Cập nhật mới

Dịch Đừng Nói Chuyện Với Cô Ấy

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 9: Vụ án mạng điên cuồng trong trại giam


Type: Huyennp

Dịp Tết năm 2009, Từ Nghị Giang bị một bạn tù dùng gạch đập chết. Tên phạm nhân giết ông ta ngay sau đó đã tự sát, hắn dùng chính viên gạch vừa mới gây án để đập vào đầu mình liên tục.

Trước đó, tôi chỉ nghe nói đến việc cha ruột xâm phạm tình dục con gái, chưa từng nghe nói người mẹ nào xâm phạm tình dục con trai. Cùng là đàn ông, khi nghĩ tới những việc mà Vương Vĩ đã từng phải trải qua, tôi khó tránh khỏi có chút kích động. “Tôi hiểu rồi, anh ta có thể hoàn thành việc học, lại đi vào xã hội và cưới vợ sinh con, tất cả đều là nhờ vào niềm hy vọng với cuộc sống. Nhưng vết thương hình thành ở tuổi thanh thiếu niên là một thứ không thể xóa nhòa, do đó tại nơi sâu thẳm trong nội tâm, anh ta vẫn luôn sợ hãi và căm hận nữ giới, tất cả các vấn đề về tâm lý của anh ta đều có căn nguyên từ đây. Nói thực lòng, anh ta có một người mẹ như thế đã là điều bất hạnh lắm rồi, cô...”

Bên khóe miệng thoáng qua một nụ cười, Diệp Thu Vy bình tĩnh cắt ngang lời tôi: “Anh Trương, anh kỳ thực không phải đang thông cảm cho anh ta, anh chỉ cảm thấy sợ hãi về những điều mà anh ta đã phải trải qua thôi.”

Tôi bất giác nghẹn lời, một lát sau tâm trạng mới dần dần bình lặng trở lại, thế là bèn nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

Cô ta nói tiếp: “Sau khi kết hôn, Vương Vĩ nhanh chóng rời khỏi mẹ mình, đồng thời thoát khỏi sự khống chế của bà ta. Kể từ đó về sau, tuy vết thương cũ thỉnh thoảng lại nhói lên trong lòng, vậy nhưng không thể gây ra ảnh hưởng quá nghiêm trọng cho cuộc sống của anh ta. Anh ta và Từ Khiết duy trì một đời sống tình dục lành mạnh, còn sinh được một đứa con gái nữa. Nếu cuộc sống cứ thế bình lặng trôi qua, tâm lý của anh ta có lẽ sẽ dần trở nên bình thường. Thế nhưng chuyện bị sa thải khỏi biên chế năm 1999 đã lại một lần nữa làm bùng lên vấn đề về tâm lý của anh ta.”

Tôi không kìm được lộ vẻ khó hiểu hỏi: “Chuyện bị sa thải khỏi biên chế tại sao lại có thể làm bùng lên vấn đề về tâm lý của anh ta? Giữa chuyện này và nỗi ám ảnh thời niên thiếu của anh ta lẽ nào lại có mối liên hệ nội tại nào ư?”

“Khi đó tôi cũng cảm thấy nghi hoặc giống anh bây giờ vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Cho nên, sau khi làm rõ nguồn cơn gây ra vấn đề về tâm lý của Vương Vĩ, tôi liền bắt đầu điều tra chuyện anh ta bị sa thải. Vì thời gian đã quá lâu nên việc điều tra tiến triển rất chậm. Mãi đến ngày 22 tháng 6, một tin tức vôi tình có được mới khiến những nỗi nghi hoặc của tôi trước đó tan biến hoàn toàn.”

“Đó là tin tức gì vậy?”

“Lúc ấy, Vương Vĩ bị sa thải là vì đã làm mất lòng Giám đốc Sở giáo dục.” Diệp Thu Vi đáp. “Mà Giám đốc Sở giáo dục năm đó là một phụ nữ nổi tiếng mạnh mẽ và luôn lấy mình là trung tâm.”

Tôi giật mình bừng tỉnh rồi không kìm được bật thốt lên: “Nhất định là sự hãm hại của cô ta đã làm cho nỗi sợ hãi và căm giận của Vương Vĩ đối với mẹ mình lại bị khơi dậy. Mà việc Vương Vĩ làm mất lòng cô ta rất có thể cũng là bởi vì cô ta khá giống với Lương Huệ Vinh.”

“Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói. “Người phụ nữ này tên là Lý Mộc Lan, từ năm 1994 đã bắt đầu đảm nhiệm chức giám đốc Sở giáo dục, đến năm 2002 thì bị cách chức vì nhận hối lộ. Người quen biết Lý Mộc Lan đều nói cô ta thủ đoạn cứng rắn, hết sức ích kỷ. Nghe nói khi cô ta còn tại vị, không ít thuộc cấp nam đã có quan hệ với cô ta, Vương Vĩ làm mất lòng cô ta có lẽ cũng vì chuyện này. Tóm lại, sự hãm hại của cô ta đã làm cho vấn đề vốn ẩn sâu trong tâm lý của Vương Vĩ lại bùng phát. Theo như lời của Từ Khiết, buổi tối hôm nhận được thông báo sa thải, Vương Vĩ đã xuất hiện triệu chứng liệt dương, căn nguyên của căn bệnh này có lẽ chính là nỗi sợ hãi đối với phụ nữ. Các nhân tố như: sự hãm hại của nữ thượng cấp, tình trạng liệt dương sờ sờ trước mặt cùng với sự bùng phát nỗi ám ảnh hồi nhỏ đã làm tăng nỗi sợ hãi và căm giận của Vương Vĩ đối với phụ nữ. Nỗi sợ hãi khi lên đến tột độ sẽ làm con người ta muốn trốn tránh, mà biểu hiện cực đoan của sự trốn tránh chính là tình trạng thích sạch sẽ quá mức. Cho nên, bắt đầu từ buổi tối hôm đó, Vương Vĩ bắt đầu xuất hiện tình trạng thích sạch sẽ quá mức với đối tượng là phụ nữ, anh ta cho rằng tất cả mọi phụ nữ trên đời đều gian ác và dơ bẩn.”

Tôi thở dài một hơi, sau khi suy nghĩ một chút thì bèn hỏi: “Nếu anh ta đã cho rằng mọi phụ nữ trên đời đều gian ác và dơ bẩn, vậy thị tại sao lại vô thức vuốt ve tay cô, còn lén dùng đồ lót của cô và Trần Hy để thủ dâm nữa?”

“Đối với một người đàn ông không có gì bất thường về sinh lý, muốn hoàn toàn trốn chạy khỏi phụ nữ là điều không thể. Cho nên tâm lý của anh ta nhất định là đã lại phát sinh những biến hóa gì đó khác, để rồi không còn thù ghét toàn bộ phụ nữ nữa. Như tôi từng nói trước đó, anh ta đã tiến hành phân loại phụ nữ, người nào phù hợp với tiêu chuẩn sạch sẽ của anh ta thì sẽ trở thành đối tượng tình dục của anh ta. Nhưng sự tồn tại của nỗi ám ảnh hồi nhỏ khiến anh ta không muốn để cơ quan sinh dục của mình tiếp xúc trực tiếp với nữ giới, do đó anh ta mới lấy trộm đồ lót của đối tượng tình dục của mình về để thủ dâm, mà hành vi thể hiện sự chiếm hữu bằng chất dịch cơ thể của anh ta kỳ thực cũng là một biện pháp phát tiết sự căm hận đối với phụ nữ.”

Vương Vĩ từng bị mẹ ruột xâm hại tình dục, bị nữ thượng cấp hãm hãi, đến cuối cùng chết trong tay một người phụ nữ. Tôi lại thở dài một hơi, sau đó liền không kìm được tò mò hỏi: “Anh ta đã tiến hành phân loại nữ giới thế nào? Điều này cô có rõ không?”

“Tất nhiên là có rồi” Diệp Thu Vi nói: “Tiêu chuẩn phân loại nữ giới đặc biệt của anh ta chính là nguyên nhân dẫn đến việc tôi có thể giết chết anh ta vào hai ngày sau đó.”

Tôi cầm bút lên.

“Tôi sẽ nói đơn giản một chút.” Diệp Thu Vi liếc nhìn ra ngoài cửa sổ, cất giọng hờ hững: “Tổng cộng có ba người phụ nữ đã từng gây ra những sự tổn thương trực tiếp cho Vương Vĩ, do đó tiêu chuẩn phân loại nữ giới của anh ta chính là dựa theo ba người phụ nữ này. Người đầu tiên là Lương Huệ Vinh – mẹ của anh ta, người phụ nữ này ích kỷ, không có ý thức trách nhiệm, hay vô duyên vô cớ nổi nóng, cho nên tiền đề để trở thành một người phụ nữ “sạch sẽ” trong mắt anh ta chính là rộng lượng, có ý thức trách nhiệm, tính cách dịu dàng. Người tiếp theo là Lý Mộc Lan, cô ta có quan hệ bất chính với nhiều thuộc cấp nam, do đó đối với Vương Vĩ mà nói, tiêu chuẩn thứ hai của một người phụ nữ “sạch sẽ” là biết giữ mình trong sạch, có thái độ bảo thủ với chuyện tình dục. Cũng vì nguyên nhân này nên khi tôi ngỏ ý rằng anh ta có thể ở lại qua đêm, anh ta mới để lộ ra vẻ chán ghét rõ ràng như thế. Cuối cùng là Từ Khiết trong buổi tối hôm bị sa thải khỏi biên chế, Vương Vĩ đã xuất hiện tình trạng liệt dương ở ngay trước mặt Từ Khiết, cho nên một số đặc điểm trên người Từ Khiết đã trở thành nỗi ám ảnh của anh ta khi thực hiện hành vi tình dục. Vì điều này, tôi đã lại một lần nữa tiếp xúc với Từ Khiết, qua đó biết được chi tiết sự mâu thuẫn giữa cô ta và Vương Vĩ. Cô ta nói điều mà Vương Vĩ bất mãn nhất ở cô ta là trình độ học vấn của cô ta quá thấp. Ban đầu, Từ Khiết chỉ mới tố nghiệp trung học phổ thông, mãi đến năm 2004 mới kiếm được tấm bằng cao đẳng. Hơn nữa, nói thực lòng, Từ Khiết nói chuyện quả thật có hơi tục tĩu, còn thường xuyên nói bậy.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm nói: “Thế nên khi nghe nói cô là Phó giáo sư, còn từng tham gia một hạng mục nghiên cứu khoa học cấp quốc gia, thái độ của Vương Vĩ với cô mới thay đổi hẳn, trở nên có thiện cảm với cô. Còn Trần Hy tuy không có trình độ học vấn quá cao, vậy nhưng lại từng xuất bản một cuốn sách rất có chiều sâu, do đó tất nhiên cũng phù hợp với tiêu chuẩn của anh ta rồi.”

“Đúng thế” Diệp Thu Vi nói. “ Ngoài ra, Trần Hy đã vì điều tra sự kiện M mà cống hiến tất cả những gì mình có, điều này thể hiện ra một ý thức trách nhiệm to lớn vô cùng, đồng thời cô ta còn chín chắn và bình tĩnh, do đó nhất định là không vô duyên vô cớ nổi nóng với ai, đây chính là nguyên nhân khiến Vương Vĩ thích cô ta như thế. Hoặc cũng có thể nói, Vương Vĩ kỳ thực không thích cô ta mà chỉ thích những phẩm chất đặc biệt của cô ta, cho nên dù cô ta đã chết rồi, thi thể được đặt ngay trong phòng khách, thế nhưng Vương Vĩ vẫn có thể dùng đồ lót của cô ta để tìm được cảm giác hưng phấn.”

“Cô thì chẳng cần phải nói.” Tôi nhìn Diệp Thu Vi, thay cô ta phân tích. “Chức danh phó giáo sư của cô tất nhiên sẽ mang tới cho Vương Vĩ cảm giác cô là một người rất có ý thức trách nhiệm, mà cô còn từng tham gia một hạng mục nghiên cứu khoa học cấp quốc gia nữa, thế nên ấn tượng này của anh ta về cô sẽ lại càng trở nên sâu đậm hơn. Còn về tính cách dịu dàng thì cũng rất phù hợp với biểu hiện của cô khi đó, vì cô rất ít khi để lộ ra cảm xúc của bản thân. Đối với Vương Vĩ, cô và Trần Hy đều là những người vô cùng “sạch sẽ”. Tôi ghi lại tiêu chuẩn phân loại phụ nữ của Vương Vĩ vào trong sổ tay, sau đó bèn hỏi tiếp: “Sau khi biết được những tiêu chuẩn này rồi, cô đã làm thế nào để khiến cho Vương Vĩ can tâm tình nguyện tự sát như vậy?”

“Anh ta cảm thấy phụ nữ đều dơ bẩn, vậy thì tôi sẽ làm vấy bẩn anh ta.” Diệp Thu Vi nói: “Tối ngày hai mươi ba tháng Sáu, tôi lại hẹn anh ta ra ngoài gặp mặt. Sau khi dùng bữa tối xong,anh ta đưa tôi về nhà như mọi lần, sau đó cùng tôi lên nhà. Tôi rót cho anh ta một cốc nước đồng thời ngấm ngầm bỏ vào bên trong một ít phenobarbital (một loại thuốc an thần thường dùng). Chẳng bao lâu sau, anh ta đã thấy buồn ngủ, thế là tôi bèn đỡ anh ta tời nằm lên giường, bảo anh ta cứ tạm thời ở đó nghỉ ngơi một lát. Chờ sau khi xác định được là anh ta đã ngủ, tôi bèn cởi sạch quần áo của anh ta, sau đó lại tự cởi hết quần áo của mình và nằm xuống bên cạnh anh ta. Khoảng chín rưỡi sáng ngày hôm sau, công hiệu của thuốc cơ bản là đã hết, thấy anh ta trở mình, tôi vội vàng quàng tay ôm chặt lấy anh ta. Anh ta mở bừng mắt ra, phát hiện khi đó hai chúng đều đang trần trụi, thế là lập tức tỉnh táo trở lại. Anh ta sững người một chút, sau đó định rời khỏi tôi thật nhanh, bộ dạng vô cùng hoảng hốt. Tôi dùng hết sức bình sinh giữ anh ta ở lại giường, sau đó lại nói ra một số lời hờn giận để khiến anh ta hiểu rằng đêm qua anh ta và tôi đã có quan hệ với nhau. Anh ta mặt mũi đỏ bừng, hai mắt đờ đẫ, nội tâm hiển nhiên là đang ở trong trạng thái xao động dữ dội cứ để mặc anh ta như thế, cơ chế tự bảo vệ của tâm lý rất có thể khiên anh ta chấp nhận sự thật rằng mình đã có quan hệ với một người phụ nữ, thậm chí còn có khả năng cải thiện tình trạng tâm lý của anh ta.”

Tôi vội vàng hỏi: “Vậy tiếp theo cô đã làm như thế nào?”

“Tôi cần phải nhanh chóng hành động. Khi đó, một tay tôi giữ anh ta, tay kia lần sờ xuống.” Diệp Thu Vi bình tĩnh nói. “Sau khi tưởng tưởng ra những lời mà Lương Huệ Vinh có thể sẽ nói trong hoàn cảnh tương tự như thế này, tôi bèn nói với anh ta: “Tiểu Vi ngoan, thứ này không chỉ là của anh, còn là của tôi nữa, vĩnh viễn đều là của tôi (1)!”

(1) Trong tiếng Hán, nếu không tính các từ địa phương hay từ cổ ít dùng, đại từ nhân xưng số ít ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai đều chỉ có một từ lần lượt là wo và ni. Do đó câu nói này lọt vào trong tai Vương Vĩ thì chẳng khác nào mẹ anh ta nói với anh ta bằng lối xưng hô “mẹ – con” như trong tiếng Việt, đây thực chất là điều Diệp Thu Vi mong muốn.

(2)

Anh ta đột nhiên trở nên kích động và cứ thế lăn lông lốc xuống dưới giường. Sau đó, anh ta đứng dậy nhưng lại không tìm thấy quần áo của mình đâu, toàn thân không ngừng run rẩy. Tôi đi tới bên cạnh anh ta lại lần sờ, tay còn lại nhẹ nhàng vuốt ve lưng anh ta. Anh ta trốn chạy khỏi tôi, rúc vào góc tường, lại dùng tay che đi nơi tư mật, mặt mũi thì đỏ bừng, ánh mắt lộ rõ vẻ sợ hãi, hoàn thoàn không giống với thường ngày chút nào. Tôi biết thời cơ đã chín muồi bèn đi tới góc tường, vung tay tát cho anh ta một cái, sau đó lại thêm một cái nữa, vừa tát vừa mắng mỏ anh ta bằng giọng điệu như một người mẹ đang mắng con mình. Anh ta là một người đàn ông khỏe mạnh, vậy mà không dám phản kháng chút nào, sau một hồi run rẩy liền ngồi bệt xuống dưới đất. Tôi tiếp tục khiêu khích anh ta bằng nhiều động tác khác. Một lát sau, anh ta đột nhiên gào lên một tiếng bằng giọng nức nở, sau đó đấm mạnh một cái vào bức tường bên cạnh. Tôi vội vàng rụt tay lại. Tôi biết, tôi đã thành công khơi ra nỗi sợ hãi được ẩn sâu trong nội tâm của anh ta, nếu còn tiếp tục khiêu khích nữa anh ta rất có thể phát tiết nỗi sợ hãi bằng hành vi bạo lực đến lúc đó kế hoạch của tôi sẽ không thể nào thực hiện được.”

“Vậy tiếp theo đó thì sao?” Tôi lại hỏi tiếp.

“Tạo áp lực cho anh ta, khiến anh ta phải kìm nén nỗi khó chịu trong lòng.” Diệp Thu Vi nói “Tôi mặc quần áo lại như cũ, sau đó để quần áo anh ta xuống đất. Anh ta mãi một lúc sau mới hoang mang măc quần áo vào người, hơn nữa từ đầu chí cuối đều không dám nhìn tôi. Tôi chặn trước cửa phòng ngủ còn anh ta nằm cuộn trên sàn nhà ở ngay trước tủ quần áo, lồng ngực phập phồng không ngớt. Tôi nói: “Vương Vĩ, mẹ kiếp, hôm qua mày ngủ với bà rồi, bây giờ bà sờ mày một chút thôi mà cũng không được hả? Nói cho mày biết bà đây tuy từng ngủ với mười mấy thằng đàn ông rồi nhưng mẹ kiếp, bà không phải là cái loại mày tùy ý chơi xong rồi vứt được đâu.”

“Tục tĩu và dâm đãng” Tôi khẽ gật đầu. “Cô nói ra những lời này hẳn là để thể hiện sự tục tĩu và dâm đãng của mình.”

“Ừm.” Diệp Thu Vi nói. “Từ Khiết từng kể với tôi dù hết sức chú ý nhưng cô ta vẫn không kiềm chế được thỉnh thoảng vẫn bật ra mấy câu nói bậy, mà “mẹ kiếp” chính là câu cửa miệng thường dùng nhất của cô ta. Còn về dâm đãng, tính nết này sẽ khiến anh ta nhớ tới Lý Mộc Lan.”

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó tôi mở tủ quần áo lấy ra một chai thuốc, dùng giọng tức tối nói: “Mẹ kiếp, đúng là tức chết đi được, chỗ đó của bà vốn đã có bệnh rồi, bây giờ bị mày làm như thế, tình hình chỉ e lại càng nghiêm trọng hơn. Bà nói cho mày biết, nếu bà có thai mà mày dám không chịu trách nhiệm, bà sẽ đi tố cáo mày tội cưỡng hiếp, còn kể ra chuyện lần trước mày từng lấy trộm quần lót của bà nữa.”

“Vô trách nhiệm.” Tôi bất giác sinh lòng thán phục trước tài diễn xuất của Diệp Thu Vi. “Cô ta đã tỏ rõ sự vô trách nhiệm của mình bằng những biểu hiện hết sức tự nhiên. Cùng với đó, sự tục tĩu của cô ta được thể hiện rõ ràng thêm.”

“Đúng thế.” Diệp Thu Vi vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh không hề có lấy một chút thay đổi. “Sau đó, tôi cầm theo chai thuốc đi vào nhà vệ sinh, mở vòi nước ra bắt đầu tắm rửa. Chừng nửa phút sau tiếng mở cửa vang lên, thế nhưng lại không hề có tiếng đóng cửa.”

“Anh ta hiển nhiên đã đi rất vội.” Tôi nói “Có điều, tôi cảm thấy biểu hiện khi đó của cô khi đó thực sự là khác quá xa so với thường ngày, lẽ nào cô không sợ anh ta sinh lòng hoài nghi ư?”

“Anh ta có hoài nghi hay không cũng không quan trọng.” Diệp Thu Vi giải thích. “Mục đích của tôi là khơi dậy nỗi sợ hãi và lòng căm hận đối với phụ nữ ở sâu trong nội tâm anh ta, khiến anh ta không ngừng nhớ lại sự tổn thương mà mẹ anh ta, Lý Mộc Lan và những người phụ nữ khác đã gây ra cho anh ta. Thực ra, dù tôi có trực tiếp nói với anh ta là tôi đã cố ý làm vậy thì việc những ký ức đau thương kia lóe hiện cũng sẽ chẳng bị ảnh hưởng chút nào.”

Tôi suy nghĩ một lát rồi hỏi tiếp: “Nhưng, chỉ dựa vào những điều như vừa kể mà cô có thể khẳng định được rằng anh ta sẽ tự sát ư? Tôi cảm thấy chuyện này là không thể tin nổi.”

“Sự việc đâu có đơn giản như vậy.” Diệp Thu Vi nói “Những điều vừa rồi chỉ mới là bước đệm khiến anh ta sinh lòng sợ hãi cùng với một loại áp lực lờ mờ thoắt ẩn thoắt hiện mà thôi, còn chưa phải là hành động mấu chốt. Anh phải nhớ lấy, loại áp lực hữu hiệu nhất không đến từ trong ký ức và nỗi ám ảnh, mà đến từ hiện thực.”

“Hiện thực?”

Diệp Thu Vi khẽ mân mê mây lọn tóc mai của mình, cất giọng hừ hững: “Lúc gần trưa, tôi thấy thời cơ đã chín muồi, thế là bèn dùng một số điện thoại mới để nhắn tin cho anh ta, tin nhắn đó có nội dung thế này: “Anh Vương, tôi là Giả Vân Thành. Chúng ta có thể ra ngoài gặp mặt một chút không? Tôi có chuyện này muốn nói với anh.”

Tôi nhanh chóng hiểu ra ý của cô ta, thế là không kìm được bật thốt lên: “Áp lực đến từ hiện thực mà cô vừa nói tới phải chăng là việc anh ta lấy trộm quần lót của Trần Hy để thủ dâm? Cô muốn khiến anh ta nghĩ rằng Giả Vân Thành đã biết được chuyện này ư?”

Diệp Thu Vi đưa mắt liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. “Trước đó tôi đã kiểm tra điện thoại của anh ta, thấy trong phần danh bạ không hề lưu số của Giả Vân Thành, mà anh ta cũng chưa từng liên lạc với Giả Vân Thành bằng cách gọi điện thoại hay nhắn tin. Ngoài ra, nỗi rối loạn hồi sáng sẽ làm rối loạn hoạt động tâm lý của anh ta, khiến anh ta mất đi năng lực suy nghĩ lý tính cùng với ý thức đề phòng sự dối gạt. Do đó, tôi dám chắc anh ta sẽ không gọi điện thoại để xác nhận. Quả nhiên, hai phút sau, anh ta gửi lại cho tôi một tin nhắn, nội dung tin nhắn chỉ có ba chữ ngắn ngủi là: “Có chuyện gì”, phía sau thậm chí còn chẳng có dấu chấm hỏi.”

“Cô đã trả lời anh ta như thế nào?”

“Tôi trả lời rằng: “Chuyện anh làm ở nhà tôi, tôi đã biết cả rồi, đêm đó tôi không ngủ. Anh như vậy là không được. Chúng ta nên nói chuyện với nhau một chút, có lẽ tôi sẽ giúp được anh.”

“Cô đã nói thẳng ra như thế ư? Liệu anh ta có tin không?”

Diệp Thu Vi khẽ cười, nói: “Chuyện bệnh hoạn đó là do chính anh ta tự mình làm ra, cho dù tôi không làm gì thì anh ta cũng sẽ cả ngày thấp thỏm lo âu, cảm thấy có lẽ có người biết rồi. Nhận được một tin nhắn mang giọng khẳng định như vậy, anh ta không tin mới là lạ. Trước đó, tâm lý của anh ta đã bị tôi làm cho rối loạn hoàn toàn, dưới sự thôi thúc của nỗi sợ hãi, áp lực do tin nhắn thứ hai mang lại sẽ bị phóng to lên không ngừng nghỉ, cho đến cuối cùng thì khiến anh ta không thể chịu đựng nổi nữa. Để có thể tạo thêm áp lực cho anh ta, tôi dùng số điện thoại đó gọi cho anh ta liên tiếp sáu lần. Bốn lần đầu tiên anh ta đều không nhấc máy, đến lần thứ năm nhạc chuông vừa mới vang lên thì anh ta đã ấn nút từ chối nghe ngay, còn lần thứ sáu, khi tôi gọi đến anh ta đã tắt máy rồi.”

Tôi hít sâu một hơi, dùng những kiên thức tâm lý học mà mình biết để phân tích chuyện này: “Loại chuyện bệnh hoạn này không thể nói ra với ai, do đó áp lực tất nhiên không có chõ nào để phát tiết, mà cô lại không ngừng bức ép như vậy, thứ áp lực này rõ ràng sẽ lớn lên không ngừng. Khi áp lực vượt quá khả năng chịu đựng mà lại không có cách nào phát tiết, đến cuối cùng sẽ chỉ có thể xuất hiện hai loại kết quả, thứ nhất là tự sát, thứ hai là tâm lý sụp đổ, thần kinh trở nên bất bình thường.”

“Tôi đã đoán trước được là anh ta sẽ tự sát.” Diệp Thu Vi nói. “Bởi vì việc tự sát hồi năm lớp mười của anh ta đã xảy ra trong tình huống áp lực vượt quá khả năng chịu đựng của tâm lý. Đây chính là đặc điểm tâm lý của anh ta, cũng chính là thiên tính của anh ta.”

Tôi lật xem phần hồ sơ tử vong của Vương Vĩ trong tập tài liệu kia, thế rồi không kìm được thở ra một hơi thật nặng nề. “Anh ta cởi bỏ toàn bộ quần áo, chọn lấy cái chết trong nước, còn bỏ thêm vào đó dung dịch formaldehyde nồng độ cao, mục đích rõ ràng là để làm sạch thân thể mình. Chuyện mà cô đã làm khiến anh ta cảm thấy mình hết sức dơ bẩn và đây sợ rằng cũng là một trong các nhân tố khiến anh ta tự sát. Hồi năm lớp mười,anh ta quyết định nhảy sông phải chăng cũng là vì muốn dùng nước sông để làm sạch bản thân?”

Diệp Thu Vi hờ hững đứng dậy, nói ra một câu cuối cùng trong ngày hôm đó: “Anh ta bề ngoài thì cho là tất cả phụ nữ đều dơ bẩn, nhưng thực ra tại nơi sâu thẳm trong nội tâm, anh ta nghĩ rằng thứ dơ bẩn nhất chính là bản thân mình.”

Khi đi ra ngoài khu bốn, ánh mặt trời rạng rỡ chiếu xuống làm tôi không khỏi hơi chóng mặt.

Sau khi buổi gặp mặt hôm đó kết thúc, lão Ngô lại mời hai bác sỹ đến tiến hành kiểm tra tâm lý cho tôi. Sau khi cuộc kiểm tra kết thúc, tôi ngó nhìn dồng hồ, thấy lúc này đã gần mười giờ.

“Lão Ngô” Tôi vươn vai một cái, ngạc nhiên hỏi: “Sao hôm nay cậu cho tớ nhiều thời gian quá vậy?”

Lão Ngô đưa tay tới khẽ vỗ vai tôi, cười “hà hà”, nói: “Một giờ mười một phút, cậu rốt cuộc đã phá được kỷ lục của lão Thang rồi. Xem ra trước đây tớ đúng là đã coi thường cậu.”

Tôi cũng khẽ mỉm cười. “Có gì ghê gớm lắm đâu, mà lần này còn là cô Diệp chủ động đề nghị dừng cuộc trò chuyện lại đấy nhé. Nói thực lòng, cô ấy không đáng sợ như các cậu nghĩ đâu.”

Lão Ngô muốn nói gì đó lại thôi, trên mặt thấp thoáng một nụ cười mang đầy ý vị. Mấy phút sau, một nữ bác sỹ đi tới đưa kết quả kiểm tra cho lão Ngô. Lão Ngô hơi cau mày, ngay sau đó khuôn mặt liền dãn ra, khẽ ho một tiếng, nói: “Lão Trương đi thôi.”

Tôi đứng dậy, nói: “Sáng mai tớ vẫn tớivào lúc tám rưỡi nhé.”

“Cậu chín giờ hãy tới đi.” Cậu ta vừa tiễn tôi vừa nói. “Sáng mai có một khoảng thời gian hoạt động ngoài trời kéo dài chừng hai mươi phút cho các bệnh nhân Diệp Thu Vi sẽ được tách ra riêng với các bệnh nhân khác, sau chín giờ,cậu có thể tới cùng cô ấy đi dạo xung quanh khu bốn một chút, đương nhiên đấy là trong trường hợp cậu bằng lòng.”

Tôi tưởng tượng đến tình cảnh gặp mặt Diệp Thu Vi trong ngày hôm sau, trong lòng bất chợt dâng lên một niềm vui khó tả.

Sau khi rời khỏi bệnh viện tâm thần thành phố, tôi trở về tòa soạn một chuyến, tập trung chỉnh lý lại tất cả các tin tực mà mình đã ghi lại được trong ngày. Xét kỹ ra thu hoạch lớn nhất của tôi hôm nay không phải là biết được tâm lý lệch lạc của Vương Vĩ cùng nghuyên nhân dẫn đến cái chết của anh ta mà là lần đầu tiên được nghe nói tới sự tồn tại của X trong sự kiện M.

Tổ chức thần bí đứng sau lưng Trần Hy và Tập đoàn A dường như đã đấu đá với nhau cả trong tối lẫn ngoài sáng được rất nhiều năm rồi. Tổ chức thần bí kia từng nhiều lần phát hiện ra cơ hội, vậy nhưng lần nào tâm lý của nhân vật mấu chốt cũng bị người ta tác động bằng một biện pháp nào đó, thành ra đến cuối cùng kế hoạch mới thất bại. Người ra mặt tác động đến tâm lý của những người kia vô cùng thần bí, được ám chỉ bằng ký hiệu X.

Tôi một mặt chỉnh lý thông tin, một mặt liệt ra những sự kiện có khả năng liên quan đến X.

Tối ngày 10 tháng 09 năm 2008, Từ Nghị Giang cưỡng hiếp Diệp Thu Vi, kế hoạch của tổ chức thần bí kia vì thế mà đổ bể. Tâm lý của Từ Nghị Giang có thể đã bị tác động bởi X.

Tối ngày 7 tháng 11 năm 2008, Tần Quân uống thuốc độc tự sát, có thể là do bị X tác động về mặt tâm lý.

Trong dịp năm mới năm 2009, Từ Nghị Giang bị bạn tù giết chết, người bạn tù này có khả năng từng tiếp xúc với X thông qua một hình thức nào đó.

Ngày 18 tháng 3 năm 2009, sức phòng ngự trong tâm lý của Thư Tình đột nhiên tăng vọt. Tối ngày 17 có khả năng Thư Tình đã tiếp xúc với X.

Sau đó, tôi bắt đầu lần lượt phân tích.

Từ Nghị Giang đã chết, manh mối đầu tiên bị đứt hoàn toàn, chỉ có thể từ bỏ.

Sau khi uống thuốc độc, sở dĩ Tần Quan không chết là vì được bảo vệ phát hiện kịp thời. Sự can dự vủa nhân viên bảo vệ này phải chăng là một điều trùng hợp nằm ngoài dự liệu của X? Có khi nào đây cũng là một phần của toàn bộ kế hoạch? Bất kể ra sao nhân viên bảo vệ đó có lẽ có thể nói cho tôi biết một số tin tức hữu dụng.

Sau khi Từ Nghị Giang vào tù không lâu liền bị bạn tù giết chết, nếu chuyện này thực sự đã xảy ra do sự tác động của X, vậy thì X nhất định đã từng đến phòng giam của Từ Nghị Giang, cho nên giá trị của manh mối thứ ba này là lớn nhất.

Manh mối cuối cùng thoạt nhìn có vẻ như rất có giá trị, vậy nhưng thực tế lại chẳng có chút ý nghĩa nào với tôi, bởi lẽ Thư Tình có tham dự vào việc hãm hại Diệp Thu Vi trong bữa tiệc rượu hôm đó, năng lực phòng ngự tâm lý thì đã được nâng cao dưới sự giúp đỡ của X. Nhìn vào hai điều này mà xét, cô ta và X có lẽ thuộc cùng một phe, và sau lưng bọn họ chính là Tập đoàn A, vậy cho nên dù cô ta có biết được thân phận của X thi cũng tuyệt đối không bao giờ tiết lộ cho tôi biết cả.

Phân tích đến đây, tôi đột nhiên nhớ đến lời khuyên của Thư Tình lúc trước. Cô ta đã khuyên tôi như vậy xem ra những việc mà Diệp Thu Vi làm cô ta đều đã biết cả. Cô ta làm sao lại biết được chứ? Là qua X hay qua tập đoàn A? Nếu X và Tập đoàn A đã biết được những việc mà Diệp Thu Vi từng làm vậy thì tại sao họ không tìm cách diệt trừ cô ta? Lẽ nào Diệp Thu Vi ở trong bệnh viện Tâm thần thành phố chính là để né tránh sự hãm hại đến từ X hoặc Tập đoàn A? Nếu đúng như thế cô ta liên tiếp giết người trong bệnh viện có lẽ chính là để bệnh viện cách ly cô ta khỏi những bệnh nhân khác. Có điều tại sao cô ta lại đồng ý gặp tôi chứ? Lẽ nào - tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh – lẽ nào Diệp Thu Vi đang lợi dụng tôi? Phải chăng tôi sớm đã bị sa vào trong một sự ám thị nào đó của cô ta rồi.

Hãy thử suy nghĩ từ một góc độ khác: Tạm thời chưa xét đến việc mục đích của Diệp Thu Vi là gì, việc tôi chủ động tiếp xúc với Thư Tình mấy ngày trước phải chăng đã khiến bản thân bị lộ trước mắt Tập đoàn A? Bọn họ liệu có cho rằng tôi có dính dáng đến sự kiện M, để rồi từ đó tìm cách gây bất lợi cho tôi không? Tôi lại nhớ lại lời khuyên của Thư Tình:

“Hãy tránh xa Diệp Thu Vi ra, cũng đừng điều tra việc về cô ta nữa, anh nhất định sẽ phải hối hận đấy.”

Câu nói này khiến tôi không rét mà run.

Suốt cả buổi sáng hôm đó tôi chìm trong sự băn khoăn và lo nghĩ. Lúc mười một rưỡi, lãnh đạo gọi vào văn phòng hỏi tôi về tiến triển của chuyên đề phỏng vấn Diệp Thu Vi. Tôi lại kể sơ qua mọi chuyện, sau đó lấy hết can đảm, đề nghị được dừng cuộc phỏng vấn này lại. Lãnh đạo rất giận nhưng đồng thời cũng vô cùng nghi hoặc liền không ngừng gặng hỏi tôi nguyên nhân.

Tôi nói ra nỗi lo lắng trong lòng mình: “Lần phỏng vấn này rất có thể sẽ làm mất lòng một số thế lực khổng lồ đến mức khó có thể tưởng tượng mà em thì lại không biết mình rốt cuộc đang phải đối mặt với cái gì. Cho dù có biết em cũng khó có cách nào liều mình đi đối mặt, bởi vì dù sao em cũng còn có gia đình.”

Lãnh đạo chỉ nói ra một câu: “Xảy ra chuyện gì tôi sẽ chịu trách nhiệm.”

Tôi biết anh ta chưa đủ sức để đảm bảo cho sự an toàn của tôi và gia đình trong chuyện này nhưng câu nói đó rốt cuộc vẫn phát huy tác dụng và tôi cuối cùng đã quyết định tiếp tục điều tra và phỏng vấn.

Khoảng hai giờ chiều tôi lại tới đại học Z một lần nữa, sau đó tìm đến tòa nhà thực nghiệm nơi Tần Quan xảy ra chuyện. Thật đáng tiếc, mấy nhân viên bảo vệ năm xua đã lần lượt rời đi hết cả, hơn nữa còn không cách nào liên lạc được. Sau đó, tôi lái xe đến trại giam số 1 của tỉnh ở ngoại ô phía nam của thành phố B (một thành phố cấp địa khu ở lân cận) đó cũng chính là nơi mà Từ Nghị Giang qua đời.

Do đặc thù công việc tôi có khong ít người quen ở trại giam số 1 của tỉnh trong số đó người có quan hệ tốt nhất với tôi là một Trưởng phân khu tên gọi Phó Hữu Quang, lớn hơn tôi tám tuổi. Đngs bốn giờ chiều, tôi đến trại giam, anh ta đón tôi ở dưới tòa nhà văn phòng vừa nhìn thấy tôi liền cười, hỏi: “Sao đó, Tiểu Trương lại có việc công gì hay sao?”

Tôi bắt tay với anh ta, sau đó mới cười, đáp: “Lần này không phải vì việc công. Em đến thành phố B có chút chuyện cần làm, thế là mới tiện đường ghé qua đây thăm các anh em thôi.”

Anh ta dẫn tôi vào trong văn phòng khóa chặt cửa lại, pha trà. Tôi nhét hai cây thuốc lá đã chuẩn bị sẵn vào trong ngăn kéo bàn làm việc của anh ta, sau đó nói: “Món này em cũng không hiểu rõ lắm, chỉ nhớ là anh trước đây hay hút loại này, thế là nhân tiện mang đến đây cho anhh một ít.”

“Ấy!” Anh ta nhies chặt đôi mày, lấy thuốc lá ra nhét trả vào tay tôi, nói giọng oán trách: “Chú làm thế này là không đúng rồi, chú nghĩ anh là loại người gì vậy chứ? Có việc gì thì cứ nói thẳng ra đi, đừng dùng trò này với anh.”

Tôi chép miệng một tiếng lại nhét thuốc lá vào trong ngăn bàn rồi liền cười nói: “Anh hiểu lầm rồi, có ai mà không biết anh Phó của chúng ta là một người thiết diện vô tư nổi tiếng chứ? Em đây dù có nốc mấy cũng chẳng đời nào đi làm ra cái chuyện hối lọ đó đâu. Đây chỉ thuần túy là một món quà mà thằng em này tặng anh thôi, nếu anh cứ nhaats quyết trả lại em thì thực là khách sáo quá, em cũng chẳng dám ngồi lại đây thêm nữa đâu.”

Phó Hữu Quang bật cười chỉ tay vào mũi tôi, nói: “Chú ấy à, rõ là khéo miệng, tối nay nhất định phải ở lại đây ăn cơm đấy nhé.” Sau đó liền rót một ly trà và đưa cho tôi, lại ngồi tựa lưng vào ghế, hỏi: “Chú đến thành phố B này bận rộn chuyện lớn gì vậy?”

“Em thì có chuyện lớn gì được?” Tôi đưa ly trà lên mũi ngửi một chút, sau đó mới nói: “Bận tới bận lui rốt cuộc vẫn chỉ là mấy bài nộp lên mỗi tháng mà thôi.'

Phó Hữu Quang khẽ mỉm cười lấy một cây thuốc ra, bóc lớp giấy bóng bên ngoài rồi móc ra một bao và xem kĩ, sau đó mới gật đầu, nói: “Có chuyện gì mà anh giúp được thì chú cứ việc nói đi. Anh đây không có bản lĩnh gì khác, riền chuyện giúp tìm tư liệu thì vẫn còn làm được.”

Tôi thở phào một hơi hỏi: “Tội phạm cưỡng hiếp thường được đưa về quản lý ở khu mấy vậy anh?”

“Chuyện này thì còn phải xem mức độ nặng nhẹ.” An ta đáp “Những người tội nhẹ thì đều ở khu đánh số lớn, còn những người tội nặng thì đa phần đều ở chỗ của anh.”

“Mấy người bị xử tù chung thân chắc đều ở chỗ anh cả đúng không?” Tôi hỏi.

“Đa phần là như vậy.” Anh ta nhìn tôi, thản nhiên nói: “Chú có số chứng minh thư của người đó không? Để anh kiểm tra cho.”

Tôi nói: “Dạ không, em chỉ biết tên thôi, là Từ Nghị Giang.”

Nghe đến cái tên này, Phó Hữu Quang đờ người ra mất khoảng một giây, kế đó đôi tay run lên lẩy bẩy thiếu chút nữa đã làm đổ nươc trà lên người. Anh ta nhíu chặt đôi mày, đầu cúi xuống, lưỡi thè ra liếm môi, mãi một lúc lâu sau mới hỏi: “Rốt cuộc là sao đây? Chú định viết báo về người này à?”

Tôi vội vàng xua tay nói: “Em đã nói rồi mà lần này tới đây không phải vì việc công. Chẳng qua là có một người bạn nhờ em hỏi giúp chuyện này thôi, anh ta nói đã lâu lắm không có tin tức của Từ Nghị Giang rồi.”

“Hầy, chú em không biết đấy thôi.” Phó Hữu Quang làm vộ khó xử nói: “Chuyện này mãi đến năm ngoái mới coi như êm xuôi, bây giờ không tiện nhắc nữa. Có điều, tuy anh không thông thạo lắm về nghề của các chú, nhưng sự việc dù gì cũng qua được hơn ba năm rồi, bay giờ viết ra còn có giá trị gì nữa ư?”

Tôi giả vờ hồ đồ hỏi: “Anh có ý gì vậy?”

Anh ta cố hạ thấp giọng nói: “Người tên Từ Nghị Giang mà chú vừa nói tới kia anh có biết, hơn nữa còn đúng là thuộc quyền quản lý của anh, nhưng gã này đã sớm toi mạng từ hồi đầu năm 2009 rồi.”

“Chết rồi ư?” Tôi giả bộ kinh ngạc bật thốt: “Chết như thế nào vậy?”

Anh ta “ồ” một tiếng, kinh ngạc nói: “Chú thực sự không biết ư? Dịp Tết năm 2009, anh ta bị một người bạn tù dùng gạch đập chết, đầu thậm chí còn nứt toác cả ra. Khi đó có rất nhiều phóng viên đã nhận được tin tức rồi đến đây phỏng vấn, thế mà chú lại không hay biết chút nào ư?”

Tôi làm bộ như đang ngẫm nghĩ, một lát sau mới nói: “À, khi đó em đang bận làm một chuyên đề khác, thế nên tuy cũng nghe nói là có một phạm nhân vị chết trong tù nhưng thực sự không biết đó là Từ Nghị Giang. Anh cứ yên tâm, đừng nói là ba năm đã trôi qua, cho dù chỉ ba tháng thôi thì loại chuyện này cũng chẳng còn giá trị gì để viết nữa rồi. Em hỏi anh chuyện này thực sự chỉ là vì mục đích cá nhân mà thôi.”

Anh ta thở phào một hơi, sau đó liền cười, nói: “Anh hiểu, anh hiểu. Bây giờ chú đã biết chuyện này rồi, khi quay về có thể ăn nói với người bạn kia rồi nhé.”

Tôi dùng giọng tò mò hỏi: “Thế phạm nhân giết chết anh ta về sau bị xử lý thế nào? Chyện tái phạm tội trong trại giam từ trước đến giờ em chưa được tiếp xúc lần nào đấy.”

“Ngay sau đó người này đã tự sát mất rồi, còn xử lý gì được nữa.” Phó Hữu Quang nói. “Lúc đó, anh ta không ngừng đập gạch vào đầu mình, đập liền một mạch mười mấy cái, đầu nát ra rồi mà còn cố đập thêm mấy cái nữa.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi, từ từ chìm vào dòng trầm tư: Con người ai cũng có băn năng sinh tồn, thế nên tất cả các hành vi tư làm tổn thương mình mang màu sắc chủ quan đều là hành vi ý thức. Sau khi bị thương nặng, tác dụng của ý thức sẽ giảm dần, khả năng khống chế của bản năng thì tăng mạnh, ham muốn sinh tồn theo đó mà bùng lên. Trong trạng thái như vậy, con người không thể nào tiếp tục tiến hành những hành vi tự làm tổn thương mình nữa. Do đó, các phương pháp tự sát thường thấy đều không thể dừng lại giữa chừng, chẳng hạn như là nhảy lầu, treo cổ, uống thuốc độc, vân vân. Các phương pháp tự sát mà có thể dừng lại giữa chừng thì khả năng thất bại thường khá cao, trong đó cắt cổ ay chính là một ví dụ điển hình. Như trong trường hợp Vương Vĩ chẳng hạn, sở dĩ anh ta phải cố định toàn bộ thân thể lại như thế chính là vì sợ lúc sắp chết băn năng sinh tồn của mình sẽ trỗi dậy khiến cho việc tự sát không thể tiến hành đến cuối cùng và trên thực tế thì chính là nhờ vào sự chuẩn bị kĩ càng này nên anh ta đã tự sát thành công.

Do đó, hành động tiếp tục đập gạch vào đầu mình sau khi đã nát cả đầu của phạm nhân đã giết chết Từ Nghị Giang kia rõ ràng là không bình thường, trừ khi anh ta mắc bệnh tâm thần cực kỳ nghiêm trọng, bằng không tâm lý ắt hẳn là đã phải chịu một sự tác động nào đó từ bên ngoài.

Tôi hỏi: “Phạm nhân đó có phải bị tâm thần không vậy?”

“Nếu bị tâm thần thì đã chẳng bị đưa vào đây.” Phó Hữu Quang nói. “Anh ta đã ở trong này được bảy tám năm rồi, trước đó vẫn luôn khỏe mạnh, hơn nữa tôi còn nghe nói lúc còn sống anh ta có quan hệ khá tố với Từ Nghị Giang có đấy. Ôi, nói tóm lại chuyện này lằng nhằng lắm, ai mà biết đám phạm nhân chết tiệt đó nghĩ cái gì trong đầu.”

Tôi thở dài một hơi, hỏi: “Phạm nhân đó tên là gì vậy?”

Phó Hữu Quang uống một ngụm trà, sau một hồi lâu suy nghĩ mới nói ra một cái tên mà tôi không hề xa lạ: “Trương Thụy Bảo”.

Tôi trầm ngâm một lát, rất nhanh đã nhớ ra người tên Trương Thụy Bảo này là ai.

Còn nhớ khi đó là hạ tuần tháng 12 năm 2008, tôi nhận được chủ đề chính của tháng Ba năm sau, tiêu đề là “Sự khác biệt và mối liên quan về mặt tâm lý học giữa hành vi cố ý gây thương tích và hành vi cố ý giết người”. Lúc ấy, tôi mang theo chủ đề này tới gặp Phó Hữu Quang, và rồi dưới sự giúp đỡ của anh ta, đã tự chọn cho mình được mấy đối tượng phỏng vấn, một trong số đó chính là Trương Thụy Bảo.

Trương Thụy Bảo là người thành phố B, hồi năm 2000 đã chém chết một người cùng thôn tên là Trương Thụy Khanh, nguyên nhân là Trương Thụy Khanh từng nhiều lần tằng tịu với vợ anh ta. Năm 2001, Trương Thụy Bảo bị tòa tuyên án tử hình tạm hoãn thi hành án (*), đến năm 2003 thì được giảm xuống còn tù chung thân.

(*) Một loại hình phạt ở Trung Quốc, được đưa ra khi tội phạm đáng tội chết nhưng không nhất thiết phải lập tức thi hành án. Lọa hình phạt này thường có thời gian thử thách là hia năm, trong thời gian hai năm này nếu tội phạm không cố ý phạn tội thì sẽ được giảm án xuống còn tù chung thân, nếu lập được công lớn thì sẽ được giảm án xuống còn tù có thời hạn hai mươi lăm năm, còn nếu như có hàng vi cố ý phạm tội và được chứng thực thì sẽ bị tuyên án tử hình lập tức thi hành án.

Theo trí nhớ của tôi, Trương Thụy Bảo là một người mày rậm mắt to, đôi môi khá dày, phía bên trái dưới cằm còn có một vết sẹo, nghe đồn là dấu vế để lại do một lần bị cha đánh hồi nhỏ. Khi được phỏng vấn, anhta tỏ ra hưng phấn hơn hẳn các phạm nhân khác, còn nói đùa với tôi mấy câu. Tôi khẽ mỉm cười thế là anh ta cũng cười theo. Ánh mắt của anh ta luôn ngợp đầy vẻ mệt mỏi nhưng lúc nào cũng toát lên những tia kiên định. Cán bộ trực tiếp quản lý anh ta từng nói với tôi, Trương Thụy Bảo làm việc rất chăm chỉ tính tình cũng tốt, chưa từng gây răc rối bao giờ.

Một người như vậy mà tự dưng lại nổi điên giết người rồi sau đó tự sát, xem ra anh ta nhất định là đã phải chịu một sự kích thích nào đó, mà sự kích thích này rất có thể là do X mang tới cho anh ta.

Tôi hỏi: “Chính Trương Thụy Bảo mà em từng phỏng vấn hồi năm 2008 ư? Người mà đã giết chết anh họ của mình ấy?”

“Đúng, chính là anh ta.” Phó Hữu Quang trầm tư nghĩ ngợi một lát, sau đó bèn khẽ gật đầu. “Anh nhớ ra rồi, trước đây chú quả thực đã từng phỏng vấn anh ta.”

“Ôi...” Tôi không kìm được cất tiếng thở dài. “Anh ta là một con người thật thà và lạc quan như thế cơ mà, sao bỗng dưng lại nghĩ quẩn như thế chứ?”

Phó Hữu Quang uống một ngụm nước,bình thản nói: “Chuyện này thì khó nói lắm, có thể đã xảy ra điều gì đó vượt quá giới hạn chịu đựng của anh ta. Chú vốn nghiên cứu về tâm lý học tội phạm, một khi vượt quá giới hạn thì sẽ không thể chịu đựng nổi nữa, hành vi cũng theo đó mà trở nên mất kiểm soát. Như hồi năm ngoái chẳng hạn, ở khu bốn có một gã tội phạm kinh tế ban đầu bị tuyên án tám năm, về sau được giảm xuống còn sáu năm rưỡi.nhưng kết quả thì sao, khi chỉ còn hơn một năm nữa là có thể ra ngoài thì gã lạ không cầm cự được,chẳng viết là kiếm từ đâu ra một miếng sắt nhỏ rồi cứa cổ tay tự tử.” Nói tới đây anh ta dừn lại một chút rối mới tiếp: “Cho nên năm nay bọn anh đã tăng cường đầu tư về mặt tâm lý tội phạm. Có điều, cái đám tân cử nhân tâm lý học vừa mới vào làm việc ở đây ấy, bọn họ thậm chí còn chưa học được cách thức làm người vàng đừng nói gì đến chuyện giải quyết các vấn đề về tâm lý của tội phạm.”

Tôi nói: “Nghe anh nói như vậy làm em tò mò quá. Bấy lâu nay em vẫn luôn bỏ công việc nghiên cứu tâm lý học tộ phạm, nhưng kiến thức về tâm lý tội phạm thì lại chẳng có được bao nhiêu.”

“Chú nên viết báo về mặt này nhiều một chút.” Anh ta nghiêm túc nói. “Như thế sự hiểu biết của những người ở bên ngoài sẽ được tăng thêm, từ đó không còn cảnh người ta tranh nhau nhảy vào cái ngành này nữa.” Dứt lời anh ta liền cười “hà hà” mấy tiếng.

“Dạ” Tôi nói. “Có điều chuyền về Trương Thụy Bảo quả thực rất đáng để nghiên cứu một chút.”

Anh ta liếc mắt nhìn tôi. “Anh ta đã chết hơn ba năm rồi, còn nghiên cứu thế nào được nữa?”

Tôi nhất định phải nắm lấy cơ hội này, thế là nói ngay: “Em dù sao cũng từng phỏng vấn anh ta, có thể nói là hiểu rõ về tâm lý của anh ta khi đó. Hơn nữa, em phỏng vấn anh ta là hồi cuối năm 2008, thế mà mới sang đầu năm 2009 thì anh ta đã xảy ra chuyện, thời gian cũng chỉ cách nhau chừng một tháng mà thôi. Nếu được tìm hiểu về những chuyện đã xảy ra với anh ta trong thời gian một tháng đó,chưa biết chừng em lại có những phát hiện mới mà không ai lường trước được.”

“Chú có hứng với chuyện này à?” Phó Hữu Quang tựa lưng vào ghế, mỉm cười hỏi: “Đây chính là mục đích của chú khi tới đây hôm nay đúng không?”

Tôi mỉm cười không nói gì. Anh ta nhẹ nhàng day trán, sau đó tiện tay mở mấy tập tài liệu trên bàn làm việc, lại mở ngăn kéo lấy ra một cuốn tạp chí, chính là Nguyệt san Phổ Pháp của chúng tôi. Anh ta mở nó ra, thế rồi nói: “Muốn làm ra một cuốn tạp chí thế này, bọn chú quả thực đã phải tốn rất nhiều công sức. Đúng rồi, chú chuyên làm về mảng tâm lý tội phạm đúng không?”

“Dạ phải.”

“Tờ Nguyệt san Phổ Pháp này của bọn chú có hai mảng tốt nhất, một là tâm lý tội phạm, hai chính là nhân vật.” Anh ta đưa mắt liếc nhìn tôi, lại đưa tay mân mê cằm một chút, sau đó mới chậm rãi hỏi: “Không biết ai là người phụ trách mảng nhân vật ấy nhỉ?”

Tôi lập tức hiểu ngay ra ý của anh ta, thế là bèn cười nói: “Trong số báo ra tháng Mười sắp tới bọn em chuẩn vị tiến hành phỏng vấn một nhân viên công cụ ở trại giam, mục đích cốt yếu là để thể hiện sự tiến bộ trong phong cách quản lý trại giam ở nươc ta, đối tượng phỏng vấn sẽ được chọn ra qua cuộc họp vào tháng tới.” Tôi suy nghĩ một chút rồi mới nói tiếp: “Các đối tượng phỏng vấn của tháng Hai,tháng Ba và tháng Năm năm nay đều là do em đề cử cả đấy.”

Đúng lúc này, chiếc điện thoại để bàn làm việc của Phó Hữu Quang chợt đổ chuông. Phó Hữu Quang nhấc máy nghe điện thoại, sau khi “ừ à” mấy tiếng liền nói với tôi: “Anh bây giờ bận đi dự một cuộc họp. Thế này ddimm anh sẽ gọi người năm đó từng trực tiếp quản lý Trương Thụy Bảo tới đây và kêu anh ta tích cực phối hợp với chú. Chú làm xong việc thì đợi anh, tối nay chú nhất định phải ở lại đây ăn cơm với anh đấy nhé.”

Năm phút sau, tôi được gặp cán vộ trại giam từng trực tiếp quản lý Trương Thụy Bảo năm xưa. Người cán bộ này tên là Trần Phú Lập, tuổi vào chừng ba mươi lăm, ba mươi sáu, nước da ngăm đen nhưng không hề bóng, sống lưng thẳng tắp, nói năng mạch lạc rõ ràng. Hồi cuối năm 2008, anh ta chính là người đã đi cùng tôi trong cuộc phỏng vấn Trương Thụy Bảo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 9-2


Trò chuyện với nhau được mấy câu, tôi trực tiếp đề nghị được tớn nơi mà Từ Nghị Giang và Trương Thụy Bảo đã chết. Trần Phú Lập dẫn tôi đến khu phòng giam, sau khi đi vào trong một sân bóng rổ đưọc đổ nền bê tông liền chỉ tay vào một chỗ ở giữa sân, nói: “Chính là ở chỗ này. Ba năm trước, Trương Thụy Bảo đã dùng gạch dập chết Từ Nghị Giang ở đây, sau đó thì tự sát.”

Tôi rút ra một điếu thuốc đưa cho anh ta, lại giúp anh ta châm lửa, sau đo mới hỏi: “Có người nào tận mắt chứng kiến sự việc không?”

”Có.” Anh ta rít một hơi thuốc, đáp: “Chính là tôi.”

“Anh có thể miêu tả sơ qua một chút được không?”

”Ừm.” Anh ta giậm nhẹ chân xuống đất một cái, bắt đầu kể: “Lức đó là tháng 2 năm 2009, còn chưa qua tháng Giêng, cái sân bóng này thì vừa mới bắt đầu được xây dựng. Khi ấy tôi dẫn theo hơn ba mươi phạm nhân, tuy tất cả đều mắc trọng tội nhưng tính cách thì coi như là ngoan ngoãn, chưa từng tham gia vào những vụ ẩu đả Nghịêm trọng. Đó là một buổi chiều, trời âm u, tôi gọi tổ trướng của tổ phạm nhân này lại kêu trông chừng mọi người, mình thì chuẩn bị ra ngoài gặp một người ban. Nhưng tôi còn chưa kịp bước chân ra ngoài khu phòng giam thì đã nghe thấy một tràng những tiếng huyên náo ầm ĩ. Tôi vội vàng quay trở lại, thấy

Đầu của Từ Nghị Giang đã bị đập cho nứt toác. Trương Thụy Bảo thì vẫn đang ngồi trên người anh ta, trong tay cầm nửa viên gạch. Những người khác đều chỉ đứng bên ngoài nhìn, không có ai dám đi tới can ngăn. Tôi lập tức kêu to:“Trương Thụy Bảo, anh làm gì đấy?” Anh ta hét lớn một tiếng, đưa tay ôm đầu, kế đó liền dùng gạch đập vào đầu mình liên tục, đến cuối cùng đã ngã gục xuống đất rồi mà vẫn cứ đập mãi.” Nói đến đây, anh ta không kìm được cất lời cảm thán: “Ôi, thực sự là đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in chuyện đó, cả đời này tôi chưa từng nhìn thấy người nào hung hãn đến như vậy.”

Tôi hỏi: “Lúc trước không phải anh ta rất ngoan ngoãn, thật thà ư?”

”Thì vốn biết người, biết mặt, không biết lòng mà.” Trần Phú Lập nói. “Theo như kinh nghiệm của tôi, càng là người ngoan ngoãn, thật thà thì lại càng nguy hiểm. bởi tất cả mọi cảm xúc luôn bị bọn họ kìm nén trong lòng.”

Tôi lại hỏi tiếp: “Nghe nói trước đó anh ta có quan hệ không tệ với Từ Nghị Giang đúng không?”

Trần Phú Lập cười nhạt một tiếng, nói: “Gã Từ Nghị Giang đó được chuyển vào đây hồi tháng 10 năm 2008, tính đến lúc chết cũng chỉ mới ở đây được khoảng bốn tháng mà thôi. Đúng thế, Trương Thụy Bảo và gã có quan hệ không tệ, nhưng tôi cảm thấy chẳng qua là Trương Thụy Bảo muốn bợ đợ gã mà thôi. Gã Từ Nghị Giang này dường như không đơn giản chút nào, khi chuyển đến đây hồ sơ bị thiếu rất nhiều, mãi đến cuối cùng vẫn chẳng được bổ sung đầy đủ. Anh và anh Phó đã là chỗ thân quen với nhau từ lâu, vậy tôi sẽ nói với anh nhiều một chút. Khi đó có một người mỗi tháng đều qua đây lo lót, nhưng anh ta không chịu nói ra mình và Từ Nghị Giang có quan hệ như thế nào, chỉ nhờ cậy tôi để mắt giúp đỡ Từ Nghị Giang. Tôi còn từng nghe anh Phó nhắc đến chuyện giảm án cho Từ Nghị Giang, mà Trưởng trại giam dường như cũng rất xem trọng chuyện này. Tóm lại, tôi cảm thấy Từ Nghị Giang có lai lịch không nhỏ. Có điều, người chết thì đã chết rồi, lai lịch lớn hay nhỏ thì cũng như nhau cả thôi.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi bèn hỏi: “Người đến đây lo lót cho Từ Nghị Giang mỗi tháng có bộ dạng như thế nào vậy?“. “Đó là một người đàn ông, tuổi chắc vào chừng bốn, năm chục“. Trần Phú Lập nói: “Còn về tướng tá thì tôi chỉ nhớ là anh ta rất trắng trẻo, béo tốt còn hay mặc một bộ âu phục rộng thùng thình.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi, trong lòng nảy sinh những sự biến hóa khó mà miêu tả bằng lời.

Trướcc đó, bất kể lời miêu tả của Diệp Thu Vi có chân thực cỡ nào, hợp lý cỡ nào, sau khi rời khỏi phòng bệnh của cô ta, trong lòng tôi vẫn còn tồn tại những mối hoài Nghị nhất định, mà đây cũng chính là nguyên nhân khiến tôi phải không ngừng đi điều tra và chứng thực những lời cô ra đã nói. Gỉa Vân Thành và Trần Phú Lập đều từng nhắc đến người đàn ông béo tốt trắng trẻo mặc âu phục rộng thùng thình kia, điều này chứng tỏ rằng giả thuyết “Trần Hy và Từ Nghị Giang cùng thuộc về một tổ chức thần bí nào đó” của Diệp Thu Vi là hoàn toàn có cơ sở. Nếu nói bằng phong cách của Diệp Thu Vi thì chính là như thế này:

Một câu nói đơn giản của Trần Phú Lập đã khiến tôi phát hiện ra điểm trùng khớp giữa lời kể của cô ta và hiện thực.

Lòng tin của tôi với Diệp Thu Vi lập tức tăng lên rất nhiều, cùng với đó tôi cũng hết sức tò mò về người đàn ông béo tốt trắng trẻo mặc âu phục kia.

Tôi khẽ gật đầu, lại rút ra thêm một điếu thuốc, Trần Phú Lập vội vàng xua tay tỏ ý không hút nữa. Tôi đút điếu thuốc về trong bao, kế đó lại hỏi: “Anh nói tiếp về Trương Thụy Bảo đi, biểu hiện của anh ta khi được tôi phỏng vấn có giống với biểu hiện thường ngày không vậy?”

”Hoàn toàn giống hệt.” Trần Phú Lập nói giọng chắc nịch. “Anh ta nổi tiếng là một người thật thà. Nói thật với anh, nhà anh ta thuộc loại không có tiền cũng chẳng có thế, cho nên việc giảm án cơ bản là không có chút hy vọng nào. Loại phạm nhân như vậy thường xuất hiện hai trạng thái cực đoan, một bộ phân nhỏ thì trở nên hưng phấn ngỗ ngược, bất chấp tất cả, phần lớn còn lại thì chấp nhận số phận, trở nên tê dại và mất đi niềm tin vào cuộc sống, giống như Trương Thụy Bảo vậy.”

Tôi khẽ gật đầu. Cái gọi là tê dại chẳng qua là một quá trình tích lũy áp lực trong tâm lý. Đối với loại người như X và Diệp Thu Vi, việc khống chế những người tê dại hiển nhiên là dễ dàng hơn so với khống chế những người bình thường rất nhiều.

Tôi lại hỏi tiếp: “Trong quãng thời gian hơn một tháng kể từ khi tôi tiến hành phỏng vấn đến khi xảy ra chuyện, có người nào từ bên ngoài vào thăm Trương Thụy Bảo không?”

Trần Phú Lập suy nghĩ một lát rồi nói: “Có, nhưng chỉ có một lần thôi. Hình như đó là một người em họ của anh ra, tên là Trương Thụy… gì gì đó thì phải.”

“Bọn họ đã nói với nhau những gì?”

“Chuyện này thì tôi làm sao mà nhớ rõ được.” Trần Phú Lập cười gượng, nói: “Có điều sau cuộc gặp mặt lần đó Trương Thụy Bảo tỏ ra rất không vui, còn từng đánh nhau một lần với một người bạn tù, vậy nên tôi mới có chút ấn tượng.”

Tự nơi đáy lòng tôi bất giác giật thót một cái, thế là vội vàng truy hỏi: “Anh có biết Trương Thụy Bảo quê ở đâu không? Ngoài ra, liệu có thể tra ra được tên của người em họ kia của anh ta không?”

“Quê của anh ta thì tôi có biết.” Trần Phú Lập suy nghĩ một chút rồi bèn đáp: “Cách thành phố B khoảng mười kilomet về hướng chính tây có xã D, trên bãi sông nằm về phía bắc của xã này có thôn Lập Trương, đó chính là quê của Trương Thụy Bảo. Còn về tên của em họ anh ta thì tôi chắc chắn đã ghi lại rồi, có điều thời gian qua đã lâu nên muốn tìm được thì chỉ e không dễ dàng cho lắm.”

Tôi thở dài một hơi, nói: “Chuyện này rất quan trọng với tôi, mong anh hãy chịu khó vất vả một chút vậy.”

“Có gì đâu.” Anh ta xua tay, nói. “Thế này đi, đợi lát nữa tôi sẽ đi kiểm tra lại hồ sơ, sau khi tìm ra thì sẽ gửi tin nhắn cho anh. Anh thấy vậy có được không?”

Tôi không ngừng tỏ ý cảm ơn, cuộc trò chuyện đến đây là kết thúc. Sau đó, tôi ngồi trong đại sảnh ở tầng một của tòa nhà văn phòng để chờ tin tức của Phó Hữu Quang. Ước chừng bốn rưỡi, anh ta gọi điện thoại tới cho tôi, nói là cuộc họp này có lẽ phải kéo dài đến tận bảy, tám giờ, nếu tôi có bận việc gì thì cứ đi trước, nhưng buổi tối nhất định phải ở lại đây ăn cơm. Gần như cùng lúc, Trần Phú Lập nhắn tin đến cho tôi, nói là đã tra ra được tên của người em họ năm xưa từng đến thăm Trương Thụy Bảo, người này tên là Trương Thụy Lâm.

Tôi không ngừng nghe ngóng hỏi thăm, rốt cuộc cũng đến đưọc thôn Lập Trương vào lúc năm giờ hai mươi phút. Có mấy người dân đang ngồi ở cửa thôn trò chuyện vu vơ, khi được biết tôi muốn tìm Trương Thụy Lâm thì không ngờ bọn họ lại để lộ ra vẻ giật mình bừng tỉnh. Một người đàn ông tuổi chừng bốn chục đứng dậy, hỏi: “Anh là bác sĩ tới từ thành phố đúng không? Lần này sao chỉ có một mình anh thôi vậy? Liệu có ứng phó nổi với anh ta không đấy? Có cần chúng tôi giúp đỡ một tay không?”

Một người phụ nữ trung niên bên cạnh vội vàng kéo góc áo anh ta, nhỏ giọng làu bàu: “Đừng có lắm chuyện như thế!”

Tôi lờ mò hiểu ra được điều gì, bèn đáp qua loa: “À, tôi là chuyên gia tâm lý, tới đây là để kiểm tra xem tình trạng anh ta thế nào. Tôi mới lần đầu tới đây, xin hỏi nhà của Trương Thụy Lâm nằm ở đâu vậy?”

”Nên mời chuyên gia đến chữa trị cho nó từ sớm mới phải.” Một ông cụ ngậm tẩu thuốc trong miệng chậm rãi đứng dậy, nói: “Đi thôi, để tôi đưa cậu qua đó. Lúc này chắc nó vẫn còn đang bị trói đấy.”

Trong lòng tôi dâng lên một dự cảm chẳng lành.

Hai phút sau, ông cụ dẫn tôi đến cổng của một ngôi nhà bề thế, đẩy cửa cổng vốn không khoá ra. Sau khi đi vào trong nhà, ông cụ hô to bằng giọng khàn khàn: “Xán Hà đâu rồi?”

Trong nhà vang lên tiếng dép lê quệt xuống mặt đất, rồi kế đó một người phụ nữ thò nửa người ra ngoài, hé cặp mắt kèm nhèm ra, hỏi: “Sao vậy ông tư?”

“Giờ này mà mày còn ngủ à?”

“Cháu vừa mới dậy. Hôm qua cháu phải làm việc ở chỗ ao cá đến tận hơn bốn giờ sáng, mà hôm nay vẫn còn phải đi nữa.” Người phụ nữ đó đưa tay dụi mắt, sau khi nhìn thấy tôi thì bèn hỏi: “Đây là ai vậy?”

“Chuyên gia tâm lý từ thành phố đến.” Ông cụ khẽ ho một tiếng hỏi: “Thụy Lâm thế nào rồi?”

Người phụ nữ đó lộ rõ vẻ ngạc nhiên. “Vẫn còn đang bị trói, đã trói được hai ngày nay rồi. Cháu đâu có gọi điện thoại cho Bệnh viện Số 4 (Bệnh viện tâm thân của thành phố B) nhỉ, sao chuyên gia trong thành phố lại biết chuyện này?”

Tôi vội vàng giải thích. “Bệnh viện Số 4 không nhận được cuộc điện thoại nào cả, có điều quãng thời gian này tôi đang tham gia hội chẩn ở Bệnh viện Số 4, vừa hay được nghe lãnh đạo ớ đó nói về chuyện của Trương Thụy Lâm, thế là mới muốn qua đây xem thử một chút.”

“Có gì hay đâu mà xem?” Người phụ nữ đó lộ rõ vẻ buồn bực. “Chỉ cần trói mấy ngày là ổn thôi. Ngày nào cũng phải chữa bệnh, dù có kiếm được bao nhiêu tiền đi chăng nữa thì cũng chẳng đủ cho anh ta tiêu.”

“Tôi không lấy tiền.” Tôi nói. “Tôi chỉ muốn tìm hiểu một chút về bệnh tình của Trương Thụy Lâml thôi. Tôi vốn làm về Nghịên cứu lý luận, chưa biết chừng lại có thể tìm được biện pháp để chữa tận gốc bệnh của anh ta.”

Ông cụ kia nói: “Chuyên gia người ta một mình từ xa đến đây, mày nói cho người ta biết tình hình cụ thể thì chết được à? Đây là một cơ hội, nếu có thể chữa khỏi hẳn bệnh cho Thụy Lâm thì không phải là mày đỡ khổ hơn ư?”

Người phụ nữ đó mời tôi và ông cụ vào nhà, sau khi trò chuyên được mấy câu, tôi đã biết đại khái về tình hình ơ nơi này. Người phụ nữ tên Vân Xán Hà, là vợ của Trương Thụy Lâm, còn ông cụ thì là ông tư của Trương Thụy Lâm, tên là Trương Chiêm Võ. Bắt đầu từ mùa hè năm 2009, Trương Thụy Lâm bị mắc chứng rối loạn tâm thần cách quãng, ban đầu thì chỉ ăn nói linh tinh, về sau thì không còn biết ai với ai cứ nhìn thấy người là đánh, hơn nữa chu kỳ phát bệnh cũng càng lúc càng ngắn. Vân Xán Hà cũng từng đưa anh ta tới chỗ bác sĩ để khám bệnh, nhưng chữa mãi mà bệnh vẫn chẳng khỏi. Thời gian lâu dần, Vân Xán Hà liền quyết định từ bỏ việc chữa trị và nghe theo lời khuyên của ngưòi dân trong thôn, đó là làm một chiếc giường sắt ở trong nhà, cứ khi nào Trương Thụy Lâm phát bệnh thì mọi người trong thôn lại hò nhau trói anh ta vào chiếc giường sắt đó. Sau khi bị trói mấy ngày là Trương Thụy Lâm sẽ tự động trở lại như bình thường, không còn quậy phá nữa.

“Thế thường ngày thì sao?” Tôi hỏi. “Khi không phát bệnh, anh ta có biểu hiện gì khác thường không?”

“Ban đầu thì còn đỡ.” Vân Xán Hà vừa nói vừa đưa tay day mặt. “Khi không phát bệnh anh ấy chỉ ít nói và nhát gan thôi. Năm kia sau khi uống thuốc được một năm thì số lần phát bệnh đã ít đi nhiều, nhưng sau khi dừng uống thuốc thì tình hình còn trở nên tệ hơn lúc trước nữa, anh ấy không chỉ phát bệnh nhiều hơn mà thường ngày đầu óc cũng không tỉnh táo, chỉ toàn ăn nói linh tinh thôi, không làm được việc gì cả. Bây giờ tôi còn chẳng dám cho anh ấy ra ngoài, vì cứ nhìn thấy đàn ông là anh ấy lại muốn đánh chết người ta.”

“Đàn ông?” Tôi cảm thấy hơi lạ thường, thế là bèn ghi điều này lại, sau đó mới hỏi: “Tôi có thể gặp trực tiếp anh ta một chút không?”

Vân Xán Há đưa mắt liếc nhìn Trương Chiêm Võ, sau một phen do dự, rốt cuộc đã chậm rãi đứng dậy đi đến trước một cánh cửa phòng ở mé bên của phòng khách, lại mở hé cửa ra và ngó vào bên trong, sau đó mới ra hiệu cho tôi đi tới. Tôt đi tới bên cạnh cửa. khi nhìn qua khe cửaa thì thấy bên trong có một chiếc giường sắt được dựng thành môt góc chéo 45 độ so với mặt đất, một người đàn ông bị trói chặt bằng dây thừng trên giường, và đó tất nhiên chính là Trương Thụy Lâm. Trương Thụy Lâm tóc tai rối bù, trên mặt có mấy vết thương có thể nhìn thấy rõ, quần áo trên người thì bị xé rách mất mấy chỗ. Anh ta lúc này đang nhắm mắt, vậy nhưng mí mắt vẫn hơi máy động, dường như còn chưa ngủ. Tôi thở dài một hơi, anh ta nghe thấy tiêng động thì liền mở mắt ra, nhìn tôi vẻ sợ hãi, sau đó chợt trừng mắt lên giận dữ và bắt đẩu ra sức giãy giụa tựa như một con mãnh thú bị thương, đồng thời còn dùng giọng hằn học mắng chửi: “Mẹ mày! Tao phải giết mày! Mẹ mày! Tao phải giết mày!”

Tôi hít sâu một hơi, cảm thấy toàn thân đều không thoải mái dưới ánh nhìn đó của anh ta. Vân Xán Hà vội vàng đóng cửa lại, đôi môi mím chặt, từ trong cổ họng vang ra một tiếng “ực” nghe khá rõ, dường như là đang cố nén nước mắt. Có thể nhìn ra, người phụ nữ này có tình cảm rất sâu đậm vói chổng mình, bằng không thì đã chẳng xúc động đến thế.

”Anh ấy cứ như vậy đấy.” Một lát sau cô ta mới nói: “Cứ nhìn thấy đàn ông là lại nổi điên lên, đặc biệt là những người đàn ông trong độ tuổi ba, bốn mươi như anh. Trong thôn có mấy người cỡ tuổi này đã bị anh ấy đánh cho bị thương rồi đấy.”

Tôi ngồi xuống rồi bèn hỏi: “Anh ta phát bệnh là vì nguyên nhân gì? Chuyện này mọi người đã làm rõ được chưa?”

Vân Xán Hà lật đật đi vào phòng trong lấy ra mấy tập tài liệu đưa cho tôi. Tôi lật ra xem một chút, thấy đó toàn là giấy chuẩn đoán cùng với bệnh án của Trương Thụy Lâm. Kết quả chuẩn đoán của các bác sĩ về cơ bản là thống nhất: Trương Thụy Lâm mắc chứng tâm thần phân liệt thể không biệt định.

Tôi ít nhiều cũng có một chút hiểu biết về các chứng bệnh tâm thần, căn cứ theo các nhân tố gây bệnh và đặc điểm của người bệnh, bệnh tâm thần phân liệt được chia ra làm rất nhiều thể như thể hoang tưởng, thể căng trương lực, thể đơn thuần, thể thanh xuân, vân vân. Cái gọi là thể không biệt định chính là chỉ tình trạng người bệnh đã có những biểu hiện đáp ứng đủ tiêu chuẩn để chuẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt, vậy nhưng lại không thể xếp vào bất cứ thể nào nói trên, điều này cũng có nghĩ là rất khó có thể thông qua biểu hiện của người bệnh để tìm ra những nhân tố nội tại và ngoại tại gây bệnh. Do đó, việc chữa trị cho những người bệnh mắc chứng tâm thần phân liệt thể không biệt định – đặc biệt là chữa trị về mặt tâm lý – thông thường đều khá khó khăn.

Tôi thở dài một hơi, sau khi suy nghĩ một chút bèn hỏi: Trước khi phát bệnh, anh ta có triệu chứng gì không? Tâm trạng có xuất hiện những sự xao động lớn không?“

“Có.” Vân Xán hà nói giọng chắc nịch, “Lần đầu tiên anh ấy phát bệnh là vào mùa hè ba năm trước, nhưng trên thực tế từ mùa xuân năm đó, tôi đã cảm thấy anh ấy có vẻ không bình thường rồi. Cứ khi nào có người đến nhà chơi là anh ấy lại lập tức nấp vào phía sau cánh cửa để quan sát, nếu thấy người đó là phụ nữ thì còn đỡ, nhưng nếu là đàn ông thì anh ấy sẽ tỏ ra rất mất tự nhiên. Lần đầu tiên anh ấy phát bệnh chính là vào lúc hai vợ chồng nhà Thụy Cường đến chơi, anh ấy nhìn thấy Thụy Cường thì vội vàng trốn vào phòng trong, Thụy Cường theo vào nói với anh ấy mấy câu, anh ấy liền đá cho Thụy Cường một cái, còn túm tóc cậu ta nữa. Sau đó Thụy Cường chạy ra đến ngoài cửa rồi mà anh ấy còn đuổi theo đánh cậu ta, nói cái gì mà “tao giết chết mày”, “tao đập chết mày”, kể từ đó về sau mọi người hầu như không dám đến nhà tôi chơi nữa.”

”Mẹ mày! Tao phải giết mày?! Mẹ mày! Tao phải giết mày!” Đúng lúc này, từ trong căn phòng ở phía không xa lại một lần nữa vang ra tiếng gào thét của Trương Thụy Lâm.

Dù biết rõ là anh ta lúc này đang bị trói chặt, vậy nhưng tôi vẫn không khỏi có chút thấp thỏm lo âu. Tôi lại trò chuyện với Vân Xán Hà thêm mấy phút nữa, cảm thấy thời cơ đã chín muồi, thế là bèn hỏi: “Cô thử nhớ lại một chút xem, dịp Tết năm 2009, chồng cô có từng làm ra chuyện gì kỳ lạ không? Chẳng hạn như, vào thời điểm đó anh ta có đi gặp người lạ mặt nào không?”

Vân Xán Hà nhớ lại một chút, sau đó bàn cau mày nói: “Có một chuyện này khá kỳ lạ, nhưng đối phương không phải là người lạ mặt. Hồi tháng Giêng năm 2009, mới vừa sang năm mới được mấy ngày thì Thụy Lâm đột nhiên lên thành phố một chuyến, nói là muốn đi thăm Trương Thụy Bảo.” Cô ta trầm ngâm kể: “Trương Thụy Bảo cũng là người của thôn Lập Trương, nhưng quan hệ họ hàng cới nhà chúng tôi đã xa lắm rồi, thậm chí không thể tính là cùng một nhánh nữa. Nhiều năm trước đây anh ta đã giết Trương Thụy Khanh, sau đó thì phải ngồi tù. Thụy Lâm trước đây vốn chẳng thân thiết gì với anh ta lắm, mà anh ta thì đã ngồi tù được bảy, tám năm rồi, trong thời gian đó Thụy Lâm không hề đi thăm anh ta lần nào, thế mà lúc ấy lại đột nhiên nói là muốn đi thăm. Tôi cảm thấy rất bất ngờ, thế là bèn hỏi anh ấy là tại sao lại phải đi, anh ấy bèn đáp lại một câu rằng: Thụy Bảo kêu anh đi chứ sao.”

Tôi ghi câu nói này lại, sau một thoáng suy nghĩ bèn hỏi tiếp: “Thế sau đó thì sao? Khi quay về, chồng cô có nói gì với cô không?”

Vân Xán Hà ngấn ngơ suy nghĩ suốt một hồi lâu, hơi thở vẫn đều đặn, lồng ngực thì liên tục phập phồng một cách rất có tiết tấu. Đột nhiên, cô ta đang hít hơi thì dừng lại mất nửa giây, sau đó còn chưa hít xong đã lại vội vã thở ra, cùng lúc đó, vẻ mặt cô ta tuy không có sự thay đổi gì lớn, thế nhưng bàn tay phải thì lại nhẹ nhàng xoa bóp đầu gối chân phải. Sau đó, cô ta liếc nhfin Trương Chiêm Võ một chút rồi vội vã cúi đầu, thân thể hơi ngả về phía sau, chiếc ghé cũng được nhích về hướng ngược với hướng Trương Chiêm Võ một chút. Cuối cùng, cô ta đan hai tay lại để trước ngực, thấp giọng nói: “Không, anh ấy chẳng nói gì với tôi cả.”

TôI nhanh chóng hiểu ra tâm tư của cô ta: cô ta nhất định là đã nghĩ ra điều gì đó, thế nhưng lại không muốn để Trương Chiêm Võ biết. Thế là tôi bèn nói: “Vậy được rồi, mục đích chủ yếu của tôi hôm nay chỉ là hỏi han một chút để có được một sự hiểu biết bước đầu thôi. Việc trị bệnh này vốn không thể gấp được, hôm nay trạng thái của Thụy Lâm không được tốt, vậy tôi không làm phiền thêm nữa. Sau khi quay về, tôi sẽ tiến hành tổng kết và phân tích các tin tức mà mọi người vừa nói, đợi một thời gian nữa sẽ lại đến dây để làm kiểm tra chi tiết cho Thụy Lâm.”

Hai người cũng không giữ tôi lại. Sau khi trò chuyện khách sáo thêm vài câu, tôi liền nói lời từ biệt rồi cùng Trưong Chiêm Võ rời đi. Khi đi đến cửa thôn, tôi giả bộ để quên điện thoại, rồi liền một mình quay trở lại nhà Trưong Thụy Lâm. Vân Xán Hà vừa giúp tôi tìm điện thoại vừa hỏi tôi bệnh của Trương Thụy Lâm liệu có thể chữa khỏi được không. Tôi lấy điện thoại của mình ra, tỏ vẻ như vừa tìm được, rồi bèn hỏi: Cô thử nhớ lại đi, dịp Tết năm 2009, sau khi từ thành phố quay về, Thụy Lâm đã nói gì với cô vậy?”

Cô ta bất giác sững người ra, muốn nói gì đó mà lại thôi.

”Chuyện này cô hẳn là không tiện nói với người khác.” Tôi nói. “Đặc biêt là những người trong thôn. Tôi nói đúng chứ?“

Cô ta lộ rõ vẻ ngạc nhiên, bật thốt: “Sao anh lại biết?”

Tôi cười, nói: “Tôi vốn Nghịên cứu về tâm lý học mà, người khác nghĩ gì tôi chỉ cần nhìn thoáng qua là biết ngay.”

Khi nói ra những lời này, tôi còn chưa ý thức được rằng mình đã thay đổi rất nhiều sau một thời gian tiếp xúc với Diệp Thu Vi, hoặc cũng có thể nói tôi đã bị cô ta âm thầm cải tạo.

”Thảo nào.” Trong mắt Vân Xán Há lúc này ngợp đầy những tia kính trọng. “Bác sĩ Trương, bệnh của Thụy Lâm thực sự có thể chữa khỏi được ư? Anh tài giỏi như vậy, nhất định là có cách đúng không?”

”Vậy thì còn phải xem cô có chịu phối hợp hay không.”

Tôi nhìn cô ta, Nghịêm túc nói: “Chỉ cần là chuyện có liên quan tới Thụy Lâm, cô nhất định phải nói cho tôi biết. Tôi biết càng tường tận thì khả năng chữa khỏi được cho Thụy Lâm sẽ lại càng lớn.”

Cô ta cắn chặt môi, chậm rãi ngồi xuống ghế, vuốt lại mái tóc của mình một chút, sau một hồi lâu giằng xé mới thấp giọng nói: “Anh ấy ở lại trong thành phố một ngày, hôm quay về thì xách theo một chiếc túi da màu đen, bân trong có đựng hai trăm nghìn tệ tiền mặt.”

Tôi nín thở hỏi: “Là ai đưa cho anh ta vậy?”

“Tôi đã hỏi rồi.” Vân Xán Hà nói. “Nhưng anh ấy không chịu nói nhiều với tôi, chỉ bảo rằng đó là một người rất ghê gớm.”

“Một người rất ghê gớm?” Tôi lại hỏi. “Thế anh ta có nói cho cô biết tại sao người đó lại đưa tiền cho anh ta không?”

“Anh ấy nói là anh ấy đã làm việc cho người đó.”

”Việc gì vậy?”

Vân Xán Hà cắn chặt môi, hạ thấp giọng nói: “Anh ấy không nói rõ, nhưng về sau tôi đã dần dần hiểu ra. Người đó đã nói với anh ấy mấy lời, bảo anh ấy vào trong trại giam nói lại cho Trương Thụy Bảo nghe. Chắc anh còn chưa biết, anh ấy mới đi thăm Trương Thụy Bảo được mấy ngày thì Trương Thụy Bảo đã chết trong trại giam. Về sau, có một lần Thụy Lâm uống rượu xong liền nói với tôi: “Xán Hà, là anh hại chết Trương Thụy Bảo, là anh gián tiếp giết chết anh ta.” Có điều, nguồn cơn cụ thể trong chuyện này thì tôi cũng không rõ lắm...” Cô ta nhíu chặt đôi mày lộ rõ vẻ buồn bã.“Bác sĩ, chuyện này có liên quan gì tới căn bệnh của anh ấy không?”

“Khả năng lớn là có.” Tôi nói. “Hơn nữa, cho dù không liên quan gì thì cô nói ra được cũng là chuyện tốt, bằng không cứ kìm nén mãi thì cô rất có thể cũng sẽ mắc bệnh giống như chồng cô đấy.”

Cô ta gạt nước mắt nói: “Chuyện này anh nhất định đừng nói lại với người khác đấy, mọi người trong thôn sớm đã hoài Nghị khoản tiền dùng để đấu thầu ao cá của nhà chúng tôi có nguồn gốc bất chính rồi. Nếu để người nhà của Trương Thụy Bảo biết được chuyện này, họ nhất định sẽ không chịu bỏ qua đâu. Ông tư vốn đi lại thân thiết với bọn họ, vậy nên vừa rồi tôi mới không dám nói.”

Tôi khẽ gật đầu. “Chuyện này thì cô cứ việc yên tâm, tôi hỏi nhiều như vậy cũng chỉ vì một mục đích, đó là chữa khỏi bệnh cho Thụy Lâm. Mỗi một chi tiết nhỏ có liên quan đến anh ta đều rất quan trọng. Cô hãy thử nghĩ kĩ lại xem, cô có bỏ sót chi tiết nào trong chuyện xảy ra hồi đầu năm 2009 đó không? Ví dụ như anh ta từng mang thứ gì đó về từ trong thành phố, hoặc còn nói với cô một số lời khác nữa chẳng hạn.”

Cô ta trầm ngâm suy nghĩ, có lúc thì lắc đầu, có lúc thì lại gật đầu.

Thấy cô ta như vậy, tôi suy nghĩ một chút rồi bèn hỏi: “Cô nói là Thụy Lâm đã ở lại trong thành phố một đêm, vậy cô có biết anh ta ở đâu không?”

Nghe thấy câu này, hai mắt cô ta chợt sáng lên, rồi bèn đứng dậy đi vào phòng trong, chừng hai phút sau thì trở ra phòng khách, đưa cho tôi một cuốn sách mỏng, nói: “Anh ấy cũng chẳng ra gì, chưa từng được ở khách san cao cấp bao giờ, lần đó sau khi quay về thì mang theo một cuốn sách giới thiệu về khách sạn mà mình vừa mới ở. Còn nhớ hồi ấy anh ấy đã khoe khoang trong thôn suốt mày ngày liền, về sau thì tôi liền cất thứ này đi.”

Tôi nhận lấy cuốn sách mỏng đó, thấy đó là một cuốn sách giới thiệu sơ lược về một khách sạn năm sao ở thành phố B. Tôi mở ra xem một chút, rồi tại trang thứ hai tính từ cuối trở về trước, tôi nhìn thấy một dãy số được ghi lại bằng bút bi ở một chỗ bỏ trống: 1727.

Tôi hỏi Vân Xán Hà: “Con số này mang ý nghĩa gì vậy? Thụy Lâm có nói với cô không?”

”Có chứ.” Cô la khẽ gật đầu. “Đều là để khoe khoang cả ấy mà. Anh ấy nói đây là số phòng mà anh ấy đã ở.”

Trên đường trở về thành phố B, tôi cẩn thận sắp xếp lại toàn bộ tiền nhân hậu quả trong vụ án mạng xảy ra tai trại giam hồi đầu năm 2009 đó.

Tháng 9 năm 2008, sau một thời gian đấu đá xung quanh vu án của Từ Nghị Giang, cuối cùng tổ chức thần bí đã giành được phần thắng và Từ Nghị Giang đă giữ được tính mạng, đến tháng Mười thì được đưa đến trại giam số 1 của tỉnh. Sau khi Từ Nghị Giang vào trại, tổ chức thần bí lại tiếp tục có hành động hòng giúp ông ta được giảm án. Trần Phú Lập từng nói, ngay đến Trưởng trại giam cũng tỏ ra hết sức xem trọng chuyện giảm án cho Từ Nghị Giang.

Dựa vào những tin tức này thì có thể đưa ra được ba kết luận: Thứ nhất, tổ chức thần bí đứng sau lưng Từ Nghị Giang quả thực có dính dáng đến nhà nước, hơn nữa còn có quyền lực cực kỳ to lớn; thứ hai, Từ Nghị Giang là một thành viên vô cùng quan trọng trong tổ chức này; thứ ba, trong cuộc đấu đá giữa tổ chức thần bí và Tập đoàn A, lãnh đạo trại giam đứng về phía tố chức thần bí.

Mục đích của Tâp đoàn A là lấy đi tính mạng của Từ Nghị Giang, do đó sau khi phải nhận thất bại trong giai đoạn xét xử tuyên án, bọn họ tất nhiên sẽ tiếp tục nghĩ cách. Cách đơn giản nhất là mua chuộc cán bộ trại giam hoặc là phạm nhân trong trại giam, nhờ bọn họ trực tiếp trừ khử Từ Nghị Giang. Nhưng trong trường hợp này, thứ nhất là lãnh đạo trại giam không đứng về phía Tập đoàn A, thứ hai là cách làm này tuy đơn giản nhưng rất dễ để lại dấu vết và sơ hở cho người khác nắm được, do đó cách này hiển nhiên là không khả thi.

Cùng với đó, bởi vì trong trại giam có các biện pháp cách ly cực kỳ Nghịêm ngặt, do đó X muốn tiếp xúc với các cán bộ trong trại giam để rồi tiến hành tác dộng cũng không phài là việc dễ.

Cũng bới nguyên nhân này, Tập đoàn A đã phải không ngừng tìm kiếm cơ hội, Từ Nghị Giang thì vì thế mà được sống yên ổn trong trại giam hơn ba tháng. Đầu năm 2009, sau một thời gian dài quan sát và trù tính, Tập đoàn A rốt cuộc đã nghĩ ra một kế hoạch hoàn hảo, đó là dùng tiền bạc dụ dỗ Trương Thụy Lâm, lại để X ra mặt dạy cho anh ta một số phương pháp ám thị, sau đó kêu anh ta dùng danh nghĩa đi thăm người thân để vào trại giam tiếp xúc với Trương Thụy Bảo và tiến hành tác động lên Trương Thụy Bảo, khích Trương Thụy Bảo ra tay trừ khử Từ Nghị Giang.

Vậy, hành vi tự sát của Trương Thụy Bảo sau khi giết chết Từ Nghị Giang phải chăng cũng nằm trong dự tính của X? Nếu đúng là như vậy thì X quả thực quá ư đáng sợ, dù dựa vào mấy lời nói được truyền đạt qua miệng của người khác mà có thể trừ khử dược hai con người. Có lẽ, sức mạnh tinh thần của X còn ghê gớm hơn cả Diệp Thu Vi nữa.

Tạm gác những chuyện này qua một bên không xét tới. Nếu sự việc quả thực đúng như là phán đoán của tôi, vậy Trương Thụy Lâm chỉ là một người nông dân bình thường, chưa từng được trải qua một sự huấn luyện nào về mặt tâm lý, X dựa vào đâu để xác định anh la có thể thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ?

Tôi liếc nhìn cuốn sách mỏng mà mình để trên ghế phụ kia, rất hiển nhiên, một người nông dân thậm chí chẳng mấy khi lên thánh phố như Trương Thụy Lâm ắt chẳng thể nào chủ động vào ở trong một khách sạn năm sao cả. Nhất định là Tập đoàn A đã sắp xếp việc này, đồng thời tiến hành đào tạo Trương Thụy Lâm một cách thật nghiêm ngặt trong buổi tối hôm anh ta ở lại khách sạn, qua đó đảm bảo cho sự thành công của kế hoạch.

Cứ dựa theo dòng suy nghĩ này mà tiếp tục suy đoán: Một người co bộ dạng như nông dân vào làm thủ tục lưu trú ở quầy lễ tân của một khách sạn năm sao, hơn nữa còn không hiểu gì về các quy trình làm thủ tục, việc này nhất định sẽ thu hút sự chú ý của rất nhiều người, mà như thế thì hiển nhiên là không phù hợp với tác phong làm việc cẩn thận và kín kẽ của Tập đoàn A. Do đó, thủ tục lưu trú ở khách sạn nhất định là đã được làm sẵn từ trước, mà họ tên của người đăng ký rốt cuộc sẽ là gì đây? Tuy rất có thể là Trương Thụy Lâm, song cũng có thể là không phải. Chỉ cần là một khả năng có thể tồn tại, vậy cũng đáng để cho tôi đi điều tra rồi.

Sau khi sắp xếp xong những suy nghĩ này, tôi rốt cuộc đã thoát ra khỏi con đường nhựa đầy những ổ gà của xã D, tới được con đường lớn bằng phẳng chạy thẳng đến thành phố B. Tôi gọi cho Trần Phú Lập, từ đó biết được số chứng minh thư của Trương Thụy Lâm cùng với thời gian cụ thể mà anh ta vào trại giam thăm Trương Thụy Bảo, đó là ngày 8 tháng 2 năm 2009, một ngày trước khi Tạ Bác Vân chết vì tai nạn xe.

Vừa mới về đến thành phố B thì Phó Hữu Quang đã gọi cho tôi, nói là đã đặt sẵn chỗ dùng bữa tối rồi, tôi cứ qua thẳng đó là được. Tối đó anh ta tỏ ra rất hưng phấn, còn mang theo hai chai rượu ngon, nói là muốn xả láng với tôi một bữa, tôi hết cách chỉ đành chiều lòng anh ta.

Ban đầu, chủ đề câu chuyện của chúng tôi chỉ xoay quanh mảng nhân vật của Nguyệt san Phổ Pháp. Trong giới báo giấy pháp luật, Nguyệt san Phổ Pháp có thể nói là khá nổi tiếng, ngoài các cơ quan công an, kiểm sát và tư pháp ra, rất nhiều cơ quan khác vẫn thường đặt mua hàng tháng.

Do đó, mảng nhân vật của báo có tác dụng không nhỏ trong việc nâng cao thanh danh cá nhân. Lãnh dao rất coi trọng tôi, mỗi lần chọn người đều nghiêm túc cân nhắc ý kiến của tôi, cũng vì nguyên nhân này nên tôi mới có cơ hội làm quen với các quan chức lớn nhỏ, thậm chí là nhận đưọc sự tôn trọng của bọn họ.

Phó Hữu Quang làm Trưởng phân khu ở đây cũng đã được sáu, bảy năm rồi, chưa từng có chút biến động nào. Anh ta rất biết chi tiền, nhưng người biết chi tiền không phải chỉ có một mình anh ta, hơn nữa có lúc tiền không phải là yếu tố then chốn. Do đó, anh ta cần có một cơ hội để khiến cấp trên nhìn thấy mình, mà cơ hội này hiện đang nằm trong tay tôi.

Sau khi uống được hơn nửa chai rượu, anh ta vỗ vai tôi mấy cái, buông lời than thở: “Tiểu Trương này, chú nói xem cái xã hội này rốt cuộc là như thế nào vậy chứ? Muốn biếu tiền mà cũng phải xếp hàng! Đã thế xếp hàng mất mấy năm rồi mà vẫn chưa tới lượt anh.”

Tôi cười, nói: “Chuyện này không giống như ra chợ mua thịt mua rau, không phải cứ có tiền là được, anh bây giờ đang thiếu một cơ hội.”

Anh ta ngẩng đầu cười vang, chỉ tay vào tôi, nói: “Cho nên chúng ta cần phải giúp đỡ lẫn nhau.”

Tôi kính anh ta một ly rượu, lại ăn một miếng thức ăn, sau đó mới nói: “Hiện giờ, em có chuyện này đang muốn làm phiền anh đây.”

”Đừng nói là làm phiền, nghe khách sáo lắm.” Anh ta xua tay, nói: “Chú có chuyện gì thì cứ thoải mái nói ra đi, anh tuy chỉ là một con tép riu, song ở thành phố B này thì vẫn tạm coi là được việc.''

Tôi hỏi:“Anh có biết Khách sạn Quốc tế X không? Em muốn tra cứu thông tin đăng ký lưu trú của một người từ ba năm trước, liệu có thể tra ra đựoc không?”

Anh ta tỏ vẻ cảnh giác hỏi lại: “Chú định điều tra chuyện gì vậy?”

Tôi giả bộ do dự một chút, sau đó còn chửi tục mấy câu, cuối cùng mới nói:“Việc này nói ra thì quả thực có hơi mất mặt. Khi đó vợ em từng một mình đến thành phố B một chuyến, còn ở trong Khách sạn Quốc tế X. Em ngờ rằng cô ấy đã đi hẹn hò với ai đó, cho nên sớm đã muốn điều tra chuyện này rồi.”

Phó Hữu Quang cười ha hả, sau khi vỗ mạnh bàn một cái liền lấy điện thoại ra bấm số gọi cho ai đó. Sau khi người ở đầu bên kia nhấc máy, anh ta liền nói: “Chào Giám đốc Vương, là tôi, Hữu Quang dây. Phải rồi, bây giờ có tiện không? Chỗ tôi bây giờ có một anh bạn từ vùng khác đến, là trinh sát hình sự. Cậu ấy muốn lấy một ít thông tin từ chỗ khách sạn của các anh, ừm, được...” Nói tới đây, anh ta liền bịt điện thoại lại, quay sang hỏi tôi: “Tiểu Trương, chú muốn tra cứu cái gì vậy?”

Tôi nói: “Thông tin về người đăng ký lưu trú tại phòng 1727, ngày 7 tháng 2 năm 2009.” Sau đó lại bổ sung thêm. “Nhân tiện hãy kiểm tra luôn cả thông tin trong thời gian trước và sau đó một tuần đi.”

Phó Hữu Quang truyền đạt lại lời của tôi, rất nhanh sau đó đã nhíu chặt đôi mày, nói: “Được, được, tôi biết rồi, anh không cần phải giải thích nữa, tôi sẽ tự nghĩ cách khác. Chuyện này anh nhớ phải giữ bí mật đấy, ừm.” Sau khi gác máy, anh ta quay qua nhìn tôi vẻ nghi hoặc. “Tiểu Trương, thông tin đăng ký ở phòng 1727 và các phòng xung quanh trong thời gian mà chú nói đã thất lạc hết rồi, chú thực sự đang điều tra vợ mình đấy chứ?”

Tôi vội vàng chuyển chủ để: “Đó là khách sạn năm sao cơ mà, thông tin đăng ký làm sao lại bị thất lạc được?”

Anh ta nhìn tôi vẻ hết cách. “Chuyện này thì chú đừng hỏi. Thế này đi, anh cho chú một số điện thoại, nếu có thời gian thì chú hãy liên lạc thử xem, các thông tin lưu trữ bị thất lạc có lẽ chỗ anh ta có đấy. Có điều, chú nhớ là đừng nhấc gì đến anh đấy, anh với anh ta cũng chẳng quen thân lắm. Anh chỉ có thể giúp chú được tới đây thôi.”

Thấy anh ta như vậy, tôi cũng không tiện truy hỏi gì thêm, chỉ cẩn thận ghi lại số điện thoại mà anh ta cung cấp, sau đó lại nói qua chủ đề khác. Khi chai rượu thứ hai chỉ còn lại một nửa, anh ta có vẻ đã khá say rồi. Tôi một mặt khuyên anh ta đừng nên uống thêm nữa, một mặt mượn hơi rượu hỏi: “Anh này, nghe nói tay Từ Nghị Giang đó có lai lịch rất ghê gớm phải không?”

Anh ta nheo mắt hỏi lại: “Bạn chú không phải là có quen gã đó sao?”

Tôi nói: “Nói là bạn em vậy thôi, thực chất đó là một lãnh đạo ở tỉnh. Trước đây ông ta dường như có một thời gian thường hay qua lại với Từ Nghị Giang, thế nên mới nhờ em hỏi. Còn về bản thân em, em thực sự chẳng biết chút nào về Từ Nghị Giang cả.”

”Ừm.” Anh ta xem chừng đã say thật rồi nên nói năng cũng không còn quá chú ý nữa. Sau khi châm một điếu thuốc liền nói: “Gã Từ Nghị Giang này rốt cuộc là ai thì anh cũng không rõ lắm, nhưng anh có thể nói cho chú biết một chuyện. Trong một cuộc họp hồi cuối năm 2008, Mã Lão Tam (biệt hiệu của Trưởng trại giam khi đó) đã giữ anh lại, dặn anh hãy lưu tâm đến Từ Nghị Giang nhiều một chút, nếu có cơ hội giảm án thì hãy giữ lại cho người này, còn về bên phía Cục Quản lý trại giam và tòa án thì anh không cần phải lo. Khi đó anh liền hỏi: “Gã Từ Nghị Giang nay rốt cuộc là ai vậy?“.” Anh ta rít một hơi thuốc, sau đó nhăn răng nói tiếp: “Lão Tam liền nói: “Là người mà hai chúng ta đều không dây vào được. Chú nhớ để mắt tới người này một chút, bảo người quản lý trực tiếp bảo vệ anh ta cho cẩn thận, nhất định đừng để anh ta xảy ra chuyện gì đấy!”.”

Tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. Mã Lão Tam tên thật là Mã Tam Quân, từng làm Trưởng trại giam ở trại giam số 1 của tỉnh suốt mười mấy năm liền. Nghe ý của Phó Hữu Quang thì Mã Tam Quân sớm đã biết rằng tng có thể sẽ xảy ra chuyện, điều này đồng nghĩa với việc ông ta đã biết được thân phận của tng, thậm chí còn biết cả nguyên nhân khiến tng phải vào tù, mà chưa biết chừng ông ta còn là một thành viên của tổ chức thần bí kia nữa.

Có điều, một năm trước, Mã Tam Quân đã được điều chuyển lên làm việc ở Sở Tư pháp, bây giờ tiếp xúc với ông ta chỉ là đã chẳng còn được dễ dàng như ngày xưa nữa rồi.

Phó Hữu Quang vỗ bán một cái, ủ rũ nói: “Anh nghĩ chỗ đó là trại giam, có thể xảy ra chuyện gì được chứ? Cùng lắm cũng chỉ là tự sát hoặc đánh nhau với các phạm nhân khác mà thôi. Anh đã cất công đi tìm một bác sĩ tâm lý tốt nhất tới, nhờ theo dõi tình trạng của gã thật sát sao, còn sắp xếp cho gã đến chỗ của Trần Phú Lập nữa. Mẹ nó, không ngờ đến cuối cùng vẫn xảy ra chuyện, chú thử nói xem, tại sao anh lại xui xẻo như vậy chứ?” Nói xong, anh ta rít một hơi thuốc thật dài.

Tối đó, tôi gọi một người lái xe thuê đến nhờ chở Phó Hữu Quang về nhà, mình thì đi tìm một khách sạn vào nghỉ. Tuy tôi đã cố hết sức kiềm chế, nhưng rốt cuộc vẫn uống hơi nhiều, vừa mới bước vào phòng liền lập tức đổ gục xuống giường và ngủ say. Tôi đã nằm mơ, trong mơ tôi nhìn thấy một người đàn ông đang đứng ở cửa phòng vệ sinh, nhìn tôi bằng ánh mắt hết sức lạnh lùng. Tôi mơ mơ màng màng trở dậy, hỏi anh ta là ai. Anh ta ban đầu thì nói mình là Từ Nghị Giang, về sau lại nói mình là Mã Tam Quân, kế đó còn nói mình la Trần Ngọc Long (một người bạn mà tôi đã nhiều năm không gặp), cuối cùng thì lạnh lùng nói ra mấy chữ: “Tôi chính là X.” Tôi sững người, sau đó chợt nghe thấy một giọng nữ quen thuộc: “Anh Trương, anh càng ngày càng giống tôi rồi đấy.” Tôi cả kinh, bèn ngẩng lên nhìn, bỗng phát hiện mình lại đang ở trong phòng bệnh của Diệp Thu Vi. Diệp Thu Vi vẫn ngồi ở phía bên kia của bức tường thủy tinh, mắt nhìn tôi hờ hững, bên khóe miệng thoáng qua một nụ cười quái dị.

Tôi giật mình bừng tỉnh, cứ thế lăn lông lốc từ trên giường xuống đất. Tôi lồm cồm bò dậy, đầu óc vẫn rất nặng nề, cổ họng thì khô khốc, vô cùng khó chịu. Tôi nhìn thấy trên bàn trà có mấy gói trà túi lọc, bèn cầm lấy siêu điện mang vào trong nhà vệ sinh lấy nước. Khi đi tới trước bồn rửa mặt, tôi bỗng thấy bụng mình nhộn nhạo một hồi, rồi liền nôn thốc tháo toàn bộ những thứ đã ăn hồi tối ra. Đến khi nôn xong, tôi vừa lấy nước vừa soi gương ở ngay trên bồn rửa mặt, bất giác nhớ đến giấc mơ vừa rồi, thế là lại nôn thêm lần nữa, đương nhiên lần này thì chỉ là nôn kha.

Sau khi uống mấy ngụm trà nóng, thân thể tôi thoải mái hơn phần nào. Tôi mở đèn lên, ngó nhìn đồng hồ, thấy lúc này vừa khéo là một giờ ba mươi phút sáng. Tôi lấy điện thoại ra, bỗng lại nhìn thấy số điện thoại mà Phó Hữu Quang đã cung cấp cho mình hồi tối. Sau mấy phen do dự, tôi thử gọi vào số điện thoại đó để xem thế nào.

Đối phương rất nhanh đã bắt máy, song phía bên đó có vẻ rất ồn ào, một giọng nam ồm ồm vang lên: “Này, làm cái gì đó? Đánh cho đàng hoàng vào chứ! Tôi sắp ù rồi đây! Hầy, các cậu đợi một lát!” Sau đó, những tiếng ồn ào xung quanh nhanh chóng tắt hẳn, rồi người đó hỏi: “Có chuyện gì không?”

Tôi dè dặt nói: “Tôi muốn tra cứu thông tin đăng ký lưu trú ở Khách sạn Quốc tế X từ ba năm trước.“

Người đó cất giọng bình thản: “Ồ, chào anh. Có số chứng minh thư thì năm trăm, chỉ có tên không thì một nghìn, đây là đơn giá cho một người trong một lần, xin hỏi anh muốn tra cứu thông tin gì?”

Tôi khẽ cất tiếng thở dài, cuối cùng quyết định phải thử một phen, nói: “Thông tin đăng ký lưu trú của phòng 1727 vào ngày 7 tháng 2 năm 2009.”

Đối phương do dự một lát rồi mới nói: “Không có tên cũng không có số chứng minh thư, vậy thì cần một nghìn năm trăm, tiền trao cháo múc, nếu anh đồng ý thì giờ tôi sẽ gửi số thẻ ngân hàng của tôi cho anh. Trong vòng hai phút sau khi anh chuyển khoản, tôi sẽ gửi thông tin anh cần đến số điện thoại này của anh.”

Tôi nói: “Tôi có thể tin anh được không? Thông tin khách sạn đã làm thất lạc mà anh cũng có thể tra ra được ư?”

Đối phương cười thân thiện, nói: “Đương nhiên là có thể rồi. Trong khắp thành phố B này, anh không thể tìm ra người thứ hai nào chuyên nghiệp như tôi được đâu.”

Tôi chẳng có tâm trạng đâu mà để ý tới những chỗ sơ hở trong lời nói của đối phương, nhanh chóng ra ngoài tìm cây ATM để chuyển khoản. Chừng một phút sau, người đó gửi cho tôi một tin nhắn:

Khách sạn Quốc tế X, ngày 7 tháng 2 năm 2009, phòng 1727, số chứng minh thư đăng ký: 410****************, họ tên người đăng ký: Trần Ngọc Long.

Tôi tức khắc ngây người ra.

Năm 2001, trong quá trình xử lý việc gia đình, tôi quen với một luật sư trẻ tuổi tên là Trần Ngọc Long. Chúng tôi tuổi tác tương đương, tính cách tương đồng, do đó rất nhanh đã trở thành những người bạn thân. Năm 2003, cậy ta đi nơi khác để phát triển sự nghiệp, sự qua lại giữa chúng tôi cũng theo đó mà ngày một ít dần, đến dịp Tết năm 2005 thì hai bên chỉ còn gửi tin nhắn chúc Tết đến nhau, sau đó thì không còn tin tức gì của nhau nữa.

Ngày 7 tháng 2 năm 2009, người đăng ký lưu trú ở phòng 1727 của khách sạn Quốc tế X cũng tên là Trần Ngọc Long, đây liệu chăng là một sự trùng hợp? Dựa theo thông tin trên số chứng minh thư thì người tên Trần Ngọc Long này cùng quê với tôi, còn ngang tuổi với tôi nữa(*), ít nhất thì về hai điểm này anh ta cũng hoàn toàn giống hệt người bạn luật sư kia của tôi.

(*). Tại Trung Quốc, số chứng minh thư tổng cộng có mười tám chữ số, trong đó sáu chữ số đầu là mã vùng, tám chữ số tiếp theo là năm, tháng, ngày sinh, (người Trung Quốc nói thời gian theo thứ tự năm, tháng, ngày), ba chữ số tiếp theo là số thứ tự, trong đó riêng chữ số thứ mười bảy thì số lẻ được cấp cho nam, số chẵn được cấp cho nữ, còn chữ số cuối cùng thì là mã kiểm tra. Do đó, nhìn vào số chứng minh thư người ta có thể biết được người chủ sở hữu của nó nguyên quán ở đâu, tuổi tác thế nào, giới tính ra sao. – ND.

Tôi bất giác rùng mình nghĩ bụng: Nếu hai người này thực sự là một, vậy thì phải chăng tôi sớm đã có dính dáng đến sự kiện M rồi?

Mà có một việc khác còn khiến tôi cảm thấy khó hiểu hơn, đó là tại sao vừa rồi khi nằm mơ, tôi lại nghe thấy cái tên Trần Ngọc Long này chứ? Chẳng lẽ trong quá trình điều tra vừa rồi có người đã tiến hành ám thị tôi bằng một biện pháp nào đó? Hoặc giả xuất phát từ một mục đích nào đó mà tôi còn chưa hiểu, người bán tin tức kia đã cố ý nói cho tôi biết cái tên này hòng làm rối loạn cuộc điều tra của tôi?

Tôi cố giữ lòng bình tĩnh, gửi tin nhắn hỏi lại: “Anh chắc chắn chứ? Thực sự là người này ư?”

Đối phương nhanh chóng trả lời: “Đảm bào một trăm phần trăm, sai một đền mười.”

Tôi vẫn còn chưa yên tâm, thế là bèn gọi điện thoại qua bên đó để xác nhận lại, sau đó từ trong giọng điệu và lối dùng từ của đối phưong đã xác định được rằng anh ta không hề lừa gạt mình. Cuối cùng, tôi hỏi anh ta là có thể giúp đỡ tra ra ảnh chứng minh thư của người tên Trần Ngọc Long này không. Anh ta bật cười, nói: “Anh đúng là dân ngoại đạo. Lần này thì tôi không lấy tiền của anh nữa, cho anh một trang web này, anh tự mình lên đó là tự khắc sẽ tìm được thứ anh cần.”

Một phút sau, tôi vào trang web mà anh ta đã cung cấp, chỉ bỏ ra mười lăm nhân dân tệ, rốt cuộc đã tra được ảnh chứng minh thư tương ứng với cái tên Trần Ngọc Long cùng số chứng minh thư kia. Tòi vừa nhìn đã nhận ra ngay, người trên ảnh chính là anh bạn luật sư mà tôi đã nhiều năm không gặp.

Tôi kiểm tra kĩ lại danh bạ điện thoại, thế nhưng chẳng thể nào tìm thấy cái tên Trần Ngọc Long đâu. Ngẫm lại cũng đúng thôi, chúng tôi đã gần tám năm không liên lạc với nhau rồi, mà trong tám năm này, tôi đã thay điện thoại cùng số điện thoại không biết bao nhiêu lần mà kể, làm sao mà còn giữ số điện thoại của cậu ta được. Một người bạn mà đã gần tám năm không gặp rồi, bây giờ bỗng dưng lại xuất hiện trong tầm mắt của tôi theo một phương thức như thế, điều này rốt cuộc mang ý nghĩa gì đây?

Các dòng suy nghĩ đều đã trở nên tắc nghẽn. Tôi nằm trên giường, cảm thấy đầu óc quay cuồng.

Sáng sớm ngày hôm sau, trên đường trở về, tôi liên lạc với văn phòng luật sư mà Trần Ngọc Long từng làm việc. Người phụ trách ở đó nói với tôi, không đầy hai năm sau khi Trần Ngọc Long rời đi, bọn họ đã hoàn toàn mất liên lạc với cậu ta. Anh ta chỉ biết rằng Trần Ngọc Long đã đến thành phố S (một thành phố trực thuộc của tỉnh khác), từng làm việc một năm ở một văn phòng luật sư mà trong tên có hai chữ “Khải Hàng”. Sau khi gác máy, tôi dùng điện thoại lên mạng tra cứu một chút, phát hiện ở thành phố S có ít nhất hai mươi mấy văn phòng Iuật sư mà trong tên có hai chữ “Khải Hàng”.

Muốn tìm được Trần Ngọc Long, e rằng tôi phải tự mình đến thành phố S một chuyến.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 10: Sự kiện giết người qua những giấc mơ (1)


Type & Beta: Mều

Freud chỉ coi giấc mơ là một hiện tượng tâm lý, nhưng tôi thì lại cho rằng giấc mơ là một thứ công cụ tâm lý có thể khống chế. Thông qua ám thị có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động tâm lý của một người, từ đó can dự vào giấc mơ của người đó.

Khi tôi rời khỏi địa phận thành phố B thì đã là tám rưỡi, tôi quyết định tạm thời gác chuyện Trần Ngọc Long qua một bên để nghiêm túc chuẩn bị cho lần gặp mặt thứ bảy với Diệp Thu Vi. Khi chờ đèn đỏ ở một ngã tư đường, tôi mở tập tài liệu về những vụ chết người kia ra đến trang thứ năm. Người chết tiếp theo tên là Hà Ngọc Bân, thông tin về anh ta được ghi lại như thế này:

Hà Ngọc Bân, nam, sinh tháng 6 năm 1974, khi còn sống từng là phó giám đốc bộ phận Thị trường của Công ty Dược phẩm E. Ngày 18 tháng 8 năm 2009, Hà Ngọc Bân bị bắn chết trong một phân xưởng sản xuất của công ty. Hung thủ là cấp trên của anh ta – Giám đốc bộ phận Thị trường Triệu Hải Thời, hung khí là một khẩu súng săn hai nòng không nhãn mác. Ngày thứ ba sau khi xảy ra vụ án, Triệu Hải Thời bị cảnh sát bắt giữ. Tháng 9 năm 2009, Triệu Hải Thời bị tòa tuyên phạt án tử hình về các tội tàng trữ vũ khí, đạn dược trái phép và cố ý giết người, đồng thời bị tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời.

Tôi đặt tập tài liệu xuống, lẳng lặng hít sâu một hơi.

Trần Hy từng ghi lại trong sổ tay rằng nguời đại diện cho Công ty E đi tiếp xúc và đàm phán với Đinh Tuấn Văn có tên là Triệu Hải Thời, nếu không có gì bất ngờ người này có lẽ chính là hung thủ đã giết Hà Ngọc Bân. Sau khi Vương Vĩ chết, manh mối duy nhất còn lại trong tay Diệp Thu Vi chính là Triệu Hải Thời, cứ theo đó mà xét, cô ta rất có thể đã thông qua Triệu Hải Thời để biết tới Hà Ngọc Bân, mà việc dùng phưong pháp ám thị để khiến Triệu Hải Thời giết chết Hà Ngọc Bân hiển nhiên chính là một kế hoạch một mũi tên trúng hai đích.

Lúc tám giờ năm mươi phút, tôi rốt cuộc đã tới được Bệnh viện Tâm thần thành phố. Lão Ngô bảo tôi trực tiếp lái xe vào khu bốn. Khi dừng xe lại, tôi thấy các bênh nhân khác của khu bốn vừa mới kết thúc hoạt động ngoài trời, đang chậm rãi trở về phòng bệnh dưới sự hộ tống của hai mươi mấy nhân viên bảo vệ và các y bác sĩ.

Có hai bệnh nhân nam đang cúi đầu bước đi, bỗng dưng lại đưa mắt nhìn nhau, thế rồi đồng thời để lộ ra vẻ hung tợn, vừa ra sức mắng đối phương vừa không ngừng giãy giụa. Các nhân viên bảo vệ vội vàng giữ chặt dây thừng, nhưng hai bệnh nhân đó quá khỏe, còn liên tục khua khoắng chân tay, thành ra chỉ mới thoáng đó đã có ba nhân viên bảo vệ và một bác sĩ bị xô ngã. Đúng lúc chuẩn bị thoát ra được, hai bệnh nhân đó bỗng không hẹn mà cùng dừng lại, ngẩn ngơ dõi nhìn một bóng dáng gầy yếu ở chỗ cách đó không xa.

Dưới sự khống chế của Thang Kiệt Siêu, Diệp Thu Vi châm rãi bước về phía tôi. Các bệnh nhân khác đều bị trói rất chặt, riêng cô ta thì chỉ bị trói hai tay. Cô ta giơ hai tay lên, mắt nhìn thẳng vào hai bệnh nhân nam đó, sau khi chỉnh lại gọng kính một chút liền chỉ tay vào huyệt thái dương của mình. Hai bệnh nhân nam đó hơi nun rảy một chút, lại thở dốc mấy hơi, rốt cuộc đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại.

Kế đó Diệp Thu Vi theo Thang Kiệt Siêu đi tới trước mặt tôi, nhìn tôi bằng ánh mắt hết sức hờ hững. Lão Ngô khẽ vỗ vai tôi, nói: “Lão Trương, cậu hãy đi dạo cùng cô Diệp đi. Dứt lời liền ngó qua phía Thang Kiệt Siêu. Thang Kiệt Siêu bình tĩnh đưa sợi dây thừng đang trói Diệp Thu Vi cho tôi, nhìn tình cảnh này thực chẳng khác nào tôi vừa mới ra chợ mua một con dê từ chỗ anh ta cả.

Tôi cẩn thận cầm lấy dây thừng, cùng Diệp Thu Vi đi về phía mé đông của khu bốn - nơi tọa lạc của khoảnh rừng hòe vẫn luôn nằm lặng lẽ bên ngoài cửa sổ phòng bệnh của cô ta. Tôi ngoảnh đầu nhìn, thấy lão Ngô và những người khác đã khuất bóng, thế là bèn đề nghị cởi dây trói ra cho cô ta, nhưng lại bị cô ta từ chối.

“Cứ để thế đi.” Cô ta nói. “Như vậy chúng ta sẽ luôn có thể giữ một khoảng cách với nhau.”

Tôi khẽ gât đầu. Dù sao đây cũng là lần đầu tiên tôi ở bên Diệp Thu Vi mà không có thứ gì ngăn cách, thế nên không khỏi cảm thấy có chút căng thẳng.

Hôm nay cô ta mặc một chiếc áo liền váy màu xanh lục, tà váy buông tới giữa bắp chân, thỉnh thoảng có cơn gió nhẹ thổi tới là lại tung bay lất phất quá đầu gối. Cô ta thấp hơn tôi nửa cái đầu, chiều cao áng chừng vào khoảng một mét sáu mươi bảy. Khi không bị ngăn cách bởi bức tường thủy tinh, ánh mắt của cô ta có vẻ sắc bén hơn hẳn, thậm chí còn hơi lạnh lùng. Cho dù bây giờ đã là tháng Bảy, trời rất nóng, nhưng khi đi bên cạnh cô ta, tôi vẫn cảm nhận được một sự giá lanh tới từ nơi đáy lòng.

Đi tới bên dưới một gốc hòe lớn, cô ta dừng chân lại, nói thẳng vào chủ đề chính: “Vương Vĩ tự sát, Chu Vân mất tích, nhân vật quan trọng tiếp theo chính là Triệu Hải Thời.”

Tôi vội vàng lấy bút ghi âm ra, cẩn thận cài vào cổ áo, sau đó mới khẽ gật đầu, nói: “Triệu Hải Thời là người mà Công ty E phái đi đàm phán với Đinh Tuân Văn. Người chết thứ năm tên là Hà Ngọc Bân, cô đã lợi dụng chính Triệu Hải Thời để giết chết anh ta.”

Cô ta nói giọng không nhanh không chậm: “Sau khi Vương Vĩ tự sát, việc an táng được mấy người họ hàng giúp đỡ lo liệu, có điều nghi thức thì hết sức sơ sài, sau khi rời khỏi bệnh viện liền được chôn luôn. Tôi cũng đã tới tận nơi khi anh ta được chôn cất, nhưng khung cảnh ở đó rất vắng lặng, ngay cả vợ cũ và con gái của anh ta cũng chẳng buồn đến, cho nên tôi tất nhiên không thể thông qua cái chết của anh ta để phát hiện ra những nhân vật khả nghi mới. Ngoài ra, ngay sau đó nhà của anh ta đã được người thân treo biển rao bán, nhưng sau khi tiến hành điều tra, tôi vẫn không phát hiện ra manh mối nào khác có giá trị. Tổng hợp những nhân tố này lại, manh mối về Vương Vĩ tới đây coi như đã đứt.”

Tôi hỏi: “Sau đó cô có đi tìm Chu Vân nữa không?”

“Tôi vẫn luôn tìm kiếm.” Cô ta nói. “Nhưng không sao tìm được. Tôi cũng từng nghĩ đến việc đi tìm Thư Tình, vậy nhưng lại sợ mình bị lộ trước tầm mắt của X, cuối cùng chỉ đành bỏ cuộc. Sau mấy ngày cẩn thận suy nghĩ, tôi quyết định bắt đầu điều tra Triệu Hải Thời.”

”Xin hãy nói về quá trình đi.” Tôi nói. “Cô đã tiếp xúc với anh ta như thế nào?”

“Tôi không thể trực tiếp tiếp xúc với anh ta.” DiêpThu Vi nói. “Tạ Bác Văn và Đinh Tuấn Văn đều là người quen của tôi. Trần Hy chưa từng trực tiếp tiếp xúc với tôi. Vương Vĩ thì chủ dộng tìm đến tôi, cho nên trươc đó tôi mới có thể che giấu ý đồ của mình một cách hoàn hảo. Triệu Hải Thời khác với bốn người trước đó, anh ta là người của Công ty E, không có chút qua lại nào với tôi cả, cho nên đừng nói là chủ động tiếp xúc với anh ta, cho dù là tìm cách để khiến anh ta tiếp cận tôi thì sau một thời gian cũng khó tránh khỏi bị người ta sinh lòng nghi ngờ.”

”Vậy cô...”

Cô ta nói: “Tôi đã bỏ ra hơm một tuần để điều tra các thông tin về anh ta. Anh ta sinh năm 1974, còn chưa học hết cấp ba thì đã bỏ học, sau đó từng đi buôn hoa quả, cũng đã đi bày hàng bán vỉa hè, lại từng đi Iàm công nhân xây dựng. Năm 1997, Tập đoàn A mua lại Công ty E, nhân công phải thay đổi rất nhiều, anh ta theo đó mà được tuyển vào Công ty E làm một công nhân sản xuất. Đến năm 1999, anh ta trở thành quản đốc của một phân xưởng sản xuất, sang năm sau thì vào làm tai bộ phận Thị trường vừa mới được thành lâp, đến năm 2003 thì trở thành giám đốc bộ phận Thị trường. Mùa xuân năm 2004, anh ta cưới một nhân viên ở bô phận Thi trường làm vợ, năm tháng sau đã có con. Vợ của anh ta tên là Tiêu Tiểu Yến, sinh năm 1982, sau khi kết hôn liền nghỉ việc, từng mở thẩm mỹ viện và tiệm bán hoa, đến năm 2007 thì chuyển sang mở phòng tâp thể thao chuyên dành cho nữ giới, cứ thế kinh doanh một mạch tới tận năm 2010.”

Tôi cố hết sức ghi nhớ những lời cô ta đã nói vào đầu.

”Tôi hiểu rồi.” Tôi nói. “Cô muốn thông qua vợ anh ta để tìm hiểu về anh ta.”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu vẻ hài lòng. “Tôi đã tới phòng tập thể thao đó mười mấy lần, dần dần cũng đã tìm hiểu được khá kĩ về Tiêu Tiểu Yến. Cô ta không bao giờ có mặt ở đó vào buổi sáng, ngày nào cũng đi bộ đến nơi vào khoảng ba rưỡi chiều, đến chừng sáu giờ tối thì ăn một bữa cơm giảm béo trong phòng tập thể thao, sau đó lại đi bộ về nhà. Cô ta có quan hệ rất tốt với mấy vị khách quen, lần nào cũng đều trò chuyện với bọn họ rất lâu. Tôi quan sát kĩ mấy người đó, thấy bọn họ có rất nhiều điểm chung, chẳng hạn như tất cả đều có làn da rất trắng, thích mặc áo tối màu, hay buộc tóc đuôi ngựa, và ngoài ra người nào người nấy đều đánh bóng bàn rất giỏi. Để có thể khiến Tiêu Tiểu Yến chủ động tiếp xúc với mình, tôi đã bỏ ra một tuần để tập yoga và bóng bàn, đồng thời nghiên cứu về quãng đường mà cô ta đi từ nhà đến phòng tập thể thao mỗi ngày. Ba giờ chiều ngày 20 tháng 7 năm 2009, tôi buộc tóc đuôi ngựa, mặc một chiếc áo may ô màu nâu sẫm, đứng chờ trên đoạn đường mà cô ta nhất định sẽ đi qua. Đến khoảng ba giờ mười lăm phút thì cô at xuất hiện, tôi chạy từ từ qua bên cạnh cô ta, sau đó giả bộ làm rơi chìa khóa, mà phân móc chìa khóa tôi còn cố tình dùng loai có treo một chiếc vợt bóng bàn cỡ nhỏ. Cô ta nhặt chìa khóa lên trả lại cho tôi, rồi tôi bèn chủ động bắt chuyện với cô ta, còn nói: “Ấy, hình như tôi từng nhìn thấy cô trong phòng tập thể thao ở phía trước mặt thì phải.” Cô ta nói: “Tôi chính là người mở phòng tập thể thao đó.” Sau đó cô ta hỏi tôi là đã làm thẻ hội viên chưa, tôi liền nói mấy hôm rồi tôi đã tìm hiểu sơ qua một chút, bây giờ đang chuẩn bị đi làm, chẳng ngờ lại gặp được bà chủ ở đây, đúng là ý trời.”

Tôi lúc này không kìm được thầm nghĩ về bộ dạng của DiệpThu Vi khi đi tập thể thao, trong đầu lởn vởn hiện lên rất nhiều điều suy tưởng.

Cô ta lại kể tiếp: “Lúc đó, tôi nói đến ý trời vốn chỉ nhằm kéo gần khoảng cách giữa mình và cô ta, nhưng phản ứng của cô ta sau đó lại khiến tôi có được thu hoạch bất ngờ. Cô ta nói, đúng, đúng, đúng, chính là ý trời, mọi chuyện trên thế gian này kỳ thực đều là do ông trời sắp đặt cả. Tôi ngay khi đó liền phát hiện cô ta rất tin vào số mệnh, và chính đặc điểm tâm lý này của cô ta đã trở thành điều mấu chốt để sau này tôi có thể thao túng cô ta.”

Tôi lẳng lặng gật đầu, ra hiệu cho cô ta nói tiếp.

”Chúng tôi cùng nhau đi bộ đến phòng tập thể thao. Diêp Thu Vi kể. “Trên đường đi, cô ta hỏi có phải tôi thích bóng bàn không, tôi liền nói từ nhỏ đã thích rồi. Cuộc trò chuyện ffã được mở ra, chúng tôi liền nói từ bóng bàn đến những chuyện hồi nhỏ, lại nói từ chuyện hồi nhỏ đến chuyện gia đình, lại từ chuyện gia đình nói tới chuyện đàn ông và phụ nữ. Khi tới phòng tập thể thao, cô ta đã bắt đầu gọi tôi là chị Thu Vi, tôi cũng gọi cô ta là Tiểu Yến một cách thân mật. Cô ta giúp tôi làm thẻ hội viên, sau đó tự mình giới thiệu với tôi về các loại máy móc và thiết bị tập luyện, còn đưa tôi đi làm quen với mấy người bạn của cô ta nữa. Sau đó, chúng tôi đánh bóng bàn với nhau khoảng một tiếng đồng hồ, đến gần năm giờ thì tới khu vực nghỉ ngơi để tắm rửa. Cô ta tắm rất nhanh, khi tôi ra ngoài thì nhìn thấy cô ta đang chăm chú đọc một cuốn sách cỡ nhỏ, tên sách là Chu Công giải mộng tân giải(*).”

(*). Chu Công tên thật là Cơ Đán, còn gọi là Thúc Đán, Chu Đán hay Chu Văn Công, là công thần khai quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp Chu Vũ Vương Cơ Phát lập ra nhà Chu, giành quyền thống trị Trung Hoa từ tay nhà Thương. Sau khi Chu Vũ Vương chết, Chu Công đã giúp tân vương là Chu Thành Vương xây dựng và phát triển nhà Chu. Hình ảnh của ông tiêu biểu cho tấm lòng trung quân, phò chúa, không sinh dị tâm, thường được hậu thế về sau nhắc đến cùng với Y Doãn nhà Thương. Nhà Chu dưới sự nhiếp chính của ông đã vươn lên thành một nước mạnh mẽ, tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng nên văn minh Trung Hoa rực rỡ về sau. Công lao to lớn trong sự phát triển của văn minh Trung Hoa khiến người ta gọi ông bằng chức vụ Chu Công, quên đi cái tên Cơ Đán, khiến cho nhiều người lầm tưởng Chu Công là tên thật của ông. Ngoài ra, do ông là người đặt nền móng cho sự phát triển của Nho học, do đó Khổng Tử rất tôn trọng ông, thường xuyên nằm mơ thấy ông, trong sách Luận ngữ có đoạn viết: Thậm hề ngô suy dã! Cửu hỹ ngô bất phụ mông kiến Chu Công!. Ý là: Ôi, ta già quá mất rồi! Đã lâu rồi không còn nằm mơ thấy Chu Công nữa! Cũng vì nguyên nhân này nên Chu Công thường được gắn với những giấc mơ, và cuốn sách giải mộng nổi tiếng nhất lưu truyền trong dân gian cũng được đặt tên là Chu Công giải mộng, còn Chu Công giải mộng tân giải thì có nghĩa là “Lời bình giải mới về cuốn Chu Công giải mộng” – ND.

Tôi nói: “Xem ra cô ta quả thực rất tin vào số mệnh.”

“Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi nằm xuống bên cạnh cô ta, hỏi cô ta đang xem sách gì vậy. Cô ta ngượng ngùng cất sách vào trong túi, nói là mình chỉ xem sách linh tinh thôi. Tôi cười nói, trước đây tôi cũng rất thích xem mấy cuốn sách thể loại giải mộng đấy. Cô ta tỏ ra rất ngạc nhiên hỏi: “Chị là phó giáo sư mà cũng tin vào chuyện mộng mị này ư?” Tôi nghiêm túc nói với cô ta, tai sao lại không chứ? Ví như sách Chu Công giải mộng chẳng hạn, nó cũng có căn cứ khoa học cả đấy.“

Tôi không kìm được hỏi: “Cô thực sự nghĩ như vậy ư?“ “Có lẽ sự thật đúng là như vậy, nhưng điều này không quan trọng.” Diệp Thu Vi thản nhiên nói: “Điều quan trọng là cuốn Chu Công giải mộng tân giải đó là sách bìa cứng loại đẹp, bìa thì đã rất cũ, còn có mấy chỗ bị mòn, hiển nhiên là đã mua từ rất lâu rồi, hơn nữa còn được lấy ra đọc thường xuyên. Người thích xem sách giải mộng thì chắc hẳn là thường xuyên nằm mơ, mà giấc mơ thông thường lại có thể phản ánh nội tâm chân thực của một người. Nếu tôi có thể biết được nội dung giấc mơ của cô ta, vậy thi ắt sẽ hiểu hơn về cô ta, có lẽ còn có thể dựa vào cô ta để tìm hiểt về chồng của cô ta nữa.”

Tôi khẽ gật đầu, nói: “Xét kĩ ra hành vi này của cô có thể tính là thuộc phạm trù phân tâm học.”

”Kỳ thực tôi cũng chỉ mới đọc sơ qua cuốn Giải mộng(*) của Sigmund Freud thôi.” Diệp Thu Vi nói. “Về các giấc mơ, tôi có cách giải thích của riêng mình, chưa chắc đã hoàn toàn giống với Sigmund Freud. Ngoài ra, Sigmund Freud chỉ coi giấc mơ là một hiện tượng tâm lý, nhưng tôi thì lại cho rằng giấc mơ là một thứ công cụ tâm lý có thể khống chế.”

(*). Cuốn Giải mộng này tên tiếng Đức là Die Traumdeutung, tên tiếng Anh là The Interpretation of Dreams, là một cuốn sách về tâm lý học, chủ yếu dẫn giải các lý luận của Sigmund Freud về tiềm thức để rồi luận giải bản chất của những giấc mơ, hoàn toàn không cùng thể loại với cuốn Chu Công giải mộng đã được nhắc tới ở trên - ND.

Tôi nghe xong thì không hiểu lắm, bèn hỏi lại: “Giấc mơ quả thực là một thứ công cụ có thể dùng để tìm hiểu về thế giới nội tâm của một người, nhưng từ “khống chế” này rốt cuộc có ý là sao? Chẳng lẽ cô có thể thao túng giấc mơ của người khác?”

”Đúng vậy.” Cô ta giải thích. “Thông qua ám thị có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động tâm lý của một người, từ đó can dự vào giấc mơ của người đó. Loại biện pháp này tuy không thể chính xác đến từng chi tiết, thế nhưng ít nhiều vẫn có tác dụng. Tôi lấy một ví dụ đơn giản thế này, anh dẫn con anh đến công viên chơi, nó rất muốn được ăn kẹo bông, nhưng anh lại không muốn để nó ăn, thế là bèn dùng những thứ khác để thu hút sự chú ý của nó. Thằng bé thoạt nhìn thì có vẻ đã quên mất kẹo bông, nhưng trên thực tế thì không phải vậy. Sự ham muốn đối với kẹo bông của nó chưa hề biến mất mà chỉ bị kìm nén mà thôi, kỳ thực vẫn luôn tồn tại trong tiềm thức. Nếu đêm đó nó nằm mơ, tình cảnh trong giấc mơ rất có thể có liên quan tới buổi đi chơi công viên lúc ban ngày, mà trung tâm của giấc mơ thì có lẽ chính là sự khao khát đối với kẹo bông của thằng bé.”

”Giấc mơ là sự thể hiện của ham muốn sau khi bị kìm nén.'’ Tôi lộ vẻ trầm tư nói: “Đây có lẽ chính là tư tưởng chủ đạo của cuốn Giải mộng rồi.”

“Tôi chỉ đưa ra một ví dụ thế thôi.” Diệp Thu Vi dừng việc phân tích lại, kể tiếp câu chuyện giữa cô ta và Tiêu Tiểu Yến: “Trở lại câu chuyện ban nãy nhé. Sau khi nghe thấy lời đó của tôi, Tiêu Tiểu Yến tỏ ra rất hứng thú, bèn nói cho tôi nghe cái nhìn của cô ta về cuốn Chu Công giải mộng. Cô ta nói, theo như em thấy, giấc mơ chính là một lời gợi mở của ông trời với con người, nhưng lời gợi mở này không phải người phàm nào cũng có thể hiểu được, mà Chu Công giải mộng thì chính là cuốn sách chuyên giải thích những lời gợi mở của ông trời.”

Tôi nói: “Xem ra cô ta còn có lý lẽ riêng của mình nữa, Cô đã trả lời như thế nào?”

Diệp Thu Vi nói: “Tôi giả bộ ngạc nhiên nhìn cô ta, nói: “Xem ra lần này chị tìm được tri âm rồi, chị cũng có suy nghĩ hệt như em vậy. Thực ra, càng nghiên cứu khoa học chị lại càng cảm thấy loài người quá ư ngu muội, Chúa sáng thế - cũng chính là ông trờii ấy - bởi vì ôm lòng thương xót mà đã chỉ lối cho loài người, một trong các phương thức chính là thông qua giấc mơ.” Sau đó tôi còn đưa ra ví dụ, nói rằng trong rất nhiều sách cố đều có ghi chép, phàm là các nhân vật lớn thì trước khi ra đời mẹ của họ đều nằm mơ thấy những giấc mơ mang tính điềm báo, và đó chính là sự chỉ thị của ông trời. Cho nên, sự tồn tại củaa những giấc mơ thực ra cũng là một minh chứng cho sự thật rằng mọi việc trên thế gian này đều đã được an bài từ trước cả rồi.”

Đây rõ ràng chỉ toàn là những lời mà Diệp Thu Vì dùng để dối gạt một người phụ nữ tin vào sự tồn tại của số mệnh, thoạt nghe thì cũng không phải là không có lý.

Cô ta lại kể tiếp: “Tiêu Tiểu Yến nghe thấy những lời này thì tỏ ra rất hưng phấn, liền bắt đầu trò chuyện với tôi về số mệnh và những giấc mơ. Rất nhanh sau đó, cô ta nói cho tôi biết một bí mật, đó là buổi tối khi ngủ cô ta rất ít khi nằm mơ, cho dù có nằm mơ thì cũng không nhớ được. Nhưng khi ngủ trưa, cô ta có một thói quen, đó là lần nào cũng nằm mơ những giấc mơ hết sức rõ ràng, hơn nữa mãi đến mấy ngày sau vẫn chưa quên.”

”Nghe cô miêu tả như vậy thì cô ta dường như không phải là một người phải dùng đầu óc quá độ.” Tôi chậm rãi phân tích.“Nhưng mỗi lần ngủ trưa cô ta đều nằm mơ, xem ra áp lực tiềm tàng của cô ta không nhỏ chút nào.”

“Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói. “Sau khi trò chuyện được một lúc, cô ta liền kể cho tôi nghe về giấc mơ của cô ta trong buổi trưa hôm đó. Cô ta nói cô ta mơ thấy một người đàn ông xa lạ, người này cụ thể trông thế nào thì cô ta không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là anh ta rất tuấn tú. Trong mơ, người đàn ông đó không ngừng cho cô ta ăn sô cô la, mà cô ta dù có ăn bao nhiêu vẫn không cảm thấy ngán. Sau đó cô ta liền hỏi đối phương: “Sô cô la này ngon quá, là của hãng nào vậy? Người đàn ông đó cười nói: “Tôi cũng không rõ nữa, thứ này là do người khác đưa cho tôi.” Cô ta cầm mảnh giấy bọc ngoài lên xem, thấy loại sô cô la này là của nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng. Chẳng rõ vì sao, khi ở trong mơ, cô ta rất khó chịu với nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng này, thế là bèn bắt đầu nôn thốc nôn tháo. Nhưng rất lạ, cô ta cảm thấy mình rõ ràng đã nôn rất nhiều rồi, thế mà ngó khắp xung quanh vẫn chẳng nhìn thấy thứ gì, bên khóe miệng cũng không dính vết bẩn. Ngay kế đó, cô ta nghe thấy một tràng cười giòn tan, lại nhìn thấy một con bò sữa nhỏ cùng với một cô bé chừng bốn, năm tuối đang cưỡi trên lưng bò. Cô bé đó dang hai tay ra muốn cô ta bế. Cô ta rất muốn bế, nhưng vừa mới đưa tay ra thì chợt nhìn thấy mười ngón tay của mình đều có đeo nhẫn kim cương, mà trên mỗi chiếc nhẫn kim cương đều bò nhung nhúc những con dòi. Cô ta vốn rất sợ dòi, thế là lập tức tỉnh dậy.”

Tôi vừa suy nghĩ về giấc mơ quái lạ này vừa tò mò hỏi: “Theo cô thì giấc mơ này có ý nghĩa gì?”

“Trong mơ không xuất hiện sự vật hay hiện tượng gì quá mức lạ kỳ, có lẽ là không có ẩn ý gì quá sâu sắc.” Cô ta nói. “Cứ dựa theo thói thường mà phân tích, có rất nhiều phụ nữ từng mơ thấy những người đàn ông xa la, theo như kinh nghiệm của tôi mà xét, một người đàn ông xa lạ vừa tuấn tú vừa dịu dàng thông thường là tượng trưng cho khát vọng tiềm tàng đối với một tình yêu mới. Sô cô la là một loại đồ ăn, nhưng ý nghĩa tượng trưng của đồ ăn thường có liên quan tới sở thích của một người, không thể tùy tiện đưa ra định luận được. Thế là tôi bèn giả bộ vô tình hỏi:“Tiểu Yến này, em thích ăn sô cô la lắm à?” Cô ta khẽ lắc đầu đáp:“Trước đây em rất thích, nhưng bây giờ thì không thích nữa rồi, cứ nghĩ đến là lại khó chịu.“.”

Tôi lập tức tiếp lời: “Nói như vậy là trong giấc mơ của cô ta sô cô la cũng có ý nghĩa tượng trưng nhất định rồi.”

”Vật tượng trưng và vật gốc thông thường phải có những đặc điểm tương tự về mặt tính chất.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Do đó, sô cô la có lẽ tượng trưng cho một thứ gì đó mà cô ta đã từng thích, nhưng bây giờ thì lại ghét cay ghét đắng. Ở đây có tồn tại một sự mâu thuẫn, đó là cô ta đã ghét sô cô la như vậy, tại sao khi ở trong mơ lại có thể ăn mãi không chán?”

”Chuyện này hẳn là có liên quan tới một điều kiện nào đó.” Tôi sững người rồi đột ngột hiểu ra. “Sô cô la là do người đàn ông tuấn tú kia cho cô ta ăn?”

”Điểm mâu chốt chính là ở đó.” Diệp Thu Vi bình thản nói. “Hãy thử tưởng tượng về một thứ như thế này đi, phụ nữ ban đầu rất thích nó, về sau thì chán ghét, thế nhưng khi có được từ chỗ một người đàn ông xa lạ thì lại cảm thấy tốt đẹp.”

Tôi buột miệng nói: “Đó nhất định là tình cảm rồi. Tình cảm ngọt ngào rất giống với sô cô la, ban đầu thì rất muốn ăn, nhưng nếu mỗi ngày đều ăn thì đương nhiên sẽ cảm thấy chán.”

Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Anh hãy chú ý tới những biến hóa tiếp theo đó, mọi việc vốn rất tươi đẹp hài hòa, cho đến khi cô ta hỏi về nhãn hiệu của sô cô la. Tại sao cô ta lại khó chịu với nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng như thế, thậm chí còn cảm thấy ghê tởm đến mức buồn nôn? Tôi nói với cô ta. “Em đúng ỉà giỏi quá, ngay đến một nhãn hiệu trong giấc mơ mà cũng nhớ được, trước đây em thường ăn sô cô la nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng hay sao?” Cô ta đáp: “Em chưa ăn bao giờ, chỉ mới nghe nói về nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng này mà thôi.” Thế là tôi liền ý thức được, Khỉ Lông Vàng có lẽ cũng là một sự tượng trưng nào đó.”

Tôi không kìm được hỏi: “Nó tượng trưng cho cái gì?” 

Diệp Thu Vi chậm rãi nói: “Tôi liệt kê ra rất nhiều khả năng có thể tồn tại về mối liên quan giữa cô ta và khỉ, cuối cùng chỉ có duy nhất một sự giải thích có thể coi là thông suốt, đó là con trai cô ta sinh vào năm khỉ. Để xác nhận phán đoán này của mình, tôi cố tình chờ một lúc sau mới nói: “Tiểu Yến này, con trai em đâu? Lúc nào tiện thì đưa nó tới đây chơi nhé, chị thích trẻ con lắm.” Cô ta trề môi vẻ hậm hực rồi bèn nói:“Nếu chị thích thì em tặng cho chị luôn đấy, con trai em bây giờ đang tuổi nghịch ngợm, cứ suốt ngày phá phách lung tung, lại còn không giữ vệ sinh nữa, giống hệt như một con khỉ con vậy.”

Tôi khỉ gật đầu tỏ ý đã hiểu.

“Giờ tôi sẽ nói đến hiện tượng quan trọng tiếp theo.” Diệp Thu Vi nói. “Vì sô cô la mang nhãn hiệu Khỉ Lông Vàng nên cô ta bắt đầu nôn mửa, thế nhưng từ đầu đến cuối lại chẳng nôn ra được thứ gì. Cảm giác buồn nôn giả này có thể là sự tái hiện của giai đoạn ốm nghén trong khi mang thai, bởi lẽ việc con trai nghịch ngợm khiến cô ta phiền muộn, mà thứ cảm giác phiền muộn này cũng từng xuất hiện trong khi cô ta ốm nghén.”

”Phải rồi.” Tôi nói. “Khỉ Lông Vàng ngoài tượng trưng cho sự nghịch ngợm của con trai cô ta ra, có lẽ còn tượng trưng cho năm sinh của con trai cô ta nữa, vậy nên mới làm cho hiện tượng sinh lý từng xuất hiện vào năm khỉ của cô ta tái hiện.”

Diệp Thu Vi không bày tỏ ý kiến gì, chỉ bình thản nói tiếp: “Còn về cô bé cưỡi trên lưng bò sữa kia thì dường như không thể tìm được một ý nghĩa tượng trưng nào cả. Khi đó tôi chỉ tiện miệng hỏi: “Sao em lại nằm mơ thấy một cô bé vậy, em thích có con gái nữa hay sao?” Cô ta thở dài đáp: “Đương nhiên là thích rồi, em rất muốn sinh thêm một đứa con gái.” Tôi đang chuẩn bị hỏi cô ta là tại sao lại không sinh thì đột nhiên hiểu ra ý nghĩa của chi tiết này, đó là bò sữa cũng là sự tượng trưng cho một con giáp, vì năm 2009 vừa hay chính là năm con trâu(*), thế nên tôi phán đoán, cô ta rất muốn sinh thêm một đứa con gái vào năm con trâu, thậm chí còn từng có cơ hội, vậy nhưng cuối cùng đã bỏ lỡ mất. Việc cô ta rất muốn bế bé gái đó từ trên lưng con bò xuống nhưng cuối cùng lợi không được chính là một minh chứng cho điều này. Cuối cùng, nguyên nhân khiến cô ta không thể bế bé gái đó xuống là trên tay đeo đầy nhẫn kim cương, hơn nữa trên mỗi chiếc nhẫn kim cương còn có dòi. Trong giấc mơ, đời thường tượng trưng cho sự bẩn thỉu, sợ hãi hoặc là bất lực, lại kết hợp với những chiếc nhẫn kim cương kia nữa, tôi cho rằng, việc cô ta không thể sinh con gái vào năm 2009 có lẽ có liên quan tới chuyện hôn nhân.”

(*). Trong tiếng Hán, người ta dùng từ “牛 - ngưu” để nói về cả trâu lẫn bò, do đó con bò sữa ở trên và con trâu ở trên trong bản gốc đều là con “牛 – ngưu” cả - ND.

Tôi về cơ bản có thể theo kịp dòng suy nghĩ của cô ta.

“Tôi quyết định phải thử thăm dò.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Tôi nằm đó một lát, lại đưa tay sờ bụng, sau đó liền thở dài, nói: “Ôi, hồi năm ngoái chị từng mang thai một đứa con gái, đáng tiếc sau đó đã bị sảy mất.” Cô ta kích động ngổi bật dậy, nói: “Thật thế ư? Em cũng vậy! Em mang thai dịp mùa thu năm ngoái, sau khi đi nhờ người quen kiểm tra giúp thì được báo có chín mươi phần trăm khả năng là con gái. Nhưng cuối cùng em bị chồng em ép phải phá thai, anh ấy nói là không đủ sức để đồng thời chăm sóc hai đứa bé.”.”

Dưới sự phân tích chi tiết của cô ta, về cơ bản tôi đã hiểu được giấc mộng của Tiêu Tiểu Yến mang ý nghĩa gì.

”Hãy tổng kết một chút nhé.” Diệp Thu Vi nói. “Thông qua giấc mộng này, chúng ta có thể biết được. Tiêu Tiểu Yến dường như không thích con trai của mình lắm, năm 2009 cô ta từng mang thai một đứa con gái, nhung cuối cùng dưới áp lực của Triệu Hải Thời đã phải phá thai. Đối với cô ta, sự bức ép của chồng giống như những chiếc nhẫn kim cương bò đầy dòi vậy, tuy vẽ mặt vật chất thì đầy đủ nhưng lại mang tới cho cô ta áp lực hết sức nặng nề. Có thể nhận ra, cô ta rất sợ chồng mình, mà chính nỗi sợ này đã khiến cô ta sinh ra sự chán ghét đối với hôn nhân, từ đó khao khát được một người đàn ông khác mang tới cho mình một thứ tình cảm thoải mái, tự do và ngọt ngào. Nhưng cùng với đó, cô ta lại vì chồng mình mà cảm thấy lo lắng. Do đó trong giấc mơ, cô ta không thể nhìn rõ mặt mũi của người đàn ông xa lạ kia. Người đàn ông xa lạ trong giấc mơ có thể là hình ảnh tượng trưng cho một người nào đó trong hiện thực, cũng có thể chỉ là một người đàn ông tốt đẹp trong tưởng tượng của cô ta mà thôi, hoặc thậm chí còn có thể là sự ảo tưởng của cô ta về chồng mình. Tóm lại, khi đó cô ta đang ở trong một trạng thái tâm lý đặc biệt, tuy cảm thấy ngột ngạt và muốn trốn chạy khỏi hôn nhân nhưng lại không dám làm gì vì sợ chồng mình. Qua những việc này, tôi đã có được sự hiểu biết bước đầu về Triệu Hải Thời, rõ ràng anh ta là một con người độc đoán và khiến người ta sợ hãi, đồng thời việc ép vợ mình phá thai cũng thể hiện ra một bộ mặt tàn nhẫn và máu lạnh của anh ta. Đương nhiên, đây chỉ là phán đoán bước đầu của tôi mà thôi.”

Những sự phân tích này của cô ta, tôi hoàn toàn có thể hiểu được, rồi sau đó tôi lại hỏi:“Tiếp theo đó thì sao? Cái gọi là “thông qua ám thị để can dự vào giấc mơ của một người” mà cô từng nói tới rốt cuộc đã được thực hiện bằng phương thức như thế nào vậy?”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu, chậm rãi nói: “Tiếp đó, tôi cũng kể cho Tiêu Tiểu Yến nghe một giấc mơ của mình.”

”Giấc mơ của cô?”

”Đương nhiên là một giấc mơ được bịa ra rồi.” Cô ta nói. “Giấc mơ mà tôi kể ra rất đơn giản: Tôi và chồng tôi nảy sinh tranh chấp, hai bên cãi nhau rất dữ dội, thế rồi từ bên ngoài chợt có mấy kẻ xấu xông vào, chồng tôi vì muốn bảo vệ tôi mà đã đánh nhau với bọn họ, cuối cùng bị bọn họ cầm dao đâm cho một nhát, máu tươi chảy ra lênh láng khắp cả sàn nhà, sau đó thì tôi tỉnh dậy vì quá sợ.”

Tôi suy nghĩ một lát, bèn hỏi vẻ khó hiểu: “Tại sao cô phải kể ra một giấc mo như vậy? Bên trong đó có ấn ý gì không?”

Cô ta giải thích: “Không có ẩn ý gì cả, đó chỉ là một sự ám thị đơn giản mà thôi. Việc tôi và chồng tôi nảy sinh tranh chấp rồi cãi nhau thể hiện rằng người chồng mang tới cho người vợ áp lực và sự khó chịu. Khi kẻ xấu xuất hiện, chồng tôi vì đứng ra bảo vệ tôi mà phải đổ máu, điều này lại thể hiện ra tác dụng bảo vệ của người chồng đối với người vợ cùng với sự hy sinh của anh ta cho gia đình. Trên thực tế, Triệu Hải Thời tuy mang tới cho Tiêu Tiểu Yến áp lực rất lớn, khiến cô ta cảm thấy khó chịu, thậm chí là sợ hãi, nhưng cùng với đó còn giúp cô ta có được một cuộc sống sung túc, hoàn toàn không phải lo lắng chút nào về vật chất. Trong tiềm thức của Tiêu Tiểu Yến tồn tại một thứ tâm lý mâu thuẫn về Triệu Hải Thời, tôi kể giấc mơ này ra chính là mong có thể khơi dậy sự đồng cảm của cô ta, từ đó dẫn dắt tiềm thức của cô ta suy nghĩ về mối quan hệ vợ chồng của bản thân, tiếp đến lại suy nghĩ thêm những chuyện khác về chồng mình.”

Tôi cảm thấy khó mà tin nổi, bèn buột miệng hỏi: “Chỉ kể ra một giấc mơ thôi mà có thể thu được hiệu quả ám thị như vậy ư?”

“Chỉ xét riêng về giấc mơ mà cô ta kể cho tôi nghe, tiềm thức của cô ta rõ ràng là rất giỏi trong việc sử dụng sự tượng trưng và tự ngụy trang.” Diệp Thu Vi nói. “Những người như vậy tâm tư thường rất tinh tế, còn hơi có chút đa sầu đa cảm, rất dễ bị ám thị. Đương nhiên, sự lo lắng của anh cũng không phải là không có lý, một sự ám thị đơn giản như vậy chưa chắc đã có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, để đề phòng cô ta còn chưa hoàn toàn tiếp nhận sự ám thị của tôi, tiếp theo đó tôi còn cần dùng những biện pháp khác để tiếp tục tiến hành dần dắt tiềm thức của cô ta.” Hơi dừng một chút, cô ta nói tiếp. “Có điều, cô ta hiển nhiên là nhạy cảm hơn so với suy nghĩ của anh rất nhiều.”

Tôi khẽ gật đầu. “Xin hãy tiếp tục đi.“
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 10-2: Sự kiện giết người qua những giấc mơ (1)


Type: Mều

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Nghe kể về giấc mơ của tôi xong cô ta lập tức lấy cuốn Chu Công giải mộng tân giải kia ra, sau khi lật xem một lát bèn nói: “Nằm mơ cãi nhau với chồng chứng tỏ chị có điều bất mãn với chồng mình, nhưng việc này không hề làm ảnh hưởng đến tình cảm giữa hai vợ chồng chị. Nằm mơ thấy chồng đánh nhau với người khác, điều này chứng tỏ chồng chị rất có sức sống, còn nằm mơ thấy anh ta chảy máu thì lại càng là một điềm may, chứng tỏ rằng anh ta sắp phát tài.” Sau đó cô ta lại hỏi tôi: “Đúng rồi, trong giấc mơ đó, chồng chị cuối cùng có chết không vậy?“.”

Nghe kể đến đây, tôi bất giác nhớ đến Tần Quan, trong lòng không khỏi dâng lên đôi chút cảm giác không thoải mái.

Diệp Thu Vi vẫn nguyên vẻ bình tĩnh, sắc mặt chẳng hề xao động chút nào. “Tôi suy nghĩ một chút, sau đó liền đáp là có. Cô ta khẽ gật đều vẻ hài lòng, nói: “Như vậy là tốt nhất, điều này chứng tỏ rằng chồng chị sau này nhất định sẽ bình an khỏe mạnh, bởi những gì diễn ra ngoài đời luôn trái ngược với trong mơ.” Tôi đáp lại qua loa mấy tiếng, khi đang suy nghĩ xem nên làm thế nào để có thể tiếp tục dẫn dắt tiềm thức của cô ta thì cô ta đột nhiên xoay người qua nhìn tôi, khẽ thở dài một tiếng. Tôi ý thức được điều gì đó, thế là vội vàng hỏi cô ta là tại sao lại thở dài. Cô ta đáp: “Em đột nhiên nhớ đến chồng em. Chị Thu Vi, chị thử nói xem, một người đàn ông như thế nào thì có thể coi là tốt nhất chứ? Là một người đàn ông dịu dàng tinh tế, lúc nào cũng hiểu chị, chu đáo với chị; hay là một người đàn ông mạnh mẽ, độc đoán, luôn chăm lo cho chị như một con thú cưng, không để chị phải lo lắng chuyện gì?” Tôi cười nói: “Gộp ưu điếm của hai loại đàn ông em vừa kể vào một người không được hay sao?” Cô ta lại thở dài tiếng nữa, nói: “Trên đời này làm gì có người đàn ông nào mười phân vẹn mười như thế. Chẳng lẽ chị đã từng gặp rồi sao?”.”

“Cô ta quả thực rất nhạy cảm.” Tôi nói. “Mới thoáng đó mà đã bị ảnh hưởng bởi sự ám thị của cô rồi.”

”Cô ta đã chủ động cắn câu như thế, tôi tất nhiên sẽ không khách sáo rồi.” Diệp Thu Vi đưa tay lên nhẹ nhàng vuốt ve mấy cành cây trĩu xuống, hờ hững kể tiếp: “Tôi hỏi: “Sao vậy, em không hài lòng về chồng mình à?” Cô ta khẽ cười đáp: “Cũng không hẳn là thế, anh ấy rất giỏi, rất có bản lĩnh, còn biết kiếm tiền, chỉ là không bao giờ chịu quan tâm đến người khác, mà thực ra cũng không phải là không chịu quan tâm, phải nói là anh ấy không biết cách quan tâm. Em cứ luôn có cảm giác anh ấy chỉ coi em như một con thú cưng hoặc là một món đồ yêu thích thôi vậy, tuy cũng có yêu em, bảo vệ em bằng phương thức của riêng mình, nhưng anh ấy lại không bao giờ chịu suy nghi đến cảm xúc của em. Hồi năm ngoái, khi anh ấy ép em phải đi phá thai, em thiếu chút nữa đã định ly hôn với anh ấy rồi.”.”

Tôi lẳng lặng gật đầu.

Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Hơn một tiếng đồng hồ sau đó chúng tôi đều trò chuyện về chồng của cô ta.Tiểu Tiểu Yến không hề đề phòng tôi chút nào, tôi cũng vì thế mà dần dần hiểu về Triệu Hải Thời hơn. Công việc của anh ta ở Công ty E hết sức suôn sẻ, ngay cả mấy vị lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A cũng biết đến anh ta. Anh ta quen biết rất rộng, trong số những người quen không chỉ có các quan viên chính phủ, còn có một đám anh em chịu bán mạng cho anh ta nữa. Tuy Tiêu Tiểu Yến không nói rõ, nhưng tôi có thể nghe ra được, dưới tay Triệu Hải Thời có một tập đoàn nhỏ mang tính chất như xã hội đen. Cùng với đó, Triệu Hải Thời cũng rất biết kiếm tiến, còn sẵn lòng chi tiền cho Tiêu Tiểu Yến nữa. Nghe Tiêu Tiểu Yen nói là muốn mở phòng tập thể thao, chỉ trong vòng một tuần, anh ta đã thuê xong địa điểm, còn đặt mua về những thứ thiết bị tốt nhất và mới nhất. Qua những lời nói vô tâm của Tiêu Tiểu Yến, tôi còn đoán ra được rằng tiền của Triệu Hải Thời đa phần là có lai lịch bất chính.”

Tôi vừa lắng nghe vừa thầm khắc họa hình tượng của Triệu Hải Thời trong đầu mình.

”Buối chiều hôm đó, cô ta đã nói ra rất nhiều chuyện về Triệu Hải Thời, nhưng còn chưa phải là toàn bộ.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Trong khi nói chuyện, cô ta thường xuyên để lộ vẻ muốn nói lại thôi, có một số chuyện mới nói được một nửa đã đột ngột chuyển chủ đề, mà đôi lúc cô ta còn phủ nhận những lời mình vừa mới nói nữa, những điều này đều chứng tỏ cô ta rất muốn thổ lộ chuyện về chồng mình, nhưng có một số chuyện lại không tiện để cho người ngoài biết. Một khi ham muốn thổ lộ bị kìm nén, con người ta rất có khả năng sẽ giải tỏa qua giấc mơ, chỉ cần hiểu được bản chất của giấc mơ đó là tôi có thể sẽ đoán ra được những tin tức mà cô ta còn chưa nói rõ.”

Tôi nói: “Về mặt lý luận thì đúng là như vậy, nhưng trong giấc mơ dù sao cũng tồn tại quá nhiều nhân tố không xác định.” 

“Cho nên, tôi phải làm cho ham muốn thổ lộ của cô ta trở nên mãnh liệt hơn nữa.” Diệp Thu Vi nói. “Chúng tôi cùng nhau dùng bữa tối trong phòng tập thể thao. Cô ta chỉ ăn rau củ luộc, không hề động đến thứ gì khác.”

Tôi tò mò hỏi: “Cô ta có béo không?”

”Cô ta có vóc dáng cân đối, không hề béo chút nào.” Diệp Thu Vi suy nghĩ một chút rồi mới nói: “Tôi hỏi cô ta là tại sao lại phải đối xử nghiêm khắc với bản thân như vậy? Cô ta hai mắt lóe sáng, cười đến nỗi không khép miệng lại được, rồi bèn nói là cần giữ một vóc dáng thật thon thả, như vậy khi gặp một người đàn ông tốt mới có thể nắm bắt được trái tim của anh ta.”

Tôi không kìrn được hơi cau mày lại. “Phải chăng khi ấy cô ta đã phải lòng một người nào đó rồi?”

”Rất có thể là như vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi lập tức nắm lấy cơ hội, nói: “Em cứ nên yên phận một chút thì hơn, con trai cũng đã lớn bằng ấy rồi, đừng nên hở một chút là lại nghĩ tới người đàn ông khác. Em hãy cố nghĩ về những mặt tốt của chồng em, anh ta giỏi kiếm tiền, có thành tựu về mặt sự nghiệp, địa vị xã hội và mối quan hệ thì lại càng không tầm thường, một người đàn ông như vậy biết phải đi đâu mà tìm chứ? Chưa biết chừng sớm đã có người phụ nữ khác để mắt tới anh ta rồi đấy.” Tiêu Tiểu Yến thở dài một hơi, nói: “Ai muốn để mắt thì cứ kệ họ, có lúc em thực sự chẳng muốn chung sống với anh ấy thêm một giây phút nào. Chị không biết đâu... ôi... có một số chuyện em không thể nói với chị được.“.”

Tôi bất giác gật đầu lia lịa. “Cô quả thực đã khiến cho ham muốn thổ lộ của cô ta mãnh liệt hơn nhiều rồi.”

”Như thế vẫn còn chưa đủ.” Diệp Thu Vi nói. “Chúng tôi cùng nhau đi bộ rời khỏi phòng tập thể thao. Nhà cô ta cách đó không xa, nằm trong một khu biệt thự cao cấp do Tập đoàn A xây dựng. Lúc từ biệt, tôi tỏ vẻ hết sức ngưỡng mộ nói với cô ta: “Chị thật ghen tị với em quá, có một người chồng tốt như thế này, em nên biết tự thỏa mãn mới phải. Cho dù anh ta có bao nhiêu điều không đúng, cho dù anh ta có khiến em phải chịu bao nhiêu áp lực thì nhìn vào căn nhà này, em cũng nên cố mà nhẫn nhịn đi.” Cô ta hơi hé miệng ra, cuối cùng thở dài buồn bã, nói: “Không nằm trong chăn không biết chăn có rận đấy thôi chị ơi, thực ra em cũng ngưỡng mộ chị lắm đấy.“.”

Diệp Thu Vi lại lần nữa làm cho ham muốn thổ lộ của Tiêu Tiểu Yến thêm mãnh liệt.

Tôi hỏi: “Sau đó thì sao? Đêm đó cô ta có nằm mơ một giấc mơ như cô mong muốn không vậy?”

”Sự lo lắng của anh khi nãy là chính xác.” Diệp Thu Vi nói. “Ngày hôm sau, tôi không thể đoán ra được điều gì từ trong giấc mơ của cô ta. Buổi chiều hôm đó, tôi đã lại lần nữa nói chuyện với cô ta cả buổi chiều, đồng thời không ngừng tiến hành ám thị cô ta. Sang ngày thứ ba, tôi rốt cuộc đã có được một chút thu hoạch. Đó là ngày 22 tháng 7, vào lúc ba giờ bốn mươi phút chiều, Tiêu Tiểu Yến uể oải đi vào phòng tập thể thao. Tôi và hai vị khách khác đã cùng cô ta đánh bóng bàn một lúc, khi nghỉ ngơi, cô ta kể cho tôi nghe cơn ác mộng mà cô ta đã gặp phải hồi trưa: Cô ta mơ thấy mình là một bác sĩ, thế rồi đột nhiên phải làm một ca phẫu thuật nghiêm trọng, bệnh nhân chính là Triệu Hải Thời, có điều trong mơ Triệu Hải Thời căn bản không phải là chồng của cô ta. Ca phẫu thuật diễn ra rất không thuận lợi, vì trong co thể của Triệu Hải Thời bò nhung nhúc đầy những dòi. Nhưng rất lạ, trong giấc mơ lần này cô ta không hề sợ lũ dòi đó chút nào. Cô ta giúp Triệu Hải Thời gắp từng con dòi ra khỏi cơ thể, nhưng lũ dòi vẫn nhiều không đếm xuể. Lúc này Triệu Hải Thời chợt nói: “Bác sĩ, tôi không sao đâu, cô không cần để tâm đến lũ dòi trong bụng tôi, cứ về văn phòng mà chơi đi. Khi tôi đói, cô chỉ cần đưa đồ ăn tới cho tôi là được, tôi thích nhất là ăn bánh bao chay trắng do cô hếp đấy, vừa to lại vừa mềm.” Tiêu Tiểu Yến liền nói: “Bây giờ tôi sẽ đi hấp bánh bao chay cho anh ăn.” Nhưng cô ta vừa mới xoay người thì đột nhiên có một bác sĩ nam đi vào, trong tay cầm theo mấy con rắn, nói: “Tôi có cách chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân, chỉ cần để mấy con rắn này ăn hết lũ dòi là được rồi.” Dứt lời, anh ta liền vứt mấy con rắn đó vào trong bụng Triệu Hải Thời. Thật kỳ lạ, lũ dòi trong cơ thể Triệu Hải Thời chỉ sau nháy mắt đã hoàn toàn biến mất. Trong giấc mơ, Tiêu Tiểu Yến còn nhìn thấy rõ những con rắn đó, cái lưỡi xanh lè của bọn chúng không ngừng thò ra thụt vào, thế rồi đột nhiên chúng há miệng ra cắn thẳng vào trái tim của Triệu Hải Thời. Tiêu Tiểu Yến cảm thất tim mình đau nhói, thiếu chút nữa thì tỉnh lại. Đúng vào thời điểm cô ta nửa mơ nửa tỉnh, không ngờ người bác sĩ nam kia lại ôm chầm lấy cô ta rồi hôn lên môi cô ta. Sau đò, anh ta lại đột ngột buông cô ta ra và tụt quần mình xuống, để lộ một con rắn vừa nhỏ vừa dài ở giữa hai chân. Cặp mắt của con rắn đó ánh lên những tia sáng sắc lạnh, từ bên trong toát ra một vẻ rùng rợn khó mà miêu tả bằng lời.”

Giấc mo này hơi dài, tôi không thể nào nhớ hết từng chi tiết nhỏ.

”Trong giấc mơ này không chỉ có chồng cô ta, còn có sự xuất hiện của một người đàn ông khác nữa...” Tôi trầm ngâm hỏi: “Cô đã phân tích như thế nào?”

Diệp Thu Vi suy nghĩ một lát rồi nói: “Trong khi kể về giấc mơ này, Tiêu Tiểu Yến vừa mới nhắc đến người bác sĩ nam kia thì hai mắt liền thoáng nheo lại, hoặc cũng có thể nói là đã chớp mắt một cái, đồng thời mím chặt môi, khóe môi bên trái hơi xị xuống, những điều này đều thể hiện cô ta rất khó chịu với đối phương. Cho dù khi ở trong mơ, cô ta vô duyên vô cớ ghét người bác sĩ đó thì thông thường thứ tâm trạng này cũng không được mang theo ra ngoài đời thực, cho nên tôi đoán, có lẽ cô ta quen biết người bác sĩ nam trong giấc mơ đó, vậy nhưng lại cố tình không nhắc đến tên của anh ta.”

”Người bác sĩ đó đã dùng vũ lực để hôn cô ta trong giấc mơ.” Tôi thử phân tích. “Trong tình huống bình thường, chỉ khi nào một người phụ nữ rất thích một người đàn ông nhưng lại không thể nào có được anh ta thì mới mơ một giấc mơ tương tự như vậy đúng không? Cô ta đã không thích người đàn ông này, vậy thì tại sao lại mơ thấy việc bị anh ta hôn chứ?”

“Trong giấc mơ việc này có lẽ có mang một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt nào đó.” Diệp Thu Vi nói. “Khi đó, hai vị khách kia cũng có phản ứng giống như anh vậy, một người còn cất tiếng kêu: “Tiểu Yến chắc không phải là thèm khát đàn ông quá rồi đấy chứ? Tay bác sĩ đó còn có một con “rắn” vừa nhỏ vừa dài nữa cơ mà.” Người còn lại thì nói: “Tiểu Yến đúng là lạ thật, dài thì tôi có thể hiểu được, nhưng tại sao lại nhỏ nhỉ? Chẳng lẽ Tiểu Yến thích loại nhỏ ư?”.”

Nghe Diệp Thu Vi nói ra những lời này, trái tim tôi không khải đập rộn lên.

”Nghe hai người đó trêu đùa như vậy, Tiêu Tiểu Yến tỏ ra vô cùng phản cảm.” Diệp Thu Vi đi về phía trước hai bước, kể tiếp: “Sau đó mấy người chúng tôi đều im lặng được một lát thì hai người kia bỏ đi tập yoga. Tiêu Tiểu Yến cùng tôi đi vào khu vực nghỉ ngơi, lại lấy cuốn Chu Công giải mộng tân giải ra xem, trông bộ dạng có vẻ vô cùng buồn bực. Sau một hồi suy nghĩ kĩ càng, tôi nghĩ có lẽ mình cần phải chủ động hơn, thế là bèn hỏi thẳng: “Tiểu Yến, em có quen vị bác sĩ nam trong giấc mơ em vừa kể đúng không?” Cô ta sững người ra, hỏi lại tôi: “Chị làm sao biết được?” Tôi nói: “Chị cảm thấy thế, hơn nữa em hình như càn rất ghét người đó thì phải.” Cô ta nói với giọng không thể tin nổi: “Chị Thu Vi, chị quả đúng là tri âm của em, chỉ nghe kể thế thôi mà đã hiểu được nỗi lòng của em rồi. Hồi nãy hai người kia đùa như vậy làm em cảm thấy vô cùng khó chịu.” Tôi cười nói: “Bọn họ cũng không có ác ý gì đâu, chỉ vì thấy em có vẻ ủ dột cho nên mới đùa như thế để mong em vui thôi mà, em đừng nên tức giận làm gì.” Sau đó tôi lại giả bộ tiện miệng hỏi: “À, mà vị bác sĩ nam đó rốt cuộc là ai vậy? Em đã ghét anh ta như thế, tại sao lại nằm mo thấy cảnh mình bị anh ta hôn?“.”

Tôi nôn nóng hỏi: “Đó rốt cuộc là ai vậy?”

Diệp Thu Vi nói: “Tiêu Tiểu Yến im lặng một lát rồi liền thở dài đáp: “Anh ta là một phó giám đốc dưới quyền chồng em, tên là Hà Ngọc Bân. Em cũng không rõ tại sao mình lại nằm mơ một giấc mơ kỳ quặc như thế nữa, em chỉ từng gặp anh ta một lần thôi mà.“.” Diệp Thu Vi hơi dừng lại một chút, đồng thời đưa mắt qua nhìn tôi, sau đó mới nói tiếp: “Nghe kể đến đây, tôi về cơ bản đã hiểu được ẩn ý bên trong giấc mơ đó rồi.”

Tôi im lặng chờ nghe cô ta tiếp tục phân tích.

”Giờ tôi sẽ lần lượt phân tích từng chi tiết.” Cô ta nói. “Đầu tiên là vấn đề hình tượng trong giấc mơ, tại sao cô ta lại nằm mơ thấy mình là bác sĩ, còn Triệu Hải Thời là bệnh nhân? Điều này nhất định là sự tượng trưng cho một mối quan hệ nào đó giữa hai người, chẳng hạn như không có bác sĩ thì bệnh nhân sẽ không thể sống tiếp được. Trong tiềm thức, Tiêu Tiểu Yến cho rằng nếu không có cô ta, Triệu Hải Thời sẽ khó lòng sống tiếp. Hoặc cũng có thể suy nghĩ từ một góc độ khác, sự xuất hiện của bác sĩ sẽ làm tăng lòng tự tin của bệnh nhân, cho nên có lẽ Tiêu Tiểu Yến nghĩ rằng mình có thể làm Triệu Hải Thời tự tin hơn. Lại suy nghĩ từ một góc độ khác nữa, mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân xưa nay vẫn luôn là tiêu điểm của xã hội, Tiêu Tiểu Yến rất có thể đã bị ám thị bởi một số tin tức thời sự, và điều này có lẽ là một sự tượng trưng cho mối quan hệ căng thẳng giữa cô ta và chồng cô ta. Ba loại tâm lý vô thức này đều có khả năng tồn tại, thậm chí còn có khả năng đồng thời tồn tại, và tôi nhất định phải làm cho rõ mọi điều, bởi lẽ vai trò của Triệu Hải Thời trong giấc mơ chính là cơ sở để tôi làm sáng tỏ ý nghĩa của giấc mơ này.”

Tôi hỏi: “Cô đã làm như thế nào?”

Cô ta lại đi thêm mấy bước nữa rồi mới nói: “Trong cuộc trò chuyện vu vơ sau đó, tôi giả bộ vô tình nhắc tới một việc - đương nhiên cũng chỉ là do tôi bịa ra thôi - đó là không lâu trước đây một người bạn của tôi đã qua đời vì khó sinh, may mà còn giữ được đứa bé, thế rồi chồng của bạn tôi đã dẫn theo rất nhiều người đến bệnh viện gây sự, còn đánh cho mấy bác sĩ ở khoa Phụ sản bị thương, cuối cùng bệnh viện đã chấp nhận bồi thường cho yên chuyện.”

”Xem ra cô muốn nghe sự đánh giá của cô ta về mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân trong thời buổi bây giờ rồi”. Tôi khẽ gật đầu, sau đó hỏi: “Cô ta đã nói như thế nào?”

Diệp Thu Vi dừng chân, kể tiếp: “Cô ta không chút nghĩ ngợi nói ngay: “Hiện giờ quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân quả thực đang vô cùng căng thẳng, vấn đề về cơ bản là do bệnh nhân và người nhà của bệnh nhân còn chưa đủ hiểu về công việc của bác sĩ. Đã làm bác sĩ thì có ai mà không muốn dốc hết sức mình chữa khỏi cho người bệnh, nhưng có một số vấn đế trình độ y học bây giờ vẫn chưa thể nào giải quyết. Cứ như chị bạn của chị chẳng hạn, sinh đẻ khi lớn tuổi vốn đã rất nguy hiểm, xảy ra chuyện đương nhiên không thể hoàn toàn trách bác sĩ, nói không chừng vị bác sĩ phụ trách đỡ đẻ đó còn buồn hơn cả chồng chị ta ấy chứ.” Rồi cuối cùng cô ta lại thở dài nói tiếp: “Tóm lại, bệnh nhân vẫn nên thông cảm cho bác sĩ một chút thì hơn.“.”

Tôi nhanh chóng hiểu ra. “Trong tiềm thức của cô ta, bác sĩ đại diện cho những con người luôn tận tụy với công việc, còn bệnh nhân thì lại thiếu sự thấu hiểu đối với bác sĩ. Từ chi tiết này có thể nhận ra, mối quan hệ giữa cô ta và Triệu Hải Thời có lẽ đang tồn tại một vấn đề tương tự như vậy.”

”Cô ta cho rằng mình đã hết sức tận tụy với chồng, nhưng chồng lại không hiểu gì về cô ta.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Trong giấc mơ, cô ta cố hết sức gắp lũ dòi ra khỏi cơ thể Triệu Hải Thời, nhưng Triệu Hải Thời lại bảo cô ta về văn phòng chơi, đây chính là một minh chứng rõ ràng nhất.” Hơi dừng một chút, cô ta nói tiếp: “Giờ đã làm rõ vấn đề này rồi, tôi sẽ tiếp tục phân tích nhân tố quan trọng tiếp theo, đó là lũ dòi ở trong co thể Triệu Hải Thời.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi mới nói: “Hai lần nằm mơ, cô ta đều mơ thấy dòi, xem ra sự ảnh hưởng của dòi đối với tiềm thức của cô ta vô cùng sâu sắc. Liệu có khi nào cô ta đã từng phải chịu một sự ám thị hay kích thích gì đó có liên quan đến dòi không? Điều này có lẽ cô cũng cần làm rõ chứ nhỉ?”

”Đương nhiên.” Diệp Thu Vi nói. “Cũng trong cuộc trò chuyện vu vơ đó, chúng tôi còn nói tới cả giấc mơ của cô ta. Tôi hỏi: “Sao em cứ suốt ngày nằm mơ thấy dòi vậy? Không cảm thấy ghê tởm ư?” Cô ta đáp: “Chính vì cảm thấy ghê tởm cho nên em mới nằm mơ thấy chúng đấy chứ.” Tiếp đó, cô ta lại kể với tôi một chuyện, đó là hồi cuối tháng 8 năm 2004, cô ta đến bệnh viện để chờ ngày sinh nở, sau khi sinh xong thì mẹ chồng cô ta ngày ngày đều nấu canh gà, canh cá mang đến cho cô ta uống tẩm bổ, lúc đó cô ta cảm thấy rất hạnh phúc. Đến trung tuần tháng Chín thì cô ta trở về nhà, ngay lập tức đã cảm thấy có cái gì đó không đúng lắm, vì lúc nào cũng ngửi thấy một thứ mùi rất khó chịu. Sau khi hết thời gian ở cữ, cô ta lập tức đi tìm kiếm nguồn gốc của thứ mùi khó chịu đó. Ở trong phòng bếp, cô ta phát hiện ra năm, sáu túi rác không được buột chặt, mới mở ra xem thì đã không kìm được nôn thóc, nôn tháo hết những thứ trong bụng ra ngoài, bởi lẽ trong những chiếc túi đó toàn là xương gà với xương cá còn dính lại một ít thịt, tuy đã sắp sang tháng Mười rồi, nhưng trong túi vẫn bò nhung nhúc vô số những con dòi lớn nhỏ khác nhau. Hóa ra mẹ chồng cô ta rất mê tín, cho rằng lũ gà với lũ cá bị ăn thịt trong thời gian ở cử đều mang lòng oán giận, nếu giữ lại xương thì sẽ không tốt cho đứa bé, cần đợi hết thời gian ở cữ thì mang đi đốt cả thể, do đó mới tạm thời cất ở trong nhà. Tiêu Tiểu Yến biết là mẹ chồng mình không có ác ý, nhưng giữa mẹ chồng nàng dâu rốt cuộc vẫn nảy sinh một chút rạn nứt trong mối quan hệ. Sau này cứ mỗi lần giận mẹ chồng hoặc là Triệu Hải Thời, cô ta đều không kìm được nghĩ đến lũ dòi trong túi rác, và chuyện này đã dần trở thành một nỗi ám ảnh không thể nào xua tan được trong lòng cô ta. Tôi cho rằng, trong tiềm thức của Tiêu Tiểu Yến, dòi là vật tượng trưng cho tất cả các tâm trạng tiêu cực có liên quan tới chuyện hôn nhân của cô ta.”

Tôi khẽ gật đầu, nói: “Trong giấc mơ đầu tiên, trên những chiếc nhẫn kim cương bò đầy dòi, điều này thể hiện rằng hôn nhân tuy mang lại sự sung túc về vật chất cho cô ta, nhưng đồng thời còn khiến cô ta phải chịu áp lực tinh thần rất lớn. Trong giấc mơ thứ hai, việc trong người Triệu Hải Thời có đầy dòi rốt cuộc là mang ý nghĩa gì đây?”

“Ở đây có một điểm cần phải chú ý, đó là trong giấc mơ thứ hai Tiêu Tiểu Yến không hề sợ lũ dòi đó chút nào, hơn nữa cũng không cảm thấy chúng ghê tởm.” Diệp Thu Vi vừa đi về phía trước vừa tiếp tục phân tích: “Đây là một chi tiết tâm lý rất đặc biệt. Theo cách hiểu của tôi thì lũ dòi trong giấc mơ thứ hai vẫn tượng trưng cho áp lực và nỗi phiền muộn do hôn nhân mang lại, tuy nhiên, những thứ này đều thuộc loại mà cô ta có thể né tránh.”

”Cô ta có thể né tránh ư?” Tôi cố gắng nhớ lại nội dung của giấc mơ đó một chút, rồi bèn nói: “Tôi hiểu rồi, lũ dòi đó ở trong cơ thể Triệu Hải Thời, cho nên chúng kỳ thực tượng trưng cho nỗi áp lực và nỗi phiền muộn mà Triệu Hải Thời phải chịu. Trong tiềm thức, Tiêu Tiểu Yến hy vọng có thể giúp đỡ chồng mình, vậy nhưng lại ngầm mang tâm lý né tránh, do đó ở trong giấc mơ, Triệu Hải Thời mới không phải là chồng của cô ta.”

”Hoàn toàn chính xác.” Diệp Thu Vi ngoảnh đầu nhìn tôi. “Nói tiếp về giấc mơ kia nhé. Trong giấc mơ, Triệu Hải Thời bảo Tiêu Tiểu Yến không cần để tâm đến mình, cứ về văn phòng mà chơi. Điều này không có gì khó hiểu, vì trong cuộc sống hiện thực, Triệu Hải Thời không cần vợ chia sẻ áp lực với mình, nguyên nhân là anh ta độc đoán, máu lạnh, còn tôn thờ chủ nghĩa đàn ông, không muốn để phụ nữ xen vào việc của mình.”

Tôi lập tức gật đầu lia lịa.

”Yếu tố cần chú ý tiếp theo là bánh bao chay.” Diệp Thi Vi chậm rãi đi về phía trước. “Thứ này thì rất dễ hiểu. Tiêu Tiểu Yến tuy không béo, thế nhưng bầu ngực lại rất đầy đặn, mà kiểu ngực cũng rất đẹp nữa. Tuy chỉ mới tiếp xúc được ba ngày, nhưng tôi đã có thể cảm nhận được rõ ràng là cô ta hết sức kiêu hãnh về bầu ngực của mình. Sự kiêu hãnh của phụ nữ về thân thể của mình có liên quan mật thiết đến lời khen của chồng, do đó, tôi đoán Triệu Hải Thời nhất định là thường xuyên khen cô ta, có lẽ còn dùng một số thứ khác để ví von nữa, chẳng hạn như là nói ngực của cô ta vừa to vừa mềm, giống như một cặp bánh bao chay trắng muốt vậy.”

Tôi không kìm được đưa mắt liếc nhìn bầu ngực của Diệp Thu Vi, có điều rất nhanh sau đó đã bình tĩnh trở lại, tiếp lời: “Bánh bao chay tượng trưng cho ngực của Tiêu Tiểu Yến, kỳ thực cũng tượng trưng cho cả tình dục nữa. Chắc hẳn Triệu Hải Thời không để cho vợ xen vào việc của mình, chỉ yêu cầu cô ta làm tốt nghĩa vụ cơ bản của một người vợ, đó là thoả mãn như cầu tình dục của anh ta.”

”Đấy có lẽ chỉ là suy nghĩ cực đoan của riêng Tiêu Tiểu Yến mà thôi.” Diệp Thu Vi nói. “Thấy chồng không để cho mình xen vào chuyện của anh ta, cô ta liền vô thức cảm thấy mình chẳng qua chỉ là công cụ để anh ta thoả mãn nhu cầu tình dục.”

Tôi tỏ ý tán đồng, sau đó lại ra dấu mời cô ta tiếp tục phân tích.

Cô ta nói tiếp: “Kế đó, Hà Ngọc Bân xuất hiện trong hình tượng một bác sĩ nam. Anh ta ném mấy con rắn vào trong cơ thể Triệu Hải Thời, thế là đám dòi trong có thể Triệu Hải Thời lập tức biến mất. Ngay sau đó, lũ rắn lại đột ngột cắn vào trái tim của Triệu Hải Thời. Muốn phân tích hiện tượng này, trước tiên cần làm rõ ý nghĩa tượng trưng của rắn đối với Tiêu Tiểu Yến đã, thế là tôi bèn hỏi: “Tiểu Yến, em sợ rắn lắm à?” Cô ta đáp: “Đương nhiên là sợ rồi, em còn từng bị rắn cắn đấy.” Tôi lập tức truy hỏi nguồn cơn, cô ta liền kể lại chuyện mà mình từng gặp hồi nhỏ. Hóa ra, hồi nhỏ cô ta sống cùng cha mẹ ở ngoại ô thành phố, phía sau nhà có mấy cái ao, bên bờ ao là một khu ruộng lúa mạch lớn, xung quanh còn mọc đầy cỏ dại, do đó có rất nhiều các loại sâu bọ rắn rết sinh sống. Năm Tiêu Tiểu Yến lên bảy tuổi, có một hôm cha mẹ đều đã đi làm, cô ta ngồi một mình trong nhà xem ti vi, đột nhiên phát hiện bên dưới bàn trà có một con rắn xanh nhỏ. Khi đó, cô ta cứ ngỡ đó là một sợi dây thừng, thế là bèn tò mò đưa tay sờ thử, nào ngờ con rắn đột nhiên quay đều cắn một nhát vào cánh tay cô ta, sau đó liền chui vào trong phòng ngủ của cha mẹ cô ta. Cô ta khóc thét lên rồi chạy ra ngoài cửa, sau đó nhanh chóng được hàng xóm đưa đến bệnh viện. May mà con rắn đó không có độc, bác sĩ chỉ băng bó sơ qua cho cô ta một chút rồi liền nói là không có vấn đề gì. Tối đến, cha me cô ta đã lục tung cả nhà lên, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng con rắn lục đó đâu. Kể từ đó về sau, Tiêu Tiểu Yến chẳng đêm nào được ngủ ngon, cứ luôn cảm thấy dưới gầm giường của mình có rắn, mãi đến sau này dọn nhà rồi, nỗi ám ánh này của cô ta mới từ từ giảm bớt. Khi nói đến rắn, cô ta đã hình dung bằng những lời như thế này: nham hiểm, giỏi ẩn nấp, ra đòn tàn độc.”

Tôi che bút ghi âm lại, khẽ ho lên một tiếng.

”Trong giấc mơ, lũ rắn đó là do Hà Ngọc Bân mang đến.” Một lát sau đó, Diệp Thu Vi mới lại tiếp tục phân tích: “Điều này chứng tỏ trong tiềm thức của Tiêu Tiểu Yến, Hà Ngọc Bân là một con người nham hiểm tàn độc. Nhưng Tiêu Tiểu Yến mới chỉ từng gặp Hà Ngọc Bân một lần thôi, tại sao lại có ấn tượng như vậy về anh ta chứ?”

”Triệu Hải Thời.” Tôi nói. “Nhất định là vì một số lời nói nào đó mà cô ta từng nghe được từ miệng Triệu Hải Thời.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi dừng chân lại. “Lũ rắn mà Hà Ngọc Bân mang đến đã cắn vào trái tim của Triệu Hải Thời, mà trái tim lại là vật tượng trưng cho sinh mệnh, cho nên hiện tượng này có thể nói là một sự ám thị hết sức rõ ràng đó là sự nham hiểm, tàn độc của Hà Ngọc Bân rất có thể sẽ lấy đi tính mạng của Triệu Hải Thời.”

Tôi nói ra sự lý giải của mình: “Dòi có lẽ chỉ tượng trưng cho những rắc rối nhỏ, còn rắn thì mới tượng trưng cho những mối uy hiếp lớn. Lũ dòi đó nhất định là không thực sự biến mất, chúng chẳng qua chỉ bị che khuất bởi mối uy hiếp do mấy con rắn kia mang lại mà thôi.”

”Hoàn toàn chính xác.” Diệp Thu Vi nhìn tôi, trong mắt thoáng qua một tia kinh ngạc. “Đến lúc này, tôi đã có thể tổng kết được rồi. Theo như những điều kể trên, Triệu Hải Thời ắt hẳn vẫn luôn bị vướng bận bởi nỗi phiền muộn nào đó, nỗi phiền muộn này có thể là một rắc rối nhỏ trong sự nghiệp, cũng có thể là một nguy cơ tiềm ẩn trong những mối quan hệ. Lũ dòi gắp mãi không hết, điều này chứng tỏ nỗi phiền muộn của anh ta rất khó đẻ xóa bỏ hoàn toàn, nhưng cùng với đó, nó kỳ thực chỉ có thể gây ra một chút rắc rối cho anh ta mà thôi, không phải là điều gì đó quá nguy hiểm. Tiêu Tiểu Yến muốn hiểu chồng mình hơn, cũng muốn giúp đỡ anh ta về mặt sự nghiệp, nhưng Triệu Hải Thời lại không cho phép vợ xen vào chuyện của mình, điều này khiến Tiêu Tiểu Yến cảm thấy mình chỉ là công cụ để chồng thỏa mãn nhu cầu tình dục. Vì nguyên nhân nào đó, Hà Ngọc Bân có thể gây ra một sự uy hiếp cực lớn với Triệu Hải Thời, mà sự uy hiếp này rất có thể là trí mạng. Sau khi lũ rắn cắn vào trái tim của Triệu Hải Thời, Hà Ngọc Bân liền ôm hôn Tiêu Tiểu Yến, hành động này cũng mang một ý nghĩa tượng trưng vô cùng đặc biệt, nó thể hiện rằng sau khi Triệu Hải Thời bị rắn cắn chết, Tiêu Tiểu Yến không thể nào tự nắm giữ vận mệnh của mình.”

Tôi trầm ngâm nói: “Trong đầu có loại tư tưởng rằng chồng chết thì vợ sẽ bị người ta ức hiếp, xem ra Tiêu Tiểu Yến quả thực rất phụ thuộc vào chồng. Ngoài ra, điều này còn chứng tỏ Hà Ngọc Bân quả thực có thể gây ra một sự uy hiếp trí mạng nào đó cho Triệu Hải Thời.”

”Bọn họ thuộc cùng một bộ phận, Triệu Hải Thời là giám đốc, còn Hà Ngọc Bân chỉ là phó giám đốc, liệu có thể gây ra uy hiếp gì cho cấp trên được đây?” Diệp Thu Vi phân tích. “Lẽ nào là sự uy hiếp về vấn đề thay đổi chức vụ? Nhưng Triệu Hải Thời có mối quan hệ rất rộng ở Công ty E, thậm chí là cả Tập đoàn A nữa, cho nên khả năng này xem chừng không lớn. Huống chi nếu đó là sự uy hiếp về phương diện này, tại sao Tiêu Tiểu Yến lại không dám trực tiếp nói rõ ra? Cho nên theo phán đoán của tôi, sự uy hiếp mà Hà Ngọc Bân có thể gây ra cho Triệu Hải Thời nhất định thuộc loại không thể công khai ra ngoài ánh sáng, hơn nữa còn có liên quan tới một số bí mật nào đó của Triệu Hải Thời.”

“Bí mật của Triệu Hải Thời?” Tôi cúi đầu suy nghĩ, thế rồi bất giác cả kinh. “Phải chăng chính là chuyện mua bản báo cáo nghiên cứu kia?”

”Đây là bí mật duy nhất có liên quan tới Triệu Hải Thời mà tôi biết. Bí mật này có mối liên quan rất rộng, hoàn tòan có thể trở thành công cụ để người khác uy hiếp Triệu Hải Thời.” Diệp Thu Vi cất giọng hờ hững. “Cứ thử giả thiết một chút xem sao nhé, nếu sự uy hiếp mà Hà Ngọc Bân có thể gây ra cho Triệu Hải Thời thực sự có liên quan tới việc này, vậy chúng ta có thể thu được những tin tức gì đây? Thứ nhất, Hà Ngọc Bân không hề tham gia vào cuộc giao dịch giữa Tập đoàn A và Đinh Tuấn Văn, vì nếu anh ta cũng là người tham gia thì không thể dùng điều này để tiến hành uy hiếp Triệu Hải Thời được, và thậm chí khi đó bọn họ còn là những người trên cùng một con thuyền.Thứ hai, Hà Ngọc Bân tuy không tham gia nhưng nhất định đã thông qua một phương thức nào đó mà biết được chi tiết về cuộc giao dịch này, bao gồm cả những tin tức nội bộ mà tôi không hay biết. Bằng không, anh ta cũng không thể dùng việc này để uy hiếp Triệu Hải Thời được. Nói cách khác, nếu sự uy hiếp của Hà Ngọc Bân thực sự có liên quan tới việc mua bản báo cáo nghiên cứu kia, vậy thì trong sự kiện M, anh ta là một người biết chuyện nhưng không dại diên cho lợi ích của Tập đoàn A.”

Tôi lập tức hiểu ngay ra ý của cô ta. “Một người biết chuyện nhưng không đại diện cho lợi ích của Tập đoàn A…Như vậy xem ra cô có thể yên tâm tiếp xúc với anh ta, qua đó moi tin tức từ miệng anh ta rồi. Đối với bước điều tra tiếp theo của cô, anh ra rõ ràng là một sự lựa chọn không thể tốt hơn được nữa.”

”Có điều, tuy khả năng này là rất lớn, nhưng dù sao cũng chỉ được xây dựng trên một giả thiết mà thôi.” Diêp Thu Vi nói. “Tôi nhất định phải tìm được chứng cứ trùng khớp với sự suy đoán này, cho dù đó chỉ là một chi tiết nhỏ mà thôi. Bằng không, việc tùy tiện tiếp xúc với Hà Ngọc Bân vẫn là một nước cờ nguy hiểm.” Hơi dừng lại một chút, cô ta nhẹ nhàng xoay cổ, nói tiếp: “Nhưng may mà buổi tối hôm đó, chứng cứ mà tôi muốn tìm đã xuất hiện.”

Tôi nôn nóng hỏi: “Là chứng cứ gì vậy?”

“Là một người.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi với Tiêu Tiểu Yên hẹn nhau ra ngoài ăn cơm vào buổi tối, nhưng lúc gần sáu giờ, cô ta lại chợt nhận được điện thoại của Triệu Hải Thời. Triệu Hải Thời nói là buổi tối phải dẫn cô ta đi dự tiệc, còn cho người lái xe đến phòng tập thể thao để đón cô ta nữa. Tôi vốn định đi bộ về, nhưng Tiêu Tiểu Yến lại nhất quyết đòi đưa tôi về. Đúng sáu giờ, một chiếc SUV (*) màu den dừng lại bên ngoài phòng tập thể thao, tài xế là một người đàn ông ngoài hai mươi tuổi, mặc một chiếc áo phông tay ngắn, trên tay trái còn có mấy vết sẹo, trong đó có một vết rất sâu, ngoài ra ánh mắt của anh ta đục ngầu, mang vẻ dữ dằn rất rõ, vừa nhìn đã biết là một người nóng tính. Sau khi xuống xe, anh la khom người thật sâu trước Tiêu Tiểu Yến, sau đó gọi một tiếng “chị”.”

(*). Viết tắt của từ tiếng Anh Sport Utility Vehicle, tức xe thể thao đa dụng, là một loại xe gia đình với khung xe là khung xe tải nhẹ. Loại xe này ban đầu rất được ưa chuộng ở Mỹ, sau đó lan truyền qua châu Âu và các nước khác – ND.

Tôi vẫn đang chìm đắm trong sự miêu tả của cô ta về người đàn ông có vẻ như là dân xã hội đen đó, thế là không kìm được buột miệng hỏi: “Sao anh ta lại không gọi là chị dâu nhỉ?”

”Cho nên, tôi đoán anh ta và Tiêu Tiểu Yến nhất định là có mối quan hệ không tầm thường, có thể còn là họ hàng của nhau nữa.” Diệp Thu Vi nói. “Quả nhiên, Tiêu Tiểu Yến rất nhanh đã giới thiệu với tôi, người này là con trai của cậu hai cô ta, tên là Lý Cương, bấy lâu nay vẫn luôn đi theo làm việc cho Triệu Hải Thời.”

”Lý Cương.” Tôi cảm thấy cái tên này hình như rất quen.

”Anh ta là em họ của Tiêu Tiểu Yến, lại đi theo làm việc cho Triệu Hải Thời, cho nên nhất định là được hai vợ chồng bọn họ hết sức tin tưởng.” Diệp Thu Vi nói. “Khi đó, tôi lập tức nghĩ đến hai khoản tiền đầu tiên mà Đinh Tuấn Văn nhận được, vì người gửi tiền chính là Lý Cương. Triệu Hải Thời đại diện cho Công ty E đi đàm phán với Đinh Tuấn Văn, rất có thể cũng phụ trách cả việc giao dịch sau đó nữa. Sáu triệu nhân dân tệ không phải là một khoản tiền nhỏ, người sở hữu tài khoản dùng trong giao dịch nhất định phải là một người rất được Triệu Hải Thời tin tưởng. Do đó, người tên Lý Cương đến đón tôi và Tiêu Tiểu Yến tối đó rất có thể cũng chính là Lý Cương đã chuyển tiền cho Đinh Tuấn Văn.”

Trong lòng tôi dâng lên một cảm giác lạ thường, cứ như thể mình trước đây đã từng gặp Lý Cương ở đâu đó rồi thì phải.

Diệp Thu Vi lại tiếp tục phân tích: “Trong cả hai lẩn chuyẩn khoản, Lý Cương đều cần tự mình đứng ra làm thủ tục, do đó, cho dù Triệu Hải Thời có muốn giấu giếm các chi tiết trong cuộc giao dịch thì cũng khó tránh khỏi bị Lý Cương phát giác ra một số điều. Theo phán đoán của tôi, anh ta rất có thể sẽ là một nhân vật mấu chốt trong cuộc điều tra này, nhưng mọi chuyện vẫn còn cần quan sát thêm mới được.”

Tôi hỏi: “Về sau qua anh ta cô có phát hiện ra được điều gì không?”

”Chứng cứ.” Diệp Thu Vi nói. “Đúng như tôi đã nói trước đó, trong sự kiện M, Hà Ngọc Bân là một người tuy biết chuyện nhưng không hề đại diện cho lợi ích của Tập đoàn A, và phán đoán này chính là nhờ vào Lý Cương nên mới được chứng thực.”

Tôi nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

Diệp Thu Vi hờ hững kể tiếp: “Buổi tối hôm đó khi ngồi trên xe, tôi cố ý tập trung nói về Lý Cương, từ đó có được một sự hiểu biết sơ bộ về anh ta. Lý Cương sinh năm 1985, còn chưa học hết trung học cơ sở thì đã bỏ học, từng đi nơi khác làm công nhân được hai năm. Năm 2003, dưới sự giúp đỡ của Triệu Hải Thời, anh ta được vào làm việc trong Công ty E, trở thành một công nhân sản xuất. Đầu năm 2004, anh ta đánh nhau một trận với quản đốc phân xưởng, sau vụ việc cả hai nguời đều bị sa thải. Khi đó Triệu Hải Thời vừa mới thành lập một công ty bảo lãnh(*), thế là bèn sắp xếp cho Lý Cương tới đó làm việc. Lý Cương rất to gan, mặt mũi thì dữ dằn, lại dám chịu trách nhiệm, do đó chẳng bao lâu sau đã nhận được sự tin tưởng và coi trọng của Triệu Hải Thời.”

(*). Công ty bảo lãnh là một loại hình công ty khá phổ biến ở Trung Quốc, về bản chất, công việc của họ là thẩm định hồ sơ rồi đứng ra bảo lãnh cho những người muốn vay tiền có thế vay được tiền của ngân hàng. Nếu người vay tiền không thể hoàn trả nợ, bọn họ sẽ phải chịu trách nhiệm về khoản nợ này với ngân hàng - ND.

Tôi lẳng lặng gật đầu, đồng thời không kìm được nghĩ về bản thân: Hồi mới tốt nghiệp đại học, gia đình đột nhiên xảy ra một phen biến cố, thế là tôi không thể không đối mặt với những áp lực khổng lồ tới từ ngoài xã hội, mà các khoản vay nặng lãi chính là ngọn nguồn của một trong số những áp lực đó. Những năm gần đây, cảnh tượng phồn vinh giả tạo của nền kinh tế đã thổi bùng lên thói quen vay mượn của người dân, các công ty bảo lãnh lớn nhỏ nhìn thấy cơ hội thì mọc lên như nấm, việc này tuy thúc đẩy sự lưu động của dòng tiền trong dân chúng nhưng đồng thời cũng gây ra một mối họa ngầm không thể xem nhẹ cho xã hội, đó là dưới sự bức bách của lãi suất quá cao, hiện tượng người vay tiền không đủ sức trả nợ xuất hiện rất nhiều. Có rất nhiều công ty bảo lãnh đã cấu kết với xã hội đen, hoặc thậm chí chính bản thân cũng mang tính chất xã hội đen, bọn họ thường xuyên bất chấp thủ đoạn để có thể đòi được nợ, rất nhiều con nợ vì thế mà bị ép vào đường cùng. Những vụ phạm tội vì nguyên nhân này ngày càng xảy ra nhiều hơn, thậm chí có một thời gian còn từng trở thành hiện tượng khá phổ biến trong xã hội.

Từ lời kể của Diệp Thu Vi mà xét, nhiệm vụ của Lý Cương có lẽ chính là làm những công việc chẳng mấy sạch sẽ cho công ty bảo lãnh kia.

Tuy việc trong nhà sớm đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng khi nghĩ tới chuyện này, trong lòng tôi vẫn không khỏi dâng lên cảm giác hoảng loạn. Tôi cố gắng nhớ lại diện mạo của cha mẹ mình, vậy nhưng trong đều rốt cuộc vẫn chỉ xuất hiện những hình ảnh mơ hồ về họ mà thôi.

”Anh Trương?” Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt sắc bén, khóe môi hơi run lên một chút. “Anh không sao chứ?”

Tôi hít sâu một hơi, tức thì tỉnh táo trở lại. “Thật xấu hổ quá, vừa rồi tôi có hơi phân tâm. Xin hãy tiếp tục đi, trong quá trình quan sát Lý Cương, cô đã có phát hiện gì?”

Diệp Thu Vi nhìn thẳng vào mắt tôi một lát, rồi khẽ gật đầu, kể tiếp: “Trên đường, ngoài Lý Cương ra, chúng tôi tất nhiên cũng nói tới cả Triệu Hải Thời nữa. Tiêu Tiểu Yến kể, năm xưa sở dĩ Lý Cương đánh nhau với tay quản đốc phân xưởng kia cũng là vì đối phương có mâu thuẫn với Triệu Hải Thời, Triệu Hải Thời sớm đã muốn tìm cách xử lý người này rồi. Hành vi của Lý Cương khi đó kỳ thực chính là để giúp anh rể trút giận, thế nên về sau Triệu Hải Thời mới xem trọng anh ta như thế. Tiếp đến, Tiêu Tiểu Yến bắt đầu liệt kê ra những ưu điểm của Lý Cương, lại kể rằng anh ta trung thành với Triệu Hải Thời đến cỡ nào, còn Triệu Hải Thời thì tin tưởng và quan tâm tới anh ta biết bao nhiêu. Khi cô ta nói ra những lời này, tôi vẫn luôn quan sát vẻ mặt của Lý Cương qua gương chiếu hậu. Vì nguyên nhân vị trí ngồi, tôi chỉ có thể nhìn thấy phần khuôn mặt từ mũi trở xuống cùng với cổ của Lý Cương, nhưng như thế cũng đủ để tôi phân tích nội tâm của anh ta rồi. Tôi để ý thấy cứ mỗi khi Tiêu Tiểu Yến nói đến sự trung thành của anh ta với Triệu Hải Thời là anh ta lại vô thức đưa tay phải lên sờ cổ của mình, hoặc cũng có thể nói là ấn, vì anh ta thực sự dùng sức rất mạnh.”

Tôi vừa thử đưa tay lên ấn mạnh vào cổ của mình, vừa tò mò hỏi: “Hành vi này chứng tỏ điều gì?”

”Áp lực.” Diệp Thu Vi giải thích. “Phần cổ con người từ cằm trở xuống, từ trái cổ trở lên là nơi các tế bào thần kinh tập trung dày đặc, cũng là một trong số các vị trí nhạy cảm nhất, phức tạp nhất trong cơ thể con người. Tôi lấy một ví dụ thế này, chỗ chếch lên một chút ở hai bên trái cổ có một cơ quan động mạch tên gọi là động mạch cảnh xoang (internal carotid sinus), trên thành bên trong của động mạch cảnh xoang có tồn tại một lượng lớn đầu mút thần kinh cảm giác. Khi huyết áp trong động mạch tăng cao, đầu mút của thần kinh cảm giác sẽ làm nảy sinh sự hưng phấn, từ đó mở rộng mạch máu và dùng phưong thức phản xạ thần kinh để làm giảm nhịp tim, ngăn không cho huyết áp tăng thêm nữa. Lại có một ví dụ khác thế này, ở cổ tồn tại một nhánh của thần kinh phế vị chạy dài xuống đến tận lồng ngực, có công năng điều tiết hoạt động của tim cùng với hệ thống thần kinh tim. Khi chúng ta xoa bóp cổ có thể kích thích nhánh thần kinh phế vị này, từ đó làm giảm nhịp tim, huyết áp cũng sẽ theo đó mà giảm xuống.”

Cho dù không hiểu lắm vể nguyên lý, nhưng về cơ bản tôi cũng hiểu được cô ta muốn nói gì. “Ý của cô là hành động sờ vào vùng cổ từ cằm trở xuống, từ trái cổ trở lên có tác dụng làm giảm nhịp tim và huyết áp đúng không? Phải chăng điều này chứng tỏ rằng lúc ấy Lý Cương đã bị tăng nhịp tim và huyết áp vì một nguyên nhân nào đó?”

”Đúng vậy.“ Diệp Thu Vi nói. “Một người bình thường mà đột nhiên lại bị tăng nhịp tim và huyết áp thì chỉ có thể là bởi hai nguyên nhân, hoặc là đang hưng phấn, hoặc là đang căng thẳng. Lý Cương đi theo Triệu Hải Thời đã được năm năm, lại là em họ của Tiêu Tiểu Yến, hoàn toàn chẳng có lý do gì để hưng phấn đến như vậy chỉ bởi một vài câu khen ngợi của Tiêu Tiểu Yến. Hơn nữa, nếu anh ta cảm thấy hưng phấn vì được khen, vậy thì trên mặt ít nhiều gì cũng phải xuất hiện một chút vẻ tươi cười mới đúng, vậy nhưng tôi lại chẳng nhìn thấy nét cười nào trên khóe miệng của anh ta cả. Cho nên, anh ta đưa tay sờ cổ như thế nhất định là bởi vì căng thẳng.”

Tôi không kìm được buột miệng hỏi: “Tại sao anh ta lại phải căng thẳng chứ?”

Diệp Thu Vi hỏi ngược lại: “Anh hãy thử nghĩ xem, nhân được sự khen ngợi như thế nào thì con người ta sẽ cảm thấy căng thẳng?”

”Thường là khi được lãnh đạo khen.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói thêm: “Hoặc cũng có thể là khi nhận được những lời khen không đúng với sự thật...” Nói tới đây, tôi đột ngột hiểu ra Diệp Thu Vi muốn nói gì. “Ý cô là anh ta không hoàn toàn trung thành với Triệu Hải Thời ư?”

”Khả năng này là rất lớn, nhưng chỉ dựa vào một cử chỉ nhỏ như thế thì vẫn chưa thể đưa ra kết luận được.” Diệp Thu Vi nói. “Nhưng rất nhanh sau đó tôi đã phát hiện ra thêm một số chi tiết mới có giá tri, đó là cứ mỗi khi Tiêu Tiểu Yến nói tới việc Triệu Hải Thời tin tưởng Lý Cương đến cỡ nào, đối tốt với Lý Cương đến cỡ nào, đôi vai của Lý Cương lại hơi rung lên, môi thì mím chặt tựa như đang cười lạnh, đồng thời khẽ “ừm” một tiếng.”

”Ừm một tiếng?” Tôi cảm thấy không hiểu lắm về chi tiết này.

”Anh Trương.” Cô ta đi tiếp thêm một bước, bình thản nói: “Anh đã bao giờ gặp phải một tình cảnh như thế này chưa? Đó là có một người hào hứng nói với anh rất nhiều điều, nội dung thì toàn là những lời mà anh không muốn nghe hoặc là không thích nghe, vậy nhưng xuất phát từ phép lịch sự, anh lại không tiện cắt ngang lời của người đó.”

”Tất nhiên là từng gặp rồi.” Tôi nói. “Thường thì khi lãnh đạo phê bình nhưng lời phê bình đó không hợp lý, tôi sẽ có cảm giác tương tự như vậy.”

”Vậy anh hay phản ứng như thế nào?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi đáp: “Chỉ tùy tiện đáp “ừm” qua loa mấy tiếng cho xong...” Còn chưa dứt lời, tôi đã hiểu được ý của cô ta.

”Đúng thế.” Cô ta đưa hai tay lên, lặng lẽ chỉnh lại gọng kính một chút. “Lý Cương khi đó cũng đã đáp lại bằng những tiếng “ừm” qua loa như vậy. Khi một người phụ nữ không muốn để tâm đến lời bắt chuyện của đàn ông, khi một đứa trẻ nghịch ngợm không muốn nghe sự trách mắng của cha mẹ, họ thường sẽ đáp lại đối phương bằng giọng điệu này. Giọng điệu này thể hiện một thái độ không tán đồng, thậm chí là khinh miệt đối với lời của người đang nói.”

Tôi hít sâu một hơi, tò mò hỏi: “Tiêu Tiểu Yến không nhận ra điều này ư?”

”Giọng điệu này của Lý Cương cô ta nhất định đã từng nghe qua không chỉ một lần.” Diệp Thu Vi nói. “Ban đầu có lẽ cô ta còn cảm thấy mới lạ, nhưng sau khi quen rồi thì sẽ không quá để tâm nữa. Nhưng tôi có thể khẳng định, bản thản Lý Cương không hề tán đồng quan điểm Triệu Hải Thời tin tưởng anh ta, thậm chí là cực kỳ không tán đồng. Mà điều này rất có thể chính là nguyên nhân căn bản khiến anh ta không hoàn toàn trung thành với Triệu Hải Thời.”

Chỉ dựa vào mấy câu nói cùng mấy cử chỉ nhỏ, không ngờ cô ta lại có thể vạch trần nội tâm của một con người như thế.

Tôi lập tức gật đầu lia lịa, hỏi: “Sau đó thì sao? Việc Lý Cương bất mãn và không trung thành với Triệu Hải Thời rốt cuộc đã trở thành chứng cứ để cô xác định thân phận của Hà Ngọc Bân như thế nào?”

Cô ta tiếp tục phân tích: “Theo như giả thiết trước đó, Hà Ngọc Bân là một người biết chuyện nhưng không hề đại diện cho lợi ích của Tập đoàn A. Tôi vẫn luôn suy nghĩ một vấn đề như thế này, anh ta vốn là người ngoài cuộc, làm sao lại có thể biết tới cuộc giao dịch giữa Tập đoàn A và Đinh Tuấn Văn đây?”

Tôi nghe ra cái ý ở ngoài lời của cô ta, bèn hỏi: “Cô cho rằng Lý Cương đã tiết lộ chuyện này cho anh ta biết ư?”

”Khi đó, dựa vào trực giác, tôi cho rằng khả năng này là rất lớn.”

”Nhưng đây chỉ là một phán đoán được đưa ra dựa trên một phán đoán khác mà thôi.” Tôi hiện giờ dường như đã quen với phương thức tư duy của Diệp Thu Vi rồi, “Tiếp đó, cô vẫn cần tìm thấy điểm trùng khớp trong hiện thực mới được.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi khoảng hai giây, sau đó mới lại nói tiếp: “Tôi cho rằng nếu điểm trùng khớp này thực sự tồn tại, vậy thì nó nhất định là nằm trên người Lý Cương.”

”Tức là sao?”

“Từ giọng điệu của Lý Cương mà xét, anh ta tuy có khá nhiều điều bất mãn, thế nhưng vẫn rất sợ Triệu Hải Thời. Cùng với đó, động tác đưa tay sờ cổ kia chứng tỏ rằng bất kể Lý Cương có câu kết với Hà Ngọc Bân hay không thì anh ta cũng đều đã từng làm ra một số hành vi nào đó không trung thành với Triệu Hải Thời. Rất hiển nhiên, anh ta không mong muốn Triệu Hải Thời biết được việc này, và đây cũng chính là nhược điểm tâm lý lớn nhất của anh ta.”

Tôi khẽ gật đều, trầm giọng nói: “Xem ra cô muốn đùng điều này để uy hiếp anh ta, từ đó moi ra những tin tức mà mình muốn biết.”

Diệp Thu Vi vẫn giữ nguyên vẻ mặt bình thản như trước. “Chiều ngày hôm sau, tôi đã tìm được số điện thoại của anh ta trong điện thoại của Tiêu Tiểu Yến.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Cô liên lạc với anh ta như thế nào? Gửi tin nhắn ư? Hay là dùng máy thay đổi giọng nói để gọi điện thoại?”

”Trước khi suy nghĩ xem nên liên lạc với anh ta như thế nào, tôi cần phải chuẩn bị đầy đủ trước mới được.” Diệp Thu Vi nói. “Trong vòng hai ngày sau đó, thông qua Tiêu Tiểu Yến, tôi đã có được sự hiểu biết sơ bộ về mấy trợ thủ của Triệu Hải Thời. Trợ thủ đắc lực nhất của Triệu Hải Thời - hoặc cũng có thể nói là nhân vật số hai trong tập đoàn của anh ta - tên là Dương Hải Bình. Dưong Hải Bình là người anh em tốt của Triệu Hải Thời từ nhỏ, hai người từng cùng đi đánh nhau, cùng bày hàng bán bên vỉa hè, cùng làm ăn buôn bán lặt vặt. Dương Hải Bình vốn tính tình nghĩa khí, đầu óc lại thông minh, do đó sau khi thành lập công ty bảo lãnh, Triệu Hải Thời đã để anh ta làm tổng giám đốc, cho toàn quyền quản lý mọi việc trong công ty. Kế đến, trợ thủ được Triệu Hải Thời tin tưởng nhất tên là Lý Tiểu An. Hồi năm 1992, Lý Tiểu An và Triệu Hải Thời từng cùng làm việc trong một công trường xây dựng, vì hợp tính nên đã trở thành bạn tốt của nhau. Về sau giàn giáo của công trình xây dựng đó bị đổ, Lý Tiểu An đã mạo hiếm cứu được Triệu Hải Thời, từ đó liền trở thành người được Triệu Hải Thời tin tưởng nhất. Sau khi trở thành quản đốc một phân xướng sản xuất của Công ty E, Triệu Hải Thời đã tìm cách đưa Lý Tiểu An vào làm việc trong phân xưởng đó, đến khi bản thân được thăng chức thành giám đốc bộ phận Thị trường, anh ta lại giúp Lý Tiểu An trở thành quản đốc phân xưởng, về sau thành lập công ty bảo lãnh, anh ta lại để Lý Tiểu An phụ trách quản lý các vấn đề về tài chính của công ty. Về mặt làm ăn, người được Triệu Hải Thời xem trọng nhất tên là Tào Dục Hoa. Tào Dục Hoa không chỉ có bằng thạc sĩ về kinh tế học, còn am hiểu rất nhiều kiến thức về luật pháp. Sau khi thành lập công ty bảo lãnh. Triệu Hải Thời đã bỏ ra một khoản tiền lớn mời Tào Dục Hoa về, để anh ta phụ trách các công việc mang tính chiến lược, từ đó giúp công ty thu được nhiều lợi ích nhất, đồng thời làm giảm rủi ro về mặt pháp luật xuống mức tối thiểu. Trong rất nhiều việc lớn, Triệu Hải Thời đều nghe theo ý kiến của anh ta, và theo như lời Tiêu Tiểu Yến nói thì Triệu Hải Thời tuy không thích học tập, bản thân cũng chẳng có bao nhiêu kiến thức, thế nhưng lại cực kỳ tôn trọng các nhân vật có trình độ học vấn cao. Ngoài ra, cô ta còn từng nhắc đến một việc, đó là đám đàn em của Triệu Hải Thời đều gọi anh ta là “anh Hải“.”

Tôi khẽ gật đầu, tỏ ý bảo cô ta kể tiếp.

”Thời điểm tôi làm rõ những tin tức này là ngày 25 tháng 7.” Diệp Thu Vi hờ hững nói. “Tối đó, tôi dùng số diện thoại mà trước đó đã chuẩn bị cho Trần Hy để gửi cho Lý Cương một tin nhắn, nội dung là: Tiểu Cương, nhưng việc cậu làm tôi đã biết cả rồi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 11-1: Sự kiện giết người qua những giấc mơ (2)


Type: Mều

Giấc mơ là nơi phơi bày sự ngụy trang của tiềm thức, giấc mơ càng hỗn loạn thì chứng tỏ sự ngụy trang của tiềm thức càng sâu sắc. Muốn phân tích một giấc mơ như vậy, trước tiên cần phải lột bỏ sự ngụy trang của tiềm thức, cũng tức là phải hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các sự vật chủ yếu trong giấc mơ.

Tôi hỏi: “Anh ta có phản ứng như thế nào?”

”Năm phút sau, anh ta gửi tin nhắn trả lời: Đừng đùa vớ vẩn nữa! Bọn tôi đang ở Kim Dạ, chỉ còn thiếu mình cậu thôi đấy, mau đến đây!”

Kim Dạ là tên của một câu lạc bộ giải trí nổi tiếng trong thành phố. Tôi nói: “Xem ra anh ta đã coi cô là một người bạn nào đó rồi.”

”Phản ứng đầu tiên của tôi cũng là như thế.” Diệp Thu Vi nói. “Nhưng rất nhanh sau đó tôi đã hiểu ra, tin nhắn này rất có thể là một sự dò xét của anh ta với tôi.”

”Dò xét? Tức là sao?” Tôi không kìm được nhíu chặt đôi mày, cất giọng nghi hoặc: “Cô dựa vào đâu mà nhìn ra được điều này?”

Diệp Thu Vi phân tích: “Giả sử anh ta thực sự coi tôi là một người bạn nào đó, vậy thì hai câu “chỉ còn thiếu mình cậu thôi đấy” và “mau đến đây” chứng tỏ anh ta đã đợi người bạn này từ trước rồi, hay nói cách khác, người bạn này lẽ ra cũng phải biết địa điểm tụ họp đêm đó là Kim Dạ. Đã như vậy, tại sao anh ta còn phải thêm câu “bọn tôi đang ở Kim Dạ” vào phía trước đó?”

Tôi hít sâu một hơi, nhất thời chẳng nói được gì.

”Còn nữa.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Lý Cương rõ ràng đã từng làm ra những việc không trung thành với Triệu Hải Thời, thế mà khi nhận được tin nhắn kỳ quặc từ một số máy lạ thì lại tỏ ra không chút để tâm, điều này rõ ràng là không hợp tình hợp lý. Hơn nữa, sau khi nhận được tin nhắn của tôi, mãi năm phút sau anh ta mới trả lời. Thử nghĩ mà xem, trong năm phút đó anh ta đã làm những gì? Hay là anh ta sơ suất không để ý tới điện thoại? Nhưng một người đàn ông mới hơn hai mươi tuổi như anh ta thường vẫn còn rất thích thú vui chơi, rất ít khi dời mắt khỏi điện thoại, cho nên khả năng này là không lớn. Theo tôi nghĩ, trong quãng thời gian năm phút đó, anh ta có lẽ đã suy nghĩ đối sách. Ngoài ra, giọng điệu trong tin nhắn đó chứng tỏ quan hệ giữa anh ta và “người bạn” kia không tệ, vậy tại sao anh ta không trực tiếp gọi điện thoại chứ? Tối ngày 22 tháng 7, trên đường đi, Lý Cương đã gọi mấy cuộc điện thoại liền, thế nhưng chưa từng gửi bất cứ tin nhắn nào, ngay cả lúc chờ đèn đỏ cũng vậy. Trong vòng hai ngày sau đó, tôi từng không chỉ một lần lén xem điện thoại của Tiêu Tiểu Yên, thấy cô ta thường xuyên trò chuyện qua điện thoại với Lý Cương, thỉnh thoảng cũng gửi tin nhắn, thế nhưng Lý Cương lại chưa từng trả lời cô ta bằng tin nhắn bao giờ.” Diệp Thu Vi dùng lại một chút rồi mới nói tiếp: “Tổng hợp những nhân tố này lại, tôi cho rằng tin nhắn trả lời cùa Lý Cương hoàn toàn là nhằm thăm dò ngược lại tôi, khi đó anh ta kỳ thực đang cố tỏ ra bình tĩnh để xem tôi có phản ứng như thế nào.”

Tôi vẫn không nói gì cả.

”Tôi ý thức được rằng trò chuyện bằng tin nhắn có lẽ không phải là biện pháp hay nhất.” Diệp Thu Vi chậm rãi nói: “Bất kỳ hình thức trao đổi không giáp mặt nào đểu tồn tại sự dối gạt hoặc ít hoặc nhiều, bởi ngôn ngữ - đặc biệt là ngôn ngữ trong hình thức văn tự - là một trong các công cụ trao đổi mang nhiều tính dối gạt nhất, chỉ có các cử chỉ của thân thể cùng biểu cảm trên khuôn mặt là hoàn toàn thành thực mà thôi.” Cô ta nhìn tôi, nói tiếp: “Do đó, trong khi thăm dò, tôi nhất định phải tận mắt nhìn thấy phản ứng của anh ta mới được.”

”Tận mắt?” Tôi không khỏi cảm thấy hơi khó hiểu. “Cô muốn trực tiếp trò chuyện với anh ta ư? Nhưng, đây dường như không phải là một biện pháp hay cho lắm thì phải?”

”Không nhất định là phải trực tiếp trò chuyện, tôi chỉ cẩn tận mắt nhìn thấy phản ứng của anh ta khi nhận được tin nhắn của tôi là được rồi.” Bên khóe miệng Diệp Thu Vi hiện ra một nét cười rất rõ. “Để tránh xảy ra chuyện bất ngờ, tối đó tôi không liên lạc với Lý Cương thêm nữa, chỉ kiên nhẫn chờ đợi cơ hội, và cơ hội chẳng bao lâu sau đã tới. Lúc gần bốn giờ ngày 27 tháng 7, Tiêu Tiểu Yến nhận được một cuộc điện thoại của Triệu Hải Thời, hóa ra dòng họ Triệu có một ông cụ vừa mới qua đời, theo như tập tục thì Triệu Hải Thời và Tiêu Tiểu Yến cẩn về quê tham dự tang lễ ngay trong buổi tối hôm đó. Triệu Hải Thời đã đi trước, đồng thời dặn Lý Cương phải đưa Tiêu Tiểu Yến về quê trước lúc sáu giờ. Khoảng hơn bốn giờ một chút thì Lý Cương đến phòng tập thể thao, vậy nhưng Tiêu Tiểu Yến lại không lập tức đi ngay, vẫn nán lại đánh bóng bàn với tôi và mấy người khác. Trong thời gian này, Lý Cương vào ngồi chờ trên chiếc xô pha ở ngay gần cửa vào của phòng tập thể thao. Đúng bốn rưỡi, Tiêu Tiểu Yến đi tới khu vực nghỉ ngơi để tắm rửa, còn tôi thì tránh vào một góc khuất, sau đó gửi tin nhắn cho Lý Cương một lần nữa, đồng thời ngầm quan sát phản ứng của anh ta qua khe cửa.”

Tôi vô thức nín thở.

”Đầu tiên, tôi gửi đi một tin nhắn có nội dung hoàn toàn giống hệt với hôm trước: Tiểu Cương, những việc cậu làm tôi đã biết cả rồi.” Diệp Thu Vi kể tiếp: “Lý Cương khi đó đang hơi buồn ngủ, nhưng vừa mới mở điện thoại ra xem tin nhắn thì đã lập tức tỉnh táo trở lại. Anh ta nhanh chóng khóa màn hình điện thoại, sau đó dáo dác nhìn ngó xung quanh, mông thì không ngừng dịch chuyển vị trí trên ghế, thỉnh thoảng còn đưa tay ấn cổ và day đầu, nhũng hành vi này đều là biểu hiện rõ nét của sự căng thăng cao độ. Tôi nghĩ, tối ngày Hai mươi lăm, khi nhận được tin nhắn, có lẽ anh ta cũng từng làm ra những hành vi tương tự thế này. Tôi ngấm ngầm tính toán thời gian, thấy sau đúng năm phút, anh ta rốt cuộc đã bình tĩnh trở lại, rồi liền gửi cho tôi một tin nhắn: Anh đừng có suốt ngày trêu chọc em nữa đi mà, em bây giờ đang lái xe đấy.”

”Lại là một sự thăm dò nữa.” Tôi khẽ gật đầu. “Tại sao anh ta lại phải nói là mình đang lái xe nhỉ?”

”Là bởi tính khuếch tán, hoặc cũng có thể nói là quán tính của hành vi nói dối.” Diệp Thu Vi phân tích. “Đây là một hiện tượng tâm lý hết sức bình thường. Con người ta khi bị chất vấn thì thường sẽ xuất hiện ba loại phản ứng, thứ nhất là nói dối theo sự thôi thúc của nhân cách bản ngã, thứ hai là né tránh theo sự thôi thúc của bản năng, còn thứ ba thì chính là nói thật theo sự thôi thúc của nhân cách siêu ngã. Trong đời thực hai loại phản ứng thứ nhất và thứ hai chiếm đa số. Nếu không có gì bất thường, khi đối mặt với sự uy hiếp do chất vấn mang lại, phản ứng đầu tiên của con người chính là né tránh, tiếp theo đó mới nảy sinh ý định nói dối. Khi hành vi né tránh đã xảy ra rồi, ý định nói dối sẽ bị ngăn cản, và nó sẽ được giải tỏa thông qua những lời nói khác sau đó, đây chính là quán tính của hành vi nói dối.” Thấy tôi vẫn chưa hiểu lắm, cô ta lại giải thích thêm: “Lấy một ví dụ thế này: Có một một đứa bé không cẩn thận làm vỡ bình hoa, khi bị cha mẹ chất vấn, câu đẩu tiên của nó thông thường sẽ là “con cũng không biết nữa” - đây chính là sự né tránh bản năng, tiếp sau đó nó sẽ bổ sung thêm một câu nói dối kiểu như là “khi đó con đang chơi ở bên ngoài”, hoặc “cả buổi chiểu con đều bận làm bài tập” - đây chính là quán tính của hành vi nói dối.”

Tôi bất giác giật mình bừng tỉnh, liền khẽ gật đầu, trầm ngâm hỏi: “Nói vậy thì trong lần trả lời đầu tiên, lẽ nào anh ta cũng từng nói dối theo quán tính?” 

“Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Ngay trong ngày Hai mươi sáu, qua lời của Tiêu Tiểu Yến, tôi biết được cả buổi tối ngày Hai mươi lăm, Lý Cương đều phải bận rộn xử lý công việc, căn bản không có thời gian ra ngoài chơi.”

Thế giới tâm lý của con người quả đúng là vừa phức tạp vừa huyền diệu.

Tôi hít sâu một hơi, trong lòng ngấm ngầm cảm thán, thế rồi bèn nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

Diệp Thu Vi bình tĩnh kể tiếp: “Anh ta đã lọt vào tầm kiếm soát của tôi, tôi đương nhiên không cần phải khách sáo với anh ta nữa. Tôi lập tức nhắn tin tiếp cho anh ta: Tôi không trêu chọc gì cậu cả, tôi dang nói tới việc cậu bán đứng anh Hải. Nhìn thấy tin nhắn đó, thân thể anh ta sau nháy mắt đã trở nên cứng đờ, sắc mặt thì trắng bệch, trông như người đang ốm nặng. Hai giây sau, anh ta tựa tấm thân đã mềm nhũn vào xô pha, tứ chi không ngừng run rẩy, trên trán thì túa đầy mồ hôi. Có điều, tố chất tâm lý của anh ta tốt hơn so với trong tưởng tượng của tôi, chỉ mấy phút sau anh ta đã lấy lại được sự bình tĩnh rồi liền gửi cho tôi một tin nhắn rất dài: Anh là ai? Dựa vào đâu mà anh dám nói tôi bán đứng anh Hải? Tôi chẳng khác nào em ruột của anh Hải, tại sao lại đi bán đứng anh ấy chứ? Anh rốt cuộc là ai? Nói ra những lời gây chia rẽ ấy là có ý gì? Anh là ai? Sao tôi lại đi bán đứng anh Hải chứ? Anh ấy giống như là anh ruột của tôi vậy!”

”Trùng lặp.” Tôi nói ra sự phân tích của bản thân: “Anh ta dùng những lời trùng lặp để nhấn mạnh, đây là một hình thức tự an ủi hết sức điển hình.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Sự xuất hiện của hành vi tự an ủi là tín hiệu cho thấy phòng tuyến tâm lý của anh ta sắp sụp đổ đến nơi, thế là tôi lập tức nhắn tin trả lời: Cậu hoảng hốt cái gì? Tôi đang nói tới chuyện nào, cậu chắc đã rõ rồi. Anh ta cũng coi như là có chút bản lĩnh, dường như nhận ra tôi còn chưa thể xác định được anh ta đã bán đứng Triệu Hải Thời trong chuyện nào, thế là lập tức đáp lại: Anh đừng có giả vờ với tôi nữa đi, tôi thấy anh rõ ràng là đang cố tình kiếm chuyện. Tôi suy nghĩ chừng mười mấy giây, cuối cùng quyết định phải mạo hiểm, thế là bèn nhắn tin cho anh ta: Cậu nhất quyết muốn tôi phải nói rõ ư? Vậy được rồi, còn nhớ Đinh Tuấn Văn và khoản tiền sáu triệu kia không? Khi nhìn thấy tin nhắn này, thân thể anh ta lại một lần nữa rủ xuống, còn không ngừng đưa tay lên day mặt và cổ.”

Tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. “Xem ra hành vi không trung thành của anh ta với Triệu Hải Thời quả thực có liên quan tới vụ việc mua bản báo cáo nghiên cứu kia. May mà sự phán đoán của cô là đúng, bằng không, manh mối này coi như cũng đứt luôn rồi.”

”Trên đời này chuyện gì cũng đểu có rủi ro, thỉnh thoảng cũng cần nghe theo sự chỉ dẫn của trực giác mới được.” Diệp Thu Vi nói. “Trong chuvện này, cho dù trực giác có sai lấm thì cũng không có gì là ghê gớm, chẳng qua chỉ bị đứt mất một manh mối mà thôi. Được rồi, chúng ta quay trở lại vấn đề chính, khi đó Lý Cương rất hoang mang, thế là tôi quyết định phải thừa thắng truy kích, lại gửi thêm một tin nhắn nữa: Tiểu Cương, tôi biết chuyện này kỳ thực không thể hoàn toàn trách cậu được. Cậu cứ thành thực nói cho tôi biết ngọn nguồn đi, tôi sẽ không nói lại với anh Hải đâu.”

”Anh ta có nói cho cô biết không?” 

”Không.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi cứ ngỡ dưới áp lực nặng nề khi đó, anh ta sẽ bộc bạch hết với tôi mọi điều, nhưng sự thực thì không như vậy. Thậm chí, hai phút sau đó, không ngờ anh ta đã bình tĩnh trở lại và nhắn tin cho tôi: Có thể để tôi suy nghĩ một chút được không?”

”Đây là kế hoãn binh.” Tôi nói. “Anh ta nhất định là muốn đi tìm ai đó để bàn bạc rồi.”

”Như vậy cũng tốt.” Diệp Thu Vi khẽ mim cười. “Vì nếu muốn tìm người để bàn bạc, anh ta sẽ phải lập tức làm ngay, và người này ắt hằn là có biết về sự kiện M. Nếu như người này chính là Hà Ngọc Bân hoặc là có quan hệ mật thiết với Hà Ngọc Bân, vậy thì tôi không cần phải tiến hành thăm dò Lý Cương thêm nữa làm gì.”

Tôi nôn nóng hỏi: “Kết quả thế nào?”

”Gửi xong tin nhắn cuối cùng kia, anh ta lặp tức gọi điện thoại cho một số máy nào đó.” Diệp Thu Vi nói: “Sau khi đầu bên kia bắt máy, anh ta nói một tiếng “anh”, sau đó liền đi ra ngoài, tôi tất nhiên không thể bám theo để nghe lén được. Có điều, muốn tra ra số điện thoại mà anh ta đã gọi khi đó không phải là việc gì quá mức khó khăn.”

Tôi hít sâu một hơi.

”Một người bạn làm ở công ty truyền thông giới thiệu với tôi một người “trong ngành“.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi bỏ ra một khoản tiền, thế là dễ dàng mua được từ trong tay người này nhật ký cuộc gọi của Lý Cương trong vòng ba tháng vừa qua cùng với tin tức đăng ký của những số điện thoại đã liên lạc với anh ta. Căn cứ theo đó, trong khoảng thời gian từ bốn giờ đến bốn giờ bốn mươi phút ngày 27 tháng 7, Lý Cương chỉ từng liên lạc với hai số điện thoại, trong đó một số có tên đăng ký là Triệu Hải Thời, số còn lại thì có tên đăng ký là Phùng Hỷ Quyên. Tôi nhờ người quen ở đồn công an giúp đỡ điều tra tin tức về gia đình cũng như công việc của người tên Phùng Hỷ Quyên này, và rồi tin tức hiển thị rất rõ: Chồng của Phùng Hỷ Quyên tên là Hà Ngọc Bân. Trong vòng ba ngày sau đó, thông qua nhiều nguồn, tôi đã có được một sự hiểu biết sơ bộ về Hà Ngọc Bân. Hà Ngọc Bân sinh năm 1974, trình độ học vấn đại học, sau khi tốt nghiệp đã vào làm việc trong Công ty Y dược thành phố, đến năm 2000 thì nhảy việc vào làm ở Công ty E, trở thành phó giám đốc bộ phận Thị trường. Năm 2003, Giám đốc bộ phận Thị trường cũ được thăng chức, Triệu Hải Thời vốn không có kinh nghiệm hay bằng cấp gì bất ngờ được bổ nhiệm làm giám đốc mới, còn Hà Ngọc Bân đã làm phó giám đốc ba năm thì vẫn phải giậm chân tại chỗ, đây có lẽ chính là nguồn cơn của sự mâu thuẫn giữa Hà Ngọc Bân và Triệu Hải Thời.”

Tôi lẳng lặng gật đầu.

”Kế đó tôi liền hệ thống hóa lại các tin tức đã biết một chút.” Diệp Thu Vi nói tiếp: “Hà Ngọc Bân có trình độ học vấn cao hơn Triệu Hải Thời nhiều, kinh nghiệm làm việc ở bộ phận Thị trường cũng nhiều hơn Triệu Hải Thời, ấy thế mà Triệu Hải Thời sau khi vào bộ phận Thị trường lại được ngồi trên đầu trên cổ anh ta. Chuyện này một mặt chứng tỏ năng lực giao thiệp xuất chúng của Triệu Hải Thời, một mặt cũng phản ánh sự bất tài của Hà Ngọc Bân. Ngoài ra, Hà Ngọc Bân chỉ có thể co mình trong bộ phận Thị trường, còn Triệu Hải Thời thì lại được lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A xem trọng, còn mở một công ty bảo lãnh ở bên ngoài, kiếm được một số tiền mà Hà Ngọc Bân khó có thể tưởng tượng nổi. Hai người tuy là hai lãnh đạo cấp cao nhất của cùng một bộ phận, vậy nhưng về mặt tiền bạc và địa vị lại khác nhau một trời một vực, chuyện này lại càng thể hiện rõ sự khác biệt to lớn về mặt năng lực và lòng can đảm của hai người. Những người bất tài thường hay đố kỵ, cho nên có thể đoán được, ngay từ sớm Hà Ngọc Bân đã mang lòng đố kỵ Triệu Hải Thời rồi. Vì điều này, anh ta nhất định là luôn nghĩ cách tìm kiếm sơ hở của Triệu Hải Thời, muốn qua đó quấy rối, thậm chí là phá hoại sự nghiệp và cuộc sổng cùa Triệu Hải Thời. Củng với đó, không biết là xuất phát từ nguyên nhân gì, Lý Cương cũng nảy sinh rất nhiều điều bất mãn đối với anh rể. Anh ta nắm được một số bí mật của Triệu Hải Thời, Hà Ngọc Bân thì vừa hay đang cần những bí mật ấy, hai người bọn họ có thể nói là đều cần đến nhau, lại cùng mang lòng bất mãn với một người, do đó về hùa với nhau cũng là lẽ dĩ nhiên. Thông qua Lý Cưong, Hà Ngọc Bân đã biết được một số bí mật của Triệu Hải Thời, thế rồi liền dựa vào đó để uy hiếp đối phương và thu về một khoản tiền không nhỏ, bên trong đó tất nhiên không thiếu phần của Lý Cương. Triệu Hải Thời vẫn luôn tìm kiếm người đã bán đứng mình, nhưng Lý Cương đã từng vì anh ta mà đánh nhau với người khác, còn là em họ của vợ anh ta, do đó anh ta khó có cách nào hoài nghi Lý Cương, mà cho dù có từng hoài nghi thì cũng vì nghĩ đến vợ mình mà không đi sâu vào điều tra chuyện này.”

”Rất hợp tình hợp lý.” Tôi suy nghĩ một lát rồi bèn trầm ngâm nói: “Có điều tôi còn có một sự nghi vấn thế này, đó là cuộc giao dịch giữa Triệu Hải Thời và Đinh Tuấn Văn làm sao lại có thể trở thành chỗ yếu của Triệu Hải Thời để rồi Hà Ngọc Bân dựa vào đó mà uy hiếp anh ta chứ? Chuyện này hẳn là mệnh lệnh do lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A đưa xuống, nếu Triệu Hải Thời vì thế mà bị uy hiếp, đây lẽ nào còn chẳng phải là một sự uy hiếp đối với lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A ư? Đã như vậy tại sao bọn họ lại không đối phó với Hà Ngọc Bân chứ? Bọn họ có thể vì mục đích của mình mà hãm hại cô và chồng cô, còn có thể giết chết Từ Nghị Giang nữa, tại sao lại không làm gì Hà Ngọc Bân, thậm chí là chẳng động đến chức vụ của anh ta như thế?”

”Anh ngày càng nhạy bén hơn rồi.” Diệp Thu Vi đột nhiên hạ thấp giọng, lại nhìn tôi bằng ánh mắt lạ thường, nhưng rất nhanh sau đó giọng nói đã trở lại bình thường như cũ. “Đúng thế đây chính là vấn đề mà tôi cần suy nghĩ tiếp theo. Theo lý mà nói, việc Tập đoàn A không làm gì Hà Ngọc Bân chỉ có hai cách giải thích: Thứ nhất, bí mật mà Hà Ngọc Bân nắm được chỉ có thể cấu thành uy hiếp với Triệu Hải Thời, không liên quan gì đến lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A; thứ hai, lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A không hề biết tới chuvện xảy ra giữa Hà Ngọc Bân và Triệu Hải Thời.”

Tôi thử phân tích: “Qua sự thăm dò của cô với Lý Cương, có thể dễ dàng thấy được, bí mật mà anh ta nói cho Hà Ngọc Bân biết chắc chắn là có liên quan tới cuộc giao dịch giữa Đinh Tuấn Văn và Công ty E. Chuyện này bị tiết lộ ắt hẳn là có thể gây ra uy hiếp đối với lãnh đạo cao cấp của tập đoàn A, do đó cách giải thích thứ nhất không hề hợp lý chút nào.” 

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Do đó, chỉ còn lại cách giải thích thứ hai là hợp lý mà thôi. Nhưng nếu là như vậy, tại sao lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A lại không biết chuyện Triệu Hải Thời bị Hà Ngọc Bân uy hiếp chứ? Đơn giản thôi, vì cả hai người đều không muốn để bọn họ biết chuyện này.”

Tôi không kìm được thè lưỡi liếm môi. “Hà Ngọc Bân không muốn để lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A biết chuyện này là điều hiển nhiên, nhưng Triệu Hải Thời thì sao? Tại sao anh ta cũng không muốn để bọn họ biết chuyện này chứ? Bọn họ rõ ràng có thể giúp anh ta giải quyết vấn đề mà...”

”Rất đơn giản.” Diệp Thu Vi cắt ngang lời tôi: “Bởi vì anh ta không dám để bọn họ biết. Chuyện mà Hà Ngọc Bân dùng để uy hiếp anh ta đúng là có liên quan tới cuộc giao dịch bí mật đó, vậy nhưng lại không phải là bản thân cuộc giao dịch.”

Tôi hít sâu một hơi, ngẩng đầu lên, thế rồi rất nhanh đã hiểu ra ý của cô ta. “Ý cô là trong quá trình giao dịch, Triệu Hải Thời đã phạm sai lầm, hoặc cũng có thể là đã cố ý giở trò ư?”

”Việc mua bản báo cáo nghiên cứu đó nói trắng ra chính là một lần mua đồ bằng công quỹ.” Diệp Thu Vi nói. “Mà trong chuyện mua đồ bằng công quỹ rốt cuộc có những mánh khóe thế nào thì chắc anh còn rõ hơn tôi. Hơn nữa, mọi việc lần đó đều là do Triệu Hải Thời toàn quyền phụ trách, lại không cần viết hóa đơn gửi cho Đinh Tuấn Văn, bắt gặp cơ hội tốt như vậy Triệu Hải Thời có ngấm ngầm kiếm lấy một khoản thì cũng là điều hợp tình hợp lý.”

Tôi khẽ gật đầu, không kìm được cất lời cảm thán: “Nếu quả thực là như thế, lá gan của anh ta đúng là không nhỏ chút nào.”

”Người chết vì tiền, chim chết vì mồi, từ cổ chí kim đây đâu phải là chuyện hiếm.” Diệp Thu Vi nói. “Trong cuộc giao dịch đó, anh ta đã ngầm giở trò, Lý Cương là người phụ trách chuyển khoản đưong nhiên không khó để phát hiện ra sự lạ. Vì lòng tham nhất thời, Triệu Hải Thời đã tự tạo ra cho mình một mối họa ngầm khó có cách nào loại bỏ, mà về sau nó còn trở thành thứ mà Hà Ngọc Bân dùng để uy hiếp anh ta.”

Tôi khẽ gật đầu, nói: “Việc này cũng khá trùng khớp với giấc mộng thứ hai của Tiêu Tiểu Yến, lũ dòi gắp mãi không hết kia chính là mối họa ngầm khó có cách nào loại bỏ, còn đám rắn độc mà Hà Ngọc Bân mang đến thì là sự uy hiếp trần trụi. Sau khi đám rắn độc xuất hiện, lũ dòi liền biến mất ngay, nhưng trên thực tế thì không phải vậy, lũ dòi không biến mất mà chỉ chuyển hóa thành rắn độc mà thôi.”

Diệp Thu Vi không tỏ ý kiến gì vể những lời này của tôi, lại hờ hững kể tiếp: “Hà Ngọc Bân là người cũ của Công ty E, rất thông thạo các nghiệp vụ trong công ty cùng với tình hình sản xuất, do đó, anh ta ít nhiều gì cũng phải biết tới việc công ty bò ra một khoản tiền lớn để mua báo cáo nghiên cứu về từ tay Đinh Tuấn Văn cùng với ý nghĩa của bản báo cáo đó đối với công ty. Bước tiếp theo, tôi cần phải khai thác được các thông tin mà anh ta biết.”

Tôi vô thức hơi nhếch khóe môi, nhìn chằm chằm vào Diệp Thu Vi, chậm rãi nói: “Điều này đối với cô mà nói thì quá mức dễ dàng, bởi vì cô đã nắm được thóp của anh ta rồi.”

Diệp Thu Vi nhìn thẳng vào mắt tôi một lát, trong mắt thoáng qua một tia kinh ngạc hiếm khi xuất hiện. Cô ta nhanh chóng né tránh ánh mắt của tôi một cách hết sức tự nhiên, bờ vai hơi run rẩy, rồi liền nói: “Tối ngày 4 tháng 8 năm 2009, tôi đổi sang một số điện thoại khác, dùng máy thay đổi giọng nói gọi điện thoại cho Hà Ngọc Bân, nói là muốn cùng anh ta làm một cuộc giao dịch. Anh ta im lặng một lát, rồi bèn hỏi tôi muốn giao dịch cái gì. Tôi nói đơn giản thôi, dùng những tin tức anh biết và tôi muốn biết để đổi lấy sự an toàn của anh, vô cùng công bằng. Anh ta chắc đã sững người ra một lát, thế rồi đột ngột gác máy, khi tôi gọi tới lần nữa thì anh ta không chịu nghe. Sau đó, tôi đổi sang một số điện thoại khác nữa, gửi cho anh ta một tin nhắn: Anh có thể lựa chọn trốn tránh, nhưng chờ đến khi lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A xử lý anh thì đừng có trách tôi không cho anh cơ hội. Anh ta nhanh chóng trả lời: Tôi không biết cô(*) đang nói cái gì.”

(*). Như đã nói trong chú thích trước, trong tiếng Hán, đại tù nhân xưng ngôi thứ hai số ít chỉ có một từ là 你 - ni, nên từ “cô” ở đây trên thực tế có thể là rất nhiều từ khác nữa, vì Hà Ngọc Bân có lẽ còn chưa biết người gọi diện và nhắn tin cho mình là nam hay nữ, tuổi tác già trẻ thế nào - ND.

Tôi phân tích: “Tôi không biết cô đang nói cái gì, tin nhắn này thoạt nhìn thì như là đang gạt cô, thực tế là anh ta đang gạt chính bản thân mình, và đây cũng là một trong số các hành vi tự an ủi điển hình nhất. Đúng như cô đã nói trước đó, sự xuất hiện của hành vi tự an ủi là tín hiệu cho thấy phòng tuyến tâm lý sắp sụp đổ. Xem ra, lần này cô chẳng cần phí thêm bao nhiêu công sức nữa rồi.” Nói xong những lời này, tôi không kìm được bật cười, nói: “Gã Hà Ngọc Bân đó đúng là một người không có bản lĩnh. Cô đã nói rõ ràng như thế rồi mà anh ta còn giả bộ hồ đồ, chẳng trách lại luôn bị Triệu Hải Thời áp chế.”

Diệp Thu Vi khẽ mỉm cười, sau đó liền kể tiếp: “Tôi lại gửi cho anh ta một tin nhắn nữa: Tôi cho anh thời gian một ngày để suy nghĩ, nếu đến tám giờ tối mai mà còn chưa liên lạc với tôi, vậy anh hãy ngồi nhà mà chờ chết đi. Nhớ lấy, là tám giờ tối.”

Tôi tiếp tục phân tích: “Cho anh ta một thời hạn rõ ràng như thế, sự tự ám thị nhất định sẽ khiến anh ta nảy sinh áp lực tâm lý khổng lồ, tôi nghĩ đêm hôm đó anh ta chắc hẳn không thể nào ngủ ngon được rồi.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Lúc bảy giờ năm mươi sáu phút tối hôm sau, anh ta rốt cuộc đã không kìm nén nổi nữa, thế là bèn gọi điện thoại cho tôi. Tôi vừa mới nghe máy thì anh ta đã đầu hàng, nói: “Thực sự xin lỗi, muộn thế này mới gọi điện thoại tới, mong cô đừng trách. Cô muốn biết điều gì thì cứ việc hỏi đi, tôi nhất định sẽ nói hết những gì mình biết.“.”

Một người vừa nhu nhược vừa không có đều óc như thế không ngờ lại có thể trở thành một mối uy hiếp lớn đối với Triệu Hải Thời, nói thực lòng, tôi không khỏi cảm thấy không đáng thay cho anh ta.

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Quá trình trò chuyện cụ thể thi tôi không kể ra đây nữa, chỉ nói kết quả thôi. Nguồn cơn sự việc đại khái là như thế này: Đúng như tôi đã đoán, việc Triệu Hải Thời được đề bạt vượt cấp năm 2003 chính là nguyên nhân khiến Hà Ngọc Bân ghen ghét anh ta. Trong vòng mấy năm sau đó, Hà Ngọc Bân không ngừng tìm cách gây rắc rối cho Triệu Hải Thời, nhưng lại chẳng thể làm gì được anh ta. Dịp Tết năm 2009, Công ty E tổ chức một buổi họp mặt quy mô lớn, Lý Cương tuy sớm đã bị đuổi việc nhưng lại có không ít bạn bè trong công ty, hơn nữa còn có anh rể là Triệu Hải Thời, do đó cũng được mời. Do trùng hợp, Lý Cương sau khi uống rượu say vào toilet thì vừa hay gặp Hà Ngọc Bân. Lý Cương khi đó say rất dữ, chẳng còn biết ai với ai, cứ lầm bầm than vãn một mình rằng anh ta từng vì Triệu Hải Thời mà đi đánh nhau với người ta, còn phải vào ngồi trong đồn công an nữa, thế mà Triệu Hải Thời lại vẫn coi anh ta như người ngoài, hằng tháng chỉ phát cho anh ta chút tiền lương còm cõi. Về sau, Hà Ngọc Bân lén liên lạc với Lý Cương, hai người nhanh chóng nhất trí với nhau, đó là phải làm sao đó để khiến Triệu Hải Thời chi ra ít tiền.”

Tôi dời chiếc bút ghi âm từ chỗ cố áo xuống đến ống tay áo.

”Triệu Hải Thời quả thực đã ngấm ngầm giờ trò trong cuộc giao dịch đó.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Lý Cương nói cho Hà Ngọc Bân biết, trong năm 2008 số tiền đi qua tài khoản của anh ta tổng cộng là mười sáu triệu nhân dân tệ. Lý Cương từng vô tình nghe chị họ kể lại, khoản tiền đó chuẩn bị được gửi cho bốn người. Tháng 6 năm 2008, theo lệnh của Triệu Hải Thời, Lý Cương lần lượt chuyển cho bốn tài khoản xa lạ mỗi tài khoản ba triệu, nửa tháng sau thì lại chuyển thêm cho một tài khoản trong số đó ba triệu nữa. Một triệu còn lại cuối cùng được chuyển vào trong tài khoản của chính Triệu Hải Thời. Sau khi xong việc, Triệu Hải Thời chi cho Lý Cương hai nghìn coi như là tiền công chạy đi chạy lại, đây chính là một trong số các nguyên nhân khiến Lý Cương bất mãn với anh ta.”

Tôi cúi đẩu trầm tư suy nghĩ. Không khó để đoán ra, tháng 6 năm 2008, bốn tài khoản nhận được ba triệu từ Lý Cương lần lượt thuộc về bốn người Tạ Bác Văn, Tần Quan, Chu Vân và Đinh Tuấn Văn. Nửa tháng sau đó, Triệu Hải Thời lại lệnh cho Lý Cương chuyển cho một tài khoản trong số đó thêm ba triệu, và tài khoản này hiển nhiên là thuộc về Đinh Tuấn Văn. Vấn đề cũng theo đó mà xuất hiện, tại sao Triệu Hải Thời lại chỉ đưa thêm cho Đinh Tuấn Văn ba triệu mà không ngó ngàng gì tới ba người còn lại chứ?

Rất nhanh sau đó tôi đã hiểu ra: Việc đàm phán hoàn toàn là do Đinh Tuấn Văn và Triệu Hải Thời phụ trách, hai người bọn họ có ngấm ngầm câu kết với nhau cũng không phải là điều khó hiểu. Nhất định là Đinh Tuấn Văn đã nuốt của Tạ Bác Văn, Tần Quan và Chu Vân mỗi người một triệu, một triệu còn lại thì coi như là Triệu Hải Thời biển thủ từ công quỹ tập đoàn.

Diệp Thu Vi đưa mắt liếc nhìn tôi một chút, sau đó mới nói: “Khi tôi hỏi về M và bản báo cáo nghiên cứu kia, Hà Ngọc Bân liền đáp là mình cũng không rõ lắm. Có điều, dưới sự bức ép và dẫn dắt của tôi, anh ta đã nhớ ra một chi tiết rất quan trọng, đó là Triệu Hải Thời chẳng có bằng cấp gì, xưa nay chưa từng qua lại với người ở trung tâm Nghiên cứu Khoa học. Chủ nhiệm của trung tâm Nghiên cứu Khoa học là Lưu Hướng Đông rất coi thường Triệu Hải Thời, từng nhiều lần công khai chỉ trích lãnh đạo cao cấp của Công ty E là không biết dùng người, Triệu Hải Thời cũng chẳng chịu tỏ ra yếu thế, đã không ít lần xỉ nhục Lưu Hướng Đông ngay trước đám đông. Nhưng rất lạ, bắt đầu từ tháng 3 năm 2009, quan hệ giữa Triệu Hải Thời và Lưu Hướng Đông đột nhiên trở nên tốt đẹp, không chỉ chào hỏi thân mật khi gặp nhau trong công ty, nghe đồn còn thường xuyên gặp gỡ riêng bên ngoài, thậm chí sau những bữa tiệc rượu còn xưng anh gọi em với nhau nữa.”

”Tháng 3 năm 2009.” Tôi đưa tay sờ cằm, trầm ngâm nói: “Tạ Bác Văn chết vào tháng Hai, Đinh Tuấn Văn thì chết vào đầu tháng Tư, lẽ nào...”

”Thời gian trùng khớp, chức trách cũng thích hợp.” Diệp Thu Vi bình tĩnh nói. “Người tên Lưu Hướng Đông này rất có thể đã từng xem Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chết gây nghiện của M.”

Tôi vô thức làm động tác hít thở sâu, đồng thời nhắm mắt lại, lật nhanh trong đầu từng trang của tập tài liệu về những vụ chết người, thế rồi rất nhanh đã nhìn thấy cái tên Lưu Hướng Đông.

Tôi mở mắt ra, trầm giọng nói: “Lưu Hướng Đông là chủ nhiệm của trung tâm Nghiên cứu Khoa học, đến tháng Ba thì lại đột ngột thay đổi thái độ đối với Triệu Hải Thời, xem ra anh ta nhất định là biết không ít chuyện. Thông qua anh ta, cô có lẽ có thể làm rõ giá trị của bản báo cáo nghiên cứu kia đối với Công ty E, thậm chí là biết được nội dung cụ thể bên trong đó. Vì điều này, chắc cô đã quyết định phải trực tiếp tiếp xúc với anh ta. Có điều, thứ nhất là cô và anh ta chẳng hề quen biết, thứ hai là thông tin về anh ta là do Hà Ngọc Bân nói với cô, do đó cô cho rằng nếu đột ngột tiếp xúc với anh ta thì có thể sẽ khiến Hà Ngọc Bân nghi ngờ. Vì nguyên nhân này, cô đã quyết định phải trừ khử Hà Ngọc Bân trước, sau đó mới có thể tiến hành điều tra bước tiếp theo.”

Diệp Thu Vi nhìn tôi bằng ánh mắt phức tạp, đôi môi hơi hé ra, nhưng rất nhanh sau đó đã khép lại, cuối cùng chỉ nói ra hai chữ: “Đúng thế.”

Tôi lại tiếp tục thay cô ta phân tích: “Cùng với đó, cô còn có một nỗi lo lắng khác. Mối quan hệ giữa Triệu Hải Thời và Lưu Hướng Đông đột nhiên trở nên tốt đẹp, điều này chứng tỏ hai người bọn họ đã có một lợi ích chung nào đó, mà lợi ích này hiển nhiên là có liên quan tới bản báo cáo nghiên cứu kia. Một khi cô tiếp xúc với Lưu Hướng Đông để điều tra về báo cáo nghiên cứu, Triệu Hải Thời nhất định sẽ sinh lòng nghi ngờ. Nếu Triệu Hải Thời biết chồng cô là ai cùng với chuyện cô từng tiếp xúc với Tiêu Tiểu Yến, thân phận và ý đồ của cô ắt sẽ bị lộ ra hoàn toàn. Đặt lên bàn cân mà so sánh, Triệu Hải Thời mới là mốỉ uy hiếp cũng như hòn đá cản đường lớn nhất của cô, do đó trước khi tiếp tục tiến hành điều tra, cô còn phải trừ khử cả Triệu Hải Thời nữa mới được.”

Diệp Thu Vi vẫn chỉ nói ra hai chữ: “Đúng thế.”

”Thế là, cô liền nghĩ tới việc lợi dụng sự mâu thuẫn giữa hai người bọn họ.” Khi tôi nói tới đây, trong rừng đột nhiên nổi lên một cơn gió mạnh, lá cây bị gió thổi bay xào xạc, ánh dương xuvên qua kẽ lá chiếu xuống khiến tôi không sao mở mắt ra được. Sau khi cơn gió qua đi, tôi chậm rãi mở mắt, lại hít sâu một hơi, nói tiếp: “Mâu thuẫn...” Tôi khẽ đưa tay dụi mắt, cảm thấy đẩu óc có hơi choáng váng. “Cô quyết định phải lợi dụng sự mâu thuẫn giữa hai người bọn họ.” 

Cô ta khẽ gật đầu, trong mắt thoáng qua một tia rực rỡ mà trước đó tôi chưa từng nhìn thấy. “Đúng vậy.”

”Ừm...” Tôi chầm chậm lắc đầu, dòng suy nghĩ trở nên hơi hỗn loạn. “Xin hãy tiếp tục đi, khi đó cô đã suy nghĩ thế nào? Việc Hà Ngọc Bân tống tiền Triệu Hải Thời không phải chỉ mới xảy ra, mà đó tuy là sự uy hiếp lớn nhất đối với Triệu Hải Thời nhưng cũng không thể tính là một mối thù sâu hận lớn gì cả. Hơn nữa, dưới tay Triệu Hải Thời có bao nhiêu đàn em như thế, cho dù có muốn giết Hà Ngọc Bân thì cũng không nhất thiết phải tự mình ra tay. Cô rốt cuộc đã làm gì mà lại có thể khiến anh ta bất chấp tất cả để giết chết Hà Ngọc Bân bằng súng giữa nơi công cộng như vậy?”

Diệp Thu Vi im lặng một lát, đôi hàng lông mi không ngừng máy động, sau đó mới bình tĩnh nói: “Khi sự phẫn nộ của một người chiến thắng lý trí, anh ta sẽ có thể làm ra bất cứ việc gì mà không thèm quan tâm tới hậu quả.”

Tôi hỏi dồn: “Làm thế nào để khiến sự phẫn nộ của anh ta chiến thắng lý trí?”

Cô ta hỏi lại: “Anh Trương, theo anh thì phẫn nộ là gì?”

”Phẫn nộ...” Tôi suy nghĩ rất lâu, vậy nhưng vẫn không biết nên biểu đạt thế nào. “Phẫn nộ là một loại tâm trạng nguyên thủy...”

Cô ta hỏi tiếp: “Vậy tâm trạng là gì?”

Tôi nghẹn lời chẳng nói được gì.

Một lát sau cô ta mới giải thích: “Tâm lý là hình thức biểu đạt trừu tượng của sinh lý, cho nên, xét về mặt bản chất thì hoạt động tâm lý chính là một bộ phận của cơ chế sinh lý. Vì vậy, đối với sinh lý mà nói, bất kỳ hoạt động tâm lý mộc mạc nào cũng đều chỉ có lợi mà không có hại, các tâm trạng nguyên thủy như phẫn nộ, vui mừng, bi thương đều là như thế. Lấy phẫn nộ mà xét, nếu anh có biết một chút về sinh vật học, vậy thì hẳn cũng rõ sinh vật sẽ chỉ cảm thấy phẫn nộ khi gặp phải ba loại tình huống. Thứ nhất là sinh mạng bị uy hiếp, chẳng hạn như cá nóc khi gặp phải nguy hiểm thì thân thể sẽ căng phồng lên, nhím khi gặp phải kẻ săn mồi thì toàn bộ lông trên người sẽ dựng đứng. Thứ hai là tranh giành nguồn tài nguyên để sinh tồn, chẳng hạn như các loài động vật ăn thịt vì tranh giành lãnh thổ mà liều mạng với nhau, linh cẩu với sư tử vì con mồi mà chiến đấu. Thứ ba là tranh giành bạn tình, có rất nhiều loài động vật chọn bạn tình bằng phưong thức quyết đấu. Tâm trạng phẵn nộ sẽ gây ảnh hưởng tới tâm lý thông qua các biện pháp như điều tiết bằng nội tiết tố, khiến cho cá thể sinh vật có thể phát huy sức mạnh vượt hẳn bình thường, từ đó làm tăng cơ hội sinh tồn và duy trì nòi giống. Nói cách khác, chỉ cần chịu sự uy hiếp trong việc sinh tồn, kiếm mồi và duy trì nòi giống, sinh vật sẽ nảy sinh tâm trạng phẫn nộ không sao kiềm chế được, đây chính là bản chất của sự phẫn nộ.”

Tôi nghiêm túc lắng nghe.

“Tâm trạng của con người tuy phức tạp, thế nhưng về bản chất thì không khác gì các loài sinh vật khác.” Cô ta nói tiếp. “Chẳng hạn, hành vi nhổ đờm giữa nơi công cộng sẽ làm mọi người cảm thấy phẫn nộ. Tại sao lại thế? Nếu xét từ phương diện xã hội thì là bởi vì người nhổ đờm làm ô nhiễm môi trường công cộng, đi ngược lại với đạo đức của loài người. Cách giải thích này rất nhã nhặn, văn minh, nhưng lại không phải là nguyên nhân căn bản gây ra sự phẫn nộ. Nguyên nhân căn bản ở đây là người nhổ đờm đã để vật bài tiết có mang theo vi khuẩn gây bệnh xâm nhập vào lãnh địa của người khác - cũng chính là nơi công cộng, từ đó gây ra nguy hại cho sức khỏe của mọi người, theo tiềm thức, mọi người cảm nhận được sự uy hiếp tới sinh mạng của mình, do đó mà nảy sinh tâm trạng phẫn nộ. Lại có một ví dụ khác thế này, anh làm mất một món đồ, mà rõ ràng món đồ đó là do anh làm mất, nhưng anh vẫn vô duyên vô cớ cảm thấy phẫn nộ. Đưorng nhiên, sự phẫn nộ này thông thường được giải thích là tự trách mình, buồn bực, nhưng sự thực thì không phải thế. Việc mất đồ tương đương với tài nguyên sống của bản thân bị tước đoạt, thế nên anh mới sinh ra phẫn nộ. Thêm nữa, tại sao việc ngoại tình lại khiến bạn đời của người ngoại tình cảm thấy phẫn nộ? Khi gặp phài tình cảnh này, những người phụ nữ thường nói “anh ấy không yêu tôi nữa”, “anh ấy là đồ vô trách nhiệm”, “anh ấy có lỗi với tôi”, những người đàn ông thì cũng gần tương tự như vậy, nhưng nói trắng ra, hành vi ngoại tình đã khiến cho tiềm thức của người kia nảy sinh tâm lý bạn tình bị cướp đoạt, đây mới chính là căn nguyên của sự phẫn nộ. So với giống cái thì ham muốn tranh giành bạn tình của giống đực mạnh hơn, thế nên trong tình huống bình thường, nam giới mới cảm thấy phẫn nộ hơn nữ giới khi bị phản bội.”

Tôi khẽ gật đầu. Xét cho cùng, câu nói của vị Giáo sư già từng dạy tôi thời đại học vẫn là chính xác: Xã hội chính là một sự ngụy trang tập thể đối với bản chất của loài người.

”Đã hiểu được thế nào là phẫn nộ rồi, tôi đương nhiên có thể trù tình kế hoạch khiến Triệu Hải Thời cảm thấy phẫn nộ.” Diệp Thu Vi nói tiếp. “Chuyện này vẫn cần phải bắt tay tiến hành từ ba loại căn nguyên gây ra sự phẫn nộ. Đầu tiên là tranh giành tài nguyên sinh tồn: Hà Ngọc Bân tống tiền Triệu Hải Thời, điều này tương đương với việc tiến hành cướp đoạt tài nguyên sinh tồn của Triệu Hải Thời trong một thời gian dài. Trong chuyện này Hà Ngọc Bân đã làm rất tốt, không cần tôi phải góp sức thêm vào làm gì nữa.”

Tôi tỏ ý mời cô ta nói tiếp.

“Căn nguyên thứ hai gây ra tâm trạng phẫn nộ là sinh mạng phải đối mặt với sự uy hiếp.” Cô ta cất giọng hờ hững. “Điều tôi cần làm là khiến Triệu Hải Thời cho rằng Hà Ngọc Bân đã uy hiếp đến sinh mạng của anh ta. Ngày 7 tháng 8, tôi lại gửi cho Lý Cương một tin nhắn nữa: Tiểu Cương, Hà Ngọc Bân đã nói hết tất cả với tôi rồi, cậu biết chưa? Anh ta chỉ nhắn lại hai chữ: Biết rồi. Tôi lại gửi một tin nhắn nữa: Vây cậu suy nghĩ thế nào rồi? Anh ta trả lời: Anh đã biết hết tất cả rồi, tôi suy nghĩ thế nào còn quan trọng ư? Anh cứ việc đi nói với anh Hải đi, muốn chém muốn giết thế nào tôi cũng đều chịu cả.”

Tôi buột miệng nói: “Không ngờ anh ta cũng khá có khí phách đấy.”

”Chẳng qua là hư trương thanh thế(*) mà thôi.” Diệp Thu Vi thản nhiên nói. “Nếu thực sự có khí phách, anh ta sớm đã đi tìm Triệu Hải Thời để nhận tội rồi. Tôi lại gửi cho anh ta một tin nhắn nữa: Tiểu Cương, cậu không cần phải nói cứng với tôi làm gì, nếu tôi muốn hại cậu thì sớm đã nói hết mọi chuyện với anh Hải rồi. Anh ta trả lời: Vậy anh rốt cuộc có ý gì đây? Tôi nói: Ai mà không có lúc phạm sai lầm, sau nay cậu chỉ cần biết điều một chút là được rồi. Anh ta lập tức gỡ bỏ lớp ngụy trang, trả lời: Anh ơi, anh nghĩ mà xem, anh Hải giống như là anh ruột của em vậy, sao em lại muốn hại anh ấy chứ? Ôi, chỉ tại em nhất thời lú lẫn nên mới ra cơ sự này. Tôi nói: Đừng nói mấy lời thừa thãi đó nữa, anh Hải bây giờ đã bắt đầu hoài nghi cậu rồi, muốn tự giữ mình thì hãy nghe tôi. Anh ta lập tức trả lời: Dạ, anh cứ nói đi, chỉ cần em có thể thoát khỏi kiếp nạn này, sau này anh bảo em làm gì cũng được, mọi việc em đều nghe anh.”

(*). Cố tình phô trương để làm ra vẻ như có lực lượng hùng hậu, trong khi thật ra không phải như vậy, để đánh lừa đối phương – ND.

Tôi thiếu chút nữa đã bật cười thành tiếng.

Diệp Thu Vi đưa mắt liếc nhìn tôi, kể tiếp: “Tôi lại gửi cho anh ta một tin nhắn nữa: Anh Hải hoài nghi cậu là bởi vì có người nói là từng nhìn thấy cậu đi ăn cơm với Hà Ngọc Bân. Thế này đi, cậu hãy chủ động đi tìm anh Hải, cứ nói là mình tiếp cận với Hà Ngọc Bân kỳ thực là để moi tin từ anh ta, qua đó giúp anh Hải tìm ra nội gián. Anh ta trả lời: Anh ơi, nhỡ anh Hải hỏi em nội gián là ai, em phải nói thế nào đây? Tôi nói: Cậu cứ nói nội gián chính là Tiêu Tiểu Yến là được rồi.”

Tôi nhất thời không hiểu dụng ý của cô ta cho lắm, liền lắp bắp nói: “Cô... Tại sao... Lý Cương đã trả lời như thế nào? Anh ta đã làm theo ý của cô ư?”

Diệp Thu Vi nói: “Lúc gần bốn giờ ngày 12 tháng 8, Tiêu Tiểu Yến đến phòng tập thể thao trong bộ dạng buồn bực không vui, tôi đỡ cô ta đến khu vực nghỉ ngơi. Cô ta vừa mới ngồi xuống đã bật khóc nức nở, nói là mấy ngày nay Triệu Hải Thời thường xuyên vô duyên vô cớ nổi nóng với cô ta, còn thiếu chút nữa đánh cô ta.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 1 - Chương 11-2: Sự kiện giết người qua những giấc mơ (2)


Type: Mều

Tôi khẽ gật đầu, thở dài nói: “Lý Cương vì bảo vệ bản thân mà không tiếc bán đứng người chị họ bấy lâu vẫn luôn quan tâm giúp đỡ mình, xem ra lòng người quả đúng là đáng sợ.”

”Đây có lẽ mới chính là bộ mặt thật của con người.” Diệp Thu Vi cất giọng hờ hững. “Sau khi biết Hà Ngọc Bân bất cứ lúc nào cũng có thể tố cáo mình, Triệu Hải Thời liền cảm thấy sinh mạng của mình bị uy hiếp, đây là căn nguyên thứ hai gây ra sự phẫn nộ. Anh ta nổi nóng với Tiêu Tiểu Yến chứng tỏ rằng sự phẫn nộ đã sắp tới mức không thể kìm nén nổi nữa, cho nên việc tiếp theo tôi cần làm là kích thích anh ta bằng căn nguyên thứ ba gây ra sự phẫn nộ, qua đó khiến cơn giận của anh ta hoàn toàn bùng phát.”

”Căn nguyên thứ ba?” Tôi hơi sững người rồi đột nhiên hiểu ra ý đồ của cô ta khi xúi giục Lý Cương vu cáo Tiêu Tiểu Yến. “Cô muốn khiến Triệu Hải Thời cho rằng Tiêu Tiểu Yến ngoại tình, mà đối tượng ngoại tình chính là Hà Ngọc Bân!”

”Đối với giống đực mà nói, sự phẫn nộ khi tranh giành bạn tình chính là sự phẫn nộ khó kìm nén nhất.” Diệp Thu Vi nói. “Đây chính là bước mấu chốt nhất để thổi bùng lên sự phẫn nộ của Triệu Hải Thời.”

”Đồng thời cũng là bước khó khăn nhất nữa.” Tôi nói. “Tiêu Tiểu Yến vô cùng căm ghét Hà Ngọc Bân, làm sao lại đi ngoại tình với anh ta được?”

”Tôi không cần cô ta phải thực sự ngoại tình, chỉ cần khiến Triệu Hải Thời cho rằng cô ta đã ngoại tình là được rồi.” Diệp Thu Vi nói. “Sở dĩ tôi ép Lý Cương vu cáo Tiêu Tiểu Yến chính là vì muốn ngấm ngầm đặt nền tảng cho sự ám thị trong bước thứ ba này. Em họ đi tố cáo chị họ, loại hành vi vì đại nghĩa chẳng quản người thân này thông thường sẽ làm người ta nảy sinh cảm giác tin tưởng. Việc Triệu Hải Thời liên tiếp nổi nóng với Tiêu Tiểu Yến chứng tỏ anh ta tuy còn chưa hoàn toàn tin vào lời của Lý Cương nhưng cũng đã bắt đầu nghi ngờ vợ mình, mà đối với một người đã chìm sâu vào sự hoài nghi như thế, muốn dùng phương pháp ám thị để thao túng thực chẳng phải là việc gì quá khó khăn.”

Tôi nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Ngày 12 tháng 8, tôi đã ở lại phòng tập thể thao đó nói chuyện phiếm với Tiêu Tiểu Yến tới tận gần tám giờ.” Diệp Thu Vi nói. “Cô ta biết tôi từng học về tâm lý học, thế là không ngừng xin ý kiến của tôi, mà ý kiến tôi đưa ra thì từ đầu chí cuối luôn xoay quanh hai chữ “chân thành“. Tôi nói, giữa vợ chồng với nhau nếu muốn chung sống hòa thuận, tiền đề quan trọng nhất chính là hai bên đều phải chân thành. Nếu mỗi người đều mang một tâm tư riêng, vậy thì sẽ rất dễ nảy sinh khoảng cách. Tiêu Tiểu Yến lập tức tỏ ý tán đồng, nói rằng Triệu Hải Thời là một người theo chủ nghĩa đàn ông, chuyện gì cũng muốn tự mình gánh vác. Tôi nói: “Thực ra muốn hai bên chân thành với nhau cũng không phải là chuyện gì quá khó khăn, sự việc lần này chưa biết chừng lại là một cơ hội. Theo như lời em nói, chồng em là một người theo chủ nghĩa đàn ông, vậy thì da mặt của anh ta nhất định là rất mỏng, chi bằng em hãy chủ động một chút. Tối nay quay về, em có thể bình tĩnh hỏi nguyên nhân anh ta nổi nóng, thái độ nhất định phải thành khẩn. Anh ta tốt với em như thế, nếu có chuvện gì chắc chắn sẽ nói với em thôi. Một khi anh ta mở miệng rồi, em cần phải giữ lấy tâm lý bình tĩnh mà tiếp tục trò chuyện với anh ta, một cuộc trò chuyện chân thành có thể hóa giải mọi sự mâu thuẫn.“.”

”Ý kiến này của cô có thể nói là rất hợp tình hợp lý.” Tôi khẽ gật đầu. 'Tại sao cô phải nói với Tiêu Tiểu Yến những lời này? Cô thực sự muốn giúp vợ chồng bọn họ cải thiện quan hệ ư? Hay là còn có mục đích gì khác nữa?”

'Tôi muốn khiến Tiêu Tiểu Yến biết rằng việc Triệu Hải Thời đột nhiên nổi nóng với cô ta có liên quan tới Hà Ngọc Bân.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Trong hai ngày sau đó, Tiêu Tiểu Yến không đến phòng tập thể thao, cũng không liên lạc với tôi qua điện thoại, mãi đến chiều ngày Mười lăm, cô ta mới xuất hiện trở lại. Cô ta cảm ơn ý kiến của tôi, nói là cô ta đã trò chuyện chân thành với Triệu Hải Thời một phen, và quan hệ vợ chồng giữa hai người bọn họ đã được cải thiện rất nhiều. Khi nói ra những lời này, cô ta cứ cười suốt, nhưng nụ cười lại có vẻ rất gượng gạo.”

”Gượng gạo thế nào?” Tôi hỏi. “Cô có thể miêu tả sơ qua một chút được không?”

Diệp Thu Vi giải thích: “Có một câu nói rất hay thế này: Đôi mắt chính là cửa sổ của tâm hồn. Con người ta khi sợ hãi sẽ nhắm mắt lại, khi căng thẳng sẽ chớp mắt và dụi mắt, khi nôn nóng hoặc giận dữ sẽ nheo mắt lại, khi bi thương quá độ thì đồng tử sẽ co rút, ánh mắt cũng mang vẻ đờ đẫn, còn khi cảm thấy nhẹ nhõm hoặc vui vẻ thì đồng tử sẽ dãn nở, ánh mắt trở nên sáng ngời. Nếu một nụ cười xuất phát tự đáy lòng, vậy thì đôi mắt của người đang cười nhất định phải mở to và rạng rỡ. Nhưng khi Tiêu Tiểu Yến cười thì đôi mắt của cô ta lại có vẻ nhỏ hơn thường ngày, đó rõ ràng là một hành vi nheo mắt trong vô thức. Cho nên, dù cô ta đã cố hết sức thể hiện là mình đang cười, vẻ ngoài của khuôn mặt cũng chứng tỏ điều đó, nhưng nhìn váo đôi mắt thì lại có thể thấy được cô ta đang không vui chút nào, thậm chí còn lờ mờ có chút lo lắng nữa.”

Tôi khẽ gật đầu, nói: “Xem ra, cuộc trò chuyện của cô ta với Triệu Hải Thời đã không được thành công cho lắm.”

”Để có thể hiểu sâu hơn về tâm lý của cô ta khi đó, tôi cố tình dẫn dắt chủ đề câu chuyện qua hướng những giấc mơ.” Diệp Thu Vi hờ hững nói tiếp. “Tôi tùy ý bịa ra một giấc mơ, nhờ cô ta phân tích giúp tôi, sau đó lại giả bộ vô tình hỏi về giấc mơ của cô ta. Cô ta nói buổi trưa hôm đó cô ta đã nằm mơ một giấc mơ rất thú vị, trong giấc mơ xuất hiện cảnh cô ta thành hôn với Triệu Hải Thời, khi đó cô ta được ngồi trong một chiếc kiệu đỏ rực, Triệu Hải Thời thì cưỡi ngựa đi ngay trước kiệu, xung quanh rộn vang những tiếng hò reo náo nhiệt và tiếng kèn trống vui tươi. Triệu Hải Thời mặc một chiếc áo ngoài màu đỏ kiểu cổ, sau đầu lủng lẳng một bím tóc dài, trước ngực thì cài một bông hoa đỏ rất lớn, rõ ràng là trang phục tiêu chuẩn của một tân lang thời nhà Thanh. Cô ta thì ngồi trong kiệu, thỉnh thoảng lại vén khăn trùm đầu lên nhìn chồng mình, Triệu Hải Thời cũng thỉnh thoáng lại ngoảnh đầu nhìn cô ta. Khi bọn họ đang tiến về phía trước, đột nhiên có một người giục ngựa phi nhanh đến bên cạnh Triệu Hải Thời, nói: “Tân lang này, tân nương của anh đang ăn thịt trong kiệu đấy.” Triệu Hải Thời cười, nói: “Nhà tôi vốn mở quán cơm, vợ tôi ăn chút thịt thì đã sao nào?” Người kia nói: “Thứ cô ấy ăn là thịt dê nướng xiên que loại tám hào một xiên bán ở tiệm thuốc Bình An Đường đấy.” Triệu Hải Thời lại cười, nói: “Không thể nào, cô ấy ghét ăn thịt dê nướng xiên que lắm mà, tôi phải xem thử một chút mới được.” Dứt lời, Triệu Hải Thời ghìm cương ngựa lại, chui vào trong kiệu, thế rồi khung cảnh trong kiệu đột nhiên biến thành một phòng ăn riêng trong nhà hàng. Trên chiếc bàn ở chính giữa gian phòng đó có đặt một chiếc bếp nướng lớn, trên bếp có mấy con dê nướng nguyên con cỡ nhỏ, con nào cũng chỉ to ngang con vịt. Ngay sau đó, Tiêu Tiểu Yến ngửi thấy một mùi gây hết sức nồng đậm. Triệu Hải Thời lúc này đang ngồi ngay trước mặt Tiêu Tiểu Yến, hỏi: “Thịt dê nướng xiên que có ngon không?” Tiêu Tiểu Yến ngó nhìn quanh bốn phía, sau khi nhìn thấy nhân viên phục vụ của nhà hàng đang đứng ở cửa thì bèn nói: “Này, tôi đâu có gọi dê nướng nguyên con, sao lại mang dê nướng nguyên con lên đây? Mau bưng đi cho tôi!” Nhân viên phục vụ là một ông cụ, ông ta đưa tay gãi đầu, ngượng ngùng nói: “Tiểu Yến, không phải cháu vẫn luôn thích ăn thịt dê nướng xiên que của nhà chú sao?” Khi đó Tiêu Tiểu Yến cảm thấy rất ấm ức, liền kéo tay ông cụ bước ra ngoài cửa, nói: “Chú Lâm, đi nào, đi nào, chúng ta ra ngoài này nói cho rõ ràng, chú không được ăn quỵt đâu đấy.” Vừa mới ra khỏi cửa, ông cụ đó chợt kêu lên úi chao một tiếng, nói: “Xin lỗi, chú đưa nhầm đồ ăn rồi, bây giờ chú sẽ mang thịt dê nướng xiên que đi và thay bằng thịt lừa nướng cho bọn cháu.” Sau khi quay trở lại trong phòng, gian phòng đó chợt biến về chiếc kiệu, Tiêu Tiểu Yến thì vẫn ngồi ngay ngắn bên trong, Triệu Hải Thời vừa cưỡi ngựa vừa ngoảnh đầu lại cười nói với cô ta: “Đến nhà rồi, đợi lát nữa em nhớ trải giường cho nhanh, sau đó thì sinh cho anh một đứa con trai béo tròn trắng trẻo nhé!“.”

”Đúng là hỗn loạn thật đấy.” Tôi nói. “Từ trong giấc mơ này cô phát hiện ra điều gì?”

”Giấc mơ là nơi phơi bày sự ngụy trang của tiềm thức, giấc mơ càng hỗn loạn thì chứng tỏ sự ngụy trang của tiềm thức càng sâu sắc.” Diệp Thu Vi nói. “Muốn phân tích một giấc mơ như vậy, trước tiên cần phải lột bỏ sự ngụy trang của tiềm thức, cũng tức là phải hiểu được ý nghĩa tượng trưng của các sự vật chủ yếu trong giấc mơ. Đầu tiên là thịt dê, trong giấc mơ từng nhiều lần xuất hiện thịt dê nướng xiên que và dê nướng nguyên con, mà Tiêu Tiểu Yến còn từng nhắc đến cả mùi gây của thịt dê nữa, phải chăng đối với cô ta, thịt dê mang một thứ ý nghĩa đặc biệt nào đó? Tôi hỏi cô ta là có phải cô ta thích ăn thịt dê không, cô ta bèn nói tuy không thích nhưng cũng không đến mức ghét. Tôi lại hỏi cô ta là có phải từng cảm thấy khó chịu sau khi ăn thịt dê không, cô ta trả lời rằng không, cô ta không có vấn đế gì với thịt dê cả.”

Tôi buột miệng nói: “Lẽ nào việc nằm mơ thấy thịt dê chỉ là một sự trùng hợp tình cờ.”

”Trong giấc mơ không có cái gọi là trùng hợp tình cờ.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi tiếp tục tiến hành thăm dò cô ta về vấn đề thịt dê. Khi nói tới cách làm thịt dê, cô ta vô tình kể lại một chuyện. Hồi đầu năm 2009, Triệu Hải Thời đi nơi khác công tác chừng hơn một tuần, khi quay về thì có vẻ hốc hác đi nhiều. Tiêu Tiểu Yến mua về mấy miếng sườn dê thật ngon để nấu canh, định bồi bổ cho chồng mình. Chẳng ngờ đêm đó Triệu Hải Thời mãi đến hơn mười giờ mới về nhà, còn say túy lúy, chỉ tắm rửa sơ qua một chút rồi gục đầu ngủ luôn. Tiêu Tiểu Yến múc canh mang đến cho anh ta uống, nhưng anh ta không những không uống mà còn tức tối đẩy bát canh đi, nói là chỉ ngửi thôi đã thấy buồn nôn rồi. Anh ta đẩy rất mạnh, làm cho nước canh bắn đầy cả lên người Tiêu Tiểu Yến. Tiêu Tiểu Yến rất ấm ức, hỏi anh ta là có phải đã ăn gì bên ngoài rồi không, anh ta liền đáp là vừa mới cùng các anh em đi ăn thịt lừa nướng.”

Tôi đưa tay lên vuốt nhẹ mái tóc một chút, trầm ngâm nói: “Trong giấc mơ đó cũng đã xuất hiện thịt lừa nướng.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi ý thức được chuyện nấu canh này có lẽ chính là nguyên nhân khiến cô ta nằm mơ thấy thịt dê và thịt lừa. Triệu Hải Thời là một người tôn thờ chủ nghĩa đàn ông, hơn nữa còn độc đoán, máu lạnh và khiến người ta sợ hãi. Tiêu Tiểu Yến thì là loại phụ nữ yếu đuối điển hình, rất ỷ lại vào đàn ông. Cô ta rất sợ chồng mình, bằng không đã chẳng nghe theo mệnh lệnh của chồng mà đi phá thai như thế.”

Tôi khẽ gật đầu.

”Sự sợ hãi sẽ thể hiện ra qua rất nhiều chi tiết tâm lý.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Ví dụ như trong chuyện nấu canh kia chắng hạn, Tiêu Tiểu Yến dày công nấu canh thịt dê cho chồng, thế mà chồng cô ta lại nói là chỉ ngửi thôi đã thấy buồn nôn, trong tiềm thức, Tiêu Tiểu Yến cho rằng canh thịt dê khiến cho chồng nổi nóng với mình, từ đó liền nảy sinh cảm giác sợ hãi và chán ghét đối với canh thịt dê, sau đó phát triển thành đối với tất cả mọi thứ được làm từ thịt dê. Ngoài ra, chồng cô ta không uống canh thịt dê là vì đã ăn thịt lừa nướng rồi, thế là theo tiềm thức, cô ta bất giác nảy sinh một thứ tình cảm đặc biệt đối với thịt lừa nướng.”

Tôi nói ra suy nghĩ của mình: “Cô ta cố tình học theo sự yêu ghét của chồng mình một cách vô thức, đó hẳn là tâm lý lấy lòng sinh ra do sự sợ hãi rồi. Loại hoạt động tâm lý này kỳ thực có thể làm giảm bớt và xóa nhòa sự sợ hãi một cách hữu hiệu, cho nên xét kĩ ra cũng có thể tính là một hình thức tự bảo vệ của tâm lý.”

”Hoàn toàn chính xác.” Diệp Thu Vi nhìn tôi bằng một ánh mắt kỳ lạ, mà ánh mắt này đã xuất hiện mấy lần trong ngày hôm nay rồi. “Cho nên đối với Tiêu Tiểu Yến, thịt dê là một sự vật mang tính tiêu cực, còn thịt lừa nướng là một sự vật mang tính tích cực. Tiếp tục phân tích nhé, chi tiết đáng chú ý thứ hai chính là ông cụ họ Lâm trong giấc mơ, vì thịt dê là do ông ta đưa tới, cụm từ thịt lừa nướng cũng được nói ra từ miệng ông ta, mà càng quan trọng hơn là trong mơ, Tiêu Tiểu Yến đã gọi ông ta là chú Lâm – điều này chứng tỏ cô ta rất có thể quen biết người này. Sau khi nghe tôi hỏi chuyện về chú Lâm, Tiêu Tiểu Yến liền nói cho tôi biết, chú Lâm là một người bạn của cha cô ta, tên là Lâm Vũ Binh. Từ năm 1989 đến năm 1996, nhà họ Tiêu và nhà họ Lâm là hàng xóm với nhau sáu năm liền. Ngày ấy, Lâm Vũ Binh mở một tiệm thuốc tên là Bình An Đường, Tiêu Tiểu Yến thường xuyên đến tiệm thuốc đó chơi, cho nên có thể nói là vô cùng quen thuộc nơi đó.”

Tôi không kìm được tò mò hỏi: “Người này rốt cuộc tượng trưng cho điều gì chứ?”

”Nếu một người đã nhiều năm không gặp đột nhiên xuất hiện trong giấc mơ của anh, vậy thì thông thường chỉ có hai loại khả năng.” Diệp Thu Vi giải thích. “Thứ nhất, người này tượng trưng cho một số sự vật hoặc tâm trạng có liên quan nào đó, chẳng hạn như khi anh nằm mơ thấy một người bạn học đã lâu ngày không gặp, vậy thì có thể là anh đang nhớ tới những kỷ niệm tươi đẹp thời học sinh, hoặc như khi anh nằm mơ thấy người yêu của mình hồi trẻ, vậy thì có thể là lúc ban ngày anh đã nhìn thấy một vật nào đó có liên quan tới tình yêu của anh năm xưa. Thứ hai, người này tượng trưng cho một con người khác có những đặc điểm tương tự, loại tình huống này thì hay xuất hiện, chắng hạn như một học sinh Tiểu học nằm mơ thấy một con quái thú đeo kính biết phun lửa, rất có thể con quái thú đó chính là hình ảnh tượng trưng cho một giáo viên đeo kính nghiêm khắc trong trường.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi khẽ gật đầu.

”Muốn làm rõ ý nghĩa tượng trưng của Lâm Vũ Binh, tôi nhất định phải tìm hiểu kĩ hơn về con người này mới được.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Kế đó, dưới sự dẫn dắt của tôi, Tiêu Tiểu Yến đã nhớ lại rất nhiều chuyện có liên quan tới Lâm Vũ Binh, trong số đó có một chi tiết đã khiến tôi chú ý. Tiêu Tiểu Yến kể, quan hệ giữa hai nhà Lâm, Tiêu vốn luôn không tệ, nhưng tới năm 1994, Công ty Y dược thành phố tiến hành cải cách, cha mẹ của Tiêu Tiểu Yến vì thế mà đồng thời bị mất việc. Bọn họ muốn tới tiệm thuốc Bình An Đường kiếm kế sinh nhai, thế nhưng lại bị Lâm Vũ Binh từ chối. Sau khi cha mẹ Tiêu Tiểu Yến thất nghiệp, suốt một năm trời gia đình họ đều không có nguồn thu nhập ổn định nào, Tiêu Tiểu Yến cũng vì thế mà phải chịu không ít khổ sở. Một đứa trẻ khoảng mười một, mười hai tuổi vốn đang ở trong giai đoạn bước đầu nhận thức được các mối quan hệ trong xã hội, sự tác động từ cha mẹ có thể nói là quan trọng vô cùng. Do ảnh hưởng từ cha mẹ, đối với Tiêu Tiểu Yến, Lâm Vũ Binh đã trở thành sự tượng trưng cho một mối uy hiếp tới từ bên ngoài đối với gia đình bọn họ. Đến năm 2009, một mối uy hiếp tới từ bên ngoài khác đã lại một lần nữa xuất hiện trong cuộc sống của cô ta.”

”Hà Ngọc Bân!” Tôi hít sâu một hơi, nỗi nghi hoặc trong lòng nhanh chóng tan biến hoàn toàn. “Lâm Vũ Binh chính là hình ảnh tượng trưng cho Hà Ngọc Bân!”

”Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói. “Lâm Vũ Binh và Hà Ngọc Bân đều đã cấu thành uy hiếp đối với sự an toàn của gia đình Tiêu Tiểu Yến, cùng với đó, tên của hai người đọc lên nghe cũng khá giống nhau(*). Giấc mơ là sự phơi bày và giải tỏa của những ham muốn bị kìm nén, ham muốn của Tiêu Tiểu Yến có liên quan tới Hà Ngọc Bân, thế nhưng cô ta lại không muốn nằm mơ thấy Hà Ngọc Bân, thế là liền dùng Lâm Vũ Binh để thay thế. Dù sao thì sự uy hiếp mà Lâm Vũ Binh tạo ra cho gia đình của cô ta cũng là chuyện từ mười mấy năm trước rồi.”

(*). Trong tiếng Hán, tên của Lâm Vũ Binh có phiên âm là Lín Yũ Bing, tên của Hà Ngọc Bân có phiên âm là Hé Yù Bin - ND.

Tiềm thức của loài người quả đúng là huyền diệu.

Diệp Thu Vi hơi dừng lại một chút, sau đó tiếp tục phân tích: “Đến lúc này, tôi đã có thể tiến hành phân tích chỉnh thể giấc mơ đó được rồi. Kết hôn là một chuyện mừng, người phụ nữ nằm mơ thấy chuyện kết hôn thì chứng tỏ người đó quả thực đang cảm thấy hạnh phúc. Nhưng trong quá trình kết hôn lại đột nhiên có người xuất hiện và tố cáo với Triệu Hái Thời, rằng Tiêu Tiểu Yến đang ăn thịt dê. Đối với Tiêu Tiểu Yến, thịt dê là vật tượng trưng cho sự tiêu cực, cho nên sự tố cáo như thế vừa hay ứng với việc Lý Cương vu cáo cô ta ở ngoài đời thực. Nhưng sau dó cô ta lại ngạc nhiên phát hiện ờ trước mặt mình thực sự có thịt dê, thậm chí còn có thể ngửi thấy mùi gây của thịt dê nữa, điều này chứng tỏ sự vu cáo đã có tác dụng, và Triệu Hải Thời đã bắt đầu hoài nghi cô ta, từ đó cô ta liền nảy sinh cảm giác “có nhảy xuống sông Hoàng Hà cũng không thể rửa sạch nỗi oan“. Vì không muốn nhìn thấy thịt dê nữa, cô ta kéo nhân viên phục vụ ra ngoài cửa để nói chuyện cho rõ ràng. Trong giấc mơ, nhân viên phục vụ là Lâm Vũ Binh nhưng đồng thời cũng chính là Hà Ngọc Bân nữa. Hà Ngọc Bân thừa nhận đã đưa nhầm đổ ăn, sau đó đồng ý sẽ mang thịt lừa nướng lên, điều này chứng tỏ Tiêu Tiểu Yến đã thoát khỏi sự vu cáo, mà câu nói cuối cùng của Triệu Hải Thời kia thì hẳn nhiên là tượng trưng cho nguyện vọng tốt đẹp của Tiêu Tiểu Yến khi được chồng mình tin tưởng trở lại.”

”Về giấc mơ thì tôi hiểu rồi.” Tôi nói. “Nhưng điều này có thể giúp ích được gì cho hành động của cô trong bước tiếp theo ư?”

”Tiếp tục phân tích nhé.” Diệp Thu Vi nói. “Trong giấc mơ, thịt dê là do Hà Ngọc Bân đưa tới, nói cách khác, Tiêu Tiểu Yến đã biết sự vu cáo mà mình gặp phải có liên quan tới Hà Ngọc Bân. Anh thử nghĩ lại xem, đến cuối cùng cô ta dựa vào đâu mà lấy lại được sự tin tưởng từ chồng mình?”

”Kéo Hà Ngọc Bân ra ngoài cửa nói rõ ràng mọi việc...” Nói tới đây, tôi lập tức hiểu ngay ra ý của cô ta. “Chẳng lẽ cô ta hy vọng Hà Ngọc Bân làm chứng cho sự trong sạch của mình? Lối suy nghĩ này hình như quá ngốc nghếch và ngây thơ thì phải?”

”Vì hôn nhân và gia đình, những việc ngốc nghếch mà phụ nữ làm ra còn ít hay sao?” Diệp Thu Vi lạnh lùng nói, “Lối suy nghĩ ngốc nghếch này của cô ta vừa hay thích hợp cho tôi lợi dụng.”

Tôi đột nhiên cảm thấy buồn bã vô cùng.

”Vẫn còn một vấn đề nữa cần phải giải quyết.” Diệp Thư Vi tiếp tục phân tích. “Tiêu Tiểu Yến tuy đã nảy sinh suy nghĩ ngây thơ là đi tìm Hà Ngọc Bân nhờ chứng minh sự trong sạch của bản thân, nhưng khi đó suy nghĩ này mới chỉ tồn tại trong tiềm thức của cô ta mà thôi, còn chưa đi vào khu vực ý thức. Hơn nữa, cho dù nó đã đi vào khu vực ý thức của cô ta rồi thì với tính cách nhu nhược và mềm yếu như thế, cô ta cũng chưa chắc đã có đù can đảm để biến nó thành hành động thực sự. Tôi cần phải khiến cô ta nhận thức được suy nghĩ trong nội tâm của bản thân, đồng thời đem tới cho cô ta đủ dũng khí.”

”Cô đã làm như thế nào?”

”Để không khiến cô ta nghi ngờ, trong ngày hôm đó, tôi không có thêm hành động gì khác nữa.” Diệp Thu Vi hờ hững kể tiếp. “Chiều ngày 16 tháng 8, sau khi chơi thể thao, chúng tôi lại vào khu vực nghỉ ngơi tán gẫu theo lệ thường. Khi đó, tôi làm bộ vô tình kể cho cô ta nghe một câu chuyện như thế này, rằng tôi có một người bạn tên là W, hồi trẻ từng yêu một người đàn ông tên là R, còn nhất quyết đòi lấy anh ta. Nhưng về sau cô ấy lại vô tình phát hiện R là lãnh đạo cấp cao của một mạng lưới buôn bán ma túy khổng lồ, có điều, dù là như thế nhưng tình cảm của cô ấy với R vẫn không hề thay đổi, còn tỏ ý sẵn lòng đồng sinh cộng tử với anh ta. Nhưng rồi một ngày, đột nhiên có người đến tố cáo với R rằng W chính là kẻ nằm vùng cùa một tập đoàn buôn bán ma túy đối địch. R tuy rất yêu W, thế nhưng kẻ nằm vùng rõ ràng là vô cùng nguy hiểm, cho nên anh ta không thể không đề phòng... Khi kể tới đây, tôi cố tình dừng lại một lát.”

Tôi lập tức hiểu ngay ra ý của cô ta. “Xem ra cô muốn cho Tiêu Tiểu Yến thời gian để tưởng tượng, từ đó khơi dậy sự đồng cảm của cô ta rồi.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Chờ đến khi cô ta nôn nóng hỏi tôi về chuyện xảy ra tiếp theo thì tôi mới lên tiếng, vậy nhưng vẫn úp úp mở mở, hỏi: “Em thử đoán xem W đã làm gì?” Tiêu Tiểu Yến bồn chồn nhìn tôi, đôi hàng lông mày nhíu chặt, khi nói năng thì úp úp mở mở. Điệu bộ cùng với giọng nói căng thằng của cô ta khiến tôi hiểu được, cô ta đã coi mình là W trong câu chuyện kia rồi. Thấy thời cơ đã chín muồi, tôi bèn kể tiếp, vì muốn chứng minh sự trong sạch của mình, không ngờ W lại chạy đi tìm người cầm đầu tập đoàn buôn bán ma túy đối địch kia, nhờ đối phương đi nói rõ ràng mọi việc với R. Tiêu Tiểu Yến thở dài một hơi, nói phụ nữ đúng là ngốc nghếch, không ngờ lại vì tình yêu mà bất chấp cả tính mạng như vậy, cuối cùng lại nôn nóng hỏi tôi: “Thế cuối cùng cô ấy có thành công không?” Tôi cười đáp, có, cô ấy đã thành công, người cầm đầu tập đoàn buôn bán ma túy đối địch kia còn vì chuyện này mà cất công đi gặp trực tiếp R một chuyến. Anh ta nói với R, người phụ nữ của anh biết chúng ta có mâu thuẫn mà còn dám tới tìm tôi, chỉ dựa vào điều này thôi cũng đủ để tôi tôn trọng cô ấy rồi, đồng thời tôi cũng tôn trọng anh nữa. Tuy hai bên chúng ta có mâu thuẫn với nhau, nhưng đây là chuyện của đàn ông, chớ nên để phụ nữ bị dính vào, người phụ nữ của anh hoàn toàn không dính dáng gì tới chúng tôi cả. Chuyện này anh tin cũng được, không tin cũng được, tôi chỉ nói tới đó thôi. Tiêu Tiểu Yến lập tức hỏi tôi, thế R có tin không? Tôi ra vẻ trầm ngâm một lát, sau đó mới nói, tin chứ, hơn nữa sau chuyện này anh ta không chỉ không còn nghi ngờ gì W nữa, còn trở thành bạn với người cầm đầu tập đoàn buôn bán ma túy đối địch kia.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Thế cuối cùng cô có thêm vào một kết cục kiểu như “R và người cẩm đầu tập đoàn buôn bán ma túy đối địch đều phải chịu sự trừng trị của pháp luật” không? Như vậy câu chuyện hiển nhiên sẽ chân thực hơn một chút.”

”Tuyệt đối không thể nói ra những lời này được.” Diệp Thu Vi phân tích. “Cần phải biết rằng công việc của Triệu Hải Thời cũng chẳng sạch sẽ gì, hơn nữa anh ta còn phải chịu sự uy hiếp tới từ lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A, do đó tôi không việc gì phải vẽ rắn thêm chân cả, làm như thế sẽ chỉ gây ảnh hưởng xấu tới tâm trạng của Tiêu Tiểu Yến mà thôi.”

Tôi cười ngượng, nói: “Nói vậy cũng phải, vẫn là cô suy nghĩ chu toàn.”

Cô ta lại kể tiếp: “Sau khi nghe xong chuvện về W, Tiêu Tiểu Yến liên tục hít sâu mấy hơi, tay phải thì nắm chặt tay trái, còn dùng sức mà day liên tục, đồng thời hết cắn môi trên lại cắn môi dưới. Những hành vi này đều chứng tỏ nội tâm của cô ta đang băn khoăn và day dứt bởi một quyết định khó khăn nào đó. Một lát sau, cô ta liền hỏi tôi: “Chị Thu Vi này, đàn ông thực sự có thể rộng lượng như vậy ư?” Tôi nói: “Đưong nhiên rồi, lòng dạ của đàn ông vốn rất rộng rãi, hoàn toàn không giống như phụ nữ chúng ta.” Trong quá trình tán gẫu tiếp đó, tôi lại kể cho cô ta nghe mấy câu chuyện khác tương tự như vậy. Sau khi nghe kể xong câu chuyện cuối cùng, hơi thở của cô ta đột nhiên trở nên nhẹ nhàng và đều đặn, số lần chớp mắt cũng ít hẳn đi, đôi bờ môi thì mím chặt, những điều này chứng tỏ cô ta đã hạ quyết tâm.”

Tôi lặng lẽ gật đầu.

”Tôi có một dự cảm, đó là rất nhanh thôi cô ta sẽ có hành động.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Tối đó, tôi lại lần nữa gọi cho Hà Ngọc Bân. Anh ta rất sợ tôi, hỏi là có thể giúp gì được cho tôi nữa không. Tôi nói: “Không phải tôi cần anh giúp tôi, mà là tôi đang giúp anh, nếu anh và Triệu Hải Thời cứ tiếp tục hục hặc với nhau thế này, sớm muộn gì cả hai cũng sẽ gặp họa. Anh đã chịu nghe lời như thế, vậy tôi sẽ giúp anh giải quyết triệt để mối nguy hại lần này.” Sau khi anh ta hỏi về tình hình cụ thể, tôi liền nói: “Tôi cũng đã nói chuyện với Triệu Hải Thời rồi, anh ta nói giữa các anh chỉ có một chút hiểu lầm nhỏ mà thôi, quả thực nên tìm một cơ hội nào đó để hòa giải. Mấy ngày tới, có thể anh ta sẽ kêu vợ mình hẹn gặp anh, anh cần phải đồng ý gặp mặt, sau đó nghiêm túc lắng nghe tất cả những lời mà cô ta nói. Có điều tính cách của vợ anh ta có hơi kỳ quặc, nếu như có đưa ra yêu cầu gì khác thường thì anh nhất định chớ có đồng ý.” Hà Ngọc Bân tuy rằng bán tín bán nghi, nhưng vì sợ tôi nên vẫn luôn miệng đồng ý. Kế đó, tôi lại gửi cho Lý Cương một tin nhắn: Tiểu Cương, cậu làm tốt lắm, biện pháp mà tôi nghĩ ra cho cậu đã phát huy tác dụng rồi. Anh ta trả lời: Nhưng anh ơi, anh Hải hình như không tin vào lời của em lắm thì phải. Tôi đáp lại: Đừng nôn nóng, rất nhanh thôi sẽ có chứng cứ chứng minh lời của cậu là đúng. Mấy ngày tới cậu nhớ phải mở máy giữ liên lạc hai tư trên hai tư, khi chứng cứ xuất hiện tôi sẽ lập tức thông báo cho cậu biết. Anh ta nhắn lại: Em cám ơn anh, mọi việc đều trông cậy vào anh cả đấy.”

Tôi đột nhiên cảm thấy căng thẳng vô cùng.

”Việc cần làm tiếp theo chính là chờ đợi.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Mấy ngày sau đó, tôi thuê thám từ tư theo dõi Hà Ngọc Bân, bản thân thì để tâm chú ý tới hành tung của Tiêu Tiểu Yến. Khoảng ba rưỡi chiều ngày 18 tháng 8, Tiêu Tiểu Yến không đến phòng tập thể thao mà ghé qua một quán cà phê ở đoạn phía nam của đường vành đai bên mé tây thành phố. Tôi lập tức liên lạc với thám tử, thám tử báo lại rằng Hà Ngọc Bân đang lái xe chạy trên đưòng vành đai bốn mé tây theo hướng từ bắc xuống nam. Tôi lập tức nhắn tin cho Lý Cương: Chứng cứ xuất hiện rồi, dẫn anh Hải đến quán cà phê X, địa điểm: nơi giao cắt giữa đường vành đai bốn mé tây và đường Y. Sau đó, tôi tới nhà hàng ở phía đối diện bên kia đường của quán cà phê, chọn lấy một chỗ ngồi có vách ngăn ở ngay gần cửa sổ trên tầng hai. Lúc gần bốn giờ, chiếc suv màu đen mà Lý Cương vẫn lái bấy lâu chạy vào trong bãi đỗ xe của nhà hàng, không lâu sau đó thì Lý Cương, Triệu Hải Thời và một người đàn ông trẻ tuổi khác cùng đi lên tầng hai của nhà hàng, lại chọn lấy một chỗ ngồi ở ngay gần chỗ ngồi của tôi. Tôi đứng dậy giả vờ đi vệ sinh, sau khi quay lại thì ngồi vào chỗ ở sát chỗ của ba người bọn họ. Khoảng bốn giờ mười, tôi nghe thấy Lý Cương nói: “Anh Hải, xe của Hà Ngọc Bân tới rồi kìa.” Khi ấy, tôi có thể nghe thấy những tiếng hít thở rõ ràng là mang đầy vẻ tức giận của Triệu Hải Thời. Rất nhanh sau đó, anh ta ra lệnh cho người trẻ tuổi còn lại kia: “Lão Hổ, chị dâu chú với Hà Ngọc Bân đều không biết chú, chú hãy qua bên đó thám thính xem sao, nhưng nhớ đừng đánh động bọn họ đấy, sau khi quay về thì kể lại cho anh biết bọn họ rốt cuộc đã nói với nhau nhũng gì.“.”

Tôi bất giác nhíu chặt đôi mày, trầm ngâm nói: “Triệu Hải Thời quả có thể coi là hạng già đời lọc lõi. Nếu người được gọi là lão Hổ kia nghe được nội dung của cuộc trò chuyện giữa Tiêu Tiểu Yến và Hà Ngọc Bân, vậy thì bao nhiêu công sức của cô trước đó há chẳng phải là uổng phí hết sao?”

”Tiêu Tiểu Yến tuy rằng ngây thơ, nhưng dù sao cũng là một người trưởng thành, những đạo lý cơ bản thì vẫn biết rất rõ.” Diệp Thu Vi giải thích. “Việc cô ta tìm Hà Ngọc Bân nói chuyện vốn chẳng có gì là vẻ vang cho lắm, đương nhiên không thể để cho người khác biết. Anh có biết tại sao cô ta lại chọn quán cà phê X không? Quán cà phê đó tôi từng ghé vào rồi, trên tầng hai và tầng ba toàn là phòng riêng, hiệu quả cách âm cực tốt. Người được gọi là lão Hổ kia có thể tìm ra phòng của hai người bọn họ đã là không tệ rồi, làm sao mà nghe được nội dung cuộc trò chuyện giữa hai người bọn họ chứ.”

Không thể không nói, sự suy tính của Diệp Thu Vi quả thực là vô cùng chu đáo.

Tôi đưa tay phải tới ra dấu mời. “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Lúc năm giờ, Tiêu Tiểu Yến và Hà Ngọc Bân cùng nhau rời khỏi quán cà phê, lão Hổ theo sát phía sau.” Diệp Thu Vi nói. “Do khoảng cách quá xa nên tôi không thể nhìn rõ vẻ mặt của hai ngưòi bọn họ, có điều cuộc trò chuyện của bọn họ dường như diễn ra không được thuận lợi cho lắm, nguyên nhân hiển nhiên là bởi tôi từng dặn Hà Ngọc Bân phải từ chối bất cứ yêu cầu “khác thường” nào của Tiêu Tiểu Yến. Sau khi Hà Ngọc Bân lên xe, Tiêu Tiểu Yến lại ngồi vào trong xe nói chuyện với anh ta thêm một lát nữa, vừa nói vừa rơi nước mắt, thỉnh thoảng còn lay cánh tay của anh ta, hiển nhiên là đang van nài cầu khẩn. Khi đó, Triệu Hải Thời đã không kìm nén được cơn phẫn nộ, miệng không ngừng mắng Hà Ngọc Bân và người nhà của anh ta. Hai phút sau, lão Hổ quay về bên cạnh Triệu Hải Thời, nói rằng gian phòng bên kia cách âm quá tốt, thành ra không thể nghe rõ Tiêu Tiểu Yến và Hà Ngọc Bân đã nói với nhau những gì, chỉ loáng thoáng nghe thấy Tiêu Tiểu Yến nói ra những lời như là “Hải Thời đã không còn tin tưởng tôi nữa rồi”, “Chỉ có anh mới giúp được tôi thôi”, ngoài ra là những tiếng khóc đứt quãng. Sau khi hai người bọn họ rời khỏi phòng, Tiêu Tiểu Yến còn vừa khóc vừa kéo tay Hà Ngọc Bân, nói cái gì mà “Xin anh đấy”, “Hãy giúp tôi đi mà“. Triệu Hải Thời nghe tới đây thì giận dữ điên cuồng, đột ngột đứng bật dậy lật tung chiếc bàn trước mặt lên, mắng lớn: “Hà Ngọc Bân, mẹ kiếp, hôm nay tao phải giết mày.” Kế đó, anh ta kêu Lý Cương đưa chìa khóa xe cho mình rồi hầm hầm bỏ đi. Lý Cương và lão Hổ thì đều bị nhân viên của nhà hàng ngăn lại, yêu cầu phải bồi thường tổn thất.”

Tôi hít sâu một hơi.

”Sau đó cụ thể xảy ra chuyện gì, tôi không thể nào đoán trước. Nhưng có thể khẳng định một điều, Triệu Hải Thời ắt hẳn sẽ trút lửa giận lên người Hà Ngọc Bân, bằng không thì chẳng thể nào nguôi ngoai được.” Diệp Thu Vi nói tiếp. “Để không khiến Tiêu Tiểu Yến nghi ngờ, tôi vội vàng đến phòng tập thể thao, nhưng ngày hôm đó cô ta không hề qua đó, hai ngày sau cũng vậy. Đến ngày thứ ba, tôi vừa mới đến phòng tập thể thao thì hai người khách quen vốn có quan hệ không tệ với Tiêu Tiểu Yến đã kéo tôi vào một góc, sau đó dùng giọng thần bí nói: “Biết gì chưa Thu Vi, chồng của Tiểu Yến giết người rồi đấy.“.”

Tôi không kìm được thở dài hỏi: “Vậy Tiêu Tiểu Yến về sau thế nào?”

”Tôi với cô ta dần dần không còn liên lạc với nhau nữa.” Diệp Thu Vi nói. “Cô ta không biết gì mấy về kinh doanh, không còn Triệu Hải Thời đứng sau giúp đỡ, phòng tập thể thao căn bản không thể duy trì tiếp được. Đến năm 2010, cô ta sang tên phòng tập thể thao cho người khác, quay về mở một tiệm bán hoa.”

Tôi khẽ gật đầu, lại một cơn gió mạnh thổi tới, ánh dương từ trên đỉnh ngọn cây chiếu xuống làm tôi không mở mắt ra nổi.

”Đi thôi.” Diệp Thu Vi nhắm mắt lại, chậm rãi hít một hơi thật sâu, sau khi mở mắt ra liền cất giọng hờ hững nói: “Bên ngoài này nóng thật.”

Tôi dường như đã quen với việc ở bên cạnh Diệp Thu Vi. Sau khi cuộc trò chuyện hôm đó kết thúc, tôi không còn cảm thấy khó chịu nữa, ngược lại còn nảy sinh một sự tán đồng sâu sắc đối với những việc mà cô ta đã làm. Đương nhiên, cùng với đó, tôi cũng không thể tránh khỏi có chút thông cảm với cảnh ngộ của Tiêu Tiểu Yến.

Sau khi hỏi rõ địa chỉ tiệm bán hoa của Tiêu Tiểu Yến, tôi liền cùng các nhân viên bệnh viện đưa Diệp Thu Vi trở về phòng bệnh. Trước khi đi vào trong phòng bệnh, Diệp Thu Vi ngoảnh đầu nhìn tôi, chủ động nói: “Anh Trương, ngày mai gặp lại.”

Tôi bất giác có chút kinh ngạc khi nghe thấy những lời này.

Sau khi cuộc gặp mặt kết thúc, theo như lệ thường, lão Ngô lại nhờ bác sĩ của bệnh viện kiểm tra tình trạng của tôi, sau đó mới cười hà hà để tôi rời đi. Sau khi ngồi lên xe, tôi mở tập tài liệu về những vụ chết người kia đến trang thứ sáu:

Triệu Hải Thời, nam, sinh tháng 3 năm 1974, lúc sinh tiền từng là giám đốc bộ phận Thị trường của Công ty Dược phẩm E. Tháng 9 năm 2009, bị tòa tuyên phạt án tử hình về các tội tàng trữ vũ khí, đạn dược trái phép và cố ý giết người, đồng thời bị tước đoạt quyền lợi chính trị suốt đời. Đến ngày 25 tháng 10 cùng năm, Triệu Hải Thời bị đưa đi thi hành án tử hình.

Tôi bất giác nín thở, thầm tưởng tượng về cơn tức giận sục sôi trong lồng ngực Triệu Hải Thời khi nổ súng bắn Hà Ngọc Bân, mà dường như còn có thể nghe thấy tiếng súng nổ trong ngày hôm đó. Tiếng súng đó làm chấn động lòng người, vang lên dữ dội, còn viên đạn thì tựa hồ không chỉ bắn trúng Hà Ngọc Bân, còn bắn trúng tôi lúc này đang ngồi trầm tư trong xe nữa. Tôi giật thót một cái, tức thì tỉnh táo trở lại, đưa tay vuốt trán, cảm thấy như vừa buông được một gánh nặng trong lòng.

Chỉ dựa vào việc phân tích những giấc mơ, không ngờ Diệp Thu Vi lại có thể lẳng lặng giết chết hai người đàn ông có bụng dạ khá sâu sắc. Loại năng lực thao túng tâm lý vượt ngoài sức tưởng tượng thế này thực sự khiến người ta phải khâm phục, nhưng đồng thời củng khiến người ta không rét mà run. Suy nghĩ tới đây, tôi ngẩng đầu ngó nhìn quầng sáng mông lung trên cửa sổ ô tô, một nỗi sợ hãi và nghi hoặc mãnh liệt lại một lần nữa nổi lên trong lòng: Trong quá trình gặp mặt, phải chăng Diệp Thu Vi cũng đã dùng một phương thức tương tự như vậy để tiến hành thao túng tâm lý của tôi ở một mức độ nào đó?

Tôi hít sâu một hơi, nhớ đến đôi mắt sâu thẳm như một câu đố không có lời giải của người phụ nữ đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 1: Giấc mơ tột cùng quái lạ


Tôi nhớ lại giấc mơ như thực như ảo ngày hôm qua, ký ức vẫn còn rất rõ ràng: Một người đàn ông đứng ở cửa nhà vệ sinh, ban đầu thì nói mình là Từ Nghị Giang, sau đó lại nói mình là Mã Tam Quân, tiếp đó thì nói mình là Trần Ngọc Long, và cuối cùng lại nói mình chính là…X.

Lúc này là mười giờ sáng ngày 21 tháng 6 năm 2012, cuộc gặp mặt lần thứ bảy giữa tôi và Diệp Thi Vi vừa mới kết thúc. Tôi ngồi trong xe, tay cầm tài liệu về những vụ án mạng, đầu óc thì vẫn còn đắm chìm trong thế giới tinh thần tuy khiến người ta mê đắm nhưng đồng thời còn khiến người ta không rét mà run của Diệp Thu Vi.

Tôi bỗng nảy sinh một trực giác, ấy là ngay từ lần đầu tiên gặp mặt, Diệp Thu Vi đã bắt đầu tiến hành can dự vào tâm lý của tôi bằng một phương thức nào đó. Thứ trực giác ấy vừa mãnh liệt vừa chân thực khiến tôi không thể không tin. Tôi vô thức nín thở, bắt đầu nhớ lại từng chi tiết nhỏ trong sáu lần gặp mặt trước đó với Diệp Thu Vi. Đúng vào thời điểm mà dòng hồi ức và suy nghĩ của tôi sắp có tiến triển, thứ trực giác mãnh liệt tựa như con sóng biển cuộn trào trong đầu tôi lại đột nhiên biến mất, sau nháy mắt đã chẳng còn tăm hơi, chỉ để lại một sự ngẩn ngơ khó mà miêu tả bằng lời.

Tôi thở phào một hơi, đưa mắt nhìn ánh dương loang lổ in trên cửa sổ xe, có cảm giác như vừa tỉnh mộng.

Một lát sau, tôi dần dần bình tĩnh trở lại, liền lật tập tài liệu trong tay qua trang thứ bảy. Người chết thứ bảy cũng từng được Diệp Thu Vi nhắc tới, tên là Lưu Hướng Đông. Về con người này, trong tài liệu chỉ có mấy dòng thông tin ngắn ngủi:

Lưu Hướng Đông, nam, sinh tháng 4 năm 1958, khi còn sống từng là Chủ nhiệm trung tâm Nghiên cứu Khoa học của Công ty Dược phẩm E. Ngày 6 tháng 11 năm 2009, tử vong tại nhà do tự sát.

Tôi không kìm được nhíu chặt đôi mày, thầm nghĩ: Tại sao trong tài liệu lại không nhắc đến việc Lưu Hướng Đông tự sát như thế nào nhỉ?

Sự biến hóa trong tâm lý của con người quả đúng là vừa kỳ diệu vừa nhanh chóng. Tôi đặt tập tài liệu trong tay xuống, vốn định quay lại tìm lão Ngô để hỏi về tình hình cụ thể trong vụ tự sát của Lưu Hướng Đông, nhưng vừa mới mở cửa xe ra lại chợt vô thức thu hai chân về, trong đầu thoáng qua một suy nghĩ:

Lão Ngô cũng chưa chắc đã biết chuyện này, chi bằng hãy để ngày mai hỏi Diệp Thu Vi thì hơn.

Tôi vừa rời khỏi Bệnh viện Tâm thần thành phố thì bà xã đã gọi điện thoại tới.

“Nhất Tân, anh tỉnh rượu chưa vậy? Khi nào thì quay về thế? Nếu anh có chỗ nào không thoải mái thì cứ ở lại đó nghỉ ngơi đến trưa rồi hãy lên đường, đừng để em phải lo lắng.”

“Ừm.” Tôi cố gắng nhớ lại những chuyện đã xảy ra trong buổi tối hôm qua, nhưng đầu óc lại rất mơ hồ. “Tối qua anh có gọi điện thoại cho em sao?”

“Hừm, anh cứ tiếp tục giả vờ nữa đi.” Bà xã hờn giận nói. “Tối qua anh cầm điện thoại nói chuyện với em hơn một tiếng đồng hồ, làm em phiền muốn chết. Em nói cho anh biết, cho dù là như thế thì cũng không thể chứng minh được là tối qua anh không đi “bóc bánh trả tiền” ở bên ngoài đâu đấy.”

Tôi vừa suy nghĩ vừa tiện miệng hỏi: “Vậy anh phải chứng minh như thế nào đây?”

“Tối nay cứ thử một chút là biết ngay thôi mà.” Bà xã cười, nói. “Em nói nghiêm túc này, nếu anh không thấy thoải mái thì đừng về vội, chờ đến buổi trưa trả phòng xong rồi hãy về. Còn nữa, anh nhớ gọi điện thoại cảm ơn anh Phó, tối qua người ta khó khăn lắm mới đưa được anh tới khách sạn, còn bị anh nôn thốc nôn tháo lên người. Lần sau anh có ra ngoài uống rượu thì phải chú ý đừng để bị như vậy nữa đấy!”

Trong trí nhớ, hình như chính tôi mới là người tìm lái xe thuê đưa Phó Hữu Quang về nhà, sao bây giờ lại biến thành anh ta đưa tôi tới khách sạn vậy? Tôi cố gắng nhớ lại mọi việc xảy ra từ lúc tôi và Phó Hữu Quang điều tra tin tức đăng ký của căn phòng số 1727, tiếp đến lại tranh thủ lúc anh ta say rượu mà hỏi thăm tin tức về Từ Nghị Giang, cuối cùng chúng tôi còn xưng anh xưng em, cùng nhau nói tục chửi thề. Sau khi thấy anh ta đã say túy lúy, tôi liền gọi điện thoại tìm lái xe thuê đưa anh ta về nhà…

Nghĩ đến đây, đầu óc bỗng dưng đau nhói như bị kim châm, thế là tôi không kìm được bật kêu lên thành tiếng.

Bà xã sợ hãi kêu ré lên: “Nhất Tân?”

“Không sao đâu.” Tôi vừa đưa tay day trán vừa nói: “Anh chỉ hơi đau đầu thôi. Phải rồi, tối qua anh đã nói những gì với em vậy?”

“Anh thực sự không sao đấy chứ?” Bà xã ân cần hỏi, sau đó liền cười khúc khích mấy tiếng, nói: “Mỗi lần say, anh đều như vậy cả, toàn ăn quàng nói xiên thôi, nào là anh yêu em lắm, suốt đời này chỉ yêu một mình em thôi, nghe mà phát ngán. Lúc ấy em đã buồn ngủ lắm rồi, thế mà anh cứ nhất quyết không cho em gác máy. Cuối cùng anh chỉ nói ra một câu là mặt trời hôm nay thật chói chang, sau đó thì không còn động tĩnh gì nữa.”

Mặt trời hôm nay thật chói chang? Tôi khẽ lắc đầu buồn bực, xem ra cơn say của tôi hồi tối qua thật không nhẹ chút nào.

Sau khi gác máy, tôi vội vàng mở xem nhật ký cuộc gọi. Lúc mười giờ tối hôm qua, bà xã gọi cho tôi một cuộc điện thoại kéo dài trong năm phút, nhưng tôi lại chẳng có chút ấn tượng nào về cuộc gọi này. Lúc mười giờ mười phút, tôi có gọi cho một số điện thoại cố định lạ, xem đầu số thì là số của thành phố B. Lúc mười giờ năm mươi ba phút, tôi gọi cho bà xã một cuộc kéo dài hơn một giờ. Vào khoảng mười hai giờ, Phó Hữu Quảng đã gọi cho tôi hai lần, nhưng cả hai lần tôi đều không nghe máy, có lẽ lúc đó tôi đã ngủ thiếp đi rồi. Tiếp sau nữa thì là vào lúc một giờ ba mươi phút, tôi gọi cho người chuyên bán tin tức đăng ký lưu trú ở khách sạn.

Tôi gọi vào số điện thoại cố định của thành phố B kia, đối phương hóa ra là một công ty chuyên cung cấp lái xe thuê. Xem ra trí nhớ của tôi là chính xác, lúc mười giờ tối chính tôi đã tìm lái xe thuê tới đưa Phó Hữu Quảng về nhà. Cái tay này tệ thật, không ngờ lại nói với bà xã tôi là anh ta đưa tôi tới khách sạn…

Mà từ từ đã, anh ta và bà xã tôi rốt cuộc đã liên lạc với nhau vào lúc nào vậy nhỉ?

Tôi lập tức gọi điện thoại cho Phó Hữu Quảng, sau khi nhấc máy anh ta liền hỏi ngay: “Tỉnh chưa thế người anh em? Chỗ tối qua cũng được đấy chứ hả?”

“Hả?” Tôi bất giác sững người. “Tối qua anh đã tìm chỗ nghỉ cho em sao?”

“Không phải anh thì là ma chắc?” Anh ta cười vang ha hả. “Người anh em này, không uống được thì chú phải nói sớm chứ, lần sau chúng ta sẽ không uống nữa. Tối qua chú nôn đầy lên người anh, còn nôn cả lên người anh chàng lái xe thuê nữa, nếu không phải anh bằng lòng đưa thêm năm mươi tệ, anh ta ắt chẳng chiu để yên cho chú đâu.”

Tôi cười gượng, nói: “Em xin lỗi, khi đó rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì em không sao nhớ được nữa rồi.”

“Anh biết, chú không cần phải để bụng chuyện này đâu.” Anh ta ho mạnh mấy tiếng, sau đó nói: “So ra anh cũng chẳng đỡ hơn chú là mấy, khi gần về đến cửa nhà rồi thì lại bị kiểm tra nồng độ cồn. Mẹ kiếp, vào đồn thì đương nhiên là không cần, nhưng anh vẫn bị phạt mất năm trăm tệ.”

Tôi vội vàng cười nói: “Hãy cứ coi như là của đi thay người đi anh, chờ đến thàng Mười này anh nhất định sẽ được lên báo.”

Anh ta cười vang ha hả, nói: “Chuyện này anh trông cậy cả vào chú đấy. Phải rồi, tối qua vợ chú có gọi điện thoại tới, nhưng khi đó chú đã say quá rồi, nói năng còn chẳng tròn vành rõ chữ, thế là anh liền nghe thay chú. Nói thực lòng, tuy anh chưa tận mắt nhìn thấy vợ chú lần nào, nhưng chỉ nghe giọng nói thôi đã có thể cảm nhận được cô ấy không phải là loại phụ nữ không đứng đắn. Vợ chồng sống với nhau thì nên tin tưởng nhau một chút, ở đời có ai mà chưa từng có những suy nghĩ linh tinh? Như tối qua ấy, chú cứ lèm bèm đòi anh tìm gái về cho chú mãi.”

Tôi ngượng ngùng nói: “Em cứ uống say là thành ra như vậy đấy, chuyện này anh nhất định đừng để cho vợ em biết nhé!”

“Ừ, chú yên tâm.” Giọng nói của Phó Hữu Quang dần dần bình tĩnh trở lại. “Có điều, chú mau gọi điện thoại thông báo tình hình cho vợ chú biết đi, đừng đẻ cô ấy phải lo lắng.”

Tôi một mặt đáp “vâng”, một mặt tiếp tục suy nghĩ về những chuyện đã xảy ra tối qua, thế rồi đột ngột nhớ tới giấc mơ như thật như ảo kia.

“Anh này.” Tôi dùng giọng nghiêm túc hỏi: “Tối qua anh đã đưa em vào tận phòng đúng không?”

“Ừm.” Phó Hữu Quảng nói. “Ở bên này chú vốn chẳng quen biết ai, lạ nước lạ cái, để người khác đưa anh làm sao mà yên tâm được. Lái xe thuê sau khi cho xe vào bãi đỗ xe của khách sạn thì liền đi ngay, anh dùng chứng minh thư của mình để đặt phòng cho chú, sau đó đưa chú vào trong phòng. Chú vừa mới vào phòng thì lại bắt đầu nôn tiếp, còn nói là lạnh, nhất quyết đòi mở đèn sưởi phòng tắm. Anh sợ chú xảy ra chuyện, liền ở lại đó đến gần mười một giờ, khi đó chú nới là muốn gọi điện thoại cho vợ, thấy đã gọi được rồi anh mới rời đi.”

Tôi hỏi: “Không có người nào khác vào phòng em chứ anh?”

Phó Hữu Quảng hơi ngẩn ra một chút, thế rồi bèn nói: “Chắc là không, rốt cuộc có chuyện gì vậy? Chú mất đồ à?”

“Dạ.” Tôi bịa bừa ra một lý do: “Em bị mất một cuốn sổ ghi chép, cũng chẳng phải là thứ gì quý báu cả.”

“Nếu chú thực sự cần, anh có thể nhờ người kiểm tra lại camera giám sát ở khách sạn đó.”

Tôi vội vàng nói: “Thế thì xin phiền anh giúp em một chút vậy, cuốn sổ đó rất quan trọng với em.” Kế đó, tôi lại hỏi câu cuối cùng: “Anh này, hôm qua anh gọi lái xe thuê tới bằng điện thoại của em đúng không?”

“Ừ.” Phó Hữu Quang đáp. “Khi đó điện thoại của anh hết pin.”

Tôi bất giác thở phào một hơi. Từ giọng điệu, tốc độ nói cùng với tính logic mà xét, Phó Hữu Quang có lẽ không hề dối gạt tôi điều gì. Nhưng tại sao những điều mà anh ta kể lại không hề giống với trí nhớ của tôi như thế? Chẳng lẽ tôi bị say rượu nên trí nhớ trở nên hỗn loạn sao? Hay là đằng sau chuyện này còn có nguyên nhân phức tạp gì khác? Liệu có khi nào phần ký ức sau bữa rượu đó vốn chỉ là một phần của giấc mơ không?

Đầu tôi lại chợt đau nhói lên từng hồi dữ dội. Tôi nheo mắt, đưa tay ôm đầu, dừng xe vào bên đường. Lúc này là chín giờ bốn mươi phút sáng, mặt trời đã lên rất cao. Ánh nắng xuyên qua ô cửa sổ chiếu vào trong xe, tôi vừa mở mắt ra liền cảm thấy đầu óc hơi choáng váng, thế là lại nhắm mắt, trong đầu đột nhiên lóe hiện mấy mảnh vụn ký ức chẳng biết thật giả thế nào.

Tôi nhớ ra rồi! Tối qua khi rời khỏi quán ăn, tôi cảm thấy đầu nặng chân nhẹ, chính Phó Hữu Quảng đã dìu tôi. Lúc điện thoại của tôi đổ chuông, cũng chính Phó Hữu Quảng đã nghe máy, sau đó liền nói: “Em dâu đấy à, bây giờ anh đang đưa Nhất Tân đến khách sạn, em cứ yên tâm, không có chuyện gì đâu.”

Cảnh tượng tiếp theo thì là: Tôi nhìn thấy một người đàn ông trung niên gầy gò, anh ta giúp Phó Hữu Quảng đỡ tôi lên ngồi vào ghế sau của xe. Trước khi lên xe, tôi đột nhiên nôn thốc nôn tháo, người đàn ông trung niên đó và Phó Hữu Quảng đều kêu oai oái không ngừng.

Kế đến là cảnh tượng thứ ba: Tôi ngồi trên nắp đậy của bồn cầu, tựa lưng vào két chứa nước phía sau, ngửa cổ lên làu bàu nói: “Anh này, anh nhất định phải kiếm một con hàng thật ngon về đây cho em đấy.” Phó Hữu Quảng nhìn tôi, trên mặt thấp thoáng một nụ cười phức tạp.

Cảnh tượng cuối cùng là: Trong khi tôi bám vào thành chậu rửa mặt để nôn, giọng nói của bà xã không ngừng vang ra từ trong điện thoại. Sau khi nôn xong, tôi bật tất cả đèn sưởi phòng tắm, lại soi mình trong gương, khi ngẩng đầu lên nhìn trần nhà thì bị ánh đèn sưởi rọi cho không sao mở mắt ra được, trong cơn mơ màng liền nói ra một câu: “Mặt trời hôm nay thật chói chang!” Ngay sau đó, tôi loạng choạng đi ra khỏi nhà vệ sinh, lại vứt điện thoại lên giường, rồi đổ gục xuống giường. Trong khoảnh khắc đó, tôi đột nhiên nghe thấy giọng nói của một người nào đó ở phía sau lưng mình…

Khi ấy trong phòng quả thực đang có người khác.

Nghĩ tới đây, tôi không kìm được rùng mình một cái, đầu óc lại một lần nữa nhói đau. Ngay sau đó, tôi ngửi thấy một mùi tanh thoang thoảng đâu đây. Tôi xuống xe, mở cửa sau của xe ra, liền nhìn thấy một bãi nôn trên tấm thảm để chân ở dưới sàn xe, ngay cả đệm ghế ngồi cũng bị dính một ít. Như vậy xem ra tối qua tôi quả thực đã được lái xe thuê đưa tới khách sạn, nhưng tại sao tôi lại luôn nghĩ rằng mình đã tự lái xe chứ? Trong buổi tối ngày hôm qua, tôi rốt cuộc đã trải qua những chuyện gì? Là ai đã lén lút đi vào trong phòng của tôi?

Tôi gửi cho Phó Hữu Quảng một tin nhắn: Anh ơi, việc kiểm tra camera giám sát ở khách sạn xin hãy làm giúp em nhanh một chút!

Mấy phút sau, cuối cùng tôi đã phần nào bình tĩnh trở lại. Dựa theo địa chỉ mà Diệp Thu Vi cung cấp, tôi rất nhanh đã tìm được cửa hàng hoa có tên là “Vũ Yến Phương Thảo Ốc”. Tôi vừa mới bước chân vào cửa, lập tức có một người phụ nữ tuổi chừng ba mươi vồn vã đi đến chào tôi, sau đó hỏi tôi muốn mua loại hoa gì.

“Hoa hồng.” Tôi hỏi vẻ không chắc chắn lắm: “Phụ nữ đa phần đều thích hoa hồng đúng không?”

Người phụ nữ đó hỏi lại bằng giọng trêu đùa: “Anh định tặng hoa cho vợ hai là cho tình nhân?”

Tôi cười đáp: “Cho vợ.”

“Nhìn tuổi anh thế này, chắc vợ chồng anh đã cưới nhau được hơn mười năm rồi đúng không?” Cô ta cười nói: “Tôi chỉ đoán bừa vậy thôi, nếu không đúng mong anh đừng trách.”

“Cũng được xấp xỉ mười năm rồi.” Tôi ngó quanh bốn phía. “Tiệm hoa lớn thế này mà chỉ có mình cô thôi ư? Chắc cô bận rộn lắm nhỉ?”

“Đã mười năm rồi, vậy thì không cần phải mãnh liệt quá.” Cô ta suy nghĩ một lát rồi nói: “Hãy lấy mười bông hoa hồng sâm banh đi, lại kết hợp với mai tương tư nữa, đảm bảo cô ấy sẽ thích, có điều giá thì không hề rẻ đâu nhé.”

“Lấy hai mươi bông đi.” Tôi nói. “Tôi quen cô ấy đã được hai mươi năm rồi.”

“Được thôi.” Cô ta khẽ mỉm cười, sau đó liền quay mặt vào phía sâu trong tiệm hoa mà nói lớn: “Tiểu Cương, lên nhà lấy hai mươi bông hoa hồng sâm banh xuống đây! Nhớ chọn cẩn thận nhé!”

Từ phía bên đó vọng lại một tiếng “vâng”, khoảng năm phút sau, một người đàn ông trẻ tuổi có dáng người hơi béo mang hoa tới, trên cánh tay anh ta có mấy vết thương rất rõ ràng. Hai người bọn họ cùng nhau bó hoa một cách thuần thục. Trong quá trình bó hoa, người đàn ông kia thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn qua phía tôi, sắc mặt trở nên hơi khác lạ. Sau khi bó hoa xong, người phụ nữ nhận tiền từ tay tôi và trả lại tiền thừa, còn người đàn ông thì đưa hoa cho tôi. Do dự một lát, anh ta ngập ngừng hỏi: “Anh có phải là…”

Tôi tò mò nhìn anh ta, hỏi lại: “Chúng ta có quen nhau sao?”

“À…” Anh ta đưa tay gãi đầu, những vết sẹo trên tay trông ngoằn ngoèo tựa như những con rắn. “Không, không, tôi nhận nhầm người rồi. Trông anh rất giống với một người quen của tôi trước kia.”

Tôi đưa bó hoa lên mũi hít sâu một hơi, cười nói: “Kiểu mặt này của tôi rất phổ biến, anh thấy quen cũng không có gì lạ cả.”

Khi tôi ôm bó hoa đi ra ngoài cửa, một cô gái bước vào, vui vẻ nói: “Chị Tiểu Yến, bán cho em một bông cẩm chướng.”

Tôi thở ra một hơi thật dài.

Nửa giờ sau, tôi mang hoa về nhà. Bà xã ôm chầm lấy tôi rồi khóc rất lâu, nói là tôi đã mấy năm chưa mua hoa cho cô ấy rồi. Chúng tôi quen nhau từ hai mươi năm trước, yêu nhau cũng đã được mười mấy năm, trong thời gian đó từng cùng nhau nếm trải ngọt bùi, cũng từng cùng nhau trải qua biết bao nhiêu khổ sở, tình cảm không thể nói là không sâu sắc. Thế nhưng, sau khi cuộc sống trở nên thuận buồm xuôi gió, những lời thề ước cùng cảm xúc mãnh liệt năm xưa đã dần phai nhạt đi nhiều. Mấy năm trước, có một thời gian tôi thậm chí còn khao khát tìm lại cảm xúc từ những người phụ nữ khác, vậy nhưng rốt cuộc vẫn không có hành động thực tế gì. Tôi cảm thấy rất may mắn về điều đó, bởi lẽ tôi đã dần hiểu ra được một điều, đó là cảm xúc mãnh liệt giống như củi khô bắt lửa, tuy nóng bỏng nhưng ngắn ngủi, còn tình thân chính là ánh mặt trời, tuy chúng ta không thể ôm chầm lấy vầng dương nhưng lại có thể vĩnh viễn hưởng thụ sự ấm áp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 1-2: Giấc mơ tột cùng quái lạ (2)


Type: Kinhthue

Tôi vốn định tới thành phố S một chuyến, nhưng sau khi về nhà không lâu, cảm giác mệt mỏi sau cơn say đột nhiên ập tới. Tôi ngủ một mạch tới tận chiều tối, lúc năm rưỡi thì bà xã nhẹ nhàng lay tôi tỉnh dậy, nói là Phó Hữu Quang gọi tới cho tôi.

Tôi cầm lấy điện thoại, nói: “A lô, em chào anh.”

“Ừ, chào chú.” Phó Hữu Quang tỏ ra rất nhẹ nhõm. “Anh đã nhờ người kiểm tra cẩn thận camera rồi, chú yên tâm đi, từ mười hai giờ trưa hôm qua tới chín giờ sáng hôm nay, gian phòng đó của chú chỉ có anh với chú là từng đi vào thôi, không có người thứ ba nào khác.”

Tôi bất giác thở phào một hơi, nhưng ngay sau đó lại nảy sinh một nỗi nghi hoặc còn lớn hơn trước: Nếu không có người nào khác từng đi vào phòng tôi, vậy giọng nói tôi nghe thấy trước lúc đổ gục xuống giường rốt cuộc là như thế nào đây?

Một thoáng sau đo, tôi hít sâu một hơi, tỏ vẻ cảm kích nói: “Ồ, cảm ơn anh, thật làm phiền anh quá.”

“Xem chú nói kìa.” Phó Hữu Quang cười hà hà, sau đó nói: “Có điều anh cũng đã hỏi nhân viên dọn vệ sinh rồi, cô ta nói là khi quét dọn không hề nhìn thấy cuốn sổ ghi chép nào đó của chú, hồi nãy anh đã thử tìm giúp chú nhưng cũng không phát hiện ra được gì.”

Tôi vội vàng nói: “Vậy thì không cần phải rắc rối nữa đâu anh, nội dung bên trong đó em viết lại một lượt theo trí nhớ là được rồi, anh đừng nghĩ ngợi nhiều về chuyện này nữa.”

“Dù sao chú cũng mất đồ ở thành phố B, anh là chủ nhà, đương nhiên không thể vô trách nhiệm như thế được.” Phó Hữu Quang ngượng ngùng nói: “Anh sẽ bảo người của khách sạn lưu ý một chút, cuốn sổ đó của chú cụ thể trông như thế nào nhỉ?”

“À, nó có bìa màu đen, đã cũ lắm rồi, trang nào cũng viết dày đặc chữ.” Tôi tiện miệng bịa bừa ra mấy câu. “Thực sự không cần phải rắc rối như thế đâu anh.”

“Ừm, ừm.” Phó Hữu Quang nói: “Cứ biết thế đã. Nghe giọng thì chắc vừa rồi chú còn đang ngủ, vậy anh không làm phiền chú nữa, việc kia chú nhớ lưu tâm giúp anh một chút nhé!”

Sau khi gác máy, tôi đưa tay day day trán, lại một lần nữa nhớ tới giấc mơ như thật như ảo hôm qua. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng: Một người đàn ông đứng ở cửa nhà vệ sinh, ban đầu thì nói mình là Từ Nghị Giang, sau đó lại nói mình là Mã Tam Quân, tiếp đó thì nói mình là Trần Ngọc Long, và cuối cùng thì nói mình chính là X. Ngay sau đó, tôi quay trở vào phòng bệnh của Diệp Thu Vi, cô ta nở một nụ cười kỳ dị với tôi rồi nói: “Anh Trương, anh càng ngày càng giống tôi rồi đấy!”

Giấc mơ này rốt cuộc có ý nghĩa gì đây?

Sau khi dùng bữa tối xong, tôi mở bút ghi âm ra, tỉ mỉ chép lại nội dung trò chuyện trong cuộc gặp mặt lần thứ bảy với Diệp Thu Vi. Tôi cẩn thận nghiên cứu quá trình Diệp Thu Vi luận giải những giấc mơ, sau đó lại lôi cuốn Giải mộng của Sigmund Frued từ trong tủ sách ra, chuẩn bị làm rõ ý nghĩa ẩn đằng sau giấc mơ của mình bằng phương pháp phân tích tâm lý.

Giấc mơ của tôi vừa li kì vừa chóng vánh. Diệp Thu Vi từng nói, giấc mơ càng kì lạ càng chứng tỏ sự ngụy trang của tiềm thức càng kín đáo. Vậy thì đầu tiên, đối với tôi, người đàn ông đứng ở cửa nhà vệ sinh kia rốt cuộc mang ý nghĩa tượng trưng gì đây?

Ngay từ bước đầu phân tích, tôi đã gặp phải khó khăn rồi.

Tạm thời hãy gạt chi tiết này qua một bên chưa xét đến vội. Người đàn ông đó lần lượt nói mình là Từ Nghị Giang, Mã Tam Quân, Trần Ngọc Long và X, điều này rốt cuộc tượng trưng cho cái gì? Chẳng lẽ bốn con người đó kì thực chỉ là một mà thôi? Như vậy thì vô lý quá! Liệu có khi nào hai người trong số đó là một không nhỉ? Tôi bất giác nhíu chặt đôi mày: Phải chăng X là một trong số ba người kia?

Tôi quyết định ghi lại phán đoán của mình vào trong sổ tay, nhưng mới viết được nửa chừng thì đã dừng bút, sau đó liền thở dài tự nhủ: Phán đoán này thoạt nghe thì rất có lý, nhưng xét cho cùng vẫn chỉ là phán đoán mà thôi, không những không có chứng cứ, thậm chí ngay cả quá trình suy luận cũng chẳng có.

Tôi rất nhanh đã lại nghĩ tới một chi tiết khác: Tại sao trong giấc mơ, Diệp Thu Vi lại nói tôi càng ngày càng giống cô ta nhỉ?

Điều này kì thực không khó giải thích chút nào, tôi và Diệp Thu Vi tuy mới chỉ quen nhau chưa tới một tuần, vậy nhưng sức mạnh tinh thần của cô ta đã khiến tôi bị ảnh hưởng vô cùng sâu sắc. Hiện giờ tôi không chỉ có khả năng quan sát và phân tích tốt hơn, còn bất giác học tập và mô phỏng theo phương thức tư duy của cô ta. Trong tiềm thức, tôi sớm đã biết rằng mình ngày càng giống cô ta.

Tạm gạt ba chi tiết cụ thể này sang một bên, điều kì quái nhất trong giấc mơ đó chính là sự xuất hiện của cái tên “Trần Ngọc Long”. Tôi và Trần Ngọc Long đã tám năm không gặp, đừng nói là liên lạc, thậm chí ngay cả tên anh ta, tôi cũng rất ít khi nhớ đến. Có thể nói, tám năm nay, tên của anh ta chỉ tồn tại trong tiềm thức của tôi mà thôi. Diệp Thu Vi từng nói “trong giấc mơ không có cái gọi là trùng hợp tình cờ”, như vậy rốt cuộc là nhân tố gì trong thực tại đã khiến cho tên của anh ta xuất hiện trong giấc mơ của tôi như thế?

Tôi cố gắng hồi tưởng lại những chuyện mà mình đã trải qua trong cả ngày hôm qua. Từ tám rưỡi đến mười giờ sáng, tôi ở trong Bệnh viện Tâm thần thành phố nghe Diệp Thu Vi kể lại chuyện về Vương Vĩ, sau đó thì được đưa đi kiểm tra tâm lý. Từ lúc mười rưỡi đến mười hai giờ, tôi ở trong tòa soạn xử lý công việc, còn có một cuộc trò chuyện không được vui vẻ cho lắm với lãnh đạo. Lúc hai giờ chiều, tôi đến Đại học Z, trò chuyện với mấy nhân viên bảo vệ ở đó đôi câu. Lúc bốn giờ chiều, tôi tới Trại giam số 1 của tỉnh, tại đó đã gặp Phó Hữu Quang và Trần Phú Lập. Sau đó, tôi đến thôn Lập Trương gặp Trương Thụy Lâm và vợ của anh ta là Vân Xán Hà, buổi tối thì quay trở về thành phố B uống rượu với Phó Hữu Quang.

Nếu trong giấc mơ thực sự không có cái gọi là trùng hợp tình cờ, vậy thì có thể khẳng định: Trong tình huống tôi không hề hay biết, một người mà tôi đã gặp và tiếp xúc trong ngày hôm qua đã tiến hành ám thị tôi, từ đó khơi dậy những ký ức về Trần Ngọc Long ở sâu trong tiềm thức của tôi.

Người này rốt cuộc là ai đây?

Tôi ngả người tựa lưng vào ghế, hít sâu một hơi, trong lòng đột nhiên nổi lên một cảm giác vô cùng mãnh liệt, đó là tôi với Diệp Thu Vi sớm đã có những mối liên quan vô cùng phức tạp, mà việc tôi quyết định đến Bệnh viện Tâm thần thành phố gặp Diệp Thu Vi vào một tuần trước cũng tuyệt đối không phải là ngẫu nhiên.

Nhưng rất lạ, khi nghĩ tới đây, không ngờ tôi lại không cảm thấy sợ hãi chút nào.

Một lát sau tôi lại tiếp tục suy nghĩ, thấy bất kể là người nào đã dùng phương thức ám thị để khiến tôi nhớ đến Trần Ngọc Long thì vấn đề tôi cần để tâm nhất trước mắt vẫn là: Tại sao người đó lại muốn khiến tôi nhớ đến Trần Ngọc Long?

Ngày 7 tháng 2 năm 2009, Trần Ngọc Long đặt phòng 1727 ở Khách sạn Quốc tế X tại thành phố B. Buổi tối hôm đó, chính tại gian phòng này, Trương Thụy Lâm đã được X huấn luyện, để rồi đến ngày hôm sau thì hoàn thành nhiệm vụ ám thị Trương Thụy Bảo.

Rất hiển nhiên, dù Trần Ngọc Long không phải là X thì cũng có một mối quan hệ hết sức đặc biệt với X. Lẽ nào người đó ám thị tôi, khiến tôi nhớ đến Trần Ngọc Long là vì muốn giúp đỡ tôi trong việc điều tra?

Nhưng, nếu người đó thực sự muốn giúp đỡ tôi thì tại sao lại phải ngấm ngầm giúp đỡ như thế? Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy mạch suy nghĩ của mình trở nên vô cùng hỗn loạn.

Tôi mở máy tính, lên mạng tìm kiếm tất cả các văn phòng luật sư mà trọng tên có hai chữ “Khải Hàng” ở thành phố S, sau khi ghi lại cách thức liên lạc của hơn hai mươi văn phòng luật sư tìm được thì bắt đầu gọi điện thoại cho từng nơi một. Rất may mắn, khi gọi điện tới văn phòng luật sư thứ bảy thì tôi đã hỏi thăm được một số tin tức có giá trị.

Đó là một văn phòng luật sư có tên là “Quang Minh Khải Hàng“. Sau khi đối chiếu các thông tin về Trần Ngọc Long mà tôi cung cấp, người phụ trách ở đó quả quyết với tôi Trần Ngọc Long mà tôi muốn tìm quả thực đã từng làm việc ở đó, thời gian là từ đầu năm 2004 đến mùa hè năm 2005. Mùa hè năm 2005, Trần Ngọc Long đã nhảy việc tới “Văn phòng Luật sư Hồ Kỳ Xí“.

Tôi gọi cho Văn phòng Luật sư Hồ Kỳ Xí, người nghe điện thoại chính là Hồ Kỳ Xí. Qua lời kể của anh ta, có thể thấy ấn tượng của anh ta về Trần Ngọc Long rất sâu sắc.

”Đúng thế.” Anh ta nói. “Đó là một người rất chăm chỉ. Anh ta đã làm việc ở chỗ chúng tôi tới năm 2007.”

Tôi hỏi: “Sau năm 2007 thì sao?”

Hồ Kỳ Xí im lặng một lát, sau đó mới chậm rãi nói: “Tháng 6 năm 2007, anh ta thua một vụ án vốn dĩ không có khả năng thua, thế là tôi liền sa thải anh ta. Anh cũng biết đây, đối với một văn phòng luật sư, danh tiếng quan trọng vô cùng...”

”Sau khi anh ta đi thì sao?” Tôi truy hỏi: “Anh có biết anh ta đã đi đâu không?”

Anh ta nói: “Chuyện này thì tôi không rõ lắm, có điều anh hãy đợi một chút, tôi có thể hỏi giúp anh.” Mười mấy giây sau, giọng nói của anh ta lại một lần nữa vang “Anh Trương, anh vẫn ở đó chứ?”

”Tất nhiên.” Tôi vội vàng hỏi: “Thế nào rồi anh Hồ?”

”Là thế này, tôi đã hỏi một người bạn cũ của anh ta. “ Hồ Kỳ Xí nói. “Cô ấy kể là Trần Ngọc Long sau khi rời khỏi văn phòng của tôi thì hình như đã quay trở về chỗ các anh, còn từng mở một công ty tư vấn pháp luật nữa, về sau thì không làm tiếp mà chuyển sang làm cố vấn pháp luật cho một công ty nào đó trong vùng. Ừm, tình hình đại khái là như vậy đấy.”

Tôi bất giác cả kinh, khi nghe nhắc tới “một công ty nào đó trong vùng” tôi liền nghĩ ngay đến Công ty E.

”Cụ thể là công ty nào vậy? Anh có biết không?”

”Chuyện này thì tôi đã hỏi rồi, nhưng không ai biết cả, mà hiện giờ mọi người ở chỗ chúng tôi cũng đều đã mất liên lạc với anh ta, bằng không tôi đã xin luôn số điện thoại của anh ta cho anh rồi.”

”Vậy thông tin về công ty tư vấn pháp luật của anh ta, anh có biết không?” Tôi vẫn chưa chịu bỏ cuộc. “Tôi muốn có tên hoặc là địa chỉ của công ty đó.”

Hồ Kỳ Xí đồng ý là sẽ hỏi giúp tôi, chừng nửa phút sau anh ta lại nói: “Anh Trương, tôi hỏi được rồi, công ty đó có tên là Gia Long, “Gia” trong Quách Gia1, “Long” trong Thiên long bát bộ1, tên đầy đủ của nó là Công ty Tư vấn pháp luật Gia Long, hình như được mở vào hồi cuối năm 2007, đến nửa đầu năm 2008 thì đóng cửa.”

Tôi lại hỏi thêm: “Vậy anh có biết địa chỉ cụ thể không? Hoặc không thì chỉ cần vị trí đại khái hoặc là tên đường tên phố thôi cũng được. Công ty đó đã đóng cửa lâu như vậy rồi, nhất định là chẳng còn bao nhiêu thông tin được lưu giữ lại, tôi sợ rằng sẽ không tìm được.”

”Tôi hỏi rồi, nhưng mọi người đều không biết rõ lắm.” Anh ta dừng một chút rồi mới nói thêm: “Có điều có người từng nghe Trần Ngọc Long kể lại là công ty đó ở cách nhà anh ta không xa. Nếu anh biết địa chỉ nhà cũ của anh ta, vậy thì có thể đến đó hỏi thử xem sao. Anh ta sau khi đến thành phố S thì không thành công cho lắm về mặt sự nghiệp, do vậy sau khi quay về, khả năng chuyển nhà là không lớn lắm. Đương nhiên, nếu mấy năm vừa rồi có đợt giải phóng mặt bằng nào đó ở chỗ anh ta thì đành chịu thôi, tôi thực sự không thể giúp gì hơn cho anh được.”

Tôi không ngừng tỏ ý cảm ơn, sau khi gác máy thì bắt đầu nhớ lại địa chỉ nhà của Trần Ngọc Long ngày trước. Trong thời gian từ năm 2001 tới năm 2003, quan hệ giữa tôi và anh ta rất gần gũi, nhất định là từng đến nhà anh ta rồi, nhưng đã suy nghĩ cả hồi lâu mà tôi vẫn không sao nhớ ra được.

Trong quá trình hồi tưởng, tôi bất giác nhớ lại những việc mà mình từng phải trải qua trong thời gian đó. Hồi năm 2000, tôi vừa mới tốt nghiệp đại học

1. Một tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng của nhà văn Kim Dung - ND.

2. Một mưu sĩ nổi tiếng thời Tam Quốc, là người thuộc phe Ngụy. Trong thời gian mười một năm phục vụ cho Tào Tháo, tài năng của Quách Gia đã giúp ích rất nhiều cho Tào Tháo trong các chiến thắng của ông trước các kẻ thù như Lã Bố và Viên Thiệu, cũng như thủ lĩnh của bộ lạc Ô Hoàn là Đạp Đốn. Chính vì thế ông là một trong những bộ hạ được tin tưởng và yêu quý nhất của Tào Tháo - ND.

thì gia đình bất ngờ gặp phải một phen biến cố lớn lao, bản thân thiếu chút nữa đã bị đánh gục hoàn toàn bởi những áp lực to lớn từ nhiều phía. Nhưng cũng nhờ thế mà tôi hiểu được rất nhiều quy tắc trong xã hội, cũng được mở mang kiến thức về vô vàn thủ đoạn hèn hạ, còn biết được sự biến ảo khó lường trong bản tính của con người.

Tôi đột nhiên nhớ ra, trong những năm tháng đó, Trần Ngọc Long ít nhất đã tham gia biện hộ cho tôi trong mười mấy vụ kiện, còn từng giúp tôi xử lý rất nhiều việc về mảng pháp luật. Tôi nhớ là mình vẫn luôn cất kĩ các văn kiện có liên quan vào trong tủ hồ sơ, chỉ có điều, trong các văn kiện năm đó liệu có lưu giữ thông tin cá nhân về Trần Ngọc Long không đây?

Tôi vội vàng mở tủ hồ sơ rồi lôi hết đống văn kiện và tài liệu trong quãng thòi gian đó ra, lại dựa theo chủng loại mà chia chúng ra làm bốn chồng lớn để lên bàn làm việc sau đó bắt đầu đọc và tìm kiếm một cách cẩn thận. Trong quá trình này, tôi dần phát hiện ra một chuyện lạ, đó là toàn bộ văn kiện và tài liệu sau ngày 23 tháng 7 năm 2002 đều đã biến mất chẳng còn tăm tích. Tôi lục tung cả tủ hồ sơ lên nhưng vẫn chẳng tìm thấy phần văn kiện và tài liệu bị mất đâu.

Đương nhiên, bây giờ điều này không phải là trọng điểm, cho nên tôi chỉ nghi hoặc trong chốc lát, sau đó lại tiếp tục dồn hết tinh thần vào việc tìm kiếm thông tin cá nhân về Trần Ngọc Long. Lúc gần chín giờ, tôi rốt cuộc cũng phát hiện ra một hàng chữ đã bắt đầu phai màu trên mặt lưng của một tờ giấy thông báo từ hồi tháng 10 năm 2000:

Luật sư Trần, Khu tập thể Nhà máy sản xuất giấy.

Trong những năm tám mươi của thế kỷ trước, ở thành phố này từng có một nhà máy sản xuất giấy có quy mô khá lớn. Đến đầu những năm chín mươi, do thành phố cần phải mở rộng, thêm vào đó vấn đề ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng, cho nên nhà máy này đã được di dời đến vùng ngoại ô của thành phố. Có điều, chỉ có khu nhà xưởng là được tháo dỡ để xây dựng lại, còn khu tập thể của công nhân viên nhà máy thì vẫn được giữ lại cho đến bây giờ, trở thành một trong những nơi mà người già hay tới để hoài niệm quá khứ. Mấy năm gần đây vẫn luôn có tin đồn là Khu tập thể Nhà máy sản xuất giấy sắp bị giải tỏa, nhưng vì ở đó vẫn còn rất nhiều gia đình sinh sống, do đó các hạng mục có liên quan mãi vẫn chẳng thể tiến hành.

Trần Ngọc Long liệu có còn ở đó không?

Tôi ngừng dòng suy nghĩ, ngó nhìn ánh trăng bên ngoài cửa sổ, cuối cùng quyết định phải đến Khu tập thể Nhà máy sản xuất giấy một chuyến. Nhưng tôi vừa mới đứng dậy thì bà xã đã đẩy cửa đi vào, sau đó nhanh chóng đóng cửa lại, thấp giọng nói: “Đản Đản (tên gọi ở nhà của con trai tôi) vừa mới ngủ.” Sau đó lại nhìn cửa tủ mở rộng và đống văn kiện chất đầy trên bàn, hỏi với giọng nghi hoặc: “Anh đang tìm cái gì vậy?”

”À, anh tìm ít tài liệu thôi.” Tôi vội vàng thu dọn đống giấy tờ trên bàn. “Nhưng giờ đã tìm thấy rồi.”

'Tránh qua một bên đi, để em dọn cho.” Bà xã đi tới bên cạnh tôi, ân cần nói: “Anh chỉ giỏi bày bừa thôi, muốn tìm đồ mà không chịu gọi em tới giúp, nhìn cái đống lộn xộn anh bày ra đi này.” Mới bắt đầu thu dọn được một chút cô ấy đã đột ngột ngoảnh đầu nhìn tôi, còn thò tay vào trong áo của tôi, dùng sức nhéo mạnh eo tôi một cái. “Em đã thu dọn phòng giúp anh rồi, vậy anh định giúp lại em việc gì đây?”

Nửa giờ sau, chúng tôi cùng nằm trên chiếc xô pha trong phòng đọc sách nói chuyện, rồi cứ thế ngủ thiếp đi lúc nào chẳng hay. Khi tỉnh giấc, cảnh vật xung quanh tĩnh lặng vô cùng, tôi trở dậy ngó nhìn chiếc đồng hồ điện tử để trên bàn, thấy lúc này là mười một giờ bốn mươi ba phút tối. Bà xã nửa mơ nửa tính ôm chặt lấy tôi, thì thào nói: “Em không muốn nhúc nhích nữa, đêm nay cứ ngủ lại đây đi.”

Tôi đưa tay dụi mắt, đột nhiên cảm thấy đầu óc tỉnh táo vô cùng.

”Em cứ ngủ trước đi.” Tôi đứng dậy, nói: “Anh muốn ra ngoài đi lại một chút.”

”Nửa đêm nửa hôm thế này anh còn định đi đâu?” Bà xã mở to mắt nhìn tôi vẻ kinh ngạc. “Để em đi cùng anh.”

Tôi nghĩ tới kết cục của Tần Quan và Diệp Thu Vi, thế là vội vàng xua tay, nói: “Không thể để Đản Đản ở nhà một mình được. Em vào phòng ngủ ngủ đi, một lát nữa anh sẽ về ngay thôi.”

”Vậy được rồi.” Bà xã đứng dậy, nói: “Em đi dọn dẹp phòng vậy, nhưng anh nhớ đừng tắt điện thoại đấy.”

Tôi mặc quần áo vào rồi lái xe đi thẳng tới Khu tập Nhà máy sản xuất giấy. Đi lòng vòng men theo mấy con đường bên ngoài đó một lát, tôi thấy phần lớn các cửa tiệm đều đã đóng cửa ngừng kinh doanh. Tôi đi vào mấy cửa tiệm còn mở cửa rồi kiên nhẫn hỏi thăm, nhưng không có ai biết về Công ty Tư vấn pháp luật Gia Long cả. Lúc mười hai giờ hai mươi phút, tôi từ bỏ việc điều tra rồi chuẩn bị về nhà, trước khi rời đi có ghé vào một cửa hàng tiện lợi mở cửa hai tư trên hai tư để mua một chai nước khoáng.

Nhân viên thu ngân là một cô gái mới ngoài hai mươi tuổi, tôi hoàn toàn không ôm một chút hy vọng nào với cô ta, vậy nhưng khi trả tiền vẫn thử hỏi dò: “Cảm phiền một chút, cô có biết Công ty Tư vấn pháp luật Gia Long nằm ở đâu không vậy?”

”Không biết.” Cô ta trả lại tiền thừa cho tôi, sau đó tiện miệng bổ sung một câu: “Tôi chỉ biết quầy đồ nướng Gia Long thôi.”

”Quầy đồ nướng Gia Long?” Lúc này tôi đã bước chân ra ngoài cửa, nghe thấy thế liền vội vàng quay trở lại. “Là chữ “gia” nào, chữ “long” nào vậy?”

”Gia là chữ gia mà có rất nhiều nét ấy 1, còn long thì chính là long trong khủng long2.”

Tôi bất giác hơi cau mày lại. Cùng nằm trong một khu tập thể, lại cùng mang một cái tên, liệu quầy đồ nướng Gia Long này có liên quan gì đến Trần Ngọc Long không đây? Tuy không có bao nhiêu hy vọng, nhưng trong lòng tôi vẫn lóe lên một đốm lửa nhỏ.

Tôi vội vàng hỏi dồn: “Chủ của quầy đồ nướng đó là ai vậy? Có phải tên là Trần Ngọc Long không?”

1. Chỉ chữ gia trong Quách Gia - ND.

2. Chính là chữ long trong Thiên long bát bộ- ND.

“Tôi cũng không rõ nữa, nhưng chắc là không phải.” Cô gái đó suy nghĩ một chút rồi bèn nói: “Chủ quán là một người phụ nữ.” Sau đó lại bình thản nói thêm: “Nghe nói là một góa phụ.”

Trong lòng đột nhiên nổi lên một dự cảm không lành tôi thấp giọng hỏi: “Quầy đồ nướng Gia Long đó nằm ở đâu vậy? Khi nào thì dọn hàng?”

”Ở trong khu tập thể.” Cô gái đó đáp. “Anh cứ đi vào qua cửa nam, tới bên dưới tiệm internet Tiểu Thụ Phong là thấy, chỗ đó bình thường đều bán tới tận một, hai giờ sáng cơ.”

Tôi rất nhanh đã lái xe tới cửa nam của khu tập thể, có điều lúc này cửa lớn đã khóa, xe không thể đi vào, thế là tôi đành xuống xe đi bộ. Vừa mới bước chân qua cửa của khu tập thể, những ký ức có liên quan trong đầu tôi tức khắc ùa về như dòng nước lũ. Tôi nhớ ra rồi: Hồi tết năm 2001 tôi đã từng đến đây, khi đó chính Trần Ngọc Long là người dẫn đường đưa tôi tới nhà anh ta. Tại đó tôi đã được gặp cha mẹ anh ta, còn thấy cả ảnh của bạn gái anh ta nữa. Bạn gái anh ta tên là Thường Gia Lệ, trông rất xinh.

Tôi đi về phía bắc hơn một trăm mét, rất nhanh đã nhìn thấy một tòa nhà hai tầng cũ kĩ, bên trong đèn điện sáng trưng. Bên cạnh cửa vào của tòa nhà đó có đặt một cây thông Noel màu xanh, bên trên được trang trí bằng những bóng đèn nhấp nháy lờ mờ, cạnh đó còn có một hàng chữ lớn màu đỏ: Tiệm internet Tiểu Thụ Phong. Tôi đi nhanh về hướng tiệm internet đó, rất nhanh đã nhìn thấy một chiếc xe ba bánh bán đồ nướng ở ngay bên ngoài tòa nhà.

Một người phụ nữ trung niên đang làm đồ nướng một cách thuần thục, mùi mực nướng thơm lừng theo gió bay đi rất xa. Có mấy đứa nhóc choai choai đang đứng cạnh đó ba hoa khoác lác với nhau, đến khi tôi bước lại gần thì vừa đúng lúc chúng cầm theo những xiên mực nướng rời đi.

”Anh muốn ăn gì?” Người phụ nữ trung niên đó ngẩng lên, mỉm cười nói: “Riêng mực thì hai tệ, các loại khác đều một tệ một xiên, bánh kẹp cũng một tệ một chiếc.”

Tôi một mặt “ừ à” qua loa, một mặt chăm chú quan sát cô ta. Người phụ nữ này thoạt nhìn khoảng bốn mươi tuổi, làn da mịn nhưng không trắng, cặp mắt to nhưng vô hồn, trên sống mũi cao thẳng tắp còn phủ đầy nếp nhăn. Tóm lại, các đường nét trên khuôn mặt cô ta đều không tệ, song lại đượm nét phong sương, hơn nữa còn bám đầy khói dầu từ đồ nướng, dù có lau cũng không sạch được.

Lúc này tôi quả thực cũng thấy hơi đói, thế là bèn nói: “Mỗi loại cho tôi một ít đi, thêm một cái bánh nữa.”

”Có ngay.” Cô ta nở nụ cười tươi, nhưng bộ mặt đó khi cười lên trông lại càng có vẻ già hơn. “Anh có muốn cho thêm bột ớt không?”

”Một chút thôi.” Tôi khẽ ho mấy tiếng, sau một thoáng do dự lại hỏi: “Sao cô lại đặt tên cho quầy hàng của mình là Gia Long vậy?”

Cô ta mỉm cười không nói.

Tôi lại hỏi: “Cô có biết Công ty Tư vấn pháp luật Gia Long không?”

Cô ta đờ người ra khoảng một giây, đôi môi hơi máy động, nhưng rồi lại nhanh chóng nở nụ cười, đưa tay che miệng nói: “Không biết.”

Tôi hít sâu một hơi, hỏi tiếp: “Cô có quen Trần Ngọc Long không?”

”Không quen.” Cô ta khẽ day mũi một chút, đồng thời nhìn tôi vẻ cảnh giác.

Tôi thản nhiên gật đầu. “Cô là Thường Gia Lệ đúng không?”

Cô ta ngẩng lên, nhìn tôi bằng ánh mắt vừa nghi hoặc vừa sợ hãi. “Anh rốt cuộc là ai?”

Tôi thở phào một hơi, nói: “Tôi là Trương Nhất Tân, bạn của Trần Ngọc Long.”

”Anh...” Cô ta bị khói bốc lên từ mấy xiên đồ nướng làm cho ho sặc sụa. “Trương... Trương Nhất Tân? Anh chính là Trương Nhất Tân ư?”

”Dạo gần đây tôi vẫn luôn đi tìm Ngọc Long.” Tôi nhớ lại lời của nhân viên thu ngân vừa rồi, sau một hồi suy nghĩ liền cất tiếng hỏi một cách khó khăn: “Ngọc Long đâu rồi?”

Cô ta mở to mắt nhìn tôi, hỏi ngược lại: “Anh thực sự là Trương Nhất Tân ư?”

Tôi mở ví ra cho cô ta xem chứng minh thư của mình. Cô ta lập tức thu nụ cười lại, những động tác thuần thục vừa rồi sau nháy mắt đã trở nên lóng ngóng, vẻ mặt của cô ta liên tục biến hóa, từng sợi cơ thịt trên mặt run lên khe khẽ không ngừng. Tôi lùi về sau một bước, cúi đầu nhìn

thẳng vào mắt cô ta. Chẳng rõ là do bị khói hun hay là do tâm trạng, cặp mắt cô ta lúc này đã đỏ hoe, bên trong ầng ậng nước.

Thấy cô ta đột nhiên trở nên như vậy, tôi không khỏi có chút lúng túng chẳng biết phải làm sao. “Cô, cô đừng... Tôi là bạn của Ngọc Long mà.”

“Tôi biết.” Cô ta khẽ hít vào một hơi, giọng nói trở nên khàn khàn và thoáng mang theo vẻ do dự.

Tôi nhớ lại lời của nhân viên thu ngân ở cửa hàng tiện lợi vừa rồi, hiểu được cô ta thương tâm là do đâu, sau một thoáng trù trừ bèn thở dài hỏi lại: “Ngọc Long đâu rồi?”

”Anh ấy mất rồi.” Cô ta cũng thở dài một hơi, rồi bèn sụt sịt nói: “Tôi biết là anh ấy có lỗi với anh...”

Tôi bất giác sững người, có lỗi với tôi? Tôi và Trần Ngọc Long đã tám năm không gặp, anh ta có thể làm ra chuyện gì có lỗi với tôi chứ?

Tôi hỏi: “Cô nói gì cơ? Như thế là sao?”

Cô ta nhìn thoáng qua tôi một chút, sau đó liền cúi đầu tiếp tục làm công việc còn đang dang dở, đồng thời thấp giọng nói; “Anh ăn ít ớt đúng không?”

Tôi khẽ “ừm” một tiếng, sau đó lại hỏi tiếp: “Vừa rồi cô nói là Ngọc Long có lỗi với tôi, vậy tức là sao? Tôi với anh ấy đã rất nhiều năm không gặp rồi..”

“Tôi biết...” Thường Gia Lệ hít sâu một hơi, nói: “Anh ấy nói là anh ấy không còn mặt mũi nào để đi gặp anh cả, cho nên quay về đây rồi cũng không dám nói gì với anh...”

Tôi kiên nhẫn hỏi tiếp: “Chuyện rốt cuộc là sao? Cô có thể nói rõ hơn không?”

Thuòng Gia Lệ tỏ ra hết sức nghi hoặc. “Anh, anh không biết thật ư?”

Tôi còn cảm thấy nghi hoặc hơn cô ta. “Biết cái gì? Ngọc Long rốt cuộc đã làm ra chuyện gì có lỗi với tôi? Tôi thực sự không biết gì cả.”

Thường Gia Lệ thở phào một hơi, vừa rắc gia vị vừa nói: “Hồi còn sống, anh ấy suốt ngày nói là có lỗi với anh, còn nói cả đời này mắc tội với anh nhiều nhất. Tôi cũng từng hỏi anh ấy rồi, nhưng anh ấy không chịu nói gì cả, chỉ nói là mình có lỗi với anh thôi.” Nói xong những lời này, cô ta nhồi đồ nướng vào trong bánh, sau đó đưa cho tôi.

Tôi đón lấy chiếc bánh, hỏi sang chuyện khác: “Ngọc Long đi từ bao giờ vậy?”

”Cũng được mấy năm rồi.” Cô ta suy nghĩ một chút rồi đáp: “Lúc ấy là năm 2009, vừa mới qua Tết chưa được bao lâu.”

”Anh ấy đi như thế nào vậy?”

'Tự sát.” Cô ta ngẩn ngơ nói: “Nhảy lầu.”

”Nhảy lầu?” Tôi bất giác cả kinh. “Cô dám chắc là tự sát chứ? Trước đó có dấu hiệu gì không?”

”Cảnh sát cũng đã tới mấy lần rồi, cuối cùng tất cả đều thống nhất rằng đó là một vụ tự sát.” Cô ta không ngừng đưa tay lên dụi mắt. “Còn về dấu hiệu thì cũng không phải là không có...” Cô ta khẽ sụt sịt mấy cái, lại ho lên mấy tiếng khàn khàn, thế rồi đột ngột ngẩng đầu nhìn tôi, cặp mắt trở nên sáng rực. “Anh... anh Trương.” Cô ta vừa nói vừa tháo bao tay ra. “Anh đến nhà tôi một chuyến đi, tôi có thứ này phải đưa cho anh.”

”Là thứ gì vậy?”

”Không biết là còn có thể tìm được không nữa.” Cô ta khẽ lắc đầu mấy cái, đôi mắt thì chớp chớp không ngừng. “Anh ấy vẫn luôn muốn đưa cho anh thứ này, nhưng lại không có đủ can đảm để đi gặp anh. Anh ấy từng nói với tôi mấy lần rồi, rằng lỡ có một ngày nào đó anh ấy đi xa, tôi hãy cố gắng tìm anh, giao thứ này cho anh, coi như là để chuộc lại một phần tội lỗi giúp anh ấy. Nhưng tôi chỉ là một người phụ nữ, căn bản chẳng biết làm gì, cũng không có nhiều mối quan hệ, biết đi đâu mà tìm anh đây? Cho nên mấy năm qua, tôi gần như đã quên mất chuyện này.”

Tôi giúp cô ta thu dọn quầy hàng, sau đó liền cùng cô ta về nhà. Cô ta vẫn ở trong căn nhà mà cha mẹ Trần Ngọc Long để lại, nó nằm ở mé tây của tiệm internet Tiểu Thụ Phong. Cô ta cẩn thận khóa chiếc xe ba bánh lại, sau đó đem cất những đồ còn chưa bán hết vào trong tủ đá ở phòng trữ đồ, rồi mới dẫn tôi lên nhà. Những căn nhà trong khu tập thể này đều được xây từ những năm tám mươi của thế kỷ trước, do đó cầu thang vừa dốc vừa hẹp, bên trong cũng chẳng có chút ánh sáng nào. Tôi đi theo bước chân của cô ta lần mò tiến về phía trước, cảm thấy mình giống như đang ở giữa bóng đêm vô tận, phải cố hết sức để tìm tới ánh sáng.

Sau khi bước chân vào nhà, cô ta bật đèn ở phòng khách lên, sau đó cũng không nói nhiều, cứ thế đi thẳng vào trong một gian phòng ở hướng chéo với cửa vào. Tôi ngồi trên xô pha một lát, những ký ức xa xưa lẳng lặng ùa về. Tôi nhớ rồi: Hồi Tết năm 2001, tôi mang theo quà đi vào trong tòa nhà này, Trần Ngọc Long vừa nhận quà vừa luôn miệng nói là tôi khách sáo. Cha mẹ anh ta tươi cười rạng rỡ chào tôi, nhưng sức khỏe của hai cụ dường như đều không được tốt lắm. Trần Ngọc Long mang khay đựng bánh kẹo và hạt dưa tới mời tôi, sau đó ngồi xuống bên cạnh và bắt đầu trò chuyện. Có điều, nội dung cụ thể của cuộc trò chuyện thì tôi đã không nhớ được nữa rồi, chỉ nhớ là hình như có liên quan tới những vụ án hồi đó.

Tôi ngẩng đầu nhìn, chiếc đồng hồ treo tường kiểu cũ ở phía trên chiếc ti vi vẫn giống hệt với mười năm trước đây, chẳng hề thay đổi chút nào.

Từ trong phòng vang ra tiếng lục lọi đồ đạc, tôi liền đi vào xem thử, thấy Thường Gia Lệ đang không ngừng tìm kiếm thứ gì đó trong một chiếc hòm gỗ lớn. Đây dường như là phòng ngủ của cô ta, chăn đệm trên giường trông đều có vẻ gọn gàng sạch sẽ, bên cạnh đầu giường có kê một chiếc bàn trang điểm kiểu cũ sơn màu đỏ, chính giữa bàn đặt một chiếc gương tròn rất lớn. Tôi đi tới trước bàn trang điểm, nhưng lại cố tình né tránh chiếc gương. Tôi bấy lâu nay vẫn luôn không thích những thứ có thể phản quang như gương hay kính, thậm chí còn hơi sợ hãi nữa. Tôi cầm một khung ảnh làm bằng gỗ để trên bàn lên xem, thấy người phụ nữ trong ảnh mặt mũi đoan trang, da dẻ trắng ngần, còn toát ra những nét tươi mới khiến người ta yêu thích. Đây dường như chính là tấm ảnh mà Trần Ngọc Long đã cho tôi xem hồi năm 2001 khi tôi tới chơi nhà anh ta.

Tôi ngoảnh đầu lại nhìn bóng lưng đã thoáng vẻ già nua của Thường Gia Lệ, trong lòng bất giác dâng lên một nỗi buồn khó tả.

Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng kim loại cọ sát. Hình như Thường Gia Lệ đã mở một chiếc hộp sắt nào đó ra. Ngay kế đó, cô ta chậm rãi đứng dậy, đi tới trước mặt tôi, trịnh trọng đưa cho tôi một tờ giấy đã ố vàng. Tôi vừa nhận lấy tờ giấy vừa nhìn lướt qua mấy chữ lớn ở phía trên cùng:

Biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát.

Nhìn nét chữ cùng con dấu màu đen bên trên, tôi chắc đây là bản phô tô của một tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát, nội dung chủ yếu bên trong là như thế này:

Người báo cảnh sát: Trần Ngọc Long. Phương thức báo cảnh sát: Gọi điện thoại. Thời gian báo cảnh sát: 10 giờ 22 phút sáng ngày 20 tháng 7 năm 2002. Địa điểm xảy ra vụ án: Căn hộ 1218, tòa nhà số 8, khu C, Cẩm Tú Hoa Viên. Lược thuật tình tiết vụ án: Có người bị bắt cóc, giam giữ trái pháp luật. Hành động của cảnh sát: Sau khi nhận được tin báo, trong vòng mười lăm phút, Hà Hải Phong, Đỗ Nhân Cường, Tôn Khả, Lý Mộng Tình đã đến hiện trường. Người xử lý chính: Hà Hải Phong. Trưởng ca trực: Lý Ngọc Lương.

Tôi chẳng lạ gì chuyện được nhắc tới trong tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát này.

Hồi năm 2002, những rắc rối mà cha mẹ tôi để lại vẫn chưa được giải quyết êm xuôi, một lượng tiền lớn chẳng rõ tung tích. Một buổi tối đầu tháng Sáu, khi tôi đang rầu rĩ về mấy vụ án thì đột nhiên có mấy người lạ mặt xông vào nhà, sau khi đưa ra một tờ hợp đồng vay nợ có chữ ký và dấu vân tay của cha mẹ tôi liên tuyên bố nếu không nhận được tiền thì sẽ ở lại nhà tôi không đi đâu nữa. Kỳ thực, tôi sớm đã quen với những việc như thế này rồi.

Ban đầu tôi cũng nhẹ nhàng khuyên nhủ, nhưng bọn họ căn bản không chịu nghe. Tôi cũng từng nghĩ đến việc báo cảnh sát, có điều lại biết rõ rằng làm như vậy căn bản chẳng có ích gì. Trước đây tôi từng gặp phải tình huống tương tự mấy lần rồi, lần nào cũng ngây thơ gọi điện thoại báo cảnh sát. Nhưng khi đó tôi còn quá trẻ, lại chẳng quen biết ai, đối phương thì thường là một nhóm người trung niên rất giỏi giao thiệp, thành ra mỗi lần báo cảnh sát đều có kết quả chẳng khác gì nhau, lần nào cảnh sát đến rồi cũng nhận định hành vi của đối phương thuộc loại “tranh chấp kinh tế”, mà ''tranh chấp kinh tế” thì nằm trong phạm vi chức trách của Viện Kiểm sát, cảnh sát căn bản không có quyền can thiệp, thế là liền kết thúc sự việc một cách qua loa.

Tôi cũng từng hỏi Trần Ngọc Long, anh ta nói cho tôi biết, nếu không có mối quan hệ rộng thì những việc tương tự thế này chắc chắn sẽ được nhận định là tranh chấp kinh tế. Dù sao thì luật pháp cũng là vật chết, còn con người thì ai cũng phải sống, cho nên chỉ cần không xảy ra chuyện chẳng ai lại đi làm mất lòng người khác chỉ để bảo vệ cái gọi là chính nghĩa.

Tôi cũng từng nghĩ đến việc qua nhà họ hàng để lánh tạm, song sau đó lại tự nhủ, cho dù họ hàng có chịu giúp thì tôi cũng không thể nào thoát hẳn khỏi những rắc rối, cho dù có thể thoát hẳn khỏi những rắc rối thì tôi rất ngại phải đi làm phiền người khác. Cuối cùng chẳng làm sao được, tôi đành để mặc cho những người đó ở lại trong nhà mình. Bà xã khi đó vẫn còn là bạn gái của tôi, cô ấy từng mấy lần yêu cầu được qua ở với tôi, nhưng đều bị tôi từ chối. Tôi tuyệt đối không thể để cô ấy bị dính vào chuyện này được.

Ở được chừng nửa tháng, những người này dần dần mất kiên nhẫn, liền bắt đầu uy hiếp và dọa nạt tôi, trong tình huống ấy điều tôi có thể làm chỉ là nhẫn nhịn. Một buổi chiều trung tuần tháng Sáu, những người này đột ngột rời đi. Tôi cứ ngỡ là bọn họ đã tạm thời bỏ cuộc rồi, chẳng ngờ tối đó một người trong số họ quay trở lại, còn dẫn theo bốn năm người trẻ tuổi có cả nam lẫn nữ. Anh ta nói với tôi, mấy người này đều bị nhiễm HIV, nếu tôi không trả tiền, bọn họ sẽ ở lại trong nhà tôi, còn dùng hết mọi đồ đạc trong nhà tôi một lượt. Những người bị nhiễm HIV đó cũng chẳng biết khách sáo là gì, vừa mới vào nhà liền lập tức đi đánh răng rửa mặt, uống nước nấu cơm.

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành tạm thời rời khỏi nhà, tới ở nhờ trong nhà họ hàng một đêm. Sang ngày hôm sau, do không chịu nổi ánh mắt khó chịu của họ hàng, cũng là bởi lòng tự tôn thôi thúc, tôi đã chủ động rời đi. Khi đó trên người tôi chẳng có bao nhiêu tiền, lại không muốn mang tới rắc rối cho người khác nữa, thế là liền phiêu bạt bên ngoài. May mà thời điểm đó đang là mùa hè, thế nên phiêu bạt bên ngoài trong thời gian ngắn cũng không phải là một việc quá vất vả. Đến đầu tháng Bảy, tôi hay tin những người bị nhiễm HIV kia đã rời khỏi nhà mình rồi, thế là liền quyết định tranh thủ lúc trời tối quay về nhà xem thử thế nào. Tối đó, trên một con đường cách nhà tôi không xa, mấy người lạ mặt đã đuổi theo tôi, còn dùng đủ biện pháp cả cứng lẫn mềm, cuối cùng đưa tôi tới một tiểu khu đô thị lạ vừa mới được xây dựng.

Tiểu khu đô thị này không phải nơi nào khác, chính là Cẩm Tú Hoa Viên.

Tòa nhà số 8 là một cao ốc được xây theo kiểu chung cư Tại cần hộ 1218, bọn họ vẫn tiếp tục dùng đủ các phương thức để ép tôi phải trả tiền, điều duy nhất mà tôi có thế làm vẫn là chịu đựng. Trong quãng thời gian đó, tôi từng không chỉ một lần nghĩ đến cái chết, song niềm hy vọng sống thì chưa khi nào tắt lịm hoàn toàn. Để tiện cho tôi xoay sở tiền nong, những người giam giữ tôi không hề tịch thu điện thoại của tôi. Vào một buổi đêm khuya trung tuần tháng Bảy, những người canh giữ tôi đều đã ngủ say, tôi lén lấy điện thoại ra xem. Trong phần danh bạ, tôi để ý tới một cái tên mà mình chẳng lấy gì làm xa lạ: Cố Thành Kiệt.

Khi cha tôi còn tại thế có một lần ông bảo tôi giúp ông ghi lại số điện thoại mà Cố Thành Kiệt vừa thay, thế là tôi liền nhân tiện lưu luôn vào trong danh bạ điện thoại. Tôi lờ mờ nhớ được cha từng nói Cố Thành Kiệt là một chủ nhiệm gì đó ở Sở Tư pháp, quan hệ giữa hai người không tệ chút nào.

Sang ngày hôm sau, tôi gửi tin nhắn cho Cố Thành Kiệt, hy vọng ông ta có thể nghĩ cách cứu mình. Cố Thành Kiệt rất nghĩa khí, lập tức gửi tin nhắn lại cho tôi, bảo tôi làm rõ xem mình hiện đang ở nơi nào, sau đó hãy nhờ một người bạn có thể tin cậy được đi báo cảnh sát giúp, cứ nói là mình bị người ta bắt cóc. Tôi kể lại việc mình trước đây đã từng báo cảnh sát mấy lần nhưng chẳng có chút tác dụng nào ông ta liền nói tôi không cần phải lo lắng, cứ làm theo lời ông ta nói là được.

Mãi đến đêm khuya ngày 19 tháng 7 tôi mới tìm được cơ hội làm rõ vị trí cụ thể của mình khi đó. Sau khi suy nghĩ kĩ càng, tôi quyết định sẽ giao phó nhiệm vụ báo cảnh sát cho Trần Ngọc Long, thế rồi liền liên lạc với anh ta, nhờ anh ta giúp đỡ. Vốn là luật sư, anh ta biết rõ nếu thay tôi báo cảnh sát thì rất có khả năng sẽ gặp rủi ro, vậy nhưng cuối cùng vẫn đồng ý sẽ giúp đỡ tôi.

Sáng ngày 20 tháng 7, bốn viên cảnh sát tới gõ cửa. Sau đó, dù những kẻ giam giữ tôi đã hết lời giải thích và uy hiếp, thậm chí còn tỏ rõ là mình có quan hệ với lãnh đạo cấp cao của hệ thống công an địa phương, mấy viên cảnh sát đó vẫn chẳng dao động chút nào, kiên quyết cho rằng bọn họ đã giam giữ tôi trái pháp luật sau đó đưa chúng tôi về đồn công an để tiến hành điều tra. Tiếp đến, lãnh đạo của đồn công an tỏ ra hết sức thiên vị tôi, điều này khiến mấy kẻ giam giữ tôi ý thức được điều gì đó, thế là liền chủ động thừa nhận sự thực là mình đã giam giữ người trái pháp luật. Có điều, đến cuối cùng bọn họ đều không phải chịu bất cứ chế tài pháp luật nào cả.

Đây chính là câu chuyện ẩn đằng sau tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát mà Thường Gia Lệ đưa cho tôi.

Tôi hít sâu một hơi, ngẩng lên nhìn Thường Gia Lệ, trầm giọng hỏi: “Thế này tức là sao?”

Cô ta thở dài, đáp: “Ngọc Long nói, đây là chứng cứ chứng minh việc anh ấy có lỗi với anh. Cũng vì tờ biên bản này nên anh ấy mới không có mặt mũi nào để đi gặp anh. Bây giờ tôi đã giao nó tận tay anh rồi, vậy cũng coi như đã thay anh ấy chuộc được một phần tội lỗi, hy vọng anh ấy có thể nhắm mắt...” Đôi môi vẫn luôn mím chặt của cô ta đột ngột hé ra, hai hàng nước mắt tuôn trào như suối.

Tôi hoàn toàn không thể hiểu nổi những lời này của Thường Gia Lệ. Tờ biên bản này rõ ràng là minh chứng cho việc Trần Ngọc Long năm xưa đã bất chấp nguy hiểm để giúp đỡ tôi một cách vô tư, tại sao theo lời của cô ta lại biến thành chứng cứ chứng minh rằng anh ta có lỗi với tôi chứ?

Tôi xem kĩ tờ biên bản đó từ đầu đến cuối một lượt, vậy nhưng vẫn chẳng phát hiện ra chút manh mối nào.

Tôi rút một tờ khăn giấy ra đưa cho Thường Gia Lệ, trầm ngâm hỏi: “Về tờ biên bản này, Ngọc Long có nói gì với cô nữa không? Cô có thể cố gắng nhớ kĩ thêm một chút không?”

”Anh ấy chỉ nói là mình có lỗi với anh thôi.” Cô ta lau nước mắt, mấy giây sau mới đột ngột sững người. “Phải rồi, tôi nhớ là có mấy lần khi nhìn vào tờ giấy này, anh ấy đã vừa thở dài vừa đấm mạnh vào đùi mình, nói là mình thật không có khí phách.”

Tôi thầm suy nghĩ về lời của cô ta, nhất thời chẳng nói năng gì. Đúng vào lúc này, bà xã gọi điện thoại tới, hỏi tôi tại sao còn chưa về. Sau khi gác máy, tôi vội vàng từ biệt Thường Gia Lệ. Đến khi lên xe rồi, tôi không lập tức nổ máy ngay mà xem đi xem lại tờ biên bản kia mấy lượt, cuối cùng trong lòng không kìm được nảy sinh một nỗi nghi hoặc mới: Theo như tôi được biết, biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát tuy không được lưu giữ vào trong hồ sơ, vậy nhưng cũng là một tài liệu mật, người ngoài căn bản không có cơ hội đụng đến, tại sao Trần Ngọc Long lại có thể tiếp xúc với nó chứ? Hơn nữa, cho dù là một luật sư, có thể tìm cách để đọc được tờ biên bản này, nhưng Trần Ngọc Long đã mang nó đi phô tô rồi cất giữ tại nhà như thế nào đây?

Tôi trầm tư suy nghĩ một lát, rồi liền xác định được phương hướng cho bước điều tra tiếp theo của mình.

Người xử lý chính: Hà Hải Phong. Trưởng ca trực: Lý Ngọc Lương.

* * *

Tám giờ hai mươi phút sáng ngày hôm sau, tôi có mặt đúng giờ tại Bệnh viện Tâm thần thành phố, bắt đầu cuộc gặp mặt và trò chuyện lần thứ tám với Diệp Thu Vi. Hôm đó, cô ta lại mặc chiếc váy liền xếp nếp kiểu bohemian. Cô ta dường như rất thích chiếc váy này, và tôi cũng thế.

Tôi đóng cửa lại, kéo cửa sổ trò chuyện ra, rồi cất tiếng chào: “Chào cô, cô Diệp.”

Cô ta bình thản cất tiếng chào lại tôi: “Ừm, chào anh.”

Tôi khẽ mỉm cười, kéo ghế ngồi xuống, mở sổ tay ra, gật đầu nói: “Chúng ta bắt đầu luôn nhé, hôm nay chắc hẳn phải nói tới Lưu Hướng Đông rồi.” Tôi mở tập tài liệu về những vụ án mạng ra tới trang thứ bảy. “Tại sao trong tài liệu lại không viết rõ địa điểm và phương thức tự sát của Lưu Hướng Đông thế?”

”Không viết tất nhiên là có nguyên nhân của nó.” Cô ta giải thích. “Tháng 9 năm 2009, phán quyết được đưa xuống, Triệu Hải Thời phục tùng phán quyết, bị đưa vào trong trại tạm giam để chờ chấp hành án tử hình, còn tôi thì bắt đầu tiếp cận Lưu Hướng Đông. Ông ta có thể tính là một người nổi tiếng, cho nên các tin tức cơ bản không hề khó tìm: Lưu Hướng Đông sinh tháng 4 năm 1958, tốt nghiệp Học viện Hóa học công nghiệp của trường Đại học C, về sau lấy được bằng thạc sĩ và tiến sĩ ở một trường đại học nổi tiếng trong nước. Ông ta vốn giảng dạy ở Đại học C, nhưng tới năm 1997 thì được Tập đoàn A mời, thế là liền tới làm Chủ nhiệm trung tâm Nghiên cứu khoa học của Công ty E. Dưới sự dẫn dắt của ông ta, công nghệ chế thuốc của Công ty E có những sự tiến bộ rõ rệt, cũng từ đó Công ty E trở thành cột trụ vững vàng trong giới sản xuất thuốc địa phương.

Tôi vừa ghi chép vừa buông lời cảm thán: “Xem ra ông ta có thể tính là một học giả tạo phúc cho xã hội được rồi.”

”Còn về hoàn cảnh gia đình cùng với các tin tức khác, muốn điều tra tường tận cần phải bỏ ra nhiều công sức hơn mới được.” Diệp Thu Vi không hề để tâm tới lời đánh giá của tôi. “Trong quá trình điều tra, có rất nhiều người đã nói cho tôi biết Lưu Hướng Đông là một học giả vô cùng thuần túy, thường ngày nếu không ở nhà thì là ở phòng thí nghiệm, chỉ thỉnh thoảng mới nhận lời mời quay về trường cũ giảng một vài tiết học công khai. Tuy thanh danh không nhỏ, vậy nhưng ông ta lại rất kín tiếng, hơn nữa còn cực kỳ chú trọng tới việc giữ bí mật đời tư cá nhân.

”Anh còn nhớ người bạn ở Đại học C mà tôi từng kể không?” Diệp Thu Vi nói. “Tôi có một người bạn học thời cấp ba đang làm trợ giảng ở Đại học C, tên là Phương Tự Lập. Chuyện vị Giáo sư họ Dương ở Đại học C tự sát cũng chính là do anh ta vô ý tiết lộ cho tôi biết trong lúc tán gẫu.”

Tôi lật lại phần ghi chép trước đó trong sổ tay, rồi liền khẽ gật đầu, tỏ ý mời cô ta nói tiếp.

”Trong khi điều tra về Lưu Hướng Đông vốn tốt nghiệp từ Đại học C, tôi đương nhiên cần đến sự giúp đỡ của Phương Tự Lập.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Đương nhiên, Lưu Hướng Đông dù sao cũng không còn làm việc ở Đại học C nữa, cho nên Phương Tự Lập cũng không hiểu về ông ta lắm. Có điều hồi cuối tháng Chín, trong một lần trò chuyện, Phương Tự Lập đã nói cho tôi biết, ngày mùng Tám tháng Mười chính là ngày thành lập Đại học C, Lưu Hướng Đông có lẽ sẽ về trường tham gia hoạt động kỷ niệm. Tôi tỏ lòng ngưỡng mộ Lưu Hướng Đông, nói là thực sự rất muốn được gặp ông ta một lần. Phương Tự Lập lập tức đảm bảo với tôi, nói là nhất định sẽ nghĩ cách để tôi được vào hội trường.”

Tôi không kìm được tò mò, liền buột miệng hỏi: “Anh chàng Phương Tự Lập này yêu đơn phương cô đúng không vậy?”

”Từ hồi học cấp ba anh ta đã bắt đầu theo đuổi tôi rồi, mãi đến khi học đại học vẫn thường xuyên viết thư cho tôi.” Diệp Thu Vi nói. “Cho nên tôi mới lựa chọn anh ta. Nếu anh ta vẫn còn thích tôi, vậy thì sẽ không nghi ngờ tôi chút nào.”

Tôi thực sự thông cảm cho Phương Tự Lập.

”Để đảm bảo là anh ta sẽ giúp tôi, trong dịp nghỉ lễ Quốc khánh tôi đã đi gặp anh ta hai lần.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Trong lần gặp mặt thứ hai, anh ta giao cho tôi một tấm thẻ nhân viên nội bộ phụ trách tổ chức lễ kỷ niệm ngày thành lập trường của Đại học C, bên trên còn có cả ảnh và tên của tôi nữa. Tôi dùng những sự ám thị kín đáo để bày tỏ thiện cảm với anh ta, hy vọng qua đó có thể nhận được nhiều sự giúp đỡ từ anh ta hơn. Sau đó mọi việc đều thuận lợi, đến sáng ngày mùng Tám tháng Mười, tại hội trường số 1 của Đại học C, tôi rốt cuộc đã được gặp Lưu Hướng Đông mà mình “ngưỡng mộ đã lâu“.”

1. Quốc khánh nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được kỷ niệm vào

ngày mùng Một tháng Mười hằng năm, thông thường vào dịp này người dân sẽ được nghỉ lễ một tuần - ND.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 2: Chứng mặc cảm Oedipus bệnh hoạn


Lưu Trí Phố thường xuyên thay bạn gái, trong vòng một tháng có thể thay tới ba lần. Trong học viện có rất nhiều giáo viên nữ từng qua lại với anh ta, nghe nói có người còn từng có thai với anh ta nữa, nhưng anh ta dường như chưa từng nghĩ đến chuyện kết hôn.

Do đêm qua không ngủ đủ giấc, tôi không kìm được ngáp dài một cái.

Diệp Thu Vi đưa mắt nhìn thoáng qua tôi, rồi nói tiếp: “Hôm đó, nghi thức khởi động cho hoạt động kỷ niệm ngày thành lập trường được cử hành, nội dung về cơ bản chỉ có lãnh đạo phát biểu, sau đó đến lượt thầy trò trong trường lên bày tỏ cảm xúc. Nhân viên tổ chức vốn không có chỗ ngồi, nhưng Phương Tự Lập đã cất công tìm cho tôi một chỗ, hơn nữa vị trí còn khá tốt, rất gần với sân khấu chính. Tôi ngồi phía dưới và quan sát, dần dần đã có được những ấn tượng bước đầu về Lưu Hướng Đông. Ông ta vóc người gầy guộc, đeo một chiếc kính khá cũ và lỗi mốt, phần lớn thời gian đều cúi đầu nhìn bàn, dù thỉnh thoảng có ngẩng lên thì ánh mắt cũng vật vờ bất định.”

”Vật vờ bất định?” Tôi suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Giống như biểu hiện của Vương Vĩ lúc ở nhà Trần Hy đó ư?”

”Cũng gần như thế.” Diệp Thu Vi phân tích. “Có điều lúc ở nhà Trần Hy, Vương Vĩ tỏ ra như vậy là bởi vì chuẩn bị lấy trộm đồ cho nên chột dạ, còn ánh mắt Lưu Hướng Đông có vẻ vật vờ là do căng thẳng khi bị mấy nghìn người phía dưới nhìn vào. Chột dạ và căng thẳng đều có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi, tôi cho rằng nỗi sợ hãi của Vương Vĩ bắt nguồn từ sự ràng buộc của pháp luật và đạo đức xã hội, còn nỗi sợ hãi của Lưu Hướng Đông thì bắt nguồn từ đám đông phía dưới.”

”Đám đông phía dưới?” Tôi buột miệng hỏi: “Ý cô là ông ta mắc chứng ám ảnh sợ xã hội1 ư?”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu, hờ hững nói: “Cúi đầu trong một thời gian dài, khi ngẩng lên thì ánh mắt vật vờ bất định, hiển nhiên là ông ta muốn né tránh ánh mắt của mấy nghìn người bên dưới sân khấu, đây là một biểu hiện điển hình của tình trạng thiếu tự tin đối với bản thân cũng như các mối quan hệ xã hội. Loại học giả thế này không hề hiếm gặp, bọn họ khi ở trong phòng thí nghiệm thì thét ra lửa, không việc gì là không làm được, nhưng trong cuộc sống thường ngày, khi cãi nhau với người lạ thì lại ấp a ấp úng, nói năng ngốc nghếch, còn khi ở trước đám đông, bị nhiều người nhìn vào, bọn họ thậm chí chỉ muốn tìm một cái lỗ nẻ mà chui xuống.”

”Cho nên mọi người mới nói ông ta là một học giả vô cùng thuần túy.” Tôi suy nghĩ một chút rồi bèn nói: “Ông ta thường ngày kín tiếng, cuộc sống chỉ xoay quanh hai địa điểm với một tuyến đường, lại rất ít khi tham gia các hoạt động công khai, đó đều là biểu hiện của chứng ám ảnh sợ xã hội.”

Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Có điều ông ta dù gì cũng đã hơn năm mươi tuổi, lại từng lăn lộn trong Công ty E nhiều năm, thế nên vào những lúc cần thiết thì vẫn có thể bấm bụng làm những việc mà mình không thích, chẳng hạn như là thỉnh thoảng lại đi giảng một vài tiết học công khai ở Đại học C hoặc là quay về dự lễ kỷ niệm ngày thành lập trường. Có thể nói, một người dù cố gắng né tránh đến mấy thì cũng không thể nào hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội.” Hơi dừng một chút, cô ta nói tiếp: “Đương nhiên, những điều này đều chỉ là cảm nhận trực quan của tôi khi nhìn thấy ông ta, có điều, những biểu hiện của ông ta về sau đã chứng minh cảm nhận của tôi là hoàn toàn chính xác.”

Tôi nhanh chóng ghi lại những lời cô ta nói vào trong sổ tay, sau đó liền tựa lưng vào ghế tỏ ý mời cô ta nói tiếp

1. Ám ảnh xã hội là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn lo âu được mô tả bởi đặc điểm sợ hãi quá mức trong các tình huống xã hội thông thường. Biểu hiện thể chất thường thấy là tim đập nhanh, đỏ mặt, đổ mồ hôi, khó chịu dạ dày, buồn nôn. Người bệnh bộc lộ nỗi sợ hãi mãnh liệt và dai dẳng khi người khác nhìn mình hoặc bị phê bình, luôn sợ rằng hành vi của mình sẽ khiến bản thân rơi vào tình huống khó xử hoặc bị bẽ mặt. Sự sợ hãi của họ có thể mạnh đến nỗi nó can thiệp nghiêm trọng vào công việc, học tập hay những hoạt động khác – ND

.

”Sau khi đưa ra phán đoán bước đầu, tôi rất nhanh đã lại để ý tới một chi tiết khác.” Diệp Thu Vi nói: “Trong nghi thức khởi động, trên sân khấu chính tổng cộng có chín người. Về mặt nguyên tắc thì Đảng ủy trường không tham gia vào hoạt động kỷ niệm ngày thành lập trường, do đó người ngồi ở chính giữa là Hiệu trưởng, ngổi bên trái Hiệu trưởng là Hiệu phó thường trực, ngồi bên phải thì chính là Lưu Hướng Đông, xa dần về hai bên thì mới tới lượt hiệu phó khác và một số vị chủ nhiệm.”

Tôi bất giác sững người. “Ông ta dựa vào đâu mà được xếp ngồi ở vị trí hạng ba 1 như thế?”

”Đúng vậy, ông ta chỉ là một cựu sinh viên của trường dựa vào cái gì mà được xếp chỗ ngồi ở trên cả một vài vị hiệu phó như thế chứ?” Diệp Thu Vi phân tích: “Đơn giản thôi, bởi vì địa vị của Lưu Hướng Đông quả thực rất cao.”

Được cô ta nhắc nhở như vậy, tôi ít nhiều đã hiểu ra được một chút. “Phải chăng ý của cô là Đại học C xếp cho ông ta chỗ ngồi như vậy là vì nể mặt Tập đoàn A?”

Cô ta ngồi thẳng người dậy, hai tay để ngang trên hai chân, chậm rãi nói: “Một trường đại học tổng hợp cấp sở mà khi sắp xếp chỗ ngồi lại phải nể mặt một doanh nghiệp tư nhân, từ chuyện này có thể nhìn ra được hai điều: Thứ nhất, Tập đoàn A có một chỗ dựa rất phức tạp và vững chắc; thứ hai, địa vị của Lưu Hướng Đông trong Tập đoàn A nhất định là rất không tầm thường.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm nói: “Một học giả mắc chứng ám ảnh sợ xã hội như Lưu Hướng Đông ắt hẳn là không giỏi lắm về quyền mưu, ấy vậy mà lại có được một địa vị không tầm thường trong Tập đoàn A, xem ra nguyên nhân chỉ có thể là ông ta đang nắm trong tay một thứ lợi ích cốt lõi nào đó của tập đoàn này mà thôi.”

”Khi đó tôi cũng có phán đoán như vậy.” Diệp Thu Vi nói: “Nhưng con người Lưu Hướng Đông không ngờ còn phức tạp hơn so với trong tưởng tượng của tôi.”

1. Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, chỗ ngồi càng ở giữa thì thể hiện địa vị càng cao, ngoài ra chỗ ngồi bên trái được coi trọng hơn chỗ ngồi ở bên phải - ND.

Tôi thoáng lộ vẻ đăm chiêu, gật đầu nói: “Xin hãy tiếp tục đi.

”Kế đến là chi tiết thứ hai.” Cô ta lại nói tiếp. “Khi Hiệu trưởng đứng ra phát biểu, Lưu Hướng Đông vốn luôn cúi đầu không ngờ lại ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm vào Hiệu trưởng, hai mắt mở to, sáng ngời rạng rỡ hơn trước đó rất nhiều.”

”Khi nhìn thấy thứ gì đó mà mình thích, đồng tử của người ta sẽ nở rộng, ánh mắt theo đó mà sáng lên rất nhiều.” Tôi bất giác có chút nghẹn lời. “Lẽ nào... ông ta thích Hiệu trưởng? Hình như Hiệu trưởng trường Đại học C là đàn ông đúng không?”

Diệp Thu Vi chợt hỏi tôi: “Anh Trương, anh có con rồi nhỉ? Là con trai hay con gái vậy?”

”Con trai.”

”Anh nhất định là từng đưa thằng bé đến cửa hàng đồ chơi rồi. Nếu nó rất muốn có một món đồ chơi nào đó, ánh mắt của nó khi nhìn vào món đồ chơi đó như thế nào?”

”Khao khát.” Nhớ đến con trai mình, tôi bất giác nở một nụ cười vui vẻ. “Nếu có thể lấy được thứ đó, nó nhất định sẽ nắm chặt trong tay, còn nếu như không, nó sẽ nhìn chằm chằm vào đó, mắt không chớp lấy một lần, cực kỳ chăm chú, hơn nữa…” Nói tới đây, tôi hơi dừng lại một chút, nhanh chóng hiểu ra ý của cô ta. “Hơn nữa còn sáng ngời rạng rỡ. Ý của cô là ánh mắt sáng ngời đó của Lưu Hướng Đông không phải xuất phát từ sự yêu thích mà xuất phát từ sự khao khát ư?”

“Sự khao khát bắt nguồn từ niềm yêu thích, nhưng yêu thích chưa chắc đã có thể làm nảy sinh khao khát.” Diệp Thu Vi giải thích. “Khi con người ta thích một thứ gì đó thì sẽ nảy sinh ham muốn chiếm hữu, và chúng ta nói là anh ta có khao khát đối với thứ này. Khi đối mặt với một thứ mà bản thân khao khát sở hữu, con người ta sẽ vô thức sinh ra những sự liên tưởng có liên quan tới nó, hoặc cũng có thể là ảo tưởng. Biểu hiện bên ngoài của tình trạng ảo tưởng này chính là ánh mắt trở nên say sưa. Sau đó, cho dù không thể có được thứ này, chỉ cần ảo tưởng thôi là tâm lý của người đó sẽ nhận được sự thỏa mãn và cảm thấy thư thái, mà biểu hiện bên ngoài của sự thư thái trong tâm lý chính là đồng tử mở rộng, hai mắt sáng lên.”

Tôi vẫn cảm thấy rất khó hiểu. “Nói đi nói lại thì việc đôi mắt của Lưu Hướng Đông sáng lên vẫn là biểu hiện của sự yêu thích và khao khát của ông ta đối với Hiệu trưởng Đại học C mà.”

“Thứ Lưu Hướng Đông yêu thích và khao khát có thể là bản thân Hiệu trưởng, nhưng cũng có thể là một thứ gì đó mà Hiệu trưởng đang sở hữu.” Diệp Thu Vi tiếp tục giải thích. “Tôi tiếp tục quan sát Lưu Hướng Đông, rồi liền phát hiện ra một chi tiết mới. Ban đầu, lời phát biểu của Hiệu trưởng khá nhạt nhẽo, chẳng qua là điểm lại lịch sử của Đại học C và liệt kê ra một số nhân vật nổi tiếng từng theo học tại trường. Sau khi nói xong những lời này, ông ta bắt đầu nói tới trách nhiệm cụ thể của lãnh đạo trong thời gian kỷ niệm ngày thành lập trường. Tôi phát hiện, trong quá trình này, ánh mắt của Lưu Hướng Đông rõ ràng đã sáng hơn trước rất nhiều, chứng tỏ cảm giác thư thái của ông ta đã tăng lên không ít. Sau khi nói xong phần sắp xếp trách nhiệm cụ thể, Hiệu trưởng nói thêm hai phút nữa, có điều lần này lại toàn là những lời nói sáo rỗng, đại ý là hy vọng mọi người ghi nhớ khẩu hiệu của trường, mong rằng hoạt động kỷ niệm ngày thành lập trường lần này thành công tốt đẹp. Trong vòng hai phút này, tuy ánh mắt Lưu Hướng Đông vẫn rạng ngời, nhưng so với trước đó thì rõ ràng là đã ảm đạm đi nhiều.”

Tôi không kìm được nhìn cô ta bằng ánh mắt sợ hãi. “Thật không ngờ ngay đến cả độ sáng của ánh mắt mà cô cũng có thể phân biệt rõ ràng như vậy…Có điều, sau khi trải qua bước ngoặt tâm lý lần đó, điều này đối với cô mà nói đã trở nên rất dễ dàng rồi đúng không?”

“Tôi thực ra cũng đã phải cố hết sức mình.” Diệp Thu Vi nói. “Tuy tâm lý có những sự biến hóa nhất định nhưng tôi dù sao vẫn là một con người, phân biệt độ sáng của ánh mắt như thế đã là cực hạn mà tôi có thể làm được.”

Tôi đưa mắt nhìn thoáng qua đôi mắt của cô ta, rồi nhanh chóng cúi đầu xuống. “Xin hãy tiếp tục đi.”

“Nhìn vào sự biến hóa trong độ sáng ánh mắt của Lưu Hướng Đông mà xét, thứ ông ta thích không phải là bản thân Hiệu trưởng, mà là một thứ nào đó Hiệu trưởng nắm giữ.” Diệp Thu Vi tiếp tục giải thích: “Rất hiển nhiên, thứ này từ đầu đến cuối luôn nằm trên người Hiệu trưởng, mà khi Hiệu trưởng tuyên bố phần an bài trách nhiệm cụ thể của các lãnh đạo trong thời gian diễn ra hoạt động kỷ niệm ngày thành lập trường thì nó được thể hiện ở mức lớn nhất. Anh Trương...” Cô ta đưa mắt nhìn tôi chăm chú. “Theo anh thì đó là thứ gì?”

Tôi suy nghĩ suốt một hồi lâu rồi mới thử đưa ra phán đoán của mình: “Là quyền lực ư?”

”Rất có thể là quyền lực.” Ánh mắt đột nhiên hơi sáng lên một chút, Diệp Thu Vi dường như rất hài lòng với phán đoán này của tôi. “Vừa nãy tôi đã nói rồi, khi con người ta khao khát một thứ gì đó thì sẽ vô thức nảy sinh những sự ảo tưởng có liên quan. Ảo tưởng có thể làm tâm lý thỏa mãn, từ đó khiến con người ta cảm thấy thoải mái, ánh mắt thì sáng rực lên. Nói cách khác, trong trạng thái khao khát, việc đôi mắt sáng lên có liên quan mật thiết tới sự ảo tưởng. Cảm giác thỏa mãn do ảo tưởng mang tới càng mãnh liệt thì sự thoải mái sau đó sẽ càng mãnh liệt, và ánh mắt cũng sẽ càng sáng hơn... Đương nhiên, sự dãn nở của đồng tử không phải là không có giới hạn.”

Tôi vừa ghi chép vừa dựa theo dòng suy nghĩ của cô ta mà phân tích: “Tôi hiểu rồi. Việc phát biểu trong nghi thức khởi động của một hoạt động quy mô lớn như thế thể hiện rõ quyền uy của Hiệu trưởng, mà phần an bài trách nhiệm của các lãnh đạo thì lại càng thể hiện quyền uy tới mức tận cùng. Thứ mà Lưu Hướng Đông khao khát chính là quyền lực mà Hiệu trưởng trường Đại học C đang nắm giữ.” Nói tới đây, tôi không kìm được hơi cau mày lại. “Nhưng ông ta là một học giả chỉ biết chuyên tâm nghiên cứu khoa học, thậm chí còn mắc chứng ám ảnh sợ xã hội nữa, lẽ nào lại cũng khao khát quyền lực?”

”Cho nên vừa rồi tôi mới nói ông ta phức tạp hơn so với trong tưởng tượng của tôi.” Diệp Thu Vi lại kể tiếp. “Tóm lại, đây là những phân tích và phán đoán bước đầu của tôi về ông ta. Sau khi Hiệu trưởng phát biểu xong, Hiệu phó thường trực liền lên giới thiệu về các hạng mục cụ thế cũng như quy trình của hoạt động kỷ niệm, trong thời gian này, Lưu Hướng Đông lại khôi phục bộ dạng như trước đó 1à một mực cúi đầu, thỉnh thoảng ngẩng lên thì hoặc là ánh mắt vật vờ bất định, hoặc là quay sang nhìn và nói chuyện với Hiệu trưởng. Sau khi Hiệu phó thường trực nói xong thì đến lượt Lưu Hướng Đông thay mặt các cựu sinh viên của trường lên phát biểu. Ông ta cầm giấy đi lên bục phát biểu, sau đó bắt đầu đọc từng câu từng chữ, ngữ điệu đều đều không mang một chút tình cảm nào, thậm chí thỉnh thoảng còn nói lắp vài câu nữa.”

Tôi khẽ gật đầu. “Xem ra phán đoán ban đầu của cô là chính xác, ông ta bị mắc chứng ám ảnh sợ xã hội rất nghiêm trọng.”

”Trong quá trình này tôi còn phát hiện ra một chi tiết mới.” Diệp Thu Vi nói. “Khi phát biểu, cứ khi nào nói lắp là ông ta lại đưa tay lên sờ răng cửa của mình. Trong quãng thời gian phát biểu kéo dài năm phút, ông ta tổng cộng đã sờ hai mươi ba lần, bình quân chưa tới mười lăm giây một lần.”

Tôi vô thức đưa tay lên sờ răng cửa của mình một chút rồi bèn cười gượng, nói: “Ở trước mặt bao nhiêu người mà làm ra hành vi như vậy thì hình như không được lịch sự cho lắm thì phải.” Sau đó tôi lại hơi ngẩn ra, thử hỏi dò: “Ông ta còn mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nữa ư?”

”Chỉ cần đưa tay lên sờ răng cửa một chút ông ta liền tạm thời loại bỏ được sự căng thẳng, từ đó tiến vào trạng thái buông lỏng.” Diệp Thu Vi nói. “Nhìn vào hiệu quả loại trừ lo lắng mà xét, ông ta quả thực rất có khả năng mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế.”

Tôi đưa tay sờ cằm, trầm ngâm nói: “Xem ra, điều này hẳn sẽ trở thành một trong những điểm mấu chốt để sau này cô có thể khống chế ông ta trong lòng bàn tay.”

Diệp Thu Vi nở một nụ cười tuy rõ ràng nhưng lại khá phức tạp, rồi kể tiếp: “Những điều kể trên chính là toàn bộ tin tức mà tôi quan sát được trong quá trình diễn ra nghi thức khởi động. Đến tối hôm đó, trong nhà ăn dành cho nhân viên nhà trường có tổ chức một bữa tiệc giao lưu học thuật. Đương nhiên, Phương Tự Lập đã lại giúp tôi kiếm được giấy mời tham dự. Bữa tiệc chính thức bắt đầu vào lúc sáu giờ, Phương Tự Lập dẫn tôi đến ngồi vào một góc của hội trường, mấy giáo viên ngồi cùng bàn không ngừng nói đùa với Phương Tự Lập, hiển nhiên đều nghĩ rằng tôi là hồng nhan tri kỷ của anh ta. Phương Tự Lập đã có gia đình, do đó không ngừng giải thích rằng chúng tôi chỉ là bạn, nhưng tôi có thể nhìn ra được, anh ta hiển nhiên là có ham muốn về thể xác đối với tôi.”

Tôi nói “Nếu anh ta thực sự là một người đàn ông, không có ham muốn thì mới là điều bất thường đấy.”

Diệp Thu Vi bình tĩnh nói: “Hiệu trưởng không tham dự bữa tiệc đó, có lẽ là để tránh những rắc rối không cần thiết. Khi bữa tiệc bắt đầu, Lưu Hướng Đông ngồi cùng bàn với mấy vị lãnh đạo của trường. Tôi để ý thấy người ngồi bên tay trái ông ta là Hiệu phó thường trực, song người ngồi bên tay phải thì không ngờ lại là một người đàn ông trẻ tuổi. Phương Tự Lập rất nhanh đã nói cho tôi biết, người đàn ông đó tên là Lưu Trí Phổ, là con trai của Lưu Hướng Đông.”

Tôi hỏi: “Con trai ông ta làm việc ở Đại học C ư?”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Khi đó có đông người, Phưong Tự Lập không nói rõ, chỉ bảo rằng Lưu Trí Phổ cũng là giáo viên trong trường. Khi nhắc đến Lưu Trí Phổ, anh ta vô thức nheo mắt lại, đôi môi mím chặt, khóe môi nhếch ra và hơi trĩu xuống, mũi bật hơi khá mạnh, hiển nhiên là mang lòng bất mãn và xem thường.”

”Chắc là ghen tị rồi, Lưu Hưóng Đông ắt hẳn đã dọn sẵn cho con trai mình một con đường tiến thân bằng phẳng.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Ai cũng nói Lưu Hướng Đông là người kín tiếng, nhưng trong một bữa tiệc giao lưu học thuật như vậy mà ông ta lại để con trai ngồi cùng bàn với mình, thế thì đâu còn gọi là kín tiếng được.”

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Sau khi các vị lãnh đạo lần lượt phát biểu, bữa tiệc chính thức bắt đầu. Lúc tám giờ, Hiệu phó thường trực đi chúc rượu từng bàn, sau đó thì tới lượt Lưu Hướng Đông.”

Tôi khẽ “hừ” một tiếng. “Ông ta đâu phải là người của Đại học C, làm như vậy rõ ràng là không thích hợp.”

”Khi ông ta đi chúc rượu, tôi để ý quan sát phản ứng của các giáo viên trong trường, nhưng xét từ vẻ mặt cũng như động tác của bọn họ, phần lớn mọi người thậm chí còn kính trọng Lưu Hướng Đông hơn cả Hiệu phó thường trực.” Diệp Thu Vi phân tích: “Kết hợp điều này với việc sắp xếp vị trí ngồi trong nghi thức khởi động, tôi cảm thấy, Lưu Hướng Đông tuy sớm đã rời khỏi Đại học C, nhưng giữa ông ta và Đại học C vẫn có những mối liên hệ nội tại vô cùng sâu sắc.”

Tôi lẳng lặng gật đầu.

Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Ngồi cùng bàn với tôi khi đó toàn là các giáo viên trẻ, tuổi tác chỉ vào chừng xấp xỉ ba mươi. Sau khi qua đó, Lưu Hướng Đông đã nói ra những lời như thế này: “Các bạn ai nấy đều trẻ tuổi tài năng, việc xây dựng Đại học C không thể thiếu sự cố gắng của các bạn, tương lai của Đại học C nằm cả trong tay người trẻ tuổi, những chương sử vẻ vang mới của Đại học C đang chờ các bạn viết ra, công cuộc giáo dục của nước nhà còn cần các bạn vô tư cống hiến. Tôi thay mặt các cựu sinh viên thuộc đủ tầng lớp trong xã hội mời các bạn một chén, các bạn xin hãy cứ tự nhiên.” Khi đó ông ta đã uống không ít rượu, do đó không hề tỏ ra quá căng thẳng như trong nghi thức khởi động. Có điều, dù như thế nhưng ông ta vẫn nói lắp một lần, đồng thời đưa tay lên sờ răng cửa.”

“Trong trường hợp như thế mà vẫn không kiềm chế được bản thân, xem ra ông ta quả thực mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế rồi.” Tôi phân tích.

“Vẫn chưa thể tùy tiện đưa ra kết luận được, hơn nữa đây cũng không phải là điểm mấu chốt.” Diệp Thu Vi nói: “Điểm mấu chốt là những lời mà ông ta đã nói. Tôi phát hiện trong khi chúc rượu, ông ta tổng cộng đã ngắt nghỉ sáu lần, cho nên lời chúc có thể chia làm bảy câu, trong đó có sáu câu dùng cách xưng hô “các bạn”, chỉ có một câu là dùng cách xưng hô “người trẻ tuổi”.”

Tôi không hề ghi lại lời chúc rượu của Lưu Hướng Đông, thế là liền ngượng ngùng nói: “Nguyên văn lời chúc của ông ta là gì, cô có thể nói lại một lượt không?”

Diệp Thu Vi nói lại một lần nữa, tôi cẩn thận ghi không sót một chữ vào trong sổ tay, sau đó trầm ngâm nói: “Quả thực, tổng cộng có bảy câu nói mà chỉ có câu thứ ba là dùng cách xưng hô “người trẻ tuổi”, mấy câu còn lại thì đều là “các bạn”. Nhưng, chuyện này chứng tỏ được điều gì chứ?”

“Trong tình huống bình thường, cách xưng hô luôn có tính nhất quán trong thời gian ngắn, sự thay đổi đột ngột có thể phản ánh ra những biến hóa vi diệu trong tâm lý của người nói. “Cô ta giải thích. “Chẳng hạn như trong một lần trò chuyện về nghiệp vụ, nhân viên ngân hàng vốn luôn gọi khách hàng là “ngài”, nhưng trong một câu nói lại đột ngột đổi cách xưng hô thành “anh”, điều này chứng tỏ câu nói trước đó của khách hàng có thể đã khiến anh ta (hoặc cô ta) cảm thấy không vui. Lại như khi anh nói chuyện với một người bạn nào đó của anh, bạn anh luôn dùng cách xưng hô “cha tôi” để nói tới cha mình, nhưng tới một câu nói thì đột nhiên lại đổi sang dùng “phụ thân tôi”, điều này chứng tỏ chuyện mà các anh nhắc tới trước đó, hoặc cũng có thể là một suy nghĩ nào đó, một đoạn ký ức nào đó trong lòng anh ta đã khơi dậy niềm kính trọng của anh ta với cha mình. Còn có một ví dụ khác thường thấy hơn, đó là khi các cặp tình nhân cãi nhau, ban đầu họ còn gọi nhau là “anh”, “em”, nhưng khi cơn giận đạt tới một mức độ nào đó, những từ như là “mày”, “tao”, thậm chí là tục hơn nữa, đều có thể được sử dụng. Tóm lại, đối với người bình thường, sự thay đổi đột ngột trong cách xưng hô với người khác chính là cột mốc đánh dấu rõ ràng cho sự biến hóa trong tâm lý.”

Tôi khẽ gật đầu.

“Lưu Hướng Đông đã nói những lời chúc rượu đó trong một khoảng thời gian chừng hai mươi giây.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Trong vòng hai mươi giây mà phải nói ra những lời như vậy, người bình thường tuyệt đối không có đủ tâm sức để suy nghĩ quá sâu về nội dung của những điều mình nói. Hay nói cách khác, bảy câu nói đó cùng với cách xưng hô bên trong về cơ bản đều được nói ra một cách vô thức. Tổng hợp những điều này lại có thể đoán ra được, sự xuất hiện đột ngột và ngắn ngủi của cách xưng hô “người trẻ tuổi” đã phản ánh một biến hóa nhỏ bé nào đó trong tiềm thức của Lưu Hướng Đông.”

Tôi bất giác rơi vào trầm tư.

“Sự biến hóa của tiềm thức có liên quan tới ám thị.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Nhưng khi đó, chỉ có bản thân ông ta đang nói lời chúc rượu, những người khác đều không nói chen vào một câu nào, thậm chí còn chẳng dám có động tác gì quá lớn, cho nên, sự ám thị này có lẽ là do Lưu Hướng Đông tự tạo ra cho mình, và đó là một hành vi tự kỷ ám thị. Khi đó ông ta đang nói, cho nên sự tự kỷ ám thị này nhất định là có nguồn gốc từ lời nói của ông ta - những lời chúc rượu được nói ra trước khi ông ta đột nhiên thay đổi cách xưng hô.”

”Tương lai của Đại học C nằm cả trong tay người trẻ tuổi.” Tôi nhìn chằm chằm vào phần ghi chép trong sổ tay, sau khi suy nghĩ một lát bèn trù trừ hỏi: “Nguồn gốc của sự tự kỷ ám thị của ông ta chính là cụm từ “tương lai của Đại học C ư?”

”Hoàn toàn chính xác.” Diệp Thu Vi bình tĩnh nhìn tôi. “Trong bảy câu nói liền mạch đó, cách xưng hô chỉ thay đổi trong câu thứ ba, ngay sau khi cụm từ “tương lai của Đại học C” được nói ra khỏi miệng. Điều này chứng tỏ “tương lai của Đại học C” đã tạo thành một sự tự kỷ ám thị đối với Lưu Hướng Đông, từ đó khiến cho ông ta phải thay đổi cách xưng hô. Dựa theo đó mà suy luận, trong tiềm thức, Lưu Hướng Đông cho rằng tương lai của Đại học C không hề nằm trong tay “các bạn” - cũng tức là những giáo viên trẻ tuổi đang ngồi cùng bàn với tôi, mà nằm trong tay “người trẻ tuổi“. Nói cách khác, trong tiềm thức của ông ta, “người trẻ tuổi” và “các bạn” có sự khác biệt rõ ràng, hai cách xưng hô ấy được dùng để chỉ những người khác nhau.”

”Những người khác nhau…' Tôi sững người, vô thức đưa tay lên một chút, sau đó lại vội vàng bỏ xuống, chăm chú nhìn cô ta. “Chẳng lẽ “người trẻ tuổi” ở đây chính là con trai ông ta?”

”Đây cũng là phản ứng đầu tiên của tôi.” Diệp Thu Vi nói. “Thản nhiên để con trai ngồi cùng bàn với mình và các lãnh đạo của nhà trường, đó chẳng phải là biểu hiện của việc coi con trai là “tương lai của Đại học C” ư? Để chứng thực suy đoán này của mình, sau khi việc chúc rượu kết thúc, tôi cố tình kéo Phương Tự Lập qua một bên, hỏi han tỉ mỉ anh ta về Lưu Trí Phổ. Phương Tự Lập lén nói cho tôi biết, chuyện học tập và công việc của Lưu Trí Phố đều có rất nhiều vấn đề: Lưu Trí Phổ sinh năm 1985, đến năm 2004 mới bắt đầu học đại học, thế mà tới năm 2006 đã lấy được bằng thạc sĩ chuyên ngành hóa học rồi, đến năm 2007 thì trở thành giảng viên chính thức. Quá trình này một người bình thường phải mất tới mười năm mới có thể hoàn thành, thế mà anh ta chỉ cần có ba năm. Cùng với đó, anh ta tuy vào biên chế theo diện giáo viên, vậy nhưng thường ngày lại chỉ làm công việc hành chính là chủ yếu. Anh ta làm việc ở phòng hồ sơ thuộc ban Giáo vụ, về cơ bản chưa từng tham gia giảng dạy bao giờ, thế mà lại có mười mấy bài luận văn học thuật chất lượng rất cao được đăng trên tạp chí CN. Anh ta cũng chưa từng tham gia bất cứ hạng mục nghiên cứu khoa học cấp tỉnh trở lên nào, ấy vậy mà lại có hai bằng phát minh sáng chế cấp quốc gia và một giải thưởng thành quả khoa học kỹ thuật cấp tỉnh. Nghe nói, hồi năm 2009 anh ta thiếu chút nữa đã được đặc cách phong hàm Phó Giáo sư.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi. “Nếu đằng sau những việc này đều có một bàn tay mờ ám, vậy thì chủ nhân của bàn tay ấy lớn gan quá rồi thì phải? Lưu Hướng Đông chấp nhận vì con trai mình mà mạo hiểm như thế ư?”

”Không chỉ lớn gan, tâm tư Lưu Hướng Đông cũng rất tinh tế nữa, ngoài ra sau lưng ông ta còn có một chỗ dựa vững vàng.” Diệp Thu Vi nói. “Tình trạng thật sự của Lưu Trí Phổ chỉ có rất ít người biết mà thôi, hơn nữa vì tiền đồ và lợi ích của bản thân, những người đó ắt sẽ chẳng đi nói lung tung ra ngoài. Một vị Giáo sư của Học viện Hóa học công nghiệp khi viết luận văn thay Lưu Trí Phổ có nhờ Phương Tự Lập giúp đỡ không ít, Phương Tự Lập vì thế mới biết được những tin tức này. Còn trong mắt phần lớn các sinh viên và giáo viên của Đại học C, Lưu Trí Phổ chính là một thiên tài trăm năm khó gặp, cũng là niềm tự hào và tương lai của Đại học C.”

Những thông tin này đã lại một lần nữa khiến tôi mở mang kiến thức.

”Mắc chứng ám ảnh sợ xã hội, vậy mà lại có thể hô mưa gọi gió trong giới giáo dục để rồi làm ra một chuyện đổi trắng thay đen thế này.” Tôi không kìm được cất lời cảm thán: “Xem ra Lưu Hướng Đông quả là phức tạp.”

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Lúc chín giờ tối, bữa tiệc về cơ bản đã kết thúc, các giáo viên tới tham dự cho đủ số sớm đã rời đi quá nửa, tôi và Phương Tự Lập vẫn ở lại hội trường tiếp tục trò chuyện. Khi chúng tôi đang tán gẫu vẩn vơ, Lưu Trí Phổ đi tới vỗ vai Phương Tự Lập, lại nhìn thoáng qua tôi một chút rồi khẽ cười, nói: “Muộn thế này rồi mà anh Phương còn có vẻ hào hứng quá nhỉ! Nếu để chị dâu nhìn thấy cảnh anh trò chuyện với một chị gái xinh đẹp thế này, sau khi quay về anh nhất định sẽ phải ngủ ở xô pha cho mà xem.” Dứt lời lại quay sang nhìn tôi và hỏi: “Chẳng hay chị gái xinh đẹp này là ai vậy?” Phưong Tự Lập vội vàng giải thích: “Là bạn cũ của anh, vì cô ấy rất ngưỡng mộ Giáo sư Lưu nên anh mới dẫn cô ấy qua đây. Trí Phổ, để anh giới thiệu với chú, đây là Diệp Thu Vi đừng thấy người ta trẻ tuổi mà nhầm, thực ra cô ấy đã là Phó Giáo sư của Đại học Z rồi đấy.” Lưu Trí Phổ bắt tay tôi, lại kéo ghế ngồi xuống, tỏ ra rất có hứng thú với tôi. Mới lần đầu gặp mặt, chúng tôi đương nhiên không tránh khỏi phải tâng bốc nhau một chút. Tôi gọi Lưu Trí Phổ là “Thiên tài ngàn năm hiếm gặp”, anh ta tỏ ra rất vui sướng, sau khi trò chuyện một lát liền xin số điện thoại của tôi. Không lâu sau, Lưu Hưóng Đông quay qua phía bàn tôi mà vẫy tay, còn gọi tên Lưu Trí Phổ nữa. Đôi hàng lông mày của Lưu Trí Phổ lập tức trĩu xuống, sắc mặt trở nên cau có khó coi. Cùng lúc ấy, đầu anh ta chẳng chuyển động chút nào, chỉ liếc mắt nhìn thoáng qua cha mình một chút.”

”Đó là những biểu hiện của sự chán ghét, khó chịu.” Tôi nói. “Anh ta hình như không thích cha mình lắm thì phải.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Ngay sau đó, anh ta đã làm ra một động tác cực kỳ thú vị.”

Tôi cầm bút lên, nín thở chờ đợi.

”Nhà ăn là một hình chữ nhật nằm trên trục đông tây, còn bàn của tôi thì nằm tại góc đông bắc.” Diệp Thu Vi miêu tả: “Vị trí của chúng tôi khi đó được phân bố như thế này: Tôi ngồi ở hướng đông quay mặt về hướng tây, Phương Tự Lập ngồi sát cạnh tôi, mặt quay về hướng tây nam, Lưu Trí Phô’ thì ngồi sát Phương Tự Lập, lưng quay về hướng tây bắc, mặt quay về hướng đông nam, còn bàn lãnh đạo của Lưu Hướng Đông thì nằm ở góc tây nam của nhà ăn, về cơ bản có thể tính là nằm về bên phải của Lưu Trí Phổ. Nghe thấy tiếng gọi của cha mình, Lưu Trí Phổ đứng dậy, thế nhưng lại không đi sang phía bên phải của chiếc ghế mà đi qua bên trái, lại vòng nửa vòng quanh chiếc ghế rồi mới đi về phía cha mình.”

”Đây là hành vi né tránh đích đến.” Tôi nói. “Điều này thì tôi hiểu. Khi có tâm lý né tránh đối với một người hoặc một vật ở đích đến, con người ta thường sẽ vô thức lựa chọn đi đường vòng.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Kết hợp với biểu cảm trên mặt của anh ta trước đó, có thể dễ dàng đoán ra được Lưu Trí Phổ không hề thích cha mình, trong lòng còn có tâm lý né tránh hết sức rõ rệt đối với cha mình nữa.”

”Nhìn vào biểu cảm và hành vi của anh ta mà xét thì quả đúng là như vậy.” Tôi không khỏi cảm thấy có chút khó hiểu. “Nhưng, Lưu Hướng Đông đã vì anh ta mà phải bỏ ra biết bao nhiêu công sức, tại sao anh ta lại nảy sinh tâm lý né tránh đối với cha mình chứ?”

”Tôi lập tức nhớ tới ánh mắt vật vờ bất định, khi tối khi sáng của Lưu Hướng Đông trong nghi thức khởi động.” Diệp Thu Vi nói. “Lưu Hướng Đông khao khát quyền lực, dốc hết tâm sức bồi dưỡng con trai mình, trong tiềm thức còn coi con trai là “tương lai của Đại học C”, hiển nhiên là hy vọng con trai có thể thay mình thực hiện ước mơ quyền lực. Ước mơ này không nhỏ chút nào, nếu Lưu Hướng Đông gửi gắm toàn bộ hy vọng lên người con trai, vậy thì con trai ông ta ắt hẳn sẽ cảm nhận được áp lực, mà áp lực một khi lớn tới mức độ nào đó thì tâm trạng né tránh sẽ xuất hiện một cách rất tự nhiên. Khi đó Lưu Trí Phổ chỉ mới hai mươi tư tuổi, quả thực vẫn còn quá trẻ.”

Tôi ghi chép tường tận những điều này lại, không dám bỏ sót chút nào. “Một người thì gửi gắm hy vọng, một người thì né tránh áp lực, sự mâu thuẫn tiềm tàng giữa cặp cha con này hẳn sẽ trở thành một thứ vũ khí quan trọng mà sau này cô cần dùng đến.”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu, rồi lại kể tiếp: “Tối đó lúc chia tay, Phương Tự Lập lại nói cho tôi biết một số chuyện khác có liên quan tới Lưu Trí Phổ.”

Tôi ngẩng đầu lên. Khi đó, ánh bình minh vừa khéo rọi vào qua ô cửa sổ sau lưng Diệp Thu Vi, chiếu lên bức tường thủy tinh. Tôi nhìn thoáng qua bức tường loang lổ những mảng ánh sáng rực rỡ một chút, rồi lại nhanh chóng cúi đầu, mắt hơi hoa đi.

”Lúc chín rưỡi, Phương Tự Lập lái xe đưa tôi về nhà.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Vừa mới lên xe, anh ta đã nói với tôi: “Thu Vi, cậu nhớ phải cẩn thận với Lưu Trí Phổ đấy.” Tôi hỏi tại sao lại vậy, anh ta liền đáp Lưu Trí Phổ tính tình không được đứng đắn cho lắm. Tôi lại hỏi thêm cho rõ ngọn ngành, mãi anh ta mới chịu kể lại nguồn cơn mọi sự. Anh ta nói cho tôi biết, đời sống tình cảm của Lưu Trí Phổ rất không ổn định. Đương nhiên, đây chỉ là một cách nói mềm mỏng thôi, ẩn ý bên trong là cuộc sống riêng tư của Lưu Trí Phổ rất hỗn loạn. Kế đó, Phương Tự Lập lại kể cho tôi nghe về chuyện tình cảm của Lưu Trí Phổ: Lưu Trí Phổ thường xuyên thay bạn gái, dịp cao điểm nhất, trong vòng một tháng đã thay tới ba lần. Trong học viện ít nhất cũng có mười mấy giáo viên nữ từng qua lại với anh ta, nghe nói có năm người còn từng có thai với anh ta nữa, nhưng anh ta dường như chưa từng nghĩ đến chuyện kết hôn.”

Tôi chậm rãi hít vào một hơi, gật đầu, nói: “Có lẽ anh ta mắc chứng rối loạn nhân cách về phương diện tình cảm và quan hệ xã hội.”

”Đây cũng là phản ứng đầu tiên của tôi.” Diệp Thu Vi ngẩng đầu lên, chỉnh lại gọng kính một chút, rồi nhìn tôi chăm chú. “Chứng rối loạn nhân cách nhất định là có liên quan tới sự tác động từ cha mẹ. Tôi nghĩ, trực tiếp tiếp xúc với Lưu Hướng Đông chẳng dễ dàng chút nào, bắt tay vào điều tra từ con trai ông ta có lẽ là một lựa chọn sáng suốt hơn.”

”Nhìn vào việc có năm người phụ nữ từng mang thai với Lưu Trí Phổ mà xét, một trong những đặc trưng tâm lý trong suy nghĩ về tình dục của anh ta chính là bất chấp hậu quả.” Tôi tiếp tục phân tích: “Hành vi tình dục bất chấp hậu quả phản ánh sự khao khát đến mức bệnh hoạn với tình dục, mà sự khao khát đến mức bệnh hoạn thường đồng nghĩa với sự ỷ lại nghiêm trọng trong tâm lý, sự ỷ lại trong tâm lý thì rất có thể phản ánh sự thiếu tự tin trong việc duy trì tình cảm của anh ta. Anh ta hy vọng có thể xây dựng một mối quan hệ thân mật với nữ giới, nhưng lại chẳng có chút lòng tin nào, thế nên mới vô thức coi tình dục là một phương thức để duy trì quan hệ. Tổng hợp những điều này lại mà xét, trong quá trình trưởng thành, anh ta rất có thể đã từng phải trải qua một sự thiếu thốn về mặt tình cảm ở một mức độ nhất định.”

Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi, trên mặt vẫn nguyên vẻ bình tĩnh, nhưng trong ánh mắt lại ẩn chứa sự kinh ngạc. Đôi bờ vai hơi lay động, cô ta đưa tay gạt mấy sợi tóc rối ra sau tai, nói một câu mà tôi vẫn thường hay nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

Nghe cô ta nói ra mấy chữ này, tôi không khỏi cảm thấy hơi tức cười, cảm giác bức bối vốn chất chứa trong lòng từ lâu sau nháy mắt đã tan đi hẳn. Tôi khẽ ho một tiếng, cười nói: “Tôi chỉ có thể phân tích được tới mức này thôi.”

Diệp Thu Vi im lặng trong chốc lát, thế rồi hơi cựa quậy người, chậm rãi tựa lưng vào ghế, kể tiếp: “Khi đó tôi cố tình tỏ ra kinh ngạc, nói: “Cậu ta mới chỉ hai mươi tư tuổi thôi, thật không ngờ đã là một cao thủ tình trường như vậy, xem ra tớ đã xem thường cậu ta rồi.” Phương Tự Lập nghiêm túc nói: “Cậu nhất định phải cẩn thận đấy, theo như sự hiểu biết của tớ về cậu ta, sau khi xin được số điện thoại của cậu rồi, cậu ta nhất định sẽ có hành động tiếp theo.” Tôi cố tình làm ra vẻ ngây thơ nói: “Tớ bây giờ đã hơn ba mươi tuổi, lẽ nào cậu ta còn có hứng thú với một người phụ nữ già như tớ sao?” Phương Tự Lập nói: “Đây mới chính là điều tớ lo lắng nhất. Cậu không biết đâu, những người phụ nữ từng qua lại với Lưu Trí Phổ đều lớn tuổi hơn cậu ta, người lớn nhất thậm chí còn là một nữ Giáo sư sinh năm 1965, lớn hơn cậu ta những hai mươi tuổi.”.”

Tôi đưa tay lên mân mê cằm. “Liệu có khi nào anh ta bị mắc chứng mặc cảm Oedipus1 không?”

”Chỉ có thể nói là có khả năng này thôi.” Diệp Thu Vi nói. “Tình hình cụ thể thì còn phải kết hợp với những chuyện mà anh ta đã từng trải qua hồi nhỏ thì mới có thể phân tích và phán đoán được. Tôi hỏi Phương Tự Lập là có biết gì về quá trình trưởng thành của Lưu Trí Phổ không, Phương Tự Lập nói là không biết chút nào cả. Tôi lại hỏi về mẹ của Lưu Trí Phổ, Phương Tự Lập liền nói cho tôi biết, mẹ của Lưu Trí Phổ tên là Cát Khánh Hà, là một chuyên gia tâm lý học trẻ em kiêm tác giả viết sách, đã từng xuất bản mười mấy cuốn sách phổ biến khoa học về đề tài tâm lý học trẻ em.”

Tôi khẽ thở dài, nói: “Con trai của chuyên gia tâm lý học trẻ em mà lại xảy ra vấn đề trong quá trình phát triển tâm lý tình dục, đây quả là một chuyện mang đầy tính trào phúng.”

”Quả đúng vậy.” Diệp Thu Vi phụ họa một chút sau đó lại kể tiếp: 'Tôi lại hỏi tiếp về mối quan hệ giữa Lưu Trí Phổ và Cát Khánh Hà. Phương Tự Lập ban đầu đáp rằng mình không rõ lắm, nhưng một phút sau đó thì đột nhiên sững người ra trong phút chốc, thế rồi liền kể cho tôi nghe một chuyện. Theo đó hồi cuối năm 2008, anh ta và mấy giáo viên nam có quan hệ khá tốt đã ra ngoài tổ chức liên hoan với nhau, Lưu Trí Phổ cũng nằm trong số đó. Trong lúc dùng bữa, điện thoại của Lưu Trí Phổ liên tục đổ chuông hai lần, nhưng anh ta đều không nghe, sau khi tiếng chuông vang lên lần thứ hai, anh ta còn điều chỉnh điện thoại về chế độ im lặng. Khi đó, Phương Tự Lập ngỡ rằng người gọi tới là một nữ giáo viên nào đó bị Lưu Trí Phổ ruồng rẫy, thế nên cảm thấy khá tò mò. Không lâu sau, màn hình điện thoại của Lưu Trí Phổ lại sáng lên lần nữa, Lưu Trí Phổ ngó qua một chút, nhưng vẫn không bắt máy. Trong khi đó Phương Tự Lập cũng lén lút đưa mắt liếc nhìn, phát hiện trên màn hình điện thoại hiển thị người gọi đến là “Mẹ“.

Tôi bất giác trầm ngâm nói: “Mẹ gọi điện thoại tới mấy lần mà vẫn không bắt máy, xem ra quan hệ giữa Lưu Trí Phổ và mẹ anh ta rất có vấn đề.”

1. Trong thần thoại Hy Lạp, Oedipus là con trai của nhà vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi. Khi chàng lớn lên, xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha của mình, sau đó Creon, anh trai của hoàng hậu Jocasta lên ngôi. Oedipus gặp nhân sư, nó hỏi: “Con gì sáng đi bằng bốn chân, trưa đi bằng hai chân, tối đi bằng ba chân?” Oedipus liền nói: “Đó là con người.” Con nhân sư biết mình đã thua, nó đổ xuống bức tường mà chết. Về phần hoàng hậu Jocasta, nhờ mang chiêc vòng thanh xuân nên vẫn giữ lại được sự trẻ trung và nhan sắc của mình. Sau đó Oedipus đã gặp và cưới Jocasta mà không hay biết đó là mẹ chàng rồi lên ngôi vua Thebes. Lời nguyền về việc Oedipus giết cha, cưới mẹ hoàn tất mà chàng không hay biết. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biệt Oedipus là kẻ giết vua cha. Ông đau khổ, khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử. Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mù mắt mình và bỏ đi. Oedipus sống trong sự đau khổ đến khi ông chết.

Nhà phân tâm học Sigmund Freud đã mượn truyền thuyết này để đặt tên cho một đặc điểm tâm lý thường thấy ở trẻ nhỏ từ ba đến năm tuổi là mặc cảm Oedipus. Theo từ điển, đây là tập hợp các cảm xúc (thường là vô thức) liên quan đến những mong muốn tình dục của một đứa trẻ (đặc biệt là con trai) đối với bậc phụ huynh khác giới tính của nó, thường đi kèm sự đố kỵ và căm ghét đốì với bậc phụ huynh cùng giới tính – ND

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Có điều những lời tiếp theo đó của Phương Tự Lập đã khiến tôi lờ mờ hiểu ra vấn đề rốt cuộc là nằm ở đâu. Anh ta nói, sau khi nhìn thấy chữ “Mẹ” trên màn hình điện thoại, anh ta khẽ hỏi Lưu Trí Phổ: “Trí Phổ, màn hình điện thoại của chú lại sáng rồi kìa, không bắt máy cũng không có vấn đề gì chứ?” Để chứng minh là mình không nhìn trộm, Phương Tự Lập lại vô thức hỏi thêm một câu nữa, rốt cuộc là ai mà gọi điện thoại tới nhiều vậy? Lưu Trí Phổ thẳng thừng tắt điện thoại đi, sau đó lạnh lùng nói, không có gì, chỉ là một người không quen thân lắm mà thôi.”

”Không thân quen lắm?” Tôi viết lại mấy chữ này vào trong sổ tay. “Thái độ của Lưu Trí Phổ với mẹ mình rất lạnh lùng, như vậy rõ ràng là mâu thuẫn với chứng mặc cảm Oedipus có khả năng tồn tại.”

”Chính nhờ vào sự mâu thuẫn rõ ràng này nên tôi mới nảy ra một dòng suy nghĩ mới.” Diệp Thu Vi nói. “Trong quá trình phát triển tâm lý tình dục, chứng mặc cảm Oedipus thực ra là một hiện tượng tâm lý hết sức bình thường. Theo như quan điểm của Sigmund Freud, trẻ con từ lúc ba, bốn tuổi đã bắt đầu có thể phân biệt được hai giới tính, đồng thời có hứng thú với cơ quan sinh dục của người khác giới, từ đó nảy sinh ham muốn tình dục vô thức đối với cha hoặc mẹ của mình, đó chính là chứng mặc cảm Oedipus. Trong tình huống bình thường, do sự sợ hãi đối với người cha hoặc người mẹ cùng giới tính của mình, chứng mặc cảm Oedipus ở trẻ sẽ tiêu giảm dần trong vòng vài năm, giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục cũng theo đó mà kết thúc.” Nói tới đây, cô ta hơi dừng lại một chút rồi hỏi: “Anh Trương, những điều mà tôi nói anh có hiểu được không?”

Tuy không nghiên cứu quá nhiều về bộ môn phân tâm học, vậy nhưng các lý luận về quá trình phát triển tâm lý tình dục của Sigmund Freud thì tôi ít nhiều cũng biết được một chút.

”Tôi hiểu.” Tôi khẽ gật đầu, rồi lại một lần nữa trầm giọng nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

Cô ta lại kể tiếp: “Sự tiêu giảm của chứng mặc cảm Oedipus bắt nguồn từ sự sợ hãi đối với người cha hoặc người mẹ cùng giới tính của trẻ, do đó, trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục, nếu bé trai mà mất cha, bé gái mà mất mẹ, tâm lý tình dục của trẻ rất có khả năng sẽ mãi mãi dừng lại ở giai đoạn đầu này, và đây cũng chính là nguyên nhân thường thấy nhất khiến cho chứng mặc cảm Oedipus xuất hiện ở người trưởng thành.”

Tôi lẳng lặng gật đầu.

”Nhưng các lý luận đã nói ở trên đều được thành lập trên cơ sở là trẻ ít nhất cũng phải có cha hoặc là mẹ.” Diệp Thu Vi nói. “Nếu một đứa bé đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục mà lại mất đi cả cha lẫn mẹ, vậy thì tâm lý của nó sẽ phát triển theo hướng như thế nào đây?”

”Điều này thì tôi chưa từng nghĩ đến bao giờ, nhưng theo lý mà nói, chắc chắn là sẽ xảy ra vấn đề.” Tôi vô thức đưa tay lên gãi đầu. “Loại giả thiết này rốt cuộc có ý nghĩa gì đây? Cha mẹ Lưu Trí Phổ đều còn sống cả mà.”

”Tôi đâu có nói là họ đã chết.” Diệp Thu Vi nói. “Vừa nãy anh cũng phân tích rồi mà, trong quá trình trưởng thành, anh ta rất có thể đã từng phải trải qua một sự thiếu thốn về mặt tình cảm ở một mức độ nhất định.”

Tôi sững người, rồi rất nhanh sau đó đã hiểu ra ý của cô ta. “Lẽ nào cô hoài nghi khi Lưu Trí Phổ đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục, cha mẹ anh ta đều không ở bên cạnh anh ta? Nếu quả thực như thế thì đây có lẽ chính là nguồn cơn gây ra chứng rối loạn nhân cách của anh ta về phương diện tình cảm cũng như quan hệ xã hội.”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu, hờ hững nói: “Thứ nhất, đúng như anh đã nói, anh ta rất có thể đã từng phải trải qua một sự thiếu thốn về mặt tình cảm ở một mức độ nhất định. Thứ hai, theo như sự miêu tả của Phương Tự Lập, quan hệ giữa Lưu Trí Phổ và mẹ anh ta không thể coi là tốt. Thứ ba, trong việc lựa chọn bạn tình, Lưu Trí Phổ thể hiện ra một số dấu hiệu của chứng mặc cảm Oedipus. Kết hợp yếu tố thứ nhất và thứ hai lại mà phân tích, trong quá trình trưởng thành, Lưu Trí Phổ rất có thể từng bị tách khỏi mẹ mình một thời gian. Cùng với đó, nếu phân tích theo yếu tố thứ nhất và thứ ba, khi Lưu Trí Phổ đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục, cha anh ta rất có thể là không ở bên cạnh anh ta. Tổng hợp những điều này lại, Lưu Trí Phổ có lẽ từng phải trải qua một cuộc sống mà cả cha lẫn mẹ đều không ở bên cạnh mình, mà quãng thời gian đó rất có thể chính là vào thời điểm anh ta từ ba đến sáu tuổi, cũng chính là giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục. Dấu hiệu của chứng mặc cảm Oedipus xuất hiện ở anh ta có lẽ bắt nguồn từ một người thân khác ngoài mẹ chẳng hạn như bà nội hoặc là bà ngoại.”

Tôi lẳng lặng gật đầu. Hiện nay, các bậc cha mẹ thường vì rất nhiều nguyên nhân mà gửi gắm con cái cho ông bà nội hoặc ông bà ngoại chăm sóc, việc này đã trở thành một hiện tượng xã hội rất phổ biến. Họ đâu hay, giai đoạn phát triển tâm lý quan trọng nhất chính là quãng thời gian trẻ dưới mười hai tuổi, sự xa rời của cha mẹ ắt sẽ dẫn đến việc tâm lý của trẻ không thể phát triển một cách kiện toàn. Muốn làm một người cha hay một người mẹ hợp chuẩn, bạn không thể chỉ nuôi con lớn rồi coi như thôi, còn cần giúp con mình hình thành một tâm lý khỏe mạnh nữa.

Tôi trầm tư suy nghĩ suốt một hồi lâu, cuối cùng thở dài nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Phân tích đến lúc này, tôi đã có được một sự hiểu biết cơ bản về tình trạng tâm lý của Lưu Trí Phổ, do đó đã sẵn sàng để tiếp xúc với anh ta thêm một lần nữa.” Diệp Thu Vi kể tiếp: “Phương Tự Lập đã nói, Lưu Trí Phổ ắt hẳn sẽ chủ động liên lạc với tôi, thế nên điều mà tôi cần làm khi đó chỉ là chờ đợi. Sáng ngày hôm sau, Lưu Trí Phổ quả nhiên đã gửi tin nhắn cho tôi: Chị Thu Vi, đêm qua tôi đã nằm mơ thấy chị đấỵ.”

Tôi ngồi thẳng người dậy, khẽ kéo cổ áo một chút, sau đó liền hít sâu một hơi và nhanh chóng thở ra. Nghe thấy việc một người đàn ông khác gửi cho Diệp Thu Vi một tin nhắn ám muội như vậy, tự đáy lòng tôi cảm thấy rất không thoải mái, nhưng khi đó tôi hãy còn chưa ý thức được điều này.

Diệp Thu Vi chăm chú nhìn tôi trong im lặng, một lát sau mới chậm rãi nói: “Để có thể nhanh chóng chứng thực phán đoán của mình, tôi đáp lại: Đêm qua tôi nằm mơ thấy bà ngoại của mình. Anh ta hỏi: Chị rất thân với bà ngoại của mình ư? Tôi trả lời: Đương nhiên, hồi nhỏ tôi đã ở quê với bà ngoại suốt mấy năm liền đấy. Anh ta nhanh chóng gửi tin đến tiếp: Thật trùng hợp, hồi nhỏ tôi cũng từng sống ở quê mấy năm, có điều không phải là với bà ngoại mà là với bà nội. Tôi hỏi anh ta: Cậu sống với bà nội ở quê hồi mấy tuổi vậy?Anh ta trả lời: Từ hồi ba tuổi rưỡi tới tận khi vào lớp một.”

”Trẻ con vào lớp một thường là lúc sáu hoặc bảy tuổi.” Tôi nói: “Xem ra quãng thời gian anh ta sống ở quê vừa hay bao trọn giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục.” '.

”Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói: “Tôi lại nhắn cho anh ta một tin nhắn nữa: Ông bà nội cậu nhất định đều rất thương yêu cậu đúng không? Anh ta trả lời: Ông nội tôi mất từ lúc tôi còn chưa ra đời cơ. Trong mấy năm sống ở quê, chỉ có bà nội chăm sóc cho tôi thôi.”

”Thì ra là thế trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục anh ta đã sống với bà nội của mình, lại không có sự can thiệp từ ông nội hoặc những người thân cùng giới khác, thế là sự phát triển của tâm lý tính dục đã dừng lại tại giai đoạn đó.” Tôi khẽ gật đầu, nhưng rồi ngay sau đó lại nảy sinh một điều nghi vấn mới. “Cha mẹ anh ta đều là người có học thức, tại sao không những không đón mẹ mình lên thành phố sống cùng mà còn vứt con về quê cho bà nội trông nom suốt mấy năm liền như thế chứ?”

”Tôi cũng đã hỏi chuyện này rồi.” Diệp Thu Vi nói “Nhưng Lưu Trí Phổ căn bản không chịu trả lời. Mãi đến mười một giờ sáng anh ta mới gọi điện thoại cho tôi, hẹn tôi buổi trưa ra ngoài ăn cơm.”

Tôi lại một lần nữa đưa tay lên kéo cổ áo, cảm thấy trong cổ họng như bị mắc một thứ gì đó, hết sức khó chịu.

”Tôi giả bộ thoái thác mấy lần, cuối cùng mới chấp nhận lời mời của anh ta.” Diệp Thu Vi nói. “Lúc mười một rưỡi, chúng tôi gặp nhau trong một nhà hàng Trung Quốc. Anh ta cao khoảng một mét bảy bảy, vóc người hơi gầy, mái tóc khá dài, có dấu hiệu từng được hấp, làn da thì rất trắng, nhưng hơi thô ráp. Ánh mắt anh ta thoạt nhìn toát ra vẻ lạnh lùng, vậy nhưng tại nơi sâu trong đồng tử thì lại ánh lên những tia sáng rực. Hơi thở của anh ta rất nhẹ, phần lớn thời gian đều cười không hở răng. Xét về tổng thể, đó là một con người tuy nội tâm nóng bỏng nhưng lại cố kìm nén bản thân.”

Tôi vừa ghi chép vừa lặng lẽ gật đầu.

”Trong khi chờ thức ăn được đưa lên, chúng tôi trò chuyện qua loa với nhau một chút. Anh ta một mực cúi đầu, chỉ thỉnh thoảng mới lén đưa mắt nhìn tôi, bộ dạng hệt như một bé trai vừa mới chớm nụ tình.” Diệp Thu Vi kể tiếp: “Để làm dịu bớt sự lúng túng của anh ta, tôi chủ động nhắc tới rất nhiều chuyện, nhưng phần lớn thời gian anh ta chỉ lắng nghe và phụ họa theo, rất ít khi đưa ra ý kiến của riêng mình. Trong khi nói chuyện, hai tay anh ta không ngừng cọ vào nhau, hơi thở rõ ràng đã trở nên dồn dập hơn trước đó rất nhiều, sắc mặt thì từ trắng biến thành ửng đỏ.”

”Bị động, cẩn thận, lo lắng.” Tôi vừa viết những từ này vào sổ tay, vừa gật đầu nói: “Nếu trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục mà xảy ra vấn đề, đứa trẻ sau khi trưởng thành rất có thể sẽ xuất hiện tình trạng tự ti hoặc tự tin quá độ khi đối mặt với người khác giới.” Tôi suy nghĩ một chút rồi lại hỏi: “Khi nói chuyện với cô trong bữa tiệc hôm trước, anh ta có tỏ ra như vậy không?”

”Hoàn toàn không.” Diệp Thu Vi nói. “Trong bữa tiệc đó, khi trò chuyện với tôi, anh ta tỏ ra rất nhiệt tình, thẳng thắn và bộc trực, rõ ràng là một cao thủ xã giao, căn bản chẳng giống với mọi ngừơi ở trong nhà hàng chút nào.”

”Thế thì lạ thật.” Tôi nói. “Sự khác biệt như thế hình như lớn quá rồi thì phải?”

”Chuyện này thực ra không hề khó giải thích.” Diệp Thu Vi phân tích: “Sự biểu hiện tiền hậu bất nhất của một người trong việc giao tiếp thông thường có liên quan tới hoàn cảnh và đối tượng. Trong bữa tiệc và trong nhà hàng, đối tượng giao tiếp của anh ta đều là tôi, do đó vấn đề tất nhiên là nằm ở hoàn cảnh. Sau khi so sánh và phân tích kĩ càng, tôi phát hiện sự khác biệt lớn nhất trong hai hoàn cảnh giao tiếp chính là con người: Trong bữa tiệc kia có mặt Phương Tự Lập, còn trong nhà hàng thì không.”

”Ồ.” Tôi ít nhiều đã hiểu ra được một chút. “Ý cô là Phương Tự Lập đã mang lại cho anh ta sự tự tin khi giao tiếp với người khác giới ư?”

”Không phải Phương Tự Lập, mà là giới tính của Phương Tự Lập.” Diệp Thu Vi nói. “Hơn một tiếng đồng hồ đầu tiên trong bữa tiệc, Lưu Trí Phổ vẫn luôn ngồi ở bàn lãnh đạo. Khi đó, ở bàn lãnh đạo cũng có hai người là nữ, trong đó có một người còn ngồi ngay sát Lưu Trí Phổ, nhưng Lưu Trí Phổ không những không hề tỏ ra lo lắng, còn ung dung trò chuyện với vị lãnh đạo nữ đó. Lúc ấy Phương Tự Lập không hề ở bên anh ta, do đó người mang lại sự tự tin để anh ta giao tiếp với người khác giới có lẽ chính là Lưu Hướng Đông cùng với mấy người đàn ông khác ngồi cùng bàn.”

Tôi thay cô ta đưa ra lời tổng kết sơ lược: “Như vậy xem ra vì vấn đề xuất hiện trong quá trình phát triển tâm lý tình dục mà khi phải đối mặt với nữ giới, Lưu Trí Phổ sẽ nảy sinh tâm lý tự ti, từ đó cảm thấy lo lắng, nhưng nếu có những người đàn ông khác - đặc biệt là người quen của anh ta - ở bên cạnh, anh ta sẽ tỏ ra hết sức tự tin.”

Diệp Thu Vi im lặng một chút rồi mới nói: “Đại khái là như vậy.”

”Đúng là một hiện tượng tâm lý thú vị.” Tôi nói. “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Để có thể làm rõ trạng thái tâm lý của anh ta, tôi đã chuyển dần chủ đề sang người thân và gia đình.” Diệp Thu Vi hờ hững nói: “Anh ta tỏ ra rất có hứng thú với chủ đề này, nhưng bởi vì căng thẳng và lo lắng nên khi nói chuyện, anh ta rất hay bị vấp. Tôi cố gắng tỏ ra dịu dàng và dễ gần hết mức có thể, nhưng vẫn không cách nào loại trừ được sự căng thẳng của anh ta. Sau khoảng bảy, tám phút, khi tôi đang không biết nên làm thế nào, anh ta bỗng thay đối hẳn, không chỉ không còn căng thẳng nữa, mà còn tỏ ra hết sức tự tin. Trước đó, tôi vẫn luôn là người gợi chuyện vậy nhưng bắt đầu từ khoảnh khắc ấy, bàn ăn liền trở thành bục diễn giảng của anh ta.”

Tôi hỏi vẻ khó hiểu: “Anh ta đột ngột thay đổi ư? Tại sao lại như vậy?”

”Tôi nhanh chóng nhớ lại những lời nói, cử chi của mình trước đó cùng với các phản ứng của anh ta, thế rồi rất nhanh sau đó đã phát hiện ra điểm mấu chốt khiến anh ta thay đổi.” Diệp Thu Vi uống một ngụm nước, chậm rãi nói: “Việc anh ta đột ngột thay đổi bắt nguồn từ một cử chỉ vô ý của tôi. Khi đó, tôi gắp cho anh ta một miếng khoai từ, đồng thời tiện miệng nói: “Sang thu rồi, ăn khoai từ rất tốt cho sức khỏe, có thể giúp nhuận phế sinh tân1.” Lời của tôi còn chưa dứt thì anh ta đã nhìn chằm chằm vào tôi, những tia sáng ẩn sâu trong mắt bừng lên rạng rỡ, thân thể sau nháy mắt đã hoàn toàn buông lỏng.”

Tôi viết vào sổ tay hai chữ “khoai từ“.

”Sau khi nhớ lại chi tiết này, tôi tìm cơ hội chuyển chủ đề qua khoai từ.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp. “Tôi hỏi anh ta là có phải anh ta thích ăn khoai từ không, anh ta liền đáp là rất thích. Tôi truy hỏi nguyên nhân, anh ta trả lời rằng khoai từ khiến anh ta nhớ đến bà nội của mình. Tôi lại gắp cho anh ta một miếng khoai từ nữa, đồng thời nói ra những lời mà khi nãy mình vừa mới nói, thế là ánh mắt của anh ta liền nhanh chóng sáng lên, cứ như thế có hai ngọn lửa đang cháy hừng hực bên trong vậy, kèm với đó còn là một nụ cười vô cùng hạnh phúc bên khóe môi. Anh ta bỏ miếng khoai từ đó vào miệng và bắt đầu nhai, rồi kể cho tôi nghe một câu chuyện

1- Lời trong Đông y, nghĩa lằ bôi trơn cho phổi, làm sinh nước bọt - ND.

Hồi nhỏ anh ta sống với bà nội ở quê đó là một xóm núi nhỏ ở khu vực phía bắc của tỉnh, vô cùng hẻo lánh, cửa tiệm gần nhất cũng phải cách đó tới cả năm cây số. Mùa thu năm 1990, Lưu Trí Phổ đột nhiên mắc một căn bệnh lạ, đó là ban ngày cứ ho khan không ngừng, toàn thân đều kiệt sức, đến tối thì không sao ngủ được. Một ông cụ có chút hiểu biết về Đông y trong xóm đã xem bệnh cho anh ta, nói rằng anh ta bị mắc chứng phế âm hư1, còn kê đơn thuốc, nhưng lại không thể cung cấp dược liệu. Không còn cách nào khác, bà nội đành cõng Lưu Trí Phổ lên núi tìm thuốc, đến cuối cùng thuốc thì không tìm được, nhưng lại đào được một củ khoai từ dại. Bà nội nấu cho Lưu Trí Phổ một nồi cháo khoai từ, còn nói với anh ta: “Trí Phổ, sang thu rồi ăn khoai từ rất tốt cho sức khỏe, có thể giúp nhuận phế sinh tân.” Sau khi ăn cháo xong, Lưu Trí Phổ quả nhiên đã có thể ngủ một cách ngon lành, sang ngày thứ hai thì không còn ho nữa. Để cháu nội mình có thể khỏe hẳn, suốt mấy ngày sau đó bà nội anh ta đều lên núi đào khoai từ, có một lần khi xuống núi đã không cẩn thận trượt chân ngã xuống khe núi, thắt lưng bị đập vào đá, kể từ đó liền bị chứng bệnh đau thắt lưng hành hạ. Đến năm 1992, bà cụ qua đời vì bệnh thận, thế là cha mẹ Lưu Trí Phổ mới đón anh ta về nuôi.”

1. Phế âm hư tức là chứng âm hư ở phổi. Còn về âm hư thì theo Đông y, cơ thể người được cấu thành từ hai bộ phận âm dương/ âm dương phải cân bằng thì con người ta mới có thể khỏe mạnh, âm hư tức là phần âm bị hư tổn. Trong trường hợp này, một trong các căn nguyên gây ra chứng phế âm hư chính là âm dịch không đủ, mà âm dịch ờ đây chính là tân dịch tức nước bọt - ND.

”Vậy thì chẳng trách.” Tôi thở dài, nói. “Đối với Lưu Trí Phổ, khoai từ là vật tượng trưng cho tình yêu cao cả của bà nội. Cô gắp khoai từ cho anh ta, còn nói ra những lời giống hệt với bà nội của anh ta nữa, anh ta thông qua cô mà cảm nhận được tình yêu của bà nội, do đó mới tỏ ra thư thái và hạnh phúc.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Khi nhắc đến bà nội, hai mắt anh ta thoáng vẻ ngẩn ngơ, khuôn mặt thì đầy vẻ nhẹ nhõm và hạnh phúc. Khi đó tôi lập tức hiểu ra, anh ta qua lại với những người phụ nữ lớn tuổi hơn mình như thế rất có thể chính là để truy cầu cảm giác an toàn và hạnh phúc trong tiềm thức do bà nội mang lại cho mình.”

Tôi hít sâu một hai, sau khi suy nghĩ giây lát bèn hỏi: “Phải rồi, tại sao cha mẹ anh ta lại để anh ta ở quê cho bà nội trông? Chuyện này cô có hỏi không vậy?”

'Tôi hỏi rồi.” Diệp Thu Vi nói. “Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì công việc của bọn họ quá bận rộn. Khi đó, Lưu Hướng Đông đang ở tỉnh ngoài học tiến sĩ, cho rằng mình là đàn ông nên không tiện mang theo trẻ con bên cạnh. Cùng với đó, Cát Khánh Hà khi ấy đã khá nổi tiếng, thường xuyên phải chạy đi chạy lại khắp nơi trong toàn quốc, cũng không có thời gian trông con. Hai người bọn họ bàn bạc với nhau một chút, cuối cùng quyết định đưa con về quê.”

Tôi thở dài, nói: “Cát Khánh Hà còn là chuyên gia tâm lý học trẻ em nữa cơ đấy, chẳng lẽ bà ta không biết tầm quan trọng của giai đoạn đầu trong quá trình phát triển tâm lý tình dục ư?”

Diệp Thu Vi bình tĩnh nói: “Điều này thì dễ hiểu thôi. Có rất nhiều nhà tâm lý học không tán đồng với lý luận về sự phát triển tâm lý của Sigmund Freud, ở Trung Quốc thời điểm đó lại càng là như thế.”

Tôi lại thở dài thêm tiếng nữa. “Nói vậy cũng phải.”

”Tôi với Lưu Trí Phổ đã trò chuyện suốt cả buổi trưa từ đó có được một sự hiểu biết sâu sắc và toàn diện hơn về trạng thái tâm lý cũng như các mối quan hệ trong gia đình anh ta.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Năm 1992, bà nội qua đời, Lưu Trí Phổ quay trở lại bên cạnh cha mẹ mình. Trong vòng hơn ba năm trước đó, anh ta chỉ có thể gặp mặt cha mẹ mình vào dịp Tết, có năm thậm chí ngay cả trong dịp Tết cũng không gặp được. Đột nhiên phải trở lại bên cạnh cha mẹ, môi trường sống phát sinh những biến đổi to lớn, tính cách anh ta cũng theo đó mà trở nên hướng nội, bắt đầu sợ giao tiếp với người khác. Hồi nhỏ anh ta còn rất sợ mẹ nữa, tôi nghĩ, đây chính là nguyên nhân khiến mối quan hệ giữa anh ta với mẹ mình không được tốt.”

Tôi khẽ gật đầu. “Trong quá trình phát triển tâm lý của anh ta, bà nội đóng vai mẹ, thế nên mẹ anh ta đã mất đi vị trí lẽ ra phải có trong lòng anh ta. Nói một cách nghiêm túc, đây cũng là một sự loạn luân.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Đến lúc này, tôi đã có thể đưa ra tổng kết sơ bộ về tình trạng tâm lý của Lưu Trí Phổ: Sau khi bước vào giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục, trẻ con sẽ nảy sinh sự tò mò bước đầu đối với tình dục, đồng thời còn bắt đầu nhận được khoái cảm thông qua cơ quan sinh dục. Đối với bé trai, đối tượng tình dục đầu tiên của nó chính là mẹ mình, và đây cũng chính

là chứng mặc cảm Oedipus. Nhưng Lưu Trí Phổ lại không

ở cùng với mẹ mình, người thân duy nhất là nữ giới ở bên

cạnh chính là bà nội, cho nên đối tượng tình dục trong tiềm

thức của anh ta chính là bà nội mình. Cùng với đó, bởi vì

chỉ có hai bà cháu ở với nhau nên Lưu Trí Phổ không hề có

”nỗi lo bị thiến1” do sự uy hiếp đến từ những người thân

nam giới khác, cũng vì nguyên nhân này nên anh ta không

thể thuận lợi trải qua giai đoạn đầu của quá trình phát triển

tâm lý tình dục, tâm lý tình dục cũng theo đó mà dừng lại ở

giai đoạn này, chứng mặc cảm Oedipus đối với bà nội của

mình không hề biến mất, còn trở thành một trong các đặc

trưng tâm lý tình dục của anh ta sau khi trưởng thành.”

Tôi vừa ghi chép vừa không ngớt gật đầu.

'TÌnh yêu đối với bà nội đã làm ảnh hưởng tới thái độ của anh ta với nữ giới cũng như cách lựa chọn bạn tình.”

Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích. “Anh ta nhất định đã phát

hiện mẹ mình và bà nội là hai kiểu phụ nữ hoàn toàn khác

nhau, thế nên mới nảy sinh sự phản cảm và sợ hãi từ trong

xương tủy đối với mẹ, đây chính là nguồn cơn khiến quan hệ giữa hai mẹ con họ không được tốt. Bà nội đã qua đời, anh ta nhất định phải tìm đến những người phụ nữ khác thì mới có thể giải tỏa tình yêu cũng như ham muốn tình dục của mình. Khi lựa chọn bạn tình, anh ta sẽ nghiêng về những người phụ nữ có đặc điểm giống với bà nội, trong đó tuổi tác là một trong các yếu tố quan trọng nhất, ngòai ra trên người những người phụ nữ mà anh ta từng qua lại nhất định là còn có nhiều điểm khác tương tự với bà nội của anh ta.”

1. Nỗi lo bị thiến: Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình

dục, đối tượng tình dục đầu tiên của bé trai chính là mẹ mình, đây cũng

chính là chứng mặc cảm Oedipus. Cùng với đó, do quan sát thấy các bé gái không có cơ quan sinh dục của nam giới, lại lo rằng tình yêu của mình với mẹ sẽ bị cha trả thù, thế là bé trai sẽ nảy sinh một thứ tâm lý tiềm thức sợ bị cha mình thiến, và đó chính là “nỗi lo bị thiến“. “Nỗi lo bị thiến” sẽ kìm nén ham muốn tình dục tiềm tàng của bé trai với mẹ mình, khiến bé trai tiếp nhận sự ràng buộc từ luân lý và đạo đức xã hội, chứng mặc cảm Oedipus cũng vì thế mà bị tiêu trừ dần đi, giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục theo đó mà kết thúc. Nếu chứng mặc cảm Oedipus không bị “nỗi lo bị thiến” kìm nén, nó rất có khả năng sẽ được lưu giữ tại lúc trưởng thành, từ đó biến thành chứng mặc cảm Oedipus bệnh hoạn – Tác giả.

Tôi dừng bút, trầm giọng nói: “Những điểm tương tự này có lẽ trên người cô cũng có đấy.”

Diệp Thu Vi nhìn thoáng qua tôi một chút, sau đó lại tiếp tục phân tích: “Để có thể nhận được sự thỏa mãn về thể xác và tinh thần, anh ta đã phát sinh quan hệ với những người phụ nữ mà mình có qua lại, đồng thời trong tiềm thức còn coi đối phương là bà nội của mình. Có điều, sau một thời gian đi sâu vào mối quan hệ, đặc biệt là khi đối phương đã để lộ ra một khuyết điểm nào đó, ảo tưởng trong tiềm thức về bà nội của anh ta sẽ sụp đổ hoàn toàn, kể từ đó anh ta nảy sinh một sự sợ hãi và ghê tởm từ trong xương tủy đối với đối tượng mà mình từng qua lại. Thế cho nên anh ta mới không ngừng làm quen với những người phụ nữ lớn tuổi hơn mình, sau đó thì lại liên tục vứt bỏ họ và đi tìm mục tiêu mới.”

Tôi thở dài, nói: “Hành vi của anh ta rõ ràng là không đúng, nhưng có lẽ anh ta mới chính là người đau khổ nhất.”

”Người đáng giận bao giờ cũng có chỗ đáng thương, còn người đáng thương thì luôn có chỗ đáng giận.” Diệp Thu Vỉ hơi nhếch khóe môi để lộ một nụ cười lạnh lùng. “Bất cứ sự thương hại nào cũng đều là không công bằng.”

Tôi há miệng ra nhưng lại chẳng biết nên phản bác thế nào, cuối cùng thở ra một hơi thật dài, nói: “Xin hãy tiếp tục đi, sau khi phân tích những điều này, bước tiếp theo cô định làm thế nào? Thông tin về tình trạng tâm lý của Lưu

Trí Phổ có giá trị gì đối với cô?”

”Hiểu được tâm lý của Lưu Trí Phổ rồi, tôi sẽ có thể thông qua một số thủ đoạn nhất định để khống chế anh ta, kế đó thông qua anh ta để tiếp cận Lưu Hướng Đông và tiến hành điều tra ông ta.” Diệp Thu Vi nói. “Có điều, phân tích tình trạng tâm lý chỉ là bước đầu tiên để khống chế tâm lý của anh ta thôi, công tác chuẩn bị mà tôi cần làm hãy còn rất nhiều.”

Nói đến đây, Diệp Thu Vi bỏ kính xuống, dùng khăn lau kính lau rất cẩn thận, sau đó lại xoay người về phía sau, đưa chiếc kính về hướng cửa sổ, quan sát xem nó đã sạch hẳn hay chưa. Cô ta không ngừng thay đổi góc độ giữa mắt kính và mặt trời, có mấy lần ánh mặt trời chiết xạ hoặc phản xạ qua mắt kính, rọi lên bức tường thủy tinh mấy mảng ánh sáng mơ hồ. Những mảng ánh sáng đó hơi lay động, đương nhiên là thu hút ngay lấy sự chú ý của tôi. Tôi nhìn chằm chằm vào những mảng ánh sáng, đầu còn bắt đầu lắc lư theo sự di chuyển của chúng, rồi đột ngột nảy sinh một thứ cảm giác kỳ lạ.

Những mảng ánh sáng kia dường như đang kể lại cho tôi nghe câu chuyện về một thời vô cùng xưa cũ.

Tôi hít sâu một hơi, khẽ ho một tiếng, bất ngờ phát hiện mình đã bị những tia sáng không hề rực rỡ kia làm cho chói mắt đến nỗi nhòe lệ. Tôi nhắm mắt lại, cố gắng day mạnh mí mắt, nhưng vẫn cảm thấy mắt rất cay.

”Xem ra cô muốn làm rõ cảm giác mà bà nội Lưu Trí Phổ mang lại cho anh ta rồi.” Tôi mở mắt ra, sau khi bình tĩnh trở lại bèn chậm rãi nói: “Sau đó cô sẽ dùng biện pháp ám thị để mang lại cho Lưu Trí Phổ những cảm giác tương tự, từ đó nhận được sự thương yêu và tin tưởng sâu sắc từ anh ta.”

Diệp Thu Vi ngoảnh đầu lại, từ từ đeo kính lên mắt, sau đó nói: “Đúng vậy, nếu anh ta chịu tin tưởng và ỷ lại vào tôi giống như đã tin tưởng và ỷ lại vào bà nội anh ta, anh ta nhất định sẽ trở thành một trợ thủ trung thành nhất của tôi.”

Tôi tiếp tục phân tích: “Có điều, bà nội anh ta sớm đã qua đời rồi, muốn trực tiếp thông qua bà ấy để làm rõ bà ấy đã mang lại cho Lưu Trí Phổ cảm giác như thế nào là điều không thể. Điều duy nhất mà cô có thể làm chính là tìm hiểu về những người phụ nữ mà Lưu Trí Phổ đã từng qua lại, sau đó tìm điểm chung trên người bọn họ, từ đó tổng kết và suy đoán ra cảm giác mà bà nội Lưu Trí Phổ đã mang lại cho anh ta. Đây không phải là một chuyện đơn giản, do đó công tác chuẩn bị mà cô cần thực hiện quả thực là rất nhiều.” Tôi im lặng một lát, rồi đột nhiên nhớ tới một chi tiết nhỏ, bèn tiện miệng phân tích: “Phải rồi, trước đó cô đã nói Lưu Trí Phổ khi ở riêng một chỗ với nữ giới sẽ nảy sinh tâm trạng lo lắng hết sức rõ ràng, tôi nghĩ điều này rất có thể là có liên quan tới tính cách của mẹ anh ta.

Năm 1992, bà nội đột ngột qua đời, môi trường sống bỗng dưng thay đổi, nhưng chứng mặc cảm Oedipus đối với bà nội của anh ta thì vẫn còn đó. Dưới sự tác động của tâm trạng này, Lưu Trí Phổ rất cần một người phụ nữ mới làm nơi gửi gắm tình yêu, hoặc cũng có thể nói là vật tiếp nhận chứng mặc cảm Oedipus. Trong tình huống này, mẹ chính là người phụ nữ đầu tiên mà anh ta sống chung trong một thời gian dài, nếu mẹ có thể mang lại cho anh ta cảm giác tương tự như bà nội, tôi nghĩ theo thời gian, chứng mặc cảm Oedipus rất có thể sẽ chuyển dời đối tượng từ bà nội sang mẹ anh ta. Nhưng, nếu mẹ không thế mang lại cho anh ta cảm giác tương tự như bà nội - thậm chí là mang lại những cảm giác hoàn toàn trái ngược, anh ta sẽ chỉ có thể đè nén chứng mặc cảm Oedipus xuống tận đáy lòng. Sau khi anh ta trưởng thành, hành vi đè nén này chính là nguyên nhân khiến anh ta cảm thấy lo lắng khi đối mặt với nữ giới.” Tôi khẽ hít vào một hơi, chậm rãi tổng kết: “Từ điểm này mà xét, giữa mẹ và bà nội anh ta có lẽ có một sự khác biệt rất lớn về tính cách cũng như quan niệm. Kết hợp với nghề nghiệp cũng như thành tựu của Cát Khánh Hà để suy đoán, tôi nghĩ, bà ta nhất định không phải là một người mẹ bao dung và quan tâm tới gia đình.”

Diệp Thu Vi nhìn tôi, khẽ gật đầu. Tôi phát hiện, lần này tần suất gật đầu của cô ta nhanh hơn hẳn tất cả những lần trước đó.

Tôi lại bổ sung: “Chính vì nguyên nhân này, chứng mặc cảm Oedipus của Lưu Trí Phổ vẫn luôn cần có một đối tượng để gửi gắm, nếu cô có thể trở thành đối tượng này, khiến anh ta nảy sinh cảm giác không thể rời khỏi cô được, chắc hẳn anh ta sẽ nghe theo mọi sự chỉ huy của cô. Cô Diệp...” Tôi chăm chú nhìn cô ta, lại khẽ gật đầu một cách nghiêm túc. “Cô sớm đã nhìn thấu những điều này rồi đúng không? Tâm tư của cô còn sâu sắc hơn cả trong tưởng tượng của tôi nữa.”

”Phân tích rất hay.” Diệp Thu Vi im lặng một lát rồi mới lại nói tiếp: “Những người đàn ông đã trưởng thành mà còn mắc chứng mặc cảm Oedipus thì thường rất ít khi gặp vấn đề trong khi giao tiếp với nữ giới. Đúng như anh đã nói, tình trạng của Lưu Trí Phổ khá đặc biệt, bà nội anh ta tượng trưng cho những người phụ nữ tốt đẹp, còn mẹ anh ta thì hoàn toàn ngược lại, thế nên anh ta mới cảm thấy thất vọng và sợ hãi đối với những người phụ nữ mà mẹ anh ta đại diện, sự sợ hãi này chính là nguồn cơn dẫn đến nỗi lo lắng của anh ta khi ở riêng một chỗ với tôi.”

”Nguồn cơn của nỗi lo lắng khi ở riêng với nữ giới không khó phát hiện, nhưng sự tự tin trong giao tiếp do nam giới mang lại thì phải giải thích thế nào?” Tôi hít sâu một hơi, vô thức đưa tay lên sờ cằm. “Đây cũng là một trong các đặc trưng tâm lý quan trọng của anh ta, hơn nữa tôi cho rằng việc này rất có thể có liên quan tới mối quan hệ giữa cha con anh ta. Đương nhiên, cô chắc chắn cũng biết điều này. Buổi trưa hôm đó cô có tiến hành thăm dò về vấn đề này không vậy?”

Khi nói tới đây, cây bút trong tay tôi đột nhiên rơi xuống đất. Khi cúi người xuống nhặt, tôi nhớ lại những lời mà mình vừa mới nói, bất giác cảm thấy hết sức khó tin. Tôi ngồi thẳng người trở lại, nhìn chằm chằm vào Diệp Thu Vi, cảnh tượng trước mắt bỗng trở nên mơ hồ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 3: Khao khát một tình yêu không vụ lợi


Trong ánh mắt anh ta chan chứa sự yêu thương và quyến luyến đối với tôi, còn có một nỗi hoài niệm vô cùng sâu sắc nữa. Anh ta đột nhiên kéo tay tôi, run giọng nói: “Chị Diệp, tôi không muốn rời xa chị.” Tối đó, tôi đã dẫn anh ta về nhà.

”Anh Trương?” Cô ta hiển nhiên đã phát hiện ra sự lạ thường của tôi.

”A...” Tôi không ngừng đưa tay lên dụi mắt, lại hít sâu mấy hơi, mãi mười mấy giây sau mới bình thường trở lại. “Không có gì. Chắc tại đêm qua tôi ngủ muộn quá nên bây giờ đầu óc mới hơi choáng váng.”

Diệp Thu Vi bình tĩnh nhìn tôi, năm giây sau mới lại kể tiếp: “Anh nói rất đúng, sự tự tin trong giao tiếp do nam giới mang lại đó rất có thể có liên quan tới cha anh ta. Thế nên chờ đến khi anh ta đã sẵn sàng cho cuộc trò chuyện rồi, tôi liền hỏi về mối quan hệ giữa anh ta và cha anh ta.

Khi nhắc đến cha mình, anh ta ngẩng đầu suy nghĩ một lát, thân thể vô thức ngả về phía sau, tựa hẳn vào lưng ghế. Con mắt của loài người nằm ở phía trước, thế nên vùng lưng tượng trưng cho những điều chưa biết và nguy hiểm. Nếu lưng của một người thả lỏng, vậy thì chứng tỏ anh ta đang buông lỏng sự đề phòng. Đối với Lưu Trí Phổ, cha mình tượng trưng cho sự an toàn và đáng tin cậy. Cùng lúc đó, hai cánh tay của anh ta đều đặt trên mép bàn, lòng bàn tay hướng về nhau nhưng không chắp lại, mười đầu ngón tay áp vào nhau đối xứng, tất thảy đều hướng lên trên.”

Tôi khẽ gật đầu. “Đó hẳn chính là tư thế tay hình tháp nhọn rồi.”

”Đúng vậy, đó chính là “tư thế tay hình tháp nhọn” hay được nhắc tới trong các bí quyết nhìn thấu nội tâm của người khác.” Diệp Thu Vi giải thích:“Ở đầu ngón tay có phân bố dày đặc các đầu mút của thần kinh cảm giác, mà xúc giác lại là một trong các phương thức chủ yếu để loài người cảm nhận thế giới bên ngoài. Cổ nhân có câu rằng “thập chi liên tâm’”, nhưng thực ra đúng hơn thì phải nói là “thập chi tiêm liên tâm2“. Khi hai lòng bàn tay của một người không tiếp xúc với nhau mà mười đầu ngón tay lại dính vào nhau, vậy thì chứng tỏ người đó có ham muốn cảm nhận mãnh liệt đối với thế giới hữu hình, mà ham muốn cảm nhận của một người càng mãnh liệt thì chứng tỏ sức khống chế của người đó với thế giới bên ngoài lại càng mạnh. Cho nên, tư thế tay hình tháp nhọn” tượng trưng cho sự tự tin cao độ, thậm chí là cao đến mức luôn tự cho mình là đúng.”

Tôi khẽ gật đầu. “Như vậy xem ra Lưu Hướng Đông đã mang tới cho Lưu Trí Phổ một sự tự tin cao độ rồi.”

”Còn nữa.” Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Trong khi tỏ ra tự tin cao độ, tần suất chớp mắt của Lưu Trí Phổ còn cao hơn bình thường gấp hai lần, hơn nữa, hai tay của anh ta khi thì làm ra tư thế hình tháp nhọn, khi thì đặt lên mặt, dùng đầu ngón tay che đi hai mắt... Hai tư thế tay này đã thay thế nhau đến mấy lần.”

”Liên tục chớp mắt, còn che mắt nữa...” Tôi bất giác hơi cau mày lại. “Anh ta muốn ngăn cản thị giác ư?”

”Anh còn nhớ sự phản cảm và né tránh của anh ta đối với Lưu Hướng Đông trong bữa tiệc kia không?” Diệp Thu Vi nói: “Chuyện này hoàn toàn đồng nhất với hành vi ngăn cản thị giác một cách vô thức của anh ta khi nhắc đến cha. Tóm lại, cha anh ta mang lại cho anh ta cảm giác an toàn cùng sự tự tin trong giao tiếp, nhưng đồng thời cũng là người mà anh ta sợ hãi và muốn né tránh. Đây chính là tâm lý mâu thuẫn của anh ta khi đối mặt với cha mình.”

Tôi nhất thời không hiểu lắm về ý định của cô ta, thế là bèn hỏi: “Khi đó cô rốt cuộc đã có suy nghĩ như thế nào?”

”Hãy bắt đầu nói từ chứng mặc cảm Oedipus đi.” Diệp Thu Vi vừa nói vừa gác chân trái lên chân phải. “Trong tình huống bình thường, những người đàn ông mắc chứng mặc cảm Oedipus sẽ nảy sinh sự chán ghét đối với những người thân nam giới của mình, từ đó nghĩ rằng tất cả nam giới đều bẩn thỉu, ví như nhân vật Giả Bảo Ngọc trong Hồng lâu mộng chẳng hạn.Tình trạng của Lưu Trí Phổ khá đặc biệt, chứng mặc cảm Oedipus của anh ta bắt nguồn từ bà nội, mẹ thì lại là một người phụ nữ hoàn toàn khác biệt với bà nội, cho nên đối với những người phụ nữ khác mà mẹ là đại diện, anh ta vẫn cảm thấy hết sức sợ hãi. Trong tình huống như vậy, tâm lý của anh ta chỉ có hai hướng để phát triển: thứ nhất, nảy sinh một sự né tránh hoàn toàn và triệt để trong việc giao tiếp, từ đó thoát ly khỏi xã hội, cuối cùng thì hoặc là tự sát, hoặc là được đưa vào bệnh viện tâm thần; thứ hai, bị ép phải đưa ra sự lựa chọn giữa nam giới và nữ giới, đồng thời tin tưởng vào một bên. Tâm lý của anh ta hiển nhiên đã đi theo con đường thứ hai, hơn nữa nhìn biểu hiện của anh ta mà xét thì anh ta vì một số nguyên nhân nào đó mà đã lựa chọn nam giới.”

Tôi khẽ gật đầu. “Do đó, khi đối mặt với nữ giới anh ta sẽ cảm thấy lo lắng, nhưng khi có nam giới ở bên cạnh thì sự tự tin sẽ trở lại. Đây quả đúng là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp.”

”Sau đó dưới sự dẫn dắt của tôi, anh ta đã kể cho tôi nghe một số chuyện có liên quan tới cha mẹ mà mình từng trải qua hồi nhỏ.” Diệp Thu Vi lại hờ hững kể tiếp:“Sau khi bà nội qua đời, anh ta trở về sống với cha mẹ. Khi đó mẹ anh ta rất bận, rất ít khi quan tâm tới con trai, việc chăm sóc và giáo dục anh ta hoàn toàn là do cha anh ta một tay lo liệu. Anh ta kể, tuy khi đó cha anh ta cũng rất bận, vậy nhưng luôn cố gắng dành thời gian ở bên anh ta, chăm sóc anh ta, mang tới cho anh ta một chút ấm áp, nếu như không có cha, chắc anh ta sớm đã chẳng thể nào sống tiếp được nữa rồi. Cùng với đó, mẹ anh ta tuy rất ít khi quan tâm tới anh ta, vậy nhưng lại thường xuyên chỉ trỏ này nọ với anh ta, nói rằng anh ta làm bài tập về nhà không tốt, trông có vẻ quá uể oải, còn nói anh ta không phải là một đứa bé giỏi giang.”

Tôi cảm thấy hết sức kỳ cục, liền bất bình nói; “Chuyện này chẳng phải là do bà ta một tay gây ra hay sao? Thế mà bà ta còn là chuyên gia tâm lý học trẻ em nữa cơ đấy. Loại chuyên gia tâm lý thế này e rằng sẽ gây tác động xấu tới rất nhiều bậc phụ huynh trong việc chăm sóc con em của mình.”

Diệp Thu Vi không đưa ra lời bình luận gì về việc này, lại kể tiếp: “Rất hiển nhiên, đối mặt với sự lạnh lùng, nghiêm khắc của mẹ cùng sự chăm sóc tận tình của cha, Lưu Trí Phổ đã lựa chọn tin tưởng vào nam giới với cha mình là người đại diện. Tuy vấn đề về tâm lý vẫn rất nghiêm trọng nhưng anh ta rốt cuộc đã có được một con đường để hòa mình với xã hội. Sau khi anh ta trưởng thành, cha anh ta đã cố gắng hết sức để giúp anh ta trong việc tiến thân, điều này lại càng khiến cho anh ta thêm tin tưởng vào nam giới.”

Tôi thở dài, nói:“Tuy rằng như thế nhưng sự tin tưởng của anh ta đối với nam giới rốt cuộc vẫn chỉ là một sự lựa chọn bất đắc dĩ để hòa mình với xã hội mà thôi, sâu trong nội tâm, thứ mà anh ta khao khát có lẽ vẫn là tình yêu đối với bà nội.”

Đúng thế.” Diệp Thu Vi đưa mắt nhìn tôi. “Điều mà anh nói chính là căn nguyên gây ra sự mâu thuẫn giữa hai cha con anh ta. Anh ta lựa chọn tin tưởng nam giới, vậy đương nhiên là sẽ biểu hiện ra rất nhiều đặc điểm điển hình của nam giới, chẳng hạn như là dũng cảm, quyết đoán, kiên cường. Chính vì như thế nên cha anh ta mới dốc hết sức lực an bài sẵn cho con đường tiến thân của anh ta, lại gửi gắm ham muốn quyền lực của mình lên người anh ta. Nhưng dưới áp lực nặng nề, anh ta dần dần hiểu ra, tiền đồ với quyền lực không phải những điều mà anh ta thực sự khao khát. Có điều, cha anh ta nhất định là không thể hiểu rõ tình trạng tâm lý của anh ta giống như anh và tôi, thế nên mâu thuẫn đương nhiên là điều không thể tránh khỏi.”

Tôi bất giác giật mình bừng tỉnh. “Đối với Lưu Trí Phổ, đó có lẽ là một sự lựa chọn khó khăn và đầy mâu thuẫn. Hiện thực yêu cầu anh ta kế thừa ý nguyện và mơ ước của cha, nhưng nội tâm thì lại thôi thúc anh ta đi tìm kiếm tình yêu đẹp đẽ với bà nội như hồi nhỏ. Đúng như tôi vừa rồi đã nói, nếu cô có thể thông qua biện pháp ám thị để mang tới cho anh ta cảm giác tương tự như hồi nhỏ, thậm chí là thay thế hoàn toàn vị trí của bà nội trong lòng anh ta, như thế anh ta nhất định sẽ nghe theo mọi sự chỉ huy của cô.”

“Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nghiêng người cầm cốc nước trên bàn lên, kể tiếp: “Sau khi cuộc hẹn trưa hôm đó kết thúc, tôi lập tức hiểu ngay ra điều này. Đến chiều hôm đó, tôi bắt đầu nghe ngóng và tiếp xúc với những người phụ nữ từng qua lại với anh ta, qua đó chuẩn bị cho việc thay thế vị trí của bà nội anh ta trong lòng anh ta.”

Tôi nhìn lướt qua một chút phần ghi chép về quá trình phân tích tâm lý của Lưu Trí Phổ, bất giác rơi vào trầm tư: Xem ra, muốn nuôi được một đứa bé khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần quả thực không phải là một chuyện dễ dàng.

”Xin hãy tiếp tục đi.” Một lát sau tôi mới nói: “Giờ có thể nói tới chuyện xảy ra trong buổi chiều hôm đó rồi.”

”Sau bữa trưa, bác sĩ gọi tới cho tôi, nói là tình trạng của chồng tôi không được tốt lắm.”

Tôi nhớ tới việc Tần Quan về sau đã qua đời, thế là không kìm được hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

”Phổi của anh ấy bị xơ hóa mức độ nhẹ.” Diệp Thu Vi nói. “Tuy luôn được chữa trị một cách tốt nhất nhưng mức độ tổn thương ở phổi của anh ấy còn nghiêm trọng hơn so với trong dự đoán ban đầu nữa.”

”Vậy anh ta về sau...” Tôi lại hỏi tiếp: “Việc đó có liên quan gì tới tình trạng xơ hóa phổi này không?”

Diệp Thu Vi không trả lời tôi mà quay lại kể tiếp chuyện vừa rồi: “Phương Tự Lập gọi điện thoại cho tôi, sau khi biết bệnh tình của chồng tôi có chuyển biến xấu thì bèn tới bệnh viện vào lúc năm giờ. Anh ta an ủi tôi vài câu, sau đó bắt đầu nói về Lưu Trí Phổ. Anh ta hỏi tôi là có phải buổi trưa đã đi ăn cơm với Lưu Trí Phổ hay không. Tôi đáp là phải, anh ta liền nhắc nhở tôi một lần nữa, rằng Lưu Trí Phổ không đáng tin cậy chút nào, bảo tôi nên tránh xa con người đó ra là tốt nhất. Tôi bảo anh ta cứ yên tâm, nói rằng mình chỉ đồng ý đi ăn cơm với Lưu Trí Phổ theo phép lịch sự mà thôi, còn thì không muốn xảy ra chuyện gì với Lưu Trí Phổ cả. Nghe tôi nói như vậy, anh ta tỏ ra nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Sau đó, chúng tôi lại bắt đầu trò chuyện về cuộc sống hồi trung học phổ thông. Anh ta kể lại những chuyện từng làm trong quá trình theo đuổi tôi hồi đó, cuối cùng lấy hết can đảm, nói: “Thu Vi, cho đến bây giờ cậu vẫn là người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc sống của tớ.” Anh ta một mặt nói vậy, một mặt còn đưa tay tới muốn vuốt má tôi.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi, hai bàn tay vô thức nắm chặt.

”Thấy anh ta như vậy tôi liền yên tâm hẳn. Diệp Thu Vi kể tiếp: “Trong quá trình tiếp xúc với tôi, tình yêu và sự ham muốn mãnh liệt của anh ta sẽ trở thành sức mạnh chủ đạo của hoạt động tâm lý. Như thế, anh ta không những sẽ không sinh lòng nghi ngờ tôi chút nào, còn tích cực phối hợp với tôi, thậm chí là sẵn sàng bỏ qua những điểm đáng ngờ hết sức dễ nhận thấy. Khi đó, tôi đưa tay ngăn tay anh ta lại, khẽ cười nói: “Chồng tớ đang ở bên cạnh kia kìa.” Anh ta vội vàng xin lỗi, nói rằng mình vừa rồi không kìm lòng được. Tôi nói: “Thực ra hồi học trung học phổ thông tớ cũng từng thích cậu, có điều khi đó mọi tâm tư của tớ đều đặt vào việc học, cho nên chúng ta đã được định trước là có duyên nhưng không có phận.”

Anh ta tỏ ra hết sức nghiêm túc nói: “Bất kể giữa chúng ta có duyên phận gì hay không thì bây giờ cậu cũng đang lẻ loi một mình, nếu cần sự giúp đỡ gì, bất cứ lúc nào tớ cũng sẵn sàng trở thành chỗ dựa cho cậu.” Tôi lại nói: “Cậu nói với tớ những lời như vậy mà không sợ vợ mình biết ư?” Anh ta đờ người ra trong khoảng một giây, sau đó cố tình tỏ vẻ thản nhiên nói: Biết thì biết chứ sao, tớ cảm thấy nếu đã thích một người thì không cần thiết phải lén lút vụng trộm làm gì cả.” Khi nói câu đó, tay trái của anh ta đặt ở vị trí huyệt nhân trung, đó kỳ thực là động tác che miệng một cách vô thức, còn tay phải của anh ta thì nắm chặt lấy phần phía trên của đầu gối, đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy tâm lý của anh ta đang phải chịu áp lực.”

Tôi khẽ gật đầu. “Ngoài miệng thì nói là không sợ vợ biết, nhưng kỳ thực ở sâu trong thâm tâm anh ta vẫn phải chịu áp lực rất lớn. Trong tiềm thức, anh ta sợ cô nói những hành vi, cử chỉ của anh ta với cô cho vợ anh ta biết.” Khi nói tới đây, tôi bất giác giật mình bừng tỉnh. “Cô cố tình làm cho anh ta cảm nhận được áp lực, mục đích chính là để anh ta sinh lòng kiêng dè với cô, từ đó tích cực phối hợp với cô hơn. Bởi lẽ, uy hiếp bao giờ cũng hữu hiệu hơn là dụ dỗ bằng lợi ích.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nhìn tôi bằng ánh mắt tán thưởng. “Tiếp đó thì có thể đi thẳng vào chủ đề chính được rồi. Tôi lại một lần nữa nói tới Lưu Trí Phổ, và thế là Phương Tự Lập lại nghiêm túc khuyên nhủ tôi là đừng có dính đến anh ta. Tôi dùng giọng tò mò nói: “Lưu Trí Phổ quả đúng là kỳ lạ, đã qua lại với bao nhiêu người phụ nữ như thế rồi mà khi ở trước mặt tớ vẫn tỏ ra lúng túng, cứ như một cậu nhóc mới lớn vậy.” Phương Tự Lập nói: “Cậu đừng bị vẻ ngoài của cậu ta đánh lừa, giả vờ ngây thơ chính là thủ đoạn mà cậu ta thường dùng nhất để lừa gạt phụ nữ đấy.”

Tôi cười nói: “Nghe giọng điệu này của cậu thì cứ như thể cậu cũng là một người phụ nữ đã từng bị cậu ta lừa gạt ấy.” Phương Tự Lập lập tức vỗ đùi một cái thật mạnh, thế rồi bèn nói:

”Tớ không phải là phụ nữ, nhưng trong số những giáo viên nữ mà cậu ta từng đùa bỡn thì tớ có quen với mấy người cơ đấy.” Tôi cố tình tỏ ra hết sức tò mò, yêu cầu anh ta kể cho mình nghe về những giáo viên nữ đó.”

Tôi lẳng lặng gật đầu. Diệp Thu Vi lúc nào cũng thế, luôn có thể dẫn dắt mọi việc theo ý muốn của mình một cách đơn giản và hữu hiệu.

”Anh ta ban đầu còn có chút do dự, hỏi tôi là có phải cảm thấy hứng thú với Lưu Trí Phổ rồi không.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Tôi vội vàng giải thích là mình chỉ cảm thấy tò mò thôi, không có ý gì khác cả. Anh ta hết sức tin tưởng vào lời tôi nói, sau khi suy nghĩ một lát liền bắt đầu kể về những giáo viên nữ đó. Phương Tự Lập quen Lưu Trí Phổ từ hồi tháng 4 năm 2007, khi đó Lưu Trí Phổ đang qua lại với một giáo viên nữ ở Học viện Hóa học công nghiệp. Giáo viên này tên là Phó Phán Xuân, lớn hơn Lưu Trí Phổ khoảng mười tuổi, chưa từng kết hôn. Tuy bị dị nghị khá nhiều, nhưng tình cảm của hai người khi đó vẫn rất ngọt ngào, bất cứ khi nào cũng đều thành cặp thành đôi. Có điều đến tháng 8 năm 2007, hai người đột ngột chia tay. Về sau, đến đầu năm 2009, Phó Phán Xuân đã kết hôn với một người đàn ông khác.”

Tôi vừa nhanh chóng ghi chép vừa ra hiệu cho cô ta nói tiếp.

”Phương Tự Lập và Phó Phán Xuân vào làm việc tại Đại học C trong cùng một năm, lại thuộc cùng một khoa trong học viện, do đó có thể nói là biết nhau khá rõ.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “ Phương Tự Lập nói, Phó Phan Xuân là một người vô cùng chặt chẽ và cẩn thận, trong công việc luôn cẩn trọng tỉ mỉ, trong cuộc sống cũng cực kỳ chú trọng tới quy luật và trình tự. Trước khi qua lại với Lưu Trí Phổ, buổi trưa mỗi ngày cô ta đều cùng một giáo viên nữ khác tới nhà ăn của trường để ăn cơm. Theo như lời giáo viên nữ kia kể lại, thực đơn của Phó Phán Xuân luôn thay đổi tuần hoàn theo đơn vị tuần: mỗi thứ Hai cô ta đều ăn mì thịt bò, mỗi thứ Ba thì ăn cơm rang Dương Châu, mỗi thứ Tư thì ăn bánh chẻo, các ngày sau đó cũng đều tương tự như vậy. Khi được hỏi về nguyên nhân, Phó Phán Xuân liền giải thích rằng ăn uống theo quy luật như vậy có thể giúp cơ quan tiêu hóa hình thành đồng hồ sinh học, điều này rất có lợi cho sức khỏe.”

Tôi nói: “Xem ra cô ta quả đúng là một con người rất có tính kỷ luật.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. ''Sau khi qua lại với Lưu Trí Phổ, Phó Phán Xuân vẫn giữ nguyên thói quen ăn uống có quy luật, còn Lưu Trí Phổ thì mỗi ngày đều theo cô ta đến nhà ăn của trường. Hai người bọn họ tuy hơn kém nhau gần mười tuổi, nhưng hành vi cử chỉ vẫn hết sức thân mật, hơn nữa còn chẳng ngại ngùng chút nào. Phương Tự Lập thường xuyên nhìn thấy bọn họ bón cơm cho nhau ở nhà ăn, có lúc Phó Phán Xuân còn dùng tay đưa đồ ăn vào trong miệng Lưu Trí Phổ nữa.”

Tôi tiếp tục ghi chép.

”Chuyện về Phó Phán Xuân thì khi đó Phương Tự Lập chỉ nhớ lại được chừng đó mà thôi.” Diệp Thu Vi kể tiếp. “Sau đó tôi lại hỏi về nguyên nhân khiến cô ta và Lưu Trí Phổ chia tay. Phương Tự Lập nói có thể là vì Phó Phán Xuân đã có thai. Tháng 8 năm 2007, Phó Phán Xuân xin nghỉ một tuần, các tiết dạy của cô ta khi đó được chính Lưu Trí Phổ dạy thay. Ngay sau đó, Phó Phán Xuân và Lưu Trí Phổ liền chia tay. Về sau, một giáo viên nữ khác vô tình tiết lộ là Phó Phán Xuân hình như đã mang thai, xin nghỉ chính là để đến bệnh viện khám thai. Phương Tự Lập cũng từng hỏi Lưu Trí Phổ về nguyên nhân chia tay, nhưng Lưu Trí Phổ chỉ nói một câu duy nhất: “Cô ấy thay đổi rồi.”

”Thay đổi rồi?” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Đó có lẽ là sự thay đổi về cảm giác.”

”Đúng vậy.” Đôi hàng lông mày của Diệp Thu Vi hơi lay động. “Trước đây Phó Phán Xuân từng mang lại cho anh ta cảm giác giống với bà nội anh ta, nhưng tới tháng Tám, thứ cảm giác này yếu dần, cuối cùng thì mất hẳn. Ngay khi đó tôi liền có một loại trực giác, đó là sự thay đổi này hẳn là có liên quan tới việc Phó Phán Xuân mang thai.”

Tôi khẽ gật đầu tỏ ý tán đồng, nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Sau khi kể xong chuyện về Phó Phán Xuân thì đã là hơn sáu giờ.” Diệp Thu Vi nói.

”Phương Tự Lập dẫn tôi đến một quán cơm ở gần bệnh viện ăn cơm, trong khi ăn uống, tôi lại giục anh ta kể tiếp. Anh ta nói cho tôi biết, sau khi chia tay với Phó Phán Xuân không lâu, Lưu Trí Phổ bắt đầu qua lại với một người phụ nữ tên là Khương Tâm Nguyệt ở phòng Hỗ trợ thi cử. Khương Tâm Nguyệt sinh năm 1980, lớn hơn Lưu Trí Phô năm tuổi, hai người vì mối quan hệ trong công việc nên đã quen nhau từ lâu. Cũng vì nguyên nhân công việc, Phương Tự Lập thường xuyên tiếp xúc với Khương Tâm Nguyệt. Theo như lời anh ta nói, Khương Tâm Nguyệt là loại phụ nữ hoàn toàn khác với Phó Phán Xuân. Cô ta tính tình cởi mở, thậm chí còn hơi bỗ bã, khi làm việc thì khá cẩu thả. Cô ta từng làm mất bảng thông tin thí sinh mà Phương Tự Lập cung cấp, còn từng làm sai giấy báo dự thi của mấy lớp trong trường, mang lại cho Phương Tự Lập không ít rắc rối. Phương Tự Lập sớm đã ôm lòng bất mãn với cô ta rồi, vậy nên ấn tượng về cô ta mới cực kỳ sâu sắc.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm nói: “Cô ta là một người hoàn toàn trái ngược với Phó

Phán Xuân cơ mà, Lưu Trí Phổ rốt cuộc đã nhìn trúng cô ta ở điểm nào nhỉ?”

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Chuyện yêu đương giữa Lưu Trí Phổ và Khương Tâm Nguyệt diễn ra khá thầm lặng, mà bọn họ cũng chẳng mấy khi công khai đi lại cùng nhau, do đó Phương Tự Lập không biết mấy về quá trình yêu đương của bọn họ. Có điều, vừa mới qua dịp nghỉ lễ Quốc khánh năm 2007, Lưu Trí Phổ bỗng hẹn Phương Tự Lập ra ngoài uống rượu, nói là mình đã chia tay với Khương Tâm Nguyệt rồi. Phương Tự Lập lại hỏi nguyên nhân, Lưu Trí Phổ liền đáp: “Lúc trước em lỡ nhìn nhầm.“.”

”Vẫn là sự thay đổi về cảm giác.” Tôi không kìm được thầm cảm thấy nghi hoặc.

”Nói như vậy là Phó Phán Xuân và Khương Tâm Nguyệt đều từng khiến Lưu Trí Phổ nảy sinh cảm giác tương tự như bà nội mình. Nhưng hai người này khác nhau nhiều quá, chuyện này thật là khó hiểu,”

”Sau khi chia tay Khương Tâm Nguyệt Lưu Trí Phổ đã thay bạn gái liên tiếp hai lần.” Diệp Thu Vi lại kể tiếp “Nhưng Phương Tự Lập không quen thân hai người này lắm, do đó cũng không có gì để kể với tôi. Đến tháng 5 năm 2008, Lưu Trí Phổ bắt đầu qua lại với một giáo viên nữ ở Học viện Văn học của Đại học C. Giáo viên này tên là Vũ Tú Thần, là bạn học thời trung học phổ thông với tôi và Phương Tự Lập.”

Tôi hỏi: “Cô có quen cô ta không?”

”Rất quen.” Diệp Thu Vi nói. “Hồi trung học phổ thông, tôi và cô ta đều là thành viên của hội học sinh, tuy chưa từng học cùng lớp với nhau bao giờ nhưng bắt đầu từ năm lớp mười một đã là bạn bè thân thiết của nhau rồi. Cô ta là một người phụ nữ rất nền nã và có khí chất cổ điển, ngay từ nhỏ đã thích văn học và âm nhạc, mới vào trung học phổ thông đã biết viết thơ, làm từ1, còn biết sử dụng các loại nhạc khí của cả phương Đông và phương Tây, giọng ca cũng rất hay nữa. Tuy rằng không xinh đẹp lắm, nhưng trong giai đoạn trung học phổ thông cô ta vẫn được rất nhiều người ái mộ, có thể coi là một nhân vật thuộc hàng “nữ thần2“. Cô ta tính tình điềm đạm, dịu dàng, cư xử với bạn bè cũng rất chân thành, thế nên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi và cô ta vẫn thường xuyên gặp mặt. Có điều, sau khi tôi học lên tiến sĩ và đi dạy, vì công việc của cả hai bên đều bận rộn nên quan hệ của chúng tôi mới xa cách dần.”

1. Môt thế loại văn học hình thành vào đời Đường, phát triển mạnh vào đời Tống ờ Trung Quốc - ND.

2. Tiếng lóng của Trung Quốc hiện nay, chi những cô gái trẻ rất có sức hút và thường nằm ngoài tầm với của những người ái mộ - NĐ.

Tôi bất giác nghĩ tới tình trạng tâm lý phức tạp của Lưu Trí Phổ, trong lòng thoáng qua một câu nói: “Bông hoa nhài cắm bãi phân trâu“.

Diệp Thu Vi lại kể tiếp: “Phương Tự Lập nói cho tôi biết, Vũ Tú Thần là người phụ nữ ở bên Lưu Trí Phổ lâu nhất. Hai người bọn họ bắt đầu qua lại với nhau từ tháng 5 năm 2008, mãi tới cuối năm đó mới chia tay. Sau khi chia tay, Vũ Tú Thần còn bám lấy Lưu Trí Phổ một thời gian nữa, thậm chí từng có hành vi quyên sinh. Phương Tự Lập cũng từng hỏi về nguyên nhân chia tay, câu trả lời của Lưu Trí Phổ là: “Cô ấy dường như không giống với vẻ bề ngoài.“.”

”Vẫn là sự thay đổi về cảm giác.” Tôi không kìm được thở dài một hơi, thầm nảy sinh một chút cảm giác chán ghét đối với Lưu Trí Phổ. “Còn có ai khác nữa không?”

”Vẫn còn một người nữa.” Diệp Thu Vi nói. “Đầu năm 2009 hơn một tháng sau khi chia tay với Vũ Tú Thần, anh ta bắt đầu qua lại với một vị nữ Giáo sư lớn hơn mình hai mươi tuổi ở Học viện Hóa học công nghiệp. Vị nữ Giáo sư đó tên là Trần Mộ Thanh, chính là người mà Phương Tự Lập vẫn luôn đi theo học hỏi trong công việc. Trần Mộ Thanh từng ly hôn một lần, con gái và con trai đều đi theo cha của chúng. Phương Tự Lập cũng không biết hai người bọn họ đã tới với nhau thế nào, nhưng khi đó chuyện tình cảm của bọn họ đã gây ra một phen chấn động không nhỏ trong trường, có rất nhiều người phản đối, đương nhiên cũng chẳng thiếu những người ủng hộ. Lãnh đạo của học viện thậm chí còn từng gọi Trần Mộ Thanh lên để nói chuyện riêng, vậy nhưng vẫn chẳng thể làm suy chuyển tình cảm của bọn họ. Có điều, chỉ một tháng sau đó hai người đã lặng lẽ chia tay. Phương Tự Lập chưa từng hỏi Lưu Trí Phổ về nguyên nhân của cuộc chia tay đó, nhưng về sau trong một bữa tiệc rượu, các giáo viên nam uống say hò nhau yêu cầu Lưu Trí Phổ kể lại chuyện tình cảm với Trần Mộ Thanh, mà Lưu Trí Phổ khi đó cũng đã hơi say, bèn nói: “Cô ấy không phải mẫu người giống như trong tưởng tượng của tôi.“.”

Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, sau đó hít sâu một hơi, chậm rãi phân tích: “Tính cách cũng như thân phận của bốn người phụ nữ đó hoàn toàn không có điểm nào tương tự. Muốn làm rõ cảm giác mà bọn họ đã đem tới cho Lưu Trí Phổ thì không thể chỉ thông qua lời kể của Phương Tự Lập được, còn cần bắt tay vào điều tra từ những chi tiết nhỏ nữa.”Tôi nhìn thoáng qua cuốn sổ tay của mình, hỏi: “Người đầu tiên mà cô muốn tiếp xúc chính là Vũ Tú Thần đúng không?”

Diệp Thu Vi vuốt lại tà váy của mình một chút, khẽ gật đầu.

Tôi lại hỏi: “Hãy nói tiếp về Vũ Tú Thần đi, cô đã đi gặp cô ta vào lúc nào?”

”Khi đó tôi với cô ta đã khá lâu không liên lạc rồi, mà cô ta lại là một người rất nhạy cảm, nếu tôi trực tiếp hỏi cô ta về chuyện thất tình một năm trước thì vừa không lịch sự mà lại vừa dễ khiến cô ta sinh lòng nghi ngờ, do đó chuyện này nhất định phải tiến hành từ từ từng bước, không được nóng vội.” Diệp Thu Vi nói. “Tối đó, tôi liên lạc với cô ta trên mạng, sau khi tán gẫu một lúc liền giả bộ vô tình nhắc đến hoạt động kỷ niệm ngày thành lập trường của Đại học C. Cô ta nói với tôi, ngày ngày hôm sau Học viện Văn học sẽ tổ chức một buổi triển lãm tranh và thư pháp, mà cô ta chính là người tổ chức, rồi mời tôi tới tham quan.” Tôi hỏi: “Việc này đã nằm trong dự liệu của cô rồi đúng không?”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Vũ Tú Thần rất yêu thích văn hóa truyền thống, đặc biệt là thư pháp, hồi học trung học phổ thông đã từng tổ chức triển lãm thư pháp trong trường một lần rồi, thậm chí trên cổng chính của trường còn từng dán một đôi câu đối do cô ta tự tay viết nữa. Hoạt động kỷ niệm của Đại học C lần này rầm rộ như vậy, cô ta đương nhiên là không thể ngồi yên được rồi.”

Tôi khẽ gật đầu. “Đó quả đúng là một cơ hội tốt để cô tiếp xúc với cô ta. Xin hãy tiếp tục đi.”

”Ngày hôm sau tôi đi ngay từ sáng sớm.” Diệp Thu Vi chậm rãi kể tiếp: “Sau khi đến đó, tôi giúp cô ta sắp xếp đồ đạc, bố trí địa điểm, làm mọi việc đều rất nhiệt tình. Sau một buổi sáng ở bên nhau, chúng tôi bắt đầu trở nên thân thiết như hồi học trung học phổ thông, không có chuyện gì mà không nói với nhau được. Đến gần trưa, cô ta mời tôi về nhà ăn cơm. Cô ta biết nấu ăn từ nhỏ, tài nấu nướng không tệ chút nào. Trong bữa cơm, tôi không ngừng khen ngợi tay nghề của cô ta, cuối cùng còn dùng giọng đùa bỡn nói: “Chẳng biết sau này người đàn ông nào sẽ có phúc được hưởng tay nghề của cậu nữa, riêng tớ mà là đàn ông, dù có phải vứt bỏ vợ mình để cưới cậu về nhà, tớ cũng sẵn lòng.” Cô ta vừa nghe thế hai mắt liền hoe đỏ, thở dài nói là cả đời này mình không định lấy chồng nữa. Trong quá trình

trò chuyện trước đó, cô ta kỳ thực cũng từng đả động đến chuyện yêu đương cũng như thất tình của bản thân rồi, chỉ là chưa nói rõ với tôi về đối tượng mà mình qua lại. Thấy cô ta sắp rơi nước mắt, tôi vội vàng xoa đầu cô ta, hỏi: “Đã hơn một năm rồi mà cậu còn buồn vì chuyện đó ư?” Cô ta tức thì rơi lệ, sau đó liền ngồi xuống xô pha mà bật khóc nức nở. Tôi phải an ủi suốt một hồi lâu, tâm trạng cô ta mới dần ổn định trở lại.”

Tôi thầm tưởng tượng về tình cảnh khi đó, thế rồi buột miệng nói: “Xem ra cô ta rất yếu ớt trong chuyện tình cảm.”

”Yếu ớt chỉ là một phần thôi, chủ yếu là tư tưởng của cô ta khá bảo thủ.” Diệp Thu Vi nói. “Cô ta được sinh ra trong một gia đình cực kỳ xem trọng nền văn hóa truyền thống, do tác động của bề trên nên ngay từ nhỏ, cô ta đã ôm lòng khao khát đối với những cuộc tình đẹp đẽ trong văn học cổ điển. Hồi học trung học phổ thông, cô ta từng không chỉ một lần bày tỏ nguyện vọng của mình là chỉ yêu duy nhất một người. Loại phụ nữ như vậy sau khi tiếp nhận một người đàn ông ắt sẽ hết lòng hết dạ yêu người đó, dù có mười con trâu cũng chẳng thể kéo lại được, sự ruồng bỏ của Lưu Trí Phổ tất nhiên đã khiến cho cô ta hết sức thương tâm.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi.

Diệp Thu Vi dừng lại một chút rồi kể tiếp: “Sau khi tâm trạng của cô ta ổn định trở lại, chúng tôi bắt đầu nói tới đàn ông và tình yêu. Cô ta đã biết chuyện xảy ra với chồng tôi, do đó hết sức thông cảm với tôi. Cô ta là một người lương thiện, yếu đuối, chắc hẳn anh cũng không lạ gì với điều này: Khi một người lương thiện sinh lòng cảm thông sâu sắc với người khác mà lại không thể giúp được gì, người đó thương sẽ kể với đối phương nỗi bất hạnh mà mình gặp phải.”

“Cái gọi là đồng bệnh tương liên chính là như thế.” Tôi nói: “Bọn họ muốn dùng nỗi bất hạnh của mình để giúp đối phương có được sự cân bằng trong tâm lý, từ đó tạo ra hiệu quả an ủi.”

“Không.” Diệp Thu Vi nói. “Con người rất ích kỷ, bất cứ tư tưởng hay hành vi nào cũng đều xuất phát từ lợi ích của bản thân, tuyệt đối không bao giờ chỉ thuần túy là vì người khác. Lấy sự cảm thông là ví dụ, khi con người ta sinh lòng cảm thông với ai đó, sở dĩ họ kể lại nỗi bất hạnh của mình kỳ thực là vì muốn khiến tiềm thức thông qua sự bất hạnh của bản thân để nảy sinh sự tự cảm thông, từ đó làm giảm bớt lòng cảm thông với người khác. Một sự cảm thông dù có lương thiện đến mấy đi chăng nữa thì xét cho cùng vẫn là để tìm kiếm sự thoải mái trong tâm lý, và đó có thể nói là một hoạt động tâm lý đầy vụ lợi. Còn về điều anh nói thì chẳng qua là một vẻ bề ngoài giả tạo mà ý thức tạo ra để lừa dối con người ta mà thôi.”

Tôi không biết phải đáp lại thế nào. Có lẽ Diệp Thu Vi nói đúng, bất cứ hoạt động tâm lý nào cũng đều xuất phát từ bản chất ích kỷ: Cha mẹ hy sinh tính mạng vì con cái của mình, hành động này xét từ góc độ tâm lý học động vật thì cũng chỉ là để phần sinh mệnh nối dài của mình được tiếp tục duy trì. Việc một người tốt bụng giúp đỡ một người khác thì xét cho cùng cũng chỉ là để tìm kiếm cảm giác tự thỏa mãn từ đó sinh ra. Tóm lại, tâm lý thuộc về cá thể, chỉ phục vụ cho cá thể, cho nên nếu nhìn vào mọi việc từ góc độ tâm lý học, mọi hành vi của con người kỳ thực đều có tính vụ lợi.

Tôi suy nghĩ vu vơ một hồi, sau khi bình tĩnh trở lại bèn nói: “Xin hãy tiếp tục đi.”

”Để khiến Vũ Tú Thần tự nguyện nói ra nỗi bất hạnh của bản thân, tôi cần nói về nỗi bất hạnh của mình trước đã.” Diệp Thu Vi kể: “Tôi kể lại tỉ mỉ chuyện tôi và chồng tôi đã quen nhau rồi yêu nhau như thế nào, về sau lại liên tiếp gặp phải những điều không may ra sao, vừa kể còn vừa rơi nước mắt. Vũ Tú Thần ôm chặt lấy tôi, chờ sau khi tôi kể xong liền chủ động nói ra chuyện tình yêu giữa mình và Lưu Trí Phổ.”

Tôi ngồi thẳng người dậy, cầm bút lên, chuẩn bị ghi chép bất cứ lúc nào.

”Vũ Tú Thần tuy là một người dịu dàng và truyền thống nhưng tầm mắt lại rất cao.” Diệp Thu Vi kể tiếp: “Ngay từ thời còn là học sinh bên cạnh cô ta đã chẳng thiếu những người theo đuổi, nhưng cô ta lại khao khát một tình yêu kiểu tài tử, giai nhân như trong tiểu thuyết cổ điển, thành ra dù một người đàn ông có xuất sắc đến mấy đi chăng nữa, chỉ cần có một chút gì đó tầm thường là cô ta liền chẳng để vào trong mắt. Vì nguyên nhân này, mãi đến năm ba mươi tuổi cô ta vẫn chưa từng thực sự yêu đương lần nào. Thời gian dần trôi, dưới sự tác động của hiện thực và áp lực, cô ta thỉnh thoảng cũng nảy ra suy nghĩ cứ tùy tiện tìm lấy một người đàn ông nào đó mà sống qua ngày cho xong. Chính vì sự chuyển biến vi diệu trong tâm lý này mà cô ta đã bắt đầu tham gia một số hoạt động giao lưu làm quen mà trước đây mình từng rất xem thường. Cô ta và Lưu Trí Phổ đã quen nhau trong một hoạt động giao lưu như thế, và nó được chính nhà trường tổ chức.

Ở phần tự giới thiệu, Lưu Trí Phổ lập tức thu hút được sự chú ý của cô ta, dùng lời của cô ta để nói thì là: “Anh ấy trông có vẻ rất sạch sẽ, đơn giản, khi nói năng thì mang theo sự đơn thuần của chủ nghĩa lý tưởng, rất phù hợp với khí chất cũng như hình tượng của một thư sinh.” Cô ta lén hỏi đồng nghiệp bên cạnh về thân phận của Lưu Trí Phổ, sau khi được biết Lưu Trí Phổ là thiên tài học thuật của Học viện Hóa học công nghiệp thì thiện cảm của cô ta với anh ta tăng lên rất nhiều. Về sau, Lưu Trí Phổ chủ động tìm đến cô ta, nói rằng ấn tượng của mình về cô ta rất tốt, còn xin số điện thoại của cô ta nữa. Đồng nghiệp nhắc nhở cô ta rằng quá khứ tình cảm của Lưu Trí Phổ không được tốt cho lắm, trước đây từng thay đổi bạn gái liên tục. Thế nhưng cô ta lại cho rằng: “Người theo chủ nghĩa lý tưởng quả thực rất dễ bị những người bình thường hoài nghi.“.”

Tôi không kìm được thở dài, nói: “Tâm lý của con người thật quá phức tạp, nhưng duyên phận cũng vì vậy mà trở nên kỳ diệu, khó có thể nói cho rõ ràng.”

Diệp Thu Vi nhìn tôi bằng một ánh mắt kỳ lạ, sau khi khẽ mỉm cười liền chậm rãi kể tiếp: “Không lâu sau, Lưu Trí Phổ hẹn cô ta ra ngoài gặp riêng. Cũng giống như lần gặp tôi vậy, khi ở một mình bên cạnh cô ta, Lưu Trí Phổ tỏ ra hết sức lo lắng và lúng túng. Cô ta đã quá quen với những người đàn ông mồm mép tép nhảy hoặc là đàng hoàng đứng đắn, do đó liền coi biểu hiện của Lưu Trí Phổ là “không tầm thường“. Trong lần gặp mặt đầu tiên, Lưu Trí Phổ đã dẫn cô ta vào một nhà hàng Trung Quốc. Khi dùng bữa, cô ta đưa ra rất nhiều lời đánh giá và bình luận về tay nghề của đầu bếp, đồng thời còn hứa khi nào có thời gian sẽ để Lưu Trí Phổ thưởng thức tay nghề của mình. Và thế rồi sau khi quen nhau không đầy nửa tháng, Lưu Trí Phổ đã được cô ta mời đến nhà. Khi đó, sau khi nếm thử đồ ăn mà cô ta nấu, Lưu Trí Phổ đã nói ra một câu vừa thẳng thắn vừa mạnh bạo: “Cô Vũ, tôi muốn được sống với cô cả đời.“.”

Tôi dừng việc ghi chép lại, trầm ngâm nói: “Lẽ nào thứ mang tới cho Lưu Trí Phổ cảm giác giống như bà nội của mình là tài nấu nướng của Vũ Tú Thần? Những giáo viên nữ khác mà anh ta từng qua lại có phải cũng rất giỏi nấu nướng không?”

”Không.” Diệp Thu Vi nói. “Khi kể với tôi về Khương Tâm Nguyệt, Phương Tự Lập từng nói rằng cô ta “ngay đến rau quả cũng chẳng biết được mấy loại“. Hơn nữa, trong khi qua lại với Phó Phán Xuân, mỗi ngày Lưu Trí Phổ đều cùng cô ta đến ăn cơm tại nhà ăn của trường. Cảm giác mà bà nội mang lại cho anh ta có lẽ không có sự liên quan trực tiếp nào tới việc nấu nướng cả.”

Tôi khẽ gật đầu. “Quả đúng là như vậy. Xin hãy tiếp tục đi.”

”Cô ta đã kể lại rất nhiều chi tiết trong khi còn ở bên Lưu Trí Phổ.” Diệp Thu Vi suy nghĩ một chút rồi mới nói tiếp: “Lưu Trí Phổ từng làm thơ tặng cô ta, cô ta thì tự tay thêu miếng lót giày cho Lưu Trí Phổ. Tôi chăm chú lắng nghe, nhưng sau khi phân tích một hồi lâu vẫn chẳng thể tìm thấy tin tức gì có giá trị trong các chi tiết đó. Về sau, cô ta tất nhiên đã nhắc tới chuyện chia tay. Khi kể lại chuyện này, trên mặt cô ta ngoài vẻ bi thương ra còn có những nét nghi hoặc và khó hiểu. Cô ta nói cho tôi biết, Lưu Trí Phổ không đưa ra lý do gì rõ ràng cho việc chia tay, chỉ đột ngột nói rằng không muốn ở bên cô ta nữa. Tôi cố tình dẫn dắt để cô ta nhớ lại các chi tiết trong quãng thời gian trước và sau khi chia tay, thế rồi cô ta bèn kể, trước khi chính thức chia tay không lâu, Lưu Trí Phổ đã tỏ ra khá hờ hững với cô ta, còn hay vô duyên vô cớ nổi giận với cô ta nữa. Ấn tượng sâu sắc nhất của cô ta là việc xảy ra vào đêm vọng lễ Giáng Sinh năm 2008, cô ta và Lưu Trí Phố đã hẹn trước là sẽ ở bên nhau vào dịp này. Hôm ấy cô ta bị cảm cúm khá nặng nhưng vẫn cố gắng chuẩn bị một bữa tối thật thịnh soạn cho Lưu Trí Phổ. Khi mới tới Lưu Trí Phổ tỏ ra rất vui vẻ, phấn chấn, nhưng mới ăn được mấy miếng cơm thì đã bắt đầu tỏ ra buồn bã không vui, khi ăn được nửa bữa cơm thì đanh mặt lại, sau khi ăn cơm xong thì chỉ trò chuyện với Vũ Tú Thần qua loa mấy câu rồi kiếm cớ rời đi. Sau chuyện lần đó, Lưu Trí Phổ bắt đầu hờ hững với Vũ Tú Thần, trong vòng một tuần sau đó, Lưu Trí Phổ không tới nhà cô ta thêm lần nào nữa, sau đó thì chính thức đưa ra lời đề nghị chia tay. Lúc ấy Vũ Tú Thần đã chuẩn bị sẵn tâm lý cho việc sẽ chung sống cả đời với Lưu Trí Phổ, thế mà đột nhiên lại xảy ra chuyện như vậy, cô ta đương nhiên là rất thương tâm. Sau đó, cô ta đã quấn lấy Lưu Trí Phổ hơn nửa tháng, còn từng cắt cổ tay tự sát nữa, nhưng may mà cô ta không hiểu mấy về y học, vị trí cắt không chuẩn, do đó đã được cứu chữa kịp thời.”

Tôi cầm bút khẽ gõ liên tục vào cuốn sổ tay, hoàn toàn không tìm ra được chút manh mối nào. Đề nghị chia tay của Lưu Trí Phổ quả thực là quá đột ngột, chẳng hề có lý do nào cả.

”Sự hờ hững bắt đầu xuất hiện từ đêm vọng lễ Giáng Sinh, mà khi mới đến Lưu Trí Phổ vẫn còn rất vui vẻ, phấn chấn...” Tôi đưa tay vuốt cằm, thử phân tích:“Bước ngoặt của sự chuyển biến có lẽ đã xuất hiện trong bữa cơm tối hôm đó.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Nhưng đây dù sao cũng là chuyện thương tâm của Vũ Tú Thần, tôi không tiện hỏi han quá kĩ. Tôi chỉ hỏi cô ta là trong đêm vọng lễ Giáng Sinh, các hành vi, cử chỉ của cô ta có gì khác với thường ngày hay không. Cô ta trả lời một cách rất chắc chắn là ngoài việc bị cảm cúm nặng nên tinh thần không được tốt ra, cô ta không có gì khác với thường ngày cả. Tôi đột nhiên nảy ra một loại trực giác: Sự chuyển biến đột ngột trong thái độ của Lưu Trí Phổ có lẽ có liên quan tới sự thay đổi của trạng thái tinh thần của đối tượng.”

”Trạng thái tinh thần?”

Diệp Thu Vi cầm cốc nước lên lắc nhẹ mấy cái, sau đó trầm tư nói: “Tôi lập tức nghĩ ngay tới Phó Phán Xuân. Theo như lời kể của Phương Tự Lập, trước khi Lưu Trí Phố chia tay với cô ta không lâu, cô ta đã xin nghi phép một tuần do mang thai. Trong thời kỳ đầu thai nghén, trạng thái tinh thần của phụ nữ thường sẽ phát sinh những sự biến hóa khá lớn, đây chính là điểm chung rõ ràng nhất của Vũ Tú Thần và Phó Phán Xuân trước khi chia tay với Lưu Trí Phổ.”

'Trạng thái tinh thần...” Tôi lẩm bẩm lặp lại từ này, thế rồi cất giọng nghi hoặc: “Lẽ nào nguyên nhân khiến Lưu Trí Phổ quyết định chia tay những người phụ nữ đó là vì tinh thần của đối phương không được tốt? Khi con người bị cảm cúm, trạng thái tinh thần không tốt là hiện tượng hết sức bình thường mà, hơn nữa chẳng bao lâu sau sẽ có thể khôi phục lại như cũ ngay...”

”Cho nên...” Diệp Thu Vi cắt ngang lời tôi. “Nguyên nhân khiến Lưu Tri Phổ quyết định chia tay nhất định không phải là trạng thái tinh thần của đối phương, mà ỉà

một số hành vi khác với thường ngày mà đối phương đã làm ra dưới sự tác động của trạng thái tinh thần.”

Tôi gật đầu lia lịa, trong lòng nảy sinh cảm giác giật mình bừng tỉnh. Quả thực, mỗi người đều có cách thức suy nghĩ cũng như đặc trưng tâm lý riêng của mình, đối với A thì hành vi này có thể là không có ý nghĩa gì cả, song đối với B thì nó lại có khả năng tượng trưng cho một thứ ý nghĩa trọng đại nào đó, thậm chí còn có thể làm thay đổi cách nhìn và thái độ của B với A. Trạng thái tâm lý của Lưu Trí Phổ vô cùng phức tạp, do đó rất có khả năng sẽ nảy sinh phản ứng quá khích đối với một số hành vi vô nghĩa. Môi trường làm việc của giáo viên đại học và nhân viên hành chính khá giống nhau, trong trạng thái tinh thần không tốt quả thực có thể làm ra một số hành vi tương tự. Chỉ cần tìm ra những hành vi này, lại tổng kết ra nguyên nhân tâm lý khiến Lưu Trí Phổ “vô duyên vô cớ” đòi chia tay, vậy là

sẽ có thể làm rõ thứ mà anh ta khao khát có được từ những người phụ nữ rốt cuộc là gì, từ đó tiến hành thao túng tâm lý của anh ta.

Tôi đưa mắt nhìn Diệp Thu Vi, tò mò hỏi: “Đó rốt cuộc là hành vi gì?”

Diệp Thu Vi nhấp một ngụm nước, lại khẽ lắc cốc trong tay, nói ra hai chữ khiến tôi chẳng hiểu ra sao cả: “Bón cơm.”

”Bón cơm?” Tôi ngẩn ngơ viết hai chữ này vào sổ tay. “Là ý gì vậy?”

”Chuyện này là do Vũ Tú Thần vô tình nhắc đến.” Diệp Thu Vi giải thích: “Buổi trưa hôm đó, chúng tôi đã trò chuyện với nhau hơn một tiếng đồng hồ, cô ta khóc nhiều quá nên mệt, thế là tôi liền dìu cô ta lên giường nghỉ ngơi. Chúng tôi cùng nhau nằm trên giường đến lúc hai rưỡi, cả hai đều không ngủ được. Tâm tư cô ta rất tinh tế suốt thời gian đó đều không ngừng lẩm bẩm kể lại những chi tiết từng xảy ra khi mình còn ở bên Lưu Trí Phổ, chẳng hạn như câu chuyện cười mà Lưu Trí Phổ đã kể khi cùng cô ta đi tản bộ, cách xử lý các loại nguyên liệu nấu nướng mà cô ta đã chuẩn bị cho đêm vọng lễ Giáng Sinh, vân vân. Tôi không nói tiếng nào, để yên cho cô ta hồi tưởng, và rồi rất nhanh sau đó, một chi tiết đã thu hút sự chú ý của tôi. Cô ta nói, tuy cô ta và Lưu Trí Phổ chênh nhau mấy tuổi, nhưng khi ở bên nhau, tình cảm vẫn rất ngọt ngào, lúc cùng ăn cơm thì thường xuyên bón cơm cho nhau. Mỗi khi cô ta dùng đũa đưa thức ăn vào miệng Lưu Trí Phổ, Lưu Trí Phổ đều nhìn cô ta bằng ánh mắt chan chứa tình yêu thương, ánh mắt đó khiến cô ta cảm thấy hai người bọn họ vĩnh viễn không thể nào chia ly được, và có lẽ đến cuối cuộc đời cô ta vẫn không thể quên được ánh mắt đó.”

Tôi đưa tay lên day trán một chút, lại đưa mắt nhìn cuốn sổ tay của mình, cuối cùng vô thức gật đầu, nói: “Phương Tự Lập cũng từng kể rồi, Phó Phán Xuân và Lưu Trí Phổ khi đi ăn cơm cũng hay bón cơm cho nhau, có lúc Phó Phán Xuân còn trực tiếp dùng tay đưa đồ ăn vào trong miệng Lưu Trí Phổ nữa.”

”Đúng vậy, khi đó tôi đã nghĩ ngay tới Phó Phán Xuân.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi hỏi Vũ Tú Thần là trong đêm vọng lễ Giáng Sinh đó, cô ta và Lưu Trí Phổ có bón cơm cho nhau không. Cô ta nhớ lại một chút rồi đáp, đêm đó, Lưu Trí Phổ muốn đút đồ ăn cho cô ta, nhưng cô ta vì đang bị cảm cúm, không muốn ăn uống gì cả, thế là liền từ chối. Cùng với đó, do tinh thần không được tốt, cô ta cũng không bón cơm cho Lưu Trí Phổ ăn như thường ngày.”

Tôi gạch ngang mấy đường thật đậm vào bên dưới hai chữ “bón cơm”, sau đó nói: “Cô hoài nghi hành vi bón cơm là một yếu tố quan trọng để duy trì mối quan hệ thân mật với Lưu Trí Phổ ư? Nếu đúng là như vậy, việc bón cơm cho nhau này có lẽ bắt nguồn từ cuộc sống thời thơ ấu của Lưu Trí Phổ rồi.”

”Có lẽ không phải là bón cơm cho nhau, mà là được bón cơm.” Diệp Thu Vi nói.

”Lưu Trí Phổ bón cơm cho đối phương có lẽ chỉ là vì muốn được đáp lại mà thôi.”

Tôi trầm tư trong chốc lát rồi liền nghiêm túc gật đầu.

”Công năng cho con bú mang tới cho người phụ nữ thiên tính chăm sóc và nuôi nấng.” Diệp Thu Vi phân tích: “Khi một người phụ nữ yêu sâu sắc một người đàn ông, bất kể người đàn ông này là người tình, cha hay là con trai, trong tiềm thức, cô ta đều sẽ nảy sinh xung động muốn bón đồ ăn cho người đó. Thử nghĩ mà xem, hồi còn bé Lưu Trí Phổ vốn cô độc đáng thương, thêm vào đó lại ốm yếu nhiều bệnh, cho nên bà nội anh ta nhất định là thương yêu anh ta vô cùng, thậm chí có khả năng mỗi bữa cơm đều tự tay bón cho anh ta ăn. Xét từ góc độ của Lưu Trí Phổ, một mặt, khi đó bà nội là người thân duy nhất mà anh ta có thể nương tựa, một mặt khác, trong lòng anh ta còn tồn tại một thứ tình cảm phức tạp nằm giữa tình thân và tình yêu đối với bà nội. Do đó, việc được bón cơm đã trở thành một phương thức quan trọng để Lưu Trí Phổ cảm nhận được tình thân và tình yêu trong thời thơ ấu. Mà những ký ức và cảm giác tốt đẹp thời thơ ấu thường sẽ đi theo con người ta suốt cả cuộc đời, trở thành nguồn gốc cho tất cả mọi cảm giác tốt đẹp về sau.”

Tôi tiếp lời cô ta: “Cho nên sau khi trưởng thành, đối với Lưu Trí Phổ, hành vi bón cơm của bà nội đã trở thành sự tượng trưng cho tất cả mọi tình cảm tốt đẹp, cũng trở thành phương thức hữu hiệu để anh ta tìm lại những ký ức và cảm giác tốt đẹp thuở xưa. Bạn tình bón đồ ăn cho anh ta sẽ khiến những ký ức và cảm giác ẩn ở nơi sâu thẳm trong nội tâm của anh ta trỗi dậy, khiến anh ta như lại được nhận sự chăm sóc của bà nội, từ đó cảm nhận được sự ấm áp thực sự từ nơi đáy lòng, đồng thời còn giải tỏa được ham muốn tình dục tiềm ẩn đối với bà nội nữa, qua đó mang tới sự thỏa mãn cho chứng mặc cảm Oẹdipus. Tôi thè lưỡi liếm bờ môi đẵ trở nên hơi khô khốc, nói tiếp: “Đây chính là thứ mà anh ta muốn nhận được từ các đối tượng mà mình qua lại.”

Nói xong những lời này, tôi thở ra một hơi thật dài.

Diệp Thu Vi lại tiếp tục phân tích: “Do đó, sau khi trưởng thành, Lưu Trí Phổ rất có thiện cảm với những người phụ nữ mang nhiều thiên tính của một người mẹ. Có điều, anh ta không thực sự hiểu về phụ nữ, cho nên có lúc mới đưa ra những sự lựa chọn sai lầm, trường hợp của Khương Tâm Nguyệt - một người bỗ bã và hoàn toàn không biết nấu nướng - chính là ví dụ điển hình nhất.”

”Cho nên anh ta chỉ qua lại với Khương Tâm Nguyệt được một tháng rồi liền chia tay ngay.” Dòng suy nghĩ của tôi bất giác trở nên sáng suốt hơn nhiều. “Còn Vũ Tú Thần giỏi nấu nướng, tính tình dịu dàng, hiền thục thì đã lập nên kỷ lục, qua lại được với anh ta những bảy tháng.”

”Đúng thế.” Diệp Thu Vi phân tích tiếp: “Lưu Trí Phổ trắng trẻo gầy gò, mặt mũi cân đối, khi ở riêng bên cạnh phụ nữ lại rất hay e thẹn, do đó rất dễ làm nảy sinh ham muốn chăm sóc của phụ nữ. Bất kể đối tượng mà Lưu Trí Phổ qua lại có tính cách thế nào, khi ờ bên anh ta, bọn họ dù ít dù nhiều ắt hẳn đều đã từng làm ra hành vi bón cơm cho anh ta, từ đó mang lại cho anh ta cảm giác về sự ấm áp cùng tình yêu thực sự. Nhưng, dù những người phụ nữ đó có hiền thục đến mấy, tình cảm với anh ta có sâu sắc đến mấy, thì rốt cuộc cũng không phải là bà nội của anh ta. Tại nơi sâu thẳm trong nội tâm, bọn họ vẫn là những người phụ nữ khao khát được người yêu của mình chăm sóc. Do đó, khi thân thể không khỏe, tinh thần uể oải hoặc là tâm trạng không tốt, bọn họ sẽ không thể vui vẻ bón cơm cho anh ta như những lúc bình thường được. Hành vi bón cơm là sự tượng trưng cho tình cảm thân thiết, một khi nó biến mất, thứ tình cảm yếu ớt kia của Lưu Trí Phổ ắt sẽ biến mất theo ngay. Trong đêm vọng lễ Giáng Sinh, Lưu Trí Phổ muốn bón cơm nhưng bị cự tuyệt lại không được đáp lại từ Vũ Tú Thần, thế là tình cảm vốn kiên định tức thì dao động.

Còn về Phó Phán Xuân thì thứ nhất, phụ nữ sau khi mang thai sẽ xuất hiện những sự thay đổi rõ rệt về mặt tinh thần, thứ hai, sau khi biết mình mang thai, phụ nữ thường sẽ hy vọng mình được chăm sóc chứ không cần phải chăm sóc người khác, chính sự thay đổi trong tâm lý này đã dẫn đến sự thay đổi về mặt hành vi, và đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến Lưu Trí Phổ chia tay với cô ta.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi gật đầu, nói: “Rất hợp tình hợp lý, có điều khi đó nó vẫn chỉ là phán đoán mà thôi, cô rốt cuộc đã làm như thế nào để chứng thực phán đoán này?”

”Chỉ cần dựa vào tính phổ biến thôi. Nếu ở các đối tượng khác mà Lưu Trí Phổ từng qua lại cũng xuất hiện tình huống tương tự, vậy thì đương nhiên có thể chứng minh phán đoán này của tôi là chính xác.” Diệp Thu Vi nói.

”Ngày hôm sau, tôi lại cùng Phương Tự Lập tới tham gia hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đại học C, đồng thời tiếp tục dò hỏi anh ta một cách kín đáo về Khương Tâm Nguyệt và Trần Mộ Thanh. Nói ra thì đúng là trùng hợp, sáng hôm đó chúng tôi vừa khéo nhìn thấy Khương Tâm Nguyệt ở trong trường. Khi ấy cô ta đang ngồi bên bãi cỏ cùng với ba đồng nghiệp nam, bọn họ vừa đánh bài vừa ăn đồ ăn vặt, thỉnh thoảng còn đùa giỡn nhau bằng những câu rất tục tĩu nữa. Giọng nói của cô ta rất lớn, do đó ngay từ xa đã thu hút sự chú ý của tôi. Khi Phương Tự Lập nói cho tôi biết cô ta chính là Khương Tâm Nguyệt, cô ta đang xé một gói đồ ăn vặt, sau đó đút cho từng đồng nghiệp nam ăn, cả bốn người bọn họ đều không hề cảm thấy xấu hổ chút nào.”

”Cô ta đúng là khá cởi mở trong mối quan hệ với bạn bè khác giới.” Tôi nói. “Xem ra, chính tính cách cởi mở này của cô ta đã gây ra sự hiểu lầm cho Lưu Trí Phổ. Khi cô ta đút cho Lưu Trí Phổ ăn một thứ gì đó, mục đích vốn chỉ là để đùa giỡn hoặc là bày tỏ thiện ý mà thôi, vậy nhưng lại vô tình khiến cho Lưu Trí Phổ xúc động. Khi chia tay với cô ta, Lưu Trí Phổ nói là lúc trước đã nhìn nhầm, điều này vừa hay có thể chứng minh cho sự hiểu lầm đó.”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu rồi lại kể tiếp: “Sau đó, tôi lấy lý do về phương diện công việc và học thuật để trực tiếp hỏi Phương Tự Lập về tình hình của Trần Mộ Thanh. Trong công việc, Phương Tự Lập đã đi theo Trần Mộ Thanh nhiều năm, cho nên hiểu khá rõ về cô ta. Anh ta nói cho tôi biết Trần Mộ Thanh ly hôn vào năm 2002, nguyên nhân cụ thể dẫn đến ly hôn thì không tiện nói rõ, có điều sau khi ly hôn, chồng cô ta đã cắt đứt mọi liên lạc với cô ta, con trai và con gái của cô ta thì cũng chẳng mấy khi tới thăm cô ta. Tuy chỉ có quan hệ trong công việc nhưng Phương Tự Lập vẫn có thể cảm nhận được rõ ràng sự cô độc của Trần Mộ Thanh. Anh ta còn nói cho tôi biết, từng có mấy lần Trần Mộ Thanh ngầm ổ ý muốn phát sinh quan hệ với anh ta, nhưng đều bị anh ta cự tuyệt.”

Tôi nở một nụ cười ám muội. “Anh ta thực sự đã cự tuyệt ư?”

”Tất nhiên là không.” Diệp Thu Vi vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh. “Khi đó tôi liền hỏi: “Cô ta là một người cô đơn, có học thức, còn là lãnh đạo của câu trong công việc, có thể nói là rất có sức hút, cậu thực sự có thể kìm lòng được ư?” Anh ta nói: “Đương nhiên rồi, cậu nghĩ tớ là loại người gì chứ!” Nội dung của câu trả lời đó nghe có vẻ rất đàng hoàng, thế nhưng trên mặt anh ta lại thấp thoáng một nụ cười mỉa, hiển nhiên là đang nói dối. Thế là tôi lại hỏi: “Cậu có biết rõ thói quen sinh hoạt của Giáo sư Trần không?” Anh ta đáp là ít nhiều có biết một chút. Tôi liền hỏi thẳng: “Giáo sư Trần cô độc như vậy, chắc hẳn không tránh khỏi phải tìm một số bạn trai tạm thời đúng không?” Anh ta cười mỉm tỏ ý ngầm thừa nhận. Tôi lại nói: “Các nữ Giáo sư dạy khoa học tự nhiên đa phần đều ngoài lạnh trong nóng, Giáo sư Trần nhìn bề ngoài thì có vẻ nghiêm túc, nhưng chưa biết chừng lại có không ít sở thích lạ đấy. Sau đó, tôi làm bộ vô tình hỏi thêm: “Này, cậu thử nói xem, liệu cô ta có bao giờ dùng miệng bón đồ ăn cho người khác không nhỉ?“. “

Tôi lại lần nữa nở nụ cười ám muội. “Anh ta đã có phản ứng như thế nào?”

”Anh ta đờ người ra trong một giây, sau đó thì chỉ cười, mãi một lúc lâu sau mới nói ra một câu: “Tớ làm sao sao biết được!“.”

Tôi thu nụ cười lại, bắt đầu chậm rãi phân tích: “Sự cô độc của Trần Mộ Thanh có lẽ chủ yếu là về mặt tâm lý. Nỗi nhớ nhung đối với con cái đã làm khơi dậy thiên tính chăm sóc và nuôi nấng của cô ta, thế nên trong quá trình qua lại với các bạn tình tạm thời, ham muốn chăm sóc đó của cô ta khó tránh khỏi được giải tỏa trên người đối phương. Xét cho cùng, cô ta chỉ muốn tìm bạn tình để xua tan đi sự cô độc, trong khi đó Lưu Trí Phổ thì lại muốn tìm kiếm sự ấm áp cùng tình yêu ở nơi sâu thẳm trong nội tâm. Đối với Trần Mộ Thanh, thỉnh thoảng làm ra hành vi bón thức ăn thì còn thú vị, nhưng sự đòi hỏi không có giới hạn của Lưu Trí Phổ nhất định đã khiến cô ta cảm thấy chán ghét, bởi lẽ cô ta muốn tìm bạn tình chứ không phải là con trai. Trong việc chia tay của hai người bọn họ, có lẽ Trần Mộ Thanh chính là người chủ động đề nghị đúng không?”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Nhưng đó đã không còn là vấn đề mà tôi cần suy nghĩ nữa rồi. Tóm lại, hành vi bón thức ăn đã từng xuất hiện trên người Phó Phán Xuân, Khương Tâm Nguyệt, Vũ Tú Thần và Trần Mộ Thanh ở những mức độ khác nhau, điều này về cơ bản có thể chứng thực cho những phán đoán và phân tích của tôi trước đó.”

Tôi khẽ gật đầu. “Bước tiếp theo cô đã làm thế nào?”

”Bước tiếp theo, tôi cần phải trực tiếp thăm dò Lưu Trí Phổ.” Diệp Thu Vi hờ hững kể tiếp: “Ngày 12 tháng 10, hoạt động kỷ niệm ngày thành lập Đại học C kết thúc. Đêm đó, anh ta hẹn tôi ra ngoài ăn cơm lần thứ hai. Có trải nghiệm từ lần đầu tiên rồi, lần này anh ta tỏ ra tự tin hơn nhiều, cử chỉ lịch sự đúng mực, nói năng hài hước thú vị, lại thêm vào danh tiếng thiên tài trăm năm khó gặp nữa, chẳng trách có nhiều phụ nữ gục ngã trước anh ta như vậy. Khi gọi đồ ăn, anh ta đã lại một lần nữa gọi món khoai từ nấu mật. Sau khi thức ăn được đưa lên đầy đủ, tôi gắp một miếng khoai từ, rồi liền dừng đũa giữa không trung một lát, không trực tiếp để vào đĩa của anh ta mà đưa tới bên miệng anh ta.

Tôi nói:“Anh đúng là rất biết gọi thức ăn, mùa thu trời khô hanh, ăn nhiều khoai từ một chút sẽ giúp nhuận phế sinh tân.” Anh ta hơi sững người rồi liền há miệng ra một cách chậm rãi và căng thẳng. Tôi đưa miếng khoai từ vào trong miệng anh ta, lại nhìn anh ta và mỉm cười hiền dịu. Anh ta nhai rất chậm, đôi bờ vai hơi lay động, yết hầu nhấp nhô lên xuống không ngừng, trong vành mắt thì không ngờ đã rơm rớm nước mắt.”

Tôi thở dài một hơi, miệng hơi hé ra, nhưng lại chẳng biết nên nói gì cho phải.

Diệp Thu Vi đưa mắt liếc nhìn tôi một chút, thế rồi mới nói tiếp: “Tôi đã bón cho anh ta ăn rất nhiều thứ, và rồi sau khi tâm trạng sục sôi dần dần bình lặng trở lại, anh ta đã nhìn tôi bằng ánh mắt chứa chan yêu thương, quyến luyến, và bên trong đó còn mang một nỗi hoài niệm vô cùng sâu sắc nữa. Ánh mắt của anh ta có thể nói là vừa tự nhiên vừa chứa chan tình cảm, chẳng trách hồi ấy Vũ Tú Thần lại không chống đỡ được. Khi đó anh ta còn chưa biết lái xe, vì vậy cũng không có xe, sau khi dùng bữa xong, chúng tôi liền gọi taxi để về. Chúng tôi ngồi cùng với nhau ở ghế sau của taxi. Khi sắp tới nhà tôi, anh ta đột nhiên nắm lấy tay tôi, run giọng nói: “Chị Diệp, tôi không muốn rời xa chị.” Tối đó, tôi đã dẫn anh ta về nhà.”

”Cô...” Tôi hoang mang đưa mắt nhìn Diệp Thu Vi, trong lòng dâng lên vô vàn cảm xúc khó tả, cũng có rất nhiều lời muốn nói, thế nhưng lại như bị mắc xương trong cổ họng, chẳng biết phải bắt đầu từ đâu. “Cô đưa anh ta về nhà, lẽ nào…”

“Không...” Điệp Thu Vi dường như đã nhìn thấu được tâm tư của tôi, “Tôi đưa anh ta về nhà chỉ là nhằm hiểu anh ta hơn, qua đó thao túng tâm lý của anh ta mà thôi.”

Tôi thầm thở phào một hơi, lẳng lặng gật đầu.

Dịệp Thu Vi lại nói tiếp: “Khi về đến nhà thì đã là chín rưỡi tối, vừa mới vào cửa tôi đã phát hiện Lưu Trí Phổ lại một lần nữa xuất hiện tâm trạng lo lắng ở mức độ nhất định. Trước khi bước chân qua cửa anh ta vẫn còn nói cười tự nhiên với tôi, nhưng sau khi vào nhà thì lại chỉ lặng lẽ ngồi trên xô pha, hai bàn tay nắm chặt, còn cúi đầu không dám nhìn tôi nữa. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta rồi vươn vai một cái, nói là mình rất mệt, muốn nghỉ ngơi sớm một chút, sau đó liền đẩy nhẹ anh ta, bảo anh ta hãy đi tắm trước đi. Nghe thấy yêu cầu này của tôi, sự lo lắng của anh ta lại càng trở nên rõ ràng hơn, bộ dạng còn có vẻ lúng túng hơn cả lần đầu ở riêng với tôi nữa.”

”Lo lắng...” Tôi đưa tay sờ cằm, trầm ngâm nói: “Sự lo lắng này tượng trưng cho điều gì? Cô giục anh ta đi tắm, đây là một hành vi ám thị tình dục rất rõ ràng. Hành vi ám thị tình dục tại sao lại khiến cho sự lo lắng của anh ta tăng thêm chứ? Anh ta theo cô về nhà chẳng lẽ không phải là vì điều này sao?”

”Không.” Diệp Thu Vi nói. “Sự lo lắng đột ngột xuất của anh ta sau khi vào nhà đã khiến tôi tức khắc hiểu được nội tâm vừa phức tạp vừa mâu thuẫn của anh ta khi đó. Quá trình biến hóa trong tâm lý của anh ta có lẽ là như thế này: thời gian sau khi xuống xe và trước khi vào nhà, anh ta hưởng thụ cảm giác ấm áp cũng như tình yêu mà tôi mang lại cho anh ta. Sự nhẹ nhõm thể hiện ra ngoài phản ánh sự thoải mái cực độ ở trong nội tâm và điều này chứng tỏ những cảm giác đó là thứ mà anh ta thực sự muốn có. Sau khi vào nhà, các nhân tố như khung cảnh hoàn toàn xa lạ, cánh cửa phòng ngủ ở gần ngay trước mắt, bầu không khí đặc biệt do một người phụ nữ sống một mình trong nhà trong một thời gian dài tạo ra, đều sẽ tạo thành những sự ám thị tình dục tích cực đối với anh ta, và trong tiềm thức anh ta sẽ bắt đầu ảo tưởng về hành vi tình dục sắp phát sinh với tôi. Sự ảo tưởng này chính là nguồn cơn khiến anh ta cảm thấy lo lắng.”

Tôi ít nhiều đã hiểu được một chút về điều mà cô ta muốn nói. “Phải chăng ý cô là trong tiềm thức, thứ mà anh ta thực sự muốn có là cảm giác được sống cùng với cô, hoàn toàn không có quan hệ trực tiếp gì với tình dục? Dưới sự ám thị của một khung cảnh xa lạ, anh ta không cách nào kìm nén sự ảo tưởng về tình dục của mình, điều này sẽ phá hoại cảm giác tốt đẹp kia, thậm chí còn khiến anh ta nảy sinh sự lo ngại tiềm tàng về mối quan hệ trong tương lai giữa cô và anh ta, từ đó mới xuất hiện tâm trạng lo lắng. Tôi nói vậy không sai chứ?”

Diệp Thu Vi cúi xuống, nhẹ nhàng đẩy gọng kính lên trên một chút, rồi lại đột ngột ngẩng đầu. Ánh mắt của cô ta như hòa thành một thể với ánh dương và cùng chiếu ra ngoài, ánh lên một vẻ vừa rực rỡ vừa kỳ dị. Tôi không kìm được khẽ ho một tiếng, thân thể vốn đang buông lỏng sau nháy mắt đã trở nên cứng đờ, hai mắt trở nên ngơ ngẩn khi nhìn vào đôi mắt kia của cô ta.

”Đúng vậy.” Cô ta nhìn tôi một lát rồi mới chậm rãi nói. “Trong tiềm thức, điều anh ta khao khát là nhận được sự quan tâm và chăm sóc giống như từ bà nội của mình, cùng với đó là một mối quan hệ không rõ ràng tương tự như giữa anh ta và bà nội, được xây dựng nên từ tình thân, sự ấm áp, tình yêu và tình dục tiềm tàng. Tôi bón cơm cho anh ta ăn, dịu dàng trò chuyện với anh ta, đồng ý không rời xa anh ta, những hành vi này khiến anh ta cảm nhận được sự tồn tại của tình thân, sự ấm áp cùng với một tình yêu tiềm ẩn, còn chưa được bộc bạch rõ. Mối quan hệ này quả thực rất gần gũi với cảm giác mà bà nội mang lại cho anh ta thế nhưng, việc sắp phát sinh hành vi tình dục với tôi cùng những sự ảo tưởng có liên quan sẽ phá hoại mất nhân tố quan trọng nhất tạo nên cảm giác này, đó là sự không rõ ràng. Một khi thực sự quan hệ tình dục rồi, cảm giác này sẽ không thể nào trở lại như ban đầu được nữa.”

Tôi một mặt ghi chép, một mặt tưởng tượng xem đó là một cảm giác như thế nào.

”Nhưng anh ta dù sao cũng là một người đàn ông trưởng thành.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Dưới sự tác động của bản năng, xã hội và những người xung quanh, ý thức của anh ta sớm đã tiếp nhận một sự thực như thế này: Nam nữ sau khi yêu nhau, phát sinh quan hệ tình dục với nhau là điều hợp lý và tất yếu. Đương nhiên, đây chỉ là một tâm lý hết sức bình thường. Do đó, tuy trong tiềm thức anh ta khao khát giữ lại sự không rõ ràng, vậy nhưng lại chưa từng có ý thức rõ ràng về việc ngăn cản không cho sự không rõ ràng này bị phá hoại. Chính vì như thế nên về sau anh ta mới có những hành vi tình dục vô trách nhiệm với các đối tượng mà mình qua lại, mục đích chính là để bù đắp cảm giác trống trải sau khi sự không rõ ràng kia biến mất. Anh ta chia tay với Vũ Tú Thần thoạt nhìn thì có vẻ như là vì Vũ Tú Thần đã từ chối bón cơm cho anh ta, nhưng đó kỳ thực chỉ là ngòi nổ mà thôi, nguyên nhân căn bản là tình cảm của hai người đã không còn ở giai đoạn không rõ ràng nữa. Có thể nói như thế này, bắt đầu từ lúc phát sinh quan hệ tình dục, việc chia tay giữa hai người bọn họ đã là điều không thể tránh khỏi.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm không nói.

Diệp Thu Vi nói tiếp: “Lưu Trí Phổ chưa từng nghiên cứu về tâm lý học, do đó không thể nhận thức rõ được tình trạng tâm lý của mình. Bản thân anh ta có lẽ cũng rất nghi hoặc, không biết tình yêu mà mình tìm kiếm rốt cuộc là một thứ tình yêu như thế nào. Do đó anh ta không ngừng tìm bạn gái, nhưng sau đó dưới sự chi phối của bản năng và các nhân tố xã hội, anh ta đã tự tay phá hoại sự không rõ ràng mà mình khao khát, thế rồi không ngừng chia tay những người bạn gái đó của mình. Sau khi vào nhà tôi, sự ám thị tình dục mãnh liệt khiến tiềm thức của anh ta trong khi ảo tưởng về hành vi tình dục đã dự cảm được sự không rõ ràng sắp biến mất. Chính loại tâm lý vi diệu này mới là căn nguyên khiến anh ta đột nhiên cảm thấy lo lắng. Do đó, sau khi tôi đề nghị anh ta đi tắm - cũng tức là tạo ra một sự ám thị tình dục rõ ràng và trực tiếp hơn, sự lo lắng của anh ta mới tăng lên như thế.”

Tôi hít sâu một hơi, dòng suy nghĩ xoay chuyển liên hồi, một lát sau liền thay cô ta tổng kết: “Chứng mặc cảm Oedipus đối với bà nội và hành vi tình dục phát sinh ngoài đời thực là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, nhưng anh ta không ý thức được điều này, cho rằng hai thứ đó là một, thậm chí còn gửi gắm chứng mặc cảm Oedipus vào hành vi tình dục nữa. Trong phương thức thực hiện có tồn tại sai lầm căn bản, anh ta đương nhiên không thể nào có được kết quả mà mình muốn.” Tôi nhìn chằm chằm vào luồng sáng kỳ dị phản chiếu từ trên mắt kính của cô ta, khẽ gật đầu, nói: “Muốn thao túng tâm lý của anh ta, cô cần phải giúp anh ta nhận thức được sai lầm của mình trước đã.”

”Đó chính là nguyên nhân mà tôi dẫn anh ta về nhà.” Diệp Thu Vi kể tiếp:“Sau khi tôi đề nghị anh ta đi tắm, anh ta đã tỏ ra lo lắng và do dự suốt một hồi lâu, cuối cùng mới hạ quyết tâm và đi vào phòng tắm. Mấy phút sau, tôi đi vào theo, đề nghị được cọ lưng cho anh ta. Anh ta rất thích thú trước việc được tôi cọ lưng giúp, điều này thể hiện rõ sự thoải mái trong tâm lý. Sau khi cọ lưng xong, tôi lại dùng khăn bông lau người cho anh ta. Anh ta nảy sinh ham muốn tình dục, liền ôm chầm lấy tôi, đưa tay lần mò trên người tôi. Tôi đẩy tay anh ta ra, khẽ vỗ vào mặt anh ta, cười mắng: “Cái đồ quỷ sứ này, ngoan ngoãn một chút, đừng có nghịch nữa!“.”

Rất kỳ lạ, lần này khi nghe Diệp Thu Vi kể về việc mình có tiếp xúc da thịt với một người đàn ông khác, tôi lại chẳng hề cảm thấy khó chịu hay phẫn nộ chút nào.

”Rất hay.” Tôi nói. “Bà nội anh ta nhất định cũng từng tắm cho anh ta rồi, mà xuất phát từ tình yêu không rõ ràng đối với bà nội, hồi nhỏ có lẽ anh ta cũng từng dùng tay vuốt ve thân thể bà nội. Phản ứng của bà cụ rất có thể cũng giống như cô, đó là đẩy tay anh ta ra rồi cười mắng. Sau biểu hiện như vậy, cô nhất định là lại càng giống với bà nội của anh ta hơn.”

”Đúng thế.” Diệp Thu Vi nói. “Khi đó anh ta đã hơi ngẩn ra một chút, hoàn toàn không còn lo lắng nữa, đồng thời còn té nước vào tôi và đùa nghịch với tôi nữa. Có lẽ la do nảy sinh sự đồng điệu trong tình cảm nên anh ta mới tiến hành mô phỏng hành vi hồi nhỏ trong vô thức... Ngày trước, khi bà nội tắm rửa cho anh ta, anh ta nhất định là đã thường xuyên đùa nghịch với bà nội như vậy.”

Tôi khẽ gật đầu.

”Sau khi tắm rửa xong xuôi, tôi bảo anh ta mặc đồ ngủ của chồng tôi.” Diệp Thu Vi lại kể tiếp: 'Tâm trạng lo lắng lại một lần nữa xuất hiện, có lẽ là vì sự ám thị tình dục tới từ bộ đồ ngủ. Chúng tôi nằm lên giường, tắt đèn đi, trò chuyện một lát, rồi anh ta liền ôm lấy tôi một lần nữa, muốn vuốt ve tôi. Tôi vội vã đẩy anh ta ra, lại khẽ vỗ đầu anh ta mấy cái, dùng giọng nghiêm khắc xen lẫn vẻ quan tâm nói: “Cái đồ quỷ sứ này, sao vẫn cứ không nghe lời thế hả? Nằm yên nào, ngủ đi, buổi tối phải ngủ cho ngon thì sáng dậy người mới khỏe khoắn được.” Sau khi im lặng một lát, ham muốn tình dục lại một lần nữa trỗi dậy, thế là anh ta lại nôn nóng đè lên người. Lúc này, nếu tôi sử dụng bạo lực với anh ta thì nhất định sẽ phá hỏng cảm giác thân mật mà mình đã mang lại cho anh la. Tôi chỉ khẽ xoa đầu anh ta, dùng giọng cực kỳ nghiêm khắc nói: “Cậu trưởng thành rồi, có sức khỏe rồi, thế là liền ức hiếp tôi phải không?” Anh ta sững người ra một chút, ham muốn tình dục lập tức vơi bớt đi nhiều, sau đó liền ngoan ngoãn nằm im một bên. Một lát sau, tôi lại dùng giọng ôn tồn nói “Mau ngủ đi, tôi sẽ mãi mãi ở bên cậu. Anh ta nằm đó, hơi thở dần trở nên nặng nề, từ trong mũi còn bắt đầu phát ra những tiếng lào xào khe khẽ. Tôi nghĩ, qua tôi, anh ta nhất định đã cảm nhận được sự ấm áp giống như từ bà nội của mình. Kế đến, tôi nhẹ nhàng ôm lấy anh ta, lại khẽ vỗ lưng anh ta, dùng giọng điệu như của một người mẹ đang nói với con trai mình: “Tiểu Trí, mau ngủ đi, ngủ ngoan nào!” Sau đó, anh ta không còn thể hiện ra ham muốn tình dục quá mãnh liệt nữa, ngoan ngoãn ngủ yên đến tận khi trời sáng.”

Tôi buông bút xuống, trầm ngâm nói: “Sau chuyện này, ngoài sự nuối tiếc do không thể giải tỏa tình dục, anh ta nhất định sẽ lại càng thích cảm giác khi được ở bên cô hơn, thậm chí còn dần dần nảy sinh tâm lý quyến luyến đối với cô. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, để có thể khiến anh ta nảy sinh tâm lý hoàn toàn ỷ lại vào cô, cô nhất định phải bỏ thêm công sức trong hành vi bón cơm nữa mới được. Những người phụ nữ khác vì từ chối bón cơm cho anh ta mà bị ruồng rẫy, điều này chứng tỏ hành vi bón cơm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Lưu Trí Phổ, và nó rõ ràng cũng là một thứ vũ khí hết sức hữu hiệu mà cô có thể lợi dụng.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Đêm đó tôi cố tình không đắp chăn, hôm sau còn chưa tới sáu giờ sáng đã tỉnh dậy vì lạnh quá, thế rồi bèn hắt hơi mấy cái liền, cổ họng trở nên rất đau. Lưu Trí Phổ bị tiếng hắt hơi của tôi đánh thức, bèn hỏi tôi là có phải đã bị cảm lạnh rồi không. Tôi vội vàng xua tay, vừa sịt mũi vừa nói rằng mình không sao.”

“Vô tư, kiên cường.” Tôi nói. “Bà nội anh ta vì đào củ từ cho cháu mình mà bị ngã xuống khe núi, về sau còn vì thế mà qua đời, tình yêu mà bà cụ dành cho anh ta có thể nói là vừa vô tư vừa cao thượng. Cùng với đó bà cụ đã phải một mình nuôi dạy Lưu Trí Phổ suốt mấy năm liền ở nông thôn, sự khó khăn gian khổ trong quá trình đó nhất định là không nhỏ chút nào, cho nên thường ngày bà cụ có lẽ là một con người rất kiên cường và cứng cỏi. Đôi khi bị đau ốm hay cảm thấy buồn tủi, bà cụ nhất định là đã cố gắng chịu đựng, không hề biểu hiện ra trước mặt cháu mình. Điều mà cô cần làm chính là mang lại cho Lưu Trí Phổ những ấn tượng và sự cảm nhận tương tự như thế.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Khi ở trước mặt bạn tình, một người phụ nữ dù kiên cường và hiền thục đến mấy thì ở nơi sâu thẳm trong nội tâm vẫn luôn khao khát nhận được sự quan tâm và chăm sóc từ đối phương. Những cử chỉ nhỏ nhặt của Vũ Tú Thần sau khi bị cảm cúm, của Phó Phán Xuân sau khi mang thai, nhất định là đã mang tới cho Lưu Trí Phổ cảm giác về sự yếu đuối, đáng thương. Cảm giác này sẽ làm giảm bớt sự ỷ lại và quyến luyến của Lưu Trí Phổ đối với bọn họ, và đây cũng là một trong số các nhân tố tâm lý khiến anh ta quyết định chia tay. Khi đó tôi cố tình sụt sịt mũi, sau khi đứng dậy lại nhanh chóng ngồi xuống, giả vờ như bị nhức đầu. Lưu Trí Phổ lại một lần nữa tỏ vẻ quan tâm hỏi tôi bị làm sao vậy, tôi liền làm bộ sụt sịt mũi mạnh hơn, cười nói: “Yên tâm, không sao đâu, cậu cứ ngủ thêm chút nữa đi, để tôi đi chuẩn bị bữa sáng cho cậu.” Khi ăn sáng, tuy tôi cảm thấy rất khó chịu nhưng vẫn luôn cười mỉm, thỉnh thoảng còn bón đồ ăn cho anh ta nữa. Mỗi lần muốn hắt hơi, tôi đều cố tình đi vào trong nhà vệ sinh. Đến lần thứ ba tôi đi từ trong nhà vệ sinh ra, anh ta chợt kéo tay tôi, nhìn tôi vẻ lo lắng. Tới lúc này tôi mới khẽ cười, nói: “Không sao đâu, chắc tại đêm qua tôi bị nhiễm lạnh đấy thôi!” Anh ta hỏi tôi là tại sao lại bị nhiễm lạnh, tôi giả bộ né tránh mấy lần, cuối cùng mới nói: “Được rồi, được rồi mà, thực sự không sao đâu. Chẳng là đêm qua tôi sợ cậu bị lạnh, thế là đắp nhiều chăn cho cậu một chút, đến sáng ngủ dậy thì mới phát hiện là mình không đắp chăn.” Nói xong, tôi còn bón đồ ăn cho anh ta nữa, bên khóe miệng vẫn giữ một nụ cười hiền từ, nhưng thỉnh thoảng cũng tỏ ra khó chịu và mỏi mệt.”

Tôi không kìm được tỏ rõ sự khâm phục, nói: “Cứ tiếp tục thế này, xem ra anh ta có muốn không bị cô khống chế cũng khó.”

”Sức khỏe của tôi vốn đã không được tốt, sau lần nhiễm lạnh đó thì thực sự đã bị cảm cúm khá nghiêm trọng.” Diệp Thu Vi nói. “Trong quãng thời gian gần một tuần sau đó, bệnh cảm cúm của tôi ngày một nặng hơn, nhưng mỗi khi ở bên Lưu Trí Phổ, tôi vẫn chăm sóc anh ta hết sức cẩn thận. Sự quyến luyến của anh ta đối với tôi cũng vì thế mà ngày càng sâu sắc, tuy thỉnh thoảng vẫn để lộ ra ham muốn tình dục, nhưng lần nào tôi cũng có thể dễ dàng dẫn dắt cho anh ta tự kiềm chế. Tối ngày 17 tháng 10, anh ta lại đến ngủ ở nhà tôi, suốt cả đêm đều không thể hiện ra chút muốn tình dục nào. Sáng hôm sau tỉnh dậy, anh ta nghe thấy giọng nói khàn khàn của tôi thì liền vội vàng ôm lấy cánh tay tôi, nói: “Chị Diệp, suốt cuộc đời này tôi đều không muốn rời xa chị. Chị đừng bỏ rơi tôi nhé!” Giọng điệu lúc đó của anh ta thật chẳng khác nào một đứa bé đang nài nỉ mẹ của mình.”

Tôi hít sâu một hơi. “Anh ta cho rằng cô là bạn tình của anh ta, nhưng lại không biết rằng trong tiềm thức, bản thân đã coi cô như là mẹ, là bà nội rồi. Sau một tuần cố gắng, cô đã thành công thao túng được tâm lý của anh ta, tiếp đó đã đến lúc phải lợi dụng anh ta để điều tra Lưu Hướng Đông rồi chứ?”

Diệp Thu Vi nhẹ nhàng tựa người vào ghế hờ hững nói: “Lưu Hướng Đông dù sao cũng là cha của anh ta, muốn khiến anh ta vì tôi mà phản bội cha mình thì còn cần tác động vào tâm lý của anh ta thêm một chút nữa mới được. Ngày 20 tháng 10, tôi bắt đầu tìm cách gây chia rẽ mối quan hệ giữa anh ta và Lưu Hướng Đông.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 4: Bí mật của báo cáo nghiên cứu


Tôi vốn chỉ muốn nhờ Lưu Trí Phổ giúp đỡ tìm kiếm manh mối về công trình nghiên cứu M, không ngờ sau đó anh ta lại đưa cho tôi một bản “Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chất gây nghiện của M” hoàn chỉnh. Bản báo cáo mang đầy màu sắc thần bí đó cứ như vậy mà lộ ra ngoài ánh sáng.

Tôi im lặng lắng nghe.

”Đó là một đêm mưa.” Diệp Thu Vi nói: “Anh ta nằm trên giường, tôi nhẹ nhàng ôm lấy anh ta, còn vuốt ve trán anh ta nữa. Chúng tôi cùng lắng nghe tiếng mưa rơi, đồng thời trò chuyện vu vơ về tương lai, về cuộc đời, về lý tưởng, về gia đình. Khi tôi nhắc tới chuyện của chồng tôi, anh ta tỏ ra vô cùng lo lắng, hỏi là tôi liệu có rời xa anh ta không. Tôi bèn đáp: “Đương nhiên là không rồi, chồng tôi có lẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa, sau này tôi sẽ vĩnh viễn ở bên cậu.” Anh ta nắm chặt lấy cánh tay tôi, nói là không muốn rời xa tôi, muốn kết hôn với tôi, qua đó thực sự trở thành người thân với tôi, rồi còn hỏi tôi là có bằng lòng hay không. Tôi cố tình né tránh câu hỏi này của anh ta, nói: “Chúng ta bây giờ đã là người thân rồi, hơn nữa sẽ mãi mãi là như vậy.” Anh ta tỏ ra rất hài lòng, không tiếp tục nhắc tới vấn đề này nữa. Lựa lúc cuộc trò chuyện đang vui, tôi chủ động nói tới cha mình, nói về sự chăm sóc và dạy dỗ của cha đối với tôi, cũng nói về việc tôi từ nhỏ đã có mâu thuẫn với cha nữa. Sau đó, chủ đề của cuộc trò chuyện tất nhiên đã chuyển tới anh ta và cha anh ta. Anh ta rất kính trọng cha mình, bắt đầu hưng phấn nói tới thành tựu của cha mình trong sự nghiệp, nói tới mối quan hệ rộng rãi và cả khả năng kiếm tiền của cha mình nữa, vậy nhưng lại không hề nhắc chút nào về sức hút trong nhân cách của cha mình hay những mẩu chuyện nhỏ ấm áp giữa hai cha con bọn họ.”

Tôi nói:“Xem ra, sự kính trọng của anh ta với Lưu Hướng Đông có vẻ giống như là sự kính sợ của thuộc cấp đối với thượng cấp, hoặc cũng có thể nói là sự ngưỡng mộ về địa vị và tiền tài của người trẻ tuổi đối với người trung niên, hoàn toàn không có vẻ gì là sự kính trọng từ nội tâm của một người con với một người cha cả. Trước đó, sự né tránh và chán ghét trong vô thức của anh ta với cha mình cũng là một minh chứng cho điều này.”

”Tình yêu đối với người sinh thành khác giới trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục sẽ dần dần chuyển hóa thành sự tán đồng và mô phỏng đối với người sinh thành cùng giới, do đó trong quãng thời gian cuối của giai đoạn này, các bé gái sẽ ỷ lại vào mẹ mình, còn các bé trai thì sẽ sùng bái cha mình.” Diệp Thu Vi phân tích một cách ngắn gọn: “Khi đó Lưu Hướng Đông không hề ở bên con trai mình, bỏ lỡ mất quãng thời gian tốt nhất để xây dựng nên một mối quan hệ cha con đúng đắn, vậy nên sự ngăn cách giữa hai cha con về sau tất nhiên là điều khó tránh khỏi.”

Tôi nhớ đến đứa con trai mới vừa đầy năm tuổi của mình, trong lòng dâng lên một cảm giác ấm áp khó mà dùng lời miêu tả.

”Nghe anh ta kể về cha mình một lúc, tôi liền hiểu ngay ý nghĩa của cha anh ta trong tiềm thức của anh ta.” Diệp Thu Vi nói. “Anh ta cho rằng mình rất kính trọng cha, thế nhưng trong tiềm thức, cái gọi là kính trọng đó chẳng qua chỉ là nỗi sợ hãi đối với của cải cũng như địa vị của ông ta mà thôi. Muốn khiến anh ta phản bội cha mình, tôi trước tiên phải làm được hai điều: Thứ nhất, loại trừ nỗi sợ hãi đối với địa vị xã hội của cha anh ta trong tiềm thức của anh ta; thứ hai, cho dù không thể hoàn toàn loại trừ nỗi sợ hãi này thì cũng cần khiến nó suy yếu bớt, sau đó ép anh ta đưa ra lựa chọn giữa sự quyến luyến đối với tôi và sự sợ hãi đối với cha anh ta, đồng thời dẫn dắt sao cho anh ta lựa chọn sự quyến luyến đối với tôi.”

Tôi nói: “Xin hãy nêu ra phương pháp cụ thể đi.”

”Có hai cách để loại trừ nỗi sợ hãi, thứ nhất là làm suy yếu bản thân nỗi sợ hãi, thứ hai là tăng cường dũng khí và sự tự tin để đối mặt với nỗi sợ hãi.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi dùng giọng ngưỡng mộ nói: “Giáo sư Lưu tài giỏi như vậy, chẳng trách lại bồi dưỡng ra được một người con trai như

cậu. Tôi nhìn người chuẩn lắm, tôi thấy thành tựu của cậu sau này nhất định sẽ vượt qua ông ấy.” Lưu Trí Phổ dù sao cũng còn trẻ tuổi, lại chưa từng gặp phải chút trắc trở nào trong sự nghiệp, thêm vào đó còn mang lòng quyến luyến và tin tưởng tôi, thế là bèn nói vẻ hết sức tự tin: “Đương nhiên rồi, tôi rõ ràng là phải hơn ông ấy chứ.” Tôi lại nói tiếp: “Bây giờ thì địa vị của cha cậu cao hơn cậu, nhưng địa vị của cậu sau này thì ông ấy chẳng thể nào so sánh được đâu. Hơn nữa cậu là con trai của ông ấy, địa vị của ông ấy không chỉ là của bản thân ông ấy, mà còn là nền tảng để cậu vươn lên trong sự nghiệp nữa. Ngoài ra, tất cả tài sản của ông ấy sau này sẽ đều là của cậu, cho nên cậu không cần phải sợ ông ấy.”.”

Tôi hỏi: “Không cần phải sợ ông ấy - khi cô nói ra câu này, Lưu Trí Phố đã có phản ứng như thế nào?”

”Anh ta ngẩn người ra rất lâu. Chữ “sợ” đó hiển nhiên là đã đánh trúng vào nội tâm của anh ta.” Diệp Thu Vi nói. “Cuối cùng, anh ta thở dài, nói:“Tôi quả thực có hơi sợ cha tôi.“.”

”Thẳng thắn thừa nhận nỗi sợ hãi, đó là tiền đề để chiến thắng nó.” Tôi khẽ gật đầu. “Có được câu nói này rồi, những việc cô cần làm tiếp theo sẽ đơn giản hơn nhiều.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi ngẫm nghĩ một chút rồi kể tiếp: “Khi đó tôi khẽ xoa trán anh ta rồi cười, nói: “Sự sợ hãi này hoàn toàn là thừa thãi. Điều mà cậu sợ không phải là bản thân ông ấy, mà là thành tựu, địa vị xã hội và gia tài của ông ấy. Những thứ này cậu về sau nhất định đều sẽ có, hơn nữa còn có nhiều hơn ông ấy, tại sao lại phải sợ ông ấy chứ?” Có lẽ trước đây anh ta chưa từng tìm hiểu về nội tâm của bản thân, do đó sau khi nghe tôi phân tích như vậy thì lộ vẻ trầm tư, một lát sau bèn nói:“Đúng vậy, tại sao tôi lại phải sợ ông ấy nhỉ?“.”

Tôi nói: “Cô đã dẫn dắt cho anh ta tự phân tích, khiến nội tâm của anh ta xuất hiện sự dao động trong thời gian ngắn. Nhưng nỗi sợ hãi của anh ta được hình thành trong một quá trình lâu dài, không thể hoàn toàn biến mất chỉ với vài lời nói như thế được. Cô nên tranh thủ lúc anh ta tạm thời chiến thắng nỗi sợ hãi mà dẫn dắt anh ta đưa ra sự lựa chọn giữa cô và Lưu Hướng Đông.”

Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi bằng ánh mắt kinh ngạc, miệng hơi hé ra rồi lại khép vào, sau đó chậm rãi nói: “Anh nói rất đúng, tôi cần phải tranh thủ nắm bắt cơ hội này. Tôi nói: “Tiểu Trí này, cậu đã từng nghe nói về M chưa?” Anh ta ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Tôi từng nghe thấy cha tôi nhắc đến, còn từng nhìn thấy một số tài liệu có liên quan trong phòng đọc sách của cha tôi nữa, đó là một loại hợp chất hóa học mới và ít được dùng đến đúng không?” Tôi nói với anh ta rằng hiện nay trên thế giới, M còn chưa được nghiên cứu nhiều, do đó có rất nhiều không gian để phát triển, và đó cũng chính là trọng điểm nghiên cứu hiện tại của Giáo sư Lưu. Anh ta chậm rãi gật đầu, dường như đã phát giác ra dụng ý của tôi.

Tôi lại nói tiếp: “Nếu cậu có thể đạt được thành tựu trong nghiên cứu về M, vậy thì nhất định sẽ trở thành một ngôi sao học thuật lừng danh trong nước và thậm chí là trên thế giới.”

Nghe thấy những lời nói khoa trương đó của cô ta, tôi không kìm được cười hỏi: “Anh ta đã tin ư?”

”Anh ta vừa trẻ tuổi lại vừa không có tài năng thực sự, do đó đã hoàn toàn tin vào những gì tôi nói.” Diệp Thi Vi kể tiếp: “Nghe những lời dụ dỗ đó của tôi, anh ta đã có chút kích động, thế là cứ trở mình liên tục. Tôi hỏi: “Giáo sư Lưu vẫn luôn nghiên cứu về phương diện này, lẽ nào ông ấy chưa từng để cậu tham gia ư?” Anh ta thở dài đáp: “Đúng vậy.” Tôi làm bộ vô tình nói: “Một cơ hội tốt như vậy mà lại không trao cho cậu, xem ra ông ấy vẫn còn chưa đủ tin tưởng cậu rồi.” Khi đó anh ta đã liên tục hít thở sâu mấy lần, hiển nhiên là khá căm tức.”

Tôi khẽ gật đầu. “Thông qua M để gây chia rẽ mối quan hệ giữa hai cha con bọn họ, đây quả là một cách rất hay.”

Diệp Thu Vi vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh. “Tôi khẽ vỗ lưng anh ta, bảo anh ta hãy bớt giận rồi nói: “Tiểu Trí, đây là một cơ hội rất tốt, cậu nhất định phải nắm lấy. Sau này cậu chính là người thân duy nhất của tôi, tôi nhất định sẽ dốc hết sức mình để giúp cậu.” Anh ta lại một lần nữa tỏ ra kích động, vội vàng hỏi: “Thật ư? Chị sẽ giúp tôi thế nào? Tôi nên làm thế nào?” Tôi bảo anh ta đừng nôn nóng, cứ từ từ nghe tôi nói đã. Sau đó, tôi không ngừng nhấn mạnh về tính bảo mật cũng như tính tiên tiến của M, anh ta rất tin vào điều này. Sau khi thời cơ đã chín muồi, tôi bèn nói thẳng: “Tiểu Trí, nói thật với cậu nhé, thời gian qua tôi vẫn luôn tiến hành nghiên cứu về M, nhưng vì sức tôi có hạn nên tuy đã có được rất nhiều đột phá về mặt lý luận, song lại vẫn thiếu rất nhiều thông tìm thực nghiệm đáng tin cậy- Tôi biết, Giáo sư Lưu và đội ngũ nghiên cứu khoa học của ông ấy đang tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về M, nếu cậu có thể giúp tôi tìm được những tài liệu thực nghiệm có liên quan, lại kết hợp với các nghiên cứu lý luận của tôi bấy lâu nay nữa, chúng ta nhất định sẽ có được một công trình nghiên cứu mang tính đột phá. Đến lúc đó, tôi hy vọng cậu sẽ đứng ra công bố thành quả nghiên cứu. Đối với tôi, có thể nhìn thấy cậu giành được thành công trong sự nghiệp là một điều hạnh phúc vô cùng.”

Tôi hỏi: “Anh ta tin lời cô nói chứ?”

Diệp Thu Vi nói: “Có thể nói là hoàn toàn tin tưởng.”

Nếu tôi là Lưu Trí Phổ, tôi chắc chắn sẽ không tin vào những lời nói hoang đường này. Có điều, tỉ mỉ ngẫm lại: Thứ nhất, Lưu Trí Phổ còn trẻ tuổi, chưa từng gặp phải sóng gió gì, hơn nữa cũng chẳng biết mấy về lĩnh vực nghiên cứu hóa học; thứ hai, anh ta khi đó đang ôm lòng quyến luyến Diệp Thu Vi tột độ, đương nhiên là cô ta nói gì thì tin nấy; thứ ba, nỗi sợ hãi đối với địa vị và tài sản của cha sẽ làm anh ta nảy sinh khát vọng vượt qua cha mình trong vô thức, thứ khát vọng này khiến anh ta sinh ra hoặc là tin vào một số điều ảo tưởng hoàn toàn không thực tế; thứ tư, những nghiên cứu về M thực sự có tồn tại, hơn nữa Lưu Trí Phổ còn từng nhìn thấy một số tài liệu như thế rồi, và điều này rõ ràng đã làm cho những lời nói của Diệp Thu Vi trở nên đáng tin hơn; thứ năm, tôi vì được nghe Diệp Thu Vi kể lại tỉ mỉ nguồn cơn sự việc nên mới có được một sự nhận thức rõ ràng và mạch lạc như thế, còn Lưu Tri Phổ thì vẫn luôn phải chịu sự ám thị cũng như dẫn dắt của Diệp Thu Vi, do đó đương nhiên không thể có được cái nhìn rạch ròi như một người ngoài cuộc là tôi được.

Tổng hợp những nhân tố này lại, Lưu Trí Phổ lựa chọn tin tưởng vào lời của Diệp Thu Vi cũng là một điều hợp tình hợp lý.

Tôi cầm bút lên, định viết lại một vài điều gì đó, nhưng sau cùng lại ngẩn ngơ buông bút xuống, hỏi: “Bước tiếp theo thì sao?”

”Bước tiếp theo là ép anh ta phải đưa ra lựa chọn.” Diệp Thu Vi nói. “Cho dù anh ta đã hoàn toàn tin vào lời tôi nói và rất muốn nắm lấy cơ hội này để vượt qua cha mình, vậy nhưng xuất phát từ nỗi sợ hãi đã ăn sâu vào trong xương tùy đối với cha, anh ta chưa chắc đã chịu có hành động gì cả. Sau khi nghe tôi nói xong, anh ta im lặng không nói năng gì, hiển nhiên là rất do dự. Thế là tôi bèn nói: “Tiểu Trí này, vì tương lai của chúng ta, cậu nhất định phải nắm lấy cơ hội này. Nếu lần này cậu có thể thành công, tôi sẽ kết hôn với cậu. Còn nếu như cậu cứ sợ hãi rụt rè, vậy thì hãy coi như là tôi đã nhìn nhầm cậu đi, chúng ta cũng không cần thiết phải ở bên nhau tiếp nữa.” Anh ta vẫn do dự không dám đưa ra quyết định, thế là tôi bèn làm bộ thất vọng rụt cánh tay đang ôm anh ta về, quay người qua hướng khác, hướng lưng về phía anh ta. Mấy giây sau, anh ta đặt tay lên người tôi, nhẹ nhàng lay tôi. Tôi quay người lại, mỉm cười nhìn anh ta, cất giọng chân thành hết sức có thể: “Vừa rồi tôi hơi giận nên mới nói vậy thôi. Yên tâm đi, Tiểu Trí, bất kể cậu lựa chọn thế nào, tôi cũng sẽ vĩnh viễn ở bên cậu, không bao giờ rời xa cậu đâu. Tôi chỉ hy vọng cậu có thể công thành danh toại, thoát khỏi sự bức ép và uy hiếp từ cha cậu mà thôi, lẽ nào đây không phải là điều mà cậu vẫn luôn mong muốn?” Anh ta suy nghĩ rất lâu, cuối cùng liền

đặt tay lên tay tôi, nói: “Yên tâm, tôi sẽ không làm chị phải thất vọng đâu.“.”

Tôi thè lưỡi liếm bờ môi khô nẻ, lại dùng răng cắn bỏ một mảng da chết, khẽ gật đầu, nói: “Sau đó anh ta đã giúp cô tìm được cái gì?”

”Báo cáo nghiên cứu.” Diệp Thu Vi nói. “Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chất gây nghiện của M.”

Tôi bất giác cả kinh. “Bản báo cáo đó, cô...”

Diệp Thu Vi vẫn giữ nguyên vẻ mặt hờ hững. “Tôi vốn chỉ muốn nhờ Lưu Trí Phổ giúp đỡ tìm kiếm manh mối về công trình nghiên cứu M, từ đó suy đoán ra ý nghĩa của M đối với Công ty E, nhưng thật bất ngờ, tối ngày 27 tháng 10, anh ta đã đưa cho tôi một bản Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chất gây nghiện của M hoàn chỉnh.”

Bản báo cáo mang đầy màu sắc thần bí đó cứ như vậy mà lộ ra ngoài ánh sáng.

Tôi cố giữ bình tĩnh hỏi: “Nội dung của bản báo cáo đó... Cô rốt cuộc đã có được những thu hoạch như thế nào?”

Diệp Thu Vi suy nghĩ một lát rồi chậm rãi kể lại: “Thời gian hoàn thành bản báo cáo đó là tháng 5 năm 2008, tham gia nghiên cứu chỉ có ba người, lần lượt là Tạ Bác Văn, Chu Vân và chồng tôi. Tôi đã dùng nửa tiếng đồng hồ để quan sát, kiểm tra, cuối cùng xác định được rằng bản báo cáo nghiên cứu mà Lưu Trí Phổ lấy trộm tới chính là bản mà tôi nhìn thấy trong két nước nhà Tạ Bác Văn, cũng là bản gốc được Công ty E mua về. Bản báo cáo này có quy cách lý luận chi tiết, các loại thí nghiệm cũng như Trong điều kiện thích hợp, M có thể tạo ra cho hệ thống trung khu thần kinh của con người một sự tác động không cách nào xoay chuyển, từ đó khiến cho hệ thống thần kinh nảy sinh tính ỷ lại.”

Tôi bất giác hơi cau mày lại. “Chờ đã, nói như vậy là nghiên cứu đó cho rằng M có tính chất gây nghiện ư? Nhưng tôi nhớ là Đinh Tuấn Văn từng nói một cách chắc nịch là M tuyệt đối không có khả năng gây nghiện cho con người cơ mà!”

'Tôi cũng ngay lập tức nghĩ tới điều này.” Diệp Thu Vì nói. “Ban đầu, tôi và Lưu Trí Phổ cùng xem xét kĩ bản báo cáo đó hai lần, vậy nhưng không phát hiện ra chỗ nào thật sự khả nghi. Tối đến, sau khi dỗ dành Lưu Trí Phổ đi ngủ, tôi tới phòng đọc sách nghiên cứu kĩ bản báo cáo đó từ đầu tới cuối một lượt, thế rồi mới phát hiện bên trong đó có rất nhiều vấn đề.”

Tôi vội vàng cầm bút lên.

Diệp Thu Vi im lặng trong chốc lát rồi liền khẽ thở dài một tiếng không dễ gì phát giác, chậm rãi nói: “Bản báo cáo đó thoạt xem thì lý lẽ và dẫn chứng đều có đủ cả, nhưng thực ra sơ hở trăm bề, căn bản không thể đứng vững, có một số hiện tượng và số liệu thực nghiệm tồn tại mâu thuẫn rõ ràng, nhưng đều được coi là cứ liệu và chứng cứ đáng tin cậy; có một số thông tin chi có thể coi là suy luận, phán đoán được hình thành dựa trên cơ sở thực nghiệm, hoàn toàn không mang tính quyết định, vậy nhưng lại được cho là kết luận kháchquan; quá quắt hơn, trong sự ghi chép và tính toán về một số số liệu còn xuất hiện những sai lầm hết sức sơ đẳng.”

Tôi nhẹ nhàng gõ bút xuống bàn, nhíu chặt đôi mày lại. “Ngay khi đó tôi đã hiểu ra ý nghĩa tồn tại của bản báo cáo này.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp:“Với sự hiểu biết của bản thân về Tạ Bác Văn và chồng mình, tôi tin rằng bọn họ tuyệt đối không bao giờ đồng thời phạm phải nhiều sai lầm như vậy trong việc nghiên cứu khoa học mà lại không hề hay biết, cho nên những hành vi như là suy luận khiên cưỡng, đánh tráo khái niệm, đưa số liệu sai vào báo cáo có khả năng đều là do bọn họ cố ý làm ra.”

”Cố ý?” Tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. “Ý cô là công trình nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M kỳ thực là một vụ ngụy tạo có chủ đích?”

”Cho dù M thực sự có thể gây nghiện cho con người thì bản báo cáo nghiên cứu đó cũng không thể cung cấp đầy đủ những chứng cứ thực nghiệm và cơ sở lý luận.” Diệp Thu Vi khẽ vỗ đùi ở ngay phía trên đầu gối chân phải, lồng ngực lại một lần nữa xuất hiện tình trạng phập phồng khá rô ràng. “Tôi đã tiến hành chỉnh lý, quy nạp và thống kê các sai sót lớn nhỏ trong bản báo cáo đó, cuối cùng phát hiện ra một hiện tượng như thế này: Các số liệu và lý luận ở giai đoạn đầu và giữa đều rất kín kẽ, cho dù có xuất hiện điểm đáng ngờ thì cũng được giải thích rất rõ ràng. Nhưng sau một quá trình nghiên cứu, trong phần ghi chép về một lần thí nghiệm vào tháng 11 năm 2007 lần đầu tiên xuất hiện tình trạng coi phán đoán là kết luận, trong mấy tháng sau đó, các sai sót cũng như tình trạng đánh tráo khái niệm xuất hiện càng lúc càng nhiều. Mà điều kỳ lạ là đến giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu, các thông tin thực nghiệm cũng như lý luận đã bất ngờ chặt chẽ trở lại không còn xuất hiện tình trạng như trước đó nữa.”

Tôi khẽ gật đầu. “Sự ngụy tạo chủ yếu xuất hiện ở giai đoạn giữa của quá trình nghiên cứu, chuyện này nói lên được điều gì?”

”Quá trình có lẽ là như thế này.” Diệp Thu Vi nói “Xuất phát từ một mục đích nào đó, Tạ Bác Văn, Chu Vân và chồng tôi đã bí mật tiến hành nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M. Ban đầu, việc nghiên cứu tiến triển rất thuận lợi, bọn họ cũng đều có thái độ cực kỳ nghiêm túc. Nhưng sau khi đi sâu vào nghiên cứu, một số hiện tượng cũng như số liệu thực nghiệm nằm ngoài dự liệu đã bất ngờ xuất hiện, điều này khiến bọn họ hiểu rằng cái gọi là “tính chất gây nghiện của M” rất có thể chỉ là một thứ lý luận suông không cách nào chứng minh. Trong tình huống bình thường, việc nghiên cứu có lẽ nên dừng lại tại đây rồi. Nhưng bọn họ lại không làm như thế, còn dùng một số lý luận khiên cưỡng cùng với phương thức đánh tráo khái niệm để giấu kín các hiện tượng và số liệu bất lợi đi. Trên con đường sai lầm này, bọn họ càng đi càng xa, các sơ hở theo đó mà càng lúc càng nhiều, cũng càng lúc càng trở nên rõ ràng hơn. Đến giai đoạn cuối, bọn họ liền trực tiếp ngụy tạo các hiện tượng cũng như số liệu thực nghiệm, ép chúng phải phục vụ cho kết luận mà mình muốn đưa ra. Cho nên, trong giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu, các thông tin có liên quan đã chặt chẽ trở lại.” Cô ta hơi dừng một chút rồi mới lại nói tiếp: “Buổi tối ngày thứ hai sau khi có được bản báo cáo đó, tôi đã tới Đại học Z tiến hành một cuộc thí nghiệm đơn giản từng được nhắc tới trong phần sau của báo cáo, và rồi sự thực đã chứng minh, các số liệu được sử dụng trong giai đoạn cuối cùng của công trình nghiên cứu đó không hề có nguồn gốc từ thực nghiệm mà chỉ đơn giản là được ngụy tạo ra cho thích hợp với phần kết luận.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm nói:“Như vậy xem ra ngay từ đầu công trình nghiên cứu đó đã nhắm tới kết quả là “M có tính gây nghiện đối với con người”, còn quá trình thì chẳng hề quan trọng.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói: “Mục đích của bọn họ kỳ thực rất đơn giản, đó chính là uy hiếp Công ty E để kiếm lấy một khoản tiền. Song ở Công ty E có một chuyên gia về hóa học như Lưu Hướng Đông, việc phát hiện sơ hở bên trong bản báo cáo đó hẳn nhiên chẳng có gì là khó. Chồng tôi và hai người kia rõ ràng cũng hiểu được điều này, do đó dù đã nhận tiền rồi nhưng vẫn không giao báo cáo cho Công ty E. Thực ra đối với Công ty E, sự uy hiếp thực sự không đến từ bản báo cáo nghiên cứu đó mà là từ ba vị học giả hiểu rõ nội dung trong báo cáo. Bọn họ mà ra tay với bất kỳ học giả nào trong số ba người, hai người còn lại rất có khả năng sẽ làm ra những chuyện bất lợi với Công ty E, thậm chí là cả Tập đoàn A. Ba người bọn họ đã hình thành nên một mối quan hệ tương hỗ, chỉ cần cả ba đồng lòng, vậy thì tất cả nhất định đều sẽ được an toàn. Chính vì nguyên nhân này nên suốt một thời gian dài Tập đoàn A mới không có bất cứ hành động nào cả, còn chồng tôi sau khi có được tiền từ chỗ bọn họ thì dường như đã muốn dừng tay lại rồi.”

”Tất cả mọi chuyện lẽ ra đã phải kết thúc ở đây.” Tôi hít sâu một hơi. “Nhưng sự tham gia của bên thứ ba đã khiến cho sự việc trở nên vô cùng phức tạp, mà bên thứ ba này chính là tổ chức thần bí đứng sau lưng Trần Hy.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi đưa ngón giữa tay trái lên để ở khoảng giữa mắt và mắt kính, nhẹ nhàng day mắt trái một chút, chậm rãi nói: “Giữa tổ chức thần bí đó và Tập đoàn A bắt đầu mâu thuẫn từ rất nhiều năm trước rồi, hai bên không ngừng đấu đá với nhau. Đối với Tập đoàn A, nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M là một sự uy hiếp rất lớn, nhưng đối với với tổ chức thần bí kia thì nó lại là một cơ hội. Ngay từ tháng 3 năm 2008 tổ chức thần bí kia đã tìm tới Đinh Tuấn Văn, đến tháng 4 thì bắt đầu điều tra về chồng tôi. Tháng 7 cùng năm đó, thông qua Đinh Tuấn Văn, bọn họ đã biết được vai trò cũng như tác dụng của Tạ Bác Văn, Chu Vân và Triệu Hải Thời trong sự kiện M. Chồng tôi, Tạ Bác Văn và Chu Vân vốn chỉ có một mục đích là kiếm tiền, vậy nhưng lại vì thế mà bị cuốn vào cuộc đấu đá giữa tổ chức thần bí kia và Tập đoàn A. Trọng tâm của cuộc đấu đá này là tính chất gây nghiện của M, cho nên ba học giả tham gia vào công trình nghiên cứu này đã trở thành đối tượng trọng điểm mà hai thế lực muốn lôi kéo.”

Tôi khẽ gật đầu. “Chuyện đã tới nước này, ba người bọn họ không thể nào đặt mình ra ngoài sự việc được nữa. Bọn họ đã đưa ra những sự lựa chọn khác nhau: Chu Vân quyết định cố hết sức né tránh, chồng cô quyết định giúp đỡ tổ chức thần bí kia, Tạ Bác Văn thì quyết định đi theo tập đoàn A. Chính vì như thế nên trong bữa tiệc rượu đêm đó, Tạ Bác Văn mới giúp đỡ Tập đoàn A hãm hại cô, đồng thời hãm hại luôn cả Từ Nghị Giang.”

”Quyết định của Chu Vân rõ ràng là sáng suốt nhất.” Diệp Thu Vi phân tích: “Đối với cả tổ chức thần bí kia và Tập đoàn A, công trình nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M đều có giá trị vô cùng quan trọng, nhưng điều nực cười là bản thân nó chỉ là một vụ lừa gạt mà thôi. Chu Vân nhất định là hiểu rõ đi theo bất cứ bên nào cũng đều không thể có được kết quả tốt đẹp, do đó mới lựa chọn chạy trốn. Chồng tôi hy vọng nhận được sự bảo vệ từ thế lực của chính phủ, nhưng lại vì sự ngụy tạo trong nghiên cứu mà sinh ra do dự. Tạ Bác Văn tuy đã đi theo Tập đoàn A, nhưng lại không dám tiết lộ các vấn đề trong quá trình nghiên cứu. Cùng với đó, sở dĩ ông ta giúp Tập đoàn A hãm hại Từ Nghị Giang có một phần nguyên nhân rất lớn là sợ chồng tôi thổ lộ sự thực cho tổ chức thần bí kia biết.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi. “Mỗi người mang một suy tính khác nhau, chuyện này đúng là càng lúc càng phức tạp.”

Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Rất hiển nhiên, trước tháng 8 năm 2009, chồng tôi đã tiếp xúc qua với Từ Nghị Giang nhưng chuyện xảy ra trong bữa tiệc rượu đó đã hoàn tòan đánh tan sự tin tưởng của chồng tôi đối với tổ chức thần bí kia. Nhưng căn cứ theo sự ghi chép của Trần Hy trong sổ tay, đêm đầu tháng 11 năm 2008, chồng tôi đã lại lại một lần nữa quyết định giúp đỡ tổ chức thần bí đứng sau lưng cô ta. Điều khiến tôi cảm thấy khó hiểu là anh ấy đã biết rõ công trình nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M chỉ là một vụ lừa đảo, tại sao còn đưa ra quyết định như vậy chứ? Các thông tin trong bản báo cáo nghiên cứu hoàn toàn không chính xác, anh ấy dựa vào đâu mà giúp tổ chức kia đối phó với Tập đoàn A? Khi đó anh ấy rốt cuộc đã có suy nghĩ như thế nào?”

Tôi thầm tưởng tượng về tâm lý của Tần Quan khi đó, thế nhưng nhất thời chẳng nghĩ ra được điều gì. Một lát sau, tôi vô thức há miệng ra, nhưng đúng vào khoảnh khắc sắp phát ra tiếng thì lại vô thức nuốt những lời muốn nói về trong bụng. Tôi sững người, cố gắng nhớ lại xem mình vừa rồi đã suýt buột miệng nói ra những gì, nhưng lại phát hiện bản thân đã hoàn toàn quên mất. Tôi nhắm mắt lại, trong đầu lóe qua một tia sáng rực Tôi nhất định đã nghĩ ra điều gì đó. Nhưng ngay sau đó tôi lại quên mất sự tồn tại của tia sáng ấy. Tôi dần dần lấy lại bình tĩnh, lần nữa tưởng tượng về tâm lý của Tần Quan trước khi xảy ra chuyện, nhưng đột nhiên lại cảm thấy đầu nhói đau. Tôi đưa tay ra sau đầu ôm chặt gáy, cây bút trong tay rơi xuống đất, phát ra một âm thanh giòn tan nhưng mơ hồ.

”Anh Trương, anh không sao chứ?” Ngay sau đó, giọng nói của Diệp Thu Vi đã kéo tôi trở về hiện thực.

”A...” Tôi hít sâu một hơi, nhặt bút lên, cảm thấy đầu óc vẫn còn hơi choáng váng.

”Không sao, chuyện này quá phức tạp, làm cho đầu óc tôi có hơi hỗn loạn.” Tôi vừa nói vừa nở một nụ cười gượng gạo. “Không cần lo cho tôi, xin cứ tiếp tục đi.”

Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi bằng một ánh mắt sắc bén, mãi một hồi lâu sau mới lại nói tiếp: “Không cần biết khi đó chồng tôi đã suy nghĩ như thế nào, tóm lại, anh ấy đã quyết định giúp đỡ tổ chức thần bí kia bằng một phương thức nào đó. Tập đoàn A đương nhiên không chịu buông tha cho anh ấy, thế nên vào ngày mùng Bảy tháng Mười một, dưới sự thao túng của X, anh ấy đã hít vào người một lượng lớn khí hydro sulfua nồng độ cao. Chuyện về sau thì khỏi cần nói nhiều nữa: Chu Vân mất tích, chồng tôi biến thành người thực vật, Tạ Bác Văn chết trong vụ tai nạn xảy ra do sự ám thị của tôi, cuối cùng chỉ còn lại duy nhất một người biết được tung tích của báo cáo nghiên cứu, chính là Đinh Tuấn Văn vốn chẳng biết gì mấy về học thuật. Thấy ba người kia đều có kết cục không hay, Đinh Tuấn Văn nóng lòng muốn tự bảo vệ mình, bèn ngả về phía Tập đoàn A, sau khi tới nhà Tạ Bác Văn lấy được báo cáo nghiên cứu liền nhanh chóng giao cho Triệu Hải Thời, Triệu Hải Thời thì lại giao báo cáo cho Lưu Hướng Đông. Lưu Hướng Đông hẳn nhiên chỉ cần xem thoáng qua là thấy rõ được những vấn đề tồn tại trong báo cáo, anh Trương...” Diệp Thu Vi đột nhiên hỏi tôi: “Nếu anh là Lưu Hướng Đông, gặp phải tình huống thế này anh sẽ xử trí thế nào?”

”Làm như thế nào ư?” Tôi nhất thời không hiểu ý của cô ta cho lắm. “Chẳng lẽ không phải là lập tức báo cáo lên lãnh đạo cao cấp của tập đoàn biết chân tướng ư?”

“Tất nhiên rồi.” Diệp Thu Vi nói: “Nếu là tôi, tôi nhất định sẽ không cho lãnh đạo cao cấp của tập đoàn biết chân tướng.”

Tôi vẫn cảm thấy rất khó hiểu. “Vì sao lại vậy chứ?”

“Vì bản thân.” Diệp Thu Vi chậm rãi phân tích: “Thứ nhất, Lưu Hướng Đông là Chủ nhiệm trung tâm Nghiên cứu khoa học của Công ty E, là người đứng đầu các công việc nghiên cứu nội bộ của công ty này, trong tay nắm giữ mọi tin tức cốt lõi có liên quan tới việc sản xuất thuốc. Khi Đinh Tuấn Văn dùng Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chất gây nghiện của M để tống tiền Công ty E, Tập đoàn A nhất định đã có một cuộc thương thảo nội bộ về vấn đề này, trong quá trình thương thảo đương nhiên không thể thiếu sự tham gia của Lưu Hướng Đông, về mặt học thuật, ông ta có thể nói là nhân vật hàng đầu trong công ty, thậm chí là trong tập đoàn, ý kiến của ông ta có tác dụng mang tính quyết định. Do đó, trong việc tập đoàn quyết định bỏ ra một khoản tiền lớn để mua lấy sự im lặng, ông ta nhất định là đã đưa ý kiến tán thành. Nếu để lãnh đạo cấp cao của tập đoàn biết được đây chỉ là một vụ lừa gạt, ông ta ắt hẳn không thể nào có được một kết cục tốt.”

Tôi gật đầu lia lịa, dòng suy nghĩ trở nên sáng sủa hơn rất nhiều, thế nhưng sau khi há miệng ra lại chẳng biết nên nói gì. Khi đó, đầu óc tôi vẫn hơi ngơ ngẩn, dường như còn chưa thể hoàn toàn thoát khỏi cơn choáng váng trước đó.

”Thứ hai.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Chuyện này đối với Lưu Hướng Đông, kỳ thực cũng là một cơ hội. Ông ta hoàn toàn có thể giả bộ ngờ nghệch trong việc kiểm tra báo cáo nghiên cứu, dựa vào đó để kiềm chế lãnh đạo cấp cao của tập đoàn và nhận được nhiều hơn sự quan tâm và tin tưởng từ họ. Hà Ngọc Bân từng nói rồi, Triệu Hải Thời và Lưu Hướng Đông từng có một thời gian bất hòa, Triệu Hải Thời còn từng nhiều lần làm nhục Lưu Hướng Đông trước mặt nhiều người nữa, nhưng sau tháng 3 năm 2009, quan hệ giữa hai người đột nhiên trở nên tốt đẹp, thậm còn bắt đầu gọi anh xưng em. Cần phải biết rằng Lưu Hướng Đông bị mắc chứng ám ảnh sợ xã hội nghiêm trọng, tuyệt đối không thể nào chủ động bày tỏ thiện ý với Triệu Hải Thời. Nói cách khác, trong việc biến thù thành bạn giữa hai bên, Triệu Hải Thòi có lẽ là bên chủ động. Trước đó anh ta dám làm nhục Lưu Hướng Đông trước mặt nhiều người, nhưng sau đó lại chủ động làm lành với Lưu Hướng Đông, điều này chứng tỏ bắt đầu từ tháng 3 năm 2009, địa vị của Lưu Hướng Đông trong Công ty E, thậm chí là trong Tập đoàn A, đã có sự thay đổi rõ rệt.”

”Quả đúng là như vậy.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Xem ra, địa vị của Lưu Hướng Đông ở Đại học C rất có thể là có liên quan tới chuyện này.” Nghĩ đến đây, tôi bất giác nở một nụ cười đầy ẩn ý. “Để tự bảo vệ mình cũng như vì tiền đồ của bản thân, ông ta đã cố tình lừa gạt và giấu giếm lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A về bản chất của sự kiện M, thủ đoạn có thể nói là rất cao minh. Có điều đối với cô, thứ thủ đoạn cao minh này đã trở thành nhược điểm chí của ông ta. Có lẽ ngay trong bước tiếp theo, cô đã bắt đầu tiếp xúc với Lưu Hướng Đông rồi đúng không?”

“Tuy chuyện về báo cáo nghiên cứu cơ bản là đã rõ ràng, nhưng X vẫn còn ẩn nấp trong chỗ tối.” Diệp Thu Vi nói: “Để có thể tìm ra X, tôi nhất định phải tiến hành điều tra sâu hơn mới được.”

Nói tới đây, cô ta lại một lần nữa đưa tay lên chỉnh lại gọng kính, sau đó nhìn tôi bằng một ánh mắt xen lẫn ánh mặt trời, bên trong ẩn chứa đầy những tia ý vị sâu xa.

Tôi ngẩn ngơ nhìn cô ta, ánh mắt dần trở nên đờ đẫn. Có một khoảnh khắc nào đó, đôi mắt của tôi bỗng dưng bỏ qua sự tồn tại của cô ta, ánh mắt chỉ tập trung vào bức tường thủy tinh ở giữa hai chúng tôi. Dưới ánh dương tà tà chiếu vào trong phòng, tôi nhìn thấy những hạt bụi nhỏ dày đặc đang không ngừng nhảy nhót giữa không khí. Nằm giữa những hạt bụi đó, bức tường thủy tinh như biến thành một tấm gương, Diệp Thu Vi ở phía bên kia bức tường dần trở nên mơ hồ, cái bóng của tôi trong gương thì càng lúc càng trở nên rõ ràng hơn.

Tôi nhìn thoáng qua bức tường thủy tinh một chút, thế rồi vội cúi đầu xuống theo bản năng, trong lòng dâng trào một cảm giác giá lạnh - ngay từ nhỏ tôi đã cảm thấy sợ hãi trước những vật có khả năng phản quang tương tự như gương rồi. Tôi khẽ ho một tiếng, vô thức đưa tay xoa đầu, lại liên tục dụi mạnh mắt, cây bút trong tay thêm một lần nữa rơi xuống đất và phát ra một âm thanh vừa giòn tan vừa hết sức xa xôi.

Tôi nhặt bút lên, nhìn thấy đôi mắt sắc bén của Diệp Thu Vi ở bên kia bức tường, bỗng cảm thấy như vừa tỉnh mộng.

”Xin hãy tiếp tục đi.” Tôi thở phào một hơi, nói: “Hãy nói về quá trình tiếp xúc của cô với Lưu Hướng Đông đi.”

”Anh Trương.” Giọng của Diệp Thu Vi nghe có vẻ hơi kỳ lạ. “Anh thực sự không sao chứ?”

”Không sao.” Tôi ngượng ngùng cười, nói: “Đêm qua tôi không nên ngủ muộn như vậy.”

Cô ta im lặng quan sát tôi, ánh mắt khi nóng khi lạnh, mãi một hồi lâu sau mới tiếp tục việc phân tích và giảng giải của mình: “Để không làm Lưu Hướng Đông phát giác tối ngày 27 tháng 10, tôi đã cố gắng ghi nhớ toàn bộ nội dung của bản báo cáo nghiên cứu đó, rồi sáng sớm ngày hôm sau liền trịnh trọng dặn dò Lưu Trí Phổ, bảo anh ta hãy để báo cáo nghiên cứu về chỗ cũ. Tối ngày Hai mươi tám, dưới sự giúp đỡ của bạn bè, tôi lén sử dụng phòng thí nghiệm hỏa học phân tử của Đại học Z để tiến hành nghiệm chứng hai số liệu ở giai đoạn sau của Báo cáo nghiên cứu thực nghiệm về tính chất gây nghiện của M. Tôi phát hiện các số liệu được sử dụng trong báo cáo không hề có nguồn gốc từ thực nghiệm mà được ngụy tạo ra cho hợp với kết luận, qua đó có thể xác định được rằng hạng mục nghiên cứu về tính chất gây nghiện của M chỉ là một vụ lừa đảo, và rồi dựa vào đây tôi đã tiến hành suy đoán và phân tích về hành vi cũng như tâm lý của những người tham gia vụ việc này, đó cũng chính là những điều mà tôi vừa mới kể với anh khi nãy.”

Tôi nhìn cô ta, lẳng lặng gật đầu.

”Những chuyện tiếp theo đó là như thế này.” Cô ta hơi nghiêng người về phía trước một chút. “Căn cứ theo suy trong vụ việc về báo cáo nghiên cứu, Lưu Hướng Đông rất có thể đã lừa dối lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A. Đúng như anh nói, đây là một thủ đoạn cao minh giúp ông ta tiến thân, nhưng đồng thời cũng là nhược điểm trí mạng của ông ta. Chỉ cần suy đoán này là sự thực, tôi sẽ có thể dùng nó để ép ông ta phải nói ra ý nghĩa quan trọng của M với Công ty E, thậm chí là thăm dò ra những thông tin và manh mối có liên quan tới X nữa. Do đó, điều mấu chốt trong bước tiếp theo chính là chứng thực những suy đoán về Lưu Hướng Đông.”

Tôi hỏi: “Cô đã chứng thực như thế nào?”

”Vẫn là cách cũ thôi, tôi đã trực tiếp thăm dò phản ứng của chính ông ta.” Diệp Thu Vi nói. “Tối ngày Hai mươi tám, sau khi về tới nhà tôi liền đổi sang dùng một số điện thoại lạ, sau đó gửi cho ông ta một tin nhắn: Chủ nhiệm Lưu, chuyện về báo cáo nghiên cứu ông không sợ bị lãnh đạo cấp cao của tập đoàn biết ư?

”Rất đơn giản và rõ ràng, chỉ thẳng vào nội tâm của người ta.” Tôi khẽ gật đầu. “Ông ta đã trả lời như thế nào?”

”Ông ta không trả lời ngay.” Diệp Thu Vi nói: “Để có thể nhận được câu trả lời của ông ta bất cứ lúc nào, tôi vẫn luôn giữ liên lạc cho số điện thoại mới đó. Lúc gần trưa ngày hôm sau, ông ta đột nhiên gọi cho tôi. Khi đó tôi đang ở trong bệnh viện với chồng, bên người không có thiết bị thay đổi giọng nói, do đó chỉ ấn nút nghe chứ không phát ra bất cứ âm thanh nào, muốn nghe xem ông ta sẽ nói năng ra sao. Nhưng tôi chỉ vừa mới ấn nút nghe thì ông ta đã lập tức gác máy, ngay sau đó liền nhắn cho tôi sáu chữ: Tôi biết cô là ai rồi.”

Lòng tôi thầm nặng trĩu, nhưng ngay sau đó lại thở phào một hơi. “Có lẽ trước cô đã từng có người dùng chuyện báo cáo nghiên cứu để uy hiếp ông ta, thế nên ông ta mới coi cô là người đó.”

”Có loại khả năng này, nhưng còn chưa thể xác định được.” Diệp Thu Vi nói. “Để làm rõ nguồn cơn, tôi lại nhắn tin cho ông ta: Vậy ông thử nói xem tôi là ai. Một giây trước khi gửi tin nhắn này đi, tôi đã nhận được một tin nhắn mới. Sau khi tin nhắn được gửi đi, tôi mở phần tin nhắn mới ra xem, thấy tin nhắn vừa tới cũng là của Lưu Hướng Đông, nội dung chỉ có bảy chữ: Vậy ông nói xem tôi là ai. So với tin nhắn mà tôi gửi đi thì nó chỉ ít hơn một chữ “thử” mà thôi.”

Tôi sững người. “Ông ta... Thế này…”

”Khi đó tôi cũng sững người ra một chút.” Diệp Thu Vi nói “Ngay sau đó, ông ta lại gửi tới cho tôi một tin nhắn mới: Cảm giác khi bị người ta nhìn thấu thế nào?”

Đầu óc trở nên hơi đờ đẫn, tôi vô thức hít sâu một hơi. “Xem ra câu Vậy ông nói xem tôi là ai đó chính là lời dự đoán đối với tin nhắn mà cô chuẩn bị gửi đi rồi.”

Diệp Thu Vi khẽ gật đầu. “Hiển nhiên là như vậy.”

Tôi đưa tay vuốt trán, hai mắt bất giác cay cay, dòng suy nghĩ trở nên hỗn loạn: Sự dự đoán đối với hành vi đương nhiên là được xây dựng dựa trên sự phân tích chuẩn xác đối với tâm lý. Một người có thể phân tích chuẩn xác tâm lý của Diệp Thu Vi...

”Là X ư?” Tôi đưa tay mân mê cằm, trầm ngâm nói:

Người này rõ ràng không phải là Lưu Hướng Đông, mà là X-Hoặc cũng có khả năng X chính là Lưu Hướng Đông.”

”Xét từ nội dung của tin nhắn, người này tuyệt đối không phải là Lưu Hướng Đông.” Diệp Thu Vi phân tích: “Trước tiên ông ta nói ông ta biết tôi là ai, nhưng hiển nhiên không phải là thực sự biết. Nếu biết thì e là Tập đoàn A đã sớm ra tay với tôi rồi, mà cho dù Tập đoàn A vì một nguyên nhân nào đó mà tạm thời để cho tôi được sống thì cũng không có lý do gì mà họ lại để mặc cho tôi điều tra, không hề tiến hành can dự hay ngăn cản chút nào. Kết hợp với tin nhắn được gửi tới sau đó, câu nói Tôi biết cô là ai rồi kia hiển nhiên là một sự thăm dò đối với tôi, đồng thời cũng thể hiện ra cảm giác ưu việt của đối phương khi đối mặt với tôi. Điều này chứng tỏ tuy đối phương còn chưa biết thân phận thực sự của tôi, vậy nhưng đã phát giác là có người đang tiến hành điều tra sự kiện M rồi, đồng thời còn cho rằng việc tôi gửi tin nhắn thăm dò cho Lưu Hướng Đông có liên quan tới chuyện này nữa. Bằng không, ông ta hoàn toàn có thể không để ý gì tới tôi, không cần thiết phải thăm dò phản ứng của tôi như vậy.”

Tôi khẽ gật đầu, ghi chép sơ qua những chuyện này một chút.

”Thứ hai.” Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Cảm giác khi bị người ta nhìn thấu thế nào, đây là một câu nói mang hàm ý khiêu khích rất rõ. Sở dĩ ông ta phải tiến hành khiêu khích tôi như vậy hiển nhiên là bởi vì biết rằng tôi cũng có sức mạnh tâm lý không tầm thường. Ông ta có thể phán đoán chuẩn xác tâm lý của tôi, lại gửi cho tôi một lời khiêu khích trần trụi như thế, mục đích rõ ràng chỉ có một, đó là thể hiện sức mạnh tâm lý của ông ta mạnh hơn tôi - điều này có thể nói là hoàn toàn thống nhất với cảm giác ưu việt mà ông ta đã thể hiện ra qua tin nhắn Tôi biết cô là ai rồi kia. Nếu ông ta đã biết tôi vẫn luôn điều tra sự kiện M, vậy thì hẳn nhiên cũng biết là tôi sớm đã phát giác ra sự tồn tại của X. Do đó, sự phán đoán và khiêu khích của ông ta đối với tôi chính là để nói thẳng với tôi rằng, ông ta chính là X.”

Tôi chỉ khẽ gật đầu.

“Tổng hợp những điều này lại mà xét.” Diệp Thu Vi nói. “Nếu ông ta đúng là Lưu Hướng Đông, vậy thì ắt ông ta chẳng bao giờ đi nói với tôi rằng mình chính là X, từ đó làm lộ thân phận của bản thân.”

Tôi chậm rãi hít vào một hơi. “Thì ra là vậy.”

”Khi suy nghĩ những điều này, tôi đã gõ vào điện thoại của mình ba chữ Ông là ai, sau đó lại thay đổi suy nghĩ, bèn xóa ba chữ đó đi và thay bằng Ông không phải là Lưu Hướng Đông.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Vừa gõ xong mấy chữ đó, tôi còn chưa kịp ấn nút gửi đi thì đã lại nhận được một tin nhắn mới từ ông ta: Tôi là ai? Tôi không phải là Chủ nhiệm Lưu.”

Tôi khẽ lắc đầu với vẻ không sao tin nổi. “Chỉ dựa vào sự phán đoán từ xa mà có thể nắm rõ các hoạt động tâm lý của cô như vậy, xem ra người này chính là X rồi.” Sau khi bình tĩnh trở lại, tôi nhìn cô ta, hỏi: “Khi đó cô đã có suy nghĩ thế nào?”

Diệp Thu Vi bình tĩnh nói: “X đưa ra lời khiêu khích đối với tôi, điều này chứng tỏ ông ta rất coi trọng năng lực tâm lý của tôi, mà sự coi trọng này đồng nghĩa với việc ông ta đã từng được thấy năng lực tâm lý của tôi rồi. Trước đó điều tra của tôi đã diễn ra một cách vô cùng thuận lợi, chứng tỏ X còn chưa can dự vào việc này. Vậy sự coi trọng của ông ta đối với năng lực của tôi rốt cuộc là có nguồn gốc từ đâu đây?”

“Người chết.” Tôi nói. “Sáu người có dính dáng tới sự kiện M liên tiếp chết đi, hơn nữa đều chết một cách quái lạ, X đương nhiên biết rõ cô chính là hung thủ rồi.”

”Đây chính là điều làm tôi lo lắng.” Diệp Thu Vi nói. “Tuy trước đó tôi đã làm mọi việc một cách hết sức cẩn thận, thế nhưng như thế có lẽ chỉ đủ để lừa gạt những người bình thường mà thôi, gặp phải một cao thủ như X thì chưa chắc đã có tác dụng gì. Nếu X tiến hành điều tra tỉ mỉ về những vụ án mạng đó, việc tôi bị phát hiện e rằng chỉ là vấn đề thời gian. Trong khi đó, tôi lại hoàn toàn không hay biết gì về thân phận của X. Con đường tiến về phía trước không thông, con đường lui về phía sau thì đã bị bịt kín, tôi dường như chỉ có thể ngồi yên chờ chết mà thôi. Sở dĩ X dám trắng trợn khiêu khích tôi như vậy có lẽ một phần là vì hiểu rõ tình hình khi đó.”

Nghe tới đây, trái tim vốn đang căng thẳng của tôi bất giác buông lỏng hoàn toàn, rồi tôi bèn hỏi: “Sau đó thì sao? Nếu cô lựa chọn ngồi yên chờ chết thì chỉ e đã chẳng có cuộc gặp mặt của chúng ta ngày hôm nay rồi.”

”Ông ta đã không cho tôi con đường sống, vậy thì tôi chỉ đành phóng tay mà liều một phen thôi.” Diệp Thu Vi nói. “Tôi quyết định giết chết Lưu Hướng Đông.”

Tôi tỏ ra hết sức kinh ngạc. “Tại sao chứ? Lưu Hướng Đông chính là trọng điểm chú ý của X khi đó, cô làm như vậy chẳng phải là càng dễ khiến thân phận của mình bị bại lộ ư?”

”Cho nên tôi mới nói là phóng tay mà liều một phen.” Diệp Thu Vi nói. “Mục đích của tôi không phải là bản thân Lưu Hướng Đông, mà là X. Khi tôi tiến hành ám thị Lưu Hướng Đông, X nhất định sẽ đứng ra can thiệp, chỉ cần ông ta có hành động thì tôi sẽ có cơ hội phát hiện ra những manh mối có liên quan tới ông ta, thậm chí là tra rõ thân phận của ông ta. Nếu có thể tra rõ thân phận của ông ta, tôi sẽ nắm được thế chủ động, hoặc không ít nhất cũng không bị động như trước nữa. Đây chính là cơ hội duy nhất của tôi khi đó.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi bèn gật đầu, nói: “Quả đúng là như vậy, tình hình khi đó quá mức bất lợi với cô, không còn lựa chọn nào tốt hơn nữa. Xin hãy nói tiếp về quá trình cụ thể đi, cô đã giết chết Lưu Hướng Đông bằng cách nào? Trực tiếp tiếp xúc với ông ta ư?”

”Tất nhiên là không rồi.” Diệp Thu Vi nói. “Lưu Hướng Đông nhận được tin nhắn của tôi vào tối ngày Hai mươi tám, thế nhưng tới sáng ngày hôm sau thì X lại là người dùng điện thoại của ông ta để gửi tin nhắn trả lời tôi. Hiển nhiên, chính Lưu Hướng Đông đã chủ động nói chuyện tin nhắn với X, hoặc cũng có thể là với lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A. Lưu Hướng Đông không lập tức trả lời ngay có lẽ cũng là vì đã nhận được chỉ thị từ lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A, bởi lẽ Tập đoàn A đã ý thức được rằng Lưu Hướng Đông rất có thể chính là đối tượng tiếp theo mà tôi muốn tiếp cận, do đó mới an bài sẵn đối sách cho ông ta. Từ đó có thể thấy được, Lưu Hướng Đông có lẽ cũng biết chuyện “có người đang tiến hành điều tra sự kiện M và giết người bằng phương pháp ám thị”, thậm chí còn biết chính mình là mục tiêu tiềm tàng tiếp theo. Trong tình huống như vậy, tôi mà trực tiếp tiếp xúc với ông ta thì khác nào tự chui đầu vào rọ.”

Nói xong những lời này, Diệp Thu Vi đột nhiên đứng dậy đi tới bên cửa sổ, bỏ kính xuống, sau đó đưa chiếc kính ra ngoài cửa sổ và đưa qua đưa lại một cách chậm rãi mấy lần ánh dương rọi xuống mắt kính rồi phản chiếu mắt tôi, khiến tôi bỗng nảy sinh cảm giác như đang ở trong một kiếp sống khác.

”Lưu Trí Phổ.” Tôi nhìn vào bóng lưng của cô ta, chớp mắt mấy lần, buột miệng

nói: “Cô nhất định đã lợi dụng anh ta để truyền đạt lại sự ám thị tới Lưu Hướng Đông.”

Cô ta xoay người lại, tựa lưng vào một bên thành cửa sổ. “Lưu Hướng Đông đã gửi gắm giấc mơ quyền lực của mình lên người Lưu Trí Phổ, cho nên ắt hẳn là hết sức tin tưởng anh ta. Cùng với đó, tôi lại chính là người mà Lưu Trí Phổ quyến luyến và tin tưởng nhất. Nếu tôi lợi dụng Lưu Trí Phổ để tiến hành ám thị Lưu Hướng Đông, Lưu Hướng Đông ắt sẽ chẳng bao giờ sinh lòng cảnh giác. Dù X có phát hiện ra điều gì đó và sinh lòng hoài nghi Lưu Trí Phổ thì Lưu Hướng Đông cũng chẳng chịu tin, thậm chí còn có khả năng vì thế mà nảy sinh mâu thuẫn với X, thậm chí là với lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn A nữa. Mà trong tình hình khi đó, cục diện càng hỗn loạn thì lại càng có lợi cho tôi.”

Tôi đứng dậy, sau đó lại ngẩn ngơ ngồi xuống. “Muốn giết Lưu Hướng Đông, cô trước tiên phải biết được nhược điểm trong tâm lý của ông ta đã. Cô trước đó chưa từng qua lại với ông ta bao giờ, lại không thể tiếp xúc trực tiếp với ông ta, muốn tìm thấy nhược điểm của ông ta thì chỉ có một cách là thông qua Lưu Trí Phổ.” Tôi suy nghĩ một chút, rồi lại bổ sung thêm: “Cô đã từng hai lần miêu tả về hành động sờ răng cửa trong khi căng thẳng của Lưu Hướng Đông, nhược điểm trí mạng của ông ta chắc là có liên quan tới điều này đúng không?”

Diệp Thu Vi nheo mắt lại nhìn tôi chăm chú, tay trái vẫn cầm kính chậm rãi đưa qua đưa lại. Những tia sáng chói mắt thỉnh thoảng lại phản chiếu lên mặt tôi. Tôi nhắm mắt lại, bên tai dần dần vang lên những tiếng rít quái dị.

Tôi hoang mang buông bút xuống, dùng ngón trỏ bịt chặt hai tai, ngón cái ra sức day dái tai. Nhưng trong vòng mười mấy giây sau đó, tiếng rít quái dị đó không những không biến mất, ngược lại còn càng lúc càng trở nên rõ ràng hơn. Tôi cúi đầu nhắm mắt, hơi thở dần trở nên dồn dập, nhưng mấy giây sau thì lại bất ngờ bình tĩnh trở lại, cảm thấy tiếng rít kia tới từ một chỗ không xa phía trước - chính là nơi mà Diệp Thu Vi đang đứng.

Tôi ngẩng đầu nhìn cô ta, tiếng rít bỗng biến mất một cách đột ngột. Chỉ thấy cô ta lúc này vẫn đang đứng cạnh cửa sổ, tay trái chậm rãi đưa qua đưa lại chiếc kính gọng đen, cặp mắt thì nhìn tôi chăm chú.

Tôi đưa tay lau mồ hôi trên trán, cầm bút lên hỏi: “Có thể tiếp tục được chưa?”

Cô ta do dự trong giây lát, sau đó khẽ gật đầu, chậm rãi quay trở lại ngồi xuống ghế mây, lại vuốt tà váy một chút rồi mới hỏi: “Vừa nãy tôi nói đến đâu rồi?”

“Đang nói tới hành vi cưỡng chế của Lưu Hướng Đông.” Tôi không chút nghĩ ngợi, nói ngay: “Hành vi tượng trưng cho tư duy cưỡng chế, mà nguồn gốc của mọi tư duy cưỡng chế đều là nỗi sợ hãi, chỉ cần tìm nỗi sợ hãi này...” Nói tới đây, tôi bỗng cảm thấy đầu đau như búa bổ, đại não trở nên trống rỗng trong một thời gian ngắn, rồi tôi bèn hỏi bằng giọng không chắc chắn lắm: “Có... có đúng là như vậy không?”

”Đúng.” Diệp Thu Vi nói. “Như anh đã nói, hành vi cưỡng chế bắt nguồn từ tư duy cưỡng chế, mà nguồn gốc của tư duy cưỡng chế thì chính là nỗi sợ hãi. Do đó, chỉ cần tìm được nỗi sợ hãi này thì sẽ có thể thông qua ám thị để phóng đại nó lên vô số lần, từ đó khiến con người ta nảy sinh tư duy cưỡng chế cực đoan, cuối cùng thì làm ra hành vi cưỡng chế cực đoan. Mà những hành vi cưỡng chế cực đoan thông thường đều là chí mạng.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Xin hãy nói lại quá trình cụ thể đi.”

”Muốn làm nên một việc gì đó, trước tiên nhất định phải làm rõ nguyên lý và quy luật của nó.” Diệp Thu Vi hờ hững đưa mắt nhìn tôi. “Anh Trương, tôi hỏi anh điều này trước, thế nào là chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế?”

Tôi há miệng ra nhưng lại chẳng biết nên biểu đạt thế nào.

Cô ta trầm ngâm một chút rồi mới nói: “Hành vi cưỡng chế và tư duy cưỡng chế đều là biểu hiện của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, và căn nguyên của nó thì chính là nỗi sợ hãi. Cho nên, khi bị mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, dù người bệnh có biểu hiện quái dị và phức tạp thế nào đi nữa thì xét cho cùng cũng đều là sự đấu tranh để loại trừ nỗi sợ hãi của tâm lý, và đó cũng là một hình thức biểu hiện của cơ chế tự bảo vệ của tâm lý.”

Tôi lặng lẽ gật đầu, ghi chép tỉ mỉ những điều này lại.

”Căn cứ vào những thái độ khác nhau khi đối diện với sợ hãi, rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể chia ra làm hai loại.” Cô ta chậm rãi nói. “Loại thứ nhất là thông qua hình thức tự an ủi để loại trừ nỗi sợ hãi, được gọi là rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực, tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế thuộc loại này tuyệt đại đa số đều phát triển và hình thành từ những hành vi nghi thức hóa. Lấy một ví dụ thường thấy nhất thế này: Có một cặp cha mẹ rất thích sạch sẽ, họ đã nhấn mạnh quá mức với con mình những quan niệm như là “vi khuẩn tồn tại ở bất cứ đâu”, “vi khuẩn có thể khiến người ta sinh bệnh”, đồng thời còn đưa ra những yêu cầu nghiêm khắc, thậm chí là hà khắc đối với đứa bé về phương diện thói quen vệ sinh. Như thế trong quá trình trưởng thành, đứa bé rất có thể sẽ nảy sinh một nỗi sợ hãi sâu sắc đối với vi khuẩn cũng như những vật bẩn thỉu. Ban đầu, đứa bé sẽ loại trừ nỗi sợ hãi bằng những hành vi như là tránh tiếp xúc với vật bẩn, chăm chỉ rửa tay, đồng thời dần dần nảy sinh những hành vi nghi thức hóa tương ứng - tức là nó sẽ thông qua những hành vi này để có được sự nhẹ nhõm, tự tin cùng với những tâm trạng tích cực khác. Một khi hành vi nghi thức hóa bị phá hoại, nỗi sợ hãi sẽ nhanh chóng bùng phát và lan tràn, từ đó dẫn đến sự xuất hiện của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Chẳng hạn như một ngày nào đó đứa bé không cẩn thận làm bẩn tay nhưng lại không có chỗ nào để rửa, thế là nó sẽ cho rằng vi khuẩn đã chui vào trong cơ thể của mình rồi. Sau đó, dù có tắm rửa sạch sẽ thế nào đi nữa thì trong tiềm thức của nó cũng vẫn tồn tại suy nghĩ không thể loại trừ hết vi khuẩn, đồng thời nảy sinh tâm trạng lo lắng không chịu sự khống chế của lý trí. Để có thể loại trừ nỗi sợ hãi, nó sẽ chăm chỉ rửa tay hơn, nhưng hành vi rửa tay chỉ có thể đem lại sự thư thái cho nó trong một quãng thời gian nhất định, thời gian qua đi, nỗi sợ hãi trong tiềm thức sẽ lại tiếp tục ập đến ép nó phải rửa tay lần nữa. Sau khi trưởng thành, nỗi sợ hãi này đã trở thành thâm căn cố đế, trở thành một bộ phận của bản năng. Tâm lý vốn có quán tính và sức ì, chỉ kháng cự lại bản năng thôi đã đủ đau khổ, căn bản không thể nào thay đổi bản năng. Do đó, dù đứa bé sau khi trưởng thành biết được rất nhiều tri thức về việc giữ gìn sức khỏe, cũng biết rằng liên tục rửa tay chẳng có tác dụng gì, vậy nhưng nỗi sợ hãi trong tiềm thức sẽ không dễ dàng thay đổi chỉ vì ý thức. Tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực được hình thành như thế.”

Tôi ghi chép sơ qua một chút, sau đó hỏi: “Rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực không khó hiểu, nhưng còn rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực thì sao?”

Diệp Thu Vi nhìn chằm chằm vào tôi, sau khi im lặng gần mười giây mới lại lên tiếng nói tiếp: “Tình trạng thứ hai của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế là người bệnh muốn thông qua việc loại trừ vật tạo ra nỗi sợ hãi để đạt được mục đích là hoàn toàn loại trừ nỗi sợ hãi, và nó được gọi là rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực. Tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực có thể nói là hết sức cực đoan, nhưng tuyệt đại đa số chỉ dừng lại ở mức tư duy cưỡng chế mà thôi. Tôi vẫn sẽ lấy ví dụ để làm rõ vấn đề này nhé... ừm, anh Trương.” Cô ta đột nhiên hỏi tôi: “Anh có bao giờ nảy ra những suy nghĩ không thực tế, đê hèn và ác độc không? Ví dụ như là phát sinh quan hệ tình dục với nam giới, hoặc là giết chết con của chính mình chẳng hạn?”

Tôi nhìn cô ta bằng ánh mắt sợ hãi, vì lời của cô ta đã chạm vào nơi sâu thẳm trong nội tâm của tôi. Tôi quả thực đã từng nảy sinh sự ảo tưởng về việc phát sinh quan hệ tình dục với người cùng giới, nhưng bất kể là về tâm lý hay là về sinh lý, tôi đều không có một chút ham muốn tình dục nào đối với người cùng giới cả, thậm chí chỉ cần nghĩ đến thôi là đã cảm thấy buồn nôn. Tôi cũng từng không chỉ một lần nảy sinh suy nghĩ giết chết con trai mình. Khi con trai tôi hơn một tuổi, thằng bé rất thích được tôi giơ cao lên giữa không trung, mỗi lần giơ nó lên như vậy trong đầu tôi đều thoáng qua suy nghĩ buông tay ra, để cho nó rơi xuống đất. Khi con trai tôi bốn tuổi, thằng bé rất thích bò tới bên cạnh cửa sổ chơi đùa, và mỗi lần như vậy tôi cũng đều nảy ra suy nghĩ phải đẩy nó ra ngoài cửa sổ. Nhưng đồng thời, tôi hiểu rõ là tôi rất yêu con trai của mình, tuy có những suy nghĩ như vậy nhưng tuyệt đối không bao giờ biến chúng thành hành động.

Tỉ mỉ ngẫm lại, những suy nghĩ đáng sợ tương tự như vậy còn có rất nhiều, tôi luôn cho rằng đó là do cái ác ở nơi sâu thẳm trong nội tâm của tôi quậy phá. Diệp Thu Vi tại sao lại đoán được tôi từng có những suy nghĩ như vậy? Cô ta đưa ra câu hỏi này rốt cuộc là nhằm mục đích gì đây?

Tôi trầm tư suy nghĩ suốt một hồi lâu, cuối cùng liền đưa tay sờ lên cổ, lại khẽ bóp chóp mũi mấy cái, lắc đầu tôi chưa bao giờ có những suy nghĩ tương tự như vậy.

”Anh không thành thực.” Diệp Thu Vi bình tĩnh nói.“Nhưng điều này cũng có thể hiểu được. Đối với người bình thường, những suy nghĩ như vậy quả thực rất khó để mở miệng nói thành lời.”

”Thực sự không có mà.” Tôi đưa tay trái lên, dùng đốt thứ hai của ngón trỏ để không ngừng cọ vào vùng da xung quanh huyệt nhân trung, sau khi suy nghĩ một lát tôi lại buông tay xuống, thản nhiên nói: “Có điều, tôi đã từng tiếp xúc với người có suy nghĩ như vậy.”

Diệp Thu Vi nói: “Vậy thì hay lắm, anh hãy kể cho tôi biết về người này cũng như suy nghĩ của anh ta đi.”

Tôi khẽ gật đầu, kể cho cô ta nghe một chuyện như thế này.

Mùa xuân năm 2010, tại trại giam nữ của thành phố tôi từng phỏng vấn một người phụ nữ trẻ tên là Triệu Đông Mai. Cô ta là người bản địa, nhà ở một xã nhỏ nằm tại ngoại ô phía tây của thành phố, bản thân và chồng đều là những người nông dân thành thực chất phác. Cô ta vì mắc tội cố ý giết người mà bị phạt tù có thời hạn mười lăm năm, tình huống cụ thể như sau: Một buổi chiều tối tháng 9 năm 2009, cô ta tự tay đẩy đứa con trai mới bốn tuổi rưỡi của mình xuống nước, khiến thằng bé bị chết đuối.

Khi gặp mặt, cô ta một mực cúi đầu, thỉnh thoảng còn cắn ngón tay và cười gằn mấy tiếng vẻ đầy lạnh lùng. Cán bộ trại giam nói cho tôi biết, loại trạng thái thế này đã có thể coi là tốt rồi, vì Triệu Đông Mai rất hay vô cớ nổi điên, không phải đánh nhau với bạn tù thì cũng là đập đầu vào tường, còn rất hay tìm cơ hội nhảy lầu tự tử nữa. Trại giam từng không chỉ một lần đề nghị tòa án cho phép đưa cô ta đi giám định tâm thần, vậy nhưng thái độ của tòa án lại hết sức rõ ràng: Trước khi vào tù, Triệu Đông Mai từng được giám định tâm thần nhiều lần rồi, cô ta hoàn toàn không có vấn đề gì về tâm thần cả.

Khi đó, tôi đã trò chuyện với cô ta trong một thời gian rất dài, phần lớn thời gian đều là tôi nói và cô ta nghe. Khi bị hỏi đến việc tại sao lại giết chết con trai mình, cô ta đột nhiên không còn im lặng nữa mà mở miệng nói: “Chẳng tại sao cả, tôi chỉ tự dưng muốn đẩy nó xuống sông thôi.” Tôi lại hỏi: “Cô rất ghét con trai mình ư?” Cô ta lập tức trở lên kích động, vừa múa may đôi tay của mình vừa nói: “Nó là con trai tôi, là khúc ruột của tôi! Tôi làm sao mà lại ghét nó đuọc! Tôi yêu thương nó lắm chứ!” Tôi hỏi tiếp: “Nếu cô đã yêu thương thằng bé, vậy thì tại sao còn giết nó như vậy?” Cô ta đưa tay vò đầu bứt tóc, điên cuồng gào lên: “Tôi cũng không biết là tại sao, tôi chỉ tự dưng muốn đẩy nó xuống sông thôi!”

Về sau, tôi tìm cách điều tra các tư liệu có liên quan tới vụ án Triệu Đông Mai giết con. Bất kể là khi đối mặt với sự thẩm vấn của cảnh sát hay là với sự chất vấn của quan tòa cũng như nhân viên công tố, câu trả lời của Triệu Đông Mai đều không có gì khác biệt: Cô ta rất thương yêu con mình nhưng lại không kiềm chế được suy nghĩ muốn vứt thằng bé xuống sông cho chết đuối. Bắt đầu từ lúc thằng bé hai tuổi rưỡi thì suy nghĩ này đã tồn tại trong đầu cô ta rồi, cô ta đã cố kháng cự hai năm, nhưng rốt cuộc vẫn biến nó thành hành động.

Nhưng khi nghe thấy câu trả lời này, cả phía cảnh tòa án và trại giam đều không tin tưởng vào cách nói của Triệu Đông Mai, bọn họ cho rằng cô ta cố tình che giấu động cơ giết người thực sự.

Nghe xong lời kể của tôi, Diệp Thu Vi nói: “Hãy lấy việc của Triệu Đông Mai làm ví dụ đi. Anh Trương, anh có tin vào cách nói của cô ta không?”

Tôi nói: “Khi nói ra những lời đó, cô ta tỏ ra rất thành khẩn, tôi cũng muốn tin vào lời cô ta nói. Nhưng nếu cô ta đã yêu thương con trai mình, vậy thì tại sao còn nảy sinh suy nghĩ vứt thằng bé xuống sông như thế chứ? Điều này thật khiến người ta cảm thấy khó hiểu.”

”Đó là vì nỗi sợ hãi.” Diệp Thu Vi nói. “Có phải cô ta từng có lần suýt bị mất con không? Ví dụ như con cô ta đã gặp phải nguy hiểm về tính mạng hoặc là bị người ta bắt cóc chẳng hạn?”

Tôi bất giác sững người. “Đúng, đúng thế, con cô ta quả thực đã từng bị bắt cóc, nhưng về sau đã được giải cứu... Cô làm sao lại biết được chuyện này?”

Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Thời điểm con cô ta được giải cứu có lẽ là vào khoảng tháng 9 năm 2009.”

Tôi hít sâu một hơi, nhíu chặt đôi hàng lông mày.

Năm đó, vì cách nói của Triệu Đông Mai quá ư quái dị nên tôi đã sinh lòng tò mò rất lớn đối với cô ta, liền đi sâu vào tìm hiểu các chi tiết trong vụ án này. Chuyện con trai cô ta từng bị bắt cóc mãi đến bây giờ tôi vẫn còn ghi nhớ rất rõ, tình hình cụ thể là như thế này: Con trai Triệu Đông Mai sinh vào tháng 3 năm 2005, bị người ta bắt cóc bán đi vào tháng 10 năm 2006, đến cuối tháng 8 năm 2007 thì được cảnh sát giải cứu và đưa trở về nhà.

Ngay sau đó, Diệp Thu Vi lại hỏi tôi thêm một câu nữa: “Dòng sông nơi xảy ra chuyện có lẽ nằm ngay gần nhà của Triệu Đông Mai đúng không? Con trai cô ta ắt hẳn là thường xuyên tới bờ sông chơi.”

Những lời này của cô ta hoàn toàn ăn khớp với tình hình thực tế. Tôi nhất thời chẳng nói được gì, chỉ đành lẳng lặng gật đầu.

”Tôi về cơ bản đã có thể hiểu được vấn đề của Triệu Đông Mai nằm ở đâu rồi.” Cô ta bình thản phân tích bằng giọng điệu không nhanh không chậm: “Đối với một người mẹ, không có chuyện gì đáng sợ hơn là bị mất đi đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra. Trải nghiệm mất con trong gần một năm đã lưu lại trong lòng Triệu Đông Mai một nỗi sợ hãi vô cùng sâu sắc, và cô ta nhất định là rất sợ phải mất con thêm một lần nữa. Sau khi mất rồi lại được, cô ta hẳn sẽ lại càng yêu thương con mình hơn trước, nhưng đó không chỉ đơn thuần là tình mẹ nữa mà còn là một thứ tình cảm có nguồn gốc từ nỗi sợ mất con. Cho nên, cô ta nói vô cùng yêu thương con mình hoàn toàn là lời từ tâm can phế phủ.”

Tôi vẫn lặng lẽ gật đầu.

Sau khi trở lại bên cạnh mẹ mình, đứa bé đã được hai tuổi rưỡi, vừa hay là độ tuổi nghịch ngợm nhất ở những đứa bé trai. “ Diệp Thu Vi tiếp tục phân tích: “Thằng bé nhất định là thường xuyên cùng những đứa bé khác trong thôn đến bờ sông chơi, có lẽ còn từng nhìn thấy những đứa bé lớn tuổi hơn xuống sông bơi lội nữa, cho nên trong lòng ắt hẳn là hết sức tò mò về dòng sông. Chính vì nguyên nhân này, Triệu Đông Mai có lẽ từng không chỉ một lần nhìn thấy con trai xuất hiện ở bên bờ sông, còn vì thế mà cảm thấy vô cùng lo lắng cho sự an toàn của con trai nữa. Cô ta nhất định là đã từng thử giáo dục con trai về sự an toàn, nhưng thứ nhất là ý thức về sự an toàn ở vùng nông thôn vẫn còn khá yếu kém, thứ hai là những bé trai một khi đã nghịch ngợm thì cha mẹ thường rất khó quản lý, mà hơn nữa thằng bé còn từng bị bắt cóc gần một năm trời. Cho nên, sự giáo dục của Triệu Đông Mai gần như không có chút tác dụng nào cả, đứa bé vẫn thường xuyên chạy đến bờ sông chơi đùa mà chẳng sợ hãi chút nào. Sự thực về chuyện con mình bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống sông đã làm tăng thêm nỗi sợ hãi của Triệu Đông Mai về chuyện mình có thể bị mất con thêm lần nữa. Nỗi sợ hãi này càng lúc càng mãnh liệt, đợi đến khi cô ta không thể chịu đựng được nữa thì liền biến thành một thứ tâm lý đặc thù.”

”Đó chính là động cơ khiến cô ta tự tay đẩy con trai mình xuống sông ư?” Tôi vẫn cảm thấy rất khó hiểu. “Tại sao lại như vậy chứ?”

”Là bởi vì cơ chế tự bảo vệ của tâm lý.” Diệp Thu Vi nói.“Nỗi sợ hãi trong một thời gian dài đã tạo ra cho tâm lý một sự giày vò khó có thể chịu đựng được. Để tránh bị sụp đổ, tâm lý sẽ tự phát tìm đủ mọi cách để loại trừ nỗi sợ hãi. Giáo dục về sự an toàn không có chút tác dụng nào, thằng bé vẫn thường xuyên xuất hiện ở bờ sông, thế là tiềm thức của Triệu Đông Mai liền cho rằng chỉ còn duy nhất một biện pháp có thể loại trừ nỗi sợ hãi, đó chính là tự tay đẩy con trai mình xuống sông. Sau khi con trai chết, tâm lý của cô ta sẽ chỉ phải chịu đựng nỗi buồn đau thôi, không còn phải cảm thấy sợ hãi khi bất cứ lúc nào cũng có thể mất đi con trai một lần nữa. Đây chính là cái gọi là rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực mà tôi đã nói tới, người bệnh mắc phải chứng này sẽ muốn thông qua việc loại trừ vật tạo ra nỗi sợ hãi để đạt được mục đích là hoàn toàn loại trừ nỗi sợ hãi.”

Tôi không kìm được hít sâu một hơi. “Cơ chế tự bảo vệ của tâm lý có thể khiến con người làm ra hành vi cực đoan như vậy ư?”

”Cho nên tôi mới nói rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực hết sức cực đoan, tuyệt đại đa số người mắc phải chỉ dừng lại ờ giai đoạn tư duy cưỡng chế mà thôi.” Diệp Thu Vi nói. “Giống như Triệu Đông Mai vậy, cô ta cũng từng có một thời gian bị giày vò bởi tư duy cưỡng chế cuối cùng thì không chịu đựng được nữa, thế là mới biến suy nghĩ thành hành động.”

Tôi khẽ gật đầu, trầm ngâm nói: “Thì ra là vậy. Nguồn cơn của những suy nghĩ về việc phát sinh quan hệ tình dục với người đồng giới, giết chết con của chính mình, nhảy xuống đất khi đứng ở trên cao, đều là nỗi sợ hãi đối với hậu quả mà bản thân những việc đó mang lại.”

”Đúng vậy.” Diệp Thu Vi nói. “Anh cho rằng hành vi quan hệ tình dục với người đồng giới là một chuyện khiến người ta sợ hãi, thế là liền nảy sinh tư duy cưỡng chế có liên quan, đó là thông qua hành động thực tế để loại trừ hoàn toàn nỗi sợ hãi đối với chuyện không biết khi nào thì xảy ra này. Anh rất yêu thương con của mình, sợ nó bị tổn thương, thế là mới nảy sinh suy nghĩ làm nó bị tổn thương, thậm chí là giết chết nó để loại trừ nỗi sợ hãi trong nội tâm của bản thân đối với điều này. Anh sợ bị ngã từ trên cao xuống dưới đất, thế là mới nảy sinh suy nghĩ phải nhảy xuống dưới, bởi vì một khi nhảy xuống rồi thì anh không còn phải sợ mình không cẩn thận bị ngã nữa. Bất kể là rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực hay là rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực, xét cho cùng thì đều là những hoạt động tâm lý nhằm loại trừ nỗi sợ hãi trong nội tâm, sự khác biệt chỉ là về phương thức mà thôi.”

Tôi bất giác rơi vào trầm tư. Sự phân tích của Diệp Thu Vi về rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực đã mang tới cho tôi một sự chấn động lớn chưa từng có, khiến tôi có được một nhận thức hoàn toàn mới về thế giới tinh thần của loài người.

Mãi một hồi lâu sau tôi mới dần dần bình tĩnh trở lại. “Xin hãy tiếp tục đi, bản chất của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế về cơ bản tôi đã hiểu rồi. Cô hãy nói tiếp về sự phân tích của mình đối với Lưu Hướng Đông đi, hành vi sờ răng cửa của ông ta rốt cuộc thuộc phạm trù tích cực hay là tiêu cực vậy?”

”Về chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế tôi hãy còn chưa nói xong.” Diệp Thu Vi hoi nghiêng người cầm cốc nước lên. “Đôi khi người ta không chỉ bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế thuần túy tích cực hay tiêu cực, còn có khả năng kiêm luôn cả hai loại kể trên.” Cô ta khẽ nhấp một ngụm nước, nhìn chăm chăm vào tôi bằng ánh mắt lạnh lùng băng giá.“Anh Trương, chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế mà tôi sắp nói ra đây có mối liên quan cực kỳ mật thiết với anh.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 5: Sự rối loạn ở nơi sâu kí ức


Hai đoạn ký ức của tôi tuy mâu thuẫn với nhau nhưng lại cùng tồn tại, một trong hai hiển nhiên là sự lừa gạt của tiềm thức đối với ý thức. Tiềm thức mà quá sôi nổi thì có thể nói là đã thuộc vào phạm trù hoang tưởng ảo giác rồi, rất có thể còn là dấu hiệu báo trước của bệnh tâm thần phân liệt nữa.

Tôi hơi sững người ra một chút, sau đó liền mỉm cười nhẹ nhõm. “Tôi ư? Tôi đâu có bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế!”

”Gương.” Cô ta nói với giọng hết sức bình tĩnh: “Anh rất sợ soi gương đúng không?”

Câu nói này tựa như một đôi tay mạnh mẽ bóp nghẹt trái tim tôi. Tôi vô thức đưa tay lên vỗ ngực trái, thế rồi không kìm được cất giọng khàn khàn hỏi: “Cô làm sao biết được?”

“Thứ mà anh sợ không phải là bản thân những chiếc gương, mà là cái bóng của mình trong gương.” Cô ta lại nói tiếp: “Do đó, anh sợ bất cứ thứ gì có thể phản chiếu ánh sáng.” Sau khi dừng lại khoảng hai giây, cô ta nhìn chằm chằm vào tôi bằng đôi mắt thoáng mang vẻ mịt mờ. “Chẳng hạn như bức tường thủy tinh ở giữa chúng ta vậy”

Dưới sự ám thị của câu nói này, tôi đã lại một lần nữa dồn sự chú ý vào bức tường thủy tinh. Sau khoảnh khắc, tôi bỗng thấy bức tường thủy tinh như được tôn lên bởi những hạt bụi li ti dày đặc giữa không trung, dần dần biên thành một chiếc gương thật sự... Diệp Thu Vi ở bên kia tường dần trở nên mơ hồ, còn cái bóng của tôi thì nhanh chóng trở nên rõ nét.

Tôi nhìn thoáng qua cái bóng của mình một chút, trái tim bất giác đập thình thịch. Hai giây sau, tôi đột nhiên tỉnh táo trở lại từ trong cơn mơ màng. Mọi thứ vẫn y nguyên như cũ: Trong phòng bệnh tĩnh lặng, tôi và Diệp Thu Vi ngồi cách nhau chỉ một bức tường. Không gian trong phòng có vẻ hơi u ám, ánh dương từ ngoài cửa sổ chênh chếch chiếu vào, một phần thì rọi giữa không trung, một phần thì bao trùm đầu và bờ vai của Diệp Thu Vi, còn có một phần khác nữa bị bức tường thủy tinh làm cho suy yếu, cứ thế rọi thẳng vào mắt tôi.

Tôi khẽ ho một tiếng, không kìm được cúi đầu xuống, dùng tay trái lật lại những trang trước của cuốn sổ tay. Tất cả những hành vi này tôi đều thực hiện trong trạng thái hoàn toàn vô thức, bởi lẽ mãi đến khi đã hoàn thành động tác rồi tôi vẫn không biết tại sao mình lại làm như vậy.

Tôi đưa tay gãi đầu, cố hỏi bằng giọng bình tĩnh nhất có thể: “Cô làm sao biết được?”

”Bởi vì ánh mắt của anh.” Diệp Thu Vi nói. “Phần lớn thời gian ánh mắt của anh đều có sức xuyên thấu rất mạnh, những lúc như thế bức tường thủy tinh này gần như là không tồn tại đối với anh. Nhưng đôi lúc, ánh mắt của anh lại chợt trở nên đờ đẫn và tập trung vào bức tường này, mỗi lần như vậy trong mắt anh đều ánh lên những tia sợ hãi rất nhỏ bé... Cỏ lẽ ngay chính bản thân anh cũng không phát giác ra nỗi sợ hãi này của mình.”

Tôi khẽ gật đầu, nở một nụ cười mỉm, cố gắng tỏ ra nhẹ nhõm. Thực ra, ngay chính bản thân tôi cũng chẳng rõ tại sao vừa rồi mình lại căng thẳng như vậy. “Đúng vậy, ngay từ nhỏ tôi đã có một nỗi sợ hãi khó hiểu đối với những chiếc gương, mà tôi cũng sợ cả những vật có thể phản chiếu ánh sáng nữa. Đối với cô, nhìn ra điều này có lẽ là một việc hết sức rõ ràng, nhưng tình trạng này của tôi có liên quan gì tới chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế ư?”

”Có một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế rất đặc thù, nó kiêm cả những đặc trưng của rối loạn ám ảnh cưỡng chế tích cực và tiêu cực.” Diệp Thu Vi hờ hững nói: “Xuất phát từ nỗi sợ hãi đối với một thứ nào đó, người thông qua những tư duy hoặc hành vi không ngừng lặp lại để loại trừ nỗi sợ hãi, đây là biểu hiện của chứng rối ám ảnh cưỡng chế tích cực điển hình. Nhưng trong hợp này, phương thức để loại trừ nỗi sợ hãi thì lại không phải là tự an ủi, mà là thực hiện các hành vi thực tiễn đối với sự vật hoặc sự việc mà bản thân sợ hãi. Tôi lấy một ví dụ đơn giản thế này, có người thiếu cảm giác an toàn, sợ bản thân bị tổn thương, thế là liền không ngừng làm bản thân bị tổn thương để loại trừ nỗi sợ hãi. Chẳng hạn như có một cô bé đang học trung học phổ thông đã liên tục dùng dao cứa vào cánh tay của mình nhiều lần...” 8

Tôi vừa lắng nghe vừa vô thức ngẩng đầu lên ánh dương tràn qua chỗ Diệp Thu Vi rọi thẳng đến mặt tôi khiến hai mắt của tôi đều đau nhói. Cùng lúc đó, bên tai tôi lại một lần nữa vang lên những tiếng rít quái dị, mà tiếng rít còn dần dần trở nên rõ ràng, cứ như thể đến từ một nơi không xa phía trước tôi vậy, và nơi đó không phải đâu khác mà chính là chỗ của Diệp Thu Vi.

”Còn anh...” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Anh rõ ràng là sợ soi gương, thế nhưng trong lòng lại tràn đầy ham muốn soi gương. Do đó, phần lớn thời gian ánh mắt của anh đều tập trung trên người tôi, nhưng thỉnh thoảng cũng không kìm nén được ham muốn này mà chuyển sự chú ý sang bức tường thủy tinh trước mặt, đồng thời tưởng tượng đó là một chiếc gương và tìm kiếm cái bóng của mình ở bên trong.”

Tôi mở to mắt ra, tiếng rít kia rời xa ra một chút vậy nhưng vẫn chưa biến mất hoàn toàn.

”Còn nữa.” Diệp Thu Vi lại nói tiếp: “Anh rất sợ những tia sáng chói mắt, vậy nhưng lại luôn muốn nhìn thẳng vào ánh mặt trời trong vô thức, đây lẽ nào không phải là biếu hiện của một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế đặc thù ư?”

Tôi lại một lần nữa nhìn ra ngoài cửa số, đôi mắt bất giác đau nhói từng cơn. Diệp Thu Vi nói không sai, mắt của tôi trời sinh đã nhạy cảm và yếu ớt, chỉ cần gặp phải tia sáng hơi mạnh một chút là sẽ cay sè và chảy nước mắt, thế nhưng trong lòng tôi lại luôn ngợp đầy khao khát được nhìn thẳng vào ánh mặt trời.

”Nguồn gốc của bất kỳ tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế nào cũng đều là nỗi sợ hãi.” Diệp Thu Vi hờ hững nói: “Anh Trương, anh có từng nghĩ tới việc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế của mình là từ đâu mà ra không? Anh đang sợ hãi điều gì? Rốt cuộc là thứ gì đã khiến anh phải sợ hãi đến như vậy?”

Tôi bất giác chìm vào trầm tư, tiếng rít vốn đã đi xa lại một lần nữa quay trở lại, tựa như muôn vàn con ngựa cùng phi, thỏa sức giẫm đạp lên trái tim tôi. Tôi bịt chặt tai, nhắm mắt lại, đầu óc chìm trong một mảng hỗn loạn. Đột nhiên, một tràng những tiếng gõ giòn tan vang lên trước mặt tôi. Tôi mở mắt ra, thấy Diệp Thu Vi vẫn ngồi ngay ngắn ở đó, ngón trỏ tay phải thì đang nhẹ nhàng gõ lên bức tường thủy tinh trước mặt. Anh mắt tôi lại một lần nữa tập trung vào bức từong thủy tinh, tay của Diệp Thu Vi dần dần trở nên mơ hồ, cái bóng của tôi thì lại một lần nữa trở nên rõ nét.

Diệp Thu Vi cứ thế gõ ngón tay vào bức tường thủy tình một cách chậm rãi nhưng rất có tiết tấu. Tôi nhìn chằm chằm vào đó, đột nhiên cảm nhận được một nỗi sợ hãi vô cùng khó hiểu. Qua đôi mắt, nỗi sợ hãi đó đi vào trong thân thể tôi, cuối cùng ăn sâu vào tận trong xương tủy. Tuy đang là tháng Bảy nhưng tôi vẫn cảm thấy toàn thân lạnh toát như đang phải ngâm mình giữa hố băng.

“Anh Trương?” Diệp Thu Vi đột nhiên dừng việc gõ ngón tay vào bức tường thủy tinh lại, hỏi: “Anh không sao chứ?'

Tôi đưa tay lên, vừa định nói gì đó thì chiếc bút trên tay lại một lần nữa rơi xuống đất. Tôi nhặt bút lên, toàn thân bỗng trở nên mất kiểm soát mà run lên lẩy bẩy. Tôi nhìn thoáng qua Diệp Thu Vi một chút, đột nhiên cảm thấy buồn nôn khó tả. Tôi dùng sức ấn mạnh vào cổ mình, cảm thấy việc hít thở trở nên rất khó khăn.

Diệp Thu Vi lại gọi tôi lần nữa: “Anh Trương?”

Tôi gấp cuốn sổ tay của mình lại, ngả người ra phía sau tựa lưng vào ghế, ngửa cổ nhìn lên trần nhà, không nói năng gì cả. Chừng nửa phút sau, tôi hít sâu một hơi, ngồi thẳng người trở lại, nhìn Diệp Thu Vi và nói bằng giọng không được tự nhiên cho lắm: “Xin lỗi, cô Diệp, mấy ngày nay tôi không nghỉ ngơi cẩn thận, quả thực có hơi mệt rồi. Chi bằng cuộc gặp mặt ngày hôm nay hãy dừng tại đây đi, ngày mai tôi sẽ lại tới thăm cô.” Tôi đờ đẫn đúng dậy, đi tới bên cạnh cửa, đặt tay lên công tắc chuông báo động, rồi ngoảnh đầu nhìn lại, lúng túng nói: “Thực sự rất xin lỗi, mong cô đừng trách.”

Diệp Thu Vi bình tình ngồi trên chiếc ghế mây, chân phải gác lên chân trái, tay trái thì nhẹ nhàng vuốt ve mu bàn tay phải. “Được, hẹn ngày mai gặp lại.”

Trước khi rời khỏi Bệnh viện Tâm thần thành phố, tôi đương nhiên lại phải trải qua một quá trình đánh giá tâm lý. Trình tự đánh giá tâm lý lần đó phức tạp hơn bình thường khá nhiều, các bác sĩ không chỉ kiểm tra chi tiết các chỉ tiêu sinh lý của tôi, còn hỏi tôi rất nhiều câu hỏi khó hiểu. Sau khi lấy được kết quả đánh giá, lão Ngô đi tới bên canh tôi, khẽ vỗ vai tôi, hỏi: “Lão Trương, cậu vẫn ổn chứ?”

“Hả?” Tôi khi đó đã phần nào khôi phục lại tinh thần, bèn cười nói: “Không có gì là không ổn cả. Sao vậy? Phát hiện ra là tớ mắc bệnh tâm thần hay sao?”

Lão Ngô đưa tay lên sờ gáy, cười vang ha hả, nói: “Nếu đúng là như vậy, hôm nay tớ đã chẳng cho cậu đi rồi.”

Tôi đáp lại bằng nụ cười mỉm, sau đó cất lời cảm thán: “Hôm nay tớ rốt cuộc đã thấy được chỗ đáng sợ của người phụ nữ này rồi, chẳng chuyện gì giấu được cô ta cả.”

Sắc mặt cứng đờ ra trong một thoáng, thế rồi lão Ngô liền nở một nụ cười đầy ý vị. “Tiếp xúc với cô ta quả thực không phải là một chuyện dễ dàng. Cậu có thể đến gặp cô ta một tuần liền, hơn nữa lần nào cũng đều bình yên trở ra, đó đã là một chuyện rất không đơn giản rồi. Thế nào, ngày mai cậu vẫn tới chứ? Có cần nghỉ ngơi vài ngày không?”

“Không cần.” Tôi vội vàng xua tay, nói: “Thực ra cô ta cũng không có chỗ nào qus thần bí cả, chỉ là có thể nhìn thấu tâm lý của người khác thôi. Có lúc, chúng ta rất khó chấp nhận rằng bộ mặt thật sự của mình hóa ra lại là như vậy, cho nên mới cảm thấy cô ta đáng sợ thôi.” Tôi nhìn lão Ngô, khẽ gật đầu trong vô thức. “Ngày mai tớ sẽ tiếp tục tới đây, phiền cậu sắp xếp sẵn mọi việc giúp tớ nhé.”

Lão Ngô xếp lại chồng giấy báo kết quả đánh giá tâm lý của tôi một cách cẩn thận, sau đó khẽ vỗ vai tôi, nói ra mấy lời vô cùng kì lạ: “Vất vả cho cậu rồi!”

Việc đánh giá tâm lý kết thúc vào lúc mười giờ mười lăm phút sáng, lúc này mặt trời đã lên rất cao rồi. Tôi từ chối sự đưa tiễn của lão Ngô, một mình đi tới bãi đỗ xe của bệnh viện. Trong khoảnh khắc mở cửa xe, ánh mặt trời phản chiếu qua cửa sổ xe rọi vào mắt tôi. Tôi nhớ tới lời của Diệp Thu Vi khi nãy, không kìm được ngẩng lên nhìn mặt trời. Những tia sáng rực rỡ tràn tới, tôi lại một lần nữa cảm thấy đầu óc quay cuồng choáng váng.

Tôi vội vàng lên xe rồi ngồi tựa lưng vào ghế, tâm trạng dần dần bình ổn trở lại, dòng suy nghĩ lại một lần nữa xoay chuyển liên hồi: Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế của Lưu Hướng Đông rốt cuộc có nguồn gốc từ đâu? Diệp Thu Vi đã giết chết ông ta như thế nào? Sau khi Lưu Hướng Đông chết, Lưu Trí Phổ đã xảy ra những biến hóa ra sao? Những việc này e là phải đợi đến ngày mau mới có thể biết được.

Tôi thở dài một hơi, bắt đầu cảm thấy hối hận vì sự không kiên định của mình khi nãy. Dù có khó chịu đến đâu đi nữa thì tôi cũng nên kiên trì nghe Diệp Thu Vi kể xong chuyện về Lưu Hướng Đông mới phải. Có điều ngẫm lại, trong lòng tôi nảy ra một suy nghĩ mới: Dù sao cũng đã có một chút hiểu biết về Lưu Hướng Đông cũng như Lưu Trí Phổ rồi, tại sao mình lại không trực tiếp đến Công ty E và Đại học C để thử điều tra một phen nhỉ?

Vừa mới chuẩn bị khơi động ô tô tôi đã lại đột ngột sững người, không kìm được đưa tay vỗ mạnh đầu một cái. Tôi thiếu chút nữa thì quên mất chuyện quan trọng nhất cần làm. Tôi mở cặp đựng giấy tờ, lấy từ trong đó ra tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát mà Trần Ngọc Long nhờ vợ gửi lại cho tôi, xem kĩ nội dung trên đó một lần nữa.

Người báo cảnh sát: Trần Ngọc Long. Phương thức báo cảnh sát: gọi điện thoại. Thời gian báo cảnh sát: 10h 22 phút sáng ngày 20 tháng 7 năm 2002. Địa điểm xảy ra vụ án: Căn hộ 1218, toàn nhà số 8, khu C, Cẩm Tú Hoa Viên. Lược thuật tình tiết vụ án: Có người bị bắt cóc, giam giữ trái pháp luật. Hành động của cảnh sát: Sau khi nhận được tin báo, trong vòng mười lăm phút, Hà Hải Phong, Đỗ Nhân Cường, Tôn Khả, Lý Mộng Tình đã đến hiện trường. Người xử lý chính: Hà Hải Phong. Trưởng ca trực: Lý Ngọc Lương.

Năm 2002, tôi bị bắt cóc và giam giữ trái pháp luật, chính Trần Ngọc Long đã gọi điện báo cảnh sát giúp tôi được giải cứu. Tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát này rõ ràng là bằng chứng thép cho việc Trần Ngọc Long đã cứu giúp tôi trong lức nguy nan, thế mà Thường Giai Lệ lại nói rằng nó tượng trưng cho sự áy náy của Trần Ngọc Long với tôi. Khi nói ra những lời này, cô ta tỏ ra rất tự nhiên và nghiêm túc, tuyệt đối không phải là ăn nói linh tinh. Cùng với đó, các dấu hiệu đều cho thấy giữa Trần Ngọc Long và sự kiện M có tồn tại rất nhiều mối liên quan. Vậy thì, giữa tôi và sự kiện M liệu có tồn tại mối liên quan gì không? Phía sau tờ biên bản này phải chăng có ẩn chứa một bí mật nào đó mà người ngoài không hay biết?

Đây mới là trọng điểm mà hiện tại tôi cần tập trung điều tra.

Sau khi suy nghĩ kĩ càng, tôi quyết định gọi điện thoại cho lãnh đạo, nhờ anh ta giúp mình làm rõ thông tin về Hà Hải Phong và Lý Ngọc Lương được nhắc tới trong tờ biên bản. Lãnh đạo đồng ý với tôi là sẽ có câu trả lời trước hai giờ chiều. Sau đó, tôi lái xe đi thẳng tới Đại hoc C, sau khi tán gẫu vu vơ mấy câu với bác bảo vệ ở cổng trường, liền hỏi han chuyện về Lưu Trí Phổ.

”À, hóa ra là cậu muốn tìm Giáo sư Lưu.” Bác bảo vệ hai mắt sáng rực, trong giọng nói mang đầy vẻ kính ngưỡng. “Vậy thì cậu phải tới Học viện Hóa học công nghiệp mà tìm.”

”Hả?” Tôi cảm thấy có chút bất ngờ. “Anh ta bây giờ đã là Giáo sư rồi ư?”

”Đây là chuyện từ năm ngoái rổi.” Bác bảo vệ tỏ ra hết sức tự hào. “Cậu ấy là Giáo sư trẻ tuổi nhất trong lịch sử của Đại học C đấy, thật là một nhân tài hiếm gặp. À mà không, phải nói là thiên tài mới đúng.”

Tôi bất giác rơi vào dòng trầm tư: Dựa theo cách nói của Diệp Thu Vi thì sở dĩ Lưu Trí Phổ có thể thăng tiến thuận lợi trong sự nghiệp hoàn toàn là nhờ vào sự bảo bọc của cha mình, nhưng Lưu Hưóng Đông đã qua đời từ tháng 1 năm 2009, tính tới nay cũng được gần ba năm rồi, thế mà sự nghiệp của Lưu Trí Phổ không những không bị ảnh hưởng chút nào mà còn phát triển mạnh hơn, mới hai mươi bảy tuổi mà đã trở thành Giáo sư rồi...

Chẳng lẽ anh ta thực sự là một thiên tài học thuật? Sự miêu tả của Diệp Thu Vi về anh ta chỉ là những lời dối trá thôi ư? Tại sao cô ta phải làm như vậy?

Tôi vô thức buột miệng hỏi: “Có phải cha anh ta đã qua đời từ ba năm trước rồi không?”

”Hả?” Bác bảo vệ thoáng sững người ra một chút. “Có khi nào chúng ta đang nói về hai người khác nhau không nhỉ? Cha của Giáo sư Lưu mà tôi vừa nói tới là Lưu Hướng Đông - một nhà khoa học lẫy lừng, mà mới tuần trước ông ấy còn nhận lời mời về trường giảng bài công khai đấy. Cái gì mà qua đời với không qua đời chứ, à mà không đúng, chúng ta nhất định là đang nói tới hai người khác nhau rồi.”

Tôi hỏi: “Nhà khoa học Lưu Hướng Đông này là người của Công ty Dược phẩm E phải không bác?”

”Đúng rồi.” Bác bảo vệ nói. “Mà ông ấy có nhiều chức vụ lắm, không chỉ là lãnh đạo của Công ty E mà còn là Hiệu phó danh dự của Đại học C chúng tôi nữa đấy.”

Tôi đột nhiên cảm thấy đầu đau như búa bổ.

”Anh bạn trẻ, cậu không sao đấy chứ?” Bác bảo vệ thò nửa người qua cửa số phòng bảo vệ. “Với lại, cậu rốt cuộc muốn tìm Lưu Trí Phổ nào vậy? Tôi nhớ là trong trường này chỉ có một thầy giáo tên là Lưu Trí Phổ thôi. Ngưòi cậu muốn tìm có phải là thầy giáo không thế? Ôi, tôi bị cậu làm cho rối tình rốì mù cả lên rồi đây này.”

Tôi đưa tay ôm đầu, cũng cảm thấy đầu óc hết sức hỗn loạn.

Sau khi hỏi rõ vị trí cụ thể của Học viện Hóa học công nghiệp, tôi quay trở lại xe. Trong khi ấn nút khởi động, tôi nhìn vào gương chiếu hậu ở hai bên theo thói quen. Khi thu mắt về từ chiếc gương chiếu hậu ở phía bên phải, tôi vô ý liếc thấy tập tài liệu về những vụ án mạng mà mình đặt trên ghế lái phụ. Tôi bất giác cả kinh, vội vàng cầm tập tài liệu đó lên, nhanh chóng lật đến trang thứ bảy:

Lưu Hướng Đông, nam, sinh tháng 4 năm 1958, khi còn sống từng là Chủ nhiệm trung tâm Nghiên cứu khoa học của Công ty Dược phẩm E. Ngày 6 tháng 11 năm 2009, tử vong tại nhà do tự sát.

Tôi nhìn về phía trước, ánh mắt đờ đẫn, dòng suy nghĩ xoay chuyển liên hồi.

Diệp Thu Vi không hề lừa tôi: Tuy cô ta vẫn luôn kể về chuyện của Lưu Hưóng Đông và Lưu Trí Phổ, cũng nói rằng mình muốn giết Lưu Hướng Đông, vậy nhưng chưa từng nói rằng Lưu Hướng Đông đã chết, lại càng chưa từng nói rằng Lưu Hương Đông cuốỉ cùng chết vì sự ám thị của cô ta. Cần phải biết rằng cuối tháng 10 năm 2009, X đã phát hiện ra Diệp Thu Vi muốn giết Lưu Hưóng Đông, cho nên ắt hẳn là đã chú tâm bảo vệ Lưu Hướng Đông. Do đó, dù kế hoạch dẫn dắt cho Lưu Hướng Đông tự sát của Diệp Thu Vi cuối cùng có thất bại thì cũng không phải là chuyện gì quá bất ngờ.

Ý nghĩ về việc “Lưu Hướng Đông đã chết” đã tạo thành ấn tượng chủ đạo trong suy nghĩ của tôi, nhưng điều này hoàn toàn là do tập tài liệu kia mà ra chứ không có mối liên quan trực tiếp gì với Diệp Thu Vi cả. Nếu ban nãy tôi kiên trì ở lại nghe Diệp Thu Vi kể tiếp, có lẽ cô ta sẽ nhắc tới sự thực về việc Lưu Hướng Đông còn sống, dù sao cô ta cũng từng nói là sẽ thành thực với tôi...

Chờ đã, tập tài liệu này là do người của Bệnh viện Tâm thần thành phố giao cho tôi. Dựa theo cách nói của lão Ngô và bác sĩ Thang thì thông tin bên trong đều là do cảnh sát cung cấp. Nếu Lương Hướng Đông chưa chết, tại sao cảnh sát lại cung cấp thông tin là ông ta đã tự sát và qua đời tại nhà riêng vào năm 2009 chứ? Lưu Hướng Đông dù sao cũng là một ngưòi nổi tiếng, cảnh sát chẳng có lý nào lại đi bịa đặt như vậy, càng không bao giờ coi cái chết không hề có thật của ông ta là một tình tiết của vụ án và ghi ra giấy như thế

- dù rằng tập tài liệu về những vụ án mạng kia không phải là văn kiện chính thức gì cả.

Vần đề có lẽ là nằm tại Bệnh viện Tâm thần thành phố. Chằng lẽ cỏ người muốn làm rối loạn việc phỏng vấn và điều tra của tôi, thế nên mới cố tình cung cấp các thông tin sai lệch? Người này là lão Ngô hay là Thang Kiệt Siêu đây? Có khi nào sau lưng bọn họ còn có một nhân vật lớn khác? Thậm chí, đây cũng có thể là ý của chính bản thân Diệp Thu Vi lắm chứ? Nếu người bày trò là cô ta thì tại sao cô ta phải làm như vậy? Nếu không phải là cô ta, vậy thì người đứng sau chuyện này rốt cuộc có dụng ý gì?

Dòng suy nghĩ của tôi trở nên hỗn loạn, chỉ đành dừng lại tại đây.

Tôi dần dần tỉnh táo trở lại, thấy ánh mặt trời chiếu xuống tâín kính chắn gió phía trước, vừa ấm áp lại vừa dịu nhẹ. Tôi không kìm được nhoài người qua chiếc vô lăng, ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn thẳng vào vầng mặt tròi chói chang. Diệp Thu Vi nói rất đúng, tôi sợ những luồng sáng. Mỗi lần nhìn thẳng vào những luồng sáng có cường độ quá lớn, ngoài đau mắt ra tôi còn cảm thấy đầu óc mơ màng, tựa như đi vào giấc mộng. Thứ cảm giác đó không rõ là tốt hay xấu, nhưng tóm lại là chẳng dễ chịu gì, có lúc còn khiến tôi thấy buồn nôn nữa. Dù rằng như thế, tôi vẫn thường xuyên không kìm được muốn nhìn thẳng vào những luồng sáng mạnh, tựa như phía sau đó có giấu một thứ gì đó mà tôi vẫn luôn kiếm tìm.

Tôi thoáng nhìn vầng mặt trời đã sắp sang chính ngọ hai mắt cay sè, sống lưng dâng lên từng cơn rét buốt, bên tai lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia. Tiếng rít thoắt ẩn thoắt hiện, có đôi lúc tôi còn cảm thấy nó giống như tiếng gào thét đau buồn của một người phụ nữ.

Mấy giây sau, tôi hắt hơi một cái, rồi liền điều khiển xe đi vào Học viện Hóa học công nghiệp. Tôi lại gọi điện thoại cho lãnh đạo một lần nữa, nhờ anh ta giúp mình nói trước với lãnh đạo của học viện một tiếng để tiện cho việc điều tra. Lãnh đạo của học viện rất nhanh đã gọi tới cho tôi, hỏi tôi là có việc gì. Xuất phát từ tâm lý cẩn trọng, tôi không trực tiếp hỏi về Lưu Trí Phố, cũng không chỉ đích danh yêu cầu gặp anh ta, mà chỉ nói là muốn gặp một giảng viên có thâm niên để trò chuyện một chút. Mười phút sau, một giảng viên nữ gọi điện thoại tới cho tôi, rồi chúng tôi gặp nhau tại sân vận động ở ngay cạnh tòa nhà văn phòng.

Giảng viên nữ này không ngờ lại chính là Phó Phán Xuân.

Sau một hồi chuyện trò sơ lược, cô ta hỏi thẳng: “Viện trưởng dặn tôi phải tích cực phối hợp với công việc của anh, nếu tôi giúp được gì thì xin anh cứ nói”

Tôi khẽ mỉm cười thân thiện. “Cô khách sáo quá rồi, tôi quả thực có một số việc cần đến sự giúp đỡ của cô. Tôi sẽ hỏi cô mấy câu hỏi này, mong cô có thể trả lời thẳng thắn.”

Cô ta hơi nhướng mày lên một chút. “Nhất định rồi.”

Tôi trầm tư suy nghĩ một lát, sau đó hỏi: “Cô là một người sống rất có quy tắc đúng không? Nghe nói đồ ăn thức uống của cô trong mỗi buổi trưa đều thay đổi tuần hoàn theo đơn vị tuần, không biết điều này có phải là sự thật không vậy?”

Cô ta thoáng sững người ra một chút. “Anh làm sao lại biết? Có điều đó đã là việc từ mấy năm trước rồi, sau khi kết hôn thường ngày tôi đều về nhà ăn cơm trưa, ừm, mấy năm trước tôi quả thực có thói quen này, và đúng là tôi cũng rất chú trọng tới quy luật trong cuộc sống.”

Xem ra sự miêu tả của Diệp Thu Vi về tính cách của Phó Phán Xuân hoàn toàn là sự thật.

Tôi lại hỏi tiếp: “Cô có biết Giáo sư Lưu Trí Phổ đúng không?”

Cô ta hé miệng ra, mãi một lúc sau mới nói: “Đương nhiên rồi, ở Đại học C này làm gì có ai không biết anh ta.”

”Nghe nói anh ta là một người rất thiếu chung thủy?” Tôi lại hỏi tiếp: “Có phải anh ta thường xuyên thay bạn g ái không?”

”Không.” Cô ta nói vói giọng chắc nịch: “Không biết anh nghe được tin đồn này từ đầu, nhưng Giáo sư Lưu là người đã có gia đình, có một số chuyện không thể tin bừa tin bậy được.”

Tôi lại một lần nữa cảm thấy bất ngờ về tình trạng hiện giờ của Lưu Trí Phổ.

”Anh ta kết hôn rồi ư? Từ bao giờ vậy?”

“Anh đang điều tra thông tin cá nhân của anh ta ư?” Phó Phán Xuân nhìn tôi vẻ cảnh giác, sau đó lại nói tiếp bằng giọng nhẹ nhàng hơn: “Anh ta kết hôn từ hồi cuối năm 2009.”

”Vợ của anh ta là...”

”Một giảng viên ở Học viện Văn học.” Cô ta nói “Họ Vũ.”

Tôi buột miệng bật thốt: “Là Vũ Tú Thần ư?”

Phó Phán Xuân tỏ ra hết sức kinh ngạc. “Sao anh biết?”

Tôi trầm ngâm suy nghĩ một lát, sau đó mới đưa tay mân mê cằm, chậm rãi hỏi: “Cô Phó, xin thứ lỗi cho sự mạo muội của tôi, nhưng chẳng hay cô và Giáo sư Lưu có phải đã từng qua lại với nhau một thời gian không vậy?”

Phó Phán Xuân đờ người ra trong khoảng một giây, đôi hàng lông mày cụp xuống, sau khi khẽ ho lên một tiếng liền đưa mắt nhìn thoáng qua tôi rồi lại nhanh chóng ngoảnh đầu sang phía khác, nhìn chằm chằm vào một sinh viên đang đá bóng ở chỗ không xa, cất giọng run run nói: “Anh rốt cuộc muốn hỏi chuyện gì? Chứng tôi đều là người đã có gia đình rồi, mong anh đừng tin vào những tin đồn vu vơ.”

Tôi hiểu được tâm tư của cô ta, thế là bèn đi tới trước mặt cô ta, nói:“Cô Phó, xin cô hãy yên tâm, tôi không hề có ý nhằm vào cô đâu. Nói thật với cô thế này, tôi đang tiến hành đánh giá tâm lý của Giáo sư Lưu, chuyện này được thực hiện một cách hết sức bí mật.”

Cô ta lập tức buông lỏng sự cảnh giác đối với tôi, trong ánh mẳt nhìn về phía tôi còn lộ ra sự kính sợ. “Anh đang tiến hành khảo sát anh ta ư? Có phải anh ta lại sắp được thăng chức không vậy?”

Tôi nghe ra được là cô ta đã hiểu lầm, thế là bèn tương kế tựu kế; giữ nguyên vẻ mặt nghiêm túc nói: “Chuyện này thì tôi không thể quyết định được, nhưng sự đánh giá về tâm lý hay phẩm cách của anh ta chắc chắn là có tác động rất lớn đối với chuyện này, cho nên hy vọng cô có thể tích cực phối hợp với tôi.”

”Tôi hiểu rồi.” Cô ta nhanh chóng khôi phục lại sự bình tĩnh, sau một thoáng do dự liền nói thẳng: “Anh nói đúng, tôi trước đây quả thực đã từng qua lại với anh ta. Đó là chuyện từ hồi năm 2007, nhưng chúng tôi chỉ ở bên nhau chưa tới nửa năm thì đã chia tay rồi.”

”Có phải cô đã từng có thai với anh ta không?” Tôi phải do dự rất lâu, cuối cùng vẫn quyết định hỏi ra câu hỏi này. “Cô với anh ta chia tay nhau trong quãng thời gian cô mang thai phải không?”

Đôi gò má rõ ràng đã hơi run lên một chút, cô ta không kìm được khẽ ho lên một tiếng, giọng nói dường như trở lên hơi khàn khàn, mãi một lúc lâu sau mới nói: “Đúng vậy, hồi tháng 8 năm 2007 tôi từng mang thai, nhưng anh ta không những không quan tâm đến tôi, còn đột nhiên tỏ ra lạnh nhạt với tôi nữa. Anh Trương, tôi có thể khẳng định với anh rằng Giáo sư Lưu không phải là một người có trách nhiệm, ít nhất là trong vai trò của một người đàn ông.”

Tôi khẽ gật đầu. “Vậy tôi hỏi lại cô, có phải anh ta rất không chung thủy và thường xuyên thay đổi bạn gái không?”

”Đúng vậy.” Phó Phán Xuân cố tình hạ thấp giọng. “Chỉ tính riêng trong Đại học C, số bạn gái mà anh ta từng qua lại đã có không dưới mười người rồi, phần lớn đều là giảng viên hoặc nhân viên công chức trong trường. Tôi cũng mãi về sau mới nghe nói là có mấy giảng viên nữ từng mang thai với anh ta, nhưng anh ta chưa từng chịu trách nhiệm với bất cứ người nào.”

”Sau khi kết hôn thì sao?” Tôi lại hỏi tiếp. “Sau khi kết hôn, anh ta có từng ngoại tình bao giờ không?”

Phó Phán Xuân dõi mắt nhìn về phía xa, sau khi do dự một lúc mới cúi đầu, nói: “Những lời tôi nói đều là thực lòng... Sau khi kết hôn, anh ta cũng từng có lần ngoại tình tuy tình hình cụ thể tôi không rõ lắm, nhưng việc này về cơ bản có thể khẳng định là có.” Cô ta đưa tay lên day mạnh mũi mấy cái, rồi lại bổ sung thêm một câu: “Đối tượng ngoại tình của anh ta có lẽ không chỉ có một người.”

Tôi khẽ gật đầu.

Khi nói dối, đặc biệt là khi nói dối với mục đích rõ ràng, con người ta thường sẽ không kìm được để lộ những tâm trạng như áy náy, sợ hãi (sợ bị đối phương vạch trần), và những tâm trạng này sẽ làm cho tâm lý cảm thây rất khó chịu. Mà một khi tâm lý cảm thấy khó chịu, con người ta thường sẽ vô thức làm ra những hành vi tự an ủi. Đối với người nói dối, hành vi tự an ủi thông thường đều là sự ám thị tích cực nhằm phủ định sự tồn tại của lời nói dối, chẳng hạn như nói ra những câu kiểu như “Những lời tôi nói đều là thực lòng”, “Nói thật với anh thế này nhé”, “Tôi không nói dối anh đâu“... Phía sau những lời nói như thế thông thường đều là sự giấu giếm hoặc dối gạt. Trước đó, để có thể moi thông tin từ miệng cô ta và tỏ ý rằng mình “đang tiến hành đánh giá tâm lý của Giáo sư Lưu”, tôi cũng đã vô thức nói ra một câu “Nói thật với cô thế này”, đạo lý kỳ thực hoàn toàn tương tự. Có điều, tôi lúc đó quả thực đang tiến hành đánh giá tâm lý của Lưu Trí Phổ, chỉ là đánh giá tâm lý không phải là mục đích thật sự, thành ra lời của tôi có thể nói là nửa thật nửa giả, và sự tồn tại của những lời nói thật đã phần nào đó làm giảm bớt sự sợ hãi và áy náy trong nội tâm, thế nên hành vi tự an ủi của tôi mới không hề rõ ràng.

Mà ban nãy, trước khi nói, Phó Phán Xuân đã tỏ ra do dự, khi nói thì lại có những động tác như cúi đầu, day mũi, thế nên quan điểm rằng Lưu Trí Phổ sau khi kết hôn từng nhiều lần ngoại tình của cô ta có lẽ là một lời nói dối cố tình. Mục đích của cô ta hiển nhiên chính là vu oan giá họa cho Lưu Trí Phổ, đồng thòi nhấn mạnh với “người khảo sát” là tôi rằng Lưu Trí Phổ phẩm cách không tốt, hy vọng qua đó có thế làm ảnh hưởng tới con đường tiến thân của anh ta. Sở dĩ cô ta làm như vậy ắt hẳn ỉà do sự oán hận đối vói Lưu Trí Phổ, mà có lẽ cũng có một phần nguyên nhân là ghen tị với đồng nghiệp nữa.

Tôi suy nghĩ một chút rồi lại hỏi tiếp: “Năng lực của Giáo sư Lưu về mặt học thuật thế nào? Cô có thể cho đôi lời đánh giá không?” Không đợi cô ta mở lời tôi đã lại vội vàng bổ sung thêm một câu: “Cuộc nói chuyện lần này chắc chắn sẽ được giữ kín, cô không cần phải lo lắng bất cứ điều gì, xin cứ có sao nói vậy là được.”

Cô ta vẫn tỏ ra rất căng thẳng. “Thật vậy chứ? Tôi sẽ không bị ảnh hưởng chút nào chứ?”

“Xin hãy tin tôi, cô sẽ không sao đâu.” Tôi lại hứa hẹn thêm lần nữa: “Mỗi một lời cô nói đều sẽ được bảo mật tuyệt đối.”

Khuôn mặt trở nên căng cứng, cô ta xoa hai bàn tay vào nhau một chút, thế rồi mới khẽ gật đầu, nói: 'Trong thời gian nửa năm qua lại với anh ta, tôi phát hiện anh ta căn bản chẳng có chút kiến thức chuyên sâu nào về khoa học. Tôi không rõ cái danh tiếng thiên tài học thuật của anh ta là từ đâu mà có, nhưng trong việc phong hàm Giáo sư cho anh ta nhất định là có tồn tại những vấn đề gian dối hết sức nghiêm trọng. Tôi nghĩ, chắc cha anh ta đã phải bỏ ra không ít công sức cho chuyện này.”

Tôi hỏi nốt câu hỏi cuối cùng: “Các đối tượng mà Giáo sư Lưu từng qua lại có phải là đều lớn tuổi hon anh ta không?”

Phó Phán Xuân suy nghĩ một chút rồi khẽ gật đẩu.

Tôi bất giác thở phào một hơi. Trò chuyện đến lúc này, sự việc về cơ bản đã rõ: Lưu Trí Phố quả thực rất không chung tình, chỉ riêng ở Đại học C đã qua lại với mười mấy người phụ nữ khác nhau, trong số đó có Phó Phán Xuân, hơn nữa Phó Phán Xuân quả thực là từng có thai với anh ta. Cùng với đó, Lưu Trí Phố có thể thăng tiến mạnh mẽ như vậy trong sự nghiệp hoàn toàn là nhờ vào sự che chở của cha mình, về những điều này, sự miêu tả của Diệp Thu Vi hoàn toàn không có vấn đề gì cả.

Vấn đề rốt cuộc vẫn nằm trên người Lưu Hướng Đông. Chính bởi vì Lưu Hưóng Đông chưa chết, vậy nên Lưu Trí Phổ mới tiếp tục được che chở, mới hai mươi bảy tuổi mà đã trở thành Giáo sư rồi. Có điều, nếu Lưu Hướng Đông chưa chết, tại sao trong tập tài liệu kia lại ghi rõ thời gian tử vong của ông ta như thế chứ? Ngày 6 tháng 11 năm 2009, mốc thời gian này liệu có mang ý nghĩa đặc biệt gì không đây? Tập tài liệu về những vụ chết người là do Bệnh viện Tâm thẩn thành phố cung cấp, rốt cuộc là ai muốn đưa thông tin sai lệch cho tôi? Người đó (hoặc là bọn họ) rốt cuộc có mục đích gì?

Tuy thông qua Phó Phán Xuân, tôi đã chứng thực được những lời miêu tả của Diệp Thu Vi về Lưu Trí Phổ là chính xác, nhưng tiến trình điều tra lại chỉ có thể giậm chân tại chỗ. Có lẽ, chỉ có Diệp Thu Vi mới có thể giải thích cho tôi hay nguồn cơn mọi việc mà thôi.

Sau khi từ biệt Phó Phán Xuân, tôi đi một vòng quanh sân vận động rồi đột ngột vỗ đầu một cái, nhớ lại một chi tiết nhỏ trong cuộc trò chuyện vừa rồi: Trong chuyện Lưu Tri Phổ ngoại tình sau khi kết hôn, Phó Phán Xuân hiển nhiên là đã nói dối. Vậy Lưu Trí Phổ rốt cuộc có ngoại tình hay không? Phó Phán Xuân vốn mang lòng oán hận và ghen tị đối với anh ta, thế nên nếu anh ta thực sự có ngoại tình, cô ta chẳng có lý nào lại không biết. Nếu như biết, khi nói ra những lời đó, cô ta không nên biểu hiện ra những đặc trưng của một người đang nói dối mới phải.

Nói như vậy là Lưu Trí Phổ sau khi kết hôn rất có thể đã trờ nên hết sức chung thủy, chưa từng ngoại tình bao giờ. Nhưng vân đề ở đây là tại sao anh ta lại bằng lòng trở về bên cạnh Vũ Tú Thần và kết hôn vói cô ta, hơn nữa còn sắt son với cô ta như thế?

Tôi lặng nhắm mắt lại, thầm nghĩ tới những lời kể về Vũ Tú Thần của Diệp Thu Vi: Vũ Tú Thần là bạn thân của Diệp Thu Vi hồi còn học trung học phổ thông. Diệp Thu Vi rất tán thưởng Vũ Tú Thần, còn dành cho cô ta một sự giá rất cao. Sau bước ngoặt đêm đó, Diệp Thu Vi trở nên lý tính và lạnh lùng, thậm chí có thể nói là máu lạnh. trong quá trình thăm dò Vũ Tú Thần, cô ta lại nói rõ với tôi là khi đề cập tới chuyện thương tâm của đối phương, cô ta không muốn truy hỏi quá tì mỉ - điều này chứng tỏ cô ta có mang lòng xót thương và thông cảm đối với Vũ Tú Thần.

Tuy Diệp Thu Vi lạnh tựa băng sương, nhưng trực giác lại nói cho tôi biết, cô ta vẫn có tình cảm với Vũ Tú Thần. Vậy thì việc Lưu Trí Phổ quay trở lại bên cạnh Vũ Tú Thần liệu có phải là kết quả của một sự can thiệp nào đó của Diệp Thu Vi không?

Dựa theo mạch suy nghĩ này mà phân tích, tôi rất nhanh đã để ý tới vấn đề thời gian: Phó Phán Xuân nói Lưu Trí Phổ và Vũ Tú Thần kết hôn từ hồi cuối năm 2009, còn trên tập tài liệu về những vụ chết người kia thì ghi thời gian tử vong của Lưu Hướng Đông là ngày 6 tháng 11 năm 2009, tuy hai mốc thời gian đó không thể nói là hoàn toàn trùng khớp nhưng cũng không sai lệch nhiều. Liệu giữa hai việc này có tồn tại mối liên quan gì không đây?

Cuối năm 2009, giữa Lưu Hướng Đông và Lưu Trí Phổ, giữa Diệp Thu Vi và X, rốt cuộc đã xảy ra những chuyện gì?

Nghĩ tới cuộc trò chuyện vì mình mà phải dừng lại không lâu trước đó, tôi lại một lần nữa cảm thấy vô cùng hối hận.

Quay trở lại xe, tôi suy nghĩ vu vơ một lát rồi lật tập tài liệu về những vụ án mạng đến trang thứ chín:

Vu Khang, nam, sinh năm 1977, người bản địa, không nghề nghiệp, bị một chiếc xe tải hạng nặng cán chết tại đường Vành đai 4 phía tây thành phố. Qua sự giám định của cành sảt giao thông, Vu Khang phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về vụ tai nạn giao thông này.

Nguyên nhân dẫn đến cái chết của người thứ tám thì có ghi rõ, vậy nhưng tại sao lại không có thời gian tử vong nhỉ? Trong sự nghi hoặc, tôi lật tiếp sang trang sau, thấy trang thứ chín viết như thế này:

Trần Đông Kính, nam, sinh năm 1972, người bản địa, không nghề nghiệp, chẽí do nhảy từ tăng cao của khách sạn xuống đất, qua giám định được xác định là tự sát.

Vẫn không hề có thời gian tử vong.

Tôi lại lật tiếp mấy trang nữa, trong phần thông tin tử vong ở những trang phía sau, bất kể thông tin cá nhân và nguyên nhân tử vong của người chết phức tạp hay đơn giản, thời gian tử vong cũng đều không được ghi lại. Nhưng, trưóc đó tôi từng không chỉ một lần đọc tập tài liệu về những vụ án mạng này, và tôi nhớ rõ là trong phần thông tin từ vong của tất cả các trang từ đầu chí cuối đều có ghithời gian...

Nghĩ tới đây, đầu óc tôi bỗng trở nên nặng nề vô hạn, mảnh ký ức vừa rồi còn hết sức rõ ràng chỉ sau nháy mắt đã trở nên vừa mơ hồ vừa xa xôi. Tôi khom người, đồng thời ngẩng đầu nhìn vầng mặt trời rực rỡ giữa không trung, bên tai lại một lần nữa vang lên tiếng rít khiến người ta sợ hãi kia. Ngay sau đó, tiếng nhạc chuông điện thoại bất chợt vang lên xua đi tiếng rít, kéo tôi trở vể với hiện thực. Tôi bắt máy, người gọi đến hóa ra là lãnh đạo.

”Nhất Tân.” Giọng của anh ta lúc nào cũng có vẻ điềm tĩnh và bình thản. “Tôi đã liên lạc được với hai người mà cậu cần tìm rồi.”

* * *

Lãnh đạo nói cho tôi biết, trưởng ca trực năm xưa là Lý Ngọc Lương sớm đã được điều đi nơi khác, bây giờ đang đảm nhiệm chức vụ Cục phó Cục Công an của một huyện ở ngoại thành. Còn người phụ trách xử lý tình huống năm xưa là Hà Hải Phong thì nay đã là Đồn trưởng đồn công an phường J ở trung tâm thành phố. Lãnh đạo đã nhờ cậy bạn bè trong hệ thống công an thành phố, qua đó liên lạc được với Hà Hải Phong, và Hà Hải Phong cũng đồng ý là sẽ cố hết sức giúp đỡ. Còn về Lý Ngọc Lương thì lãnh đạo tỏ ý là không dễ giải quyết: Thứ nhất, người này tuy trực thuộc hệ thống công an thành phố nhưng dù sao cũng làm việc ở bên ngoài, không thân quen lắm với người quen của lãnh đạo; thứ hai, nghe nói người này vô cùng giảo hoạt, còn nổi tiêng về sự bướng bỉnh và tính cách thích giả bộ thanh cao, chuyện gì không có lợi thì quyết chẳng bao giờ làm.

Ý của lãnh đạo rất đơn giản, đó là tôi hãy đi tìm Hà Hải Phong nhờ giúp đỡ trước, nếu Hà Hải Phong không giúp được thì sẽ tìm cách đối phó với Lý Ngọc Lương sau.

Lúc này còn chưa tới mười một rưỡi, hiệu suất làm việc của lãnh đạo thật khiến người ta phải trợn mắt há mồm vì kinh ngạc. Sau khi gác máy, tôi cho xe chạy thẳng tới đồn công an phường J, vậy nhưng vì giao thông ùn tắc nên mãi tới gần một giờ mới đến nơi.

Tôi gặp được Hà Hải Phong trong sảnh trực ban của đồn công an. Anh ta thoạt nhìn thì vào khoảng hơn bốn mươi tuổi, thân hình hơi quá khổ, da ngăm đen, tuy từ đầu chí cuối luôn tươi cười hi hả nhưng từ trong mắt lại ánh lên những tia dữ dằn. Sau một phen tự giới thiệu và chuyện trò vu vơ, anh ta dẫn tôi tới phòng làm việc, mời tôi ngồi xuống, lại dùng chìa khóa mờ chiếc ngăn kéo ở phía dưới cùng của bàn làm việc, lấy ra một bao thuốc, đưa qua đưa lại trước mặt tôi. “Anh hút cái này nhé?”

Tôi xua tay, nói: “Tôi không hút thuốc.”

”Ừm, thói quen tốt đấy.” Anh ta chớp chớp mắt. “Anh xem, giờ tôi cũng chẳng biết phải tiếp đãi anh thế nào nữa rồi...”

”Không sao, không sao.” Tôi vội vàng nói. “Anh khách sáo quá rồi. Anh có thể dành thời gian ra gặp tôi thế này, tôi thực sự cảm kích vô cùng.”

“Anh mới là ngưòi khách sáo đấy.” Anh ta mỉm cười, nói: “Chuyện mà cấp trên giao phó đương nhiên không thể nào là chuyện nhỏ được. Cục phó Vương đã dặn dò tôi rồi, nhất định phải tích cực phối hợp với công việc của anh, có chỉ thị gì anh cứ việc nói đi.”

Tôi nhìn chằm chằm vào anh ta, dòng suy nghĩ quay trở về buổi sáng mười năm trước.

Tôi nhớ là khi đó ánh mặt trời rất chói chang, những tia sáng chui qua ô cửa sổ phủ đầy bụi bặm rọi vào phòng, khiến cho căn phòng đều trở nên vô cùng ngột ngạt. Tôi mặc một chiếc áo phông tay ngắn màu xám, ngồi lặng lẽ trên chiếc giường sơn màu đỏ cũ kĩ kê ở góc phòng cách xa cửa vào nhất. Mấy người đàn ông bao vây xung quanh tôi, ai nấy đều để trần toàn bộ hai cánh tay, có hai người hình như còn xăm mình nữa. Bọn họ thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn qua phía tôi, trong ánh mắt xen lẫn sự tức giận cũng như coi thường, có một người đang gọi điện thoại, nội dung cụ thể của cuộc điện thoại đó thì tôi không nhớ được nữa rồi, nhưng tôi nhớ là anh ta cầm điện thoại bằng tay trái, tay phải thì chống vào cửa. Tiếng gõ cửa đột ngột vang lên, tất cả mọi người trong phòng bao gồm cả tôi trong đó, đều sững người ra trong vòng một, hai giây. Người đứng cạnh cửa bịt chặt micro của điện thoại lại, cất giọng trầm thấp hỏi một câu gì đó. Từ ngoài cửa vọng vào một giọng nói cẩn trọng, nói mình là cảnh sát, nhận được tin báo nên đến đây để điều tra. Khi đó trái tim tôi đã sắp nhảy ra ngoài lồng ngực đến nơi, bởi lẽ những lần tôi báo cảnh sát trước đó đều hoàn toàn không có chút tác dụng nào.

Mấy người trong phòng nhìn nhau một chút, rất nhanh đã mở cửa ra. Cảnh sát lập tức ùa vào phòng, người đi đầu bỏ mũ xuống nhìn quanh một lượt, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên người tôi: “Ai là Trương Nhất Tân? Anh là Trương Nhất Tân phải không?”

Tôi khẽ đáp “ừm” một tiếng, đồng thời nhìn anh ta bằng ánh mắt vừa căng thẳng vừa tràn đầy sự mong chờ...

Dòng suy nghĩ rất nhanh đã quay trở về với hiện thực, tôi nhìn Hà Hải Phong trước mắt, cảm thấy anh ta không hề giống với viên cảnh sát đã hỏi chuyện tôi năm xưa.

“Anh Trương?” Hà Hải Phong hỏi tôi: “Anh sao vậy?”

Tôi vội vàng đưa tay dụi mắt, thở phào một hai, lấy từ trong cặp đựng giấy tờ ra tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát của mười năm về trước. “Anh Hà, anh xem thử cái này đi không biết anh có còn chút ấn tượng nào về vụ án được nhắc tới trong này không?”

Chuyển điếu thuốc đang cầm qua tay phải, anh ta đưa tay trái tới đón lấy tờ biên bản đó, lại thè lưỡi liếm môi một hồi, cuối cùng khẽ lắc đầu, nói: “Dù sao cũng là chuyện của mười năm trước rồi, tôi nhất thời không có cách nào nhớ ra được.” Nói rồi anh ta lại rít thêm mấy hơi thuốc nữa. “Có điều, chữ ký trên này quả thực là của tôi.” Không chờ tôi mở miệng, anh ta đã lại nói tiếp: “Biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát... Đây là bản phô tô, tôi nhớ là mình chưa từng phô tô nó bao giờ cơ mà nhỉ?” Anh ta vừa nói vừa đưa mắt nhìn tôi. “Anh Trương, thứ này anh kiếm từ đâu ra vậy?”

Tôi đưa tay mân mê cằm, không biết nên trả lời ra sao.

Anh ta hiểu nhầm ý của tôi khi đó, thế là bèn vội vàng nói: “Ồ, không tiện nói ư? Xem ra tôi đã hỏi nhiều quá rồi. Anh cứ việc nói chỉ thị đi, muốn tôi giúp thế nào đây?”

Tôi hỏi: “Liệu có thể tìm được thông tin chi tiết về vụ án này không?”

Anh ta rít một hơi thuốc, hơi cau mày lại, khẽ thở dài, nói: “Hầy, việc này tôi thực sự không dám đảm bảo. Năm 2002, tôi còn làm việc tại đồn công an L, về sau hệ thống có sự biến động, tất cả hồ sơ ở đồn L đều đã được đưa về đồn J, nhưng trong quá trình chuyển giao từng bị thất lạc không ít văn kiện, về sau nhà nước có chủ trương số hóa hồ sơ, thế là các văn kiện giấy đều được chuyển thành bản mềm và đưa vào máy tính, nhưng trong quá trình này thông tin cũng bị thất lạc khá nhiều.” Nói tới đây, anh ta vội vàng đưa tay ra, hướng lòng bàn tay về phía tôi. “Đương nhiên khi thông tin bị thất lạc thì tôi vẫn chưa phải là đồn trưởng, đồn trưởng khi đó là một người khác.”

Tôi khẽ gật đầu. “Nói vậy tức là có khả năng không tìm được, nhưng nếu thông tin không bị thất lạc, vậy thì chắc chắn có thể tìm được đúng không?”

”Đúng vậy.” Anh ta lại nhìn lướt qua tờ biên bản đó một lần nữa. “Vấn đề chỉ là thông tin chi tiết về vụ án này thôi, đúng vậy không?”

”Đúng.” Tôi đưa mắt nhìn ô cửa sổ bên cạnh một chút “Mong anh giúp cho chuyện này, tôi muốn thông tin càng chi tiết càng tốt.”

”Anh đợi cho một chút.” Anh ta cầm điện thoại để bàn trên bàn làm việc lên. “Tiểu Thôi, cô qua đây một chút.” Mười mấy giây sau, một nữ cảnh sát tuổi chừng ba mươi đẩy cửa đi vào. Hà Hải Phong đưa tờ biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát cho cô ta. “Tiểu Thôi, ờ đây có một vụ xử lý tình huống báo cảnh sát từ mười năm trước, liệu có thể tra ra được thông tin chi tiết từ trong kho hồ sơ không?”

Nữ cảnh sát đó đón lấy tờ biên bản xem qua một chút, khẽ lắc đầu, nói:“Trong quá trình số hóa hồ sơ thông tin đã bị thất lạc không ít, một vụ án nhỏ thế này e rằng rất khó tìm được. Tôi cứ thử đi tìm đã, nếu không tìm được thì chỉ đành tới phòng hồ sơ lật lại đống hồ sơ cũ thôi, nhưng khả năng tìm được thực sự là không lớn.”

”Cô cứ đi tìm thử trước đi.” Hà Hải Phong nói: “Có kết

Trong quá trình chờ đợi, Hà Hải Phong hỏi tôi về mối quan hệ với Cục phó Vương. Cục phó Vương là cục phó của Cục Công an thành phố, nghe nói còn được quy hoạch sẵn để trở thành cục trưởng nhiệm kỳ tiếp theo. Tôi tùy tiện ứng phó qua loa mấy câu, đồng thời vì muốn thể hiện mối quan hệ của mình, tôi lại nói ra tên của mấy vị lãnh đạo mà mình thân quen. Hà Hải Phong tỏ ra khá kính trọng tôi, thế rồi chẳng rõ vì sao, chúng tôi bỗng dưng lại nói tới Cố Thành Kiệt.

Cố Thành Kiệt là bạn của cha tôi lúc sinh tiền, năm xưa khi bị giam giữ trái pháp luật, tôi được giải cứu cũng hoàn toàn là nhờ vào sự giúp đỡ của ông ta. Về sau, tuy bản thân không có quan hệ quá gần gũi với ông ta, nhưng vì cha mình nên tôi cũng có chú ý đến ông ta một chút. Theo như tôi được biết, hồi năm 2005 ông ta được điều từ Sở Tư pháp tỉnh đến một thành phố cấp địa khu1 nào đó, nghe nói là để đảm nhận một vị trí quan trọng trong ủy ban kiểm tra kỷ luật đương địa, đến năm 2009 thì lại quay về hệ thống tư pháp, đến năm 2011 thì đã là phó giám đốc của Sở Tư Pháp tỉnh. Sau khi biết quan hệ giữa cha tôi và Cố Thành Kiệt, Hải Phong lại càng tỏ ra kính trọng tôi hơn, thậm chí còn có một chút điệu bộ xu nịnh nữa,.. Anh ta đương

“Cô cứ tìm thử trước đi.” Hà Hải Phong nói: “Có kết quả thì gọi điện báo cho tôi luôn nhé.

1. Cấp địa khu là cấp hành chính thứ hai trong thứ bậc các cấp hành chính ở Trung Quốc, dưới cấp tỉnh nhưng trên cấp huyện. Ở Việt Nam không có cấp địa khu – ND.

Tất nhiên anh ta không biết rằng cha tôi đã qua đời từ mười mấy năm trước rồi.

Dưới sự tâng bốc của anh ta, tôi không tránh khỏi phải nói nhiều thêm mấy câu, và rồi rất nhanh đã đề cập đến chuyện xảy ra hổi năm 2002. Có điều tôi chỉ nói là một người bạn của mình bị giam giữ trái pháp luật, chính nhờ có Cố Thành Kiệt ngấm ngầm giúp đỡ nên người bạn đó của tôi mới thoát khỏi cảnh nguy hiểm. Nghe tôi kể xong chuyện này, Hà Hải Phong đột nhiên sững người ra, lại ngẩng đầu trầm tư suy nghĩ một hồi lâu nữa, sau đó để lộ vẻ giật mình bừng tỉnh ngộ. “Ồ, nghe anh nhắc đến chuyện này, tôi thực sự đã có chút ấn tượng rồi đây. Phải rồi, phải rồi! Lần đó tôi còn là người dẫn đội nữa cơ đấy! Khi ấy là mùa hè năm 2002, đồn trưởng đích thân giao cho tôi một nhiệm vụ, bảo tôi tới Cẩm Tú Hoa Viên đưa một người bị giam giữ trái pháp luật về đồn, người đó tên là Trương, Trương…”

Tôi vội vàng nói: “Trương Nghĩa Quân (tên một người chú họ của tôi).”

”Đúng rồi!” Dưới sự dẫn dắt của tôi, Hà Hải Phong lập tức gật đầu vẻ hết sức chắc chắn. “Chính là Trương Nghĩa Quân. Đồn trưởng còn đặc biệt dặn dò tôi, nói việc này là do Chủ nhiệm Cố ở Sở Tư pháp tỉnh giao phó. À…” Anh ta khẽ vỗ đầu một cái, nhìn tôi bằng ánh mắt như thể vừa buông được một gánh nặng trong lòng. “Hóa ra là vậy, vụ việc được ghi lại trong tờ biên bản xử lý tình huống mà anh đưa cho tôi chính là chuyện này đúng không?”

Tôi cũng thở phào một hơi, cười nói: “Đúng vậy, tôi đến đây chính là vì chuyện này. Đằng sau chuyện này có ẩn giấu một số vấn đề phức tạp, tôi nhất định phải làm rõ càng nhanh càng tốt.”

”Ừm, tôi hiểu rồi, tôi sẽ cố hết sức phối hợp với anh.” Hà Hải Phong vừa nói vừa rót cho tôi một cốc nước. “Anh xem kìa, hai chúng ta đúng là hợp chuyện quá, khiến tôi quên cả rót nước mời anh.”

Đúng lúc này, tiếng chuông điện thoại để bàn reo vang. Hà Hải Phong nhấc điện thoại lên, nói: “Tiểu Thôi à, ừm, được rồi, cô in hết thông tin ra đi. Hả? Cái gì?”

Anh ta nhíu chặt đôi mày, không kìm được hít vào một hơi khí lạnh.“Không phải chứ? Được rồi, cô cứ in thông tin ra đi rồi mang lên đây cho tôi.” Sau khi gác máy, anh ta đưa mắt nhìn tôi, muốn nói gì đó lại thôi, cuối cùng lặng lẽ châm một điếu thuốc nữa.

Tôi hỏi: “Sao vậy? Không tìm thấy thông tin ư?”

”Thông tin thì đã tìm thấy rồi.” Anh ta rít một hơi thuốc, ngẩng đầu lên, đôi hàng lông mày nhíu chặt, có lẽ là đang nhớ lại chuyện năm xưa.“Có điều, ừm...” Anh ta thở dài một hơi vẻ hết sức nặng nề. “Tôi cũng không nhớ rõ nữa.”

Tôi đang định hỏi rõ nguồn cơn thì nữ cảnh sát phụ trách tra cứu đã đẩy cửa đi vào rồi liền đưa hai tờ giấy tới trước mặt Hà Hải Phong, nói:“Thông tin hoàn toàn trùng khớp, tất cả đều ở đây.”

Hà Hải Phong búng nhẹ điếu thuốc một cái cho rơi tàn sau đó gật đầu, nói: “Được rồi, cô cứ đi làm tiếp công việc của cô đi.”

Sau khi nữ cảnh sát đó rời đi, tôi đứng dậy đi tới bên cạnh bàn làm việc của Hà Hải Phong, cầm hai tờ giấy đó lên xem, thấy một tờ là biên bản xử lý tình huống báo cảnh sát giống hệt tờ mà tôi mang tới, tờ còn lại thì là “Nội dung xử lý tình huống báo cảnh sát”, bên trên viết như thế này:

Họ tên người báo cảnh sát: Trần Ngọc Long. Thời gian báo cảnh sát: 10 giờ 22 phút ngày 20 tháng 7 năm 2002. Địa điểm xảỵ ra vụ án: Căn hộ 1218, tòa nhà số 8, khu C, Cẩm Tú Hoa Viên. Nguyên nhân báo án: Người báo án nói rằng bạn mình bị bắt cóc và giam giữ trái pháp luật, đang ở trong tình cảnh vô cùng nguy hiểm, vậy nhưng lại không chịu tiết lộ họ tên của người bị bắt cóc. Nhân viên cảnh sát đi xử lý tình huống: Hà Hải Phong, Đỗ Nhân Cường, Tôn Khả, Lý Mộng Tình. Tình huống hiện trường: Theo thông tin tra cứu từ chỗ ban quản lý tiểu khu đô thị, căn hộ 1218 ở tòa nhà số 8, khu C không hề có người ở. Dưới sự giúp đỡ của nhân viên ban quản lý, xông vào căn hộ 1218, phát hiện đây là một căn hộ thô chưa được hoàn thiện phần nội thất, bên trong không hề có vật dụng sinh hoạt hằng ngày, cũng không có dấu tích cho thấy có người từng sinh sống ở đây, lại càng không có vụ bắt cóc hay giam giữ người trái pháp luật nào cả.

Tôi chậm rãi ngồi trở lại xô pha, đầu óc trở nên hết sức hỗn loạn.

”Anh Trương.” Hà Hải Phong cầm lấy tờ nội dung xử lý tình huống báo cảnh sát từ trong tay tôi, xem qua một chút rồi nói: “Hình như tôi cũng nhớ ra rồi. Khi đó tôi là người dẫn đội, Cẩm Tú Hoa Viên thì vừa mới được xây xong chưa lâu, còn chưa có bao nhiêu gia đình vào ở. Tòa nhà số 8 đó là một cao ốc được xây dựng theo kiểu chung cư, về cơ bản còn chưa có ai dọn đến. Số nhà cụ thể thì tôi không nhớ được nữa, nhưng trong này quả thực cũng có ghi là căn hộ 1218. Chúng tôi đã tìm đến ban quản lý tiểu khu đô thị nhờ mở cửa, thấy bên trong đó quả thực không có gì hết, sau khi vào trong xem xét sơ qua một chút liền rời đi luôn.”

Tôi khẽ lắc đầu trong vô thức. Những năm nay, tôi vẫn luôn nhớ rất rõ chuyện này: Tháng 7 năm 2002, tôi bị giam giữ gần một tháng trời. Về sau, Cố Thành Kiệt dùng các mối quan hệ để giúp đỡ tôi, Trần Ngọc Long thì giúp tôi báo cảnh sát, nhờ thế tôi mới được bốn viên cảnh sát giải cứu...

Nghĩ tới đây, tôi đột nhiên nhớ lại chuyện lúc
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 6-1: X thần bí xuất hiện (1)


Bọn họ kéo nữ sinh đó ra hẳn bên ngoài, cứ thế lôi một mạch tới bãi đất hoang ở phía sau trường, sau đó lột sạch quần áo của nữ sinh đó ra. Tuy thầy giáo và các nam sinh đã liều mạng lao tới ngăn cản, nhưng chúng tôi đều quá yếu ớt, nữ sinh đó rốt cuộc vẫn không tránh khỏi vận mệnh bị hiếp dâm tập thể.

Trái tim tôi trở nên nặng trĩu, đầu óc bất giác quay cuồng.

Thầy lại nói tiếp: “Nhưng, hai đoạn ký ức mà cậu nói đều hết sức bình thường, không có dấu hiệu gì của sự giải tỏa áp lực, cho nên sự xuất hiện của tình trạng hoang tưởng rõ ràng là không có lý do gì cả. Hơn nữa, hoang tưởng thông thường sẽ khiến cho người ta tâm trạng thất thường hoặc là tư duy hỗn loạn, nhưng tâm trạng của cậu vẫn rất ổn định, hơn nữa còn có sự tự nhận thức rõ ràng, thậm chí có thể nhận ra là mình có vấn đề. Đây tuyệt đối không phải là những triệu chứng phát bệnh thông thường của chứng tâm thần phân liệt.” Thầy dừng lại một chút, giọng nói trở nên khá nặng nề. “Tôi nhớ là lần trước cậu có nói bệnh nhân mà cậu chuẩn bị phỏng vấn là một chuyên gia tâm lý học, đúng vậy không?”

”Dạ đúng.” Tôi nói. “Cô ta không những có khả năng phân tích tâm lý nhạy bén, còn từng có một trải nghiệm tâm lý vô cùng đặc biệt, thế nên có thể dễ dàng tác động tới tâm trạng, thậm chí là tư duy của người khác. Tóm lại, cô ta rất không đơn giản...”

”Thế nên...” Thầy cắt ngang lời tôi. “Tôi có một suy đoán thế này, cậu xuất hiện tình trạng hoang tưởng như vậy phải chăng là do sự ám thị và dẫn dắt của cô ta?”

Tôi lập tức ngây người ra đó.

Hồi mới tiến hành phỏng vấn, lão Ngô liên tục nhấn mạnh với tôi về sự nguy hiểm của Diệp Thu Vi, hơn nữa lần gặp mặt nào cũng đều có sự hạn chế về thời gian. Thang Kiệt Siêu, nhân viên bảo vệ và các bệnh nhân khác ở khu bốn hiển nhiên cũng đều mang lòng sợ hãi trước Diệp Thu Vi. Nhưng trong quá trình trò chuyện thực tế tôi lại không cảm thấy Diệp Thu Vi có gì đáng sợ, thậm chí còn nảy sinh một thứ tình cảm mơ hồ với cô ta nữa. Tỉ mỉ ngẫm lại, chuyện này quả thực có chút đáng ngờ... Tại sao trong mắt mọi người Diệp Thu Vi chẳng khác nào ác quỷ, còn tôi lại thấy cô ta hoàn toàn vô hại? Hoặc cũng có thể nói, tại sao tôi lại không cảm nhận được ác ý của cô ta? Là bởi không có ác ý với tôi hay là bởi vì cô ta đã ẩn giấu quá sâu?

Chẳng lẽ trong tám ngày vừa qua, cô ta vẫn luôn tiến hành ám thị tôi bằng một phương thức nào đó, mục đích chính là khiến tôi bị tâm thần phân liệt? Cô ta rốt cuộc đã dùng cách gì? Tại sao tôi lại chẳng phát giác ra được chút dấu hiệu khả nghi nào như thế? Hơn nữa, cô ta làm vậy rốt cuộc là để làm gì?

Tôi lại một lần nữa cảm thấy đầu đau nhói, bèn vội đưa tay ôm đầu, hét lớn một tiếng, nghiêng người đổ gục xuống xô pha. Bà xã nghe thấy tiếng động liền vội vàng chạy tới, căng thẳng ôm chặt lấy tôi, lớn tiếng gọi tên tôi. Dưới sự dìu đỡ của cô ấy, tôi gắng gượng ngồi dậy, liên tục thở dốc mấy hơi, bàn tay vô thức lần mò trên xô pha. Bà xã nhìn thấy thế thì liền hiểu ngay ý tôi, vội nhặt chiếc điện thoại rơi dưới đất lên đưa cho tôi.

Từ trong điện thoại vang ra giọng nói lo lắng của thầy Chủ nhiệm khoa: “Nhất Tân? Nhất Tân? Cậu còn ở đó không?”

”Thầy Trần.” Tôi vội vàng trả lời. “Xin lỗi thầy, vừa rồi em có hơi khó chịu, chẳng may làm rơi điện thoại xuống đất.”

”Ừm.” Thầy nói. “Nếu đã khó chịu thì tạm thời đừng suy nghĩ nữa, ngày mai hãy đi tìm một bác sĩ tâm lý mà khám thử xem sao.” Nói tới đây, thầy đột nhiên tỏ vẻ khó hiểu, hỏi: “Cậu phải tiếp xúc với một bệnh nhân tâm thần đặc biệt như vậy trong suốt một thời gian dài, lẽ nào bệnh viện không có sự sắp xếp hay bảo vệ nào dành riêng cho cậu hay sao?”

“Dạ, có chứ.” Tôi nói: “Mỗi lần em đi gặp cô ta đều có sự hạn chế về thời gian, hơn nữa mới hồi sáng hôm nay vừa phải trải qua một cuộc đánh giá tâm lý, trong quá trình này em đã phải trả lời những câu hỏi chi tiết, tỉ mỉ, còn được đo các chỉ tiêu sinh lý như huyết áp, nhịp tim, cuối cùng được xác định là không có vấn đề gì cả.”

”Lạ thật.” Thầy suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tuy tình trạng hoang tưởng của cậu có hơi đặc biệt, nhưng cơ sở của nó dù sao cũng là sự khác thường ở tâm lý, ắt không thế nào náu mình trước một cuộc đánh giá tâm lý chuyên nghiệp. Ngay cả huyết áp và nhịp tim cũng đã đo rồi, bọn họ không lý nào lại không phát hiện ra chuyện này.”

Lúc ấy, tôi đột nhiên nhớ tới nụ cười sâu sắc mang đầy ý vị của lão Ngô.

Tôi đi gặp Diệp Thu Vi hoàn toàn là do lão Ngô đề nghị, tập tài liệu có sự ngụy tạo về cái chết của Lưu Hướng Đông cũng là do lão Ngô bảo Thang Kiệt Siêu đưa cho tôi. Nếu tình trạng hoang tưởng của tôi là do Diệp Thu Vi gây ra, vậy thì chuyện này e rằng không tránh khỏi mối liên quan với lão Ngô.

Nghĩ tới điều này, sống lưng tôi bất giác nổi lên từng cơn buốt lạnh.

”Thầy Trần.” Tôi ngẩn ngơ nói: “Có thể em đã bị người ta gài bẫy rồi.”

”Gài bẫy? Là ý gì vậy?”

“ Thầy Trần.” Tôi cố giữ bình tĩnh cất tiếng hỏi: “Nếu dạng hoang tưởng của em phát sinh là do sự ám thị của người khác, cũng tức là do nguyên nhân tâm lý gây ra, vậy thì liệu có cách nào khiến nó tự động biến mất không? Em bây giờ nên làm thế nào?”

”Nhất Tân.” Thầy nhanh chóng nghe ra ẩn ý trong lời nói của tôi. “Cậu rốt cuộc bị sao vậy? Nếu thực sự không ổn, cậu hãy tìm dịp nào đó về trường một chuyến đi. Chỉ cần trung khu thần kinh của cậu không có vấn đề gì, tôi có thể dùng liệu pháp thôi miên để giúp cậu tra rõ nguyên nhân tâm lý gây ra chứng hoang tưởng hiện giờ của cậu. Tình trạng của cậu khá đặc biệt, đến chỗ tôi hẳn sẽ hữu ích hơn là đi tìm những bác sĩ tâm lý thông thường.”

Đối với tôi mà nói, những lời này thực chẳng khác nào cọng rơm cứu mạng.“Ngay sáng sớm ngày mai em sẽ xuất phát. Thầy Trần, thầy nhất định phải giúp em đấy!”

”Ừm.” Thầy nói bằng giọng hết sức kiên định: “Cậu cứ yên tâm, hồi cậu còn đi học chúng ta từng trao đổi với nhau không ít lần mà, tôi có thể nói là khá hiểu về cậu. Tuy không rõ những năm nay cậu đã phải trải qua những chuyện gì, nhưng vấn đề của cậu chắc hẳn không khó giải quyết đâu.”

Tôi thở phào một hơi, sau đó lại hỏi tiếp: “Vậy bây giờ em nên làm thế nào? Em cảm thấy hôm nay tinh thần của mình rất tệ, liệu buổi tối có xảy ra chuyện gì không? Có khi nào tình trạng của em sẽ thực sự phát triển thành tâm thần phân liệt...”

Chỉ là vấn đề tâm lý mà thôi. Nếu cậu thực sự không kiềm chế được sự lo lắng, vậy thì hãy thử dùng cách lấy độc trị độc xem sao, tức là đừng có né tránh, hãy để đầu óc thoải mái nghĩ về những chuyện có liên quan tới tình trạng hoang tưởng. Khi phải đối mặt với sự tự kỷ ám thị tiêu cực, đây có thể coi là một biện pháp hay để giải tỏa bớt áp lực cho bản thân.”

Tôi nắm lấy bàn tay bà xã, tâm trạng vốn đang căng thẳng rốt cuộc đã dần dần buông lỏng.

Hôm đó là thứ Ba, bà xã hy vọng tôi có thể chờ đến cuối tuần, sau đó đưa cô ấy và con cùng đi gặp thầy Chủ nhiệm khoa, nhưng tôi thực sự không muốn chờ đợi thêm một ngày nào cả. Thấy không cự lại được tôi, bà xã chỉ đành giúp tôi đặt vé máy bay chuyển sáng ngày hôm sau. Tối đó, chúng tôi nằm trên giường, cùng nhớ lại những tình cảnh ngọt ngào trong quá trình từ khi quen nhau tới nay, cùng hồi tưởng lại cả quãng thời gian khó khăn mười năm trước. Chúng tôi trò chuyện rất lâu, dần dần đều mở rộng lòng mình, cuối cùng ôm nhau mà khóc. Trong ký ức, tôi hình như đã lâu lắm rồi không khóc, nước mắt mang tới cho tôi cảm giác vô cùng thoải mái. Tâm trạng thoải mái khiến tôi thấy toàn thân đều buông lỏng, chẳng bao lâu sau đã chìm vào giấc ngủ say.

Đêm đó, tôi nằm mơ một giấc mơ rất lạ.

Giấc mơ đó chân thực vô cùng: Tôi nửa đêm tỉnh giấc, bà xã vẫn nằm ngủ say bên cạnh tôi. Tôi lặng lẽ xuống giường, đi ra ngoài phòng khách ngồi xuống xô pha, lại cầm điện thoại lên mở ti vi - trong giấc mơ, điện thoại không ngờ có tác dụng như một chiếc điều khiển từ xa - ấy vậy tôi chẳng hề thấy lạ chút nào. Ngoài ra, trong giấc mơ này của tôi, chiếc ti vi màn hình tinh thể lỏng 50 inches treo ở phòng khách cũng đã biến thành chiếc ti vi màu 18 inches kiểu cũ từng bầu bạn với tôi hồi tôi còn học trung học.

Các tiết mục trên ti vi đều vô cùng hỗn loạn, tôi chọn đại lấy một kênh, sau đó để điện thoại xuống bàn trà. Trong khoảnh khắc hơi cúi người về phía trước, tôi bỗng phát hiện ở phía trước bên phải mình có một người đang nằm trên xô pha, đó là một cô gái áo quần xộc xệch tơi tả, chiếc áo phông trên người đã bị xé rách bươm, mái tóc dài thì rối bù. Cô ta ôm mặt khóc nức nở, trên hai cánh tay có vô số những vết sẹo dày đặc, hình như là do bị dao cắt mà ra.

Tuy tình trạng của cô ta rất tệ, thậm chí còn không thể nhìn rõ mặt, vậy nhưng tôi vẫn nảy sinh ham muốn tình dục vô cùng mãnh liệt đối với cô ta. Tôi đưa tay về phía cô ta, cô ta đột nhiên gào lên một tiếng thảm thiết, lại nhìn chòng chọc vào tôi bằng cặp mắt đỏ ngầu. Tôi như nhìn thấy ma quỷ, trong đầu bỗng nổ uỳnh một tiếng, ngả người tựa vào thành xô pha sau lưng. Cô ta vẫn ôm mặt bằng hai tay, đồng thời không ngừng gào khóc...

Tôi khi đó dường như đã tỉnh táo trở lại trong vòng một giây, nhưng chỉ sau nháy mắt đã quay trở về trong mơ.

Cô gái đó vẫn đang khóc, nhưng sự chú ý của tôi đã lại tập trung vào nhà vệ sinh ở cách đó vài mét. Trong bóng tối lờ mờ, một người đàn ông đang đứng ở cửa nhà vệ sinh, cặp mắt lạnh lùng u ám nhìn chằm chằm vào tôi không chớp. Theo bản năng, tôi hỏi anh ta là ai. Anh ta ban đầu thì nói mình là lão Ngô, sau đó lại nói mình là Hà Hải Phong, kế đó thì nói mình là thầy Trần, cuối cùng dùng giọng lạnh

băng nói: “Tôi chính là X.”

Nói xong, anh ta mở cửa nhà vệ sinh, loáng một cái đã mất hút vào trong đó.

Trong giấc mơ, khi đó tôi chỉ có một ý nghĩ duy nhất: Đang nửa đêm thế này, tại sao trong nhà lại có người khác như thế? Tôi muốn đuổi anh ta ra ngoài. Dưới sự thôi thúc của suy nghĩ này, tôi đứng dậy, tức tối đi về phía nhà vệ sinh. Nhưng, khi bước đến bước thứ hai, dù có cố gắng thế nào đi nữa tôi cũng không thể bước tiếp được, cùng với đó nơi đầu gối chân phải còn dần dần truyền tới cảm giác đau đớn. Tôi cúi xuống nhìn, phát hiện cô gái vừa rồi còn nằm trên xô pha giờ đang quỳ ngay trước người tôi, lại túm chặt lấy đầu gối chân phải của tôi, móng tay đã cắm sâu vào trong da thịt tôi rồi. Khi đó tôi nhìn thấy rất rõ, trên cánh tay của cô gái này có vô số những vết cắt lớn nhỏ khác nhau.

Tôi nhìn vào đôi mắt của cô gái đó, tự nơi đáy lòng nảy sinh một nỗi sợ hãi sâu sắc khó mà dùng lời miêu tả. Tôi kinh hãi kêu to một tiếng, đột nhiên giật mình bừng tỉnh, thân thể mất kiểm soát ngã về phía sau, nhưng rất nhanh đã được mấy vật thể mềm mại nào đó đỡ lấy. Tôi thở dốc mấy hơi, mở mắt ra, lại vặn cổ một chút, phát hiện thứ đỡ lấy mình là mấy chiếc gối ôm thêu hoa.

Theo trí nhớ của tôi, những chiếc gối ôm này đều là gối ôm ở xô pha ngoài phòng khách.

Nghĩ tới đây, trái tim tôi bỗng trở nên nặng nề vô thế rồi vội vàng ngồi bật dậy, đưa mắt nhìn quanh phía, phát hiện không ngờ mình lại đang ờ trong phòng khách thật. Tôi co chân đưa đầu gối chân phải lên xem theo bản năng, sau đó lại đưa tay sờ thử, phát hiện quả nhiên là có cảm giác đau rất rõ ràng. Tôi nhớ lại cô gái túm chân mình vừa nãy, toàn thân bất giác nổi da gà. Tôi đưa mắt ngó nhìn chỗ phía trước bên phải - cô gái đã không còn ở đó nữa, rồi tôi lại ngó nhìn khoảng sàn nhà ở giữa xô pha và bàn trà - cũng hoàn toàn trống trải, không có bất cứ một ai. Tôi lại nhớ tới người đàn ông đáng sợ ở trước cửa nhà vệ sinh, thế là vội vàng mò tay xuống phía dưới bàn trà, lấy ra một con dao gọt hoa quả, rón ra rón rén đi tới trước cửa nhà vệ sinh, sau đó đột ngột mở đèn và đẩy cửa, nhưng lại phát hiện bên trong đó chẳng có người nào.

Tôi thở phào một hơi, mãi mấy giây sau mới đột nhiên ý thức được mọi chuyện vừa xảy ra chỉ là một giấc mơ mà thôi.

Tôi đóng cửa nhà vệ sinh lại và tắt đèn, quay trở về phòng khách, ngẩn người ngồi xuống xô pha, phát hiện đầu gối chân phải mình vẫn còn hơi đau. Tôi nhẹ nhàng day đầu gối, trái tim bỗng đập thình thịch, toàn thân túa đầy mồ hôi lạnh.

Giấc mơ vừa rồi vô cùng chân thực, vậy nhưng sau khi giật mình tỉnh giấc, tôi lại biết ngay đó tuyệt đối là một giấc mơ. Có điều nói đi cũng phải nói lại, nếu đó là một giấc mơ, tại sao đầu gối chân phải tôi lại bị đau? Mà tại sao tôi lại ra ngoài phòng khách thế này? Tôi...

Tôi sững người, đột nhiên nhớ tới một câu nói của thầy Trần. Hồi chiều, thầy từng giải thích với tôi những khả năng về mặt lý luận có thể gây ra tình trạng mất trí nhớ tạm thời. Khi đó, tôi đã hỏi thầy hành vi vô thức một trăm phần trăm liệu có thực sự tồn tại không, thế là thầy liền nói: “Đương nhiên, mộng du chẳng phải chính là một ví dụ điển hình ư?”

Mộng du... Tôi đưa tay lau mồ hôi trên trán, bất giác nhủ thầm: Tôi đã từ phòng ngủ ra phòng khách trong lúc mộng du ư?

Tôi một mặt nhớ lại tình cảnh trong giấc mơ, một mặt quan sát mọi thứ xung quanh mình: Trong giấc mơ, tôi dùng điện thoại mở ti vi, sau đó đặt điện thoại xuống bàn trà - trong thực tại, điện thoại thực sự đã bị tôi mang ra khỏi phòng ngủ, lúc này đang nằm trên chiếc bàn trà trước mặt, hơn nữa còn đang mở máy. Trong giấc mơ, tôi nhìn thấy có một cô gái kỳ lạ nằm trên xô pha ở phía trước bên

phải mình - trong thực tại, tôi ngó nhìn về phía đó một chút, vậy nhưng lại chỉ nhìn thấy một chiếc gối ôm trẻ con cùng với mấy món đồ chơi của con trai tôi, ngoài ra không còn gì khác, hơn nữa cũng không có vẻ gì như là từng có người nằm ở đó. Trong giấc mơ, tôi nhìn thấy một người đàn ông quái dị đứng ở ngay trước cửa nhà vệ sinh – trong thực tại, trong nhà vệ sinh không có ai cả. Trong giấc mơ, khi tôi đứng dậy đi về phía nhà vệ sinh thì bị cô gái kỳ lạ kia túm lấy đầu gối chân phải - trong thực tại, trên con đường đi về phía nhà vệ sinh, ngoài bàn trà ra thì không có vật cản nào khác.

Bàn trà?

Tôi bất giác cả kinh, hoang mang đứng bật dậy, mắt nhìn thẳng về phía trước, đồng thời đi hai bước về phía nhà vệ sinh. Vừa mới đi tới bước thứ hai thì đầu gối chân phải của tôi đã bị va vào mép bàn trà, cảm giác đau nhói theo mà xuất hiện.

Tôi chậm rãi ngồi xuống xô pha, đưa tay nhẹ nhàng day đầu gối, trong lòng đã hiểu được nguyên nhân tại sao lại mơ thấy mình bị cô gái kia chụp lấy đầu gối chân phải.

Trong trạng thái lý tưởng, giấc mơ hoàn toàn là sự ngụy trang và biểu đạt của ham muốn sau khi bị kìm nén. Nhưng trong thực tại, nội dung của giấc mơ còn thường xuyên bị ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác. Nếu người đang ngủ bị quấy nhiễu bởi một chuyện gì đó thì sẽ có những cảm giác và phản ứng tương ứng, những cảm giác và phản ứng này sẽ thông qua một hình thức nào đó để xuất hiện trong giấc mơ. Chẳng hạn, trong khi ngủ, nếu một người khoanh hai tay trước ngực hoặc là đắp một chiếc chăn quá nặng, cũng có thể là bị bạn tình đè lên người, từ đó làm xuất hiện tình trạng hít thở gặp trở ngại ở một mức độ nhất định, vậy thì trong giấc mơ thông thường sẽ xuất hiện những tình cảnh như là bị đá lớn đè hoặc là bị trăn khổng lồ quấn, vân vân; còn nếu phải ngủ ở một nơi quá nóng hoặc là bị sốt, vậy thì trong giấc mơ rất có thể sẽ xuất hiện tình cảnh bản thân đang ở giữa một vụ hỏa hoạn, thậm chí là đang bị người ta thiêu sống.

Đương nhiên, cảm giác và phản ứng xuất hiện trong khi đang ngủ có lúc cũng sẽ được biểu đạt thông qua sự ngụy trang của tiềm thức Chẳng hạn, một người bị đau dạ dày có thể sẽ nằm mơ thấy người nhà dùng những loại nguyên liệu đáng sợ để nấu ăn, một người đang buồn đi vệ sinh thì có thể nằm mơ thấy mình đang phải xếp hàng dài trước cửa nhà vệ sinh công cộng, vân vân. Có điều, những cảm giác và phản ứng do nhân tố thực tại gây nên thông thường đều khá trực quan và mãnh liệt, do đó sự ngụy trang này thường không quá phức tạp.

Trong giấc mơ, tôi một lòng muốn đuổi người đàn ông xa lạ nấp trong nhà vệ sinh đi, hoàn toàn không ý thức được chướng ngại nằm trên con đường từ xô pha tới nhà vệ sinh, thế là mới bước tới bước thứ hai thì đầu gối chân phải đã bị va vào bàn trà rồi. Trong giấc mơ, cảm giác đau đớn do va chạm được biểu hiện bằng tình cảnh tôi bị cô gái kỳ lạ kia chụp lấy đầu gối.

Trong giấc mơ và trong thực tại, tôi đều bị cản trở khi bước tới bước thứ hai, hơn nữa độ cao khi đưa chân cũng hoàn toàn đồng nhất. Điều này chứng tỏ trong khi nằm mơ, tôi đã làm ra những động tác như trở dậy, bước đi ở trong thực tại - đây là bằng chứng thép cho việc tôi quả thực đã bị mộng du.

Vì nguyên nhân công việc, tôi cũng từng đọc một số bài viết về vấn đề mộng du. Đối với người trưởng thành, mộng du tượng trưng cho các bệnh tật về thần kinh hoặc tâm lý, thứ nhất là rối loạn thần kinh chức năng do tình trạng rối loạn thần kinh thực vật gây ra, thứ hai là tâm thần phân liệt do tiềm thức quá mức sôi nổi gây ra. Tôi chưa từng có biểu hiện nào thực sự rõ ràng về chứng rối loạn thần kinh chức năng, do đó, việc tôi bị mộng du rất có thể chính là biểu hiện hoặc là dấu hiệu báo trước của chứng tâm thần phân liệt.

Điều này có thể nói là trùng khớp với phán đoán của thầy Trần.

Sự việc có lẽ là như thế này: Vì một loại nguyên nhân nào đó, dưới sự chi phối của tiềm thức tôi đã trở dậy, xỏ giày, cầm điện thoại lên, mở cửa phòng ngủ, đi tới ngồi ở phòng khách, sau đó cố gắng dùng điện thoại để mở ti vi. Sau đó, tôi đứng dậy định đi tới nhà vệ sinh, vậy nhưng đầu gối chân phải lại bị va vào bàn trà, dưới sự kích thích đột ngột của cơn đau tôi đã giật mình bừng tỉnh.

Dựa theo quan điểm của phân tâm học, các chứng bệnh tâm thần có nguyên nhân tâm lý đều là do ham muốn bị kìm nén gây ra. Trong tâm lý của con người có tồn tại một cơ chế tự bảo vệ vừa phức tạp vừa kín kẽ, khi sự ham muốn bị kìm nén, tâm lý sẽ tiến hành giải tỏa bằng các phương thức khác nhau. Bị kìm nén càng nhiều, phương thức giải tỏa sẽ càng mãnh liệt. Biểu hiện bề ngoài của các phương thức giải tỏa áp lực nằm ngoài phạm vi bình thường chính là các chứng bệnh tâm thần khác nhau.

Nếu tôi thực sự bị tâm thần phân liệt, căn nguyên của chứng bệnh này rốt cuộc là nằm ở đâu?

Giấc mơ là sự ngụy trang và biểu đạt của ham muốn sau khi bị kìm nén, mà tình trạng mộng du ở người trưởng thành lại là một hoạt động tâm lý không lành mạnh, vậy thì căn nguyên của chúng mộng du nhất định là đã được thể hiện ra trong giấc mơ bằng một hình thức nào đó. Tôi nhớ lại từng chi tiết nhỏ trong giấc mơ: Ban đầu tôi đã trở dậy, rời khỏi phòng ngủ, ra ngồi ở xô pha, những hành vi này đều hết sức bình thường. Việc dùng điện thoại mở ti vi tuy rằng không hợp lẽ thường, vậy nhưng cũng không phải là điều gì quá kỳ quặc. Lần đầu tiên trong giấc mơ tâm lý của tôi có sự biến hóa mãnh liệt là khi phát hiện ra cô gái kỳ lạ nằm trên xô pha. Về cô gái đó, có mấy điểm đáng chú ý thế này- Thứ nhất quần áo của cô ta bị xé rách bươm, mái tóc rối bù, sau đó còn không ngừng gào khóc thê lương - bộ dạng này cứ như thể vừa mới bị người ta ức hiếp, do đó, đây có lẽ là sự biểu đạt ngụy trang của tình dục và ham muốn chiếm hữu. Thứ hai, tôi có ham muốn tình dục mãnh liệt với cô ta - điều này rất dễ giải thích, có lẽ đó chính là cách thể hiện trực quan nhất của ham muốn tình dục. Thứ ba, trên hai tay của cô ta có rất nhiều vết sẹo do bị dao cắt...

Tôi đột nhiên nhớ tới một câu nói của Diệp Thu Vi. Lúc ban ngày, cô ta từng miêu tả với tôi về một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế vừa tích cực vừa tiêu cực, còn đưa ra một ví dụ ngắn gọn thế này:

”Chẳng hạn như có một cô bé đang học trung học phổ thông đã liên tục dùng dao cứa vào cánh tay của mình.”

Nói như vậy, cô gái trong giấc mơ rất có thể đã xuất do tác dụng ám thị của câu nói đó... Không... Ngay sau đó tôi đã nghĩ lại, cô gái đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong giấc mơ, chỉ bằng một câu nói đơn như thế thì làm sao tạo ra tác dụng ám thị to lớn như vậy được?

Sau một thoáng sững sờ, tôi lại suy nghĩ tiếp: Điểm đáng chú ý thứ tư trên người cô gái đó là đôi mắt đỏ ngầu khi nhìn chòng chọc vào tôi. Khi đó, điều này đã khiến tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi. Nhưng, đôi mắt đó tượng trưng cho điều gì? Tại sao tôi lại cảm thấy sợ hãi đến vậy?

Nghĩ đến đây, thân thể tôi hơi run lên, bên tai lại lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia. Trong khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy nó giống như là tiếng gào khóc thê lương của cô gái trẻ tuổi kỳ lạ mà tôi đã gặp trong giấc mơ.

Thân thể lại run lên lần nữa, tôi nhanh chóng tỉnh táo trở lại, tiếng rít kia lập tức biến mất. Tôi vô thức dừng việc suy nghĩ về cô gái kia, toàn bộ sự chú ý đều dồn vào người đàn ông lạ mặt ở cửa nhà vệ sinh.

Người đàn ông đó tôi không phải mới gặp lần đầu. Hai ngày trước, trong một khách sạn ở thành phố B, tôi cũng từng nằm mơ thấy anh ta. Khi đó, anh ta lần lượt nói mình là Từ Nghị Giang, Mã Tam Quân, Trần Ngọc Long, cuối cùng còn nói mình chính là X. Còn lần này, anh ta lần lượt nói mình là lão Ngô, Hà Hải Phong, thầy Trần, cuối cùng thì vẫn nói mình là X. Cùng một người đàn ông mà lại hai lần xuất hiện trong hai giấc mơ chẳng hề có chút liên quan nào, còn nhìn tôi với ánh mắt giống hệt nhau và nói ra những lời tương tự... Có lẽ, người này mới chính là căn nguyên gây ra chứng bệnh của tôi.

Đối với tôi, anh ta rốt cuộc tượng trưng cho điều gì? Ánh mắt âm u lạnh lẽo của anh ta khiến người ta sợ hãi, có lẽ nó có liên quan tới một sự sợ hãi nào đó ở trong tâm của tôi. Anh ta nói mình là X, điều này hẳn là tượng trưng cho sự tò mò mãnh liệt của tôi đối với X. Ngoài ra trên người anh ta dường như không còn yếu tố nào khác để phân tích cả.

Tôi vắt óc suy nghĩ, vậy nhưng mãi vẫn chẳng thể tìm được manh mối nào hữu dụng. Nửa phút sau, tôi quyết định dừng việc suy nghĩ lại, gửi gắm toàn bộ hy vọng vào thầy Trần. Tôi lấy giấy bút ra ghi lại tỉ mỉ các chi tiết trong giấc mơ của mình đêm đó, thế rồi chuẩn bị quay về phòng ngủ tiếp. Khi đứng dậy, tôi đột nhiên thấy hơi buồn tiểu, bèn vô thức cất bước đi về phía nhà vệ sinh. Còn chưa đi tới cửa nhà vệ sinh thì hai mắt tôi đã đột ngột sáng bừng, vì tôi phát hiện ra một chi tiết rất đáng chú ý trong giấc mơ.

Tại sao trong cả hai giấc mơ người đàn ông đó đều đứng ở cửa nhà vệ sinh chứ?

Tôi nhanh chóng vào nhà vệ sinh giải quyết nhu cầu, sau đó lại quay về ngồi trên xô pha, hai mắt nhìn chằm chằm vào cửa nhà vệ sinh đến thẫn thờ. Cùng một người đàn ông, lại cùng đứng ở một địa điểm - điều này tuyệt đối không thể là trùng hợp. Diệp Thu Vi từng nói, đôi lúc ẩn ý trong giấc mơ được ẩn giấu rất kĩ, muốn phân tích nó thì trước tiên cần phải lột bỏ sự ngụy trang của tiềm thức, cũng tức là hiểu được ý nghĩa tượng trưng của những sự vật trong giấc mơ đối với người nằm mơ. Bản thân người đàn ông trong giấc mơ căn bản không có chỗ nào đáng chú ý, vậy còn vị trí mà anh ta đứng thì sao? Liệu có mang ý nghĩa gì đặc biệt không?

Hay nói cách khác, trong tiềm thức của tôi, nhà vệ sinh tượng trưng cho điều gì?

Trong khoảnh khắc, tất cả các ký ức có liên quan tới nhà vệ sinh đã ùa vào trong đầu tôi: Hồi bốn, năm tuổi tôi rất thích nghịch nước trong nhà vệ sinh, có lần còn thiếu chút nữa chết đuối trong bồn tắm; hồi tám, chín tuổi tôi rất nhát gan, luôn cảm thấy trong nhà vệ sinh có tiếng nước chảy quái lạ; sau khi tốt nghiệp cấp hai tôi theo gia đình chuyển đến nơi ở mới, và rồi đã có lần thủ dâm đầu tiên trong đời tại nhà vệ sinh; sau khi cha mẹ qua đời, trong lần đầu tiên bị đòi nợ mà phải một mình đối mặt, tôi đã trèo qua cửa sổ nhà vệ sinh xuống ban công tầng dưới để chạy trốn...

Dòng suy nghĩ nhất thời trở nên hơi hỗn loạn. Tôi tựa người vào xô pha, kê gối ôm sau lựng, nhắm mắt lại, nhẹ nhàng day huyệt thái dương, dồn toàn bộ sự chú ý vào việc hít thở, qua đó giải tỏa sự mệt mỏi của cả thể xác và tâm hồn. Mười mấy giây sau, tôi thiếu chút nữa đã ngủ gục vì mệt mỏi, và rồi trong lúc nửa tỉnh nửa mê, tôi đột nhiên vô thức nghĩ tới ba chữ “nhà vệ sinh“. Khi đó, thứ đầu tiên lóe hiện trong đầu tôi không phải là cửa nhà vệ sinh, không phải là chiếc bồn tắm chứa đầy nước, không phải là tiếng nước chảy quái lạ, cũng không phải là vẻ hoang mang sợ hãi của bản thân khi trèo ra ngoài cửa sổ chạy trốn, mà là một vật tuy rất bình thường nhưng không thể thiếu trong nhà vệ sinh.

Đó là chiếc gương ở phía trên bồn rửa mặt.

Gương ư?

Chân trái hơi run lên một chút, tôi giật mình bừng tỉnh dậy. Sau một thoáng sững sờ, tôi cố gắng nín thở, khẽ lẩm nhẩm đọc ra ba chữ “nhà vệ sinh“. Cùng lúc đó, trong đầu tôi lại một lần nữa xuất hiện tình cảnh mình đứng soi gương trong nhà vệ sinh.

Khi nhắc đến nhà vệ sinh, tôi liên tưởng ngay tới chiếc gương trên bổn rửa mặt như một phản ứng bản năng. Nói cách khác, trong tiềm thức của tôi, chiếc gương trên bồn rửa mặt chính là vật tượng trưng cho nhà vệ sinh. Vậy thì trong giấc mơ kia, yếu tố “nhà vệ sinh” phải chăng bao hàm một ẩn ý nào đó có liên quan tới gương?

Tôi lại nghĩ tới lời của Diệp Thu Vi lúc ban ngày.

”Anh rõ ràng là sợ soi gương, vậy nhưng trong lòng lại tràn đầy ham muốn soi gương.”

Cô ta nói không sai. Ngay từ nhỏ tôi đã rất sợ những chiếc gương, vậy nhưng trong lòng lại tràn đầy ham muốn soi gương. Có điều, cho dù luôn có những ham muốn vô cùng mãnh liệt, vậy nhưng tôi lại rất ít khi biến nó thành hành động thực tế. Nói tóm lại, tôi là một con người như thế này: Sợ gương, muốn soi gương, nhưng rất ít khi soi gương. Theo như cách nói của Diệp Thu Vi, đây là một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế cực kỳ đặc biệt, căn nguyên của nó là một nỗi sợ hãi nào đó.

Chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế của tôi có liên quan tới gương, mà người đàn ông thần bí hai lần xuất hiện trong mơ cũng vì vị trí của anh ta mà có bao hàm một ẩn ý gì đó về gương, như vậy, nỗi sợ hãi là căn nguyên của chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế kia phải chăng cũng chính là căn nguyên của chứng mộng du và chứng tâm thần phân liệt mà tôi mắc phải.

Nỗi sợ hãi này có lẽ được ẩn giấu trong gương.

Nghĩ tới đây, tôi lấy hết can đảm đứng phắt dậy, quyết định phải đối mặt với nỗi sợ hãi ở sâu trong nội tâm. Tôi Mở đèn nhà vệ sinh, đi thẳng vào trong đó, hai tay chống xuống bồn rửa mặt, chậm rãi ngẩng đầu lên, nhìn thấy cái bóng của mình. Trong gương, khuôn mặt tôi đầy vẻ căng thẳng, trên trán lấm tấm mồ hôi, bờ môi khô khốc, còn bong ra một lớp da chết mỏng. Vì thiếu ngủ, trong mắt tôi vằn đầy tia máu, nơi khóe miệng cũng có thể nhìn thấy những nếp nhăn mờ mờ. Tôi nhìn chằm chằm vào gương mười mấy giây, đột nhiên cảm thấy chiếc gương không có gì là quá đáng sợ. Dưới sự thôi thúc của thứ tâm lý này, tôi thở phào một hơi, đứng thẳng người dậy, thích thú ngắm nhìn mình trong gương, cất lên những tiếng cười tự giễu.

Bao nhiêu năm nay, đây chính là thứ khiến tôi sợ hãi ư? Nó chỉ là một tấm thủy tinh được tráng bạc thôi mà.

Tôi ung dung nhìn chiếc gương, khẽ mỉm cười lắc đầu. Đột nhiên, ánh sáng trong phòng phát sinh biến hóa, từ màu trắng sữa êm ả biến thành màu vàng tươi rực rỡ. Tôi sững người, thế rồi mới phát hiện tay phải của mình đang đặt trên công tắc đèn sưởi nhà tắm, năm chiếc đèn sưởi trong nhà vệ sinh đều đã được bật lên. Nhưng tôi căn bản không nhớ được tại sao mình lại phải bật đèn sưởi, thậm chí còn không nhớ được quá trình bật.

Lại một hành vi vô thức hoàn toàn thuần túy nữa.

Nhưng rất lạ, khi đó tôi không hề nôn nóng tắt đèn sưởi nhà tắm đi, còn ngẩng đầu nhìn lên phía trên một chút. Cùng lúc đó, tôi lại một lần nữa nhớ tới những lời của Diệp Thu Vi:

”Anh rất sợ những tia sáng chói mắt, vậy nhưng lại luôn muốn nhìn thẳng vào ánh mặt trời trong vô thức, đây lẽ nào không phải là biểu hiện của một tình trạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế đặc thù ư?”

Cô ta nói không sai.

Tôi run rẩy cả người, hai mắt mở to, nhìn chằm chằm vào mấy chiếc đèn sưởi nhà tắm sáng rực. Trong khoảnh khắc ánh sáng rọi vào trong mắt, tôi đột nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, tay phải bám vào bồn rửa mặt theo bản năng. Cùng lúc đó, bên tai tôi lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị đã từng xuất hiện vô số lần kia. Nửa giây sau, hai mắt tôi cay sè, nước mắt không ngớt tuôn rơi. Tôi cúi xuống theo bản năng, thấy khung cảnh trước mắt đã nhòe hẳn đi. Tôi bám vào thành bồn rửa mặt, cảm giác buồn nôn bỗng dưng ập tới, và tôi bỗng nhiên nhớ lại cơn say rượu ở thành phố B hai ngày trước.

Tình cảnh ấy tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng: Khi đó, tôi đang gọi điện thoại cho bà xã thì đột nhiên vô thức mở tất cả đèn sưởi nhà tắm, sau đó ngẩng đầu lên nhìn, miệng lẩm bẩm nói “mặt trời hôm nay thật chói chang“. Ngay kế đó, tôi vứt điện thoại ra thảm trải sàn ở bên ngoài cửa, bắt đầu nôn thốc nôn tháo vào bồn rửa mặt. Sau khi nôn xong, tôi ngẩng đầu lên, đưa mắt nhìn vào trong gương dưới làn ánh sáng chói lòa...

Nghĩ đến đây, tôi bất giác nôn khan một hồi, sau đó ngẩng đầu lên. Dưới sự soi rọi của làn ánh sáng rực rỡ, tôi ở trong gương bỗng trở nên vô cùng xa lạ. Toàn thân tôi đều trở nên tê rần, trong đầu đột nhiên ùa ra một một loạt những cảnh tượng vừa kỳ lạ lại vừa rõ ràng, tựa như ký ức vốn đã mất và nay quay trở lại vậy. Tôi đặt

hai tay lên gương, đột nhiên cảm thấy mình như đang mơ. Nhưng ngay kế đó, lòng bàn tay tôi cảm thấy lạnh băng ở nơi mép gương, thế là liền xác định được bản thân đang ở thực tại. Giữa dòng suy nghĩ hỗn loạn, những ký ức nửa quen thuộc nửa xa lạ đan xen nhau khiến tôi nhất thời rơi vào một sự nghi hoặc và ngơ ngẩn vô cùng sâu sắc.

Trạng thái này kéo dài khoảng năm giây, sau đó, tôi đột nhiên cảm thấy mọi thứ xung quanh mình đều trở nên hết sức rõ ràng: Tôi có thể nghe thấy tiếng hít thở của bà xã và con trai, đồng thời dựa vào những sự biến hóa nhỏ bé trong tần suất hít thở để tưởng tượng ra vẻ mặt của bọn họ lúc này, chẳng khác nào chính mắt nhìn thấy; tôi có thể nghe thấy tiếng những chiếc xe hơi lao đi vun vút ngoài đường, đồng thời dễ dàng tính ra vận tốc của chúng; tôi có thể cảm nhận được nhịp tim của bản thân cũng như mạch đập ở mười mấy chỗ động mạch, từ đó vẽ nên trong đầu một bản đồ kết cấu hệ thống tuần hoàn máu, trông có vẻ chân thực vô cùng. Tóm lại, khả năng cảm nhận của tôi trở nên cực kỳ nhạy bén, năng lực phán đoán và năng lực tư duy cũng đạt tới một độ cao vượt hẳn trước đây.

Thứ cảm giác này thực sự rất giống với bước ngoặt trong tâm lý mà Diệp Thu Vi từng miêu tả.

Ngay sau đó, một số ký ức xa xôi sớm đã trở nên mờ nhạt lũ lượt ùa vào trong ý thức của tôi, xen lẫn bên trong đó còn có những tâm trạng có liên quan. Chẳng hạn cảm xúc phức tạp lúc cha mẹ đồng loạt qua đời, sự lo lắng khi gặp phải bài khó trong kỳ thi đại học, cơn đau dữ dội sau khi bị thương lúc đang đá bóng thời trung học, nhịp tim đột ngột tăng nhanh khi nhìn thấy cô bé mà mình thích hồi tiểu học, sự đau đớn và ấm ức khi bị một đứa bé lớn hơn đẩy ngã hồi hai, ba tuổi, thậm chí cả cảm giác lúc được cha mẹ nắn tay nắn chân hồi còn quấn tã nữa, tất cả đều hiện ra rõ ràng trước mắt, cứ như thể chuyện vừa mới xảy ra một giây trước vậy.

Nhưng rất lạ, những ký ức trong khoảng thời gian hơn mười năm từ sau khi cha mẹ tôi qua đời tới giờ lại chẳng phát sinh một chút biến hóa nào. Tuy tôi có thể lờ mờ cảm nhận được sự tồn tại của những ký ức đó, vậy nhưng chúng dường như bị khóa chặt trong một chiếc két sắt đặt ở nơi sâu trong tiềm thức, dù có dùng cách nào cũng không thể mở ra được. Mỗi lần tôi thử mở thì đều sẽ phải đón nhận một cơn đau đầu dữ dội, có điều, tuy thế nhưng theo bản năng tôi vẫn cố thử hết lần này tới lần khác.

Giữa những cơn đau dữ dội lặp đi lặp lại, năng lực phán đoán của tôi không ngừng hoán đổi giữa sự trì trệ và nhạy bén, tương ứng với đó, những ký ức trước khi cha mẹ tôi qua đời khi thì trở nên mơ hồ, khi thì lại vô cùng rõ nét. Tôi không sao khống chế được tư duy của mình, thế là liền để mặc cho nó tiến hành đào xới những ký ức ở sâu trong tiềm thức, nhưng những cơn đau dữ dội thì cứ theo đó mà ập tới không ngừng. Tôi nhoài người trên bồn rửa mặt, mười mấy giây sau thì đột nhiên đứng thẳng người dậy, nhìn chằm chằm vào chiếc gương trước mặt. Người ở trong gương lại càng trở nên xa lạ hơn so với trước đó, “anh ta” cũng đang nhìn tôi, đột nhiên lên tiếng: “Quay về đi!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 6-2: X thần bí xuất hiện (2)


Tôi sững người ra, rất nhanh sau đó đã ý thức câu nói này quả thực thốt ra từ miệng tôi, nhưng không xuất phát từ ý thức của tôi.

**

Một giây sau đó, tôi lại tự nói trước gương: “Quay về đi, anh sẽ tự hại mình đấy.”

Tuy tôi quả thực đang mở miệng nói, nhưng giọng nói đó căn bản không giống như là của tôi. Nó kiên định, dữ dằn, đồng thời còn toát ra một sự tàn bạo khó mà dùng lời miêu tả, khiến tôi không kìm được cảm thấy run sợ từ đáy lòng.

Trong trạng thái ngơ ngẩn, tôi buột miệng nói: “Tôi không biết anh đang nói cái gì...”

Lời vừa mới ra khỏi miệng tôi đã ngạc nhiên phát hiện, không ngờ tôi lại coi bản thân ở trong gương là một con người khác.

Đột nhiên, có một bàn tay đặt lên vai phải của tôi từ phía sau lưng. Tồi bất giác rùng mình, vội vàng né về phía bên trái theo bản năng, sau đó chân liền bị trượt, thân thể nghiêng sang bên trái, ngã một cú thật đau, mà cùi trỏ tay trái còn bị đập mạnh xuống sàn nhà vệ sinh vốn lát đá rất cứng. Tôi nằm ngửa người ra đó, ánh sáng chói lòa từ phía trên rọi xuống làm mọi thứ trước mắt tôi trở nên mơ hồ. Khi đó, cùi trỏ tay trái đau đến thấu tâm can, tôi phải dùng tay phải day nhẹ nhàng liên tục, căn bản chẳng thể nào đưa được thứ gì lên ngăn cản luồng ánh sáng từ đèn sưởi nhà tắm rọi xuống. Tuy tôi đã nhắm mắt lại theo bản năng, nhưng ánh sáng vẫn xuyên qua mí mắt tôi, khiến tâm lý của tôi gần như sụp đổ.

Bên tai tôi lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia, đầu óc như bị rơi vào một cơn hôn mê và đau đớn không có điểm dừng. Trong lồng ngực như có thứ gì đó nghẹn lại, tôi cảm thấy mình không sao thở nổi. Nửa giây sau, tôi dùng hết sức bình sinh hít vào một hơi, thế là đầu óc lập tức phải đón nhận thêm một cơn đau dữ dội tột cùng. Nhưng ngay sau đó một loạt những tình cảnh vô cùng kỳ lạ cùng với những tin tức có liên quan cuồn cuộn tràn vào trong ý thức của tôi như thác lũ. Theo bản năng, tôi biết nhất định là mình đã từng trải qua những chuyện này, nhưng cùng với đó tôi lại cảm thấy những tình cảnh đó quá ư xa lạ, căn bản không giống như ký ức của tôi chút nào. Hơn nữa, có một số tình cảnh còn mâu thuẫn rõ ràng với ký ức vốn có của tôi - giống hệt như buổi đêm ở thành phố B ngày trước vậy.

Tôi bất giác rơi vào một cơn ngẩn ngơ ngắn ngủi.

”Nhất Tân!” Bà xã ân cần đỡ tôi dậy, ghé sát má vào má tôi, cất giọng nghẹn ngào nói: “Anh bị sao vậy? Anh mau tỉnh lại đi! Nhất Tân!”

Dưới sự dìu đỡ của cô ấy, tôi chậm rãi ngồi dậy, rốt cuộc đã có thể mở mắt ra. Cô ấy dịu dàng xoa lưng cho tôi, lại tì trán vào má tôi, từ trong mũi bật ra những tiếng hít thở nặng nề.

“Nhất Tân?” Cô ấy nâng mặt tôi lên hỏi: “Anh bị sao vậy?”

Tôi bị sao vậy?

Tôi ngẩn ngơ lắc đầu, không biết nên trả lời ra sao. Đột nhiên tình cảnh hết sức rõ ràng trào ra từ trong ký ức hỗn loạn của tôi. Trong đoạn ký ức chẳng rõ thật giả này, tôi nhìn thấy một người đàn ông. Ông ta thân hình gầy guộc, đeo một chiếc kính kiểu dáng rất cũ, đang cúi đầu ngồi ngay trước mặt tôi. Gần như là theo bản năng tôi biết được người này chính là Lưu Hướng Đông chứ không phải ai khác.

Nhưng tôi đâu đã từng gặp Lưu Hướng Đông bao giờ... Không, trong khoảnh khắc ngay sau đó, tôi lập tức thay đổi ý nghĩ này. Tôi từng gặp Lưu Hướng Đông rồi, hơn nữa còn từng tiến hành tìm hiểu khá kĩ về ông ta. Ông ta là một nhà hóa học tài ba trong lĩnh vực của mình, đồng thời còn khá am hiểu về quyền mưu nữa, cho nên có thể nói ông ta là một học giả đi giữa lằn ranh của thói thường và chủ nghĩa lý tưởng. Cùng với đó, ông ta còn có những vấn đề về tâm lý vô cùng phức tạp. Tôi tới gặp ông ta chính là để làm rõ xem tâm lý của ông ta có những vấn đề gì, từ đó bảo vệ ông ta, không để ông ta bị người khác làm hại.

Rất nhanh sau đó tôi đã nhớ lại được nhiều hơn, mà những thông tin cũng chi tiết hơn nữa.

Đó là ngày 29 tháng 10 năm 2009, tôi và Lưu Hướng Đông gặp nhau trong một căn phòng nhỏ hẹp vào lúc nửa đêm. Ông ta được Chủ nhiệm Viên giới thiệu tới gặp tôi - nhưng Chủ nhiệm Viên là ai thì tôi nhất thời chẳng chút ấn tượng nào. Lưu Hướng Đông ngồi ở chỗ đối diện với tôi, hai tay nắm chặt để ở trước ngực, đầu cúi thấp, yết hầu liên tục nhấp nhô lên xuống, từ trong cổ họng phát ra những tiếng “òng ọc” khe khẽ. Nếp nhăn nơi khóe mắt ông ta cứ cách ba, bốn giây lại rung mạnh một lần, cặp mắt thì có vẻ rất uể oải, đây là dấu hiệu rõ ràng cho thấy trong tiềm thức của ông ta đang rất lo lắng.

”Giáo sư Lưu.” Tôi nói. “Tôi sẽ hỏi ông một số vấn đề, mong ông hãy trả lời thành thực.”

Ông ta khẽ gật đầu, đồng thời đưa tay lên sờ hai chiếc răng cửa ở hàm trên. Nhìn tư thế này mà xét, ông ta dường như muốn gạt thứ gì đó ra khỏi răng. Nhưng trên răng của ông ta rõ ràng là không có vật lạ gì cả, động tác này hoàn toàn không có chút ý nghĩa thực tế nào. Rất hiển nhiên, một hoạt động tâm lý đặc biệt nào đó đã thôi thúc ông ta đưa tay lên sờ răng như vậy.

Tôi quyết định sẽ bắt đầu điều tra từ động tác này.

”Nhất Tân?” Bà xã khẽ lay người tôi. “Anh không sao chứ? Vừa rồi bị đập đầu xuống đất sao? Có đau không?”

Từ giữa những ký ức mơ hồ tôi quay trở về thực tại, hít sâu một hơi, mở to hai mắt, sau đó lại nhanh chóng nheo lại dưới sự soi rọi của làn ánh sáng chói lòa, đồng thời đưa tay phải lên che mắt. Bà xã hiểu ý, lập tức nhổm người dậy tắt hết đèn sưởi nhà tắm đi. Tôi thở phào một hơi, gắng gượng đứng dậy dưới sự dìu đỡ của cô ấy. Sau khi đứng dậy tôi ngoảnh đầu nhìn về phía gương, ngẩn ngơ nhìn bản thân ở trong gương. Trong khoảnh khắc ấy, những ký ức vốn vô cùng hỗn loạn trong tôi bắt đầu được chỉnh lý, ráp nối và sắp xếp lại một cách rất có quy củ, dần dần trở nên mạch lạc rõ ràng.

“Nhất Tân?” Bà xã lại gọi tôi tiếng nữa.

”Hả?” Tôi sững sờ nhìn cô ấy, đầu óc vẫn chưa thể phân tách rạch ròi giữa ký ức và thực tại, thế rồi liền buột miệng nói: “Anh không sao.”

”Không sao? Thực sự không sao chứ?” Cô ấy vừa đặt tay lên trán tôi. “Vừa nãy anh...”

Tôi tức thì tỉnh táo trở lại. “Mấy ngày nay mệt quá, nên đầu óc anh hơi có vấn đề. Vừa nãy trở dậy vào nhà vệ sinh, anh còn cứ ngỡ là mình đang nằm mơ nữa.” Để khiến cô ấy tin tưởng mình, tôi cố tình nở một nụ cười nhẹ nhõm.

Cô ấy thở phào một hơi, đưa tay xoa nhẹ khuôn mặt tôi, nói: “Nếu thực sự không sao thì tốt, anh đừng nên nghĩ nhiều quá thì hơn. Ngày mai anh đi gặp thầy Chủ nhiệm khoa rồi mà, mọi việc cứ chờ tới khi gặp được thầy rồi hãy tính tiếp.”

Nghe bà xã nói vậy, trong đầu tôi lại lần nữa lóe hiện bóng dáng của Lưu Hướng Đông. Mấy giây sau, bà xã dùng hai tay khẽ kéo tay phải của tôi, thế là đầu óc tôi mới lại một lần nữa trở về thực tại.

”Nhất Tân?”

”Hả?” Thân thể hơi run lên một chút, tôi vô thức rụt tay phải về, sau đó ngơ ngẩn gãi đầu, nói với bà xã: “Em cứ quay về ngủ tiếp đi, anh muốn ngồi lại phòng khách thêm một lúc nữa, bây giờ anh chỉ muốn được yên tĩnh ở một mình thôi.” Thấy trong mắt cô ấy thoáng vẻ thất vọng, tôi vội vàng bổ sung thêm một câu: “Em cứ ngủ trước đi, một lát nữa anh sẽ vào với em ngay thôi mà.”

Cô ấy khẽ thở dài một tiếng, hơi hé miệng, nhưng rốt cuộc vẫn không nói năng gì. Dõi mắt nhìn cô ấy quay trở về phòng ngủ, tôi đi tới ngồi xuống xô pha trong phòng khách, dòng suy nghĩ rất nhanh đã quay trở về buổi đêm ngày 29 tháng 10 năm 2009.

Để làm rõ ý nghĩa đặc biệt ẩn đằng sau hành vi sờ răng cửa của Lưu Hướng Đông, tôi cố tình im lặng trong vòng nửa phút, dùng sự im lặng tuyệt đối để tạo ra một bầu không khí căng thẳng. Trong thời gian đó, Lưu Hướng Đông một mực cúi đầu, đồng thời tổng cộng đưa tay sờ răng cửa của mình bảy lần, lần sau mạnh hơn lần trước. Rất hiển nhiên, hành vi này đã trở thành một hành vi nghi thức hoặc là hành vi cưỡng chế, là một trong những cách mà tiềm thức của ông ta dùng để tự an ủi mình, và đó chính là một nhược điểm tâm lý hết sức rõ ràng.

”Giáo sư Lưu.” Tôi hỏi: “Ông muốn gạt thứ gì ra khỏi răng mình vậy?”

”Hả?” Ông ta đột ngột ngẩng đầu lên, nhìn thoáng qua tôi một chút, sau đó lại một lần nữa đưa tay về phía răng cửa, phải rất khó khăn mới dừng động tác này lại được, sắc mặt trở nên nhợt nhạt vô cùng. “Tôi, tôi cũng không biết nữa...”

”Sờ răng cửa khiến ông thoải mái ư?” Tôi bắt đầu dẫn dắt ông ta. “Hay là, nếu ông không sờ răng cửa thì ông không cách nào loại bỏ được sự căng thẳng của mình?”

Ông ta lắp bắp môi nói ra ba chữ: “Đều đúng cả.”

Nói xong, ông ta cúi đầu xuống thật thấp, hai bàn tay cùng nắm chặt lại, đồng thời còn hơi run lên. Bốn giây sau, ông ta đột nhiên thôi không run nữa, nhưng chưa đầy một giây sau đó thì đã lại tiếp tục run. Rất hiển nhiên, thân thể của ông ta đã bị đông cứng lại trong vòng chưa đầy một giây.Tuy trạng thái đông cứng này không dễ gì phát giác, nhưng đối với tôi, đó là một thứ ngôn ngữ cơ thể khá rõ ràng.

Xét từ câu trả lời của ông ta, hành vi sờ răng cửa đó đã phát triển thành chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế, căn nguyên của nó là một nỗi sợ hãi nào đó. Nỗi sợ hãi này có lẽ bắt nguồn từ vết thương tâm lý do một sự đả kích cực lớn nào đó đem lại, nhưng cũng có khả năng là do tâm trạng tiêu cực phát sinh từ một chuyện nhỏ phát triển mà thành. Bất kể ra sao, sự xuất hiện của phản ứng đông cứng đều chứng tỏ rằng Lưu Hướng Đông đã cảm nhận được một số thông tin có liên quan tới nỗi sợ hãi này - dù rằng điều này bản thân ông ta chưa chắc đã ý thức được. Nếu biết được nguồn gốc của nỗi sợ hãi này, có lẽ tôi sẽ có thế giúp ông ta học được cách chống lại nỗi sợ hãi, từ đó loại bỏ nhược điểm tâm lý này của ông ta.

Tôi lại tiếp tục dẫn dắt ông ta: “Ông có biết bắt đầu từ khi nào thì mình có thói quen này không?”

Ông ta thấp giọng nói: “Tôi cũng không rõ.” Ngay sau đó lại bổ sung thêm một câu: “Có thể là từ hồi học cấp hai.

Câu nói phía sau đó dường như là sự bộc bạch một cách tự nhiên của tiềm thức.

Tôi vội vàng truy hỏi: “Cấp hai ư? Nguyên nhân cụ thể là gì vậy?”

Ông ta khẽ lắc đầu, tỏ ý rằng mình không biết.

Tôi nói: “Vậy ông hãy kể lại một chút về cuộc sống của hồi cấp hai đi, nhân tiện hãy nói thêm một vài ký ức khó quên của ông nữa.”

”Hồi đó rất hỗn loạn.” Ông ta suy nghĩ một lát rồi nói: “Bắt đầu từ học kỳ hai năm lớp bảy, trường học đã hoàn toàn biến thành một mớ bòng bong. Các giáo viên người thì trốn ở nhà, người thì bị lôi đi đấu tố. Cả trường chỉ còn duy nhất một lớp là vẫn tiếp tục giảng dạy, học sinh nào muốn học tiếp thì đều tụ tập ở lóp đó, tôi chính là một trong số những học sinh này. Có điều mấy năm đó tuy đúng là có hỗn loạn thật, nhưng tỉ mỉ ngẫm lại thì kỳ thực cũng chẳng có gì đáng để nói cả1.”

Tôi hỏi: “Trong hoàn cảnh như thế, việc học tập của các ông không bị ảnh hưởng chút nào ư?”

”Có thì cũng có, nhưng lúc ấy chúng tôi đã quen rồi.” Ông ta kể lại qua loa sự việc: “Có lúc giáo viên đang giảng bài thì bị người ta lôi ra ngoài mắng cho một trận, thậm chí còn động chân động tay. Các học sinh kiên trì đi học tiếp đa phần đều hiền lành nhút nhát, do đó chỉ có thể trơ mắt nhìn thầy giáo của mình chịu nhục, cùng lắm là cất lời van xin giúp mà thôi. Trường tôi khi đó có hai thầy giáo kiên trì lên lớp, bọn họ quả là người tốt, mỗi lần đều đứng mũi chịu sào, ra mặt đối phó với lũ lưu manh, gần như không để học sinh của mình phải chịu nhục lần nào.”

Tôi khẽ gật đầu.

1. Lưu Hướng Đông sinh năm 1958, cho nên quãng thời gian này có lẽ thuộc thời kì Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc – một trong những thời kỳ tối tăm trong lịch sử của đất nước này - ND.

Trong thời kỳ cuối của giai đoạn đầu của quá trình phát triển tâm lý tình dục, tình yêu đối với người sinh thành khác giới sẽ vì nỗi sợ hãi với người sinh thành cùng giới mà biến mất, tâm lý tình dục ở trẻ con theo đó mà tiến vào trạng thái ngủ đông, bắt đầu chuyển hứng thú qua những thứ khác ngoài tình dục (chẳng hạn như khoa học tự nhiên trò chơi điện tử, vân vân), giai đoạn này được gọi là giai đoạn ngủ đông của tình dục. Đến khoảng năm mười hai tuổi, sau sự xuất hiện lần thứ hai của bản năng giới tính, tâm lý tình dục vốn ngủ đông đã lâu sẽ lại một lần nữa trỗi dậy, lúc này tâm lý tình dục và sinh lý tình dục sẽ cùng nhau phát triển, cuối cùng thì trưởng thành hoàn toàn, giai đoạn này được gọi là giai đoạn trưởng thành của tình dục. Sau khi bước vào giai đoạn trưởng thành của tình dục hứng thú với người khác giới sẽ quay trở lại, các thanh thiếu niên sẽ lấy việc kết bạn khác giới làm xuất phát điểm, từ đó bắt đầu tiến hành tìm hiểu và suy nghĩ về mối quan hệ giữa người với người, đồng thời nảy sinh sự đánh giá về xã hội cũng như giá trị của bản thân. Có thể nói, quãng thời gian từ năm mười hai tới mười tám tuổi là giai đoạn chủ yếu để hình thành nên nhân sinh quan của một con người, do đó, mọi trải nghiệm cũng như biến hóa tâm lý trong thời kỳ này đều sẽ có tác động trực tiếp đến nhân cách của người đó trong tương lai.

Theo độ tuổi đi học bình thường, quãng thời gian học cấp hai hoàn toàn thuộc về giai đoạn trưởng thành của tình dục. Trong giai đoạn quan trọng này, Lưu Hướng Đông thường xuyên phải đi học trong tâm trạng nơm nớp lo sợ bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị uy hiếp cả về thể xác và tinh thần bởi những người lạ mặt, còn hay phải tận mắt nhìn hai người thầy mà mình kính trọng bị sỉ nhục nữa, do đó sau khi trưởng thành, tính cách của ông ta không bình thường cũng là điều dễ hiểu. Về sau ông ta vô cùng say mê nghiên cứu khoa học, khả năng giao tiếp thì chẳng hề được cải thiện theo sự tăng dần của tuổi tác, căn nguyên có lẽ chính là những việc đã xảy ra trong thời kỳ này.

Chỉ sau nháy mắt tôi đã suy nghĩ xong xuôi, thế rồi lại tiếp tục dẫn dắt: “Ông hãy kể lại hai chuyện mà mình khó quên nhất khi đó đi, tốt nhất là về những trải nghiệm không mấy vui vẻ.”

Ông ta đột nhiên lại đưa tay lên sờ răng cửa, tay phải hơi run lên một chút, thế rồi lại đưa lên sờ răng cửa lần nữa, nói: “Có một chuyện thế này, nó xảy ra vào năm chúng tôi học tới chương trình lớp chín, tình hình đã không còn nhiễu nhương như trước nữa. Nhưng càng là trước buổi bình minh, bóng tối lại càng mờ mịt. Một buổi chiều, chúng tôi đang học thì chợt có một đám người xông vào trong lớp, kéo thầy giáo ra ngoài. Khi đó, các học sinh trong lớp ít nhiều cũng biết được một chút về tình hình chính trị đương thời, hiểu rằng cục diện sắp ổn định đến nơi, do đó lòng tự tin so với trước đây đã tăng lên một chút. Có một nữ sinh xông ra ngoài muốn bảo vệ thầy giáo, còn nói ra những lời là “lũ lưu manh các người sắp bị mang đi xử bắn đến nơi rồi”. Đám người kia nghe thấy thế thì vô cùng tức giận. Bọn họ kéo nữ sinh đó ra hẳn bên ngoài, cứ thế lôi một mạch tới bãi đất hoang ở phía sau trường, sau đó lột sạch quần áo nữ sinh đó ra. Tuy thầy giáo và các nam sinh đã liều mạng lao tới ngăn cản, nhưng chúng tôi đều quá Yếu ớt, nữ sinh đó rốt cuộc vẫn không tránh khỏi vận mệnh bị hiếp dâm tập thể.” Nói tới đây, hai mắt ông ta vằn đầy những tia máu, hai tay thì đồng thời đưa lên day mạnh răng cửa, cứ như là muốn nhổ bật răng cửa ra vậy.

Tôi vội vàng truy hỏi: “Vậy nữ sinh đó về sau có kết cục thế nào?”

”Cô ấy bị những người đó giết chết, hình như là đánh chết, hay là ghì chết ấy nhỉ?” Ông ta lại tiếp tục đưa tay sờ răng cửa. “Cũng có thể là bị giày vò đến chết. Rốt cuộc sự thể như thế nào, tôi không còn nhớ được nữa rồi, dù sao thì khi đó cô ấy cũng đã tắt thở.” Nói xong, ông ta lại càng day răng cửa mạnh hơn, hai cánh tay không ngừng run rẩy.

Tôi lại hỏi tiếp: “Cô ấy rốt cuộc đã chết như thế nào?

Ông ta khẽ lắc đầu, đồng thời cúi đầu xuống rất thấp, hai tay vẫn tiếp tục day răng cửa. Tôi biết vấn đề nhất định là nằm ở cái chết của cô gái kia, do đó đã liên tiếp lặp lại câu hỏi đó bảy lần. Đến lần thứ bảy tôi hỏi, ông ta đột nhiên nôn khan một tiếng, lại nhổ xuống đất mấy bãi nước bọt liền, sau đó vẫn tiếp tục day răng cửa.

Nhìn hành vi nhổ nước bọt kỳ quặc của ông ta, tôi đột nhiên ý thức được rằng có lẽ mình đã có chút nhầm lẫn về mấu chốt của vấn đề.

“Giáo sư Lưu. Tôi lập tức chuyển sang hỏi cầu khác: “Khi đó những người ấy đã làm gì ông hay sao?”

Ông ta đờ người ra trong vòng một giây, đột nhiên dừng động tác day răng cửa lại.

Tôi biết phương hướng này là chính xác, thế là lại hỏi tiếp: “Bọn họ đã làm gì ông vậy?” Ngay sau đó, tôi lại hỏi thêm một câu nữa với ý thăm dò:“Có phải bọn họ đã cho thứ gì đó vào trong miệng ông không?”

Lời vừa dứt, Lưu Hướng Đông đã lại một lần nữa nôn khan, sau đó hít sâu một hơi...

***

Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy buồn nôn vô cùng, không kìm được nôn khan một tiếng. Tôi tỉnh táo trở lại, nhưng vẫn chìm đắm trong vấn đề về tâm lý của Lưu Hướng Đông. Nửa phút sau, tôi rốt cuộc cũng thoát được khỏi dòng ký ức vẫn còn chưa thông suốt đó, thế rồi bèn quay qua phía thùng rác mà nhổ vào đó một bãi nước bọt. Tôi ngẩng đầu nhìn về phía cửa nhà vệ sinh, trái tim bất giác hơi run rẩy, thế rồi mới ý thức được một vấn đề nghiêm trọng:

Tôi, tôi là X ư?

Dưới sự kích thích của suy nghĩ này, một số cảnh tượng xa lạ khác bắt đầu lóe hiện trong đầu tôi, sau đó bắt đầu ráp nối, sắp xếp, từ đó vẽ ra một đoạn ký ức liên lạc mà tôi vốn đã bị mất đi. Năng lực cảm nhận vốn đang không ngừng hoán đổi giữa trì trệ và nhạy bén của tôi dần đi vào trạng thái ổn định, trở nên vô cùng nhạy bén.

Chẳng biết ma xui quỷ khiến thế nào, tôi bỗng mở đèn nhà vệ sinh, thế rồi lại một lần nữa đi vào trong đó, đứng trước gương nhìn chằm chằm vào bản thân trong gương. Người đàn ông trong gương khi thì quen thuộc, khi thì lại xa lạ, dòng suy nghĩ của tôi cũng theo đó mà xao động không thôi. Một hồi lâu sau, biển ký ức vốn cuộn trào dữ dội của tôi rốt cuộc đã quay về bình lặng, đầu óc cũng trở lại êm ả như xưa, có điều, bên dưới vẻ bề ngoài êm ả ấy vẫn là những làn sóng ngầm đang không ngớt xoay vần.

Dòng suy nghĩ của tôi bắt đầu trở nên thông suốt.

Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc gương bên trên bồn rửa mặt đó, nỗi sợ hãi đối với gương bấy lâu nay đã biến mất hoàn toàn, bởi vì tôi đã tìm được căn nguyên gây ra nó.

Trong hai giấc mơ, người đàn ông đáng sợ tự xưng là X kia đều xuất hiện ở cửa nhà vệ sinh, đây là một sự tự kỷ ám thị tuy quanh co nhưng rõ ràng: Trong tiềm thức của tôi, gương là vật tượng trưng cho nhà vệ sinh, nhưng ngược lại, nhà vệ sinh cũng đồng thời trở thành một hình ảnh tượng trưng kín đáo cho gương. Do đó, người đàn ông xuất hiện ở cửa nhà vệ sinh kỳ thực cũng chính là người đàn ông xuất hiện trong gương. Tác dụng thường thấy nhất của gương chính là để người ta soi, do đó người đàn ông xuất hiện trong gương hiển nhiên chính là cái bóng của tôi rồi.

Nói cách khác, người đàn ông liên tiếp hai lần xuất hiện ở cửa nhà vệ sinh đó chính là tôi sau khi được khoác lên lớp vỏ ngụy trang của tiềm thức.

Trong hai giấc mơ, tiềm thức đã dùng phương thức này để cố gắng nói với tôi rằng: X mà tôi đang tìm kiếm bấy lâu kỳ thực chính là bản thân tôi.

Tôi hít sâu một hơi, trong đầu bất giác nổi lên nhiều điều nghi vấn khác.

Sao tôi lại là X được? Tôi chỉ là một người đàn ông hết sức bình thường và được sinh ra trong một gia đình bình thường thôi mà. Giống như bao nhiêu đứa trẻ bình thường khác, tôi học hết tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, sau đó tới một tỉnh ở cách quê hương của mình rất xa để học đại học. Tuy thời điểm tốt nghiệp đại học cũng là lúc gia đình tôi gặp phải một phen biến cố lớn lao, vậy nhưng tôi đã ngoan cường vượt qua được, sau đó thì cùng bà xã và con trai xây dựng nên một gia đình tuy bình thường nhưng hạnh phúc...

Sao tôi lại là X được chứ?

Sau nháy mắt, tôi nảy sinh sự nghi ngờ rất lớn đối với ký ức của mình về Lưu Hướng Đông.

Nhưng ngay sau đó, rất nhiều đoạn ký ức chứng minh tôi chính là X lũ lượt xuất hiện trong đầu tôi: Tôi có thể nhớ ra bộ dạng của Tần Quan – chồng của Diệp Thu Vi; tôi đã từng liên lạc với Trần Ngọc Long, mượn dùng chứng minh thư của anh ta, khi chúng tôi gặp nhau trông sắc mặt anh ta có vẻ phức tạp vô cùng; trong lần phỏng vấn Trương Thụy Bảo - tôi đã liên tục rào trước đón sau để thăm dò anh ta, và bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ từng câu nói của mình cũng như những dụng ý ẩn bên trong đó; tôi đã từng nhận lệnh từ Chủ nhiệm Viên - người mà đến bây giờ tôi vẫn không thể nhớ ra tên và thân phận cụ thể, sau đó bắt đầu tiến hành điều tra và tiếp xúc với một loạt những con người xa lạ như Nghiêm Tuấn Khanh, Tưởng Việt Dương, Phùng Nam, Lý Tùng, vân vân; tôi còn từng dùng các biện pháp tâm lý để giết chết rất nhiều người cũng hoàn toàn xa lạ như Vu Khang, Trấn Đồng Kính, Mã Thạch Nguyên, vân vân...

”Nhất Tân.” Thầy đột nhiên thay đổi cách xưng hô với tôi, “Nghe tôi nói này, cậu tạm thời đừng đi gặp bệnh nhân nữ kia nữa.”

Tôi căng thẳng hỏi: “Tại sao vậy ạ?”

”Hai đoạn ký ức đó tuy mâu thuẫn với nhau nhưng lại cùng tồn tại, một trong hai hiển nhiên là sự lừa gạt của tiềm thức đối với ý thức.” Thầy giải thích: “Sự tự lừa gạt có thể đạt tới mức biến giả thành thật, điều này chứng tỏ tiềm thức của cậu quá sôi nổi, hơn nữa còn xuất hiện tình trạng vượt kiểm soát, thậm chí là tính tự chủ ở một mức độ nhất định...” Dừng lại một chút, thầy trầm giọng nói tiếp: “Hiện tượng này có thể nói là đã thuộc vào phạm trù hoang tưởng ảo giác rồi, mà hoang tưởng ảo giác vốn là triệu chứng chính của bệnh tâm thần phân liệt xuất hiện tình trạng hoang tưởng ảo giác có tính đơn nhất rất có thể chính là dấu hiệu báo trước của bệnh tâm thần phân liệt.”

Những kí ức đó đều chân thực vô cùng, chân thực đến mức khiến tôi không thể nảy sinh lòng hoài nghi.

Cùng với đó, tôi lại chú ý tới nhiều chi tiết nhỏ hơn trong hai giấc mơ: Hơn một tuần qua, tôi vẫn luôn tiếp xúc với Diệp Thu Vi - một người phụ nữ gầy yếu hơn ba mươi tuổi, đồng thời cũng là một cao thủ tâm lý cực kỳ lợi hại. Trong tình huống bình thường, dưới sự ám thị của giới tính cũng như đặc trưng hình thể của cô ta, trong suy nghĩ của tôi, X vốn cũng là một cao thủ tâm lý phải có hình tượng là một người phụ nữ gầy yếu mới đúng, hoặc không thì ít nhất cũng phải có một số đặc trưng của Diệp Thu Vi. Vậy nhưng trong giấc mơ, người tự xưng là X kia lại là đàn ông, hơn nữa còn có vóc người vừa phải; tôi đã sáu lần thử đoán thân phận của người đó, và mỗi lần đều nói ra một cái tên của đàn ông, điều này phải giải thích thế nào?

Rất hiển nhiên, tôi đã phải nhận những sự ám thị có liên quan tới thân phận của X. Hơn một tuần qua, tôi chỉ cùng Diệp Thu Vi thảo luận về X, nhưng cô ta chưa từng có bất cứ sự miêu tả hay phán đoán nào có liên quan tới thân phận, tuổi tác, giới tính, đặc trưng hình thể của X. Như vậy, chỉ còn duy nhất một cách giải thích có thể coi là hợp lý thôi: Sự ám thị có liên quan tới thân phận của X tới từ chính bản thân tôi, hay nói cách khác là tới từ trong tiềm thức của tôi.

Vậy tức là tiềm thức của tôi sớm đã biết rõ X là một người như thế nào. Đây cũng là một bằng chứng rõ ràng cho thấy “tôi = X”

Mấy giây sau, trải qua một phen hồi tưởng, suy nghĩ và dằn vặt dữ dội, tôi rốt cuộc đã chấp nhận thỏa hiệp với nội tâm, tin vào sự thật rằng mình chính là X.

Nhưng, nếu tôi thực sự là X thì tại sao bấy lâu nay tôi lại chẳng hay biết gì? Tới giây thứ hai sau khi mối nghi vấn này xuất hiện, trái tim tôi bất giác trở nên hết sức nặng nề khi nghĩ tới một danh từ tuy xa xôi nhưng không hề xa lạ: Hội chứng rối loạn phân ly.

Hồi đại học, tôi mang đầy lòng tò mò đối với thế giới tinh thần của loài người, không chỉ đọc và xem rất nhiều tiểu thuyết, phim ảnh về đề tài tâm lý, còn từng tiếp xúc với một số lý luận và khái niệm về bộ môn này. Hội chứng rối loạn phân ly là tên gọi chung của một loại bệnh tâm thần, trong đó hai chữ “phân ly” chính là nhắm vào sự tự nhận thức. Do vậy, đúng như tên gọi, hội chứng rối loạn phân ly đúng là chỉ việc công năng nhận thức của một người phát sinh hiện tượng phân ly, thậm chí là giải thể.

Trong tình huống bình thường, tâm lý của con người là một chỉnh thể có hệ thống, có quy luật, các loại cơ chế và công năng hợp tác với nhau, từ đó khiến cho tâm lý có thể phát huy những tác dụng bình thường, chúng ta cũng vì thế mà có được một sự nhận thức rõ ràng và hoàn chỉnh với bản thân. Nhưng đôi lúc, vì một nguyên nhân nào đó (thông thường là nguyên nhân tâm lý), một bộ phận công năng tâm lý xuất hiện tình trạng rối loạn, thậm chí là rời khỏi chủ thể tâm lý, khiến cho hệ thống tâm lý trở nên không hoàn chỉnh và mất đi tác dụng thông thường, từ đó tạo thành sự không hoàn chỉnh trong khả năng nhận thức, tình trạng này tạo thành các chứng bệnh như là hội chứng mất khả năng nhận thức về bản thân, hội chứng mất trí nhớ dạng phân ly. Nghiêm trọng hơn, có trường hợp lượng lớn công năng tâm lý thoát ly khỏi chủ thể tâm lý, tự xây dựng nên một chủ thể mới bên ngoài chủ thể gốc, sau đó còn bắt đầu tiến hành khiêu chiến với chủ thể gốc nhằm đoạt lấy quyền khống chế sinh lý, tình trạng này tạo thành các chứng bệnh như là hội chứng lang thang đãng trí, rối loạn chức năng nhận thức thân phận dạng phân ly. Những hiện tượng tâm lý mà khả năng tự nhận thức trở nên dị thường này đều thuộc phạm vi của hội chứng rối loạn phân ly.

Nguyên nhân cụ thể gây ra hội chứng rối loạn phân ly hãy còn chưa có định luận rõ ràng, những quan điểm phổ biến thì cho rằng chứng bệnh này thông thường có liên quan tới những áp lực hoặc vết thương tâm lý cực lớn, mà xét cho cùng thì cái gọi là áp lực và vết thương tâm lý đều là do những nỗi sợ hãi cực độ trong tâm lý gây ra. Thử nghĩ mà xem: Khi một người phải trải qua một chuyện nào đó nhưng nỗi sợ hãi mà chuyện đó mang tới lại hoàn toàn vượt ra khỏi năng lực chịu đựng của tâm lý, tâm lý xuất phát từ bản năng tự bảo vệ sẽ nghĩ cách để phủ định mối quan hệ giữa bản thân và sự việc đáng sợ kia. Nhưng trong tình huống mà ý thức vẫn bình thường, con người ta sẽ rất khó có thể thực hiện hành vi tự lừa gạt bản thân. Cho nên đôi lúc, cơ chế tự bảo vệ của tâm lý sẽ trở nên hết sức cực đoan, mà một trong những thủ đoạn cực đoan ấy chính là phân tách bản thân ra khỏi sự việc đáng sợ kia.

Sự việc đáng sợ là nhân tố bên ngoài, bản thân là nhân tố bên trong, đối với tâm lý mà nói, khống chế nhân tố bên trong so với khống chế nhân tố bên ngoài thì dễ dàng hơn rất nhiều. Khi vết thương tâm lý do sự việc đáng sợ mang lại không quá lớn, tâm lý sẽ có thể dùng cách quên đi bản thân sự việc để đạt được mục đích là phân tách bản thân ra khỏi sự việc đó. Lấy chuyện của Thư Tình làm ví dụ, tuy vụ tai nạn xe cộ gây ra cho cô ta vết thương tâm lý rất lớn nhưng vẫn còn nằm trong khả năng can dự của tâm lý, thế nên Thư Tình chỉ quên đi vụ tai nạn xe cộ đó cùng với nhân cách bản ngã của bản thân trong quãng thời gian trước và sau khi xảy ra tai nạn, còn khả năng tự nhận thức của cô ta thì không xuất hiện tình trạng rối loạn rõ rệt nào, đây chính là hội chứng mất trí nhớ dạng phân ly cấp độ nhẹ.

Ngược lại, nếu vết thương tâm lý do sự việc đáng sợ mang lại quá lớn, tâm lý không thể nào loại trừ những ký ức có liên quan, vậy thì chỉ đành thông qua việc loại trừ ý thức để đạt được mục đích là phân tách bản thân ra khỏi sự việc đó. Chẳng hạn, có một số cựu chiến binh sau khi phải tham gia một chiến dịch quá ác liệt sẽ quên đi tất cả mọi chuyện đã xảy ra trên chiến trường, bao gồm cả nhân cách của bản thân khi đó, người nghiêm trọng thì còn có khả năng xuất hiện tình trạng đánh mất khả năng nhận thức đối với bản thân, đây chính là hội chứng mất trí nhớ phân ly cấp độ nặng. Lại có một ví dụ khác thế này, người phụ nữ nhiều năm bị chồng bạo hành cả về thể xác lẫn tâm hồn, trong một lần nỗi sợ hãi bùng nổ đã đột nhiên quên đi thân phận của bản thân, đồng thời, để có thể sống tiếp cô ta đã tự bịa ra cho mình một thân phận mới và bỏ nhà ra đi, dùng thân phận mới này để bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới, đây chính là hội chứng lang thang đãng trí. Cực đoan hơn một chút nữa, có một cô gái từ đã bị dượng của mình xâm hại tình dục, tâm lý của cô ta vì muốn tìm kiếm sự giải thoát nên đã hư câu ra một con người không hề tồn tại, đồng thời gán chuyện bị xâm hại tình dục cho “người” này. Sự tồn tại của “người” này chỉ có một mình cô gái đó biết, do đó dần dà, người này đã trở thành chủ thể thứ hai trong tâm lý củạ cô ta, và ý thức của cô ta sẽ căn cứ theo hoàn cảnh cũng như tâm trạng để tiến hành thay đổi giữa hai chủ thể tâm lý. Sau này, cô ta rất có thể sẽ hình thành thói quen thông qua việc thay đổi nhân cách để né tránh hiện thực, nếu trong một vụ việc đáng sợ nào đó, cả hai nhân cách vốn có đều không thể chịu đựng được, vậy thì tâm lý sẽ lại dùng cách cũ để hư cấu ra một “người” thứ ba, đồng thời làm cho nó biến thành chủ thể tâm lý thứ ba cùng tồn tại với hai chủ thể tâm lý trước, quá trình tạo thành chủ thể thứ tư, thứ năm và hơn thế nữa cũng tương tự như vậy, và đây chính là tình trạng rối loạn chức năng nhận thức thân phận dạng phân ly, một tên gọi khác của nó là rối loạn đa nhân cách vốn mang đầy màu sắc kỳ bí và vô cùng hiếm gặp.

Nghĩ đến đây, tôi không kìm được hít vào một hơi khí lạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 7: Cuộc giao tranh giữa hai cao thủ tâm lý


Tôi tự nhận thấy mình là một người có tâm địa lương thiện, khi nghe Diệp Thu Vi kể về những vụ giết người thì thường xuyên cảm thấy sợ hãi và ghê tởm, nhưng trong phần ký ức thuộc về X, tôi lại từng giết chết rất nhiều người theo sự chỉ đạo của Chủ nhiệm Viên. Tôi chỉ là một người bình thường có trình độ học vấn đại học, chẳng hề có chút sở trường nào, ấy vậy mà khi là X, tôi lại có rất nhiều tri thức về tâm lý học cũng như các loại bệnh tâm thần, ngoài ra khả năng quan sát của tôi cũng nhạy bén không thua kém gì Diệp Thu Vi. Đối với tôi, điều quan trọng nhất là gia đình và người thân, nhưng khi nhớ lại những ký ức của X tôi lại cảm nhận được sự phẫn nộ và hung tợn vô cùng tận, đi kèm với đó là ham muốn giết người chẳng có điểm dừng.

Nói tóm lại, bất kể là xét về ký ức, tính cách, năng lự học thức hay là về nhân sinh quan, tôi và X đều có sự khác biệt to lớn vô cùng. Nếu những ký ức có liên quan tới X đều là sự thực, vậy thì rất hiển nhiên, X không phải là tôi, mà là một con người khác hoàn toàn độc lập với tôi về mọi phương diện. Tôi và anh ta chẳng qua chỉ chung sống trong cùng một thân thể mà thôi, tôi...

Cho dù tôi đã cố hết sức né tránh, vậy nhưng rốt cuộc vẫn phải đối mặt với một sự thực thế này: Tôi rất có thể là một người bị mắc chứng rối loạn đa nhân cách.

Nghĩ đến đây, tôi không kìm được nảy sinh nhiều sự nghi hoặc hơn: Hội chứng phân ly nhất định là có liên quan tới những tổn thương trong tâm lý, nhưng chứng rối loạn đa nhân cách của tôi rốt cuộc là từ đâu mà ra? Nếu tôi thực sự là X, tại sao những người bên cạnh tôi đều không hay biết gì? Ngay đến cả những người thân vốn sinh sống bên tôi bấy lâu cũng chẳng hề phát giác? Hơn nữa, những năm nay X ẩn nấp kín đáo như vậy, còn từng làm ra bao nhiêu chuyện như thế trong khi tôi chẳng hay biết gì, tại sao tôi lại đột nhiên phát hiện ra sự tồn tại của anh ta chứ?

Trong khoảnh khắc điều nghi vấn cuối cùng xuất hiện, trước mắt tôi đột nhiên thoáng qua bóng dáng của Diệp Thu Vi: Ánh mắt của cô ta sâu kín mà sắc bén, khuôn tuy trắng nhưng không nhợt nhạt, bờ môi căng đầy mang màu hồng phớt, mái tóc dài đen nhánh buông xõa qua vai, có mấy lọn tóc còn buông lơi trước ngực... Mãi đến cuối cùng tôi mới nhớ đến cặp kính gọng đen cùng chiếc váy liền xếp nếp kiểu bohemian của cô ta... Nghĩ đến đây, đầu tôi lại một lần nữạ nhói đau dữ dội. Trong bóng tối, một luồng sáng rực rỡ chẳng biết từ đâu rọi tới, khiến cho tôi cơ hồ muốn móc mắt mình ra. Cùng với đó, bên tai tôi lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia.

Ngay sau đó, trong đầu tôi bất giác bừng lên một cơn giận khó hiểu. Dưới sự thôi thúc của cơn giận này, tôi nắm chặt tay, dồn toàn bộ sự chú ý vào xúc giác ở đầu ngón tay và lòng bàn tay, từ đó dễ dàng và nhanh chóng thoát khỏi sự đeo bám của cặp kính gọng đen cùng chiếc váy liền xếp nếp kiểu bohemian, ngoài ra ảo giác về ánh sáng, cơn đau đầu cùng với tiếng rít kia cũng tức thì biến mất theo đó.

Tôi dùng thời gian một giây để giải phóng toàn bộ tư duy, sau đó theo bản năng, tôi hiểu rằng sự biến hóa trong tâm lý của mình đã xảy ra do sự ám thị của Diệp Thu Vi. Bắt đầu từ ngày đầu tiên gặp mặt, mỗi một chi tiết trên người cô ta, mỗi một cử chỉ, một câu nói của cô ta, thậm chí là mỗi một ánh mắt của cô ta nữa, tất cả đều là một phần của sự ám thị. Cô ta đã dốc hết tâm sức để thực hiện một cuộc ám thị vừa toàn diện lại vừa tinh tế đối với tôi, mục đích thì chỉ có một, đó là khiến tôi gặp được X. Tuy ý thức của X vẫn chưa hoàn toàn xuất hiện, tôi cũng vì thế mà chưa thể phát giác ra quá trình cũng như các chi tiết cụ thể mà Diệp Thu Vi đã dùng để ám thị tôi, nhưng theo bản năng tôi hiểu được, cô ta đã chuẩn bị hết sức kĩ càng cho cuộc ám thị này.

Từ đó mà xét, trong tám lần gặp mặt liên tục trong tám ngày vừa qua, cô ta có lẽ là người chủ động – chính cô ta đã bày sẵn ra cạm bẫy để dụ tôi tới gặp mặt, căn bản không phải là tôi chủ động đến gặp cô ta. Theo như logic bình thường thì suy luận này hiển nhiên là mười phần hợp lý, nhưng khi suy nghĩ vấn đề này, tại nơi sâu thẳm trong nội tâm của tôi lại có một thứ trực giác vô cùng mãnh liệt - một thứ trực giác thuộc về X: Diệp Thu Vi quả thực đã có sự chuẩn bị từ trước, nhưng tôi cũng không phải là bên bị động, khi đi gặp cô ta tôi thực ra cũng có một mục đích đặc biệt nào đó.

Còn về việc mục đích đặc biệt đó rốt cuộc là gì, tôi đã mấy lần muốn tìm kiếm đáp án từ chỗ X nhưng cuối cùng đều phải chịu thất bại - anh ta dường như rất phản cảm với hành vi này của tôi. Nửa phút sau, sự phản cảm của anh ta lại càng trở nên rõ rệt, và tôi kinh ngạc phát hiện dòng ký ức vốn đang dâng trào cuồn cuộn dần giảm tốc độ, có một bộ phận thậm chí còn bắt đầu dừng hẳn, sau đó trở nên mơ hồ và biến mất, tư duy nhạy bén của tôi cũng dần trở nên trì trệ. Tôi đột nhiên ý thức được, X không muốn để tôi tiếp xúc với anh ta, thế nên mới muốn rời khỏi tôi và thực sự đang rời khỏi tôi.

Tôi gắng sức day mạnh trán và hai bên má, lại dùng một quãng thời gian khoảng hai giây để giữ lòng bình tĩnh trở lại. Người từng thông minh rất sợ trở nên hồ đồ, tôi không thể để X dễ dàng rời đi, tôi không cho phép trí óc của mình lại một lần nữa quay lại với sự trì trệ và bị mất trí nhớ. Tôi nhất định phải cố gắng tìm hiểu về những trải nghiệm của X trước khi anh ta rời đi, từ đó thực sự nhận thức được bộ mặt thật của chính bản thân mình.

Do thời gian cấp bách, tôi phải cố ép mình bình tĩnh trở lại, dòng suy nghĩ lại một lần nữa quay về buổi đêm ngày 29 tháng 10 năm 2009.

* * *

Lưu Hướng Đông nghiêng người kéo thùng rác ở cách đó không xa lại bên cạnh mình, nhổ vào trong mấy bãi nước bọt sau đó lại khom lưng xuống, hai tay đưa lên đỡ trán, thân thể nhấp nhô không ngừng.

Trong những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước, Lưu Hướng Đông đang ở trong giai đoạn hình thành nhân cách và nhân sinh quan nhưng lại gặp thời loạn lạc, phải tận mắt nhìn thấy sự xấu xí trong bản tính của loài người. Sau một thời gian dài chịu sự uy hiếp từ những người xa lạ, trong lòng ông ta ngợp đầy nỗi sợ hãi với các mối quan hệ, và để loại trừ nỗi sợ hãi, né tránh trở thành lựa chọn đầu tiên của ông ta khi gặp người lạ mặt. Một khi không thể né tránh, nỗi sợ hãi đối với người lạ của ông ta sẽ bùng phát, đây chính là căn nguyên gây ra tình trạng lo sợ trong khi giao tiếp của ông ta.

Nhưng cùng với đó, hai người thầy giáo không sợ thời cuộc, kiên trì lên lớp kia đã khiến ông ta cảm nhận được mặt tốt đẹp trong bản tính của loài người. Trong vực sâu của sự tăm tối, chính sự tốt đẹp hiếm hoi này đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho ông ta tiến về phía trước, đồng thời cũng trở thành động lực nội tại cho sự phấn đấu của ông ta trong những ngày tháng sau này. Ông ta cố gắng học tập rồi trở thành giảng viên đại học có lẽ chính là vì muốn theo bước hai người thầy đó của mình, hơn nữa cũng chỉ có khi ở trong phòng học thì nỗi lo sợ trong giao tiếp của ông ta mới phần nào giảm bớt. Thời còn là học sinh, chỉ có chuyện học tập là có thể giúp ông ta quên đi những mối uy hiếp xung quanh, cho nên trong suốt một quãng thời gian khá dài sau khi trưởng thành ông ta không hỏi gì tới chuyện đời, chỉ chuyên tâm vào sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu khoa học, mục đích chính là để ngăn chặn cảm giác không an toàn do các mối quan hệ xã hội mang tới. Có thể nói, từ tuổi thiếu niên tới trung niên, cả học thức cũng như kiến thức của ông ta đều tăng dần từng ngày, vậy nhưng trạng thái tâm lý thì lại không chút thay đổi.

Lưu Hướng Đông đã tận mắt nhìn thấy một bạn học nữ của mình bị làm nhục mà chết, nỗi sợ hãi đối với các mối quan hệ xã hội theo đó mà bùng phát. Trong quá trình này, đám lưu manh đã nhét những vật dơ bẩn vào miệng của ông ta. Trong tiềm thức của Lưu Hướng Đông, đám lưu manh đại diện cho người xấu, còn những vật dơ bẩn kia thì trở thành sự tượng trưng cho mặt xấu xí trong bản tính của loài người. Khi đó ông ta nhất định đã ra sức nhổ những thứ dơ bẩn đó ra ngoài, đồng thời dùng tay lau răng cho sạch. Bởi vì đang ở trong giai đoạn trưởng thành của tình dục, do đó chuyện này có sức ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nên tính cách của ông ta, để rồi cuối cùng động tác lau răng đã trở thành một bộ phận cố định cấu thành nên tâm lý. Kể từ đó về sau, cứ mỗi khi cảm nhận thấy nỗi sợ hãi đến từ các mối quan hệ xã hội, ông ta sẽ lại vô thức làm ra hành vi lau chất bẩn bám trên răng, sau đó thì dần dần chuyển hóa thành động tác sờ răng cửa, đây chính là tình trạng đơn giản hóa hành vi ở người bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

Nghĩ tới đây, tôi lại để ý tới một thông tin khác: Lưu Hướng Đông vốn tham gia giảng dạy ở Đại học C nhưng tới năm 1997 thì lại đột nhiên nhảy việc tới làm Chủ nhiệm Trung tâm Nghiên cứu khoa học ở Công ty E. Dựa theo sự phân tích trước đó, động lực nội tại cho cuộc sống và sự nghiệp của ông ta chính là hai người thầy đã khiến ông ta cảm nhận được mặt tốt trong tính người năm xưa. Dưới sự thôi thúc của niềm tin này, ông ta lẽ ra phải kiên định đi theo nghề dạy học mới đúng, tại sao đến cuối cùng lại lựa chọn rời đi như vậy? Hơn nữa tôi từng nghe Chủ nhiệm Viên kể rằng Lưu Hướng Đông tuy tính tình quái lạ, vậy nhưng lại rất khao khát quyền lực, cũng biết sử dụng quyền mưu, còn từng thông qua các biện pháp mờ ám khác nhau để khiến con trai mình có cái mẽ ngoài của một thiên tài học thuật. Rất hiển nhiên, để có thể sử dụng quyền mưu và thực hiện các biện pháp mờ ám kia, Lưu Hướng Đông ắt phải tiến hành giao tiếp với người khác rất nhiều, nếu ông ta thực sự có vấn đề về tâm lý như tôi phân tích, vậy thì việc này có tồn tại sự mâu thuẫn rõ ràng... Ờ đây nhất định là có chỗ nào đó không đúng lắm.

Tôi nhanh chóng ý thức được trong quãng thời gian trước và sau khi nhảy việc, Lưu Hướng Đông có lẽ đã có một sự chuyển biến nào đó trong tâm lý.

Phân tích tới đây, tôi nhìn Lưu Hướng Đông đang cúi đầu không nói gì, hỏi: “Năm 1997, tại sao ông lại nghỉ việc ở Đại học C?”

Ông ta hít sâu một hơi, ngồi thẳng người dậy đưa ta lên sờ răng cửa, khẽ liếm môi, muốn nói gì đó mà cuối cùng lại thôi.

Tôi nói: “Đối với ông, nghề giáo là nghề nghiệp cao quý nhất, ông nhất định cũng đã từng muốn dâng hiến cả cuộc đời này cho sự nghiệp giáo dục, đúng vậy không?”

Ông ta ngẩng đầu lên, nhất thời quên đi sự lo âu, nhìn tôi vẻ đầy kinh ngạc.

Tôi lại nói tiếp: “Nhưng, năm 1997 hoặc là sớm hơn nữa, có một số chuyện đã làm thay đổi lý tưởng và quan niệm của ông. Ông hãy kể cho tôi nghe những chuyện đó đi.”

Ông ta khẽ gật đầu, lại đưa tay lên sờ răng cửa một chút, sau đó mới thoáng mang theo vẻ căng thẳng nói: “Nghề giáo, nghề giáo quả thực là nghề cao quý nhất, quan niệm này trong tôi chưa từng thay đổi. Nhưng... nhưng chính bởi vì như thế nên tôi mới không vừa mắt những con người đó...”

”Những con người nào?” Tôi lạnh lùng nhìn ông ta.

“Trợ lý, đồng nghiệp, lãnh đạo, nhiều lắm.” Ánh mắt ông ta đột nhiên trở nên kiên định, giọng nói cũng theo đà mà toát ra vẻ xúc động: “Bọn họ không xứng, không xứng! Bọn họ đã làm nhục cái nghề cao quý ấy!”

“Nghề giáo thực sự rất cao quý.” Tôi cố tình nói vậy để an ủi ông ta, sau đó mới lại tiếp: “Ông hãy kể tỉ mỉ một chút đi.”

Ông ta lập tức trở nên bình tĩnh hơn nhiều, sau khi nghĩ một chút bèn bắt đầu kể: “Hồi đầu năm 1997, tôi vừa độc lập hoàn thành một hạng mục lý luận rất có tính đột phá, viện trưởng của Học viện Hóa học công nghiệp tìm đến tôi, muốn tôi đề tên con gái ông ta trên luận văn, tôi từ chối mà không chút do dự. Nhưng rồi chỉ mấy ngày sau các tạp chí vốn thường xuyên hợp tác đột nhiên không nhận luận văn của tôi nữa, có một tạp chí thậm chí đã xét duyệt rồi, nhưng sau đó lại đưa trả luận văn của tôi về. Viện trường lại đến tìm tôi lần nữa, nói là nếu không để tên con gái của ông ta, luận văn của tôi đừng hòng được đăng tải. Khi nói ra những lời đó, ông ta cứ như một vị anh hùng lẫm liệt vậy, còn tôi thì chẳng khác nào một kẻ phản bội chấp nhận thỏa hiệp với quân địch. Tôi lại từ chối ông ta một lần nữa, sau đó còn viết thư tố cáo bằng tên thật và tự tay đưa tới cho hiệu trưởng. Qua ngày thứ hai, thư tố cáo được giữ nguyên trạng và đưa trả về cho tôi. Tôi rất nhanh đã ý thức được hành vi viết thư tố cáo thực là quá ư xuẩn ngốc và nực cười - tôi căn bản không cần phải tố cáo gì cả, bởi lẽ việc này toàn bộ giảng viên ở Học viện Hóa học công nghiệp đều biết rõ! Một vị giáo sư mà tôi thường xuyên hợp tác, còn cả một người trợ giảng đã theo tôi được hơn một năm rồi, thậm chí còn trực tiếp tham gia vào việc giúp con gái của viện trưởng giở trò gian lận. Cũng trong mấy ngày đó, rất nhiều người thường ngày vốn tỏ ra đường hoàng nghiêm túc đã tìm đến tôi, khuyên tôi đừng đối đầu với Viện trưởng, còn nói ra những lời kiểu như “Chẳng qua là để tên thôi mà”,“Việc này đâu có ảnh hưởng gì đến luận văn của anh”, “Anh làm thế này là tự hủy hoại tiền đồ của mình đấy“.” Nói tới đây, Lưu Hướng Đông hít sâu một hơi, tỏ ra vô cùng bức xúc. “Tôi đột nhiên ý thức được rằng những con người đó căn bản không xứng với một nghề cao quý như nghề giáo, bọn họ ích kỷ, tham lam, lọc lõi, học thuật kém cỏi, thích giở trò dối trá... Mà càng khiến tôi bất bình hơn là dường như chỉ có những kẻ như thế mới có thể đứng vững trên cương vị của một giảng viên, còn những người thành thực, kiên trì với chính nghĩa mà tôi từng thấy thì lại rất dễ bị đào thải. Anh không thấy rằng trong chuyện này đen trắng đã bị đảo lộn hết cả rồi ư?”

Tôi rất muốn nói với ông ta: Về bản chất con người ai cũng ích kỷ. Trong một xã hội mà lợi ích là tối thượng, lại thiếu mất sự giám sát và đôn đốc, việc người giỏi dùng thủ đoạn có thể dễ dàng leo cao, người thanh cao cố chấp bị đào thải là một quy luật vô cùng khách quan, căn bản chẳng dính dáng gì tới từng cá nhân cả. Nhưng tôi không thể nói như vậy được, vì nhiệm vụ của tôi là bảo vệ ông ta chứ không phải là thổi tắt đốm sáng duy nhất trong nội tâm của ông ta.

”Quả thực, những con người này không xứng với nghề giáo.” Tôi lại hỏi tiếp:“Thế nên ông đã quyết định nghỉ việc ư? Tại sao ông phải tới Công ty E? Tôi từng nghe Chủ nhiệm Viên kể là những năm nay ông cũng thường xuyên dùng đủ các thủ đoạn để trải sẵn đường đi cho con trai mình, ông không phải là rất chán ghét chuyện này ư? Vì sao đến cuối cùng cũng lại tự tay thực hiện như thế?”

”Vì sự cao quý của nghề giáo.” Cặp mắt ông ta đột nhiên trở nên sáng rực. “Khi đó, lãnh đạo của tập đoàn đã hứa với tôi rằng chỉ cần tôi có thể giúp Công ty E hồi sinh, bọn họ sẽ hỗ trợ tôi giành lấy quyền lực cao nhất ở Đại học C. Tôi cũng biết hoàn cảnh chung không được tốt, nhưng chỉ cần tôi có quyền lực thì ít nhất cũng có thể đuổi đám người xấu xa đó ra khỏi Đại học C, sau đó bổ nhiệm những người chính trực và có tinh thần trách nhiệm để rồi dựng nên một ngôi trường trong sạch và tràn đầy tinh thần làm khoa học. Tôi cũng biết rằng hiện thực không thể hoàn toàn lý tưởng hóa, nhưng ít nhất thì tôi cũng có thể cải thiện tình trạng ở Đại học C.”

Tôi dùng giọng khẳng định nói: “Xem ra vì lý tưởng này mà ông đã sẵn lòng làm bất cứ chuyện gì, bao gồm cả việc khiến bản thân cũng trở nên lọc lõi.”

”Tôi chưa từng trở nên lọc lõi.” Ông ta nói giọng kiên định: “Tôi chỉ dùng một số thủ đoạn lọc lõi mà thôi. Tuy việc này khiến tôi cảm thấy rất đau khổ, vậy nhưng so với kết quả thu được thì nó chẳng đáng kể gì. Lãnh đạo cao cấp cùa tập đoàn đã thực hiện lời hứa, chẳng bao lâu nữa tôi sẽ có được quyền khống chế thực tế đối với Đại học C. Tôi sẽ đuổi việc tất cả những kẻ xấu xa, sau đó nâng đỡ những người kiêm đủ cả đức tài. Tôi phải để con trai kế thừa lý tưởng và chí hướng của tôi, xây dựng Đại học C thành một trường đại học hoàn mỹ.” Nói xong những lời này, trên gương mặt vốn luôn căng cứng của ông ta lần đầu xuất hiện nụ cười, một nụ cười đơn thuần và rạng rỡ.

Hai người thầy dũng cảm thời trung học đã khiến nghề giáo trở thành nghề cao quý nhất trong lòng Lưu Hướng Đông. Ông ta dấn thân vào sự nghiệp giáo dục, hy vọng qua đó có thể tìm được mặt tốt đẹp trong bản tính của loài người, vậy nhưng hiện thực lại giáng cho ông ta một đòn đau chí mạng. Có lẽ, tất cả những việc mà ông ta làm ra sau này sự đều là vì muốn khiến trường học trở lại trong sạch. Tất nhiên, cũng có thể ông ta sớm đã bị xã hội đồng hóa, chỉ là không muốn thừa nhận, vẫn cố chấp khoác lên mình chiếc áo ngoài của chủ nghĩa lý tưởng. Nhưng bất kể sự thực là như thế nào, sự kính trọng của ông ta với hai nguòi thầy năm xưa vẫn không hề đổi khác, nó luôn là động lực nội tại giúp ông ta có thể đứng vững trong xã hội này.

Nếu muốn giết Lưu Hướng Đông, tôi nhất định sẽ đồng thời ra tay từ hai mặt, thứ nhất là khuếch đại nỗi sợ hãi ờ sâu trong nội tâm của ông ta, thứ hai là dập tắt ngọn lửa soi đường trong lòng ông ta. Ngược lại, nếu muốn bảo vệ ông ta, tôi cần phải nghĩ cách giảm bớt hoặc là loại trừ nỗi sợ hãi của ông ta đối với các mối quan hệ xã hội, đồng thời giữ cho ngọn lửa trong lòng ông ta không bị dập tắt.

Đối với tôi mà nói, bảo vệ tâm lý của ông ta là một việc dễ như trở bàn tay, nhưng tôi không thể làm quá triệt để được, cần phải lưu lại cho người muốn giết ông ta một cơ hội, như thế thì kẻ đó mới chịu hành động và có khả năng để lộ ra sơ hở.

Hồi tháng 3 năm 2009, Chủ nhiệm Viên từng nhờ giúp Thư Tình khơi thông tâm lý. Để ẩn giấu thân phận của tôi, việc này chỉ được tiến hành qua điện thoại. Ngay trong lần trò chuyện đầu tiên, tôi đã ý thức được rằng vụ tai nạn giao thông của Thư Tình tuyệt đối không phải là ngẫu nhiên, tâm lý của cô ta dường như đã bị tác động Bằng một biện pháp nào đó. Kể từ lúc đó, tôi đã biết rằng có một cao thủ tâm lý khác đang rình mò ở đâu đây, hơn nữa người này còn có dính dáng rất sâu đến một vụ việc nào đó mà Chủ nhiệm Viên phụ trách. Tôi đã nói dự cảm này của mình với Chủ nhiệm Viên, nhưng ông ta lại không chịu tin. Để đề phòng bất trắc, tôi đã điều tra kĩ lưỡng về Thư Tình, đồng thời giúp cô ta học được cách chống lại những sự tác động vào tâm lý.

Đến đầu tháng 10 năm 2009, Chủ nhiệm Viên đột nhiên liên lạc với tôi, nói rằng phán đoán của tôi trước đó có lẽ là chính xác: Có người đang ngấm ngầm tiến hành điều tra Tập đoàn A, hơn nữa còn có năng lực tương tự như tôi. Tôi nhận được một nhiệm vụ mới, đó là tìm ra người này và giết chết đối phương.

Dưới sự giúp đỡ của các tài liệu mà Chủ nhiệm Viên cung cấp, tôi biết tới một loạt những sự kiện chết người có khả năng có liên quan tới người điều tra kia. Đồng thời, vào thượng tuần tháng mười năm 2009, tôi đã gặp Triệu Hải Thời khi đó đang sắp bị đưa đi chấp hành án tử hình. Thông qua cuộc tiếp xúc với anh ta, tôi tìm ra năm người có khả năng trở thành mục tiêu tiếp theo của người điều tra đó, Lưu Hướng Đông chính là một trong số này. Dưới sự giúp đỡ của tôi, Chủ nhiệm Viên đã có những sự sắp xếp tương ứng cho năm người này. Quả nhiên, tối ngày 28 tháng 10 năm 2009, Lưu Hướng Đông đã nhận được tin nhắn dường như gửi từ người điều tra kia. Qua một cuộc trao đổi bằng tin nhắn, tôi xác định được đối phương chính là người điều tra thần bí kia. Tuy chúng tôi đều không biết thân phận của đối phương, nhưng anh ta (cô ta) chắc cũng rõ tình hình hiện không có lợi cho mình. Nếu anh ta (cô ta) thực sự là một người tương tự như tôi, vậy thì ắt chẳng bao giờ chịu ngồi yên chờ chết mà sẽ tìm cách để liều một phen, dù có phải cá chết lưới rách cũng sẵn lòng.

Lưu Hướng Đông chính là con mồi tốt nhất để lôi người này ra ngoài ánh sáng.

Nghĩ đến đây, tôi bất giác rùng mình một cái rồi trở về hiện thực, sau đó ngẩn ngơ nhìn về phía cửa nhà vệ sinh, trước mắt lại lần nữa xuất hiện bóng dáng của Diệp Thu Vi. Tháng 10 năm 2009, tôi còn chưa biết đến sự tồn tại của Diệp Thu Vi. Khi đó, xuất phát từ cái nhìn về bản thân, tôi cứ ngỡ đối phương phải là một người đàn ông điềm tĩnh và lý trí, chính loại quan điểm chủ đạo ban đầu này đã tạo ra cho tôi những sai lầm nghiêm trọng, từ đó trong quá trình điều tra đã bỏ lỡ mất nhiều cơ hội hoài nghi Diệp Thu Vi.

Một giây sau, dòng suy nghĩ của tôi lại một lần nữa quay trở về đêm ngày 29 tháng 10 năm 2009. Sau khi suy nghĩ xong xuôi, tôi quyết định phải giúp Lưu Hướng Đông giảm bớt nỗi sợ hãi, nhưng tạm thời không can thiệp tới ngọn lửa soi đường ở trong lòng ông ta. Bởi lẽ, nỗi sợ hãi và chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế mới là những điểm yếu dễ khiến ông ta mất mạng nhất.

Muốn giảm bớt hoặc loại trừ nỗi sợ hãi ấy từ gốc rễ, ông ta nhất định phải đối mặt trực diện với nó mới được.

“Giáo sư Lưu.” Tôi nói. “Chúng ta cùng quay trở lại với chuyện xảy ra hồi ông học lớp chín kia nhé. Tôi muốn ông nghiêm túc nghĩ lại chuyện đó, đồng thời kể ra toàn bộ quá trình, đừng bỏ sót bất kỳ chi tiết nào, đặc biệt là trong việc những người đó làm nhục ông.”

Ông ta vùi mặt vào giữa hai tay, không nói nửa lời.

Đối với ông ta, điều này có lẽ rất khó, cho nên tôi nhất định phải giúp ông ta. Tôi đột nhiên hơi khom người về phía trước, chụp mạnh lấy bờ vai của ông ta. Ông ta sợ hãi ngẩng đầu lên, muốn giãy ra khỏi tay tôi theo bản năng. Tôi thu hai tay về, một giây sau lại đột nhiên đứng dậy, đưa tay kéo ông ta xuống khỏi xô pha, ấn ghì xuống đất. Ông ta dù sao cũng đã hơn năm mươi tuổi rồi, thân thể lại không được cường tráng lắm, do đó gần như không có chút sức phản kháng nào. Dù rằng như thế nhưng ông ta vẫn ra sức giãy giụa, đồng thời còn lớn tiếng kêu gào.

”Giáo sư Lưu.” Tôi cưỡi trên người ông ta, một tay giữ chặt ông ta, tay còn lại thì cởi quần ra, bắt đầu tiến hành dẫn dắt tư duy của ông ta. “Bọn họ đã nhét những thứ bẩn thỉu vào trong miệng ông như thế nào? Tổng cộng có mấy người đã làm như vậy? Bọn họ trông ra sao? Ông có cảm nhận gì khi đó? Mùi vị của chất bẩn ở trong miệng ông thế nào? Có tệ lắm không? Khi đó ông đã nôn mửa theo cách nào? Người bạn học nữ kia của ông thì sao? Có phải là nằm bên cạnh ông kêu rên thảm thiết không? Những người bạn khác của ông nữa, bọn họ đã làm gì? Trời hôm đó nắng hay râm? Có nổi gió hay đổ mưa gì không? Những người đó đã mắng ông như thế nào? Có đánh ông không? Đánh như thế nào?” Nói tới đây, tôi đột nhiên đấm mạnh vào lưng ông ta một cái. “Ông có đau lắm không? Khi đó ông có từng nghĩ đến việc liều mạng với bọn họ không? Hay là ông muốn tìm lấy một khe hở mà chui xuống dưới đất?

Khi đó ông có còn hy vọng gì vào tương lai của mình không? Mùi vị của chất bẩn thế nào? Ông có bị ép phải nuốt nó vào bụng không? Ông đã nuốt bao nhiêu rồi…”

Ông ta không kìm được nôn khan mấy tiếng dữ dội.

Tôi đưa tay ấn đầu ông ta xuống. “Nhìn cái bộ dạng đẫn đụt của ông này, có phải là còn chưa ăn đủ không? Hả? Ông đã nhớ ra mùi vị của thứ đó chưa? Có muốn nếm thử một lần nữa không? Đừng hòng chạy được, ông chạy không thoát đâu, còn muốn đi học nữa cơ à? Hả? Học cái *** ấy!”

Ông ta vừa nôn mửa vừa hét lớn: “Chủ nhiệm Viên! Chủ nhiệm Viên!”

Tôi lại đấm ông ta một cái nữa. “Cái gì mà Chủ nhiệm Viên với Chủ nhiệm Vinh, không ai có thể cứu được ông đâu. Nào, thử thêm lần nữa đi.” Dứt lời, tôi cởi luôn cả quần lót, nhích hai chân về phía đầu ông ta.

Một giây sau, ông ta dùng hết sức bình sinh trở mình một cái, nôn hết toàn bộ những thứ đã ăn trong bữa tối hôm đó ra ngoài.

Tôi thở phào một hơi, nhanh chóng kéo quần lên, đỡ ông ta dậy. Ông ta lại nôn thêm mấy lần nữa, sau đó mới run rẩy rót cho mình một cốc nước, lẳng lặng súc miệng, cúi đầu không dám nhìn tôi, tay thì đưa lên sờ răng cửa không ngừng.

“Xin lỗi, Giáo sư Lưu.” Tôi nhìn ông ta, nói bằng giọng nhẹ nhàng hết mức có thể: “Bây giờ hãy tiếp tục đi, tôi cần ông nghiêm túc nhớ lại chuyện xảy ra hồi ông học lớp chín, sau đó nghiêm túc kể lại toàn bộ quá trình cũng như cảm giác của bản thân trong hoàn cảnh lúc ấy.” Tôi vừa nói vừa đưa tay điều chỉnh cho ánh đèn trong phòng tối đi. “Bây giờ ông hãy suy nghĩ theo lời của tôi nhé: Ông đang ngồi học trong lớp thì một đám lưu manh xông vào kéo một bạn học nữ của ông ra ngoài, ông và những người khác vội vàng đuổi theo. Đám lưu manh đó kéo nữ sinh kia ra phía sau phòng học, lột sạch quần áo của cô ta, cưỡng hiếp cô ta. Nữ sinh đó không ngừng giãy giụa, gào thét, trong lòng ông ngợp đầy một cơn phẫn nộ vô cùng tận. Nhưng các ông không đủ sức chống lại đám lưu manh đó, chỉ có thể trơ mắt nhìn người bạn học của mình bị làm nhục đến chết. Những người đó giữ chặt lấy ông, bóp mũi ông, vạch miệng ông ra, nhét những thứ bẩn thỉu vào trong miệng ông. Bọn họ vừa làm như vậy còn vừa cười vang giễu cợt như dã thú. Chất bẩn bị đưa vào miệng ông, mùi vị rất lạ, ông muốn nhổ nó ra, vậy nhưng mũi lại bị bóp chặt, bắt buộc phải dùng mồm để hít thở trước rồi mới nhổ ra được. Ông đã hít vào một hơi, chất bẩn theo đó mà bị ông nuốt vào trong bụng một ít...”

Ông ta lại một lần nữa vớ lấy thùng rác và bắt đầu nôn mửa.

Tôi dừng lại khoảng năm giây, sau đó đưa tay ra, nhẹ nhàng vỗ lưng ông ta.“Đã đỡ hơn chút nào chưa? Đừng sợ, sự việc dù gì cũng đã qua được mấy chục năm rồi. Ông biết không? Tôi đã điều tra chuyện mà ông kể rồi, đám lưu manh đó phần lớn đều đã bị xử tử từ tháng 5 năm 1979, có hai kẻ còn sống sót thì tới đầu những năm tám mươi cũng bị người ta đánh chết, kết cục rất thê thảm.” Tất nhiên, những chuyện này chỉ là do tôi tùy tiện bịa ra mà thôi.

Ông ta súc miệng một lúc rồi mới thở dốc hỏi: “Thật ư?”

“Tất nhiên rồi.” Tôi nói. “Tôi đã điều tra rất kỹ. Nếu ông muốn biết thông tin chi tiết thì tôi có thể bảo Chủ nhiệm Viên cung cấp cho ông các tài liệu về vụ việc đó.”

”Bọn chúng thực sự rất đáng chết.” Ông ta hít sâu một hơi, run rẩy nói: “Nữ sinh đó rất đẹp, rất có tinh thần trách nhiệm, thành tích học tập cũng rất tốt, tôi...” Ông ta khẽ thở dài một tiếng. “Ôi, bọn tôi không ngờ lại không bảo vệ được cô ấy, tôi...”

Nỗi sợ hãi đối với người lạ và các mối quan hệ xã hội không ngờ còn làm nảy sinh sự áy náy và tự trách đi theo ông ta suốt cả cuộc đời nữa.

”Đó không phải là lỗi của ông, lại càng không phải là trách nhiệm của ông.” Tôi nói. “Ông đã cố hết sức rồi nhưng khi đó ông cũng vẫn còn nhỏ, không có năng lực cũng là lẽ đương nhiên thôi.” Tôi vừa nói vừa điều chỉnh đèn sáng lên một chút. “Nhưng bây giờ thì khác, ông đã là một nhân vật nổi tiếng khắp thành phố, trong toàn tỉnh, thậm chí là trong cả nước cũng có danh tiếng nhất định. Ông bây giờ rất có uy quyền, tất cả mọi người đều kính trọng ông, sợ ông,,.”

”Sợ tôi?” Ông ta khẽ lắc đầu, cười gượng, nói: “Làm gì có ai sợ tôi đâu.”

”Có nhiều người lắm chứ, như tôi chẳng hạn.” Tôi nói. “Mọi người đều rất kính sợ những người có uy quyền, và bây giờ ông đã là một người có uy quyền rồi. Ông không còn giống như mấy chục năm trước nữa, hiện giờ ông không chỉ có năng lực bảo vệ người mà mình yêu, còn có năng lực để xử lý bất cứ người nào mà ông không thích. Ví dụ đám lưu manh năm đó vẫn còn sống, ông chỉ cần động nhẹ ngón tay một chút là có thể khiến bọn họ sống không bằng chết. Tuy vừa rồi tôi đã có những lời lẽ và cử chỉ vô lễ với ông, nhưng đó chỉ là một cách thức để tác động vào tâm lý của ông mà thôi, mục đích là nhằm bảo vệ ông theo sự ủy thác của Chủ nhiệm Viên, về mặt cá nhân mà nói, tôi rất kính trọng ông, cũng rất sợ ông, bởi lẽ tôi chỉ là một nhân vật nhỏ chẳng đáng nhắc đến, còn ông thì lại là một nhân vật lớn rất có sức ảnh hưởng ở cả trong và ngoài Tập đoàn A.” Nói xong, tôi cố tình để lộ vẻ mặt sợ hãi, lại đưa mắt nhìn thoáng qua ông ta một chút. “Ông thử nói xem, tôi có thể không sợ ông được ư?”

Ông ta lộ vẻ trầm tư, khẽ gật đầu, sống lưng rõ ràng đã ưỡn thẳng hơn so với trước đó, vẻ lo âu trên mặt cũng biến mất quá nửa.

”Bây giờ.” Tôi lại nói tiếp. “Tôi lại hỏi ông một vấn đề nữa nhé, khi bọn họ đưa chất bẩn vào trong miệng ông, ông đã có cảm giác như thế nào?”

Ông ta hơi cau mày lại vẻ chán ghét. “Kỳ thực cũng có nhiều lắm, thứ đó có mùi tanh rất rõ ràng, nói thực lòng là còn hơi ngọt nữa. Tôi bị ép phải nuốt vào một ít, nhưng ngay sau đó đã nôn ra được. Sau khi những người đó bỏ đi, tôi ngẩn ngơ ngồi trên mặt đất. Không biết bao lâu sau, tôi nghe người khác kể lại là bạn nữ đó chết rồi, thế là nước mắt, nước mũi không kìm được chảy ra giàn giụa. Tôi vừa khóc vừa đưa tay lên quệt nước mũi, phát hiện trên răng cửa của mình có dính một thứ gì đó nhơm nhớp nhầy nhụa, thế là vội dùng sức lau đi. Tôi đã lau rất nhiều lần thực sự là rất nhiều lần, có lẽ phải tới hơn trăm. Tôi cứ thế ngồi trên đất mà lau không ngừng.”

Tôi cố gắng nói bằng giọng nhẹ nhàng hết mức có thể: “Có lẽ đó căn bản không phải chất bẩn gì cả, chỉ là nước mũi của ông mà thôi.”

Ông ta sững người, một lát sau liền khẽ gật đầu vẻ giật mình bừng tỉnh ngộ. “Đúng thế, đó có lẽ không phải chất bẩn gì cả, chỉ là nước mũi hoặc nước bọt nhầy sinh ra do sự đau khổ quá độ mà thôi. Phải, phải rồi, thứ đó căn bản không phải là chất bẩn…”

Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vai ông ta, cất lời an ủi: “Dù đó là thứ gì thì chuyện cũng đã qua được mấy chục năm rồi, tuy chẳng vui vẻ gì cho lắm nhưng ngẫm lại thì cũng chỉ là một đoạn ký ức nặng nề giữa đời người mà thôi. Con người có tốt có xấu, trong thời đại xấu thì người xấu có nhiều hơn một chút, trong thời đại tốt thì người tốt có nhiều hơn một chút. Vả lại ông bây giờ đã có đủ uy quyền rồi, cho dù có gặp phải những kẻ xấu thực sự thì cũng không cần phải sợ hãi gì cả. Ông hãy thử nghĩ tới những người khác mà xem, hãy thử nghĩ tới những con người xa lạ trên đường xem, bọn họ có gì đáng để sợ chứ? Không có ai dám làm hại ông nữa đâu.”

Ông ta nhấp một ngụm nước, lại khẽ gật đầu vẻ trầm tư, sắc mặt đã có vẻ bình thản hơn trước đó rất nhiều. Trong vòng hơn một tiếng đồng hồ sau đó, tôi tiếp tục giúp ông ta nhớ lại những chuyện trong quá khứ. Ông ta đã nhớ ra nhiều việc hơn, thậm chí còn nhắc đến một số người và việc khiến ông ta cảm thấy sợ hãi khác. Dưới sự phân tích và dẫn dắt của tôi, đến khoảng mười hai giờ tối, ông ta đã có thể thản nhiên đối mặt với sự sỉ nhục từng gặp phải năm đó, khi nói chuyện cũng tự tin hơn, số lần sờ răng thì giảm đi rõ rệt.

Sự việc tiến triển coi như là thuận lợi, nhưng tôi cũng hiểu rằng một lần trò chuyện đơn giản thế này chỉ có thể giúp Lưu Hướng Đông cải thiện trạng thái tâm lý hiện tại mà thôi, muốn loại trừ hoàn toàn nỗi sợ hãi ở sâu trong nội tâm của ông ta thì còn cần nhiều thời gian và sức lực hơn nữa mới được. Tối đó, sau khi Lưu Hướng Đông rời đi, tôi đã gặp Chủ nhiệm Viên trong gian phòng đó và báo cáo lại với ông toàn bộ các chi tiết trong vụ việc.

Nghĩ được tới đây, dòng hồi ức của tôi bỗng dưng đứt đoạn. Tôi đột ngột quay trở về thực tại, nhưng rồi chỉ nửa giây sau đã lại nhớ ra đoạn ký ức tiếp theo.

Chủ nhiệm Viên ngồi ở chỗ đối diện với tôi, ngay tại chỗ mà Lưu Hương Đông vừa ngồi. Ấn tượng của tôi về ông ta có hơi mơ hồ, chỉ nhớ rằng tóc của ông ta không được nhiều cho lắm, có khả năng còn bị hói đầu. Ánh mắt của ông ta rất bình tĩnh, vóc người thì hơi gầy, ngoài ra ông ta còn thích mặc những bộ đồ có màu sẫm. Tôi đã suy nghĩ rất lâu, vậy nhưng vẫn không thể nhớ ra tên và thân phận cụ thể của ông ta.

“Chủ nhiệm Viên.” Khi đó tôi đã nói như thế này: “Đối phương là một cao thủ. Muốn đảm bảo an toàn tuyệt đối cho chủ nhiệm Lưu thì tôi còn phải trò chuyện với ông ta ít nhất ba lần nữa.”

“Không cần an toàn tuyệt đối.” Giọng của Chủ nhiệm rất trầm thấp. “Sau lần trò chuyện đầu tiên này
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 7-2: Cuộc giao tranh giữa hai cao thủ tâm lý (2)


chắc ông ta sẽ không dễ dàng bị người điều tra kia hại chết nữa chứ?

Tôi bình thản nói: “Chắc chắn là như vậy. Tôi đã giúp ông ta giảm bớt nỗi sợ hãi, hơn nữa còn truyền cho ông ta một số phương thức tư duy có thể ngăn chặn nỗi sợ hãi.”

”Vậy là đủ rồi.” Chủ nhiệm Viên nói: “Anh cần phải hiểu rằng nhiệm vụ của anh không phải là đảm bảo sự an toàn cho con mồi, mà là câu được cá lên trước khi con mồi bị ăn hết sạch. Bao bọc cho con mồi kĩ quá sẽ chỉ khiến cá mất đi sự hứng thú mà thôi, một con mồi có vết thương trên người mới có sức hấp dẫn trí mạng đối với cá.”

Tôi lẳng lặng gật đầu, sau đó thì không tiếp tục giúp ông ta gỡ các gút thắt trong tâm lý nữa, nhưng vẫn luôn giữ liên lạc với ông ta. Lúc ban ngày, cứ cách ba tiếng tôi lại gọi điện thoại cho ông ta một lần để biết được trạng thái tâm lý của ông ta. Trong vòng một tuần sau đó, trạng thái tâm lý của ông ta vẫn luôn rất ổn định, nỗi lo sợ đối với việc giao tiếp cũng có sự cải thiện rõ rệt. Nhưng đến chiều ngày 7 tháng 11, ông ta đột nhiên chủ động gọi điện thoại đến cho tôi, nói là bắt đầu từ hồi trưa mình liền cảm thấy rất không thoải mái, cứ như là đột nhiên nảy sinh một nỗi sợ hãi vô cùng to lớn đối với tất thảy người và vật xung quanh, hơn nữa còn bắt đầu thường xuyên đưa tay lên sờ răng cửa. Qua điện thoại tôi đã trò chuyện với ông ta trong một thời gian dài, vậy nhưng ông ta vẫn không thể nhớ ra nguyên nhân khiến tâm lý của mình phát sinh biến hóa. Hết cách, tôi chỉ đành trò chuyện với ông ta một lát, giúp ông ta tạm thời giải tỏa sự khó chịu trong tâm lý.”

Trực giác nói cho tôi biết, người điều tra thần bí kia đã phát hiện ra nhược điểm trong tâm lý của Lưu Hướng Đông và bắt đầu có hành động rồi.

Sáng ngày 8 tháng 11, Lưu Hướng Đông đến Đại học C giảng bài công khai trong vòng hai tiếng đồng hồ, tới trưa thì đi ăn cơm cùng với mấy vị lãnh đạo của trường, buổi chiều tham dự một hoạt động bình bầu cá nhân ưu tú do nhà trường tổ chức, đồng thời đảm nhận nhiệm vụ lên bục phát giải thưởng cho người được giải. Sau khi hoạt động bình bầu kết thúc, ông ta đi kiểm tra tình hình công việc của con trai Lưu Trí Phổ một chút, sau đó dẫn con trai đến sân vận động của trường đi dạo vài vòng, nội dung của cuộc trò chuyện đó không ai hay biết. Để có thể tìm ra tung tích của người điều tra thần bí kia, tôi đã đi theo Lưu Hướng Đông suốt cả ngày, ngoài thời gian dùng bữa trưa, tôi gần như đã nhìn thấy tất cả những người mà ông ta đã tiếp xúc, cũng được tận mắt chứng kiến mọi cử chỉ và vẻ mặt của ông ta.

Suốt một ngày liền, tôi không hề phát giác ra sự lạ thường nào, vậy nhưng đến tối hôm đó, Lưu Hương Đông rốt cuộc vẫn gặp nạn.

Lúc năm giờ chiều hôm đó khi tôi nói chuyện với Lưu Hướng Đông qua điện thoại, giọng nói cũng như tư duy ông ta vẫn hoàn toàn bình thường, vậy nhưng đến tám giờ tối tôi gọi điện thoại cho ông ta một lần nữa, ông ta lại không chịu nhấc máy. Tôi nói chuyện này cho Chủ nhiệm Viên biết. Sau khi thử liên lạc mà không được, Chủ nhiệm Viên lập tức sắp xếp một nhân viên của trung tâm Nghiên cứu khoa học thuộc Công ty E đến nhà họ Lưu nghe ngóng tình hình. Khi người này đến nơi, trong nhà họ Lưu chỉ có hai người là Lưu Trí Phổ và Lưu Hướng Đông. Lưu Trí Phổ nói cho người đến thăm biết là bắt đầu từ sáu rưỡi, cha anh ta vẫn luôn ở trong phòng đọc sách anh ta nghĩ là cha mình đang chuyên tâm nghiên cứu khoa học nên không làm phiền. Nhân viên đó lấy lý do là công ty có việc gấp để gõ cửa phòng đọc sách, trong phòng ban đầu không có tiếng trả lời, nửa phút sau thì lại đột ngột vang ra những tiếng thở nặng nề. Lưu Trí Phổ muốn mở cửa, nhưng lại phát hiện cửa đã bị khóa ngược từ bên trong. Hai người bọn họ hợp sức đạp cửa ra, thế rồi lập tức bị cảnh tượng trong phòng làm cho sợ giật nẩy mình.

Lưu Hướng Đông quỳ rạp người dưới đất, máu không ngừng chảy ra từ miệng, còn dính đầy cả lên mặt, quần áo cùng với sàn nhà xung quanh. Lưu Trí Phổ và nhân viên kia cùng nhau đưa Lưu Hướng Đông đến bệnh viện ở gần đó nhất. Sau khi kiểm tra bác sĩ phát hiện, chiếc răng cửa ở phía trên bên trái của Lưu Hướng Đông đã bị rụng mất, chiếc răng cửa phía trên bên phải cũng đang lung lay và đã rời khỏi lợi ở một mức độ nhất định. Để đề phòng bất trắc, bác sĩ sắp xếp cho Lưu Hướng Đông ở lại bệnh viện để quan sát. Lúc chín giờ, Chủ nhiệm Viên nói lại tình hình cho tôi biết, bảo tôi mau nghĩ đối sách.

Không còn nghi ngờ gì nữa, người điều tra thần bí kia đã dùng một phương thức nào đó để tiến hành tấn công mãnh liệt vào tâm lý của Lưu Hướng Đông, khiến ông ta làm gãy cả răng cửa của mình - đối với tôi mà nói điều này rõ ràng là một sự sỉ nhục lớn lao. Cùng với đó, đối phương có thể làm được điều này trong tình huống mà tôi không hề phát giác, xem ra người đó thật không đơn giản chút nào.

Người điều tra thần bí đó rốt cuộc đã tiến hành tác động đến tâm lý của Lưu Hướng Đông ngay trước mắt tôi như thế nào? Tôi tỉ mỉ nhớ lại từng chi tiết nhỏ đã xảy ra trong ngày hôm đó, cuối cùng phát hiện chỉ có hai điểm đáng ngờ:

Thứ nhất, trong lúc Lưu Hướng Đông dùng bữa trưa với các lãnh đạo của Đại học C, tôi không những không thể biết nội dung của cuộc trò chuyện giữa bọn họ, thậm chí còn không quan sát được các cử chỉ và sắc mặt của Lưu Hướng Đông nữa. Nếu người điều tra kia có tham dự vào bữa ăn trưa hôm đó, đồng thời thừa cơ tiến hành ám thị Lưu Hướng Đông, vậy thì quả thực là có thể dễ dàng qua mắt tôi. Khả năng này là rất lớn, bởi lẽ đại đa số các lãnh đạo của Đại học C đều là những người đàn ông trung niên, khá phù hợp với hình tượng của người điều tra thần bí kia ở trong lòng tôi.

Thứ hai, chiều hôm đó Lưu Hướng Đông và con trai mình đã có một cuộc trò chuyện kéo dài khoảng mười mấy phút. Vì sân vận động rất thoáng đãng, khi đó xung quanh không có nhiều người, vậy nên tôi không thể lại gần bọn họ được, chỉ có thể quan sát từ xa, rất có khả năng đã bỏ sót mất một số chi tiết nhỏ. Nếu người điều tra thông qua Lưu Trí Phổ để tiến hành ám thị Lưu Hướng Đông, vậy thì quả thực là có thể tạm thời giấu được tôi - nhưng cũng chỉ là tạm thời mà thôi. Lợi dụng Lưu Trí Phổ thì nhất định phải lưu lại trên người anh ta một số dấu tích của việc tâm lý bị tác động, mà những dấu tích này rất có thể chính là manh mối để lần ra thân phận của người điều tra. Nếu tôi là người đó thì tuyệt đối không bao giờ đi mạo hiểm lợi dụng Lưu Trí Phổ. Đương nhiên, cũng có khả năng đối phương đoán được suy nghĩ này của tôi, vậy nên mới lớn gan lợi dụng Lưu Trí Phổ như vậy. Nếu sự thực đúng là như thế, vậy thì anh ta (cô ta) hiển nhiên là còn lợi hại hơn so với trong tưởng tượng của tôi.

Cuối cùng, tôi vì điều này mà nảy sinh thêm suy đoán thứ ba: Có lẽ, người điều tra thần bí đó lại chính là bản thân Lưu Trí Phổ cũng chưa biết chừng. Tuy Lưu Trí Phổ là con ruột của Lưu Hướng Đông nhưng lòng người dù sao cũng khó đoán vô cùng.

Tóm lại, sau một phen phân tích ngắn gọn, tôi cho rằng khả năng thứ nhất là lớn nhất, tiếp đến là khả năng thứ hai và thứ ba. Suy nghĩ xong xuôi, tôi gọi điện thoại cho Lưu Hướng Đông. Lưu Trí Phổ nghe điện thoại thay cha, nói rằng cha mình đang mệt cần được nghỉ ngơi, không tiện dùng điện thoại. Nghe giọng điệu của anh ta, tôi biết rằng tối đó không thể nào liên lạc với Lưu Hướng Đông bằng điện thoại được nữa.

Tôi hiểu rõ: Tấn công vào tâm lý cũng giống như tấn công vào thể xác vậy, đều để lại vết thương trên cơ thể người bị tấn công, nhưng theo thời gian vết thương sẽ mờ nhạt dần và cuối cùng biến mất. Càng sớm tiến hành thăm dò Lưu Hướng Đông tôi sẽ càng dễ tìm ra vết thương trong lòng ông ta, từ đó tìm được những manh mối có liên quan tới sự tác động vào tâm lý. Nấu suốt cả đêm đều không làm gì, tôi rất có thể sẽ bỏ lỡ mất một cơ hội tuyệt vời để lôi người điều tra thần bí kia ra ngoài ánh sáng.

Nhưng, người điều tra đó có lẽ cũng nghĩ như vậy. Anh ta (cô ta) nhất định là đang nấp trong chỗ kín ngấm ngầm quan sát, hy vọng có thể mượn cơ hội này để làm rõ thân phận của tôi... Nghĩ đến đây, tôi đột nhiên nảy ra một kế hoạch mạnh bạo.

Xét cho cùng thì mục đích của người điều tra thần bí kia vẫn là điều tra Tập đoàn A, anh ta (cô ta) tấn công Lưu Hướng Đông chỉ vì muốn đạt được hai điều, thứ nhất là dẫn dụ tôi, từ đó tra rõ thân phận của tôi, thậm chí là diệt trừ tôi, bởi lẽ tôi chính là hòn đá ngáng chân lớn nhất trên con đường điều tra của anh ta (cô ta); còn điều thứ hai thì đương nhiên chính là tìm kiếm đối tượng điều tra tiếp theo, bởi anh ta (cô ta) đã ra tay với Lưu Hướng Đông rồi thì có nghĩa là Lưu Hướng Đông đã không còn chút giá trị nào đối với anh ta (cô ta) nữa, nếu muốn tiếp tục cuộc điều tra thì anh ta (cô ta) nhất định phải tìm được đối tượng điều tra mới. Lưu Hướng Đông là Chủ nhiệm của trung tâm nghiên cứu khoa học trực thuộc Công ty E, hơn nữa còn có quan hệ mật thiết với lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A, nếu trong phòng bệnh của ông ta xuất hiện một nhân vật bí ẩn thì ắt sẽ thu hút được sự chú ý của người điều tra. Nếu nhân vật bí ẩn này lại vô tình dùng giọng điệu của một thành viên thuộc giới lãnh đạo cao cấp của Tập đoàn A để nói ra mấy câu gì đó, có lẽ anh ta sẽ trở thành mục tiêu tiếp theo của người điều tra.

Cuối cùng, nếu nhân vật bí ẩn này chính là tôi, người điều tra nhất định sẽ tìm đủ mọi cách để tiếp xúc với tôi, mà việc này thì rõ ràng chẳng khác nào tự đâm đầu vào lưới. Dù rằng anh ta (cô ta) có thể cũng hiểu rằng đây là một cái bẫy, vậy nhưng nhất định không thể nào ngờ được tôi lại đích thân đứng ra làm con mồi. Bất kể anh ta (cô ta) có lợi hại và ẩn nấp kĩ tới đâu đi nữa, chỉ cần dám tiến hành tác động tới tâm lý của tôi thì ắt sẽ bị tôi dễ dàng phát hiện từ đó truy lùng ra thân phận thật.

Người điều tra thần bí kia nhất định không thể nào ngờ được rằng con mồi tiếp theo của mình kỳ thực chính là một người thợ săn. Cuộc giao tranh trực diện giữa tôi và anh ta (cô ta) sắp mở màn, địa điểm không phải nơi nào khác mà chính là phòng bệnh của Lưu Hướng Đông.

Sau khi suy nghĩ xong xuôi, tôi lập tức liên lạc với Chủ nhiệm Viên, nói lại chi tiết kế hoạch của mình cho ông ta biết. Chủ nhiệm Viên tỏ ra hết sức tán thành kê hoạch của tôi, nói rằng sẽ dốc hết sức phối hợp. Vào khoảng chín giờ bốn mươi lăm phút tối, tôi mang theo một bó hoa tươi đi vào trong phòng bệnh của Lun Hưóng Đông. Lúc ấy trong gian phòng bệnh nhỏ chật kín người, ngoài Lưu Trí Phố ra còn có các lãnh đạo lớn nhỏ của Đại học C và Công ty E, ngoài ra còn có một số người mà tôi không quen biết. Lưu Hướng Đông nhìn thấy tôi thì lập tức để lộ ra vẻ kính sợ và thoáng mang theo một chút ỷ lại, sau đó còn muốn đứng dậy chào đón tôi. Tôi vội vàng xua tay, sau đó mỉm cười, nói với ông ta: “Chủ nhiệm Lưu, ông cứ nằm đó nghỉ ngơi là được rồi, hôm nay chúng ta không nói gì tới việc công cả. Tôi đại diện cho tập đoàn - đương nhiên cũng đại diện cho chính bản thân tôi nữa – đến đây thăm ông, mong ông có thể sớm ngày khỏe lại.”

Lưu Hướng Đông thoáng sững người, rất nhanh đã hiểu ra được ẩn ý bên trong lời nói của tôi, thế là vội vàng ra hiệu cho Lưu Trí Phổ nhận hoa, đồng thời gật đầu lia lịa với tôi. Dù có vẻ yếu ớt do mất máu quá nhiều nhưng ông ta vẫn gắng gượng lên tiếng: “Chủ... Chủ nhiệm Trương, làm phiền anh quá! Rất cảm ơn anh đã không ngại bận, đến đây thăm tôi, ngoài ra, cũng cho tôi... cho tôi gửi lời cảm ơn tới các vị lãnh đạo khác của tập đoàn.”

Nghe thấy những lời này, mọi người trong phòng đều nhìn tôi bằng ánh mắt kính trọng, trong đó có hai giám đốc chi nhánh của Công ty E còn tỏ ra hết sức ngưỡng mộ tôi nữa. Tôi nhìn quanh một vòng trong khoảng hai giây, đồng thời quan sát sơ qua những người này một lượt, trọng điểm chính là mấy vị lãnh đạo của Đại học C.

Hiệu phó thường trực vóc người cao lớn, mặc một chiếc áo khoác màu đen, cổ áo dựng đứng. Ông ta sắc mặt tái nhợt, hai tay đều đút cả vào trong túi, mồm mím chặt, thỉnh thoảng lại thè lưỡi ra liếm bờ môi khô khốc - người này rõ ràng đang hơi căng thẳng, đồng thời còn cố ẩn giấu mình giữa đám đông.

Một vị Hiệu phó họ Cao thì đang đứng ngay cạnh giường, tay trái cầm một quả quýt mới bóc được một nửa, tay phải cầm mảnh vỏ quýt vừa bóc mà bóp nhẹ, cặp mắt nhìn quanh căn phòng, trong đó thời gian dừng lại trên người tôi là lâu nhất, kế đó là mấy vị lãnh đạo của Công ty E, còn về người của Đại học C thì chỉ nhìn thoáng qua một chút rồi thôi - xem ra ông ta rất tò mò về những người lạ phòng bệnh này, đặc biệt là tôi.

Một vị hiệu phó họ Trương thì đang đứng ngay bên cửa sổ, phần lớn thời gian ánh mắt đều nhìn ra phía ngoài, hai tay chủ yếu để ở sau lưng - ông ta dường như đang cố giữ khoảng cách với những người còn lại trong phòng bệnh.

Chủ nhiệm văn phòng nhà trường có ánh mắt hết sức thân thiện, phần lớn thời gian đều dừng lại trên người lãnh đạo Đại học C, Lưu Hướng Đông và tôi. Ánh mắt của ông ta không đủ thân thiện mà còn rất sáng, khi nhìn về phía Lưu Hướng Đông và tôi thì thậm chí còn sáng rực - ông ta có vẻ rất kính phục những người có quyền thế và địa vị tỏ ý sẵn sàng đi theo giúp sức.

Dựa theo trực giác, tôi sắp xếp mức độ khả nghi của những người đó từ cao xuống thấp như sau: Hiệu phó Trương, Hiệu phó Cao, Hiệu phó thường trực, Chủ nhiệm văn phòng nhà trường.

Kế đó, tôi lại tỉ mỉ qụan sát Lưu Trí Phố: Anh ta ngồi trên một chiếc ghế đặt ngay cạnh giường, tay đặt trên thành giường, có mấy lần Lưu Hướng Đông muốn đưa tay về phía tay của anh ta thì đều bị anh ta né tránh theo bản năng, dường như trong suy nghĩ của anh ta, tay của cha mình là một thứ gì đó rất đáng sợ vậy. Anh ta thỉnh thoảng lại liếc nhìn tôi một chút, ánh mắt sắc bén, vẻ mặt nóng vội, dường như mang đầy ẩn ý. Cùng với đó, đôi chân vốn thò ra ngoài của anh ta bất giác co vào dưới ghế, chân trái lắc qua lắc lại nhẹ nhàng, thỉnh thoảng còn đá vào chân ghế làm phát ra những âm thanh rất khẽ.

Đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với anh ta ở cự ly gần như vậy. Tôi đột nhiên cảm thấy người thanh niên này dường như có chỗ nào đó khiến người ta nhìn không thấu.

Hai giây sau, tôi bỗng chú ý tới người phụ nữ đứng ở sau lưng anh ta. Người phụ nữ này khoảng hơn ba mươi tuổi, vóc người hơi gầy, tóc dài và thẳng, sắc mặt trắng không nhợt nhạt, đôi bờ môi căng đầy, còn mang màu hồng phớt cực kỳ gợi cảm. Ánh mắt của cô ta rất bình lặng, cứ tựa như một mặt hồ không có chút gợn sóng, nhưng tôi lờ mờ cảm thấy dưới lòng hồ dường như ngợp đầy sóng dữ...

Đó là Diệp Thu Vi!

Tôi bất giác cả kinh, thế rồi đột ngột quay trở về thực tại. Đây là lần đầu tiên ký ức gốc của tôi và luồng ký ức thuộc về X có sự giao thoa, điều này mang tới cho tôi một cảm giác mới mẻ vô cùng, thực khó có thể dùng lời nào miêu tả được.

Người phụ nữ đó là Diệp Thu Vi, nhưng Diệp Thu Vi của ngày ấy rất khác với Diệp Thu Vi mà tôi gặp được trong bệnh viện tâm thần thời gian vừa rồi. Khi ở bệnh viện tâm thần, tóc của cô ta hơi bồng bềnh, còn trong đêm đó thì lại là tóc thẳng; khi ở trong bệnh viện tâm thần cô ta thích ăn mặc theo kiểu trang nhã điềm đạm, còn trong đêm đó thì mặc một chiếc áo khoác màu đỏ tía; mà càng quan trọng là khi ở trong bệnh viện tâm thần cô ta luôn đeo một cặp gọng kính màu đen, trong đêm đó thì lại không đeo, cũng chẳng có dấụ hiệu gì của việc thị lực có vấn đề cả, cô ta...

Nghĩ đến đây, đầu óc tôi bỗng trở nên mê man, bên tai nữa vang lên tiếng rít quái dị kia.

Tôi hít sâu một hơi, cố ép mình bình tĩnh trở lại, sau đó tiếp tục quay trở về trong ký ức của X.

”Chủ nhiệm Trương, tôi...” Lưu Hướng Đông nhìn tôi, giọng nói trở nên hơi buồn cười do vừa bị mất một chiếc răng. “Tôi..” ^

”Không sao đâu.” Tôi hiểu ngay ý của ông ta, liền đi tới cạnh giường, vỗ vai ông ta, nói: “Ông cứ nghỉ ngơi cho khỏe đã, việc ở công ty không cần phải vội làm gì.”

Lưu Hướng Đông lập tức hiểu ngay ra ý của tôi, một lát sau bèn nói với mọi người: “Ôi, đều tại tôi, nửa đêm nửa hôm rồi mà còn không cẩn thận, làm mọi người phải nháo nhào chạy tới đây thế này, thật có lỗi quá. Tôi cũng không gặp phải chuyện gì quá ghê gớm cả, mọi người cứ quay về nghỉ ngơi đi, cảm ơn mọi người đã tới đây thăm tôi.”

Mọi người tất nhiên là lại an ủi và nịnh nọt một phen nữa. Sau khoảng mấy phút, tôi quay lưng về phía mọi người, nháy mắt ra hiệu cho Lun Hướng Đông, sau đó chủ động nói lời từ biệt, mọi người cũng đều lần lượt hưởng ứng, đồng loạt rời đi. Tôi chờ ở bãi đỗ xe chừng năm phút, thế rồi Lưu Hướng Đông đã gọi điện thoại tới.

”Anh Trương.” Ông ta cất giọng yếu ớt: “Trí Phố cũng đã đi rồi, hơn nữa đêm nay sẽ không quay lại đây đâu.

Hai phút sau, bóng dáng của Lưu Trí Phổ và Diệp Thu Vi xuất hiện bên ngoài bãi đỗ xe. Tôi đi theo hai người bọn họ từ xa, tận mắt nhìn thấy bọn họ ngồi lên xe rời đi, thế rồi mới yên tâm quay trở lại phòng bệnh của Lưu Hướng Đông. Lưu Hướng Đông vì mất máu quá nhiều nên có vẻ rất mỏi mệt khi đó đã sắp ngủ rồi, nhưng vừa nghe thấy tiếng động thì liền nhanh chóng tỉnh táo trở lại. Ông ta kiếm cớ bảo y tá đi chỗ khác, sau đó hơi nhích người về phía đầu giường một chút, tựa lưng vào gối nhìn tôi, sắc mặt có vẻ hết sức phức tạp.

”Anh Trương, tôi…”

”Tôi biết.” Tôi ngồi xuống bên cạnh ông ta. “Sau khi tự làm gãy răng, có phải ông đã thấy dễ chịu hơn một chút rồi không?”

Ông ta đưa tay lên, nhưng lại nhanh chóng bỏ xuống, suy nghĩ một chút rồi nói: “Không còn răng nữa, tôi quả thực cảm thấy thoải mái hơn một chút, không còn hoảng hốt, cũng không còn sợ hãi nữa.”

Tôi khẽ gật đầu. “Hãy kể lại cảm giác của ông khi tự nhổ răng đi”

”Ôi.” Ông ta thở dài một hơi, suy nghĩ một chút rồi nói: “Khi đó tôi cứ nghĩ tới hai chiếc răng đó là lại cảm thấy hoảng hốt, sợ hãi, chẳng biết nguyên nhân rốt cuộc là gì nữa. Tôi chỉ muốn nhổ răng đi thôi, hơn nữa còn phải là tự tay mình nhổ. Cảm giác đó vô cùng mãnh liệt, cứ như là bị nghiện vậy. Kỳ thực tôi cũng biết rõ, sự khó chịu của mình không có chút liên quan thực tế nào với hai chiếc răng đó, vậy nhưng... Ôi... Phải nói thế nào đây nhỉ?”

”Ưm.” Tôi đưa tay tới khẽ vỗ vai ông ta.“Tôi biết, cảm không phải là thứ mà ý thức hay ý chí có thể khống chế, có người đã dùng một phương thức nào đó để kích thích tiềm thức của ông.”

Ông ta sững người ra, ngay sau đó liền không kìm được hít vào một hơi khí lạnh. “Ý anh là có người muốn hại tôi ư? Người này…?”

Lời còn chưa dứt thì tiếng gõ cửa đã đột ngột vang lên sau đó một bác sĩ dẫn theo hai y tá đi vào, nói: “Làm phiền một chút, bây giờ chúng tôi cần kiểm tra sơ lược tình trạng sức khỏe của Chủ nhiệm Lưu trước giờ đi ngủ.”

Tôi đứng dậy nhường chỗ, thế rồi hai y tá liền bắt đầu đo nhiệt độ cơ thể, nhịp tim và huyết áp của Lưu Hướng Đông, còn bác sĩ thì đeo ống nghe khám bệnh lên tai, vừa kiểm tra tình hình vừa hỏi một số câu hỏi đơn giản. Tôi đứng cạnh cửa sổ một lúc, sau đó hỏi: “Bác sĩ, tình hình thế nào rồi?”

Bác sĩ đứng thẳng người dậy, cất ống nghe đi, lộ vẻ trầm tư khẽ gật đầu. “Yên tâm đi, đã không còn vấn đề gì lớn nữa rồi, chỉ cần nghỉ ngơi nhiều một chút là được. Nói tới đây, anh ta chợt lại nở một nụ cười đầy ý vị. “May mà lần này Chủ nhiệm Lưu được đưa tới bệnh viện kịp thời, bằng không hậu quả thế nào thực khó mà nói trước được.”

Lưu Hướng Đông ngạc nhiên hỏi: “Chẳng phải chỉ là hai chiếc răng cửa thôi ư? Lẽ nào lại có thể khiến tôi gặp nguy hiểm về tính mạng?”

”Tôi có thể khẳng định với ông rằng thật sự là có đấy. Bác sĩ thu nụ cười lại.“Tôi đã xem điện tâm đồ của ông rồi, ông có dấu hiệu rõ ràng của chứng thiếu máu cơ tim, tuy các phương diện khác vẫn có thể coi là bình thường nhưng cũng không loại trừ khả năng bị mắc bệnh động mạch vành. Đối với ông mà nói, mất máu nguy hiểm hơn so với những người khác nhiều, sau này ông phải cẩn thận đấy, hơn nữa…” Anh ta chậc lưỡi một tiếng, nói tiếp:“Tôi cứ luôn cảm thấy răng của ông bị gãy không phải là do ngã đập xuống đất...”

”Tôi quả thực đã bị ngã đập răng xuống đất.” Lưu Hướng Đông uể oải đưa tay xoa mũi, nói với giọng kiên định: “Nhà vệ sinh trơn quá, sau này tôi sẽ chú ý cẩn thận hơn.” Sau đó lại hít vào một hơi khí lạnh, lo lắng hỏi: “Tim của tôi thực sự có vấn đề ư? Chẳng trách mấy năm nay tôi cứ thường xuyên cảm thấy hoảng hốt, nhưng khi đi khám sức khỏe định kỳ, bác sĩ đâu có nói gì với tôi.”

“Khám sức khỏe định kỳ cùng lắm chỉ có làm điện tâm đồ thôi đúng không?” Bác sĩ nói. “Dựa vào điện tâm đồ chỉ có thể nhìn ra ông bị mắc chứng thiếu máu cơ tim ở cấp độ nhẹ, bác sĩ có thể đã không quá coi trọng việc này. Tôi chỉ vì cẩn trọng nên mới nói cho ông biết rằng ông có khả năng bị mắc bệnh động mạch vành thôi. Chờ sau khi khỏe lại, ông hãy đi khám kĩ hơn là tốt nhất.”

”Được, được.” Lưu Hướng Đông khẽ gật đầu, sau đó nói với bác sĩ: “Thật cảm ơn anh quá. Nếu anh không nói, tôi làm sao mà biết được việc này.”

Bác sĩ nở một nụ cười thân thiện, không nói gì thêm, rất nhanh sau đó đã dẫn theo hai y tá rời khỏi phòng bệnh, anh ta rời đi, đóng cửa phòng lại, bất giác rơi vào trầm tư.

Trước đó, tôi cứ luôn vô thức cho rằng việc mất máu sẽ không gây nguy hại tới tính mạng của Lưu Hướng Đông và lần này Lưu Hướng Đông chỉ phải chịu một chút tổn thương không có gì là quá đáng ngại, thậm chí còn nghĩ đây chỉ là một sự phản kích yếu ớt mà người điều tra thần bí kia thực hiện với tôi trong cục diện bị động hoàn toàn. Nhưng sau khi nghe được những lời vừa rồi của bác sĩ, tôi đột nhiên ý thức được có lẽ mình đã đánh giá quá thấp năng lực của đối phương – anh ta (cô ta) rất có thể đã thông qua một biện pháp nào đó mà phát hiện ra vấn đề về tim của Lưu Hướng Đông, và lần công kích vừa rồi không hề hời hợt mà đủ để dồn Lưu Hướng Đông vào chỗ chết. Nếu tôi không cảnh giác hay Chủ nhiệm Viên không đủ tích cực, e là Lưu Hướng Đông đã sớm mất mạng rồi.

Nếu thực sự đúng như vậy thì người điều tra thần bí kia đúng là quá đáng sợ, anh ta (cô ta) không chỉ dễ dàng tìm được nhược điểm tâm lý của Lưu Hướng Đông, thậm chí còn có thể phát hiện ra nhược điểm sinh lý của Lưu Hướng Đông mà ngay đến chính bản thân ông ta cũng không biết, cuối cùng còn kết hợp hai nhược điểm về tâm sinh lý lại với nhau, từ đó lập ra một kế hoạch giết người thoạt nhìn thì đơn giản nhưng thực ra vô cùng tàn độc. Trong cục diện hoàn toàn bị động mà anh ta (cô ta) không ngờ còn có thể bình tĩnh như thế, suy nghĩ chỉn chu như thế, lại còn che giấu tung tích kín kẽ vô cùng…

Tôi lần đầu tiên nảy sinh lòng kính trọng đối với người điều tra thần bí này, xen lẫn trong đó còn có sự trân trọng ẩn sâu trong tiềm thức nữa.

Lưu Hướng Đông hiển nhiên là rất sợ hãi. Ông ta nhìn tôi, sau khi im lặng một hồi lâu thì bèn dùng giọng run run nói: “Anh Trương, là anh ta, chính là người mà anh đã nói, anh ta thực sự tồn tại!”

“Đương nhiên là tồn tại rồi.” Tôi ngồi trở lại giường. “Hơn nữa, vừa rồi người đó có lẽ cũng tới thăm ông.”

Lưu Hướng Đông mở to hai mắt, sau đó lại vội vàng nhắm lại, thở dài nói: “Tôi... tôi phải làm sao đây?”

”Đừng sợ.” Tôi đưa tay tới khẽ vỗ vai ông ta. “Tôi sẽ tìm ra người này, sau đó cùng tập đoàn nghĩ cách loại trừ anh ta. Bây giờ điều ông cần làm là dốc hết sức lực phối hợp với tôi, ông đã hiểu chưa?”

Ông ta gật đầu một cái thật mạnh, hiển nhiên là vô cùng tin tưởng tôi.

Trong vòng nửa tiếng đồng hồ tiếp theo, dưới sự dẫn dắt của tôi, Lưu Hướng Đông đã nhớ lại từng chi tiết trong bữa ăn trưa hôm đó, vậy nhưng tôi vẫn không thể nào ráp nổi những chi tiết đó lại để biến thành một thông tin hay manh mối nào có giá trị. Lúc mười một giờ mười lăm phút, tôi quyết định từ bỏ sự phân tích đối với bữa ăn trưa đó, sau đó nhắc đến cuộc trò chuyện giữa ông ta và Lưu Trí Phổ hồi chiều.

”Ồ, phải rồi.” Ông ta nhắm mắt lại, chậm rãi kể: “Chúng tôi đã đi dạo ở sân vận động vài phút. Tôi với nó đều bận, do đó đã lâu lắm không tâm sự gì với nhau.”

Tôi điều chỉnh cho ánh đèn tối bớt đi. “Ông trước đó đã tới văn phòng để kiểm tra tình hình công việc của anh ta, đúng vậy không?”

“Đúng vậy.” Hơi thở của ông ta lại càng trở nên chậm rãi và đều đặn hơn. “Nó rất cố gắng. Tôi rất vui.”

”Ừm.” Tôi bắt đầu dẫn dắt: “Ông đã vào văn phòng của anh ta như thế nào? Chân trái bước vào trước hay chân phải bước vào trước?”

Ông ta không chút do dự nói ngay: “Chân phải. Khi đó tôi còn đưa tay sờ răng cửa một chút nữa.”

”Tốt lắm.” Tôi dần hạ thấp âm lượng. “Tiếp tục nào, ông bước chân phải ra, lại đưa tay lên sờ răng cửa, đi vào trong văn phòng của anh ta. Anh ta đã nói với ông những gì?”

Lưu Hướng Đông khẽ “hừ” một tiếng, nói: “Nó nói: “Ông bận rộn như vậy, còn đến thăm tôi làm gì?” Tôi không nói gì, chỉ lẳng lặng kiểm tra các văn kiện trên bàn làm việc của nó, phát hiện ra một bản kế hoạch công việc. Kế hoạch của nó rất rành mạch, hơn nữa còn có ghi lại những hạng mục đã hoàn thành cùng với tin tức phản hồi. Khi đó tôi rất vui vẻ, muốn kéo tay nó, nhưng nó lại có vẻ ngại ngùng xấu hổ - thằng bé này từ nhỏ đã hướng nội như thế rồi. Tôi khẽ vỗ vai nó, bảo nó cùng tôi ra ngoài đi dạo một chút. Chúng tôi đến sân vận động, ban đầu cả hai đều im lặng không nói gì, nhưng sau khi được nửa vòng thì nó lại đột nhiên nói với tôi: “Ông có thể đừng suốt ngày sờ răng nữa được không, bạn bè và đồng nghiệp của tôi đều biết cái tật xấu này của ông đấy.” Nghe thế tôi mới giật mình phát hiện mình đã lại một lần nữa đưa tay lên sờ răng cửa. Khi đó, tôi nhớ đến lời mà anh đã nói với tôi, cảm thấy rất nhẹ nhõm, thế là bèn buông tay xuống. Trí Phổ lại nói tiếp: “Tôi không chỉ cảm thấy mất mặt còn thấy lo cho ông nữa. Tôi từng nghe một người bạn nói là môi trường sống của các vi khuẩn ở ngón tay và khoang miệng rất khác nhau nếu thường xuyên đưa tay vào trong miệng thì sẽ rất dễ khiến ngón tay và lợi đồng thời bị viêm nhiễm. Ông biết không, có một người vì không chú ý đến điều này mà đã mắc phải một loại bệnh về răng hết sức kỳ lạ, răng từ từ bị đục rỗng từ bên trong, nhưng vì lớp vỏ bên ngoài của răng vẫn còn rất cứng nên ngay đến bản thân ông ta cũng không hề hay biết. Về sau có một lần, trong khi đang ăn cơm ông ta chỉ cắn nhẹ một cái thôi, thế mà bốn chiếc răng cửa bỗng nhiên đồng loạt vỡ vụn, làm cho các mảnh răng vụn rơi ra đầy trong miệng ông ta.“.” Kể đến đây, Lưu Hướng Đông vốn đã có vẻ lim dim sắp ngủ, thế mà lại đột ngột sợ hãi mở bừng mắt ra, đưa tay tới bên miệng, sau đó đột nhiên dừng lại, kinh ngạc nhìn tôi. “Chuyện này... Tất cả đều là vì câu chuyện Trí Phổ đã kể cho tôi nghe ư? Nhưng khi mới nghe xong tôi đâu có cảm thấy không thoải mái chút nào, mãi đến mấy tiếng đồng hồ sau, vào khoảng gần bảy giờ tối tôi mới bắt đẩu cảm thấy hoang mang và lo lắng.”

Tôi khẽ gật đầu, đại khái hiểu được nguồn cơn sự việc.

Đối với loài người, ngoài sự uy hiếp đến từ những sinh vật cỡ lớn ra, trong thế giới tự nhiên còn tồn tại rất nhiều mối nguy hiểm không thể nhìn thấy được hoặc là không dễ gì phát giác: Trong không khí có vô số các loại vi sinh vật hoặc virus có hại trôi nổi, dưới lòng đất thì có rất nhiều loài côn trùng kích thước tuy nhỏ nhưng số lượng lại nhiều đến kinh người. Những thứ này một khi xâm nhập vào cơ thể người thì có thể tạo ra sự uy hiếp cực kỳ nghiêm trọng tới tính mạng của từng cá thể. Nhưng may mà loài người có một bộ da có kết cấu gần như hoàn hảo, có thể ngăn chặn được những mối nguy hiểm đó một cách hữu hiệu.

Làn da vô cùng quan trọng, do đó không thể dễ dàng để xuất hiện lỗ hổng, những lỗ hổng bắt buộc phải tồn tại vì sự sinh tồn thì đều có những biện pháp bảo vệ cũng như cơ chế lọc riêng biệt, từ đó thay thế tác dụng của da ở một mức độ nhất định: Trong khoang mũi có rất nhiều lông mũi, còn nước mũi thì chỉ cần bị kích thích nhẹ một chút là sẽ xuất hiện ngay; trong tai có màng nhĩ, dáy tai và một con đường hết sức ngoằn ngoèo; mắt thì có lông mày làm ô, lông mi làm chổi, mí mắt làm cửa lớn để ngăn cản những thứ không mong muốn; khi không nói chuyện, không ăn uống, miệng của con người sẽ luôn khép chặt trong vô thức; đường tiết niệu, đường ruột, đường sinh dục cũng đều có những biện pháp tự bảo vệ riêng, chẳng hạn như bơm máu, co bắp thịt, mọc lông. Chỉ cần suy nghĩ kĩ, con người ta sẽ không khó sinh ra cảm nhận thế này: Thân thể con người vẫn luôn cố gắng ngăn cản sự xâm nhập của virus cùng các vi sinh vật và côn trùng có hại.

Những dị vật này thường chui vào trong cơ thể người theo hai phương thức thường thấy nhất: Thứ nhất là đi qua khoang miệng để vào trong đường tiêu hóa - câu nói bệnh vào từ miệng vừa hay ứng với điều này; thứ hai chính là trực tiếp chui vào qua da. Do đó, phản ứng của con người khi phải đối mặt với các dị vật này có mối liên quan mật thiết với hai phương thức kể trên.

Thử nghĩ mà xem, một người nguyên thủy vì ăn đồ ăn không sạch mà dẫn đến việc trong bụng xuất hiện vi khuẩn có hại hoặc kí sinh trùng, khi đó hệ thống tiêu hóa xuất phát từ mục đích tự bảo vệ sẽ dùng biện pháp nôn mửa để đẩy đám vi khuẩn hoặc kí sinh trùng đó ra ngoài cơ thể.

Người nguyên thủy lờ mờ hiểu được nguyên nhân khiến mình cảm thấy không thoải mái, cũng hiểu rằng nôn mửa là một biện pháp hữu hiệu để đẩy dị vật ra ngoài cơ thể. Những người biết cách nôn mửa, thậm chí là giỏi nôn mửa sẽ có thể sinh tồn dưới sự uy hiếp từ các vi sinh vật và côn trùng, và từ đó nôn mửa dần trở thành một phản ứng bản năng của con người khi đối mặt với các mối uy hiếp này. Thế nên, khi con người nhìn thấy một đàn côn trùng dày đặc - đặc biệt là khi đàn côn trùng đó lại đang luồn lách bên trong cơ thể của một loại sinh vật cỡ lớn - thì sẽ không kìm được mà nôn mửa theo bản năng; khi nhìn thấy hoặc là ngửi thấy sự tồn tại của chất bài tiết, con người cũng sẽ cảm thấy buồn nôn, bởi lẽ trong chất bài tiết thường có chứa rất nhiều trứng của ký sinh trùng và vi khuẩn có hại.

Lại thử nghĩ tiếp mà xem, một người nguyên thủy không cẩn thận đụng phải một tổ côn trùng, những con côn trùng nhỏ bé ào ào lao ra, bò đầy lên cánh tay của anh ta. Lúc này, để đề phòng đám côn trùng chui vào trong da, những sợi cơ dựng lông trên tay anh ta sẽ bắt đầu co rút lại khiến cho lỗ chân lông khép chặt, qua đó chặn đứng con đường chui vào cơ thể của đám côn trùng. Hiện tượng cơ dựng lông co rút này cũng chính là tình trạng nổi da gà mà thường ngày chúng ta vẫn hay nói tới. Khi đối mặt với những con côn trùng nhỏ, người nào giỏi sử dụng cơ dựng lông sẽ có thể sinh tồn, từ đó nổi da gà cũng dần trở thành một loại phản ứng bản năng của con người khi phải đối mặt với một đàn côn trùng dày đặc. Cho nên, khi nhìn thấy nhiều côn trùng, đặc biệt là những con côn trùng nhỏ li ti không kìm được mà nổi da gà theo bản năng.

Đến thời hiện đại, những người nhạy cảm khi nhìn thấy một vật thể hoặc bức hình nào đó có nhiều lỗ nhỏ dày đặc thì sẽ vô thức liên tưởng tới một đàn côn trùng, từ đó mà nảy sinh phản ứng bản năng co rút cơ dựng lông, đây chính là hội chứng trypophobia tương đối hiếm gặp. Ngoài ra, những lỗ nhỏ bình thường xuất hiện trên da dù không quá dày đặc nhưng vẫn có thể gây ra sự liên tưởng đến việc những sinh vật nhỏ chui vào trong cơ thể mình, từ đó khiến người ta nảy sinh các tâm trạng như ghê tởm, sợ hãi, kèm theo đó cũng có thể là phản ứng bản năng co rút co dựng lông.

Đương nhiên, nguyên nhân tâm lý của hội chứng trypophobia còn bao gồm nhiều nhân tố khác như nỗi sợ hãi đối với việc mất năng lực phán đoán, bị giống loài khác bao vây, tại đây tạm thời không nhắc đến.

Quay trở về chủ đề chính, Lưu Hướng Đông rất có năng lực trong nghiên cứu khoa học, tính cách thì khá hướng nội, không giỏi giao tiếp, thuộc loại người tâm lý nhạy cảm điển hình. Lưu Trí Phố kể cho ông ta nghe ví dụ về một người bị đục rỗng răng, điều này sẽ gây ra nỗi sợ hãi bản năng của ông ta ở một mức độ nhất định về việc bản thân đang không an toàn, từ đó làm nảy sinh sự sợ hãi đối với răng cửa. Ông ta sẽ liên tưởng đến tình trạng răng của mình bị rỗng hết từ bên trong, sau đó lại liên tưởng đến việc răng đột nhiên vỡ vụn, từ đó sinh ra tư duy cưỡng chế tiêu cực là loại bỏ răng cửa để loại trừ nỗi sợ hãi đi kèm theo nó.

Thực ra, bản thân nỗi sợ hãi cùng với tư duy cưỡng chế kia không hề nghiêm trọng, điều nghiêm trọng là chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế vốn đã tồn tại trong người Lưu Hướng Đông, mà răng cửa vừa hay lại chính là vật tượng trưng cho nỗi sợ hãi gây ra chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế này. Tư duy và hành vi của người bị mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế đều có quán tính, mà những nỗi sợ hãi thuộc chủng loại khác nhau cũng có thể hỗ trợ nhau tăng trưởng. Lấy răng cửa làm xuất phát điểm, nỗi sợ hãi mà Lưu Trí Phổ truyền vào đã thổi bùng lên các vấn đề tích lũy trong người Lưu Hướng Đông bao nhiêu năm nay, từ đó khiến cho hành vi cưỡng chế cực đoan xuất hiện.

Đây chính là nguyên nhân tâm lý khiến Lưu Hướng Đông không kiềm chế được tự nhổ răng cửa của mình hôm đó.

Vấn đề quả thực là nằm trên người Lưu Trí Phổ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 8: Cuộc đọ sức ở sâu trong nội tâm


Nhưng thời gian Lưu Hướng Đông trò chuyện với con trai là bốn giờ chiều, thời gian xuất hiện tư duy cưỡng chế là bảy giờ tối, cách nhau những ba tiếng đồng hồ, điều này có sự mâu thuẫn rõ ràng với những điều phân tích ở trên. Do đó, lời của Lưu Trí Phổ tối đa chỉ có thể khơi dậy sợ hãi của Lưu Hướng Đông chứ không cách nào khiến nó bùng phát, giống như một đống thuốc nổ chất sẵn ra đó nhưng không nổ. Người điều tra kia vẫn luôn ngấm ngầm quan sát, tất nhiên cũng đã phát hiện ra điều này. Vì thế anh ta (cô ta) cần phải đốt cháy ngòi nổ, cũng tức là tiến hành ám thị Lưu Hướng Đông một lần nữa vào lúc gần bảy giờ tối. Hôm đó, chỉ có Lưu Trí Phổ và Lưu Hướng Đông ở nhà, do đó sự ám thị kia có lẽ cũng được tiến hành thông qua Lưu Trí Phổ.

Nhưng vấn đề cũng theo đó mà xuất hiện, theo như lời của Lưu Trí Phổ thì bắt đầu từ lúc sáu rưỡi hôm đó, Lưu Hướng Đông một mực ở trong phòng đọc sách, giữa hai người chẳng có cuộc trao đổi nào. Nếu quả thực là như vậy, Lưu Hướng Đông rốt cuộc đã bị ám thị như thế nào đây?

Phân tích tới đây, tôi bèn hỏi Lưu Hướng Đông: “Tối đó sau khi vào trong phòng đọc sách, ông liền lập tức cảm thấy không thoải mái ư?”

”Không.” Ông ta nói bằng giọng chắc nịch: “Ban đầu tôi rất ổn. Cảm giác đó xuất hiện đột ngột vô cùng, có lẽ là vào khoảng quá bảy giờ một chút.”

Tôi lại hỏi tiếp: “Khi đó Trí Phổ có nói gì với ông không?”

“Không.” Ông ta vẫn nói giọng chắc nịch: “Thường ngày khi ở nhà nó vốn đã không thích nói chuyện với tôi, khi tôi vào phòng đọc sách nó đương nhiên lại càng chẳng có gì để nói với tôi cả.”

Tôi lại hỏi tiếp: “Ông có nhớ vào khoảng bảy giờ đã xảy ra chuyện gì không? Khi đó ông đã nhìn thấy gì, nghe thấy gì hoặc là đã làm gì?”

Ông ta suy nghĩ suốt một hồi lâu, cuối cùng lắc đầu vẻ hết cách.

“Tôi hiểu rồi.” Tôi ngồi thẳng người dậy, ngó mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tối đó Trí Phổ không về nhà phải không?”

”Hình như là vậy.” Lưu Hướng Đông nói “Nó đã dọn ra ngoài ở với cô gái kia rồi.”

Tôi đứng dậy, chìa tay ra nói: “Đưa chìa khóa nhà ông cho tôi, manh mối quan trọng nhất có lẽ nằm trong phòng đọc sách của ông đấy.”

Lưu Hướng Đông lấy chìa khóa ra, trên mặt ngợp đầy vẻ ngạc nhiên và mong chờ.

Đúng mười hai giờ, tôi vào trong nhà họ Lưu, mở của phòng đọc sách của Lưu Hướng Đông ra. Đèn bàn và một chiếc đèn áp tường vẫn còn đang sáng, sách vở tài liệu được bày bừa bộn trên bàn đọc sách, có một số trang giấy hình như còn bị dính nước. Tôi đi tới bên cạnh bàn đọc sách, nhìn thấy có một chiếc ghế đổ chỏng gọng dưới đất, lưng ghế đang đè lên thứ gì đó, trên sàn nhà ờ một góc của bàn đọc sách thì có mấy vũng máu lớn nhỏ khác nhau đã đông cứng lại.

Tôi nâng chiếc ghế lên, thấy thứ bị đè bên dưới đó hóa ra là một chiếc kìm nhổ răng chuyên dụng. Tôi đặt chiếc kìm đó sang một bên, dựng chiếc ghế dậy rồi lại nhìn thấy hai chiếc lọ đựng dung dịch gì đó để trên bàn đọc sách. Một trong hai chiếc lọ đã được mở nắp, còn đổ nghiêng vào một cuốn sách ở ngay bên cạnh, làm ướt mất mấy trang sách. Tôi cầm chiếc lọ đã mở nắp lên, thấy trên nhãn có đề là “Dung dịch tetracaine hydrochloride”, đây dường như là dùng. Chiếc lọ còn lại thì chưa mở, trên nhãn đề là “Dung dịch adrenalin hydroclorid”, nó có lẽ được dùng phối hợp với loại dung dịch kể trên nhằm kéo dài thời gian gây tê.

Răng là một trong những bộ phận nhạy cảm nhất trên cơ thể người, chỉ sử dụng thuốc gây tê bề mặt có lẽ chẳng giảm được bao nhiêu sự đau đớn khi nhổ răng. Xem ra đúng như Lưu Hướng Đông đã nói, khi đó lòng cố chấp của ông ta quá ư mãnh liệt, thế nên chẳng còn dư tâm trí mà để ý đến sự đau đớn nữa.

Ông ta rốt cuộc đã phải chịu một sự kích thích như thế nào?

Sau khi vào trong phòng đọc sách, Lưu Hướng Đông một mực cắm cúi làm việc, tâm trạng rất bình tĩnh, nhưng lúc gần bảy giờ ông ta lại đột ngột nhìn thấy thứ gì đó, thế là sự sợ hãi trong nội tâm sau nháy mắt đã bị thổi bùng lên. Ông ta rốt cuộc đã nhìn thấy thứ gì? Muốn làm rõ vấn đề này thì trước tiên cần phải suy nghĩ xem khi đó ông ta đã nhìn thấy thứ đó như thế nào.

Tôi ngồi trước bàn đọc sách, thầm nghĩ về các cử chỉ cũng như cảm nhận của Lưu Hướng Đông khi đó.

Có lẽ, lúc gần bảy giờ ông ta cảm thấy hơi mỏi mệt, thế là không kìm được vươn vai một cái, và rồi vô ý ngẩng đầu lên, nhìn thấy nguồn cơn của sự kích thích trong tâm lý mà mình phải chịu. Tôi ngẩng đầu nhìn về phía trước, thấy ngoài hai chiếc đèn áp tường và một bức thư pháp viết “Nan đắc hồ đồ1” ra, trên tường không có vật gì khác nữa cả.

1. Một câu danh ngôn nổi tiếng của danh sĩ Trịnh Bản Kiều thời nhà Thanh, nghĩa là khó mà có được sự hồ đồ - ND.

Cũng có thể khi đó Lưu Hướng Đông đã đứng dậy đi lại mấy bước cho bớt mỏi mệt. Tôi đứng dậy, buông lỏng tâm trí, cố hết sức đi lại trong phòng theo sự chỉ dẫn tiềm thức, đồng thời ghi nhớ những vị trí mà mình đã đi qua. Sau đó, tôi đi lại một lượt nữa theo con đường cũ, nhưng chỉ nhìn thấy vô số sách vở tài liệu cùng với những chiếc chai lọ được bày đầy trong tủ đựng đồ, căn bản không phát hiện ra thứ gì khác lạ.

Tôi ngồi trở lại ghế, ánh mắt tập trung vào bàn đọc sách - chẳng lẽ nguồn cơn của sự kích thích được ẩn giấu trong đống sách vở tài liệu này? Tôi vừa sắp xếp vừa mở chúng ra xem qua một chút, thấy trên giấy toàn là những con chữ và công thức mà tôi không hiểu lắm, thế nên chẳng thể phát hiện ra thứ gì có thể gây ra sự kích thích cả.

Tôi sắp xếp lại đống sách vở tài liệu đó cẩn thận, sau đó cúi đầu, đột nhiên để ý tới một chiếc ngăn kéo nằm ở chính giữa bàn đọc sách. Các ngăn kéo khác đều được đóng kín, chỉ có một mình chiếc ngăn kéo đó là được kéo ra ngoài khoảng một xen ti mét. Tôi kéo hẳn nó ra, thấy bên trong có đặt một xấp giấy trắng, một hộp ghim, một hộp mực đóng dấu, một hộp sô cô la đã ăn hết một nửa, ngoài ra còn có một tờ báo đã bị vò nhàu thành một nắm.

Tôi trải phẳng tờ báo ra trên mặt bàn, thấy đó là một tờ báo tổng hợp của tỉnh nhà, hai mặt trước sau đều là các thông tin thời sự trong ngày. Trên tờ báo có những nếp gấp khá rõ ràng, tôi tìm lấy mấy cuốn sách ép phẳng nó ra, sau đó dựa theo những nếp gấp kia mà cố gắng gấp nó lại sao cho đúng: với tình trạng trước khi bị vò nhàu. Sau khi gấp xong, tôi thấy một mặt của nó là một phần của bức tranh quảng cáo, mặt còn lại thì là một bài báo hoàn chỉnh. Dựa vào cách thức gấp tờ báo lại mà xét, mục đích của việc làm này chính là làm nổi bật bài báo kia lên.

Bài báo kể lại một chuyện như thế này: Tiểu Triệu dẫn theo bạn gái của mình từ quê lên thành phố xây dựng sự nghiệp phải vào ở nhờ tại nhà của cậu ruột mình trong hơn một năm. Vì lý do công việc, Tiểu Triệu thường xuyên phải làm tăng ca đến tận nửa đêm, có lúc thậm chí còn ngủ lại luôn ở nơi làm việc. Cậu anh ta dùng đủ các biện pháp cả cứng lẫn mềm, ép bạn gái của cháu mình phát sinh quan hệ với mình trong một thời gian dài. Điểm mấu chốt của tin tức này nằm ở chỗ sau khi biết tin, không ngờ Tiểu Triệu lại không có đủ dũng khí để trở mặt với cậu mình, cuối cùng lựa chọn nín nhịn. Mãi đến khi mợ anh ta phát giác ra điều khác thường thì sự việc mới bại lộ. Phóng viên đã đi sâu vào điều tra và phát hiện, không ngờ cậu của Tiểu Triệu lại là một “Tư lệnh đỏ1” nổi tiếng trong vùng hồi những năm bảy mươi của thế kỷ trước, khi đó từng làm ra không ít chuyện xấu, vậy nhưng không hề bị trừng phạt. Hơn nữa, ông ta cũng không hề có ý hối cải, vào đầu những năm tám mươi thậm chí còn đổi tên thành “Văn Cácstrong”, thản nhiên thể hiện ra sự tiếc nuối đối với một thời hỗn loạn.

Hóa ra đây chính là nguồn gốc của sự kích thích mà Lưu Hướng Đông phải chịu.

1.Tức kẻ cầm đầu một toán Hồng vệ binh, lực lượng chính tạo thành sự phá hoại to lớn trong Cách mạng văn hóa diễn ra ở Trung Quốc - ND.

2. Tên viết tắt của Cách mạng văn hóa - ND.

Bất kể câu chuyện trong bài báo đó là thật hay giả thì cũng đều có thể mang tới cho người đọc sự ám thị ở hai phương diện: Thứ nhất, trong những năm tháng hỗn loạn có người mượn danh cách mạng để làm đủ mọi chuyện xấu bức hại người vô tội; thứ hai, đám lưu manh năm xưa không hề bị trừng phạt, đến bây giờ vẫn ung dung tự tại, thậm chí còn tiếp tục đi làm hại người khác. Người bình thường khi đọc được một bài báo thế này thì cùng lắm cũng chỉ cảm thấy căm phẫn mà thôi, nhưng với một người từng phải trải qua những năm tháng hỗn loạn ấy như Lưu Hướng Đông thì sức mạnh ám thị của bài báo ấy trực tiếp và mãnh liệt vô cùng. Ông ta không chỉ nhớ lại sự nhục nhã và sợ hãi năm xưa, thậm chí dưới sự ám thị của thông tin “đám lưu manh còn chưa bị trừng phạt”, trong tiềm thức của ông ta còn nảy sinh một tâm trạng tuyệt vọng triệt để, mà tâm trạng tuyệt vọng ấy lại càng làm tăng thêm nỗi sợ hãi.

Đây chính là ngòi nổ làm bùng lên vấn đề trong tâm lý của ông ta.

Tôi cầm tờ báo đó trong tay, nghĩ thầm tối đó chỉ có hai cha con bọn họ ở nhà, người gấp tờ báo lại rồi đặt vào trong phòng đọc sách không thể nào là bản thân Lưu Hướng Đông, cho nên chỉ có thể là Lưu Trí Phổ mà thôi. Quá trình có lẽ là như thế này: Lưu Trí Phổ biết cha mình khi mệt mỏi sẽ mở ngăn kéo ra ăn một thanh sô cô la, do đó đã gấp sẵn tờ báo lại từ trước rồi để vào bên dưới phong sô cô la. Trong lúc mỏi mệt, Lưu Hướng Đông theo bản năng sẽ nảy sinh suy nghĩ chuyển dời sự tập trung, do đó khi phát hiện ra tờ báo đó nhất định sẽ cầm lên đọc, mà thứ đầu tiên ông ta đọc được chính là bài báo được làm nổi bật lên kia.

Người điều tra thần bí kia lẽ nào thực sự chính là Lưu Trí Phổ?

Tôi lập tức quay trở lại bệnh viện. Lưu Hướng Đông thấy tiếng động liền tỉnh lại ngay, hỏi tôi là có phải phát hiện ra điều gì rồi không. Để tránh tạo thành ám thị tiêu cực đối với ông ta một lần nữa, tôi chỉ để tờ báo đó trước mặt ông ta khoảng hai giây, đồng thời cất tiếng hỏi:“Ông có ấn tượng gì về tờ báo này không?”

Dưới sự nhắc nhở của tôi, ông ta suy nghĩ một chút rồi nói: “Ồ... Đây là... là tờ báo ở trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi phải không?”

Tôi nhanh chóng cất tờ báo đó đi. “Ông còn nhớ nội dung trong đó không?”

Ông ta suy nghĩ một lát rồi bèn lắc đầu, nói: “Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng chắc chỉ toàn là những việc vụn vặt chứ gì...” Dứt lời, ông ta đột nhiên cứng đờ người ra trong khoảng nửa giây, sau đó xoa đầu, nói: “Hình như trong đó có một bài báo khiến tôi cảm thấy rất khó chịu... Tôi cũng chẳng rõ chuyện rốt cuộc là như thế nào nữa, tóm lại sau khi đọc xong tôi đã vò nát nó rồi vứt vào trong ngăn kéo.” Nói tới đây, ông ta đột nhiên đưa mắt nhìn tôi vẻ hết sức sợ hãi. “Lẽ nào tờ báo này...”

Tôi lẳng lặng gật đầu với ông ta.

Cái gọi là ám thị kỳ thực chính là thông qua các phương thức như ngôn ngữ, văn tự, hành vi để tạo thành ảnh hưởng đối với tiềm thức của người khác. Bởi vì các thông tin mà ngôn ngữ, văn tự, hành vi truyền đạt thông thường đều phải qua ý thức rồi mới đi vào trong tiềm thức, do đó phần lớn các hành vi ám thị đều lưu lại dấu tích ở trong khu vực tiềm thức, khiến người bị ám thị có thể phát giác ra điều gì đó. Nhưng cũng có lúc ám thị xảy ra trong tình huống ý thức chẳng hề phát hiện. Lưu Hướng Đông làm việc mệt, đọc báo thực ra chỉ là để thả lỏng đầu óc chứ không phải vì thực sự quan tâm đến nội dung bên trong. Ngoài ra, đại não của ông ta khi đó có lẽ còn đang bận suy nghĩ rất nhiều vấn đề có liên quan tới công việc. Trong trạng thái như vậy sẽ rất dễ xuất hiện hiện tượng “đọc trong vô thức” tức là sau khi đọc xong một đoạn văn tự, người đọc chẳng hề có chút ấn tượng nào - việc này chắc hẳn rất nhiều người đã từng trải qua. Tuy ý thức không hề có ấn tượng nhưng sự ám thị ẩn trong văn tự lại rất có khả năng đã trực tiếp đi vào trong tiềm thức, qua đó tạo thành ảnh hưởng đối với tâm lý. Dưới sự ám thị của bài báo đó, nỗi sợ hãi trong lòng Lưu Hướng Đông đã hoàn toàn bùng nổ, nhưng ông ta lại hoàn toàn không nhớ được nội dung của bài báo, điều này chính là do hiện tượng “đọc trong vô thức” tạo thành.

Rất hiển nhiên, người điều tra thần bí kia hiểu rất rõ về tính cách, thói quen làm việc cũng như quy luật sinh hoạt của Lưu Hướng Đông, tôi cũng vì thế mà càng thêm nghi ngờ Lưu Trí Phổ.

Tôi hỏi: “Ông thường ngày có thói quen để báo vào trong ngăn bàn không?”

Lưu Hướng Đông hơi sững người ra một chút, ngay sau đó liền lắc đầu, nói:“Không, tuy ở nhà và ở công ty đều có đặt báo, nhưng tôi về cơ bản chẳng mấy khi đọc…” Dừng một chút, ông ta lầm bầm nói tiếp: “Hầy, nói thế nào nhỉ, tôi cũng không dám khẳng định, nhưng sáng nay khi tới Đại học C giảng bài, hình như là tôi có đọc báo ở đó, nhưng rốt cuộc có vô tình mang báo về nhà hay không thì tôi…tôi thực sự không nhớ được.”

Tôi khẽ gật đầu, sau đó lại hỏi tiếp: “Có khi nào là Trí Phổ đặt báo vào trong ngăn bàn của ông không?”

“Không thể nào.” Lưu Hướng Đông trả lời rất nhanh. “Tối qua tôi ở trong phòng đọc sách tới hơn mười hai giờ, còn từng mở ngăn kéo ra một lần. Khi đó trong ngăn kéo rất sạch, không hề có tờ báo nào cả. Sáng hôm nay tôi và Trí Phổ cùng nhau ra ngoài, đến chiều cũng về cùng nhau. Khi tôi nấu cơm, nó vẫn luôn ở trong bếp phụ giúp, chưa từng rời đi lần nào. Sau đó, tôi ăn xong bữa tối thì liền vào trong phòng đọc sách ngay, nó căn bản không có thời gian để làm việc đó. Hơn nữa, trong phòng đọc sách có không ít tài liệu quan trọng và vật phẩm hóa học đang trong giai đoạn thí nghiệm, bình thường tôi đều khóa trái cửa phòng, mà căn phòng đó chỉ một mình tôi có chìa khóa mà thôi.”

Nhìn thần sắc cùng với giọng điệu của Lưu Hướng Đông, ông ta tuy rất lo con trai mình bị hoài nghi nhưng lại không hề vì thế mà nói dối. Có điều, nếu người đặt tờ báo đó vào trong ngăn kéo bàn ở phòng đọc sách không phải là Lưu Trí Phổ, vậy thì có thể là ai đây? Là bản thân Lưu Hướng Đông ư? Tuyệt đối không thể nào... Hành vi gấp tờ báo đó lại rồi giấu vào trong ngăn bàn thoạt nhìn thì có vẻ đơn giản nhưng lại đã lợi dụng thói quen làm việc, thói quen sinh hoạt và đặc điểm tâm lý của Lưu Hướng Đông, đồng thời còn dự đoán trước được sự xuất hiện của hành vi “đọc trong vô thức”, có thể nói là một lần ám thị cao minh vô cùng, ắt là do một cao thủ tâm lý làm ra.

Người đó không phải là Lưu Trí Phổ, nhưng cũng không phải là Lưu Hướng Đông, lẽ nào hồi ban ngày còn có người nào khác đã từng lén lút tới nhà họ Lưu?

Những mảnh thông tin hỗn loạn nhanh chóng được ráp nối, thế rồi một tia sáng rực bỗng lóe lên trong đầu tôi.

”Giáo sư Lưu.” Tôi cau mày hỏi: “Gần đây ông và Trí Phổ có từng làm mất chìa khóa không?”

Lưu Hướng Đông bất giác sững người. “Anh làm sao mà biết được việc này vậy? Buổi trưa hôm nay Trí Phổ nói làm mất chìa khóa, thế nên buổi chiều nó mới chịu về nhà cùng tôi. Nếu là thường ngày, nó ắt chẳng chịu ngồi xe của tôi đâu.”

Tôi hỏi: “Buổi trưa ư? Cụ thể là khi nào vậy?”

”Hình như là lúc ăn cơm trưa.” Lưu Hướng Đông suy nghĩ một chút rồi nói:“Phải rồi, nó đã kể với tôi như thế này, buổi trưa khi rời khỏi văn phòng và khóa cửa thì chùm chìa khóa vẫn còn ở trên người, sau đó nó đã cùng mấy người bạn đến một nhà hàng ở gần trường để ăn cơm, trên đường từ nhà hàng quay về thì phát hiện chùm chìa khóa đã bị mất. Nó đã quay trở lại nhà hàng để tìm, nhưng người ở đó nói là không thấy gì cả.”

Có người thứ ba từng tới nhà họ Lưu vào lúc ban ngày là một suy đoán hợp lý, thêm vào đó việc Lưu Trí Phổ bị mất chìa khóa vào lúc dùng bữa trưa cũng hết sức có vấn đề, cho nên nguồn cơn mọi sự đã rất rõ: Người điều tra thần bí kia đã lấy trộm chìa khóa của Lưu Trí Phổ, chờ đến chiều thì lẻn vào nhà họ Lưu, sau đó không biết đã dùng cách gì để mở cửa phòng đọc sách và đặt tờ báo được gấp sẵn vào bên dưới hộp sô cô la trong ngăn bàn.

Tôi không kìm được thầm thở phào một hơi, trong lòng hết sức bất ngờ khi người điều tra thần bí kia lại dùng một biện pháp tầm thường và kém cỏi như là lấy trộm chìa khóa. Có lẽ, tôi thực sự đã đánh giá người này quá cao rồi.

Tôi lập tức rời khỏi phòng bệnh của Lưu Hướng Đông và gọi điện thoại cho Chủ nhiệm Viên, nhờ ông ta tìm cách kiểm tra băng hình giám sát của khu chung cư mà Lưu Hướng Đông đang sinh sống trong quãng thời gian từ mười hai giờ trưa đến sáu giờ tối. Đến hai giờ sáng, Chủ nhiệm Viên gọi điện thoại tới cho tôi, nói là ông ta đã kiểm tra rất kĩ băng hình giám sát, có thể khẳng định là từ mười một rưỡi cho đến khi cha con nhà họ Lưu về nhà là năm rưỡi, không có bất kỳ ai từng mở cửa căn hộ của nhà họ Lưu. Cùng với đó, nhà họ Lưu nằm ở tầng mười bảy của khu chung cư, cửa sổ ngoài hai bên đều nằm ở mặt đường. Chủ nhiệm Viên cũng đã tìm cách kiểm tra băng hình giám sát của mấy công ty gần đó, kết quả nhận được là trong suốt buổi chiều, ngoài cửa sổ nhà họ Lưu không hề có bóng dáng của người nào cả.

”Tôi đã mời rất nhiều chuyên gia tới kiểm tra các băng hình đó.” Cuối cùng Chủ nhiệm Viên nói: “Bọn họ đều khẳng định, cả buổi chiều không hề có người nào đi vào nhà họ Lưu.”

Hai giờ sáng ngày 9 tháng 11 năm 2009, lời của Chủ nhiệm Viên đã mang tới cho tôi - hoặc có thể nói là mang tới cho X - một cảm giác thất bại đến mức gần như tuyệt vọng. Tôi không kìm được thở dài một hơi, nhanh chóng quay trở về thực tại từ trong ký ức của X. Tôi cầm chiếc điện thoại trên bàn trà lên, thấy thời gian là một giờ sáng ngày 23 tháng 7 năm 2012, cách lần gặp mặt thứ tám giữa tôi và Diệp Thu Vi chỉ chưa đầy mười sáu tiếng đồng hồ.

Tôi ngẩn ngơ đưa mắt nhìn về phía cửa nhà vệ sinh. Mãi đến lúc này tôi vẫn không sao hiểu nổi: Năm đó Diệp Thu Vi rốt cuộc đã giấu tờ báo kia vào trong nhà họ Lưu bằng cách nào?

Vẫn là câu nói đó, việc này có lẽ chỉ có một mình cô ta là có thể nói cho tôi biết đáp án mà thôi.

Nghĩ đến đây, một cảm giác mỏi mệt mãnh liệt bỗng nhiên ập tới. Tôi tựa người vào xô pha, ngẩng đầu nhắm mắt dưỡng thần. Bốn phía xung quanh đều hoàn toàn tĩnh lặng, tôi chỉ có thể nghe thấy những tiếng tích tắc khe khẽ phát ra từ chỗ chiếc đồng hồ treo tường. Tôi tập trung sự chú ý của mình vào những tiếng tích tắc ấy, hơi thở đều đặn và dần trở nên chậm rãi, ý thức cũng càng lúc càng buông lỏng. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê, bên tai tôi lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia. Khác với những lần trước, tiếng rít lần này không hề đột ngột, cũng chẳng chói tai, còn mang theo một sự mềm mại khiến người ta khó lòng kháng cự. Tiếng rít dần trở nên rõ ràng và biến thành tiếng nỉ non của một cô gái, sau đó lại biến thành tiếng cười trong trẻo như tiếng chuông bạc. Tiếng cười ấy tựa như những nốt nhạc du dương, nhẹ nhàng lay động một cánh cửa nào đó nằm ở nơi sâu trong lòng tôi.

Tôi đắm chìm trong tiếng cười, thân thể càng lúc càng buông lỏng. Đúng vào khoảnh khắc giấc ngủ của tôi sắp từ nông biến thành sâu, tiếng cười đó đột nhiên trở nên thê lương thảm thiết, sau đó thì nhanh chóng biến thành tiếng gào khóc thảm thương tột độ. Tiếng gào khóc ấy chân thực quá, cứ như thể có một cô gái trẻ tuổi đang ngồi ngay gần chỗ tôi, bị giày vò bởi một nỗi đau khổ khó lòng chịu đựng. Trong cơn ngơ ngẩn, tôi mở mắt ra, nhìn thấy ở phía trước bên phải có một cô gái đang nằm trên xô pha. Cô gái ấy quần áo xộc xệch tả tơi, hai tay ôm mặt, trên hai cánh tay có vô số vết dao cắt ngang dọc đan xen nhau...

Lòng tôi như thắt lại, sau nháy mắt đã giật mình bừng tỉnh. Theo bản năng, tôi ngó nhìn về phía trước bên phải, thấy trên xô pha chỉ có một chiếc gối ôm trẻ con cùng với một món đồ chơi, không hề có cô gái nào cả. Tôi thở phào một hơi, tới lúc này mới ý thức được là mình đã lại một lần nữa nằm mơ...

Tôi, tôi tại sao lại hay nằm mơ thấy cô gái đó như thế chứ? Tại sao cô ta lại thường xuyên đeo bám lấy tôi trong mơ? Trong tiềm thức của tôi, cô ta rốt cuộc tượng trưng cho điều gì?

Tôi nhớ lại một chi tiết nhỏ trong lúc mộng du: Tôi nhìn thấy X đi vào trong nhà vệ sinh, thế là muốn đuổi anh ta đi. Nhưng vừa đứng dậy đi được hai bước thì tôi đã bị thứ gì đó chặn mất đường đi. Thứ này là bàn trà trong hiện thực, nhưng trong giấc mộng thì lại được biểu hiện là cô gái kia. Tại sao lại là cô ta? Tiềm thức tại sao lai để cô người ngăn cản tôi đi vào nhà vệ sinh? Phải chăng tiềm thức muốn thông qua phương thức này để truyền đạt cho tôi một số thông tin gì đó khác?

Tôi đưa tay mân mê cằm, lờ mờ hiểu ra điều gì đó.

Giấc mơ là sự ngụy trang và biểu đạt của ham muốn sau khi bị kìm nén, dựa vào cơn mộng du trước đó mà xét: Tiềm thức biết tôi chính là X, đồng thời muốn khiến tôi hiểu được điều này, qua đó nhận thức chính xác và khống chế được bản thân, đây là ham muốn cơ bản nhất của một cá thể sinh vật. Nhưng X lại tồn tại như là một nhân cách độc lập, anh ta có điều kiêng dè đối với tôi, thế nên vẫn luôn tiến hành quấy nhiễu và ngăn cản tiềm thức, ham muốn vì thế mà bị kìm nén. Sức mạnh tinh thần của X vô cùng ghê gớm, vẫn luôn kìm nén ham muốn tự nhận thức của tiềm thức, tiềm thức tuy cực lực phản kháng nhưng rốt cuộc vẫn không cách nào truyền đạt cho tôi biết các thông tin có liên quan tới X.

Sự xuất hiện của Diệp Thu Vi đã làm thay đổi tất cả. Cô ta đã bày ra một mưu kế tinh vi, sự ám thị được kéo dài trong mấy ngày liền, qua đó giúp tiềm thức của tôi vượt qua sự ngăn cản của X, từ đó thành công truyền đạt thông tin qua giấc mơ, ham muốn tự nhận thức cũng vì thế mà được giải tỏa. Kết quả trực tiếp của sự giải tỏa này chính là thúc giục tôi đi vào nhà vệ sinh, lại thông qua gương và đèn sưởi nhà tắm để phát hiện ra rằng mình và X kỳ thực chính là một.

Đối với tiềm thức, mộng du là một phương thức, đi vào nhà vệ sinh, hoàn thành sự tự nhận thức là mục đích cuối cùng. Vậy thì, cô gái ngăn cản tôi đi vào nhà vệ sinh trong giấc mơ đương nhiên chính là hình ảnh tượng trưng cho sự trở ngại trong việc tôi hoàn thành sự tự nhận thức. Tiềm thức không chỉ biết rằng tôi là X, hơn nữa còn biết có thứ gì đang ngăn cản tôi tự nhận thức được điều này. Thật trùng hợp, trong quá trình mộng du đi vào nhà vệ sinh, tôi vừa hay gặp phải sự ngăn cản của bàn trà, thế là tiềm thức liền nắm lấy cơ hội, thể hiện ra nhân tố ngăn cản sự tự nhận thức của tôi trong giấc mơ. Đây chính là ẩn ý của việc cô gái bí ẩn kia cản đường đi của tôi.

Tóm lại, có một số nhân tố đã ngăn cản tôi trong việc tiến hành nhận thức bản thân, mà cô gái kia chính là sự tượng trưng cho những nhân tố này. Nếu những nhân tố này biến mất, sự nhận thức của tôi về X sẽ không bị thứ gì ngăn cản nữa, nói cách khác, tôi cũng sẽ thoát khỏi tình trạng rối loạn tự nhận thức. Đứng từ góc độ này mà xét, nhân tố mà cô gái kia ám chỉ có lẽ chính là nguyên nhân căn bản gây ra tình trạng rối loạn đa nhân cách ở tôi.

Rốt cuộc vì nguyên cớ gì mà tôi lại bị mắc hội chứng phân ly nghiêm trọng đến vậy? Cô gái trong giấc mơ rốt ám chỉ điều gì? Là một sự ám thị kín đáo hay là hình ảnh đại diện cho một con người nào đó thực sự tồn tại? Trong cuộc gặp mặt hồi ban ngày, Diệp Thu Vi đã từng cố nhắc đến “cô bé học trung học phổ thông dùng dao cứa vào cánh tay mình”, đây phải chăng cũng là một sự ám thị có mục đích riêng? Liệu có khi nào Diệp Thu Vi sớm đã biết nguyên nhân khiến tôi bị rối loạn đa nhân cách? Cô ta rốt cuộc muốn làm gì?

Vô số sự nghi hoặc không ngớt dâng trào, tôi để mặc cho tư duy lan tỏa, vậy nhưng mãi vẫn chẳng thể lần được chút manh mối nào. Mười mấy giây sau, tôi ép mình bình tĩnh trở lại, tạm thời từ bỏ việc suy nghĩ về cô gái trong giấc mơ. Tôi quyết định tiếp tục đào sâu vào ký ức của X, muốn thông qua anh ta để nhận thức rõ hơn về bản thân.

Dòng suy nghĩ quay trở lại thời điểm sáng sớm ngày 9 tháng 11 năm 2009. Lời của Chủ nhiệm Viên mang tới cho tôi cảm giác thất bại vô cùng to lớn. Sau khi gác máy, tôi đi vào nhà vệ sinh, nhưng hình như không làm gì cả, ngay sau đó đã quay trở lại phòng bệnh. Khi tôi quay trở lại phòng bệnh thì Lưu Hướng Đông đã ngủ rồi, nhưng cũng có khả năng là chưa ngủ, tôi lờ mờ nhớ là khi đó ông ta đã nhìn tôi bằng ánh mắt chứa chan niềm hy vọng, vồn vã hỏi: Anh Trương, anh đã tìm được người đó chưa?”

Tôi không nói một lời, ngồi trở lại chiếc ghế bên cạnh giường, sau đó... sau đó...

Ký ức đột nhiên trở nên hơi mơ hồ, rất nhiều chi tiết vốn sôi động ở bên rìa của ý thức dường như đột nhiên bị một thứ sức mạnh tinh thần nào đó nuốt chửng, chỉ lưu lại một chút dấu tích của việc đã từng tồn tại. Tôi hiểu, X đang cố gắng thoát khỏi sự nhòm ngó và khống chế của tôi, anh ta càng lúc càng rời xa tôi, hơn nữa còn muốn hoàn toàn thoát ly khỏi tôi. Tôi nhất định phải tranh thủ thời gian lưu giữ kí ức anh ta lại, không thể để anh ta tiếp tục ẩn nấp trong thân thể tôi nữa.

Tôi nín thở, không để tâm tới quá trình và các chi tiết cụ thể nữa mà tăng nhanh tốc độ, xem lướt qua các ký ức sau ngày 9 tháng 11 năm 2009.

Tôi ở trong phòng bệnh đến tận bốn giờ sáng, sau đó đã lại tiếp xúc với Lưu Hướng Đông rất nhiều lần, vậy nhưng ông ta vẫn không thể cung cấp cho tôi manh mối nào có giá trị hơn. Tôi cũng từng lén lút điều tra Lưu Trí Phổ, nhưng ngoài chứng mặc cảm Oedipus bệnh hoạn của anh ta ra thì không có thu hoạch nào khác nữa. Tôi lựa chọn kiên nhẫn chờ đợi, vậy nhưng người điều tra thần bí đó không hề tiến hành tiếp xúc với tôi như trong dự liệu - anh ta (cô ta) dường như đã từ bỏ việc điều tra rồi. Mấy tháng sau đó, mọi thứ trôi qua trong yên ả, người điều tra thần bí kia không còn để lộ tung tích thêm lần nào nữa.

Tháng 5 năm 2010, nhận sự ủy thác của Chủ nhiệm Viên, tôi giết chết một người tên là Tưởng Việt Dương. Anh ta là quan chức thuộc hệ thống công an của tỉnh, từng có quan hệ lợi ích với Tập đoàn A, về sau muốn thoát khỏi sự khống chế của tập đoàn. Người này tính tình u uất, bị mắc chứng rối loạn thần kinh chức năng khá nghiêm trọng ở dạ dày và ruột. Dưới sự ám thị và sắp đặt của tôi, anh ta đã bị mất nước mà chết trong nhà vệ sinh ở tầng cao nhất của Sở Công an tỉnh.

Tháng 7 năm 2010, vẫn theo sự ủy thác của Chủ nhiệm Viên, tôi giết chết một người phụ nữ tên là Khúc Na. Cô ta nhân viên kỹ thuật của cục Giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm, dường như còn có một thân phận bí mật khác nữa, có thể tạo thành uy hiếp cực lớn đối với Công ty E. Người này tuy không có vấn đề gì rõ rệt về tâm lý, nhưng cách lại rất nhạy cảm và yếu đuối, thích lo lắng vu vơ. Tôi đã theo dõi cô ta gần nửa tháng, cuối cùng cũng tìm được cơ hội, qua đó khiến cho cô ta lỡ chân đi vào đường ray tàu hỏa và mất mạng.

Dịp Tết năm 2011, tôi nhận sự ủy thác của Chủ nhiệm Viên nhờ giết chết Chu Vân. Chủ nhiệm Viên từng vô tình kể lại rằng trong tay Chu Vân có một tập tài liệu quan trọng, còn muốn giao nó cho một cơ quan nào đó của nhà nước, điều này đã tạo thành một mối uy hiếp nghiêm trọng đối với Tập đoàn A. Chu Vân tâm tư tinh tế, tính cách kiên định, chín chắn, đối phó với cô ta thực không phải là việc dễ dàng. Mãi đến cuối tháng Ba, tôi mới tìm được một tài xế taxi thích hợp, sau đó lại tính trước hành trình của Chu Vân, đồng thời tiến hành ám thị tài xế taxi kia để khiến Chu Vân mất mạng trên vạch sang đường.

Tháng 4 năm 2011, một đôi nam nữ qua đời trong nhà riêng, nguyên nhân dẫn đến cái chết là trúng độc tetrame thylenedisulifotetramine1. Bác sĩ pháp y phát hiện ra dấu tích của chất độc trong đường tiêu hóa, thận cùng với bữa cơm trưa của hai người bọn họ hôm đó, từ đó xác định được nguyên nhân tử vong. Hai người này người đàn ông tên là Giả Phụng Hiến, quan chức ở ủy ban Sinh đẻ có hoạch của tỉnh, người phụ nữ tên là Quách Nguyệt Linh, nhân viên trong biên chế của Cục Vệ sinh thành phố.

1. Một hợp chất hóa học có công thức phân tử C4H8N4O4S2 là thành phần chủ yếu tạo nên thuốc chuột – ND.

Qua điều tra, Giả Phụng Hiến có gia đình hoàn chỉnh nhưng lại từng quan hệ nam nữ bất chính với Quách Nguyệt Linh trong một thời gian dài. Có người biết chuyện từng kể là một tuần trước khi chết hai người bọn họ từng cãi nhau mấy lần. Cuối cùng cảnh sát nhận định Quách Nguyệt Linh chính là người đã bỏ thuốc độc, động cơ gây án là mâu thuẫn trong vấn đề tình cảm và gia đình.

Giả Phụng Hiến không chỉ đảm nhiệm một chức vụ quan trọng ở ủy ban Sinh đẻ có kế hoạch của tỉnh, đồng thời còn là cổ đông ngầm lớn của Tập đoàn A. Xuất phát từ tâm lý cẩn trọng, Chủ nhiệm Viên ủy thác tôi tiến hành đi sâu vào điều tra vụ án này. Trong quá trình điều tra, tôi phát hiện ra rất nhiều điểm đáng ngờ, đồng thời còn chú ý thấy tung tích của người điều tra thần bí đã mất tích một năm rưỡi kia.

Chính bởi vì chuyện này nên người điều tra thần bí kia mới lại một lần nữa nhận được sự coi trọng của Chủ nhiệm Viên. Dưới sự ủy thác của ông ta, tôi chính thức tiến hành điều tra thân phận của đối phương, bắt đầu từ Quách Nguyệt Linh.

Theo ý của Chủ nhiệm Viên, tôi nhờ Lưu Hướng Đông giúp đỡ tiến hành phân tích chi tiết chất độc xuất hiện trong vụ án mạng kia. Dựa vào độ tinh khiết của chất độc, Lưu Hưóng Đông phán đoán người chế tạo ra nó ắt hẳn có kiến thức khá vững chắc về hóa học, ngoài ra còn có kinh nghiệm chế tạo hợp chất hóa học rất chuyên nghiệp nữa. Tôi cũng vì thế mà nắm bắt được điểm đặc trưng đầu tiên của người điều tra thần bí kia.

Tháng 5 năm 2011, tôi tiến hành điều tra Thư Tình thông qua điện thoại, còn lấy lý do phỏng vấn để tới gặp vợ của Đinh Tuấn Văn là Lã Thần ở khu ba của Bệnh viện Tâm thần thành phố, cuối cùng đã xác định được người điều tra thần bí đó hiện đang làm việc tại Học viện Hóa học và Phân tử trực thuộc Đại học Z. Tôi liệt kê ra một danh sách những người mà trước đó đã bị tôi dùng phương pháp ám thị khiến cho mất mạng hoặc là trở thành tàn phế, sau đó dùng thời gian một tháng để điều tra về tình hình gia đình cũng như các mối quan hệ xã hội của bọn họ, để rồi từ đó liệt kê ra danh sách mười người đáng nghi ngờ nhất, trong số đó có Diệp Thu Vi. Mãi đến khi đó tôi vẫn vô thức cho rằng người điều tra là đàn ông, do đó trọng điểm điều tra của tôi tất nhiên cũng tập trung vào những người đàn ông trong danh sách.

Cuối tháng Tám, sau khi bảy người đàn ông trong danh sách tình nghi lần lượt bị loại trừ, tôi rốt cuộc đã ý thức được rằng người điều tra rất có thể là phụ nữ. Đầu tháng Chín, hai người phụ nữ khác trong danh sách tình nghi cũng đã bị loại trừ, thế là danh sách mười người chỉ còn lại duy nhất cái tên Diệp Thu Vi mà thôi.

Tôi nhớ tới bộ dạng của Diệp Thu Vi, đầu óc bất giác có chút mơ màng, thế là liền thoát ra khỏi dòng ký ức mà quay trở về thực tại. Đúng vậy, đầu tháng 9 năm 2011, tôi đã bắt đầu hoài nghi Diệp Thu Vi rồi.

Tôi nhớ là đêm ngày 10 tháng 9, tôi và Chủ nhiệm Viên đã gặp nhau giữa một bãi chôn rác thải xây dựng ở ngoại ô thành phố. Ông ta đưa cho tôi một xấp tài liệu, tôi xem ngay trước mặt ông ta, thế rồi giật mình phát hiện không ngờ Diệp Thu Vi lại có những điểm đặc trưng toàn trùng khớp với người điều tra thần bí kia, chẳng hạn như cô ta am hiểu về hóa học và tâm lý học, khi mang thai từng bị hiếp dâm đến nỗi sẩy thai, chồng thì uống thuốc độc biến thành người thực vật, có qua lại với cả Thư Tình và Lã Thần... Còn chưa xem xong tư liệu, tôi đã ngẩng đầu lên nói với Chủ nhiệm Viên: “Rất có thể chính là cô ta.”

”Chỉ dựa vào tài liệu đã có thể khẳng định được ư?” Chủ nhiệm Viên nheo mắt lại nhìn tôi. “Anh có cần đích thân đi điều tra không?”

Tôi liếc nhìn Chủ nhiệm Viên một chút, trong đoạn ký ức này, tôi đã có ấn tượng rõ ràng hơn về khuôn mặt của ông ta: ông ta bị hói gần như trụi hết tóc ở đỉnh đầu, mũi thì to và hơi khoằm, môi dày và rộng, hai mắt có thần, tại nơi tiếp nối giữa cổ và tai trái dường như còn có một vết sẹo mờ.

Mười mấy giây sau, tôi xem xong chữ cuối cùng trong tập tài liệu, bèn đưa trả cho Chủ nhiệm Viên, sau khi suy nghĩ một lát bèn nói:“Để cho chắc chắn, tốt nhất là hãy cho tôi thêm ba ngày nữa. Tuy tài liệu này đã khá đầy đủ, thông tin cũng rất trùng khớp, nhưng lỡ như có sai sót thì chắc chắn sẽ rút dây động rừng.”

”Ừm.” Chủ nhiệm Viên châm một điếu thuốc, rít một hơi, sau đó liền đốt cháy tập tài liệu về Diệp Thu Vi và vứt sang đống đá vụn ở bên cạnh, nhả ra một hơi thuốc.“Việc này rất quan trọng, nhất định đừng để xảy ra chút sơ suất nào “

Phía đằng xa, tiếng động cơ rền vang ầm ĩ của những chiếc xe tải cỡ lớn không ngừng vọng lại.

** *

Bước đầu tiên trong việc điều tra Diệp Thu Vi chính là xác định mối liên quan giữa cô ta và mấy vụ chết người kia.

Sáng ngày 11 tháng 9 năm 2011, tôi gọi điện cho Thư Tình trước tiên. Dưới sự dẫn dắt của tôi, cô ta nhớ ra rất nhiều chi tiết có liên quan tới Diệp Thu Vi trong quãng thời gian trước và sau khi cô ta gặp tai nạn. Cô ta nói cho tôi biết, trước khi xảy ra tai nạn cô ta thường xuyên đến bệnh viện thăm Tần Quan, cũng thường xuyên tâm sự với Diệp Thu Vi - cô ta có vẻ rất thông cảm với Diệp Thu Vi, đồng thời còn vô cùng tin tưởng cô ta nữa, đây chính là điều kiện tiền đề để Diệp Thu Vi lợi dụng cô ta.

Cô ta còn nhắc đến một việc, đó là dịp cuối năm Âm lịch, cô ta từng dẫn Diệp Thu Vi đến thành phố D cầu phúc, hai người vốn đã bàn sẵn với nhau là ngày Rằm tháng Giêng sẽ tới đó thêm lần nữa, nhưng khi đến ngày thì Diệp Thu Vi lại đổi ý, còn đề nghị cô ta dẫn Tạ Bác Văn theo. Đối với một người phụ nữ bình thường mà nói, cầu phúc cho người chồng đang bệnh nặng của mình lẽ ra phải là việc quan trọng hàng đầu, điều này khiến Diệp Thu Vi lại càng đáng ngờ hơn. Cùng với đó, đề nghị “dẫn Tạ Bác Văn theo'' cũng phù hợp với sự an bài của người điều tra trong việc gây tai nạn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 8-2: Cuộc đọ sức ở sâu trong nội tâm (2)


Ngoài ra, tuy Thư Tình không thể nhớ lại chuyện về nhạc chuông điện thoại, vậy nhưng cô ta vẫn lờ mờ nhớ được khoảng hai mươi phút trước khi xảy ra tai nạn, cô ta từng nhận được một tin nhắn như thế này từ Diệp Thu Vi: Tình, đi đường nhớ cẩn thận, đừng nhìn nhầm những cái hố thành nhựa đường nữa đấy. Theo tôi thấy, đây đã là một sự ám thị hết sức rõ ràng rồi.

Buổi chiều, tôi lại đến Bệnh viện Tâm thần thành phố gặp Lã Thần thêm lần nữa. Sau hơn hai năm điều trị, trạng thái tinh thần của cô ta đã dần có chiều hướng ổn định. Dưới sự dẫn dắt của tôi, cô ta cũng nhớ lại rất nhiều chi tiết có liên quan tới Diệp Thu Vi. Cô ta nói cho tôi biết, năm 2009 sở dĩ mình đẩy ngã chồng xuống dưới nhà như thế là vì có một người phụ nữ tên là W thường xuyên nói chuyện trong đầu cô ta, còn ra lệnh cho cô ta nữa. Mà câu chuyện về W chính là do Diệp Thu Vi vô tình nói cho cô ta biết. Đây hiển nhiên lại là một lần ám thị nữa.

Sau khi rời khỏi Bệnh viện Tâm thần thành phố, tôi bắt đầu nghiên cứu về cái chết của Triệu Hải Thời và Hà Ngọc Bân. Giữa hai người này và Diệp Thu Vi không có sự qua lại nào, việc điều tra cũng vì thế mà tạm thời không có tiến triển. Mãi đến buổi tối hôm đó, đúng vào lúc chuẩn bị ngủ, tôi mới để ý tới một chi tiết quan trọng: Theo như lời tiết lộ của người trong cuộc, việc Triệu Hải Thời giết chết Hà Ngọc Bân có một nguyên nhân quan trọng là Hà Ngọc Bân có thể đã có qua lại với vợ của Triệu Hải Thời là Tiêu Tiểu Yên. Tôi chuyển dời trọng tâm điều tra qua Tiêu Tiểu Yến, phát hiện cô ta từng mở một phòng tập thể thao dành cho nữ. Dưới sự giúp đỡ của Chủ nhiệm Viên, tôi lấy được danh sách tất cả các hội viên từng đăng ký tập luyện ở phòng tập thể thao đó trong thời gian nó hoạt động, thế rồi tìm thấy tên của Diệp Thu Vi ở trong đó.

Sáng hôm sau, tôi tiến hành thăm dò Tiêu Tiểu Yên qua mạng internet, cuối cùng đã xác định được vụ án Triệu Hải Thời giết người bằng súng có liên quan tới Diệp Thu Vi.

Ngoài ra, tên của Quách Nguyệt Linh cũng xuất hiện trong danh sách các hội viên, cô ta và Diệp Thu Vi rất có thể đã quen nhau tại phòng tập thể thao đó. Vậy nên, vụ án Quách Nguyệt Linh bỏ thuốc độc có khả năng cũng có liên quan tới Diệp Thu Vi. Tôi xem xét kĩ vụ án bỏ thuốc độc đó thêm một lần nữa, sau đó phát hiện ra một số dấu tích can dự của Diệp Thu Vi. Đến chiều ngày 12 tháng 9 năm 2011, tôi cuối cùng đã có thể xác định được người điều tra thần bí đứng ở phía đối địch với Tập đoàn A chính là Diệp Thu Vi - một Phó giáo sư đang công tác tại Đại học Z.

Đến lúc này, nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành. Dựa theo kế hoạch, tôi lẽ ra phải lập tức nói kết quả điều tra cho Chủ nhiệm Viên biết, sau đó thì chờ chỉ thị tiếp theo của ông ta. Nhưng, trong khoảnh khắc cầm điện thoại lên chuẩn bị gọi, tôi bỗng lại cảm thấy do dự. Tôi bỏ điện thoại xuống, trong lòng dâng lên một cảm giác kỳ lạ.

Bao nhiêu năm nay tôi vẫn luôn ẩn nấp trong chỗ tối, giúp Chủ nhiệm Viên hoàn thành rất nhiều cuộc điều tra và ám sát. Có một năng lực siêu phàm nhưng lại không thể công bố ra trước mặt mọi người, điều này khiến tôi cảm thấy kiêu hãnh từ tận đáy lòng, nhưng đồng thời cũng mang lại cho tôi sự cô độc sâu sắc. Tháng 3 năm 2009, dấu vết tác động vào tâm lý của Thư Tình đã khiến tôi hiểu được rằng, ở một góc khuất nào đó trong thành phố này có lẽ còn ẩn nấp một cao thủ tâm lý khác.

Bắt đầu từ lúc đó tôi đã không còn cảm thấy cô độc nữa, đồng thời còn nảy sinh lòng tò mò vô hạn về vị cao thủ tâm lý kia, xen lẫn trong đó còn có một chút tình cảm trân trọng đối với“đồng loại” của mình. Tôi vẫn luôn muốn lần ra thân phận của người này, nhưng không chỉ là vì sự ủy thác của Chủ nhiệm Viên mà còn là vì chính bản thân tôi nữa. Tôi muốn gặp “đồng loại” của mình, muốn nói chuyện với người đó, giao đấu, thậm chí là muốn xây dựng một tình bạn mà người ngoài không hay biết. Tuy người điều tra đó đã từng bặt vô âm tín trong khoảng thời gian một năm mới, nhưng tình cảm không rõ ràng của tôi với người đó thì chưa từng thay đổi.

Lúc này, tôi rốt cuộc đã phát hiện ra thân phận của cô ta, nhưng điều này cũng đồng nghĩa với việc cô ta sắp bị Tập đoàn A trừ khử. Tự nơi đáy lòng, tôi không thể chịu đựng nỗi đau khổ khi mà vừa gặp mặt đã phải vĩnh viễn chia ly đó. Tôi muốn gặp cô ta, muốn chính thức làm quen với cô ta, muốn xem xem “đồng loại” của mình rốt cuộc là một con người như thế nào.

Trưa ngày 12 tháng 9 năm 2011, tôi tắt điện thoại đi, bắt taxi đến Bệnh viện Nhân dân số 2, đúng ba giờ mười phút thì tìm được phòng bệnh của Tần Quan. Khi đó, Diệp Thu Vi đang ngồi bên mép giường bệnh, quay lưng về phía cửa, ngẩn ngơ nhìn người chồng ngày một gầy đi của mình. Tôi đứng trước cửa quan sát suốt một hồi lâu, cuối cùng mới hạ quyết tâm, đưa tay lên gõ cửa phòng.

Tôi đặt tay trái lên tay phải, nói dối một cách bình tĩnh: “Chúng tôi là bạn học cùng lớp với nhau hồi học cấp hai.”

Diệp Thu Vi bước về phía trước mấy bước, đóng một ô cửa sổ chớp khác lại, căn phòng lại càng tối tăm hơn. Cô ta mở chiếc đèn tiết kiệm điện năng ở đầu giường lên, điều chỉnh độ sáng tới mức cao nhất, sau đó bèn nhìn tôi, nói: “Ồ, hóa ra là bạn học cấp hai, chẳng trách anh ấy lại bị mắc bẫy của anh như thế.”

Tôi thoáng sững người, ngay sau đó liền hiểu ra ý của cô ta, trầm giọng nói: “Những năm nay cô quả nhiên không ở yên một chỗ.”

Cô ta kéo ghế ngồi xuống chỗ đối diện với tôi, gạt mấy sợi tóc rối ra sau tai, hai mắt nhìn chằm chằm vào tôi. “Nếu không đến đây gặp tôi, anh nhất định sẽ phải hối hận cả đời, đúng vậy chứ?” Tôi ngẩn ra, thế rồi cô ta lại nhanh chóng bổ sung thêm một câu: “Cảm giác khi bị người ta nhìn thấu thế nào?”

Tôi khẽ mỉm cười, trong trái tim xưa nay vẫn luôn lý trí và lạnh lẽo bất giác trào lên những tia ấm áp xen lẫn thấp thỏm bất an. Tôi gật đầu, nói với cô ta: “Đúng vậy, nếu không tới đây gặp cô, tôi nhất định sẽ phải hối hận. Tôi tới đây với tư cách là một “đồng loại” của cô, không đại diện bất cứ thế lực nào.”

”Kỳ thực không chỉ có anh và tôi.” Cô ta nghiêm túc nói: “Còn có một người thứ ba nữa cũng giống như chúng ta vậy.”

Lòng tò mò đối với “đồng loại” nhanh chóng làm nhiễu loạn tâm trí của tôi. Tôi hoàn toàn buông bỏ lòng để phòng, nôn nóng nói co ta: “Còn có người khác nữa ư? Là ai vậy?”

”Tôi có thể nói cho anh biết tên của cô ta.” Diệp Thu Vi khẽ chớp mắt, hờ hững nói: “Anh có thể còn chưa biết cô ta là một người quen của anh đấy.”

Trái tim tôi đập rộn lên, nhịp thở cũng trở nên hơi rối loạn. Nếu bắt buộc phải nói tôi có nhược điểm tâm lý nào đó, vậy thì có lẽ chính là lòng tò mò đối với “đồng loại“.“Người mà tôi quen ư?” Tôi lập tức truy hỏi: “Rốt cuộc là ai vậy?”

Diệp Thu Vi hơi hé miệng ra. “Cô ta tên là...”

* * *

Đúng vào khoảnh khắc cái tên này sắp đi từ khu vực bên rìa tiềm thức vào trong ký ức của tôi, tôi đột nhiên cảm thấy đầu óc quay cuồng, bên tai lại một lần nữa vang lên tiếng rít quái dị kia, ngay sau đó, một luồng sáng dữ dội chẳng biết từ đâu rọi đến khiến cho hai mắt của tôi đau nhói. Theo bản năng, tôi bịt tai và nhắm mắt lại, nhưng tiếng rít và luồng sáng rực rỡ kia vẫn chẳng chịu tan đi. Tôi đau khổ kêu to một tiếng, cảm thấy đầu nặng chân nhức, rồi đổ gục xuống đất, trán đập mạnh vào mép bàn trà. Tôi đưa tay lên ôm trán, nằm ngửa người ở chỗ giữa xô pha bàn trà, không ngừng thở dốc.

Một loạt những tiếng bước chân nhè nhẹ bất chợt vang lên, thế rồi một đôi tay dịu dàng đặt lên người tôi. Bà xã một tay ôm lấy cổ tôi, một tay vừa xoa ngực tôi vừa nôn nóng gọi:“Nhất Tân! Nhất Tân!” Giọng nói của cô ấy vang lên giữa những tiếng rít vẫn đang kéo dài mãi không dứt kia. “Anh đừng dọa em nữa mà!”

Giọng nói của cô ấy mang tới cho tôi cảm giác chân thực vô cùng, tôi há to miệng, hít sâu một hơi, hai chân dùng sức đạp mạnh xuống đất, từ trong ký ức và ảo giác trở về thực tại, trở về trong phòng khách nhà tôi vào thời điểm ngày 23 tháng 7 năm 2012. Tôi ngẩng đầu lên, ngửi thấy mùi cơ thể vô cùng quen thuộc của bà xã tôi, thế là tinh thần mới từ từ khôi phục trở lại.

Ngay sau đó, tôi nghe thấy tiếng hờn giận và oán trách quen thuộc của bà xã: “Ôi, đã nói với anh là đừng nghĩ nhiều rồi mà, thế mà anh còn cứ ngồi đây suy nghĩ lung tung. Chẳng lẽ anh muốn dọa chết em hay sao? Anh có biết em lo lắng cho anh thế nào không?”

Tôi lại thở dốc mấy hơi nữa, sau đó thè lưỡi liếm môi đưa tay xoa mặt, nói:“Không sao, anh không nghĩ nhiều gì cả, chỉ hơi mệt thôi.”

”Mệt rồi thì mau đi ngủ đi!” Cô ấy đỡ tôi ngồi lên xô pha. “Anh đừng có đi phỏng vấn gì thêm nữa!”

Nhắc đến phỏng vấn, tôi tức thì nhớ đến Diệp Thu Vi. Chiều ngày 12 tháng 9 năm 2011, tôi đã gặp được cô ta trong ICU của Bệnh viện Nhân dân số 2. Cô ta nói cho tôi biết, còn có một cao thủ tâm lý thứ ba giống như chúng tôi, hơn nữa cũng là một người phụ nữ. Diệp Thu Vi đã nói ra tên của người phụ nữ đó, nhưng bất luận thế nào tôi cũng không nhớ ra được. Ký ức sau đó thì đã trở nên hết sức mơ hồ, tôi chỉ nhớ được rằng mình đã trò chuyện với Diệp Thu Vi rất lâu, sau đó thì rời khỏi phòng bệnh, nói kết quả điều tra cho Chủ nhiệm Viên biết. Sau đó nữa thì…

Sau đó nữa thì ký ức của tôi đã chạy tới thời điểm trung tuần tháng 10 năm 2011. Chủ nhiệm Viên tìm đến tôi, nói là Diệp Thu Vi đã được bảo vệ, đang ở trong Bệnh viện Tâm thần thành phố, tùy tiện ám sát cô ta sẽ rút dây động rừng. Ông ta hy vọng tôi có thể đặt ra một kế hoạch kín kẽ sau đó dùng phương pháp ám thị giải quyết Diệp Thu Vi luôn trong bệnh viện. Nhưng tôi vẫn còn lờ mờ nhớ được, trạng thái của tôi khi đó hình như đã bị quấy nhiễu bởi một thứ gì đó. Chủ nhiệm Viên đồng ý là sẽ cho tôi thời gian để hồi phục. Sau đó, ký ức lại một lần nữa xuất hiện sự rạn nứt, tôi lờ mờ nhớ được một buổi đêm nào đó trong năm 2012, tôi và Chủ nhiệm Viên đã gặp nhau trong một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố. Ông ta vừa hút thuốc vừa nói với tôi: “Thời cơ đã chín muồi, tháng sau tôi sẽ sắp xếp cho anh tới Bệnh viện Tâm thần thành phố để phỏng vấn. Anh bây giờ có vấn đề gì không? Có thể khống chế được anh ta không?”

Tôi nhớ là mình đã khẽ gật đầu, sau đó liền nói bằng giọng lạnh lùng và âm u vô hạn: “Tôi sẽ ẩn nấp kĩ một chút, không để cho anh ta hay biết gì.”

Chủ nhiệm Viên nhả ra một hơi thuốc. “Cẩn thận một chút, anh ta tuy là lá chắn của anh, nhưng đồng thời cũng có thể trở thành vũ khí để Diệp Thu Vi đối phó với anh. Nhớ đấy, nếu như thất bại, sẽ không có ai bảo vệ anh đâu.”

Tôi nhắm mắt lại, cảnh tượng tiếp theo là lãnh đạo đặt một tập tài liệu xuống bàn làm việc của tôi. “Nhất Tân, đây là chủ đề chính của tháng Chín, cậu xem qua đi.”

Tôi cầm tập tài liệu đó lên xem, thấy trên trang đầu viết là “Phân tích tâm lý của tội phạm giết người trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội“.

Cảnh tượng tiếp nữa thì là lão Ngô đưa tay sờ gáy, nói với tôi bằng giọng mang đầy ý vị sâu xa: “Lão Trương, về chủ đề tâm lý tội phạm trong giai đoạn chuẩn bị kia của cậu có một người chưa biết chừng có thể giúp được cậu đấy.”

Cảnh tượng cuối cùng là lão Ngô ngẩng mặt lên, nhìn tôi, nói: “Là một bệnh nhân trong bệnh viện của tớ...”

Trái tim trở nên nặng nề vô hạn, tôi khẽ lắc đầu theo bản năng rồi giật mình bừng tỉnh từ trong dòng ký ức hỗn loạn.

Là X - người tới Bệnh viện Tâm thần thành phố gặp Diệp Thu Vi là X, tôi chỉ là lá chắn của anh ta mà thôi. Anh ta đi gặp Diệp Thu Vi chỉ vì một mục đích, đó là giúp Tập đoàn A loại trừ sự uy hiếp. Nhưng, tôi rốt cuộc đã làm gì? Tôi là X ư? Tôi và anh ta là cùng một người ư? Diệp Thu Vi từng gặp tôi rồi, cũng biết rõ thân phận của tôi, tại sao lại đồng ý gặp tôi nhiều lần như thế, hơn nữa còn kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện của bản thân? Cô ta rốt cuộc muốn làm gì? Lời mà cô ta nói với tôi rốt cuộc có bao nhiêu phần là thật, bao nhiêu phần là giả? Tôi rốt cuộc là ai? Tôi rốt cuộc bị làm sao vậy?

”Nhất Tân...” Bà xã khẽ xoa lưng tôi, mấy lần muốn nói gì đó mà lại thôi, cuối cùng mới nức nở nói: “Anh đừng suy nghĩ nhiều nữa, cũng đừng đi phỏng vấn gì nữa cả, em xin anh đấy...”

Giọng nói của cô ấy khiến tôi lại một lần nữa quay trở về thực tại. Tôi đưa tay day mắt, cắn mạnh vào đầu lưỡi, cố ép cho mình phải tỉnh táo trở lại. Tôi không thể để mặc cho X khống chế bản thân, tôi nhất định phải làm rõ mối quan hệ giữa mình và X, nhất định phải làm rõ trạng thái tâm lý của mình. Tôi suy nghĩ một lát rồi đột ngột nhớ ra tập tài liệu về những vụ chết người kia, thế là bèn đứng bật dậy đi về phía phòng đọc sách. Bà xã vội vàng kéo tôi lại từ phía sau, đồng thời hạ thấp giọng nói: “Nhất Tân, anh đừng suy nghĩ nhiều nữa, em xin anh đấy...”

”Em hãy đi với anh, chỉ một lát thôi.” Tôi bình tĩnh nhìn cô ấy. “Anh sắp làm rõ mọi việc rồi.”

Bà xã mặt mày nhăn nhó thở dài, nhưng rốt cuộc cũng chỉ đành khẽ gật đầu vẻ hết cách. Đúng vào lúc này, con trai tôi mở cửa phòng của nó ra, bất an đứng ở cửa, lại đưa tay dụi cặp mắt lim dim, nhìn tôi bằng ánh mắt quái dị.

”Đản Đản!” Bà xã vội vàng chạy tới. “Mẹ làm con thức giấc phải không?”

Thằng bé vội vàng lắc đầu đáp: “Dạ không, con chỉ đang buồn tiểu thôi.”

Tôi cũng bước tới xoa đầu con trai, đồng thời khẽ nở nụ cười với nó. Nó cười lại với tôi, nhưng nụ cười rõ ràng là đầy vẻ căng thẳng và nôn nóng. Khi đó tôi đang đặt toàn bộ tâm tư lên người X, do đó chẳng nói lời nào, cứ thế đi vào trong phòng đọc sách, bà xã thì kéo con trai đi vào trong nhà vệ sinh.

Tôi ngồi xuống trước bàn, lấy tập tài liệu về những vụ chết người mà Thang Kiệt Siêu giao cho tôi ra, bắt đầu lật từ đầu tới cuối một cách chậm rãi. Sáu người chết đầu tiên lần lượt là Tạ Bác Văn, Đinh Tuấn Văn, Trần Hy, Vương Vĩ, Triệu Hải Thời, Hà Ngọc Bân. Người chết thứ bảy là Lưu Hướng Đông, nhưng ông ta căn bản chưa chết, thời gian tử vong của ông ta được ghi là ngày 8 tháng 11 năm 2009, nhưng đó thực ra là ngày mà tôi và Diệp Thu Vi giao chiến với nhau lần đầu tiên – thời điểm được cố tình nhắc đến trong tập tài liệu này có lẽ cũng ẩn chứa một sự ám thị nào đó.

Người chết thứ tám tên là Vu Khang, vừa mới nhìn thấy cái tên này trước mắt tôi đã xuất hiện ngay hình tượng một người đàn ông lưng hùm eo gấu, hai tay xăm trổ xanh lè. Ngay sau đó, một số mảnh ký ức vụn vặt bỗng ùa vào trong đầu tôi, tôi loáng thoáng nhớ ra: Hồi đó là tháng 7 năm 2003, tôi đã đến một làng nhỏ ở ngoại ô phía nam thành phố, hỏi thăm mấy người dân trong làng về một người đàn ông tên là Vu Khang. Tôi đã tìm hiểu được rất nhiều thông tin hữu dụng, chẳng hạn như về gia đình, về quá trình trưởng thành, về đặc điểm tính cách của Vu Khang. Một người dân còn nói cho tôi biết, hồi nhỏ Vu Khang từng bị vùi lấp bởi đất cát đổ xuống từ một chiếc xe tải, thiếu chút nữa thì mất mạng, về sau, tôi đã lợi dụng nỗi sợ hãi đối với xe tải cỡ lớn của Vu Khang, lại dùng biện pháp ám thị khiến anh ta nảy sinh chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế tiêu cực, cùng thì khiến cho anh ta bỏ mạng trong một vụ tai nạn xe cộ ở đường Vành đai 4 phía tây thành phố.

Tôi nhanh chóng nhìn lướt qua tài liệu một chút:

Vu Khang, nam, sinh năm 1977, người bản địa, không nghề nghiệp, bị một chiếc xe tải hạng nặng cán chết tại đường Vành đai 4 phía tây thành phố. Qua giám định của cảnh sát giao thông, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về vụ tai nạn giao thông này.

Trên tài liệu không có ghi chép gì về thời gian tử vong, nhưng tôi nhớ rất rõ ràng, anh ta chết vào đầu tháng 8 năm 2003, là do chính tôi giết chết bằng biện pháp ám thị. Còn về việc tại sao lại phải giết anh ta thì tôi nhất thời không thể nào nhớ ra được.

Tôi đưa tay lên day mạnh trán, lại lần đến trang thứ chín của tập tài liệu kia:

Trần Đồng Kính, nam, sinh năm 1972, người bản địa không nghề nghiệp, chết do nhảy từ tầng cao của khách sạn xuống đất, qua giám định được xác định là tự sát.

Sau khi đọc đi đọc lại mấy lần, tôi rốt cuộc đã có một chút ấn tượng về người tên Trần Đồng Kính này. Anh ta là một gã đàn ông béo phệ, đầu trọc, cẳng chân còn to hơn đùi tôi một chút. Tuy không nhớ rõ giữa mình và anh ta đã xảy ra chuyện gì, nhưng trực giác nói cho tôi biết, anh ta là một người mặt thiện lòng gian, hơn nữa còn đáng ghê tởm vộ cùng. Tôi vẫn loáng thoáng nhớ được là anh ta bị mắc chứng rối loạn nhân cách thể xung động khá nghiêm trọng, rất dễ chịu sự ám thị từ người khác. Tôi đã lợi dụng đặc điểm này của anh ta, từ đó tiến hành phá hoại mối quan hệ giữa anh ta và bạn bè, người thân, từ đó dẫn dắt cho anh ta nhảy lầu tự sát trong một cơn xung động.

Vụ tự sát này của anh ta hình như diễn ra vào mùa thu năm 2003, thời gian cụ thể là khoảng tháng Mười.

Người chết thứ tám và thứ chín đều là do tôi giết. Tôi hít sâu một hơi, tiếp tục lật tới những trang tiếp theo. Người chết thứ mười tên là Mã Thạch Nguyên. Trong ấn tượng của tôi, anh ta là một người khá ít nói, vóc người hơi gầy, nhưng toàn thân đều toát ra vẻ dữ dằn và hung hãn. Mọi người đều rất sợ anh ta, tôi cũng sợ anh ta - tại sao tôi lại sợ chứ? Tôi không nhớ giữa mình và anh ta rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, nhưng kết cục của anh ta thì có thể nhớ được đại khái: Anh ta thích kìm nén sự giận dữ, sau đó chờ thời cơ bùng nổ. Tôi đã lợi dụng điều này, tìm cơ hội thổi bùng lên cơn giận dữ của anh ta, khiến anh ta lao vào một khu chợ chém bị thương nhiều người, cuối cùng thì bị cảnh sát bắn chết tại chỗ, thời gian là vào khoảng tháng Giêng năm 2004.

Tôi xem lướt qua tập tài liệu: Mã Thạch Nguyên, nam, sinh năm 1975, người bản địa, nhân viên công ty sửa chữa ô tô Tại quảng trường ** ở trung tâm thành phố đã cầm dao chém bị thương bảy người không quen biết, bị cảnh sát bắn chết tại chỗ.

Anh ta cũng là do tôi giết.

Tôi lại lật đến trang tiếp theo, thông tin về người chết thứ mười một được ghi như thế này: Trương Nghĩa Quân, nam, sinh năm 1960, người bản địa, Tổng giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn **.

Tôi bất giác ngây người ra đó, người tên Trương Nghĩa Quân được nhắc tới trong tập tài liệu này là một người chú trong họ đã qua đời từ nhiều năm trước của tôi, lúc ban ngày khi trò chuyện với Hà Hải Phong ở đồn công an tôi từng vô tình nhắc đến tên ông ta. Ông ta và cha tôi có chung một ông sơ1, tuy về mặt máu mủ thì đã xa xôi lắm rồi, song quan hệ giữa hai bên vẫn luôn không tệ.

1.Tức là cha của ông cố, ông nội của ông nội – ND.

Hồi đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước, ông ta từ quê nhà lên thành phố lập nghiệp, trong thời gian này cha tôi còn từng giúp đỡ ông ta rất nhiều về mặt vật chất, hai bên gia đình cũng giữ mối quan hệ khá thân mật với nhau. Mùa đông năm 2004, ông ta đột ngột qua đời trên đường phố vì một cơn nhồi máu cơ tim cấp tính, hồi đó tôi còn tới dự tang lễ của ông ta...

Nghĩ đến đây, một số ký ức xa xôi và mới mẻ bất giác ùa vào trong đầu tôi, phát sinh những sự xung đột và hòa hợp với ký ức vốn có của tôi. Tôi nhớ rất rõ là dịp đầu đông năm 2004, tôi đã tiến hành đi sâu vào điều tra trạng thái tâm lý của Trương Nghĩa Quân, thế rồi phát hiện hồi nhỏ ông ta từng rất sợ chó. Về sau, tôi đã lợi dụng chó để khiến cho nỗi sợ hãi này của ông ta bùng phát, cuối cùng thì mất mạng ngay trên đường phố.

Trương Nghĩa Quân là chú của tôi, thế mà tôi lại đi giết ông ta ư? Dù tôi nhất thời khó có cách nào tiếp nhận sự thật này, vậy nhưng quá trình điều tra, trù tính và cuối cùng là ám thị đối với ông ta đang hiển hiện ra hết sức rõ ràng trong đầu tôi. Đúng thế, chính tôi đã giết ông ta. Nhưng tại sao tôi lại phải giết ông ta chứ? Tôi đã cố gắng nhớ lại trong hơn hai phút, rốt cuộc vẫn chẳng thể nhớ ra nguyên nhân cụ thể, chỉ lờ mờ cảm thấy là Trương Nghĩa Quân dường như từng làm ra chuyện gì đó có lỗi với tôi.

Lại một phút nữa trôi qua, tôi dừng việc suy nghĩ lại, cúi xuống nhìn vào tập tài liệu kia một lần nữa. Khi nhìn thấy cái tên Trương Nghĩa Quân, tôi đột nhiên ý thức được một vấn đề nghiêm trọng: Trước đây tôi từng không chỉ một lần lật xem tập tài liệu về những vụ chết người này, tại sao lại chẳng có chút ấn tượng nào về những người chết ở sau Lưu Hướng Đông? Những người khác tạm chưa xét đến, nhưng Trương Nghĩa Quân là họ hàng của tôi cơ mà, hơn nữa còn từng qua lại nhiều năm với gia đình tôi, nếu tôi từng nhìn thấy tên của ông ta trong tập tài liệu này thì ắt không thể nào quên được. Vậy nhưng đêm đó tôi lại cảm thấy mình mới lần đầu tiên nhìn thấy cái tên Trương Nghĩa Quân trong tập tài liệu về những vụ chết người, chuyện này rốt cuộc phải giải thích ra sao đây?

Chẳng lẽ tài liệu từng bị đánh tráo? Không đúng - tôi lật xem lại bảy trang đầu tiên, thấy trên chỗ trống mỗi trang đều ghi đầy các thông tin về trạng thái tâm lý của người chết, hơn nữa bút tích rõ ràng là của tôi, qua đó đủ thấy tài liệu nhất định chưa từng bị đánh tráo. Nhưng nếu tập tài liệu này vẫn luôn nằm trong tay tôi, vậy thì tại sao tôi lại cảm thấy mình chưa từng nhìn thấy cái tên Trương Nghĩa Quân ở trong đó chứ? Nếu người chết thứ mười một trong tập tài liệu này không phải là ông ta, vậy thì có thể là ai được đây? Tôi đã suy nghĩ rất lâu, vậy nhưng vẫn không nhớ ra những cái tên khác, ngược lại còn bắt đầu cảm thấy mình trước đó hình như thực sự đã từng nhìn thấy cái tên Trương Nghĩa Quân rồi.

Rốt cuộc đoạn ký ức nào mới là thật đây? Tôi nằm bò trên bàn đọc sách, dùng tay đỡ trán, đầu óc trở nên có chút hỗn loạn. Lúc này, bà xã đẩy cửa đi vào, bước tới trước bàn, lại đặt tay lên lưng tôi, đưa cho tôi một cốc trà hoa nhài tỏa hương thơm thoang thoảng. Tôi đón lấy cốc trà, cô ấy nhẹ nhàng xoa lưng tôi, sau đó không nói một lời, lẳng lặng bước qua chỗ khác. Nghe âm thanh mà phán đoán, có lẽ cô ấy đã ngồi xuống chiếc xô pha ở sau lưng tôi rồi. Tôi uống mấy ngụm trà, cảm thấy tâm trạng vốn đang phiền muộn bất giác nguôi ngoai đi rất nhiều. Sau khi đặt chiếc cốc xuống, một số cảnh tượng hơi mơ hồ đột nhiên tràn vào trong đầu tôi, lóe hiện trước mắt tôi, tuy cực kỳ khó nắm bắt nhưng tôi vẫn có thể phát hiện ra một số thông tin có giá trị từ trong những mảnh vụn ký ức này.

Tôi nhìn thấy một cảnh tượng như thế này: Đó dường như là một buổi sáng, tôi ngồi trong xe đọc tập tài liệu về những vụ chết người, những cái tên như Vu Khang, Trần Đồng Kính, Mã Thạch Nguyên lần lượt lọt vào trong tầm mắt tôi. Ngay sau đó, tôi nhìn thấy tên của Trương Nghĩa Quân, nhưng chỉ mới nhìn thoáng qua thôi tôi đã vội vàng dùng ngón trỏ tay trái che cái tên này lại - tôi căn bản không muốn làm như thế, người đó không phải là tôi, mà là...

Là X.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 9: Nhiệm vụ ám sát khó khăn


Sau nháy mắt tôi đã trở về thực tại từ trong dòng ký ức mơ hồ, bàn tay phải hơi run lên một chút, suýt nữa thì đánh rơi chiếc cốc xuống đất. Đúng thế, tôi đã từng không chỉ một lần đọc tập tài liệu về những vụ chết người này, cũng nhìn thấy cái tên Trương Nghĩa Quân, vậy nhưng lại không lần nào nhớ được. Bởi lẽ, X vẫn luôn ngầm ngăn cản tôi đọc tập tài liệu này, còn thường xuyên dùng các phương như phân tán sự chú ý hay xóa bỏ ký ức trong tiềm thức để loại trừ hoặc là sửa đổi ký ức của tôi về những gì đã đọc được, điều này cũng giống như việc anh ta từng nhiều lần sửa đổi ký ức của tôi ở các phương diện khác vậy.

Hoặc cũng có thể nói thế này, trong những thời khắc quan trọng, tôi sẽ không còn là tôi nữa, mà là X. Anh ta có quyền khống chế tuyệt đối với tâm lý, cũng là chủ nhân thực sự của Trương Nhất Tân, còn tôi thì chỉ là lớp vỏ che chắn bên ngoài của anh ta mà thôi.

Tôi bỏ chiếc cốc xuống, không những không cảm thấy hoảng sợ mà ngược lại còn hưng phấn vô cùng. Tự nơi đáy lòng tôi nảy sinh niềm cảm kích tột độ với Diệp Thu Vi - cô ta đã tiến hành một cuộc ám thị nhằm vào tôi từ nhiều mặt, dưới sự giúp đỡ của cô ta, lúc này tôi rốt cuộc đã được đứng ở một vị trí hoàn toàn bình đẳng với X. Đây là một cơ hội ngàn năm hiếm gặp, tôi nhất định phải nắm lấy để rồi đoạt lại quyền khống chế tâm lý từ trong tay X.

Tôi mới là Trương Nhất Tân.

Tôi vô thức nhếch khóe môi, lại uống một ngụm trà nữa, sau đó tiếp tục lật đến những trang sau của tập tài liệu.

Thông tin về người chết thứ mười hai được ghi lại như thế này: Dương Dũng, nam, sinh năm 1980, người bản địa, không nghề nghiệp, chết vì ngộ độc khí ga.

Tôi dễ dàng nhớ ra các thông tin về người này. Lúc đó dường như là ngày Hai mươi tháng Giêng năm 2005, tôi bắt đầu điều tra về Dương Dũng, phát hiện anh ta từng bị tổn thương về tình cảm ở nhiều phương diện như tình thân, tình bạn, dẫn đến bị mắc chứng rối loạn khí sắc1 chu kì nghiêm trọng. Tôi đã nghiên cứu về quy luật luân chuyển các tâm trạng của anh ta, lại dùng một số biện pháp để kích thích, cuối cùng đã khiến anh ta bỏ mạng trong căn phòng thuê trọ khi tâm trạng bi quan chiếm vị trí chủ đạo trong tâm lý. Tôi không thể nhớ ra nguyên nhân giết chết anh ta.

1. Rối loạn khí sắc là một thuật ngữ được dùng để thay thế rối loạn cảm xúc, trong đó khí sắc là chỉ một tâm trạng, một trạng thái tình cảm lâu dài, bền vững hơn so với cảm xúc - ND.

Tiếp theo là người chết thứ mười ba: Dương Hạo, nam, sinh năm 1981, người bản địa, không nghề nghiệp, chất do tự thiêu.

Dương Hạo hình như là em họ của Dương Dũng. Mùa hè năm 2005, tôi bắt đầu tiến hành đi sâu vào điều tra và phân tích tâm lý của Dương Hạo, qua đó phát hiện anh ta bề ngoài thì có vẻ mạnh bạo nhưng thực chất nội tâm lại vô cùng yếu đuối. Anh ta hết lòng tin theo một thứ tôn giáo nào đó, và tôi đã lợi dụng thứ tín ngưỡng có phần hơi quá khích này để khiến anh ta tự thiêu. Còn về nguyên nhân giết chết anh ta thì tôi cũng không thể nhớ ra được.

Người chết thứ mười bốn tên là Nghiêm Tuấn Khanh, nam, sinh năm 1959, là một quan chức ở Sở Xây dựng của tỉnh. Trong phần ký ức về người đàn ông này đã xuất hiện bóng dáng của Chủ nhiệm Viên. Đó là mùa thu năm 2006, Chủ nhiệm Viên nhờ tôi tiến hành điều tra Nghiêm Tuấn Khanh và tìm cách trừ khử ông ta. Sau hơn nửa tháng điều tra và phân tích, tôi phát hiện trong giai đoạn ngủ đông của tình dục, Nghiêm Tuấn Khanh từng bị một người phụ nữ trưởng thành dụ dỗ, thế nên sau khi trưởng thành, tâm lý buông thả dục vọng vẫn luôn tồn tại. Dưới sự sắp đặt của tôi, ông ta cuối cùng đã đột tử trong nhà người tình vì buông thả dục vọng quá độ.

Người chết thứ mười lăm tên là Phùng Nam, nữ năm 1969, là bác sĩ nội khoa ở Bệnh viện Nhân dân số 1 của thành phố. Tôi không rõ cô ta đã gây ra một sự uy hiếp như thế nào cho Tập đoàn A, tóm lại là mùa xuân năm 2007, tôi được Chủ nhiệm Viên nhờ giết chết cô ta. Khá giống với tình trạng của Lã Thần, Phùng Nam cũng bị mắc chứng rối loạn nhân cách thể hoang tưởng rất nghiêm trọng. Thông qua biện pháp ám thị, tôi làm tình trạng hoang tưởng của cô ta nặng thêm, đồng thời khiến cho cô ta nảy sinh ham muốn tự sát, và cuối cùng cô ta đã quyết định dùng thuốc độc để kết liễu cuộc đời mình - đây quả thực là phương thức tự sát thích hợp với một bác sĩ nội khoa.

Tôi dừng lại một chút, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, lại ngoảnh đầu liếc nhìn bà xã đang ngồi gật gà gật gù trên xô pha, sau đó tiếp tục lật mở tài liệu, thấy người chết ở trang thứ mười sáu tên là Lý Tùng.

Nhìn thấy cái tên này, tôi đột nhiên nảy sinh ấn tượng rõ ràng hơn hẳn về Chủ nhiệm Viên.

Tôi lờ mờ nhớ lại một cảnh tượng thế này: Đó là một ngày mùa hè, tôi ngồi trên ghế lái phụ của một chiếc xe, ô cửa sổ bên cạnh mở hé, những tiếng ve kêu râm ran không ngớt vang lên. Tôi ngoảnh đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy nơi đó là một rừng cây dương khá chỉnh tề, cành lá rất rậm rạp, ánh sáng gần như không qua lọt. Ở nơi cuối của khu rừng đó loáng thoáng có thể nhìn thấy mấy phiến ngói xanh, ngoài ra còn có mùi phân trâu cùng với mùi hương thanh tân của hoa cỏ trộn lẫn vào nhau không ngừng tràn vào mũi tôi. Tôi ngoảnh đầu nhìn qua phía bên trái, thấy Chủ nhiệm Viên đang ngồi trên ghế lái của chiếc xe.

Ông ta liếc mắt nhìn tôi, hai bờ môi mím chặt rồi chợt ho mạnh một tiếng, nhổ ra ngoài cửa sổ một bãi đờm. Sau đó, ông ta lấy từ trong chiếc cặp da màu đen ở ghế sau ra một túi hồ sơ, lại lấy từ trong túi ra một xấp ảnh. Ông ta xem đi xem lại những tấm ảnh đó mấy lượt, cuối cùng mới đưa tới cho tôi một cách cẩn thận.

Xấp ảnh đó tổng cộng có tám tấm, kích thước đều vào khoảng 15x10. Trong đó có một tấm chụp lại cảnh một người đàn ông đứng phát biểu trong một buổi hội nghị nào đó, vừa nhìn đã biết là tác phẩm của một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Có bốn tấm khác thì dường như là chụp trộm, đều là ảnh về cuộc sống cũng như công việc của người đàn ông này. Đó là một người đàn ông khoảng trên dưới năm mươi tuổi, vóc người cao lớn, bụng tuy có mỡ nhưng không nhô lên nhiều lắm, tứ chi đều có vẻ chắc nịch, dáng đi cũng rất vững chãi, có lẽ là một người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Ông ta đeo một cặp kính hình vuông, mặt cũng là kiểu hình vuông chữ điền, tóc mai đã lốm đốm điểm bạc, môi dưới dày và hơi chĩa ra ngoài một cách tự nhiên, ánh mắt thì vừa sâu sắc vừa tràn đầy sức mạnh.

”Lý Tùng.” Chủ nhiệm Viên giới thiệu: “Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tỉnh đương nhiệm.”

Tôi cầm xấp ảnh đó trong tay, hơi thở vốn đang đều đặn đột nhiên trở nên hơi rối loạn.

”Các thông tin về người này tôi không cần thiết phải giấu cậu, đương nhiên cũng không giấu nổi cậu.” Chủ nhiệm Viên đưa mắt nhìn tôi một chút, sau đó nói tiếp: “Người này nổi tiếng về phương thức làm việc cứng rắn, những năm qua từng đánh đổ không ít nhân vật tai to mặt lớn ở tỉnh ngoài, đến đầu năm nay thì đột nhiên được điều qua đây, nhất định là cũng muốn làm nên thành tích gì đó. Ông ta muốn có thành tích thì mục tiêu nhắm đến đầu tiên tất nhiên chính là Tập đoàn A. Nửa năm gần đây, tập đoàn đã sử dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không ăn thua vì người này cả rắn lẫn mềm đều không chịu, dường như đã nhất quyết muốn thiết lập lại trật tự trong chính giới cũng như giới thương nghiệp.”

Tôi đưa trả lại xấp ảnh đó cho Chủ nhiệm Viên, lẳng lặng gật đầu, không nói năng gì cả.

Chủ nhiệm Viên đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ một chút, sau đó mới khẽ thở dài, nói: “Theo nguồn tin đáng tin cậy, ủy ban Kiểm tra Kỷ luật sẽ có hành động vào trung tuần tháng Tám, một khi hành động bắt đầu thì cục diện sẽ vượt ra ngoài tầm kiểm soát.” Rồi ông ta ngoảnh đầu qua nhìn tôi. “Nhiệm vụ của cậu lần này chính là trừ khử ông ta càng nhanh càng tốt, thời gian hạn định là trong tháng này. Hơn nữa, để giảm bớt phiền phức trong tương lai, cái chết của ông ta nhất định phải là một vụ tự sát.”

Ký ức càng lúc càng trở nên rõ ràng, tôi nhớ ra hôm đó hình như là ngày 20 tháng 7, chỉ còn mười một ngày nữa là sang tháng mới. Khi ấy, tôi suy nghĩ một lát rồi bèn lắc đầu, nói: “Không được, thời gian ngắn quá.”

”Đây đương nhiên không phải là một chuyện dễ dàng, nhưng chúng ta đã không còn lựa chọn nào khác nữa rồi” Chủ nhiệm Viên nói. “Chúng ta nhất định phải đồng tâm hiệp lực vượt qua cửa ải khó khăn này. Có một điều cậu cần phải hiểu, đó là nếu tập đoàn mà gặp vấn đề, thân phận của cậu chắc chắn sẽ bị bại lộ, về điều này tôi có thể dùng nhân cách của mình để đảm bảo với cậu. Nhất Tân...” Ông ta nhìn chằm chằm vào đôi mắt của tôi. “Giữa chúng ta không chỉ là quan hệ giữa chủ thuê và người làm thuê thôi đâu, cậu đã bước chân lên con thuyền của tập đoàn rồi.”

Tôi khẽ gật đầu, cố giữ bình tĩnh nói: “Tôi hiểu, nhưng thời gian thực sự quá ngắn. Với loại quan chức ở cấp bậc như ông ta, chỉ riêng việc tiếp xúc và điều tra đã khó khăn lắm rồi, càng đừng nói gì tới việc tiến hành tác động vào tâm lý...”

”Điều này thì cậu không cần phải lo lắng.” Chủ nhiệm Viên cắt ngang lời tôi, đồng thời lấy từ trong túi hồ sơ ra ba trang tài liệu dày đặc toàn những chữ là chữ.“Toàn bộ thông tin về ông ta, bao gồm thói quen sinh hoạt, hứng thú sở thích, hoàn cảnh gia đình, thậm chí là cả quá trình trưởng thành nữa, tôi đã thay cậu điều tra hết sức tỉ mỉ và chi tiết rồi.” Vừa nói ông ta vừa đưa mấy trang tài liệu đó cho tôi. “Nhiệm vụ của cậu là dựa vào đây để phân tích ra nhược điểm trong tâm lý của ông ta, sau đó trừ khử ông ta trong tháng này. Còn về vấn đề tiếp xúc, tập đoàn sẽ dùng mọi nguồn lực để giúp cậu. Trong vòng mười một ngày sắp tới, cậu sẽ có cơ hội tiếp xúc với ông ta hai lần ở cự ly gần. Ngoài ra, tập đoàn sẽ nghĩ cách sắp xếp cho cậu ăn cơm riêng với ông ta một bữa nữa.”

Tôi chậm rãi lật xem tài liệu nhưng vẫn không thể hạ quyết tâm.

”Nhất Tân.” Chủ nhiệm Viên đột nhiên hỏi- “Cậu bây giờ còn nợ khoảng bao nhiêu nữa?”

Tôi lập tức hiểu ngay ra ý của ông ta, thế là bèn thành thực trả lời:“Không tính đến nợ ngân hàng thì còn khoảng tám triệu một trăm nghìn nữa.”

”Nợ ngân hàng không phải là vấn đề gì lớn lắm, nhưng nợ tư nhân thì thật không dễ giải quyết chút nào.” Ông ta nở một nụ cười đầy ý vị. “Cuộc sống của cậu bây giờ vẫn ổn chứ?”

Tôi cũng khẽ mỉm cười, sau khi suy nghĩ một chút bèn nói: “Sau mấy lần làm nhiệm vụ trước, tôi đã nhận được hơn một triệu, về cơ bản vẫn còn có thể ứng phó được.”

”Với chút tiền vặt vãnh đó chỉ có thể ứng phó được tạm thời mà thôi.” Chủ nhiệm Viên nói tiếp: “Phải rồi, nghe nói cậu và cô gái kia vẫn giữ liên lạc với nhau, hơn nữa cô ta còn từ chối không đi xem mặt bất kỳ ai, một lòng muốn đợi cậu, làm cha mẹ đều giận đến nỗi đổ bệnh, có đúng vậy không?”

Nghĩ đến câu nói này, dòng suy nghĩ của tôi đột nhiên lại quay trở về thực tại. Tôi ngoảnh đầu nhìn bà xã lúc này đã sắp ngủ gật trên xô pha, sống mũi bất giác cay sè - mấy năm trước, cô ấy quả thực đã vì tôi mà phải chịu quá nhiều nỗi khổ sở.

Sau khi cha mẹ qua đời, tôi vẫn luôn phải cố gắng để hoàn trả món nợ khổng lồ mà bọn họ để lại. Đến năm 2004 tôi đã bán đi toàn bộ các món tài sản có thể bán được, từ đó trả xong phần lớn các khoản nợ, cuộc sống vì thế mà bình lặng hơn trước một chút, có thể đi làm một cách bình thường. Nhưng dù rằng như thế, tôi vẫn phải gánh một món nợ hơn tám triệu, những tranh chấp có liên quan thì lại càng không thể tránh khỏi, thế nên phần lớn tiền lương mỗi tháng của tôi đều phải dùng để trừ nợ, chỉ có thể giữ lại mấy trăm nhân dân tệ để giải quyết những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Trong quãng thời gian đó, buổi tối tôi chỉ có thể ngủ lại ở công ty, ăn uống thì khắc khổ vô cùng. Nếu không có mấy người bạn và bà xã (khi đó vẫn còn là bạn gái) ngấm ngầm tiếp tế, chắc tôi không sống được đến bây giờ.

Tôi không muốn làm liên lụy tới bạn gái, do đó bắt đầu từ năm 2001, tôi đã từng mấy chục lần đề nghị chia tay, nhưng lần nào cũng chỉ đổi lại được nước mắt của cô ấy cùng với lòng quyết tâm chờ đợi càng thêm son sắt hơn. Bề ngoài cô ấy nói với người thân và bạn bè là đã chia tay với tôi rồi nhưng lại từ chối không đi xem mặt bất cứ ai mà người nhà giới thiệu, hơn nữa cứ có cơ hội là lại lén lút đi gặp tôi ngay. Năm 2005, cha mẹ cô ấy vì chuyện này mà lần lượt đổ bệnh phải vào nằm viện, tôi thì lại một lần nữa đề nghị chia tay, bảo cô ấy hãy cố gắng sống cho tốt và báo hiếu cha mẹ. Nhưng cô ấy cố chấp vô cùng, nói là nếu không thể thành hôn với tôi, cô ấy sẽ sống một mình cả đời. Trong những năm tháng đó, có một lần tôi đã lén trốn đến nơi khác, hy vọng có thể thoát khỏi những khoản nợ, đồng thời khiến cho bạn gái vì tuyệt vọng mà thôi không chờ đợi tôi nữa. Nhưng vô ích, cô ấy rất nhanh đã tìm được tôi, các chủ nợ cũng vậy. Tôi chỉ đành quay trở lại thành phố này, tiếp tục sống trong sự giày vò đau khổ hết ngày này tháng nọ.

Cuộc sống vốn dĩ chẳng hề có chút hy vọng nào, vậy nhưng vận may bỗng buông xuống vào năm 2007. Lúc sinh tiền, cha tôi từng mở một công ty chế biến thực phẩm, đến năm 2003 thì bị ngân hàng tịch thu để gán nợ, nhưng vì cha tôi khi còn sống có thực hiện một số hành vi trái pháp luật thế nên giấy tờ sở hữu nhà đất của công ty đó có tồn tại các vấn đề rất nghiêm trọng, thủ tục thu hồi vì thế mà không thể hoàn thành, đất đai và nhà xưởng từ đó liền trở thành vật chết, bất kể là tôi, ngân hàng, công ty bảo lãnh hay là dân làng và quan chức sở tại ở nơi công tỵ đó tọa lạc đều chẳng có biện pháp gì với khu đất đó cả. Đến tháng 8 năm 2007 thành phố có kế hoạch mở rộng, cần dùng đến đất đai của công ty chế biến thực phẩm, thế là tôi, ngân hàng và dân làng địa phương đã bắt tay liên kết với nhau, lại nhở cậy sự giúp đỡ của một số người làm việc trong chính phủ, cuối cùng đã thành công nhận được một khoản tiền bồi thường là hai mươi hai triệu nhân dân tệ. Sau việc này, tôi không chỉ trả xong tất cả các khoản nợ, còn dư ra được hơn hai triệu nữa. Cuộc sống đột nhiên phát sinh thay đổi, thế rồi tôi và bạn gái đã kết hôn luôn vào tháng Chín cùng năm...

Nghĩ đến đây, tôi bất giác sững người ra đó, phát hiện ký ức đã lại một lần nữa xuất hiện mâu thuẫn hết sức rõ ràng: Trong ký ức vốn có của tôi, sự thay đổi trong cuộc sống bắt nguồn từ khoản tiền bồi thường thu hồi đất vào tháng 8 năm 2007. Nhưng trong ký ức của X, tôi cuối cùng có thể kết hôn với bà xã hoàn toàn là nhờ vào nhiệm vụ được giao hồi tháng 7 năm 2007.

Tôi nhớ rất rõ ràng, chiều ngày 20 tháng 7 năm 2007, nghe Chủ nhiệm Viên nhắc đến chuyện giữa tôi và bạn gái, tôi nhất thời im lặng không nói gì. Không chờ tôi mở miệng, Chủ nhiệm Viên đã lại nói tiếp: “Cô gái đó đã vì cậu mà phải chịu nhiều nỗi khổ như vậy, lẽ nào cậu không muốn sớm kết hôn với cô ta để cô ta được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn sao?”

Tôi vẫn giữ im lặng, đợi ông ta nói tiếp.

”Cậu quả thực rất thông minh.” Chủ nhiệm Viên khẽ gật đầu với tôi. “Tôi sẽ nói rõ ràng luôn với cậu vậy, nếu cậu giúp được tập đoàn, tập đoàn nhất định sẽ không bạc đãi cậu. Chỉ cần Lý Tùng tự sát trong tháng này, các khoản nợ còn lại của cậu tập đoàn sẽ giúp cậu thanh toán hết luôn trong một lần.”

”Không đủ.” Tôi nhìn chằm chằm vào mắt ông ta. “Ngoài việc trả hết các khoản nợ, tôi muốn được nhận thêm hai triệu tiền mặt nữa.”

Chủ nhiệm Viên hơi nhíu đôi hàng lông mày lại, các bắp thịt trên mặt cũng khẽ rung lên, cặp mắt thì nheo lại thành một đường thẳng - lời của tôi hiển nhiên đã khiến ông ta thấy phản cảm. Có điều, chỉ một giây sau đó ông ta đã lại mở to mắt ra, mỉm cười rạng rỡ, thở phào một hơi, nói:“Được thôi, cậu cứ xem kĩ chỗ tài liệu này trước đi đã.”

Tôi lập tức đưa trả tài liệu lại cho ông ta. “Tôi đã ghi nhớ hết vào đầu rồi.”

Ông ta nhướng mày lên, sống mũi hơi run rẩy, trong mắt thoáng qua một tia kinh ngạc, nhưng ngay sau đó liền gật đầu mỉm cười, xuống xe đi tới bên cạnh một dòng sông nhỏ ở phía đối diện với khu rừng kia, đốt sạch toàn bộ ảnh và tài liệu. Sau khi trở về trong xe, ông ta vừa nổ máy vừa nói:“Nhớ đấy, nhất định phải khiến cho ông ta tự sát trong tháng này. Còn có một câu này nữa cậu cũng cần phải nhớ kĩ, tất thảy đều là hành vi cá nhân của cậu, nếu xảy ra chuyện gì không ai có thể bảo vệ được cậu đâu.” Hơi dừng lại một chút, ông ta nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn: “Tiền vẫn sẽ được gửi vào tài khoản đó.”

Nghĩ tới đây, tôi lại một lần nữa quay trở về thực tại thế rồi liền bất an đứng dậy, đi đi lại lại mấy bước trong phòng. Bà xã nghe thấy tiếng động thì liền tỉnh dậy, đưa mắt nhìn tôi, hỏi: “Nhất Tân, anh xem xong rồi ư?”

Nhìn vào đôi mắt đầy vẻ mỏi mệt của bà xã, tôi bất giác nhớ lại sự kiên định của cô ấy trong quãng thời gian khó khăn kia, trong lòng không ngừng trào dâng những nỗi niềm chua xót và cảm động.

”Em yêu...” Tôi đã lâu lắm không gọi cô ấy như vậy rồi. “Nếu em đã buồn ngủ rồi thì hãy đi ngủ trước đi, đừng đợi anh nữa.”

Cô ấy thoáng sững người ra một chút rồi không kìm được đưa tay bụm miệng, khẽ sụt sịt mấy tiếng, nước mắt lập tức ứa ra ầng ậng trong khóe mắt. Sau một lát, cô ấy mím chặt đôi môi, dụi mạnh mắt, hít sâu một hơi, cất giọng thoáng mang theo chút vẻ nghẹn ngào: “Anh cứ làm việc của anh đi, em đi rót cho anh cốc trà nữa.”

Tôi vốn muốn nói gì đó nhưng đến cuối cùng vẫn chẳng thể mở miệng. Bà xã cầm cốc rời khỏi phòng đọc sách, tôi thì ngồi trước bàn, mở máy tính ra, vào một trang Web tìm kiếm dòng chữ “bồi thường thu hồi đất của công ty chế biến thực phẩm ** ở thành phố ** năm 2007” và ấn nút tìm kiếm. Sau khi lật liền một mạch hơn ba mươi trang tìm kiếm, tôi vẫn chẳng thể tìm thấy những thông tin bồi thường đất đai có liên quan. Kế đó, tôi lại gõ từ khóa “công ty chế biến thực phẩm ** ở thành phố **” và ấn nút tìm kiếm, rất nhanh sau đó đã sợ hãi phát hiện nhà xưởng và đất đai của công ty ấy sớm đã bị ngân hàng thu hồi thành công từ năm 2005 rồi, hơn nữa còn được bán đấu giá một cách thuận lợi, tới năm 2006 thì trở thành phân xưởng của một công ty chế biến thực phẩm khác. Nói như vậy, việc tôi nhận được tiền đền bù đất và dùng để trả hết các khoản nợ vào tháng 8 năm 2007 căn bản chưa từng xảy ra.

Đây rõ ràng lại là một đoạn ký ức hư cấu nữa được X bịa đặt ra và cấy vào trong ý thức của tôi.

Tôi hít sâu một hơi, sau đó gõ từ khóa “Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tỉnh ** Lý Tùng tự sát năm 2007” và ấn nút tìm kiếm. Tại dòng cuối cùng của trang tìm kiếm thứ bảy hiển thị một đường link có đoạn văn tự trích dẫn như thế này: Ngày 28 tháng 7 năm 2007, Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tỉnh ** Lý Tùng qua đời trong văn phòng làm việc do treo cổ, nghi là tự sát, động cơ không rõ.

Tôi cẩn thận nhấn vào đường link đó, dòng suy nghĩ lại một lần nữa trở về thời điểm cuối tháng 7 năm 2007.

Buổi chiều hôm ấy, Chủ nhiệm Viên sau khi đốt sạch ảnh và tài liệu thì liền lái xe đưa tôi rời khỏi khu rừng kia.

Sau khoảng mười phút, ông ta đưa tôi tới một trạm xe khách ở cách đó mấy cây số rồi liền lái xe rời đi luôn. Lúc chiều tối, khi tôi đang ngồi trên chiếc xe khách đường dài trở về thành phố thì nhận được tin nhắn do bạn gái gửi tới: “Nhất Tân, em vừa mới thử bằng que thử thai xong, hai vạch, lần này thì có thật rồi, phải làm sao đây?”

Tin nhắn này đã khiến tôi hoàn toàn hạ quyết tâm là phải giết Lý Tùng bằng được. Tôi gọi điện thoại cho bạn gái, đảm bảo là sẽ cưới cô ấy trong vòng hai tháng tới, sau đó bèn giữ lòng bình tĩnh để bắt đầu suy nghĩ về kế hoạch ám sát.

Trên tập tài liệu mà Chủ nhiệm Viên đưa cho tôi xem có viết rằng: Lý Tùng sinh tháng 5 năm 1949, trình độ học vấn thạc sĩ, từng có mấy năm phải tham gia đội sản xuất ở nông thôn1, sau khi trở lại thành phố thì tiếp tục học tập, đầu những năm tám mươi được vào làm trong một đơn vị cấp bộ nào đó, đến giữa những năm chín mươi thì được điều xuống địa phương, từng giữ chức vụ Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật ở nhiều nơi, nổi tiếng về sự thiết diện vô tư cùng với phương thức làm việc cứng rắn. Năm 2005, trong thời gian đảm nhiệm chức Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật của một tỉnh nào đó, Lý Tùng đã gạt bỏ sự dụ dỗ về tiền bạc và sự uy hiếp tới tính mạng sang một bên, cuối cùng thành công đập tan một tập đoàn lợi ích khổng lồ có dính dáng tới cả chính giới, giới thương nghiệp và giói xã hội đen trong tỉnh, từ đó nức tiếng một thời. Đến đầu năm 2007, Lý Tùng được điều về vùng này

1. Chỉ việc các thanh niên tri thức tham gia phong trào vô sản hóa bằng cách gia nhập các công xã, đội sản xuất ở nông thôn trong thời kỳ Cách mang văn hóa ở Trung Quốc - ND.

giữ chức Bí thư ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tỉnh, rất nhanh sau đó đã tỏ ý rằng sẽ nghiêm trị hủ bại và loại trừ đám u nhọt trong Đảng. Nghe thấy những lời này, một số quan chức cùng với Tập đoàn A vốn có dính dáng rất nhiều tới chính giới về mặt lợi ích đương nhiên là cảm thấy như đứng đống lửa, như ngồi đống than rồi.

Trên tài liệu còn viết, ông nội của Lý Tùng từng giữ chức Chính ủy của một đơn vị bộ đội nào đó, trong thời chiến đã lập nên những công lao không nhỏ, sau khi đất nước được thành lập thì vào làm việc trong cơ quan nhà nước, vậy nhưng lại đã bị bức hại mà chết trong mười năm loạn lạc1. Tuy Lý Tùng và cha mẹ ông ta không hề vì thế mà bị liên lụy, nhưng việc này nhất định là đã tạo ra những ảnh hưởng nhất định đối với ông ta, có thể còn dẫn đến sự xuất hiện của một nhược điểm nào đó trong tâm lý của ông ta nữa - đây chính là một trong các trọng điểm mà tôi cần tiến hành thăm dò trong quá trình tiếp xúc với Lý Tùng sắp tới.

Trong tài liệu còn nhắc đến một chuyện thế này: Mùa xuân năm 1985, Lý Tùng đã từng phải chịu một sự đả kích to lớn cả về mặt gia đình lẫn sự nghiệp, dẫn đến tâm trạng suy sụp vô cùng. Về sau, ông ta từng có lần công khai kể chuyện này ra và coi đó như một cuộc trải nghiệm trong đời, nguyên văn như sau: “Hơn hai tháng liền, cứ đúng vào ba giờ đêm mỗi ngày là tôi lại tỉnh dậy, sau đó thì không cách nào ngủ tiếp được nữa. Hồi đó đầu óc tôi cũng trở nên ngốc nghếch, chẳng suy nghĩ được việc gì, chẳng nhớ được việc gì, cũng chẳng có hứng thú với chuyện gì cả.

1. Chỉ thời kỳ Cách mạng văn hóa - ND.

Khi phải đối mặt với sự chỉ trích của lãnh đạo và đồng nghiệp, tôi cảm thấy mình sống mà chẳng có chút giá trị nào, chẳng bằng chết đi cho xong (cười lớn). Ôi, bây giờ nghĩ lại, khi đó bản thân đúng là còn non dại quá, cứ gặp phải khó khăn là liền dễ dàng cúi đầu. Trạng thái đó đã kéo dài khoảng gần ba tháng thì phải, nhưng rồi cuối cùng dưới sự trợ giúp của người nhà, tôi đã thoát được khỏi tình cảnh khó khăn, từ đó học được cái gọi là tâm lý kiên cường thực sự.”

Nghĩ đến đây, trong lòng tôi thoáng nảy ra chủ ý: Sự mất ngủ có tính quy luật, sự suy giảm đột ngột của năng lực tư duy, năng lực nhận thức cùng hứng thú đối với mọi vật, ngoài ra là cảm giác không có giá trị, cảm giác sống không bằng chết, những tình trạng này rõ ràng đều là biểu hiện lâm sàng của chứng trầm cảm. Nếu ông ta thực sự từng bị mắc chứng trầm cảm, vậy thì muốn dẫn dắt cho ông ta tự sát hẳn cũng không phải là việc gì quá mức khó khăn.

Tôi lập tức gửi tin nhắn cho Chủ nhiệm Viên, yêu cầu ông ta nhanh chóng điều tra rõ ràng xem trongnăm 1985, Lý Tùng rốt cuộc đã gặp phải những sự đả kích như thế nào, tâm trạng suy sụp được biểu hiện ra sao, ngoài ra cũng cần làm rõ quá trình ông ta trở lại bình thường nữa. Sáng sớm ngày hôm sau, Chủ nhiệm Viên gọi điện thoại cho tôi, nói là thời gian đã qua lâu quá rồi, việc điều tra quá mức khó khăn, do đó chỉ có thể lần ra được một số chi tiết vụn vặt thôi.

Khi đó, tôi suy nghĩ trong chốc lát rồi bèn hỏi: “Năm đó, ông ta rốt cuộc đã phải chịu những sự đả kích như thế nào?”

Chủ nhiệm Viên nói: “Đầu năm 1985, không biết ông ta đã làm mất lòng ai mà đột nhiên bị điều từ trung ương xuống địa phương đảm nhiệm một chức vụ nhàn hạ, hơn nữa rất có khả năng ngay cả chức vụ này cũng không giữ nổi. Cũng trong thời gian đó, cha ông ta mắc bệnh cấp tính qua đời, mẹ thì vì bệnh tim mà phải vào nằm viện, nghe nói con gái ông ta còn bị ngã gãy tay nữa. Nói tóm lại là trong thời điểm đó ông ta đã gặp phải những tai họa liên miên.”

Tôi suy nghĩ một chút rồi lại hỏi: “Tâm trạng của ông ta đã bị suy sụp trong khoảng hai, ba tháng, về sau đã khôi phục như thế nào vậy? Khi đó ông ta có từng đi gặp bác sĩ tâm lý nhờ tư vấn không? Hay có từng uống thứ thuốc gì đó hay không?”

”Có một tin tức này tôi cũng không rõ là có đáng tin cậy hay không.” Chủ nhiệm Viên hơi dừng một chút rồi mới nói tiếp: “Bởi lẽ nó được lan truyền sau khi đã qua miệng của mấy người. Nghe đâu, Lý Tùng từ năm hơn hai mươi tuổi đã bắt đầu uống thứ thuốc gì đó rồi, mãi tới năm chín mươi mấy mới dừng lại.”

”Là thuốc gì vậy?” Tôi hỏi. “Có biết tên thuốc không?”

''Việc này tôi còn đang điều tra.” Chủ nhiệm Viên nói: ‘Phải rồi, nghe nói ông ta còn từng nhờ người mua thuốc từ nước ngoài về nữa.”

Tôi suy nghĩ một lát rồi bèn hỏi tiếp: “Trong thời gian tâm trạng suy sụp, ông ta có từng thể hiện ra khuynh hướng tự sát không?”

”Chuyện này...” Chủ nhiệm Viên do dự trong phút chốc rồi mới nói: “Có từng thực sự tìm đến cái chết hay không thì tôi không rõ, nhưng ông ta có một người em họ trong quãng thời gian khó khăn đó đã từng đến giúp ông ta chăm sóc con gái. Nghe người này kể lại thì khi giúp ông ta thu dọn bàn làm việc, cô ta từng tìm thấy một bức di thư do chính tay ông ta viết.”

Tôi khẽ gật đầu. Bất kể là đã có hành động thực tế hay chưa, việc viết di thư cũng chứng tỏ rằng Lý Tùng ít nhất cũng từng xuất hiện ý nghĩ tự sát. Khuynh hướng tự sát, dùng loại thuốc nào đó trong một thời gian dài, khi gặp khó khăn thì tâm trạng có những sự thay đổi đột ngột, những biểu hiện này đều chứng tỏ Lý Tùng rất có khả năng từng mắc chứng trầm cảm. Nếu loại thuốc mà ông ta uống kia là thuốc chữa trị trầm cảm, vậy thì xét từ việc ông ta bắt đầu uống thuốc từ năm hơn hai mươi tuổi, căn nguyên của chứng trầm cảm mà ông ta mắc phải căn bản không phải là những sự đả kích về mặt gia đình và sự nghiệp...

Tôi lại một lần nữa nhớ đến cảnh ngộ mà ông nội của ông ta đã gặp phải trong mười năm loạn lạc.

Đương nhiên, bản thân việc “Lý Tùng từng mắc chứng trầm cảm” cũng chỉ là một suy đoán mà thôi, nói đến căn nguyên thì vẫn còn sớm quá. Việc cấp bách trước mắt là phải điều tra ra tên của loại thuốc mà năm xưa ông ta đã uống - nghĩ đến đây, trong lòng tôi bỗng nhiên lóe lên một tia sáng rực. Nếu Lý Tùng quả thực đã từng uống thuốc chữa trị trầm cảm trong một thời gian dài, vậy thì chứng tỏ ông ta bị mắc chứng trầm cảm mãn tính. Chứng trầm cảm mãn tính thông thường có liên quan tới các nhân tố không dễ thay đổi như khiếm khuyết gen, nhân cách trầm cảm, do đó rất khó dùng thuốc và các liệu pháp tâm lý để chữa khỏi tận gốc. Đối với người bệnh dạng này mà nói, cho dù không có biểu hiện trầm cảm rõ ràng trong một thời gian dài thì cũng vẫn phải kiên trì dùng thuốc, ít nhất thì cũng cần mang sẵn loại thuốc thường dùng bên người.

Tôi đưa tay mân mê cằm, trầm ngâm nói: “Chủ nhiệm Viên, hãy đặt trọng điểm điều tra vào Lý Tùng hiện giờ đi. Ông cần cố gắng điều tra xem gần đây ông ta có mua và uống loại thuốc nào không, hoặc là ông ta có thường xuyên mang theo loại thuốc nào bên người không. So với những chuyện đã xảy ra từ mấy chục năm trước, chuyện này chắc là dễ điều tra hơn đúng không?”

”Tôi hiểu rồi.” Chủ nhiệm Viên nói. “Cậu yên tâm, trước buổi trưa hôm nay tôi sẽ có câu trả lời cho cậu. Phải rồi, sáng ngày mai có một cuộc họp ở Sở Giám sát, Lý Tùng sẽ tới đó phát biểu. Sau cuộc họp, tôi sẽ sắp xếp cho cậu tiến hành phóng vấn riêng ông ta khoảng mười phút. Cậu cứ chuẩn bị trước cho cẩn thận đi, cơ hội này không dễ gì có được đâu.”

Khi đó, tôi phải sống trong một căn phòng trọ rẻ tiền ở ngoại ô thành phố, tiền thuê một tháng là một trăm hai mươi tệ, mà khoản tiền đó còn là do bạn gái tiếp tế cho tôi. Căn phòng ấy rất nhỏ, không có cửa sổ, chỉ có duy nhất một chiếc giường tưởng như sắp sập đến nơi. Sáng hôm đó bạn gái đến thăm tôi, còn mang cho tôi một miếng thịt bò. Cô ấy ôm chặt lấy tôi mà khóc rất lâu. Tôi nhẹ nhàng vuốt ve bụng cô ấy, đảm bảo với cô ấy là trong vòng hai tháng nữa sẽ mang lại cho cô ấy một gia đình ấm áp. Cô ấy hỏi tôi là dựa vào cái gì, tôi bèn ôm lấy cô ấy và dịu dàng nói: Đất của công ty chế biến thực phẩm sắp được chính phủ trưng dụng rồi, anh cùng với Bí thư chi bộ của thôn ** và người của ngân hàng đã bắt tay hợp tác với nhau được một thời gian rất dài, tin rằng đến tháng sau sẽ lấy về được một khoản tiền lớn.”

Cô ấy nhìn tôi bằng ánh mắt mong chờ. “Được khoảng bao nhiêu?”

Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Ngoài khoản tiền chi cho Bí thư chi bộ và người của ngân hàng thì còn khoảng hơn mười triệu, trả xong tất cả các khoản nợ thì chúng ta còn được chừng hai triệu.”

Cô ấy đổi khóc thành cười, mở to hai mắt ra nhìn tôi. “Thật vậy ư?”

Tôi mỉm cười gật đầu, ân cần lau nước mắt cho cô ấy...

Nghĩ tới đây, bàn tay phải đột nhiên hơi run lên, tôi lại một lần nữa quay trở về thực tại. Nửa giây sau, tôi ngó mắt nhìn cảnh đêm bình lặng bên ngoài cửa sổ, trong lòng nổi lên một sự nghi hoặc trước giờ chưa từng có.

Sáng ngày 21 tháng 7 năm 2007, khi tôi gặp bạn gái, để khiến cô ấy yên tâm tôi đã bịa đặt ra chuyện trưng thu và bồi thường đất - đây là lần đầu tiên lời nói dối đó xuất hiện. Trước đó, tôi vẫn luôn ngỡ rằng lời nói dối đó là do X bịa đặt ra, là một lần X tiến hành thao túng ký ức của tôi. Nhưng sau khi ngẫm lại nguồn cơn mọi chuyện, tôi đột nhiên cảm thấy khi nói ra những lời đó, tôi - chứ không phải là X - kỳ thực biết rõ đó là một lời nói dối. X không hề lừa gạt tôi, chính tôi đã lừa gạt bạn gái của mình, sau đó thì nhân tiện lừa gạt luôn chính bản thân mình nữa, tôi...

Tôi hít sâu một hơi, đưa tay lên ôm chặt mặt, nỗi nghi hoặc trong lòng càng lúc càng nhiều thêm. Trước đó, ký ức của tôi và X không có chút dính dáng gì tới nhau, cứ tựa như hai đường thẳng hoàn toàn song song. Nhưng lúc này, thông qua một lời nói dối vào ngày 21 tháng 7 năm 2007, ký ức của chúng tôi đột nhiên lại đan xen vào với nhau, đồng thời lấy đó làm điểm khởi đầu để bắt đầu hòa quyện, hơn nữa còn càng lúc càng khăng khít. Tôi thử nhớ lại những ký ức khác thuộc về X, thế rồi bất ngờ cảm thấy tất cả ký ức của anh ta đều thuộc về tôi - không phải là lúc này mới thuộc về tôi mà là bấy lâu nay vẫn luôn thuộc về tôi.

Chỉ mấy giây sau, hai đường thẳng song song đó đã hoàn toàn dung hòa thành một thể, thật và giả được phân tách rõ ràng, dần dần hình thành nên một ký ức hoàn chỉnh và chân thực của chính bản thân tôi.

Tôi vẫn luôn cho rằng tôi là tôi, X là X, nhưng bắt đầu từ lúc đó tôi đã hiểu rằng tôi chính là X. Hoặc có thể nói thế này, từ trước đến giờ chưa từng có X nào cả, tôi chính là tôi, tôi là Trương Nhất Tân.

Tôi uống một ngụm trà, tiếp tục nhớ lại chuyện xưa.

Trưa ngày 21 tháng 7 năm 2007, trong căn phòng trọ rẻ tiền ở ngoại ô thành phố, bạn gái vừa mới rời đi chưa lâu tôi liền nhận được một cuộc điện thoại do Chủ nhiệm Viên gọi đến.

“Tra ra rồi.” Giọng của ông ta nghe rất bình tĩnh, nhưng vẫn có thể nhận ra sự hưng phấn ẩn bên trong. “Thứ thuốc đó là Luvox, có mấy người bên cạnh Lý Tùng đã xác nhận ràng ông ta thường xuyên mang theo một loại thuốc có tên gọi Luvox trên người.”

Quả nhiên không nằm ngoài dự đoán của tôi.

Trong cơ thể người có tồn tại một thứ vật chất tên là serotonin. Nói một cách đơn giản thì serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh, có hàm lượng cao nhất ở vỏ ngoài của đại não và các khớp thần kinh. Xét về mặt vi mô, nó có tác động đến việc truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh, về mặt vĩ mô, nó có khả năng tác động đến tất cả mọi hoạt động của đại não, từ đó làm ảnh hưởng đến các mặt như tâm trạng, trí nhớ, khả năng tư duy và sức sống của con người.

Có thể nói serotonin là một thứ vật chất có thể khiến con người ta cảm thấy thoải mái, tạm bỏ qua các nhân tố khác (nhân tố bên ngoài như là áp lực xã hội, sự uy hiếp của người khác, nhân tố bên trong như là số lượng thụ thể dẫn truyền thần kinh, độ nhạy cảm) chưa xét đến, hàm lượng serotonin càng cao thì tâm trạng của con người sẽ càng vui vẻ. Ngược lại, nếu hàm lượng serotonin xuống thấp hơn mức thông thường, con người ta sẽ cảm thấy lo âu, mệt mỏi, bất an, thậm chí là phẫn nộ, từ đó nảy sinh các tình trạng như tâm trạng suy sụp, trí nhớ giảm sút, năng lực tư duy không ổn định, thường xuyên mất ngủ. Nếu hàm lượng này tiếp tục xuống đến mức quá thấp, năng lực của đại não sẽ lại càng giảm sút thêm/ từ đó gây ra các biểu hiện điển hình của chứng trầm cảm.

Chứng trầm cảm là một loại bệnh tâm lý hết sức đặc thù, việc phát bệnh của nó vừa có liên quan tới sự kích Thích về mặt tinh thần ở thế giới bên ngoài, lại vừa liên quan tới việc sụt giảm của hàm lượng serotonin trong đại não – nguyên nhân tâm lý và nguyên nhân sinh lý hoàn toàn có thể xúc tiến và tác động đến nhau. Cho nên, muốn chữa trị chứng bệnh này nhất định phải kết hợp giữa dùng thuốc và tư vấn tâm lý. Riêng đối với một số người mắc chứng trầm cảm vì nguyên nhân khiếm khuyết gen, việc thường xuyên dùng thuốc để duy trì hàm lượng serotonin

là điều vô cùng cần thiết. Các loại thuốc thường dùng để chữa trị chứng trầm cảm có rất nhiều, một trong số đó là Fluvoxamine, thường được gọi tắt là Luvox. Tôi đã biết cần phải giết Lý Tùng bằng cách nào rồi. Có hai nguyên nhân gây ra chứng bệnh trầm cảm, do đó muốn dẫn dắt một người bị mắc chứng trầm cảm mãn tính tự sát thì cần phải bắt tay vào từ hai phương diện: Thứ nhất nghĩ cách khiến ông ta dừng việc dùng thuốc từ đó làm giảm hàm lượng serotonin trong đại não của ông ta, tạo điều kiện tiền đề cho sự tác động vào tâm lý. Thứ hai, tìm ra căn nguyên gây ra chứng trầm cảm, suy đoán ra quá trình tâm lý trong khi phát bệnh, tiếp đến tìm cách dẫn dắt cho tâm lý của ông ta tái hiện lại quá trình này, khiến cho chứng trầm cảm lại một lần nữa bùng phát. Điều thứ nhất thì không có gì là quá khó khăn để thực hiện, Luvox là một loại thuốc được kê theo đơn, chỉ có thể

mua dưới sự giúp đỡ của bác sĩ. Lý Tùng thường xuyên mang theo Luvox trên người, điều này chứng tỏ rất có thể ông ta có một bác sĩ tâm lý riêng đã hợp tác nhiều năm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Quyển 2 - Chương 9-2: Nhiệm vụ ám sát khó khăn (2)


Chỉ cần mua chuộc được người này và nhờ đưa ra lời đề nghị tạm thời ngừng dùng thuốc, Lý Tùng chẳng có lý nào lại không nghe.

Mấu chốt vẫn nằm ở điều thứ hai: Lý Tùng sinh năm 1949, hơn hai mươi tuổi thì bắt đầu dùng thuốc, căn nguyên của chứng trầm cảm hiển nhiên là có liên quan tới một vụ việc nào đó đã xảy ra từ những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước. Đến năm 1985, chứng trầm cảm xuất hiện một lần bùng nổ trong thời gian ngắn, điều này chứng tỏ việc xảy ra vào năm đó đã lại một lần nữa chạm đến căn nguyên trầm cảm ở sâu trong nội tâm của ông ta. Dựa vào tài liệu điều tra mà Chủ nhiệm Viên cung cấp, căn nguyên trầm cảm của ông ta rất có thể có liên quan tới việc ông nội ông ta bị bức hại đến chết, nhưng điều này dù sao cũng chỉ là suy đoán mà thôi. Nếu là các nhiệm vụ khác, có lẽ tôi sẽ không ngừng thăm dò để tiến hành kiểm chứng điều này, nhưng nhiệm vụ lần này quá ư quan trọng, cơ hội tiếp xúc với mục tiêu cũng cực kì đáng quý, do đó trước khi phán đoán được chứng thực, tôi tuyệt đối không thể hành động một cách khinh suất.

”Chủ nhiệm Viên.” Tôi trầm giọng nói: “Vẫn còn thiếu một chuyện cuối cùng nữa. Hãy giúp tôi điều tra hai mốc thời gian này, thứ nhất là ngày tháng cụ thể ông nội của Lý Tùng bị bức hại đến chết, thứ hai là thời điểm Lý Tùng bắt đầu dùng thuốc. Trước khi tôi bắt đầu phỏng vấn riêng Lý Tùng, ông nhất định phải đưa kết quả điều tra tới cho tôi đấy.”

”Tôi hiểu.” Chủ nhiệm Viên nói “Tôi sẽ bắt đầu điều tra luôn từ bây giờ, nhưng kết quả ra sao thì thật không dám đảm bảo, tôi chỉ có thể nói là sẽ cố hết sức mình thôi.”

”Ít nhất cũng phải điều ưa rõ ràng một trong hai chuyện đó.” Tôi nói. “Như vậy thì tôi mới có căn cứ để suy đoán.”

Vừa nghĩ đến đây, một bàn tay ấm áp, mềm mại chợt đặt lên gáy của tôi, theo bản năng tôi hơi rùng mình, lại một lần nữa quay trở về thực tại. Bà xã đặt cốc trà xuống bàn, nhìn tôi bằng ánh mắt áy náy và thoáng mang theo chút vẻ sợ hãi. “Có phải là em đã làm ảnh hưởng đến anh rồi không?”

”Đâu có.” Tôi thở phào một hơi, ngẩng đầu lên khẽ mỉm cười với cô ấy, sau đó lại nhanh chóng cúi xuống. “Em yêu, vất vả cho em rồi. Ý anh là, những năm nay vất vả cho em rồi.”

Cô ấy khom người xuống ôm lấy cổ tôi, khẽ hôn lên má tôi một cái, hai giây sau mới đưa mắt nhìn thoáng qua màn hình máy tính, rồi bèn hỏi: “Người này là ai vậy?”

”À.” Tôi nhìn vào bức hình Lý Tùng đang phát biểu trong một cuộc họp trên màn hình máy tính, khẽ ho một tiếng, nói: “Là một người bạn cũ của anh, nhưng đã qua đời được mấy năm rồi.”

* *

Tám giờ ba mươi phút sáng ngày 22 tháng 7 năm 2007, Sở Giám sát tỉnh mở một cuộc họp thường kỳ, Lý Tùng đại diện cho ủy ban Kiểm tra Kỷ luật tham dự và đứng ra phát biểu. Tôi một mặt chụp ảnh và ghi chép trong hội trường giống như một phóng viên bình thường, mặt khác lẳng lặng quan sát Lý Tùng ở cự ly gần. Tuy đây là một cuộc họp thiên về phương diện hành chính, vậy nhưng lời phát biểu của Lý Tùng lại nhấn mạnh vào công tác chống tham nhũng, hủ bại. Khi nói tới cảm nhận của bản thân hồi mới được điều tới đây nửa năm trước, ông ta thẳng thắn phát biểu mà không chút kiêng dè:

“Các vị hiện đang ngồi ở đây chắc hẳn đều rõ cả, trong tỉnh ta có tồn tại một thế lực ngoan cố, một tập đoàn lợi ích khổng lồ. tập đoàn này đã len lỏi vào trong nội bộ Đảng, trở thành mộ khối u nhọt không thể không loại trừ…Tôi có thể khẳng định một điều thế này, một số người đang ngồi đây ắt hẳn là có mối liên quan cực kỳ sâu sắc với tập đoàn lợi ích đó, chuyện này tôi sẽ điều tra tới cùng. Nhưng mọi người cũng đừng sợ, tôi khuyên những đồng chí đã đi nhầm vào con đường sai trái thế này, đừng nên ngồi đó chờ chết, hãy chủ động đến các cơ quan bộ nghành có liên quan mà khai báo thành thực, như thế các đồng chí sẽ được xử lý một cách khoan hồng…Tôi có thể kể cho mọi người nghe về một số người và việc mà tôi đã gặp gần đây, để mọi người thấy được tập đoàn lợi ích này ngông cuồng thế nào, coi trời bằng vung ra sao.. Khi tôi mới nhậm chức chưa đầy một tháng, thực sự là chưa đầy một tháng mà đã có người dám mang tiền mặt tới gặp tôi…Ba tháng gần đây, tôi còn nhận được không ít thư nặc danh, một số thì uy hiếp bản thân thôi, một số khác thì uy hiếp người nhà của tôi, thậm chí có một số bức thư còn nói thẳng tuột gì mà“Bí thư Lý, ông đừng có rượu mời không uống lại uống rượu phạt”, “Ông ở nơi khác thì còn có thể hô mưa gọi gió, nhưng đến tỉnh này rồi thì đừng có đùa với lửa”… Hôm nay, tại nơi này, tôi có thể nói cho mọi người biết chút về hoàn cảnh gia đình của tôi. Thế này nhé, cha mẹ tôi *

đều đã qua đời, con gái cũng gặp tai nạn xe cộ rồi bỏ tôi mà đi, hiện giờ tôi chỉ còn mỗi người vợ kết tóc đang nằm trên giường bệnh. Tôi vẫn thường xuyên đến bệnh viện thăm bà ấy, thường xuyên nói chuyện với bà ấy. Bà ấy nói với tôi là đã chuẩn bị sẵn sàng cho việc rút ống thở bất cứ lúc nào. Hai vợ chồng chúng tôi trên thực tế đều chẳng sợ gì cái chết, cho nên, tôi có thể nói rõ với những người đang uy hiếp tôi thế này, có trò gì thì cứ việc lôi ra hết đi. Thứ nhất, tôi với vợ tôi đã chuẩn bị sẵn quan tài rồi, chúng tôi không sợ chết; thứ hai, các người mà dám động đến tôi, ô dù bảo vệ của các người nhất định sẽ gặp phải vô vàn phiền phức, hành động đó thực chẳng khác nào vác đá tự đập vào chân mình đâu...”

Lời phát biểu của ông ta hùng hồn khẳng khái, trong hội trường tiếng vỗ tay không ngớt vang lên, có không ít người dự họp và phóng viên còn cảm động rơi nước mắt. Tự nơi đáy lòng tôi rất kính phục sự can đảm của Lý Tùng, nhưng cùng với đó, tôi còn phát hiện ra một số điểm lạ thường trong các biểu hiện của ông ta.

Tôi để ý thấy cứ mỗi lần nhắc đến cái chết là ông ta lại cúi đầu xuống một chút, đôi hàng lông mày nhíu chặt, hơi thở cũng trở nên dồn dập trong thời gian ngắn. Ngoài ra, trong ba lần nhắc đến cái chết của bản thân, ông ta đều vô thức đặt tay lên vị trí trái tim. Những biểu cảm và hành vi kể trên chưa từng xuất hiện một lần nào khi ông ta nhắc tới những việc không liên quan gì tới cái chết, điều này chứng

tỏ giữa chúng và cái chết có một mối liên quan đặc biệt nào đó. Vô thức cúi đầu và nhíu lông mày thông thường thể hiện sự thiếu tự tin, hơi thở dồn dập thì tượng trưng cho sự căng thẳng đột ngột, những điều này đều là biểu hiện bên ngoài của việc thiếu thoải mái trong tâm lý. Còn về hành động đặt tay lên chỗ trái tim thì hình như cũng có một ý nghĩa hết sức đặc biệt nào đó, có khả năng là một hành vi nghi thức hóa.

Tôi ý thức được rằng đối với Lý Tùng mà nói, “cái chết” là một khái niệm gì đó hết sức đặc biệt có khả năng tác động mạnh tới tâm lý của ông ta.

Lúc mười rưỡi, khi cuộc họp đang được tiến hành, tôi nhận được tin nhắn từ Chủ nhiệm Viên: “Ông nội Lý Tùng chết vào tháng 5 năm 1973, trong quá trình đấu tố, bệnh tim của ông ta tái phát dẫn đến tử vong, hoàn toàn là một việc ngoài ý muốn. Theo một nguồn tin chưa được xác minh, Lý Tùng bắt đầu dùng thuốc vào năm hai mươi lăm tuổi, thông tin này có thể dùng để tham khảo, thật giả chưa rõ.”

Tôi trả lời: “Mau xác minh.”

Thời gian cứ thế trôi qua từng giây từng phút, vậy nhưng bên phía Chủ nhiệm Viên vẫn chẳng có thêm thông tin nào khác được gửi đến. Lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút, cuộc họp rốt cuộc đã đi tới hồi kết, một nhân viên hành chính tìm đến tôi, nói rằng việc phỏng vấn Lý Tùng đã được sắp xếp xong xuôi, sẽ bắt đầu sau mười phút nữa. Tôi gửi tin nhắn cho Chủ nhiệm Viên hỏi về tình hình điều tra, Chủ nhiệm Viên nhanh chóng trả lời: “Có lẽ không thể xác minh trong hôm nay được.”

Tôi xóa hết tin nhắn đi, sau đó liền theo nhân viên hành chính kia rời khỏi hội trường, đồng thời ngấm ngầm suy tính kế hoạch. Việc đã đến nước này, xem ra chỉ có thể dựa vào các thông tin đã nắm được để tiến hành suy đoán mà thôi.

Sự việc rất có thể là như thế này: Lý Tùng bị khiếm khuyết gen, khả năng tổng hợp serotonin có vấn đề. Ông ta sinh năm 1949, năm 1973 thì hai mươi tư tuổi. Đúng vào năm hai mươi tư tuổi đó ông ta đã phải tận mắt nhìn thấy ông nội mình chết thảm, tâm lý phát sinh một loạt những biến hóa phức tạp, mà sự biến hóa trong tâm lý lại thông qua các phương thức như điều tiết nội tiết tố để tác động đến sinh lý, từ đó dẫn đến tình trạng hàm lượng serotonin giảm mạnh, mà gen có liên quan tới khả năng tổng hợp serotonin của ông ta lại bị khiếm khuyết, thế là bắt đầu từ lúc này Lý Tùng liền mắc phải chứng trầm cảm mãn tính. Năm 1974, Lý Tùng hai mươi lăm tuổi, trải qua sự đau khổ kéo dài trong một năm, ông ta và người nhà rốt cuộc đã nhận ra sự tồn tại của chứng trầm cảm, thế là liền bắt đầu dùng thuốc chống trầm cảm. Năm 1985, đối mặt với sự đả kích nặng nề cả về mặt gia đình lẫn sự nghiệp, tâm lý của ông ta lại một lần nữa xuất hiện quá trình biến hóa tương tự như năm 1973, từ đó tác động đến sinh lý, khiến cho chứng trầm cảm của ông ta xuất hiện và kéo dài trong ba tháng. Sau đó, nhờ tác dụng của thuốc cũng như sự an ủi của người nhà, ông ta rốt cuộc đã dần dần bình phục.

Dựa theo mạch suy nghĩ này mà phán đoán, hai sự kiện xảy ra năm 1973 và năm 1985 đều khiến cho chứng trầm cảm của Lý Tùng bùng phát, vậy thì căn nguyên trầm cảm của ông ta rất có thể là có liên quan tới một nhân tố chung nào đó cùng tồn tại trong hai sự kiện này. Có điều, trong hai sự kiện này quả thực có quá nhiều nhân tố chung, ví dụ như áp lực cuộc sống tăng đột ngột, sự qua đời của người thân, ác ý đến từ người khác, sự u ám của tương lai vân vân. Tôi để mặc cho tư duy lan rộng, lần lượt lồng từng nhân tố có thể nghĩ đến vào trong suy đoán của bản thân, vậy nhưng từ đầu đến cuối vẫn chẳng thể xác định rốt cuộc là căn nguyên nào đã dẫn đến chứng trầm cảm của ông ta. Có lẽ, căn nguyên trầm cảm của ông ta không phải là một nhân tố đơn lẻ, mà là do rất nhiều nhân tố tập hợp lại mà thành. Nếu sự thực quả đúng là như vậy, tôi rốt cuộc nên bắt tay vào từ phương diện nào để khiến chứng trầm cảm của ông ta lại một lần nữa bùng phát đây?

Tôi chậm rãi đi theo nhân viên hành chính kia, không kìm được có chút tự trách: Mười phút phỏng vấn sắp tới đây là cơ hội hiếm có mà Tập đoàn A chẳng dễ dàng gì mới tạo ra được cho tôi, nếu lãng phí mất thì quả thực quá ư đáng tiếc. Tại sao tôi không cố gắng suy luận và phán đoán từ trước mà cứ nhất định phải chờ kết quả điều tra từ Chủ nhiệm Viên làm gì? Nếu tôi sớm đã có chuẩn bị thì lúc này có lẽ đã không phải bị động như thế này.

Nhưng dù có tự trách thế nào đi nữa thì cũng chẳng ích gì, mười mấy giây sau, tôi đã theo nhân viên hành chính kia đi vào trong phòng làm việc của Lý Tùng. Khi đó, Lý Tùng đang đứng một mình trước cửa sổ, trầm tư dõi mắt nhìn về phía xa. Nhân viên hành chính đó nhìn thoáng qua tôi một chút, rồi lại đưa mắt nhìn Lý Tùng, nói: “Bí thư Lý, phóng viên Trương đến rồi đây.”

”Ừm.” Lý Tùng xoay người lại, chậm rãi đi tới bên cạnh tôi, ân cần chìa tay ra, đồng thời vừa quan sát tôi vừa nói: “Ồ, thật không ngờ lại là một cậu trai trẻ tuổi thế này.”

Nhân viên hành chính đứng kế bên nở một nụ cười đầy ý vị, sau đó liền đóng cửa phòng lại.

Tôi vội vàng đưa cả hai tay ra bắt tay với ông ta, đồng thời tươi cười, nói: “Bí thư Lý, được phỏng vấn riêng ngài thế này thật có thể nói là phúc đức ba đời của tôi. Tôi cảm thấy ngài so với trong tưởng tượng của tôi thì còn bình dị dễ gần hơn.”

Ông ta khẽ lắc đầu vẻ hết cách.“Này chàng trai trẻ, cậu nên bớt dùng mấy trò miệng lưỡi đó đi thì hơn, phải làm sao để học được những bản lĩnh thật sự mới là điều quan trọng.”

Tôi bất giác cười trừ, đồng thời ngấm ngầm quan sát sự bố trí trong căn phòng này và tưởng tượng ra tình cảnh ông ta tự sát. Khi đó, nghĩ đến cái chết của Lý Tùng, trái tim tôi đột nhiên chấn động, nhớ ra một vấn đề vừa rồi đã bị mình bỏ sót.

Buổi sáng hôm nay trong khi phát biểu, Lý Tùng từng không chỉ một lần nhắc đến cái chết, hơn nữa lần nào cũng đều thể hiện ra sự khó chịu khá rõ ràng trong tâm lý, mà khi nhắc đến cái chết của mình, ông ta còn vô thức đặt tay lên vị trí trái tim - đây dưòng như là một hành vi nghi thức hóa nào đó. Ngay từ lúc ấy tôi đã cảm thấy đối với Lý Tùng, cái chết dường như có mang một ý nghĩa tâm lý vô cùng đặc biệt.

Vậy thì, liệu chứng trầm cảm của ông ta có liên quan gì tới khái niệm về “cái chết” không?

Khả năng này là rất lớn. Dựa theo suy đoán trước đó, hai lần chứng trầm cảm của ông ta bùng phát lần lượt là vào năm 1973 và năm 1985. Năm 1973, ông nội của ông ta bị bức hại mà chết, năm 1985, cha ông ta đột ngột qua đời vì bệnh cấp tính, trong cả hai lần chứng trầm cảm bị phát ông ta đều phải trải qua nỗi đau mất người thân. Ông nội ông ta chết do bệnh tim tái phát dưới áp lực nặng nề, Lý Tùng mỗi khi nhắc đến cái chết của bản thân thì đều vô thức đặt tay lên vị trí trái tim, giữa hai việc này liệu có tồn tại mối liên quan gì không? Cha của Lý Tùng qua đời vì bệnh cấp tính, nhưng chứng bệnh cấp tính đó rốt cuộc là gì? Phải chăng cũng là một loại bệnh tim nào đó? Việc Lý Tùng đặt tay lên vị trí trái tim của mình có ẩn chứa một ý nghĩa tâm lý như thế nào? Chuyện này thì có mối liên quan như thế nào đến khái niệm về “cái chết”?

Tôi quyết định phải bắt tay vào điều tra từ “cái chết“.

Nhân viên hành chính kia đặt hai cốc nước xuống bàn trà, đồng thời vội vã nhìn thoáng qua tôi một chút, trong ánh mắt mang đầy vẻ cảnh giác và mong chờ. Tôi lập tức ý thức được rằng anh ta có lẽ cũng là người của Tập đoàn A. Trong quá trình phỏng vấn riêng lần này, anh ta là nội ứng của tôi, nhưng đồng thời cũng là người giám sát tôi nữa. Xem ra Tập đoàn A đến giờ vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào tôi.

Tôi thu nụ cười trên mặt lại, cất giọng dè dặt hỏi: “Bí thư Lý, thời gian của ngài rất quý báu, chúng ta hãy bắt đầu luôn đi, ngài xem vậy có được không?”

”Ừm.” Lý Tùng khẽ gật đầu, sau đó liền chỉ tay vào xô pha, nói: “Ngồi đi Tiểu Trương, hôm nay tôi có thể trò chuyện với cậu trong mười phút.”

“Dạ, mời ngài.” Tôi cung kính đưa tay ra dấu mời, chờ ông ta ngồi xuống rồi mới dè dặt ngồi xuống đầu bên kia của xô pha, sau đó lấy ra giấy bút chuẩn bị ghi chép. “Bí thư Lý, được phỏng vấn ngài tôi thực sự rất lấy làm vinh hạnh. Tôi đã chuẩn bị sẵn mấy câu hỏi thế này, mong được nghe ý kiến của ngài.”

”Được.” Ông ta ngồi mà lưng thẳng tắp. “Tôi đang nghe đây, hãy nói câu hỏi của cậu ra đi.”

Tôi đưa mắt liếc nhìn người giám sát ở cách đó mấy mét, suy nghĩ một chút rồi mới hỏi: “Trong cuộc họp hồi sáng hôm nay, ngài từng nhắc tới một tập đoàn lợi ích đã len lỏi vào trong nội bộ Đảng. Tôi muốn hỏi ngài thế này, tập đoàn lợi ích ở đây rốt cuộc là phiếm chỉ các thế lực hủ bại trong tỉnh hay là có hàm ý ám chỉ đặc biệt nào đó?”

Lý Tùng cầm cốc nước lên, nở một nụ cười mang đầy hàm ý sâu xa. “Câu hỏi này thoạt nghe thì sắc bén, kỳ thực lại rất thiếu suy nghĩ. Tôi đã từng làm công tác kiểm tra kỷ luật ở rất nhiều địa phương cấp huyện, cậu biết không, chỉ trong một vụ án tham nhũng ở một huyện lị nhỏ thôi mà khi điều tra xử lý cũng có thể lôi ra rất nhiều người, rất nhiều ban ngành, thậm chí là rất nhiều hệ thống có liên quan. Cậu thử nghĩ xem, một tỉnh là khái niệm như thế nào đây? Khi việc tham nhũng, hủ bại đã tồn tại trong thời gian dài, vậy thì không thể chỉ đơn thuần tập trung trong một khu vực nhỏ được, mà sẽ hình thành nên một hệ thống riêng của nó. Cho nên, nếu cậu hỏi rằng tập đoàn lợi ích này có phải là phiếm chỉ các thế lực hủ bại trong tỉnh hay không, câu trả lời của tôi là khẳng định, vì muốn chống hủ bại thì phải bắt hết cả cá lớn lẫn cá bé. Nhưng cùng với đó, muốn hình thành hệ thống thì trước tiên cần phải có nòng cốt, bọn khỉ vượn thường thích nấp trên cây cổ thụ, để tóm được bọn chúng thì phải chặt bỏ cây cổ thụ này đi, cho nên nếu cậu hỏi tôi là có hàm ý ám chỉ đặc biệt gì hay không, câu trả lời của tôi cũng vẫn là khẳng định.”

Tôi mỉm cười gật đầu, sau đó lại hỏi tiếp: “Chẳng hay ngài có thể tiết lộ một số chi tiết cụ thể về cây cổ thụ đó không?”

Ông ta uống một ngụm nước, sau đó vừa đặt cốc nước xuống vừa nói: “Trong một cuộc họp hồi đầu tháng tôi đã từng nói rồi, tình hình ở tỉnh nhà có hơi đặc biệt, giới thương nghiệp không chỉ chủ động tấn công vào chính giới, hơn nữa còn chiếm địa vị chủ đạo trong hệ thống tham nhũng, hủ bại. Gốc rễ của cây cổ thụ đó không hề nằm ở trong đảng. Cậu muốn tìm hiểu về chi tiết trong chuyện này, vậy thì đây chính là câu trả lời của tôi.”

Tôi khẽ gật đầu. “Nói vậy tức là cây cổ thụ đó chính là một xí nghiệp cỡ lớn nào đó trong tỉnh rồi.”

Lý Tùng chỉ cười mà không nói gì.

Tôi cho rằng thời cơ đã chín muồi, thế là sau khi trầm tư một lát liền quyết định bắt đầu thăm dò: “Nghe xong lời phát biểu của ngài trong cuộc họp hồi sáng, tôi thực sự rất cảm động, hơn nữa cũng vô cùng chấn động, tin rằng rất nhiều người có mặt tại đó cũng đều có cảm giác như tôi. Điều khiến tôi có ấn tượng sâu sắc nhất là những lời tuyên ngôn dũng cảm của ngài với thế lực hủ bại, tôi muốn hỏi rằng bọn họ thực sự gan lớn tày trời, dám trắng trợn uy hiếp là sẽ giết chết ngài ư?”

”Đúng vậy.” Lý Tùng vô thức đưa tay lên sờ ngực một chút. “Gần như mỗi ngày tôi đều nhận được thư nặc danh hoặc là điện thoại nặc danh, những ví dụ mà tôi đã liệt kê ra trong cuộc họp vẫn còn là nhẹ đấy.” Ông ta nở một nụ cười vẻ hết cách. “Có một số lời dọa dẫm và nhục mạ thực sự khó nghe vô cùng, người bình thường sợ là không chịu đựng nổi đâu.” Tôi thở dài một hơi, sau đó lại hỏi tiếp: “Ngài có thể nói ra cảm nhận của mình khi đối mặt với những lời uy hiếp và nhục mạ đó không?” Ông ta đột nhiên nheo mắt lại, đôi hàng lông mày nhăn tít, cùng với đó còn dùng tay phải ấn lên gáy, một giây sau mới khôi phục lại trạng thái tự nhiên. Trong quá trình buông tay xuống, ông ta còn để bàn tay dừng lại ở vị trí trái tim khoảng nửa giây.

”Cảm nhận ư?” Ông ta dừng lại một chút rồi mới nói:

”Bản thân tôi thì không thấy có chút phẫn nộ hay sợ hãi nào, nhưng tôi có thể cảm nhận được rõ ràng sự sợ hãi và bất lực của bọn họ. Nếu không vì bất lực, tại sao bọn họ lại phải dốc hết tâm tư để tiến hành đả kích tôi như thế? Nếu không vì sợ hãi, tại sao bọn họ lại nói ra những lời lẽ ác độc như vậy?”

”Ngài thực sự không sợ chút nào ư?” Tôi lập tức truy hỏi. “Ngài không lo bọn họ thực sự sẽ làm ra chuyện gì quá đáng ư?” Nói tới đây, tôi đưa tay gãi đầu, đưa mắt nhìn ông ta vẻ lúng túng.

”Tất nhiên là không rồi.” Ông ta đặt tay lên vị trí trái tim, khóe miệng hơi nhếch lên để lộ một nụ cười mỉm, lông mày thì hơi cau lại. “Tôi sẽ không run sợ trước bất cứ thủ đoạn hèn hạ nào. Đảng và nhà nước chính là chỗ dựa vững chãi nhất của tôi, dù tôi có chết đi thì quyết tâm loại trừ tham nhũng, hủ bại của nhà nước cũng tuyệt đối không bao giờ dao động.” Nói xong những lời này, ông ta khẽ hắng giọng một cái, trong cổ họng dường như có thứ gì đó bị mắc lại – đây là tín hiệu của sự căng thẳng và lo lắng tiềm tàng.

“Ừm.” Tôi suy nghĩ một chút rồi nói: “Ý của tôi là tạm gác thân phận và chức vụ qua một bên không xét tới, đứng từ góc độ của một con người, lẽ nào ngài chưa từng sợ hãi ư? Theo như tôi được biết, hình như con người ai cũng sợ chết thì phải?”

Ông ta hít sâu một hơi, khẽ thở dài một tiếng không dễ gì phát giác, sau đó liền cất giọng kiên định nói: “Cậu nói vậy không sai, đã là con người thì ai cũng đều sợ chết. Nhưng tôi muốn bổ sung một câu thế này, đã là một con người, vậy thì cần phải gánh vác những sứ mệnh xã hội xứng đáng với vai trò trong xã hội của bản thân. Tôi không có gì phải sợ hãi cả.”

Khi nói ra những lời này, bàn tay của ông ta thỉnh thoảng lại đặt lên vị trí trái tim, tần suất chớp mắt rõ ràng tăng thêm không ít, hơn nữa còn xuất hiện hai lần ngẩn ngơ ngắn ngủi. Những chi tiết nhỏ này đều chứng tỏ, trong tiềm thức, ông ta kì thực không hoàn toàn đồng tình với câu trả lời này của mình. Trực giác nói cho tôi biết, trong lòng ông ta thực ra cũng có tồn tại nỗi sợ hãi đối với cái chết.

Tôi cố giữ bình tĩnh, sau mấy phen do dự liền hạ quyết tâm cất tiếng hỏi: “Bí thư Lý, ngài có từng suy nghĩ về ý nghĩa của cái chết bao giờ chưa?”

Tôi biết đây là một hành động rất mạo hiểm, bởi câu hỏi này mang hàm ý xúc phạm khá rõ ràng, nếu không thể đánh động nội tâm của Lý Tùng, ông ta ắt sẽ nảy sinh sự hoài nghi, cảnh giác, thậm chí là phản cảm. Nhưng hành động mạo hiểm này rất đáng để thử một phen. Tôi tin rằng đối với Lý Tùng, cái chết nhất định là có một ý nghĩa tâm lý đặc biệt nào đó, câu hỏi này nhất định sẽ có thế khiến tiềm thức của ông ta nảy sinh sự đồng cảm. Mà một khi tiềm thức đã nảy sinh sự đồng cảm rồi, tự nơi đáy lòng ông ta sẽ sinh ra cảm giác thân thiết đối với tôi, từ đó liền coi tôi như là tri âm vậy. Với nền tảng này, tôi sẽ có thể tiến hành tìm hiểu sâu hơn về tâm lý của ông ta, thậm chí là trực tiếp tác động để khiến ông ta tự sát.

Hỏi xong câu hỏi này, tôi đưa mắt liếc nhìn nhân viên hành chính đang đứng một bên kia. Anh ta nhìn lại tôi một chút, sau đó liền ngoảnh đầu qua nhìn chằm chằm vào Lý Tùng, từng sợi cơ trên mặt đều trở nên căng cứng.

Khi đó, Lý Tùng nhanh chóng cúi đầu xuống, đôi hàng lông mày nhíu chặt, liên tục chớp mắt mấy lần, hơi thở cũng đột nhiên trở nên nhẹ bẫng, hiển nhiên là đã rơi vào trong một trạng thái suy tư đầy bức bối. Một lát sau, ông ta uống một ngụm nước, thân thể bỗng trở nên cứng đờ trong vòng một giây, thiếu chút nữa thì đánh rơi cốc nước trong tay xuống đất.

”Anh Trương.” Nhân viên hành chính kia lập tức quát khẽ. “Xin hãy chú ý tới ngôn từ của mình! Đây là một cuộc phòng vấn về công việc, anh hỏi kiểu gì vậy?”

Tôi hiểu là anh ta đang giải vây giúp tôi, thế là vội vàng đưa tay gãi đầu, cười trừ nói: “Úi chao, Bí thư Lý, thật có lỗi quá, vừa rồi tôi lỡ lời, mong ngài đừng trách! Thường ngày tôi vốn hay nghĩ đến những vấn đề triết học, hôm nay mới lần đầu tiên được gặp một nhân vật lớn như ngài, thành ra căng thẳng quá, thế nên...”

”Không sao.” Lý Tùng rốt cuộc cũng đã tỉnh táo trở lại, liền đặt chiếc cốc xuống bàn trà, khẽ xua tay nói, sắc mặt cũng nhanh chóng dãn hẳn ra vẻ thư thái. “Thật không ngờ cậu hãy còn trẻ như vậy mà đã bắt đầu suy nghĩ về những vấn đề triết học nặng nề đến thế. Tôi có thể trả lời câu hỏi này của cậu. Thực sự thì trong cuộc đời này tôi đã phải trải qua quá nhiều cái chết, do đó thường xuyên suy nghĩ về ý nghĩa của cải chết đối với con người. Chính vì như thế nên tôi sớm đã hiểu được một điều, đó là cần phải sống sao cho có ý nghĩa, vậy thì cái chết mới có ý nghĩa. Cho nên, vẫn là câu nói vừa rồi thôi, đối mặt với các thế lực hủ bại, tôi không có gì phải sợ hãi cả.”

Khi nói ra những lời này, ông ta không chỉ một lần đặt tay lên vị trí trái tim.

Tôi gật đầu lia lịa, tiếp tục dẫn dắt: “Tôi thì chưa từng có trải nghiệm gì cả, chỉ suy nghĩ vu vơ mà thôi, lời của ngài thực sự đã khiến tôi thu được rất nhiều lợi ích. Tôi nhất định sẽ ghi nhớ kĩ những lời dạy này, sống sao cho có ý nghĩa, để cho cái chết...” Tôi cố ý dừng lại một chút, sau đó mới nói giọng nhấn mạnh: “Để cho cái chết cũng trở nên có ý nghĩa.”

Trong quãng thời gian ba, bốn giây sau đó, Lý Tùng một mực cúi đầu, thân thể trở nên cứng đờ như khúc gỗ, hơi thở thì rất chậm rãi và nhẹ nhàng, hai mắt lộ vẻ ngẩn ngơ, những biểu hiện này đều chứng tỏ ông ta đang đi sâu vào suy nghĩ. Thế rồi ông ta đột nhiên tỉnh táo trở lại, tay phải đặt trên đùi chậm rãi xoa bóp, hơi thở khi thì nhẹ nhàng, khi lại dồn dập, đây là tín hiệu rõ ràng cho thấy sự bức bối trong tâm lý.

Lý Tùng thích suy nghĩ về ý nghĩa của cái chết, vậy nhưng việc suy nghĩ này lại khiến ông ta cảm thấy bức bối, đây chính là một trong các ý nghĩa tâm lý của “cái chết” đối với ông ta.

Tuy lần thăm dò này hoàn toàn được tiến hành trên cơ sở phán đoán, vậy nhưng rất may là sự mạo hiểm của tôi đã thành công. Tiếp theo đó, chỉ cần công tác chuẩn bị được tiến hành thuận lợi là trong lần gặp mặt sau tôi sẽ có thể thăm dò Lý Tùng lần cuối và bắt đầu thực hiện việc tác động vào tâm lý của ông ta.

Sau khi cuộc phỏng vấn kết thúc, tôi lập tức liên lạc với Chủ nhiệm Viên, bảo ông ta dừng tất cả các cô việc điều tra lại, nhanh chóng tìm cho ra bác sĩ tâm lý của Lý Tùng và mua chuộc đối phương. Hiệu suất làm việc của Chủ nhiệm Viên quả thực rất cao, ngay tám giờ tối ông ta đã gọi điện cho tôi, nói là đã mua chuộc được bác sĩ kia rồi, mà Lý Tùng cũng đã nghe theo lời đề nghị, bắt đầu dừng dùng thuốc ngay trong tối hôm đó.

Tôi biết là tập đoàn A có cài người bên cạnh Lý Tùng, thế là bèn hỏi về người giám sát đã ở bên cạnh tôi và Lý Tùng trong suốt cuộc phỏng vấn hôm nay. Chủ nhiệm Viên cười nói: “ Đúng là không giấu được cậu chuyện gì. Có điều mục đích của chúng tôi không phải là giám sát cậu, mà là giúp đỡ cậu khi cần. Người đó tên là Đường Bác Hiên, đã làm việc ở ủy ban Kiểm tra Kỷ luật mười mấy năm rồi mà vẫn chẳng thể ngóc đầu lên được, lần này tập đoàn phải mất rất nhiều công sức mới bố trí được anh ta tới bên cạnh Lý Tùng làm tai mắt, cậu có thể hoàn toàn tin tưởng anh ta. Phải rồi, Đường Bác Hiên còn nói cho tôi biết, chiều nay Lý Tùng từng không chỉ một lần nhắc tới cậu, hình như còn rất tán thưởng cậu nữa, xem ra thu hoạch của cậu trong lần gặp mặt này không nhỏ chút nào.”

”Đúng vậy.” Tôi nói. “Tiếp theo đây chỉ cần sắp xếp thêm một lần gặp mặt nữa là đủ rồi. Có điều tôi có một yêu cầu thế này, nhất định phải để tôi và Lý Tùng gặp riêng nhau với tư cách cá nhân, điều này thì cần Đường Bác Hiên phải cố gắng nghĩ cách mới được.”

”Chuyện này thì cậu không cần lo lắng.” Chủ nhiệm Viên nói: “Chắc cậu cũng biết chuyện về bà xã của Lý Tùng rồi chứ? Bà ta sắp không cầm cự được nữa rồi, gần đây vẫn luôn ở trong Bệnh viện Nhân dân số 1 của thành phố. Quãng thời gian này, Lý Tùng dù bận rộn thế nào thì mỗi tối cũng đều đến bệnh viện bầu bạn với bà ta một lát. Cấp trên đã có sắp xếp rồi, bắt đầu từ hôm nay tới đầu tháng Tám, sau sáu giờ tối mỗi ngày sẽ không có bất cứ ai đến bệnh viện thăm nom người bệnh cả. Chỉ cần cậu cảm thấy thời cơ đã chín muồi thì có thể chọn lấy một buổi tối bất kỳ và lấy danh nghĩa đi thăm bệnh để tới bệnh viện, sau đó chắc chắn sẽ gặp được Lý Tùng. Đương nhiên, Đường Bác Hiên cũng sẽ toàn lực phối hợp với cậu, cậu có yêu cầu gì thì cứ việc nói với tôi, tôi sẽ nghiêm túc dặn dò anh ta.”

”Tôi quả thực có một nhiệm vụ quan trọng muốn giao cho anh ta đây.” Tôi nói. “Bắt đầu từ sáng ngày mai, ông hãy bảo anh ta cứ cách ba giờ lại báo cho tôi biết trạng thái tinh thần của Lý Tùng một lần, trong đó bao gồm cả tâm trạng, sinh lực, khả năng ghi nhớ, khả năng phân tích, mỗi một mục đều phải có sự miêu tả chi tiết kèm theo. Tôi nhất định phải nắm được trạng thái tinh thần của Lý Tùng và tiến hành phân tích, vậy thì mới có thể tìm ra thời cơ tốt nhất để bắt đầu tác động vào tâm lý của ông ta.”

”Tôi hiểu rồi.” Chủ nhiệm Viên nói những lời cuối cùng bằng giọng nhấn mạnh: “Chuyện này vô cùng quan trọng, nhất định phải thành công. Sau khi mọi việc xong xuôi, tiền sẽ lập tức được chuyển đến tài khoản của cậu. Những người mà trước đây từng ức hiếp cậu, làm nhục cậu, tập đoàn cũng sẽ giúp cậu giải quyết luôn, không cần cậu phải tự mình ra tay làm gì cả.”

Những người từng ức hiếp tôi, làm nhục tôi... Khi nghĩ tới câu nói này, một chuỗi những thông tin vừa hỗn loạn vừa xa lạ bỗng tràn vào trong ý thức của tôi từ khu vực bên rìa tiềm thức. Sau nháy mắt tôi đã có được một sự nhận thức rõ ràng hơn về quá khứ của mình.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom