Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Nguồn: vnthuquan

Hồi còn là tù nhân Ở Việt Nam Connor đã thiết lập một hệ thống đếm từng ngày kể từ khi bị bắt.

Nhưng nằm trên giường trong căn xà lim không có cửa sổ này, thậm chí Connor không thể thiết lập được một hệ thống như vậy để biết mình đã Ở đây bao nhiêu lâu Chỉ huy trưởng Cảnh sát đã đến gặp gã hai lần và lần nào cũng tay không ra về. Connor bắt đầu tự hỏi không biết bao giờ thì ông ta hết kiên nhẫn trước cái điệp khúc của gã, chỉ xưng tên, quốc tịch và đòi gặp Ðại sứ. Gã không phải chờ lâu. Chỉ mấy phút sau khi Bolchenkov rời khỏi xà lim lần thứ hai, ba người đã tiếp đón gã hôm gã mới bị đưa đến đây đã xuất hiện.

Hai người trong số họ lôi gã ra khỏi giường và quẳng lên chiếc ghế mà Chỉ huy trưởng Cảnh sát vừa ngồi. HỌ quặt tay gã ra sau và còng lại.

Connor nhớ lại những lời Chỉ huy trưởng nói khi đến đây lần đầu tiên: "Tôi không tin Ở phương pháp tra tấn ÐÓ không phải kiểu của tôi". Nhưng đó là trước khi Zerimski trở thành Tổng thống.

Cuối cùng gã ngủ thiếp đi, nhưng không biết mình đã ngủ được bao nhiêu lâu. Gã chỉ biết là mình bị lôi lên khỏi sàn nhà và một lần nữa bị tống lên chiếc ghế đó.

HỌ trở lại lần thứ ba. Lần này họ lôi gã lên khỏi sàn và đẩy gã khỏi xà lim ra một hành lang dài hun hút.

Chính những lúc như thế này đây gã chỉ ước gì mình đừng có chút trí tưởng tượng nào. Gã cố không nghĩ đến những gì có thể xảy ra. Trong khi tuyên dương để tặng cho Trung úy Connor Fitzgerald Huân chương Danh dự, người ta đã miêu tả gã là một người đã không hề biết sợ là gì khi dẫn đầu quân xung trận, đã cứu sống một sĩ .

quan khác. Nhưng Connor biết mình chưa bao giờ gặp một ai không hề biết sợ là gì. Hồi đó gã đã bị giam trong một năm, năm tháng và hai ngày. Nhưng hồi đó gã mới có hai mươi hai tuổi, và Ở tuổi hai mươi hai người ta tin rằng mình sẽ không thể chết được.

Khi họ đẩy gã từ hành lang ra khoảng sân có ánh sáng trời, gã nhìn thấy một nhóm tù nhân đang dựng một giá treo cổ. Giờ đây gã đã năm mốt tuổi, và chẳng cần ai bảo cho mới biết rằng mình không hề bất tử.

***

Hôm thứ Hai đó, khi Joan Bet đãng ký vào làm việc Ở Langley thì chị biết rõ mình đã chịu bản án mười tám tháng được bao nhiêu ngày rồi, bởi vì mỗi buổi tối trước khi đi làm chị lại cho con mèo ăn và gạch chéo thêm một ngày trên cuốn lịch treo trên tường phòng bếp.

Joan đậu xe trong bãi đậu xe phía Tây và đi thẳng về phía thư viện. Vào đến bên trong tòa nhà chị đi xuống chiếc cầu thang bằng kim loại để đi xuống phòng tra cứu Trong chín tiếng đồng hồ tiếp đó - chỉ trừ một lúc nghỉ để ăn lót dạ vào lúc nửa đêm - chị sẽ phải ngồi đọc các mẩu tin tức trích từ các báo chí Ở Trung Ðông gửi về qua đường e- mail. Nhiệm vụ chính của chị là tìm xem có gì nhắc đến Mỹ không, và nếu đáng chú ý thì coppy lại trên máy tính và gởi bằng e-mail cho sếp của mình ngồi Ở tầng ba, người sẽ cân nhắc và xử lý tiếp theo trong buổi sáng hôm sau - vào giờ làm việc giống với người bình thường hơn. ÐÓ là một công việc chán ngắt, tẻ nhạt và làm chết dần đầu óc cua người ta. Ðã nhiều lần chị nghĩ đến chuyện xin thôi việc, nhưng sau đó lại quyết định không để cho Gutenburg thỏa mãn vì đã đạt được mục đích.

Ðúng trước giờ nghỉ giải lao nửa đêm Joan chợt nhìn thấy đầu đề bài báo in trên tờ Istanbul News: "1 Tên Mafya giết người bị đưa ra tòa " Chị vẫn nghĩ Mafia là bọn Italia, nhưng rồi rất ngạc nhiên khi thấy bài báo nhắc đến một tên khủng bố người Nam Phi đã phải ra tòa vì đã định ám sát Tổng thống mới của Nga. CÓ lẽ chị đã chẳng chú ý thêm nữa làm gì, nếu như không nhìn thấy bức ký họa kẻ bị buộc tội.

Tim Joan bắt đầu đập nhanh dần trong lúc chị cẩn thận đọc lại bài báo dài lê thê của Fatima Kusmann, phóng viên Ở Ðông âu của tờ lstanbul News. Trong bài báo nữ phóng viên này tuyên bố rằng cô ta đã ngồi cạnh tên giết người lành nghề này trong một cuộc họp của đám đông quần chúng Ở Moscow mà Zenmski đã tới diễn thuyết.

Nửa đêm đã qua từ lâu, nhưng Joan vẫn còn ngồi lại bàn mình.

***

Connor đang đứng Ở sân nhà tù nhìn đoạn đầu đài đang dựng dở thì một chiếc xe cảnh sát ập đến và một trong mấy người đang giải gã đi đẩy dúi gã vào ghế sau.

Gã ngạc nhiên khi thấy Chỉ huy trưởng Cảnh sát đang chờ mình. Bolchenkov không tài nào nhận ra gã Ở cái người hốc hác, đầu trọc lốc này.

Trong khi chiếc xe lao qua cổng và ra khỏi nhà tù, cả hai không ai nói câu nào. Người lái xe rẽ phải rồi chạy dọc bờ sông Neva với tốc độ đúng 50 ki lô mét một giờ.

HỌ đi qua ba chiếc cầu, rẽ trái, rồi qua chiếc cầu thứ tư để vào khu trung tâm thành phố. Trong khi xe chạy ngang qua sông, Connor nhìn qua cửa sổ và thấy cung điện Hermitage màu xanh lá cây nhạt. NÓ thật vô cùng tương phản với cái nhà tù mà gã vừa ra khỏi. Gã ngước nhìn bầu trời xanh trong sáng, rồi nhìn những người dân thường đang đi lại ngược xuôi trên phố. Tự do mới đáng giá làm sao. Sang đến bờ nam chiếc xe rẽ trái rồi chạy thêm vài trăm mét trước khi dừng lại trước Cung Công lý Một cảnh sát đứng chờ sẵn chạy đến mở cửa xe. Nếu Connor có tí ý định nào chạy trốn thì chỉ cần nhìn năm mươi cảnh sát khác đứng dọc hè phố cũng khiến gã phải nghĩ lại. HỌ đứng thành một vòng cung trong khi gã leo lên bậc thềm để đi vào tòa nhà vĩ đại bằng đá.

Gã bị dẫn đến trước một chiếc bàn, một sĩ quan giơ tay cầm lấy cổ tay gã đọc rồi ghi vào sổ hàng chữ số "12995". Sau đó gã bị giải đi dọc hành lang lát đá cẩm thạch và đến trước hai cánh cửa khổng lồ bằng gỗ sồi.

Còn cách mấy bước nữa thì cánh cửa đã bật mở, và gã bước vào một phòng xử án đã chật cứng.

Gã nhìn quanh cả một biển những khuôn mặt, rõ ràng họ đang chờ gã.

***

Joan đánh mấy chữ vào máy tính: tấn công tính mạng Zerilnski. Tất cả các bài báo về vấn đề này đều có vẻ thống nhất Ở một điểm: đó là người bị bắt Ở quảng trường Tự do tên là Piet de Villier, một tên giết người thuê người Nam Phi đã được Mafya Nga thuê để ám sát Zerimski. Trong đồ đạc của người này người ta nhận ra khẩu súng đã được sử dụng để ám sát ứng cử viên Tổng thống Colombia Ricardo Guzman hai tháng trước đây.

Joan quét bức ký họa trên tờ báo Thổ Nhĩ Kỳ vẽ Piet de Villier vào máy tính rồi phóng to đến mức nó choán hết màn hình. Sau đó chị quét riêng đôi mắt, đặt nó về tỷ lệ mắt thật. Giờ đây chị có thể biết chắc ai là người sắp bị đưa ra xử trong phiên tòa Ở Si. Petersburg.

Joan nhìn đồng hồ. Hai giờ hơn vài phút. Chị nhấc điện thoại bên bàn lên và quay một số máy chị đã thuộc lòng. Chuông reo một lúc mới có người nhấc máy, một giọng ngái ngủ trả lời:

- Ai đấy?

Joan chỉ nói:

- CÓ một điều rất quan trọng tôi cần phải gặp chị.

Khoảng một giờ nữa tôi sẽ đến chỗ chị - Nói rồi chị đặt máy.

Mấy giây sau, một người khác cũng bị đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại. Hắn lắng nghe thật kỹ rồi mới nói:

- Chúng ta chỉ cần đẩy tiến độ đã định sớm lên vài ngày thôi.

***

Connor đứng trước vành móng ngựa và nhìn quanh gian phòng xử án. Mắt gã dừng lại trước tiên Ở đoàn hội thẩm. ÐÓ có phải là mười hai người tốt và trung thực không? Không một ai trong số đó liếc mắt về phía gã.

Gã đoán là họ chẳng mất thì giờ để tuyên thệ mấy, và sẽ không có một yêu cầu thay thế người nào.

Tất cả mọi người trong phòng đứng dậy khi một người mặc áo thụng đen bước vào từ cửa bên. ông ta ngồi xuống chiếc ghế da lớn nhất kê giữa bục chủ tọa, ngay bên dưới bức chân dung Tổng thống Zerimski. Thư ký tòa đứng dậy và đọc lời buộc tội gã trên đất Nga, và dĩ nhiên là hắn không được phép xin bào chữa. Thư ký tòa ngồi xuống, một người đàn ông trung niên cao lớn và ảm ~ đạm ngồi ngay dưới bục hội thẩm đứng lên và phát biểu với chủ tọa phiên tòa.

Suốt phần còn lại của buổi sáng người đại diện cho bên nguyên nắm chặt ve áo và miêu tả những sự kiện dẫn đến việc bắt giữ bị cáo. ông ta kể lại việc de Villier đã bám theo Zerimski trong nhiều ngày ra sao trước khi bị bắt tại quảng trường Tự do và người ta đã phát hiện ra trong đống đồ đạc của bị cáo khẩu súng trường mà gã đã dự định dùng để ám sát Tổng thống yêu quý của chúng ta như thế nào. Người đại diện cho bên nguyên nói:

- ÐỒ đạc của hắn còn tố cáo rõ hơn. Trên chiếc vali đựng vũ khí có in rõ mấy chữ đầu tên hắn.

quan tòa cho phép đoàn hội thẩm kiểm tra khẩu súng và chiếc vai.

- Tệ hại hơn nữa, người ta tìm thấy một mẩu giấy giấu dưới đáy chiếc túi vải thô của bị cáo khẳng định đã chuyển một triệu đô la Mỹ vào một tài khoản đánh số Ở Geneva" Một lần nữa đoàn hội thẩm lại có dịp xem xét mẩu giấy chứng cứ đó. Kẻ đại diện cho bên nguyên lại nói tiếp với những lời ca ngợi sự chuyên cần và hùng mạnh của lực lượng cảnh sát St. Petersburg trong việc ngăn chặn hành động ghê tởm này, cũng như chuyên môn rất cao của họ thể hiện trong khi bắt giữ tên tội phạm. ông ta nói thêm rằng tổ quốc mắc một món nợ lớn đối với Vladimir Bolchenkov, Chỉ huy trưởng Cảnh sát St.Petersburg. Nhiều người trong đoàn hội thẩm gật đầu tán thành.

Người đại diện cho bên nguyên kết thúc bài độc thoại dài lê thê của mình bằng cách thông báo với đoàn hội thẩm rằng bị cáo sẽ luôn luôn từ chối trả lời mỗi khi bị hỏi có phải đã được thuê để tiến hành vụ giết người thay mặt Mafya không. ông ta nói:

- Với sự im lặng của hắn các vị cần quyết định theo ý muốn của mình. Ðối với tôi, với những chứng cứ đó thì chỉ có một phán quyết duy nhất, và một bản án duy nhất mà thôi.

ông ta mỉm cười nhạt nhẽo với chủ tọa phiên tòa và ngồi xuống.

Connor nhìn quanh phòng để tìm xem người được chỉ định để bào chữa cho mình. Gã tự hỏi luật sư của mình làm thế nào có thể thi hành được nhiệm vụ của mình một khi họ chưa bao giờ gặp nhau.

Chủ tọa phiên tòa gật đầu về phía cuối dãy ghế. Một thanh niên trẻ măng tựa như vừa rời ghế trường luật mới vài ngày đứng dậy. Anh ta không nắm ve áo trong lúc nhìn về phía đoàn hội thẩm, không mỉm cười với chủ tọa phiên tòa, thậm chí không quay về phía thẩm phán. Anh ta chỉ nói mỗi một câu:

- Thân chủ của tôi không phản đối điều gì.

Nói rồi anh ta ngồi xuống ngay.

Chủ tọa phiên tòa gật đầu rồi quay sang Chủ tịch đoàn hội thẩm, một người có vẻ mặt đau khổ và có lẽ biết rõ người ta chờ đợi gì Ở mình. ông ta đứng dậy:

- ông Chủ tịch đoàn hội thẩm, sau khi đã lắng nghe các chi tiết chứng cứ trong vụ này, ông có thấy bị cáo có tội không?

- CÓ tội - ông ta nói, không cần bàn bạc hay nói năng gì với bất cứ thành viên khác nào trong đoàn hội thẩm.

Lần đầu tiên chủ tọa phiên tòa nhìn ngó đến Connor:

- Vì đoàn hội thẩm đã có được phán quyết thống nhất, cho nên đã ủy quyền cho tôi tuyên bố bản án này. Và theo luật thì chỉ có một hình phạt duy nhất cho tội ác của hắn - ông ta dừng lại và nhìn trừng !rừng vào mặt Connor, nói - Ta xử anh tội chết bằng cách treo cổ - Rồi ông ta quay sang luật sư của bị cáo - Anh có muốn xin kháng án không?

Câu trả lời bật ra ngay lập tức:

- Không, thưa ngài.

- việc hành quyết sẽ tiến hành vào hồi tám giờ thứ Sáu tới Connor chỉ ngạc nhiên một điều là tại sao bọn họ lại chờ đến tận thứ Sáu mới treo cổ gã.

***

Trước khi đi Joan xem đi xem lại bài báo. Ngày tháng trùng khớp với thời gian Connor đi vắng. Ðầu tiên là chuyến đi Colombia, sau đó đến chuyến đi St.Petersburg. Ở đó - đúng như câu nói ưa thích của Connor - có quá nhiều trùng hợp ngẫu nhiên.

Ba giờ đêm, Joan cảm thấy kiệt sức. Chị không muốn phải nói cho Maggie biết kết quả việc điều tra của mình.

Và nếu thật sự Connor là người phải hầu tòa Ở St.Petersburg thì không được bỏ phí thêm một giây nào nữa, bởi vì tờ báo Thổ Nhĩ Kỳ đó đã ra hai ngày nay rồi.

Joan tắt máy tính, khóa bàn và hy vọng sếp sẽ không nhận thấy hộp thư e-mail hầu như rỗng không. Chị đi xuống cầu thang cũ kỹ để đi xuống tầng trệt, nhét chìa khóa điện vào cửa kiểm soát ra rồi len vào dòng người đi làm ca sáng.

Joan bật đèn rồi lái chiếc xe mới tinh ra khỏi bãi đỗ, qua cổng chính rồi rẽ về hướng đông chạy về phía Georgetown Washington Parkway. Mặt đường vẫn còn phủ lớp băng mỏng từ cơn bão tối qua, đội công nhân trên đường cao tốc đang dọn dẹp để chuẩn bị cho giờ cao điểm buổi sáng. Thường thường chị rất thích lái xe trên đường phố Washington vào buổi sớm vắng vẻ, lướt qua những tượng đài kỳ vĩ luôn nhắc nhở về lịch sử dân tộc.

Hồi còn học Ở trường Si. Paul chị vẫn thường hay ngồi im lặng Ở hàng đầu lắng nghe thầy giáo kể những câu chuyện về Washington, Jefferson, Lincoln và Roosevelt.

Chính sự ngưỡng mộ đối với các vị anh hùng dân tộc đó đã đốt cháy trong chị ham muốn được làm những công việc phục vụ quần chúng.

Sau khi tốt nghiệp Trường Ðại học Tổng hợp Minnesota, Joan đã nộp đơn xin vào làm việc cho FBI và CIA. Cả hai cơ quan đều yêu cầu chị đến để phỏng vấn, nhưng sau khi gặp Connor Fitzgerald chị đã hủy cuộc hẹn với FBI. ÐÓ là người đàn ông đã trở về từ một cuộc chiến tranh vô dụng với một tấm huân chương mà anh chẳng bao giờ nhắc đến, và tiếp tục phục vụ đất nước mình không hề cần đến khoa trương thanh thế. Nếu có bao giờ chị bày tỏ những ý nghĩ ấy với Connor thì anh chỉ cười to và bảo là chị quá nhạy cảm. Nhưng Tom Lawrence có lý khi gọi anh là một trong những anh hùng chưa được ca ngợi. Joan sẽ đề nghị Maggie liên lạc với Nhà Trắng ngay lập tức, bởi vì chính Lawrence là người đã yêu cầu Connor thực hiện nhiệm vụ này kia mà.

Joan đang cố gắng sắp xếp các ý nghĩ theo một trật tự logic thì một chiếc xe tải màu xanh lá cây từ làn bên ngoài vượt qua và bắt đầu tạt vào trong ngay trước mũi xe chị. Chị nháy đèn pha nhưng chiếc xe vẫn không tránh sang bên. Chị nhìn gương sau rồi chạy sang làn đường giữa. Ngay lập tức chiếc xe lại chèn sang đường của chị, buộc chị phải đánh mạnh tay lái sang bên trái.

Trong một tích tắc Joan phải quyết định nên đạp mạnh phanh hoặc tăng tốc vọt lên để vượt qua tên lái xe điên khùng này. Một lần nữa chị lại nhìn vào gương sau nhưng lần này kinh hoàng nhận thấy một chiếc xe Mercedes lớn màu đen đang chạy rất nhanh tới. Chị đạp ga hết mức, chiếc Passat nhỏ đáp ứng ngay lập tức, nhưng chiếc xe tải chở cát cũng tăng tốc, và chị không thể đạt nổi tốc độ để có thể vượt xa được nó.

Joan không còn cách nào khác là tiếp tục lái sang bên trái, hầu như vào đến vạch phân cách. Chị nhìn gương sau và thấy chiếc Mercedes cũng đuổi theo, lúc này đã gần như sắp đâm vào thanh chắn phía sau của xe chị. Chị cảm thấy tim đập rất mạnh. Phải chăng chiếc xe tải và chiếc Mercedes đang phối hợp với nhau? Chị chạy chậm lại một chút nhưng chiếc Mercedes chỉ càng sát đến mỗi lúc một gần thanh chắn phía sau của chị hơn. Joan lại đạp ga, xe chị vọt lên. MỒ hôi chảy ưót trán, chảy cả vào mắt, chị đã tiến lên được ngang hàng với chiếc xe chở cát, nhưng dù chân đã đạp ga hết mức chị vẫn không thể nào vượt qua nó. Chị nhìn thẳng vào ca bin và cố gắng thu hút sự chú ý của tên lái xe nhưng hắn phớt lờ cái vẫy tay của chị và vẫn tiến đến sát sạt vào bên trái buộc chị phải chạy chậm lại và rớt lại đàng sau. Joan lại nhìn vào gương sau: chiếc Mercedes vẫn còn đó, có chăng là gần sát thanh chắn phía sau của xe chị hơn chút nữa.

Trong khi chị nhìn thẳng về phía trước thì nắp sau thùng chiếc xe chở cát nhấc lên, hắn bắt đầu đổ cát xuống đường. Joan đạp phanh nhưng xe chị đã bị mất lái nó trượt qua vạch phân cách, trượt qua thảm cỏ về phía bờ sông. NÓ lia xuống nước như một viên đá dẹt, sau khi bồng bềnh một giây nổ biến mất. Tất cả những gì còn lại chỉ là một vết trượt dài trên bờ sông và vài cái bong bóng nổi lên trên mặt nước. Chiếc xe chở cát trở lại làn đường giữa và tiếp tục chạy về phía Washington. Một phút sau chiếc Mercedes nháy pha rồi tăng tốc chạy đi.

Hai chiếc xe con đang chạy về hướng sân bay Dulles dừng lại bên lề đường. Một trong hai người lái xe nhảy ra và chạy về phía bờ sông, hy vọng có thể giúp gì được, nhưng khi anh ta đến được bờ sông thì không còn thấy bóng dáng chiếc xe đâu nữa. Chỉ còn lại vết trượt dài trên bờ sông tuyết phủ và mấy cái bong bóng sủi lên trên mặt nước. Người lái xe nguệch ngoạc ghi lại số chiếc xe tải Anh ta đưa mẩu giấy cho viên cảnh sát đầu tiên tới chỗ xảy ra sự việc. Viên cảnh sát đánh dòng chữ số lên máy tính. Mấy giây sau anh ta ngẩng lên, nhăn mặt:

- ông có chắc là đã ghi lại đúng số chiếc xe ấy không? Phòng quản lý Giao thông Washington không hề có hồ sơ nào về một chiếc xe tải có số đăng ký như vậy cả.

***

Khi Connor bị đẩy vào sau xe, gã thấy Chỉ huy trưởng Cảnh sát đang chờ sẵn mình. Trong khi người lái xe bắt đầu lái xe trở lại Crucifflx, Connor không thể không hỏi Bolchenkov một câu:

Tôi rất muốn biết tại sao họ lại phải chờ đến tận thứ Sáu mới treo cổ tôi?

Chỉ huy trưởng đáp:

- Một chút may mắn đấy, thật sự là như vậy. Hình như Tổng thống yêu dấu của chúng ta khăng khăng muốn chứng kiến cuộc hành hình - Bolchenkov hít một hơi thuốc - Và phải đến sáng thứ Sáu ông ta mới có mười lăm phút trống.

Connor mỉm cười nhăn nhúm.

Chỉ huy trưởng nói tiếp:

ông Fitzgerald, tôi rất hài lòng là cuối cùng cũng làm cho ông mở miệng được. Bởi vì tôi nghĩ là đã đến lúc nói cho ông biết vẫn còn một phương án thứ hai để lựa chọn
 
Chương 21


Nguồn: vnthuquan

có lần Mack Twain nói về một người bạn thế này: "Nếu như anh ta không đến đúng giờ thì người ta có thể biết là anh ấy đã chết".

Bốn giờ, rồi thời gian tiếp tục trôi qua, Maggie nhìn đồng hồ đếm từng phút.Nhưng đến bốn rưỡi thì chị bắt đầu tự hỏi không hiểu có phải vì ngái ngủ nên chị hiểu lầm những gì Joan đã nói không.

Năm giờ, Maggle quyết định gọi đến nhà Joan.

Không có tiếng trả lời, chuông vẫn đổ dài đều đều.Sau đó chị thử gọi điện thoại trong xe Joan, nhưng lần này chị chỉ nghe thấy tổng đài trả lời: "Số điện thoại này đang tạm thời không bắt được.Xin gọi lại sau .

Maggie bắt đầu đi đi lại lại trong bếp, cảm thấy chắc chắn là Joan phải có một tin tức gì đó về Connor.Và tin đó phải rất quan trọng, nếu không thì tại sao chị ấy lại đánh thức chị dậy vào lúc hai giờ đêm? Connor gọi điện cho chị ấy ư? Hay chị ấy biết Connor đang Ở đâu? Liệu chị ấy có thể nói với chị là bao giờ anh sẽ về không?

Ðến sáu giờ, Maggie quyết định là mọi chuyện đã trở nên khẩn cấp.Chị bật TV để xem chính xác giờ.Khuôn mặt Charlie Gibson hiện ra trên màn hình.

- Sau đây chúng ta sẽ bàn về việc trang trí cho ngày lễ Giáng sinh, một việc mà ngay cả trẻ con cũng có thể giúp một tay.Nhưng trước hết, mời các bạn gặp Kevin Newman để biết những tin tức sáng nay.

Maggie đi đi lại lại quanh bếp trong khi nghe phát thanh viên dự đoán về Chương trình Cắt giảm Vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hóa học và Xuyên lục địa của Tổng thống hầu như sẽ không được Thượng viện bỏ phiếu thông qua, bởi vì giờ đây Zerimski đã trúng cử Tổng thống Ở Nga.

Chị đang tự hỏi không biết mình có nên phá vỡ quy ước và thử gọi cho Joan Ở Langley xem sao thì một dòng chữ hiện ra bên dưới khuôn mặt của Ken vin Newman:

"Trên dường đi Georgeton Washington Parkway đã xảy ra một vụ tai nạn giữa một chiếc xe tải chở cát và một chiếc Volkswagen - người ta cho là người lái chiếc xe con đã chết đuối- Các chi tiết sẽ được nói kỹ Ở bản tin New York vào lúc 6-30".

Maggie cố nuốt một bát bánh ngô trong khi phần điểm tin buổi sáng vẫn tiếp tục.Andy Lloyd xuất hiện trên màn hình, thông báo rằng Tổng thống Zerimski dự định sang thăm chính thức Washington vào khoảng trước lễ Giáng sinh." Tổng thống rất hoan nghênh tin này - phát thanh viên nói - và hy vọng rằng đó sẽ là một cách để thuyết phục những người lãnh đạo Ở Thượng viện tin rằng Tổng thống Nga mong muốn tiếp tục giữ mối quan hệ thân thiện với Mỹ- Tuy nhiên các nhà lãnh đạo lớn Ở Thượng viện nói là họ muốn chờ xem Zenmski phát biểu thế nào...

Maggie nghe có tiếng vật gì đó rơi trên thảm, chị đi ra cửa trước và nhặt bảy chiếc phong bì nằm trên sàn và vừa đi vào bếp vừa lật xem qua.Bốn cái gửi cho Connor, thường thì khi Connor đi vắng chị không bao giờ mở xem trước- Một cái là hóa đơn của hãng Pepco, một cái nữa đóng dấu bưu điện Chicago, trong chữ Maggie chữ "e" chỉ là một cái góc nên chị biết đó hẳn là thiếp chúc mừng năm mới thường lệ của Declan O casey.Trên chiếc phong bì cuối cùng là nét chữ của con gái chị.

Maggie gạt các phong bì khác sang bên và xé phong bì thư của con gái.

Mẹ yêu quý..

Con chỉ viết vài chữ để khẳng định với mẹ là thứ Sáu này Stuart sẽ đến, chúng con định sẽ lái xe đi San Francisco vài ngày trước khi bay lên Washington vào ngày mười lăm.

Maggie mỉm cười.

Cả hai chúng con đều mong được về nghỉ Giáng sinh với mẹ và ba.Ba không gọi điện cho con, vì thế con nghĩ là ba vẫn chưa về.

Maggie nhăn mặt.

Con có nhận được thư của Joan, có vẻ như cô ấy không thích công việc mới- Con đoán là cũng giống mẹ con mình, cô ấy nhớ ba.CÔ ấy nói là cô ấy mới mua một chiếc Volkswagen mới rất điệu...

Ðọc câu này đến lần thứ hai Maggie mới bắt đầu run bần bật.Lạy Chúa tôi, ôi, không - Chị nói thành tiếng.

Chị nhìn đồng hồ: 6.20.Trên TV Lia Mcree đang giơ cao một chuỗi xích làm bằng giấy cắt thành hình các quả khác nhau.CÔ nói vẻ rất rạng rỡ:

- Ðây là một trong các trang trí cho ngày hội Giáng sinh mà trẻ em có thể giúp chúng ta một tay.Bây giờ chúng ta chuyển sang chủ đề Cây thông Giáng sinh.

Maggie bật sang kênh 5.Một phát thanh viên khác đang dự đoán liệu kế hoạch đi thăm Washington của Zerimski có ảnh hưởng đến các nhân vật lãnh đạo Ở Thượng viện trong cuộc bỏ phiếu cuối cùng của họ đối với Chương trình cắt giảm Vũ khí không?

Maggie giục:

- Nhanh lên, nhanh lên chứ.

Cuối cùng người phát thanh viên nói:

Và bây giờ chúng tôi sẽ đưa thêm một số thông tin về vụ tạt nạn trên đường đi Georgown Washington parkway.Xin chuyển cho Liz Fullerton.phóng viên tại hiện trường.

- Cám ơn chị, .Julie.Tôi đang đứng trên đường đi Georgetown Washington Parkway, nơi đã xảy ra Vụ tai nạn giao thông vào khoảng ba giờ mười lăm sáng sớm hôm nay- Cách đây mấy phút tôi đã phỏng vấn người trực tiếp chứng kiến vụ tai nạn.

ống kính chiếu vào một người rõ ràng không nghĩ là sẽ xuất hiện trên truyền hình sáng hôm nay.Anh ta nói với phóng viên:

- Tôi đang chạy về phía Washington thì thấy chiếc xe tải chở cát này trút hàng xuống đường cao tốc khiến cho chiếc xe con chạy sau lạng đi và mất lái.Chiếc xe trượt ngang qua đường, lao xuống bờ sông và rơi xuống nước sông Potomac.

ống kính lia một góc rộng sang bờ sông, chiếu vào một nhóm thợ lặn của cảnh sát rồi quay lại khuôn mặt của phóng viên, cô ta nói tiếp:

- Không ai biết rõ chuyện gì đã xảy ra, chỉ có thể đoán rằng có lẽ người lái chiếc xe chở cát vì ngồi cao trên ca bin nên vẫn tiếp tục chạy đi mà không biết có tai nạn xảy ra.

Maggie kêu lên:

- Không, không, cầu cho không phải là chị ấy.

- Các bạn có thể nhìn thấy phía sau lưng tôi nhóm thợ lặn của cảnh sát đã xác định được vị trí chiếc xe.RÕ ràng đó là một chiếc Wollwagen.người ta hy vọng khoảng độ một giờ nữa là có thể đưa được chiếc xe lên khỏi mặt nước.Chưa xác định được người lái xe là ai.

- Không, không, không - Maggie rên rỉ - Cầu Chúa cho đó không phải là Joan.- - Cảnh sát hiện đang yêu cầu người lái một chiếc Mercedes màu đen, có thể là người chứng kiến tai nạn, đến và giúp đỡ cảnh sát trả lời một số câu hỏi.Chúng tôi hy vọng trong vài giờ tới sẽ đem lại cho các bạn một số thông tin mới, vì thế cho đến lúc đó....

Maggie chạy ra hành lang, vớ lấy áo khoác và chạy bổ ra cửa trước.Chị nhảy vào xe và nhẹ người khi thấy chiếc Toyota cũ kỹ khởi động hầu như ngay lập tức.Chị đánh xe lên ra tới Von Place rồi tăng ga chạy theo Phố Hai mươi chín, rẽ sang hướng đông để chạy về phía Parkway.

Nếu Maggie nhìn vào gương hậu thì chị sẽ thấy một chiếc Ford nhỏ màu xanh lơ chậm chạp lượn vòng rồi đuổi theo xe chị- Người hành khách ngồi Ở ghế trước đang quay điện thoại gọi đến một số máy không đăng ký.

***

- ông Jackson, thật tốt là ông đã trở lại và gặp tôi một lần nữa.

Jackson thấy buồn cười vì vẻ nhã nhặn của Nicolai Romanov, nhất là vì ông ta cứ làm như gã còn được phép lựa chọn không bằng.

Cuộc gặp gỡ thứ nhất là do Jackson yêu cầu và rõ ràng là nó đã không phí thì giờ bởi vì Sergei vẫn chạy lung tung được trên cả hai chân.Các cuộc gặp tiếp theo là do Romanov gọi để thông báo cho Jackson các chi tiết mới nhất của kế hoạch.

Sa hoàng ngồi xuống chiếc ghế có tay vịn, Jackson để ý thấy cốc chất lỏng không màu mọi khi để trên chiếc bàn bên cạnh.Gã đã nhớ phản ứng của ông trùm khi gã đặt ra một câu hỏi, vì thế gã chờ cho ông ta nói trước.

- ông Jackson, chắc ông sẽ hài lòng khi biết rằng cho đến lúc này, ngoài một vấn đề duy nhất cần phải giải quyết thì mọi việc đã được bố trí chu đáo để bạn ông vượt ngục.Bây giờ chúng ta chỉ còn cần ông Fitzgeral đồng ý với các điều kiện của chúng ta.Nếu như ông ta cảm thấy không thể chấp nhận được thì tôi không thể làm gì để ngăn cản việc ông ta sẽ bị treo cổ vào tám giờ sáng mai - Romanov nói một cách vô cảm - Bây giờ tôi xin phép nói lại toàn bộ kế hoạch mà chúng tôi đã chuẩn bị, nếu ông ta quyết định là sẽ đi tiếp.Tôi tin rằng vốn là một Phó Giám đốc của CIA cho nên con mắt đánh giá của ông sẽ rất có ích.

ông trùm bấm một cái nút trên tay ghế, cánh cửa cuối phòng ngay lập tức mở ra.Alexei Romanov bước vào.

Sa hoàng nói:

- Tôi tin là ông đã biết con trai tôi.

Jackson liếc nhìn về phía người luôn đi kèm mình trong những chuyến đi trước nhưng rất hiếm khi cất lời.

Gã gật đầu.

Gã thanh niên bước tới kéo tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ thứ 14 miêu tả trận chiến đấu Ở Flander sang bên.

Phía sau tấm thảm là một chiếc TV lớn.Màn hình dẹt của chiếc TV trông thật tương phản với các đồ trần thiết tuyệt đẹp xung quanh, nhưng người chủ của nó và người sử dụng nó trông còn trái ngược hơn - Jackson nghĩ Hình ảnh đầu tiên hiện lên trên màn hình là chiếu cảnh bên ngoài của nhà tù Crucifflx.

Alexei Romanov chỉ vào cổng vào.

- Zerimski dự định sẽ có mặt Ở nhà tù vào lúc bảy giờ bốn lăm.ông ta sẽ ngồi trong chiếc xe thứ ba trong đoàn xe bảy chiếc và sẽ đi vào bằng cái cổng ngách kia.Gã dịch chuyển ngón tay trên màn hình - Tổng thống sẽ gặp Vladimlr Bolchenkov và được ông này đưa đến sân chính của nhà tù, nơi sẽ diễn ra cuộc hành hình.Ðến bẩy giờ năm hai phút.

Romanov con tiếp tục cho Jackson biết kế hoạch chi tiết đến từng phút và đi sâu vào các chi tiết hơn khi nói đến việc làm thế nào để giải thoát cho Connor.Jackson nhận thấy anh ta dường như không hề nhắc nhở đến một vấn đề còn để ngỏ, rõ ràng là rất tin rằng cha mình sẽ tìm ra được một giải pháp trước sáng mai.Sau khi nói xong, Alexei tắt TV, kéo lại tấm thảm về chỗ cũ và quay lưng hơi cúi đầu về phía cha.Sau đó gã rời khỏi phòng, không nói thêm lời nào.

Sau khi cửa đã khép lại, ông trùm hỏi:

ông có nhận xét gì không?

Jackson nói:

- Một hai ý kiến thôi- Trước hết cho phép tôi được nói rằng kế hoạch rất hay và tin rằng nó có nhiều khả năng thành công.RÕ ràng là ngài đã tính đến mọi khả năng có thể xảy ra - nghĩa là với giả thuyết Connor đồng ý với các điều kiện đưa ra.Và về vấn đề đó thì tôi xin nhắc lại là tôi không có quyền phát biểu thay cho anh ta.

Romanov gật đầu.

- Nhưng ngài vẫn phải giải quyết một vấn đề nữa.

ông trùm hỏi:

Vậy ông có giải pháp gì không?

Jackson đáp:

- Có, tôi đã có giải pháp.

***

Bolchenkov mất gần một giờ để đọc kế hoạch của Romanov, sau đó để cho Connor cân nhắc.ông ta không cần nhắc để gã nhớ rằng gã không có nhiều thời gian để mà suy nghĩ: bốn mươi lăm phút nữa Zerimski sẽ đến Cruciffix.

connor nằm trên giường- Các điều kiện họ đưa ra vô cùng rõ ràng và dứt khoát.Nhưng ngay cả khi gã đồng ý chấp nhận những điều kiện đó và thực hiện thành công việc trốn thoát thì gã cũng cảm thấy không hoàn toàn tự tin để thực hiện những cam kết về phía mình- Nếu gã không thành công thì bọn họ sẽ giết gã - trừ việc Bolchenkov hứa rằng việc đó sẽ không nhanh chóng và nhẹ nhàng như bị treo cổ.ông ta cũng nói rõ từng tiếng - đề phòng trường hợp Connor còn chút nghi ngờ nào- rằng mọi hợp đồng thỏa thuận với Mafya Nga không được tôn trọng thì trách nhiệm sẽ tự động chuyển sang người có quan hệ gần gũi nhất với kẻ vi phạm.

Connor không hề tìm thấy một nét chế nhạo nào trên khuôn mặt Chỉ huy trưởng, khỉ ông ta lấy ra mấy bức ảnh trong ví và đưa cho gã.

- Hai người đàn bà đẹp - Bolchenkov đã nói - Chắc ông phải rất tự hào về họ.Thật bi thảm nếu như phải rút ngắn cuộc đời của họ mà họ chẳng hề biết lý do vì sao.

Mười lăm phút sau cửa xà lim lại bật mở, Bolchenkov trở lại và dập tắt điếu thuốc đang vắt vẻo trên môi.Lần này ông ta không ngồi.Connor tiếp tục nhìn lên trần nhà tựa như không hề có ông ta Ở đó.

Chỉ huy trưởng châm lại điếu thuốc nói:

- Tôi thấy là cái đề nghị nho nhỏ đó của chúng tôi khiến cho ông cảm thấy tiến thoái lưỡng nan- Ngay cả sau khi chúng ta đã khá thân tình tôi cũng không thấy ngạc nhiên lắm về điều đó.Nhưng có lẽ sau khi nghe tin tức cuối cùng dành cho ông, hy vọng là ông sẽ đổi ý.

Connor vẫn tiếp tục nhìn lên trần nhà.

Thư ký cũ của ông, Joan Bet đã không may gặp một tai nạn xe hơi- CÔ ta đang trên đường từ Langley đến thăm vợ ông.

Connor quăng hai chân xuống khỏi giường, ngồi thẳng dậy và nhìn chằm chằm vào Bolchenkov.

- Nếu Joan đã chết thì làm sao các ông biết được rằng cô ấy đang trên đường đến gặp vợ tôi?

Chỉ huy trưởng nói:

CIA không phải là người duy nhất ghi âm điện thoại của vợ ông.

ông ta hít một hơi cuối cùng điếu thuốc lá, rồi để mặc cho mẩu thuốc rời khỏi môi và rơi xuống sàn nhà.

Chúng tôi đoán là cách nào đó thư ký cũ của ông đã phát hiện được ai là kẻ đã bị bắt giữ trên quảng trường Tự do.Và nếu như vợ ông cũng đầy tự hào và có một cái đầu mạnh mẽ như nét mặt của bà nhà cho thấy thì tôi cho rằng chẳng bao lâu vợ ông cũng đi đến một kết luận tương tự.Trong trường hợp đó tôi e là bà Fitzgerald cũng sẽ phải chịu chung số phận với cô thư ký cũ của ông.

Connor nói: - Nếu như tôi chấp nhận các điều kiện của Romanov thì tôi cũng yêu cầu có một điều khoản riêng của mình.

Bolchenkov thích thú lắng nghe.

***

- Ngài Gutenburg có phải không ạ?

- Tôi đây.

Tôi là Maggie Fitzgerald.Tôi là vợ của Connor Fitzgerald, người hiện nay đang ra nước ngoài để thực hiện một nhiệm vụ của các ngài.

Gutenburg nói:

- Tôi chưa nhớ ra cái tên đó.

- Ngài đã có mặt Ở bữa tiệc chia tay anh ấy Ở nhà tôi, chỉ mới cách đây hai tuần thôi.

Gutenburg lạnh lùng nói:

- Tôi nghĩ là bà đã lầm tôi với ai đó.

- Ngài Gutenburg, tôi không hề lầm ngài với bất cứ ai cả Thực tế, vào lúc tám giờ hai mươi bảy phút ngày mồng hai tháng Mười một ngài đã gọi điện thoại từ nhà tôi đi đến văn phòng ngài.

- Bà Fitzgerald, tôi không hề gọi cú điện thoại nào như vậy cả-, và tôi có thể cam đoan là chồng bà không hề làm việc dưới quyền tôi.

- Ngài Gutenburg, vậy hãy nói cho tôi biết Joan Bet có bao giờ làm việc cho Cục không - Hay là chị ấy cũng bị xóa khỏi bộ nhớ của ông một cách thật đúng lúc rồi?

- Bà Fitzgerald, bà đề nghị điều gì?

- A, cuối cùng tôi cũng làm cho ông chú ý được rồi đấy- Cho phép tôi sửa chữa bộ nhớ của ông hiện đang tạm thời bị mất một ít.Joan Bemlett là thư ký của chồng tôi gần hai mươi năm nay, và tôi cảm thấy ngài khó mà chối bỏ được việc ngài biết là chị ấy đang trên đường từ Langley đến thăm tôi thì lại gặp cái chết.

- Tôi rất buồn khi đọc được tin về tai nạn giao thông mà cô Bet gặp phải, nhưng tôi không hiểu điều đó có liên quan gì đến tôi.

- Hiện nay báo chí thấy rất bí ẩn trong việc thực ra chuyện gì đã xảy ra trên đường Georgetown Washington Parkway sáng hôm qua, nhưng có lẽ họ sẽ tiến được đến gần sự thật hơn một chút nếu biết rằng Joan Bet đã từng làm việc với một người đã biến mất tăm khỏi mặt đất trong khi thi hành một nhiệm vụ đặc biệt cho các người.Từ trước đến nay tôi vẫn luôn biết rằng các phóng viên bao giờ cũng đánh giá những câu chuyện có liên quan đến một người được thưởng Huân chương Danh dự sẽ rất thú vị đối với các độc giả.

- Bà Fitzgerald, không thể bắt tôi phải nhớ được hết tên từng người trong số mười bảy ngàn người làm việc cho CIA, và tôi không hề nhớ ra là có gặp cô Bet bao giờ chưa, chứ đừng nói đến chồng bà.

- Ngài Gutenburg, vậy là tôi đành phải đẩy nhẹ cái trí nhớ tồi tệ của ngài thêm một lần nữa.CÓ điều là cái bữa tiệc mà ngài không đến dự và không từ đó gọi điện thoại về Cơ quan ấy mà, may mà - hay không may cũng được - đã được con gái tôi quay video lại- NÓ hy vọng sẽ làm cha nó ngạc nhiên bằng cách tặng cho cha nó băng video quà Giáng sinh- Tôi đã xem qua cuộn băng ấy, ngài Gutenburg ạ, và mặc dù ngài chỉ đóng một vai rất phụ nhưng tôi có thể cam đoan là ngài đã ngồi nói chuyện với Joan Bet Ở đó và ai cũng có thể nhìn thấy rõ.

Cuộc nói chuyện này cũng đã được ghi âm lại, và tôi cảm thấy hãng truyền hình sẽ đánh giá cao sự đóng góp của ngài vào cho chương trình tin tức buổi tối.

Lần này phải một lúc lâu Gutenburg mới trả lời.Cuối cùng hắn ta nói:

- Bà Fitzgerald, có lẽ chúng ta nên gặp nhau cũng là một ý kiến hay.

- Ngài Gutenburg, tôi thấy việc đó cũng chẳng để làm gì Tôi biết rõ tôi phải yêu cầu ngài điều gì.

- Vậy đó là gì, bà Fitzgerald?

Tôi muốn biết lúc này chồng tôi đang Ở đâu, và bao giờ anh ấy sẽ trở về.Ðể trả lại hai mẩu thông tin đó tôi sẽ đưa cho ngài cuộn băng.

- Tôi cần một chút thời gian.

Maggie nói:

- Dĩ nhiên là ngài cần có thời gian.Vậy hãy nói là sau bốn mươi tám giờ nữa nhé - Và ngài Gutenburg này, chớ phí thời gian lục lọi nhà tôi để tìm kiếm cuộn băng.NÓ đã được giấu Ở một nơi mà ngay cả cải đầu óc quỷ quyệt của ngài cũng chẳng thể nghĩ ra được.

- Nhưng...- Gutenburg toan nói...

- Tôi cũng cần phải nói thêm là nếu ngài quyết định loại bỏ tôi như đối với Joan Bet, thì tôi cũng đã dặn các luật sư là nếu tôi chết trong một hoàn cảnh đáng ngờ thì họ sẽ gửi ngay bản sao cuộn băng đó cho ba hãng truyền hình lớn nhất, Fox và CNN.Mặt khác, nếu như tôi chỉ mất tích thì sau bảy ngày cuộn băng sẽ được công bố.Tạm biệt, ngài Gutenburg.

Maggie đặt điện thoại xuống và đổ vật xuống giường, mồ hôi vã ra như tắm.

Gutenburg lao bắn qua chiếc cửa nối thông phòng hắn với phòng của Giám đốc.

Helen Dexter ngước lên, không giấu nổi ngạc nhiên khi thấy Phó Giám đốc của mình bước vào phòng mà không buồn gõ cửa.

Hắn chỉ nói ngắn gọn:

- Chúng ta gặp một khó khăn.
 
Chương 22


Nguồn: vnthuquan

Người tử tù không ăn sáng.

Thường nhân viên nhà bếp bao giờ cũng cố lấy một mẩu bánh mì từ bữa ăn cuối cùng của một người tù, nhưng lần này không được.Gã chỉ nhìn vào những thứ người ta đưa đến một lần rồi nhét cái đĩa thiếc xuống dưới giường.

Mấy phút sau, một cha cố đạo chính thống Nga bước vào xà lim.ông nói rằng mặc dù không cùng giáo phái với tù nhân nhưng ông rất vui lòng nếu được tiến hành những nghi lễ cuối cùng cho gã.

Miếng bánh thánh là thứ thực phẩm duy nhất gã ăn trong ngày hôm đó.Sau khi vị cha cố thực hiện mấy nghi thức nhỏ, họ bèn cùng nhau quỳ trên nền đá lạnh lẽo.

Cuối buổi cầu nguyện ngắn, vị linh mục ban phép cho gã rồi để gã lại cô đơn một mình.

Gã nằm trên giường, mắt nhìn thẳng lên trần nhà và không hề hối hận quyết định của mình lấy một giây.Sau khi nghe gã giải thích các lý do của mình Bolchenkov đã chấp nhận mà không hề nói câu nào, thậm chí lại còn gật đầu vẻ thông hiểu trước khi rời -xà lim- ÐÓ là cử chỉ duy nhất của Chỉ huy trưởng Cảnh sát để thừa nhận rằng ông ta ngưỡng mộ ý chí dũng cảm của một con người.

Trước đây người tù đã từng đối mặt với cái chết một lần.Hồi đó gã cũng không hề bị kinh hoàng lấy một giây.Nhưng hồi đó gã nghĩ đến vợ và đứa con mà gã chưa hề được nhìn thấy mặt.Nhưng lần này gã chỉ nghĩ đến cha mẹ gã đã chết cách nhau vài ngày.Gã thấy mừng vì cả hai người đã đi xuống mộ với những ký ức đẹp đẽ về gã.

Ðối với họ, việc gã từ Việt Nam trở về là một chiến thắng, và họ vui mừng khi gã nói rằng có ý định tiếp tục phục vụ tổ quốc.Thậm chí gã cũng có thể trở thành Giám đốc nếu như Tổng thống không vì một sự phiền hà mà quyết định bổ nhiệm một người đàn bà với hy vọng điều đó sẽ giúp cho ông ta phất cao lá cờ vận động bầu cử Nhưng nó đã chẳng giúp gì cho ông ta.

Mặc dầu chính Gutenburg là người đã thọc lưỡi dao vào giữa hai bả vai gã, nhưng chẳng nghi ngờ gì về việc ai là kẻ đưa con dao cho hắn.Mụ ta hẳn thích chơi trò Phu nhân Macbett.Gã sẽ đi xuống mồ, biết rằng sẽ có một vài đồng bào biết đến sự hy sinh của mình.Với gã, điều đó chỉ khiến cho mọi việc bõ công hơn một chút.

Chẳng có nghi lễ vĩnh biệt.Không có chiếc quan tài nào được phủ lá cờ Mỹ dành cho gã.Không có bạn bè và những người thân thích đứng quanh mộ để nghe cha cố xưng tụng những đức tính tốt đẹp và hành động cao cả để phục vụ quần chúng trong sự nghiệp của gã.Không có các lính thủy tự hào giương cao súng lên trời.Không có hai mươi mốt phát đại bác bắn chào.Không có lá cờ nào được gấp lại và được đại diện của Tổng thống trao lại cho người thân của gã.

Không- Gã đã quyết định sẽ chỉ làm một anh hùng không được ca ngợi nữa của Tom Lawrence mà thôi.

Với gã, tất cả những gì trước mắt còn lại chỉ là bị treo cổ lủng lẳng trên một đất nước xa lạ- Một cái đầu cạo trọc, một hàng số trên cổ tay, và một nấm mộ không có gì làm dấu.

Tại sao gã lại có một quyết định khiến Chỉ huy trưởng vốn không hề có tình cảm lại cảm động sâu sắc đến thế?

CÓ lẽ gã nên đối mặt với tiểu đội hành hình cách đây hai mươi tám năm và Ở một nơi rất xa nơi này mới phải.

Nhưng gã đã sống.lần này sẽ chẳng có ai cứu được gã vào phút chót nữa.Và cũng đã quá muộn để gã có thể đổi ý.

***

Tổng thống Nga tỉnh dậy với một tâm trạng tồi tệ.

Người đầu tiên bị ông ta trút sự bực bội lên đầu là đầu bếp.ông ta gạt bữa điểm tâm xuống đất và hét lên:

- Ðây là lòng mến khách dành cho tôi mỗi khi tôi đến Leningrad à?

ông ta ào ra khỏi phòng như một cơn bão.Trong phòng làm việc của ông ta, một nhân viên đã đặt lên bàn những tài liệu cần phải ký, đó là những văn bản mở rộng quyền lực của cảnh sát.Ðiều này cũng chẳng hề thay đổi được tâm trạng đen tối của Zerimski chút nào.ông ta biết như vậy cũng chỉ bắt thêm được mấy thằng móc túi và trấn lột tiền trên phố mà thôi.Nhưng cái mà ông ta muốn được nhìn thấy trên đĩa là cái đầu của Sa hoàng kia.Nếu như BỘ trưởng BỘ Nội vụ tiếp tục để hắn tự do thì có lẽ sẽ phải nghĩ đến chuyện thay thế ông ta.

CÓ tiếng một nhân viên nói:

- Thưa Tổng thống, xe của ngài đang chờ ạ.

Zerimski mỉm cười trước ý nghĩ điều hiển nhiên sẽ là cái đáng chú ý nhất trong ngày hôm nay của ông ta.ông ta đã trông ngóng một buổi sáng Ở Crucifflx trong khi những người khác lại đoán về một buổi tối Ở Kirov.

ông ta ra khỏi văn phòng, đi dọc hành lang lát đá cẩm thạch của tòa nhà mới được trưng dụng và đi về phía cửa, mấy người tuỳ tùng nhanh nhẹn đi trước.ông ta dừng lại một lúc Ở bậc thềm trên cùng để nhìn xuống đoàn xe hào nhoáng.ông ta đã yêu cầu phải có một chiếc Limousine sang trọng hơn bất cứ Tổng thống nào trước đó.

ông ta chui vào chiếc xe thứ ba và nhìn đồng hồ: Bảy giờ bốn ba phút.Một giờ trước cảnh sát đã dọn quang các phố, để cho đoàn xe của Tổng thống có thể đi qua mà không vướng phải bất cứ một chiếc xe nào khác.

Việc ngưng mọi hoạt động giao thông sẽ khiến mọi người dân thành phố biết rằng Tổng thống hiện đang Ở đây ông ta đã giải thích cho Tham mưu trưởng như vậy.

Với quãng đường thường ngày người ta phải đi hết khoảng hai mươi phút thì cảnh sát giao thông ước tính đoàn xe chỉ mất không hết bảy phút.Trong khi phóng qua tất cả các cột đèn chỉ huy giao thông bất cứ là đang sáng màu gì và lướt qua sông, Zenmski không hề nhìn về phía Hermitage lấy một lần.Sang đến bên kia bờ sông Neva người lái chiếc xe đi đầu tăng tốc lên tới một trăm ki lô mét một giờ để đảm bảo cho Tổng thống đến đúng giờ trong chuyến công du đầu tiên của sáng hôm ấy.

***

Ðang nằm trên giường, người tù nghe rõ tiếng những người gác đi dọc hành lang lát đá tảng để đi tới chỗ mình, càng đến gần hơn, tiếng bước chân của họ lớn dần lên.Gã tự hỏi không biết họ có bao nhiêu người.HỌ dừng lại trước xà lim của gã.CÓ tiếng chìa khóa quay trong ổ, rồi cửa bật mở.Khi chỉ còn lại rất ít thời gian sống trên đời người ta sẽ chú ý đến tất cả mọi chi tiết.

Bolchenkov dẫn họ vào.Người tù thấy ngạc nhiên vì ông ta quay lại nhanh như vậy- ông ta châm một điếu thuốc, hít một hơi rồi đưa cho người tù.Gã lắc đầu.Chỉ huy trưởng nhún vai, vứt điếu thuốc xuống nền nhà bằng đá lấy chân di lên rồi quay đi để đón Tổng thống.

Người thứ hai bước vào xà lim là cha cố.ông ta mang theo một cuốn thánh kinh rất to và nhẹ nhàng ngân nga những lời chẳng có ý nghĩa gì đối với người tù.Sau đó là ba người khác bước vào, gã nhận ra bọn họ ngay lập tức.

HỌ nhìn trừng trừng vào gã, hầu như muốn rằng gã sẽ chống lại, nhưng họ thất vọng thấy gã thản nhiên đưa hai tay ra sau và đợi.HỌ sập còng lại và đẩy gã khỏi xà lim để ra hành lang.Ði đến tận cuối hành lang dài dằng dặc và xám xịt gã mới lờ mờ nhìn thấy ánh sáng trời.

Tổng thống bước ra khỏi chiếc Limousine và được Chỉ huy trưởng đón chào.Bolchenkov đưa Zerimski tới sân chính nơi sẽ diễn ra cuộc xử tử.Không ai dám đề nghị Tổng thống cởi chiếc áo lông thú dày cộp trong buổi sáng giá buốt này.Trong khi họ đi tới, đám đông nhỏ đang đứng túm tụm cạnh tường bắt đầu vỗ tay.Chỉ huy trưởng nhận thấy mặt Zerimski hơi thoáng nhăn:

Tổng thống vẫn nghĩ là sẽ có rất đông người dân đến chứng kiến người đã được cử đến giết mình.

Bolchenkov đã đoán trước rằng điều này có thể sẽ thành vấn đề, nên ông ta ghé sát vào tai Tổng thống thì thầm:

- Tôi đã ra lệnh chỉ cho những người trung kiên nhất của chúng ta đến dự.

Zerimski gật đầu.Bolchenkov không bổ sung cho ông ta biết là mình đã phải rất khó khăn mới lôi được số người ít ỏi kia đến Crucitfix vào sáng hôm nay.

Chỉ huy trưởng dừng lại trước chiếc ghế thời thế kỷ thứ mười tám mà Nữ hoàng Catherine đã mua của Thủ tướng Anh Robert Walpole hồi năm 1779 mà hôm qua người ta được lệnh đem từ Hermitage về.Tổng thống ngồi xuống chiếc ghế kê đối diện với giá treo cổ vừa mới được dựng xong.

Mấy giây sau Chỉ huy trưởng đã bắt đầu sốt ruột gõ ngón tay, chờ đợi người tù xuất hiện.ông ta nhìn lướt đám đông và dừng lại Ở một đứa bé đang khóc- Ðiều đó khiến ông ta không hài lòng.

Ðúng lúc đó người tù nhô ra khỏi hành lang tối tăm và bước vào bầu không khí buổi sáng thoáng đãng.Cái đầu trọc dính đầy máu khô, bộ áo tù màu xám mỏng dính khiến anh ta trông thật vô danh một cách kỳ lạ.Anh ta tỏ ra vô cùng bình thản so với một người đang cận kề với cái chết.

Người tử tù nhìn lên trời và hơi rùng mình khi một sĩ quan bước tới, cầm cổ tay anh ta lên và đọc hàng số 12995.Sau đó anh ta quay lại phía Tổng thống và đọc to lệnh tòa.

Trong khi viên sĩ quan tiến hành các thủ tục cần thiết, người tù nhìn quanh sân.Gã nhìn thấy đám đông run rẩy, hầu hết đều đứng im phăng phắc không dám động đậy chỉ sợ phải đến đứng cạnh gã.Mắt gã dừng lại Ở thằng bé, nó vẫn đang khóc thổn thức.Nếu bọn họ cho phép gã lập di chúc, thì gã sẽ để lại mọi thứ cho thằng bé này.Gã liếc nhìn lên giá treo cổ, rồi nhìn về phía Tổng thống.Mắt hai người gặp nhau- Mặc dầu đang khiếp sợ nhưng người tù vẫn chịu đựng ánh mắt của Zenmski.Gã đã quyết định không để cho hắn ta được nếm cái thỏa mãn biết được gã sợ hãi như thế nào.Nếu như Tổng thống đừng có nhìn lại gã mà nhìn xuống chân mình, thì gã cũng sẽ làm như vậy.

Viên sĩ quan đã làm xong phần việc của mình bèn cuốn tờ giấy lại và bước đi.Ðây là tín hiệu để cho hai người khác bước tới, mỗi người nắm lấy một cánh tay người tử tù và lôi gã đến giá treo cổ.

Gã bình thản bước qua mặt Tổng thống và đi tới giá treo cổ.Lên đến bậc gỗ đầu tiên, gã ngước nhìn tháp đồng hồ.Tám giờ kém ba phút- CÓ mấy ai được biết chính xác mình còn được sống bao nhiêu lâu nữa như mình - gã thầm nghĩ.Hầu như gã mong cho chuông đồng hồ hãy điểm đi.Gã đã chờ hai mươi tám năm để trả món nợ của mình.

Giờ đây, trong những giây cuối cùng, tất cả như ùa trở ÐÓ là một buổi sáng tháng Năm oi bức- Người ta cần phải xử một kẻ thù, và là sĩ quan cao cấp nhất trong nhóm gã đã bị chấm.Viên trung uý, người phó của gã đã bước lên và xin được thay cho gã- Thế rồi, là một kẻ hèn nhát, gã đã không phản đối.

Ðến nửa đêm, chính viên Trung úy đã đến bên giường gã và nói rằng họ phải cố thử trốn đi.

Viên Trung úy nói anh ta thích được liều chết trong đầm lầy còn hơn.Ðêm đến khi anh ta trốn đi, viên ÐẠI úy cũng miễn cưỡng đi theo.Mấy giờ sau khi mặt trời ló ra Ở đường chân trời, họ vẫn còn thấy thấp thoáng bóng trại giam.HỌ đã phải trầm mình xuống dưới mặt nước đầm lầy, nhưng chỉ vài giây sau đã phải trồi lên.Cuối cùng, sau một ngày dài lê thê nhất đời, bóng tối cũng đổ xuống.Gã đã cầu xin Trung úy tiếp tục đi một mình, nhưng anh ta đã từ chối.

Ðến cuối ngày thứ hai thì gã chỉ ước gì mình chết đi cho rồi.Nhưng viên sĩ quan trẻ vẫn đi tới.Ðến sáng ngày thứ mười hai thì họ đến được đất khô, và lả đi vì kiệt sức và ốm yếu, gã gục xuống.Sau đó gã được biết rằng viên Trung úy đã vác gã đi thêm bốn ngày nữa xuyên qua rừng già để tới được nơi an toàn.

Sau đó gã tỉnh lại trong một bệnh viện quân đội.

Gã hỏi cô y tá đang chăm sóc mình:

- Tôi Ở đây bao lâu rồi?

CÔ ta đáp:

Sáu ngày.ông thật may mắn là vẫn sống.

Thế còn bạn tôi?

- ông ấy tỉnh được hai ngày rồi.Sáng nay ông ấy đã đến thăm ông.

Gã lại ngủ thiếp đi.Tỉnh dậy, gã hỏi xin cô y tá giấy bút.Suốt ngày hôm đó gã ngồi trên giường bệnh viện và viết đi viết lại bản đề nghị tuyên dương.Cuối cùng, khi hoàn thành một bản như ý gã yêu cầu gửi cho Tư lệnh.

Sáu tháng sau, gã đứng trên bãi cỏ trước Nhà Trắng, giữa Maggle và bố nàng, lắng nghe người ta đọc bản tuyên dương công trạng.Trung úy Connor Fitzgerald bước tới và được Tổng thống trao tặng Huân chương Danh dự.

Trong khi bước lên từng bậc thang gỗ của giá treo cổ, gã nghĩ đến người sẽ để tang mình sau khi biết được sự thực.Gã đã dặn bọn họ đừng nói cho người ấy biết, bởi vì nếu biết anh ta sẽ phá bỏ hợp đồng, đến trình diện và trở lại Cruciffix.Gã đã nói:

- ông phải hiểu rằng các ông đang làm việc với một người vô cùng trọng danh dự.Vì thế hãy đảm bảo chắc chắn rằng anh ta không được biết gì trước khi chuông đồng hồ điểm tám giờ.

Tiếng chuông đầu tiên điểm khiến gã thoáng ớn lạnh, ý nghĩ sực tỉnh về hiện tại.

Tiếng chuông thứ hai điểm, thằng bé kêu khóc chạy tới chân giàn giáo, quỳ sụp xuống.

Tiếng chuông thứ ba điểm, Chỉ huy trưởng giơ tay ra hiệu, một hạ sĩ bước tới một bước kéo đứa trẻ đi.

Tiếng chuông thứ tư điểm, người tử tù mỉm cười nhìn xuống Sergei, tựa như đó là đứa con trai duy nhất của gã.

Tiếng chuông thứ năm điểm, gã bị đẩy tới đứng dưới sợi dây.

Tiếng chuông thứ sáu điểm, đao phủ tròng chiếc thòng lọng vào cổ gã.

Tiếng chuông thứ bảy, gã nhìn thẳng vào mặt Tổng thống.

Tiếng chuông thứ tám đao phủ kéo cần, chiếc bẫy sập xuống.

Một phút sau, hai cai ngục đến hạ thân hình Christopher Andrew Jackson đã không còn sự sống nữa xuống khỏi giàn giáo.Sergei nhào đến để giúp người ta hạ thi thể người bạn của nó vào chiếc quan tài gỗ xù xì đặt bên cạnh giàn giáo.

Chỉ huy trưởng đưa Tổng thống quay về chỗ chiếc Limousine của ông ta, đoàn xe lao vút ra khỏi cổng nhà tù, trước khi chiếc quan tài được đóng nắp.Bốn người tù nâng chiếc quan tài nặng lên vai và đi về phía nghĩa địa nhà tù.Sergei đi bên cạnh họ, họ ra khỏi sân nhà tù và đi tới một bãi đất nhỏ lô nhô Ở phía sau nhà tù.Ngay cả người đã chết cũng không được phép thoát khỏi Crucifflx.

Nếu Sergei ngoái lại, nó sẽ thấy tất cả những người khác trong đám đông đều chạy ùa ra qua cửa trước khi hai cánh cổng bị đóng lại đánh sầm một cái rồi những chiếc then gỗ lại được cài lại như cũ.

Những người khiêng quan tài dừng lại bên một cái huyệt không hề được đánh dấu mà người ta vừa mới đào xong.Không một nghỉ lễ nào, họ bỏ cái quan tài xuống hố, rồi, không một lời cầu nguyện hay thậm chí dừng lại một lúc, họ bắt đầu hất những đám đất bên trên để lấp cái quan tài.

Thằng bé đứng im không động đậy cho đến khi người ta làm xong.Mấy phút sau, mấy người tù bị cai ngục lùa về xà lim- Sergei quỳ xuống, tự hỏi không biết người ta cho nó Ở lại bên mộ bao nhiêu lâu?

Một phút sau, một bàn tay đặt lên vai thằng bé.NÓ ngẩng lên và thấy Chỉ huy trưởng đứng trước mặt nó.

Một người công bằng - đã có lần nó nói với Jackson về ông ta như vậy.

Chỉ huy trưởng hỏi:

- Cháu biết ông ta à?

Sergei nói:

- Vâng, ông ta là đối tác của cháu.

Chỉ huy trưởng gật đầu:

- Bác biết người mà ông ta đã hy sinh thân mình để cứu thoát.Bác chỉ ước mình cũng có một người bạn như vậy.
 
Chương 23


Nguồn: vnthuquan

Gutenburg nói:

Vợ Fitzgerald không thông minh như bà ta tưởng đâu.

Helen Dexter nói:

- Hiếm người không chuyên nghiệp có được sự thông minh cần thiết. Nhưng như thế có nghĩa là anh lấy được cuốn báng video rồi à?

- Chưa, mặc dầu tôi cũng đã nghĩ ra nó được giấu Ở đâu rồi.Tuy nhiên chưa chính xác là Ở đâu mà thôi.

Dexter nói:

- Thôi đi, đừng có lấp lửng nữa, nói thẳng vào vấn đề đi.Anh không cần phải chứng minh cho tôi thấy là anh thông minh đến đâu đâu.

Gutenburg biết rằng đó là lời khen ngợi cao nhất mà Giám đốc có thể ban cho ai đó.

- Vợ Fitzgerald không hề biết rằng suốt tháng qua bà ta đã bị nghe trộm cả Ở nhà và Ở vãn phòng.Và từ ba tuần trước nay, kể từ khi chồng bà ta ra sân bay Dulles thì chúng ta đã đặt các điệp viên theo dõi bà ta.

- Vậy anh đã phát hiện được cái gì?

- Các thông tin rõ rệt thì không nhiều lắm, nhưng khi đặt tất cả chúng lại bên nhau thì có thể thấy một bức tranh đã hiện ra.

Hắn đẩy tập tài liệu và một băng ghi âm qua bàn.

Mụ Giám đốc không để ý đến những cái đó:

- Tóm tắt cho tôi nghe đi - Mụ nói, có vẻ đã hơi bắt đầu tức giận.

Trong bữa ăn trưa với Joan Bet Ở Café Milallo, câu chuyện đầu tiên không có gì đáng chú ý.Nhưng trước khi trở về văn phòng bà ta có hỏi Bet một câu.

- Câu gì?

- CÓ lẽ bà muốn tự mình nghe chăng?

Phó Giám đốc bấm một chiếc núi trên chiếc cassette và ngồi ngả người ra sau.

- Tôi cũng vậy không đường - CÓ thể nghe thấy tiếng chân đi ra xa - Joan, chưa bao giờ tôi tin chị để lộ một bí mật nào.Nhưng có một điều tôi cần phải biết.

- Tôi hy vọng có thể giúp được chị.Nhưng nếu là chuyện có liên quan đến Connor thì có lẽ tôi cũng mịt mù chẳng hơn gì chị.

- Vậy thì tôi cần phải biết tên một người nào đó không mù mịt về anh ấy.

Một hồi im lặng khá lâu, sau đó Joan nói:

Tôi nghĩ là chị nên xem lại danh -sách những người đã đến dự bữa tiệc tiễn Colznor tại nhà chị.

Chris -Iackson ư?

- Không, không vì là anh ấy không làm việc cho công ty nữa.

Một hồi im lặng lâu nữa.

- Cái người đàn ông trơn tru và đã ra về không buồn tạm biệt ư? Người nói là làm Ở bộ phận đánh giá tổn thất ư?

Gutenburg tắt máy.

Dexter gầm lên:

- Tại sao anh lại đến dự cái bữa tiệc ấy để làm gì?

- Bởi vì chính bà đã bảo tôi phải tìm hiểu xem Fitzgerald có tìm được công việc nào để Ở lại Washington hay chưa.Và chớ quên là chính con gái Fitzgerald đã để lộ khiến cho chúng ta có thể thuyết phục Thompson là không mấy khôn ngoan nếu nhận Fitzgerald vào làm việc.Tôi tin là bà có thể nhớ lại hoàn cảnh lúc đó.

Mụ Giám đốc nhăn mặt:

Sau khi vợ Fitzgerald rời khỏi Café Milano thì có chuyện gì xảy ra?

- Không có gì đáng chú ý, cho đến khi bà ta trở về nhà đêm đó và gọi đi rất nhiều cú điện thoại - bà ta không bao giờ gọi điện thoại cá nhân Ở văn phòng - có cả một cú gọi đến điện thoại bí mật của Chris Jackson.

- TẠI sao bà ta lại làm như vậy, một khi biết thừa là Jackson đã rời khỏi công ty rồi kia mà.

- HỌ thân nhau từ lâu lắm rồi.Jackson và Fitzgerald cùng phục vụ Ở Việt Nam với nhau- Thực tế, chính Jackson là người đã đề suất để Fitzgerald được tặng Huân chương Danh dự, và chính là người đã tuyển dụng Fitzgerald làm NOC.

Dexter không tin, hỏi:

- Vậy chính Jackson đã nói với bà ta về anh?

Gutenburg đáp:

- Không, anh ta không có cơ hội làm việc đó.Ngay sau khi phát hiện ra anh ta đang Ở Nga thì tôi đã ra lệnh khóa điện thoại bí mật của anh ta - Hắn mỉm cười - Tuy nhiên chúng tôi vẫn nhận biết được ai là người hiện đang cố gọi cho anh ta, và anh ta đang cố liên lạc với ai.

- CÓ nghĩa là anh đã biết được anh ta báo cáo cho ai rồi à?

Kể từ khi đặt chân lên Nga Jackson chỉ gọi một số duy nhất, và tôi cho là anh ta chỉ liều gọi đi khi tình hình đã khẩn cấp.

Dexter sốt ruột hỏi:

- Anh ta gọi cho ai?

Một số không đăng ký, Ở Nhà Trắng.

Thậm chí Dexter không buồn chớp mắt:

- Chắc là ông bạn Lloyd của chúng ta rồi.

Gutenburg nói:

- Không nghi ngờ gì nữa.

- Vợ Fitzgerald có biết Jackson báo cáo trực tiếp cho Nhà Trắng không?

Gutenburg nói:

- Tôi nghĩ là không.Nếu không thế bà ta đã cố thử liên lạc với Jackson từ lâu rồi.

Dexter gật đầu:

- Vậy phải đảm bảo để bà ta không bao giờ biết được điều đó Gutenburg không tỏ ra động tâm tí nào.

Tôi hiểu.Nhưng tôi không thể làm được bất cứ việc gì nếu chưa chiếm được cuốn băng video gia đình ấy.

Dexter hỏi:

- Chuyện ấy đến đâu rồi?

- CÓ lẽ chúng ta chẳng tiến lên thêm được phân nào nếu như không tìm được một dấu vết trong một cuộc nói chuyện điện thoại.Khi Joan Bet gọi cho vợ Fitzgerald từ Langley vào lúc hai giờ sáng và nói rằng một tiếng nữa sẽ đến chỗ bà ta, một người của tôi đã kiểm tra xem Joan đã gọi và tra cứu những gì trong các dữ liệu của máy tính nhận được.Chẳng mấy chốc đã rõ là cô ta hẳn đã vấp phải một cái gì đó khiến cô ta biết được hiện nay sếp cũ của mình đang ngồi tù Ở Si.Petersburg.Nhưng, như bà đã biết đấy, cô ta không tới được chỗ hẹn với vợ Fitzgerald.

- Hơi sát sạt quá, khó có thể yên tâm được.

- Ðúng vậy.Nhưng vì cô ta không đến nên vợ Fitzgerald đã lái xe tới GW Parkway và chờ tận đến lúc cảnh sát trục được chiếc xe lên.

Dexter nói:

- CÓ lẽ cô ta đã xem được tin đó trên TV, hoặc là nghe qua radio.

- Vâng, chúng tôi cũng cho là như vậy.Tin đó được đưa trong bản tin buổi sáng hôm ấy mà.Sau khi bà ta đã biết đích xác là Bet Ở trong chiếc xe đó thì lập tức gọi ngay cho con gái Ở Stanford.Nếu cô ta có vẻ ngái ngủ thì là do lúc đó Ở Cahfomia mới có năm giờ sáng.

Hắn ta nhoài tới bấm nút "play" - Chào con, Tia.Mẹ đây.

- Chào mẹ.CÓ chuyện gì không ạ?

- Mẹ xin lỗi là đã gọi con quá sớm.Nhưng mẹ có một tin rất buồn.

- Không phải về BỐ chứ?

- Không, mà là Joan Bet- CÔ ấy đã chết trong một tai nạn Ô tô.

- Joan chết ư? Không phải thế đâu, phải không mẹ?

- Mẹ rất buồn là đúng thế- Và mẹ có một cảm giác khủng khiếp là hình như chuyện này có liên quan đến việc cha con vẫn chưa về.

- Nào, mẹ.Chắc là mẹ hơi bị hoang tưởng mất rồi.

Dù sao đi nữa bố cũng chỉ mới đi có ba tuần thôi mà.

- CÓ thể con có ly nhưng mẹ vẫn quyết định phải giấu cuốn băng ghi hình bữa tiệc chia tay cha con vào một nơi an toàn hơn.

- Tại sao lại phải thế?

- Bởi vì đó là bằng chứng duy nhất mẹ có để chứng tỏ rằng cha con đã từng gặp một người tên là Nick Gutenburg, và còn làm việc cho ông ta nữa.

Tên Phó Giám đốc nhấn nút "dừng".

Cuộc đối thoại còn tiếp tục kéo dài thêm một lúc nữa, nhưng không cho chúng ta biết thêm điều gì.Mấy phút sau vợ Fitzgerald ra khỏi nhà, mang theo cuốn băng video.Viên sĩ quan chịu trách nhiệm theo dõi điện thoại của bà ta nhận ra vật được nhắc đến trong câu chuyện qua điện thoại kia, liền bám theo bà ta đến trường đại học- Bà ta không đi thẳng đến Văn phòng khoa Nhân văn như thường lệ mà ghé vào thư viện, Ở đây bà ta vào khu tra cứu bằng máy tính Ở tầng một.Bà ta Ở đó khoảng hai mươi phút để tìm gì đó trên máy tính, sau đó đi ra mang theo khoảng mười trang in từ máy.Rồi bà ta đi xuống trung tâm tra cứu băng video Ở tầng trệt.Viên sĩ quan của chúng ta không dám đi thang máy sợ chạm phải bà ta, nên sau khi biết đích xác bà ta dừng lại Ở tầng nào anh ta bèn đến chiếc máy tính mà bà ta đã làm việc để gọi lại những văn bản bà ta đã mở ra.ể gọi lại các văn bản mà bà ta vừa mở ra.

L~R~Y ~ ~ Dexter nói:

- Dĩ nhiên là bà ta đã xóa sạch tất cả.

Gutenburg nói:

- Vâng, dĩ nhiên là thế.

- Nhưng thế còn những bản in thì sao?

- Một lần nữa lại không có dấu vết gì.

- Bà ta không thể nào sống với Connor Fitzgerald hai mươi tám năm trời mà không nhận xét được cách làm việc của chúng ta.

- Sau đó người của chúng ta rời khỏi thư viện và chờ Ở xe.Mấy phút sau bà ta đi ra, không cầm cuốn băng video nữa.Nhưng bà ta đã...

- Chắc hẳn bà ta đã gửi cuốn băng trong trung tâm băng hình rồi.

Gutenburg nói:

- ÐÓ chính là điều chúng tôi cũng nghĩ.

- Trường đại học có bao nhiêu cuốn băng lưu giữ Ở đó?

Gutenburg nói:

- Hơn hai mươi lăm ngàn.

Dexter nói:

- Chúng ta không có đủ thời gian kiểm tra tất cả số băng đó.

Ðúng vậy, nếu như vợ Fitzgerald không mắc phải sai lầm đầu tiên.

Lẩn này Dexter không ngắt lời Gutenburg.

- Khi rời khỏi thư viện bà ta không đem theo cuốn băng video, nhưng vẫn cấm tập văn bản vừa in ra.Nhân viên của chúng ta đi theo bà ta cho đến Khoa Nhân văn.

Tôi có thể lấy làm hài lòng vì bà ta là người rất nguyên tắc.

Dexter nhường mày tỏ ý hỏi.

- Trước khi trở về văn phòng, vợ Fỉtzgerald được mời đến trung tâm.Bà ta là Chủ nhiệm Khoa Nhân văn Trường Ðại học Georgetown mà.

- Bà ta gửi mấy tờ giấy vừa in ra Ở nơi giữ giấy tờ.

- Tốt lắm.Vậy các anh tìm được cái gì Ở đó?

- Một danh sách đầy đủ những băng video đang cho mượn và phải đến học kỳ sau mới được trả lại.

Vì thế chắc bà ta cảm thấy an toàn nếu bỏ cuốn băng video đó vào một ngăn trống, bởi vì trong mấy tuần tới sẽ không có ai sờ đến đó.

Gutenburg nói:

- Chính xác.

- CÓ bao nhiêu băng loại đó đang được cho mượn?

Gutenburg nói:

- Bốn trăm bảy mươi hai.

- CÓ vẻ như các anh sẽ phải kiểm tra từng ngăn.

- Tôi cũng nghĩ đến chuyện sẽ làm như vậy.Nhưng nếu một sinh viên tò mò nào đó, hoặc một nhân viên của trường biết được sự có mặt của CIA thì mọi chuyện sẽ vỡ tung ngay.

Dexter nói:

- Anh suy luận tốt đấy.Vậy anh định làm thế nào để tìm được cuộn băng?

- Tôi đã chọn ra khoảng hơn một chục nhân viên mới được tuyển dụng, tất cả đều vừa mới tốt nghiệp, những người này sẽ kiểm tra tất cả các ngăn trống trong cái danh sách kia cho đến khi tìm ra cuốn băng video gia đình đó.Vấn đề là Ở chỗ mặc dầu tất cả những người này đều ăn mặc như sinh viên, nhưng tôi không dám để cho ai Ở lại trong thư viện lâu hơn hai mươi phút, hoặc để cho họ tới thư viện quá hai lần một ngày, nhất là vào thời gian này rất ít người đến thư viện.Vì thế có vẻ sẽ mất thời gian hơn nhiều.

- Anh nghĩ phải mất bao lâu họ mới có thể tìm ra nó?

- Nếu may mắn thì chúng ta có thể vớ được nó ngay, nhưng tôi cuộc là phải mất từ một đến hai ngày, nhiều nhất là ba ngày.

- Chớ quên rằng bốn mươi tám tiếng nữa anh sẽ phải gặp lại vợ Fitzgerald.

Tôi không quên đâu.Nhưng nếu chúng ta tìm ra cuốn băng trước lúc đó thì cuộc gặp sẽ chẳng còn cần thiết nữa.

Nếu như vợ Fitzgerald không ghi âm cả cuộc nói chuyện điện thoại với anh.

Gutenburg mỉm cười:

- Bà ta đã ghi âm, nhưng ngay sau khi bà ta đặt ống nghe xuống thì nội dung ghi âm đã bị xóa sạch rồi.

Dexter nói:

- Giỏi lắm.Khi nào lấy được cuốn băng đó hãy gọi điện cho tôi ngay.Khi đó sẽ chẳng có gì ngăn được việc chúng ta xóa bỏ con người mà cho đến giờ chúng ta vẫn...

Chiếc điện thoại màu đỏ trên bàn mụ ta đổ chuông, không kịp nói hết câu mụ cầm ngay điện thoại lên.

- Giám đốc đây - mụ vừa nói vừa bấm chiếc đồng hồ hẹn giờ - Chuyện đó xảy ra bao giờ?...Anh có tuyệt đối chắc chắn không?..- Còn Jackson?...Hắn hiện Ở đâu Nghe xong câu trả lời mụ đặt ngay máy xuống.

Gutenburg nhận thấy đồng hồ chỉ đúng bốn lăm giây.

Mụ Giám đốc nhìn thẳng vào viên Phó Giám đốc của mình, nói:

- Tôi mong là anh tìm được cuốn băng ấy trong vòng bốn mươi tám giờ tới.

Gutenburg hỏi vẻ lo lắng:

- Tại sao?

- BỞI vì Michell vừa báo cáo rằng Fitzgerald đã bị treo cổ vào lúc tám giờ sáng nay Ở Si.Petersburg, và Jackson đã lên một chiếc máy bay của hãng Hàng không Mỹ bay từ Frankfurt đi Washington
 
Chương 24


Nguồn: vnthuquan

Vào lúc bảy giờ sáng.

ba người lực lưỡng bước vào xà lim và giải gã tới văn phòng Chỉ huy trưởng. Sau khi bọn chúng ra khỏi phòng Bolchenkov bèn khóa trái cửa lại rồi không nói năng gì đi về phía chiếc tủ áo kê trong góc phòng. Bên trong tủ có một bộ đồng phục cảnh sát, ông ta ra hiệu cho Connor mặc vào. Bởi vì trong mấy tuần qua gã đã sụt đi khá nhiều cho nên bộ quần áo mặc vào như treo lên người, và gã thấy mừng vì có chiếc dây đeo quần. Nhưng nhờ có chiếc mũ lưỡi trai và chiếc áo khoác dài màu xanh, trông gã chẳng khác gì hàng ngàn viên cảnh sát sẽ bước đi rầm rập trên đường phố St. Petersburg buổi sáng hôm ấy. Gã bỏ bộ quần áo tù lại trong tủ, tự hỏi không hiểu Chỉ huy trưởng sẽ giấu chúng đi bằng cách nào.

Vẫn không nói tiếng nào. Bolchenkov đẩy gã ra khỏi văn phòng vào một phòng xép nhỏ rồi khóa cửa lại.

Sau một lúc lâu im ắng Connor nghe thấy có tiếng mở cửa, sau đó có tiếng chân, rồi lại tiếng một cánh cửa khác mở ra, chắc hẳn đó là tiếng mở cửa cái tủ áo. Gã không dám cựa mình, cố đoán xem có chuyện gì đang diễn ra. Cánh cứa thứ nhất đóng lại, rồi hai hoặc ba người ồn ào ùa vào trong phòng. Mất giây sau họ đi ra, kéo theo một cái gì đó, hoặc một ai đó ra khỏi phòng, sập cửa lại sau lưng đánh Rầm một cái.

Mấy giây sau cửa chỗ phòng gã đang trốn mở ra, Bolchenkov ra hiệu cho gã đi ra. HỌ đi qua phòng làm việc và ra hành lang. Nếu Chỉ huy trưởng rẽ trái thì có lẽ họ sẽ quay lại xà lim của gã, nhưng ông ta lại rẽ sang bên phải. Hai chân Connor cảm thấy vô cùng yếu ớt, nhưng gã cố đi nhanh hết sức.

Thứ đầu tiên gã nhìn thấy khi ra đến sân là cái giàn giáo, ai đó đã đặt sẵn một chiếc ghế tuyệt đẹp bọc thảm đỏ ngay trước cái giàn giáo. Không cần hỏi gã cũng biết ai sẽ ngồi trên chiếc ghế đó. Trong khi gã cùng Bolchenkov đi qua sân, Connor để ý thấy một nhóm cảnh sát mặc áo khoác dài màu xanh giống mình đang lôi những người qua đường vào, chắc là để chứng kiến cuộc hành hình.

Chỉ huy trưởng đi nhanh đến một cái xe đậu ở cuối sân.

Connor định mở cửa bên phải nhưng Bolchenkov lắc đầu và chỉ vào ghế tài xế. Connor ngồi vào sau tay lái.

Connor gài số một và chạy qua sân và dừng lại trước hai người lính gác ở cổng. Một trong hai người giơ tay chào Chỉ huy trưởng và ngay lập tức kiểm tra dưới gầm xe, trong khi đó người kia nhìn vào trong xe và xem xét thùng xe.

Chỉ huy trưởng nghiêng người sang kéo tay áo Connor trùm xuống quá cổ tay, sau khi hai người lính gác kiểm tra xong, họ quay về chỗ cũ và lại giơ tay chào Bolchenkov. Không ai buồn quan tâm đến người lái xe.

Chiếc then gỗ khổng lồ được mở ra và hai cánh cổng vĩ đại của Nhà tù Crucifflx từ từ mở rộng.

- Cứ đi đi - Chỉ huy trưởng nói trong khi một thằng bé chạy vào bên trong nhà tù, có vẻ như nó biết đích xác là cần đi đến đâu.

Connor thì thầm:

- Ði đường nào?

- Bên phải.

Connor rẽ sang phải và bắt đầu cho xe chạy dọc bờ sông Neva đi về phía trung tâm thành phố. Không hề có bóng một chiếc xe nào khác.

Bolchenkov nói:

- Ðến cái cầu tiếp theo thì sang sông, sau đó rẽ sang phải.

Trong khi họ đi ở bên bờ bên kia con sông và ngang qua nhà tù, Connor liếc nhìn bức tường cao ngất. Cảnh sát vẫn đang cố lùa mọi người vào để bổ sung thêm cho cái đám đông ít ỏi đã tập trung ở đó để chứng kiến cuộc hành hình gã. Làm thế nào Bolchenkov giải quyết được vấn đề đó bây giờ nhỉ?

Connor tiếp tục cho xe chạy thêm vài trăm mét nữa cho đến khi Bolchenkov nói:

- Rẽ vào kia.

Gã chạy chậm lại và dừng xe lại phía sau một chiếc BMW màu trắng, cửa sau đã mở sẵn.

Bolchenkov nói:

- ông Fitzgerald, chúng ta chia tay nhau ở đây. Hy vọng là sẽ không bao giờ phải gặp lại.

Connor gật đầu. Trong khi gã bước về phía chiếc xe, Chỉ huy trưởng nói thêm:

Anh thật có đặc ân khi có được một người bạn tuyệt vời như vậy.

Phải mất nhiều thời gian nữa Connor mới hiểu đầy đủ được ý nghĩa câu nói đó. .

- Thưa ngài Jackson, xin mời ra cổng số 11 để lên chuyến bay của ngài. Hai mươi phút nữa máy bay sẽ cất cánh.

- Cám ơn - Connor nói và cầm lấy thẻ lên máy bay.

Gã bắt đầu chậm rãi đi về phía nhà ga, hy vọng là viên sĩ quan không kiểm tra kỹ hộ chiếu của gã. Mặc dầu bọn họ đã thay tấm ảnh của Chris bằng tấm ảnh của gã, nhưng Jackson nhiều hơn gã ba tuổi, và thấp hơn năm phân, đầu hói. Nêu người ta yêu cầu bỏ mũ ra thì gã sẽ phải giải thích tại sao trên trán gã lại có một vết bớt.

Gã dùng tay phải để đưa tấm hộ chiếu - nếu dùng tay trái tay áo sẽ co lên để lộ hàng chữ số đã được xăm lên cổ tay. Bao giờ về đến Mỹ gã sẽ sắm một chiếc đồng hồ to bản hơn.

Viên sĩ quan chỉ liếc qua tấm hộ chiếu rồi để cho gã đi qua. Chiếc vali mới tinh chỉ đựng có mấy bộ quần áo thay đổi và một chiếc túi vải bạt chẳng có gì đáng chú ý cũng được cho qua một cách dễ dàng. Gã nhặt chiếc vali lên và đi về phía Cổng 11 , tới nơi gã ngồi xuống một cái ghế cách xa cổng dẫn ra máy bay. Suốt hai mươi tư giờ qua kể từ khi thoát khỏi Crucifflx, chưa bao giờ Connor Cảm thấy dễ chịu lấy một giây.

Một giọng vang lên trong loa phóng thanh:

"đây là thông báo thứ nhất cho chuyện máy bay Finnair số821 đi Frankfurt".

Connor không động đậy. Nếu như bọn họ cho gã biết sự thật thì gã chẳng bao giờ đồng ý để Chris chết thay cho mình. Gã cố gắng chắp nối mọi sự việc xảy ra kể từ lúc chia tay với Bolchenkov.

.

Gã ra khỏi chiếc xe cảnh sát và cố đi thật nhanh đến chỗ chiếc xe trắng đang chờ sẵn. Lúc Connor chui vào ghế sau chiếc xe kia và ngồi bên cạnh một người xanh lướt và gầy guộc mặc một chiếc áo khoác màu đen dài bằng ca sơ mia thì viên Chỉ huy trưởng đã bắt đầu trở lại Crucifflx. Cả ông ta lẫn hai người ăn mặc rất giản dị ngồi ở ghế trên không ai nói một lời nào, thậm chí dường như không nhận thấy sự có mặt của gã.

Chiếc BMW rẽ lên con đường vắng vẻ và bắt đầu phóng nhanh khỏi thành phố. Lên đến đường cao tốc người lái xe bèn phớt lờ mọi sự hạn chế tốc độ. Lúc đồng hồ trên bảng đồng hồ của xe chỉ 80 km thì Connor nhìn thấy một tấm biển chỉ đường cho thấy họ cách biên giới Phần lan 150 cây số.

Các tấm biển chỉ một trăm cây số, rồi năm mươi, rồi ba mươi, rồi mười, Connor bắt đầu băn khoăn không biết người ta sẽ giải thích với các sĩ quan biên phòng như thế nào về sự hiện diện của một sĩ quan cảnh sát Nga.

Nhưng rõ ràng là chẳng cần đến một sự giải thích nào hết. Khi chiếc xe BMW trắng còn cách khoảng ba trăm mét nữa thì đến vùng đất trắng ngăn cách hai đất nước, người lái xe nháy đèn bốn lần. Ngay lập tức thanh barie nhắc lên để cho họ vượt biên giới sang đất Phần lan, thậm chí không cần giảm tốc độ. Connor bắt đầu thấy kính nể tầm với của Mafya Nga.

Kể từ khi bắt đầu cuộc hành trình không một ai trong bọn họ lên tiếng và một lần nữa Connor chỉ biết được hành trình của họ đang đi đến đâu nhờ những tấm biển chỉ đường. Gã bắt đầu nghĩ chắc đích của họ sẽ là Helsinki, nhưng cách vùng ngoại Oõ thành phố đó khoảng mươi cây số thì họ rẽ vào một đường ngách, rời khỏi đường cao tốc. Xe đi chậm lại bởi vì người lái phải tránh các Oồ gà và những khúc cua gấp, họ đi ngày càng sâu vào vùng nông thôn. Connor nhìn khung cảnh trơ trụi xung quanh: tuyết phủ từng lớp dày cộp lên tất cả mọi vật .

- Ðây là lần thông báo thứ hai cho chuyến bay Finnair số 821 đi Franfurt. xin mời các hành khách lên máy bay.

Connor vẫn không động đậy.

.

Sau khi rời đường cao tốc được bơn mươi lăm phút chiếc xe rẽ vào sân một trang trại vắng vẻ. Xe chưa kịp dừng lại thì một cánh cửa đã mở toang. Gã thanh niên cao nhảy xuống dẫn Connor vào nhà. Hắn đi vào, không để ý đến một người đàn bà đang cho bò ăn. Connor đi theo hắn lên cầu thang và lên tầng đầu tiên. Gã thanh niên Nga mở một cánh cửa, Connor bước vào một căn phòng. Cánh cửa đóng sập lại, gã nghe có tiếng chìa khóa quay lách cách.

Gã đi về phía cuối phòng và nhìn ra ngoài qua chiếc cửa sổ duy nhất. Một trong những người lính canh đứng ở dưới sân và đang nhìn chằm chằm vào gã. Gã rời khỏi cửa sổ và nhận thấy trên một cái giường nhỏ trông có vẻ bất tiện người ta đã trải sẵn một bộ quần áo cùng một chiếc mũ bằng da thỏ.

Connor cởi bộ quần áo đang mặc trên người và vắt chúng lên chiếc ghế bành kê bên cạnh giường. Trong góc phòng có một tấm rèm, phía sau tấm rèm là một buồng tắm han gỉ. Bằng một cục xà phòng thô ráp và một xô nước nóng, phải mất rất nhiều thời gian Connor mới tẩy rửa sạch được những cáu ghét của Crucifflx bám chặt trên người. Gã lau khô người bằng hai chiếc áo cũ vừa thay ra. Nhìn vào gương gã nhận thấy phải khá lâu nữa vết sẹo trên trán mới có thể mờ đi và tóc mới dài lại được như cũ. Nhưng hàng chữ số bị xăm trên cổ tay gã có lẽ sẽ còn lại suốt đời.

Gã mặc bộ quần áo để trên giường. Mặc dầu cái quần bị ngắn đến cả chục phân nhưng áo sơ mi và áo khoác thì vừa khít, mặc dầu gã đã sụt đến cả vài chục cân trong mấy ngày tù.

CÓ tiếng gõ cửa nhẹ ngoài cửa, rồi tiếng chìa khóa quay trong ổ. Người đàn bà họ gặp lúc mới đến xuất hiện, tay bưng một chiếc khay. Chị ta đặt khay lên chiếc bàn nhỏ rồi quay đi, không để cho Connor kịp cám ơn.

Connor nhìn vào khay và thấy một tô súp thịt nóng hổi cùng với ba lát bánh mì cuộn, gã liếm môi. Gã ngồi xuống và bắt đầu tiến công vào chỗ thức ăn, nhưng mới chỉ ăn có vài thìa súp và một lát bánh mì gã đã thấy no, đột nhiên cơn mệt mỏi ập đến, gã đổ vật xuống giường.

.

Ðây là lần thông báo thứ ba cho chuyên bay Finnair số 821 đi Frankfurt. xin mời những hành khách còn lại trong nhà ga ra máy bay.

Connor vẫn ngồi tại chỗ cũ.

.

Chắc hẳn gã đã ngủ thiếp đi, bởi vì sau đó gã chỉ nhớ được là khi tỉnh dậy gã thấy người đàn ông xanh xao đứng bên cạnh giường và nhìn gã.

- Hai mươi phút nữa chúng ta sẽ ra sân bay - Hắn nói và quẳng một cái phong bì dày cộp màu nâu lên giường.

Connor ngồi dậy và xé chiếc phong bì. Trong đó c một chiếc vé hạng nhất đi sân bay quốc tế Dulles, một ngàn đô la và một tấm hộ chiếu Mỹ.

Gã mở tấm hộ chiếu và đọc tên: Christopher Andrew Jackson. Phía trên là tấm ảnh của gã. Gã ngước nhìn gã thanh niên người Nga.

- Thế này nghĩa là thế nào?

Alexei Romanov nói:

- Nghĩa là ông vẫn còn sống.

.

Ðây là lần thông báo cuối cùng cho chuyến bay số 821 đi Frankfurt. xin mời hành khách nào còn lại ở nhà ga lên máy bay ngay.

Connor đi về phía cổng, đưa thẻ lên máy bay cho nhân viên đứng ở đó và đi về phía chiếc máy bay đang chờ mình. CÔ tiếp viên hàng không kiểm tra số ghế của gã rồi chỉ về khoang thứ nhất của máy bay. Connor không cần phải tìm lâu mới thấy chiếc ghế cạnh cửa sổ của dãy ghế thứ năm, bởi vì gã thanh niên người Nga đã ngồi chắn ghế ngoài. RÕ ràng nhiệm vụ của hắn không chỉ là nhận hàng, mà còn cả việc đưa hàng đến nơi và giám sát cho hợp đồng được thực hiện. Khi Connor bước qua chân người áp tải mình, cô tiếp viên hỏi:

- Ngài Jackson, cho phép tôi cất mũ hộ ngài được không ạ?

- Không, cám ơn.

Gã tựa người lên lưng chiếc ghế êm ái, nhưng phải đến khi máy bay cất cánh gã mới thấy yên tâm. Sau đó gã bắt đầu chùng xuống, lần đầu tiên kể từ khi thật sự trốn thoát. Nhưng để rồi sẽ đến cái gì - gã tự hỏi. Gã liếc sang bên phải: kể từ giờ, suốt ngày đêm lúc nào cũng sẽ có một ai đó kèm bên gã, cho đến khi gã thực hiện xong thỏa thuận về phía mình.

Trong chuyến bay sang Ðức, Romanov không hề mở miệng lần nào, chỉ trừ lúc ăn mấy miếng trong mấy món ăn người ta đặt trước mặt. Connor ăn hết một đĩa, sau đó giết thời gian bằng cách đọc mấy tạp chí bay của hãng Hàng không Phần lan. Khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Frankfurt thì gã đã biết tất cả về các nhà tắm hơi cũng như sự dựa dẫm của Phần lan vào nền kinh tế Nga.

Vừa đặt chân lên khu vực chờ chuyển máy bay, Connor đã phát hiện ngay ra tên điệp viên CIA. Gã nhanh chóng tách khỏi người đi cùng với mình, hai mươi phút sau mới trở lại và thấy rõ ràng Romanov như nhẹ cả người.

Connor biết sẽ dễ dàng rũ bỏ anh chàng này một khi họ trở về đất của mình, nhưng gã cũng biết rằng nếu như gã cố bỏ trốn thì bọn họ sẽ thực hiện ngay lời đe dọa mà Chỉ huy trưởng Cảnh sát đã mô tả rất sống động. Gã rùng mình khi nghĩ đến cảnh một trong những tên thô lỗ đó đặt tay lên người Maggie hay Tara.

Chuyến bay 777 của hãng Hàng không Mỹ cất cánh bay đi Dul1es đúng giờ dự định. Connor cố ăn hết cả hai bữa ăn được phục vụ trên máy bay. CÔ tiếp viên hàng không vừa dọn khay đi, gã bèn bấm vào một cái nút trên tay ghế để ghế ngả ra sau, rồi bắt đầu nghĩ đến Maggíe.

Sao mà gã ghen tị với việc nàng có thể luôn luôn... Mấy phút sau, sau hai mươi năm trời lần đầu tiên gã ngủ thiếp đi ngay trên máy bay.

Khi gã tỉnh dậy, người ta đã phục vụ bữa ăn nhẹ. Chắc hẳn gã là người duy nhất trên máy bay ăn hết sạch những gì người ta đặt trước mặt, kể cả hai lọ mứt cam.

Trong suốt một giờ bay trước khi hạ cánh xuống Washington, những ý nghĩ của gã lại trở về với Chris Jackson và sự hy sinh thân mình của bạn. Connor biết sẽ chẳng bao giờ có thể đền đáp lại cho bạn, nhưng gã quyết định sẽ không để sự hy sinh đó là vô ích.

Gã nghĩ sang Dexter và Gutenburg, giờ này ắt chúng tưởng là gã đã chết. Trước tiên, chúng đã cử gã sang Nga để hòng trốn tội, sau đó chúng lại giết Joan chỉ bởi vì chị định chuyển một thông tin gì đó cho Maggie. Liệu đến bao giờ thì chúng cho rằng chính Maggie cũng là một mối nguy cho chúng và cần phải loại bỏ nốt nàng?

"Cơ trưởng của các bạn xin được hân hạnh thông báo.

Máy bay của chúng ta đã nhận được tín hiệu cho phép hạ cánh xuống sân bay quốc tế DUIIES. TỔ bay chuẩn bị cho việc hạ cánh. Thay mặt hãng Hàng không, xin chúc mừng các bạn đã đến Hợp chủng quốc Hoa kỳ".

Connor lật tấm hộ chiếu. Christopher Andrew Jackson đã trở về trên mảnh đất quê hương của mình.
 
Chương 25


Nguồn: vnthuquan

Maggie đến sân bay Dulles sớm một giờ - một thói quen thường khiến Connor bực tức. Chị nhìn màn hình báo các chuyến máy bay đến và hài lòng khi thấy chuyến máy bay từ San Francisco sẽ hạ cánh đúng giờ.

Chị nhặt một tờ Washington Post ở quầy báo và đi lững thững tới hiệu cà phê gần nhất. Chị ngồi xuống một chiếc ghế cao ở quầy bán hàng và gọi một tách cà phê đen và một chiếc bánh sừng bò. Chị không để ý thấy một hai người ngồi ở chiếc bàn ở cuối phòng, một người trong bọn họ cũng cầm một tờ washington Post làm ra vẻ đang đọc. Nhưng dù chị có quan sát kỹ đến đâu cũng không thể nhìn thấy một người thứ ba đang đứng đọc màn hình thông báo các chuyến bay sắp đến, người này thực ra chú ý đến chị hơn là những hàng chữ đang hiện ra trên màn hình. Người này cũng đã phát hiện ra hai người ngồi ở góc phòng.

Maggie đọc từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng của tờ báo, chốc chốc lại nhìn đồng hồ. Lúc gọi tách cà phê thứ hai, chị đang theo dõi các dự đoán của báo chí Nga về chuyến đi thăm sắp tới của Tổng thống Zerimski tới Washington. Maggie không thấy thích vị Tổng thống này, trông ông ta như thuộc về thế kỷ trước.

Còn hai mươi phút nữa mới đến giờ máy bay hạ cánh, Maggie đã uống hết tách cà phê thứ ba, vì thế chị trèo xuống khỏi chiếc ghế cao và đi về phía dãy buồng điện thoại gần đó. Hai người đàn ông đi theo chị ra khỏi tiệm ăn, còn người thứ ba lẩn từ quãng tối này sang quãng tối khác.

Chị quay một số điện thoại cầm tay. Khi nghe thấy tiếng Phó Chủ nhiệm khoa trả lời, chị nói:

- Xin chào, Jackie. Mọi chuyện ổn cả chứ?

Giọng trả lời cố tỏ ra không bực mình:

- Maggie, mới có bảy giờ thôi mà, tôi vẫn còn chưa dậy. Hôm qua chị đã gọi rồi, nhớ không? Trường vẫn còn nghỉ, và phải đến mười bốn tháng Giêng mọi người mới phải đi làm. Với lại tôi đã là phó cho chị ba năm rồi và đủ sức để điều hành mọi việc trong khi chị vắng mặt mà.

Maggie nói:

Jackie, tôi xin lỗi. Tôi không cố tình đánh thức chị dậy đâu. Tôi quên biến mất là trời còn rất sớm, xin hứa là sẽ không làm phiền chị nữa.

Jackie nói:

- Tôi mong là Connor sẽ sớm trở về, và Tara với Stuart sẽ khiến chị bận bịu suốt ngày. Chúc chị nghỉ Giáng sinh vui vẻ. Và tôi không muốn nghe thấy chị trước khi tháng Giêng kết thúc đâu đấy - Chị nói thêm vẻ ý nhị.

Maggie đặt máy xuống, nhận ra rằng mình chỉ giết thì giờ thôi và lẽ ra không nên quấy rầy Jackie mới phải. Chị tự trách mình và quyết định đến ngày đầu năm mới mới gọi lại cho chị ấy.

Chị chậm rãi đi về phía cửa đến và gia nhập vào đám đông đang nhòm qua cửa sổ về phía đường băng để nhìn những chuyến máy bay tinh mơ đang cất cánh và hạ cánh. Ba người lúc nãy chẳng buồn nhìn đến những chiếc máy bay mà chỉ tiếp tục theo dõi Maggie trong khi chị chờ cho trên bảng thông báo người ta khẳng định là chuyến máy bay số 50 từ San Francisco đã hạ cánh. Cuối cùng khi dòng chữ đó xuất hiện, chị mỉm cười. Một trong ba người kia bấm mười một con số lên chiếc điện thoại cầm tay và báo thông tin đó về cho sếp hắn ở Langley.

Maggie lại mỉm cười khi nhìn thấy một người đàn ông đội chiếc mũ kiểu 1949 nhô ra - người đầu tiên ra khỏi buồng kiểm tra bằng hồng ngoại. Chị phải chờ thêm mười phút nữa mới đến lượt Tara và Stuađ ra khỏi cửa.

Maggie chưa bao giờ thấy con gái mình rạng rỡ đến thế.

Vừa nhìn thấy Maggie, Stuađ đã ngoác miệng ra cười, nụ cười đã trở nên quen thuộc với chị sau những ngày nghỉ ở Australìa.

Maggie lần lượt ôm hôn hai đứa. Chị nói:

- Thật tuyệt vì được gặp hai con.

Chị nhấc một chiếc túi của Tara lên và dẫn họ đi xuống đường hầm dẫn đến nhà ga chính.

Một trong mấy người vẫn theo dõi chị đã chờ sẵn ở bãi đỗ xe tạm, gã ngồi trên ghế trước của một chiếc xe chuyên dụng của hãng Toyota, trên đó đã có mười một chiếc xe con. Hai người kia đang chạy ngang qua bãi đỗ Maggie, Tara và Stuart đi trong bầu không khí ban mai lạnh buốt và tiến về phía xe của Maggie. Tara hỏi giễu:

- Mẹ, chẳng phải là đã đến lúc mẹ mua một cái xe nào đó hơn thời trang hơn cái xe cũ rích này rồi sao? Mẹ mua nó từ hồi con đang còn học trung học, mà hồi ấy nó cũng đã là xe cũ rồi.

Maggie nói vẻ rất nghiêm túc:

- Toyota là loại xe an toàn nhất, đó là lời tờ Consumer Report vẫn thường bình luận.

Tara đáp:

- Nhưng mà không có cái xe nào tới mười ba tuổi rồi mà vẫn còn được cho là an toàn trên đường cả.

Maggie phớt lờ câu nói của con gái:

- Dù sao đi nữa cha con cũng nghĩ là chúng ta nên giữ nó cho đến khi nào cha con tìm được chỗ làm mới và được trang bị xe của công ty.

Việc nhắc đến Connor khiến bầu không khí giữa ba người trở nên im lặng một cách gượng gạo.

Stuart vừa nói vừa chui vào ghế sau:

- Bác Fitzgerald, cháu rất mong được gặp bác trai.

Maggie không nói là "BÁC cũng mong như vậy" mà chỉ nói:

- Thế đây là lần đầu tiên cháu đến Mỹ à?

- Vâng ạ - Stuart nói trong lúc Maggie xoay chìa khóa điện - Và cháu đang nghĩ là không biết mình có thật sự muốn trở về Australia không.

- ở đây người ta đã có quá nhiều các luật sư được trả lương cao ngất ngưởng rối, chẳng cần phải thêm một người ngoi lên từ mức lương thấp nữa làm gì - Tara nói trong khi họ đứng xếp hàng để trả tiền đỗ xe.

Maggie mỉm cười nhìn con gái, chị cảm thấy vui hơn.

- bất cứ lúc nào chúng ta chỉ việc chạy một vòng rồi quay lại để anh ấy bay chuyến tới thôi mà.

- Không, mẹ không định nói như vậy. Mẹ chỉ...

Tara cười phá lên:

- Con biết rồi - mẹ thích đặt kế hoạch trước. Stuart, nếu có thể thì chắc mẹ đã bắt các sinh viên ở Geo.getown phải đăng ký cả nhận thức của họ rồi.

Maggie nói:

- Tại sao mẹ lại không nghĩ ra chuyện ấy nhỉ?

Stuart nói:

- Ðến mười lăm tháng Giêng cháu mới phải về làm việc Cháu hy vọng bác có thể chịu đựng cháu trong một thời gian lâu như vậy.

Tara nắm lấy tay anh, nói:

- Mẹ có được chọn đâu kia chứ.

Maggie đưa cho người bán vé tờ mười đô la rồi lái xe ra khỏi bãi đỗ xe và ra đường cao tốc. Chị nhìn vào gương chiếu hậu nhưng không để ý đến một chiếc xe Ford màu xanh khó nhận ra chạy phía sau xe chị cách khoảng một trăm mét. Người ngồi ở ghế trước đang báo cáo với sếp anh ta ở Langley rằng đối tượng đã rời khỏi "lề đường" vào lúc bảy giờ ba mươi và hiện đang chạy về phía Washington, cùng với hai người khách bà ta vừa đón.

- Stuart, cháu có thích San Francisco không?

- Cháu rất thích. Chúng cháu định sẽ ở lại đó hai ngày nữa, trước khi cháu về nước.

Khi Maggie nhìn vào gương một lần nữa, chị thấy một chiếc xe cảnh sát của bang Virginia đang chạy về phía mình, đèn pha nháy liên tục.

- Hình như nó đang đuổi theo chúng ta? Chắc chắn là mẹ không chạy quá tốc độ cho phép mà - Maggie nói và nhìn vào đồng hồ tốc độ để kiểm tra.

- Mẹ, cái xe này đã cổ lỗ sĩ và đáng phải vứt đi vài năm rồi mới phải. CÓ thể là tại cái phanh chăng. Cứ đỗ lại đã mẹ ạ - Tara nhìn qua cửa sổ phía sau - Nếu cảnh sát giao thông hỏi thì mẹ nhớ nở nụ cười lrish sáng chói của mẹ thì mới được.

Maggie đỗ lại trong khi chiếc Ford tạt vào làn đường giữa.

- Ðồ rác rưởi! Người lái xe hét lên trong khi vượt qua họ.

Maggie quay cửa kính xuống, hai cảnh sát chui ra khỏi chiếc xe tuần tra và chậm rãi bước về phía họ. Một người mỉm cười và lịch sự hỏi:

- Thưa bà, cho phép tôi kiểm tra bằng lái được không ạ?

- Dĩ nhiên là được, thưa ông sĩ quan - Maggie nói và cười đáp lại Chị cúi người, mở xắc tay và bắt đầu lục túi trong khi người thứ hai ra hiệu cho Stuart cũng hạ cửa kính xuống. Stuart nghĩ yêu cầu này có vẻ lạ lùng, bởi vì anh không hề mắc một lỗi gì, nhưng bởi vì anh đang ở trên một nước khác cho nên nghĩ rằng tuân lời họ là khôn ngoan hơn cả. Anh quay cửa kính xuống đúng lúc Maggie tìm thấy tấm bằng lái xe. Trong lúc chị giơ tay để đưa bằng cho họ thì viên cảnh sát thứ hai rút súng ra và bắn vào trong xe ba phát.

Sau đó hai tên nhanh chóng trở về chiếc xe tuần tra của mình. Trong khi một tên nổ máy cho xe chạy thì tên thứ hai gọi điện cho người ngồi trong ca bin chiếc xe vận chuyển của hãng Toyota:

- CÓ một chiếc xe Toyota bị hỏng, cần các anh đến giúp ngay lập tức.

Sau khi chiếc xe cảnh sát rồ máy phóng đi được một lúc thì chiếc xe chuyên dụng đang chở mười một chiếc Toyota mới tinh dừng lại trước chỗ chiếc xe nằm bên đường- Người đàn ông ngồi trên ca bin đội chiếc mũ của hãng Toyota và bộ áo liền quần màu xanh nhảy ra khỏi ca bin và chạy về phía chiếc xe bị hỏng. Gã mở cửa phía lái xe, nhẹ nhàng nâng Maggie và đặt sang ghế bên cạnh. rồi kẻo chiếc cần để nâng nắp mũi xe lên. Sau đó cúi sang Stuart móc túi áo vét lấy ví và hộ chiếu của anh, thay vào đó bằng một tấm hộ chiếu khác và một cuốn sách bìa giấy rẻ tiền. Gã lái chiếc xe chuyên dụng mở nắp chiếc Toyota và kiểm tra bên dưới. Gã nhanh chóng vô hiệu hóa bộ phận phát tín hiệu bí mật rồi đóng sập nắp máy lại. Lúc này người đi cùng gã đã ngồi sau tay lái chiếc Toyota. Gã xoay chìa khóa điện, vào số một rồi chậm rãi bò lên sàn chiếc xe chuyên dụng, đậu vào chỗ trống duy nhất còn lại Gã tắt khóa điện, kéo phanh tay, buộc bánh xe cố định lại rồi quay lại chỗ cũ của mình trên ca bin. Toàn bộ công việc mất không đầy ba phút.

Chiếc xe chuyên dụng trở lại đường cũ và chạy về phía Washington, nhưng chỉ được nửa dặm nó rẽ sang đường đi sân bay và chạy tiếp về hướng sân bay.

Chiếc Ford màu xanh lơ cũng rẽ khỏi đường cao tốc ở lối rẽ tiếp theo sau đó vòng lại hai lần rồi nhập vào dòng xe cộ chạy tiếp vê phía Washington. Người lái xe báo cáo với chỉ huy của hắn ở Langley:

- Chắc bà ta đã phạm luật giao thông. Cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì cái xe đã cũ rích đến thế.

Viên sĩ quan ngồi trên ghế trước rất ngạc nhiên khi thấy chiếc Toyota biến mất trên màn hình theo dõi. Hắn đoán:

- CÓ thể bọn họ đang trên đường trở về Georgetown.

Bao giờ bắt lại được tín hiệu chúng tôi sẽ gọi lại.

Trong khi hai tên điệp viên chạy tiếp về phía Washington, chiếc xe chuyên dụng chở mười hai chiếc Toyota rẽ trái khi gặp một tấm biển ghi "chỉ dành cho xe chở hàng". Chạy được vài trăm mét nó lại rẽ phải, chui qua một cái cổng hạn chế chiều cao được hai người mặc đồng phục của nhân viên sân bay mở sẵn rồi chạy theo một đường băng cũ đến một Garar biệt lập. Một bóng người đứng ở cửa hướng dẫn cho chiếc xe chui vào Garar, tựa như chiếc xe chuyên dụng đó là một cái máy bay vừa mới hạ cánh.

Người lái xe cho chiếc xe chuyên dụng dừng lại sau một chiếc xe hòm khác. Từ phía sau có bảy người mặc áo liền quần màu trắng nhanh nhẹn nhô ra. Một người trong bọn họ tháo xích chằng chiếc xe cũ. Một người nữa ngồi vào tay lái và đánh chiếc Toyota cũ lùi từ sàn xe xuống đất. Chiếc xe vừa dừng lại người ta đã vội mở ngay cửa ra và nhẹ nhàng nhấc mấy cái xác bên trong ra.

Người đàn ông đội chiếc mũ của hãng Toyota nhảy ra khỏi ca bin chiếc xe chuyên dụng và ngồi vào sau tay lái chiếc xe cũ. Gã sang số một, vòng xe lại và phóng vọt ra khỏi garar, quen thuộc như đã từng suốt đời lái nó.

Trong khi gã chạy qua chiếc cổng đã mở sẵn thì mấy cái xác đã được nhẹ nhàng đặt vào sau chiếc xe hòm, ở đó đã có sẵn mấy chiếc quan tài đang chờ. Một trong mấy người mặc đồng phục nói: Bao giờ đến máy bay hãy đóng nắp lại.

- Vâng, thưa bác sĩ.

- Và bao giờ người ta đóng cửa lại thì đem mấy cái xác ra và đặt vào ghế của họ.

Một người khác gật đầu, trong khi đó chiếc xe chuyên dụng lùi ra khỏi garar và quay theo đường cũ ra đường băng và ra khỏi cổng. Ra đến đường cao tốc người lái xe rẽ trái và chạy về hướng Leesburg, nơi anh ta sẽ giao mười một chiếc Toyota mới cho đại lý ở địa phương.

Tiền công trả cho công việc ngoài kế hoạch vừa thực hiện vừa rồi đủ cho anh ta mua một trong số mười một cái đó.

Lúc chiếc xe hòm ra khỏi garar và chậm chạp chạy về phía khu vực chất hàng lên máy bay thì chiếc cổng lúc nãy cũng đã được đóng và khóa chặt lại như cũ.

Người lái xe chạy qua mấy chiếc máy bay chở hàng và cuối cùng dừng lại trước chiếc máy bay 747 có ghi hàng chữ "Vận chuyển Hàng không Quốc tế". Cửa chất hàng đã mở sẵn, có hai nhân viên hải quan đã đứng chờ ở cuối cầu thang. HỌ bắt đầu kiểm tra giấy tờ đúng lúc chiếc xe Ford màu xanh lơ chạy qua số 1648 phố A von Place.

Sau khi lượn quanh khu nhà rất kỹ, hai tên điệp viên báo cáo về Langley là không hề thấy bóng dáng chiếc xe cũng như ba thứ hàng trên đó đâu cả.

Chiếc Toyota cũ ra khỏi đường 66 và lên đường cao tốc để chạy về hướng Washington. Người lái xe dận chân ga hết cỡ và lao về phía thành phố. Gã nghe rõ trong tai tiếng hai sĩ quan ngồi trong chiếc Ford được lệnh đến văn phòng của vợ Fitzgerald xem có thấy chiếc xe của bà ta đậu ở chỗ thường lệ sau tòa nhà Khoa Nhân văn không.

Sau khi các nhân viên hải quan đã yên tâm là các hồ sơ về mấy cái chết đáng ngờ này đều đã đâu vào đấy, một trong hai người nói:

- Ðược rồi. Mở nắp quan tài ra.

HỌ cẩn thận kiểm tra quần áo, miệng của cả ba cái xác, sau đó ký xác nhận các hồ sơ. Nắp quan tài được đậy lại mấy người mặc áo liền quần trắng cẩn thận chuyển từng cái một lên thang và xếp chúng cạnh nhau trong khoang máy bay.

Thang của chiếc 747 nhấc lên lúc chiếc Toyota cũ đang chạy qua Christ Church. NÓ chạy tiếp lên đồi, qua ba khối nhà nữa rồi dừng lại trước số 1648 phố Avon Người lái xe đã đỗ lại bên cạnh tòa nhà rồi đi vào qua cửa sau, đúng lúc đó thì trên máy bay viên bác sĩ đang kiểm tra mạch trên tay ba bệnh nhân của mình. Gã lái xe chạy lên phòng ngủ lớn, mở chiếc tủ đựng quần áo kê bên cạnh giường. Gã lục lọi trong đống quần áo và tìm thấy chiếc phong bì đề bèn ngoài: "Chỉ mở sau ngày 17.12". Gã bỏ chiếc phong bì vào túi áo. Gã kéo hai chiếc vali trên đầu tủ xuống và nhanh nhẹn nhét đầy quần áo vào đó. Sau đó gã lấy trong bộ áo liền quần đang mặc trên người ra một gói nhỏ bọc giây bóng kính và nhét vào trong một chiếc túi đựng mỹ phẩm rồi quẳng vào một chiếc vali. Trước khi rời phòng ngủ gã bật đèn phòng ngủ, đèn cầu thang và đèn phòng ăn, rồi cuối cùng dùng điều khiển từ xa bật chiếc TV trong bếp lên, âm thanh để ở nấc cao.

Gã để ba chiếc vali cạnh cửa sau rồi trở lại chỗ chiếc Toyota, nhấc nắp xe lên và làm cho chiếc máy phát tín hiệu làm việc trở lại.

Hai viên sĩ quan CIA đã bắt đầu lượn quanh bãi đỗ xe của trường đại học đến lần thứ hai thì chợt có một cái chấm xuất hiện trên màn hình. Tên lái xe vội vã quay lại và chạy về phía nhà Fitzgerald.

Người đàn ông lúc nãy lái chiếc Toyota quay lại phía sau ngôi nhà, cầm lấy hai chiếc vali và đi ra bằng cổng sau. Gã nhìn thấy một chiếc ta xi đỗ ở trước cửa Tudor Place và nhảy vào, vừa kịp lúc hai điệp viên CIA trở lại Avon Place. Một tên gọi về Langley báo cáo là chiếc Tọyota đã đậu ở chỗ mọi khi, gã nhìn thấy và nghe thấy tiếng TV bật trong bếp. Gã không thể nào giải thích nổi tại sao bộ phận phát tín hiệu lại không làm việc trong gần một tiếng đồng hồ.

Người lái xe taxi không hề ngoái lại khi người đàn ông nhảy vào ghế sau xe mình, tay xách hai chiếc vali to tướng. Nhưng anh ta biết rõ ngài Fitzgerald muốn anh ta đưa đến đâu.
 
Chương 26


Nguồn: vnthuquan

Mụ Giám đốc hỏi:

- Anh đang nói với tôi là cả ba người đã biến mất khỏi mặt đất sao?

Gutenburg đáp:

- CÓ vẻ như vậy. Việc đó được thực hiện lành nghề đến nỗi nếu như không biết Chắc là hắn đã chết thì tôi đã cho rằng ở đó có dấu ấn bàn tay Connor Fitzgerald.

- Và vì chúng ta biết chắc là không thể có điều đó, vậy thì là ai?

- Tôi cuộc đó vẫn là Jackson.

- Vậy thì nếu hắn đã trở về nước thì vợ Fitzgerald sẽ biết là chồng cô ta đã chết. Vậy thì từ giờ trở đi chúng ta có thể nghĩ là cuốn băng video gia đình đó sẽ được trưng lên bản tin buổi sáng bất cứ lúc nào.

Gutenburg cười tự mãn:

- Không thể - Hắn ta đưa cho chủ một gói nhỏ gắn xi- Cuối cùng đêm qua một trong các điệp viên của tôi đã tìm thấy cuốn băng, trước khi thư viện trường đại học đóng cửa vài phút.

Mụ Giám đốc vừa xé cái gói vừa nói:

- Vậy là một vấn đề đã được giải quyết. Nhưng điều gì khiến cho Jackson chưa nói cho Lloyd biết ai vừa bị giết ở Crucifflx kia chứ?

Gutenburg nhún vai:

- Dẫu cho hắn có báo cáo rồi đi chăng nữa thì thông tin đó có tác dụng gì đối với Wawrence kia chứ? Chẳng lẽ ông ta lại dám gọi điện cho ông bạn vàng Zerimski - người mà chỉ mấy ngày nữa sẽ sang thăm Washington trong một chuyến đi thăm thiện chí - để nói rằng kẻ vừa bị treo cổ vì đang định ám sát ông ta không hề là cái tên khủng bố người Nam Phi do bọn Mafya thuê, mà là một điệp viên CIA đang thi hành nhiệm vụ do chính Nhà Trắng trực tiếp yêu cầu?

Dexter nói:

- CÓ thể là ông ta không dám. Nhưng một khi Jackson cùng bọn đàn bà nhà Fitzgerald vẫn còn đó thì chúng ta còn vướng víu. Vì thế tôi cho là anh nên chọn lấy khoảng một tá điệp viên giỏi nhất để lùng cho ra bọn chúng, tôi không cần quan tâm họ làm việc ở bộ phận nào hay ai chịu trách nhiệm giao việc cho họ. Nếu Lawrence có thể chứng minh được là thật sự điều gì đã xảy ra ở St.Petersburg thì ông ta đã có quá đủ lý do để yêu cầu ai đó từ chức.

Gutenburg im lặng. Mụ Giám đốc nói tiếp:

- Và vì anh có chữ ký ở tất cả những tài liệu có liên quan, cho nên - lạy Chúa tôi - tôi không có cách nào khác là phải để anh ra đi.

Những giọt mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán Gutenburg.

.

Stuart nghĩ rằng anh vừa tỉnh dậy sau một giấc mơ tồi tệ Anh cố gắng nhớ lại những điều đã xảy ra. Mẹ của Tara ra đón họ ở sân bay rồi bà lái xe đưa họ về Washington. Nhưng rồi cảnh sát giao thông chặn xe họ lại, và yêu cầu anh hạ cửa kính xuống. Thế rồi...

Stuan nhìn quanh. Anh đang ở trong một chiếc máy bay khác, nhưng nó đang bay tới đâu? Tara đang ngồi ngả đầu lên vai anh, bên cạnh là mẹ cô, cả hai đều đang ngủ rất say. Tất cả các ghế khác trên máy bay đều rỗng không.

Anh bắt đầu điểm lại tình hình thực tế, như vẫn thường làm trong mọi vụ án. Anh và Tara đã đáp xuống sân bay Ðul1es, Maggie đang đứng chờ ở cổng...

Anh đang cố nhớ xem có chuyện gì xảy ra thì một người đàn ông trung niên ăn mặc rất lịch sự đến bên anh và cúi xuống bắt mạch.

Stuart hỏi:

Chúng tôi đang đi đâu thế này?

Nhưng ông ta không trả lời. Ông ta cũng bắt mạch cả Tara và Maggie, sau đó biến mất về phía cuối máy bay.

Stuart cởi dây an toàn nhưng không đủ sức đứng lên.

Tara cũng đã bắt đầu cựa quậy, nhưng Maggie vẫn ngủ mê mệt. Anh sờ vào túi. Bọn chúng đã lấy đi chiếc ví và hộ chiếu.Anh cố nghĩ để thử tìm một ý nghĩa nào đó của việc này. Ai lại có thể làm những việc quá khó khăn như thế này chỉ vì vài trăm đôla và một tấm hộ chiếu Austral1a kia chứ? Lạ hơn nữa là thay cho cuốn hộ chiếu thì họ lại đặt vào túi anh một tập thơ bình thường của Yeats. Trước khi gặp Tara anh chưa bao giờ đọc thơ của Yeats, nhưng sau khi cô trở về Stanfold thì anh bắt đầu thích các tác phẩm của ông. Anh mở quyển sách và đọc bài thơ đầu tiên. Ðối thoại giữa bản ngã và linh hồn.

Câu: Tôi sẵn lòng sống lại từ đầu, lại từ đầu được gạch dưới. Anh lật qua vài trang và nhận thấy có một số câu khác cũng được gạch dưới.

Trong khi anh đang nghĩ ngợi về những dấu hiệu này thì một người đàn ông cao to nặng nề đến bên cạnh anh.

Không nói câu nào, ông ta giật lấy cuốn sách trong tay anh và quay về phía đầu máy bay.

Tara chạm vào tay anh. Anh quay nhanh lại và nói thầm vào tai cô:

- Ðừng nói gì cả.

Tara liếc nhìn sang mẹ. Maggìe vẫn ngủ say, dường như đang trong một thế giới thanh bình.

.

sau khi Connor đặt hai chiếc vào vào giá và kiểm tra để tin chắc ba người hành khách vẫn sống và không bị đau đớn gì, gã bèn rời khỏi máy bay và chui vào trong chiếc BMW đã nổ máy sẵn.

Alexei Romanov ngồi bên cạnh, nói:

Chúng tôi vẫn tiếp tục giữ lời hứa về phía mình.

Connor gật đầu trong khi chiếc BMW chạy ra khỏi cổng và bắt đầu chạy về phía sân bay quốc gia Ronald Reagan.

Sau bài học ở Frankfurt, tay điệp viên CIA suýt nữa phát hiện được gã chỉ vì Romanov cùng hai tên đồng bọn đã quá lộ liễu, chỉ còn thiếu nước thông báo cho công chúng biết sự có mặt của bọn họ nữa mà thôi, Connor đã hiểu ra rằng nếu muốn thực hiện kế hoạch cứu Trưa và Maggie thì gã sẽ phải tự tay thi hành. Cuối cùng Romanov cũng chấp nhận điều đó, sau khi Connor nhắc đến một điều kiện mà cha hắn đã nhận. Giờ đây Connor chỉ hy vọng một điều là Stuart có khả năng như đã tỏ ra hồi ở trên bãi biển Austral1a. Gã cầu nguyện để Stuart chú ý đến những từ gạch chân trong cuốn sách gã đã bỏ vào túi áo anh ta.

Chiếc BMW dừng lại ở bên ngoài lối vào phòng chờ của sân bay nội địa Washington. Connor bước ra, Romanov đi bên cạnh. Hai người khác cũng nhập vào bọn họ và đi theo Connor trong khi gã bình thản bước vào sân bay và đi về phía quấy. Gã cần để cho họ chùng lại một chút trước khi có một động thái tiếp theo.

Lúc Connor đưa vé ra, người đàn ông ngồi sau bàn của hãng Hàng không Mỹ nói:

- Xin lỗi, ngài Radford, nhưng chuyến bay số 383 đi Dal1as hơi chậm lại một chút, tuy nhiên chúng tôi hy vọng sẽ sắp xếp được thời gian như thường lệ. Xin mời ngài ra cổng 32 để lên máy bay.

Connor bước đi một cách bình thường về phía phòng cách ly, nhưng gã dừng lại khi nhìn thấy dãy buồng điện thoại. Gã chọn một buồng kẹp giữa hai buồng khác.

Romanov và hai tên kia đứng lại chờ cách đó vài bước, trông Romanov có vẻ không hài lòng. Connor mỉm cười với bọn chúng vẻ rất vô tư, sau đó nhét tấm thẻ gọi điện thoại quốc tế của Stuart vào khe và quay để gọi một số ở Cape Town.

Chuông đổ hồi lâu mới thấy có người trả lời:

- Tôi nghe.

Connor đây.

Một hồi im lặng kéo dài, cuối cùng Can đáp:

- Tôi nghĩ chỉ có Chúa Jesu mới có thể sống lại sau khi đã chết mà thôi.

Connor đáp:

- Tôi đã chuộc tội một thời gian rồi mới sống lại được đấy.

- Vậy, ít nhất thì anh cũng đang còn sống, bạn của tôi.

Tôi có thể làm gì cho anh đây?

- Trước hết, theo như Công ty hiểu thì không có sự sống lại đâu.

Carl đáp:

- Tôi hiểu.

Connor vừa trả lời xong câu hỏi cuối cùng của Carl thì nghe thấy lần gọi cuối cùng cho chuyến bay 383 đi Dallas. Gã đặt ống nghe xuống, lại mỉm cười với Romanov rồi nhanh chóng đi về phía cổng 32.

Cuối cùng khi Maggie tỉnh dậy, Stuart nhoài tới và bảo chị không được nói gì hết trước khi tỉnh hẳn. Mấy phút sau một tiếp viên hàng không hiện ra và yêu cầu họ hạ bàn ăn xuống. Mấy món ăn được đem tới, cứ như họ đang ngồi ghế hạng nhất trong một chuyến bay bình thường.

Trong khi ăn một con cá, Stuart thì thầm với Maggie và Tara:

- Cháu không hề có khái niệm chúng ta đang ở đâu hoặc đang đi đâu, nhưng cháu tin là chuyện này có liên quan đến Connor.

Maggie gật đầu và khẽ nói cho họ biết những gì chị phát hiện được sau cái chết của Joan. Chị nói:

Nhưng mẹ không nghĩ bọn người đang giữ chúng ta đây lại là CIA, bởi vì mẹ đã nói với Gutenburg là nếu như mẹ mất tích lâu hơn bảy ngày thì cuốn băng video đó sẽ được chuyển cho các hãng truyền hình.

Stuart nói:

- Trừ phi bọn chúng đã tìm thấy cuốn băng.

Maggie nhấn mạnh:

- Nhưng chúng không thể tìm thấy được.

Tara nói:

- Vậy chúng là bọn quái quỷ nào?

Không ai nói gì nữa bởi vì cô tiếp viên đã quay lại và im lặng dọn các khay của họ. Sau khi cô tiếp viên đã đi khỏi, Maggie hỏi:

- Còn chuyện gì nữa không?

Stuart nói:

Chỉ còn một điều nữa, đó là không biết có ai đó đã nhét vào túi áo cháu một cuốn thơ của Yeats.

Tara nhận thấy Maggie giật mình. CÔ lo lắng hỏi khi thấy mẹ ứa nước mắt:

- Sao thế mẹ?

- Con không hiểu điều đó có nghĩa là gì?

Tara có vẻ bối rối:

- Không, con không hiểu.

Maggie nói:

Nhất định cha con còn sống. Ðưa mẹ xem nào. CÓ thể cha con nhắn gì ở trong đó.

Stuart nói:

- Rất tiếc là cháu không còn cầm nó nữa. Cháu vừa mới mở nó ra thì một người to lớn từ phía đầu máy bay đi tới và tước mất cuốn sách rồi. Nhưng cháu để ý thấy có mấy từ được gạch chân.

Maggie hỏi dồn:

- Những từ gì?

- Cháu chẳng hiểu từ nào trong đó cả.

- Không sao. Cháu có nhớ từ nào không? Stuart nhắm mắt và cố tập trung tư tưởng, cuối cùng bật ra "sẵn lòng".

Maggie mỉm cười:

- Tôi sẵn lòng sống lại từ đầu, lại từ đầu...

.

Chuyến bay số 383 hạ cánh xuống Dallas đúng giờ, khi Connor và Romanov ra khỏi máy bay thì một chiếc BMW màu trắng khác đã chờ sẵn để đón họ. Chẳng lẽ bọn Mafya đặt cả một lô xe này hay sao? Connor phân vân Hai tên lực lưỡng hộ tống bọn họ gần đây nhất trông như vừa được thuê từ một lò luyện võ - thậm chí dưới áo khoác mà vai chúng cũng u lên từng tảng.

Gã chỉ hy vọng ở chi nhánh Cape Town vừa được thành lập, mặc dầu gã không tin rằng Canl không làm nổi việc giữ mấy người này cẩn thận - anh ta đã có hai mươi năm kinh nghiệm, và là một điệp viên lâu năm của CIA.

Hành trình đến trung tâm thành phố Dal1as chỉ mất hơn hai mươi phút. Connor im lặng ngồi phía sau xe, biết rằng mình sắp phải đối mặt với một kẻ khác cũng đã làm việc cho CIA. Mặc dầu hai bên chưa bao giờ gặp nhau:

nhưng gã biết đây là sự mạo hiểm lớn nhất kể từ khi gã trở về Mỹ. Nhưng nêu như bọn Nga muốn gã tôn trọng điều khoản chính yếu nhất của hợp đồng thì gã sẽ phải sử dụng khẩu súng lý tưởng duy nhất đó để tiến hành ám sát.

Sau một quãng đường im lặng nữa họ đỗ lại bên ngoài Trung tâm thương mại Harding Bia Game. Connor nhanh chóng bước vào cửa hàng, Romanov và hai cái bóng của hắn theo sát gã từng bước. Gã tiến đến trước quầy bán hàng trong khi mấy người kia giả vờ như rất thích thú ngắm nghía dãy súng ngắn tự động bày ở cuối cửa hàng.

Connor nhìn quanh. Gã cần quan sát nhanh, kín đáo nhưng phải bao quát. Mấy giây sau gã đã tin rằng trong cửa hiệu không đặt camera quan sát.

Một người bán hàng trẻ tuổi mặc chiếc áo khoác dài màu nâu hỏi:

- Xin chào ngài. Ngài cần thứ gì ạ?

Tôi định đi săn, và muốn mua một khẩu súng trường.

- Ngài đã định loại nào chưa ạ?

CÓ một khẩu Remington 700.

- Vậy thì không có vấn đề gì khó khăn cả, thưa ngài.

Connor nói:

- CÓ lẽ cần phải gia công thêm một chút.

Người bán hàng lưỡng lự:

- Xin ngài chờ cho một phút.

Anh ta biến mất qua một tấm rèm để vào phòng phía trong.

Một phút sau một ông già, cũng mặc áo khoác nâu, bước ra. Connor hơi giật mình: gã đã hy vọng là sẽ mua được khẩu súng mà không cần phải làm việc trực tiếp với Jim Harding huyền thoại.

ông già nhìn kỹ người khách, nói:

- Xin chào ngài. Tôi được biết ngài quan tâm đến một khẩu Remington 700 - ông ta ngừng lại một phút - với một chút cải tiến, phải không ạ?

Connor nói:

- Vâng, một người bạn đã giới thiệu tôi đến đây.

Harding nói:

- Bạn của ngài chắc phải là một tay chuyên môn.

Vừa nghe đến từ "chuyên môn" Connor đã biết ông ta đang thử mình. Nếu như Harđing không phải là một strradivarius (thợ làm đàn violon nổi tiếng của Italia) của những khẩu súng huyền thoại thì có lẽ gã đã rời khỏi cửa hàng mà không nói thêm một lời nào.

Harding hỏi, mắt vần khống rời người khách:

- Ngài muốn sửa đổi như thế nào?

Connor tả kỹ lại khẩu súng mà gã đã bỏ lại ở Bogotá và quan sát thật kỹ xem ông ta có phản ứng gì không.

Khuôn mặt Harding vẫn thản nhiên:

- Thưa ngài, có lẽ tôi có một vật sẽ làm ngài vừa lòng - ông ta nói và biến mất vào sau bức rèm.

Một lần nữa Connor tính chuyện đi ra, nhưng chỉ mấy giây sau Harding đã trở lại, mang theo chiếc van đa quen thuộc và đặt lên bàn quầy.. ông ta nói:

- Chúng tôi mua lại được khẩu súng này sau khi chủ nhân của nó mới chết gần đây.

ông ta bật khóa, mở nắp và nghiêng van để Connor có thể nhìn thấy khẩu súng.

- Tất cả để được chế tạo bằng tay, và tôi tin là ngài sẽ không thể tìm được một khẩu súng nào tốt hơn khẩu này trong tất cả các cửa hàng bán đồ kỹ nghệ loại này ở khắp vùng Mississippi này đâu. - Harding vuốt ve khẩu súng vẻ trìu mến - Báng làm bằng sợi thuỷ tinh, như vậy nhẹ nhất và thăng bằng nhất. Nòng thì nhập từ Ðức - tôi nghĩ là vẫn chỉ có nhà Krauts làm được những nòng súng tốt nhất hiện nay. Kinh ngắm là loại Leupold 10 Power với thước ngắm chia thành từng milimét, vì thế thậm chí không cần điều chỉnh độ gió nữa kia. Với khẩu súng này ngài có thể bắn chết một con chuột cách xa bốn trăm mét, chứ đừng nói đến một con nai sừng. Nếu ngài có kỹ thuật thì sẽ có thể chỉnh được góc ba mươi độ cách với khoảng cách một trăm mét nữa kia - ông ta ngước lên để xem vị khách có hiểu được những gì mình đang nói không, nhưng vẻ mặt Connor không cho thấy điều gì - Một khẩu Remington 700 với một chút sửa đổi như vậy thì chỉ những khách hàng tinh mắt nhất mới hiểu được giá trị mà thôi - ông ta kết luận.

Connor không lấy mấy mẩu chi tiết kia ra khỏi vali vì sợ rằng Harding sẽ nhận ra gã là một khách hàng tinh mắt đến thế nào.

- Bao nhiêu tiền? - Gã hỏi và chợt nhận ra mình chẳng có ý niệm gì về giá cả một khẩu Remington làm bằng tay cả.

Harding nói:

- Hai mươi mốt ngàn đô la. Mặc dầu vậy chúng tôi cũng có những khẩu thông thường khác mà nếu ngài...

Connor nói:

- Không, khẩu này rất tuyệt.

Và ngài sẽ trả bằng gì ạ?

- Tiền mặt.

Harding nói:

- Vậy thì tôi sẽ cần một thứ giấy tờ gì đó. Tôi e là từ khi ta thông qua Luật về Ðăng ký và Thẻ Chứng minh thay cho luật Brady thì người ta còn phải có nhiều thứ giấy tờ hơn trước nhiều.

Connor lấy ra một bằng lái xe của bang Virginia mà hôm qua gã đã mua với giá hai trăm đôla của một tênmóc túi ở Washington.

Harding kiểm tra tấm bằng và gật đầu:

- Ngài Radford, bây giờ chỉ còn cần ngài điền vào ba mẫu tờ khai này nữa thôi.

Connor viết tên, địa chỉ và số thẻ An ninh Xã hội của viên trợ lý giám đốc một cửa hiệu bán giày ở Richmond.

Trong khi Harding đánh mấy con số vào máy tính.

Connor cố tỏ ra chán ngấy, nhưng gã chỉ thầm cầu nguyện cho trong hai mươi tư giờ qua ngài Radford chưa kịp trình báo việc mất bằng lái xe.

Chợt Harding ngước lên khỏi màn hình:

- Tên ngài là tên đúp à?

Connor đáp:

- Không, George mới là tên riêng của tôi. Mẹ tôi hồi đó nghĩ đến George Peck.

Harding mỉm cười:

- Tôi cũng nghĩ vậy.

Sau mấy phút nữa Harding nói:

- Ngài Radford, có vẻ như mọi việc đều ổn cả.

Connor quay lại và gật đầu cho Romanov, tên này bước tới và lấy từ một cái túi trong ra một tập đô la dày cộp Hắn cố ý để lộ như khoe tập tiền toàn tờ một trăm đô la rồi mới đếm lấy 21 tờ trong số đó và đưa cho Harding. Việc mà Connor chỉ mong sẽ diễn ra như một cuộc mua bán bình thường thì Romanov lại biến thành như biểu diễn kịch câm. Hai tên hộ vệ thì cũng cứ như đang đứng ở cửa nhà hát để bán vé cho một buổi biểu diễn.

Harding viết giấy biên nhận và đưa cho Connor, gã nhận rồi đi ra không nói thêm tiếng nào. Một trong hai thằng ngớ ngẩn vổ lấy khẩu súng rồi chạy ra khỏi cửa hàng cứ như vừa cướp xong nhà băng. Connor chui vào ghế sau chiếc BMVV, tự hỏi không hiểu bọn họ có thể làm thế nào để hút sự chú ý của mọi người vào mình hơn thế nữa không. Chiếc xe vọt khỏi lề đường và lao vút vào dòng xe cộ đang lao nhanh vun vút, lại còn nhấn còi inh ỏi, Connor nghĩ, họ vẫn tìm được cách để ầm ĩ hơn.

Gã vẫn không nói năng gì khi thấy suốt dọc đường trở về sân bay tên tài xế luôn cho xe chạy vượt quá tốc độ cho phép. Ngay cả Romanov cũng có vẻ bắt đầu e ngại.

Connor đã nhanh chóng phát hiện ra một điều rằng bọn Mafia mới ở Mỹ hoạt động còn nghiệp dư hơn nhiều so với bà con của chúng ở Italia. Phải còn lâu nữa bọn chúng mới đuổi kịp trình độ của bọn italia, nhưng một khi bọn chúng đã đuổi kịp thì có trời giúp nổi FBI.

Mười lăm phút sau chiếc BMW trắng đỗ lại trước cửa sân bay. Connor chui ra khỏi xe trong khi đó Inomanop còn ngồi lại để ra lệnh cho hai tên kia, và cuối cùng xỉa ra một nắm tiền một trăm đô la còn nhiều hơn lúc nãy đưa cho bọn chúng. Lúc gặp Connor ở bàn kiểm tra. hắn thì thầm:

- Trong vòng bốn tám tiếng nữa khẩu súng sẽ có mặt ở Washington.

- Tôi không cuộc điều đó đâu - Connor nói trong khi cả hai đi về phía phòng chờ dành cho khách đi.

.

Stuart ngỡ ngàng hỏi:

Bác thuộc lòng cả quyển thơ Yeats ư?

- à, gần như thế - Maggie thừa nhận - Nhưng đó là vì có những bài thơ mà hầu như tối nào trước khi đi ngủ bác cũng đọc lại.

Tara nói:

Stuart, anh còn rất nhiều thứ nữa cần biết về người Irish kia. Bây giờ anh thử cố nhớ ra thêm vài từ nữa đi.

Stuart cố nghĩ một lúc, sau đó anh nói vẻ rất thành công:

- Hollow.

Maggie đọc:

- Qua những mảnh đất hoang vắng, những mảnh đất và đồi. Thế thôi.

Tara nói.

- Như vậy có thể chúng ta đang đi tới Hà lan.

Stuart nói:

- Em thôi đi, đừng giả vờ khôi hài nữa đi.

Tara nói:

- Vậy anh cố nhớ ra thêm nữa đi.

Stuart lại cố gắng tập trung, một lúc sau anh bật ra:

- Bạn bè.

Maggie đọc:

- Bao giờ chúng ta cũng có bạn bè mới gặp bạn bè cũ.

Tara nói:

- Vậy là chúng ta sẽ đến một đất nước mới và gặp những người bạn mới.

- Nhưng đó là ai kia chứ? - Maggie hỏi. Trong lúc đó chiếc máy bay vẫn tiếp tục cuộc hành trình trong đêm
 
Chương 27


Nguồn: vnthuquan

Vừa đọc xong tin nhắn, Gutenburg quay ngay một số điện thoại ở Dallas. Vừa nghe tiếng Harding vang lên ở đầu dây, Phó Giám đốc CIA chỉ hỏi:

- Tả lại hắn xem sao.

Cao một mét tám, có lẽ mét tám ba. Hắn đội mũ, cho nên tôi không nhìn thấy màu tóc.

Tuổi?

Năm mươi. CÓ lẽ hơn kém một năm gì đó.

- Mắt?

- Màu xanh.

- ăn mặc?

áo vét thể thao, quần ka ki, sơ mi xanh lơ, giày mềm, không đeo cà vạt. Lịch sự nhưng đơn giản. Tôi đã tưởng là người của chúng ta, nhưng sau đó nhận thấy hắn đi cùng với hai tên du côn khét tiếng ở vùng này, tuy bọn chúng cố tỏ ra không quen biết hắn. Còn có một gã thanh niên nữa không mở miệng bao giờ, nhưng hắn chính là người trả tiền mua khẩu súng - tiền mặt.

- Và tên kia mới là người tỏ ra biết rõ là hắn cần chính khẩu súng đã được sửa sang đó?

- Vâng. Tôi tin chắc chắn rằng hắn biết rõ cái hắn đang tìm kiếm.

- Ðược giữ cái đám tiền mặt ấy lại. CÓ thể chúng ta sẽ tìm thấy dấu vân tay trên một trong những tờ giấy bạc đó.

Harding nói:

- Ngài sẽ không thể tìm ra dấu vân tay đâu. Tên trẻ tuổi trả tiền, còn một trong hai tên lưu manh nhận khẩu súng mang đi.

Gutenburg nói:

- Dẫu cho là ai đi chăng nữa thì rõ ràng là hắn không muốn mạo hiểm để khẩu súng bị an ninh sân bay kiểm tra. Vậy thì đơn giản nhất là hai tên du côn đó sẽ đóng vai trò vận chuyển thôi. Hắn khai trong tờ khai tên là gì.

- George Peck Radford.

- Loại giấy tờ nhận dạng nào?

- Bằng lái xe của bang Virginia. Ðịa chỉ và ngày sinh đều khớp với số đăng ký An ninh Xã hội.

- Một giờ nữa tôi sẽ cử một nhân viên đến chỗ ông:

Anh ta sẽ bắt đầu bằng việc gửi qua e-mail cho tôi bất cứ chi tiết nào ông có được về hai tên du côn đó. Và tôi còn cần một chiếc máy tính cùng với một họa sĩ đồ họa để phác thảo khuôn mặt kẻ bị tình nghi chính nữa.

Harding nói:

Việc đó thì không cần.

- Tại sao lại không cần?

- Toàn bộ mọi việc đã được ghi lại trên băng video rồi.

- Gutenburg không thể nhìn thấy nụ cười thỏa mãn nở trên mặt lão già - Ngay cả ngài cũng sẽ không thể nào phát hiện ra camera an ninh gắn Ở đâu đâu.

***.

Stuart tiếp tục cố gắng nhớ lại, đột nhiên anh nói:

- Tìm được.

Maggie đọc:

- Tôi sẽ tìm được nơi nàng đã tới.

Tara nói:

- Chúng ta sẽ tới một vùng đất xa lạ để gặp những người bạn mới và bố sẽ tìm được chúng ta. Anh có thể nhớ thêm được gì nữa không, Stuart?

- Mọi vật đổ vỡ...

- Nhưng rồi sẽ được xây dựng lại. - Maggie thì thầm khi người đàn ông đã đoạt mất quyển sách khỏi tay Stuart lại tới bên họ.

ông ta nhìn họ và nói:

- Bây giờ hãy nghe đây, và nghe cho thật cẩn thận.

Nếu các người hy vọng được sống sót thì sẽ phải tuân theo lời dặn của tôi chính xác đến từng chữ. Hiểu chưa?

Stuart nhìn thẳng vào mắt ông ta và tin chắc rằng ông ta đã từng nhìn vào họ trước đó. Anh gật đầu.

Lão già nói tiếp:

- Ðược Khi máy bay hạ cánh các người sẽ đi thẳng đến nơi trả hành lý, nhặt lấy đồ đạc của các người và đi qua cửa kiểm tra hải quan mà không được làm cho ai chú ý. Các người sẽ không được - tôi nhắc lại là không được vào phòng nghỉ. Sau khi đã qua cửa hải quan, đến phòng đón khách đến, các người sẽ được hai người của chúng tôi đưa đến một ngôi nhà và các người sẽ Ở lại đó trong thời gian trước mắt. Tối nay tôi sẽ gặp lại các người. RÕ chưa?

- RÕ - Stuart đáp quả quyết, đại diện cho cả ba người.

- Nếu có ai trong các người ngu ngốc đến nỗi định bỏ chạy hoặc cố nhờ đến sự trợ giúp của ai khác thì bà Fitzgerald sẽ bị giết ngay lập tức. Và nếu bà ta không có mặt lúc đó vì bất cứ lý do gì thì ta sẽ chọn một trong hai người - Lão ta nhìn Tara và Stuart - ông Fitzgerald đã đồng ý với những điều kiện đó.

Maggie nói:

- Không thể như thế được. Connor sẽ không bao giờ...

- Bà Fitzgerald, trong tương lai tôi nghĩ là sẽ khôn ngoan hơn nếu cứ để cho ông Farnham phát biểu thay cho cả ba người - Lão già nói, suýt nữa thì Maggie đã đính chính lại lời lão nếu Tara không đá vào chân chị để ra hiệu.

- CÁC người sẽ cần đến cái này - Lão già nói và đưa cho Stuart ba tấm hộ chiếu. Stuart xem và đưa một quyển hộ chiếu cho Maggie, một quyển cho Tara trong khi lão già quay lại khoang lái.

Stuart nhìn xuống quyển hộ chiếu còn lại, giống như hai quyển kia, trên bìa có in hình con Ó Mỹ. Anh lật mở và thấy ảnh mình dán trên cái tên "Daniel Famham".

Nghề nghiệp: Giáo sư trường Luật. Ðịa chỉ: 75 Marina Boulervard, San Francisco, Cal1fornia. Anh đưa cho Tara xem, trông cô có vẻ bối rối.

Stuart nói:

- Anh rất thích làm việc với những chuyên gia. Và anh bắt đầu nhận ra rằng cha em là một trong những chuyên gia giỏi nhất.

Maggie hỏi:

- Cháu có chắc là cháu không thể nhớ ra thêm một từ nào nữa không?

Stuart nói:

- Cháu sợ là không nhớ được thêm gì nữa. Không, khoan đã. Aanarchy.

Maggie mỉm cười:

- Bây giờ thì bác biết là chúng ta sẽ đi tới đâu rồi.

***

Ðường đi từ Dal1as đến Washington rất dài. Hai thằng kẻ cướp nọ đã thả Connor và Romanov xuống tại sân bay sau đó luôn luôn định sẽ dừng lại nghỉ Ở đâu đó rồi sáng hôm sau mới tiếp tục đi Washington. Hơn chín giờ tối hôm đó, sau khi đi được khoảng bốn trăm dặm chúng ghé vào một khách sạn nhỏ Ở ngoại Ô Memphis.

Hai viên sĩ quan CIA lâu năm nhìn thấy chúng đậu chiếc BMW Ở một chỗ, bốn mươi lăm phút sau mới báo cáo về cho Gutenburg:

- Chúng đã vào nghỉ Ở khách sạn Marriott Memphis, phòng 107 và 108. Chúng yêu cầu phục vụ tại phòng lúc chín giờ ba mươi và hiện đang Ở trong phòng 107 xem phim Nash Bridges.

Gutenburg hỏi:

- Khẩu súng đâu?

- Ðược khóa vào tay tên ngủ Ở phòng 108.

Gutenburg nói:

Vậy thì cần có một người phục vụ phòng và một cái chìa khóa.

Hơn mười giờ, một người phục vụ phòng xuất hiện và đặt một cái bàn chuẩn bị bữa tối. Anh ta mở một chai vang đỏ, rót ra hai cốc và bày các món ăn. Anh ta nói với khách là bốn mươi lăm phút nữa sẽ quay lại để dọn dẹp.

Một trong hai tên yêu cầu anh ta cắt nhỏ miếng thịt bò rán, bởi vì anh ta chỉ dùng được một tay. Người phục vụ vui vẻ tuân theo.

- Chúc các ngài vui vẻ - Anh ta chào rồi đi ra.

Sau đó người phục vụ di thẳng ra bãi đỗ xe và báo cáo lại mọi chuyện cho viên sĩ quan lâu năm, tên này cám ơn rồi đưa ra một yêu cầu nữa. Người phục vụ gật đầu, rồi viên sĩ quan đưa cho anh ta tờ năm mươi đô la.

Người phục vụ đi khỏi, tên điệp viên thứ hai nói:

- RÕ ràng là hắn không hề có ý định rời khẩu súng, thậm chí trong khi ăn.

Mấy phút sau người phục vụ quay lại bãi xe để báo cáo là cả hai tên kia đều đã về phòng đi ngủ. Anh ta đưa một chiếc chìa khóa và đổi lại nhận được một tờ năm mươi đô la nữa. Anh ta ra về, hài lòng nghĩ là tối nay mình làm ăn tốt. Ðiều mà anh ta không biết là tên Ở phòng 107 đã lấy đi chiếc chìa khóa cái còng tay để yên trí là sẽ không ai có thể ăn cắp chiếc vali đã bị xích vào tay bạn hắn trong khi bạn hắn đang ngủ.

Sáng hôm sau người khách trong phòng 107 cảm thấy uể oải khác thường. Hắn nhìn đồng hồ và rất ngạc nhiên thấy đã rất muộn. Hắn xỏ chân vào chiếc quần jean và vội vã đi sang phòng bên để đánh thức bạn dậy. Hắn đứng sững lại, khuỵu xuống và bắt đầu nôn mửa. Trên thảm là một vũng máu, giữa vũng máu là một bàn tay bị cắt rời.

***.

Vừa bước chân ra khỏi máy bay Ở sân bay Cape Town Stuart đã nhận thấy ngay có hai người đang theo dõi từng cử động của mình. Một sĩ quan nhập cư đóng dấu và hộ chiếu của họ, sau đó họ đi về phía phòng để nhận hành lý Chỉ mấy phút sau các hành lý của hành khách đã bắt đầu xuất hiện trên mâm quay. Maggie rất kinh ngạc khi thấy hai chiếc vali cũ của chị hiện ra trên băng tải. Stuart bắt đầu quen với cách tổ chức công việc của Connor.

Sau khi lấy xong hành lý của mình, Stuart chất tất cả lên một chiếc xe đẩy và họ bắt đầu đi về phía cửa ra. Hai người kia dính chặt lấy họ không rời nửa bước.

Trong khi Stuart đẩy chiếc xe đẩy qua cửa hải quan, một nhân viên hải quan bước ra chỉ vào chiếc vali màu đỏ yêu cầu chủ nhân của chúng đem đến bàn kiểm tra.

Stuart giúp Maggie nhấc chiếc vali lên, trong khi hai người kia miễn cưỡng đi tiếp. Qua khỏi cửa, chúng liền đứng lại ngay cạnh cửa ra. Cứ mỗi lần cánh cửa mở ra chúng lại ngó vào canh chừng. Chỉ một loáng sau đã có hai người nữa đến nhập bọn với chúng.

Viên sĩ quan hải quan yêu cầu:

- Xin bà mở chiếc túi này ra hộ.

Maggie bật nắp vali và mỉm cười trước mớ đồ đạc lộn xộn hiện ra trước mắt chị. Duy nhất chỉ có thể là một người đã sắp xếp chiếc vali này. Viên sĩ quan hải quan lục lọi trong mớ quần áo hồi lâu, cuối cùng lấy ra một cái túi đựng đồ trang điểm. Anh ta mở khóa kéo, lấy ra một gói nylon nhỏ, bên trong đựng bột phấn màu trắng.

Maggie toan nói:

- Nhưng đó chỉ là...

Lần này đến lượt Stuart ra hiệu cho chị đừng nói gì.

Viên sĩ quan nói:

- Chúng tôi cần xin phép được kiểm tra trong người bà, thưa bà. Nhưng có lẽ trong trường hợp này thì con gái bà có thể đi cùng.

Stuart đang ngạc nhiên vì họ có thể biết được Tara là con gái Maggie, trong khi rõ ràng không cho rằng anh là con trai của chị.

Viên sĩ quan nói:

- Xin mời cả ba người đi theo tôi. Xin đem theo cả hành lý của các vị.

Anh ta lật một phần chiếc bàn quầy lên và đẩy cả ba người qua một cánh cửa dẫn vào một gian phòng nhỏ, trong đó có một cái bàn và hai chiếc ghế.

- Một nhân viên của tôi sẽ đến gặp các vị ngay - Anh ta nói rồi quay ra. Cửa đóng lại, họ nghe thấy tiếng chìa khóa quay trong ổ.

Maggie hỏi:

CÓ chuyện gì thế nhỉ? Cái gói đó không phải...

Stuart nói:

- Chắc chúng ta sắp biết ngay bây giờ thôi.

Cánh cửa Ở cuối phòng mở ra, một người đàn ông cao lớn trông có vẻ rất thể thao trên đầu không có một sợi tóc nào, mặc dầu chưa thể tới năm mươi tuổi. vội vã bước vào phòng. Ông ta mặc chiếc quần Jean xanh và áo len dệt màu đỏ và rõ ràng không có vẻ gì là một nhân viên thuế quan. ông ta bước thẳng đến chỗ Maggie, hôn tay chị.

ông ta nói bằng giọng Nam Phi đặc sệt:

- Tôi là Can Koeter. Chị Fitzgerald, đây là một vinh dự đặc biệt đối với tôi. Ðã lâu lắm rồi tôi vẫn ước ao được gặp người phụ nữ đã đủ dũng cảm để chung sống với Connor Fitzgerald. Chiều hôm qua anh ấy gọi cho tôi và yêu cầu tôi cam đoan với chị rằng anh ấy vẫn còn sống.

Maggie rất muốn nói gì đó, nhưng ông ta nói một tràng không dứt.

- Dĩ nhiên là tôi biết về chị nhiều hơn là chị biết về tôi, nhưng không may lần này chúng ta không có nhiều thì giờ để sửa chữa điều đó - ông ta mỉm cười với Tara và Stuart rồi hơi nghiêng người - CÓ lẽ xin mời các vị đi theo tôi.

ông ta quay lại và bắt đầu đẩy chiếc xe đẩy về phía cửa.

Maggie thì thầm:

- Ở đâu chúng ta cũng có bạn bè mới gặp gỡ bạn bè cũ.

Stuart mỉm cười.

ông ta dẫn họ đi xuống một cái cầu thang và đi dọc một lối đi tối và vắng vẻ. Maggie đi nhanh để theo kịp ông ta và tranh thủ thời gian để hỏi về cuộc nói chuyện của ông ta với Connor hôm qua. Ðến cuối đường hầm họ lại leo lên một cầu thang khác và nhô lên Ở cuối sân bay.

Koeter nhanh chóng đưa họ đi qua một cửa kiểm tra an ninh, Ở đây người ta chỉ kiểm tra họ rất qua loa. Sau một hồi ngoằn ngoèo nữa họ đến một phòng chờ ra máy bay vắng tanh, đến đây Koeter đưa cho nhân viên Ở cổng ra máy bay ba chiếc vé và nhận được ba chiếc thẻ lên máy bay trên chuyến bay của hãng hàng không Quantas đi Sydney sẽ cất cánh trong mười lăm phút nữa một cách rất bí hiểm.

Maggie nói:

- Chúng tôi làm sao có thể cám ơn anh cho hết được?

Koeter lại cầm tay Maggie nâng lên hôn một lần nữa, đáp:

- Chị Fitzgerald, Ở đâu chị cũng sẽ thấy có những người không sao đền đáp hết những gì mà Connor đã làm cho họ.

***.

Cả hai đang ngồi xem Tivi, không tên nào nói một lời trước khi cuốn băng dài mười hai phút chấm dứt.

Mụ Giám đốc khẽ hỏi:

- CÓ thể như vậy không?

Gutenburg nói:

- chỉ khi bằn cách nào đó hai tên đã đổi chỗ cho nhau trong Cruciffix.

Dexter im lặng hồi lâu mới nói:

- lackson chỉ có thể làm như vậy nếu hắn ta muốn thí mạng chính hắn.

Gutenburg gật đầu.

- Vậy còn người trả tiền là ai?

Aleixei Romanov, con trai của Sa hoàng và là nhân vật thứ hai trong tổ chức Mafya Nga. Một trong các điệp viên của chúng ta đã phát hiện ra hắn ta Ở sân bay Frankfurt, và chúng tôi cho rằng hiện nay hắn và Fitzgerald làm việc cùng với nhau.

Dexter nói:

- Vậy thì chính Mafya là người đã cứu hắn khỏi Cruciffix. Nhưng nếu như hắn cần đến khẩu Remington 700 đó thì mục tiêu sẽ là ai?

Gutenburg nói:

- Tổng thống.

Dexter đáp:

- CÓ thể là anh nói đúng, nhưng Tổng thống nào?
 
Chương 28


Nguồn: vnthuquan

Tổng thống Hoa kỳ và Thư ký Nhà nước đứng trong số bảy mươi hai nhân vật cao cấp đứng thành một hàng trên sân bay khi chiếc máy bay Ilyushin của Lực lượng không quân Nga hạ cánh xuống căn cứ Không quân, ngay bên cạnh Washington DC. Tấm thảm đỏ đã được trải ra, một diễn đàn với mười hai chiếc micro đã được dựng lên và một chiếc thang rộng đã được dựng sẵn đúng Ở nơi mà chiếc máy bay sẽ dừng lại trên sân bay.

Cửa máy bay mở ra, Tom Lawrence phải lấy tay che mắt vì ánh nắng mặt trời buổi sáng. Một tiếp viên hàng không cao và mảnh dẻ đứng Ở cạnh cửa. Một lúc sau một người đàn ông thấp lùn xuất hiện cạnh cô ta. Mặc dầu Lawrence biết rằng Zerimski chỉ cao có một mét sáu mươi, nhưng cô tiếp viên bên cạnh làm nổi bật thêm chiều cao khiêm tốn của ông ta. Lawrence ngờ rằng một người lùn như Zerimski khó mà trở thành Tổng thống Mỹ được.

Trong khi Zerimski thong thả bước xuống thang, đám phóng viên đông đúc bắt đầu bấm máy như điên. Từ phía sau họ các camera của các hãng truyền hình chiếu ống kính vào người sẽ chiếm những tin tức chính trên các báo thế giới trong bốn ngày tới.

Người phụ trách lễ tân của Mỹ bước tới để giới thiệu hai Tổng thống, Lawrence nồng nhiệt bắt tay vị khách của mình.

- Ngài Tổng thống, chào mừng ngài đến thăm Hoa kỳ.

- Tom, cám ơn ông - Zerimskí ngay lập tức nói ngược lại như để bóc mẽ Lawrence.

Lawrence quay lại để giới thiệu Thư ký Nhà nước.

Zerimski nói:

- Rất vui được gặp ông, Larry.

Zerimski tỏ ra ân cần niềm nở và thân thiện một cách không ngờ khi được giới thiệu với từng người: BỘ trưởng Quốc phòng, BỘ trưởng Thương mại, BỘ trưởng An ninh Quốc gia. Ðến cuối hàng, Lawrence nắm lấy khuỷu tay ông ta đưa về phía diễn đàn. Trong khi đi ngang qua đường băng, Tổng thống Mỹ ghé người vào sát vai ông ta và nói:

- Ngài Tổng thống, tôi sẽ chỉ nói vài lời chào mừng thôi, và sau đó có lẽ ngài sẽ đáp lại một chút.

Zerimski nói:

- Hãy gọi tôi là Victor.

Lawrence bước lên bục diễn đàn, lấy một tờ giấy từ trong túi trong ra và đặt lên bàn. ông ta bắt đầu nói:

- Thưa ngài Tổng thống - rồi ông ta quay sang mỉm cười với Zerimski - Victor, xin cho phép tôi được bắt đầu bằng lời chào mừng ngài đến nước Mỹ. Ngày hôm nay sẽ đánh dấu sự mở đầu của một giai đoạn mới trong quan hệ đặc biệt giữa hai đất nước vĩ đại chúng ta.

Chuyến đi thăm của ngài đến Hoa kỳ là sự báo trước...

***.

Connor ngồi trước ba chiếc TV theo dõi các hãng truyền hình tường thuật lại buổi lễ. Ðêm nay gã sẽ tua đi tua lại cuốn băng này. Lực lượng bảo vệ đông hơn nhiều so với dự đoán của gã. Lực lượng bảo vệ bí mật có vẻ như đã được huy động toàn bộ để bảo vệ cả hai Tổng thống. Nhưng không thấy bóng dáng Gutenburg hoặc bất cứ một nhân viên CIA nào. Connor đoán rằng Lực lượng bảo vệ bí mật không biết rằng có một âm mưu ám sát đang được chuẩn bị.

Connor hoàn toàn không ngạc nhiên khi thấy khẩu súng gã đã mua Ở Dal1as đã chẳng bao giờ đến được nơi phải đến. Hai tên Mafia lưu manh hầu như đã làm mọi động tác để đánh động cho CIA, chỉ còn thiếu việc gọi điện đến đường dây nóng nữa thôi. Nếu Connor mà là Phó Giám đốc thì gã sẽ để cho bọn chúng giao được khẩu súng đến đích và chờ lần được đầu mối đến người sẽ sử dụng khẩu súng đó. RÕ ràng là Gutenburg cho rằng việc lấy được khẩu súng là quan trọng hơn. CÓ lẽ hắn ta có lý. Connor sẽ không thể nào mạo hiểm làm một cú nữa như Ở Dal1as. Như vậy bọn chúng đã khiến cho gã phải quyết định cần đến phương án thứ hai.

sau sự việc xảy ra ở khách sạn Martiott Memlphis.

điều đã trở nên hiển nhiên là Alexel Romanov không muốn bị buộc tội một lần nữa, và giờ đây Connor toàn quyền quyết định các phương án để thực hiện vụ ám sát.

Mấy cái bóng của gã kính cẩn giữ một khoảng cách, mặc dầu không bao giờ để gã lọt khỏi tầm mắt của chúng. Mặc dầu gã vẫn có thể rũ bỏ bọn chúng bất cứ lúc nào gã muốn nhưng Connor đã nhận thấy thái độ của bọn chúng khi gã được biết tên trùm Mafia địa phương đã chặt nốt tay kia của thằng du côn để cho hắn không bao giờ có thể mắc lại sai lầm như vậy một lần thứ hai.

.

Tổng thống đã chuẩn bị kết thúc bài chào mừng và nhận được một tràng vỗ tay chẳng có mấy ấn tượng Ở một nơi quá rộng và trống trải như thế này. ông ta tránh sang một bên để cho Zerimski đáp lại, nhưng khi Tổng thống Nga đứng vào diễn đàn thì ông ta bị khuất hẳn sau dãy micro. Connor biết báo chí sẽ nhắc nhở vị Tổng thống cao một mét tám về sự thiếu tế nhị này và sẽ lặp đi lặp lại chuyện đó trong suốt bốn ngày tới, và Zerimski sẽ cho rằng đó là một sự cố tình để hạ thấp uy tín của ông ta. Gã tự hỏi không biết lát nữa cái đầu giỏi giang nào của Nhà Trắng sẽ bị vò nhàu.

Nhằm bắn một người cao một mét tám sẽ dễ hơn nhiều so với một người cao có mét sáu, Connor lấy làm tiếc về điều đó Gã nghiên cứu kỹ những người của Cục bảo vệ các VIP được phân công bảo vệ Zerimski trong chuyến đi thăm của ông ta. Gã nhận ra bốn người trong số họ, tất cả đều rất giỏi nghiệp vụ. Bất cứ ai trong bọn họ đều có thể hạ gục một người chỉ bằng một phát đạn cách ba trăm mét, và ngay lập tức có thể tước vũ khí của bất cứ kẻ nào định tấn công. Sau những cặp kính râm kia Connor biết rằng những đôi mắt đó đang liên tục đảo tứ phía.

Mặc dầu những người đứng trên đường băng không thể nhìn thấy Zerimski, nhưng những lời của ông ta thì họ nghe thấy rất rõ. Connor rất ngạc nhiên khi thấy cung cách mà ông ta sử dụng hồi Ở Moscow và St. Petersburg đã được thay bằng một giọng hòa dịu hơn nhiều. ông ta cám ơn "Tom" vì sự đón tiếp nồng nhiệt và nói rằng ông ta tin cuộc đi thăm này sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp cho cả hai đất nước.

Trong khi Zerimski tiếp tục đọc những dòng đã chuẩn bị sẵn, Connor liếc xuống chương trình làm việc trong bốn ngày mà Nhà Trắng đã vạch ra và được tờ Wassington Post ghi lại tỉ mỉ từng phút, một cách quả là thuận tiện. Bằng kinh nghiệm nhiều năm, gã biết rằng một chương trình kiểu này dù được chuẩn bị tốt đến đâu cũng hiếm khi giữ được như ban đầu. Tại một thời điểm nào đó sẽ có một điều gì đó ngoài kế hoạch xảy đến, và gã phải đảm bảo để điều đó không được rơi vào thời điểm gã chỉnh đường ngắm.

Hai vị Tổng thống sẽ đi bằng máy bay trực thăng từ căn cứ không quân về Nhà Trắng, ngay sau đó sẽ có một cuộc hội đàm riêng và cuộc hội đàm này sẽ được tiếp tục trong bữa ăn trưa. Sau bữa ăn trưa, Zerimski sẽ được đưa về Sứ quán Nga để nghỉ ngơi, trước khi trở lại Nhà Trắng vào buổi tối để dự một bữa tiệc ngoại giao dành cho ông ta.

Sáng hôm sau ông ta sẽ đi New York để nói chuyện với Liên hiệp quốc và ăn trưa với Tổng Thư ký, tiếp theo là chuyến đi thăm bảo tàng Metropol1tan vào buổi chiều.

Connor đã cười phá lên khi đọc thấy một bài trong tờ post rằng Tom Lawrence biết được tình yêu đối với nghệ thuật của Zenmski được thể hiện qua việc trong chiến dịch bầu cử vừa qua, mặc dầu rất bận rộn nhưng ông ta cũng tìm được thời gian để đến thăm không chỉ riêng Nhà hát Lớn, mà còn đến thăm cả Bảo tàng Puskin và Hermitage nữa.

Tối thứ Năm, sau khi trở về Washington, Tổng thống Nga chỉ đủ thời gian để tạt về Sứ quán thay quần áo trước khi đi xem buổi biểu diễn vở nhạc kịch HỒ Thiên nga Ở Trung tâm Kennedy. TỜ Post đã thật thiếu tế nhị khi lưu ý độc giả rằng quá nửa các diễn viên ba lê chính Ở đó là những người Nga di cư sang.

Sáng thứ Sáu sẽ có một cuộc thảo luận Ở Nhà Trắng, tiếp theo là bữa ăn trưa Ở Cục Nhà nước. Buổi chiều Zerimski sẽ nói chuyện với phiên họp hỗn hợp của hai viện, đó có lẽ sẽ là một điểm quan trọng của chuyến đi thăm bốn ngày. Lawrence hy vọng là sẽ có thể thuyết phục được các nhà làm luật tin rằng Tổng thống Nga là con người của hòa bình, do đó họ sẽ đồng ý ủng hộ Dự luật Cắt giảm Vũ khí của ông. Một cây bút của tờ Neo York Times đã cảnh báo rằng đây sẽ có thể là một dịp để Zerimski hoạch định chiến lược phòng thủ của Nga cho thập kỷ tiếp theo. Các phóng viên chuyên mục ngoại giao của các báo đã gọi điện đến Sứ quán Nga nhưng chỉ nhận được thông báo rằng nội dung bài nói chuyện đó không được in trước.

Buổi tối hôm đó Zerimski sẽ là khách danh dự của buổi chiêu đãi tại Hội đồng Thương mại Nga - Mỹ. Bài nói chuyện này thì đã được in trước và phát rộng rãi đi các nơi. Connor đã đọc kỹ từng câu và biết rằng sẽ không có một phóng viên biết tự trọng nào thèm in lại một chữ nào trong đó.

Thứ Bảy Zerimski và Tom Lawrence sẽ đến sân vận động Cook Ở Maryland để xem trận đá bóng giữa Washington Redskins và Green Bay Parker, đội bóng mà Tom Lawrence luôn ủng hộ từ thời còn là Thượng nghị sĩ Ở bang Wisconsin.

Buổi tối Zerimski sẽ tổ chức chiêu đãi tại Sứ quán Nga để mời lại tất cả các vị mà ông ta đã đến thăm và gặp gỡ.

Sáng hôm sau Zerimski sẽ bay về Moscow - dĩ nhiên là chỉ trong trường hợp Connor không thực hiện được hợp đồng của gã.

CÓ chín địa điểm để cho Connor cân nhắc. Nhưng gã đã gạt đi bảy trước khi kế hoạch của Zerimski thực hiện.

Trong hai địa điểm còn lại thì bữa tiệc đứng tối hôm thứ Bảy có vẻ hứa hẹn hơn cả, nhất là khi Romauov đã cho gã biết là Mafya nhận được toàn bộ việc cung cấp thực phẩm cho Sứ quán Nga.

Một tràng vỗ tay lịch sự khiến Connor trở lại chú ý đến buổi lễ đón tiếp. Một số người đứng trên đường băng vẫn không biết là Zerimski đã kết thúc bài nói, chỉ đến khi ông ta bước ra khỏi diễn đàn người ta mới nhận thấy, vì thế tràng vỗ tay không được như Lawrence mong.

Hai nhà lãnh đạo đi ngang qua sân để đến chỗ chiếc trực thăng đang chờ. Thường thì một Tổng thống Nga không bao giờ bay trên một máy bay quân sự của Mỹ, nhưng Zerimski đã gạt phắt mọi lời khuyên của các cố vấn và nói rằng ông ta muốn lợi dụng mọi cơ hội để bóc mẽ Lawrence. Hai người bước lên máy bay và quay lại vẫy chào đám đông. Một lát sau chiếc Marine Một cất cánh, dừng lại trên không mấy giây rồi bay đi. Những người phụ nữ chưa từng dự một cuộc lễ đón tiếp nào như vậy thì lúng túng không biết nên níu lấy mũ hay giữ chặt lấy váy Bảy phút nữa chiếc Marine Một sẽ hạ cánh xuống bãi cỏ phía nam của Nhà Trắng, và sẽ được Andy Lloyd cùng các quan chức cao cấp của Nhà Trắng đón tiếp.

Connor tắt ba chiếc vô tuyến, tua lại cuốn băng và bắt đầu cân nhắc đến các phương án. Gã đã quyết định sẽ không đi New York. Ở Trụ sở Liên hiệp quốc và bảo tàng Metropolita không có khả năng thoát thân. Và gã cũng biết rằng các nhân viên lực lượng Bảo vệ Mật đã được huấn luyện để phát hiện ra bất cứ kẻ nào xuất hiện quá một lần trong những cuộc đi thăm như thế này, kể cả các nhà báo và các phóng viên truyền hình. Thêm nữa, có ít nhất ba nghìn cảnh sát New York sẽ bảo vệ Zerimski cẩn mật từng giây trong suốt thời gian ông ta Ở đó.

Gã sẽ sử dụng thời gian Zerimski không có mặt trong thành phố để kiểm tra lại hai địa điểm tốt nhất. Bọn Mafya đã thu xếp để gã Ở trong nhóm người cung cấp thức ăn sẽ đến Sứ quán chiều hôm ấy, như vậy gã sẽ có thể xem xét tất cả các chi tiết của bữa tiệc đứng. Ðại sứ Nga đã lưu ý rằng ông muốn bữa tiệc sẽ khiến cho cả hai vị Tổng thống nhớ mãi.

Connor nhìn đồng hồ, mặc áo khoác vào và đi xuống gác. Chiếc BMW đã chờ gã. Gã chui vào ghế sau, nói:

- Sân vận động Cooke.

Trong xe không ai nói gì trong khi tên tài xế cho xe chạy ra làn đường giữa.

Nhìn thấy một chiếc xe chuyên dụng chở đầy những chiếc xe hơi mới chạy ngang qua, Connor nghĩ đến Maggie và mỉm cười. Sáng hôm nay gã đã nói chuyện với Can Koeter và đã yên tâm là cả ba chú kangaroo đã về trú an toàn trong túi của chúng.

- Với lại bọn Mafya có ấn tượng là mấy người đó đã được chuyển thẳng về Mỹ - Koeter đã nói với gã như vậy.

connor thắc mắc:

- Tại sao anh lại có thể làm cho chúng tin như vậy được?

Một trong những tên lính canh của chúng đã cố hối lộ các nhân viên hải quan. Tay nhân viên hải quan nhận tiền và nói rằng mấy người đó bị bắt về tội ma tuý và đã " được gửi về cảng cũ của họ".

Anh có nghĩ là họ tin như vậy không?

Koeter nói:

- ồ, có chứ. HỌ đã được trả một món tiền lớn về mẩu thông tin ấy mà.

Connor cười phá lên:

- Tôi sẽ mãi mãi chịu ơn anh, Can. Tôi không biết sẽ phải trả ơn anh như thế nào.

Koeter đáp:

Không cần đâu. Tôi chỉ mong được gặp lại chị ấy trong một hoàn cảnh tốt đẹp hơn mà thôi.

Mấy thằng cẩu canh giữ Connor không hề nhắc nhở đến việc Maggie biến mất, vì thế gã không biết chắc là vì chúng quá tự hào không muốn thừa nhận là đã để mất Maggie, Tara và Stuart, hay là bọn chúng vẫn hy vọng có thể bắt bọn họ lại trước khi gã phát hiện ra sự thật. CÓ lẽ chúng sợ rằng gã sẽ không thi hành nhiệm vụ nếu biết rằng vợ và con gái không nằm trong tay chúng nữa.

Nhưng Connor không bao giờ nghi ngờ việc nếu như gã không thực hiện hợp đồng thì cuối cùng Romanov sẽ tìm ra Maggie và giết nàng, và nếu không phải là Maggie thì sẽ là Tara. Bolchenkov đã cảnh cáo trước rằng chỉ khi nào hợp đồng đã được hoàn tất - cách này hay cách khác - thì Romanov mới được trở về nước.

Connor lại nghĩ về Joan, người chỉ có một tội ác duy nhất là từng làm thư ký của gã. Gã nắm chặt tay và chỉ ước gì mục tiêu trong hợp đồng này là Dexter và viên phó của mụ. ÐÓ sẽ là nhiệm vụ mà gã sẽ sung sướng thực hiện.

Chiếc BMW chạy quá tốc độ quy định của Washington, Connor ngồi dựa ra sau, nghĩ đến bao nhiêu việc cần phải chuẩn bị. Gã sẽ phải lượn quanh sân vận động rất nhiều lần, kiểm tra mọi lối ra trước khi quyết định có đặt chân vào đó hay không.

.

Chiếc Maron Một nhẹ nhàng hạ cánh xuống bãi cỏ phía nam. Hai vị Tổng thống bước ra khỏi chiếc máy bay trực thăng và được đón tiếp bằng một tràng vỗ tay của sáu trăm nhân viên Nhà Trắng.

Khi Lawrence giới thiệu Zerimski với Tham mưu trưởng của mình, ông không khỏi để ý thấy Andy có vẻ hơi đang nghĩ đến việc gì khác. Hai vị lãnh đạo ngắm nghía các bức ảnh một hồi khá lâu trước khi quay về Phòng Bầu dục cùng với các cố vấn của mình để khẳng định lại các vấn đề sẽ được đề cập đến trong cuộc gặp gỡ sau đó. Zerirnski không hề phản đối điểm nào trong thời gian biểu mà Andy Lloyd đã chuẩn bị và có vẻ thoải mái về những chủ đề sẽ được đưa ra xem xét.

Lúc họ nghỉ để ăn trưa. Lawrence cảm thấy cuộc thảo luận đã diễn ra tương đối tốt đẹp. HỌ chuyển sang phòng Nội các và Lawrence kể lại câu chuyện Kennedy đã mời tám người được giải Nobel ăn tối Ở đây và đã nói rằng đó là bữa tối thông thái nhất từ trước tới giờ, không kể một bữa khác do Jeffersoll tổ chức. Larry Harrington cười phá lên rất tận tụy mặc dầu ông ta đã nghe Tổng thống kể câu chuyện này phải đến một chục lần rồi.

Andy Lloyd không hề nhếch mép.

Sau bữa ăn Lawrence đưa Zerimski ra chiếc limousin đã đợi sẵn Ở lối vào dành cho ngoại giao. Ngay khi chiếc xe cuối cùng của đoàn xe vừa khuất - một lần nữa Zerimski khăng khăng đòi có một đoàn xe đông hơn bất cứ Tổng thống Nga nào trước đó - Lawrence đã vội vã quay lại Phòng Bầu dục. Andy Lloyd mặt mũi âu sầu đang đứng đợi ông bên bàn.

Tổng thống nói:

- Tôi nghĩ rằng mọi chuyện diễn ra tốt đẹp đúng như chúng ta chờ đợi.

Lloyd đáp:

- CÓ thể, mặc dầu tôi không tin rằng ông ta nói thực, dù cho là nói thực với chính bản thân đi chăng nữa. ông ta quá hợp tác. Tôi chỉ có cam giác là chúng ta đang bị xếp đặt.

- Tại sao trong bữa ăn trưa anh ít nói thế?

Lloyd đáp:

- Không, chỉ có điều chúng ta đang gặp phải một vấn đề khá rắc rối. Ngài đã đọc báo cáo mới nhất của Dexter chưa? Chiều qua tôi để trên bàn ngài.

Tổng thống đáp:

- Chưa, tôi chưa kịp đọc. Hôm qua tôi đã mất rất nhiều thời gian để ngồi với Larry Harrington.

ông ta lật tập hồ sơ có phù hiệu CIA và bắt đầu đọc.

ông ta chửi thề thành tiếng tới ba lần trước khi đọc đến hai trang cuối cùng. Ðọc xong dòng cuối cùng, mặt Tổng thống nhợt đi. ông nhìn lên người bạn thân nhất:

- Tôi nghĩ Jackson là người của chúng ta chứ?

- Anh ta là người của chúng ta, thưa Tổng thống.

- Vậy thì tại sao Dexter lại tuyên bố là bà ta có thể chứng minh được Jackson chính là người phải chịu trách nhiệm về vụ ám sát Ở Colombia, và sau đó sang St.

Petersburg với ý đồ giết Zerimski?

- Bởi vì đó là cách để bà ta rũ sạch mình khỏi bất cứ sự dính líu nào và để cho chúng ta giải thích việc tại sao chúng ta lại thuê Jackson. Nhưng bây giờ thì chắc bà ta phải có một tủ đầy những hồ sơ để chứng minh rằng chính Jackson là người đã giết Guzman và đủ mọi thứ khác mà bà ta cần có để làm cho cả thế giới tin lời mình.

Chỉ cần nhìn ba tấm ảnh do bà ta cung cấp chụp cảnh tại một quầy bar Ở Bogotá, nơi Jackson đang đưa tiền cho Cảnh sát trưởng Bogotá. Chỉ có điều họ không nói rõ là bức ảnh đó được chụp sau vụ ám sát những hai tuần.

- Ngài không bao giờ nên quên rằng một khi động đến lãnh địa của họ thì CIA không có đối thủ.

Tổng thống nói:

- Không phải tôi lo cho lãnh địa của bọn họ. Thế còn câu chuyện của Dexter bịa ra về việc Jackson đã trở về Mỹ và đang làm việc với bọn Mafya Nga thì thế nào?

Lloyd đáp:

- Như thế chẳng tiện lợi lắm sao? Nếu như có chuyện gì không hay xảy ra trong thời gian Zerimski Ở thăm thì bà ta đã có sẵn kẻ để bỏ vào cái bẫy chuột rồi.

- Vậy thì anh sẽ giải thích thế nào về việc cách đây mấy ngày Ở Dal1as một camera bảo vệ đã quay được hình Jackson đang mua một khẩu súng trường cực mạnh có đặc điểm giống với khẩu súng đã được sử dụng để giết Guzman?

Lloyd đáp:

- Rất đơn giản. Một khi ngài nhận thấy thực ra đó không phải là Jackson thì mọi chuyện còn lại sẽ dễ hiểu thôi.

- Nếu như không phải là Jackson thì là ai kia chứ?

Lloyd khẽ đáp:

- ÐÓ là Connor Fitzgerald.

Nhưng anh đã nói với tôi rằng Fitzgerald đã bị bắt Ở St. Petersburg và sau đó bị treo cổ kia mà. Thậm chí chúng ta còn thảo luận để tìm cách cứu anh ta ra nữa kia.

- Tôi biết, thưa ngài. Nhưng rồi Zerimski trúng cử nên điều đó không thể thực hiện được - trừ khi...

- Trừ khi cái gì?

- Trừ khi Jackson đã thế vào chỗ anh ta.

- Làm sao Jackson có thể làm như vậy kia chứ?

- Hãy nhớ rằng Fitzgerald đã cứu mạng Jackson, và đã được tặng Huân chương Danh dự vì việc đó. Khi Fitzgerald phục viên trở về thì chính Jackson đã tuyển dụng anh ta làm NOC. Trong hai mươi tám năm sau đó anh ta làm việc cho CIA và được tiếng là sĩ quan giỏi nhất của cục. Thế rồi, chỉ sau một đêm anh ta biến mất và trong sổ sách của họ không hề có một dấu vết gì về anh ta nữa. Joan Bet, người đã làm thư ký cho anh ta gần hai mươi năm bỗng nhiên bị chết trong một tai nạn xe hơi bí ẩn trong lúc đang trên đường đến gặp vợ Fitzgerald. Sau đó thì vợ và con gái anh ta cũng biến mất khỏi mặt đất. Trong khi đó, người được chúng ta chỉ định để tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra thì lại bị kết tội mưu sát. Nhưng dù cho ngài có xem xét các báo cáo của Dexter kỹ càng đến đâu thì ngài cũng sẽ không bao giờ thấy nhắc nhở gì đến cái tên của Connor Fitzgerald.

Lawrence hỏi:

- Andy, tại sao anh lại biết được tất cả những chuyện này?

- Bởi vì Jackson đã gọi điện từ St. Petersburg về cho tôi ngay sau khi Fitzgerald bị bắt.

- Anh có ghi âm cuộc nói chuyện đó không?

- CÓ thưa ngài, tôi có ghi âm.

Lawrence nói:

- Quỷ quái. Dexter cứ làm như J. Edgar Hoover (Giám đốc FBI rất nổi tiếng) là con nít không bằng.

- Nếu chúng ta thừa nhận Jackson chính là người đã bị treo cổ Ở bên Nga, thì chúng ta cũng phải hình dung là chính Fitzgerald là người đã bay xuống Dal1as với ý định mua khẩu súng để có thể thi hành nhiệm vụ. hiện nay của anh ta.

Lawrence khẽ hỏi:

- Lần này tôi là mục tiêu chăng?

- Tôi không nghĩ như vậy, thưa Tổng thống. Tôi vẫn nghĩ rằng đây là điều mà Dexter đang nói thật: tôi vẫn tin mục tiêu lần này là Zerimski.

- ôi! lạy Chúa tôi - Lawrence nói và ngồi phịch xuống ghế. - Nhưng tại sao một người trọng danh dự như anh ta, với một lý lịch và một tiếng tăm tốt như Fitzgerald lại có thể tham dự vào một điệp vụ như vậy? Tôi vẫn hiểu điều đó.

- CÓ thể, nếu con người trọng danh dự đó tin rằng mệnh lệnh ám sát Zerimski do chính ngài trực tiếp yêu cầu.

***.

Chiếc máy bay cất cánh từ New York, đưa Zerimski về lại Washington, ông ta đang khá phấn chấn. Bài nói chuyện của ông ta Ở Trụ sở Liên hiệp quốc đã được tiếp nhận, và bữa ăn trưa với Tổng thư ký có thể được gọi là "khá cởi mở và có kết quả" - đó là theo lời Tổng thư ký.

Trong chuyến đi thăm bảo tàng Metropol1tan buổi chiều hôm ấy, không những Zerimski có thể nói được tên một họa sĩ Nga có tranh trưng bày Ở tầng trên, mà khi rời bảo tàng ông ta còn bỏ qua lộ trình đã được định sẵn và khiến cho các nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật của mình hoảng hồn vì đã đi thẳng ra Ðại lộ Năm, bắt tay những người khách mua quà Giáng sinh.

Lúc máy bay hạ cánh xuống Washington thì Zerimski đã bị chậm mất một giờ so với kế hoạch, ông ta đã phải ngồi Ở ghế sau chiếc limousin thay đổi y phục buổi tối để không làm trì hoãn việc mở màn vở ba lê HỒ Thiên nga tại Kennedy Center thêm mười lăm phút. Sau khi các diễn viên ba lê cúi đầu chào lần cuối cùng, ông ta trở về để nghỉ lại đêm thứ hai Ở Sứ quán Nga. Truyện "Điều lệnh thứ mười một "

Trong khi Zerimski ngủ thì Connor vẫn còn đang thức. Thường thì gã chẳng bao giờ ngủ được quá mấy phút trong khi đang thực thi một vụ. Gã đã chửi thề thành tiếng khi thấy tất cả các bản tin buổi sáng của các báo đều tập trung đến cuộc đi bộ trên Ðại lộ Năm. Ðiều đó nhắc cho gã nhớ phải luôn luôn chuẩn bị cho những tình huống ngoài dự kiến: từ một căn hộ nào đó trên Ðại lộ Năm thì Zerimski là một mục tiêu thật dễ đạt được, và đám đông sẽ rất lớn khiến cho người ta không thể kiểm soát được, như vậy gã có thể biến mất chỉ trong nháy mắt.

Gã xua đuổi các ý nghĩ về New York. Bây giờ gã chỉ quan tâm là vẫn còn hai địa điểm quan trọng khác cần phải cân nhắc.

Ở chỗ thứ nhất, vẫn còn một khó khăn là gã không có được khẩu súng trường thích hợp nhất, mặc dầu Ở một chỗ đông người như vậy thì gã có thể thoát thân dễ dàng.

Còn đối với chỗ thứ hai, nếu như vào buổi sáng hôm có bữa tiệc đứng mà Romanov có thể cung cấp cho gã một khẩu Remington 700 đã cải tiến lại đôi chút, và nếu như hắn có thể đảm bảo một lối thoát cho gã thì có vẻ như đó là nơi hiển nhiên nên được chọn lựa. Hay là hơi hiển nhiên quá?

Gã bắt đầu viết ra để liệt kê những việc phải làm cho từng nơi. Hai giờ sáng, gần như kiệt sức, gã hiểu rằng mình sẽ phải đến thăm cả hai nơi một lần nữa trước khi quyết định lần cuối cùng.

Nhưng ngay cả khi đã có một quyết định cuối cùng gã cũng không có ý định sẽ cho Romanov biết gã đã chọn chỗ nào
 
Chương 29


Nguồn: vnthuquan

Washer Mặt khỉ - không một ai biết rõ tên thật của lão là gì - là một trong những người có đặc tính là chỉ có thể làm một chuyên gia trong một vấn đề nhất định. Trong trường hợp của lão thì là đội Redskins Washington. Mặt khỉ đã làm việc cho Redskins từ nhỏ đến lớn trong suốt năm mươi năm. Lão đã gia nhập nhóm các nhân viên sân cỏ từ hồi mới mười lăm tuổi, hồi đó đội còn chơi Ở sân vận động Grifflth. Ðầu tiên lão làm chân đưa nước, sau đó nhận chân làm người xoa bóp cho đội và trở thành người bạn tin cậy nhất của nhiều thế hệ cầu thủ Redskins.

Năm 1997, trước khi nghỉ hưu một năm Mặt khỉ đã làm việc một năm với các nhà thầu xây dựng sân vận động Jack Kent Cooke mới. Nhiệm vụ của lão rất đơn giản: phải đảm bảo để các cầu thủ Redskins và những người hâm mộ họ có được mọi điều kiện vật chất mà họ mong muốn phải dành cho đội bóng vĩ đại nhất nước.

Tại buổi lễ khánh thành, vị kiến trúc sư lão thành đã nói với những người đến dự lễ rằng ông sẽ mãi mãi mắc nợ Mặt khỉ những gì mà lão đã đóng góp trong thời gian xây dựng sân vận động mới. Trong bài diễn văn bế mạc, Jack Kent Cooke, Chủ tịch đội Redskins đã thông báo rằng Mặt khỉ được bầu vào Phòng Lưu niệm, một danh hiệu vinh dự chỉ dành cho những cầu thủ vĩ đại nhất. Mặt khỉ đã nói với các nhà báo:

- Mọi việc không thể nào tốt đẹp hơn thế này nữa.

Mặc dầu đã về hưu lão vẫn không bao giờ để lỡ một trận đấu nào của Redskins - dù trong hay ngoài nước.

Connor phải gọi hai cú điện thoại mới gặp được lão trong căn hộ nhỏ bé Ở Alington, Virginia. Khi gã nói với ông lão là nhận nhiệm vụ viết một bài cho báo Sport Illustrated về sân vận động mới thì hệt như gã vừa mở một cái vòi nước.

Connor đề nghị:

- CÓ lẽ xin ngài dành một hai giờ đưa tôi đi một vòng.

Ðến đây bài độc thoại của Mặt khỉ mới chấm dứt, lão im lặng cho đến khi Connor gợi ý về một sự thù lao giá trị một trăm đô la. Bởi vì Connor đã biết được rằng món thù lao để Mặt khỉ đưa khách đi một vòng thường là năm mươi đô la.

HỌ nhất trí mười một giờ sáng hôm sau sẽ gặp nhau, Mười một giờ kém một phút Connor có mặt, Mặt khỉ đưa gã vào sân vận động, cứ như lão là chủ nhân câu lạc bộ. Suốt ba giờ sau đó lão kể cho vị khách của mình nghe toàn bộ lịch sử của Redskins và trả lời tất cả các câu hỏi của Connor - từ việc tại sao sân vận động không được hoàn thành đúng thời hạn để khánh thành cho đến việc tại sao ban quản lý lại phải thuê nhân công tạm thời trong ngày diễn ra trận đấu. Connor biết rằng chiếc Sony Jum bo Trons Ở hai đầu sân vận động là hệ thống màn hình vi deo lớn nhất thế giới, và hàng ghế đầu cao hơn mặt sân hai mét bảy, như vậy các cổ động viên cuồng nhiệt có thể nhìn qua đầu đội quân camera để thấy các cầu thủ chạy khắp sân.

Connor đã là cổ động viên nhiệt tình cho đội Redskins suốt gần ba mươi năm, vì thế gã biết rõ là tất cả vé cho các mùa bóng được bán trước hết từ 1966, và hiện nay còn có năm mươi ngàn người chờ đợi nữa. Gã biết mình là một trong năm mươi ngàn người đó. Gã cũng biết rằng cứ mỗi khi có Redskins thắng trận thì tờ Washington Post lại bán được thêm hai mươi ngàn bản.

Nhưng gã không biết rằng dưới sân cỏ có tới hai mươi ngàn dặm ống dẫn hơi nước nóng, và bãi đỗ xe đủ cho hai mươi ba ngàn chiếc, và ngày mai một dàn nhạc thành phố sẽ tấu quốc ca hai nước Nga và Mỹ trước khi trái bóng bắt đầu lăn. Hầu hết những thông tin của Mặt khỉ sẽ không có ích lợi gì cho Connor, nhưng cứ vài phút lão lại phun ra được một viên ngọc quý.

Trong khi họ đi dạo quanh sân vận động, Connor có thể thấy việc kiểm tra an ninh rất chặt chẽ mà các nhân viên Nhà Trắng đang tiến hành cho ngày thi đấu hôm sau. Tất cả những ai bước vào sân vận động đều sẽ phải bước qua chiếc máy kiểm tra, nó sẽ phát hiện ra ngay nếu có ai đó đem vào sân một thứ gì có thể sử dụng làm vũ khí. HỌ càng đi tới gần lô ghế của các ông chủ - hai vị Tổng thống sẽ ngồi Ở đó để theo dõi trận đấu - thì việc kiểm tra càng gắt gao hơn.

Mặt khỉ rất tức giận khi bị một nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật gác Ở cổng vào khu vực dành riêng đó chặn lại. Lão hùng hồn giải thích rằng lão là một thành viên của Nhà Lưu niệm, và ngày mai lão sẽ có mặt trong số khách được gặp hai vị Tổng thống, nhưng nhân viên này vẫn khăng khăng từ chối không cho họ vào nếu như không qua kiểm tra an ninh. Connor phải cố hết sức để xoa dịu Mặt khỉ đang bừng bừng tức giận và nói rằng điều đó không quan trọng.

Trong khi họ đi ra xa, Mặt khỉ lẩm bẩm một mình:

- Thử nhìn xem tôi có giống một kẻ muốn ám sát Tổng thống không kia chứ?

Hai rưỡi chiều hai người mới chia tay nhau, Connor đưa cho ông lão 120 đô la. Trong ba tiếng đồng hồ Mặt khỉ đã nói với gã nhiều điều hơn tất cả những chi tiết mà một nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật phải mất cả đời mới biết được. Lẽ ra gã nên đưa cho Mặt khỉ 200 đô la mới phải, nhưng như vậy sẽ làm lão nghi ngờ.

Connor nhìn đồng hồ và thấy mình đã bị muộn mấy phút: gã đã hẹn sẽ gặp Alexei Romanov Ở Sứ quán Nga.

Trong khi đánh xe ra khỏi sân vận động, gã bật radio lên và chuyển sang kênh C SPAN, một kênh gã rất ít khi nghe.

Một bình luận viên đang tả lại không khí Ở Nhà Quốc hội trong khi các vị đại biểu đang chờ Tổng thống Nga đến. Không ai biết Zerimski sẽ phát biểu những gì bởi vì báo chí không được phát trước nội dung bài phát biểu.

Năm phút trước khi đến giờ, Zerimski mới bước vào, cùng đi có đoàn tuỳ tùng của mình.

Bình luận viên nói:

- Tất cả những người có mặt đều đã đứng lên vỗ tay chào mừng vị khách từ nước Nga đến. Tổng thống Zerimski mỉm cười và giơ tay vẫy xung quanh trong khi bước đi giữa hai hàng ghế để đi lên bục phát biểu, ông bắt tay mọi người.

Bình luận viên tiếp tục miêu tả: "Tràng vỗ tay vô cùng nồng nhiệt".

Khi Zenmski lên đến diễn đàn, ông ta cẩn thận đặt tờ phát biểu lên bàn, lấy hộp kính ra và đeo kính lên. Ngay lập tức mọi người hiểu rằng ông ta sẽ đọc chính-xác từng chữ bài phát biểu đã được chuẩn bị trước, vì thế sẽ không có chuyện ông ta đi chệch những gì mà tất cả mọi người đã biết rõ trong thời gian chiến dịch vận động bầu cử.

Các thành viên Quốc hội, tòa Thượng thẩm và ủy ban Ngoại giao lục tục ngồi xuống ghế, vẫn chưa biết ông ta sẽ ném ra một quả bom loại nào.

zerimski bắt đầu:

- Kính thưa ngài Phát ngôn viên, ngài Phó Tổng thống và ngài Chánh án, cho phép tôi bắt đầu bằng việc cám ơn các ngài cùng với đồng bào của các ngài vì sự đón tiếp nhiệt tình và hiếu khách mà tôi đã nhận được trong chuyến đi thăm đầu tiên của tôi đến Hoa kỳ. Cho phép tôi cam đoan với các vị rằng tôi mong muốn được trở lại đất nước các bạn nhiều lần nữa.

Ðến đây Titov đã ghi chú bên cạnh là "Dừng một lúc", bởi vì tiếp đó là một tràng vỗ tay.

.

Khi chiếc BMW rẽ sang Ðại lộ Winsconsin Connor bèn tắt radio. Ðến trước cổng Sứ quán Nga, một trong những người của Romanov dẫn họ qua cửa.

Lần thứ hai trong ba ngày qua Connor được dẫn đến khu vực tiếp tân lát đá cẩm thạch màu trắng. Ngay lập tức gã hiểu Romanov định nói gì khi nhận xét rằng việc bảo vệ an ninh trong Sứ quán rất lỏng lẻo. Hắn đã mỉm cười và nói:

- Nói cho cùng đi chăng nữa thì ai là người muốn ám sát Tổng thống yêu dấu của chúng ta ngay trong Sứ quán của nước ông ta kia chứ?

Trong khi đi dọc hành lang, Connor hỏi Romanov:

- CÓ vẻ như anh phải điều hành tòa nhà này thì phải?

- ông cũng sẽ phải làm như vậy thôi, nếu như ông cũng phải trả đủ tiền vào tài khoản của Ðại sứ Ở ngân hàng Thụy sĩ để đảm bảo là sẽ không phải trở về nước nữa.

Romanov tiếp tục xử sự trong Sứ quán cứ như đang Ở trong nhà mình, thậm chí còn mở cả khóa cửa phòng làm việc của Ðại sứ để vào. Khi bước chân vào căn phòng bài trí rất lộng lẫy Connor rất ngạc nhiên khi thấy một khẩu Remington 700 để trên bàn làm việc của Ðại sứ. Gã cầm khẩu súng lên và xem kỹ nó. Biết rằng sẽ chẳng bao giờ được nghe sự thật nên gã không hỏi tại sao Romanov lại có được khẩu súng này.

Connor cầm báng súng và bẻ gập nòng xuống. Trong Ổ đạn chỉ có một viên duy nhất. Gã nhướng mắt hỏi Romanov. Tên người Nga nói:

Tôi nghĩ rằng với khoảng cách này thì ông sẽ chỉ cần bắn một phát là đủ.

Hắn dẫn Connor tới cuối phòng, gạt tấm rèm sang bên để lộ cửa thang máy riêng của Ðại sứ. Hai người bước vào, đóng cửa lại và chiếc thang máy chậm chạp chạy lên căn buồng áp mái bên trên phòng khiêu vũ nằm Ở tầng hai.

Connor kiểm tra kỹ càng căn buồng áp mái, gã xem xét từng phân vuông nhiều lần, rồi quờ tay ra phía sau pho tượng to tướng. Gã nhòm qua cánh tay co lên của pho tượng để tìm đường ngắm tới chỗ Zerimski sẽ đứng để đọc bài chào từ biệt, gã muốn chắc chắn là sẽ có thể từ đó nhìn được ra ngoài mà không bị ai trông thấy. Gã đang nghĩ là mọi chuyện dường như khá dễ dàng thì Romanov chạm vào tay và dẫn gã trở lại thang máy.

Romanov nói:

ông sẽ phải dậy thật sớm và làm việc cùng với những người cung cấp thực phẩm cho đến khi bắt đầu tiệc đứng.

- Tại sao?

- Tại vì chúng tôi không muốn người ta nghi ngờ về việc ông biến mất ngay trước khi Zenmski bắt đầu phát biểu.

Romanov nhìn đồng hồ:

- Chúng ta phải đi thôi. Chỉ mấy phút nữa Zerimski sẽ về đến đây.

Connor gật đầu, cả hai đi về phía cổng sau. Trong khi chui vào chiếc BMW gã nói:

- Khi nào quyết định được sẽ chọn địa điểm nào thì tôi sẽ cho ông biết.

Romanov có vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì.

Connor ngồi trên xe đi qua cổng sứ quán chỉ vài phút trước lúc Zerimski từ Capitol trở về. Gã bật radio vừa kịp để nghe bản tin buổi tối: " Các Thượng nghị sĩ và các Ðại biểu quốc hội đổ xô lên nhau, vồ lấy micro để thông báo với các cử tri của mình là sau khi nghe bài phát biểu của Tổng thống Zerimski họ sẽ không bỏ phiếu thông qua dự luật Cắt giảm các Vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hóa học và Xuyên lục địa nữa".

Tại Phòng Bầu dục, Tom Lawrencc ngồi theo dõi phóng viên CNN phát đi từ phòng báo chí của Thượng viện:

- Cho đến nay Nhà Trắng vẫn chưa có một tuyên bố nào - anh ta nói - và Tổng thống...

Lawrence giận dữ tắt vô tuyến, nói:

- Ðừng có quanh quẩn Ở đó mà chờ nghe một lời tuyên bố nhé - ông ta quay sang Tham mưu trưởng - Andy, thậm chí tôi không thể chịu đựng nổi việc ngày mai sẽ phải ngồi cạnh con người đó trong suốt bốn tiếng đồng hồ, chứ đừng nói đến tối lại phải đáp lại bài diễn văn từ biệt của ông ta nữa.

Lloyd không nói gì.

.

- Tôi rất mong được nhìn thấy ông bạn Lawrence thân mến lúng túng trước hàng triệu khán giả truyền hình- Zenmski nói trong khi chiếc limousin của ông ta tiến vào sân Sứ quán Nga. Dmitri Titov ngồi im không tỏ ý gì.

Tôi sẽ cổ vũ cho đội Redskins, cũng sẽ là một phần thưởng nữa cho Lawrence nếu đội của ông ta thua trận-.

Zerìmski cười mỉa - ÐÓ sẽ là khúc dạo đầu thích hợp cho địa vị tệ hại mà tôi định dành cho ông ta trong buổi tối.

Anh phải đảm bảo chuẩn bị sẵn một bài diễn văn với thật nhiều lời nịnh nọt và mọi sự hồi tưởng lâm lý - ông ta lại mỉm cười - Tôi đã ra lệnh phải dọn món thịt bò rán thật nguội. Và thậm chí cả anh cũng sẽ phải ngạc nhiên khi thấy món tráng miệng là gì.

.

Tối hôm ấy Connor cân nhắc mất mấy tiếng đồng hồ, tự hỏi không biết có nên mạo hiểm phá vỡ quy luật hay không. Quá nửa đêm gã mới gọi điện cho Romanov.

Tên người Nga có vẻ vui mừng vì cả hai có kết luận giống nhau.

- Tôi sẽ cho người đến đón ông lúc ba giờ ba mươi để ông có thể có mặt tại Sứ quán vào lúc bốn giờ.

.

- Gọi ông ta dậy.

Viên Bí thư Thứ nhất nói:

- Nhưng mới có bốn giờ sáng mà.

- Nếu anh nghĩ là mạng sống của anh đáng giá thì hãy gọi ông ta dậy ngay.

Viên Bí thư Thứ nhất khoác vội chiếc áo lên người, ra khỏi phòng ngủ và chạy tới cuối hành lang. Anh ta gõ cửa. Không có tiếng trả lời, vì thế anh ta gõ lại lần thứ . hai. Một phút sau có ánh đèn sáng. Một giọng ngái ngủ cất lên:

- vào đi.

viên Bí thư Thứ nhất vặn tay nắm cửa và bước vào phòng ngủ của Ðại sứ.

- Thưa ngài, tôi xin lỗi vì đã quấy rầy ngài. Nhưng có một ngài Stefan Ivanitsky gọi từ St. Petersburg sang. ông ta nói có tin khẩn cần nói với ngài.

Pietrovski nói:

- Tôi sẽ nghe Ở phòng làm việc.

ông ta hất tấm mền, không để ý đến tiếng rên rỉ của vợ và chạy xuống tầng dưới, bảo người trực đêm chuyển điện thoại đến phòng làm việc cho mình.

Chuông điện thoại đổ dài hồi lâu, cuối cùng ngài Ðại sứ mới nhấc lên, vẫn còn đang thở hổn hển.

- Pietrovski nghe đây.

Ivanitsky nói:

- Xin chào ngài Ðại sứ. Tôi yêu cầu nối máy cho ngài Tổng thống chứ không phải cho ngài.

- Nhưng bây giờ mới có bốn giờ sáng. CÓ thể chờ được không?

- Ðại sứ, tôi không thuê ngài để cho tôi biết bây giờ là mấy giờ. Tôi cần gặp Tổng thống ngay, rõ chưa?

Viên Ðại sứ đặt ống nghe xuống, chậm rãi leo cầu thang lên tầng một, cố nghĩ xem trong hai người đó thì ông ta sợ ai hơn. ông ta đứng mãi ngoài cửa dãy phòng của Tổng thống, nhưng bóng viên Bí thư Thứ nhất hiện ra Ở cầu thang khiến ông ta quyết định nhanh hơn. ông ta gõ nhẹ cửa nhưng không có tiếng trả lời. ông ta gõ lại lần nữa to hơn, rồi ngần ngừ mở cửa.

Trong ánh sáng hắt từ chiếu nghỉ vào, Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất nhìn thấy Tổng thống cựa mình.

- Ngài Tổng thống - Pietrovski thì thầm nói trong khi Zerimski bật đèn đầu giường lên. - Chúng tôi nhận được một cú điện thoại từ St. Petersburg gọi ngài. Một ngài Stefan Ivanitsky. ông ta nói là rất khẩn cấp.

- Ra khỏi phòng tôi ngay - Zerimski vừa nói vừa nhấc điện thoại lên.

Hai người bước lùi về phía cửa, rồi Ðại sứ khẽ khàng khép cửa lại.

Zerimski nói:

Stefan, sao anh lại gọi vào giờ này? CÓ phải Borodin định đảo chính trong khi tôi vắng mặt không?

- Không, thưa Tổng thống. Sa hoàng đã chết - Ivanitsky nói một cách vô cảm.

- Khi nào? Ở đâu? Thế nào?

Cách đây khoảng một giờ, Ở Cung điện. Cuối cùng thứ chất lỏng không màu đó đã quật ngã được ông ta - Ivanitsky dừng lại một lát - Tên quản gia đã làm theo lệnh của tôi gần một năm nay.

Tổng thống im lặng hồi lâu mới nói:

- Tốt. Ðối với chúng ta điều đó rất tốt.

- Ngài Tổng thống, tôi sẽ đồng ý với ngài, nếu không vướng một thực tế là hiện nay con trai ông ta đang Ở Washington. ở đây tôi hầu như không thể làm gì được trước khi hắn về.

Zerimski nói:

- Tối nay tôi sẽ giải quyết vấn đề đó.

- Tại sao? Chúng đã bị sập bẫy của chúng ta rồi sao?

Tổng thống đáp:

- Phải. Từ khi sang đây tôi đã học được một câu thành ngữ mới rất thích hợp: "Một mũi tên giết được hai con chim". Dẫu sao đi chăng nữa, mấy ai có dịp chứng kiến một người chết hai lần?

- ước gì tôi cũng được chứng kiến điều đó.

.

Năm giờ sáng hôm đó Connor còn nằm trong giường.

Gã đang ôn lại đường thoát thân thì đã đến sáu giờ, chuông báo thức vang lên. Gã nhổm dậy, kéo một góc rèm và kiểm tra xem bọn chúng còn Ở đó không. Chúng vẫn còn Ở đó: Hai chiếc BMW đậu Ở cuối phố, nguyên xi như vậy từ hồi nửa đêm hôm qua. Lúc này tên ngồi trong xe chắc còn đang mơ màng. Gã biết chúng sẽ đổi ca lúc tám giờ, vì thế gã dự định sẽ đi trước giờ mười phút. Ba mươi phút tiếp theo gã vươn tay tập một bài thể dục nhẹ để cho người dãn ra, sau đó cởi quần áo. Gã để cho tia nước lạnh châm chích vào người một lúc rồi mới tắt nước và vơ lấy khăn tắm. Sau đó gã mặc quần áo: chiếc sơ mi màu xanh lơ, quần jean, áo len dày, cà vạt xanh, tất đen và một đôi giày Nike đen, lô gô nổi rõ.

Gã đi vào căn bếp nhỏ tự rót cho mình một cốc nước nho và lấy một tô bánh ngô trộn sữa. Bao giờ trước khi thi hành nhiệm vụ gã cũng ăn như vậy. Gã thích những nếp quen. Chúng giúp gã tin rằng mọi việc sẽ diễn ra suôn sẻ. Trong khi ăn gã ôn lại bảy trang giấy đã được ghi lại trong cuộc gặp gỡ với Mặt khỉ, và một lần nữa ôn lại từng chi tiết kiến trúc của sân vận động. Gã đã đo các rầm nhà bằng một cái thước và ước lượng là phải chạy bốn mươi hai bước mới ra đến cái cửa bí mật. Gã buộc phải nhìn xuống. Gã cảm thấy sự bình tĩnh như một vận động viên trước giờ xuất phát.

Gã nhìn đồng hồ và quay lại phòng ngủ. HỌ phải có mặt Ở ngã tư Phố Hai mươi mốt và Dupond Circle đúng vào giờ cao điểm. Gã chờ thêm mấy phút nữa, sau đó bỏ ba tờ một trăm đô la và cuộn băng cassette vào túi quần jean. Rồi gã rời căn hộ lần cuối cùng. Tiền nhà đã được thanh toán trước.
 
Chương 30


Nguồn: vnthuquan

Zerimski ngồi một mình trong phòng ăn của Sứ quán đọc tờ Washington Post trong khi người quản gia phục vụ bữa ăn sáng. Nhấm nháp tách cà phê, ông ta thấy vui với ý nghĩ về dòng tít sẽ chạy ngang tờ Post sáng mai:

ÂM MUU ÁM SÁT TỔNG THỐNG NGA THẤT BẠI Cựu điệp viên CIA bị bắn hạ trong sân Sứ quán.

ông ta mỉm cười lần nữa và quay sang đọc bài báo khẳng định Dự luật Cắt giảm Vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hóa học và Xuyên lục địa của Tổng thống Tom Lawrence giờ đây bị các nhà bình luận hàng đầu đánh giá là đã bị "chết đuối". Một thành ngữ hay nữa thu nhặt được trong chuyến đi này.

Hơn bảy giờ một chút ông ta rung chiếc chuông bạc để bên cạnh và yêu cầu người quản gia đi gọi Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất đến. Người quản gia vội vã quay đi.

Zerimski biết thừa là cả hai người đó đều đang lo lắng đứng ngoài hành lang.

Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất nghĩ rằng họ nên chờ thêm một hai phút nữa hãy vào gặp Tổng thống. HỌ vẫn chưa hiểu Tổng thống có hài lòng khi bị đánh thức vào lúc bốn giờ sáng hay không, nhưng bởi vì cả hai vẫn chưa ai bị đuổi cho nên nghĩ rằng chắc họ đã có một quyết định đúng.

Pietrovski bước vào phòng và nói:

- Xin chào, thưa Tổng thống.

Zerimski gật đầu, gấp tờ báo lại để xuống trước mặt, hỏi:

- Romanov đã đến chưa?

Bí thư Thứ nhất nói:

- Ðã đến ạ. Từ sáu giờ hắn đã có mặt trong bếp, đích thân kiểm tra các thực phẩm được đem đến cho bữa tiệc đứng Tốt, bảo hắn đến gặp chúng ta Ở phòng làm việc của anh, Ðại sứ. Tôi sẽ đến ngay.

- Vâng, thưa ngài - Pietrovski nói và bước lùi ra khỏi phòng.

Zenmski lau miệng bằng chiếc khăn ăn. ông ta quyết định sẽ để cho cả ba người chờ thêm ít phút nữa. Ðiều đó sẽ khiến bọn chúng càng hồi hộp hơn.

ông ta đứng dậy và đi ra khỏi phòng. Trong khi ông ta đi dọc hành lang về phía phòng làm việc của Ðại sứ, một thanh niên đi ngược lại vừa thoáng thấy bóng ông vội chạy bổ đến để mở cửa. Chiếc đồng hổ lớn để Ở hành lang điểm chuông đúng lúc ông ta bước vào phòng. Lúc đó là bảy giờ bốn lăm phút.

.

Tám giờ kém mười, Connor đã xuất hiện Ở cuối tòa nhà và thong thả sang đường để đi về phía chiếc BMW thứ nhất. Gã ngồi vào bên cạnh tên lái xe, tên này có vẻ hơi ngạc nhiên khi thấy gã ra sớm - người ta đã dặn là khoảng bốn giờ chiều Fitzgerald mới phải có mặt Ở Sứ quán. Connor nói:

- Tôi phải đi vào trung tâm thành phố để lấy vài thứ.

Tên ngồi Ở ghế sau gật đầu, vì thế tên lái xe gài số một rồi hòa vào dòng xe cộ trên đại lộ Wisconsin. Chiếc xe thứ hai bám sát theo sau họ trong khi họ rẽ vào phố P., một phố đông nghẹt do những công trình đang xây dựng Ở Georgetown.

Càng ngày Connor càng nhận thấy những kẻ canh chừng gã trở nên chểnh mảng hơn. Hầu như sáng nào cũng vậy,. cứ khoảng đến giờ nhất định gã sẽ chui ra khỏi chiếc BMW Ở góc phố Hai mươi mốt và Dupond Circle để mua một tờ Post tại một quầy bán báo, sau đó quay về xe. Hôm qua tên ngồi Ở ghế sau thậm chí không thèm đi kèm theo gã.

HỌ sang đường Hai mươi mốt và Connor đã nhìn thấy Dupond Circle Ở phía xa. Xe cộ bây giờ nối đuôi nhau và hầu như dừng hẳn lại. Bên kia đường dòng xe cộ dịch chuyển có vẻ trôi chảy hơn. Gã sẽ phải tính toán chính xác lúc nào cần phải chuyển động.

Connor biết đèn tín hiệu từ phố P sang Circle cứ ba mươi giây lại đổi một lần, và trung bình có khoảng mười hai chiếc xe qua được ngã tư trong thời gian ấy. Tuần trước gã đếm được nhiều nhất là mười sáu chiếc.

Ðèn vừa bật sang đỏ, Connor đếm được có mười bảy chiếc xe phía trước. Gã không động đậy. Ðèn bật sang xanh, tên tài xế sang số một nhưng đường đống quá nên phải một lúc hắn mới nhích lên được một tí. Chỉ có tám xe qua được ngã tư.

Gã có ba mươi giây. Gã quay lại và mỉm cười với tên canh chừng ngồi phía sau và chỉ về phía quầy báo.

Thằng cha gật đầu. Connor bước xuống hè và bắt đầu thong thả đi về phía ông lão mặc chiếc áo vét màu xanh sáng. Gã không hễ ngoái đầu nhìn lại cho nên không biết có ai trong chiếc xe thứ hai đi theo mình không. Gã tập trung nhìn sang bên kia đường và cố ước lượng xem khi đèn bật sang đỏ thì có bao nhiêu xe xếp hàng chờ.

Ðến quầy bán báo, gã đã cầm sẵn đồng hai lăm xu trong tay. Gã đưa đồng xu cho ông già bán báo và ông ta đưa cho gã một tờ Post. Khi gã quay lại và bắt đầu đi về phía chiếc BMW thứ nhất thì đèn lại bắt đầu chuyển sang đỏ.

Connor giật cửa và nhảy vào ghế sau một chiếc taxi đỗ gần đó, hét lên:

- Nếu vượt kịp đèn này thì anh sẽ được một trăm đô la.

Người lái xe ấn tay lên còi và để nguyên đó trong khi chạy qua ngã tư. Hai chiếc BMW cũng rú còi inh ỏi định quay lại nhưng đèn đã lại bật đỏ, chúng bị nghẽn lại sau ba chiếc xe khác.

Mọi việc đúng như gã dự tính.

Chiếc taxi rẽ trái sang đường Hai mươi mốt, Connor bảo người tài xế ghé vào. Khi chiếc xe dừng lại gã đưa cho người tài xế tờ một trăm đô la và nói:

- Tôi muốn anh lái thẳng đến sân bay Dul1es. Nếu anh thấy một chiếc BMW màu trắng đuổi theo thì đừng để cho nó vượt được. Ðến sân bay anh hãy chờ ba mươi giây bên ngoài nhà ga sau đó thong thả quay về thành phố.

- OK, anh bạn, tôi sẽ làm theo tất cả những gì anh bảo - Người lái xe đút tờ một trăm đô la vào túi.

Connor chui ra khỏi chiếc xe, bước nhanh qua phố Hai mươi mốt và vẫy một chiếc taxi khác đang đi theo hướng ngược lại.

Gã đóng sập cửa lại đúng lúc chiếc BMW trắng lao vút qua để đuổi theo chiếc taxi kia.

- Sáng đẹp trời thế này, ông bạn định đi đâu?

- Sân vận động Cooke.

- ông bạn, hy vọng ông bạn sẽ kiếm được một vé, nếu không thì tôi lại đưa ông bạn về.

.

Ba người đứng lên khi Zerimski bước vào phòng. ông ta vẫy mọi người ngồi xuống, cứ như đó là một đám đông lớn, rồi ngồi xuống chiếc ghế Ở bàn Ðại sứ. ông ta ngạc nhiên khi thấy một khẩu súng trường để Ở chỗ mọi khi vẫn để cái bàn thấm, nhưng ông ta phớt lờ nó đi mà quay sang Alexei Romanov, trông anh ta có vẻ rất phởn chí.

Tổng thống nói:

- Alexei, tôi có một tin buồn cho anh.

Vẻ mặt Romanov trở nên băn khoăn, sau đó biến thành lo âu. Zerimski để mặc vậy mà im lặng hồi lâu.

- Sáng nay Stefan anh họ anh gọi điện cho tôi. Hình như hồi đêm cha anh bị một cơn đau tim, và trên đường tới bệnh viện đã chết.

Romanov cúi đầu. Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất liếc nhìn Tổng thống để xem họ nên phản ứng ra sao.

Zenmski đứng dậy, chậm rãi đi tới bên Romanov và đặt tay lên vai hắn vẻ thông cảm. Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất bèn tỏ vẻ đau buồn một cách thích hợp.

Zerimski nói:

- Tôi rất buồn. ông ấy là một người vĩ đại.

Hai nhà ngoại giao gật đầu trong khi Romanov nghiêng đầu nhận lời chia buồn của Tổng thống.

- Alexei, giờ đây quyền lực của ông ấy được trao lại cho anh, người kế tục xứng đáng nhất.

Ðại sứ và Bí thư Thứ nhất tiếp tục gật đầu.

Zerimski nói:

- Và chẳng bao lâu nữa anh sẽ có cơ hội để thiết lập nên quyền lực của anh khiến cho mọi người không được phép nghi ngờ về một triều đại Sa hoàng mới. - Romanov ngẩng đầu và mỉm cười. Giai đoạn than khóc của hắn đã xong.

Zerimski nói thêm:

- Ðiều đó có nghĩa là với giả thiết là tối nay không có gì sai sót cả.

Romanov quả quyết:

- Không có gì có thể sai sót được. Tôi mới nói chuyện với Fitzgerald lúc nửa đêm. Hắn đồng ý với kế hoạch của tôi Bốn giờ chiều nay hắn sẽ tới gặp Ðại sứ, trong lúc ngài đang ngồi xem đá bóng cùng với Tom Lawrence.

Zerimski hỏi:

Tại sao lại sớm như vậy?

- Chúng ta cần làm cho mọi người nghĩ rằng hắn chỉ là một thành viên trong nhóm cung cấp thực phẩm, vì thế sáu tiếng sau hắn sẽ lẻn ra ngoài mà không khiến cho ai sinh nghi. Hắn sẽ Ở trong bếp dưới sự giám sát của tôi cho đến khi ngài đứng lên để phát biểu lời từ biệt.

Zerimski nói:

- Giỏi lắm. Sau đó thì sao?

- Tôi sẽ đi cùng với hắn đến phòng này để cho hắn lấy khẩu súng. Sau đó hắn sẽ đi bằng thang máy riêng lên căn gác áp mái mà từ đó có thể nhìn xuống phòng khiêu vũ.

Zerimski gật đầu.

- Lên đến đây hắn sẽ nấp sau bức tượng kia, và sẽ nấp Ở đó cho đến khi ngài nói đến đoạn cám ơn nhân dân Mỹ về lòng hiếu khách và sự đón tiếp nồng nhiệt mà tới đâu ngài cũng nhận được, vân vân, và nhất là cám ơn Tổng thống Lawrence. Ðến lúc đó tối đã bố trí một tràng vỗ tay. Suốt thời gian đó ngài sẽ phải đứng thật im.

Zenmski hỏi:

- Ðể làm gì?

- Bởi vì Fitzgerald sẽ không bóp cò, nếu như hắn nghĩ ngài có thể sẽ có một động tác bất ngờ.

- Tôi hiểu.

- Sau khi bắn xong, hắn sẽ trèo lên mép tường qua cái cây thông tuyết Ở sân sau. Chiều hôm qua hắn đã bắt chúng tôi tập đi tập lại nhiều lần, nhưng tối nay hắn sẽ thấy có một sự khác nho nhỏ.

Zerimski hỏi:

- ÐÓ là cái gì?

Romanov nói:

Dưới gốc cây sẽ có sáu cận vệ của tôi chờ sẵn. HỌ sẽ bắn hạ hắn trước khi hắn kịp đặt chân xuống đất.

Zerimski im lặng hồi lâu mới nói:

- Nhưng hẳn là kế hoạch của anh còn một kẽ hở nhỏ?

Romanov trông có vẻ bối rối.

- Làm thế nào tôi có thể sống sót khi bị một tay súng nổi danh như Fitzgerald bắn từ một cự ly gần như thế?

Romanov đứng dậy và cầm khẩu súng lên. Hắn lấy ra một mẩu kìm loại nhỏ và đưa cho Tổng thống. Zerimski hỏi:

- Cái gì thế này?

- Kim điểm hỏa
 
Chương 31


Nguồn: vnthuquan

Hai chiếc BMW lao nhanh trên Ðường 66 đuổi theo chiếc ta xi không luôn chạy vượt quá tốc độ giới hạn suốt dọc đường đến sân bay Dul1es. Trong khi đó một chiếc ta xi khác chạy về phía sân vận động Cooke Ở Maryland với tốc độ lười biếng hơn nhiều.

Connor nghĩ lại về quyết định của mình chọn sân vận động với tất cả sự mạo hiểm Ở đó, chứ không phải Sứ quán. Người ta để cho gã ra vào Sứ quán một cách quá dễ dàng. Không ai có thể để cho an ninh lỏng lẻo đến như thế, nhất là khi Tổng thống của họ đang có mặt trong thành phố.

Khi người lái taxi thả gã xuống sân vận động, Connor biết đích xác là phải làm gì. Gã đi dọc vỉa hè lát đá rộng đến cửa vào phía bắc, hai dãy người xếp hàng dài dằng dặc với hy vọng chờ xin được việc làm trong ngày hôm đó Mặt khỉ đã nói rằng những người hâm mộ đội sẽ đồng ý làm bất cứ việc gì, kể cả hối lộ, để được lọt vào sân vận động. - Hối lộ ư?- Connor hỏi vẻ vô cùng ngây thơ.

- ồ, phải. Sẽ có ai đó được phục vụ trong lô của các ông chủ, thế là họ sẽ có được chỗ xem tốt nhất.

Connor cam đoan:

- Tư liệu tuyệt vời cho bài viết của tôi.

Dãy xếp hàng thứ nhất là cho những ai muốn làm việc bên ngoài sân vận động, công việc là bố trí chỗ để xe cho hai mươi tư ngàn chiếc xe hơi và xe buýt, hoặc bán tờ chương trình, đệm ngồi hoặc đổ lưu niệm cho bảy mươi hai ngàn người hâm mộ. Hàng kia là dành cho những người muốn làm việc bên trong sân vận động.

Connor đứng vào hàng thứ hai, hầu hết những người đứng trong hàng toàn là thanh niên, những người thất nghiệp và những người mà Mặt khỉ gọi là bọn nghiện ngập về hưu sớm, bọn này chỉ thích xem những lỗi việt vị thường xuyên xảy ra. Thậm chí Mặt khỉ còn mô tả nhóm này ăn mặc ra sao, vì thế không ai có thể nhầm chung với người thất nghiệp.

Ngày hôm đó, một nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật đẹp trai đang xem xét các ứng viên đầy hy vọng. Connor đứng trong hàng người nhích lên một cách chậm chạp, mắt dán vào tờ Washintton Post. Hầu hết trang nhất toàn nói về bài phát biểu của Zerimski Ở phiên họp hỗn hợp của Quốc hội. Phản ứng của các đại biểu là hoàn toàn phản đối. Sau đó gã đọc tới bài xã luận và đoán là Zerimski sẽ rất hài lòng với bài báo này.

Gã đọc sang bài báo viết về Metro, một nụ cười nhăn nhúm nở trên khuôn mặt gã khi đọc tin thông báo về cái chết quá sớm của một học giả nổi tiếng Ở thành phố quê hương gã.

Một giọng cất lên bên cạnh:

- Chào bác.

Connor liếc quanh và thấy một thanh niên trẻ ăn mặc lịch sự đứng vào hàng sau lưng mình.

- Xin chào - Gã đáp ngắn gọn rồi quay lại đọc tiếp tờ báo. Gã không muốn tham dự bất cứ cuộc đối thoại không cần thiết nào với một ai đó sau này có thể được gọi ra làm nhân chứng.

Người thanh niên đưa tay ra, tự giới thiệu:

- Cháu là Brad.

Cọnnor bắt tay, nhưng không nói gì. Anh ta nói thêm:

- Cháu hy vọng sẽ kiếm được một việc Ở chỗ cột đèn.

Bác thế nào?

- Tại sao lại là cột đèn - Connor đáp, lảng tránh câu hỏi của anh ta.

- Tại vì đó là nơi sĩ quan trực ban của Lực lượng Bảo vệ mật sẽ đứng. Cháu muốn xem công việc của ông ta thực sự như thế nào.

- Tại sao?- Connor hỏi và gập tờ báo lại. RÕ ràng chẳng dễ gì mà dứt ra khỏi câu chuyện này một cách nhanh chóng được.

- cháu đang có ý nghĩ là sau khi tốt nghiệp sẽ gia nhập lực lượng đó. Cháu đã tham dự khóa huấn luyện cơ bản, nhưng cháu muốn nhìn thấy người ta làm việc ra sao. CÓ người nói với cháu rằng không ai muốn làm công việc đưa thức ăn cho những người làm việc Ở bộ phận chiếu sáng. Bọn họ sợ những cái bậc thang kia.

Một trăm bảy mươi hai bậc tất cả - Connor nghĩ. Gã đã bỏ ý định sử dụng cột đèn, không phải vì sợ những bậc thang đó mà vì không có đường rút lui để thoát thân.

Brad bắt đầu kể cho gã nghe về mình và khi lên tới đầu hàng người thì gã đã biết được thằng bé học trường nào, và hiện đang học ngành tội phạm học Ở Georgetown- điều đó khiến cho gã nhớ đến Maggie - và vì sao cho đến giờ nó vẫn chưa thể quyết định được là sẽ gia nhập Lực lượng Bảo vệ Mật hay nên trở thành luật sư.

- Người tiếp theo - Một giọng cất lên.

Connor đi vòng tới trước mặt người đàn ông ngồi Ở bàn. Gã hỏi:

- ông còn việc gì?

Không nhiều - ông ta nói và nhìn xuống tờ danh sách đã đánh dấu chi chít.

- CÓ việc nào về cung cấp thực phẩm không?- Connor hỏi. Cũng như Brad, gã biết rõ mình muốn đứng Ở đâu.

- Bây giờ chỉ còn việc rửa bát đĩa hoặc đưa thức ăn đến cho các nhân viên trong sân vận động thôi.

- Thế thì hay lắm. - Tên?

- Dave Krinkle - Connor đáp.

- Căn cước?

Connor đưa ra một tấm bằng lái xe. ông ta điền vào thẻ ra vào, một người thợ chụp ảnh bước tới chụp cho Connor một tấm ảnh lấy ngay, chỉ một giây sau tấm ảnh đã được dán lên thẻ ra vào.

OK, Dave - người đàn ông đưa thẻ cho Connor - thẻ này sẽ cho phép anh vào bất cứ nơi nào bên trong sân vận động, trừ khu vực an ninh cao bao gồm các lô ghế cho ban giám đốc, lô ghế cho câu lạc bộ và khu vực dành cho VIP. Dù sao thì anh cũng sẽ chẳng cần đến đó làm gì.

Connor gật đầu và gài tấm thẻ vào túi áo.

- Nhận việc Ở Phòng 47, ngay dưới lô H.

Connor gật đầu. Gã biết rõ Phòng 47 Ở đâu rồi.

- Người tiếp theo.

So với hôm qua gã mất nhiều thời gian hơn mới qua hết ba lần kiểm tra an ninh, kể cả kiểm tra bằng máy điện từ, bởi vì hôm nay việc này được tiến hành bởi các nhân viên Lực lượng Bảo vệ Mật chứ không phải do các cảnh sát được thuê như mọi hôm. Sau khi đã vào được bên trong sân vận động Connor bắt đầu thong thả đi trên các lối đi giữa các lô, ngang qua phòng bảo tàng, bên trên có treo tấm biểu ngữ "CHÀO MÙNG THẮNG Lợi" cho tới khi đến được một cầu thang có mũi tên chỉ "Phòng 47, thực phẩm nội bộ". Gã thấy trong căn phòng nhỏ Ở dưới chân cầu thang có khoảng một chục người đang đứng loanh quanh. Tất cả bọn họ đều có vẻ rất quen thuộc với công việc Ở đây. Gã nhận ra một hai người lúc nãy đứng xếp hàng trước mình. Ngoài ra không có ai có vẻ không cần tiền.

Gã ngồi xuống một cái ghế Ở góc phòng và lại giở tờ Post ra, đọc lại những dự đoán về trận đấu chiều nay.

Tony Kornheiser cho rằng chỉ có thể là chuyện thần kỳ nếu như Redskins đánh bại Packers - đội hay nhất nước.

Thực tế phóng viên còn dự đoán chênh lệch hai mươi điểm. Connor thì cho rằng kết quả sẽ ngược hẳn lại.

Một giọng vang lên:

- OK. Tất cả chú ý.

Connor ngước lên và thấy một người đồ sộ mặc đồng phục đầu bếp đứng trước mặt mọi người. ông ta khoảng năm mươi tuổi, hai cầm béo phị và chắc hẳn phải nặng một tạ là ít nhất.

ông ta nói:

- Tôi là người phụ trách thực phẩm, và như các vị thấy đấy, tôi đại diện cho sự vinh quang của nghề này.

Một vài người lịch sự vỗ tay.

- Tôi có thể để cho các vị chọn một trong hai việc.

Các vị có thể rửa bát đĩa hoặc đem thức ăn cho nhân viên và các nhân viên an ninh đứng rải rác trong sân. Ai xung phong rửa bát?

Hầu hết mọi người trong phòng đều giơ tay. Mặt khỉ đã giải thích rằng hầu như mọi người đều thích rửa bát vì họ không những sẽ được trả 10 đô la một giờ mà đối với một số người thì những đồ ăn thừa Ở lô ghế của ban giám đốc là bữa ăn ngon nhất mà họ có được trong suốt một tuần.

Viên quản lý nói:

- Tốt.

ông ta nhặt ra năm người, ghi tên. Sau khi ghi xong danh sách ông ta nói:

- Nào, chờ đã. Các vị có thể phục vụ các quan chức cao cấp hoặc các nhân viên an nính. Ai muốn phục vụ các quan chức cao cấp?

ông ta ngước lên nhìn. Hầu như tất cả các cánh tay còn lại trong phòng đều giơ lên. Một lần nữa viên quản lý lại viết tên năm người. Viết xong, ông ta lại gõ gõ tên bảng:

- Tất cả những người có tên trong danh sách này bây giờ có thể bắt đầu nhận việc.

Tất cả những người kia đứng lên và đổ xô qua một cánh cửa mà Connor biết sẽ dẫn xuống nhà bếp. Trong phòng chỉ còn lại Connor và Brad. Viên quản lý nói:

- Tôi còn hai việc Ở chỗ các nhân viên an ninh. Ai trong hai anh sẽ may mắn?

ông ta nhìn Connor vẻ hy vọng. Gã gật đầu và sờ tay vào túi sau. ông ta không thèm để ý đến Brad. bước tới chỗ gã nói:

- Tôi có cảm giác anh sẽ thích chỗ Jumbo Tron.

- Tuyệt- Connor nói và xỉa cho ông ta tờ một trăm đô la.

- Ðúng như tôi nghĩ - ông ta mỉm cười đáp lại.

Connor không nói gì trong khi viên quản lý béo phệ đút tiền vào túi, đúng như Mặt khỉ đã tiên đoán.

Tiền công trả ông lão thật đích đáng đến từng xu.

.

Lẽ ra tôi chẳng nên mời ông ta mới phải - Tom Lawrence vừa càu nhàu vừa bước lên chiếc Manne Một sẽ đưa ông từ Nhà Trắng đến sân vận động của Redskins.

Andy ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh:

- Và tôi nghĩ rằng mọi rắc rối của chúng ta vẫn chưa chấm dứt.

Tại sao, còn chuyện gì lồi tệ hơn có thể xẩy ra nữa?- Lawrence hỏi trong khi chiếc cánh quạt của máy bay bắt đầu chậm rãi quay.

- Vẫn còn hai sự kiện Ở chỗ đông người nữa trước khi Zerimski về nước, và tôi cuộc là Fitzgerald sẽ chờ chúng ta Ở một trong hai chỗ đó.

Lawrence nói:

- Buổi tối chắc không thể có vấn đề gì. Ðại sứ Pietrovski chẳng đã bao nhiêu lần nói với Cục Bảo vệ Mật rằng ông ta hoàn toàn có khả năng bảo vệ Tổng thống của họ. Và dù sao đi nữa, ai có thể dám mạo hiểm như vậy trong khi có hàng đống nhân viên an ninh như vậy?

Lloyd nói:

- Các nguyên tắc thông thường không thể đem ra áp dụng với Fitzgerald được. Anh ta không làm việc theo sách vở.

Tổng thống liếc xuống Sứ quán Nga.

- Chỉ cần lọt được vào tòa nhà đó cũng đã đủ rất khó rồi, chưa nói đến chuyện làm sao để thoát thân sau đó.

Lloyd nói:

- Nhưng chiều nay thì Fitzgerald sẽ không khó khăn lắm. Trên sân vận động sẽ có tám mươi ngàn người xem, vì thế anh ta sẽ vào sân rồi lẻn ra rất dễ dàng.

- Andy, chớ quên rằng nếu có điều gì xảy ra thì chỉ có thể trong mười ba phút trống mà thôi. Ngay cả như vậy đi chăng nữa, thì tất cả mọi người vào sân vận động đều bị kiểm tra bằng máy điện từ, vì thế sẽ chẳng ai có thể đem vào một con dao gọt bút chì chứ đừng nói đến một khẩu súng nữa.

Lloyd nói trong khì chiếc máy bay lên thẳng rẽ sang trái:

- Ngài nghĩ rằng Fitzgerald không biết rõ điều đó sao?

vẫn chưa quá muộn để hủy chương trình đi kia mà.

Lawrence nói dứt khoát:

Không. Nếu như Tổng thống tiền nhiệm của các ông dám đứng giữa sân vận động Olympic Ở Atlanta để dự lễ khai mạc thì tôi cũng có thể đến sân vận động Washington để xem một trận bóng đá được chứ. Mẹ kiếp, Andy, chúng ta sống trong một thời đại dân chủ và tôi sẽ không để cho người ta điều khiển cuộc sống của chúng ta như vậy. Và chớ có quên rằng tôi cũng Ở đó, và cũng chịu nguy hiểm chẳng kém gì Zenmski.

Lloyd đáp:

- Tôi thừa nhận điều đó, thưa ngài. Nhưng nếu Zerimski Ở đó và bị ám sát thì sẽ chẳng có ai khen ngợi ngài về chuyện lúc đó ngài cũng đứng cạnh ông ta đâu, nhất là Helen Dexter. Bà ta sẽ là người đầu tiên vạch ra rằng...

Tổng thống hỏi:

- Andy, anh nghĩ chiều nay ai sẽ thắng?

Lloyd mỉm cười trước cái ngón mà chủ mình vẫn thường sử dụng mỗi khi không muốn tiếp tục thảo luận về một chủ đề nào đó. ông đáp:

- Tôi không biết, thưa ngài. Nhưng chỉ đến khi sáng nay nhìn thấy có bao nhiêu người nhồi nhét vào mấy chiếc xe đi trước thì tôi không hề biết là Ở Nhà Trắng có nhiều người hâm mộ Redskins đến thế.

Lawrence đáp:

- Cũng có thể có những người là cổ động viên cho Packer thì sao?

Nói rồi ông mở tập hồ sơ để nghiên cứu mấy nét cơ bản về những người khách mà chiều nay ông sẽ gặp Ở sân vận động.

.

Viên quản lý đội cung cấp thực phẩm nói:

- OK. Chú ý.

Connor làm ra vẻ đang rất chăm chú lắng nghe.

Ðầu tiên anh phải kiếm lấy một chiếc áo khoác trắng và một chiếc mũ Redskins để chứng tỏ rằng anh là nhân viên Ở đây. Sau đó anh hãy đi thang máy lên tầng mười một và chờ tôi bỏ thức ăn vào thang nâng. Nhân viên Lực lượng Bảo vệ Mật ăn nhẹ lúc mười giờ sáng, và ăn trưa vào lúc bắt đầu trận đấu: Coca com, Sandwich và bất cứ thứ gì khác họ thích. Anh chỉ cần bấm vào cái nút bên trái là sẽ có ngay - ông ta nói như giải thích với một đứa trẻ lên mười.

Connor muốn nói cho ông ta biết chỉ cần đúng bốn mươi lăm giây là thang mấy có thể đi từ tầng hầm lên tầng mười một. Nhưng bởi vì còn hai tầng nữa có thể vào thang máy nội bộ - tầng dành cho câu lạc bộ ( tầng hai) và lô dành cho ban giám đốc ( tầng năm), vì thế ông ta có thể sẽ phải chờ các yêu cầu từ các tầng đó, trong trường hợp đó sẽ phải chờ đến tận ba phút.

- Sau khi nhận được thức ăn, anh sẽ bưng các khay thức ăn đến cho các sĩ quan đứng trong Jumbo Tron Ở phía đông của sân cỏ. Anh sẽ tìm thấy một cái cửa có ghi , Nội bộ" Ở cuối đường bên trái. - Ba mươi bảy bước, Connor nhớ lại- Chìa khóa đây. Anh sẽ đi qua cái cửa đó và đi dọc một hành lang cho đến khi tới được cửa vào phía sau của Jumbo Tron - Bảy mươi mét, Connor nghĩ.

Thời còn đá bóng gã có thể chạy hết quãng đường đó trong khoảng bảy giây.

Trong khi viên quản lý tiếp tục nói lại những điều gã đã biết rõ, Connor xem xét chiếc thang máy chuyển thực phẩm. Kích thước của nó là 700x800, và bên trong ghi rõ là " Tải trọng tối đa 60 kg". Gã nặng 85 kg, vì thế chỉ hy vọng người thiết kế có tính dư ra một chút. Còn hai vấn đề nữa: gã sẽ không thể kiểm tra được và cũng không thể ngăn không cho nó dừng lại Ở tầng hai và tầng năm trên đường xuống. Viên quản lý nói tiếp.

- Khi đến được cửa sau của Jumbo Tron anh hãy gõ cửa, viên sĩ quan trực nhật sẽ mở cửa cho anh vào. Sau khi chuyển khay thức ăn cho anh ta xong anh có thể quay lại sân vận động để xem hiệp một. Khi nghỉ giải lao anh sẽ tới để dọn khay và bỏ nó vào thang máy dịch vụ Anh phải ấn vào cái nút màu xanh, nó sẽ chạy xuống lại tầng hầm. Sau đó anh có thể xem nốt trận đấu. Dave, anh hiểu rõ tất cả chưa?

Connor rất muốn nói: Chưa, thưa ngài. Xin ngài làm ơn nói lại từ đầu và chậm chậm hơn một chút được không ạ. Nhưng gã lại nói:

Rồi ạ, thưa ngài.

- CÓ hỏi gì nữa không?

- Không ạ, thưa ngài.

- OK, nếu viên sĩ quan đó đối xử tốt với anh thì hết giờ tôi sẽ gửi cho hắn một suất thịt bò rán. Bao giờ anh ta ăn xong thì quay lại báo cho tôi biết và nhận tiền công. Năm mươi đô la. Gã nháy mắt.

Mặt khỉ đã nói rằng những người hâm mộ thực sự sẽ chẳng quan tâm đến tiền công nếu như còn muốn kiếm được việc lần sau nữa. ông ta nói:

- Nhớ đấy, nếu người ta nói đến chuyện " trả tiền" thì hãy chỉ nháy mắt mà thôi.

Connor không hề có ý định lấy năm mươi đô la tiền công cũng như trở lại sân vận động một lần nữa để làm gì.
 
Chương 32


Nguồn: vnthuquan

Tại Sao Lawrence lại ngồi trực thăng đi xem đá bóng trong khi ta phải nhồi nhét trong cái xe này?- Zenmski hỏi trong khi đoàn xe gồm chín Chiếc limousin ra khỏi sân Sứ quán.

Titov nói:

- ông ta phải chắc chắn có mặt Ở đó trước ngài. ông ta muốn làm quen với tất cả các khách mời để khi ngài đến thì ông ta có thể tỏ ra đã quen biết họ từ lâu lắm rồi.

Zenmski nói:

- Thế mới gọi là cách điều hành một đất nước chứ.

Chứ không phải rằng đây là một buổi chiều quan trọng.

ông ta im lặng hồi lâu rồi mới nói tiếp - Anh biết không, tôi đã nhìn thấy khẩu súng trường mà cái thằng Fitzgerald định dùng để giết tôi.

Titov có vẻ ngạc nhiên.

- Hắn dùng đúng loại súng mà bọn CIA đã đưa cho hắn hồi Ở St. Petersburg. Nhưng có cải tiến đôi chút- ông ta đút một tay vào túi áo và giơ ra một mẩu thép trông như một cái đinh - Anh có biết đây là cái gì không?

Titov lắc đầu:

- Tôi không biết.

Zerìmski đáp:

- Ðây là kim điểm hỏa của một khẩu Remington 700.

Vì thế thậm chí chúng ta có thể để cho hắn kéo cò trước khi bọn cận vệ ghim đạn vào người hắn. - ông ta nhìn thật kỹ mẩu thép - Tôi sẽ để nó trên bàn làm việc của tôi - ông ta bỏ lại vào túi - Ðã gửi cho các báo bài diễn văn tối nay tôi sẽ đọc chưa?

Titov đáp:

- Ðã, thưa Tổng thống. Toàn là những nhận xét bình thường. Ngài có thể tin rằng chẳng báo nào in lại một từ nào trong đó đâu.

- Thế còn những phản ứng tức thời của tôi sau khi Fitzgerald đã bị giết thì thế nào?

- Tôi có đem theo đây, thưa Tổng thống.

-Tốt. Ðưa tôi đọc thử xem sao.

Zerimski nói và ngả người trên ghế.

Titov lấy một cặp hồ sơ trong chiếc cặp để bên cạnh ra và bắt đầu đọc một tờ giấy viết tay nguệch ngoạc.

"Vào ngày tôi trúng cử, Tổng thống Lawrence đã gọi điện thoại cho tôi và nhân danh cá nhân mời tôi đến thăm đất nước các bạn. Tôi đã chân thành nhận lời mời đó Thế nhưng điều gì đã xảy ra? Ðôi tay tôi cởi mở đưa ra và nhận lại được không phải là một cành Ô liu hòa bình mà là một khẩu súng trường chĩa thẳng vào mặt. Và Ở đâu? Ngay trong Sứ quán của tôi. Và ai là người đã kẻo cò? Một sĩ quan CIA. Nếu như tôi không may mắn...

Zerimski cắt lời:

- Một cựu sĩ quan CIA.

Titov ngẩng lên, nói:

- Tôi nghĩ sẽ đáng tin hơn nếu như thỉnh thoảng ngài nói có hơi sai một tý, thậm chí là sai khi nhắc lại chính lời mình. Như vậy sẽ không ai nghi ngờ là ngài đã biết trước mọi chuyện. Ở Mỹ người ta thích tin rằng mọi chuyện đều là âm mưu.

.

Connor nhìn đồng hồ. Ðã chín giờ năm mươi sáu phút. Gã ấn cái nút bên cạnh thang máy phục vụ và ngay lập tức nghe thấy tiếng rít của động cơ quay trong khi chiếc thang thong thả trèo lên tầng mười một.

Vẫn còn ba mươi tư phút nữa mới đến giờ mở cửa sân vận động cho mọi người vào, và Connor biết sẽ còn phải mất một số thì giờ để khán giả đi qua các cửa kiểm tra an ninh với ba mươi chiếc máy điện từ. Nhưng gã phải giữ thời gian biểu sít sao hơn bất cứ ai khác trong sân vận động này. Bốn mươi bảy giây sau gã lấy cái khay ra và bấm nút để báo cho các nhân viên Ở dưới tầng hầm biết là gã đã nhận được hàng.

Gã đi nhanh qua tầng bảy, qua một bục trống và đi đến cái cửa có ghi chữ "nội bộ". Gã cầm chiếc khay bằng một tay, tay kia rút chìa khóa ra mở khóa rồi bước vào Sau đó gã bật đèn và đi xuống con đường hầm dẫn tới cửa sau của Jumbo Tron. Gã lại nhìn đồng hồ - hết tám mươi ba giây. Lâu quá, nhưng khi rút chạy và không vướng cái khay thì gã sẽ có thể chạy hết toàn bộ quãng đường từ mái xuống tầng hầm trong vòng không đầy hai phút. Và nếu đúng như gã hoạch định thì gã sẽ có thể thoát ra khỏi sân vận động và trên đường đi ra sân bay trong khi bọn họ chưa kịp chặn hết các ngả đường.

Connor bưng khay bằng một tay và gõ cửa bằng tay kia. Một lúc sau có người ra mở cửa. ÐÓ là một người cao to lừng lững, bóng đổ dài dưới ánh sáng của ngọn đèn phía trong hắt ra.

Connor mỉm cười thân thiện:

- Tôi đem bữa ăn nhẹ cho anh đây.

Nhà thiện xạ đáp:

- Tuyệt lắm. Vào đây với tôi một lát đã.

Anh ta lấy một miếng bánh mì kẹp thịt bò hun khói trong khay. Connor theo anh ta đi dọc một cái sàn bằng sắt mạ mỏng mảnh, bên dưới một bức tường rộng mênh mông làm bằng cả màn hình chiếc TV 786 inch. Tay nhân viên Mật vụ ngồi xuống và cắn ngập răng vào miếng sandwich. Counor cố không để anh ta thấy gã ngắm nghía khẩu súng trường rất kỹ.

Jum bo Tron nằm dọc ba tầng, một tầng bên trên sàn thép và một tầng bên dưới. Connor đặt cái khay xuống bên cạnh viên sĩ quan, anh ta ngồi ngay giữa chiếc thang dốc đứng dẫn xuống tầng dưới. Anh ta chăm chú vào lon Coca không đường của mình hơn là để ý đến đôi mắt đảo như bi của Connor.

Anh ta nhồm nhoàm nói:

- À tên tôi là Arnie Cooper.

Connor đáp lại:

Tôi là Da ve Krinkle.

Arnie cười ngoác miệng, hỏi:

- Vậy anh phải trả bao nhiêu để được cái đặc ân là ngồi đây suốt buổi chiều với tôi?

.

Chiếc Marine Một hạ cánh xuống bãi đỗ trực thăng Ở phía bắc sân vận động, một chiếc limousine chạy tới trước khi thang máy bay chưa kịp chạm đất. Một phút sau Lawrence và Lloyd hiện ra Ở cửa máy bay, Tổng thống quay lại vẫy đám đông trước khi ngồi vào chiếc limousine. Chưa đầy một phút sau họ đã tới sân vận động Ở cách đó năm trăm mét, chạy qua tất cả các cửa kiểm soát an ninh mà không hề giảm tốc độ. John Kem Cooke, chủ Redskins đang đứng Ở cửa vào để chờ đón họ.

- Thật vô cùng vinh hạnh cho tôi, thưa ngài - ông ta nói trong khi Lawrence bước ra.

- Rất vui được gặp ông, John - Tổng thống nói và bắt tay người đàn ông nhỏ nhắn tóc muối tiêu.

Cooke đưa khách vào chiếc thang máy nội bộ.

Lawrence cười hỏi:

- John, ông có tin thật là Skins sẽ thắng không?

Cooke đáp trong lúc họ bước vào buồng thang máy:

- Thưa Tổng thống, bao giờ tôi cũng phải chờ đợi câu hỏi nặng ký kiểu này Ở các chính khách đấy. Ai cũng biết rằng ngài là người hâm mộ số một của Packers.

Nhưng tôi buộc phải trả lời câu hỏi của ngài là: Có, thưa ngài, tôi tin như vậy. Chiến đấu cho một DC ( District of Colombia-washington) xưa cũ. Skins nhất định sẽ thắng.

- TỜ Washington Post sẽ không tán thành ý kiến của ông đâu - Tổng thống nói trong khi cửa thang máy mở ra Ở tầng dành cho báo chí.

Cooke nói:

- Thưa Tổng thống, tôi tin rằng ngài là người cuối cùng tin Ở những gì Post viết.

Cả hai người cười phá lên trong khi Cooke dẫn Lawrence vào lô dành riêng cho ông ta, một phòng rộng và tiện nghi nằm ngay bên trên vạch năm mươi mét có thể quan sát toàn sân một cách tuyệt vời.

- Thưa Tổng thống, xin cho phép tôi được giới thiệu với ngài hai người đã góp phần xây dựng nên Redskins đội bóng vĩ đại nhất nước Mỹ. Cho phép tôi được bắt đầu bằng việc giới thiệu Rita, vợ tôi.

Lawrence nói và bắt tay bà vợ Cooke:

- Rita, rất vui được gặp bà. Và xin chúc mừng thắng lợi của bà Ở Dàn nhạc Giao hưởng Quốc gia. Tôi được biết dưới sự lãnh đạo của bà Dàn nhạc đã giành thêm được rất nhiều giải thưởng.

VỢ Cooke rạng ngời vì hãnh diện.

Lawrence đã có thể gợi lên được tất cả những giai thoại nho nhỏ đúng lúc đối với tất cả những người được giới thiệu với mình, kể cả đối với ông lão nhỏ bé mặc chiếc áo gió của Redskins nhưng rõ ràng không thể nào là một cựu cầu thủ.

John Kem Cooke đặt tay lên vai ông lão nói:

- Ðây là Washer Mặt khỉ, hiện nay là...

- là người duy nhất có tên Ở Nhà Lưu niệm của Redskins mặc dù chưa bao giờ chơi một trận nào cho đội - Tổng thống nói.

Một nụ cười nở rộng trên mặt ông lão.

Và tôi cũng nghe nói rằng ông biết về lịch sử của đội nhiều hơn bất cứ ai khác trên đời.

Mặt khỉ tự hứa với mình là sẽ không bao giờ bầu cho đảng Cộng hòa nữa.

- Mặt khỉ, vậy hãy cho tôi biết là trong các trận đấu giữa Packers và Skins thì điểm số của Vince Lombardi trong mùa huấn luyện cho Packers là bao nhiêu, nếu so với năm ông ta huấn luyện cho đội Skins?

Mặt khỉ đỏ bừng mặt, nói:

- Packer 459, Skins 435.

- Ðúng như tôi nghĩ - lẽ ra thì ông ta không nên bỏ Packers mà đi mới phải - Tổng thống nói và đập tay lên lưng Mặt khỉ.

Cooke nói:

- Thưa Tổng thống, ngài có biết không, chưa bao giờ tôi có thể đặt ra một câu hỏi nào về Redskins mà Mặt khỉ không thể trả lời được.

Tổng thống quay lại cuốn từ điển sống:

- Mặt khỉ, đã từng có ai làm cho ông đầu hàng chưa?

Mặt khỉ đáp:

Thưa Tổng thống, họ vẫn luôn thử đấy ạ. Mới hôm qua thôi, một người...

Mặt khỉ chưa kịp nói xong thì Andy Lloyd đã chạm vào khuỷu tay Lawrence:

- Thưa Tổng thống, tôi xin lỗi vì phải làm phiền ngài, nhưng chúng ta vừa nhận được thông báo năm phút nữa Tổng thống Zenmski sẽ có mặt tại sân vận động. Ngài và ngài Cooke cần đi ra chỗ cổng phía bắc ngay bây giờ mới kịp đón ông ta.

Lawrence nói:

- à, tất nhiên - ông ta quay lại nói với Mặt khỉ - Bao giờ chúng tôi quay lại ta lại nói chuyện tiếp nhé.

Mặt khỉ gật đầu trong khi Tổng thống và những người cùng đi ra khỏi phòng để đi đón Zerimski.

.

Connor nói to để át tiếng quạt thông gió đang ầm ầm trên trần:

- Ở đây gò bó quá nhỉ?

Amie uống cạn lon Coca và nói:

- Ðúng vậy, nhưng tôi nghĩ là nghề này bao giờ chả phải chịu gò bó.

- Hôm nay anh nghĩ là có chuyện gì xảy ra không?

- CÓ lẽ là không. Dĩ nhiên chúng tôi phải rất cảnh giác vào lúc hai Tổng thống bước ra sân cỏ, nhưng sẽ chỉ kéo dài khoảng tám phút thôi. Mặc dầu Ðặc phái viên Braithwaite có phương pháp riêng của mình, nhưng sẽ không ai được ra khỏi lô đặc biệt dành riêng cho các ông chủ trước khi hết giờ.

Connor gật đầu và hỏi thêm nhiều câu hỏi vô hại khác và lắng nghe thật cẩn thận giọng Arnie và đặc biệt chú ý đến một vài kiểu diễn đạt mà anh ta hay dùng.

Trong khi Arnie ngon lành cắn chiếc bánh chocolate thì Connor ghé mắt nhìn qua một khe hẹp Ở giữa tấm biển quảng cáo. Hầu hết các nhân viên Lực lượng Bảo vệ Bí mật đang có mặt trên sân vận động đều đang ăn bữa ăn nhẹ. Gã nhìn về phía tháp đèn Ở cuối sân. Brad đã có mặt Ở đó và đang lắng nghe một sĩ quan nói gì đó, người này đang chỉ về phía lô dành riêng cho các ông chủ. Anh ta đúng là loại người mà SỞ Mật vụ cần tuyển dụng - Connor nghĩ. Gã quay lại nói với Arnie:

- Bao giờ bắt đầu trận đấu tôi sẽ quay lại. Một đĩa sandwích, một lát bánh ngọt và một lon Coca nữa có được không?

- Ðược, nghe có vẻ ngon đấy. VỢ tôi có kêu là tôi béo lên vài ký thì cũng chẳng sao, nhưng có lẽ cấp trên có thể nhận xét đấy. Một tiếng còi vang lên báo hiệu cho tất cả các nhân viên đang làm việc trong sân vận động biết là đã mười giờ ba mươi, và cổng sắp mở. Những khán giả cuồng nhiệt bắt đầu tràn vào các chỗ ngồi, hầu hết đều đi thẳng đến chỗ ngồi thường lệ của mình. Connor nhặt cái lon Coca không cùng với chiếc hộp nhựa đặt lên khay, nói:

- Bao giờ bắt đầu đá tôi sẽ quay lại đem bữa ăn trưa cho anh nhé.

Arnie nói:

- Ðược Nhưng chờ cho hai Tổng thống trở vào lô đặc biệt của họ đã rồi hãy đến. Không ai được phép Ở trong Jumbo Tron trong khi hai Tổng thống còn đang Ở ngoài trời.

Connor nói:

- OK, tôi hiểu rồi.

Gã quay đi trước khi nhìn khẩu súng trường của Arnie lần cuối cùng. Trước khi đi gã nghe thấy có tiếng nói trong chiếc bộ đàm hai chiều.

- Hercules 3 đâu?

Arnie tháo chiếc bộ đàm ra khỏi thắt lưng, bấm một cái nút và nói:

- Hercules ba đây. Tiếp tục đi.

Connor chần chừ đứng Ở cửa.

- Thưa ngài, không có gì xảy ra cả. Tôi chỉ định quan sát về phía cuối sân một chút thôi.

- Tốt. Nếu thấy gì thì báo cáo ngay.

Amie nói:

- Sẽ báo cáo - nói rồi anh ta cài lại chiếc bộ đàm vào thắt lưng.

Connor khẽ khàng quay ra, bước lên cầu dẫn được che kín, gã đóng cửa lại và đặt cái lon Co ca rỗng lên bậc thang. Gã nhìn đồng hồ rồi nhanh nhẹn bước dọc cầu dẫn được che kín, mở cánh cửa và tắt đèn. Xung quanh ồn ào tiếng các khán giả đang nhốn nháo tìm chỗ ngồi. Lên đến chỗ chiếc thang máy, gã lại nhìn đồng hồ. Năm mươi tư giây. Khi rút chạy gã cần phải chạy hết quãng đường này trong vòng không đầy ba mươi giây. Gã bấm nút. Bốn mươi lăm giây sau chiếc thang chuyển thức ăn xuất hiện. RÕ ràng Ở tầng hai và tầng năm không có ai gọi thang cả. Gã đặt khay vào và bấm nút một lần nữa.

Ngay lập tức chiếc thang lại bắt đầu hành trình chậm chạp xuống tầng hầm.

Trong khi Connor bình thản đi về phía chiếc cửa có ghi chữ "Nội bộ" không ai để ý đến gã, đó là nhờ có chiếc áo khoác trắng và chiếc mũ cho ghi hàng chữ Redskins. Gã bước vào và khóa cửa lại. Trong bóng tối gã im lặng đi ngược trở lại bằng một cầu dẫn chật hẹp cho đến khi chỉ còn cách cửa vào Jumbo Tron vài mét.

Gã đứng nhìn xuống chiếc dầm thép đồ sộ dùng để giữ yên cái màn hình vĩ đại.

Connor nắm lấy lan can một lúc rồi quỳ xuống. Gã nhoài tới, dùng cả hai tay nắm lấy chiếc khung thép rồi buông người khỏi cầu dẫn. Gã nhìn chằm chằm vào cái màn hình mà theo sơ đồ kiến trúc thì chỉ cách gã có mười ba mét. Vậy mà tưởng như nó xa hàng dặm.

Gã nhìn thấy một tay nắm cửa nhỏ, nhưng gã vẫn chưa biết đó có phải là cái cửa thoát hiểm kín đáo đã được đánh dấu rõ ràng trên bản vẽ có thật sự thông ra ngoài không. Gã bắt đầu chậm chạp bò trên cái dầm, chậm chạp từng phân và không hề một lần nào nhìn xuống chiều cao chóng mặt năm mươi mét phía dưới.

Dường như nó phải cao đến hai dặm.

Cuối cùng khi gã bò được đến cuối cái dầm, gã bèn thả hai chân sang hai bên và quặp thật chặt, tựa như đang ngồi trên lưng ngựa. Màn hình đang chuyển từ một bàn thắng của Redskins trong trận đấu trước sang một quảng cáo cho Cửa hàng bán đồ thể thao Modell. Connor hít vào một hơi, cầm lấy cái nắm đấm cửa, rồi kéo. Cánh cửa bí mật tách ra và để lộ một lỗ hổng rộng khoảng nửa mét vuông đầy hứa hẹn. Connor thong thả chui vào và đẩy cửa đóng lại như cũ.

ép mình xung quanh bốn bề sắt thép, gã bắt đầu ước gì có thêm một đôi găng tay dày. Ở bên trong này giống như Ở trong một cái tủ lạnh. Tuy nhiên, mỗi phút qua đi gã lại cảm thấy tự tin hơn là nếu như cần phải dùng đến kế hoạch phòng ngừa thì sẽ không một ai tìm thấy nơi gã ẩn náu.

Gã ẩn trong cái lỗ giữa các dầm sắt nằm cao hơn mặt đất năm mươi mét trong một tiếng rưỡi đồng hồ, chỉ có thể quay cổ tay để xem đồng hồ.
 
Chương 33


Nguồn: vnthuquan

Zerimski nồng nhiệt bắt tay với tất cả những người được giới thiệu với ông ta, thậm chí cười phá lên trước một câu đùa của John Kent Cooke. ông ta nhớ tên của tất cả các vị khách, và mỉm cười trả lời tất cả các câu hỏi người ta đặt ra. "Cái mà người Mỹ gọi là tấn công một cách duyên dáng" - Titov đã nói với ông ta như vậy, và điều đó chỉ làm tăng thêm sự rùng rợn mà ông ta dự định sẽ đem lại cho bọn chúng trong buổi tối hôm nay.

ông ta nghe thấy một người khách trả lời báo chí:

- ông ta vô cùng thoải mái và dễ dãi, đặc biệt là đối với Tổng thống, người mà ông ta luôn mồm gọi là "Tom, người bạn thân thiết và gần gũi nhất của tôi".

Sau này nhớ lại người khách đó sẽ không cảm thấy Lawrence tỏ ra một thái độ nồng nhiệt tương ứng và hơi lạnh nhạt với ông khách người Nga của mình.

Sau khi phần giới thiệu đã xong, John Kent Cooke gõ lên bàn bằng một cái thìa, nói:

- Tôi xin lỗi vì đã làm gián đoạn câu chuyện vui vẻ Của các vị, nhưng thời gian đang trôi đi và có lẽ đây sẽ là cơ hội duy nhất trong đời mà tôi có thể cùng một lúc báo cáo với hai vị Tổng thống - CÓ tiếng cười khẽ - Sau đây là kế hoạch chung.

ông ta đeo kính lên và bắt đầu đọc một tờ giấy do trợ lý báo chí của ông ta đưa cho:

- Mười một giờ hai mươi tôi sẽ tháp tùng hai vị Tổng thống tới cửa vào phía nam của sân vận động, và đến mười một giờ ba mươi sáu sẽ đưa hai vị ra sân cỏ - ông ta nhìn lên - Tôi đã thu xếp để tiếng hoan hô đón chào vang dội - ông ta mỉm cười. Rita cười hơi to quá.

- Ra đến giữa sân tôi sẽ giới thiệu hai Tổng thống với hai thủ quân, sau đó họ sẽ lần lượt giới thiệu các trợ lý và các huấn luyện viên. Sau đó hai Tổng thống sẽ được giới thiệu với cầu thủ trong trận đấu.

- Ðến mười một giờ bốn mươi tất cả mọi người sẽ quay về lễ đài phía tây, dàn nhạc Redskins sẽ cử quốc thiều Nga, sau đó sẽ cử bài lá cờ lấp lánh những ngôi sao.

- mười một giờ bốn tám, vị khách danh dự của chúng ta là Tổng thống Zerimski sẽ tung một đồng đô la bạc.

Sau đó tôi sẽ tháp tùng hai vị quý khách ra khỏi sân cỏ và đưa về lại đây và tôi hy vọng mọi người sẽ ngồi theo dõi việc Redskins đánh bại Packers.

Cả hai Tổng thống phá lên cười.

cooke nhìn lên các vị khách của mình, mỉm cười khi thấy nhiệm vụ đầu tiên đã xong, hỏi:

- CÓ ai hỏi gì không ạ?

Zerimski nói:

- Có, John. ông chưa giải thích cho tôi vì sao tôi lại phải tung đồng đô la bạc?

- Như vậy để cho các thủ quân biết là đội nào sẽ được đá trước.

Zerimski nói:

- Thật là một ý tưởng thú vị.

Trong khi từng phút chậm chạp trôi qua, Connor càng thường xuyên nhìn đồng hồ hơn. Gã không muốn Ở trong Jumbo Tron lâu hơn cần thiết một tý nào, nhưng gã cũng cần thời gian để làm quen với khẩu súng trường đã nhiều năm nay không sử dụng.

Gã lại nhìn đồng hồ. Mười một giờ mười. Gã còn phải chờ mười bảy phút nữa. Mặc dầu có nóng ruột đến đâu đi chăng nữa cũng không bao giờ được đến sớm hơn cần thiết - như vậy chỉ tăng thêm sự nguy hiểm.

Mười một giờ mười hai. Gã nghĩ đến Chris Jackson và sự hy sinh mà anh đã làm chỉ để đem lại cho gã một cơ hội.

Mười một giờ mười bốn. Gã nghĩ đến Joan, và cái chết tàn khốc và không cần thiết mà Gutenburg đã ra lệnh mà chẳng với một lý do gì ngoài việc chị đã từng là thư ký của gã.

Mười một giờ mười lăm. Gã nghĩ đến Maggie và Tara.

Nếu như gã có thể làm được việc này thì may ra có thể khiến cho hai mẹ con được sống yên ổn. Dù sao đi nữa thì gã nghĩ là sẽ không còn được gặp họ nữa.

Mười một giờ muời bảy. Connor đẩy cánh cửa bí mật mở ra và thong thả chui ra khỏi nơi ẩn náu an toàn. Gã thu thập hết sức rồi bắt đầu đu chân giữa thanh dầm và quặp chặt lấy nó bằng hai bắp đùi. Một lần nữa gã bắt đầu bò ngược trở lại cầu dẫn, mắt không hề nhìn xuống dưới.

Sau khi an toàn đến được mép cầu, gã đu người và leo lên cầu dẫn. Gã đứng thăng bằng trên cầu và vươn tay tập một lúc.

Mười bảy giờ hai bảy phút. Gã hít một hơi thật sâu và ôn lại kế hoạch một lần cuối, rồi bước nhanh về phía Jumbo Tron, chỉ dừng lại để nhặt chiếc lon Coca không mà lúc nãy gã bỏ lại trên bậc thang.

Gã gõ mạnh cửa. Không chờ đáp lại gã mở cửa bước vào và kêu to cho át tiếng ồn của quạt gió:

- Tôi đây mà.

Amie nhìn xuống, tay phải lần trên khẩu Armalite, nói:

- Quỷ quái, tôi đã bảo anh không được trở lại trước khi Tổng thống ra khỏi sân kia mà. May phúc cho anh là tôi không ghim một viên đạn vào người anh đấy.

Connor đáp:

- Xin lỗi. Chỉ là tôi thấy Ở đây nóng quá nên trở lại để đem cho anh một lon Coca thôi mà.

Gã đưa cái lon không ra và Arnie cúi xuống đưa bàn tay rảnh ra để cầm lấy. Ngón tay anh ta vừa chạm cái lon Connor bèn nắm lấy cổ tay anh ta và dùng hết sức mạnh cơ bắp kéo giật anh ta xuống.

Arnie hét lên một tiếng rùng rợn trong khi anh ta lộn xuống, đầu đập vào cầu dẫn bằng thép mạ, khẩu súng trượt đi.

Connor nhảy đến và ngồi lên người đối thủ không để cho anh ta kịp đứng dậy. Arnie vừa định ngóc đầu dậy thì Connor đã giáng cho một quả tạt hàm trái khiến anh ta choáng váng một lúc, rồi gã chộp lấy chiếc khóa số tám treo trên thắt lưng anh ta. Gã chỉ thoáng nhìn thấy cái đầu gối phóng tới nhưng đã kịp né sang trái tránh được. Trong khi Arnie gượng đứng dậy Connor đã kịp thoi một quả nữa, lần này vào giữa mũi anh ta. Connor nghe thấy một tiếng rắc, rồi máu mũi tuôn ra và Amie khuỵu xuống. Connor bật lên, Amie lại gượng dậy và gã lại giáng một quả đấm nữa vào vai phải. Lần này anh ta đổ vật xuống sàn cầu dẫn và cuối cùng nằm im.

Connor cởi phắt chiếc áo choàng trắng dài, sơ mi, cà vạt, quần dài, tất và mũ, vứt tất cả thành một đống trong góc phòng, sau đó tháo còng tay Artlie ra Và nhanh chóng lột bộ đồng phục của anh ta ra. Trong khi mặc bộ đồng phục vào người gã mới phát hiện ra là đôi giày phải nhỏ hơn chân mình ít nhất hai số, và cái quần thì cũn cỡn đến năm phân. Không còn cách nào khác gã đành đi tất vào và xỏ đôi giày cũ, ít nhất thì nó cũng màu đen. Gã nghĩ rằng trong tình trạng cực kỳ lộn xộn này gã sẽ không khiến ai nhớ lại đã nhìn thấy một nhân viên Mật vụ không đi đúng giày như thường lệ.

Connor nhặt chiếc cà vạt trong đống quần áo vứt trong góc nhà và buộc chặt hai mắt cá Amie vào nhau.

Sau đó gã nâng viên sĩ quan đang bất tỉnh lên và để anh ta dựa ngồi dọc một cái rầm sắt chạy ngang suốt chiều rộng Jumbo Tron, sau đó còng hai tay anh ta lại bằng chiếc còng số tám. Cuối cùng gã lấy trong túi ra một chiếc khăn tay, cuộn nó lại thành một nắm và nhét vào mồm Arnie. Thằng cha tội nghiệp sẽ bị đau nhiều ngày nữa. Bù lại, có thể anh ta sẽ giảm được mấy ký thịt mà cấp trên của anh ta đã phàn nàn.

Connor nói:

Chẳng có gì là cá nhân cả.

Gã đội mũ của Arnie, đeo chiếc kính râm vứt lăn lóc bên cạnh cửa rồi nhặt khẩu súng trường lên. Ðúng như gã nghĩ, đó là một khẩu M-16. Nếu được thì gã sẽ chẳng chọn loại súng này, nhưng dù sao thì nó cũng có thể dùng được cho mục đích của gã. Gã nhanh chóng leo lên tầng hai nơi Amie đang ngồi, cầm ống nhòm của anh ta lên và nhòm xuống đám đông ngồi bên dưới qua khe hở giữa khung sắt và màn hình video.

Mười một giờ ba hai. Ba phút ba mươi tám giây kể từ khi Connor bước chân vào Jumbo Tron. Gã đã dự định phải mất bốn phút để đánh chiếm. Gã bắt đầu thở bình thường.

Chợt có tiếng vang lên Ở phía sau lưng.

- Hercules 3 đâu.

Thoạt tiên gã không hiểu tiếng nói đó phát ra từ đâu, nhưng rồi nhớ ra chiếc bộ đàm hai chiều gắn Ở thắt lưng của Amie. Gã lấy nó ra.

- Hercules 3 đây. Tiếp tục đi.

Viên sĩ quan chỉ huy nói:

- Tôi nghĩ là đã mất liên lạc với anh mấy phút, Amie.

Mọi việc ổn chứ?

Connor nói:

- ổn cả. Chỉ cần một kẽ hở thôi, và tôi nghĩ rằng không nên rời mắt khỏi đám đông này.

- Tán thành - Braithwaite bật cười và nói - tiếp tục quan sát đi. Chẳng bao lâu nữa Reo Light và Waterfal1 sẽ ra sân đấy.

- Tôi sẽ quan sát - Connor nói bằng một giọng mà nếu nghe thấy thì mẹ đẻ gã sẽ mắng cho một trận. Liên lạc tắt.

Mười một giờ ba tư. Gã nhìn quanh sân vận động. Chỉ Còn vài chỗ ngồi màu đỏ và màu vàng chưa có người ngồi. Gã cố không bị phân tán bởi mấy cầu thủ Reskins đang vung chân vung tay khởi động ngay bên dưới.

Một liếng reo dậy lên khi hai đội xuất hiện từ đường hầm cuối Ở phía nam sân vận động. HỌ chậm rãi chạy đến giữa sân, trong khi đám đông bắt đầu hát vang "Chào Redskins".

Connor nâng ống nhòm của Arnie lên mắt và quan sát tháp đèn phía trên sân vận động. Hầu như tất cả các nhân viên Mật vụ đều đang quan sát kỹ đám đông để tìm xem có thể có điều gì bất trắc không. Không một ai có vẻ nhìn đến nơi điều bất trắc sẽ xảy ra. Connor dừng ống nhòm lại Ở Brad lúc này đang nhòm xuống khán đài phía bắc, kiểm tra kỹ từng hàng ghế. Thằng bé có vẻ như đang bay bổng lên tận thiên đường.

Connor quay lại và hướng ống nhòm tới vạch năm mươi mét. Lúc này hai viên thủ quân đang quay mặt vào nhau.

Mười một giờ ba mưa tám. Một tiếng reo nữa dậy lên trong khi John Kent Cooke hãnh diện dẫn hai vị Tổng thống ra sân, theo sau là mười hai cận vệ có lẽ là những người giỏi nhất. Chỉ cần liếc qua Connor cũng nhận ngay ra cả Zerimski lẫn Lawrence đều mặc áo vét chống đạn.

CÓ lẽ gã đã muốn chĩa súng vào Zerimski và chỉnh thước ngắm tới đầu ông ta, nhưng gã không muốn mạo hiểm để bị một trong những thiện xạ đang đứng Ở tháp đèn phát hiện thấy. Gã biết rõ họ đã được huấn luyện để có thể ngắm và nổ súng trong vòng ba giây.

Trong khi các Tổng thống được giới thiệu với các cầu thủ, Connor quay sang chú ý tới ngọn cờ của Redskins đang bay phần phật trong gió nhẹ Ở trước khán đài phía tây Gã bẻ gập nòng súng và thấy - đúng như gã nghĩ - trong Ổ đầy đạn. Gã gập nòng súng lại. Tiếng động đập vào tai gã như tiếng một piston đang bắt đầu chuyển động, đột nhiên gã cảm thấy tim đập nhanh gấp đôi.

Mười một giờ bốn một phút. Lúc này hai vị Tổng thống đang nói chuyện với các cầu thủ. Qua ống nhòm Connor nhìn rõ John Kent Cooke đang lo lắng nhìn đồng hồ. ông ta cúi sang thì thầm gì đó vào tai Lawrence.

Tổng thống Mỹ gật đầu, chạm tay vào khuỷu tay Zenmski và dẫn ông ta đi tới khoảng trống giữa hai đội.

Trên bãi cỏ đã vạch sẵn hai vòng tròn trắng, một bên vẽ hình con gấu, một bên vẽ hình con diều hâu, vì thế hai nhà lãnh đạo biết rõ họ cần đứng Ở đâu.

Một giọng vang lên trên toa phóng thanh:

- Thưa các quý ông quý bà. Xin tất cả đứng lên trong khi cử hành Quốc thiều Nga.

Mọi người lục tục đứng lên, nhiều người bỏ mũ Redskins đang đội trên đầu xuống và hướng về phía dàn nhạc Ở phía tây sân cỏ. Người nhạc trưởng giơ cây gậy lên, dừng lại, rồi đột nhiên hạ xuống đầy cảm hứng.

Ðám đông ngọ nguậy lắng nghe bản nhạc mà một số người trong bọn họ chưa từng nghe thấy bao giờ.

Mặc dầu trước đây Connor đã bao lần đứng lên trong khi người ta cử hành quốc thiều Nga, nhưng gã đã nhận thấy rất ít ban nhạc - không kể Ở nước Nga - biết rõ cần phải nhắc lại điệp khúc bao nhiêu lần. Vì thế gã quyết định chờ đến bản "Lá cờ lấp lánh những ngôi sao".

Khi bản quốc thiều Nga kết thúc, các cầu thủ bắt đầu duỗi tay và giậm chân để đỡ căng thẳng. Connor chờ cho người nhạc trưởng nâng cây gậy lên một lần nữa, đó sẽ là lúc gã có thể nhằm vào Zerimski. Gã liếc nhìn cột cờ Ở cuối sân: lúc này lá cờ của Redskin đang rũ xuống, chứng tỏ không có một tí gió nào.

Người nhạc trưởng giơ gậy lên lần thứ hai. Connor kê khẩu súng vào góc giữa tấm panel và màn hình vi deo, lấy cái khung gỗ làm điểm tựa. Gã quét ống kính ngắm khắp sân rồi ngắm vào gáy Zerimski, chỉnh thước ngắm cho đến khi cái gáy nằm chính giữa đường ngắm của khẩu súng trường.

Bản quốc thiều Mỹ vang lên, cả hai Tổng thống đứng cứng đơ. Connor thở ra. Ba.. hai.. một. Gã nhẹ nhàng kẻo cò đúng lúc Tom Lawrence vung cánh tay phải lên và đặt bàn tay lên trước tim. Bị phân tán bởi cử chỉ bất ngờ đó Zenmski liếc sang bên phải, khiến cho viên đạn chỉ sượt qua tai ông ta một cách vô hại. Bảy mươi tám giọng hát hòa nhau khiến cho không ai nghe thấy một tiếng phập nhẹ nhàng khi mảnh kim loại cắm vào bãi cỏ phía sau vạch năm mươi mét.

Brad đang nằm dán người xuống sàn của dàn đèn và nhìn chằm chằm quan sát đám đông bằng chiếc ống nhòm. Mắt cậu bé dừng lại Ở Jumbo Tron. Màn hình bị choán gần hết bởi hình ảnh Tổng thống Tom Lawrence đang đặt tay lên tim, thành kính hát bản quốc ca Mỹ.

Brad tiếp tục lia ống nhòm. Ðột nhiên cậu bé giật nẩy người. Hình như cậu nhìn thấy một cái gì đó trong cái góc giữa màn hình và pa nen đỡ nó. Cậu bé nhìn lại một lần nữa... đó là nòng một khẩu súng trường chĩa thẳng xuống giữa sân cỏ từ nơi mà lúc nãy cậu còn nhìn thấy Amie vẫn chĩa ống nhòm ra để quan sát. NÓ chỉnh nút quan sát tinh và trố mắt nhìn vào một khuôn mặt mà nó đã từng nhìn thấy trước đó cũng trong ngày hôm nay. NÓ không hề chần chừ:

- Giải tán ngay. CÓ súng.

Brad nói bằng giọng khẩn thiết và đầy quyền lực đến nỗi Braithwaite và hai trong số trợ lý của anh ta quay phắt lại vào chĩa ống nhòm về phía Jumbo Tron đúng lúc Connor đang chỉnh đường ngắm cho phát súng thứ hai.

- Bình tĩnh. Ðừng vội - Connor đang lẩm bẩm tự nhủ - Mày còn khối thời gian.

Cái đầu zerimski lại choán hết kính ngắm. Connor chỉnh kính ngắm và đếm. Ba... hai.

Viên đạn của Braithwaite ghim vào vai gã khiến gã bật ngược trở lại. Một viên đạn thứ hai rít qua khe hở, đúng nơi một giây trước là cái đầu của gã.

Bản quốc ca Mỹ chấm dứt.

Hai mươi tám năm rèn luyện đã chuẩn bị cho Connor chính giây phút này. Toàn bộ con người gã gào lên bảo gã phải trốn thoát. Ngay lập tức gã triển khai phương án A, cố không để ý đến cái đau đang chói lên Ở vai. Gã loạng choạng đi ra cửa, tắt đèn và đi ra cầu dẫn. Gã cố chạy đến cái cửa dẫn ra sân, nhưng nhận thấy gã phải cố hết sức để chỉ chuyển động được Bốn mươi hai giây sau, đúng lúc hai Tổng thống được đưa ra khỏi sân thì gã đến được cái cửa. Gã nghe thấy tiếng reo dậy lên khi Redskins bắt đầu đá quả bóng.

Connor mở cửa, loạng choạng bước vào chiếc thang máy vận chuyển thực phẩm và bấm nút mấy lần liền. Gã nghe rõ tiếng động cơ quay trong khí chiếc thanh bắt đầu hành trình chậm chạp của nó đi lên tầng bảy. Mắt gã đảo lia lìa hết sang trái lại sang phải để tìm xem có nguy hiểm nào không. Vai gã ngày càng đau nhói nhưng gã biết chẳng thể làm gì được. Nơi đầu tiên bị kiểm tra sẽ là các bệnh viện. Gã cúi đầu xuống và nhìn thấy cái thang máy đang chậm chạp leo về phía mình. Mười lăm giây rồi. Ðột nhiên nó dừng lại. Chắc hẳn có ai đó bỏ vào hoặc lấy ra cái gì đó Ở tầng dành cho ban giám đốc.

Phản ứng trực giác của Connor là trở lại ngay phương án dự phòng, điều mà trước nay Connor chưa bao giờ phải làm. Gã biết mình không thể lảng vảng Ở đây được nữa - chỉ cần thêm vài giây nữa là sẽ có người nhìn thấy gã.

Gã cố hết sức đi thật nhanh về lại Jumbo Tron. Chiếc thang máy đã lại tiếp tục hành trình. Mấy giây sau, một chiếc khay xuất hiện, trên đó là đĩa sandwich, một lát bánh Black Forest và lon Co ca mà Amie đang đợi.

Connor quay lại chiếc cửa có ghi chữ "Nội bộ" và để mặc nó ngỏ. Gã phải huy động từng ly sức lực của mình để chạy hết đoạn đường cầu dẫn dài bẩy mươi mét, nhưng gã biết các nhân viên của Cục Tình báo bảo vệ sẽ tràn qua cái cửa đó bất cứ lúc nào.

Hai mươi tư giây sau Connor đến được thanh dầm chính đỡ màn hình vi deo. Gã bám được tay phải vào thanh dầm và treo mình Ở mép dưới cầu dẫn đúng lúc cánh cửa bật mở. Gã nép mình dưới cầu dẫn và nghe tiếng chân hai người chạy về phía mình, chạy qua rồi đứng lại trước cửa vào Jumbo Tron. Qua một cái khe trên cầu dẫn gã thấy rõ một sĩ quan dùng súng đập cửa mở ra. Không bước vào, gã lần tay tìm công tắc đèn.

Connor chờ cho đến khi đèn bật sáng và hai viên sĩ quan biến mất vào bên trong Jum bo Tron mới bắt đầu bò dọc cây dầm đài bốn mươi hai mét, lần thứ ba trong ngày. Trong lúc đó gã phải chú ý sao cho máu rỏ xuống từ vai phải rơi xuống đất dưới kia chứ không rỏ lên dầm để cho ai cũng có thể nhìn thấy.

Khi viên sĩ quan đi đầu bước vào Jumbo Tron, điều đầu tiên anh ta nhìn thấy là Arnie bị khóa tay vào chiếc dầm thép. Anh ta chậm chạp nhích đến gần Arnie, vừa nhích vừa nhìn quanh cho đến khi đến được bên cạnh bạn. Viên sĩ quan thứ hai đứng cảnh giới trong khi người kia mở còng cho Arnie và nhẹ nhàng đỡ anh ta nằm xuống sàn, sau đó lấy chiếc khăn ra khỏi miệng anh ta và xem mạch. Vẫn còn sống.

Arnie mở mắt nhìn lên trần nhà nhưng không nói gì.

Ngay lập tức viên sĩ quan đầu tiên leo lên tầng hai, trong khi người kia đứng yểm hộ. Viên sĩ quan thận trọng xem xét rất kỹ phía dưới màn hình. Một tiếng hò reo đinh tai lại dậy lên trong sân vận động khi Redskins đá vào được một quả, nhưng anh ta không hề để ý. Sau khi đã kiểm tra đến góc cuối cùng anh ta quay lại và gật đầu. Viên sĩ quan thứ hai bắt đầu trèo lên trần và cũng tiến hành một cuộc kiểm tra tương tự.

Cả hai sĩ quan quay lại tầng dưới, một lần nữa kiểm tra tất cả những chỗ có thể ẩn náu, một lúc sau họ nhận được tín hiệu qua chiếc radio hai chiều.

- Hercules 7 đâu?

- Hercules 7 đây, nói tiếp đi.

Braithwaite hỏi:

- CÓ thấy hắn ta không?

- Không có ai Ở đây ngoài Arnie bị còng vào một cái dầm, trên người chỉ còn quần áo lót. Cả hai cửa đều bị mở, Và có dấu máu dẫn ra sân, vì thế hoàn toàn có thể theo dấu hắn được. Hắn phải Ở đâu đó ngoài ấy. Hắn mắc bộ đồng phục của Arnie, vì thế có thể nhận ra ngay.

Braithwaite nói:

- Ðừng có nghĩ đến chuyện đó. Nếu hắn đúng là cái người mà tôi đang nghĩ tới thì có thể hắn đang Ở ngay trước mũi các anh đó
 
Chương 34


Nguồn: vnthuquan

Có ba người đang ngồi trong Phòng Bầu dục lắng nghe đoạn băng ghi âm. Hai người mặc dạ phục, người thứ ba mặc đồng phục.

Lawrence hỏi:

- Làm sao anh tìm được cái này?

Ðặc phái viên trực ban Braithwaite nói:

- NÓ nằm trong đống quần áo Fitzgerald bỏ lại trong Jumbo Tron. Trong túi quần jean.

Lloyd hỏi, cố tỏ ra không lo lắng:

- CÓ bao nhiêu người đã nghe được đoạn băng này?

Braithwaite đáp:

- Chỉ có ba chúng ta trong phòng này thôi, thưa ngài.

Ngay sau khi nghe thử tôi bèn liên lạc với ngài ngay.

Thậm chí tôi không báo cáo với sếp tôi nữa.

Tổng thống nói:

- Tôi rất mừng vì anh đã làm như vậy, Bill. Nhưng có bao nhiêu người chứng kiến sự việc Ở trong sân vận động?

Braithwaite nói:

- Ngoài tôi ra chỉ có năm người nữa biết có chuyện gì đã xảy ra, và ngài có thể yên tâm về họ. Bốn người trong đó là nhân viên trực tiếp dưới quyền tôi đã hơn mười năm trở lên, họ biết nhiều bí mật có thể nhấn chìm bốn Tổng thống gần đây nhất, chưa kể đến các nghị sĩ trong Quốc hội.

Lloyd đáp:

- CÓ ai trong số họ thực tế đã nhìn thấy Fitzgerald chưa?

- Không có ai, thưa ngài. Hai sĩ quan đến kiểm tra Jumbo Tron ngay sau khi sự việc xảy ra đã không hề tìm thấy bóng dáng anh ta đâu mà chỉ thấy một đống quần áo, khá nhiều máu và một nhân viên của chúng tôi bị xích tay vào một cái dầm. Sau khi nghe cuốn băng thì tôi đã ra lệnh không ai được báo cáo - dù bằng miệng hay bằng văn bản.

Tổng thống hỏi:

- Thế còn người bị buộc vào dầm thì thế nào?

- Anh ta chỉ bị mất thăng bằng một chút. Tôi đã cho anh ta nghỉ ốm một tháng.

Lloyd hỏi:

- Anh có nhắc đến một người thứ năm.

- Vâng, thưa ngài. Một nhân viên tập sự trẻ cũng có mặt Ở tháp đèn cùng với chúng tôi.

Lloyd hỏi:

- làm thế nào anh biết chắc là anh ta sẽ không nói với ai?

Braithwaite nói: - Lúc này đơn xin gia nhập Lực lượng Mật vụ của anh ta đang nằm trên bàn tôi. Tôi nghĩ rằng anh ta hy vọng , được phân công về bộ phận của tôi ngay sau khi tốt nghiệp. Tổng thống mỉm cười:

- Thế còn viên đạn?

Braithwaite đáp:

Tôi đã phải xới tung cả sân cỏ lên sau khi khán giả đã ra về hết - Anh ta lấy ra một mảnh thép mỏng và đưa cho Tổng thống xem.

Lawrence đứng dậy, quay lại đến cửa sổ nhìn ra bên ngoài. Bụi mù đang bao phủ điện Capitol. ông ta nghĩ ngợi một lúc về những điều sắp nói. Cuối cùng ông nói:

- Bill, có một điều rất quan trọng anh cần phải nhận rõ. Ðúng là trong cuốn băng đó là giọng của tôi, nhưng tôi chưa bao giờ đề nghị với bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào, về việc cần phải ám sát Zerimski hay bất cứ ai khác.

- Thưa Tổng thống, tôi chấp nhận điều đó mà không hỏi thêm một câu nào, nếu không lúc này tôi đã không Ở đây Nhưng tôi cũng phải thẳng thắn với ngài. ÐÓ là nếu có bất cứ ai trong Lực lượng Mật vụ biết rằng người Ở trong Jumbo Trơn chính là Fitzgerald thì có lẽ họ sẽ giúp để anh ta trốn thoát. Lawrence hỏi:

- Ai là người có thể gợi lên được lòng trung thành đến như vậy?

Braithwaite đáp:

- Trong thế giới của các ngài thì tôi cho rằng có Abraham Lincoln, còn trong thế giới của chúng tôi thì đó chính là Connor Fitzgerald.

- Tôi rất muốn được gặp anh ta.

- Ðiều đó thì sẽ khó đấy, thưa ngài. Thậm chí nếu anh ta còn sống thì có lẽ anh ta sẽ phải biến mất khỏi mặt đất Tôi sẽ không muốn sự nghiệp của mình phải thăng tiến nhờ việc tìm được anh ta đâu.

Lloyd đáp:

- Thưa ngài Tổng thống, ngài sẽ đến dự bữa tiệc chia tay Ở Sứ quán Nga muộn mười lăm phút đấy.

Lawrence mỉm cười và bắt tay Braithwaite:

- Ðây cũng là một người rất tốt mà tôi nên nói cho nhân dân Mỹ biết. Tôi nghĩ tối nay lại đến phiên anh trực ban.

- Vâng, thưa ngài. Tôi được phân công bảo vệ toàn bộ chuyến sang thăm của Tổng thống Zerimski.

- Bill, có lẽ tôi sẽ gặp lại anh sau. Nếu có thông tin gì về Fitzgerald nhớ cho tôi biết ngay.

Braitwaite đáp:

- Vâng, tất nhiên rồi, thưa ngài.

Anh ta quay đi để ra về.

Mấy phút sau Lawrence và Lloyđ im lặng bước ra sảnh phía nam, Ở đó đã có một đoàn chín chiếc limousine chờ sẵn. Ngay sau khi Tổng thống ngồi vào sau chiếc xe thứ sáu, ông quay lại Tham mưu trưởng hỏi:

- Andy, anh nghĩ là anh ta đang Ở đâu?

- Tôi không hề biết, thưa ngài. Nhưng nếu biết thì có lẽ tôi cũng xin gia nhập đội quân của Braithwaite và giúp anh ta trốn thoát.

- Tại sao chúng ta lại không thể có một người như vậy để làm Giám đốc CIA?

- Nếu Jackson còn sống thì chúng ta cũng có một người.

Lawrence quay lại nhìn ra ngoài cửa sổ. CÓ một cái gì đó cứ âm ỉ trong ông, ngay từ khi họ rời sân vận động đi ra, nhưng khi đoàn xe qua cổng để vào Sứ quán Nga ông vẫn không thể nghĩ ra đó là cái gì.

Lawrence hỏi khi thấy Zerimski đang đi đi lại lại bên ngoài Sứ quán:

- Sao trông ống ta có vẻ giận dữ thế nhỉ?

Lloyd liếc nhìn đồng hồ:

- Thưa ngài, ngài muộn mất mười bảy phút.

- Bạn thân mến, sau những gì chúng ta đã trải qua thì điều đó chẳng có gì là ghê gớm lắm cả.

- Thưa ngài, tôi nghĩ ngài không thể lấy cái đó làm lý do để xin lỗi được.

Ðoàn xe dừng lại ngay trước mặt Tổng thống Nga.

Lawrence bước ra và nói:

- A, Victor. Xin lỗi vì tôi đến muộn vài phút.

Zerimski không hề giấu sự không hài lòng của mình.

Sau cái bắt tay lạnh nhạt ông ta im lặng dẫn vị khách danh dự đi vào Sứ quán và vào Phòng Xanh mà không nói thêm một tiếng nào. Tới đây ông ta mới gượng gạo xin lỗi và nhét Tổng thống Hoa kỳ ngồi cạnh Ðại sứ Ai cập.

Lawrence đưa mắt nhìn quanh phòng trong khi ông Ðại sứ cố muốn làm vui lòng ông bằng cách kể về cuộc Triển lãm Nghệ thuật Ai cập vừa được khai mạc Ở Smìthsonian.

Tổng thống nói như một cái máy:

- Vâng, tối sẽ cố xem có lúc nào đi xem được không.

Ai cũng bảo là triển lãm đó thật sự tuyệt vời.

Ðại sứ Ai cập cười rạng rỡ, đúng lúc đó Tổng thống nhìn thấy người ông ta đang có ý tìm. Phải sau khi nói chuyện với ba vị Ðại sứ, hai phu nhân và tay phóng viên chính trị của tờ Pravda ông mới đến gần được Harry Nourse mà không làm ai nghi ngờ.

Vị Tổng Luật sư nói:

- Xin chào Tổng thống. Chiều nay chắc ngài hài lòng với kết quả trận đấu chứ ạ?

Lawrence nở nang cả mặt mày:

Hẳn rồi, Harry. Bất cứ lúc nào, bất cứ Ở đâu Packers cũng đều thắng Redskins. - ông ta hạ giọng - Tôi muốn gặp ông Ở văn phòng tôi vào lúc nửa đêm hôm nay. Tôi cần lời khuyên của ông về một vấn đề luật pháp.

Tổng Luật sư khẽ nói: - Vâng, tất nhiên là được ạ, thưa ngài.

Tổng thống quay sang bên phải:

- Rita, chiều nay tôi rất vui vì được Ở bên bà đấy.

Bà Cooke mỉm cười đáp lại, vừa lúc đó phía sau vang lên một tiếng cồng, rồi người quản gia xuất hiện thông báo bữa tối sắp được đem lên. Tiếng trò chuyện lắng xuống, khách khứa lục tục kéo vào phòng khiêu vũ.

Lawrence được sắp xếp ngồi giữa bà Pietrovski, vợ ngài Ðại sứ và Yuri Olgivic, người mới được bổ nhiệm làm Ðại diện thương mại.

- Chắc ngài rất hài lòng với kết quả trận đá bóng chiều nay?- VỢ Ðại sứ Nga hỏi, trong khi người ta đặt trước mặt Tổng thống một tô súp củ cải đỏ.

Lawrence nói:

- Hẳn rồi. Nhưng tôi nghĩ là hầu hết mọi người có mặt trên sân không đồng cảm với tôi về chuyện ấy đấy, Olga ạ.

Bà Pietrovski cười.

Lawrence cầm thìa ăn súp lên, hỏi:

- Bà có theo dõi được toàn bộ diễn biến trên sân không?

Bà ta đáp:

- Không hẳn. Nhưng tôi rất may mắn được ngồi bên cạnh ngài Phó Washer. ông ấy không nề hà gì và trả lời cả những câu hỏi đơn giản nhất của tôi.

Tổng thống đặt thìa xuống mặc dầu chưa nhấp môi tị nào ông nhìn sang bên kia phòng nơi Andy Lloyd ngồi và đưa tay lên gãi cằm- một cử chỉ ông thường dùng khi muốn gặp Tham mưu trưởng của mình gấp.

Lloyd lẩm bẩm câu gì đó với người phụ nữ ngồi bên cạnh rồi gấp khăn ăn lại đặt lên bàn và bước đến bên cảnh Tổng thống của mình.

Lawrence thì thầm:

- Tìm ngay Braithwaite cho tôi. Tôi nghĩ là mình biết cách tìm ra Fitzgerald rồi.

Lloyd không nói thêm lời nào đi ngay ra khỏi phòng, trong khi đó người ta dọn bát súp củ cải đỏ của Tổng thống đi.

Lawrence cố tập trung vào những điều Phu nhân Ðại sứ đang nói nhưng ông không thể xua những ý nghĩ về Fitzgerald ra khỏi đầu. Hình như bà ta nói là khi nào chồng bà nghỉ hưu thì bà ta sẽ rất nhớ nước Mỹ.

Tổng thống hỏi nhưng chẳng mấy quan tâm đến câu trả lời của bà ta:

Thế bao giờ thì ông nhà nghỉ hưu?

Phu nhân Pietrovski đáp:

- Mười tám tháng nữa.

Một người phục vụ đặt đĩa thịt bò nguội xuống trước mặt Tổng thống. ông tiếp tục nói chuyện trong khi người ta tiếp cho ông một ít rau, một lúc sau một người khác lại tiếp cho ông khoai tây. ông vừa cầm lại dao và dĩa lên thì vừa lúc Andy Lloyd trở lại trong phòng. Một lúc sau ông ta đã đến bên cạnh Tổng thống.

Brathwaite đang chờ ngài Ở sau chiếc "Stagecoach".

Lawrence bắt đầu gấp khăn ăn lại, Phu nhân Pietrovski nói:

- Tôi mong là không có chuyện gì nghiêm trọng lắm.

Lawrence an ủi:

- Olga, không có chuyện gì đâu. Bọn họ không tìm thấy bài nói chuyện của tôi đâu cả. Nhưng bà đừng lo, tôi nhớ rõ là tôi để nó Ở đâu mà.

ông ta đứng dậy, trong lúc ông ta đi ra khỏi phòng, Zerimski theo dõi đến từng bước chân.

Lawrence bước ra khỏi phòng khiêu vũ, đi xuống chiếc cầu thang gỗ, ra khỏi cửa Sứ quán và chạy vài bước để chui vào ghế sau chiếc xe thứ sáu.

Lloyd và người lái xe đứng bên cạnh chiếc limousine, mười hai nhân viên lực lượng bảo vệ bí mật khác bao quanh và kiểm tra tất cả các hướng.

- Bill, nếu như Fitzgerald vẫn còn Ở trong sân vận động thì có một người sẽ biết anh ta có thể trốn Ở đâu.

Hãy đi tìm Washer Mặt khỉ, và tôi cuộc là anh sẽ tìm ra Fitzgerald.

Mấy phút sau Tổng thống mở cửa xe. ông nói:

- OK, Andy, chúng ta trở lại ngay kẻo bọn họ biết được chúng ta đang nhằm tới cái gì mất.

Lloyd vừa đuổi theo Tổng thống trên cầu thang vừa hỏi:

- Nhưng chúng ta đang nhằm tới cái gì kia chứ?

Lawrence vừa bước vội vào phòng vừa nói:

- Tôi sẽ nói cho anh biết sau.

Lloyd nói:

- Nhưng, thưa ngài, ngài vẫn cần...

Không phải bây giờ - Lawrence nói và ngồi xuống bên cạnh Phu nhân Ðại sứ, mỉm cười xin lỗi.

Bà ta hỏi:

- Ngài có tìm thấy không?

- Tìm thấy cái gì?

Phu nhân Pietrovski nói:

- Bài phát biểu của ngài ấy mà - Vừa lúc đó Lloyd đặt xuống bên cạnh họ một cặp tài liệu.

Lawrence vỗ lên cái cặp, nói:

- Dĩ nhiên là có chứ. À này, Olga, con gái bà thế nào?

Natasha, có phải không nhỉ? Cháu nó vẫn học Fra Angelico Ở Fiorence chứ? - ông ta cầm dao và dĩa lên.

Tổng thống liếc nhìn Zerimski trong khi một người phục vụ đến bên cạnh để dọn đĩa của ông đi. ông lại đặt dao và dĩa xuống, lấy một lát bánh mì phết bơ và tìm hiểu xem Natasha Pietrovski đã đạt được những gì trong năm học đầu tiên Ở Florence. ông không thể không nhận thấy Tổng thống Nga có vẻ lo lắng, hầu như bất an khi gần đến giờ ông ta phải đọc diễn văn. Ngay lập tức ông nghĩ rằng Zerimski sẽ cho nổ một quả bom bất ngờ nữa.

Ý nghĩ đó khiến ông từ chối món bánh dâu rán phồng.

Cuối cùng Zenmski đứng dậy để phát biểu với khách khứa.

- Cho phép tôi kết thúc bằng lời cảm ơn nhân dân Mỹ vì lòng hiếu khách và sự đón tiếp nồng nhiệt mà tôi đã được nhận Ở tất cả những nơi tôi đã đến trong chuyến đi thăm đất nước vĩ đại của các bạn, nhất là của Tổng thống của các bạn, ngài Tom Lawrence.

Tràng vỗ tay hoan nghênh những lời này to và kéo dài quá khiến cho Lawrence ngẩng lên. Một lần nữa Zerimski đứng bất động. ông ta chờ cho đến khi tràng vỗ tay lắng xuống mới ngồi xuống. Trông ông ta rất không vui khiến Lawrence cảm thấy ngạc nhiên, bởi vì bài phát biểu được hoan nghênh nhiều hơn là nó đáng được nhận.

Lawrence đứng dậy để đáp lại. Bài đáp từ của ông được tiếp nhận một cách thích thú, nhưng không thể nói là nồng nhiệt. ông kết luận:

- Victor, cho phép tôi hy vọng rằng đây sẽ là chuyến sang thăm đầu tiên trong rất nhiều chuyến ngài sẽ sang thăm nước Mỹ. Thay mặt cho tất cả các vị khách có mặt Ở đây, tôi chúc ngài một chuyến bay may mắn vào ngày mai. Lawrence hơi ân hận là hai lời nói dối trong một câu thì hơi quá nhiều, ngay cả đối với một chính khách và nghĩ rằng giá mình đọc qua để sửa đi một chút trước khi đọc thì hơn. ông ngồi xuống trong khi tràng vỗ tay rộ lên, nhưng lần này không thể so với sự hoan nghênh mà Zerimski đã nhận được sau những lời cũng nhạt nhẽo chẳng kém.

Sau khi mọi người uống cà phê xong, Zerimski đứng dậy và bước về phía hai cánh cửa lớn cuối phòng. ông ta nói: "Chúc các bạn ngủ ngon" bằng một giọng không thể lầm lẫn được là ông ta muốn tất cả các vị khách cuốn xéo đi càng sớm càng tốt.

Mấy phút sau khi chuông của tất nhiều chiếc đồng hồ trong Sứ quán điểm mười tiếng. Lawlence đứng dậy và thong thả bước về phía vị chủ nhà- Nhưng cũng giống như Caesar trong điện Capitol. ông luôn luôn bị chặn lại bởi rất nhiều công dân muốn chạm vào gấu áo của vị hoàng đế. Cuối cùng khi ông ra được đến cửa. Zerimski chỉ gật đầu nhanh với ông rồi tiễn ông đi xuống cầu thang. Bởi vì Zenmski không nói năng gì cho nên Lawrence nhìn khá lâu vào bức tượng Christ trên cây Thập tự của Nzizvestni vẫn còn Ở nguyên chỗ cũ của nó trên chiếu nghỉ tầng một. Xuống đến bậc cuối cùng ông quay lại để vẫy chào chủ nhà. nhưng Zenmki đã biến mất vào trong Sứ quán. Nếu như ông ta chịu phiền hà mà tiễn Lawrence ra đến cổng thì sẽ thấy viên sĩ quan chỉ huy của Lực lượng Mật vụ đã chờ sẵn trong xe khi Lawrence chui vào ghế sau của chiếc limousine.

Braithwate chờ đến khi cửa đóng hẳn mới lên tiếng.

Ngài nói rất đúng - Anh ta nói trong khi xe qua cổng Sứ quán.

Người đầu tiên Zerimski nhìn thấy khi quay trở vào trong Sứ quán là Ðại sứ. Quý Ngài nở nụ cười hy vọng.

- Romanov có còn trong nhà này không? - Zenmski quát hỏi, không thể giấu nỗi tức giận thêm một giây nào nữa.

viên Ðại sứ vừa đáp vừa đuổi theo ông chủ:

- Còn, thưa ngài. Anh ta ở...

- Ðem hắn đến gặp tôi ngay.

Tôi sẽ tìm ngài Ở đâu ạ?

- Ở cái nơi vẫn là phòng làm việc của anh ấy.

Pietrovski quày quả đi về hướng ngược lại.

Zerimski sải bước dọc hành lang dài lát đá cẩm thạch, không hề dừng lại trong khi đẩy cửa phòng làm việc của Ðại sứ cứ như đấm cửa đánh sầm một cái. Vật đầu tiên ông ta nhìn thấy là khẩu súng trường vẫn còn nằm trên bàn. ông ta ngồi phịch xuống chiếc ghế da to tướng mà thường khi Ðại sứ vẫn ngồi.

Trong khi sốt ruột chờ đợi ông ta ngắm nghía khẩu súng trường kỹ hơn. ông ta nhìn thấy viên đạn duy nhất vẫn còn nằm trong ổ. Nâng nó lên vai, ông ta thấy nó thăng bằng một cách tuyệt vời và lần đầu tiên ông ta mới hiểu vì sao Fitzgerald đã phải cất công bay xuống tận cuối nước Mỹ để tìm cho được khẩu thứ hai giống hệt như vậy.

Và đó cũng là khi ông ta nhận thấy kim điểm hỏa đã được để lại vào chỗ cũ.

Zerimski nghe rõ tiếng hai người vội vã đi dọc hành lang lát đá cẩm thạch. Ðúng lúc họ bước vào phòng thì ông để khẩu súng xuống bàn.

Hai người đi như chạy vào phòng. Zerimski không hề kiểu cách chỉ và hai cái ghế đối diện. Romanov chưa kịp ngồi xuống ông đã hỏi:

- Fitzgerald đâu? Chính trong cái phòng này anh đã cam đoan với tôi là đúng bốn giờ chiều hắn sẽ có mặt Ở đây Anh đã huênh hoang là "Không thể có điều gì sơ sót được cả Hắn đã đồng ý với kế hoạch của tôi". Chính xác từng lời anh đã nói đấy.

Romanov nói:

- Chúng tôi đã thỏa thuận như vậy lúc tôi nói chuyện với hắn, sau nửa đêm một lát, thưa Tổng thống.

Zerimski hỏi:

- Vậy thì từ nửa đêm đến bốn giờ có chuyện gì đã xảy ra.

Sáng nay lúc người của tôi đi kèm hắn vào trung tâm thành phố, tên lái xe buộc phải dừng lại vì đèn đỏ.

Fitzgerald đã nhảy ra khỏi xe, chạy sang bên kia đường và nhảy vào một chiếc taxi đang đi qua. Chúng tôi đã đuổi theo chiếc taxi đó đến tận sân bay Dulles và đến tận đó mới biết là hắn không có Ở trong xe.

zerimski nói:

Thực tế là anh đã để cho hắn trốn thoát. Theo tôi hiểu thì Mafya các anh có một luật lệ cho những ai không thi hành hợp đồng
 
Chương 35


Nguồn: vnthuquan

Tuyết rơi dày và làm thành một tấm thảm trắng muốt quanh bánh máy bay khi Zerimski bước lên cầu thang chiếc máy bay Ilyushin 62.

Tom Lawrence đứng trên sân băng, mặc một chiếc áo khoác có mũ dày màu đen. Một người đứng bên cạnh giơ Ô che cho ông.

Zerimski biến mất vào trong máy bay, thậm chí chẳng buồn quay lại để vẫy tay chào theo truyền thống trước các ống kính. Mọi ý kiến cho rằng đây là thời điểm thích hợp trong năm để dành cho những thiện chí rõ ràng đều đã bị rơi sạch trước ông ta.

Văn phòng Nhà nước đã ra thông báo báo chí. Bản thông báo nói về sự thành công trong chuyến đi thăm bốn ngày của Tổng thống Nga, những bước tiến quan trọng giữa hai nước, và hy vọng Ở sự hợp tác trong tương lai. Lary Hanington đã dùng từ "rất có ích và có tính xây dựng" trong cuộc họp báo sáng nay, và sau một hồi suy nghĩ ông ta còn dùng thêm từ " Một bước tiến".

Ngay sau khi cánh cửa xám đóng sầm lại chiếc llyushin bắt đầu lăn bánh.

Lawrence là người đầu tiên quay lưng lại với chiếc máy bay đang cất cánh- ông đi nhanh tới chiếc trực thăng đang chờ mình. Ở đó ông đã thấy Andy Lloyđ đang cầm chiếc điện thoại áp vào tai. Ngay khi cánh quạt bắt đầu quay Lloyd nhanh chóng kết thúc cú điện thoại Chiếc Man ne Một cất cánh, ông ta ngả người sang báo cáo với Tổng thống về kết quả cuộc phẫu thuật cấp cứu vừa được tiến hành sáng nay tại Bệnh viện Walter Reed- Lawrence gật đầu trong khi nghe Tham mưu trưởng báo cáo về những việc mà Blaitwaite đề nghị nên làm- ông nói:

- Tôi sẽ trực tiếp gọi điện cho bà Fitzgerald.

Trên đoạn đường ngắn ngủi còn lại hai người ngồi chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sắp tới trong Phòng Bầu dục.

Chiếc máy bay trực thăng đỗ xuống bãi cỏ phía nam, và trong khi đi về phía Nhà Trắng cả hai người không ai nói thêm một lời nào- Thư ký riêng của Lawrence đã lo lắng đứng chờ trước cửa.

- Chào cô. Rinh - Tổng thống chào lần thứ ba trong ngày. cả hai người hầu như thức trắng suốt đêm qua.

Lúc nửa đêm qua Tổng Luật sư đã tới và nói với Ruth Prestou là ông được triệu đến để gặp Tổng thống. Cuộc gặp không có trong lịch. Lúc hai giờ sáng, Tổng thống, Lloyd và Tổng luật sư đã tới Bệnh viện Walter Reed - nhưng một lần nữa chuyến đi thăm đó không hề được nhắc đến trong lịch hay nhắc đến tên người bệnh mà họ đến thăm. Một giờ sau họ lại trở về Phòng Bầu dục và ngồi Ở đó thêm chín mươi phút nữa, Tổng thống đã ra lệnh là không ai được quấy rầy. Tám giờ mười sáng hôm sau Ruth quay lại Nhà Trắng thì Tổng thống đã trên đường tới căn cứ Không quân Andrew để chào từ biệt Zerimski.

Mặc dầu ông đã thay bộ quần áo khác cùng với chiếc cà vạt khác so với lúc Ruth ra về, nhưng chị tự hỏi không hiểu có phải ông chủ không hề ngả lưng chút nào không.

Tổng thống hỏi, mặc dù đã biết thừa:

- Sau đây tôi có việc gì, Ruth?

Những người mà ngài hẹn gặp lúc mười giờ sáng đã đến đây và chờ Ở sảnh bốn mươi phút rồi ạ.

- HỌ đến rồi à? Vậy thì chị hãy đưa họ vào đi.

Tổng thống đi vào Phòng Bầu dục, mở một ngăn kéo và lấy ra hai tờ giấy cùng với một cuộn băng cassette.

ông đặt hai tờ giấy xuống dưới cái bàn thấm trước mặt và ấn chiếc băng cassette vào chiếc máy trên bàn. Andy Lloyd cũng vừa từ phòng làm việc của mình sang, tay cắp hai cặp hồ sơ. ông ngồi xuống chiếc ghế thường lệ bên cạnh Tổng thống.

Lawrence hỏi:

- Anh có mang theo bản khai không?

Lloyd đáp:

Có, thưa ngài.

CÓ tiếng gõ cửa. Ruth ra mở cửa và thông báo:

Giám đốc và Phó Giám đốc CIA.

Helen Dexter bước vào, tay cũng cắp một tập hồ sơ.

Mụ chào:

- Xin chào, ngài Tổng thống.

Lawrence không đáp lại câu chào của mụ.

Dexter ngồi xuống một cái ghế trống đối diện với Tổng thống và nói tiếp:

- Ngài sẽ cảm thấy yên tâm khi biết rằng lúc này tôi đã có thể giải quyết xong vấn đề mà tôi cứ sợ là nó sẽ xảy ra trong thời gian Tổng thống Nga Ở thăm nước ta.

Thực tế chúng tôi hoàn toàn có lý do để tin rằng kẻ bị tình nghi không còn là mối nguy cho đất nước nữa.

Lawrence hỏi:

- Liệu đó có phải là cái người mà cách đây vài tuần tôi đã gọi điện và nói chuyện với không?

Dexter nói:

- Thưa Tổng thống. tôi e là tôi chưa hiểu rõ ngài định nói gì.

Lawrence nói:

- Vậy tôi xin phép được làm vui lòng bà.

ông ta bấm nút "Play" trên chiếc máy ghi âm.

"Tôi cảm thấy phải gọi cho ông và nói cho ông biết rằng tôi đánh giá nhiệm vụ này quan trọng đến thế nào.

Bởi vì tôi tin rằng anh chính là người tốt nhất để thi hành nhiệm vụ đó. Vì thế tôi hy vọng là anh sẽ nhận lấy trách nhiệm".

" Thưa Tổng thống, rất cám ơn ngài đã tin tưởng tôi, và tôi rất mừng là ngài đã bỏ thì giờ để đích thân gọi điện cho tôi".

Lawrence bấm nút " stop", nói:

- Hẳn là bà có thể giải thích rất đơn giản vì sao lại có cuộc nói chuyện này, và nó đã xảy ra Ở đâu chứ?

- Thưa Tổng thống! e là tôi chưa hoàn toàn hiểu ý ngài. Cục không bao giờ chen vào những cuộc nói chuyện riêng tư của ngài.

Tổng thống nói:

- Ðiều đó có thể là sự thật. mà cũng có thể không.

Nhưng bà thừa biết rằng cuộc nói chuyện đó hoàn toàn không diễn ra trong phòng này.

- CÓ phải ngài đang buộc tội Cục...?

Tôi chẳng buộc tội Cục về bất cứ việc gì cả. Người bị buộc tội là cá nhân bà kia.

- Ngài Tổng thống, nếu như ngài định đùa...

- Trông tôi có vẻ như đang cười à? - Tổng thống nói rồi bấm nút " Play" một lần nữa.

Tôi nghĩ trong hoàn cảnh này ít nhất tôi cũng có thể làm được điều đó ".

"Cám ơn ngài, thưa Tổng thống. Mặc dầu ông Gutenburg cam đoan với tôi là ngài có tham dự vào kế hoạch này, và chính bản thân bà Giám đốc sau đó cũng gọi điện cho tôi để khẳng định điều đó, nhưng như ngài đã biết đó , tôi vẫn cảm thấy không thể thi hành nhiệm vụ nếu không biết chắc chắn là mệnh lệnh do chính ngài đưa ra".

Tổng thống lại cúi tới và bấm nút "stop".

- Còn nữa, nếu bà muốn nghe tiếp.

Dexter nói:

- Tôi có thể cam đoan với ngài rằng nhiệm vụ mà kẻ bị tình nghi đó nhắc tới hoàn toàn chỉ là một nhiệm vụ thông thường hàng ngày.

Lawrence không tin Ở tai mình:

- Vậy có phải bà đang yêu cầu tôi tin rằng vụ ám sát Tổng thống Nga do CIA tiến hành đó hoàn toàn chỉ là một nhiệm vụ thông thường hàng ngày?

Dexter đáp sẵng:

Chúng tôi không hề có ý định giết Zerimski.

Tổng thống vặn lại:

- Chỉ có kẻ vô tội đó bị treo cổ thôi chứ gì.

Im lặng hồi lâu, cuối cùng ông ta nói tiếp:

- Và do đó loại bỏ mọi chứng cứ chứng tỏ rằng bà cũng chính là người đã ra lệnh ám sát Ricardo Guzman Ở Colombia.

- Ngài Tổng thống, tôi có thể cam đoan với ngài rằng CIA không hề làm gì...

Lawrence nói:

- ÐÓ không phải là điều Connor Fitzgerald đã nói với chúng tôi sáng nay.

Dexter im lặng.

CÓ lẽ bà cũng muốn xem qua bản khai mà anh ta đã ký trước sự chứng kiến của Tổng Luật sư?

Andy Lloyd mở cặp tài liệu thứ nhất và đưa cho Dexter và Gutenburg bản coppy lời khai do Connor Fitzgerald ký và Tổng Luật sư làm chứng. Trong khi cả hai bắt đầu đọc, Tổng thống không thể không nhận thấy Gutenburg bắt đầu toát mồ hôi.

Theo sự cố vấn của Tổng Luật sư, tôi có quyền ra lệnh bắt giữ hai người vì tội phản nghịch. Nếu người ta kết luận hai người có tội thì tôi được biết là chỉ có thể có một mức án duy nhất mà thôi.

Dexter vẫn mím chặt môi. Phó Giám đốc của mụ bây giờ run lẩy bẩy. Lawrence quay sang hắn ta:

- Nick, dĩ nhiên có thể là anh không hề hay biết gì về việc Giám đốc của anh không có quyền ra một lệnh như vậy Gutenburg bật lên:

- Ðúng như vậy, thưa Tổng thống. Thực tế bà ta làm cho tôi tin rằng lệnh ám sát Guzman là do chính Nhà Trắng đưa ra.

Tổng thống nói:

- Nick, tôi nghĩ rằng anh sẽ nói như vậy. Và nếu như anh cảm thấy có thể ký vào tờ giấy - ông đẩy một tờ giấy về phía hắn - thì Tổng Luật sư có cho tôi biết rằng bản án tử hình có thể giảm xuống thành chung thân.

Dexter ra lệnh:

- Dù thế nào cũng không được ký vào đó.

Gutenburg lưỡng lự một lúc rồi rút bút ra và ký tên mình giữa hai dấu chữ thập đánh bằng bút chì bên dưới đơn từ chức Phó Giám đốc CIA, có hiệu lực từ chín giờ sáng ngày hôm đó.

Dexter nhìn hắn với vẻ khinh miệt không che giấu:

Nếu anh từ chối không từ chức thì bọn họ chẳng dám làm gì đâu. Ðàn ông thật là cái đồ không xương sống.

Tổng thống đẩy một tờ giấy thứ hai về phía Dexter, Mụ cúi xuống liếc đọc lá đơn của chính mình xin từ chức Giám đốc CIA, cũng có hiệu lực từ chín giờ sáng cùng ngày. Mụ ngước nhìn Lawrence và nói:

Tôi sẽ chẳng ký bất cứ cái gì đâu, thưa Tổng thống.

Ngài cần phải hiểu rằng chẳng dễ làm cho tôi khiếp sợ đâu.

Lawrence nói:

- Tốt thôi, Helen, nếu bà cảm thấy không thể có hành động tự trọng như Nich thì khi ra khỏi phòng này bà sẽ thấy hai nhân viên Mật vụ chờ Ở cửa, họ đã được lệnh bắt giữ bà.

Dexter đứng lên, nói:

- Lawrence, ông không dọa được tôi đâu.

Mụ bắt đầu đi về phía cửa, bỏ mặc tờ đơn xin từ chức không ký trên bàn. Lloyd nói:

- ông Gutenburg, tôi nghĩ rằng tù chung thân và không có hy vọng được ân xá là một cái giá quá cao trong hoàn cảnh này. Nhất là khi ông bị gạt, và không hề biết người ta đang làm chuyện gì.

Gutenburg gật đầu trong khi Dexter ra tới cửa.

- Tôi cũng có nghĩ tới một cái án sáu năm, có lẽ bảy năm là nhiều nhất sẽ thích hợp hơn trong trường hợp của ông. Và với một chút giúp đỡ của Nhà Trắng thì ông sẽ chỉ phải ngồi tù ba hoặc bốn năm là cùng.

Dexter đứng sững lại.

Nhưng dĩ nhiên là với điều kiện ông đồng ý...

Gutenburg la lên:

- Tôi đồng ý với bất cứ điều gì.

-. đồng ý tuyên thệ thay mặt bên nguyên.

Gutenbulg lại gật đầu, và Lloyd lấy ra từ cái cặp tài liệu đang nằm trên bàn một bản tuyên thệ khai dài hai trang. Viên Phó Giám đốc CIA chỉ mất mấy phút đọc bản khai trước khi nguệch ngoạc ký tên vào dưới trang thứ hai.

Mụ Giám đốc đặt một tay lên quả đấm cửa, lưỡng lự một lúc rồi quay lại và chậm chạp bước lại về phía bàn.

Mụ khinh miệt nhìn viên Phó Giám đốc của mình một lần cuối cùng rồi cầm bút lên, nguệch ngoạc ký tên giữa hai dấu chữ thập đánh bằng bút chì.

Mụ nói:

- Gutenburg anh thật là ngốc. Bọn họ sẽ chẳng bao giờ dám liều đưa Fitzgerald ra tòa đâu. Bất cứ đoàn hội thẩm nào cũng sẽ có quá nửa số người muốn băm nhỏ hắn ta ra. Và không có Fitzgerald thì bọn họ chẳng có vụ án nào sất. Tôi tin là Tổng Luật sư đã giải thích rõ cho họ điều đó.

Mụ quay lại và ra khỏi phòng.

Lawrence thu ba tờ giấy lại và đưa nó cho Lloyd, nói:

- Helen hoàn toàn đúng. Nếu vụ việc được đưa ra tòa thì chúng tôi không bao giờ đưa Fitzgerald ra được.

Dexter đứng sững lại bên cửa một lần nữa. Chữ ký của mụ còn chưa ráo mực.

Tổng thống nói:

- Tôi rất buồn phải thông báo cho hai người biết là Connor Fitzgerald đã chết vào lúc bảy giờ ba mươi phút sáng nay
 
Chương 36


Nguồn: vnthuquan

Ðoàn người chậm chạp đi lên đỉnh đồi.

Nghĩa trang quốc gia Arl1ngton đã mở cửa cho một người chưa bao giờ được nhìn nhận là có một sự nghiệp phục vụ quần chúng. Tổng thống Hoa kỳ đứng một bên mộ, bên cạnh ông là Tham mưu trưởng Nhà Trắng và Tổng Luật sư. Ðối diện với họ là một phụ nữ không hề ngẩng đầu lên trong suốt bốn mươi phút qua. Bên cạnh chị là cô con gái, bên trái chị là con rể.

Hai ngày trước cả ba đã bay từ Sydney sang sau khi nhận được điện thoại của chính Tổng thống gọi sang.

Ðám tang đông nghịt khiến Maggie Fitzgerald hiểu rằng Connor để lại trên đời biết bao bạn bè và người ngưỡng mộ.

Hôm qua, trong một cuộc gặp gỡ Ở Nhà Trắng Tom Lawrence đã nói với người góa phụ rằng những lời cuối cùng của Connor là nói lên tình yêu đối vợi vợ và con gái. Tổng thống nói rằng mặc dù ông mới chỉ gặp chồng chị một lần trong đời nhưng ông sẽ nhớ mãi anh. Tara viết vào nhật ký hôm đó: đó là những lời của một người mỗi ngày gặp gỡ với hàng trăm người.

Phía sau Tổng thống vài bước là Giám đốc mới được bổ nhiệm của CIA. và một nhóm đàn ông đàn bà, những người hôm đó không hề muốn làm việc. HỌ đã đi từ bốn phía trái đất đến đây.

Một người đàn ông cao, to lớn trên đầu chẳng có một sợi tóc nào đứng trong đám đông đang than khóc. ông khóc thổn thức không sao cầm lại được. Không ai có mặt Ở đây có thể tin rằng những tên gangster hung ác nhất Nam Phi đều vô cùng mừng rỡ khi biết Karl Koeter đi ra khỏi đất nước, dù chỉ là vài ngày.

Ðại diện của FBI và của Mật vụ cũng có mặt trong đám tang. Ðặc phái viên Wili1am Braithwate đứng đầu một nhóm mười hai tay thiện xạ, tất cả mọi người trong bọn họ đều sẵn sàng cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình để trở thành người nối bước Connor Fitzgerald.

Khắp ngọn đồi đông nghịt những người đủ loại, từ họ hàng thân thích Ở Chicago, những học giả Ở Georgetown, những người chơi bài bridges, các vũ công Insh, các nhà thơ và đủ mọi người trên mọi ngả đời. HỌ đứng cúi đầu tưởng nhớ một người mà họ từng yêu mến và kính trọng.

Ðoàn người dừng lại cách huyệt vài mét. Tám lính gác danh dự nâng quan tài từ xe kéo pháo xuống, đặt lên vai và bắt đầu chậm rãi bước về phía huyệt. Quan tài được phủ lá cờ Mỹ, và trên đó là dải băng sĩ quan của Connor. Tấm Huân chương Danh dự cài Ở giữa. Khi những người khiêng quan tài đến bên huyệt họ nhẹ nhàng hạ xuống đất và đứng vào đám người đang than khóc.

Cha Graham, linh mục của gia đình Fitzgerald trong hơn ba mươi năm giơ tay lên. ông bắt đầu nói:

- Thưa các bạn, các linh mục thường được mời tới để hát những lời ca ngợi các đạo hữu vừa qua đời, những người đã được xá tội và nhiều người thường chẳng có nhiều thành tích. Nhưng với Connor Fitzgerald thì không phải như vậy. Khi còn là sinh viên, anh được mọi người nhớ đến như một tiền vệ xuất sắc nhất mà Trường Ðại học Tổng hợp Notre Ðame từng sản sinh ra. Là một người lính, không lời miêu tả nào của tôi có thể sánh với những lời ca ngợi mà người chỉ huy dũng cảm của anh đã viết về anh: "Một sĩ quan không hề biết sợ khi đối mặt với kẻ thù, một người luôn coi tính mạng của người khác là cao hơn tính mạng của chính mình". Là một chuyên gia, anh đã cống hiến gần ba mươi năm đời mình để phục vụ tổ quốc, nhìn ra xung quanh anh chỉ gặp những ánh mắt thán phục. Nhưng hơn tất cả, là một người chồng đối với Maggie và một người cha đối với Tara, chúng ta sẽ mãi mãi nhớ anh.

Cha Graham hạ giọng:

- Tôi may mắn được kể là một người bạn của anh. Tôi vân chờ đến ngày được chơi với anh vài ván bridge trong những ngày nghỉ lễ Giáng sinh, thậm chí tôi còn mơ gỡ được mười đô la đã thua trong ván bài chúng tôi chơi với nhau ngay trước ngày anh ra đi làm nhiệm vụ lần cuối cùng. Lạy Chúa, tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ tôi có chỉ để được thua anh một ván nữa.

Một vận động viên, một người lính, một chuyên gia, một người yêu, một người cha, một người bạn và đối với tôi - một người anh hùng, mặc dầu tôi chưa bao giờ dám nhắc tới điều đó trước mặt anh, đơn giản chỉ vì anh sẽ cười tôi mà thôi.

Connor, anh sẽ được chôn cất gần một người anh hùng khác của nước Mỹ - Vị cha cố già ngẩng đầu lên- Nếu tôi là John Fitzgerald Kennedy, tôi cũng sẽ cảm thấy tự hào được chôn cất trong cùng một nghĩa trang với Connor Fitzgerald.

Những người khiêng quan tài bước tới một bước và hạ quan tài xuống huyệt. Cha Graham làm dấu thánh giá rồi cúi xuống bốc một nắm đất rải lên trên quan tài.

- Cát bụi lại trở về cát bụi - Vị linh mục thì thầm.

Người lính danh dự gấp lá cờ phủ trên quan tài cho đến khi còn lại một tam giác trên tay người học viên sĩ quan trẻ nhất - cũng giống như Connor, cậu học viên sinh trưởng Ở Chicago. Thông thường cậu học viên sĩ quan sẽ đưa nó cho người vợ góa và nói: "Thưa bà, xin thay mặt Tổng thống Hoa kỳ trao lại cho bà". Nhưng hôm nay không thế. Hôm nay cậu đi về phía ngược lại. Bảy Lính thuỷ đánh bộ nâng súng bắn hai mươi mốt phát đạn tiễn biệt trong khi cậu học viên sĩ quan trẻ đứng nghiêm trước mặt Tổng thống Hoa kỳ và đưa cho ông lá cờ.

Tom Lawrence nhận lá cờ và chậm rãi bước tới bên kia mộ và đứng trước người vợ góa. Maggie ngẩng đầu lên và cố mỉm cười khi Tổng thống đưa cho chị biểu tượng của tổ quốc.

- Thay mặt tổ quốc, tôi xin trao cho bà lá cờ Cộng hòa. Bà đang đứng giữa những người bạn biết rất rõ chồng bà. Tôi chỉ ước ao mình cũng được đặc ân như vậy.

Tổng thống cúi đầu rồi quay về chỗ cũ. Trong khi dàn nhạc Lính thuỷ đánh bộ cử hành quốc ca, ông đặt tay lên ngực, chỗ trái tim.

Tất cả mọi người đứng yên không động đậy cho đến khi Stuan và Tara đưa Maggie ra cổng nghĩa trang. Chị đứng đó gần một giờ, bắt tay tất cả những người đến dự buổi lễ.

CÓ hai người nữa đứng trên đỉnh đồi suốt từ nãy đến giờ. Chúng vừa bay từ Nga sang hôm qua. Chúng chẳng hề đến để tưởng nhớ Connor. Chúng sẽ trở về St.

Petersburg bằng chuyến bay tối nay và báo cáo là không cần phải thực hiện nhiệm vụ nữa.
 
Chương 37


Nguồn: vnthuquan

Các xe tăng vây quanh chiếc “Air Force Một” khi Tổng thống Hoa kỳ hạ cánh xuống sân bay Moscom.

RÕ ràng Tổng thống Zerimski không quan tâm đến việc để cho Tom Lawence có dịp chụp bức ảnh truyền thống trên đất trước ông ta. Càng chẳng có bài diễn văn "chào mừng các vị khách đã đến nước Nga" nào được đọc trên diễn đàn dựng tại sân bay. Sáng nay khi hai Tổng tống gặp gỡ nhau Ở điện Kremli, điểm đầu bên trong chương trình nghị sự của Tổng tống Zerimski là yêu cầu lực lượng NATO đang đóng Ở biên giới phía tây nước Nga rút quân ngay lập tức. Sau thất bại nặng nề của Dự luật Cất giảm Vũ khí Nguyên tử, Sinh học, Hóa học và Xuyên lục địa, cùng với việc Ucraine đề nghị thành lập lại Liên xô, Tổng thống Lawrence đã biết rõ ràng ông sẽ chẳng còn chỗ đứng nào trong NATO nữa, nhất là khi Thượng nghị sĩ mới được bầu Helen Dexter liên tục chỉ trích ông là "Tên bù nhìn của bọn đỏ".

sau khi Thượng nghị sĩ Dexter từ chức giám đốc CIA năm ngoái, "nhằm tỏ thái độ chống đối rõ ràng hơn đối với sai lầm của Tổng thống trong chính sách ngoại giao", người ta đã bắt đầu nói đến khả năng bà ta sẽ trở thành nữ Tổng thống Mỹ đầu tiên.

Trong cuộc nói chuyện hôm nay Ở Kremli, Tổng thống Zerimski không hề tỏ thái độ...

Stuart rời mắt khỏi trang nhất tờ Sydney Morning Herald khi Maggie bước vào bếp, trên người mặc quần jean và áo len dài tay. Sáu tháng qua họ đã Ở chung với nhau và chưa bao giờ anh nhìn thấy chị có một sợi tóc rối trên đầu.

Chị nói:

- Chào con, Stuart. Báo có gì đáng chú ý không?

Stuart đáp:

- Zerimski vẫn không thèm động đậy một tí nào. Còn Tổng thống của mẹ thì vẫn dũng cảm đương đầu với chuyện đó, ít ra thì đó cũng là lời bình luận của tờ Herald.

Maggie nói:

- Sáng thứ Bảy mà con không có tin gì sáng sủa hơn cho mẹ sao?

Thủ tướng đã thông báo ngày bầu cử Tổng thống đầu tiên.

Maggíe vừa đổ đầy một bát bánh ngô vừa nói:

- Ở đất nước này mọi người chậm quá. Bên nước mẹ người ta đã gạt bỏ người Anh được hơn một trăm năm rồi.

- Sẽ không lâu hơn nữa đâu - Stuart cười to và nói trong khi vợ anh bước vào bếp.

Tara nói vẻ ngái ngủ:

- Chào mẹ, chào anh.

Maggie bỏ thìa xuống và hôn lên má con gái.

- Con ngồi xuống kia, ăn bát bánh ngô này đi. Trong khi đó mẹ sẽ làm cho con một quả trứng ốp lết. Con thật sự đã...

Tara nói:

- Mẹ. con đang có mang chứ có phải là sắp chết đâu.

Một bát bánh ngô là đủ cho con rồi mà.

- Mẹ biết, nhưng...

Tara quàng tay ôm lấy vai mẹ và nói:

- nhưng con không được chủ quan chứ gì. Mẹ, con tiết lộ cho mẹ một bí mật. Các chẩn đoán y học không bao giờ báo trước được việc sẩy thai, điều đó chỉ làm cho các bà mẹ hoang mang mà thôi. Sáng nay có chuyện gì hay không ạ? - CÔ nói và nhìn sang Stuađ.

- Vụ anh bào chữa Ở tòa hình sự đăng trên trang mười sáu. tin đáng chú ý trong ngày đấy - Anh nói và chỉ vào bài báo gồm ba cột phía góc trái trang báo.

Tara đọc bài báo hai lần rồi mới nói:

- Nhưng thậm chí họ chẳng nhắc đến tên anh kia mà.

Stuart thừa nhận:

- Không, có vẻ như lúc này họ chú ý đến thân chủ của anh hơn. Nhưng nếu như anh bào chữa được cho ông ta thì mọi chuyện sẽ khác.

Maggie nói:

- Mẹ hy vọng là con sẽ không bào chữa được cho ông ta trắng án. Mẹ nghĩ thân chủ của con hơi đáng tởm một chút, và có phải ngồi tù đến hết đời cũng đáng thôi.

Stuart ngỡ ngàng hỏi:

- Vì ăn trộm bảy mươi ba đô la ư?

Của một bà cụ không hề có gì để tự vệ.

- Nhưng đây mới là lần đầu tiên.

Maggie nói:

Mẹ nghĩ rằng con muốn nói là mới bị bắt lần đầu tiên chứ?

Stuart nói:

- Mẹ biết không, lẽ ra mẹ đã có thể là một luật sư hạng nhất rồi đấy. Lẽ ra năm nay mẹ không nên đồng ý nghỉ lên lớp để đi nghiên cứu làm gì, mà phải ghi tên học trường luật mới đúng. Lưu ý mẹ là con cho rằng cái án chung thân cho tội ăn trộm bảy mươi ba đô la có vẻ sẽ không được tất cả mọi người hoan nghênh đâu.

Maggie giễu cợt:

- Rồi con sẽ bị ngạc nhiên đấy, anh bạn trẻ ạ.

CÓ tiếng vật gì rơi xuống thảm ngoài cửa. Stuart đứng dậy:

- Ðể Con lấy cho.

Tara nói trong khi Maggie đặt xuống trước mặt cô một đĩa trứng ốp lết:

- Stuart nói đúng đấy mẹ ạ. Mẹ không nên lãng phí thời gian để làm người phục vụ không công. Mẹ có khả năng hơn thế nhiều chứ.

Maggie nói:

Cám ơn con - Chị quay lại bếp và đập một quả trứng nữa - Nhưng mẹ thích Ở với cả hai con. Mẹ chỉ hy vọng là không lạm dụng các con mà Ở quá lâu thôi...

Tara nói: Dĩ nhiên là mẹ chẳng lạm dụng gì chúng con cả.

Nhưng đã sáu tháng rồi, kể từ khi...

- Mẹ biết, con yêu của mẹ ạ. Nhưng mẹ cần thêm chút thời gian nữa trước khi phải về và đương đầu với Washington. CÓ lẽ bao giờ bắt đầu học kỳ mùa thu thì mẹ sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.

- Nhưng thậm chí mẹ không nhận lời mời mà lẽ ra mẹ cũng thích mới phải.

- Ví dụ cái gì?

- Tuần trước ngài Moore mời mẹ đi xem vở Fidelio Ở Nhà hát Nhạc kịch, và mẹ đã nói với ông ta là tối hôm ấy mẹ bận. Maggie nói:

- Tara, thành thật mà nói thì mẹ không nhớ tối hôm đó mẹ bận gì nữa kia.

- Con nhớ. Hôm ấy mẹ ngồi trong phòng và đọc Ulysses.

- Tara, Ronnie Moore là một người đàn ông ngọt ngào, và mẹ tin rằng dù Ở ngân hàng ông ta có làm nghề gì đi chăng nữa thì ông ta cũng làm việc rất tốt. Nhưng ông ta không cần phải dành các buổi tối để nhắc cho mẹ nhớ rằng mẹ nhớ cha con biết chừng nào. Và dĩ nhiên là mẹ cũng chẳng cần phải ngồi bên cạnh ông ta để nghe ông ta nói là ông ta ngưỡng mộ bà vợ đã quá cố ra sao, dẫu cho bà ta có tên là gì đi chăng nữa.

Stuart đã quay lại, tay nắm một nắm thư từ. Anh nói:

- Tên bà ấy là Elizabeth. Thực tế Ronnie là một người hơn cả dễ chịu.

Maggie nói:

- Con cũng thế nữa. Ðã đến lúc cả hai con thôi không cần lo lắng cho cuộc sống xã hội của mẹ nữa - Chị đặt trước mặt Stuart một đĩa trứng ốp lết còn to hơn.

Anh cười ngoác cả miệng, nói:

- Mẹ, lẽ ra con nên cưới mẹ mới phải.

Chị vỗ vỗ lên đầu con rể, nói:

- Con còn có lý hơn tất cả những người đàn ông mà con định gán cho mẹ ấy.

Stuart cười phá lên và bắt đầu chọn các bức thư, hầu hết là thư gửi cho anh. Anh đưa hai bức cho Tara và ba bức cho Maggie rồi để chồng thư của mình sang bên cạnh và ngồi đọc phần Thể thao trong tờ Herald.

Maggie tự rót cho mình tách cà phê thứ hai. Như thường lệ, chị xem xét mấy cái tem trước khi quyết định mở cái nào trước. Hai phong bì có dấu bưu điện của George Washingtol1. Bức thứ ba có in hình một con kookabulta sặc sỡ. chị mở bức thư Australia trước. Ðọc xong chị đẩy bức thư về phía con gái. Tara càng đọc, nụ cười càng nở rộng trên khuôn mặt cô. Ðọc xong Tara đưa cho Stuart:

- Rất chi là mơn trớn.

Stuart đọc nhanh qua một lượt rồi hỏi:

- Phải, rất chi là mơn trớn. Thế mẹ định trả lời thế nào?

Maggie nói:

Mẹ sẽ viết thư trả lời mà nói là không phải mẹ đang đến chợ lao động. Nhưng mẹ phải tìm hiểu xem phải cảm ơn ai trong hai con đã - Chị vẫy bức thư trên không.

Tara nói:

- Không có tội.

Stuart thừa nhận:

- Men culpa - Anh đã biết là chẳng dễ gì lừa được Maggie. Thế nào rốt cuộc mẹ cũng tìm ra thôi - Con nhìn thấy mẩu rao vặt trên tờ Herald và con nghĩ mẹ rất thích hợp cho việc đó. Thậm chí còn quá thừa khả năng.

Tara nói:

- CÓ tin đồn rằng cuối năm nay Chủ nhiệm khoa Nhân văn sẽ nghỉ hưu, vì thế người ta tìm người sẽ thay thế vào chân đó. Ai là người nhận được chức đó...

Maggie vừa bắt đầu thu dọn đĩa bát vừa nói:

- Nào, hai con, hãy nghe mẹ nói đã nhé. Mẹ đang nghỉ lên lớp một thời gian, và mẹ định là tháng Tám tới sẽ trở về Washington và tiếp tục công việc của mình Ở Trường Ðại học Tổng hợp Georgetown. Ðại học Tổng hợp Sydney cần phải tìm người khác thôi.

Chị ngồi xuống và bóc lá thư thứ hai. Cả Tara và Stuart không ai nói năng gì khi chị rút ra một tấm séc ghi số tiền 277.000 đô la do Thư ký Kho bạc ký. Bức thư đính kèm giải thích rằng đó là "quyền lợi đầy đủ vì chồng chị đã mất trong khi làm nhiệm vụ với cương vị là một sĩ quan CIA. Không biết họ có thể hiểu nổi ý nghĩa của cái cụm từ "quyền lợi đầy đủ không nhỉ. - Chị nhanh nhẹn bóc lá thư thứ ba. chị đã để dành nó đến cuối cùng vì đã nhận ra cái máy chữ cổ lỗ và biết đích xác ai là người gởi nó.

Tara khều Stuađ:

- Bức thư tình hàng năm của Tiến sĩ O casey đấy. nếu em không lầm - cô nói thì thầm - Em phải thừa nhận là rất ngạc nhiên và ấn tượng vì ông ấy có thể tìm ra mẹ Ở đây.

Mnggie mỉm cười:

- Mẹ cũng vậy, ít nhất là với ông ấy mẹ cũng không phải giả vờ - Chị xé phong bì.

Stuađ nhìn đồng hồ và nói:

- Hẹn gặp mẹ và em Ở ngoài kia. lúc nào mọi người sẵn sàng để đi.

Maggie ngước khỏi cặp kính, mỉm cười nói:

Mẹ đã đặt sẵn bàn Ở tiệm cà phê trên bãi biển vào lúc một giờ.

Tara thở dài, nói vẻ khâm phục:

- Mẹ thật là chúa.

Stuart đang định lấy tờ báo đập lên đầu vợ thì Maggie nói.

- ôi trời.

Cả hai vợ chổng kinh ngạc nhìn chị. Lẩn đầu tiên họ nghe thấy chị nói một câu phóng túng như vậy.

Tara hỏi:

- CÓ chuyện gì thế, mẹ? Bác ấy vẫn cầu hôn mẹ à, hay là cuối cùng sau chừng ấy năm bác ấy cũng đã cưới ai đó?

- Ðều không phải. Bác ấy được mời làm Chủ nhiệm khoa Toán Trường đại học New South Wales, và bác ấy sắp đến gặp Hiệu phó trước khi quyết định nhận lời hay không.

Tara nói:

- Tuyệt, không gì bằng. Dẫu sao đi chăng nữa thì bác ấy cũng là người lrish, đẹp trai và bao giờ cũng ngưỡng mộ mẹ. Mẹ vẫn chả thường nói là chỉ có bố mới có thể đánh bại được bác ấy là gì. Liệu mẹ có thể đòi hỏi gì hơn nữa?

Maggie im lặng hồi lâu rồi mới nói:

- Mẹ e rằng mọi sự không ăn khớp với nhau lắm.

Tara nói:

Mẹ nói thế nghĩa là thế nào?

- Phải, mặc dầu bác ấy đẹp trai, và là một tay khiêu vũ tuyệt vời Nhưng có lẽ bác ấy hơi tẻ một chút.

- Nhưng mẹ vẫn thường bảo con là...

Maggie nói:

- Mẹ biết mẹ nói gì với con. Và con không cần phải nhìn mẹ như vậy đâu, thưa tiểu thư. Mẹ tin rằng con vẫn thường trêu chọc Stuart về cái anh chàng phục vụ Ở Dublin, kẻ...

Mẹ, dù thế nào đi chăng nữa thì bây giờ anh ấy cũng đã là Stuart hỏi:

- Là gì?

Tara nói:

- Một giảng viên Ở Trường đại học Trinity. Và hơn nữa anh ấy đang sống rất hạnh phúc với ba đứa con.

Ðiều đó đáng kể hơn mọi cô bạn gái cũ của anh đấy.

Stualt thừa nhận:

- Ðúng vậy - Anh quay lại nói với Maggie - Vậy thì bao giờ Tiến sĩ O casey đến hả mẹ?

Maggie lại mở bức thư ra và đọc:

- Ngày mười bốn bay từ Chicago, mười lăm đến nơi.

Stuart nói:

Nhưng hôm nay là mười lăm rồi.

Maggie gật đầu rồi đọc tiếp:

- Tôi sẽ Ở lại Sydney một đêm và ngày hôm sau sẽ đến gặp Hiệu phó trước khi trở về Mỹ.

Maggie ngước lên:

- Bác ấy sẽ về Mỹ trước khi chúng ta đi nghỉ cuối tuần về.

Tara nói:

- Như vậy thì thật đáng xấu hổ. Sau từng ấy năm, con rất muốn được gặp ngài Tiến sĩ O casey chung thuỷ.

Stuart liếc nhìn đồng hồ:

- Với lại mẹ vẫn còn kịp kia mà. Mấy giờ máy bay bác ấy hạ cánh?

Maggie nói:

- Mười một giờ hai mươi sáng nay. Mẹ sợ là chúng ta sẽ không gặp được bác ấy. Và bác ấy không nói bác ấy Ở đâu trong thời gian Ở lại tuy nhiên mẹ sẽ chẳng thể nào liên lạc được với bác ấy trước khi bác ấy về đến nhà.

Stuart nói:

- Mẹ đừng có dễ khuất phục thế. Nếu mười phút nữa chúng ta ra được khỏi nhà thì vẫn có thể đến sân bay kịp lúc máy bay của bác ấy hạ cánh. Mẹ có thể mời bác ấy đến ăn trưa với chúng ta.

Tara nhìn mẹ, Maggie có vẻ không nhiệt tình với ý kiến đó lắm:

- Ngay cả nếu như chúng ta đến kịp thì chưa chắc bác ấy đã nhận lời kia mà. Chắc là sau một chuyến bay dài bác ấy sẽ mệt mỏi và có thể muốn chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sáng mai thì sao?

Tara nói:

- Nhưng mà ít nhất mẹ cũng phải cố thử chứ?

Maggie gấp lá thư lại, cởi tạp dề và nói:

- Tara, con nói đúng. Sau chừng nấy năm, ít nhất mẹ phải cố được một lần chứ.

Chị mỉm cười với con gái, nhanh nhẹn ra khỏi bếp và mất hút lên gác.

Về đến phòng chị mở tủ áo và lấy bộ đồ chị thích nhất. Chị không muốn Ðeclan nghĩ chị giống như một thiếu phụ trung niên - mặc dầu điều đó nghe có vẻ hơi ngốc nghếch một chút, bởi vì chị đã đứng tuổi rồi, và anh cũng thế. Nhìn hình mình trong gương. Tạm được, với cái tuổi năm mươi mốt. Chị vẫn chưa hề béo lên, nhưng một vài nếp nhãn đã xuất hiện trên trán trong sáu tháng qua. Maggie quay xuống tầng dưới và thấy Stuart đang đi đi lại lại tới lui Chị biết xe đã sẵn sàng, thậm chí có lẽ động cơ đã nổ sẵn.

Stuart gọi lên gác lần thứ ba:

- Tara, nhanh lên.

Mấy phút sau Tara xuất hiện, cô vừa mỉm cười đã khiến sự sốt ruột của Stuart tan biến.

Tara vừa chui vào xe vừa nói:

- Con rất sốt ruột muốn gặp bác Declan. Chỉ cái tên bác ấy thôi cũng đã được bao quanh bằng một cái vòng bí hiểm rồi.

Maggie nói:

- Hồi ấy mẹ cũng nghĩ đúng như vậy.

- Trong cái tên đó thì có cái gì kia chứ - Stuađ nói và cười vui vẻ trong khi anh đánh xe ra đường cái.

- Cũng kha khá, khi người ta vốn là Margaret Deirdre Burke. Hồi còn đi học có lần mẹ tự viết cho mình một bức thư đề tên "Tiến sĩ và Phu nhân Declan". Nhưng điều ấy chẳng làm cho bác ấy thấy thú vị hơn chút nào- Chị vuốt tóc vẻ hồi hộp.

Tara hỏi:

- Liệu có thể nào sau bấy nhiêu năm Tiến sĩ O casey trở thành một người đàn ông thô lỗ, trần tục và thú vị không?

Maggie nói:

- Mẹ ngờ lắm. Mẹ nghĩ là nhiều khả năng bác ấy trở thành một người tự cao, khó tính và vẫn còn trong trắng thì đúng hơn.

Stuart hỏi:

- Sao mẹ có thể biết là bác ấy vẫn còn trong trắng?

Maggie nói:

- Bởi vì bác ấy vẫn liên tục nói với mọi người như vậy mà. Một kỳ nghỉ cuối tuần lý tưởng đối với Declan là đọc báo cáo về một công trình lượng giác trong một hội nghị toán học.

Tara phá lên cười.

- Tuy nhiên, công bằng mà nói thì cha các con cũng chẳng có nhiều kinh nghiệm hơn bác ấy. Ðêm đầu tiên bố mẹ Ở bên nhau là trên một cái ghế dài, và thứ duy nhất mẹ bị mất sau đêm đó là đôi giày mềm.

Stuart cười mãi đến nỗi suýt nữa đâm cả lên lề đường.

Maggie nói tiếp:

- Thậm chí mẹ còn biết lần đầu tiên cha con làm đàn ông như thế nào kia. ÐÓ là với một cô gái được mệnh danh là "Nancy không bao giờ từ chối" - Chị thì thầm vẻ bí mật một cách giễu cợt.

Stuart không tin:

- Lẽ nào bố lại có thể nói với mẹ cả điều đó?

- Không, bố con không nói. Mẹ sẽ chẳng bao giờ biết được điều đó nếu như không có một hôm bố về muộn sau khi tập đá bóng. Mẹ quyết định bỏ một lá thư vào tủ cá nhân của bố Ở lớp và thấy tên Nancy được vạch bên trong tủ. Nhưng thật ra mẹ không thể nào trách bố được, bởi vì khi mẹ kiểm tra tủ của tất cả các bạn cùng lớp của bố thì bố là người ghi điểm ít nhất.

Tara cúi gập cả người mà cười và xin mẹ đừng kể nữa.

- Cuối cùng khi bố...

Khi họ tới sân bay thì Maggie đã dốc hết mọi câu chuyện về sự kình địch giữa Declan và Connor, và chị đã cảm thấy tự nhiên hơn về cuộc gặp sắp tới với người bạn nhảy sau bao nhiêu năm.

Stuart tạt vào lề đường, nhảy ra khỏi xe và mở cửa sau cho mẹ vợ. Anh nhìn đồng hồ và nói:

- Phải nhanh lên mới kịp mẹ ạ.

Tara hỏi:

- Mẹ, mẹ có muốn con đi cùng với mẹ không.

Không cần đâu, cám ơn con - Maggie nói và bước nhanh về phía hai cánh cửa tự động trước khi kịp đổi ý.

Chị nhìn bảng thông báo các chuyến máy bay sắp đến. Chuyến bay 8.15 bay từ Chicago hạ cánh đúng giờ lúc mười một giờ hai mươi. Bây giờ đã mười một giờ bốn mươi. Cả đời chị chưa bao giờ đi đón ai muộn đến như vậy.

Càng tới gần khu đón hành khách đến chị càng đi chậm lại với hy vọng là Declan đã kịp ra khỏi nhà ga.

Chị quyết định sẽ chờ khoảng mười lăm phút cho tròn trách nhiệm rồi sẽ quay ra xe. Chị bắt đầu nhìn những hành khách đang đi qua cửa. Những thanh niên sôi nổi và rạng rỡ thì cắp theo ván lướt. Nhưng người đứng tuổi thì bận rộn và căng thẳng tóm chặt tay con cái. Những người già thì chậm rãi đi sau cùng. Chị bắt đầu tự hỏi không hiểu mình có nhận ra Declan nữa không. Không hiểu anh đã đi qua chưa? Dẫu sao đi nữa thì cũng đã gần ba mươi năm rồi họ không gặp lại nhau, và anh sẽ chẳng hề chờ đợi một ai đó ra đón anh Ở đây.

Chị nhìn đồng hồ lần nữa - đã gần hết mười lăm phút.

Chị bắt đầu nghĩ đến đĩa Gnocchi và một ly Chardonnay trong bữa ăn trưa Ở Cronulla, rồi sau đó sẽ nằm tắm nắng trong khi Stuart và Tara lưới ván. Thế rồi chị dừng mắt lại Ở một người chỉ có một cánh tay đang bước qua cửa.

Chân Maggie như muốn nhủn ra. Chị nhìn chăm chằm vào người đàn ông chị chưa bao giờ hết yêu và nghĩ rằng mình sắp khuỵu xuống mất. Nước mắt trào lên. Chị không hề hỏi điều gì. Lát nữa, lát nữa đã. Chị chạy bổ về phía anh, không để ý đến tất cả mọi người xung quanh.

Vừa nhìn thấy chị, anh nở một nụ cười cho thấy anh biết chị đã nhìn thấy mình.

- ôi lạy Chúa tôi, Connor. - Chị dang hai tay - Thật ư, Lạy Chúa, hãy nói cho con biết đó là sự thật đi.

Connor ôm chặt lấy chị bằng cánh tay phải, ống tay áo bên trái thõng xuống. Anh nói bằng giọng lnsh:

- Thật đấy, Maggie yêu dấu của anh. Không may là mặc dù các Tổng thống có thể xếp đặt hầu hết mọi chuyện, nhưng nếu như họ đã giết anh thì không có cách nào khác, cũng phải cho anh ít thời gian để có được một - danh tính mới. - Anh buông chị ra và ngắm người đàn bà mà trong suốt sáu tháng qua anh không ngừng ao ước được ôm trong tay. - Anh quyết định chọn Tiến sĩ Declan O casey, một học giả đang được cân nhắc cho một chức vụ mới Ở Australia, bởi vì anh vẫn nhớ là em không mong muốn gì hơn là được làm bà Declan O,Casey. Và anh cũng rất tự tin là sẽ không gặp khó khăn gì lắm bởi vì đã có khối người Australia thử tài năng toán học của anh.

Maggie ngước nhìn anh, nước mắt tuôn trào trên má, chị chẳng biết nên cười hay nên khóc nữa. Chị nói:

- Nhưng lá thư mà anh gởi em. Cái chữ "e" có móc ấy, sao anh biết...?

Connor nói:

- à, anh biết em thích điều đó. Chính sau khi nhìn thấy bức ảnh chụp em đứng bên mộ anh, đối diện với Tổng thống và sau đó đọc những lời ca ngợi hào nhoáng đối với người chồng đã quá cố của em, chợt anh nghĩ rằng ồ, Declan cậu bé thân mến của tôi ơi, có lẽ đây chính là dịp cuối cùng để cậu có thể cưới được Margaret Burke trên nửa phía đông của trái đất đấy- Anh mỉm cười - Vậy thế nào, Maggie. em đồng ý làm vợ anh chứ?

Maggie nói:

- Connor Fitzgerald, anh sẽ phải giải thích nhiều đấy.

- Thực vậy, thưa bà O casey. Và chúng ta còn cả cuộc đời để làm điều đó
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom