Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Khi cô ấy trở về


Bố mẹ Sean sống ở Wingate Estates, một khu dân cư khép kín với những ngôi nhà liền kề hai phòng ngủ cách thành phố khoảng sáu mươi cây số về phía Nam. Cứ khoảng hai mươi nhà thì hình thành một cụm có bể bơi chung và một trung tâm giải trí nơi mọi người thường tổ chức khiêu vũ vào các tối thứ Bảy. Ngoài ra còn có một sân gôn ba lỗ nhỏ hình trăng lưỡi liềm bên rìa khu dân cư, từ cuối hè tới đầu thu lúc nào cũng rì rào tiếng động cơ xe điện.

Cha Sean không chơi gôn. Từ lâu ông đã cho rằng đó là trò chơi của nhà giàu, đối với ông chơi gôn giống như phản bội lại nguồn gốc công nhân của mình. Mẹ Sean thì có thử chơi một thời gian nhưng rồi cũng bỏ cuộc vì cho rằng chồng bà đang âm thầm cười nhạo trang phục, tư thế chơi gôn và cái giọng gốc Ailen của bà.

Thế nên họ sống trầm lặng gần như không có bạn bè mặc dù Sean biết cha anh có quen biết một ông béo gốc Ailen tên là Riley cũng từng sống ở Buckingham trước khi chuyển tới đây. Riley cũng không có hứng thú chơi gôn nên thỉnh thoảng lại đi uống bia với cha Sean tại quán Ground Round phía bên kia đường 28. Còn mẹ Sean, bản chất vốn thích chăm lo cho người khác nên thường dành thời gian chăm sóc, giúp đỡ những người hàng xóm lớn tuổi hơn. Bà thường chở họ tới hiệu thuốc mua những thứ đã được kê đơn hay tới bác sĩ để lấy đơn thuốc mới. Những việc như thế khiến mẹ anh, năm nay gần bảy mươi tuổi, cảm thấy sung sức và trẻ lại. Nhất là số những người bà giúp đỡ phần lớn là quả phụ nên bà coi việc mình và chồng vẫn được khỏe mạnh sống bên cạnh nhau chính là một ân điển của bề trên.

"Họ chỉ có một mình, và cho dù bác sĩ không dám nói thì đó cũng chính là nguyên nhân khiến họ chết dần chết mòn." Có lần bà nói với Sean khi nhắc tới những người bạn ốm yếu của mình.

Rất thường xuyên, mỗi khi đi qua trạm bảo vệ, lái xe trên trục đường chính, cứ mười mét lại gặp phải một gờ giảm tốc màu vàng khiến trục xe kêu lách cách, Sean dường như nhìn thấy những đường phố ma, những khu dân cư ma và những bóng ma mà cư dân Wingate bỏ lại sau lưng họ, như thể những căn hộ không có nước nóng, nhũng chiếc tủ lạnh màu trắng đục, những lối thoát hiểm dùng trong trường hợp hỏa hoạn bằng sắt uốn và tiếng trẻ em nô đùa đang trôi nổi qua khung cảnh trước mắt với những tòa nhà màu vỏ trứng và những thảm cỏ dày như một đám sương mù buổi sáng vượt quá giới hạn tầm nhìn của anh. Một thứ cảm giác tội lỗi vô cớ xâm chiếm lấy anh, thứ cảm giác tội lỗi của một đứa con trai gửi cha mẹ mình vào nhà dưỡng lão. Nói vậy là vô nguyên cớ vì khu Wingate Estates trên lý thuyết không phải một khu dân cư dành cho những người trên sáu mươi tuổi (dù trên thực tế ở đây Sean chưa từng gặp một ai dưới độ tuổi đó) và việc bố mẹ anh chuyển tới đây hoàn toàn là ý của họ, đóng gói mấy chục năm than phiền về cuộc sống trong thành phố, sự ồn ã, tình trạng tội phạm, nạn tắc đường để tới đây, một nơi mà như cha anh nói, có thể đi dạo vào buổi tối mà không phải ngó trước ngó sau.

Thế nhưng Sean vẫn cảm thấy anh đã phụ họ, như thể họ đã chờ anh níu kéo họ ở lại bên cạnh anh một cách kiên quyết hơn. Sean nhìn nơi đây và thấy cái chết hay ít nhất là chặng dừng chân cuối cùng trước khi chết, và điều khiến anh khó chịu không chỉ là ý nghĩ cha mẹ anh sẽ phải ở đây chờ đợi cho tới lúc ngưòi khác chở họ tới chỗ bác sĩ mà còn vì lo sợ bản thân mình cuối cùng cũng sẽ kết thúc ở một nơi như thế này. Mặc dù biết rằng rốt cuộc mình cũng chẳng có nhiều cơ hội hơn họ. Giống như lúc này đây không vợ, không con, không người quan tâm. Anh đã ba mươi sáu tuổi, đã đi hơn nửa chặng đường tới một căn nhà ở Wingate mà nửa chặng đường còn lại hẳn sẽ có tốc độ cao hơn nhiều.

Mẹ anh thổi tắt nến trên chiếc bánh sinh nhật đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong một góc tường thụt vào giữa căn bếp tí hon và phòng khách lớn. Ba người lặng lẽ ăn bánh, uống trà giữa tiếng đồng hồ treo tường kêu tích tắc và tiếng điều hòa không khí rì rầm.

Ăn xong thì cha anh đứng dậy và bảo, "Để tôi đi rửa bát."

"Thôi. Để tôi làm."

"Bà cứ ngồi đấy."

"Không. Để tôi rửa."

"Bà cứ ngồi đó đi, hôm nay là sinh nhật bà mà."

Mẹ anh ngồi lại, tủm tỉm cười trong khi cha anh thu dọn bát đĩa mang vào trong bếp.

"Cẩn thận với các mẩu thức ăn vụn nhé," mẹ anh nói.

"Tôi sẽ chú ý."

"Nếu ông không xả sạch hết xuống cống là sẽ lại có kiến đấy."

"Chúng ta từng có một con kiến. Mỗi một con."

"Nhiều hơn một con," bà quay sang nói với Sean.

"Cách đây sáu tháng," bố anh nói vọng ra lẫn trong tiếng nước chảy.

"Và chuột nữa."

"Chúng ta chưa bao giờ có chuột."

"Bên nhà bà Feingold có chuột đấy. Những hai con. Bà ấy phải đặt bẫy để bắt chúng."

"Nhưng chúng ta thì không có chuột."

"Đó là bởi vì tôi luôn nhắc ông không được để lại các mẩu vụn thức ăn trong bồn rửa."

"Ối trời ơi," cha anh kêu lên.

Mẹ Sean nhấp một ngụm trà rồi quay ra nhìn anh.

"Mẹ có giữ một bài báo cho Lauren," bà nói rồi đặt tách trà xuống đĩa. "Mẹ cất nó ở đâu đó."

Mẹ anh luôn cắt các bài báo và giữ lại để đưa cho anh mỗi lần anh tới chơi. Hoặc là bà gửi cho anh qua bưu điện một tập chín, mười bài báo xếp lại gọn ghẽ như nhắc nhở anh đã bao lâu không tới thăm bà. Chủ đề các bài báo rất phong phú nhưng đều liên quan tới các mẹo vặt làm việc nhà hay những bí quyết nhỏ trong cuộc sống như các biện pháp bảo dưỡng máy sấy quần áo, làm thế nào để thức ăn đông lạnh không bị khô và mất màu, ưu và nhược của việc lập di chúc khi còn sống, làm thế nào để tránh bị móc túi trong kỳ nghỉ, những lời khuyên về sức khỏe cho những người làm công việc có độ căng thẳng cao (với những khẩu hiệu kiểu "Đi bộ củng cố nhịp tim"). Đó chính là cách mẹ anh bày tỏ tình cảm với con trai, giống như ngày xưa bà vẫn thường cài lại khuy áo, chỉnh lại khăn quàng trong buổi sáng mùa đông trước khi anh tới trường và Sean vẫn buồn cười khi nhớ lại bài báo bà gửi cho anh hai ngày sau khi Lauren bỏ đi, một bài báo có nhan đề "Hãy thực hiện thụ tinh ống nghiệm". Bố mẹ anh không bao giờ đoán được việc Lauren không sinh nở là sự lựa chọn của hai người bọn họ vì cả hai đều có chung một nỗi sợ hãi rằng mình chưa đủ tư cách làm cha mẹ.

Khi cô cuối cùng cũng mang thai, họ giấu hay không nói cho bố mẹ anh vì chưa biết có nên giữ lại đứa bé hay không trong lúc cuộc hôn nhân của họ đang trên đà tan rã. Cũng trong thời điểm đó Sean phát hiện Lauren có quan hệ với một tay diễn viên nên giận dữ mà mất khôn hỏi rằng, "Lauren, đứa bé là con ai?" và Lauren đốp lại, "Anh không tin thì làm xét nghiệm ADN khắc biết."

Họ lần lữa không tới nhà bố mẹ anh ăn tối, khi bố mẹ anh lên thành phố thăm thì viện hết lý do này tới lý do khác để không thể ở nhà tiếp đãi họ, đầu óc anh như muốn nổ tung, dằn vặt bởi một mối sợ hãi rằng đứa bé không phải là của anh hay liệu nó đúng là con anh đi nữa, anh có thật lòng muốn có nó hay không.

Từ khi Lauren bỏ đi, mẹ anh vẫn cho rằng sự vắng mặt của cô chỉ là tạm thời, là vì cô "cần một thời gian suy nghĩ", nên tất cả những bài báo bà cắt ra giữ lại là để cho cô chứ không phải cho anh, như thể một ngày nào đó chúng sẽ chất đầy một ngăn kéo tủ và cần tới sự hiện diện trở lại của cô để giải quyết chúng.

"Gần đây con có nói chuyện vói nó không?" Cha Sean từ trong bếp hỏi vọng ra, khuôn mặt ông khuất sau bức tuờng màu xanh lá cây chắn giữa hai người bọn họ.

"Lauren hả bố?"

"Ừ."

"Chứ còn ai nữa?" mẹ anh vừa lục ngăn kéo vừa nói.

"Cô ấy có gọi điện. Nhưng chẳng nói gì."

"Có lẽ con bé không muốn nói nhiều là vì..."

"Ý con là cô ấy không hề nói gì cả. Không nói lấy một lời."

"Không nói lấy một lời?"

"Đúng thế."

"Thế sao anh biết đó là vợ anh?"

"Con biết đó là cô ấy."

"Nhưng bằng cách nào mà anh biết được đó là vợ anh?"

"Ôi trời ơi, con nghe thấy tiếng cô ấy thở, được chưa?"

"Lạ thật đấy," mẹ anh nói. "Thế nhưng con vẫn nói chuyện với nó chứ?"

"Thỉnh thoảng. Nhưng càng ngày càng ít đi."

"Thôi ít nhất thì hai đứa cũng còn liên lạc với nhau," mẹ anh nói và đặt bài báo mới nhất mà bà sưu tầm xuống trước mặt anh. "Chắc nó thấy vậy là hay, con bảo với nó là mẹ nói thế nhé." Bà ngồi xuống, dùng hai cạnh bàn tay ủi phẳng một nếp nhăn trên khăn trải bàn, "khi nào nó trở về ấy," mẹ anh nói tiếp, mắt nhìn xuống nếp nhăn đã trở nên phẳng phiu dưới tay mình.

"Khi nào nó trở về ấy," bà nhắc lại, một cách khẽ khàng, giống như giọng của một bà xơ, biết rõ trật tự cơ bản của mọi việc.

"Dave Boyle ấy, bố có nhớ cái lần cậu ta biến mất trước cửa nhà chúng ta không?" Sean hỏi cha anh khi hai người bọn họ ngồi tại một chiếc bàn chân cao trong quán bar Ground Round một tiếng đồng hồ sau đó.

Cha anh cau mày rồi tiếp tục tập trung vào việc rót nốt chỗ bia Killian còn lại vào chiếc vại để lạnh của mình. Khi đám bọt bia trào lên miệng vại và chảy xuống thành giọt cha anh mới lên tiếng đáp lại, "Gì cơ, anh không tự lôi báo cũ ra mà đọc được sao?"

"Thì..."

"Sao phải hỏi tôi? À quên, không phải báo mà là trên ti vi."

"Nhưng lúc kẻ bắt cóc cậu ấy bị bắt thì báo chí đâu có đưa tin." Sean hy vọng lý do đó đủ để khiến cha anh không nghi ngờ tại sao anh tự nhiên nhắc tới Dave vì chính anh cũng chưa có câu trả lời rõ ràng.

Không biết vì điều gì thôi thúc mà anh muốn đặt mình vào bối cảnh sự kiện để nhìn thấy chính mình trong thời điểm đó, một điều mà báo chí hay những tư liệu cũ không thể giúp được. Hay chỉ là vì anh muốn mở rộng phạm vi đối thoại giữa hai cha con ra bên ngoài những tin tức thông thường hay việc đội Red Sox cần một tay ném bóng thuận tay trái.

Đôi khi Sean có cảm giác như anh và cha mình có lần đã nói với nhau những chuyện nghiêm túc hơn là những lời tán gẫu, vô thưởng vô phạt (giống như anh với Lauren vậy) nhưng anh không tài nào nhớ ra nổi đó là những chuyện gì. Trong ký ức mù mờ của anh về tuổi trẻ, anh sợ rằng số lần hai cha con gần gũi, đối thoại chân tình với nhau, tưởng là nhiều tới mức không còn đếm được hóa ra không hề tồn tại, chỉ là do anh tự tưởng tượng ra.

Cha anh là một người trầm lặng, nửa câu sau của ông thường rơi vào im lặng và Sean đã mất gần như cả đời để diễn giải sự im lặng đó, lấp đầy những khoảng trống mà ông khơi ra rồi tự dựng lên một khái niệm về những gì ông muốn nói. Sau này chính Sean cũng băn khoăn không biết liệu anh có nói hết câu như anh vẫn tưởng hay bản thân anh cũng là một sinh vật lặng lẽ, và Lauren cũng vậy, anh nhìn thấy những khoảng im lặng của cô nhưng lại không làm gì cho tới khi thứ duy nhất của cô mà anh còn giữ lại đưọc chính là sự im lặng. Sự im lặng và tiếng không khí ì xèo trên điện thoại mỗi khi cô gọi tới.

"Sao anh lại muốn nhắc lại chuyện đó?" Cuối cùng cha anh cũng lên tiếng.

"Bố có biết vụ con gái của Jimmy Marcus bị sát hại không?"

Cha anh nhìn anh. "Là đứa con gái ở công viên Pen á?"

Sean gật đầu.

"Bố nhìn thấy tên của con bé nên cũng đoán là họ hàng gì đó, hóa ra là con gái của nó ư?"

"Vâng ạ."

"Nó cũng bằng tuổi con mà con gái đã mười chín tuổi?"

"Jimmy có con bé vào lúc mười bảy tuổi thì phải, con cũng không rõ, khoảng hai ba năm gì đó trước khi đi tù ở Deer Island."

"Lạy Chúa lòng lành. Thằng bé này thật đen đủi. Ông già nó vẫn ngồi tù đấy chứ?"

"Ông ấy mất rồi bố ơi," Sean đáp.

Câu nói đó khiến cha anh bàng hoàng, đưa ông trở lại với những buổi chiều thứ Bảy trên phố Gannon, ông và cha của Jimmy ngồi uống bia và tán gẫu trong bếp còn hai đứa con trai họ chơi ở sân sau, tiếng cười tràn ngập không gian.

"Tệ thật. Ít nhất thì ông ấy cũng không phải chết ở trong tù chứ?" Cuối cùng cha anh cũng lên tiếng.

Sean định nói dối nhưng rồi lại lắc đầu. "Ông ấy chết ở trong tù. Ở Walpole vì bệnh xơ gan."

"Lúc nào?"

"Không bao lâu sau khi bố mẹ chuyển đi. Cách đây khoảng sáu bảy năm."

Cha anh mở miệng, tạo ra phát âm của từ "bảy" nhưng không có tiếng nào phát ra. Ông im lặng nhấp một ngụm bia, những vết đồi mồi trên mu bàn tay ông dường như sẫm hơn dưới ánh đèn màu vàng rọi trên đầu họ. "Thật dễ dàng mất đi khái niệm về không gian, mất đi khái niệm về thời gian."

"Con rất tiếc."

Cha anh nhăn mặt. Đó là phản ứng duy nhất của ông khi nhận những lời chia sẻ cảm thông hay những lời khen. "Tại sao lại nói vậy? Có phải là con gây ra chuyện đó đâu. Chính là Tim đã tự hại mình khi giết Sonny Todd."

"Chỉ vì tranh cãi trong lúc chơi bi-a đúng không ạ?"

Cha anh nhún vai. "Cả hai bọn họ đều say. Ai mà biết được. Cả hai đều say khướt, đều to mồm và nóng tính. Chỉ là cơn thịnh nộ của Tim có tệ hơn Sonny Todd mà thôi." Bố anh lại nhấp một ngụm bia nữa. "Thế nhưng việc Dave Boyle mất tích thì có liên quan gì tới... con bé tên là gì ấy nhỉ, Katherine à? Katherine Marcus?"

"Vâng."

"Thì vụ mất tích kia có liên quan gì tới vụ sát hại con bé?"

"Con không nói là chúng có liên hệ với nhau."

"Anh cũng không nói là chúng không liên hệ đúng không?"

Sean không kìm được nụ cười. Có lần trong phòng thẩm vấn, một tay anh chị sừng sỏ đã từ chối trả lời cảnh sát để tìm một luật sư giỏi nhất vì biết rằng nếu tiếp tục hẳn sẽ bị Sean tìm ra điểm yếu. Thế nhưng đối đầu với những người thuộc thế hệ của cha anh, vừa gan góc vừa đa nghi – thế hệ những người công nhân đầy hào khí, chẳng coi quyền hành ra gì – thì có tra khảo cả đêm cũng sẽ không moi được câu nào, mà tới sáng cũng vậy.

"Hai việc ấy có liên hệ hay không, bố đừng vội bận tâm."

"Sao lại không?"

Sean giơ một tay lên vẻ đầu hàng. "Thì cứ coi như là để chiều con đi."

"À, dĩ nhiên rồi. Lý do khiến ta vẫn còn sống chính là chờ cơ hội để làm con trai ta hài lòng."

Tay Sean vô thức siết chặt lấy vại bia. "Con xem hồ sơ về vụ bắt cóc Dave. Nhân viên điều tra vụ đó đã chết. Chả ai còn nhớ gì về vụ đó nữa và nó vẫn được xếp vào danh mục những vụ án chưa được giải quyết."

'Thì sao?"

"Thì con nhớ là một lần bố có vào phòng con, hình như là một năm sau ngày Dave trở về và nói, 'Chuyện đó đã kết thúc. Họ đã bắt được chúng.' "

Cha anh nhún vai. "Họ bắt được một trong hai gã."

"Thế tại sao lại không...?"

"Họ bắt đưọc hắn ở Albany. Bố nhìn thấy ảnh của hắn trên báo. Hắn thú nhận đã gây ra một số vụ cưỡng bức trẻ em ở New York, Massachusetts và Vermont. Hắn ta đã treo cổ trong ngục trước khi khai thêm chi tiết. Nhưng bố nhận ra mặt gã nhờ bản vẽ phác thảo của cảnh sát lúc ở trong bếp nhà mình."

"Bố chắc chứ?"

Ông gật đầu. "Một trăm phần trăm. Nhân viên điều tra vụ này, tên ông ta là gì ấy nhỉ..."

"Flynn."

"Mike FIynn, đúng thế. Bố vẫn giữ liên lạc với ông ấy, con biết đấy, có liên hệ một chút. Thế nên bố gọi cho ông ấy ngay sau khi nhìn thấy bức ảnh trên báo và ông ấy bảo chính là hắn. Dave cũng đã xác nhận điều đó."

"Là gã nào ạ?"

"Gì cơ?"

"Là gã nào trong hai tên bọn chúng?"

"À. Là cái gã mà con tả như thế nào ý nhỉ, 'Gã tóc dầu có vẻ ngái ngủ.' "

Những từ ngữ trẻ con của Sean nghe có vẻ lạ lùng khi được thốt ra từ miệng cha anh ở phía bên kia bàn.

"Là tên ngồi bên cạnh."

"Đúng thế."

"Còn đồng bọn của hắn thì sao?"

Cha anh lắc đầu. "Hắn đã chết trong một vụ đâm xe. Là tên kia nói vậy. Đó là tất cả những gì mà bố biết được nhưng bố cũng không dám đảm bảo chúng đều đáng tin cậy. Nhưng mà tệ thật, đáng lẽ con phải nói cho bố chuyện Tim Marcus đã chết."

Sean uống nốt chỗ bia còn lại rồi giơ chiếc vại rỗng ra trước mặt cha anh. "Một ly nữa không ạ?"

Cha anh nhìn vại bia một lúc rồi bảo, "Sợ quái gì, uống thì uống."

Khi Sean mang đồ uống trở lại thì cha anh đang xem trò chơi Jeopardy tắt tiếng trên một trong những màn hình vô tuyến phía trên quầy bar. Lúc Sean ngồi xuống, cha anh nói với chiếc vô tuyến, "Robert Oppenheimer là ai?"

"Không có tiếng mà sao bố biết được họ sẽ hỏi thế?"

"Thì biết thế," cha anh nói rồi rót bia vào vại, cau mặt trước câu hỏi ngớ ngẩn của Sean. "Các anh toàn thế. Bố không tài nào hiểu được."

"Toàn thế là sao? Các anh là ai cơ ạ?"

Cha anh nâng vại bia chỉ về phía anh. "Thế hệ các anh ấy. Hỏi rõ lắm những câu mà chỉ cần động não một tí thôi là đã tìm ra đáp án."

"À, vâng," Sean đáp.

"Giống như chuyện của Dave Boyle ấy. Chuyện đã xảy ra hai mươi năm trước thì có liên quan gì? Anh cũng biết chuyện gì đã xảy ra mà. Thằng bé mất tích bốn ngày với hai gã lạm dụng trẻ em. Sau đó thế nào thì anh cũng đoán ra rồi. Thế mà bây giờ anh lại muốn đào xới chuyện đó lên lần nữa bởi vì..." cha anh dừng lại nhấp một ngụm bia, "... lý do quái quỷ gì thì bố không biết."

Bố anh nhìn anh cười mụ mị, và anh cũng cười lại.

"Bố này."

"Ừ."

"Bố đang nói với con là không có chuyện gì trong quá khứ khiến bố trăn trở hay sao?"

Cha anh thở dài. "Ý bố không phải là thế."

"Đúng là như thế mà."

"Không, không đúng. Những chuyện không hay xảy ra với tất cả mọi người. Không trừ một ai. Con cũng không phải ngoại lệ. Nhưng cái thế hệ các anh, toàn những thằng thích gãi vào chỗ ghẻ. Không để thiên hạ được yên. Thế con có bằng chứng gì liên hệ Dave với cái chết của Katherine Marcus không?"

Sean cười to. Ông già anh bắt đầu giương nanh vuốt khích bác Sean bằng cụm từ "thế hệ các anh" chỉ vì muốn biết liệu Dave có can hệ gì vào cái chết của Katie.

"Thì cứ cho là có một số tình huống cho thấy bọn con cần phải để mắt tới cậu ta."

"Con cho rằng đó là một câu trả lời ư?"

"Bố cho rằng đó là một câu nên hỏi sao?"

Cha anh nở một nụ cười sảng khoái, rạng rỡ cả khuôn mặt khiến ông như trẻ lại tới mười lăm tuổi và Sean nhớ lại khi anh còn nhỏ nụ cười ấy đã thắp sáng cả căn nhà như thế nào.

"Thế nên anh gài bẫy bố kể lại chuyện của Dave vì băn khoăn không biết liệu những gì mà hai gã kia gây ra cho cậu ta có thể biến cậu ta thành kẻ giết hại một cô gái trẻ hay không chứ gì."

Sean nhún vai. "Kiểu như thế."

Cha anh đảo đảo mấy hạt lạc trong cái bát đặt giữa hai người bọn họ rồi nhấp một ngụm bia, vẻ tư lự. "Bố không nghĩ vậy."

Sean cười khẽ. "Bố biết cậu ta rõ vậy sao?"

"Không. Bố chỉ nhớ nó hồi còn bé. Nó thật không có cái vẻ đó."

"Khối đứa trẻ ngoan lúc lớn lên lại gây ra những chuyện động trời không ai tin nổi."

"Anh lại đang định giảng giải cho tôi về bản chất con người đấy hả?" Bố anh nhướng mày nhìn anh.

Sean lắc đầu. "Chỉ là kinh nghiệm làm cảnh sát thôi mà bố."

Cha anh ngồi lún sâu vào lưng ghế nhìn Sean với một nụ cười tủm tỉm nơi khóe miệng. "Tiếp tục đi, mở mắt cho bố nào."

Sean cảm thấy mặt mình hơi đỏ lên. "Không, con chỉ là..."

"Không sao, cứ tự nhiên."

Sean cảm thấy ngốc nghếch. Bố anh có một khả năng kinh ngạc là có thể rất mau chóng khiến anh cảm thấy việc bày tỏ những kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình làm việc của mình vốn rất bình thường trong con mắt của người khác lại có vẻ giống như trò khoe mẽ, hợm mình của một đứa con mới lớn trước mặt cha mình.

"Bố tin con chút đi. Con nghĩ con cũng có chút ít hiểu biết về con người và tội ác. Vì bố biết đấy, đó là công việc của con mà."

"Thế nên anh cho rằng Dave có thể đã làm thịt cô bé mười chín tuổi kia ư Sean? Dave, cậu bạn mà con vẫn chơi cùng ở sân sau. Cái thằng bé đó ư?"

"Con nghĩ mỗi người đều có khả năng làm bất cứ chuyện gì."

"Có nghĩa là bố cũng có thể làm thế." Ông nói rồi đặt một tay lên ngực. "Hay mẹ con cũng vậy."

"Không."

"Tốt nhất là nên kiểm tra chứng cớ ngoại phạm của chúng ta cho chắc."

"Con không có ý đó. Chúa ơi."

"Rõ ràng là có. Anh chả nói ai cũng có khả năng làm bất cứ chuyện gì đấy thôi."

"Trong giới hạn cho phép."

"Ôi, sao bố không nghe thấy đoạn này." Bố anh nói to.

Ông lại thành công – từ từ cho anh sập bẫy, giỡn với Sean như anh giỡn vỡi đám nghi phạm trong phòng thẩm vấn. Thảo nào Sean lại có tài tra hỏi như vậy. Vì đã học được từ một bậc thầy như cha anh.

Cả hai bọn họ ngồi im lặng một lúc rồi cha anh rốt cuộc lên tiếng. "Nhưng cũng có thể con nói đúng."

Sean nhìn cha mình chờ đợi ông ra đòn tiếp theo.

"Có thể Dave đã làm cái điều mà con nghĩ. Bố cũng không biết nữa. Bố chỉ nhớ hồi nó còn bé. Nó lớn lên thế nào, bố cũng không hay."

Sean cố gắng hình dung ra chính mình trong mắt cha anh. Có lẽ nào trong mắt ông, anh vẫn là một đứa trẻ chứ không phải là một người đàn ông đã trưởng thành. Mà như thế cũng phải thôi, khó mà trách ông không làm khác được.

Anh vẫn nhớ cái cách các bác của anh gọi cha mình, người em út trong một gia đình mười hai người con di dân từ Ailen tới Mỹ lúc cha anh mới năm tuổi. "Bill ngày xưa", họ gọi ông thế, ám chỉ anh chàng Bill Devine tồn tại trước khi Sean ra đời.

Họ gán cho ông biệt hiệu "Kẻ sinh sự". Nhưng tới giờ Sean mới hiểu được cảm giác và hàm ý bề trên của cách gọi đó, của những người ở thế hệ đi trước dành cho một người trẻ hơn, vì phần lớn các bác của Sean đều nhiều hơn cha anh từ mười hai tới mười lăm tuổi.

Tất cả bọn họ đều đã qua đời. Mười một người anh chị của cha anh. Chỉ còn lại người em út trong gia đình, đã gần bảy mươi lăm tuổi, hiện sống thu mình ở một khu vực ngoại ô với một sân gôn mà ông không bao giờ sử dụng. Người cuối cùng còn lại chính là người trẻ nhất, lúc nào ông cũng là người trẻ nhất, nhưng vẫn luôn thủ thế trước mọi sự chiếu cố dù là nhỏ nhất của người khác, nhất là từ chính con trai ruột của mình. Ông sẵn sàng đóng cửa lại với cả thế giới nếu cần thiết, còn hơn là phải chịu đựng sự chiếu cố của người khác, thậm chí chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng không thể chấp nhận được. Bởi vì tất cả những người có quyền cư xử như thế với ông đều đã rời khỏi thế giới này từ lâu lắm rồi.

Cha anh liếc nhìn vại bia của Sean rồi thảy mấy đồng tiền lẻ lên bàn làm tiền boa. "Anh hỏi xong rồi chứ?"

Họ băng ngang qua đường 28 rồi rẽ vào cổng chính khu dân cư với những gờ giảm tốc màu vàng ở giữa và các vòi phun nước tự động ở hai bên.

"Anh biết mẹ anh thích gì không?" cha anh hỏi.

"Gì cơ ạ?"

"Khi anh viết cho bà ấy. Anh biết đấy, thỉnh thoảng gửi cho mẹ anh một cái bưu thiếp chẳng cần vì lý do gì cả. Bà ấy vẫn nói anh hay gửi những tấm bưu thiếp rất ngộ nghĩnh và bà ấy rất thích cách hành văn của anh. Bà ấy giữ tất cả bọn chúng trong một cái ngăn kéo. Có cả những cái từ hồi anh đi học."

"Vâng ạ."

"Thỉnh thoảng lại gửi cho bà ấy một cái được không? Bỏ vào thùng thư ấy."

"Con sẽ gửi."

Họ đi tới xe của Sean và cha anh nhìn lên những khung cửa sổ tối om trong ngôi nhà hai tầng của mình.

"Mẹ đi ngủ rồi ạ?" Sean khỏi.

Cha anh gật đầu. "Sáng mai bà ấy phải lái xe đưa bà Coughlin đi trị liệu sức khỏe." Cha anh đột ngột chìa tay ra bắt tay Sean. "Rất vui gặp lại con."

"Con cũng thế."

"Con bé sẽ quay lại chứ?"

Không cần hỏi Sean cũng biết cha anh đang nhắc tới ai.

"Con không biết. Con thật tình cũng không biết nữa."

Cha anh quan sát anh một lúc dưới ánh sáng màu vàng nhợt nhạt của ngọn đèn đường và Sean cảm thấy cha anh đang đau nhói trong lòng vì biết được rằng con trai ông đang thống khổ, bị bỏ rơi, bị tổn hại, và điều đó mãi mãi để lại trong lòng một vết sẹo, một sự mất mát vĩnh viễn không thể bù đắp.

"Thôi, dù sao thì trông anh cũng không đến nỗi. Có vẻ cũng biết tự chăm sóc bản thân. Nhưng anh có uống hơi nhiều quá hay làm gì lao lực không?" Cha anh hỏi.

Sean lắc đầu. "Chỉ là con có quá nhiều việc mà thôi."

"Lao động là tốt," cha anh nói.

"Vâng ạ," Sean nói và trong cổ họng anh bỗng dâng lên một vị chua xót, một cảm giác bị bỏ rơi.

"Vậy..."

"Vậy thế nhé." Cha anh vỗ vai anh. "Vậy cứ như thế đi. Đừng quên gọi điện cho mẹ anh vào ngày Chủ nhật." Ông nói rồi rảo bước về phía cửa với những sải chân vững chãi của một người trẻ hơn ít nhất hai mươi tuổi.

"Bố nhớ giữ gìn sức khỏe," Sean nói và cha anh giơ tay lên xác nhận thay cho câu trả lời.

Sean dùng điều khiển từ xa mở khóa xe nhưng vừa chạm tay vào nắm cửa thì nghe thấy cha anh gọi, "Này."

"Gì ạ?" Anh quay lại và nhìn thấy cha anh đang đứng trước ngưỡng cửa, cả người trên như lẫn vào trong bóng đêm êm ả.

"Con đã làm đúng khi không chui vào chiếc xe ô tô ấy. Hãy nhớ lấy điều đó."

Sean đứng tì vào xe ô tô của mình, hai tay đặt trên nóc xe, cố đoán ra vẻ mặt của cha anh trong bóng tối.

"Bọn con đáng lẽ ra phải bảo vệ cho cả Dave."

"Các con lúc ấy chỉ là những đứa trẻ," cha anh nói. "Các con làm sao mà biết được. Mà nếu các con có biết đi chăng nữa, Sean..."

Sean vẫn trầm ngâm, để những lời của cha anh trôi dần vào im lặng. Anh gõ gõ ngón tay lên nóc xe và tìm kiếm ánh mắt của cha anh trong bóng tối. "Con cũng vẫn bảo mình thế."

"Vậy sao?"

Anh nhún vai. "Nhưng con vẫn nghĩ là bọn con lẽ ra phải biết. Vì một lý do nào đó. Bố không nghĩ vậy sao?"

Trong giây lát hai người bọn họ đều không nói gì và Sean nghe thấy tiếng dế kêu râm ran giữa những tiếng xì hơi của vòi phun nước tự động trên bãi cỏ.

"Ngủ ngon, Sean," giọng cha anh vang lên.

"Ngủ ngon," Sean nói và chờ cho cha anh vào hẳn trong nhà rồi mới trèo lên xe đi về.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Một lũ yêu tinh


Dave đang ngồi trong phòng khách lúc Celeste về nhà. Anh ngồi một góc trên chiếc ghế salon bọc da đã nứt nẻ với hai chồng lon bia rỗng chất dưới thành ghế và một lon bia mới mở đang cầm trên tay, điều khiển vô tuyến vứt trên đùi. Anh đang xem một bộ phim mà có vẻ như tất cả các nhân vật đều đang gào thét ầm ĩ.

Celeste cởi áo khoác ở ngoài hành lang và nhìn ánh sáng màn hình nhấp nháy trên mặt Dave, những tiếng la hét trong phim ngày càng dữ dội hơn, hoảng loạn hơn cộng với những hiệu ứng âm thanh phụ trợ của Hollywood như tiếng bàn gãy và không nghi ngờ gì nữa là tiếng các bộ phận trên cơ thể người kêu răng rắc.

"Anh đang xem gì thế?"

"Một bộ phim ma cà rồng gì đó," Dave trả lời, mắt vẫn không rời khỏi màn hình khi nâng lon bia Budweiser lên miệng. "Tên trùm ma cà rồng đang giết hết những người tham dự bữa tiệc mà những người diệt ma tổ chức. Họ làm việc cho Vatican."

"Ai cơ?"

"Những người diệt ma ấy mà. Ôi khiếp quá," Dave nói, "hắn vừa xé toạc cái đầu của gã kia xuống."

Celeste bước vào trong phòng khách, nhìn lên màn hình vô tuyến và thấy một gã mặc đồ đen bay ngang qua phòng và chộp lấy đầu của một người phụ nữ đang kinh hãi rồi bẻ gãy cổ của cô ta.

"Ôi Chúa ơi, Dave."

"Không sao, giờ mới là hay đây này vì James Woods bắt đầu điên tiết lên rồi đấy."

"James Woods là ai?"

"Là người cầm đầu nhóm diệt ma. Hắn hơi bị kinh đấy."

Lúc này Celeste mới nhìn thấy hắn – James Woods trong trang phục áo khoác bằng da và quần jean bó đang nhặt một cái gì đó giống như cái ná và chĩa về phía tên ma cà rồng. Nhưng tên ma cà rồng lại nhanh hơn. Hắn đập cho James Woods tơi bời, đánh từ góc này sang góc kia như một con sâu và rồi một anh chàng khác chạy vào dùng súng tự động bắn vào tên ma cà rồng. Nhưng có vẻ cũng không được hiệu quả cho lắm, rồi hai bọn họ đột nhiên chạy qua mặt hắn cứ như là hắn đã quên mất bọn họ.

"Diễn viên này có phải là một trong hai anh em nhà Baldwin không nhỉ?" Celeste hỏi.

Cô ngồi lên trên thành ghế, đầu dựa vào tường.

"Ừ, chắc thế."

"Là Baldwin anh hay là Baldwin em nhỉ?"

"Anh không biết. Em làm anh không theo dõi kịp đây này."

Cô theo dõi bọn họ chạy qua một phòng khách khác cũng ngổn ngang xác chết mà không hiểu làm sao bằng ấy người có thể ở trong một căn phòng bé như thế rồi chồng cô kêu lên, "Giời ơi, thế này thì Vatican sẽ phải đào tạo ra một đội diệt ma mới thôi."

"Sao Vatican giờ lại quay ra quan tâm tới ma cà rồng cơ chứ?"

Dave mỉm cười và ngước nhìn cô với gương mặt trẻ con và đôi mắt đẹp của anh. "Bọn chúng rất ghê gớm. Chính là những tên trộm ly thánh khét tiếng."

"Ăn trộm ly thánh?" cô nói và có một thôi thúc được lùa tay vào tóc anh, để một ngày khủng khiếp trôi dần đi trong cuộc trò chuyện ngớ ngẩn này. "Thế cơ à."

"Ừ, rắc rối to đấy." Dave nói và uống cạn lon bia trong lúc James Woods, anh chàng Baldwin kia, và mấy cô gái trông có vẻ là bị say thuốc đang lao trên đường vắng trong một chiếc xe thùng, tên ma cà rồng bay đuổi theo đằng sau.

"Em đi đâu về thế?"

"Em mang áo tới nhà tang lễ."

"Làm gì mà mất đến mấy tiếng đồng hồ."

"Sau đó em tự dưng cảm thấy cần phải ngồi lại đâu đó suy nghĩ một chút. Anh biết đấy?"

"Suy nghĩ ư, tất nhiên rồi." Dave đứng dậy đi vào trong bếp mở tủ lạnh. "Em có muốn dùng một lon không?"

Cô không thực sự có nhu cầu nhưng lại nói, "Vâng, cũng được."

Dave trở lại phòng khách và đưa cho cô lon bia. Thường cô có thể đoán ra tâm trạng của anh dựa vào việc anh có mở sẵn lon bia cho cô hay không. Lần này, lon bia đã đưọc mở nhưng cô vẫn không biết tâm trạng của anh tốt hay xấu. Cô không tài nào đoán định được.

"Thế em nghĩ chuyện gì?" Anh bật nắp lon bia của mình, tiếng động gây ra còn chói tai hơn cả âm thanh phanh rít của chiếc xe tải trong vô tuyến trước khi lật nhào.

"Anh biết mà."

"Anh không biết, Celeste, anh không biết."

"Những chuyện," cô nhấp một ngụm bia. "Những chuyện xảy ra trong ngày hôm nay, về cái chết của Katie, về Jimmy và Annabeth tội nghiệp."

"Là mấy chuyện đó. Thế em có biết anh nghĩ gì trên đường đón Michael về không hả Celeste? Anh chỉ nghĩ là thằng bé hẳn sẽ cảm thấy rất mất mặt khi mẹ nó bỏ đi như thế mà chả nói với ai tiếng nào là đi đâu và khi nào thì trở về. Anh suy nghĩ rất nhiều về chuyện đó."

"Thì em vừa nói với anh đấy thôi, Dave."

"Em nói gì với anh cơ?" Anh lại ngước lên nhìn cô nhưng lần này không còn cái vẻ trẻ con nữa. "Em nói gì với anh hả Celeste?"

"Tự dưng em muốn ngồi lại suy nghĩ một chút. Em xin lỗi đã không gọi điện. Nhưng mấy ngày hôm nay thật mệt mỏi. Em chẳng còn là chính mình nữa."

"Chả ai còn là chính mình cả."

"Gì cơ?"

"Giống như bộ phim này ấy. Họ chẳng còn biết ai là người thật và ai là ma cà rồng nữa. Anh đã xem mấy phần trước, và cái gã Baldwin kia, hắn ta sẽ phải lòng cô gái tóc vàng đó dù biết rằng cô ta đã bị ma cà rồng cắn cổ. Nghĩa là cô ta cũng sẽ biến thành một con ma cà rồng chứ gì? Nhưng hắn ta bất cần. Vì hắn yêu cô ấy. Thế nhưng cô ấy lại là một kẻ hút máu người. Cô ấy sẽ hút máu hắn và biến hắn thành một cương thi di động. Ý anh là, trở thành ma cà rồng hẳn có điểm thú vị. Ngay cả khi ta biết rằng nó sẽ hại chết ta, khiến ta bị nguyền rủa mãi mãi, khiến ta suốt đời phải đi cắn cổ người khác, phải trốn tránh ánh mặt trời và những đội diệt ma của Vatican. Rồi đến một ngày ta thức dậy và quên mất làm người nghĩa là như thế nào. Hóa ra cũng chẳng tệ lắm. Ta bị đầu độc nhưng thuốc độc cũng không có gì đáng sợ nếu như ta học được cách chung sống với nó." Dave nói và đặt chân lên bàn, uống một hơi dài. "Ít nhất đó là ý kiến của anh."

Celeste từ trước tới giờ vẫn bất động chợt ngồi nhỏm dậy trên thành ghế nhìn xuống chồng mình. "Dave, anh đang nói thứ quái quỷ gì vậy?"

"Chuyện ma cà rồng, em yêu. Chuyện người sói."

"Người sói? Anh lại nói lăng nhăng gì thế?"

"Lăng nhăng ư? Em nghĩ là anh giết Katie chứ gì. Dạo này chúng ta chỉ toàn nghĩ những thứ lăng nhăng như thế đấy."

"Em không có... Từ đâu mà anh lại sinh ra ý này?"

Anh lấy móng tay gảy gảy nắp lon bia. "Ở trong bếp nhà Jimmy, em gần như không có đủ can đảm để nhìn anh lúc rời đi. Em dựng cái váy của con bé lên như thể nó vẫn ở trong đó và em thậm chí không dám nhìn anh lấy một lần. Thế nên anh bắt đầu suy nghĩ. Anh tự hỏi, tại sao vợ mình lại muốn cự tuyệt mình? Rồi anh chợt nghĩ ra, chắc là Sean. Cậu ta nói gì đó với em phải không? Cậu ta và cái lão đồng sự đáng sợ kia hẳn đã tra hỏi em."

"Không có."

"Không ư? Nói dối."

Cô không thích cái vẻ bình tĩnh của anh. Cô nghĩ chắc là do anh đã uống khá nhiều. Khi say rượu Dave luôn có một vẻ đờ đẫn, nhưng cái vẻ lặng lẽ của anh lúc này rất đáng sợ, như thể trong lòng anh đang kìm nén một cái gì đó thật ghê gớm.

"David..."

"Giờ lại chuyển sang gọi là David nữa cơ đấy."

"Em không nghĩ vậy. Chỉ là em có chút hoang mang."

Anh ngẩng đầu lên nhìn cô. "Vậy thì hãy nói nó ra, em yêu. Đó là chìa khóa của một mối quan hệ bền vững, hai vợ chồng phải đối thoại, trao đổi với nhau."

Hiện giờ cô có 147 đô la trong tài khoản và một thẻ Visa có thể rút tới 500 đô la nhưng đã tiêu hết 250. Ngay cả nếu cô có mang được Michael trốn ra khỏi ngôi nhà này thì cũng chẳng thể nào đi đâu xa được. Hai hay ba đêm trong một khách sạn rẻ tiền nào đó rồi Dave sẽ tìm ra họ. Anh ta không phải là một thằng ngốc. Anh ta có thể dò ra họ, cô biết thế.

Cái túi rác. Cô có thể đưa cái túi rác đó cho Sean Devine và anh ta có thể tìm thấy vết máu trên quần áo của Dave. Ngày nay kỹ thuật xác định ADN rất tiên tiến, họ sẽ tìm thấy vết máu của Katie trên chỗ quần áo đó và bắt Dave.

"Nào, anh nghe đây. Em nói đi. Hãy nói mọi chuyện cho thật rõ ràng. Anh nghiêm túc đấy. Anh muốn, thế nào nhỉ, làm nguôi đi nỗi sợ hãi của em."

"Nhưng em không có sợ hãi."

"Trông em có vẻ sợ hãi."

"Nhưng em không có."

"Thôi đuợc rồi." Anh rút chân khỏi bàn. "Vậy hãy nói cho anh biết cái gì đã khiến em phiền lòng, em yêu?"

"Anh say rồi."

Anh gật đầu. "Đúng thế. Nhưng không có nghĩa là anh không thể nói chuyện."

Trên ti vi, tên ma cà rồng lại vặn đầu một người khác, lần này là một linh mục.

"Sean không hỏi em gì cả. Em nghe lỏm họ nói chuyện lúc anh đi mua thuốc lá cho Annabeth. Em không biết anh đã nói gì với họ lúc trước nhưng họ không tin câu chuyện của anh. Họ biết anh có mặt ở quán Last Drop lúc sắp đóng cửa."

"Còn gì nữa?"

"Có người nhìn thấy xe ô tô của chúng ta trong bãi đỗ xe lúc Katie rời khỏi. Và họ không tin câu chuyện của anh về bàn tay bị thương."

Dave giơ bàn tay lên xoay xoay trước mặt. "Chỉ có thế thôi?"

"Em chỉ nghe được có vậy."

"Thế điều đó khiến em nghĩ tới chuyện gì?"

Thiếu điều thì cô lại đưa tay ra chạm vào người anh. Trong giây lát, trên người anh không còn cái vẻ đe dọa như lúc trước nữa mà là sự thất thế. Vai anh và lưng anh chùng xuống, khiến cô những muốn chìa tay ra chạm vào người anh nhưng cố cưỡng lại.

"Dave, hãy kể cho họ về vụ cướp."

"Vụ cướp?"

"Vâng. Có thể anh sẽ phải ra tòa. Thì sao chứ? Còn hơn bị mang tiếng là kẻ sát nhân."

Là lúc này đây, cô nghĩ. Hãy nói là anh đã không làm chuyện đó. Hãy nói là anh không hề thấy Katie rời khỏi quán Last Drop. Nói đi, Dave.

Nhưng anh lại bảo, "Anh biết em đang nghĩ gì. Anh biết. Anh trở về người đầy máu đúng vào thời điểm Katie bị giết. Anh hẳn là đã giết cô ấy."

"Vậy sao?" Celeste buột miệng.

Dave đặt lon bia xuống và bắt đầu cười ngặt nghẽo. Anh co hai chân lên, ngã người vào đống gối đệm cười sằng sặc. Anh cười như một kẻ bị động kinh, mỗi lần há miệng ra để thở lại biến thành một tràng cười mới. Cười cho tới khi nước mắt chảy ra giàn giụa, cười tới rung cả người. "Anh... anh... anh... anh..." Anh cười đến nỗi không nói nổi nên lời. Một trận cười khủng khiếp. Nó dâng lên cuồn cuộn trong lòng anh, phun trào và rồi nước mắt bắt đầu tuôn như mưa, trên má, trên miệng, trên môi anh cũng ướt đẫm.

Sự thực là trong đời, Celeste chưa bao giờ cảm thấy khiếp sợ đến thế.

"Ha ha ha, Henry," anh nói, tiếng cười cuối cùng cũng dịu đi.

"Gì cơ?"

"Henry. Henry và George ấy, Celeste. Đó là tên của chúng. Nghe thật là hài hước phải không? Để anh nói cho em biết, George là một tên kỳ lạ. Còn Henry đích thực là một tên khốn kiếp."

"Anh đang nói gì vậy?"

"Về Henry và George," anh nói vẻ hào hứng. "Anh đang nói về Henry và George. Bọn chúng mang anh đi một chuyến. Một chuyến đi kéo dài bốn ngày. Và nhốt anh dưới một căn hầm trong một chiếc túi ngủ rách rưới, bẩn thỉu trên sàn đá và Chúa ơi, Celeste, chúng tận hưởng trò vui của mình. Không có ai tới để giúp cậu bé Dave ngày đó cả. Không có ai xông vào để giải cứu cậu ta. Cậu ta đành phải giả vờ như chuyện đó đang xảy ra với một người khác chứ không phải là Dave. Và cái ý nghĩ đó ăn sâu vào đầu óc cậu ta tới mức cậu ta như có thể tự xẻ mình ra làm hai được. Và cậu ta đã xẻ ra làm hai thật. Một người là cậu bé Dave ngày xưa thì đã chết. Còn đứa trẻ thoát ra khỏi căn hầm đó, anh không biết nó là đứa quái quỷ nào nữa – nó thực chất là anh – nhưng nó chắc chắn không phải là cậu bé Dave ngày xưa. Dave của ngày xưa đã chết rồi."

Celeste không nói nên lời. Trong suốt tám năm kết hôn, Dave chưa bao giờ mở miệng nói về chuyện mà tất cả mọi người đều biết đã xảy ra với anh hồi ấy. Anh chỉ kể với cô là anh đang chơi với Sean và Jimmy thì bị bắt cóc rồi sau đó anh bỏ trốn, tất cả chỉ có thế. Cô chưa bao giờ nghe anh nhắc tới tên hai gã kia. Cũng không bao giờ nghe anh nói về chiếc túi ngủ. Cô không hề biết bất kỳ chi tiết nào. Cứ như thể, vào chính phút giây này, cả hai người bọn họ đột nhiên bừng tỉnh sau một giấc mơ dài về cuộc sống hôn nhân và bắt buộc phải đối mặt với những lý lẽ, những lời nói dối nửa vời, những ham muốn thầm kín và mặt khuất của nhau. Cùng chứng kiến cuộc hôn nhân của họ bị nghiền nát bởi một sự thật phũ phàng rằng họ không hề biết gì về đối phương nhưng cứ nuôi hy vọng một ngày nào đó có thể làm được.

"Vấn đề là ở chỗ đó, em thấy không?" Dave nói. "Vấn đề là ở chỗ đó, giống như lúc trước anh có nói về ma cà rồng ấy. Chính là như thế. Chính xác là như thế."

"Như thế là như thế nào?" Celeste thì thào.

"Là nó sẽ không chui ra. Một khi nó nhập vào bên trong chúng ta, nó sẽ bám lại." Anh lại nhìn chiếc bàn uống nước và Celeste có cảm giác như anh đang rời khỏi cô.

Cô chạm vào tay anh. "Dave, cái gì không chui ra? Cái gì mà chính là như thế?"

Dave nhìn vào tay cô như thể anh sắp cắm phập răng mình vào đó rồi cắn xé, róc thịt ra. "Anh không thể tin cậy đầu óc của chính mình nữa, Celeste. Anh cảnh cáo em đấy. Anh không thể tin vào đầu óc của chính mình."

Cô rụt tay lại cảm thấy hơi rùng mình chỗ tiếp xúc với da thịt anh.

Dave loạng choạng đứng dậy. Anh nghếch đầu lên nhìn cô như thể không biết cô là ai và vì sao lại xuất hiện trên thành ghế của mình. Anh nhìn sang chiếc ti vi và gã James Woods đang cầm nỏ bắn vào ngực ai đó rồi thì thào, "Bắn hết bọn chúng đi, giết hết đi. Bắn hết đi."

Anh quay sang Celeste, nở một nụ cười của người say.

"Anh phải ra ngoài."

"Được thôi," cô nói.

"Anh phải ra ngoài và suy nghĩ."

"Vâng."

"Nếu anh tập trung suy nghĩ một lát chắc chuyện đó sẽ ổn thôi. Chỉ cần tập trung một chút."

Celeste không dám hỏi "chuyện đó" là chuyện gì.

"Vậy thế nhé," anh nói rồi bước ra cửa. Anh mở cửa, bước qua ngưỡng cửa rồi đột nhiên cô lại thấy tay anh túm lấy bậu cửa và thò đầu vào.

Anh chỉ thò đầu vào nhìn cô và bảo: "À nhân tiện nói với em là anh đã đổ rác rồi nhé."

"Gì cơ?"

"Cái túi rác. Cái túi mà em để quần áo của anh! Lúc nãy anh đã mang ra ngoài vứt rồi."

"Ồ," cô nói và cảm giác buồn nôn lại dâng lên.

"Vậy, gặp lại em sau nhé."

"Vâng. Gặp lại anh sau."

Cô lắng nghe tiếng bước chân của anh cho tới khi anh xuống tới chân cầu thang. Cô nghe thấy tiếng cửa kẽo kẹt mở ra và tiếng chân Dave bước ra ngoài hiên và đi xuống đường. Cô leo lên cầu thang dẫn tới phòng Michael, nghe thấy thằng bé đang thở sâu trong giấc ngủ. Rồi cô rẽ vào phòng tắm và bắt đầu nôn mửa.

Anh không tìm thấy chỗ Celeste để xe. Đôi khi, nhất là khi có bão tuyết, họ phải lái xe đi tám dãy nhà để tìm một chỗ để xe, thế nên Celeste rất có khả năng đã đậu xe ở tận khu Thượng, tuy nhiên anh để ý thấy có mấy chỗ trống trước cửa nhà. Nhưng như thế cũng tốt. Anh vẫn còn hơi say để lái xe. Có lẽ đi dạo một chút sẽ giúp anh tính táo hơn.

Anh đi lên phố Crescent, tới đại lộ Buckingham thì rẽ trái, tự hỏi đầu óc mình có vấn đề gì mà lại đi giải thích với Celeste như thế. Chúa ơi, anh thậm chí còn nói ra tên của chúng, Henry và George. Lại còn nhắc tới cả ngưòi sói nữa chứ, thật là ngu ngốc.

Chết tiệt!

Giờ thì cảnh sát đã chính thức nghi ngờ anh. Họ hẳn đang theo dõi anh. Không thể tiếp tục nghĩ về Sean như một người bạn lâu năm bị thất lạc. Chuyện đó đã là quá khứ và giờ đây Dave mới nhớ ra điều khiến anh không ưa Sean khi họ còn nhỏ chính là cái uy của cậu ta, luôn cho rằng mình đúng, giống như những đứa trẻ may mắn khác – thật ra chỉ là nhờ may mắn – có cả bố cả mẹ, một ngôi nhà đẹp, quần áo và những dụng cụ thể thao đời mới nhất.

Cái tay Sean khốn kiếp đó. Với đôi mắt quyến rũ. Và giọng nói mê hoặc của cậu ta nữa chứ. Cứ nhìn đám phụ nữ trong bếp rớt hết cả dãi ra khi thấy cậu ta xuất hiện thì biết. Đúng là một tên khốn kiếp, với cái mẽ điển trai khốn kiếp của cậu ta, tới vẻ tinh tướng, những câu chuyện hài hước mà cậu ta kể và sự khoa trương của cậu ta, rồi thì tên tuổi được nhắc tới trên báo.

Dave cũng không phải là một thằng ngốc. Anh hoàn toàn đủ sức đương đầu với thách thức, chỉ cần đầu óc thông tỏ trở lại. Chỉ cần đầu óc anh bình tĩnh lại. Nếu như có thể vặt đầu anh ra và lắc cho tới khi nó thông suốt trở lại thì anh cũng không ngại.

Nhưng vấn đề nguy cấp nhất lúc này chính là Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói và Trưởng Thành đã lộ diện quá nhiều. Dave đã hy vọng cái việc mà anh làm tối thứ Bảy ấy sẽ giải quyết vấn đề này, sẽ khiến Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói và Trưởng Thành câm miệng lại và quay trở về với khu rừng trong tâm trí anh. Đêm đó, Thằng Bé muốn nhìn thấy máu, muốn reo rắc đau thương. Dave không có cách nào khác là phải đáp ứng nó.

Lúc đầu chỉ là vài cú đấm, một cú đá, không có gì đáng kể. Nhưng rồi mọi chuyện vượt khỏi tầm kiểm soát, Dave cảm thấy cơn thịnh nộ trong lòng anh phun trào và Thằng Bé tiếp quản. Thằng Bé đúng là một kẻ dữ tợn. Chừng nào chưa đập nát óc người ta ra thì nó còn chưa thỏa mãn.

Thế rồi khi mọi chuyện kết thúc thì Thằng Bé cũng rút lui. Nó bỏ đi để Dave ở lại giải quyết hậu quả. Và Dave đã hoàn thành nhiệm vụ. Đã giải quyết chuyện đó một cách nhanh gọn. (Có lẽ không mỹ mãn như anh hy vọng nhưng khá ổn thỏa.) Và anh đặc biệt chọn một biện pháp khiến Thằng Bé sẽ phải biến mất trong một thời gian dài.

Nhưng Thằng Bé đó đúng là một tên ma mãnh. Nó lại xuất hiện, gõ cửa bảo với Dave rằng nó chuẩn bị tái xuất dù anh có sẵn sàng chấp nhận hay không. Chúng ta có việc phải xử lý, Dave.

Bước đi nghiêng ngả, chân cao chân thấp, đại lộ Buckingham hiện ra lờ mờ trước mắt anh, nhưng Dave biết là hai người bọn họ đã tới gần quán Last Drop. Họ đã tới gần hai khu phố tệ nạn đầy rẫy những kẻ biến thái và gái mại dâm, tất cả bọn họ đều vui vẻ bán đi cái mà Dave đã bị cưỡng bức tước đoạt đi.

Là cưỡng bức tước đoạt của tôi, Thằng Bé nói. Anh lớn rồi. Đừng cố ôm lấy nỗi thống khổ của tôi.

Tệ nhất là ở đây còn có những đứa trẻ. Giống như một lũ yêu tinh. Chúng lao ra từ các lỗ cửa hay xác ô tô cũ và mời mọc khách thổi kèn. Chúng bán mình với giá hai mươi đồng. Chúng sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì.

Đứa nhỏ tuổi nhất, thằng bé mà Dave nhìn thấy tối hôm thứ Bảy, chắc chưa quá mười một tuổi. Nó có những quầng đen cáu bẩn dưới mắt, da trắng nhợt và mái tóc dày màu đỏ dính bết, trông lại càng giống một tiểu yêu tinh. Ở tuổi nó thay vì ở nhà xem phim truyền hình nó lại ra đúng đường để thổi kèn cho những kẻ biến thái.

Dave đã nhìn thấy thằng bé từ phía bên kia đường lúc rời khỏi quán Last Drop và dừng lại bên cạnh xe của mình. Thằng bé đứng dựa vào một cột đèn đường, phì phèo hút thuốc và khi mắt nó khóa chặt với mắt anh, anh chợt có cái cảm giác đó. Một sự xáo trộn. Một khao khát được tan chảy. Được nắm tay cậu bé tóc đỏ đó tìm một chỗ yên tĩnh chỉ có hai người với nhau. Sẽ rất dễ dàng, sẽ rất thoải mái, cái cảm giác được buông tay thật là tuyệt vời. Ít nhất là buông tay đầu hàng với cái cảm giác mà anh đã chôn giấu suốt bao năm qua.

Đúng đấy, hành động đi, Thằng Bé nói.

Nhưng (đây chính là lúc hai nửa đối địch trong Dave xung đột) anh biết sâu thẳm trong lòng mình rằng đó sẽ là tội lỗi khủng khiếp nhất. Cho dù cám dỗ kia có sức quyến rũ thế nào đi nữa nhưng nếu phạm phải thì sẽ không thể quay đầu lại. Nếu phạm phải điều đó anh sẽ vĩnh viễn không có cảm giác toàn vẹn và sẽ mãi mãi ở lại dưới căn hầm ấy với Henry và George. Anh vẫn luôn tự nhắc nhở mình như thế trong những lúc bị cám dỗ, lúc đi qua trạm chờ xe buýt ở trường học, những sân chơi, những bể bơi công cộng vào mùa hè. Anh vẫn tự nhủ rằng anh sẽ không trở thành một kẻ như Henry và George. Anh tốt hơn chúng. Anh đang nuôi dạy một đứa con trai. Anh yêu vợ mình. Anh phải mạnh mẽ. Càng ngày anh càng phải nhắc nhủ mình nhiều hơn.

Những điều đó đã không giúp được gì cho anh vào đêm thứ Bảy ấy. Vào cái đêm thứ Bảy đó, ham muốn thôi thúc anh mãnh liệt hơn bao giờ hết. Thằng bé tóc đỏ đứng dựa cột đèn có vẻ như cũng nhận ra điều đó. Cái miệng ngậm thuốc của nó mỉm cười với Dave và Dave có cảm giác như bị một thế lực nào đó lôi kéo sang vỉa hè phía bên kia. Giống như đang đi chân trần trên một con dốc bằng xa tanh.

Thế rồi một chiếc ô tô xuất hiện và sau vài câu trao đổi thằng bé liền trèo lên xe sau khi ném về phía Dave một cái nhìn thương hại. Dave nhìn theo chiếc xe Cadillac màu trắng và xanh sẫm quay đầu chạy về phía anh rồi vào sâu trong bãi đỗ xe của quán Last Drop. Dave chui vào xe của mình quan sát chiếc Cadillac dừng lại bên cạnh một rặng cây cao, bao phủ lấy dãy hàng rào xiêu vẹo của bãi đỗ. Người lái xe tắt đèn nhưng vẫn để động cơ chạy và Thằng Bé lại thì thầm trong tai anh: Là Henry và George, Henry và George, Henry và George.

Tối nay chưa tới quán Last Drop thì Dave đã vội quay trở lại vậy mà Thằng Bé vẫn gào thét bên tai anh. Tôi chính là anh, Tôi chính là anh, Tôi chính là anh, nó gào lên.

Và Dave những muốn dừng lại mà khóc. Anh muốn chống hai tay lên bức tường gần nhất mà khóc vì anh biết là Thằng Bé đã nói đúng. Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói và Trưởng Thành đã trở thành một Con Sói. Thành Dave.

Dave Người Sói.

Chuyện này hẳn phải xảy ra mới đây vì Dave không nhớ nổi giây phút cơ thể anh biến đổi, linh hồn bốc hơi và biến mất để nhường chỗ cho cái thực thể mới này. Nhưng rõ ràng là điều đó đã xảy ra. Có lẽ trong lúc anh đang ngủ.

Nhưng anh không thể dừng lại để mà khóc được. Khu vực này quá nguy hiểm, đầy rẫy những kẻ nghiện hút, thấy Dave say như vậy hẳn sẽ tấn công. Ngay lúc này một chiếc xe ô tô đang chậm rãi lăn bánh trên đường quan sát anh, nghiên cứu con mồi.

Anh hít một hơi thật sâu rồi sải bước vững chãi, cố tạo ra vẻ tự tin và xa cách. Anh ưỡn vai, mắt phóng ra tia hăm dọa rồi bắt đầu quay trở về, nhưng đầu óc anh vẫn chưa thực sự thông suốt vì Thằng Bé kia vẫn không ngừng la hét trong đầu anh, nhưng Dave quyết tâm phớt lờ nó đi. Anh hoàn toàn có thể làm được điều đó. Anh là một kẻ mạnh mẽ. Anh là Dave Người Sói.

Âm lượng của thằng bé quả thật có giảm dần. Chỉ còn giống như những lời thủ thỉ trên đường trở về.

Tôi là anh mà, Thằng Bé nói, giọng điệu giống như một người bạn. Tôi là anh mà.

Celeste ra khỏi nhà với Michael vẫn còn nửa thức nửa ngủ trên vai và phát hiện ra Dave đã lái xe đi mất. Cô đã đỗ xe ở cách đó nửa dãy nhà, ngạc nhiên khi phát hiện ra có thể tìm thấy một chỗ như thế vào cuối ngày nhưng giờ đây thay vào đó là một chiếc xe Jeep màu xanh nước biển.

Chuyện này đã xảy ra ngoài dự kiến của cô. Cô những định đặt Michael vào ghế bên và hành lý của họ ở băng sau rồi lái xe tới khách sạn Econo Lodge cách đó khoảng năm cây số trên đường cao tốc.

"Chết toi," cô nói to và cố kiềm chế để khỏi gào lên vì tuyệt vọng.

"Mẹ không sao chứ?" Michael lẩm bẩm. "Không sao, Mike."

Vừa vặn lúc đó có một chiếc xe taxi rẽ khỏi phố Perthshire ra đại lộ Buckingham. Celeste liền giơ tay đeo hành lý của Michael lên vẫy và chiếc xe dừng lại ngay trước mặt cô. Celeste đành chấp nhận trả sáu đô để tới Econo Lodge. Cô sẵn sàng trả cả trăm đô để rời khỏi chỗ này ngay lập tức, tới một nơi đủ xa để có thể suy nghĩ thông suốt mà không cần phải thấp thỏm quan sát nắm đấm cửa hay sự trở lại của một người đàn ông vừa cho rằng cô là một con ma cà rồng hút máu chỉ đáng được cắm một cái cọc xuyên qua tim sau đó bị cắt đầu cho tiệt đường sống. "Bà muốn đi đâu?" người lái taxi hỏi khi Celeste đặt túi lên ghế rồi chui vào ngồi bên cạnh, Michael vẫn ở trên vai.

Đi đâu cũng được, cô những muốn nói. Đâu cũng được miễn là rời khỏi chỗ này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Cá săn mồi


"Sếp cho kéo xe của cậu ta đi?" Sean hỏi.

"Xe của hắn ta bị bên giao thông kéo đi. Hai chuyện này hoàn toàn khác nhau."

Hai người bọn họ vừa thoát khỏi cơn tắc đường buổi sáng vào giờ cao điểm sau khi rẽ ra khỏi đường cao tốc về hướng East Buckingham. "Vì lý do gì?"

"Nó bị bỏ rơi," Whitey rẽ sang phố Roseclair, miệng khẽ huýt sáo.

"Ở đâu? Ở trước cửa nhà cậu ta chứ gì?"

"Ồ, không. Chiếc xe được tìm thấy ở khu Rome Basin dọc theo đại lộ. May cho chúng ta là đại lộ này lại thuộc địa bàn của cảnh sát bang. Có vẻ như ai đó cướp xe, đi một đoạn rồi bỏ lại. Những chuyện như thế vẫn thường xảy ra, cậu biết đấy."

Sáng nay Sean tỉnh dậy sau một giấc mơ trong đó anh ôm lấy con gái của mình và gọi tên nó dù anh không biết tên của con bé là gì và cũng không nhớ được mình đã nói gì trong con mơ nên đầu óc anh lúc này vẫn còn chút mờ mịt.

"Có tìm thấy vết máu," Whitey nói.

"Ở đâu?"

"Trên ghế trước xe của Boyle."

"Nhiều không?"

Whitey chụm đầu ngón cái và ngón trỏ lại chỉ để hở ra chút xíu. "Một chút. Nhưng tìm thấy nhiều vết máu hơn trong cốp xe."

"Trong cốp xe?"

"Phải nói là có khá nhiều vết máu trong cốp xe."

"Rồi sao nữa?"

"Thì phòng thí nghiệm đang phân tích."

"Không. Ý tôi nói là nếu có tìm thấy máu trong cốp xe thì sao? Katie Marcus không hề bị nhét vào trong cốp xe."

"Đúng là một con sâu làm rầu nồi canh."

"Trung sĩ, chắc cấp trên không phê chuẩn cho ông khám xét chiếc xe đó đâu."

"Phê chứ."

"Phê ư?"

"Chiếc xe bị đánh cắp rồi bỏ rơi trong địa bàn cảnh sát bang. Chúng ta làm thế hoàn toàn chỉ phục vụ cho việc xác định mức bảo hiểm và quyền lợi của chủ nhân..."

"Sếp đã khám xét và viết xong báo cáo rồi chứ gì."

"Cậu nhanh trí đấy."

Họ tới trước cửa nhà Dave Boyle và Whitey sang số để đậu xe lại. Ông tắt máy rồi bảo, "Tôi có đủ nghi vấn để triệu tập cậu ta trò chuyện một chút. Hiện giờ tôi cũng chỉ muốn có vậy."

Sean gật đầu, biết rằng tranh luận nữa cũng vô ích. Whitey lên tới vị trí này trong đội điều tra án mạng là nhờ bám chặt vào linh cảm nghề nghiệp, giống như con chó không chịu rời khúc xương. Không thể nào thuyết phục ông rời khỏi nhũng linh cảm đó, chỉ có cách chứng minh nó mà thôi.

"Thế kết quả phân tích đầu đạn thì sao?"

"Cũng rất lạ," Whitey nói, không có dấu hiệu muốn rời khỏi xe, hai người bọn họ vẫn ngồi yên ở đó quan sát ngôi nhà của Dave. "Đó là một khẩu Smith ba tám li đúng như chúng ta dự đoán. Thuộc một lô hàng bị cướp từ một tay buôn vũ khí ở New Hampshire vào năm 1981. Khẩu súng giết chết Katherine Marcus cũng từng tham gia một vụ cướp cửa hàng rượu vào năm 1982. Chính tại khu Buckingham này."

"Ở khu Hạ?"

Whitey lắc đầu. "Ở Rome Basin, tại một cửa hàng rượu tên là Looney Liquors. Có hai kẻ tham gia, cả hai đều đeo mặt nạ cao su. Chúng tiến vào cửa hậu sau khi chủ cửa hàng đóng các cửa đằng trước. Tên thứ nhất bước vào cửa hàng bắn một phát cảnh cáo xuyên qua một chai whisky và găm vào tường. Phần tiếp theo của vụ cướp diễn ra một cách suôn sẻ nhưng cảnh sát đã tìm thấy đầu đạn kia. Kết quả cho thấy nó xuất phát từ cùng khẩu súng đã giết hại cô con gái nhà Marcus."

"Nó khiến vụ án được lái sang một hướng khác, sếp không thấy vậy sao?"' Sean hỏi. "Vào năm 1982, Dave lúc đó mười bảy tuổi, vừa mới gia nhập Raytheon. Tôi không nghĩ cậu ta lại làm thêm việc cướp cửa hàng rượu."

"Không có nghĩa là khẩu súng không thể đến được tay của cậu ta. Cậu biết thừa cái của đó được truyền qua truyền lại thế nào rồi đấy." Nghe giọng Whitey không có được cái vẻ chắc chắn như tối hôm trước. "Đi triệu cổ hắn thôi!" Ông ta nói rồi đẩy cửa xe ra.

Sean cũng ra khỏi xe và hai người bọn họ đi tới trước nhà Dave, Whitey không ngừng đập tay vào chiếc còng số tám đeo bên hông như đang chờ đợi cơ hội được sử dụng nó.

Jimmy đỗ xe rồi bê một khay giấy đựng mấy ly cà phê và một túi bánh rán tẩm đường băng qua mặt đường nham nhở của bãi đỗ xe về phía dòng sông Kỳ Bí. Trên đầu hắn là cầu Tobin, xe cộ qua lại rầm rập trên những nhịp cầu nối bằng kim loại và dưới mép nước Katie đang quỳ, cùng với Ray Harris, cả hai nhìn chằm chằm xuống con sông. Dave Boyle cũng có mặt ở đó, bàn tay bị thương của cậu ta sưng phồng như một cái găng đấm bốc. Dave ngồi trên một chiếc ghế vải cũ bên cạnh Celeste và Annabeth. Celeste mặc áo len kéo cổ che kín tới miệng còn Annabeth thì hút hai điếu thuốc một lúc. Cả ba người bọn họ đều đeo kính đen và không thèm nhìn Jimmy. Họ nhìn chằm chằm về phía gầm cầu vẻ không muốn bị quấy nhiễu.

Jimmy đặt khay cà phê và túi bánh xuống bên cạnh Katie và quỳ giữa cô bé và Just Ray. Hắn nhìn xuống nước và thấy hình phản chiếu của mình, của Katie và cả Ray khi họ quay về phía hắn, Ray với một con cá lớn màu đỏ ngậm chặt giữa hai hàm răng, đuôi vẫn còn đang quẫy.

"Con đánh rơi một cái váy xuống sông." Katie nói.

"Bố chả nhìn thấy nó đâu cả," Jimmy trả lời.

Con cá nhảy ra khỏi miệng Just Ray, rơi xuống mặt nước và quẫy đuôi bơi đi.

"Nó sẽ tìm được chiếc váy của con. Vì nó là một con cá săn mồi."

"Thịt nó giống như thịt gà," Ray nói.

Jimmy cảm thấy bàn tay ấm áp của Katie trên cổ hắn và tay của Ray trên gáy hắn, rồi Katie bảo, "Sao bố không xuống tìm váy cho con?"

Và rồi hai ngưòi bọn họ đẩy hắn xuống sông. Jimmy nhìn thấy làn nước đen ngòm cùng con cá quẫy đuôi nhô lên nhìn hắn và hắn biết là mình sắp chết đuối. Hắn mở miệng định kêu cứu thì con cá nhảy phốc vào trong miệng hắn, cắt mất nguồn dưỡng khí và mặt hắn chìm dần vào trong làn nước đen thẫm như mực.

Hắn chợt mở mắt, quay đầu ra nhìn chiếc đồng hồ báo thức chỉ bảy giờ mười lăm và không tài nào nhớ ra nổi đã đi ngủ vào lúc nào. Thế nhưng rõ ràng là hắn đã lên giường vì Annabeth đang nằm ngủ ở bên cạnh hắn. Jimmy tỉnh dậy đối mặt với một ngày mới bắt đầu bằng cuộc hẹn chọn bia mộ cho Katie trong vòng một tiếng đồng hồ tới và Just Ray Harris cùng dòng sông Kỳ Bí đã quay trở lại tìm hắn.

Chìa khóa thành công của một cuộc thẩm vấn là tranh thủ được tối đa thời gian trước khi kẻ tình nghi yêu cầu gặp luật sư bào chữa. Các đối tượng sừng sỏ như bọn buôn ma túy, xã hội đen, dân đua xe hay những tên côn đồ rắn mặt cứ mở miệng ra là đòi có luật sư. Chỉ có thể dọa nạt chúng một lúc, cố gắng làm chúng dao động trước khi luật sư xuất hiện, còn lại phải dựa vào các bằng chứng để buộc tội là chính. Sean hiếm khi thu được kết quả khi thẩm vấn một trong những gã đó.

Thế nhưng khi đối tượng là những công dân bình thường hay những người phạm tội lần đầu thì phần lớn vụ án đều được phá trong quá trình xét hỏi. Vụ "án mạng trên đường cao tốc", thành công lớn nhất của Sean từ trước tới giờ, cũng đã được phá như vậy. Một anh chàng ở Middlesex trên đường lái xe về nhà buổi tối với vận tốc một trăm hai mươi cây số một giờ thì rớt mất chiếc lốp phía đằng trước. Chiếc lốp phải bung ra, lăn trên đường cao tốc. Chiếc xe thể thao đa dụng của anh ta lăn chín mười vòng trên đường và nạn nhân Edwin Hurka chết ngay tại chỗ.

Hóa ra ốc vít của hai bánh trước đều bị vặn lỏng từ trước. Cảnh sát bắt đầu tập trung vào kịch bản ngộ sát với nhiều khả năng là do thiếu sót của thợ cơ khí. Sean và đồng sự của anh, Adolph, lại phát hiện ra rằng nạn nhân vừa thay lốp vài tuần trước. Nhưng Sean cũng tìm thấy trong hộp đựng găng của nạn nhân một mẩu giấy khiến anh nghi ngờ. Mẩu giấy có ghi lại một số đăng ký biển số xe nguệch ngoạc và khi Sean nhập vào hệ thống dữ liệu tìm ra tên của chủ nhân nó là Alan Barnes. Anh tới nhà tay Barnes đó và hỏi gã ra mở cửa có phải hắn chính là Alan Barnes không. Gã này trả lời, đúng, có chuyện gì với dáng điệu vô cùng hốt hoảng. Trực giác của Sean mách bảo, anh hỏi hắn, "Tôi muốn nói với anh về chuyện mấy cái đinh vít."

Tên Barnes đó lập tức cung khai ngay trên ngưỡng cửa nhà mình, nói với Sean rằng hắn chỉ định phá hoại, dọa nạn nhân một chút vì hồi tuần trước hai người bọn họ có đụng nhau trên đường ra sân bay khiến Barnes bực mình tới mức hủy cả cuộc hẹn của mình rồi lẳng lặng đi theo Edwin Hurka về nhà, chờ nạn nhân tắt hết đèn đi ngủ rồi tháo lỏng ốc vít trên lốp xe của nạn nhân.

Con người thật là ngu ngốc. Họ giết hại lẫn nhau vì những điều ngớ ngẩn nhất rồi vẫn cứ ở nguyên chỗ cũ chờ ngưòi ta tới bắt, sau đó ra tòa kêu vô tội trong khi đã ký biên bản thú nhận dài bốn trang với cảnh sát. Vũ khí lợi hại nhất của cảnh sát chính là nắm được sự ngờ nghệch của họ. Để họ nói. Luôn để cho họ nói. Để cho họ giải thích. Để cho họ trút tội ra trong khi uống cà phê bên cạnh chiếc máy ghi âm không ngừng hoạt động.

Và rồi khi họ đòi luật sư – một công dân bình thường thế nào cũng đòi luật sư – thì phải cau mày và hỏi đi hỏi lại xem họ có thực sự muốn gọi luật sư không, đồng thời tạo ra một không khí thù địch trong phòng cho tới khi họ quyết định trò chuyện cởi mở thêm một chút với cảnh sát giống như giữa những người bạn trước khi luật sư xuất hiện và phá hỏng bầu không khí đó.

Nhưng Dave không hề đòi gặp luật sư lấy một lần. Cậu ta ngồi trên một chiếc ghế khập khiễng nếu tựa quá sâu về phía sau. Trông cậu ta vẫn còn phảng phất dư âm của việc uống quá nhiều, bực bội, hơi cau có, đặc biệt là với Sean nhưng không hề tỏ ra sợ hãi hay hốt hoảng và Sean biết rằng thái độ đó bắt đầu khiến Whitey chột dạ.

"Ông Boyle, nghe này," Whitey cất lời. "Chúng tôi biết ông rời quán McGills trước thời điểm mà ông nói với chúng tôi. Chúng tôi biết là ông có xuất hiện ở bãi đỗ xe của quán Last Drop khoảng nửa tiếng sau đó vào khoảng thời gian mà cô Marcus rời khỏi. Và chúng tôi dám chắc rằng tay ông bị sưng không phải vì chơi bi-a."

Dave rên lên một tiếng rồi bảo, "Tôi có thể dùng một lon Sprite hay gì đó được không?"

"Sẽ có ngay, nhưng hãy nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã thực sự xảy ra tối hôm đó, ông Boyle." Whitey lần thứ tư nhắc lại câu này kể từ khi bọn họ xuất hiện ở đây khoảng ba mươi phút trước.

"Tôi đã nói với các ông rồi."

"Ông nói dối."

Dave nhún vai. "Đấy là ý kiến của riêng ông thôi."

"Không đúng. Đó là thực tế. Ông đã nói dối về thời điểm rời khỏi quán McGills. Chiếc đồng hồ treo tường ở đó đã dừng lại năm phút trước khi ông nói là ông ra khỏi quán."

"Những năm phút?"

"Ông cho rằng chuyện này rất buồn cười sao?"

Dave lại tụt vào ghế sâu thêm một chút nữa và Sean chờ nghe thấy tiếng ghế kêu cót két trước khi oằn xuống nhưng không có gì xảy ra, Dave đã dừng lại đúng lúc.

"Không, trung sĩ. Tôi không nghĩ vậy. Tôi chỉ là rất mệt mỏi. Vẫn còn ngầy ngật vì tối qua uống quá nhiều. Xe không những bị mất mà giờ ông còn bảo sẽ không trả lại. Ông nói tôi đã rời quán McGills năm phút sớm hơn so với lời tôi nói?"

"Ít nhất là thế."

"Thôi được rồi. Cứ cho là thế đi. Có thể tôi đã nói không chính xác. Vì tôi không thường xuyên nhìn đồng hồ như các ông. Vậy nếu ông cho rằng tôi rời quán McGills vào lúc một giờ kém năm chứ không phải một giờ kém mười thì cứ chấp nhận vậy đi. Có thể đúng là thế thật. Nhằm nhò gì đâu. Nhưng vấn đề là sau đó tôi về nhà ngay lập tức. Tôi không tới quán bar nào khác."

"Có người nhìn thấy ông trong bãi đỗ xe của..."

"Không đúng," Dave nói. "Chỉ là ai đó nhìn thấy một chiếc xe Honda bị móp ở khung lốp trước. Đúng không? Ông có biết trong thành phố này có bao nhiêu chiếc Honda không? Suy nghĩ tí đi."

"Liệu có được bao nhiêu chiếc bị móp ở cùng một vị trí so với xe của ông, ông Boyle?"

Dave nhún vai. "Tôi cược là có hàng đống."

Whitey nhìn Sean và Sean có cảm giác là họ đã thua trong cuộc đấu trí này. Dave có lý, họ có thể dễ dàng tìm thấy hai chục chiếc Honda bị móp ở khung lốp trước phía bên chỗ ngồi dành cho khách. Ít nhất là hai mươi cái. Dave mà lấy cớ này bắt bẻ họ thì luật sư của cậu ta hẳn còn tìm ra một con số lớn hơn.

Whitey đi vòng ra đằng sau ghế của Dave và bảo, "Hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà trong xe của ông lại có vết máu?"

"Máu nào cơ?"

"Chúng tôi tìm thấy vết máu ở ghế trước. Hãy bắt đầu từ đó đi."

"Thế chai Sprite của tôi thì sao, Sean?" Dave hỏi.

"Được thôi."

"Biết ngay mà. Cậu đúng là một cảnh sát tốt. Nhân tiện lấy cho tôi luôn một miếng bánh kẹp thịt được không?"

Sean đang nhoài người toan đứng dậy nghe thấy thế lại ngồi xuống. "Tôi không phải tay sai của cậu. Cậu cứ ngồi đó chịu khó chờ thêm một lúc nữa đi."

"Nhưng cậu thì đúng là tay sai của người ta đấy. Không phải vậy sao, Sean?" Khi nói những từ này trong mắt Dave lóe lên một tia đểu cáng, một vẻ khiêu khích, ngạo nghễ khiến Sean bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Whitey đã đoán đúng.

"Vết máu trên ghế trước xe của cậu, Dave. Hãy trả lời ngài trung sĩ," Sean nói. Dave quay ra nhìn Whitey. "Chúng tôi có một hàng rào lưới sắt ở sân sau. Ông biết đấy, loại hàng rào xoắn lại ở phía trên ấy? Hôm đó tôi đang sửa sang lại cái sân sau. Chủ nhà chỗ tôi cũng lớn tuổi rồi. Tôi giúp ông ấy chút việc đó đổi lại ông ấy không lấy tiền thuê nhà quá đắt. Lúc đó tôi đang cắt mấy cây tre trúc gì đó thì..."

Whitey để lộ ra một tiếng thở dài nhưng Dave có vẻ không chú ý.

"... thì trượt chân. Tay tôi vẫn đang cầm máy cắt điện nên không muốn đánh rớt, đành ngã tì vào hàng rào, xoẹt một cái." Dave vỗ vỗ vào mạng sườn. "Ngay chỗ này. Không nghiêm trọng lắm nhưng chảy rất nhiều máu. Mà mười phút sau thì tôi phải đi đón con trai ở chỗ tập bóng chày. Có lẽ vết thương vẫn còn chảy máu lúc tôi chui vào xe. Tôi nghĩ chắc chỉ có nguyên nhân đó thôi."

"Vậy vết máu trên ghế trước là của ông?"

"Như tôi vừa nói, chắc chỉ có nguyên nhân đó thôi."

"Ông thuộc nhóm máu nào?"

"Nhóm B."

Whitey cười rõ tươi rồi vòng ra phía trước, ngồi lên mép bàn. "Hay thật. Đó chính là nhóm máu chúng tôi tìm thấy ở ghế trước."

Dave giơ hai tay lên. "Đấy, thấy chưa."

Whitey cũng bắt chước giơ hai tay lên. "Không hẳn. Ông có thể giải thích giùm luôn về vết máu trong cốp xe được không? Chúng không thuộc nhóm máu B."

"Chuyện này tôi không hề biết."

Whitey cười khẽ. "Trong cốp xe của ông tìm thấy ít nhất hai mươi decilit máu mà ông lại không hề hay biết?"

"Không, tôi không hề biết gì về chuyện này."

Whitey ghé sát vào Dave, vỗ lên vai anh. "Tôi không ngại nói cho ông biết, ông Boyle, ông không nên chọn cách này. Nếu ông ra trước tòa và nói rằng không biết làm sao trong xe của mình lại có vết máu của người khác liệu có ai tin không?"

"Tin chứ sao không."

"Sao mà ông dám chắc vậy?"

Dave lại tựa lưng vào ghế, tay Whitey đang để trên vai anh rớt xuống. "Ông đã viết báo cáo rồi đấy thôi, trung sĩ."

"Báo cáo nào?" Whitey hỏi.

Sean lập tức đoán ra ý của Dave và biết là họ đã sập bẫy của cậu ta.

"Báo cáo về việc xe của tôi bị đánh cắp ấy."

"Thì sao?"

"Thì chiếc xe không ở trong tay tôi tối hôm qua. Tôi không biết bọn cướp đã sử dụng chúng để làm gì nhưng ông nhất quyết muốn tìm hiểu như vậy thì hẳn không phải là chuyện tốt."

Trong suốt ba mươi giây đồng hồ sau đó, Whitey hoàn toàn bất động. Sean biết là ông vừa nhận ra cái bẫy của ông đã phản chủ. Bất cứ chứng cớ nào tìm thấy trong xe của Dave đều sẽ bị bãi bỏ trước tòa vì luật sư của Dave sẽ đổ lỗi cho bọn cướp.

"Đó là những vết máu cũ, ông Boyle. Không phải là xuất hiện từ mấy tiếng trước."

"Vậy sao? Các ông có thể chứng minh điều đó không? Một cách chính thức, thưa ngài trung sĩ? Ông dám chắc rằng không phải là do nó chóng khô? Đêm hôm qua thời tiết cũng không phải là ẩm ướt."

"Chúng tôi có thể chứng minh điều đó," Whitey nói nhưng Sean nghe thấy giọng ông có vẻ thiếu thuyết phục và Dave cũng vậy.

Whitey đứng dậy khỏi bàn, quay lưng về phía Dave. Ông đặt tay lên miệng, gõ gõ lên môi rồi đi dọc theo bàn về phía Sean, mắt nhìn xuống sàn.

"Chai sprite của tôi có chút triển vọng nào không vậy?" Dave hỏi.

"Chúng ta sẽ cho gọi thằng bé mà Souza thẩm vấn, nhân chứng nhìn thấy chiếc xe đó. Tên nó là gì ấy nhỉ? Tommy..."

"Moldanado," Sean đáp.

"Ừ." Whitey lơ đãng nói, mặt mũi trông có vẻ sao lãng như thể vừa định ngồi thì bị người khác kéo ghế, ngã giập mông mà không biết tại sao. "Cho Boyle đứng vào hàng xem Moldanado có nhận dạng được không."

"Đúng là có cái gì đó không ổn," Sean nói.

Whitey lùi sát vào tường khi một nữ thư ký đi qua chỗ bọn họ đang đứng trong hành lang, mùi nước hoa của cô ta giống hệt Lauren khiến Sean chợt nghĩ có lẽ nên gọi vào máy cầm tay của vợ mình xem dạo này cô thế nào, nếu anh là người chủ động trước có lẽ cô sẽ nói chuyện với anh cũng nên.

"Hắn ta quá bình tĩnh. Lần đầu tiên vào phòng thẩm vấn mà thậm chí không toát mồ hôi." Whitey nói.

"Trung sĩ, rõ ràng không phải là điềm tốt."

"Cậu không nói đùa đấy chứ?"

"Không, ý tôi là nếu không bị lộ tẩy vụ xe ô tô thì cũng không phải là vết máu của cô Marcus trên đó. Chúng ta chả có gì để buộc tội cậu ta."

Whitey nhìn vào cánh cửa phòng thẩm vấn. "Tôi có thể khiến hắn phải cung khai."

"Cậu ta đang giỡn mặt chúng ta thì có," Sean nói.

"Tôi thậm chí còn chưa vào vòng khởi động."

Thế nhưng Sean vẫn nhìn thấy vẻ nghi hoặc trên mặt ông, dấu hiệu đầu tiên của việc nghi ngờ linh cảm của mình. Whitey rất cố chấp và thậm chí là khốc liệt nếu ông tin là mình đúng nhưng lại quá thông minh nên không bị lừa bởi một linh cảm khiến ông gặp hết trở ngại này tới trở ngại khác.

"Hay là cứ để cậu ta đổ chút mồ hôi trong đó đi," Sean nói.

"Cậu ta có đổ chút mồ hôi nào đâu."

"Nếu để cậu ta lại một mình có thể cậu ta sẽ dao động."

Whitey lại nhìn về phía cửa phòng thẩm vấn như muốn thiêu trụi nó. "Cũng có thể."

"Tôi nghĩ mấu chốt của mọi chuyện là khẩu súng. Chúng ta nên bắt đầu từ đó," Sean nói.

Whitey nhai nhai không khí ở trong miệng rồi cuối cùng cũng gật đầu. "Tìm hiểu thêm về khẩu súng đó cũng tốt. Cậu muốn tự tiến hành?"

"Cửa hàng rượu đó vẫn không đổi chủ chứ?"

"Tôi không biết. Hồ sơ từ năm tám mươi hai, chủ cửa hàng lúc đó là Lowell Looney."

Sean mỉm cười khi nghe thấy cái tên đó. "Nghe cũng hay đấy chứ!"

"Sao cậu không tới đó xem thế nào? Tôi sẽ canh chừng tên khốn kia sau lớp kính, xem hắn có bắt đầu ca bài các cô gái bị giết hại trong công viên không."

Lowell Looney năm nay khoảng tám mươi tuổi nhưng trông có vẻ sẽ đánh bại Sean trong cuộc thi chạy một trăm mét. Ông ta mặc áo thun màu da cam của câu lạc bộ thể hình Porter's Gym, quần thể thao màu xanh với một sọc bên màu trắng, giày chạy Reebok mới toanh và chuyển động một cách lanh lẹ và có vẻ không ngại nhảy lên với chai rượu cao nhất trong quầy nếu được yêu cầu.

"Đúng chỗ này," ông ta nói với Sean và chỉ vào dãy chai phía sau quầy thu ngân. "Đi xuyên qua một chai rượu và găm vào tường."

"Hãi thật ấy nhỉ?"

Ông già nhún vai. "Có lẽ sợ hơn phải uống sữa một tí. Nhưng cũng chẳng bằng đi ra đường ở đây vào buổi tối. Cách đây mười năm, một thằng nhóc khùng chĩa súng vào mặt tôi, ánh mắt giống hệt chó dại lên cơn, mồ hôi túa ra trên mặt tới không kịp chớp mắt. Thế mới hãi, con trai ạ. Những kẻ bắn đạn vào tường thì lại khác, là những tay chuyên nghiệp. Những tay chuyên nghiệp còn có thể đối phó được. Chúng chỉ cần tiền, chứ không cần mạng."

"Vậy hai gã đó..."

"Tiến vào bằng cửa sau," Lowell Looney nói và lướt về phía cuối quầy thu ngân nơi có một tấm rèm cửa màu đen che khuất khu nhà kho phía sau. "Ngoài đó có một cánh cửa dùng để nhận hàng. Vào thời điểm đó tôi có một thằng nhóc làm việc bán thời gian, lúc xảy ra chuyện nó đang ra ngoài đổ rác và hút thuốc. Có tới nửa số lần nó quay trở vào mà quên khóa cửa. Hoặc nó là tay trong hoặc bọn kia đã theo dõi nó từ lâu và biết rằng nó là một thằng đần. Đêm đó chúng đã đi vào trong lúc cửa không khóa, bắn một phát cảnh cáo khiến tôi luống cuống không kịp sờ vào súng của mình rồi cuỗm tiền đi mất."

"Chúng lấy mất của ông bao nhiêu?"

"Sáu nghìn."

"Một món bẫm đấy chứ!" Sean nói.

"Vào các ngày thứ Năm, tôi vẫn thường đi đổi séc ra tiền mặt. Giờ thì tôi không làm thế nữa nhưng hồi đó ngu, có biết gì đâu. Dĩ nhiên nếu bọn cướp cũng nhanh trí hơn chút thì chúng sẽ phải tấn công tôi vào buổi sáng vì lúc đó còn nhiều tiền hơn nữa. Tôi nói bọn chúng là những kẻ chuyên nghiệp nhưng không phải là những tay giỏi nhất."

"Thằng bé để cửa mở tên là gì?" Sean hỏi.

"Marvin Ellis. Có thể nó cũng dính líu. Tôi đuổi việc nó luôn ngày hôm sau. Chuyện là chúng bắn phát cảnh cáo ấy vì chúng biết tôi có để một khẩu súng dưới quầy. Mà chuyện đó thì không phải ai cũng biết thế nên hoặc là Marvin đã bảo chúng, hoặc là một trong hai tên bọn chúng từng làm việc ở đây."

"Ông có khai báo điều đó với cảnh sát không?"

"Có chứ." Ông già phẩy tay nhớ lại. "Họ xem qua tất cả các giấy tờ của tôi, thẩm vấn tất cả những người tùng làm việc tại đây. Ít nhất là họ có bảo tôi thế. Nhưng chả bắt được ai. Cậu nói là khẩu súng đó đã được sử dụng để gây án lần nữa?"

"Đúng thế, ông Looney này..."

"Chúa ơi, làm ơn gọi tôi là Lowell."

"Ông Lovvell, ông vẫn còn danh sách những người đã từng làm việc cho ông chứ?"

Dave nhìn vào tấm gương hai mặt trong phòng thẩm vấn, biết rằng đồng sự của Sean, và có lẽ cả Sean nữa, đang quan sát anh.

Tốt thôi.

Thế nào? Tôi đang thưởng thức chai Sprite của mình. Không biết họ dùng hương liệu gì? Hương chanh. Đúng thế. Tôi rất thích cái vị chanh này, trung sĩ. Thật là ngon. Đúng thế thưa ngài cảnh sát. Tôi thật muốn được uống thêm một chai nữa.

Dave nhìn thẳng vào giữa tấm gương từ phía bên kia chiếc bàn dài và cảm thấy vô cùng khoái trá. Đúng là anh không biết Celeste đã đi đâu với Michael, sự mù mờ đó khiến cho anh cảm thấy sợ hãi, đầu độc đầu óc anh còn hơn cả mười lăm lon bia đêm trước. Nhưng cô ấy sẽ trở lại thôi. Anh hình như nhớ ra đã dọa cô sợ chết khiếp. Anh hẳn đã nói năng lung tung, lải nhải về ma cà rồng hút máu rồi cái gì đã nhập vào thì không thể trở ra được nữa vân vân và vân vân khiến cô phát hoảng.

Không thể trách cô. Là lỗi của anh đã để Thằng Bé xuất hiện và trưng ra bộ mặt xấu xí, hung tợn của nó.

Thế nhưng ngoài việc Celeste và Michael bỏ đi thì anh cảm thấy rất vững vàng. Anh không còn cảm giác do dự của mấy ngày trước nữa. Đêm trước, anh thậm chí còn ngủ sáu tiếng đồng hồ. Lúc thức dậy, miệng khô khốc, nhạt thếch, đầu nặng như chì nhưng hoàn toàn thông suốt.

Anh biết mình là ai. Và anh biết mình đã làm đúng. Ngẫm lại, việc giết hại một người (không thể tiếp tục đổ lỗi cho Thằng Bé nữa vì đó chính là anh, chính là Dave đã ra tay) đã tiếp thêm sức mạnh cho Dave. Anh nghe nói ở một nền văn hóa cổ đại nào đó người ta giết người rồi ăn tim của kẻ đó. Khi ăn tim kẻ thù sẽ khiến sức mạnh của người kia nhập vào mình, quyền lực sẽ nhân đôi, linh hồn cũng vậy. Dave cũng có cảm giác đó. Không, anh không ăn tim ai cả. Không tới mức đó. Nhưng anh có cảm giác vinh quang của kẻ săn mồi. Anh đã giết người. Và anh đã đúng khi làm việc ấy. Anh đã dẹp bỏ được con quái vật ở trong lòng, một con quái vật biến thái luôn khao khát được chạm vào tay của một cậu bé và tan chảy trong đó. Con quái vật đó đã biến mất, đi xuống địa ngục cùng với nạn nhân của Dave. Giết đi một mạng người, đồng thời anh cũng tính sổ luôn thằng người xấu ở trong mình, cái tên biến thái vẫn ẩn nấp trong anh từ hồi mười một tuổi, đứng bên cửa sổ nhà anh, nhìn xuống quang cảnh tiệc tùng trên phố Rester mừng anh trở về. Lúc đó Dave cảm thấy thật yếu đuối, thật đáng thương, như bị phơi bày cả ruột gan ra trước bữa tiệc. Cậu cảm thấy mọi người đang cười thầm sau lưng mình, các bậc phụ huynh cố nặn ra những nụ cười giả tạo, đằng sau nét mặt ngoại giao trưng ra trước đám đông là sự ngấm ngầm thương hại, là sự sợ hãi, là sự ghét bỏ mà Dave đã phải lập tức rời khỏi bữa tiệc để trốn tránh vì nó khiến cậu có cảm giác của một kẻ vô cùng ti tiện.

Nhưng giờ đây sự thù ghét của người khác lại khiến anh trở nên mạnh mẽ bởi vì anh đã có một bí mật mới, lớn hơn rất nhiều so với cái bí mật đáng thương mà dường như ai cũng có thể đoán ra trước đây. Giờ anh có một bí mật khiến anh có thể ngẩng cao đầu thay vì chúi xuống.

Lại đây, anh những muốn nói với mọi người, tôi có một bí mật muốn nói. Lại gần hơn nữa, tôi sẽ nói thầm vào tai bạn.

Tôi vừa mới giết một người.

Mắt Dave xoáy vào viên cảnh sát béo phía sau tấm gương.

Tôi vừa giết một người. Và ông không tài nào chứng minh được.

Hai chúng ta ai mới là kẻ mạnh hơn?

Sean tìm thấy Whitey ở phòng kế bên buồng thẩm vấn C trước tấm gương hai mặt. Ông đứng đó, một chân gác lên chiếc ghế da đã sờn rách, vừa uống cà phê vừa nhìn Dave.

"Sếp đã cho xếp hàng để nhận dạng chưa?"

"Vẫn chưa."

Sean tới bên cạnh ông. Dave đang nhìn thẳng về phía họ, có vẻ như đang xoáy vào mắt Whitey như thể nhìn thấy ông ta ở đó. Kỳ lạ hơn nữa, cậu ta lại còn mỉm cười. Chỉ rất nhẹ thôi nhưng rõ ràng là nét cười.

"Tâm trạng không được tốt lắm?" Sean hỏi.

Whitey nhìn anh trả lời, "Cũng tốt hơn rồi."

Sean gật đầu. Whitey chỉ ly cà phê về phía anh. "Cậu phát hiện ra cái gì đó. Tôi có thể ngửi thấy, đồ ranh con. Khai ra mau."

Sean những định kéo dài thời gian để chọc tức Whitey nhưng cuối cùng lại không nỡ.

"Trong số những người từng làm việc tại cửa hàng rượu Looney Liquors có một cái tên rất thú vị."

Whitey đặt ly cà phê xuống bàn phía sau lưng và rút chân khỏi chiếc ghế. "Ai vậy?"

"Ray Harris."

"Là Ray...?"

Sean cười rõ tươi. "Cha của Brendan Harris, trung sĩ. Một kẻ từng có tiền án tiền sự."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Thằng nhóc tên Vince


Whitey ngồi lên chiếc bàn làm việc trống trơn đối diện với bàn của Sean, cầm trên tay một bản báo cáo của nhân viên quản thúc phạm nhân trong thời gian thử thách.

"Raymond Matthew Harris – sinh ngày 6/9/1955. Lớn lên tại phố Twelve Mayhew ở khu Hạ, East Bucky. Mẹ là Delores, nội trợ. Cha là Seamus, một công nhân đã bỏ nhà ra đi vào năm 1967. Sau khi cha hắn ta bị bắt vì tội ăn cắp vặt ở Bridgeport, Connecticut, vào năm 1973 thì con trai cũng bắt đầu sinh sự. Nhiều lần phạm phải các tội như lái xe trong lúc say rượu hay phá rối trật tự công cộng. Ông bố qua đời ở Bridgeport năm 1979 vì xơ cứng động mạch. Cũng trong năm đó, Raymond kết hôn với Esther Scannell – thằng cha này quả thật là may mắn – và tìm được công việc lái tàu điện ngầm cho Sở giao thông Massachusetts. Con đầu lòng Brendan Seamus sinh năm 1981. Vào cuối năm đó, Raymond bị nghi ngờ dính líu tới một vụ biển thủ công quỹ hai mươi ngàn đô la tiền vé tàu. Lời buộc tội này cuối cùng bị hủy bỏ nhưng Raymond bị cơ quan đuổi việc. Sau đó thì hắn ta bắt đầu làm những việc chân tay lặt vặt, như thợ phụ sửa chữa nhà cửa, thu ngân tại cửa hàng rượu Looney Liquors, pha chế rượu tại quán bar và nâng cẩu hàng tại bến cảng. Lại bị đuổi khỏi việc nâng cẩu hàng vì thụt quỹ. Thêm một lần nữa bị buộc tội nhưng cáo trạng không thành mà chỉ bị sa thải. Sau đó bị thẩm vấn vì liên quan tới vụ cướp ở cửa hàng rượu Looney Liquors nhưng rồi lại được thả ra vì thiếu bằng chứng. Cũng trong năm đó còn bị thẩm vấn vì liên quan tới một vụ cướp khác ở cửa hàng rượu Blanchard Liquors tại hạt Middlesex rồi cũng lại được thả ra vì thiếu chứng cớ."

"Bắt đầu được biết đến," Sean nói.

"Đúng là hắn bắt đầu trở nên nổi tiếng," Whitey tán thành. "Năm 1983, một đồng bọn của hắn, một tay Edmund Reese gì đó, đã khai ra Raymond trong vụ trộm bộ sưu tập truyện tranh quý hiếm của một nhà môi giới ở..."

"Truyện tranh?" Sean bật cười. "Ối giời ơi Raymond ơi là Raymond."

"Một bộ truyện tranh giá một trăm năm mươi ngàn đô la đấy," Whitey nói.

"Ra thế, xin lỗi."

"Raymond phản bác rằng văn học thì không có hại nên chỉ bị bốn tháng tù trong đó có hai tháng là tù treo. Khi ra tù thì bắt đầu dính vào nghiện ngập."

"Ái chà."

"Là cocain, những năm tám mươi mà, hồ sơ phạm tội từ đó cũng bắt đầu dày lên. Raymond cũng đủ thông minh để che giấu những thủ đoạn kiếm tiền mua ma túy nhưng lại bị lộ trong khi mua bán chúng. Vì là phạm tội trong thời gian thử thách nên bị kết án một năm tù."

"Và có thời gian suy nghĩ về các lỗi lầm của mình."

"Không hề. Sau đó lại bị bắt một lần nữa vì tội buôn bán hàng ăn cắp xuyên quốc gia trong một chiến dịch phối hợp giữa bên trọng án và cảnh sát liên bang FBI. Thế nào cậu cũng muốn nghe chi tiết này. Đoán xem Raymond đã trộm gì? Đặt vào bối cảnh năm 1984 nhé."

"Sếp không đưa ra tí gợi ý nào sao?"

"Hãy dùng bản năng của cậu mà phán đoán."

"Máy ảnh."

Whitey lườm anh một cái. "Máy ảnh gì. Mau lấy cho tôi một ly cà phê, cậu thế mà cũng gọi là cảnh sát à."

"Vậy là gì?"

"Là bộ game trò chơi trí tuệ Trivial Pursuit. Cậu chắc chả bao giờ nghĩ tới phải không?"

"Truyện tranh và trò chơi trí tuệ. Anh chàng này quả thật rất có phong cách."

"Cùng rất nhiều rắc rối. Hắn ta đánh cắp một chiếc xe tải ở Rhode Island và lái về Massachusetts."

"Thế là bị cảnh sát liên bang tóm."

"Thế là," Whitey lại lườm Sean phát nữa. "Họ quả có tóm được hắn nhưng không thành án."

Sean ngồi thẳng dậy, rút chân xuống khỏi bàn. "Hắn chỉ điểm ai à?"

"Có vẻ thế," Whitey nói. "Sau đó, hồ sơ trống trơn. Nhân viên quản thúc của Raymond chỉ ghi chú rằng hắn ta đều đặn tới điểm danh cho tới khi mãn hạn thử thách vào cuối năm 86. Thế còn quá trình làm việc của hắn?" Whitey nhìn sang phía Sean.

"Tôi có thể bắt đầu chứ?" Sean nói và mở tài liệu của mình ra. "Quá trình làm việc, bảng lương, báo cáo thu nhập, bảo hiểm xã hội, tất cả đều chấm dứt vào tháng Tám năm 1987. Hắn ta giống như là biến mất không để lại dấu vết vậy."

"Cậu đã cho kiểm tra trên phạm vi toàn quốc?"

"Việc đó đang được tiến hành, thưa sếp."

"Cậu dự đoán những khả năng nào có thể xảy ra?"

Sean lại gác hai chân lên bàn, dựa sâu vào ghế. "Một là hắn ta đã chết. Hai là nằm trong chương trình bảo vệ nhân chứng. Thứ ba là hắn chui rất sâu, rất sâu dưới đất rồi đột nhiên hiện ra, tìm khẩu súng cũ và bắt chết cô bạn gái mười chín tuổi của con trai mình."

Whitey ném tập hồ sơ xuống bàn. "Chúng ta thậm chí cũng chưa biết liệu đó có đúng là súng của hắn. Chúng ta chả biết gì sất. Chả ra cái thá gì cả Devine ạ."

"Chúng ta đang vận động chờ khiêu vũ đấy thôi, trung sĩ. Thôi nào, sớm sủa thế này, đừng gắt gỏng với tôi chứ. Chúng ta có một gã vốn là nghi phạm chính trong một vụ cướp mười tám năm trước với khẩu súng gây án. Con trai của hắn hẹn hò với nạn nhân. Đối tượng lại từng có tiền án tiền sự. Tôi muốn điều tra thêm về gã này và con trai hắn. Mà con trai hắn thì sếp biết đấy, lại không có bằng chứng ngoại phạm."

"Nhưng lại vượt qua máy phát hiện nói dối và cả hai chúng ta cũng đều nhất trí rằng thằng bé không có khả năng làm chuyện đó."

"Có lẽ chúng ta đã lầm."

Whitey dùng cổ tay dụi mắt. "Tôi đã ngán bị nhầm lắm rồi."

"Sếp đang định nói là sếp cũng đã nhầm về Boyle?"

Whitey lắc đầu, tay vẫn dụi mắt. "Tôi không hề nói vậy. Tôi vẫn cho rằng gã này có vấn đề nhưng hắn có dính líu tới vụ Katherine Marcus hay không lại là chuyện khác." Ông bỏ tay xuống, hai quầng mắt đỏ ửng. "Nhưng hướng Raymond Harris này cũng chả thấy hứa hẹn gì. Ừ thì điều tra thêm về cậu con trai. Không có vấn đề gì. Rồi cố tìm ra ông bố. Nhưng sau đó thì sao?"

"Lấy khẩu súng ra làm bằng chứng buộc tội," Sean nói.

"Súng có khi đang nằm dưới đáy biển rồi cũng nên. Nếu tôi là thủ phạm thì tôi cũng sẽ làm thế."

Sean ngẩng đầu lên nhìn Whitey. "Ông nên vứt nó sau khi cướp cửa hàng rượu mười tám năm trước."

"Cũng đúng."

"Thế nhưng hắn ta lại không vứt nó đi. Điều đó có nghĩa là..."

"Hắn không được thông minh sáng láng như tôi," Whitey nói.

"Hay như tôi."

"Cái này ban giám khảo vẫn đang cân nhắc."

Sean duỗi người trên ghế, hai bàn tay lồng vào nhau phía sau gáy rồi đẩy hai khuỷu tay về phía tường cho tới khi cảm thấy mọi cơ bắp đều căng lên. Anh rùng mình ngáp một cái rồi thả tay xuống. "Whitey này," anh nói, biết là đã đến lúc phải đưa ra câu hỏi mà anh đã cố lần lữa trì hoãn cả buổi sáng.

"Có chuyện gì?"

"Trong hồ sơ của ông có nhắc gì tới các đồng phạm của hắn không?"

Whitey lại cầm tập hồ sơ lên và giở vài trang đầu ra. "Một số đồng phạm được cảnh sát biết đến là Reginald (tức Reggie Duke) Neil, Patrick Moraghan, Kevin Sirracci Đồ Tể, Nicholas Savage, hừm, Anthony Waxman..." Đọc tới đây Whitey chợt ngẩng lên nhìn Sean và Sean biết rằng tên của người kia cũng nằm trong đó. "Jimmy Marcus," Whitey đọc tiếp. "Bí danh Jimmy Khu Hạ," cầm đầu một băng nhóm tội phạm khét tiếng có tên là Những chàng trai phố Rester." Whitey nói xong và gập tài liệu lại.

"Không phải là lại xuất hiện những tình tiết mới sao?" Sean kết luận.

Jimmy chọn một tấm bia đơn giản, màu trắng. Người bán hàng nói năng nhỏ nhẹ, kính cẩn như thể bản thân anh ta cũng không muốn xuất hiện ở một nơi như thế này nhưng vẫn tìm cách dẫn dắt Jimmy tới chỗ những tấm bia đắt tiền hơn, những tấm bia bằng hoa cương có khắc hình các thiên thần, tiểu thiên sứ hay hoa hồng. "Hay là một cây thanh giá kiểu Celtic, một sự lựa chọn rất phổ biến đối với..."

Jimmy những đợi anh ta buông ra tiếp câu "với những người như các ông" nhưng người bán hàng kiềm lại được và kết thúc bằng mệnh đề "... với rất nhiều người hiện nay."

Jimmy sẽ kiếm tiền xây cả tượng đài nếu có thể làm Katie hài lòng nhưng hắn biết con gái mình không phải là một người phô trương, thích trang trí cầu kỳ. Con bé thích mặc quần áo đơn giản, trang sức đạm bạc, không thích đeo vàng và hiếm khi trang điểm trừ những dịp quan trọng. Katie thích những thứ sạch sẽ, có một chút phong cách nhẹ nhàng, và đó chính là lý do mà Jimmy chọn tấm bia màu trắng và những chữ khắc trên đó được viết khá bay bướm. Người bán hàng cảnh báo Jimmy rằng điều đó sẽ khiến giá tiền đội lên gấp đôi nhưng Jimmy chỉ quay đầu lại nhìn gã diều hâu ấy bằng một ánh mắt khiến hắn loạng choạng lùi lại vài bước rồi bảo, "Muốn lấy tiền mặt hay ghi séc?"

Jimmy nhờ Val chở tới đây và khi rời khỏi lại một lần nữa chui vào trong chiếc Mitsubishi 3000 GT để lần thứ mười tự hỏi tại sao một gã ngoài ba mươi có thể lái một chiếc xe thế này mà không cảm thấy lố bịch.

"Chúng ta đi đâu tiếp đây, Jim?"

"Đi làm tí cà phê."

Val thường hay bật mấy thứ nhạc rap vớ vẩn ầm ĩ trong xe, tiếng bass nện thình thịch lên cửa kính sẫm màu. Một thằng ranh da đen thuộc tầng lớp trung lưu hay một đứa da trắng đua đòi đang hát về gái gẩm, súng ống khiến Jimmy liên tưởng tới đám ca sĩ nhí nhố trên MTV mà hắn sẽ chẳng bao giờ biết tới nếu không nghe thấy Katie nhắc tên bọn họ trong lúc nói chuyện điện thoại với bạn gái. Jimmy đã rất cảm kích vì sáng nay Val không bật nhạc trong xe. Hắn ghét nhạc rap không phải vì đó là nhạc của người da đen sống tại những khu ổ chuột, vì đó cũng chính là nơi sản sinh ra những âm điệu P-Funk, soul và blues nguyên chất, mà chỉ vì không thấy nó tài tình ở chỗ nào. Tuôn ra mấy câu hài hước có chút vần điệu, có chút thô tục cùng với DJ tua tới tua lui mấy bản nhạc khác rồi biểu diễn mấy động tác phồng ngực lúc nói trước mic. Ờ đúng, rất thô ráp rất nguyên thủy, rất đường phố, rất thực tế, mẹ kiếp. Thì đái thành hình tên mình trên tuyết rồi nôn ra đó cũng có gì khác đâu. Có lần hắn nghe thấy một gã phê bình âm nhạc vớ vẩn trên đài nói rằng việc sử dụng âm điệu của các bài hát khác làm nền hát rap cũng là một "hình thái nghệ thuật" khiến một người không biết gì về nghệ thuật như Jimmy những muốn xông vào loa tát cho cái tên khốn hẳn là một gã da trắng, tinh vi và củ chuối kia. Nếu đó là nghệ thật thì phần lớn những gã trộm cướp mà Jimmy quen biết cũng đều là nghệ sĩ cả. Bọn họ hẳn sẽ ngạc nhiên khi phát hiện ra điều đó.

Hay cũng có thể là vì hắn đang già đi. Hắn vẫn biết rằng việc không còn hiểu được âm nhạc của những người trẻ hơn chính là dấu hiệu đầu tiên của sự chuyển giao thế hệ. Nhưng sâu trong lòng mình hắn biết là không phải vậy. Chỉ đơn giản là nhạc rap chẳng ra gì, nhạt nhẽo, đơn điệu và Val nghe nó cũng giống như việc cậu ta lái chiếc xe này, cố bám vào những thứ vốn chẳng có chút giá trị nào.

Họ dừng lại mua đồ ở quán Dunkin's Donuts, vứt nắp ly vào thùng rác ngoài cửa rồi đứng dựa lưng vào thùng xe uống cà phê.

"Tối qua chúng tôi có ra ngoài hỏi han như cậu yêu cầu." Val nói.

Jimmy đấm vào tay Val vẻ cảm kích. "Cảm ơn cậu."

Val đấm lại. "Đấy không chỉ là vì cậu đã ngồi tù hai năm cho tôi, Jimmy. Cũng không phải là tôi cần tới đầu óc của cậu để xử lý công chuyện. Mà vì Katie là cháu gái tôi."

"Tôi biết."

"Có thể không phải ruột thịt hay gì đó nhưng tôi rất quý con bé."

Jimmy gật gù. "Các cậu là những ông cậu tốt nhất trên đời này."

"Cậu không đùa đấy chứ?"

"Tôi nói nghiêm túc đấy."

Val nhấp một ngụm cà phê rồi im lặng trong chốc lát. "Thế này, có vẻ như cảnh sát đã nói đúng về O'Donnell và Farrow. O'Donnell thì lúc đó đang ở trong phòng giam của hạt. Farrow thì tham dự một bữa tiệc mà chúng tôi đã đích thân nói chuyện với bao nhiêu nhỉ, khoảng chín gã có mặt ở đó, tất cả đều làm chứng có lợi cho hắn."

"Tất cả đều đáng tin cậy chứ?"

"Ít nhất thì có tới phân nửa là đáng tin cậy. Chúng tôi cũng đánh hơi xung quanh nhưng gần đây không thấy có vụ đâm thuê chém mướn nào. Phải tới năm rưỡi rồi chưa có vụ nào. Cậu cũng biết mà?"

Jimmy gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.

"Cảnh sát thực sự chú trọng tới vụ này," Val nói. "Họ kiểm tra tất cả các quán bar, các khu vực nóng xung quanh quán Last Drop, không bỏ sót chỗ nào. Tất cả gái điếm mà tôi hỏi đều đã bị cảnh sát thẩm vấn qua. Đám phục vụ quầy bar cũng vậy. Bất cứ ai xuất hiện ở quán McGills hay Last Drop đêm hôm đó đều đã khai báo. Tóm lại là cảnh sát đã ra tay, Jim ạ. Khắp nơi mọi người chỉ nghĩ tới chuyện này, đều cố nhớ lại những chi tiết có thể có ích."

"Cậu có gặp người nào nhớ ra chuyện gì đó không?"

Val giơ hại ngón tay lên, nhấp một ngụm cà phê rồi mới nói. "Có một gã – cậu có biết Tommy Moldanado không?"

Jimmy lắc đầu.

"Ở khu Basin, thợ quét vôi. Hắn nhìn thấy một kẻ khả nghi trong bãi đỗ xe quán Last Drop ngay trước khi Katie rời đi. Hắn bảo gã đó chắc chắn không phải là cớm. Lái một chiếc xe ngoại nhập, khung lốp trước bị móp, phía ghế bên."

"Ừ."

"Còn có chuyện lạ này nữa, tôi nói chuyện với Sandy Greene. Cậu có nhớ không? Học cùng với chúng ta ở Looey?"

Jimmy nhớ tới cô bé tóc nâu buộc túm hai bên trong lớp học với những chiếc răng khểnh lúc nào cũng nhai đầu bút chì cho tới khi nó gãy rụp trong miệng rồi phun ra phì phì.

"Ừ. Giờ cô ấy làm gì?"

"Làm gái," Val nói. "Trông tàn tạ không chịu nổi. Bằng tuổi chúng mình đúng không? Thế mà trông mẹ tớ trong quan tài còn khá hơn. Tóm lại cô ta là gái điếm có thâm niên cao nhất ở khu đèn đỏ xung quanh quán Last Drop. Cô ta nói có bảo trợ cho một thằng bé, một thằng bé lang thang hành nghề tại đó."

"Một đứa bé?"

"Khoảng mười một mười hai tuổi gì đó."

"Chúa ơi."

"Ôi dào ơi, cuộc sống mà. Tóm lại cô ta bảo thằng bé đó tên thật là Vincent. Mọi người đều gọi nó là Nhóc Vince trừ Sandy vẫn luôn gọi nó là Vincent. Cô ta bảo thằng bé thích được gọi là Vincent hơn. Thằng bé già dặn hơn tuổi mười hai của nó rất nhiều. Vincent là một thằng bé đứng đường chuyên nghiệp. Cô ta bảo nó không ngại ra tay nếu có ai giở trò với nó, lúc nào nó cũng giấu một lưỡi dao cạo dưới vòng đeo chiếc đồng hồ Swatch của mình. Nó đứng đường sáu tối một tuần. Cho tới thứ Bảy vừa rồi."

"Chuyện gì đã xảy ra với thằng bé vào tối thứ Bảy?"

"Không ai biết. Thằng bé biến mất tăm. Sandy bảo đôi khi nó trốn tại chỗ của cô ta. Nhưng khi cô ta trở về nhà sáng Chủ nhật thì đồ đạc của thằng bé đã biến mất. Nó đã cao chạy xa bay."

"Vậy là thằng bé rời đi. Như thế càng tốt cho nó. Có lẽ nó muốn thay đổi."

"Thì tôi cũng nói thế. Nhưng Sandy bảo không phải vậy. Thằng bé nghiện làm việc đó. Cô ta bảo thằng bé lớn lên sẽ trở thành một kẻ đáng sợ. Nhưng hiện giờ nó vẫn chỉ là một thằng bé thích công việc mà mình đang làm. Cô ta nói nếu nó bỏ đi thì chỉ có một lý do duy nhất, đó là nó sợ. Sandy cho rằng thằng bé đã chứng kiến chuyện gì đó khiến nó kinh hãi, hẳn phải vô cùng kinh hãi vì nó không phải là một đứa dễ bị dọa nạt."

"Cậu có ai có thể do thám thêm không?"

"Có. Nhưng cũng không dễ dàng gì. Bọn trẻ con đứng đường không phải là một hoạt động có tổ chức. Cậu biết đấy, bọn nhóc đó sống lang thang trên đường phố, nhặt nhạnh vài đồng nếu có thể, lúc nào thích thì lại bỏ đi chỗ khác. Nhưng tôi sẽ cho người theo dõi vụ này. Chúng tôi sẽ tìm ra thằng bé Vincent đó. Tôi cho là có thể nó biết gì đấy về cái gã ngồi trong bãi đỗ xe ở quán Last Drop, hay có thể nó đã chứng kiến cái chết của Katie."

"Nếu như cái chết của con bé có liên quan gì đó tới gã kia."

"Moldanado nói cả người gã ta toát ra hung khí. Dù trời tối không nhìn rõ nhưng hắn vẫn cảm thấy có một luồng hung khí phát ra từ chiếc xe đó."

Một luồng hung khí, Jimmy thầm nghĩ. Ối giời, thông tin mới có ích làm sao.

"Và chuyện đó xảy ra ngay trước khi Katie rời đi?"

"Đúng vậy, ngay trước đó. Cảnh sát đã phong tỏa bãi đỗ xe sáng thứ Hai, cử một đội tới đó cày xới tìm dấu vết."

Jimmy gật gù. "Vậy là có chuyện gì đó đã xảy ra trong bãi đỗ xe ấy."

"Chính thế. Đó chính là điều khiến tôi thấy khó hiểu. Katie bị bắt đi trên phố Sydney cơ mà. Cách đó tới mười dãy nhà."

Jimmy uống cạn ly cà phê của mình. "Nếu con bé quay trở lại thì sao?"

"Gì cơ?"

"Nếu con bé quay trở lại quán Last Drop. Tôi biết giả thiết dễ thấy nhất hiện nay là con bé thả Eve và Diane về nhà rồi đi tiếp lên phố Sydney nơi xảy ra chuyện. Nhưng nếu con bé trước hết quay trở lại quán Last Drop thì sao? Nó quay lại đó, gặp phải hung thủ. Hắn ta bắt cóc con bé, bắt nó lái xe tới công viên Pen và rồi mọi chuyện diễn ra như cảnh sát nói?"

Val lăn lăn ly cà phê rỗng trong tay. "Cũng có thể. Nhưng con bé quay trở lại quán Last Drop làm gì?"

"Tôi cũng không biết nữa." Hai người bọn họ cùng đi tới thùng rác để vứt ly cà phê đã uống xong. "Thế còn thằng bé nhà Just Ray, cậu có tìm thấy gì không?"

"Có hỏi han xung quanh về thằng bé. Ai cũng bảo nó rất hiền lành. Không bao giờ gây rắc rối. Nếu nó không quá xinh trai như thế thì chắc mọi người cũng chả nhớ là đã từng gặp qua. Eve và Diane đều nói là nó thật lòng yêu con bé. Kiểu tình yêu ghi tâm khắc cốt. Nếu cậu muốn tôi sẽ điều tra kỹ hơn về nó."

"Chuyện đó cứ tạm hoãn lại đã. Cứ theo dõi và chờ xem có gì dẫn dắt tới nó không. Bây giờ phải đi tìm thằng bé Vincent trước đã," Jim nói.

"Được thôi."

Jimmy mở cửa xe thấy Val vẫn nhìn mình qua mui xe như đang có điều gì không biết nên nói ra hay không.

"Gì thế?"

Ánh mặt trời hắt lên mặt khiến Val khẽ nheo mắt lại, mỉm cười. "Gì cơ?"

"Cậu muốn nói gì thì nói đi. Là chuyện gì?"

Val cúi mặt xuống tránh ánh nắng, hai tay xòe ra trên nóc xe. "Tôi có nghe thấy một chuyện sáng nay. Ngay trước khi chúng ta xuất phát."

"Vậy sao?"

"Đúng thế," Val nói và nhìn về phía cửa hàng bánh rán trong giây lát. "Nghe nói hai viên cảnh sát kia lại tới nhà Dave lần nữa. Cậu biết đấy, Sean ở khu Thượng và lão đồng sự béo của cậu ta."

"Dave có mặt ở quán McGills tối hôm ấy. Chắc họ lại muốn hỏi cậu ta chuyện gì đó nên quay trở lại thôi mà," Jimmy nói.

Val rời mắt khỏi cửa hàng bánh quay sang nhìn Jimmy. "Nhưng họ mang cậu ta theo cùng lúc rời đi. Cậu hiểu ý tôi muốn nói gì rồi chứ? Cho cậu ta lên băng ghế sau chở đi."

Marshall Burden xuất hiện ở đội điều tra án mạng vào giữa giờ ăn trưa và gọi Whitey trong lúc đẩy cánh cửa thông với phòng lễ tân ra. "Các anh cho tìm tôi?"

"Đúng thế. Vào đi," Whitey đáp.

Marshall Burden đã có thâm niên hai mươi chín năm trong nghề và trông đúng là rất dày dạn kinh nghiệm. Ông có đôi mắt phong sương của một người đã nhìn thấy quá nhiều thứ không nên thấy ở đời cũng như ở chính bản thân mình. Ông di chuyển cái cơ thể cao lớn, da thịt đã bắt đầu chảy nhão như chực đi giật lùi về phía sau thay vì tiến lên phía trước, như thể tứ chi đang gây chiến với não bộ còn não bộ thì muốn thoái thác mọi chuyện. Bảy năm gần đây ông phụ trách phòng lưu trữ vật phẩm của cảnh sát nhưng trước đó ông từng là một trong những con át chủ bài của cảnh sát bang, có cơ hội thăng tiến tới hàm tá, từ lúc làm việc bên Đội chống ma túy tới Đội điều tra án mạng rồi Đội trọng án đều không gặp trở ngại nào cho tới một ngày tự dưng thức dậy và cảm thấy sợ hãi. Đó là một căn bệnh vẫn thường xảy ra với những cảnh sát ngầm hay thi thoảng, trên đường cao tốc, có những viên cảnh sát tuần tra giao thông đột nhiên không còn khả năng ép xe vi phạm vào lề đường vì tin rằng lái xe sẽ rút súng ra và liều chết với họ. Không hiểu sao một người như Burden cũng mắc phải chứng đó, trở thành người cuối cùng lết ra khỏi cửa, phản ứng chậm chạp khi có nhiệm vụ mới, đứng chôn chân ở cầu thang trong lúc mọi người hối hả leo lên.

Ông ta ngồi xuống cạnh bàn của Sean, người bốc ra một thứ mùi giống như trái cây nẫu, tay lần giở cuốn lịch bàn thể thao mà Sean để trên bàn, lật tới những trang từ tháng Ba.

"Cậu là Devine phải không?" ông hỏi mà không ngẩng đầu lên nhìn anh.

"Đúng vậy. Rất vui được gặp tiền bối. Ở Học viện chúng tôi có nghiên cứu một số ca phá án của ông."

Marshall nhún vai như thể những ký ức về bản thân khiến ông hổ thẹn. Ông lại giở thêm mấy trang lịch nữa. "Vậy các anh cần gì? Tôi sẽ phải quay lại đó trong vòng nửa tiếng nữa."

Whitey quay ghế tới gần Marshall Burden. "Ông có lần tham gia tổ công tác chung với FBI hồi đầu những năm tám mươi đúng không?"

Burden gật đầu.

"Ông đã hạ một gã từng ngồi tù ngắn hạn, Raymond Harris, vì tội đánh cướp một xe tải vận chuyển game Trivial Pursuit tại một trạm dừng chân ở Cranston, Rhode Island."

Burden mỉm cười khi nhìn thấy một câu châm ngôn của Yogi Berra ghi trên quyển lịch. "Đúng vậy. Lái xe tải đi tiểu, không biết là đang bị theo dõi. Gã Harris đó cướp xe và lái đi mất nhưng lái xe đã kịp thời gọi điện báo cảnh sát nên chúng tôi đã lập tức can thiệp tại Needham."

"Nhưng Harris lại được thả đi," Sean nói.

Burden ngước lên nhìn anh lần đầu tiên và Sean thấy trong đôi mắt phong sương đó là một nỗi sợ hãi và căm ghét bản thân khiến anh hy vọng sẽ không bao giờ rơi vào tình trạng tương tự.

"Không phải là được thả đi. Hắn chịu khai ra tên đứng sau, thuê hắn làm vụ này. Một gã tên là Stillson thì phải. Meyer Stillson, đúng thế."

Sean từng nghe nói về trí nhớ siêu việt của Burden – thấy bảo giống như một cái máy ảnh – nhưng tận mắt chứng kiến ông quay trở về mười tám năm trước, rành rọt nêu tên họ đầy đủ của những người có liên quan như thể chuyện mới xảy ra ngày hôm qua khiến anh vừa khâm phục lại vừa thất vọng. Người như ông ta hẳn phải điều khiển cả cái sở cảnh sát này ấy chứ.

"Vậy là hắn ta khai ra kẻ cầm đầu và thế là xong?" Whitey hỏi.

Burden cau mày. "Harris từng có tiền án. Hắn không thể thoát nếu chỉ khai ra tên cầm đầu. Nhưng Đội chống băng đảng của cảnh sát thành phố nhảy vào cuộc để moi thông tin về một vụ án khác và thế là hắn lại khai ra một cái tên nữa."

"Là ai?"

"Gã cầm đầu băng Những chàng trai phố Rester, Jimmy Marcus."

Whitey nhìn Sean, một bên mày nhướng lên.

"Đó là sau khi xảy ra vụ cướp ở phòng kiểm tiền?" Sean nói.

"Vụ cướp phòng kiểm tiền nào?" Whitey hỏi.

"Đó là vụ khiến Jimmy đi tù," Sean nói.

Burden gật đầu. "Hắn ta và một gã nữa đã đánh cướp phòng kiểm tiền của Sở giao thông công chánh Boston vào một buổi tối thứ Sáu. Xuất nhập trong vòng hai phút đồng hồ. Chúng nắm rõ thời gian bảo vệ đổi ca và thời điểm tiền được chuyển vào trong túi. Chúng có hai tên đứng ngoài phố để chặn chiếc xe tải tới nhận tiền. Bọn chúng hành động rất trơn tru, lại biết chính xác mọi chuyện xảy ra ở bên trong nên hẳn có người tiếp tay, một người đang làm việc hoặc từng làm việc ở đó một hai, năm về trước."

"Chính là Ray Harris."

"Chính xác. Hắn chỉ điểm Stillson và băng Những chàng trai phố Rester cho cảnh sát Boston."

"Cả băng?"

Burden lắc đầu. "Không, chỉ có Marcus mà thôi nhưng hắn chính là kẻ cầm đầu. Lũ còn lại chỉ như rắn mất đầu, tự động tan rã. Cảnh sát Boston tóm hắn khi hắn vừa đi ra khỏi một nhà kho buổi sáng hôm diễn ra lễ hội diễu hành Thánh Patrick. Đó là ngày bọn chúng định chia tiền nên cảnh sát bắt được Marcus với một va li đầy tiền trên tay."

"Hượm đã, thế Ray Harris có công khai trước tòa không?"

"Không. Marcus đã đạt được một thỏa thuận với cảnh sát truớc khi ra tòa. Hắn ta từ chối khai ra tên của đồng bọn và lĩnh hết tội về mình. Những tội trạng khác của hắn ai cũng biết nhưng chẳng ai có thể chứng minh được. Thằng bé lúc đó mười chín tuổi chứ mấy. Hay là hai mươi? Nó điều hành băng đảng đó từ hồi mười bảy tuổi và chưa bao giờ bị bắt. Bên công tố đạt được thỏa thuận hai năm tù giam và ba năm án treo với hắn vì biết là nếu ra tòa chưa chắc đã đủ bằng chứng buộc tội hắn. Nghe nói bên đội chống băng đảng rất điên đầu về chuyện này nhưng chả làm gì được."

"Vậy là Jimmy Marcus không bao giờ biết được là Ray Harris đã bán đứng hắn?"

Burden lại ngẩng đầu khỏi quyển lịch, đôi mắt mờ mịt của ông ta nhìn Sean với chút khinh thường. "Trong vòng ba năm, Marcus đã giật dây mười sáu vụ cướp lớn. Có lần hắn cướp một lúc mười hai cửa hàng tại trung tâm vàng bạc đá quý Jeweler's Exchange trên phố Washington. Thậm chí cho tới bây giờ vẫn không ai có thể đoán được hắn làm được điều đó bằng cách nào. Hắn đã vô hiệu hóa gần hai mươi loại báo động khác nhau – báo động khởi động điện thoại, báo động vệ tinh, và điện thoại không dây, toàn những thứ công nghệ mới nhất lúc bấy giờ. Mà hắn mới chỉ mười tám tuổi. Có tin nổi không? Mười tám tuổi nhưng có thể vô hiệu hóa các hệ thống báo động mà những kẻ trộm chuyên nghiệp khác không thể phá được ở tuổi bốn mươi.

Vụ Keldar Technics cũng thế. Hắn và đồng bọn trèo lên nóc nhà, làm nhiễu tần sóng của bên cứu hỏa rồi khởi động hệ thống tưới nước dập lửa tự động. Phải nói là quá xuất sắc vào thời điểm lúc bấy giờ. Bọn chúng cứ chờ ở trên nóc nhà cho tới khi hệ thống phun nước tự động vô hiệu hóa hệ thống giám sát và phát hiện chuyển động. Hắn ta đúng là một thiên tài. Nếu hắn ta chịu làm việc cho NASA thay vì cho bản thân thì chúng ta chắc phải đưa vợ con hắn đi nghỉ mát ở sao Diêm Vương. Các anh nghĩ là một gã thông minh như vậy lại không biết được ai đã bán đứng mình sao? Ray Harris biến mất khỏi trái đất này hai tháng sau khi Marcus được trả lại tự do. Các anh nghĩ sao về chuyện đó?"

"Ông cho rằng Jimmy Marcus đã giết Ray Harris," Sean nói.

"Hoặc sai cái tên còi quỷ dị Val Savage ra tay. Các cậu hãy thử gọi cho Ed Folan bên quận 7 xem sao. Giờ cậu ta đã là đại úy bên đó rồi nhưng trước đây có làm cho đội chống băng đảng. Cậu ta có thể kể cho các anh nghe mọi chuyện về Marcus và Ray Harris. Tất cả cảnh sát làm việc tại East Bucky những năm tám mươi sẽ đều nói với các anh như vậy. Nếu Jimmy Marcus không giết Ray Harris thì tôi sẽ trở thành Giáo hoàng người Do Thái." Nói tới đây ông ta đẩy quyển lịch ra rồi đứng dậy phủi quần. "Tôi phải đi ăn trưa. Chúc các cậu may mắn."

Ông ta đi xuyên qua căn phòng, ngó đông ngó tây như để ghi nhớ lại từng chi tiết, có lẽ là chiếc bàn nơi ông ta từng làm việc, cái bảng liệt kê những vụ án mà ông ta theo dõi đặt bên cạnh các đồng nghiệp khác, về cái con người trước khi xảy ra chuyện đào ngũ, để rồi sống nốt quãng đời còn lại trong phòng lưu giữ vật phẩm và cầu nguyện cho tới ngày được về hưu để chuyển tới một nơi không ai còn biết tới mình nữa.

Whitey quay sang bảo Sean, "Giáo hoàng Marshall, Kẻ lầm lạc?"

Càng ngồi lâu trên chiếc ghế cọt kẹt trong căn phòng lạnh lẽo này, Dave càng thấm thía thì ra cảm giác ngầy ngật mà anh tuởng là dư âm của cơn say đêm qua chỉ là trạng thái tiếp theo của việc uống quá nhiều. Cơn giã rượu thực sự mới chỉ bắt đầu vào buổi trưa, gặm nhấm khắp người anh như một đàn mối, chiếm lấy các mạch máu và huyết quản, siết lấy trái tim và hành hạ bộ não. Miệng anh khô khốc và tóc đẫm mồ hôi. Anh có thể ngửi thấy mùi cơ thể của chính mình khi rượu bắt đầu bốc hơi qua những lỗ chân lông. Hai cánh tay và chân anh đầy bùn. Ngực ê ẩm. Một cơn suy sụp ập tới như thác lũ trong đầu anh, khiến anh đau nhức đằng sau hai hốc mắt.

Anh không còn cảm thấy mình dũng cảm. Hay mạnh mẽ. Sự tỉnh táo sáng suốt tưởng chừng bất biến của hai tiếng đồng hồ trước đã không còn nữa, giống như một vết sẹo rời khỏi cơ thể và biến mất, thay vào đó là một nỗi khiếp sợ cùng cực. Anh có cảm giác như anh sắp chết tới nơi và chết một cách đau đớn. Có lẽ anh sẽ đột tử ngay tại đây trên chiếc ghế này, dộng gáy xuống sàn, cả người lên cơn động kinh, mắt vằn lên những tia máu và anh sẽ tụt lưỡi mình vào thật sâu để không ai có thể kéo nó ra được nữa. Cũng có thể là một cơn nhồi máu cơ tim, tim anh hiện đang đập thình thịch trong lồng ngực như một con chuột bị nhốt trong lồng sắt. Hay khi họ thả anh ra khỏi đây, nếu như họ có ý đó, và anh bước ra ngoài phố, chợt nghe tiếng còi xe rít lên ngay bên cạnh, giật mình ngã sấp xuống đường vừa lúc bánh xe buýt khổng lồ lướt tới, lăn trên mặt anh và tiếp tục cuộc hành trình của nó.

Celeste hiện giờ đang ở đâu? Cô có biết anh đã bị bắt mang tới đây? Cô có quan tâm tới anh không? Còn Michael thì sao? Nó có nhớ cha mình không? Điều tệ hại nhất của việc chết đi là Celeste và Michael sẽ tiếp tục sống. Cái chết của anh có thể khiến họ đau lòng trong một thời gian ngắn ngủi nhưng rồi họ sẽ hồi phục và bắt đầu một cuộc sống mới vì đó là cách mà người ta vẫn làm hằng ngày. Chỉ có trong phim mới tồn tại những người không vượt qua được cái chết của người thân, cuộc đời họ cũng đóng băng như những chiếc đồng hồ hỏng không còn chạy nữa. Trong đời thực, cái chết chỉ là một thứ vô nghĩa, một sự kiện mà trừ bản thân người chết thì tất cả những người khác sẽ nhanh chóng lãng quên.

Đôi khi Dave vẫn tự hỏi có khi nào người chết nhìn xuống những người mà họ bỏ lại phía sau và bật khóc vì nhận thấy người thân của mình vẫn tiếp tục sống một cách dễ dàng mà không cần có họ. Giống như đứa con trai của Stanley Khổng Lồ, Eugene. Liệu thằng bé ở trên kia hay ở một nơi nào đó với cái đầu nhỏ bé bị rụng tóc và bộ quần áo bệnh viện màu trắng, có nhìn cha nó đang vui cười trong một quán bar và nghĩ, Bố ơi, con thì sao? Bố có nhớ con không? Rằng con từng sống trên đời này.

Michael sẽ có một người cha mới và khi vào đại học có lẽ nó sẽ kể với bạn gái về người cha từng dạy nó chơi bóng chày, một người cha mà nó không nhớ rõ. Chuyện đó đã xảy ra từ rất lâu rồi, nó sẽ nói vậy. Từ rất lâu rồi.

Và Celeste rõ ràng là vẫn đủ hấp dẫn để tìm thấy một người đàn ông khác. Cô ấy cũng không có sự lựa chọn nào. Sự cô đơn, tôi không còn chịu đựng được nữa, cô ấy sẽ nói với bạn bè mình thế. Và anh ấy là người tốt. Anh ấy đối xử rất tốt với Michael. Và bạn bè của cô ấy sẽ phản bội ký ức về Dave trong nháy mắt. Họ sẽ bảo, thật là tin mừng cho bạn. Đó là chuyện nên làm. Bạn cần phải tiến lên phía trước, tiếp tục sống cuộc đời của mình.

Còn Dave sẽ ở trên đó với Eugene, hai người họ nhìn xuống những người thân yêu của mình và ra sức gọi nhưng chẳng ai nghe thấy.

Chúa ơi. Dave những muốn chui vào một góc và cuộn lại như một tổ kén. Anh đang suy sụp, không còn chút nhuệ khí nào. Nếu cảnh sát quay lại, anh sẽ cung khai. Chỉ cần họ nồng hậu với anh một chút, mời anh thêm một lon Sprite nữa thì anh sẽ nói với họ tất cả những gì họ muốn biết.

Và rồi như đáp lại nỗi sợ hãi và sự khao khát hiện diện ấm áp của con người, cánh cửa phòng thẩm vấn bật mở ra trước mắt Dave và một cảnh sát mặc đồng phục bước vào, một người trẻ trung, mạnh mẽ với ánh mắt đặc trưng của cảnh sát, vừa lạnh nhạt vừa có chút hách dịch. "Ông Boyle, xin mời ông đi theo tôi."

Dave đứng dậy và đi ra cửa, hai tay khẽ run lên, biểu hiện của người đang dần dần tỉnh rượu.

"Đi đâu vậy?" anh hỏi.

"Ông sẽ đứng xếp hàng để có người tới nhận diện, ông Boyle."

Tommy Moldanado mặc quần jean và áo thun màu xan h lá cây lấm tấm vệt sơn. Những vệt sơn nhỏ lốm đốm còn vương cả trên mái tóc xoăn màu nâu của cậu ta, trên gọng kính dày cộp và đọng thành giọt trên đôi ủng làm việc bằng cao su.

Chủ yếu Sean lo ngại về cặp kính mắt. Bất cứ nhân chứng nào đeo kính xuất hiện trước tòa đều sẽ trở thành mục tiêu oanh tạc của luật sư bào chữa. Cũng đừng hy vọng gì ở bồi thẩm đoàn. Tất cả bọn họ đều là chuyên gia khi nói tới mối quan hệ giữa luật pháp và mắt kính do xem quá nhiều phim truyền hình về tòa án như Matlock và The Practice. Họ sẽ quan sát kẻ đeo kính đứng trước vành móng ngựa làm nhân chứng kia với cùng một ánh mắt dành cho nhũng tội phạm buôn bán ma túy, những người da đen không đeo cà vạt hay những tên tội phạm chấp nhận hợp tác với bên công tố.

Moldanado gí mũi vào tấm gương trong phòng quan sát và nhìn năm người đàn ông đang đứng xếp hàng ở phòng bên kia. "Tôi thực sự không nhận ra họ khi nhìn trực diện thế nào. Có thể yêu cầu họ quay sang trái được không?"

Whitey ấn vào chiếc công tắc trước mặt và nói vào mic. "Tất cả các đối tượng quay sang trái."

Năm người đàn ông liền quay sang trái.

Moldanado tì tay lên tấm gương và nheo mắt. "Số hai. Có thể là số hai. Các ông có thể bảo hắn ta tiến lên một chút được không?"

"Số hai á?" Sean hỏi.

Moldanado quay đầu lại nhìn anh gật gật.

Người đứng thứ hai trong hàng là một cảnh sát của tổ chống ma túy tên là Scott Paisner, thường hoạt động trên địa bàn hạt Norfolk.

"Số hai," Whitey thở dài. "Bước hai bước lên phía trước."

Scott Paisner là một người thấp, đậm, để râu, tóc bắt đầu thưa nhiều ở hai bên đường rẽ ngôi. Trông có điểm giống Dave Boyle, lại cũng có điểm giống Whitey. Scott bước lên phía trước và Moldanado bảo, "Đúng, đúng hắn. Đó chính là gã mà tôi nhìn thấy trong bãi đỗ xe."

"Cậu chắc chứ?"

"Tới chín mươi lăm phần trăm," cậu ta nói. "Lúc đó là buổi đêm, các ông biết đấy. Trong bãi đỗ xe thì không có đèn mà tôi thì lại hơi say. Nhưng tôi gần như chắc chắn rằng đó chính là người tôi đã nhìn thấy."

"Nhưng trong biên bản cậu không nói là hắn ta có râu?" Sean nói.

"Không có nhưng giờ nghĩ lại thì đúng, có lẽ hắn ta đúng là có râu."

"Ngoài ra trong hàng không còn ai trông giống hắn ta nữa?"

"Ôi không," cậu ta nói. "Chả giống tẹo nào. Họ đều là... cảnh sát phải không?"

Whitey cúi đầu xuống phía công tắc và lẩm bẩm, "Sao mình lại đi làm cái công việc chó chết này chứ?"

Moldanado nhìn Sean. "Gì cơ? Chuyện gì thế?"

Sean mở cánh cửa phía sau lưng. "Cảm ơn ông đã tới đây, ông Moldanado. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc với ông."

"Tôi đã làm rất tốt đúng không? Ý tôi là tôi đã có thể giúp được các ông chút gì đó?"

"Dĩ nhiên rồi, chúng tôi sẽ gửi chuyển phát nhanh tới cho ông một phù hiệu tuyên dương của cảnh sát," Whitey nói.

Sean mỉm cười với Moldanado, gật đầu chào tạm biệt rồi đóng cửa lại sau lưng cậu ta.

"Thế là không có nhân chứng," Sean nói.

"Ừ. Rõ khốn."

"Chứng cứ tìm thấy trong xe sẽ không thể đứng vững trước tòa."

"Biết rồi."

Sean thấy Dave đưa tay lên dụi mắt, mắt cậu ta nheo lại khi nhìn thấy ánh sáng. Trông như cả tháng chưa chợp mắt.

"Thôi mà, trung sĩ."

Whitey rời khỏi chiếc mic quay ra nhìn Sean. Trông ông cũng bắt đầu kiệt sức, lòng trắng trên mắt đã biến thành màu đỏ.

"Mẹ nó chứ. Thả hắn đi thôi," ông nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Bộ tộc bị cấm đoán


Celeste ngồi bên cửa sổ quán cà phê Nate & Nancy trên đại lộ Buckingham đối diện với nhà của Jimmy trong khi Jimmy và Val Savage đỗ xe lại cách đó nửa dãy nhà rồi đi bộ về.

Nếu định hành động, thực sự hành động thì cô phải đứng dậy ngay lúc này và tiếp cận họ. Cô đứng dậy, hai chân lập cập, tay đập vào dưới mép bàn. Cô nhìn xuống tay mình. Tay cô cũng đang run lên bần bật, một vết trầy dài ngay phía dưới đốt xương của ngón cái. Cô đưa vết thương lên miệng thổi rồi đi về phía cửa. Cô vẫn chưa chắc liệu mình có thể làm được chuyện đó hay không, nói ra những lời mà cô đã chuẩn bị sáng nay trong phòng khách sạn. Cô quyết định chỉ nói với Jimmy những gì cô biết - những chi tiết xác thực về hành vi kỳ lạ của Dave kể từ sáng Chủ nhật mà không kết luận gì để Jimmy tự đưa ra phán xét của mình. Không có bộ quần áo Dave mặc đêm hôm đó thì tìm đến cảnh sát cũng chẳng ích gì. Cô tự nhủ. Cô nói vậy cũng là vì không tin rằng cảnh sát sẽ bảo vệ mình. Cô sống ở khu phố này và điều duy nhất bảo vệ cô khỏi những nguy hiểm ở đây chính là hàng xóm. Nếu như cô nói chuyện này cho Jimmy thì không chỉ anh mà cả anh em nhà Savage nữa cũng sẽ tạo ra một thành trì xung quanh cô mà Dave không bao giờ dám xâm phạm.

Cô ra khỏi cửa vừa lúc Jimmy và Val đặt chân lên bậc thềm. Cô giơ bàn tay đau của mình lên. Cô gọi tên Jimmy rồi bước xuống đại lộ, trông giống như một mụ điên – tóc rối bù, mắt thâm quầng và sưng lên vì sợ hãi.

"Jimmy, Val!"

Họ quay lại nhìn cô. Jimmy khẽ mỉm cười vẻ ngỡ ngàng khiến cô lại lần nữa nhận thấy nụ cười của anh thật cởi mở và dễ thương. Một nụ cười chân thật, tự nhiên, đầy sức cuốn hút. Giống như muốn nói rằng, tôi là một người bạn, Celeste, tôi có thể giúp gì cho cô không?

Cô đi tới vỉa hè và Val khẽ hôn lên má cô. "Chào em họ."

"Chào anh Val."

Jimmy cũng chạm nhẹ vào má cô nhưng cảm giác đó như thấm sâu vào trong da thịt cô, khiến cổ họng cô khẽ run lên.

"Annabeth tìm cô cả sáng nay. Gọi về nhà hay tới chỗ làm cũng đều không gặp," Jimmy nói.

Celeste gật đầu. "Tôi… tôi, à…" Cô tránh ánh mắt hiếu kỳ của Val như thể soi mói cô. "Jimmy, tôi có thể nói chuyện riêng với anh một chút được không?"

"Dĩ nhiên rồi," Jimmy nói, nụ cười ngỡ ngàng lúc trước lại trở về. Anh quay sang bảo Val. "Chúng ta sẽ bàn tiếp chuyện đó sau nhé?"

"Cậu đừng quên đấy. Em họ, gặp lại sau nhé."

"Cảm ơn cậu, Val."

Val đi vào trong nhà còn Jimmy ngồi xuống bậc cầu thang thứ ba và để dành một chỗ bên cạnh cho Celeste. Cô ngồi xuống, để bàn tay bị thương vào trong lòng và cố tìm ra từ ngữ để diễn đạt. Jimmy quan sát cô một lúc rồi dường như nhận ra sự căng thẳng tới không nói nên lời của cô.

Thế là anh nhẹ nhàng khơi mào. "Có biết hôm trước tôi nhớ lại chuyện gì không?"

Celeste lắc đầu.

"Tôi đứng cạnh cái cầu thang cũ trên đường Sydney. Có nhớ mấy bậc cầu thang mà chúng mình vẫn thường tới đó để ngồi xem phim từ khu chiếu bóng và hút thuốc đã đời?"

Celeste mỉm cười. "Lúc đó anh đang cặp kè với…"

"Ôi đừng nhắc tới chuyện đó."

"… Jessica Lutzen với cơ thể không chê vào đâu được của cô ta, còn tôi thì hẹn hò với Duckie Cooper."

"À, anh chàng Duckster. Chuyện gì đã xảy ra với cậu ta vậy?" Jimmy hỏi.

"Nghe nói cậu ấy ra nhập hải quân, bị nhiễm một thứ bệnh ngoài da kỳ quặc nào đó ở nước ngoài, hiện đang sống ở California."

"Ra thế." Jimmy hất cằm lên, ánh mắt xa xăm như trở về thời niên thiếu và Celeste đột nhiên thấy cử chỉ đó của anh giống hệt như mười tám năm trước. Khi đó tóc anh vàng hơn, con người cũng điên rồ hơn, là loại con trai trèo lên cột điện thoại trong lúc trời mưa bão khiến tất cả đám con gái đứng dưới sợ hãi cầu nguyện để cậu ta không rớt xuống. Thế nhưng ngay cả trong những giây phút điên rồ nhất, anh vẫn có một vẻ tĩnh lặng, những khoảng lặng đột ngột để đối chiếu bản thân, tạo ra một thứ cảm giác rằng anh đặc biệt thận trọng trong việc bảo vệ chính mình, ngay từ khi anh còn rất nhỏ.

Anh quay sang và vỗ nhẹ lên đầu gối cô. "Chuyện gì đã xảy ra thế hả đồ ngốc? Trông cô, hừm…"

"Cứ nói thẳng ra đi."

"Gì cơ? À trông cô có vẻ hơi mệt mỏi, thế thôi." Anh dựa lưng vào bậc cầu thang và thở dài. "Nhưng chúng ta lúc này ai chả mệt mỏi."

"Tối qua tôi ngủ ở khách sạn với Michael."

Jimmy nhìn chằm chằm về phía trước. "Ừ."

"Tôi không biết nữa, Jim. Nhưng có lẽ tôi sẽ phải rời khỏi Dave."

Cô nhận thấy nét mặt anh thay đổi, cằm hơi bạnh ra khiến cô đột nhiên có cảm giác Jimmy đã biết cô định nói gì.

"Cô rời khỏi Dave." Anh nói, giọng đều đều, mắt vẫn nhìn ra đường.

"Đúng vậy. Anh ấy hành động, nói thế nào nhỉ… Gần đây anh ấy hành động rất kỳ quặc. Không còn là mình nữa. Anh ấy bắt đầu khiến tôi sợ."

Jimmy quay sang cô với một nụ cười lạnh lẽo tới mức cô suýt nữa thì giơ tay tát vào mặt anh. Trong mắt anh, cô lại thấy hiện ra cậu bé điên rồ leo cột điện thoại trong mưa ngày ấy.

"Sao không kể từ đầu cho tôi nghe? Dave bắt đầu xử sự khác thường từ khi nào?"

"Anh đã biết rồi Jimmy?" Cô hỏi.

"Biết gì cơ?"

"Anh đã biết chuyện gì đó. Trông anh có vẻ không ngạc nhiên."

Nụ cười lạnh lẽo dần tan biết, Jimmy ngồi hơi nhoài người về phía trước, hai tay siết lại trong lòng. "Tôi biết là cậu ta đã bị cảnh sát dẫn đi sáng nay. Tôi biết cậu ta có một chiếc xe nhập ngoại có khung trước bị móp phía ghế bên. Tôi biết câu chuyện cậu ta kể cho tôi về nguyên nhân bị thương ở tay không giống như cậu ta khai với cảnh sát. Và tôi biết cậu ta có gặp Katie vào cái đêm con bé bị sát hại nhưng cậu ta đã không nói với tôi cho tới khi cảnh sát hỏi han cậu ta về chuyện đó." Anh xòe hai tay tồi nói tiếp. "Tôi không biết tất cả những chi tiết đó thực sự có ý nghĩa gì nhưng tôi băt đầu cảm thấy rối trí, đúng vậy."

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, Celeste chợt cảm thấy thương xót chồng mình khi hình dung ra cảnh anh ngồi trong phòng xét hỏi, tay có lẽ bị còng vào bàn, ánh đèn dữ dội hắt thẳng lên khuôn mặt nhợt nhạt. Nhưng sau đó cô lại nhìn thấy Dave của đêm hôm trước, thò đầu vào cửa nghiêng ngó nhìn cô với một vẻ điên khùng, và nỗi sợ hãi lập tức lấn át lòng thương hại.

Cô hít một hơi thật sâu rồi phun chúng ra. "Dave đã trở về nhà vào lúc ba giờ sáng Chủ nhật, từ đầu tới chân đầy máu của người khác."

Lời đã nói ra rồi. Những lời đó đã rời khỏi miệng cô và ra ngoài không khí. Chúng tạo nên một bức tường trước mặt cô và Jimmy rồi mọc ra một cái trần nhà và một bức tường khác phía sau lưng, khiến họ đột nhiên bị giam cầm trong một phòng giam nhỏ xíu được tạo ra chỉ bằng một câu nói. Những tiếng ồn ào trên đại lộ chợt tắt ngấm, cơn gió nhẹ biến mất, tất cả những gì Celeste có thể cảm nhận được chỉ còn lại mùi nước hoa của Jimmy và ánh mặt trời tháng Năm vàng ruộm trên bậc cầu thang dưới chân họ.

"Cậu ta nói chuyện gì đã xảy ra?" Jimmy nói giọng như bị ai bóp ngạt.

Cô kể cho anh nghe. Cô kể cho anh tất cả mọi chuyện, kể cả vụ ma cà rồng hút máu đêm hôm trước. Cô kể và nhận thấy mỗi từ phát ra từ miệng cô là thêm một lần anh muốn né tránh. Chúng thiêu đốt anh. Chúng xuyên vào da thịt anh như trăm ngàn mũi tên. Mắt và miệng anh co lại để chống đỡ, da mặt trân ra cho tới khi có thể nhìn thấy xương trồi lên, và người cô đột nhiên lạnh toát nghĩ tới hình ảnh anh nằm trong quan tài với những móng tay dài, nhọn hoắt, bộ hàm đang phân hủy, và trên sọ là mái tóc bằng rêu mốc phất phơ.

Và rồi nước mắt anh lặng lẽ rơi trên má khiến cô phải cố gắng cưỡng lại thôi thúc được kéo khuôn mặt anh dụi vào cổ mình để nước mắt lăn vào trong áo và trượt xuống lưng.

Nhưng cô tiếp tục nói vì cô biết nếu dừng lại cô sẽ không đủ can đảm tiếp tục, mà cô không thể im lặng vì cô cần phải nói với ai đó lý do khiến cô rời đi, tại sao cô phải chạy trốn khỏi người đàn ông mà cô thề thốt sẽ ở bên cạnh những lúc khó khăn hay hạnh phúc, người đàn ông là cha của con cô, người vẫn nói đùa với cô, dịu dàng cầm tay cô và cho cô mượn một bờ ngực vững chãi để ngủ thiếp. Một người đàn ông không bao giờ phàn nàn, không bao giờ đụng chân đụng tay với cô, một người chồng tốt, một người cha tuyệt vời. Cô cần phải nói với ai đó lòng cô bối rối tới mức nào khi người đàn ông đó đột nhiên biến mất như thể tấm mặt nạ bấy lâu nay đã rơi xuống để lộ ra một con quái vật đểu cáng đang ngấm ngầm theo dõi cô.

"Tôi vẫn không biết anh ấy đã làm gì, Jimmy. Tôi cũng không biết đó là máu của ai. Tôi hoàn toàn không biết. Tôi không thể kết luận điều gì. Là không biết. Nhưng lại rất sợ, rất sợ." Cô kết luận.

Jimmy xoay người dựa lưng vào thành cầu thang bằng sắt uốn. Nước mắt trên mặt anh đã khô, miệng anh vẫn hơi há ra vẻ sửng sốt. Anh nhìn Celeste với ánh mắt như xuyên thủng qua người cô xuống lòng đường rồi tập trung vào một điểm xa xăm nào đó không ai có thể thấy được.

"Jimmy," Celeste khẽ gọi nhưng anh phẩy tay ra hiệu cho cô im lặng rồi nhắm chặt mắt. Anh cúi đầu, mở miệng hít đầy không khí vào lồng ngực.

Cái buồng giam xung quanh họ biến mất, Celeste gật đầu chào Joan Hamilton vừa đi qua và ném cho họ cái nhìn vừa thông cảm vừa có chút ngờ vực. Âm thanh của đường phố ập về với tiếng còi xe, tiếng cửa lách cách, tiếng người gọi nhau từ xa vẳng lại.

Khi Celeste quay lại nhìn Jimmy thì anh đang nhìn cô chăm chú, trực diện. Hai mắt sáng, miệng mím lại, đầu gối tì trước ngực, hai tay vòng ra ôm lấy gối và cô cảm thấy trí tuệ sắc sảo và đầy tính hiếu chiến của anh đang vận động, bộ não anh bắt đầu làm việc với tốc độ và hiệu quả mà phần lớn mọi người có nghĩ cả đời cũng không bằng được.

"Quần áo anh ta mặc đã không còn nữa," anh nói.

"Tôi đã kiểm tra lại. Đúng là không còn nữa."

Anh tì cằm lên đầu gối và hỏi. "Nói thật nhé, cô thực sự sợ hãi tới mức nào?"

Celeste hắng giọng. "Jimmy, đêm qua tôi cứ tưởng là anh ấy sẽ cắn tôi. Cứ cắn mãi không tha."

Jimmy khẽ nghiêng mặt, má trái tựa vào đầu gối và nhắm mắt lại. "Celeste này," anh nói khẽ.

"Vâng?"

"Cô có nghĩ là Dave đã giết Katie?"

Celeste cảm thấy câu trả lời dội ngược lên trong cơ thể cô như cơn buồn nôn đêm hôm trước. Cô có cảm giác như bàn chân nóng giãy của nó đạp lên trái tim cô.

"Có," cô nói.

Mắt Jimmy vụt mở ra.

"Jimmy? Xin Chúa hãy giúp con," cô nói.

Sean nhìn Brendan Harris ở phía bên kia bàn. Thằng bé trông có vẻ bối rối, mệt mỏi và sợ hãi đúng như Sean mong muốn. Sáng nay, anh cử hai nhân viên cảnh sát đến nhà mang cậu ta tới đây rồi cứ để Brendan ngồi đó lo lắng không yên trong khi anh nhẩn nha làm việc trên máy vi tính, đọc kỹ tất cả những dữ liệu thu thập được về cha cậu ta, cố thình phớt lờ Brendan.

Anh quay trở lại nhìn vào màn hình máy tính và, để tăng thêm tính hiệu quả, dùng bút chì gõ gõ nút trượt màn hình rồi nói. "Hãy kể cho tôi nghe về cha cậu, Brendan?"

"Gì cơ?"

"Cha cậu. Raymond cha. Cậu có nhớ gì về ông ấy không?"

"Gần như không. Tôi chỉ mới… khoảng… sáu tuổi khi ông ấy bỏ nhà đi."

"Vậy là cậu không nhớ gì về ông ấy cả."

Brendan nhún vai. "Tôi có nhớ vài chuyện nho nhỏ. Ông ấy thường về nhà và hát trong lúc say rượu. Ông ấy có một lần đưa tôi tới công viên Canobie Lake và mua cho tôi một chiếc kẹo bông, tôi ăn được một nửa rồi nôn ra hết trên đu quay. Tôi nhớ là ông ấy thường xuyên không ở nhà. Tại sao ông lại hỏi thế?"

Sean lại quay ra nhìn màn hình máy tính. "Cậu còn nhớ gì nữa không?"

"Tôi không biết. Ông ấy lúc nào cũng bốc ra mùi bia Schilitz và kẹo bạc hà Dentyne. Ông ấy…"

Sean nghe thấy tiếng cười trong giọng của Brendan liền ngước lên nhìn cậu và bắt gặp một nụ cười nhẹ nhàng lướt trên mặt cậu. "Ông ấy sao cơ, Brendan?"

Brendan khẽ cựa quậy trong chiếc ghế, mắt nhìn vào một điểm xa xăm nào đó, không tồn tại trong căn phòng này, cũng không tồn tại ở thời điểm này. "Ông ấy thường mang theo rất nhiều tiền xu. Túi ông ấy trĩu xuống và phát ra tiếng động khi ông ấy bước đi. Lúc còn nhỏ, tôi thường ngồi trong phòng khách phía trước ngôi nhà. Không phải là nơi chúng tôi đang sống hiện nay. Đó là một ngôi nhà đẹp. Và tôi thường ngồi đó vào lúc năm giờ chiều, nhắm mắt lại chờ cho đến khi nghe thấy tiếng của ông ấy và những đồng xu vang lên trên phố. Rồi tôi nhảy bổ ra khỏi nhà để đón ông ấy và nếu như tôi có thể đoán được ông ấy có bao nhiêu đồng xu trong túi, chỉ cần đoán gần trúng thôi là ông ấy sẽ cho tôi hết." Nụ cười trên mặt Brendan tươi hơn và cậu lắc lắc đầu bảo, "Mà ông ấy có rõ lắm tiền xu."

"Thế còn súng thì sao? Cha cậu có một khẩu súng đúng không?"

Nụ cười cứng lại và Brendan nheo mắt nhìn Sean như thể không hiểu anh đang nói thứ tiếng gì. "Gì cơ?"

"Cha cậu có súng không?"

"Không."

Sean gật đầu và nói. "Cậu trả lời có vẻ quá chắc chắn so với một đứa trẻ mới chỉ sáu tuổi lúc ông ấy rời đi."

Connolly bước vào phòng làm việc với một chiếc hộp các tông. Anh ta bước về phía Sean và đặt chiếc hộp lên bàn của Whitey.

"Cái gì thế?" Sean hỏi.

"Một đống thứ," Connolly nói và liếc về phía bên trong hộp. "Báo cáo của bên kỹ thuật giám định hiện trường, xét nghiệm đầu đạn, phân tích vân tay, băng ghi âm bên tổng đài 911, một đống."

"Cậu vừa nói là dấu vân tay. Có tìm thấy gì không?"

"Chả trùng với ai trên máy tính."

"Cậu đối chiếu với dữ liệu của cả liên bang chưa?"

"Cả Interpol cũng đối chiếu luôn rồi. Chả thấy gì. Chỉ có một dấu tay nguyên vẹn duy nhất lấy được từ cánh cửa. Đó là một ngón cái. Nếu đó là dấu tay của hung thủ thì hắn là một người thấp bé."

"Thấp bé?"

"Đúng thế. Thấp bé. Mà người thấp bé thì đầy. Có sáu vân tay khá rõ ràng, nhưng chả trùng với ai trong dữ liệu của chúng ta hết."

"Cậu đã nghe đoạn băng của tổng đài 911 chưa?"

"Chưa. Có cần không?"

"Connolly, cậu phải nắm rõ mọi thứ, bất cứ cái gì liên quan tới vụ án."

Connolly gật đầu. "Anh sẽ nghe nó ư?"

"Đó chính là lý do vì sao chúng tôi cần cậu mang nó tới đây." Sean nói rồi quay sang Bredan Harris. "Liên quan tới khẩu súng của cha cậu."

"Cha tôi không có súng."

"Thật sao?"

"Đúng thế."

"Ôi thế chắc là chúng tôi được thông báo nhầm. Nhân tiện, Brendan, cậu có nói chuyện nhiều với cha mình không?"

Brendan lắc đầu. "Chả bao giờ. Ông ta bảo là ông ta ra ngoài uống rượu rồi lặn mất tăm để mẹ tôi và tôi lại mà bà ấy còn đang mang bầu nữa chứ."

Sean gật gù như thể cảm thông với nỗi đau của cậu ta. "Nhưng mẹ cậu không bao giờ báo chồng mất tích."

"Bởi vì ông ta không có mất tích," Brendan nói, mắt có chút phẫn nộ. "Ông ta bảo với mẹ tôi là ông ta không yêu bà ấy. Rằng bà ấy lúc nào cũng chửi ông ta. Hai ngày sau, ông ta đi mất."

"Bà ấy không bao giờ thử tìm kiếm hay liên lạc với ông ấy?"

"Không. Ông ta gửi tiền về nên chả việc gì phải nhức đầu."

Sean nhấc bút ra khỏi bàn phím và đặt xuống bàn. Anh nhìn thấy Brendan Harris, cố đọc nét mặt của thằng bé nhưng không thấy gì ngoài giận dữ và tuyệt vọng.

"Ông ta gửi tiền về ư?"

Brendan gật đầu. "Mỗi tháng một lần, chính xác như đồng hồ."

"Từ đâu?"

"Gì cơ?"

"Phong bì được gửi đi từ đâu?"

"New York."

"Luôn là như vậy?"

"Vâng."

"Là tiền mặt?"

"Vâng. Thường là năm trăm một tháng, Giáng sinh thì có nhiều hơn."

"Ông ta có bao giờ viết gì trong thư không?"

"Không."

"Thế làm sao mà cậu biết rằng đó là cha cậu?"

"Thế còn ai nữa muốn gửi tiền cho chúng tôi hằng tháng? Ông ta có lỗi. Mẹ tôi nói ông ta vẫn luôn xử sự như thế, làm những việc tồi tệ sau đó tỏ ra ăn năn tưởng rằng như thế có thể chuộc lại lỗi lầm của mình."

"Tôi muốn nhìn thấy một trong những chiếc phong bì đó."

"Mẹ tôi vứt đi hết rồi."

"Chết tiệt." Sean nói rồi xoay màn hình máy tính đi chỗ khác. Mọi tình tiết của vụ án này đều khiến anh muốn điên đầu. Dave Boyle là nghi phạm, Jimmy Marcus là cha của nạn nhân, người bị hại bằng chính khẩu súng của bố bạn trai mình. Ngoài ra còn một chi tiết nữa cũng khiến Sean đau đầu dù nó không trực tiếp liên quan tới vụ án.

"Brendan này, nếu cha cậu bỏ rơi gia đình lúc mẹ cậu mang thai tại sao bà ấy lại vẫn lấy tên ông ta đặt tên cho đứa bé?"

Brendan dè dặt nhìn quanh phòng. "Mẹ tôi đầu óc lúc nào cũng phải để đi đâu ấy. Ông hiểu chứ? Bà ấy đã cố gắng rất nhiều nhưng…"

"Hiểu rồi…"

"Bà ấy bảo gọi nó là Ray để nhắc nhở chính mình."

"Nhắc nhở chuyện gì cơ?"

"Về đàn ông." Cậu nhún vai. "Chỉ cần hở ra là họ lập tức tìm cách phản bội mình."

"Nhưng tới khi phát hiện ra em trai của cậu bị câm, bà ấy phản ứng như thế nào?"

"Không vui," Brendan nói và cười mỉa. "Nhưng ở khía cạnh nào đó lại chứng minh rằng bà ấy đúng. Ít nhất là trong đầu bà ấy nghĩ thế." Cậu loay hoay chạm tay vào chiếc khay tài liệu trên mép bàn, nụ cười vụt tắt.

"Sao ông lại hỏi về chuyện cha tôi có súng hay không?"

Sean đột nhiên cảm thấy mệt mỏi vì cái trò dền dứ, cố phải tỏ ra lịch sự và thận trọng. "Cậu thừa biết là tại sao, nhóc."

"Không. Tôi không biết."

Sean chồm qua bàn, suýt thì không ngăn được mình lao vào bóp cổ thằng bé. "Khẩu súng giết chết bạn gái cậu, Brendan, chính là khẩu súng mà cha cậu sử dụng trong một vụ cướp cách đây mười tám năm. Cậu có gì muốn nói không?"

"Cha tôi không có súng," cậu ta nói, nhưng Sean cảm thấy đầu óc Brendan bắt đầu hoạt động.

"Không có ư? Nói láo." Anh đập mạnh xuống bàn khiến thằng bé giật này mình trên ghế. "Cậu cho là cậu yêu Katie Marcus? Để tôi nói cho cậu biết tôi yêu thứ gì nhé, Brendan. Tôi yêu tỉ lệ phá án của mình. Tôi yêu khả năng phá án trong vòng bảy mươi hai tiếng đồng hồ của mình. Mà cậu lại dám nói dối trước mặt tôi."

"Không. Tôi không có."

"Có, cậu đang lừa tôi, nhóc. Cậu có biết cha cậu là tên trộm không?"

"Ông ấy là công nhân lái tàu…"

"Hắn ta là một tên ăn cướp. Hắn ta làm việc với Jimmy Marcus lúc đó cũng là một tên trộm khét tiếng. Và giờ con gái của Jimmy bị giết bằng khẩu súng của cha cậu."

"Cha tôi không có súng."

"Mẹ kiếp!" Sean gầm lên khiến Connolly bật dậy đi về phía hai người bọn họ. "Mày định giở trò với ai hả nhóc, cho mày vào buồng giam mà giở trò nhé!"

Sean lấy chìa khóa từ thắt lưng và ném sang cho Connolly.

"Hãy nhốt thằng thối thây này lại."

Bredan đứng dậy. "Nhưng tôi chẳng làm gì sai cả."

Sean nhìn Connolly bước lại gần phía sau thằng bé, vẻ vô cùng căng thẳng.

"Cậu không có bằng chứng ngoại phạm, Brendan, cậu lại có quan hệ với nạn nhân, cô ấy lại bị bắn bằng chính khẩu súng của cha cậu. Tôi cứ giam cậu lại cho đến khi tìm được tình tiết mới. Nghỉ ngơi chút đi, suy nghĩ những điều cậu vừa mới nói với tôi đi."

"Các ông không thể nhốt tôi." Brendan nhìn Connolly phía sau lưng Sean. "Các ông không thể."

Connolly nhình về phía Sean mắt mở to vẻ chờ đợi vì thằng bé nói đúng. Về lý thuyết, họ không thể nhốt nó lại trừ phi chính thức buộc tội nó. Mà họ không có gì để buộc tội thằng bé. Buộc tội người khác chỉ dựa trên nghi ngờ là đi ngược lại luật pháp.

Nhưng Brendan không hề biết được điều đó. Sean ném cho Connolly một cái nhìn kiểu, hoan nghênh cậu tới Đội điều tra án mạng, lính mới.

"Nếu cậu không nói gì với tôi ngay lúc này thì tôi sẽ nhốt cậu lại."

Brendan mở miệng và Sean cảm thấy một phát hiện đen tối vừa xoẹt qua đầu cậu ta giống như một tia lửa điện. Nhưng rồi cậu ta ngậm miệng lại và lắc đầu. "Bị tình nghi vì tội mưu sát. Hãy tống nó vào buồng giam." Sean bảo Connolly.

Dave trở về căn hộ trống trải của mình vào giữa buổi chiều và đi thẳng tới tủ lạnh lấy một lon bia. Từ sáng tới giờ anh chưa có gì vào bụng, dạ dày trống rỗng và đầy bọt khí, thật không thích hợp để uống bia nhưng anh lại muốn uống. Anh cần phải làm dịu đi cơn đau đầu nhức buốt, sự căng thẳng làm cổ anh cứng đờ và trái tim đập loạn trong lồng ngực.

Cơn đau nhẹ nhàng biến mất khi anh đi đi lại lại trong căn hộ trống trải. Celeste hẳn đã quay lại trong lúc anh vắng nhà rồi tới chỗ làm. Anh sẽ gọi điện đến tiệm Ozma xem liệu cô ấy có đang ở chỗ làm vừa cắt tóc vừa tán gẫu với các bà cô và cợt nhả với Paolo, anh chàng làm cùng ca với cô, tuy là một gã đồng tính nhưng không phải là hoàn toàn vô lại. Hay có lẽ anh sẽ tới trường đón Michael, vẫy thằng bé từ xa rồi ôm một cái rõ chặt, trên đường về hai cha con sẽ ghé quán làm một ly sô cô la sữa.

Nhưng Michael thì không có ở trường mà Celeste cũng không có ở chỗ làm. Chắc là họ đang trốn tránh anh, Dave ngồi bên bàn bếp uống cạn lon bia thứ hai và cảm thấy hiệu quả rõ rệt của nó đối với cơ thể mình, làm dịu đi mọi thứ, ngay cả không khi trước mắt anh cũng hơi lóng lánh và nhẹ nhàng xoay tròn.

Đấng lẽ anh phải kể cho Celeste mọi chuyện. Anh nên nói với vợ mình chuyện đã xảy ra ngay từ đầu. Đáng ra anh phải tin tưởng cô ấy. Trên đời này chẳng có mấy người vợ lúc nào cũng ủng hộ một người chồng vốn là cầu thủ bóng chày ở trường trung học, từng có quá khứ bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ và không có khả năng tim được một việc làm tử tế. Nhưng Celeste lại luôn ở bên cạnh anh. Chỉ nghĩ tới hình ảnh cô bên bồn rửa đêm hôm ấy, giặt rũ đám quần áo đó, nói rằng cô sẽ xử lý các vật chứng – Chúa ơi, cô ấy đúng là một người phụ nữ đặc biệt. Làm sao mà Dave lại không nhìn ra? Con người ta sao mà lại tới mức này, ở bên cạnh một người quá lâu tới không còn nhìn ra họ nữa?

Dave lấy lon bia thứ ba và cũng là lon bia cuối cùng ra khỏi tủ lạnh và tiếp tục đi lại trong căn hộ, trong lòng nặng trĩu thương yêu dành cho vợ và con trai. Anh những muốn cuộn người áp vào cơ thể trần trụi của vợ mình để cho cô vuốt tóc anh và bảo rằng anh đã nhớ cô tới nhường nào lúc chỉ có một mình trong căn phòng xét hỏi lạnh lẽo với chiếc ghế cọt kẹt sắp gãy. Trước đó anh cho rằng anh cần tới sự ấm áp của con người nhưng thực sự anh chỉ cần có sự ấm áp của Celeste mà thôi. Anh những muốn cuộn mình vào cơ thể cô, khiến cô mỉm cười, muốn hôn lên mí mắt, muốn vuốt ve lưng cô và tan chảy trong cô.

Vẫn còn chưa quá muộn, anh sẽ nói hết với cô khi cô trở về. Gần đây, đầu óc anh rõ ràng là bị chập mạch, mọi thứ đều đảo lộn. Lon bia này sẽ chẳng giúp gì được, nhưng anh cần nó cho tới khi em trở về. Và rồi anh sẽ bỏ bia. Anh sẽ bỏ nhậu nhẹt, sẽ đi học một lớp vi tính hay gì đó để kiếm một công việc văn phòng. Nếu xung đi lính vệ binh quốc gia sẽ được hoàn trả phí đào tạo, anh có thể làm việc đó. Anh có thể đi làm mỗi tháng một ngày cuối tuần và vài tuần lễ vào mùa hè để giúp đỡ gia đình. Vì gia đình mình, dù có phải đứng bằng đầu anh cũng nhất định làm được. Điều đó sẽ giúp anh lấy lại vóc dáng lúc trước, thoát khỏi cái bụng bia, thông suốt đầu óc. Và khi tìm được công việc văn phòng đó anh sẽ đưa chúng ta ra khỏi đây, ra khỏi khu vực có giá tiền thuê không ngừng leo thang với những toan tính xây dựng sân vận động và chỉnh trang đô thị này. Tại sao? Vì sớm muộn thì họ cũng đẩy chúng ta đi. Đẩy chúng ta đi để biến chỗ này thành một khu thanh lịch, một thế giới hàng hiệu của bọn họ, những người ngồi bàn luận về xây nhà nghỉ ở đâu trong những quán cà phê sành điệu hay trên lối đi của các siêu thị chuyên bán thực phẩm.

Tuy nhiên chúng ta sẽ chuyển đến một nơi tốt hơn, anh sẽ bảo với Celeste thế. Chúng ta sẽ đến một nơi trong lành để có thể nuôi dạy con trai của mình. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu. Và anh sẽ kể cho em chuyện gì đã xảy ra, Celeste. Không phải chuyện hay ho gì nhưng không tệ như em nghĩ. Trong đầu anh có một vài suy nghĩ đáng sợ, không lành mạnh và có lẽ anh sẽ phải gặp bác sĩ tâm lý để được giúp đỡ. Anh có những ham muốn khiến bản thân anh thấy kinh tởm nhưng anh đang cố gắng, em yêu. Anh đang cố gắng trở thành một người tốt. Anh đang cố gắng chôn vùi Thằng Bé. Hay ít nhất thi cũng dạy cho nó biết thế nào là lòng trắc ẩn.

Có lẽ đó cũng chính là điều mà gã đàn ông trong chiếc xe Cadillac đó tìm kiếm - một chút vị tha. Nhưng Thằng Bé Trốn Thoát Khỏi Bầy Sói lại không chút lòng trắc ẩn nào vào đêm thứ Bảy đó. Nó có khẩu súng ấy ở trong tay và đã tấn công gã ngồi trong xe Cadillac qua cửa xe để mở. Dave nghe thấy tiếng xương gãy răng rắc khi thằng bé tóc đỏ lồm cồm bò dậy và vọt ra ngoài bằng của bên, đứng đó há mồm nhìn Dave liên tục nện vào đầu gã kia. Dave thò tay túm tóc lôi gã đó ra khỏi xe, nạn nhân hóa ra không hoàn toàn bất lực như hắn ra vẻ. Hắn giả vờ chết và rồi Dave chỉ kịp nhìn thấy lưỡi dao của hắn khi nó cắt xuyên qua áo cứa vào da thịt. Đó là một con dao bấm, lực đâm cũng không mạnh lắm nhưng đủ sắc để làm Dave bị thương trước khi thụi đầu gối vào cổ tay, ghim cánh tay gã kia vào cửa xe. Khi con dao rơi xuống đất, Dave đá nó vào trong gầm xe.

Thằng bé tóc đỏ trông vừa sợ hãi vừa phấn khích còn Dave lúc này đã điên rồ tới mất hết lý trí và bắt đầu dùng báng súng nện liên tục lên đỉnh đầu gã kia cho tới khi gãy cả báng súng. Gã kia lăn sấp xuống và Dave chồm lên lưng hắn, cảm nhận thấy hơi thở của con sói và sự căm hận của nó đối với gã đàn ông này, một tên biến thái, một tên lạm dụng trẻ em khốn nạn đáng chết. Dave túm lấy tóc tên khốn đó kéo ngược đầu hắn trở lại rồi bắt đầu đập xuống vệ đường. Liên hồi đập đầu hắn xuống vệ đường, khiến hắn tê liệt, tên khốn đó, gã Henry đó, George đó, ôi Chúa ơi và cả gã Dave đó, chính là gã Dave đó.

Chết đi, thằng khốn. Chết đi, chết đi, chết đi.

Thằng bé lúc này đã chạy mất. Dave quay đầu lại và nhận ra những từ ngữ đang tuôn ra khỏi miệng mình. "Chết đi, chết đi, chết đi." Dave nhìn thằng bé chạy xuyên qua bãi đỗ xe và luống cuống đuổi theo, máu của gã kia chảy ròng ròng trên tay. Anh những muốn nói với thằng bé tóc đỏ là anh làm chuyện đó vì nó. Anh muốn cứu nó. Và anh sẽ che trở nó suốt đời nếu như nó muốn.

Anh đứng trong con hẻm phía sau quán bar, gần như hết hơi, biết là thằng bé đã chạy thoát, anh ngước lên nhìn bầu trời đêm và hỏi, "Tại sao?"

Tại sao lại sinh ra tôi? Tại sao lại gán cho tôi cuộc đời này? Tại sao lại gieo cho tôi căn bệnh đó, một căn bệnh mà tôi đặc biệt ghê tởm, hơn bất cứ ai khác? Tại sao lại gieo rắc trong đầu tôi những khoảnh khắc đẹp đẽ, dịu dàng và một tình yêu nóng lạnh thất thường đối với với vợ và con trai – và những ý niệm mơ hồ về cuộc đời khác đáng lẽ ra là của tôi nếu chiếc xe ô tô đó không rẽ xuống phố Gannon và bắt cóc tôi tới căn hầm đó? Tại sao?

Hãy làm ơn trả lời tôi. Xin người, xin người, hãy trả lời tôi.

Nhưng dĩ nhiên không ai đáp lại. Chẳng có gì ngoài sự im lặng và tiếng nước chảy trong ống máng cùng cơn mưa ngày càng nặng hạt.

Vài phút sau, anh bước ra khỏi con hẻm đó và tìm thấy người đàn ông kia đang nằm bên cạnh xe của hắn.

Chà, Dave nghĩ, mình đã giết hắn.

Nhưng rồi gã ta lại lật người sang một bên và thở như cá. Gã ta có mái tóc màu vàng, dáng người mảnh nhưng bụng phệ, to như một cái rổ. Dave cố nhớ lại gương mặt của gã trước khi bị anh thò tay qua cửa sổ dùng súng đập vào mặt. Anh chỉ nhớ rằng đôi môi của hắn ta dường như quá đỏ và quá dày.

Gương mặt đó giờ đã biến mất. Giống như bị gí vào cách quạt máy bay và Dave chợt cảm thấy buồn nôn khi nhìn thấy cái vật lầy nhầy máu kia đang cố hít lấy không khí, một cục thịt phập phồng.

Gã ta dường như không nhận ra Dave đang đứng đó. Gã nhổm dậy, quỳ trên đầu gối và bắt đầu bò. Gã bò về phía hàng cây đằng sau chiếc xe. Gã bò lên gờ đường phân cách, đặt tay lên hàng rào móc sắt chia cắt bãi đỗ xe với một công ti phế liệu. Dave cởi chiếc áo nỉ mỏng mặc bên ngoài áo lót, cuộn nó xung quanh khẩu súng và chậm rãi đi về phía sinh vật không còn khuôn mặt kia.

Sinh vật không còn khuôn mặt kia leo lên được nấc thứ hai trên hàng rào thì kiệt sức. Hắn ngã xuống, hơi lệch về phía bên phải cuối cùng ngồi dựa lưng vào hàng rào, hai chân choãi ra, nhìn Dave bước tới.

"Không," hắn ta thì thào. "Không."

Nhưng Dave có thể thấy rằng hắn không thực sự có ý đó. Hắn đã quá mệt mỏi với bộ dạng của mình lúc này, cũng giống như Dave vậy.

Thằng Bé quỳ xuống trước mặt gã kia và đặt khẩu súng bọc áo nỉ vào bụng gã, ngay dưới rốn, Dave đang trôi nổi ở phía trên, quan sát họ.

"Làm ơn," gã kia rên rỉ.

"Suỵt," Dave nói và Thằng Bé bóp cò.

Cơ thể của sinh vật không còn khuôn mặt kia lên cơn co giật cuối cùng, húc mạnh vào nách Dave rồi trút hơi thở cuối cùng, nghe giống như tiếng ấm nước réo trên bếp.

Thằng Bé bảo: Tốt rồi. Mải loay hoay nhét gã kia vào trong cốp xe của mình mãi Dave mới phát hiện ra rằng anh có thể dùng chính chiếc xe Cadillac của gã kia vào việc đó. Anh đã kéo cửa kính, tắt động cơ và lau chùi chỗ ngồi của lái xe cũng như những nơi mà anh đã chạm vào bằng chiếc áo nỉ. Nhưng việc quái gì phải lái chiếc Honda của mình đi khắp nơi với một thi thể ở trong cốp để tìm chỗ phi tang trong khi câu trả lời hiện ra ngay trước mắt.

Thế nên Dave lùi xe của mình lại bên chiếc Cadillac, mắt nhìn ra phía cửa bên của quán bar và không thấy có ai đi ra ngoài. Anh mở cốp xe mình rồi mở cốp xe chiếc Cadillac và kéo cái xác từ xe này sang xe kia. Anh đóng hai cốp xe lại, cuộn con dao bấm và khẩu súng vào trong chiếc áo nỉ, vứt nó lên ghế trước của chiếc Honda rồi đã nhanh chóng rời đi.

Anh vứt chiếc áo, con dao và khẩu súng từ trên cầu Roseclair Street xuống con kênh Penitentiary, và sau này mới biết rằng đúng vào thời điểm đó, Katie Marcus có lẽ đang hấp hối trong công viên phía dưới. Và rồi anh lái xe về nhà, tin rằng người ta sẽ nhanh chóng tìm thấy chiếc xe và thi thể ở trong đó.

Chủ nhật, anh lái xe đi qua quán Last Drop và thấy một chiếc xe khác đỗ bên cạnh chiếc Cadillac, còn lại bãi đỗ trống trơn. Nhưng rồi anh nhận ra chiếc xe kia vốn là của Reggie Damone, một trong những người pha chế rượu ở quán bar. Chiếc Cadillac lẻ loi nằm đó giống như một thứ đồ vật bị lãng quên, không có tội tình gì. Nhưng muộn hơn trong ngày, lúc anh quay trở lại thì chiếc xe đã biến mất khiến anh có cảm giác như vừa lên một cơn đau tim. Anh biết rằng anh không thể hỏi han mọi người về chiếc xe đó, kể cả những câu rất bình thường như, "Reggie này, nếu xe nào đỗ trong bãi của các anh quá lâu thì các anh có cẩu đi không?" Nhưng rồi anh nhận ra rằng cho dù chuyện gì xảy ra với chiếc xe đi nữa cũng không liên quan tới anh. Chẳng có gì liên quan tới anh ngoại trừ thằng bé tóc đỏ.

Nhưng rồi dần dần anh cũng tự ngộ ra rằng thằng bé kia dù có sợ hãi thật nhưng lại cũng cảm thấy khoái trá và hưng phấn khi chứng kiến việc đó. Nó đứng về phía Dave. Anh không cần phải lo về nó.

Và giờ thì cảnh sát cũng chẳng có gì trong tay. Họ không có lấy một nhân chứng. Cũng không có chứng cớ lấy từ xe của Dave, hay ít nhất nhất cũng không phải là loại chứng cớ có thể mang ra trước tòa. Thế nên Dave có thể thư giãn. Anh có thể nói chuyện với Celeste, thú nhận tất cả, không cần biết đến hậu quả như thế nào, anh sẽ để vợ anh định đoạt số phận của mình và hi vọng rằng cô sẽ chấp nhận anh như một người tuy có khiếm khuyết nhưng đang cố gắng thay đổi. Một người đàn ông tốt đã làm một việc xấu vì mục đích tốt. Một người đàn ông đã phải dùng đến phương pháp hắc ám nhất để kết liễu con ma hút máu trong linh hồn mình.

Mình sẽ không lái xe tới các công viên và bể bơi công cộng nữa, Dave tự nhủ và uống cạn lon bia thứ ba. Anh giơ chiếc vỏ lon rỗng lên trước mặt. Mình cũng cai luôn thứ này.

Nhưng không phải hôm nay. Vì hôm nay anh đã uống hết ba lon bia và Celeste thì không có dấu hiệu gì là sắp trở về. Có lẽ phải chờ đến mai. Cũng tốt thôi. Cho cả hai người bọn họ thêm không gian và thời gian để hàn gắn và sửa chữa. Cô ấy sẽ về nhà tìm thấy một người đàn ông mới, một Dave đã được cải thiện, không còn những điều những điều bí mật.

"Vì bí mật chính là thuốc độc," anh nói to trong căn bếp nơi diễn ra cuộc mây mưa gần đây nhất của hai vợ chồng bọn họ. "Bí mật chính là những bức tường." Và rồi anh mỉm cười kết luận. "Và mình cũng chẳng còn bia để uống."

Anh cảm thấy dễ chịu, thậm chí là phấn khởi lúc rời khỏi nhà đi tới cửa hàng rượu Eagle Liquors. Đó là một ngày tuyệt vời, nắng tràn trề trên phố. Khi còn nhỏ, đường ray tàu hỏa thường chạy xuống tận đây, cắt phố Crescent ra làm đôi, khắp nơi mù mịt muội than, che kín cả bầu trời. Điều đó càng khiến cho người ta có cảm giác khu Hạ giống như bị khoác lên một chiếc áo tàng hình, cách biệt với phần còn lại của thế giới, ẩn náu bên dưới thế giới kia như một bộ tộc bị cấm đoán, tự lựa chọn cách sống của mình giống như trước đây đã lựa chọn ly khai với bên ngoài.

Nhưng ngay khi họ dỡ bỏ tuyến đường sắt ở đây, khu Hạ bắt đầu vươn mình trong ánh sáng và một thời gian ngắn họ cứ ngỡ rằng đó chính là một điềm tốt. Không còn muội than, chan chứa ánh nắng, da dẻ trông cũng khỏe khoắn hơn. Nhưng không còn chiếc áo khoác kia nữa, mọi người đều có thể nhìn thấy họ, ngưỡng mộ những ngôi nhà bằng gạch thô của họ, cảnh tượng đẹp đẽ của con kênh Penitentiary và các khu vực phụ cận trung tâm thành phố. Đột nhiên họ không còn là một bộ tộc sống ngầm nữa mà trở thành một khu bất động sản hấp dẫn hàng đầu.

Dave sẽ suy nghĩ tới nguyên nhân của sự thay đổi này khi trở về nhà với một két hơn mười hai lon bia và tìm ra một công thức. Hoặc anh có thể tìm thấy một quán bar dễ chịu nào đó, ngồi trong bóng tối của một ngày rực rỡ, gọi một suất bánh mỳ kẹp thịt, tán gẫu với người pha chế rượu xem hai người họ cộng lại có thể đoán ra thời điểm nào khu Hạ bắt đầu biến đổi trong khi cả thế giới không ngường quay cuồng xung quanh.

Có lẽ anh nên làm vậy. Hẳn rồi! Kiếm một cái ghế da tại một quầy bar bằng gỗ gụ để tiêu phí cả buổi chiều. Anh sẽ lên kế hoạch cho tương lai của mình. Tương lai của gia đình. Anh sẽ tìm mọi cách để chuộc lại các lỗi lầm của mình. Hiệu quả của ba lon bia mới kỳ diệu làm sao sau một ngày dài vất vả. Chúng dường như đang dắt tay anh leo lên con dốc về phía đại lộ Buckingham. Rồi thì thào bên tai. Này, có chúng tôi không phải là rất tuyệt sao? Không phải là rất tốt khi có thể giở sang một trang mới, rũ bỏ những bí mật đen tối, sẵn sàng xây dựng những ước hẹn mới với người thân và trở thành người đàn ông mà anh vẫn luôn mong ước? Sao lại không, viễn cảnh quả là mỹ mãn.

Và nhìn xem ai đang chờ chúng ta ở phía trước, nhàn rỗi trên góc phố bên trong chiếc xe thể thao bóng loáng của anh ta. Anh ta sao lại còn cười với chúng ta nữa kìa. Đó chính là anh Val Savage, đang cười cười từ phía đằng xa, vẫy chúng ta lại gần. Đi thôi. Tới chào anh ta một tiếng.

"Chà chà, anh chàng Dave Boyle," Val nói khí Dave lại gần chiếc xe. "Súng đạn dạo này thế nào?"

"Vẫn chuẩn," Dave trả lời và ngồi xổm xuống bên cạnh chiếc xe, tì khuỷu tay lên bậu cửa và nhìn vào Val ở phía trong. "Anh đang có kế hoạch gì thế?"

Val nhún vai. "Chả có gì, anh bạn. Đang tìm ai đó để uống bia, nhấm nháp một tí."

Dave không tin nổi tai mình. Nhất là anh cũng đang có ý định đó. "Vậy sao?"

"Ừ. Cậu có thể đi làm với tôi vài ly, chọc một ván bi-a không hả Dave?"

"Dĩ nhiên rồi."

Dave thực sự có chút ngạc nhiên. Anh có thể hòa thuận với Jimmy và Kevin, anh trai của Val, thậm chí cả với Chuck, nhưng chưa bao giờ thấy Val có biểu hiện gì với anh ngoài thái độ vô cùng lạnh nhạt. Chắc là vì Katie, anh đoán. Cái chết của cô bé đã mang họ xích lại gần nhau. Trong mất mát, họ trở nên đoàn kết, khi cùng phải chia sẻ một tấm thảm kịch, họ trở nên thân thiết.

"Chui vào đi," Val nói. "Chúng ta sẽ tới một chỗ tôi biết phía bên kia thành phố. Một quán bar rất được do một người bạn của tôi làm chủ."

"Phía bên kia thành phố?" Dave nhìn ngược lại con đường anh vừa đi tới. "Nhưng tôi phải về nhà sớm."

"Được rồi, được rồi. Tôi sẽ chở cậu về nhà lúc nào cậu muốn. Đi thôi. Lên xe. Chúng ta sẽ đến làm một tối dành cho đàn ông giữa ban ngày."

Dave mỉm cười và đi vòng ra phía trước mũi xe để ngồi vào ghế bên cạnh. Tối dành cho đàn ông giữa ban ngày. Chính xác. Anh và Val, tụ tập như những người bạn cũ. Và đó cũng chính là một đặc điểm tuyệt vời của khu Hạ, thứ mà anh sợ rằng đã mất - khi những cảm xúc và toàn bộ quá khứ bị quên lãng với thời gian thì khi bắt đầu có tuổi, bắt đầu nhận ra rằng mọi thứ đều thay đổi chỉ có một thứ vẫn còn nguyên vẹn như cũ, chính là những người đã cùng bạn lớn lên và khu phố nơi bạn sinh thành. Tình hàng xóm láng giềng muôn năm, Dave thầm nghĩ trong lúc mở cửa xe, cho dù chỉ là trong suy nghĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Whitey và Sean ăn trưa tại quán Pat's Dinner ở gần đồn cảnh sát trên lối rẽ ra đường cao tốc. Quán này đã tồn tại từ thời Thế chiến thứ hai và quen thuộc với cảnh sát bang tới mức ông chủ đời thứ ba vẫn tự hào nói rằng có lẽ họ là cửa hàng gia đình duy nhất suốt ba thế hệ không bị đánh cướp bao giờ.

Whitey nuốt một miếng bánh mì thịt băm pho mát to sụ rồi chiêu một ngụm soda cho thông cổ. "Cậu không hề nghĩ là thằng bé đó đúng không?"

Sean cắn một miếng sandwich cá thu. "Tôi biết là nó nói dối. Nó hẳn biết chuyện gì đó liên quan tới khẩu súng. Và tôi nghĩ rằng - rất có thể - ông già đó vẫn còn sống."

Whitey nhúng một miếng hành tẩm bột rán vào xốt tác ta. "Liên quan tới năm trăm đô gửi từ New York mỗi tháng?"

"Đúng vậy. Nếu cộng vào suốt bằng ấy năm? Gần tám mươi ngàn chứ ít à. Ai lại đi gửi một khoản tiền lớn như thế nếu không phải ông già nó?"

Whitey lấy khăn ăn chấm chấm lau miệng rồi lại tiếp tục chiến đấu với chiếc bánh mì kẹp thịt pho mát của mình khiến Sean tự hỏi làm cách nào mà ông trốn được bệnh tim với tốc độ ăn uống như rồng cuốn thế này rồi lại làm việc liên tục bảy mươi tiếng đồng hồ một tuần mỗi khi có vụ án quan trọng.

"Thì cứ coi như là hắn vẫn đang còn sống đi," Whitey nói.

"Thì cứ giả thiết như thế."

"Rồi sao, thực hiện một âm mưu trả thù Jimmy hết sức cao tay bằng cách giết hại con gái của hắn ta? Ôi, không biết có phải chúng ta đang tham gia đóng phim không nữa?"

"Ông nghĩ xem, vai của ông sẽ do diễn viên nào đảm nhiệm?" Sean cười tủm tỉm.

Whitey ngậm ống hút làm một hơi soda dài cho tới khi trong ly chỉ còn lại đá. "Tôi cũng nghĩ rất nhiều tới chuyện đó. Nó hoàn toàn có thể xảy ra nếu chúng ta phá được vụ án này, siêu cớm ạ. Một bộ phim có tên gọi kiểu Bóng ma từ New York gì đó. Chúng ta chắc chắn sẽ được lên màn ảnh nhớn. Và Brian Dennehy chắc sẽ tìm cơ hội để được vào vai tôi."

"Cũng không phải hoàn toàn vô lý," Sean quan sát Whitey một lúc và tự hỏi sao trước đây anh không nghĩ ra điều đó. "Ông không cao tay bằng ông ta, trung sĩ, nhưng lại rất có phong độ."

Whitey gật gù rồi đẩy đĩa thức ăn ra xa. "Còn tôi nghĩ một gã đỏm dáng trong Friends sẽ vào vai cậu. Cậu biết cái đám đàn ông trông có vẻ như sao sáng nào cũng dành một tiếng đồng hồ để cắt lông mũi, nhổ lông mày và tuần nào cũng đi làm móng chân một lần không? Đúng thế, chọn một tên ra đóng vai cậu là rất chuẩn."

"Đúng là giọng điệu của một kẻ ghen tị."

"Thôi quay trở lại vụ án của chúng ta. Nói chung Ray Harris cũng có rất ít khả năng. Xác suất chỉ khoảng sáu phần."

"Sáu trên mười á?"

"Sáu trên một nghìn. Điểm lại nhé. Ray Harris bán đứng Jimmy Marcus. Jimmy Marcus phát hiện ra, khi ra tù liền thuê người thanh toán Ray. Ray chạy thoát được, tới New York tìm được một công việc tốt để gửi tiền đều đặn về nhà trong vòng mười ba năm. Rồi một hôm hắn tỉnh dậy và bảo, 'Đủ rồi, đã tới lúc phục thù' rồi bắt một chuyến xe buýt tới đây và giết Katherine Marcus. Nhưng không phải chỉ là ra tay bình thường mà là giết hại một cách dã man. Chuyện xảy ra trong công viên hẳn là do một tay thần kinh biến thái gây ra. Trong khi Ray có tuổi của chúng ta – nói thế cũng chẳng sai, hắn ta đã bốn mươi lăm tuổi, thế mà vẫn chạy đuổi theo con bé khắp công viên rồi nhảy lên xe buýt đi về New York với khẩu súng của mình? Cậu đã kiểm tra với bên New York chưa?"

Sean gật đầu. "Không có bảo hiểm xã hội, thẻ tín dụng gì trùng với tên của hắn ta, cũng như không có bảng lương với một người có tên và tuổi như hắn. Cảnh sát New York và cảnh sát bang cũng chưa bao giờ bắt giữ người nào có trùng dấu vân tay với hắn."

"Thế nhưng hắn lại giết Katherine Marcus."

Sean lắc đầu. "Không. Tôi không chắc. Tôi thậm chí còn không biết là hắn vẫn còn sống thật hay đã chết. Tôi chỉ nói là hắn có thể còn sống. Chỉ có một điều chắc chắn, khẩu súng giết người là của hắn. Và Brendan có biết chuyện gì đó, lại không có ai xác nhận rằng cậu ta đang ở nhà lúc xảy ra án mạng. Thế nên tôi chỉ hi vọng bị nhốt một lúc sẽ khiến cậu ta phải khai ra cái gì đó."

Whitey ợ một tiếng rõ to. "Thật là duyên dáng, trung sĩ."

Whitey nhún vai. "Chúng ta thậm chí còn không biết có đúng là Ray Harris đã cướp cửa hàng rượu đó hồi cách đây mười tám năm. Cũng không biết đó có phải là súng của hắn không. Tất cả đều chỉ là phỏng đoán. Hay vài chứng cớ gián tiếp. Không thể đứng vững trước tòa. Công tố viên mà thông minh thì thậm chí còn chả buồn trưng chúng ta nữa ấy chứ."

"Đúng thế, nhưng tôi có cảm giác là chúng ta đang đi đúng hướng."

"Cảm giác ư?" Whitey nhìn cánh cửa vừa mở ra phía sau lưng Sean. "Ôi trời lại là cặp song sinh chết tiệt kia."

Souza đang đi vòng ra phía họ ngồi và Connolly theo sát ở phía sau.

"Và sếp nói rằng chuyện đó không quan trọng, trung sĩ."

Whitey đặt một tay lên phía sau tai và nhìn Souza. "Cái gì cơ, chàng trai? Cậu biết đấy, tôi hơi bị lãng tai."

"Chúng tôi cho kiểm tra danh sách những chiếc xe ô tô bị cẩu đi trong bãi đỗ xe của quán Last Drop," Souza nói.

"Nhưng đó là địa bàn của cảnh sát Boston. Tôi đã nhắc nhở cậu thế nào?" Whitey nói.

"Chúng tôi tìm thấy một chiếc xe vẫn chưa có người tới nhận."

"Rồi sao?"

"Chúng tôi đã cử người tới kiểm tra lại xem nó vẫn còn ở đó hay không. Cậu ta vừa gọi điện về báo là cốp xe bị rò rỉ."

"Rò rỉ cái gì?"

"Không biết, nhưng cậu ta bảo là nó bốc mùi nồng nặc."

Đó là một chiếc Cadillac hai màu sơn, trần xe màu trắng, thân xe màu xanh sẫm. Whitey đặt hai tay lên cửa sổ ghế trước phía bên, tì mặt vào đó rồi chống mắt nhìn vào bên trong. "Có một vệt màu nâu sẫm rất khả nghi trên bảng điều khiển phía bên người lái xe."

Connolly đứng bên cạnh cốp xe lẩm bẩm, "Ôi Chúa ơi, các anh ngửi thấy mùi gì không? Y như mùi thối ở Wollaston lúc triều xuống."

Whitey đi ra phía sau vừa lúc nhân viên bãi xe đưa cho Sean một chiếc vam phá khóa.

Sean lùi lại bên cạnh Connolly, đẩy cậu ta ra chỗ khác rồi bảo, "Dùng cà vạt của cậu ấy."

"Gì cơ?"

"Lấy cà vạt bịt mồm mũi lại."

"Thế các anh thì sao?"

Whitey chỉ vào môi trên bóng loáng của mình. "Trên đường tới đây chúng tôi đã bôi thuốc. Xin lỗi là đã hết sạch không còn đủ cho các cậu."

Sean đặt vành vam lên ổ khóa, trượt lên rồi dịch xuống, nghe tiếng kim loại cọ sát vào nhau cho tới khi miệng vam khớp chặt lấy ổ khóa.

"Tất cả sẵn sàng rồi chứ?" Whitey nói. "Một phát ăn liền nhé?"

"Bất đầu nào!" Sean kéo mạnh, lôi cả trục khóa ra ngoài, liếc qua lỗ hổng mà nó để lại trước khi xe lẫy khóa kêu cách một tiếng và cốp xe từ từ mở ra. Mùi hôi giống như bãi triều rút lúc trước đã bị thay thế bởi một thứ mùi nồng nặc hơn nhiều, một sự pha tạp giữa mùi ao tù thum thủm và mùi thịt ung trứng thối.

"Chúa ơi." Connolly áp chặt chiếc cà vạt trên mặt rồi lùi lại phía sau.

"Bánh sandwich Monte Cristo, ai có nhu cầu không?" Whitey nói và mặt Connolly trở nên xanh lè, sẫm hơn cả cỏ dưới chân.

Nhưng Souza thì có vẻ thản nhiên. Anh ta tiến gần cốp xe bịt mũi nói, "Mặt hắn đâu?"

"Mặt hắn đấy," Sean nói.

Nạn nhân nằm cuộn tròn theo tư thế bào thai, đầu ngửa ra sau là lệch sang một bên giống như bị gãy cổ. Quần áo của nạn nhân là hàng đắt tiền, giày cũng vậy và Sean đoán ông ta khoảng năm mươi tuổi, dựa vào ngôi tóc và hai bàn tay. Anh để ý một lỗ thủng sau lưng áo khoác của nạn nhân liền lấy đầu bút gạt miếng vải trên đó ra. Mồ hôi làm ố vàng chiếc áo sơ mi màu trắng nhưng Sean vẫn tìm thấy một lỗ thủng trùng với lỗ thủng trên áo khoác, ở gần giữa lưng, vải dính vào thịt bầy nhầy.

"Có một vết thương há miệng, trung sĩ. Chắc chắn là vết đạn." Sean nói rồi lại ngó nghiêng trong cốp xe thêm một lúc nữa. "Nhưng tôi không tìm thấy đầu đạn."

Whitey quay sang Connolly lúc này đã bắt đầu lảo đảo. "Hãy ra xe của cậu và tới bãi đỗ xe của quán Last Drop. Nhưng trước tiên, nhớ báo tin cho bên cảnh sát thành phố. Chúng ta không có nhu cầu tham gia cuộc chiến giành địa bàn. Tìm xung quanh chỗ có nhiều máu nhất. Có thể đầu đạn vẫn còn nằm ở đó. Cậu rõ chưa?"

Connolly gật đầu, hít lấy một ngụm khí.

"Đạn đi vào xương ức ở quãng xương sườn số bốn, gần tử huyệt," Sean nói.

Whitey lại quay sang nói tiếp với Connolly, "Gọi bên kỹ thật giám định hiện trường tới đó và huy động bao nhiêu cảnh sát tùy cậu miễn là đừng chọc giận bên cảnh sát thành phố. Cậu tìm viên đạn đó và đích thân mang nó tới phòng xét nghiệm."

Sean thò đầu vào bên trong cốp xe để nhìn kỹ khuôn mặt nát bấy của nạn nhân. "Dựa vào lượng cát sỏi dính trên mặt, ai đó hẳn đã đập mặt của nạn nhân xuống đường cho tới khi không còn sức lực nữa mới thôi."

Whitey đặt tay lên vai Connolly. "Nói với bên cảnh sát thành phố là họ sẽ cần điều động cả đội điều tra án mạng tới đây - từ nhân viên giám định hiện trường, thợ chụp ảnh, công tố viên tới giám định pháp y. Nói là trung sĩ Powers yêu cầu gửi tới một nhân viên kỹ thuật có thể xác định mẫu máu hiện trường. Đi đi."

Connolly cảm thấy nhẹ cả người khi được thoát khỏi cái nơi bốc mùi khủng khiếp này. Cậu ta chạy tới xe của mình, khởi động và biến mất trong vòng chưa đầy một phút.

Whitey chụp ảnh bên ngoài chiếc xe và gật đầu với Souza. Souza đeo găng tay vào rồi dùng một que sắt phá cửa bên.

"Cậu có tìm thấy giấy tờ tùy thân không?" Whitey hỏi Sean.

"Ví để ở túi sau. Sếp tới đây chụp mấy kiểu đi, để tôi đi găng vào cái đã."

Whitey vòng ra cốp xe chụp ảnh nạn nhân rồi lấy sổ ra ghi lại sơ đồ hiện trường tội ác, máy ảnh đeo thòng lòng ở cổ.

Sean rút chiếc ví từ túi quần của nạn nhân và mở nó ra trong lúc Souza nói vọng lại từ phía trước. "Xe đăng ký dưới tên August Larson, số 232, đường Sandy Pine, Weston."

Sean nhìn xuống tấm bằng lái trong ví. "Cùng một chủ nhân."

Whitey ngoái lại nhìn, “Nạn nhân có thẻ hiến nội tạng hay cái gì đó tương tự không?”

Sean lục trong đống thẻ tín dụng, thẻ thuê băng, thẻ thành viên câu lạc bộ thể thao, thẻ bảo hiểm và cuối cùng tìm thấy một cái thẻ có ghi nhóm máu của nạn nhân. Anh giơ lên cho Whitey có thể nhìn thấy.

"Nhóm máu A."

"Souza, gọi cho bên tổng đài điều động. Lập tức triển khai lệnh bắt David Boyle, số 15 Crescent, East Buckingham. Da trắng, tóc nâu, mắt xanh, cao khoảng một mét tám mươi, nặng tám mươi lăn cân. Có thể có vũ khí và nguy hiểm."

"Có vũ khí và nguy hiểm? Tôi không chắc lắm, trung sĩ," Sean nói.

"Cậu hãy nói thế với gã đang nằm trong cốp xe ấy!" Whitey nói.

Trụ sở cảnh sát Boston chỉ cách bãi đỗ xe có tám dãy phố nên chưa đầy năm phút sau khi Connolly rời khỏi, một tiểu đoàn xe tuần tra và xe ô tô không dán logo cảnh sát đã xuất hiện cùng với một xe pháp y và một xe giám định hiện trường. Sean tháo găng tay và lùi lại ngay khi nhìn thấy họ. Từ giây phút này trở đi, đó là hiện trường của họ.

Họ có thể hỏi Sean bất cứ điều gì nhưng anh không còn nhúng tay vào công việc của họ nữa.

Nhân viên điều tra đầu tiên bước ra khỏi chiếc Crown Vic màu đồng hun là Burt Corrigan, một cảnh sát lão luyện cùng thế hệ với Whitey với cùng tiền sử bị vợ bỏ và một chế độ ăn uống bừa bãi. Ông ta bắt tay Whitey, hai người bọ họ đều là khách thường xuyên của quán bar JJ Foley vào các tối thứ Năm và cùng sinh hoạt trong một câu lạc bộ ném phí tiêu.

Burt quay sang bảo Sean. "Thế xe này cậu đã ghi phiếu phạt chưa hay để chờ tới sau tang lễ?"

"Được đấy," Sean trả lời. "Dạo này ai viết báo cáo cho ông mà tường tận thế, Burt?"

Burt vỗ vỗ vai anh và đi vòng ra phía sau chiếc xe. Ông nhìn vào trong rồi khịt mũi bảo, "Úi là là."

Whitey lại gần cốp. "Chúng tôi cho là án mạng xảy ra tại bãi đỗ xe của quán Last Drop ở East Bucky rạng sáng Chủ nhật."

Burt gật đầu. "Nhân viên giám định pháp y của chúng tôi đã gặp người của các anh ở đó chiều thứ Hai?"

Whitey gật đầu. "Chính là vụ đó. Ông đã cử người quay lại đó chưa?"

"Khoảng mười phút trước. Đã tiếp đón nhân viên Connolly tới hỏi về việc truy tìm đầu đạn."

"Chính thế."

"Các anh cũng đã xác định được nghi phạm?"

"David Boyle," Whitey nói.

Burt nhìn vào mặt nạn nhân. "Chúng tôi sẽ cần đến tất cả những thông tin mà các anh thu thập được, Whitey."

"Không thành vấn đề. Tôi sẽ ở lại với ông một chút xem tình hình tiến triển thế nào."

"Hôm nay ông đã tắm chưa đấy?"

"Việc đầu tiên trong ngày."

"Vậy thì được." Burt nhìn sang phía Sean. "Cậu thì sao?"

"Tôi có một gã đang bị tạm nhốt cần phải hỏi han một chút. Việc này trả lại cho ông. Souza sẽ đi với tôi."

Whitey gật đầu và đi cùng họ ra xe. "Chúng tôi sẽ trói Boyle vào vụ này rồi có thể khiến hắn cung khai luôn vụ sát hại cô Marcus. Một mũi tên trúng hai đích."

"Hai án mạng cách nhau mười dãy nhà?" Sean hỏi.

"Có lẽ cô ấy trong lúc ra khỏi quán bar đã nhìn thấy hắn ra tay."

Sean lắc đầu. "Trình tự thời gian đều không phù hợp. Nếu Boyle giết gã này thì sẽ phải tiến hành trong khoảng một giờ ba mươi tới một giờ bốn mươi lăm. Sau đó sẽ phải lái xe qua mười dãy nhà và nhìn thấy Katie Marcus đang lái xe trên đường lúc một giờ bốn mươi lăm. Tôi thấy rất bất hợp lý."

Whitey dựa vào bên cạnh xe của họ. "Đúng, tôi cũng nghĩ vậy."

"Với lại lỗ đạn trên lưng gã kia rất nhỏ. Nhỏ hơn nhiều so với đạn ba mươi tám ly. Hai vũ khí gây án khác nhau, hai hung thủ khác nhau."

Whitey gật đầu nhìn xuống mũi giày. "Cậu sẽ tra khảo thằng bé Harris một lần nữa?"

"Vẫn là xoay quanh chuyện khẩu súng của ông bố mà thôi."

"Có lẽ cần phải tìm ra một bức ảnh của ông bố, làm đồ họa tăng thêm tuổi rồi tung đi khắp nơi xem có ai nhìn thấy hắn ta không."

Souza tiến về phía họ mở của bên ra. "Tôi đi với anh, Sean?"

Sean gật đầu rồi quay lại với Whitey. "Một chi tiết nhỏ."

"Gì cơ?

"Chúng ta chỉ còn thiếu một chi tiết nhỏ. Rất nhỏ thôi. Tôi sẽ tìm ra và giải quyết vụ này."

Whitey mỉm cười. "Cậu còn vụ án nào vẫn chưa phá được, chàng trai?"

"Eileen Fields, đã tám tháng rồi vẫn chưa có kết quả." Sean buột miệng nói không kịp suy nghĩ.

"Không phải vụ nào cũng có thể phá được, cậu hiểu ý tôi chứ?" Whitey nói rồi rảo bước về phía chiếc xe Cadillac.

Khoảng thời gian bị nhốt trong buồng giam rõ ràng không ưu đãi Brendan. Trông thăng bé rúm lại, trẻ hơn nhưng cũng cay nghiệt hơn như thể vùa nhìn thấy một cái gì đó khủng khiếp. Sean đã cẩn thận nhốt riêng thằng bé trong một buồng giam không có người, cách xa đám du đãng và nghiện hút nên không đoán ra được điều gì có thể khiến nó kinh hãi đến thế trừ phi nó thực sự là một đứa không chịu nổi sự cách ly.

"Cha cậu hiện đang ở đâu?" Sean nói.

Brendan cặm cụi gặm ngón tay và nhún vai. "Ở New York."

"Chưa từng gặp lại?"

Brendan chuyển sang gặm móng tay khác. "Không hề gặp lại từ năm sáu tuổi."

"Có phải cậu đã giết Katherine Marcus?"

Brendan bỏ tay xuống khỏi miệng và nhìn Sean chằm chằm.

"Trả lời đi."

"Không có."

"Khẩu súng của cha cậu hiện giờ đang ở đâu?"

"Tôi không biết gì về việc cha tôi có súng."

Lần này Brendan thậm chí còn không thèm chớp mắt. Cũng không né tránh ánh mắt của Sean. Cậu ta nhìn chằm chằm vào mặt của Sean với một vẻ vừa hung dữ lại vừa mệt mỏi khiến Sean lần đầu tiên cảm thấy nguy cơ bạo lực tiềm ấn trong thằng bé.

Không biết trong buồng giam đã xảy ra chuyện quái quỷ gì?

"Tại sao cha cậu muốn giết Katherine Marcus?" Sean hỏi.

"Cha tôi," Brendan dõng dạc "Không có giết ai cả."

"Cậu rõ ràng là biết chuyện gì đó, Brendan. Nhưng cậu không muốn nói cho tôi biết. Thôi được, để xem máy phát hiện nói dói lúc này có rảnh không. Chúng tôi sẽ hỏi cậu thêm vài câu nữa."

"Hãy để tôi gặp luật sư," Brendan nói.

"Chờ chút. Hãy…"

"Hãy để tôi gặp luật sư. Ngay bây giờ," Brendan nhắc lại.

Sean cố giữ cho giọng mình thật bình tĩnh. "Được thôi. Cậu có biết luật sư nào không?"

"Mẹ tôi biết. Hãy để tôi gọi điện cho bà ấy."

"Brendan, nghe này…"

"Ngay bây giờ," Brendan nói.

Sean thở dài rồi lấy điện thoại ra trước mặt cậu ta. "Nhớ quay số chín ở đầu."

Luật sư của Brendan là một ông già người Ailen cổ lỗ sĩ nhưng cũng đủ chuyên nghiệp để hiểu rằng Sean không có quyền giam giữ thân chủ của mình chỉ vì thiếu bằng chứng ngoại phạm.

"Giam giữ lúc nào?" Sean hỏi.

"Anh nhốt thân chủ của tôi vào một buồng giam đấy thôi," luật sư nói.

"Nhưng chúng tôi có khóa cửa hay nhốt nhiếc gì đâu. Cậu ta muốn vào xem thử đấy chứ."

Ông luật sư trưng vẻ mặt vô cùng thất vọng trước hành vi đó của Sean rồi mang Brendan đi mất, không một lần ngoái lại. Sean giở hồ sơ vụ án ra đọc nhưng không thể nhập tâm. Anh đành gấp chúng lại, ngửa người ra trên ghế, nhắm mắt và nhìn thấy Lauren cùng đứa con trong mơ của anh hiện ra. Anh như ngửi thấy hương thơm của họ.

Anh mở ví lôi ra một mẩu giấy có ghi số điện thoại cầm tay của Lauren, đặt nó lên trên bàn, vuốt phẳng lại những nếp nhăn trên đó. Anh chưa bao giờ muốn có con. Ngoài việc được ưu tiên trong lúc xếp hàng lên máy bay thì chẳng thấy ích lợi gì khác. Chúng chiếm lĩnh cuộc đời chúng ta, vùi lấp nó trong mệt mỏi và kinh hoàng, thế nhưng mọi người lại coi đó giống như một ân điển của bề trên và nhắc tới bọn trẻ con với một giọng điệu tôn sùng giống như đối với Chúa trời. Nhắc tới chuyện đó, xin chớ quên rằng tất cả những thằng khốn cắt ngang đường giữa luồng xe, đi nghênh ngang trên phố, la hét trong các quán bar, bật nhạc ầm ĩ, cướp giật, hãm hiếp, bán xe ăn trộm - tất cả đều là những đứa trẻ lúc trước lớn lên mà thành. Chẳng có gì màu nhiệm, chẳng có gì thiêng liêng hết cả.

Bên cạnh đó, anh cũng không dám chắc đó là con anh. Anh cũng chưa bao giờ làm xét nghiệm AND bởi vì sự tự tôn của anh không cho phép. Xét nghiệm để chứng minh mình đúng là cha của đứa bé? Còn có hành động nào mất tôn nghiêm hơn thế? Ôi xin lỗi, tôi cần trích ra một ít máu vì vợ tôi ngủ với thằng khác và mang bầu.

Chết tiệt. Thế nhưng anh vẫn nhớ cô. Thế nhưng anh vẫn yêu vợ mình. Và mơ được ôm lấy đứa con của mình. Thì sao chứ? Lauren đã phản bội anh, bỏ rơi anh và có con trong lúc rời đi và vẫn chưa bao giờ nói một lời xin lỗi. Đúng là cô ấy vẫn chưa hề mở miệng nói, Sean, em sai rồi, em xin lỗi đã làm anh đau lòng.

Và Sean cũng đã khiến cô ấy bị tổn thương? Có, chắc chắn là có. Khi mới phát hiện chuyện cô ngoại tình, anh suýt đã nữa giơ tay đánh cô nhưng vào phút cuối đã kìm lại được. Nhưng Lauren đã nhìn thấy ý định đó trên mặt anh. Và tất cả những lời thóa mạ mà anh ném vào mặt cô. Chúa ơi.

Thế nhưng cơn giận của anh, hành động đẩy cô ra xa của anh mới chính là ngòi nổ. Anh đã sai. Không phải là cô.

Là anh sai? Anh nghĩ đi nghĩ lại. Đúng là như thế.

Anh nhét tờ giấy ghi số điện thoại trở lại trong ví, nhắm mắt và chập chờn trôi vào giấc ngủ. Một lúc sau anh bị đánh thức bởi tiếng bước chân trong hành lang, mở mắt ra thấy Whitey đang đi vào trong phòng. Nhìn mắt Whitey, Sean biết ngay là ông vừa uống rượu trước khi ngửi thấy mùi rượu phả từ miệng ông. Whitey ngồi phịch xuống ghế, gác hai chân lên bàn, đá chiếc hộp đựng bằng chứng mà Connolly mang tới sáng nay dẹp sang một bên.

"Một ngày mệt mỏi."

"Ông có tìm thấy cậu ta không?"

"Boyle á?" Whitey lắc đầu. "Không tìm thấy. Chủ nhà nói nghe tiếng hắn ta rời khỏi lúc ba giờ, chưa thấy quay lại. Vợ con cũng không có ở đó. Chúng tôi gọi tới chỗ làm. Hắn ta làm ca thứ Tư tới thứ Bảy nên họ cũng chẳng biết gì hơn. "Whitey ợ lên một tiếng rồi nói tiếp, "Sớm muộn gì thì hắn cũng sẽ xuất đầu lộ diện thôi."

"Thế còn viên đạn thì sao?"

Tìm thấy một đầu đạn ở quán Last Drop. Vấn đề là nó găm vào một tấm biển sắt đằng sau chỗ nạn nhân bị bắn. Bên kỹ thuật nói họ có thể xác định nguồn gốc đầu đạn, cũng có thể không. Thế còn thằng bé Harris thì sao?"

"Luật sư tới đón nó đi rồi."

"Vậy sao?"

Sean tới bên bàn của Whitey lục lọi hộp bằng chứng trên bàn. "Không có dấu chân. Vân tay không trùng với ai trong dữ liệu. Súng được sử dụng lần cuối trong một vụ cướp cách đây mười tám năm. Chả có quái gì ra hồn." Anh nói rồi vứt báo cáo đầu đạn vào lại trong hộp. "Nghi phạm duy nhất không có bằng chứng ngoại phạm lại là người tôi không nghi ngờ."

"Về nhà nghỉ đi," Whitey nói. "Thật đấy."

"Được rồi, được rồi." Sean nói và lôi chiếc băng cát xét của tổng đài 911 ra khỏi hộp.

"Gì thế?" Whitey hỏi.

"Băng nhạc mới nhất của Snoop Dogg."

"Tưởng hắn ta tiêu rồi."

"Đó là Tupac."

"Chả còn theo kịp thời đại nữa."

Sean cho băng vào máy cát xét ở góc bàn và ấn nút chạy.

"911, tổng đài cứu trợ khẩn cấp của ảnh sát. Xin hỏi quý vị gọi đến có việc gì?"

Whitey đang nghịch một cái chun, căng nó ra rồi búng lên quạt trần.

"Có cái xe ô tô này ở trong có máu và, à, cửa mở và, à…"

"Chiếc xe đó hiện đang ở đâu?"

"Ở khu Hạ. Gần công viên Pen. Cháu và bạn gái cháu phát hiện ra nó."

"Có biết tên phố không?"

Whitey lấy tay che miệng ngáp rồi lại nghịch một cái chun khác. Sean đứng dậy vươn vai, duỗi người tự hỏi không biết trong tủ lạnh tối nay có gì ăn không.

"Phố Sydney. Ở trong xe có máu và cửa mở."

"Tên cháu là gì, con trai?"

"Ông ấy muốn biết tên cô ta. Gọi tao là 'con trai'."

"Con tai? Ta hỏi tên của cháu. Tên cháu là gì?"

"Chúng cháu phải lượn đây. Chúc may mắn!"

Liên lạc bị cắt và rồi nhân viên trực tổng đài gọi điện sang bên điều động. Sean ngắt máy.

"Tôi vẫn nghĩ là nghe Tupac còn có chút nhạc điệu," Whitey nói.

"Không phải Tupac mà là Snoop. Vừa nói với sếp xong."

Whitey lại ngáp. "Về đi được chưa, chàng trai?"

Sean gật đầu và lấy chiếc băng ra khỏi máy. Anh đặt nó lại vào trong vỏ rồi ném qua đầu Whitey vào trong hộp. Anh lôi khẩu Glock và bao đựng súng ra khỏi ngăn kéo trên cùng rồi gài nó vào thắt lưng.

"Cô ta," anh nói.

"Gì cơ?" Whitey nhìn anh.

"Thằng bé trong băng. Nó nói, 'tên cô ta.' 'Ông ấy muốn biết tên cô ta.' Nó đang nói về cô gái nhà Marcus."

"Đúng vậy," Whitey nói. "Cậu phải nói là 'nữ nạn nhân' chứ không phải 'cô ta'."

"Nhưng thế quái nào mà nó lại biết được điều đó?"

"Ai cơ?"

"Thằng bé gọi điện ấy. Làm sao nó biết được máu ở trong xe là của một người phụ nữ?"

Whitey rút chân khỏi bàn và nhìn vào hộp bằng chứng. Ông thò tay lôi cuộn băng ra ném nó sang cho Sean.

"Bật lại lần nữa đi," Whitey nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Mất tích trong không trung


Dave và Val lái xe qua thành phố, qua dòng sông Kỳ Bí, tới một quán bar ở Chelsea có bia lạnh, giá rẻ, lại không có ai ngoài một vài người khách quen trông giống như đã làm việc cả đời ngoài bến cảng và bốn công nhân xây dựng đang tranh luận về một phụ nữ có tên Betty ngực to nhưng hơi xấu tính. Quán bar nằm ở dưới gầm cầu Tobin, lưng quay ra sông và có vẻ như đã ở đây từ rất nhiều năm. Mọi người đều biết Val và chào anh ta. Chủ quán là một gã tên Huey, trông giống một bộ xương di động, tóc đen kịt, da trắng nhợt. Hắn ta đồng thời kiêm luôn việc pha chế và mời bọ họ hai chầu bia miễn phí.

Dave và Val thọc bi-a một lúc rồi ngồi vào bàn với một vại bia lớn và hai ly whisky. Mấy ô cửa sổ nhỏ hình vuông đối diện với mặt phố đã chuyển từ màu vàng sang màu chàm, trời sập tối rất nhanh, khiến Dave không khỏi có chút hụt hẫng.

Khi đã quen mới thấy Val thật sự là một gã rất dễ chịu. Anh ta kể chuyện nhà tù và những vụ trộm không thành, tất cả đều vô cùng đáng sợ nhưng dưới giọng điệu của Val lại trở nên hài hước, vui nhộn. Dave bắt đầu tự hỏi làm một người như Val sẽ có cảm giác như thế nào, lúc nào cũng tự tin, không mảy may sợ hãi nhưng người ngợm thì bé choắt lại.

"Hồi đó, có một lần, trong lúc Jimmy đang ngồi tù, chúng tôi tụ tập nhau lại, cố gắng duy trì băng nhóm. Vì lúc đó chúng tôi vẫn chưa nghĩ ra lý do duy nhất khiến chúng tôi trở thành ăn trộm chính là vì có Jimmy chuẩn bị, lên kế hoạch sẵn cho. Chúng tôi chỉ có mỗi việc là lắng nghe và làm theo mệnh lệnh của cậu ấy là mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái. Nhưng không có Jimmy, chúng tôi chỉ là một lũ đần vô dụng. Một lần, chúng tôi tới đánh cướp một nhà sưu tầm tem, trói ông ta lại rồi tôi, anh trai tôi Nick và thằng cu Carson Leverett, ngu tới mức không biết tự buộc dây giày nếu không có người hướng dẫn, bắt thang máy đi xuống. Chúng tôi đều tỏ ra rất thoải mái vì tất cả đều mặc vest viếc đàng hoàng trông rất oách. Thế nhưng có một quý bà đi vào thang máy và hét ầm lên. Hét rõ to. Và chúng tôi thật không biết là chuyện gì đang xảy ra nữa. Trông chúng tôi ai nấy đều vô cùng lịch lãm đấy chứ? Tôi liền quay sang Nick và thấy anh ấy đang nhìn Carson Leverett vì thằng đầu đất đó vẫn còn đang đeo mặt nạ." Val đập bàn cười váng lên. "Cậu có tin được không? Nó vẫn đeo cái mặt nạ Ronald Reagan mà người ta vẫn hay bán, miệng cười ngoác ra ấy? Nó vẫn quên chưa tháo ra."

"Mà các anh cũng không ai để ý?"

"Không. Vấn đề là ở chỗ đó. Chúng tôi ra khỏi phòng là gỡ mặt nạ ra luôn, nghĩ rằng Carson hẳn cũng làm thế. Nhưng chuyện ngớ ngẩn như thế vẫn thường xuyên xảy ra. Chỉ vì lúc nào cũng vội vàng, đâm ra hấp tấp, chỉ muốn nhanh chóng thoát hiểm nên không chú ý tiểu tiết. Có hiện ra ngay trước mắt cũng chưa chắc đã nhìn thấy." Anh lại mỉm cười và nhấp một ngụm whisky. "Đó chính là lý do để tiếc nuối Jimmy. Anh ấy tính toán tới từng chi tiết một. Giống như người ta vẫn nói một tiền vệ giỏi nhìn thấy hết cả sân chơi. Jimmy là người bao quát toàn bộ sân chơi. Anh ấy còn dự đoán được tất cả những nguy cơ tiềm năng. Anh chàng đó, thực sự là một thiên tài."

"Nhưng anh ấy lại giải nghệ."

"Hẳn rồi," Val nói và châm một điếu thuốc. "Là vì Katie. Và sau đó là vì Annabeth. Giữa tôi và cậu, nói thật, tôi cũng không biết cậu ấy có thực sự hài lòng với sự lựa chọn đó hay không, nhưng cuộc sống là thế. Đôi khi con người ta phải lớn lên. Người vợ đầu của tôi cũng bảo thế, rằng vấn đề của tôi chính là tôi không thể trưởng thành. Tôi quá nghiện cuộc sống ban đêm. Ban ngày đối với tôi chỉ là lúc nghỉ ngơi."

"Tôi cũng nghĩ là nó sẽ khác." Dave nói.

"Gì cơ?"

"Là một người trưởng thành. Sẽ có cảm giác khác đúng không? Cảm giác lớn lên. Thành một người đàn ông."

"Cậu không có cảm giác đó sao?"

Dave mỉm cười. "Có, đôi khi. Nhưng chỉ là thoáng qua, trong chớp mắt. Còn phần lớn thời gian tôi không cảm thấy có gì khác biệt lắm so với hồi mười tám tuổi. Tôi thường xuyên thức dậy và tự hỏi, 'Mình có con ư? Mình có vợ ư? Sao lại thế được?' "

Dave có cảm giác như rượu bắt đầu khiến lưỡi anh líu lại, đầu óc tròng trành vì chưa ăn gì. Nhưng anh cảm thấy cần phải giải thích cho Val, để anh hiểu và hứng thú với anh. "Tôi luôn cho rằng một ngày nào đó cảm giác ấy sẽ trở thành thường trực. Một ngày nào đó anh thức dậy và có cảm giác rằng mình đã trưởng thành và nắm giữ mọi chuyện trong tay mình giống như các ông bố trong các xê ri phim truyền hình cũ."

"Kiểu như Ward Cleaver trong Leave It to Breaver chứ gì?"

"Đúng thế. Hay thậm chí giống như các nhân vật cảnh sát trưởng kiểu James Arness ấy. Họ chính là những người đàn ông đích thực. Và trạng thái đó là thường trực."

Val gật đầu, nhấp một ngụm bia. "Một người bạn tù có lần bảo tôi rằng, 'Hạnh phúc chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc rồi biến mất cho tới lần tiếp theo. Có thể là nhiều năm sau. Nhưng nỗi buồn' " – Val nháy mắt – " 'nỗi buồn thì ở lại.' " Anh ta dụi tắt điếu thuốc. "Tôi rất thích anh chàng đó. Lúc nào cũng nói những câu rất hay ho. Tôi sẽ đi lấy một ly whisky nữa. Cậu thì sao?" Val đứng dậy.

Dave lắc đầu. "Ly này còn chưa uống hết."

"Thôi nào, máu lên chứ!" Val nói.

Dave nhìn khuôn mặt cười nhăn nhở của Val và nói, "Thôi được, thì làm phát nữa."

"Chơi thế mới được chứ." Val vỗ vai anh rồi tiến về phía quầy bar.

Dave quan sát anh ta đứng ở quầy bar tán gẫu với một cựu công nhân bến cảng trong lúc chờ lấy đồ uống. Dave cho rằng những người đó đều biết làm đàn ông là như thế nào. Làm đàn ông mà không mảy may ngờ vực, không phải băn khoăn về hành động của chính mình, không nao núng bởi thế giới xung quanh và những điều mà người khác chờ đợi ở họ.

Chính nỗi sợ hãi, anh nghĩ. Là vì anh luôn sợ hãi còn họ thì không. Nỗi sợ đã ăn sâu vào trong tiềm thức của anh từ khi anh còn rất nhỏ và vĩnh viễn nằm lại đó giống như một người bạn của Val định nghĩa về nỗi buồn. Sự sợ hãi đã tìm thấy một chỗ trong lòng Dave và không bao giờ rời đi nữa khiến anh lúc nào cũng sợ sẽ làn sai, sợ hỏng việc, sợ không được thông minh, sợ mình không phải là một người chồng tốt, một người cha tốt hay thậm chí chỉ là một người đàn ông tốt. Nỗi sợ hãi đã cố thủ quá lâu trong Dave tới mức anh không còn nhớ sống mà không sợ hãi là như thế nào.

Đèn pha của một chiếc xe hơi hắt lên cửa trước, ánh sáng trắng của nó rọi thẳng vào mặt Dave khiến anh chớp mắt lia lịa, chỉ kịp nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông bước vào cửa. Người này thân hình rắn chắc, bên ngoài khoác một chiếc áo da. Trông hơi giông Jimmy nhưng lại to hơn, vai rộng hơn.

Nhưng đó đúng là Jimmy, Dave nhận ra hắn khi cánh của đóng lại và mắt anh đã nhìn rõ hơn. Jimmy mặc áo khoác bằng da bên ngoài áo thun cao cổ màu sẫm và quần ka ki, gật đầu chào Dave rồi bước về phía Val ở quầy bar. Hắn thì thầm vào tai Val và Val quay lại nhìn Dave rồi nói gì đó với Jimmy.

Dave bắt đầu thấy chóng mặt. Hẳn là hậu quả của việc uống rượu mà không ăn gì. Nhưng cũng là vì thái độ của Jimmy, có cái gì đó trong cách hắn gật đầu chào Dave, măt mũi hắn lạnh tanh nhưng lại biểu lộ một quyết tâm sắt đá. Và thế quái nào mà trông hắn lại to đùng ra như vậy, giống như sau một đêm tăng thêm năm, sáu ký. Và hắn tới Chelsea làm gì cơ chứ, vào đêm trước lễ viếng con gái?

Jimmy lại gần, ngồi vào chỗ Val trước mặt Dave. "Sao rồi?"

"Hơi say một tí," Dave thừa nhận. "Cậu lên cân đấy à?"

Jimmy nở một nụ cười khó hiểu. "Không."

"Trông to hẳn ra."

Jimmy nhún vai.

"Cậu đến đây làm gì?" Dave hỏi.

"Tôi tới đây khá thường xuyên. Tôi và Val đã biết Huey từ nhiều năm. Từ xửa từ xưa. Sao câuk không uống nốt đi?"

Dave cầm ly rượu lên. "Đầu tôi đã hơi ong ong rồi."

"Có chuyện gì vậy?" Jimmy nói và lúc này Dave mới nhận ra Jimmy cũng đang cầm trên tay một ly whisky. Anh nâng nó lên và chạm vào ly của Dave. "Cho con cái của chúng ta," Jimmy nói.

"Cho con của chúng ta," Dave khó khăn lên tiếng, thực sự cảm thấy không còn chút lý trí nào, giống như anh vừa trượt ra khỏi hiện thực ban ngày, rơi vào đêm tối, vào trong một giấc mơ nơi tất cả các khuôn mặt đều trở nên quá gần nhưng giọng nói lại như vang lên từ dưới đáy giếng.

Dave uống cạn ly rượu, nhăn mặt vì độ cay của nó trong lúc Val bước tới và ngồi cạnh anh. Val quàng tay lên vai anh và uống chỗ ngụm bia thẳng từ chiếc vại lớn. "Tôi vẫn luôn khoái chỗ này."

"Đây là một quán bar rất dễ chịu," Jimmy nói. "Chả có ai tới làm phiền."

"Điều đó rất quan trọng," Val nói. "Nếu như ở đời không có ai tới làm phiền chúng ta. Không có ai gây chuyện với chúng ta với người thân của chúng ta hay bạn bè của chúng ta. Đúng không, Dave?"

"Hẳn rồi," Dave nói.

"Anh chàng này rất vui nhộn. Cậu sẽ tha hồ mà vui vẻ," Val nói.

"Vậy sao?"

"Đúng thế," Val nói và siết chặt vai Dave. "Dave nhỉ!"

Celeste ngồi bên mép giường trong lúc Michael xem vô tuyến trong phòng khách sạn. Cô đặt máy điện thoại trên đùi, tay mân mê ống nghe.

Những giờ cuối cùng của buổi chiều ngồi với Michael trên chiếc ghế sắt gỉ bên cạnh bể bơi của khách sạn, cô bắt đầu cảm thấy mình là một người nhỏ mọn, trống rỗng như thể đang bị người ta nhìn xuống, một kẻ bị vứt bỏ, ngu ngốc và tệ hơn nữa là một kẻ phản bội.

Chính chồng mình. Cô đã phản bội chồng của cô.

Có thể Dave đã giết Katie. Có thể vậy. Nhưng cô nghĩ gì mà lại mang chuyện đó đi nói với chính Jimmy chứ không phải ai khác cơ chứ? Sao cô không chờ đợi thêm một thời gian, suy nghĩ cho kỹ càng? Sao cô không nghĩ tới các biện pháp khác? Vì cô sợ Dave ư?

Nhưng Dave mà cô nhìn thấy mấy hôm trước chỉ là Dave của một vài phút lầm lạc, một sản phẩm của sự căng thẳng đầu óc.

Có lẽ anh ấy không giết Katie. Có lẽ thế.

Vấn đề là ở chỗ cô thậm chí còn không cho anh cái quyền bị nghi ngờ cho tới khi mọi chuyện được sáng tỏ. Cô không chắc cô có thể tiếp tục sống cùng anh và đặt Michael vào tình thế nguy hiểm nhưng cô biết là mình nên báo cảnh sát thay vì tìm tới Jimmy Marcus.

Chẳng lẽ cô muốn gây tổn hại cho Dave? Cô kỳ vọng gì khi nhìn vào mắt Jimmy và nói ra những nghi ngờ của mình? Và rồi sao chứ? Nói với ai thì nói, sao cô lại đâm đầu đi nói với Jimmy cơ chứ?

Có rất nhiều câu trả lời khả dĩ cho câu hỏi này nhưng không có gì khiến cô hài lòng. Cô nhấc ống nghe lên và quay số nhà Jimmy. Cô vừa quay số vừa run rẩy, trong đầu không ngừng suy nghĩ, làm ơn có ai đó trả lời máy. Hãy trả lời máy. Làm ơn.

Nụ cười trên mặt Jimmy bắt đầu trượt đi, lồi ra, lõm vào, sang trái, sang phải, trồi lên, tụt xuống và Dave cố tập trung nhìn lên quầy bar nhưng nó cũng đang trượt đi giống như đang ở trên một con thuyền khi biển động.

"Có nhớ lần chúng ta cùng mang Ray Harris tới đây không?" Val nói.

"Ôi. Ray thân mến!"

"Ray ấy mà," Val nói và đập tay xuống bàn trước mặt Dave, "nó là một thằng vui tính đếch chịu được."

"Đúng thế," Jimmy nói khẽ, "Ray là một tay hài hước. Có thể khiến người ta cười nôn ruột."

"Phần lớn mọi người gọi hắn là Just Ray," Val nói trong khi Dave cố tập trung để hiểu xem họ đang nói chuyện quái quỷ gì. "Nhưng tôi gọi hắn là Ray Nhạc Chuông."

Jimmy bẻ ngón tay răng rắc rồi chỉ vào Val. "Đúng thế. Vì đồng tiền xu của hắn ta."

Val tựa vào Dave và nói vào tai anh."Tay đó lúc nào cũng mang theo mười đô la tiền xu trong túi, bất kể ngày nào. Không ai biết tại sao. Giống như là hắn thích thế, phòng trừ lúc nào hứng lên là có thể gọi điện sang tận Libya hay những chỗ quái quỷ gì đó, tôi đoán thế. Ai mà biết được. Nhưng hắn đi khắp nơi hai tay đút túi với các đồng xu leng keng suốt cả ngày. Ý tôi là, hắn là một tay trộm, làm thế khiến người ta không thể không bình luận, 'Có thằng nào ngu lại không nhận ra cậu chứ Ray?' Nhưng đúng là trong lúc hành nghề thì hắn không mang tiền xu theo." Val thở dài. "Đúng là một tay buồn cười."

Val rút ta ra khỏi vai Dave và châm một điếu thuốc khác. Khói phả vào mặt Dave và anh có cảm giác chúng trườn lên má anh rồi chui vào trong tóc. Giữa làn khói thuốc anh thấy Jimmy đang quan sát anh với cái vẻ vừa lạnh lùng vừa dứt khoát đó và anh không thích ánh mắt của hắn, chúng có cái gì đó rất quen thuộc.

Đó là cái nhìn giống như của cảnh sát, anh chợt nhớ ra. Giống như cái nhìn của trung sĩ Powers. Như muốn xuyên thủng tâm trí Dave. Nụ cười trở lại trên khuôn mặt Jimmy, nhô lên hạ xuống giống như một con thuyền nhỏ và Dave có cảm giác như dạ dày anh cũng dập dềnh theo, chao đảo trong cơn sóng dữ.

Anh nuốt nước bọt nhiều lần và cố hít một hơi thật sâu.

"Cậu ổn chứ?" Val hỏi.

Dave giơ một tay lên. Nếu ai nấy đều câm miệng lại thì có lẽ anh sẽ không sao. "Ừ."

"Cậu có chắc không đấy?" Jimmy nói. "Trông cậu xanh lét."

Cơn buồn nôn dâng trào và Dave cảm thấy khí quản của anh như thắt lại rồi lại phình ra, mồ hôi anh đổ giọt trên trán. "Ôi, chết tiệt."

"Dave!"

"Tôi muốn ói," anh nói và cơn buồn nôn lại bắt đầu dâng lên. "Nói thật lòng."

"Được rồi, được rồi," Val nói và nhanh chóng rời khỏi chỗ ngồi. "Hãy ra cửa sau. Huey không thích lau chùi thành toa lét đâu. Cậu hiểu rồi chứ?"

Dave nhanh chóng đứng lên rời khỏi bàn. Val túm lấy vai anh và xoay về phía cánh cửa ở cuối quán bar đằng sau bàn bi-a.

Dave bước về phía cửa, cố giữ cho bước chân không xiên vẹo, chân này đặt lên trước chân kia lần lượt từng bước một, nhưng cánh cửa phía trước trông vẫn hơi nghiêng ngả. Đó là một cánh cửa nhỏ, tối om làm bằng gỗ sồi sơn đen mà năm tháng đã để lại những vết sứt sẹo. Dave đột nhiên cảm thấy không khí trong quán bar như nóng lên. Một thứ không khí ẩm ướt, dày đặc thổi vào người anh khi anh lảo đảo tiến về phía cánh cửa, chạm tay vào nắm đấm bằng đồng, sung sướng vì cảm giác lạnh lẽo mà nó mang lại lúc anh mở cửa ra.

Thứ đầu tiên mà anh nhìn thấy là cỏ dại. Rồi tới con sông. Anh loạng choạng bước ra ngoài, ngạc nhiên thấy trời đã tối sầm lại từ lúc nào và như đáp lại nguyện vọng của anh, một ngọn đèn phía bên trên cánh cửa vụt sáng hắt lên con đường nhựa rạn nứt, nham nhở trước mặt anh. Anh có thể nghe thấy tiếng xe cộ ầm ĩ trên cầu và đột nhiên cảm thấy cơn buồn nôn dịu đi. Có lẽ anh sẽ không sao. Anh hít vào một nơi thật sâu không khí của ban đêm. Ở bên trái anh có một chồng gỗ mục và mấy chiếc bẫy tôm hùm gỉ hoét, thủng lỗ như bị cá mập tấn công. Dave tự hỏi làm sao bẫy tôm hùm lại xuất hiện ở đây trên đất liền và cạnh một con sông rồi quyết định mình quá say không đủ sức tìm ra câu trả lời. Phía trên chồng gỗ mục là một hàng rào lưới sắt cũng hoen gỉ như đám bẫy tôm, cỏ dại mọc kín. Bên phải anh là một bãi lau sậy cao hơn đầu người mọc lấn sang cả con đường rải sỏi nứt nẻ, sứt sẹo.

Dạ dày Dave lại cồn lên và cơn buồn nôn lần này dữ dội hơn bao giờ hết, xuyên rút khắp cơ thể anh. Anh loạng choạng tới bên mép nước, gục đầu xuống và nỗi sợ hãi cùng với bia và Sprite phun ra khỏi người anh, trút xuống dòng sông Kỳ Bí đen nhờn. Anh chỉ nôn ra toàn chất lỏng. Trong dạ dày anh chẳng còn gì khác. Anh thực sự không nhớ lần cuối cùng anh ăn là khi nào. Nhưng giây phút chúng ra khỏi miệng anh và rơi xuống nước, anh lập tức cảm thấy khá hơn. An cảm thấy hơi thở mát lạnh của buổi tối phả lên tóc. Một cơn gió nhẹ từ sông thổi vào. Anh vẫn quỳ ở đó và chờ đợi một cơn nôn ói mới dù không tin là nó sẽ xảy ra. Anh cảm giác như mình đã được gột sạch.

Anh nhìn lên cầu, mọi người đua nhau ra, vào thành phố trong một cơn hối hả đầy kích động, có lẽ phần nào đó biết rằng về tới nhà cũng chẳng sung sướng gì hơn. Có tới phân nửa bọn họ lại lập tức lao ngược ra ngoài để đi chợ vì quên mua thứ gì đó, hay đi tới một quán bar, cửa hàng video hay tới một nhà hàng nơi họ sẽ lại phải đứng xếp hàng dài chờ đợi. Và để làm gì cơ chứ? Chúng ta phải xếp hàng để làm gì cơ chứ? Chúng ta mong đợi gì cơ chứ? Tại sao khi tới nơi rồi chúng ta lại không cảm thấy hạnh phúc như mình vẫn tưởng?

Dave để ý thấy ở bên phải anh có một chiếc thuyền gắn máy nhỏ. Nó được buộc vào một tấm ván phẳng nhỏ xíu và xập xệ tới mức khó mà có thể gọi nó là cầu tàu. Anh đoán chắc đó là chiếc thuyền của Huey và bật cười khi nghĩ tới hình ảnh người đàn ông gầy khô giống như xác chết đó bơi thuyền giữa dòng nước nhớp nhúa kia, mái tóc đen như quạ phất phơ trong gió.

Anh quay đầu nhìn chồng gỗ mục và bãi lau sậy. Thảo nào mọi người ra đây để nôn ọe. Đúng là một chỗ hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Trừ phi đứng ở phía bên kia sông và dùng ống nhòm thì mới nhìn thấy được. Mẩu đất này bị bao bọc từ ba phía và tuyệt đối yên tĩnh, tiếng xe cộ di chuyển trên đầu chỉ giống như âm thanh văng vẳng từ xa vọng lại, bãi lau sậy đã chặn đứng mọi tiếng ồn, ngoại trừ tiếng kêu của đám hải âu và tiếng nước vỗ ì oạp. Nếu Huey thông minh ra, anh sẽ dọn sạch đám lau sậy này và dựng một cái cầu tàu để thu hút đám thanh niên thời thượng dọn tới Admiral Hill và biến Chelsea thành mục tiêu chỉnh trang đô thị tiếp theo sau khi giải quyết xong khu vực East Bucky.

Dave nhổ phì phì vài lần rồi lấy mu bàn tay chùi miệng. Anh đứng dậy và quyết định nói với Val và Jimmy là anh cần ăn chút gì đó trước khi tiếp tục uống rượu. Không cần ngon mà chỉ cần lấp đầy bụng. Nhưng khi anh quay lại đã thấy hai người bọn họ đứng cạnh cửa, Val phía bên trái, Jimmy phía bên phải, cánh cửa đóng chặt, trông họ rất buồn cười, giống như hai nhân viên vận chuyển đồ không biết là sẽ phải giao hàng trong một bãi lau sậy.

"Ái chà, các anh đến kiểm tra xem tôi có ngã không, có phải không?" Dave nói.

Jimmy rời khỏi bức tường và bước về phía anh, ngọn đèn trên cánh cửa vụt tắt. Jimmy trở thành một khối đen sẫm trong bóng tối, chậm rãi bước tới, ánh sáng trên cầu hắt lên gương mặt trắng toát của hắn khiến cho nó lúc ẩn lúc hiện.

"Để tôi kể cho cậu về Ray Harris," Jimmy nói khẽ tới mức Dave phải nghển cổ ra. "Ray Harris là một người bạn của tôi, Dave. Cậu ta thường tới thăm tôi lúc tôi ở trong tù. Cậu ta cũng thường xuyên để mắt tới Marita và Katie và mẹ tôi xem họ có thiếu thốn gì. Cậu ta làm tất cả những việc đó nên tôi đã nghĩ rằng cậu ta là bạn mình nhưng lý do thực sự là do cậu ta cảm thấy có lỗi . Cậu ta cảm thấy có lỗi vì không muốn bản thân bị đi tù nên đã bán đứng tôi với cảnh sát. Cậu ta thực sự ăn năn vì chuyện đó. Nhưng vài tháng sau khi cậu ta thường xuyên tới nhà tù thăm tôi đã xảy ra một việc kỳ lạ." Jimmy lúc này đã tới cạnh Dave và dừng lại hẳn, nhìn thẳng vào mặt Dave, đầu hơi nghếch lên. "Tôi phát hiện ra rằng tôi rất thích Ray. Ý tôi là, tôi thực sự thích thú kết bạn với cậu ta. Chúng tôi có thể nói về thể thao, về Chúa, về sách vở, vợ con, về thời sự, chính trị, hết thảy. Ray là một người như thế, cậu ta có thể nói về bất cứ chủ đề nào. Cậu ta quan tâm tới mọi thứ. Như thế thật hiếm. Rồi vợ tôi qua đời. Cậu biết không? Cô ấy chết và họ cử một lính gác tới buồng giam và bảo, 'Xin lỗi phạm nhân, vợ anh vừa qua đời tối qua vào lúc tám giờ mười lăm. Cô ấy đã đi rồi.' Nhưng vấn đề là, Dave, cậu có biết điều gì khiến tôi đau lòng nhất về cái chết của vợ mình không? Đó là cô ấy đã phải ra đi một cách đơn độc, hoàn toàn đơn độc. Tôi biết cậu đang nghĩ gì, ai trong chúng ta mà chả phải chết một mình. Đúng thế. Giai đoạn cuối cùng trước khi ra đi vĩnh viễn đúng là chúng ta chỉ có một mình. Nhưng vợ tôi bị bệnh ung thư da. Cô ấy đã mòn mỏi chết dần chết mòn trong sáu tháng cuộc đời. Mà tôi không thể có mặt bên cạnh cô ấy. Tôi đã có thể ở bên cạnh giúp đỡ cô ấy trong lúc hấp hối. Không phải lúc chết mà là lúc hấp hối. Nhưng tôi lại không có mặt ở đó. Ray, một người mà tôi yêu mến, đã tước đoạt của tôi và vợ tôi điều đó."

Dave có thể nhìn thấy một dải sông xanh thẫm như mực được chiếu sáng bằng những ngọn đèn trên cầu phản chiếu trong mắt Jimy lấp lánh. "Tại sao cậu lại kể cho tôi chuyện này hả Jimmy?"

Jimmy chỉ vào vai trái của Dave. "Tôi bắt Ray quỳ xuống ngay chính tại chỗ này và bắn cậu ta hai phát. Một phát vào ngực, một phát vào cổ họng."

Val lúc này bắt đầy rời khỏi cánh cửa và tiến về phía bên trái Dave, điệu bộ thong thả, bãi lau sậy rì rao sau lưng anh ta. Cổ họng Dave nghẹn lại, cả người anh khô khốc.

Anh nói, "Jimmy này, tôi không biết…"

Jimmy tiếp tục nói, "Ray đã cầu xin tôi. Cậu ta nói rằng chúng tôi là bạn. Nói rằng cậu ta có một đứa con trai và có một người vợ. Rằng vợ cậu ta đang mang thai. Rằng cậu ta sẽ chuyển đi thật xa không bao giờ làm phiền tôi nữa. Cậu ta cầu xin tôi để cho một đường sống để được nhìn thấy đứa con sắp chào đời của mình. Cậu ta nói rằng cậu ta biết tôi rất rõ, cậu ta biết rằng tôi là một người tốt và tôi không muốn làm chuyện đó." Jimmy ngẩng đầu nhìn lên trên cầu. "Tôi những muốn nói với cậu ta rằng tôi rất yêu vợ mình nhưng cô ấy đã chết và cậu ta phải chịu trách nhiệm về điều đó, bên cạnh đó, cậu đã phạm một nguyên tắc tối thiểu, nếu muốn sống lâu thì chớ có bán đứng bạn bè. Nhưng tôi đã không nói gì cả, Dave. Tôi đã bật khóc nức nở. Một cách thảm hại. Cậu ta nước mắt ngắn nước, nước mắt dài, tôi cũng vậy. Tôi gần như không còn nhìn thấy cậu ta nữa."

"Thế tại sao anh vẫn giết cậu ta?" Dave nói, giọng đầy tuyệt vọng.

"Khi tôi giết Ray, tôi cảm thấy, tôi cũng không biết nữa, giống như là tôi hoàn toàn không ở đó. Tôi cảm giác như Chúa đang ở trên cao nhìn xuống và chứng kiến cảnh tôi hạ gục cậu ta rồi đẩy xuống sông. Và Chúa chỉ lắc đầu. Không giận dữ, thật đấy. Người chỉ cảm thấy ghê tởm nhưng không ngạc nhiên chút nào giống như người ta nhìn thấy con cún cưng ỉa bậy lên thảm. Tôi đứng đó ngay phía sau chỗ cậu đang đứng bây giờ và nhìn Ray chìm xuống, cậu biết không? Đầu cậu ta chìm xuống sau cùng khiến tôi nhớ tôi hồi nhỏ vẫn thường nghĩ nếu chúng ta bơi xuống tận cùng một con nước, chúng ta sẽ đi xuyên qua đáy sông và thò đầu ra ngoài vũ trụ. Đó là cách tôi vẫn hình dung ra trái đất của chúng ta. Và tôi sẽ ở đó, đầu vươn ra ngoài địa cầu, vũ trụ và các vì sao và bầu trời đen sẫm ở xung quanh và rồi tôi sẽ tiếp tục rơi. Tôi sẽ rơi vào trong vũ trụ và bồng bềnh trôi xa, bồng bềnh suốt hàng triệu năm trong không gian lạnh lẽo đó. Khi Ray xuống dưới đó, trong đầu tôi lại nghĩ tới chuyện này. Rằng cậu ta sẽ tiếp tục chìm xuống cho tới khi cậu ta xuyên qua một cái lỗ trên địa cầu và rơi vô định suốt một triệu năm trong vũ trụ.”

Dave nói, “Tôi biết là trong đầu anh đang nghĩ gì, Jimmy, nhưng anh đã nhầm. Anh nghĩ tôi đã giết Katie phải không? Có đúng thế không?”

“Chớ nói gì, Dave,” Jimmy nói.

“Không, không, không.” Dave nhìn thấy một khẩu súng đột nhiên xuất hiện trên tay Val. “Tôi chả dính dáng gì tới cái chết của Katie cả.”

Họ sẽ giết mình, Dave chợt nhận ra. Chúa ơi, không thể nào. Đối đầu với cái chết người ta cần phải chuẩn bị từ trước. Ai lại chỉ ra khỏi quán bar để nôn, lúc quay lại thì phát hiện ra mình sắp tận số. Không thể nào. Mình còn phải về nhà. Mình còn phải giải thích rõ ràng với Celeste. Mình còn phải ăn một bữa đã.

Jimmy thò tay vào trong túi áo và rút ra một con dao Dave nhận thấy tay hắn hơi run khi kéo lưỡi dao ra. Môi trên và cằm cũng vậy. Vẫn còn hy vọng. Đừng sợ tới đần người ra như vậy. Vẫn còn hy vọng.

“Cái đêm Katie bị sát hại, cậu về nhà, khắp người đầy máu, Dave. Cậu kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau về vết thương trên tay mình và người ta nhìn thấy xe của cậu phía bên ngoài quán Last Drop vào thời điểm Katie rời khỏi đó. Cậu nói dối cảnh sát và nói dối tất cả mọi người.”

"Jimmy, nghe này. Xin hãy nhìn tôi."

Jimmy vẫn nhìn xuống đất.

"Jimmy, đúng là người tôi có máu, đúng thế. Tôi đã đánh một người, Jimmy. Tôi đã ra tay rất nặng tay với hắn ta."

"À, lại câu chuyện về tên cướp chứ gì?" Jimmy nói.

"Không. Hắn là một kẻ lạm dụng trẻ em. Hắn ta đang lạm dụng tình dục một đứa trẻ trong xe của mình. Hắn ta là một con ma và rồng hút máu người, Jim. Hắn ta đầu độc đứa trẻ đó."

“Vậy không phải là một tay ăn cướp. Mà là một gã, hiểu rồi, lạm dụng trẻ con. Tất nhiên rồi và Dave, cậu đã giết hắn?”

"Đúng vậy. Thật ra là tôi… tôi và Thằng Bé."

Dave không biết tại sao anh lại nói vậy. Anh không bao giờ nên nhắc tới Thằng Bé. Không được nhắc tới nó. Vì mọi người sẽ không hiểu. Có lẽ là vì anh quá sợ. Có lẽ là vì anh muốn Jimmy nhìn thấu lòng dạ anh, và hiểu rằng, đúng là nó đang rối bời nhưng hãy nhìn tôi mà xem, Jimmy, hãy nhận ra rằng tôi không phải là kẻ đi giết người vô tội.

"Nên cậu và đứa bé bị lạm dụng…"

"Không phải," Dave nói.

"Không phải cái gì? Cậu vừa nói cậu và thằng bé…"

"Không phải thế, không phải thế. Mà thôi quên chuyện đó đi. Đầu óc tôi lẫn lộn hết cả lên. Tôi muốn nói là…"

“Đừng nói lăng nhăng nữa," Jimmy nói. "Cậu định bảo là cậu giết một gã lạm dụng trẻ con. Cậu nói thế với tôi nhưng lại không nói với vợ mình? Tôi vẫn nghĩ cô ấy phải là người đầu tiên được nghe cậu thú nhận. Nhất là tối hôm qua khi cô ấy bảo với cậu là cô ấy không tin vào câu chuyện cậu bị cướp thì sao cậu không nói thật với cô ấy? Phần lớn người ta sẽ không để ý đến một tên lạm dụng trẻ con bị chết, Dave. Vợ cậu cho rằng cậu đã giết con gái tôi. Và hành động của cậu khiến tôi tin rằng cậu thà để cô ấy nghĩ như vậy còn hơn là nghĩ rằng cậu giết một tên lạm dụng tình dục trẻ con. Cậu thử giải thích cho tôi xem sao, Dave.”

Dave những muốn nói tôi giết hắn bởi vì tôi sợ mình sẽ biến thành một kẻ như hắn. Nếu tôi ăn trái tim hắn thì tôi có thể thu phục và khắc chế linh hồn hắn. Nhưng tôi lại không thể nói ra điều đó. Tôi không thể tiết lộ sự thật đó. Tôi biết là hôm nay mình đã thề sẽ không còn bí mật nữa. Nhưng ít nhất tôi cũng có thể giữ bí mật duy nhất này – cho dù phải cần bao nhiêu lời nói dối, cho dù phải bưng bít.

"Nói đi, Dave. Chỉ cần giải thích với tôi tại sao. Tại sao cậu lại không thể nói ra sự thật với chính vợ mình?"

Nhưng Dave giỏi lắm cũng chỉ có thể nặn ra một câu là, "Tôi không biết."

"Cậu không biết. Thôi được, vậy trong cái câu truyện cổ tích này, cậu và thằng bé – mà thằng bé lại chính là cậu khi còn nhỏ - cậu và nó tới và…"

"Chỉ mình tôi mà thôi," Dave nói. "Tôi đã giết cái sinh vật không có khuôn mặt đó."

"Cái sinh vật quái quỷ gì cơ?" Val nói.

"Cái gã đó. Cái tên lạm dụng trẻ em đó. Tôi đã giết hắn. Là tôi. Chỉ một mình tôi. Trong bãi đỗ xe của quán Last Drop."

"Tôi không nghe thấy có người nào chết ở gần quán Last Drop," Jimmy nói và quay sang Val.

"Sao cứ để tên khốn này giải thích thế hả, Jim? Mày định trêu ngươi tao đấy hả?" Val nói.

"Không. Đó à sự thật." Dave nói. "Tôi xin lấy con trai mình ra thề. Tôi nhét thi thể của hắn ta vào cốp xe của hắn. Nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với chiếc xe đó nhưng thề với Chúa là tôi đã giết hắn. Tôi muốn gặp vợ tôi, Jimmy. Tôi muốn sống cuộc đời của mình." Dave ngước lên nhìn gầm cầu đen thẫm, nghe tiếng xe chạy qua, những ngọn đèn màu vàng nối tiếp nhau trở về nhà. "Jimmy, xin đừng tước đoạt đi của tôi điều đó."

Jimmy nhìn vào mặt Dave và Dave nhìn thấy án tử hình của mình trên đó. Nó hiện trên nét mặt Jimmy như những con sói hung dữ. Dave những mong ước mình có đủ can đảm để đối mặt với điều đó. Nhưng anh không thể. Anh không thể đối mặt với cái chết. Vào giây phút này, anh đứng đây – hai chân trên vỉa hè, tim đập thình thịch, não bộ không ngừng gửi thông điệp tới các dây thần kinh, các cơ bắp và các bộ phận trong cơ thể, hai tuyến thượng thận đang mở rộng - bất cứ lúc nào một lưỡi dao cũng có thể xuyên thẳng vào ngực. Và cùng với nỗi đau đớn đó là một hiện thực phũ phàng, rằng cuộc đời anh - tầm nhìn của anh, xúc giác, khứu giác, vị giác, tiếng cười và những cơn làm tình của anh - tất cả đều chấm dứt. Anh không thể tỏ ra dũng cảm trước điều đó. Anh cần phải hạ mình van xin. Và anh sẽ làm. Anh sẽ làm bất cứ điều gì họ muốn để không bị giết.

"Tao nghĩ hai mươi lăm năm trước khi mày chui vào trong chiếc xe đó, Dave, một người khác đã thế vào chỗ của mày. Tao nghĩ đầu óc mày chắc bị chập mạch hay có vấn đề gì đó," Jimmy nói. "Nhưng con bé mới có mười chín tuổi. Mày biết không? Mới có mười chín tuổi và nó chưa bao giờ làm gì mày. Nó thậm chí còn quý mày. Thế mà mày lại nỡ giết nó? Tại sao? Tại vì đời mày không ra gì? Vì sắc đẹp khiến mày khó chịu? Hay bởi vì ta đã không chui vào chiếc xe ô tô đó? Tại sao? Chỉ cần mày nói cho tao biết là tại sao, Dave. Nói ra xem nào. Nói ra và tao sẽ để cho mày một con đường sống," Jimmy nói.

"Ôi không," Val nói. "Jimmy? Không được. Thôi đi nào. Cậu lại cảm thấy thương hại thằng khốn này ư? Nghe này…"

"Câm miệng, Val." Jimmy chỉ thẳng về phía hắn ta. "Lúc đi tù, tôi để lại cho cậu một cái guồng máy hoạt động hiệu quả thế mà cậu làm tiêu ma hết cả. Tôi giao lại tất cả cho cậu nhưng cậu chả làm được bất cứ việc gì ngoài sử dụng vũ lực và buôn bán thứ ma túy tai hại kia. Đừng có ở đấy mà khuyên tôi này nọ, Val. Đừng có nghĩ tới chuyện đó."

Val quay đi, đá đám lau sậy và làu bàu một mình.

"Nói xem, Dave. Nhớ đừng có lôi chuyện xâm phạm trẻ em vớ vẩn ra ở đây vì tối nay chúng ta không ở đây nói những chuyện tào lao. Biết chưa? Hãy nói thật. Nếu mày lừa tao lần nữa, tao sẽ phanh thây mày ra," Jimmy nói.

Jimmy nghỉ một lúc lấy hơi. Hắn giơ cao con dao ra trước mặt Dave rồi hạ xuống, lách lưỡi dao và giữa quần và thắt lưng, ngay phía trên đùi phải. Tay kia của hắn xòe ra. "Dave, tao sẽ cho mày mạng sống của mày. Mày chỉ cần nói cho tao biết vì sao mày giết con bé. Mày sẽ đi tù. Hẳn thế. Nhưng mày vẫn sống. Vẫn thở."

Dave cảm kích tới suýt nữa thì hét lên tạ ơn Chúa. Anh những muốn ôm chầm lấy Jimmy. Ba mươi giây trước lòng anh đen tối, đầy tuyệt vọng. Anh đã sẵn sàng quỳ xuống van xin, Tôi chưa muốn chết. Tôi vẫn chưa sẵn sàng. Tôi chưa sẵn sàng rời đi. Tôi biết điều gì đang đón đợi mình ở phía bên kia. Nhưng chắc không phải là thiên đàng. Hay một nơi tươi sáng. Mà nó hẳn là một nơi tăm tối và lạnh lẽo, một đường hầm hun hút vô định. Giống như cái lỗ trong hành tinh, Jim. Và tôi không muốn một mình trong hư vô, qua vạn năm, qua hàng thế kỷ chỉ có mình trái tim cô đơn của tôi trôi nổi trong hư vô lạnh lẽo và hoàn toàn đơn độc.

Nhưng giờ anh đã có cơ hội sống sót. Chỉ cần nói dối. Chỉ cần anh liều mạng nói cho Jimmy những gì hắn muốn. Anh sẽ bị chửi rủa. Có thể bị đánh. Nhưng có thể giữ được mạng sống. Anh có thể nhìn thấy điều đó trong mắt Jimmy. Jimmy không nói dối. Những con chó sói đã biến mất, tất cả những gì còn lại trước mặt anh là một người đàn ông cầm dao đang chờ một kết luận cuối cùng, một người đàn ông bị đè nặng bởi những nghi vấn chưa có lời giải đáp, một người đàn ông đang thương tiếc cho đứa con gái mà anh ta sẽ không bao giờ được nhìn thấy nữa.

Anh sẽ về nhà với em, Celeste. Chúng ta sẽ gây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Chúng ta sẽ làm được điều đó. Và rồi anh hứa, không còn bất cứ lời nói dối nào. Không còn bất cứ bí mật nào. Nhưng anh cần phải nói dối một lần cuối cùng này, lời nói dối nghiêm trọng nhất từ trước tới nay vì anh không thể tiết lộ sự thật phũ phàng nhất đời mình. Thà để Jimmy nghĩ rằng anh giết con gái hắn còn hơn là cho hắn biết lý do khiến anh giết tên lạm dụng tình dục kia. Đó là một lời nói dối có ích, Celeste. Nó giúp chúng ta giữ mạng sống của mình.

"Nói đi." Jimmy lại giục.

Dave cố gắng bịa cho sát với thực tế nhất mà anh có thể. "Tôi gặp con bé ở quán McGills tối hôm đó và nó khiến tôi nhớ tới một giấc mơ cũ."

"Mơ gì?" Jimmy nói, mặt co rúm lại, giọng khàn đi.

"Về tuổi trẻ," Dave nói.

Jimmy cúi đầu xuống.

"Tôi không nhớ là mình từng có một thời trai trẻ," Dave nói. "Và con bé chính là giấc mơ đó, thế là đột nhiên tôi trở nên kích động, tôi đoán là vậy."

Thật đau đớn khi phải nói ra những lời này với Jimmy, xé nát tâm can hắn, nhưng Dave chỉ muốn được trở về nhà, tỉnh táo trở lại và nhìn thấy vợ con mình, và anh sẵn sàng đánh đổi nó lấy tất cả. Anh sẽ dàn xếp mọi chuyện. Và một năm nữa khi hung thủ thực sự bị bắt và buộc tội, Jimmy sẽ hiểu ra sự hy sinh của anh.

"Phần nào đó trong tôi," anh nói, "mãi mãi không ra khỏi chiếc xe đó, Jim. Đúng như anh nói đấy. Một Dave khác đã trở về khu phố trong quần áo của Dave nhưng hắn ta không phải là Dave. Dave vẫn còn ở lại trong căn hầm đó. Cậu biết không?"

Jimmy gật đầu và khi ngẩng mặt lên, Dave nhìn thấy mắt cậu ta ướt và sáng, đầy trắc ẩn và thậm chí còn có cả yêu thương.

"Vậy là do giấc mơ?" Jimmy thì thào.

"Là do giấc mơ, đúng thế," Dave nói và cảm thấy cơn ớn lạnh mà lời nói dối mang lại xuyên thấu bụng anh, lạnh tới mức anh tưởng rằng mình lại đang bị hành hạ bởi cơn đói sau khi đã nôn hết ruột gan ra dòng sông Kỳ Bí. Nhưng cơn ớn lạnh này hoàn toàn khác, không giống như bất kỳ cơn ớn lạnh nào anh từng biết. Lạnh tới tê buốt. Lạnh tới mức nóng cả người lên. Không. Không phải là lạnh, mà là nóng thì đúng hơn. Giờ trong bụng anh như có lửa đốt, lửa đang liếm xuống phía dưới và lên trên ngực khiến anh ngạt thở.

Qua khóe mắt anh nhìn thấy Val đang nhảy cẫng lên và hét, "Đấy, đúng như tôi nói với cậu nhé!"

Anh nhìn vào mặt Jimmy. Môi mấp máy, vừa nhanh lại vừa chậm rãi bảo rằng, "Chúng ta chôn vùi tội lỗi của mình tại đây, Dave. Chúng ta gột sạch chúng."

Dave ngồi xuống. Anh thấy máu chảy ra, rỏ xuống quần. Máu xối ra từ người anh và khi đặt tay lên bụng anh lập tức chạm phải một vết nứt dài vắt ngang bụng.

Dave thì thào: Cậu nói dối.

Jimmy cúi xuống. "Gì cơ?"

Cậu nói dối.

"Môi hắn vẫn mấp máy?" Val nói. "Hắn vẫn mấp máy môi."

"Tôi không phải không có mắt, Val."

Dave chợt sáng tỏ, sáng tỏ bởi một nhận thức khinh hoàng. Một thứ nhận thức đầy thống khổ mà lạnh lùng, tàn nhẫn rằng anh đang hấp hối.

Mình không còn có thể quay đầu lại được nữa. Không thể lừa gạt hay chạy trốn được nữa. Không thể van xin tha mạng hay núp sau những bí mật. Không thể chờ lệnh ân xá dựa trên sự cảm thông. Mà sự cảm thông của ai cơ chứ? Nào có ai thèm quan tâm. Trừ mình. Mình quan tâm. Mình rất chú trọng tới sự cảm thông. Chuyện này thật không công bằng. Mình sẽ không chịu nổi cảnh đơn độc trong cái đường hầm vô định ấy. Xin đừng để tôi đi tới nó. Xin hãy đánh thức tôi dậy. Tôi muốn thức dậy. Anh muốn có em ở bên cạnh, Celeste. Anh muốn chạm vào tay em. Anh chưa sẵn sàng chết.

Anh cố mở mắt ra để nhìn trong lúcVal đưa cho Jimmy thứ gì đó và Jimmy hạ nó xuống giữa trán Dave. Nó rất mát. Một vòng tròn dịu mát, êm ái, làm dịu đi ngọn lửa đang thiêu cháy cơ thể anh.

Chờ đã! Không. Không. Jimmy! Tôi biết đó là thứ gì. Tôi có thể nhìn thấy cò súng. Đừng, đừng, đừng làm thế. Hãy nhìn tôi. Xin hãy nhìn tôi. Đừng làm thế. Xin anh đấy. Nếu anh đưa tôi đến bệnh viện có lẽ vẫn còn kịp. Họ sẽ cứu tôi. Ôi Chúa ơi, Jimmy xin đừng làm thế, đừng dùng ngón tay ấy bóp cò, tôi đã nói dối, tôi đã nói dối, đừng tước đoạt đi của tôi mạng sống, xin cậu đấy, tôi chưa chuẩn bị để nhận một viên đạn vào đầu. Chả có ai lại chuẩn bị cho điều đó cả. Xin đừng làm thế.

Jimmy hạ thấp khẩu súng xuống.

Cảm ơn cậu, Dave nói. Cảm ơn cậu, cảm ơn.

Dave nằm ngửa ở đó và nhìn thấy những dòng ánh sáng di chuyển trên cầu, xuyên qua bóng đêm đen tối, lung linh. Cảm ơn cậu, Jimmy. Giờ tôi sẽ làm một người tốt. Cậu đã dạy cho tôi một bài học. Đúng thế. Và tôi sẽ nói với cậu ngay khi tôi có thể thở được. Tôi sẽ là một người cha tốt. Tôi sẽ là một người chồng tốt. Tôi hứa, tôi thề…

"Thế là xong," Val nói.

Jimmy nhìn xuống thi thể của Dave, xuống vết thương cắt ngang bụng, lỗ đạn mà hắn bắn xuyên trán. Hắn hất giày của mình ra rồi cởi áo khoác. Sau đó hắn cởi chiếc áo thun cao cổ và chiếc quần ka ki dính máu Dave. Tiếp đến là bộ đồ thể thao bằng vải ni lông mà hắn mặc phía bên trong và vứt chúng xuống bên cạnh Dave. Hắn nghe thấy Val đang đặt gạch và xích sắt vào trong thuyền của Huey rồi xuất hiện với cái túi rác lớn màu xanh. Phía dưới bộ đồ thể thao Jimmy mặc một chiếc áo phông và quần jean trong khi Val lấy từ trong túi rác ra một đôi giày và ném cho hắn. Jimmy đi giày vào và kiểm tra áo phông và quần xem có dính vết máu nào không. Nhưng tất cả đều sạch sẽ. Ngay cả bộ đồ thể thao cũng gần như không vấy máu.

Hắn quỳ xuống bên cạnh Val và nhét quần áo của mình vào trong túi rác. Rồi hắn mang con dao và khẩu súng tới bên cầu tàu và ném ra giữa sông. Hắn có thể để chúng trong túi quần áo và vứt ra khỏi thuyền cùng với thi thể của Dave nhưng không hiểu sao hắn lại sốt ruột muốn tẩu tán chúng ngay lập tức, được thực hiện cái động tác vung tay ném khẩu súng ra giữa không trung, nhìn nó quay tròn, xoay xoay, rơi thẳng xuông rồi chìm nghỉm giữa sóng nước chập chờn.

Hắn quỳ xuống cạnh mép nước. Bãi nôn của Dave đã bị sóng đánh đi từ lâu và Jimmy thò tay xuống dòng sông nhầy nhụa, ô nhiễm, rửa sạch máu của Dave. Hắn thi thoảng vẫn làm điều đó trong những giấc mơ của mình - gột rửa dưới dòng sông Kỳ Bí – và nhìn thấy cái đầu Just Ray Harris nổi lên quan sát hắn.

Cái đầu của Just Ray lúc nào cũng nhắc lại một câu. "Cậu không thể chạy nhanh hơn một đoàn tàu."

Và Jimmy bối rối trả lời, "Không ai có thể chạy nhanh hơn tàu, Ray."

Just Ray lúc này bắt đầu chìm xuống nước, mỉm cười bảo, "Nhất là cậu lại càng không thể."

Mười ba năm vẫn một giấc mơ này, trong suốt mười ba năm đó đầu Ray nổi lên trên mặt nước và nhắc lại cùng một câu nói và Jimmy vẫn không tài nào cắt nghĩa nổi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Yêu ai?


Lúc Brendan về tới nhà thì mẹ cậu đã đi chơi Bingo. Bà viết lại cho cậu một lời nhắn: “Thịt gà ở trong tủ lạnh. Con không gặp chuyện gì là tốt rồi. Nhưng chớ ỷ lại thành thói quen.”

Brendan kiểm tra phòng của cậu và Ray nhưng Ray cũng đã đi ra ngoài, cậu bèn lấy một chiếc ghế trong bếp đặt trước chạn. Cậu trèo lên ghế, chiếc ghế hơi nghiêng về bên trái nơi chân ghế bị mất một chiếc vít. Cậu nhìn lên tấm gỗ lát trần và thấy mấy dấu tay hơi nhòe in trên lớp bụi phủ và lớp không khí ngay trước mắt cậu bắt đầu biến thành những lớp nhỏ li ti màu sẫm xoay tròn. Cậu áp lòng bàn tay phải lên tấm gỗ và khẽ nâng nó lên. Sau đó cậu rụt tay lại chùi vào quần rồi lại hít một hơi thật sâu.

Đôi khi có những câu trả lời mà chúng ta không muốn biết. Brendan chẳng bao giờ muốn gặp lại cha mình vì không muốn nhìn vào mặt ông và nhận thấy ông đã dễ dàng rời bỏ cậu như thế nào. Cũng như cậu không bao giờ hỏi Katie về những người bạn trai trước đó của cô, kể cả Bobby O’Donnell, vì cậu không muốn hình dung ra cảnh cô nằm trên thân thể của một người đàn ông khác và hôn hắn như cô vẫn làm với cậu.

Brendan hiểu rõ thế nào là sự thật. Trong phần lớn trường hợp, đó chính là việc đưa ra quyết định, hoặc thẳng thắn đối diện với sự thật hoặc giả vờ làm ngơ hay nói dối để được yên ổn. Người ta thường đánh giá quá thấp những lời nói dối hay thái độ giả vờ làm ngơ. Nhưng phần lớn những người mà Brendan quen biết đều không thể sống qua một ngày mà không nói dối hay giả vờ làm ngơ tới vài bận.

Và đó là sự thật mà cậu đang phải đối mặt. Như cậu đã đối mặt với nó lúc ngồi trong buồng giam. Sự thật đó xuyên vào người cậu giống như một viên đạn, nằm lại trong dạ dày và không chịu ra khỏi đó khiến cậu không thể trốn tránh cũng không thể làm ngơ. Giả vờ làm ngơ không được. Dối trá cũng chẳng xong.

“Chết tiệt,” Brendan lẩm bẩm rồi đẩy tấm lát gỗ sang một bên và thò tay vào trong bóng tối, những ngón tay của cậu chỉ sờ thấy bụi mạt gỗ chứ không thấy có khẩu súng nào. Cậu tiếp tục sờ soạng thêm một lúc nữa dù biết là khẩu súng đã không còn ở đó. Khẩu súng của cha cậu đã không còn ở chỗ của nó. Khẩu súng đã được đem ra bên ngoài và đã được sử dụng để giết Katie.

Cậu đẩy tấm ván gỗ trở lại chỗ cũ. Cậu lấy xẻng hót hết đám bụi trên mặt đất rồi đem ghế kê về chỗ cũ. Cậu cảm thấy mỗi hành động của cậu phải vô cùng chuẩn xác. Cậu cần phải thật bình tĩnh. Cậu rót cho mình một cốc nước cam rồi đặt nó lên bàn. Cậu ngồi xuống chiếc ghế có một chân khập khiễng và quay về phía cửa ra vào ở giữa căn hộ. Cậu nhấp một ngụm nước cam và chờ Ray xuất hiện.

“Nhìn xem này,” Sean nói và lôi bản báo cáo xét nghiệm dấu tay trong hộp đựng bằng chứng và mở nó ra trước mặt Whitey. “Đây là dấu tay rõ nhất lấy từ trên cánh cửa. Dấu tay rất nhỏ vì đó là dấu tay của một đứa trẻ con.”

“Bà Prior cũng nghe thấy hai đứa trẻ chơi trên phố ngay trước khi Katie bị đâm xe. Chơi với gậy khúc côn cầu,” Whitey nói. “Bà ấy bảo nghe thấy Katie nói ‘Xin chào’. Có lẽ đó không phải là giọng của Katie. Giọng của một đứa trẻ con có thể nghe giống như giọng phụ nữ. Và không có dấu chân nào? Dĩ nhiên rồi. Vì bọn chúng thì có nặng bao nhiêu đâu, chừng năm mươi cân?”

“Cậu có nhận ra giọng của thằng bé gọi điện không?”

“Nghe rất giống giọng của Johnny O’Shea.”

Whitey gật đầu. “Còn thằng bé kia thì không nói gì cả.”

“Vì nó đếch nói được,” Sean nói.

“Ray à,” Brendan gọi gọi khi thấy hai thằng bé bước và nhà.

Ray gật đầu. Johnny O'Shea thì vẫy tay. Chúng bắt đầu đi về phía phòng ngủ.

“Lại đây một chút,Ray.”

Ray nhìn Johnny.

“Một tí thôi, Ray. Anh có chuyện muốn hỏi mày.”

Ray quay lại còn Johnny O'Shea thả chiếc túi thể thao xuống đất rồi ngồi lên mép giường của bà Harris. Ray đi vào bếp và giơ hai tay ra nhìn anh trai mình như muốn nói “Có chuyện gì?”

Brendan lấy chân ngoắc lên một chiếc ghế, lôi nó ra khỏi bàn và ra hiệu cho Ray ngồi xuống.

Ray ngẩng phắt đầu lên như thể đánh hơi được sự bất thường trong không khí, một thứ mùi mà thằng bé vốn không thích. Nó hết nhìn xuống chiếc ghế lại nhìn sang Brendan.

Ray ra hiệu, “Em đã làm sai chuyện gì?”

“Tự nói đi,” Brendan nói.

“Em chẳng làm gì sai cả.”

“Vậy thì hãy ngồi xuống.”

“Em không muốn.”

“Vì sao?”

Ray nhún vai.

Brendan hỏi, “Em ghét ai hả Ray?”

Ray nhìn Brendan như một kẻ mất trí.

“Nói xem nào, em ghét ai?” Brendan nhắc lại.

Ray ra hiệu ngắn gọn, “Không ai cả.”

Brendan gật đầu. “Được rồi. Thế em yêu quý ai?”

Ray lại trưng ra cái vẻ mặt ban nãy.

Brendan ngả người về phía trước, hai tay chống lên đầu gối và nhắc lại, “Em yêu quý ai?”

Ray nhìn xuống giày của mình rồi nhìn lên Brendan. Nó giơ tay lên và chỉ vào anh trai mình.

“Em yêu quý anh?”

Ray gật đầu vẻ bồn chồn.

“Mẹ thì sao?”

Ray lắc đầu.

“Em không yêu mẹ?”

Ray dùng tay ra hiệu. “Chả yêu mà cũng chả ghét.”

“Vậy anh là người duy nhất mà em yêu quý?”

Ray hất cằm lên, mặt nó cau lại. Tay nó vung lên ra hiệu, “Đúng. Giờ em đã đi được chưa?”

“Chưa,” Brendan nói. “Ngồi xuống đó.”

Ray nhìn xuống chiếc ghế, mặt nó đỏ lên vì tức tối. Nó nhìn sang Brendan, giơ ngón giữa lên tỏ ý coi thường rồi quay người rời khỏi bếp, Brendan thậm chí không không kịp nhận biết là mình đã phi thân ra từ lúc nào cho tới khi tóm được tóc của Ray và nhấc thằng bé lên khỏi mặt đất. Cậu lôi giật thằng bé lại như đang kéo dây cót của một chiếc máy cắt cỏ gỉ cũ rồi thả tay ra và Ray bay vèo ra phía sau về phía bàn bếp. Cả người thằng bé đập bốp vào tường rồi rơi xuống bàn và kéo sập mọi thứ xuống sàn với mình.

“Mày yêu quý anh ư?” Brendan nói, thậm chí không thèm nhìn xuống em trai mình. “Mày yêu quý anh nên giết bạn gái của anh có phải không Ray? Có phải không?”

Những lời đó khiến Johnny O'Shea chột dạ và đúng như Brendan dự đoán, Johnny nhặt lấy chiếc túi thể thao của mình và chuồn ra cửa. Nhưng Brendan đã đứng chắn trước mặt nó. Cậu tóm lấy cổ thằng khốn đó rồi dộng nó lên cánh cửa.

“Em trai tao sẽ không bao giờ làm những chuyện như thế nếu không có mày xúi giục, O’Shea. Không bao giờ.”

Brendan co tay lại để chuẩn bị phóng ra một nắm đấm và Johnny gào lên, “Không, Bren. Đừng!”

Brendan thụi vào mặt thằng bé một cú mạnh tới mức nghe thấy cả tiếng mũi bị gãy. Cậu lại đấm cho nó phát nữa. Cho tới khi Johnny ngã xuống sàn, co quắp lại như một trái bóng và thổ máu ra sàn thì Brendan mới nói, “Tao sẽ quay trở lại. Tao sẽ quay trở lại và đánh cho mày chết đi thì thôi, đồ rác rưởi, cặn bã.”

Ray đang choạng vạng đứng trên hai chân của mình, đôi giày thể thao giẫm lên đám bát đĩa bị vỡ lúc Brendan quay trở lại trong bếp và tát một cú trời giáng vào mặt thằng bé khiến nó đập đầu vào bồn rửa. Cậu túm lấy áo em trai, Ray nhìn Brendan, những dòng nước mắt trào ra từ đôi mắt tràn ngập thù hận và khóe miệng rớm máu. Brendan ném thằng bé xuống sàn, duỗi hai tay nó ra rồi quỳ chèn lên đó.

“Nói,” Brendan quát. “Tao biết mày có thể nói. Nói mau thằng khốn hoặc tao thề có Chúa là tao sẽ giết mày, Ray. Nói!” Brendan hét lên và gí nắm đấm vào dưới tai của Ray. “Nói. Hãy nói tên của cô ấy ra! Nói đi! Nói ‘Katie’, Ray. Nói ‘Katie’!”

Mắt Ray trở nên đờ đẫn, mịt mùng và nó khạc máu ra khỏi miệng.

“Nói!” Brendan gào lên. “Tao sẽ giết mày nếu mày không làm theo!”

Cậu túm lấy mái tóc bên thái dương của em trai và lôi đầu nó lên, lắc mạnh từ bên này sang bên kia cho tới khi mắt Ray định thần trở lại. Brendan giữ chặt lấy đầu Ray và nhìn sâu vào trong đôi mắt xám của nó, nhìn thấy quá nhiều yêu thương cùng thù hận tới mức chỉ muốn bẻ gãy đầu thằng bé mà ném ra ngoài cửa sổ.

Cậu nhắc lại lần nữa, “Nói,” nhưng giọng cậu lúc này đã trở nên khàn khàn, chỉ còn giống như một tiếng thì thào bị tắc nghẽn. “Nói.”

Rồi cậu nghe thấy một tiếng ho lớn liền ngoái đầu ra sau và thấy O’Shea đang đứng đó và khạc máu xuống sàn, trên tay là khẩu súng của cha cậu.

Sean và Whitey đang đi lên cầu thang thì nghe thấy tiếng huyên náo om sòm, ai đó la hét trong căn hộ và tiếng đám đá không lẫn vào đâu được. Rồi nghe thấy tiếng một người đàn ông gào lên, “Tao sẽ giết mày!” khiến lập tức Sean đặt tay lên khẩu Glock của mình trong lúc chạm tay kia vào nắm đấm cửa.

Whitey bảo, “Gượm hẵng,” nhưng Sean đã xoay nắm đấm bước vào trong căn hộ và nhìn thấy một mũi súng chỉ cách ngực mình chưa đầy mười xăng ti mét.

“Giữ nguyên ở đó! Đừng có bóp cò, nhóc!”

Sean nhìn vào gương mặt máu me đầm đìa của Johnny O'Shea và chỉ thấy ở đó một nỗi sợ hãi tột cùng. Ngoài ra chẳng còn gì khác. Có lẽ trước đây cũng vậy. Thằng bé không bóp cò vì giận dữ mà là vì sợ hãi. Thằng bé sẽ kéo cò vì trong mắt nó Sean chỉ là một nhân vật trong game và khẩu súng chỉ là một cái cần điều khiển.

“Johnny, cháu nên chĩa mũi súng xuống sàn.”

Sean có thể nghe thấy Whitey thở gấp phía bên kia cánh cửa.

“Johnny.”

Johnny O'Shea nói, “Hắn dám đấm cháu. Hai lần. Làm gãy cả mũi cháu.”

“Ai?”

“Brendan.”

Sean đang nhìn sang phía bên trái và thấy Brendan đang đứng trên cửa bếp, tay buông thõng xuống hai bên như đang đóng băng tại chỗ. Anh lập tức nhận ra rằng Johnny O'Shea đang chuẩn bị bắn Brendan lúc anh đẩy cửa bước vào. Anh nghe thấy hơi thở nông và đứt quãng của Brendan. “Chúng tôi sẽ bắt cậu ta vì tội đó nếu cháu muốn.”

“Không muốn hắn ta bị bắt. Cháu muốn hắn phải chết.”

“Chết là một việc rất hệ trọng, Johnny. Người chết sẽ không bao giờ quay trở lại nữa, cháu biết không?”

“Cháu biết,” thằng bé nói. “Cháu biết thừa tất cả những chuyện đó. Chú sẽ sử dụng nó ư?” Mặt thằng bé đúng là một bãi chiến trường, máu trào ra từ chiếc mũi bị đấm gãy của nó và nhỏ tong tỏng xuống cằm.

“Cái gì cơ?” Sean nói.

Johnny O'Shea nhìn về phía bên cạnh hông cửa. Sean gật gật. “Khẩu súng đó. Đó là một khẩu Glock đúng không?”

“Đúng vậy, nó chính là một khẩu Glock.”

“Glock đúng là một khẩu súng oách. Cháu cũng muốn có một khẩu như thế. Chú sẽ sử dụng nó chứ?”

“Ngay bây giờ á?”

“Vâng. Chú sẽ chĩa nó vào mặt cháu?”

Sean mỉm cười. “Không, Johnny.”

Johnny bảo, “Chú cười cái gì? Chĩa súng vào mặt cháu đi. Hai ta đấu súng xem sao. Sẽ rất hấp dẫn.”

Thằng bé nói rồi giương súng lên, tay căng ra ở tư thế sẵn sàng, mũi súng lúc này chỉ còn cách ngực Sean hai xăng ti mét.

Sean nói, “Tôi phải thừa nhận là cậu đã nhanh tay hơn tôi, chiến hữu. Cậu hiểu ý tôi muốn nói gì không?”

“Nhanh tay hơn, Ray,” Johnny kêu to. “Rút súng ra nhanh hơn cả một tên cớm, anh bạn. Chính là tớ đây. Hãy nhìn cho kỹ.”

Sean nói, “Đừng để chuyện này lộ ra ngoài nhé…”

“Chú cũng đã xem cái phim rồi đó hả? Một tay cớm đuổi theo xe gã da đen đó trên mái nhà. Tên mọi đen kia ném tay cớm đó xuống đất, Tên cớm chỉ không kịp kêu ‘A a a’ gì đó rồi rơi từ trên cao xuống. Tên mọi đen đó thật tàn nhẫn, chẳng cần biết tên cớm kia có vợ và con nhỏ ở nhà. Tên mọi đó đúng là hơi bị được.”

Sean từng chứng kiến một cảnh tượng tương tự. Khi đó anh còn là cảnh sát thường và được gửi tới để kiềm chế đám đông trước một vụ cướp nhà băng diễn biến xấu. Gã cướp cố thủ phía bên trong sau hai tiếng đông hồ lại càng tỏ ra hiệu quả hơn, càng lúc càng trở nên tự tin với sức mạnh và tác dụng của khẩu súng trong tay mình. Sean quan sát hắn huyênh hoang khoác lác trên màn hình vô tuyến nối liền với hệ thống camera theo dõi của ngân hàng. Ban đầu, hắn có vẻ sợ hãi nhưng rồi khống chế được cảm giác đó và bắt đầu say mê khẩu súng ở trong tay.

Trong giây lát, Sean như nhìn thấy Lauren đang ở trên gối, một tay tựa má nhìn anh. Anh nhìn thấy đứa con gái trong mơ của mình, ngửi thấy con bé và nghĩ thật là tệ nếu phải chết mà không được gặp vợ và con gái.

Anh tập trung vào khuôn mặt vô cảm đằng trước và nói, “Cháu có nhìn thấy viên cảnh sát bên trái của cháu không hả Johnny? Người đang đứng trên ngưỡng của ấy?”

Johnny liếc nhanh sang bên trái. “Có.”

“Ông ấy không muốn bắn cháu đâu. Ông ấy không hề muốn thế.”

“Ông ta có muốn cũng chả sao,” Johnny nói, nhưng Sean thấy thăng bé bắt đầu dao động, mắt nó liên tục hấp háy.

“Nhưng nếu cháu bắn chú thì ông ấy chẳng còn cách nào khác.”

“Chấu chả sợ chết.”

“Chú biết thế. Nhưng vấn đề là ở chỗ, ông ấy không bắn thẳng vào đầu cháu hay gì đó. Chúng tôi không giết trẻ con. Nhưng nếu ông ấy bắn cháu từ chỗ ông ấy đang đúng hiện giờ thì cháu biết viên đạn sẽ đi đâu không?”

Mắt Sean vẫn nhìn chằm chằm vào Johnny nhưng đầu anh chỉ nghĩ tới khẩu súng trong tay thằng bé, muốn nhìn xuống xem cò súng ở chỗ nào và liệu thằng bé có khả năng bóp cò hay không. Anh thầm nghĩ, mình không muốn bị bắn, lại càng không muốn bị bắn bởi một đứa trẻ. Anh không thể nghĩ ra tình huống nào thê thảm hơn thế. Anh nhận thấy Brendan, lúc này đang đứng bất động cách anh ba mét về bên trái dường như cũng đang có cùng một suy nghĩ.

Johnny liếm môi.

“Nó sẽ xuyên qua nách của cháu vào cột sống. Nó sẽ khiến cháu bị tê liệt. Cháu sẽ giống như những đứa trẻ trên những quảng cáo nghiên cứu y học của Quỹ Jimmy. Cháu biết là những đứa trẻ nào rồi đấy. Những đúa bé ngồi trên xe lăn bị liệt nửa người, đầu lủng lẳng trước ngực. Cháu sẽ trở thành một đứa đờ đẫn, mũi dài loằng ngoằng. Người ta sẽ phải cầm bát cho cháu ăn bằng ống hút cả đời.”

Johnny đã có quyết định. Giống như một tia sáng vừa lóe lên trong đầu óc tối tăm của nó và Sean cảm thấy bắt đầu cảm thấy sợ hãi vì biết rằng thằng nhóc sẵn sàng kéo cò súng chỉ vì nghe thất tiếng súng nổ.

“Mũi của tao,” Johnny nói và quay sang Brendan.

Sean nghe thấy chính mình thở hắt ra vì ngạc nhiên rồi nhìn khẩu súng quét qua khỏi người anh như xoay trên một bệ ngắm. Anh nhanh như chớp với tay ra khóa lấy nòng súng, cứ như ai đó đang điều khiển hai cánh tay của anh đúng lúc Whitey xông vào phòng và chĩa khẩu Glock lên ngực thằng bé. Thằng nhóc phát ra một tiếng ú ớ - như gặp phải một ngạc nhiên không thú vị kiểu hồi hộp mở quà Giáng sinh và tìm thấy một chiếc tất bẩn – và Sean nhanh nhẹn đẩy thằng bé úp mặt vào tường và đoạt khẩu súng trên tay nó.

“Thằng nhãi ranh,” Sean nói và nháy mắt với Whitey qua lớp mồ hôi chảy ròng ròng trên mắt anh.

Johnny bắt đầu khóc cái kiểu khóc của bọn trẻ con mười ba tuổi, giống như cả thế giới đang ngồi lên mặt nó.

Sean xoay thằng bé lại, kéo hai tay nó ra sau lưng và nhìn Brendan cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm nhưng môi và cánh tay vẫn còn run, phía sau cậu ta là Ray Harris đang đứng giữa căn bếp tan hoang như vừa trải qua một cơn đại hồng thủy.

Whitey bước tới phía sau Sean, đặt một tay lên vai anh. “Cậu không sao chứ?”

“Thằng bé định bắn thật,” Sean nói và nhìn thấy cả người anh sũng mồ hôi cho tới tận tất chân.

“Không, cháu không định bắn,” johnny rên rỉ. “Cháu chỉ đùa thôi.”

“Câm miệng,” Whitey nói và gí sát vào mặt nó. “Chả ai thèm quan tâm tới những giọt nước mắt của mày ngoài mẹ mày ra, thằng ôn con. Hãy nhớ lấy điều đó.”

Sean sập còng số tám lên tay Johnny O'Shea rồi túm áo nó lôi vào bếp và thả xuống một chiếc ghế.

Whitey nhìn Ray và bảo, “Ray, trông cậu cứ như là bị người ta ném từ trên xe tải xuống ấy.”

Ray nhìn sang anh trai mình.

Brendan đứng tựa vào lò nướng, cả người sụp xuống một cách thảm hại. Sean đoán một cơn gió nhẹ thổi qua cũng đủ làm cậu ta gục ngã.

“Chúng tôi đã biết chuyện,” Sean nói.

“Các ông biết gì cơ?” Brendan thì thào.

Sean nhìn thằng bé đang sụt sịt trên ghế rồi nhìn thằng bé câm đang đứng kia nhìn họ như thể đang hy vọng họ mau mau rời đi để nó có thể quay lại tiếp tục chơi điện tử. Sean chắc rằng sau khi tìm được một phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu và một nhân viên bảo trợ xã hội và tiến hành thẩm vấn chúng thì chúng sẽ bảo chúng làm việc đó là bởi vì chúng đang ở trên phố lúc cô ấy lái xe tới, bởi vì có lẽ Ray chưa bao giờ thực sự thích cô ấy, bởi vì đó là một lý tưởng thú vị, bởi vì trước, chúng chưa từng giết ai bao giờ, bởi vì khi ngón tay đã chạm vào cò súng thì nhất định phải kéo cò nếu không sẽ bị ngứa suốt nhiều tuần.

“Các ông biết gì?” Brendan nhắc lại, giọng khàn lại và hơi nghẹn ngào.

Sean nhún vai. Anh những mong có được câu trả lời cho Brendan nhưng khi nhìn sang hai đứa trẻ kia anh lại không thể nghĩ ra lời nào để nói. Thực sự là không có lời nào để nói.

Jimmy mang một chai rượu tới phố Gannon. Ở cuối phố Gannon và đầu phố Heller Court có một ngôi nhà tình thương xã hội dành cho những người lớn tuổi, một tòa nhà hai tầng được xây dựng vào những năm 1960 bằng đá vôi và đá hoa cương. Jimmy ngồi đó trên những bậc thang màu trắng ở phía trước tòa nhà và nhìn xuống phố Gannon. Nghe nói những người già đã bị đuổi ra khỏi chỗ này vì khu Thượng bắt đầu trở nên đắt giá tới mức chủ nhân của tòa nhà đã quyết định bán nó cho một nhà thầu chuyên xây các khu căn hộ cao tầng cho các cặp vợ chồng trẻ. Khu thượng đã thực sự biến mất. Trước đây nó vẫn luôn là người anh em bảnh bao của khu Hạ nhưng hiện giờ trông nó thậm chí còn chẳng giống như một người trong họ. Chẳng mấy chốc họ có khi còn thảo ra luật lệ riêng, thay tên và gỡ nó ra khỏi bản đồ Buckingham.

Jimmy lấy từ túi áo khoác ra một chai bourbon nhỏ, nhấp một ngụm và nhìn về nơi họ thấy Dave Boyle lần cuối vào cái ngày cậu ta bị những gã đó bắt đi, đầu vẫn ngoái lại nhìn theo sau lớp cửa kính xe, chìm khuất trong bóng tối rồi nhạt dần theo khoảng cách.

Tôi vẫn mong là không phải cậu, Dave. Tôi thực sự mong là không phải cậu.

Hắn giơ chai rượu lên để uống vì Katie. Con ơi, bố đã tóm được hắn. Bố đã trừng phạt hắn.

“Đang nói chuyện một mình ư?”

Jimmy ngẩng lên và thấy Sean đang chui ra khỏi xe, tay cầm một lon bia và hướng về chai rượu của Jimmy mỉm cười. “Lý do gì thế?”

“Một đêm vất vả,” Jimmy nói.

Sean gật đầu. “Tôi cũng vậy. Nhìn thấy một viên đạn khắc tên mình.”

Jimmy ngồi dịch sang một bên và Sean ngồi xuống bên cạnh hắn. “Sao mà cậu biết đến tìm tôi ở đây?”

“Vợ cậu nói có thể cậu đang ở đây.”

“Vợ tôi á?” Jimmy chưa bao giờ nói với Annabeth về những chuyến “vi hành” của hắn tới đây. Chúa ơi, cô ấy đúng là ba đầu sáu tay.

“Đúng vậy. Chúng tôi vừa đi bắt người.”

Jimmy uống một hơi dài, ngực đánh trống thình thịch. “Bắt người?”

“Đúng vậy. Đã bắt được bọn giết con gái anh. Đã tóm được chúng.”

“Bọn chúng?” Jimmy nói. “Không chỉ có một tên?”

Sean gật đầu. “Thật ra là hai đứa trẻ con mười ba tuổi. Ray, con trai thứ hai của Ray Harris và một thằng bé khác tên là Johnny O’Shea. Chúng đã tú tội nửa tiếng trước đây.”

Jimmy có cảm giác như bị một lưỡi dao thọc xuyên qua não từ tai này sang tai kia. Một con dao bỏng giãy cắt ngang sọ hắn.

“Không nghi ngờ gì chứ?” Jimmy nói.

“Không còn nghi ngờ gì nữa,” Sean trả lời.

“Vì sao?”

“Vì sao chúng làm thế ấy hả? Chúng mày thậm chí cũng không rõ. Chúng đang nghịch một khẩu súng và nhìn thấy một chiếc xe đi tới. Một đứa liền nằm xuống giữa đường, chiếc xe cua vội, chết máy và O’Shea chạy tới bên cạnh với khẩu súng bảo rằng chỉ muốn dọa Katie một chút thôi. Thế nhưng khẩu súng cướp cò. Katie liền tấn công lại nó bằng cửa xe và lũ nhóc trở nên hốt hoảng. Chúng đuổi theo con bé để nó không nói với mọi người là chúng có súng.”

“Thế còn việc con bé bị đánh?” Jimmy nói và nhấp thêm một ngụm rượu.

“Thằng nhóc Ray có một cây gậy khúc côn cầu. Nó sẽ không trả lời bất kì câu hỏi nào. Nó bị câm mà, cậu biết đấy. Chỉ ngồi đó. Nhưng O’Shea bảo chúng đánh Katie vì con bé khiến chúng tức giận vì cứ chạy trốn.” Sean khẽ nhún vai, như thể chính bản thân anh cũng ngạc nhiên trước việc Katie lại mất mạng vì một lý do ngớ ngẩn như thế. “Hai thằng ôn con đó,” anh nói tiếp, “sợ sẽ bị trừng phạt hay gì đó nên đã giết con bé.”

Jimmy đứng dậy. Hắn há miệng đớp vài ngụm không khí, duỗi chân duỗi cẳng rồi lại thấy mình từ khi nào ngồi trở lại chỗ cũ. Sean đặt một tay lên khuỷu tay hắn.

“Đừng căng thẳng quá Jimmy. Hãy hít vài hơi thật sâu.”

Jimmy nhìn thấy Dave ngồi trên mặt đất, tay đang sờ vào vết dao mà Jimmy rạch ngang bụng. Hắn nghe thấy tiếng cậu ta nói: Hãy nhìn tôi, Jimmy. Hãy nhìn tôi.

Và rồi Sean nói, “Tôi nhận được một cú điện thoại của Celeste Boyle. Cô ấy nói là Dave mất tích. Cô ấy bảo mấy hôm nay cô ấy gần như phát điên. Cô ấy nói là cậu, Jim, cậu có thể biết cậu đang ở đâu.”

Jimmy cố lên tiếng. Hắn mở miệng ra nhưng thanh quản của hắn giống như nhét đầy bông gạc.

Sean nói. “Không ai biết Dave ở đâu. Và chúng tôi rất cần nói chuyện với cậu ta, một chuyện hết sức quan trọng, vì cậu ta có thể có thông tin về một người đàn ông bị giết chết bên ngoài quán Last Drop đêm hôm đó.”

“Một người đàn ông?” Jimmy cố thốt lên trước khi cổ họng lần nữa sít lại.

“Đúng vậy,” Sean nói giọng có gì đó cứng nhắc. “Một tên ấu dâm từng có ba tiền án. Một thằng khốn. Giả thiết của chúng tôi là có ai đó đã bắt quả tang hắn đang cùng với một đứa trẻ con nên cho hắn đi chầu Diêm vương. Chúng tôi muốn hỏi thêm Dave về chuyên đó. Cậu có biết cậu ta ở đâu không, Jim?”

Jimmy lắc đầu, vẫn không tài nào tập trung vào bất kỳ thứ gì khác ngoài biên độ tầm nhìn của mình lúc này, dường như một đường hầm đang hiện ra trước mặt hắn.

“Không ư?” Sean nói. “Celeste bảo cô ấy nói với cậu là Dave đã giết Katie. Và có vẻ như cậu cũng nghĩ thế. Cô ấy có cảm giác là vì chuyện này, cậu nhất định sẽ làm gì đó.”

Jimmy nhìn xuyên qua đường hầm tới một cái nắp cống.

“Và từ giờ mỗi tháng cậu sẽ gửi 500 đô cho Celeste phải không Jimmy?”

Jimmy ngước lên và cả hai người bọn họ cùng lúc đọc được câu trả lời trên mặt đối phương – Sean biết được Jimmy đã làm gì và Jimmy thì hiểu rằng Sean đã biết.

“Cậu đã làm chuyện táng tận đó, đúng không? Cậu đã giết cậu ấy.”

Jimmy đứng dậy, bám vào tay vịn cầu thang. “Không biết cậu đang nói gì.”

“Cậu đã giết cả hai người bọn họ - Ray Harris và Dave Boyle. Chúa ơi, Jimmy, tôi tới đây và nghĩ rằng làm gì mà có chuyện ngu ngốc đó nhưng tôi có thể nhìn thấy nó trên mặt cậu. Cậu là một tên khốn, điên rồ, biến thái, một tên thần kinh. Cậu đã làm chuyện đó. Cậu đã giết Dave. Cậu đã giết Dave Boyle. Bạn của chúng ta, Jimmy.”

Jimmy khịt mũi vẻ khinh bỉ. “Bạn của chúng ta. Vâng, đúng, Anh Chàng Tới Từ Khu Thượng, cậu ta đích thực là bạn tốt của cậu. Lúc nào cũng dính lấy nhau như hình với bóng.”

Sean bước lên đối mặt với Jimmy. "Cậu ấy là bạn thân của chúng ta, Jimmy. Nhớ không?”

Jimmy nhìn thẳng vào mắt Sean và tự hỏi có nên đấm cho anh ta một phát hay không.

“Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Dave là ở nhà tôi tối hôm qua.” Jimmy nói rồi đẩy Sean sang bên cạnh và băng qua đường sang bên phố Gannon. “Đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy cậu ấy.”

“Cậu là đồ dối trá.”

Jimmy quay lại, hai tay dang rộng ra nhìn Sean vẻ thách thức. “Không tin thì cứ bắt tôi đi.”

“Tôi sẽ tìm ra bằng chứng,” Sean nói. “Cậu biết là tôi sẽ làm được.”

“Cậu tìm ra được cái con khỉ tườu,” Jimmy nói. “Cảm ơn đã bắt được thủ phạm giết hại con gái tôi, Sean. Thật đấy. Nhưng giá cậu có thể nhanh hơn một chút thì tốt.” Jimmy nhún vai rồi lại quay lưng lại với Sean, nhằm hướng phố Gannon đi tới.

Sean nhìn theo cho tới khi Jimmy biến mất trong bóng tối của một ngọn đèn đường đã bị cháy ngay đằng trước ngôi nhà cũ của Sean.

Cạu đã làm chuyện đó, Sean thầm nghĩ. Cậu thực sự đã gây ra chuyện đó, tên động vật máu lạnh nhẫn tâm kia. Và tệ nhất là cậu đã ra tay quá hoàn hảo, quá thông minh. Cậu sẽ không để lại cho chúng tôi bất kì dấu vết nào. Chắc chắn là không bởi vì cậu là người vô cùng coi trọng tiểu tiết, Jimmy. Cậu đúng là một tên khốn. “Cậu đã tước đoạt mạng sống của cậu ấy,” Sean nói to. “Đúng không Jimmy?”

Sean ném lon bia xuống vỉa hè rồi bước vào trong xe, gọi điện cho Lauren từ máy cầm tay của mình. Khi cô trả lời máy, anh nói, “Là anh, Sean.”

Tiếp đó chỉ là sự im lặng.

Giờ thì anh biết là vì anh chưa nói những lời mà cô muốn nghe, những lời mà anh trốn tránh hơn một năm nay. Anh có thể nói bất cứ điều gì, anh tự nhủ, bất cứ điều gì ngoại trừ những điều đó.

Nhưng giờ anh sẽ nói. Anh sẽ nói và nghĩ tới cảnh thằng bé kia chĩa súng vào ngực anh với vẻ vô cảm, nghĩ tới Dave đáng thương vào cái ngày mà Sean mời cậu ta đi uống bia, tới tia hi vọng tột cùng lóe lên trên gương mặt Dave vì cậu ta chẳng bao giờ dám tin, thực sự tin rằng có ai đó muốn đi uống bia với mình. Anh sẽ nói vì tận trong xương tủy của mình anh cảm thấy anh cần phải nói, vì Lauren và cũng chính là vì anh.

Và anh nói, “anh xin lỗi.”

Và Lauren lên tiếng. “Về chuyện gì cơ?”

“Vì đã đổ hết trách nhiệm cho em.”

“Được rồi…”

“À…”

“À…”

“Em nói trước đi,” anh nói.

“Em…”

“Gì cơ?”

“Em…tệ thật, Sean, em cũng xin lỗi. Em không định…”

“Không sao,” anh nói. “Thật đấy.” Anh hít một hơi dài cái không khí bụi bặm, sực mùi mồ hôi trong chiếc xe cảnh sát. “Anh muốn gặp em. Anh muốn gặp con gái của anh.”

Và Lauren nói,”Sao anh biết được đó là con anh?”

“Con bé là của anh.”

“Nhưng xét nghiệm máu…”

“Con bé là của anh,” anh nói. “Anh không cần xét nghiệm máu. Em sẽ về nhà chứ Lauren? Em sẽ về chứ?”

Đâu đó trên con phố vắng anh nghe thấy tiếng máy phát điện chạy rì rầm.

“Nora,” cô nói.

“Gì cơ?”

“Đó là tên con gái anh, Sean.”

“Nora,” anh nói trước khi cổ họng anh nghẹn lại

Khi Jimmy về tới nhà, Annabeth đang đợi hắn trong bếp. Hắn ngồi xuống chiếc ghế ở phía bên kia bàn đối diện với cô. Cô cười với hắn cái nụ cười nhẹ nhàng, bí ẩn mà hắn vẫn luôn yêu mến, nụ cười như hiểu thấu lòng hắn, cho dù cho đến hết đời này hắn không mở miệng ra nữa thì cô vẫn biết hắn muốn nói gì. Jimmy cầm lấy tay vợ và dùng ngón tay cái vuốt ve dọc theo ngón tay của cô để tìm thấy sức mạnh của chính bản thân mình được phản chiếu trên nét mặt của vợ.

Chiếc máy theo dõi tiếng trẻ con khóc đặt trên bàn giữa hai người bọn họ. Họ bắt đầu sử dụng nó từ tháng trước khi Nadine bị ốm vì nhiễm khuẩn cầu chuỗi khá nặng. Khi nghe thấy con bé thở hồng hộc trong giấc ngủ Jimmy cứ tưởng như con mình sắp chết đuối, rồi ho tới xé ruột xé gan khiến hắn bật dậy trên giường và ẵm con bé vội vàng lao tới phong cấp cứu trên người chỉ mặc độc quần lót và áo phông. Con bé hồi phục rất nhanh anh Annabeth vẫn không muốn cất chiếc máy báo khóc vào tủ. Buổi tối cô ấy vẫn bật lên để theo dõi giấc ngủ của Nadine và Sara.

Hai đứa lúc này vẫn chưa ngủ. Jimmy có thể nghe thấy tiếng chúng thì thầm và cười khúc khích qua chiếc loa nhỏ và việc hình dung ra hai đứa nhỏ vui đùa trong khi hắn thì nghĩ tới những lỗi lầm của mình khiến Jimmy cảm thấy hãi hùng.

Mình đã giết một người. Giết nhầm.

Nhận thức đó, nỗi hổ thẹn đó thiêu đốt tâm can hắn.

Mình đã giết Dave Boyle.

Thứ cảm xúc đó từng giọt, từng giọt thiêu đốt chảy xuống bụng hắn, khiến hắn quay cuồng.

Mình đã giết người. Mình đã giết một người đàn ông vô tội.

“Ôi, anh yêu,” Annabeth nói và sờ soạng lên mặt hắn. “Ôi, cục cưng, có chuyện gì vậy? Là vì Katie ư? Cưng này, nhìn anh như sắp chết ấy.”

Cô đi vòng qua bàn tới chỗ hắn, ánh mắt mãnh liệt, một sự pha trộn giữa lo lắng và thương xót. Cô ngồi vào lòng Jimmy, hai tay ôm lấy khuôn mặt của hắn và bắt hắn nhìn vào mắt mình.

“Hãy nói cho em biết. Hãy nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra.”

Jimmy những muốn trốn đi chỗ khác. Giây phút này tình yêu của cô khiến hắn đau lòng. Hắn muốn thoát ra khỏi bàn tay ấm áp của cô và tìm một nơi tăm tối, một cái hang sâu nơi tình yêu cũng như ánh sáng đều không thể tới được để hắn có thể cuộn tròn người lại và rên lên nỗi đau đớn và sự căm ghét đối với bản thân.

“Jimmy,” cô thì thầm. Cô hôn lên mí mắt hắn. “Jimmy, hãy nói với em. Xin anh.”

Cô đặt tay lên hai bên thái dương của hắn, lồng những ngón tay vào trong tóc, ôm lấy đầu hắn và hôn hắn. Lưỡi cô thọc sâu vào miệng hắn, thăm dò, tìm kiếm nguồn cơn nỗi đau cả hắn, hút lấy chúng và nếu cần thiết có thể biến thành một lưỡi dao sắc để cắt bỏ đi những khối u dữ, lôi chúng ra khỏi người hắn. “Hãy nói cho em biết. Xin anh, Jimmy. Hãy nói cho em biết.”

Và hắn biết, khi soi mình vào tình yêu đó của cô, rằng hắn sẽ phải kể cho cô hết mọi chuyện hoặc là hắn sẽ mất tất cả. Hắn không chắc là cô có thể cứu giúp nhưng hắn tin là nếu không thành thực bày tỏ hết với cô lúc này thì hắn nhất định sẽ chết.

Thế nên hắn không kể hết với vợ.

Hắn kể với cô tất cả. Hắn kể với cô về Just Ray Harris, về nỗi u buồn đã neo trong lòng hắn từ khi mười một tuổi và kể với cô rằng thương yêu Katie chính là thành tựu đẹp đẽ duy nhất trong cuộc đời vô dụng của hắn, rằng cô bé Katie khi đó, đứa con gái ruột thịt mà xa lạ vừa cần tới hắn mà lại vừa nghi ngại hắn năm đó, chính là thử thách đáng sợ nhất mà hắn từng đối mặt và cũng là nghĩa vụ duy nhất mà hắn không bao giờ chạy trốn. Hắn nói với cô rằng yêu thương và che chở cho Katie là ngọn nguồn cuộc sống của hắn, không còn con bé, đời hắn trở nên vô nghĩa.

“Và vì vậy, anh đã giết Dave,” hắn nói và tự dưng cảm thấy căn bếp trở nên nhỏ bé và chật chội xung quanh hai người bọn họ.

“Anh giết cậu ta, ném xuống dòng sông Kỳ Bí và bây giờ anh phát hiện ra rằng đó không chỉ là một tội ác kinh khủng mà tệ hơn nữa là cậu ấy hoàn toàn vô tội.”

“Đó là những chuyện mà anh đã gây ra, Anna. Và anh không thể gỡ lại được. Anh nghĩ anh nên ngồi tù. Anh nên thú nhận đã giết Dave và quay trở lại nhà tù vì anh nghĩ rằng anh thuộc về nơi đó. Không, em yêu, anh đúng là thuộc về nơi đó. Anh thật không phù hợp sống ở bên ngoài. Anh là một người không thể tin cậy.”

Giọng hắn nghe giống như của một người khác. Quá khác so với giọng nói thường ngày khi biết Jimmy tự hỏi không biết Annabeth có nhìn thấy người lạ ở trước mặt mình, một bản sao giấy than của Jimmy, và một Jimmy biến mất trong không khí.

Nhưng nét mặt của cô vẫn khách quan, điềm tĩnh và trầm lặng tới mới có thể làm mẫu cho người ta vẽ tranh. Cằm hất lên, mắt mở to nhưng không thể đọc được cô đang nghĩ gì.

Jimmy lại nghe thấy tiếng của hai đứa con gái trong máy báo khóc thì thầm nói chuyện với nhau như âm thanh của gió khẽ thổi qua kẽ lá.

Annabeth cúi xuống và bắt đầu cởi áo sơ mi của Jimmy, người hắn đờ ra dưới những ngón tay khéo léo của cô. Cô cởi áo hắn ra và tụt xuống nửa vai rồi áp tai lên ngực hắn.

Jimmy nói, “Anh chỉ…”

Tay cô trượt dọc bên sườn hắn, vuốt ve lưng hắn rồi áp chặt hơn nữa mặt cô vào ngực hắn. Cô nhắm mắt lại, một nụ cười xinh nở trên môi.

Họ ngồi như thế một lúc. Tiếng thì thào trên máy báo khóc đã được thay bằng tiếng thở đều của hai đứa trẻ con trong giấc ngủ.

Khi Annabeth rốt cuộc rời khỏi ngực hắn, Jimmy vẫn có cái cảm giác má cô vẫn còn ở đó, vĩnh viễn để lại dấu vết trên ngực hắn. Cô trèo khỏi người hắn và ngồi xuống sàn trước mặt hắn và nhìn hắn. Rồi cô ngó sang chiếc máy báo khóc và im lặng một lúc, lắng nghe hai đứa con gái đang ngủ say.

“Anh có biết em đã nói gì với các con khi cho chúng đi ngủ tối nay không?”

Jimmy lắc đầu.

Annabeth nó, “Em bảo với chúng là chúng cần phải đặc biệt ngoan ngoan với bố vì chúng ta yêu Katie nhiều như thế nào thì bố còn yêu Katie nhiều hơn thế nữa. Anh yêu con bé như vậy vì chính anh đã tạo ra nó và ôm ấp nó từ khi con bé còn nhỏ xíu và đôi khi tình yêu của anh dành cho con bé lớn tới mức tim anh giống như một quả bóng phồng lên quá cỡ, chỉ chực vỡ bung ra vì quá nhiều thương yêu.”

“Chúa ơi,” Jimmy nói.

“Em nói với các con là bố cũng yêu các con nhiều như vậy đó. Rằng ông ấy có bốn trái tim, tất cả đều là những quả bóng căng và nhức nhối yêu thương. Với tình yêu đó các con sẽ không bao giờ phải lo lắng gì cả. Và Nadine nói, ‘Không bao giờ ư?’”

“Xin em.” Jimmy có cảm giác như đang bị nghiền nát dưới một bức tường đá. “Đừng nói nữa.”

Cô lắc đầu, nhìn hắn bằng đôi mắt điềm tĩnh của mình. “Em nói với Nadine, ‘Đúng thế. Không bao giờ. Bởi vì bố là nhà vua, không phải là một hoàng tử. Nhà vua luôn biết làm gì là đúng, ngay cả đôi khi phải đưa ra những quyết định hết sức khó khăn. Bố các con là một vị vua và ông ấy sẽ…’”

“Anna…”

“ ‘… và ông ấy sẽ làm bất cứ điều gì cho những người mà ông ấy yêu mến. Ai mà chẳng phạm lỗi. Tất cả mọi người đều có lúc phạm lỗi. Nhưng những người đàn ông có bản lĩnh thì sẽ cố gắng sữa chữa. Đó mới là điều quan trọng. Đó mới chính là tình yêu đích thực. Đó là lý do tại sao mà bố của các con chính là một người đàn ông vĩ đại.’ ”

Jimmy cảm thấy hai mắt nhòe đi. “Không,” hắn nói

“Celeste gọi điện tới,” Annabeth nói, những lời giống như mũi dao sắc.

“Đừng…”

“Cô ấy muốn biếtt anh ở đâu. Cô ấy bảo cô ấy có nói với anh về những nghi ngờ của mình về Dave.”

Jimmy lấy mu bàn tay gạt nước mắt và nhìn vợ mình như thể lần đầu tiên nhìn thấy cô.

“Cô ta nói với em vậy, Jimmy, và em nghĩ có kiểu vợ nào lại đi nói những điều như thế về chồng của mình? Sao lại có thể nhu nhược tới mức tin vào những chuyện trẻ con hoang đường như thế? Và tại sao cô ta lại kể với anh chứ? Hả Jim? Tại sao cô ta lại chạy tới chỗ anh?”

Jimmy có một suy đoán – hắn vẫn luôn có một suy đoán về Celeste và cái cách cô ấy đôi khi nhìn hắn – nhưng hắn không nói gì.

Annabeth mỉm cười như thế đã đọc thấy câu trả lời trên mặt hắn. “Em đáng lẽ phải gọi di động cho anh. Em đáng lẽ phải làm vậy. Sau khi cô ta nói cho em biết về những nghi ngờ của anh và lại nhìn thấy anh rời đi với Val, em có thể đoán ngay ra là em đang định làm gì, Jimmy. Em không đến nỗi ngốc.”

Cô ấy chả bao giờ ngốc cả.

“Nhưng em đã không gọi cho anh. Em đã không ngăn cản việc đó lại.”

Giọng của Jimmy như vỡ ra. “Tại sao không?”

Annabeth ngẩng đầu lên nhìn hắn như thể câu trả lời đã hết sức rõ ràng. Cô đứng dậy nhìn hắn với ánh mắt tràn đầy hiếu kì rồi đá giày ra khỏi chân. Cô tụt quần jean của mình xuống đùi rồi kéo nó xuống tới tận mắt cá chân. Cô kéo Jimmy ra khỏi ghế của hắn. Cô áp sát vào người hắn và bắt đầu hôn lên hai má ẩm ướt của hắn.

“Bọn họ,” cô nói, “là những kẻ yếu đuối.”

“Bọn họ là ai?”

“Tất cả mọi người,” Cô nói. “Tất cả mọi người trừ hai chúng ta.”

Cô lôi tuột áo của Jimmy ra khỏi vai hắn và Jimmy như nhìn thấy khuôn mặt của cô trong đêm hẹn hò đầu tiên bên dòng kênh Penitentiary. Cô hỏi hắn liệu việc phạm pháp có ăn sâu vào máu của hắn không và Jimmy đã thuyết phục cô là không vì hắn cho rằng đó là câu trả lời mà cô muốn nghe. Chỉ tới giây phút này đây, mười hai năm rưỡi sau đó, hắn mới hiểu ra rằng thứ cô muốn nghe từ miệng hắn là sự thật. Cho dù câu trả lời của hắn là gì thì cô cũng sẽ tìm cách thích ứng với nó. Cô ấy sẽ ủng hộ nó. Cô ấy sẽ gây dựng cuộc sống của họ trên cơ sở phù hợp với nó.

“Chúng ta sẽ không phải là những kẻ yếu đuối,” cô nói và Jimmy cảm thấy ham muốn xâm chiếm lấy hắn như thể đã tích tụ từ bấy nhiêu lâu. Nếu có thể ăn tươi nuốt sống cô ngay lúc này mà không làm cô đau đớn thì hắn sẽ ngay lập tức cắn ngập răng vào cổ cô và ngấu nghiến các bộ phận trên cơ thể.

“Chúng ta sẽ không bao giờ là những kẻ yếu đuối,” Cô ngồi lên bàn bếp, hai chân đung đưa.

Jimmy nhìn vợ mình trong lúc bước chân ra khỏi chiếc quần jean trên sàn nhà và nghĩ rằng đây chỉ là một biện pháp nhất thời, chỉ tạm thời khiến hắn quên đi nỗi đau do việc sát hại Dave gây ra bằng cách rúc vào da thịt và sự can đảm của vợ mình. Nhưng chỉ là đêm nay thôi, không phải là cho ngày mai hay những ngày sắp tới. Nhưng đêm nay rõ ràng, đó chính là lối thoát của hắn. Không phải tất cả những phát hiện vĩ đại trên đời này đều bắt đầu từ những bước đơn giản hay sao?

Annabeth đặt tay lên hông hắn, móng tay cô bấm và da thịt ở gần cột sống của hắn.

“Khi chúng ta làm xong, Jim?”

“Ừ?” Jimmy đang ngầy ngật trong cơn say sưa với vợ mình.

“Nhớ đừng quên hôn chúc các con ngủ ngon.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,923
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Chúng tôi sẽ giữ cho cậu một chỗ


Sáng Chủ nhật, Jimmy thức dậy trong âm thanh văng vẳng của tiếng trống hội từ xa vọng lại.

Không phải là tiếng trống nhàn nhạt và tiếng chũm chọe chan chát của một ban nhạc đeo khuyên mũi trong hộp đêm ngột ngạt mà là tiếng trống nện bùm bùm, dồn dập, hùng hồn của một đoàn quân nhạc đang đóng ngay bên ngoài Buckingham. Rồi đột nhiên vang lên một tiếng kèn đồng yếu ớt, lạc nhịp. Thế nhưng đó cũng chỉ là một âm thanh xa xôi văng vẳng lại từ cách đó nhiều dãy nhà và gần như tắt ngấm ngay khi chạm đến tai hắn. Trong sự tĩnh lặng tiếp theo đó, hắn nằm im lắng nghe những tiếng động khẽ khàng của buổi sáng Chủ nhật muộn - một buổi sáng đầy nắng dựa vào vạt nắng vàng sậm phía bên kia rèm cửa. Hắn nghe thấy tiếng gật gù của đám chim bồ câu đậu trên bậu cửa sổ và tiếng sủa khô khan của một con chó dưới phố. Hắn nghe thấy tiếng cửa xe ô tô mở ra, đóng vào và chờ đợi tiếng động cơ nổ máy nhưng mãi mà không thấy, và rồi hắn lại nghe thấy tiếng trống bùm bùm, ngày càng tự tin, mạnh mẽ hơn.

Hắn nhìn chiếc đồng hồ trên bàn ngủ, đã mười một giờ trưa. Lần cuối cùng hắn ngủ muộn như thế này là từ cách đây… hắn thực tình nhớ không ra. Có lẽ là từ nhiều năm trước. Dễ tới một thập kỷ cũng nên. Hắn nhớ lại những ngày mệt nhoài vừa qua, cái cảm giác quan tài của Katie nâng lên hạ xuống như một cái cầu thang máy trong người hắn. Và rồi hắn nhớ đêm hôm qua, tới lượt Just Ray Harris cùng Dave Boyle tới thăm trong lúc hắn ngồi uống rượu ở phòng khách, một tay cầm súng, nhìn theo hai người bọn họ vẫy chào hắn từ ghế sau một chiếc xe có mùi táo. Và rồi cái gáy của Katie xuất hiện giữa hai người kia trong khi chiếc xe tiếp tục lăn bánh xuống phố Gannon, Katie không một lần quay đầu nhìn lại, chỉ có Just Ray và Dave vẫy lấy vẫy để, miệng cười toét như hai thằng ngốc, và rồi Jimmy cảm thấy khẩu súng bắt đầu trở nên ngứa ngáy trong lòng bàn tay hắn. Hắn ngửi thấy mùi dầu khét và nghĩ đến việc nhét nòng súng vào trong miệng mình.

Lễ viếng Katie đúng là cơn ác mộng. Celeste xất hiện đúng lúc khách khứa tới đông nhất vào lúc tám giờ tối và dùng nắm đấm của mình tấn công Jimmy, gọi hắn là tên sát nhân. "Anh còn xác của con bé!" Cô ta kêu gào. "Còn tôi thì còn lại gì của anh ấy? Anh ấy đâu, Jimmy, ở đâu?" Bruce Reed và mấy người con trai của ông kéo cô ra khỏi người Jimmy và lôi ra ngoài nhưng Celeste vẫn còn đủ thời gian hét toáng lên. "Sát nhân! Hắn là một kẻ sát nhân. Hắn đã giết chồng tôi! Tên sát nhân kia."

Sát nhân.

Và rồi sau đó là lễ tang và lễ hạ huyệt, Jimmy đứng đó nhìn người ta đưa con gái hắn vào trong một cái hố rồi ném hàng đống đất đá bẩn thỉu lên nắp quan tài và Katie vĩnh viến biến khỏi cuộc đời hắn dưới ba tấc đất kia như thể nó chưa bao giờ tồn tại.

Cho tới đêm qua, tất cả những áp lực đó như đã ngấm vào tới tận xương tủy của hắn và ăn mòn chúng, cỗ quan tài của Katie không ngừng nâng lên, hạ xuống nâng lên hạ xuống nên tới khi hắn cất súng vào ngăn kéo và ngã xuống giường thì hắn chỉ còn lại một cảm giác bất động, như thể cái chết đã nằm trong tủy sống và máu trong người hắn đã vón cục cả lại.

Ôi Chúa ơi, hắn nghĩ, mình chưa bao giờ mệt mỏi thế này. Quá mệt mỏi, quá buồn bã, quá vô dụng và quá đơn độc. Mình đã kiệt sức bởi chính những lỗi lầm của mình, bởi sự điên rồ và cái nỗi buồn cay đắng và chua xót ấy. Hủy hoại mình bằng chính những tội lỗi của mình. Ôi, Chúa ơi, hãy để con một mình và hãy để con chết để con không tiếp tục làm những việc sai trái nữa và sẽ không còn mệt mỏi, không còn phải mang những gánh nặng về trách nhiệm và tình yêu. Hãy phóng con khỏi tất cả những thứ đó vì con đã quá mệt mỏi vì phải một mình đương đầu với tất cả.

Annabeth đã cố gắng cảm nhận tội lỗi của hắn, những nỗi dằn vặt khủng khiếp của hắn nhưng cô không thể. Vì cô không phải người bóp cò súng.

Và giờ đây, hắn vừa ngủ tới tận mười một giờ. Ngủ suốt mười hai tiếng đồng hồ, say như chết vì hắn không hề biết Annabeth thức dậy khi nào.

Hắn đã đọc ở đâu đó rằng biểu hiện rõ nét của chứng trầm cảm nặng là mệt mỏi kéo dài và nhu cầu bức thiết được ngủ, nhưng khi hắn đã ngồi dậy trên giường, tiếng trống đập thình thịch, hòa lẫn với tiếng kèn đồng trong cùng một nhịp khiến hắn cảm thấy sảng khoái. Hắn có cảm giác trở lại thuở đôi mươi. Hắn cảm thấy vô cùng tỉnh táo như thể sẽ không bao giờ cần phải ngủ lại nữa. Là cuộc diễu hành, hắn chợt nhận ra. Tiếng trống và tiếng kèn và từ đội quân nhạc đang tổng duyệt lần cuối trước khi diễu hành trên đại lộ Buckingham vào buổi trưa. Hắn đứng dậy tới bên cửa sổ kéo rèm lên. Lý do khiến chiếc xe hơi lúc nãy mãi không nổ máy là vì người ta đã phong tỏa đại lộ Buckingham từ khu Hạ cho tới Rome Basin. Cả thảy ba mươi sáu dãy nhà. Hắn nhìn qua cửa sổ xuống đại lộ, mặt đường nhựa màu ghi xanh trông giống như một dải lụa óng ánh dưới mặt trời với một vẻ sạch sẽ chưa từng thấy. Những cột chắn đường màu xanh được đặt trên khắp các ngả rẽ vào đại lộ và trải dài dọc trên các lề đường, tới xa hút tầm mắt.

Mọi người bắt đầu ra khỏi nhà và giữ chỗ trên vỉa hè. Jimmy nhìn họ bày các thùng lạng đựng đồ uống, radio, và các giỏ đồ ăn xuống đường và vẫy tay chào Dan và Maureen Guden lúc này đang mở ghế gấp ra ngồi ở trước của tiệm giặt là Hennessey. Khi họ vẫy tay chào lại, tự dưng hắn thấy cảm động bởi sự quan tâm hiện lên trên gương mặt họ. Maureen chụm tay lên miệng gọi hắn. Jimmy mở cửa sổ, tì vào tấm màn che, hứng lấy ánh mặt trời buổi sáng, không khí rạo rực và cả thứ mùi vị còn sót lại của đám bụi xuân vươn trên rèm cửa.

"Có chuyện gì vậy, Maureen?"

"Tôi nói, cậu khỏe không, chàng trai?" Maureen nói to. "Cậu ổn chứ?"

"Vâng," Jimmy đáp lại và ngạc nhiên khi nhận ra rằng hắn thực sự cảm thấy rất ổn. Hắn sẽ vẫn mang Katie như một trái tim thứ hai, một trái tim tan nát và giận giữ không bao giờ ngừng những nhịp đập điên cuồng của nó. Hắn chắc chắn về điều đó, hoàn toàn không có ảo tưởng khác. Đau thương sẽ là thường trực, là một phần cơ thể của hắn khó tách rời hơn cả tứ chi. Tuy nhiên vì một lý do nào đó mà trong giấc ngủ dài của mình hắn căn bản đã chấp nhận nó. Nó ở đó, giống như một phần cơ thể hắn và hắn có thể thỏa hiệp với nó. Với nhận định đó, hắn thực sự cảm thấy khá hơn nhiều so với hắn mong đợi. "Tôi…khỏe." Hắn nói với Maureen và Dan. "Cũng không đến nỗi ấy. Ông bà biết đấy!"

Maureen gật đầu còn Dan lại hỏi, "Cậu có cần gì không. Jim?"

"Ý tôi là nếu cậu có cần bất cứ thứ gì, đừng ngại," Maureen nói.

Và Jimmmy cảm thấy trào dâng lên một niềm yêu mến và tự hào vô tận đối với họ cũng như đối với cả khu phố này. "Không, tôi rất ổn. Nhưng cảm ơn. Cảm ơn ông bà đã hỏi thăm. Điều đó rất có ý nghĩa với tôi," hắn nói.

"Cậu sẽ xuống đường chứ?" Maureen hỏi.

"Chắc thế, vâng." Trong lòng Jimmy lúc này vẫn đang do dự nhưng không hiểu tại sao lại buột miệng nói tiếp, "Lát nữa gặp lại ông bà ở dưới nhé!"

"Chúng tôi sẽ để dành cho cậu một chỗ," Dan nói.

Họ vẫy Jimmy, Jimmy vẫy lại rồi rời khỏi cửa sổ, ngực vẫn tràn ngập thứ cảm giác pha trộn giữa yêu thương và tự hào. Những người đó là người của hắn. Và đây là khu phố của hắn. Nhà của hắn. Họ sẽ dành cho hắn một chỗ. Không còn nghi ngờ gì nữa. Vì hắn là Jimmy của khu Hạ.

Đó là biệt hiệu mà những người hàng xóm lớn tuổi đặt cho hắn trước khi hắn ở tù Deer Island. Họ dẫn hắn tới những câu lạc bộ trên phố Prince ở North End và giới thiệu, "Carlo này, đây là người bạn mà tôi đã kể với cậu, Jimmy. Jimmy của Khu Hạ."

Rồi Carlo hay Gino hay một người nào đó có thể kết thúc với chữ O sẽ trợn tròn mắt lên và nói, "Không đùa đấy chứ? Jimmy Khu Hạ. Rất vui được gặp cậu, Jimmy. Tôi ngưỡng mộ danh tiếng của cậu đã lâu."

Sau đó họ sẽ tiếp tục trêu đùa về tuổi của hắn – "Gì cơ, cậu mở cái két sắt đầu tiên bằng kim băng cài tã của mình?" – nhưng Jimmy có thể thấy sự tôn trọng, nếu không nói là hơi e dè của những người từng trải này đối với sự hiện diện của hắn.

Hắn là Jimmy của Khu Hạ. Lập nên băng nhóm ở tuổi mười bảy. Mười bảy tuổi – ai có tin được không? Một gã hoàn toàn nghiêm túc. Không thể đùa được. Một kẻ biết giữ mồm giữ miệng, hiểu luật chơi và biết tôn trọng người khác. Một kẻ biết mang lại tiền tài lại cho bạn bè.

Trước kia hắn là Jimmy Khu Hạ, bây giờ hắn vẫn là Jimmy Khu Hạ, và những con người bắt đầu tụ tập dưới đường theo dõi cuộc diễu hành kia - tất cả bọn họ đều yêu mến hắn. Họ lo lắng cho hắn và muốn chia sẻ nỗi đau của hắn hết mức có thể. Và hắn đã làm gì để đền đáp lại sự thương yêu đó? Điều này khiến hắn suy nghĩ. Hắn thực sự có thể làm gì để đáp trả?

Gần đây nhất của khu phố này kể từ khi băng nhóm của Louie Jello bị cảnh sát liên bang và luật chống hoạt động băng đảng phạm tội làm cho tan rã là việc bảo kê khu phố dường như đã rơi vào tay, hừm, Bobby O'Donnel? Bobby O'Donnell và Roman Fallow. Hai tên buôn thuốc phiện hạng gà chuyển sang làm bảo kê và cho vay nặng lãi. Jimmy nghe đồn chúng đã đạt được một thỏa thuận ngầm với các băng đảng người Việt ở Rome Basin để cho lượng người Việt nhập cư vào đây tiếp tục gia tăng, rồi cùng nhau phân chia địa bàn và đã ăn mừng liên minh này bằng cách đốt thành tro tiệm hoa của Connie như một lời cảnh cáo đối với bất cứ ai không muốn trả tiền bảo kê cho chúng.

Đó không phải là một cách làm đúng. Mà thượng sách là phải tránh làm ăn ở nơi mình sinh sống hay chớ biến nơi mình sinh sống thành chỗ làm ăn. Nếu biết bảo vệ những người xung quanh, cho họ cuộc sống yên ổn thì đổi lại, để bày tỏ sự biết ơn, họ sẽ trông chừng cho anh và trở thành tai mắt của anh mỗi khi có rắc rối. Đôi khi sự biết ơn ấy xuất hiện dưới hình dạng một chiếc phong bì, một chiếc bánh gato hay một chiếc xe hơi, tùy tâm của họ, giống như một phần thưởng cho công sức của anh đã bỏ ra để bảo vệ cuộc sống yên lành của họ.

Đó chính là thượng sách để quản lý một khu dân cư. Ra tay nghĩa hiệp. Quyền lợi của người khác cũng chính là quyền lợi của mình. Không thể để Bobby O'Donnell và mấy tên học nghề da vàng mắt dẹt kia nghĩ rằng chúng có thê nghênh ngang tới đây muốn làm gì thì làm. Trừ khi chúng không muốn bị đuổi ra mà không còn hai chân để đi nữa.

Jimmy rời khỏi phòng ngủ và nhận ra trong nhà không có ai. Cánh cửa ở cuối hành lang mở rộng và hắn có thể nghe thấy giọng nói Annabeth vang lên từ căn hộ ở tầng trên và tiếng bàn chân nhỏ xíu của các con gái hắn chạy nhốn nháo trên sàn gỗ đuổi theo con mèo của Val. Hắn đi vào buồng tắm, mở nước và chờ cho nước ấm rồi mới bước vào, ngửa mặt lên hứng lấy những tia nước dưới vòi hoa sen. Lý do duy nhất khiến O'Donnell và Farrrow chưa bao giờ dám quấy rầy cửa hàng của Jimmy là vì chúng biết hắn có quan hệ chặt chẽ với anh em nhà Savege. Và giống như bất cứ ai biết suy nghĩ, O'Donnell rất e dè bọn họ. Và nếu như hắn và Roman sợ đám anh em nhà Savage thì suy ra chúng cũng sẽ sợ Jimmy.

Chúng sợ Jimmy. Jimmy của Khu Hạ. Bởi vì đúng như danh tiếng của hắn, Jimmy là một người rất có đầu óc. Và với anh em nhà Savage ở đằng sau chống lưng thì hắn sẽ có tất cả, sức mạnh, trí tuệ, chả còn sợ hãi bất cứ điều gì. Jimmy Marcus với anh em nhà Savage mà hợp lực với nhau thì họ có thể…

Sao chứ?

Khiến khu phố này an toàn như nó xứng đáng được vậy.

Và điều hành cả cái thành phố khốn kiếp này.

Biến nó thành của mình, làm chủ nó.

"Xin đừng, Jimmy. Chúa ơi. Tôi muốn gặp vợ tôi. Tôi muốn sống cuộc đời của mình. Jimmy? Xin đừng tước đoạt đi của tôi điều đó. Hãy nhìn tôi!"

Jimmy nhắm mắt lại và cảm thấy những tia nước nóng đang khoan vào sọ hắn. "Hãy nhìn tôi!"

Tôi đang nhìn cậu đây, Dave. Tôi đang nhìn cậu đây.

Jimmy nhìn khuôn mặt van nài của Dave, nước dãi tứa ra chả khác gì đám nhớt dãi trên môi và cằm Just Ray Harris mười ba năm về trước.

"Hãy nhìn tôi!"

Tôi đang nhìn, Dave. Tôi đang nhìn đây. Cậu không nên chui ra khỏi chiếc xe đó. Cậu có biết không? Cậu nên đi hẳn. Cậu trở về đây, về khu phố này nhưng không còn nguyên vẹn. Cậu không bao giờ phù hợp với cuộc sống ở đây nữa, Dave, vì bọn chúng đã đầu độc cậu và chất độc đó chỉ chờ cơ hội phát tác.

"Tôi không giết con gái anh, Jimmy. Tôi không giết Katie. Tôi không có, tôi không có."

Có lẽ cậu đã không làm chuyện đó, Dave. Giờ thì tôi đã biết. Mọi việc bắt đầu sáng tỏ, dường như cậu thực sự không liên quan gì tới chuyện đó cả. Nhưng vẫn có chút khả năng là cảnh sát đã bắt nhầm mấy thằng nhóc ấy, nhưng tôi phải thú nhận rằng, nhìn chung cuộc, có vẻ như cậu thực sự vô tội trong cái chết của Katie.

"Vậy thì sao?"

Nhưng cậu vẫn giết người, Dave. Cậu đã giết một người nào đó. Celeste đã đoán đúng về điều này. Với lại cậu cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra với những đứa bé bị lạm dụng.

"Không, Jim. Hãy nói cho tôi xem nào?"

"Rồi chính chúng cũng sẽ biến thành những kẻ lạm dụng trẻ con. Chỉ là vấn đề sớm hay muộn. Chất độc vẫn nằm trong cơ thể cậu và nó cần phải phát tác. Tôi chỉ là muốn bảo vệ các nạn nhân tương lai đáng thương khỏi chất độc của cậu thôi, Dave. Có thể là bảo vệ chính con trai cậu."

"Đừng có lôi con trai tôi vào chuyện này, hãy để cho nó được yên."

Được thôi. Thế thì có lẽ là con cái của bạn bè cậu vậy. Nhưng Dave, sớm hay muộn thì cậu cũng sẽ bộc lộ thân phận thực sự của mình.

"Đó là cách cậu tự biện minh cho hành động giết người của mình ư, Jim?"

Một khi đã chui vào chiếc xe đó, Dave, cậu không bao giờ nên quay lại nữa. Đó chính là lý do của tôi đấy. Cậu không thuộc về chỗ này. Cậu vẫn chưa hiểu sao? Đó chính là tính chất của một khu phố - là nơi những người giống nhau, gắn bó với nhau cùng sinh sống. Một kẻ khác tuyệt đối không được hoan nghênh.

Giọng Dave xuyên qua làn nước và âm vang trong đầu Jimmy. "Tôi hiện đang cư trú trong người cậu. Cậu không thể nào khiến tôi im lặng."

Có chứ, Dave, tôi hoàn toàn có thể làm được điều đó.

Và Jimmy tắt vòi nước bước ra khỏi bồn tắm. Hắn lau khô người và hít thứ không khí đầy hơi nước đó vào hai lỗ mũi. Hắn thậm chí cảm thấy đầu óc mình thông suốt hơn lúc trước. Hắn chùi đi đám hơi nước trên chiếc cửa sổ nhỏ trong góc buồng tắm và nhìn xuống con hẻm phía sau ngôi nhà. Trời hôm nay nắng và trong trẻo tới mức ngay cả con hẻm đó trông cũng sạch sẽ. Chúa ơi, đúng là một ngày đẹp trời. Một Chủ nhật tuyệt vời. Hoàn hảo cho cuộc diễu hành. Hắn sẽ dẫn vợ con xuống phố, nắm tay nhau và ngắm những người đi diễu hành, các đội lễ nhạc, xe rước và các quan chức đi thành từng đoàn dưới ánh mặt trời rực rỡ. Và họ sẽ ăn xúc xích, kẹo bông, hắn sẽ mua cho các con cờ và áo sơ mi với biểu tượng của Buckingham. Qua trình hồi phục của hắn sẽ bắt đầu giữa tiếng chũm chọe, tiếng trống, tiếng kèn và tiếng reo hò mừng vui của khu phố. Mọi thứ sẽ được chữa lành, hắn tin như vậy khi họ đứng đó trên vỉa hè ăn mừng ngày khu phố của họ ra đời. Và khi cái chết của Katie lại đè nặng lên họ vào những giờ tiếp theo của buổi tối, khi cơ thể họ bắt đầu có dấu hiệu suy sụp trước sức nặng của con bé thì họ ít nhất cũng đã có một buổi chiều thư giãn vui vẻ để một phần cân bằng nỗi đau. Đó sẽ là bước khởi đầu của sự phục hồi. Tất cả bọn họ sẽ đều nhận thức được rằng, ít nhất thì trong vài tiếng đồng hồ của buổi chiều này họ sẽ được nếm mùi vui vẻ, nếu không nói là sung sướng.

Hắn rời khỏi cửa sổ, vốc nước ấm lên mặt, bôi kem cạo râu lên má và cổ rồi khi bắt đầu cạo râu, hắn chợt vỡ ra một điều, hắn là một người xấu. Nhưng hắn không có cảm giác chấn động, trong lòng nổ tung vì một phát hiện long trời lở đất. Chỉ là một ý nghĩ vừa lóe lên, một nhận thức mới giống như những ngón tay đang nhẹ nhàng tú lấy ngực hắn.

Ừ thì mình là người xấu.

Hắn nhìn vào gương và chẳng cảm thấy gì ghê gớm. Hắn yêu các con mình, hắn yêu vợ. Và họ yêu hắn. Họ tìm thấy ở hắn một niềm tin vững chắc. Trên đời này rất ít người có được điều đó.

Hắn đã giết một người đàn ông vì một tội ác mà có lẽ anh ta không phạm phải, nhưng tệ hơn là hắn không cảm thấy ân hận gì lắm. Trước đó rất lâu rồi hắn cũng đã giết một người khác. Và hắn chôn hai người họ dưới đáy dòng sông Kỳ Bí. Hắn thực sự quý mến cả hai người đó, có lẽ với Ray nhỉnh hơn một chút nhưng đúng là hắn thích cả hai. Thế nhưng hắn vẫn giết họ. Vì nguyên tắc.

Hắn nhớ cái lần đứng trên một mỏm đá cạnh bờ sông nhìn gương mặt của Ray chuyển sang trắng bệch, sệ xuống và chìm dưới làn nước mắt vẫn mở to, chết chóc. Vậy mà trong tất cả những năm sau đó hắn chẳng cảm thấy dằn vặt ghê gớm gì dù vẫn tự nhủ rằng mình đã gây ra tội lỗi. Nhưng cái mà hắn gọi là tội lỗi thực ra là nỗi sợ hãi bị rước lấy nghiệp chướng, rằng những việc hắn làm sẽ trở thành nghiệp chướng giáng xuống đầu người thân của hắn. Cái chết của Katie chính là hoàn thành nghiệp chướng đó – Ray tái sinh trong bụng vợ hắn rồi chui ra để giết Katie không vì nghiệp chướng thì là vì cái gì.

Còn Dave? Họ lồng xích sắt vào lỗ gạch rồi buộc chặt thi thể của Dave rồi khóa hai đầu lại. Sau đó họ nâng thi thể của Dave lên vừa đủ để quăng xuống sông và Jimmy có cảm giác như người chìm xuống đáy sông đó là cậu bé Dave hồi xưa chứ không phải Dave trưởng thành của ngày hôm nay. Chẳng ai biết chính xác được cậu sẽ rơi xuống chỗ nào. Chỉ biết là cậu nằm đó, dưới đáy dòng sông Kỳ Bí và nhìn lên. Hãy ở lại đó, Dave. Hãy ở lại đó.

Sự thật Jimmy chẳng bao giờ hối hận gì nhiều về những việc mà hắn đã làm. Đúng là hắn có nhờ một người quen ở New York gửi cho nhà Harris mỗi tháng năm trăm đô la trong suốt mười ba năm qua nhưng không phải là vì lòng tốt mà chỉ để cho họ tiếp tục nghĩ rằng Just Ray vẫn còn sống và không bao giờ nghĩ tới chuyện đi tìm hắn. Bây giờ, khi con trai Ray phải ngồi tù thì mặc xác, hắn sẽ không gửi tiền nữa. Dùng tiền đó vào việc nào khác có ích hơn.

Hắn quyết định sẽ dùng tiền đó cho khu phố. Sẽ dùng chúng để bảo vệ khu phố của mình. Khi nhìn mình trong gương, hắn một lần nữa xác định, khu phố này chính là của hắn. Từ giây phút này trở đi hắn sẽ là chủ nhân của khu phố này. Hắn đã sống lừa dối suốt mười ba năm qua, giả vờ suy nghĩ như một công nhân gương mẫu và bỏ phí không biết bao cơ hội làm ăn lớn. Họ sẽ xây dựng một sân vận động ở đây? Đươc thôi. Hãy nói về những công nhân mà chúng ta đại diện? Đươc thôi. Nhưng tốt hơn hết các anh nên để mắt tới đám máy móc của mình, lũ ngốc. Ghét nhất là xảy ra những chuyện hỏa hoạn với đám máy móc đó.

Hắn sẽ ngồi sẽ ngồi xuống với Val và Kevin thảo luận tương lai của mình. Thị trấn này đang chờ được khai quật. Và Bobby O'Donnell nữa. Tương lai của hắn sẽ không sáng sủa chút nào nếu hắn tiếp tục quanh quẩn ở East Bucky.

Hắn kết thúc việc cạo râu, nhìn lại mình một lần nữa trong gương. Hắn là người xấu? Thì cứ như thế đi. Hắn có thể sống với điều đó vì trong tim hắn có tình yêu và trong lòng hắn có niềm tin. Tương quan lực lượng hoá ra cũng khá cân bằng.

Hắn mặc quần áo. Trong lúc đi qua bếp hắn có cảm giác như người đàn ông mà hắn giả dạng suốt bằng ấy năm vừa trôi tụt xuống cống cùng với nước bẩn. Hắn nghe thấy tiếng mấy đứa con gái hắn ré lên cười, chắc là bị con mèo của Val liếm mặt và nghĩ, Chúa ơi, âm thanh đó mới tuyệt vời làm sao.

Trên phố, Sean và Lauren tìm thấy một chỗ trước quán cà phê Nate & Nancy. Nora đang ngủ trong xe đẩy và họ đặt con bé dưới bóng râm của mái hiên. Hai người đứng dựa lưng vài tường ăn kem ốc quế. Sean nhìn vợ mình và tự hỏi không biết hai người bọn họ có thể vượt qua cơn sóng gió này hay một năm dài chia cắt đã gây ra quá nhiều thương tổn, hủy hoại tình yêu của họ cùng tất cả những năm tháng tươi đẹp cuả cuộc hôn nhân trước kia. Lauren nắm lấy tay anh siết chặt và anh nhìn xuống con gái mình. Con bé trông thật đáng yêu, giống như một cô công chúa nhỏ, khiến lòng anh tràn ngập ấm áp.

Xuyên qua đám diễu hành dưới lòng đường, Sean thấy Jimmy và Annabeth Marcus cùng hai cô con gái nhỏ xinh xắn của họ ngồi vắt vẻo trên vai Val và Kevin Savage vẫy ta chào đón từng chiếc xe rước và xe mui trần diễu qua.

Hai trăm mười sáu năm về trước người ta đã cho xây nhà tù đầu tiên trong vùng dọc theo bờ con kênh mang tên nó. Những cư dân đầu tiên của Buckingham là những người quản ngục cùng gia đình họ và vợ con của các phạm nhân đó. Đó không phải là một thỏa ước dễ dàng. Khi những người tù mãn hạn, họ thường đã quá mệt mỏi hay già yếu để chuyển đi chỗ khác và Buckingham nhanh chóng được biết đến như một nơi chứa chấp các thành phần bất hảo. Các quán rượu mọc lên nhan nhản dọc theo đại lộ chính, trên các con phố bẩn thỉu của nó trong khi gia đình những người quản ngục chiếm lĩnh những quả đồi và xây nhà mình trên khu Thượng để một lần nữa nhìn xuống những người mà họ quản thúc. Những năm 1800, việc chăn nuôi gia súc bùng nổ, những bãi rào chăn nuôi gia súc và lò mổ bùng nổ, những bãi rào chăn nuôi gia súc và lò mổ mọc lên như nấm xung quanh khu vực đường cao tốc hiện nay, một đường tàu chở hàng chạy song song trên phố Sydney và đám gia súc xuống tàu ở đây sẽ được dẫn vào trung tâm theo đúng lộ trình của đoàn diễu hành lúc này. Các thế hệ gia đình tù nhân và truyền nhân của những người làm việc trong các lò giết mổ súc vật ngày càng đẩy về khu Hạ về sát với đường tàu. Nhà tù đóng của sau một động thái cải cách từ lâu đã bị quên lãng và rồi cơn sốt chăn nuôi cũng chấm dứt nhưng những quán rượu vẫn không ngừng mọc lên. Làn sóng những người nhập cư gốc Ailen tràn vào, kế tiếp dòng người nhập cư gốc Ý nhưng với lực lượng đông đảo gấp đôi và tuyến đường sắt trên cao ra đời khiến mọi người đổ xô vào thành phố kiếm việc làm nhưng hết ngày lại quay về đây. Mọi người quay lại vì chính họ đã dựng lên cái làng này, biết rõ những mối nguy cũng như ưu điểm của nó và điều quan trọng nhất là ở đây không có gì khiến họ ngạc nhiên. Từ những vụ ăn đút, chém giết đẫm máu, hay những vụ ẩu đả trong quán bar, những trận khúc côn cầu trên phố hay những cuộc làm tình sáng thứ Bảy đều có lôgic riêng của nó. Một lôgic mà người ngoài không nhìn thấy được. Và chính vì vậy mà người lạ không được hoan nghênh ở đây.

Lauren dựa vào người anh, đầu cô chạm vào cằm anh và Sean cảm thấy mối hoài nghi trỗi dậy trong lòng anh nhưng đồng thời cả sự quyết tâm và khao khát xây dựng lại niềm tin. Cô nói, "Anh có sợ lắm không khi thằng bé đó chĩa súng vào mặt anh?"

"Em muốn biết sự thật?"

"Vâng."

"Xém chút nữa thì không còn điều khiển được bàng quang."

Cô nhích mái đầu đang tựa vào cằm anh ra để nhìn anh. "Thật ư?"

"Ừ."

"Lúc đó anh có nghĩ tới em không?"

"Anh có. Anh nghĩ tới hai mẹ con em."

"Anh nghĩ gì?"

"Anh nghĩ tới quang cảnh này, tới ngày hôm nay."

"Về cuộc diễu hành và mọi thứ?"

Anh gật đầu.

Cô hôn lên gáy anh. "Anh chỉ nói nhăng nói cuội, nhưng mà em vẫn thích khi nghe anh nói thế."

"Anh không nói dối." anh nói.

Cô nhìn xuống Nora. "Con bé có đôi mắt của anh."

"Và cái mũi của em."

Cô nhìn con gái họ và nói, "Em hi vọng chuyện của chúng ta sẽ đâu vào đó."

"Anh cũng vậy," anh nói và hôn cô.

Họ lại đứng dựa lưng vào tường, một dòng người không ngừng chuyển động dọc theo vỉa hè trước mặt họ và Celeste đột nhiên xuất hiện. Da cô tái mét, tóc lấm tấm gàu và không ngừng kéo các ngón tay như thể muốn lôi chúng ra khỏi các khớp xương.

Cô chớp mắt nhìn Sean và nói, "Chào anh, nhân viên Devine."

Sean chìa tay ra vì trông Celeste có vẻ rất cần ai đó nói chuyện, nếu không thì sẽ tan biến mất. "Chào Celeste. Gọi tôi là Sean được mà."

Cô bắt tay anh. Tay cô nhơm nhớp, những ngón tay nóng rực, và buông ra ngay khi tay họ chạm vào nhau.

Sean nói, "Đây là Lauren, vợ tôi."

"Xin chào," Lauren nói.

"Chào cô."

Trong giây lát không ai trong ba người họ biết nói gì. Họ đứng đó, yên lặng, hơi lúng túng và rồi Celeste nhìn sang phía bên kia đường và Sean dõi theo ánh mắt của cô tới chỗ Jimmy đang đứng đó vòng tay ôm lấy Annabeth, hai người bọn họ trông rực rỡ tựa ánh nắng, vây quanh bởi bạn bè và người thân. Trông họ như sẽ không bao giờ để tuột khỏi tay bất cứ thứ gì nữa.

Celeste nói, "Hắn đã giết chồng tôi."

Sean cảm thấy Lauren đang nhìn anh sững sờ.

"Tôi biết. Hiện giờ tôi chưa thể chứng minh được nhưng tôi biết là hắn."

"Anh sẽ làm được chứ?"

"Làm gì cơ?"

"Chứng minh hắn là thủ phạm?" cô nói.

"Tôi sẽ cố gắng, Celeste. Tôi xin thề có Chúa."

Celeste nhìn ra đại lộ và điên cuồng gãi đầu như thể đang tìm chấy. "Gần đây, đầu óc tôi gần như không biết thế nào là phải trái nữa." Cô cười. “Nghe thật ngớ ngẩn đúng không? Nhưng tôi không thể. Thực sự là không thể phân biệt được nữa.”

Sean vươn tay nắm lấy cổ tay cô. Cô ngước lên nhìn anh, đôi mắt nâu của cô già hẳn đi và đầy vẻ điên dại. Cứ như cô đang nghĩ anh sẽ tát cô.

Anh nói. "Tôi có thể đưa cho cô tên của một bác sĩ, Celeste, một chuyên gia về những người bị mất thân nhân trong những tội ác nghiêm trọng."

Cô gật đầu mặc dù những lời của anh dường như chẳng đem lại chút an ủi nào. Cô vùng tay ra khỏi tay anh và lại tiếp tục kéo các ngón tay của mình. Cô để ý thấy Lauren đang quan sát mình liền lập tức nhìn xuống các ngón tay. Cô buông chúng ra rồi lại giơ lên, cuối cùng khoanh lại trước ngực rồi giấu hai bàn tay xuống dưới khuỷu, cứ như sợ chúng bay đi mất. Sean để ý thấy Lauren hơi do dự mỉm cười, một biểu hiện của sự đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác và anh ngạc nhiên thấy Celeste cũng đáp lại bằng một nụ cười và sự biết ơn trong mắt.

Anh cảm thấy yêu vợ mình sâu đậm và có cảm giác trở nên nhỏ bé trước khả năng tương thân tương ái của cô đối với những người trong hoàn cảnh thiệt thòi. Cho tới lúc này anh tin rằng kẻ phá hoại cuộc hôn nhân của họ chính là anh với sự ích kỷ và cái tôi quá lớn của nghề nghiệp, sự khinh bỉ tích tụ của anh đối với lỗi lầm và khiếm khuyết của con người.

Anh vươn tay vuốt má Lauren và cử chỉ đó khiến Celeste ngại ngùng quay mặt đi.

Cô nhìn xuống đại lộ, xuống chiếc xe rước hình chiếc găng tay bóng chày đang lướt qua, bám trên thành xe là những cầu thủ bóng chày nhỏ tuổi mặt mũi tươi rói, ra sức vẫy tay, sung sướng phát cuồng vì sự ngưỡng mộ của người xem.

Có gì đó ở cái xe rước hình găng tay khiến Sean lạnh buốt sống lưng, giống như chiếc găng khổng lồ không che chở cho lũ trẻ mà đang âm mưu nhốt chúng lại mà bọn nhóc vẫn tươi cười hớn hở không hề hay biết.

Trừ một thằng bé. Nó ngồi rúm lại một góc, đầu chúi xuống là lập tức Sean nhận ra: Đó là con trai của Dave.

"Michael!" Celeste vẫy thằng bé nhưng nó không hề nhìn lại. Mắt nó vẫn nhìn xuống dù mẹ liên tục gọi tên nó. "Michael, cưng ơi! Con trai yêu quý này, Michael!"

Chiếc xe rước tiếp tục trôi đi, Celeste tiếp tục gọi và con trai cô tiếp tục khước từ nhìn về phía mẹ mình. Sean có thể nhìn thấy một Dave trẻ hơn trên đôi vai thằng bé, ở cái cằm rũ xuống và vẻ ngoài gần như thanh tú của nó.

"Michael!" Celeste vẫn gọi. Cô kéo các ngón tay của mình và bước hắn xuống lòng đường.

Chiếc xe rước đã đi qua chỗ họ nhưng Celeste vẫn đi theo nó, di chuyển trong đám đông và không ngừng vẫy gọi con trai mình.

Anh cảm thấy Lauren đang vơ vẩn vuốt tay anh và nhìn sang bên kia đường về phía Jimmy. Cho dù mất cả đời, anh cũng sẽ bắt được hắn. Cậu có nhìn thấy tôi không hả Jimmy? Nhìn sang đây lần nữa đi nào.

Và Jimmy khẽ quay ra và mỉm cười với Sean.

Sean giơ tay lên, ngón cái dựng lên, ngón trỏ chĩa thẳng ra như hình khẩu súng rồi gập ngón cái xuống và bóp cò.

Jimmy toét miệng cười đáp lại.

"Người phụ nữ đó là ai?" Lauren hỏi.

Sean nhìn Celeste đang lóc cóc đi theo đám đông xem diễu hành, bóng dáng mỗi lúc một nhỏ đi, khi chiếc xe rước tiếp tục tiến về phía trước, tà áo bay phấp phới sau lưng.

"Một người vợ mất chồng," Sean đáp.

Và anh nghĩ tới Dave Boyle, thầm mong giá như anh có thể mời cậu ấy cái ly bia mà anh đã hứa ngày thẩm vấn thứ hai. Giá như anh có thể đối xử tử tế hơn với Dave khi còn nhỏ, giá như cha không bỏ rơi cậu ấy còn mẹ thì không mắc bệnh thần kinh và biết bao nhiêu điều bất hạnh khác xảy ra với Dave. Đứng đó trên con đường diễu hành giữa tưng bừng lễ hội với vợ và con mình, anh mong ước biết bao điều tốt đẹp cho Dave Boyle. Nhưng hơn tất cả, anh mong Dave bình an. Trên hết, anh hy vọng rằng Dave, cho dù cậu ấy đang ở đâu đi nữa thì cũng tìm được cho mình một chút bình an.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom