Cập nhật mới

Dịch Full Cuộc Đời Của Pi

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Chúng tôi rời Madras ngày 21 tháng Sáu năm 1977, trên con tàu hàng Nhật Bản treo cờ Panama mang tên Tsimtsum. Các sỹ quan trên tàu là người Nhật, thủy thủ đoàn là người Đài Loan, và con tầu thật lớn, thật ấn tượng. Ngày cuối cùng của chúng tôi ở Pondicherry, tôi chào tạm biệt Mamaji, ông Kumar và ông Kumar, tạm biệt tất cả bạn bè và cả nhiều người chưa quen biết. Mẹ vận bộ sari đẹp nhất. Bím tóc dài của mẹ, gập lại một cách mỹ thuật và cài lại sau gáy, được trang điểm bằng một vòng hoa nhài tươi. Mẹ đẹp. Và buồn. Vì mẹ đang rời bỏ Ấn Độ, nước Ấn Độ nóng nực của những cơn mưa mùa, những cánh đồng lúa và dòng sông Cauvery, những bờ biển và đền miếu xây bằng đá tảng, những cỗ xe bò kéo và những chiếc xe tải sặc sỡ của bạn bè và những người chủ tiệm quen thuộc, con phố Nehru và phố Goubert Salai, của cái này cái nọ, nước Ấn Độ quen thuộc và yêu mến với mẹ đến thế. Trong khi những người đàn ông trong nhà – tôi tưởng mình là một trong số họ - mặc dù mới mười sáu tuổi – đang vội vàng để lên đường, tưởng mình đã là thị dân Winnipeg bên xứ Canada xa xôi kia, thì mẹ còn nán lại.

Hôm trước khi đi, mẹ chỉ một hàng bán thuốc lá và hỏi giọng khẩn khoản, “Ta có nên mua một vài bao không anh?”

Cha đáp, “Bên Canada cũng có thuốc lá, mà sao em muốn mua? Mình có ai hút đâu?”

Vâng, bên Canada cũng có thuốc lá – nhưng họ có thuốc lá Gold PHlake không? Họ có kem nhãn hiệu Arun không? Xe đạp của họ có phải xe đạp Hero không? Có tivi Onidas không? Có ô tô Ambassador không? Các hiệu sách có tên là Higginbothm không? Đó, tôi nghĩ, là những câu hỏi quay cuồng trong đầu mẹ khi mẹ đang tính mua mấy bao thuốc lá ấy.

Bầy thú đã được đánh thuốc ngủ, lùa hết vào lồng và khóa lại, đồ ăn thức uống đã trữ hết vào hầm tàu, dây neo đã tháo hết, và những hồi còi rúc lên. Khi con tàu len lỏi ra khỏi bến và tìm đường ra khơi, tôi cuống cuồng vẫy chào Ấn Độ. Mặt trời tỏa sáng, gió thổi đều, và bầy hải âu cất những tiếng kêu chói tai trên không trung. Lòng tôi rộn rã.

Mọi việc ở đời có bao giờ diễn ra như ta vẫn tưởng, nhưng biết làm sao. Cuộc đời đem cho ta cái gì thì ta phải nhận cái đó và chỉ còn cách làm cho chúng tốt đẹp nhất mà thôi.

Những thành phố ở Ấn Độ đều rộng lớn và đông đúc không thể nào quên được, nhưng khi rời khỏi chúng, ta du hành qua những vùng quê mênh mông, nơi rất ít khi nhìn thấy một bóng người. Tôi còn nhớ cứ thắc mắc mãi không biết chín trăm năm mươi triệu người Ấn kia đang ẩn nấp ở đâu.

Cũng có thể nói như vậy về căn nhà của anh.

Tôi đến hơi sớm. Tôi vừa đặt chân lên các bậc thềm xi măng của lối vào thì đột nhiên một thiếu niên từ trong nhà chạy ào ra. Cậu mặc bộ đồng phục cầu thủ bóng chày và mang theo các dụng cụ bóng chày, và cậu đang vội lắm. Thấy tôi, cậu đứng sững, rồi quay lại gọi toáng lên vào trong nhà: “Cha ơi, ông nhà văn đến rồi.” Với tôi, cậu nói: “Chào bác,” rồi chạy ù đi.

Cha cậu ra cửa. “Xin chào,” anh nói.

“Con trai anh đấy ư?”, tôi hỏi, vẫn không biết có thật hay không.

“Vâng.” Công nhận sự thực ấy khiến môi anh nở một nụ cười. “Xin lỗi, hai bác cháu gặp nhau không được đúng phép. Cháu đang vội đi tập. Tên cháu là Nikhil. Thường gọi là Nick.”

Tôi vào đến tiền sảnh. “Tôi không biết anh có con trai,” tôi nói. Có tiếng chó sủa, một con chó lài lông đen khoang nâu chạy bổ đến tôi, hít ngửi hổn hển. Nó nhảy dựng lên hai chân trước bíu vào chân tôi. Tôi nói thêm, “lại có cả chó nữa.”

“Nó hiếu khách lắm, Tata, xuống!”

Tata phớt lờ. Tôi nghe tiếng “Chào bác” chỉ có điều không ngắn gọn và mạnh mẽ như tiếng chào của Nick. Nó kéo dài, đầy giọng mũi và ư ử nhẹ nhàng, âm “àooo…” đến tai tôi như một cái vỗ vai hoặc cái kéo quần nhè nhẹ.

Tôi quay lại. Đang dựa vào cái ghế sôpha trong phòng khách, ngước nhìn tôi với một vẻ e lệ bối rối, là một cô bé da nâu, rất xinh trong bộ áo mầu hồng, rõ ràng đang ở nhà mình. Cô ôm một con mèo màu da cam. Chỉ nhìn thấy hai chân trước dựng đứng và cái đầu thụt lủn của con mèo bên dưới hai cánh tay bắt chéo của cô bé. Phần còn lại của nó treo lửng lơ xuống tận sàn nhà. Con mèo có vẻ hoàn toàn thoải mái trong tư thế treo mắc áo như vậy.

“Còn đây là con gái anh?” Tôi hỏi.

“Vâng. Usha. Này Usha yêu quý của cha, liệu Moccasin như thế có dễ chịu không con?”

Usha buông Moccasin xuống. Nó phủ phục xuống sàn một cách thản nhiên.

“Chào Usha,” tôi nói.

Con bé đến bên cha và nhìn trộm tôi từ sau chân anh.

“Con làm gì vậy hả con?” Anh nói. “Sao con lại đi trốn thế?”

Con bé không trả lời, chỉ nhìn tôi với một nụ cười mỉm rồi che mặt.

“Cháu mấy tuổi rồi hả Usha?” Tôi hỏi.

Nó không đáp.

Rồi Piscine Molitor Patel, được tất cả mọi người biết đến với cái tên Pi Patel, cúi xuống nhấc đứa con gái của mình lên lòng.

“Con biết trả lời câu hỏi đó rồi mà, đúng không nào? Con lên bốn rồi. Một, hai, ba, bốn.”

Khi nói đến mỗi một con số, anh lại lấy ngón tay trỏ ấn nhẹ lên đầu mũi con bé. Nó thấy điều đó thật buồn cười. Nó khúc khích rồi dụi đầu vào cổ cha.

Đây thực là một câu chuyện có hậu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Tầu đắm. Nó chìm trong một tiếng động giống như một tiếng ợ kim loại ma quái. Mọi vật sủi bong bóng trên mặt nước, rồi tất cả biến mất. Cái gì cũng đang gào thét: biển, gió, cõi lòng tôi. Từ trên xuồng cứu nạn, tôi thấy có cái gì trên mặt nước.

Tôi kêu, “Richard Parker, có phải mày đấy không? Khó nhìn quá. Ôi giá mà tạnh được mưa! Richard Parker? Richard Parker? Đúng mày rồi!”

Tôi có thể nhìn thấy cái đầu. Nó đang vùng vẫy để khỏi chìm.

“Ôi hay quá, đúng là mày rồi, Richard Parker! Con xin đội ơn tất cả các ngài Jesus, Mary, Muhammad và Vishnu! Nào cố lên, đừng bỏ cuộc. Đến đây với tao. Mày có nghe thấy tiếng còi này hay không? Tuýyyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyy! Mày nghe thấy chứ hả? Bơi đi, bơi! Mày bơi khỏe lắm mà. Chưa đến ba mươi mét đâu.”

Nó thấy tôi rồi. Trông nó hoảng hốt cực độ. Nó bắt đầu bơi về phía tôi. Mặt nước xung quanh nó dạt từ bên này sang bên nọ. Trông nó bé nhỏ và tuyệt vọng.

“Richard Parker, mày có tin được những gì vừa xảy ra với chúng ta không? Hãy nói đây chỉ là cơn ác mộng. Hãy nói đây không phải là sự thực. Hãy nói tao đang nằm trong cái giường tầng ấy trên tàu Tsimtsum, trằn trọc bên này bên kia và sắp tỉnh dậy khỏi cơn các mộng này. Hãy nói tao vẫn đang hạnh phúc. Mẹ, vị thiên thần thông sáng bảo hộ dịu dàng của con, mẹ đâu rồi? Còn cha nữa, cha ơi, cha lúc nào cũng lo lắng vì chúng con? Anh nữa, anh Ravi, người hùng chói lọi thủơ thiếu thời của em? Xin thần Vishnu phù hộ cho con, xin đấng Allah hãy bảo vệ con, xin đấng Christ hãy cứu rỗi con, con không thể chịu đựng được nữa rồi. Tuýyyyyt! Tuýyyyyt Tuýyyyyt!”

Không có thương tích gì trên mình tôi, nhưng chưa bao giờ tôi thấy đau đớn đến cực điểm như thế, một cảm giác bị cắn xé tơi bời cả trong tâm trí và cõi lòng đến mức như thế.

Nó không thoát được mất. Nó sẽ chết chìm mất. Nó không bơi lên được tí nào và các động tác của nó thật yếu ớt. Mũi mồm nó cứ chìm lên chìm xuống. Chỉ có cặp mắt nó luôn gắn chặt vào tôi.

“Richard Parker, mày làm cái gì thế? Mà không muốn sống nữa sao? Bơi đi, bơi tiếp đi! Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt! Đạp chân đi! Đạp! Đạp! Đạp!”

Nó khuấy nước và bắt đầu bơi.

“Còn cả gia đình lớn của ta thì sao – chim chóc, thú vật và bò sát? Chúng chết đuối hết rồi sao? Tất cả những gì quý giá nhất trên đời đều bị huỷ diệt cả rồi. Và ta không được phép có một lời giải thích nào ư? Ta phải chịu hỏa ngục mà không có lời kết tội nào của thiên đường hay sao? Nếu quả như vậy, thì trí xét đoán còn ích gì, phải không hả Richard Parker? Nó chỉ soi sáng những thực tế nôm na – giúp ta kiếm đồ ăn áo mặc và một nơi trú ẩn thôi sao? Tại sao trí xét đoán không trả lời được những điều lớn lao hơn? Tại sao chúng ta không thể quăng một câu hỏi ra xa hơn nơi chúng ta có thể kéo về được một câu trả lời? Cần gì phải có một cái lưới rộng đến thế nếu như chỉ có vài con cá quanh quẩn cho ta bắt?”

Đầu nó chìm lỉm hết rồi. Nó rướn lên, ngước mắt nhìn như thu tóm cả bầu trời vào mình một lần cuối cùng. Có một cái phao buộc dây trên xuồng. Tôi túm lấy nó và huơ huơ lên trên không.

“Mày có thấy cái phao này không hả Richard Parker? Có nhìn thấy không? Bắt lấy nó! Um! Ta sẽ ném lại lần nữa. Um!”

Nó ở xa quá. Nhưng thấy cái phao bay về phía mình khiến nó hy vọng trở lại. Nó lấy lại sức và bắt đầu quẫy đạp rất mạnh.

“Đúng rồi! Một, hai. Một, hai. Thở được là thở nhé. Cẩn thận các ngọn sóng đấy. Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt!”

Lòng tôi cũng lạnh băng mất rồi. Tôi như ốm nặng vì đau buồn. Nhưng không thể để mình rơi vào một cơn choáng cóng lạnh như vậy. Chỉ được phép choáng trong hành động mà thôi. Có cái gì đó trong tôi không muốn tôi nằm im chịu chết, không được bỏ cuộc, phải chiến đấu đến cùng. Tôi lấy đâu ra cái đó, tôi cũng không biết nữa.

“Thật nực cười, phải không hả Richard Parker? Ta đã rơi vào địa ngục rồi mà sao vẫn còn sợ chết. Mày đã gần rồi đấy! Tuýyyt! Tuýyyyt! Tuýyyyt! Hoan hô, hoan hô! Được rồi đấy, Richard Parker, được rồi đấy. Bắt lấy này! Um!”

Tôi lấy hết sức quăng cái phao. Nó rơi xuống nước ngay trước mặt Richard Parker. Với chút sức lực cuối cùng, nó rướn lên và quặp lấy cái phao.

“Giữ chặt lấy! Ta sẽ kéo mày lên. Đừng bỏ ra. Nhìn ta đây này trong khi ta kéo mày. Ta kéo bằng tay, mày bằng mắt. Tí nữa thôi mày sẽ lên xuống cùng với ta. Gượm đã! Cùng với ta à? Ta với mày sẽ cùng nhau ở một chỗ à? Mình điên rồi hay sao?”

Tôi tỉnh ngộ về việc mình đang làm. Tôi giật cái dây một cái.

“Bỏ cái phao ra, Richard Parker! Ta bảo mày. Bỏ cái phao ra! Ta không muốn mày lên dây, hiểu chưa? Đi chỗ khác. Để mặc ta. Biến đi. Chết đuối đi! Chết đuối đi!”

Nó đang điên cuồng đạp nước bằng cả bốn chân. Tôi với lấy cái chèo. Tôi chọc mạnh vào nó, muốn đẩy nó ra. Tôi trượt và để rơi mất mái chèo.

Tôi vớ lấy cái chèo còn lại. Tôi lắp nó vào móc chèo và dồn sức khua nó xuống nước, muốn chèo cái xuồng đi chỗ khác. Tất cả nỗ lực của tôi chi đủ làm cho cái xuồng quay một chút, một đầu xuồng vào gần Richard Parker hơn.

Tôi sẽ phải đánh vào đầu nó! Tôi giơ cái chèo lên cao.

Nó nhanh quá. Nó vươn lên và trèo vào xuồng.

“Ôi, lạy chúa tôi.”

Ravi có lý. Quả thực tôi đã thành con dê tiếp theo. Tôi đã có con hổ Bengal ba tuổi trưởng thành, ướt đẫm, run rẩy, vừa thoát khỏi chết đuối, đang thở hồng hộc và ho sù sụ trên cái xuồng cứu nạn cùng với tôi. Richard Parker loạng choạng đứng lên, chân giẫm lên tấm bạt, mắt rực lửa khi gặp luồng mắt của tôi, hai tai cụp sát vào đầu, bao nhiêu vũ khí trút hết ra khỏi vỏ. Cái đầu nó to bằng và cùng màu với cái phao, đầy răng nhọn.

Tôi quay quắt ra đằng sau, bước qua con ngựa vằn rồi nhẩy ào xuống biển.

Tôi không hiểu được. Trong bao nhiêu ngày con tàu đã tuần tự nhi tiến, ngạo nghễ phớt lờ mọi thứ xung quanh nó. Mặt trời chói lọi, mưa rơi, gió thổi, nước dòng, sóng cao, vực sâu - con tầu Tsimtsum đều mặc kệ. Nó chạy với một sự tự tin, chậm chạp và khổng lồ của một châu lục.

Tôi đã mua một tấm bản đồ thế giới cho chuyến đi; tôi treo nó lên một cái bảng nút chai trong cabin của chúng tôi. Sáng sáng, tôi hỏi vị trí của tầu ở cầu chỉ huy và đánh dấu lên tấm bản đồ bằng một cái đinh ghim đầu tròn màu da cam. Chúng tôi đi từ Madras, ngang qua Vịnh Bengal, xuống dọc eo biển Malacca, vòng Singapore rồi ngược lên Manila. Tôi không thấy chán một chút nào trong suốt lộ trình ấy. Chúng tôi rất bận vì phải chăm sóc bầy thú. Đến đêm, lên giường ngủ thì ai nấy đều ê ẩm tận xương. Chúng tôi dừng lại ở Manila hai hôm, vì chuyện thức ăn tươi cho bầy thú, lấy thêm hàng, và như chúng tôi được thông báo, còn để kiểm tra bảo dưỡng máy tàu nữa. Tôi chỉ để ý đến hai việc trước. Thức ăn tươi cho bầy thú có hàng tấn chuối, còn hàng mới là một con đười ươi cái Congo, một phần kết quả của những chạy vạy cho công việc của cha. Một tấn chuối và hai, ba kí lô những con nhện to tướng đen xì. Một con đười ươi cũng giống như một con khỉ độc, nhỏ hơn, gầy hơn, nhưng trông lưu manh hơn, ít vẻ u buồn hơn. Một con đười ươi rùng mình nhăn mặt khi nó chạm vào một con nhện đen, cũng như anh và tôi, nhưng khác một cái là ngay sau đó nó sẽ giận dữ nghiền nát con nhện bằng các khớp ngón tay của nó. Tôi thấy chuối và một con đười ươi thú vị hơn nhiều cái cỗ máy cơ khí bẩn thỉu dưới lòng tầu. Ravi thì suốt ngày này qua ngày khác ở dưới đó, xem người ta chạy máy. Máy móc có cái gì đó không ổn, anh bảo vậy. Hay là việc bảo dưỡng đã chữa lợn lành thành lợn què? Tôi không biết. Chắc cũng chẳng ai biết. Câu trả lời là một bí ẩn đang nằm dưới hàng nghìn thước nước.

Chúng tôi rời Manila và tiến vào Thái Bình Dương. Đến ngày thứ tư, mới nửa đường đến Midway, thì tàu đắm. Con tàu biến mất tăm vào cái lỗ đinh ghim của tôi trên bản đồ. Một trái núi sụp đổ trước mắt tôi và mất dạng dưới chân tôi. Khắp xung quanh tôi là bãi nôn mửa của con tàu chết vì rối loạn tiêu hóa. Tôi nôn mửa. Tôi choáng. Tôi thấy trống rỗng lớn lao ở trong mình, rồi cái trống rỗng ấy lại bị sự im lặng lấp đầy. Trong nhiều ngày sau đó, một nỗi đau đớn và sợ hãi luôn đè chặt lên ngực tôi.

Hình như đã có một tiếng nổ. Nhưng tôi không chắc. Lúc đó tôi đang ngủ. Và đã bật dậy. Con tàu không phải là một tàu khách hạng sang. Nó là một tàu chở hàng hạng nặng thiết kế không phải để phục vụ khách có tiền và đòi hỏi tiện nghi. Lúc nào và chỗ nào trên tàu cũng ầm ĩ các loại tiếng động. Cũng chính vì mức độ ồn ào và ổn định ấy mà chúng tôi ngủ ngon như hài nhi. Đấy là một dạng im lặng không có gì phá vỡ được, kể cả tiếng ngáy của Ravi hay những lời mê ngủ của tôi. Cho nên tiếng nổ ấy, nếu có, cũng không phải là một tiếng động mới mẻ gì. Nó chỉ là một tiếng động bất thường. Tôi giật mình tỉnh dậy, như thể Ravi vừa bóp nổ một quả bóng hơi ngay tai tôi. Tôi nhìn đồng hồ. Mới quá bốn rưỡi sáng một tí. Tôi cúi xuống giường bên dưới. Ravi vẫn ngủ.

Tôi mặc quần áo và trèo xuống. Thường thì tôi ngủ rất say. Thường thì tôi sẽ nằm lại và ngủ tiếp. Không biết tại sao đêm đó tôi lại thức dậy như thế. Chính ra Ravi mới là người sẽ làm như vậy. Anh thích từ vẫy gọi . Trong trường hợp ấy, Ravi sẽ bảo Phiêu lưu đang vẫy gọi, và sẽ chạy ra thám thính khắp các nơi trên tàu. Mức độ tiếng ồn lại trở lại như thường, nhưng hình như có khác về chất, có lẽ hơi nghèn nghẹt khác trước.

Tôi lay Ravi. Tôi gọi, Ravi ! Có tiếng gì lạ lắm. Mình ra xem sao đi.

Anh ngái ngủ nhìn tôi. Anh lắc đầu và trở mình, kéo chăn lên tận má. Ôi, Ravi !

Tôi mở cửa cabin.

Tôi còn nhớ mình đi dọc hành lang, nơi cảnh vật lúc nào cũng thế cả ngày lẫn đêm. Nhưng tôi cảm thấy đêm tối ở trong mình lúc đó. Tôi dừng lại trước cabin của cha mẹ và đã định gõ cửa. Tôi nhớ mình có nhìn đồng hồ và quyết định thôi không gõ cửa nữa. Cha thích giấc ngủ của cha lắm. Tôi quyết định sẽ lên boong đón bình minh. Có thể tôi sẽ thấy một ngôi sao đổi ngôi.Tôi đã nghĩ đến điều đó, đến các ngôi sao đổi ngôi, khi trèo lên thang. Cabin của chúng tôi ở cách boong hai tầng. Tôi quên hẳn cái tiếng động lạ kia rồi.

Chỉ khi đẩy mở cánh cửa nặng dẫn lên boong, tôi mới nhận thấy thời tiết lúc ấy ra sao. Đã gọi được là bão chưa nhỉ? Đúng là đang mưa, nhưng không đến nỗi to lắm. Rõ ràng chưa phải là mưa giật như trong những trận bão gió mùa. Có gió. Những cơn gió giật cũng đủ mạnh để lật ô. Nhưng tôi vẫn đi trong gió ấy không mấy khó khăn. Còn biển, trông dữ dội thật, nhưng với một kẻ sống trong đất liền thì biển cả bao giờ chẳng ghê gớm, hùng vĩ và đầy nguy hiểm. Những con sóng trào lên, và bọt trắng bị gió thổi quật tơi bời vào thành tàu. Nhưng tôi đã từng thấy cảnh đấy và có con tàu nào đắm. Một con tàu hàng là một cấu trúc bền vững khổng lồ, một chiến công của kỹ thuật. Nó được thiết kế để nổi trên mặt nước trong những điều kiện tồi tệ nhất. Thời tiết kiểu này chắc sẽ không thể làm đắm tàu được, có phải vậy không nhỉ? Lạ thật, chỉ cần đóng cánh cửa và sẽ không thấy gió bão gì nữa. Tôi tiến hẳn lên boong. Tôi bíu chắc lấy lan can và ngửa mặt đón bão. Thích thật, đây mới là phiêu lưu mạo hiểm.

Hỡi Canada, ta đã đến đây! Tôi gào lên, ướt sũng và lạnh cóng. Tôi thấy mình thật can đảm. Vẫn còn tối, nhưng cũng đả đủ sáng để nhìn thấy xung quanh. Sáng để thấy hết cảnh thiên nhiên gào thét. Một sân khấu khổng lồ, với ánh sáng thật kịch tính, với vô vàn những phụ kiện, và một ngân sách không hạn chế cho những hiệu quả đặc biệt. Trước mắt tôi là một khung cảnh hoành tráng của gió và nước, một trận động đất của các giác quan mà ngay cả Hollywood cũng không thể bầy đặt ra được. Nhưng trận động đất ấy ngưng lại ngay dưới chân tôi. Tôi đang đứng trên một nền tảng vững chãi. Tôi như một khán giả ngồi yên ổn trong ghế của mình.

Chỉ đến khi nhìn lên chỗ cái xuồng cứu nạn trên cầu tàu, tôi mới bắt đầu thấy lo lắng. Cái xuồng không nằm ngay ngắn trong vị trí treo lơ lửng của nó. Nó nghiêng hẳn vào phía trong của hai vòng giá treo. Các khớp ngón tay tôi trắng bệch. Hóa ra, tôi phải bíu chặt lấy lan can như vậy không phải vì gió bão, mà là nếu không thì tôi đã ngã về phía trong con tàu, lúc đó đang nghiêng dần sang phía sườn bên trái. Chưa nghiêng nhiều lắm, nhưng đủ để tôi kinh ngạc. Khi tôi nhìn sang phía bên kia, cảnh vật không còn bình thường nữa. Tôi nhìn thấy cả sườn tàu đen sì.

Tôi run bắn lạnh hết cả người. Tôi nhất định nghĩ rằng chỉ vì cơn bão mà thôi. Đã đến lúc về cabin. Tôi bỏ tay, bước vội về phía vách, rướn người mở cửa.

Bên trong tàu có nhiều tiếng động. Những tiếng rền rĩ trầm đặc của cấu trúc. Tôi vấp ngã. Không sao. Tôi vùng dậy. Vịn vào tay cầu thang, tôi chạy xuống từng bốn bậc một. Mới xuống đến tầng thứ nhất ở dưới tôi đã thấy nước. Nước tràn lan. Ngập hết lối đi. Nước dâng lên ào ạt từ bên dưới như một đám đông nổi loạn, giận dữ, ngầu bọt và sôi sùng sục. Tôi không thể tin vào mắt mình. Tại sao lại có nước ở đây? Nó ở đâu ra? Tôi đứng đóng đanh tại chỗ, hốt hoảng, hoang mang, không biết phải làm gì tiếp. Cả gia đình tôi đang ở dưới kia.

Tôi chạy trở lên boong. Thời tiết không còn làm trò mua vui như trước nữa. Tôi sợ hãi lắm. Bây giờ thì rõ ràng quá rồi: con tàu đang lật nghiêng một cách trầm trọng. Mà không phải chỉ về một phía. Nó đang nghiêng cả từ phía mũi xuống phía đuôi tàu. Nhìn sang phía bên kia boong, tôi thấy nước biển có vẻ cách mình chưa đến hai mươi mét. Tàu đang chìm. Tôi không thể chấp nhận ý nghĩ đó. Nó khó tin như chuyện mặt trăng bốc cháy vậy.

Sĩ quan và thủy thủ đâu cả rồi? Họ đang làm gì vậy? Về phía mũi tàu, tôi thấy lờ mờ có mấy bóng người đang chạy. Hình như tôi thấy cả mấy con thú nhưng tôi gạt những hình ảnh ấy đi, coi chúng chỉ là ảo ảnh do mưa và bóng tối gây ra. Chúng tôi có mở then các cửa khoang thú vật khi thời tiết tốt, nhưng chúng luôn luôn được nhốt kín trong cách chuồng riêng. Chúng tôi đang chở các con thú hoang nguy hiểm chứ đâu phải gia súc. Phía trên cầu tàu, tôi nghĩ tôi nghe thấy có tiếng người đang hò hét.

Con tàu lắc mạnh một cái rồi đến cái tiếng động ấy, cái tiếng ợ kim loại ma quái. Cái gì vậy? Có phải là một tiếng thét tập thể của người và thú phản kháng cái chết đang đến với họ? Hay là tiếng thở dốc của chính con tàu khi trút bỏ linh hồn? Tôi ngã lộn nhào. Tôi vùng đứng dậy. Tôi lại nhìn ngang boong tàu và thấy biển dâng lên. Sóng gần lắm rồi. Chúng tôi đang chìm rất nhanh.

Tôi nghe thấy rõ ràng tiếng khỉ kêu thét. Có cái gì đang làm rung cả sàn tàu. một con bò tót Ấn Độ chạy đâm bổ từ trong mưa về phía tôi, ầm ầm chạy qua tôi, hoảng sợ đến phát rồ. Tôi chỉ biết chết lặng nhìn nó. Lạy Chúa tôi, không biết ai lại thả nó ra như thế?

Tôi chạy ra cầu thang dẫn lên cầu tàu. Trên đó sẽ có các sĩ quan, những người nói được tiếng Anh duy nhất trên tàu, trong tay họ là vận mệnh của chúng tôi, họ sẽ chỉnh đốn được tình hình. Họ sẽ giải thích mọi chuyện. Họ sẽ bảo vệ được gia đình tôi và tôi. Tôi trèo lên cầu tàu giữa. Không thấy có ai bên này, tôi chạy sang phía bên kia, thấy có hai người trong thuỷ thủ đoàn. Tôi ngã. Tôi vùng dậy. Họ đang nhìn cả ra biển. Tôi hét lên. Họ quay lại. Họ nhìn tôi rồi nhìn nhau. Họ nói cái gì đó. Họ chạy ù về phía tôi. Tôi lập tức thấy yên tâm. Tôi nói: Ơn Chúa, tôi đã tìm thấy các anh. Có chuyện gì vậy? Tôi sợ lắm. Dưới đáy tàu toàn là nước. Tôi lo cho gia đình tôi quá. Tôi không thể xuống dưới tầng có cabin của chúng tôi. Bình thường có chuyện này không? Các anh nghĩ...

Một người trong bọn họ ngắt lời tôi bằng cách ấn vào tay tôi một cái áo phao cấp cứu và quát cái gì đó bằng tiếng Trung Quốc. Tôi để ý thấy một cái còi màu da cam lủng lẳng ở cái túi phao. họ đều gật đầu lia lịa về phía tôi. Khi họ túm lấy tôi và nhấc bổng tôi lên, tôi chẳng phật ý gì hết. Tôi nghĩ họ đang giúp tôi. Tôi thấy tin họ đến mức còn cảm thấy biết ơn họ khi họ nhấc bổng tôi lên như vậy. Chỉ khi họ ném tôi xuống biển, tôi mới bắt đầu thấy nghi ngờ.

Tôi rơi xuống, nảy bần bật trên tấm vải bạt căng che bọc một cái xuồng cứu nạn, mới được tháo ra một nửa, hàng chục mét bên dưới cầu tàu. Rất lạ là tôi không đau đớn gì. Cái áo phao rơi đâu mất, trong tay tôi còn lại cái còi. Cái xuồng đã được hạ xuống nửa chừng, vẫn còn đang lơ lửng. Nó nghiêng khỏi hai cái đà treo, đung đưa trong gió bão, cách mặt biển chừng sáu thước. Tôi nhìn lên. Hai người trong bọn họ đang nhìn xuống tôi, lấy tay chỉ cuống quýt vào cái xuồng và hò hét loạn xị. Tôi không hiểu họ muốn tôi làm gì. Tôi tưởng họ sắp nhảy xuống cùng với tôi. Nhưng họ quay đi, trông rất hoảng sợ, rồi một con vật bất thần nhảy vọt ra không trung với dáng điệu duyên dáng của một con ngựa đua. Con ngựa vằn không rơi trúng tấm vải bạt. Nó là một con đực giống Grant, nặng trên hai tạ rưỡi. Nó rơi ầm xuống cái ghế dài cuối xuồng, làm vỡ tan cái ghế và khiến cả cái xuồng run lên bần bật. Con vật kêu lên. Nhẽ ra phải là một tiếng hí rền rĩ như một con la hoặc con ngựa. Nhưng hoàn toàn không phải. Chỉ có thể gọi đó là một tiếng sủa the thé đau đớn vô cùng; khônga-ha-ha, khônga-ha-ha, khônga-ha-ha... Cặp môi nó vén hết lên, run bần bật, để lộ những cái răng vàng và hàng lợi màu hồng sẫm. Cái xuồng và chúng tôi cùng rơi xuống mặt nước đang sủi sùng sục.

Richard Parker không nhảy xuống nước theo tôi. Cái chèo tôi định dùng để đánh nó nổi bập bềnh. Tôi vớ lấy nó khi bơi về cái phao mà con hổ vừa bỏ ra. Dưới nước thật khủng khiếp. Tôi có cảm tưởng như đang ở dưới đáy một cái giếng đang sụt lở. Nước sôi lên giận dữ, đen ngòm, lạnh buốt. Các con sông liên tiếp nhào xuống tôi. Chọc vào mắt tôi. Dìm tôi xuống. Khiến tôi ngạt thở. Nếu không có cái phao, chắc chắn tôi đã không thể sống lấy một phút.

Tôi thấy một hình tam giác rẽ nước đi cách tôi khoảng 5 thước. Vây cá mập. Một nỗi sợ hãi rần rật chạy lên chạy xuống dọc sống lưng tôi như một dòng nước lạnh toát. Tôi hết sức bơi thật nhanh về một đầu xuồng, phía vẫn còn có tấm bạt che phủ. Tôi chống tay nghển lên xuống. Không nhìn thấy Richard Parker đâu cả. Không ở trên tấm bạt, cùng không trên cái ghế dài nào. Nó đang ở dưới đáy xuồng. Tôi rướn lên tí nữa. Tôi chỉ thoáng thấy ở đầu xuồng đàng kia cái đầu con ngựa vằn vật vã tứ phía. Tôi để người ngã xuống nước trở lại. Ngay trước mắt tôi, một cái vây cá mập lẳng lặng lướt qua.

Tấm bạt màu da cam sáng được buộc bằng dây nilông chắc luồn qua các lỗ khuyết kim loại tán dọc mép bạt và những cái móc tròn bên mạn xuồng. Tình cờ, tôi đang bơi ở phía mũi xuồng. Đoạn bạt phủ trên phần mũi - một cái mũi rất ngắn, nếu ở trên mặt người thì là một cái mũi tẹt - không được buộc chắc như ở các đoạn xung quanh xuồng. Đoạn dây luồn từ cái móc bên này sang cái móc bên kia của mũi xuồng không được chặt lắm, khiến cho tấm bạt được phủ lỏng ra một chút. Tôi lấy cán mái chèo chọc vào cái khe hở chỗ bạt lỏng ấy và hết sức đẩy nó vào thật sâu, đến hết cỡ mới thôi. Cái mũi xuồng thế là mọc ra thêm được một đoạn, cho dù hơi vẹo vọ một chút. Tôi đu lên cái chèo, hai chân quặp lấy nó. Cán chèo thúc lên tấm bạt, nhưng cả bạt, dầy chằng và cái chèo đều nguyên vị. Tôi không phải ngâm mình dưới nước nữa, mặc dù vẫn lửng lơ lắc lư cách mặt nước chỉ hơn một thước. Những ngọn sóng lớn vẫn quất vào người tôi.

Chỉ còn mình tôi, côi cút, giữa Thái Bình Dương, bám lửng lơ vào một mái chèo, hổ dữ trước mặt, cá mập dưới lưng, xung quanh là bão tố. Nếu tôi nhìn nhận tình trạng ấy của mình bằng lí trí tỉnh táo, chắc hẳn tôi đã bỏ cuộc và buông khỏi mái chèo đó với hy vọng sẽ được chết chìm trước khi bị ăn thịt. Nhưng tôi không thể nhớ mình có chút ý nghĩ gì trong vài phút đầu tương đối an toàn đó. Tôi còn không thể thấy là trời đang rạng sáng. Tôi chỉ biết bám chặt lấy mái chèo, chỉ vậy thôi, chỉ có Thượng đế mới biết tại sao.

Một lúc sau, tôi bắt đầu tận dụng được cái phao. Tôi nhấc nó lên khỏi mặt nước và luồn nó vào cái chèo. Tôi dịch nó xuống dần cho đến khi vòng phao quặp lấy cái chèo thôi. Nếu Richard Parker xuất hiện, nhảy ra khỏi mái chèo trong tư thế đó sẽ khó khăn hơn, nhưng hãy cứ lo từng thứ một, Thái Bình Dương trước, hổ dữ sau.

Kết Thúc (END)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Trời đất đã để tôi sống. Cái xuồng không chìm. Richard Parker không thấy đâu. Bầy cá mập lượn lờ nhưng không tấn công. Sóng đánh vào tôi tơi bời nhưng không cuốn tôi đi.

Tôi nhìn mãi con tàu lúc nó chìm xuống khối nước sủi sùng sục. Những ánh đèn nhập nhoạng rồi tắt ngấm. Tôi cố tìm gia đình tôi, những ai còn sống sót, một cái xuồng cứu nạn khác, bất cứ gì có thể làm tôi hy vọng. Nhưng không có gì cả. Chỉ có mưa, những cơn sóng dữ dội của đại dương đen ngòm và dư vị thảm họa.

Bóng tối đã tan đi trên bầu trời. Mưa đã tạnh.

Tôi không thể ở trong tư thế của mình mãi. Tôi rét. Cổ tôi đau nhừ vì phải giữ cái đầu và phải nghển lên nghển xuống mãi cho đến lúc đó. Lưng cũng đau vì dựa mãi vào cái phao. Và tôi cần phải ở cao hơn nữa mới có thể quan sát xem có cái xuồng cứu nạn nào nữa không.

Tôi dịch xuống dọc cái chèo cho đến lúc hai bàn chân đặc lên được mũi xuồng. Phải rất thận trọng. Tôi đoán Richard Parker đang nằm dưới tấm bạt, quay lưng về phía tôi, quay mặt ra chỗ con ngựa vằn mà chắc chắn là nó đã thịt mất rồi. Trong năm giác quan, hổ dùng nhiều đến mắt nhất. Nhãn lực của chúng mạnh, nhất là phát hiện các chuyển động. Tai chúng cũng thính. Mũi chúng thì thường. Tất nhiên tôi muốn nói là nếu so với các loài vật khác. Bên cạnh Richard Parker thì tôi là thằng điếc, mù và tịt mũi đặc. Nhưng lúc ấy nó không thể nhìn thấy tôi, và tôi ướt sũng như vậy thì nó cũng có thể không ngửi thấy, còn với tiếng gió gào biển thét khi đó, nếu tôi cẩn thận thì chắc nó không thể nghe thấy tôi. Một khi nó còn chưa biết đến tôi thì còn có cơ hội sống. Nếu biết, nó sẽ giết tôi lập tức. Tôi băn khoăn không biết nó có thể vọt lên qua tấm bạt không.

Sợ hãi và lí trí tranh nhau trả lời. Sợ hãi bảo được chứ, nó là một con thú ăn thịt hung dữ và mạnh mẽ, nặng tới hơn hai tạ. Móng nào của nó cũng sắc như dao. Lí trí lại nói không được đâu, tấm bạt rất chắc, không phải là vách giấy Nhật Bản. Tôi đã từ tít trên cao rơi xuống nó. Richard Parker có thể dùng móng cào xé tấm bạt dễ dàng và nhanh chóng, nhưng không thể nhảy chui qua tấm bạt đến bóp một cái như thằng hề trong hộp đồ chơi. Và nó con chưa thấy tôi. Chưa thấy tôi thì nó chẳng có lí do gì phải cào xé tấm bạt để chui qua cả.

Tôi trườn dọc cái chèo. Tôi để cả hai chân sang một phía và đặt chân lên mạn xuồng, cái mép trên của sườn xuồng, hay gọi là cái gọng trên cũng được. Tôi dịch thêm chút nữa cho đến khi hai chân ở trong xuồng. Tôi không rời mắt khỏi cái mép bên kia của tấm bạt. Bất kì giây phút nào Richard Parker cũng có thể trỗi dậy nhào đến tôi. Người tôi phát ra nhưng cơn sợ run bần bật rất nhiều lần. Đúng cái chỗ cần phải im nhất là đôi chân thì tôi lại là chỗ tôi bị run mạnh nhất. Hai chân tôi run đùng đùng như gõ trống trên tấm bạt, đến gõ cửa gọi Richard Parker thì cũng chỉ thế là cùng. Cơn run lan từ chân lên tay và tôi chẳng thể nào cản nổi chúng. Rồi từng cơn run sợ cũng qua đi.

Khi người tôi đã phần lớn vào trong xuồng, tôi gượng đứng dậy. Tôi nhìn sang qua tấm mép bạt, và ngạc nhiên thấy con ngựa vằn vẫn còn sống. Nó nằm gần đuôi xuồng, chỗ nó đã rơi xuống, bất động, nhưng bụng vẫn phập phồng thở dốc và mắt vẫn đáo điên đầy hoảng hốt. Nó nằm nghiêng, quay mặt về phía tôi, đầu và cổ nghẹo trên cái ghế băng bên mạn xuồng một cách vụng về. Một chân sau nó đã gãy thảm hại. Cái góc gập hoàn toàn không tự nhiên. Xương lòi khỏi da và có máu chảy. Chỉ hai chân trước thanh mảnh là có vẻ vẫn còn trong tư thế tự nhiên. Chúng gập lại và thu gọn xuống bên dưới phần thân thể đã vặn vẹo. Thỉnh thoảng, con ngựa vằn lại ngúc ngắc đầu, kêu nấc lên và thở phì phò. Còn thì nó nằm bất động.

Một con vật đáng yêu. Những cái vằn của nó ánh lên, sáng trắng và đen tuyền. Đang cơn khắc khoải chết người, tôi không để ý nhiều, nhưng vẫn kinh ngạc nhận thấy, dù chỉ thoáng qua, cái kiểu dáng thật lạ, thật sạch và thật đẹp, cũng như cái đầu thanh tú của nó. Cái hệ trong lớn hơn đối với tôi là điều hiển nhiên lạ lùng rằng Richard Parker đã không giết nó. Các loài thú ăn thịt chỉ biết: chúng phải giết con mồi. Trong hoàn cảnh lúc ấy, Richard Parker, căng thẳng và sợ hãi đến thế, chắc chắn sẽ càng hung dữ hơn nhiều. Nhẽ ra con ngựa vằn phải bị ăn thịt rồi mới phải.

Nguyên nhân của việc tha chết đó chỉ một lúc sau hiển hiện ra trước mặt tôi. Nó làm máu tôi đông lại, rồi cũng làm cho tôi có một chút yên tâm. Một cái đầu xuất hiện ở cuối tấm bạt. Nó nhìn thẳng vào tôi một cách sợ hãi, thụt xuống, ngẩng lên, lại thụt xuống, lại ngẩng lên, rồi biến hẳn. Một cái đầu hói hao hao giống gấu của một con linh cẩu lông chấm. Vườn thú của chúng tôi có một bộ lạc linh cẩu gồm 6 con, hai con cái chỉ huy và 4 con đực lâu la. Chúng đang trên đường đến Minesota. Con này là một con đực. Tôi nhận ra nó vì cái tai bên phải, bị rách bươm và vết sẹo lởm chởm vẫn làm chứng cho những vụ bạo hành ngày trước của nó. Bây giờ thì tôi hiểu tại sao Richard Parker đã không giết con ngựa vằn: nó không còn ở trên xuồng nữa. Không thể có một con linh cẩu và một con hổ trong cùng một nơi chật hẹp như vậy. Chắc hẳn nó đã lăn từ tấm bạt xuống dưới biển và chết đuối rồi.

Thế còn tại sao lại có con linh cẩu này ở trên xuồng? Tôi không tin linh cẩu có thể bơi ngoài biển khơi. Chỉ có thể kết luận rằng nó đã ở trên xuồng từ trước, trốn lên tấm bạt, và tôi đã không thấy nó lúc rơi xuống xuồng. Tôi nhận ra một điều nữa: con linh cẩu là lí do những thuỷ thủ kia đã ném tôi xuông xuồng. Không phải họ định cứu tôi. May ra đó chỉ là ý định cuối cùng của họ. Họ muốn dùng tôi làm vật thí mạng. Họ hy vọng con linh cẩu sẽ tấn công tôi và may ra tôi sẽ trừ khử được nó và làm cho cái xuống được an toàn để họ xuống, tôi có chết cũng chẳng sao. Bây giờ thì tôi hiểu họ đã chỉ tay lia lịa vào cái gì dưới xuồng trước khi con ngựa vằn xuất hiện.

Tôi không bao giờ nghĩ rằng việc mình bị nhốt cùng với một con linh cẩu ở một nơi chật hẹp như thế lại là một tin lành, nhưng biết làm sao được. Mà thực ra tôi có những hai cái tin lành: nếu không có con linh cẩu thì đám thủy thủ đã chẳng ném tôi xuống xuồng và nhất định tôi đã chết chìm theo con tàu; còn việc phải chung cư với một con thú thì thà là với con chó dữ còn hơn là con hổ hung bạo và nhanh như cắt kia. Để cho an toàn, tôi dịch trở lại lên cái chèo. Dạng chân sang hai bên, tôi ngồi lên mép cái phao, bàn chân trái đặt trên mỏm mũi xuồng, chân phải trên mép xuồng. Cũng đủ đễ chịu và cho phép tôi quay mặt vào xuồng.

Tôi nhìn quanh. Chẳng có gì ngoài biển và trời. Giống hệt như khi ta ở trên một đỉnh cao nào đó. Mặt biển thấp thoáng nhai lại các nét đặc trưng của đất liền – những ngọn đồi, những thung lũng, những cánh đồng. Những biến động địa chất được tăng tốc. Vòng quanh thế giới trong 80 ngọn sóng. Nhưng tôi chẳng tìm thấy gia đình tôi ở nơi nào trong cái thế giới ấy. Có những vật nổi bập bềnh trên mặt nước nhưng chẳng có cái nào mang lại chút hy vọng. Tôi không thể tìm thấy một xuồng cứu nạn nào khác.

Thời tiết thay đổi nhanh chóng. Mặt biển, mênh mông là thế, đến mức ngạt cả thở, đang dần dần trở lại ổn định trong một chuyển động đều đặn và mượt mà, với những con sóng đuổi theo nhau. Gió đang dịu lại thành một làn mơn man đầy âm hưởng. Những đám mây trắng lúp xúp tỏa sáng đang bắt đầu sáng lên trên nền xanh nhạt tinh tế của vòm trời vô biên sâu thẳm. Đó là bình minh của một ngày đẹp trời trên Thái Bình Dương. Chiếc áo trên người tôi đã bắt đầu khô. Đêm tối biến đi nhanh chóng chẳng kém gì con tàu.

Tôi bắt đầu chờ đợi. Tâm trí tôi đảo điên. Hết tập trung vào những chi tiết thực tế của việc sống còn trước mắt rồi lại ngây dại trong đau đớn, khóc chẳng ra lời, miệng há, hai tay ôm đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Nó tới, bập bềnh trên một hòn đảo chuối và trong một vầng hào quang, đẹp không khác gì Mary Đồng Trinh. Mặt trời đang mọc lên sau lưng nó. Lông tóc nó như bốc lửa trông thật sướng mắt.

Tôi kêu lên: Ôi chao! Hỡi Mẹ vĩ đại đầy ân điển, hỡi nữ thần sinh thực của vùng Pondicherry, người mang lại sữa và tình yêu, vòng tay an ủi tuyệt với, nỗi khủng khiếp của chấy rận, người ẵm bế những kẻ khóc lóc, chẳng nhẽ người cũng phải chứng kiến tấn thảm kịch này ư? Dịu dàng phải gặp khủng khiếp là không phải lẽ rồi. Sao người không chết ngay có hơn chăng? Gặp người thế này thật vui mừng và cay đắng biết bao. Người đem lại phần đau đớn và vui mừng ngang nhau. Vui mừng vì có người bên ta, nhưng đau đớn vì sẽ chẳng được mấy chốc. Người biết gì về biển cả? Không biết gì hết. Ta biết gì về biển cả? Cũng không biết gì hết. Không có tài xế, chiếc xe buýt này sẽ lạc mất thôi. Chúng ta thế là hết đời rồi. Hãy lên xuồng nếu số phận người vẫn còn mờ mịt – ta hãy cứ biết bến này đã. Ta có thể ngồi bên nhau. Người có thể lấy chỗ cạnh cửa sổ, nếu người thích. Nhưng quang cảnh sẽ buồn đấy. Ôi chao, lẩm cẩm thế đủ rồi. Để ta nói thẳng ra nhé: ta yêu người, ta yêu người, ta yêu người. Ta yêu người, ta yêu người, ta yêu người. Nhưng mà không được có bọn nhện đâu nhé.

Đó là con Nước Cam – gọi nó thế vì nó hay rớt rãi lòng thòng – con khỉ độc cái vùng Borneo quý giá, minh tinh của vườn thú và mẹ của hai thằng con xinh xắn, xung quanh là cả một đám nhện đen lổm ngổm bò như một đám tín đồ hắc ám. Những quả chuối mà con khỉ độc ngồi lên trên được ràng với nhau bởi cái lưới nilông đựng chúng mà người ta đã cứ thế ròng xuống tàu. Khi con khỉ bước sang xuồng, đám chuối dập dềnh rồi lộn ngửa. Cái lưới tuột ra. Không suy nghĩ gì, chỉ vì thấy nó ngay gần và sắp chìm mất, tôi với tay túm lấy cái lưới và kéo lên xuồng, một việc ngẫu nhiên sau này đã cứu sống tôi nhiều lần. Cái lưới sẽ trở thành một trong những sở hữu quý giá nhất của tôi.

Những quả chuối tản ra. Bầy nhện bò như điên, nhưng tình thế của chúng là tuyệt vọng. Hòn đảo chuối tan rã dưới chân chúng. Chúng chết đuối hết cả. Trong giây lát, cái xuồng như trôi trên một biển chuối.

Tôi đã nhặt lên cái lưới mà tôi nghĩ là vô tích sự, nhưng lại không nghĩ đến việc nhặt những quả chuối kia. Thật vậy. Không một quả nào. Đó là một cuộc chia chác chuối theo nghĩa sai lầm nhất: biển cũng giải tán đám chuối ấy. Sự phí phạm khổng lồ ấy sau này khiến lòng tôi nặng trĩu. Tôi đã phải vật vã sầu muộn vì sự ngu ngốc của mình.

Nước Cam còn đang mù mịt như trong sương. Dáng điệu nó chậm chạp và dò dẫm. Mắt nó phản chiếu nỗi hoang mang tinh thần ghê gớm. Nó đang trong cơn choáng rất mạnh. Nó nằm thẳng đờ trên tấm bạt trong nhiều phút, im lìm, lặng lẽ, rồi rướn người lăn xuống lòng thuyền. Tôi nghe thấy con linh cẩu kêu thét lên một tiếng.

Dấu vết cuối cùng mà tôi nhìn thấy của con tàu là một vệt dầu loang lấp lánh trên mặt nước.

Tôi tin không phải chỉ có mình tôi. Không thể tưởng tượng được rằng con tàu Tsimtsum bị đắm mà không gây nên một chút quan tâm nào. Ngay lúc bấy giờ tại Tokyo, tại Panama City, Madras, Honolulu, và sao nữa, ngay cả ở Winnipeg, đèn đỏ đang reo, những cặp mắt trợn trừng sợ hãi, những cái miệng hổn hển thốt lên: Lạy Chúa! Tàu Tsimtsum đắm rồi! , và những bàn tay chộp vội lấy ống nghe điện thoại. Thêm nhiều nữa đèn đỏ nhấp nháy và thêm nhiều nữa chuông báo động réo lên. Phi công đang chạy đến máy bay, vội vã đến mức chưa kịp cả buộc dây giày. Sỹ quan trên các con tàu thủy thủ vặn tay lái đến chóng mặt. Cả những con tàu ngầm cũng lượn vòng dưới nước để tham gia cuộc cứu nạn. Chúng tôi sắp được cứu. Một con tàu sẽ xuất hiện trên đường chân trời. Một khẩu súng sẽ giết con linh cẩu và đưa con ngựa vằn thoát khỏi tình trạng khốn khổ của nó. Có thể con Nước Cam cũng sẽ được cứu thoát. Tôi sẽ trèo lên tàu và gặp lại gia đình tôi. Họ đã được người ta vớt lên từ một cái xuồng khác. Chỉ cần tôi làm sao sống sót được vài giờ nữa là tàu cứu nạn sẽ đến.

Tôi với xuống nhặt cái lưới, cuộn nó lại rồi ném nó xuống giữa tấm bạt để làm vật cản, cho dù thật cỏn con. Nước Cam hình như liệt hoàn toàn. Tôi đoán nó vẫn còn choáng. Chỉ có con linh cẩu làm tôi lo. Tôi có thể nghe tiếng nó rên rỉ. Tôi bám lấy hy vọng rằng một con ngựa vằn, vốn là mồi quen thuộc của nó, và một con khỉ độc, cũng có thể ăn được dù chưa quen, sẽ làm cho nó không nghĩ nhiều đến tôi.

Tôi để một mắt về phía chân trời, mắt kia về phía đuôi xuồng. Ngoài tiếng rền rĩ của con linh cẩu, tôi không nghe thấy gì nhiều từ phía mấy con thú, chỉ có vài tiếng móng cào lên một cái gì cứng và thảng hoặc có vài tiếng rên và tiếng kêu tắc nghẹn. Hình như không có đánh nhau gì giữa bọn chúng.

Giữa buổi sáng thì con linh cẩu lại xuất hiện. Mấy phút trước đó tiếng rền rĩ của nó đã to hẳn lên thành một tiếng kêu thét thật sự. Nó nhảy qua con ngựa vằn lên đuôi xuồng, nơi hai mặt ghế ở hai bên sườn xuồng liền với nhau thành một hình tam giác. Đó là một vị trí khá lộ liễu, khoảng cách giữa mặt ghế và mép xuồng chỉ độ 30 phân. Con vật lo lắng nhìn ra ngoài xuồng. Nước biển mênh mông lên xuống có vẻ khiến nó khiếp đảm, vì nó lập tức thụt đầu nhảy tọt xuống lòng xuồng ngay sau con ngựa vằn. Chỗ ấy rất hẹp, ép giữa cái lưng rộng bè của con ngựa vằn và sườn các thùng phao chạy suốt quanh xuồng dưới gầm ghế, cho nên con linh cẩu không thể nằm được. Nó vật vã một lúc rồi lại trèo lên đuôi xuồng, nhảy qua con ngựa vằn vào giữa xuồng, biến xuống dưới tấm bạt. Những việc đó diễn ra chưa đến mười giây đồng hồ. Con linh cẩu đã chỉ cách tôi chưa đầy 5 mét. Phản ứng duy nhất của tôi là cứng người lại vì sợ. Con ngựa vằn thì vội nghển đầu lên và sủa ầm ĩ.

Tôi hy vọng con linh cẩu sẽ ở lại dưới tấm bạt. Nhưng nào có được. Gần như ngay lập tức, nó lại nhảy qua con ngựa vằn lên cái ghế ở đuôi tàu. Nó đứng quay tròn trên mặt ghế, kêu ư ử, có vẻ chần chừ cái gì đó. Tôi đang đoán nó sẽ giở trò gì tiếp theo thì nhoáng một cái, nó chúi đầu chạy vòng quanh con ngựa vằn, biến cái ghế dài đuôi xuồng, ghế hai bên mạn và cái chạy ngang xuồng ngay sát tấm bạt thành một vòng đua dài khoảng 6 mét. Nó chạy một vòng – hai – ba – bốn – năm – và cứ thế chạy tiếp, không nghỉ, cho đến khi tôi không đếm được nữa. Và trong suốt thời gian ấy, vòng này qua vòng khác, nó kêu liên tục bằng một giọng the thé: yip yip yip yip yip. Một lần nữa, tôi phản ứng rất chậm chạp. Tôi sững người vì sợ và chỉ có thể ngó trân trân con thú. Nó chạy rất khỏe và đều. Nó chẳng bé nhỏ chút nào, nó đã là một con đực trưởng thành, trông phải nặng đến 70 cân. Chân nó dậm trên mặt ghế làm cả xuồng rung động, móng đập canh cách. Mỗi lần nó chạy khỏi phía đuôi xuồng là tôi lại căng thẳng. Nhìn con thú chạy về phía mình đủ làm tôi dựng tóc gáy, nghĩ đến cảnh nó cứ thế lao vào mình thì sợ vô cùng. Rõ ràng, Nước Cam, ở đâu thì ở, không thể cản đường nó được. Còn tấm bạt đã quấn lên một chút và cái cuộn lưới tôi đã ném lên đó thì còn là các vật phòng thủ thảm hại hơn. Nếu muốn là con thú có thể vọt lên mũi xuồng ngay sát chân tôi. Nhưng có vẻ nó không có ý định ấy. Lần nào chạy đến cái ghế ngang, nó cũng rẽ theo đó và tôi lại thấy cái lưng nó nhấp nhô rất nhanh dọc theo mép tấm bạt. Tuy nhiên, trong tình trạng này, hành động của con linh cẩu là không thể lường được và bất kì lúc nào nó cũng có thể bất ngờ tấn công tôi.

Sau nhiều vòng chạy, nó đột ngột dừng lại trên mặt ghế đuôi và phủ phục, đưa mắt nhìn chăm chăm xuống dưới gầm tấm bạt. Rồi nó ngước lên nhìn thẳng vào tôi. Vẻ nhìn gần như điển hình của loài linh cẩu – trống rỗng và thẳng thắn, rõ ràng là tò mò mà lại không để lộ một tâm trạng gì, hàm dưới trễ, đôi tai to dựng đứng, mắt sáng và đen tuyền – một vẻ căn thẳng ứa ra từ từng tế bào trên cơ thể, một nỗi khắc khoải khiến cho con thú bừng bừng lên như đang cơn sốt. Tôi chuẩn bị cho kết cục của mình. Nhưng chẳng có gì cả. Nó lại bắt đầu chạy vòng quanh.

Khi một con thú quyết định làm cái gì, nó có thể làm việc đó rất lâu. Suốt sáng, con linh cẩu chạy vòng tròn và kêu yip yip yip yip yip. Thỉnh thoáng nó dừng lại một tí trên cái ghế đuôi xuồng, còn thì vòng nào cũng hệt như nhau, không có thay đổi gì trong cách chạy, tốc độ, cao độ và âm lượng của những tiếng yip yip, hướng chạy ngược chiều kim đồng hồ. Tiếng yip yip của nó chói tai và khó chịu vô cùng. Nhìn nó chạy như thế mãi cũng phát chán và mệt mỏi, đến nỗi tôi phải quay đầu sang bên, chỉ hơi để mắt một chút đề phòng mà thôi. Ngay con ngựa vằn, lúc đầu cứ khịt lên ầm ĩ mỗi lần con linh cẩu chạy qua đầu, sau cũng nằm im lìm.

Thế mà cứ mỗi lần con linh cẩu dừng lại ở cái ghế đuôi xuồng, tôi lại thót tim. Cho dù đã cố chỉ để mắt về phía chân trời với hy vọng nhìn thấy một con tàu cứu nạn, tôi vẫn không thể ngừng để ý đến con vật điên khùng kia.

Tôi không có thành kiến với bất kỳ một con thú nào, nhưng rõ ràng con linh cẩu lông chấm này đã không được chăm sóc cẩn thận. Trông nó xấu đến mức không thể thương được. Cái cổ to và đôi vai so lại, chạy xuôi xuống thân sau của nó trông như mẫu một con hươu cao cổ mà tạo hóa đã phải bỏ đi, còn bộ lông thì tơi tả như chấp vá từ những phế thải của tạo vật. Mầu nó là một hỗn tạp vàng xỉn, đen, vàng chanh, xám, với những cái chấm không có chút gì như vẻ phô trương quý phái của bộ lông chấm xếp thành hình hoa hồng ở loài báo; chúng giống như triệu chứng của một căn bệnh ngoài da thì đúng hơn, như một chứng ghẻ lở ác tính của động vật. Cái đầu rộng bè và quá khổ, cái trán cao như trán gấu nhưng lại bị một đường chân tóc thụt lùi làm xấu mã, đôi tai giống tai chuột một cách nực cười, vừa to vừa tròn, mõm lúc nào cũng há thở phì phò. Lỗ mũi quá to. Đuôi thì xơ xác và chẳng ve vẩy lúc nào. Dáng điệu vụng về. Tất cả các bộ phận ấy lắp vào thành ra giống như chó, nhưng là một con chó không ai muốn nuôi làm bạn.

Song tôi vẫn không quên lời cha tôi. Đây không phải là những con thú hèn nhát chuyên ăn thịt chết. Nếu tạp chí National Geographic đã mô tả chúng như vậy thì đó là họ chỉ quay phim chúng vào ban ngày. Còn khi trăng lên thì ngày mới thực sự bắt đầu đối với linh cẩu, và chúng đã chứng tỏ là những con thú săn mồi đáng sợ. Linh cẩu tấn công theo bầy, bất kì con thú gì chúng có thể đuổi kịp, và xé xác con mồi ngay khi còn đang chạy. Chúng săn ngựa vằn, sơn dương, trâu nước, không phải chỉ những con già yếu, mà cả những con cường tráng trong bầy. Chúng tấn công dữ dội, luôn vùng dậy lập tức nếu bị con mồi đè hoặc đá ngã, không bao giờ bỏ cuộc vì thoái chí. Và chúng tinh khôn, thích săn những con thú vừa lọt lòng mẹ. Một con sơn dương mới được 10 phút tuổi là món ăn ưa thích nhất của chúng. Nhưng linh cẩu cũng ăn cả sư tử và tê giác non. Chúng chu đáo hết sức khi đã bắt được con mồi. Chỉ sau mười phút là cả một con ngựa vằn sẽ chỉ còn lại cái đầu lâu, cũng sẽ lại được lôi về hang để lũ con yên tâm gậm gạp. Không có gì bỏ phí; chúng ăn cả những đám cỏ đã dây máu của con mồi. Bụng linh cẩu phình ra rõ rệt khi chúng nuốt chửng những miếng mồi lớn. Nếu may mắn, chúng sẽ ăn nó đến độ lặc lè. Khi đã tiêu hóa, chúng ho ra những cục lông đặc sệt, liếm láp sạch những gì còn sót lại trên đó, rồi lăn người ra trên những cục lông ấy. Linh cẩu lỡ ăn thịt lẫn nhau khi mải mê cắn xé con mồi là chuyện thường. Khi chen vào ăn một con ngựa vằn chẳng hạn, một con linh cẩu có thể ngoạm đứt tai hoặc mũi một bạn bầy của nó, không hề có ý thù hằn gì. Linh cẩu không ghê tởm một lầm lỡ như vậy. Chúng có quá nhiều vui thú, không còn chỗ cho một cảm giác ghê tởm về bất cứ điều gì.

Trong thực tế, tính phóng khoáng trong thị hiếu ăn uống của linh cẩu là bất chi kì vị đến độ gần như bắt buộc người ta phải khâm phục. Một con linh cẩu sẽ uống ngay nước mà chính nó vừa đái vào. Nó còn dùng nước đái một cách rất đặc biệt: khi trời khô nóng, nó tự làm mát bằng cách đái xuống đất, lấy chân bới trộn thành một đám bùn rồi lăn mình nằm xuống đó. Linh cẩu ăn phân của các loài ăn cỏ với những tiếng chép miệng ngon lành. Vấn đề ở đây là linh cẩu sẽ tha không ăn cái gì? Chúng ăn thịt đồng loại (ăn nốt phần còn lại của những con mà chúng đã khai vị bằng các mẩu tai và mũi) khi con kia đã chết và để đó được một ngày. Chúng tấn công cả các loại xe cộ – đèn pha, ống xả, gương chiếu hậu. Bụng dạ tiêu hóa không phải là hạn chế của chúng, mà là vấn đề hàm răng chúng khỏe đến đâu mà thôi. Mà răng chúng thì thật đáng sợ.

Đó là con thú đang chạy vòng tròn ngay trước mặt tôi. Một con thú khiến tôi đau mắt và lạnh ruột.

Mọi thứ kết thúc theo kiểu linh cẩu điển hình. Nó dừng lại ở đuôi xuồng và bắt đầu phát ra những tiếng rên rỉ trầm đặc xen lẫn những cơn thở dốc nặng nề. Tôi dịch người mãi lên cho đến lúc chỉ còn đầu ngón chân là chạm vào xuồng. Con thú sặc sụa và ho khan. Rồi đột nhiên nôn thốc. Một bãi nôn rơi toẹt xuống đằng sau con ngựa vằn. Con linh cẩu ngã người xuống bãi nôn của mình. Nó ở đó, run bần bật, rên ư ử, xoay tròn tại chỗ, như khám phá cho hết các ngõ ngách của cơn đau khổ thú vật của mình. Nó không ra khỏi cái chỗ chật hẹp ấy nữa. Thỉnh thoảng, con ngựa vằn lại làm ầm lên một lúc vì con linh cẩu ở ngay sau nó, còn phần lớn thời gian ngựa vằn chỉ tuyệt vọng nằm im thin thít.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Mặt trời leo lên đỉnh ngày rồi lại bắt đầu xuống. Suốt hôm đó tôi vắt vẻo trên cái chèo, chỉ động cựa đủ để giữ thăng bằng. Toàn bộ con người tôi chăm chú đợi một cái chấm sẽ xuất hiện ở chân trời và đến cứu tôi. Một trạng thái chán chường căng thẳng, ngạt thở. Những giờ phút đầu tiên ấy trong kí ức tôi gắn liền với một tiếng động, không phải như bạn đoán đâu, không phải tiếng yip yip của con linh cẩu hoặc tiếng sóng biển gầm thét, mà là tiếng ruồi bay vo ve. Có ruồi trên xuồng thật. Chúng chui ra và bay quanh quẩn theo kiểu ruồi, nghĩa là thành từng quỹ đạo rộng lười nhác, trừ những khi chúng gặp nhau và xoắn xuýt đến chóng mặt theo các đường xoáy trôn ốc với tiếng vù vù phát thành từng cơn. Có những con ruồi dám bay cả về phía tôi. Chúng bay thành vòng xung quanh tôi, nghe như tiếng máy bay một động cơ quay vè vè, rồi lại ù té bay ra chỗ khác. Không biết chúng vẫn ở sẵn trên xuồng hay đã bám theo một con thú nào tới, có thể nhất chỉ là con linh cẩu. Dù ở đâu ra, chúng cũng không tồn tại lâu; chỉ hai ngày sau là không thấy con ruồi nào nữa. Con linh cẩu ở đằng sau con ngựa vằn đã đớp và nuốt chửng một số. Những con khác có thể đã bị gió thổi xuống biển. Biết đâu chẳng có một số ít may mắn được chết vì đã hưởng trọn tuổi đời.

Càng gần đến tối tôi càng khắc khoải lo âu. Cái gì liên quan đến đoạn ngày tàn cũng làm tôi sợ hãi. Một con tàu sẽ khó lòng nhìn thấy tôi trong bóng tối. Đêm đến, con linh cẩu có thể hoạt bát trở lại và có khi cả con Nước Cam nữa.

Màn đêm buông xuống. Không trăng. Mây che hết sao. Mọi vật đều không phân biệt được rõ ràng nữa. tất cả đều biến mất, biển cả, chiếc xuồng, cả đến thân thể tôi. Biển lặng và hầu như không có gió, nên tôi cũng không thể neo mình vào âm thanh. Dường như tôi đang nổi trôi trong một vòm đen ngòm tinh khiết và trừu tượng. Tôi đăm đắm nhìn về nơi mà tôi nghĩ là chân trời, trong khi dỏng tai cảm giác dấu hiệu của các con thú. Tôi không thể tưởng tượng đã sống qua được đêm đó.

Có những lần trong đêm, con linh cẩu bắt đầu gầm gừ và con ngựa vằn vừa sủa vừa rên ư ử, rồi tôi nghe có tiếng gõ cành cạch liên hồi. Tôi lẩy bẩy – và chẳng dám giấu nữa – vãi đái dầm dề cả ra quần. Nhưng những tiếng động ấy là ở phía đằng kia của xuồng. tôi không thấy có tí lắc lư nào do chuyển động gây nên. Con thú kinh hoàng kia rõ ràng có vẻ không mon men về phía tôi. Gần hơn trong bóng tối, tôi bắt đầu nghe những tiếng thở hắt, rên rỉ, gầm gừ và tiếng chép miệng nhoen nhoét. Tôi không dám nghĩ đến chuyện con Nước Cam đang động cựa. Chỉ đành lờ nó đi. Cũng có cả những tiếng động phát ra từ bên dưới tôi, ở dưới nước. Những tiếng đập nước và rẽ nước thoắt đến thoắt đi. Cuộc đấu tranh sinh tồn diễn ra cả dưới đó nữa.

Từng phút giây chậm chạp, đêm đó rồi cũng qua.

Tôi rét. Đó chỉ là một quan sát lạc đề, như thể nó chẳng can hệ gì tới tôi. Ngày rạng. Nó diễn ra nhanh chóng, nhưng vẫn theo từng mức độ không nhận ra được. Một góc trời chuyển màu. Không trung bắt đầu tràn ngập ánh sáng. Biển cả bình thản mở ra xung quanh tôi như một cuốn sách lớn lao. Nhưng vẫn cảm thấy như còn trong đêm. Thế rồi thình lình ngày tới.

Cảm giác ấm áp chỉ đến khi mặt trời trông như một trái cam có thắp đèn điện, nhô lên khỏi chân trời, nhưng tôi đã không phải chờ đến lúc ấy mới cảm thấy được. Nó đã sống dậy cùng vớ những tia sáng đầu tiên: hy vọng. Khi mọi vật dần hiện ra với đường viền và mầu sắc của chúng, niềm hy vọng đã dâng lên cho đến lúc thành một bài ca ấy mới kỳ diệu làm sao! Mọi thứ rồi sẽ đâu vào đấy. Cái tệ hại nhất đã qua rồi. Tôi đã sống được qua đêm. Hôm nay người ta sẽ cứu tôi. Nghĩ như thế, xâu từng chữ ấy vào nhau trong đầu, đã là một nguồn hy vọng. Hy vọng sinh hy vọng. Khi chân trời đã thành một đường thẳng gọn gàng sắc nét, tôi háo hức nhìn dọc theo nó. Ngày trong vắt và tầm nhìn hoàn hảo. Tôi tưởng tượng Ravi sẽ là người đầu tiên gọi chào tôi với một câu trêu ngươi. “Cái gì thế này?” Anh ấy sẽ nói. “Mày tìm được một cái xuồng vĩ đại và chất đầy thú vật lên đó ư? Mày tưởng mày là thánh Noah hay cái gì chứ?” Cha sẽ râu ria không cạo và trông rất chán đời. Mẹ sẽ ngước nhìn trời và kéo tôi vào lòng. Tôi điểm qua hàng trục cảnh khác nhau của những gì có thể sẽ diễn ra khi tôi đã ở trên tàu cứu nạn, các biến tấu của chủ đề đoàn tụ ngọt ngào. Sáng hôm đó, chân trời có thể cong theo một chiều, còn môi tôi thì cương quyết cong theo chiều của một nụ cười.

Nghe thì lạ đấy, nhưng đúng là mãi về sau tôi mới bắt đầu để mắt nhìn xem cái gì đang xảy ra trên xuồng. Con linh cẩu đã bắt đầu tấn công con ngựa vằn. Mồm nó đỏ chói và bắt đầu đang nhai một mẩu da ngựa. Mắt tôi tự động tìm kiếm vết thương, chỗ con ngựa bị tấn công. Tôi há hốc mồm vì khủng khiếp.

Cái chân gãy của con ngựa vằn không còn nữa. Con linh cẩu đã cắn nó rời ra và tha về cuối xuồng, ngay sau con ngựa. Một mảng da lủng lẳng dính trên cái mõm cụt vẫn còn chảy máu ròng ròng. Nạn nhân chịu nạn một cách kiên nhẫn, không có vật vã bộ tịch gì. Dấu hiệu đau đớn duy nhất của nó là hai hàm răng cứ chậm chạp đều đặn nghiến vào nhau liên tục. Một cảm giác choáng, quằn quại và căm giận tròa lên trong tôi. Tôi cảm thấy căm thù con linh cẩu đến cao độ. Tôi đã nghĩ cách giết nó bằng cách nào đó. Nhưng tôi chẳng làm gì được. Và nỗi căm giận của tôi cũng chẳng được là mấy. Tôi phải trung thực trong chuyện này. Tôi không đủ lòng thương xót con ngựa vằn được lâu. Khi chính cuộc sống của ta bị đe dọa, ý thức thương cảm bị cùn đi bởi một thèm khát sống đầy ích kỷ. Thật buồn là nó phải đau đớn đến thế – một sinh linh gặp tử nạn mà chưa được giải thoát – nhưng tôi đâu có làm được gì. Tôi thấy thương cảm, rồi lại lo việc mình. Tôi không thể tự hào về chuyện đó. Tôi phiền lòng vì mình đã ghẻ lạnh như vậy. Thực ra tôi nào có quên được con ngựa vằn khốn khổ ấy và những gì nó phải trải qua. Không có lần cầu kinh nào mà tôi không nghĩ đến nó.

Vẫn không thấy có dấu hiệu gì của con Nước Cam. Tôi lại đưa mắt về phía chân trời.

Chiều hôm đó gió có mạnh lên đôi chút và tôi để ý thấy một cái diều: cái xuống trôi nổi trên mặt nước rất nhẹ nhàng, rõ ràng vì chở nhẹ hơn tải trọng của nó. Còn nhiều chỗ trống trên xuồng, và khoảng cách giữa mặt nước và mép xuồng rất lớn, biển phải dữ dội lắm mới có thể đánh chìm được xuồng, nhưng cũng chính vì nhẹ tải như vậy mà xuồng cứ bị xoay ngang khi có gió, khiến cho mạn xuồng luôn luôn phải hứng các con sóng đập vào. Sóng nhỏ thì như thể có ai nắm tay liên tục đấm vào mạn xuồng, còn sóng lớn thì làm xuồng bập bềnh rất mệt khi nó bị lắc liên tục từ mạn này sang mạn kia. Chuyển động lắc liên tục ấy làm tôi say sóng.

Có lẽ tôi sẽ thấy đỡ hơn trong một tư thế khác. Tôi trườn xuống và dịch chỗ trở lại mũi xuồng. Tôi ngồi quay mặt đón sóng, toàn bộ phần còn lại của xuồng ở phía tay trái tôi. Tôi gần con linh cẩu hơn nhưng không thấy nó động cựa gì.

Đang khi hít thở thật sâu và tập trung vào việc ngăn chặn cơn say sóng thì tôi thấy Nước Cam. Tôi đã tưởng nó chọn một chỗ khuất dưới tấm bạt và gần mũi xuồng, càng xa con linh cẩu càng tốt. Nhưng không phải thế. Nó ở ngay bên một cái ghế bên sườn xuồng, sát cạnh con đường chạy vòng tròn của con linh cẩu và ngay sau chỗ tấm bạt được cuốn lên. Nó chỉ nhấc đầu lên độ hai phân gì đó thôi và ngay lập tức tôi nhìn thấy nó.

Không cưỡng nổi tò mò, tôi muốn nhìn nó rõ ràng hơn. Mặc dù xuồng lắc lư, tôi vẫn cố gượng quỳ được lên. Con linh cẩu nhìn tôi, nhưng không nhúc nhích. Nước Cam hiện ra. Nó nằm chúi và bám chặt lấy mép xuồng bằng cả hai tay, đầu gục hẳn xuống. Mõm nó há hốc, lưỡi thè lè. Rõ ràng nó đang thở dốc. Dù đang trong thảm trạng và đang mệt mỏi đến thế, tôi vẫn không nhịn được cười. Tất cả mọi thứ của con Nước Cam lúc bấy giờ chỉ đánh vần lên một chữ: say sóng. Trong đầu tôi vụt hiện lên hình ảnh một loài thú mới: loài đười ươi màu xanh lá cây hiếm hoi và thọa đi biển. Tôi trở lại tư thế ngồi của mình. Con thú đáng thương trông ốm yếu một cách rất người. Nhìn thấy đặc tính của người trong các con thú là một điều đặc biệt buồn cười, nhất là ở các loài khỉ vượn, là những tấm gương soi rõ rết nhất của chúng ta trong thế giới động vật. Chính vì thế mà chúng được ưa thích nhất trong các vườn thú. Tôi lại bật cười. Tô đưa tay lên ngực, ngạc nhiên về những cảm giác của mình. Lạ thật. Trận cưới ấy như một núi lửa hạnh phúc phụt lên trong tôi. Con nước cam không những làm tôi vui lên mà con lấy hết cả cơn say sóng của tôi về nó. Tôi thấy sảng khoái hẳn.

Tôi trở lại quan sát tỉ mỉ phía chân trời, hy vọng chứa chan.

Ngoài việc bị say sóng thảm hại, có một cái khác rất đáng chú ý ở con đười ươi Nước Cam: nó không bị thương tích gì. Và nó vẫn quay lưng ề phía con linh cẩu như thể cảm thấy có thể an toàn phớt lờ con này. Cái hệ sinh thái trên chiếc xuồng này quả là lung tung. Trong các điều kiện tự nhiên thì một con linh cẩu lông chấm và một con đười ươi không bao giờ có thể gặp nhau, vì linh cẩu thì không có ở Borneo mà đười ươi thì không có ở Châu Phi, nên không thể biết chúng sẽ ra sao khi chạm trán nhau. Nhưng với tôi thì dường như không thể có chuyện những con ăn quả ở cây và lũ ăn thịt ở đồng cỏ lại có thể chỉ biết ai ở chỗ người nấy và không thèm để ý gì đến nhau. Chắc chắn con linh cẩu sẽ ngửi thấy một con mồi ở con đười ươi, cho dù lạ miệng, một con mồi đáng nhớ vì các cục lông khổng lồ sẽ phải khạc ra sau đó, dù sao thì cũng ngon miệng hơn một cái ống xả của xe ô tô và đáng để mắt đến khi vào gần rừng cây. Đồng thời con linh cẩu chắc cũng cảm thấy có thể bị đười ươi ăn thịt và sẽ rất cảnh giác khi thấy một miếng sầu riêng bị ném từ trên cây xuống. Nhưng thiên nhiên lúc nào cũng đầy bất ngờ. Chưa chắc đã phải như vậy. Nếu dê có thể sống thân ái với tê giác, tại sao đười ươi và linh cẩu lại không thể? Đó sẽ là một tuyệt phẩm trong vườn thú. Sẽ phải có biển giới thiệu đàng hoàng. Tôi có thể thấy nó rõ ràng: “Công chúng thân mến, đừng lo gì cho những con đười ươi kia! Chúng ở trên cây vì chúng sống ở đó, không phải vì chúng sợ bầy linh cẩu lông chấm nọ. Hãy trở lại vào giờ ăn của chúng, hoặc lúc ác lặn khi chúng khát nước, các vị sẽ thấy chúng trèo từ trên cây xuống và đi lại dưới đất, tuyệt đối không bị linh cẩu quấy nhiều” Cha tôi sẽ ngạc nhiên phải biết.

Đâu đó vào buổi chiều, tôi thấy một đại biểu đầu tiên của loài vật sau này sẽ thành người bạn trung thành và thân thiết của tôi. Có tiếng va chạm và cọ sát vào vỏ xuồng. Rồi vài giây sau, gần ngay xuồng đến nỗi tôi có thể cúi xuống và bắt lấy được, thấy xuất hiện một chú rùa biển lớn, loại rùa mỏ diều, đang lười nhác quạt nước, đầu thò hẳn lên khỏi mặt nước. Nó có một vẻ gì đó có thể gọi là xấu tính nhưng lại thật hoành tráng. Một cái mai xù xì màu nâu vàng dài gần một thước với những đám tảo bám lỗ chỗ: bộ mặt mầu xanh lá cây sắn với cái mỏ quặp sắc nhọn, mắt đen xoáy chặt vào tôi. Vẻ nhìn của nó ngạo mạn và soi mói, giống một lão già khó tính đang có điều gì phiền muội trong lòng. Cái lạ nhất về con bò sát dưới nước chẳng hợp chút nào so với các con cá được thiết kế thon thả và trơn tru. Nhưng rõ ràng nó vẫn hoàn toàn hòa hợp với môi trường và chỉ có tôi mới cộc lệch chẳng ăn nhập được vào đâu. Nó quanh quẩn gần xuồng trong nhiều phút đồng hồ.

Tôi bảo con rùa, “ Hãy đi và nói với một con tàu rằng tao đang ở đây. Đi đi.” Nó quay đi và lặn mất tăm, cặp chân sau thay nhau đạp nước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Nơi hy vọng có những con tàu xuất hiện thì chỉ thấy những đám mây tụ lại, và ngày càng trôi thì nụ cười càng héo dần trong lòng tôi. Đêm đó là khủng khiếp nhất đời, hay là đêm nay? Nghĩ vậy có nghĩa gì đâu. Tôi đã có quá nhiều đêm khủng khiếp đến nỗi chẳng buồn chọn ra đêm nào là vô địch nữa. Dù sao, trong kí ức tôi, cái đêm thứ hai trên biển cả ấy là một đêm đau khổ ngoại hạng. Khác với nỗi khắc khoải lo âu đến lạnh người của đêm thứ nhất, nỗi đau khổ của đêm đó có vẻ điển hình hơn, một dạng đổ vỡ tinh thần với khóc lóc, buồn nản và tâm khảm đớn đau. Mà nó cũng khác với những đêm đau khổ sau này ở chỗ lúc bấy giờ tôi vẫn còn đủ sức để hiểu hết được chính những cảm xúc của mình. Cái đêm ghê gớm ấy lại còn được mở màn bằng một buổi chiều tà cũng ghê gớm chẳng kém.

Tôi đã để ý thấy sự có mặt của cá mập xung quanh xuồng. Mặt trời sắp bắt đầu hạ màn cho ngày hôm đó. Một màn trình diễn rực rỡ các mầu da cam và đỏ, một bản giao hưởng đa sắc vĩ đại, một bức tranh siêu nhiên, thực sự là một buổi hoàng hôn Thái Bình Dương hoành tráng, mà đâu có tác dụng gì đối với tôi. Bầy cá mập thuộc loài Isurus Oxyrinchus, thường gọi là mập makô – những con cá ăn thịt nhanh như cắt, mũi nhọn, với những cái răng dài chết người thò hẳn ra ngoài miệng. Chúng dài khoảng tám hai thước, có một con còn to hơn thế nữa. Tôi nhìn chúng, lo ngay ngáy. Con to nhất lao nhanh về phía xuồng như thể muốn tấn công, vây lưng nhô lên khỏi mặt nước hàng mấy trục phân, nhưng nó lại nhào xuống dưới và lướt qua gầm xuồng với một vẻ duyên dáng đáng sợ. Nó quay lại, lần này không đến gần như lần trước, rồi biến mất. Các con khác trong bầy lẩn quẩn lâu hơn, đến rồi đi ở những độ sâu khác nhau, có con lộ hẳn ra đến nỗi có thể với tay được, những con khác thì sâu hơn. Có cả loài cá khác, to có nhỏ có, đủ các màu, đủ các hình dáng khác nhau. Tôi đã có thể quan sát chúng kỹ hơn nếu không bị đánh động vì một chuyện khác: con Nước Cam đã nghển đầu lên.

Nó quay người và đưa hai cánh tay đặt lên trên tấm bạt với một động tác hệt như tôi và bạn sẽ làm khi khoác tay lên lưng một chiếc ghế bên cạnh mình để được thoải mái hơn. Nhưng rõ ràng đó không phải là mục đích của nó. Với một vẻ mặt buồn thăm thẳm và đầy than khóc, nó bắt đầu nhìn quanh, chậm chạp quay đầu bên này bên kia. Lập tức, sự giống nhau giữa người và vượn không còn đáng buồn cười nữa. Nó đã đẻ con trong hai vườn thú, hai con đực nay đã lên năm và lên tám và chúng là niềm tự hào của cả nó và chúng tôi. Rõ ràng là nó đang nghĩ đến hai đứa con khi đưa mắt tìm kiếm trên mặt biển, vô hình chung đang làm đúng những gì tôi đã làm trong suốt ba mươi sáu giờ qua. Nó nhìn thấy tôi và chẳng biểu lộ gì. Tôi chỉ là một con thú đã mất tất cả và chỉ còn lời hẹn với tử thần. Tâm trạng tôi suy sụp hẳn.

Thế rồi, với chỉ một tiếng gừ trong cổ họng để báo hiệu, con linh cẩu bắt đầu làm loạn. Nó đã không ra khỏi chỗ nằm chật chội của nó suốt cả một ngày. Nó đã đặt hai chân trước lên hông con ngựa vằn, rướn lên và đưa mõm ngoạm lấy một nếp da rách nhăn nheo. Nó giật thật mạnh. Một mảng da toạc ra khỏi bụng con ngựa vằn như giấy gói quà bị người ta bóc ra kêu soàn soạt, chỉ có điều kêu nhẹ hơn, vì là da và khó rách hơn. Máu lập tức phụt ra như suối. Vừa hí, vừa khịt mũi kêu rền rĩ, con ngựa vằn tỉnh lại để tự vệ. Nó rướn người lên trên hai chân trước và vươn cổ định cắn con linh cẩu, nhưng không với tới được. Nó lắc cái chân sau còn lại, chỉ có tác dụng làm tôi hiểu ra cái tiếng gõ cành cạch đêm hôm trước chính là tiếng cái móng cái chân này gõ vào mạn xuồng. Những cố gắng tự vệ của con ngựa vằn chỉ tổ làm cho con linh cẩu gầm gào cắn xé điên cuồng hơn. Nó đã gây một vết thương toang hoác ở sườn con này. Khi nó không còn thỏa mãn với những miếng đớp với từ sau lưng, con linh cẩu trèo hẳn lên lưng con ngựa vằn. Nó bắt đầu lôi ra từng khúc ruột và các phủ tạng khác. Không có thứ tự gì hết. Nó cắn chỗ này, nuốt chỗ kia, có vẻ ngợp vì bữa tiệc ê hề trước mõm. Sau khi nuốt chửng hết nửa bộ gan, nó bắt đầu kéo co cái dạ dày trăng trắng căng phồng như một trái bóng bơm hơi. Nhưng nặng quá, vả lại hông con ngựa nhô cao hơn bụng nó, rồi máu me nhầy nhụa trơn chân, con linh cẩu trượt hẳn vào bên trong thân thể nạn nhân của nó. Nó ngụp hẳn đầu và vai vào đám ruột gan con ngựa vằn, hai trân trước ngập đến tận gối. Nó rút người ra, rồi lại chúi vào. Cuối cùng thì nó đứng yên trong tư thế nửa trong nửa ngoài như vậy. Con ngựa vằn bị ăn sống từ bên trong. Nó phản kháng một cách gắng gỏi đang lịm dần. Máu bắt đầu ộc ra từ đằng mũi. Một đôi lần nó vươn cổ ngẩng đầu về phía trời xanh, như thể kêu xin thượng giới – một hình ảnh diễn đạt hoàn hảo nỗi khủng khiếp của giây phút ấy.

Nước Cam không thờ ơ trước cảnh đó. Nó đứng thẳng hết người lên mặt ghế. Đôi chân nhỏ không tương xứng tí nào với thân hình đồ sộ, nó như một cái tủ lạnh có những cái bánh xe bị vẹo. Nhưng với đôi cánh tay khổng lồ giơ lên không trung, trông nó thật ấn tượng. Sải tay nó lớn hơn cả chiều dài thân thể. Một bàn tay thõng trên mặt nước ở mép xuồng bên này, bàn kia vươn sang tận mép xuồng bên kia. Nó nhe răng, môi vén lên, những chiếc răng nhọn khổng lồ, và bắt đầu gầm rú. Một tiếng rú sâu thẳm, mãnh liệt, đầy ắp, đáng kinh ngạc ở một con thú vốn im lìm như hiêu cao cổ. Cả con linh cẩu và tôi đều giật bắn vì tiếng rú đó. Con linh cẩu khựng người lùi một bước. Nhưng không được lâu. Nó trân trân xoáy vào con Nước Cam một lúc, lông trên cổ và vai dựng ngược hết lên, và cái đuôi cũng dựng thẳng đứng lên trời. Nó lại trèo vào trong con ngựa vằn đăng hấp hối. Và ở đó, mõm ròng ròng những máu, nó đáp lại con Nước Cam bẳng một tiếng rú chói tai. Hai con thú chỉ cách nhau chưa đầy một thước, mõm há hốc đối mặt nhau. Chúng dồn hết sức lực vào tiếng hú của mình, thân thể run lên bần bật. Tôi có thể nhìn thấy cả tận sâu trong cổ họng con linh cẩu. Bầu khí quyển Thái Bình Dương, mới một phút trước còn đem lại những âm thanh rì rào thì thầm của biển cả, một giai điệu tự nhiên mà tôi sẽ gọi là êm dịu nếu được nghe trong những hoàn cảnh hạnh phúc hơn, lập tức tràn ngập cái âm thanh ghê gớm kia, giống như tiếng gào rú căm hờn của một trận quyết chiến, với những tràng đạn xé màng nhĩ của súng và đại bác và những loạt bom nổ như sấm sét. Tiếng rú của con linh cẩu lấp đầy các thang bậc trên mà tai tôi có thể nghe thấy. Tiếng rú trầm hùng của con Nước Cam lấp kín các thang bậc dưới, và đâu đó ở khoảng giữa là tiếng kêu của con ngựa vằn tuyệt vọng. Tai tôi đầy ắp. Không thể thêm gì vào đó. Không có một tiếng động nào có thể chen vào và được ghi nhận nữa.

Tôi bắt đầu run bắn lên không thể kiềm chế được. Tôi tin chắc con linh cẩu sắp nhào con Nước Cam.

Tôi không thể tưởng tượng sự việc có thể tồi tệ hơn, nhưng nó đã như vậy. Con ngựa vằn vằn sặc và phun cả máu xuống biển. Vài giây sau đã thấy những tiếng va đập vào thành xuồng. Nước biển bắt đầu sủi sùng sục vì cá mập xung quanh xuồng. Chúng đang tìm xem máu đó ở đâu ra, nguồn thức ăn rất gần với chúng. Đuôi chúng đập lên mặt nước, đầu chúng vọt hẳn lên. Cái xuồng bị tấn công liên tiếp. Tôi không sợ bị lật xuồng – tôi nghĩ bầy cá mập sẽ chọc thủng vỏ xuồng kim loại và đánh chìm chúng tôi.

Hai con thú giật nảy người và có vẻ hốt hoảng mỗi khi xuồng bị đâm mạnh, nhưng chúng không chịu bỏ công việc chính của mình là gầm rú vào mặt nhau. Tôi tin chắc màn võ mồm này sẽ biến thành cắn xé nhau thực sự. Nhưng nó lại đột ngột chấm dứt sau vài phút. Nước Cam, với những tiếng chép miệng và hục hặc trong cổ, quay đi chỗ khác, còn con linh cổ thì cúi đầu lui gót về đằng sau tấm thân đã bị băm vằm của con ngựa vằn. Bọn cá mập, không tìm thấy gì, thôi không đâm vào xuồng nữa và cuối cùng bỏ đi. Im lặng lại bao phủ tất cả.

Một mùi hôi thối khăn khẳn, trộn lẫn mùi đất, rỉ sắt và cứt đái, lơ lửng trong không khí. Chỗ nào cũng có máu, đọng dần thành một lớp vỏ đỏ sậm. Một con ruồi duy nhất vo ve quanh quẩn, nghe như hồi chuông báo hiệu mất trí. Không một con tàu nào, không có gì hết, xuất hiện ở chân trời ngày hôm đó, và bây giờ thì ngày đã tàn chiều rồi đây. Khi vần dương lẻn xuống khỏi chân trời, không phải chỉ là ngày ấy và con ngựa vằn đáng thương ấy đã chết, mà cả gia đình tôi nữa. Với hoàng hôn lần thứ hai, lòng không muốn tin vào sự thật đã bị thay thế bằng đau đớn và thương xót. Họ chết cả rồi; tôi không thể dối lòng nhau hơn nữa. Công nhận một điều như vậy thật mới ghê gớm làm sao! Mất anh là mất một người ta có thể san sẻ những kinh qua của cuộc đời, người sẽ đem cho ta chị dâu và cháu trai và cháu gái, những sinh linh sẽ khiến cho cây phả hệ của ta đâm nhánh sum suê. Mất cha là mất người chỉ bảo giúp đỡ ta, người nâng đỡ ta như thân đỡ cảnh. Mất mẹ, trời ơi, cũng giống như mất mặt trời trên đầu ta. Nó giống như – nhưng thôi, xin lỗi, tôi chẳng nên nói nữa. Tôi nằm vật xuống tấm bạt và khóc lóc đắng cay suốt đêm, vùi mặt vào hai cánh tay. Con linh cẩu thì gần như suốt đêm đó vẫn mải mê nhai, nuốt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Với những ai có thể phải rơi vào tình trạng khó xử như tôi lúc ấy, tôi xin được khuyến cáo một chương trình như sau:

1. Chọn một ngày sóng thấp nhưng đều đặn. Ta cần một mặt nước để trình diễn thật tốt khi xuồng có thể quay ngang đón sóng mà không bị lật.

2. Thả hết dây neo biển để trên xuồng ổn định và thoải mái nhất. Chuẩn bị nơi ẩn náu bên ngoài xuồng phòng khi cần đến (rất dễ có khả năng phải như vậy). Nếu có thể, hãy tạo ra phương tiện gì đó để che chắn thân thể. Bất kì thứ gì cũng có thể dùng để che chắn được. Ví dụ như quấn chăn hoặc quấn áo vào tay chân cũng là một dạng áo giáp tối thiểu.

3. Rồi đến phần khó làm: phải khiêu khích con vật. Nó sẽ có thể tấn công mình. Hổ, tê giác, đà điểu, gấu rừng, gấu nuôi – con gì thì con, vẫn phải khiêu khích được nó. Cách tốt nhất có lẽ là lân la ra mép lãnh thổ của mình rồi làm bộ xâm phạm vào phần ranh giới trung lập một cách ầm ĩ. Tôi đã làm như vậy: tôi ra chỗ mép bạt rồi vừa giậm chân xuống mặt cái ghế giữa xuồng vừa thổi còi nhè nhẹ. Điều quan trọng là tạo ra được một tiếng động nhất quán và dễ nhận ra để báo hiệu việc lấn chiếm của ta. Nhưng phải rất quan trọng. Cần phải khiêu khích con thú, nhưng chỉ đến mức độ như vậy thôi, chứ đừng để nó khùng lên và tấn công ta ngay lập tức. Nếu xảy ra chuyện đó thì lạy Chúa tôi, ta sẽ bị xé thành từng mảnh, giẫm bẹp, lòi gan nát ruột, và chắc là sẽ bị ăn thịt. Ta không muốn thế. Ta muốn con thú bị đánh động, hoang mang, khó chịu, bứt rứt không yên, nhưng không nổi máu giết người. Trong trường hợp nào cũng không được bước chân vào lãnh thổ của con thú. Cuộc xâm phạm của ta chỉ hạn chế ở động tác nhìn thẳng vào mắt nó và thổi còi đánh mõ mà thôi.

4. Khi con thú đã bị kích động, hãy làm sao để gây ra được một hành động xâm phạm biên giới. Một cách hữu hiệu, theo kinh nghiệm của tôi, là từ từ lùi về trong khi liên tục gây ra tiếng động. Nhưng phải đảm bảo là không rời mắt khỏi mắt con thú. Đến khi thấy nó đặt chân vào lãnh thổ của ta, hoặc thậm chí chỉ tiến vào vùng giáp ranh trung lập thôi, là ta đã đạt được mục đích. Đừng so đo kiểu luật sư xem nó đã đặt chân vào đâu, có đúng là đã vào lãnh thổ của ta chưa, mà phải lập tức đối đầu ngay. Vấn đề ở đây là làm cho con thú hiểu rằng người hàng xóm trên gác của nó đặc biệt khó tính trong chuyện ai ở nhà người nấy.

5. Một khi con thú đã xâm phạm vào lãnh thổ của ta, hãy dồn hết sức để tỏ rõ sự phẫn nộ của mình. Dù đã chạy khỏi xuồng hoặc còn đang trên phần lãnh thổ của ta trên xuồng, hãy bắt đầu thổi còi thật to và lập tức kéo dây rút các neo biển về. Hai hành động này cực kì quan trọng. Phải tiến hành song song và ngay điều khiển cho xuồng quay ngang với chiều sóng, ví dụ như một mái chèo, thì hãy dùng ngay lập tức. Xuồng phải quay ngang càng nhanh càng tốt.

6. Với một kẻ đắm tàu kiệt sức, thổi còi liên tục là một việc rất mệt, nhưng ta không được phép ngừng. Con thú phải liên hệ được cảm giác say sóng khó chịu của nó với tiếng còi đinh tai nhức óc của ta. Ta có thể trợ giúp việc này bằng cách đứng ở mũi xuồng, hai chân trên mép xuồng và đạp qua đạp lại để xuồng lắc mạnh hơn nữa theo chiều bị sóng tạt. Dù ta có nhô người đến đâu và xuồng có lớn đến mấy, tác dụng của việc đó thật đáng kinh ngạc. Tôi đảm bảo rằng chẳng mấy chốc chiếc xuồng sẽ lắc lư và tròng trành như Elvis Presley (1) vậy. Có điều phải thổi còi liên tục, và chớ làm quá để lật mất xuồng.

7. Ta phải làm việc đó liên tục cho tới khi con thú đã thực sự say sóng. Ta phải nghe được nó thở dốc và nôn khan. Ta phải thấy nó nằm bẹp dưới sàn xuồng, chân tay run rẩy, mắt trợn ngược, mồm miệng há hốc và lẩy bẩy. Trong suốt những giây phút đó, ta phải làm ù tai con thú bằng tiếng còi lanh lảnh chát chúa của ta. Nếu thấy mình cũng đã say sóng và buồn nôn, đừng phí phạm bãi nôn đó xuống biển. Đánh dấu lãnh thổ không gì tốt hơn một bãi nôn. Hãy nôn ra chỗ ranh giới lãnh thổ của mình.

8. Lúc con thú đã thực sự mệt mỏi và thuần lành, ta có thể dừng. Say sóng nhanh bị nhưng lại lâu tỉnh. Ta không nên làm quá. Không ai chết vì buồn nôn, nhưng nó làm nhụt ý chí sống. Lúc thấy đã đủ rồi, ta lại thả dây neo biển ra. Nếu con thú nằm vật ngay dưới nắng, hãy kiếm cái gì che cho nó, và làm sao để khi nó tỉnh lại sẽ thấy có nước uống ngay cạnh. Tốt hơn hết là khuấy vài viên thuốc chống nôn vào chỗ nước ấy nếu có. Tình trạng mất nước trong hoàn cảnh ấy có thể nguy hiểm đến tính mạng con thú. Còn không thì ta chỉ việc lẳng lặng rút về phần lãnh thổ của mình và để con thú nằm yên ở đó. Nước uống, nghỉ ngơi và thư giãn trên xuồng sẽ làm cho nó tỉnh táo trở lại. Nên để cho con thú đã hoàn toàn hồi phục trước khi tiến hành lại các bước từ một đến tám như vừa nói.

9. Phải huấn luyện cho đến khi con thú đã thiết lập được mối liên hệ khăng khít giữa tiếng còi và cảm giác buồn nôn chóng mặt rất mãnh liệt, và mối liên hệ ấy phải rõ ràng dứt khoát. Từ đó về sau, chỉ cần tiếng còi là đủ giải quyết các vụ xâm phạm và mọi hành vi không mong muốn khác của con thú. Chỉ cần một hồi còi chát chúa, ta sẽ thấy con thú run lên sợ hãi và nhanh chóng lui vào nơi kín đáo an toàn nhất trong lãnh thổ của nó. Một khi đã qua được giai đoạn huấn luyện này, việc dùng còi cần phải hạn chế và thận trọng.

Chú thích

(1) Ngôi sao nhạc rock của Mỹ, thành danh vì động tác lắc người đánh hông của mình. (ND)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Richard Parker được đặt tên như vậy là do một nhầm lẫn về thủ tục giấy tờ. Một con báo đen lúc ấy đang hoành hành trong huyện Khulna ở Bànladesh, ngay bên ngoài địa phận Sundarbans. Nó vừa bắt đi một bé con. Người ta chỉ tìm thấy một bàn tay nhỏ xíu của bé con vẫn còn dấu son trong lòng với vài cái hạt cườm bằng nhựa. Bé con là người thứ bảy bị ăn thịt trong vòng hai tháng. Và con thú ngày một liều lĩnh hơn. Nạn nhân trước đó là một người đàn ông đã bị nó tấn công ngay giữa ban ngày ngoài cánh đồng. Con thú tha ông ta vào rừng ăn gần hết cái đầu, gần hết thịt bên chân phải, và toàn bộ ruột gan. Xác ông ta treo trên một chạc cây. Dân làng đã rình suốt đêm ở gần đó, hy vọng làm cho con báo bị bất ngờ và giết nó, nhưng nó không xuất hiện. Bộ Lâm nghiệp thuê một tay súng săn chuyên nghiệp. Anh ta dựng một cái sàn nhỏ để nấp rình trên một cái cây gần song, nơi đã xảy ra hai vụ tấn công của con báo, và buộc một con dê vào một cái cọc cắm ở bờ sông. Người thợ săn rình trong nhiều đêm. Anh ta cho rằng con báo chỉ là một con thú đực già nua với hàm răng đã mòn, không còn khả năng bắt con mồi nào khó hơn là người. Nhưng anh ta gặp phải một con hổ khỏe, nhanh nhẹn. Một con hổ cái với một đứa con duy nhất. Con dê kêu be be. Lạ một điều là con hổ con, chỉ chừng ba tháng tuổi, chẳng để ý gì đến con dê. Nó chạy ù ra mép nước và uống lấy uống để. Mẹ nó theo sau. Đói và khát thì bao giờ khát cũng cấp bách hơn. Chỉ sau khi đã khát, con hổ mới quay sang con dê. Tay thợ săn có hai khẩu súng trường: Một lắp đạn thật, một lắp phi tiêu có thuốc gây liệt. Con hổ không phải là thủ phạm các vụ ăn thịt người, nhưng nó ở gần nơi cư trú của người quá và có thể sẽ đe dọa tính mạng của dân làng, nhất là vì nó có con nhỏ. Tay săn nhặt khẩu súng phi tiêu của mình lên. Anh ta kéo cò khi con hổ sắp vồ con dê. Con hổ dựng người lên, gầm gừ bỏ chạy. Phi tiêu gây liệt không có tác dụng êm ái như một tách nước trà, chúng nốc ao nạn nhân như một kiểu dốc một hơi cạn chai rượu mạnh. Con hổ lồng lộn cuống cuồng bỏ chạy. Tay săn dùng bộ đàm gọi phụ tá. Họ tìm thấy con hổ cách bờ sông chừng hai trăm thước. Nó vẫn còn tỉnh và hai chân sau đã liệt và không thể đứng vững trên hai chân trước được nữa. Nó không thể chạy khi hai thợ săn đến gần. Nó quay lại và giương móng lên, nhưng chỉ tổ mất thăng bằng và ngã xuống tại chỗ. Thế là vườn thú Pondicherry có thêm hai con hổ mới. Con hổ con bị tóm ngay gần đó, đang meo meo sợ hãi. Người thợ săn có tên là Richard Parker, hai tay bế nó lên rồi nhớ lại cảnh nó chạy ù ra mép nước uống lấy uống để, liền đặt tên nó là khát. Nhưng viên thư ký ở nhà ga tàu hỏa Howrah lại là một tay vừa cẩn thận vừa lẫn lộn. Anh ta làm tất cả giấy tờ chuyên chở hai mẹ con con hổ, chỗ nào cũng ghi rõ tên con hổ con là Richard Parker, còn người thợ săn bắt được nó thì có tên là Khát, và họ là Không Ghi Rõ. Cha tôi đã chặc lưỡi vui vẻ khi thấy sự nhầm lẫn này và thế là con hổ mang tên Richard Parker suốt đời.

Tôi không biết sau này anh chàng Khát Không Ghi Rõ có săn được con báo đen ăn thịt người hay không.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Nó sâu hơn một thước, rộng hơn hai thước rưỡi và dài tám thước, chính xác. Tôi biết vì các kích thước đó được in bằng chữ màu đen trên một cái ghế bên sườn. Còn in rõ là chiếc xuồng được thiết kế chở tối đa đến ba mươi hai người. Liệu chung xuồng với từng ấy người có vui thú không đây? Chúng tôi mới chỉ có ba mà đã chật đến thế. Cái xuồng có hình đối xứng, hai đầu đều tròn tròn khó phân biệt đầu đuôi. Nhận ra rằng đuôi vì có một cái bánh lái lắp cố định ở đó, chỉ như cái sống xuồng chạy nhô ra một tí. Còn đằng mũi thì, ngoài tôi ra, có một đoạn kéo dài thêm và kết thúc bằng một cái mũi có hình dáng buồn rầu, tẹt gí nhất trong lịch sử đóng tàu. Vỏ xuồng bằng nhôm đầy đinh tán và sơn màu trắng.

Đó là bên ngoài. Bên trong, nó không rộng như người ta tưởng vì có các hàng ghế hai bên các thùng phao. Ghế bên chạy dọc suốt chiều dài xuồng, nối với nhau ở hai đầu thành các đoạn ghế mũi và đuôi có hình gần như tam giác. Các mặt ghế này chính là mặt chính của các thùng phao gắn kín. Ghế chạy hai bên rộng chừng bốn mươi lăm phân, còn ở hai đầu thì quãng chính mươi phân. Vì vậy, khoảng trống lộ thiên của xuồng chỉ dài hơn sáu thước và rộng khoảng thước rưỡi. Nó tạo lên một lãnh thổ chừng mười thước vuông cho Richard Parker. Bắc ngang qua cái không gian đó là ba chiếc ghế dài nữa, kể cả cái đã bị con ngựa vằn đè gãy. Cái ghế ngang này rộng sáu mươi phân và cách đều nhau. Mặt ghế cách sàn xuồng sáu mươi phân. Nếu Richard Parker nằm dưới gầm ghế, nó chỉ có khoảng sáu mươi phân đó để xoay sở. Bên dưới tấm bạt thì nó có thêm khoảng ba mươi phân nữa, là khoảng cách giữa mui xuồng phủ bạt và mặt ghế, và như vậy có cả thẩy độ một thước không gian, may ra vừa vặn cho nó có thể đứng lên. Sàn xuồng phẳng phiu, lát các thanh gỗ hẹp có thể xử lý chống nước, và mặt bên các thùng phao thì vuông góc với sàn. Vì vậy, cái xuồng tròn tròn ở cả hai bên sườn và hai đầu, nhưng bên trong thì lại là một khối vuông hình chữ nhật, trông cũng là lạ.

Có vẻ như màu da cam – một màu hindu tốt lành – là màu của cuộc sống vì toàn bộ bên trong xuồng, tấm bạt và các áo phao, cái phao, mái chèo và hầu hết các thứ trên xuồng đều màu da cam cả. Cả cái còi bằng nhựa không có bi cũng thế.

Hai bên mũi xuồng có kẻ chữ Tsimtsum và Panama, chữ hoa kiểu La Mã đen nhánh và trần trụi.

Tấm bạt là loại vải bố cục rất chắc có phủ nhựa chống thấm, chạm phải một lúc là ráp ra. Nó được cuộn lại vừa qua khỏi cái ghế ngang giữa xuồng. Cho nên một cái ghế ngang thì vẫn được phủ dưới tấm bạt, trong chỗ ẩn nấp của Richard Parker; cái ghế ngang giữa thì lộ thiên nhưng ngay sát mép bạt; còn cái thứ ba thì gẫy gục dưới con ngựa vằn đã chết.

Có sáu cái lõng đón chèo, là những lỗ khoét hình chữ U trên mép xuồng, và năm mái chèo, vì tôi đã để rơi một cái khi cố đẩy Richard Parker ra khỏi xuồng. Ba cái chèo nằm trên một cái ghế bên, một cái nữa trên cái ghế đối diện, và một cái đang là cái mũi xuồng cứu nạn của tôi. Tôi không tin là có thể dùng chúng để chèo xuồng đi được. Cái xuồng này không phải là xuồng đua. Nó là một cấu trúc nặng và chắc nịch được thiết kế để nổi cho vững chứ không phải để vi hành. Giả dụ có ba mươi người cùng chèo thì may ra còn đi được chút đỉnh.

Tôi không thấy hết các chi tiết đó – và nhiều thứ nữa – ngay lập tức như vừa kể. Tôi đã thấy chúng dần dần, cần cái gì thì lại phát hiện thêm ra cái nấy. Cứ khi tôi rơi vào tình trạng thật khó khăn, không thấy tương lai đâu nữa, thì một cái gì đó, nhỏ thôi, lại hiện ra trong óc tôi dưới một ánh sáng mới mẻ. Nó không còn là thứ nhỏ bé ấy nữa, mà là một thứ quan trọng nhất trên thế giới sẽ cứu sống tôi. Điều đó lặp lại nhiều lần. Quả thực người ta bảo cái khó ló cái khôn, quả thực là vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Nhưng lần đầu tiên quan sát kĩ cái xuồng thì tôi chưa nhìn ra chi tiết mình cần cả. Mặt ghế chạy liên tục từ đuôi sang hai bên xuồng, cũng như cái vách đứng của các thùng phao. Mặt sàn nằm phẳng phiu sát đáy xuồng; không thể có khoang giấu đồ bên dưới, chắc hẳn không có một hộc tủ, một cái thùng hay bất kỳ thứ gì đựng đồ ở chỗ nào trên xuồng. Chỉ thấy các bề mặt nhẵn thin liền liền nhau mầu da cam.

Tôi đâm ra nghi ngờ khả năng của các thuyền trưởng và đám nhà thầu. Hy vọng sống sót của tôi lụi dần. Chỉ có cơn khát là y nguyên.

Nhưng biết đâu đồ dự trữ họ để ở mũi xuồng, bên dưới tấm bạt thì sao? Tôi quay người bò trở lại, cảm thấy mình là một con thằn lằn đang chết khô. Tôi dúi mạnh tấm bạt. Nó rất căng. Nếu cuộn được nó lên, tôi sẽ với được đồ dự trữ có thể cất ở phía dưới. Nhưng có nghĩa là sẽ tạo ra một cái cửa xuống sào huyệt của Richchard Parker.

Thây kệ. Cơn khát thúc giục tôi. Tôi rút nhẹ cái chèo ra khỏi bên dưới tấm bạt. Tôi quàng cái phao vào người. Tôi đặt cái chèo nằm ngang trên mũi xuồng. Tôi tì lên mui xuồng và dùng ngón tay cái cố ấn cho cái dây chằng bạt tuột ra khỏi một cái móc. Thật khó khăn. Nhưng sau cái móc đầu, cái thứ hai đã dễ dàng hơn và cái thứ ba còn dễ nữa. Tôi làm như vậy ở phía bên kia mũi xuồng. Tấm bạt chùng xuống dưới khuỷu tay tôi. Tôi nằm bẹp ở trên, hai chân chĩa về phía đuôi xuồng.

Tôi cuốn tấm bạt lên một chút. Ngay lập tức được đền bù công sức đã bỏ ra. Cũng như đằng đuôi, mũi xuồng cũng có ghế. Và trên mặt ghế, chí cách mũi xuồng độ dăm bảy phân, là một cái chốt cửa sáng óng ánh như kim cương. Nhìn rõ đường viền của một cái nắp đậy. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Tôi cuốn tấm bạt thêm một chút nữa. Tôi ghé xuống nhìn. Cái nắp hình chữ nhật có bốn cạnh lượn tròn, rộng chín mươi phân và sâu tám mươi phân. Đúng lúc đó tôi nhận ra một khối to màu da cam. Tôi thụt ngay đầu lên trên. Nhưng cái đám da cam ấy không động đậy, và trông nó không ra sao. Tôi lại thò đấu xuống. Không phải đó là con hổ mà là một cái áo phao cấp cứu. Có một lô áo phao ở sau sào huyệt của Richard Parker.

Một cơn ớn lạnh chạy khắp người tôi. Giữa các áo phao đó, như thế giữa một đám lá cây, tôi nhìn thấy rõ ràng lần đầu tiên hình ảnh thấp thoáng của Richard Parker. Tôi thấy rõ hai cái vai nhô lên và một phần lưng của nó. Vằn vện nổi bật và kềnh càng trước mắt. Nó nằm sấp, quay mặt về phía đuôi xuồng. Nó nắm im, chỉ thấy hai bên sườn phập phồng theo nhịp thở. Tôi hấp háy mắt, không thể tin rằng nó gần tôi đến thế. Nó ngay kia, dưới tôi chỉ năm sáu mươi phân. Tôi có thể với tay cấu đít nó được. Giữa chúng tôi chỉ là một tấm bạt mỏng.

“Thượng đế hãy thương lấy con!” Không có lời nguyện nào lại thống thiết mà nhỏ nhẹ như vậy trong hơi thở của tôi. Tôi nằm bất động tuyệt đối.

Tôi phải có nước uống. Tôi đưa tay xuống và lẳng lặng gỡ cái chốt. Tôi kéo cái nắp lên.

Thì là một cái tủ hẳn hoi.

Tôi đã nhắc đến chuyện nhận ra những chi tiết cứu mạng. Đây là một: bản lề của cái nắp tủ chỉ cách mép ghế vài phân – có nghĩa là khi mở lên, nó sẽ thành một cái vách ngăn kín hết khoảng trống ba chục phân giữa mặt ghế và mui xuồng che bạt, chắn giữa tôi với đống áo phao rồi đến chỗ Richard Parkẻ. Tôi mở cái nắp lên cho đến khi nó dựa được vào cái chèo bắc ngang mui và mép bạt. Tôi chuyển mình lên trên sống mũi xuồng, quay mặt vào trong, một chân đặt lên mép cái tủ đã mở nắp, chân kia lên cái nắp đã mở. Nếu Richard Parker định tấn công tôi từ phía dưới, nó sẽ phải đẩy cái nắp. Tôi sẽ biết ngay và đủ thời gian rút lên và nhào ngửa người xuống biển với cái phao. Nếu nó đi đường khác, trèo lên trên tấm bạt từ phía đuôi xuồng, tôi sẽ nhìn thấy nó ngay từ sớm và cũng kịp nhào xuống biển. Tôi nhìn quanh xuồng. Không thấy có cá mập.

Tôi ngó xuống giữa hai chân. Tôi tưởng mình sẽ ngất đi vì sung sướng. Cái tủ lấp lánh toàn những thứ mới tinh, bóng nhoáng. Chao ôi, niềm khoái lạc của sản phẩm công nghiệp, những vật dụng do chính con người làm ra, những sáng tạo phẩm! Cái giây phút phát ngộ vật chất ấy đem lại một khoái cảm mãnh liệt – một trộn lộn chóng mặt của hy vọng, ngạc nhiên, ngỡ ngàng, ngây ngất, và lòng biết ơn, tất cả nghiền vào một món quà – hay hơn bất kì món quà nào khác mà cả đời tôi đã được nhận trong các dịp giáng sinh, sinh nhật, cưới xin, và các kì lễ lạt khác. Tôi thực sự hoa mắt chóng mặt vì hạnh phúc.

Mắt tôi lập tức nhìn thấy cái đang tìm. Cho dù đóng chai, đóng hộp kim loại hay hộp giấy, bao bì nước uống không có thể nhầm lẫn được. Trên cái xuồng cứu nạn ấy, món rượu vang của sự sống được cung phụng trong các hộp kim loại mầu vàng nhạt nằm vừa khít tay. Nhãn hiệu bằng chữ đen để rõ Nước uống. Tên công ty sản xuất: HP Foods Ltd. 500 mili lít một hộp. Có hàng dãy hộp như thế. Nhiều quá không thể liếc một cái mà đếm hết ngay được.

Tay run lẩy bẩy, tôi với xuống nhặt lên một hộp. Vừa sờ vào đã mát lạnh và nặng trĩu tay. Tôi lắc nó. Các bọt khí bên trong phát ra tiếng kêu ọc ọc ọc. Tôi sắp sửa được cứu thoát khỏi cơn khát hỏa ngục này. Mạch tôi rộn lên với ý nghĩ đó. Tôi chỉ việc mở cái hộp nước.

Tôi dừng lại. Mở nó thế nào đây?

Tôi có một cái hộp – chắc tôi phải mở được nó chứ? Tôi nhìn vào tủ. Có biết bao nhiêu là thứ. Tôi lục lọi. Tôi mất bình tĩnh. Kì vọng lắm tất thất vọng nhiều. Tôi phải uống ngay bây giờ, nếu không tôi sẽ chết. Tôi không thể tìm thấy cái dụng cụ mình muốn. Nhưng không thể mất thời giờ buồn bực. Cần phải hành động. Dùng móng tay được chăng? Tôi thử. Không thể được. Dùng răng chăng? Thử cũng vô ích thôi. Tôi nhìn lên mép xuồng. Những cái móc bao bạt. Ngắn, cùn, chắc chắn. Tôi quỳ lên mặt ghế và nghiêng người ra ngoài. Giữ cái hộp bằng cả hai tay, tôi thúc mạnh nó lên vào một cái móc. Một vết lõm kha khá. Tôi thúc cái nữa. Thêm một vết lõm nữa. Cứ thế tôi làm thủng cái hộp. Một hạt châu nước xuất hiện. Tôi liếm nó luôn. Tôi quay cái hộp và thúc đầu kia lên móc. Tôi thúc như quỷ. Tôi đục được một cái lỗ to hơn. Tôi ngồi lại xuống mũi xuồng. Tôi giơ cái hộp lên trên mặt. Tôi há miệng. Tôi nghiêng hộp.

Có thể tưởng tượng ra những cảm giác của tôi lúc đó, nhưng khó có thể mô tả chúng. Theo nhịp ừng ực của cổ họng tham lam, dòng nước tinh khiết, ngon lành, đẹp đẽ và trong vắt như pha lê chảy vào cơ thể tôi. Nước của sự sống, đúng thế. Tôi dốc cạn cái chén vàng ấy cho đến giọt cuối cùng, mút mát cái lỗ thủng cho thật hết cả những ẩm ướt còn lại. Tôi thốt lên “Aaaaaaaa!”, ném cái hộp xuống biển và lấy một hộp nữa. Tôi mở nó cũng như cái hộp kia và nốc cạn nó cũng nhanh chẳng kém. Rồi lại quẳng nó xuống biển và mở một hộp khác. Cũng lại nhanh chóng bị ném xuống biển. Rồi lại thêm một hộp nữa. Tôi uống hết bốn hộp, hai lít thuốc trường sinh tuyệt vời nhất, rồi mới chịu thôi. Người ta sẽ nghĩ uống vội vàng sau khi đã chịu khát kéo dài như thế có thể sẽ làm đảo lộn cơ thể. Nhảm nhí cả! Tôi chưa bao giờ thấy dễ chịu như vậy. Cứ sờ lông mày tôi thì thấy! Trán tôi ướt đẫm những giọt mồ hôi tươi mới, sạch sẽ và mát lạnh. Mọi thứ trong tôi, đến tận các lỗ chân lông, đều biểu lộ vui mừng.

Cảm giác khỏe khoắn nhanh chóng đến với tôi. Mồm miệng tôi ẩm và mềm mại. Quên sạch cả cái cổ họng. Da cũng mềm đi, các khớp cử động dễ dàng. Tim tôi bắt đầu đập như một cái trống vui mừng và máu bắt đầu chảy qua huyết mạch như đoàn xe đám cưới inh ỏi bóp còi chạy qua các thành phố. Sức lực và phản xạ nhanh nhạy trở lại trong cơ bắp tôi. Đầu óc tôi sáng suốt hẳn ra. Quả thực, tôi vừa từ cõi chết trở về. Vinh hiển thay! Để tôi nói bạn nghe, say rượu là một điều xấu hổ, nhưng say nước là một niềm si cuồng đáng quý. Trong nhiều phút đồng hồ, tôi đắm mình tận hưởng đến cùng.

Rồi tôi cảm thấy một cái gì đó trống rỗng. Tôi sờ bụng. Một cái hõm sâu cứng nhắc. Có cái gì ăn thì tốt. Một đĩa chả chay mềm có rưới nước sốt dừa! Một đĩa cary rau đậu! Ôi chao! Tôi đưa cả hai tay lên miệng – hoặc giá được một đĩa bánh bột lọc mẹ vẫn làm! Nghĩ đến đó, hai hàm răng tôi bỗng đau lên và nước bọt ứa ra xối xả. Bàn tay phải tôi bắt đầu xoay xoay. Nó cứ thế bốc những miếng bánh tròn bèn bẹt làm bằng bột lọc trong trí tưởng tượng. Nó để các ngón tay tha hồ bấm sâu vào làn bột mềm nóng hổi… Nó nắn, vê một cái bánh thấm đẫm nước sốt… Nó đưa cái bánh ấy lên miệng… Tôi nhai… Ôi chao, thật đau đớn mà cũng thật tuyệt diệu.

Tôi sục vào cái tủ. Tôi tìm thấy nhiều hộp giấy đựng các suất đồ ăn cấp cứu tiêu chuẩn của hãng Seven Seas, làm tận Bergen, Na Uy. Mỗi suất đề là có thể bù cho chín bữa chưa được ăn gì, từng gói nửa ký, chắc nịch, đóng gói chân không trong giấy nhựa mầu bạc có in chi chít các hướng dẫn sử dụng bằng mười hai thứ tiếng. Bằng tiếng Anh, hướng dẫn nói suất ăn này có mười tám cái bánh quy làm bằng bột mì nướng, mỡ động vật và đường glucô, không được ăn quá sáu cái trong vòng hai mươi bốn giờ. Khổ nhất là nó cả mỡ động vật. Nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt như thế, cái phần chay tịnh trong con người tôi chỉ có cách bịt mũi mà ăn đại đi thôi.

Trên gói có chỗ đề: Bóc ở chỗ này để mở, với một cái mũi tên đen chỉ vào mép nhựa. Tôi xé toạc chỗ đó ra. Chín cái gói vuông vắn bọc gói nên rơi ra. Nó tự động tách làm đôi. Hai cái bánh quy gần như vuông vắn, màu nhạt, mùi thơm. Tôi cắn một cái. Lạy Chúa tôi, ai mà biết được. Tôi không tưởng tượng nổi. Tôi vừa khám phá một bí mật: đồ ăn Na Uy là ngon nhất thế giới! Những cái bánh quy ấy ngon một cách kỳ lạ lùng. Chúng vừa đậm đà thơm ngon vừa tinh tế, không ngọt quá cũng không mặn quá. Chúng vỡ ra giữa hai hàm răng với một tiếng động giòn tan. Trộn với nước bọt, chúng thành một thứ bột bánh vẫn còn độ rất vừa vặn. Và khi tôi nuốt, bụng tôi chỉ còn biết reo lên một chữ: Hallelujuah! ( 1 )

Cả hộp hết veo trong vòng vài phút, giấy gói tơi tả bay theo gió. Tôi định mở một hộp nữa, nhưng lại thôi. Kiềm chế một chút bao giờ cũng tốt. Hơn nữa, với nửa ký thức ăn cấp cứu trong bụng, tôi thấy no thực sự.

Tôi quyết định phải biết rõ có những thứ gì trong cái hòm châu báu của mình. Đó là một cái tủ to, trong lòng rộng hơn phạm vi cái nắp nhiều, vào hẳn đến vỏ xuồng và lan ra đến quá vị trí của hai cái ghế bên một chút. Tôi thò cả hai chân xuống lòng tủ và ngồi trên mép nó, lưng dựa vào cái sống nhô ra của mũi xuồng. Tôi đếm các hộp Seven Seas. Tôi đã ăn mất một, vẫn còn ba mươi hộp nữa. Theo như hướng dẫn, mỗi hộp 500 gram là đủ dinh dưỡng cho một người sống được ba ngày. Có nghĩa là tôi có đủ thức ăn dự trữ để sống trong 31 nhân 3 là chín mươi ba ngày! Hướng dẫn cũng khuyên chỉ nên uống nửa lít nước một ngày. Tôi đếm các hộp nước. Có một trăm hai mươi tư hộp. Mỗi hộp nửa lít. Vậy là tôi có đủ nước uống trong một trăm hai mươi tư ngày. Chưa bao giờ những phép tính số học đơn giản lại đem đến cho tôi một niềm hỉ hả như vậy.

Còn những gì nữa nào? Tôi hăm hở khoắng tủ và mang ra hết thứ này đến thứ khác, cái gì cũng kì diệu cả. Tôi thêm bạn đồng hành và cảm giác được an ủi đến xót xa và mỗi khi chăm chú nâng một món đồ ấy trên tay, chúng không còn là hàng hóa được sản xuất hàng loạt nữa mà trở thành một cái gì đó thật đặc biệt và chỉ cho riêng tôi. Tôi lẩm bẩm luôn mồm: “Cám ơn! Cám ơn! Cám ơn!”

Ghi chú

( 1 ) Hallelujuah: Câu ngợi ca Chúa của người Cơ đốc giáo ( ND )
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Cái ngày tôi ước chừng là sinh nhật mẹ, tôi hát Happy Birthday rất to để mừng mẹ.

Tôi đã tập được thói quen dọn dẹp sạch sẽ cho Richard Parker. Ngay khi tôi biết nó vừa đi ngoài xong, tôi ra tay ngay, một việc làm nguy hiểm bao gồm động tác kều đống phân của nó ra bằng cái lao móc cá rồi từ mui bạt hót đống phân đó đi. Phân thú có thể nhiễm các loại kí sinh trùng. Điều này không sao đối với thú vật sống ngoài hoang dã vì chúng rất ít khi ở gần và không có quan hệ dính líu gì với phân của mình. Các loài sống trên cây hầu như không nhìn thấy phân của chúng. Các loài sống dưới đất thường phóng uế trên đường đi tiếp ngay. Nhưng trong khuôn viên nhỏ hẹp của một vườn thú thì khác. Nếu không dọn phân thú trong chuồng, chúng sẽ bị nhiễm trùng vì thế nào chúng cũng ăn hết số phân đó. Thú vật đói thường ăn tất cả những thứ gì giống thức ăn được. Cho nên chuồng thú được dọn sạch sẽ, không phải chỉ vì chiều mũi ngửi của thức ăn mà thôi. Nhưng trong hoàn cảnh của tôi, việc duy trì danh tiếng sạch sẽ của gia đình Patel trong nghề vườn thú không phải là điều tôi quan tâm. Sau vài tuần Richard Parker táo bón và chỉ thấy nó đi ngoài mỗi tháng một lần, cho nên việc dọn vệ sinh của tôi chẳng đáng gì theo quan điểm vệ sinh. Nhưng có một lí do khác khiến tôi làm việc đó. Lần đầu tiên Richard Parker đi ngoài trên xuồng, tôi để ý thấy nó loay hoay cố giấu phân của mình đi. Tôi thấy ngay ý nghĩa quan trọng của hành vi đó. Trưng phân của mình ra công khai, bất kể hôi thối, là dấu hiệu của ý thức trên trướng và áp đảo trong xã hội loài vật. Còn ngược lại, cố giấu giếm phân là dấu hiệu thoái bộ và nhún nhường. Nó đã có thái độ ấy đối với tôi.

Có thể thấy là nó bồn chồn khi thấy tôi lấy phân của nó. Nó nằm, đầu ngửa ra sau và hai tai áp sát vào sọ, phát ra tiếng gầm gừ liên tục và âm thầm. Tôi tiến hành côn việc rất công khai mà cũng rất thận trọng, không phải chỉ để phòng thân, mà còn muốn gửi đến nó những tín hiệu rõ ràng. Tín hiệu mạnh mẽ nhất là lúc tôi đã cầm cục phân nó trong tay. Tôi lăn cục phân trong tay mấy lần, đưa lên sát mũi và hít thành tiếng ầm ĩ, liếc nhìn nó vài ba lần một cách thách thức, mắt trợn tròn (ôi, giá nó biết là vì sợ) xoáy vào nó cho tới lúc nó đã nhận ra được quyết tâm của tôi, nhưng không quá lâu đến nỗi khích động nó. Và mỗi lần đưa mắt sang nó, tôi lại thổi lên một hồi còi đầy đe doạ. Làm như thế, tấn công nó bằng mắt kiểu ấy (bởi vì thực ra là loài vật cũng như chúng ta, nhìn chằm chằm vào một hành động tấn công) và rúc còi kiểu ấy, tôi đã làm cho Richard Parker thấy rõ ràng tôi có quyền, quyền hành của một đấng tiên chủ, muốn cầm nắn và ngửi hít phân của nó lúc nào cũng được. Cho nên, không phải là tôi định làm nhiệm vụ vệ sinh vườn thú, mà là đe doạ tâm lí. Và việc đó có hiệu quả tốt. Richard Parker không bao giờ dám nhìn lại vào mắt tôi; cái nhìn của nó bập bềnh trên không trung, không bao giờ đặt vào tôi hoặc liếc ngang qua tôi. Khi tôi cầm nắn cục phân nó trong tay, tôi cảm thấy như quyền uy của mình đang được hình thành. Việc đó luôn luôn làm tôi kiệt sức vì căng thẳng, nhưng cũng vô cùng phấn khích.

Vì ta đang trong chủ đề này, nên tôi cũng muốn kể luôn rằng bản thân tôi cũng đã táo bón chẳng kém gì Richard Parker. Đó là do thức ăn, có quá ít nước và quá nhiều đạm.

Với tôi, việc đi ngoài mỗi tháng một lần thật chẳng dễ chịu chút nào. Đó là một sự kiện đau đớn, khổ sở và kéo dài lê thê cho đến lúc người tôi đẫm mồ hôi và mệt đến đứt hơi. Quả thật còn khổ hơn một cơn sốt cao nhiều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Tôi ngủ suốt sáng. Rồi tôi thức dậy vì lo lắng. Đồ ăn, nước uống và nghỉ ngơi đã như một ngọn triều dâng lên trong cơ thể đang suy yếu đi của tôi, mang cho tôi một sức sống mới, nhưng đồng thời cũng làm cho tôi đủ tỉnh táo để nhận ra tình trạng tuyệt vọng của mình. Tôi tỉnh dậy để nhớ ra Richard Parker. Có một con hổ trên xuồng. Không muốn, nhưng phải tin đó là sự thật. Và tôi phải cứu mạng mình như thế nào đây.

Có thể nhảy xuống biển và bơi đi, nhưng cơ thể tôi không chịu nhúc nhích. Tôi đang cách đất liền hàng trăm dặm, có khi hàng nghìn dặm cũng nên. Tôi không thể bơi xa như vậy, có phao cũng thế thôi. Rồi ăn gì, uống gì? Làm sao ngăn cá mập? Làm sao cho khỏi rét mướt? Mà biết bơi theo hướng nào? Không thể nghi ngờ một tí gì nữa: Rời khỏi xuồng có nghĩa là chết. Nhưng ở lại xuồng thì sao? Nó sẽ mò sang tôi như một con mèo điển hình, không một tiếng động. Chưa kịp biết thì nó đã ngoạm chặt lấy gáy hoặc cổ họng và tôi sẽ bị xuyên thủng với những lỗ răng nanh. Tôi sẽ không kịp nói gì hết. Dòng sinh huyết sẽ rời bỏ thân thể tôi không một lần trăng trối. Hoặc giả nó sẽ dùng móng vuốt ấy để quật chết tôi, bẻ gẫy cổ tôi.

“Ta chết mất thôi”. Tôi lắp bắp, môi run bắn.

Biết mình sắp chết đã đủ khủng khiếp rồi. Nhưng khủng khiếp hơn là biết mình sắp chết mà lại còn thời gian để thấy rõ những hạnh phúc mình đã có và có thể đã có. Ta thấy tất cả những gì mà ta đang mất, rõ mồn một. Những hình ảnh đó dìm ta vào một nỗi đau đớn mà không có một cỗ xe nào sắp đâm chết ta hoặc một làn nước nào sắp dìm chết ta có thể so sành được. Cái cảm giác ấy thật sự không thể chịu nổi. Những từ Cha, Mẹ, Ravi, Ấn Độ, Winnipeg đâm vào tôi buốt nhói đến xé lòng.

Tôi đang định đầu hàng. Và chắc chắn đã đầu hàng rồi, nếu không có một tiếng nói bỗng vọng lên trong đầu tôi. Tiếng ấy nói: “Ta sẽ không chết. Ta không chấp nhận cái chết. Ta sẽ qua được cơn ác mộng này. Ta sẽ chiến thắng mọi rủi ro, cho dù chúng lớn đến mấy. Ta đã sống được cho đến bây giờ, một cách thần kỳ. Ta sẽ biến điều thần kỳ ấy thành lệ thường. Điều không thể tin được sẽ đến với ta hàng ngày. Ta sẽ làm tất cả những gì cần thiết. Đúng vậy, chừng nào Thượng Đế còn ở bên ta, ta sẽ không chết. Amen.”

Tôi làm mặt nghiêm nghị và cương quyết. Tôi không dám nói ngoa, nhưng quả thực vào lúc đó tôi mới phát hiện ra rằng mình có một ý chí sống thật mãnh liệt. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy đó không phải là một điều hiển nhiên. Có nhiều người trong số/ chúng ta chịu bỏ cuộc chỉ với một tiếng thở dài. Những người khác đã chiến đấu chút đỉnh, rồi mất hy vọng. Nhưng một số khác nữa, trong đó có tôi, thì không bao giờ bỏ cuộc. Chúng tôi chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu. Chúng tôi chiến đấu bất kể giá nào, bất kể những gì thất bại phải chịu, bất kể sự bất khả chiến thắng. Chúng tôi chiến đấu đến tận cùng. Đó không phải là vấn đề can đảm. Nó là một cái gì đó thuộc về bản chất, một tình trạng không có khả năng đầu hàng. Có thể cũng chỉ là sự ngu ngốc của lòng ham sống mà thôi.

Richard Parker bắt đầu gầm gừ vào đúng thời điểm tôi nghĩ đến cái đó, cứ như thể nó đã đợi cho đến lúc thấy tôi đã thành một đối thủ xứng đáng. Tôi thắt ngực lại vì sợ.

“Mau lên, nào, chóng lên”, tôi thì thào trong bụng. Tôi phải thu xếp việc sống còn của mình. Không thể phí một giây. Tôi cần nơi ẩn náu và cần ngay lập tức. Tôi nghĩ đến cái mái chèo mà tôi đã cắm vào mũi xuồng. Nhưng bây giờ tấm bạt đã cuộn lên ở đó, chẳng có gì giữ được mái chèo nữa. Hơn nữa, làm sao có thể an toàn bằng cách treo người trên một cái mái chèo như vậy được? Richard Parker sẽ dễ dàng tóm được tôi. Phải tìm cách khác. Đầu óc tôi quay như chong chóng.

Phải làm một cái bè. Những cái chèo, nếu ta còn nhớ, không bị chìm. Và tôi còn đống áo phao với một cái phao cứu nạn trắc nịch.

Cố thở thật nhẹ, tôi đóng cái tủ với xuống bên dưới tấm bạt để nhặt những cái chèo ở trên hai cái ghế bên xuồng. Richard Parker để ý. Tôi nhìn thấy nó qua các khe hở ở tấm áo phao. Khi tôi rút từng cái chèo lên – cẩn thận vô cùng, nó có phản ứng động đậy đôi chút, nhưng không quay người lại. Tôi lấy lên được ba cái chèo. Cái thứ ta đã nằm ngang trên tấm bạt. Tôi nhấc cái nắp đậy để chặn khoảng hở thong sang chỗ nằm của Richard Parker.

Tôi đã có bốn cái phao không chìm. Tôi xếp chúng trên tấm bạt, xung quanh cái phao tròn, làm thành một hình vuông. Cái bè của tôi giống như một ô cờ caroo với một chữ O vừa mới vẽ cho nước cờ đầu tiên.

Phần nguy hiểm bắt đầu. Tôi phải lấy được các tấm áo phao. Tiếng gầm gừ của Richard Parkẻ lúc ấy đã thành một âm thanh trầm và rền, rung cả không khí. Con linh cẩu đáp lại bằng một tiếng ư ử the thé và run rẩy. Chắc chắn sắp có chuyện.

Tôi không có lựa chọn nào khác. Phải hành động thôi. Tôi lại hạ thấp nắp xuống. Đống áo phao nằm trong tầm tay với của tôi. Một số chúng chạm hẳn vào người Richard Parker. Con linh cẩu đột nhiên kêu thé lên.

Tôi với đến cái áo gần nhất. Khó khăn mới túm được nó vì tay tôi run bắn lên. Tôi kéo cái áo đó ra. Có vẻ Richard Parker không chú ý gì. Tôi kéo một cái áo nữa. Một cái nữa. Tôi gần muốn ngất vì sợ. Rất khó thở. Tôi tự nhủ, nếu cần thì mình có thể nhảy xuống biển với đống áo phao. Tôi lại kéo ra được một cái nữa. Thế là có bốn cái tất cả.

Tôi luồn các mái chèo qua các lỗ tay của từng cái áo phao ở bốn góc phà, buộc chắc chúng lại với nhau, rồi giật dây bơm căng chúng lên. Tôi lấy một cuộn dây không chìm, dùng dao cắt thành bốn đoạn, rồi buộc thật chặt những đoạn hai mái chèo gác vào nhau. Nhờ trời, tôi đã được học và tập buộc các loại nút rất chu đáo. Tôi thắt mười nút trên một góc phà mà vẫn còn lo các mái chèo có thể sẽ bị lỏng và rời nhau ra. Tôi làm như lên cơn sốt, luôn mình tự rủa mình ngu ngốc. Một con hổ trên xuồng mà tôi lại đợi ba ngày ba đêm rồi mới tính chuyện tự vệ bản thân.

Tôi cắt thêm bốn đoạn dây không chìm nữa và buộc chặt cái phao cứu nạn vào bốn cạnh của cái phà vuông. Tôi luồn dây từ cái phao qua các áo phao, quanh các mái chèo, chạy ra chạy vào quanh cái áo phao và vòng qua phà. Cũng là một biện pháp đề phòng vỡ phà.

Con linh cẩu bắt đầu kêu thét hết cỡ.

Vẫn còn một việc cuối cùng phải làm. “Lạy Chúa, xin cho con một lát nữa” tôi cầu khẩn. Tôi túm lấy phần còn lại của cái dây không chìm. Có một cái lỗ xuyên qua gần đỉnh của thanh nhọn mũi xuồng. Tôi luồn sợi dây qua cái lỗ ấy và thắt nút. Chỉ cần buộc chặt đầu dây kia vào bè là tôi có thể thoát.

Con linh cẩu lại lặng im. Tim tôi ngừng bặt, rồi đập trở lại nhanh gấp ba lần. Tôi quay lại.

“Lạy Chúa Jesus, Đức mẹ Mary, Thánh Muhammad và Thần Vishnu!”

Những gì hiển hiện trước mắt tôi lúc ấy sẽ hằn lại trong tôi cho đến chết. Richard Parker đã trỗi dậy và xuất đầu lộ diện. Nó cách tôi chưa đầy năm mét. Ôi, nó mới to lớn làm sao! Con linh cẩu tận số đến nơi rồi, và cả tôi nữa. Tôi đứng chôn chân tại chỗ, tê liệt hoàn toàn, hãi hung chứng kiến những gì đang diễn ra trước mắt. Đã từng thấy hai con thú hoang bỏ xổng trên xuồng quan hệ với nhau ra sao, tôi đã tưởng cuộc đổ máu sẽ phải ầm ĩ và đầy vật lộn. Nhưng nó xảy ra thực sự im lìm. Con linh cầu chết không một tiếng rên la, và Richard Parker giết con linh cẩu một cách im phăng phắc. Con thú ăn thịt màu lửa ấy chồi dậy từ phía dưới tấm bạt và bước tới chỗ con linh cẩu. Con này đang đứng dựa vào chiếc ghế đuôi xuồng, đằng sau xác con ngựa vằn, như bị đóng đanh vào đó. Nó không chống cự. Nó khuỵu xuống sàn, giơ một chân trước lên trong một dáng điệu tự vệ tuyệt vọng. Vẻ mặt nó là hình ảnh của sự hãi hùng. Mòng vuốt khổng lồ của con hổ bổ xuống vai nó. Richard Parker ngoạm vào cổ nó, cặp mắt như tráng men ướt chừng to hẳn ra. Tiếng thịt xương rau ráu khi thanh quản và dây sống bị nghiền nát. Con linh cẩu giãy một cái. Mắt nó đờ ra. Thế là xong.

Richard Parker nhả mồi và cất tiếng gầm gừ. Một tiếng gầm gừ gần như chán nản và không hề muốn ai nghe thấy. Nó thở dốc, lưỡi thè lè. Nó liếm mép. Nó lắc đầu. Nó hít ngửi con linh cẩu đã chết. Nó ngẩng cao đầu và đón ngửi không khí. Nó chống cả hai chân trước lên mặt ghế băng và rướn lên. Hai chân nó dang rộng. Cái xuồng lắc lư, mặc dù rất nhẹ, rõ rang đang làm nó khó chịu. Nó nhìn quanh mạn xuồng ra phía biển khơi. Nó cất một tiếng gằn trầm đặc và cáu kỉnh. Nó lại ngửi không khí. Nó từ từ quay đầu. Nó quay, quay, quay hẳn lại đằng sau, cho đến lúc nhìn thẳng vào tôi.

Ước gì tôi có thể mô tả lại những gì xảy ra sau đó, không phải những cái tôi nhìn thấy, điều đó còn có thể tả được, mà là những gì tôi đã trải qua trong cảm giác của mình. Tôi nhìn Richard từ một góc độ thấy hết vẻ đẹp ghê gớm của nó, nghĩa là từ sau lưng, khi nó vươn người lên và quay đầu lại. Dáng điệu ấy có vẻ như cố tình làm mẫu, thậm chí hơi quá, để phô trương nghệ thuật của sức mạnh. Sự hiện diện của nó thật choáng ngợp và áp đảo, mà vể uyển chuyển thì thật duyên dáng. Người nó đầy cơ bắp, nhưng các khớp nhô ra lại gầy nhỏ và bộ da bóng bẩy như đang treo lỏng lẻo trên khung xương của nó. Thân thể nó, màu da cam sáng có sắc nâu với những vạch đứng đen tuyền, đẹp không thể so sánh với cái gì được, và thật hài hòa với mầu trắng tinh khiết của bộ ngực và dưới hai bên sườn cũng như những vòng đen chạy suốt bộ đuôi dài. Khổ đầu nó to và tròn, phô trương một bộ râu quai nón đáng kính nể, một chòm râu quai cằm sành điệu, và những sợi râu mép đẹp nhất trong thế giới hổ báo – dầy, dài và trắng tinh. Trên đỉnh đầu là đôi tai nhỏ sinh động có hình dáng của những mái vòm tuyệt hảo. Bộ mặt màu da cam cà – rốt có một sống mũi rộng, một chỏm mũi màu hồng, và được thiết kế rất phóng khoáng táo bạo. Các chấm đen hình sóng chạy vòng quanh gương mặt theo một kiểu vừa nổi bật vừa tinh tế, vì chúng thu hút sự chú ý vào chúng thì ít mà vào cái phần không có chúng thì nhiều, tức là phần sống mũi sáng sủa đến mức gần như rỡ rang. Các mảng trắng phía trên mắt, hai bên má và xung quanh miệng nổi bật lên như những nét trang điểm cuối cùng xứng đáng với một vũ nữ Kathakali. Kết quả là một gương mặt trông giống như một đôi cánh bướm và mang một vẻ gì đó hơi già nua và Trung Quốc. Nhưng khi cặp mắt màu hoàng ngọc của Richard Parker gặp mắt tôi, cái nhìn chằm chằm của nó thật căng thẳng, lạnh lùng và không nhượng bộ, không dễ dãi hoặc thân thiện chút nào, biểu lộ thái độ tự chủ đến độ giận dữ sắp nổ tung ra được. Hai tai nó vẫy vẫy rồi quay vòng. Một môi bắt đầu vén lên hạ xuống, để lộ chiếc nanh vàng khè dài phải bằng ngón tay dài nhất của tôi.

Lông tóc trên người tôi dựng đứng hết cả, ngộp thở vì sợ hãi.

Đúng lúc đó thì con chuột xuất hiện. Không biết từ đâu, một con chuột nâu xơ xác hiện hình trên mặt ghế bên cạnh xuồng, hốt hoảng, hết hơi. Richard Parker cũng có vẻ kinh ngạc như tôi. Con chuột nhảy vọt lên tấm bạt và chạy về phía tôi. Thấy thế, vừa choáng, vừa ngạc nhiên, hai chân tôi khuỵu xuống và toi gần như ngã vào trong cái tủ bên dưới. Trước cặp mắt kinh hoàng của tôi con chuột nhảy thoăn thoắt qua các phần của bè, vọt lên người tôi và trèo luôn lên đỉnh đầu. Những cái móng bé tí xíu của nó bám chặt xuống da đầu tôi, khư khư níu lấy sự sống.

Cặp mắt của Richard Parker dã dõi theo con chuột. Bây giờ thì chúng nhìn chằm chằm vào đầu tôi.

Nó không quay đầu them nữa mà từ từ xoay người đồng thời đưa hai chân trước dọc theo ghế cạnh xuồng. Nó uyển chuyển và nhẹ nhàng nhẩy xuống sàn xuồng. Tôi có thể thấy đỉnh đầu, cái lưng và cái đuôi dài uốn cong lên của nó. Hai tai nó ép xuống sọ. Chỉ ba bước nó đã về đến giữa xuồng. Cũng nhẹ nhàng như không, nó đứng hẳn nửa thân trước lên và vịn chân vào mép tấm bạt đã cuộn lên.

Nó chỉ cách tôi chừng hai mét. Đầu nó, ngực nó, chân nó – to quá! To quá! Hàm răng nó như cả một tiểu đoàn bộ binh. Nó đang sửa soạn nhảy lên tấm bạt. Tôi sắp chết rồi.

Nhưng tấm bạt bập bung làm nó khó chịu. Nó ấn thử chân xuống chỗ này chỗ kia. Nó ngẩng lên có vẻ lo lắng – hình như khó chịu vì có quá nhiều ánh sáng và quá mênh mông ở xung quanh. Cái xuồng liên tục lắc lư cũng tiếp tục làm nó không yên. Trong giây lát, Richard Parker lưỡng lự.

Tôi túm con chuột và ném về phía con hổ. Tôi vẫn còn thấy nó trong kí ức khi nó bay vọt qua trong không gian – chân duỗi hết ra và cái đuôi dựng đứng, cái bìu dái dài nhỏ xíu và cái lỗ đít như lỗ châm kim. Richard Parker ngoác miệng ra và con chuột đang kêu chí chóe biến mất vào đó như một quả bóng chày chui tọt vào găng tay người bắt bóng. Cái đuôi trùi thùi lụi của nó biến đi như một sợi mì ống bị mút chụt vào mồm.

Con hổ có vẻ hài lòng vì món quà. Nó lùi lại và quay về chỗ ở bên dưới tấm bạt. Chân tôi lập tức sinh động trở lại. Tôi nhầy lên và mở cái nắp tủ để bịt khoảng trống giữa mặt ghế dài mũi xuồng và cái mui bạt.

Tôi nghe tiếng hít ngửi ầm ĩ và tiếng thịt nặng bị lôi kéo trên sàn. Thân thể nó dịch chuyển khiến xuồng chòng chành. Tôi bắt đầu nghe tiếng ăn nhóp nhép. Tôi liếc xuống bên dưới tấm bạt. Nó đang ở giữa xuồng. Nó đang ăn con linh cẩu với từng miếng lớn, nhai nuốt liên tục. Không thể để lỡ cơ hội duy nhất này. Tôi với xuống và lấy lên được những chiếc áo phao còn lại – sáu chiếc tất cả – và cả cái chèo cuối cùng. Chúng sẽ củng cố thêm cho cái bè. Tôi để ý thấy mùi gì. Không phải sặc sụa như mùi nước đái hổ. Mà là mùi nôn. Và tôi thấy cả một bãi nôn dưới sàn. Chắc hẳn là Richard Parker thật. Như vậy là nó bị say sóng thật.

Tôi buộc cái day dài vào bè. Bây giờ thì bè đã được nối vào xuồng. Tiếp đó, tôi buộc thêm bốn chiếc áo phao vào bốn cạnh bè, ở phía dưới. Một chiếc áo phao nữa thì tôi buộc trải ngang qua cái phao để làm thành một cái ghế ngồi. Tôi biến cái chèo cuối cùng thành cái để gác chân, chằng vào một cạnh bè, cách cái phao chừng sáu mươi phân, rồi buộc nốt chiếc áo phao còn lại vào đó. Những ngón tay tôi run bắn, tôi hụt hơi và khó thở. Tôi kiểm tra đi, kiểm tra lại các nút buộc.

Tôi nhìn ra xung quanh. Chỉ thấy những đợt sóng dài và nhẹ. Không có sóng bạc đầu. Gió thổi nhẹ và đều. Tôi nhìn xuống nước. Có nhiều cá – cá to với bộ trán dô và các vây lựng rất dài, tôi chưa từng thấy bao giờ, và các loại cá nhỏ hơn nữa – rồi thấy cả cá mập.

Tôi nhẹ nhàng thả cái bè ra khỏi xuồng. Nếu vì lí do nào đó mà nó không nổi thì tôi chỉ có chắc chết mà thôi. Nó xuống nước thật đẹp. Thực tế là các áo phao nổi mạnh đến nỗi chúng nhấc cả cái phao và các mái chèo lên hẳn mặt nước. Nhưng lòng tôi nặng trĩu. Vừa khi cái bè chạm nước, các bầy cá tản ngay ra, chỉ trừ bọn cá mập. Chúng ở lại. Ba hoặc bốn con. Một con bơi qua ngay dưới bè. Richard Parker hắng giọng.

Tôi thấy mình giống như một người bị tù bọn cướp biển bắt phải nhẩy xuống biển.

Tôi kéo cái bè vào gần, cho đến khi các đầu mái chèo chạm hẳn và xuồng. Tôi nghiêng xuống đặt tay lên cái phao. Qua các kẽ hở trên mặt bè – gọi chúng là những khe hở toang hoác thì đúng hơn – tôi nhìn thẳng xuống những tầng sâu thăm thẳm của biển cả. Tôi nghe lại thấy tiếng Richard Parker. Tôi trườn úp bụng xuống bè. Tôi nằm bẹp gí, dang hết chân tay và không dám cựa một ngón tay nào. Cái bè có thể lật bất kỳ lúc nào. Hoặc một con cá mập sẽ lao lên cắn thủng qua các áo phao mái chèo. Nhưng không có gì xảy ra. Cái bè chìm xuống một chút, bập bềnh và tròng trành, các đầu chèo chúi xuống dưới mặt nước, nhưng nó nổi một cách chắc chắn. Lũ cá mập đến gần, song không động chạm gì hết.

Tôi cảm thấy một cái giật dây nhẹ. Cái bè xoay một vòng. Tôi ngẩng đầu. Xuồng và bè đã cách xa nhau bằng hết đoạn dây, chừng mươi hai mười ba thước. Sợi dây căng thẳng, bật lên khỏi mặt nước và run rẩy trong không khí. Thật là một cảnh tượng đáng ghét. Tôi đã rời xuồng để cứu mạng mình. Và bây giờ thì lại muốn quay lại xuồng. Cái bè thật là một giải pháp chất chưởng. Chỉ cần một con cá mập cắn đứt dây, hoặc một cái nút bị tuột, hoặc một con cá sóng lớn ào xuống đầu tôi, thế là đi đứt. So với cái bè, chiếc xuồng bây giờ dường như là một chốn cư ngụ thật tiện nghi và an toàn.

Tôi lập cập trở mình. Tôi ngồi dậy. Cho đến lúc ấy, cái bè có vẻ khá ổn định. Cái để chân của tôi rất có tác dụng. Nhưng cái gì cũng quá nhỏ. Chỉ đủ chỗ để ngồi lên thôi, không hơn. Cái bè đồ chơi, cái bè mini, cái bè micro này có thể dùng để chu du trong một cái ao, không thể đi qua Thái Bình Dương được. Tôi núm lấy sợi dây và kéo. Càng gần xuồng, tôi kéo càng chậm lại. Khi vào đến cạnh xuồng, tôi lại nghe tiếng Richard Parker. Nó vẫn đang ăn.

Tôi lưỡng lự nhiều phút dài.

Tôi ngồi nguyên dưới bè. Không biết có thể làm gì khác hơn thế. Các lựa chọn của tôi chỉ là vắt vẻo trên một con hổ hoặc lửng lơ trên bọn cá mập mà thôi. Tôi đã biết quá rõ Richard Parker nguy hiểm như thế nào. Còn cá mập thì tôi chưa thấy chúng nguy hiểm ra sao. Tôi kiểm tra các nút buộc của sợi dây vào xuồng vào bè. Tôi thả dây ra cho đến khi cách xuồng chừng mười mét, cái khoảng cách có vẻ cân bằng hai cái sợ của tôi: quá gần Richard Parker và quá xa chiếc xuồng. Đoạn dây còn lại, khoảng ba mét gì đó, tôi cuốn vòng xung quanh cái chèo để chân. Nếu cần, tôi có thể dễ dàng thả đoạn dây đó ra.

Ngày đang tàn. Mưa bắt đầu rơi. Trời đã nặng mây và ấm áp suốt ngày. Bây giờ thì nhiệt độ hạ hẳn xuống, mưa tầm tã và lạnh. Khắp xung quanh tôi, những giọt nước ngọt nặng trĩu rơi rào rào và phí phạm xuống biển, làm nhăn nheo mặt sóng. Tôi lại kéo sợi dây. Vào sát mũi xuồng, tôi quỳ lên và ôm lấy chỗ thanh nhô. Tôi đu người lên và thận trọng nhìn qua mạn xuồng. Không thấy nó đâu.

Tôi vội vàng mò vào tủ. Tôi vớ một cái hứng nước mưa, một túi nhựa năm mươi lít, một cái chăn và cuốn cẩm nang. Tôi đập cái nắp tủ xuống. Tôi không định làm thế, tuy cũng lo mưa vào tướt hết những của quý của tôi, nhưng cái nắp tuột khỏi bàn tay ướt nhoẹt của tôi. Đó là một sai lầm tệ hại. Hạ cái nắp xuống đã là hành động để lộ mình cho Richard Parker nhìn thấy rồi, mà lại còn làm đến rầm một cái để gọi nó nữa! Đang phủ phục trên con linh cẩu, nó lập tức quay đầu lại. Nhiều con thú rất ghét bị quấy rầy lúc đang ăn. Richard Parker gầm lên. Móng vuốt nó giương ra. Chỏm đuôi nó vẫy qua vẫy lại như có động cơ điện. Tôi nhẩy ào xuống bè. Chắc chắn là sợ hãi đã khiến tôi nhanh đến thế. Và cùng với gió và nước dòng, chỉ nhoáng một cái là tôi đã ra xa xuồng. Tôi thả hết dây. Nhất định Richard Parker sẽ lao ra khỏi xuồng, vọt qua không trung, nhe nanh giương vuốt vồ lấy tôi. Tôi không rời mắt khỏi chiếc xuồng. Càng nhìn càng hãi.

Nó không xuất hiện.

Đến khi mở được cái hứng mưa ra trên đầu và buộc chân vào trong cái túi nylon, người tôi đã ướt hết cả. Nhưng tôi vẫn quấn nó quanh người.

Đêm đến. Xung quanh tôi chỉ còn là bóng tối đầy đặc. Chỉ chờ vào những cú kéo giật đều đặn của sợi dây mà tôi biết mình vẫn còn nối với xuồng. Biên, chỉ ở bên dưới tôi độ chục phân mà mắt tôi không thể thấy, im lặng nâng đỡ cái bè. Những ngón tay nước vụng trộm thò lên qua các khe hở và quệt ướt hết cả đít tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Mưa suốt đêm. Một đêm mưa hãi hung, không chợp mắt và đầy tiếng động. Mưa rơi xuống cái hứng nước rào rào như trống đánh, và rít lên trong bóng đen bủa vây khắp quanh tôi, như thể tôi đang ở giữa một ổ rắn khổng lồ đang cơn giận dữ. Gió xoay chiều thổi bạt nước mưa hết hướng này sang hướng khác, khiến thân thể tôi cứ vừa hơi khô được một chỗ thì lại ướt sũng trở lại. Tôi xoay chuyển cái hứng mưa, nhưng chỉ được vài phút lại chuyển theo hướng gió đổi chiều khác. Tôi cố giữ cho ấm một tí ở ngực, nơi tôi độn cuốn hướng dẫn sống còn, nhưng nước lạnh cương quyết lan khắp người tôi một cách bệnh hoạn. Tôi rét run cầm cập suốt cả đêm, lúc nào cũng lo về cái bè vỡ, dây nối với xuồng bị tuột hoặc cá mập tấn công. Hai tay tôi sờ nắn các đoạn dây và nút buộc không ngừng nghỉ, như thể đang đọc chúng như người mù đọc chữ nổi vậy.

Đêm càng khuya, gió càng mạnh và biển càng động dữ dằn hơn. Sợi dây nối bè với xuồng không còn giật nhẹ nữa mà căng thẳng như một cú giật nẩy người, và cái bè tròng trành mạnh không theo nhịp độ nào nhất định. Nó tiếp tục nổi, cười lên các con sóng, nhưng vì không có mạn che chắn nên sóng nước cứ việc ào qua trên người tôi như một con song chảy qua một hòn đá giữa dòng. Nước biển ấm hơn nước mưa, song người tôi thật không còn một chỗ tí xíu nào khô ráo trong suốt đêm hôm đó.

Ít nhất thì tôi cũng được uống. Thực ra tôi không khát, mà tôi buộc mình phải uống nước. Cái hứng mưa giống như một cái ô để ngửa, một cái ô bị gió thổi lộn ngược. Nước mưa chảy vào chỗ trũng ở giữa, qua cái lỗ, vào cái ống cao – su rồi xuống cái túi chứa bằng nhựa đầy đặn và trong suốt. Lúc đầu, nước có vị cao – su, nhưng chỉ một lúc sau thì mọi thức được rửa sạch và nước uống ngon lành.

Trong những giờ phút dài dằng dẵng, lạnh cóng và tối đen ấy, ù tai trong mưa, vất vưởng trên những ngọn sóng khi biển cả gầm rít, tôi vẫn đinh ninh một ý nghĩ: Richard Parker. Tôi nghĩ ra đủ các kế hoạch để thủ tiêu nó và giành lại chiếc xuồng.

Kế hoạch số một: Đẩy nó ra khỏi xuồng.Liệu có ích gì không? Trước hết là liệu có đủ sức đẩy một con hổ dữ đang còn sống và nặng hơn hai tạ ra khỏi xuồng không? Và chăng nữa, hổ lại là loài thú bơi giỏi. Tại Sundarban, người ta đã thấy hổ bơi hàng trăm dặm ngoài biển khơi sóng dữ. Vậy thì có bị đẩy xuống biển Richard Parker chỉ việc đạp vài cái, trèo lên xuồng trở lại và bắt tôi trả giá cho hành động phản bội của mình.

Kế hoạch số hai: Giết nó bằng sáu ống Morphine: Nhưng cũng không biết morphine có tác dụng gì không. Liệu có đủ để giết nó không? Và tôi sẽ tiên morphine vào người nó như thế nào? Cứ cho là tôi có thể lừa được nó một lần và bất ngờ tiêm một ống. Nhưng làm sao lừa nó sáu lần liên tiếp? Không thể được. Chỉ cần cắm kim tiêm vào nó là tôi sẽ lãnh đủ một cú tát có thể rụng đầu rùi.

Kế hoạch số ba: Tấn công nó bằng tất cả những gì có thể dùng làm vũ khí. Phi lí và nực cười. Tôi đâu phải Tazan. Tôi chỉ là một hình nhân ăn chay yếu ớt và nhỏ bé. Muốn săn giết hổ ở Ấn Độ, cần phải cưỡi voi khỏe và dùng súng lớn. Còn ở đây thì tôi làm thế nào? Ném một quả pháo sáng vào mặt nó chăng? Xông vào nó với hai tay rìu và mồm ngậm dao găm chăng? Giết nó bằng các kim khâu cong và thẳng ư? Làm cho nó ngứa ngáy thôi cũng là một chiến công rồi chứ đừng nói gì đến giết! Và đổi lại, nó sẽ xé tôi ra từng mảnh, chân tay, gan ruột. Một con thú bị thương nguy hiểm hơn một con thú lành mạnh rất nhiều.

Kế hoạch số bốn: Thắt cổ nó. Tôi có dây. Nếu tôi trụ ở mũi xuồng làm sao chạy được sợi dây vòng qua đuôi xuồng, rồi thắt một thòng lọng vào cổ nó, tôi sẽ kéo dây khi nó lao về phía tôi. Như thế, càng cố lao vào tôi, nó sẽ càng bị thít chặt cổ. Một kế hoạch tự vẫn thông mình.

Kế hoạch số năm: Đánh thuốc độc. Phóng hỏa. Phóng điện.Nhưng làm thế nào? Dùng cái gì.

Kế hoạch số sáu: Đánh nhau kiểu vây hãm cho chết đói. Chỉ việc để mặc nó với các quy luật khắc nhiệt của tự nhiên và tôi sẽ chiến thắng. Chẳng phải nhọc sức gì. Cứ đợi cho nó đói khát cho đến chết. Tôi có dự trữ nhiều tháng. Nó có gì? Chỉ một vài con mồi đã chết và sẽ thiu thối rất nhanh. Sau đó nó sẽ ăn gì? Và hơn nữa, nước đâu mà uống. Nó có thể nhịn ăn nhiều tuần lễ, nhưng không có con thú nào, dù khỏe đến đâu, có thể nhịn uống trong một thời gian dài.

Một tia hy vọng nhỏ nhoi lóe lên trong tôi, như ngọn nến trong đêm. Tôi đã có một kế hoạch và là một kế hoạch tốt. Chỉ cần tôi sống sót là thành công.

Ngày rạng và mọi thứ càng tệ hơn. Vì bây giờ, ra khỏi bóng đêm, tôi nhìn thấy cả những gì mà trước đây chỉ có thể cảm thấy: Những màn mưa mênh mang từ các tầng trời cao thẳm đổ xuống như muốn nghiền nát tôi, và những con sóng thay nhau cuốn tôi lên cao rồi dìm tôi xuống thấp.

Mắt đờ đẫn, run lẩy bẩy và tê dại, một tay quắp cái hứng mưa, tay kia bám chặt vào bè, tôi tiếp tục chờ đợi.

Một lúc sau, với sự bất ngờ được nhấn mạnh hơn nữa bằng cái yên ắng tiếp theo, mưa ngừng rơi. Trời trong, và dường như các con sóng đã theo mây mà biến đi. Thay đổi thật nhanh và triệt để, như khi ta đi từ nước này sang nước kia trên đất liền. Bây giờ thì tôi đang ở trên một đại dương khác hẳn. Một lát sau, mặt trời ngự trị trên cái vòm xanh và biển cả là một làn da mịn phản chiếu ánh sáng với ức triệu mảnh gương lấp lánh.

Tôi tê cứng hết người, đau nhức và kiệt sức, chẳng biết có nên mừng vì còn sống hay không nữa. Những từ “Kế hoạch số sáu, kế hoạch số sáu, kế hoạch số sáu”, lặp đi lặp lại trong đầu tôi như một câu thần chú và đem lại một chút an ủi, mặc dù tôi không còn nhớ nội dung của kế hoạch số sáu là gì nữa. Xương cốt tôi bắt đầu ấm trở lại. Tôi gập cái hứng mưa. Tôi quấn chăn quanh người và nằm nghiêng, cuộn tròn sao cho không có chỗ nào chạm xuống đến nước, rồi ngủ thiếp đi. Không biết tôi đã ngủ bao lâu. Tỉnh dậy thì thấy có vẻ đã gần trưa, nóng bức. Cái chăn đã gần như khô. Một giấc ngủ ngắn thật say. Tôi nghển cổ lên, chống một khuỷu tay.

Xung quanh tôi phẳng phiu vô tận, một toàn cảnh vô cùng tận của màu xanh nước biển. Không có gì cản tầm mắt. Cái mênh mang đập vào tôi như một cú đấm thúc vào bụng. Tôi nằm vật xuống, đầu óc quay tít. Cái bè này chỉ là một trò đùa. Nó chỉ là vài cái que và một mẩu nút chai buộc lại với nhau. Nước trào lên qua các kẽ hở. Đáy nước thăm thẳm bên dưới sẽ khiến cho ngay cả một con chim cũng phải chóng mặt. Tôi thấy cái xuồng nó chẳng hơn gì một nửa cái vỏ hạt dẻ. Nó nổi trên mặt nước cũng như mấy ngón tay đang bám víu lấy mép vực thẳm. Sớm muộn gì rồi trọng lực cũng kéo nó xuống mà thôi.

Kẻ cùng cảnh ngộ với tôi xuất hiện. Nó đứng hai chân trước lên mạn xuồng và nhìn về phía tôi. Cảnh tượng một con hổ thình lình xuất hiện thì bao giờ và ở đâu cũng choáng ngợp cả, nhưng nó càng choáng ngợp hơn trong khung cảnh lúc đó. Vẻ tương phản lạ lùng giữa bộ cánh da cam tươi có vằn đen của nó với màu trắng đục của vỏ xuồng thật mạnh mẽ và hấp dẫn không thể tưởng tượng được. Các giác quan mệt mỏi của tôi đột nhiên ngừng hết cả lại như một chiếc xe đang chạy hết tốc lực bị kéo hết phanh. Thái Bình Dương mênh mông là vậy, thế mà đột nhiên giữa chúng tôi, nó trở thành chật hẹp như thể chỉ là một hào nước hẹp, không rào không giậu.

“Kế hoạch số sáu, Kế hoạch số sáu, Kế hoặch số sáu”, tâm trí tôi thì thào khẩn cấp. Nhưng kế hoạch số sáu là cái gì? A, đúng rồi. Chiến tranh vây hãm và bỏ đói. Trò chơi chờ đợi. Trò thụ động. Kệ cho mọi việc tự nó xảy ra. Quy luật sắt của thiên nhiên. Cuộc hành quân không ngừng nghỉ của thời gian và việc tàng trữ lương thực. Đó là kế hoạch số sáu.

Một ý nghĩ ré lên trong đầu tôi như một tiếng thét giận dữ: “Đồ ngu ngốc! Thằng cả đần! Đồ khỉ! Kế hoạch số sáu là kế hoạch dở nhất! Richard Parker đang sợ hãi biển cả như một nấm mồ của chính mình. Nhưng đói khát sẽ làm cho nó hết sợ. Và nó sẽ làm đủ thứ để thoả mãn nhu cầu đó. Nó sẽ biến con hào nước hẹp thành một cái cầu. Nó sẽ bơi đến tận khi nào đến được bè để có thức ăn. Còn nước uống, chẳng nhẽ mi đã quên là ở Sundarbans người ta thấy hổ uống cả nước biển mặn đấy ư? Mi tưởng có thể thi gan với quả thận kiểu đó của nó hay sao? Ta nói cho mi biết, nếu mi phát động chiến tranh vây hãm và bỏ đói, mi sẽ thua! Mi sẽ chết! ĐÃ RÕ CHƯA?”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Tôi phải có vài lời về sự sợ hãi. Sợ hãi là đối thủ thực sự duy nhất của cuộc sống. Chỉ có sợ hãi mới đánh bại được cuộc sống. Nó là một đối thủ khôn ngoan và xảo quyệt, tôi biết điều này quá rõ. Nó không có liêm sỉ, không tuân thủ bất cứ một luật lệ gì, không biết thương xót. Nó tấn công chỗ yếu nhất của ta, và bao giờ cũng tìm thấy chỗ đó một cách dễ dàng. Nó luôn tấn công trước hết vào tinh thần của ta. Ta đang bình tĩnh, chủ động, hạnh phúc. Đùng một cái, sợ hãi, ngụy trang dưới dạng một nghi ngờ nhẹ nhàng, lẻn vào tinh thần ta như một tên gián điệp. Nghi ngờ gặp phải Không tin và Không tin cố đánh bật nó ra. Nhưng Không tin là một anh lính quèn kém võ trang. Nghi ngờ loại anh này ra khỏi vòng chiến một cách dễ dàng. Ta bắt đầu lo lắng, bồn chồn. Lý lẽ liền xung trận bảo vệ ta. Ta thấy yên lòng lại. Lý lẽ được trang bị bằng một thứ vũ khí và công nghệ hiện đại nhất. Nhưng, trước sự kinh ngạc của ta, mặc dù đã có những chiến thuật siêu đẳng và một số chiến thắng không thể phủ nhận, Lý lẽ vẫn bị yếu thế. Ta lại thấy yếu lòng, hoang mang. Nỗi lo lắng và bồn chồn của ta trở thành kinh hoàng.

Lúc ấy, Sợ hãi dồn toàn lực sang cơ thể ta, vốn đã lờ mờ cảm thấy có chuyện chẳng lành đang xảy ra. Lập tức, hai lá phổi ta vỗ cánh bay mất như một con chim, còn ruột gan ta thì như bầy rắn hốt hoảng trườn đi. Rồi đến lưỡi ta cứng đơ lại, còn hàm thì bắt đầu phi nước kiệu tại chỗ. Tai ta điếc đặc, còn cơ bắp bắt đầu run rẩy như sốt rét còn hai đầu gối thì bắt đầu run rẩy. Tất cả những bộ phận khác cũng vậy. Bộ phận nào cũng hỏng theo kiểu riêng của chúng. Chỉ có hai con mắt là chạy tốt. Chúng luôn chú ý tới sợ hãi.

Và thế là ta nhanh chóng có những quyết định tai hại. Ta bỏ rơi những đồng minh cuối cùng của mình là Hy vọng và Tin tưởng. Đó là lúc ta tự đánh bại chính mình. Và sợ hãi, thực chất, chỉ là ấn tượng đã đánh bại ta.

Chuyện đó rất khó nói ra bằng lời, bởi vì sợ hãi, nỗi Sợ hãi thực sự hằn sâu vào tận cốt tủy như khi ta phải đối mặt với cái chết, sẽ làm tổ trong ký ức ta như một tổ thịt thối: nó tìm cách làm thối mọi thứ, kể cả những lời sẽ phải dùng để nói về chính nó. Cho nên ta phải đấu tranh kịch liệt để diễn đạt nó ra. Ta phải chiến đấu đến cùng để làm rõ rang ánh sáng của những lời dùng để nói về nó. Bởi lẽ nếu không thế, nếu nỗi sợ hãi của ta trở thành một cõi đen tối không lời mà ta lẩn tránh, thậm chí còn có thể lãng quên, ta sẽ bỏ ngỏ chính ta cho những cuộc tấn công khác nữa của Sợ hãi, vì ta đã chưa bao giờ thực sự kháng cự kẻ đã từng đánh bại ta.

Chính Richard Parker làm tôi bình tĩnh trở lại. Điều trớ trêu trong chuyện này là lúc đầu nó đã làm tôi sợ mất mật nhưng lại cũng chính nó đem lại cho tôi sự bình yên, mục đích, và tôi dám nói rằng cả lành mạnh nữa.

Nó đang nhìn tôi rất chăm chú. Một lúc sau thì tôi hiểu ra cái nhìn của nó. Tôi đã lớn lên với nó. Đó là cái nhìn của một con thú đang bằng lòng với cuộc đời của mình, kiểu như ta đang nhìn ra ngoài sau một bữa ăn ngon trong tiệm và đã đến lúc nhìn ngó mọi người và chuyện gẫu với nhau. Rõ rang. Richard Parker đã ăn con linh cẩu đến căng bụng và uống đã nước mưa. Nó không hề nhe răng lợi, không gầm gừ lầu bầu gì hết. Nó chỉ giản dị nhìn tôi, quan sát tôi với dáng vẻ tỉnh táo nhưng không đe dọa. Nó vẫy tai, quay đầu sang hai bên với các góc độ khác nhau, hệt như loài mèo vẫn có thói như thế. Nó trông giống một con mèo to béo nuôi trong nhà, một con mèo cảnh nặng hơn hai tạ.

Nó khụt khịt, một tiếng khụt khịt từ trong mũi. Tôi dủng tai. Nó khụt khịt lần nữa. Tôi kinh ngạc. Chẳng lẽ thế?

Hổ phát ra nhiều âm thanh khác nhau. Chúng bao gồm một số tiếng gầm và tiếng gừ, to nhất trong số này có lẽ là tiếng aaoonh, rung hết các thanh đới, mà cả các đực và cái thường phát ra trong mùa giao phối. Đó là tiếng kêu vang rất xa và rộng, nếu nghe gần thì cực kì khủng khiếp. Khi bị bất ngờ, hổ hộc lên một tiếng nghe như tiếng nổ gọn và sắc của một khối giận dữ, và ngay lúc ấy khiến chân ta bật lên tháo chạy nếu không phải bị rúm lại một chỗ. Khi chúng xông vào con mồi, hổ phát ra những tiếng gầm ngắn như tiếng ho tận cổ họng, còn để dọa thì tiếng gầm của nó lại mang âm sắc khác. Hổ còn có lối phì và gừ qua kẽ răng. Nghe có lúc như tiếng lá thu xào xạc trên đất, nhưng âm vang hơn một chút, hoặc nếu là một tiếng gừ giận dữ thì nghe như một cánh cửa khổng lồ đang từ từ mở ra trên những chiếc bàn lề gỉ bét, và cả hai loại âm thanh này đều làm ta buốt hết cả các đốt sống lưng. Hổ còn có nhiều âm thanh khác nữa. Khi chúng càu nhàu và rền rĩ. Chúng ư ử nhè nhẹ, mặc dù không có âm điệu và không thường xuyên như mèo, và chỉ ư ử khi thở ra. ( Chỉ có mèo là ư ử cả khi thở ra và hít vào. Đặc tính này phân biệt rõ rệt mèo với hổ. Đặc tính phân biệt nữa là chỉ có hổ mới có thể gầm. Thế cũng là tốt. Giả dụ mèo nhà mà cũng biết gầm như hổ thì chắc là chẳng ai muốn nuôi chúng như hiện nay. ) Hổ thậm chí có lúc kêu meo meo như mèo nhà, nhưng tiếng to hơn và âm vực thấp hơn, không khuyến khích người nghe cúi xuống bế chúng lên. Và hổ có thể hoàn toàn im lặng một cách oai vệ, đúng thế.

Tôi đã từng nghe tất cả những âm thanh đó từ hồi còn nhỏ. Trừ cái tiếng khụt khịt này mà người ta gọi là prusten. Sở dĩ tôi biết prusten là vì cha đã kể cho tôi biết. Trong sách cũng đã có những miêu tả về tiếng khụt khịt này của hổ. Nhưng cha đã một lần nghe thấy nó khi đến thăm và làm việc ở vườn thú Mysore, trong bệnh viện của bầy thú ở đó, từ một con hổ đực còn non đang được điều trị bệnh viêm phổi. Prusten là âm thanh im ắng nhất của loài hổ, một âm thanh phát ra qua lỗ mũi để biểu thị lòng nhân thiện và những ý định vô hại.

Richard Parker lại khụt khịt nữa, lần này thì với một động tác quay đầu. Trông nó đúng là đang cất tiếng hỏi tôi điều gì.

Tôi nhìn nó, lòng tràn đầy một sự kì diệu đáng sợ. Không thấy bị đe dọa ngay lập tức nữa, hơi thở của tôi lại dịu lại, tim không còn đập loạn xạ, và tôi bắt đầu tỉnh táo trở lại.

Phải thuần phục nó. Tôi chợt nhận ra điều đó. Không còn là vấn đề nó hoặc tôi, mà là nó và tôi. Cả nghĩa đen và nghĩa bóng, chúng tôi đang cùng hội cùng thuyền. Chúng tôi sẽ sống – hoặc sẽ chết – cùng với nhau. Nó có thể bị chết vì một tai biến nào đó, hoặc có thể chết nhanh chóng hơn vì các nguyên nhân tự nhiên, nhưng hy vọng một kết cục như vậy là một điều xuẩn ngốc. Điều ngược lại còn dễ xảy ra hơn, vì với thời gian, sức người yếu ớt nơi tôi sẽ không thể bền bỉ như sức vóc thú vật của nó. Chỉ khi tôi thuần phục được nó, may ra tôi mới có thể lừa nó vào cái chết trước, nếu chúng tôi bị dồn vào tính trạng đáng buồn ấy.

Còn nhiều chuyện nữa. Tôi sẽ nói hết. Tôi sẽ thú nhận một bí mật; một phần con người tôi thấy vui vì có Richard Parker. Một phần con người tôi không muốn Richard Parker chết một tí nào. Vì nếu nó chết, tôi chỉ có một mình với nỗi tuyệt vọng, một đối thủ còn ghê gớm hơn cả một con hổ. Nếu như tôi vẫn còn muốn sống, thì đó là vì Richard Parker. Nó khiến tôi không phải nghĩ quá nhiều đến gia đình tôi và hoàn cảnh bi thảm của tôi. Nó thúc tôi tiếp tục sống. Tôi căm ghét nó là vì thế, mà cũng biết ơn nó là vì thế. Đúng là tôi biết ơn nó. Sự thật hiển nhiên là: không có Richard Parker, tôi đã không còn sống để kể câu chuyện này.

Tôi nhìn ra chân trời khắp xung quanh. Chẳng phải tôi đang có một sân khấu xiếc hoàn hảo, tròn trịa, không thể đào tẩu đi đâu và cũng không có một ngóc ngách nào để lần trốn được hay sao? Tôi nhìn xuống biển. Chẳng phải đó là nguồn các món ăn có thể dùng để thưởng và dạy nó nghe lời hay sao? Tôi để ý thấy có một cái còi lủng lẳng ở một chiết áo phao. Đó chẳng phải là chiếc roi tốt để cho nó đi đúng hàng đúng lối hay sao? Còn thiếu gì nữa để thuần phục Richard Parker? Thời gian ư? Phải hàng nhiều tuần lễ trước khi có chiếc tàu nào tình cờ phát hiện ra tôi. Quyết tâm ư? Không có gì khiến ta quyết tâm bằng nhu cầu sống còn. Kiến thức ư? Chẳng phải tôi là con trai của một người chủ vườn thú đấy sao? Phần thưởng ư? Có phần thưởng nào lớn hơn chính cuộc sống? Có hình phạt nào khủng khiếp hơn cái chết? Tôi nhìn Richard Parker. Tôi không còn hoảng loạn nữa. Tôi đã chế ngự được nỗi sợ hãi. Sống còn đã nằm trong tầm tay.

Hãy nổi kèn hiệu lên. Gióng trống lên. Hãy bắt đầu màn trình diễn. Tôi đứng hẳn lên. Richard Parker để ý ngay. Đứng cho vững trên bè không phải dễ. Tôi hít một hơi dài và gào lên, “Thưa quý bà và quý ông, quý cô và quý cậu, hãy mau về chỗ của mình! Mau lên, mau lên. Quý vị không muốn bị muộn trò đâu. Hãy ngồi xuống, hãy mở mắt ra, mở lòng và chuẩn bị để được kinh hoàng. Nó đây rồi, để mang lại cho quý vị những vui vẻ mới lạ và niềm hoang lạc tràn đầy, buổi diễn mà quý vị đã chờ đợi bấy lâu nay, buổi diễn vĩ đại nhất trên trái đất này đã đến đây rồi! Quý vị đã sẵn sang thưởng thức những điều kỳ diệu của nó chưa? Rồi phải không ạ? Vậy thì, những kì diệu này biến ảo vô cùng. Quý vị đã thấy chúng trong những khu rừng ôn đới phủ đầy tuyết trắng. Quý vị đã thấy chúng trong những khu rừng rậm nhiệt đới gió mùa. Quý vị đã thấy chúng trong những xứ sở hoang vu cây cối thưa thớt. Quý vị đã thấy chúng trên những đầm lầy nước lợ mọc đầy xoài và mãng cầu. Sự thực là buổi diễn này có thể làm ở bất cứ đâu. Nhưng chưa bao giờ quý vị được thấy buổi biểu diễn ấy tại một nơi như nơi này! Quý bà và quý ông, quý cô và quý cậu, không dám nhiều lời thêm nữa, tôi xin vinh hạnh giới thiệu: “ĐOÀN XIẾC NỔI XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG, ẤN – CANAĐA, PI PATEL! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!”

Tôi có tác động đến Richard Parker. Ngay tiếng còi đầu tiên, nó rùng mình và nhe nanh. Ha! Cứ việc nhảy xuống biển nếu máy muốn! Cứ thử đi xem nào!

“TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!”

Nó gầm lên và cào hai chân trước vào không khí. Nhưng nó không nhẩy. Nó có khả năng không sợ hãi biển nữa khi bị đói khát giầy vò, nhưng bây giờ thì tôi phải tận dụng nỗi sợ hãi ấy của nó.

“TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt! TUYYÝYYt!”

Nó lùi lại và chúi xuống sàn. Buổi huấn luyện đầu tiên thế là xong. Một thành công vang dội. Tôi ngừng thổi còi, ngồi phịch xuống bè, hết hơi và mệt rũ người.

Và thế là ra đời:

Kế hoạch số bảy: Giữ cho nó sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Tôi lôi cuốn cẩm nang ra đọc. Các trang sách vẫn còn ướt. Tôi cẩn thận giở từng trang. Tác giả là một sĩ quan thuỷ quân hoàng gia Anh. Cuốn sách là một kho báu các thông tin thực dụng về việc làm sao để sống sót sau khi bị đóng tàu, bao gồm cả những mẹo nho nhỏ như sau:

* Luôn luôn đọc kỹ các hướng dẫn.

* Đừng uống nước giải. Hoặc nước biển. Hoặc máu chim.

* Đừng ăn sứa. Hoặc các loại cá có ngạnh. Hoặc cá có mồm như mỏ vẹt. Hoặc cá có thể phồng người lên như bóng thổi.

* Bóp mạnh hai mắt cá sẽ làm cho nó tê liệt.

* Cơ thể tự nó rất dai sức để sinh tồn. Nếu bị thương, phải cảnh giác với các phương pháp chữa trị tưởng là hay nhưng vô căn cứ. Phương pháp lang băm là nguy hiểm nhất. Không có hộ lí nào tốt hơn là nghỉ ngơi và giấc ngủ.

* Nhấc chân cao lên ít nhất năm phút một lần.

* Nên tránh gắng sức không cần thiết. Nhưng đầu óc nhàn rỗi sẽ sinh u mê, cho nên cần tận dụng mọi cơ hội để có hoạt động trí não. Đánh bài, chơi trò Hai mươi câu hỏi và trò Trinh thám bằng mắt là những hình thức giải trí đơn giản tuyệt vời. Cùng nhau hát cũng là một cách nâng cao tinh thần rất hữu hiệu. Kể chuyện cũng vậy.

* Nước có màu xanh lá cây thì nông hơn chỗ nước có màu xanh da trời.

* Phải cảnh giác khi thấy các đám mây ngoài xa có dáng dấp như các dãy núi. Hãy để mắt tìm màu xanh lá cây. Chỉ khi nào đặt chân lên mặt đất hãy nghĩ là mình đã lên bờ.

* Đừng bơi. Việc này tiêu hao năng lượng. Hơn nữa, xuồng cứu nạn thường trôi nhanh hơn bơi. Chưa kể các nguy hiểm khác trong khi bơi. Nếu thấy nóng, tốt nhất là dấp nước lên quần áo.

* Đừng đái vào quần, có thể thấy ấm một chút lúc đó những sẽ ngứa ngáy rất khó chịu sau này.

* Hãy tìm cách che nắng. Phơi nắng có thể chết nhanh hơn cả khi đói khát.

* Khi không bị mất quá nhiều nước qua đường mồ hôi và bài tiết, cơ thế có thể sống sót được tới mười bốn ngày mà không cần nước uống. Nếu thấy khát, hãy mút một cái khuy.

* Rùa vừa dễ bắt vừa ăn ngon. Máu rùa là đồ uống không có muối, rất bổ; thịt rùa thơm và chắc dạ; mỡ có nhiều công dụng khác nhau; và trứng rùa thì tuyệt hảo. Cẩn thận mỏ và móng rùa.

* Đừng để xuống tinh thần. Sờn lòng thì chấp nhận được, nhưng đừng bao giờ chịu đầu hàng. Hãy nhớ rằng: Tinh thần là quan trọng nhất. Nếu ta có ý chí sống, ta sẽ sống.

Chúc may mắn!

Cũng có một vài dòng ngắn gọn chắt lọc từ nghệ thuật và khoa học hàng hải. Tôi học được rằng trong một ngày đẹp trời, lặng gió và với tầm mắt ở độ cao một thước sáu, thì đường chân trời cách ta khoảng hai dặm rưỡi.

Lời khuyên đừng uống nước giải là hoàn toàn không cần thiết. Chẳng có ai bị người ta gọi là “Pissing”, nghĩa là đang đi đái, từ thời thơ ấu chịu phải chết với một cốc nước giải trên môi, ngay cả khi chỉ có một mình giữa Thái Bình Dương. Còn các lời chỉ khuyên liên quan đến các món ăn chỉ làm tôi thêm tin chắc rằng người Anh không biết được ý nghĩa của từ thực phẩm. Ngoài những chi tiết đó ra thì cuốn sách cẩm nang là một tài liệu tuyệt vời. Chỉ có một chủ đề quan trọng không thấy nói đến: việc thiết lập mối quan hệ alpha – omega, chủ và tớ, với mấy con vật nuôi trên xuồng cứu nạn.

Tôi phải thiết kế một chương trình huấn luyện cho Richard Parker. Tôi phải làm nó hiểu được rằng tôi là con hổ đầu đàn và rằng lãnh thổ của nó chỉ là dưới sàn xuồng, kể từ cái ghế đuôi đến cái ghế giữa mà thôi. Tôi phải ấn vào đầu nó một ý thức rõ ràng rằng phần mui bạt và khu vực mũi xuồng, kể cho đến cái ghế nữa, là lãnh thổ của tôi, và tuyệt đối nó không được xâm phạm.

Tôi phải bắt đầu nghĩ cách câu cá càng sớm càng tốt. Chẳng mấy chốc, Richard Parker sẽ ăn hết chỗ thịt chết kia ở trên xuồng. Trong vườn thú, một con hổ hoặc sư tử đã trưởng thành trung bình ăn hết khoảng năm cân thịt mỗi ngày.

Và còn nhiều việc khác phải làm. Tôi phải tìm phương tiện che chắn cho mình. Nếu Richard Parker chúi dưới tấm mui bạt suốt ngày như thế là có lí do chính đáng lắm. Liên tục ở ngoài trời như thế này, nắng, mưa, gió, biển, sẽ làm kiệt quệ cả cơ thể lẫn tinh thần. Tôi đã chẳng đọc thấy rằng mưa nắng có thể đưa đến một cái chết rất nhanh đó hay sao? Tôi phải làm một cái mái che kiểu gì đó cho mình.

Tôi phải buộc cái bè vào với chiếc xuồng bằng một sợi dây nữa, đề phòng cái dây hiện nay bị đứt hoặc lỏng ra.

Tôi phải cải thiện bè. Hiện thời thì nó nổi đấy, nhưng khó lòng ở trên nó lâu được. Tôi sẽ phải làm cho nó tiện nghi hơn để sống cho tới khi có thể dọn về và ổn định chỗ của mình trên xuồng. Chẳng hạn như phải làm sao vẫn ở trên bè mà không bị ướt. Da dẻ tôi nhăn nhúm và sưng tấy khắp người do liên tục bị ướt. Tình trạng đó phải chấm dứt. Và cũng phải tìm cách cất giấu đồ ngay trên bè nữa.

Tôi phải thôi đừng hi vọng quá nhiều vào chuyện một con tàu sẽ đến cứu tôi. Không nên chờ đợi cái gì khác. Việc sống còn phải bắt đầu từ chính bản thân mình. Theo kinh nghiệm của tôi, sai làm tệ hại nhất của một nạn nhân đắm tàu là hi vọng quá nhiều và hành động quá ít. Việc sống còn bắt đầu bằng ý thức để ý đến những gì sờ thấy lấy được. Trông chờ xa xôi với niềm hi vọng lười nhác cũng có nghĩa là mộng mị để cuộc sống của mình tuột đi dần dần.

Có biết bao nhiêu việc tôi phải làm.

Tôi phóng tầm mắt về phía chân trời trống rỗng. Sao mà nhiều nước đến thế. Còn tôi thì chỉ có một mình. Chỉ có một mình.

Tôi bật khóc. Nước mắt tôi nóng bỏng. Vùi mặt vào hai khoeo tay, tôi khóc tấm tức. Tình trạng của tôi chắc chắn là vô vọng rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Tôi biết chuyện sống sót của tôi rất khó tin. Bây giờ nghĩ lại, chính tôi cũng nghĩ làm lạ.

Việc tôi khai thác được tình trạng say sóng mệt mỏi của Richard Parker không phải là cách giải thích duy nhất. Còn lí do khác khiến tôi sống sót: tôi là nguồn thức ăn và nước uống. Richard Parker đã suốt đời sống trong vườn thú, và đã quen với cuộc sống không phải là làm gì mà vẫn có đồ ăn thức uống. Đúng là khi trời mưa và cả cái xuồng là một cái hứng nước mưa, nó biết nước đó ở đâu mà ra. Hay như khi chúng tôi gặp cá bay, lúc đó vai trò của tôi không rõ ràng. Nhưng những cái đó không làm thay đổi được thực tế của hoàn cảnh: khi nó nhìn ra khỏi mạn xuồng, nó không thấy một khu rừng nào có thể săn mồi, không một con sông nào có thể uống tha hồ khi nó khát. Mà tôi thì mang cho nó đồ ăn và nước uống. Vai trò của tôi là tuyệt đối và đầy phép lạ. Nó làm cho tôi có quyền lực. Bằng chứng ư? Tôi vẫn còn đây để kể chuyện của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Tôi thức dậy một lần trong đêm đó. Tôi gạt cái dù che sang một bên và nhìn ra ngoài. Vầng trăng lưỡi liềm có đường viền thật sắc nét và bầu trời trong vắt hoàn hảo. Những vì sao tỏa sáng thật mãnh liệt mà cũng rất kiềm chế, đến nỗi thật vô lý nếu gọi đó là đêm tối. Biển nằm yên, tắm trong thứ ánh sáng e ấp và lấp lánh, một màn khiêu vũ của màu đen và màu sáng bạc trải dài vô tận khắp xung quanh tôi. Cái gì cũng như có khối sâu và dầy – khối không trung bên trên tôi, khối nước xung quanh và bên dưới tôi. Tôi vừa cảm động vừa sợ hãi. Tôi cảm thấy mình giống như nhà hiền triết Markandeya, từ trong miệng thần Vishnu ngã ra ngoài khi thần đang ngủ và nhìn thấy toàn thể vũ trụ, tất thảy mọi thứ trong vũ trụ. Trước khi nhà hiền triết có thể chết vì sợ hãi, thần Vishnu tỉnh dậy và lại quẳng ông vào miệng mình. Lần đầu tiên tôi nhận thấy – và còn sẽ nhận thấy điều đó nhiều lần trong suốt cơn hoạn nạn của mình, giữa những cơn đau đớn và tuyệt vọng – rằng khổ nạn của tôi đang xảy ra trong một cảnh trí thật lớn lao. Tôi nhìn nhận khổ nạn của mình đúng như bản chất của nó, hữu hạn và chẳng có nghĩa lý gì, đến nay vẫn vậy. Sự khổ nạn của tôi chẳng vừa vào đâu cả, tôi biết thế. Và tôi có thể chấp nhận điều này. Chẳng sao cả. ( Chỉ có ban ngày là tôi phản đối: “Không! Không! Không! Khổ nạn của tôi có nghĩa lý của nó. Tôi muốn sống! Tôi không thể không hòa trộn cuộc sống của tôi với cuộc sống của vũ trụ. Cuộc sống là một cái lỗ nhìn trộm, một lối duy nhất và bé xíu để đi vào cõi vô cùng – làm sao tôi lại không thể tận hưởng thêm một chút cảnh tượng của muôn vật có thể thấy được qua cái lỗ ấy? Tôi chỉ có cái lỗ bé tí ấy thôi mà!” Tôi lúng búng những lời cầu nguyện của đạo Hồi và nằm xuống ngủ tiếp.

Sáng hôm sau, tôi không đến nỗi ướt lắm và cảm thấy khỏe khoắn. Tôi nghĩ điều đó rất đáng nói, nếu xét đến những khó khăn lo lắng và tôi đang phải chịu đựng lúc bấy giờ, cũng như việc tôi đã ăn rất ít trong nhiều ngày liền.

Hôm ấy trời đẹp. Tôi quyết định thử câu cá, lần đầu tiên trong đời. Sau bữa điểm tâm ba cái bánh qui và một hộp nước, tôi đọc những gì viết về chủ đề này trong cuốn sách cẩm nang sống còn. Vấn đề đầu tiên: mồi câu. Tôi suy tính chuyện đó. Có thịt chết, nhưng lấy trộm đồ ăn ngay dưới mũi hổ thì tôi không dám. Nó không thể hiểu được rằng đó là một khỏan đầu tư sẽ đem lại cho nó những món lại tuyệt hảo. Tôi quyết định dùng da giầy. Tôi chỉ còn một chiếc. Chiếc kia đã tuột mất khi đắm tàu.

Tôi bò lên xuồng và lấy từ một thùng đồ lên một bộ đồ câu, con dao và một cái xô để cá câu được. Richard Parker đang nằm nghiêng một bên. Đuôi nó nhảy dựng lên khi tôi leo lên mũi xuồng nhưng đầu nó không động đậy. Tôi thả bè ra xa.

Tôi buộc lưỡi vào dây câu qua một đoạn thép dẫn mồi. Thêm mấy hòn chì. Tôi chọn ba hòn có hình giống như thủy lôi. Rồi cởi giầy và cắt nó thành từng mẩu nhỏ. Không phải dễ, vì da giầy rất dai và cứng. Tôi cẩn thận luồn mũi câu vào một mẩu da dẹt, không đâm xuyên qua mà cố gài nó vào trong sao cho đầu nhọn lưỡi câu không lộ ra ngoài. Tôi buông dây xuống thật sâu. Tối hôm trước tôi đã nhìn thấy biết bao nhiêu là cá và nghĩ rằng sẽ rất dễ cắn câu.

Thế mà chẳng được con nào. Cả chiếc giầy biến dần từng mẩu một. Dây cứ thấy động hết cái này đến cái khác, cá cứ thi nhau ăn mà không mắc câu, tôi cứ liên tục thay mồi, cho đến lúc chỉ còn một cái đế và dây giày. Khi thấy đoạn giây giầy không hấp dẫn như một con giun làm mồi câu, tôi suốt ruột quá liền móc vào cái lưỡi câu cả cái đế giầy to tướng. Thật là một ý tưởng không hay. Tôi thấy cái dây câu bị kéo nhẹ một cái, rồi căng ra rất hồi hộp, sau đột nhiên nhẹ bỗng. Tôi kéo lên, chỉ còn có dây mà thôi. Tôi đã mất cả chì lẫn chài.

Mất mát đó không làm tôi nản lòng nhiều lắm. Trong bộ đồ câu vẫn còn nhiều lưỡi thép dẫn mồi và các hòn chì khác, và ngoài ra còn cả một bộ đồ câu khác còn nguyên. Mà thực ra tôi câu cá đâu phải cho mình ăn. Tôi có rất nhiều đồ dự trữ mà.

Mặc dù vậy, một phần trí khôn của tôi, cái phần thường nói ra những điều ta không muốn nghe, la lối rầm rĩ.

“Ngu ngốc thì phải trả giá. Lần sau thì ngươi nên thận trọng và thông minh hơn.”

Gần hết buổi sáng hôm đó thì con rùa thứ hai xuất hiện. Nó bơi thẳng lên bè. Nếu muốn, nó đã có thể đâm lên và cắn vào đít tôi. Khi nó quay người bơi đi, tôi với xuống định tóm lấy hai chân sau của nó, nhưng vừa chạm tay vào nó tôi đã rụt ngay tay lại vì sợ. Con rùa bơi đi mất.

Vẫn cái phần trí khôn đã la lối tôi trong vụ câu cá thất bại kia lúc này lại lên tiếng. “Ngươi định nuôi cái con hổ kia bằng gì, nói rõ xem nào? Ngươi nghĩ nó sẽ sống được bao lâu với cái xác mấy con vật kia? Ta có phải nhắc ngươi là hổ không phải là loài ăn thịt chết? Công nhận rằng lúc đói gần chết thì nó cũng sẹ bịt mũi nhắm mắt mà ăn. Nhưng ngươi có nghĩ rằng trước khi phải chén con ngựa vằn đã thối rữa kia, nó sẽ cố gắng ăn thịt thằng cu Ấn Độ vẫn còn tươi sống nguyên lành và chỉ cách nó vài sải bơi ngắn mà thôi không? Rồi còn tình hình uống nước thì sao? Ngươi biết là hổ không chịu được đói khát kéo dài. Ngươi có để ý mùi hôi từ mồm miệng nó phả ra không? Dấu hiệu xấu đấy. Chẳng nhẽ ngươi hy vọng nó sẽ uống cạn Thái Bình Dương để thỏa cơn khát và do vậy cho phép ngươi cứ thế đi bộ đến châu Mỹ hay sao? Phải công nhận khả năng uống nước biển đáng kinh ngạc của bầy hổ vùng Sandarbans. Có thể là vì chúng sống nhiều đời rồi trong các khu rừng chầm ngập mặn. Nhưng khả năng đó chỉ có hạn mà thôi. Người ta đã chẳng viết rằng hổ phải uống nhiều nước muối quá sẽ thèm thịt người hay sao? Chao ôi, hãy nhìn kìa. Nhắc đến quỷ thì quỷ xuất hiện. Nó kia kìa. Nó đang ngáp kìa. Kinh chưa, cả một cái hang khổng lồ. Hãy nhìn những cái răng dài như nhũ đá kia của nó. Biết đâu hôm nay ngươi sẽ có dịp vào đó chơi.”

Lưỡi của Richard Parker, to và có mầu sắc như một cái túi cao su đựng nước nóng để chườm, lè ra rồi thụt vào sau khi nó ngáp. Nó nuốt khan.

Suốt ngày hôm ấy tôi lo lắng đến phát ốm. Tôi không dám đến gần chiếc xuồng. Nhưng khác với nỗi lo lắng của tôi, Richard Parker yên lặng cả ngày hôm đó. Nó vẫn còn chỗ nước mưa và chưa lo gì đến chuyện đói. Nhưng nó cũng đánh động theo nhiều cách – gầm, gừ, gằn giọng, rên rẩm theo kiểu hổ – nghĩa là không muốn làm cho tôi yên lòng. Câu đố có vẻ như không có lời giải: muốn câu thì phải có mồi, mà muốn có mồi thì tôi phải câu được cá. Làm sao bây giờ. Lấy ngón chân ra làm mồi chăng? Hay cắt bớt một tai.

Rồi một giải phát tự nó xuất hiện cuối buổi chiều hôm đó một cách bất ngờ. Tôi kéo dây bè và lần vào cạnh xuồng. Hơn nữa: tôi đã trèo hẳn lên xuồng và đang lục lọi cái tủ xem có tìm thấy ý tưởng gì có thể cứu mình được không. Tôi đã buộc cái bè cách xuồng chừng gần hai thước. Tôi tưởng tượng rằng nếu Richard Parker giở trò gì thì mình sẽ có thể thoát thân chỉ bằng một cú nhẩy và một cú giật tháo cái nút hờ của giây buộc bè.

Tôi đã dám liều như thế chỉ vì chẳng còn cách nào khác.

Không tìm thây gì, không mồi, không một ý tưởng nào mới, tôi ngồi dậy và lập tức thấy mình đang ở giữa tâm điểm của cái nhìn soi mói của nó. Nó ở đầu kia của xuồng, chỗ trước đây con ngựa vằn nằm chết, quay về phía tôi, có vẻ như đã kiên nhẫn đợi để tôi để ý đến nó. Làm sao tôi lại không nghe thấy những chuyển động của nó? Làm sao tôi lại có thể tự huyễn hoặc mình rằng tôi có thể đánh lừa được nó? Bất thình lình, tôi bị tát thẳng vào mặt. Tôi rú lên và nhắm nghiền mắt lại. Với tốc độ của loài mèo nó đã nhảy vọt lên qua chiều dọc của xuồng và tát tôi. Mặt tôi sắp bị cào nát, đầu tôi sẽ rụng theo, chết như vậy thật hão hùng. Đau đớn quá nên tôi lại không cảm thấy gì. Bị choáng cũng may. Và may mắn thay cái khả năng tự điều chỉnh đã cứu ta không phải chịu đau đớn và buồn khổ quá lớn. Trung tâm điểm của sự sống là một cái ổ cầu chì. Tôi rên rỉ. “Làm tới đi, Richard Parker, kết thúc tao đi. Nhưng hãy làm ơn làm cho nhanh. Cầu chì đã đứt rồi, đừng thử nó thêm nữa.”

Nó chẳng vội gì. Nó ở ngay chân tôi, gầm gừ ấm ĩ. Chắc chắn nó đã phát hiện ra cái tủ và những của báu trong đó. Tôi kinh hoàng mở mắt.

Đó là một con cá. Có một con cá ở trong tủ. Nó đang quẫy ầm ĩ như bất kỳ một con cá nào khác khi mắc cạn. Một con cá bay. Nó thon thả và có màu xanh xám đậm, với cặp cánh khô ráo không có lông, và cặp mắt tròn mầu vàng không hề chớp. Chính con cá bay này đã đập vào mặt tôi, không phải Richard Parker. Con hổ vẫn ở cách tôi gần năm thước, rõ ràng là nó đang ngạc nhiên không biết tôi đang bận chuyện gì đây. Nhưng nó đã nhìn thấy con cá. Tôi có thể đọc được vẻ tò mò sâu sắc trên mặt nó. Có vẻ nó sắp sửa muốn điều tra việc này.

Tôi cúi xuống nhặt con cá và ném về phía nó. Đó là cách dạy nó phải thuần phục. Hết chuột thì sẽ có cá bay. Chẳng may, con cá bay đi thật. Trên không trung, ngay trước mõn con Richard Parker, con cá lượn vù lên và nhào xuống nước. Nhanh như chớp. Richard Parker quay đầu theo và đớp một cái, những lớp da dưới cổ nó rung lên, nhưng con cá nhanh quá. Nó có vẻ rất ngạc nhiên và khó chịu. Nó lại quay về phía tôi. “Miếng ăn của tôi đâu?”, vẻ mặt có vẻ hỏi thế. Tôi vừa sợ vừa buồn. Rồi quay người lại với hy vọng mong manh là có thể nhẩy vội xuống bè trước khi nó nhào đến tôi.

Đúng lúc đó, không khí bỗng rung lên và chúng tôi bị cả một bầy cá bay tấn công. Chúng nhào tới như một bầy châu chấu hung dữ. Không những do chúng đông, mà rõ ràng có cái gì rất giống với côn trùng trong những âm thanh cành cạch và vù vù của chúng. Chúng từ dưới nước phóng vụt lên, hàng chục con một lần, có những con vỗ cánh phành phạch trên không và bay được đến hàng trăm thước. Nhiều con nhào xuống nước ngay cạnh xuồng. Nhiều con khác bay vù qua. Một số đâm nhào vào mạn xuồng, nghe như tiếng pháo tép nổ. Nhiều con may mắn vùng vẫy trên mui bạt và quẫy được xuống biển. Các con khác, ít may mắn hơn, rơi thẳng xuống lòng xuồng, quẫy ầm ĩ. Và còn nhiều con cứ thế đâm thẳng vào chúng tôi. Đứng trơ trọi không gì che chắn, tôi cảm thấy mình đang trải qua một cảnh tử vì đạo của thánh Sebastian (1). Mỗi con cá đâm vào tôi như một mũi tên xuyên vào da thịt. Tôi ôm chặt lấy một cái chăn để tự vệ, đồng thời cố bắt lấy vài con cá. Người tôi đầy những vết tím và sứt sẹo.

Lí do cuộc tấn công ấy lập tức lỗ rõ: bọn cá bay bị bầy cá dorados rượt đuổi sát sạt. Bọn dorados to lớn hơn không thể nào lượn như cá bay, nhưng chúng bơi nhanh hơn nhiều và các cú vọt lên nhào xuống bất thần của chúng rất lợi hại. Chúng có thể chộp được bọn cá bay nếu cả hai cùng từ một điểm vọt lên không và cùng rơi xuống nước theo một hướng. Và là cá mập, nên bọn dorados có khả năng vọt lên khỏi mặt nước rất mãnh liệt, mặc dù không bén giọt trơn tru như cá bay. Trận chiến trên mặt nước đó diễn ra không lâu, nhưng khi đang tiếp diễn, mặt biển như sôi lên sùng sục, cá nhẩy loạn xạ và đớp nhau phầm phập.

Richard Parker đối mặt với bọn cá cứng cỏi và có hiệu quả hơn tôi. Nó rướn người, chạy quanh, ngăn chặn, với bắt và đớp cắn tất cả những con cá nào nhào về phía nó. Nó nuốt tươi nhiều con, những cặp cánh cá còn quẫy ngay trong miệng. Một màn trình diễn sức mạnh và tốc độ thật đẹp mắt. Thực ra, không phải chỉ có tốc độ của nó, mà ấn tượng mạnh mẽ hơn là ở dáng vẻ tự tin thuần túy súc vật của nó, sự cuốn hút hoàn toàn của nó vào giây phút hành động. Sự hòa trộn của tập trung và thả lỏng, cái tinh thần tự cao đến thế, quả đáng là niềm ghen tị của những tín đồ Yago cao đạo nhất.

Khi trận chiến đó qua đi thì kết quả là, ngòai một thân thể đau nhừ đối với tôi, có sáu con cá bay nằm lại trong tủ và rất nhiều con khác dưới sàn xuồng. Tôi vội bọc một con cá vào cái chăn, vớ lấy một cái rìu và trở lại bè.

Tôi tiếp tục rất thận trọng. Việc để mất cả bộ đồ câu sáng hôm ấy đã có tác dụng làm cho tôi tỉnh táo hơn. Tôi cẩn thận giở con cá ra, luôn giữ chặt nó xuống bằng một tay, bởi tôi thừa biết nó sẽ tìm cách nhẩy thoát thân. Càng nhìn thấy con cá, tôi càng cảm thấy khó chịu và sợ hãi. Cái đầu nó đã ló ra hết. Trong tư thế tôi giữ nó, con cá trông như một miếng kem cá bẩn thỉu lòi ra trên một cái vỏ côn bằng chăng len. Nó đang ngáp ngáp tìm nước, miệng và mang phồng lên dẹp xuống. Có thể cảm thấy cặp cánh nó đang đẩy mạnh vào tay tôi. Tôi lật úp cái xô và đè đầu con cá xuống đáy xô. Tôi cầm lấy cái rìu và nhấc rìu lên.

Tôi đã bắt đầu hạ rìu nhiều lần, mà không thể kết thúc được nhát chặt. Tình trạng tâm lý mềm yếu ấy có vẻ vô lý nếu xét đến những gì tôi đã chứng kiến trong những ngày vừa qua, nhưng đó là hành vi của những kẻ khác, của bọn thú vật ăn thịt lẫn nhau. Có thể coi là tôi có một phần trách nhiệm trong cái chết của con chuột, nhưng tôi chỉ ném nó đi, chứ Richard Parker mới là kẻ giết chết nó. Cả một đời chay tịnh bình yên đang ngăn không cho tôi dám chặt đầu một con cá.

Tôi lấy chăn phủ lên cái đầu cá và xoay cái rìu ngược lại. Một lần nữa tôi vung tay. Nhưng tôi không thể chịu nổi ý nghĩ mình đang lấy búa đập xuống một cái đầu mềm mại còn đang sống.

Tôi bỏ rìu xuống, quyết định sẽ bẻ cổ con cá mà không nhìn nó. Tôi muốn chặt vào trong chăn rồi cùng cả hai tay bắt đầu bẻ cong nó. Càng bẻ, con cá càng giãy khỏe. Tưởng tượng cảnh chính mình bị quấn vào chăn và có ai cố bẻ gẫy mình như thế, tôi phát hoảng. Tôi dừng lại nhiều lần. Nhưng tôi vẫn biết rằng phải làm xong việc này, và càng lâu thì con cá càng phải chịu đau đớn nhiều hơn.

Nước mắt ròng ròng, tôi cố mãi cho tới lúc nghe thấy tiếng rắc và không còn thấy động cựa gì trong tay mình nữa. Tôi giở chăn ra. Con cá bay đã chết. Nó bị bẻ gẫy rời, đẫm máu ở một bên mang.

Tôi khóc lóc đắng cay cho linh hồn của một con vật nhỏ đáng thương. Đó là sinh linh đầu tiên đã bị tôi giết chết. Từ nay tôi đã thành kẻ sát sinh. Từ nay tôi đã mắc tội như Canin (2). Tôi mười sáu tuổi, một thằng bé vô hại, sách vở và tín ngưỡng, và giờ thì tay tôi đã vấy máu. Đó thật sự là một gánh nặng phải mang theo cho đến hết đời. Sinh linh nào cũng thiêng liêng cả. Tôi không bao giờ quên con cá đó trong những lời cầu nguyện của mình.

Sau đó thì dễ dàng hơn. Nó đã chết rồi. Con cá bấy giờ chỉ còn như những con cá tôi đã thấy ngoài chợ Pondicherry. Nó thành một cái gì khác rồi, một cái gì đó bên ngòai quá trình sáng tạo của thế giới. Tôi dùng rìu chặt nó thành từng miếng nhỏ rồi bỏ cả vào trong xô.

Những giờ còn lại của ngày hôm đó, tôi lại thử câu cá. Lúc đầu cũng chẳng may mắn gì hơn buổi sáng. Nhưng có vẻ như sẽ dễ có kết quả hơn. Rõ ràng là chúng thích. Tôi nhận ra rằng đó là những con các nhỏ, quá nhỏ đối với lưỡi câu. Tôi quăng dây ra xa hơn và thả cho chum xuống sâu hơn, ra ngoài phạm vi của bọn cá nhỏ lăng quăng sát cạnh bè và xuồng.

Chỉ đến khi tôi dùng cả cái đầu con cá bay làm mồi, quăng dây ra xa rồi nhanh chóng kéo về, khiến cho cái đầu lướt nẩy trên mặt nước, tôi mới có được cú cắn đầu tiên. Một con dorado nhào lên và lăn xả vào đầu cá. Tôi thả chùng dây một chút để đảm bảo cho con cá nuốt chửng được mồi, rồi lập tức giật mạnh. Con dorada vọt hẳn lên mặt nước như một viên đạn, kéo cái dây mạnh đến nỗi tôi tưởng mình sẽ bị kéo ngã xuống biển. Cái dây câu rất chắc. Nó sẽ không đứt. Tôi bắt đầu kéo con dorado vào bè. Nó chống cự với tất cả sức mạnh của nó, nhẩy lên, nhào xuống, quẫy mạnh bên này, bên kia. Dây câu cứa vào tay tôi. Tôi phải lót tay bằng cái chăn. Tim tôi đập thình thịch. Con cá khỏe như một con bò đực. Không biết tôi có đủ sức kéo nó vào không.

Tôi để ý thấy tất cả những con cá khác xung quánh bè và xuồng đã biến mất. Rõ ràng là chúng đã biết tình trạng tuyệt vọng của con cá mắc câu. Tôi vội vã. Tình trạng này sẽ lôi kéo cá mập đến mất. Nhưng con cá chiến đấu hăng như quỉ. Hai cánh tay tôi đau nhừ. Mỗi lần tôi lôi được nó vào gần bè, nó lại vùng vẫy điên cuồng đến mức tôi đành phải nới dây ra một chút.

Cuối cùng thì tôi cũng kéo được nó lên. Con cá dài đến gần một thước. Cái xô thành vô dụng. Nó sẽ chỉ vừa bằng cái mũ đội đầu cho con cá. Tôi giữ con các xuống bằng cách quỳ lên nó và dùng cả hai tay. Một khối nguyên những cơ bắp đang quẫy, đập thình thịnh lên bè. Cái đuôi thò ra ngoài, bên dưới tôi. Tôi cưỡi lên nó như một cao – bồi cưỡi lên một con ngựa bất kham đang lồng lộn. Tâm trạng tôi thật đắc thắng và hoang dã. Một con dorado là một con cá lớn, hoành tráng, chắc nạc và thon thả, với một cái tràn gồ biểu lộ một cá tính mạnh mẽ, một cái vây lưng rất dài và ngạo nghễ như cái mào của một con gà trống, và bộ vẩy mượt mà sáng trưng. Tôi cảm thấy như đang giáng cho số phận một đòn chí tử vì đã khuất phục được một đối thủ đẹp đẽ đến vậy. Với con cá này, tôi đã trả đũa lại biển cả, gió bão, nạn đắm tàu, trả đũa lại tất cả những nghịch cảnh mà tôi đã phải chịu. Tôi hét lên: “Hỡi thần Vishnu, con xin tạ ơn Người! Xưa kia Người đã cứu thế giới bằng cách hiện hình cá. Nay thì người đã cứu con cũng bằng cách hiện hình thành cá. Xin tạ ơn Người!”

Giết nó không khó. Nếu không phải lấy cái lưỡi câu ra thì tôi sẽ dành việc ấy cho Richard Parker, là kẻ có quyền và sẽ ăn sống nuốt tươi ngay con cá. Câu được con dorado khiến cho tôi hỉ hả vô cùng, hơn cả như câu được một con hổ. Tôi tự tay giết nó. Tôi cầm rìu bằng cả hai tay và hết sức liên tiếp bổ đầu búa xuống con cá. Tôi vẫn không dám dùng lưỡi sắc của rìu. Con dorado làm một việc khác thường khi nó chết: nó bắt đầu phát ra đủ các loại ánh sáng mầu sắc khác nhau. Xanh da trời, xanh lá cây, đỏ, vàng, lửa và tím thi nhau lấp lánh như đèn neon trên tấm thân đang giẫy giụa của nó. Tôi tưởng như mình đang đập chết một dải cầu vồng. Sau này tôi mới biết loài dorado nổi tiếng vì cái chết sặc sỡ rỡ ràng của chúng. Cuối cùng, nó nằm im và không còn mầu gì nữa, tôi gỡ được cái lưỡi câu. Thậm chí tôi còn gỡ lại được một phần mồi.

Có thể kinh ngạc một điều là chỉ trong một thời gian ngắn ngủi đến thế, tôi đã đi từ chỗ khóc lóc vì cái chết âm thầm của một con cá bay đến chỗ hăng hái đập chết một con dorado. Có thể biện hộ rằng tôi đã thấy e ngại và không nỡ giết một con cá bay chỉ vì trốn chạy và lầm đường rơi vào tay tôi, còn con dorado lớn lao kia thì tôi đã phải cố hết sức để bắt nó và sự phấn khích của chiến công ấy đã khiến tôi hăng máu, tự tin ở việc giết chết nó. Nhưng thực tế mà nói thì lí do không phải như vậy. Mà đơn giản và tàn khốc hơn nhiều: người ta có thể quen với bất kì việc gì, kể cả chết chóc.

Với lòng tự hào của một kẻ đi săn, tôi kéo cái bè vào gần xuồng. Tôi cho bè áp vào mạn xuồng, cúi người thất thấp, rồi vung tay ném con dorado vào trong xuồng. Nó rơi xuống với một tiếng thịch thật nặng, và tôi nghe thấy Richard Parker phát ra một âm thanh bật gió đầy ngạc nhiên. Sau một vài tiếng hít hà, tôi nghe rõ tiếng miệng hổ ngoạm nhai nhoàn nhoạp. Tôi đẩy bè ra, không quên thôi lên nhiều hồi còi để Richard Parker biết rằng ai đã cho nó suất thức ăn tươi sống đó. Tôi dừng lại nhặt một ít bánh quy và một hộp nước uống. Năm con cá bay rơi vào trong tủ đã chết cả. Tôi vặn hết cánh của chúng vứt đi, rồi quấn cả vào cái chăn nay đã thành thiêng liêng vì mạng cá.

Khi tôi đã rửa sạch các vết máu trên người, lau chùi bộ đồ câu, thu xếp gọn ghẽ mọi thứ và ăn xong bữa tối thì đêm đã buông xuống. Một màn mây mỏng che khuất các vì sao và vầng trăng. Trời rất tối. Tôi thấm mệt, nhưng vẫn còn phấn khích vì những sự kiện của những giờ trước đó. Cảm giác bận rộn khiến tôi thấy vô cùng sảng khoái. Tôi đã không nghĩ một tí gì đến tình trạng hoặc bản thân mình. Câu cá quả là cách dùng thời gian hay hơn kể chuyện hoặc chơi trò Gián điệp rất nhiều. Tôi quyết định sẽ lại câu cá ngay khi rạng ngày sáng hôm sau.

Tôi ngủ thiếp đi, đầu óc còn sáng rỡ những lấp lánh sặc sỡ của con dorado đang đi vào cõi chết.

Ghi chú:

1- Người La Mã truyền giảng đạo Cơ Đốc, bị chính quyền bắt và giết năm 1887, sau được Giáo hội Cơ Đốc phong thánh. Sebastian bị trói đứng vào cọc, trần trụi, và bị lính dùng cung nỏ bắn tên vào người cho đến chết. ( ND )

2 – Nhân vật trong Kinh Thánh Cơ đốc: là kẻ sát nhân đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đã giết chết chính anh trai của mình. ( ND )
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Đêm đó tôi ngủ chập chờn. Sắp sáng thì tôi không cố ngủ nữa mà chống tay nằm lên. Và cặp mắt nhỏ nhoi của tôi nhìn thấy một con hổ. Richard Parker đang không yên. Nó rên rỉ, gầm gào, và đi quanh quẩn vòng quanh xuồng. Lạ thật. Tôi thử đánh giá tình hình. Nó không thể đói được. Chí ít cũng không đến nỗi đói quá mà trở thành nguy hiểm. Nó khát chăng? Lưỡi nó thè lè thật, nhưng chỉ chốc lát thôi, và nó không hề hổn hển. Bụng và chân nó vẫn ướt, tuy không sũng nước như trước. Có thể là nước mưa đọng trong xuồng đã cạn bớt. Chẳng mấy chốc, nó sẽ khát.

Tôi nhìn lên trời. Màn mây mỏng đã tan đi. Trời trong vắt, chỉ có vài vẩn mây nhỏ phía chân trời. Sẽ là một ngày nóng bức không mưa nữa đây. Biển chuyển mình một cách lười nhác, như thể đã thấy mệt vì cái nóng sắp đến.

Tôi ngồi dựa cột buồm và suy nghĩ về vấn đề của chúng tôi. Bánh quy và bộ đồ câu sẽ đảm bảo phần cứng của khẩu phần hàng ngày của chúng tôi. Phần nước mới là cái lo. Nước thì đầy rẫy quanh chúng tôi, nhưng lại không uống được vì có muối. Tôi có thể trộn một ít nước biển vào nước uống của nó, nhưng đầu tiên là phải kiếm được phần nước uống ấy đã. Các hộp nước không thể đủ cho cả hai chúng tôi về lâu dài – thực sự là tôi không hề muốn chia thứ nước này cho Richard Parker một tí nào – còn trông chờ vào nước mưa không thì thôi thì thật là ngốc.

Chỉ còn có những cái máy cất nước bằng nắng kia mà thôi. Tôi nghi ngờ liếc nhìn chúng. Chúng đã ở dưới nắng được hai ngày rồi. Tôi thấy một cái đã có vẻ xịt hơi. Tôi kéo dây buộc nó vào và thổi phồng cái chóp nón trở lại. Không mong chờ gì, tôi thò tay xuống nước xem cái túi chứa bên dưới hộp phao nó ra sao. Những ngón tay tôi thấy cái túi căng tròn một cách bất ngờ. Tôi run hết cả người. Trấn tĩnh lại, nhỡ chỉ là nước biển đã lọt vào đó thì sao. Tôi gỡ cái túi ra, rồi theo đúng chỉ dẫn, hạ thấp nó xuống và nghiêng cái máy cất để bất kì chút nước nào còn đọng quanh đáy chóp nón sẽ chảy hết vào túi. Tôi đóng hai cái nắp nhỏ, tháo hẳn cái túi ra và kéo nó lên. Nó hình khối vuông, làm bằng nhựa dẻo dày, mềm và có màu vàng, với những vạch đo độ in ở một bên sườn. Tôi nếm nước chứa trong túi. Tôi nếm lại lần nữa. Không hề mặn chút nào.

“Con bò sữa biển ngọt ngào của ta ơi!” Tôi thốt lên với cái máy cất nước. “Mày đã ra sữa rồi, và mới ngon làm sao! Vẫn hơi có mùi cao su, nhưng tao không phàn nàn đâu. Đây này, hãy xem tao uống đây này!”

Tôi uống hết túi nước. Nó có dung tích một lít và đã chứa gần đầy. Sau một phút thở dài nhắm mắt tận hưởng sung sướng, tôi lắp lại cái túi. Tôi kiểm tra các máy cất khác. Cái nào cũng có một túi nặng tương tự. Tôi thu được hơn tám lít nước ngọt, phải nói như là sữa tươi, và chứa cả vào cái xô cá. Lập tức, những cái bẫy kĩ thuật đó trở thành quá quý giá với tôi như bầy gia súc đối với một trại chủ. Quả thật, dập dềnh lười nhác trên mặt nước thế kia, chúng cũng giống một đàn bò đang gặp cỏ trên cánh đồng. Tôi chăm chút vào chúng, đảm bảo để cái nào cũng đầy nước biển và chóp nón với hộp phao nào cũng được thổi căng vừa phải.

Sau khi thêm một ít nước biển vào xô, tôi đặt nó lên mặt ghế bên mạn xuồng ngay sát cạnh mép bạt. Không khí mát mẻ của buổi sáng đã hết. Richard Parker có vẻ đã yên vị ở phía dưới. Tôi buộc cái xô vào chỗ đó bằng dây và dùng thêm các móc của tấm bạt ở phía xuồng. Cẩn thận, tôi ngó trộm qua mạn xuồng. Nó đang nằm nghiêng. Hang ổ nó là một cảnh tượng bẩn thỉu. Các con thú chết chất thành một đống các bộ phận cơ thể thối tha rất lạ mắt. Tôi nhận ra một vài cẳng chân, nhiều mảnh da, mảnh đầu, rất nhiều xương. Cánh các con cá bay rải rác khắp nơi.

Tôi chặt một con cá bay và ném một khúc xương lên trên mặt ghế. Sau khi đã thu thập đủ những thứ cần thiết từ trong tủ đủ cho ngày hôm đó và sắp quay về bè, tôi ném thêm một khúc cá lên mui bạt ngay trước mũi Richard Parker. Nó có tác dụng như ý muốn. Khi bè đang trôi xa khỏi xuồng, tôi thấy nó ra khỏi chỗ ẩn náu để lượm khúc cá với món đồ lạ ngay cạnh. Nó đứng dậy nghiêng cái đầu khổng lồ vào xô nước. Tôi cứ sợ nó sẽ làm đổ cái xô. Nhưng không. Mặt nó biến hẳn vào trong xô, gần khít khịt, và nó bắt đầu uống. Chỉ một nhoáng cái xô bắt đầu lắc và kêu lạch cạch mỗi khi nó liếm xoàm xoạp vào đáy xô. Khi nó ngẩng lên, tôi nhìn chằm chằm một cách dữ tợn vào mắt nó và thổi một vài hồi còi. Nó biến mất vào bên dưới tấm bạt.

Tôi nảy ra ý nghĩ rằng cứ mỗi ngày qua đi, cái xuồng lại càng giống một vườn thú hơn. Richard Parker đã có khi vực nằm nghỉ và ngủ nghê của nó, rồi chỗ chứa thức ăn, chỗ nhìn ngó ra bên ngoài, và bây giờ thì cả một chỗ để uống nước.

Nhiệt độ mỗi lúc một cao. Nóng đến ngột ngạt. Suốt ngày hôm đó, tôi ngồi dưới dù che và câu cá. Có vẻ là tôi đã hết cái may mắn của người mới đi câu với con dorado đầu tiên ấy. Cả ngày hôm đó tôi chả câu được gì, kể cả buổi chiều tà, khi nước biển có vẻ đầy rẫy sự sống bên dưới. Một con rùa xuất hiện, lần này là loài khác, một con rùa biển xanh lá cây, cồng kềnh hơn và nhẵn nhụi hơn, nhưng cũng tò mò như con rùa mỏ diều lần trước. Tôi không phản ứng gì với nó, nhưng bắt đầu nghĩ mình phải làm gì đó với bọn rùa này.

Cái duy nhất có thể gọi là tốt đẹp của một ngày nóng nực như vậy là cảnh tượng dãy phao cất nước. Chóp nón nào cũng đầy những giọt và vệt nước đọng ngoằn ngoèo bên trong.

Cuối ngày hôm đó, tôi tính ra là sáng hôm sau sẽ là trọn một tuần kể từ hôm Tsimtsum chìm xuống đáy đại dương.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Gia đình Robertson sống sót được tám mươi tám ngày trên biển cả. Thuyền trưởng Blight của con tàu Bounty nổi tiếng đã bị thuỷ thủ nổi loạn và ông cùng những người cộng sự của ông bị ném ra khỏi tàu đã sống được bốn mươi bảy ngày. Steven Callahan sống được bảy mươi sáu ngày. Owen Chase, mà câu chuyện của ông về tàu đánh cá voi Essex đã bị một con cá voi đánh chìm ra sao đã là nguồn cảm hứng của Herrman Melville, đã sống được tám mươi ba ngày trên biển cả cùng với hai thuỷ thủ, trong đó có một tuần lễ trên một hòn đảo thù địch. Gia đình Bailey sống được một trăm mười tám ngày. Tôi nghe một thuỷ thủ thương gia Triều Tiên tên là Poon gì đó đã sống sót trên Thái Bình Dương trong một trăm bảy mươi ba ngày vào những năm 1950.

Tôi đã sống sót trên biển trong hai trăm hai mươi bảy ngày. Thử thách của tôi kéo dài như vậy đấy, hơn bảy tháng trời.

Tôi giữ cho mình luôn bận rộn. Đó là chìa khoá để sống còn. Trên một chiếc xuồng, thậm chí một cái bè, lúc nào cũng có những việc cần phải làm. Một ngày điển hình của tôi, nếu khái niệm đó có thể áp dụng cho một kẻ đắm tàu, đại khái diễn ra như sau:

Từ lúc mặt trời mọc cho đến giữa buổi sáng:

* thức dậy

* cầu nguyện

* cho Richard Parker ăn sáng

* kiểm tra chung tình trạng của bè, xuồng, đặc biệt chú ý đến tất cả các nút dây buộc

* chăm chút các máy cất nước (lau chùi, thổi căng, đổ nước)

* ăn sáng và kiểm tra kho đồ ăn

* câu cá và làm cá nếu cắn câu (mổ, rửa, phơi các rẻo thịt lên dây để phơi nắng cho chín)

Từ giữa sáng đến chiều muộn:

* cầu nguyện

* ăn nhẹ bữa trưa

* nghỉ ngơi và làm những việc nhẹ nhàng (viết nhật kí, xem xét các vết xây xát trên người, sửa sang các vật dụng, thu xếp tủ chứa cho gọn gàng, quan sát và nghiên cứu Richard Parker, vân vân)

Từ cuối chiều đến gần tối:

* cầu nguyện

* câu cá và làm cá

* chăm các rẻo thịt phơi (lật mặt, cắt bỏ các chỗ ươn)

* chuẩn bị bữa ăn tối

* ăn bữa tối cùng với Richard Parker

Mặt trời lặn:

* kiểm tra tình trạng chung của bè và xuồng (dây với nút buộc)

* thu trữ nước ngọt từ các máy cất

* cất giấu tất cả thức ăn và vật dụng

* sửa soạn cho ban đêm (soạn chỗ nằm, cất pháo sáng vào nơi an toàn trên bè để nhỡ có gặp tàu đi qua, và cái hứng mưa để nhỡ có mưa ban đêm)

* cầu nguyện

Đêm:

* ngủ từng giấc ngắn

* cầu nguyện

Các buổi sáng thường dễ chịu hơn những lúc chiều muộn, khi sự trống rỗng của thời gian có chiều hướng hiện ra trong lòng rõ rệt hơn.

Bất kỳ sự kiện gì cũng có ảnh hưởng đến nếp sống thường ngày đó. Trời mưa, bất cứ lúc nào, cũng dừng mọi việc khác đang làm, và trong lúc mưa, tôi giữ cái hứng nước, hăng hái tập trung vào việc thu trữ nước hứng được. Có con rùa xuất hiện cũng là một ngắt quãng lớn. Và tất nhiên, Richard Parker là một náo động thường xuyên. Điều gì làm cho nó yên được là tôi ưu tiên không dám lơi là một phút nào. Nó chẳng có một nếp công việc gì ngoài ăn, uống và ngủ, nhưng có những lúc nó bị khuấy đảo khỏi tình trạng ù lì và lồng lộn quanh lãnh thổ của mình, đánh động, trở nên khó hiểu. May sao, lần nào như vậy, nó cũng nhanh chóng bị nắng và nước biển bao la làm cho mệt mỏi và chỉ biết quay vào trong mui bạt, lại nằm nghiêng hoặc ép bụng xuống sàn xuồng, đầu dựa lên hai chân trước bắt chéo nhau.

Nhưng tôi không chỉ để ý đến nó vì cần thiết. Tôi qua hàng nhiều giờ liền chỉ quan sát nó vì đó cũng là một việc thu hút sự chú ý của tôi. Một con hổ lúc nào cũng là một con thú đầy thú vị, và càng như thế khi ta chỉ có nó là bạn đồng hành.

Lúc đầu, tôi luôn có ý thức nhìn quanh và trông chờ một con tàu xuất hiện, gần như là không nhìn được. Nhưng sau một vài tuần, năm sáu tuần gì đó, tôi hầu như hoàn toàn không có ý thức ấy nữa.

Và tôi đã sống sót bởi vì tôi đã quyết định phải lãng quên. Câu chuyện của tôi bắt đầu vào một ngày có trong lịch – ngày 2 tháng 7 năm 1977 – và kết thúc vào một ngày cũng có trong lịch – ngày 14 tháng 2 năm 1978 – nhưng khoảng thời gian giữa hai ngày đó thì không có lịch nào cả. Tôi không đếm ngày, đếm tuần, đếm tháng. Thời gian là một ảo giác chỉ làm cho ta phải thở dốc. Tôi đã sống vì tôi đã quên cả ý thức về thời gian.

Những gì tôi nhớ được là các sự kiện và các cuộc gặp gỡ, cùng các nếp quen thuộc hàng ngày, những dấu mốc tự chúng xuất hiện đây kia từ đại dương thời gian và in hằn vào kí ức tôi. Ví dụ như mùi của các vỏ pháo sáng đã phóng lên từ tay tôi, những lời cầu nguyện khi rạng ngày, việc giết rùa, và các đặc tính sinh học của các loài tảo. Và nhiều cái khác nữa. Nhưng tôi không biết có thể kể lại chúng theo trình tự hay không. Ký ức tôi trở lại thành từng mớ hỗn độn.

Quần áo tôi rữa nát, nạn nhân của nắng và muối. Lúc đầu, chúng cứ mỏng dần. Rồi chúng rách tơi ra cho đến lúc chỉ còn lại những đường chỉ. Cuối cùng, cả những đường chỉ đó cũng bục đi. Nhiều tháng trời, tối sống trần như nhộng, chì có cái còi lủng lẳng trên cổ bằng một sợi dây.

Bỏng rộp vì nước muối – những vết rộp khó chịu, đỏ loét và chẳng ra hình thù gì – là chứng bệnh cùi của biển khơi, do bị ngâm và sũng nước lâu ngày. Khi các vết rộp ấy vỡ, da tôi trở nên đặc biệt nhạy cảm. Nhỡ chạm phải một vết loét ấy là tôi phát khóc và nghẹt cả thở vì đau. Tất nhiên, các vết rộp này rộ lên tại những chỗ cơ thể tôi hay bị ướt nhất khi ở trên bè, tức là ở hai bên sườn. Biết bao ngày tôi đã không thể tìm được tư thế nào để nằm nghỉ được dễ chịu. Thời gian và ánh nắng làm lành được một vết rộp, nhưng rất lâu, và nếu tôi không giữ được khô người thì các vết rộp mới lại xuất hiện.

Tôi bỏ hàng nhiều giờ để cố tìm hiểu hết các ý nghĩa các dòng viết về kĩ thuật đi biển trong cuốn cẩm nang. Có rất nhiều cách giải thích rõ ràng và dễ hiểu về việc làm sao sống được trên mặt biển, nhưng các tác giả đã giả định rằng người đọc đều đã có những kiến thức cơ bản về hàng hải. Họ cho rằng nạn nhân đắm tàu đều là những thuỷ thủ có kinh nghiệm, với com-pa, bản đồ và máy ngắm trong tay, và đều biết phải tìm đường tránh nạn ra sao. Kết quả là những lời khuyên như: “Hãy nhớ rằng thời gian là khoảng cách. Đừng quên lên giây đồng hồ,” hoặc “Có thể dùng ngón tay để do vĩ độ khi cần thiết”. Tôi có một cái đồng hồ, nhưng bấy giờ nó đã nằm dưới đáy Thái Bình Dương. Tôi đã mất nó khi chìm tàu Tsimtsum. Còn với kinh độ vĩ độ thì ôi thôi, kiến thức hải dương của tôi chỉ bó hẹp trong những gì cuộc sống trong nước biển và không được mở rộng sang những gì chạy đi chạy lại trên mặt biển. Gió và dòng chảy là một bí hiểm đối với tôi. Các vì sao không có nghĩa lí gì với tôi. Tôi không thể gọi tên được một chòm sao nào hết. Gia đình tôi đã sống với chỉ một ngôi sao: mặt trời. Chúng tôi ngủ sớm và dậy sớm theo mặt trời. Trong đời tôi đã từng ngắm nhìn những đêm sao đẹp đẽ khi thiên nhiên vẽ nên bức những bức tranh vĩ đại nhất chỉ với hai màu và những phong cách giản dị nhất, và tôi cũng cảm được sự diệu kì, nhỏ bé mà tất cả chúng ta đều cảm thấy, và cũng nhận ra cảm giác rõ rệt về hướng đi của cuộc đời từ quang cảnh hùng vĩ đó, hầu như rõ rệt, nhưng là nói với nghĩa tâm linh mà thôi, chứ không phải với nghĩa địa lí. Tôi không có một chút ý niệm gì về việc có thể dùng bầu trời sao ấy làm một bản đồ chỉ đường. Làm sao những ngôi sao ấy, cho dù sáng đến đâu, lại có thể giúp tôi tìm đường cho mình nếu chúng cũng chuyển dịch không ngừng?

Tôi từ bỏ ý định tìm hiểu vấn đề đó. Có biết thêm được gì nữa thì cũng là vô bổ. Tôi chẳng có phương tiện gì để chủ động được hướng đi của mình – không chân vịt, không buồm, không động cơ, chỉ vài mái chèo nhưng không đủ sức điều khiển. Vạch ra một hướng đi chỉ là vô nghĩa nếu tôi không thể làm gì để thi hành việc đó? Ngay cả khi có thể làm được thế, làm sao tôi biết mình nên đi về đâu? Sang phía Đông, đến Mỹ? Lên Bắc, đến Châu Á? Xuống phía Nam, nơi có các luồng tàu? Lựa chọn nào cũng tốt xấu ngang nhau.

Thế nên tôi trôi dạt. Gió và dòng chảy quyết định nơi tôi sẽ đến. Thời gian trở thành khoảng cách đối với tôi cũng như mọi sinh vật có sinh tử khác ở đời – tôi du hành xuôi theo con đường đời – và tôi dùng ngón tay mình làm các việc khác chứ không cố đo vĩ độ với chúng. Sau này, tôi tìm ra rằng tôi đã du hành dọc một con đường nhỏ hẹp, đó là dòng hải lưu ngược xích đạo của Thái Bình Dương.

Tôi câu với các loại lưỡi câu khác nhau, ở các độ sâu khác nhau và nhằm vào các loại cá khác nhau, từ lối câu cá dưới đáy biển với các lưỡi rất to cùng nhiều hòn chì nặng thả dây thật sâu đến những lưới nhỏ hơn với chỉ một hai hòn chì để nhử cá ăn nổi trên mặt nước. Lâu lắm mới có cá cắn câu, khiến cho lần nào được cá tôi cũng rất mừng, nhưng kết quả có vẻ không tương xứng tí nào với nỗ lực đã bỏ ra của tôi. Chờ cá cắn câu quá lâu, cá câu được quá nhỏ, và Richard Parker luôn luôn bị đói.

Cuối cùng thì tôi thấy cái lao móc câu lại và vũ khí bắt cá rất lợi hại. Mỗi cây lao gồm có ba phần được vặn vào với nhau: hai đoạn gậy tròn tạo thành phần cán lao – một đoạn có tay nắm bằng nhựa ở một đầu và có vòng để nối cây lao vào dây bảo hiểm – và một phần nữa có một cái lưỡi móc câu có đường kính phần uốn cong rộng đến năm phân và một mũi nhọn sắc bén như kiểu dây thép gai. Lắp hết lên, một cái lao dài khoảng một thước rưỡi, cầm thấy nhẹ và chắc như một thanh gươm.

Lúc đầu tôi thường thọc lao xuống sâu độ hơn một thước, có khi móc cả một con cá vào mũi lao làm mồi, và ngồi đợi. Thường phải đợi lâu hàng giờ, thân thể tôi căng thẳng đến đau nhừ. Khi thấy một con cá đã bơi vào đúng chỗ, tôi lấy hết sức lực rút thật nhanh cái lao lên. Đó là một quyết định phải thi hành lập tức chỉ trong một phần giây đồng hồ. Kinh nghiệm dạy tôi rằng chỉ nên rút lao khi tôi thực sự cảm thấy có cơ hội bắt được cá, không nên rút một cách hú họạ, vì cá cũng rút kinh nghiệm rất nhanh, và không bao giờ rơi vào cùng một cái bẫy đến lần thứ hai.

Khi may mắn, lưỡi lao sẽ móc chắc vào con cá và tôi có thể bình tĩnh đem nó lên bè. Nhưng nếu tôi móc một con cá lớn vào đúng phần bụng hoặc đuôi, nó sẽ vặn người tuột khỏi lao và vuột đi mất với một tốc độ bất ngờ. Bị thương như vậy, con cá dễ dàng trở thành mồi ngon cho các con cá khác, một món quà mà tôi không hề muốn tặng cho chúng. Vì vậy mà khi thấy cá to, tôi luôn cố nhằm vào phần bên dưới mang và vây sườn của nó, vì phản ứng bản năng của cá khi bị tấn công là bơi lên trên để tránh lưỡi câu, theo đúng hướng tôi sẽ rút lao. Có những lần, mũi lao chỉ gãi chứ không móc được vào người con cá và chúng cứ thế lao thẳng lên khỏi mặt nước, nhào vào tận mặt tôi. Tôi nhanh chóng mất cảm giác sợ hãi khi chạm vào các con vật dưới biển. Không còn những xúc động như lần giết con cá bay trong chăn nữa. Một con cá nhảy khỏi mặt nước bây giờ sẽ phải đương đầu với một thằng bé đói khát đang sẵn sang làm tất cả mọi thứ để bắt nó. Nếu cảm thấy lưỡi lao móc vào cá có vẻ còn lỏng lẻo, tôi thường buông lao – vì đã buộc nó vào dây bảo hiểm – và dùng cả hai tay bắt lấy con cá. Ngón tay, mặc dù cùn, vẫn nhanh nhẹn và khéo léo hơn một cái móc rất nhiều. Cuộc chiến đấu sẽ rất dữ dội và nhanh chóng. Những con cá thì trơn tuột và tuyệt vọng, còn tôi thì chỉ tuyệt vọng mà thôi. Ước sao tôi có được nhiều tay như nữ thần Durga – hai tay giữ lao, bốn tay bắt cá và hai tay nữa sử dụng rìu. Tôi phải thu xếp mọi việc với hai tay nữa sử dụng rìu. Tôi thọc ngón tay vào mắt, thọc cả bàn tay vào mang, dùng đầu gối ấn nát bụng, dùng răng cắn đuôi – làm đủ mọi thứ cần thiết để giữ được con cá trên bè cho đến lúc có thể với được rìu và chặt đầu nó.

Với thời gian và kinh nghiệm, tôi đã trở thành một thợ săn giỏi hơn. Tôi mạnh bạo hơn và lanh lẹ hơn. Tôi đã phát triển được một bản năng, một cảm giác rõ rệt về việc phải làm.

Tôi thành công lớn hơn khi bắt đầu dùng đến một phần của cái lưới đựng hàng. Với tư cách một cái lưới bắt cá thì nó hoàn toàn vô dụng – quá cứng, quá nặng, và mắt lưới rõ dệt không đủ mau. Nhưng nó là một cái nhử cá hoàn hảo. Buông thả và uốn lượn tự do dưới nước, nó là một hấp dẫn không cưỡng lại được đối với các con cá và càng hấp dẫn hơn khi rong biển bắt đầu mọc bám vào nó. Những con cá kiếm ăn gần bắt đầu quanh quẩn coi cái lưới như hàng xóm của mình, còn bọn ăn xa, trước chỉ hay đáo qua rất nhanh như bọn dorado, nay cũng phải lượn lờ chậm lại để xem xét cái khu phố mới mở ấy. Bọn sở tại cũng như bọn khách ghé qua có biết đâu rằng mắt lưới có cài lưỡi câu. Có những ngày, chẳng may quá ít, tôi cứ rút lao lên cái nào là có cá cái ấy. Những lúc đó tôi săn được thật thừa thãi; trên xuồng không còn đủ chỗ mà dây căng trên bè cũng chật ních những rẻo thịt dorado, cá bay, cá ngừ, chim, nụ… chứ đừng nói gì đến cái bụng no kễnh của tôi. Tôi trữ tất cả những gì cần cho mình, còn lại thì cho Richard Parker. Trong những ngày no đủ ấy, tôi bắt được nhiều cá đến nỗi thân thể bắt đầu lấp lánh đầy những vẩy cá bám chặt vào da thịt. Tôi cứ để nguyên những chấm sáng ngời ánh bạc ấy trên người như một tín đồ Hinđu mang trên trán biểu tượng thần linh. Nếu có thuỷ thủ nào gặp tôi trên biển lúc đó, chắc hẳn họ phải nghĩ tôi là một vị thần cá đang đứng trên vương quốc của mình. Đó thật là những ngày tốt đẹp hiếm hoi.

Rùa quả thật dễ bắt, đúng như viết trong cẩm nang. Trong chương về “săn bắt và hái lượm”, rùa được nói đến trong phần “hái lượm”. Mặc dù chúng chắc nịch như xe tăng, rùa không phải là một loài bơi nhanh và khoẻ; chỉ cần một tay tóm lấy một cái chân sau là có thể bắt được chúng. Nhưng cuốn cẩm nang quên không nói được rằng tóm được rùa chắc đã là tóm được nó. Còn phải mang nó lên khỏi mặt nước nữa. Mà kéo một con rùa nặng hàng bảy mươi cân đang quẫy đạp lên được xuồng không phải dễ. Việc đó cần có sức khoẻ phi thường. Tôi đã phải làm như sau: lôi con rùa vào sát mạn xuồng, lấy dây buộc cổ, chân trước và cả chân sau, rồi kéo nó lên cho đến khi tay muốn gãy rời ra và mắt nổ đom đóm. Phải ghì dây thật chắc vào cái móc của mui bạt phía bên kia mũi xuồng, rồi mỗi khi sợi dây chùng ra một tí là phải kéo thêm lên rồi ghì lại ngay, từng phân một. Con rùa sẽ được kéo lên khỏi mặt nước cũng từng phân một như thế. Không thể sốt ruột được. Tôi còn nhớ một con rùa biển màu xanh lá cây đã bị treo bên cạnh xuồng như vậy trong hai ngày, và nó liên tục quẫy đạp như điên cuồng. May sao, vào lúc cuối thì rùa lại thường giúp tôi một tay mà không biết. Tức là khi nó đã bị kéo đến mép xuồng, rùa càng điên cuồng càng muốn thoát thân và nó cố rụt bốn chân bị trói vào thật mạnh, đúng lúc ấy, tôi cũng cố sức kéo dây thật mạnh, và hai lực ngược chiều như vậy bỗng hất con rùa bật lên qua mép xuồng và rơi trượt vào tấm bạt. Tôi sẽ ngã người ra sau, kiệt sức nhưng thật hỉ hả.

Rùa biển xanh lá cây cho nhiều thịt hơn rùa mỏ diều, và mai phía bụng của chúng cũng mỏng hơn. Nhưng chúng thường to hơn rùa mỏ diều, trong nhiều trường hợp là quá to đối với một kẻ đắm tàu đang ngày càng yếu đi như tôi.

Lạy Chúa, cứ nghĩ rằng tôi vốn là một kẻ ăn chay kiêng khem rất kĩ. Cứ nghĩ lại hồi trước chỉ cần nghe tiếng bẻ một quả chuối là tôi đã rùng mình vì tưởng tượng như tiếng một con vật bị bẻ gãy cổ. Tôi đã rơi vào tình trạng man rợ không thể tưởng tượng nổi mất rồi.

Đáy cái bè đã trở thành nơi trú ngụ của rất nhiều sinh vật biển, cũng giống như cái lưới, nhưng nhỏ hơn. Nó bắt đầu bằng một lớp tảo xanh rờn mềm mại bám vào cái áo phao. Rồi đến các loại tảo cứng hơn và có màu sẫm hơn. Chúng sinh sôi nảy nở và ngày càng dày ra. Các sinh vật khác bắt đầu tới. Đầu tiên là những con tôm nhỏ xíu, trong suốt, dài chỉ độ mươi phân. Theo sau đó là những con cá cũng nhỏ như thế và trông như thể suốt đời bị chiếu X quang; ruột gan chúng rõ mồn một dưới lần da thịt trong suốt. Sau đó, tôi để ý thấy những con giun màu đen có dây sống trắng ngần, bọn nhuyễn thể lầy nhầy màu xanh lá cây với đám chân tay chưa tiến hoá thành hình thù gì rõ rệt, những con cá màu sắc sặc sỡ chỉ dài độ ba mươi phân với những cái bụng phệ, và cuối cùng là cua, chỉ bé độ một hai phân và có màu nâu. Tôi đã ăn thử tất cả bọn chúng, kể cả rong tảo, chỉ chừa lũ giun đen. Chỉ có bọn cua là không có vị mặn đắng khó chịu ở trong miệng. Mỗi lần chúng đến, tôi lại ném vào miệng hết con này đến con khác. Tôi không thể kiềm chế được mình. Những đàn cua ngon lành ấy thỉnh thoảng mới kéo đến mà thôi.

Vỏ xuồng cũng trở nên đầy rẫy sự sống, dưới dạng những con hà cổ ngỗng. Tôi mút mát chúng. Thịt chúng làm mồi câu rất tốt.

Tôi trở nên gần gũi với những kẻ đi ở nhờ bè ngoài biển khơi của tôi, mặc dù chúng có làm cái bè nặng nề hơn đôi chút. Chúng thu hút sự chú ý của tôi làm tôi đỡ lo nghĩ, cũng như Richard Parker. Tôi để hàng giờ không làm gì hết, chỉ nằm nghiêng, đẩy một cái áo phao ra khỏi vị trí độ mươi phân, như thể mở một cái rèm cửa sổ, và nhìn qua đó xuống dưới nước. Những gì tôi thấy là cả một thị trấn lộn ngược, nhỏ bé, yên tĩnh và an bình, với những cư dân đi lại trong đó, lịch sự như thiên thần. Cảnh tượng ấy làm cho thần kinh mệt mỏi của tôi có được những giây phút thư giãn nghỉ ngơi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,360
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Nếp ngủ của tôi thay đổi. Mặc dù nghỉ ngơi nhiều, tôi ít khi ngủ được liền một giờ, ngay cả ban đêm cũng vậy. Không phải bị sóng dập dềnh liên miên làm tôi khó ngủ, cũng không phải vì gió; người ta quen với mấy chỗ đó như quen với mấy chỗ lồi lõm trên đệm nằm của mình. Tôi cứ bị thức dậy như thế là vì sợ hãi và bồn chồn. Nghĩ lại tôi thấy quả thực mình đã ngủ rất ít.

Không như Richard Parker. Nó đã thành quán quân ngủ. Phần lớn thời gian nó nằm dưới tấm bạt. Nhưng trong những ngày dịu trời khi nắng không quá gắt và cả những đêm yên tĩnh, nó thường ra ngoài. Một trong những tư thế ưa thích khi ra ngoài trời của nó là nằm trên cái ghế đuôi xuồng, bụng chìa cả ra mép ghế, chân trước chân sau gác lên hai ghế bên. Một con hổ mà nằm được vào một chỗ chật hẹp như vậy là vì nó khôn khéo uốn lưng cong cho thật cong. Khi ngủ, nó gác đầu lên hai chân trước. Còn khi trong tâm trạng tương đối hưng phấn và có thể còn muốn nhìn quanh, nó gác hẳn đầu lên mép xuồng.

Một tư thế ưa thích nữa của nó là ngồi quay lưng lại phía tôi, nửa người dưới đặt trên sàn xuồng, hai chân trước ngay cạnh đầu, trông như thể chúng tôi đang chơi trốn tìm và nó là người đang nhắm mắt đếm. Trong tư thế này nó thường ngồi rất im lặng, chỉ thỉnh thoảng vẫy tai để chứng tỏ rằng nó không nhất thiết đang ngủ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom