tất cả đến bàn làm việc, Clovis trải tấm hải đồ quanh vùng Narda (đầy đủ ghi chú về những đoạn nước chảy xiết, đá ngầm, ụ cát...), kéo một đường bằng ngón tay từ Narda tới một vịnh nhỏ về hướng nam, hắn nói:

- Chúng ta sẽ đón gia súc tại đây. Mùa này thủy triều rất dễ chịu, tuy vậy vẫn phải phòng xa, tốt nhất là lên đường ngay khi thủy triều vừa lên cao.

Roran hỏi:

- Sao không chờ thủy triều xuống, nước kéo xà-lan ra, có phải dễ hơn không?

- A, đúng vậy. Nhưng phải cần thêm rất nhiều người. Điều tôi ngại nhất là, nước ào vào rút ra, quăng quật người của chúng ta khi vận chuyển đàn gia súc lên tàu.

Roran gật đầu, tin tưởng vào kinh nghiệm của Clovis:

- Ông cần bao nhiêu người để bổ sung thủy thủ đoàn?

- Tôi đã ráng kiếm bảy chàng trai khỏe mạnh, thật thà, thạo nghề đi biển và đồng ý ra khơi chuyến này. Đám người còn lại say xỉn không ngóc đầu lên nổi, chúng nốc rượu hết ráo tiền chuyến đi vừa qua. Vậy là tôi chỉ có được bảy, còn cần thêm bốn nữa.

- Người của tôi chưa thạo đi biển, nhưng đều khỏe mạnh và ham học hỏi lắm.

- Thôi cũng được, dù sao tôi vẫn thường cho mấy cậu mới vào nghề đi theo. Tuy nhiên chúng phải biết vâng lời, nếu không, công việc lộn bậy lên hết ráo. Còn chuyện bảo vệ, tôi muốn có chín người. Mỗi xà-lan ba người. Phải là những người gan dạ...

Roran cười cười:

- Những người đi cùng tôi, từng chứng tỏ khả năng lâm trận nhiều lần rồi.

- Và đều được quý ông tin tưởng chứ, Cây-búa Dũng-mãnh?

Vừa nói Clovis vừa gãi cằm ngắm nghía Gedric, Delwin và mấy người mới đi cùng Roran:

- Bao nhiêu người đi cùng ông?

- Cũng... vừa đủ thôi.

- Vừa đủ, tôi đoán ông sẽ nói vậy. Nhưng đừng bận tâm, chỉ hỏi vậy thôi mà. Cha tôi thường bảo tôi là đưa hay mau mồm mau miệng tào lao. Torso, người bạn nghề thân cận nhất của tôi, đang đi mua sắm cho chuyến đi. Ông có lương thực cho gia súc rồi chứ?

- Chúng tôi đã lo trang bị đầy đủ tất cả.

- Vậy chì chuyển bầy gia súc tới sớm đi, chúng tôi sẽ cho chúng xuống khoang hầm ngay khi dựng buồm.

Suốt ngày hôm đó nhóm của Roran chuyển những món mấy con trai ông Loring đã mua vào lán trại. Nhìn Roran chuyển bao bột mì xuống khoang hầm của chiếc Edeline, Clovis thắc mắc:

- Toàn những thứ không phải là thức ăn gia súc?

- Không, nhưng là những thứ chúng tôi cần.

Thùng đồ cuối cùng được chuểyn xong, Clovis nói với Roran:

- Quý ông đi được rồi, tôi và mấy chàng trai kia lo phần còn lại, nhưng phải nhớ có mặt, cùng với mấy anh chàng quý ông đã hứa, tại bến ba tiếng sau tảng sáng, nếu không sẽ không kịp thủy triều đâu.

- Yên tâm, chúng tôi sẽ đúng hẹn.

Trở vào núi, Roran giúp thím Elain và mọi người sửa soạn khởi hành. Tất cả đã quen nhổ trại mỗi sáng nên công việc rất mau lẹ. Sau đó anh chọn mười hai người đàn ông để đưa đến Narda ngày hôm sau. Trai tráng trong làng đều là những chiến sĩ dũng cảm, nhưng Roran yêu cầu những người có khả năng nhất, như chú Horst và Delwin, sát cánh cùng dân làng, phòng xa bị lính triều đính phát hiện hay Ra'zac trở lại.

Ngay khi đêm xuống, hai toán rục rịch lên đường. Thu mình trên một tảng đá, Roran nhìn chú Horst hướng dẫn đoàn người xuống núi, tiến về vịnh nhỏ để chờ xà-lan.

Orval leo lên tảng đá, khoanh tay hỏi Roran, giọng đầy lo lắng:

- Anh tin họ được an toàn không?

Dù cũng đang lo ngại, Roran nói:

- Mình tin. Cá với cậu một thùng rượu, ngày mai tàu cặp bờ họ vẫn còn đang ngủ ngon lành. Cậu sẽ được có niềm vui đánh thức Nolla dậy. Sướng nhé.

Nghe nhắc đến tên vợ, Orval toe toét cười, vẻ yên tâm.

"Hy vọng mình đúng." Im lìm trên tảng đá, Roran lặng lẽ như một bức tượng, trông theo hàng người dần khuất khỏi tầm nhìn.

Thức dậy trước khi mặt trời mọc, ánh sáng còn nhợt nhạt và không khí ẩm ướt của đêm làm mấy ngón tay tê cóng, Roran vỗ nước lên mặt, rồi sửa soạn cung tên, cây búa bất ly thân cuàng tấm khiên của Fisk và cây giáo của chú Horst. Mười hai người kia còn đem theo mấy thanh kiếm chiến lợi phẩm trong cuộc đụng độ với lính triều đình tại làng Carvahall.

Mười ba người đều cố chạy xuống sườn núi gồ ghề, ra đường cái Narda, phóng vội đến cổng thị trấn.

Roran sững người khi thấy hai tên lính gác hôm đầu tiên lại ngả ngang cán rìu chặn lối vào. Tên đầu bạc quan sát nhóm người của Roran, rồi lom lom nhìn anh:

- Lần này còn đông hơn, mà ngoài mày ra, lại toàn mặt lạ. Chắc mày mong tao tin những khiên giáo kia dùng để gõ đồ gốm đấy nhỉ?

- Không. Chúng tôi được Clovis thuê làm bảo vệ xà-lan tới thành Teirm.

Tên lính gác cười hô hố:

- Chúng mày làm lính đánh thuê à? Tao nhớ mày bảo là dân buôn bán mà.

- Chuyển qua nghề này tốt tiền hơn.

- Nói láo. Tao cũng đã từng thử thời vẫn đó rồi, đói chết mồ luôn. Nào, tóm lại, nhóm "con buôn" chúng mày có bao nhiêu thằng? Hôm qua bảy, hôm nay mười hai. À, kể cả mày là mười ba chứ. Các chủ hàng... hơi bị nhiều nhân công đấy nhỉ?

Hắn lim dim mắt ngắm nghía Roran:

- Trông mày quen quen. Ê, tên gì?

- Cây-búa Dũng-mãnh.

- Chẳng lẽ là thằng Roran, nếu...

Roran thúc ngọn giáo ngay yết hầu tên lính gác. Máu ộc ra như suối. Thu hồi mũi giáo, Roran vừa nâng khiên đỡ cây rìu của tên lính thứ hai, vừa xoay người rút búa choảng mạnh xuống đầu hắn. Chiếc mũ sắt tan tành.

Dứng giữa hai cái xác, Roran thở hào hển nghĩ: "Ôi, vậy là mình đã giết mười mạng người rồi!"

Orval và mười một người kia bàng hoàng nhìn Roran. Không chịu đựng nổi ánh mắt họ, chỉ đường cống ngầm dưới lòng đường, anh cộc cằn ra lệnh:

- Giấu mấy cái xác ngay, đừng để có người nhìn thấy.

Trong khi họ làm theo lời anh, Roran lên tường phòng hộ nhìn xuống. Rất may, lúc đó không một bóng người. Cúi xuống, Roran rút ngọn giáo, chùi sạch máu lên bụi cỏ.

Mandel chiu lên, dù râu ria che khuất vẫn thấy rõ mặt chàng thanh niên xanh lè khi nói:

- Xong.

Roran gật đầu, lạnh lùng nhìn tất cả:

- Nghe đây. Chúng ta rảo bước tới bến, nhưng phải rất thận trọng. Đừng chạy. Nghe từng động tĩnh, nhưng không được hoảng hốt. Đừng có hành động nào gây nghi ngờ. Mạng sống của gia đình, bạn bè các anh tùy thuộc vào điều đó. Nếu bị tấn công, nhiệm vụ duy nhất của các anh là nhìn xà-lan ra khơi. Không còn vấn đề nào khác nữa. Rõ cả chứ?

Tất cả đều lên tiếng:

- Rõ.

- Vậy thì theo tôi.

Khi băng qua thị trấn, Roran cảm giác toàn thân căng thẳng như sắp vỡ tung thành từng mảnh. Nhìn từ đàn ông tới đàn bà, từ con chó tới đứa trẻ con, cố gắng phát hiện ra những biểu hiện của kẻ thù. Tất cả những gì chung quanh dường như sáng lên một cách bất thường, nổi rõ từng chi tiết; dường như anh có thể nhìn thấu từng đường kim mũi chỉ trên quần áo mọi người.

Nhưng rồi họ yên ổn tới cảng, Clovis vui vẻ nói:

- Tới sớm vậy, Cây-búa? Nhưng tôi rất khoái những người như vậy, chúng ta càng có nhiều thời gian thu xếp trước lúc khởi hành.

- Đi ngay bây giờ được chưa?

- Phải chờ nước lên cao hẳn đã...

Nhìn khắp lượt mười ba người, Clovis thắc mắc:

- Chuyện gì vậy? Trông các vị như vừa gặp hồn ma của Galbatorix vậy?

- Ôi, chỉ vài giờ hít thở không khí biển thì chuyện gì cũng ổn cả thôi mà.

Roran cố gượng cười nói qua loa cho anh chủ xà-lan yên lòng.

Clovis huýt sáo gọi hai thủy thủ từ xà-lan lên. Cả hai da rám nắng, nâu sậm như vỏ hạt dẻ. Chỉ anh chàng đứng bên phải với hình xăm trên vai là một con rồng, Clovis giới thiêuK

- Đây là Torson, phụ tá của tôi. Cậu ấy quản lý chiếc Merrybell. Còn anh chàng đen nhỏm này là Flint, trông nom chiếc Edeline. Trong thời gian mọi người ở trên tàu, lời nói của hai cậu này là lệnh, cũng như tôi trên chiếc Trăn Đỏ. Các người phải theo lệnh tôi, chứ không phải Cây-búa... Nào, rõ cả chưa?

- Rõ.

- Ai trực thuộc quyền tôi, ai thuộc quyền hai bạn nghề của tôi đây?

Bất chấp Clovis đã cảnh báo hắn là chỉ huy, không phải Roran, mấy anh trai làng vẫn cứ nhìn Roran đợi lệnh. Anh gật đầu, họ mới phân làm hai nhóm. Clovis chia họ thành ba nhóm nhỏ, phân phối lên mỗi xà-lan.

Suốt nửa tiếng sau đó Roran cùng các thủy thủ mới xong công việc trên chiếc Trăn Đỏ. Vừa nhìn mực nước mấp mé kè đá, anh vừa suy tính: "Cứ nấn ná ở đây, không bị giết cũng bị bắt mất thôi."

Trừng trừng nhìn Clovis đang bóp trán, Roran mới rút cây búa được nửa chừng, hắn bỗng nhướng mày nhìn anh nói:

- Cây-búa, tôi đã quan sát anh, và tôi thắc mắc gì sao anh chiếm được sự nể trọng của họ. Tôi không nhớ xuể đã phục vụ bao nhiêu đời thuyền trưởng, nhưng chưa ai làm người khác phải tuân lệnh mà không phải đưa lên một ngón tay như anh.

Roran phì cười:

- Tôi giải đáp thắc mắc của ông ngay đây: tôi cứu họ khỏi cảnh nô lệ và khỏi bị ăn tươi nuốt sống.

Clovis trơn tròn hai mắt:

- Hả? Tôi rất muốn được nghe chuyện này.

- Ông không nên biết thì hơn.

- Phải, có lẽ đúng vậy. Mỗi người có một hướng đi riêng. A, con gái bé nhỏ của tôi tới rồi kìa. Lúc nào cũng đúng giờ răm rắp.

Nói xong người đàn ông vạm vỡ nhảy phóc lên cầu tàu, chạy lên bến, ôm chặt một bé gái tóc đen chừng mười ba tuổi và người đàn bà, chắc là mẹ cô bé. Clovis vò tóc con gái, bảo:

- Con sẽ ngoan ngoãn khi cha vắng nhà, phải không nào, Galina?

Nhìn Clovis tạm biệt vợ con, Roran chợt nghĩ đến cái chết của hai người lính gác: "Chắc họ cũng có gia đình. Có vợ con để thương yêu, có một mái ấm để trở về mỗi ngày...". Miệng đắng chát, anh phải quay đi, nhìn mực nước lên, cô stránh cơn buồn nôn.

Những người trên xà-lan mặt đầy vẻ lo âu. Sợ họ mất tinh thần, Roran lăng xăng đi lại trên boong, ra vẻ chăm chú tính toán như anh đang rất bình tĩnh.

Sau cùng, Clovis nhảy lên Trăn Đỏ, kêu lớn:

- Nhổ neo, các bạn ơi, nước cao rồi.

Cầu tàu được kéo lên, tháo dây neo và cả ba cánh buồm căng phồng trong gió.

Phía sau, mẹ con Galina đứng nhìn theo, nghiêm trang lặng lẽ.

Clovis vỗ vai Roran:

- Cây-búa, chúng ta may mắn rồi, hôm nay có chút gió, không phải chèo trước khi thủy triều thay đổi.

Khi Trăn Đỏ ra tới giữa vịnh, chừng mười phút nữa mới tới vùng biển tự do, điều lo sợ của Roran đã xảy ra: tiếng chuông, tiếng kèn từ những tòa nhà đá lan tỏa trên mặt nước. Anh vội hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Clovis nhìu mày nhìn về thị trấn:

- Không biết. Chắc là một đám cháy, nhưng sao không thấy khói. Hay họ phát hiện có Urgal trong vùng...

Hắn lo lắng hỏi Roran:

- Trên đường đi sáng nay có bị ai dòm ngó không?

Roran chỉ biết lắc đầu, vì chính anh cũng không biết chắc điều đó.

Từ chiếc Edeline chạy song song, Flint gào qua:

- Mình quay lại chứ, ông chủ?

Roran nắm chặt thành tàu, sẵn sàng năn nỉ, nhưng lại tỏ ra quá lo âu. Ngay lúc dó Clovis đã hướng qua Flint gào lại:

- Không. Lỡ con nước mất.

- Được thôi, thưa ông. Nhưng tôi dám hy sinh một ngày lương để biết chuyện gì mà om sòm dữ vậy.

Clovis lèm bèm:

- Tao cũng đang sốt cả ruột lên đây.

Khi nh cửa đã khuất dạng phía sau, Roran lại cuối tàu, ngồi ôm gối, dựa lưng vào ca-bin. Anh nhìn bầu trời xanh thăm thẳm rồi nhìn vật nước chiếc Trăn Đỏ lướt qua với những dải rong biển lất lây trong làn sóng. Xà-lan lắc lư như một chiếc nôi làm anh cảm thấy như được vỗ về an ủi. "Một ngày tuyệt đẹp" Roran thầm nhủ, khoan khoái vì được có mặt tại đây để thưởng thức cảnh quan này.

Qua khỏi vịnh nhỏ, Roran thoải mái leo thang lên buồng lái, sau ca-bin. Clovis đang điều khiển bánh lái, vui vẻ nói:

- Chuyến nào ngày đầu tiên cũng đầy phấn khởi, mấy hôm nữa mới chán ngấy đồ ăn mang theo và bắt đầu nhớ nhà.

Chủ tâm học hỏi những điều cần thiết về cách điều hành xà-lan, Roran hỏi Clovis tên và nhiệm vụ của những vật dụng trên tàu. Clovis nhiệt tình giảng giải từ cách vận hành, từ nghệ thuật lèo lái xà-lan tới các loại tàu bè. Hai tiếng sau, hẳn chỉ một bán đảo nhỏ hẹp phía trước, bảo:

- Qua khỏi đó là tới vịnh.

Roran vươn người nhìn, nóng lòng muốn biết tình trạng của dân làng.

Khi chiếc Trăn Đỏ vòng qua một mũi đá, bãi cát trắng hiện ra cùng những người tị nạn từ thung lũng Palancar. Đám đông hoan hô, reo hò, vẫy tay rối rít khi chiếc xà-lan xuất hiện từ sau mũi đá.

Đứng bên Roran, Clovis lèm bèm rủa, rồi bảo:

- Cây-búa, ngay từ lúc mới gặp anh, tôi đã thấy chuyện bất thường. Hừ, gia súc, vật nuôi của anh đó hả? Anh cư xử như tôi là một thằng ngu.

- Ông hiểu lầm rồi, tôi đâu có dối gạt ông. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo cho những con người này, vì vậy...

- Vì vậy... anh gọi họ là gì thây kệ, nhưng tôii không đồng ý chở người tới Teirm. Sao anh không nói thật từ đầu? Dù chuyến đi này của anh là gì, thì sau cùng cũng chỉ là rắc rối. Rắc rôi cho anh và cho cả chính tôi. Tôi sẽ quẳng các anh khỏi tàu và trở lại Narda.

- Nhưng... ông sẽ không làm vậy đâu.

- Hả? Sao tôi lại không dám làm chứ?

- Vì tôi cần mấy xà-lan này. Bằng mọi cách tôi phải giữ chúng. Mọi cách, ông Clovis ạ. Tôn trọng sự thương lượng giữa chúng ta, chuyến đi sẽ an toàn và ông sẽ trở về với con gái Galina của ông. Nếu không...

Roran không có ý định giết Clovis, dù là trong trường hợp bắt buộc, anh sẽ thả ông ta xuống một bãi biển nào đó thôi.

Mặt Clovis đỏ bừng, nhưng Roran ngạc nhiên khi ông ta chỉ lẩm bẩm:

- Tôi hiểu rồi...

Roran yên tâm, hướng mắt lên bãi cát. Ngay lúc đó, phía sau anh vang lên một tiếng "soạt".

Phản ứng theo bản năng, Roran hụp mình, xoay người đưa tấm khiên lên che đầu. Cánh tay anh rung lên khi một cái xiên đâm thủng tấm khiên.

Roran hạ thấp tấm khiên, trừng trừng nhìn Clovis đang hốt hoảng giật lùi:

- Ông không hạ nổi tôi đâu, Clovis. Tôi hỏi lại: ông có tôn trọng hợp đồng không? Nếu không, tôi sẽ đưa ông lên bờ, rồi tự chỉ huy và bắt người của ông phải phục vụ tôi. Thật tình tôi không muốn hủy hoại phương tiên kiếm sống của ông đâu, nhưng nếu bị ông thúc ép, tôi sẽ làm... Nào, nghĩ kỹ đi. Nếu ông giúp đỡ chúng tôi, thì đây chỉ là một chuyến đi bình thường, có gì đâu. Hãy nhớ là ông đã được trả tiền rồi.

- Nếu tôi đồng ý, anh phải đàng hoàng cho tôi biết: vì sao phải phỉnh gạt tôi như thế này? Những người kia từ đâu đến? Để làm gì? Dù anh trả tôi bao nhiêu vàng, tôi cương quyết không làm trái với nguyên tắc của mình. Các anh là thảo khấu? Hay tay sai của bạo chúa?

- Tôi e, càng biết nhiều ông càng bị nguy hiểm hơn.

- Nhất định tôi phải biết.

- Ông có nghe nói đến làng Carvahall ở thung lũng Palancar không?

- Có vài lần. Thì sao?

- Ông đang thấy dân làng đó trên bãi cát kia. Quân lính của Galbatorix đã tấn công chúng tôi một cách vô cớ. Chúng tôi chống trả, khi không còn tự bảo vệ nổi nữa, chúng tôi phải xuyên qua núi Spine, dọc theo bờ biển để tới Narda. Galbatorix đã thề sẽ giết toàn bộ già trẻ lớn bé dân làng, hoặc bắt làm nô lệ hết. Tới Surda, đó là niềm hy vọng sống còn duy nhất của chúng tôi.

Roran không nhắc tới Ra'zac, vì không muốn làm Clovis quá khiếp đảm.

Bộ mặt rám nắng của ông chủ tàu tái nhợt:

- Các anh đang bị truy đuổi?

- À... nhưng triều đình chưa phát hiện ra chúng tôi.

- Vậy là chính vì các anh mà trống kén đã báo động rầm rĩ lên như thế?

Rất nhỏ nhẹ, Roran nói:

- Tôi đành phải giết hai lính gác đã nhận diện ra mình.

Clovis giật mình lùi lại, trợn mắt, tay nắm chặt tới phồng cả cơ bắp. Roran tiếp:

- Tính kỹ đi, ông Clovis, gần tới bờ rồi.

Hai vai Clovis rũ xuống, vẻ cương quyết không còn nữa. Roran biết mình đã thắng:

- Ôi, cầu cho bệnh dịch giết anh đi, Cây-búa. Tôi không ưa gì nhà vua, nên tôi sẽ đưa các anh tới Teirm. Nhưng sau đó, tôi không còn muốn dính dáng gì tới các anh nữa.

- Ông thề không chuồn đi trong đêm tối, hoặc có âm mưu gì khác chứ?

- Được. Tôi thề.

Cát đá rào rạo dưới đáy khi ba chiếc xà-lan tiến lên bãi. Tiếng sóng ào ạt vỗ bờ như tiếng thở dài của một quái vật khổng lồ. Ngay khi cầu tàu được bắc qua, Torson và Flint nhảy sang Trăn Đỏ tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Clovis bảo:

- Kế hoạch thay đổi.

Để ông chủ tàu cắt nghĩa lý do dân làng phải lìa bỏ thung lũng Palancar, Roran nhảy xuống bãi cát, chạy đi tìm chú Horst trong đám đông, rồi kéo ông ra một chỗ kể lại vụ giết hai lính gác tại Narda.

- Nếu phát hiện ra cháu đi cùng Clovis, chúng sẽ cho ngựa đuổi theo. Phải cấp tốc bảo mọi người lên tàu ngay.

Nhìn sâu vào mắt Roran một lúc, chú Horst mới nói:

- Cháu thành một con người cứng rắn rồi, Roran. Cứng rắn hơn cả chú từ xưa tới nay.

- Chỉ vì bắt buộc thôi, chú ơi.

- Nhớ kỹ một điều: đừng bao giờ quên cháu là ai.

Suốt ba tiếng sau Roran tất bật chuyển dân làng và hành lý của họ lên chiếc Trăn Đỏ, sắp đặt mọi thứ cho đến khi Clovis hài lòng. Phải bảo đảm sao cho những bao đồ đủ kích cỡ, nặng nhẹ khác nhau không bừa bãi, xô lệch làm mất thăng bằng của tàu và gây thương tích cho người. Phải dỗ dành những con vật bướng bỉnh chịu xuống khoang hầm, rồi buộc chúng vào những khoen bằng sắt.

Sau cùng mới tới người. Cũng như đồ đạc của họ, phải sắp đặt để mọi người chia đều hai bên cho cân xứng, tránh làm tàu nghiêng ngả hay có thể bị lật. Clovis, Torson, Flint đứng trước mũi ba xà-lan gào xuống một đám dân làng còn đứng dưới bãi.

Nghe tiếng tranh cãi rầm rầm, Roran vừa tự hỏi "lại chuyện gì nữa đây", vừa lách tới đám đông.

Calitha đang quỳ bên người cha dượng, lão Wayland, cố gắng trấn tĩnh lão. Trong khi lão vừa vùng vẫy cố vuột khỏi vòng tay Calitha, vừa la oai oái, nước bọt nhễu nhão.

- Không, tao không leo lên con quái vật đó đâu. Buông tao ra! Buông tao ra!

Calitha nhăn nhó vì những cú đánh của lão:

- Từ lúc dựng trại đêm qua, ông ấy cứ như phát rồ lên.

Roran cùng Calitha dỗ dành, năn nỉ cho đến khi lão dịu lại, không đấm đá, kêu gào nữa. Calitha thường cho ông bố dượng một mẩu thịt bò khô. Trong khi lão chăm chú nhấm miếng thịt, Roran và cô mới có thể dìu lão lên xà-lan, thu xếp cho lão ngồi vào một góc riêng, để khỏi làm phiền ai.

Clovis la lớn:

- Nào, mau mau lên, thủy triều sắp rút rồi. Nhảy lên, nhảy lẹ lên đi.

Sau sự ồn ào, náo động cuối cùng, ván cầu được rút lên. Trên bãi chỉ còn lại hai chục người đàn ông. Họ chia làm ba toán, sửa soạn đẩy xà-lan xuống nước.

Roran điều khiển toán của chiếc Trăn Đỏ. Tiếng dô hầy đồng thanh cất lên, anh cùng mọi người căng sức đẩy chiếc xà-lan khổng lồ, cát lún dưới chân, tiếng gỗ và dây thừng kẽo két, mùi mồ hôi tỏa trong không khí. Một lúc sau, xà-lan chòng chành trượt ra mé nước chừng nửa thước.

Roran la lớn:

- Nào ráng nữa lên.

Nhúc nhích từng bước, họ tiến ra biển, cho đến khi làn nước giá lạnh ngập tới thắt lưng. Một cơn sóng lớn ập lên Roran, miệng anh đầy nước biển. Roran phun phì phì nước muối mặn chát.

Bơi cặp theo chiếc xà-lan bồng bềnh trên nước, rồi Roran bám một sợi dây leo lên. Trong khi đó, các thủy thủ chống sào, đẩy tàu ra vùng nước sâu hơn.

Khi xà-lan đã xa bờ, Clovis ra lệnh dẹp sào, mái chèo được sử dụng, lái mũi tàu thẳng tiến ra khơi. Buồm được kéo lên, căng phồng trước làn gió nhẹ. Trăn Đỏ dẫn đầu ba chiếc xà-lan tiến về hướng thành Teirm.
 
Chương 47: Bước đầu thận trọng


Những ngày ở Ellesméra, Eragon không thể phân biệt được thời gian trong thành phố ngàn thông này. Mùa như không tuổi, thậm chí bóng tối âm u bao phủ rừng cây vào những buổi chiều. Những buổi tối cũng như kéo dài bất tận. Tháng nào muôn hoa cũng khoe hương sắc bằng quyền uy phép thuật và bùa chúa của thần tiên.

Eragon đã yêu thương quyến luyến Ellesméra, với vẻ đẹp và sự êm đềm tĩnh lặng, với những ngôi nhà duyên dáng mọc ra từ những thân cây, những bài ca mê hoặc vang lên trong mỗi buổi chiều, những lúc trầm tư mặc tưởng, cũng như những tiếng cười giòn rộn rã của thần tiên.

Thú hoang dã tại Du Weldenvarden không phải lo sợ thợ săn. Từ ngôi nhà trên cây Eragon thường thấy một thần tiên vuốt ve âu yếm một con nai, một con chồn; hoặc thì thầm trò chuyện với một chú gấu e thẹn lăn lông lốc trên đồng cỏ. Có những con thú Eragon không thấy hình dạng chúng, vì chúng xuất hiẹn về đêm – di chuyển, lèm bèm trong bụi rậm - chạy biến ngay khi Eragon tién lại gần. Một lần Eragon thoáng thấy một sinh vật giống như con rắng phủ đầy lông. Lần khác nó lại thấy một cô gái áo trắng toát thoắt hiện nguyên hình thành một con sói cái nhe nanh nhọn hoắt.

Mỗi khi có dịp, Eragon và Saphira lại tiếp tục khám phá Ellesméra. Hai đứa cùng sư phụ Orik, vì Arya đã không còn nhập chung bọn nữa. Cô cũng không để Eragon gặp mặt từ khi cô đập tan bức fairth của nó. Đôi khi Eragon thấy cô thấp thoáng qua những hàng cây, vừa định tiến lại nói lời xin lỗi, cô lẩn đi ngay, bỏ lại nó một mình giữa những cây thông cổ thụ. Sau cùng Eragon quyết định phải nắm thế chủ động đợi có dịp nối lại mối giao hảo với cô. Vì vậy, một buổi chiều, Eragon hái một bó hoa rồi thới Tialdarí, nhờ một thần tiên chỉ đường tới cung của Arya.

Chiếc cửa lưới để ngỏ khi Eragon bước vào cung. Gõ cửa, không ai trả lời. Nó bước vào trong, vừa ngóng chờ tiếng bước chân của ai đó, vừa nhìn quanh căn phòng khách rộng phru đầy đây nho. Nối với phòng khác, một bên là phòng ngủ nhỏ, một bên là thư phòng. Trên tường treo hai bức fairth: một bức chân dung vị thần tiên nghiêm trang quắc thước, tóc màu bạc (Eragon đoán là đức vua Evandar), còn bức kia là một tiên ông trẻ, Eragon không biết là ai.

Dạo qua các phòng, Eragon ngắm nghía từng hiện vật, để đoán biết sở thích riêng tư của nàng trong đời sống. Bên giường ngủ, trong quả cầu thủy tinh là một bông hoa màu đen còn đọng sương mai8. Trên bàn viết, các cuộn giấy xếp gọn gàng, có ghi từng tựa như: Báo cáo thu hoạch mùa; Ghi chú hoạt động của giám sát Gil'lead...Trên thành cửa sô là ba cây bonsai mọc ngoằn nghèo theo dạng chữ cổ: An, lực, trí. Bên mấy cây đó, một mảnh giấy với những dòng phác thảo một bài thơ dở:

Dưới vừng trăng rực rỡ

Giữa cỏ hoà và giữa rừng thông

Mặt hồ bạc im lìm phẳng lặng

Từ đâu viên đá nhẹ rơi

Làm tan vỡ mặt trăn ánh bạc

Mảnh sáng vỡ sắc ngời như kiếm

Lao xao gợn sóng khắp mặt hồ

Rồi êm ả lại hoàn êm ả

Hồ cô đơn trở lại cô đơn

Trong bóng đêm nặng nề ảm đạm

Chiếc bóng buồn bối rối bay qua

Bay qua nơi đã một lần...

Bước lại, đặt bó hoa lên chiếc bàn nhỏ kê ngay lối vào, Eragon vừa định quay ra, bỗng sững ngời khi thấy Arya đứng bên khung cửa. Cô có vẻ ngỡ ngàng khi thấy Eragon hiện diện tại nơi đây, nhưng rồi bình thản lại ngay.

Cả hai lặng lẽ nhìn nhau.

Eragon nhặt bó hoa lên, ngập ngừng trao cho Arya:

- Tôi không biét tạo ra một đoá hoa riêng cho nàng như Faolin, nhưng đây là những đoá hoa chân thành, những đoá hoa đẹp nhất mà tôi kiếm được.

- Tôi...không thể nhận, Eragon

- Đây không là...không phải là quà tặng. Trước đây, tôi đã không biết rằng bức fairth của tôi đã đặt nàng vào hoàn cnảh khó khăn đến thế, vì vậy, tôi tha thiết cầu mong nàng tha thứ...Tôi chỉ cố gắng hoàn tất bức fairth, đâu ngờ tạo nên rắc rối. Arya, tôi biét việc học hành của mình là rất quan trọng, nàng đừng sợ tối sẽ chểnh mảng việc học để chỉ mơ màng đến nàng.

Chóng mặt đến lảo đảo, Eragon phải tựa lưng vào tường nói tiếp:

- Chỉ có vậy thôi.

Arya nhìn Eragon một lúc lâu, rồi chậm rãi giơ tay cầm bó hoa, đưa lên mũi. Đôi mắt cô vẫn chăm chăm nhìn chàng thiếu niên kỵ sĩ:

- Hình như chàng không được khoẻ? Chàng bị bệnh?

- Không. Chỉ tại cái lưng thôi.

- Tôi có nghe nói, nhưng không ngờ...

Đứng thẳng lại, Eragon nói:

- Tôi nên đi thì hơn...

- Khoan...

Arya ngập ngừng, rồi đưa Eragon đến ngồi trên chiếc ghế dài, kê bên cửa sổ. Lấy từ trên kệ xuống hai cái cốc, cô bóp vụn lá tầm ma khô vào cốc, rồi vừa rót đầy nước vừa nói: "Sôi đi".

Nhận cốc trà nóng từ Arya, Eragon cầm bằng cả hai tay để hơi ấm truyền vào cơ thể. Nó nhìn qua cửa sổ: trên mặt đất gần mười mét dưới kia, các thần tiên thong thả dạo trong vườn ngự uyển, chuyện trò ca hát và trong làn ánh sáng mờ tỏ, từng bầy đom đóm lập loè bay lượn.

Eragon nói nhỏ:

- Ước gì...được mãi mãi thế này. Êm đềm, tĩnh mịch làm sao.

- Saphira sao rồi?

- Vẫn vậy. Còn nàng?

- Tôi sửa soạn trở về Varden

Eragon giật mình:

- Khi nào?

- Sau hội Huyết thệ. Tôi nấn ná lại đây quá lâu rồi, nhưng ra đi cũng là điều miễn cưỡng. nữ hoàng thì chỉ mong tôi ở lại. Ngoài ra, tôi chưa bao giờ tham dự hội Huyết thệ, một lễ hội quan trọng nhất của thần tiên.

Chăm chăm nhìn Eragon qua thành cốc, Arya hỏi:

- Oromis tiền bối cũng không giúp gì được cho sức khoẻ của chàng sao?

- Sư phụ đã cố đủ cách rồi.

Cùng nhấp trà và nhìn những đôi dạo dưới vườn, Arya lại hỏi:

- Việc tập luyện của chàng tiến bộ chứ?

Eragon gật đầu. Không biết nói gì thêm, nó cầm mảnh giấy lên chăm chú xem như lần đầu đọc mấy vần phác thảo của nàng:

- Nàng vẫn thường làm thơ?

Arya với tay cầm mảnh giấy, cuốn tròn rồi bỏ vào một cái ống:

- Theo phong tục, ai dự lễ Huyết thệ đều phải mang theo một bài hát, một bài thơ hoặc một tác phẩm nghệ thuật khác do chính mình làm ra. Bài này chưa làm xong...

- Tôi thấy bài thơ hay lắm.

- Nếu chàng đã từng đọc nhiều thơ thì...

- Tôi cũng được đọc nhiều thơ rồi...

Im lặng một lúc, Arya cúi đầu nói nhỏ:

- Tôi xin lỗi...tôi không thể...Vì chàng không phải là người đầy tiên gặp tôi tại Gil'ead.

- Không.Tôi...

Eragon xoay xoay cái cốc tìm lời nói:

- Arya ...nàng sắp ra đi, tôi sẽ cảm thấy vô cùng đáng trách nếu đây là lần gặp cuối cùng giữa hai ta. Sao chúng ta không thể thường gặp nhau như trước kia? Sao nàng không thể hướng dẫn tôi Saphira tham quan hoàng cung Ellesméra nữa?

Giọng cô dịu dàng nhưng nghiêm khắc:

- Điều đó cũng chẳng thay đổi được gì đâu

- Đó là cái giá phải trả cho tình bạn của chúng ta chỉ vì một hành động vô tình của tôi sao? Thú nhận, tôi không thể ngăn được tình cảm của tôi đối với nàng, nhưng thà tôi chịu đau đớn vì một vết thương nữa của Tà thần, còn hơn để sự ngu ngốc của tôi huỷ diệt tình bạn cua hai ta. Vì...tôi rất quý trọng tình cảm đó.

Uống cạn cốc trà, Arya mới trả lời:

- Eragon, tình bạn của chúng ta vẫn tồn tại. Chuyện chúng ta lại cùng nhau...thì có lẽ phải chờ tương lai sẽ ra sao. Lúc này tôi rất bận, không thể hứa trước được điều gì.

Những lời cô gần như một lời hoà giải, và Eragon cũng chỉ mong có vậy thôi. Nó cúi đầu:

- Tôi hiểu, thưa công nương Arya.

Sau vài câu chuyện vui vẻ, Eragon trở lại cùng Saphira, trong lòng tràn trề hy vọng. Khi ngồi trước bàn học, mở cuộn giấy cuối cùng của Oromis, nó thầm nhủ: "Bây giờ chỉ còn trông vào số mệnh an bài".

***

Rút từ cái túi nhỏ đeo nơi thắt lưng, Eragon lấy ra một ống đá đựng chất nalgask – sáp ong hoà cùng dầu hạt dẻ - thoa lên môi để chống nẻ. Cắt ống nalgask vào túi, nó ôm cổ Saphira, vùi đầu vào trong vòng tay để tránh ánh sáng chói chang hắt lên. Những cú vỗ cánh mạnh mẽ của Saphira – cao hơn và nhanh hơn Glaedr – làm ù hai tai Eragon.

Suốt từ rạng đông tới xế chiều, hai con rồng bay về hướng tây nam, thỉnh thoảng glaedr và Saphira lại trổ tài quyết đấu trên không. Những lúc đó, Eragon phải ôm chặt yên cương mới không bị lộn cổ khỏi lưng cô em rồng đangn hăng say biểu diễn những pha nhào lộn, làm ruột gan ông anh nhộn nhạo cả lên.

Cuộc hành trình chấm dứt tại một cụm bốn ngọn núi vươn lên giữa rừng già. Đây là những ngọn núi đầu tiên Eragon nhìn thấy tại Du Weldenvarden. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng, lộng gió, xé toạc màn mây, khoe ra những bờ vách cheo leo lạnh lẽo dưới mặt trời.

Saphira bình phẩm: "So với rặng Beor, đám núi này trông bé tí tẹo".

Theo thói quen suốt mấy tuần lễ tĩnh toạ trầm tư, Eragon phóng tư tưởng về các ngả, giao tiếp với những sinh vật chung quanh, dò tìm có kẻ nào đó có thể làm hại nó không. Eragon cảm thấy hơi ấm trong tổ một con chồn, nhận thức sự hiện diện của quạ, chim sâu, diều hâu, vô số sóc lăng xăng trên những cành cây, và phía dưới núi, rất nhiều bầy đàn côn trùng thường gặp; và những con rắn đang trườn mình trong bụi săn lùng chuột

Khi Glaedr đáp xuống một bãi trống trên đỉnh núi thứ nhất, Saphira phải chờ cho rồng vàng xếp gọn đôi cánh khổng lồ, mới có đủ chỗ cho nó hạ cánh. Đó là một triền đá phủ đầy địa y vàng rực, phía trên mờ mờ ẩn hiện một vách đứng đen ngòm. Vách đá tạo thành một trụ tường chống đỡ một mái hiên nước đóng băng xanh ngắt. Những mảnh băng rung rời theo làn gió, vỡ vụn trên những tảng đá nằm bên dưới.

Rồng vàng Glaedr lên tiếng: "Ngọn núi này có tên gọi là Fionula. Ba ngọn anh em kia là Ethrundr, Merogoven và Griminsmal. Mỗi ngọn đều có một truyền thuyết, trên đường về ta sẽ kể, còn bây giờ ta sẽ nói về mục đích của chuyến đi hôm nay. Đó là thực chất mối ràng buộc giữa loài rồng với thần tiên, sau đó là với con người. Hai người đều đã biết chút ít về chuyện này, nhưng đã đến thời điểm phải hiểu rõ một cách nghiêm túc và sâu sắc hơn ý nghĩa mối kết hợp giữa hai người, để có thể duy trì khi ta và Oromis không còn có mặt nữa. Eragon, người muốn hỏi gì vậy?"

Eragon cuốn chăn quanh người, hỏi:

- Sao sư phụ không đến đây cùng chúng ta?

"Vì đây là trách nhiệm của ta. Trách nhiệm của những rồng già từ suốt bao nhiêu thế kỷ qua, là phải bảo đảm cho thế hệ kỵ sĩ mới thông hiểu sự quan trọng của địa vị được trao. Và...vì Oromis không được khoẻ như bề ngoài của ông ấy đâu".

Đá lách tách rạn nứt khi Glaedr cuộn mình giữa triền núi, vươn cái đầu khổng lồ uy nghi khỏi mặt đất, chăm chú nhìn Eragon và Saphira bằng một con mắt to đùng và sáng rực. Gió thổi tản mạn ngọn khói đen toả ra từ hai lỗ mũi rồng vàng: "Một phần những gì ta sắp nói đây là sự hiểu biết thông thường của thần tiên, kỵ sĩ và những con người có học; nhưng rất nhiều điều chỉ những thủ lãnh kỵ sĩ, một số ít thần tiên, vua chúa của loài người mới được biết. Tất nhiên loài rồng hẳn phải được biết rồi. Bây giờ hãy lắng nghe. Khi hoà bình trở lại sau cuộc chiến giữa rồng và thần tiên, kỵ sĩ được thành lập để bảo đảm một cuộc xung đột như vừa qua sẽ không tái diễn giữa hai loài nữa. Nữ hoàng Tarmunora của thần tiên và con rồng được bầu lên đại diện cho loài rồng, tên là..."

Glaedr ngừng lại truyền hàng loạt tư tưởng sang Eragon: răng dài, răng trắng; chiến thắng, chiến bại; hai mươi trứng đực, mười chín trứng nở lớn tới trưởng thành...tất cả đều không thể diễn tả bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.

"Vậy là nữ hoàng cùng rồng đại diện với cái tên rất khó gọi đó đi đến quyết định: một hiệp ước bình thường như vậy vẫn chưa đủ để bảo đảm hoà bình. Chữ ký trên giấy chẳng có nghĩa gì đối với một con rồng. Máu loài rồng luôn sôi sùng sục, chỉ cần một thời gian, việc xung đột lại với thần tiên là điều không thể nào trành khỏi, như việc từng xảy ra với người lùn hàng thiên niên kỷ. Nhưng không giống như đối với người lùn, cả thần tiên và loài rồng chúng ta đều không thể để cho một cuộc chiến nữa xảy ra: vì cả hai loài đều quá mạnh. Chiến tranh xảy ra, hai loài sẽ tận diệt lẫn nhau. Chỉ còn một cách là phải cùng đồng tâm hợp lực củng cố mối liên kết giữa hai loài bằng phép thuật".

Thấy Eragon rùng mình vì lạnh, Gleadr vui vẻ bảo Saphira: "Sao em không nung nóng mấy hòn đá này lên cho anh chàng kỵ sĩ sưởi, khỏi bị rét run lên như thế kia?"

Saphira vươn cổ, một luồng lửa xanh phun ra từ giữa những chiếc nanh nhọn, làm cháy đen đám địa y trên sườn đá, toả ra một mùi chát đắng. Hơi nóng bốc lên làm Eragon phải vội quay mặt đi. Nó cảm thấy côn trùng dưới tảng đá lèo xèo cháy vụn trong ngọn lửa. Một phút sau, Saphira khép miệng, để lại một vành đai đá đỏ rực chung quanh.

"Cám ơn" Eragon nói rồi hơ tay sưởi ấm.

Gleadr căn dặn Saphira: "Lần sau phải nhớ dùng lưỡi điều khiển nguồn lửa. Nào bây giờ tiếp tục...Phải mất chín năm ròng, những thần tiên cao tay nhất mới phát minh ra được những câu thần chú cần thiết, rồi tụ tập hai loài tại Ilirea. Thần tiên cung cấp cấu trúc thần chú, loài rồng cung cấp sức mạnh, cùng nhau kết hợp linh hồn của hai loài".

Mối liên két đó làm thay đổi chúng ta. Loài rông đạt được cách sử dụng ngôn ngữ và những dáng vẻ văn minh, còn thần tiên chia sẻ sự trường thọ của loài rồng. Trước đó, đời sống thần tiên cũng ngắn ngủi như loài người thôio. Phép thuật của rồng thấm đẫm trong truyền thuyết và được truyền sang thần tiên, cho họ một vẻ duyên dáng và sức mạnh đầy vẻ khoa trương. Loài người chưa bao giờ có được quyền lực mạnh mẽ như thần tiên, vì loài người tới sau khi phép thuật đã được hoàn thiện và loài người không có nhiều thời gian như thần tiên. Tuy nhiên..."Mắt rồng vàng long lanh khi nói tiếp "loài người cũng được chút ảnh hưởng từ những kẻ lần đầu tiên đặt chân lên đất Alagaesia, dù bị thoái hoá từ sau sự cố suy sụp của kỵ sĩ".

Eragon hỏi:

- Người lùn có bị ảnh hưởng gì không?

"Không. Đó là lý do chưa bao giờ có một kỵ sĩ lùn. Họ không ưa chúng ta, cũng như chúng ta không ưa họ. Người lùn cảm thấy không yên tâm khi kết hợp với loài rồng. Có lẽ đó cũng là điều may mắn, vì nhờ vậy họ đã tránh được sự suy tàn như loài người và thần tiên."

"Suy tàn? Sư phụ mà bị suy tàn?"

Eragon thấy rõ giọng giỡn cợt của cô rồng. Nhưng Gleadr trả lời rất nghiêm túc: "Phải, suy tàn. Nếu một trong ba loài chúng ta - thần tiên, người và rồng - bị đau khổ, thì cả ba đều bị ảnh hưởng. Sát hại rồng, Galbatorix đã gây tổn thương đồng loại lão, và cả thần tiên. Mới tới Ellesméra nên các ngươi không biết, thật ra thần tiên đang bị suy tàn; quyền lực của họ xưa kia không giống như bây giờ đâu. Còn loài người thì đang rối loạn, nền văn hoá bị mất mát quá nhiều. Cách duy nhất để lập lại trật tự thế giới là phải lấy lại thế quân bình giữa ba loài".

Rồng vàng bóp nát mấy tảng đá dưới móng, ráng bình tĩnh tiếp: "Với phép thuật, nữ hoàng Tarmunora cho phép một rồng con kết nối với kỵ sĩ của nó. Khi một rồng mẹ quyết định trao trứng cho các kỵ sĩ, sẽ thì thầm mấy câu thần chú với trứng (mấy câu này hai người sẽ được ta dạy sau)", để tránh việc rồng con nở trước khi chọn đúng người, cũng như để rồng con có thể ở trong trứng vô thời hạn mà không bị làm hại. Chính em là một thí dụ đó, Saphira.

Mối ràng buộc được tạo ra giữa kỵ sĩ và rồng làm con người và thần tiên trở nên mạnh mẽ và thanh lịch hơn; vẻ hung dữ của rồng cũng bớt đi nhiều...Ta thấy Eragon có điều muốn nói. Chuyện gì vậy?"

- Chỉ là...tôi không tưởng tượng nổi Glaedr và Saphira lại còn có thể hung dữ đến thế nào nữa...

Rồng vàng khùng khục cười đến rung cả dất: "Nếu mi gặp một con rồng chưa hề ràng buộc với kỵ sĩ thì sẽ không bao giờ thắc mắc về điều đó. Một con rồng đơn lẻ không hề khuất phục trước bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nó chỉ hành động theo ý thích, chỉ tỏ ra dễ chịu với họ hàng thân tộc của nó thôi. Rồng cái lại càng khủng khiếp hơn. Một rồng đực, đã sống chung cùng kỵ sĩ, phải là một cao thủ cực kỳ mới mong kết bạn tình với một rồng cái hoang dã. Mối ràng buộc giữa Galbarorix và Shruikan, con rồng thứ hai của lão, là một sự kết hợp bỉ ổi. Vì Shruikan không chọn lão, mà chính lão đã sử dụng tà thuật bắt nó phục vụ những mưu đồ điên loạn của lão".

Nhìn Eragon và Saphira với đôi mắt đầy xúc động Glaedr tiếp: "Mối liên hệ giữa hai người vượt khỏi sự ràng buộc đơn giản của tâm tưởng. Đó là sự liên kết giữa hai linh hồn. Eragon, người có tin linh hồn của một con người có thể tách rời khỏi thân xác không?"

- Tôi không biết. Nhưng đã một lần, Saphira đưa tôi ra khỏi thể xác, để tôi nhìn thế giới qua con mắt nó...Khi đó...dường như tôi không còn mối quan hệ nào với thể xác mình nữa.

Vươn đầu móng sắc nhọn, Glaedr lật một tảng đá, để lộ ra một con chuột đang ẩn mình trong tổ. Chiếc lưỡi đỏ lòm của rồng vàng, lẹ như tia chớp, chụp con mồi. Eragon nhăn mặt khi cảm thấy mạng sống của con vật bị kết thúc.

Glaedr nói: "Khi thể xác bị huỷ diệt, linh hồn cũng bị huỷ diệt theo"

- Nhưng một con vật không phỉa là một con người

Sau những lần tĩnh toạ trầm tư, ngươi có thật sự tin chúng ta khác xa với một con chuột không? Có tin là chúng ta được ban cho một khả năng siêu việt mà các loài khác không có được và khả năng đó, bằng cách nào đó sẽ bảo quản cho chúng ta được toàn vẹn sau khi chết không?

- Không.

"Ta cũng đã nghĩ là không. Vì chúng ta gắn kết quá chặt chẽ với nhau, nên khi một con rồng hay một kỵ sĩ bị thương, họ phải lấy hết can đảm tách rời mối gắn kết đó để bảo vệ cho nhau, tránh khỏi những đau đớn không cần thiết. Thậm chí có thể gây thành điên loạn, làm họ không chống lại được sức cám dỗ cố đem linh hồn bạn vào cơ thể mình. Kết quả là cả hai đều chết. Cho dù điều đó có thể thực hiện, thì mộ thể xác chứa đựng nhiều linh hồn là một sự ghê tởm không thể chấp nhận được."

- Chết một mình, xa rời người thân thương nhất, thật là khủng khiếp.

"Ai cũng phải chết một mình thôi, Eragon ạ. Cho dù ngươi là một vị vua bỏ mạng ngoài chiến địa, hay một nông dân nghèo hèn chết trên giường giữa gia đình, chẳng kẻ nào theo người về cõi u minh đâu...Nào, bâ giờ ta sẽ hướng dẫn hai ngươi cách tách rời tâm tưởng. Bắt đầu là..."

Trong căn tiền sảnh của ngôi nhà mọc trên cây, Eragon lom lom nhìn khay đồ ăn tối: bánh mì với bơ hạt dẻ, dâu, đậu, một bát rau xanh, hai quả trứng luộc (theo tin tưởng của thần tiên đó là trứng không nở được), và một bìh nước suối tinh khiết. Dù biết mỗi món trong bữa ăn của nó, đều đã được chăm chú với tất cả tài năng của bếp núc tinh xảo nhất của thần tiên, và nó cũng biết ngay cả nữ hoàng Islanzadí cũng ăn giống hệt thế này thôi, nhưng chỉ nhìn thấy những món này, Eragon đã không chịu nổi.

Bước rầm rầm về phòng ngủ, Eragon càu nhàu:

- Mình muốn ăn thịt. Cá, chim, thịt gì cũng được, trừ mấy món rau củ triền miên này. Mình đâu phải là một con ngựa? Làm sao có thể béo tốt khoẻ mạnh như một con ngựa khi ăn mấy món này?

Saphira duỗi chân, bước lại gần mấy lỗ hổng ngó xuống Ellesméra: "Mấy hôm nay em cũng chưa được ăn gì, anh đi cùng em không? Tha hồ nấu nướng, thần tiên không biết được đâu"

Eragon hớn hở: "Đi chứ. Có phải lấy yên cương không?"

"Gần thôi mà"

Eragon vội vàng lấy muối, dược thảo, gia vị rồi leo lên Saphira .

Khi lên cao khỏi thành phố, Saphira lượn theo dòng suối chảy xuyên qua Du Weldenvarden, tới một hồ nướ cách đó chừng vài dặm. Nó hạ cánh, rạp sát mình cho Eragon dễ dàng leo xuống rồi căn dặn: "Trong những bụi cỏ gần bờ nước, nhiều thỏ lắm. Thử xem anh bắt được con nào không. Trong khi đó, em đi săn nai"

"Cái gì? Em không muốn chia mồi cho anh sao?"

"Không đâu. Nhưng nếu tới mấy con chuột quá khổ đó mà anh cũng không vồ nổi, em sẽ chia cho anh tí ti mồi".

Eragon cười cười khi cô rồng cái bay vút đi, rồi nhìn quanh những bụi cỏ quanh hồ, sửa soạn săn tìm bữa ăn tối.

Chưa đầu một phút sau, Eragon đã có một xâu thỏ chết. Chỉ một thoáng với tâm tưởng, nó đã phát hiện mấy con thỏ trong hang và sử dụng một trong mười hai câu thần chú sát thủ để giết chết hết cả bầy. Với phép thuật được sư phụ truyền dạy, Eragon mất hết hứng thú của sự thách thức, rượt đuổi. Nhớ lại những năm tháng mài dũa khả năng lần theo dấu vết con mồi, Eragon thầm nhủ: "Thậm chí lần này mình không cần phải lén lút rình mò. Thật vô nghĩa nếu cần bao nhiêu, mình cũng có thể nhét đầy vào giỏ. Khi đi săn cùng ông Brom chỉ với một hòn sỏi, ít ra còn có một sự thách thức thú vị hơn. Như thế này...khác gì là một cuộc tàn sát đâu".

Câu nói của người đàn bà trui luyện kiếm vang lên trong nó: "Khi có được bất cứ điều gì, chỉ với vài câu thần chú, mục đích chẳng còn ý nghĩa gì nữa"

Eragon chợt tỉnh: "Đáng lẽ mình phải lưu tâm hơn đến lời nói của bà ta".

Với những động tác thành thạo, Eragon rút dao săn, lột da, mổ bụng thỏ - để tim, gan, phổi, thận sang một bên - rồi chôn kỹ bộ lòng để không bốc mùi hấp dẫn loài thú chuyên ăn thịt thối. Sau đó, đào một hố nhỏ, chất đầy cành khô, Eragon nhóm lửa bằng phép thuật. Trong khi chờ củi cháy thành than, nó chặt một nhánh dương đào, róc hết cành lá, thui trên than hồng cho cháy hết phần nhựa đắng, rồi xỏ xâu xác thỏ, gác qua miệng hố trên hai nhánh cây cắm trên mặt đất. Eragon đặt một phiến đá bằng phẳng lên một góc hố than làm chảo, lấy mỡ thỏ rán phần nội tạng.

Saphira trở về bắt gặp Eragon đang ngồi bên bếp lửa, từ từ xoay trở xâu thịt. Nó đáp xuống đất với một con nai mềm oặt ngậm trong hàm, con thứ hai quắp dưới móng. Cô ả nằm dài trên bãi cỏ thơm nhai rau ráu cả da lẫn thịt con mồi. Tiếng xương gãy vụn giữa những cái răng sắc như dao, như tiếng cành cây bị giông gió bẻ gãy.

Thịt thỏ chín, Eragon vung vẩy cho nguội bớt. Nó vừa ngắm nghía những miếng thịt óng vàng vừa hít hà mùi thơm đầy hấp dẫn.

Nhưng ngay khi mở miệng cắn miếng đầu tiên, tư tưởng nó bất ngờ hiện ra những lần tĩnh toạ. Nó nhớ lại những khi len lỏi vào tâm trí của những con chim, sóc, chuột. Chúng đã chứng tỏ mình sôi nổi đến thế nào, hăn hái đến thế nào trong chiến đấu để tồn tại trước hiểm nguy. "Chẳng lẽ tất cả những gì chúng có được trong đời sống này chỉ là vậy thôi sao."

Eragon ném xâu thịt ra xa, kinh hoàng như việc nó giết mấy con thỏ cũng ghê sợ như việc giết người vậy.

Saphira ngừng ăn, trợn mắt nhìn.

Eragon hít sâu một hơi, ấn mạnh nắm tay lên gối, cố bình tĩnh lại để tìm hiểu vì sao nó lại có thể xúc động đến thế. Suốt đời nó vẫn thường ăn thịt, cá, gia cầm. ăn rất ngon lành. Vậy mà bây giờ chỉ nghĩ đến việc ăn mấy miếng thịt thỏ kia đã làm nó phát bệnh. Nhìn Saphira, Eragon nói: "Anh không thể nào ăn nổi"

"Sao anh ngược đời vậy? Quy luật trên đời này, vật này ăn vật khác là đương nhiên".

Nó suy nghĩ câu hỏi của Saphira. Nó không chê trách, kết tội người ăn thịt, vì biết đó là phương tiện sống còn của nhiều nôgn dân nghèo khổ. Nhưng phần nó, không thể nào nuốt trôi một miếng thịt đựơc nữa, có lẽ trừ khi đói lả. Đã từng xâm nhập vào tâm trí thỏ, đã từng cảm thấy những gì thỏ cảm thấy...ăn một con thỏ chẳng khác nào ăn thịt chính mình.

Eragon trả lời Saphira: "Vì chúng ta có thể tự làm cho mình tốt đẹp hơn. Chẳng lẽ chúng ta đầu hàng sự thèm muốn thôi thúc, để gây thương tích hay chết chóc cho những kẻ làm ta tức giận, chiếm đoạt tất cả những gì mình muốn của những kẻ yếu hơn, bất chấp vui buồn, đau khổ của kẻ khác. Chúng ta không được sinh ra như những sinh vật hoàn thiện, thì phải coi chứng những sai lầm có thể dẫn đến sự huỷ hoại chính mình".

Chỉ xác mấy con thỏ, Eragon tiếp: "Như sư phụ đã nói, sao chúng ta lại có thể gây ra những đau khổ không cần thiết như vậy được?"

"Anh định từ bỏ hết mọi thú vui trên đời sao?"

"Anh từ bỏ những gì mang tính huỷ hoại".

"Nhất quyết?".

"Đúng. Nhất quyết như vậy"

Saphira tiến lại gần mấy con thỏ thơm nức mũi: "nếu vậy, đây sẽ là món tráng miệng tuyệt vời cho em".

Chỉ trong chớp mắt, cô ả tóm gọn mấy con thỏ, liếm láp sạch bách tim gan rán trên phiến đá: "Em không thể sống thiếu thịt được. Cây cỏ là thực phẩm của lũ trâu bò lừa ngựa, không phải của rồng. Chẳng có gì phải xấu hổ khi bồi dưỡng cho chính mình. Mọi vật trên đời đều có chỗ của nó chứ. Kể cả một con thỏ cũng phải hiểu điều đó".

'Anh đâu định làm em cảm thấy mình có lỗi. Đây là một quyết định cá nhân. Anh không hề gây áp lực với bất kỳ ai".

"Vậy là không đấy". Saphira nói mỉa.
 
Chương 48: Trừng tan tành - Tổ tơi tả


- Eragon, tập trung vào mà học chứ.

Nghe sư phụ sẵng giọng, Eragon chớp mắt cố tập trung vào những hàng chữ cổ:

- Con xin lỗi.

Nhưng một nỗi lo lắng như trói chặt chân tay nó. Nhìn những con chữ ngoằn nghèo, Eragon cố nâng bút lông bắt đầu viết.

Qua khung cửa sổ sau lưng Oromis, mặt trời đang lặn, vạch những bóng đen lên màu xanh trên đỉnh vực Tel'naéir. Xa xa, những dải mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời.

Một cơn nhói đau từ chân dội lên, làm tay Eragon giật mạnh, mực từ đầu bút lông văng khắp mặt giấy. Bên kia bàn, sư phụ nó cũng giật mình, nắm vội cánh tay phải.

- Saphira!

Eragon bật kêu lên. Nó bỗng hốt hoảng vì không thể liên lạc đựơc với Saphira. Cô em rồng đã tạo rào cản chung quanh. Eragon cảm thấy như đang cố nắm bắt một quả cầu bằng đá phủ đầy dầu mỡ. Nó nhìn sư phụ:

- Có chuyện gì xảy ra rồi, phải không ạ?

- Ta không rõ. Glaedr đang trở về, nhưng nó không chịu nói gì với ta cả.

Với tay lấy thanh kiếm Naegling trên tường, ông bước vội ra ngoài, đứng bên bờ vực, ngẩng cao đầu ngóng đợi rồng vàng.

Đứng bên ông, Eragon lo lắng nghĩ về tất cả những gì có thể xảy ra cho Saphira.

Trưa nay, hai con rồng đã cùng bay về hướng bắc, tới một nơi có tên là Trụ đá trứng vỡ. Ngày xưa, nơi đây từng là hang ổ của những con rồng hoang dại.Eragon thầm nhủ: "Đường tới đó có gì nguy hiểm đâu? Chắc chắn không có Urgal, thần tiên cũng chẳng đến đó làm gì".

Sau cùng, Glaedr xuất hiện trên bầu trời mây xám. Khi rồng vàng hạ cánh, Eragon thấy trên lưng chân trước – bên phải - của Glaedr có một vết thương lớn bằng bàn tay, máu đỏ thấm ướt lớp vảy chung quanh.

Oromis bước lại gần, nhưng nghe tiếng rồng vàng gầm gừ, ông ngừng lại, kiên nhẫn đứng chờ. Glaedr tập tễnh bước lại bìa rừng, cuộn mình dưới tán cây. Quay lưng lại Eragon, rồng vàng bắt đầu liếm vết thương.

Oromis lại gần hơn, nhưng vẫn giữ một khoảng cách, quỳ gối chờ đợi. Eragon bồn chồn với từng giây phút trôi qua. Cuối cùng Glaedr cũng để cho Oromis tiến lại, quan sát vết thương trên chân. Dấy hiệu gedwey ignasia trên bàn tay sáng lên màu bạc khi ông đặt vào vết rách trên da Glaedr.

Thấy sư phụ vừa rụt tay về, Eragon hỏi ngay:

- Nặng không, thưa thầy?

- Trông đáng sợ vậy thôi, nhưng với thân hình to lớn của Glaedr thì chỉ như một vết trầy.

- Còn Saphira? Con vẫn không thể liên lạc được với nó.

- Con phải tới chỗ nó ngay. Nó bị thương. Glaedr không nói nhliều về chuyện gì đã xảy ra, nhưng thầy đoán là nghiêm trọng đó. Con mau đi thooi.

Eragon nhìn quanh, rên lên khổ sở vì không biết sẽ đi bằng phương tiện gì đây.

- Đường xa, không có lối mòn, làm sao con tới đó được?

- Bình tĩnh, Eragon. Con vật nào đã đưa con từ Sílthrim tới đây?

Phải mất một lúc Eragon mới nhớ ra:

- Folkvír.

- Vậy hãy dùng phép thuật mà gọi nó. Kêu đúng tên nó và cho nó biết con cần gì.

Vận dụng phép thuật vào giọng nói, Eragon gào lên, gửi lời năn nỉ của nó vang vọng qua núi rừng, tới tận Ellesméra

Oromis gật gù, khen ngợi:

- Khá lắm.

Mười hai phút sau, Folkvír xuất hiện từ bóng tối giữa rừng cây như một bóng ma màu bạc. Eragon vắt một chân lên lưng con "tuấn mã" nhỏ bé của thần tiên, nói vội với sư phụ:

- Con sẽ cố về ngay.

- Cứ lo việc của con đi

Thúc chân vào hai bên sườn Folkvír, Eragon la lớn:

- Chạy, chạy mau Folkvír.

Folkvír phóng vọt lên, khéo léo vù vù vượt qua những cành thông rậm rạp. Với những hình ảnh trong trí, Eragon hướng dẫn nó tới chỗ Saphira.

Xuyên rừng già, không đường mòn như thế này, một con ngựa chiến cỡ Hoả Tuyết phải mất hai ba giờ mới tới được Trụ đá trứng vỡ, nhưng Folkvír chỉ phóng mất hơn một giờ.

Tới chân khối đá dựng đứng, vượt cao khỏi cây rừng cả trăm mét, như một cột trụ bằng đá vân xanh, Eragon lên tiếng: "Ngưng lại.

Bước xuống đất, Eragon nhìn lên đỉnh khối đá cao vòi vọi. Saphira đang ở trên đó.

Nó bước quanh, tìm đường nhưng vô vọng. Không một kẽ hở, không mọt cái hốc gần mặt đất để có thể bám vào, leo lên.

Eragon dặn dò Folkvír: "Ở lại đây. Nếu thích thì gặm cỏ, nhưng đừng đi đâu. Được chứ?".

Con vật nhìn lại Eragon với đôi mắt thông minh, hiểu biết: "Được. Khá lắm, chàng trai

Chăm chsu nhìn lên đỉnh khối đá, Eragon vận nội công, nói bằng cổ ngữ.

- Lên!

Sau đó Eragon mới nhận ra, nếu không quen bay cùng Saphira, nó đã không thể kiểm soát nổi thần chú và đã lộn cổ xuống chết rồi. Mặt đất vù vù trôi ngược dưới chân, cây cối đan ken vào nhau khi bay vút lên bầu trời chiều trên đầu. Cành cây như những ngón tay vươn ra vồ chụp mặt và hai vai nó. Không như những lần nhào lộn cùng Saphira, Eragon phải giữ ý thức về trọng lượng, như vẫn đang đứng trên mặt đất dưới kia.

Lên khỏi đỉnh Trụ đá trứng vỡ, Eragon từ từ hạ xuống một mắt phẳng phủ rêu. Lún mình dưới lớp rêu, nó mệt nhoài chờ đợi phản ứng của vết thương trên lưng vì sự ráng sức vừa qua, rồi thở dài nhẹ lòng khi không cảm thấy đau đớn gì.

Trên đỉnh cao này, những tháp canh mấp mô tách khỏi nhau bởi những đường nứt toang hoác, lưa thưa hoa dại mọc. Trên vách loáng thoáng hang hốc tối tăm, có cái tự nhiên có cái do những móng vuốt to dùng đào bới. Nền hang phủ đầy những lớp xương chồng chất, tàn tích của những con rồng bị giết từ thuở xa xưa. Chim chóc làm tổ nơi đã có lần là chỗ cư trú của loài rồng. Những con chim ưng, diều hâu, dại bàng hau háu nhìn Eragon, sẵn sáng tấn công để bảo vệ ổ trứng.

Eragon thận trọng lách mình qua vùng cấm địa bầy chim hung dữ, khép hai cánh tay, để không làm rớt một viên đá nhỏ; cũng không dám đi quá gần mé vực. Nếu chỉ sơ sẩy, nó sẽ rơi tõm xuống khoảng không thăm thẳm. Nhiều lần phải bò qua triền dốc cao, nhiều lần phải bay bổng lên bằng phép thuật, Eragon thấy bằng chứng cư dân loài rồng rải rác khắp nơi: từ những vết cào sâu hoắm tới những đống đá bị nung đến rã rời; những chiếc vảy xỉn màu cong queo lẫn trong đống xương vụn. Thậm chí Eragon còn đạp lên một vật sắc bén, khi nhặt lên quan sát, mới phát hiện ra đó là một mảnh vỏ trứng rồng màu xanh.

Pháo đài cao nhất nằm chính giữa, quay về hướng đông là hang động to rộng nhất. Và chính tại dây, Eragon đứng nhìn Saphira nằm co quắp trong một hốc vách, mặt hướng ra cửa hang. Các vách hang đầy những vết cháy sém còn mới, từng đống xương vụn tung toé khắp nơi, như mới có một cuộc chiến tại đây.

- Saphira.

Eragon lớn tiếng gọi vì con rồng cái vẫn khép kín tâm tưởng. Nó ngẩng đầu nhìn Eragon như nhìn một người xa lạ. Hai con ngươi cô ả mảnh như hai kẽ hở màu đen vì chói ánh mặt trời đang lặn sau lăng Eragon. Gầm gừ như một con chó hoang, ả nâng cánh, trở mình qua hướng khác, để lộ một vết cắt dài và sâu trên đùi. Tim Eragon thót lại.

Biết Saphira không để nó lại gần, Eragon bắt chước cách sư phụ cư xử với rồng vàng. Nó quỳ gối giữa đống xương vụn, chờ đợi.

Eragon qùy như vậy cho đến khi chân tê dại và hai tay cóng lại vì giá lạnh. Không thốt một lời hay có một cử chỉ nôn nóng, bực bội, vì nó vui lòng làm tất cả nếu có thể cứu được Saphira.

Mãi sau, Saphira mới truyền ý tưởng cho Eragon: "Em là một con ngốc.

"Đôi khi tất cả chúng ta đều tỏ ra ngốc nghếch".

"Nhưng khi biết mình ngốc, thật chẳng dễ chịu chút nào".

"Anh cũng đoán vậy".

"Em luôn biết mình phải làm gì. Khi cậu Garrow mất, em biết việc truy lùng Ra'zac là đúng. Khi ông Brom chết, em biết chúng ta nên tới Gil'ead, để từ đó đến với Varden. Và khi thủ lãnh Ajihad tử trận, em biết anh cần phải tuyên thệ cùng Nasuada. Em nhìn mọi chuyện một cách sáng suốt, nhưng lần này...chỉ riêng lần này, em đã lạc đường".

"Chuyện gì vậy, Saphira ?"

Thay vì trả lời, Saphira đổi đề tài, hỏi: "Anh có biết vì sao nơi này được gọi là Trụ đá trứng vỡ không?"

"Không".

"Vì trong chiến tranh giữa rồng và thần tiên, thần tiên đã lần theo dấu vết rồng tới đây, mở cuộc tàn sát trong khi rồng say ngủ. Họ phá huỷ hang ổ và trứng rồng tan nát thành từng mảnh bằng phép thuật. Ngày hôm đó, máu đổ như mưa xuống những khu rừng dưới kia. từ đó không còn một con rồng nào sống tại nơi này nữa".

Eragon im lặng. Lúc này, đó không phải là điều nó quan tâm. Nó chờ đợi Saphira cho biết tình trạng của cô ả hiện giờ. Nhưng Saphira lại chỉ bảo: "Anh nói gì đi chứ".

"Để anh chữa vết thương cho em nhé".

"Không cần đâu".

"Vậy thì anh sẽ im lìm như tượng cho đến khi rã thành cát bụi, vì từ em, anh cũng có sự kiên nhẫn của loài rồng".

Giọng Saphira cay đắng, tự mỉa mai mình: "Em thật xấu hổ khi phải thú thật điều này: lần đầu tiên thấy Glaedr, em đã vui mừng biết bao, vì ngoài Shruikan, dòng giốgn em vẫn còn một con rồng nữa. Trước kia em chưa từng thấy một con rồng nào khác, chỉ toàn từ những chuyện kể của ông Brom. Rồi em tưởng...em tưởng Glaedr cũng vui mừng vì sự tồn tại của em, như em mừng vì thấy anh ta".

"Nhưng...Glaedr cũng vui mừng mà".

"Anh không hiểu đâu. Em ngỡ anh ta sẽ kết bạn cùng em, để cùng nhau gầy dựng lại giống nòi..."

Một ngọn lửa sáng rực ào ra từ mũi Saphira khi nó hậm hực tiếp: "Em lầm. Anh ta không ưa em".

Eragon lựa lời an ủi: "Có thể vì Glaedr biết duyên số em đã gắn bó với một kẻ khác; có thể là một trong hai trứng còn lại. Vả lại, Glaedr cũng không thể kết đôi bạn với em một khih đã là sư phụ của em".

"Hoặc chỉ vì anh ta thấy em không đẹp".

"Saphira, không con rồng nào xấu xí cả. Em là một cô rồng xinh đẹp nhất".

"Em là một cô rồng ngu ngốc nhất thì cố".

Tuy nói vậy, nhưng cô ả nâng cánh, cho phép Eragon chăm sóc vết thương.

Eragon lê đôi chân tê dại đến bên Saphira. Nhìn vết thương đỏ au, nó mừng vì đã được đọc nhiều tài liệu về giải phẫu học của sư phụ.

Cú đánh – không biết bằng răng hay móng vuốt – xé toạc cơ đùi dưới lớp da, nhưng chưa đến nỗi để lộ xương ra ngoài. Khép bề mặt vết thương như Eragon đã nhiều lần làm trước đây không đủ, mà phải khâu thịt liền lại với nhau.

Những câu thần chú Eragon sử dụng dài dòng và phức tạp, thậm chí nó không thông hiểu hết, vì nó chỉ nhớ lại phần hướng dẫn bằng cổ ngữ: "Bùa chú này chỉ làm lành những vết thương nhẹ, xương không bị gãy, nội tạng còn nguyên". Mấy câu thần chú vừa thốt lên, Eragon sững sờ khi bắp thịt Saphira chuyển động dưới bàn tay nó: mạch máu, dây thần kinh, thớ thịt kết nối vào nahu, rồi nguyên lành như cũ. Nhưng vì vết thương hơi lớn, và trong tình trạng sác khoẻ lúc này, Eragon không dám dốc toàn nội lực, nó dựa thêm vào sức của Saphira.

Khi Eragon hoàn tất, cô em rồng lên tiếng: "Ngứa quá".

Dựa lưng vào vách đá lởm chởm, Eragon thở dài nhìn cảnh hoàng hôn bên ngoài: "Anh mệt tới không còn cử động nổi. Chắc em phải cõng anh xuống khỏi trụ đá này".

Saphira cựa mình, đặt đầu lên đống xương, nhỏ nhẹ: "Từ khi tới Ellesméra, em đã cư xử không phải với anh. Đáng lẽ lắng nghe, em đã làm ngơ những gì anh khuyên nhủ. Chính anh đã cảnh giác em về chuyện Glaedr, nhưng em kiêu ngại tới nỗi không nhận ra sự thật trong những lời nói của anh. Em đã làm anh thất vọng, không xứng dáng là một con rồng, và đã làm ô danh kỵ sĩ của anh".

"Không đâu, Saphira. Em chưa bao giờ làm anh thất vọng trong bổn phận. Có thể em đã phạm sai lầm, nhưng là một sai lầm chân thật, một sai lầm mà ai cũng có thể phạm phải, nếu đứng vào địa vị của em".

"Điều đó cũng chẳng thể bào chữa cho thái độ của em đã đối với anh".

Eragon cố nhìn vào mắt nó, nhưng Saphira nhìn đi chỗ khác cho đến khi Eragon vuốt cổ cô em rồng, ân cần nói: "Saphira này, thành viên trong một gia đình luôn phải tha thứ cho nhau, kể cả khi không hiểu nguyên nhân hành động của nhau...Cũng như anh Roran, em là gia đình anh. Không điều gì em làm có thể đổi thay được điều đó".

Saphira vẫn nín thinh. Eragon ngoáy tai cô ả: "Ê, nghe anh nói gì không?"

Ả húng hắng ho, gượng vui: "Mặt mũi nào em gặp lại Glaedr đây? Anh ta giận như điên...Trụ đá khổng lồ này còn phát run lên đừng nói gì em".

"Dù sao, em chỉ cần xin lỗi Glaedr là êm chuyện."

"Xin lỗi?"

"Ờ, thì đến gặp và bảo là em rất tiếc, là em mong được tiếp tục khoá huấn luyện, và là...chuyện kia sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Làm xong điều đó em sẽ thấy thoải mái hơn nhiều. Anh có kinh nghiệm rồi mà".

Eragon cười cười nhắc khéo vụ Saphira khuyên nó xin lỗi Arya.

Cô ả ậm ừ, tiến ra cửa hang, nhìn xuống rừng già bên dưới: "về thôi, sắp tối rồi".

Nghiến răng, Eragon phải ráng hai lần mới leo lên được cổ rồng.

"Eragon, cám ơn anh đã tới. Em biết, với cái lưng đau đó, anh đã phải liều mình lắm mới lên được tới đây".

Eragon vỗ vỗ lên vai Saphira: "Chúng ta lại là một chứ?"

"Chúng ta là một".
 
Chương 49: Quà tặng của rồng


Những ngày gần tới hội Huyết thệ là thời gian vừa tuyệt vời vừa khốn khổ nhất của Eragon. Vết thương sau lưng hành hạ nó hơn bao giờ hết, rút cạn sinh lực và sức chịu đựng , làm đầu óc nó mất cả tỉnh táo. Nhưng, bù lại, nó và Saphira chưa bao giờ gắn bó với nhau đến thế. Tâm tưởng chúng gắn kết, hoà hợp cùng nhau. Thỉnh thoảng Arya ghé thăm và cả ba cùng nhau đi dạo trong hoàng cung. Tuy nhiên cô không đến một mình, luôn có ông lùn Orik hoặc mèo ma Maud đi cùng.

Trong những buổi dạo chơi đó, Arya đã giới thiệu chàng kỵ sĩ và cô em rồng với những thần tiên xuất chúng: những chiến binh lừng lẫy nhất, những thi sĩ và hoạ sĩ danh tiếng...Cô cũng đưa chúng tới dự những buổi hoà nhạc trong rừng thông, thăm những kỳ quan tuyệt vời được giữ kín của Ellesméra.

Eragon tìm mọi dịp để chuyện trò cùng Arya. Nó kể cho cô nghe về những ngày lớn lên trong thung lũng Palancar, về anh Roran, cậu Garrow và mợ Marian, những chuyện về lão Sloan và bà vợ Ethlbert, về dân làng, và về tình yêu của nó đối với những rặng núi bao quanh Carvahall, những ánh lửa bập bùng trong những đêm đông. Nó kể về chuyện, có lần một ả cáo loạng quạng té vào thùng thuốc thuộc da của Gedric; người ta phải với nó lên bằng vợt. Kể về niềm vui trong canh tác, chăm lo tưới bón, và ngắm nhìn những mầm xanh nhú trên mặt đất...

Thỉnh thoảng Eragon cũng cóp nhặt một vài tâm tư thầm kín của Arya: tuổi thơ của cô, bạn bè, và những gì đã trải qua khi sống cùng quân cách mạng Varden. Điều này cô kể một cách thoải mái nhất, tả lại từng vụ đột kích, từng cuộc chiến đã tham gia, những tiếp tay xử lý trong những buổi hoà giải, những cuộc tranh luận cùng người lùn. Những sự kiện quan trọng trong thời gian cô lãnh trách nhiệm của một sứ thần.

Ở gần cô và Saphira, Eragon cảm thấy tâm hồn hoàn toàn thư thái, nếu không có một gợn nhỏ làm nó bận tâm đó là thời gian. Vì Arya đã quyết định rời Du Weldenvarden sau Lễ hội Huyết thệ, cho nên Eragon vừa sung sướng vì những thời khắc bên nhau, vừa lo sợ ngày lễ đã gần kề.

Cả kinh thành rộn ràng với những hoạt động thần tiên sửa soạn cho ngày lễ. Eragon chưa bao giờ thấy họ sôi nổi như vậy. Rừng cây được trang trí bằng cờ phướn và đèn lồng lộng lẫy màu sắc, nhất là chung quanh cây Menoa: Chỉ riêng Menoa, đèn lồng chi chít từ ngọn tới cành long lanh như những hạt mưa. Muôn hoa khoe hương sắc - với hàng loạt loài hoa mới rực rỡ tốt tươi. Trong những đêm khuya lơ khuya lắc, Eragon còn nghe tiếng thần tiên ca hát cho cây nghe.

Từ những thành phố rải rác trong rừng, mỗi ngày hàng trăm thần tiên kéo về Ellesméra, vì không vị nào muốn lỡ dịp dự lễ hội tuân thủ hiệp ước với rồng, trăm năm mới tổ chức một lần. Eragon đoán đa số họ đến để được gặp Saphira. Nó tự nhủ: "Dường như mình chẳng là cái thá gì, ngoài việc cúi đầu đáp lễ họ".

Những thần tiên vắng mặt vì nhiệm vụ, sẽ tham dự từ xa bằng những tấm gương đã được yểm phép.

Một tuần trước ngày lễ, Eragon và Saphira sửa soạn về, sư phục Oromis lên tiếng:

- Hai con phải tính toán sẽ đem gì tới dự lễ. Thầy đề nghị, tránh sử dụng phép thuật. Không ai tôn trọng một sản phẩm tạo bằng phép thuật, không tự tay các con làm ra. Thầy cũng đề nghị mỗi đứa phải làm một quà riêng. Đó là phong tục.

Trên chuyến bay về, Eragon hỏi Saphira: "Em có ý kiến gì không?"

"Có thể. Nhưng em muốn thử xem, nếu thành công sẽ cho anh biết"

Tước khi cô ả phong toả hình ảnh trong trí, Eragon thoáng bắt gặp hình ảnh một phiến đá trong lòng đất. Nó cười hỏi: "Không tiết lộ được chút xíu sao?"

"Lửa. Rất nhiều lửa".

Về tới gian nhà trên cây, Eragon lục lọi trong trí tất cả tài năng của nó có được, rồi ngẫm nghĩ: "Ngoài chuyện làm ruộng, mình có biết gì khác nữa đâu? Làm sao ganh đua với thần tiên bằng những đồ thủ công vớ vẩn của mình được. Tài năng của họ vượt trội, hơn hẳn cả những nghệ nhân tài năng nhất đế quốc Alagaesia"

"Nhưng anh có một gía trị không thần tiên nào có được".

"Ồ, lại thế nữa"

"Chứ sao. Tiểu sử, việc làm, hoàn cảnh của anh. Hãy sử dụng tất cả những điều đó mà tạo nên một tác phẩm, một tác phẩm độc đáo, lấy căn bản từ điều nào mà anh cho là quan trọng nhất, mang ý nghĩa sâu sắc nhất đối với anh".

Eragon trợn mắt, ngạc nhiên: "Anh không ngờ em rành nghệ thuật dữ vậy".

"Rành gì. Anh quên là buổi chiều anh bay vói Glaedr, em ngồi xem sư phụ vẽ và nghe giảng rất nhiều về nghệ thuật sao"

"A, hiểu rồi. Vậy mà anh quên".

Sau khi Saphira tách ra để tìm đề tài, Eragon đi quanh phòng ngủ, suy nghĩ về những gì cô ả mới nói. "Điều gì là quan trọng đối với mình? Saphira? Arya? Và tất nhêin là trở thành một Kỵ sĩ có tài. Nhưng làm sao mình có thể nói về những vấn đề mơ hồ như vậy được? Mình yêu cảnh đẹp của thiên nhiên, nhưng đề tài này thần tiên đã khai thác, đủ mọi góc cạnh rồi".

Eragon tự soi rọi vào tâm khảm, điều gì làm nó thương yêu, giận ghét sôi nổi nhất.

Ba điều hiện ra rõ ràng: vết thương gây ra bởi bàn tay Tà thần, nỗi lo sợ một ngày sẽ đụng độ với bạo chúa Galbatorix, và những bài ca của thần tiên làm nó u mê.

Niềm hân hoan chợt loé lên trong trí Eragon, khi những sự kiện kết nối thành một câu chuyện. Chân nhẹ hẫng, nó chạy hai bậc một lên thang, nào vào thư phòng. Ngồi trước bàn, Eragon lấy giấy bút, run rẩy viết:

Trong vương quốc bên bờ biển

Trong dãy núi phủ màu xanh...

Những dòng chữ tuôn tràn từ ngọn bút, làm Eragon cảm thấy dường như không phải nó đang sáng tác một câu chuyện, mà chỉ hành động như một máng dẫn, chuyển một câu chuyện đã hoàn tất vào đời. Eragon rùng mình xúc động trong cuộc phiêu lưu mới này, vì chưa bao giờ nó ngờ rằng có ngày nó có thể làm một nhà thơ.

Say mê viết, không ngưng nghỉ để ăn uống, Eragon xăn cả hai tay áo, tránh bị đầu bút lông thoăn thoát trên mặt giấy làm văng mực. Chăm chú tới nỗi, nó không còn nghe gì ngoài nhịp đập của những vần thơ; Không thấy gì ngoài mặt giấy, không nghĩ gì ngoài câu cú kết thành hàng rực lửa trong đầu.

Một tiếng rưỡi sau, Eragon buông cây bút khỏi bàn tay rã rời đẩy ghế đứng dậy. Trước mắt nó là mười bốn trang giấy trên bàn. Chưa bao giờ, trong một lần, nó viết nhiều đến thế. Biết rằng bài thơ này không thể nào so sánh với những bài của người lun hay thầ tiên, nhưng Eragon hy vọng bài thơ đủ chân thật để họ không chê cười sự cố gắng của nó.

Sau khi nghe ông anh ngâm nga, ả rồng gật gù: "Ôim Eragon anh thay đổi quá nhiều từ khi chúng ta rời khỏi thung lũng Palancar. Không còn có thể nhận ra cậu bé ngờ nghệch lần đầu tiên nhào vào cuộc trả thù được nữa. Cậu Eragon đó lmfa sao viết được một câu thơ theo kiểu thần tiên thế này. Em chờ xem anh sẽ trở thành một con người ra sao trong năm mươi hay một trăm năm nữa".

Eragon tủm tỉm: "Nếu anh sống dai đến thế".

- Không trau chuốt những chân thật

Oromis nói sau khi nghe Eragon đọc bài thơ. Eragon e dè hỏi:

- Vậy là ...thầy thích ạ?

- Đó là một chân dung xác thực về tinh thần con vào lúc này. Nghe được nhưng chưa phải là một tác phẩm. Tuy nhiên ta ngạc nhiên vì con có thể đọc thành lời bằng ngôn ngữ này. Không có rào cản nào trong việc viết tiểu thuyết bằng cổ ngữ. Cái khó là khi người ta đọc hay nói ra những điều đó – vì đòi hỏi người ta phải nói về những điều không thật, tưởng tượng, hư cấu - một vấn đề cấm kỵ trong cổ ngữ.

- Con đọc thành lời được vì con tin đó là sự thật

- Và cũng vì niềm tin đó, nên con viết có lực hơn, bài thơ đã làm thầy xúc động, Eragon thiếu hiệp ạ. Nó xứng đáng góp phần vào ngày hội Huyết thệ.

Lấy từ trong áo choàng ra cuộn giấy buộc băng, ông bảo:

- Trong này có viết rõ chín thế thủ. Những lễ hội của thần tiên gây áp lực mạnh mẽ lên những người thể trạng yếu hơn chúng ta. Nếu không thủ thế đề phòng con rất dễ bị cuốn vào mạng lưới phép thuật một cách nguy hiểm. Thầy đã từng chứng kiến điều này xảy ra. Cho dù đã phòng xa như vậy, con vẫn phải thận trọng đừng bị chao đảo vì những làn gió đầy mê hoặc. Hãy giữ mình, vì trong thời gian lễ hội, thần tiên chúng ta gần như hoá điên - một sư say cuồng tuyệt vời, tráng lệ - nhưng dù sao cũng vãn là ... điên.

***

Đêm khai mạc Agaetí Blodhren - hội Huýet thệ kéo dài trong ba ngày - , Eragon, Saphira và Orik đi cùng Arya tới Menoa.

Từng đoàn thần tiên đã tụ tập quanh cây, những mái tóc đen, tóc màu trắng bạc lung linh trong ánh sáng toả ra từ những ngọn đèn lồng. Dưới gốc cây, nữ hoàng Islanzadí đứng trên một cái rễ cao to như thân cây phong du. Trên vai bà là con quạ Blagden và lấp ló sau lưng là ma mèo Maud. Vị lão tiên Oromis trong bộ áo hai màu đỏ và đen, hiện diện cùng rồng và Glaedr. Eragon nhận ra những thần tiên ừng quen biết như Lifaen, Narí và cả...gã tiên trẻ tuổi đáng ghét Vanir.

Bầu trời mượt như nhung vô vàn những ngôi sao lấp lánh.

- Chờ đây nhé.

Arya nói, rồi len lỏi qua đám đông. Khi trở lại, cô dẫn theo bà thợ rèn Rhunnon. Bà ta lảng tránh người chung quanh như một con cú mèo, gật đầu đáp lễ Eragon và Saphira, rồi lên tiếng:

- Rất hân hạnh, chào Vảy Sáng và Eragon Khắc Tinh của Tà Thần.

Thấy Orik, bà chào hỏi bằng ngôn ngữ của người lùn, Orik hớn hở, sôi nổi chuyện trò bằng tiếng của mình. Eragon khom mình hỏi ông lùn:

- Bà Rhunnon nói gì vậy?

- Bà ấy mời tôi tới nhà để xem công việc của bà và thoả luận về nghệ thuật kim khí.

Mặt thoáng e sợ, ông lùn thì thầm:

- Eragon, chính Futhark truyền nghề cho ba ta bước đầu đó. Ông là một tổ nghiệp huyền thoại trong nghề rèn của chúng tôi. Ước gì tôi có thể gặp được ông.

Tất cả đều chờ đợi cho đến khi tiếng chuông báo nửa đêm vang lên và nữ hoàng Islanzadí đưa cánh tay trần, như ngọn giáo bằng cẩm thạch, chỉ lên mặt trăng thượng tuần. Ánh sáng, toả xuống từ những ngọn đèn lồng trên cây Menoa, tạo thành một hình cầu trắng dịu trên bàn tay bà. Bà bắt đầu đi dọc theo chiều dài của rễ, tiến tới thân cây khổng lồ, đặt quả cầu vào một cái hốc trên cành. QUả cầu tiếp tục toả sáng.

Eragon quay hỏi Arya:

- Lễ hội bắt đầu?

- Bắt đầu rồi đó. Và sẽ kết thúc khi ánh sáng ma trơi kia tự sát.

Thần tiên tản ra những lán tại tạm thời trong rừng, dành khoảng trống quanh gốc Menoa. Rồi thình lình họ xuất hiện cùng những chiếc bàn chất đầu những đĩa đồ ăn màu sắc rực rỡ. Đó là những tác phẩm, kết quả của những pháp sư đầu bếp, thể hiện theo ngoại hình phi phàm của họ.

Các thần tiên bắt đầu trỗi giọng trong veo như tiếng sáo, cất lên những bài ca du dương, say đắm dưới trời đêm huyền hoặc. Giọng hát kích thích những cảm giác, khơi dậy những tâm tư thầm kín và làm cháy bỏng những khát khao bằng một ma thuật lạ kỳ. Lời ca nhắc nhớ những chiến công hiển hách bằng ngựa, bằng thuyền trên những vùng đất đã bị quên lãng, những tiếc nuối vẻ đẹp đã không còn nữa. Tiếng ca hát như bảo phủ Eragon, làm nó chỉ còn một khao khát, miên man nhảy múa mãi mãi giữa các thần tiên. Bên cạnh nó, Saphira lim dim mắt, ư ử hát theo điệu nhạc

Những gì xảy ra sau đó Eragon không thể nào nhớ rành mạch nổi. Cứ như nó đã lên cơn sốt, mê rồi tỉnh, tỉnh rồi mê. Nó có thể nhớ rõ vài chi tiết, nhưng không thể nào sắp đặt theo thứ tự. Nó lẫn lộn ngày với đêm, vì bất kỳ giờ khắc nào, rừng cây vẫn âm u. Nó cũng không thể nhớ mình đã lơ mơ hay ngủ gục trong thời gian lễ hội...

Nó nhớ đã nối vòng, tay trong tay một tiên nữ có đôi môi mọng như đào chín, giọng nói ngọt ngào như mật ong và không khí thơm nồng hương tầm xuân...

Nó nhớ nhiều thần tiên vắt vẻo trên cành Menoa như bầy chim sáo. Họ gẩy những cây thụ cầm bằng vàng, ra những câu đố cho Glaedr trên mặt đất, thỉnh thoảng lại chỉ một ngón tay lên bầu trời, tạo ra những đốm lửa muôn màu kết thành những hình dạng khác nhau trước khi tàn lụi...

Nó nhớ đã ngồi ở một thung lũng tràn ngập cỏ xanh dựa vào Saphira, ngắm nhìn nàng tiên đã nắm tay nó, đứng hát trước những khán giả đầy say mê ngưỡng mộ:

Bay đi, hãy bay đi

Qua đồng cỏ núi non

Tới vùng đất xa xôi đá

Bay đi cứ bay đi

Đừng bao giờ trở lại cùng em nữa

Đi đi! Anh đang xa em

Chẳng bao giờ ta còn gặp lại

Đi đi! Anh đã xa em...

Riêng em...mãi mãi ngóng trông ngày anh trở về.

Nó nhớ những bài thơ dài vô tận, bài buồn thảm, bài tươi vui. Nó cũng được nghe trọn vẹn bài thơ của Arya. Nó thấy bài thơ của nàng thật sự hay. Bài thơ xuất sắc của nữ hoàng thì dài hơn. Tất cả thần tiên vây quanh lắng nghe...

Nó nhớ các thần tiên đã đem tới buổi lễ những vật thật diệu kỳ, nhiều thứ Eragon tưởng như không thể nào có được, dù là có sự hỗ trợ của phép thuật. Những món đồ chơi, tác phẩm nghệ thụat, vũ khí...Một thần tiên đem đến một quả cầu thuỷ tinh, chỉ vài giây, trong lòng quả cầu lại nở một bông hoa khác. Một thần tiên khác, từng chu du khắp Du Weldenvarden, đã diễn một màn tuyệt đẹp từ cuống họng ông nở ra một trăm đoá hoa cúc trắng.

Bà Rhunnon góp một chiếc khiên không bao giờ đập vỡ, một đôi găng tay dệt bằng sợi thép (cho phép người đeo cầm chì nóng chảy mà không làm bàn tay bị tổn thương), và một món điêu khắc rất tinh xảo, tượng con hồng tước đang bay bằng một khối sắt và được phủ một lớp sớn, khéo léo tới nỗi trông bức tượng y như một con chim sống.

Ông lùn Orik đem tới một kim tự tháp nhiều tầng, kết nối bằng năm mươi tám mảnh gỗ. Thần tiên thích thú nhìn ông thoăn thoắt tháo rời, rồi ráp lại kim tự tháp. Họ lầm rầm tán tụng: "Ông râu dài quả là bậc thầy. Tay xảo diệu chứng tỏ chí sáng suốt".

Nó nhớ sư phụ Oromis kéo nó ra khỏi đám đông, ấn nó ngồi xuống một thân cây và bảo:

- Con hãy ngồi đây một lúc cho bình tâm lại.

- Con có sao đâu, không cần phải nghỉ.

- Lúc này con không đủ bình tĩnh để phán đoán điều gì. Ngồi đây, cho đến khi nhớ lại những câu thần chú có thể làm con ổn định lại, lúc đó hãy tham gia cùng chúng ta.

Nó nhớ những sinh vật lạ lùng, thấp thoáng trong rừng sâu. Đa số là những loài thú đã bị thay hình đổi dạng vì thấm nhuần bùa chú trong Du Weldenvarden và bây giờ lân la ra tìm lương thực. Dường như chúng tìm nguồn dinh dưỡng từ phép thuật cuả thần tiên. Những đôi mắt rực sáng của chúng loang loáng ngoài vùng sáng của đèn lồng. Chỉ một con vật lộ nguyên hình, đó là con sói cái trong lốt người đàn bà áo trắng, mà Eragon đã có lần trông thấy. Nó lẩn lút sau bụi cây, nhe hàng răng trắng nhởn ra cười, mắt láo liêng nhìn khắp phía.

Nhưng những sinh vật đó không hoàn toàn là thú. Có cả những thần tiên thay hình đổi dạng vì nhiệm vụ hoặc vì mục đích làm đẹp một cách khác thường. Một vị, thân phủ toàn lông lốm đốm nâu, nhảy vọt qua đầu Eragon, rồi hí hởn nhảy nhót chung quanh. Đầu vị tiên này vừa hẹp vừa dài, hai tai như tai mèo, hai tay thõng tới gối vầhi tay có những đốm chai sần.

Sau đó, hai tiên nữ giống hệt nhau tự giới thiệu mình với Saphira. Khi họ yểu điệu đặt tay lên môi chào theo đúng phong tục, Eragon thấy mấy ngón tay của cả hai dính vào nhau bằng những màng mỏng. Trong lúc họ thì thầm "Chúng tôi từ xa tới", ba hàng mang hai bên cái cổ mảnh khảnh phập phồng, để lộ ra lớp thịt hồng bên dưới. Da họ loang loáng như bôi một lớp dầu và mái tóc phủ qua đôi vai hẹp.

Eragon gặp một thần tiên có lớp vảy như vảy rồng, trên đầu là một chỏm xương, một hàng gai dọc sống lưng và hai lỗ mũi liên tục loé ra những tia lửa.

Có những thần tiên khó lòng nhận dạng, nhìn họ thấp thoáng rung rinh như qua một màn nước; có vị khi bất động, khó có thể phân biệt với cây cối chung quanh; có những thần tiên cao lớn, mắt chỉ toàn một màu đen làm Eragon phát khiếp và khi giao tiếp với vật gì, họ xuyên qua vật đó như một chiếc bóng.

Thí dụ điển hình nhất cho hiện tượng này là cây Menoa - tiền thân là tiên nữ Linnea. Cây Menoa dường như cũng hối hả theo nhịp sống sôi động chung quanh. Dù không chút gió, cành lá luôn rung động, nhiều khi tiếng cây kẽo kẹt hoà nhịp cùng tiếng hát ca, một làn hơi dịu dàng khoan dung, nhân ái toả ra từ cây, bao phủ khắp vùng...

Và Eragon cũng nhớ cả hai lần khốn khổ vì cái lưng lên cơn đau tới nỗi làm nó phải kêu gào, rên rẩm trong bóng tối trong khi các thần tiên vẫn chìm đắm trong lễ hội chung quanh, chỉ có Saphira tới sát bên nó để canh chừng...

Ngày thứ ba của lễ hội, Eragon trình bày bài thơ của nó trước quần tiên với mấy lời mở đầu:

- Tôi không phải thợ rèn, cũng không có tài điêu khắc, nặn gốm, hội hoạ hoặc bất cứ tài năng nghệ thuật nào. Tôi cũng không thể thi thố phép thuật trước tài năng của quí vị. Vì vậy tôi chỉ còn có thể xin kể một câu chuyện với kinh nghiệm của chính mình, mặc dù tôi cũng không phải là một thi nhân.

Rồi với phong cách như ông Brom đã thường biểu diễn tại làng Carvahall, Eragon ngâm nga:

Trong vương quốc bên bờ biển

Trong rặng núi phủ màu xanh

Trong ngày cuối đông lạnh gía

Một con người được sinh ra

Chỉ để hoàn thành một việc:

Giết kẻ thù tại Durza

Trong vùng đất tối tăm hắc ám.

Nuôi dưỡng bằng tình thương

Lớn lên bằng mưu trí

Dưới những cây sồi già

Chàng đã chạy cùng nai

Đánh nhau cùng với gấu

Và học hỏi kinh nghiệm từ những người già

Giết kẻ thù tại Durza

Trong vùng đất tối tăm hắc ám

Áo quần rách nát

Chỉ với đá, khúc cây và xương

Chàng chiến đầu với quỉ ma hung ác

Giết kẻ thù tại Durza

Trong vùng đất tối tăm hắc ám

Năm tháng vụt qua

Chàng đã lớn

Toàn thân ngùn ngụt lửa căm hờn

Rồi...

Chàng tuổi trẻ gặp một vì tiên nữ

Thanh cao, rắn rỏi, khôn ngoan

Trong đôi mắt như hồ đêm thăm thẳm

Tương lai chàng rực rỡ hiện ra

Sát cánh bên nhau

Đôi bạn không còn lo sợ

Không ngại ngùng kẻ thù tại Durza

Trong vùng đất tối tăm hắc ám.

Eragon kể tiếp về hành trình của chàng tuổi trẻ tới vùng đất Durza, tìm gặp và chiến đấu với kẻ thù. Nhưng khi chiến thắng, chàng đã không tung ra lưỡi gươm chí mạng, vì kẻ thù đã bị đánh bại, chàng không còn lo sợ định mệnh khắt khe dẫn đến cái chết và không cần phải giết kẻ hung ác tại Durza nữa. Rồi trong một đêm hè, chàng trở về, rửa tay gác kiếm, thành hôn với người yêu. Cùng nàng, chàng đã sống những ngày hạnh phúc cho đến thuở bạc đầu. Nhưng:

Trong bóng tối trước bình minh

Người đàn ông đang yên ngủ

Kẻ thù lén lút mơ hồ xuất hiện

Đối thủ dũng mãnh của hắn

Giờ đã lực kiệt sức tàn

Người đàn ông cất đầu khỏi gối

Nhìn lên khuôn mặt tử thần

Lạnh lẽo trống không

Khuôn mặt của chúa tể đêm đen vô tận

Trái tim già nua từ lâu tĩnh lặng

Người đàn ông không hãi sợ Tử thần

Nhẹ như gió thoảng

Tử thần cúi đầu

Đón nhận linh hồn ngời sáng

Rồi...cải hai êm ả về cõi vĩnh hằng

Mãi mãi trong Durza

Trong vùng đất âm u tăm tối.

Eragon im lặng, cảm thấy những ánh mắt đang dồn về phía nó. Eragon vội vàng cúi đầu, tìm chỗ ngồi. Nó bối rối vì đã hé lộ quá nhiều về chính mình.

Dathdr, vị đại thần của thần tiên lên tiếng:

- Khắc tinh của Tà thần, kỵ sĩ đánh giá mình hơi thấp đó. Bài thơ hình như đã đủ chứng minh một tài năng nữa ở kỵ sĩ rồi đấy.

Nữ hoàng đưa tay lên, nói:

- Eragon công tử, tác phẩm của công tử sẽ được lưu giữ trong thư viện Cung Tialdarí để ai muốn cũng có thể thưởng thức được. Dù bài thơ như một chuyện ngụ ngôn, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu rỡhn những khó khăn, vất vả từ khi trứng của Saphira xuất hiện, điều đó có một phần trách nhiệm của chúng ta. Xin hãy đọc lại lần nữa, đểchúng ta tìm hiểu sâu xa hơn.

Eragon đành phải làm theo lệnh. Sau đó tới lượt Saphira giới thiệu tác phẩm của nó với thần tiên. Nó bay vút vào bóng đêm rồi trở lại với tảng đá đen, lớn gấp ba một người lớn, quắp chặt trong móng. Hạ xuống đất bằng hai chân sau, Saphira đặt tảng đá dựng đứng trên thảm cỏ trước mắt đám đông. Tảng đá bóng láng đã được nung chảy, tạo thành những đường cong cuốn lấy nhau, như những dợn sóng. Những nếp nhăn trên đá uốn vặn thành những kiểu mẫu đầy phức tạp, mắt nhìn khó có thể theo dõi đường nối từ đỉnh tới chân, chỉ thấy nét uyển chuyển từ vòng này sang vòng khác.

Cũng như thần tiên, lần đầu tiên Eragon được thấy tác phẩm nào của cô em rồng. Nó ngẩn ngơ hỏi: "Em làm cách nào vậy?'

"Liếm láp tảng đá nung". Mắt long lanh thích thú, cô ả nghiêng mình phun ngọn lửa dài, phủ một trụ màu vàng ánh lên tảng đá, những khía mỏng như giấy trên tác phẩm điêu khắc của nó sáng rực màu đỏ tía, và từ những khe, hốc bập bùng những ngọn lửa nho nhỏ. Gần đá dường như chuyển động dưới sức thôi miên của ánh sáng.

Thần tiên kinh ngạc vừa vỗ tay, nhảy vòng quanh tảng đá đầy thích thú, vừa rầm rầm la lớn:

- Tuyệt vời, Vảy-sáng ơi!

Eragon thì thầm:

- Đẹp quá, Saphira

- Đa tạ, tiểu huynh.

Tiếp theo là Glaedr. Rồng vàng đem ra một phiến gỗ sồi đỏ, khắc với chỉ một mòng, hình ảnh hoàng cung Ellesméra nhìn từ trên không. Đóng góp của lão tiên Oromis là cuộn giấy Eragon vẫn thường thấy sư phụ hí hoáy vẽ viết trong thời gian dạy nó. Nửa phần trên là bản chép bằng chữ cổ Cái chết của nhà hàng hải Vestarí, nửa phần dưới là bức hoạ toàn cảnh của một vùng đất thần tiên, mang hơi thở của một nghệ sĩ tài năng trong từng chi tiết.

Rồi Arya nắm tay Eragon dìu tới gâầ cây Menoa nói:

- Hãy nhìn lửa ma chơi đang lụi dần. Chúng ta chỉ còn vài tiếng nữa trước bình mình, để rồi lại trở về với một thế giới đầy những lý lẽ lạnh lùng.

Các thần tiên tụ tập quanh cây, mắt sáng ngời chờ đợi

Nữ hoàng Islanzadí đường bệ bước dọc theo một rễ cây rộng lớn như một con đường, rồi đứng trên một khối u của cay, bà nhìn xuống thần dân đang ngóng đợi:

- Theo phong tục và theo thoả hiệp sau chiến tranh , với sự đồng ý giữa nữ hoàng Tarmunora cùng vị kỵ sĩ Eragon đầu tiên và rồng trắng của ông - đại diện cho loài rồng, vì tên rồng trắng không thể nói ra bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, nên chúng ta không thể nêu ra đây được. Ta lập lại, sau chiến tranh, khi số mệnh của thần tiên và loài rồng gắn kết cùng nhau, chúng ta có lệ quây quần để vinh danh ngày huyết thệ với những bài cam điệu múa, hoa trái...Nhiều năm trước, lần cuối cùng lễ hội này đã diễn ra trong tình trạng tuyệt vọng của chúng ta. Kể từ đó, kết quả có phần nào tiến triển khả quan hơn, là nhờ nỗ lực của chúng ta, người lùn và quân cách mạng Varden. Nhưng...đất nước Alagaesia thì vẫn sống dưới bóng tối của Wyrdfell (phản đồ), và chúng ta vẫn còn đang sống trong nỗi hổ thẹn vì chưa làm tròn nhiệm vụ với loài rồng. Trong số các kỵ sĩ tiền bối,c hỉ còn lại lão tiền bối Oromis và Glaedr. Brom và các vị khác đã vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên,chúng ta được phép đón mừng niềm hy vọng mới trong hình hài của Eragon và Saphira. Đó là lý do chính đáng và hợp lý để họ hiện diện tại đây thời điểm này, để chúng ta xác nhận lại lời thề giữa ba loài: thần tiên, rồng và loài người.

Theo một hiệu lệnh của nữ hoàng, thần tiên dọn một khoảng trống rộng dưới gốc Menoa. Chung quanh chu vi đó, họ cắm một vòng những cái gậy có gắn đèn lồng, đồng thời các nhạc công sửa soạn trống kèn đàn sáo.

Arya hướng dẫn Eragon tới ngồi giữa nàng và sư phụ Oromis. Saphira và Glaedr ngồi hai bên như hai bức tượng bằng đá quý.

Quay qua Eragon và Saphira, Oromis căn dặn:

- Hai con phải thận trọng, vì đây là thời khắc quan trọng nhất để trở thành kỵ sĩ thừa kế.

Khi các thần tiên đã ổn định chỗ ngồi, hai tiên nữ tiến ra giữa, đứng quay lưng vào nhau. Họ đều tuyệt đẹp và giống hệt nhau, chỉ từ mái tóc: một tóc đen thắt bím, một tóc sáng ngời màu bạc.

Oromis thì thầm:

- Hai tư thế, Iduna và Neya.

Con quạ trắng Blagden trên vai nữ hoàng the thé kêu lên: "Wyrda!".

Cùng một lúc, hai tiên nữ tư tế đưa tay lên, mở khuy áo cổ. Hai áo choàng trắng rơi trên mặt cỏ. Dù không một mảnh vải trên người, hưng toàn thân họ được phủ kín bằng một hình rồng xăm lóng lánh. Hình xăm bắt đầu từ đuôi rồng, cuốn quanh mắt cá chân trái Iduna, tiếp tục lên đùi, tới khắp thân mình, rồi vết xăm lấn qua lưng Neya, chấm dứt bằng đầu rồng trên ngực của cô. Mỗi chiếc vảy rồng là một màu khác nhau; màu sắc biến ảo làm hình xăm trông như một cầu vồng.

Bàn tay, cánh tay hai tiên nữ cuốn lấy nhau, làm thân hình con rồng, uốn lượn từ thân này qua thân kia, không hề ngắt đoạn. Cả hai nâng một chân trần, đạp mạnh xuống đất, vang lên một tiếng "thịch".

Sau tiếng "thịch" thứ ba, tiếng trống dạo dầu, rồi sau tiếng "thịch" thứ tư, tiếng thụ cầm vang lên hoà cùng tiếng sáo du dương.

Lúc đầu khoan thai, rồi rộn ràng theo tiêng nhạc, Iduna và Neya bắt đầu nhảy múa, giữ nhịp bằng đôi chân nện lên mặt đất sôi nổi đến nỗi, dường như không phải họ, mà chính là con rồng trên thân họ đang chuyển động. Họ xoay vòng xoay vòng và con rồng liên tục bay lượn trên làn da họ.

Rồi cả hai cất giọng cao vút, mạnh mẽ hơn cả tiếng trống đàn. Những ca từ của mộ lời thần chú phức tạp, Eragon không thể nào hiểu nổi. Rồi như trận gió báo trước cơn giông, các thần tiên hoà giọng vào khúc ca bùa chú. Họ hát cùng một ngôn ngữ, cùng một ý chí, cùng một tâm niệm. Eragon không hiểu, nhưng chợt thấy nó cũng đang nhép miệng hát theo. Nghe giọng Glaedr và Saphira ư ử hoà vào nhau, một mối xúc động làm run rẩy thấu xương, và Eragon thấy bầu trời thêm lung linh huyền ảo.

Càng lúc càng nhanh hơn, Iduna và Neya xoắn tít lấy nhau cho đên khi hai đôi chân của họ chỉ còn là những bóng mờ loáng thoáng, tóc bay phất phới và toàn thân bóng nhẫy mồ hôi. Tiếng nhạc vút cao tột đỉnh, hai tiên nữ quay cuồng với một tốc độ phi phàm. Rồi một ngọn lửa chạy dọc chiều dài, từ đầu tới đuôi, trên hình ảnh rồng xăm. Lúc đầu Eragon tưởng bị ảo giác dánh lừa, nhưng rõ ràng...con rồng đang chớp mắt, vỗ cánh và xiết mạnh những cái móng.

Một tia lửa phun ra từ mõm con rồng, trong khi nó phóng mình, tách ra khỏi làn da của hai tiên nữ, rồi vút bay cao, bay lượn. Những chóp đuôi con rồng, như một cuống rốn kéo dài, vẫn gắn trên thân mình Induna và Neya dưới mặt đất. Con quái khổng lồ hướng lên mặt trăng đen ngòm, rống lên tiếng kêu hoang dã của quá khứ xa xăm ngàn ngàn năm trước, rồi quay xuống nhìn các thần tiên đang quần tụ bên dưới.

Khi tia nhìn hung hãn của con rồng hướng về nó, Eragon biết ngay đây không phải ma quỷ hiện hình, mà là một vật có tri giác đã được phép thuật ràng buộc và trợ lực. Tiếng ư ử của Glaedr và Saphira lên cao mãi, cho đến khi Eragon không còn nghe được âm thanh nào khác nữa. Trong khi đó, bóng ma của nòi giống chúng bay vòng trên đầu thần tiên, lướt qua họ bằng đôi cánh ảo. Thình lình con rồng ngừng trước Eragon, như muốn nhận chìm nó xuống bằng đôi mắt đảo vòng liên tục. Theo bản năng, Eragon vội đưa cao tay phải, bàn tay nó rần rần như kiến bò. Trong trí nó vang lên một giọng nói của lửa: "Quà tặng của chúng ta, để mi hoàn tất những việc phải làm".

Con rồng cúi đầu, chạm mõm vào giữa dấu hiệu gedway ignasia trên bàn tay Eragon. Một tia lửa nhảy nhót giữa người và rồng. Toàn thân Eragon rắn lại khi một nguồn hơi nóng ráng sức tuôn trào vào cơ thể nó. Mắt nó tràn ngập hai màu đen và đỏ, và vết thẹo trên lưng bỏng rát như bị đóng dấu bằng sắt nung. Để được an toàn, Eragon chìm sâu vào nội tâm, nhưng chỉ thấy bóng tối mịt mùng xiết chặt mà nó thì không còn đủ sức chống lại nữa.

Sau cùng, nó lại nghe tiếng lửa nói: "Quà chúng ta tặng mi".
 
Chương 50: Dưới bầu trời đầy sao


Eragon thức dậy một mình trong ngôi nhà cây. Nó mở mắt nhìn mái trần chạm khắc. bên ngoài trời đêm vẫn tối đen và những âm thanh của thần tiên vui chơi ca hát vẫn mơ hồ vọng lại.

Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, Saphira bỗng chuyển vào tâm tưởng nó hình ảnh cô ả đang đứng bên nữ hoàng Islanzadí dưới cây Menoa. Giọng Saphira đầy lo lắng: "Anh sao rồi?".

"Anh...khoẻ. Lâu lắm rồi anh mới cảm thấy khá như thế này. Anh bị thế này..."

"Chỉ khoảng một giờ thôi. Đáng lẽ em ở bên anh, nhưng họ cần có sư phụ, Glaedr và cả em nữa, để hoàn tất buổi lễ. Anh mà thấy phản ứng của thần tiên khi anh bị ngất mới biết họ hốt hoảng đến thế nào. Vì chưa bao giờ xảy ra chuyện tương tự như thế trong lễ hội".

"Em là nguyên nhân phải không, Saphira ?".

"Đó không phải việc riêng em hay Glaedr. Đó là quá khứ của nòi giống em được tạo nên bởi phép thuật của thần tiên, để ban phép cho anh được có những tài năng của loài rồng. Vì anh là niêm hy vọng duy nhất có thể tránh cho dòng giống chúng em khỏi bị tiêu diệt".

"Anh không hiểu."

"Nhìn vào gương đi, rồi nghỉ ngơi cho khoẻ. Em sẽ về gặp anh khi trời sáng".

Eragon đứng dậy vươn vai, kinh ngạc vì cảm thấy toàn thân hầu như hoàn toàn mạnh khoẻ. Vào phòng tắm, nó lấy cái gương vẫn dùng dao cạo mặt, đến gần nguồn sáng của ngọn đèn lồng.

Nó đờ người sửng sốt.

Dường như một số thay đổi thể xác, qua thời gian gắn bó với Saphira, mà nó từng biết, giờ đã hoàn toàn trọn vẹn biến nó thành một kỵ sĩ trong lúc nó mê man. Mặt nhẵn nhụi và có góc cạnh như mặt thần tiên, tai nhọn, mắt xếch, da trắng như thạch cao và dường như toả sáng.

"Trông mình cứ như một ông hoàng con". Chưa bao giờ Eragon cho mình là một con người bảnh bao, nhưng lúc này chỉ một từ chính xác để tả dung mạo nó: "Đẹp". Tuy nhiên nó vẫn chưa hoàn toàn là một thần tiên. Cằm nó mạnh mẽ hơn, lông mày rậm hơn, mặt lớn hơn. Trông nó bảnh trai hơn bất kỳ người bình thường nào, nhưng lại thô kệch hơn bất kỳ thần tiên nào.

Với những ngón tay run rẩy, Eragon vòng tay ra sau lần mò tìm vết thương. Không có gì.

Eragon lột áo, quay mình trước gương, nhìn lưng. Lưng nó nhẵn nhụi như trước trận chiến tại Farthen Dur. Eragon vuốt bàn tay lên chỗ lưng từng mang thương tích của Tà-Thần mà nước mắt ứa ra. Nó biết từ nay vết thương không bao giờ còn hành hạ nó được nữa.

Không chỉ dấu vết tàn bạo đó, mà tất cả những vết trầy vết sẹo trên da thịt nó đều biến hết. Toàn thân nó không một tì vết, như một đứa trẻ sơ sinh. Eragon tìm kiếm trên cườm tay, nơi nó cắt phạm khi mài lưỡi hái cho cậu Garrow, những vết trầy trên háng vì lần đầu bay cùng Saphira...Tất cả đều không còn lại gì. Trong một thoáng, Eragon thấy nhớ những vết tích đó như những kỷ niệm trong đời, nhưng rồi nó nhận ra, từ nay tất cả những gì làm nó đau khổ, dù nhỏ tới đâu, đều được chữa lành.

"Mình đã trở thành con người mình mong muốn". Vừa nghĩ Eragon vừa ngây ngất hít mạnh một hơi.

Ném cái gương lên giường, Eragon lấy bộ đồ đẹp nhất: Áo màu tía may chỉ vàng, thắt lưng đính ngọc trắng, đôi ủng của thần tiên tặng, hai tấm cuốn cánh tay bằng da, quà tặng của người lùn.

Xuống khỏi cây, Eragon lang thang dưới bóng tối của Ellesméra , quan sát các thần tiên đang say sưa chè chén trong không khí háo hức của trời đêm. Không ai nhận ra nó, dù vẫn chào hỏi như một trong những đồng loại và mời nó chung vui cùng họ.

Eragon như bồng bềnh trong trạng thái tinh thần phấn khích. Giác quan như hoàn toàn mới mẻ: Âm thanh, mùi vị, hình ảnh, cảm giác ào ạt xâm nhập vào nó cùng một lúc. Nó có thể nhìn xuyên qua bóng tối; chỉ chạm vào chiếc lá, nó có thể đếm từng sợi tơ đang mọc; một mùi thoảng qua nó có thể nhận ra hơi hướm của một con rồng hay một con chồn. Nó cũng có thể nghe tiếng chuột nhắt di chuyển dưới bụi cây, tiếng một mảnh vỏ cây rơi xuống đất. Tiếng tim đập trong lòng ngực, Eragon nghe lớn như tiếng trống.

Vơ vẩn đi qua cây Menoa, nó ngừng lại nhìn Saphira giữa lễ hội, nhưng không để ai trong vành đai đó nhìn thấy.

Saphira hỏi: "Đi đâu vậy, tiểu huynh?".

Thấy Arya đứng dậy, đi qua đám đông thần tiên, rồi như một nữ thần của núi rừng, cô lướt nhẹ dưới những tàn cây, Eragon vừa bước theo Arya vừa trả lời Saphira: "Anh đi giữa ánh sáng và bóng tối".

Eragon theo dấu Arya bằng hương thơm từ mùi lá thông cô toả ra, bằng bước chân êm nhẹ như lông hồng trên mặt đất và bằng sự xao xuyến trong không khí trên lối cô lướt qua.

Eragon gặp cô đang đứng sát bìa rừng, ngước mặt nìn sao. Khi nó tiến lại gần, Arya quay lại. Eragon cảm tưởng ánh mắt cô như mới gặp nó lần đầu. Mắt cô mở lớn khi thì thầm hỏi:

- Chàng đó ư, Eragon?

- Tôi đây.

- Họ đã làm gì chàng vậy?

- Tôi không biết.

Cùng nhau, họ tiến vào khu rừng rậm, loáng thoáng vọng lại tiếng đàn giọng hát từ lễ hội.

Sự thay đổi thể xác lẫn tinh thần, Eragon có thể nhận thức từ tiếng thì thầm của vải vóc trên da thịt Arya, đến lớp dầu phủ nhẹ trên mi mắt làm chúng cong vút và long lanh như những cánh hoa đem ướt nước mưa.

Cả hai ngừng lại bên bờ con suối nhỏ, nước trong vắt, mơ hồ ẩn hiện trong vùng ánh sáng nhạt nhoà. Chỉ có dòng nước rì rào chảy qua những tảng đá chứng kiến sự hiện diện của họ lúc này. Chung quanh họ, thông mọc san sát, cành lá đan nhau, tạo thành một hang động biệt lập với thế giới bên ngoài. Nơi đây dường như một cõi bất diệt, được che chở bởi phép màu, thoát khỏi hơi thở khắc nghiệt của thời gian.

Trong chốn tách biệt bí ẩn này, Eragon chợt cảm thấy gần gũi với Arya, tất cả nỗi niềm say đắm đam mê cuồn cuộn trong lòng. Nó ngây ngất với nguồn sinh lực dồi dào trong huyết quản – như nguồn phép thuật bất kham tràn ngập khu rừng – không còn e dè, Eragon lên tiếng:

- Cây cao vời vợi, trăng sáng long lanh và ...nàng, ôi công nương Arya, nàng đẹp tuyệt vời.

Nếu trong một tình huống bình thường khác, Eragon đã cho hành động của nó là điên rồ, nhưng trong cái đêm kỳ lạ này, thái độ của nó dường như lại hoàn toàn tỉnh táo.

- Eragon ...

- Arya, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được nắm bàn tay nàng. Tôi sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất. Tôi sẽ xây dựng lâu đài dâng nàng chỉ với hai bàn tay trần này. Tôi sẽ...

- Xin chàng đừng theo đuổi tôi nữa. Hãy hứa đi, Eragon, không thể được đâu. Ta già rồi, chàng còn trẻ. Điều đó chẳng thể nào có thể đổi thay.

- Nàng không có chút cảm tình nào với tôi sao?

- Cảm tình ta dành cho chàng, không gì khác hơn là tình bằng hữu. Ta cám ơn chàng đã giải thoát ta ra khỏi Gil'ead và rất vui được là bạn của chàng. Tất cả chỉ có vậy thôi....hãy cố quên tình cảm đặc biệt chàng dành cho ta, chuyện đó chỉ làm chàng thêm đau lòng mà thôi. Hãy tìm người cùng trang lứa để kết đôi bạn trăm năm.

Hai mắt ứa lệ, Eragon hỏi:

- Sao nàng có thể tàn nhẫn với tôi đến thế?

- Tôi không tàn nhẫn mà chỉ mong điều tốt cho chàng. Chúng ta sinh ra không để dành cho nhau.

- Hãy cho tôi quá khứ của nàng, tôi sẽ có đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết giống như nàng vậy.

Arya ngẩng cao đầu. mặt cô cứng rắn, uy nghi và sáng lên dưới ánh trăng.

- Nghe cho kỹ, Eragon. Điều này không thể, không bao giờ có thể xảy ra. Nếu chàng không tự chủ, tình bạn của chúng ta sẽ không còn. Vì sự xúc động của chàng không có lợi gì, chỉ làm cản trở nhiệm vụ của chúng ta. Tạm biệt, Khắc-Tinh của Tà-Thần.

Cô cúi chào rồi đi khuất vào Du Weldenvarden.

Nước mắt Eragon lã chã tuôn rơi xuống mặt rêu, như những hạt ngọc long lanh trên tấm chăn bằng nhung xanh. Ngồi trên một thân cây, Eragon như tê dại, hai tay ôm mặt khóc. Khóc vì mối tình với Arya đã chết, khóc vì đã làm cho cô xa cách nó hơn. Eragon ngồi như thế cho đến khi Saphira mon men lại gần: "Ôi, tiểu huynh, sao anh tự làm khổ mình như vậy? Anh đã biết trước chuyện gì xảy ra, nếu anh ngỏ lời với cô ta rồi mà".

"Nhưng anh không ngăn mình được"

Nó choàng tay ôm Saphira, đu đưa mình trên thân cây, cố kìm tiếng nức nở. Phủ cái cành ấm áp lên Eragon, Saphira kéo ông anh sát mình nó, như chim ưng mẹ ủ chim con. Eragon dựa vào cô em rồng, co mình nằm im cho tới khi trời hừng sáng và Lễ-hội Huyết-thệ dần tan.
 
Chương 51: Ghé bờ


Roran đứng trên boong Trăn đỏ, khoanh tay trước ngực, hai chân dang rộng, giữ thăng bằng trên chiếc xà lan chao đảo. Gió biển lồng lộng thổi râu tóc anh rối bù.

Đứng bên anh, Clovis đang điều khiển bánh lái. Người thủy thủ dạn dày nắng gió chỉ tay về phía bờ, bóng những con hải âu phủ đầy đỉnh đá trên ngọn đồi thoai thoải đổ xuống biển.

- Teirm ở ngay đằng sau đỉnh đá đó.

Eragon nheo mắt trước ánh ngắng chiều hắt lên từ mặt nước:

- Vậy thì chúng tan phải ngừng lại đây.

- Anh chưa muốn vào thẳng thành phố sao?

- Chúng tôi sẽ không đi tất cả một lần. Bảo Torson và Flint cho xà lan ghé vào bờ kia. Trông có vẻ cắm trại được dấy.

Clovis nhăn mặt:

- Hy vọng tối nay có chút đồ ăn nóng.

Roran thông cảm với ông ta: đồ ăn tươi đem theo từ Narda đã hết từ lâu, chỉ còn toàn thịt, rau, cá muối.Thỉnh thoảng dân làng làm thịt một con vật hiếm hoi còn sống lại, hay săn được khi ghé đất liền.

Giọng ồ ề của Clovis vang vang trên mặt nước, gào sang thuyền trưởng của ahi xà lan kia. Khi lại gần nhau, ông ta ra lệnh ghé bờ. Tiếng phàn nàn rầm rầm nổi lên, vì từ thuyền trưởng tới thuỷ thủ đều mong sớm đến Teirm trong ngày, tiêu xài cho đã số lương mới lãnh trong thành phố sầm uất rực rỡ đó.

Sau khi ba xà lan cặp bãi, Roran len lỏi trong đám đông giúp dân làng dựng lều bạt, chuyển đồ, lấy nước từ con suối nhỏ...Khi tất cả ổn định, anh tới nói mấy lời đồng viên Morn và Tara, vì thấy họ có vẻ chán nản thất vọng. từ khi rời thung lũng Palancar, vợ chồng ông chủ quán rượu này dường như né tránh Roran. Còn hầu hết dân làng tình trạng đều khá hơn khi mới tới Narda rồi bị nhồi nhét lên mấy chiếc xà lan này. Nhưng những lo âu và hoàn cảnh khắc nghiệt làm họ chưa thể hoàn toàn hồi phục tốt như Roran mong muốn.

Thane tiến lại Roran hỏi:

- Cây-búa, mời anh dùng bữa tối với chúng tôi, được chứ?

Roran vui vẻ nhận lời. Anh vừa quay đi, đụng đầu ngay với Felda Chị là vợ của Byra, người đã bị lão Sloan ám sát.

Felda hấp tấp cúi đầu chào, rồi nói:

- Tôi nói chuyện với cậu được không, Roran?

- Chị biết là tôi luôn sẵn sàng mà.

Mấy ngón tay vê vê những sợi rua khăn choàng, lén nhìn về căn lều của mình, Felda ngập ngừng:

- Cám ơn cậu. Tôi muốn nhờ cậu một việc. Đó là...chuyện thằng Mendel nhà tôi...

Mandel là con trai lớn của Felda, Roran đã chọn nó cùng đi trong chuyến đi định mệnh - lần anh đã phải giết hai người lính gác tại Narda. Thằng nhỏ tỏ ra rất dễ thương, cũng như trong suốt mấy tuần lễ trên chiếc Edeline, nó đã học hỏi về cách điều khiển xà lan.

Felda tiếp:

- Càng ngày nó càng thân thiết với đám thuỷ thủ, lại còn đổ đốn bài bạc nữa. Nó đánh xúc xắc với cái đám vô kỷ luật đó. Không chơi bằng tiền đâu, vì chúng tôi làm gì có tiền, nhưng bằng những đồ lặt vặt. Toàn những thứ cần thiết.

- Chị cấm nó chưa?

- Từ khi cha nó chết nó chẳng coi tôi ra gì, không như trước kia đâu. Càng ngày nó càng cứng đầu cứng cổ, liều lĩnh...

"Tất cả chúng ta đều liều lĩnh mát rồi". Roran thầm nghĩ, nhẹ nhàng hỏi:

- Chị muốn tôi làm gì?

- Cậu luôn tốt với Mandel, nó rất quý cậu. Nếu cậu nói, chắc nó sẽ nghe.

- Được, tôi sẽ thử bảo nó xem sao. Nó đã thua những gì rồi?

- Toàn là thực phẩm. Nhưng...có lần nó liều đến nỗi đổi cả sợi dây chuyền của bà ngoại, lấy một con thỏ để đặt cửa xúc xắc

- Cứ yên tâm đi, chị Felda. Tôi sẽ thu xếp sớm chuyện này.

- Cám ơn cậu nhiều lắm.

Felda cúi chào, rồi len lỏi qua mấy cái lều, để Roran đứng lại ngẫm nghĩ những lời chị vừa nói.

Lơ đãng gãi bộ râu rậm rì, Roran vừa bước đi vừa suy tính. Phải tách rời thằng Mandel khỏi đám thuỷ thủ. Anh còn quan tâm đến một điều: suốt chuyến đi, một thuỷ thủ trên tàu Torson là Frewin tỏ ra rất thân thiết với Odele- bạn của Katrina. Những khi mình không ở gần Clovis, rất có thể ông ta và đám thuỷ thủ dò la chuyện từ Odele.

Không muốn để mọi người chú ý, Roran lẳng lặng bảo những người tin cẩn nhất, theo anh tới lều của chú Horst.

Trước mặt họ, anh lên tiếng:

- Năm ngượi đã đwojc chọn sẽ lên đường ngay, khong chần chừ thêm được nữa. Chú Horst sẽ thay tôi, khi tôi vắng mặt. Phải nhớ, việc quan trọng nhất của các vị là bảo đảm sao Clovis không bỏ đi với mấy xà lan hoặc làm hư hỏng chúng. Đó là phương tiện duy nhất để chúng ta đến được Surda.

Orval góp ý:

- Ngoài ra, phải thật thận trọng, đừng để chúng ta bị phát hiện

- Chính xác. Nếu không một ai trong chúng tôi trở lại, coi như chúng tôi đã bị bắt. Hãy lên xà lan, giong buồm tới thẳng Surda. Không được ngừng lại Kuasta mua bán gì hết; rất có thể quân triều đình phục kích chúng ta tại đó.

Khi mọi người sửa soạn, Roran lên Trăn đỏ, vào buồng của Clovis, cho ông ta biết kế hoạch. Nghe Roran nói xong, Clovis hỏi:

- Chỉ có năm người đi thôi sao?

Roran trừng trừng nhìn cho đến khi làm ông chủ tàu bối rối rồi mới trả lời:

- Đúng vậy. và tôi mong, khi trở lại, tôi còn thấy nguyên vẹn ba chiếc xà lan và các người của ông tại đây.

- Sau khi thương lượng với nhau, anh còn nghi ngờ bụng dạ tôi sao?

- Tôi không nghi ngờ gì hết, chỉ cho ông biết tôi muốn gì thôi. Tiền thưởng quá lớn, nhưng nếu ông phản bộ chúng tôi, là đồng nghĩa với việc ông đã đẩy tất cả dân làng vào chỗ chết.

- Tôi biết điều đó mà

Clovis lẩm bẩm, tránh ánh mắt Roran

- Trong khi tôi vắng mặt, người của tôi sẽ tự bảo vệ họ. Còn một hơi thở, họ vẫn không để bị bắt, bị lừa hay bị bỏ rơi đâu. Nếu chẳng may, điều bất hạnh đổ xuống đầu họ, tôi sẽ báo thù, dù phải lội bộ hàng ngàn dặm để chiến ddaasu với chính Galbatorix. Hãy lưu ý đến lời tôi, ông Clovis, vì tôi chỉ nói bằng sự thật.

- Chúng tôi không quá tha thiết với Galbatorix như các anh tưởng đâu.

Roran vui vẻ cười:

- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis

Roran vui vẻ cười:

- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis

Roran vừa nâng chốt cửa, Clovis bỗng hỏi:

- Khi tới được Surda rồi anh sẽ làm gì?

- Chúng tôi sẽ...

- Không pảhi chúng tôi. Anh kìa, anh sẽ làm gì, Roran? Tôi đã nghe về anh. Dường như anh cũng là người đàng hoàng, tôi không quan tâm đến những gì anh đã đối xử với tôi đâu. Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng lẽ tới Surda, anh sẽ buông cây búa để cầm lại tay cày?

Bàn tay Roran nắm mạnh chốt cửa đến trắng nhợt:

- Sau khi đưa dân làng an toàn đến Surda, tôi sẽ...đi săn...

- A ha! Đi săn lùng người đẹp tóc đỏ của anh? Tôi đã nghe loáng thoáng chuyện này. Nhưng...

Roran bước ra, sạp mạnh cửa. Để cơn giận bùng lên trong thoáng chốc – và anh cảm thấy thích thú cảm giác đó - rồi dằn xuốgn, bước tới lều cảu Felda.

Mandel đang phóng con dao săn vào một thân cây. "Felda nói ddungs, phải có người kèm cặp ông nhóc này", Roran nghĩ rồi lên tiếng:

- em chỉ tốn thì giờ vô ích thôi, Mandel

Chú nhóc giật mình quay lại:

- Vì sao?

- Vì trong tác chiến thật sự, thay vì làm kẻ thù bị thương, không chừng em bị lòi con mắ. Phải nắm chính xác khoảng cách từ mình tới mục tiêu chứ...

Roran nhún vai tiếp:

- Tốt hơn là nên tập bằng sỏi trước.

Chú nhóc bướng bỉnh cãi:

- Gunnar kể với em , một tay ở Cithrí, có thể phóng dao hạ ngon ơ một con quạ đang bay. Mười lần trúng tam.

- Còn hai lần kia để giết em. Trong chiến trận, không ai ngu đến nỗi phóng vũ khí của mình đi, nếu không thật sự cần thiết. Thôi ây giờ thu dọn đồ đạc của em, mười lăm phút nữa đến gặp tôi trên đồi, bên kia con suối. Tôi đã quyết định cho em đi cùng tới Teirm.

- Tuân lệnh.

Mandel toét miệng cười, hí hởn chạy vội đi thu xếp hành lý. Roran vừa quay ra, gặp Felda bế đứa con gái út bước vào. Chị nhìn Roran, nhìn Mandel đang rối rít trong lều, nói nhỏ:

- Trông nom nó giùm tôi, Cây-búa.

Đặt con gái xuống đất, chị chạy vào lều, phụ với Mandel.

Roran là người dầu tiên lên đồi. Ngồi trên tảng đá, nhìn xuống biển, anh tính toán những việc trước mắt phải làm. Khi Loring, Gertrude, Birgit và câu con trai Nolfavrell tới nơi, Roran nhảy xuống khỏi tảng đá, bảo:

- Còn chờ Mandel nữa, nó cũng đi với chúng mình.

Loring hỏi ngay:

- Để làm gì?

Birgit cũng nhăn nhó:

- Đã quyết định chỉ có năm người rồi. Nhất là Mandel đã bị biết mặt ở Narda. Cậu và Gertrude đã đủ nguy hiểm, thêm thằng Mandel chỉ tổ làm cho người ta dễ phát hiện thôi.

Roran nhìn từng người:

- Tôi đành liều vậy, vì nó cần phải đi.

Sau khi nghe anh cắt nghĩa, mọi người đều đồng ý và thêm Mandel, sau người tiến hướng nam để tới thành Teirm.
 
Chương 52: Thành teirm


Bãi biển này tạo thành bởi những đồi thấp thoai thoải, phủ đầy cỏ xanh, lác đác hồng dại, dương liễu, bạch dương. Đất bùn mềm nhũn rất khó đi. Bên phải họ, mặt biển lấp lánh; bên trái lồ lộ núi Spine tím ngắt. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng nối kết nhau bằng những dải mây và lớp sương mù dày đặc.

Qua những nông trại, sáu người trong nhóm Roran cố tránh không để bị phát hiện. Ra tới con lộ nối Narda và Teirm, họ chạy băng qua đường, rồi tiếp tục đi sâu thêm về hướng đông, tiến tới rặng núi, phải vượt thêm mấy dặm nữa, vòng qua thành phố, mới lại quay về hướng nam.

Khi còn trên Trăn đỏ, Roran đã suy tính, chính quyền Narda chắc phải suy ra kẻ giết hai tên lính gác nằm trong đoàn người ra đi bằng mấy cái xà lan của Clovis. Nếu đúng vậy, quân lính tại Teirm chắc chắn đã được lệnh tìm kiếm trong đám dân làng, kẻ nào giống với hình ảnh đang bị truy nã. Hơn nữa, nếu Ra'zac đã tới Narda, hẳn nhiên binh sĩ tại đó cũng đã biết rằng, chúng không chỉ truy lùng vài tên sát nhân vô danh tiểu tốt, mà là Roran Cây-búa Dũng-mãnh và nhiều kẻ đào tẩu khỏi làng Carvahall. Chắc chắn thành Teirm đã giăng sẵn một cái bẫy khổng lồ. Biết thế, nhưng không thể không ghé vào thành, vì dân làng cần lương thực và phương tiện vận tải để đi tiếp.

Roran quyết định, cách đề phòng tốt nhất là ai đã bị biết mặt tại Narda sẽ không được vào Teirm, trừ anh và bà Gertrude. Vì chỉ có bà thông thạo tên thuốc, còn anh – dù dễ bị nhận diện nhất – nhưng anh không tin người nào đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Như trong vụ giết hai tên lính gác, trong khi mọi người phân vân, anh đã kịp thời ra tay hành động. Mấy người trong chuyến đi này đều đã được sàng lọc rất kỹ: Ông Loring tuy già nhưng khôn ngoan và mạnh mẽ, còn Nolfavrel, con trai của chị, tuy còn nhỏ cũng hạ được một tên lính trong chiến trận. Hy vọng cả nhóm xuất hiện như một đại gia đình cùng đi buôn bán. Roran tự nhủ: "Miễn sao thằng Mandel không gây ra chuyện gì".

Chính Roran đưa ra ý kiến, từ phía nam tiến vào thành, làm như không phải từ Narda tới.

Xế chiều, họ đã thấy thành Teirm, một màu trắng ẩn hiện dưới hoàng hôn. Roran ngừng quan sát: thành phố bao bọc bằng những bức tường, đứng một mình trên bờ biển rộng. Ánh đuốc bập bùng giữa những lỗ châu mai, lính canh nắm cung tên liên tục rảo tới lui. Vượt khỏi những bức tường là một đài hải đăng, đang quét những tia sáng trên mặt nước biển đen ngòm.

Nolfavrell tấm tắc:

- Thành này lớn quá.

Mắt không rời Teirm, ông già Loring gật gù:

- Lớn thật.

Nhưng Roran lại chú ý đến một con tàu neo bên kè đá nhô ra từ thành phố. Chiếc tàu ba cột buồm lớn hơn tất cả nhưng con tàu Roran từng thấy Narda với thân trước cao, hai hàng mái chèo, mười hai cái máy bắn đá lắp đặt hai bên sàn. Con tàu tráng lệ thích hợp cho cả việc thương mại và phục vụ chiến tranh. Nhưng quan trọng nhất, Roran nghĩ, nó có thể chứa toàn bộ dân làng.

Chỉ tay về phía con tàu, anh bảo mọi người:

- Đó mới là cái chúng ta cần

Birgit mỉa mai:

- Chúng ta phải bán mình làm nô lệ ráo, may ra mới bước chân được lên đó.

Vì Clovis đã cho biết, cổng thầnh sẽ hạ xuống khi mặt trời lặn, nên tất cả vội vàng rảo bước.

Khi tới gần tường thành, con đường càng lúc càng tấp nập, người vào ra. Roran không ngờ có đông đúc người qua lại đến thế, nên nhận ra ngay lợi điểm dễ lẩn tránh trong đám người này. Anh dặn dò Mandel:

- Đi lùi lại phía sau, theo người khác qua cổng, để tụi lính gác không biết em đi cùng chúng ta. Nếu chúng hỏi, cứ bảo vào thành xin một chân đi biển. Chúng ta đợi em bên kia cổng.

- Tuân lệnh.

Mandel lùi lại sau. Roran hạ thấp một bên vai, bước đi tập tễnh như một người tàn tật, thầm nhẩm "kịch bản" do ông già Loring sáng tác để cắt nghĩa sự hiện diện của cả nhóm tại thành Teirm. Anh cúi đầu, bước vội tránh đường một anh chàng lùa hai con bò chở gỗ đi qua, mừng thầm vì bóng tối che kín mặt.

Đứng dưới ánh đuốc vàng bập bùng hai bên lối vào cổng là hai tên lính với phù hiệu ngọn đuốc của Galbatorix trên ngực áo màu choàng đỏ thắm. Cả hai chỉ liếc qua nhóm của Roran khi họ trà trộn cùng người khác qua cổng, tiến qua đoạn đường hầm ngắn.

Roran thở phào cùng cả nhóm tụ tập bên một căn nhà. Loring thì thầm:

- Đi nữa đi. Càng xa càng tốt.

Khi gặp lại Mandel, cả nhóm đi tìm một nhà trọ rẻ tiền để qua đêm. Vừa đi Roran vừa quan sát những ngôi nhà kiên cố, càng gần pháo đài chúng càng cao hơn. Từ pháo đài những ngôi nhà nằm phía bắc, toả ra phía nam như một chùm sao, những nhà từ đông sang tây uốn thành đường cong, chằng chịt như lưới nhện, tạo ra nhiều khoảng có rào bảo vệ những đồn quân.

Roran ngẫm nghĩ: "Nếu làng Carvahall được xây dựng như thế này, không kẻ nào có thể hạ nổi, trừ khi đích thân Galbatorix xuất quân".

Chập tối, họ mới tìm được chỗ trọ tại Hạt Dẻ Xanh, với rượu mơ và những cái giường đầy rệp. Hà tiện từng đồng bạc quý giá, cả nhóm đi ngủ với cái bụng đói meo, nằm co quắp gần nhau, phòng xa bị những khách trọ xấu tính móc mất tiền.

Hôm sau cả nhóm Roran rời Hạt Dẻ Xanh từ sáng sớm, đi tìm mua lương thực và dò hỏi phương tiện vận chuyển.

Bà Gertrude bảo:

- Nghe nói tại đây có một bà lang danh tiếng, trị được rất nhiều bệnh. Thậm chí chỉ cần vuốt một cái bằng phép thuật bệnh tật nặng mấy cũng khỏi. Tôi phải đi tìm gặp bà ta bằng được.

Roran góp ý:

- Bà không nên đi một mình. Mandel, em theo bà Gertrude giúp bà mang xách hàng và nếu bị tấn công, bằng mọi cách phải bảo vệ cho bà. Đừng gây ra chuyện gì có thể làm hại tới bạn bè, gia đình em.

Mandel ngoan ngoãn gật đầu, theo bà Gertrude rẽ phải, xuống một ngã tư đường. Sau đó, Roran và mấy người còn lại kiên nhẫn tìm kiếm suốt từ sáng tới chiều, nhưng vẫn không tìm ra một chiếc tàu có thể chở họ tới Surda. Họ được biết con tàu mới xuất xưởng và sắp được hạ thuỷ để ra khơi lần đầu của công ty vận chuyển Đồng-Cỏ-Đen. Phải đổ ra cả đống vàng chưa chắc đã thuê được con tàu tráng lệ này, huống hồ toàn thể dân làng góp lại cũng không đủ tiền mướn một chiếc thuyền tã nhất. Mấy xà lan của Clovis cũng không giải quyết được vấn đề, vì lấy gì ăn trong suốt chuyến đi.

Birgit thở than:

- Lính tráng đầy rẫy nhà cửa thì san sát thế này, mà cổng ra vào lúc nào cũng được canh gác nghiêm ngặt, làm sao lấy trộm thực phẩm được? Căng quá.

Roran đồng ý:

- Căng thật.

Trước đó, Roran đã bàn với chú Horst, nếu bắt buôc phải chuồn khỏi Teirm với quá ít lương thực còn lại, họ đành phải cướp đồ ăn cho dân làng. Nhưng hành động đó có khác gì với những hành động của lũ dã man mà anh từng căm ghét. Chiến đấu và chém giét những kẻ phục vụ bạo chúa Galbatorix - hoặc lấy trộm xà lan của Clovis, vì ông ta vẫn còn những chiếc khác để sinh sống - lại là một nhẽ. Nhưng cướp tài sản của những nông dân vô tội, đổ mồ hôi kiếm sống như dân làng Carvahall, chẳng khác nào tội sát nhân.

Khó khăn chồng chất lên vai Roran nặng nề như đá. Biết bao hãi hùng, tuyệt vọng, lạc quan, rồi thất vọng trong suốt chuyến đi. Lúc này đây, anh chỉ sợ mình đã đưa dẩy dân làng vào vòng tù tội của kẻ thù. "Mình có thể trốn đi một mình để tìm kiếm Katrina, nhưng thành công đó sẽ là gì, nếu bỏ lại dân làng trở thành nô lệ? Dù định mệnh đẩy đưa tới đâu, mình phải gắn bó với những con người đã tin tưởng vào mình mà bỏ lại nhà cửa ruộng vườn".

Để đỡ đói, họ ngừng lại một cửa hàng bánh, mua một ổ bánh mì và một bình mật ong nhỏ. Khi trả tiền, ông Loring bảo người bán hàng là đang cần tìm một con tàu, lương thực và một ít dụng cụ.

Một cái vỗ nhẹ lên vai làm Roran quay lại. Một người dàn ông đầu tóc rối bù lên tiếng:

- Xin lỗi vì đã trộm nghe chuyện các ông. Nhưng nếu các ông đang cần tàu và thực phẩm giá cả phải chăng, tôi nghĩ các ông nên đến dự buổi bán đấu giá...

- Đấu giá gì vậy?

- A, đó là một chuyện buồn, nhưng thời buổi này cũng là chuyện thường xảy ra. Một nhà buôn thành phố chúng tôi, ông Jeod – chúng tôi thường nghe gọi là Jeod Chân dài, gặp vận hạn chẳng ra gì. Chưa đầy một năm, ông ta mất đến bốn con tàu. Khi chuyển hàng trên đất liên thì lại bị cướp sạch và hủy hoại hết đoàn xe. Những nhà đầu tư đã ép ông ta phải tuyên bố phá sản. Bây giờ họ sắp bán tài sản của ông ta để thu hồi vốn đã mất. Lương thực thì tôi không biết sao, nhưng các ông có thể mua nhiều thứ cần thiết trong cuộc bán đấu giá đó.

Roran khấp khởi hy vọng:

- Bao giờ buổi đấu giá được tổ chức?

- Ủa, các ông không biét sao? Dán đầy trên mấy bảng thông tin khắp thành phố mà. Ngày mốt, chắc chắn đó.

Làm sao biết được, vì nhóm của Roran đâu dám mon men gần mấy bảng thông cáo, sợ có người nhận ra Roran trong tấm hình vẽ cùng số tiền thưởng kếch sù.

- Cám ơn ông nhiều. Có lẽ chúng tôi đỡ phải đi mò mẫm hỏi han thêm nữa.

- Không có chi, rất vui giúp được các ông.

Ra khỏi cửa hàng, Roran hỏi cả nhóm:

- Mình có nên tới đó không?

Ông Loring lầm bầm:

- Cũng thử đến xem sao.

- Chị Birgit ?

- Cậu không cần phải hỏi. Rõ ràng là chúng ta không thể chờ tới ngày mốt được.

- Không. Ý tôi là tới gặp cái ông Jeod đó, thử điều đình trước ngày đấu giá. Tất cả đồng ý không?

Tất cả đồng ý. Sau khi hỏi thăm đường, họ tìm đến nhà Jeod. Ngôi nhà - một cơ ngơi rộng lớn thì đúng hơn - toạ lạc trong khu tây của thành phố, gần pháo đài, giữa những ngôi nhà sang trọng với mái vòm, cửa sắt uốn, tượng đá, suối phun nước. Roran ngẩn trước sự giàu sang đến thế, khác hẳn với đời sống của quê anh.

Nhà của Jeod ngay kế bên một cửa hàng bỏ phế. Roran gõ cửa, mấy phút sau, một tên bồi tròn quay, mở hé một cánh, nhe hàm răng trắng bóng, hỏi:

- Các ông bà cần gì?

- Chúng tôi muốn được thưa chuyện cùng ông Jeod?

- Các ông bà có hẹn trước không?

- Chúng tôi chỉ ở lại thành phố này thời gian ngắn, không thu xếp trước được buổi hẹn chính thức.

- A, vậy thì tôi rất tiếc phải nói rằng, các ông bà nên dành thời gian của mình tìm tới một nơi khác nhé. Chủ nhân tôi có rất nhiều vấn đề giải quyết. Ông không có thời gian dành cho những kẻ rách rưới lang thang đến đập cửa thình thình để xin bố thí đâu.

Gã bồi vừa nói vừa toe toét cười khoe hàm răng trắng nhởn. Gã ta vừa quay lưng, Roran kêu lên:

- Khoan. Chúng tôi không xin xỏ gì hết. Chúng tôi có một đề nghị làm ăn với ông Jeod.

Gã bồi nhướng mắt:

- Lại thế nữa?

- Thật mà. Xin hỏi giúp, ông Jeod có đồng ý tiếp chúng tôi không? Chúng tôi từ rất xa tới, có chuyện cấp bách cần gặp ông Jeod ngay hôm nay.

- Tôi có được phép hỏi là chuyện gì mà cấp bách quá vậy không?

- Chuyện riêng.

- Được, nhưng tôi báo để các ông bà biết, ông Jeod hiện thời rất bận, không muốn ai quấy rầy. Tôi phải cho chủ nhân biết qúy vị tên gì đây?

- Cứ gọi tôi là Cây-búa.

Gã bồi thích thú chúm miệng như làm hề khi nghe Roran xưng tên, rồi quay vào, khép cửa

Birgit lèm bèm:

- Cầu mong sao chủ tớ đừng giống nhau.

Một phút sau, gã bồi xuất hiện lại, giọng mềm mỏng hơn:

- Ông chủ đồng ý tiếp các vị trong phòng làm việc. Xin theo tôi.

Họ theo hắn qua một lối đi xa hoa lộng lẫy, xuống một hành lang lát gỗ bóng lộn, tới một cánh cửa, hắn mở rồi hướng dẫn nhóm của Roran bước vào.
 
Chương 53: Joed chân dài


Nếu biết đọc hẳn Roran còn bàng hoàng hơn vì kho sách quý xếp hàng trên khắp các bức tường. Nhưng anh chỉ chăm chú đến người đàn ông cao lớn, tóc bạc, đang đứng sau bàn viết. Ông ta – Roran đoán là Jeod - mệt mỏi nhìn quanh. Những nếp nhăn hằn sâu trên mặt đầy u buồn, và khi ông ta quay lại nhìn nhóm của Roran, tất cả đều nhìn thấy một vết thẹo xấu xí kéo dài từ chân tóc xuống thái dương bên trái. Khi ông ta cất tiếng nói, Roran nhận xét người đàn ông này rất cứng rắn.

- Mời ngồi. Dùng chút bánh ngọt và rượu mơ nhé? Tôi không có nhiều thời gian đâu, nhưng nhìn các vị như vừa trải qua mấy tuần lễ vất vả trên đường, tôi lại nhớ những chuyến đi khát khô cả cổ của mình.

Lão Loring cười cười:

- Vâng, một chút rượu là qúy lắm rồi. Ngài hào phóng quá.

Birgit bảo:

- Xin cho thằng con tôi một ly sữa thôi.

Jeod rung chuông gọi bồi, dặn dò xong, ông ngả người trên ghế, nói:

- Chắc các vị đã biết tôi là ai, nhưng tôi chưa được biết tên các vị.

Roran:

- Tên tôi là Cây-búa Dũng-mãnh, mong được ngài giúp đỡ.

Lần lượt mọi người xưng tên giả. Birgit là Mardra, Nolfavrell là Kell, ông lão Loring là Wally.

Jeod chậm rãi nói:

- Rolf cho tôi biết các vị muốn gặp tôi để bàn chuyện làm ăn. Tôi thẳng thắn trình bày, hiện nay ở địa vị mình, tôi không còn có thể mua hay bán hàng hoá gì nữa. Không tiền gom hàng, không tàu bè trên biển. Vậy thì tôi có thể làm gì được cho các vị đây?

Roran chống tay lên gối, mấy ngón tay xoắn vào nhau, suy tính: "Chỉ lỡ một lời là hỏng chuyện hết". Anh thận trọng lên tiếng:

- Thưa ngài, tôi xin nói ngắn gọn, chúng tôi là đại diện cho một số người, vì một lý do không thể tới đây. Chúng tôi cần mua một lượng hàng lớn, với...một số tiền nhỏ nhoi. Tôi được biết ngày mốt người ta đấu giá tài sản của ngài, để trang trải công nợ, vì vậy chúng tôi đề nghị xin mua một số hàng chúng tôi đang cần. Vì áp lực công việc, chúng tôi không thể chờ tới ngày đấu giá. Nếu chúng ta thoả thuận, chúng tôi sẽ lên đường đêm nay, trễ nhất là sáng mai.

- Các vị cần những mặt hàng gì?

- Lương thực và tất cả những gì cần thiết cho một chuyến đi biển dài ngày.

Mặt Jeod thoáng vẻ quan tâm:

- Các vị đã nhắm một tàu nào chưa? Tôi biết tất cả tàu bè hoạt động trên vùng biển này suốt hai mươi năm nay.

- Chưa...Chúng tôi chưa quyết định được chuyện này.

- Giờ thì tôi hiểu lý do các vị tìm đến tôi rồi, nhưng tôi e rằng các vị đã tốn công vô ích...

Chỉ tay quanh phòng, ông tiếp:

- Tất cả những gì các vị thấy đây là của chủ nợ, không thuộc về tôi nữa. Nếu tôi bán mà không được phép của họ, tôi sẽ bị tống vào tù vì tội lừa đảo.

Jeod ngừng nói khi thấy Rolf vào phòng với khay bánh ngọt, mấy ly pha lê, một cốc sữa và một bình rượu. Hắn dặt cái khay lên kỷ rồi rót rượu cho từng người. Roran đón ly rượu, vừa nhấp chút rượu ngọt dịu vừa tự hỏi, theo phép lịch sự lúc này cáo lui để đi lo tiếp công việc được chưa.

Khi Rolf lui ra, Jeod uống cạn cốc rượu rồi nói:

- Có thể tôi chẳng giúp gì được, nhưng tôi biết có một số đồng nghiệp, họ có thể ...giúp các vị. Nếu cho tôi biết thêm chút chi tiết vê những món hàng các vị cần mua, tôi mới có thể giới thiệu đúng người đúng việc được.

Roran thấy chuyện này không có gì đáng ngại, nên kể ra một danh sách những thứ dân làng cần, những thứ thật sự cần thiết và cả những thứ cả đời họ mơ không thấy. Ông Loring và Birgit nhắc thêm những thứ Roran quên, chẳng hạn như đèn dầu. Jeod nhìn khắp lượt rồi ánh mắt chăm chú vào Roran. Hình như ông thương gia này biết, hay nghi ngờ, anh đang che dấu điều gì.

- Tôi thấy dường như đây là số dự trữ đủ để cung cấp cho mấy trăm người tới tận Feinster hoặc Aroughs...hoặc còn xa hơn nữa. Thú thật, mấy tuần nay tôi rất bận, nhưng tôi không nghe nói có khách hàng nào từ những nơi đó tới thành phố này.

Roran cố bình thản, lặng thinh trước ánh mắt dò hỏi của Jeod. Anh tự trách mình đã tiết lộ quá nhiều để ông ta có thể đi đến kết luận như thế.

Nhưng Jeod chỉ nhún vai nói:

- Tuy nhiên đó là việc riêng của các vị. Tôi đề nghị các vị hãy tới gặp Galton trên Phố Chợ để mua thực phẩm những thứ khác thì đến gặp lão Hamilton ở ngoài bến cảng. Hai người này rất đàng hoàng, hàng hoá bảo đảm, giá cả lại rẻ.

Với tay lấy một cái bánh, ông quay qua hỏi Nolfavrell:

- Sao, cậu bé Kell, thích thành phố Teirm không?

- Dạ thích. Cháu chưa thấy nơi nào rộng lớn như ở đây.

- Thật không?

- Dạ thật

Cảm thấy sẽ bất lợi nếu cứ để Nolfavrell bô bô mãi với ông nhà buôn này, Roran ngắt ngang:

- Thưa ngài, tôi hơi tò mò, vì sao giữa những ngôi nhà nguy nga này, kế bên nhà ngài lại có một cửa hàng khiêm tốn vậy?

Lần đầu tiên Jeod thoáng cười, nụ cười làm ông tươi tỉnh và như trẻ lại hàng chục tuổi:

- Chủ cửa hàng đó là một bà hơi tàng tàng. Đó là bà lang Angela, một thầy thuốc giỏi nhất mà tôi được biết. bà ta mở phòng thuốc này từ hơn hai mươi năm nay. Mấy tháng trước bà ta bỗng bỏ đi đâu không biết. Cũng đáng tiếc vì bà Angela là một người hàng xóm thú vị lắm.

Thằng Nolfavrell nhìn mẹ, bật hỏi:

- Đó là người mà bà Gertrude muốn gặp, phải không mẹ?

Roran cố nén một tiếng quát, lừ mắt nhìn Nolfavrell làm cu cậu rúm mình trên ghế. Tên bà Gertrude không có nghĩ gì với Jeod, nhưng nếu thằng Nolfavrell không giữ miệng, nó sẽ phun ra nhiều điều nguy hiểm khác. Roran tự nhủ: "Đi khỏi đây thôi". Anh đặt ly rượu xuống bàn.

Nhưng ngay lúc đó, Roran cảm thấy tên bà Gertrude đã gợi cho người thương gia một điều gì. Mắt ông mở lớn đầy kinh ngạc, hai tay nắm chặt thành ghế, trừng trừng cố nhìn mặt thật của Roran qua bộ râu rậm rạp.

Jeod thều thào:

- Roran ...Roran Garrowson.
 
Chương 54: Một đồng minh bất ngờ


Roran đã nhổm mình khỏi ghế, sẵn sàng rút cây búa từ thắt lưng khi nghe đến tên cha. Chỉ một điều ngăn anh nhảy tới đánh cho Jeod bất tỉnh: đó là "Vì sao ông ta biết Garrow".

Loring và Birgit cũng đứng bật dậy, rút dao từ tay áo ra. Cả thằng Nolfavrell cũng lăm lăm lưỡi dao găm.

Jeod không hề nao núng trước những con người đằng sát khí, chỉ lặng lẽ hỏi:

- Cháu là Roran, phải không?

- Sao ông biết?

- Vì Brom đã đưa Eragon tới đây và vì cháu rất giống người em họ. Khi ta thấy hình cháu và Eragon, ta biết là triều đình đang truy lùng cháu và chắc chắn cháu phải chạy trốn. Nhưng...

Nhìn ba người kia, ông lắc đầu:

- Nhưng dù có giàu tưởng tượng đến đâu, ta cũng không thể ngờ cháu đem theo toàn bộ dân làng Carvahall.

Sững sờ, Roran buông mình lại xuống ghế, cây búa đặt ngang đùi:

- Eragon đã tới đây?

- Phải, cả Saphira nữa.

- Saphira?

Một lần nữa, Jeod tỏ ra kinh ngạc:

- Vậy là cháu không biết sao?

- Biết gì?

Đắn đo một lúc lâu, Jeod nói:

- Ta nghĩ đã đến lúc chúng ta đừng đóng kịch nữa, Roran Garrowson ạ. Hãy trò chuyện cởi mở, đừng e dè gì. Ta sẽ trả lời tất cả những câu hỏi cháu cần biết, như vì sao triều đình truy lùng cháu, nhưng đáp lại ta cần được biết vì nguyên nào cháu tới thành Teirm... ta cần biết nguyên nhân thật sự.

Lão Loring lên tiếng hỏi:

- Nhưng vì sao chúng tôi phải tin ông, ông Jeod? Biết đâu ông chính là người của Galbatorix ?

- Tôi là bạn của Brom hơn hai mươi năm, từ trước khi ông ta trở thành người kể chuyện trong làng Carvahall. Khi ông ta và Eragon sống dưới mái nhà này, tôi đã cố gắng giúp bằng mọi cách. Nhưng vì lúc này không có mặt hai người đó ở đây để làm chứng cho lời nói của tôi, tôi đặt mạng sống của mình trong tay các người, muốn làm gì cũng được. Tôi đã không kêu cứu, cũng sẽ không chống trả. Tôi chỉ yêu cầu một điều, hãy kể tôi nghe mọi chuyện và lắng nghe những gì tôi kể, rồi các người tự quyết định việc phải làm. Chúng ta nói chuyện đàng hoàng thì có hại gì đâu.

Birgit nhìn Roran:

- Có thể ông ta cố gắng bảo toàn tính mạng thôi.

- Có thể, nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu ông ta biết những gì.

Kéo ghế tới sát cửa, Roran ngồi chặn bất kỳ kẻ nào có thể vào thình lình.

- Được. Ông muốn nói chuyện, vậy tôi và ông bắt đầu.

- Tốt nhất là cháu nói trước đi.

- Nếu tôi nói trước, những câu trả lời của ông không đúng, chúng tôi sẽ phải giết ông.

Jeod khoanh tay trước ngực:

- Đồng ý.

Roran bị xúc động bởi vẻ dũng cảm của người thương gia, dường như ông ta không quan tâm số mạng rủi ro có thể xảy ra.

Thường ôn lại những sự kiện từ khi Ra'zac xuất hiện trong làng, nhưng chưa bao giờ Roran tả lại từng chi tiết về chúng cho người khác nghe. Bây giờ ngồi kể, anh bàng hoàng nhận ra biết bao chuyện đã xảy ra với anh và dân làng trong một thời gian ngắn như thế và chỉ trong thời gian ngắn đó triều đình đã huỷ hoại đời sống của họ trong thung lũng Palancar một cách quá dễ dàng. Sống lại những giây phút khủng khiếp đó làm Roran đau thắt ruột, nhưng cũng có chút hả hê vì Jeod tỏ ra kinh ngạc đến sững sờ khi nghe chuyện nông dân đuổi đánh lính triều đình và Ra'zac bật ra khỏi trại của chúng, vụ làng bị bao vây, vụ phản bội của lão Sloan, vụ Katrina bị bắt cóc, chuyện Roran thuyết phục dân làng ra đi và những gian khổ suốt hành trình tới thành Teirm.

Jeod kêu lên:

- Trời đất! Nói có anh linh các đấng tiên vương, chưa bao giờ ta nghe một chuyện lạ lùng đến thế. Thật phi thường. Thử nghĩ sau khi chọc giận Galbatorix đến phát điên, bây giờ toàn thể dân làng lại đang lẩn trốn ngay bên ngoài một thành phố lớn nhất của triều đình mà bạo chúa không hề hay biết. Qủa là một chuyện phi thường!

Ông lắc đầu đầy khâm phục. Lão Loring lên tiếng:

- Hoàn cảnh đẩy đưa chúng tôi phải liều mạng vậy thôi...

- Gặp hoàn cảnh đó, tôi...

Jeod ngưng bặt khi tiếng nắm cửa rọt rẹt sau lưng Roran. Tiếp theo là những tiến đập cửa thình thình và tiếng đàn bà the thé:

- Jeod, mở cửa ra. Không trốn trong cái hang đó mãi được đâu.

Jeod thì thầm hỏi:

- Tôi mở được không?

Roran búng tay về phía Nolfavrell, thằng nhóc ném ngay con dao găm cho anh. Roran nhón gót vòng qua bàn viết, kề dao ngay cổ Jeod.

- Bảo bà ta đi đi.

Jeod cao giọng nói:

- Lúc này không nói chuyện được. Anh đang họp.

- Đồ giả dối. Anh không bận gì hết. Anh bị phá sản rồi. ra gặp tôi ngay, đồ hèn. Anh có còn là một thằng đàn ông không, mà không dám nhìn thẳng vào mắt vợ.

Im lặng một lúc, vẫn không nghe tiếng trả lời, âm thanh tăng thêm độ:

- Đồ hèn! Đồ chuột thiến, đồ chấy rận. Anh không đủ tài đứng một quầy thịt, nói chỉ tới một công ty tàu biển. Nếu biết trước, cha tôi đâu đến nỗi mất hết tiền bạc như thế chứ.

Những tiếng chửi rủa sa sả làm Roran nhăn mặt nghĩ: "Chắc mình không kìm giữ nổi Jeod, nếu mụ ta cứ tiếp tục mãi."

Jeod quát lên:

- Bà im đi. Tình hình đã không đến nỗi này nếu mồm miệng bà không chửi rủa suốt ngày như một mụ bán cá thế.

Giọng mụ lạnh tanh:

- Chồng yêu quý, tôi sẽ đợi anh trong phòng ăn, nhưng nếu anh có ý định cắt nghĩa mọi chuyện trong bữa ăn tối, tôi sẽ đi khỏi cái nhà đáng nguyền rủa này ngay, và sẽ không bao giờ trở lại.

Tiếng chân của người vợ Jeod xa dần. Roran thu lưỡi dao trên cổ ông ta lại, ném trả Nolfavrell, rồi trở lại ghế ngồi chặn sau cánh cửa.

Jeod xoa xoa cổ, nhăn mặt nói:

- Nếu chúng ta không đi đến thông cảm nhau, thà các anh giết tôi đi, còn hơn tôi lại phải cắt nghĩa cho Helen vì sao đã la lối bà ấy một cách vô lý như thế.

Lão Loring nói:

- Tôi thông cảm với ông, ông Jeod.

- Thật tình...không phải lỗi bà ấy đâu. Chỉ vì bà ấy không thể hiểu nổi vì sao mà quá nhiều tai ương đổ lên đầu chúng tôi đến thế...

Jeod thở dài lẩm bẩm:

- Có lẽ lỗi tại tôi...vì tôi đã không dám nói cho bà ấy biết...

Thằng Nolfavrell buột miệng hỏi:

- Biết gì ạ?

- ...rằng ta là gián điệp của Varden. Roran, có lẽ ta phải trở lại từ đầu. Mấy tháng nay cháu có nghe đồn về một tân kỵ sĩ rồng đối đầu với Galbatorix không?

- Có nghe loáng thoáng, nhưng tôi không tin.

Jeod ngập ngừng:

- Ta không thể nói khác được, Roran ạ. Chuyện đó có thật và ... kỵ sĩ đó chính là Eragon, em họ của cháu. Hòn đá nó nhặt được trong núi Spine, thật ra là một trứng rồng mà ta đã giúp Varden lấy trộm từ Galbatorix nhiều năm trước. Con rồng đã nở ra cho Eragon và nó đã đặt tên là Saphira. Đó là nguyên nhân vì sao lần đầu tiên Ra'zac tới thung lũng Palancar. Và vì sao Eragon trở thành kẻ thù khủng khiếp nhất của triều đình, Galbatorix phái Ra'zac trở lại, hy vọng nếu chúng bắt cháu, sẽ ép được Eragon xuát đầu lộ diện.

Roran ngửa cổ ha hả cười đến chảy nước mắt, đau thắt bụng. Anh bất cần những cái nhìn đầy hốt hoảng của ông già Loring, Birgit và Nolfavrell. Anh không thể nín cười vì những tiết lộ lố bịch của Jeod, cười vì những lời nói của ông ta, biết đâu, lại rất có thể là sự thật.

Vừa thở dồn dập vừa cố bình tĩnh lại, Roran quệt nước mắt bằng tay áo, nhìn Jeod, cười cười, nói:

- Có thể câu chuyện của ông cũng có vẻ hợp lý, nhưng tôi còn có thể nghĩ ra hàng chục kiểu cắt nghĩa khác nữa...

Birgit lên tiếng:

- Nếu hòn đá của Eragon là một trứng rồng, vậy thì nó từ đâu tới?

- A, chuyện này thì tôi rất rõ...

Ngồi thoải mái trong ghế, Roran lắng nghe với vẻ nghi ngờ khi Jeod kể câu chuyện huyền hoặc về Brom – ông lão luôn cộc cằn gắt gỏng – đã có thời là một kỵ sĩ rồng như thế nào, đã giúp thành lập Varden ra sao. Còn Jeod đã phát hiện ra con đường bí mật dẫn vào Uru'baen bằng cách nào. Vì sao Varden tổ chức vụ trộm ba trứng rồng còn lại của Galbatorix, nhưng chỉ giải thoát được một, sau khi Brom chiến đấu và giết chết phản đồ Morzan. Phi lý đến thế nhưng vẫn chưa đủ, Jeod còn nói về một bản cam kết giữa Varden, người lùn và thần tiên: trứng rồng được luân chuyển giữa Du Weldenvarden và dãy núi của Beor, và đó là lý do vì sao trứng rồng và những tuỳ tùng tới sát rừng già và bị lọt ổ phục kích của Tà thần.

"Ha ha, lại còn có cả một Tà Thần nữa!" Roran thầm nhủ.

Vốn tính đa nghi, sự chú tâm của Roran tăng gấp đôi khi Jeod bắt dầu kể về vụ Eragon bất ngờ gặp quả trứng nuôi con rồng Saphira lớn lên trong khu rừng gần trang trại Garrow. Tuy thời gian đó Roran đang bận rộn sửa soạn tới làm việc tại nhà máy xay của Dempton ở Therinsford, nhưng anh còn nhớ Eragon đã ngơ ngẩn như mất hồn, luôn tìm cách ra khỏi nhà, làm gì không ai biết...

Khi Jeod cắt nghĩa nguyên nhân cái chết của cha anh, Roran càng thêm căm hận Eragon đã cả gan lén lút giữ con rồng, gây ra biết bao hiểm hoạ cho mọi người. "Chính vì nó mà cha mình đã chết". Roran bật lên tiếng hỏi:

- Nó nghĩ sao mà lại làm như vậy?

Ánh mắt cảm thông của Jeod khi trả lời càng làm anh khó chịu.

- Ta tin Eragon đã biết rằng, các kỵ sĩ và những con rồng của họ vô cùng gắn bó, không thể tách rời. Eragon thà chặt đứt một chân nó, chứ không thể để Saphira bị đau đớn.

- Tại sao không. Chính vì nó mà tôi phải làm rất nhiều điều đau đớn, vì vậy tôi biết...nó cũng có thể...phải làm được.

- Cháu có quyền nghĩ vậy, nhưng đừng quên lý do Eragon rời khỏi thung lũng Palancar chính là để bảo vệ cháu và những người ở đó. Quyết định đó chẳng dễ dàng dâu. Theo quan điểm của nó, nó đã tự hy sinh để bảo đảm an toàn cho anh và để báo thù cho cậu. Dù chưa chắc ra đi đã đạt được những điều như mong ước, nhưng nếu Eragon ở lại mọi chuyện sẽ còn tệ hại hơn.

Roran lẳng lặng nghe, cho đến khi Jeod nói về lý do ông Brom và Eragon tới thành Teirm là để thử tìm kiếm tung tích Ra'zac trong đống hồ sơ vận chuyển hàng của thành phố, anh mới bật khỏi ghế, kêu lên:

- Có tìm thấy gì không?

- Quả nhiên là chúng tôi đã tìm ra.

- Ôi, vậy thì hiện nay chúng ở đâu? Hãy rủ lòng nhân từ mà nói ngay đi, ông biết điều này đối với tôi quan trọng đến thế nào mà.

- Ngoài thông tin rất rõ trong hồ sơ, sau đó tôi còn nhận được tin từ Varden, Eragon xác định lại là: hang ổ của Ra'zac trong vùng núi đá Helgrind gần Dras-Leona.

Roran hồi hộp nắm chặt cán búa, suy tính: "Đường tới Dras-Leona rất xa, nhưng thành Teirm chỉ có một đường độc đạo từ đây tới tận cùng phía nam của núi Spine. Nếu mình có thể đưa mọi người an toàn xuống bến bãi, sau đó mình sẽ tới Helgrind để cứu Katrina, nếu nàng bị giam tại đó, rồi sẽ theo dòng sông Kiet xuôi tới Surda sau".

Dường như những tính toán của Roran đều lộ ra trên mặt, nên Jeod lên tiếng:

- Không được đâu, Roran.

- Sao?

- Không ai có thể lên tới ngọn Helgrind. Đó là một núi đá đen trơ trụi, thẳng đứng, không leo lên được. Cứ ngẫm lại hai con "chiến mã" gớm ghiếc của Ra'zac, chắc chắn chúng phải làm tổ tuốt trên đỉnh Helgrind cho được an toàn. Làm cách nào cháu lên được tới đó? Cho dù lên được, cháu có thật sự tin mình đương đầu nổi với hai con quỷ biết bay kia? Ta không nghi ngờ cháu là một chiến binh dũng cảm- dù sao cháu và Eragon phần nào cũng chung dòng máu – nhưng những kẻ thù này nguy hiểm hơn bất cứ một người bình thường nào.

Roran lắc đầu:

- Tôi không thể bỏ mặc Katrina. Có thể viển vông, nhưng tôi phải cố gắng cứu cô ấy, dù phải trả giá bằng mạng sống.

- Nếu cháu bị giết cũng có giúp gì được cho Katrina dâu. Nếu có thế, tôi xin được khuyên cháu: cố gắng tới Surda như dự định. Ở đó, ta tin chắc, cháu sẽ có thêm Eragon giúp đỡ. Kể cả Ra'zac cũng không thể sánh bằng một kỵ sĩ và một con rồng khi công khai đụng độ.

Trong trí Roran hiện lên hình ảnh hai con "chiến mã" khổng lồ, da đen nhẫy của Ra'zac. Dù muốn dù không anh phải công nhận, việc hạ hai con quái đó là vượt quá khả năng của mình. Roran hậm hực nghĩ: "Eragon! Bằng máu tao đã đổ ra, tao thề trước vong linh cha, tao sẽ bắt mày chuộc những tội do mày gây ra, bằng việc phải cùng ta tấn công ngọn Helgrind. Chính mày tạo ra đống rác rưởi này, tao sẽ bắt mày dọn sạch".

Roran nhắc Jeod:

- Xin ông nói tiếp đi.

Jeod kể về cái chết của ông Brom, của Murtagh (con trai phản đồ Morzan), vụ bị bắt và tẩu thoát tại Gil'ead, chuyến bay tuyệt vọng để cứu một nàng tiên, trận đại chiến giữa Urgals và người lùn trong địa đạo Farthen Dur, và chính nơi đây Eragon đã hạ gục một Tà-thần. Jeod cũng kể lại bằng cách nào Varden đã chuyển quân từ núi Beor để tới Surda và chuyện hiện nay Eragon đang ở sâu trong lãnh địa Du Weldenvarden để học những bí kíp về phép thuật và chiến lược của thần tiên, nhưng cũng sắp trở về.

Khi ông thương gia im lặng, Roran tới hội ý cùng Loring và mẹ con Birgit. Lão Loring hạ giọng:

- Tôi không thể nói ông ta nói thật hay bịa đặt, nhưng bấy kỳ con người nào trước mũi dao, mà còn bình tĩnh thêu dệt được một chuyện như thế, đều đáng sống. Một kỵ sĩ mới! Hừ, mà lại chính là Eragon !

- Còn chị, Birgit ?

- Tôi cũng không biết sao. Lạ lùng quá! Nhưng ...những rất có thể là sự thật. Vì chỉ có một tân kỵ sĩ mới làm triều đình truy lùng chúng ta ráo riết vậy.

Mắt lão Loring long lanh sáng:

- Đúng vậy. Chúng ta đang sống trong những sự kiện nghiêm trọng hơn chúng ta tưởng. Thử nghĩ, có một tân kỵ sĩ, chế độ này sẽ bị dẹp sạch. Roran, bác nói thật, cháu đã hành động rất đúng.

- Còn em, Nolfavrell?

Được hỏi ý kiến, cậu chàng ra vẻ nghiêm túc, cắn môi đắn đo rồi mới nói:

- Em thấy ông Jeod có vẻ thành thật. Emm nghĩ là...chúng ta có thể tin ông.

Roran trở lại với Jeod, chống tay lên bàn nói:

- Thưa ông, đây là hai câu hỏi cuối cùng của chúng tôi: Ông Brom và Eragon trông ra sao? Và vì sao khi nghe đến tên bà Gertrude, ông lại biết là ai?

- Tôi biết Gertrude vì Brom có nhắc đến chuyện ông ta đã để lại một lá thư nhờ bà ta trao cho cháu. Brom thấp hơn tôi một chút, râu rậm, mũi khoằm, luôn mang theo một cây gậy chạm trổ. Và...nhiều khi ông ta tỏ ra rất khó tính. Eragon thì... còn nhỏ. Tóc nâu, mắt nâu và nó có một cái thẹo trên cổ tay, luôn miệng hỏi hết chuyện này qua chuyện khác.

Roran gật gù nghĩ: "Đúng là ông Brom và thằng em mình. Anh giắt cây búa vào thắt lưng. Loring và mẹ con Birgit cũng tra dao vào vỏ. Rồi cả bốn người trở lại ghế ngồi như những người khách bình thường. Roran hỏi:

- Giờ thì sao, ông Jeod? Ông có thể giúp chúng tôi không? Tôi biết ông đang gặp khó khăn nhưng chúng tôi...chúng tôi đang trong tình trạng rất tuyệt vọng, không biết trông cậy vào ai. Là một điệp viên của Varden, ông có thể bảo đảm cho chúng tôi được Varden giúp đỡ không? Chúng tôi rất nhiệt tình phục vụ quân cách mạng, nếu họ che chở chúng tôi khỏi cơn cuồng nộ của Galbatorix.

- Varden sẽ rất vui mừng, còn hơn cả vui mừng nữa, nếu các người gia nhập tổ chức họ. Điều này hẳn cháu đã đoán biết rồi. Còn chuyện ta giúp...

Vuốt tay lên mặt, Jeod nhìn kệ sách sau lưng Loring, chậm rãi tiếp:

- Gần một năm nay, ta biết mình – cũng như một số nhà buôn tại đây và những nơi khác, những người đã từng tiếp tay với Varden – đã bị lộ. Đó là lý do ta không dám chạy tới Surda. Với sự theo dõi của triều đình, ta sẽ bị bắt ngay nếu có dấu hiệu bỏ trốn. ta chỉ còn đành ngồi đây mà nhìn tài sản tiêu tan, không thể chống đối, cũng không thể trốn thoát khỏi nơi này. Nhưng điều tệ hại hơn là: không thể chuyển bất cứ thứ gì cho quân cách mạng nữa. Họ cũng không dám gửi đoàn xe nào tới chúng ta để nhận hàng. Ta e rằng, khi ta không còn có ích gì cho triều đình nữa, quan trấn thủ Risthart sẽ còng tay ta mà tống vào tù. từ khi tuyên bố phá sản, ta chờ đợi điều đó hàng ngày.

Birgit đoán:

- Có lẽ chúng mong ông bỏ trốn để có thể tóm gọn luôn những ai chạy theo ông.

- Cũng có thể là vậy. Nhưng bây giờ có các người đây, ta có một phương tiện rời khỏi nơi này mà không bao giờ chúng ngờ tới.

Lão Loring hỏi:

- Vậy là ông đã có kế hoạch?

Jeod tươi tỉnh nói:

- Ồ, đúng thế. Bốn người có nhìn thấy con tàu Cánh Rồng neo ngoài cảng không?

- Có.

- Cánh Rồng là của Công ty Vận tải Blackmoor, một công ty phục vụ quân sự cho triều đình, cung cấp đồ tiếp tế cho quân đội. Gần đây chúng hoạt động tới mức báo động tuyển trai tráng vào lính, xung công trâu bò dê ngựa. Chưa biết chắc đây là dấu hiệu gì, nhưng rất có thể Galbatorix có ý định tiến quân vào Surda. Tuy nhiên, trong vòng một tuần nữa, Cánh Rồng sẽ giong buồm tới Feinster. Đó là con tàu hoàn hảo nhất từ xưa tới nay, do nhà thiết kế tàu bậc thầy Kinnel vẽ kiểu.

Lão Loring cười khùng khục:

- Hy vọng ông biết lái tàu. Đám chúng tôi chưa bao giờ rờ tay vào một thứ gì lớn hơn một chiếc xà lan đâu.

- Mấy người trong thủy thủ đoàn trên tàu của tôi vẫn còn tại thành Teirm này. Họ cũng cùng hoàn cảnh như tôi, không thể chạy trốn hay chiến đấu được. Tôi tin họ sẽ vui mừng nhảy lên mà chộp lấy dịp may này để tới Surda. Họ sẽ hướng dẫn các người khi ở trên Cánh Rồng. Không dễ, nhưng đâu còn chọn lựa nào khác nữa.

Roran nhoẻn cười. Kế hoạch đó rất trúng ý anh: tốc hành, dứt khoát và bất ngờ

Birgit nói:

- Ông bảo, cả năm qua không một chiếc tàu nào của ông – cũng như của các nhà buôn khác ủng hộ Varden tới đích được. Vậy thì làm sao chuyến này có thể thành công?

- Vì sự bất ngờ là lợi điểm của chúng ta. Luật đòi hỏi tàu buôn phải xin lộ trình và được quan chức cảng chấp thuận ít nhất là hai tuần, trước khi rời bến. Nếu chúng ta ra đi thình lình, một tuần hoặc hơn nữa, Galbatorix mới có thể cho tàu rượt theo. Nếu may mắn, chúng ta sẽ không gặp nhiều cột buồm của những kẻ truy lùng chúng ta đâu. Vì vậy...nếu các vị hăng hái tham gia thử thách táo bạo này, thì đây là những việc chúng ta cần phải làm...
 
Chương 55: Chạy trốn


Sau khi cân nhắc mọi khía cạnh kế hoạch của Jeod và đồng ý thi hành - với một vài sửa đổi – Roran bảo Nolfavrell tới quán trọ Hạt Dẻ Xanh đón bà Gertrude và Mandel, vì Jeod mời cả nhóm về nhà ông nghỉ.

Jeod đứng dậy nói:

- Bây giờ tôi xin phép cáo lui để đi trình diện bà ấy, và cũng để xem bà ấy có đồng ý cùng đi tới Surda không. Các vị có thể nghỉ ngơi trong mấy phòng trên lầu hai. Bữa ăn dọn xong Rolf sẽ vào mời các vị.

Ông ra khỏi phòng, lão Loring nói nhỏ:

- Này, để ông ta đi hỏi ý bà chằn tinh đó, có là điều khôn ngoan không vậy?

Roran nhún vai:

- Khôn hay dại thì chúng ta cũng không thể ngăn ông ta được. Cháu thấy ông ta không làm vậy thì cũng chẳng được yên thân.

Thay vì vào phòng ngay, Roran đi vơ vẩn trong nhà vừa để suy nghĩ về những điều ông Jeod nói vừa tránh gặp mấy tay phục vụ. Anh đến bên cửa sổ trông xuống tàu ngựa cuối vườn, hít đầy lồng ngực không khí quen nồng mùi khói cỏ và phân chuồng.

- Cậu có ghét nó không?

Giật mình quay lại, Roran thấy Birgit đứng ngay bực cửa. Chị ta vừa cuốn lại khăn choàng trên vai, vừa bước lại gần. Dù biết rất rõ câu hỏi của chị, Roran vẫn hỏi:

- Ghét ai?

- Eragon. Cậu ghét nó không?

Nhìn lên bầu trời đang tối dần, Roran trầm ngâm nói:

- Tôi không biết. Tôi ghét nó vì đã gây nên cái chết của cha tôi, nhưng nghĩ nó vẫn là người trong gia đình, tôi lại thương nó...Chắc tôi sẽ chẳng muốn gặp lại Eragon, nếu không vì cần nó để cứu Katrina.

- Cũng như tôi cần và ghét cậu vậy, Cây-búa.

- A, vậy thì chúng ta phải đoàn kết với nhau, đúng không? Chị giúp tôi tìm Eragon, để mượn tay nó giết Ra'zac trả thù cho anh Quimby...

- Đúng. Sau đó chính tay tôi sẽ tính sổ cậu.

Roran nhìn thẳng đôi mắt không hề chớp trong một lúc của Birgit, nhận ra sự ràng buộc giữa hai người. Anh cảm thấy phấn chấn vì hai người cùng chia sẻ một mục đích, một ngọn lửa chăm hờn như nhau; điều đó thôi thúc hai người hành động, trong khi người khác còn e ngại ngập ngừng. Dường như, trên phương diện tinh thần, chị ta mang cùng dòng máu với Roran.

Trở vào, khi qua phòng ăn, Roran nghe tiếng ông Jeod. Anh tò mò nhìn qua khe cửa: Jeod đang đứng trước một người đàn bà nhỏ bé, tóc vàng – Roran đoán là bà Helen.

- Anh tưởng tôi tin đó là chuyện thật sao?

- Không. Anh biết em không tin.

- Vậy mà anh vẫn rủ tôi đi trốn cùng anh?

- Đã có lần em bảo muốn rời xa gia đình, đi khắp nơi cùng anh. Em đã năn nỉ anh đưa em đi ngay khỏi thành Teirm này.

- Phải. Đã có lần, nhưng khi đó vết thẹo và thanh gươm của anh làm tôi lầm tưởng anh là một con người đầy hào khí...

- Anh vẫn là con người đó. Anh biết đã có lỗi với em, Helen. Nhưng anh vẫn yêu em và chỉ mong em được an toàn. Ở lại đây, anh không còn chút tương lai nào, chỉ đem lại những bất hạnh đến gia đình em. Em có thể trở về với cha hay ra đi cùng anh. Điều nào làm em hạnh phúc hơn thì cứ làm. Tuy nhiên, anh xin em cho anh một cơ hội thứ hai, để có can đảm rời khỏi nơi này và bỏ lại tất cả những kỷ niệm cay đắng của chúng ta lại phía sau. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu tại Surda.

Im lặng một lúc, Helen hỏi:

- Cậu bé ở đây trước kia là kỵ sĩ rồng thật sao?

- Thật. Gió đang đổi chiều rồi, Helen. Varden sắp mở cuộc tấn công, người lùn đang tập kết lại, thần tiên đang xôn xao chờ đợi giờ hành động trong các nơi ẩn cư của họ. Chiến tranh đã cận kề và nếu chúng ta may mắn, bạo chúa Galbatorix đã đến ngày tàn.

- Anh có phải là một nhân vật trong tổ chức Varden không?

- Anh đã có công phần nào trong việc thu hồi trứng của Saphira.

- Vậy thì anh cũng là người có địa vị tại Surda chứ?

- Anh...đoán thế.

Jeod đặt tay lên vai vợ. Helen để yên, thì thầm:

- Jeod, đừng ép em. Lúc này em chưa thể quyết định được gì đâu.

- Em sẽ nghĩ lại chứ?

Helen rùng mình:

- Ồ, có chứ, em sẽ suy nghĩ kỹ chuyện này.

Roran quay gót, tim nhói đau, nghĩ tới Katrina.

Trong bữa ăn tối, Roran thấy đối mắt Helen luôn hướng về anh. Roran tin chắc, bà ta đang quan sát, đánh giá và so sánh anh với Eragon.

Sau bữa ăn, Roran ngoắc Mandel ra sân sau nhà:

- Ta muốn nói chuyện riêng với em.

- Chuyện gì ạ?

Roran vuốt ve lưỡi búa, cảm thấy mình giống hệt cha mỗi khi ông giảng dạy về trách nhiệm của một con người; thậm chí Roran còn thấy mình bật ra những lời nói giống như ông. Anh thầm nghĩ: "Vậy là thế hệ này đã chuyển tiếp qua thế hệ khác".

- Mandel, gần đây em tỏ ra quá thân mật với các thủy thủ trên tàu...

Mandel cãi lại ngay:

- Họ đâu phải là kẻ thù của chúng ta?

- Lúc này ai cũng có thể là kẻ thù. Clovis và người của ông ta có thể phản chúng ta bất kỳ khi nào. Tuy nhiên đó không phải là vấn đề, nếu chuyện thân mật của em với họ không làm em xao lãng bổn phận...

Mandel cứng người, hai má đỏ bừng nhưng không chối tội. Mừng thầm, Roran hỏi:

- Điều quan trọng nhất chúng ta phải làm lúc này là gì, Mandel?

- Bảo vệ gia đình mình.

- À, còn gì khác không?

Mandel ngập ngừng rồi thú thật:

- Em không biết.

- Giúp đỡ người khác. Đó là cách duy nhất để chúng ta sống còn. Ta thật sự thất vọng, khi nghe em đánh bạc với thủy thủ bằng lương thực. Điều đó làm tất cả dân làng càng khốn khổ hơn. Thời gian bài bạc, tập phóng dao đó, đáng lẽ em nên sử dụng vào việc săn bắn kiếm miếng ăn thêm cho mọi người. Cha mất rồi, em phải lo săn sóc cho mẹ và các em. Em hiểu chứ?

Mandel nghẹn ngào:

- Em hiểu rồi.

- Những chuyện kia có gì xảy ra nữa không?

- Không bao giờ.

- Tốt. Nào, anh không gọi em ra đây để khiển trách, mà để trao cho em một công việc. Một vịêc anh không tin bấy kỳ ai, ngoài bản thân anh. Em sẵn sàng chưa?

- Sẵn sàng.

- Sáng mai anh cần em trở lại trại, chuyển một tin cho ông Horst. Ông Jeod tin rằng triều đình đã rải gián điệp rình mò quanh nhà này. Bằng mọi cách em đừng để bị theo dõi. Ra khỏi thành phố đánh lạc hướng kẻ nào dám theo em. Nếu cần thiết, em phải giết hắn. Gặp Horst hãy nói với ông ấy là...

Khi Roran dặn dò, anh thấy mặt chú nhóc chuyển từ ngạc nhiên sang căng thẳng tới kinh hoàng. Nghe xong, Mandel hỏi:

- Lỡ...ông Clovis phản đối thì sao?

- Đêm đó bánh lái xà lan sẽ bị bẻ gãy. Một trò không đàng hoàng, nhưng không làm vậy, có thể Clovis hay người của ông ta sẽ tới Teirm trước em và dân làng. Đó mới thật sự là tai họa.

- Em sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu.

- Tốt.

Roran mỉm cười, khoan khoái vì đã giải quyết xong vấn đề Mandel và tin rằng cậu bé sẽ làm mọi cách để báo tin kịp thời cho chú Horst. Trở vào nhà, Roran chúc chủ nhân ngủ ngon, rồi bước về phòng ngủ.

Suốt ngày hôm sau, vắng mặt Mandel, nhóm còn lại của Roran lợi dụng thời gian chờ đợi để nghỉ ngơi, mài dũa vũ khí, ôn lại chiến lược.

Từ sáng tới chiều, họ chỉ vài lần thấy nữ chủ nhân lăng xăng từ phòng này qua phòng khác, gã bồi Rolf, với hàm răng trắng bóng như ngọc trai, xuất hiện nhiều hơn. Tuyệt đối không thấy ông Jeod.

Hôm đó Jeod ra khỏi nhà đi dạo trong thành phố - rồi làm như tình cờ - ông thương gia đầu bạc gặp gỡ mấy người quen cũ mà ông từng tin cẩn trong những chuyến hải hành trước kia.

Khi trở lại nhà, ông nói với Roran:

- Chúng ta có thêm năm sau tay nữa. Hy vọng là đủ rồi.

Suốt buổi tối, Jeod ở trong thư phòng, hý hoáy tạo những giấy tờ hợp pháp cho chuyến đi.

Ba giờ trước khi trời sáng, Roran, Loring và mẹ con Birgit ra khỏi giường, cố chống lại những cái ngáp dài trong khi tụ tập trên lối vào nhà. Tất cả trùm kín mặt trong những chiếc áo choàng dài. Jeod xuất hiện với một thanh kiếm nhỏ bên hông. Thanh kiếm mảnh mai rất thích hợp với dáng người cao thon và như nhắc nhở Jeod thật sự ông là ai.

Jeod châm cây đèn dầu, nâng cao trước mọi người, hỏi:

- Sẵn sàng chưa?

Tất cả gật đầu. Ông nâng then cửa, mọi người bước ra con đường lát đá vắng hoe. Phía sau, Jeod còn chần chừ nhìn lại cầu thang bên phải, nhưng không thấy Helen. Ông nhún vai, ra khỏi nhà, đóng cửa.

Roran đặt tay lên vai ông:

- Điều cần làm đã làm rồi. Ông đã cố gắng hết sức...

- Ta hiểu.

Tất cả lúp xúp chạy qua thành phố tối đen, chỉ chậm bước lại, quay vội mắt qua hướng khác, khi gặp vài người gác-dan, hoặc mấy tên trộm đêm. Mỗi lần nghe tiếng bước chân tren những mái nhà gần đó, Jeod lại lèm bèm:

- Kiểu thiết kế thành phố này chỉ có lợi cho tụi đạo chích, thoải mái leo từ nhà này sang nhà khác.

Họ đi chầm chậm khi tới gần cổng đông thành phố. Cổng này mở ra cảng, nên mỗi đêm chỉ đóng bốn tiếng, giới hạn tối đa sự cản trở việc buôn bán. Vì vậy, mới giờ khắc này đã có nhiều người đang di chuyển qua cổng.

Dù Jeod đã báo cho mọi người biết trước những gì có thể xảy ra, Roran cảm thấy lo sợ khi mấy tên lính gác hỏi nghề nghiệp của cả nhóm. Cổ khô khốc, Roran nuốt nước bọt, trong khi tên lính gác thứ hai kiểm tra cuộn giấy ông Jeod vừa trình ra.

Sau cả phút dài đằng đẵng, hắn trao lại giấy tờ cho Jeod, nói:

- Qua đi.

Ra tới cầu cảng, Jeod nói ngay:

- May quá, gặp ngay thằng mù chữ.

Sáu người đứng chờ trên sàn gỗ ướt lép nhép cho đến khi lần lượt từng người của ông Jeod xuất hiện từ trong đám sương mù dày đặc. Đám này đều lặng lẽ, mặt mày dữ tợn, tóc thắt bím dài tới lưng, tay và mặt chằng chịt những vết thẹo. Nhìn mấy người mới tới, Roran vừa nể vừa thích và anh đoán họ cũng nể và mến mình. Tuy nhiên họ không ưa Birgit.

Một anh chàng cao lớn cộ cằn nhất bọn, hất ngón tay về phía Birgit hỏi ông Jeod:

- Sao ông không nói trong cuộc chiến này có đàn bà. Làm sao tôi có thể tập trung khi có mấy mụ vô dụng lù lù chắn lối chứ?

Nolfavrell nghiến răng nói:

- Không được phép nói về bà bằng giọng đó.

- A, lại còn tha theo một thằng nhóc nữa chứ.

Ông Jeod trầm tĩnh lên tiếng:

- Chị Birgit này đã từng choảng nhau với Ra'zac. Còn chú "nhóc" con trai chị đã giết một trong những tên lính ưu tú nhất của Galbatorix đấy. Uthar, anh đã làm được thế chưa?

Một tay khác càu nhàu:

- Không được. Tôi không cảm thấy yên tâm khi có đàn bà quanh quẩn gần bên. Họ chỉ đem lại xúi quẩy. Một người đàn bà không thể...

Hắn chưa dứt lời, Birgit tung đòn chẳng giống một phụ nữ chút nào. Cú đá như chớp trúng giữa hai đùi và lưỡi dao kề sát cổ Uthar. Chi giữ nguyên vị thế cho mọi người đều thấy rõ, rồi mới buông hắn ra. Uthar lăn trên sàn, ôm chỗ đau, bật ra hàng tràng câu chửi thề.

- Còn ai phản đối nữa không?

Birgit hỏi. Nolfavrell trợn mắt, há mồm nhìn mẹ.

Roran kéo mũ trùm đầu xuống, giấu nụ cười, nghĩ: "May là họ không để ý tới bà Gertrude"

Khi không còn ai lên tiếng thắc mắc về Birgit, ông Jeod hỏi nhóm thủy thủ mới tới:

- Các anh đem đủ những gì tôi yêu cầu chứ?

Mỗi thuỷ thủ lấy từ trong áo ra một cây gậy nặng chịch và mấy cuộn dây thừng. Suốt thời gian cả nhóm lần mò xuống bến, ông Jeod đóng kín ngọn đèn. Tới gần bến, họ núp sau một nhà kho, nhìn ngọn đèn của lính gác chập chờn quanh con tàu. Cầu tàu đã được rút lên.

Ông Jeod thì thầm:

- Nhớ kỹ, điều quan trọng nhất là phải cảnh giác, tránh gây tiếng động cho tới khi chúng ta sẵn sàng lên đường.

Roran hỏi:

- Hai tên ở trên, hai tên ở dưới, đúng không?

- Thường là như vậy.

Uthar trả lời, rồi cùng Roran buộc dây quanh bụng – Roran để cây búa lại. Cả hai chạy xuống bến, tránh tầm nhìn của lính gác, rồi hụp xuống làn nước lạnh ngắt. Uthar lẩm bẩm:

- Ghét nhất phải làm chuyện này.

- Trước đây anh đã làm bao giờ chưa?

- Bốn lần rồi. Đừng ngừng cử động, chết cóng đó.

Bấm mấy cây cọc nhỏ, họ trườn ngược về nơi đã xuất phát, cho tới khi đụng kè đá dẫn tới tàu Cánh Rồng, rồi quay sang phải. Uthar ghé sát tai Roran:

- Tôi lo mỏ neo bên phải.

Roran gật. Cả hai lặn xuống dòng nước đen, rồi tách riêng hai ngả. Uthar bơi như một con nhái dưới mũi tàu, trong khi Roran nắm theo sợi dây neo tiến thẳng tới mỏ neo sát bờ. Rút cây gậy khỏi thắt lưng, anh cắn giữa hai hàm răng - vừa để răng khỏi va nhau lộp cộp vừa rảnh hai tay nắm chặt cây neo bằng thép, rồi lặng im chờ. Dây thép lạnh làm hai tay anh tê dại như nước đá.

Chưa đầy ba phút sau, Roran nghe tiếng đế ủng của Birgit trên đầu, khi chị ta tiến tới cuối kè đá, đối diện với con tàu. Rồi có tiếng Birgit nhỏ nhẹ gợi chuyện với mấy tay lính gác. Mong sao chúng mải chuyện mà không quan tâm tới phía mũi tàu.

Bát đầu!

Roran nắm chặt dây thép, kéo mình trườn dần. Anh ép chặt bàn tay lên vai phải, nơi bị Ra'zac cắn, đau buốt.

Từ lỗ hổng dẫn dây neo lên tàu, Roran leo lên cái bệ đỡ một hình tường đầu rồng, nhảy qua lan can xuống sàn tàu. Uthar đã có mặt tại đó, ướt sũng, thở hồng hộc.

Tay cầm gậy, hai người mon men xuống đuôi tàu. Họ đứng khựng lại khi thấy cách chừng mười mét, hai tên gác đang cúi mình qua lan can khoác lác với Birgit.

Nhanh như chớp, Roran và Uthar nhảy tới đập gậy lên đầu hai lính gác, trong khi chúng chưa kịp trở tay. Bên dưới, Birgit ngoắt tay gọi cả nhóm. Tất cả nhanh nhẹn đẩy cây cầu gỗ lên tàu. Uthar đón đầu, buộc chặt lên lan can.

Thấy Nolfavrell, Roran ném cho nó một cuộn dây, bảo:

- Trói chân tay, bịt miệng hai gã này lại.

Sau đó, trừ bà Gertrude, tất cả đều xuống hầm tàu truy lùng hai tên lính gác còn lại. Nhưng không chỉ hai, họ phát hiện thêm bốn tên nữa: chỉ huy thủy thủ đoàn, thủ kho, bếp trưởng và bếp phó. Tất cả đều bị lôi ra khỏi giường, đập cho ngất nếu chống cự, rồi trói thành một bó. Vụ này, Birgit càng chứng tỏ chị chẳng "vô dụng" chút nào. Một mình Birgit tóm gọn hai tên.

Jeod ra lệnh chuyển tất cả tù nhân lên boong để dễ kiểm soát, rồi tuyên bố:

- Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm mà thời gian chẳng có bao nhiêu đâu. Roran, Uthar sẽ chỉ huy tàu. Cháu và mọi người phải theo lệnh anh ta.

Suốt hai tiếng sau, tất cả đều tất bật. Toán thủy thủ lo trang thiết bị và cánh buồm. Roran và mấy người dân Carvahall dọn dẹp những hàng hoá không cần thiết trong chuyến đi, chẳng hạn như những kiện len. Họ nhẹ nhàng thả tất cả xuống nước, tránh gây tiếng động. Nếu toàn thể dân làng đều lên tàu, thì càng nhiều khoảng trống càng tốt.

Đang phụ cùng mọi người, bỗng nghe một tiếng kêu hốt hoảng:

- Có người đang tới!

Trừ Uthar và ông Jeod, mọi người trên boong đều vơ vũ khí, nằm rạp xuống. Jeod và Uthar thản nhiên đi lại như hai lính gác. Roran nằm bất động, tim đập thình lình, tự hỏi chuyện gì xảy ra đây. Anh nín thở khi thấy Jeod nói với kẻ lạ...rồi tiếng chân bước trên cầu gỗ vang lên.

Đó là Helen.

Mặc bộ đồ đơn giản, tóc gói gọn trong một cái khăn, vai khoác một túi căng phồng, Helen không nói một lời, đem hành lý vào thẳng ca bin chính, rồi trở ra đứng bên Jeod. Roran chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào hạnh phúc hơn ông.

Bầu trời trên rặng núi Spine xa xa mới chỉ bắt đầu hừng sáng, một thuỷ thủ trong phòng lái – tay chỉ hướng bắc, miệng huýt sáo – ra dấu anh ta đã nhìn thấy dân làng.

Roran chạy vội lên boong, nhìn hàng người đang đổ xuống bờ biển. Phần này được dự trù trong kế hoạch là dựa vào một điều: Không giống những thành phố duyên hải khác, vòng tường ngoài của Teirm không mở ra biển, mà bao bọc lấy toàn thành phố, để tránh những vụ tấn công thường xuyên của hải tặc. Còn những nhà quanh cảng lại nằm ngoài tường rào, vì vậy dân làng có thể đi thẳng tới tàu Cánh Rồng.

Jeod luôn miệng hối thúc:

- Mau lên, mau lên nào!

Theo lệnh Uthar, thủy thủ khiêng ra những bó lao và mấy thùng nồng nặc mùi nhựa đường. Họ xúm lại, phết nhựa đường lên nửa thân những cây lao. Sau đó họ chuyển tới những bộ máy bắn đá trên sàn tàu. Phải cần tới hai người đàn ông mới kéo được sợi dây vào đúng khớp máy.

Dân làng vượt được hai phần ba đường tới con tàu thì bị lính tuần tra trong thành phát hiện. Tiếng trống báo động rộn rã vang lên. Nhưng cùng tiếng trống đầu tiên là tiếng gào của Uthar:

- Châm lửa! Bắn!

Chụp cây đèn dầu của Jeod, Nolfavrell chạy từ máy bắn đá này tới bộ máy khác, cầm lửa châm cho những ngọn lao tẩm nhựa đường bùng cháy. Những người đàn ông buông dây gân. Mười hai ngọn lao lửa từ Cánh Rồng phóng vút về phía những thuyền bè và nhà cửa trên bãi biển, như sao sa đỏ rực từ trời đổ xuống.

Uthar lại gào lên:

- Kéo dây! Nạp đạn!

Tiếng gỗ rên lên kẽo kẹt khi những người đàn ông kéo căng sợi dây gân. Một lần nữa Nolfavrell chạy tới lui châm lửa. Roran có thể nghe rõ tiếng chân nó luýnh quýnh khi cỗ máy trước mặt anh phóng vút đi một cây lao chưa kịp bắt lửa.

Ngọn lửa mau chóng lan toả trên bến tàu, tạo thành một rào cản đám lính phóng ra từ cửa đông, tiến đến tàu Cánh Rồng. Roran đã hy vọng những cột khói mịt mùng có thể che khuất tầm nhắm của các xạ thủ bắn tên lên tàu. Nhưng mục tiêu hơi gần, một loạt tên đã rào rào vào buồng lái và một mũi tên trúng mặt sàn, ngay kế bên là Gertrude, trước khi những tên lính trong thành bị khói chắn mắt con tàu.

Từ mũi tàu, Uthar ra lệnh:

- Tỉnh táo nhắm mục tiêu.

Lúc này dân làng đang nháo nhác chạy xuống bãi. Tới cuối cầu tàu, một số bị tên lạc của đám lính bắn trúng, lảo đảo gục xuống. Đám trẻ con gào lên khiếp đảm. Rồi khỏi lửa dọc theo kè đá, chạy rầm rầm trên cầu gỗ. Đám người hốc hác, tơi tả chen lấn lên tàu.

Birgit và bà Gertrude hướng dẫn dòng người tản ra hai phía đầu và đuôi tàu. Chỉ trong vòng mấy phút, các tầng trên tàu đã chật cứng, kể cả từ hầm chứa hàng tới cabin của thuyền trưởng. Một số người phải co ro sau mấy cái khiên trên boong tàu.

Khi Roran kêu gọi những người đã được Mandel chuyển tin của anh, trai tráng khỏe mạnh tụ tập quanh cột buồm chính, chờ chỉ thị. Chú nhóc Mandel đứng cùng họ, hãnh diện đưa tay chào Roran theo kiểu nhà binh.

Uthar chỉ một thuỷ thủ, cộc cằn nói:

- Tới đằng kia, Bonden. Đem theo người của anh, kéo neo lên, rồi xuống giữ mái chèo. Khẩn trương lên.

Với những người bên những cỗ máy bắn đá, anh ta ra lệnh:

- Chia phân nửa người của các anh sang cỗ máy bên trái tàu. Dẹp hết những gì cản trở.

Roran là một trong số người chạy sang trái. Khi anh đang phụ sửa soạn cỗ máy, thì mấy người còn lọt lại phía sau, đã vượt qua làn khói mù mịt loạng choạng leo lên tàu. Vợ chồng ông Jeod kéo sáu tù nhân bị trói lên cầu gỗ, rồi lăn họ xuống kè đá.

Mỏ neo và cầu gỗ đèu được rút lên. Dưới chân Roran, vang lên những tiếng gõ làm nhịp cho những tay cầm mái chèo. Rất từ từ, Cánh Rồng bẻ lái sang phải, hướng ra biển cả, rồi tăng tốc, con tàu rời bến.

Roran cùng ông Jeod lên phòng chỉ huy, nhìn về phía ngọn lửa tàn khốc đang thiêu hủy tất cả những gì có thể cháy giữa thành Teirm và mặt biển. Qua màn khói, mặt trời đỏ như máu, kiêu hãnh vượt lên trên thành phố.

Roran thầm hỏi: "Đến lúc này mình đã giết bao nhiêu mạng rồi".

Ý nghĩ của anh vang thành lời nói của ông Jeod:

- Nhiều người vô tội khốn khổ vì vụ này.

Mặc cảm tội lỗi làm Roran hung hăng đến bất ngờ:

- Ông muốn được vào nhà tù của tổng trấn Ristthart hơn sao? Tôi tin là nhiều người chỉ bị thương vì đám cháy, chứ họ không phải đối diện với cái chết như chúng ta, nếu chúng ta bị bắt.

- Ta rất hiểu điều đó, cháu không cần phải giảng giải nữa. Chúng ta làm việc phải làm thật, nhưng đừng yêu cầu ta vui mừng trước đau khổ do chính mình gây ra cho người khác, để mình được an toàn.

Tới trưa, những mái chèo được xếp lại. Gió thuận chiều từ phương bắc đẩy Cánh Rồng đi.

Con tàu chật như nêm, nhưng Roran tin, khéo thu xếp, họ sẽ tới Surda chỉ với một vài trục trặc không đáng kể. Điều đáng lo nhất là khẩu phần lương thực, phải rất dẻ xẻn, mới không bị xảy ra nạn chết đói. Và với lượng người quá đông như thế này rất dễ xảy ra bệnh tật.

Sau khi nghe Uthar dặn dò về sự thận trọng của kỷ luật trên tàu, dân làng tự động bắt tay ngay vào những việc cần thiết, như săn sóc các vết thương, thu dọn hành lý, xếp đặt chỗ ngủ cho ngăn nắp. Họ cũng chọn ra những người trám vào những vị trí còn thiếu trên tàu: ai nấu ăn, ai được người của Uthar huấn luyện thành thủy thủ...

Roran đang mắc võng dùm thím Elain thì bị lôi kéo vào vụ bàn cãi sôi nổi của Odele, gia đình cô và Frewin (anh chàng này đã tách khỏi nhóm của Torson để tò mò theo sát Odele). Hai anh chị muốn lấy nhau, nhưng cha mẹ Odele quyết liệt phản đối – vì lý do anh chàng thuỷ thủ trẻ tuổi này không cha mẹ, nghề nghiệp thấp kém, chẳng có gì bảo đảm tối thiểu cho cuộc sống của con gái họ. Roran cho rằng hai người đã mê tít nhau rồi, chấp nhận cho xong – làm sao ngăn cách nổi khi chúng cứ bám riết lấy nhau trên con tàu chật ních này. Cha mẹ Odele gạt phăng lý lẽ của Roran.

Anh bực mình hỏi:

- Vậy chú thím định làm gì nào? Trói cô ta lại à? Cháu tin là Frewin càng thêm...

- Ra'zac.

Có tiếng hốt hoảng kêu lên. Roran rút ngay cây búa khỏi thắt lưng, vừa leo lên thang, chui vội qua cửa hầm tàu vừa quay sang bên la lớn. Chạy như bay tới toán người đang tụ tập trong phòng lái, Roran ngừng lại bên cạnh chú Horst, nhìn theo tay ông chỉ.

Một trong hai con "chiến mã" khủng khiếp của Ra'zac đang chập chờn bay lượn như một cái bóng tả tơi trên bờ biển, với một tên Ra'zac trên lưng. Nhìn chúng giữa ban ngày mà sự hãi hùng trong Roran không hề giảm. Anh rùng mình khi con quái có cánh rú lên tiếng kêu khiếp đảm, tiếp ngay sau là giọng tên Ra'zac rỉ rả như tiếng côn trùng bập bềnh trên mặt nước, yếu ớt nhưng rõ ràng dứt khoát.

- Các người không thoát nổi đâu.

Roran quay nhìn cỗ máy bắn đá. Không thể quay mũi máy hướng về hai con quái được. Anh hỏi lớn:

- Ai có nỏ không?

- Tôi có.

Baldor lên tiếng, rồi quỳ gối mắc dây vào nỏ:

- Đừng để nó thấy tôi.

Mọi người quây thành một vòng kín quanh Baldor. Chú Horst lẩm bẩm:

- Sao chúng không tấn công?

Roran bối rối tìm không ra nguyên nhân, chính ông Jeod lên tiếng:

- Có lẽ vì trới quá sáng. Ra'zac chỉ đi săn về đêm. Theo tôi biết, chúng rất ngại đi xa tổ khi mặt trời chưa lặn.

Bà Gertrude bảo:

- Không chỉ có vậy. Tôi nghĩ chúng sợ biển.

- Sợ biển?

- Nhìn đi. Từ lúc chúng xuất hiện, chưa hề bay xa bờ tới một mét.

- Bà nói phải.

Roran bảo bà Gertrude và thầm nhủ: "Ít ra mình có thể lợi dụng yếu điểm này của chúng".

Mấy giây sau, Baldor bảo:

- Sẵn sàng.

Mọi người nhảy tránh sang một bên. Baldor đứng bật dậy, kéo căng dây nỏ, buông tay.

Một phát bắn đang mặt anh hùng! Hai con quái ở quá xa tầm bắn – xa hơn bất cứ điểm nào của Roran từng thấy bắn bằng cung tên – vậy mà Baldor đã nhắm trúng đích. Mũi tên của anh trúng ngay sườn phải con quái đang bay. Tiếng rú của quái vật bị thương làm cửa kính trên tàu vỡ vụn, đá trên bờ biển tan ra từng mảng. Roran vội vàng bịt chặt hai tai. Tiểng rú vẫn lanh lảnh kéo dài khi con quái đổi hướng, quay vào bờ, chìm khuất sau dãy đồi mịt mù sương.

Ông Jeod mặt nhợt nhạt, hỏi Baldor:

- Cháu giết chết nó rồi à?

- Cháu e là không. Chắc nó chỉ bị thương thôi.

Loring vừa ra tới, vẻ hài lòng, nhận xét:

- A, nhưng ít ra cháu cũng đã làm nó đau. Ta cá là chúng phải đắn đo dữ lắm, nếu muốn làm phiền chúng ta lần nữa.

Nhưng Roran lại rầu rĩ nói:

- Ông Loring ơi đừng vội mừng...

Chú Horst thắc mắc:

- Vì sao?

- Vì...bây giờ thì triều đình đã biết chính xác chúng ta đang ở đâu.

Cả phòng lái chìm vào im lặng. Tất cả thấm thía lời Roran vừa nói
 
Chương 56: Trò trẻ


Trianna nói:

- Đây là mẫu sau cùng chúng tôi vừa làm ra.

Nasuada tóm tấm vẳi đen từ tay côn gái phù thuỷ. Chất lượng thật tuyệt vời. Không bàn tay con người nào có thể dệt được dải đai đẹp như thế này. Vẻ hài lòng, nhìn dãy hộp đựng nhiều đai mẫukhác do Con-đường Lãng-du sản xuất, Nasuada nói với Trianna:

- Tuyệt lăm. Hoàn hảo hơn cả mong ước của ta. Chuyển lời tới các pháp sư của cô là ta rất vui lòng. Việc làm này của Con-đường Lãng-du rất có ý nghĩa với Varden.

- Tôi sẽ chuyển lời khen tới họ, thưa công nương.

- Họ đã...

Tiếng động ngoài cửa làm Nasuada im bặt. Cô nghe tiếng rủa của mấy người lính gác, rồi tiếng kêu la đau đớn, tiếng sắtthép choang choảng chạm nhau ngoài hành lang. Nasuada vội tránh xa cửa, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ.

- Chạy mau, công nương. Thoát ra theo lối cửa của người hầu.

Cô gái phù thuỷ la lên, vừa đứng che chắn cho Nasuada vừa xắn cao tay áo, để lộ cánh tay trắng nõn, sẵn sàng sử dụngphép thuật.

Nasuada chưa kịp cất bước, cánh cửa bật mở, một người nhỏ bé nhào vào ôm hai chân và xô cô ngã xuống sàn. Ngay khi Nasuada ngã xuống, một vật sáng như bạc bay vèo qua chỗ cô vừa đứng, cắm phập và bức tường cuối phòng.

Lúc đó bốn tên lính gác chạy vào, hốt hoảng cảm thấy như chính chúng vừa tấn công, làm cô bị ngã. Khi đứng dậy được, Nasuada thấy Elva đang vùng vẫy khỏi tay mấy tên lính gác. Cô cau mày hỏi:

- Chuyện này là thế nào?

Con nhỏ tóc đen cúi gập mình, nôn khan lên tấm thảm, rồi ngước cặp mắt màu tím nhìn Nasuada, cất giọng nói khủng khiếp, lọc lõi hỏi:

- Ôi, ái nữ của thủ lãnh Ajihad đã ra lệnh cho pháp sư kiểm tra bức tường kia chứ? Thử xem tôi có chu toàn lời hứa với công nương không?

Nasuada gật đầu với Trianna. Cô phù thuỷ tiến lại cái lỗ mới thủng trên tường, lẩm bẩm thần chú. Khi quay lại, cô ta trao cho Nasuada một vật nhọn bằng kim loại:

- Thanh sắt này đã cắm sâu vào tường.

Nasuada hoang mang hỏi:

- Nhưng nó từ đâu tới chứ?

Trianna chỉ tay lên cửa sổ mở xuống phố đường Aberon:

- Chắc từ ngoài kia, tôi đoán vậy.

Nasuada quay lại Elva:

- Em biết những chuyện này?

Miệng cười khiếp đảm của con bé càng rộng hơn:

- Đó là một tên thích khác

- Kẻ nào phái nó tới đây?

- Một tên thích khách do chín Galbatorix huấn luyện bằng tà thuật...

Mi mắt sụp xuống, lơ mơ như bị hôn mê, Elva thì thầm:

- Gã đó căm ghét công nương. Nếu tôi không ngăn cản kip thời, công nương đã bị nó giết chết rồi...

Nó lại vươn cổ ói mửa, phun ra cả đống đồ ăn chua lè lên sàn, rồi nói tiếp:

- Nhưng...nó sắp phải chịu đau đớn cùng cực đến nơi rồi...

- Vì sao?

- Vì tôi sắp cho công nương biết nó đang ở trong nhà trọ trên đường Fane, lầu thượng, phòng cuối cùng. Phải mau mau đi bắt nó ngay, nếu không nó sẽ trốn đi xa, rất xa...

Elva ôm bụng rên rỉ như con thú bị thương:

- Đi gấp đi. Đi trước khi thần chú của Eragon lại bắt tôi ngăn cản các gnười làm gã đó đau đớn. Lúc đó công nương sẽ hối không kịp đâu.

Trước khi Trianna đi, Nasuada dặn thêm:

- Báo cho ông Jormundur biết chuyện gì đã xảy ra, rồi đem theo những pháp sư cao tay nhất của cô, truy lùng bằng được tên thích khách đó. Giết chết, nếu không bắt sống được.

Cô gái phù thuỷ đi khỏi, Nasuada qua lại nhìn mấy người lính của cô và những đôi chân đầy vết cắt nhỏ, máu chảy ròng ròng

- Đi tìm thầy thuốc trị vêt thương đi.

Mấy người lính đều lắc đầu. Viên đại uý bảo:

- Không, thưa công nương. Chúng tôi ở lại cho đến khi thấy thật sự an toàn.

- Tùy đại úy.

Đám lính đóng chốt, ngăn chặn các cửa sổ - làm không khí càng thêm nóng bức ngột ngạt - rồi họ chia nhau vào các phòng để bảo vệ chặt chẽ hơn.

Nasuada bước quanh phòng, tim đập thình thình, ngẫm nghĩ đến việc cô vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc: "Tổ chức Varden sẽ ra sao nếu mình bị giết? Ai sẽ là người kế vị mình?". Cô chưa dự trù gì cho Varden trong trường hợp cô chết. Đó là một thiếu sót quá to lớn. "ta không thể để Varden tan rã vì đã không tính toán trước những sự kiện như thế này có thể xảy ra".

Đừng bước, cô nói với Elva:

- Ta mắc nợ em rồi đó, elava

- Bây giờ và mãi mãi.

Nasuada ngỡ ngàng. Cô luôn bị bất ngờ vì những câu trả lời của con bé này.

- Ta xin lỗi vì đã không ra lệnh cho lính gác, để em có thể vào đây bất cứ lúc nào. Đáng lẽ ta đã phải dự kiến những chuyện như thế này.

- Đúng vậy.

Giọng con bé đầy giễu cợt.

Vuốt tà áo trước cho thẳng thớm, Nasuada lại bước quanh, chủ yếu là để tránh bối rối khi phải nhìn khuôn mặt trắng bệch như đá, với dấu ấn rồng trên trán của Elva.

- Bằng cách nào em trốn ra khỏi phòng vậy?

- Em kể đủ thứ chuyện cho bà vú Greta nghe.

- Chỉ có vậy thôi sao?

- Bà ấy khoái nghe kể chuyện lắm

- Còn Angela?

- Sáng nay bà ta ra ngoài có việc.

- Đáp lại ơn cứu mạng, em cần gì cứ nói. Ta sẵn sàng làm trong quyền hạn của mình.

Elva nhìn quanh căn phòng lộng lẫy, rồi bảo:

- Công nương có gì ăn không? Em đói.
 
Chương 57: Linh cảm chiến tranh


Hai tiếng sau Trianna trở lại cùng hai người lính vác một thân hình mềm oặt. Cô ta ra lệnh cho họ ném cái xác lên sàn, rồi nói với Nasuada:

- Chúng tôi tìm ra kẻ thích khách đúng nơi Elva nói. Tên hắn là Drail.

Nasuada chăm chú nhìn kẻ mưu giết mình. Tên thích khách thấp người, rậm râu, vẻ chất phác; chẳng khác gì vô vàn những người đàn ông khác trong thành phố. Cô cảm thấy một mối dây liên lạc với hắn - dường như việc hắn định giết cô và việc cô tạo ra cái chết của hắn đã làm hai người thật gắn bó với nhau. Nasuada hỏi:

- Hắn bị giết cách nào? Ta không thấy dấu vết nào trên thi thể.

- Hắn tự tử bằng phép thuật khi bị chúng tôi xâm nhập vào tâm tưởng. Chúng tôi không kịp kiểm soát hành động của hắn.

- Có thu thập thông tin gì hữu ích trước khi hắn chết không?

- Có. Drail là một phần tử trong mạng lưới gián điệp đặt căn cứ tại đây. Chúng là những kẻ trung thành với Galbatorix, có tên gọi là Bàn Tay Đen. Nhiệm vụ của chúng là do thám và ngấm ngầm phá hoại những nỗ lực quân sự của chúng ta - điều quan trọng nhất chúng tôi có thể xác định trong thoáng chốc soi rọi vào quá khứ của Drail là – chúng có liên quan đến hàng chục vụ sát hại người của Varden. Rõ ràng chúng chỉ chờ cơ hội để giết công nương kể từ khi chúng ta từ Farthen Dur tới dây.

- Vì sao bọn Bàn Tay Đen này lại chưa ám sát vua Orrin?

- Tôi không rõ. Có thể vì Galbatorix cho rằng công nương là mối đe doạ nguy hiểm hơn vua Orrin. Nếu đúng vậy, thì ngay sau khi Bàn Tay Đen phát hiện công nương đã được bảo vệ khỏi sự tấn công của chúng...

Trianna liếc nhìn Elva, tiếp:

- Tôi e rằng nhà vua sẽ không sống được một tháng nữa đâu, trừ khi ông ta được bảo vệ phép thuật suốt đêm ngày, hay Galbatorix tránh có hành động trực tiếp như thế, để Bàn Tay Đen vẫn có thể âm thầm hoạt động và Surda vẫn tồn tại trong sự bao dung của bạo chúa...

Nasuada hỏi Elva:

- Em có thể bảo vệ cho cả nhà vua được không?

Đôi mắt màu tím của nó long lanh sáng:

- Có thể. Nếu ông ta yêu cầu đàng hoàng.

Nasuada thoáng tính toán cách ngăn chặn mối hiểm hoạ mới này. Cô hỏi Trianna:

- Tất cả gián điệp của Galbatorix đều có thể sử dụng phép thuật sao?

- Tâm trí của Drail bị rối loạn, khó đoán được chuyện này. Nhưng tôi nghĩ phần lớn chúng đều có thể.

"Hừ! lại là phép thuật!" Nasuada thầm rủa. Mối hiểm nguy lớn nhất các pháp sư - hoặc bất cứ kẻ nào sử dụng phép thuật – gây ra cho Varden, không phải là những vụ ám sát, mà chính là những điệp vụ. Các pháp sư có thể do thám tư tưởng người khác để thu thập tin tức, hầu phá hoại Varden. Đó là lý do vì sao Nasuada và toàn thể bộ máy lãnh đạo được dạy cách phát hiện và bao phủ tư tưởng, khi có kẻ chạm tới tâm trí mình. Nasuada ngờ rằng Orrin, vua Surda và vua lùn Hrothgar cũng trông cậy vào biện pháp đề phòng này. Cô hỏi Trianna:

- Vì sao cô đã không phát giác ra chuyện này sớm hơn? Một sát thủ lẻ loi tôi còn thông cảm được, nhưng đây là cả một hệ thống của những kẻ âm mưu phá hoại chúng ta. Cắt nghĩa đi, Trianna.

Trước những lời cáo buộc, mắt cô phù thuỷ sáng lên tức giận:

- Vì tại đây, không như ở Farthen Dur, chúng tôi không thể kiểm tra từng cá nhân để tìm ra những kẻ hai lòng. Có quá nhiều người mà nhóm pháp sư chúng tôi không thể theo dõi. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã không biết gì về Bàn Tay Đen cho đến lúc này, thưa công nương.

Cúi đầu suy nghĩ một lúc, Nasuada nói:

- Ta hiểu rồi. Cô có phát hiện thêm được thành viên nào khác của Bàn Tay Đen không?

- Có mấy tên.

- Tốt lắm. Hãy dùng chúng để lần ra tất cả những tên còn lại. Ta mong cô giúp xoá sạch tổ chức này, Trianna. Hãy nhổ tận rễ như nhổ hoa màu bị sâu bệnh vậy. Cô cần thêm bao nhiêu quân, ta sẽ cấp cho ngay.

- Tuân lệnh.

Có tiếng gõ cửa. Mấy người lính rút gươm đứng dạt sang hai bên lối vào, rồi viên đại úy thình lình mở tung cửa. Bên ngoài là một tiểu đồng đang giơ tay định gõ tiếp. Chú tiểu đồng khiếp đảm nhìn xác chết lù lù trên sàn, giật thót mình khi nghe viên đại úy hỏi:

- Chuyện gì?

- Đức vua truyền tôi tới gặp công nương Nasuada.

Nasuada giục giã.

- Nói mau đi.

- Đức vua Orrin truyền công nương tới ngay Hội-Nghị-Đường.

- Còn gì nữa không?

- Thưa không.

- Ta phải đến đó ngay. Trianna hãy đi thi hành lệnh ta. Đại úy, ông để lại một người giải quyết cái xác của Drail. Và nhờ ông tìm giúp cô nữ tì Farica, để lau dọn phòng này.

Elva lắc lư đầu:

- Còn em?

- Em đi cùng ta, nếu em không mệt.

Con bé bật ngửa đầu, từ cái miệng nhỏ bé của nó phát ra tràng cười lạnh lẽo:

- Tôi rất khỏe, còn công nương thì sao?

Nasuada không trả lời, tiến thẳng ra hành lang cùng những người lính gác vây quanh. Những bức tường đá của tòa lâu đài tỏa ra hơi nóng hăng mùi đất. Phía sau, cô nghe tiếng chân hấp tấp của Elva ráng theo bước chân sải dài của những người lớn.

Nhóm lính gác ở lại tiền sảnh khi Nasuada và Elva vào phòng hội nghị. Gian phòng đơn giản phản ảnh tính cách tranh đấu của đất nước Surda. Các vì vua đã cống hiến tài sản để bảo vệ thần dân và lật đổ Galbatorix, không trang trí lâu đài Borromeo một cách xa hoa phù phiếm như người lùn đã làm tại Tronjheim.

Giữa đại sảnh là một cái bàn gỗ mộc dài chừng bốn mét. Một tấm bản đồ Alagaesia trải trên mặt bàn, bốn con dao găm chặn bốn góc. Vua Orrin ngồi đầu bàn. Lui xuống dưới là những cận thần của ông – Nasuada biết nhiều người trong số này đã chống đối cô quyết liệt. Hội-đồng Tiền-bối cũng hiện diện. Dù đã được Trianna thông báo về vụ gã thích khách Drail, nhưng Nasuada vẫn nhận thấy vẻ lo lắng trong ánh mắt Jormundur khi ông nhìn cô. Nasuada hỏi nhà vua:

- Bệ hạ cho gọi tôi?

Orrin đứng dậy:

- Đúng vậy. Bây giờ chúng ta...

Nhà vua ngừng lời khi thấy Elva, ông quay qua nói với nó:

- A, Trán Sáng đây mà. Trẫm chưa có dịp nào gặp người, nhưng những việc kỳ lạ người làm đã đến tai trẫm. Phải thú thật là trẫm rất tò mò muốn gặp người. Người có vừa lòng với nơi nghỉ trẫm ban cho không?

- Xin đa tạ. Nơi ở đó rất tuyệt, muôn tâu bệ hạ.

Giọng nói như người lớn, kỳ quái của con bé làm tất cả những người quanh bàn rùng mình. Bộ trưởng Irwin chỉ ngón tay vào Elva, hỏi Nasuada:

- Sao... sao công nương dám đem cái... cái thứ gớm ghiếc này vào đây?

Dù thông cảm mối hãi hùng của ông, Nasuada vẫn nói:

- Thượng quan hơi quá lời rồi đó.

Nhà vua chau mày:

- Bình tĩnh nào, Irwin. Tuy nhiên ông ấy cũng có lý, công nương Nasuada à. Không thể để một đứa trẻ có mặt trong hội nghị như thế này được.

- Galbatorix vừa định ám sát tôi...

Cả phòng vang lên những tiếng kêu kinh ngạc. Cô tiếp:

- Nếu không có hành động chớp nhoáng của Elva thì tôi đã chết rồi. Vì vậy, tôi chỉ còn tin tưởng vào nó, tôi đi đâu nó sẽ theo đến đó.

"Mặc họ hoang mang không biết chính xác Elva làm được những trò gì." Nasuada thầm nghĩ.

Nhà vua than thở:

- Thật ghê gớm! Công nương đã bắt được tên ti tiện đó chưa?

Nasuada ngập ngừng:

- Tốt nhất là tôi sẽ tâu trình riêng cùng bệ hạ sau.

- Được, nhưng ngồi, ngồi xuống chứ. Chúng ta mới nhận được một báo cáo rất đáng lo ngại.

Sau khi Nasuada ngồi đối diện ông và Elva lấp ló sau cô, nhà vua tiếp tục:

- Dường như gián điệp của ta tại Gil'ead đã bị lừa về tình hình quân đội của Galbatorix.

- Là sao, thưa bệ hạ?

- Họ cho rằng quân của Galbatorix đóng tại Gil'ead, trong khi văn thư của một người của ta tại Uru'baen lại cho biết chính hắn chứng kiến một lượng lớn binh sẽ chuyển về hướng nam từ hơn một tuần trước. Vì là ban đêm, nên người của ta không biết chính xác, nhưng hắn chắc chắn là phải hơn mười sáu ngàn quân chủ lực của Galbatorix. Cũng có thể lên tới cả trăm ngàn hoặc hơn vậy nữa.

Một trăm ngàn! Nasuada hãi hùng đến quặn thắt bụng. Cô hỏi:

- Nguồn tin đó có đáng tin không, thưa bệ hạ?

- Tin tức của người đó luôn đáng tin cậy.

- Tôi vẫn không hiểu bằng cách nào Galbatorix di chuyển được một lượng quân lớn như thế mà người chúng ta không biết? Chỉ riêng xe vận chuyển đồ tiếp tế cũng kéo dài cả dặm rồi...

Falberd nện bàn tay nặng chịch lên bàn, dằn từng tiếng:

- Chúng ta đã bị mắc mưu. Rất có thể, gián điệp của chúng ta đã bị dụ hoặc bằng phép thuật, để đi đến lầm tưởng quân triều đình vẫn còn trong doanh trại tại Gil'ead.

Mặt Nasuada không còn sắc máu:

- Chỉ một người có khả năng tạo ra nổi một ảo ảnh to lớn và lâu dài đến thế...

Vua Orrin nói nốt ý cô:

- Chính là Galbatorix. Và đó là kết luận của chúng tôi. Điều đó có nghĩa là, sau cùng thì, bạo chúa đã rời hang ổ để sẵn sàng mở một cuộc chiến công khai. Thậm chí, có thể khi chúng ta đang ngồi đây bàn luận, thì kẻ thù đang tiến tới.

Bộ trưởng Irwin nghiêng mình tới trước:

- Câu hỏi lúc này là chúng ta phải làm gì đây? Chống trả? Tất nhiên, nhưng bằng cách nào? Bao giờ? Và tại đâu? Lực lượng của chúng tôi chưa sẵn sàng cho một chiến dịch tầm cỡ như thế này. Công nương Nasuada, trong khi đó, lực lượng Varden đã quen với chiến trận tàn khốc rồi...

- Ông nói vậy là ngụ ý gì?

Nasuada hỏi và thầm nghĩ: "Là chúng tôi chết thay cho các ông chứ gì?"

- Tôi chỉ nhận xét như vậy thôi. Công nương hiểu sao tùy ý.

Nhà vua lên tiếng:

- Một mình chúng tôi sẽ bị nghiền nát giữa một đạo quân quá lớn. Chúng tôi cần phải có nhiều đồng minh. Đặc biệt là nếu chúng ta phải đương đầu với Galbatorix, điều cần thiết nhất là phải có được Eragon. Nasuada, công nương có thể nhắn tin cho Eragon được không?

- Tôi sẽ làm khi có thể. Nhưng cho đến khi Arya trở lại, tôi không có cách nào liên lạc được với thần tiên hay gọi Eragon về đây.

- Vậy thì chỉ còn hy vọng Arya trở lại trước khi quá muộn. Tôi không tin tưởng lắm vào thần tiên trong vụ này. Một con rồng có thể vượt nhiều dặm giữa Aberon và Ellesméra với tốc độ của chim ưng, thần tiên không thể chạy bộ cùng khoảng cách như thế, để kịp tới đây trước Galbatorix. Chỉ còn cách trông chờ vào người lùn. Trẫm biết, từ nhiều năm qua, công nương vẫn giữ mối giao hảo với vua Hrothgar; liệu công nương có thể đại diện trẫm gửi lời xin họ giúp đỡ chúng ta? Người lùn vẫn hứa là họ sẽ tham gia khi thời cơ tới...

- Con-đường Lãng-du đã thu xếp với vài pháp sư của người lùn, để chúng tôi có thể chuyển tin đi một cách cấp kỳ. Tôi sẽ chuyển yêu cầu của bệ hạ... của... chúng ta tới đức vua Hrothgar và sẽ xin nhà vua cử một sứ thần tới trạm Caris để thông báo cho thần tiên nắm rõ tình hình.

- Tốt. Tuy chúng ta ở hơi xa Farthen Dur, nhưng nếu có thể cầm chân quân triều đình của Galbatorix chừng một tuần, người lùn chắc tới kịp.

Những vấn đề nghiêm trọng khác được tiếp tục thảo luận: nhiều chiến thuật có thể được áp dụng để đương đầu với một lực lượng hùng mạnh, nhưng không ai tìm ra được một giải pháp để chống lại Galbatorix, nhất là khi Eragon vẫn không thể só sánh với lão bạo chúa già khú khụ. Duy nhất một xảo thuật may ra có thể đem lại thành công: các pháp sư, người lùn, quân Varden – càng nhiều càng tốt – bao quanh Eragon, ép buộc Galbatorix phải một mình đối đầu với họ.

Nhưng Nasuada lại nghĩ: "Vấn đề của kế hoạch này là, trong thời kỳ triệt phá Kỵ sĩ rồng, Galbatorix đã từng chiến thắng những kẻ thù khủng khiếp hơn nhiều, và từ ngày đó nội công của lão chỉ càng thâm hậu hơn lên. Nếu trong hàng ngũ của ta có những pháp sư của thần tiên, may ra mới đạt được chiến thắng. Không có họ thì... nếu không hạ được Galbatorix chỉ còn con đường vượt biển tìm mảnh đất mới mà sống, chờ cho đến khi bạo chúa lìa đời..."

Tất cả sôi nổi bàn cãi hết chiến thuật này tới chiến lược khác. Hội-đồng Tiền-bối càng tỏ ra gay gắt hơn khi thảo luận với các quân sư của vua Orrin về việc phân chia trách nhiệm: ai chi tiền cho khoản này khoản kia, ai phân phối khẩu phần cho những lao động làm việc cho cả Varden và nhà vua? Giải quyết những vấn đề liên quan cả hai bên ra sao?

Giữa cuộc đấu võ miệng rầm rầm, vua Orrin rút ra một cuộn giấy, nói với Nasuada:

- Nhân bàn về vấn đề tài chính, công nương có vui lòng cắt nghĩa cho trẫm hiểu về vài vụ việc đã được tâu trình lên trẫm không?

- Tôi sẽ hết sức cố gắng, thưa bệ hạ.

- Trẫm đang có trong tay đơn khiếu nại của Hiệp Hội Nghề Dệt. Họ khẳng định thợ dệt trên toàn lãnh thổ Surda đã bị thua lỗ, vì trên thị trường tràn ngập hàng đai áo rẻ đến không ngờ. Theo như trong đơn quả quyết, thì đó là mặt hàng có xuất xứ từ Varden.

Mặt nhà vua thoáng vẻ đau khổ:

- Nếu đó là sự thật, trẫm muốn biết, vì sao Varden lại hành động như thế?

Nasuada không giấu nụ cười:

- Muôn tâu, chắc bệ hạ còn nhớ, khi từ chối cho Varden vay thêm tiền, bệ hạ đã truyền dạy tôi hãy tự tìm cách mà xoay sở.

- Đúng là trẫm đã khuyên công nương như vậy. Nhưng chuyện đó có gì liên quan đến vụ này?

- Vì phải tự xoay sở, tôi chợt nghĩ ra những đai áo quá đắt tiền là vì làm theo lối thủ công rất tốn công sức và thời gian. Nhưng nếu được sản xuất hàng loạt bằng phép thuật lại quá dễ dàng khắc phục được những nhược điểm trên. Thần dân của bệ hạ đều là những nhà tâm lý bẩm sinh, chắc phải cám ơn chúng tôi vì đã giảm được gánh nặng cho Surda, vì đã tự lo được cái ăn chỗ ở cho chính mình.

Nasuada tỏ ra quá hoan hỉ đến nỗi mặt nhà vua hằn vẻ nghi ngờ. Cuộn giấy nắm trong tay, để lơ lửng giữa cằm ông và mặt bàn, miệng hé mở, trán cau lại, dường như ông mới thấy một điều gì nhưng không hiểu nổi. Ông lắp bắp:

- Đai áo à?

- Đúng vậy, thưa bệ hạ.

- Không thể chiến đấu với Galbatorix bằng đai áo được.

- Muôn tâu, vì sao lại không thể?

Ráng sức tìm câu trả lời, một lúc sau nhà vua mới làu bàu:

- Vì... vì... không đàng hoàng, không làm người ta kính nể. Các thi nhân sẽ viết gì trong bản anh hùng ca về chiến công của chúng ta với... cái... cái đai áo?

- Chúng tôi không chiến đấu để được thi nhân tán tụng trong những bản anh hùng ca, thưa bệ hạ.

- Vậy thì dẹp chuyện anh hùng ca sang một bên. Nhưng trẫm sẽ phải trả lời sao với hiệp hội thợ dệt về chuyện này đây? Những chiếc đai giá rẻ đó đã làm hại tới đời sống thần dân trẫm, làm giảm uy tín nền kinh tế của đất nước trẫm. Không được, hoàn toàn không chấp nhận được.

Nasuada nở nụ cười rất thân thiện, dịu dàng:

- Ôi, muôn tâu, nếu đó là sự thiệt thòi nặng nề cho ngân khố triều đình, để đáp lại lòng ưu ái bệ hạ đã dành cho chúng tôi, Varden chúng tôi rất vui lòng cho bệ hạ vay một khoản tiền, tất nhiên là với... lãi suất phải chăng thôi.

Hội-đồng Tiền-bối ngồi im giữ vẻ lịch sự đúng mức, nhưng đằng sau Nasuada, Elva bật lên cười hô hố.
 
Chương 58: Hồng kiếm - Bạch kiếm tranh hùng


Mặt trời vừa xuất hiện trên hàng cây cuối chân trời, Eragon hít sâu, mở mắt, tỉnh táo lại. Thật ra nó chưa hề ngủ, không ngủ từ khi thể chất và tinh thần biến đổi. Những khi cảm thấy mệt mỏi, vừa nằm xuống nghỉ ngơi, nó lại trôi vào những giấc mơ tỉnh. Nó lại thấy những hình ảnh lạ lùng, lại đi giữa những bóng đen trong ký ức; tuy nhiên, suốt thời gian đó nó vẫn nhận biết những gì chung quanh.

Eragon nhìn mặt trời lên và nhớ lại tất cả những giờ phút gần bên Arya trong Lễ-hội Huyết-thệ hai hôm trước. Buổi sáng sau ngày hội, nó tới cung Tialdarí tìm cô, mới biết Arya đã lên đường tới Surda. "Bao giờ ta mới gặp lại nàng?" Eragon thầm nhủ. Trong ánh sáng trong vắt buổi sớm mai, nó mới nhận ra phép thuật của rồng và thần tiên đã làm đầu óc nó mê muội đến thế nào trong suốt mấy ngày lễ đó. "Chắc mình đã có những hành động ngu ngốc lắm, nhưng hoàn toàn đây phải lỗi tại mình. Cứ như say rượu tới không còn tự chủ được nữa vậy."

Tuy vậy, từng lời nói với Arya đều là sự thật, kể cả những câu mà lúc bình thường nó chưa hề thổ lộ. Cô đã mau chóng bác bỏ tâm tình của nó. Lúc này, thoát khỏi bùa chú bao phủ tâm trí, nó tỉnh táo nhìn nhận: rất có thể nàng có lý. Tuổi tác quá cách biệt nhau. Chấp nhận nguyên nhân này chỉ làm nó thêm đau khổ.

Trước kia, Eragon đã từng nghe câu "Con tim tan nát". Nó luôn nghĩ đó chỉ là một cách diễn tả đầy tính tưởng tượng, nhưng không thể là một triệu chứng của thể xác được. Nhưng chính lúc này đây, lồng ngực nó đau nhói theo từng tiếng đập của con tim.

Niềm an ủi duy nhất của Eragon lúc này là Saphira. Suốt hai ngày qua, Saphira không hề phê phán những gì nó đã làm, cũng không rời xa nó một phút. Cô em rồng ríu rít chuyện trò, cố lôi kéo ra khỏi cái vỏ im lìm ủ dột.

Để kéo mình ra khỏi nỗi ám ảnh về Arya, Eragon đem chiếc nhẫn rắc rối của ông lùn Orik ra, xoay xoay giữa mấy ngón tay, ngỡ ngàng vì không ngờ các giác quan trở nên sắc bén đến thế. Nó có thể cảm nhận được từng tỳ vết nhỏ trên những vòng xoắn xít này. Quan sát chiếc nhẫn, Eragon nhận ra ngay mô hình sắp đặt phức tạp của những sợi vàng mà trước đây nó không thể nào phát hiện. Tự tin vào bản năng, nó điều khiển những cái vòng hàng loạt kiểu theo ý muốn, cho đến khi tám mảnh khớp với nhau thành một chiếc nhẫn hoàn hảo. Đeo nhẫn vào ngón tay phải, Eragon thích thú ngắm nghía màu vàng lấp lánh trong ánh nắng.

Từ chỗ ngủ, Saphira ngửng đầu lên, nhận xét: "Trước đây anh đâu có thể làm được như vậy."

"Đúng, bây giờ anh có thể nhìn thấy nhiều điều trước kia cứ như bị che mắt."

Eragon vào phòng tắm làm vệ sinh sáng và đọc thần chú cạo râu.

Tới bãi luyện kiếm, Saphira và Eragon đã thấy ông lùn Orik đang ngồi đợi. Mắt ông lùn sáng lên khi Eragon khoe bàn tay đeo nhẫn:

- A, vậy là cậu đã lý giải được rồi hả?

- Lâu hơn tôi tưởng, nhưng cũng xong. Ông tới luyện kiếm?

- Ồ, không. Tôi tới xem cậu đấu.

- Ông đã từng thấy tôi đấu rồi mà.

- Nhưng... lâu rồi.

- Có nghĩa là ông muốn biết tôi thay đổi ra sao, phải không?

Orik nhún vai thay cho câu trả lời.

Tiến ra sân, Vanir hỏi lớn:

- Sẵn sàng chưa, Khắc-Tinh của Tà-Thần?

Thái độ hạ cố của Vanir - từ sau trận đấu trước ngày hội Huyết-thệ - có phần giảm, nhưng chưa hết hẳn.

Eragon trả lời:

- Sẵn sàng.

Cả hai thủ thé. Giữ tâm trí bình thản, Eragon nín thở, tung đòn. Không ngờ thanh Zar'roc bỗng nhẹ hẫng như một nhành liễu, vuột khỏi tay Eragon, vừa xoáy tít vừa phóng mình xa chừng hai mươi mét, rồi cắm phập vào thân một cây thông.

Vanir nhếch mép hỏi:

- Cầm kiếm cũng không nổi sao, kỵ sĩ?

- Xin lỗi, Vanir công tử. Tôi xuất chiêu hơi quá tay.

- Thận trọng, đừng tái diễn trò đó nữa.

Tiến tới cây thông, Vanir nắm chuôi Zar'roc cố nhổ ra. Thanh kiếm không hề lay chuyển. Hai lông mày nhíu sát vào nhau, Vanir nhăn mặt, người người ráng sức bình sinh nhổ bật thanh kiếm khỏi thân cây.

Đón thanh Zar'roc từ tay Vanir, Eragon lại thắc mắc không hiểu sao thanh kiếm nhẹ đến như vậy. Nó thầm hỏi: "Chuyện gì xảy ra thế này?"

- Thủ thế đi.

Lần này Vanir xuất chiêu trước. Chỉ một bước nhảy, Vanir tới gần sát Eragon, phóng mũi kiếm ngay vai phải nó. Với Eragon, hình như anh chàng tiên trẻ này di chuyển chậm chạp hơn trước kia, cứ như anh ta cố giám sức cho ngang bằng một con người. Điều đó làm Eragon dễ dàng gạt phăng thanh kiếm của đối thủ. Những tia lửa xanh lè tóe ra khi hai vũ khí chạm nhau.

Vanir bàng hoàng kinh ngạc, tấn công tiếp. Như một cành cây rạp mình trong gió, Eragon ngả mình ra sau, tránh đường kiếm. Vanir liên tiếp xuất chiêu ào ạt. Hóa giải những chiêu kiếm chợp nhoáng như tia chớp, Eragon sử dụng cả bao thanh Zar'roc làm vũ khí.

Chợt Eragon nhận ra, trong Lễ-hội Huyết-thệ, hồn ma bóng quế của rồng không chỉ làm biến đổi ngoại hình nó, mà hơn thế nữa, đã ban cho nó năng lực thể chất của thần tiên. Bây giờ, sức mạnh và sự nhanh nhẹn của nó có thể so sánh cùng như thần tiên cao thủ nhất.

Khát khao thử khả năng của mình, Eragon nhảy hết sức bình sinh lên cao. Thanh Zar'roc sáng rực màu đỏ khi Eragon vọt lên cao hơn ba mét, rồi thình lình xoay người, hạ xuống sau lưng Vanir như một nghệ sĩ nhào lộn đại tài.

Eragon bật lên một tràng cười dữ dội. Nó không còn bất lực trước thần tiên, tà thần và những sinh vật ma thuật nào nữa. Không còn phải chịu đựng sự khinh bỉ của thần tiên. Không phải lệ thuộc vào Saphira hay Arya để giải thoát nó khỏi tay những kẻ thù như Durza.

Eragon tấn công. Bãi tập vang lên những tiếng la hét hăng say, giận dữ khi hai tiếm sĩ tung ra những chiêu kiếm tới tấp tấn công, thủ trên bãi cỏ nhàu nát. Những đường gươm đầy dũng mãnh tạo nên những luồng gió mạnh làm đầu tóc họ bay tung, lá thông đổ ào ào. Trận đấu kéo dài suốt buổi sáng, vì mặc dù với năng lực mới của Eragon, Vanir vẫn tỏ ra là một đối thủ đáng gờm. Sau cùng, Eragon quay tít thanh Zar'roc, phá thế thủ của Vanir, đập mạnh lên cánh tay anh ta. Xương Vanir bị gãy.

Buông rơi thanh kiếm, mặt trắng nhợt, Vanir thì thào:

- Xuất chiêu như chớp nhoáng!

Eragon nhận ra đó là câu nói nổi tiếng trong cuốn Cái Chết của Umhodan.

Ông lùn Orik la toáng lên:

- Trời ơi là trời! Đại cao thủ. Tôi đã từng thấy cậu đấu cùng Arya khi còn ở Farthen Dur, nhưng bây giờ thì... bái phục bái phục.

Rồi Vanir làm một hành động mà Eragon không bao giờ ngờ tới: chàng thần tiên trẻ xoắn vặn bàn tay bị thương - với cung cách tỏ lòng trong thành tôn kính - đặt lên xương ức, cúi đầu nói:

- Eragon-elda, xin thứ lỗi cho thái độ trước đây của tôi. Vì quá lo sợ kỵ sĩ đưa đẩy nòi giống chúng tôi vào vực thẳm, nên đã hồ đồ thất lễ. Bây giờ công tử quả xứng danh là một kỵ sĩ rồng.

Eragon cúi đầu đáp lễ:

- Xin đừng quá khen. Tôi xin lỗi vì đã gây thương tích nặng. Cho phép tôi được điều trị...

- Không. Tôi sẽ để thiên nhiên săn sóc vết thương này và lưu giữ như kỷ niệm một lần so kiếm cùng Khắc-Tinh của Tà-Thần. Tôi thuận tay trái như tay phải, nên kỵ sĩ đừng lo buổi tập sáng mai bị hoãn lại.

Cả hai cúi chào chia tay. Sau khi Vanir đi khỏi, ông lùn Orik lên tiếng:

- Bây giờ thì ta có cơ may chiến thắng rồi. Tôi cảm thấy điều đó từ xương tủy, từ trong lớp xương rắn như đá này đây. A, chuyện này sẽ làm đức vua Hrothgar và công nương Nasuada vui mừng khôn xiết.

Eragon lẳng lặng tập trung giải tỏa lớp phép thuật bao bọc trên mặt thanh Zar'roc, nhưng trong trí nói với Saphira: "Hừ, chiến thắng đâu dễ thế? Nếu chỉ cần có sức mạnh là có thể triệt hạ Galbatorix thì thần tiên đã chiến thắng từ lâu rồi." Tuy nhiên nó không thể ngăn được niềm vui vì năng lực là sự dũng cảm của nó đang tăng lên, cũng như sự đau đớn hành hạ cái lưng của nó suốt thời gian qua không còn nữa. Không còn cái đau như xé thịt, dường như tâm trí nó thoát ra khỏi một đám mây mù, lại có thể suy nghĩ một cách sáng suốt như trước kia.

Còn mấy phút nữa mới phải gặp sư phụ và rồng vàng Glaedr, Eragon lấy cung tên từ lưng Saphira, tiến lại xạ trường của thần tiên. Vì cung tên của thần tiên mạnh hơn của Eragon nhiều, bia tập bắn của họ vừa quá nhỏ vừa quá xa đối với nó. Eragon phải tiến lên phân nửa tầm bắn của họ.

Gắn tên xong, Eragon từ từ kéo dây cung, vui mừng vì sao lần này nhẹ nhàng thoải mái quá. Nhắm đích, Eragon buông dây. Mũi tên, như một con ong hóa rồ, vù vù bay thẳng tới tấm bia, cắm phập ngay chính giữa hồng tâm. Toác miệng cười, Eragon liên tục buông dây cung ba mươi lần.

Tới mũi tên ba mươi mốt, nó thử kéo dây hơi mạnh hơn bình thường. Một tiếng "rắc" vang lên. Cây cung bằng gỗ thủy tùng gãy làm hai.

Eragon bàng hoàng nhìn hai mảnh cung gãy. Cậu Garrow làm cây cung này để làm quà sinh nhật cho nó ba năm trước. Từ ngày đó, không tuần nào Eragon không sử dụng. Cây cung đã giúp nó cung cấp thực phẩm cho cả nhà, nhiều khi thiếu ăn đến đói lả. Với cây cung này Eragon đã hạ con nai đầu tiên, quái thú Urgal đầu tiên, và cũng với cây cung này, nó đã sử dụng phép thuật lần đầu. Mất cây cung, chẳng khác nào mất người bạn thân thiết đã từng giúp nó trong những lúc gian nan, nguy khốn nhất.

Saphira ngửi hai mảnh gỗ đong đưa trong tay Eragon, bảo: "Chắc anh cần phải thay thế bằng một cây lao để phóng."

Eragon ậm ừ, không còn tinh thần trò chuyện cùng cô em rồng nữa. Nó uể oải tiến lại nhặt mấy mũi tên, rồi lên lưng Saphira, cùng bay tới bờ đá trắng trên vực Tel'naéir trình diện sự phụ.

Oromis đang ngồi trước lều, đôi mắt nhìn xa xôi, hỏi:

- Eragon, con đã hoàn toàn bình phục hỏi tác dụng của phép thuật trong ngày lễ chưa?

- Thưa sư phụ, con đã bình phục rồi.

Im lặng kéo dài trong khi vị lão tiên nhấm nhácp tách trà dâu đen, lẳng lặng ngắm nhìn cánh rừng già. Sau cùng ông lên tiếng:

- Glaedr cắt nghĩa cho ta biết, việc đã làm cho con trong lễ hội. Một chuyện như thế chưa từng xảy ra trong lịch sử các kỵ sĩ... Một lần nữa rồng lại chứng tỏ có khả năng vượt quá cả sự tưởng tượng của chúng ta...

Nhấp ngụm trà, ông chậm rãi tiếp:

- Nhưng Glaedr không biết chính xác sự thay đỏi làm con thêm được những khả năng gì, vì vậy ta muốn tự con cho ta biết rõ ràng những biến đổi từ nội lực tới ngoại hình của con ra sao.

Eragon mau mắn tóm tắt những đổi thay từ thính, thị, khứu, vị, xúc giác trở nên vô cùng nhạy bén, tới chuyện đã thắng Vanir trong buổi luyện kiếm ra sao.

Oromis hỏi:

- Con cảm thấy thế nào về chuyện này? Có buồn giận vì cơ thể bị đổi thay mà chưa được con cho phép không?

- Không, không chút nào, thưa sư phụ. Nếu chuyện này xảy ra trước trận đánh tại Farthen Dur, chắc con đã vô cùng phẫn nộ, nhưng lúc này con chỉ cảm thấy biết ơn vì lưng con không còn đau đớn. Con còn mong đổi thay nhiều hơn nữa để thoát khỏi lời nguyền của Tà Thần Durza.

- Ta mừng vì con đã sáng suốt chấp nhận tình trạng này, vì đó là một tặng phẩm còn quý hơn vàng trên khắp thế gian. Thôi, bây giờ thầy trò ta bắt đầu. Saphira, Glaedr đang đợi con tại Trụ Đá Trứng Vỡ. Còn con, Eragon, hôm nay con bắt đầu luyện lên cấp ba của Xà Hạc quyền, thầy muốn biết khả năng con hiện nay tới đâu.

Eragon vừa định bước ra khoảng đát nện dùng để luyện võ, nhưng thấy sư phụ vẫn ngồi yên, nên ngập ngừng hỏi:

- Sư phụ, người không ra cùng con sao?

Oromis thoáng cười buồn:

- Hôm nay thì không, Eragon. Những câu thần chú cần thiết trong hội Huyết-thệ đã rút cạn sức ta rồi. Thầy không còn đủ sức ra ngoài đó với con đâu.

- Con xin lỗi...

- Đừng rầu rĩ vậy. Thầy bị tàn tật đâu phải vì lỗi của con.

Khi Eragon cố gắng hoàn tất bài quyền, nó cảm thấy rõ ràng vẫn còn thiếu sự ổn định tinh thần và mềm dẻo cơ thể của thần tiên; hai đặc tính mà kể cả thần tiên vẫn phải khổ luyện mới đạt tới.

Những tuần tiếp theo là thời gian đầy khó khăn của Eragon. Một mặt nó tiến bộ nhiều trong luyện tập, lần lượt vượt qua những thử thách cam go mà trước đây từng làm nó bối rối. Dù vẫn thấy những bài học của sư phụ đầy thách thức, nhưng nó không còn cảm thấy như bị nhấn chìm trong đại dương tăm tối nữa. Đọc và viết dễ dàng hơn và với sinh lực dồi dào, Eragon có thể niệm những lừoi chú của thần tiên - những câu chú đòi hỏi nội công thâm hậu, có thể gây tử vong cho bất cứ một người bình thường nào. Với nguồn nội công dồi dào đó, sư phụ nó suy yếu đến nhường nào.

Nhưng tuy đạt được những thành quả tiến bộ như vậy, trong lòng Eragon vẫn không vui. Dù cố gắng hết sức để quên Arya, nhưng mỗi ngày nỗi nhớ nhưng buồn khổ chỉ tăng hơn, vì biết rằng cô không muốn gặp gỡ hay chuyện trò với nó. Hơn nữa, Eragon cảm thấy, dường như bão tố hung hãn đang quần tụ cuối trời, một trận cuồng phong hăm dọa nổi lên bất cứ lúc nào, phá hủy tất cả trên đường giông tố quét qua.

Saphira chia sẻ nỗi bất an của nó: "Eragon, thế giới này mong manh lắm. Những gì anh cảm thấy, cũng là những gì thần tiên và loài rồng chúng em cảm thấy. Bước chân của định mệnh khắt khe không thể nào ngăn cản được. Hãy khóc cho những người sẽ chết trong cơn hỗn loạn tàn phá Alagaesia. Và hãy hy vọng chúng ta sẽ đạt được một tương lai rực rỡ bằng lưỡi kiếm và cây khiên của anh, bằng nanh nhọn và móng vuốt của em."
 
Chương 59: Những hình ảnh xa gần


Rạng sáng, Eragon tới khoảng trống giữa lùm cây, bên ngoài lều sư phụ. Nó ngồi lên thân cây trên mặt đất phủ đầy rêu, không chỉ nhập tâm trí vào chim chóc, muông thú, côn trùng, mà cả cây cỏ trong rừng. Tri thức của cây cối khác với loài vật: chậm rãi, thận trọng, nhưng bằng một cách riêng chúng cũng ý thức với những gì chung quanh như Eragon. Nhịp đập ý thức của cây tỏa sáng như những vì sao xoay tròn trong trí Eragon. Mỗi đốm sáng là một sự sống. Kể cả đá vô tri cũng tràn ngập những cơ thể sinh vật; đất đai cũng sống động và có khả năng cảm thụ.

Eragon thầm kết luận: "Đời sống thông minh tồn tại khắp nơi."

Khi Eragon chìm đắm trong tư tưởng và cảm xúc của những cá thể chung quanh, nó đạt tới trạng thái sâu thẳm của sự an nhiên tự tại. Suốt thời gian đó, nó không còn là một thực thể, chỉ là một khoảng không lưu giữ những âm thanh của thế giới. Không điều gì lọt khỏi sự quan tâm của nó, vì nó không tập trung quan tâm đến một điều gì. Nó là rừng và là những cư dân của rừng.

Khi trở lại là chính mình, Eragon phân vân: "Cảm giác này có phải của thần linh không?"

Ra khỏi khoảng trống, Eragon vào lều quỳ gối trước Oromis:

- Thưa sư phụ, con đã làm theo lời thầy dạy. Con lắng nghe tới khi không còn nghe gì nữa.

Oromis ngừng viết, trầm ngâm nhìn Eragon:

- Hãy kể thầy nghe.

Suốt hơn một giờ, giọng Eragon sôi nổi dần, thuật lại từng chi tiết về cỏ cây, loài vật sống trong khoảng đất trống cho đến khi sư phụ nó giơ cao tay, nói:

- Ta biết là con đã nghe tất cả những gì nghe được tại đó. Nhưng con có hiểu tất cả những điều đó không?

- Thưa... không.

- Không sao. Sự hiểu biết sẽ đến cùng năm tháng... Khá lắm, Eragon. Nếu con là đệ tử của ta từ thời ta còn ở Ilirea, trước khi Galbatorix có quyền lực, hẳn con đã vượt trội hơn các bạn đồng môn, đứng chung hàng ngũ với các kỵ sĩ đại tiền bối rồi.

Oromis chống tay cố rời khỏi ghế, đứng lảo đảo. Ông khoát tay bảo Eragon:

- Cho ta mượn vai con nào, Eragon. Giúp ta ra ngoài, tứ chi ta rã rời cả rồi.

Eragon vội dìu thân hình mảnh khảnh của vị lão tiên ra bờ con suối nghỉ.

Oromis nói:

- Bây giờ con đã đạt tới trình độ để thầy có thể truyền cho con một trong những bí kíp kỳ bí nhất của phép thuật. Một bí kíp thậm chí đến cả Galbatorix cũng chưa chắc đã biết. Đây là hy vọng lớn nhất để con so tài với lão.

Ánh nhìn của ông bỗng sắc như dao:

- Eragon, cái giá phải trả cho phép thuật là gì?

- Là nội lực.

- Nội lực do đâu mà có.

- Tự bản thân.

- Chỉ có vậy thôi sao?

Eragon vội cân nhắc câu hỏi đầy ẩn ý của sư phụ, rồi hỏi:

- Ý thầy là còn có... công lực đến từ một nguồn khác nữa?

- Điều đó chính xác với những gì đã xảy ra mỗi khi Saphira trợ lực cho con.

- Đúng là nó từng truyền công lực cho con, nhưng nó và con có mối liên quan đặc biệt. Sự ràng buộc giữa con và Saphira là lý do con có thể thu nhận nội lực của nó. Còn đối với kẻ khác thì...

- Con có thể xâm nhập vào ý thức một cá thể - hoặc nhiều cá thể. Như hôm nay con đã chứng tỏ có thể làm được điều đó, kể cả với những sự sống nhỏ nhoi nhất. Bây giờ...

Đặt một tay chặn ngực, ông ho sù sụ rồi nói tiếp:

- Bây giờ ta muốn con rút từ suối lên một quả cầu nước, chỉ sử dụng năng lực con có thể thu thập từ khu rừng quanh chúng ta.

Khi Eragon xâm nhập vào cây cối, loài vật chung quanh, nó cảm thấy tâm tưởng sư phụ lướt nhẹ trong tâm tưởng nó. Vị lão tiên đang kiểm soát và ước lượng sự tiến bộ của Eragon. Eragon nhíu mày tập trung, cố tăng cường năng lực cần thiết rút từ chung quanh, cho đến khi sẵn sàng phóng phép thuật... Nhưng:

- Eragon, đừng thu hút nội lực của thầy. Thầy quá yếu, không chịu nổi đâu.

Giật mình, Eragon nhận ra nó đang thu hút cả nội lực của sư phụ.

- Con xin lỗi.

Thận trọng tránh làm sư phụ cạn kiệt sinh khí, Eragon bật kêu:

- Bay lên!

Êm như ru, một quả cầu nước đường kính chừng ba tấc cất mình khỏi mặt suối, bồng bềnh ngang tầm mắt Eragon, trong khi nó nhận thấy sự nỗ lực căng thẳng tạo ra thành quả đó dường như không làm nó mệt mỏi vì mất sức.

Nhưng quả cầu nước chỉ mới tụ được mấy giây trên không, một làn sóng chết chóc tràn lan qua những sinh vật nhỏ bé mà Eragon đang xâm nhập vào chúng. Một bầy kiến bật ngửa mình bất động, một con chuột con há hốc mồm giãy chết, vô số cây cối rũ rượi, vỡ tan từng mảnh.

Eragon giật mình khiếp đảm vì những gì mình đã gây ra. Mới được biết thế nào là tôn trọng sự sống thiêng liêng bất khả xâm phạm, nó cảm thấy hành động của mình quả là một tội lỗi xấu xa ghê tởm. Tệ hại hơn, trong lúc đang kết nối thân tình với những cá thể đó, bỗng chúng mất sự sống, Eragon cảm thấy như chính nó đang tự trải qua cái chết nhiều lần.

Thu hồi phép thuật - mặc quả cầu vỡ tung trên mặt đất – Eragon quay phắt lại gào lên:

- Sư phụ đã biết trước cơ sự này mà, phải không?

Mặt vị lão tiên tràn đầy thương xót:

- Nhưng đó là một sự cần thiết.

- Sự cần thiết là gây ra bao nhiêu chết chóc như vậy sao?

- Cần thiết để con hiểu cái giá khủng khiếp khi sử dụng loại bùa chú này. Chỉ nói suông không thể chuyển tải cảm xúc của những kẻ bị con gây ra cái chết cho họ. Chính con phải tự trải qua kinh nghiệm đó.

- Con thề không bao giờ tái phạm.

- Không phải thề. Nếu được rèn luyện, con có thể chỉ thu hút năng lực của cây cối, loài vật có khả năng chịu đựng được sự mất mát như thế. Đó là điều khó thực hiện khi lâm trận, nhưng trong thời gian học tập, con có thể áp dụng được.

Ra dấu cho Eragon dìu ông trở vào lều, Oromis nói tiếp:

- Bây giờ chắc con đã hiểu vì sao phương pháp này không được dạy cho những đệ tử mới nhập môn. Nếu để một kẻ tính khí độc ác biết được, kẻ đó sẽ gây ra vô vàn tang thương đổ nát.

Vào lều, Oromis thở dài ngồi xuống ghế. Eragon ngồi bên sư phụ, hỏi:

- Nếu có thể thu hút năng lực từ... sự sống, thì cũng có thể thu hút năng lực trực tiếp từ ánh sáng, lửa hay bất cứ sự vật nào khác có chứa năng lực được không ạ?

- Ôi, Eragon, nếu được thì chúng ta đã diệt được Galbatorix dễ dàng rồi. Chúng ta có thể trao đổi năng lực với những sinh vật khác, có thể sử dụng năng lực để di chuyển, và có thể tồn trữ năng lực trong một vài vật thể để sử dụng khi cần, nhưng không thể hấp thụ những sức mạnh cơ bản của thiên nhiên. Suy luận thì có vẻ được, nhưng chưa có ai tìm ra được một câu thần chú có thể làm nổi chuyện đó.

Chín ngày sau, Eragon tới gặp sư phụ và nói:

- Thưa thầy, đêm qua con chợt thắc mắc một điều: cả thầy và hàng mấy trăm trang giấy của thần tiên con đã đọc, đều không nhắc gì tới tôn giáo của thần tiên? Đức tin của thần tiên là gì?

Oromis thở dài trước khi trả lời:

- Chúng ta tin thế giới vận hành theo một quy luật bất khả xâm phạm. Bằng nỗ lực không ngừng, chúng ta có thể khám phá ra những quy luật đó và sử dụng chúng mà dự đoán những sự cố khi có những trường hợp lặp lại.

Eragon chớp mắt. Những lời nói đó chẳng làm sáng tỏ thêm điều nó muốn biết chút nào:

- Nhưng thần tiên thờ kính ai hoặc cái gì chứ?

- Không có gì hết.

- Thần tiên tôn thờ khái niệm hư không?

- Không đâu, Eragon. Chúng ta không tôn thờ gì hết.

Tư tưởng đó thật xa lạ với Eragon. Dân làng Carvahall dù thiếu niềm tin vào một giáo điều độc nhất, nhưng họ cũng có niềm tin riêng, có những mê tín dị đoan, chủ yếu là tránh sự xui xẻo. Trong thời gian học tập tại đây, Eragon đã bắt đầu nhận thức những hiện tượng mà dân làng tin là do sức mạnh siêu nhiên, thật ra chỉ là những quy trình tất yếu của thiên nhiên. Như những con dòi nở ra từ trứng ruồi, chứ không sinh ra từ đất như nó vẫn tưởng. Nó cũng không còn từ chối món ăn do ma quỷ quậy thành sữa chua, khi biết sữa chua thật sự là do những sinh vật li ti trong sữa tạo thành. Tuy vậy, nó vẫn tin có những sức mạnh từ thế giới khác chi phối cõi trần này. Eragon hỏi sư phụ:

- Vậy thì sư phụ tin thế giới này từ đâu mà có, nếu không phải do thần linh đã tạo dựng lên?

- Thần linh nào, Eragon?

- Thần linh của loài người chúng con, của người lùn và của... thần tiên.

- Ta không đồng ý với con. Nhưng cứ coi như con có lý, vì ta không thể chứng minh thần linh không có thật. Ta cũng không thể chứng minh thế giới này được tạo ra bởi một thực thể, hay nhiều thực thể, từ thuở xa xưa. Tuy nhiên ta có thể cho con biết, trong nhiều thiên niên kỷ, thần tiên đã nghiên cứu thiên nhiên, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến những qui luật vận hành thế giới có sự gián đoạn. Điều đó có nghĩa là chúng ta chưa hề thấy một phép lạ nào. Nhiều sự kiện thách thức khả năng chứng minh của chúng ta, nhưng chúng ta tin rằng, chúng ta thất bại chỉ vì vẫn còn quá ngu dốt, chưa hiểu hết về vũ trụ này, chứ không vì một thần nào làm thay đổi vận hành thiên nhiên.

- Thượng đế vận hành thiên nhiên theo ý ngài. Ngài làm điều đó trong hệ thống những gì đã tồn tại rồi... Thượng đế có thể sử dụng phép màu để tạo ra những sự kiện...

Oromis mỉm cười:

- Rất đúng. Nhưng con hãy tự hỏi: nếu thượng đế, thần linh có thật, họ có phải là những vị thần hộ mệnh tốt đối với đất nước Alagaesia của con không? Chết chóc, bệnh tật, đói nghèo, bạo ngược, chuyên chế và vô vàn đau khổ khắp nơi. Nếu đó là những tác phẩm của thần linh, thì họ đáng bị lật đổ, chứ không phải để phục tùng, sùng bái, thờ phụng.

- Người lùn tin...

- Chính xác. Người lùn có đức tin. Khi phải xác định một vấn đề gì, người lùn dựa vào đức tin hơn vào lý luận, chứng minh cụ thể, nếu sự thật đó đi ngược với giáo điều của họ.

- Chẳng hạn như chuyện gì, thưa thầy?

- Các nhà tu hành của người lùn dùng san hô để chứng minh đá có sự sống và có thể tăng trưởng. Điều đó khẳng định cho truyền thuyết Helzvog tạo ra dòng giống người lùn từ đó. Nhưng thần tiên chúng ta đã phát hiện ra san hô thật sự là lớp vỏ ngoài, tạo ra bởi một làoi sinh vật nhỏ li ti sống trong san hô. Bất cứ một pháp sư nào, nếu khai tâm mở trí, đều có thể thấy những sinh vật đó. Chúng ta đã cắt nghĩa điều này cho người lùn, nhưng họ không thèm nghe. Họ lý luận, trong tất cả các loại đá đều có những sinh vật mà chúng ta đã phát hiện, mặc dù chỉ những nhà tu hành của họ mới có khả năng nhận ra sự sống trong đá mà thôi.

Nhìn qua cửa sổ, Eragon lặng lẽ ngẫm nghĩ những lời của sư phụ, một lúc lâu sau nó mới lại lên tiếng:

- Như vậy là thầy không tin vào một kiếp sau?

- Từ những gì Glaedr đã nói, hẳn con đã biết rồi chứ.

- Thầy không tin tưởng vào thần linh?

- Ta chỉ tin tưởng vào những gì chúng ta có thể chứng minh là có thật. Vì không tìm ra một bằng chứng nào là thượng đế, thần linh, và những điều huyền hoặc là có thật, nên chúng ta không còn bận tâm đến chuyện này nữa. Nếu Helzvog hiển hiện cho chúng ta thấy, lúc đó chúng ta sẽ tin và thay đổi quan niệm của mình.

- Hình như... nếu không có gì khác nữa thì thế giới này lạnh lẽo quá.

- Trái lại, thế giới sẽ tốt lành hơn. Một nơi mà chúng ta phải có trách nhiệm với hành động của chính mình, nơi chúng ta đối xử nhân ái với nhau thật lòng, vì đó là những điều đúng mà chúng ta tự nguyện làm, chứ không làm vì sợ hãi sự trừng phạt của quỷ thần. Thầy không bảo con phải tin theo điều nào. Eragon, tốt hơn hết là hãy học suy luận, rồi tự quyết định, đừng để bị lung lạc, áp đặt bởi những quan niệm của người khác. Vì con hỏi thầy về vấn đề tín ngưỡng, thầy đã nói thật lòng với con. Tự con phải quyết định.

Mấy ngày sau, buổi chuyện trò đó vẫn còn làm Eragon bối rối đến nỗi không thể tập trung vào việc học tập được nữa. Kể cả khi sư phụ bắt đầu giảng giải về một đề tài nó say mê nhất: ca hát cho cây cối phát triển theo ý mình.

Eragon nhận thấy càng hiểu biết thêm càng nhiều nghi hoặc. Về căn bản, rất nhiều điều nó đồng ý với sư phụ. Nhưng vấn đề là, nếu thần tiên đúng, thì có nghĩa là hầu hết loài người và người lùn đề đã lầm đường? Eragon khó lòng chấp nhận chuyện này. Nó lý luận: "Chẳng lẽ quá nhiều người sai lầm đến thế sao?"

Khi đem vấn đề ra hỏi ý Saphira. Cô ả tỉnh bơ nói: "Em chẳng quan tâm đến chuyện này. Rồng không hề tin vào một quyền lực cao hơn. Vì sao chúng em phải tin vào chyện đó, khi muông thú coi chúng em như quyền lực tối thượng rồi? (Eragon cười sằng sặc vì mấy câu này) Chỉ một điều anh cần nhớ, đừng làm ngơ trước thực tế để tự an ủi mình. Vì nếu làm thế, anh chỉ tổ bị kẻ khác phỉnh phờ, lừa gạt mà thôi."

Đêm đó, Eragon trằn trọc, vùng vẫy trong những giấc mơ tỉnh. Những giấc mơ dữ dội như một con gấu bị thương vùng vẫy, xé rời những hình ảnh khác nhau khỏi tâm trí nó, rồi trộn vào nhau thành một mớ hỗn độn ồn ào. Nó cảm thấy như bị đưa về lại trận chiến dưới lòng thành Farthen Dur. Nó nhìn thấy cậu Garrow nằm chết trong nhà chú Horst, đến xác ông Brom lạnh lẽo trong nấm mồ đó cô quạnh, rồi khuôn mặt bà lang phù thủy Angela đang thì thầm: "Thận trọng, Bàn-tay-bạc. Sự phản bội hiển hiện rõ ràng đây. Sự phản bội từ ngay trong ruột thịt. Hãy thận trong, Bàn-tay-bạc."

Rồi bầu trời đỏ rực tan tác thành từng mảnh và một lần nữa Eragon lại đang đứng quan sát hai đoàn quân trong rặng nói Beor. Hai cánh quân quần thảo nhau trên cánh đồng nhuộm sắc vàng trong tiếng kêu the thảm của những con quạ đẫm máu và tiếng rít trong gió của những mũi tên đen. Mặt đất như bùng cháy: từ những hố rải rác, phun lên những ngọn lửa xanh lè, đốt thành than những thân thể không còn nguyên vẹn. Nó nghe tiếng gầm của một quái vật khổng lồ từ trên không...

Eragon vùng ngồi dậy, sờ lên sợi dây chuyền đang nóng bỏng trên cổ. Bọc tay bằng một cái áo, nó kéo dây chuyền cách xa làn da, rồi ngồi nghe ngóng trong bóng tối. Trống ngực đập liên hồi vì kinh ngạc, Eragon cảm thấy sức lực đang cạn dần, vì sợi dây yểm bùa của người lùn đang dùng sức của chính Eragon, để bảo vệ khỏi một kẻ nào đó đang cố gắng thu hình nó và Saphira. Một lần nữa, Eragon tự hỏi, phải chăng chính Galbatorix đang sử dụng phép thuật hay một trong những pháp sư trung thành của lão?

Thấy mặt dây hình cái búa đã mát lại, Eragon buông tay. Biết không thể nào ngủ được, Eragon rón rén bước qua Saphira, lên cầu thang cuốn, vào phòng học. Nó mở chụp một ngọn đèn, đọc bộ anh hùng ca của Analissia cho tới sáng.

Eragon vừa buông bộ sách, Blagden bay vù qua một lỗ hổng trên tường, đậu lên góc bàn. Con quạ trắng lom lom nhìn Eragon bằng hai mắt tròn xoe sáng rực, rít lên: "Wyrda!"

Mon men tiến lại gần hơn, con quạ ho sù sụ như dọn giọng, rồi ồ ề ngâm nga:

Với mỏ và xương

Với hòn đá đen

Nhìn kẻ phản phúc

Nhìn đứa bội thề

Và dòng suối máu

Eragon hỏi:

- Mấy câu đó có nghĩa là gì?

Con quạ ngúng ngoẩy lập đi lập lại cho đến khi Eragon năn nỉ, nó mới vừa rỉa lông vừa càu nhàu:

- Cha con giống nhau, đều mù tịt như dơi.

Eragon ngồi thẳng dậy, kêu lên:

- Khoan. Mi có biết cha ta không? Ông ấy là ai?

Lần này con quạ khùng khục trong họng như cười:

Hai có thể chia hai

Một phần hai là một

Nhưng,

Một rất có thể là hai.

- Một cái tên, Blagden. Nói đi, cho ta biết một cái tên.

Con quạ im thin thít. Eragon phóng tâm tưởng, định lấy thông tin từ trí nhớ con chim. Nhưng quạ trắng rất mưu mẹo, đánh lạc hướng ngay. Kêu lên một tiếng "Wyrda!", Blagden quắp vội nắp bình mực thủy tinh, rồi bay vụt đi cùng chiến lợi phẩm vừa thu được.

Ruột Eragon quặn thắt khi cố giải mã mấy câu đố của con quạ trắng. Điều cuối cùng nó ước mong được nghe nhắc tợi tại Hoàng Cung Ellesméra: Tên của người cha nó chưa hề biết là ai. Sau cùng Eragon chỉ còn biết tự nhủ: "Mình sẽ tìm Blagden, truy bằng được sự thật. Nhưng lúc này mình phải đủ sáng suốt để quên đi những điềm gở đêm qua."

Chạy xuống thang, nó đánh thức Saphira dậy và kể lại những gì đã thấy trong đêm. Lấy cái gương từ phòng tắm, Eragon ngồi giữa hai chân trước Saphira để con rồng cũng có thể thấy những gì sẽ hiện trong gương. Saphira cảnh cáo: "Arya không thích chúng ta xâm nhập vào cõi riêng tư của cô ta đâu."

"Nhưng anh cần biết Arya có được an toàn không."

"Anh tìm cô ta bằng cách nào? Anh chẳng bảo Arya đã tự phong tỏa là gì? Cô ta ngăn chặn tất cả những kẻ nào có ý định thu hình ảnh của mình, cũng giống như sợi dây chuyền yểm bùa của anh vậy."

"Nếu thu được hình những người Arya giao dịch, anh có thể đoán ra tình trạng của cô ấy."

Tập trung tư tưởng vào hình ảnh Nasuada, Eragon đặt bàn tay lên gương, lẩm bẩm: "Hiện lên đi."

Mặt gương tỏa sáng rồi chuyển sang màu trắng. Trên nền trắng đó, chín người đang quây quần bên một cái bàn vô hình. Trong số họ, Eragon chỉ nhận ra Nasuada và Hội-Đồng Tiền-Bối, còn một đứa con gái lạ mặt lẩn lút sau lưng Nasuada, nó không biết là ai. Điều này làm Eragon bối rối, vì phép thu hình này chỉ cho phép nhìn thấy những gì đã từng thấy một lần. Nhưng con nhỏ này, chắc chắn Eragon chưa từng nhìn thấy bao giờ. Nó tạm quên thắc mắc về con bé xa lạ, vì thấy những người trong gương, kể cả Nasuada, đều trang bị vũ khí.

Saphira đề nghị: "Thử nghe họ đang nói gì."

Eragon vừa niệm chú để nghe âm thanh, tiếng Nasuada phát ra ngay từ tấm gương:

- ... và do dự sẽ hủy hoại chúng ta. Chiến binh của chúng tôi có khả năng, nhưng phải tìm ra một cấp chỉ huy xứng đáng. Xin đức vua quyết định ngay đi.

Eragon nghe một tiếng thở dài thườn thượt trước khi nói:

- Tùy công nương quyết định. Đó là nhiệm vụ của cô.

- Nhưng, thưa bệ hạ, cô ta chưa có kinh nghiệm!

- Đủ rồi, Irwin. Cô ta có nhiều kinh nghiệm chiến tranh hơn bất cứ ai ở Surda này. Và đừng quên, Varden là lực lượng duy nhất đã đánh tan tác một cánh quân của Galbatorix. Nasuada là một vị tướng của Surda, kể ra cũng là chuyện lạ, nhưng trẫm thành thật khuyên khanh, đừng ngần ngại bầu cho cô ta vào địa vị đó. Nếu các quan trong điều có ai phản đối, trẫm rất vui lòng trả lời thắc mắc của họ. Nào, bản báo cáo lương thực đâu rồi... A, cảm ơn Arya. Hơn ba ngày không có...

Cuộc thảo luận quay sang vấn đề thiếu hụt cung tên, Eragon thấy không cần thiết, vì vậy nó thu hồi phép thuật. Mặt gương trong trở lại, chỉ còn hình ảnh chính nó trong gương.

Eragon lẩm bẩm: "Nàng còn sống."

"Họ đang cần chúng ta."

"Hừ, chắc chắn sư phụ đã biết chuyện này, sao không hề nói gì với chúng ta?"

"Có lẽ vì sư phụ không muốn làm gián đoạn việc học tập của chúng ta."

Eragon băn khoăn không biết còn những gì đang xảy ra tại Alagaesia mà nó không được biết. Roran! Nó chợt cảm thấy như có tội, vì suốt mấy tuần qua nó đã không nghĩ gì tới người anh họ.

Eragon lại niệm chú, và trên nền trong vắt của mặt gương hiện lên hai người. Phải mất một lúc lâu, Eragon mới nhận ra người bên phải là Roran. Anh mặc bộ quần áo đi đường rách nát, cây búa đeo bên hông, mặt hốc hác phủ bộ râu rậm rì, lộ vẻ đầy tuyệt vọng. Bên trái là Jeod. Hai người đi tới đi lui, trong khi những đợt sóng ầm ầm át hết tiếng nói của họ. Một lát sau, Roran quay lại, bước dọc theo một mặt phẳng là Eragon đoán là sàn của một con tàu. Anh ta tiến gần lại chỗ mấy chục dân làng.

Eragon bàng hoàng hỏi: "Họ đang ở đâu thế này? Tại sao lại có cả ông Jeod ở đây với họ?"

Chuyển hướng phép thuật, Eragon lần lượt lướt qua thành Teirm - giật mình trước cảnh đổ nát của bến cảng -, Therinsford, trang trại cũ của cậu Garrow, rồi tới làng Carvahall. Eragon rú lên đau đớn.

Làng xưa đã không còn nữa.

Tất cả những ngôi nhà, cả ngôi nhà tuyệt đẹp trên đồi của chú Horst, đều bị thiêu đốt hết. Carvahall không còn lại gì ngoài những đám tro tàn bên dòng sông Anora. Cư dân duy nhất còn sống sót là mấy con sói xám lang thang qua đống đổ nát.

Chiếc gương trong tay Eragon rơi xuống mặt sàn, vỡ tan tành. Nó dựa vào Saphira, nước mắt đầm đìa, đau đớn vì lại một lần nữa mất quê hương. Saphira rên từ lồng ngực, dụi mõm vào cánh tay Eragon an ủi: "Can đảm lên anh. Ít ra vẫn còn người thân bạn bè của anh sống sót."

Eragon rùng mình, cảm thấy như có một tảng đá đè trên bụng: "Chúng ta sống cách biệt với thế giới bên ngoài quá lâu rồi. Đã tới lúc phải rời khỏi Ellesméra để đương đầu cùng định mệnh, dù chuyện gì có xảy ra. Lúc này anh Roran có thể tự lo... nhưng còn Varden... chúng ta phải giúp họ."

"Đã tới thời điểm chứ?"

Giọng Saphira nghiêm túc lạ lùng.

Eragon biết cô em rồng định nói gì: đã tới thời điểm thách thức trực tiếp với triều đình chưa? Tới thời điểm tung hoành chém giết bằng hết khả năng chưa? Tới thời điểm bùng nổ hết căm hờn, phẫn nộ cho đến khi bạo chúa Galbatorix gục chết dưới chân chưa? Đã tới thời điểm tự ràng buộc vào một cuộc chiến có thể kéo dài mấy chục năm chưa?"

Thời điểm đó đã tới rồi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom