Cập nhật mới

Dịch Full Con Chim Khát Tổ

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Con Chim Khát Tổ

Con Chim Khát Tổ
Tác giả: Robert Galbraith
Tình trạng: Đã hoàn thành




Robert Galbraith là một bút danh khác của tác giả bộ tiểu thuyết Harry Potter nổi tiếng J. K. Rowling.
***

Khi cô người mẫu xinh đẹp nhiều tai tiếng ngã chết từ ban công căn hộ sang trọng của cô, mọi người, kể cả giới cảnh sát đều cho rằng đây là một vụ tự tử. Chỉ riêng người anh trai cô lặng lẽ ôm mối nghi ngờ tìm đến thám tử tư Cormoran Strike yêu cầu điều tra thêm.

Chàng thám tử Strike phong trần gai góc vốn là cựu quân nhân. Chiến tranh đã để lại trong anh vết thương thể xác lẫn tinh thần. Vụ điều tra này giúp anh nhẹ bớt gánh nặng tài chính hiện tại, nhưng cái giá phải trả là anh phải dấn ngày càng sâu vào thế giới phức tạp của cô người mẫu, nơi những điều đen tối dần hé lộ và mối nguy hiểm rình rập anh ngày càng lớn dần...

"Vụ án bí ẩn tinh vi, lôi cuốn diễn ra giữa không gian đặc chất London - từ những con phố thâm trầm sang trọng đến quán rượu lẩn khuất trong hẻm sâu và khu trung tâm thời thượng sôi động... Con chim khát tổ hứa hẹn màn ra mắt hấp dẫn của chàng thám tử Cormoran Strike, và là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên rất được hoan nghênh của Robert Galbraith, một bút danh của nhà văn J.K.Rowling."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Trong hai mươi lăm năm cuộc đời mình, Robin Ellacott đã từng gặp đủ chuyện ly kỳ và bất ngờ, nhưng chưa có hôm nào như hôm đó, cô thức dậy và tự dưng cảm thấy chắc chắn rằng hôm nay sẽ là một ngày không thể quên.

Đêm hôm trước, bạn trai lâu năm của cô là Matthew đã ngỏ lời cầu hôn ngay dưới tượng thần Tình yêu ở vòng xoay Piccadilly Circus. Robin đồng ý rồi anh chàng mới thở phào nhẹ nhõm và thú thật rằng đáng ra anh định ngỏ lời trong nhà hàng Thái, nơi hai người vừa ăn tối kia, nhưng lại không liệu trước được là có một cặp ngồi đằng sau hai người cứ im ỉm nghe trộm họ nói chuyện từ đầu đến cuối rất khó chịu. Vậy nên Matthew đành rủ Robin đi dạo một vòng trên những con đường đã tối đen, mặc cho cô phản đối vì ngày mai cả hai đều phải dậy sớm. Và cuối cùng, cảm hứng trào dâng, Matthew dắt tay cô nàng khi đó vẫn đang sửng sốt về phía bức tượng. Ở đó, giữa những cơn gió lạnh lẽo (rất là không giống phong cách Matthew) chàng đã quỳ xuống, ngỏ lời cầu hôn trước mặt đám khán giả là ba kẻ vô gia cư đang ngồi trên bậc thang, uống chung một chai có vẻ chứa rượu cồn.

Với Robin, đó là lời cầu hôn hoàn hảo nhất trong lịch sử cưới xin xưa nay. Matthew còn mang cả nhẫn trong túi, chiếc nhẫn giờ đây Robin đang đeo: một viên sapphire, hai viên kim cương, vừa khít tay cô. Trên đường vào thành phố cô không thể rời mắt khỏi bàn tay mình đang để trên đùi. Matthew và cô giờ đây cũng đã có một “sự tích” vui vui để sau này kể cho con cái, trong câu chuyện đó kế hoạch của Matthew (cô vẫn còn choáng váng vì Matthew có lên kế hoạch hẳn hoi) không thành như hóa ra lại hay. Cô thấy yêu quá cả ba tên lang thang, mặt trăng, và Matthew run rẩy quỳ gối. Cô yêu luôn tượng thần Tình yêu, vòng xoay Piccally dơ bẩn cũ kỹ và chiếc taxi đen sau đó đã đưa họ về Clapham. Cứ như thể cô yêu cả London vậy, mặc dù vẫn chưa quen lắm thành phố này sau một tháng dọn đến. Ngay đến đám khách đi tàu điện xanh xao và cáu kỉnh hàng ngày cũng không làm cô bận lòng. Cô bước ra khỏi tàu, trong một sáng tháng Ba lạnh lẽo ở ga Tottemham Court Road. Robin đưa ngón cái vuốt ve mặt dưới chiếc nhẫn bạch kim, và thấy sướng run cả người khi nghĩ đến việc giờ nghỉ trưa sẽ đi mua vài cuốn tạp chí chuyên đề đám cưới.

Cánh đàn ông liên tục liếc Robin khi cô chen chúc qua công trình xây dựng ngay đầu phố Oxford, vừa đi vừa nhìn vào mẩu giấy trong tay phải. Xét theo tiêu chuẩn nào thì Robin cũng rất xinh; cao lớn và đầy đặn, tóc vàng gợn sóng theo mỗi bước đi, hơi gió lạnh làm gò má cô ửng hồng. Hôm nay là ngày đầu tiên cô đi làm thư ký thời vụ, hợp đồng chỉ trong một tuần. Từ khi dọn đến London sống với Matthew, Robin nhận toàn những việc tạm thời, nhưng hi vọng chuyện này sẽ không lâu nữa. Sắp tới cô sẽ có một cuộc “phỏng vấn công việc đàng hoàng”, cô hay nói thế.

Phần khó nhất trong những công việc kiểu này thường là làm sao tìm ra văn phòng làm việc. So với thị trấn nhỏ ở Yorkshire nơi Robin ở trước đó, London thực quá rộng lớn, rối rắm và khó hiểu. Matthew đã dặn dò cô đừng có vừa đi vừa đọc sách hướng dẫn chỉ đường “London: A tới Z”, vì như thế trông cô không khác gì khách du lịch, rất nguy hiểm; vậy nên Robin thường chỉ trông vào những bản đồ vẽ tay ngoằn ngoèo mà chỗ môi giới việc làm đưa. Cô không tin như vậy thì có vẻ giống người London hơn.

Những thanh chắn kim loại và mấy bức tường nhựa xanh bao quanh công trình xây dựng che hết cả nửa số điểm mốc định hướng trên bản đồ, làm Robin càng khó tìm đường hơn. Robin băng qua con đường đang bị đào xới, đến trước một toàn nhà văn phòng, ứng với địa điểm “Centre Point” trên bản đồ. Tòa nhà trông như một miếng bánh waffle khổng lồ bằng bê-tông, dày đặc những ô cửa sổ vuông vức. Robin đi tiếp về phía phố Denmark.

Cô tìm ra văn phòng gân như là tình cờ khi men theo một lối đi hẹp có tên là Ngõ Denmark, đổ ra một con đường ngắn với những cửa hàng nhiều màu sắc trưng bày đàn guitar, keyboard, và đủ loại nhạc cụ linh tinh. Lại đến hàng rào sơn đỏ và trắng rào quanh một cái hố giữa đường, mấy người công nhân làm đường mặc quần áo phản quang bắt đầu huýt gió chọc ghẹo Robin, cô lơ hết.

Robin nhìn xuống đồng hồ. Đã trừ trước thời gian nhỡ bị lạc nên cô đến nơi sớm trước cả 15 phút. Cánh cửa đen không có gì đặc biệt mà cô đang tìm nằm ngay bên trái quán Bar Café số 12. Trên cánh cửa cố một mẩu giấy nhỏ ghi tên chủ nhân văn phòng dán bằng băng dính ngay cạnh chuông cửa tầng hai. Nếu hôm đó cũng như những ngày khác, nếu trên tay cô không có chiếc nhẫn mới lấp lánh, Robin hẳn đã thấy hơi nản chí. Tuy nhiên lúc đó ngay cả miếng giấy xộc xệch và vết sơn tróc trên cánh cửa, cũng như những người vô gia cư đêm qua, đều trở thành phông nền cho câu chuyện lãng mạn của Robin. Cô lại xem đồng hồ (viên sapphire ánh lên, khiến tim cô loạn một nhịp; và sau này trong cả cuộc đời còn lại Robin không bao giờ chán ngắm ánh lấp lánh ấy cả). Trong tâm trạng hân hoan, cô quyết định đi vào sớm để người ta thấy cô nhiệt tình ra sao với một công việc tầm thường.

Robin vừa với tay định bấm chuông thì cánh cửa đen mở bật ra từ bên trong, một người phụ nữ bước ra. Một giây sững lặng, hai người nhìn thẳng vào mắt nhau, căng người chuẩn bị cho cú đụng chạm sắp xảy ra. Hôm đó mọi giác quan của Robin sắc bén lạ thường; họ kịp thời né nhau suýt soát. Người phụ nữ tóc đen nhanh chóng đi xuống đường, rẽ ngoặt ở góc phố rồi khuất dạng, nhưng trong giây lát, gương mặt trắng muốt ấy đã kịp gây ấn tượng sâu sắc với Robin đến nỗi cô nghĩ mình có thể vẽ lại nó chính xác từ trí nhớ. Một gương mặt tuyệt đẹp bừng bừng vẻ điên giận lẫn hả hê.

Robin kịp bắt lấy cánh cửa trước khi nó đóng lại, đằng sau cánh cửa là một lối cầu thang tối tăm. Cầu thang sắt kiểu cũ uốn lượn quanh một cái thang máy kiểu lồng chim cũng cũ kỹ không kém. Robin tập trung, cố không để gót giày vướng vào bậc thang, cô đi lên tầng một, ngang qua cánh cửa có gắn một tấm poster lồng khung, ghi chữ Crowdy Graphics, rồi tiếp tục đi lên. Chỉ tới khi cánh cửa gương trên tầng tiếp theo hiện ra Robin mới biết cô sắp làm việc gì. Trung tâm môi giới không hề nói gì trước với Robin cả.

Trên cánh cửa gương có khắc cùng tên người với mảnh giấy dán bên chuông cửa ở tầng dưới: C.B Strike và dưới đó là dòng chữ Thám tử tư.

Robin đứng im, miệng há ra. Cảm giác kinh ngạc này chỉ mình cô mới hiểu. Cô chưa bao giờ thổ lộ với anh(kể cả Matthew) về ước mơ bí mật có phần trẻ con của mình. Vậy mà hôm nay nó đã ở ngay trước mắt cô, ngay hôm nay chứ không phải ngày nào khác! Cứ như Chúa đang nháy mắt đùa với cô vậy (sự việc vừa xảy ra càng làm cô tin chắc hôm nay là một ngày đặc biệt; chắc hẳn có liên quan với cả Matthew và chiếc nhẫn, mặc dù xét cho cùng những chuyện đó chẳng dính dáng gì tới nhau).

Vẫn cực kỳ hân hoan, cô bước chầm chậm tới cánh cửa. Robin đưa tay trái ra (viên sapphire sẫm lại dưới ánh sáng mờ) với lấy nắm đấm cửa; nhưng ngay trước khi Robin chạm vào thì cánh cửa gương bỗng mở tung.

Lần này thì không suýt soát gì cả. Một người đàn ông khoảng một trăm ki lô đâm sầm vào người Robin; cô ngã ngửa ra sau, túi xách bắn lên không trung, hai cánh tay huơ loạn ở khoảng không ngay trên dãy cầu thang lắt léo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Trong tiếng hét thất thanh của Robin, Strike hứng trọn cú va đập và phản ứng theo bản năng: giơ tay về phía trước túm bừa một nắm cả người lẫn áo. Bị đau bất ngờ, Robin hét thêm một tiếng nữa, vang vọng khắp những bức tường đá. Giằng co một hồi, Strike cuối cùng cũng giữ được Robin không bị ngã xuống cầu thang. Nhưng tiếng hét của cô vẫn vang khắp toàn nhà, lúc đó Strike nhận ra mình cũng đang rống lên, “Chết mẹ!”

Robin gập người đau đớn dựa vào cánh cửa văn phòng, vẫn còn rên rỉ. Nhìn cái dáng khom lệch qua một bên của Robin, một tay luồn dưới cổ áo khoác ép chặt, Strike luận ra chắc hắn đã cứu cô bằng cách chộp lấy… bên ngực trái của cô. Mái tóc vàng óng, dày gợn sóng che bớt khuôn mặt đang đỏ vì ngượng của Robin, nhưng Strike vẫn thấy được mấy giọt nước mắt chảy ra.

“Khốn thật… xin lỗi cô!” Giọng của Strike dội quanh cầu thang. “Tôi không thấy cô đứng đó… cứ nghĩ là không có ai hết…”

Từ tầng dưới, tay họa sĩ thiết kế lập dị ở một mình la lên “Chuyện gì trên đó vậy?”

Đúng một giây sau lại có tiếng càm ràm nghèn nghẹt từ bên trên cho thấy ông chủ quán bar dưới nhà, hiện đang ngủ trong căn hộ áp mái ngay trên văn phòng của Strike cũng vừa bị quấy rầy, có lẽ là bị đánh thức sau tiếng động.

“Mời cô…”

Strike dùng ngón tay đẩy cửa để tránh đụng chạm thêm vào người cô gái đang dựa vào đó, mời cô vào trong.

“Mọi thứ ổn cả chứ?” Gã họa sĩ gọi lên lần nữa.

Strike đóng sầm cửa lại.

“Tôi không sao cả.” Robin nói dối, giọng run rẩy, người vẫn co rúm lại và tay còn đặt trên ngực, quay lưng về phía Strike. Một lát sau cô đứng thẳng, quay người lại, gương mặt vẫn đỏ bừng và mắt vẫn ướt.

Kẻ vừa bất ngờ xông vào cô trông thật to lớn, râu tóc xồm xoàm, cộng thêm một cái bụng hơi phệ ra, rất giống con gấu xù xì. Một bên mắt của Strike sưng lên, bầm tím, chỗ da dưới lông mày bị trầy. Bên má trái vẫn còn dấu ngón tay ửng đỏ rơm rớm máu, cả một bên cổ dưới cổ áo nhắn nhúm cũng vậy.

“Anh là Strike hả?”

“Ừ.”

“Tôi… tôi là nhân viên tạm thời.”

“Là gì kia?”

“Nhân viên tạm thời. Từ trung tâm giới thiệu việc làm Giải pháp Tạm thời, anh biết mà.”

Tên của trung tâm vẫn không thể xóa hết sự ngờ vực trên gương mặt méo mó của Strike. Hai người nhìn nhau, vừa dè dặt vừa đối địch.

Cũng như Robin, Cormoran Strike cũng vừa trải qua mười hai tiếng đồng hồ mà hắn sẽ nhớ mãi, thực sự đánh dấu một trang mới trong cuộc đời. Giờ đây, có vẻ như Định Mệnh lại gởi đến một phái viên áo khoác thắt eo màu be, chỉ để nhắc Strike rằng đời hắn toàn gặp tai họa. Hắn không định có thêm nhân viên tạm thời nào nữa. Strike muốn dẹp luôn hợp đồng với trung tâm sau khi đuổi việc người tiền nhiệm của Robin.

“Họ bảo cô làm bao lâu?”

“Trước mắt là một tuần.” Robin trả lời, thật chưa từng gặp ai kém nhiệt tình hơn gã này.

Strike tính nhẩm trong đầu. Một tuần theo đơn giá của bên trung tâm việc làm sẽ đẩy khoản thâm hụt trong tài khoản của Strike phình to đến mức không sao cứu vãn được, biết đâu sẽ là giọt nước cuối cùng tràn ly như bên ngân hàng vẫn hay bóng gió.

“Cô chờ tôi chút.”

Strike bỏ ra khỏi văn phòng, rẽ phải đi vào một cái toilet nhỏ xíu ẩm ướt. Hắn chốt cửa lại rồi nhìn vào tấm gương nứt lốm đốm trên bồn rửa mặt.

Khuôn mặt trong gương chẳng có gì đẹp đẽ. Trán cao, dồ ra, mũi to bành và chân mày rậm, hơi giống như Beethoven thời trẻ - già hoặc Beethoven có mê thêm món đấm bốc, lại thêm một bên mắt bầm tím sưng vù. Mái tóc xoăn dày, nhún nhẩy như lò xò từng khiến Strike được đặt cho nhiều biệt danh lúc còn trẻ, trong đó có “Tổ chim”. Trông hắn già hơn cái tuổi ba mươi lăm.

Strike chèn nút đậy vào lỗ thoát, mở nước đầy bồn rửa mặt nứt nẻ cũ kỹ, hít lấy một hơi thật sâu rồi nhúng đầu vào. Nước bắn ra khắp giày, nhưng hắn không thèm để ý, tập trung tận hưởng mười giây bình yên trong nước lạnh như băng.

Những hình ảnh lộn xộn của tối qua hiện về trong tâm trí hắn: đồ bừa đồ đạc trong ba ngăn kéo vào cái túi thể thao trong tiếng la hét của Charlotte; gạt tàn thuốc bay ngay vào chân mày khi hắn ra đến cửa và quay lại nhìn cô nàng lần cuối; đi bộ xuyên qua thành phố trong đêm đến văn phòng rồi ngồi luôn trên ghế ngủ được một hai tiếng gì đó. Sau đó là hồi kết kinh hoàng khi Charlotte tìm ra hắn lúc tờ mờ sáng, để bồi thêm mấy nhát mà cô nàng chưa kịp làm trước khi hắn bỏ đi. Hắn đã quyết không níu kéo gì nữa sau khi Charlotte trồ vuốt vào mặt hắn và chạy ra phía cửa, nhưng rồi không hiểu điên khùng thế nào hắn lại chạy theo. Cuộc rượt đuổi nhanh chóng kết thúc với sự can thiệp vô tình của nhân vật phụ vừa xuất hiện, khiến hắn phải ra tay đỡ lấy rồi rối rít an ủi.

Hắn nhấc đầu ra khỏi nước lạnh, thở hắt ra và rên hừ một tiếng. Gương mặt và cả đầu hắn lạnh tê dễ chịu. Hắn với tay lấy cái khắn cứng queo như bìa các tông treo đằng sau cửa lau cho khô rồi lại nhìn vào bộ mặt khốn khổ hiện ra trong gương. Mấy vết trầy trên mặt sau khi đã được rửa sạch vết máu khiến mặt hắn trông giống như một cái gối nhăn nhúm. Giờ này chắc Charlotte đã ra đến ga tàu điện. Lúc nãy hắn vùng chạy theo một phần vì lo sợ cô nàng lao mình xuống đường tàu. Hồi xưa, khi hai người mới chừng hai mấy tuổi, có lần sau một trận cãi vã dữ dội, cô nàng leo lên nóc nhà, say xỉn lạng quạng, thề thốt sẽ nhảy xuống. Có lẽ Strike nên biết ơn Giải pháp Tạm thời đã khiến hắn phải dừng cuộc đuổi bắt. Biết đâu nếu đuổi theo hắn sẽ hối không kịp, nhất là mới sáng tờ mờ thế này. Lần này phải cắt đứt thật sự.

Hắn sửa lại cổ áo, kéo chốt mở cửa, đi ra khỏi toilet và vào lại văn phòng.

Bên kia đường đám công nhân vừa bật máy khoan. Robin đứng trước bàn làm việc, quay lưng về phía cửa. Cô rút vội tay khỏi áo khoác khi hắn bước vào, hắn đoán chắc là cô lại vừa xoa ngực.

“Ừm,… cô không sao chứ?” Strike hỏi, cố ý không nhìn vào chỗ bị thương.

“Tôi không sao. Nếu anh không cần, tôi sẽ đi ngay.” Robin nói đầy tự trọng.

“Không, không có chuyện đó” Strike mở miệng ngay, hắn thấy tới giọng nói mình cũng gớm ghiếc. “Một tuần thì ổn thôi. À, đây là thư từ hôm nay…” Hắn nhặt đám thư dưới thảm chùi chân rồi rải ra trên bàn trống trước mặt cô, như một cử chỉ làm hòa. “Ừm, phiền cô mở thư, nghe điện thoại, dọn dẹp chung quanh… mật khẩu máy tính là Hatherill23, để tôi viết ra…” Rồi hắn viết ra trong khi Robin nhìn hắn, vẫn chưa hết lo lắng và ngờ vực. “Đây… Tôi sẽ ở trong kia.”

Hắn bước vào văn phòng phía trong, đóng cửa cẩn thận rồi đứng yên lẳng lặng, mắt dán chặt vào cái túi thể thao đặt dưới bàn làm việc trống trơn. Trong đó là toàn bộ gia tài của hắn hiện giờ, hắn biết chắc không kiểu gì lấy lại được chín phần mười số đồ đạc vẫn còn để lại nhà Charlotte. Tới trưa này chắc chúng cũng sẽ biến mất; bị đốt, bị vứt ra đường, bị băm vằm và nhúng thuốc tẩy. Bên kia đường, tiếng máy khoan vẫn ầm ĩ.

Rồi hắn nghĩ tới khoản nợ khổng lồ, không cách gì trả được, hậu quả thê thảm đi sau công việc cũng sắp sửa thất bại của hắn. Hàng loạt xui rủi kéo đến, cứ như đã được định sẵn khi hắn chia tay Charlotte. Trong sự mệt mỏi rã rời, Strike thấy tất cả hiện ra trước mắt hắn như một ống kính vạn hoa toàn những hình ảnh kinh dị.

Hắn đi quanh như người mất hồn, rồi ngồi xuống ngay chiếc ghế hắn vừa ngồi ngủ tối qua. Bên kia vách ngăn có tiếng lạo xạo. Giải pháp Tạm thời chắc hắn đang khởi động máy tính, và sẽ sớm nhận ra rằng trong ba tuần rồi chẳng có cái email nào dính đến công việc cả. Và rồi, đúng như hắn yêu cầu, cô ta sẽ mở hết đám thư đòi nợ. Rã rời, đau đớn và đói bụng, Strike gục mặt xuống bàn, vùi tai ụp mắt xuống cánh tay để khỏi nghe thấy gì cả. Trong khi đó, ở phía bên kia vách, sự nghiệp ê chề của hắn đang được phơi ra trước mắt một người xa lạ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Năm phút sau có tiếng gõ cửa, Strike vừa suýt ngủ gục liền bật dậy ngồi thẳng trên ghế.

“Gì đó cô?”

Hắn vẫn còn mơ màng nghĩ tới Charlotte; nên thấy ngạc nhiên khi một cô gái khác bước vào phòng. Cô đã cởi áo khoác ngoài ra, để lộ một chiếc áo len màu kem ôm dáng vừa vặn, hơi bị gợi cảm. Strike vuốt tóc.

“Ừm?”

“Có thân chủ đang đợi anh. Tôi mời ông ta vào được không?”

“Có cái gì kia?”

“Thân chủ, anh Strike.”

Strike nhìn cô trong vài giây, vẫn chưa xử lý kịp thông tin vừa rồi.

“Ừ, OK… à mà không, phiền cô cho tôi hai phút rồi hẵng gọi ông ấy vào nhé Sandra.”

Cô gái bỏ ra không nói thêm tiếng nào.

Strike thoáng tự hỏi sao mình lại gọi cô ta là Sandra rồi đứng bật dậy sửa soạn, cố sao để trông không giống với một gã đã mặc nguyên đồ đi làm mà ngủ tối qua. Hắn lục trong túi thể thao, chộp lấy một ống kem đánh răng và vặn thẳng vào miệng; rồi hắn nhận ra cà vạt vẫn còn ướt nhẹp và áo sơ mi vẫn còn dính mấy vệt máu li ti, vậy là hắn cởi phăng hết, nút bắn cả lên tường và tủ đựng hồ sơ. Hắn lôi từ trong túi ra một cái áo sơ mi sạch nhưng nhăn nhúm rồi mặc vào, mấy ngón tay thô ráp liên tục loay hoay.

Sau khi nhét cái túi ra phía sau tủ đựng hồ sơ, hắn nhanh chóng ngồi thẳng thớm lại và lia mắt quanh phòng xem còn rác rưởi gì không, mặc dù vẫn chưa tin được vị thân chủ mới tới này có thật không, và liệu khi xong việc, ông ta có chịu trả tiền công điều tra không. Sau mười tám tháng đau đầu vì tiền, Strike nhận ra rằng cả hai điều nói trên đều không hề đơn giản.

Cho tới giờ hắn vẫn còn phải chạy theo đòi nốt thù lao từ hai thân chủ trước đó; người thứ ba thì từ chối không trả một xu vì không vừa lòng với kết quả điều tra. Strike không thể nào nghĩ tới chuyện thuê luật sư đòi nợ, nhất là khi khoản nợ riêng của hắn vẫn đang phình ra còn giá thuê văn phòng thì lại đang ngấp nghé tăng, đe dọa cái cơ ngơi khiêm tốn ở ngay trung tâm London mà may mắn lắm hắn mới tìm được. Dạo này, hắn bắt đầu tưởng tượng tới những phương pháp đòi nợ dữ dằn và thô sơ hơn: chẳng hạn hắn khoái giáng một cây gậy bóng chày vào mấy kẻ quỵt nợ cho hết vênh váo.

Cánh cửa mở ra; Strike nhanh chóng rút ngón tay ra khỏi mũi và ngồi thẳng dậy, cố tỏ ra tỉnh táo lanh lợi.

“Ông Strike, đây là ông Bristow.”

Thân chủ tiềm năng theo Robin bước vào văn phòng. Ấn tượng đầu tiên khá dễ chịu. Người lạ mặt trông đặc biệt giống con thỏ: môi trên ngắn để lộ ra những mấy răng cửa lớn; nước da vàng vọt và đôi mắt cận nặng đeo kính dày cộp. Bù lại ông ta mặc một bộ complet màu xám đậm được cắt may rất khéo và thắt cà vạt màu xanh dương bóng bẩy. Cả đồng hồ đeo tay và đôi giày dưới chân ông ta đều trông rất xa xỉ.

Áo sơ mi trắng tinh thẳng thớm của người lạ mặt càng nhắc Strike nhớ đến hàng ngàn vết nhăn trên áo quần hắn đang mặc. Hắn đứng dậy, khoe hết chiều cao một mét chín và chìa bàn tay rậm lông về phía thân chủ mới, cố đáp lại sự lịch lãm của ông ta bằng cách tỏ ra ta đây bận rộn không có thời giờ ủi đồ.

“Cormoran Strike, rất hân hạnh tiếp ông!”

“John Bristow,” Người khách đáp lời, hai người bắt tay. Giọng ông ta dễ chịu, kiểu cách và hơi run. Ông ta nhìn hơi lâu vào bên mắt sưng của Strike.

“Mời hai ông dùng chút cà phê hay trà nhé?” Robin hỏi.

Bristow gọi một cà phê đen nhỏ, Strike không trả lời, hắn vừa thoáng thấy một người phụ nữ có chân mày rậm, mặc một bộ complet bằng vải dạ ngồi ngay trên chiếc ghế sofa cũ kỹ ngay cạnh cửa phòng ngoài. Thật khó tin là hai khách hàng mới cùng đến một lúc. Hay không lẽ lại có thêm một nhân viên tạm thời nữa?

“Còn ông Strike ạ?” Robin hỏi Strike.

“Gì kia? À, cà phê đen, hai viên đường, phiền cô, Sandra,” hắn buột miệng. Hắn thấy cô ta mím môi lại khi đóng cửa đi ra. Lúc đó hắn mới nhớ ra là hắn không có cà phê, đường hay tách chén gì cả.

Bristow ngồi xuống, nhìn quanh văn phòng tơi tả. Strike e là ông ta đang thất vọng. Vị thân chủ mới này có vẻ lo lắng mờ ám sao đó, đúng kiểu mấy ông chồng hay ngờ vực mà Strike từng biết, nhưng trông vẫn ít nhiều có thể, có lẽ nhờ bộ đồ đắt tiền. Strike không biết Bristow làm sao mò ra được cái văn phòng này. Không thể do bà khách duy nhất hiện giờ giới thiệu được vì bà ta (theo như nhiều lần bà khóc lóc trên điện thoại) không có bạn bè gì.

“Tôi có thể giúp gì được cho ông?” Strike hỏi, ngồi xuống ghế.

“Thực ra là… à, tôi muốn hỏi cái này… Tôi nghĩ chúng ta có gặp nhau rồi.”

“Thật vậy sao?”

“Chắc anh không nhớ tôi, bao năm rồi… nhưng tôi nghĩ anh là bạn của Charlie em trai tôi. Charlie Bristow? Nó mất trong vụ tai nạn lúc mới chín tuổi.”

“Trời đất,” Strike thốt lên. “Charlie,… vâng, tôi còn nhớ.”

Strike nhớ rất rõ là đằng khác. Charlie Bristow là một trong rất nhiều bạn bè mà Strike kết giao trong thời thơ ấu lăn lóc nay đây mai đó. Một cậu bé táo bạo, nghịch ngợm đầy sức lôi cuốn, thủ lĩnh băng siêu quậy ở ngôi trường mới của Strike ở London. Ngay lần gặp đầu tiên, Charlie đã quyết định kết nạp cậu học trò mới bự con, nói đặc sệt giọng Cornwall làm bạn thân nhất kiêm trợ thủ đắc lực. Sau đó là hai tháng cặp kè và đủ trò nghịch ngợm. Vốn luôn tò mò về cuộc sống gia đình êm ả của những trẻ khác, với ông bố bà mẹ tỉnh táo, gọn gàng và căn phòng riêng không thay đổi năm này qua năm khác, Strike vẫn còn nhớ như in căn nhà to lớn và sang trọng của Charlie. Ở đó có một bãi cỏ đầy nắng, một cái chòi gỗ dựng trên cây, và món nước chanh tươi mát lạnh mẹ Charlie bưng ra cho bọn nó.

Sau đó là nỗi kinh hoàng khủng khiếp trong ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ Phục sinh. Cô giáo chủ nhiệm nói với cả lớp rằng Charlie sẽ không bao giờ quay trở lại nữa, Charlie chết rồi, rớt xuống mỏ đá lúc đạp xe ngang qua vách núi khi đang đi nghỉ ở Wales. Cô giáo đó thực là một mụ già đáng ghét, còn không nhịn được mà phải thêm vào rằng Charlie, như cả lớp đã biết thường xuyên không nghe lời người lớn, đã bị cấm rõ là không được đạp xe gần mỏ đá, nhưng vẫn cứ làm, có lẽ định thể hiện gì đó… nhưng cô chưa kịp nói hết thì phải dừng lại vì hai cô bạn học ngồi hàng đầu bật khóc nức nở.

Từ ngày hôm đó, mỗi lần nhìn thấy hay mường tượng ra một mỏ đá, Strike luôn thấy trước mặt mình là gương mặt của cậu bé tóc vàng đang cười vỡ ra thành nhiều mảnh. Strike không ngạc nhiên nếu tất cả các bạn trong lớp hồi đó đều có chung nỗi ám ảnh với cảnh hang động đen tối, cú rơi từ trên cao xuống và tảng đá vô tình.

“Vâng, tôi còn nhớ Charlie,” Strike trả lời.

Trái khế dưới cổ Bristow động đậy.

“Vâng. Thực ra là nhờ cái tên của anh cả đấy. Tôi nhớ rất rõ Charlie hay kể chuyện về anh, khi chúng tôi đi nghỉ, chỉ mấy ngày trước khi nó mất; ‘bạn em Strike’, ‘Cormoran Strike’. Thật là một cái tên lạ. ‘Strike’ có gốc từ đâu, anh có biết không? Tôi chưa bao giờ gặp ai tên vậy cả.”

Strike từng gặp nhiều người như Bristow, kiểu người thích cà kê đủ chuyện, từ thời tiết, lộ phí vào trung tâm, đến sở thích uống trà hay cà phê, chỉ để trì hoãn phải giải thích lý do muốn gặp hắn.

“Tôi có nghe nói hình như liên quan gì đó đến bắp ngô, hay một đơn vị để đong ngô.” Strike trả lời.

“Thật vậy sao? Không có gì liên quan đến đánh đấm, hay đình công hết à, ha ha… à không, thực ra là tôi đang tìm người có thể giúp tôi một việc, rồi tôi thấy tên anh trong danh bạ.” Đầu gối của Bristow cựa quậy nhấp nhô, “anh cũng có thể tưởng tượng lúc đó tôi thấy như thế nào rồi đấy… cứ như là… có một dấu hiệu gì đó vậy. Có lẽ Charlie đang dẫn đường chỉ lối cho tôi, nói rằng tôi đã đi đúng chỗ.”

Trái khế cổ họng của Bristow lại động đậy mỗi khi ông nuốt nước bọt.

“OK,” Strike đáp lời thận trọng, hi vọng là vị thân chủ mới này không nghĩ hắn ta làm nghề bói toán lên đồng.

“Chuyện của em gái tôi, anh biết đó.” Bristow nói tiếp.

“Cô ta đang gặp rắc rối à?”

“Nó chết rồi.”

Strike suýt tí nữa thì bật ra, “Gì chứ, chết luôn rồi hả?”

“Tôi rất tiếc,” Strike thận trọng nói.

Bristow cúi đầu khẽ nhận lời chia buồn.

“Tôi… việc này chẳng dễ dàng gì. Đầu tiên, anh nên biết em gái… quá cố của tôi là Lula Landry.”

Hi vọng vừa chỉ chớm nở từ vị khách hàng mới dần dần tụt xuống, như tấm bia đá rơi đánh thịch xuống bụng Strike. Người đàn ông ngồi đối diện với hắn một là ảo tưởng, hai là chập mạch. Không có lý nào trên đời mà cái tay mặt trắng bệch, trông giống thỏ này lại có cùng bộ gene với Lula Landry – biểu tượng sắc đẹp da nâu thanh mảnh, sắc sảo như kim cương.

“Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula.” Bristow nói nhỏ nhẹ, như thể biết được Strike đang nghĩ gì.

“Tất cả chúng tôi đều là con nuôi hết.”

“Ừm…” Strike ậm ừ đáp. Vốn có một trí nhớ chính xác khác thường, hắn mường tượng lại ngôi nhà ngăn nắp, rộng rãi và mát mẻ ngày xưa, khu vườn cỏ xanh rực nắng, người mẹ tóc vàng uể oải ngồi ở bàn gỗ trong vườn, tiếng người cha nghiêm nghị gọi từ xa, cậu anh trai cáu kỉnh ngồi vọc bánh trái cây, Charlie liên tục làm trò hề chọc cười mẹ; nhưng hắn không thể nhớ ra có cô em gái nào cả.

“Anh chưa gặp Lula.” Bristow lại tiếp tục, cứ như thể Strike vừa nói ra hết ý nghĩ của hắn. “Bố mẹ tôi nhận nuôi Lula sau khi Charlie mất. Nó mới có bốn tuổi lúc về với chúng tôi, trước đó nó ở với bên bảo trợ xã hội hai năm. Khi đó tôi khoảng 15 tuổi. Tôi vẫn còn nhớ mình đứng ở ngay cửa trước nhìn thấy bố bế nó đi vào. Nó đội một cái mũ len đỏ. Mẹ tôi vẫn còn giữ cái mũ.”

Và đột ngột, đến sửng sốt, John Bristow bật lên khóc nức nở. Hai tay ôm mặt, vai khòm xuống, cả người rung lên, nước mắt nước mũi giàn giụa chảy qua kẽ ngón tay. Mỗi khi vừa kìm lại được, cơn nức nở lại trào lên.

“Tôi xin lỗi… xin lỗi. Chúa ơi…”

Vừa thở hổn hển vừa nấc cục, Bristow rút khăn mùi sao chặm mắt, cố gắng giữ bình tĩnh.

Cửa phòng mở ra. Robin bước vào, bưng theo một khay nước. Bristow quay mặt đi, hai vai vẫn rung lên. Qua cánh cửa Strike lại lần nữa thấy người phụ nữ mặc complet vẫn ngồi ở phòng ngoài, cô ta quắc mắt nhìn Strike qua tờ báo Daily Express cầm trên tay.

Robin đặt xuống bàn hai tách cà phê, một bình sữa, một cái chén đựng đường và một đĩa bánh quy sô-cô-la, toàn những thứ Strike chưa bao giờ thấy trong văn phòng, rồi cười lịch sự khi Strike cảm ơn và bước ra.

“Khoan đã, Sandra,” Strike nói với theo. “Phiền cô…?”

Hắn rút ra một tờ giấy từ bàn làm việc và đặt lên đầu gối. Trong khi Bristow nhấp ngụm cà phê, Strike cố viết nhanh và rõ nhất đến mức có thể:

Phiền cô google xem Lula Landry có phải là con nuôi không, ai nhận nuôi vậy. Đừng nói gì với bà ngồi ngoài kia (bà ta làm gì ngoài đó vậy). Viết câu trả lời và đưa ngay vô cho tôi, đừng nói gì hết.

Strike đưa tờ giấy cho Robin, cô cầm lấy, không nói tiếng nào và bước ra.

“Xin lỗi… tôi vô cùng xin lỗi,” Strike thở hắt ra, khi cánh cửa vừa đóng lại. “Thực ra… thường tôi không như vậy… tôi đã trở lại làm việc, đi gặp khách hàng bình thường rồi…”

Bristow hít sâu vài hơi. Với đôi mắt màu hồng, trông ông ta càng giống một con thỏ bị bạch tạng. Đầu gối phải nhịp lia lịa.

“Thật là tồi tệ” Bristow phều phào, lại hít hơi sâu, “chuyện của Lula… còn mẹ tôi thì bệnh nặng…”

Strike ứa nước miếng nhìn mấy cái bánh quy sô-cô-la, hắn cảm giác như mấy ngày rồi chưa ăn gì; nhưng hắn e rằng nhồm nhoàm bánh trái khi Bristow cứ run rẩy sụt sùi và chùi mắt liên tục như thế sẽ khiến hắn trông rất vô cảm. Máy khoan bên đường vẫn ầm ĩ như súng bắn.

“Mẹ tôi buông xuôi kể từ khi Lula mất. Mẹ tôi thực sự ngã gục. Bệnh ung thư của bà tưởng đã êm rồi, nhưng bây giờ tái phát, bác sĩ nói không làm gì được nữa. Lần này là lần thứ hai. Khi Charlie mất mẹ tôi như quỵ luôn. Bố tôi lúc đó nghĩ rằng có thêm một đứa con nữa sẽ làm bà nguôi ngoai. Cả hai đều thích con gái. Rất là khó khăn mới xin được, cũng may Lula là con lai, khó tìm người nhận, vậy nên,” Bristow kết thúc câu chuyện, nấc thêm một cái nữa “nhà tôi mới xin được nó.”

“Nó rất xi-xinh. Nó đ-được người ta phát hiện trên phố Oxford khi đang đi mua sắm với mẹ tôi. Công ty Athena là chỗ đầu tiên phát hiện ra nó. Một trong những công ty tiếng tăm nhất. Mười bảy tuổi nó đã là người mẫu chuyên nghiệp. Lúc mất đi nó có khoảng mười triệu bảng. Tôi không biết tại sao tôi lại đi nói với anh chuyện này. Có khi anh cũng biết hết rồi. Ai cũng biết cả, ai cũng nghĩ là mình biết mọi thứ về Luna.”

Bristow vụng về nâng tách cà phê; bàn tay run đến nỗi cà phê rơi ra lên mặt vải quần ủi thẳng thớm.

“Chính xác là ông muốn tôi làm gì?” Strike hỏi.

Bristow run run đặt tách xuống bàn, rồi nắm chặt bàn tay lại.

“Họ nói em tôi tự tử. Tôi không tin.”

Strike còn nhớ những hình ảnh trên TV: túi đựng xác màu đen nằm trên băng-ca, máy ảnh liên tục chớp khi băng-ca được đưa vào xe cứu thương, đám thở ảnh đứng chung quanh chờ đợi, giơ tay chĩa máy ảnh vào cửa xe tối om, ánh sáng dội lại từ cửa gương đen. Strike biết về vụ Luna nhiều hơn hắn muốn biết; hầu hết như mọi sinh vật có ý thức ở cái xứ Anh quốc này đều như vậy. Cứ liên tục bị “dội bom” tin tức như thế thì có không muốn người ta cũng trở nên quan tâm, và trước khi kịp có chính kiến riêng về chi tiết vụ án, đến nỗi không thể ngồi vào ghế bồi thẩm đoàn được.

“Tôi nghe nói họ có mở điều tra chính thức?”

“Có, nhưng tay điều tra viên chịu trách nhiệm vụ án từ đầu đã nghĩ đây là vụ tự tử, chỉ vì Lula có uống lithium . Hắn bỏ qua rất nhiều thứ… nhiều chỗ trên Internet người ta còn chỉ ra được.”

Bristow chỉ tay vu vơ về phía bàn làm việc trống trơn của Strike, nơi đáng ra phải có một cái máy tính.

Lại một tiếng gõ cửa lịch sự. Cửa mở, Robin bước vào, đưa cho Strike một mẩu giấy gấp lại và đi ra.

“Phiền ông đợi một lát,” Strike nói “Tôi chờ thông tin này khá lâu.”

Strike mở mẩu giấy tựa vào đầu gối, cố không để Bristow nhìn thấy mặt sau và đọc:

Lula Landry được Ngài Alec và phu nhân Yvette Bristow nhận nuôi lúc bốn tuổi. Lula có tên chính thức là Lula Bristow nhưng lấy họ của mẹ nuôi làm nghệ danh khi bắt đầu công việc người mẫu. Lula có một anh trai là John Bristow, hành nghề luật sư. Người ngồi đợi ở ngoài là bạn gái của ông Bristow, cũng là thư ký ở công ty luật của ông này. Công ty tên là Landry. May. Patterson, do ông ngoại của Luna và John lập ra. Thân chủ giống hệt như ảnh chân dung của John Bristow trên trang web công ty LMP.

Strike vò mẩu giấy lại rồi ném vào thùng rác dưới chân. Hắn choáng váng. John Bristow không phải là người hoang tưởng và hắn – Strike, vừa có được một nhân viên tạm thời vừa có năng lực lại biết chấm phẩy đàng hoàng, hơn tất cả những người trước đó.

“Xin lỗi ông, làm ơn nói tiếp.” Strike nói với Bristow. “Ông đang nhắc tới vụ điều tra?”

“Vâng,” Bristow trả lời, cầm cái khăn mùi soa ướt nhẹp dặm mũi. “Tôi không phủ nhận là Lula cũng từng gây nhiều chuyện. Nó từng khiến mẹ tôi đau khổ ghê gớm, quả có thế. Tất cả bắt đầu khi bố tôi mất… chắc anh cũng biết hết rồi, Chúa mới biết báo chí viết bao nhiêu cho đủ… lúc đó Lula bị đuổi học vì dùng ma túy; nó bỏ chạy lên London, mẹ tôi tìm ra nó đang vạ vật với đám nghiện hút; ma túy làm bệnh của nó trầm trọng hơn; nó trốn khỏi trung tâm điều trị… đủ thứ chuyện rắc rối. Cuối cùng họ nhận ra là nó bị rối loạn lưỡng cực và cho thuốc phù hợp. Kể từ đó, cứ uống thuốc đều là nó ổn; người ngoài nhìn vào không thể biết nó có bệnh. Thậm chí nhân viên điều tra cũng chấp nhận rằng trước đó nó có uống thuốc, khám nghiệm tử thi cũng cho thấy vậy.”

“Nhưng cảnh sát và điều tra viên không thể thấy gì hơn ngoài một cô gái có tiền sử tâm thần. Họ cứ nói là nó trầm cảm, nhưng tôi có thể chắc với anh là lúc đó Luna không hề trầm cảm. Sáng hôm đó tôi còn gặp nó, nó hoàn toàn bình thường. Mọi thứ đang rất tốt đẹp, nhất là công việc. Nó vừa ký một hợp đồng trị giá năm triệu bảng trong vòng hai năm; nó nhờ tôi xem qua, đúng là hợp đồng ngon lành. Nhà thiết kế cũng là bạn thân của nó, Somé, chắc anh cũng có nghe tên? Lịch làm việc mấy tháng sau của nó kín đặc; sắp có chuyến đi chụp hình ở Morocco, nó rất mê đi đây đó. Anh thấy đó, chẳng có lý do gì khiến nó phải tự tử cả.”

Strike gật đầu lịch sự dù trong bụng chả thấy thuyết phục gì. Những người tự tử, theo kinh nghiệm của hắn, đều hoàn toàn có khả năng giả vờ quan tâm đến tương lai, một tương lai mà họ không hề có ý định dự phần. Tâm trạng phấn khởi, nhìn đời màu hồng vào buổi sáng của Landry hoàn toàn có thể dễ dàng chuyển sang u ám và vô vọng ngay buổi chiều và đêm hôm đó, trước khi cô chết. Strike từng biết đến những vụ tương tự. Hắn còn nhớ tay trung úy ở Trung đoàn Súng trường Hoàng gia. Tay này thức dậy trong đêm ngay sau tiệc sinh nhật tưng bừng, viết một mẩu giấy để lại cho gia đình, bảo họ họi cảnh sát và đừng đi vào nhà để xe. Đứa con trai mười lăm tuổi là người đầu tiên phát hiện ra xác chết trong tư thế treo cổ từ trần nhà xe khi đi ngang qua bếp vào nhà xe để lấy xe đạp mà không hề thấy mẩu giấy. “Nhưng đó không phải là tất cả.” Bristow nói tiếp. “Có chứng cứ, chứng cứ rành mạch. Đầu tiên là lời khai của Tansy Bestigui.”

“Có phải là người hàng xóm khai là có nghe thấy cãi nhau ở tầng trên?”

“Chính xác! Bà ta nghe thấy tiếng một người đàn ông la hét, ngay trước khi Lula rơi xuống! Cảnh sát lơ chứng cứ này, bởi vì… ừ thì, bà ta có sử dụng cocaine. Nhưng điều đó không có nghĩa là bà ta không biết mình nghe thấy gì. Đến giờ Tansy vẫn khẳng định là Lula có cãi nhau với một người đàn ông chỉ vài giây trước khi nó rơi xuống. Tôi biết, vì tôi vừa nói chuyện với bà ấy mà. Công ty của tôi đang làm vụ ly dị của Tansy. Tôi chắc rằng tôi có thể thuyết phục bà ta nói chuyện với anh.”

“Rồi còn nữa,” Bristow nói tiếp, quan sát Strike một cánh lo lắng, cố phán đoán phản ứng của hắn, “vẫn còn mấy đoạn băng hình từ camera công cộng. Một người đàn ông đi về phía khu Kentigern Gardens khoảng hai mươi phút trước khi Lula ngã, và thêm một đoạn phim quay cảnh cũng người này chạy thục mạng từ Kentigern Gardens sau khi Lula bị giết. Cảnh sát không bao giờ biết được người này là ai, không tìm được tung tích gì cả.”

Với một vẻ sốt sắng lén lút, Bristow rút ra từ trong túi áo complet một bì thư hơi nhăn nhúm, đưa về phía Strike.

“Tôi viết ra hết rồi. Mốc thời gian và mọi chi tiết. Tất cả đều ở trong đó. Anh sẽ thấy mọi thứ khớp với nhau ra sao.”

Cái bì thư không làm cho Strike tin tưởng Bristow hơn chút nào. Hắn từng được dúi cho nhiều thứ như vậy: mấy dòng nghuệch ngoạc sinh ra từ những ám ảnh cô độc và lầm lạc; những câu chuyện lan man ly kỳ; những biểu đồ thời gian rối rắm, bị bóp méo để khớp với các loại giả thuyết hoang tưởng. Mí mắt bên trái của vị luật sự giật giật, một bên đầu gối vẫn nhịp lên xuống và mấy ngón tay cầm bì thư vẫn run run.

Trong vài giây Strike cân nhắc giữa những dấu hiệu căng thẳng đó và đôi giày chắc chắn là hàng thủ công của Bristow cùng chiếc đồng hồ Vacheron Constatin lộ ra trên cổ tay tái xanh mỗi khi ông ta huơ tay. Đây rõ là một người hoàn toàn có khả năng trả và sẽ trả thù lao nếu hắn nhận làm. Có lẽ dù để Strike trả một đợt cho món nợ lớn nhất. Thở dài, vừa tự nguyền rủa lương tâm của mình, Strike nói:

“Ông Bristow.”

“Cứ gọi tôi là John.”

“John… Tôi phải nói thật với anh thôi. Tôi nghĩ thật không phải nếu tôi lấy tiền của anh.”

Những vết đỏ bắt đầu nổi lên trên cái cổ xanh tái và gương mặt không có nét gì nổi bật của Bristow. Tay ông ta vẫn cầm chặt cái bì thư.

“Ý anh là sao, không phải là sao?”

“Cái chết của em gái anh có lẽ được điều tra đến mức thấu đáo nhất có thể. Hàng triệu người, giới truyền thông trên cả thế giới theo sát từng cử động của cảnh sát. Họ có lẽ đã phải làm kỹ gấp đôi bình thường. Tự tử luôn là chuyện rất khó chấp nhận…”

“Tôi không chấp nhận gì cả. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận. Em tôi không tự tử. Có ai đó đã đẩy nó xuống từ ban công.”

Máy khoan bên kia đường đột nhiên dừng lại, giọng của Bristow đột nhiên vang dội khắp phòng. Bristow bùng nổ, theo kiểu một người yếu đuối bị ép tới đường cùng.

“Tôi hiểu. Tôi hiểu rồi. Anh cũng giống họ thôi, phải không? Lại một nhà tâm lý tự phong khốn nạn? Charlie chết, bố tôi chết, Lula chết và mẹ tôi cũng đang chết… Tôi mất hết rồi, tôi cần đi bác sĩ tâm lý, không phải thám tử, chứ gì? Anh nghĩ tôi chưa nghe những thứ như vậy cả trăm lần rồi sao?”

Bristow đứng bật dậy, dứt khoát, khác hẳn với vẻ ngoài răng thỏ và làn da đốm đỏ.

“Tôi khác giàu có, Strike. Xin lỗi tôi nói thẳng nhưng anh cũng thấy đó. Bố tôi để lại cho tôi một gia tài khá lớn. Tôi cũng có tìm hiểu chi phí những dịch vụ như thế này. Tôi đã tính trả anh gấp đôi.”

Trả gấp đôi. Lương tâm vốn cứng rắn và không khoan nhượng của Strike mấy hôm nay hơi sứt mẻ sau một loạt xui xẻo, giờ đây chính thức bị một đòn gục hẳn. Con người thực dụng trong hắn hớn hở nghĩ ngay tới những viễn cảnh xán lạn: thù lao một tháng sẽ trả nốt chỗ phí thuê nhân viên tạm thời và một phần khoản nợ tiền thuê nhà; hai tháng thì dọn luôn mấy khoản nợ đang gay go… ba tháng, xóa sạch một phần lớn trong chỗ thâm hụt tài khoản… bốn tháng…

Nhưng Bristow đang vừa nói vừa đi ra cửa, tay vò nát cái bì thư mà Strike từ chối không nhận.

“Tôi muốn anh làm vụ này phần vì Charlie, nhưng tôi cũng có biết chút ít về anh, tôi đâu có phải là thằng ngu hoàn toàn. Cục điều tra đặc biệt, quân cảnh, đúng không? Từng được huy chương nọ kia. Ngoài ra, tôi không thể khen gì cái chỗ này được.” Bristow gần như gào lên, và Strike nhận ra những giọng phụ nữ nói chuyện ở phòng ngoài cũng im bặt, “nhưng tôi đã sai, và anh thì không cần việc. Được rồi! Quên mẹ nó đi. Tôi chắc tôi sẽ tìm được người khác làm. Xin lỗi đã làm phiền anh!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Cuộc trò chuyện của hai người đàn ông truyền qua tấm vách mỏng, mỗi lúc một rõ; và giờ đây, khi máy khoan bên đường tự dưng im bặt, giọng Bristow lại càng rõ mồn một.

Vừa để tự giải khuây, và vì vẫn còn khá hưng phấn, Robin cố đóng tròn vai thư ký của Strike, không để lộ cho bạn gái của Bristow biết là cô mới làm ở đây có nửa tiếng đồng hồ. Cô giả bộ lờ đi những tiếng la hét. Tự dưng cô muốn đứng về phe Bristow, mặc dù vẫn chưa rõ nguyên nhân vụ cãi cọ. Công việc và con mắt tím bầm của Strike cũng có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng thái độ của hắn thật tồi tệ, thêm nữa ngực trái của cô vẫn còn đau.

Bạn gái của Bristow nhìn chằm chằm vào cánh cửa đóng kể từ lúc giọng nói của hai người đàn ông trở nên to hơn tiếng máy khoan vọng vào. Alison đậm người, da ngăm, tóc úp bồng bềnh và hàng chân mày rậm gần như dính liền nhau nếu không tỉa tót, mặt mũi lúc nào cũng càu cạu như giận ai. Robin để ý thấy rằng bồ bịch thường ngang nhau về mức độ hấp dẫn hình thức, mặc dù thường là nếu có nhiều tiền thì người ta có thể kiếm được người yêu trội hơn mình. Tự nhiên Robin thấy mến ông Bristow, cứ từ quần áo và tên công ty mà suy thì ông ta hoàn toàn có thểm tìm được một cô bạn gái xinh hơn, nhưng lại đi chọn cô này. Robin nghĩ ắt hắn Alison phải là người dịu dàng tốt tính, khắc hẳn với vẻ ngoài.

“Cô có muốn dùng cà phê không cô Alison?” Robin hỏi.

Alison đưa mắt nhìn quanh, như thể ngạc nhiên vì có người vừa lên tiếng, có lẽ vì đã quên mất Robin đang ngồi đó.

“Không, cảm ơn,” Alison trả lời, giọng trầm mà ngân nga khác thường. “Tôi biết là ông ấy sẽ lại đau khổ,” cô ta nói tiếp, giọng nói có một sự thỏa mãn kỳ quái. “Tôi đã cố gắng khuyên thôi bỏ đi, nhưng ông ta chẳng thèm nghe. Có vẻ như cái tay thám tử này sẽ từ chối. Thế là tốt.”

Vẻ ngạc nhiên của Robin không qua khỏi mắt của Alison, cô ta tiếp tục nói, thoáng vẻ mất kiên nhẫn:

“Sẽ tốt hơn cho John nếu ông ấy chấp nhận sự thật. Cô ta tự tử. Cả gia đình đều đã chấp nhận điều đó rồi. Tôi không hiểu tại sao John lại không thể làm được.”

Robin chẳng còn lý do gì để tiếp tục giả vờ không hiểu. Ai cũng biết vụ Lula Landry.

Robin còn nhớ rõ hôm nghe tin cô người mẫu nhảy lầu trong một đêm tháng Giêng nhiệt độ dưới không, lúc đó Robin đang đứng cạnh bồn rửa chén trong bếp nhà bố mẹ. Tin tức được phát ra từ radio, nghe xong Robin thốt lên một tiếng ngạc nhiên, rồi chạy ra khỏi bếp trong bộ áo ngủ để kể ngay với Matthew, đợt đó cả hai về nhà bố mẹ Robin dịp cuối tuần. Làm sao mà cái chết của một người không hề quen biết lại có thể ảnh hưởng tới mình như vậy? Robin từng rất ngưỡng mộ vẻ đẹp của Lula Landry. Cô vốn không thích làn da quá trắng của mình, trong khi đó Lula có làn da nâu bóng, khung xương hoàn hảo, đẹp sắc sảo.

“Vụ cô Landry cũng chưa lâu lắm nhỉ.”

“Ba tháng,” Alison nói, tay giũ tờ báo Daily Express. “Tay thám tử này có được việc không?”

Robin đã kịp thấy rõ thái độ khinh khỉnh của Alison khi nhìn quanh văn phòng cũ nát, đặc biệt là phòng chờ chật chội, lôi thôi không thể chối cãi. Cô cũng đã thấy trên mạng trụ sở hoành tráng, tinh tươm như cung điện nơi Alison làm việc. Cô trả lời, phần nhiều vì tự ái chứ cũng chẳng phải vì muốn bênh vực Strike.

“À vâng,” Robin bình tĩnh nói. “Ông này thuộc loại lão luyện nhất đó.”

Nói xong cô rạch một cái phong bì màu hồng, in toàn hình mèo con, làm bộ như đang giải quyết một sự vụ ly kỳ phức tạp mà Alison không thể hiểu được.

Trong lúc đó, Strike và Bristow mặt đối mặt trong căn phòng kế bên, một người tức tối, người kia thì loay hoay tìm cách đổi ý sao cho đỡ xấu hổ nhất.

“Strike, tất cả những gì tôi muốn,” Bristow nói, giọng khàn khàn, mặt vẫn đỏ gay, là công lý.”

Cứ như thể Bristow vừa gõ một tiếng vào một thanh chỉnh âm vô hình; hai từ cuối cùng vang khắp văn phòng tồi tàn; để lại một dư âm van vỉ trong lồng ngực Strike. Lần này Bristow đã đánh gục Strike, cứ như thể tìm được ngọn đèn chong cuối cùng mà Strike cố giữ lấy sau khi mọi thứ khác đã biến thành tro. Đúng là Strike đang cần tiền kinh khủng, nhưng Bristow vừa cho hắn thêm một lý do nữa, tốt đẹp hơn để quên luôn mớ lương tâm còm cõi của mình.

“OK. Tôi hiểu. Tôi hiểu ý anh rồi, John. Mời anh quay lại ngồi xuống nói chuyện. Nếu anh vẫn còn muốn tôi giúp, tôi sẵn lòng làm.”

Bristow vẫn nhìn trừng trừng. Trong văn phòng không có tiếng động nào, từ xa vọng lại tiếng la lối của mấy người công nhân làm đường bên dưới.

“Anh có muốn… à, chị nhà… vào nói chuyện luôn không?”

“Không,” Bristow đáp lời, vẫn còn căng thẳng, tay vẫn giữ lấy nắm đấm cửa. “Alison nghĩ tôi không nên làm việc này. Tôi cũng không biết tại sao cô ta muốn đi cùng tôi hôm nay. Chắc là chờ xem anh từ chối tôi.”

“Mời anh ngồi. Giờ ta nói lại cho có đầu có đuôi nhé.”

Bristow hơi do dự, rồi quay lại, ngồi xuống ghế.

Strike không thể kìm được nữa, với tay lấy một cái bánh quy sô-cô-la cho hết vào miệng. Hắn rút ra một cuốn sổ ghi chép mới từ ngăn kéo, với tay lấy cái viết và kịp nuốt hết miếng bánh trong thời gian Bristow quay lại chỗ ngồi.

“Tôi giữ cái này nhé?” Hắn đề nghị, chỉ tay về phía cái phong bì mà Bristow vẫn đang cầm khư khư.

Ông luật sư dè dặt đưa phong bì cho Strike, cứ như thể vẫn chưa tin lắm. Strike không muốn xem ngay nội dung ở trong trước mặt Bristow, hắn vỗ lên đó một cái rồi đặt qua một bên, ra vẻ cho Bristow thấy rằng nó đã trở thành tài liệu điều tra giá trị. Xong, Strike cầm viết sẵn sàng chờ đợi.

“John, giờ anh hãy kể lại ngắn gọn sự việc hôm rm gái của anh mất. Sẽ rất có ích cho điều tra.”

Vốn là một người kỹ tính và làm việc có phương pháp, Strike còn từng được đào tạo nghiệp vụ cao cấp. Đầu tiên, phải để cho nhân chứng kể lại câu chuyện bằng cách của riêng họ; những lời kể lan man thường để lộ ra nhiều chi tiết, mới coi qua có vẻ vụn vặt nhưng có thể trở thành những mẩu bằng chứng vô cùng quan trọng sau này. Sau khi đã ghi nhận được hết những ấn tượng và các hồi tưởng đầu tiên, điều tra viên mới được bắt đầu khai thác và sắp đặt các sự kiện sao cho chặt chẽ và chính xác: con người, nơi chốn, tài sản…

“Ôi,” Bristow thốt lên, vừa mới tức giận sôi sục, nhưng khi bắt đầu được hỏi thì ông ta có vẻ do dự, không biết phải nói gì, “Tôi không… để xem…”

“Lần cuối cùng anh gặp cô ấy là lúc nào?” Strike hỏi.

“Chắc là… buổi sáng trước khi nó mất. Chúng tôi… có cãi nhau, sự thật là vậy nhưng ơn trời là sau đó có làm hòa.”

“Khoảng mấy giờ?”

“Sớm. Trước chín giờ, tôi đang trên đường tới sở làm. Chắc khoảng chín giờ kém mười lăm?”

“Hai người cãi nhau chuyện gì?”

“À, là chuyện bạn trai của nó, Evan Duffield. Chúng nó vừa quay lại với nhau. Gia đình chúng tôi tưởng là đã xong hết rồi, chúng tôi còn đang rất mừng. Duffield rất tệ hại, một tên nghiện ngập, lúc nào cũng thích gây sự chú ý, phải nói là tệ nhất trong đám bạn của Lula.

“Giờ nghĩ lại tôi thấy mình hơi quá lời,… phải đến giờ tôi mới thấy được. Tôi lớn hơn Lula đến mười một tuổi. Lúc nào tôi cũng muốn bảo vệ nó, anh hiểu không. Có lẽ nhiều khi tôi hơi làm quá. Lúc nào nó cũng nói là tôi không hiểu.”

“Hiểu gì kia?”

“Ừm… bất kỳ chuyện gì. Nó có rất nhiều vấn đề. Chuyện làm con nuôi. Chuyện nó là người da đen trong một gia đình da trắng. Nó hay nói là tôi nói gì mà chẳng được… Tôi không biết nữa. Có lẽ nó đúng.”

Bristow hấp háy mắt lia lịa sau cặp kính. “Vụ cãi vã hôm đó thực ra là đã bắt đầu từ hôm trước trên điện thoại. Tôi không thể tin nổi là nó ngốc đến mức quay lại với tay Duffield. Vậy mà cả nhà đã thở phào nhẹ nhõm khi chúng chia tay… Anh biết đó, nó cũng từng có quá khứ nghiện ngập, giờ lại cặp kè với một thằng nghiện…” Bristow hít một hơi. “Nó không muốn nghe gì hết. Nó chưa bao giờ nghe ai. Nó giận tôi lắm. Tới nỗi nó dặn người bảo vệ dưới nhà đừng cho tôi lên gặp, nhưng… Wilson vẫn mở cửa cho tôi.”

Bẽ mặt thật, Strike nghĩ thầm, đến nỗi phải đi cậy cục bảo vệ.

“Đáng ra hôm đó tôi không đến,” Bristow nói tiếp, đau khổ, những vệt đỏ lại xuất hiện trên cổ ông ta, “nhưng tôi đang giữ hợp đồng với Somé, muốn đưa lại cho nó; nó có nhờ tôi xem lại trước khi ký… Nó thường không quan tâm tới những chuyện giấy tờ như vậy. Khi biết Wilson để tôi đi lên nhà, nó không bằng lòng tí nào, chúng tôi lại cãi nhau nhưng rồi cũng qua nhanh. Sau đó nó bình tĩnh lại.

“Tôi có nói là mẹ rất mong gặp nó. Lúc đó mẹ tôi vừa ra viện, anh thấy đó. Mẹ tôi nhập viện phẫu thuật cắt bỏ tử cung. Lula có nói là sẽ đi thăm mẹ, nhưng không chắc lắm. Nó nói còn bận nhiều việc.”

Bristow hít một hơi sâu; đầu gối bên phải lại bắt đầu nhấp nhổm, hai bàn tay xương xẩu liên tục xoa vào nhau.

“Tôi không muốn anh nghĩ xấu về nó. Ai cũng nghĩ nó là đứa ích kỷ, nhưng nó là con út trong gia đình, lại được nuông chiều, rồi chuyện bênh tật, từ đó nó trở thành trung tâm chú ý, rồi sau đó nổi tiếng, bị vây quanh, đi đâu cũng có paparazzi bám theo. Cuộc sống của nó không bình thường.”

“Rõ là không bình thường” Strike đáp.

“Vậy là, tôi kể cho Lula nghe là mẹ ốm nặng, đau đớn ra sao, và nó bảo là sẽ đi thăm mẹ ngay. Rồi tôi đi về; có ghé qua văn phòng để lấy vài hồ sơ từ Alison. Hôm đó tôi làm việc ở nhà mẹ, để có người cho mẹ đỡ buồn. Sau đó tôi có gặp Lula khi nó đến thăm mẹ, khoảng giữa buổi sáng. Nó ngồi lại với mẹ một lúc, cho đến khi ông cậu tôi đến. Nó đi qua phòng làm việc để chào tôi. Trước khi về nó còn ôm tôi tạm biệt…”

Giọng Bristow bắt đầu vỡ ra, ông cúi nhìn xuống đùi.

“Anh dùng cà phê nữa không?” Strike mới. Bristow lắc đầu, vẫn cúi xuống. Strike bưng khay nước ra phòng ngoài, để Bristow có thời gian bình tĩnh lại.

Khi Strike ra phòng ngoài, bạn gái của Bristow ngước lên nhìn hắn, vẫn cau có. “Anh vẫn chưa xong à?” Cô ta hỏi.

“Chưa, như chị thấy đó,” Strike đáp, không hề mỉm cười. Cô ta liếc nhìn hắn khi hắn nói với Robin.

“Phiền cô lấy cho tôi một tách nữa, ừm…?”

Robin đứng dậy cầm lấy cái khay từ tay hắn, không nói gì cả.

“John phải quay lại văn phòng lúc mười giờ rưỡi.” Alison lên tiếng, lớn giọng một chút. “Tụi tôi chỉ ở đây được thêm mười phút nữa là tối đa.”

“Tôi nhớ rồi.” Strike trả lời lạnh nhạt, rồi quay vào phòng trong. Bristow đang ngồi như cầu nguyện, úp mặt lên hai bàn tay.

“Tôi xin lỗi,” Bristow lầm bầm, khi Strike vừa ngồi xuống. “Đến giờ tôi vẫn thấy nói chuyện này thật khó khăn.”

“Không sao cả,” Strike nói, tiếp tục cầm sổ ghi chép lên. “Vậy Lula có đến gặp mẹ anh? Lúc đó khoảng mấy giờ?”

“Chừng mười một giờ. Trong kết quả điều tra người ta có ghi lại hết, cả những việc nó làm sau đó. Nó ra xe và được chở tới một hiệu đồ nó rất thích, sau đó thì trở về căn hộ. Nó đã có hẹn trước với chuyên viên trang điểm tại nhà ngay buổi chiều hôm đó, rồi Ciara Porter bạn nó ghé qua. Chắc anh đã thấy Ciara Porter rồi, cũng là người mẫu như Lula vậy. Da trắng tóc vàng. Lula và Ciara từng chụp chung tấm ảnh thiên thần, chắc anh cũng biết: hai đứa không mặc gì cả, chỉ che người bằng túi xách và đeo cặp cánh. Sau khi Lula mất Somé dùng tấm ảnh này trong chiến dịch quảng cáo. Nhiều người thấy phản cảm vô cùng.

“Ciara và Lula ngồi với nhau cả buổi chiều hôm đó ở nhà Lula, sau đó cả hai đi ăn tối, gặp Duffield và vài người khác. Rồi cả đám đi đến hộp đêm Uzi và ở đó tới quá nửa đêm.”

“Duffield và Lula cãi nhau. Rất nhiều người chứng kiến. Duffield có động tay chân một chút, cố giữ Lula lại nhưng nó vùng ra, bỏ vè một mình. Ai cũng tưởng chính Duffield giết em tôi, nhưng hắn có chứng cứ ngoại phạm rõ ràng.”

“Từ lời khai của tay bán ma túy, đúng không?” Strike hỏi, tay vẫn viết.

“Chính xác. Lula về tới căn hộ khoảng một giờ hai mươi sáng. Khi nó đi vào thì có bị chụp hình. Chắc hẳn anh còn nhó những tấm hình đó. Báo nào cũng đăng.”

Strike vẫn còn nhớ rõ: trong tấm hình, người phụ nữ vốn được chụp hình nhiều nhất thế giới cúi đầu, vai khom, mắt khép và hai cánh tay tự ôm lấy người, quay mặt tránh đám phóng viên. Sau khi có kết luận tự tử, bức ảnh lại được gán thêm một ý nghĩa đao to búa lớn: người phụ nữ trẻ đẹp và giàu có, chỉ một giờ trước khi tự tử, vẫn còn cố gắng che giấu nỗi đau khổ của mình trước những ống kính mà cô từng chinh phục, những kẻ từng ngưỡng mộ cô.

“Đám săn ảnh có hay chực sẵn trước nhà Lula không?”

“Có, nhất là khi họ biết được nó vừa đi với Duffield về, hay khi muốn chụp hình nó say xỉn lê lết về nhà. Nhưng đêm đó thì tụi nó không chỉ đợi mỗi Lula mà còn chờ cả Deeby Macc – tay ca sĩ rap người Mỹ cũng mới dọn về tòa nhà đó. Hãng đĩa của tay này đã thuê căn hộ ngay dưới căn của Lula. Khi xảy ra sự việc thì Deeby Macc không muốn ở đó nữa, cảnh sát có mặt khắp tòa nhà nên anh ta chuyển đến khách sạn cho tiện. Đám thợ săn ảnh bám theo Lula từ hộp đêm Uzi nhập hội chung với đám đang đợi Macc ngoài cửa. Sau khi Lula đi vào trong thì tụi nó tản dần đi. Nghe đâu là vì có tin vài tiếng nữa Macc mới về tới nơi.

“Đêm hôm đó trời lạnh tê tái. Tuyết rơi. Nhiệt độ dưới không. Nên khi con bé ngã xuống, trên đường không có ai cả.”

Bristow chớp mắt, uống một ngụm cà phê đã nguội, còn Strike chợt nghĩ về đám paparazzi vừa đi khỏi hiện trường ngay trước khi Lula Landry rơi xuống từ ban công. Thử tưởng tượng, lúc đó tay nào mà vô tình nán lại, chụp lại được cảnh ấy thì ắt hẳn đã giàu to, khỏi cần làm ăn gì nữa.

“John này, bạn gái của anh có dặn là anh phải đi đâu đó lúc mười giờ rưỡi.”

“Hả?”

Bristow có vẻ đã bình tĩnh hẳn. Ông ta nhìn chiếc đồng hồ đắt tiền rồi há hốc.

“Trời đất, tôi không biết mình đã ngồi đây lâu vậy. Giờ… giờ sao hả anh?” Bristow hỏi, trông hơi hoảng loạn. “Anh sẽ đọc ghi chép của tôi chứ?”

“Vâng, đương nhiên rồi,” Strike quả quyết, “và tôi sẽ gọi cho anh vài ngày tới, sau khi làm mấy việc sơ bộ. Lúc đó tôi sẽ hỏi anh nhiều hơn.”

“Được rồi” Bristow nói, lạng quạng đứng dậy. “Đây là danh thiếp của tôi. Anh muốn tôi trả phí kiểu gì?”

“Nếu được anh tạm ứng cho một tháng trước.” Strike đáp. Hắn cố nén hết sự ngượng ngùng, chợt nhớ ra Bristow đòi trả gấp đôi, hắn liền đọc một con số cao ngất ngưởng. Strike mở cờ trong bụng khi thấy Bristow không mặc cả gì hết, cũng không hỏi Strike có nhận thanh toán bằng thẻ hay hứa sẽ mang tiền đến sau, mà ngay lập tức rút ra một cuốn séc và một cây viết.

“Nếu tiện, phiền anh thanh toán một phần tư số đó bằng tiền mặt,” Strike bồi thêm, thử vận may và lại một lần nữa choáng váng khi Bristow đáp, “Tôi cũng nghĩ có khi anh muốn vậy…” và đếm ngay một xấp tờ năm mươi bảng, thêm vào tấm séc.

Họ vừa ra đến phòng ngoài thì Robin bước vào, trên tay là tách cà phê mới của Strike.

Khi cửa vừa mở, bạn gái của Bristow đứng dậy, gấp tờ báo lại, ra vẻ đã phải chờ đợi lâu. Cô ta cao gần bằng Bristow, người to lớn, mặt mày cáu kỉnh, hai bàn tay to như đàn ông.

“Vậy là anh nhận lời rồi hả?” Cô ta hỏi Strike. Hắn có cảm giác cô ta đang nghĩ hắn lợi dụng anh bạn trai giàu có này. Rất có thể cô ta đúng.

“Vâng, John đã đồng ý thuê tôi,” Hắn đáp.

“Được rồi,” Cô ta đáp, bất cần. “Anh hài lòng rồi chứ, John?”

Ông luật sư mỉm cười, cô ả thở dài và vỗ lên cánh tay của Bristow, có vẻ chịu đựng nhưng mệt mỏi, y như mẹ dỗ con. John Bristow đưa tay chào Strike, rồi bước theo cô kia ra khỏi phòng, tiếng bước chân của họ nhỏ dần về phía cầu thang.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Strike quay lại nhìn Robin, lúc này đang ngồi trước máy tính. Tách cà phê của hắn đặt bên cạnh chồng thư từ đã được sắp xếp gọn gàng trên bàn.

“Cảm ơn cô,” hắn nói, nhấp một ngụm cà phê. “cho hỏi thêm chút. Tại sao cô làm nhân viên tạm thời?”

“Ý anh là sao?” Robin hỏi, đầy nghi ngờ.

“Cô viết đúng chính tả, biết chấm phẩy. Cô phản ứng nhanh. Cô lanh lợi, mấy cái tách và khay nước ở đâu ra vậy? Còn cả cà phê và bánh quy nữa?”

“Tôi mượn của ông Crowdy. Tôi có nói tới trưa sẽ đem trả hết.”

“Ông nào kia?”

“Ông Crowdy, ở tầng dưới. Thiết kế đồ họa.”

“Hắn cho cô mượn không như vậy?”

“Vâng,” Robin trả lời, hơi tự ái. “Tôi nghĩ mời khách uống cà phê thì mình phải có cà phê.”

Cách cô dùng từ “mình” nhẹ nhàng, như muốn động viên tinh thần làm việc của Strike.

“Trước giờ Giải pháp Tạm thời chưa có ai giỏi như cô, tôi nói thật lòng. Xin lỗi tôi cứ gọi cô là Sandra; đó là tên của người trước đây. Cô tên gì?”

“Robin.”

“Robin”, hắn lặp lại. “Tên vậy thì dễ nhớ quá.”

Strike vừa định đùa một chút, có ý bóng gió đến Người dơi và phụ tá Robin nhưng chưa kịp mở miệng thì chợt nhận ra Robin đang đỏ bừng mặt . Đã quá muộn, mấy lời nói có vẻ vô tội của hắn giờ trở nên thật kỳ cục. Robin quay ghế nhìn vào màn hình máy tính, Strike chỉ còn thấy cạnh gò má cô đang đỏ gay. Trong một giây bối rồi, căn phòng như bị thu nhỏ lại, tưởng chỉ còn bằng cái buồng điện thoại công cộng.

“Tôi đi ra ngoài một chút,” Strike nói, đặt tách cà phê còn y nguyên xuống và đi ngang như cua về phía cửa, tay với lấy áo khoác. “Nếu ai có gọi…”

“Anh Strike…, trước khi anh đi ra tôi nghĩ anh nên xem cái này.”

Mặt vẫn còn đỏ, Robin rút ra từ trên chồng thư đã mở bên cạnh máy tính một tờ giấy màu hồng chói và một cái bì thư cùng màu, cả hai đều đã được Robin cho vào bì nhựa trong suốt. Strike để ý thấy chiếc nhẫn đính hôn khi cô đưa tay lên.

“Có người dọa giết anh.” Cô nói.

“À, ờ,” Strike đáp. “Cô đừng lo. Cứ mỗi tuần lại có một cái như vậy.”

“Nhưng…”

“Đó là một thân chủ cũ không hài lòng. Hơi khùng. Ông ta nghĩ dùng giấy màu đó sẽ đánh lạc hướng tôi.”

“Được thôi, dù vậy anh cũng phải đi báo cảnh sát chứ?”

“Để họ cười cho à?”

“Chẳng có gì tức cười, đây là thư dọa giết!” Robin đáp, và Strike nhận ra vì sao cô ta lại bỏ lá thư cùng với phong bì của nó vào bì nhựa riêng. Hắn thấy hơi cảm động.

“Cô cứ xếp chung với mấy cái trước,” hắn nói, chỉ tay về phía tủ hồ sơ trong góc. “Nếu ông ta muốn giết tôi thì đã giết rồi. Trong đó cô sẽ thấy ông ta gởi thư như vậy đã được chừng sáu tháng. Cô ở đây một mình ổn chứ, khi tôi đi ra ngoài!”

“Tôi sẽ chịu được,” Robin trả lời. Strike thấy hơi buồn cười vì trong giọng Robin có chút gì chua ngoa, cộng thêm sự thất vọng rõ rệt khi thấy hắn không hề có ý định lấy dấu vân tay trên lá thư màu hồng in hình mèo con chi chít.

“Nếu cô cần gì thì cứ gọi theo số di động của tôi trên danh thiếp, ở trong ngăn kéo đầu tiên.”

“Được rồi.” Robin đáp, không nhìn Strike lẫn ngăn kéo.

“Nếu cô muốn ra ngoài ăn trưa thì cứ tự nhiên. Chìa khóa dự phòng ở đâu đó trong ngăn bàn.”

“OK.”

“Hẹn gặp lại.”

Strike dừng lại ngay bên ngoài cửa gương trước lối vào toilet chật chội. Bụng hắn sôi lên, nhưng hắn cảm thấy tác phong làm việc của Robin, cũng như cách cô quan tâm tới sự an toàn của hắn đều cần phải được ghi nhận. Quyết định ra quán ngồi rồi hẵng tính tiếp, hắn đi xuống cầu thang.

Ra tới đường, Strike đốt một điếu thuốc, rẽ trái và đi ngang qua quán Bar Café số 12 vẫn còn đóng cửa, ngược lên lối hẹp của Ngõ Denmark, rồi băng qua trước tiệm bán đàn sặc sỡ tường dán đầy quảng cáo, xa dần tiếng máy khoan ầm ầm không ngừng nghỉ. Vòng vèo quanh đám gạch đá và rác rưởi ngay trước Centre Point, hắn bước qua bức tượng Freddie Mercury vàng chóe trước cửa nhà hát Dominion bên kia đường. Frieddie Mercury đứng cúi đầu, một nắm tay giơ lên trong không khí, trông như bị tà thần giữa tất cả sự hỗn loạn chung quanh.

Mặt tiền hoa mỹ kiểu thời Victoria của quán Tottenham hiện ra ngay sau đám gạch đá và công trường xây dựng. Strike đi tới, thấy dễ chịu khi nhớ tới cục tiền trong túi. Hắn đẩy mấy lớp cửa, bước vào một không gian kiểu Victoria trầm mặc với những chi tiết nội thất uốn lượn bằng gỗ sẫm màu và đồng thau bóng loáng. Vách ngăn kính mờ, băng ghế bọc da thuộc đã lên nước, gương soi mạ vàng, tượng thiên thần và sừng dê trang trí trong quán gợi lên một thế giới ngăn nắp, đáng tin cậy, trái ngược hẳn với đường sá bị đào xới bên ngoài. Strike gọi một vại Doom Bar và đem ra phía sau quán bia đang vắng vẻ. Hắn đặt cái ly xuống một cái bàn tròn cao, ngay dưới vòm kính lòe loẹt trên trần nhà, và đi thẳng vào nhà vệ sinh nam khai nồng nặc.

Mười phút sau, khi thấy dễ chịu hơn nhiều, Strike đã uống hết một phần bal y bia, men bia làm hắn tê người, trong khi vẫn rã rời. Loại bia xứ Cornwall này làm hắn nghĩ tới gia đình, sự yên ổn và bình an mà hắn đã đánh mất từ lâu. Đối diện Strike là một bức tranh khổ lớn lờ mờ vẽ một thiếu phụ thời Victoria đang nhảy múa, tay cầm hoa hồng.

Cô gái trong tranh bẽn lẽn nô đùa, nhìn về phía Strike qua một lớp cánh hoa tung bay, bộ ngực tràn trề lấp ló dưới lớp áo màu trắng. Trông cô khác xa với một người phụ nữ thật, cũng như cái bàn hắn đang ngồi hay người đàn ông béo phì tóc đuôi ngựa đang đứng bơm bia sau quầy bar.

Strike lại miên man suy nghĩ về Charlotte. Charlotte là người thật không thể chối cãi; xinh đẹp, dữ dội như một con cáo cái bị dồn vào đường cùng, thông minh, đôi lúc rất hài hước, và theo lời ông bạn già nhất của Strike, là “điên từ trong xương.” Liệu lần này mọi thứ đã chấm dứt, thực sự chấm dứt hay chưa? Co mình mệt mỏi, Strike nhớ lại những hình ảnh tối qua và sáng nay. Cuối cùng Charlotte đã làm điều mà Strike không thể tha thứ được, và chắc hắn sẽ cảm thấy vô cùng đau đớn khi liều thuốc tê tạm thời này hết tác dụng: nhưng trước mắt hắn vẫn phải đối mặt với vài chuyện thực tế. Mới hôm qua hắn còn đang ở chỗ Charlotte; một căn nhà nhỏ, sành điệu và đắt tiền ở Đại lộ Holland Park. Điều đó cũng có nghĩa là, kể từ hai giờ sáng hôm nay, hắn đã trở thành kẻ vô gia cư tự nguyện.

(“Bluey, dọn vô với em đi. Anh biết vậy là hợp lý mà. Như vậy anh có thể tiết kiệm thêm tiền trong khi gây dựng công việc, và em có thể chăm sóc anh. Anh không nên ở một mình khi vẫn còn đang hồi phục. Đừng ngớ ngẩn thế Bluey…

Không còn ai gọi hắn là Bluey nữa. Bluey đã chết.)

Đây là lần đầu tiên trong mối quan hệ dài lâu và rắc rối này hắn lại là người bỏ đi trước. Ba lần trước đều do Charlotte đòi chia tay. Dường như cả hai luôn hiểu rằng, nếu hắn bỏ đi, nếu hắn đã thấy đủ rồi, cuộc chia tay sẽ hoàn toàn khác so với tất cả những lần Charlotte đòi cắt đứt, lần nào cũng đau khổ và lộn xộn nhưng không hề dứt khoát.

Charlotte sẽ không dừng tay với hắn, cho đến khi trả thù đến hả dạ. Như cảnh sáng nay, lúc cô ta tìm ra hắn trong văn phòng cũng chỉ là màn khởi đầu cho những gì sắp xảy ra trong những tháng, thậm chí là năm tới. Hắn chưa thấy ai lại mê trả thù đến vậy.

Strike đi cà nhắc tới quầy bar, gọi thêm một vại bia nữa và trở về bàn, tiếp tục ủ rũ suy tư. Chia tay với Charlotte đã đưa hắn tới chỗ bần cùng. Hắn nợ nhiều quá, đến nỗi nếu không có John Bristow giờ đây hắn đã phải xách túi ngủ ra đường. Thực tế là nếu Gillespie đòi trả lại món nợ mà hắn đã vay để đặt cọc văn phòng thì Strike sẽ không còn đường nào khác ngoài màn trời chiếu đất.

(“Chào anh Strike, tôi gọi xem mọi chuyện thế nào, vì tháng này tiền trả góp vẫn chưa thấy đâu… Anh sẽ trả trong mấy ngày tới chứ?”)

Và cuối cùng (bởi vì hắn đã bắt đầu mổ xẻ sự thất bại của cuộc đời mình thì sao không làm luôn cả thể?) là dạo nay hắn phệ ra gần cả chục kí lô, hắn không chỉ thấy mình béo ị và yếu sức, mà còn cảm thấy áp lực tăng lên trên phần chân giả đang đặt dưới bàn. Strike phải đi cà nhắc vì trọng lượng tăng thêm làm mỏm chân cụt bị trầy xước. Cuộc đi bộ xuyên qua London sáng sớm nay với cái túi nặng trên vai càng làm chân hắn đau hơn. Nhưng biết được cảnh cơ hàn đang đợi mình phía trước, Strike đã quyết định chọn cách đi rẻ tiền nhất.

Hắn đến quầy gọi vại thứ ba. Trở lại bàn dưới vòm kính, hắn rút điện thoại ra gọi cho một người bạn ở Sở Cảnh sát London, mặc dù hắn mới quen vài năm nhưng đã trở thành thân thiết trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt.

Cũng như Charlotte là người duy nhất gọi hắn là “Bluey”. Sĩ quan điều tra Richard Anstis là người duy nhất gọi Strike là “Mystic Bob”. Anstis rống lên khi nghe tiếng hắn trên điện thoại.

“Có việc nhờ mày đây,” Strike nói với Anstis.

“Nói luôn đi.”

“Ai làm vụ Lula Landry?”

Anstis vừa tìm số điện thoại vừa hỏi chuyện công việc, cái chân phải và vị hôn thê của Strike. Strike trả lời, nói dối về cả ba.

“Tốt lắm,” Anstis nói vui vẻ. “OK đây là số của Wardle. Tay đó cũng được, hơi tự cao, nhưng còn được hơn cha Carver; cha đó tệ lắm. Tao sẽ nói trước với Wardle. Tao sẽ điện ngay luôn nếu mày muốn.”

Strike lấy một tờ rơi quảng cáo du lịch ở kệ gỗ trên tường và ghi lại số điện thoại của Wardle ngay giữa hình mấy con ngựa Hoàng gia.

“Khi nào mày tới chơi?” Anstis hỏi. “Đem cả Charlotte nhé.”

“Ừ, hay đó. Tao sẽ điện sau, giờ bận lắm.”

Sau khi cúp máy, Strike ngồi suy tư thêm một lúc lâu, rồi gọi thêm một người quen lớn hơn Anstis nhiều tuổi và trong một giới hoàn toàn ngược lại.

“Nhờ ông anh một chuyện.” Strike nói. “Đang cần ít thông tin.”

“Việc gì?”

“Tùy ông anh. Thằng em cần chút gì để trao đổi với cớm.”

Cuộc trò chuyện kéo dài khoảng hai mươi lăm phút, có nhiều lúc cả hai đều im lặng, những khoảng ngừng càng về sau càng dài và căng thẳng hơn, cho đến khi Strike có được mẩu thông tin tạm coi là địa chỉ và hai cái tên, hắn chép lại ngay giữa hình mấy con ngựa, và thêm một lời cảnh báo mà hắn không ghi lại nhưng nhớ rất kỹ. Hai bên chấm dứt khá vui vẻ, lúc này Strike vừa ngáp vừa điện cho Wardle. Wardle cầm máy ngay, giọng to và cụt ngủn.

“Wardle.”

“Vâng chào anh. Tôi là Cormoran Strike và….”

“Anh là ai chứ?”

“Cormoran Strike,” Strike nói “tên tôi”.

“Ờ ờ” Wardle đáp. “Anstis mới gọi. Anh là tay thám tử tư? Anstis nói anh muốn hỏi về vụ Lula Landry?”

“Đúng rồi.” Strike nói tiếp, cố không ngáp, mắt nhìn vào mấy tấm ván trần, trên có vẽ tranh cảnh chè chén say sưa, nhìn kỹ thì hóa ra là tiệc thần tiên trong vở Giấc mộng đêm hè, trong tranh có một người đàn ông đầu lừa. “Tôi muốn lấy hồ sơ vụ đó.”

Wardle cười phá lên.

“Anh mới cứu mạng tôi hả?”

“Có mấy thông tin anh quan tâm. Tôi nghĩ biết đâu anh muốn trao đổi chút.”

Im lặng một lúc.

“Tôi đoán chắc anh không muốn trao đổi qua điện thoại?”

“Hẳn rồi,” Strike đáp. “Hôm nào hết giờ đi làm một vại ở đâu đó được không?”

Sau khi ghi lại tên quán bia gần Scotland Yard và đồng ý gặp đúng một tuần sau (nếu không sớm hơn được), Strike cúp máy.

Trước đây Strike rất khác. Hai năm trước hắn vẫn có oai với nhân chứng và nghi can; giống như Wardle vậy, một người luôn bận rộn hơn người khác và có quyền chọn cuộc phỏng vấn diễn ra lúc nào, ở đâu và bao lâu. Cũng như Wardle, hắn không cần mặc đồng phục và lúc nào cũng toát ra vẻ công chức và uy quyền. Giờ đây, hắn là một thằng cà nhắc mặc áo nhăn nhúm, đổi chác với người quen cũ, xuống nước làm ăn với mấy tên cớm mà trước đây còn mừng rúm mỗi khi hắn gọi điện.

“Đồ khốn,” Strike nói to, vọng vào ly bia. Ly bia thứ ba hết vao nhanh chóng, chỉ còn một chút xíu dưới đáy.

Điện thoại đổ chuông; số văn phòng hiện lên trên màn hình. Chắc là Robin gọi nói chuyện Peter Gillespie đòi tiền. Hắn không trả lời, Robin để lại lời nhắn. Hắn uống cạn ly rồi đi ra.

Đường phố sáng sủa và lạnh lẽo, vỉa hè ẩm ướt, những vũng nước ánh lên mỗi khi mặt trời ló ra khỏi mây. Strike đốt tiếp một điếu thuốc nữa ngay ngoài cửa quán Tottenham, vừa hút vừa nhìn đám công nhân sửa đường di chuyển quanh cái hố. Hút xong, hắn lững thững về phố Oxford giết thời giờ, chờ cho đến khi Giải pháp Tạm thời đi về để hắn trở lại văn phòng ngủ một giấc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Robin đợi mười phút, cho tới khi chắc là Strike đã đi hẳn rồi mới lấy điện thoại di động gọi loanh quanh. Các bạn của Robin khi nghe tin cô mới đính hôn thì hoặc hét lên phấn khích hoặc tỏ vẻ ganh tị, cả hai phản ứng đều khiến Robin sung sướng như nhau. Đến giờ ăn trưa, cô tự thưởng cho mình một tiếng giải lao, mua ba tạp chí chuyên để cho cô dâu và một gói bánh quy mới (thâm 42 xu vào chỗ tiền chi vặt đựng trong hộp thiếc), rồi trở về văn phòng một mình. Trong bốn mươi phút hạnh phúc sau đó, Robin ngắm nghía các thể loại hoa cưới và áo cô dâu, vẫn còn sướng tê người.

Hết giờ nghỉ trưa tự đặt ta, Robin rửa đám tách chén và khay nước rồi đem trả lại cho Crowdy cùng với gói bánh quy mới mua. Để ý thấy cha này rất sốt sắng muốn giữ cô lại nói chuyện trong khi mắt đảo lia từ miệng tới ngực cô, cả tuần sau đó Robin cố tránh mặt.

Strike vẫn chưa về. Robin tự tìm thêm việc để làm, cô dọn các ngăn kéo, vứt ra những thứ mà cô đoán là những nhân viên trước đây để lại, hai mẩu sô-cô-la sữa bám bụi, một cái dũa móng tay đã mòn, nhiều mẩu giấy ghi số điện thoại và vẽ vời lăng nhăng. Thêm một hộp kẹp giấy bằng sắt kiểu cũ, Robin chưa thấy loại này bao giờ, khá nhiều sổ tay nhỏ màu xanh, mặc dù không in logo nhưng vẫn toát ra mùi công chức. Với kinh nghiệm từ nhiều văn phòng, Robin có cảm giác đám sổ kia bị thó từ kho của một cơ quan nhà nước nào đó.

Thỉnh thoảng điện thoại văn phòng đổ chuông. Sếp mới của Robin có rất nhiều tên. Một người gọi hỏi gặp “Oggy” ; một người khác thì đòi gặp “Thằng khỉ con”, rồi một giọng khô khan, dứt dạt gởi lời nhắn phiền “Ông Strike” gọi lại cho ông Peter Gillespie càng sớm càng tốt. Mỗi lần như vậy, Robin đều gọi vào máy di động của Strike, nhưng toàn vào thẳng hộp thư thoại. Vì thế cô để lại lời nhắn trên điện thoại, viết lại tên mỗi người gọi và số điện thoại trên một mẩu giấy Post-it rồi mang vào phòng của Strike dán gọn gàng trên bàn.

Máy khoan bên ngoài vẫn ầm ầm. Khoảng hai giờ chiều, trần nhà kêu răng rắc vì người ở tầng trên bắt đầu đi qua đi lại; nếu không Robin cứ tưởng chỉ có mỗi mình cô trong cả tòa nhà. Ở một mình, cộng thêm cảm giác sung sướng tưởng như muốn vỡ lồng ngực mỗi khi nhìn thấy chiếc nhẫn trên bàn tay, Robin trở nên bạo dạn. Cô bắt đầu dọn dẹp văn phòng nhỏ xíu, giờ đây chỉ có mỗi cô trông giữ.

Mặc dù mọi thứ trông có vẻ cũ kỹ dơ bẩn, Robin nhanh chóng phát hiện ra chúng được sắp xếp có tổ chức rạch ròi, hợp với tính cách ngăn nắp gọn gàng của cô. Những tập hồ sơ bìa giấy nâu (thật là cổ điển vì bây giờ người ta toàn dùng bìa nhựa màu) được xếp ngay ngắn trên kệ đằng sau bàn của Robin theo thứ tự thời gian. Mỗi hồ sơ được đánh số thứ tự viết tay ở gáy. Cô mở một hồ sơ ra và thấy mấy cái kẹp giấy kiểu cũ được dùng để đính giấy tờ vào tập hồ sơ. Nội dung bên trong viết theo một kiểu riêng, khó hiểu. Có lẽ cảnh sát toàn viết như vậy; biết đâu Strike từng là cảnh sát.

Robin tìm ra xấp thư dọa giết màu hồng mà Strike nhắc đến ở ngăn kéo giữa của tủ đựng hồ sơ, bên cạnh là một tập cam kết giữ bí mật. Robin rút ra một tờ cam kết và đọc; bản cam kết đơn giản, quy định rằng người ký tê không nhắc đến những tên tuổi hay thông tin trong hồ sơ của khách hàng ngoài giờ làm việc. Robin nghĩ ngợi một lúc, rồi ký và ghi ngày. Cô mang nó vào bên trong phòng làm việc của Strike, đặt lên bàn để Strike có thể ký vào phần còn lại. Sự thề thốt đơn phương này khiến cô lại thấy công việc có gì đó bí hiểm, thậm chí là hấp dẫn như cô đã hình dung khi đứng ngoài cửa gương, trước khi nó mở tung ra và Strike suýt chút nữa thì xô cô xuống cầu thang.

Sau khi đặt tờ cam kết lên bàn Strike, Robin nhìn thấy túi thể thao bị nhét trong góc, ngay sau tủ đựng hồ sơ. Chỗ dây kéo túi hở ra để lộ một góc áo đã bẩn, một cái đồng hồ báo thức và túi đựng xà phòng. Robin đóng ngay cửa phòng Strike lại, như thể vừa vô tình thấy chuyện riêng tư đáng xấu hổ của người khác. Cô nghĩ tới người đẹp tóc đen chạy ra khỏi tòa nhà lúc sáng, những vết thương đủ kiểu của Strike và cách anh ta đuổi theo cô nàng, có chút chần chừ ban đầu nhưng vẫn khá quyết liệt. Trong tâm trạng vui sướng của một người vừa đính hôn, Robin thấy thương hại những người không có may mắn trong tình cảm – một sự thương hại đi kèm với nỗi hân hoan khó tả khi cô nghĩ tới viễn cảnh thiên đường của riêng mình.

Năm giờ chiều, ông sếp tạm vẫn chưa về, Robin quyết định đã đến giờ nghỉ. Cô vừa khẽ ngân nga vừa điền vào phiếu ngày công, rồi hát to thành tiếng khi mặc áo khoác. Cô khóa cửa, bỏ chìa khóa dự phòng vào hộp thư và cẩn trọng bước về phía cầu thang sắt, về nhà với Matthew.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Đến đầu giờ chiều, Strike đến tòa nhà Hội sinh viên Đại học London. Bước đi dứt khoát qua quầy lễ tân, giả vờ đang cau có, Strike tranh thủ dùng được phòng tắm mà không bị ai hỏi han hay đòi xuất trình thẻ sinh viên. Sau đó hắn vào căn-tin ăn bánh mì tròn hơi thiu kẹp thịt nguội và một thỏi sô-cô-la. Rồi hắn tiếp tục đi lang thang, mắt lờ đờ vì mệt mỏi, thỉnh thoảng dừng lại hút thuốc, rồi tạt vào hàng quán mua mấy thứ thiết yếu cho cuộc sống tạm bợ sắp tới bằng tiền Bristow mới đưa. Đầu chiều tối hắn ngồi thu lu trong một quán ăn Ý, sau lưng là mấy hộp đồ vừa mua chồng lên nhau ngay cạnh quầy bar. Hắn ngồi đó uống hết ly này tới ly khác cho tới lúc đã quên được một nửa lý do vì sao phải ngồi đó giết thời gian.

Strike về đến văn phòng lúc gần tám giờ tối. Đây cũng là thời điểm mà hắn thấy London đáng yêu nhất; vừa hết giờ làm việc, cửa sổ mấy quán bia bắt đầu lên đèn ấm cúng, như những viên đá trang sức cho thành phố. Đường phố sôi động hẳn, những tòa nhà cổ kính vốn sừng sững giờ trở nên dịu dàng dưới ánh đèn đường, có vẻ gì đó chở che. Strike có cảm giác mấy toàn nhà đang thì thầm: Tụi tao thấy nhiều đứa như mày rồi khi hắn lê bước trên phố Oxford, tay ôm một cái giường xếp đóng thùng. Bảy triệu rưỡi trái tim cùng đập một lúc trong thành phố cổ kính mà sôi động này, trong đó sẽ có nhiều trái tim còn đau đớn hơn tim hắn hiện giờ. Bước chân rã rời qua những hàng quán đang đóng cửa, trên đầu là bầu trời đang chuyển màu xanh tím, cảm giác lọt thỏm vô hình giữa không gian rộng lớn bao quanh, Strike tự dưng cũng thấy khuây khỏa phần nào.

Phải cố sức Strike mới tha được cái giường xếp leo cầu thang lên tầng hai, vừa đến cửa văn phòng thì chân phải đau đớn không chịu được. Hắn đứng dựa vào tường một lúc, trọng tâm cơ thể đổ dồn về hết phía chân trái, thở hổn hển vào cửa gương, thấy hơi thở mờ mờ bám trên mặt kính.

“Đồ mập khốn nạn.” Hắn tự rủa. “Chó chết.”

Lau mồ hôi trên trán, hắn mở khóa cửa và đẩy đám đồ đạc mới mua vào trong. Trong phòng làm việc, hắn đẩy bàn qua một bên rồi bật cái giường ra, giũ túi ngủ được cuộn tròn và lấy nước từ bồn rửa mặt đổ đầy vào ấm đun siêu tốc.

Tối nay hắn lại ăn mì ly, sở dĩ hắn chọn món này vì nó gợi nhớ đến những thứ hắn thường mang theo trong túi thức ăn ngày trước: cứ như có mối liên hệ chặt chẽ nào đó giữa những món ăn đồ khô dễ nấu và nơi ở tạm bợ, khiến hắn với tay lấy ngay mấy ly mì. Khi nước đã sôi, hắn đổ vào ly mì, ăn bằng cái nĩa nhựa lấy từ căn-tin trường Đại học hồi chiều. Hắn ngồi trên ghế, nhìn xuống đường sá vắng tanh, nghe tiếng xe rồ máy trong ánh chiều chập choạng ở cuối đường và tiếng bass thình thịch vọng lên từ quán Bar Café số 12 ở tầng trệt.

Hắn từng ngủ ở những nơi tệ hơn thế này nhiều. Sàn đá trong bãi đỗ xe nhiều tầng ở Angola, nhà máy kim loại bị đánh bom nơi bọn hắn phải dựng lều ở tạm và mỗi buổi sáng lại ho ra bụi đen. Tệ hơn nữa là phòng ngủ tập thể nhớp nháp trong hợp tác xã ở Norfolk mà ba mẹ con hắn dọn đến ở, khi đó hắn lên tám còn đứa em gái cùng mẹ khác cha mới sáu tuổi. Hắn cũng nhớ cả những cái giường bệnh viện không hề êm ái mà hắn nằm trong nhiều tháng, những ngôi nhà hoang (lại đi cùng với mẹ), và những cánh rừng lạnh tê tái nơi hắn tập trận. Mặc dù cái giường xếp rất thô sơ, không chút gì mời gọi dưới ngọn đèn trần trụi, nó vẫn thoải mái hơn rất nhiều so với mấy chỗ hắn vừa nghĩ đến.

Chuyện đi mua đồ thiết yếu, dựng trại ngay trong văn phòng khiến Strike lại thấy mình là một người lính, sẵn sàng làm việc phải làm, không thắc mắc hay càm ràm gì cả. Hắn vứt ly mì đã ăn xong, bật đèn lên và ngồi xuống ghế của Robin.

Hắn lập bộ hồ sơ mới – bìa kẹp hồ sơ, giấy trắng, một cái kẹp giấy; cuốn sổ ghi lại cuộc phỏng vấn Bristow; tờ rơi quảng cáo từ quán Tottenham; danh thiếp của Bristow. Trong lúc làm, hắn để ý thấy các ngăn kép sạch sẽ gọn gàng hơn, màn hình máy tính không còn bám bụi, mấy cái tách cà phê và đám rác rưởi cũng biến mất, thoang thoảng có mùi nước hoa xịt phòng Pledge. Hơi tò mò, hắn mở hộp thiếc đựng tiền chi vặt. Trong đó có mẩu giấy viết tay, chữ viết tròn trịa của Robin ghi lại hắn nợ cô ta bốn mươi hai xu tiền bánh quy sô cô la. Strike lấy bốn mươi bảng trong ví ra (vẫn tiền của Bristow) và bỏ vào hộp; rồi nghĩ sao đó, hắn đếm thêm bốn mươi hai xu lẻ đặt lên trên.

Sau đó hắn lấy một cây viết bi trong đống viết đã được Robin xếp lại ngay ngắn ở ngăn kéo đầu tiên. Hắn bắt đầu viết, trôi chảy và nhanh chóng, đầu tiên là ghi ngày tháng. Hắn xé trang giấy ghi cuộc phỏng vấn với Bristow, đính kèm vào trong tập hồ sơ; ghi thêm những việc đã làm hôm nay, gồm cả điện thoại (nhưng hắn không ghi gì cả về cuộc gọi thứ hai với gã bạn đã cung cấp những cái tên và địa chỉ mà hắn sắp dùng để đổi chác với Wardle).

Làm xong, Strike đánh số thứ tự trên gáy tập hồ sơ, viết thêm vào đó một dòng Chết đột ngột. Lula Landry rồi đặt tập hồ sơ vào góc phải trên kệ.

Cuối cùng hắn mới mở phong bì Bristow đưa để xem những manh mối quan trọng mà cảnh sát đã bỏ qua, như ông ta nói. Chữ viết tay của ông luật sư gọn gàng và đủ nét, hơi ngả ra sau, dày đặc cả trang giấy. Đúng như lời Bristow, nội dung ghi chép chủ yếu là về hành động của một người được ông ta đặt tên là “Người bỏ chạy”.

Người bỏ chạy là một người đàn ông da đen, mang khăn quàng cổ che kín mặt, xuất hiện trên đoạn băng ghi hình từ camera đặt trên xe buýt đêm tuyến Islington về phía Tây London. Ông ta lên xe khoảng năm mươi phút trước khi Lula Landry chết. Sau đó ông ta lại tiếp tục xuất hiện trong băng ghi hình từ camera ở khu Mayfair, đi về hướng căn hộ của Landry lúc 1 giờ 39 phút sáng. Trên băng ông ta dừng lại để đọc một mẩu giấy (có lẽ là ghi địa chỉ hay chỉ đường? Bristow cẩn thận viết thêm) rồi đi ra khỏi tầm máy quay.

Băng ghi hình tiếp tục cho thấy Người bỏ chạy đang chạy thục mạng ngang qua camera lúc 2 giờ 12 phút sáng, rồi biến khỏi tầm máy quay. Có thể là một người da đen thứ hai – chắc đang canh chừng? Đang trộm xe thì bị phát hiện? Xe hơi ở góc đường có phát báo động. Bristow ghi chú ở đoạn này.

Cuối cùng là đoạn băng ghi hình một người da đen trông rất giống người bỏ chạy đi dọc theo con đường gần Khu Gray’s Inn Square; cách hiện trường vài dặm ngay trong buổi sáng sau khi Landry chết. Mặt vẫn che kín, Bristow chú thích.

Strike dừng lại, dụi mắt rồi nheo lại đau đớn, sực nhớ ra chỗ bầm tím. Hắn đang ở trạng thái choáng váng không tỉnh táo báo hiệu cơ thể đã kiệt sức. Thở dài, rên hừ một tiếng, Strike tiếp tục đọc ghi chép của Bristow, bàn tay lông lá cầm sẵn một cây viết để đánh dấu.

Ở văn phòng luật in trên tấm danh thiếp sang trong kia, ắt hẳn Bristow biết vận dụng luật pháp một cách khách quan và vô tư. Nhưng nội dung mớ ghi chép này càng củng cố suy nghĩ của Strike rằng ngoài đời, vị thân chủ của hắn có một nỗi ám ảnh mà chính ông ta cũng không giải thích được. Nguyên nhân có thể rất vô chừng, ông ta có lẽ luôn sợ mấy tay ông kẹ giang hồ, tội phạm da đen, hay là một điều gì đó sâu sắc, riêng tư hơn. Cho dù là gì đi nữa thì rất khó có chuyện cảnh sát không điều tra tới nơi tới chốn về Người bỏ chạy và tên đồng phạm (có lẽ đóng vai cảnh giới, có thể ăn trộm xe) và cảnh sát ắt hẳn có lý do chính đáng mới loại trừ hai tên này khỏi vòng nghi vấn.

Ngáp sái cả miệng, Strike lật tới trang thứ hai.

Lúc 1 giờ 45 phút sáng, Derrick Wilson, người bảo vệ trực hôm đó bị đau bụng nên phải chạy ngay vào nhà vệ sinh. Ông ta ngồi trong đó khoảng mười lăm phút. Do đó, mười lăm phút trước khi Lula chết, sảnh lễ tân của tòa nhà trống trơn, ai cũng có thể đi vào đi ra mà không bị phát hiện. Wilson chỉ ra khỏi nhà vệ sinh sau khi Lula rơi xuống, do nghe tiếng Tansy Bestigui la hét.

Khoảng thời gian này cũng là lúc vừa kịp cho Người bỏ chạy di chuyển đến khối căn hộ ở số 18 Kentigem Gardens, nếu xuất phát từ góc đường Alderbrook và Bellamy lúc 1 giờ 39’ theo trên camera.

“Nhưng làm sao,” Strike thì thầm, bóp trán, “tên này có thể nhìn xuyên qua cửa trước tòa nhà để biết là bảo vệ không có ở đó mà đang ngồi cầu?”

Tôi đã nói chuyện với Derrick Wilson, ông ta sẵn sàng cho anh phỏng vấn.

Và tôi cá là anh có dúi tiền cho Wilson rồi luôn, Strike nghĩ, mắt nhìn số điện thoại của người bảo vệ dưới hàng chữ cuối cùng.

Strike đặt cây viết xuống bàn mà không ghi thêm gì, rồi kẹp ghi chép của Bristow vào hồ sơ. Rồi hắn tắt đèn, cà nhắc ra ngoài hành lang, tới phòng vệ sinh đi tè. Sau khi đánh răng trên cái bồn rửa mặt đã nứt nẻ, hắn khóa cửa gương lại, đặt đồng hồ báo thức và cởi đồ ngoài.

Trong ánh đèn đường từ ngoài cửa sổ, Strike tháo chân giả, xoa bóp chỗ cụt nhức nhối rồi cởi nốt lớp đệm mềm đã không còn tác dụng giảm đau. Hắn đặt chân giả ngay bên cạnh điện thoại đang sạc pin, lết người vào túi ngủ rồi gác tay sau đầu, nhìn lên tường. Giờ đây, đúng y như hắn lo lắng, sự rã rời của cơ thể vẫn không đủ làm đầu óc ngừng suy nghĩ. Vết thương cũ tái phát càng như tra tấn, dày vò hắn.

Không biết bây giờ cô ta đang làm gì?

Tối hôm qua, hắn còn sống trong một căn hộ đẹp đẽ, ở khu ngon lành nhất London, với người phụ nữ mà bất kỳ đàn ông nào trông thấy cũng phải ghen tị, thật như trong một thế giới khác.

“Tại sao anh không dọn vô ở với em? Trời ơi, Bluey, có gì đâu phải nghĩ? Tại sao không?”

Ngay từ đầu hắn đã biết đó là một sai lầm. Hai người từng thử ở chung trước đó, và mỗi lần thử mọi chuyện lại tệ hại hơn lần trước.

“Tụi mình đã đính hôn rồi, trời đất, tại sao anh không muốn sống chung với em?”

Cô ta nói ra những điều để chứng tỏ rằng sau khi hắn sém chết trận, cô ta đã thay đổi, hoàn toàn khác xưa, cũng như hắn giờ đây chỉ còn một cái chân rưỡi.

“Em không cần nhẫn nhiếc gì cả. Đừng có bày đặt, Bluey. Anh phải để dành tiền mà còn lo công việc.”

Hắn nhắm mắt lại. Không thể quay lại nữa, sau sáng nay. Cô ta từng nói dối quá nhiều lần về một chuyện vô cùng quan trọng. Nhưng hắn cứ nghĩ đi nghĩ lại, cứ như kiểm tra lại một phép tính đã làm xong, sợ mình mắc một lỗi cơ bản nào đó. Hắn thận trọng từ từ nghĩ lại chuyện Charlotte liên tục tính sai ngày tháng, thái độ khăng khăng không chịu đi gặp bác sĩ, rồi những cơn giận nảy lửa mỗi khi hắn hỏi thẳng. Đùng một cái cô ta tuyên bố “hết rồi”, mặc dù vẫn không đưa ra bằng chứng là trước đó “có gì” cả. Strike có khá nhiều kinh nghiệm đau thương từ thói chua ngoa của Charlotte, một người dường như luôn có nhu cầu khiêu khích, nhiếc móc và thử thách người khác.

“Anh đừng hòng giở trò điều tra với tôi. Anh đừng hòng đối xử với tôi như một tên thuộc cấp nghiện ngập của anh. Con này không phải là đối tượng điều tra của anh nhé, tôi cứ tưởng anh yêu tôi, vậy mà anh chẳng thèm tin lời tôi, thậm chí cả trong chuyện này…”

Nhưng những lời nói dối đã ăn sâu vào con người và cuộc sống của Charlotte. Chấp nhận yêu và sống với Charlotte cũng có nghĩa là dần dần ngập trong sự dối trá đó, luôn phải vừa đấu tranh với cô ta để có được sự thật vừa cố tỉnh táo trước thực tế. Tại sao, hắn, một kẻ từ nhỏ đã luôn có nhu cầu truy tìm sự thật, lúc nào cũng muốn biết chắc chắn, từ những việc nhỏ nhất, lại có thể yêu say đắm và dài lâu đến vậy một người phụ nữ có khả năng nói dối dễ dàng như người ta hít thở?

“Hết thật rồi.” Hắn tự nhủ. “Phải thế thôi.”

Nhưng hắn không muốn nói với Anstis, cũng không muốn nghĩ đến việc phải báo với ai khác, chưa đến lúc. Bạn của hắn ở khắp London sẽ mời hắn đến ở, họ sẵn lòng mở cửa phòng cho khách lẫn cửa tủ lạnh ra cho hắn,sẵn sàng an ủi và giúp đỡ hắn. Nhưng cái giá phải trả cho một cái giường êm ấm và những bữa cơm nhà là việc phải ngồi lại ở bàn ăn, sau khi bọn trẻ con tắm rửa sạch sẽ đã thay đồ đi ngủ, để kể đi kể lại ngày cuối cùng kinh hoàng với Charlotte, rồi để cho đám vợ và bạn gái của bạn hắn tha hồ thông cảm, tội nghiệp. So với cảnh đó, hắn thà ở một mình lạnh lẽo, ăn mì ly và ngủ trong túi ngủ thế này.

Hắn vẫn cảm thấy phần chân đã mất của mình dù chuyện đã cách nay hai năm rưỡi. Cái chân phải vô hình nằm trong túi ngủ; cứ như hắn có thể duỗi ngón chân cái tưởng tượng nếu muốn. Mệt như vậy nhưng mãi một lúc sau Strike mới ngủ được, và thậm chí khi hắn đã ngủ, Charlotte vẫn đi ra đi vào mỗi giấc mơ, quyến rũ, chửi rủa và ám hắn như ma.

Đã sửa bởi nhím nhọ lúc 15.05.2015, 17:10.

Phần hai

Non ignara mali miseris succurrere disco.

Thân mình chưa hết vấn vương

Đành thu vén lại còn thương người đời

- Virgil, Aeneid, Quyển 1

1.

“Báo chí tốn không ít giấy mực, các đài truyền hình đầu tư hàng tiếng đồng hồ vào vụ Lula Landry, nhưng dường như chưa ai đặt ra câu hỏi: Tại sao chúng ta lại quan tâm vụ này đến vậy?

“Vì Lula đẹp, đương nhiên rồi, người đẹp luôn giúp báo bán chạy, kể từ khi bức ký họa người đẹp mơ màng của Dana Gibson được đăng trên tạp chí New Yorker.

“Lula da đen, hay đúng ra là có màu da cà phê sữa ngọt ngào. Báo chí liên tục nhắc nhở ta rằng đây chính là sự tiến bộ trong một ngành công nghiệp xưa nay chỉ quan tâm tới bề ngoài. (Nhưng tôi nghi lắm: biết đâu mùa này cà phê sữa lại lên ngôi? Biết đâu sau vụ Landry sẽ có nhiều cô gái da đen lao mình vào thời trang? Phải chăng sự thành công của Lula đã làm thay đổi quan niệm về cái đẹp phụ nữ? Biết đâu búp bê Barbie da đen đang bán chạy hơn búp bê da trắng?)

“Gia đình và bạn bè của Landry đương nhiên là vô cùng đau xót, và tôi cảm thông sâu sắc với họ. Thế nhưng chúng ta, đám đông ngoài cuộc không máu mủ ruột rà, không có lý do gì để thương vay khóc mướn đến vậy. Hàng ngày có biết bao nhiêu phụ nữ trẻ chết trong những hoàn cảnh cũng vô cùng ‘bi đát’ (nghĩa là chết không vì lý do tự nhiên): tai nạn xe cộ, chơi thuốc quá liều, và có đôi khi là vì họ nhịn ăn nhịn uống để có được thân hình như Lula và đồng nghiệp. Chúng ta liệu có nghĩ gì đến những cô gái mang gương mặt vô cùng bình thường đó?”

Robin dừng lại, uống một ngụm cà phê và hắng giọng.

“Một mớ dạy đời,” Strike lẩm bẩm.

Hắn ngồi trên góc bàn của Robin, dán mấy tấm ảnh vào một hồ sơ mở, đánh số và ghi chú vắn tắt từng tấm trong mục lục ở bìa hồ sơ. Robin đọc tiếp từ màn hình máy tính.

“Sự quan tâm quá đà của chúng ta, thậm chí là ngay cả nỗi tiếc thương cũng cần phải được nhìn lại. Ngay trước cú nhảy định mệnh của Landry, hàng chục ngàn phụ nữ sẵn sàng đổi chỗ với cô. Những cô gái mới lớn nức nở mang hoa đến đặt ở ban công căn hộ 4,5 triệu bảng sau khi thi thể được mang đi. Liệu cú nhảy của Lula có làm một người mẫu mới vào nghề nào đó chùn chân trên con đường tìm kiếm hư danh?”

“Vô vấn đề cho rồi!” Strike nói. “Ý tôi là nhà báo, không phải cô,” hắn vội vã nói thêm.

“Tác giả là đàn bà, đúng không?”

“Vâng, một cô Melanie Telford nào đó,” Robin trả lời, quay lên đầu trang có ảnh chụp một người phụ nữ tuổi trung niên tóc vàng mặt phệ. “Anh có muốn tôi bỏ qua phần còn lại không?”

“Không, không, cứ đọc tiếp.”

Robin hắng giọng thêm một lần nữa và tiếp tục đọc.

“Câu trả lời, chắc chắn, là không.” Cái này là chỗ người mẫu mới vào nghề bị chùn chân.”

“Ừ, hiểu rồi.”

“Ừm…” Một trăm năm sau thời Emmeline Pankhurst , thế hệ thiếu nữ ngày nay chỉ theo đuổi việc làm sao trở thành một thứ búp bê giấy, một kiểu nhân vật tẻ nhạt với cuộc sống được tô vẽ nhưng đằng sau đó lại là sự đổ vỡ và đau khổ tột cùng, kết thúc bằng cú nhảy định mệnh từ tầng ba. Lại một lần nữa, bề ngoài là tất cả: nhà thiết kế Guy Somé nhanh chóng lên tiếng với báo giới là khi nhảy xuống Lula mặc một mẫu của ông nay. Hai mươi bốn giờ sau khi Lula chết mẫu đó bán sạch. Liệu có quảng cáo nào hiệu quả hơn là việc Lula tìm đến cái chết trong trang phục của Somé?

“Không, ở đây chúng ta không tiếc thương gì cô gái này, bởi cô ta cũng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết, không có thật như hình tượng thiếu nữ Gibson mà Dana từng vẽ trên báo. Cái chúng ta khóc thương ở đây chỉ là một hình ảnh chớp nhoáng trên hàng loạt báo biếc và tạp chí bình dân; một hình ảnh từng giúp bán cho chúng ta rất nhiều quần áo, túi xách và cả một quan điểm về danh vọng mà sau cái chết của Lula cũng trở nên vô nghĩa và chóng vánh như bong bóng xà phòng. Cái chúng ta nhớ thương ở đây, nếu ta thật lòng thừa nhận, chính là những câu chuyện đời tư đầy tính giải trí của cô gái mảnh khảnh chịu chơi này; từ chuyện nghiện hút, cuộc sống phóng đãng, áo xống nọ kia và cả người yêu khi có khi không – những câu chuyện mà chúng ta từng ngấu nghiến.

“Đám tang của Lula được truyền thông nhắc đến không thua gì đám cưới của các sao trên các tạp chí bóng bẩy lòe loẹt, và ắt hẳn những nhà xuất bản của các tạp chí đó còn tiếc nuối Lula hơn nhiều người khác. Trên tạp chí, chúng ta thấy được các sao khóc Lula ra sao, còn gia đình của cô thì chỉ xuất hiện trong những tấm ảnh bé nhất, chỉ vì họ không được ăn ảnh lắm.

“Tuy nhiên có một câu chuyện về một người đi viếng Lula đã thực sự làm tôi xúc động. Tại đám tang, khi nói chuyện với một người mà cô ta không hề biết là phóng viên, cô ta kể là đã quen Lula tại trung tâm điều trị. Cô gái này ngồi ở hàng ghế cuối trong nhà thờ và lẳng lặng ra về. Cô không bán câu chuyện của mình cho báo chí, không như những người quen khác của Landry. Cô gái này làm ta cảm thấy xúc động về con người thật của Lula Landry, rằng Lula cũng có được cảm tình thực sự của một cô bạn gái bình thường. Còn đối với đám đông còn lại…”

“Bà ta không nói tên của cô gái bình thường đó à?” Strike chen ngang.

Robin im lặng dò lại bài báo.

“Không.”

Strike đưa tay gãi cằm chưa cạo sạch.

“Bristow không nhắc đến bạn bè nào của Lula ở trung tâm điều trị cả.”

“Anh nghĩ cô này quan trọng không?” Robin sốt sắng hỏi, quay ghế lại nhìn Strike.

“Gặp một người từng biết Landry trong lúc trị bệnh có thể hay hơn nhiều so với gặp bạn đi hộp đêm của cô ta.”

Strike phải nhờ Robin tìm kiếm những thông tin về Landry trên internet vì hắn chẳng còn thứ gì cho cô làm. Cô đã điện cho Derrick Wilson, người bảo vệ tòa nhà chỗ Lula ở và sắp xếp một cuộc hẹn cho Strike vào sáng thứ Sáu tại quán Phoenix ở Brixton. Thư từ hôm nay chỉ có hai bản tin và một thư đòi nợ; chưa có ai gọi điện cả, và Robin đã sắp xếp lại tất cả mọi thứ có thể sắp theo bảng chữ cái trong văn phòng, theo cả phân loại và màu sắc.

Nhớ lại khả năng google của Robin hôm trước, Strike quyết định giao cho cô công việc vớ vẩn này. Trong một tiếng đồng hồ, Robin đọc to những đoạn trích và bài báo linh tinh về Landry và người quen trong khi Strike sắp xếp lại một mớ biên lại, hóa đơn điện thoại và mấy tấm hình của vụ còn lại duy nhất mà hắn đang làm.

“Tôi đi tìm thêm vài thông tin về cái cô kia nhé?” Robin hỏi ý hắn.

“Ừ.” Strike lơ đễnh trả lời, mắt vẫn nhìn vào tấm hình chụp một người đàn ông đậm người hói đầu mặc complet và một cô gái tóc đỏ hấp dẫn mặc quần jeans bó chặt. Người đàn ông trong hình là ông Geoffrey Hook; cô gái tóc đỏ lại không hề giống Hook phu nhân chút nào. Trước khi Bristow xuất hiện, bà Hook là thân chủ duy nhất của Strike. Strike dán tấm hình vào hồ sơ của bà Hook và đánh số 12, trong khi Robin quay lại máy tính.

Sau đó cả hai im lặng, chỉ còn nghe tiếng Strike rút mấy tấm ảnh ra và móng tay cắt ngắn của Robin gõ lên bàn phím. Cách cửa vào phòng làm việc riêng của Strike đóng chặt, che đi cái giường xếp và những dấu vết dựng trại hôm qua, không khí trong văn phòng nồng nặc mùi chanh tổng hợp – Strike đã dùng rất nhiều thuốc xịt phòng rẻ tiền trước khi Robin đến. Sợ Robin nghĩ là hắn để ý đến cô theo kiểu kia khi hắn đến ngồi cùng bàn, Strike giả vờ phát hiện ra chiếc nhẫn đính hôn trước khi ngồi xuống, rồi hỏi han linh tinh lịch sự trong năm phút về hôn phu của cô. Matthew mới có bằng kế toán; để sống chung với Matthew, Robin phải chuyển từ Yorkshire xuống London tháng trước, cô đang nhận việc tạm thời trước khi có việc ổn định.

“Anh nghĩ cô ta có trong những bức hình này không?” Một lúc sau Robin lên tiếng. “Cái cô từ trung tâm điều trị đó?”

Robin vừa mở ra một trang đầy hình ảnh, toàn người mặc đồ đen đang đi theo hướng từ trái sang phải vào đám tang. Hàng rào bao quanh và những gương mặt bị làm mờ của đám đông trở thành phông nền của mỗi bức hình.

Nổi bật hơn cả là tấm hình chụp một cô gái da trắng xanh, rất cao, tóc vàng óng buộc đuôi ngựa, trên đầu cài trang sức bằng lưới và lông chim màu đen. Strike nhận ra ngay Ciara Porter, người đã ở cùng Lula trong ngày trước khi cô lìa đời, cũng là người bạn cùng xuất hiện trong những tấm ảnh nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của Lula. Trong ảnh Porter rất đẹp, buồn rười rượi bước về phía lễ tang. Có vẻ như Porter đi đám tang một mình vì không có bàn tay nào nắm lấy cánh tay dài mảnh khảnh của cô hay đặt lên tấm lưng thon thả ấy cả.

Bên cạnh hình của Porter là hình một cặp, có chút thích là Frieddie Bestigui, nhà xuất phim và vợ, Tansy. Bestigui trông như con bò tót, chân ngắn, ngực bệ vệ và cổ dày trục. Tóc bạc, gần như húi cua; gương mặt đầy nếp nhăn, những múi thịt chảy xệ và nốt ruồi, cái mũi gồ ra như một khối u. Nhưng trông Bestigui vẫn rất oai vệ trong áo khoác đen, bên cạnh là bà vợ gầy như bộ xương. Không thể thấy rõ mặt Tansy vì cổ áo lông của bà ta lật lên, lại thêm cặp kính râm tròn gọng khủng.

Cuối hàng là Guy Somé, nhà thiết kế thời trang. Somé da đen, gầy, mặc một cái áo khoác dài màu xanh sẫm rất kiểu cách, ôm eo và xỏe ra ở dưới. Somé cúi đầu, không thể nhìn rõ nét mặt do ánh sáng chiếu thẳng vào cái đầu trọc, ba cái khuyên tai kim cương to phản chiếu đèn flash từ camera sáng lóe lên. Cũng như Porter, hình như Somé cũng đi một mình dù trong khung hình chụp anh ta cũng lọt vào một nhóm nhỏ người đi viếng không tên tuổi đằng sau.

Strike kéo ghế lại gần màn hình, mặc dù vẫn giữa khoảng cách một cánh tay giữa hắn và Robin. Một gương mặt bị cắt một nửa ngay ở góc hình chụp đám đông, không có chú thích. Strike nhận ra ngay John Bristow, nhờ cái môi trên ngắn và đám răng thỏ. Bristow đứng choàng tay qua một người phụ nữ lớn tuổi trông rất đau khổ. Tóc bà này bạc trắng, gương mặt hốc hác tiều tụy, sự thương khóc không hề che đậy của bà khiến người ta cảm động. Đứng sau hai người là một người đàn ông cao lớn, trông có vẻ kiêu kỳ, dường như đang khinh khỉnh mọi thứ chung quanh.

“Tôi không nghĩ cô ta có trong này,” Robin nói, kéo màn hình xuống, xem thê nhiều tấm chụp những người xinh đẹp và nổi tiếng, ai cũng có vẻ buồn bã, nghiêm trong. “A… Evan Duffield.”

Duffield mặc áo thun đen, quần jeans đen và áo khoác kiểu lính cũng màu đen. Tóc anh ta cũng đen; gương mặt sắc nét hốc hác, đôi mắt xanh lạnh lùng nhìn thẳng vào ống kính. Tuy cao vượt lên nhưng anh ta trông có vẻ yếu ớt hơn hai người đứng cùng, một người đàn ông mặc complet và một người phụ nữ lớn tuổi trông rất lo lắng. Trong hình bà ta đang mở miệng, tay ra bộ như đang dọn đường phía trước. Bộ ba này khiến Strike nghĩ tới hai bố mẹ đang dắt đứa con nhỏ bị ốm ra khỏi một bữa tiệc. Strike cũng để ý rằng mặc dù trông đau khổ vô phương, Duffield vẫn kẻ mắt khá đậm.

“Nhìn mấy cái hoa kìa!”

Hình của Duffield tuột lên phía trên màn hình và biến mất; Robin dừng lại trước ảnh chụp một vòng hoa khổng lồ mà ban đầu Strike tưởng là hình trái tim, trước khi nhận ra hình hai thiên thần có cánh đứng cùng nhau, toàn hoa hồng trắng. Một tấm ảnh nhỏ đính kèm chụp cái thiệp đi cùng với vòng hoa.

“Hãy yên nghỉ nhé, thiên thần Lula. Deeby Macc,” Robin đọc to.

“Deeby Macc? Tay nghệ sĩ nhạc rap? Vậy là họ có biết nhau à?”

“Tôi không nghĩ thế; nhưng ông này từng thuê một căn hộ trong cùng tòa nhà với Lula; trước kia còn nhắc đến Lula trong vài bài hát nữa. Báo giới rất phấn khích khi nghe ông ta dọn vô đó ở…”

“Cô biết nhiều thật.”

“Chỉ là từ mấy tạp chí này nọ thôi,” Robin đáp qua loa, tay kéo chuột lên xuống trên màn hình đầy ảnh đám tang.

“Deeby, tên tiếc kiểu gì vậy chứ?” Strike buột miệng.

“Từ tên thật của ông này, hai chữ cái đầu viết tắt là D.B mà” Robin giải thích rõ ràng.

“Tên thật của ông ta là Daryl Brandom Macdonald.”

“Cô là fan nhạc rap hả?”

“Không,” Robin trả lời, mắt vẫn nhìn lên màn hình. “Tôi chỉ nhớ vậy thôi.”

Cô hết nhấp chuột lên các hình ảnh trên máy rồi lại gõ phím. Strike quay lại với mấy tấm ảnh của hắn. Tấm tiếp theo chụp ông Goeffrey Hook đang hôn cô tóc đỏ, tay sờ nắn một bên mông cô này ngay bên ngoài ga tàu điện Ealing Broadway.

“Trên YouTube có một đoạn phim Deeby Macc nói về Lula sau khi cô ta chết.” Robin nói.

“Xem thử nào” Strike đáp, kéo ghế tới trước vài bước, rồi nghĩ sao đó, lại kéo lùi một bước.

Đoạn băng mờ mờ bắt đầu chuyển động. Trên màn hình xuất hiện một người đàn ông da đen, to lớn, mặc áo thun có mũ, trên ngực áo có hình một nắm đấm đính bằng khuy nhọn. Ông ta ngồi trong ghế bọc da màu đen, đối diện với phỏng vấn không được quay hình. Tóc Deeby cạo gần hết, mắt đeo kính râm.

“…vụ tự tử của Lula Landry?” Người phỏng vấn giọng Anh, bắt đầu hỏi.

“Vụ đó thật khốn kiếp mà, quá khốn,” Deeby trả lời, tay sờ soạng cái đầu trọc. Giọng ông ta nhẹ nhàng, hơi trầm và khô khan, thoáng chút nói nhịu. “Đó là cách họ đối xử với thành công: họ tìm cho ra, phá cho bằng được. Suy cho cùng là ghen ăn tức ở, anh bạn ạ. Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ. Hãy để cho cô ấy yên, tôi nói thật. Phải đến bây giờ cô ấy mới được yên.”

“Đúng là một màn chào đón khá sốc khi anh tới London,” người phỏng vấn nói “ý tôi là chuyện cô ấy rơi ngang qua cửa sổ nhà anh?”

Deeby Macc không trả lời ngay. Ông ta ngồi im, nhìn chằm chằm vào người phỏng vấn qua đôi kính râm. Rồi ông ta nói:

“Tôi không có mặt lúc đó, ai nói với anh tôi ở nhà?”

Tay phóng viên cười gượng, căng thẳng.

“Trời đất, không không, tôi không có ý đó…”

Deeby quay đầu lại và nói với một người không xuất hiện trong phim.

“Chắc phải gọi luật sư quá?”

“Tay phóng viên cười nịnh nọt. Deeby quay lại nhìn anh ta, vẫn không cười gì cả.

“Deeby Macc,” tay phóng viên nói như muốn hết hơi, “cảm ơn anh đã dành thời gian nói chuyện.”

Một bàn tay da trắng đưa ra trên màn hình; Deeby giơ nắm đấm lên. Bàn tay trắng cũng co lại, hai nắm đấm cụng nhau. Có tiếng cười nhạo của một người không có trong hình. Đoạn phim kết thúc.

“Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra ngoài cửa sổ,” Strike lặp lại lời Deeby Macc, kéo ghế về lại chỗ cũ rồi lẩm bẩm “Một ý hay.”

Hắn thấy điện thoại run lên trong túi quần. Hắn rút máy ra. Có tin nhắn mới từ Charlotte. Hắn thấy run cả người, như thể vừa thoáng thấy thú dữ ăn thịt đang chầu chực.

Tôi sẽ ra khỏi nhà vào sáng thứ Sáu từ 9 giờ đến 12 giờ, phòng khi anh muốn quay lại lấy đồ.

“Hả?” Strike hỏi lại, láng máng nghe Robin đang nói gì đó.

“Tôi nói là có một bài rất ghê gớm về mẹ ruột cô ta.”

“Ok, cô đọc đi.”

Hắn bỏ điện thoại vào lại trong túi quần. Cúi đầu nhìn xuống hồ sơ của bà Hook, những suy nghĩ lúc nãy dội lại on gong như có tiếng cồng vừa vang lên trong đầu hắn.

Charlotte cư xử đàng hoàng một cách đáng ngờ: giả vờ bình tĩnh ra vẻ người lớn. Lần này cô ta dùng một kiểu đối đầu mới, chưa bao giờ có trong tiền sử cãi vã phức tạp của hai người: “Giờ hãy hành xử như người lớn.” Biết đâu cô ta sẽ ở sẵn đó, cầm dao chực sẵn chỉ để đâm ngay vào sau vai hắn khi hắn bước vào; biết đâu hắn sẽ thấy xác cô ta trong phòng ngủ, cổ tay bị rạch, nằm trong một vũng máu đang đông ngay trước lò sưởi.

Giọng Robin vang lên đều đều như tiếng máy hút bụi. Phải cố lắm Strike mới tập trung được.

“… rao bán câu chuyện tình lãng mạn với một thanh niên da đen với hết thảy báo chí muốn mua. Nhưng với hàng xóm của Marlene Higson thì câu chuyện của bà ta chẳng có gì lãng mạn cả.

“Hồi đó bà ta làm gái,’ theo lời Vivian Cranfield, hàng xóm tầng trên của Higson lúc Landry còn nằm trong bụng mẹ. ‘Ngày giờ nào cũng có đàn ông ra vô nhà bà ta. Bà ta không bao giờ biết cha đứa nhỏ là ai, vì ai cũng có thể là tác giả mà. Bà ta cũng chẳng muốn có con. Tôi còn nhớ con nhỏ lẫm đẫm ngoài hành lang, vừa đi vừa khóc, trong khi bà ta còn bận tiếp khách. Lúc đó nó mới bé tí xíu, chỉ mặc mỗi cái bỉm, còn đi chưa vững… chắc có ai đó đã gọi cho bên Bảo trợ Xã hội, cũng còn may. Con bé được nhận nuôi thật là tốt phước.”

“Sự thật này chắc chắn sẽ khiến Landry vô cùng thất vọng, bởi cô từng nói rất nhiều trên báo về chuyện đi tìm lại người mẹ đã sinh ra cô…” Robin giải thích thêm, “bài này viết trước khi Lula chết.”

“Được rồi,” Strike đáp, đột ngột đóng tập hồ sơ rồi hỏi Robin “Đi dạo không?”

2

Camera đường phố bằng cỡ hộp giày đặt trên cột điện, trông có gì đó gian ác, mỗi cái như vậy gắn một con mắt đen trừng trừng vô cảm. Các camera quay theo các hướng đối nhau, dõi theo suốt chiều dài phố Alderbrook sôi động người và xe. Hai bên vỉa hè đầy những cửa hàng, quán bar và tiệm cà phê. Xe buýt hai tầng liên tục ngược xuôi trên làn đường riêng.

“Đây là chỗ Người bỏ chạy của Bristow bị ghi hình,” Strike quan sát, quay lưng về phía đường Alderbrook để nhìn xuống con phố Bellamy yên tĩnh hơn, dẫn thẳng đến những ngôi nhà cao lớn sừng sững như cung điện trong trung tâm khu Mayfair. “Người bỏ chạy đi qua đây mười hai phút sau khi Lula rơi xuống… đây là đường ngắn nhất từ Kentigern Gardens. Xe buýt đêm dừng ở đây. Nhưng chắc tay đó đã gọi taxi. Mặc dù mới giết người mà đi taxi thì không được thông minh lắm.”

Strike lại cắm mặt vào một cuốn sách hướng dẫn chỉ đường “London: Từ A tới Z” đã tơi tả. Hắn có vẻ như chẳng thèm lo lắng sẽ bị nhầm với khách du lịch. Mà có vậy thì cũng chẳng sao, Robin nghĩ thầm, hắn to cao như gấu thế kia.

Trong mấy ngày ngắn ngủi đi làm cho Strike, Robin đã được giao vài việc nằm ngoài hợp đồng thư ký, vậy nên khi Strike rủ đi dạo, cô cũng thấy hơi ngại. Tuy nhiên sau đó cô nhẹ nhõm nhận ra Strike không hề có ý tán tỉnh gì cả. Cuộc đi bộ khá dài, cho tới lúc này hầu như im lặng, Strike chỉ tập trung suy nghĩ và lâu lâu thì nhìn bản đồ.

Khi cả hai đến phố Alderbrook, hắn quay lại nói:“Nếu cô nhận ra cái gì, hoặc nghĩ ra cái gì mà tôi không thấy được cô sẽ nói với chứ?”

Nghe thật hấp dẫn: Robin luôn tự hào về khả năng quan sát của mình, đây chính là lý do mà cô vẫn còn âm thầm giữ ước mơ làm thám tử như tên to cao đang đứng bên cạnh. Cô quan sát từ đầu đến cuối con đường và cố gắng mường tượng ra cảnh một người đang loay hoay trong đêm tuyết rơi, nhiệt độ dưới không, lúc hai giờ sáng.

“Đi lối này,” Strike lên tiếng khi cô chưa kịp nghĩ ra gì cả, rồi cả hai đi tiếp, dọc theo phố Bellamy. Con phố hơi uốn về phía bên trái với khoảng sáu mươi căn nhà nối tiếp, hầu như giống hệt nhau, căn nào cũng có cửa đen bóng, hàng rào thấp ở hai bên bậc tam cấp trắng sạch sẽ và mấy bụi cây cảnh tỉa tót. Thỉnh thoảng điểm vài nhà có tượng sư tử đá và bảng hiệu nhỏ bằng đồng, ghi tên tuổi nghề nghiệp; đèn chùm lấp lóe ra từ cửa sổ trên lầu. Một cánh cửa đang mở, hé lộ sàn nhà bên trong lót gạch trắng đen như bàn cờ, những bức tranh sơn dầu lồng khung vàng và cầu thang kiểu Georgian.

Strike vừa đi vừa nghĩ tới những thông tin mà Robin tìm được trên mạng lúc sáng. Đúng như Strike nghĩ, Bristow đã không hoàn toàn nói thật khi kể rằng cảnh sát không hề tìm kiếm Người bỏ chạy và kẻ đồng phạm. Giữa vô vàn những bài báo ra liên tục về Landry vẫn có những lời kêu gọi hai người đó ra gặp cảnh sát, nhưng vô vọng.

Khác với Bristow, Strike không nghĩ chuyện này cho thấy cảnh sát bất tài, hay một nghi phạm bị lọt lưới điều tra. Nội chuyện chiếc xe hơi bị báo động có trộm cũng đủ là lý do khiến họ không muốn liên lạc với cảnh sát. Hơn nữa, Strike không chắc Bristow có kinh nghiệm xem các đoạn phim chất lượng không đều từ camera đường phố. Strike từng thấy quá nhiều đoạn băng trắng đen mờ mịt đến nỗi không thể nhìn rõ mặt ai cả.

Strike cũng để ý thấy Bristow không hề nói đến hay ghi chép gì về mẫu AND tìm được trong căn hộ của em gái. Hắn đoán rằng việc cảnh sát loại hai kẻ tình nghi nói trên ra khỏi quá trình điều tra cho thấy không có mẫu AND khác lạ nào được tìm thấy ở hiện trường. Tuy nhiên Strike quá hiểu những kẻ tự nói dối mình như Bristow. Họ sẽ sẵn sàng lờ đi những thứ nhỏ nhặt như AND, hoặc lấy lý do mẫu không sạch, hoặc đổ cho một thứ âm mưu nào đó. Họ luôn lấy thứ họ muốn thấy nhưng lại mù quáng trước những sự thật hiển nhiên trái ý mình.

Những thông tin tìm được sáng nay lại gợi ý thêm một nguyên nhân tại sao Bristow khăng khăng muốn điều tra Người bỏ chạy. Trước đó Lula đã cố đi tìm nguồn gốc thực sự của mình và thậm chí từng tìm ra người mẹ đẻ - một người mà cứ cho là báo chí nói quá đi nữa thì vẫn có phần không đàng hoàng. Những chi tiết trên mạng mà Robin tìm thấy hẳn không dễ nuốt tí nào, không chỉ với Landry mà còn với cả gia đình nhận nuôi cô. Có lẽ chính sự bất ổn tâm lý của Bristow (Strike không thể giả vờ là ông này trông hoàn toàn bình thường) khiến ông ta nghĩ rằng Lula, vì đang quá may mắn mà đã đùa quá tay với số phận? Rằng Lula đã tự chuốc họa vào thân khi đi tìm nguồn gốc của mình; rằng cô ta đã đánh thức một con quỷ dữ từ quá khứ và bị chính nó giết chết? Phải chăng điều đó khiến Bristow bất an khi biết có một người đàn ông da đen ở gần hiện trường?

Strike và Robin tiếp tục đi sâu vào nơi ở của giới lắm tiền nhiều của, dừng lại ở góc phố Kentigern Gardens. Cũng như phố Belllamy, chỗ này toát lên vẻ giàu có kín đáo và lạnh lùng. Nhà cửa ở đây theo kiểu Victoria, cao lớn, tường gạch đỏ viền đá, bệ cửa sổ ốp đá nặng nề trên cả bốn tầng, mỗi cửa sổ đều có một ban công nhỏ cũng bằng đá. Cổng đá trắng hai bên, bậc tam cấp trắng dần từ vỉa hè đến những cánh cửa đen bóng. Mọi thứ đều gọn gàng, sạch sẽ, được chăm sóc cẩn thận và tốn kém. Quanh đó chỉ có vài chiếc xe đậu. Một tấm biển nhỏ thông báo phải có giấy phép mới được đậu xe trong khu này.

Không còn hàng rào cảnh sát và đám nhà báo, tòa nhà số 18 lui về tĩnh lặng, y như những tòa nhà chung quanh.

“Cô ta rơi xuống từ ban công tầng trên cùng,” Strike lên tiếng, “khoảng mười hai mét.”

Hắn quan sát kỹ mặt tiền đẹp đẽ của tòa nhà. Robin nhận thấy ban công ở ba tầng trên cùng đều rất đẹp, hầu như không có chỗ đứng giữa lan can và cửa sổ.

“Vấn đề ở chỗ,” Strike nói với Robin, mắt nheo lại nhìn ban công phía trên, “bị xô từ trên đó xuống không đảm bảo chết được.”

“Ô - không lý nào?” Robin phản đối, trong đầu tính toán cú rơi từ trên ban công cao nhất xuống mặt đường cứng.

“Cô không biết đâu. Tôi từng nằm viện một tháng với một thằng cha người xứ Wales, cũng bị rơi từ tầm cao như vậy sau khi bom nổ. Gãy dập chân và xương chậu, xuất huyết bên trong khá nhiều nhưng tới giờ vẫn sống.”

Robin liếc nhìn Strike, tự hỏi tại sao hắn lại phải nằm viện một tháng; nhưng gã thám tử đang mải nghĩ chuyện khác, chăm chăm nhìn cánh cửa ra vào.

“Khóa mật mã,” hắn lẩm bẩm, xem xét bàn phím nhỏ bằng kim loại gắn trên cửa, “có một camera đặt ngay trên cửa. Bristow không nhắc tới camera. Có lẽ mới lắp.”

Hắn đứng đó vài phút, trong đầu liên tục thử những giả thuyết khác nhau trước mặt tiền gạch đỏ của cái pháo đài giàu có này. Tại sao Lula lại chọn sống ở đây? Kentigern Gardens yên tĩnh, truyền thống và bảo thủ hẳn là phù hợp với một thể loại nhà giàu khác: mấy ông trùm người Nga và Ả Rập; các tay giám đốc đi về giữa thành phố và tư trang ở nông thôn; mấy bà giàu có cô độc sắp chết già giữa những bộ sưu tập nghệ thuật. Hẳn thấy chỗ này thật là một sự lựa chọn lạ lùng đối với Lula, một cô gái mới hai mươi ba tuổi. Theo như thông tin Robin tìm được lúc sáng, Lula có một đám bạn sành điệu, nghệ sĩ, phong cách bụi bặm đường phố chứ không hề chải chuốt kiểu thượng lưu.

“Trông rất là kiên cố an toàn nhỉ?” Robin nói.

“Ừ, đúng thế. Đó là chưa nói tới đám paparazzi chầu chực suốt đêm hôm đó.” Strike đứng dựa lưng vào hàng rào màu đen của tòa nhà số 23, nhìn chăm chăm vào nhà số 18. Cửa sổ căn hộ của Landry cao hơn hẳn so với cửa sổ ở các tầng khác, ban công không đặt chậu cây cảnh nào cả. Strike rút gói thuốc lá từ trong túi ra mời Robin; cô lắc đầu, hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy Strike hút thuốc trong văn phòng. Bật lửa đốt thuốc, rít một hơi dài, mắt vẫn nhìn vào cánh cửa, Strike tiếp tục nói:

“Bristow nghĩ là hôm đó có ai lẻn vào rồi ra mà không bị phát hiện.”

Thấy ngôi nhà có vẻ bất khả xâm phạm, Robin đoán ắt hẳn Strike sắp sửa chê bai giả thuyết của Brisrow, nhưng cô lầm.

“Nếu đúng vậy,” Strike nói tiếp, mắt vẫn dán vào cửa, “ắt hẳn tay đó đã lên kế hoạch từ trước, rất kỹ. Không ai có thể đi qua đám phóng viên, một cái khóa mật mã, một người bảo vệ và một cánh cửa đóng chặt bên trong, rồi lại mò được trở ra mà chỉ nhờ may mắn. Vấn đề là,” hắn gãi cằm, “tính toán trước kiểu đó không ăn khớp với một vụ giết người bừa thế này.”

Robin cảm thấy Strike nói năng hơi bị tàn nhẫn.

“Xô người ta xuống ban công trong một giây mất trí,” Strike nói tiếp, cứ như hắn đang đọc suy nghĩ của cô. “ắt hẳn phải vô cùng giận dữ, đến nỗi mù quáng.”

Hắn thấy Robin khá là dễ chịu nhẹ nhàng, không chỉ vì cô ta nuốt lấy từng lời của hắn, không làm gián đoạn sự yên tĩnh, mà còn vì chiếc nhẫn sapphire trên tay cô như một dấu chấm hết gọn gàng: giữa hai người không có thể có gì hơn cả. Rất thích hợp với hắn lúc này. Hắn tha hồ tung hứng khoe tài, theo kiểu nhẹ nhàng từ tốn – một trong những thú giải khuây ít ỏi còn lại của hắn.

“Nhưng nếu kẻ sát nhân đã ở bên trong từ trước?”

“Khả năng đó cao hơn,” Strike đáp, Robin thấy vui vui. “Và nếu tên sát nhân đã ở sẵn trong đó thì chúng ta có vài lựa chọn: ông bảo vệ, một trong hai hay cả hai vợ chồng Bestigui, hay một người khác trốn trong tòa nhà mà không ai hay biết. Nếu là ông bảo vệ hay cặp Bestigui thì rõ là không có vẫn đề gì về chuyện đi ra đi vào; họ chỉ cần quay lại vị trí trước đó. Nhưng với những người này, hành động như vậy rủi ro ở chỗ Lula vẫn có thể còn sống và đi tố cáo. Nhưng giết chóc kiểu nóng nảy, không tính toán như vậy thì có vẻ phù hợp với mấy đối tượng này hơn. Hàng xóm cãi nhau rồi xô xuống lầu chẳng hạn.”

Strike hút thuốc và tiếp tục quan sát mặt tiền tòa nhà, đặc biệt là khoảng cách giữa cửa sổ tầng một và tầng ba. Hắn nghĩ tới Freddie Bestigui, nhà sản xuất phim. Theo như thông tin Robin tìm được trên internet, lúc Lula rơi xuống Bestigui vẫn đang ngủ trên giường. Chuyện vợ của Bestigui hét lên báo động và liên tục nói rằng kẻ sát nhân vẫn còn ở trên lầu khi ông chồng đã tỉnh dậy cho thấy bà ta không nghĩ ông này là thủ phạm. Tuy vậy, Freddie Bestigui vẫn là đối tượng ở gần Lula nhất khi án mạng xảy ra. Kinh nghiệm của Strike cho thấy người ngoài thường chỉ nghĩ tới động cơ, nhưng với dân trong nghề thì cơ hội ra tay mới là hàng đầu.

Robin hỏi, vô tình khẳng định suy nghĩ của Strike.

“Nhưng tại sao lại đi gây lộn với cô ta vào lúc nửa đêm? Mà cũng đâu có nghe nói gì chuyện cô ta không thuận hòa với hàng xóm? Và rõ là Tansy Bestigui không thể là thủ phạm, đúng không? Vì nếu phải thì tại sao bà ta lại chạy xuống nhà dưới và báo cho bảo vệ?”

Strike không trả lời trực tiếp; hắn vẫn đuổi theo suy nghĩ của mình, một lúc sau, hắn mới mở miệng:

“Bristow tập trung vào quãng thời gian mười lăm phút ngay sau khi em gái ông ta đi vào bên trong tòa nhà, khi đám phóng viên đã bỏ đi và ông bảo vệ thì bị đau bụng không còn ngồi ở bàn trực. Có nghĩa là khi đó sảnh lễ tân để trống – nhưng làm sao người đứng ở ngoài biết được lúc đó Wilson không còn ngồi ở bàn? Cửa chính đâu có gương.

“Hơn nữa,” Robin nhanh nhảu cắt ngang, “muốn vào còn phải biết mật mã trên khóa.”

“Nhiều người khá bất cẩn. Trừ phi bảo vệ thay đổi mật mã thường xuyên, còn không rất nhiều người không liên quan vẫn xoay xở biết được mật mã. Xuống dưới kia xem sao.”

Họ im lặng đi hết khu Kentigern Gardens, nơi đó có một ngõ hẹp, chạy theo góc xéo ngay sau tòa nhà của Landry. Strike thấy hơi buồn cười vì cái ngõ có tên là Serf’s Wat (Ngõ Nông Nô). Ngõ này chỉ vừa đủ một chiếc xe hơi lọt qua nhưng có khá nhiều đèn đường và không có chỗ nào để trốn vì hai bên mặt đường lát sỏi là những bức tường sừng sững cao lớn, phẳng lì. Cuối ngõ là hai cánh cổng vận hành tự động chắn lối vào bãi đậu xe tầng hầm cho cả khu Kentigern Gardens.

Khi áng chừng đã đến sau lưng nhà số 18, Strike nhảy một phát lên tường, rướn người lên nhìn vào mấy khu vườn nhỏ được cắt tỉa cẩn thận. Giữa các bãi cỏ xanh mướt gọn gàng trước mỗi nhà là cầu thang đi xuống tầng hầm. Strike luận ra nếu muốn leo vào từ phía sau thì phải có thang, hoặc có một người giúp và vài đoạn dây thừng chắc chắn.

Hắn trượt xuống, khẽ rên một tiếng đau đớn khi cả trọng lượng cơ thể rơi lên chân giả.“Không sao”, hắn nói khi Robin xuýt xoa; Robin nhìn thấy chân hắn hơi cà nhắc, cô lo là hắn bị trặc cổ chân.

Mặt đường lát sỏi làm vết trầy ở chỗ chân cụt rất đau đớn. Khớp cổ chân giả cứng nhắc làm Strike không dễ gì đi trên mặt đường gồ ghề. Hắn rầu rĩ tự hỏi liệu cú nhảy lên tường vừa rồi có đáng không. Robin xinh thì xinh thật, nhưng chẳng thể nào so sánh nổi với người đàn bà hắn mới bỏ.

3

“Em có chắc cha đó là thám tử không? Chắc không? Thám tử kiểu đó ai làm chẳng được. Ai mà không biết google.”

Matthew đang cáu kỉnh sau một ngày làm việc lê thê, một khách hàng khó tính và cuộc họp không ra gì với sếp mới. Anh không còn tâm trạng nào nghe Robin ca ngợi Strike, rất là ngây thơ và không đúng lúc.

“Ổng đâu có google gì,” Robin trả lời. “Em mới là người google trong khi ổng giải quyết một vụ khác.”

“Nghe chẳng hay ho gì cả. Cha này ngủ luôn trong văn phòng, em không nghĩ ở đây có gì kỳ kỳ hả Robin?”

“Em đã kể với anh rồi, chả mới bị bồ đá còn gì.”

“Ờ, không đá mới lạ” Matthew đáp.

Robin chồng hai cái đĩa lên nhau rồi bước ra khỏi bếp. Cô đang giận Matthew, mà cũng hơi bực Strike nữa. Đang hứng thú với việc tìm kiếm người quen của Lula Landry trên mạng, giờ nghe Matthew nói một hồi, cô ngờ ngợ nhận ra Strike đã giao cho cô một công việc vô ích, chỉ để giết thời gian.

“Nghe này, anh không có ý gì cả,” Matthew đứng ở cửa bếp nói với ra. “Anh chỉ nghĩ cha này nghe có vẻ kỳ kỳ. Rồi tự nhiên còn rủ người ta đi dạo nữa?”

“Không phải đi dạo mát kiểu đó, Matt. Tụi em đi tới hiện trường… tới chỗ mà thân chủ có nghi ngờ.”

“Robin, không cần phải bí hiểm vậy đâu” Matthew cười phá lên.

“Em đã ký cam kết giữ bí mật,” cô quay lại, gằn giọng. “Em không thể kể gì về vụ án.”

“Lại còn vụ án nữa.”

Matthew lại bật cười giễu cô.

Robin đi quanh trong bếp, bỏ mọi thứ vào tủ, đóng sầm mấy cánh cửa tủ lại. Một lúc sau, ngắm cô đi lại trong bếp, Matthew tự nhiên thấy anh đã hơi quá. Anh đi tới sau lưng Robin khi cô đang đổ đồ ăn thừa vào thùng rác, choàng tay cô, dụi mặt vào cổ Robin và vuốt ve vết bầm mà Strike đã gây ra – vụ này làm Matthew càng không ưa nổi Strike. Anh thì thầm mấy câu làm hòa vào mái tóc màu mật ong của Robin, nhưng cô ấy đẩy anh ra, tiếp tục bỏ đĩa vào bồn rửa chén.

Robin cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Ít ra Strike còn quan tâm tới những thứ cô tìm được trên mạng. Strike còn biết cảm ơn những việc cô làm.

“Tuần tới em đi phỏng vấn mấy chỗ làm chính thức nữa?” Matthew hỏi, lúc Robin vừa vặn vòi nước lạnh.

“Ba,” Cô hét trong tiếng nước chảy, dằn dỗi kỳ cọ mấy cái đĩa.

Cô đợi cho Matthew đi hẳn vào phòng khách rồi mới tắt nước. Tự nhiên, cô thấy một mảnh đậu Hà Lan đông lạnh bé xíu bị dính vào mặt chiếc nhẫn đính hôn.

Đã sửa bởi nhím nhọ lúc 23.09.2015, 11:07.

4

Strike tới nhà Charlotte lúc chín giờ rưỡi sáng thứ Sáu. Như vậy Charlotte đã có nửa tiếng để đi hẳn, nếu quả là cô ta có ý định ra khỏi nhà thật chứ không nằm đó đợi hắn. Những toà nhà trắng lịch lãm, to lớn đứng hai bên đường; hàng cây tiêu huyền; tiệm bán thịt cứ như chưa bao giờ thay đổi từ những năm 50 rồi đến cả những nhà hàng sang trọng; tất cả đều có vẻ gì đó không thật và gượng ép đối với Strike. Có lẽ từ lâu hắn cũng biết rằng hắn không thể ở đây mãi, rằng hắn không thuộc về nới này.

Cho tới khi mở cửa vào nhà, Strike vẫn nghĩ Charlotte đang chờ sẵn; vậy mà khi bước qua bậc cửa, hắn biết rõ không có ai ở nhà cả. Sự im lặng làm những căn phòng trống trở lên lạnh lùng hờ hững, tiếng bước chân Strike nghe cũng to hơn khi hắn đi vào phòng khách.

Bốn cái thùng giấy đặt ngay giữa phòng, mở ra, sẵn sang cho hắn kiểm tra. Mớ đồ đạc rẻ tiền tiện dụng chồng lên nhau như mấy món lạc xoong. Hắn cầm lên vài thứ để xem kỹ bên trong, nhưng không có gì bị đập bể, xé nát hay đổ sơn lên cả. Bằng tuổi hắn, người ta có những thứ như nhà cửa, máy giặt, xe hơi, đầu máy TV, đồ nội thất, vườn tược, xe đạp leo núi và máy cắt cỏ: còn hắn chỉ vỏn vẹn bốn cái thùng toàn đồ tạp nham và một mớ kỷ niệm rối rắm.

Căn phòng khách tĩnh lặng toát lên vẻ sang trọng lịch lãm với những tấm thảm cổ xưa và bức tường hồng nhạt; bàn ghế gỗ sậm màu tinh tế và những kệ sách đầy ắp. Thay đổi duy nhất mà Strike nhận ra là ở chiếc bàn con mặt gương đặt cạnh ghế sofa. Tối Chủ nhật trên đó còn đặt tấm ảnh chụp hắn với Charlotte đang cười trên bãi biển ST Mawes. Giờ đây trong khung ảnh bạc đó là một tấm ảnh chân dung trắng đen chụp người cha quá cố của Charlotte đang cười hiền hậu nhìn Strike.

Trên bệ lò sưởi treo một bức chân dung sơn dầu vẽ Charlotte mười tám tuổi. Gương mặt thiên thần, tóc mây dài đen. Gia đình cô thuộc kiểu bỏ công đặt họa sĩ vẽ chân dung con cái: hoàn toàn xa lạ với xuất thân của Strike, cứ như một xứ sở xa xôi nguy hiểm nào đó. Nhưng cũng từ Charlotte hắn biết được rằng tiền bạc cũng có thể đi kèm với đau khổ và man rợ. Gia đình của Charlotte – những ngươi lịch lãm sang trọng, khéo ăn nói, học thức và đôi lúc màu mè, có khi còn điên rồ và lạ lùng hơn gia đình của hắn. Đó cũng chính là thứ gắn kết hai người khi hắn và Charlotte đến với nhau.

Một ý nghĩ lạc lõng xuất hiên trong đầu Strike khi hắn nhìn bức chân dung: có lẽ đây mới là lý do tồn tại của bức tranh: nó ở đó chỉ để một ngày kia, đôi mắt to màu xanh hạt dẻ sẽ nhìn theo hắn lủi thủi ra khỏi nhà. Không biết Charlotte có tính trước đến cảm giác của hắn khi đi loanh quanh trong nhà mà luôn bị cặp mắt trong tranh dõi theo? Không biết cô ta có nhận ra rằng bức chân dung kia còn đáng sợ hơn cả người thật?

Hắn quay lưng, vào những căn phòng khác, nhưng Charlotte đã dọn hết mọi thứ. Mọi dấu vết của hắn, từ hộp chỉ nha khoa tới đôi giày lính đều đã được thu gom lại bỏ vào thùng. Hắn nhìn phòng ngủ một hồi lâu, căn phòng cũng như đang nhìn lại hắn, ván sàn gỗ màu tối, màn cửa trắng và bàn trang điểm tinh tế, tất cả toát lên vẻ yên tĩnh, điềm đạm. Giường ngủ, cũng như bức chân dung, giờ đây trở thành một nhân vật đang hiện diện, đang thì thầm với hắn Còn nhớ những gì đã xảy ra ở đây không, sẽ không bao giờ có lại nữa.

Hắn lần lượt khiêng bốn cái thùng ra cửa. Khi đến cái cuối cùng, hắn bắt gặp ông hàng xóm hay cười đãi bôi đang khóa cửa. Ông ta mặc áo chơi bóng bầu dục, cổ áo bẻ lên, lúc nào cũng chực để cười mỗi khi Charlotte nói gì đó chỉ hơi dí dỏm.

“Dọn dẹp hả?” ông ta hỏi.

Strike đóng sầm cửa lại.

Hắn đứng trước gương lớn trong phòng khách, tháo chìa khóa nhà ra khỏi chùm chìa khóa rồi cẩn thận đặt xuống ngay bên cạnh bát hoa khô trên chiếc bàn hình bán nguyệt. Trong gương, bộ mặt của hắn nhăn nhó và dơ dẩn; mắt bên phải vẫn còn sưng lên; nửa vàng nửa tím. Trong yên lặng, tiếng nói từ mười bảy năm trước vọng lên trong đâu hắn: “Làm quái gì mà một đứa như mày vớ được con đó hả Strike?” Chính hắn cũng không tin được, ngay lúc này đây, khi hắn đang đứng trong căn phòng khách mà hắn sẽ không bao giờ thấy lại nữa.

Một giây điên khùng thoáng qua, giống như năm ngày trước khi hắn quyết định đuổi theo cô ta: hay là cứ ở lại, ngồi đợi Charlotte về; rồi nắm tay cô mà nói “Mình hãy thử lại một lần nữa.”

Nhưng đã thử rồi, thử đi thử lại, và lúc nào cũng vậy, khi đã bớt quyến luyến nhớ nhung, bóng ma xấu xí của quá khứ lại trồi lên, che phủ tất cả những gì họ cùng bồi đắp.

Hắn đóng cửa lần cuối. Ông hàng xóm nhiều chuyện đã đi mất. Strike nhấc bốn cái thùng đi xuống bậc tam cấp ra đến vỉa hè, chờ vẫy taxi.

5

Strike có nói trước với Robin hắn sẽ đến văn phòng muộn vào ngày làm việc cuối cùng của cô. Hắn đưa trước chìa khóa dự phòng để cô mở cửa.

Robin hơi tủi thân khi Strike nói từ “ngày cuối cùng” cứ như không. Như thể Strike đếm từng ngày cho tới khi cô nghỉ, mặc dù hai người rất hợp nhau – đương nhiên theo kiểu đàng hoàng đúng mực. Văn phòng đã trở nên ngăn nắp gọn gàng hơn bao nhiêu, nhà vệ sinh cũng sạch sẽ hơn, chuông cửa tầng dưới trông tươm tất lên nhiều sau khi cô lột mẩu giấy ghi tên nguệch ngoạc ra (cô tốn nửa tiếng đồng hồ và gãy hai cái móng tay mới cạy ra hết) và thay bằng một cái bảng tên in, bọc nhựa gọn gàng. Robin ghi lại đầy đủ tin nhắn, lại còn có thể thảo luận sắc sảo với hắn về tên sát nhân mà nhiều khả năng là không có thật trong vụ Lula Landry. Vậy mà Strike đếm từng ngày chỉ để tống cô đi.

Nhưng Strike rõ là đang túng tiền. Hắn chỉ có hai thân chủ; hình như là không có nhà cửa gì (Matthew liên tục nhắc cô chuyện đó, cứ như ngủ trong văn phòng là dấu hiệu bần hàn cùng cực); Robin cũng hiểu Strike cho cô nghỉ là hợp lý. Nhưng cô không trông gì tới ngày thứ Hai tới. Một văn phòng mới (Giải pháp Tạm thời đã gọi điện nhắn tin trước địa chỉ); một cơ quan sáng sủa, gọn gàng, bận rộn, chắc chắn là đầy đàn bà con gái nhiều chuyện như những chỗ khác, ai cũng làm những việc chẳng dính dáng gì đến cô. Robin không tin là có án mạng thật, cô biết Strike cũng không tin, nhưng cô thấy việc chứng minh điều đó thật thú vị.

Robin rất thích công việc tuần vừa rồi, mặc dù cô không thể thú thật với Matthew. Thậm chí cả việc gọi điện mỗi ngày hai lần tới hãng BestFilm của Freddie Bestigui chỉ để bị nghe từ chối cũng khiến cô thấy mình thật quan trọng, một cảm giác cô chưa bao giờ có được trong những công việc trước đó. Robin luôn thích tìm hiểu suy nghĩ của người khác: cô từng theo học tâm lý ở Đại học và chỉ vì một sự cố bất ngờ mà phải bỏ giữa chừng.

Mười giờ rưỡi, Strike vẫn chưa về, nhưng một người phụ nữ to lớn mặc áo khoác cam đội mũ len tím xuất hiện. Bà ta mỉm cười hồi hộp. Đây là bà Hook, một cái tên khá quen thuộc với Robin, cũng chính là khách hàng duy nhất của Strike, ngoài Bristow. Robin mời bà Hook ngồi và đi pha trà. (Sau khi nghe Robin lúng túng tả lại cha Crowdy hơi bị ba lăm ở tầng dưới, Strike đã đi mua mấy cái tách rẻ tiền và một hộp trà cho văn phòng)

“Tôi biết là mình đến sớm,” bà Hook nhắc lại lần thứ ba, kề môi vào tách nhấp từng ngụm trà nóng tí xíu. “Tôi chưa gặp cô bao giờ, cô mới vô hả?”

“Tôi chỉ làm tạm thời thôi.” Robin trả lời.

“Chắc cô cũng đoán được rồi, chuyện chồng tôi.” Bà Hook nói tiếp, không thèm để ý gì. “Tôi đoán chắc cô đã gặp nhiều người như tôi. Lúc nào cũng muốn biết khả năng xấu nhất. Tôi cứ sợ mãi. Nhưng tốt nhất là nên biết rõ, phải không cô? Tôi cứ nghĩ chắc Cormaran đã đến rồi. Anh ta đang đi làm vụ khác hả?”

“Vâng đúng rồi,” Robin nói, mặc dù cô nghi Strike thực ra đang làm việc gì đó liên quan tới cuộc sống riêng tư bí ẩn của hắn; vì lúc dặn trước cô là sẽ đến trễ hắn tỏ ra khá né tránh.

“Cô biết bố của anh ấy là ai không?” Bà Hook hỏi.

“Không, tôi không biết gì cả.” Robin trả lời, nghĩ bà ta đang nói đến ông bố chồng.

“Jonny Rokeby,” Bà Hook hào hứng đáp

“Jonny Rokeby,”

Robin nín thở, vừa kịp nhận ra bà ta đang nói đế bố ruột của Strike thì thoáng thấy bộ dạng to lớn của hắn phía bên kia cửa gương. Cô thấy hắn đang ôm một vật gì rất lơn.

“Phiền bà đợi chút,” Cô nói.

“Có chuyện gì vậy?” Strike hỏi, liếc mắt xung quanh, tay vẫn ôm thùng giấy khi Robin chạy vọt ra ngoài cửa gương và kịp đóng lại ngay.

“Bà Hook tới rồi,” cô thì thầm.

“Chết mẹ. Sớm cả tiếng đồng hồ.”

“Tôi biết. Tôi nghĩ chắc anh muốn, ừm, dọn phòng lại trước khi mời bả vô làm việc.”

Strike đỡ cái thùng xuống sàn nhà.

“Tôi phải mang hết đám này vô, vẫn còn ở ngoài đường.”

“Để tôi giúp,” Robin sốt sắng.

“Không được, cô cứ trở vô trong nói chuyện câu giờ. Bà đang học làm gốm và nghi ngờ ông chồng ngủ với kế toán.”

Strike đi cà nhắc xuống cầu thang, để lại cái thùng bên cửa gương.

Jonny Rokeby, thật vậy sao?

“Anh ấy đang trên đường về,” Robin nhanh nhảu nói với bà Hook rồi ngồi lại ngay ngắn vào bàn. “Anh Strike có kể bà đang học làm gốm sứ. Tôi cũng đang muốn học…”

Trong năm phút sau đó, Robin giả vờ lắng nghe bà ta kể chuyện lớp học làm gốm, chuyện anh thầy dễ thương rất hiểu học sinh. Cánh cửa gương mở ra. Strike bước vào, không ôm theo cái thùng nào cả, mỉm cười lịch sự với bà Hook. Bà ta đứng bật dậy chào hắn.

“Ôi Cormoran, mắt anh sao thế?” bà ta nói “Bị đánh à?”

“Không phải” Strike đáp. “Phiền bà đợi một chút để tôi đi lấy hồ sơ.”

“Tôi biết tôi tới quá sớm, Cormoran, tôi thật ái ngại… Nhưng tối qua tôi không tài nào ngủ được…”

“Để tôi dọn cái tách cho bà,” Robin sốt sắng và kịp thời đánh lạc hướng vị thân chủ. Bà Hook không kịp liếc nhìn văn phòng bên trong của Strike để thấy cái giường xếp, túi ngủ và ấm đun nước.

Vài phút sau, Strike xuất hiện, sực nức mùi chanh tổng hợp, bà Hook đi theo vào phòng Strike, mặt mày lo lắng căng thẳng nhìn Robin. Cánh cửa đóng lại.

Robin ngồi xuống bàn. Cô đã mở hết thư từ sáng nay. Cô lắc lư trên cái ghế xoay; rồi xích lại gần máy tính, mở trang từ điển bách khoa Wikipedia. Với vẻ lơ đễnh, cứ như vô tình, cô gõ hai từ: Rokeby Strike.

Trang Wiki hiện ra ngay lập tức, đầu trang là tấm ảnh đen trắng của một người đàn ông nổi tiếng bốn thập kỷ qua, ai nhìn cũng biết. Jonny Rokeby mặt dài cằm nhọn, cặp mắt hoang dã, rất dễ vẽ thành tranh biếm họa; mắt trái hơi xếch do bị lác nhẹ; miệng mở to gào vào micro, mồ hôi chảy ròng ròng, tóc bay trong gió.

Jonathan Leonard “Jonny” Rokeby, sinh tháng Tám năm 1948, là ca sĩ chính trong ban nhạc The Deadbeats của thập niên 70, từng được đưa vào bảo tàng Rock and Roll Hall of Fame, đạt nhiều giải Grammy…

Trông Strike chả có gì giống ông này cả; ngoại trừ hai con mắt đang không bằng nhau, mà đó chỉ là tạm thời.

Robin kéo màn hình xuống:

… album được đĩa bạch kim Hold It Back năm 1975. Chuyến lưu diễn thành công kỷ lục ở Mỹ bị gián đoạn sau vụ phát hiện ma túy ở LA và vụ bắt giữ tay guitar mới David Carr, người từng…

tới chỗ Đời sống cá nhân:

Rokeby từng kết hôn ba lần: lần đầu (1969 – 1973) với người bạn học cùng trường nghệ thuật Shirley Mullens, và có một con gái là Maimie; lần thứ hai (1975 – 1979) với người mẫu, diễn viên, nhà hoạt động nhân quyền Carla Astolfi, có hai con gái là phóng viên truyền hình Gabriella Rokeby và nhà thiết kế trang sức Daniella Rokeby, và lần thứ ba (1981 – hiện tại) với nhà sản xuất phim Jenny Graham, có hai người con trai là Edward và Al. Rokeby còn có một con gái là Prudence Donleavy với diễn viên Lindsey Fanthrope và một con trai là Cormoran với Leda Strike, một fan nữ cuồng nổi tiếng hồi những năm 70.

Bỗng có tiếng hét inh tai từ phòng Strike. Robin bật người dậy, chiếc ghế trượt ra xa. Tiếng hét mỗi lúc mỗi to và buốt óc hơn. Robin chạy ngay đến trước phòng Strike, mở cửa.

Bà Hook đã cởi bỏ áo khoác cam và mũ len màu tím, bên trong mặc áo in hoa trông như kiểu áo tạp dề mặc khi làm gốm, phủ xuống quần jeans. Bà ta đang nhảy bổ vào Strike rồi đấm thùm thụp lên ngực hắn, trong khi miệng vẫn rít lên như ấm nước đang sôi. Bà ta hét lên một hồi cho đến khi hết hơi phải ngừng lại.

“Kìa bà Hook!” Robin la lên, rồi chạy lại kéo hai cánh tay mập mạp của bà về phía sau, cố đỡ bớt cho Strike. Bà Hook trông vậy mà khỏe thật; mặc dù phải dừng lại mấy hơi, bà ta vẫn tiếp tục đấm Strike cho tới khi không còn cách nào khác, gã phải chụp lấy cả hai cổ tay của bà đưa lên.

Lúc này bà Hook mới chịu buông Strike ra rồi quay sang ôm chầm lấy Robin mà tru lên như chó.

Robin vỗ vỗ vào lưng bà ta rồi từ từ dìu ra văn phòng phía ngoài.

“Không sao, không sao mà,” Robin vừa nhẹ nhàng nói vừa đỡ bà ngồi xuống ghế sofa. “Để tôi lấy cho bà một tách trà. Không sao hết.”

“Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà.” Strike an ủi một câu rất chi là đúng mực, vẫn đứng nguyên chỗ cửa phòng trong. “Nghe những chuyện như vậy thật không dễ chút nào.”

“Tôi cứ ngh– nghĩ là Valerie,” Bà Hook rên hư hử, tay ôm lấy đầu tóc bù xù, đau khổ lắc người trên ghế sofa. “Tôi cứ ngh– nghĩ là Valerie, chứ không phải là đứa… không phải là đứa em ruột của tôi.”

“Để tôi đi lấy trà!” Robin thì thầm, hoảng hốt.

Cầm ấm đun nước đi tới gần cửa Robin mới sực nhớ ra trang Wiki về Jonny Rokeby còn nằm chình ình trên máy tính. Đang lúc nước sôi lửa bỏng như thế này mà chạy vào chỉ để tắt màn hình máy tính thì thật kỳ cục, Robin hi vọng Strike mải loay hoay với bà Hook sẽ không để ý thấy.

Bốn mươi phút sau đó bà Hook cũng uống xong tách trà thứ hai và khóc hết nửa cuộn giấy vệ sinh mà Robin “mượn tạm” từ toilet. Cuối cùng bà ta đi về, tay ôm chặt hồ sơ đầy những tấm ảnh chứng cứ và mục lục ghi rõ thời gian địa điểm của từng tấm. Ngực bà ta phập phồng nức nở, tay vẫn không ngừng quẹt nước mắt.

Strike chờ cho bà Hook đi đến cuối đường rồi mới ra khỏi văn phòng, vừa đi vừa nhân nga. Strike mua bánh mì về cho cả hai ăn trưa. Hai người vui vẻ ngồi ăn cùng nhau ở bàn Robin. Đó cũng là cử chỉ thân thiện nhất mà Strike dành cho cô trong suốt tuần qua, Robin chắc chắn hắn làm vậy vì biết cô sắp biến.

“Cô biết chiều nay tôi đi phỏng vấn Derrick Wilson không?” Strike hỏi.

“Ông bảo vệ bị đau bụng.” Robin đáp “Tôi nhớ.”

“Lúc tôi về thì chắc cô cũng xong việc rồi, vện nên tôi sẽ ký giấy ngày công cho cô trước rồi mới đi. Robin, cảm ơn cô nhiều về vụ lúc nãy…”

Strike hất đầu về phía cái ghế sofa, giờ không còn ai ngồi khóc lóc nữa.

“Không có gì. Tội nghiệp bả.”

“Ừ. Dù sao thì giờ bả cũng có chứng cứ. Và còn nữa,” hắn nói tiếp, “cảm ơn cô vì tất cả những việc cô làm tuần rồi.”

"Công việc của tôi mà." Robin nhẹ nhàng nói.

“Nếu tôi đủ tiền thuê thư ký… nhưng tôi nghĩ kiểu gì cô cũng sẽ kiếm được một việc lương cao, làm thư ký cho tay giám đốc cỡ bự nào đó.”

Robin bỗng thấy bị xúc phạm kỳ lạ.

“Tôi đâu có muốn làm mấy việc kiểu vậy.”Cô đáp.

Trong thoáng chốc cả hai đều im lặng, căng thẳng.

Strike cũng phải đấu tranh dữ dội lắm. Viễn cảnh bàn Robin bị để trống khá là u ám: có cô trong văn phòng hắn thấy rất nhẹ nhàng dễ chịu, Robin lại rất lanh lẹ được việc; nhưng tốn tiền chỉ để có người ngồi cùng thì thật kỳ cục, nếu không nói là phí phạm, hắn đâu phải đại gia giàu có gì? Giải pháp Tạm thời luôn chém đẹp tiền công tuyển dụng; thuê Robin lúc này quá xa xỉ với hắn. Strike còn thấy ấn tượng hơn với Robin ở chỗ cô không hỏi han gì về cha hắn (Strike đã kịp nhìn thấy trang Wiki về Jonny Rokeby trên màn hình). Với Strike điều này cho thấy khả năng tự kiềm chế khác thường, cũng là tiêu chuẩn mà Strike hay dùng để đánh giá người mới quen. Nhưng gì thì gì, thực tế vẫn hết sức lạnh lùng: Robin phải ra đi.

Cảm giác của Strike bây giờ giống như lúc nhỏ, khi hắn mới mười một tuổi, tình cờ bẫy được một con rắn cỏ trong cánh rừng Trevaylor và liên tục nài nỉ mợ Joan: “Cho con giữ nuôi đi mà… con xin mợ…”

“Tôi phải đi đây,” hắn nói, sau khi đã ký giấy ngày công cho Robin và vứt giấy gói bánh mì cùng với vỏ chai nước vào thùng rác dưới bàn. “Cảm ơn cô nhiều, Robin. Chúc cô tìm việc may mắn.”

Hắn với tay lấy áo khoác rồi mở cửa gương đi ra.

Khi tới đầu cầu thang, ngay chỗ mà hôm trước hắn suýt chút nữa giết Robin và ngay sau đó cứu mạng cô, tự nhiên hắn dừng lại. Giác quan thứ sáu như chú cún con đang cắn quần giữ hắn.

Cánh cửa gương mở ra ngay sau lưng Strike. Hắn quay lại. Robin xuất hiện, mặt ửng hồng.

“Anh Strike,” cô lên tiếng. “Chúng ta có thể thỏa thuận riêng, không cần thông qua Giải pháp Tạm thời, anh có thể trả công trực tiếp cho tôi.”

Hắn do dự.

“Làm vậy họ sẽ ghét cô. Lần sau họ sẽ không tìm việc cho cô nữa.”

“Không sao cả. Tuần tới tôi có ba cuộc phỏng vấn công việc cố định. Nếu anh cho tôi nghỉ vài buổi để đi phỏng vấn…”

“Ừ không thành vấn đề,” hắn nói, trước khi kịp đổi ý.

“Vậy thì tôi sẽ ở lại thêm một hai tuần gì đó nữa.”

Cả hai im lặng. Trong chốc lát lý lẽ và cảm xúc cãi nhau dữ dội, rồi lý lẽ choáng váng đầu hàng.

“OK… được rồi. Vậy thì, cô gọi lại cho Freddie Bestigui được không?”

“Tất nhiên rồi,” Robin đáp, cố gắng ra vẻ điềm tĩnh, mặc dù trong bụng mở cờ.

“Hẹn gặp cô chiều thứ Hai.”

Đó cũng là lần đầu tiên Strike cười với Robin. Đáng ra hắn phải thấy bực bội với bản thân mới đúng. Thế nhưng Strike bước ra ngoài đường, trong buổi chiều sớm mát mẻ, không ân hận tiếc rẻ gì, mà lại còn thấy yêu đời kỳ lạ.

6

Strike từng ngồi đếm số trường mà hắn đã học qua lúc nhỏ, khoảng 17 trường, nhưng hắn ngờ ngợ hãy còn thiếu. Hắn không tính vào đó hai tháng “giáo dục tại gia” khi ba mẹ con hắn sống trong một căn nhà bỏ hoang trên phố Atlantic ở Brixton. Bạn trai của mẹ hắn lúc đó là một nhạc sĩ da trắng theo phong trào Rastafari, có tên tự đặt là Shumba. Ông này cho rằng trường lớp chỉ củng cố những giá trị gia trưởng và vật chất, phải tránh xa ngay không thì hư hết con cái. Trong hai tháng đó Strike chỉ học được một điều duy nhất: cứ hút cỏ thì người ta trở nên trì độn và hoang tưởng, ngay cả khi hút theo kiểu tâm linh.

Strike rẽ qua chợ Brixton trên đường đi gặp Derrick Wilson. Mùi cá tươi từ các sạp có mái che, những hàng quán đầy màu sắc, ăm ắp các thể loại rau củ và trái cây nhập từ châu Phi và vùng Caribe; hàng thịt của người Hồi giáo, tiệm hớt tóc với những tấm hình chụp các kiểu tết và uốn tóc cầu kỳ, những chiếc đầu bằng xốp đội tóc giả xếp thành hàng bên cửa sổ: tất cả đưa Strike về hai mươi sáu năm trước đó, khi hắn và em gái Lucy tha hồ đi lang thang khắp đường phố Brixton trong khi mẹ và Shumba nằm gà gật trên đám gối ôm dơ bẩn ở căn nhà bỏ hoang, mơ hồ thảo luận những khái niệm tâm linh phức tạp để dạy con.

Lucy khi đó mới bảy tuổi, rất thích kiểu tóc của các cô gái Caribe. Khi cậu Ted và mợ Joan đón hai đứa từ Brixton đưa về St Mawes, Lucy ngồi ghế sau trên chiếc xe Morris Minor của cậu mợ, miệng không ngớt đòi được tết tóc có xâu hạt. Strike còn nhớ mợ Joan ra vẻ bình tĩnh đồng ý với Lucy rằng kiểu tóc đó rất xinh, mặt dù qua kính chiếu hậu, hắn thấy mợ đang nhíu mày. Mợ Joan luôn cố tránh chê bai mẹ của Strike trước mặt hai an hem hắn, nhưng càng về sau thì càng thất bại. Strike không biết cậu Ted tìm ra mấy mẹ con hắn bằng cách nào, hắn chỉ nhớ một buổi chiều hai anh em chui vào căn nhà hoang thì đã thấy ông cậu to lớn đứng ngay giữa phòng, dọa đánh dập mũi Shumba. Trong hai ngày sau, hai anh em được đưa về St Mawes, trở lại trường tiểu học cũ, gặp lại bạn bè như chưa bao giờ bỏ đi, và nhanh chóng mất đi giọng địa phương mà chúng vừa kịp bắt chước.

Hắn không cần đọc hướng dẫn chỉ đường mà Derrick Wilson chuyển cho Robin. Hắn biết quá rõ quán Phoenix ở phố Coldharbour. Ngày trước thỉnh thoảng Shumba và mẹ vẫn dẫn hai anh em đến đây: một cái quán nhỏ sơn màu nâu, giống như nhà kho trong vườn. Tại đó (nếu không phải ăn chay như mẹ và Shumba) hắn được ăn những bữa sáng nóng sốt to dùng, với trứng chiên và thịt muối chồng lên nhau và uống trà sữa màu gỗ tếch. Mọi thứ y như hắn vẫn nhớ: ấm cúng, nhỏ gọn và hơi cáu bẩn, những tấm gương trên tường phản chiếu dãy bàn ăn bằng gỗ giả dán Formica, gạch lát nền màu trắng đỏ đã đốm xỉn, trần nhà màu trắng đục như bột báng dán phủ giấy dán tường mốc meo. Một người phụ nữ chạy bàn tuổi trung niên mập lùn, tóc ngắn duỗi thẳng, đeo bông tai nhựa màu cam lúc lắc đứng sang một bên nhường đường cho Strike đi qua.

Một người đàn ông gốc Caribe to lớn ngồi một mình ở bàn ăn, đọc báo The Sun, ngay trên đầu ông có treo một cái đồng hồ quảng cáo bánh Pukka Pies.

“Derrick?”

“Dà…, anh Strike?”

Strike bắn tay Wilson, bàn tay ông ta to và khô ráp. Hắn ngồi xuống. Hắn đoán Wilson cũng phải cao gần bằng hắn. Cơ bắp và mỡ căng lên dưới tay áo len đồng phục của Wilson. Tóc ông ta cạo sát đầu, râu ria cũng được cạo sạch sẽ, mắt thuôn dài hình hạt hạnh nhân. Strike gọi món bánh nhân thịt và khoai tây nghiền từ thực đơn treo trên tường, thấy dễ chịu khi nghĩ giờ đây hắn có thể trừ bốn bảng bảy lăm xu vào công tác phí.

“Ờ, bánh với khoai tây nghiền ở đây ngon,” Wilson nói.

Wilson nói giọng London, có pha chút ngữ điệu Caribe. Giọng ông ta trầm, điềm đạm và chừng mực. Strike nghĩ ông này làm bảo vệ sẽ khiến cho người ta yên tâm.

“Cảm ơn anh đã bỏ thời giờ đến đây. Tôi rất cảm kích. John Bristow không hài lòng với kết quả điều tra vụ em gái ông ta. Ông ta thuê tôi để xem lại chứng cứ vụ án.”

“Dà,” Wilson nói “Tui biết rồi.”

“Bristow trả anh bao nhiêu tiền để nói chuyện với tôi?” Strike hỏi tự nhiên như không.

Wilson nháy mắt, rồi khoái trá cười khùng khục, có vẻ hơi tội lỗi.

“Hai xị rưỡi,” ông ta đáp. “Nhưng nếu làm vậy mà ổng thấy an ủi thì cũng được, anh hiểu không? Chả thay đổi được giề". Cổ tự xát. Nhưng anh cứ hỏi. Tui chả có phiền chi.”

Wilson gấp tờ The Sun lại. Trang nhất báo có hình Thủ tướng Gordon Brown mệt mỏi, hai mắt đều có bọng.

“Chắc anh đã làm việc với bên cảnh sát rồi,” Strike vừa nói vừa mở cuốn sổ ra đặt bên cạnh đĩa, “nhưng sẽ rất có ích nếu anh kể lại sự việc hôm đó.”

“Dà, được mà. Chút xíu nữa có khi có thêm Kieran Kolovas-Jones,” Wilson nói thêm.

Có vẻ như Wilson nghĩ Strike biết người đó là ai.

“Ai kia?” Strike hỏi.

“Kieran Kolovas-Jones. Tài xế của Lula. Nó cũng muốn nói chuyện với anh.”

“OK, hay quá,” Strike nói. “Khi nào anh ấy tới?”

“Tui không biết. Nó đang đi làm. Rảnh thì nó tạt qua.”

Người chạy bàn đặt tách trà xuống trước mặt Strike. Hắn cảm ơn bà ta rồi bấm viết. Trước khi hắn kịp hỏi, Wilson lại nói:

“Ông Bristow có kể hồi trước anh ở lính.”

“Vâng” Strike đáp.

“Cháu tui đang ở Afghanistan,” Wilson nói, nhấm một hớp trà. “Tỉnh Helmand.”

“Đơn vị nào?”

“Thông tin,” Wilson trả lời.

“Cậu ấy ở đó lâu chưa?”

“Bốn tháng. Mẹ nó vẫn không ngủ được.” Wilson tiếp. “Tại sao anh về?”

“Bị bom nổ cụt chân,” Strike trả lời, thành thật khác thường.

Đó chỉ là một phần của sự thật, nhưng là phần dễ nói nhất với người lạ. Thực ra nếu muốn hắn cũng có thể ở lại quân đội; họ rất muốn giữ hắn; nhưng mất đi cái chân chỉ là giọt nước cuối cùng tràn ly, hắn đã nghĩ tới việc giải ngũ trong mấy năm trở lại đây. Hắn biết giới hạn của mình, nếu ở lâu hơn nữa hắn sẽ rất khó rời khỏi quân đội và trở lại cuộc sống bình thường. Môi trường quân đội nhào nặn con người ta qua năm tháng, dần dần khiến người ta lúc nào cũng biết tỏ ra tuân lệnh, một tính cách cần thiết trong quân ngũ. Strike trưa bao giờ hoàn toàn hòa nhập hẳn và quyết định ra đi trước khi điều đó xảy ra. Ngay cả vậy, hắn vẫn nhớ về Cục điều tra đặc biệt SIB với nhiều tình cảm, không hề bị ảnh hưởng gì bởi chuyện cụt chân. Hắn ước gì cũng có thể nhớ về Charlotte một cách đơn giản như vậy.

Wilson nghe Strike giải thích, khẽ gật đầu.

“Xui thiệt,” ông ta bình luận, giọng trầm.

“Chẳng là gì so với nhiều người khác.”

“Ừ. Một đứa trong trung đội cháu tui mới bị bom nổ bay xác hai tuần trước.”

Wilson nhấm thêm một ngụm trà.

“Anh có thân quen gì với cô Lula Landry không?” Strike hỏi, cây viết cầm sẵn. “Anh có hay gặp cô ấy không?”

“Thì đi ra đi vô đụng mặt vậy thôi. Lúc nào cổ cũng chào hỏi, cảm ơn, lễ độ hơn nhiều so với mấy ông bà có tiền khác,” Wilson nói ngắn gọn. “Lần nói chuyện dài nhất là nói về Jamaica. Cổ định nhận một việc ở đó; cổ hỏi tui nên ở đâu, Jamaica ra làm sao. Tui từng nhờ cổ ký một cái thiệp để gởi qua Afghanistan cho thằng Jason. Chỉ ba tuần trước khi cổ mất. Sau đó mỗi khi gặp tui là cổ luôn hỏi Jason sao rồi, tui thích cổ ở chỗ đó, anh hiểu không? Tui làm bảo vệ lâu lắm rồi. Người ta luôn nghĩ là anh phải đưa lưng lãnh đạn cho họ, nhưng không thèm nhớ tới tên anh. Ờ, cổ rất được.”

Bánh nhân thịt và khoai tây của Strike mới được đem ra, nóng bốc khói. Cả hai im lặng trong một giây, kính nể nhìn cái đĩa tú hụ thức ăn. Nước miếng túa ra đầy miệng. Strike cầm dao và nĩa lên, nói tiếp:

“Giờ anh kể lại chuyện đêm đó được không? Cô Lula có đi ra ngoài đúng không, lúc đó mấy giờ?”

Ông bảo vệ gãi cánh tay, mặt mày suy tư, rồi kéo tay áo lên. Strike thấy mấy hình xăm thập giá và tên viết tắt.

“Chắc khoảng đâu bảy giờ hơn. Cổ đi với Ciara Porter. Tui nhớ chớ, tại lúc họ đi ra khỏi cửa là ông Bestigui đi vô. Tui nhớ vì ổng có nói gì đó với Lula. Tui không nghe rõ lắm. Cổ có vẻ không thích. Nhìn mặt cổ tui biết vậy.”

“Mặt cổ ra sao?”

“Giống kiểu bị xúc phạm,” Wilson nói, cứ như đã sẵn câu trả lời. “Trên màn hình tui thấy hai người đi vô xe. Tòa nhà có lắp camera ngay cửa, nối với màn hình trên bàn tui nên ai bấm chuông tụi tui đều biết.”

“Còn băng không? Tôi xem băng được không?”

Wilson lắc đầu.

“Ông Bestigui không thích vậy. Không được ghi băng gì cả. Ổng là người đầu tiên mua nhà trước khi họ xây xong nên ổng có thể đòi cái này cái nọ.”

“Như vậy cái camera giống như một cái lỗ nhìn trộm xịn thôi hả?”

Wilson gật đầu. Trên mặt Wilson có một vết sẹo mỏng từ mắt trái đến ngay giữa má.

“Đúng vậy. Xong rồi tui thấy hai cô đi vô xe. Hôm đó Kieran không có lái xe cho hai cổ vì nó phải đi đón Deeby Macc.”

“Vậy hôm đó ai lái xe?”

“Một cậu tên là Mick, từ bên công ty Execars, cũng từng lái cho Lula rồi. Tôi thấy mấy đứa phóng viên bao quanh cái xe hơi, ngay lúc xe sắp chạy. Phóng viên chầu chực ở đó cả tuần vì biết là cô Lula mới quay lại với Evan Duffield.”

“Bestigui làm gì sau khi Lula và Ciara đi khỏi?”

“Ổng tới chỗ tui lấy thư rồi lên cầu thang về nhà ổng.”

Strike liên tục phải bỏ nĩa xuống sau mỗi miếng để ghi chép.

“Sau đó có ai ra vào nữa không?”

“Có, mấy người phục vụ ăn uống – hôm đó nhà Bestigui đãi khách. Một cặp người Mỹ tới khoảng sau tám giờ, đi thẳng lên căn hộ số một của Bestigui. Sau đó không ai ra vô gì nữa cho tới khi đám đó về, khoảng nửa đêm. Xong rồi tui cũng không thấy ai nữa tới khi Lula về nhà, khoảng một rưỡi sáng.

“Tui nghe mấy đứa phóng viên kêu tên cổ bên ngoài. Khi đó đông đen. Một đám đi theo cổ về từ hộp đêm, thêm một đám đứng chực từ trước chờ Deeby Macc. Nghe nói anh ta mười hai rưỡi về tới nơi. Lula bấm chuông, tui bấm nút mở cửa cho cổ vô.”

“Cô ấy không dùng khóa mật mã à?”

“Không tại lúc đó có nhiều người, cô muốn đi vô cho lẹ. Họ cứ hét lên, đổ dồn hết về phía cổ.”

“Tại sao cổ không đi vô theo bãi đậu xe dưới tầng hầm, như vậy thì tránh được hết?”

“Ừa, nhiều khi cổ đi kiểu vậy, nếu Kieran lái vì cổ có đưa cái chìa khóa cổng vô đó cho nó. Nhưng Mick thì không có, nên phải dừng ngay trước cửa.”

“Tui chào cổ, rồi hỏi bộ ngoài trời tuyết rơi dữ hả, tại trên tóc cổ dính tuyết, cô run cầm cập tại mặc cái đầm chút xíu. Cổ nói lạnh muốn đông đá, hay đại loại thế. Rồi cổ nói, “Ước gì tụi nó biến mẹ cho rồi. Tụi nó tính đứng đó suốt đêm hay sao?” Ý cổ nói bọn phóng viên. Tui kêu tụi nó đang đợi Deeby Macc; nghe là về trễ. Trông cổ có vẻ bực bội. Rồi cổ vô thang máy và đi lên nhà.”

“Trông bực bội?”

“Ừm rất bực.”

“Bực kiểu sắp tự tử?”

“Không.” Wilson đáp “Kiểu giận dữ.”

“Rồi sao nữa?”

“Rồi,” Wilson tiếp, “Tui phải đi ra sau. Bụng tui bắt đầu sôi lên. Tui phải đi cầu. Rất gấp, anh biết không. Chắc tui bị giống như Robson. Nó cũng bị đau bụng. Tôi đi khỏi khoảng mười lăm phút. Không ráng được. Chưa bao giờ tui đau bụng tới vậy.

“Tui vẫn ngồi trong cầu lúc có tiếng người. Không,” Wilson tự sửa, “đầu điên là nghe rầm một cái. Nghe từ xa. Sau này tui nghĩ lại đó hẳn là tiếng cô Lula rớt xuống.

“Xong rồi mới có tiếng người, mỗi lúc một to, vọng xuống cầu thang. Tui kéo quần lên rồi chạy ra đại sảnh, bà Bestirui đang ở đó, chỉ mặc mỗi đồ lót, người run cầm cập, la hét quay quắt như mụ khùng. Bả nói cô Lula chết rồi, bị xô té xuống ban công, bị ông nào đó ở trên kia xô xuống.

“Tui kêu bả cứ ở yên đó, tui chạy ra cửa trước. Tui thấy cô Lula. Cổ nằm trên đường, mặt úp xuống tuyết.”

Wilson tợp thêm một ngụm trà, rồi ôm nguyên cái tách, nói tiếp:

“Một nửa đầu cô Lula vùi trong tuyết. Máu chảy ra. Tui thấy cổ bị gãy cổ. Và bị xịt… ừm.”

Tự nhiên lúc đó Strike cảm giác như ngửi thấy mùi não người, ngọt gắt và không lẫn vào đâu được. Hắn từng ngửi thấy mùi đó nhiều lần. Không sao quên được.

“Tui chạy ngược vô trong,” Wilson kể tiếp. “Cả hai ông bà Bestigui đang ở sảnh, ổng đang cố lôi bả lên lầu, trùm áo cho bả, bả thì vẫn la lối um sùm. Tui kêu hai người đi gọi cảnh sát và coi chừng thang máy; lỡ thủ phạm có chạy xuống.

“Tui chạy ra sau lấy chìa khóa chủ rồi chạy lên lầu. Trên cầu thang không có ai hết. Tui mở cửa vô nhà cô Lula…”

“Tại sao lúc đó anh không mang theo cái gì để tự vệ?” Strike cắt ngang. “Nếu anh nghĩ trong nhà cô Lula có ai đó? Lại vừa giết cổ xong?”

Im lặng. Không ai nói gì một lúc lâu.

“Tui không nghĩ là tui cần gì hết,” Wilson đáp. “Cứ nghĩ có gì tui chơi nó tay không luôn, không thành vấn đề.”

“Chơi ai?”

“Duffield,” Wilson nói nhanh. “Tui nghĩ Duffield đang ở trên đó.”

“Tại sao?”

“Tui nghĩ chắn hắn đi vô lúc tui đang ngồi cầu. Hắn biết mật mã khóa. Tui đoán chắc hắn chạy lên lầu, cô Lula mở cửa cho hắn vô. Tui có nghe hai người cãi lộn rồi. Tôi từng nghe hắn la hét giận dữ. Ừm. Nên tui nghĩ chắc hắn xô cổ té.

“Nhưng khi chạy lên nhà cô Lula, tui thấy trống trơn. Tui đi tìm mỗi phòng, không có ai hết. Tui còn mở cả tủ quần áo ra nữa, cũng không có gì.

“Cửa sổ phòng khách mở toang. Hôm đó trời lạnh dưới không. Tui không đóng cửa sổ lại, không đụng vô cái gì hết. Tui bước ra rồi bấm nút thang máy. Cửa thang máy mở liền, vì vẫn còn đứng ở tầng của cô Lula. Trong thang không có ai hết.

“Tui chạy xuống dưới nhà. Ông bà Bestigui đã trở vô nhà họ, khi tui đi ngang qua, tui vẫn nghe tiếng họ, bả vẫn la lối um sùm còn ổng thì la bả. Tui không biết họ gọi cảnh sát chưa. Tui chụp máy di động trên bàn trực rồi đi ra ngoài, đứng với cô Lula vì… tui không muốn cổ nằm đó một mình. Tui đang tính gọi cảnh sát, coi thử họ tới chưa. Nhưng chưa kịp bấm số chín thì đã nghe thấy tiếng còi hụ. Tới lẹ thiệt.”

“Chắc ông bà Bestigui gọi?”

“Ừm. Ổng gọi. Hai cảnh sát đi xe trắng đen.”

“OK,” Strike nói. “Tôi muốn làm rõ một điểm: anh tin bà Bestigui nói thật khi bà ta kể là có người trong nhà cô Lula?”

“Ờ,” Wilson đáp.

“Vì sao?”

Wilson khẽ nhíu mày, suy nghĩ. Mắt ông ta nhìn ra phía đường phố sau vai Strike.

“Lúc đó bà ta vẫn chưa nói chi tiết gì đúng không?” Strike hỏi. “Bà ta không kể là đang làm gì khi nghe tiếng người la? Không giải thích là vì sao hai giờ sáng mà bà ta còn thức?”

“Không,” Wilson đáp. “Bả không giải thích gì cả. Chỉ là cái kiểu của bả lúc đó, anh biết không. Rất là kích động. Run như chó bị mắc mưa. Bả cứ nói đi nói lại 'Có người trên lầu, hắn ném cô ta xuống.' Bả sợ lắm.

“Nhưng không có ai trên đó hết; tui có thể lấy đám con tui ra thề với anh như vậy. Nhà cô Lula trống trơn, thang máy cũng trống, cầu thang cũng không có ai. Nếu có người thật thì sau đó hắn ta đi đâu?”

“Khi cảnh sát tới,” Strike nói tiếp, quay lại với hiện trường đường phố tuyết rơi tối đen và thi thể đã bị dập nát. “Thì sao?”

“Khi bà Bestigui thấy xe cảnh sát qua cửa sổ, bả chạy thẳng xuống nhà, vẫn mặc áo ngủ, ông chồng chạy theo sau. Bả ra đường, đứng giữa tuyết tiếp tục la lối là có sát thủ trong tòa nhà.

“Lúc đó chúng quanhg bật hết đèn lên. Ai cũng đứng cửa sổ nhìn ra. Nửa khu phố thức dậy. Người ta ra đứng đầy vỉa hè.

“Một ông cảnh sát đứng lại chỗ cô Lula, rút bộ đàm ra gọi thêm người, còn ông kia thì đi với tụi tui; tui với hai vợ chồng ông bà Bestigui trở vô trong tòa nhà. Ổng biểu hai ông bà đó về lại nhà ngồi đợi, rồi ổng kêu tui dẫn đi kiểm tra khắp tòa nhà. Tụi tui đi trở lên tầng trên; tui mở cửa nhà cô Lula, cho ổng coi, chỉ luôn cửa sổ mở toang hoang. Ổng coi hết một lượt. Tui dẫn ổng ra chỗ thang máy, vẫn còn đứng trên tầng ba. Rồi tụi tui đi xuống cầu thang. Ổng hỏi tui về căn hộ tầng hai, vậy là tui mở cho ổng coi luôn vì tui có chìa chủ.

“Ở trong tối thui, báo động kêu lên khi hai tụi tui đi vô. Tui chưa kịp tìm công tắc đèn hay tắt báo động thì ông cảnh sát đâm sầm vô cái bàn giữa nhà, đánh đổ bình hoa hồng to bự chảng. Mảnh chai, nước, hoa lá văng tùm lum trên sàn. Vụ này sau đó cũng nhức đầu lắm…

“Tụi tui kiểm tra hết. Trống trơn, tất thảy tủ kệ, tất cả các phòng, cửa sổ đóng chặt, có chốt. Rồi tụi tôi trở xuống sảnh dưới.”

“Lúc đó thì cảnh sát mặc thường phục tới. Họ muốn có chìa khóa vô phòng tập thể dục, bể bơi với cả bãi đậu xe ở tầng hầm. Một ông cảnh sát đi lấy lời khai của bà Bestigui, một ông nữa chạy ra ngoài, gọi thêm người, vì chung quanh hàng xóm đổ ra đầy đường, hết nửa đang gọi điện thoại, có mấy người chụp hình búa xua. Cảnh sát đồng phục kêu gọi họ đi trở vô nhà. Lúc đó tuyết cứ rơi miết, dày lắm.

“Xong rồi họ dựng một cái lều ngay chỗ cô Lula, mấy người bên pháp y tới. Báo chí cũng vừa tới. Cảnh sát niêm phong hết nửa khu phố, quay ngang xe chặn lối.”

Strike đã làm sạch sẽ đĩa thức ăn. Hắn đẩy đĩa qua một bên, gọi thêm trà cho cả hai rồi cầm cây viết lên lại.

“Có bao nhiêu người làm việc ở tòa nhà số 18?”

“Ba bảo vệ, tui, Colin McLeod và Ian Bobson. Tụi tui làm việc theo ca, lúc nào cũng có người trực tòa nhà. Đáng ra đêm hôm đó tui không có ca trực nhưng Robson gọi điện khoảng bốn giờ chiều, kêu là bị đau bụng, không đi làm được. Vậy là tui nói thôi để tui ở lại đó làm tiếp ca nữa luôn. Tháng trước nó đổi ca một lần với tui khi tui có việc nhà. Nên tui nợ nó.

“Đáng ra tui không có mặt ở đó,” Wilson nói, và trong giây lát ông ta ngồi im, suy tư về những ngã rẽ khác nhau của mọi sự trên đời.

“Hai bảo vệ kia với cô Lula có OK không?”

“Dà, anh hỏi họ thì họ cũng sẽ nói y như tui thôi. Cổ dễ thương mà.”

“Còn ai làm ở đó nữa không?”

“Có mấy đứa quét dọn người Ba Lan. Tụi nó nói tiếng Anh tệ lắm. Anh có hỏi cũng không ra được gì đâu.”

Strike vừa nghĩ vừa viết nhanh trong cuốn sổ SIB – (hắn đã kịp chôm một mớ sổ trong lần trở lại Aldershot). Lời khai của Wilson có chất lượng cao khác thường: ngắn gọn, chính xác và chi tiết. Rất ít người trả lời thẳng vào câu hỏi như vậy; lại càng hiếm ai biết sắp xếp suy nghĩ trước khi trả lời, không cần phải hỏi dò thêm. Strike đã quen với việc đào xới trong ký ức đau khổ của người khác, giống như một nhà khảo cổ đào đám gạch vụn. Hắn từng lấy được lòng tin của những tay giang hồ, biết hù dọa những người đang sợ chết khiếp, ra mồi nhử những đối tượng nguy hiểm và đặt bẫy được cả những kẻ cực kỳ khôn khéo. Tất cả những kỹ năng đó đều không cần thiết áp dụng với Wilson, thật là phí phạm với một cuộc điều tra vô nghĩa, chỉ để thoả mãn sự hoang tưởng của John Bristow.

Tuy vậy Strike luôn làm việc hết sức kỹ lưỡng, một thói quen không bao giờ suy suyển. Hắn không thể phỏng vấn qua loa, cũng như không thể nằm ườn trên giường hút thuốc nguyên một ngày. Một phần là bản tính, một phần qua rèn luyện, hắn nghiêm túc với bản thân, cũng như với khách hàng. Hắn tiếp tục hỏi, một cách tỉ mỉ cẩn thận, đấy cũng là lý do khiên hắn vừa được trọng dụng vừa bị ghét bỏ khi còn trong quân ngũ.

“Ta trở lại một chút vào ngày trước khi cô Lula chết. Hôm đó anh đi làm mấy giờ?”

“Chín giờ, hôm nào cũng vậy. Tới nơi thì bàn giao với Colin.”

“Anh có sổ ghi lại người ra vào tòa nhà không?”

“Có, ai ra vô gì tụi tui cũng ghi hết, trừ người ở trong tòa nhà. Có một cuốn như vậy ở ngay trên bàn bảo vệ.”

“Anh có nhớ hôm đó có ai đi ra vào không?”

Wilson chần chừ.

“John Bristow có đến gặp em gái vào buổi sáng sớm, đúng không?” Strike hỏi dò. “Nhưng Lula có dặn trước là không cho ông ta lên?”

“Ổng kể với anh vậy hả?” Wilson hỏi, trông đỡ căng thẳng hơn.

“Cổ có dặn vậy. Nhưng tui thấy tội nghiệp ổng quá, anh thấy đó? Ổng đem hợp đồng gì đó cho cổ; ổng có vẻ lo lắng, nên tui để ổng đi lên.”

“Còn ai đi vào nữa không?”

“Còn Lechsinka có mặt ở đó sẵn. Một trong mấy đứa quét dọn. Nó luôn tới lúc bảy giờ sáng; khi tui tới thì nó đang lau cầu thang. Không ai vô nữa cho tới khi có một người bên công ty bảo vệ qua, để bảo trì máy báo động. Cứ sáu tháng thì phải làm một lần. Tay đó tới lúc khoảng chín giờ bốn mươi, cỡ đó?”

“Ông quen người này hả, cái người từ công ty bảo vệ đó?”

“Không, người mới mà. Trẻ lắm. Lần nào họ cũng cử người khác nhau tới. Khi đó bà Bestigui và cô Lula còn ở trong nhà nên tui mở cửa cho nó vô căn hộ tầng giữa trước, chỉ chỗ hộp điều khiển rồi để nó làm. Trong khi tui đứng đó, chỉ hộp cầu chì với nút báo động khẩn cho nó thì cô Lula đi ra ngoài.”

“Anh thấy cô ấy đi ra hả?”

“Có thấy, cổ đi ngang qua căn hộ số hai, lúc đó cửa mở.”

“Cô Lula có chào anh không?”

“Không.”

“Anh nói cô ấy lúc nào cũng chào hỏi mà?”

“Tui nghĩ lúc đó cô Lula không thấy tui. Trông cổ có vẻ vội vàng. Cổ đi thăm bà già bị ốm.”

“Tại sao cổ không nói mà anh biết?”

“Có trong kết quả điều tra,” Wilson đáp ngắn gọn. “Sau khi tui chỉ chỗ mọi thứ cho tay bảo trì, tui đi trở xuống. Khi bà Bestigui đi ra khỏi nhà thì tui kêu nó vô làm nhà bả luôn. Nó không cần tui ở lại chỉ dẫn gì nữa vì vị trí hộp cầu chì và nút báo động của các căn hộ đều giống y nhau.”

“Lúc đó ông Bestigui ở đâu?”

“Ổng đi làm rồi. Tám giờ là đi, sáng nào cũng vậy.”

Ba người đàn ông đội mũ bảo hộ, mặc áo dạ quang màu vàng bước vào quán và ngồi xuống ở bàn bên cạnh, dưới tay kẹp theo mấy tờ báo, giầy ủng dính đầy bùn đất.

“Mỗi lần anh chạy đi mở cửa cho cái người bảo trì mất khoảng bao lâu?”

“Khoảng năm phút trong căn hộ số hai,” Wilson nói. “Hai căn hộ còn lại thì chỉ mất khoảng một phút mỗi căn.”

“Người đó xong việc lúc mấy giờ?”

“Khoảng gần trưa. Tui không nhớ chính xác.”

“Nhưng anh chắc là anh ta đi khỏi?”

“Ờ đúng.”

“Còn ai tới nữa không?”

“Có mấy người giao hàng, nhưng bữa đó tính ra khá yên tĩnh so với mấy ngày trước đó.”

“Trước đó thì bận rộn lắm à?”

“Ờ, nhiều người đi ra đi vô, do Deeby Macc từ LA sắp tới. Mấy người từ bên hãng liên tục tới căn hộ số Hai, chuẩn bị sẵn sàng, mua đồ để sẵn tủ lạnh nữa.”

“Anh nhớ hôm đó giao hàng những gì không?”

“Thùng đồ cho Macc và Lula. Bình hoa hồng nữa, tui phải giúp một tay khiêng lên lầu vì bình hoa quá bự,” Wlison dang tay, môt tả bình hoa, “cái bình bự như vầy, tụi tui đặt trên bàn trong phòng khách ở căn hộ số Hai. Đó là cái bình hoa bị anh cảnh sát làm vỡ.”

“Anh nói vụ này sau đó rất nhức đầu, là sao?”

“Hoa đó là của ông Bestigui gởi tặng Deeby Macc, nên khi nghe bình hoa tan tành ổng tức điên. La lối um sùm.”

“Lúc nào kia?”

“Khi cảnh sát vẫn còn ở đó. Lúc họ đang lấy lời khai của bà vợ.”

“Vừa có người chết rơi ngang qua cửa sổ nhà ông ta, mà ông ta lại đi bực chuyện bình hoa bị bể?”

“Ừa,” Wilson đáp, khẽ nhún vai. “Ổng là vậy đó.”

“Ông ta có quen với Deeby Macc không?”

Wilson nhún vai cái nữa.

“Deeby Macc có tới đó lần nào chưa?”

Wilson lắc đầu.

“Sau vụ đó ổng chuyển thẳng tới khách sạn.”

“Anh mất bao lâu để giúp người giao hàng khiêng bình hoa vô căn hộ số hai?”

“Chừng năm phút, mười phút là nhiều. Sau đó tui ngồi trực bàn cả ngày.”

“Anh có nói là có thùng đồ gởi cho Macc và Lula.”

“Có, từ một tay thiết kế nào đó, nhưng tui đưa cho Lechsinka đem lên. Áo quần cho Macc và túi sách cho cô Lula.”

“Và anh nhớ tất cả những người đi vào hôm đó đều đi trở ra?”

“Đúng rồi,” Wilson nói. “Tất cả đều ghi lại trong sổ trên bàn.”

“Bao lâu thì phải đổi mật mã khóa?”

“Sau khi cô Lula chết thì phải đổi, vì mã cũ hầu như một nửa cảnh sát ở London đều biết,” Wilson nói. “Nhưng trong suốt ba tháng cô Lula ở đó thì không thay đổi gì.”

“Anh nói tôi biết mật mã là gì được không?”

“Một chín sáu sáu,” Wilson đáp.

“Họ cứ tưởng đã an bài”?[1]

[1.“They think it’s all over” : một câu nói rất nổi tiếng ở Anh, từ câu gốc “They think it’s all over… It’s now! It’s four” (Họ tưởng là đã an bài. Giờ mới thực là xong! Bốn bàn!), trích từ lời của bình luận viên Kenneth Wolstenholme trong những phút cuối cùng của trận trung kết World Cup năm 1966 giữa Anh và Tây Đức, ngay sau khi Geoff Hurst ghi bàn, ấn định tỉ số 4-2 cho đội Anh. – ND]

“Đúng vậy,” Wilson nói. “McLeod rất khó chịu với mật mã đó, cứ đòi đổi miết.”

“Anh nghĩ có bao nhiêu người biết mật mã khóa cửa trước khi Lula chết?”

“Không nhiều lắm”

“Mấy người giao hàng? Nhân viên bưu điện? Người đọc công tơ khí đốt?”

“Mấy người như vậy thường bấm chuông, rồi tụi tui mới bấm nút mở cửa cho vô. Người trong nhà thì cũng không thường dùng, vì tụi tui ngồi đó thấy hết ai sắp vô, nên luôn mở cửa trước cho họ. Khóa mật mã là để trừ trường hợp không có ai ngồi ở bàn trực; ví dụ như khi bảo vệ đi ra đằng sau hay chạy lên lầu.”

“Mỗi căn hộ đều có chìa khóa riêng?”

“Ờ, có hệ thống báo động riêng nữa.”

“Hệ thống báo động trong nhà cô Lula hôm đó có bật lên không?”

“Không.”

“Còn bể bơi và phòng tập thể dục thì sao? Mấy chỗ đó có gắn báo động không?”

“Chỉ có chìa khóa thôi. Người trong tòa nhà đều có chìa khóa bể bơi và phòng tập, kèm với chìa khóa căn hộ. Thêm một chìa khóa nữa mở cửa ra bãi đậu xe dưới tầng hầm. Cửa này thì có báo động.”

“Báo động có được bật lên không?”

“Không biết, tui không có đó lúc họ kiểm tra. Nhưng chắc có bật. Tay bên công ty bảo vệ có kiểm tra tất cả báo động sáng hôm đó.”

“Tối hôm đó tất cả các cửa đều đóng?”

Wilson ngập ngừng.

“Không phải cái nào cũng đóng. Cửa ra bể bơi còn mở.”

“Có ai dùng bể bơi hôm đó không?”

“Tôi không nhớ.”

“Vậy cửa mở trong bao lâu?”

“Tôi không biết. Colin trực tối hôm trước đó, đáng ra hắn phải kiểm tra.”

“OK,” Strike nói. “Anh nghĩ cái người mà bà Bestigui nghe thấy là Duffield, vì anh có nghe cô Lula và Duffield cãi nhau trước đó? Khi nào vậy?”

“Trước khi họ chia tay, khoảng cỡ hai tháng trước khi cổ chết. Cổ đuổi Duffield ra khỏi nhà, hắn đập rầm rầm lên cửa, đá vào cửa, tìm cách phá, gọi cổ bằng đủ thứ tên bậy bạ. Tui đi lên lầu đuổi hắn ra.”

“Anh có phải kéo hắn không?”

“Không cần. Khi hắn thấy tui hắn lượm hết đồ đạc lên – trước đó cổ vứt áo khoác và giày hắn ra ngoài – rồi đi xuống qua mặt tui. Hắn đang say thuốc,” Wilson nói thêm. “Mắt long lên, anh biết đó, mồ hôi vã ra. Mặc áo thun rất gớm in đủ thứ hình bà rằn. Tui chẳn hiểu vì sao cổ ưa hắn được.

“Kieran tới rồi,” Wilson nói tiếp. Giọng nhẹ hẳn. “Tài xế của Lula.”

7

Một thanh niên khoảng hai lăm tuổi đi vào quán. Anh ta hơi thấp, dáng thanh và cực kỳ đẹp trai.

“Ê Derrick,” anh ta lên tiếng. Anh lái xe và ông bảo vệ chào hỏi, chụp lấy cánh tay, cụng nắm đấm thân mật. Kolovas –Jones ngồi xuống ngay bên cạnh Wilson.

Anh chàng lái xe đẹp như tranh vẽ. Một thứ cốc-tai chủng tộc khó hiểu, da màu đồng-olive, gò má góc cạnh, mũi hơi khoằm, mắt hạt dẻ tối màu với lông mi đen, tóc thẳng, ôm ra sau gương mặt. Vẻ đẹp trai sửng sốt được làm dịu bớt bằng một cái áo sơ mi và cà vạt hơi già dặn. Anh chàng mỉn cười khiêm tốn, cứ như thể đang dàn hòa với những người đàn ông khác, trước khi họ kịp ghét mình.

“Xe đâu?” Derrick hỏi.

“Đậu bên đường Electric,” Kolovas-Jones chỉ ngón cái ra phía sau vai. “Được khoảng hai mươi phút. Phải trở lại bên phía Tây lúc bốn giờ. Anh khỏe không?” anh chàng nói tiếp, đưa tay ra cho Strike bắt, rồi tự giới thiệu. “Kieran Kolovas-Jones. Anh là…?”

“Cormoran Strike. Derrick nói anh muốn…”

“Vâng,” Kolovas-Jones đáp. “Tôi không biết chuyện tôi nói ra có quan trọng hay không, chắc là không, cảnh sát không thèm quan tâm. Tôi chỉ muốn kể lại với ai đó. Tôi không có ý nói vụ cô Lula không phải là tự tử, anh hiểu không?” Kieran thêm vào. “Tôi chỉ muốn nói hết ra. Làm ơn cho một cà phê,” anh ta nói với bà chạy bàn trung niên, có vẻ không hề bị anh ta quyến rũ chút nào.

“Anh lo chuyện gì?” Strike hỏi.

“Chuyện là, tôi luôn chở cô Lula,” Kolovas-Jones nói tiếp, kể lể dài dòng theo kiểu đã tập trước rồi, Strike nhận ra ngay. “Cổ lúc nào gọi tôi.”

“Cô Lula có hợp đồng với công ty anh không?”

“À, ờ…”

“Mọi thứ đều qua ban trực,” Derrick lên tiếng. “Gói dịch vụ có hết. Nếu ai cần xe thì tụi tui gọi cho Execars, là chỗ Kieran làm.”

“Ờ, nhưng lần nào cô Lula cũng yêu cầu tôi lái,” Kolovas-Jones kiên quyết nhắc lại.

“Anh thân với cô ấy lắm hả?”

“Ờ, rất là thân thiện,” Kolovas-Jones tiếp. “Tôi với Lula, tôi không nói là gần gũi gì hết, ờ mà thực ra cũng thân. Tụi tôi rất thân thiện; không chỉ là lái xe với khách, anh hiểu không?”

"Thế à? Thân như thế nào?"

"Không, không phải chuyện đó," Kolovas-Jones nhe răng cười. "Không có chuyện đó."

Nhưng Strike cũng nhận thấy anh chàng hí hửng ra mặt khi có người nhắc tới khả năng đó.

"Tôi lái cho Lula được một năm rồi. Tụi tôi hay nói chuyện với nhau. Tại có nhiều điểm chung. Chẳng hạn như gốc gác này kia, anh hiểu không?"

“Là sao kia?”

“Tụi tôi đều là con lai,” Kolovas-Jones giải thích. “Mọi thứ trong gia đình tôi khá lộn xộn, nên tôi hiểu Lula. Cô ấy không biết có nhiều người giống mình, nhất là sau khi cô ấy nổi tiếng, rất ít khi được nói chuyện thân tình với ai.”

“Chuyện con lai với Lula quan trọng lắm hả?”

“Cổ là da đen trong gia đình da trắng, anh nghĩ sao?”

“Hồi nhỏ anh cũng giống Lula vậy hả?”

“Ba tôi nửa Caribe, nửa Wales; mẹ tôi nửa Liverpoool, nửa Hi Lạp. Lula thường nói là cô ấy ganh tị với tôi,” Anh lái xe nói, ngồi thẳng người. “Cổ nói là, ‘Ít ra anh còn biết anh ở đâu ra, mặc dù từ tùm lum chỗ.’ Và hôm sinh nhật tôi, nhé,” Anh chàng thêm vào, như thể cần phải gây ấn tượng thêm với Strike về tầm quan trọng của sự việc, “cổ tặng tôi một cái khoác Guy Somé, khoảng chừng chín trăm bảng nhé.”

Có vẻ nói tới đây Kieran chờ đợi một phản ứng từ người nghe, Strike gật đầu, tự hỏi không biết liệu Kolovas-Jones đến đây chỉ để kể chuyện anh ta thân với Lula ra sao. Thỏa mãn, anh chàng nói tiếp:

“Vậy là hôm cổ chết… ngay trước đó thì đúng hơn, tôi lái xe chở cổ đi gặp mẹ buổi sáng. Cổ không vui lắm. Cổ không bao giờ thích đi thăm bà già.”

“Tại sao không?”

“Vì cái bà đó quái bỏ cha đi được,” Kolovas-Jones trả lời. “Tôi từng lái xe chở cả hai đi một lần, hồi sinh nhật bà ta. Phu nhân Yvette là người rất kỳ khôi. Cưng ơi, cưng à với Lula, nói gì cũng đệm vô mấy chữ đó. Bà cứ bám riết cô Lula. Anh có thất rất là kỳ cục, ích kỷ và hơi sến không?

“Trở lại hôm đó, bà già cô Lula mới ra viện, vụ đó đương nhiên đâu có cái gì vui, hả. Cổ cũng không háo hức gặp bà già. Cổ có vẻ căng thẳng sao đó, không giống như trước.

“Rồi tôi nói là tối hôm đó tôi không lái cho cổ được vì mắc lái cho Deeby Macc, cổ không vui chút nào.”

“Tại sao?”

“Vì cổ thích tôi lái hơn, không đúng vậy à?” Kolovas-Jones đáp, cứ như Strike chậm hiểu. “Tôi hay đỡ cô tránh nhà báo, với cổ tôi còn là vệ sĩ mỗi khi cổ đi tới chỗ này chỗ kia.”

Wilson khẽ nhăn mặt, tỏ rõ thái độ trước chuyện Kolovas-Jones đi làm vệ sĩ.

“Vậy sao anh không đổi với người khác, rồi lái cho cô Lula thay vì Macc?”

“Tôi đổi cũng được, nhưng tôi không muốn vậy,” Kolovas-Jones thú thật. “Tôi rất mê Deeby. Lúc nào cũng muốn gặp ổng. Vậy nên Lula rất bực. Sau đó,” Kieran nói nhanh, “Tôi chở Lula về nhà bà già, rồi ngồi đợi, rồi bấy giờ tới đoạn mà tôi rất muốn kể cho anh nghe.”

“Cô Lula đi ra khỏi nhà bà già, có gì đó rất khác. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy cổ như vậy cả. Im lặng, không nói gì. Giống như bị sốc hay sao đó. Rồi cổ hỏi tôi có cậy viết nào không, cổ viết gì đó trên một tờ giấy màu xanh. Không nói gì với tôi hết. Không nói gì hết trơn. Chỉ ngồi viết vậy thôi.”

“Rồi tôi chở cổ tới Vashti, tại cổ có hẹn với bạn ăn trưa…”

“Vashti là gì? Bạn là ai?”

“Vashti là một cái cửa hàng quần áo nhỏ - người ta hay gọi là boutique. Ở trong có quán café, rất là sành điệu. Và bạn cổ là…” Kolovas-Jones bẻ đốt ngón tay, nhăn trán. “Là cái người quen với cô Lula từ hồi ở bệnh viện, hồi cô Lula đi điều trị. Tên khỉ gì ấy nhỉ? Tôi thường lái xe trở cả hai đi. Trời đất… tên gì nhỉ, Ruby? Roxy? Raquelle? Đại loại vậy. Cô ta ở nhà trọ St Elmo dưới Hammersmith. Cô ta không có nhà cửa gì.”

“Rồi, Lula đi vô Vashti, lúc sáng cổ có nói với tôi là sẽ ăn trưa ở đó, nhưng mà vô trong chỉ mới mười lăm phút thì cổ đi ra một mình, nói tôi chở về nhà. Thật kỳ cục. Và cái cô tên Raquelle hay gì đó – chút nữa có khi tôi nhớ ra – không đi chung với Lula nữa. Tờ giấy xanh cũng không có đó nữa. Trên suốt đường về Lula không nói gì với tôi hết.”

“Anh có kể với cảnh sát về tờ giấy không?”

“Có. Họ nghĩ là không đáng gì hết,” Kolovas-Jones nói. “Họ nói chắc là giấy ghi mấy thứ cần mua.”

“Anh có nhớ tờ giấy trông ra làm sao không?”

“Màu xanh dương. Giống như giấy viết thư.”

Kieran nhìn đồng hồ.

“Mười phút nữa tôi phải đi.”

“Đó là lần cuối cùng anh gặp Lula?”

“Đúng vậy.”

Kieran cạy kẽ móng tay.

“Khi anh nghe tin Lula, anh nghĩ gì trước hết?”

“Tôi không biết,” Kolovas-Jones trả lời, cắn móng tay vừa mới cạy. “Tôi sốc bỏ mẹ đi được. Ai nghĩ tới chuyện đó? Vừa gặp cổ ngay mấy tiếng trước. Báo chí nói là Duffield làm, vì tối hôm đó hai người cãi nhau trong hộp đêm. Nói thật với anh, lúc đó tôi cũng nghĩ chắc là Duffield. Thằng chó.”

“Anh biết anh ta à?”

“Tôi lái xe chở hai người đi vài lần,” Kolovas-Jones trả lời. Mũi hơi hỉnh lên, miệng mím lại, như thể có mùi gì khó chịu.

“Anh nghĩ sao về Duffield?”

“Tôi nghĩ hắn là một thằng khốn nạn bất tài.” Đột nhiên, Kieran trơn tru giả giọng ngang phè, điệu đàng: “Chút nữa mình có cần nó nữa không hả Lules? Vậy để nó đợi, nha?” Kolovas-Jones tức tối.

“Chưa bao giờ nói thẳng với tôi. Thằng ngu, chẳng ra làm sao.”

Derrick lên tiếng, ra vẻ bí hiểm. “Kieran đây còn là diễn viên nữa.”

“Chỉ toàn vai nhỏ thôi.” Kolovas-Jones giải thích “Cho tới giờ.”

Rồi anh chàng nói qua mấy bộ phim truyền hình có tham gia. Strike thấy Kieran rất muốn được người ta biết đến, khao khát danh vọng, muốn biết sự nổi tiếng đến bất ngờ, nguy hiểm và khiến người ta đổi đời ra sao. Suốt ngày chở những người nổi tiếng trong xe, mà vẫn chưa bao giờ chạm tới sự nổi tiếng. Anh chàng ắt hẳn vừa sốt ruột vừa tức tối.

“Kieran từng đi thử vai cho Freddie Bestigui,” Wilson thêm vào “Đúng không vậy?”

“Đúng vậy,” Kolovas-Jones trả lời, không có vẻ hứng thú gì cả.

“Sao hay vậy?” Strike hỏi.

“Cũng theo kiểu thường thôi,” Kolovas-Jones nói, có chút kiêu ngạo. “thông qua người đại diện của tôi.”

“Nhưng sau đó không tới đâu hả?”

“Họ quyết định thay đổi kịch bản mà,” Kolovas-Jones kể, “Họ bỏ vai đó đi.”

“OK, vậy hôm đó anh đi đón Deeby Macc từ đâu – sân bay Heathrow à?”

“Nhà ga số Năm ở Heathrow,” Kolovas-Jones trả lời, quay về với thực tế tầm thường, rồi nhìn vào đồng hồ. “Tôi phải đi đây.”

“Tôi đi ra xe với anh nhé?” Strike hỏi.

Wilson cũng vui vẻ muốn đi theo; Strike trả tiền cho cả ba người. Họ ra khỏi quán. Trên vỉa hè Strike rút thuốc lá ra mời cả hai; Wilson từ chối, Kolovas-Jones lấy một điếu.

Một chiếc Mercedes màu bạc đậu gần đó, gần góc đường Electric.

“Sau đó anh chở Deeby đi đâu?” Strike hỏi Kolovas-Jones, lúc này họ đã tới khá gần chiếc xe.

“Ổng ưa đi hộp đêm, nên tôi chở tới Barrack.”

“Anh tới đó lúc mấy giờ?”

“Tôi không biết… mười một rưỡi? Mười hai giờ kém mười lăm. Ổng có vẻ căng thẳng, nói chưa muốn đi ngủ.”

“Tại sao lại tới Barrack?”

“Tối thứ sáu ở Barrack là chỗ có hip-hop hay nhất London,” Kolovas-Jones trả lời, cười cười, như thể ai cũng biết điều đó vậy. “Ổng có vẻ thích lắm, tại tới gần ba giờ ổng mới ra lại.”

“Vậy anh chở Macc về lại Kentigern Gardens rồi mới thấy cảnh sát đầy ở đó, hay...?”

“Tôi đã nghe tin trên radio trước rồi,” Kolovas-Jones nói. “Tôi kể với Deeby khi ổng vô xe. Nhân viên của ổng bắt đầu gọi điện loạn xạ, đánh thức mấy người bên hãng đĩa hát, sắp xếp lại mọi thứ. Họ kiếm cho ổng được một phòng ở khách sạn Claridges; tôi chở ổng về đó. Năm giờ sáng tôi mới về tới nhà. Bật TV lên xem lại trên kênh Sky. Khốn kiếp không thể tin nổi.”

“Tôi cứ tự hỏi không biết ai nói trước với đám paparazzi đứng trước tòa nhà số mười tám là mấy tiếng sau Deeby mới về. Nghe đâu có ai nói vậy nên họ mới bỏ ra về hết trước khi Lula ngã xuống.”

“Vậy hả, tôi không biết.” Kolovas-Jones đáp.

Anh chàng bước nhanh hơn một chút, tới xe trước hai người còn lại và bấm mở khóa.

“Macc không mang theo hành lý gì à? Có để trong xe anh không?”

“Không, bên hãng đĩa hát cho gởi đi trước vài ngày rồi. Ổng xuống máy bay chỉ có một cái túi xách tay, và khoảng mười vệ sĩ.”

“Vậy xe anh không phải là chiếc xe đi đón duy nhất?”

“Có bốn chiếc tất cả, nhưng Deeby ngồi trong xe tôi.”

“Khi ông ta ở trong hộp đêm anh đợi ở đâu?”

“Tôi chỉ đậu xe và ngồi đợi thôi,” Kolovas-Jones trả lời. “gần phố Glasshouse.”

“Còn ba chiếc nữa ở đâu? Mấy anh không đậu cùng chỗ hả?”

“Ở London dễ gì tìm được bốn chỗ đậu xe liên tiếp hả ông bạn,” Kolovas-Jones nói. “Tôi không biết ba đứa kia đậu ở đâu.”

Lúc này Kieran đã mở cửa xe, anh ta liếc nhìn Wilson rồi lại nhìn Strike.

“Nhưng chuyện này thì liên quan gì?” Anh ta hỏi.

“Tôi muốn biết khi lái xe riêng cho khách thì ra sao thôi.”

“Chán bỏ mẹ,” Kolovas-Jones trả lời, có vẻ bực tức. “Nghề này thì tới vậy thôi. Lái xe phần lớn là ngồi một chỗ đợi.”

“Anh còn giữ chìa khóa garage tầng hầm Lula đưa không?” Strike hỏi.

“Gì kia?” Kolovas-Jones hỏi lại, mặc dù Strike cá là anh ta đã nghe rõ câu hỏi. Vẻ hằn học của anh lái xe trở nên rõ ràng hơn, không chỉ với Strike, mà còn với cả Wilson, từ đầu tới cuối ngồi yên, trừ lúc xen vào kể chuyện Kolovas-Jones là diễn viên.

“Anh còn giữ…”

“Còn, còn giữ. Tôi vẫn phải chở ông Bestigui còn gì?” Kolovas-Jones trả lời, “Thôi, tôi phải đi đây. Tạm biệt Derrick.”

Anh ta vứt điếu thuốc hút dở xuống đường và ngồi vào xe.

“Nếu anh còn nhớ ra gì nữa,” Strike dặn, “ví dụ như tên của cô bạn Lula gặp ở Vashti, anh gọi điện cho tôi nhé?”

Strike đưa danh thiếp cho Kolovas-Jones. Anh ta đã cài xong dây an toàn, cầm lấy cái danh thiếp mà không thèm nhìn.

“Khéo mà trễ mất.”

Wilson vẫy tay chào. Kolovas-Jones đóng sầm cửa xe lại, khởi động, đánh xe ra khỏi bãi và nổ máy chạy đi.

“Nói hơi bị lậm mấy vụ sao siếc nổi tiếng,” Wilson nói, khi chiếc xe đã đi hẳn, như thể đang xin lỗi giùm cho anh chàng lái xe. “Nó rất thích lái xe cho cô Lula. Nó luôn tìm cách lái cho mấy người nổi tiếng. Nó đã rất hi vọng là Bestigui sẽ cho nó thử một vai, chờ đằng đẵng hai năm trời. Nên lúc không được gì nó rất tức.”

“Vai gì vậy?”

“Một tay buôn ma túy. Phim gì đó.”

Hai người cùng về phía ga tàu điện Brixton. Trên đường có mấy nữ sinh da đen mặc váy xếp màu xanh đang túm tụm cười nói. Một cô bé có tóc tết xâu hạt làm Strike lại nghĩ đến em gái Lucy.

“Ông Bestigui vẫn còn ở đó đúng không?” Strike hỏi.

“Đúng vậy.” Wilson đáp.

“Còn hai căn hộ kia thì sao?”

“Hai vợ chồng một tay môi giới chứng khoán người Urkraine thuê căn số hai. Một tay người Nga đang hỏi thuê căn số ba, nhưng chưa ra giá.”

Một người đàn ông nhỏ thó, râu rậm, mặc áo choàng như nhà tiên tri trong Kinh thánh chạy băng qua trước mặt, lè lưỡi trêu, khiến Strike và Wilson phải dừng lại. Strike hỏi “Hôm nào anh cho tôi vào trong nhà xem được không?”

“Cũng được,” Wilson đáp sau khi liếc nhìn chân Strike. “Cứ gọi tui. Nhưng phải đợi lúc ông bà Bestigui không có nhà, anh hiểu không. Ổng khó tính lắm, mà tui thì cần việc làm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Ý nghĩ tuần tới trong văn phòng vẫn có người cùng ngồi khiến cuối tuần một mình của Strike thú vị hẳn, đỡ chán và cũng được việc hơn. Trong hai ngày cuối tuần, hắn không xếp giường lại. Hắn mở cửa phòng trong thông ra văn phòng ngoài, tận hưởng sự riêng tư. Chán mùi chanh tổng hợp, hắn mở luôn cánh cửa sổ vốn đóng rất chặt ngay sau bàn làm việc. Một làn gió trong mát lùa vào như muốn gột sạch hết mấy góc phòng mốc meo. Hắn tránh không bật đĩa nhạc hay bài hát nào có thể gợi nhớ đến những ngày buồn vui với Charlotte. Hắn chọn Tom Waits, bỏ đĩa vào chiếc máy CD mà hắn tưởng đã mất từ lâu nhưng tự dưng lại thấy ở ngay dưới đáy thùng đồ, rồi loay hoay lắp chiếc TV tiện lợi với cái ăng-ten nhỏ xíu. Xong việc hắn bỏ hết quần áo đã mặc vào một túi ni lông đen thường dùng để đựng rác rồi vác ra hiệu giặt ủi cách đó gần một cây số. Giặt đồ xong hắn treo áo sơ mi và đồ lót lên sợi dây căng giữa phòng và ngồi xem trận ba giờ chiều giữa Arsenal và Spurs.

Khi làm những việc tủn mủn đó, Strike cảm thấy y như lúc hắn nằm viện, cứ như luôn có một con ma đang dõi theo hắn. Con ma lởn vởn trong bốn góc phòng tồi tàn; thì thào với hắn mỗi khi hắn lơi tay. Nó cứ lải nhải rằng hắn đã trượt dài ra sao, tuổi tác, túng tiền, thất tình, không nhà không cửa. Ba-mươi-lăm, con ma nói thầm, mà chẳng có gì ngoài bốn cái thùng giấy và một cục nợ to đùng. Con ma khiến mắt hắn nhìn vào mấy lon bia trong siêu thị khi đi mua thêm mì ăn liền. Nó giễu cợt khi hắn phải ủi áo sơ mi ngay trên sàn nhà. Cứ thế, nó nhạo cả thói quen phải ra ngoài mỗi khi hút thuốc, như thể hắn vẫn còn trong quân đội, như thể hắn đang dùng chút kỷ luật cá nhân ít ỏi để thay đổi thực tại phũ phàng. Vậy là hắn bắt đầu hút thuốc ngay ở bàn làm việc. Đầu thuốc vứt đầy trong cái gạt tàn thiếc rẻ tiền mà hắn chôm từ một quán bar ở Đức hồi lâu lắc.

Nhưng dù gì hắn vẫn còn có một công việc, hắn liên tục nhắc mình; công việc có thu nhập đàng hoàng. Trận đó Arsenal thắng Spurs, Strike thấy vui hẳn. Hắn tắt TV, chấp luôn con ma, ngồi lại bàn và tiếp tục làm việc.

Mặc dù được tự do thu thập và sắp xếp chứng cứ, Strike vẫn làm theo quy trình của Luật điều tra hình sự. Một mặt hắn nghĩ Bristow rõ là hoang tưởng, mặt khác hắn vẫn ghi chép vô cùng kỹ lưỡng và chính xác tất cả những thông tin có được từ Bristow, Wilson và Kolovas-Jones.

Lucy gọi điện lúc sáu giờ tối khi hắn đang rất tập trung làm viêc. Lucy nhỏ hơn hắn hai tuổi nhưng lúc nào cũng tỏ ra già dặn hơn. Mặc dù còn trẻ nhưng Lucy đã có nhà riêng, một ông chồng nghiêm nghị, ba đứa con và một công việc khá vất vả. Em gái hắn dường như lúc nào cũng muốn có thêm trách nhiệm, như thể bao nhiêu cũng không đủ. Strike đoán rằng Lucy luôn muốn chứng tỏ với bản thân mình và cả thế giới rằng nó không giống người mẹ ăn chơi chút nào. Người mẹ từng tha hai anh em đi khắp nước Anh, chuyển từ trường này qua trường khác, hết ở nhà hoang đến cắm trại, chỉ để thêm nguồn cảm hứng hay người đàn ông mới. Strike có tám anh chị em tính luôn con riêng của bố và mẹ nhưng chỉ lớn lên cùng với Lucy. Mặc dù hắn thương Lucy dường như hơn bất kỳ ai trên đời nhưng hai anh em không hợp nhau, lần nào nói chuyện cũng cãi vã, gây gổ xoay quanh chừng đó chuyện. Lucy không thể che giấu nỗi lo lắng và thất vọng về hắn. Vì vậy, Strike thường không thể nói thật hết với Lucy như với bạn bè.

“Ừ, mọi chuyện ổn cả,” hắn vừa nói vừa phả khói thuốc ra ngoài cửa sổ, ngắm dòng người ra vào cửa hàng ở tầng dưới. “Công việc dạo này nhiều gấp đôi.”

“Anh ở đâu đó? Em nghe có tiếng xe.”

“Ở văn phòng. Anh phải làm mấy việc giấy tờ.”

“Thứ Bảy mà cũng đi làm? Charlotte không nói gì sao?”

“Cổ đi thăm mẹ rồi.”

“Hai người sao rồi?”

“Tốt đẹp hết.” hắn đáp.

“Chắc không đó?”

“Ừ, chắc. Greg sao rồi?”

Lucy lập tức than vãn một thôi một hồi về ông chồng tham công tiếc việc, trước khi quay lại tấn công hắn.”

“Gillespie còn đòi nợ anh không?”

“Không.”

“Stick à, anh biết không…” mỗi khi Lucy mềm mỏng gọi hắn bằng biệt danh lúc nhỏ là y như rằng cô nàng muốn thuyết phục hắn chuyện gì, “Em có tìm hiểu qua vụ này, anh có thể làm đơn xin vay từ bên quân đội để mà…”

“Dẹp mẹ nó đi Lucy.” Strike buột miệng.

“Cái gì?”

Lucy bắt đầu dỗi. Kịch bản quen thuộc. Hắn nhắm mắt lại.

“Lucy, anh không cần xin gì từ bên quân đội cả, được chưa?”

“Đâu cần phải làm cao như vậy…”

“Mấy thằng nhỏ sao rồi?”

“Tụi nó ổn hết. Nghe này Stick, em nghĩ thật không tưởng tượng được vụ Rokeby dán thuê luật sư ăn hiếp anh, ổng chẳng bao giờ cho anh đồng nào. Đáng ra ổng phải cho anh luôn, anh khổ vậy còn ổng thì…”

“Công việc đang rất tốt. Anh sẽ trả hết nợ.” Strike nói. Bên kia đường một cặp choai choai đang cãi nhau.

“Anh với Charlotte ổn hết thật hả? Tự dưng đi thăm mẹ vậy? Em tưởng là cổ với mẹ cổ không ưa gì nhau?”

“Giờ đỡ hơn nhiều rồi,” Strike nói. Con bé bên kia đường huơ tay loạn xạ, giẫm chân đùng đùng rồi bỏ đi.

“Anh mua nhẫn chưa?” Lucy hỏi tiếp.

“Tưởng em muốn anh trả nợ cho xong đã?”

“Không có nhẫn cổ cũng chịu hả?”

“Charlotte rất được. Cổ nói không cần nhẫn nhiếc gì, để tiền làm ăn trước.”

“Thật hả? Lucy cứ nghĩ Strike không biết chuyện cô chẳng ưa gì Charlotte. “Anh tới dự sinh nhật thằng Jack chứ?”

“Khi nào?”

“Em gởi thiệp cả tuần rồi mà, Stick!”

Có khi Charlotte đã bỏ cái thiệp vào một trong mấy cái thùng chưa mở. Hắn vẫn chưa lấy hết đồ đạc ra vì không có đủ chỗ chứa trong văn phòng.

“Rồi, anh sẽ tới,” hắn nói, thực bụng không hề muốn đi chút nào.

Nói chuyện xong hắn trở lại máy tính làm việc. Phần ghi chép từ lời kể của Wilson và Kolovas-Jones đã hoàn tất, nhưng cảm giác bực bội vẫn đọng lại. Kể từ khi giải ngũ, đây là vụ đầu tiên hắn được làm nhiều việc hơn là rình mò theo dõi kẻ này kẻ nọ. Cứ như thể ai đó muốn nhắc cho hắn biết rằng giờ hắn chẳng còn chút quyền lực nào cả. Freddie Bestigui-người ở gần Lula nhất trong đêm đó vẫn kiên quyết nấp sau đám tay chân tiểu tốt, không tài nào tiếp cận được, và cho dù John Bristow quả quyết ông ta sẽ thuyết phục được Tansy Bestigui gặp hắn, đến giờ vẫn chưa có gì là chắc chắn.

Vừa cảm thấy hơi bất lực, vừa coi thường cái nghề nghiệp chẳng đâu vào đâu của mình – có lẽ không khác mấy với thái độ của vị hôn phu của Robin, Strike quay sang tìm kiếm trên internet cho đỡ nản. Hắn tìm ra Kieran Kolovas-Jones ngay: anh chàng lái xe không hề nói dối về phim The Bill, trong phim anh ta có đúng 2 câu thoại (phân vai: Tay xã hội đen thứ hai… Kieran Kolovas-Jones). Anh ta đúng là có ông bầu riêng. Trên trang của ông bầu, Kieran được đăng một tấm hình nhỏ, cùng với danh sách các vai tham gia, trong đó có vai quần chúng trong phim bộ EastEnders và Casualty. Ảnh của Kieran trên trang của công ty Execars to hơn hẳn. Trong ảnh anh chàng đứng một mình, mặc đồng phục đội mũ kếp, trông như ngôi sao điện ảnh. Rõ là tay tài xế đẹp trai nhất công ty.

Màn đêm buông xuống bên ngoài cửa sổ; tiếng Tom Waits gầm gừ rên rỉ vẫn vọng ra từ chiếc máy CD trong góc phòng. Strike tiếp tục đuổi theo những dấu vết của Lula Landry trong thế giới ảo, thỉnh thoảng dừng tay ghi chép.

Hắn không tìm ra trang Facebook nào của Landry cả, cô ta hình như cũng chưa bao giờ dùng Twitter. Dường như Lula càng từ chối thỏa mãn sự tò mò của người hâm mộ về đời tư của mình thì người ta càng muốn lấp đầy khoảng trống của cô trong thế giới ảo. Có vô số trang mạng đăng lại hình của Lula và say sưa bình luận về đời tư của cô. Nếu một nửa thông tin trên đó là sự thật thì có lẽ Bristow đã quá ưu ái và nhẹ lời khi kể về cô em gái bê tha. Lula hư hỏng từ khá sớm. Cha nuôi của Lula là Ngài Alec Bristow, một ông già hiền lành rậm râu, người sáng lập ra công ty điện tử Albris. Sau khi Ngài Bristow qua đời vì đau tim, Lula bỏ học hai lần. Lần thứ ba thì bị nhà trường đuổi học. Tất cả những trường cô học đều là trường tư đắt tiền. Bạn cùng ký túc xá từng tìm thấy Lula nằm trong vũng máu sau khi rạch cổ tay tự tử. Lula từng sống lang thang, cảnh sát có lần tìm ra cô trong một ngôi nhà bỏ hoang. Trang web LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com, do một fan cuồng không rõ nam hay nữ lập ra còn quả quyết rằng trong thời gian đó Lula làm gái để kiếm sống.

Sau đó Lula bị điều trị bắt buộc theo Luật Sức khỏe Tâm thần, bị chuyển đến khoa có người canh giữ dành riêng cho các bệnh nhân trẻ tuổi bệnh nặng và được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Chưa đầy một năm sau, câu chuyện cổ tích bắt đầu khi một tay săn người mẫu tình cờ phát hiện ra Lula khi cô đang đi mua quần áo với mẹ ở một cửa hàng trên phố Oxford.

Trong những tấm ảnh đầu tiên, Lula lúc đó mới mười sáu tuổi, có gương mặt như Nữ hoàng Ai Cập Nefertiti. Trước ống kính Lula trông vừa trần tục vừa mong manh với đôi chân dài như hươu cao cổ và một vết sẹo ngoằn ngoèo ở mặt trong cánh tay trái. Các biên tập viên thời trang có vẻ thích đặt vết sẹo ngay bên gương mặt sắc sảo của cô, có khá nhiều hình chụp kiểu này. Sắc đẹp của Lula dữ dội đến gần như vô lý. Trong những bài cáo phó và các bài blog khóc thương, người ta nhắc đến sự quyến rũ của Lula, kèm theo đó là tính khí thất thường, dễ bùng nổ cũng nổi tiếng không kém. Báo giới lẫn công chúng xem ra vừa yêu mến Lula vừa khoái “ném đá” cô. Một nữ nhà báo nhận xét Lula là người “ngọt ngào kỳ lạ, bản tính ngây thơ không ngờ”; trong khi một nhà báo khác cho rằng Lula “nói cho cùng cũng chỉ là một bà hoàng đỏng đảnh, tính toán, xảo quyệt và cố chấp.”

Chín giờ tối, Strike đi ra phố Tàu mua một phần cơm rồi trở về văn phòng, đổi đĩa Tom Waits bằng Elbow và tiếp tục tìm thông tin về Evan Dufield trên mạng, mặc dù dường như tất cả (kể cả Bristow) đều đã chấp nhận là tay này vô can.

Nếu anh tài xế Kieran Kolovas-Jones không tỏ ra ghen tị với Duffield về mặt sự nghiệp thì Strike cũng chẳng biết tay này nổi tiếng vì cái gì. Internet cho biết rằng Duffield nổi tiếng sau một bộ phim độc lập được giới phê bình đánh giá cao. Trong phim anh ta đóng vai một nhân vật không khác mình mấy ở ngoài đời: một nhạc sĩ nghiện heroin phải trộm cắp để có tiền chích choác.

Lợi dụng danh tiếng của Duffield sau bộ phim, ban nhạc của anh ta tung ra một album khá đình đám rồi tan rã cũng ồn ào không kém khi Duffield gặp Lula. Cũng như Lula, Duffield cực kỳ ăn ảnh, ngay cả trong những tấm ảnh chụp từ xa không chỉnh sửa gì, cho thấy anh ta ăn mặc lôi thôi đi lang thang trên đường, hay những tấm chụp Duffield đang giận dữ chửi rủa phóng viên (kể ra số này khá là nhiều). Sự kết hợp giữ hai con người xinh đẹp nhưng rắc rối này dường như tăng thêm sức hút của cả hai, hễ ai quan tâm đến người này sẽ quan tâm đến người kia và ngược lại, cứ như thế.

Cái chết của cô bạn gái càng khiến Duffield thêm nổi tiếng, giờ đây hắn ta vừa được ngưỡng mộ, vừa bị gièm pha, lại nhuốm chút ly kỳ. Tên tuổi Duffield được bao quanh một vầng đen u ám thoảng mùi chết chóc: từ các fan cuồng nhất cho đến những người ghét Duffield đều tỏ vẻ thích thú trước cái ý nghĩ rằng hắn coi như đã đặt một chân sang thế giới bên kia; rằng chuyện hắn sẽ tàn lụi và bị quên lãng là không thể nào tránh khỏi. Duffield có vẻ ưa nói về chủ đề này. Trên Youtube có nhiều clip ngắn quay cảnh hắn vừa phê thuốc vừa nói lảm nhảm, bằng cái giọng y như Kolovas-Jones giả bộ. Hắn lè nhè lý luận rằng cái chết không khác gì rời khỏi một bữa tiệc, vậy thì phải đi về nhà sớm thì cũng đâu có gì đáng phải khóc.

Theo nhiều nguồn khác nhau, Duffield rời khỏi hộp đêm không lâu sau khi Lula bỏ về, khi đó hắn mang mặt nạ chó sói. Với Strike, hành động này đơn thuần là trò vớ vẩn của đám sao siếc. Lời khai của Duffield dù không thỏa mãn nhiều cư dân mạng thích tưởng tượng nhưng đủ làm cảnh sát tin rằng hắn không dính dáng gì đến sự vụ sau đó tại Kentigern Gardens.

Strike vừa tiếp tục suy đoán, vừa lướt qua các trang mạng và blog khác. Thỉnh thoảng lại xuất hiện những giả thuyết hết sức quả quyết về cái chết của Lula, nhấn mạnh đến những dấu vết mà cảnh sát bỏ qua. Có lẽ Bristow cũng từng đọc qua những trang này. Trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com còn có nguyên một danh sách Những câu hỏi không có câu trả lời, trong đó câu thứ năm là “Ai đã bỏ nhỏ cho phóng viên rời khỏi hiện trường trước khi Lula rơi xuống?”; câu số chín, “Tại sao hai người đàn ông che mặt gần hiện trường lúc hai giờ sáng không ra trình diện? Họ ở đâu và là những ai?”; và câu số mười ba, “Tại sao lúc rơi xuống Lula mặc đồ khác với lúc mới vào nhà?”

Nửa đêm, Strike đọc đến vụ ồn ào mà Bristow từng nhắc tới, vừa đọc vừa uống bia. Khi vụ này nổ ra Strike cũng có nghe đến nhưng không quan tâm mấy. Hắn nhớ một tuần sau khi có kết luận vụ Lula là tự tử, người ta trạm cãi kịch liệt về tấm ảnh quảng cáo của nhà thiết kế Guy Somé. Trong ảnh hai người mẫu đứng trong một con hẻm dơ bẩn, không mặc gì trừ mấy cái túi xách che những chỗ ý nhị, thêm khăn quàng cổ và đồ trang sức. Landry ngồi vắt vẻo trên thùng rác còn Ciara Porter bò dưới mặt đất. Cả hai đều đeo cánh thiên thần: cánh của Porter màu trắng như thiên nga còn của Landry màu xanh đen ánh đồng sáng loáng.

Strike nhìn bức ảnh trong vài phút, cố phân tích xem tại sao gương mặt của Lula khiến người ta không thể rời mắt, cứ như thể cô ta thống trị cả khuôn hình. Bằng cách nào đó Lula khiến cho sự phi lý và tính dàn dựng của bức ảnh biến mất, câu chuyện trong ảnh trở nên rất thật, hoàn toàn tin được. Trong ảnh, Lula là thiên thần mắc đọa vì lòng tham, vì quá ham muốn những món đồ mà cô ta đang ôm vào người. Bên cạnh Lula, Ciara Porter đẹp thánh thiện nhưng chỉ đáng làm nền, nhợt nhạt và thụ động không khác gì một bức tượng.

Khi chọn dùng tấm ảnh này, Guy Somé chịu không ít búa rìu dư luận, trong đó có những lời khá cay nghiệt. Nhiều người cho rằng Smoé lợi dụng cái chết của Landry và quay ra nhạo báng những lời lẽ tha thiết mà người phát ngôn của Somé dành cho Lula. Tuy vậy, trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com lại cho rằng ắt hẳn Lula cũng muốn bức ảnh đó được đăng; rằng cô ta và Guy Somé là bạn cực kỳ thân thiết: Lula yêu quý Guy như một người anh trai và chắc hẳn sẽ không phản đối việc Guy dùng tấm ảnh như lời tôn vinh cuối cùng dành cho sự nghiệp và sắc đẹp của cô. Đây là một tấm ảnh biểu tượng, nó sẽ còn mãi và giữ cho Lula mãi sống động trong ký ức của chúng ta, những người vô cùng yêu quý cô.

Strike nốc hết lon bia, nghĩ về những từ cuối cùng trong câu đó. Hắn chẳng bao giờ hiểu được tình cảm thân thiết của fan dành cho những người nổi tiếng mà mình chưa một lần gặp mặt. Nhiều người khi gặp hắn cứ nhắc đến cha hắn, rằng “Jonny già” thế này thế nọ, rồi mỉm cười sung sướng như đang nói về một người bạn chung, rồi lặp đi lặp lại những truyền kỳ đăng nhan nhản trên báo cứ như đó là kỷ niệm của riêng họ. Trong một quán bia ở Trescothick, một người từng thốt lên với Strike rằng: “Quả thật, tao rành ông già mày còn hơn mày nữa!” chỉ vì anh ta kể được tên của nhạc công chơi trong album thành công nhất của Deadbeats, tay này về sau nổi tiếng vì bị Rokeby nổi giận tộng cho một cú vào kèn saxophone gãy cả răng.

Một giờ sáng. Strike gần như miễn dịch luôn với tiếng guitar bass thình thịch liên tục vọng lên từ tầng trệt và những âm thanh kẽo kẹt xì xụp thỉnh thoảng phát ra từ tầng trên, nơi tay chủ quán bar đang nấu nướng tắm giặt. Mệt mỏi, nhưng vẫn chưa thể đi ngủ, Strike lần ra thêm địa chỉ nhà Guy Somé ở đâu đó trên phố Charles, khá gần với Kentigern Gardens. Rồi hắn gõ địa chỉ www.arrse.co.uk, trụ sở giải trí trên mạng của cánh quân nhân, tự nhiên như thể đi đến quán nhậu quen thuộc sau ca làm việc dài.

Lần gần nhất hắn vào trang này đã cách nay mấy tháng. Lần đó Charlotte phát hiện ra và nhảy dựng lên như thể hắn đang xem phim con heo. Sau đó là một vụ cãi vã dữ dội vì cô ta nghĩ rằng hắn vẫn còn nhớ đời lính và không thỏa mãn với hiện tại.

Trang web viết đúng kiểu tâm lý quân nhân, bằng một thứ ngôn ngữ Strike thông thạo. Tại đây hắn lại được thấy những từ viết tắt quen thuộc; những chuyện đùa người ngoài không thể hiểu được và những mối quan tâm của người trong quân ngũ, từ người cha lo cho con bị ăn hiếp ở trường học trên đảo Síp, cho tới những chỉ trích nhằm vào Thủ tướng tại cuộc điều tra về vai trò của nước Anh trong chiến tranh Iraq. Strike đọc hết trang này đến trang khác, thỉnh thoảng bật cười, nhưng vẫn cảm nhận rõ là hắn đang dần dần đầu hàng trước cái bóng ma kia, dường như giờ đây lại đang thì thào sau cổ hắn.

Trang web đưa hắn về một thế giới khác, nơi hắn từng sống rất vui. Mặc dù cuộc sống trong quân đội không tiện nghi, lắm vất vả, mặc dù hắn trở về chỉ với một cái chân rưỡi, nhưng Strike không hề thấy tiếc lấy một ngày. Vậy mà hắn vẫn không thuộc về nơi đó, thậm chí là ngay cả khi hắn còn tại ngũ. Cái thời hắn làm lính quân cảnh, rồi lên điều tra viên, từng bị đồng đội vừa nể vừa ghét.

***

Nếu nhân viên SBI[1] muốn nói chuyện với bạn, bạn nên trả lời “Tôi không có bình luận gì, tôi muốn gặp luật sư.” Hoặc chỉ nói “Cảm ơn đã để ý tới tôi” cũng đủ rồi.

[1. Special Investigation Branch: Cục điều tra đặc biệt của quân đội Anh.]

Strike bật cười rồi nhanh chóng tắt trang web, tắt luôn máy tính. Hắn mệt đến nỗi phải mất thì giờ gấp đôi mới tháo được cái chân giả ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Sáng Chủ nhật đẹp trời, Strike lại tới Hội Sinh viên Đại học London để tắm. Một lần nữa hắn cố ý đi đứng khuỳnh khoàng, mặt mày cau có, mắt cắm xuống đất. Vẻ bặm trợn của hắn khiến không ai muốn hỏi han gì khi hắn đi ngang qua bàn lễ tân. Trong phòng thay đồ Strike đợi cho đám sinh viên đi ra hết rồi mới tắm. Hắn không muốn ai nhìn thấy cái chân giả của mình.

Sau khi đã tắm rửa sạch sẽ, cạo râu nhẵn nhụi, Strike xuống tàu điện, đi về khu Hammersmith Broadway. Hắn bước ra khỏi ga tàu, tận hưởng chút ánh nắng chiếu xuyên qua cửa kính khu mua sắm trước khi bước ra đường. Những cửa hàng xa xa trên phố King đầy người; cứ như là sáng thứ Bảy vậy. Khu Hammersmith Broadway đông đúc tấp nập, đúng kiểu một trung tâm mua sắm vô hồn, nhưng chỉ cách đó có mười phút đi bộ lại là con đường yên tĩnh, đầy cây cối dọc bờ sông Thames.

Khi đi bộ trên vỉa hè ngắm xe cộ qua lại, Strike bỗng nhớ đến những ngày Chủ nhật ấu thơ ở Cornwall, mọi nơi đều đóng cửa trừ nhà thờ và bãi biển. Khi đó Chủ nhật luôn có một dư vị riêng; sự tĩnh lặng thầm thì mà vang vọng, tiếng tách sứ va chạm nhau nhè nhẹ, mùi nước sốt thịt, chương trình TV chẳng có gì đáng xem, tẻ ngắt như những con phố đóng cửa vắng tanh. Trên bãi biển, những con sóng không ngừng vỗ bờ, hắn và Lucy chạy nhảy trên mặt sỏi, không có món gì để chơi ngoài những thứ thô sơ nhất.

Mẹ hắn từng nói rằng: “Nếu mẹ phải xuống địa ngục như lời mợ Joan thì địa ngục cùng lắm là nơi ngày nào cũng là Chủ nhật ở cái xứ thối tha này chứ gì.”

Strike rời xa khu trung tâm mua sắm đi về hướng sông Thames, vừa đi vừa gọi điện cho thân chủ.

“John Bristow nghe đây?”

“Xin lỗi cuối tuần mà vẫn làm phiền anh, John…”

“Cormoran?” Bristow ngay lập tức đổi giọng thân thiện. “Không sao cả, không có vấn đề gì hết! Anh đi gặp Wilson sao rồi?”

“Rất tốt, rất có ích, cảm ơn anh. Tôi muốn hỏi xem anh có biết một người bạn của Lula không. Lula gặp cô này ở bênh viện. Tên của cô ấy bắt đầu bằng chữ R – có lẽ là Rachel hay Raquelle, lúc Lula mất cô ta sống ở nhà trọ St Elmo dưới Hammersmith. Anh có biết gì về cô ta không?”

Bristow im lặng trong thoáng chốc. Khi nói trở lại, giọng ông ta lộ vẻ thất vọng, hơi bực bội.

“Tại sao anh lại muốn gặp cô ta? Tansy đã nói giọng người từ lầu trên là đàn ông kia mà.”

“Tôi không nghĩ cô ta là thủ phạm, nhưng có lẽ cô ta biết gì đó. Lula hẹn gặp cô ta ở cửa hàng Vashti ngay sau khi gặp anh ở nhà mẹ anh.”

“Vâng, tôi có biết chuyện này, trong báo cáo điều tra có hết. Ý tôi là… rõ là anh biết việc của anh, nhưng… tôi không nghĩ cô ta biết được gì. À… mà khoan, đợi một lát, Cormoran… tôi đang ở nhà mẹ tôi, đang có rất nhiều người… để tôi tìm chỗ nào yên tĩnh hơn chút…”

Strike nghe tiếng cử động, tiếng nói thầm “Xin lỗi,” rồi Bristow quay trở lại.

“Xin lỗi anh, tôi không muốn nói chuyện này trước mặt y tá của mẹ tôi. Thực ra lúc anh gọi tôi cứ nghĩ lại có người nào đó muốn nói chuyện Duffield. Tất cả người quen đều đã gọi cho tôi nói chuyện đó.”

“Chuyện gì kia?”

“Rõ là anh không đọc tờ News of the World. Có hết trên đó, đăng cả hình nữa. Hôm qua Duffield tự dưng đến thăm mẹ tôi. Phóng viên đứng đầy ở ngoài, phiền lắm, hàng xóm cũng khó chịu. Lúc đó tôi đang đi với Alison, chứ không tôi đã không để hắn vào nhà.”

“Anh ta muốn gì?”

“Câu hỏi hay. Ông cậu Tony của tôi nghĩ là tiền… nhưng ông này thì lúc nào cũng tiền bạc; dù sao đi nữa tôi cũng đã được ủy quyền, nên không phải lo gì cả. Chúa mới biết anh ta đến làm gì. Cũng may là mẹ tôi không biết anh ta là ai. Mẹ tôi đang uống thuốc giảm đau cực mạnh.”

“Tại sao phóng viên biết được chuyện anh ta đi thăm mẹ anh?”

“Lại một câu hỏi hay. Cậu Tony cho là hắn ta tự gọi cho phóng viên.”

“Mẹ anh sao rồi?”

“Rất nguy kịch. Họ nói có khi được thêm vài tuần nữa… cũng có thể đi bất kỳ lúc nào.”

“Tôi rất tiếc.” Strike đáp. Hắn nói lớn tiếng khi đi dưới cầu vượt, trên cầu xe cộ rất ồn ào. “Vậy nếu anh nhớ ra tên của cô bạn cùng đi với Lula đến hiệu Vashti…”

“Xin lỗi nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao anh lại quan tâm tới cô ta như vậy.”

“Lula muốn cô này đi từ Hammersmith đến tận Notting Hill chỉ để gặp có mười lăm phút rồi đi về. Tại sao không ở lại thêm? Tại sao gặp chóng vánh như vậy? Họ có cãi cọ gì không? Tất cả những gì hơi khác thường xảy ra xung quanh thời điểm vụ án đều có thể là chi tiết quan trọng.”

“Tôi hiểu,” Bristow ngập ngừng. “Nhưng… kiểu cư xử như vậy của Lula cũng chẳng có gì khác thường. Tôi có nói với anh là Lula có lúc hơi… hơi ích kỷ. Có khi nó nghĩ là chỉ gặp một chút đó thôi cũng đủ làm cho cô gái kia vui. Lula là đứa cả thèm chóng chán, nó có thể rất nhiệt tình với người ta rồi lơ họ ngay.”

Bristow có vẻ rất thất vọng với cách điều tra của Strike. Hắn thấy cần phải khôn khéo nói thêm để ông ta thấy khoản thù lao trả cho hắn cũng chưa đến nỗi phí phạm hoàn toàn.

“Ngoài ra tôi cũng muốn báo cho anh biết là tối mai tôi sẽ gặp sĩ quan Eric Wardle, người làm vụ của Lula. Tôi hi vọng sẽ có được nguyên bộ hồ sơ điều tra.”

“Tuyệt vời!” Lần này Bristow có vẻ ấn tượng với Strike. “Anh làm nhanh quá!”

“Vâng, tôi cũng có quen biết vài chỗ trong cảnh sát thủ đô.”

“Vậy thì anh sẽ có được câu trả lời về Người bỏ chạy! Anh đọc mấy ghi chép rồi chứ?”

“Vâng, rất có ích,” Strike đáp.

“Tôi đang thu xếp ăn trưa với Tansy Bestigui trong tuần này để anh gặp và nghe lời khai trực tiếp của cô ta. Tôi sẽ điện cho thư ký của anh sau nhé?”

“Vậy thì tốt quá.”

Dập máy xong Strike tự nghĩ thuê thư ký dù sao vẫn có lợi, dù không có đủ việc cho cô ta làm, trước hết là tạo ấn tượng chuyên nghiệp cho khách hàng.

Nhà trọ St Elmo dành riêng cho những người vô gia cư nằm ngay dưới cầu vượt bê tông ồn ào. So với khu nhà gạch đỏ của Lula ở Mayfair, St Elmo như một người bà con xấu xí, gồ ghề với mặt tiền luộm thuộm màu trắng; không có tam cấp đá hay vườn hoa, không có những ngôi nhà thanh lịch chung quanh. Cánh cửa sứt mẻ của St Elmo mở thẳng ra đường, bệ cửa sổ tróc sơn nhuốm vẻ đìu hiu trơ trọi. St Elmo nằm co cụm, tội nghiệp và lạc long giữa thế giới hiện đại ồn ã chung quanh. Cầu vượt chỉ cách đó chưa tới hai mươi mét nên cửa sổ tầng trên khu trọ nhìn thẳng ra lan can bê tông trên cầu và dòng xe chạy ngược xuôi không dứt. St Elmo toát lên vẻ cứng nhắc của các tòa nhà công cộng, với chuông cửa lớn màu bạc và loa được gắn ngay bên cạnh cửa, cộng thêm một camera đen xấu xí dây nhợ lòng thòng đặt trong lồng sắt bên trên.

Một cô gái hốc hác, khóe miệng nứt lở vì lạnh đang đứng hút thuốc ngay bên trong cánh cửa. Cô gái mặc áo đen thùng thình của đàn ông, trông luộm thuộm dơ dáy. Cô đứng dựa vào tường, nhìn trơ trơ về phía trung tâm mua sắm cách đó chưa tới năm phút đi bộ. Khi Strike bấm chuông, cô ta nhìn hắn đầy vẻ suy tính như thể định giá xem hắn đáng bao nhiêu.

Ngay sau cánh cửa là một sảnh nhỏ ẩm mốc, sàn lót gỗ cũ kỹ. Hai bên sảnh có hai tấm cửa gương khóa kín, đằng sau là phòng khách trống trơn và một căn phòng bên tồi tàn có đặt cái bàn đầy tờ rơi, bảng phóng phi tiêu đã cũ và bức tường đầy lỗ thủng. Ngay trước mặt Strike là quầy lễ tân có lưới sắt che chắn.

Người đàn bà đang trực vừa nhai kẹo cao su vừa đọc báo. Bà ta tỏ vẻ ngờ vực và không thân thiện mấy khi Strike xin gặp một người bạn cũ của Lula, hình như tên là Rachel.

“Nhà báo hả?”

“Không phải, tôi là bạn của một người bạn khác của cô ấy.”

“Vậy thì anh phải biết tên của cô ta chứ?”

“Rachel? Raquelle? Tên gần gần như vậy.”

Một người đàn ông hói đầu bước vào quầy, đứng ngay sau bà ta.

“Tôi là thám tử tư,” Strike đáp, hơi lên giọng, người đàn ông hói đầu quay lại nhìn, có vẻ tò mò. “Đây là danh thiếp của tôi. Anh trai của Lula Landry thuê tôi, tôi cần nói chuyện với…”

“Anh đang tìm Rochelle?” Ông hói đầu hỏi, tiến lại gần song cửa. “Cổ không có ở đây đâu anh bạn à. Cổ đi rồi.”

Đồng nghiệp của ông ta tỏ ra khá khó chịu với sự niềm nở này bèn phản ứng bằng cách bỏ ra ngoài.

“Đi khi nào vậy?”

“Được vài tuần rồi. Có khi vài tháng cũng nên.”

“Anh biết cô ta đi đâu không?”

“Trời mới biết. Chắc lại lang thang ngoài đường nữa. Cổ cứ đi đi về về. Tính cổ rất khó chịu. Bị tâm thần mà. Anh đợi chút, có khi Carrianne biết gì đó. Carrianne! Ê! Carrianne!”

Cô gái hốc hác lở miệng bước vào, mắt nhíu lại.

“Gì kia?”

“Cô có gặp Rochelle không?”

“Mắc gì tôi lại muốn gặp con đĩ khốn đó?”

“Vậy là cô không thấy nó ở đâu hả?” ông hói đầu tiếp tục hỏi.

“Không. Có thuốc không cho điếu?”

Strike đưa một điếu thuốc, cô ta giắt ngay ra sau tai.

“Nó vẫn còn lảng vảng đâu đây thôi. Janine nói có thấy nó.” Carrianne nói. “Rochelle kể là nó sắp mua nhà gì đó. Con khốn chuyên nói dối. À, rồi còn phét là Lula Landry để lại cho nó hết tiền bạc. Láo toét! Anh kiếm Rochelle làm gì?” Cô ta hỏi Strike, rõ có ý dò xem có tiền bạc gì không, hoặc nếu không có Rochelle thì cô ta thế luôn được không.

“Chỉ để hỏi vào câu.”

“Chuyện gì chứ?”

“Lula Landry.”

“Ồ,” Carrianne buột miệng, đôi mắt đầy tính toán hấp háy liên tục. “Hai đứa đó có phải bạn bè thân thiết cái chó gì. Con đĩ Rochelle chuyên nói dối, anh khỏi mất công tin.”

“Cô ta nói dối chuyện gì?” Strike hỏi.

“Cái đếch gì cũng nói dối được. Tôi cá là nó chôm hết một nửa mớ đồ mà nó giả bộ là Landry cho.”

“Thôi nào Carrianne,” ông hói đầu nhẹ nhàng chen ngang. “Họ là bạn bè thật,” ông quay qua Strike. “Lúc trước Landry thường hay cho xe đến chở Rochelle đi chơi. Làm nhiều người ở đây cay lắm đấy.” Ông hói đầu liếc về phía Carrianne.

“Con này cóc có cay gì nhé,” Carrianne nhảy vào. “Landry là con đĩ hợm hĩnh. Đẹp đẽ gì.”

“Rochelle từng kể với tôi là có một bà cô ở Kilburn,” ông hói đầu nói tiếp.

“Nhưng nghe nói chẳng ưa gì nó.” Carriane lại chen ngang.

“Anh có tên tuổi địa chỉ của bà cô đó không?” Strike hỏi. Cả hai lắc đầu. “Họ của Rochelle là gì?”

“Tôi không biết, cô có biết không Carriane? Ở đây tụi tôi thường chỉ biết tên thôi,” ông ta trả lời Strike.

Hầu như không còn khai thác được thêm gì nữa từ hai người này. Hơn hai tháng trước Rochelle có ghé lại St Elmo. Ông hói đầu biết có một thời gian Rochelle đi điều trị ở khu ngoại trú tại bệnh viện St Thomas, nhưng không biết là bây giờ còn không.

“Nó hay nổi cơn tâm thần. Uống nhiều thuốc lắm.”

“Nó có quan tâm cái đếch gì khi Lula chết đâu,” Carriane đột nhiên nói. “Nó chả thèm để ý nữa kia.”

Cả hai người đàn ông quay lại nhìn cô ta. Cô ta nhún vai, như thể vừa mới nói ra một sự thật khó nghe.

“Phiền hai người, nếu Rochelle có trở lại làm ơn đưa số của tôi cho cổ và nói cổ điện ngay cho tôi.”

Strike đưa danh thiếp cho cả hai. Người đàn ông và Carriane chăm chú xem tấm danh thiếp. Strike tranh thủ lúc họ không để ý, thó ngay tờ News of the World từ khe cửa lồng sắt và kẹp dưới lách. Hắn chào tạm biệt cả hai rồi đi về.

Hôm đó là một buổi chiều xuân ấm áp. Strike đi bộ về hướng cầu Hammersmith, sơn màu xanh lá xô thơm và những chi tiết trạm trổ cầu kỳ trên thành cầu ánh lên trong nắng. Một con thiên nga đơn chiếc lững lờ bơi dọc bên kia sông. Những tòa nhà văn phòng và cửa hiệu thấp thoáng trông như xa lắc. Hắn rẽ phải vào lối đi bộ bên cạnh bờ kè, hai bên có những tòa nhà thấp ven sông liên tiếp nhau, vài ban công nhô ra, xen kẽ là những mặt tiền phủ đầy cây đậu tía.

Strike mua một vại bia trong quán Blue Anchor rồi mang ra chỗ bàn ghế gỗ đặt ngoài trời. Hắn nhìn về dòng nước, quay lưng về phía mặt tiền quán sơn hai màu trắng xanh kiểu hoàng gia. Đốt một điếu thuốc, hắn lật tới trang bốn tờ News of the World. Trước mắt hắn là một tấm hình màu chụp Evan Duffield (cúi đầu, trong tay cầm một bó hoa trắng rất to, vạt áo khoác đen tung bay). Trên tấm hình là dòng tít: DUFFIELD ĐI THĂM MẸ CỦA LULA ĐANG HẤP HỐI.

Bài báo vô thưởng vô phạt, chỉ như phần chú thích thêm vào tấm hình. Mắt kẻ cẩn thận, vạt áo khoác tung bay, vẻ mặt đờ đẫn, hơi ma mị, trông hắn hệt như trong tấm hình chụp tại đám tang của Lula. Bài báo mô tả hắn là “Evan Duffield, nhạc sĩ kiêm diễn viên vướng vào nhiều rắc rối.”

Điện thoại di động của Strike rung lên trong túi quần. Hắn rút ra xem. Có tin nhắn từ số lạ:

News of the World trang bốn: Evan Duffield. Robin.

Hắn nhìn màn hình, nhe răng cười rồi đút điện thoại vào trong túi. Nắng ấm choáng xuống đầu và vai hắn. Mấy con chim hải âu kêu quang quác, lượn vòng vòng trên đầu. Strike khoan khoái nghĩ tới chuyện giờ đây hắn không phải đi đâu, không có ai chờ đợi, tha hồ ngồi trên băng ghế trong nắng ấm đọc báo từ trang đầu đến trang cuối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Robin đứng nghiêng ngả chen chúc với đám khách đi tàu trên tuyến Bakerloo phía bắc. Gương mặt ai cũng xám xịt và căng thẳng, đúng kiểu sáng thứ Hai. Robin thấy điện thoại trong túi áo rung lên. Loay hoay mãi cô mới rút ra được, khuỷu tay tình cò chạm vào chỗ mềm mềm không biết là bộ phận gì của người đàn ông hôi miệng mặc complet đứng bên cạnh. Khi thấy tin nhắn từ Strike, trong giây lát Robin thấy vô cùng phấn chấn, gần bằng lúc cô phát hiện tin Duffield trên báo hôm qua. Cô kéo màn hình điện thoại xuống, đọc:

Hôm nay tôi đi ra ngoài. Chìa khóa đằng sau bồn cầu. Strike.

Robin không bỏ lại điện thoại vào túi mà giữ chặt trong tay lúc tàu rung lắc rầm rầm qua những đường hầm tối. Cô nín thở cố né mùi khó chịu của ông mập. Robin đang rất bực. Hôm qua cô và Matthew đi ăn trưa với hai người bạn cùng học đại học với Matthew ở quán The Windmill on the Common, cũng là quán yêu thích của Matthew. Khi Robin thấy hình của Evan Duffield trên báo News of the World ở bên cạnh, cô đứng bật dậy xin phép chạy ra ngoài, ngay giữa câu chuyện của Matthew chỉ để nhắn tin cho Strike.

Sau đó Matthew nói cô thật bất lịch sự, đã vậy còn không thèm giải thích gì cả, cứ tỏ vẻ bí hiểm.

Robin nắm chặt lấy dây vịn tay trên tàu. Tàu chậm dần lại, ông mập đổ về phía cô. Robin thấy mình thật ngu ngốc, rồi thấy bực cả Matthew và Strike, đặc biệt là tay thám tử vì hắn chẳng có vẻ quan tâm gì đến hành động không bình thường của bạn trai cũ của Lula Landry.

Robin đi qua đám đông lộn xộn và gạch đá trên phố Denmark, lấy chìa khóa đằng sau bồn cầu như Strike dặn, gọi điện thoại cho văn phòng của Freddie Bestigui nhưng chỉ được một giọng con gái trịch thượng từ chối thẳng thừng. Tới lúc này, tâm trạng của Robin vô cùng tồi tệ.

Cùng lúc, Strike đi qua địa điểm diễn ra giây phút lãng mạn nhất trong đời của Robin, mặc dù hắn hoàn toàn không biết gì. Sáng hôm đó, một đám choai choai người Ý ngồi đầy trên những bậc thang ngay dưới chân tượng thần Tình yêu. Strike đi dọc bên phía St James, hướng về phố Glasshouse.

Lối vào hộp đêm Barrack chỉ cách vòng xoay Piccadilly Circus một quãng đi bộ ngắn ngủi. Đây là nơi Deeby Macc được đưa đến ngay khi vừa xuống máy bay từ Los Angeles và ông ta thích đến nỗi ở lại tới ba tiếng đồng hồ. Mặt tiền hộp đêm trông như xây bằng bê tông công nghiệp, trên đó gắn mấy chữ cái BARRACK màu đen sáng bóng theo chiều dọc. Hộp đêm có tất cả bốn tầng. Như Strike đoán, trên cừa ra vào có lắp camera an ninh. Strike áng chừng cự ly bao phủ của camera cũng phải đến hết gần con đường. Hắn đi quanh tòa nhà, quan sát những lối thoát hiểm và vẽ sơ đồ cả khu vực.

Đêm trước đó Strike lại tiếp tục tìm kiếm trên internet. Giờ đây Strike đã biết khá rõ mối liên hệ giữa Deeby Macc với Lula Landry. Nghệ sĩ rap này từng nhắc đến cô người mẫu trong lời ba bài hát trong hai album khác nhau. Trong nhiều cuộc phỏng vấn, ông ta nói đến Lula như một người phụ nữ lý tưởng, một người bạn tâm giao chưa bao giờ gặp. Rất khó để biết Macc nghiêm túc tới mức nào trong những cuộc phỏng vấn đó, thứ nhất vì ông ta có một khiếu hài hước kiểu tỉnh khô, rất thích châm biếm, thứ hai là phóng viên nào tiếp cận Macc cũng đều tỏ ra vừa ngưỡng mộ vừa sợ hãi.

Từng là dân anh chị thứ thiệt, phải đi tù vì những tội liên quan tới súng và thuốc phiện ở Los Angeles, Deeby Macc giờ đây đã là triệu phú, bên cạnh sự nghiệp ca hát còn có rất nhiều công việc ăn nên làm ra. Chẳng bất ngờ gì khi báo giới trở nên “phấn khích” – từ Robin dùng, khi có tin rò rỉ là công ty thu âm của Macc thuê riêng cho ông ta căn hộ ngay dưới căn của Lula. Dư luận say sưa suy đoán chuyện gì sẽ xảy ra khi Deeby Macc chỉ cách người yêu trong mộng một tầng lầu. Nhân vật mới hấp dẫn này liệu sẽ ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ sóng gió giữa Landry và Duffield. Những câu chuyện vô bổ còn được gia giảm thêm với những lời bình luận, đương nhiên là bịa hết, từ “bạn” của cả hai người – “Macc đã gọi điện cho Lula mời đi ăn tối,” “Lula đang chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ ngay trong căn hộ khi Macc đến London”. Những phỏng đoán kiểu đó át hết phản ứng giận dữ của một vài nhà báo lẻ tẻ khác trước chuyện người ta cho phép nhập cảnh một kẻ từng hai lần tù tội lại còn hát thứ nhạc (mà theo họ là) vinh danh quá khứ tội lỗi.

Khi thấy không còn khai thác thêm được gì từ những con phố bao quanh Barrack, Strike đi tiếp, ghi chú lại những vạch vàng hạn chế đậu xe ở xung quanh, các biển cấm đậu xe tối thứ Sáu và những công trình gần đó có lắp camera. Ghi chép xong, Strike thấy nên tư thưởng cho mình một tách trà và một cái bánh mì kẹp thịt muối, tính vào công tác phí. Hắn vào một quán cà phê nhỏ, uống trà ăn bánh và đọc tờ Daily Mail của ai đó bỏ lại.

Điện thoại đổ chuông ngay lúc Strike vừa mới bắt đầu tách trà thứ hai và đang đọc đến vụ Thủ tướng bị hớ vì càm ràm một nữ cử tri cao tuổi là “mù quáng” mà không biết là micro vẫn chưa tắt.

Một tuần trước đó khi Robin gọi, Strike không bắt máy, để cuộc gọi vào thẳng hộp thư thoại. Nhưng hôm nay thì khác.

“Chào Robin, cô sao rồi?”

“Tốt. Tôi gọi vì có mấy tin nhắn cho anh.”

“Cô nói đi,” Strike đáp, rút cây viết ra.

“Alison Creswell, thư ký của John Bristow vừa gọi – cổ nói là đã đặt một bàn ở Cipriani một giờ chiều mai để ông Bristow giới thiệu anh với Tansy Bestigui.”

“Tuyệt vời.”

“Tôi có gọi lại cho công ty của Freddie Bestigui. Họ bắt đầu bực rồi. Họ nói ông ta đang ở LA. Tôi để lời nhắn yêu cầu ông ta gọi cho anh.”

“Tốt”

“Peter Gillespie lại gọi nữa.”

“Ừm,” Strike đáp.

“Ông ta nói là việc gấp, phiền anh gọi lại ngay khi có thể.”

Strike sém chút nữa mở miệng nhờ Robin gọi lại cho Gillespie và nhắn hắn đi chết đi cho rồi.

“Được rồi, tôi sẽ gọi. À, cô nhắn tin cho tôi địa chỉ của hộp đêm Uzi được không?”

“Được thôi.”

“Nhờ cô tìm thêm số của Guy Somé. Ông này là nhà thiết kế thời trang.”

“Đọc là ghi, chứ không phải gai,” Robin nói.

“Gì kia?”

“Tên của ông ấy. Anh phải đọc theo kiểu tiếng Pháp là ghi.”

“À, hiểu rồi. Vậy cô tìm số ông ta giùm tôi được không?”

“Được,” Robin đáp.

“Rồi gọi luôn và hỏi là ông ta có cho tôi gặp được không. Để lại lời nhắn nói rõ tôi là ai, làm việc cho ai.”

“Được thôi.”

Strike nhận ra sự lạnh lùng trong giọng của Robin. Một hai giây sau đó, hắn đoán ra lý do.

“À còn nữa, cảm ơn cô vụ nhắn tin hôm qua,” hắn nói. “Xin lỗi vì tôi không nhắn lại ngay cho cô được; lúc đó tôi ở chỗ không tiện lắm. Nhưng phiền cô gọi luôn cho Niegel Clemént, người đại diện của Duffield và xin một cuộc hẹn, được vậy thì tốt quá.”

Sự lạnh lùng của Robin tan biến ngay, đúng ý Strike; giọng nói của cô cũng trở nên ấm áp hơn nhiều, gần như là phấn khích.

“Nhưng rõ là Duffield vô can còn gì? Anh ta có chứng cứ ngoại phạm chắc chắn!”

“Ừm, để coi,” Strike đáp, tỏ vẻ bí hiểm. “À còn nữa Robin này, nếu có thêm một thư dọa giết, mấy cái đó hay tới vào thứ Hai…”

“Tôi nghe đây?” Robin hăng hái.

“Cô cứ lưu nó lại,” Strike nói.

Strike ngờ ngợ - thật khó tin vì Robin lúc nào cũng nghiêm nghị, nhưng rõ là ngay lúc đó hắn có nghe tiếng Robin lầm bẩm “Lưu cái đầu anh,” trước khi cô dập máy.

Sau đó Strike tiếp tục làm những việc tẻ nhạt nhưng cần thiết. Sau khi Robin nhắn tin địa chỉ, Strike đi ngay đến hộp đêm Uzi ở Nam Kensington. Hoàn toàn đối lập với Barrack; lối vào của Uzi nhỏ và kín đáo như lối một căn nhà riêng cao cấp. Trên cửa cũng có gắn camera an ninh. Strike đón xe buýt đi về phố Charles, nơi có nhà của Guy Somé và đi bộ theo con đường ngắn nhất từ đó về nhà cũ của Landry.

Tới cuối buổi chiều Strike thấy đau chân kinh khủng. Hắn dừng lại nghỉ một lát, ăn thêm bánh mì rồi đi đến quán Feathers gần trụ sở cảnh sát London để gặp Eric Wardle.

Quán Feathers cũng là một quán bia theo kiểu Victoria với những ô cửa sổ rất lớn chạy từ trần tới gần chạm sàn. Cửa sổ nhìn ra một tòa nhà màu xám to sừng sững kiểu những năm 1920, trang trí bằng mấy bức tượng của Jacob Epstein. Bức tượng gần nhất ngồi ngay trước lối vào, nhìn thẳng ra cửa sổ quán bia. Đó là tượng một vị thần đang ngồi, nét mặt dữ tợn, được một đứa bé trai đứng trước choàng tay ôm cổ, đứa bé vặn người quay hết chim chóc ra đằng trước. Lâu dần rồi người ta cũng không thấy sốc nữa.

Bên trong quán Feathers, các thể loại máy trò chơi kêu leng keng, đèn màu sắc sỡ chớp nháy liên tục. Trên tường treo TV màn hình phẳng, chung quanh là ghế bọc da. TV đang chiếu trận West Bromwich Albilo gặp Chelsea nhưng không bật tiếng. Thay vào đó giọng Amy Winehouse rền rĩ thét gào từ những chiếc loa giấu khắp quán. Tên các loại bia được sơn lên bức tường màu kem ngay trên quầy bar. Đối diện đó là cầu thang rộng bằng gỗ tối màu với những bậc thang uốn lượn và tay vịn bằng đồng thau sáng loáng dẫn lên tầng một.

Strike đứng xếp hàng chờ gọi đồ uống, tranh thủ quan sát chung quanh. Quán đầy đàn ông, hầu hết đều cắt tóc ngắn kiểu lính. Có ba cô gái da nâu hơi ngả cam, nhìn là biết vừa mới đi tắm nắng nhân tạo về. Ba cô đứng quanh một cái bàn cao, liên tục hất ra sau mớ tóc nhuộm duỗi thẳng đơ. Cả ba mặc đầm bó sát ngắn cũn cỡn dát kim sa lấp lánh và mang giày cao chót vót, thỉnh thoảng lại làm bộ nghiêng người qua một bên. Các cô giả vờ không để ý đến người ngồi uống bia một mình duy nhất trong quán. Đó là một anh chàng đẹp trai, gương mặt non tơ, mặc áo khoác da thuộc ngồi bên quầy bar cạnh cửa sổ. Anh chàng nãy giờ cũng đang nhìn các cô rất kỹ, ra vẻ sành sỏi. Strike gọi một vại bia Doom Bar rồi tiến về phía anh chàng đẹp trai.

“Cormoran Strike,” hắn tự giới thiệu khi tới bàn của Wardle. Kiểu tóc của Wardle khiến hắn thấy ghen tị, như vẫn ghen tị với hầu hết những tay đàn ông khác. Wardle ắt hẳn không bao giờ bị đặt biệt danh là “Tổ chim”.

“À, tôi cũng đoán là anh,” anh cảnh sát lên tiếng, bắt tay Strike. “Anstis có nói anh rất to con.”

Strike kéo ghế ra, Wardle nói luôn không rào đón gì.

“Vậy anh có gì cho tôi?”

“Tháng rồi có một vụ đâm chết người ở Ealing Broadway. Nạn nhân Liam Yates? Người từng cung cấp thông tin cho cảnh sát, đúng không?”

“Ừ, anh ta bị đâm ngay vào cổ. Nhưng tụi tôi biết đứa nào làm,” Wardle vừa nói vừa cười ra vẻ trịch thượng. “Một nửa bọn trộm cướp ở London đều biết. Nếu thông tin của anh chỉ có vậy…”

“Nhưng anh không biết nó đang ở đâu, đúng không?”

Wardle liếc nhanh về phía mấy cô gái đang giả bộ ngó lơ, rồi rút ra một cuốn sổ từ trong túi áo.

“Nói đi.”

“Hiệu cá cược Betbusters trên phố Hackney có một nhân viên nữ tên là Shona Holland. Cô này đang thuê căn hộ chỉ cách Betbusters có hai dãy phố. Hiện giờ trong nhà cô ta có một vị khách không mời, tên là Brett Fearney, trước đây thường đánh đập chị cô ta không ra gì. Nghe đâu tay này rất dữ, đừng hòng từ chối hắn chuyện gì mà yên.”

“Anh có địa chỉ cụ thể không?” Wardle hỏi, tay vẫn viết liên tục.

“Tôi mới đưa cho anh tên người ta cộng với một nửa số nhà còn gì. Chịu khó làm thám tử một chút vậy nhé?”

“Anh nói có được thông tin này từ đâu nhỉ?" Wardle hỏi, vẫn tiếp tục viết vào cuốn sổ đặt trên đầu gối.

“Tôi chẳng nói gì cả,” Strike đáp, kề miệng vào ly bia.

“Chắc anh quen biết nhiều chỗ hay lắm hả?”

“Rất hay. Và bây giờ, bánh ít có đi thì bánh qui có lại…”

Wardle đút cuốn sổ vào trong túi, bật cười.

“Mấy thứ anh vừa nói biết đâu toàn là rác rưởi.”

“Không có chuyện đó. Chơi đẹp chứ, Wardle.”

Tay cảnh sát nhìn Strike trong chốc lát, có vẻ vừa buồn cười vừa nghi ngờ.

“Anh muốn gì nào?”

“Tôi đã nói trên điện thoại rồi: chút thông tin nội bộ về vụ Lula Landry.”

“Anh không đọc báo hả?”

“Thông tin nội bộ, tôi nói rồi. Thân chủ của tôi nghi ngờ có gì đó mờ ám.”

Wardle cau mặt lại.

“Anh ăn chia gì với báo lá cải hả?”

“Không,” Strike đáp. “Anh của cô ta thuê tôi.”

“John Bristow?”

Wardle nốc một hơi dài, mắt vẫn dán vào đùi của cô gái gần nhất, nhẫn cưới trên tay anh ta phản chiếu lại ánh đèn đỏ từ máy trò chơi gắp bóng gần đó.

“Ông ta vẫn khăng khăng về mấy đoạn phim đó hả?”

“Ông ta có nhắc tới.” Strike thừa nhận.

“Tụi tôi cũng cố theo dấu của hai người da đen trong phim. Có phát lời kêu gọi ra trình diện. Không ai ra mặt hết. Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên… xe hơi gần đó có phát báo động ngay lúc họ chạy qua… hoặc biết đâu lúc đó họ đang cố bò vào trong xe cũng có. Xe Maserati đàng hoàng. Rất ngon lành.”

“Anh nghĩ họ ăn trộm xe hả?”

“Tôi không nói là họ tới đó chỉ để trộm xe; biết đâu là chỉ tình cờ thấy rồi mới ra tay – chẳng biết thằng ngu nào lại đậu con xe Maserati như vậy? Nhưng lúc đó gần hai giờ sáng, nhiệt độ thì dưới không. Hai tên đó không có lý do chính đáng gì để tới Mayfair cả. Sau này tụi tôi có điều tra nhưng không có ai giống như vậy sống ở khu đó.”

“Không biết họ từ đâu tới, rồi sau đó đi đâu à?”

“Với người mà Bristow nghi ngờ, tức là cái người đi về nhà cô ta trước khi cô ta rơi xuống thì tụi tôi biết chắc lúc mười một giờ mười lăm anh ta xuống xe buýt số ba mươi tám ở phố Wilton. Không ai biết anh ta làm gì trước khi đi ngang qua camera ở phố Bellamy đúng một tiếng rưỡi sau đó. Mười phút sau khi Landry nhảy xuống, anh ta lại xuất hiện trên cùng một camera, rồi chạy hết phố Bellamy và rất có thể rẽ qua phố Weldon. Có một đoạn băng có hình một người giông giống anh ta – cao, da đen, mặc áo thun dày có cổ, quàng khăn kín mặt ngay trên phố Theobalds khoảng hai mươi phút sau.”

“Phải rất nhanh mới chạy từ đó đến Theobalds chỉ trong hai mươi phút,” Strike bình luận. “Ra hướng Clerkenwell đúng không? Cũng phải ba, bốn cây số. Vỉa hè lại đóng băng nữa.”

“Ừ, nên có thể không phải là anh ta. Đoạn băng rất mờ. Bristow rất nghi ngờ chi tiết che mặt, nhưng hôm đó âm 10 độ, tôi cũng phải đội mũ trùm kín mặt đi làm. Mà bất kể anh ta có tới phố Theobald thật hay không thì cũng không ai nhận ra anh ta cả.”

“Còn người kia?”

“Chạy như bay về phía phố Halliwell, cách hiện trường khoảng một trăm tám chục mét, không ai biết sau đó đi đâu.”

“Còn trước đó thì sao?”

“Có thể tới bất kỳ hướng nào. Không có băng hình nào cả.”

“Nghe nói ở London có tới mười ngàn camera an ninh kia mà?”

“Không phải ở đâu cũng có. Camera không có tác dụng gì, nếu không được duy trì và theo dõi thường xuyên. Phố Garriman vừa mới được lắp một cái, nhưng Meadowfield hay Hartley thì vẫn chưa có. Anh cũng giống y những người khác, Strike à. Anh muốn viện quyền tự do công dân để nói dối vợ là đi làm rồi đi hộp đêm coi gái nhảy, nhưng cũng lại muốn tụi tôi phải coi chừng nhà anh suốt hai mươi bốn tiếng, phòng khi có ai nhảy vào từ cửa sổ buồng tắm. Làm gì có chuyện được cái chai mà không mất cái lọ.”

“Tôi chẳng muốn chai lọ gì cả,” Strike nói. “Tôi chỉ hỏi anh biết gì về người bỏ chạy thứ hai.”

“Cũng che mặt kín mít, y như người đầu vậy; chỉ thấy hai bàn tay. Nếu anh ta có ý đồ gì với chiếc Maserati và thấy sợ thì theo lý, anh ta sẽ chui ngay vào một quán bar rồi sau đó đi ra cùng với nhiều người khác. Gần phố Halliwell có quán Bojo’s, có thể anh ta đã chui vào đó rồi trà trộn trong đám nhậu nhẹt. Nhưng tụi tôi cũng kiểm tra hết rồi,” Wardle nói, chặn trước câu hỏi của Strike. “Không ai nhận ra người trong băng cả.”

Hai người ngồi im lặng trong giây lát, tiếp tục uống bia.

“Thậm chí nếu có tìm ra hai tên đó,” Wardle đặt ly bia xuống bàn rồi nói tiếp “cùng lắm là chỉ có thêm lời khai chứng kiến Landry nhảy xuống. Trong căn hộ của cô ta không có mẫu AND lạ nào cả. Không có ai ở trong tòa nhà lúc đó mà không có lý do chính đáng cả.”

“Nghi vấn của Bristow không chỉ từ mấy đoạn băng. Ông ta có gặp Tansy Bestigui.”

“Đừng có nhắc tới con mụ chết tiệt đó trước mặt tôi,” Wardle bực tức.

“Tôi phải nhắc tới bà ta, vì thân chủ của tôi tin bà ta nói thật.”

“Lại thế nữa? Chưa chán à? Thôi thì để tôi nói hết với anh về cái quý bà Bestigui này nhé?”

“Anh cứ nói,” Strike đáp, một tay ôm lấy ly bia trước ngực.

“Carver và tôi đến nơi khoảng hai mươi, hai lăm phút sau khi Landry rơi xuống đường. Cảnh sát đồng phục đã có mặt ở đó. Tansy Bestigui vẫn còn bị kích động mạnh, lắp ba lắp bắp, vừa run vừa gào rằng sát thủ còn nấp trong nhà.

“Bà ta kể lúc hai giờ sáng bà ta bò ra khỏi giường để đi tè; đột nhiên nghe tiếng hét tùa căn hộ trên tầng ba rồi thấy Lula rơi xuống qua cửa sổ.

“Cửa sổ mấy căn hộ ở đó đều là kính ba lớp, hay đại loại như vậy, vừa giữ kín nhiệt và hơi máy điều hòa ở bên trong vừa cách ly bọn họ khỏi tiếng ồn của đám dân đen bên ngoài. Lúc tụi tôi phỏng vấn bà ta trong nhà, xe cảnh sát và hàng xóm đứng đầy đường nhưng người ở trong không hề biết gì nếu không thấy ánh đèn xanh chớp liên tục. Cứ như ở trong kim tự tháp vậy.

“Vậy là tôi nói với bà ta, ‘Bà có chắc là có tiếng la hét không Bestigui? Chỗ này cách âm khá tốt.’

“Nhưng bà ta vẫn khăng khăng. Còn thề thốt là nghe không sót một từ. Theo lời bà ta, Landry hét lên ‘Quá muộn rồi,’ và giọng đàn ông nói lại ‘Mày là đồ dối trá chết tiệt.’ Ở đây từ chuyên môn gọi là ảo thanh. Kiểu như tưởng tượng ra âm thanh sau khi hít cocaine vô tội vạ đến nỗi não chảy ra đằng mũi.”

Wardle nốc thêm một hơi dài.

“Dù vậy, sau đó tụi tôi cũng có làm thực nghiệm và chứng minh được rằng là bà ta không thể nghe được gì. Ngay hôm sau hai vợ chồng Bestigui dọn qua nhà một người bạn để tránh báo chí, vậy là tụi tôi cắm vài đứa trong căn hộ của họ, cho một đứa chạy lên ban công nhà Landry la hét om sòm. Đám trong căn hộ tầng một không thể nghe được gì cả. Tất cả đều tỉnh táo không hề say xỉn và cố căng tai ra mà nghe.

“Nhưng trong khi tụi tôi chứng minh bà Bestigui nói nhảm thì bà ta đã kịp gọi cho cả nửa dân số London rồi lu loa rằng bà ta là nhân chứng duy nhất trong vụ án mạng Lula Landry. Báo chí ra tay liền, vì trước đó mấy người hàng xóm có nghe bà ta la hét là có kẻ đột nhập. Báo chí đã xử và kết án Evan Duffield trước cả khi tụi tôi quay lại nói chuyện với bà Bestigui.

“Tụi tôi nói thẳng là đã chứng minh được rằng bà ta không thể nào nghe được gì cả. Nhưng rõ là bà ta vẫn không muốn thừa nhận mình bị ấm đầu. Bà ta đang nổi như vậy, báo chí vây quanh như thể bà ta là Lula Landry tái sinh. Vậy là bà ta bịa tiếp ‘Ơ, lúc đó tôi không nói à? Tôi có mở cửa sổ. Đúng rồi, có mở cửa sổ cho thoáng.”

Wardle cười nhạt.

“Giữa lúc nhiệt độ dưới không, lại có tuyết rơi.”

“Lúc đó bà ta chỉ mặc mỗi đồ lót đúng không?”

“Trông y như cái bừa cào hai trái quýt bằng nhựa,” Wardle bật ra câu so sánh quá ngọt đến nỗi Strike chắc rằng hắn không phải là người đầu tiên nghe những từ đó. “Tụi tôi vẫn tiếp tục điều tra theo hướng mới; tụi tôi lấy dấu vân tay trên cửa sổ, rõ ràng là bà ta không hề mở cửa. Không có dấu vân tay nào trên chốt cửa hay bất kỳ đầu; lao công đã dọn nhà vào buổi sáng trước khi Landry chết và sau đó vẫn chưa quay lại. Tất cả mọi cửa sổ đều được khóa chặt và chốt lại khi tụi tôi có mặt, vậy nên chỉ còn một kết luận thôi, đúng không? Bà Tansy Bestigui là một kẻ dối trá khốn nạn.”

Wardle uống cạn ly.

“Làm ly nữa nhé,” Strike nói rồi đi thẳng ra quầy bar mà không đợi Wardle trả lời.

Hắn để ý thấy Wardle tò mò nhìn theo ống chân hắn khi hắn trở lại bàn. Giả như vào lúc khác, hắn đã đá ống chân giả vào chân bàn rồi nói luôn “là bên chân này.” Nhưng hắn không làm vậy. Hắn đặt xuống bàn hai vại bia mới mua và món da lợn chiên giòn, hơi bực mình vì quán này khá bày vẽ, da lợn mà bày trong đồ sứ màu trắng. Hắn tiếp tục câu chuyện. “Nhưng đúng là Tansy Bestigui nhìn thấy Landry rơi qua cửa sổ phải không? Bởi vì Wilson nói là ông ta nghe tiếng thi thể rới xuống ngay trước khi bà Bestigui bắt đầu la hét.”

“Có thể là bà ta thấy thật, nhưng lúc đó bà ta không hề đi tè như đã kể. Bà ta thực ra đang phê vài tép trong buồng tắm. Tụi tôi có tìm thấy mấy tép thuốc đã cắt sẵn.”

“Phê chưa hết, đúng không?”

“Ừ, Chắc là nhìn người ta rớt qua cửa sổ xong thì ngán quá.”

“Từ nhà tắm nhìn thấy được cả cửa sổ à?”

“Ờ, sít sao.”

“Các anh tới đó khá nhanh, đúng không?”

“Cảnh sát đồng phục có mặt sau tám phút, còn tôi và Carver tới nơi sau khoảng hai mươi phút.” Wardle nâng ly lên, như thể chúc mừng thành tích của ngành.

“Tôi có nói chuyện với Wilson, là người trực bảo vệ hôm đó,”

“Vậy hả? Tay đó rất được việc,” Wardle đáp, giọng kể cả. “Vụ đau bụng không phải lỗi của ông ta. Nhưng ông ta chẳng đụng vô thứ gì và có đi kiểm tra kỹ càng sau khi Landry rớt xuống. Rất khá.”

“Mấy người trực bảo vệ ở đó hình như không cẩn thận lắm về chuyện mật mã khóa cửa.”

“Ai cũng vậy thôi. Có bao nhiêu là mã số với cả mật khẩu phải nhớ mà. Tôi cũng vậy.”

“Bristow rất quan tâm đến chuyện gì xảy ra trong vòng mười lăm phút khi Wilson đang ngồi trong nhà vệ sinh.”

“Tụi tôi cũng vậy, nhưng chỉ quan tâm khoảng năm phút thôi, trước khi tụi tôi nhận ra rằng bà Bestigui là một con nghiện thích nổi tiếng.”

“Wilson có nói là hôm đó cửa hồ bơi không khóa.”

“Thế ông ta có giải thích được làm cách nào một tên giết người lẻn vào hồ bơi rồi đi ra mà không qua mặt ông ta không? Cái hồ khốn nạn,” Wardle tiếp, “to gần bằng cái hồ bơi chỗ tôi tập thể dục, mà chỉ để cho ba người dùng. Còn có một phòng ở tầng trệt ngay sau ban trực. Rồi cả bãi đỗ xe dưới tầng hầm. Trong căn hộ thì lát đá hóa nọ kia… mẹ kiếp, nhà ở mà cứ như khách sạn năm sao nào.”

Anh chàng cảnh sát ngao ngán lắc đầu trước sự phân hóa giàu nghèo bất công.

“Đúng là một thế giới khác,” anh ta nói.

“Tôi cũng muốn biết về căn hộ tầng giữa,” Strike lên tiếng.

“Của Deeby Macc?” Wardle hỏi lại. Strike ngạc nhiên khi thấy Wardle cười đầy vẻ thật tình. “Căn đó thì sao?”

“Anh có đi vào trong không?”

“Có vào xem, nhưng Bryant đã kiểm tra hết rồi. Trống trơn. Cửa sổ chốt chặt, hệ thống báo động có kích hoạt và hoạt động bình thường.”

“Bryant là người chạy đâm vào cái bàn và làm vỡ bình hoa?”

Wardle cười khẩy.

“Biết vụ đó nữa à? Lão Bestigui không được vui lắm. Ờ thì rõ. Hai trăm bông hồng trắng cắm trong lọ pha lê to bằng cái thùng rác. Lão đọc được ở đâu rằng Macc mỗi khi trình diễn đều đòi phải có hoa hồng trắng,” Wardle nói, cứ như thể Strike chẳng biết gì về giới nghệ sĩ, rồi loay hoay giải thích thêm “Nghệ sĩ họ hay đòi có vài thứ đặc biệt trong phòng thay đồ trước khi diễn. Tôi cứ nghĩ anh phải biết mấy chuyện này.”

Strike lơ luôn câu cạnh khóe của Wardle. Hắn hơi thất vọng, nghĩ người quen của Anstis hẳn phải khá hơn thế này.

“Anh có biết tại sao Bestigui tặng hoa cho Macc không?”

“Nịnh bợ chứ gì nữa? Chắc muốn dụ Macc đóng phim. Lão tức sôi máu khi nghe chuyện Bryant đánh đổ bình hoa. Hét ầm cả nhà.”

“Không ai thấy có gì lạ à? Ông ta đi tức tối vụ hoa lá ngay trong khi hàng xóm vừa rớt xuống đường vỡ cả đầu?”

“Lão này tởm không chịu được.” Wardle bình phẩm đầy cảm xúc. “Quá quen với chuyện lúc nào cũng được người khác tung hô mà. Mới đầu còn dám đối xử với tụi tôi như lính của lão, sau mấy tỉnh ra là làm vậy thực không khôn ngoan chút nào.

“Nhưng lão la hét không phải chỉ vì mấy cái hoa. Thực ra lão đang cố hét át tiếng bà vợ, để bà ta bình tĩnh lại. Lão cứ chen ngang khi tụi tôi phỏng vấn bà. Lão già đó cũng to con lắm.”

“Ông ta lo chuyện gì à?”

“Lo là nếu con mụ kia cứ gào oang oang rồi lẩy bẩy như chó mắc mưa thì người ta sẽ biết là mụ vừa phê thuốc. Chắc lão cũng biết trong nhà có thuốc. Nên không muốn cảnh sát xông vào. Vậy là lão cố đánh lạc hướng bằng cách la hét om sòm vụ cái bình hoa năm trăm bảng.

“Tôi có đọc đâu đó là lão ta đang làm thủ tục li dị mụ vợ. Tôi chẳng ngạc nhiên gì. Lúc nào báo chí cũng chực chờ chung quanh lão, vì lão nổi tiếng khoái kiện tụng mà. Con mụ Tansy mở miệng, ắt hẳn lão rất bực. Báo chí thì luôn tranh thủ. Cho đăng ngay lại mấy vụ xa xưa, như chuyện lão ném đĩa vào đầu nhân viên, đấm vào mặt người ta khi đang họp hành. Còn cả vụ lão phải trả cho bà vợ trước một đống tiền để bà ta khỏi đem chuyện giường chiếu ra kể trước tòa. Lão ta rất nổi tiếng kiểu khốn nạn như vậy.”

“Anh không nghi ngờ gì ông ta à?”

“À có chứ, tụi tôi cho ngay vào diện nghi ngờ, lão ta có mặt hiện trường, lại có tiền sử bạo lực. Mặc dù vậy khả năng đó cực kỳ thấp. Nếu bà vợ biết lão ta là thủ phạm, hoặc lão ta đi ra khỏi nhà lúc Landry rớt xuống, tôi cá là bà ta đã kể hết vì lúc tụi tôi tới bà ta rất hoảng loạn. Nhưng bà ta lại nói là khi đó lão đang ngủ, trên giường chăn mền khá lộn xộn, đúng kiểu là có người vừa nằm đó.

“Hơn nữa, thậm chí nếu lão ta đi ra khỏi nhà mà bà vợ không hay biết, rồi chạy lên nhà Landry, chúng ta vẫn không thể giải thích được làm sao lão lại có thể qua mặt Wilson. Vì nếu làm vậy thì lão không dùng thang máy, nên chắc chắn khi chạy xuống đã phải đụng ngay Wilson ở cầu thang.”

“Vậy là chỉ dựa vào thời gian mà xác nhận vô can à?”

Wardle chần chừ.

“Ừm, thì vẫn có khả năng đó chứ. Cứ cho là Bestigui có thể chạy nhanh hơn tuổi tác và cân nặng cho phép và đẩy xong Lula là lao ngay xuống lầu đi. Nhưng mà không hề có ADN của lão ta trong nhà Landry, rồi làm sao lão ta đi ra khỏi nhà mà bà vợ không biết, và đâu có cớ gì khiến Landry mở cửa cho lão vào. Tất cả bạn bè của Landry đều đồng ý là cô ta chẳng ưa gì Bestigui. Với cả,” Wardle uống cạn ly bia rồi nói tiếp “Bestigui là loại người sẵn sàng thuê sát thủ nếu muốn làm thịt ai đó. Lão ta chẳng dại gì mà tự làm cho bẩn tay.”

“Làm ly nữa không?”

Wardle nhìn đồng hồ.

“Để tôi mua,” anh ta nói rồi đi về phía quầy bar. Ba cô nàng đứng quanh cái bàn tròn tự nhiên im lặng, nhìn theo anh ta thèm thuồng. Wardle mua hai ly bia mới, cười điệu một cái với các cô rồi quay trở lại bàn. Các cô vẫn nhìn theo.

“Anh nghĩ gì về khả năng Wilson là thủ phạm?” Strike hỏi.

“Rất thấp,” Wardle trả lời. “Ông ta không thể có đủ thời gian chạy lên rồi chạy xuống gặp Tansy Bestigui ở tầng trệt. Có điều lý lịch của ông ta rất xạo. Ông ta được nhận vô làm chỉ vì bốc phét là đã từng làm cảnh sát.”

“Hay thật. Vậy không làm cảnh sát thì làm gì?”

“Làm bảo vệ suốt thôi. Ông ta nói là nhờ khai dối mà có được công việc bảo vệ đầu tiên, khoảng mười năm trước, nên cứ phải giữ lý lịch như vậy.”

“Ông ta có vẻ thích Landry.”

“Ừ đúng thế. Trông vậy mà già rồi đó,” Wardle nói tiếp, chẳng ăn nhập gì. “Cỡ ông nội ông ngoại rồi chứ chẳng chơi. Người Caribe da đen họ không có già nhanh như người mình, hả? Nói thật tôi nghĩ có khi trông anh còn già hơn ổng.” Strike tự nhủ không biết Wardle nghĩ hắn bao nhiêu tuổi.

“Bên pháp y có kiểm tra trong căn hộ của Lula không?”

“Có chứ,” Wardle đáp, “nhưng chủ yếu là vì ở trên muốn làm cho thật kỹ, loại trừ hết mọi nghi ngờ có thể. Trong vòng hai mươi bốn tiếng sau đó tụi tôi đã chắn chắn vụ này là tự tử rồi. Nhưng tụi tôi vẫn làm tiếp, trong khi cả thế giới xúm vào theo dõi từng phút.”

Wardle nói, không che đậy nổi sự tự đắc.

“Lao công sáng hôm trước có dọn hết cả tòa nhà – em đó người Ba Lan, rất sexy, nhưng tiếng Anh dở như hạch, được cái lau bụi rất kỹ - nhờ vậy mà dấu vết hiện trường rất rõ ràng. Không có gì khác thường cả.”

“Như vậy thì chắc phải có vân tay của Wilson, vì ông ta đi kiểm tra tất cả sau khi cô ta rơi xuống?”

“Ừ có, nhưng không ở chỗ nào khả nghi cả.”

“Vậy theo như anh nói thì hôm đó chỉ có ba người ở trong cả tòa nhà. Deeby Macc lẽ ra cũng có mặt nhưng...”

“... anh ta đi thẳng từ sân bay về hộp đêm,” Wardle tiếp lời Strike. Một lần nữa, anh chàng cảnh sát cười tự nhiên, mặt mày vui vẻ hẳn. “Hôm sau tôi phỏng vấn Deeby ở khách sạn Claridges. Anh ta to con ghê. Như anh vậy,” Wilson nói thêm, liếc nhìn thân hình bệ vệ của Strike, “chỉ có điều nhìn ngon lành hơn.” Strike nhận cú đâm thọc mà không thèm phản ứng. “Đúng là cựu xã hội đen thứ thiệt. Vào tù ra tội ở LA. Sém chút nữa là không được cấp visa vào Anh quốc luôn.

“Anh ta có nguyên một đoàn tùy tùng,” Wardle kể tiếp. “Đứng đầy phòng, ai cũng đeo nhẫn đầy tay, xăm trổ đầy cổ. Anh ta to con nhất hội. Deeby ngầu thiệt, tưởng tượng đang đi trong hẻm vắng mà đụng phải anh ta thì ngán thiệt. Anh ta lịch sự hơn Bestigui cả khối lần. Còn hỏi tôi làm cảnh sát mà sao không có súng.”

Anh chàng cảnh sát cười tươi rói. Strike nghĩ thầm, cái tay Eric Wardle này là nhân viên cục điều tra tội phạm mà cũng lậm sao siếc y chang như anh lái xe Kieran Kolovas-Jones.

“Phỏng vấn có chút xíu à, Macc vừa xuống máy bay, còn chưa đặt chân tới Kentigern Gardens. Làm cho đủ thủ tục. Cuối cùng tôi nhờ anh ta ký tên đĩa CD mới ra,” Wardle nói thêm, như không kìm được. “Khi tôi đưa cái đĩa ra cả phòng nhộn nhạo cả lên. Deeby Macc rất khoái chí. Con vợ tôi cứ đòi đem bán trên eBay nhưng tôi muốn giữ...”

Wardle tự nhiên ngừng nói, như thể nhận ra vừa vô ý nói quá nhiều. Strike thấy buồn cười, hắn bốc thêm một mớ da lợn chiên giòn.

“Còn Evan Duffield thì sao?”

“Thằng đó hả,” Wardle đáp. Vẻ ưu ái hâm mộ của anh cảnh sát khi kể về Deeby Macc lập tức biến mất; anh ta cau mặt lại. “Thằng oắt con dở hơi. Nó làm tụi tôi bực muốn khùng từ đầu tới cuối. Sau khi cô ta chết thì nó cũng đi thẳng vô trại cai nghiện luôn.”

“Tôi có đọc thấy. Ở đâu vậy?”

“Trung tâm an dưỡng Priory, chứ còn chỗ nào? An với chẳng dưỡng.”

“Vậy anh phỏng vấn anh ta khi nào?”

“Ngay hôm sau, nhưng đầu tiên phải kiếm cho ra nó đã; nhân viên của nó chặn đủ đường. Cùng một thể loại như cha Bestigui. Không muốn tụi tôi biết gì cả.” Wardle lại nhăn mặt, nói tiếp “Con vợ tôi cứ nói là nó thật sexy. Anh có vợ con gì không?”

“Không.” Strike đáp.

“Anstis kể là anh giải ngũ để chuẩn bị cưới một cô đẹp như siêu mẫu.”

“Vậy Duffield nói gì khi anh phỏng vấn?”

“Hai người cãi nhau to tiếng ở hộp đêm Uzi. Có rất nhiều nhân chứng vụ đó. Cô ta bỏ về. Nó kể là năm phút sau đó nó đi theo cô ta. Nó đội mũ mẽo giả làm chó sói gì đó. Cái mũ che hết cả đầu, giống y thật, đầy đủ lông lá. Nó nói là lấy từ một đợt chụp hình thời trang.”

Wardle tỏ vẻ khinh bỉ rõ rệt.

“Nó thích đội những thứ như vậy khi đi tới chỗ này chỗ kia, để chọc tức bọn paparazzi. Sau khi Landry bỏ về, nó cũng lên xe, tài xế đã đậu xe đợi sẵn ở ngoài, rồi về Kentigern Gardens. Tài xế cũng xác nhận như vậy. Thôi được,” Wardle tự sửa lời, “tài xế xác nhận là có lái xe chở một người đàn ông đội mũ hóa trang chó sói, đoán là Duffield vì người ngợm giống Duffield, mặc đồ y chang vậy, giọng nói cũng giống y, chở về Kentigern Gardens.”

“Nhưng lúc ở trong xe anh ta không hề mở cái mũ ra?”

“Từ hộp đêm Uzi về nhà cô ta chỉ có mười lăm phút. Đúng là không mở mũ, thằng ranh con chết tiệt.

“Duffield kể tiếp là tới nơi thì thấy paparazzi đứng đầy đường nên quyết định không vào nữa. Nó biểu lái xe chở tới Soho, rồi nhảy xuống đi bộ. Nó đi tới căn hộ của thằng buôn thuốc trên phố d’Arblay, rồi ở lại đó phê luôn.”

“Vẫn còn đội mũ chó sói?”

“Không tới đây thì cởi ra rồi,” Wardle giải thích. “Thằng buôn thuốc tên là Whycliff, nghe nói dân học trường tư đàng hoàng nhưng giờ còn nghiệp ngập hơn cả Duffield. Nó có khai đầy đủ là Duffield tới gặp nó lúc khoảng hai rưỡi sáng. Lúc đó chỉ có hai đứa tụi nó trong nhà. Cũng có thể là Whycliff bao che cho Duffield nhưng bà ở tầng trệt cũng khai là có nghe thấy chuông cửa, và có thấy Duffield đi lên lầu.

“Sau đó Duffield rời chỗ của Whycliff khoảng bốn giờ sáng, lại tiếp tục đội cái mũ chó sói dở hơi. Nó đi ra chỗ xe chờ sẵn; chỉ có điều tài xế đã lái xe đi mất tiêu. Tay tài xế sau đó khai là hiểu lầm ý nó. Tay tài xế cũng coi Duffield chẳng ra gì, lúc tụi tôi lấy lời khai thấy hắn tỏ rõ thái độ luôn mà. Duffield không trả tiền nong gì vì xe là của Landry thuê.

“Vậy là sau đó Duffield không một xu dính túi, đi bộ suốt quãng đường về chỗ của Ciara Porter ở Notting Hill. Có vài người nói là có thấy một người đàn ông đội mũ chó sói đi bộ đúng tuyến đường đó, còn có cả băng ghi hình nó xin hộp diêm từ một người đàn bà trong garage mở cửa suốt đêm bên đường.”

“Anh có nhận ra gương mặt của Duffield trong băng không?”

“Không, vì khi nói chuyện với bà này nó chỉ đẩy cái mũ lên, trên hình chỉ thấy mỗi cái mõm chó sói. Nhưng bà ta nói đúng là Duffield.

“Nó tới nhà Porter khoảng bốn rưỡi sáng. Porter cho nó ngủ lại trên ghế sofa. Được một tiếng sau thì Porter nghe tin Landry chết nên đánh thức nó dậy để báo. Sau đó là màn khóc lóc ỉ ôi như kịch rồi đi thẳng vào trại.”

“Anh có tìm thư tuyệt mệnh trong căn hộ của Landry không?” Strike hỏi.

“Có chứ. Bên trong căn hộ không có gì cả, trên laptop cũng không có, nhưng chẳng có gì ngạc nhiên. Cô ta nhảy xuống trong cơn bốc đồng mà? Cô ta bị rối loạn lưỡng cực, vừa mới cãi nhau với thằng đó, tức quá, chịu không nổi nên nhảy xuống, vậy cũng như thằng đó gián tiếp xô cổ vậy, anh hiểu ý tôi mà.”

Wardle lại xem đồng hồ và uống cạn ly cuối cùng.

“Tôi phải đi đây. Con vợ ở nhà chắc đang điên. Tôi nói chỉ đi có nửa tiếng thôi.”

Ba cô gái da nâu đã đi mất, không biết từ lúc nào. Ra khỏi quán, cả hai cùng châm lửa đốt thuốc một lúc.

“Tôi ghét vụ cấm hút thuốc trong nhà ghê gớm,” Wardle vừa nói vừa kéo dây khóa áo lên đến cổ.

“Như vậy là anh đồng ý rồi?” Strike hỏi

Ngậm thuốc lá trong miệng, Wardle mang găng tay vào.

“Chưa biết.”

“Thôi nào, Wardle,” Strike nói tiếp, đưa cho tay cảnh sát một cái danh thiếp, Wardle hờ hững cầm lấy như chơi. “Tôi vừa nộp cho anh Brett Fearney còn gì.”

Wardle cười phá lên.

“Chưa, chưa nộp niếc gì cả.”

Anh ta bỏ danh thiếp của Strike vào túi, rít một hơi thuốc, phả khói rồi nhìn Strike, vừa tò mò vừa nể nang.

“Thôi được rồi. Nếu tụi tôi bắt được Fearney, anh sẽ có được bộ hồ sơ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


“Người đại diện của Evan Duffield nói là anh ta sẽ không trả lời thêm bất kỳ một câu hỏi nào về Lula Landry nữa,” Robin báo với Strike ngay sáng hôm sau.

“Tôi có nói rõ là anh không phải là nhà báo, nhưng ông ta rất kiên quyết. Còn nhân viên của Guy Somé thì thô lỗ còn hơn cả đám tay chân của Freddie Bestigui. Cứ như tôi đang xin gặp Giáo hoàng không bằng.”

“Được rồi” Strike đáp. “Để tôi coi có nhờ được Bristow không.”

Hôm đó cũng là lần đầu tiên Robin thấy Strike mặc complet. Cô thấy hắn không khác gì một vận động viên bóng bầu dục đang trên đường đi lưu đấu quốc tế: to con bệ vệ, áo khoác và cà vạt sẫm màu khá bảnh tỏng. Strike đang quỳ xuống lục tung một cái thùng giấy mà hắn mang về từ nhà Charlotte. Robin quay mặt đi, cố tránh nhìn đống đồ đạc của hắn. Hai người vẫn tránh nhắc chuyện Strike đã dọn vô ở luôn trong văn phòng.

“À ha” hắn reo lên, sau khi tìm ra một cái bì thư màu xanh giữa đám thư từ riêng. Đó là thiệp mời dự sinh nhật thằng cháu của Strike. “Khỉ thật,” hắn buột miệng khi mở thư.

“Có chuyện gì vậy?”

“Trong này không ghi nó mấy tuổi cả,” Strike đáp, rồi giải thích “thiệp mời sinh nhật thằng cháu tôi.”

Robin khá tò mò về gia đình của Strike. Hắn chưa bao giờ nói gì với Robin về đám anh chị em rối rắm, người cha nổi tiếng và người mẹ có phần tai tiếng của mình. Vậy nên cô không dám hỏi thêm gì cả mà tiếp tục mở đám thư từ vớ vẩn.

Strike đứng dậy, đẩy cái thùng giấy vào một góc phòng và đi tới bàn Robin.

“Cái gì vậy?” hắn hỏi, chỉ tay vào bản photo một bài báo đặt trên bàn.

“Tôi giữ lại cho anh,” Robin rụt rè trả lời. “Anh tỏ ra quan tâm khi đọc được bài báo về Evan Duffield... Tôi nghĩ có khi anh cũng muốn đọc bài này, nếu anh chưa đọc.”

Tờ photo được cắt rất gọn gàng. Bài báo viết về nhà sản xuất phim Freddie Bestigui, từ tờ Evening Standard hôm qua.

“Tuyệt vời; tôi sẽ mang theo đọc trên đường tới chỗ ăn trưa với vợ ông ta.”

“Sắp li dị rồi,” Robin nói thêm. “Trong bài báo có nói hết. Ông này có vẻ không may mắn trong tình cảm lắm.”

“Theo như Wardle thì ông ta cũng không phải là người dễ ưa gì.” Strike đáp.

“Làm sao mà anh nói chuyện được với bên cảnh sát?” Robin hỏi, không nhịn được nữa. Cô rất nóng lòng muốn biết cách thức và diễn biến điều tra.

“Qua một người bạn,” Strike đáp. “Tôi quen hồi ở Afghanistan, anh đó làm cảnh sát London kiêm lính dự bị.”

“Anh từng ở Afghanistan hả?”

“Ờ” Strike mặc áo khoác, răng cắn bài báo về Freddie Bestigui và thiệp mời sinh nhật thằng Jack vì bận tay.

“Anh làm gì ở Afghanistan vậy?”

“Đi điều tra một trường hợp Bị giết trong khi làm nhiệm vụ,” Strike đáp. “Tôi làm bên quân cảnh.”

“Ồ,” Robin buột miệng. Chuyện Strike làm lính quân cảnh không hề khớp với ấn tượng của Matthew về một tên bịp bợm vô dụng.

“Sao anh không làm nữa?”

“Bị thương,” Strike trả lời.

Hắn từng nói về vụ bị thương với Wilson rất trần trụi, nhưng hắn không thể nói thẳng như vậy với Robin. Hắn có thể tưởng tượng ra vẻ kinh ngạc trên gương mặt cô, mà hắn đang không cần thêm sự thương hại nào từ cô cả.

“Đừng quên gọi cho Peter Gillespie,” Robin nhắc với theo, khi Strike vừa bước ra khỏi cửa.

Strike đọc bài báo khi ngồi trên tàu điện đến ga Broad Street. Theo đó, Freddie Bestigui thừa kế tài sản từ người cha là ông trùm ngành vận tải. Rồi ông ta lại kiếm được thêm rất nhiều tiền bằng cách sản xuất những bộ phim có tính thương mại cao nhưng giới phê bình thì khinh ra mặt. Ông ta đang kiện hai tờ báo đưa tin rằng ông ta quấy rối một nhân viên nữ còn trẻ và sau đó bịt miệng cô ta bằng tiền. Những cáo buộc trên báo đều được rào trước đón sau với những từ như “được cho là”, “theo đó thì”, nhưng đều xoáy vào hành vi quấy rối tình dục có tính bạo lực, có khống chế bằng vũ lực. Nội dung các cáo buộc xuất phát từ “một nguồn rất gần gũi với người được cho là nạn nhân,” trong khi cô nhân viên thì đã từ chối kiện tụng hay phát biểu gì với báo chí. Chuyện Freddie đang làm thủ tục ly dị Tansy được nhắc đến ở đoạn cuối cùng. Trước khi kết thúc, bài báo nhắc lại rằng cặp vợ chồng không hạnh phúc này ở cùng một tòa nhà với Lula Landry trong đêm cô ta tự tử. Bài báo gợi cho người đọc một ấn tượng kỳ lạ, như thể chuyện nhà Bestigui hình như đã ảnh hưởng đến quyết định nhảy lầu của cô Landry.

Strike chưa bao giờ giao du với giới hay lui tới nhà hàng Cipriani. Khi đi trên phố Davies, trong ánh nắng ấm áp rọi trên lưng và thấp thoáng quanh những tòa nhà gạch đỏ, Strike tự dưng nghĩ rằng sẽ thật kỳ quặc nếu hắn tình cơ gặp con riêng của cha hắn ở Cipriani. Khả năng đó không hề nhỏ. Những nhà hàng như Cipriani là nơi đám con cái chính thức của Jonny Rokeby thường lui tới. Lần cuối cùng Strike có liên lạc với ba người trong số đó là lúc ở bệnh viện Selly Oak để tập vật lý trị liệu. Gabi và Danni cùng gửi hoa đến, Al có tới thăm một lần, cười rất to nhưng sợ không dám nhìn xuống chân hắn. Khi Al về rồi, Charlotte nhại lại giọng nói và vẻ mặt rúm ró của anh ta. Charlotte đúng là có tài bắt chước. Cô ta quá xinh, nên không ai nghĩ rằng cô ta còn có thể rất hài hước nữa. Nhưng Charlotte đúng là vui tính.

Nội thất của nhà hàng gợi phong vị rất Art Deco, với quầy bar và ghế gỗ bóng loáng mềm mại, khăn vải màu vàng nhạt phủ lên bàn tròn, bồi bàn cả nam lẫn nữ đều mặc áo jacket trắng, cổ đeo nơ. Strike nhận ra ngay thân chủ của mình giữa đám đông đang dùng bữa, tiếng trò chuyện xen tiếng dao nĩa chạm nhau lanh canh. Anh ta ngồi ở một bàn dành cho bốn người và đang nói chuyện với hai người đàn bà, thay vì chỉ một như Strike nghĩ. Cả hai đều có mái tóc nâu dài, bóng mượt. Trông bộ mặt thỏ của Bristow rất sốt sắng, như thể chỉ chực chiều chuộng hay mua vui cho hai người kia.

Ông luật sư đứng bật dậy chào Strike khi thấy hắn rồi giới thiệu ngay Tansy Bestigui. Bà ta chìa ra bàn tay gầy guộc, lạnh lùng, không cười. Ông ta giới thiệu tiếp em gái của Tansy là Ursula May, bà này còn không thèm đưa tay ra. Sau màn gọi đồ uống và chuyển thực đơn (Bristow tỏ ra rất hồi hộp, nói hơi nhiều) hai chị em quay qua nhìn Strike. Cái nhìn chằm chằm soi mói, dường như chỉ những người thuộc một tầng lớp nhất định mới có quyền nhìn như vậy.

Cả hai đều tinh tươm, đẹp đẽ như búp bê cỡ người thật vừa mới được lấy ra từ hộp xốp. Đúng y kiểu gái nhà giàu mảnh khảnh, mặc quần jeans bó sát nhìn như không có mông, gương mặt rám nắng hoàn hảo, trán sáng bóng. Mái tóc của cả hai đều sẫm màu, óng mượt, rẽ ngôi giữa. Đuôi tóc tỉa gọn sắc như có thước đo.

Khi Strike vừa ngẩng mặt lên khỏi tờ thực đơn, Tansy nói ngay, không rào đón:

“Anh có đúng là (bà ta kéo dài giọng) con trai của Jonny Rokeby không?”

“Kết quả xét nghiệm ADN nói vậy.” Hắn trả lời.

Bà ta có vẻ như không chắc là hắn đang đùa hay vô lễ thật. Hai con mắt màu sẫm kéo gần lại nhau, lớp Botox và mỡ độn vẫn không thể che giấu hết vẻ dằn dỗi trên gương mặt.

“Anh nghe đây, tôi đã nói với John rồi,” Bà ta lạnh lùng nói. “Tôi sẽ không công khai phát biểu gì nữa, anh rõ chưa? Tôi sẽ nói cho anh biết hôm đó tôi nghe thấy gì, vì tôi muốn anh chứng minh là tôi nói đúng, nhưng anh không được nói với ai chuyện tôi gặp anh.”

Cổ chiếc áo lụa mỏng manh của bà không cài nút, để lộ một lớp da phẳng màu kẹo sữa phủ quanh chỗ xương ức trồi lên, trông không gợi cảm mà lại hơi kỳ quái. Nhưng ngay dưới đó lại là cặp vú tròn căng nhô ra từ lồng ngực hẹp, như thể hôm đó bà ta mượn tạm hàng họ của một người bạn đầy đặn hơn. “Vậy thì chúng ta nên gặp ở chỗ kín đáo hơn,” Strike bình luận.

“Không, ở đây cũng được, vì ở đây không ai biết anh cả. Anh chẳng giống cha chút nào cả, phải không? Tôi có gặp ông ta ở nhà Elton hồi hè năm ngoái. Freddie cũng có biết ông ta. Anh có hay gặp Jonny không?”

“Có gặp hai lần.” Strike đáp.

“Ồ,” Tansy buột miệng.

m thanh cụt ngủn đó chứa cả sự ngạc nhiên lẫn khinh bỉ.

Bạn bè của Charlotte khá giống hai người này: tỉa tót, học trường xịn, mặc đồ hiệu, tất cả đều tỏ ra kinh hãi trước chuyện Charlotte cặp bồ với một gã dềnh dàng luộm thuộm như Strike. Hắn từng phải tiếp xúc với những người như vậy hàng mấy năm trời, cả trên điện thoại lẫn trong những cuộc gặp gỡ ở ngoài. Hắn còn nhớ cái kiểu ăn nói cảnh vẻ hay nuốt nguyên âm, những câu chuyện về mấy ông chồng làm môi giới chứng khoán, rồi cả cái điệu bộ cứng rắn nóng nảy mà Charlotte không bao giờ bắt chước được.

“Tôi thấy chị tôi không nên nói chuyện với anh chút nào,” Ursula đột ngột lên tiếng. Cứ như thể Strike là tên bồi bàn vừa tháo tạp dề tới ngồi cùng với họ. “Em nghĩ chị đang mắc sai lầm lớn, Tanz à.”

Bristow lên tiếng: “Ursula, Tansy chỉ...”

“Làm gì là quyền của tôi,” Tansy gằn giọng với em gái, như thể Bristow chưa hề lên tiếng hay chỗ ngồi của ông chỉ có không khí vậy. “Tôi chỉ nói những gì tôi nghe thấy, có vậy thôi. Không được ghi vào hồ sơ vụ án; John đồng ý rồi.”

Rõ là bà ta chỉ coi Strike như hạng tôi tới. Hắn thấy bực không chỉ vì giọng điệu của hai người, mà còn vì Bristow đã hứa hẹn trước chuyện không ghi chép.

Lời khai của Tansy liệu có ích gì nếu không được lưu lại làm chứng cứ trong hồ sơ?

Ngay sau đó, cả bốn người im lặng đọc thực đơn. Ursula là người đầu tiên đặt thực đơn xuống. Bà ta đã kịp uống hết một ly rượu, rót tiếp một ly nữa và liếc mắt nhìn quanh nhà hàng, vẻ bồn chồn. Bà thoáng dừng mắt ở một nhân vật hoàng tộc trẻ tuổi, tóc vàng óng rồi lảng mắt đi chỗ khác.

“Chỗ này hồi trước toàn là những nhân vật hay ho; kể cả vào buổi trưa. Cyprian thì chỉ muốn tới Wiltons, mà ở đó toàn mấy tay đóng bộ cứng nhắc...”

“Cyprian là chồng của bà à?” Strike hỏi.

Strike biết chắc hỏi như vậy không khác gì kim châm vào bà ta, vì hắn vừa vượt qua ranh giới vô hình giữa hai người. Rõ là bà ta nghĩ hắn đang tự cho mình quyền nói xen vào, chỉ vì hắn ngồi cùng bàn với họ. Bà ta khẽ cau mày. Bristow nhanh nhảu lên tiếng để lấp đi sự im lặng khó chịu.

“Đúng rồi, Ursula là vợ của Cyprian May, một trong những thành viên cấp cao của công ty.”

“Vậy nên tôi được giảm giá khi làm thủ tục ly dị,” Tansy nói thêm, khẽ cười chua chát.

“Và ông chồng cũ sẽ nổi điên lên nếu báo chí lại nhảy vào,” Ursula lên tiếng, đôi mắt sẫm màu nhìn chằm chằm vào mắt Strike. “Bên công ty vẫn còn đang cố dàn xếp điều khoản ly dị. Nếu ồn ào trở lại thì phần của Tansy sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Anh nên kín tiếng là hơn.”

Strike cười nhạt, quay lại phía Tansy:

“Như vậy bà cũng có quen biết Lula Landry, đúng không bà Bestigui? Em rể của bà là đồng nghiệp của John mà?”

“Nhưng không ai nhắc tới chuyện đó cả,” bà ta đáp, trông có vẻ bắt đầu phát chán.

Bồi bàn trở lại để ghi các món ăn. Sau khi anh ta đi khỏi, Strike rút cuốn sổ và cây viết ra.

“Anh làm gì vậy?” Tansy lớn giọng hỏi, vẻ hốt hoảng “Không được viết gì lại hết! John?” Bà ta quay qua phía Bristow, ông ta nhìn Strike vừa bối rối vừa có vẻ xin lỗi.

“Anh nghe mà khỏi ghi có được không hả Cormoran?”

“Không sao cả,” Strike nhẹ nhàng đáp, rút điện thoại ra đặt thế vào chỗ cuốn sổ và cây viết. “Bà Bestigui...”

“Anh gọi tôi là Tansy cũng được,” bà ta đáp, có ý đấu dịu sau khi phản đối cuốn sổ.

“Cảm ơn bà rất nhiều,” Strike nói tiếp, thoáng chút mỉa mai. “Bà quen biết Lula thế nào?”

“Không quen gì cả. Cô ta chỉ ở đó có ba tháng. Gặp nhau thì chào vậy thôi. Cô ta không ưa gì tụi tôi hết, vì tụi tôi không đủ sành điệu. Nói thật ở chung tòa nhà với cô ta rất là chán. Phóng viên ngày nào cũng chầu chực ngay trước cửa. Tôi đi tập thể dục cũng phải trang điểm.”

“Tôi tưởng trong tòa nhà có phòng gym?” Strike hỏi.

“Nhưng tôi tập Pilates với Lindsey Parr,” Tansy đáp, có vẻ bực tức. “Anh nói y hệt Freddie; lúc nào cũng càm ràm là tôi không dùng mấy thứ có sẵn trong nhà.”

“Freddie có thân với Lula không?”

“Gần như không quen biết, nhưng không phải là do lão ấy muốn vậy. Lão từng dụ Lula đóng phim; rất nhiều lần mời cô ta xuống nhà chơi. Cô ta không bao giờ nhận lời cả. Lão còn đi theo chân Lula tới tận nhà của Dickie Carbury dịp cuối tuần trước khi cô ta chết. Hôm đó tôi đi chơi với Ursula.”

“Tôi không hề biết chuyện đó,” Bristow lên tiếng, hơi hoảng hốt.

Strike để ý thấy Ursula nhếch mép cười với chị. Hắn có cảm giác như bà ta nãy giờ vẫn đang tìm cách nhìn Tansy đầy ẩn ý nhưng Tansy lờ hẳn đi.

“Thực ra sau đó tôi mới biết,” Tansy nói với Bristow. “Freddie cậy cục có được một vé mời dự tiệc từ Dickie. Hôm đó đủ mặt hết; Lula, Evan Duffield, Ciara Porter – nguyên một băng nghiệp ngập chuyên chường mặt lên báo ra vẻ sành điệu nọ kia. Freddie chắc hẳn lạc lõng lắm. Tuổi lão ta cũng không già hơn Dickie bao nhiêu, nhưng trông cứ như ông cụ,” bà ta hằn học nói thêm.

“Chồng bà có kể gì thêm về dịp cuối tuần đó không?”

“Không kể gì hết. Ba tuần sau đó tôi mới biết, do Dickie lỡ miệng nói ra. Tôi chắc là lão Freddie đi chỉ để o bế Lula.”

“Ý bà là,” Strike hỏi tiếp, “ông Bestigui quan tâm tới cô Lula theo kiểu kia, hay…?”

“À, tôi biết lão thích Lula quá đi chứ. Lão ta lúc nào cũng khoái gái da đen hơn gái tóc vàng. Nhưng có một thứ lão ta còn mê hơn nữa, là làm sao lôi kéo mấy đứa đang nổi đình nổi đám vào phim. Lão ta làm mấy tay đạo diễn tức điên vì suốt ngày cố chèo kéo cho được bọn này để báo chí chú ý. Tôi cá là lúc đó lão đang hi vọng nài được Lula ký hợp đồng với lão.” Tansy nói thêm, tỏ ra khôn ngoan bất ngờ, “Tôi chẳng lạ nếu lão đã sắp đặt sẵn cho cô ta với Deeby Macc. Cứ tưởng tượng bọn nhà báo sẽ phản ứng ra sao, hai người này trước giờ đã quá rùm beng rồi mà. Freddie rất có tài mấy chuyện đó. Lão ta ghét báo chí dòm ngó đời tư bao nhiêu thì thích báo chí chú ý vào phim của lão bấy nhiêu.”

“Ông nhà có quen Deeby Macc không?”

“Không, trừ khi có làm quen được sau khi tụi tôi chia tay. Trước khi Lula chết lão còn chưa gặp Macc bao giờ. Trời đất, lão nhắng cả lên khi nghe tin Macc chuẩn bị dọn vô ở đó. Chưa gì đã nói chuyện mời anh ta thử vai.”

“Thử vai gì?”

“Tôi không biết,” bà ta cấm cảu. “Bất kỳ vai gì. Macc có sức hút rất lớn; Freddie dễ gì bỏ qua cơ hội như vậy. Có khi lão ta còn viết sẵn một vai dành riêng cho Macc nếu anh ta quan tâm. Rồi lão sẽ chạy theo o bế anh ta. Rồi kiểu gì cũng khoe là có bà ngoại người da đen.” Giọng Tansy đầy khinh bỉ. “Khi gặp người nổi tiếng da đen lão ta luôn giở trò đó, cứ khoe khoang là có bà ngoại người Malay. Làm như kinh lắm.”

“Có đúng bà ngoại ông ta là người Malay thật không?” Strike hỏi.

Bà ta bật cười khẽ.

“Tôi không biết. Tôi đã bao giờ gặp ông bà của Freddie đâu? Lão Freddie già khú đế rồi. Tôi chỉ biết nếu có hơi tiền thì lão ta nói gì cũng được.”

“Vụ làm phim với cả Lula và Macc có đi đến đâu không?”

“À, chắc chắn là Lula rất khoái chí khi lão mời; hầu hết đám gái người mẫu đều thèm một cơ hội để chứng tỏ mình làm được gì đó hơn là chỉ nhìn vô camera mà. Nhưng cô ta chưa ký cọt gì cả, đúng không John?”

“Theo tôi biết thì chưa,” Bristow đáp. “Mặc dù… nhưng đó lại là chuyện khác,” ông ta hạ giọng lẩm bẩm, mấy nốt hồng đỏ lại lấm tấm trên mặt. Bristow ngập ngừng. Thấy Strike vẫn nhìn chăm chú ông ta liền nói tiếp:

“Vài tuần trước ông Bestigui có tới thăm mẹ tôi, không báo trước gì cả. Mẹ tôi đang rất ốm, và… tôi không muốn…”

Bristow nhìn Tansy, hết sức bối rối.

“Anh cứ nói, tôi không quan tâm,” bà ta nói, có vẻ không quan tâm thực sự.

Bristow chu miệng, khụt khịt mũi, đám răng thỏ tạm thời biến mất.

“Chuyện là, ông ta muốn nói chuyện với mẹ tôi để làm một bộ phim về cuộc đời của Lula. Ông ta cố tỏ ra tế nhị, chu đáo nọ kia. Muốn được gia đình tôi ủng hộ, muốn có được sự đồng ý chính thức, anh biết đó. Lula mới mất có ba tháng… Mẹ tôi đau khổ không tưởng được. Không may là lúc ông ta tới tôi không có ở nhà,” Bristow nói, ý là thường thì ông ta luôn ở bên canh chừng bà mẹ. “Thực ra tôi ước gì mình có mặt lúc đó. Tôi cũng muốn nghe ông ta trình bày thử. Ý tôi là, tôi chẳng thiết gì chuyện phim phiếc, nhưng nếu ông ta có thuê người tìm hiểu về cuộc đời Lula thì biết đâu ông ta lại biết thêm điều gì khác?”

“Điều gì kia?” Strike hỏi

“Tôi không biết. Chuyện về Lula khi còn nhỏ chẳng hạn? Trước khi nó về với nhà tôi.”

Bồi bàn mang món khai vị đặt trước mặt cả bốn người. Strike đợi cho anh ta đi hẳn, rồi hỏi Bristow tiếp:

“Ông có bao giờ nói chuyện với ông Bestigui chưa? Có bao giờ hỏi xem ông ta biết gì khác về Lula mà gia đình không biết chưa?”

“Việc đó rất khó,” Bristow trả lời. “Khi cậu Tony nghe tin, cậu gọi ngay cho ông Bestigui để phản đối việc ông ta quấy rầy mẹ tôi, theo như tôi biết hai người cãi nhau kịch liệt. Tôi nghĩ ông Bestigui không muốn gặp thêm người nào nữa trong gia đình tôi đâu. Tất nhiên ở đây cũng có cái mắc míu là công ty của tôi đang làm thủ tục ly dị cho Tansy. Thực ra cũng không có gì, vì công ty chỗ tôi là công ty hàng đầu về luật hôn nhân gia đình, Ursula lại là vợ của Cyprian, nên chuyện Tansy thuê tụi tôi cũng là tất nhiên… Nhưng tôi chắc ông Bestigui sẽ không niềm nở gì với gia đình tôi.”

Mặc dù tập trung vào ông luật sư nhưng Strike vẫn giữ tầm nhìn bao quát rất tốt. Ursula vừa nhếch mép cười với bà chị. Hắn tự hỏi không biết bà ta cười chuyện gì. Uống tới ly rượu thứ tư rồi thì tâm trạng vui vẻ lên cũng là phải thôi.

Strike ăn xong món khai vị, quay sang Tansy. Bà ta vẫn đang khều qua đẩy lại mớ đồ ăn còn y nguyên trên đĩa.

“Bà với ông nhà ở đó bao lâu thì Lula dọn vào?”

“Khoảng một năm.”

“Lúc cô ấy dọn vào có ai ở căn hộ tầng giữa không?”

“Có,” Tansy trả lời. “Hai vợ chồng người Mỹ và đứa con trai nhỏ ở đó được khoảng sáu tháng, nhưng không lâu sau khi Lula dọn tới thì họ về Mỹ. Sau đó bên công ty quản lý không tìm được ai muốn thuê cả. Khủng hoảng kinh tế mà, anh biết rồi đó. Nhà ở đó giá cắt cổ. Vậy là để trống cho tới khi hãng đĩa thuê cho Deeby Macc.”

Cả hai chị em chợt nhãng đi khi một người đàn bà đi ngang qua. Người này mặc áo khoác bằng len móc mà theo quan điểm thẩm mỹ của Strike là vô cùng dị hợm.

“Áo khoác Daumier-Cross,” Ursula lên tiếng, hai mắt nhíu lại trên ly rượu. “Nghe đâu đặt hàng phải đợi chừng sáu tháng kia…”

“Không phải, áo Pansy Marks-Dillon chứ,” Tansy nói. “Mặc vào là được xếp vào nhóm biết ăn mặc đẹp nhất ngay, nếu ông chồng có gia tài khoảng năm chục triệu bảng. Freddie giàu mà bần tiện nhất thế giới; tôi mua đồ mới toàn phải giấu giếm, hoặc giả bộ là đồ nhái. Nhiều khi lão ta chán không chịu được.”

“Trông cô lúc nào cũng xinh đẹp mà,” Bristow lên tiếng, mặt ửng hồng.

“Còn anh thật tử tế,” Tansy đáp, giọng chán nản.

Người bồi bàn trở lại để dọn đĩa.

“Anh đang nói gì ấy nhỉ?” Bà ta hỏi Strike “À, vụ mấy căn hộ. Deeby Macc dọn vô… chỉ có điều chưa kịp tới nơi thì đã dọn ra lại. Freddie tức điên lên khi biết tin. Vì lão ta đã lỡ mua hoa hồng để sẵn trong đó. Khéo vẽ trò rẻ tiền.”

“Bà có quen biết gì với Derrick Wilson không?” Strike hỏi tiếp.

Bà ta chớp mắt.

“Ông ta làm bảo vệ; tôi quen kiểu gì? Thấy cũng được. Freddie hay nói là khá nhất trong đám đó.”

“Thật sao? Tại sao vậy?”

Bà ta nhún vai.

“Tôi không biết, anh đi mà hỏi Freddie. Chúc may mắn,” Bà ta nói thêm, cười khẩy. “Có mà trời sập thì lão mới chịu nói chuyện với anh,”

“Tansy,” Bristow lên tiếng, hơi nghiêng về phía bà ta. “Sao cô không kể lại cho Cormoran nghe là hôm đó cô nghe thấy gì?”

Strike ước gì Bristow đừng can thiệp.

“À,” Tansy đáp. “Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi khát nước.”

Giọng bà ta không hề có cảm xúc. Strike để ý bà ta đã sửa lại câu chuyện, không còn giống với lời khai bên cảnh sát.

“Tôi đi vào nhà tắm. Khi tôi đi ra phòng khách, ngay trước phòng ngủ, tôi nghe có tiếng la hét. Cô ta nói ‘Muộn rồi. Đã xong hết rồi,’ và một người đàn ông nói, ‘Mày là con láo toét khốn nạn,’ rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.”

Tansy đưa tay ra hai bên, làm động tác giật giật, diễn tả lại tư thế rơi xuống của Lula.

Bristow đặt ly rượu xuống bàn, trông ông ta như sắp nôn. Món chính được mang ra. Ursula lại uống rượu. Tansy và Bristow đều không động đũa. Strike cầm nĩa lên bắt đầu ăn, cố không ngấu nghiến món rong biển puntarelle và cá cơm.

“Tôi la lên,” Tansy thầm thì. “Tôi không thể nhịn được, cứ la lên. Tôi chạy khỏi căn hộ, Freddie đang ngồi đó, tôi chạy xuống cầu thang. Tôi chỉ muốn nói với bảo vệ là trên lầu có người lạ, kêu họ lên bắt người đó đi.

“Wilson từ phòng sau chạy ào ra. Tôi kể hết với ông ta, ông ta chạy ngay ra đường để xem cô Lula, thay vì chạy lên cầu thang. Ngu quá sức. Biết đâu lúc đó ông ta chạy liền lên cầu thang thì đã bắt được tên đó rồi! Sau đó Freddie đi xuống và cố đưa tôi lên nhà lại, vì khi đó tôi mặc đồ sơ sài.

“Wilson quay trở vào nói là cô ta đã chết, rồi nhờ Freddie gọi cho cảnh sát. Freddie gần như kéo tôi lên lầu… lúc đó tôi bị kích động mạnh… rồi lão gọi 999 từ phòng khách nhà tôi. Rồi cảnh sát đến. Và không ai tin lời tôi cả.”

Bà ta nhấp một ngụm rượu, đặt ly xuống và khẽ nói:

“Nếu Freddie biết chuyện tôi đi gặp anh, lão sẽ nổi đóa.”

“Nhưng cô chắc chắn mà, phải không Tansy,” Bristow lại chen ngang, “chắc chắn là cô nghe thấy tiếng người đàn ông trên đó?”

“Đương nhiên rồi,” Tansy đáp. “Tôi vừa mới nói còn gì? Chắc chắn là trên đó có người.”

Điện thoại di động của Bristow đổ chuông.

“Xin phép,” ông ta lẩm bẩm. “Alison… hả?” ông ta trả lời điện thoại.

Strike nghe thấy giọng trầm của bà thư ký, nhưng không nghe rõ từng từ.

“Xin phép tôi đi ra ngoài một lát,” Bristow nói, trông có vẻ bối rối, rồi đứng dậy đi ra khỏi bàn.

Gương mặt mịn màng của cả hai chị em lộ vẻ thích thú đầy ác ý. Họ liếc nhìn nhau. Ursula đột ngột quay sang hỏi Strike:

“Anh gặp Alison chưa?”

“Chỉ gặp thoáng qua.”

“Anh có biết hai người đó cặp nhau không?”

“Có biết.”

“Thật tội nghiệp,” Tansy nói. “Cô ta cặp với John, nhưng lại thích mê Tony. Anh gặp Tony chưa?”

“Chưa.” Strike trả lời.

“Tony là một trong những thành viên cấp cao trong công ty, cũng là cậu của John, anh biết không?”

“Biết.”

“Rất phong độ. Đâu có thèm để mắt tới Alison. Nên chắc cô ta xài đỡ John vậy.”

Vụ thất tình đơn phương của Alison dường như khiến hai chị em rất thỏa mãn.

“Mấy người trong văn phòng có biết vụ này không?”

“Biết chứ,” Ursula hào hứng. “Cyprian nói cô ta thật không biết xấu hổ, cứ bám lấy Tony như con chó con.”

Có vẻ như Ursula không còn ác cảm với Strike nữa. Hắn chẳng ngạc nhiên gì. Hắn đã gặp nhiều người như vậy. Dường như ai cũng thích nói; rất ít ngoại lệ; vấn đề là làm sao để người ta nói. Một vài người, chẳng hạn như Ursula thì cứ rượu vào lời ra; có người thì thích được chú ý; cũng có người chỉ cần đứng gần người khác là nói. Một số người sẽ mở máy liên tục nếu rà trúng đài: chẳng hạn nói về sự vô tội của mình, hay tội lỗi của người khác; hay bộ sưu tập hộp bánh quy tiền chiến của mình; hay như quý bà Ursula May này là chuyện tình đơn phương của cô thư ký kém sắc.

Ursula nhìn Bristow ngoài cửa sổ. Ông ta đứng trên vỉa hè, nói rất nhiều vào điện thoại, thỉnh thoảng đi qua đi lại. Ursula có vẻ đã bắt đầu nóng máy, bà ta nói tiếp:

“Tôi biết thừ ông ta đang nói gì. Mấy người thừa kế của Conway Oates đang càm ràm vụ công ty xử lý di chúc. Conway Oates là tay tài phiệt người Mỹ, anh biết không? Cyprian và Tony đang đau đầu vụ đó, bắt John chạy đứ đừ để o bế họ. John lúc nào cũng nhận phần thiệt.”

Giọng bà ta nghe có vẻ cay độc hơn là thông cảm.

Bristow trở lại bàn, trông rất bối rối.

“Xin lỗi, Alison phải chuyển cho tôi vài tin nhắn,” ông ta phân trần.

Bồi bàn trở lại dọn đĩa. Strike là người duy nhất ăn sạch sẽ. Khi người bồi bàn đi xa, Strike lên tiếng:

“Bà Tansy, bên cảnh sát loại lời khai của bà vì họ nghĩ là bà không thể nghe được gì cả.”

“Nhưng họ sai, phải không?” bà ta sầm mặt ngắt lời Strike. “Tôi có nghe rõ ràng.”

“Mặc dù cửa sổ đã đóng chặt?”

“Cửa sổ mở,” bà ta nói, không nhìn thẳng vào mắt ai cả. “Hôm đó rất bí. Tôi mở cửa sổ khi đi rót nước.”

Strike chắc chắn nếu tiếp tục ép, bà ta sẽ không chịu trả lời gì nữa.

“Bên cảnh sát cũng có nói là bà dùng cocaine.”

Tansy hừ giọng, vẻ thiếu kiên nhẫn.

“Thôi được,” bà ta nói. “Lúc ăn tối tôi có xài một chút, được chưa? Cảnh sát phát hiện ra chỗ còn dư trong buồng tắm khi họ khám nhà. Tối hôm đó tụi tôi phải tiếp hai vợ chồng nhà Dunnes. Phát ngấy lên được. Ai nghe họ nói chuyện cũng phải làm vài tép mới sống nổi. Nhưng tôi không hề tưởng tượng ra tiếng nói trên lầu. Sự thật là có một người đàn ông trên đó, ông ta giết Lula. Chính ông ta giết Lula,” Tansy lặp lại, trừng mắt nhìn Strike.

“Bà nghĩ là sau đó ông ta đi đâu?”

“Làm sao tôi biết được? John trả tiền cho anh để anh điều tra kia mà. Ông ta lẻn ra bằng cách nào đó. Có thể là leo qua cửa sổ đằng sau. Có thể trốn trong thang máy. Cũng có thể đi ra từ dưới hầm đậu xe. Tôi làm sao biết ông ta trốn ra bằng cách nào, tôi chỉ biết ông ta có ở đó.”

“Tụi tôi tin cô mà,” Bristow vội vã đỡ lời. “Tụi tôi tin cô, Tansy à. Cormoran phải hỏi những câu như vậy để mà… hình dung hết sự việc hôm đó.”

“Cảnh sát cố chứng minh là tôi nói dối,” Tansy nói tiếp, lơ Bristow và nhìn thẳng vào Strike. “Họ tới quá trễ, thủ phạm đã đi mất rồi, nên đương nhiên là họ phải tìm cách bao che. Nếu không ở trong hoàn cảnh của tôi, suốt ngày phải đối mặt với báo chí, anh không thể nào hiểu được. Như sống trong địa ngục vậy. Tôi phải đi an dưỡng để tránh xa hết. Tôi không tin nổi là báo chí được phép làm những việc như vậy ở cái đất nước này; tất cả chỉ vì tôi nói thật, nực cười là ở chỗ đó. Đáng ra tôi ngậm miệng quách cho xong. Nếu biết trước vậy, tôi đã không nói gì hết.”

Bà ta xoay chiếc nhẫn kim cương quanh ngón tay.

“Khi Lula rớt xuống thì Freddie vẫn còn ngủ đúng không?” Strike hỏi tiếp.

“Đúng rồi.” bà ta trả lời.

Tansy đưa tay lên trán, làm như đang vuốt tóc. Người bồi bàn quay lại đem theo thực đơn tráng miệng. Strike không thể hỏi thêm gì cho tới khi tất cả đều đã gọi món. Cũng chỉ có Strike dùng món tráng miệng; bà người còn lại đều chỉ gọi cà phê.

“Vậy Freddie ra khỏi giường lúc nào?” hắn hỏi Tansy ngay khi người bồi bàn vừa đi khỏi.

“Ý anh là sao?”

“Bà nói ông ta còn nằm trong giường khi Lula rơi xuống, vậy ông ta tỉnh dậy khi nào?”

“Khi nghe tiếng tôi la hét,” bà ta trả lời, như thể câu hỏi quá thừa. “Tôi làm lão thức dậy còn gì?”

“Vậy ông ta phải di chuyển rất nhanh.”

“Tại sao?”

“Bà nói là: ‘Tôi chạy khỏi căn hộ, Freddie đang ngồi đó, tôi chạy xuống cầu thang.’ Vậy là Freddie đã có mặt trong phòng khách trước khi bà chạy xuống báo với Derrick?”

Tansy sựng lại vài giây.

“Đúng rồi,” bà ta nói, vuốt mái tóc hoàn hảo, tay che ngang mặt.

“Vậy là ông ta đang ngủ mà chỉ mất có mấy giây để ra ngồi tỉnh táo trong phòng khách? Bởi vì lúc nãy bà kể là bà bắt đầu la lên và chạy xuống ngay sau đó?”

Lại một thoáng lặng ngắt.

“À,” bà ta nói tiếp. “À… tôi không biết. Tôi nghĩ lúc đó tôi hét lên… có thể hét trong lúc bất động… có lẽ tôi đứng im một lúc… tôi quá sốc mà… rồi Freddie chạy ào ra từ phòng ngủ, rồi tôi mới chạy qua mặt lão.”

“Bà không dừng lại để kể vừa mới thấy gì à?”

“Tôi không nhớ.”

Bristow lại nhấp nhổm muốn nói chen. Strike đưa tay lên cản; nhưng Tansy đã kịp đổi đề tài, Strike đoán là bà ta đang tránh nói đến ông chồng.

“Tôi suy nghĩ rất nhiều về chuyện làm sao sát thủ lẻn vô được, chắc hẳn là hắn đã đi theo Lula ngay buổi sáng hôm đó, vì Derrick Wilson hay bỏ bàn trực để đi vệ sinh. Tôi nghĩ sau vụ này đáng ra phải đuổi thẳng Wilson. Tôi biết chắc ông ta hay chuồn ra phòng sau để ngủ. Tôi không biết làm cách nào sát thủ lại biết mật mã khóa, nhưng tôi chắc hắn đi theo đường đó.”

“Bây giờ bà có thể nhận ra giọng của người đó không? Giọng người la hét tối hôm đó ấy?”

“Chắc không,” bà ta nói. “Chỉ là giọng đàn ông thôi. Có thể là bất kỳ ai. Chẳng có gì đặc biệt. Sau đó tôi có nghĩ, Phải chăng là Duffield?” bà ta nói, vẫn nhìn chăm chú vào Strike, “bởi vì trước đó tôi từng nghe Duffield la hét trên lầu. Lần đó Wilson phải tống cổ nó ra còn nó thì cứ cố đá vào cửa nhà Lula. Tôi chẳng hiểu sao một cô gái xinh như vậy mà lại theo một thằng như Duffield,” bà ta bổ sung.

“Nhiều người thấy anh ta sexy mà,” Ursula thêm vào, tay rót nốt chỗ rượu trong chai vào ly, “nhưng tôi chẳng thấy hấp dẫn chỗ nào. Trông lôi thôi gớm ghiếc thì có.”

“Mà lại,” Tansy tiếp, vừa nói vừa xoay tròn chiếc nhẫn kim cương, “chẳng có tiền bạc gì.”

“Nhưng bà không nghĩ đó là giọng của Duffield?”

“À, như tôi nói đó, cũng có thể,” bà ta đáp, nhún nhẹ vai vẻ thiếu kiên nhẫn. “Nhưng anh ta có chứng cứ ngoại phạm còn gì? Nhiều người nói không hề thấy anh ta ở Kentigern Gardens đêm đó. Rồi cả chuyện anh ta ở nhà Ciara Porter còn gì? Con đĩ.” Tansy nói thêm, cười khẩy. “Bồ của bạn thân cũng chơi.”

“Họ ngủ với nhau à?” Strike hỏi

“Ơ, thế anh nghĩ gì?” Ursula bật cười, cứ như câu hỏi quá ngây thơ. “Tôi quá biết Ciara Porter, nó biểu diễn trong một chương trình từ thiện tôi làm. Vừa lầy vừa dốt.”

Cà phê và món tráng miệng kẹo bơ của Strike được mang ra.

“Xin lỗi anh, John, nhưng rõ là Lula không biết chọn bạn,” Tansy nói, nhấp cà phê espresso. “Ciara, rồi cả Bryony Radford. Mặc dù con đó chẳng phải bạn bè gì, nhưng nếu là tôi thì tôi không đời nào đi tin một đứa như vậy.”

“Bryony là ai vậy?” Strike giả vờ hỏi (hắn vẫn còn nhớ người này).

“Chuyên viên trang điểm, chém rất đẹp. Cũng là một đứa chẳng ra gì,” Ursula nói. “Tôi có thuê nó một lần, hồi đi dự tiệc của Tổ chức Gorbachev và sau đó gặp ai nó cũng nói…”

Ursula tự nhiên dừng bặt, đặt ly rượu xuống và cầm tách cà phê lên. Strike mặc dù thấy không có liên quan nhưng vẫn khá tò mò không biết Bryony đã nói gì. Hắn vừa định mở miệng thì Tansy cắt ngang.

“À rồi còn cái đứa gớm ghiếc mà Lula hay đưa về nhà nữa, John, anh nhớ không?”

Tansy nhìn Bristow, nhưng ông này có vẻ ngơ ngác.

“Anh nhớ không, cái con… da đen gớm ghiếc mà thỉnh thoảng Lula lại kéo về. Hình như là dân lang thang. Nó… hôi rình. Nó mà vừa từ thang máy ra là biết ngay. Lula còn cho nó xài bể bơi nữa. Tôi cứ tưởng bọn đen không biết bơi chứ?”

Bristow hấp háy mắt liên tục, mặt đỏ lựng.

“Chẳng biết Lula chơi gì với con đó,” Tansy nói. “Chắc anh phải nhớ chứ John. Nó mập ú. Rất lôi thôi. Trông hơi khùng khùng.”

“Tôi không…” Bristow lẩm bẩm.

“Có phải là Rochelle không?” Strike hỏi.

“À đúng rồi, chắc nó đó. Hôm đám tang nó cũng đi,” Tansy nói. “Tôi để ý thấy. Nó ngồi ngay đằng sau.”

“Bây giờ anh nghe đây,” bà ta giương cặp mắt sẫm màu nhìn thẳng vào Strike, “việc hôm nay không có gì chính thức cả. Không thể để Freddie biết tôi có gặp anh. Tôi sẽ không đụng chạm gì tới bọn báo chí nữa. Làm ơn tính tiền,” Bà ta nói như sủa vào người bồi bàn.

Khi hóa đơn được đem ra, bà ta đưa luôn cho Bristow mà không nói gì thêm.

Hai chị em Tansy chuẩn bị ra về. Cả hai hất mái tóc nâu bóng mượt ra sau, bắt đầu mặc những chiếc áo khoác đắt đỏ. Vừa lúc đó cánh cửa nhà hàng mở ra. Một người đàn ông cao gầy mặc comlet, khoảng chừng sáu mươi tuổi bước vào và đi thẳng tới bàn của bốn người. Tóc ông ta ngả bạc, trông rất quý phái, áo quần không chê vào đâu được. Đôi mắt xanh tái của ông ta toát lên một vẻ lạnh lùng khó tả. Ông ta bước đi nhanh nhẹn, dứt khoát.

“Thật là ngạc nhiên,” ông ta nhẹ nhàng cất tiếng khi tiến tới ngay giữa hai người đàn bà. Chỉ Strike nhìn thấy ông ta bước vào, cả ba người kia đều sốc và xem ra chẳng vui vẻ gì khi thấy ông ta. Tansy và Ursula sững sờ giây lát, Ursula vẫn đang rút chiếc kính râm ra khỏi túi.

Tansy hoàn hồn trước.

“Cyprian,” bà ta nói, đưa má cho ông ta hôn. “Ngạc nhiên vậy!”

“Cứ tưởng em đang đi mua sắm chứ Ursula?” ông ta nói, nhìn bà vợ trong khi hôn nhẹ xã giao lên má Tansy.

“Tụi em đi ăn trưa luôn, Cyps à,” bà ta nói ngay nhưng mặt bắt đầu tái. Strike cảm thấy không khí chung quanh ám đặc lại.

Người đàn ông lớn tuổi liếc mắt về phía Strike rồi đảo sang Bristow.

“Tôi cứ tưởng Tony làm vụ li dị cho chị, đúng không Tansy?” ông ta hỏi.

“Đúng vậy,” Tansy đáp. “Hôm nay không có dính gì tới công việc cả, Cyps. Chỉ là ăn uống xã giao thôi.”

Ông ta mỉm cười lạnh lùng.

“Vậy để tôi đưa hai quý cô về,” ông ta nói.

Hai người nhanh chóng chào Bristow, không đá động gì đến Strike và đi theo chồng Ursula ra cửa. Khi cánh cửa đóng lại, Strike quay sang hỏi Bristow:

“Chuyện gì vậy?”

“Người đó là Cyprian,” Bristow đáp. Ông ta lập cập rút thẻ tín dụng ra đặt trên hóa đơn. “Cyprian May. Chồng của Ursula. Thành viên cấp cao bên công ty. Ông ta sẽ không hài lòng nếu biết Tansy đi gặp anh. Tôi không biết làm sao ông ta biết được mình ở đây. Chắc là hỏi Alison.”

“Tại sao ông ta không muốn Tansy nói chuyện với tôi?”

“Tansy là chị vợ của ông ấy,” Bristow vừa nói vừa mặc áo khoác. “Ông ta sợ Tansy lại nói gì bậy bạ lần nữa. Kiểu gì tôi cũng sẽ bị rủa một trận cái tội năn nỉ Tansy gặp anh. Chắc giờ này ông ta đang gọi cho ông cậu tôi để càm ràm.”

Strike để ý thấy tay Bristow vẫn còn run.

Bristow ra về trong chiếc taxi do nhà hàng gọi giúp. Strike đi bộ ra khỏi Cipriani, vừa đi vừa tháo lỏng cà vạt, mải suy nghĩ đến suýt chút nữa thì bị một chiếc xe đằng sau đâm vào khi băng qua phố Grosvenor. Chiếc xe bấm còi inh tai, làm hắn giật cả mình.

Sau cú lay tỉnh kịp thời đó, Strike đi thẳng tới bức tường phai màu cạnh hiệu làm đẹp Elizabeth Arden Red Door Spa. Hắn tựa lưng vào tường, châm thuốc và rút điện thoại di động ra. Vừa nghe vừa tua nhanh đoạn ghi âm, hắn canh tới đoạn Tansy mô tả những việc xảy ra trước khi Lula rơi xuống.

… ngay trước phòng ngủ, tôi nghe có tiếng la hét. Cô ta nói “Muộn rồi. Đã xong hết rồi,” và một người đàn ông nói, “Mày là con láo toét khốn nạn,” rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.

Strike nghe được cả tiếng ly rượu của Bristow đặt xuống mặt bàn. Hắn tua ngược và nghe lại.

… nói “Muộn rồi. Đã xong hết rồi,” và một người đàn ông nói, “Mày là con láo toét khốn nạn,” rồi ông ta ném Lula xuống. Rồi tôi thấy cô ta rơi xuống.

Hắn nhớ lại điệu bộ của Tansy diễn tả cánh tay Landry buông xuống và vẻ kinh hoàng trên gương mặt lạnh như băng của bà ta. Bỏ điện thoại vào túi, hắn rút sổ ra ghi chép.

Strike đã gặp rất nhiều người nói dối. Hắn có thể ngửi ra ngay. Hắn biết rõ Tansy là một trong số đó. Rõ ràng bà ta không thể nghe thấy gì từ trong căn hộ. Từ đó cảnh sát kết luận hôm đó bà ta không nghe được gì cả. Thế nhưng, ngược hẳn với suy nghĩ trước đó của Strike và mặc cho tất cả bằng chứng đến lúc này đều cho thấy Lula Landry tự tử, hắn lại có cảm giác Tansy thực sự tin là bà ta có nghe tiếng cãi nhau trước khi Landry rơi xuống. Đó là phần nói thật duy nhất trong câu chuyện của bà ta, chút sự thật ít ỏi le lói giữa những lời bịa đặt.

Strike đứng thẳng người dậy, tiếp tục đi về phía đông dọc theo phố Grosvenor, lần này để ý xe cộ hơn, nhưng trong đầu vẫn nghĩ tới vẻ mặt, giọng nói và kiểu cách của Tansy khi mô tả những giây cuối cùng của Lula Landry.

Tại sao bà ta nói thật chỗ quan trọng nhất, nhưng tại bao quanh đó bằng những lời dối trá? Tại sao bà ta nói dối chuyện đang làm gì khi nghe thấy tiếng hét? Strike nhớ đến câu nói của nhà tâm lý học Alfred Alder: “Không có lý do gì để nói dối, trừ khi sự thật cũng đáng sợ không kém.” Hôm nay Tansy chịu đến Cipriani, coi như nỗ lực cuối cùng để tìm một người chịu tin lời bà ta, nhưng cùng lúc phải tin luôn những sự dối trá đi kèm.

Hắn đi nhanh, không để ý đến chân phải đang nhức nhối. Cuối cùng hắn nhận ra mình vừa mới đi dọc hết phố Maddox và tới phố Regent. Mái hiên màu đỏ của cửa hàng đồ chơi Hamleys vẫy gọi từ xa. Strike sực nhớ hắn định mua quà sinh nhật cho cháu trên đường về.

Strike bước vào, lơ đãng lướt qua cái thế giới sặc sỡ, đầy tiếng cót két và đèn chớp nháy liên tục chung quanh. Cứ vậy hắn đi từ tầng này đến tầng khác, không để ý cả những tiếng rì rì, vo ve của mấy chiếc máy bay đồ chơi đang lơ lửng và những con lợn máy liên tục ụt ịt chạy qua dưới chân. Cuối cùng, sau hai mươi phút, hắn tới gian hàng búp bê quân đội Hoàng gia. Hắn đứng đó, lặng yên, nhìn chăm chăm vào hàng ngũ lính hải quân và lính nhảy dù, nhưng hình như chỉ nhìn mà không thấy gì cả. Hắn còn không nghe cả tiếng thì thầm của mấy vị phụ huynh đứng gần đó. Họ đang cố đẩy mấy đứa trẻ con đi vòng qua người đàn ông to lớn đang mải nhìn vào hư vô, không dám lên tiếng nhờ hắn đứng nhích qua một bên.

Phần Ba

Forsan et haec olim meminise invabit.

Một mai giông bão tan rồi

Chuyện xưa nhắc lại bồi hồi có khi.

- Virgil, Aeneid, Quyển 1

1

Thứ Tư trời bắt đầu đổ mưa. Thời tiết đúng kiểu London, ẩm ướt và xám xịt. Thành phố lạnh lùng, đầy những gương mặt nhợt nhạt dưới bóng dù đen, mùi áo quần mãi không khô và cả tiếng mưa rơi đều đều đập vào cửa sổ văn phòng của Strike mỗi đêm.

Mưa ở Cornwall rất khác. Strike còn nhớ những cơn mưa quất vào ô cửa phòng hắn ở nhà mợ Joan cậu Ted. Hắn từng ở với cậu mợ mấy tháng, học trường làng ở St Mawes. Căn nhà nhỏ lúc nào cũng thơm mùi hoa và bánh nướng. Những kỷ niệm thời thơ ấu tự dưng ùa về khi hắn sắp đi thăm Lucy.

Chiều thứ Sáu. Mưa vẫn rơi rộn ràng trên bệ cửa sổ. Robin đang gói con búp bê lính nhảy dù cho thằng Jack. Ở góc bàn đối diện Strike viết một tấm séc, điền vào số tiền bằng lương tuần của Robin trừ đi khoản hoa hồng của Giải pháp Tạm thời. Lát nữa Robin sẽ đi dự phỏng vấn xin việc “nghiêm túc” (cuộc phỏng vấn thứ ba trong tuần đó). Hôm nay cô mặc complet đen, tóc búi cao, trông rất gọn gàng chỉnh tề.

“Xong rồi,” cả hai cùng lên tiếng. Robin đẩy món quà xinh xắn gói giấy in hình những chiếc tàu vũ trụ bé tí về bên kia bàn. Strike chìa tấm séc ra.

“Cảm ơn cô,” Strike nói, cầm lấy món quá. “Tôi không biết gói quà.”

“Hi vọng nó sẽ thích,” Robin vừa nói vừa nhét tấm séc vào túi xách.

“Vâng, chúc cô đi phỏng vấn may mắn. Cô có thích việc đó không?”

“Việc khá tốt. Bộ phận nhân sự của một công ty tư vấn truyền thông bên phía Tây thành phố,” cô đáp, chẳng có vẻ gì là nhiệt tình. “Anh đi ăn tiệc vui nhé. Hẹn thứ Hai gặp lại.”

Trời vẫn mưa dai dẳng, chuyện đi bộ hành xác ra phố Denmark chỉ để hút thuốc cũng trở nên khó nhọc hơn. Strike đứng dưới mái hiên nhô ra chỉ vừa đủ che mưa. Hắn ngẫm nghĩ có nên bỏ thuốc và tập luyện trở lại. Sức khỏe của hắn hình như cũng đang đội nón ra đi, theo chân tiền nong và nơi ăn chốn ở ấm cúng. Điện thoại bỗng đổ chuông.

“Báo cho anh biết là vụ anh cho manh mối có kết quả ngon lành,” Giọng Eric Wardle hể hả. Strike nghe cả tiếng máy xe và người nói chuyện ở đầu dây bên kia.

“Nhanh nhẹn đấy,” Strike bình luận.

“Ừ, tụi tôi nói là làm liền.”

“Vậy việc của tôi cũng xong luôn chứ?”

“Thì tôi gọi cũng là vì chuyện đó. Hôm nay thì hơi trễ. Thứ Hai tôi sẽ đem qua cho anh vậy.”

“Sớm hơn được không? Tôi sẽ nán lại đợi.”

Wardle cười, hơi móc máy.

“Anh tính công theo giờ mà đúng không? Sao không dây ra cho nhiều?”

“Tối nay đem qua thì tốt hơn. Nếu anh đem qua tối nay, lần sau có vụ gì anh sẽ được biết trước hết.”

Wardle im lặng trong giây lát, Strike nghe tiếng đàn ông trong xe Wardle rủa:

“Cái mặt thằng Fearney chết tiệt…”

“Được rồi,” Wardle trả lời. “Lát nữa tôi sẽ đem qua. Có khi bảy giờ mới qua được. Anh chờ được không?”

“Chắc chắn được,” Strike đáp.

Ba tiếng sau hồ sơ được mang đến, khi hắn vừa ăn cá tẩm bột và khoai tây chiên trong hộp xốp để trên đùi vừa xem tin tức London buổi tối trên TV. Người chuyển phát bấm chuông, Strike ký nhận một bưu kiện khá to gởi từ Sở cảnh sát London. Hắn mở ra, bên trong là một kẹp hồ sơ dày màu xám đựng đầy các bản sao. Strike mang hết về bàn của Robin vùi đầu nghiền ngẫm.

Hồ sơ gồm có lời khai của những người gặp Lula vào đêm cuối cùng trong đời cô, kết quả AND thu được trong căn hộ, bản sao sổ trực bảo vệ ở tòa nhà số 18, Kentigern Gardens; đơn thuốc rối loạn lưỡng cực của Lula, báo cáo khám nghiệm tử thi, y bạ của năm trước đó, danh sách các cuộc gọi vào máy di động và cố định và bản tóm tắt các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của cô người mẫu. Ngoài ra có thêm một đĩa DVD, trên mặt đĩa Wardle ghi nguệch ngoạc Camera an ninh – 2 người bỏ chạy.

Ổ đĩa DVD trên chiếc máy tính cũ mèm của Strike đã bị hỏng từ khi mới mua. Hắn thảy cái đĩa vào túi áo khoác treo trên cửa gương rồi trở về bàn tiếp tục nghiền ngẫm hồ sơ, bên cạnh để sẵn cuốn sổ ghi chép.

Màn đêm buông xuống bên ngoài, ánh sáng vàng óng từ chiếc đèn để bàn đổ tràn lên mỗi trang giấy. Strike miệt mài đọc từ đầu đến kết luận cuối cùng. Giữa những lời khai đã được chuốt gọn, các mốc thời gian tỉ mỉ và mớ bản sao nhãn lọ thuốc trong tủ nhà Landry, Strike tìm kiếm sự thật hắn ngửi thấy sau những lời nói dối của Tansy Bestigui.

Khám nghiệm tử thi cho thấy Lula chết do va chạm với mặt đường, bị gãy cổ và xuất huyết nội. Phần trên cánh tay bị bầm. Khi ngã xuống cô chỉ mang một chiếc giày. Ảnh chụp tử thi cho thấy đúng như trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com đã nhận xét, Lula có thay áo sau khi về nhà. Tử thi mặc áo đính kim sa và quần âu chứ không phải bộ đầm trong hình chụp cô ta lúc mới về đến nhà.

Strike đọc đến mấy bản lời khai không nhất quán của Tansy; lời khai đầu tiên chỉ nói chuyện đi từ phòng ngủ vào nhà vệ sinh; lời khai thứ hai thêm vào chuyện mở cửa sổ. Trong cả hai lần khai bà ta đều nói Freddie nằm trên giường. Cảnh sát có tìm thấy nửa tép cocaine trên thành bồn tắm và một túi xốp đựng cocaine giấu bên trong hộp băng vệ sinh trong tủ đồ ngay trên bồn rửa mặt.

Freddie khai là khi Landry ngã xuống thì ông ta đang ngủ, sau đó bị tiếng la hét của bà vợ đánh thức bèn chạy ngay vào phòng khách. Ông ta chỉ kịp thấy Tansy chạy qua, trên người mặc mỗi đồ lót. Bình hoa hồng dành cho Macc mà viên cảnh sát hậu đậu đã vô ý đánh vỡ đúng là quà của ông ta mừng Macc mới đến, cũng là để tự giới thiệu. Ông ta đúng là có muốn làm quen với nghệ sĩ nhạc rap này, có nghĩ tới chuyện mời Macc vào một vai trong bộ phim hành động gay cấn sắp tới. Ông ta phản ứng hơi quá về vụ bình hoa chẳng qua cũng là vì quá sốc trước cái chết của Landry. Ban đầu ông ta tin lời bà vợ khi bà ta nói có nghe thấy tiếng cãi nhau trên lầu. Sau đó, mặc dầu có phần lưỡng lự, ông ta cũng chấp nhận quan điểm của cảnh sát là lời khai của Tansy chịu ảnh hưởng bởi cocaine. Thói chơi thuốc của bà vợ làm cho cuộc sống của hai người rất căng thẳng. Ông ta thừa nhận với cảnh sát là ông có biết việc bà vợ thường xuyên dùng chất kích thích, nhưng không biết trong nhà sẵn có thứ đó.

Sau đó Bestigui nói thêm rằng ông ta và Landry chưa bao giờ vào thăm nhà nhau, ngay cả lần gặp ở nhà của Dickie Carbury (hình như sau đó cảnh sát mới biết vụ này vì Freddie được lấy lời khai tới hai lần) cũng không làm hai bên thân thiết gì hơn. “Cô ấy chủ yếu nói chuyện với những người khách trẻ tuổi, còn tôi thì phần lớn thời gian nói chuyện với Dickie, ngang tuổi tôi.” Lời khai của Bestigui trơn tuồn tuột, không có chỗ nào khúc mắc.

Strike đọc tiếp phần mô tả sự việc bên trong căn hộ nhà Bestigui rồi viết thêm mấy câu vào sổ. Hắn đặc biệt quan tâm tới nửa tép cocaine trên thành bồn tắm, và khoảng thời gian mấy giây sau khi Tansy thấy Lula ngã xuống bên ngoài cửa sổ. Ở đây cái cần có là sơ đồ căn hộ của Bestigui (không có sơ đồ hay bản vẽ gì đính kèm hồ sơ), nhưng Strike cứ nghĩ mãi về một chi tiết không thay đổi trong cả hai lời khai của Tansy: bà ta luôn khẳng định lúc sự việc xảy ra ông chồng vẫn còn đang ngủ. Hắn nhớ lại cách Tansy lấy tay vờ vuốt tóc để che mặt khi hắn cố hỏi chi tiết này. Xét một cách toàn diện, mặc cho cảnh sát đã kết luận, Strike cho rằng vị trí chính xác của hai vợ chồng nhà Bestigui khi Lula Landry ngã xuống vẫn chưa thể xác định rõ.

Hắn đọc tiếp hồ sơ. Lời khai của Evan Duffield gần khớp với những gì Wardle kể lại. Duffield thừa nhận là có ghì cánh tay bạn gái để giữ cô ở lại Uzi. Nhưng Lula vùng ra được và bỏ về; ngay sau đó hắn có đuổi theo. Chỉ có một câu nhắc tới mặt nạ chó sói, viết theo đúng ngôn ngữ khách quan không cảm xúc của viên cảnh sát phỏng vấn Duffield: “Tôi có thói quen mang mặt nạ đầu chó sói khi muốn tránh sự chú ý của giới săn ảnh.” Lời khai ngắn gọn của tài xế cũng khớp với diễn tiến Duffield kể. Ban đầu anh lái xe chở hắn tới Kentigern Gardens, rồi sau về phố d’Arblay, thả hắn xuống đó và đánh xe đi. Rõ là cảnh sát viết sẵn lời khai cho anh ta ký nên rất ngắn gọn, chỉ tường thuật sự việc mà không thể hiện thái độ căm ghét Duffield như Wardle có kể.

Thêm một vài lời khai khác làm chứng cho Duffield: từ người đàn bà nói có thấy hắn đi lên lầu để gặp tay buôn thuốc và từ chính Whycliff, tay buôn thuốc. Strike nhớ lại đoạn Wardle nói là cũng có khả năng Whycliff bao che cho Duffield. Nếu vậy, biết đâu bà ở dưới lầu cũng bị mua chuộc theo? Những người khai có thấy Duffield đi lang thang trên phố London đêm hôm đó thực ra chỉ có thể khẳng định là có trông thấy một người đàn ông đội mũ hóa trang chó sói.

Strike châm điếu thuốc rồi đọc lại lời khai của Duffield. Hắn ta vốn nổi tiếng nóng nảy và có thừa nhận là đã cố dùng vũ lực để ép Lula ở lại. Chỗ bầm tím trên cánh tay Lula chắc hẳn từ đây mà ra. Tuy nhiên, nếu đúng là tay này có chơi thuốc ở nhà Whycliff thì rất ít khả năng hắn đủ tỉnh táo để đột nhập vào tòa nhà số 18 Kentigern Gardens rồi nổi điên lên tới mức giết người. Strike biết quá rõ hành vi của những con nghiện heroin; hắn đã thấy khá nhiều hồi ở nhà hoang với mẹ. Khi dùng heroin người ta trở nên thụ động, dễ bị sai khiến, hoàn toàn trái ngược với màn hung hăng la hét thường thấy ở người nghiện rượu hoặc trạng thái hoang tưởng giậm giật khi vừa chơi cocaine. Strike biết hết thảy các thể loại nghiệp ngập, trong quân đội cũng có mà ngoài đời cũng có. Hắn thấy kinh tởm khi báo chí mạnh tay tô vẽ thói nghiện ngập của Duffield. Heroin không có gì hay ho cả. Mẹ hắn chết thảm trên tấm nệm dơ dáy ở góc phòng sau khi chơi thuốc, mãi sáu tiếng đồng hồ sau mới có người phát hiện ra.

Hắn đứng dậy, bước tới mở cửa sổ lấm tấm mưa tạt, bên ngoài tối đen. Tiếng bass từ dưới quán bar vọng lên to hơn nữa. Vẫn hút thuốc, hắn nhìn về phố Charing Cross lấp lánh ánh đèn xe và những vũng nước đọng. Nơi đó người ta đi chơi tối thứ Sáu, lảo đảo băng qua cuối phố Denmark, tay cầm dù nghiêng ngả, cười nói rộn ràng trong tiếng xe cộ. Strike tự hỏi không biết đến bao giờ hắn mới lại đi uống bia tối thứ Sáu với bạn? Khái niệm đó giờ đây thuộc về một thế giới khác, một phần đời đã lùi hẳn về sau. Giai đoạn dở dở ương ương mà hắn đang sống, gần như chỉ giao thiệp với mỗi Robin, rõ ràng không thể kéo dài mãi được. Nhưng hắn vẫn chưa sẵn sàng để bắt đầu lại. Hắn đã mất đi cuộc sống trong quân đội, mất cả Charlotte và một nửa cái chân. Hắn thấy mình cần phải tự làm quen với chính con người mới này, trước khi sẵn sàng đón nhận thái độ ngạc nhiên và thương hại của người khác. Đầu lọc thuốc lá màu cam rơi xuống con phố tối om, tắt ngúm trong rãnh nước đọng. Strike kéo cửa sổ xuống, trở về bàn và kéo tập hồ sơ về phía mình.

Lời khai của Derrick Wilson không có gì mới lạ. Hồ sơ không hề nhắc tới Kieran Kolovas-Jones hay mảnh giấy màu xanh mà anh ta có nói tới. Strike giở tiếp đến phần lời khai của hai cô gái ở cùng Lula trong buổi chiều cuối cùng, Ciara Porter và Bryony Radford.

Chuyên viên trang điểm nhớ lại là Lula rất vui vẻ và phấn khích về chuyện Deeby Macc sắp dọn đến. Nhưng Porter lại nói rằng hôm đó trông Landry “không giống cô ta thường ngày”, có vẻ “buồn và lo lắng”, nhưng khi hỏi thì không nói gì. Lời khai của Porter có một chi tiết lạ, chưa có ai nhắc đến. Người mẫu này nói rằng chiều hôm đó Landry tự dưng nói rất cụ thể về ý định “để lại hết” cho anh trai. Ciara không khai rõ Lula nói vậy trong hoàn cảnh nào; nhưng đọc qua thì có cảm giác như hôm đó Lula đang nghĩ quẩn.

Strike tự hỏi tại sao Bristow lại không nhắc đến chuyện Lula để lại hết tài sản cho anh ta. Đương nhiên Bristow đã có sẵn một mớ tài sản từ ông già. Có lẽ vì vậy mà một đống tiền nữa với anh ta cũng không có gì đáng nói, khác hẳn với Strike, trước nay chưa từng được thừa kế một xu teng.

Strike bắt đầu ngáp, hắn đốt một điếu thuốc nữa cho tỉnh ngủ và đọc lời khai của mẹ Lula. Theo như lời phu nhân Yvette Bristow, hôm đó bà vẫn còn khá mệt và chưa tỉnh táo hẳn vì mới vừa phẫu thuật, nhưng khẳng định rằng cô con gái “hoàn toàn vui vẻ” khi ghé thăm bà buổi sáng hôm đó. Lula không có biểu hiện gì khác thường, chỉ lo lắng cho tình trạng sức khỏe và khả năng hồi phục của bà. Strike đọc thấy trong lời khai của phu nhân Bristow một thái độ kiên quyết phủ nhận sự thật, nhưng cũng có thể là do cách viết cụt ngủn, không có cảm giác gì của viên cảnh sát lấy lời khai. Chỉ có một mình phu nhân Bristow cho là Lula chết do tai nạn, chắc sơ ý trượt chân ngã từ ban công xuống mặt đường đóng băng đêm đó.

Strike đọc lướt qua lời khai của Bristow, hoàn toàn khớp với những gì ông ta đã kể. Sau đó là lời khai của Tony Landry, cậu của Lula và John. Ông ta khai có đến thăm phu nhân Yvette Bristow sáng hôm đó, có gặp Lula và thấy Lula có vẻ “bình thường”. Sau đó ông ta lái xe xuống Oxford để dự hội nghị quốc tế về luật gia đình, đêm đó ở lại khách sạn Malmaison. Lời khai của Tony đi kèm với mấy dòng bình luận không rõ ràng về những cuộc điện thoại nào đó. Strike mở phần bản sao danh sách cuộc gọi xem có giải thích gì không.

Trong một tuần ngay trước khi sự việc xảy ra, Lula hầu như không hề đụng tới điện thoại để bàn. Ngày hôm trước khi cô ta chết thì hoàn toàn không dùng. Tuy nhiên hôm đó cô ta lại gọi hơn sáu mươi cuộc bằng điện thoại di động. Cuộc gọi đầu tiên lúc 9 giờ 15 phút sáng là gọi cho Evan Duffield; cuộc thứ hai lúc 9 giờ 35 phút cho Ciara Porter. Mấy tiếng sau đó không gọi cho ai cả, rồi từ 1 giờ 21 phút buổi chiều cô ta liên tục gọi cho hai số, cứ hết số này đến số kia. Số thứ nhất là Duffield, số thứ hai, theo như mấy chữ nguệch ngoạc bên cạnh dòng ghi lại cuộc gọi đầu tiên, là Tony Landry. Cô ta liên tục gọi cho hai người này. Thỉnh thoảng nghỉ hai mươi phút, rồi gọi trở lại, chắc chỉ bấm nút “redial” trên điện thoại. Lula hẳn đã gọi điện khi ở trong căn hộ có mặt cả Bryony Radford và Ciara Porter, mặc dù lời khai của cả hai đều không nhắc gì đến chuyện Lula liên tục dùng điện thoại.

Strike quay ngược lại phần lời khai của Tony Landry, trong đó không hề giải thích tại sao cháu gái lại muốn liên lạc với ông ta đến vậy. Ông ta khai là đã tắt điện thoại khi dự hội nghị, mãi sau đó mới thấy những cuộc gọi nhỡ buổi chiều. Ông ta không biết tại sao Lula gọi, và cũng không gọi lại vì khi ông ta thấy cuộc gọi nhỡ thì Lula cũng đã thôi không gọi nữa. Ông ta đoán (đúng y) là khi đó Lula đang ở hộp đêm.

Strike ngáp liên tục; hắn nghĩ tới chuyện đi pha cà phê nhưng không đứng dậy nổi. Đã rất muốn ngủ nhưng theo thói quen hắn vẫn muốn làm cho xong việc. Hắn lật đến phần bản sao sổ trực, ghi lại những người ra vào tòa nhà số 18 ngay hôm trước khi Lula Landry chết. Cuốn sổ cho thấy Wilson cũng không ghi chép kỹ lưỡng gì. Như Wilson đã nói với Strike, sổ không ghi lại những lần ra vào của chủ nhân các căn hộ, vậy nên trong sổ không nhắc gì đến Landry và hai vợ chồng Bestigui. Dòng đầu tiên là nhân viên bưu chính, tới lúc 9 giờ 10 phút sáng; sau đó lúc 9 giờ 22 phút là Giao bình hoa, nhà số 2, và cuối cùng lúc 9 giờ 50 phút là nhân viên bảo trì từ Securibell. Wilson không hề ghi nhân viên bảo trì đi khỏi lúc mấy giờ.

Ngoài những người đó ra thì đúng như Wilson nói, hôm đó khá yên tĩnh. Ciara Porter đến lúc 12 giờ 50; Bryony Radford lúc 1 giờ 20. Radford ra về lúc 4 giờ 40, có ký trong sổ khi ra về. Sau đó là mấy người mang đồ ăn cho nhà Bestigui lúc 7 giờ. Ciara đi ra cùng với Lula lúc 7 giờ 15 và người mang đồ ăn ra về lúc 9 giờ 15.

Strike khá bực mình vì cảnh sát chỉ photocopy lại mỗi một trang trong sổ, trang của ngày trước khi Landry chết. Vậy mà hắn đã hi vọng là biết đâu tìm ra được tên họ đầy đủ của Rochelle ở đó.

Gần nửa đêm, Strike đọc tới phần báo cáo các nội dung tìm thấy trên máy tính xách tay của Landry. Có vẻ như cảnh sát muốn tìm những email cho thấy tâm trạng trầm cảm hay manh mối về ý định tự tử, nhưng không tìm thấy gì cả. Strike đọc tất cả những email Landry gửi và nhận trong hai tuần trước khi cô ta chết.

Nghe có vẻ vô lý nhưng chính vô số hình ảnh lưu giữ sắc đẹp lạ thường của Lula khiến Strie có cảm giác cô người mẫu dường như không phải là người thật. Cô ta xuất hiện ở khắp mọi nơi, những đường nét dần trở nên trừu tượng và chung chung, cho dù gương mặt ấy vẫn đẹp không lẫn vào đâu được.

Giờ đây, giữa giấy trắng mực đen, giữa những dòng chữ thỉnh thoảng mắc lỗi chính tả, giữa những chuyện đùa và biệt danh mà chỉ người trong cuộc mới hiểu, bóng ma Lula dường như dần dần hiện ra trước mắt Strike, ngay trong văn phòng tối om. Email của Lula cho thấy điều mà những bức ảnh không thể nào làm được: Strike nhận ra, bằng cảm xúc chứ không phải lý trí, rằng trong đêm hôm đó, trên đường phố London phủ tuyết, đã có một con người thật sự, sống động, từng khóc từng cười; cô ngã xuống mặt đường và chết đi, cơ thể bầm dập tan nát. Hắn hi vọng sẽ thấy được bóng dáng thấp thoáng của tên sát nhân trong hồ sơ, nhưng thay vào đó, hắn chỉ thấy Lula hiện ra, nhìn hắn chằm chằm, như kiểu nhìn của những nạn nhân bị bạo hành, giữa đống tàn tích của một cuộc đời dang dở.

Hắn cũng hiểu được tại sao John Bristow khăng khăng là em gái ông ta không hề nghĩ đến cái chết. Người con gái từng gõ những dòng này hẳn là một người bạn nhiệt tình, quảng giao. Cô ta hơi bốc đồng, bận rộn nhưng lạc quan; say mê công việc và như Bristow có nói, rất phấn khích về chuyến công tác đến Morocco.

Phần lớn email gởi cho nhà thiết ké Guy Somé. Không có gì đáng lưu tâm, ngoại trừ giọng điệu gần gũi, vui vẻ nhẹ nhàng và một lần nhắc đến người bạn đặc biệt:

Geegee ơi, làm cho Rochelle một kiểu gì đó nha? Gần sinh nhật nó rồi. Tốn bao nhiêu em chịu hết. Làm cái gì dễ thương chút (đừng chơi ác nha). Ngày 21 tháng Hai được hông? Iu cưng nhiều. Cuckoo.

Strike nhớ trang LulaNguồnCảmHứngBấtTận.com có viết rằng Lula yêu mến Guy Somé như “một người anh trai”. Lời khai của Guy Somé trong hồ sơ cảnh sát cũng là lời khai ngắn nhất. Tuần trước ông ta ở Nhật Bản, vừa mới bay về ngay trong đêm Lula chết, Strike biết rằng nhà Somé rất gần Kentigern Gardens, nhưng có vẻ như cảnh sát không có nghi vấn gì khi ông ta khai là đi ngủ ngay khi vừa từ sân bay về. Strike để ý thấy nếu đi từ phố Charles đến Kentigern Gardens thì ngược chiều hẳn với camera an ninh đặt trên phố Alderbrook.

Strike đóng tập hồ sơ. Hắn đi lại trong văn phòng, nhọc nhằn cởi quần áo ngoài, tháo chân giả và mở giường xếp ra. Giờ hắn chẳng thể nghĩ gì hơn, chỉ thấy mệt mỏi kiệt sức. Hắn chìm ngay vào giấc ngủ, giữa tiếng xe cộ rì rào, tiếng mưa lộp độp bên ngoài và hơi thở không ngừng nghỉ của thành phố.

2

Ngay phía trước nhà Lucy có một cây mộc lan rất lớn. Cuối mùa xuân hoa sẽ rụng khắp bãi cỏ, như những mẩu khăn giấy bị vò nát. Bây giờ mới tháng Tư, cây mộc lan đội một đám mây trắng bồng bềnh đầy những cánh hoa màu cơm dừa. Strike chỉ mới đến đây có vài lần. Hắn rất ít khi tới nhà Lucy vì ở nhà lúc nào em gái hắn cũng luôn tay luôn chân, và cũng vì muốn tránh mặt ông em rể hắn không ưa gì.

Bóng bay cột đầy cổng, nhấp nhô trong cơn gió nhẹ. Strike đi trên lối vào hơi dốc trước cửa, gói quà kẹp dưới tay, tự nhủ rằng cuộc thăm viếng sẽ chóng xong thôi.

“Charlotte đâu?” Lucy hỏi ngay khi vừa mở cửa. Cô hơi thấp người, tóc vàng, mặt tròn.

Trong phòng khách có rất nhiều bong bóng to bằng giấy kiếng vàng, toàn là hình số bảy. Lâu lâu lại có tiếng trẻ con la hét không biết từ góc nào trong nhà, không rõ là đang phấn khích hay bị đau, làm náo động cả khu ngoại ô bình lặng.

“Cuối tuần này cổ phải về Ayr,” Strike nói dối.

“Sao vậy?” Lucy hỏi tiếp, bước lùi lại nhường lối đi cho hắn.

“Chị gái cổ có chuyện gì đó. Thằng Jack đâu rồi?”

“Tụi nó ở ngoài đó hết. Lạy Trời, vừa kịp tạnh mưa, không thì phải để tụi nó ở hết trong nhà,” Lucy nói, dẫn hắn ra vườn sau.

Ba thằng cháu của Strike đang chạy trên bãi cỏ đằng sau nhà, cùng với khoảng hai mươi đứa nhỏ khác, tất cả xúng xính áo quần. Chúng đang chơi trò gì đó, đua nhau chạy về mấy cái cột bóng cricket có dán hình trái cây, vừa chạy vừa la hét inh tai. Đám phụ huynh trợ giúp đứng chung quanh trong ánh nắng nhạt, tay cầm cốc nhựa đựng rượu. Greg, chồng của Lucy đang đứng chỉnh chiếc iPod đặt trên bàn xếp. Lucy mang ra cho Strike một ly bia lạnh, rồi lại chạy ào ra dỗ thằng con nhỏ nhất vừa ngã oạch một cú, vẫn còn gào ăn vạ.

Strike chẳng muốn con cái gì. Charlotte cũng đồng ý với hắn. Đây cũng là lý do tại sao những mối tình khác của Strike đều không đi tới đâu. Lucy hay xót xa chuyện này và cả những lý do đằng sau đó. Lucy dễ phật ý mỗi khi Strike nói về những thứ hắn muốn trong đời, vì khác hẳn với cô em gái. Những lúc đó, Lucy phản ứng như thể hắn đang lên án những quyết định và lựa chọn riêng của mình vậy.

“Khỏe không, Corm?” Greg lên tiếng. Ông em rể vừa nhường vị trí chỉnh nhạc cho một ông bố khác. Greg là một kỹ sư khối lượng công trình, luôn lúng túng không biết phải nói chuyện với Strike ra sao, cuối cùng thành ra kiểu xởi lởi đãi bôi. Greg hồ hởi: “Charlotte xinh đẹp đâu rồi? Không lẽ mới chia tay chia chân nữa hả? Ha ha ha. Thiệt bắt tin hai người muốn không kịp luôn.”

Một cô bé vừa bị xô ngã, Greg vội chạy đến giúp bà mẹ đang đỡ nó dậy, lại khóc mếu và cỏ ướt vấy đầy người. Trò chơi của bọn trẻ con càng lúc càng ồn ào, hỗn loạn. Cuối cùng người thắng cuộc được công bố. Đứa về nhì òa lên khóc, phải dỗ nó bằng một phần quà an ủi vừa lấy ra từ túi ni lông đen đằng sau bụi hoa tú cầu. Trò chơi bắt đầu lại lần nữa.

“Chào anh!” Một bà đứng tuổi rụt rè đi tới chỗ Strike đứng. “Hẳn anh là anh trai Lucy!”

“Vâng” hắn đáp.

“Tụi tôi có nghe vụ chân cẳng của anh, khổ thân,” bà ta nói tiếp, nhìn xuống chân hắn. “Lucy có kể hết. Hay thiệt hả? Lúc anh mới đi vô tôi chẳng thấy anh cà nhắc tí nào. Đúng là y học ngày nay tiến bộ ghê? Có khi bây giờ anh còn chạy nhanh hơn cả hồi xưa!”

Chắc bà ta tưởng hắn cũng mang một cái chân giả hình lưỡi liềm bằng sợi carbon như các vận động viên Paralympic. Hắn uống một hớp bia, gượng gạo mỉm cười.

“Có đúng vậy không?” bà ta vừa hỏi vừa liếc mắt điệu đà, tò mò lộ liễu. “Anh là con của Jonny Rokeby thiệt hả?”

Sự nhẫn nại của Strike đứt phựt một phát như mấy sợi chỉ mỏng manh bị kéo căng.

“Tôi cóc biết,” hắn đáp. “Sao chị không đi mà hỏi ông ta?”

Bà ta sửng sốt. Sau vài giây bà lẳng lặng bỏ đi. Hắn thấy bà ta đến nói gì đó với một bà khác, bà này ngay lập tức liếc về phía hắn. Lại một đứa trẻ con chạy ngã, đập đầu vào cột bóng cricket có gắn hình một quả dâu khổng lồ rồi hét lên một tiếng muốn rách cả màng nhĩ. Tranh thủ lúc đám đông đang xúm vào xuýt xoa nạn nhân mới, Strike bỏ vào nhà.

Phòng khách đơn giản, tiện nghi với ba chiếc ghế nệm màu xám. Trong phòng có bản in một bức tranh trường phái Ấn tượng treo trên bệ lò sưởi và mấy khung hình ba đứa cháu trai mặc đồng phục học sinh màu xanh đặt rải rác trên kệ. Strike đóng cửa phòng khách lại cho khỏi ồn rồi lấy đĩa DVD trong túi ra, bỏ vào đầu máy và bật TV lên.

Trên đầu TV có đặt một tấm ảnh chụp Lucy hồi sinh nhật ba mươi tuổi. Rick, bố của Lucy đang đứng với người vợ thứ hai, Strike đứng đằng sau, cũng là vị trí quen thuộc trong tất cả những bức ảnh có mặt hắn kể từ khi 5 tuổi. Lúc đó hắn còn đủ cả hai chân. Đứng cạnh Strike là Tracey, đồng nghiệp cũ của hắn ở SIB và cũng là chị dâu hụt của Lucy. Tracey sau đó làm đám cưới với một người bạn chung của cả hai và gần đây vừa sinh con gái. Strike định gởi hoa chúc mừng mà loay hoay mãi thế nào vẫn chưa gởi.

Hắn nhìn lên màn hình, rồi bấm nút “play”.

Đoạn băng trắng đen lấm tấm bắt đầu chạy. Một con phố phủ trắng tuyết, những bông tuyết dày rơi đều đều trước máy quay. Góc máy 180 độ cho thấy chỗ giao nhau giữa phố Bellamy và phố Alderbrook.

Một người đàn ông đi bộ một mình xuất hiện từ phía góc phải màn hình, tay đút trong túi quần. Ông ta mặc nhiều lớp áo, mũ áo chụp lên đầu. Phim trắng đen làm gương mặt ông ta thoáng nhìn qua rất lạ; rất dễ đánh lừa con mắt người xem. Ban đầu Strike tưởng là hắn thấy một gương mặt trắng bệch đeo băng bịt mắt màu đen, mãi một lúc sau mới nhận ra đó là một gương mặt người da đen quàng khăn trắng bịt hết cả mũi, miệng và cằm. Trên áo của người này có một hình gì đó, trông giống logo; ngoài ra không thể nhìn rõ gì khác.

Khi đến gần camera ông ta cúi đầu xuống, có vẻ như đang xem một vật gì vừa rút từ trong túi ra. Vài giây sau, ông ta đi về phía phố Bellamy và ra khỏi khung hình. Đồng hồ điện tử dưới góc phải màn hình cho thấy lúc đó là 1 giờ 39 phút.

Đoạn phim tắt phụt, chuyển cảnh. Sau đó là hình ảnh mờ mờ, cũng đoạn đường đó nhưng vắng tanh. Tuyết vẫn rơi dày cản tầm nhìn, đồng hồ ghi 2 giờ 12 phút. Hai người đàn ông xuất hiện. Người thứ nhất là người mang khăn quàng cổ trắng trong đoạn băng lúc nãy; chân dài và trông rất khỏe. Ông ta chạy thục mạng, hai cánh tay vung mạnh, thẳng xuống phía phố Alderbrook. Người thứ hai nhỏ con hơn, mặc áo thun có mũ và đội mũ rời; Strike để ý thấy bàn tay tối màu đang nắm chặt khi ông ta chạy hết tốc lực sau người thứ nhất, càng lúc càng bị bỏ xa. Dưới ánh đèn đường, chữ in trên lưng áo của ông ta ánh lên trong thoáng chốc. Đến giữa phố Alderbrook ông ta đột ngột rẽ trái theo đường nhỏ.

Strike xem lại đoạn băng thứ hai, rồi thêm một lần nữa. Hắn không thấy hai người này có liên lạc gì với nhau cả; không có dấu hiệu có gọi hay nhìn nhau, khi cả hai chạy khỏi màn hình. Cứ như mạnh ai nấy chạy.

Hắn xem đoạn băng lần thứ tư, rồi loay hoay bấm dừng hình ngay ở chỗ lưng áo của người thứ hai ánh lên. Hắn ghé sát mắt vào TV, nhìn thật kỹ hình ảnh mờ nhạt. Sau khoảng một phút nhìn chăm chú, hắn gần như chắc chắn từ đầu tiên trên áo kết thúc bằng chữ “ck”, nhưng từ thứ hai mà hắn nghĩ là bắt đầu bằng chữ “J” thì không thể đọc nổi.

Hắn bấm “play”, tiếp tục đoạn phim và cố xem người thứ hai đi về con phố nào. Sau ba lần xem thì hắn chắc chắn ông này đã rẽ vào phố Halliwell đúng như Wardle nói, dù bảng tên phố trên màn hình rất mờ.

Cảnh sát suy luận rằng nếu sau đó người thứ nhất gặp ngay người bạn ở quanh đó – mặc dù camera không ghi lại được, thì ít có khả năng anh ta là sát thủ. Nhưng nói vậy cũng có nghĩa là giả định hai người trong đoạn băng có quen biết. Strike phải thừa nhận rằng chuyện cả hai người cùng xuất hiện tại một nơi, trong điều kiện thời tiết như vậy, vào cùng một thời điểm và hành động gần như giống nhau thì rất có khả năng là đồng phạm trộm xe.

Đoạn băng tiếp tục, chuyển đến cảnh bên trong một chiếc xe buýt. Một cô gái vừa lên xe. Máy quay hẳn đặt ở vị trí ngay phía trên đầu lái xe. Gương mặt cô gái như bị kéo gần lại và bị phủ bóng nhưng vẫn thấy rõ cô có tóc vàng, buộc đuôi ngựa. Người đàn ông đi lên xe ngay sau đó rất giống với người đi ở phố Bellamy về phía Kentigern Gardens. Ông này trông cao lớn, mũ áo trùm đầu, choàng khăn trắng bịt mặt, phần mặt trên bị khuất ánh sáng không nhìn thấy được, nhìn kỹ trên ngực áo có chữ GS.

Hình ảnh lại nhảy đến cảnh phố Theobalds. Nếu người đang đi rất nhanh trên phim là người lên xe buýt thì đến lúc này chiếc khăn quàng cổ trắng đã được tháo ra, mặc dù vóc dáng và tướng đi rất giống. Strike thấy như ông này có vẻ đang cố cúi đầu xuống.

Phim đã chạy hết, trên màn hình chỉ còn màu đen. Strike vẫn ngồi đó, mắt nhìn màn hình, tiếp tục suy nghĩ. Một lát sau sực tỉnh, hắn hơi ngạc nhiên khi nhìn lại những thức có nhiều màu sắc và nắng rọi chung quanh.

Hắn lấy điện thoại ra gọi ngay cho John Bristow, nhưng không ai nghe máy. Hắn để lại lời nhắn, báo là đã xem hết các đoạn băng ghi hình và đọc hồ sơ của cảnh sát, hắn muốn hỏi Bristow thêm vài câu, liệu có gặp nhau tuần tới được không.

Sau đó hắn gọi cho Derrick Wilson, lại bị chuyển cuộc gọi vào hộp thư thoại. Hắn nhắc ông ta chuyện cho hắn vào xem bên trong số 18 Kentigern Gardens.

Strike vừa dập máy thì cánh cửa phòng khách mở ra, Jack, thằng cháu thứ hai rụt rè bước vào. Mặt mũi thằng bé đỏ gay, kiểu vừa chạy nhảy tưng bừng xong.

“Con nghe có tiếng cậu,” Jack nói. Thằng đó đóng cửa, cẩn thận y như ông cậu lúc nãy.

“Con không chơi ngoài vườn nữa à Jack?”

“Con vô nhà đi tè,” thằng bé trả lời. “Cậu Cormoran có quà cho con không?”

Strike vẫn còn cầm gói quà từ lúc mới đến. Hắn đưa cho thằng bé, ngắm những ngón tay bé xíu của nó xé toạc lớp giấy Robin đã cẩn thận gói ghém.

“A hay quá,” Jack reo lên. “Một chú lính.”

“Đúng rồi,” Strike đáp.

“Có súng đàng hoàng, đủ hết nè.”

“Ờ có hết.”

“Hồi trước cậu có súng không?” Jack hỏi, lật cái hộp lại để xem hình.

“Có hai khẩu lận.” Strike đáp.

“Cậu còn giữ không?”

“Không, cậu đem trả hết rồi.”

“Chán vậy.” thằng bé nói thản nhiên như không.

“Con không ra ngoài chơi à?” Strike hỏi, vừa lúc có tiếng la hét vọng vào từ ngoài vườn.

“Con không thích,” Jack trả lời. “Cho con mở hộp ra nghe cậu?”

“Ừ con mở đi,” Strike nói.

Trong lúc thằng Jack hào hứng xé luôn cái hộp, Strike rút đĩa DVD ra khỏi đầu máy và bỏ vào túi. Rồi hắn giúp thằng bé tháo chú lính nhảy dù ra khỏi tấm bìa cứng đính kèm và lắp súng cho chú.

Mười phút sau Lucy bước vào, thấy hai cậu cháu vẫn đang ngồi đó. Thằng Jack cầm chú lính, giả vờ bắn súng từ sau ghế sofa còn Strike thì ôm bụng giả vờ bị trúng đạn.

“Trời ơi, Corm, hôm nay là sinh nhật nó, nó phải ra chơi với mấy đứa kia! Jack, mẹ đã dặn là con vẫn chưa được mở quà kia mà… nhặt lên ngay… không, để đó, không được mang ra ngoài… không được, Jack, để hôm sau chơi tiếp… gần dọn thức ăn rồi còn gì…”

Lucy bực bội, vừa nhanh tay lùa ông con còn chần chừ ra khỏi phòng vừa quay lại liếc Strike một cái. Lucy mím môi lại, trông y hệt mợ Joan, mặc dù hai người chẳng máu mủ gì.

Gương mặt thoáng gợi nhớ mợ Joan ấy khiến Strike tự động hợp tác. Đúng ý Lucy, hắn không gây rắc rối thêm gì trong suốt buổi sau đó. Phần lớn thời gian hắn phân xử mấy vụ cãi nhau ỏm tỏi của đám trẻ con phấn khích, rồi hắn lánh sau cái bàn xếp chất đầy sương sa và kem, tránh mặt mấy bà mẹ nhiều chuyện lảng vảng xung quanh.

3

Sáng sớm Chủ nhật Strike còn đang ngủ thì điện thoại đổ chuông. Chiếc điện thoại vẫn còn đang cắm sạc ngay bên cạnh giường. Bristow gọi. Giọng ông ta nghe có vẻ căng thẳng.

“Tôi nhận được tin nhắn của anh từ hôm qua, nhưng mẹ tôi đang mệt mà chiều hôm nay lại không có y tá. Lát nữa Alison sẽ đến ở cùng tôi. Nếu anh rảnh ngày mai tôi gặp anh vào giờ nghỉ trưa nhé? Đã có gì mới chưa?” Ông ta hỏi, có vẻ hi vọng.

“Có vài thứ,” Strike đáp cẩn trọng. “À này, máy tính xách tay của em gái anh giờ ở đâu rồi?”

“Ở đây, ngay nhà mẹ tôi. Sao vậy?”

“Anh cho tôi mượn coi được không?”

“Được thôi,” Bristow đáp. “Ngày mai tôi sẽ mang theo.”

Strike đồng ý gặp ngày mai. Bristow đưa tên và địa chỉ chỗ ăn trưa yêu thích của ông ta ở gần văn phòng rồi dập máy. Strike với tay lấy điếu thuốc, nằm trên giường vừa hút thuốc vừa ngắm nghía mấy vệt ngang dọc trên trần do ánh nắng chiếu qua mành cửa. Hắn tận hưởng sự im lặng một mình, không có tiếng trẻ con gào thét, không có Lucy cố vặn vẹo hỏi chuyện hắn trong khi thằng con nhỏ nhất vẫn la hét inh tai. Strike tự nhiên thấy cái văn phòng này thật bình yên dễ chịu. Hắn dụi tắt điếu thuốc, ngồi dậy và chuẩn bị đi tắm ở trường Đại học như thường lệ.

Cuối cùng mãi đến khuya Chủ nhật hắn cũng liên lạc được với Derrick Wilson, sau vài cuộc gọi nhỡ khác.

“Tuần này chưa được,” Wilson nói. “Bà Bestigui dạo này hay qua đây lắm. Tui còn phải lo công chuyện của tui, anh hiểu chớ? Khi nào tiện tui sẽ gọi ngay cho anh, được không?”

Đầu dây bên kia có tiếng chuông cửa.

“Anh đang trực hả?” Strike hỏi, trước khi Wilson kịp dập máy.

Hắn nghe người bảo vệ nói với người mới vào:

“(Ký vô sổ giùm cái). Ờ, sao?” Wilson lớn giọng hỏi hắn.

“Nếu anh đang ở ngay đó, anh tìm luôn trong sổ trực tên họ của một người bạn của Lula được không? Khi trước thỉnh thoảng cô này có ghé qua.”

“Bạn nào kia?” Wilson hỏi. “(Dà, chào ha.)”

“Người mà Kieran có nhắc tới; bạn quen hồi đi trị bệnh, tên là Rochelle. Tôi muốn biết họ của cô ta là gì.”

“À cái cô đó hả,” Wilson đáp. “Được rồi để đó tui sẽ tìm rồi tôi sẽ g…”

“Anh tìm luôn giờ được không?”

Hắn nghe tiếng Wilson thở dài.

“Thôi được rồi. Đợi đó.”

Có tiếng bước chân qua lại, tiếng đồ đạc va vào nhau, tiếng lạo xạo rồi sau đó là tiếng mấy trang giấy sột soạt. Trong khi chờ đợi, Strike dạo mắt qua các mẫu thời trang do Guy Somé thiết kế trên màn hình máy tính.

“À đây rồi,” giọng Wilson vang lên. “Tên cổ là Rochelle… đọc không ra… hình như là Onifade.”

“Viết sao?”

Wilson đánh vần từng chữ, Strike ghi lại.

“Lần cuối cùng cổ ghé qua là khi nào vậy hả Derrick?”

“Hồi đầu tháng Mười Một,” Wilson đáp. “(Dà, xin chào.)” Tôi phải đi đây.”

Ông ta dập máy lúc Strike cảm ơn. Hắn quay trở lại với lon bia Tennent’s, xem tiếp mấy mẫu thời trang mặc ban ngày của Guy Somé, cụ thể là một cái áo khoác có khóa kéo và mũ, có gắn chữ GS hoa hòe mạ vàng bên ngực trái. Logo đó hầu như có ở tất cả các mẫu trang phục nam ở mục “đồ may sẵn” trên trang web. Strike không hiểu còn bày đặt nói tránh là “đồ may sẵn” để làm gì, nghe rõ rành rành ý là “đồ rẻ tiền hơn”. Mục thứ hai của trang web, được gọi đơn giản là “Guy Somé”, gồm toàn những mẫu áo quần lên tới vài ngàn bảng. Mặc cho Robin đã rất cố gắng, tác giả của những bộ complet màu hạt dẻ, các thể loại cà vạt len bản mỏng, những chiếc đầm mini gắn mảnh thủy tinh và các kiểu mũ phớt bằng da này vẫn tiếp tục giả điếc trước tất cả những lời yêu cầu phỏng vấn liên quan đến cái chết của cô người mẫu mà ông ta từng cưng nhất.

4

Mày tưởng tao không dám làm gì mày nhưng mày xai rồi thằng mặt lờ kia tao xẽ cho mày biết tay. Tao tin mày mà mày dám làm vầy với tao. Tao sẽ bẻ quách cái của nợ của máy rồi tộng xuống họng mày. Khi người ta tìm ra xác mày họ xẽ thấy mày nghẹn của nợ mà chết. Xong rồi bà già mày cũng xẽ không nhìn ra mày tao xẽ diết chếch mày thằng Strike thúi tha kia.

“Trời đẹp thật.”

“Anh làm ơn đọc cái này được không? Đọc giùm tôi một lần đi.”

Hôm đó là sáng thứ Hai. Strike vừa mới đi hút thuốc dưới phố về. Trời nắng tưng bừng, hắn vừa nói chuyện được một lúc với cô gái ở cửa hiệu đĩa nhạc đối diện. Robin thả tóc xuống; rõ là hôm nay cô không phải đi phỏng vấn. Suy luận nhỏ nhoi đó, cùng với ánh nắng sau những ngày mưa làm Strike thấy vui vui. Nhưng Robin trông có vẻ căng thẳng. Cô đứng sau bàn, đưa cho hắn tờ giấy màu hồng in chi chít hình mèo con.

“Lại nữa hả?”

Strike đọc qua bức thư, vừa đọc vừa nhe răng cười.

“Tôi không hiểu tại sao anh không báo cảnh sát,” Robin nói. “Mấy thứ ông ta dọa anh…”

“Cứ bỏ chung vô mấy cái trước đó.” Strike thờ ơ đáp, búng bức thư xuống bàn rồi lục lọi chồng thư còn lại.

“Được rồi, nhưng không chỉ có mỗi chuyện đó,” Robin nói tiếp, rõ là bực mình với thái độ của hắn. “Bên Giải pháp Tạm thời vừa gọi tới.”

“Vậy sao? Họ muốn gì?”

“Họ hỏi tôi có đây không,” Robin đáp. “Rõ là họ nghi ngờ tôi vẫn còn làm ở đây.”

“Rồi cô nói sao?”

“Tôi giả bộ làm người khác.”

“Thật nhanh trí. Cô giả ai vậy?”

“Tôi nói tên tôi là Annabel.”

“Cô biết không, người ta hay nói ra tên bắt đầu bằng chữ A khi bất thình lình phải bịa ra một cái tên.”

“Nhưng nếu họ cho người tới kiểm tra thì sao?”

“Thì sao?”

“Họ sẽ đòi tiền anh, không phải tôi! Họ sẽ bắt anh phải trả phí tuyển dụng!”

Strike mỉm cười trước nỗi lo hết sức thật lòng của Robin về chuyện hắn không có tiền để trả. Hắn đang định nhờ cô gọi điện cho văn phòng của Freddie Bestigui một lần nữa và tìm trên danh bạ số điện thoại bà dì ở Kilburn của Rochelle Onifade. Thay vào đó, hắn nói:

“Thôi được rồi, hôm nay mình sẽ đóng cửa đi ra ngoài vậy. Sáng nay tôi định đi tới Vashti rồi mới đi gặp Bristow. Có khi cô đi cùng tôi thì trông tự nhiên hơn.”

“Vashti? Boutique thời trang?” Robin nói ngay.

“Ừ, có có biết hả?”

Lần này đến lượt Robin mỉm cười. Cô từng đọc về Vashti trong các tạp chí. Với Robin, Vashti là nơi quyến rũ nhất ở London; nơi các biên tập viên thời trang tìm thấy những món đồ tuyệt vời để giới thiệu cho độc giả, toàn những món giá xấp xỉ sáu tháng lương của Robin.

“Tôi có nghe nói,” cô trả lời.

Strike với tay lấy áo khoác của Robin đưa cho cô.

“Mình sẽ giả bộ như cô là em gái Annabel của tôi. Cô sẽ giúp tôi chọn quà cho vợ.”

“Cái ông dọa giết anh đó bị làm sao vậy?” Robin hỏi, lúc hai người đang ngồi trong tàu điện ngầm. “Ông ta là ai?”

Cô đã kiềm chế sự tò mò về Jonny Rokeby và người đẹp tóc đen chạy khỏi văn phòng của Strike hôm đầu tiên cô đến làm, cũng không nhắc gì đến cái giường xếp. Nhưng rõ là cô có quyền hỏi vụ này. Vì chính cô chứ không ai khác mở hết cả ba cái bì thư màu hồng và phải đọc những dòng chữ bạo lực gớm ghiếc viết nguệch ngoạc trên nền đám mèo con đang đùa giỡn đó. Strike thì chẳng bao giờ thèm ngó tới.

“Ông đó là Brian Mathers,” Strike đáp. “Ổng tới gặp tôi hồi tháng Sáu năm ngoái, nghi ngờ là bà vợ đi ngủ nghê lung tung. Ổng muốn tôi theo dõi bà ta, vậy là tôi theo dõi trong một tháng. Bà ta rất bình thường: không xinh không xấu, ăn mặc lôi thôi, tóc uốn xồm xoàm; làm kế toán trong một nhà kho phân phối thảm lót. Ngày thường đi làm bả ngồi chung một văn phòng nhỏ với ba nữ đồng nghiệp khác, thứ Năm thì đi chơi bingo, thứ Sáu thì đi siêu thị Tesco mua đồ ăn cả tuần, còn thứ Bảy thì đi sinh hoạt câu lạc bộ Rotary với ổng.”

“Vậy còn giờ nào mà ngủ nghê lung tung?” Robin hỏi.

Trong tấm cửa sổ đen mờ đục đối diện, bóng của cả hai in trên đó cũng đang nghiêng ngả theo nhịp tàu, nhợt nhạt dưới ánh đèn sáng chói trên đầu. Gương mặt Robin trông cứng tuổi hơn nhưng thoáng vẻ mơ màng, còn Strike trông càng thô ráp và xấu xí hơn nữa.

“Tối thứ Năm.”

“Bà ta làm vậy thật hả?”

“Không, bà ta đúng là chỉ đi chơi bingo với một bà bạn tên là Maggie, nhưng trong suốt bốn ngày thứ Năm tôi theo dõi, bà ta luôn luôn cố tình về nhà trễ. Bà ta lái xe vòng vèo một hồi sau khi tạm biệt bà Maggie. Có hôm bà ta đi vô quán bia, ngồi một mình tuốt trong góc quán, có vẻ khép nép lắm, uống mỗi nước ép cà chua. Hôm khác thì bà ta ngồi trong xe ở cuối đường ngay gần nhà suốt bốn mươi lăm phút rồi mới lái xe về nhà.”

“Vì sao vậy?” Robin hỏi, con tàu rung lắc rầm rầm qua một đường hầm dài.

“Vấn đề là ở chỗ đó còn gì? Để chứng tỏ gì đó? Để ổng phải nghi ngờ? Chọc tức ổng? Trừng phạt ổng? Cố làm thêm chút gia vị vào cuộc hôn nhân tẻ nhạt? Tối thứ Năm nào bà ta cũng ráng về trễ.”

“Ổng rất đa nghi, nên cắn câu ngay. Ổng quay quắt muốn điên luôn. Ổng tin chắc là bà này đi gặp bồ mỗi tuần một lần, được bà bạn Maggie bao che cho. Ổng cũng có tự theo dõi rồi nhưng ổng nghĩ là bà ta biết trước nên hôm nào ổng đi theo thì bà ta chỉ đi chơi bingo thôi.”

“Rồi anh nói sự thật với ổng?”

“Ừ, nói hết. Ổng không tin lời tôi. Ổng rất tức tối, la hét om sòm rằng ai cũng mưu mô hại ổng. Không chịu trả tiền công điều tra luôn.

“Tôi sợ ổng làm gì bà vợ. Sai lầm ở chỗ đó. Vậy là tôi điện cho bà ta và kể là ông chồng trả tiền để tôi theo dõi nhưng tôi biết bà ta không có gì hết. Tôi nói luôn là ông chồng tức gần đứt dây thần kinh rồi. Tôi có khuyên là bà ta nên cẩn thận, đừng khích ổng quá. Bả không nói một tiếng, dập máy luôn.

“Ổng thường xuyên kiểm tra điện thoại của bà vợ. Ổng thấy có số của tôi, vậy là tự rút ra kết luận hiển nhiên.”

“Rằng anh đi kể với bà vợ vụ ổng thuê anh theo dõi?”

“Không, là tôi bị sắc đẹp của bả quyến rũ và trở thành bồ mới của bả.”

Robin lấy tay bịt miệng. Strike cười phá ra.

“Khách của anh toàn dân khùng khùng vậy hả?” Robin hỏi, sau khi bỏ tay xuống.

“Ông đó thì khùng thiệt, nhưng thường họ chỉ bị căng thẳng thôi.”

“Tôi đang nghĩ tới John Bristow,” Robin ngập ngừng nói. “Bà bồ ổng nghĩ là ổng tự lừa dối mình. Còn anh nghĩ là ổng có thể hơi… anh biết rồi đó, phải vậy không?” Cô hỏi. “Lúc anh với ổng ở trong phòng tụi tôi có nghe,” Robin nói thêm, hơi ngượng ngùng. “Ổng có nói gì mà ‘nhà tâm lý học tự phong’ đó.”

“Ra vậy,” Strike đáp. “Có thể… tôi đã đổi ý.”

“Ý anh là sao?” Robin hỏi, đôi mắt xanh xám trong veo mở to. Tàu đột ngột dừng lại; bóng người bên kia cửa sổ liên tục lướt qua, mỗi lúc một rõ nét hơn. “Vậy… ý anh là… có khi ổng nói đúng… là thật sự có người…?”

“Tới nơi rồi.”

Boutique màu trắng nằm ở lô đất đắt đỏ nhất ở London, trên phố Conduit, gần ngay chỗ giao nhau với phố New Bond. Với Strike những ô cửa đầy màu sắc ở đây trưng bày một đống hổ lốn những thứ không hề cần thiết chút nào. Nào là gối đính cườm, nến thơm đựng trong hũ bạc, rồi vải the phủ điệu đàng, áo thụng kaftan lòe loẹt trên người những mannequin không có gương mặt, túi xách tay kềnh càng, vừa xấu xí vừa phô trương… Tất cả được đặt trên một phông nền kiểu pop-art. Một màn tán dương chủ nghĩa tiêu thụ khiến Strike vừa ngứa mắt vừa bực mình. Hắn có thể tưởng tượng ra Tansy Bestigui và Ursula May ở đây, ngó nghiêng nhãn giá với con mắt sành sỏi, lựa túi xách bằng da cá sấu giá hàng ngàn bảng, hí hửng tiêu xài để bù lại những cuộc hôn nhân không tình yêu.

Robin đi bên cạnh, cũng ngắm nghía ô cửa trưng bày nhưng đầu mải nghĩ đâu đâu. Sáng hôm đó cô vừa nhận được lời mời đi làm chỗ mới ngay trước lúc Giải pháp Tạm thời gọi, khi Strike còn đang hút thuốc dưới nhà. Mỗi lần nghĩ đến chuyện phải quyết định nhận lời hay từ chối trong vòng hai ngày tới, Robin lại thấy nhói lòng. Cô thấy như đang cố tự thuyết phục rằng mình rất vui, trong khi thực ra lại vô cùng đau khổ.

Nhưng chắc là cô phải nhận lời thôi. Công việc mới có quá nhiều ưu điểm. Lương đúng y mức mà cô và Matthew mong muốn. Văn phòng tươm tất, vị trí thuận lợi ở phía Tây thành phố. Cô có thể đi ăn trưa với Matthew mỗi ngày. Thị trường lao động hiện giờ rất trì trệ. Đáng ra cô phải mừng mới đúng.

“Vụ phỏng vấn hôm thứ Sáu ổn không?” Strike hỏi, nhíu mắt nhìn một mẫu áo khoác đính kim sa mà hắn thấy xấu kinh hồn.

“Cũng được,” Robin trả lời mơ hồ.

Cô nhớ lại cảm giác phấn khích chỉ vài phút trước đó khi Strike ám chỉ về tên sát thủ. Không biết hắn ta đùa hay thật? Robin để ý thấy hắn đang nhìn chằm chằm vào đám đồ trang trí màu mè, rõ là hắn đang (trong giây lát Robin nhìn hắn với đôi mắt của Matthew và suy nghĩ bằng giọng điệu của Matthew) làm bộ nghiêm trọng. Matthew liên tục bóng gió rằng Strike là một tên bịp bợm. Dường như chồng sắp cưới của Robin nghĩ rằng thám tử tư là một công việc viển vông, hệt như phi hành gia hay chuyên gia huấn luyện sư tử vậy, tức là công việc mà người thường chẳng ai làm cả.

Robin nghĩ nếu cô nhận lời công việc nhân sự này, cô có lẽ không bao giờ biết (trừ khi một ngày kia báo chí đưa tin) cuộc điều tra sẽ đi tới đâu. Chứng minh sự thật, tìm ra lời giải, truy bắt tội phạm, bảo vệ kẻ yếu đuối: toàn là những việc đáng làm, vừa quan trọng vừa thú vị. Robin biết rằng nếu biết cô đang nghĩ vậy, Matthew sẽ cho là cô thật trẻ con và ngây thơ, nhưng cô không sao kiềm lòng được.

Strike đứng quay lưng về phía Vashti, nhìn thứ gì đó bên phía phố New Bond. Robin nhận ra hắn đang dán mắt vào chiếc thùng thư màu đỏ ngay bên ngoài cửa hàng Russell và Bromley, khe bỏ thư hình chữ nhật tối om như đang liếc nhìn lại cả hai người.

“Được rồi, đi vào thôi,” Strike quay về phía cô dặn dò. “Đừng quên cô là em gái tôi và tụi mình đang đi mua quà cho vợ tôi.”

“Nhưng thực ra mình tới đây để làm gì?”

“Tìm hiểu xem Lula Landry và cô bạn Rochelle Onifade làm gì ở đây hôm Landry chết. Hôm đó họ gặp nhau ở đây chỉ mười lăm phút rồi đi về. Tôi cũng không hi vọng gì lắm; đã ba tháng rồi, mà có khi lúc đó cũng chẳng ai để ý. Nhưng mà cứ thử xem sao.”

Tầng trệt của Vashti dành trọn cho áo quần. Một tấm biển chỉ dẫn với mũi tên chỉ lên phía cầu thang gỗ ở trên, dẫn tới một quán café và khu bày các món điểm tô cho “phong cách sống”. Có vài khách hàng nữ đang lựa đồ treo trên giá bằng thép sáng loáng. Họ đều gầy, da rám nắng, tóc dài gọn gàng trông như vừa mới đi sấy gội về. Nhân viên cửa hàng không ai giống ai; áo quần lập dị, tóc tai kỳ khôi. Một người trong số đó mặc cả váy ballet và mang tất lưới đang đứng sắp xếp lại chỗ trưng bày mũ.

Strike ngạc nhiên khi thấy Robin mạnh dạn đi thẳng về phía cô này.

“Chào cô,” Robin vui vẻ nói. “Cửa sổ ở giữa có một cái áo khoác đính kim sa đẹp quá. Tôi thử được không?”

Tóc cô nhân viên trắng xóa, bồng bềnh như kẹo bông, mắt kẻ màu mè và không hề có chân mày.

“Được thôi, không thành vấn đề,” Cô ta trả lời.

Nhưng rõ là cô ta nói dối: lấy cái áo ra khỏi cửa sổ trưng bày là cả một vấn đề. Đầu tiên là phải lấy xuống từ mannequin đang mặc, rồi phải gỡ hết mấy cái thẻ điện tử ra. Mười phút sau cái áo vẫn chưa được đem tới, cô nhân viên đầu tiên phải gọi thêm hai đồng nghiệp đến giúp một tay. Trong khi đó, Robin đi quanh cửa hàng, không nói gì với Strike, lựa ra vài bộ đầm và dây thắt lưng. Tới khi chiếc áo khoác kim sa được mang đến, cả ba nhân viên tham gia tháo gỡ đều tỏ ra hết sức hăng hái nhiệt tình. Cả ba đi theo Robin về phía phòng thay đồ, một người giúp Robin mang hết đám áo cô mới lựa thêm, hai người còn lại khiêng chiếc áo khoác.

Buồng thử đồ có rèm kéo là một khung sắt phủ lụa dày màu kem, trông như một cái lều. Strike tiến lại gần vừa đủ để nghe tiếng người nói bên trong. Hắn thấy tới lúc này đây, hắn mới nhận ra cô thư ký tạm thời tài giỏi tới mức nào.

Robin mang mớ áo quần trị giá cũng phải hơn mười ngàn bảng vào buồng thử đồ, riêng chiếc áo khoác kim sa cũng phải đến năm ngàn. Bình thường cô không có gan làm chuyện này nhưng sáng nay Robin thấy khác hẳn: cô trở nên liều lĩnh và bạo dạn. Cô đang chứng minh một điều gì đó với chính bản thân mình, với Matthew và thậm chí là với cả Strike. Ba nhân viên cửa hàng chộn rộn quanh Robin, thay nhau treo áo và vuốt thẳng mấy nếp gấp trên áo khoác. Robin không hề thấy xấu hổ rằng cô còn không thể mua chiếc thắt lưng rẻ nhất đang vắt trên cánh tay xăm trổ của cô nhân viên tóc đỏ. Cô cũng chẳng ngại gì khi nghĩ đến cả ba nhân viên cửa hàng sau một hồi đua nhau phục vụ sẽ không nhận được một đồng hoa hồng nào cả. Robin còn nhở cả cô nhân viên tóc hồng đi tìm chiếc áo khoác ngắn mạ vàng mà cô này cứ nói là rất hợp với Robin và sẽ rất đẹp nếu mặc chung với chiếc áo đầm xanh lá cây mà Robin đã lựa.

Robin cao hơn cả ba cô nhân viên. Khi cô đổi chiếc áo khoác thắt eo bằng chiếc áo khoác đính kim sa, cả ba cô gái trầm trồ xuýt xoa.

“Tôi phải đi ra cho ông anh xem,” Cô nói với ba người, sau khi soi gương kỹ càng. “Cái này không phải mua cho tôi, mấy cô biết đó, mà mua cho vợ của ảnh.”

Nói rồi Robin đi ra khỏi phỏng thử đồ, ba cô nhân viên vẫn lượn lờ theo sau. Mấy khách hàng giàu có đang lựa đồ bên giá quay lại liếc mắt nhìn Robin. Cô tỉnh bơ hỏi:

“Anh thấy sao?”

Strike phải thừa nhận rằng chiếc áo mà lúc nãy hắn thấy xấu kinh hồn trông khá hơn hẳn khi Robin mặc vào. Cô xoay một vòng, chiếc áo lấp lánh như da rắn.

“Cũng được,” hắn nói, ra vẻ cẩn trọng rất đàn ông. Mấy cô nhân viên mỉm cười lấy lòng. “Ừ, cũng khá xinh. Bao nhiêu vậy?”

“Với anh thì không đáng gì,” Robin nói, tinh nghịch liếc nhìn mấy cô nhân viên. “Chị Sandra sẽ rất thích cái này,” cô quả quyết với Strike. Bất ngờ, hắn nhe răng cười. “Với lại sinh nhật bốn mươi tuổi thì phải thế chứ.”

“Chị ấy có thể mặc kèm với đồ gì cũng được,” cô gái tóc kẹo bông hăm hở nói với Strike. “Áo này dễ phối lắm.”

“OK, tôi sẽ thử tiếp bộ đầm Cavalli,” Robin vui vẻ nói rồi quay lại phòng thử đồ.

“Chị Sandra có dặn tôi phải đi với ảnh,” cô kể với ba cô nhân viên khi họ giúp cô cởi áo khoác và kéo dây khóa chiếc đầm cô vừa chỉ. “Để chắc chắn là ảnh không có mua gì tầm bậy. Anh tôi tặng chỉ đôi bông tai xấu nhất thế giới hồi sinh nhật ba mươi tuổi, giá tiền cắt cổ mà chỉ chưa bao giờ đeo nổi.”

Robin không biết làm sao mình lại bịa ra câu chuyện đó; cô chỉ thấy thật hứng thú. Cởi xong áo len và váy, cô chui vào chiếc đầm ôm sát màu rắn lục. Càng bịa, Robin càng thấy Sandra trở nên thật hơn: một bà chị dâu được cưng chiều quá đâm phát chán, bèn đi than phiền với cô em chồng rằng ông chồng mình (một chuyên viên ngân hàng, mặc dù Robin thấy Strike trông chẳng giống chuyên viên ngân hàng chút nào) là người không hề có mắt thẩm mỹ.

“Vậy là chị dặn tôi dắt ảnh tới Vashti rồi bắt ảnh mở ví ra. Ôi, cái này xinh quá.”

Chiếc đầm còn hơn là xinh nữa. Robin nhìn mình trong gương; cô chưa bao giờ mặc thứ gì đẹp như vậy trong đời. Chiếc đầm màu lục được cắt rất khéo, khiến vòng eo của cô trở nên nhỏ xíu, tạo dáng đường cong uyển chuyển trên cơ thể và làm cho chiếc cổ trắng muốt của cô như dài ra. Robin giờ đây là nữ thần rắn, lấp lánh xiêm y màu xanh. Ba cung nữ đứng quanh thì thầm xuýt xoa ngưỡng mộ.

“Bao nhiêu?” Robin hỏi cô gái tóc đỏ.

“Hai ngàn tám trăm chín mươi chín bảng” cô gái trả lời.

“Không là gì với ảnh hết,” Robin đáp như không, bước ra khỏi phòng thử đồ để cho Strike xem. Strike đang mân mê mấy chiếc găng tay bày trên bàn tròn.

Bình luận duy nhất của hắn khi thấy chiếc đầm xanh là “Ừa.” Hắn gần như không nhìn cô luôn.

“Để coi, có lẽ Sandra không hợp màu này,” Robin nói, tự dưng thấy ngượng ngùng. Strike đâu phải anh trai hay bồ bịch gì của cô, có lẽ cô đã đẩy trò này đi quá xa… mặc đầm bó sát lượn qua lượn lại trước mặt hắn. Cô quay trở lại phòng thay đồ.

Robin vừa cởi đồ vừa nói:

“Lần cuối cùng Sandra tới đây có thấy Lula Landry ở trên quán café. Sandra có nói là ở ngoài trông Lula rất đẹp. Hơn trong hình nhiều.”

“Ồ vâng, đúng vậy,” cô gái tóc màu hồng đồng ý, tay ôm chiếc áo khoác ngắn mạ vàng trước ngực. “Hồi đó Lula tới đây hoài, tuần nào tụi tôi cũng thấy cổ. Chị muốn thử cái này không?”

“Hôm trước khi Lula chết cổ cũng có tới đây,” cô gái tóc kẹo bông vừa nói vừa giúp Robin mặc chiếc áo khoác vàng. “Ngay trong buồng thay đồ này nè, đúng y chỗ này luôn.”

“Thật vậy hả?” Robin trả lời.

“Cái này không kéo khóa lên hết ngực được, nhưng mở ra vậy trông rất đẹp,” cô tóc đỏ bình luận.

“Không, vậy không được rồi. Sandra to hơn tôi một chút,” Robin nói, không thương tiếc gì bà chị dâu tưởng tượng. “Tôi sẽ thử cái đầm đen kia. Cô mới nói là Lula Landry có tới đây ngay hôm cô ta chết?”

“Đúng vậy,” cô gái tóc hồng trả lời. “Buồn thật, quá buồn luôn. Chị có nghe tiếng cổ nói chuyện, đúng không Mel?”

Cô gái tóc đỏ xăm mình đang cầm một chiếc đầm đen có ren ậm ừ cho qua. Nhìn vẻ cô ta trong gương Robin thấy dường như cô ta không muốn nói ra là đã nghe thấy gì, cho dù cố ý hay vô tình.

“Hôm đó cổ nói chuyện với Duffield, đúng không hả Mel?” cô tóc hồng xởi lởi lại gợi chuyện.

Robin thấy Mel hơi cau mặt. Mặc dù Mel xăm trổ đầy mình, Robin có cảm giác cô ta mới là cấp trên của hai cô kia. Mel có vẻ rất ý thức giữ kín những chuyện sau tấm rèm lụa màu kem, như một yêu cầu công việc, trong khi hai cô gái kia có vẻ thích hóng hớt buôn chuyện, nhất là với một vị khách hàng sẵn lòng tiêu tiền của ông anh trai giàu có.

“Làm sao nghe được gì trong mấy cái lều này…” Robin bình luận, nín thở kéo chiếc đầm đen có đính ren lên, với sự giúp đỡ của cả ba cô nhân viên.

Mel hơi ngẩng lên.

“Nghe được hết. Người ta cứ vô đây rồi muốn gì nói đó. Làm ở đây không muốn nghe cũng không được,” cô trả lời, chỉ tay về phía tấm rèm lụa thô.

Bị bó chặt trong chiếc áo bằng da và ren, Robin thở hắt ra:

“Cứ tưởng Lula Landry phải rất cẩn thận, vì đi đâu cũng có cả đám phóng viên chạy theo.”

“Vâng,” cô gái tóc đỏ nói. “Vậy đó. Thực ra tôi không bao giờ đi nói lại những chuyện nghe ở đây cả, nhưng cũng có người làm vậy.”

Bỏ qua chuyện cô ta rõ ràng đã kể lại với đồng nghiệp, Robin tỏ ra cảm kích trước ý thức hiếm có của cô gái.

“Dù vậy tôi nghĩ cô cũng nên nói lại với cảnh sát nhỉ? Robin nói, kéo thẳng vạt áo, chuẩn bị cho đoạn kéo dây khóa.

“Cảnh sát chưa bao giờ tới đây,” cô gái tóc kẹo bông nói, có ý tiếc rẻ. “Tôi có nói là Mel nên đi gặp họ và kể lại hết nhưng chị ấy không muốn vậy.”

“Đâu có chuyện gì ghê gớm,” Mel nhanh chóng đáp. “Cũng sẽ không thay đổi được gì. Rõ ràng anh ta không có ở đó còn gì? Người ta có chứng cứ cả rồi.”

Strike tiến về chiếc rèm lụa ở mức gần nhất có thể mà không làm mấy vị khách khác hay đám nhân viên còn lại nghi ngờ.

Bên trong buồng thử đồ, cô gái tóc hồng đang cố kéo khóa áo lên. Lồng ngực Robin từ từ được ép vào một chiếc corset khung xương may chìm trong áo. Strike hơi ái ngại khi nghe tiếng Robin hỏi, nghèn nghẹn vì khó thở.

“Ý cô là Evan Duffield không có ở nhà của Lula khi cô ta chết?”

“Vâng,” Mel trả lời. “Nên chuyện Lula nói gì với anh ta trước đó đâu có quan trọng phải không? Anh ta không có ở đó kia mà.”

Cả bốn người cùng nhìn vào Robin trong gương.

“Tôi không nghĩ…,” Robin nói, nhìn hai phần ba bầu ngực bị ép phẳng dưới mặt vải cứng, trong khi phần còn lại ở phía trên đổ dồn ra cổ áo, “chị Sandra sẽ mặc vừa bộ này. Nhưng cô không thấy là,” Robin nói tiếp, thở dễ hơn một chút vì cô gái tóc kẹo bông vừa kéo dây khóa áo xuống, “cô nên kể lại với cảnh sát là Lula đã nói gì, rồi để họ xem có quan trọng hay không?”

“Tôi đã nói vậy rồi mà, đúng không hả Mel?” Cô gái tóc hồng lên tiếng. “Tôi cũng khuyên vậy còn gì.”

Mel lập tức tự vệ.

“Nhưng anh ta không có ở đó! Anh ta không hề tới nhà Lula! Anh ta chắc hẳn đã nói là bận gì đó, không muốn tới nhà cổ, vì cổ cứ nói là ‘Vậy thì tới sau cũng được, em sẽ đợi, không sao cả. Đằng nào chắc đến một giờ em mới về nhà. Tới đi mà, đi mà.’ Cứ như là nài nỉ anh ta vậy. Với nữa, lúc đó có bạn cổ ngay trong phòng thử đồ. Cô bạn đó cũng nghe hết; nên chắc có kể lại với cảnh sát rồi còn gì?”

Robin thử chiếc áo khoác lấp lánh một lần nữa để có cớ nán lại. Cô xoay người trước gương, nói như vừa nghĩ ra thêm điều gì:

“Có đúng là Lula nói chuyện điện thoại với Duffield không?”

“Tất nhiên rồi,” Mel nói, như thể Robin vừa chê cô ta không được thông minh lắm. “Không lẽ Lula còn muốn gặp ai khác lúc khuya như vậy? Lula có vẻ rất tha thiết.”

“Trời ơi, đôi mắt của ảnh,” cô gái tóc kẹo bông xen vào. “Duffield mới tuyệt vời làm sao. Lại nói chuyện rất có duyên nữa. Anh ấy có đến đây một lần với Lula. Trời ơi là sexy!”

Mười phút sau, Robin đã kịp thử thêm hai bộ nữa cho Strike ngắm. Hai người đồng ý trước mặt mấy cô nhân viên rằng chiếc áo khoác đính kim sa có lẽ là ổn nhất. Hai người nhất trí (mấy cô nhân viên cũng đồng ý) rằng ngày mai Robin sẽ dẫn Sandra đến xem trước khi quyết định mua. Strike ký tên Andrew Atkinson để giữ chỗ mua chiếc áo trị giá năm ngàn bảng, viết thêm một số điện thoại vừa bịa ra. Hai người chào tạm biệt mấy cô nhân viên rối rít niềm nở rồi ra về, cứ như thể vừa tiêu một đống tiền ở đó xong.

Họ đi bộ hơn bốn mươi mét trong im lặng, Strike châm lửa đốt một điếu thuốc, rồi nói:

“Thật xuất sắc.”

Robin đỏ mặt tự hào.

5

Strike và Robin chia tay ở ga New Bond Street. Robin lên tàu về lại văn phòng để gọi điện cho hãng BestFilms và tìm địa chỉ bà cô của Rochelle Onifade trong danh bạ trên mạng, cùng lúc cố tránh mặt Giải pháp Tạm thời (“Cứ khóa quách cửa lại”, Strike khuyên cô).

Strike mua một tờ báo rồi lên tàu tới Knightsbridge. Sau đó vì vẫn còn khá nhiều thời gian, hắn đi bộ đến nhà hàng Serpentine, nơi Bristow hẹn gặp ăn trưa.

Hắn đi qua công viên Hyde Park, dọc theo những lối đi bộ rợp bóng mát và cắt ngang con đường đất Rotten Row dành cho người đi ngựa. Hắn đã kịp ghi lại phần lời khai của cô gái tên Mel trên tàu điện. Giờ đây trong khung cảnh xanh tươi ngập nắng, tự dưng hắn lại nghĩ đến hình ảnh Robin mặc đầm xanh ôm sát lúc nãy.

Phản ứng của hắn làm cô hơi hẫng, hắn có biết điều đó; nhưng trong khoảnh khắc đó tự dưng hắn cảm thấy một sự gần gũi kỳ lạ, một sự thân mật mà hắn không hề muốn lúc này, đặc biệt là đối với Robin, mặc cho cô có thông minh, chuyên nghiệp và chu đáo đến đâu nữa. Hắn thích làm việc cùng cô và rất cảm kích chuyện cô tôn trọng sự riêng tư của hắn, không hề tò mò. Có trời mới biết, Strike vừa nghĩ vừa né một chiếc xe đạp vừa băng qua, hắn hiếm khi gặp người có tính cách như vậy trong đời, phụ nữ càng hiếm. Nhưng hắn thích sự có mặt của cô lúc này một phần cũng vì hắn sắp tạm biệt cô. Việc Robin sẽ sớm rời văn phòng cũng như chiếc nhẫn đính hôn trên tay cô vậy – chúng tạo ra một thứ ranh giới yên vui. Hắn thích Robin; hắn rất biết ơn cô, thậm chí (sau buổi sáng hôm nay) hắn còn rất ấn tượng với cô. Nhưng hắn vẫn còn thị giác bình thường và ham muốn chưa hề suy giảm, cứ mỗi ngày nhìn Robin cúi người trên màn hình máy tính là hắn lại được nhắc nhở rằng cô rất gợi cảm. Không hẳn là đẹp, không như Charlotte; nhưng vẫn hết sức hấp dẫn. Sự thật đó đập ngay vào mắt hắn khi Robin bước ra khỏi buồng thử đồ trong bộ đầm bó sát màu xanh, làm hắn ngay lập tức phải nhìn ra chỗ khác. Hắn nghĩ cô không cố ý khiêu khích gì, nhưng hắn cũng rất thực tế. Hắn hiểu rõ sự thăng bằng mong manh ở thời điểm hiện tại, hắn phải hết sức cẩn thận, nếu không muốn lại trượt chân. Robin là người duy nhất thường xuyên nói chuyện với hắn lúc này. Hắn không thể chủ quan về sức đề kháng của mình. Hắn còn đoán được, từ mấy lần cô tỏ ra né tránh hay do dự, rằng vị hôn phu của Robin không ưa gì chuyện cô thôi cộng tác với trung tâm môi giới để đi làm tạm bợ cho hắn. Tốt nhất là nên kiềm lại tình bạn đang nảy nở giữa hai người; đặc biệt là không nên ngây mặt ra mỗi khi hắn thấy cô mặc chiếc áo len bó.

Strike chưa bao giờ đến Serpentine. Nhà hàng này nằm trên mặt hồ, nơi người ta tới bơi thuyền. Một tòa nhà ấn tượng, trông như một kiểu chùa chiền viễn tưởng, khác xa với những gì Strike từng thấy. Mái nhà dày nặng, màu trắng, tựa như một cuốn sách khổng lồ đang mở và đặt úp xuống, bên dưới đỡ bằng những khung cửa kính xếp theo hình zigzag. Một cây liễu rủ khổng lồ phủ bóng bên cạnh nhà hàng, cành lá quét xuống mặt nước.

Mặc dù trời dịu mát, gió nhè nhẹ, khung cảnh quanh hồ vẫn rực rỡ dưới ánh nắng. Strike chọn một bàn ở ngoài trời sát mép nước, gọi một vại Doom Bar và đọc báo.

Mười phút sau giờ hẹn mà Bristow vẫn chưa tới. Nhưng một người đàn ông cao lớn, mặc complet đắt tiền, tóc hung đỏ dừng lại bên cạnh bàn của Strike.

“Anh Strike?”

Ông này khoảng gần sáu mươi tuổi, hàm bạnh, xương gò má cao, trông giống một diễn viên suýt có cơ nổi tiếng chuyên đóng các vai doanh nhân giàu có trong phim bộ. Với trí nhớ hình ảnh đã được tôi luyện, Strike ngay lập tức nhận ra ông ta từ những tấm ảnh mà Robin tìm thấy trên mạng. Chính là người đàn ông cao lớn trông như đang khinh khỉnh mọi thứ xung quanh trong đám tang của Lula Landry.

“Tony Landry. Cậu của John và Lula. Tôi ngồi đây được không?”

Nụ cười của ông ta có lẽ là ví dụ hoàn hảo nhất của một cái nhăn mặt xã giao giả dối mà Strike từng thấy; chỉ vừa kịp để lộ hàm răng trắng trong giây lát. Landry cởi áo khoác, phủ lên lưng ghế đối diện với Strike rồi ngồi xuống.

“John bận việc ở văn phòng,” ông ta nói. Gió làm tóc ông ta xộc xệch, lộ ra chỗ hói tóc hai bên thái dương. “Nó có nhờ Alison gọi báo anh biết. Tôi tình cờ đi ngang qua nghe được, nên tôi muốn tới đây nói trực tiếp luôn. Cũng là có dịp gặp riêng anh. Tôi vẫn đang chờ anh liên lạc; tôi biết là anh đang dần dần gặp hết những người có liên quan tới cháu gái tôi.”

Ông ta rút từ trong túi áo vét ra một cặp kính gọng thép, đeo vào và đọc tờ thực đơn. Strike uống bia, chờ đợi.

“Tôi nghe nói anh đã nói chuyện với bà Bestigui?” Landry hỏi, đặt tờ thực đơn xuống, mở mắt kính ra và bỏ vào túi trở lại.

“Đúng vậy,” Strike đáp.

“Được rồi. Tansy chắc chắn là có ý tốt, nhưng cô ta đang phí công vô ích khi lặp lại một câu chuyện mà cảnh sát đã chứng minh dứt khoát là không thể có thật. Không ích lợi gì cả,” Landry lặp lại, ra vẻ kẻ cả. “Tôi cũng nói vậy với John rồi. Nó phải ưu tiên hàng đầu lợi ích của thân chủ và những gì tốt nhất cho cô ta.”

“Tôi dùng món giò muối nấu đông,” ông ta nói với cô phục vụ bàn vừa đi ngang qua, “và nước lọc. Loại đóng chai. Thôi thì,” ông ta tiếp tục câu chuyện với Strike, “tốt nhất là cứ nói thẳng nhé, anh Strike.

“Vì nhiều lý do thiện ý, tôi không ủng hộ chuyện đào bới những chuyện quanh cái chết của Lula. Tôi cũng không mong anh đồng ý với tôi. Anh kiếm tiền bằng cách đào xới bi kịch gia đình của người khác mà.”

Ông ta lại nhếch mép lần nữa, trông vẫn hung hăng chứ chẳng vui vẻ gì.

“Không phải là tôi tuyệt đối không thông cảm với anh. Ai cũng phải kiếm sống, và chắc hẳn nhiều người nói rằng nghề của tôi cũng ăn bám không kém gì nghề của anh. Mặc dù vậy, sẽ có lợi cho cả hai chúng ta nếu hôm nay tôi nói rõ một số chuyện mà tôi nghĩ là John đã không kể với anh.”

“Trước khi ông bắt đầu,” Strike đáp, “cho tôi hỏi John bận gì vậy? Nếu anh ấy không đến được thì tôi sẽ sắp xếp một cuộc hẹn khác; chiều hôm nay tôi phải đi gặp vài người. John vẫn còn vương vụ Conway Oates à?”

Hắn chỉ biết rằng Conway Oates là một nhà tài phiệt người Mỹ, theo như lời Ursula. Nhưng tên tuổi của vị khách hàng quả có tác dụng như hắn muốn. Thái độ trịch thượng, luôn muốn làm chủ tình huống và vẻ tự tin của kẻ bề trên biến sạch. Landry giờ giận dữ và sốc.

“John không… chẳng lẽ nó lại có thể…? Chuyện đó tuyệt mật trong công ty!”

“Không phải John,” Strike đáp. “Bà Ursula May có nhắc đến chút trục trặc quanh vụ đất đai của ông Oates.”

Landry hắng giọng, lắp bắp. “Tôi rất ngạc nhiên… Tôi không nghĩ Ursula… bà May lại…”

“Vậy hôm nay John có tới không? Hay ông đã kịp giao cho anh ấy việc gì làm trong suốt buổi trưa?”

Hắn thích thú nhìn Landry vật lộn với cơn nóng giận, cố gắng kiềm chế bản thân và làm chủ tình hình.

“John sẽ tới sau,” cuối cùng ông ta nói. “Tôi hi vọng, như tôi đã nói, sẽ làm rõ được một số chuyện riêng với anh.”

“Được rồi, như vậy thì tôi cần dùng mấy thứ này,” Strike đáp, rút từ trong túi ra cuốn sổ và cây viết.

Landry cũng hốt hoảng như Tansy khi nhìn thấy những vật đó.

“Không cần ghi chép gì cả,” ông ta nói. “Những việc tôi sắp nói đây không liên quan gì… hoặc ít ra, không liên quan trực tiếp gì… đến cái chết của Lula. Tức là,” ông ta giải thích cặn kẽ, “sẽ không thay đổi gì kết luận tự tử cả.”

“Sao cũng được,” Strike đáp. “Tôi cần phải ghi lại kẻo quên.”

Landry trông như sắp phản đối nữa, nhưng rồi đổi ý.

“Được rồi. Đầu tiên anh phải hiểu là cháu trai của tôi John bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cái chết của em gái nó.”

“Cũng dễ hiểu mà,” Strike bình luận, nghiêng cuốn sổ để ông luật sư không thể đọc được, rồi viết mấy chữ ảnh hưởng sâu sắc, chỉ để chọc tức ông ta.

“Vâng, dễ hiểu. Tôi không định nói là người làm thám tử tư như anh nên từ chối một thân chủ chỉ vì người ta bị căng thẳng, hay trầm cảm… vì như tôi đã nói, ai cũng phải kiếm sống… nhưng trong trường hợp này…”

“Ông nghĩ John tưởng tượng ra hết?”

“Tôi không định nói như vậy, nhưng nói vậy cũng chẳng sai. John phải chịu quá nhiều đau khổ trong đời hơn nhiều người khác. Có lẽ anh không biết chuyện nó từng mất đi một đứa em trai…”

“Tôi có biết. Charlie là bạn học cũ của tôi. Vì vậy mà John thuê tôi.”

Landry nhìn hắn, ra vẻ vừa ngạc nhiên vừa ngờ vực.

“Anh học trường Blakeyfield Prep à?”

“Chỉ một thời gian thôi. Trước khi mẹ tôi nhớ ra là không có đủ tiền trả học phí.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi không biết chuyện đó. Nhưng dù vậy có lẽ anh cũng không biết hết được… John luôn là đứa… nói như từ của chị tôi là… dễ bị kích động. Bố mẹ nó phải thuê cả bác sĩ tâm lý sau khi Charlie chết, anh biết đó. Tôi không phải là chuyên gia tâm thần gì, nhưng tôi thấy cái chết của Lula như là một cú đẩy cuối cùng…”

“Nói vậy hơi kỳ, nhưng tôi hiểu ý ông,” Strike đáp, viết vào sổ Bristow chập mạch. “Nói chính xác thì John bị đẩy cú cuối cùng này ra làm sao?”

“Nhiều người cho rằng vụ điều tra của anh vừa vô lý vừa vô ích,” Landry đáp.

Strike vẫn giữ cây viết ngay trên cuốn sổ. Hàm của Landry cử động như đang nhai gì đó, rồi ông ta dứt khoát nói ra:

“Lula là một đứa bị rối loạn lưỡng cực, cãi nhau với thằng bồ không ra gì xong thì nhảy lầu tự tử. Không có gì bí hiểm hết. Một chuyện vô cùng tệ hại với cả gia đình tôi, đặc biệt là người mẹ tội nghiệp của nó, nhưng chẳng có gì hay ho cả. Tôi buộc phải kết luận rằng John đang bị suy sụp, và nếu anh không ngại tôi nói thẳng thì…”

“Ông cứ nói.”

“…sự tham gia của anh chỉ kéo dài chuyện nó không thể chấp nhận sự thật.”

“Là Lula tự tử?”

“Đó cũng là kết luận chung của cảnh sát, chuyên gia y tế và điều tra viên. John lại quyết tâm đi chứng minh có án mạng, để làm gì tôi hoàn toàn không biết. Tôi không hiểu nổi làm vậy thì sẽ có lợi cho ai.”

“Những người trầm cảm thường hay thấy tội lỗi. Họ hay nghĩ rằng đáng ra họ có thể làm điều gì đó để cứu vãn tình thế. Tất nhiên nghĩ vậy rất vô lý. Nhưng kết luận có án mạng sẽ làm cả gia đình thấy nhẹ lòng hơn, so với kết luận tự tử, không phải vậy sao?”

“Không ai trong gia đình tôi phải hối tiếc chuyện gì cả,” Landry nói, giọng đanh thép. “Lula được chăm sóc y tế ở mức tốt nhất, từ khi vừa mới phát bệnh. Nó muốn gì cha mẹ nuôi đều chu cấp. Nó đúng nghĩa là được chiều quá hóa hư. Mẹ nó sẵn sàng chết vì nó, mặc dù bà chẳng được đền đáp lại gì cả.”

“Ý ông là Lula vô ơn?”

“Cần quái gì phải ghi lại chỗ đó. Hay anh định bán lại cho đám báo chí giẻ rách?”

Strike nhận thấy Landry đã hoàn toàn vứt bỏ vẻ khôn khéo ban đầu khi mới đến. Cô bồi bàn mang thức ăn đến. Ông ta không hề cảm ơn, chỉ trừng mắt nhìn Strike cho tới khi cô ta đi khỏi. Rồi ông ta nói:

“Anh đang bới móc vào những chỗ không nên bới, chỉ có làm hại người khác thôi. Nói thẳng là tôi quá choáng, khi tôi biết John đang bày trò gì. Quá choáng.”

“John chưa bao giờ nói với ông chuyện anh ta nghi ngờ kết luận tự tử à?”

“Nó rất sốc, đương nhiên rồi, cả nhà tôi ai chẳng thế, nhưng tôi nhớ rõ là nó không nói gì đến án mạng cả.”

“Ông có thân với John không, ông Landry?”

“Chuyện đó thì liên quan gì?”

“Giúp lý giải vì sao John không nói với ông.”

“John với tôi có quan hệ công việc hoàn toàn hòa thuận.”

““Quan hệ công việc”?”

“Đúng vậy, anh Strike. Chúng tôi là đồng nghiệp. Chúng tôi có cặp kè như hình với bóng ngoài giờ làm không? Không có. Nhưng cả tôi và John đều đang chăm sóc chị gái tôi – phu nhân Bristow, cũng là mẹ của John, hiện giờ đang bệnh rất nặng. Ngoài công việc chúng tôi chỉ nói chuyện bà ấy.”

“Tôi thấy John rất hiếu thảo.”

“Nó chỉ còn mỗi bà mẹ mà, giờ tới lượt bà ấy sắp qua đời, tình hình tâm thần của nó cũng chẳng làm sao khá hơn được.”

“John đâu chỉ có mỗi phu nhân Bristow. Còn có cả Alison nữa, đúng không?”

“Tôi không biết vụ đó nghiêm túc tới đâu.”

“Có lẽ một trong những mục đích của John khi thuê tôi là tìm ra sự thật, cho mẹ anh ấy an lòng nhắm mắt?”

“Sự thật sẽ không giúp gì được cho chị tôi cả. Không ai thích thú chuyện mình phải trả giá cho quá khứ.”

Strike không hỏi gì. Đúng y như hắn đoán, ông luật sư không kiềm được, tiếp tục giải thích ngay:

“Yvette thích làm mẹ một cách kỳ cục. Chị ấy rất mê trẻ con.” Ông ta nói như thể đó là một điều gì kỳ khôi, bệnh hoạn. “Giả mà kiếm được ông chồng đủ sức chắn hẳn chị ấy cũng không biết xấu hổ mà đẻ sòn sòn cả hai chục đứa con đấy. Lạy trời Alec bị vô sinh… John nói chuyện đó chưa?”

“Anh ấy có nói Ngài Alec Bristow không phải là cha đẻ, nếu ý ông là vậy.”

Vừa mới thất vọng vì không phải là người đầu tiên nói ra cái tin đó, Landry chộp ngay lấy cơ hội thứ hai.

“Yvette và Alec nhận nuôi hai đứa con trai, nhưng lại không hề biết dạy dỗ chúng. Nói toạc ra, chị ấy là một bà mẹ tồi tệ. Không kiểm soát, không kỷ luật; chiều chuộng tuyệt đối và không bao giờ nhìn thẳng vào sự thật. Tôi không có ý đổ lỗi hết cho Yvette… ai biết dòng giống chúng thế nào… nhưng John là một đứa rên rỉ, hay làm quá và lúc nào cũng bám mẹ nhằng nhẵng. Còn Charlie vô cùng nghịch ngợm… kết quả là…”

Landry đột ngột dừng lại, má ông ta lốm đốm đỏ.

“Kết quả là rớt xuống mỏ đá?” Strike gợi ý.

Hắn nói vậy để xem Landry phản ứng ra sao. Hắn không phải thất vọng. Vẻ mặt ông ta làm hắn nghĩ đến một đường hầm thu nhỏ dần, một cánh cửa xa xôi đóng sầm lại: chấm dứt hoàn toàn.

“Nói thẳng ra là vậy. Làm gì thì cũng đã quá muộn. Yvette la hét bấu víu vào Alec, ngất xỉu ngay trên sàn nhà. Nếu chị ấy biết trị nó một chút thôi, thằng nhỏ đã không cố ý cãi lời. Tôi có mặt lúc đó.” Landry nói, lạnh lùng. “Cuối tuần đó tôi có đi thăm anh chị. Hôm đó là ngày Chủ nhật Lễ Phục Sinh. Tôi đi bộ ra ngoài làng, khi trở về thì thấy cả nhà đang đi tìm nó. Tôi chạy thẳng ra mỏ đá. Tôi biết quá rồi, anh hiểu không. Thằng bé đã bị cấm tới mỏ đá… nên đương nhiên là nó ở đó.”

“Ông tìm thấy Charlie đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Cảnh tượng đó hẳn là vô cùng đau đớn.”

“Vâng.” Landry nói, hầu như không mở miệng. “Đúng thế.”

“Và sau khi Charlie chết thì chị gái ông và Ngài Alec nhận nuôi Lula?”

“Đó cũng chính là việc ngu ngốc nhất mà Alec Bristow từng đồng ý làm,” Landry nói. “Yvette rõ ràng là một bà mẹ tồi; làm sao mà khá hơn được khi đang đau khổ vì mất con? Tất nhiên chị ấy lúc nào cũng muốn có một đứa con gái, để tha hồ mặc đồ màu hồng cho nó. Còn Alec thì nghĩ rằng có đứa con gái sẽ khiến chị ấy vui. Yvette muốn gì ông ta cũng chiều hết. Ông ta mụ cả người khi Yvette đến làm thư ký ở công ty, ông ta đúng kiểu dân phía Đông thành phố, rất là thô. Còn Yvette thì lúc nào cũng thích người hơi thô tháp một chút như vậy.”

Strike tự hỏi thật ra khúc mắc trong lòng ông Landry là gì.

“Ông không thân với chị gái lắm à, ông Landry?” Strike hỏi.

“Chúng tôi hoàn toàn hòa thuận; chỉ có điều tôi không mù quáng trước con người của Yvette, anh Strike à, những đau khổ của chị ấy cũng không phải tự dưng mà có.”

“Sau khi Charlie chết chắc họ khó xin con nuôi lắm?” Strike hỏi.

“Rất khó, nếu Alec không phải là triệu phú,” Landry cười nhạt. “Tôi biết nhà chức trách có đặt vấn đề về sức khỏe tâm thần của Yvette, vả lại cả hai lúc đó đều đã lớn tuổi. Đáng tiếc là họ không từ chối thẳng thừng. Nhưng Alec chạy chuyện gì cũng lọt, lại quen biết nhiều chỗ lạ đời từ hồi còn chạy chợ kia. Tôi không biết chi tiết, nhưng chắc chắn là phải có bôi trơn. Nhưng cũng không xin được một đứa da trắng. Ông ấy lại mang về nhà một đứa trẻ con không rõ gốc gác, để bà vợ trầm cảm, hay bị kích động và không hề biết suy xét nuôi dạy. Tôi chẳng ngạc nhiên gì với những chuyện sau đó. Lula vừa yếu đuối như John lại vừa hoang dại như Charlie, và Yvette thì vẫn không biết phải trị nó ra sao.”

Vừa hí hoáy viết để chọc tức Landry, Strike vừa nghĩ không biết liệu niềm tin vào chủng tộc của ông ta có liên quan gì đến chuyện Bristow bị ám ảnh về những người bà con da đen của Lula. Hẳn là Bristow từng tiếp xúc với quan điểm của ông cậu qua nhiều năm. Trẻ con hấp thụ cách nhìn của người thân ở mức sâu sắc, khó xoay chuyển. Bản thân Strike, thẳm sâu trong tâm trí, trước cả khi người ta nói với hắn, đã biết rằng mẹ hắn không như những người mẹ khác, rằng (nếu hắn tin vào những thứ quy ước ngầm chi phối thế giới người lớn) mẹ hắn đã làm chuyện gì đó rất đáng xấu hổ.

“Ông có gặp Lula hôm cô ta chết, đúng không?” Strike hỏi.

Lông mi của Landry nhợt nhạt, trông gần như trắng.

“Xin lỗi?”

“Vâng…” Strike cố ý lật lại mấy trang giấy, dừng ngay ở một trang trống không. “…ông có gặp cô ấy ở nhà chị của ông, đúng không? Lúc Lula ghé thăm phu nhân Bristow?”

“Ai nói với anh như vậy? John à?”

“Có hết trong hồ sơ cảnh sát. Không đúng vậy sao?”

“Đúng vậy, nhưng tôi không hiểu việc đó thì liên quan gì đến những việc tôi đang nói.”

“Xin lỗi, lúc mới đến ông có nói rằng ông đang đợi tôi liên lạc. Vậy nên tôi cứ tưởng ông sẽ đồng ý trả lời vài câu hỏi.”

Thái độ của Landry như một người vừa bất ngờ bị chọc tức.

“Tôi không có gì để thêm vào lời khai bên cảnh sát cả,” cuối cùng ông ta lên tiếng.

“Tức là,” Strike nói, tiếp tục lật cuốn sổ trống trơn, “ông có ghé qua thăm chị buổi sáng hôm đó, có gặp Lula, rồi lái xe xuống Oxford dự hội nghị luật gia đình?”

Landry lại nghiến hàm.

“Đúng vậy,” ông ta đáp.

“Ông tới nhà phu nhân Bristow lúc mấy giờ?”

“Chắc khoảng mười giờ,” Landry đáp, sau khi im lặng vài giây.

“Rồi ông ở lại đó bao lâu?”

“Chừng khoảng nửa tiếng. Có thể lâu hơn một chút. Tôi không nhớ.”

“Rồi ông lái xe thẳng từ đó tới Oxford?”

Đằng sau vai Landry, Strike trông thấy John Bristow đang hỏi một cô phục vụ; trông ông ta hơi nhếch nhác, thở không ra hơi, như vừa chạy đến. Ông ta cầm theo một cái túi da hình chữ nhật. Ông ta nhìn quanh, vẫn còn thở hổn hển, và khi nhìn thấy Landry từ đằng sau, Strike thấy ông ta thật sự hoảng sợ.

6

“John,” Strike lên tiếng, lúc vị thân chủ của hắn xuất hiện.

“Chào anh Cormoran.”

Landry không nhìn ông cháu trai, cầm nĩa và dao lên xắn miếng thịt đông đầu tiên. Strike đứng dậy, xích ra một chút để Bristow có thể ngồi xuống đối diện ông cậu.

“Anh đã nói chuyện với Reuben chưa?” Landry lạnh lùng hỏi Bristow, sau khi nuốt xong miếng thịt đông.

“Rồi. Cháu có nói là chiều nay sẽ qua đó giải thích hết mấy chỗ tiền đặt cọc và bản vẽ.”

“Nãy giờ tôi hỏi cậu của anh về buổi sáng trước khi Lula chết. Lúc ông Landry đây ghé thăm mẹ anh.” Strike nói.

Bristow liếc nhìn Landry.

“Tôi muốn biết cụ thể khi đó ai nói gì làm gì,” Strike nói tiếp, “vì theo như lời tài xế đón Lula sau đó, cô ấy có vẻ rất đau khổ.”

“Đương nhiên là nó đau khổ rồi,” Landry lên tiếng cắt ngang. “Mẹ nó bị ung thư.”

“Tôi tưởng phẩu thuật là để chữa cho hết?”

“Yvette phải cắt hết tử cung. Rất là đau đớn. Chắc hẳn Lula rất đau khổ khi nhìn thấy mẹ như vậy.”

“Hôm đó ông có nói chuyện gì nhiều với cô ấy không?”

Ông Landry ngập ngừng trong tích tắc.

“Chỉ hỏi thăm thôi.”

“Còn hai người có nói chuyện với nhau không?”

Bristow và Landry không nhìn nhau. Một vài giây sau, Bristow lên tiếng:

“Tôi đang làm việc trong thư phòng. Tôi nghe tiếng Tony bước vào, có nghe cậu nói chuyện với mẹ và Lula.”

“Ông không ghé vào thư phòng chào anh John à?” Hắn quay sang hỏi Landry.

Landry nhìn Strike, cặp mắt nhạt màu hơi long lên giữa hai hàng lông mi trắng.

“Anh Strike, thực ra không ai ở đây có nghĩa vụ trả lời anh cả,” Landry đáp.

“Đương nhiên là không,” Strike đồng ý, hí hoáy viết thêm mấy dòng không rõ ràng trong sổ. Bristow nhìn ông cậu. Landry có vẻ nghĩ lại.

“Tôi nhìn qua cửa thư phòng thì thấy John đang tập trung làm việc, nên tôi không muốn quấy rầy nó. Tôi ngồi xuống với Yvette một lúc nhưng chị còn rất mệt sau khi dùng thuốc giảm đau, nên tôi ra về, để Lula ngồi với chị. Tôi biết,” Landry đáp, giọng hơi ai oán, “Yvette thích Lula ở bên hơn bất kỳ ai.”

“Danh sách cuộc gọi của Lula cho thấy cô ấy gọi vào máy di động của ông liên tục sau khi ra khỏi nhà phu nhân Bristow.”

Landry giật mình.

“Ông có nói chuyện với cô ấy trên điện thoại không?”

“Không. Hôm đó tôi tắt chuông, tôi bị trễ giờ.”

“Tắt chuông thì máy vẫn rung chứ?”

Hắn tự hỏi phải như thế nào đây thì Landry mới chịu rời đi. Hắn thấy ông ta sắp chịu hết nổi rồi.

“Tôi có liếc qua điện thoại, thấy Lula gọi nhưng quyết định cứ để đó đã,” Ông ta nói ngay sau đó.

“Ông không gọi lại cho cô ấy à?”

“Không.”

“Cô ấy không để lại lời nhắn gì à, để giải thích vì sao lại gọi?”

“Không.”

“Vậy thì kỳ lạ quá nhỉ? Ông vừa gặp cô ấy ở nhà mẹ, hai người không nói chuyện gì quan trong, vậy mà nguyên buổi chiều hôm đó cô ấy liên tục gọi cho ông. Không lẽ cô ấy không có chuyện gì khẩn cấp cần nói? Hay muốn tiếp tục câu chuyện với ông ở nhà mẹ chẳng hạn?”

“Lula là loại con gái có thể gọi cho người khác liên tục ba mươi lần chỉ với một cái cớ nhỏ nhất. Nó rất được cưng chiều. Nó cứ nghĩ người ta nghe tên nó là phải nhao hết cả lên.”

Strike liếc về phía Bristow.

“Nó… đôi khi… hơi bị như vậy,” ông anh Lula lẩm bẩm.

“Anh nghĩ em gái anh hôm đó buồn, hoàn toàn chỉ vì mẹ mới mổ xong còn yếu à?” Strike hỏi Bristow. “Tài xế riêng của Lula, Kieran Kolovas-Jones lại khăng khăng rằng sau khi ra khỏi nhà phu nhân Bristow, tâm trạng cô ấy thay đổi hoàn toàn.”

Trước khi Bristow kịp trả lời, Landry bỏ thức ăn lại, đứng dậy và mặc áo khoát.

“Kolovas-Jones có phải là thằng nhóc da màu trông hơi lạ lạ đó không?” Ông ta hỏi, nhìn cả Strike và Bristow. “Cái thằng hay nhờ Lula xin việc người mẫu và đóng phim phải không?”

“Đúng là anh ta có đóng phim.” Strike đáp.

“Được rồi. Hôm đó sinh nhật Yvette – sinh nhật cuối cùng trước khi bệnh tái phát, xe của tôi bị hư. Lula và thằng đó đến đón tôi đi ăn sinh nhật. Gần hết cả chuyến đi, Kolovas-Jones cứ nhằng nhẵng nhờ Lula đánh tiếng với Freddie Bestigui để xin cho nó thử vai. Đúng là thứ được đằng chân… Lại còn suồng sã. Đương nhiên,” ông ta nói thêm, “tôi càng ít biết về đời tư tình cảm của cô cháu nuôi thì càng tốt.”

Landry vứt một tờ mười bảng xuống bàn.

“Liệu về văn phòng sớm đấy, John.”

Ông ta chưa đi, rõ là đang đợi Bristow trả lời. Nhưng Bristow không chú ý. Anh ta mở to mắt nhìn chằm chằm vào bức hình trên trang báo Strike đọc dở khi Landry xuất hiện. Trang báo có hình một người lính da đen còn trẻ mặc đồng phục Tiểu đoàn 2, Trung đoàn lính hỏa mai Hoàng gia.

“Gì ạ? Vâng. Cháu sẽ về ngay,” ông ta trả lời ông cậu đang lạnh lùng nhìn chằm chằm, vẫn chưa định thần. “Xin lỗi,” Bristow quay sang nói với Strike, khi Landry vừa đi khỏi. “Là Wilson… Derrick Wilson, anh biết đó, người bảo vệ… ông ấy cũng có một đứa cháu đang ở Afghanistan. Tôi cứ tưởng… lạy Chúa… nhưng mà không phải nó. Tên khác. Cuộc chiến tranh này thật là tồi tệ. Có đáng phí mạng người như vậy không?”

Strike nghiêng người, sức nặng cơ thể nhấc khỏi cái chân giả. Cuộc đi bộ qua công viên lúc nãy không làm chân hắn đỡ đau hơn chút nào. Hắn ậm ừ cho qua chuyện.

“Đi bộ về nhé,” Bristow nói, sau khi cả hai đã ăn xong. “Đi một lát cho thoáng.”

Bristow lựa lối đi gần nhất, qua những bãi cỏ mà thông thường Strike sẽ tránh nếu đi một mình, vì đi bằng chân giả trên cỏ tốn sức hơn nhiều so với trên mặt đường nhựa. Hai người đi ngang qua đài phun nước tưởng niệm Diana, Công nương xứ Wales. Dòng nước có chỗ rì rầm, có chỗ chảy róc rách, có chỗ lại phun ào ạt dọc theo rãnh dài bằng đá granite xứ Cornwall. Bristow đột ngột lên tiếng, như thể Strike vừa hỏi vậy:

“Tony không thích tôi lắm. Ông ấy thích Charlie hơn. Người ta nói là Charlie trông y hệt Tony lúc còn bé.”

“Tôi thấy ông ta nói chuyện về Charlie không được tình cảm lắm trước khi anh đến, và dường như ông ta cũng chẳng ưa gì Lula.”

“Ông ta không thể hiện chính kiến về vụ di truyền à?”

“Có nhưng không trực tiếp.”

Thực ra, thông thường ông ta chẳng ngại nói thẳng. Chính điều đó làm tôi với Lula càng gắn bó, vì cậu Tony cho rằng hai đứa tụi tôi gốc gác chẳng ra gì. Với Lula còn tệ hơn nữa; ít ra bố mẹ đẻ của tôi ắt hẳn là người da trắng. Tony không phải là người không có thành kiến. Năm ngoái công ty nhận một thực tập sinh người Pakistan, một trong những thực tập sinh giỏi nhất mà tụi tôi từng có, vậy mà Tony làm cô ta phải bỏ đi.”

“Vì sao anh lại làm việc cho ông ta?”

“Công việc khá tốt. Lại là công ty gia đình; ông ngoại tôi sáng lập ra, nhưng thật ra điều đó không ích lợi gì. Không ai muốn mang tiếng con ông cháu cha cả. Nhưng chúng tôi là một trong những công ty hàng đầu về luật gia đình ở London. Với lại mẹ tôi rất vui khi thấy tôi đang theo bước của ông ngoại. Ông ta có đụng chạm gì tới bố tôi không?”

“Không hẳn. Ông ta có bóng gió là Ngài Alec chắc phải chạy chọt gì mới xin được Lula.”

“Vậy à?” Bristow tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi không nghĩ vậy. Lula lúc đó đang ở bên bảo trợ xã hội. Tôi chắc chắn bố tôi làm theo đúng thủ tục.”

Hai người im lặng một lát. Bristow lên tiếng, hơi rụt rè.

“Anh… không giống bố anh lắm.”

Đây là lần đầu tiên Bristow công khai thừa nhận rằng ông ta có dùng Wikipedia khi đi tìm thám tử tư.

“Không giống gì cả,” Strike đồng ý. “Thực ra tôi giống y như ông cậu Ted.”

“Tôi đoán là anh và bố anh không… ý tôi là, anh không theo họ của ông ấy?”

Strike không thấy bực mình trước sự tò mò của một người có gia đình cũng không bình thường và đầy thương tích như gia đình của hắn.

“Tôi chẳng bao giờ dùng họ đó cả,” hắn trả lời, “Tôi chỉ là một sự cố ngoại tình ngoài ý muốn, làm Jonny mất một bà vợ và mấy triệu bảng đền bù ly dị. Tôi với ông ấy không hề thân thiết gì.”

“Tôi phục anh,” Bristow nói, “anh thật tự lập. Không dựa gì vào ông ta.” Strike không trả lời. Bristow nói thêm, có vẻ áy náy, “Tôi hy vọng anh không phiền chuyện tôi nói với Tansy bố anh là ai? Thực ra… nhờ vậy mà cô ta mới chịu nói chuyện với anh. Cô ta thích người nổi tiếng.”

“Không sao, miễn có được lời khai của nhân chứng.” Strike đáp. “Anh nói là Lula không thích Tony, vậy tại sao cô ấy lại lấy họ của ông ta để làm nghệ danh?”

“À không phải vậy, nó chọn Landry vì đó là họ của mẹ tôi trước khi lấy chồng; không dính dáng gì đến Tony cả. Mẹ tôi rất vui. Với cả tôi nghĩ hình như đã có một người mẫu tên Bristow rồi, nên Lula muốn đổi cho khác đi.”

Cả hai đi qua những người đi xe đạp, những người ngồi ghế đá ăn uống, những người dắt chó đi dạo và mấy tay trượt patin. Strike cố đi bình thường, mặc dù chân phải hắn càng lúc càng đau.

“Tôi không nghĩ Tony từng yêu ai trong đời cả, anh biết không,” Bristow đột ngột nói, khi cả hai dừng lại để nhường đường cho một đứa bé đội mũ bảo hiểm đang loạng choạng lướt qua trên ván trượt. “Trong khi đó mẹ tôi lại là người rất tình cảm. Mẹ tôi yêu thương cả ba đứa con, và đôi khi tôi nghĩ điều đó làm phiền lòng Tony. Tôi không biết tại sao. Tính ông ta vậy.”

“Sau khi Charlie chết, bố mẹ tôi tuyệt giao với Tony. Đáng ra tôi không được biết gì cả, nhưng tôi cũng có nghe được vài chuyện. Ông ta nói với mẹ tôi rằng mẹ tôi có lỗi trong vụ Charlie, rằng Charlie là đứa bất trị. Bố tôi đuổi ông ta ra khỏi nhà. Mẹ và Tony chỉ mới làm lành khi bố tôi qua đời.”

Strike thấy nhẹ cả người khi đến phố Exhibition, cái chân khập khiễng của hắn ít ra cũng đỡ lộ liễu hơn.

“Anh nghĩ giữa Lula với Kieran Kokovas-Jones có chuyện gì không?” hắn hỏi khi cả hai băng qua đường.

“Không, đó là do Tony tự động suy luận theo hướng xấu nhất đó thôi. Ông ta luôn nghĩ tới những điều tồi tệ nhất về Lula. Tôi chắc Kieran có xoắn xuýt con bé thật, nhưng Lula mê mệt thằng Duffield… buồn là ở chỗ đó.”

Họ đi dọc theo phố Kensington, bên trái là công viên xanh mướt, rồi đi vào địa phận những dinh thự hoành tráng của các lãnh sự quán và cơ sở đại học Hoàng gia.

“Tại sao anh nghĩ là cậu anh không vào chào anh một tiếng khi ông ta đến thăm mẹ anh vừa xuất viện?”

Bristow trông rất khó chịu.

“Hai người có cãi nhau chuyện gì à?”

“Không… không hẳn vậy,” Bristow đáp. “Công việc đang rất căng thẳng… tôi không thể nói ra. Phải bảo mật cho khách hàng.”

“Có phải vụ đất đai của Conway Oates không?”

“Làm sao anh biết?” Bristow hỏi ngay lập tức. “Ursula nói à?”

“Bà ta có nhắc tới.”

“Trời đất, Không giữ kín được cái gì hết. Gì cũng nói.”

“Ông cậu của anh cũng không tin được là bà May lại hớ hênh vậy.”

“Hẳn rồi.” Bristow nói, cười khinh miệt. “Chuyện là… tôi biết là tôi có thể tin tưởng anh. Mấy công ty như tụi tôi rất ngại những chuyện như vậy, vì khách hàng của tụi tôi toàn những người cực kỳ giàu có… nên bất kỳ dấu hiệu tài chính lệch lạc nào cũng vô cùng nguy hiểm. Tài sản của ông Oates vẫn còn đó, đúng hết; nhưng đám người thừa kế rất tham lam, nên suốt ngày nói là tài sản bị thất thoát. Thực ra với thị trường bất ổn như vừa rồi, cộng thêm những quyết định thiếu sáng suốt của Conway cuối đời, đáng ra họ phải mừng là vẫn còn chút gì mới phải. Tony rất bực về vụ này…ông ta thích đổ lỗi cho nhiều người. Cãi cọ cũng khá nhiều rồi. Tôi cũng đã chịu trận. Với Tony thì tôi chỉ đành vậy thôi.”

Strike đoán là đã gần đến văn phòng của Bristow, trông ông ta càng lúc càng u ám.

“Tôi vẫn chưa liên lạc được với một số nhân chứng quan trọng, John à. Anh có thể giúp tôi gặp Guy Somé được không? Nhân viên của ông ta không để ai lại gần cả.”

“Để tôi thử xem. Chiều nay tôi sẽ gọi cho Somé. Anh ta rất cưng Lula, chắc chắn sẽ muốn giúp.”

“Và cả mẹ ruột của Lula nữa.”

“À,” Bristow thở dài. “Tôi có địa chỉ bà ta ở đâu đó. Một người đàn bà ghê gớm.”

“Anh gặp bà ta rồi à?”

“Không, Lula có kể với tôi, rồi cả mấy thứ báo đăng nữa. Lula quyết tâm tìm cho được gốc gác, tôi nghĩ là Duffield xúi nó… Tôi nghi rằng chính Duffield tiết lộ chuyện này với báo chí, mặc dù Lula không tin vậy… Chuyện là, nó tìm được bà mẹ, một bà Higson nào đó. Bà ta kể rằng bố ruột của Lula là một sinh viên châu Phi. Tôi không biết chuyện có thật không. Nhưng rõ là đúng thứ Lula muốn nghe. Trí tưởng tượng của nó tha hồ bay bổng: hình như nó tin rằng mình là con gái bị thất lạc của một chính khách cao cấp, hay là công chúa của một bộ lạc nào đó.”

“Nhưng cô ấy không truy ra được ông bố à?”

“Tôi không rõ, nhưng,” Bristow đáp, thể hiện sự hào hứng thường thấy với bất kỳ hướng điều tra nào dính đến người da đen bỏ chạy trong đoạn phim. “Nếu có thì nó cũng sẽ không nói với tôi.”

“Tại sao?”

“Vì tụi tôi cãi nhau rất dữ dội vì chuyện đó. Mẹ tôi vừa có chẩn đoán ung thư tử cung thì Lula lại đi tìm Marlene Higson. Tôi nói với nó lúc đó mà đi tìm gốc gác thì không tế nhị chút nào, nhưng… một khi đã muốn gì thì nó chỉ nghĩ đến điều đó. Anh em tụi tôi rất thương nhau,” Bristow nói, bàn tay nhọc nhằn đưa lên vuốt mặt, “nhưng mà tuổi tác cách xa nhau quá, nên khó hòa thuận. Dù vậy, tôi cũng chắc rằng nó đã đi tìm bố, vì nó muốn làm vậy hơn bất cứ điều gì: đi tìm cho ra gốc gác da đen, để biết mình là ai mà.”

“Lula có giữ liên lạc với Marlene Higson cho tới khi cô ấy chết không?”

“Thỉnh thoảng. Tôi có cảm giác là Lula đang cố cắt đứt với bà ta. Higson là một người ghê tởm, làm tiền không biết xấu hổ. Bà ta bán chuyện đó cho bất kỳ ai muốn mua, không may là trên đời không thiếu cái thể loại háo chuyện. Mẹ tôi rất đau lòng.”

“Tôi muốn hỏi anh thêm vài điều.”

Ông luật sư cố ý bước chậm lại.

“Khi anh ghé qua nhà Lula sáng hôm đó để đưa hợp đồng, anh có thấy người nào trông như nhân viên công ty bảo trì không? Đến để kiểm tra hệ thống báo động?”

“Giống như thợ sửa chữa à?”

“Hay thợ điện. Có khi mặc đồ bảo hộ?”

Mỗi khi Bristow nhăn mặt suy nghĩ, hàm răng thỏ nhô ra hơn bao giờ hết.

“Tôi không nhớ… để xem… Khi tôi đi ngang qua căn hộ tầng hai, à… có một người đang đứng sửa gì đó trên tường… Có thể là người đó chăng?”

“Có thể. Trông anh ta ra sao?”

“Thực ra anh ta đứng quay lưng về phía tôi. Tôi không thấy được.”

“Wilson có đó không?”

Bristow dừng lại trên vỉa hè, trông hơi lung túng.

Một nhóm ba người cả nam lẫn nữ mặc complet hối hả bước qua, tay cầm hồ sơ.

“Tôi nghĩ,” ông ta ngắc ngứ, “Tôi nghĩ là cả hai đều ở đó, quay lưng về phía tôi khi tôi đi xuống cầu thang. Sao thế? Chuyện đó có liên quan gì?”

“Có thể là không liên quan,” Strike nói. “Nhưng anh có nhớ được gì không? Màu tóc, màu da chẳng hạn?”

Bristow càng bối rối hơn. Ông ta đáp.

“E là tôi không nhớ gì cả. Tôi nghĩ…” Ông ta lại nhăn mặt tập trung. “Tôi nghĩ anh ta mặc đồ màu xanh. Cùng lắm thì tôi nghĩ anh ta là người da trắng. Nhưng tôi không cam đoan gì được.”

“Anh không cần cam đoan gì đâu,” Strike đáp, “như vậy cũng rất có ích rồi.”

Hắn rút cuốn sổ ra, rà lại mấy câu hỏi mà hắn định hỏi Bristow.

“À còn nữa. Trong lời khai bên cảnh sát, Ciara Porter nói rằng Lula kể với cô ta là sẽ để lại hết cho anh.”

“À,” Bristow nói, không hồ hởi gì. “Vụ đó.”

Ông ta bắt đầu bước đi, Strike đi theo.

“Một trong những điều tra viên vụ án có kể với tôi rằng Ciara có nói như vậy. Một anh trung sĩ điều tra tên Carver. Ngay từ đầu anh ta đã tin rằng đây là vụ tự tử, anh ta nghĩ khi nói với Ciara như vậy hẳn Lula đã có ý tự tử. Một kiểu lý luận lạ đời. Mấy người tự tử có hay nghĩ tới di chúc không?”

“Vậy anh nghĩ Ciara Porter bịa chuyện à?”

“Không bịa,” Bristow, “có thể là nói quá. Tôi nghĩ rất có thể là Lula nói tốt gì đó cho tôi, vì hai tụi tôi vừa mới làm hòa khi sáng. Còn Ciara, sau khi đã tin rằng Lula định tự tử thì suy diễn đó thành di chúc nọ kia. Con bé đó… hơi mơ mộng.”

“Cảnh sát có đi tìm di chúc, đúng không?”

“À đúng vậy, cảnh sát tìm rất kỹ. Người nhà chúng tôi không nghĩ Lula có lập di chúc; luật sư của nó cũng không biết gì cả, nhưng họ vẫn tìm. Không thấy gì, mặc dù họ lục lọi khắp nơi.”

“Cứ tạm cho là Ciara Porter không nhớ sai những lời em gái anh nói, thì…”

“Nhưng Lula sẽ không bao giờ để hết lại cho tôi. Không bao giờ.”

“Tại sao không?”

“Bởi vì viết như vậy có nghĩa là không tính gì đến mẹ tôi, sẽ làm cho mẹ tôi vô cùng đau đớn,” Bristow tha thiết nói. “Chuyện không phải là tiền bạc… vì bố tôi để lại cho mẹ tôi rất nhiều rồi… mà là ý nghĩa của việc cắt đứt với mẹ tôi như vậy. Di chúc có thể làm cho người ta đau khổ đủ đường. Tôi từng thấy nhiều lần rồi.”

“Mẹ anh có lập di chúc chưa?” Strike hỏi.

Bristow giật nảy mình.

“Tôi… vâng, tôi nghĩ là có.”

“Cho tôi hỏi ai là người thừa kế được không?”

“Tôi chưa xem,” Bristow đáp, giọng cứng đơ. “Chuyện này thì…?”

“Đều có liên quan hết, John à. Mười triệu bảng là một số tiền không hề nhỏ.”

Bristow dường như đang nghĩ xem Strike có ý xúc phạm hay chỉ thiếu tế nhị. Cuối cùng ông ta nói:

“Vì không còn ai thân thích gì, tôi nghĩ chắc hẳn tôi và Tony là người thừa kế chính. Có thể là một vài tổ chức từ thiện nào đó, mẹ tôi rất hào phóng với các tổ chức từ thiện. Tuy nhiên, tôi chắc anh cũng hiểu,” cổ Bristow lại nổi lên những chấm đỏ hồng. “Tôi không vội gì muốn biết những chuyện này, không muốn nghĩ tới chuyện phải xảy ra trước đó.”

“Đương nhiên rồi.” Strike đáp.

Họ vừa đến văn phòng của Bristow, một tòa nhà tám tầng nghiêm nghị, phía trước có cổng vòm tối đen. Bristow dừng lại ngay lối vào, nhìn Strike.

“Anh vẫn còn nghĩ là tôi tự dối mình không?” Ông ta hỏi, vừa lúc có hai người phụ nữ mặc complet đen đi ngang qua.

“Không,” Strike trả lời, thật thà. “Không, tôi không nghĩ vậy.”

Vẻ mặt không có gì nổi bật của Bristow tươi lên một chút.

“Tôi sẽ gọi cho anh về Somé và Marlene Higson. À… chút nữa thì tôi quên. Máy tính xách tay của Lula. Tôi đã sạc điện luôn rồi, nhưng mà có mật khẩu. Mấy người bên cảnh sát tìm ra được mật khẩu, có nói với mẹ tôi nhưng mẹ tôi không nhớ là gì cả, còn tôi thì không biết. Biết đâu có ghi lại trong hồ sơ cảnh sát?” Ông ta hỏi, tỏ vẻ hy vọng.

“Tôi không nghĩ vậy,” Strike đáp, “nhưng cũng không thành vấn đề. Từ khi Lula chết thì máy tính để ở đâu?”

“Cảnh sát giữ, và sau đó là ở nhà mẹ tôi. Gần như hết thảy đồ đạc của Lula đều còn ở nhà mẹ tôi. Mẹ tôi vẫn chưa thể nghĩ đến giải quyết kiểu gì.”

Bristow đưa cho Strike chiếc túi da đựng máy tính và chào tạm biệt; rồi, gồng nhẹ hai vai, ông ta bước lên bậc thang và biến mất sau những cánh cửa của hãng luật gia đình.

7

Mỏm chân cụt của Strike càng lúc càng đau đớn khi hắn đi về phía khu Kensington Gore. Mồ hôi rịn ra dưới lớp áo khoác dày. Xa xa, cây cối trong công viên lung linh trong nắng chiều yếu ớt. Strike tự hỏi phải chăng hắn đang đuổi theo một cái bóng dưới lòng hồ sâu đầy bùn đất, hay biết đâu đó chỉ là một trò nghịch của ánh sáng, hay chút ảo ảnh trên mặt hồ gió đùa. Phải chăng hắn đang nhìn thấy những vết bùn li li bám lại sau cú quẩy đuôi? Hay cảm giác xao động trong lòng của hắn lúc này chỉ là cơn ậm ạch sau bữa ăn quá nhiều rong biển hôm trước? Liệu quả thật có gì đó đang nấp kỹ, ngụy trang bằng lớp bùn đất dưới đáy hồ, khéo đến nỗi những chiếc lưới đã giăng đều bất lực?

Strike đi ngang qua cổng Queen’s Gate ở công viên Hyde Park trên đường về trạm tàu Kensington. Chiếc cổng trang trí có màu đỏ như sắt gỉ, chạm trổ đủ loại biểu tượng Hoàng gia. Vốn rất tinh ý, hắn nhận ra một bên cột chạm hình hươu mẹ và hươu con, trong khi bên kia lại là hươu đực. Mắt người thường tự động ghi nhận tính đối xứng và cân bằng ở cả những nơi không hề có. Giống đó, mà khác một trời một vực… Máy tính xách tay của Lula Landry liên tục đập vào chân mỗi khi hắn lê bước, càng lúc càng nặng nhọc.

Strike về đến văn phòng lúc năm giờ kém mười phút. Lúc này hắn vừa thấy đau chân vừa thấy hoang mang bất lực. Robin đều đều báo cáo những chuyện chẳng có gì bất ngờ. Cô vẫn chưa thuyết phục được nhân viên trực điện thoại ở hãng phim của Bestigui để đặt hẹn và không tìm ra thuê bao nào của Viễn thông Anh quốc ở khu vực Kilburn đăng ký tên là Onifade.

“Đương nhiên, bà cô của Rochelle có thể mang họ khác, đúng không?” Robin vừa phân tích vừa cài nút áo khoác chuẩn bị ra về.

Strike gật đầu đồng ý, trông hắn rã rời. Hắn ngồi phịch xuống chiếc sofa đã sờn cũ ngay khi vừa bước qua cửa văn phòng. Robin chưa bao giờ thấy hắn như thế. Mặt hắn nhăn nhó khổ sở.

“Anh có ổn không?”

“Ổn. Lúc chiều Bên Giải pháp Tạm thời có gọi nữa không?”

“Không,” Robin trả lời, kéo thắt lưng áo khoác. “Chắc họ tin lời tôi lúc tôi nói tôi là Annabel? Lúc đó tôi có cố giả giọng Úc.”

Strike nhe răng cười. Robin đóng tập báo cáo lấy đọc trong lúc chờ Strike về, đặt gọn gàng lên kệ. Cô chào tạm biệt Strike rồi ra về. Hắn vẫn ngồi tại chỗ, bên cạnh là máy tính xách tay của Lula đặt trên mấy chiếc gối tựa xác xơ.

Khi không còn nghe tiếng bước chân của Robin nữa, Strike với tay khóa cửa gương lại, tạm lờ đi cái quy định tự đặt là không hút thuốc trong văn phòng ngày thường. Miệng ngậm thuốc, hắn xắn quần lên rồi tháo đai giữ khúc chân giả vào đùi. Hắn tháo tiếp miếng lót, kiểm tra vết thương cũ.

Đáng ra mỗi ngày hắn đều phải kiểm tra xem da mỏm chân có bị tấy không. Lớp sẹo đã sưng lên từ khi nào, nóng ran. Hắn có đủ loại kem thoa và phấn đặc trị để sẵn trên kệ trong nhà tắm ở chỗ Charlotte, chuyên dùng cho phần da dẻ mấy hôm nay chịu áp lực quá sức. Biết đâu Charlotte đã quẳng lọ phấn ngô và kem Oilatum vào một trong những chiếc thùng vẫn chưa được mở? Nhưng hắn không đủ sức để lục lọi tìm kiếm, mà cũng chưa muốn gắn chân giả vào lại. Vậy là hắn cứ ngồi nguyên trên ghế sofa hút thuốc, chân ống quần rỗng thả xuống nền nhà, trầm tư một hồi lâu.

Tâm trí hắn lan man từ chuyện này sang chuyện khác. Hắn nghĩ về gia đình, về những cái tên, cả về tuổi thơ của hắn và Bristow, bề ngoài thì vô cùng khác, nhưng thực ra lại có nhiều điểm giống nhau. Gia đình của Strike cũng có những bóng ma, chẳng hạn như người chồng thứ nhất của mẹ hắn. Bà Leda Strike hầu như không bao giờ nhắc tới ông này, trừ lúc kể lể rằng chính ông ta làm bà không muốn cưới kiếc ai nữa. Trái lại, mợ Joan luôn nhớ rõ những chuyện mà mẹ hắn chỉ láng máng mơ hồ. Mợ nói rằng khi đó Leda mới có mười tám tuổi, lấy chồng được hai tuần thì bỏ đi. Mợ kể thêm rằng ông Strike, người chồng đầu tiên của mẹ hắn là dân kiếm sống theo các hội chợ lưu động. Ông gặp mẹ hắn khi hội chợ đến St Mawes, khi ấy bà đồng ý lấy ông ta chỉ vì muốn có một chiếc đầm và cái họ mới. Sau đó Leda trung thành với họ Strike, không đổi nữa, mặc dù vẫn dan díu với nhiều người khác. Strike ra đời, mang họ của một người không hề ruột thịt, chưa từng biết mặt và đã biệt tăm từ lâu.

Strike vừa hút thuốc vừa nghĩ ngợi, cho tới khi ánh sáng ban ngày trong văn phòng dịu lại, mờ hẳn. Cuối cùng hắn gắng gượng đứng dậy trên một chân, vịn tay vào nắm đấm cửa và đường gờ trang trí trên tường. Strike lò cò đến lục lọi trong đám thùng giấy chồng lên nhau trước văn phòng. Moi ra được mấy hộp kem phấn đặc trị dưới đáy thùng, hắn xoa kem, cố làm dịu vết thương tấy lên từ cái đêm vác túi trên vai đi bộ gần hết London.

Ngày đã bắt đầu dài ra. Tám giờ tối mà trời vẫn còn sáng, chẳng bù với hai tuần trước. Strike đi ăn tối ở nhà hàng Wong Kei, lần thứ hai trong mười ngày qua. Nhà hàng này chuyên các món Trung Hoa, có mặt tiền sơn trắng và khung cửa sổ nhìn thẳng ra tiệm “Chơi là thắng” bên kia đường. Hắn thấy đau kinh khủng khi lắp chân giả trở lại, càng khổ sở hơn khi đi bộ xuống phố Charing Cross sau đó. Nhưng Strike chẳng muốn động đến cặp nạng thép màu xám – kỷ vật từ hồi mới ra viện mà hắn cũng vừa mới tìm thấy dưới đáy thùng.

Strike một tay gắp mì xào Singapore ăn, tay kia vẫn mân mê máy tính của Lula đặt trên bàn ngay cạnh ly bia. Vỏ máy tính màu hồng đậm, có in hình hoa anh đào. Strike không nhận ra rằng ngay lúc này đây trông hắn thật kỳ cục: Một gã to lớn, đầu tóc bù xù, chúi đầu vào chiếc máy tính màu hồng cực kỳ nữ tính, nho nhỏ xinh xinh. Hai nhân viên phục vụ áo đen trông thấy, tủm tỉm cười.

“Sao rồi, Federico?” một thanh niên xanh xao, đầu tóc bù xù cất tiếng hỏi hắn lúc tám giờ rưỡi. Người mới đến ngồi ngay ghế đối diện với Strike. Anh ta mặc quần Jeans, áo thun màu mè, mang giày Converse và đeo túi chéo trước ngực.

“Không đến nỗi,” Strike lầm bầm. “Mày sao rồi? Uống gì không?”

“Bia.”

Strike gọi đồ uống cho vị khách mới đến. Hắn quen gọi anh chàng này là Khỉ Con, không nhớ là vì sao. Khỉ Con có bằng hạng Ưu ngành khoa học máy tính, nhìn bộ dạng bề ngoài không ai biết được gã kiếm được rất nhiều tiền.

“Không đói lắm, mới ăn burger hồi làm ra.” Khỉ Con vừa nói vừa nhìn xuống thực đơn. “Thôi ăn xúp cũng được. Cho một chén hoành thánh,” anh ta quay sang nói với người hầu bàn. “Laptop ngộ vậy, Fed.”

“Không phải của tao,” Strike đáp.

“Công việc hả?”

“Ờ.”

Strike đẩy chiếc máy tính về phía Khỉ Con. Anh chàng ngó nghiêng, vừa tò mò, vừa coi thường, đúng kiểu dân sành công nghệ.

“Thứ cùi bắp,” Khỉ Con tươi tỉnh phán. “Anh trốn đâu mất biệt vậy Fed? Bà con rất lo lắng.”

“Bà con tử tế quá,” Strike đáp, miệng đầy mì xào. “Khỏi lo đi.”

“Mấy hôm trước em có tới nhà Nick và Ilsa, nói toàn chuyện anh. Bà con đồn là anh rút vào hoạt động ngầm sao đó. Ồ cảm ơn,” anh chàng nói với người chạy bàn khi chén hoành thánh được mang ra. “Gọi tới nhà anh suốt, không ai bốc máy hết. Ilsa đoán chắc là chuyện dính tới đàn bà.”

Strike chợt nhận ra cách tốt nhất để thông báo vụ hủy hôn với Charlotte là thông qua anh chàng vô tư này. Khỉ Con là em một người bạn lâu năm của Strike. Anh chàng hầu như không biết gì và cũng không quan tâm mấy đến tình sử dài dòng đau khổ giữa hắn và Charlotte. Thực tình Strike tránh mặt đám bạn chỉ vì ngại những màn an ủi và phân tích mổ xẻ. Hắn hoàn toàn không muốn giả vờ vẫn đang sống với Charlotte. Strike nói với Khỉ Con rằng Ilsa đã đoán đúng, rồi nhờ nhắn lại cho đám bạn từ nay về sau đừng điện đến nhà Charlotte nữa.

“Chán nhỉ,” Khỉ Con đáp bàng quan. Anh chàng này luôn quan tâm đến máy móc nhiều hơn các thể loại tâm sự đau khổ. Khỉ Con chỉ tay vào chiếc máy tính Dell, hỏi liền: “Anh muốn em làm gì giờ?”

“Cảnh sát có coi qua rồi,” Strike đáp, nhỏ giọng lại mặc dù trong nhà hàng chỉ có mỗi hắn và Khỉ Con là không nói tiếng Quảng Đông. “Nhưng tao muốn nhờ mày coi lần nữa.”

“Bên cảnh sát nhiều người giỏi lắm. Chắc em không tìm ra cái gì khác đâu.”

“Có thể họ không biết phải tìm cái gì,” Strike nói, “hoặc tìm được nhưng không nhận ra. Họ chỉ quan tâm đến mấy cái email gần nhất, mà tao xem hết chỗ đó rồi.”

“Vậy em còn tìm gì nữa?”

“Tất cả mọi hoạt động trên máy trước và trong ngày Tám tháng Giêng. Những từ khóa tìm kiếm được dùng gần nhất, mấy thứ đại loại vậy. Tao không có mật khẩu nhưng không muốn hỏi cảnh sát, trừ khi hết cách thôi.”

“Chuyện đó không thành vấn đề,” Khỉ Con đáp. Anh chàng gõ lại những yêu cầu của Strike vào điện thoại di động, thay vì chép tay. Khỉ Con nhỏ hơn Strike mười tuổi, gần như không bao giờ dùng tới cây viết. “Máy của ai vậy?”

Strike trả lời. Khỉ Con cảm thán ngắn gọn:

“Cô người mẫu hả? Oa chà.”

Con người, dù đã chết hay nổi tiếng đến mấy thì cũng chỉ gây ấn tượng đến vậy với Khỉ Con. Không thể nào sánh được với các bộ truyện tranh hiếm, những món đồ công nghệ và những ban nhạc mà Strike chưa bao giờ nghe tên. Sau khi nuốt liền mấy muỗng hoành thánh, Khỉ Con hớn hở hỏi ngay chuyện công xá.

Sau khi Khỉ Con đã ra về với chiếc máy tính hồng kẹp dưới cánh tay, Strike cũng lê bước trở lại văn phòng. Tối hôm đó hắn lau rửa chân phải cẩn thận, thoa kem vào vết sẹo đang tấy đỏ và rát buốt. Lần đầu tiên trong nhiều tháng, hắn uống thuốc giảm đau trước khi chui vào túi ngủ. Hắn nằm trên giường, chờ cơn đau lịm dần đi và suy nghĩ có nên đi khám lại ở khoa phục hồi chức năng không. Hắn từng được giải thích rất nhiều lần về hai triệu chứng của hội chứng co thắt, kẻ thù số một của bệnh nhân khuyết chi: da mưng mủ và sưng tấy. Hắn ngờ mình đang chớm bệnh nhưng cứ nghĩ tới hành lang bệnh viện đầy mùi thuốc sát trùng là rùng mình, lại thêm mấy vị bác sĩ cứ chăm chắm vô cái phần cơ thể không còn nguyên vẹn của hắn. Hắn thấy ngại vô số cuộc hẹn tái khám sau đó, mỗi lần chỉ để điều chỉnh chiếc chân giả một chút xíu. Vậy mà hắn từng hy vọng sẽ không bao giờ phải trở lại cái chỗ ngột ngạt trắng toát đó. Hắn còn sợ họ sẽ khuyên hắn nên để cái chân nghỉ ngơi, nên hạn chế vận động, thậm chí buộc hắn phải dùng nạng trở lại. Strike rùng mình nghĩ đến ánh mắt người qua đường hiếu kỳ nhìn ống quần buộc túm của hắn, rồi cả giọng lanh lảnh của đám trẻ con tò mò hỏi han.

Điện thoại di động trên sàn nhà (đang cắm sạc ngay gần giường) rung lên, báo có tin nhắn.

Vui lòng gọi cho tôi lúc nào tiện, nói nhanh thôi. Charlotte.

Strike không tin vào thần giao cách cảm, vậy mà khi nhìn thấy tin nhắn đó, không biết cơn cớ vì sao mà hắn nghĩ ngay là hẳn Charlotte đã biết được hắn vừa thông báo vụ chia tay với Khỉ Con. Cứ như thể hắn vừa giật mạnh sợi dây vô hình vẫn nối giữa hai người.

Hắn nhìn chằm chằm vào tin nhắn như thể hy vọng đọc được vẻ mặt Charlotte qua màn hình màu xám nhỏ xíu.

Vui lòng. (Tôi biết anh không cần phải gọi: nhưng lần này tôi xuống nước đề nghị anh). Nói nhanh thôi (Tôi có lý do chính đáng để nói chuyện với anh, ta có thể bàn chuyện nhanh chóng và suôn sẻ, không cãi vã gì đâu.) Khi nào tiện. (Tôi tử tế đấy chứ, ra ý không có tôi thì anh vẫn có chuyện khác để lo.)

Hoặc, có lẽ là: Vui lòng (Anh mà từ chối tôi thì anh khốn kiếp lắm nha Strike, anh xúc phạm tôi như vậy chưa đủ hả?) Nói nhanh thôi. (Tôi biết anh nghĩ tôi sẽ làm ầm lên; nhưng, đừng lo, lần gặp cuối anh quá khốn nạn mà, tôi chẳng thiết nữa) Khi nào tiện. (Bởi vì nói thẳng ra, lúc nào mà anh chẳng xếp tôi tít sau quân đội và mấy trò nhăng nhố khác của anh.)

Bây giờ thì có tiện không? Hắn bâng khuâng tự hỏi, vẫn đau đớn vì thuốc chưa ngấm. Hắn nhìn đồng hồ: mười một giờ mười phút. Rõ là cô ta vẫn còn thức.

Strike để điện thoại xuống sàn nhà. Chiếc điện thoại nằm yên lặng, tiếp tục sạc pin. Hắn gác cánh tay lông lá che mắt để khỏi nhìn những vệt sáng trên trần nhà do đèn đường chiếu qua mành cửa. Tự dưng, mặc dù không hề muốn, hắn mường tượng Charlotte ngay trước mắt, như lần đầu tiên hắn thấy cô ta ngồi một mình trên bệ cửa sổ trong một buổi tiệc tùng thời sinh viên ở Oxford. Trong đời hắn chưa bao giờ thấy gì đẹp đẽ hơn vậy. Đám con trai chung quanh dường như cũng giống hắn, không ngớt liếc mắt, vờ vĩnh nói cười to tiếng và diễu qua diễu lại trước cô gái đang ngồi im lặng.

Khi nhìn thấy Charlotte lần đầu tiên, Strike - mới mười chín tuổi, thấy lòng rộn ràng hệt như những ngày thơ ấu, khi hắn vừa thức dậy và nhận ra tuyết đã rơi trắng vườn nhà cậu Ted và mợ Joan. Hắn muốn đặt những bước chân đầu tiên lún sâu vào lớp tuyết trắng mịn màng, khiêu khích và quậy tung bề mặt tĩnh lặng đó.

“Mày say rồi,” một đứa bạn lên tiếng cảnh báo sau khi Strike tuyên bố ý định sẽ đến bắt chuyện với Charlotte.

Strike gục gặc đồng ý, nốc cạn vại bia thứ bảy và khệnh khạng đi đến khung cửa sổ nơi Charlotte đang ngồi. Hắn mơ hồ nhận ra đám đông chung quanh đang dõi theo, dường như đang chờ đợi một chuyện buồn cười sắp xảy ra vì Strike khi ấy đã rất to con, đầu tóc như Beethoven, thân hình như dân đấm bốc còn áo thun dính đầy nước cà ri.

Cô ta ngước lên nhìn hắn. Hai mắt mở to, tóc đen dài, khe ngực mềm mại, trắng trẻo lộ ra sau làn áo sơ mi.

Nhờ tuổi thơ lăn lóc rày đây mai đó, kết bạn với đủ loại người, Strike có kỹ năng xã giao cực kỳ tốt. Hắn biết cách hòa vào đám đông, biết làm người khác cười, biết cả cách làm người ta chấp nhận mình. Vậy mà đêm đó, lưỡi hắn tê dại, thừa thãi. Hắn còn nhớ khi đó hắn đi đứng hơi loạng choạng.

“Anh cần gì hả?” cô ta hỏi.

“Vâng,” hắn đáp. Rồi hắn lấy tay kéo áo thun ra, cho Charlotte thấy chỗ dính nước cà ri. “Cô biết làm sao tẩy hết cái này không?”

Cô ta không nhịn được (dù rõ là rất cố), bật cười khúc khích.

Một lúc sau, một anh chàng tên Jago Ross đẹp trai, chải chuốt, dân có số má (Strike từng thấy mặt và nghe tiếng ông kễnh này) chạy vào phòng cùng với đám bạn con nhà quý tộc. Đập vào mắt họ là Strike và Charlotte ngồi cạnh nhau trên bệ cửa, say sưa chuyện trò.

“Sao mà đi nhầm phòng vậy Char cưng,” Ross nói, thể hiện quyền sở hữu qua giọng điệu vừa kiêu căng vừa mơn trớn. “Tiệc của Ritchie ở trên lầu kia.”

“Tôi không đi đâu cả,” cô ta đáp, mỉm cười nhìn gã nhà giàu. “Tôi phải giúp anh Cormoran giặt áo đã.”

Vậy là cô ta đá cậu bạn trai dân trường Harrow[1] ngay giữa bàn dân thiên hạ để theo Cormoran Strike. Đó cũng là khoảnh khắc vinh quang nhất trong cuộc đời mười chín năm của Strike. Trước mặt đám đông, hắn đã bế bổng được Helen thành Troy ngay trước mũi vua Menelaus. Hắn sửng sốt lẫn vui sướng tột độ, không thèm băn khoăn chút nào về phép màu vừa xảy ra mà chỉ đơn giản chấp nhận nó.

[1. Một trong bốn trường tư nội trú cho nam sinh rất nổi tiếng ở Anh, đa phần học sinh là con nhà giàu có, quý tộc - ND]

Sau này Strike mới biết được rằng mối duyên nợ tình cờ, tưởng như số phận an bài đó lại hoàn toàn do Charlotte sắp đặt. Mấy tháng sau cô thú nhận rằng chuyện cố ý đi nhầm phòng chỉ vì muốn trừng phạt một tội lỗi vớ vẩn của Ross. Cô ta quyết ngồi đó, đợi một người đàn ông bất kỳ đến làm quen. Với Charlotte, Strike chỉ là vũ khí để tra tấn Ross. Cô ta đã lên giường với hắn ngay sau đó, chỉ để thỏa sự cay cú và giận dữ, chứ chẳng phải vì cuồng nhiệt yêu đương như hắn lầm tưởng.

Trong đêm đó Charlotte đã bộc lộ tất cả những uẩn khúc trong con người cô ta, cũng chính là những điều liên tục giằng xé rồi lại níu kéo hai người về sau. Charlotte là kiểu người luôn tự làm tổn thương chính mình, bất cần và cũng sẵn sàng làm tổn thương người khác. Cô ta không ngờ lại bị Strike lôi cuốn đến vậy. Nhưng Charlotte cũng luôn ý thức được vị trí cố hữu an toàn của mình trong một thế giới kín cổng cao tường, hoàn toàn xa lạ với Strike, nơi có những giá trị mà cô ta vừa khinh bỉ vừa không bao giờ chối bỏ.

Rồi bắt đầu mối duyên lẫn nợ và mười lăm năm sau, Strike nằm trên chiếc giường xếp, đau đớn đủ đường, chỉ ước gì có thể xóa sạch Charlotte khỏi trí nhớ.

8

Khi Robin đến văn phòng sáng hôm sau, cánh cửa gương vẫn còn khóa. Đây là lần thứ hai Robin gặp tình huống này. Cô dùng chìa khóa dự phòng (Strike đã để cô giữ luôn chìa khóa) mở cửa bước vào. Cô tiến lại gần cánh cửa phòng bên trong, đứng im nghe ngóng. Sau vài giây, cô nghe rõ tiếng ngáy ngủ, dù nghèn nghẹn nhưng không lẫn vào đâu được.

Tình huống trước mắt thật khó xử. Một mặt, giữa Robin và Strike dường như đã có một thỏa thuận ngầm rằng không ai nhắc đến chiếc giường xếp hay bất cứ dấu hiệu nào cho thấy Strike ăn ở luôn trong văn phòng. Mặt khác, Robin đang có chuyện rất gấp, cần phải nói ngay với ông sếp tạm. Cô ngập ngừng, suy tính tới lui. Dễ nhất là cứ đá thúng đụng nia ở phòng ngoài để gián tiếp đánh thức Strike. Như vậy hắn sẽ có thời gian mặc áo quần và dọn dẹp phòng trong. Nhưng làm vậy sẽ mất một lúc khá lâu, việc mà cô sắp báo không chờ được. Vậy là cô hít một hơi thật sâu và gõ rầm rầm vào cánh cửa.

Strike mở mắt ngay lập tức. Trong giây lát còn mơ màng hắn ê chề nhận ra ánh sáng ban ngày đang chiếu vào từ cửa sổ. Rồi hắn nhớ đã đặt điện thoại xuống sàn nhà sau khi đọc tin nhắn của Charlotte và sau đó quên không đặt giờ báo thức.

“Đừng vào!” Hắn rống lên.

“Anh uống trà không?” Robin gọi qua cánh cửa.

“Ừ, à… cảm ơn. Tôi sẽ ra ngay,” Strike nói to, thầm ước giá như cánh cửa phòng trong có khóa. Cái chân giả vẫn đang dựa vào tường còn trên người hắn chỉ độc mỗi cái quần đùi.

Robin vội vàng chạy ra ngoài văn phòng đổ nước vào ấm đun trong khi Strike loay hoay chui ra khỏi túi ngủ. Hắn nhanh chóng mặc áo quần, luống cuống đeo chân giả, xếp giường vào trong góc và đẩy bàn làm việc về chỗ cũ. Mười phút sau khi Robin gõ cửa, hắn bước ra phòng ngoài, người ngợm sực nức thuốc khử trùng. Robin đang ngồi đó, mặt mày hớn hở.

“Trà của anh nè,” cô nói, chỉ tay về phía tách trà bốc khói.

“Tuyệt vời, cảm ơn cô. Đợi tôi một lát,” Hắn đáp, ra hành lang đến phòng vệ sinh đi tè. Lúc kéo khóa quần lên, hắn nhìn thấy mặt mình trong gương, đầu bù tóc rối, lại còn chưa cạo râu. Như thường lệ, hắn tự an ủi rằng tóc tai hắn có chải hay không thì cũng vậy.

“Có tin mới,” Robin lên tiếng, khi hắn vừa mở cánh cửa gương vào lại văn phòng, cảm ơn cô lần nữa và cầm tách trà lên.

“Gì kia?”

“Tôi tìm ra Rochelle Onifade rồi.”

Hắn hạ cái tách xuống.

“Cô đùa. Làm sao mà…”

“Tôi thấy anh có ghi lại trong hồ sơ là cô ta có đi điều trị ngoại trú ở bệnh viện St Thomas,” Robin hào hứng kể, mặt đỏ bừng nói gấp gáp, “vậy là tối hôm qua tôi gọi cho bệnh viện, giả vờ là cô ta, rồi nói là tôi quên mất giờ hẹn. Họ nói mười giờ rưỡi sáng thứ Năm. Như vậy anh có khoảng,” cô nhìn vào màn hình máy tính, “năm mươi lăm phút để đến đó.”

Tại sao hắn không nghĩ ra chuyện nhờ Robin làm việc này?

“Cô đúng là thiên tài, thiên tài thiệt mà…”

Hắn loay hoay đánh đổ trà nóng ra bàn tay, rồi sốt ruột bỏ luôn cái tách xuống bàn Robin.

“Cô có biết chính xác…?”

“Khoa tâm thần, ngay phía sau tòa nhà chính,” Robin vui vẻ trả lời, “Anh thấy không, anh đi thẳng vào từ phố Grantley, qua bãi đậu xe thứ hai…”

Cô quay màn hình máy tính lại để hắn xem bản đồ của bệnh viện St Thomas. Strike nhìn xuống cổ tay, sực nhớ ra là đồng hồ vẫn còn ở trong phòng.

“Nếu anh đi ngay bây giờ thì vẫn kịp.” Robin giục hắn.

“Được rồi… để tôi lấy mấy thứ.”

Strikie nhanh chóng lấy đồng hồ, ví tiền, bao thuốc lá và điện thoại. Hắn vừa ra đến cửa gương, luống cuống nhét ví vào túi quần sau thì Robin lên tiếng:

“Ừm… anh Cormoran…”

Robin chưa bao giờ gọi tên hắn thân mật như vậy. Chắc vì thế mà nghe giọng cô rất rụt rè. Nhưng hắn ngay lập tức nhận ra Robin đang chỉ tay vào bụng hắn, đầy ý nhị. Strike cúi xuống, thấy nút áo cài xộc xệch. Một khoanh bụng lông lá chường ra, trông như thảm xơ dừa đen.

“À… ra vậy… cảm ơn cô…”

Robin lịch sự quay mặt vào màn hình máy tính khi hắn mở nút áo ra cài lại.

“Tạm biệt cô.”

“Chào anh,” Robin đáp, mỉm cười khi hắn chạy ào ra ngoài, nhưng chỉ vài giây sau hắn quay trở lại, thở hổn hển.

“Tôi cần cô xem thêm giùm một chuyện.”

Robin đã cầm sẵn cây viết trong tay.

“Hội thảo Luật ngày bảy tháng Giêng ở Oxford. Ông Tony Landry, cậu của Lula có tham dự. Nội dung về luật gia đình quốc tế. Tìm hết mọi thứ có thể, đặc biệt là những gì liên quan tới ông này ở đó.”

“Rõ rồi.” Robin vừa nói vừa viết.

“Cảm ơn, cô đúng là thiên tài.”

Strike quay trở ra, đi cà nhắc xuống cầu thang.

Robin ngồi xuống bàn làm việc, ngâm nga một mình. Nhưng chút hào hứng vừa nãy nhanh chóng trôi xuống theo ngụm trà. Vậy mà Robin cứ nghĩ là Strike sẽ rủ cô đi cùng đến gặp Rochelle Onifade sau hai tuần cô bỏ công tìm kiếm.

Sau giờ cao điểm, tàu điện ngầm vãn khách hẳn. Strike tìm ngay được chỗ ngồi, thấy nhẹ cả người. Mỏm chân hắn vẫn còn buốt. Hắn đã kịp mua một gói kẹo the bạc hà cực mạnh trước khi lên tàu. Hắn ngậm bốn viên cùng một lúc, cố lấp liếm vụ chưa kịp đánh răng. Hắn vẫn cất bàn chải và kem đánh răng trong túi thể thao, mặc dù sẽ tiện hơn nhiều nếu cứ để luôn trên chậu rửa mặt trong phòng vệ sinh. Strike thấy bóng mình trên cửa sổ tàu tối đen, tóc tai bù xù, trông lôi thôi lếch thếch. Mà tại sao cứ phải giả vờ có nhà riêng trong khi Robin thừa biết chuyện hắn ngủ luôn trong văn phòng chứ.

Với trí nhớ và khả năng đọc bản đồ khá tốt, Strike dễ dàng tìm thấy lối vào khoa tâm thần ở bệnh viện St Thomas. Hắn đến nơi lúc mười giờ hơn, không hề bị lạc. Hắn bỏ ra năm phút, đi loanh quanh xem ngoài hai cánh cửa tự động còn có lối vào nào khác từ phố Grantley không. Rồi hắn đứng dựa vào bức tường đá ở bãi đậu xe cách đó khoảng chừng mười tám mét. Đứng đó hắn có thể thấy rõ người ra kẻ vào.

Cô gái mà hắn đang tìm kiếm có lẽ là người vô gia cư, chắc chắn là dân da đen. Lúc ở trên tàu hắn suy nghĩ xem làm sao để nhận ra cô ta và thấy chỉ có một cách duy nhất. Khoảng mười giờ hai mươi, một cô gái da đen, cao, gầy, vội vã bước vào. Hắn gọi to (mặc dù cô này trông có vẻ chải chuốt, ăn mặc rất gọn gàng):

“Rochelle!”

Cô ta ngẩng lên xem ai vừa gọi, nhưng vẫn tiếp tục đi, như thể cái tên đó không có liên quan gì tới mình rồi biến mất sau cánh cửa. Sau đó là một cặp, cả hai đều da trắng, rồi một nhóm người đủ độ tuổi và chủng tộc mà Strike đoán là nhân viên bệnh viện. Nhưng để cho chắc ăn hắn lại gọi tiếp:

“Rochelle!”

Vài người trong số đó liếc nhìn hắn, nhưng ngay lập tức quay lại câu chuyện đang nói dở. Strike tự an ủi rằng chắc họ đã quá quen với những hành vi có phần lập dị của những người hay lui tới đây. Hắn đốt thuốc, tiếp tục chờ đợi.

Mười giờ rưỡi, vẫn không có thêm cô gái da đen nào đi vào. Hoặc là cô ta bỏ lỡ cuộc hẹn, hoặc đã vào bằng cửa khác. Một cơn gió nhẹ thổi qua gáy Strike khi hắn ngồi đó, hút thuốc, theo dõi và chờ đợi. Tòa nhà bệnh viện to sừng sững, trông như hộp bê tông khổng lồ với những ô cửa sổ hình chữ nhật, hẳn có nhiều lối vào ở mỗi mặt tiền.

Strike duỗi thẳng chân phải vẫn còn đau đớn và nghĩ tới việc đi khám bệnh trở lại. Nội chuyện đứng gần bệnh viện lúc này cũng làm hắn thấy rầu rĩ. Bụng hắn sôi rột roạt. Trên đường đến đây có một hàng McDonald. Nếu đến giữa trưa mà vẫn chưa tìm ra cô ta, hắn sẽ đi đến đó làm một bữa.

Hắn gọi “Rochelle!” thêm hai lần nữa khi thấy phụ nữ da đen ra vào tòa nhà. Cả hai cô đều quay lại nhưng chỉ xem ai vừa gọi, một người còn liếc hắn khinh khỉnh.

Mười một giờ hơn, một cô gái da đen thấp, đậm người đi ra khỏi bệnh viện. Cô này đi chân chữ bát, trông vụng về, lấc cấc. Hắn biết chắc là cô ta đã không đi vào từ cửa này, không phải chỉ vì dáng đi dễ nhận ra mà còn vì cô ta mặc một chiếc áo lông giả màu hồng đỏ rất nổi nhưng không ăn nhập gì với chiều cao và cân nặng cả.

“Rochelle!”

Cô gái dừng lại, quay đầu nhìn chung quanh, vẻ cau có, không biết ai vừa gọi mình. Strike đi cà nhắc tới trước cô gái. Cô ta nhìn hắn trừng trừng, nghi ngại.

“Rochelle? Rochelle Onifade? Chào cô. Tôi tên là Cormoran Strike. Tôi nói chuyện với cô một lúc có được không?”

“Tui luôn đi vô từ đường Redbourne,” cô ta nói năm phút sau đó, sau khi Strike giả vờ kể lể rối rắm vụ hắn tìm cô ta như thế nào. “Tui đi ra hướng này, định chút nữa ăn McDonald.”

Vậy là cả hai đến tiệm hamburger. Strike mua hai cốc cà phê và hai cái cookie cỡ lớn rồi mang về phía bàn cạnh cửa sổ, nơi Rochelle đang ngồi đợi. Vẻ mặt cô ta vừa tò mò vừa nghi ngờ.

Rochelle trông rất thô kệch. Da mặt nhờ nhờn màu đất nung đầy mụn mủ và sẹo rỗ. Đôi mắt nhỏ sâu hoắm. Hàm răng mọc chen chúc, vàng khè. Mái tóc duỗi lộ ra mười phân tóc màu đen ở gốc, tiếp theo là khoảng mười lăm phân màu đồng đỏ chói gắt. Cô ta mặc quần jean bó chặt ngắn quá cỡ, mang túi xách tay màu xám bóng và giày thể thao trắng toát, trông rất rẻ tiền. Tuy nhiên, Strike nhận thấy chiếc áo lông giả mềm mại, mặc dù cực kỳ chói mắt và không hề hợp với Rochelle, lại dường như thuộc một đẳng cấp khác. Bên trong áo có một lớp lót bằng lụa in hoa văn (Strike thấy khi cô ta cởi áo khoác ra). Chiếc áo đính một nhãn hiệu của Ý mà Strike nghe đến bao giờ, không phải là hàng Guy Somé như hắn đoán từ email của Lula Landry.

“Anh không phải nhà báo thiệt hở?” Cô ta hỏi, giọng trầm, khàn khàn. Lúc còn ở bên ngoài bệnh viện Strike đã phải giải thích khá lâu là hắn không dính gì đến báo chí cả.

“Tôi không phải là nhà báo. Như tôi đã nói, tôi quen anh trai của Lula.”

“Anh là bạn của ổng hở?”

“Ừ. Cũng không hẳn là bạn. Ông ấy thuê tôi. Tôi là thám tử tư.”

Ngay lập tức cô ta tỏ ra sợ hãi.

“Anh muốn gì?”

“Không có gì phải lo lắng cả…”

“Sao muốn gặp tui?”

“Không có gì rắc rối hết. John chỉ không chắc là Lula tự tử thật, chỉ có vậy thôi.”

Lúc này Strike chắc chắn rằng cô ta còn ngồi lại chỉ vì sợ nếu bỏ đi giữa chừng hắn sẽ ra tay giữ cô lại. Cô ta sợ rúm ró cả người, mặc dù cử chỉ và lời nói của Strike không hề tỏ ra đe dọa.

“Cô không phải lo lắng gì cả,” hắn động viên Rochelle. “John chỉ muốn tôi xem lại sự việc, tức là…”

“Ý ổng là tui có dính gì tới chuyện cổ chết hở?”

“Không, tất nhiên là không rồi. Tôi chỉ mong là cô có thể kể tôi nghe tâm trạng Lula ra sao trước khi cô ấy chết, hôm đó cô ấy làm gì. Cô hay gặp Lula mà, đúng không? Tôi nghĩ chắc cô biết nhiều về Lula.”

Rochelle vừa chớm định nói gì đó, rồi đổi ý và cầm cốc cà phê nóng hổi lên, nhấp thử.

“Vậy ra ông anh cổ muốn chứng tỏ cổ không tự tử? Giống như có đứa nào đẩy xuống?”

“Ông ấy nghĩ có khả năng là như vậy.”

Rochelle ngẩn mặt ra, như đang suy nghĩ gì đó.

“Mà mắc gì tui phải nói với anh. Anh đâu phải là cảnh sát thiệt.”

“Đúng rồi. Nhưng chắc hẳn cô cũng muốn tìm ra…”

“Cổ nhảy lầu,” Rochelle Onifade đanh giọng.

“Tại sao cô chắc chắn vậy?”Strike hỏi.

“Tui chỉ biết vậy thôi.”

“Vậy mà ai biết Lula cũng rất bất ngờ.”

“Cổ bị chầm cảm. Cổ uống thuốc chữa bịnh đó. Giống tui vậy. Nhiều khi bịnh làm mình vậy. Bịnh mờ.” Rochelle đáp, hai chữ cuối nghe như “mịt mờ.”

Mịt mờ, Strike thoáng nghĩ. Mấy hôm nay hắn rất khó ngủ. Mịt mờ, nơi chốn cuối cùng của Lula Landry, cũng là nơi tất cả, kể cả hắn lẫn Rochelle đều đang đi đến. Có người đang chầm chậm đi đến đó, như mẹ của Bristow… Cũng có khi cõi mịt mờ mở ra bất ngờ, chẳng hạn như khi người ta rơi xuống mặt đường bê tông, vỡ sọ tại chỗ.

Strike chắc rằng nếu hắn lấy cuốn sổ ra lúc này thì cô ta sẽ ngậm chặt miệng lại hay đứng dậy bỏ về ngay lập tức. Vậy là hắn tiếp tục hỏi han, cố tỏ ra tự nhiên. Hắn hỏi cô ta vì sao đến khoa này, rồi gặp Lula lần đầu tiên ra sao.

Rochelle vẫn hết sức nghi ngại, ban đầu cô ta trả lời nhát gừng, nhưng dần dần cô ta nói nhiều hơn. Chuyện đời Rochelle thật đáng thương. Bị lạm dụng từ nhỏ, được nhà nước nhận bảo trợ, rồi phát bệnh tâm thần nặng, qua nhiều gia đình nhận nuôi tạm bợ, gây gổ đánh nhau và cuối cùng trở thành vô gia cư năm mười sáu tuổi. Rochelle chỉ được điều trị bệnh tâm thần hẳn hoi sau khi bị tai nạn xe hơi. Cô ta được đưa vào bệnh viện sau tai nạn nhưng không làm chủ được hành vi, khiến việc chữa trị vô cùng khó khăn. Cuối cùng người ta đành phải mời bác sĩ chuyên khoa tâm thần đến. Bây giờ Rochelle đang dùng thuốc, nếu uống đều thì triệu chứng cải thiện đáng kể. Strike thấy mủi lòng: với Rochelle, lớp trị liệu ở bệnh viện St Thomas, nơi cô ta từng gặp Lula, lại là một sự kiện quan trọng mỗi tuần. Cách cô ta nói về anh bác sĩ tâm thần trẻ tuổi phụ trách nhóm bệnh nhân của khu ngoại trú khá trìu mến.

“Vậy là cô gặp Lula ở đó?”

“Ông anh cổ không kể chiện đó hở?”

“Ông ấy không nhớ chi tiết.”

“Ờ, Lula vô nhóm tui. Cổ được giới thiệu tới.”

“Rồi hai người nói chuyện với nhau.”

“Ờ.”

“Rồi thành bạn bè?”

“Ờ.”

“Cô có hay ghé nhà Lula chơi không? Tắm hồ bơi?”

“Bộ tui tới đó không được hở?”

“Không phải. Tôi chỉ hỏi vậy thôi.”

Cô ta hơi dịu xuống.

“Tui không thích bơi lắm. Vui gì chuyện nhúng ngập mặt dưới nước. Tui đi tắm bồn mát-xa. Rồi tụi tui đi mua sắm này nọ.”

“Lula có hay nói chuyện với cô về mấy người hàng xóm không, mấy người ở cùng tòa nhà đó?”

“Mấy người Bestigui đó hả? Cũng có. Cổ không ưa gì họ. Con mẹ đó là đồ chó cái.” Rochelle nói, tự dưng đổi giọng giang hồ.

“Tại sao cô nói vậy?”

“Anh gặp bả chưa? Bả nhìn tui bộ như con này là rác rưởi.”

“Lula thấy bà ta ra sao?”

“Cổ cũng không ưa gì bả hay lão chồng. Cha đó tởm lắm.”

“Tởm sao?”

“Tởm là tởm thôi chớ sao,” Rochelle đáp, có phần mất kiên nhẫn, nhưng rồi thấy Strike im lặng, cô ta nói tiếp. “Chả cứ kè kè đi theo mời cổ xuống nhà dưới chơi mỗi khi bà vợ đi khỏi.”

“Lula có xuống không?”

“Không đời nào,” Rochelle đáp.

“Chắc cô hay nói chuyện với Lula lắm?”

“Ừ, nói hoài, mà ban… Ừ, vậy đó.”

Cô ta nhìn ra cửa sổ. Trời chợt đổ mưa, người đi đường luống cuống. Những giọt mưa trong suốt rắc lấm tấm lên tấm kính cửa cạnh chỗ họ ngồi.

“Ban đầu?” Strike hỏi. “Sau đó thì không nói chuyện nhiều nữa hả?”

“Tui sắp phải đi đây.” Rochelle trịnh trọng thông báo. “Tui có công chuyện.”

“Những người như Lula,” Strike nói, dò dẫm, “hay chướng. Có nhiều lúc không được tử tế. Vì họ muốn cái gì là được…”

“Tui không phải là người hầu,” Rochelle giận dữ nói.

“Có lẽ vì vậy mà Lula thích cô? Vì Lula thấy cô cư xử ngang hàng, chứ không như mấy người bám đuôi…”

“Đúng rồi, y vậy đó.” Rochelle đáp, có vẻ xuôi xuôi. “Tui thấy cổ cũng chẳng ghê gớm gì.”

“Cô cũng thấy tại sao Lula muốn kết bạn với cô đó, tại cô thẳng thắn…”

“Đúng rồi.”

“Rồi hai người có điểm chung là cùng có bệnh, đúng không? Vậy nên cô hiểu Lula hơn mấy người khác.”

“Tui da đen nữa,” Rochelle nói, “cổ muốn thấy như người da đen thiệt sự.”

“Lula có nói gì với cô về chuyện đó không?”

“Có chứ.” Rochelle đáp. “Cổ muốn biết cổ ở đâu ra, thuộc về chỗ nào.”

“Cô ấy có nói chuyện đi tìm gia đình ruột thịt không?”

“Ờ, có chứ. Rồi cổ… ừm…”

Rochelle đột ngột dừng lại.

“Cô ấy có tìm ra ai không? Người cha chẳng hạn?”

“Không. Không tìm ra. Kiểu gì mà tìm được.”

“Vậy sao?”

“Ờ, vậy đó.”

Cô ta bắt đầu ăn rất nhanh. Strike sợ là ăn xong cô ta sẽ đứng dậy bỏ đi mất.

“Hôm cô gặp Lula ở Vashti, Lula có buồn phiền gì không?”

“Có, cổ buồn lắm.”

“Có nói cho cô biết tại sao không?”

“Chả cần lý do gì hết. Bịnh mờ.”

“Nhưng cổ có nói là đang buồn, đúng không?”

“Ờ,” Rochelle trả lời, sau một thoáng ngập ngừng.

“Hai người hôm đó hẹn đi ăn trưa đúng không?” Strike hỏi tiếp. “Kieran kể với tôi là có lái xe chở Lula tới gặp cô. Cô biết Kieran chứ? Kieran Kolovas-Jones?”

Gương mặt Rochelle dịu lại, khóe miệng hơi nhếch lên.

“Ờ, tui có biết tay đó. Ờ, cổ tới Vashti gặp tui.”

“Nhưng không ở lại ăn trưa?”

“Không. Cổ mắc đi đâu đó.” Rochelle đáp.

Cô ta cúi đầu uống cà phê, cốc giấy che ngang mặt.

“Vậy tại sao Lula không gọi điện trước cho cô? Cô có điện thoại mà, đúng không?”

“Ờ, tui có điện thoại.” Cô ta gằn giọng giận dữ, rút trong túi áo khoác ra một con Nokia đời đầu, đính đầy hạt cườm hồng màu mè.

“Vậy tại sao Lula lại không gọi điện báo, để cô khỏi phải đi tới Vashti cho mất công?”

Rochelle gầm gừ.

“Vì cổ không muốn dùng điện thoại, sợ mấy người đó nghe trộm.”

“Nhà báo à?”

“Ờ”

Cô ta đã ăn gần hết bánh.

“Nhưng nhà báo chắc không quan tâm lắm tới chuyện hôm đó Lula không tới Vashti được, nhỉ?”

“Ai mà biết.”

“Lúc đó cô không thấy có gì kỳ lạ hả, Lula đi một đoạn dài như vậy chỉ để tới nói rằng cô ấy không ở lại ăn trưa được?”

“Ờ.” Rochelle đáp. Rồi cô ta tuôn nguyên một tràng:

“Nếu có tài xế riêng thì mắc mớ gì? Thích đi đâu thì kêu họ chở đi, khỏi tốn thêm tiền, chớ gì? Cổ đi ngang qua, sẵn chạy vô nói với tui là không ở lại được vì mắc về nhà gặp con khốn Ciara Porter.”

Rochelle có vẻ ân hận vì lỡ dùng từ “con khốn”. Cô ta mím môi lại, như thể ngăn không cho mình nói thêm những thứ như vậy nữa.

“Vậy hôm đó Lula chỉ làm có chừng đó thôi? Cô ấy đi vào trong cửa hàng, nói với cô là ‘Tôi không ở lại được. Tôi phải về nhà để gặp Ciara’ rồi đi về?”

“Ờ, đại loại,” Rochelle đáp.

“Kieran nói hay chở cô về tận nhà mỗi khi cô đi chơi chung với Lula.”

“Ờ,” cô ta đáp. “Nhưng hôm đó cổ bận, được chưa?”

Rochelle rõ là không biết cách che giấu vẻ ấm ức ganh tị.

“Kể lúc trong cửa hàng đi. Hôm đó hai người có thử áo quần gì không?”

“Có” Rochelle đáp, sau khi im lặng một lúc. “Cổ có thử đồ.” Lại ngập ngừng. “Áo đầm dài hiệu Alexander McQueen. Ông đó cũng tự tử heng.” Cô ta nói thêm, vẻ xa xăm.

“Cô có đi vào phòng thử đồ với Lula không?”

“Có.”

“Lúc trong phòng thử đồ thì sao?” Strike hỏi dò.

Cặp mắt của Rochelle làm Strike nhớ đến cặp mắt một con bò đực hắn từng phải đối mặt lúc còn nhỏ xíu: sâu hoắm, nhìn thoáng qua thấy lạnh lùng, khó hiểu.

“Cổ mặc cái đầm vô.” Rochelle trả lời.

“Cô ấy không làm gì khác hả? Không gọi cho ai hả?”

“Không. À mà có. Hình như có gọi.”

“Cô có biết cổ gọi cho ai không?”

“Tui không nhớ.”

Cô ta lại uống cà phê, nâng chiếc cốc giấy lên che hết mặt.

“Phải gọi cho Evan Duffield không?”

“Cũng có thể.”

“Cô cố nhớ xem Lula nói gì?”

“Không nhớ.”

“Một nhân viên cửa hàng có nghe thấy Lula có nói chuyện điện thoại. Hình như Lula hẹn gặp ai tại nhà tối khuya hôm đó. Cô nhân viên nghe là hình như hẹn lúc một hai giờ sáng.”

“Vậy hả?”

“Như vậy thì chắc không phải là Duffield rồi, vì Lula đã hẹn gặp anh ta trước đó ở Uzi mà?”

“Anh biết nhiều quá hả?” Rochelle mỉa.

“Ai cũng biết hôm đó hai người gặp nhau ở Uzi,” Strike đáp. “Báo đăng vậy mà.”

Rất khó nhận ra đồng tử Rochelle giản nở ra sao, vì hai mống mắt cũng có màu đen thẫm.

“Ờ ha.” Rochelle đấu dịu.

“Có phải Lula gọi cho Deeby Macc không?”

“Không có!” Cô ta ré lên, bật cười. “Cổ không có số của ông đó.”

“Mấy người nổi tiếng chắc dễ xin số lẫn nhau.” Strike đáp.

Vẻ mặt Rochelle đanh lại. Cô ta nhìn xuống màn hình trống trơn trên chiếc điện thoại hồng lòe loẹt.

“Tui nghĩ cổ không có,” cô ta nói.

“Nhưng cô có nghe thấy Lula hẹn gặp ai tối khuya hôm đó không?”

“Không,” Rochelle đáp, không nhìn vào mắt Strike, lắc cặn cà phê quanh cốc. “Tui không nhớ gì như vậy hết.”

“Cô có biết việc này quan trọng ra sao không?” Strike nói, cố không làm Rochelle sợ. “Nếu Lula quả thật có hẹn gặp ai vào đêm cô ấy chết? Cảnh sát không hề biết chuyện này, đúng không? Cô vẫn chưa nói gì với cảnh sát hết?”

“Tui phải đi,” cô ta nói, nuốt trọn miếng bánh cookie cuối cùng, nắm lấy dây đeo túi xách và trừng mắt nhìn Strike.

Strike cố gạn:

“Gần tới trưa rồi. Để tôi mời cô thêm món gì nhé?”

“Không cần.”

Nhưng cô ta vẫn đứng yên tại chỗ. Strike tự hỏi không biết Rochelle túng thiếu ra sao, có được ăn uống thường xuyên không. Ở Rochelle có một điều gì đó làm cho người ta cảm động, trái với vẻ cáu kỉnh bề ngoài: vừa kiêu hãnh dữ dội vừa dễ tổn thương.

“Thôi được rồi,” cô ta đáp, thả túi xách ra rồi ngồi phịch trở lại xuống ghế cứng. “Cho tui một cái Big Mac.”

Strike sợ rằng cô ta sẽ bỏ đi khi hắn đến quầy mua bánh, nhưng khi hắn mang hai khay thức ăn quay lại, Rochelle vẫn ngồi đó. Cô ta còn miễn cưỡng nói cảm ơn.

Strike thử cách khác.

“Cô thân với Kieran lắm hả?” hắn hỏi, lần theo chút tươi tỉnh trên gương mặt cô ta khi nhắc đến tên anh chàng lái xe.

“Ờ,” cô ta đáp, hơi lung túng. “Tui gặp ảnh hoài. Ảnh hay lái xe cho Lula.”

“Anh ta nói là Lula có viết gì đó khi ngồi sau xe trên đường tới Vashti. Cô ấy có đưa cho cô xem không?”

“Không,” cô ta trả lời, ăn ngấu nghiến khoai tây chiên, rồi lại nói tiếp. “Tui không thấy cái gì như vậy hết. Mà sao anh hỏi, cổ viết gì vậy?”

“Tôi không biết.”

“Chắc là viết ra mấy món cần mua hở?”

“Cảnh sát cũng nghĩ vậy. Cô có chắc là hôm đó cô không thấy Lula mang theo một mẫu giấy, giấy viết thư chẳng hạn, hay một phong bì gì đó?”

“Ờ. Tui chắc mà. Kieran có biết chuyện anh đi gặp tui không?” Rochelle thắc mắc.

“Có, tôi có nói là sẽ đi gặp cô. Anh ta nói hồi trước cô ở St Elmo.”

Rochelle trông có vẻ hài lòng.

“Giờ cô ở đâu vậy?”

“Mắc gì tới anh?” cô ta đốp chát, giận dữ xù lông trở lại.

“Không mắc gì tới tôi hết. Tôi chỉ hỏi thăm vậy thôi.”

Rochelle hừ mũi một tiếng.

“Giờ tui có chỗ riêng ở Hammersmith rồi.”

Cô ta nhai nhóp nhép một lúc, rồi tự dưng nói thêm mà không đợi Strike hỏi gì cả.

“Tụi tui hay nghe nhạc Deeby Macc trong xe. Tui, Kieran với Lula.”

Rồi cô ta bắt đầu đọc rap:

Khỏi cần hydroquinone, đen từ trong ra ngoài

Dám coi thường Deeby, thì lo đi mua quan tài

Tao cứ lái Ferrari – kệ mẹ Johari – tao không có điên à

Có tiền là có tất

Mít-tờ Jake, biết không, biết không hả.

Gương mặt Rochelle đầy hãnh diện, như thể cô ta vừa làm cho Strike cứng họng, hết đường hỏi tiếp.

“Bài Hydroquinone,” cô ta nói tiếp. “Trong album Jake on My Jack.”

“Hydroquinone là gì vậy?” Strike hỏi.

“Kem trắng da. Hồi đó tụi tui hay bật cửa sổ xe xuống rồi cùng rap.” Rochelle nói. Nụ cười ấm áp khi nhớ lại chuyện cũ khiến gương mặt thô kệch của Rochelle sáng hẳn lên.

“Hẳn là Lula rất háo hức muốn gặp Deeby Macc?”

“Ờ, cổ rất háo hức,” Rochelle trả lời. “Cổ biết ổng thích cổ, cổ vui lắm. Kieran cũng rất nóng ruột, cứ nhờ Lula giới thiệu hoài. Ảnh cũng muốn gặp Deeby.”

Nụ cười của Rochelle tan dần, cô ta rầu rĩ vọc cái hamburger, rồi nói:

“Anh hỏi đủ chưa? Tôi phải đi giờ.”

Cô ta bắt đầu ăn vội chỗ còn lại, nhồm nhoàm.

“Lula có hay dẫn cô đi chỗ này chỗ kia không?”

“Có,” Rochelle vừa nhai vừa nói.

“Cô có hay đi Uzi với Lula không?”

“Có đi. Một lần.”

Cô ta nuốt thức ăn rồi bắt đầu kể những nơi cô ta từng đến khi mới kết bạn với Lula. Mặc cho Rochelle cố tỏ ra là không hề bị choáng ngợp trước lối sống của cô bạn người mẫu triệu phú, câu chuyện cô ta kể nghe lãng mạn như cổ tích. Cứ như thể Lula kéo Rochelle ra khỏi thế giới ảm đạm của nhà trọ St Elmo và những buổi trị liệu, mỗi tuần một lần lại đưa cô ta đến những nơi vui vẻ xa xỉ. Strike để ý thấy Rochelle hầu như không đề cập đến cá tính của Lula, mà chủ yếu kể về cô như là chủ nhân tấm thẻ nhựa thần kỳ, có thể mua được mọi loại túi xách, áo khoác, đồ trang sức, và cả anh chàng Kieran thường xuyên xuất hiện như ông thần đèn, sẳn sàng đem Rochelle đi khỏi St Elmo. Cô ta mô tả kỹ càng, rất tha thiết những món quà Lula đã mua tặng, các cửa hàng hai người thường đến, nhà hàng rồi quầy bar, những nơi toàn người nổi tiếng. Vậy mà dường như không có điều gì gây ấn tượng với Rochelle cả, vì mỗi khi thốt ra một cái tên cô ta lại kèm theo một câu chê bai.

“Thằng đó đểu.” “Con đó giả tạo thấy ớn.” “Mấy người đó chẳng có gì ghê gớm.”

“Cô có gặp Evan Duffield không?” Strike hỏi.

“Nó?” Giọng nhát gừng của Rochelle đầy khinh bỉ. “Nó là thằng khốn nạn.”

“Vậy sao?”

“Ờ, vậy đó. Hỏi Kieran thì biết.”

Dường như Rochelle và Kieran đứng về một phía, hai người duy nhất tỉnh táo nhận ra đám bạn bè khốn nạn dở hơi của Lula.

“Khốn nạn ra sao?”

“Đối xử với Lula chẳng ra quái gì.”

“Như thế nào kia?”

“Bán chuyện của cổ cho báo,” Rochelle nói, với tay bốc chỗ khoai tây chiên còn lại. “Có lần cổ thử hết mọi người. Kể mỗi người nghe một chuyện, để xem chuyện nào bị lộ ra báo. Tui là người duy nhất ngậm miệng lại, còn ai cũng bán cổ hết.”

“Cô ấy thử những ai?”

“Ciara Porter. Thằng Duffield. Rồi cái ông Guy Summy nữa.” Rochelle phát âm chữ “Guy” giống như Strike từng nhầm. “Nhưng rồi cổ nghĩ không phải ổng. Nói là ổng bị gài sao đó. Nhưng mà ổng lợi dụng cổ cũng thua gì ai.”

“Lợi dụng ra sao?”

“Ổng không muốn cổ làm cho ai khác. Muốn cổ chỉ làm cho công ty ổng, để mình ổng nổi tiếng.”

“Vậy là sau khi Lula biết cô ấy có thể tin cô…”

“Ờ, cổ mua điện thoại cho tui.”

Rochelle sựng lại một giây, rồi nói tiếp.

“Để mà khi nào muốn là nói chuyện được liền.”

Cô ta với tay chụp cái Nokia màu hồng, kéo nó một đường trên bàn rồi nhét sâu vào túi áo khoác.

“Vậy thì giờ cô phải tự trả tiền điện thoại nhỉ?” Strike hỏi.

Hắn cứ nghĩ kiểu gì cô ta cũng sẽ đốp chát, chửi hắn nhiều chuyện, nhưng không. Rochelle đáp:

“Nhà cổ không biết họ vẫn đang trả tiền.”

Dường như chuyện này khiến cô ta khá đắc chí, theo kiểu hơi gian manh.

“Áo khoác cũng của Lula tặng à?” Strike hỏi.

“Không,” cô ta gằn giọng, tức tối tự ái. “Tui tự mua. Tui đang đi làm.”

“Vậy hả? Cô làm ở đâu vậy?”

“Mắc gì tới anh?” Cô ta hỏi lại.

“Tôi chỉ hỏi lịch sự vậy thôi.”

Khuôn miệng rộng của Rochelle thoáng nở một nụ cười mong manh, ngắn ngủi. Cô ta dịu lại.

“Tui làm ca chiều trong tiệm gần nhà.”

“Cô đang ở nhà trọ mới hả?”

“Không,” cô ta nói. Strike cảm thấy khó mà dò thêm được. Hắn đổi hướng.

“Chắc cô sốc lắm lúc nghe tin Lula chết?”

“Ờ, sốc,” cô ta nói, dường như không suy nghĩ, rồi sau đó mới nhận ra mình vừa nói gì, vội vã thêm vào. “Tui biết cổ bị chầm cảm, nhưng mà không nghĩ cổ làm vậy.”

“Vậy cô thấy hôm đó Lula không có vẻ gì là sắp tự tử cả?”

“Đâu biết. Tui gặp cổ có chút xíu mà.”

“Lúc cô nghe tin Lula chết, cô đang ở đâu vậy?”

“Trong nhà trọ. Nhiều người biết tôi quen với Lula, Janine đánh thức tui dậy để báo tin.”

“Và ngay lập tức cô nghĩ là Lula tự tử?”

“Ờ. Tui phải đi giờ. Tui đi đây.”

Rochelle dứt dạt, trước khi Strike kịp nghĩ ra thêm cớ để níu cô ta lại. Cô ta loay hoay mặc chiếc áo lông kệch cỡm rồi khoác túi xách qua vai.

“Cho tui gởi lời thăm Kieran.”

“Được rồi. Tôi sẽ nhắn.”

“Bái bai.”

Rochelle lạch bạch đi ra khỏi tiệm ăn, không hề ngoáy nhìn lại.

Strike nhìn theo Rochelle đi ngoài cửa sổ, đầu cô ta cúi xuống, hàng chân mày nhíu lại. Hắn cứ nhìn vậy cho tới khi Rochelle đi khỏi tầm mắt. Trời đã tạnh mưa. Vẻ lơ đãng, hắn kéo khay thức ăn của Rochelle về phía mình và ăn hết mấy miếng khoai tây chiên còn sót lại.

Rồi hắn đứng bật dậy, nhanh đến nỗi cô nhân viên đội mũ lưỡi trai vừa tiến đến dọn bàn giật bắn cả người, nhảy lui lại một bước và khẽ kêu lên. Strike vội vã ra khỏi McDonald, ngược lên phố Grantley.

Rochelle đứng ở góc đường, nổi bật với chiếc áo lông màu hồng đỏ trong đám người đi bộ đang chờ đèn tín hiệu đổi màu. Cô ta nói liên tục vào chiếc điện thoại màu hồng. Strike đuổi kịp Rochelle, hòa vào đám người đằng sau cô ta. Khi Strike khệnh khạng chen vào, người ta liền xích ra để tránh hắn.

“…muốn biết hôm đó cổ hẹn gặp ai… à, với lại…”

Rochelle quay đầu lại nhìn xe cộ và nhận ra Strike đang ở ngay sau lưng. Cô ta thôi áp điện thoại vào tai, bấm nút tắt cuộc gọi ngay lập tức.

“Gì nữa?” Cô ta hỏi, giọng hung hăng.

“Cô gọi ai vậy?”

“Anh lo thân anh đi!” Cô ta giận dữ nói. Những người đang đứng đợi cũng ngoái lại nhìn. “Anh theo dõi tôi hả?”

“Ờ.” Strike đáp. “Nghe này.”

Đèn tín hiệu đổi màu, chỉ có mỗi Strike và Rochelle là không bắt đầu bước đi. Đám người chung quanh chen lên, hối hả sang đường.

“Cho tôi xin số điện thoại của cô được không?”

Đôi mắt bò tót trừng trừng nhìn Strike, vẫn vô hồn, lạnh nhạt và bí hiểm.

“Để làm gì?”

“Kieran nhờ tôi xin số cô.” Hắn nói dối. “Lúc nãy tôi quên mất. Anh ta nói là hình như cô để quên kính râm trong xe.”

Strike không nghĩ là Rochelle tin lời hắn hoàn toàn, nhưng một lúc sau cô cũng đọc số điện thoại, hắn viết lại vào mặt sau tấm danh thiếp.

“Có vậy thôi hả?” Cô ta lại hung hăng. Cô ta đi băng băng đến giữa đường, nơi có chỗ đứng chờ sang đường cho người đi bộ. Đèn tín hiệu lại đổi màu. Strike đi cà nhắc theo sau Rochelle. Cô ta tỏ vẻ giận dữ và bực mình vì hắn cứ bám theo.

“Gì?”

“Tôi nghĩ là cô biết điều gì đó mà không nói với tôi, Rochelle à.”

Cô ta trừng mắt nhìn hắn.

“Cầm lấy cái này,” Strike nói, rút ra thêm một tấm danh thiếp từ túi áo khoác. “Nếu cô muốn kể thêm cho tôi gì nữa thì cứ gọi, được không? Gọi vào số di động đó.”

Cô ta không trả lời.

“Nếu Lula bị giết thật,” Strike lên tiếng, một chiếc xe vừa chạy ngang qua, nước mưa lấp lánh trong rãnh thoát ngay dưới chân hai người, “mà cô biết điều gì đó, cô cũng có thể bị nguy hiểm, thủ phạm có thể quay sang hại cô.”

Câu nói của Strike làm Rochelle thoáng nhếch mép cười, có vẻ tự đắc và coi thường. Rõ là Rochelle không nghĩ cô ta đang gặp nguy hiểm. Cô ta nghĩ mình an toàn tuyệt đối.

Hai người đi bộ khi đèn tín hiệu chuyển màu xanh. Rochelle hất mái tóc khô cứng, gấp gáp qua đường. Cô ta đi đứng lạch bạch, thô kệch, điện thoại nắm bằng một tay còn tay kia giữ chặt tờ danh thiếp. Strike đứng một mình giữa đường, nhìn theo Rochelle, cảm thấy vừa bất lực vừa bất an. Có thể cô ta chưa bao giờ bán câu chuyện của Lula cho báo chí. Nhưng Strike không tin là cô ta mua nổi chiếc áo khoác hàng hiệu trông có vẻ đắt đỏ (mặc dù hắn thấy vô cùng xấu xí) chỉ bằng tiền lương phụ việc bán hàng.

9

Ngã tư phố Tottenham Court và Charing Cross vẫn còn ngổn ngang. Lòng đường đầy những rãnh đào rộng, các lối đi dựng bằng tấm nhựa trắng và đám công nhân đội mũ bảo hộ. Strike vừa đi vừa hút thuốc, len giữa hai hàng rào thép, ngang qua đám máy đào ầm ĩ đầy gạch đá, rồi mấy người thợ làm đường la hét gọi nhau và sau cùng là những cái máy khoan ồn ào.

Strike thấy rã rời, đau đớn. Chân phải đau buốt, người ngợm vẫn chưa tắm rửa, lại vừa ăn những thứ dầu mỡ nặng bụng. Hắn đột ngột rẽ ngang phố Sutton Row, tránh xa tiếng ồn đào xới trên đường để gọi cho Rochelle. Cuộc gọi vào thẳng hộp thư thoại, có thu sẵn giọng khàn khàn của cô ta: Rochelle đã cho số thật. Strike không để lại lời nhắn nào, hắn đã nói hết những gì cần nói, vậy mà hắn vẫn không thấy yên tâm. Hắn nghĩ biết đâu lúc nãy nên kín đáo đi theo, xem thử cô ta sống ở đâu.

Strike quay lại phố Charing Cross, mệt mỏi lê bước về văn phòng qua những lối đi tạm có che tấm nhựa. Hắn nhớ lại cái cách Robin đánh thức hắn buổi sáng hôm nay: cú gõ cửa tế nhị, tách trà nóng, cố ý tránh không nhìn cái gường xếp. Đáng ra hắn không được sơ suất đến vậy. Quay mặt chỗ khác khi Robin mặc đầm bó sát vẫn chưa đủ. Từ xã giao đến gần gũi vẫn còn nhiều con đường khác. Lúc sáng hắn không hề muốn giải thích chuyện vì sao hắn ngủ luôn trong văn phòng, hắn rất sợ những câu hỏi riêng tư. Vậy mà hắn lại hớ hênh, Robin đã gọi hắn là Cormoran, rồi lại nhắc hắn cài nút áo. Đáng ra hắn không được ngủ quên.

Strike leo lên cầu thang sắt, ngang qua cánh cửa đóng chặt của Crowdy Graphis. Hắn quyết định ngày hôm đó hắn sẽ tỏ ra hơi lạnh lùng một chút với Robin, để bù lại vụ hở bụng lông lá hồi sáng.

Vừa nghĩ xong hắn nghe thấy tiếng cười lảnh lót. Hai giọng nữ đang trò chuyện vọng ra từ văn phòng.

Strike đứng im, dỏng tai nghe và bắt đầu hoang mang. Hắn vẫn chưa gọi lại cho Charlotte. Hắn cố nghe thử có phải giọng cô ta không. Hắn chẳng ngạc nhiên gì nếu Charlotte đến thẳng văn phòng, niềm nở với cô nhân viên tạm thời, vừa tìm kiếm đồng minh vừa kể lể mọi chuyện theo ý cô ta. Hai giọng phụ nữ lại cười rộ lên lần nữa, hắn vẫn không nhận ra được là ai.

“Ê Stick,” giọng nói vui vẻ cất lên khi hắn mở cánh cửa gương.

Lucy em gái hắn đang ngồi trên chiếc sofa cũ kỹ, tay cầm tách cà phê, dưới chân chất đống những túi mua hàng từ Marks and Spencer và John Lewis.

Strike chưa kịp thở dài nhẹ nhõm vì người khách không phải là Charlotte, thì lại bắt đầu lo lắng không hiểu Lucy và Robin vừa nói những chuyện gì và hai người đã biết gì về những chuyện riêng tư của hắn. Hắn choàng tay ôm Lucy, để ý thấy Robin đã đóng cánh cửa phòng riêng của hắn lại.

“Robin nói sáng nay anh bận đi do thám,” Lucy luôn có vẻ hào hứng mỗi khi được đi mua sắm một mình, không phải kèm theo Greg và mấy thằng nhóc.

“Thám tử thì phải đi do thám chứ.” Strike đáp. “Mới đi shopping hả?”

“Đúng rồi, Sherlock.”

“Đi uống cà phê không?”

“Có sẵn đây rồi nè, Stick,” cô em gái trả lời, giơ tách cà phê lên. “Hôm nay anh không có tinh ý gì cả. Chân đau hả?”

“Không.”

“Anh có gặp Chakrabati chưa?”

“Mới gặp,” Strike nói dối.

“Nếu không có gì,” Robin nói, vừa mặc áo khoác. “Tôi đi ra ngoài ăn trưa chút nhé. Tôi vẫn chưa nghỉ trưa.”

Vụ cố tỏ thái độ lạnh lùng với Robin mà hắn vừa định bụng mấy phút trước, bây giờ rõ là vừa không cần thiết vừa nhẫn tâm. Cô tế nhị hơn bất kỳ người phụ nữ nào Strike từng gặp.

“Được rồi, Robin, cô cứ đi.” Hắn đáp.

“Rất vui được biết chị, Lucy,” Robin nói, rồi vẫy tay và biến mất sau cánh cửa gương đóng lại.

“Em rất thích cổ,” Lucy nhiệt tình nhận xét, ngay khi tiếng bước chân của Robin nghe đã xa. “Cổ rất hay. Anh nên giữ cổ lại làm cố định luôn.”

“Ừ, cổ làm rất tốt.” Strike trả lời. “Hai người cười chuyện gì vậy?”

“Ả, chuyện chồng chưa cưới của cổ… nghe rất giống Greg. Robin nói anh đang làm một vụ quan trọng lắm. Không sao. Cổ rất kín đáo. Cổ chỉ nói là một vụ tự tử nhiều nghi vấn. Vậy thì chắc tệ lắm.”

Lucy nhìn hắn đầy ẩn ý, Strike cố tình không hiểu.

“Không phải vụ đầu tiên. Hồi tại ngũ anh cũng có làm mấy vụ như vậy rồi.”

Nhưng hắn đoán là Lucy không thèm nghe gì nữa. Em gái hắn hít một hơi sâu. Hắn biết cô sắp nói chuyện gì.

“Stick, anh với Charlotte chia tay rồi hả?”

Đằng nào cũng phải nói.

“Ừ, chia tay rồi.”

“Stick!”

“Không có sao hết, Luce à. Anh ổn mà.”

Vẻ háo hức lúc nãy của Lucy biến mất hoàn toàn, thay vào đó là sự giận dữ và thất vọng. Strike kiên nhẫn chờ đợi, vừa mệt mỏi vừa đau đớn, trong khi Lucy tuôn nguyên một tràng: nào là cô rảnh quá mà, thể nào Charlotte kiểu gì cũng sẽ diễn lại trò đó; cô ta lôi kéo hắn khỏi Tracey, làm hắn phải dở dang sự nghiệp trong quân đội, cô ta làm hắn khổ sở, thuyết phục hắn vào ở chung rồi bây giờ đá hắn như vậy…

“Là anh bỏ đi, Luce à,” hắn đáp. “Còn anh với Tracey đã chấm dứt từ lâu trước khi…” nhưng nói gì cũng vô ích, như thể cố làm dung nham núi lửa đang trào ra phải chảy ngược vào trong: tại sao hắn lại không nhận ra rằng Charlotte sẽ không bao giờ thay đổi, rằng cô ta chỉ quay lại vì bốc đồng nông nổi, vì khi đó hắn bị thương và được tặng huy chương? Con đàn bà phản trắc đó chỉ giả vờ đóng vai thiên thần hộ mệnh rồi lại chán ngay; đúng là loại người nguy hiểm thâm độc, chỉ muốn phá hoại đời người khác, làm cho người ta đau đớn thì mới thấy sung sướng được…

“Anh bỏ đi mà, là quyết định của anh…”

“Từ đó đến giờ anh ở đâu? Chuyện xảy ra khi nào? Con đĩ đó… không, em xin lỗi, Stick… nhưng em sẽ không giả vờ nữa… nó gây cho anh đủ chuyện qua chừng đó năm… Trời ơi, Stick, tại sao anh không cưới Tracey?”

“Luce, làm ơn, đừng nói chuyện đó nữa.”

Hắn dẹp mấy túi đồ John Lewis qua một bên, trong túi có mấy cái quần đùi và bít tất con trai. Hắn ngồi xuống bên cạnh Lucy. Hắn biết trông hắn lúc này rất nhếch nhác luộm thuộm. Lucy sắp bật khóc, được ngày đi shopping đang vui thì lại nghe chuyện này.

“Chắc anh không muốn nói với em vì anh nghĩ là em sẽ phản ứng như vậy?” Cuối cùng Lucy nghẹn ngào lên tiếng.

“Cũng có nghĩ tới.”

“Được rồi, em xin lỗi.” Lucy nói, giận dữ. Đôi mắt vẫn ngân ngấn nước. “Nhưng mà cái con đĩ đó… Trời ạ, anh phải nói với em là anh sẽ không bao giờ quay lại với nó nữa. Làm ơn hứa vậy đi.”

“Anh sẽ không quay lại với cô ta nữa.”

“Giờ anh ở đâu? Chỗ Nick và Ilsa hả?”

“Không. Anh thuê một chỗ ở Hammersmith.” (nơi đầu tiên hắn nghĩ đến, giờ đây luôn làm hắn liên tưởng đến người vô gia cư) “Một phòng ngủ.”

“Ôi Stick… tới ở nhà em đi!”

Hắn nghĩ ngay đến căn phòng dành riêng cho khách sơn tuyền một màu xanh và nụ cười gượng gạo của Greg.

“Luce, anh hài lòng với chỗ ở mới. Anh chỉ muốn tập trung làm việc và ở một mình một thời gian.”

Mất nữa tiếng sau hắn mới tiễn được Lucy ra khỏi văn phòng. Ban đầu Lucy ân hận vì đã nổi nóng, rối rít xin lỗi, nhưng ngay sau đó lại cố thanh minh, vậy là thêm một bài công kích Charlotte nữa. Cuối cùng khi Lucy cũng chịu đi về, hắn tiễn em gái xuống cầu thang, xách giùm mấy túi đồ và luôn tiện cố tránh không cho Lucy nhìn thấy đám thùng đựng đồ vẫn còn ngoài hành lang, rồi tống tiễn cô em gái vào một chiếc taxi đen ở cuối phố Denmark.

Lucy nhìn hắn qua cửa sổ xe, gương mặt tròn trịa lem nhem mascara. Hắn cố nhe răng cười, vẫy tay chào rồi đốt thêm một điếu thuốc nữa, thầm nghĩ những kỹ thuật tra tấn tù nhân ở Guantanamo so với màn cảm thông chia sẻ của Lucy xem ra hãy còn nhẹ chán.

10

Mỗi khi mua bánh mì ăn trưa Robin thường mua luôn cho Strike, nếu trưa hôm đó hắn cũng có trong văn phòng, rồi tự thanh toán lại bằng tiền chi vặt trong hộp.

Hôm nay cô không vội quay trở lại. Cô để ý thấy rằng, mặc dù Lucy có vẻ không nhận ra, nhưng trông Strike rất buồn khi nhìn thấy cô và Lucy đang nói chuyện. Gương mặt của hắn khi mới về lại văn phòng trông rầu rĩ như lần đầu tiên cô gặp hắn.

Robin hi vọng là cô đã không nói với Lucy những điều Strike không muốn cô nói. Lucy không hẳn là cố ý dò hỏi, nhưng hỏi nhiều câu rất khó trả lời.

“Cô đã gặp Charlotte chưa?”

Robin đoán đây ắt hẳn là cô vợ cũ hay người yêu xinh đẹp, người chạy ào ra khỏi văn phòng hôm đầu tiên cô đến làm việc. Hai người suýt tí nữa va vào nhau, nhưng như thế không đủ tính là “đã gặp”. Cô trả lời:

“Tôi vẫn chưa.”

“Lạ thật.” Lucy khẽ cười gượng gạo. “Tôi cứ nghĩ ắt hẳn cô ta muốn gặp cô.”

Tự dưng lúc đó Robin thấy cần trả lời:

“Tôi chỉ là nhân viên tạm thời thôi.”

“Vậy thì đã sao.” Lucy nói, có vẻ hiểu ý câu đó hơn cả Robin.

Chỉ tới lúc này đây, khi đi thẩn thơ giữa những kệ hàng đầy những gói khoai giòn, không tập trung chọn lựa, Robin mới lờ mờ nhận ra Lucy định nói gì. Robin đoán ắt hẳn Lucy có ý khen cô xinh đẹp, chỉ có điều cứ nghĩ đến khả năng Strike đang tán tỉnh mình là cô cảm thấy thật khó chịu.

(“Matt, nói thật, anh mà thấy anh ta… anh ta to như gấu, mặt mày như mấy tay đấm bốc mới bị ăn đòn. Không hề quyến rũ một chút nào cả, kiểu gì cũng phải trên bốn mươi tuổi, rồi…” cô cố gắng tiếp tục tấn công ngoại hình của Strike, “anh ta còn có mái tóc như tổ chim nữa.” Matt chỉ nguôi ngoai chuyện Robin vẫn còn đi làm cho Strike sau khi cô đã chính thức chấp nhận chỗ mới ở công ty tư vấn truyền thông.)

Robin lấy bừa hai gói khoai giòn vị muối và giấm rồi tiến thẳng đến quầy tính tiền. Cô vẫn chưa nói với Strike rằng cô sẽ nghỉ việc sau hai tuần rưỡi nữa.

Nói xong chuyện Charlotte, Lucy chuyển sang dò hỏi tình hình làm ăn của văn phòng thám tử quèn của ông anh. Robin cố nói hết sức mơ hồ, cô suy luận rằng nếu Lucy không biết gì về tình hình tiền nong của Strike, ắt hẳn hắn đã có ý giấu em gái. Robin nghĩ rằng Strike chắc muốn cô em gái nghĩ công việc của hắn đang rất tốt, nên cô kể rằng vị thân chủ mới nhất là người rất giàu có.

“Ly dị à?” Lucy hỏi.

“Không,” Robin nói. “Là một vụ… nhưng mà tôi có ký cam kết bảo mật rồi… thực ra là điều tra lại một vụ tự tử.”

“Trời ơi, tội nghiệp Cormoran quá.” Lucy nói, giọng lạ lùng.

Robin bối rối, không hiểu ý.

“Ảnh chưa nói gì với cô hả? Thực ra nhiều người biết. Mẹ của tụi tôi cũng nổi tiếng, mẹ tôi là… như người ta hay nói, fan nữ cuồng, có phải gọi vậy không?” Nụ cười của Lucy trở nên gượng gạo, giọng nói của cô ta mặc dù cố tỏ ra bình thản, nhưng vẫn trở nên chua chát. “Trên internet có hết. Giờ cái gì cũng có trên đó nhỉ? Mẹ tôi chết vì chơi thuốc quá liều, người ta nói là tự tử, nhưng Stick luôn nghĩ là có tay ông chồng cũ nhúng vào. Nhưng chẳng chứng minh được gì cả. Stick rất giận. Chuyện đó kinh khủng, tồi tệ lắm. Có vẻ vì vậy mà vị thân chủ đó chọn Stick – Tôi đoán lại là một vụ chơi thuốc nữa hả?”

Robin không trả lời, Lucy vẫn nói tiếp:

“Lúc đó Stick bỏ ngang đại học rồi xin vào quân cảnh. Gia đình rất là thất vọng. Ảnh rất thông minh, cô biết đó, chưa có ai trong nhà tôi vô được trường Oxford, trừ ảnh ra. Vậy mà ảnh dứt khoát nhập ngũ. Nhưng như vậy cũng hợp với Stick. Ảnh làm việc trong đó cũng rất tốt. Tôi cứ nghĩ phải chi ảnh đừng có giải ngũ. Ảnh mà cứ ở trong đó, ngay cả với cái chân bị thương vậy vẫn…”

Robin vẫn cố tỏ ra dửng dưng, không hề chớp mắt.

Lucy nhấp trà.

“Cô ở Yorkshire mà cụ thể là khu nào?”

Câu chuyện sau đó nhẹ nhàng hơn hẳn, cho tới khi Strike bước vào. Lúc đó, hai người vẫn còn đang cười chuyện Matthew ra tay sửa sang đồ đạc trong nhà, qua sự mô tả của Robin.

Nhưng giờ đây khi Robin quay trở lại văn phòng, mang theo bánh mì và hai túi khoai giòn, cô thấy mình càng tội nghiệp Strike hơn nữa. Cô đã biết chuyện hắn vừa chia tay với vợ (hay cô bồ khá lâu năm), phải ngủ ngay trong văn phòng, và bị thương khi tại ngũ. Hôm nay cô biết thêm mẹ hắn chết không minh bạch trong hoàn cảnh rất bi đát.

Robin thừa biết mặc dù thấy tội Strike, cô vẫn không kiềm được sự tò mò. Một lúc nào đó, cô sẽ lên mạng tìm kiếm những thông tin xoay quanh cái chết của Leda Strike. Nhưng cùng lúc, cô lại cảm thấy tội lỗi vì đã vô tình biết thêm được một phần đời của Strike mà hắn không muốn cô biết, như khi nhìn thấy chỗ bụng lông lá lúc sáng. Cô biết hắn là một người rất kiêu hãnh và tự chủ. Đó cũng là những cá tính mà cô rất thích và ngưỡng mộ ở Strike, mặc cho Matthew chế nhạo chuyện hắn ta ngủ giường xếp, đồ đạc thì đóng thùng để ở ngoài hành lang, rồi ăn uống tạm bợ. Matthew cho rằng sống như vậy thì chỉ có loại trác táng hoặc vô tích sự.

Robin ngờ ngợ nhận ra không khí trong văn phòng có chút gì khác thường. Strike đang ngồi trước máy tính của cô, gõ phím liên tục. Hắn cảm ơn khi cô đưa bánh mì nhưng không nghỉ giải lao mười phút để nói chuyện như thường lệ.

“Tôi cần máy tính khoảng vài phút nữa, cô ngồi đợi ở sofa được không?” Hắn hỏi, tay vẫn gõ phím.

Robin không biết Lucy có kể lại với Strike những chuyện hai người vừa nói. Cô hi vọng là Lucy không nói gì cả. Rồi tự dưng cô thấy tức tối vì đã có cảm giác tội lỗi, suy cho cùng cô có làm gì sai. Sự bực bội đó khiến cô kiềm lại, không hỏi Strike xem hắn đã gặp được Rochelle Onifade chưa, mặc dù cô rất muốn biết.

“A ha,” Strike lên tiếng.

Hắn vừa tìm thấy chiếc áo khoác gắn lông màu hồng mà Rochelle mặc sáng nay trên trang web của hãng thời trang Ý. Chiếc áo mới được tung ra chỉ có hai tuần, bán giá một ngàn năm trăm bảng.

Robin đợi Strike giải thích tiếng cảm thán vừa rồi. Nhưng hắn vẫn im lặng.

“Anh có tìm ra cô ấy không?” Robin hỏi khi hắn quay ra, tháo lớp giấy gói bánh mì.

Hắn kể lại chuyện đi gặp Rochelle nhưng không còn vẻ nhiệt tình và cảm kích như lúc sáng, khi hắn liên tục gọi cô là “thiên tài”. Giọng Robin khi cô báo cáo kết quả mấy cuộc điện thoại cũng lạnh lùng không kém.

“Tôi gọi cho Hiệp hội Luật gia hỏi về hội thảo ở Oxford ngày bảy tháng Giêng.” Cô nói. “Tony Landry có tới dự. Tôi giả vờ là một người gặp Tony trong hội thảo nhưng sau đó đánh mất danh thiếp của ông ấy.”

Trông hắn chẳng có vẻ gì quan tâm đến những thông tin đó, cũng không thèm khen ngợi sự nhanh trí của Robin. Cuộc nói chuyện vãn dần trong sự bất mãn của cả hai.

Màn đối đầu với Lucy khiến Strike thực sự mệt mỏi, hắn chỉ muốn ngồi một mình. Hắn cũng ngờ rằng Lucy đã kể cho Robin nghe về Leda. Lucy rất xót xa người mẹ chịu tai tiếng từ khi còn sống tới lúc chết đi, nhưng thỉnh thoảng lại hành động rất vô lý, đụng ai cũng muốn kể cho bằng hết, đặc biệt là những người không hề quen biết. Có lẽ là một kiểu xả hơi tâm lý, bởi Lucy vốn rất kín tiếng với đám bạn bè trung lưu về quá khứ của mình. Cũng có thể là một cách tự vệ, vì em gái hắn luôn lo lắng vì không biết người ta biết gì về mình rồi, nên cứ phải nói hết ra những chuyện không hay ho, trước khi đối phương kịp dò đến. Nhưng hắn không muốn Robin biết gì về bà Leda, về cái chân cụt, hay về Charlotte, hay bất cứ mọi chủ đề đau đớn nào mà Lucy luôn sẵn sàng tra hỏi mỗi khi gặp hắn.

Trong lúc mệt mỏi chán chường, Strike đánh đồng Robin với đám đàn bà nhiều chuyện cứ không để cho hắn yên. Hắn đâm ra cau có với cô một cách vô lý. Hắn định đem hồ sơ ra quán Tottenham ngồi làm việc hết buổi chiều, để tha hồ ngồi một mình suy nghĩ mà không bị ai cắt ngang hay tra hỏi gì cả.

Robin cảm nhận rõ sự thay đổi đó. Nhìn cách Strike im lặng nhai bánh mì, cô phủi sạch vụn bánh trên áo rồi nghiêm nghị và nhanh chóng báo cáo lại những tin nhắn khi sáng.

“John Bristow có có gọi đến, để lại số di động của Marlene Higson. Ông ấy cũng đã liên lạc được với Guy Somé, có thể gặp anh mười giờ sáng thứ Năm tại studio trên phố Blunkett nếu tiện. Chỗ đó ở Chiswwick, gần Strand-on-the-Green.”

“Tốt lắm. Cảm ơn.”

Sau đó hai người hầu như không nói gì nữa. Strike ngồi lì quán Tottenham gần hết buổi chiều, quay lại văn phòng lúc đã năm giờ kém mười. Đến lúc đó cả hai vẫn chưa hết bối rối. Hôm đó cũng là lần đầu tiên hắn thấy nhẹ người khi Robin đứng dậy ra về.

Phần Bốn

Optimumgue est, ut volgv dixere, aliena insania frui.

Sự đời đã tỏ xưa nay

Người khôn phải biết dùng tay kẻ khờ.

- Pliny the Elder, Historia Naturalis

1

Sáng sớm thứ Năm Strike đến Hội sinh viên Đại học London để tắm rửa và mặc quần áo tươm tất hơn thường lệ trước khi đi gặp Guy Somé tại studio riêng. Từ trang web của Guy Somé, hắn biết tay này rất khoái mấy thứ như quần áo cao bồi mặc ngoài bằng da đã sờn, cà vạt bằng lưới thép và băng quấn đầu màu đen trông như cắt ra từ những chiếc mũ quả dưa cũ. Biết vậy và cũng hơi muốn trêu ngươi, hắn cố tình ăn mặc thật chỉn chu. Hắn chọn bộ complet màu xanh đậm mặc hôm đến nhà hàng Cipriani.

Studio của Guy Somé là một nhà kho cũ từ thế kỷ mười chín, nằm bên bờ bắc sông Thames. Mặt nước sông lấp lánh làm Strike chói mắt khi hắn đi tìm lối vào vì không có biển chỉ dẫn gì cả. Bên ngoài nhà kho không hề có lấy một cái bảng hiệu.

Cuối cùng hắn tìm ra một cái chuông cửa lắp kín đáo, cũng không có tên tuổi dán kèm. Hắn bấm chuông, cửa mở tự động từ bên trong. Hành lang trống trải, thông thoáng, có điều hòa mát lạnh. Có tiếng leng keng lách cách. Trước mắt hắn hiện ra một cô gái tóc đỏ như cà chua, mặc đồ đen từ đầu đến chân, tay đeo rất nhiều vòng bạc xủng xoảng.

“Ô,” Cô ta thốt lên khi thấy Strike.

“Tôi có hẹn với ông Somé lúc mười giờ,” hắn nói, “Cormoran Strike.”

“Ô,” cô ta thốt lên lần nữa. “Ô kê.”

Cô ta biến mất, cũng với âm thanh leng keng đó. Trong khi chờ đợi Strike gọi cho Rochelle Onifade. Kể từ hôm gặp Rochelle mỗi ngày hắn đều gọi khoảng mười lần. Vẫn không ai nghe máy.

Một phút sau, một người đàn ông da đen nhỏ bé đột ngột xuất hiện, bước về phía Strike. Ông ta mang giày lót cao su, đi đứng nhẹ nhàng như mèo. Khi đi ông ta lắc hông hơi quá, phần thân trên lẫn hai cánh tay gần như bất động, trừ hai bờ vai đung đưa.

Guy Somé thấp hơn Strike dễ cũng đến ba tấc và chừng như chỉ có khoảng một phần trăm mỡ của hắn. Ông ta mặc áo thun ôm sát màu đen, phía trước ngực áo có hàng trăm cái khuy bạc nhỏ xíu tạo thành gương mặt Elvis Presley kiểu ba chiều, trông như một món đồ chơi tạo hình từ bản đinh. Lạ lùng hơn nữa, dưới lớp áo Lycra bó sát đó là sáu múi bụng rõ rệt. Somé mặc quần jean bó màu xám, có sọc nhỏ màu sẫm mờ mờ, mang giày thể thao màu đen hình như làm từ da bóng lẫn da lộn.

Gương mặt Guy Somé tương phản lạ lùng với thân hình gọn gàng chắc nịch. Mặt ông ta đầy những đường cong có phần thái quá: hai mắt lồi ra như mắt cá ở hai bên đầu. Hai gò má như cặp táo tròn, căng bóng và khuôn miệng rộng hình thoi với cặp môi rất dày. Đầu của Somé gần như một quả cầu nhỏ tròn trịa. Trông ông ta giống một bức tượng gỗ mun, tác phẩm của một anh nghệ nhân lành nghề, một hôm đâm chán nên buồn tay đục gõ thành biếm họa.

Ông ta đưa bàn tay ra, cổ tay hơi uốn lại.

“À, cũng có chút giống Jonny đó chứ,” ông ta lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt Strike. Ông ta nói eo éo, có âm hưởng giọng người phía Đông thành phố. “Nhưng dữ dằn hơn.”

Strike bắt tay ông ta. Ngón tay ông ta coi vậy mà siết rất chặt. Cô gái tóc đỏ cũng vừa leng keng quay lại.

“Một tiếng tới tôi bận rồi, không nhận cuộc gọi nào cả nhé Trudie,” Somé dặn dò cô ta. “Đem ít trà bánh lên luôn cưng.”

Ông ta quay người điệu đàng, mời Strike đi theo.

Hai người đi dọc theo hành lang sơn trắng, qua một cánh cửa mở sẵn. Một người đàn bà châu Á mũi tẹt khoảng cỡ tuổi trung niên đang khoát tấm vải mỏng dát vàng lên người hình nộm. Bà ta nhìn Strike chằm chằm qua lớp vải. Căn phòng quanh chỗ bà ta đứng bật đèn sáng trưng như phòng phẫu thuật, đầy những chiếc bàn cắt vải với vô số vải vóc chồng lên nhau. Trên tường dán rất nhiều các bản vẽ nháp, ảnh chụp và ghi chú. Một người đàn bà tóc vàng nhỏ nhắn xuất hiện. Strike thấy y như bà ta đang mặc trên người một đoạn gạc băng vết thương khổng lồ màu đen. Bà ta nhìn Strike, cũng kiểu lạnh lùng, ngây ngô như cô Trudie tóc đỏ lúc nãy. Strike thấy trong không gian này mình thật to lớn và lông lá, cứ như thể hắn là con voi ma mút xù xì đang tìm cách trà trộn vào bầy khỉ mũ nhỏ nhắn.

Hắn theo chân nhà thiết kế đang oai vệ đi về phía cuối hành lang, lên cầu thang xoắn ốc bằng thép và cao su. Trên đó là một khu văn phòng rộng lớn, sơn trắng, hình chữ nhật. Tường bên phải là cửa gương lớn chạy từ trần đến sàn, nhìn ra sông Thames và bờ nam rất hoành tráng. Những bức tường trắng còn lại đều có treo ảnh. Strike để ý đến ngay tấm ảnh dài chừng ba mét phóng lớn từ tác phẩm “Thiên thần mắc đọa” tai tiếng, treo trên bức tường đối diện bàn làm việc của Somé. Nhìn kỹ hơn hắn nhận ra kiểu ảnh hơi khác so với tấm hình đã được đăng khắp thế giới. Trong tấm ảnh này, Lula cười rũ rượi, hất đầu về phía sau. Cần cổ thẳng tắp nổi bật trên mớ tóc dài xộc xệch vì cười, để lộ nhũ hoa sẫm màu. Ciara Porter vẫn ngước nhìn Lula, gương mặt vẻ như sắp cười, dường như chỉ vừa kịp hiểu vì sao Lula cười. Cũng như trong tấm hình đã quá nổi tiếng, người xem lập tức bị Lula cuốn hút.

Lula có ở khắp nơi trong căn phòng. Ở bên trái, cô ta đứng chung với một nhóm người mẫu khác, mặc áo lót trong suốt bảy màu cầu vồng. Xa hơn một chút là một tấm chụp nghiêng, trên môi và mí mắt dán vàng lá. Phải chăng Lula luôn biết điều khiển gương mặt mình trước ống kính, để cảm xúc luôn được thể hiện một cách tuyệt mỹ? Hay gương mặt đó chỉ là một bề mặt trong veo, phản chiếu tự nhiên những cảm xúc của cô?

“Kê đít xuống đâu cũng được.” Somé lên tiếng, ngồi phịch xuống chiếc ghế đằng sau bàn làm việc bằng gỗ sẫm màu và thép, trên mặt bàn đầy những bản vẽ. Strike kéo ra một chiếc ghế làm bằng một dải nhựa dẻo trong uốn éo. Trên bàn còn có một áo thun in hình Công nương Diana, màu mè như kiểu thánh mẫu Mexico. Chiếc áo đính đầy thủy tinh và hạt cườm, thêm một trái tim đỏ chót bằng vải satin bóng có thêu hình vương miện đặt lệch.

“Anh thích không?” Somé hỏi khi thấy Strike đang nhìn chiếc áo.

“Ồ thích chứ.” Strike nói dối.

“Bán sạch hết, dân Công giáo gửi thư chửi rủa nào là bất kính với lại khiếm nhã, Joe Mancura mặc một cái như vậy trong show Jools Holland. Tôi đang nghĩ làm thêm một mẫu tay dài mặc mủa đông với hình Hoàng tử William kiểu Chúa Jeus. Hay là làm Hoàng tử Harry, cho ở truồng cầm khẩu AK47 che chỗ súng ống? Anh thấy sao?”

Strike mỉm cười cho phải phép. Somé bắt chéo chân, chỉnh tư thế điệu hơn mức cần thiết rồi lại lên tiếng, giọng màu mè kẻ cả:

“Vậy ra ông Kế toán nghĩ là Cuckoo bị giết? Tôi luôn gọi Lula là ‘Cuckoo’ ấy mà,” ông ta giải thích không cần thiết.

“Đúng vậy, nhưng John Bristow là luật sư.”

“Tôi biết, nhưng Cuckoo và tôi luôn gọi ông ta là ông Kế toán. Thực ra là tôi gọi, thỉ thoảng Cuckoo mới hùa theo, nếu đang bực ổng. Ông ta suốt ngày xía mũi vào phần trăm lời lãi của Cuckoo, làm gì với ai cũng bòn tới từng xu. Chắc lão trả thù lao cho anh cũng bèo lắm?”

“Thực ra ông ấy trả gấp đôi.”

“Ồ vậy sao. Chắc giờ có tiền của Cuckoo nữa nên hào phóng hơn được một chút.”

Somé cắn móng tay, nhìn ông ta Strike tự nhưng nhớ đến Kieran Kolovas-Jones. Hai người này có vóc dáng khá giống nhau, nhỏ con nhưng cân đối.

“Thôi được, nói vậy cũng hơi ác mồm,” Somé lên tiếng, bỏ tay ra khỏi miệng. “Tôi chưa bao giờ ưa nổi John Bristow. Ông ta lúc nào cũng kè kè đi theo Cuckoo. Người đâu chán bỏ mẹ. Giống như bóng kín vậy đó, làm bộ hoài. Anh nghe ông ta ca nguyên bài về bà mẹ chưa? Đã gặp bà bạn gái của ổng chưa? Nói không ngoa, đàn bà gì mà như đeo nguyên bộ râu.”

Somé bức xúc tuôn ra một tràng miệt thị rồi tạm tốp lại để mở ngăn kéo thiết kế ẩn dưới bàn, rút ra một gói thuốc lá bạc hà. Strike để ý thấy Somé cắn móng tay còn cụt ngủn.

“Gia đình vậy đó hỏi sao Cuckoo khỏi khùng khùng như vậy được. Tôi hay nói với nó, ‘Bỏ quách họ đi, cưng ơi, bỏ đi rồi mới sống tiếp được.’ Nhưng nó không bỏ. Cuckoo là vậy đó, cứ lo mấy chuyện phí công vô ích.”

Ông ta mời Strike một điếu thuốc trắng muốt, tay thám tử từ chối. Somé bật quẹt Zippo có khắc hình để đốt thuốc, rồi vừa đóng bập nắp lại, vừa nói:

“Phải chi lúc đó tôi nghĩ ra chuyện đi thuê thám tử tư. Trước giờ chưa hề mảy may nghĩ tới nữa mà. Tôi mừng là có người đứng ra thuê. Kkhông thể tin con bé tự tử. Bác sĩ tâm lý nói là tôi vẫn đang tự dối mình. Hiện giờ tôi phải làm tâm lý trị liệu một tuần hai lần, chẳng ăn thua nước mẹ gì. Nếu uống Valium mà vẫn làm việc được, chắc tôi cũng chơi cả đống như phu nhân Bristow. Một tuần sau vụ của Cuckoo tôi có thử qua nhưng nốc vô là dật dờ cả buổi. Nhưng chắc nhờ vậy mới chịu được hết đám tang.”

Lại tiếng leng keng lách cách báo hiệu Trudie đang tới gần. Cô ta đi lên cầu thang, dần dần ló ra trước mắt hai người. Trudie đặt lên bàn một cái khay bằng gỗ sơn mài đen đựng hai ly uống trà kiểu Nga có viền chạm bạc. Trong ly là một thứ nước màu xanh tái bốc khói với vài lá bạc hà héo thả nổi. Trên khay còn có một đĩa bánh quy mỏng dính, trông như làm bằng than đá. Strike rầu rĩ nhớ lại món bánh nhân thịt, khoai tây nghiền và tách trà sữa màu gỗ gụ ở quán Phoenix.

“Cảm ơn Trudie. Cưng tiện tay lấy luôn giùm cái gạt tàn.”

Cô gái ngập ngừng, như sắp phản đối.

“Đi đi,” Somé cằn nhằn. “Ở đây tôi là sếp, nếu muốn tôi đốt hết cái nhà này cho coi. Tháo cục pin ra khỏi mấy cái máy báo động đi. Nhưng mà đem gạt tàn lên đây trước đã.”

“Tuần trước máy báo cháy kêu ầm ĩ, rồi vòi nước tự động mở tứ tung dưới nhà.” Somé giải thích. “Vậy nên bây giờ mấy tay tài trợ cấm tụi tôi hút thuốc trong nhà. Cấm cái đít.”

Ông ta rít một hơi sâu rồi phả khói thuốc ra đằng mũi.

“Anh không hỏi han gì hả? Hay anh chỉ ngồi đó làm mặt ngầu tới khi nào có người chịu nhận tội?”

“Thì hỏi vậy.” Strike nói, rút ra cây sổ và cây viết. “Khi Lula chết anh còn đang ở nước ngoài phải không?”

“Tôi mới vừa về nước vài tiếng trước đó.” Ngón tay của Somé đặt trên điếu thuốc khẽ giật nhẹ. “Trước đó tôi ở Tokyo, suốt tám ngày hầu như không ngủ chút nào. Về tới phi trường Heathrow lúc mười rưỡi tối, bị lệch múi giờ, oải thấy ông bà ông vãi. Tôi không ngủ trên máy bay được. Lỡ máy bay có rơi thì còn biết.”

“Anh đi từ sân bay về bằng xe gì?”

“Taxi tại chỗ. Elsa quên không thuê xe riêng cho tôi. Đáng ra phải có tài xế chờ sẵn để đón chớ.”

“Elsa là ai vậy?”

“Là con bé thư ký sau đó bị tôi đuổi thẳng vì tội quên thuê xe. Tôi rất ghét phải đi tìm taxi vào giờ đó.”

“Anh sống một mình hả?

“Không. Tới nửa đêm tôi đã nằm trong chăn với Viktor và Rolf rồi. Hai đứa đó là mèo tôi nuôi,” Ông ta nói thêm, nhếch mép cười. “Tôi uống một viên Ambien, ngủ vài tiếng rồi tỉnh dậy khoảng hồi năm giờ sáng. Tôi bật kênh Sky News lên, một cha đội mũ lông cừu gớm ghiếc, đứng giữa tuyết ngay trước nhà Cuckoo nói là nó đã chết. Dòng tin chạy trên màn hình cũng ghi vậy.”

Somé rít thêm một hơi thuốc sâu, làn khói trắng bay ra khi ông ta mở miệng.

“Tôi sốc muốn chết theo luôn. Tôi tưởng mình vẫn còn ngủ, hay thức dậy ở một chiều không gian khác hay gì đó… Tôi bắt đầu gọi điện lung tung… Ciara, Bryony… máy ai cũng bận. Vừa gọi tôi vừa nhìn màn hình, hi vọng là họ sẽ báo tin có sự nhầm lẫn nào đó, rằng người vừa chết không phải là Cuckoo. Tôi thầm cầu nguyện người đó là cái con nhỏ bụi đời. Rochelle.”

Ông ta dừng lại, như thể đợi Strike bình luận. Hắn vừa cắm cúi ghi chép, vừa hỏi:

“Anh biết Rochelle à?”

“Có biết. Cuckoo mang nó vào đây một lần. Cái thứ la liếm.”

“Tại sao anh nói vậy?”

“Nó hận Cuckoo. Ganh ghét muốn nổ mắt mà. Tôi biết rõ, dù Cuckoo không nhận ra. Nó chơi với Cuckoo để kiếm chác chứ quan tâm gì chuyện Cuckoo còn sống hay đã chết. Cũng may cho nó, vì hóa ra…

"Vậy là tôi cứ ngồi đó coi tin tức, càng coi thì càng biết chắc không có sự nhầm lẫn nào cả. Tôi muốn quỵ ngã.”

Mấy ngón tay của ông ta run nhè nhẹ trên điếu thuốc trắng như tuyết đang hút dở.

“Họ nói là hàng xóm có nghe tiếng cãi nhau, nên ngay lập tức tôi nghĩ là Duffield. Tôi nghĩ hẳn Duffield đã xô Cuckoo qua cửa sổ. Lúc đó tôi sẵn sàng nói toạc cho đám lợn háo tin biết Duffield là thằng khốn như thế nào. Tôi sẵn sàng ra tòa làm chứng bản chất khốn nạn của nó. Và nếu bây giờ tàn thuốc rơi xuống đây,” ông ta nói tiếp, giọng điệu vẫn y chang không đổi. “Tôi sẽ đuổi thẳng cổ con đĩ con kia.”

Cứ như thể vừa nghe thấy ông ta nói gì, ngay lúc đó, tiếng bước chân dồn dập của Trudie mỗi lúc một lớn hơn. Cô ta bước vào phòng, thở hổn hển, tay nắm chặt cái gạt tàn thủy tinh nặng trịch.

“Cảm ơn cưng,” Somé nói, khẽ vẫy tàn thuốc khi cô ta vừa đặt gạt tàn xuống bàn rồi gấp gáp đi xuống cầu thang.

“Tại sao anh nghĩ là Duffield?” Strike hỏi khi đã chắc Trudie không thể nghe được.

“Cuckoo còn có thể mở cửa cho ai khác vào nhà lúc hai giờ sáng được?”

“Anh có biết rõ Duffield không?”

“Kha khá, một thằng vô tích sự.” Somé cầm ly trà bạc hà lên. “Tại sao đàn bà cứ đâm đầu vào những thằng như vậy? Cuckoo cũng vậy… nó không hề ngu ngốc chút nào, trái lại nó rất sắc sảo – vậy nó thấy gì ở cái thằng Evan Duffield đó? Để tôi nói anh nghe,” ông ta nói tiếp, không cần Strike trả lời. “Ba cái thứ thi sĩ quèn đau khổ nhảm nhí, nỗi đau tâm hồn cứt khô gì đó, rồi mấy trò thiên-tài-khổ-tâm-không-buồn-tắm-rửa. Thằng ranh, súc miệng cho sạch rồi hẵng mở ra. Cứ làm như mình là thi hào Byron cái quái gì.”

Ông ta đặt ly trà xuống, bàn tay trái đỡ lấy khuỷu tay phải, giữ vững cánh tay và tiếp tục rít thuốc thật sâu.

“Không thằng nào chịu nổi cái thứ như Duffield. Chỉ có bọn đàn bà. Một kiểu bản năng làm mẹ méo mó gì đó.”

“Anh nghĩ Duffield có thể ra tay giết Lula hay sao?”

“Tất nhiên là tôi nghĩ vậy,” Somé nói, thờ ơ. “Tất nhiên là nó ra tay được. Ai cũng có phần con, ai cũng sẵn chút máu giết người, thì tại sao Duffield lại là ngoại lệ? Thằng đó đầu óc như một đứa mười hai tuổi hỗn xược. Tôi có thể tưởng tượng ra hắn giận dữ, làm um sùm và rồi…”

Somé làm động tác xô một cú thật lực bằng cánh tay không cầm thuốc.

“Có lần tôi thấy nó chửi mắng con bé. Ngay tại tiệc sau show của tôi hồi năm ngoái. Tôi tới giữa hai người, nói có có ngon thì chơi thằng này. Tôi chỉ là một thằng bóng quèn,” Somé nói, hai gò má tròn trĩnh đanh lại, “nhưng lúc nào tôi cũng sẵn sàng tẩn cho thằng chó đó một trận. Hôm đi đám tang nó cũng khốn kiếp lắm.”

“Thật vậy sao?”

“Ừ. Lảo đảo đi quanh, phê thuốc trắng mắt. Không biết phép tắc cái quái gì. Hôm đó tôi cũng phải uống thuốc an thần, nếu không tôi đã tới nói hết vào mặt hắn. Còn giả vờ đau khổ nữa, cái thứ đạo đức giả.”

“Anh không bao giờ nghĩ là Lula tự tử?”

Cặp mắt lồi lạ lùng của Somé nhìn xoáy vào Strike.

“Không bao giờ. Duffield nói khi đó hắn đang đi mua thuốc, có đội mũ hóa trang chó sói. Bằng chứng ngoại phạm cái quỷ quái gì vậy? Mong là anh có kiểm tra kỹ lại cái thằng này. Đừng bị choáng ngợp trước nó, như đám cảnh sát.”

Strike nhớ lại nhận xét của Wardle về Duffield.

“Tôi nghĩ cảnh sát cũng không thấy Duffield choáng ngợp gì.”

“Hóa ra gu của họ cũng không đến nỗi tệ như tôi tưởng.” Somé đáp.

“Tại sao anh lại chắc chắn Lula không thể tự tử? Chẳng phải cô ấy từng bị bệnh tâm thần sao?”

“Đúng vậy, nhưng tụi tôi có hứa với nhau một chuyện, giống như Marilyn Monroe và Montgomery Clift. Tụi tôi thề là nếu đứa nào nghĩ tới chuyện tự tử thì phải gọi cho đứa kia. Nên chắc chắn nó đã gọi tôi, nếu nó định tự tử thật.”

“Lần cuối cùng anh nói chuyện với Lula là khi nào?”

“Nó gọi cho tôi hôm thứ Tư, khi tôi còn ở Tokyo,” Somé đáp. “Con nhỏ ngớ ngẩn, không nhớ đó với đây lệch nhau tới tám giờ. Tôi đã tắt chuông điện thoại nên lúc nó gọi hồi hai giờ sáng tôi không cầm máy, nhưng nó để lại tin nhắn, hoàn toàn không có vẻ gì là sắp nhảy lầu cả. Anh nghe này.”

Ông ta lại mở ngăn kéo bàn, lấy điện thoại ra, nhấn vài nút rồi đưa cho Strike.

Giọng Lula Landry vang lên thật gần, sống động, hơi khàn khàn ngay bên tai Strike. Cô ta cố tình giả giọng đân phía Đông thành phố để trêu Somé.

“Phẻ hông cưng ơi? Có chuyện này muốn nói, không chắc là cưng nghe xong sẽ thích nhưng mà là chuyện lớn thiệt. Em vui quá, chỉ muốn nói cho ai đó nghe. Khi nào được thì gọi ngay cho em. Ô kê, gọi liền nha,” cô ta kết thúc tin nhắn, giả vờ hôn vào điện thoại “muah muah”.

Strike trả điện thoại lại cho Somé.

“Vậy anh có gọi lại cho cô ấy không? Anh có biết chuyện lớn đó là chuyện gì không?”

“Không,” Somé dụi điếu thuốc, ngay lập tức rút ra thêm một điếu nữa. “Bọn Nhật xếp lịch họp liên tiếp, cứ mỗi khi tôi vừa định gọi thì lại kẹt vụ giờ giấc. Dù sao thì… nói thực với anh, có lẽ tôi biết nó sắp nói gì, tôi chẳng vui vẻ gì cả. Chắc nó có bầu.”

Somé gục gặc, điếu thuốc cắn trong miệng. Rồi ông ta lấy điếu thuốc ra và nói:

“Ừ đó, tôi nghĩ chắc Lula có bầu mẹ nó rồi.”

“Của Duffield?”

“Khi đó tôi vẫn mong là không phải vậy. Tôi chẳng biết vụ hai đứa nó quay lại với nhau. Cuckoo không dám quay lại với thằng đó nếu tôi vẫn còn ở Anh, vậy là nó đợi tôi đi Nhật, con nhỏ láo toét. Nó biết tôi ghét thằng kia nên không muốn làm phật ý tôi. Tụi tui như người trong nhà vậy.”

“Tại sao anh nghĩ là Lula có thai?”

“Nghe giọng nó. Anh nghe rồi đó – nó có vả rất phấn khích… Tôi ngờ ngợ vậy. Cuckoo hay làm những việc như vậy, rồi nghĩ là tôi cũng sẽ vui như nó, mặc kệ công việc, mặc kệ tôi với dòng hàng phụ kiện mới…”

“Có phải là hợp đồng năm triệu bảng mà anh cô ấy nói với tôi không?”

“Đúng vậy, tôi đoán lão Kế toán bắt nó phải đòi càng nhiều càng tốt,” Somé đáp, vẻ rất giận dữ. “Cuckoo không phải là người thích bòn tôi từng xu như vậy. Nó thừa biết vụ này sẽ rất hoành tráng, sẽ đưa nó lên một đẳng cấp mới nếu nó làm cho tôi. Đâu phải chuyện tiền bạc không. Hình ảnh của nó luôn đi liền với mấy thứ tôi làm. Nó chỉ thực sự nổi tiếng sau khi chụp cho Vogue một kiểu mặc áo đầm Jagged của tôi. Cuckoo mê đồ của tôi. Nó cũng khoái tôi. Nhưng đời là vậy. Cứ leo lên được một chút thì thiên hạ bắt đầu xúm vào tâng bốc, vậy là quên luôn ai đưa mình lên. Rồi tự dưng chỉ có tiền và tiền.”

“Nhưng ắt hẳn anh nghĩ cô ấy xứng đáng, mới chấp nhận trả năm triệu bảng?”

“Ừ thì vậy, nhưng tôi thiết kế nguyên loạt đó cho riêng nó, nên chẳng có gì hay ho nếu phải tranh thủ chụp ảnh để né vụ bầu bí. Và tôi cũng có thể tưởng tượng ra sau đó Cuckoo sẽ hành xử ngớ ngẩn ra sao. Nó sẽ bỏ hết vì không muốn xa con. Nó là kiểu người vậy đó, luôn đi tìm người khác để thương, luôn muốn có một gia đình riêng. Mấy người nhà Bristow phá đời nó hoàn toàn. Họ xin nó về như mua món đồ chơi mới cho Yvette, mụ đàn bà đáng sợ nhất thế gian.”

“Đáng sợ như thế nào?”

“Ích kỷ. Bịnh hoạn. Không muốn Cuckoo đi khỏi tầm mắt, sợ nó chết như cái đứa trước đó. Phu nhân Bristow thường đến dự tất cả các show, rất vướng chân vướng cẳng, cho tới khi phát bịnh mới chịu thôi. Rồi thêm ông cậu coi Lula như rác, cho tới khi nó kiếm được bộn tiền mới bày đặt nể nang. Đám người nhà Bristow chỉ biết có tiền.”

“Gia đình đó vốn giàu có, không phải vậy sao?”

“Alec Bristow chẳng để lại bao nhiêu, theo nghĩa đen. Thực tình chẳng có của cải gì ghê gớm. Không như ông già của anh đâu. Nhưng tại sao,” Somé tự nhiên đổi hướng câu chuyện, “con trai của Jonny Rokeby lại đi làm thám tử tư?”

“Việc ai người đó làm,” Strike đáp. “Nói tiếp về nhà Bristow đi.”

Somé không có vẻ gì là bực bội với cách nói chuyện không hề nhún nhường của Strike, dường như còn thích là đằng khác, có lẽ vì hiếm ai dám nói vậy với ông ta.

“Tôi chỉ nhớ Cuckoo kể là gia sản của Alec Bristow chủ yếu là cổ phiếu trong công ty cũ, mà công ty Albris thì từ hồi khủng hoảng đã te tua xơ mướp. Công ty quèn, có phải như Apple apiếc gì. Hồi chưa đầy hai mươi tuổi Cuckoo đã kiếm được nhiều tiền hơn cả đám đó.”

“Tấm kia,” Strike lên tiếng, chỉ tay về phía tấm hình “Thiên thần mắc đọa” khổng lồ ngay sau lưng Somé, “nằm trong hợp đồng năm triệu bảng phải không?”

“Đúng vậy,” Somé đáp. “Bốn cái túi xách đó mở đầu cho chiến dịch quảng cáo. Cái Cuckoo đang cầm trong tay là “Cashile”. Tôi đặt tên châu Phi cho tất cả mấy cái túi đó, cũng vì Cuckoo. Nó rất mê châu Phi. Nó đào đâu ra được một bà mẹ đĩ điếm, nói rằng cha nó là người châu Phi. Vậy là Cuckoo mê mệt luôn, chưa gì đã nói chuyện đi học ở đó, rồi đi làm tình nguyện… mà không hề nghĩ là con đĩ già kia có khi từng ngủ với khoảng năm mươi thằng đen Caribe cũng có. Châu Phi gì. Con mụ đó chỉ nói cho Cuckoo sướng tai.”

“Vậy anh quyết định vẫn tiếp tục dùng tấm hình đó trong chiến dịch quảng cáo sắp tới, ngay cả khi Lula vừa mới…”

“Báo biếc khốn nạn. Tấm hình đó là để tưởng niệm nó!” Somé lớn tiếng. “Đó là tấm hình đẹp nhất của nó từ trước đến giờ. Tôi dùng tấm hình để tưởng nhớ Cuckoo, để nhớ đến hai đứa tụi tôi. Cuckoo là nàng thơ của tôi. Nếu mấy thằng khốn đó không hiểu nổi thì kệ chúng nó, vậy thôi. Báo chí ở cái xứ này chẳng ra cái quái gì. Cứ tưởng ai cũng rác rưởi như mình.”

“Hôm trước khi Lula chết có người gởi cho cô ấy mấy cái túi xách…”

“Đúng rồi, là của tôi đó. Tôi gởi mỗi kiểu một cái.” Somé vừa nói vừa chỉ về phía tấm hình bằng đầu thuốc lá. “Tôi cũng luôn tiện gởi cho Deeby Macc vài thứ.”

“Ông ta đặt hàng hả, hay…?”

“Của chùa, cưng à.” Somé dài giọng. “Làm ăn phải vậy. Vài cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng và mấy thứ phụ kiện. Cứ cho sao siếc khoác vào thì không trật được.”

“Ông ta có mặc mấy thứ đó không?”

“Tôi không biết,” giọng Somé trầm xuống. “Ngay hôm sau đã phải nghĩ nhiều chuyện khác.”

“Tôi có xem một đoạn phim của Deeby Macc trên YouTube. Ông ta mặc một cái áo có đính khuy như cái này,” Strike nói, chỉ tay vào ngực Somé. “Có hình nắm đấm.”

“Đúng rồi, tôi có gởi cái áo đó với vài thứ khác. Chắc người ta chuyển lại. Một cái có hình nắm đấm, một cái có hình súng ngắn, đằng sau lưng in lời bài hát.”

“Lula có nói với anh chuyện Deeby Macc sắp dọn vào đó không?”

“Có chứ. Nó cũng rất vui, nhưng đáng ra phải vui hơn nữa kia. Tôi cứ nói với nó, cưng à, nếu mà ông ta viết đến ba bài hát về tôi, thì tôi sẽ lột sạch đồ đứng chờ sẵn trong nhà.” Somé phả ra hai vệt khói dài từ lỗ mũi, liếc ngang qua Strike. “Tôi khoái mấy tay to con, dữ dằn vậy,” ông ta nói. “Nhưng Cuckoo thì không. Thì cứ nhìn cái thằng bồ của nó đó. Tôi cứ nói, cưng suốt ngày đi tìm gốc gác, thôi thì kiếm quách một anh đen tử tế cho xong. Deeby chẳng hạn, quá hợp, không phải vậy sao?”

“Show mùa rồi của tôi cho nó đi trên nền nhạc bài Butterface Girl của Deeby. ‘Con kia có là gì / Liệu mà tìm gương soi / Kiếm cái nào nói thiệt / Cưng bớt xoắn đi ha / Cưng cóc phải Lula.’ Duffield rất ghét chuyện đó.”

Somé im lặng một lát, tiếp tục hút thuốc, mắt vẫn dán vào tấm hình trên tường. Strike hỏi:

“Nhà anh ở đâu? Gần đây không?” mặc dù hắn đã biết trước câu trả lời.

“Không, tôi ở phố Charles, Kensington,” Somé đáp. “Dọn qua đó hồi năm ngoái. Rất xa Hackney nhưng mà phải dọn thôi. Ồn ào quá. Tôi lớn lên ở Hackney,” ông ta giải thích, “hồi đó tên thiệt khi chưa tiếng tăm gì là Kevin Owusu. Tôi đổi tên khi bỏ nhà đi. Giống anh vậy.”

“Tôi chưa bao giờ mang họ Rokeby cả,” Strike vừa nói vừa lật một trang sổ. “Bố mẹ tôi không cưới xin gì.”

“Vụ đó ai cũng biết cưng à,” Somé nói, nhìn đểu một cái. “Năm ngoái tôi soạn đồ cho ông già anh chụp một tấm cho tạp chí Rolling Stone: complet bó sát và mũ quả dưa vỡ. Anh có hay gặp ông ta không?”

“Không,” Strike ngắn gọn.

“Không à, chắc vì hai người mà đứng chung thì Jonny trông còn già ác nữa?” Somé nói, cười khanh khách. Ông ta loay hoay xoay trở trên chiếc ghế, đốt thêm một điếu nữa, ngậm giữa môi và nheo mắt nhìn Strike qua làn khói thuốc bạc hà.

“Tại sao lại nói chuyện đời tôi nhỉ? Người ta có hay kể lể chuyện đời họ mỗi khi anh rút cuốn sổ đó ra không?”

“Thi thoảng.”

“Anh không muốn uống trà hả? Tôi chẳng trách gì anh. Tôi chẳng biết tại sao lại uống cái thứ dở hơi này. Ông già tôi chắc lên cơn đau tim nếu hỏi xin một tách trà mà bị đưa thứ này.”

“Gia đình anh còn ở Hackney không?”

“Không biết,” Somé nói. “Tôi không nói chuyện với họ. Tôi dạy Lula cái gì thì thực hành y như vậy, thấy chưa?”

“Anh nghĩ vì sao mà Lula đổi họ vậy?”

“Vì nó rất ghét gia đình nó, cũng như tôi vậy. Nó chẳng muốn dính gì tới họ nữa.”

“Vậy tại sao lại đi lấy họ của ông cậu Tony?”

“Ông đó không nổi tiếng. Lula Landry nghe cũng hay. Deeby làm sao viết được bài Double L U B Mine[1] nếu nó vẫn tên Lula Bristow?”

[1. Hai chữ L, em thuộc về tôi.]

“Phố Charles cũng khá gần Kentigern Gardens nhỉ?”

“Đi bộ hai mươi phút. Tôi muốn Cuckoo dọn vô ở chung với tôi khi nó nói không chịu được chỗ cũ nữa, nhưng nó không đồng ý, mà chọn cái nhà tù năm sao đó, chỉ để trốn đám báo chí. Chính tụi nó đẩy Cuckoo vào cái nhà đó. Tụi nó cũng có trách nhiệm trong vụ này.”

Strike nhớ lại lời Deeby Macc: Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ.

“Nó có dẫn tôi đến xem nhà. Khu Mayfair, toàn là dân Nga và dân Ả Rập giàu sụ với cả mấy thằng chó đẻ như Freddie Bestigui. Tôi có nói, cưng ơi, không sống ở đây được đâu, nhìn đâu cũng thấy đá cẩm thạch, ở xứ này mà xài đá thì quê lắm… còn sống mà chui vô lăng làm gì…”

Ông ta ngập ngừng một lúc, rồi nói tiếp:

“Mấy tháng trước đó Cuckoo gặp nhiều chuyện rất đau đầu. Một thằng rình mò cứ tới ba giờ sáng là bỏ thư vào nhà nó, mỗi lần có tiếng động thùng thư là Cuckoo lại tỉnh dậy. Thằng đó hăm dọa đủ điều, làm Cuckoo rất sợ hãi. Rồi nó chia tay thằng Duffield, vậy là bọn nhà báo suốt ngày chờ chực quanh đó. Cuckoo phát hiện ra đến điện thoại của nó cũng bị nghe lén. Rồi tới chuyện đi tìm con đĩ già mẹ ruột đó. Nhiều thứ cùng lúc quá. Nó muốn tránh xa hết, muốn được yên ổn. Tôi đã bảo nó dọn vô ở với tôi, vậy mà nó đi mua cái lăng chết tiệt đó.”

“Nó mua chỗ đó vì thấy giống như cái pháo đài, giờ nào cũng có bảo vệ. Nó cứ tưởng là sẽ được an toàn, không ai đụng tới nó nữa.”

“Nhưng ngay từ đầu nó đã không ưa gì chỗ mới. Tôi biết mà. Nó bị cô lập, ở xa những thứ nó yêu thích. Cuckoo mê màu sắc, tiếng ồn. Nó thích phố xá, thích đi bộ, thích cảm giác tự do.”

“Một trong những lý do khiến cảnh sát loại trừ có sát nhân là cửa sổ lúc đó mở toang. Cuckoo đã tự mở cửa sổ, dấu vân tay còn trên đó. Nhưng tôi biết vì sao nó mở cửa. Cuckoo luôn mở cửa sổ, mặc dù bên ngoài lạnh tê tái, vì nó không chịu nổi sự yên lặng. Nó thích nghe được cả London.”

Somé không còn chút gì mỉa mai đểu giả nữa. Ông ta hắng giọng rồi nói tiếp.

“Nó luôn cố kết nối với những thứ có thật, sống động. Hai đứa tụi tôi rất hay nói về chuyện đó. Tụi tôi thực sự đồng cảm với nhau. Cuckoo qua lại với con khốn Rochelle cũng từ chỗ đó. Kiểu ‘trông người mà ngẫm tới ta’. Cuckoo nghĩ nếu nó không xinh đẹp, nếu nhà Bristow không xin nó về làm đồ chơi cho Yvette thì có khi đời nó cũng như Rochelle mà thôi.”

“Anh nói thêm về cái tay rình mò Lula ở nhà cũ đi.”

“Thằng điên. Hoang tưởng Lula là vợ hắn hay đại loại gì đó. Sau đó thì bị quản thúc và bắt điều trị tâm thần bắt buộc.”

“Có biết giờ tay đó ở đâu không?”

“Tôi nhớ hình như bị tống cổ về Liverpool,” Somé trả lời. “Nhưng bên cảnh sát có kiểm tra rồi, họ nói đêm đó hắn ta vẫn ở trong nhà thương điên có canh gác cẩn thận.”

“Anh có biết ông bà Bestigui không?”

“Chỉ biết qua lời Lula thôi, cha đó tởm lợm còn mụ vợ thì giả từ đầu tới chân như tượng sáp. Tôi không cần gặp cũng biết. Tôi biết cái thể loại đó. Gái nhà giàu chuyên xài tiền chồng. Show nào của tôi cũng có mặt. Xắng xít làm quen. Nói thật, thà chơi với đĩ còn hơn.”

“Freddie Bestigui có gặp Lula tại một bữa tiệc cuối tuần trước khi cô ấy chết.”

“Ừ, tôi cũng có biết. Lão thèm Lula chảy dãi,” Somé nói như không. “Nó cũng biết chứ, có phải chuyện lạ đời gì với nó đâu, anh biết đó. Nhưng lão ta không làm gì được nó, cùng lắm chỉ đứng chung trong thang máy thôi, theo như lời Lula kể.”

“Anh không nói chuyện với Lula sau khi cô ấy đến dự tiệc cuối tuần ở nhà Dickie Carbury, đúng không?”

“Đúng vậy. Lão ta làm gì ở đó hả? Anh không nghĩ là lão ta đó chứ?”

Somé ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm vào Strike.

“Khốn nạn… Freddie Bestigui? Lão mất dạy, tôi biết mà. Tôi có quen con nhỏ này… đúng ra là bạn của một người bạn… nó làm cho công ty sản xuất phim của lão, sém bị hiếp. Không, tôi chẳng nói quá chút nào đâu,” Somé đáp. “Sự thật là vậy. Hiếp. Hết giờ làm lão chuốc rượu cho nó rồi đè ra sàn, vừa lúc có một đứa nhân viên quên điện thoại quay lại văn phòng lấy, bắt gặp cảnh đó. Bestigui bịt miệng cả hai bằng tiền. Ai cũng xúi con nhỏ kiện lão, nhưng nó cầm tiền rồi bỏ đi luôn. Họ cũng nói là hồi xưa lão hay có trò xử phạt bà vợ thứ hai cũng bệnh hoạn lắm, vì vậy mà hồi li dị bà ta mới cuỗm được ba triệu, sau khi hù là sẽ tung ra hết với báo chí. Nhưng không bao giờ có chuyện Cuckoo mở cửa cho lão vào nhà lúc hai giờ sáng. Tôi nói rồi, Cuckoo không phải là đứa ngu.”

“Anh biết gì về Derrick Wilson?”

“Thằng nào vậy?”

“Bảo vệ trực đêm đó.”

“Không biết gì cả.”

“Ông này to con, nói giọng Jamaica.”

“Nói nghe đừng sốc, dân da đen ở London này không phải ai cũng biết nhau đâu.”

“Tôi chỉ muốn hỏi liệu anh có bao giờ nói chuyện với ông ta không, hay Lula có nói gì về ông ta không?”

“Không, tụi tôi nói nhiều chuyện khác hay ho hơn chuyện ông bảo vệ.”

“Cũng không nhắc tới anh lái xe Kieran Kolovas-Jones?”

“À, tay đó thì biết,” Somé đáp, nhếch mép. “Cứ xớn xác tạo dáng mỗi khi tưởng tôi đang nhìn ra cửa sổ. Đáng tội là thiếu khoảng thước rưỡi mới đủ làm người mẫu.”

“Lula có bao giờ nói về anh ta không?”

“Không, tại sao chứ?” Somé sốt ruột hỏi. “Nó chỉ là thằng lái xe.”

“Anh ta nói là anh ta rất gần gũi với Lula. Anh ta còn kể là được Lula tặng áo khoác do anh thiết kế. Giá chín trăm bảng.”

“Bở gớm nhỉ,” Somé nói, khinh ra mặt. “Mấy món đàng hoàng của tôi thì tệ cũng phải ba ngàn một cái. Tôi đắp phứa logo lên mấy cái áo khoác chống thấm vậy mà bán chạy kinh khủng, nên tội gì không làm.”

“À, tôi sắp hỏi cũng chuyện đó,” Strike bói. “Áo như vậy thuộc dòng hàng đồ-may-sẵn, đúng không?”

Somé tỏ vẻ buồn cười.

“Đúng rồi. Tức là không phải đồ-may-đo-riêng, hiểu không? Có thể mua thẳng từ cửa hàng.”

“Hiểu rồi. Mấy thứ đó có bán rộng rãi không?”

“Ở đâu cũng có. Lần gần đây nhất anh đi mua sắm đó là khi nào vậy?” Somé hỏi, cặp mắt lồi kì dị của ông ta soi một vòng trên bộ complet màu xanh đậm của Strike. “Đồ kiểu gì vậy, áo quần phục viên hả?”

“Anh nói ‘ở đâu cũng có là sao?”’

“Trung tâm mua sắm, hiệu áo quần nhỏ, trên mạng,” Somé nói một mạch. “Tại sao anh hỏi vậy?”

“Một trong hai người đàn ông lọt vào camera an ninh hôm đó mặc một cái áo có logo của anh."

Somé khẽ lắc đầu, tỏ ý bất bình, khó chịu.

“Thì có cả triệu người mặc mà.”

“Anh không thấy...”

“Tôi không xem cái quái gì cả,” Somé giận dữ đáp. “Tất cả mọi thứ... báo biếc đài điếc. Tôi không muốn đọc gì hết, không muốn suy nghĩ về chuyện đó nữa. Tôi bắt tụi nó phải dẹp hết, không được để tôi thấy,” ông ta đáp, huơ tay về phía cầu thang và đám nhân viên của mình. “Tôi chỉ biết là Cuckoo đã chết rồi còn Duffield thì hành động như người có chuyện gì cần phải giấu diếm. Tôi chỉ biết có vậy. Vậy là đủ rồi.”

“Thôi được. Nói chuyện áo quần, trong tấm hình cuối cùng của Lula, lúc mới về nhà cô ấy mặc đầm và áo khoác...”

“Đúng vậy, nó mặc Maribelle và Faye,” Somé đáp. “Mẫu đầm tên là Maribelle...”

“Hiểu rồi,” Strike đáp, “Nhưng khi chết thì lại mặc đồ khác.”

Somé có vẻ ngạc nhiên.

“Vậy sao?”

“Vâng. Trong hồ sơ cảnh sát, thi thể...”

Nhưng Somé đưa cánh tay ra, như muốn xua đuổi hay tự vệ. Rồi ông ta đứng dậy, thở mạnh và đi tới bức tường, nơi có những tấm ảnh của Lula mỉm cười, nụ cười lúc đăm chiêu, lúc bình thản. Khi tay thiết kế quay lại nhìn Strike, đôi mắt lồi của ông ta ngân ngấn nước.

“Khốn nạn,” ông ta nói, giọng thầm thì. “Đừng nói về Lula như vậy chứ. Thi thể. Khốn nạn. Anh là một thằng con hoang máu lạnh, phải vậy không? Chẳng trách Jonny không thiết gì anh.”

“Tôi không có ý bất nhã,” Strike bình tĩnh đáp. “Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nghĩ ra được lý do vì sao cô ấy mặc quần dài và áo đính kim sa.”

“Tôi làm quái gì mà biết được vì sao nó lại thay đồ?” Somé hỏi, giận dữ. “Có thể nó thấy lạnh. Có thể... Thật là nực cười. Anh nghĩ làm sao tôi biết được?”

“Tôi chỉ hỏi thôi,” Strike đáp. “Tôi đọc đâu đó anh nói với báo chí rằng khi chết Lula mặc đồ do anh thiết kế.”

“Không phải tôi, tôi không có phát biểu gì sất. Một đứa làm báo lá cải gọi điện cho văn phòng công ty và hỏi tên của mẫu đồ đó. Một đứa thợ may trả lời, vậy là tụi nó phong con nhỏ thành phát ngôn viên của tôi. Rồi suy luận là tôi dây máu ăn phần, bọn khốn nạn. Chó chết.”

“Anh có thể giúp tôi gặp Ciara Porter và Bryony Radford được không?”

Somé có vẻ mất bình tĩnh, bối rối.

“Gì kia? Được thôi...”

Nhưng ông ta đã bắt đầu khóc, không nấc từng tiếng như Bristow, chỉ có nước mắt chảy dài trên hai gò má sẫm màu trơn mịn, nhỏ giọt xuống chiếc áo đang mặc. Ông ta nuốt khan, nhắm mắt lại, quay lưng về phía Strike, úp trán vào tường, hai vai rung lên.

Strike im lặng, chờ đợi. Somé đã lau nước mắt vài lần, rồi quay lại nhìn hắn. Ông ta không nói gì đến chuyện khóc lóc, chỉ đi thẳng về ghế, ngồi xuống và đốt một điếu thuốc nữa. Rít thêm khoảng hai ba hơi thuốc thật sâu, ông ta lên tiếng giọng thản nhiên như không:

“Nếu nó thay quần áo thì có lẽ là đang chờ ai đó đến. Cuckoo lúc nào cũng ăn mặc rất hợp hoàn cảnh. Chắc hẳn nó đang chờ ai đó.”

“Tôi cũng nghĩ vậy,” Strike nói. “Nhưng tôi không rành phụ nữ và áo quần lắm.”

“Rõ là không,” Somé đáp, lai thoáng cười ranh mãnh, “anh cũng không có vẻ gì là rành rõi cả. Vậy anh muốn nói chuyện với cả Ciara và Bryony hả?”

“Được vậy sẽ rất có ích.”

“Tụi nó có buổi chụp hình vào thứ Tư tới. Số một phố Arlington ở Islingdon. Nếu anh tới khoảng chừng năm giờ, tụi nó sẽ rảnh tay nói chuyện được với anh.”

“Anh thật tử tế. Cảm ơn nhiều.”

“Tôi chẳng tử tế gì cả,” Somé nói nhỏ. “Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Khi nào thì anh mới gặp Duffield?”

“Ngay khi có thể.”

“Nó cứ nghĩ là nó thoát rồi, thằng chết giẫm. Ắt hẳn Cuckoo thay đồ vì biết nó sẽ tới. Ngay cả khi tụi nó vừa cãi nhau, Cuckoo vẫn biết là thế nào nó cũng đi theo về. Nhưng thằng Duffield sẽ không nói năng gì với anh đâu.”

“Anh ta sẽ nói,” Strike bình thản đáp, cất cuốn sổ và xem giờ. “Hôm nay tôi làm mất nhiều thời gian của anh quá. Một lần nữa, cảm ơn anh.”

Somé tiễn Strike xuống cầu thang, dọc theo hành lang sơn trắng. Phong thái nghênh ngang của ông ta dần dần trở lại. Tới khi hai người bắt tay tạm biệt ở sảnh, Somé không còn dấu hiệu đau khổ nào nữa.

“Giảm cân đi,” ông ta nói với Strike, thọc cú cuối cùng, “rồi tôi sẽ gởi vài thứ size XXL.”

Khi cánh cửa khu nhà kho đóng sầm sau lưng Strike, hắn nghe tiếng Somé hét lên với cô Trudie tóc màu cà chua đang đứng ở bàn, “Biết cưng nghĩ gì rồi nhé, Trudie. Cưng đang mơ mộng được cha đó đứng đằng sau làm cho một phát, đúng không? Không phải vậy sao cưng? Sướng chưa, dân lính tráng to con dữ dằn ha!” và tiếng Trudie cười ré lên kinh ngạc.

2

Xưa nay Charlotte chưa bao giờ chấp nhận sự im lặng của Strike như vậy. Cô ta không gọi điện hay nhắn tin gì thêm, cứ như thể trận cãi vã nảy lửa tồi tệ cuối cùng đã thay đổi cô ta hoàn toàn, khiến cô ta không còn yêu thương hay giận dữ gì hắn nữa. Tuy nhiên Strike biết rõ Charlotte như một thứ vi trùng đã ăn vào máu mình mười lăm năm qua. Hắn biết rằng khi bị tổn thương Charlotte chỉ có duy nhất một phản ứng là liên tục tấn công đối phương bằng bất cứ giá nào. Điều gì sẽ xảy ra nếu hắn làm ngơ, rồi cứ tiếp tục từ chối trả lời cô như vậy? Đó là cách duy nhất Strike chưa từng thử trước đó, cũng là tất cả những gì hắn có thể làm lúc này.

Thi thoảng, khi hắn thấy yếu đuối (nhất là lúc đêm khuya nằm chèo queo trên chiếc giường xếp) vết thương lòng lại trỗi dậy: hắn thấy hối tiếc và nhung nhớ, hắn thấy Charlote hiện ra ngay sát bên mình, đẹp đẽ, trần truồng, thì thào những lời yêu thương; hay lặng lẽ khóc, nói với hắn ràng cô ta biết mình là kẻ hư hỏng đốn mạt, vô phương cứu chữa nhưng hắn vẫn là điều tốt đẹp và chân thật nhất mà cô ta từng biết. Giờ đây với hắn, chuyện chỉ cần nhấc máy là sẽ nghe giọng Charlotte như một thứ rào cản cám dỗ quá mong manh. Thỉnh thoảng hắn lại phải chui ra khỏi túi ngủ, lò cò trong bóng tối đến bàn của Robin. Hắn ngồi xuống, bật đèn lên và nghiền ngẫm hàng tiếng đồng hồ các báo cáo trong hồ sơ. Hắn bấm máy gọi Rochelle Onifade vài lần lúc sáng sớm, nhưng cô ta không bao giờ nhận cuộc gọi.

Sáng thứ Năm, Strike quay lại chỗ bức tường bên ngoài bệnh viện St Thomas, đứng đợi ba tiếng đồng hồ, hi vọng gặp lại Rochelle. Nhưng cô ta không đến. Hắn nhờ Robin gọi cho bệnh viện nhưng lần này họ không đưa ra bất kì bình luận nào về chuyện Rochelle không đi đến điều trị nữa và tuyệt đối không cung cấp địa chỉ của cô ta, mặc cho Robin thử đủ cách hỏi.

Sáng thứ Sáu, Strike đi ra quán Starbucks mua cà phê. Khi hắn về đến văn phòng, Khỉ Con đang ở đó, không phải ngồi ghế sofa bên cạnh mà vắt vẻo ngay trên bàn của Robin. Khỉ Con ngậm điếu thuốc chưa châm trong miệng, nghiêng người về phía Robin, dường như đang nói chuyện gì hài hước lắm vì Robin đang cười. Rõ là cô đang rất muốn phá ra cười nhưng vẫn muốn tỏ ra chừng mực.

“Ê Khỉ Con,” Strike lên tiếng, nhưng giọng điệu có phần nghiêm nghị của hắn dường như không hề tác động gì đến điệu bộ hăng hái hay vẻ mặt tươi cười của cậu chàng.

“Ngon lành hả Fed? Em đem con Dell lại cho anh đây.”

“Tuyệt vời. Latte ly đúp không caffeine của cô đây.” Strike nói với Robin, đặt đồ uống xuống ngay bên cạnh cô. “Không tính,” hắn nói thêm khi Robin với tay lấy ví tiền.

Cô rất ngại chuyện tính những món ăn uống nho nhỏ vào tiền tiêu vặt của văn phòng. Trước mặt người khách lạ, cô không phản đối gì, chỉ cảm ơn Strike và trở lại làm việc. Cô xoay ghế theo chiều kim đồng hồ, quay lưng về phía hai người đàn ông.

Khỉ Con bật diêm đốt thuốc, Strike bỏ cốc espresso đúp của hắn xuống.

“Văn phòng không hút thuốc, Khỉ Con.”

“Cái gì? Anh hút như tẩu mà?”

“Nhưng không hút ở đây. Theo tao.”

Strike dẫn Khỉ Con vào văn phòng bên trong, đóng cửa lại.

“Cổ đính hôn rồi,” hắn vừa nói vừa ngồi xuống ghế.

“Ý anh là em đang phí nước bọt hả? Thôi vậy. Nếu vụ đính hôn mà bể thì anh nói vài câu hay ho dùm cho thằng em nhé; cổ đúng kiểu em thích.”

“Nhưng tao không nghĩ mày đúng kiểu cổ thích.”

Khỉ Con nhe răng cười, ra vẻ đã biết.

“Anh cũng xếp hàng sẵn rồi hả?”

“Không,” Strike đáp. “Tao chỉ biết chồng chưa cưới của cổ là kế toán kiêm vận động viên bóng bầu dục. Dân Yorkshire, cằm bạnh, mặt mày sáng sủa.”

Hắn bất ngờ vẽ ra chân dung Matthew rõ ràng từ tâm trí, mặc dù chưa thấy một bức hình nào cả.

“Biết đâu được, có khi sau cha đó cổ lại thích loại hơi... cá tính một chút,” Spanner nói, đặt máy tính của Lula Landry lên bàn và ngồi xuống đối diện với Strike. Anh chàng mặc áo len hơi sờn cũ, mang dép xỏ ngón, hôm đó cũng là ngày nóng nhất trong năm. “Em coi kỹ cái của nợ này rồi. Anh cần nghe chi tiết về kỹ thuật tới đâu?”

“Không cần cái đó; nhưng tao cần biết chắc là mày có thể giải thích rõ ràng trước tòa.”

Lần đầu tiên trông Khỉ Con có vẻ ngạc nhiên thực sự.

“Anh nói nghiêm túc hả?”

“Rất nghiêm túc. Mày có thể đối chất với luật sư bên bị không?”

“Đương nhiển ồi.”

“Vậy chỉ cần nói cho tao mấy chỗ quan trọng.”

Khỉ Con ngập ngừng trong giây lát, cố đọc biểu cảm trên gương mặt của Strike. Cuối cùng anh chàng lên tiếng:

“Mật khẩu là Agyeman, được đặt lại năm ngày trước khi cô ta chết.”

“Viết sao?”

Khỉ Con đọc từng chữ cái, bất ngờ nói thêm. “Agyeman là một họ của người Ghana. Cô ấy đánh dấu trang nhà của SOAS – Viện nghiên cứu Đông phương và Châu Phi. Từ Agyeman có ngay trên trang đó. Anh coi đây.”

Khỉ Con vừa nói vừa lách cách gõ phím; mở ngay trang web của SOAS. Trang web được chạy viền màu xanh tươi, có các phần về trường học, tin tức, giảng viên, sinh viên, thư viện...

“Nhưng lúc cô ta chết rồi thì như thế này.”

Khỉ Con nhấp chuột liên tục, mở ra một trang gần như giống y nhưng có thêm đường dẫn đến Cáo phó của Giáo sư J.P.Agyeman, Giáo sư danh dự ngành Chính trị Châu Phi.

“Cô ấy đánh dấu trang này,” Khỉ Con nói. “Trong một tháng trước khi chết cô ấy hay tìm sách của ông này trên Amazon. Lúc đó cô ấy cũng tìm rất nhiều sách về lịch sử và chính trị Châu Phi.”

“Có gì cho thấy cô ấy nộp đơn xin học ở trường SOAS không?”

“Trên máy này thì không có?”

“Còn gì nữa không?”

“Chỉ có chuyện nữa đó là một file hình ảnh lớn bị xóa ngày mười bảy tháng Ba.”

“Làm sao biết được?”

“Có phần mềm phục hồi những thứ đã bị xóa khỏi ổ cứng.” Khỉ Con đáp. “Chứ anh nghĩ làm sao mà cảnh sát bắt được mấy tên ấu dâm?”

“Mày có phục hồi lại được hết không?”

“Được. Em cho hết vào đây.” Khỉ Con đưa cho Strike một thẻ nhớ USB. “Em không nghĩ anh muốn em lưu trở lại vào máy.”

“Đúng rồi, vậy những cái hình đó là...?”

“Chẳng có gì đặc biệt. Chỉ bị xóa vậy thôi. Như em nói, người ta thường không biết là nếu muốn giấu thứ gì đó thì phải làm nhiều hơn là bấm nút delete”.

“Ngày mười bảy tháng Ba,” Strike nói.

“Vâng. Lễ Thánh Patrick.”

“Mười tuần sau khi cô ấy chết.”

“Có thể là bên cảnh sát,” Khỉ Con gợi ý.

“Không phải cảnh sát,” Strike nói.

Sau khi Khỉ Con ra về, hắn ra văn phòng ngoài, ngồi vào chỗ của Robin để xem mấy tấm hình đã bị xóa khỏi chiếc laptop. Robin có vẻ hồi hộp khi hắn giải thích những việc Khỉ Con đã làm và cắm thẻ nhớ vào máy.

Trong giây lát khi tấm hình đầu tiên dần hiện ra trên máy, Robin thấy lo sợ, như thể cả hai sắp nhìn thấy một điều gì thật kinh khủng; bằng chứng tội phạm hay một thứ gì đó thật bệnh hoạn. Trước đây cô chỉ nghe nói đến chuyện giấu hình ảnh trong những vụ án lạm dụng tồi tệ. Sau vài phút, Strike lên tiếng, như thể biết được cô vừa nghĩ gì.

“Chỉ là ảnh chụp tiệc tùng thôi.”

Nghe giọng hắn không có vẻ gì là thất vọng như cô tưởng, tự dưng Robin thấy xấu hổ; chẳng lẽ cô lại muốn nhìn thấy điều gì đó thật kinh khủng sao? Strike kéo màn hình xuống, toàn hình ảnh các cô gái chơi đùa, những người mẫu đồng nghiệp, thỉnh thoảng thấy có thêm vài người nổi tiếng. Có một số bức chụp Lula và Evan Duffield, vài tấm trong đó rõ là do một trong hai người tự chụp, tay cầm máy vươn hết cỡ. Trông cả hai có vẻ như đang phê thuốc hay say rượu. Somé cũng xuất hiện vài lần. Bên cạnh ông ta Lula trông có vẻ chừng mực, e dè hơn. Có nhiều ảnh Ciara Porter và Lula ôm nhau ở quầy bar, nhảy nhót trong hộp đêm hay cười đùa trên ghế sofa trong một căn hộ có đông người.

“Rochelle đó,” Strike đột ngột nói, chỉ vào một gương mặt sưng sỉa nhỏ bé khuất dưới cánh tay của Ciara trong hình chụp nhóm. Kieran Kolovas-Jones cũng có trong hình, đứng ngay cuối hàng cười tươi rói.

“Cô làm giúp tôi một chuyện,” Strike nói, sau khi xem hết hai trăm mười hai tấm hình. “Cô xem từng tấm, nhận diện hết những người trong đó, ít nhất là những người nổi tiếng rồi ta bắt đầu nghĩ xem ai muốn xóa hết đám hình này.”

“Nhưng mấy tấm hình này không có vẻ gì là mờ ám cả,” Robin nói.

“Phải có gì đó,” Strike đáp.

Hắn đi vào văn phòng bên trong. Rồi hắn gọi điện cho John Bristow (đang bận họp, không thể nghe máy, hắn để lại tin nhắn cho thư kí “Làm ơn nhắn anh ấy gọi lại cho tôi ngay khi có thể”), gọi tiếp cho Eric Wardle (để lại lời nhắn: “Tôi có một câu hỏi liên quan đến laptop của Lula”) và cuối cùng là cho Rochelle Onifade (xem cô ta có cầm máy không; vẫn không ai trả lời, và không thể lưu lời nhắn nào cả: “Hộp thư thoại đã đầy”.)

“Tôi vẫn không làm gì được với ông Bestigui,” Robin nói với Strike, khi hắn quay ra văn phòng ngoài. Cô đang tìm kiếm một nhân vật tóc nâu chụp hình với Lula trên bãi biển. “Sáng nay tôi có gọi lần nữa, nhưng ông ta quyết không gọi lại. Tôi thử đủ mọi cách; giả vờ làm đủ thứ người, còn nói là việc gấp nữa... có gì buồn cười hả?”

“À không, tôi chỉ thấy ngạc nhiên tại sao mấy người phỏng vấn chưa chịu nhận cô vào làm,” Strike đáp.

“À, Robin đáp, mặt hơi ửng đỏ. “Thực ra là có. Mấy chỗ phỏng vấn tôi đều nhận hết. Tôi đã nhận lời bên chỗ công việc nhân sự rồi.”

“Ồ, vậy hả.” Strike đáp. “Cô chưa nói gì. Chúc mừng cô nhé!”

“Xin lỗi, tôi cứ nhớ là đã báo với anh rồi,” Robin nói dối.

“Vậy chừng nào... cô nghỉ việc ở đây?”

“Hai tuần nữa.”

“À. Chắc Mathew vui lắm hả?”

“Vâng,” Robin đáp, hơi bất ngờ, “anh ấy cũng mừng.”

Cứ như thể Strike biết rõ Matthew không hề thích chuyện cô đi làm cho hắn, nhưng cô tự hỏi làm sao hắn biết. Cô đã rất cẩn thận, không kể gì về sự căng thẳng ở nhà cả.

Điện thoại văn phòng đổ chuông, Robin nhấc máy.

“Văn phòng Cormoran Strike?... Vâng, ai gọi đấy ạ?... Là Derrick Wilson,” Cô đưa thẳng ống nghe cho hắn.

“Chào anh.”

“Ông Bestigui vừa đi khỏi vài ngày,” Wilson nói. “Nếu anh muốn tới coi nhà cửa...”

“Tôi sẽ có mặt trong vòng nửa tiếng,” Strike trả lời.

Hắn loay hoay kiểm tra ví tiền và chìa hóa, rồi chợt nhận ra vẻ hơi thất vọng trên gương mặt Robin, mặc dù cô vẫn tiếp tục xem xét mấy tấm hình chẳng có gì mờ ám.

“Cô có muốn đi không?”

“Có!” Cô tươi tỉnh đáp, chụp lấy túi xách và tắt máy tính.

3

Cánh cửa đen nặng nề của tòa nhà số 18 Kentigern Gardens dẫn vào một sảnh lót đá cẩm thạch. Một cái bàn gỗ gụ hoàng tráng được lắp cố định ở sảnh, trực diện với lối vào, bên tay phải là cầu thang đi lên, khuất tầm nhìn (bậc thang cũng bằng cẩm thạch, tay vịn bằng gỗ và đồng thau). Kế bên đó là cửa thang máy dát vàng bóng loáng và một cánh cửa gỗ sẫm màu trên nền tường trắng. Giữa cánh cửa này và hai cánh cửa chính đằng trước là một kệ trưng bày đặt trong góc nhà, với những chiếc bình hoa trụ cao, cắm đầy hoa loa kèn màu hồng đậm. Mùi hương nồng tỏa khắp không khí ấm áp trong nhà. Bức tường bên trái ốp kín gương, tạo cảm giác sảnh rộng gấp đôi. Gương phản chiếu Robin và Strike đang mải ngó nghiêng, cánh cửa thang máy và bộ đèn chùm kiểu hiện đại gồm những khối pha lê vuông treo trên trần. Bức tường gương cũng khiến cho quầy trực bảo vệ bằng gỗ bóng loáng trông như dài hơn thực tế.

Strike nhớ lại lời của Wardle: “Trong căn hộ thì lát đá hoa nọ kia... mẹ kiếp, nhà ở mà cứ như khách sạn năm sao.” Robin đứng ngay bên cạnh hắn, cố tỏ ra không hề bị ngợp. Hóa ra giới triệu phú ở nơi như thế này. Matthew và cô đang thuê tầng dưới của một ngôi nhà cùng vách với hàng xóm ở Clapham. Phòng khách của cô rộng đúng bằng phòng nghỉ giải lao của nhân viên bảo vệ, cũng là chỗ Wilson chỉ cho hai người xem đầu tiên. Trong phòng có một cái bàn và hai cái ghế, một chiếc hộp treo trên tường đựng tất cả các chìa khóa chủ và một cánh cửa mở vào nhà vệ sinh nhỏ xíu.

Wilson mặc đồng phục màu đen, thiết kế giống trang phục của cảnh sát, áo sơ mi trắng, cà vạt đen, nút áo bằng đồng.

“Màn hình theo dõi,” ông ta chỉ cho Strike khi họ ra khỏi phòng sau, đến chỗ bàn trực, nơi có bốn màn hình trắng đen, khuất tầm nhìn của khách ra vào. Các màn hình lần lượt chiếu một đoạn đường trước tòa nhà, rồi hầm đỗ xe vắng ngắt, đến bãi cỏ trong khu vườn cũng không bóng người của tòa nhà số 18, vài thứ cây cảnh kiểu cọ và bức tường sau khá cao mà Strike từng leo lên; và cuối cùng là bên trong buồng thang máy đang đứng yên. Bên cạnh dãy màn hình là hai bảng điều khiển các thiết bị báo động chung của tòa nhà và báo động lắp ở cửa vào hồ bơi và bãi đậu xe. Cuối cùng là hai điện thoại để bàn, một gần với đường dây bên ngoài, một nối trực tiếp với ba căn hộ.

“Cánh cửa đó,” Wilson nói, chỉ vào cánh cửa gỗ nguyên khối, “dẫn ra phòng tập thể dục, hồ bơi với lại bãi đậu xe.” Ông ta dẫn cả hai đi vào theo yêu cầu của Strike.

Phòng tập thể dục khá nhỏ nhưng lắp gương khắp tường như ở sảnh, tạo cảm giác rộng gấp đôi. Trong đó chỉ có một cửa sổ nhìn ra đường, một máy chạy bộ tại chỗ, vài chiếc máy tập đua thuyền, tập bước chân và một bộ tạ.

Cánh cửa gỗ gụ thứ hai mở ra một cầu thang cẩm thạch hơi hẹp, trên tường gắn đèn khối vuông. Cầu thang dẫn xuống tầng hầm, đến một cánh cửa sơn trông rất bình thường mở ra bãi đậu xe. Wilson mở cửa bằng hai chìa khóa, một Chubb một Yale, rồi bật công tắc đèn. Khu vực vừa được thắp sáng dài gần bằng con phố trước nhà, đầy những chiếc xe hiệu Ferrari, Audi, Bentley, Jaguar và BMW, tổng trị giá cũng dễ đến hàng triệu bảng. Cách bức tường phía sau khoảng mười tám mét là những cánh cửa như cánh cửa cuối cùng họ vừa bước qua, thông thẳng vào mỗi tòa nhà ở Kentigern Gardens. Cửa tự động vào bãi đỗ xe từ Ngõ Nông Nô gần với tòa nhà số 18, hắt vào ánh sáng bàng bạc ban ngày.

Robin tự hỏi không biết hai người đàn ông lặng thinh đi bên cạnh mình đang nghĩ gì. Hẳn Wilson đã quá quen với đời sống lạ thường của những cư dân tòa nhà; quen mắt với bãi đậu xe ngầm, hồ bơi và những chiếc Ferrari? Còn Strike (cũng như cô) hẳn đang nghĩ rằng những cánh cửa liên tiếp này chứa đựng nhiều khả năng mà trước đó cô chưa nghĩ đến: cơ hội lẩn trốn nhanh chóng giữa những nhà lân cận, bao nhiêu nhà trên phố là bấy nhiêu lối để ẩn náu và lẻn ra? Nhưng rồi cô để ý thấy vô số camera đen gắn trên cao chĩa khắp hướng, thu mọi cử động vào loạt màn hình lúc nãy. Liệu có khả năng người bảo vệ đã bỏ sót hình ảnh nào đêm đó chăng?

“Xong rồi,” Strike lên tiếng và Wilson dẫn hai người trở lại cầu thang cẩm thạch, sau khi khóa cánh cửa vào bãi đậu xe.

Cả ba đi theo một cầu thang ngắn khác xuống tầng hầm, càng xuống sâu mùi chlorine càng nồng nặc. Khi Wilson mở cánh cửa ở cuối cầu thang, mùi không khí ẩm, ẩm ướt, nồng hóa chất khử trùng xộc lên mũi.

“Hôm đó cánh cửa này không bị khóa phải không?” Strike hỏi Wilson, ông ta gật đầu, bật công tắc đèn, ánh sáng đổ ra chói cả mắt.

Ba người bước trên mép bể bơi rộng rãi cũng lát đá cẩm thạch, hiện giờ đang được phủ lại bằng một tấm nhựa dày. Bức tường đối diện cũng được ốp đầy gương, phản chiếu ba người đang đứng, áo quần đầy đủ, không ăn nhập gì với bức tranh sau lưng vẽ các loại cây cối nhiệt đới và bươm bướm đập cánh, phủ đầy tường lên đến trần nhà. Hồ bơi dài khoảng mười lăm lét, cuối hồ là một bồn tắm mát-xa thủy lực hình lục giác, sau đó là ba buồng thay đồ đều lắp cửa có khóa.

“Ở đây không có camera sao?” Strike hỏi, nhìn quanh quất. Wilson lắc đầu, tỏ ý không có camera nào cả.

Robin cảm thấy mồ hôi rịn ra sau cổ và dưới tay áo. Khu vực hồ bơi rất bí, cô thấy nhẹ cả người khi đi lên cầu thang trước hai người đàn ông, trở lại sảnh lễ tân. So với hồ bơi thì sảnh lễ tân dễ chịu và thoáng hơn nhiều. Một cô gái nhỏ nhắn tóc vàng đang đứng đó. Cô ta mang tạp dề màu hồng, mặc quần jeans và áo thun, xách theo một xô nhựa đầy các loại dụng cụ lau chùi.

“Derrick,” cô ta gọi, giọng rất nặng kiểu tiếng Anh của người nước ngoài, khi thấy ông bảo vệ vừa lên cầu thang. “Tôi đang càng chìa khóa số hai.”

“Đây là Lechsinka,” Wilson nói. “Lao công.”

Cô ta nhìn Strike, mỉm cười thân thiện. Wilson ra phía sau bàn gỗ gụ, đưa cho cô ta một cái chìa khóa. Lechsinka đi lên cầu thang, tay vung vẩy cái xô đựng đồ, cặp mông bó chặt trong lớp quần jeans lắc lư khiêu khích. Biết Robin đang liếc ngang, Strike chột dạ, ngập ngừng đổi hướng nhìn.

Cả hai theo Wilson đi lên lầu, đến căn hộ số 1. Wilson mở cửa bằng chìa chủ. Strike để ý thấy cánh cửa ngay cầu thang có một lỗ nhìn trộm kiểu cũ xưa.

“Nhà ông Bestigui đây,” Wilson nói, tay bấm mã số trên bảng nút bên phải cánh cửa để tắt hệ thống báo động. “Sáng nay Lechsinka đã vô dọn dẹp rồi.” Strike ngửi thấy mùi nước đánh bóng và thấy cả đường lằn do máy hút bụi trên thảm trắng trong hành lang, hai bên có những chiếc đèn ốp tường bằng đồng thau và năm cánh cửa trắng muốt không tỳ vết. Hắn để ý thấy có một bảng nút báo động được lắp kín đáo trên bức tường bên phải, vuông góc với một bức tranh của Marc Chagall vẽ mấy con dê và người nông dân mơ màng trôi trên nền ngôi làng màu xanh nước biển. Ngay dưới bức tranh là mấy chiếc lọ cao cắm hoa phong lan đặt trên bàn sơn mài màu đen kiểu Nhật.

“Ông Bestigui đi đâu?” Strike hỏi Wilson.

“Los Angeles,” ông bảo vệ trả lời. “Hai ngày nữa mới về.”

Căn phòng khách sáng sủa, tươi tắn có ba cửa sổ dài, mỗi cửa sổ đều có ban công hẹp ốp đá ở bên ngoài. Ngoài các bức tường sơn màu xanh nhạt như màu men gốm sứ Wedgwood, gần như tất cả những đồ đạc còn lại đều có màu trắng. Mọi thứ đều tinh tươm, thanh lịch và cân xứng. Thêm một bức tranh tuyệt đẹp, trông ma mị và siêu thực. Trong tranh là một người đàn ông cầm giáo, hóa trang thành con chim hét, tay trong tay với một thân hình phụ nữ màu xám không có đầu.

Tansy Bestigui khăng khăng rằng bà ta đã nghe thấy tiếng la hét cãi nhau cách đó hai tầng lầu khi ở ngay trong căn phòng này. Strike tiến lại gần cửa sổ, chú ý đến chốt cửa kiểu hiện đại và độ dày của tấm kính. Hắn hoàn toàn không nghe được âm thanh nào từ đường phố mặc dù tai hắn gần như áp sát mặt kính lạnh lẽo. Ban công bên ngoài khá hẹp và đầy những chậu cây cảnh được tỉa thành hình chóp nhọn.

Strike đi vào nhà tắm. Robbin vẫn còn ở phòng khách, chậm rãi quay người quan sát chung quanh. Cô nhìn bộ đèn chùm bằng thủy tinh Venice, thảm lót sàn tông trầm màu xanh nhạt và hồng, TV plasma, bàn ăn bằng thủy tinh và sắt kiểu hiện đại, những chiếc ghế sắt có gối tựa bọc lụa rồi đến những món đồ trang trí nhỏ màu bạc đặt trên mấy chiếc bàn con mặt gương và trên bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch trắng. Cô hơi chạnh lòng nghĩ đến bộ sofa IKEA ở nhà mới đó cô còn rất hãnh diện; rồi cô sực nhớ ra chiếc giường xếp của Strike trong văn phòng và thấy hơi xấu hổ vì phép so sánh vừa rồi. Bắt gặp ánh mắt của Wilson, Robin lên tiếng, vô tình lặp lại lời của Eric Wardle:

“Đúng là một thế giới khác nhỉ?”

“Ừa,” ông ta đáp. “Chỗ này không nuôi con nít được.”

“Ừ nhỉ,” Robin nói, nãy giờ nhìn ngắm căn hộ cô không hề nghĩ đến chuyện đó.

Ông sếp tạm của Robin bước ra từ phòng ngủ, vẻ mặt như vừa nghĩ ra được điều gì đó rất thỏa mãn và bước tiếp vào hành lang.

Thực ra Strike đang chứng minh rằng con đường hợp lý nhất từ phòng ngủ nhà Bestigui đến phòng tắm là dọc theo hành lang, vòng qua phòng khách. Hơn nữa, hắn tin chắc rằng vị trí duy nhất trong căn hộ mà Tansy có thể nhìn thấy và nhận ra người vừa rơi xuống chính là Lula Landry, chỉ có thể là phòng khách. Trái với nhận định của Eric Wardle, không ai đứng trong phòng tắm mà nhìn rõ được cửa sổ, nhất là vào ban đêm. Nếu không ở phòng khách thì rất khó nhận ra thứ vừa rơi xuống là một con người, chứ chưa nói đến chuyện thấy rõ mặt.

Strike trở lại phòng ngủ. Sau khi Tansy dọn đi chỉ còn mỗi ông Bestigui ở trong căn hộ, ông ta nằm ngủ trên giường phía gần cánh cửa và hành lang, suy từ mớ thuốc men, kính đeo mắt và mấy cuốn sách đặt trên bàn con cạnh giường. Strike tự hỏi khi Tansy còn ở đây, phải chăng ông ta cũng có thói quen nằm phía bên đó.

Tủ gương siêu lớn để quần áo thông với phòng ngủ. Bên trong treo đầy complet Ý và áo sơ mi Turnbull & Asser. Có hai ngăn kéo phía dưới đựng toàn khuy măng-sét bằng vàng và bạch kim. Đằng sau tấm vách giả ngay sau kệ đựng giày là một két sắt.

“Tôi nghĩ coi ở đây vậy đủ rồi,” Strike nói với Wilson khi trở ra phòng khách.

Wilson bật lại hệ thống báo động trước khi cả ba rời khỏi căn hộ.

“Anh biết mã số của tất cả các căn hộ ở đây?”

“Ừa.” Wilson đáp. “Phải thuộc. Để lỡ báo động có kêu thì còn tắt.”

Họ lên cầu thang đến căn hộ thứ hai. Cầu thang uốn sát quanh đường thông thang máy, đến nỗi mỗi vị trí trên cầu thang đều bị khuất tầm nhìn. Bên trong căn hộ vọng ra tiếng gầm gừ của máy hút bụi Lechsinka đang dùng.

“Bây giờ có ông bà Kolchak thuê lại căn nhà này,” Wilson nói. “Người Ukraine.”

Hành lang ở đây thiết kế giống hệt như căn số 1, trang trí cũng có nhiều điểm tương đồng. Căn hộ này cũng có bảng nút báo động lắp trên tường, nhưng sàn căn hộ lót gạch thay vì lót thảm. Một tấm gương soi lớn, viền mạ vàng treo đối diện với lối vào, tương đương với vị trí bức tranh ở căn số 1. Đặt cạnh tấm gương là hai chiếc bàn con bằng gỗ trông có vẻ mỏng manh, dễ gãy, trên bàn có chiếc đèn ngủ Tiffany rất kiểu cọ.

“Bình hoa hồng của Bestigui cũng được đặt trên bàn như vậy hả?” Strike hỏi.

“Ừa, đặt trên một cái bàn cũng giống vậy,” Wilson đáp. “Cái đó giờ đem vô phòng khách lại rồi.”

“Hôm đó anh bưng bàn ra ngay giữa hành lang, rồi đặt bình hoa lên hả?”

“Ừa, ông Bestigui muốn Macc bước vào nhà là thấy ngay, nhưng cũng dễ tránh, anh thấy đó. Đâu dễ gì đụng bể liền. Nhưng anh cảnh sát đó cũng còn trẻ.” Wilson đáp, vẻ thông cảm.

“Vậy mấy cái nút báo động anh nói đâu?” Strike hỏi.

“Quanh đây,” Wilson trả lời, dẫn hắn ra khỏi hành lang và đi vào phòng ngủ. “Có một cái ngay cạnh giường và một cái trong phòng khách.”

“Căn hộ nào cũng có hết à?”

“Ừa.”

Vị trí tương ứng của phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp và phòng tắm giống hệt như căn hộ số 1. Nhiều chi tiết nhỏ cũng giống, chẳng hạn cánh tủ quần áo siêu lớn cũng được ốp gương. Strike đi vào xem xét. Khi hắn mở cánh cửa tủ và quan sát mớ quần áo phụ nữ trị giá cũng phải vài ngàn bảng. Lechsinka từ phòng ngủ bước vào, trên tay cầm một cái thắt lưng, hai cái cà vạt và mấy bộ áo đầm mới được giặt sấy bọc ni lông cẩn thận.

“Chào cô,” Strike lên tiếng.

“Chào,” cô ta nói, bước tới một cánh cửa sau hắn và kéo ra một chiếc móc treo cà vạt. “Tránh ra, giùm chút.”

Hắn đứng ra một bên. Cô ta nhỏ con, xinh xắn kiểu nữ tính, hoạt bát. Gương mặt cô ta hơi bẹt, mũi hếch và đôi mắt kiểu người Đông u. Cô ta treo cà vạt lên thật ngăn nắp, Strike lặng lẽ đứng nhìn.

“Tôi là thám tử,” hắn nói. Rồi hắn nhớ lời Eric Wardle mô tả tiếng Anh của Lechsinka là “dở như hạch”.

“Giống cảnh sát vậy đó?” hắn thử giải thích.

“À. Cảnh sát.”

“Hôm trước khi Lula chết cô cũng có ở đây đúng không?”

Hắn phải nói vài lần Lechsinka mới hiểu ý. Khi đã hiểu ra, cô ta không có vẻ khó chịu gì cả, miễn là vẫn được đứng đó treo đồ lên khi trả lời.

“Tôi luôn chùi cầu thang trước,” cô ta nói, “Cô Landry nói chuyện với ông anh lớn tiếng lắm; ổng la là cổ cho bồ nhiều tiềng quá, với lại cổ tệ với ổng lắm.

“Tôi cũng chùi căn số hai, trống trơn. Trước đã chùi rồi. Nên làm nhanh.”

“Lúc cô đang chùi có Derrick với người bên công ty bảo trì ở đó không?”

“Derrick với gì...”

“Người bảo trì? Người làm đồ báo động?”

“À người báo động với Derrick hả, à có.”

Strike nghe thấy tiếng Robin và Wilson nói chuyện trong hành lang, vị trí hắn dừng lúc nãy.

“Sau khi chùi xong cô có bật báo động trở lại không?”

“Đặt báo động hả? Có,” cô ta nói. “Một chín sáu sáu, giống như dưới cửa, Derrick nói.”

“Ông ấy nói mã số cho cô trước khi dẫn người làm báo động đi?”

Lại một lần nữa hắn phải hỏi vài lần Lechsinka mới hiểu. Khi đã hiểu ra, cô ta có vẻ hết kiên nhẫn.

“Có, tôi nói rồi mà. Một chín sáu sáu.”

“Vậy sau khi chùi xong trong này cô bật báo động trở lại?”

“Đặt báo động, có mà.”

“Cái người sửa báo động đó, trông anh ta ra sao?”

“Người sửa báo động hả? Trông sao hả?” Cô ta nhíu mày trông thật dễ thương, chiếc mũi nhỏ xinh chun lại, cô nhún vai. “Không thấy mặt. Nhưng mà màu xanh – màu xanh hết...” cô ta nói thêm, dùng cánh tay không cầm đám áo đầm quét một đường trên người mình.

“Mặc bộ đồ bảo hộ hả?” Strike gợi ý, nhưng cô tỏ ra không hiểu từ đó. “Được rồi, sau đó cô lau chùi ở đâu?”

“Nhà số 1,” Lechsinka đáp, vừa nói vừa tiếp tục công việc, bước quanh Strike để tìm ra đúng móc treo cho từng món. “Chùi cửa sổ lớn. Bà Bestigui nói chuyện điện thoại. Giận lắm. Buồn lắm. Nói là không muốn nói dối nữa.”

“Bà ấy không muốn nói dối nữa?” Strike lặp lại.

Lechsinka gật đầu, nhón chân để treo một chiếc áo đầm dài quét đất.

“Cô nghe bà ấy nói,” Strike lặp lại rõ ràng, “trên điện thoại, là bà ấy không muốn nói dối nữa?”

Lechsinka lại gật đầu, gương mặt thản nhiên ngây thơ.

“Rồi bà thấy tôi, la lên ‘Cút đi, cút đi!’”

“Thật hả?”

Lechsinka gật đầu tiếp, tay vẫn treo áo.

“Còn ông Bestigui lúc đó ở đâu?”

“Không có đó.”

“Cô có biết bà ấy nói chuyện với ai không? Nói trên điện thoại đó?”

“Không.” Nhưng rồi, Lechsinka nói tiếp, ra vẻ bí mật. “Đàn bà.”

“Đàn bà? Làm sao cô biết?”

“La hét. La hét trên điện thoại. Nghe đàn bà.”

“Cãi lộn à? Tranh cãi? Họ la hét với nhau? Lớn tiếng, hả?”

Strike nhận ra mình đang nói một cách kỳ quặc, cố tình nói chậm, nhấn nhá từ ngữ như một người Anh điển hình khi bối rối trước người nước ngoài không thạo tiếng Anh. Lechsinka lại gật đầu lần nữa, rồi mở ngăn kéo tìm chỗ cất cái thắt lưng, cũng là vật duy nhất còn sót trên tay. Cuối cùng sau khi đã cuộn và cất chiếc thắt lưng vào ngăn kéo, cô ta đứng thẳng người rồi bước ra, đi thẳng vào phòng ngủ. Strike bước theo sau.

Trong khi cô ta trải drap giường và sắp xếp lại hai chiếc bàn con cạnh giường, Strike tiếp tục hỏi và biết thêm được rằng hôm đó cô ta lau chùi căn hộ của Lula Landry sau cùng, sau khi cô người mẫu đã đi ra ngoài thăm bà mẹ. Cô ta không thấy có gì khác thường cả, cũng không thấy tờ giấy màu xanh nào, có viết chữ hay còn để trống. Lúc cô ta xong việc thì mấy cái túi cùng với đám quần áo cho Deeby Macc mà Guy Somé gởi đến cũng vừa được giao ở bàn trực. Hôm đó việc cuối cùng cô ta làm là mang quà của Guy Somé lên lầu, lần lượt đặt vào căn hộ của Lula và Macc.

“Sau khi để đồ ở trong hai căn hộ đó cô đều bật lại báo động hết?”

“Tôi đặt báo động, có hết.”

“Cả nhà của Lula nữa?”

“Có.”

“Một chín sáu sáu trong căn số Hai?”

“Có.”

“Cô có nhớ đem gì lên căn hộ của Deeby Macc không?”

Lechsinka phải ra dấu để diễn tả vài món đồ, nhưng cô ta vẫn làm cho Strike hiểu được là cô ta nhớ có đem lên hai chiếc áo, một cái thắt lưng, một cái mũ, một đôi găng tay và (cô ta làm động tác loay hoay quanh cổ tay) khuy măng-sét.

Lechsinka kể tiếp là sau khi để hết mấy món đồ đó vào phần kệ mở tủ áo quần để Macc có thể nhìn thấy ngay được, cô ta bật báo động và ra về.

Strike cảm ơn cô lao công rối rít, cố tình lần chần để ngắm cặp mông mặc quần jeans bó sát khi cô ta vuốt thẳng tấm chăn mềm, rồi mới quay trở ra hành lang với Robin và Wilson.

Khi cả ba đi lên dãy cầu thang cuối cùng, Strike kiểm tra lại câu chuyện của Lechsinka với Wilson, ông bảo vệ xác nhận là có nhờ nhân viên bảo trì cài mã số 1966 trên báo động, giống như cửa trước nhà.

“Tui chỉ chọn số nào để Lechsinka dễ nhớ, tại giống cửa trước. Nếu muốn sau đó Macc có thể tự cài lại số khác.”

“Anh có nhớ hôm đó nhân viên bảo trì trông như thế nào không? Anh có nói là anh ta đến đây lần đầu?”

“Còn trẻ lắm. Tóc dài chừng mày.”

Wilson chỉ lên cổ.

“Da trắng?”

“Ừa da trắng. Nhìn như chưa mọc râu.”

Cả ba đứng trước cánh cửa căn hộ số Ba, nơi từng là chỗ ở của Lula Landry. Tự dưng Robin thấy như có một luồng điện chạy qua người – vừa sợ hãi, vừa phấn khích khi Wilson mở cánh cửa sơn trắng muốt, trên cửa có một lỗ nhìn trộm lắp kính, cỡ bằng đầu đạn.

Căn hộ trên cùng được thiết kế khác với hai căn còn lại: nhỏ hơn nhưng thoáng hơn. Có vẻ như nó vừa được trang trí lại hoàn toàn với tông màu kem và nâu. Guy Somé có nói với Strike rằng chủ nhân nổi tiếng trước đây của căn hộ yêu thích màu săc; nhưng giờ đây trông căn hộ cũng lạnh lùng như một phòng khách sạn hạng sang. Strike im lặng, đi trước vào phòng khách.

Thảm lót sàn ở đây không làm bằng len mịn màng như dưới căn của Bestigui mà lại bằng sợi đay màu cát, hơi nham nhám. Strike quẹt bàn chân lên thảm, không để lai dấu vết hay lằn ranh nào cả.

“Sàn cũng như vậy khi Lula còn ở đây sao?” Hắn hỏi Wilson.

“Ừa. Cổ chọn vậy. Gần như mới nguyên nên họ giữ lại.”

Khác với ba ô cửa sổ dài ở dưới hai căn hộ còn lại, mỗi ô có một ban công riêng, căn hộ tầng trên cùng chỉ có hai cánh cửa lớn dẫn ra một ban công rộng. Strike mở khóa, đẩy cửa bước ra bên ngoài. Robin không thích nhìn hắn làm việc đó; sau khi liếc nhìn gương mặt trầm tĩnh của Wilson, cô quay lại nhìn mấy chiếc gối tựa và những tấm ảnh treo tường đen trắng, cổ không nghĩ đến việc xảy ngay tại đây ba tháng trước.

Strike nhìn xuống đường. Robin ắt hẳn sẽ rất ngạc nhiên nếu cô biết được những suy nghĩ của hắn hiện giờ không hề lạnh lùng, bình thản như cô vẫn tưởng.

Strike đang hình dung ra một người đang mất kiểm soát, chạy xô về phía Landry khi cô người mẫu đứng đó, thanh mảnh và xinh đẹp, trong bộ quần áo cô đã chọn để gặp một người khách mà cô rất mong gặp. Kẻ sát nhân mất trí giận dữ giằng co với Lula, cuối cùng dùng sức mạnh thô bạo của một người điên loạn ném cô xuống. Những giây Lula rơi xuống mặt đường bê tông, tắt thở trong lớp tuyết trông mềm mại nhưng chết chóc, hẳn phải dài vô tận. Lula đã đập loạn tay trong không khí trống trơn tàn nhẫn, cố tìm một chỗ bấu víu. Và rồi, không hề có thời gian để sửa chữa sai lầm, để giải thích, để trăn trối hay xin thứ tha, không hề có những thứ xa xỉ thường dành cho những kẻ may mắn có thời gian hấp hối, thân xác cô tan vỡ ngay trên mặt đường.

Người chết chỉ có thể lên tiếng qua miệng người còn sống, và qua những dấu hiệu rải rác họ để lại. Strike đã mường tượng ra cô người mẫu từ những dòng chữ cô viết cho bạn bè; hắn đã nghe thấy giọng cô trên điện thoại áp bên tai; nhưng giờ đây, khi nhìn xuống quang cảnh cuối cùng cô thấy trước khi lìa đời, hắn cảm thấy gần gũi lạ lùng với Lula. Sự thật đang chậm rãi hiện ra giữa một đám chi tiết rối rắm không liên quan với nhau. Hắn chỉ còn thiếu bằng chứng.

Điện thoại di động của Strike đổ chuông. Tên và số của John Bristow hiện ra, hắn nhấc máy trả lời.

“Chào anh John, cảm ơn anh đã gọi lại.”

“Không thành vấn đề. Có gì mới không?” Ông luật sư hỏi.

“Có thể có vài thứ. Tôi đã nhờ một chuyên gia xem qua máy tính của Lula, anh ấy tìm thấy một file nhiều hình ảnh bị xóa sau khi Lula chết. Anh có biết gì về chuyện đó không?”

Đáp lời hắn là sự im lặng hoàn toàn. Điều duy nhất khiến Strike biết được Bristow vẫn chưa dập máy là những tiếng động phía bên kia đầu dây.

Cuối cùng ông luật sư lên tiếng, giọng khác hẳn:

“Bị xóa sau khi Lula chết?”

“Chuyên gia máy tính nói vậy.”

Dưới đường một chiếc xe chậm rãi chạy đến, dừng lại ngay giữa đường, Một người phụ nữ mặc áo lông bước ra.

“Tôi... tôi xin lỗi,” Bristow nói, giọng vô cùng chấn động. “Chỉ là tôi sốc quá. Hay bên cảnh sát xóa file này?”

“Anh nhận máy tính lại khi nào?”

“À... hồi tháng Hai, tôi nhớ vậy, khoảng đầu tháng Hai.”

“File bị xóa vào ngày mười bảy tháng Ba.”

“Nhưng... nhưng thế thì thật vô lý. Không ai biết mật khẩu cả.”

“Rõ ràng là có người biết. Anh có nói là cảnh sát cho mẹ anh biết mật khẩu đúng không?”

“Mẹ tôi chắc chắn là không xóa...”

“Tôi không nói mẹ anh làm chuyện đó. Nhưng liệu mẹ anh có để máy tính mở lúc nào đó không? Hoặc đưa mật khẩu cho ai đó?”

Bristow hắn đang ở trong văn phòng. Hắn nghe thấy tiếng nói lao xao ở đầu dây bên kia và văng vẳng có cả tiếng phụ nữ đang cười.

“Cũng có thể là vậy,” Bristow chậm rãi lên tiếng. “Nhưng ai có thể xóa những tấm hình đó? Trừ khi... lạy Chúa, thật kinh khủng...”

“Chuyện gì kia?”

“Anh không nghĩ một trong mấy cô y tá đã xóa mấy tấm hình chứ? Để bán lại cho báo chí? Nhưng mà như vậy thì kinh quá... cô y tá...”

“Chuyên gia chỉ nói là mấy tấm hình bị xóa hết; không có gì cho thấy là chúng bị chép lại rồi đem giấu đi. Nhưng mà như anh nói đó, chuyện gì cũng có thể xảy ra.”

“Nhưng còn ai được nữa chứ... Ý tôi là tôi không muốn nghĩ y tá làm chuyện đó, nhưng còn ai có thể làm được? Chiếc máy tính ở chỗ mẹ tôi suốt, kể từ khi bên cảnh sát trả lại.”

“John, anh có biết mặt tất cả những người đến thăm mẹ anh trong vòng ba tháng trở lại đây không?”

“Tôi nghĩ là biết hết. Nhưng rõ là tôi cũng không chắc...”

“Đúng vậy. Khó ở chỗ đó.”

“Nhưng tại sao... tại sao lại làm vậy?”

“Tôi có thể nghĩ ra vài lý do. Nếu được, phiền anh hỏi lại mẹ anh mấy chuyện. Rất quan trọng, John à. Phiền anh hỏi trong khoảng giữa tháng Ba mẹ anh có bật máy tính không. Có ai trong những người khách đến thăm tỏ ra quan tâm tới nó không.”

“Tôi... tôi sẽ thử xem.” Giọng Bristow rất căng thẳng, nghe như sắp bật khóc. “Mẹ tôi giờ đang rất yếu.”

“Tôi rất tiếc,” Strike nói, đúng phép tắc. “Có gì tôi sẽ liên lạc với anh sớm. Tạm biệt.”

Hắn quay trở lại trong nhà, đóng cửa ban công, rồi hỏi Wilson.

“Derrick, anh có thể chỉ lại cho tôi xem hôm đó anh kiểm tra căn hộ này như thế nào không? Anh kiểm tra phòng nào trước?”

Wilson ngẫm nghĩ một lúc, rồi lên tiếng:

“Tui vô đây trước. Nhìn quanh, thấy cửa mở. Nhưng không đụng vô. Rồi,” ông ta ra hiệu cho Strike và Robin đi theo, “tui coi trong đây...”

Robin đi theo hai người đàn ông, để ý thấy cách Strike nói chuyện với ông bảo vệ hơi khác lúc trước. Hắn hỏi những câu đơn giản, khéo léo, tập trung vào những thứ Wilson đã cảm nhận hay đụng vào, mường tượng ra lúc Wilson đi quanh nhà.

Dưới sự dẫn dắt của Strike, điệu bộ của Wilson bắt đầu thay đổi. Ông ta bắt đầu diễn lại cách ông ta nắm thanh cửa, chồm người vào từng phòng, nhanh nhẹn nhìn quanh quất. Khi ông ta đến phòng ngủ duy nhất, Wilson diễn tả lại hành động chạy một cách chậm rãi, đáp ứng lại sự tập trung chú ý trên gương mặt của Strike. Ông ta quỳ xuống, diễn tả cách mình đã xem xét gầm giường, khi Strike hỏi thì nhớ thêm được là lúc đó dưới chân ông ta có một chiếc áo đầm nhàu nhĩ. Rồi ông ta diễn tả cách mình xoay người để kiểm tra phía sau cánh cửa trước khi chạy ra cửa trước. (Wilson giả vờ làm động tác chạy, hai cánh tay vung mạnh khi bước đi).

“Và sau đó,” Strike lên tiếng, mở cửa và ra hiệu cho Wilson bước qua, “anh bước ra…”

“Tui bước ra,” Wilson đồng ý, giọng trầm thấp, “rồi tui bấm nút thang máy.”

Ông ta giả vờ làm động tác bấm nút, rồi giả vờ đẩy hai cánh cửa ra, nôn nóng xem bên trong có gì.

“Không có gì cả... vậy là tui chạy xuống nhà lại.”

“Lúc đó anh nghe gì không?” Strike hỏi, đi theo Wilson, cả hai đều không để ý đến Robin đang đóng cửa căn hộ.

“Chỉ nghe xa xa... tiếng hai ông bà Bestigui la hét... rồi tui quay qua đây...”

Wilson đứng im trên cầu thang. Strike, dường như cũng đoán trước được, cũng dừng lại; Robin đi thẳng đâm sầm vào hắn, bối rối xin lỗi nhưng hắn đã đưa tay lên ra hiệu im lặng, hắn làm như thể Wilson đang tập trung hầu đồng.

“Rồi tui trượt chân té,” Wilson nói. Giọng ông ta sửng sốt. “Tui quên mất vụ đó. Tui trượt chân té, ngay đây. Té ra đằng sau. Ngồi xuống cái rầm. Có nước. Chỗ này. Mấy giọt nước. Ngay đây.”

Ông ta chỉ về phía cầu thang.

“Mấy giọt nước,” Strike lặp lại.

“Ừa.”

“Không phải tuyết.”

“Không.”

“Không phải dấu chân ướt.”

“Giọt nước. Giọt bự lắm. ở đây. Chân tui quẹo qua một bên rồi tui trượt ngã. Rồi tui đứng dậy ngay, tiếp tục chạy.”

“Anh có kể với cảnh sát về mấy giọt nước chưa?”

“Không. Tui quên mất. Tới giờ luôn. Tui quên mất tiêu.”

Một chi tiết từng khiến Strike mất ăn mất ngủ cuối cùng cũng sáng tỏ. Hắn thở dài thỏa mãn và nhe răng cười. Hai người còn lại nhìn hắn chằm chằm.

4

Hai ngày cuối tuần lại đến, ấm áp và trống trải. Strike ngồi bên cửa sổ, vừa hút thuốc vừa ngắm dòng người đi mua sắm dưới phố Denmark. Hắn để tập hồ sơ điều tra riêng trên đùi và bộ hồ sơ của cảnh sát trên bàn, viết ra tất cả những thông tin đã thu thập được.

Hắn nhìn tấm hình chụp mặt tiền tòa nhà số 18 buổi sáng hôm đó một lúc lâu. Strike nhận ra một điểm khác biệt rất nhỏ nhưng hắn thấy khá quan trọng khi so sánh mặt tiền tòa nhà lúc đó và ở thời điểm hiện tại. Thỉnh thoảng hắn chuyển sang làm việc trên máy tính, đầu tiên là tìm người đại diện của Deeby Macc rồi sau đó là kiểm tra giá cổ phiếu của công ty Albris. Cuốn sổ ghi chép đặt ngay bên cạnh, trang đang mở chi chít những câu mô tả vắn tắt và các câu hỏi bằng nét chữ sắc nhọn của Strike. Khi điện thoại di động đổ chuông, hắn cầm thẳng lên nghe mà không xem trước là ai gọi.

“À, anh Strike,” Peter Gillespie lên tiếng. “Hôm nay anh nghe máy, thật tử tế quá.”

“Ô, chào Peter,” Strike đáp. “Giờ ổng bắt anh làm luôn cả cuối tuần à?”

“Có nhiều người phải làm việc cả cuối tuần. Phải vậy thôi, gọi trong tuần anh đâu có trả lời trả vốn gì.”

“Dạo này tôi rất bận. Công việc nhiều.”

“Tôi hiểu. Nói vậy tức là anh sắp trả được tiền cho tụi tôi?”

“Tôi cũng mong vậy.”

“Anh cũng mong vậy?”

“Vâng,” Strike đáp. “Vài tuần tới tôi sẽ có đủ tiền trả anh một khoản.”

“Anh Strike. Thái độ của anh làm tôi kinh ngạc. Anh hứa sẽ trả ông Rokeby hàng tháng, mà giờ đây anh đã trả chậm tổng cộng là...”

“Tôi không thể trả bằng tiền mà mình chưa có. Nếu anh chịu đợi thêm, tôi sẽ trả hết. Thậm chí trả nguyên một cục.”

“Tôi e là không được. Trừ khi anh trả hết phần bị chậm...”

“Gillespie,” Strike nói, mắt nhìn bầu trời sáng rực ngoài cửa sổ, “tôi với anh đều hiểu rằng Jonny già sẽ không đi kiện thằng con-thương-binh-một-cẳng chỉ để lấy lại món tiền không bằng tiền mua xà bông cho tay quản gia nhà ông ta. Tôi sẽ trả hết, trả cả tiền lời nữa, chỉ trong vòng hai tháng tới, ổng tha hồ tộng hết đám tiền đó vô đít rồi đốt sạch nếu ổng muốn. Anh cứ nói với ổng như vậy, còn bây giờ anh biến quách cho tôi nhờ.”

Strike dập máy, để ý thấy lần này hắn đã không thực sự nổi nóng, nhưng vẫn có chút hả hê.

Hắn tiếp tục làm việc đến đêm khuya, ngồi ở chiếc ghế mà giờ đây hắn đã quen nghĩ là chỗ ngồi riêng của Robin. Trước khi nghỉ tay, hắn gạch chân ba lần dưới dòng chữ “Khách sạn Malmaison, Oxford” và khoanh vòng thật đậm quanh cái tên “J.P. Agyeman”.

Nước Anh đang chuẩn bị cho ngày bầu cử sắp đến. Tối Chủ nhật Strike lên giường khá sớm, bật chiếc TV nhỏ xem tin tức về những vụ nói hớ trong ngày, các màn cãi qua cãi lại, những lời hứa hẹn trước bầu cử của giới chính trị gia. Dường như bản tin nào hôm đó cũng ảm đạm. Công nợ của chính phủ Anh lớn đến độ dân thường không ai hiểu nổi. Sắp đến ngân sách sẽ bị cắt giảm hàng loạt, Đảng nào thắng cũng vậy. Thi thoảng, ngôn từ lắt léo của lãnh đạo các Đảng đang tranh cử lại khiến Strike nhớ đến mấy vị bác sĩ phẫu thuật lúc họ dặn dò rằng có thể hắn sẽ bị đau; mặc dù bản thân họ sẽ chẳng bao giờ hiểu được cái đau ấy đến mức nào.

Sáng thứ Hai Strike đi đến chỗ hẹn ở quận Canning Town để gặp Marlene Higson, mẹ ruột của Lula Landry. Cũng khá rắc rối Strike mới sắp xếp được cuộc hẹn này. Alison, thư kí của Bristow đã đưa số điện thoại của Higson cho Robin. Strike đích thân gọi để xin cuộc hẹn. Ban đầu mặc dù hơi thất vọng vì Strike không phải là nhà báo, bà ta vẫn đồng ý gặp. Nhưng sau đó bà ta gọi điện lại cho văn phòng hai lần: đầu tiên để hỏi liệu Strike có chịu trả tiền vé tàu xe cho bà ta đi vào trung tâm London không, Robin trả lời là không. Sau đó bà ta gọi ngay lại, đùng đùng đòi hủy cuộc hẹn. Strike đích thân gọi lần thứ hai thuyết phục một hồi, bà ta đồng ý gặp tại quán bia ở gần nhà. Nhưng ngay sau đó Higson gọi lại cho Strike, để lại tin nhắn hủy cuộc hẹn, giọng có vẻ bực bội.

Strike gọi lần thứ ba. Hắn nói rằng điều tra đang đi vào giai đoạn cuối, sau đó tất cả các chứng cứ sẽ được công khai, lúc đó chắc chắn giới báo chí sẽ lại nhảy vào. Vậy nên nếu bà ta không muốn gặp thì hắn cũng thông cảm được, vì như vậy báo chí sẽ để bà ta yên. Ngay lập tức Marlene Higson đổi ý, muốn kể cho Strike tất cả những gì bà ta biết. Trước sự thống thiết của bà ta, Strike tỏ vẻ xuôi lòng và chấp nhận hẹn gặp ở vườn bia quán Ordance Arms vào sáng thứ Hai như đã hẹn trước.

Hôm đó hắn đi tàu ra quận Canning Town. Trạm tàu Canning Town nhỏ bé, có thể nhìn thấy được từ khu trung tâm tài chính Canary Wharf, nơi có những tòa nhà hào nhoáng sang trọng trông như phim khoa học viễn tưởng. Những tòa nhà đó sừng sững, to lớn như món nợ công khổng lồ của nước Anh, đứng từ xa không thể hình dung chúng lớn như thế nào. Nhưng chỉ đi bộ vài phút, Strike đã hoàn toàn bỏ lại sau lưng cái thế giới hào nhoáng đó. Quận Canning Town nhìn đâu cũng thấy nghèo nàn xập xệ, mặc dù nằm chen chúc ngay bên cạnh những dãy nhà ven sông, nơi có những căn hộ sang trọng hiện đại của giới nhà băng. Strike biết rõ Canning Town từ lâu bởi đây từng là chỗ của một người bạn trong giới giang hồ, cũng chính là người đã cung cấp cho hắn địa chỉ của Brett Fearney. Hắn đi dọc theo phố Barking, quay lưng về phía Canary Wharf, ngang qua một tòa nhà gần biển quảng cáo ghi chữ “kills 4 Communities” (Giết chóc vì cộng đồng), hắn hơi sững lại, trước khi nhận ra hẳn ai đó đã xóa mất chữ S trước chữ k- tấm biển quảng cáo đáng ra phải là “Skills 4 Communities” (Kĩ năng vì cộng đồng).

Quán Ordance Arms ở ngay bên cạnh Công ty Trách nhiệm hữu hạn môi giới Cầm đồ Anh quốc. Quán khá rộng lớn, trần thấp, sơn màu be. Nội thất bên trong quán có vẻ gọn gàng, thực dụng. Ngoài một dãy đồng hồ bằng gỗ treo trên tường màu đất sét và tấm thảm lót sàn màu đỏ có hoa văn bầm tía, chủ quán chẳng màng trang trí vẽ vời gì nữa. Trong quán có hai bàn billiard loại lớn, một quầy bar khá dài ở vị trí trung tâm, chung quanh khá thoáng, tiện cho khách ra vô lấy đồ uống. Mười một giờ sáng, quán vắng tanh, vị khách duy nhất là một người đàn ông lớn tuổi nhỏ bé ngồi khuất trong góc và một cô phục vụ mặt mày tươi tắn, thân mật gọi ông khách là “Joey” và nhanh nhẹn chỉ lối ra vườn sau cho Strike.

Vườn bia thực ra là sân sau lót bê tông, trông vô cùng ảm đạm. Trong “vườn” có mấy thùng rác và một chiếc bàn gỗ duy nhất. Một người đàn bà ngồi trên ghế nhựa màu trắng bên cạnh bàn. Bà ta bắt chéo cặp giò múp míp, cầm điếu thuốc ngang mặt. Trên mấy bức tường cao bao quanh có gắn kẽm gai cuộn bảo vệ. Một cái túi ni lông bị vướng vào đó, bay sột soạt trong gió. Bên kia bức tường là một dãy nhà chung cư sừng sững, sơn vàng. Ban công khu chung cư treo đầy quần áo đồ đạc lếch thếch, nhìn đâu cũng thấy dơ dáy nghèo khổ.

“Bà Higson?”

“Chú em gọi tui là Marlene được rồi.”

Bà ta nhìn hắn từ đầu tới chân, ra vẻ sành sỏi, chậm rãi mỉm cười. Marlene mặc áo sát nách màu hồng bằng vải thun Lycra, khoác ngoài một chiếc ao thun dày liền mũ màu xám có khóa kéo, bên dưới mặc quần tất ôm sát hơi ngắn, để lộ một khúc cổ chân trắng nhợt. Đôi dép xỏ ngón bà mang trông dơ dơ nhưng các ngón tay đeo đầy nhẫn vàng. Tóc cũng nhuộm vàng, lộ vài phân chân tóc màu nâu đã ngả bạc, được cột túm lại phía sau bằng một cái cột tóc vải lùm xùm như khăn tắm đã ngả màu cháo lòng.

“Bà uống gì để tôi mua?”

“Nếu anh đã ép vậy thì cho một vại Carling.”

Cái kiểu bà ta uốn éo người về phía Strike, gạt vài sợi tóc xơ xác rũ xuống bọng mắt, và cả cách bà ta cầm điếu thuốc đều toát lên vẻ điệu đàng lố bịch. Có lẽ bà ta luôn cư xử như vậy trước mặt đàn ông. Strike thấy vừa mủi lòng vừa ghê tởm.

“Sốc hả?” Marlene Higson lên tiếng, sau khi Strike đem bia về lại bàn cho cả hai. “Hồi lúc tui đem cho nó đi cũng y vậy. Lúc đó tui đau lòng lắm chứ, nhưng mà nghĩ thôi thì để nó được sung sướng. Còn không tui làm sao đành lòng làm chuyện đó. Tui cứ nghĩ để nó có những thứ tui không có. Tui nghèo từ nhỏ. Hồi đó trong tay chẳng có gì, nhẵn như chùi.”

Bà ta nhìn đi chỗ khác, cầm điếu thuốc Rothman rít một hơi thật sâu, lúc đó trông miệng bà ta nhăn nhúm y hệt đít mèo.

“Tay Dez bồ tui cũng chẳng thiết gì nó... anh biết đó, nó là dân da màu, rõ ràng không phải con ảnh. Càng lớn da nó càng đen, chứ lúc mới sinh nó cũng như con nít da trắng thôi. Nhưng không đời nào tui đem nó đi cho, nếu tui không nghĩ làm vậy thì nó có cơ được sung sướng. Tui nghĩ nó cũng sẽ không nhớ gì tôi, tại lúc đó nó còn nhỏ quá. Tui làm vậy để tốt cho nó, rồi biết đâu sau này khi nó lớn lên nó sẽ đi tìm tui. Mơ ước vậy mà thành sự thật,” bà ta nói thêm, làm bộ xúc động mãnh liệt. “Nó đi tìm tôi thiệt.”

“Để tui kể anh nghe chuyện này rất lạ,” bà ta tiếp tục thao thao, không thèm nghỉ lấy hơi. “Ngay một tuần trước khi nó gọi điện lần đầu cho tui, một anh bạn có hỏi tui ‘Cưng biết cưng giống ai không?’ Rồi ảnh nói tên nó. Tui chỉ nói ‘Dớ dẩn vừa thôi,’ nhưng ảnh lại nói tiếp, ‘Thiệt mà. Ngay con mắt, rồi hàng chân mày nữa, thấy chưa?”

Bà ta nhìn Strike, chờ đợi nhưng hắn không thể thốt ra tiếng nào. Gương mặt Nữ hoàng Nefertiti làm sao bà con gì với cái mớ xám xịt tai tái này.

“Nhìn ảnh tui hồi trẻ thì sẽ thấy,” bà ta nói tiếp, giọng hơi dỗi. “Cái chính là, tui cho đi để nó được sung sướng, vậy mà họ giao nó cho cái đám chó đẻ đó, vô phép anh tui nói vậy. Nếu biết trước tui đã giữ nó lại, tui có nói vậy với nó. Nghe tui nói vậy nó khóc luôn. Phải chi tui đừng bao giờ đem cho, để lại mà nuôi.

“Có chứ. Nó nói chuyện với tui hoài. Tâm sự nhiều lắm. Ông cha nuôi cũng tốt, Ngài Alec đó. Nghe kể cũng được. Nhưng bà mẹ ghê gớm lắm. À, vụ thuốc men. Uống thuốc liên tục. Thì kiểu mấy con mụ nhà giàu rảnh quá suốt ngày uống thuốc an thần. Anh thấy đó, Lula nói chuyện được với tui. Hai mẹ con quấn quít lắm. Ta nói, máu mủ ruột rà mà.

“Nó rất sợ không biết mụ già sẽ làm gì nếu biết nó đi tìm mẹ ruột. Nó lo lắm, sợ mụ ta lên cơn khi báo chí tìm ra tui, nhưng anh thấy đó, người nổi tiếng như nó thì rồi chuyện gì báo chí cũng biết, chẳng phải vậy sao? Trời ơi, báo chí bịa đâu ra đủ thứ chuyện. Nhứt là về tui. Giờ nghĩ lại tui còn muốn đi kiện.”

“Đang nói tới đâu rồi? À, bà mẹ nuôi nó. Tui nói với Lula, ‘Tại sao phải lo lắng hả cưng, bỏ luôn bà đó thì càng tốt chứ sao. Cứ kệ cho bả tức nếu bả không muốn hai mẹ con mình gặp nhau.’ Nhưng Lula là đứa có hiếu, thường xuyên thăm viếng bả, cho đúng bổn phận vậy mà.

“Nhưng dù sao thì nó cũng có cuộc sống riêng, tự do làm những việc nó muốn, không phải vậy sao? Nó còn có thằng Evan. Nói thiệt với anh, tui có nói là tui không chịu thằng đó,” Marlene Higson kể lể, làm bộ nghiêm nghị đứng đắn. “Gì chứ nghiện ngập thì tui biết quá rồi, nhiều đứa tan nát hết. Nhưng tui phải công nhận rằng thằng nhỏ coi vậy mà tốt tính. Tui phải công nhận vậy đó. Chuyện vừa rồi không dính gì đến Evan cả. Tui cam đoan luôn.”

“Bà gặp anh ta rồi à?”

“Chưa, nhưng có lần Lula điện cho Evan lúc đang ở chỗ tui. Tui có nghe hai đứa nó nói điện thoại với nhau, nghe dễ thương lắm. Không, tui không nghĩ gì xấu cho Evan cả. Rõ là không dính gì tới thằng nhỏ, có chứng cứ rồi còn gì. Tui không nghĩ gì xấu cho nó cả. Miễn là bỏ ma túy đi thì tui chịu hết. Tui có nói với Lula, ‘Dẫn nó tới đây cho mẹ xem có được không,’ nhưng Lula chẳng bao giờ dẫn Evan tới. Nó bận lắm. Tóc tai lôi thôi vậy chứ Evan trông bảnh lắm,” Marlene nói. “Anh nhìn hình cũng thấy đó.”

“Lula có kể gì với bà về mấy người hàng xóm không?”

“Ồ, tay Fred Beastigwee hả? Có, nó nói hết, nói là tay đó có mời đóng phim. Tui nói, tại sao không? Đóng cho vui mà. Nếu không thích thì vẫn có thêm được nửa triệu bỏ túi, chớ gì?”

Bà ta nheo đôi mắt đỏ ngầu; ngây ra trong giây lát khi nghĩ đến con số hấp dẫn khổng lồ mà xa vời như ảo ảnh vô tận. Chỉ nói đến món tiền đó cũng khiến Marlene mơ mộng lâng lâng.

“Lula có nói gì về Guy Somé không?”

“Có chứ, con bé quý Gee, ổng thương nó lắm. Nhưng tui thích mấy thứ hơi cổ điển chút. Đồ của Gee không hơp với gu của tui.”

Lúc bà ta chồm người ra trước để điệu đàng khảy điếu thuốc vào gạt tàn, mấy nếp gấp xuất hiện trên chiếc áo Lycra màu hồng chóe bó chặt lấy khúc mỡ bụng chỉ chực trào ra ngay lưng quần.

“‘Anh ấy như anh trai của con vậy’ Lula nói về Gee như vậy đó, rồi tui nói, cần gì anh nuôi, sao không đi tìm mấy thằng con của tui luôn? Nhưng nó không quan tâm mấy.”

“Mấy cậu con bà?”

“Ờ thì mấy đứa con khác của tui. Sau Lula tui sinh thêm hai đứa nữa, một đứa với Dez, một đứa với người khác. Bên Bảo trợ Xã hội đem tụi nó đi hết, nhưng tui nói với Lula, có tiền thì đi tìm được thôi, chỉ cần cho tui một ít, đôi ba ngàn bảng gì đó, rồi tui sẽ nhờ người đi tìm tụi nó, giữ kín với báo chí, để đó mình tui làm, nó không phải đụng gì tới. Nhưng nó chẳng mặn mà gì.” Marlene lặp lại.

“Bà có biết hai người này hiện giờ ở đâu không?”

“Hồi họ đem đi tụi nó còn nhỏ xíu, không biết bây giờ đã ở đâu rồi. Lúc đó tui gặp nhiều chuyện rắc rối. Tui cũng không giấu anh làm gì. Đời tui khổ lắm.”

Rồi bà ta kể lể dài dòng về cuộc đời “khổ lắm” đó của mình. Một chuỗi những cùng cực với những tay “chồng” vũ phu, nghiện ngập, dốt nát, trốn tránh trách nhiệm. Rồi sự túng bần và bản năng sống còn hoang dại xui khiến bà ta vứt bỏ con cái, vì việc nuôi dạy chúng đòi hỏi những kỹ năng mà bà ta chưa bao giờ có được.

“Vậy bây giờ bà không biết hai người con trai đang ở đâu?” Strike lặp lại, đúng hai mươi phút sau.

“Không, làm thế quái nào tui biết được?” Marlene đáp, sau một hồi kể lể bà ta trở nên cay cú hằn học. “Con nhỏ cũng không quan tâm gì. Nó đã có một thằng anh da trắng còn gì? Nó chỉ muốn đi kiếm ruột rà da đen thôi. Nó chỉ cần có vây.”

“Lula có hỏi gì bà về cha ruột không?”

“Có, tui biết gì nói hết. Ổng là sinh viên người châu Phi. Hồi đó, ổng thuê nhà trên gác, tui ở ngay tầng dưới, nhà trên đường Barking đây thôi. Ổng ở chung với hai người nữa. Chỗ đó giờ người ta đặt làm tiệm cá cược ở tầng dưới. Ổng đẹp trai lắm. Mấy lần tui đi chợ về có ra xách đồ giùm một tay.”

Trong câu chuyện của Marlene Higson, mối tình đó đứng đắn chừng mực, đầy đủ phép tắc như thời Victoria. Trong mấy tháng đầu tiên hai người không làm gì xa xôi hơn mấy cái bắt tay.

“Rồi thì, tại ổng giúp tôi hoài đó, nên một bữa tui mời ổng vô nhà, để cảm ơn vậy thôi anh hiểu không. Tui không bao giờ có thành kiến với dân da đen. Với tui ai cũng bình đẳng. Mời vô nhà uống ly trà trà thôi không có gì hết, tui nói vậy đó. Rồi thì,” Marlene nói tiếp, cho sự thật phũ phàng giáng rầm xuống những tách trà đặt trên đám khăn lót đĩa xinh xinh vừa tưởng tượng ra, “sau đó tui có bầu.”

“Bà có nói với ông ấy không?”

“Có chứ, ổng hứa hẹn sẽ giúp đỡ, đứng ra gánh vác, để làm sao cho tui ổn thỏa. Lúc đó vừa nghỉ hè. Ổng nói là sẽ quay lại,” Marlene nói, giọng đầy khinh bỉ. “Nhưng cút thẳng một mạch. Thì cũng có gì mà lạ? Rồi tui biết làm gì hơn, không lẽ đi châu Phi kiếm ổng?”

“Nhưng tui cũng không hề hấn gì, không đau khổ mấy vì lúc đó tui cũng vừa quen Dez. Ảnh không ngại đứa nhỏ. Sau khi Joe bỏ đi thì tôi dọn vô ở chung với Dez.”

“Joe?”

“Tên ổng. Joe.”

Bà ta nói ra vẻ chắc chắn như đinh đóng cột nhưng Strike cảm thấy dường như bà ta đã lặp đi lặp lại cái tên bịa đó quá nhiều lần, thành thử lời nói cứ trơn tuồn tuột.

“Họ của ông ấy là gì?”

“Tui nhớ làm quái nào được. Anh hỏi giống y như Lula. Hơn hai mươi năm rồi còn gì. Mumumba,” Marlene Higson nói bừa, không chút bối rối. “Hay đại loại vậy.”

“Có phải là Agyeman không?”

“Không.”

“Owusu?”

“Tui nói rồi,” bà ta trở nên hung hăng, “Mumumba hay cái gì đại loại vậy.”

“Không phải Macdonald? Hay Wilson chẳng hạn?”

“Anh giỡn hả? Macdonald? Wilson? Từ Châu Phi?”

Strike kết luận mối tình của Higson chưa đến giai đoạn hai bên kịp biết họ tên đầy đủ của nhau.

“Lúc đó ông ấy là sinh viên à? Ông ấy học ở đâu vậy?”

“Đại học,” Marlene đáp.

“Trường nào, bà nhớ không?”

“Tui đếch biết. Xin điếu thuốc được không?” Bà ta nói thêm, giọng hơi dịu lại.

“Vâng, bà cứ tự nhiên.”

Marlene rút ra một cái bật lửa nhựa để châm thuốc rồi làm luôn vài hơi. Điếu thuốc miễn phí làm bà ta mềm mỏng lại một chút:

“Hình như có liên quan gì đó tới bảo tàng. Liên kết gì đó, đại loại vậy.”

“Liên kết với bảo tàng?”

“Ừa, tại tui nhớ ổng có nói ‘Thỉnh thoảng có thời gian rảnh rỗi tôi đi thăm bảo tàng.’” Bà ta giả giọng, cứ nghe theo đó thì người sinh viên từ Châu Phi này nói năng giống hệt một quý ông thượng lưu người Anh. Nói rồi, bà ta tủm tỉm cười, như thể đi bảo tàng là chuyện lạ lùng lố bịch lắm.

“Bà có nhớ là ông ấy hay đi bảo tàng nào không?”

“Bảo... bảo tàng Anh quốc hay đại loại như vậy,” bà ta đáp, rồi sau đó bực tức nói thêm, “Anh y hệt như Lula. Làm thế quái nào mà tui nhớ hết mấy chuyện như vậy?”

“Bà không bao giờ gặp lại ông ấy nữa sau khi ông ấy về nước nghỉ hè?”

“Không.” Bà ta đáp. “Mà tui cũng không mong gì.” Bà ta nốc bia, nói tiếp. “Chắc chết đâu rồi.”

“Tại sao bà lại nói vậy?”

“Châu Phi mà, đúng không?” Bà ta đáp thản nhiên. “Chắc là bị trúng đạn chết? Hay chết đói. Hay gì nữa. Châu Phi mà, anh biết đó.”

Đúng là Strike từng biết Châu Phi. Hắn nhớ đến những con đường nhung nhúc người ở Nairobi, quang cảnh rừng mưa nhiệt đới của Angola nhìn từ trên máy bay, những ngọn cây phủ đầy sương mù và cảnh đẹp hút hồn hiện ra khi máy bay đổi hướng: một thác nước chảy đổ xuống triền núi xanh mướt. Rồi cả người đàn bà dân tộc Masai ngồi trên thùng giấy cho con bú trong khi hắn tỉ mỉ đặt câu hỏi điều tra về cáo buộc hiếp dâm còn Tracey cầm máy quay phim đứng ngay bên cạnh.

“Lula có cố gắng đi tìm cha ruột không?”

“Có, nó có cố tìm thiệt.” Marlene hờ hững đáp.

“Tìm như thế nào?”

“Nó tìm trong giấy tờ bên trường Đại học,” Marlene đáp.

“Nhưng nếu bà không nhớ ông ấy học trường nào...”

“Tui không biết, hình như Lula kiếm ra trường của ổng, nhưng mà không kiếm ra ổng đâu. Chắc tui không nhớ chính xác tên ổng, tui cũng không biết nữa. Lula cữ lẵng nhẵng hỏi suốt: trông ổng ra sao, ổng học cái gì. Tui trả lời là ổng cao, người gầy gầy, đáng ra nó phải mừng vì lỗ tai nó giống tui, chứ tai voi như ổng thì còn lâu mới làm người mẫu người miếc gì được.”

“Lula có hay nói gì về bạn bè của cô ấy không?”

“Có chứ. Có một con ranh người da đen, Raquelle hay cái quỷ gì đó. Đeo theo Lula như đỉa hút máu. Giờ cũng ngon lành chán. Có đủ áo quần rồi vòng vèo rồi những gì gì nữa. Tui chỉ nói với Lula một lần, ‘Mẹ khoái một cái áo khoác mới.’ Nhưng tui không có xin xỏ gì, anh thấy đó. Con Requelle thì hở ra là xin.”

Bà ta hừ mũi, uống cạn ly bia.

“Bà gặp Rochelle bao giờ chưa?”

“Hóa ra tên vậy hả? Ừ, có gặp một lần. Nó ngồi sẵn trong xe khi tài xế tới đón Lula ở chỗ tui. Ra vẻ bà lớn, nhìn tui bằng nửa con mắt chớ. Giờ thì chắc tiếc lắm. Cái đồ la liếm.

“Rồi cả con Ciara Porter.” Marlene kể tiếp, giọng còn khinh bỉ hơn, “chơi luôn bồ của Lula ngay trong đêm đó. Con đĩ ranh khốn nạn.”

“Bà có quen biết Ciara Porter không?”

“Tui thấy trên báo. Evan đi tới nhà nó, không phải vậy sao? Sau khi gây gổ với Lula. Đi thẳng tới nhà Ciara. Quá đáng mà.”

Marlene càng nói thì Strike càng thấy rõ là Lula chưa bao giờ để bà mẹ ruột gặp bạn bè của mình. Trừ lần nhìn thấy Rochelle chớp nhoáng, Marlene chỉ biết về họ qua mớ thông tin trên báo chí mà bà ta ắt hẳn đã đọc ngấu nghiến.

Strike đi mua thêm đồ uống, rồi nghe Marlene mô tả lại nỗi kinh hoàng và cú sốc khi nghe tin (do một người hàng xóm chạy xộc vào nhà báo ngay sáng sớm ngày 8 tháng Giêng) rằng con gái bà ta vừa ngã từ ban công xuống mặt đường chết ngay tại chỗ. Strike cẩn thận hỏi dò thì biết được thêm là hai tháng trước đó Lula không hề gặp bà mẹ ruột. Rồi bà ta tuôn một tràng chửi rủa cách gia đình nhận nuôi của Lula đối xử với mình sau đó.

“Họ không muốn có tui ở đó, nhứt là ông cậu khốn nạn của nó. Anh gặp ổng rồi chứ? Tony Landry đó? Tui gọi cho ổng hỏi về đám tang, nhưng toàn bị ổng dọa. Vậy đó. Dọa nạt đủ kiểu. Tui nói với ổng ‘Tui là mẹ nó, tui có quyền tới đó.’ Rồi ổng nói lại là tui không phải mẹ nó, mà mụ già hâm kia mới là mẹ nó, phu nhơn Bristow đó. Ngộ ghê hả, tui nói với ổng, tui nhớ là có rặn đẻ nó ra kia mà, nói vô phép anh nhưng đúng thế chứ gì nữa? Rồi ổng nói là tui đang gây rắc rối vì tui nói chuyện với báo chí. Nhưng tụi nó tới tận nhà tìm tui mà.” Bà ta giận dữ kể với Strike, chỉ tay dứt khoát về phía dãy chung cư bên cạnh. “Báo chí tới tìm tui. Vì tui kể chuyện của chính tui. Đương nhiên là tui kể rồi.”

“Tui không muốn làm lớn chuyện, nhứt là ở đám tang, tui không muốn phá cái gì hết, nhưng đừng có hòng đuổi tui đi. Tui có dự đám tang, ngồi ghế sau. Con khốn Rochelle cũng có ở đó, nhìn tui như thứ rác rưởi gì vậy. Nhưng sau đó thì không ai làm gì tui hết.

“Họ có được cái họ muốn rồi, cái gia đình khốn nạn đó. Tui chẳng được cái quái gì. Chẳng có cái khỉ khô gì cả. Lula có linh thiêng chắc nó buồn lắm, tui biết chắc vậy. Hẳn nó muốn để lại cho tui gì đó. Không phải,” Marlene nói, ra vẻ tự trọng “là tui quan tâm gì tới tiền nong. Với tui tiền bạc không là gì hết. Không có gì thay thế được con gái tui, mười triệu hay hai chục triệu cũng vậy.

“Nhưng nói thiệt với anh, Lula mà có linh thiêng chắc nó điên lắm nếu biết tui không được xu nào,” bà ta nói tiếp. “Cả đống tiền vậy mà; không ai tin chuyện tui trắng tay cả. Tiền nhà thì không trả nổi trong khi con gái ruột vừa chết đi để lại tiền triệu. Nhưng anh thấy đó. Cứ vậy nên người giàu mới giàu hoài, đúng không? Họ không cần tiền, nhưng có thêm chút đỉnh thì vẫn không chê. Tui không biết làm sao tay Landry cạn tàu ráo máng đó thảnh thơi ngủ ngon được, nhưng thôi, đó là việc của lão.”

“Lula có hứa hẹn để lại gì cho bà không? Cô ấy có bao giờ nhắc tới di chúc không?”

Gương mặt Marlene đột nhiên trở nên tươi tỉnh, khấp khởi hy vọng.

“Có chứ, nó nói sẽ lo hết cho tui mà. Đúng vậy, nó nói là sẽ lo cho tui ổn thỏa. Anh nghĩ tui có nên nói lại vụ đó với ai không? Nói rõ ra như vậy đó?”

“Tôi không nghĩ làm vậy sẽ thay đổi được chuyện gì, trừ khi cô ấy làm sẵn di chúc trong đó có nhắc tới bà.” Strike đáp.

Mặt bà ta xịu ngay xuống, sưng sỉa trở lại.

“Chắc đám đó đốt quách cái di chúc rồi, đồ khốn nạn. Dám lắm. Đám đó cùng một giuộc mà. Tui không tin nổi có gì lọt qua khỏi tay ông cậu già dịch đó.”

5

“Tôi rất tiếc vì anh ấy vẫn chưa gọi lại cho chị,” Robin nói với người bên kia đầu dây đang ở cách văn phòng hơn chục cây số. “Anh Strike hiện giờ rất bận. Để tôi ghi lại tên và số của chị rồi nhắc anh ấy gọi lại cho chị ngay chiều nay.”

“Ồ, không cần làm vậy đâu,” bên kia đầu dây lên tiếng. Giọng cô ta nghe dễ chịu, kiểu người có học thức, thoáng chút khàn khàn khiến người ta liên tưởng ngay đến một giọng cười rất gợi cảm, táo bạo. “Thực ra tôi không cần nói chuyện với anh ấy. Phiền cô chuyển giùm lời nhắn vậy? Tôi chỉ muốn báo trước cho anh ấy thôi. Trời đất, vụ này... thật là xấu hổ quá; tôi không muốn làm kiểu vậy chút nào... Thôi thì. Phiền cô nhắn lại rằng Charlotte Campbell gọi để báo tin đính hôn với Jago Ross. Tôi không muốn anh ấy nghe được tin này từ một người nào khác, hay phải đọc báo thấy. Bố mẹ Jago vừa mới đi đăng tin trên tờ Times. Thật là ngại quá.”

“Ồ, được rồi,” Robin đáp, đầu óc cô đột nhiên sững lại, bàn tay đang cầm cây viết cũng vậy.

“Cảm ơn cô nhiều lắm, Robin – phải tên cô vậy không? Cảm ơn. Chào cô.”

Charlotte dập máy trước. Robin từ từ đặt ống nghe xuống, vô cùng hoang mang. Cô không muốn chuyển lời của Charlotte một chút nào. Mặc dù Robin chỉ là người báo tin, cô vẫn cảm thấy như mình đang giáng một đòn xuống Strike, trúng ngay vào quyết tâm muốn giữ kín mọi chuyện riêng tư của hắn, từ đám thùng giấy đựng đồ, chiếc giường xếp, đến cả mấy vỏ hộp đồ ăn trong thùng rác mỗi sáng – những thứ hắn không bao giờ nhắc đến.

Robin ngồi suy tính. Cô có thể lơ luôn nội dung của tin nhắn, chỉ cần nhắc Strike gọi lại cho Charlotte, để cô ta tự làm cái việc dơ bẩn đó (Robin cho là thế). Nhưng mà nếu Strike không chịu gọi, rồi ai đó nói lại vụ đính hôn với hắn thì sao? Roin không cách gì biết được liệu Strike và người cũ (bồ? Vợ sắp cưới? Vợ đã cưới?) có nhiều bạn chung không. Nếu cô và Matthew chia tay và anh ấy đính hôn với một người đàn bà khác (chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng khiến Robin thấy nhói cả lòng), tất cả bạn bè và người thân của cô hẳn sẽ quan tâm và tìm cách báo ngay cho cô biết. Nếu vậy, Robin nghĩ thầm, cô vẫn muốn được cảnh báo trước, càng kín đáo và riêng tư càng tốt.

Vậy nên, một tiếng sau đó, khi nghe tiếng Strike đang đi lên cầu thang, vừa đi vừa nói điện thoại, có vẻ rất hồ hởi, Robin lại thấy quặn cả ruột gan, như thế chuẩn bị bước vào phòng thi. Khi Strike đẩy cánh cửa gương bước vào, hắn không cầm điện thoại mà đang đọc rap lẩm bẩm trong miệng. Robin càng cảm thấy tệ hại hơn nữa.

“Kệ mẹ thuốc men và kệ mẹ Johari,” Strike vẫn lẩm bẩm, kẹp một cái quạt điện còn đựng trong hộp dưới cánh tay. “Chào cô.”

“Chào anh.”

“Chắc phải dùng cái này. Trong này bí quá.”

“Đúng rồi, có quạt sẽ đỡ hẳn.”

“Trong cửa hàng bật nhạc Deeby Macc,” Strike nói, đặt cái quạt xuống góc phòng và cởi áo khoác. “Cái gì mà Ferrari, rồi kệ mẹ thuốc men, kệ mẹ Johari.” Không biết Johari là ai nhỉ? Một tay rapper khác có thù oán gì với ông ta chăng? Cô nghĩ sao?”

“Không phải,” Robin đáp, thầm ước giá mà hôm nay tâm trạng Strike không phấn khởi như vậy. “Johari là một thuật ngữ tâm lý. Cửa sổ Johari. Nói về chuyện chúng ta hiểu bản thân mình như thế nào, rồi người khác hiểu chúng ta ra sao.”

Strike sựng người lại, tay vẫn treo dở cái áo, nhìn cô chằm chằm.

“Đừng nói cô đọc vụ đó trên tạp chí Heat chứ?”

“Không. Tôi học Tâm lý hồi ở Đại học. Nhưng bỏ giữa chừng.”

Tự dưng Robin thấy nói chuyện đó khiến cô và hắn giờ ngang hàng về những thất bại trong cuộc sống riêng, như vậy sẽ dễ báo tin xấu kia hơn.

“Cô bỏ giữa chừng?” Strike tỏ vẻ quan tâm, khác hẳn với thường ngày. “Thật là trùng hợp, tôi cũng vậy. Mà sao ông ta lại nói là kệ mẹ Johari?”

“Hồi ở tù Deeby Macc được điều trị tâm lý nên rất quan tâm tới chủ đề đó, đọc khá nhiều về tâm lý học. Vụ đó thì tôi đọc trong báo,” cô nói thêm.

“Cô đúng là một kho tàng thông tin.”

Roobin lại nhói cả lòng.

“Lúc anh đi ra ngoài có người gọi. Một chị tên là Charlotte Campbell.”

Hắn ngước lên ngay, nhíu mày.

“Chị ấy nhờ tôi nhắn lại anh là,” Robin nhìn ngang tránh mắt hắn, chỉ thoáng thấy vành tai của Strike, “chị ấy mới đính hôn với Jago Ross.”

Rồi không kiềm được, cô liếc nhìn mặt Strike và tự dưng cô thấy lạnh cả gáy.

Một trong những ký ức thơ ấu đầu tiên và sống động nhất của Robin là ngày chú chó già yếu của gia đình cô được đem đi tiêm thuốc để “giải thoát”. Robin còn quá nhỏ, không hiểu được bố cô đang nói gì; cô cứ nghĩ rằng Bruno, chú chó Labrador thân thiết của anh trai cô vẫn còn sống. Robin bối rối không hiểu vì sao hôm đó bố mẹ rất buồn bã, vậy là cô quay sang hỏi anh Stephen giờ phải làm sao. Câu hỏi của Robin khiến mọi sự bình yên trước đó vỡ ra tan tành. Lần đầu tiên trong đời Robin thấy gương mặt nhỏ nhắn, bình thường rất tươi tắn của anh trai cô trở nên tiu nghỉu không còn chút sinh khí. Đôi môi Stephen trở nên trắng bệch khi anh òa ra khóc. Trong khoảnh khắc im lặng trước khi Stephen nấc lân đau đớn, Robin nghe thấy sự chết chóc như đang gào rú. Khi đó cô đã khóc tức tưởi, không ai dỗ dành gì được, không phải vì Bruno đã chết mà vì thấy Stephen quá đau buồn.

Strike không đáp lại ngay. Một lúc sau, hắn lên tiếng, khó nhọc.

“Được rồi. Cảm ơn cô.”

Hắn đi thẳng vào văn phòng phía trong, đóng cửa lại.

Robin ngồi xuống bàn trở lại, cô thấy mình y hệt như tên đao phủ vừa mới xong việc. Cô không thể tập trung làm gì cả. Cô muốn đứng dậy đến gõ cửa phòng hắn, hỏi hắn có muốn uống trà không, nhưng rồi lại thôi. Năm phút sau đó cô lúng túng sắp xếp lại mấy món đồ trên bàn, thỉnh thoảng liếc nhìn cánh cửa phòng trong. Một lúc sau cửa mở, Robin giật nảy cả người, cúi xuống giả vờ đang bận rộn trên máy tính.

“Robin, tôi đi ra đây chút.” Hắn nói.

“OK.”

“Nếu năm giờ mà tôi chưa về thì cô cứ khóa cửa.”

“Vâng.”

“Hẹn ngày mai gặp lại.”

Strike vớ lấy áo khoác, cố tình sải chân thật mạnh mẽ nhưng vẫn không che nổi mắt Robin.

Những bãi đào đường lan ra như một vết thương. Mỗi ngày qua lại có thêm mấy đống gạch đá, rồi những tấm chắn tạm bợ để bảo vệ người đi bộ và mở lối qua những chỗ đào xới tan hoang. Strike không nhìn thấy gì cả. Hắn đi như vô hồn trên mấy tấm ván gỗ rung bần bật, thẳng về phía quán Tottenham, nơi giờ đây với hắn đã trở thành chỗ ẩn náu quen thuộc.

Cũng như quán Ordance Arms, quán Tottenham vắng tanh, trừ Strike ra chỉ có một người đàn ông lớn tuổi ngồi ngay sát lối vào. Strike mua một vại Doom Bar và ngồi xuống dãy ghế bọc da màu đỏ dựa vào tường, gần như ngay dưới hình thiếu nữ thời Victoria đang rải hoa, trông vừa ngọt ngào vừa ngớ ngẩn. Hắn uống bia như uống thuốc, không thấy ngon lành gì mà chỉ chờ say.

Jago Ross. Hẳn cô ta đã qua lại với gã lúc vẫn còn sống chung với Strike. Mặc dù Charlotte có sức quyễn rũ mê hoặc đàn ông đáng kinh ngạc, cô ta không thể nào đính hôn với gã kia sau vỏn vẹn ba tuần nối lại. Ắt hẳn cô ta đã dan díu trước với Jago, trong khi miệng luôn thề thốt yêu thương Strike.

Như vậy cơn thịnh nộ cô ta giáng xuống hắn một tháng ngay trước khi chia tay, rồi chuyện cô ta từ chối không đưa ra bằng chứng rõ ràng, rồi chuyện liên tục tính nhầm ngày tháng “khó ở” đều có thể được giải thích theo một cách khác. Một kết luận bất ngờ.

Jago Ross trước đó đã từng có vợ. Cả con cái nữa. Charlotte nghe người ta đồn rằng gã này rượu chè be bét. Khi ấy cô ta vừa cười vừa nói với Strike rằng mình thật may mắn không dính phải gã. Cô ta còn thấy tội nghiệp cho vợ của Jago.

Strike mua vại bia thứ hai, rồi thứ ba. Hắn muốn dập tắt ngay sự thôi thúc muốn đi tìm cô ta, để mà gào lên cho thỏa lòng, rồi tộng một cú thật mạnh vào quai hàm của Jago Ross.

Từ lúc ở quán Ordance Arms cho đến bây giờ hắn vẫn chưa ăn gì cả. Lâu lắm rồi Strike mới uống nhiều như vậy. Chưa tới một tiếng đồng hồ ngồi uống tì tì hắn đã say khướt.

Ban đầu khi bóng người gầy gầy xuất hiện trên bàn, hắn chẳng thèm ngước lên, lè nhè rằng là ai thì cũng nhầm người nhầm bàn rồi.

“Không, không nhầm gì cả,” Robin nói dứt khoát. “Anh ngồi đó, tôi đi mua một ly, được không?”

Hắn mơ màng nhìn túi xách của cô đặt ngay trên ghế. Chiếc túi màu xanh nâu hiền lành, trông hơi cũ. Robin vẫn thường treo túi lên móc treo áo khoác trong văn phòng. Hắn mỉm cười thân thiện với cái túi, rồi lại nốc bia.

Ở quầy bar anh chàng phục vụ trẻ tuổi, trông hơi rụt rè nói với Robin: “Tôi nghĩ chắc ảnh uống đủ rồi dó.”

“Đâu phải tại tôi,” cô hơi cáu.

Cô đi tìm Strike, đầu tiên là trong quán Intrepid Fox, cũng là quán gần văn phòng nhất, rồi đến quán Molly Moggs, rồi đến quán Spice of Life, và cả quán Cambridge. Quán Tottenham cũng là nơi cuối cùng cô đến tìm.

“Có chiện gì hở?” Strike lè nhè hỏi khi cô vừa ngồi xuống.

“Không có gì hết,” Robin đáp, nhấp một ngụm từ ly bia nhỏ. “Tôi chỉ muốn xem anh có ổn không thôi.”

“Tôi ổn.” Strike đáp, rồi cố nói rõ ràng. “Tôi ổn mà.”

“Vậy thì tốt.”

“Chỉ là đi uống bia mừng vợ chưa cưới của tôi đính hôn trở lại,” hắn nói, tay nâng vại bia thứ mười một lên. “Đáng ra cô ta đừng bao giờ đá thằng đó thì hơn. Đừng bao giờ...”, hắn nói rõ ràng, lớn giọng, “... đá thằng đó hết. Đá.Ngài.Jago Ross. Một thằng đểu xuất chúng.”

Hắn gần như hét lên mấy từ cuối cùng. Lúc này trong quán khách khứa đã đông hơn nhiều so với khi hắn vừa đến, hầu như ai cũng nghe thấy hắn vừa nói gì. Trước đo nhiều người đã liếc nhìn hắn đầy nghi ngại. Dáng vẻ to con, mắt sùm sụp lầm lì và điệu bộ hung hăng của Strike khiến không ai dám ngồi gần hắn. Khi phải đi vệ sinh, người ta còn cố tình đi vòng để tránh bàn của hắn, cứ như thể cái bàn đó to gấp ba lần trên thực tế.

“Đi dạo không?” Robin gợi ý. “Kiếm gì đó ăn?”

“Cô biết sao không?” Hắn nói, chồm người về phía trước, khuỷu tay vẫn đặt ở trên bàn, sém đánh đổ cả vại bia. “Cô biết sao không, Robin?”

“Sao?” Robin hỏi lại, tay giữ vại bia của hắn. Tự dưng Robin muốn bật cười. Khách trong quán ngoái lại nhìn cả hai.

“Cô là một cô gái rất dễ thương.” Strike nói “Thiệt sự. Cô là người rất tử tế. Tôi biết mà,” hắn vừa nói vừa trịnh trọng gật gù. “Thiệt. Tôi có để ý thấy vậy.”

“Cảm ơn anh,” Robin mỉm cười đáp, cố nhịn cười thành tiếng.

Hắn ngồi thẳng, nhắm mắt lại rồi nói:

“Xin lỗi cô, tôi say quá rồi.”

“Ừ.”

“Lâu rồi không say dữ vậy.”

“Ừ.”

“Chưa ăn gì cả?”

“Vậy kiếm gì ăn nhé?”

“Ừ, được đó,” hắn đáp, mắt vẫn nhắm nghiền. “Cô ta nói với tôi cô ta có bầu.”

“Ờ,” Robin nói, giọng buồn buồn.

“Ừ, nói vậy đó. Rồi lại nói là không giữ được. Nhưng rõ không phải của tôi. Không có lý nào.”

Robin không nói gì. Cô không muốn khi tỉnh táo lại Strike sẽ phải nhớ ra là hắn đã nói những chuyện này với cô. Hắn mở mắt.

“Cô ta bỏ thằng đó để theo tôi, rồi giờ bỏ thằng đó... à không, bỏ tôi để theo thằng đó...”

“Tôi rất tiếc.”

“...bỏ tôi theo thằng đó. Khỏi tiếc gì. Cô đúng là người tử tế.”

Hắn rút điếu thuốc từ trong túi ra, ngậm đầu thuốc.

“Anh không hút thuốc trong này được đâu,” cô nhẹ nhàng nhắc nhở hắn, nhưng anh phục vụ đứng quầy bar dường như chỉ chờ có vậy, ngay lập tức chạy về phía hai người, mặt mày rất căng thẳng.

“Anh phải đi ra ngoài,” Anh ta lớn tiếng nói với Strike.

Strike ngước mắt nhìn anh chàng, mắt lờ đờ, tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Được rồi,” Robin nói với anh phục vụ, tay cầm túi xách lên. “Thôi nào Cormoran.”

Hắn đứng dậy, khuỳnh khoàng, nghiêng ngả, cố lách người ra khỏi chỗ chật chội đằng sau chiếc bàn rồi trừng mắt nhìn anh phục vụ. Anh này ngay lập tức lùi lại một bước, Robin cũng chẳng lạ.

“Không cần,” Strike lên tiếng “...phải hét lên như vậy. Không cần phải vậy. Thô lỗ bỏ mẹ đi.”

“Được rồi Cormoran. Đi thôi nào,” Robin nói, đứng lùi lại nhường chỗ cho hắn đi ra.

“Đợi chút, Robin,” Strike nói, đưa cánh tay to đùng lên. “Đợi chút.”

“Trời đất,” Robin khẽ rên lên.

“Anh có biết đấm bốc không?” Strike hỏi anh phục vụ quầy bar, đang đứng run rẩy.

“Đi thôi Cormoran.”

“Tôi là dưn đấm bốc thiệt đó. Hồi còn ở lính luôn, biết không bồ tèo.”

Ở phía quầy bar, có người lẩm bẩm mỉa mai. “Để đó tôi ra thách đấu.”

“Đi thôi Cormoran,” Robin nói. Cô nắm lấy cánh tay hắn, thấy ngạc nhiên và nhẹ cả người khi hắn ngoan ngoãn đi theo. Cô tự dưng nhớ lại hồi nhỏ cầm cương dắt con ngựa giống Clydesdale khổng lồ ở trang trại của ông bác.

Ra ngoài trời Strike đứng dựa vào cửa sổ quán Tottenham, lập cập châm mãi điếu thuốc mà không được, cuối cùng Robin phải giúp hắn một tay.

“Giờ anh phải ăn gì đó,” cô nói với hắn, khi hắn nhắm mắt đứng hút thuốc, người hơi chao đảo, cô sợ hắn sẽ ngã nhào mất. “Phải ăn mới hết say.”

“Tôi không muốn hết say,” Strike lẩm bẩm. Hắn loạng choạng, sém tí nữa là ngã xuống, may mà kịp bước ngang mấy bước liên tục.

“Thôi nào,” cô nói, dắt tay hắn lần theo miếng ván gỗ kê giữa đường, ban đêm máy móc và công nhân sửa đường cũng đã nghỉ ngơi, mọi thứ yên ắng hẳn.

“Robin, cô có biết hồi xưa tôi là dưn đấm bốc thứ thiệt không?”

“Không, tôi không biết chuyện đó,” cô đáp.

Ban đầu Robin định dẫn Strike về lại văn phòng rồi mới đi mua thức ăn cho hắn, nhưng đi giữa đường hắn dừng lại ngay tiệm bánh mì kebab cuối phố Denmark và lừng lững đi vào trước khi cô kịp cản. Sau đó cả hai ngồi ở cái bàn duy nhất của tiệm bánh trên vỉa hè cuối cùng rồi cùng ăn kebab. Strike tiếp tục kể lể về sự nghiệp đấm bốc hồi còn tại ngũ, thỉnh thoảng lại lạc đề khen cô thật là tử tế. Robin cuối cùng cũng thuyết phục được hắn nói nhỏ lại. Nhưng Strike vẫn còn say bí tỉ sau khi uống quá nhiều, nên chỗ thức ăn dường như không có tác dụng gì. Khi hắn đứng dậy đi vệ sinh, Robin chờ khá lâu, đến nỗi cô lo là hắn đã ngất luôn trong đó.

Robin nhìn đồng hồ. Bảy giờ mười phút. Cô gọi cho Matthew nói là ở văn phòng có việc gấp. Matthew chẳng vui vẻ gì.

Strike loạng choạng quay trở lại vỉa hè, đụng đầu vào khung cửa quán bước ra. Hắn đứng dựa vào cửa sổ, loay hoay cố châm thêm điếu thuốc nữa.

“'R'bin này,” hắn nói, nhìn cô chằm chằm, sau một hồi cố bật lửa không thành. “R'bin, cô có biết khoảnh khắc...” hắn nấc một tiếng. “Khoảnh khắc kairos là gì không?”

“Khoảnh khắc kairos?” cô lặp lại lời hắn, thầm mong chuyện hắn sắp nói không có gì đen tối, hay sẽ khiến cô mãi không quên nổi. Lúc đó ngay sau lưng hai người, tay chủ quán kebab cũng đang ghé tai nghe, nhếch mép cười. “Không, tôi không biết. Giờ mình đi về văn phòng lại được không?”

“Cô không biết thiệt hở?” hắn nhìn thẳng vào mắt cô, hỏi tiếp.

“Không.”

“Tiếng Hi Lạp,” hắn giải thích. “Kairos. Khoảnh khắc Kairos. Có nghĩa là...” mặc dù đang say mèm, Strike tiếp tục nói, tự dưng rất mạch lạc “... là khoảnh khắc đích đáng. Khoảnh khắc đặc biệt. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất.”

Trời ơi, làm ơn đừng nói tiếp là tôi với anh đang có một cái khoảnh khắc như vậy, Robin nghĩ thầm.

“Cô biết với tụi tôi, Charlotte với tôi đó, khoảnh khắc đó là gì không?” hắn nói, nhìn vào khoảng không trước mắt, điếu thuốc chưa châm vẫn cầm trên tay. “Đó là lúc cô ta đi thẳng vô phòng bệnh... Tôi nằm viện khá lâu, hai năm rồi chưa gặp Charlotte... không hề báo trước gì cả... rồi tôi thấy cô ta xuất hiện ở cửa, mọi người quay hết lại nhìn, rồi Charlotte bước vào phòng bệnh, không nói một tiếng nào,” hắn dừng lại lấy hơi, rồi nấc thêm một tiếng nữa, “rồi cô ta hôn tôi, sau hai năm, rồi tụi tôi quay lại với nhau. Không ai nói gì cả. Thật là đẹp đẽ khốn nạn. Người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng biết. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời... cuộc đời khốn nạn của tôi, chắc vậy đó. Tôi xin lỗi cô R'bin,” hắn nói thêm “nãy giờ tôi nói khốn nạn hoài. Xin lỗi cô.”

Robin vừa thấy buồn cười vừa muốn bật khóc, cô không biết tại sao mình lại thấy buồn đến vậy.

“Để tôi châm thuốc cho anh nhé?”

“Cô thật là tử tế, Robin à, cô biết không?”

Gần đến ngã rẽ vào phố Denmark, Strike bỗng đứng sững lại, vẫn loạng choạng như cây trong bão, và lớn giọng nói với Robin rằng Charlotte không yêu gì Jago Ross, tất cả chỉ là một trò chơi, một trò chơi để làm tổn thương hắn, càng nhiều càng tốt.

Hắn dừng lại ngay trước cánh cửa đen, đưa hai tay lên cản Robin vừa dợm đi theo hắn lên lầu.

“Cô phải đi về nhà thôi, Robin.”

“Để tôi dìu anh lên lầu trước.”

“Không. Không. Tôi ổn mà. Chắc tôi sắp cho chó ăn chè. Tôi xi cà que mà,” Strike nói tiếp, “chắc cô không hiểu đâu hở. Hay cô hiểu thật? Chắc cô biết hết rồi còn gì? Tôi có kể với cô không nhỉ?”

“Tôi không biết anh đang nói gì.”

“Thôi bỏ đi, R'bin. Cô về nhà đi. Tôi sắp phun hết ra đây.”

“Anh sẽ không sao chứ...?”

“Xin lỗi cô, tôi cứ nói khốn nạn, chửi thề hoài. Cô thiệt quá tử tế. R'bin à. Chào cô nha.”

Khi đến phố Charing Cross, Robin quay lại nhìn Strike. Hán vẫn đang bước đi, loạng choạng vụng về đúng kiểu một kẻ say rượu về ngõ Denmark, chắc hắn sẽ tấp vào một con hẻm tối nào đó, nôn ra hết rồi lại lảo đảo đi lên cầu thang, nơi có chiếc giường xếp và chiếc ấm đun nước tạm bợ.

6

Strike không biết đã tỉnh dậy từ lúc nào. Ban đầu hắn còn nằm mơ đang gục mặt xuống một đám sắt thép gạch đá, đầy máu me, không nói được. Rồi hắn nhận ra mình đang nằm sấp, người đẫm mồ hôi, úp mặt trên chiếc giường xếp. Hắn thấy ê ẩm cả người. Miệng hắn khô khốc, đắng ngắt. Ánh nắng chiếu thẳng vào mắt hắn qua cửa sổ không kéo rèm. Mắt nhắm nghiền, hắn chỉ thấy một màu đỏ tươi và những đường mạch máu trên mí mắt lan ra như sợi lưới đen li ti phủ quanh những ngọn đèn nhấp nháy lúc hiện lúc ẩn.

Hắn vẫn còn mặc nguyên áo quần đêm trước, chân giả vẫn chưa tháo ra, nằm ngay trên chiếc túi ngủ, như thể đã ngã gục xuống đó. Ký ức lẫn lộn như những mảnh gương vỡ làm hai thái dương hắn nhức nhối, hắn nhớ lại cố đòi anh chàng phục vụ ở quầy bar bán thêm một vại bia. Rồi Robin ngồi đối diện, mỉm cười hiền lành. Mà không lẽ say xỉn như vậy mà hắn còn ăn được cả kebaba? Hắn mơ hồ nhớ vụ kéo dây khóa quần để đi tè, nhưng vạt áo bị mắc vào đó. Tự dưng hắn luồn tay xuống dưới, chỉ động đậy có vậy mà hắn cũng thấy buồn nôn, muốn rên thành tiếng. Dây khóa quần đã được kéo lại đàng hoàng, tự dưng hắn mơ hồ thở dài nhẹ nhõm.

Strike ngồi dậy chậm rãi như đang vác trên vai một kiện hàng dễ vỡ, nhìn quanh căn phòng sáng sủa, không biết đã mấy giờ rồi, cũng chẳng rõ hôm nay là thứ mấy.

Cánh cửa ngăn với văn phòng bên ngoài đã đóng. Hắn không nghe thấy tiếng động nào bên ngoài cả. Cô nhân viên tạm thời hẳn đã bỏ của chạy lấy người. Rồi hắn thấy một hình chữ nhật màu trắng nằm trên sàn nhà, ngay sau cánh cửa, chắc đã được tuồn vào khe cửa. Strike rón rén bò ra, lấy mẩu giấy vào. Hóa ra là lời nhắn của Robin.

Comoran thân mến (sau vụ này chắc Robin sẽ không bao giờ trịnh trọng gọi hắn là “anh Strike” nữa.)

Tôi đã đọc hết những điểm cần điều tra thêm liệt kê ở ngay đầu tập hồ sơ. Tôi nghĩ tôi có thể kiểm tra được hai mục đầu tiên (Agyeman và khách sạn Malmaison). Nếu anh muốn tôi trở lại văn phòng ngay thì cứ gọi vào máy di động.

Tôi có đặt sẵn đồng hồ báo thức ngay ngoài cửa phòng anh lúc 2 giờ chiều, nên anh sẽ có đủ thời gian chuẩn bị cho cuộc hẹn lúc 5 giờ ở số một phố Arlington để phỏng vấn Ciara Porter và Bryony Radford.

Trên bàn có sẵn nước lọc, paracetamol và Alka-Seltzer[1].

[1. Thuốc giải rượu bia. – ND]

Robin

T.B: Đừng ngại gì về tối hôm qua. Anh không hề nói hay làm điều gì đáng tiếc cả.

Hắn ngồi im trên chiếc giường xếp trong vòng năm phút, tay vẫn cầm lấy mẩu giấy, ngờ ngợ như sắp nôn, nhưng cố nán lại để tận hưởng chút ánh nắng ấm áp chiếu trên lưng.

Bốn viên paracetamol và một ly Alka-Seltzer khiến Strike không còn thấy buồn nôn như hồi mới dậy, nhưng mười lăm phút kế tiếp trong ánh đèn tù mù của toilet, hắn tháo sạch bụng dạ, nhăn nhó vì cả mũi lẫn tai đều chịu khổ.

Nhưng hắn vẫn thấy an ủi vì ít ra hôm nay Robin không có ở đây. Trở lại văn phòng Strike uống thêm hai chai nước lọc, tắt đồng hồ báo thức đã tích tắc cả đêm khiến hắn muốn ong cả đầu. Sau một hồi cân nhắc, hắn chọn được một bộ đồ sạch sẽ, lấy thêm dầu gội đầu, thuốc khử mùi, đồ cạo râu và khăn tắm ra khỏi túi. Hắn moi ra chiếc quần bơi nằm dưới đáy một thùng giấy vẫn còn đặt ngoài hành lang, rồi quay qua một thùng khác để lấy đôi nạng thép màu xám. Xong việc, hắn cà nhắc đi xuống cầu thang, vai choàng túi thể thao nhỏ, tay cầm đôi nạng.

Trên đường tới phố Malet, Strike dừng lại mua một thanh sô-cô-la Dairy Milk cỡ siêu lớn, loại “cả nhà cùng ăn”. Bernie Coleman, một người quen làm bên quân y của Strike từng giải thích với hắn rằng tất cả những triệu chứng sau khi quá chén đều do mất nước và hạ đường huyết – hậu quả tất yếu của nôn ói kéo dài. Strike vừa đi vừa gặm sô-cô-la, đôi nạng vẫn kẹp dưới cánh tay, đầu nhoi nhói theo mỗi bước đi như bị bó chặt trong kẽm gai.

Vị thần say rượu ưa đùa nhả vẫn còn chưa buông tha cho Strike. Hắn mơ màng không đẻ ý gì đến chung quanh, đường bệ đi thẳng xuống hồ bơi của Hội sinh viên Đại học London. Như thường lệ, không ai dám hỏi han gì hắn, ngay cả người duy nhất đang ở trong phòng thay đồ lúc đó. Anh ta tò mò liếc nhìn khi hắn tháo chân giả ra nhưng lịch sự quay mặt đi ngay. Hắn bỏ chân giả vào ngăn tủ cùng với áo quần vừa mặc hôm qua, không khóa lại được vì không mang theo đồng xu. Strike chống nạng đi đến chỗ vòi tắm, bụng hắn phệ ra ngay trên lưng quần bơi.

Khi xát xà bông lên người, Strike nhận ra sô-cô-la và paracetamol bắt đầu có tác dụng, hắn không còn đau đầu và buồn nôn dữ dội nữa. Sau đó hắn bước thẳng ra hồ bơi rộng lớn của Hội Sinh viên, cũng là lần đầu tiên hắn đi bơi ở đây. Trong hồ bơi chỉ có hai sinh viên, đều đang bơi ở làn nhanh, đeo kính bơi và không thèm để ý đến gì khác ngoài sự sung sức của chính mình. Strike đi về phía bên kia bể, cẩn thận đặt đôi nạng cạnh bậc thang rồi trượt xuống làn bơi chậm.

Chưa bao giờ hắn thấy cơ thể mình yếu ớt đến vậy. Hắn bơi lóng ngóng, nghiêng ngả, liên tục va vào thành bể. Làn nước sạch mát xoa dịu cả cơ thể và tâm trí. Thở hổn hển, hắn gắng bơi đến cuối bể rồi dừng lại nghỉ một lát, tay hắn dang ra vịn vào thành bể bơi, chịu bớt sức nặng cơ thể đang nhúng trong nước. Hắn đứng đó, nhìn lên trần nhà cao sơn trắng.

Những cơn sóng lan tỏa từ hai vận động viên trẻ khỏe bên kia hồ liên tục vờn lên ngực hắn. Đầu hắn dịu dần, sự đau đớn cũng lùi xa, như ánh đèn đỏ trong sương mờ. Mùi chlorine khá nồng, xộc thẳng vào mũi như mùi thuốc sát trùng ở bệnh viện, nhưng hắn không còn cảm thấy buồn nôn nữa. Strike nghĩ ngay đến nỗi lòng mà hắn mới vừa cố nén xuống bằng rượu bia, như đang thẳng tay xé toạc miếng băng gạc trên miệng vết thương vừa khép.

Jago Ross đối lập hoàn toàn với Strike: đẹp trai kiểu hoàng tử tóc vàng mắt xanh, thừa kế một quỹ đầu tư, mới sinh đã có tước hiệu sẵn. Jago Ross toát lên sự tự tin của một người biết rõ cả mười hai đời dòng tộc của mình. Anh ta từng bỏ hết việc này đến việc khác, toàn những công việc ngon lành, rồi dần dần chỉ biết có rượu, trở thành một thứ ngựa chứng bất kham.

Charlotte và Ross cùng thuộc về cái thế giới mật thiết của đám dân trường tư quý tộc, các gia đình đều quen biết lẫn nhau vì bao đời nay đã gả con cho nhau và những mối nâng đỡ trong làm ăn kiểu bạn-học-cùng-trường. Khi nước vỗ vào bộ ngực lông lá của Strike, hắn nhìn mối quan hệ tay ba giữa hắn, Charlotte và Ross ở tít xa như đang nhìn qua kính viễn vọng xoay ngược đầu. Câu chuyện ba người vì vậy mà trở nên rõ ràng hơn: mọi diễn biến đều thể hiện tính cách bốc đồng của Charlotte, cô ta luôn thèm khát những cảm xúc mãnh liệt nên thường đạp đổ mọi thứ. Mười tám tuổi Charlotte đã có được Jago Ross, điển hình tiêu biểu của dân quý tộc, đỉnh cao môn đăng hộ đối theo đúng tiêu chuẩn của bố mẹ cô ta. Có lẽ như vậy quá dễ dàng, chẳng có gì bất ngờ cả, nên cô ta đá Jago Ross để đến với Strike. Mặc dù học hành giỏi giang, Strike vẫn như một gáo nước lạnh dội vào gia đình Charlotte, bởi vì hắn là một thứ con lai không rõ nguồn gốc. Thế rồi, sau nhiều năm, người đàn bà luôn thèm khát những thứ dữ dội kịch tính đó còn biết làm gì hơn là bỏ Strike, hết lần này đến lần khác, cho đến khi cách duy nhất để cho hắn một đòn tối hậu là quay lại với người đầu tiên, y như lúc hai người mới quen nhau.

Strike thả lỏng cơ thể vẫn còn rã rời dưới làn nước. Hai sinh viên ở làn nhanh vẫn tiếp tục đua từ đầu đến cuối bể.

Strike quá hiểu Charlotte. Cô ta đang chờ hắn đến giải cứu cô ta khỏi cuộc hôn nhân với Jago. Một phép thử đành đoạn, ác độc nhất.

Hắn không bơi ngược lại mà bám tay vào thành bể rồi từ từ đi dọc theo dưới nước như lúc tập vật lý trị liệu ở bệnh viện.

Lần tắm vòi sen thứ hai dễ chịu hơn hẳn lần đầu. Hắn bật nước thật nóng, xát xà bông khắp người rồi chuyển sang nước lạnh gột sạch mình mẩy.

Hắn lắp lại chân giả, đứng cạo râu bên bể rửa mặt với chiếc khăn tắm quấn quanh hông rồi cẩn thận mặc áo quần mới. Hắn chưa bao giờ mặc bộ complet và áo sơ mi đắt tiền nhất của mình. Bộ đồ này cũng là món quà sinh nhật cuối cùng Charlotte tặng hắn: đúng là một thứ lệ bộ xứng với vị hôn phu của cô ta. Hắn vẫn còn nhớ Charlotte rạng rỡ đứng đó, khi hắn nhìn chằm chằm vào bộ dạng bảnh bao khác thường của mình trong gương. Sau đó cả bộ complet lẫn áo sơ mi lại được cất kĩ vào lớp túi bảo vệ, vì kể từ tháng Mười Một hắn và Charlotte hầu như chẳng đi đâu với nhau, và cũng vì lần sinh nhật đó là ngày vui vẻ thực sự cuối cùng của cả hai. Ngay sau đó là những trận cãi vã quen thuộc, rồi cả hai lại chìm vào cái vũng lầy cũ mà không lâu trước đó họ thề thốt sẽ tránh cho bằng được.

Strike từng muốn đốt phứa bộ đồ đi. Nhưng tự dưng thấy bất cần, hắn chọn mặc nó ngay hôm nay, để rũ sạch mọi liên quan tới Charlotte, để áo quần chỉ còn là quần áo. Chiếc áo veston được cắt rất khéo, khiến hắn trông gọn gàng khỏe khoắn hẳn. Hắn để mở nút cổ áo sơ mi.

Khi còn trong quân đội Strike đã nổi tiếng về khả năng tỉnh rượu nhanh sau khi uống như hũ chìm. Người đàn ông trong gương có nước da xanh tái, mắt thâm quầng nhưng bộ compet Ý sắc sảo khiến anh ta trông bảnh bao hơn cả mấy tuần trước đo. Vết bầm tím trên mắt của hắn cuối cùng cũng tan, cả mấy vết trầy xước cũng đã liền.

Strike dè dặt ăn một bữa nhẹ, uống thật nhiều nước. Sau một chuyến tốc hành vào nhà vệ sinh ở nhà hàng và vài viên thuốc giảm đau, đúng năm giờ chiều, hắn có mặt tại số 1 phố Arlington.

Hắn gõ cửa lần thứ hai. Cửa mở, một người đàn bà mặt mày sưng sỉa, đeo kính gọng đen, tóc cắt ngắn ngả bạc nhìn hắn. Bà ta miễn cưỡng mở cửa cho hắn, rồi nhanh chóng bước ngang qua sảnh lớn có sàn lót đá, ngay ở giữa là một cầu thang hoành tráng với lan can bằng sắt rèn uốn éo. Bà ta gọi to “Guy! Ông Strike nào đây nè?”

Hai bên sảnh đều có phòng. Ở phòng bên trái có một nhóm người đang đứng túm tụm, mặc toàn đồ đen, nhìn chằm chằm về phía nguồn sáng cực mạnh khuất mắt Strike, nhưng rọi rõ những gương mặt hết sức chăm chú của họ.

Somé xuất hiện, đi lả lướt từ sau cánh cửa phòng đó ra đến sảnh. Ông ta cũng mang kính, trông già dặn hơn. Hôm nay ông ta mặc quần jeans rách lụng thụng và áo thun trắng có hình một con mắt như đang khóc ra máu, nhìn kỹ thấy có đính kim sa màu đỏ.

“Phải đợi thôi,” ông ta nói cộc lốc. “Bryony bận rồi còn Ciara cũng phải vài tiếng nữa. Nếu muốn anh cứ ngồi trong đó,” ông ta chỉ tay vào căn phòng bên tay phải, cửa hé để lộ ra mép bàn trên đó đầy khay đĩa, “hoặc anh có thể đứng đó mà xem như cái đám đần độn vô dụng kia,” ông ta nói tiếp, tự dưng lớn giọng, nhìn trừng trừng vào đám nam thanh nữ tú đang chăm chăm về phía nguồn sáng. Ngay lập tức bọn họ tản ra, không phàn nàn, vài người đi ngang sảnh vào căn phòng đối diện.

“Hôm nay mặc đồ có khá hơn,” Somé nói thêm, thoáng vẻ láu lỉnh như trước. Ông ta đi trở lại vào căn phòng lúc nãy vừa bước ra.

Strike theo chân nhà thiết kế thời trang, đứng ngay vào chỗ của đám khán giả vừa đi khỏi. Căn phòng dài và gần như trống trơn. Góc trần kiểu cọ, tường màu nhạt trống trải và hoành tráng u buồn. Đứng giữa Strike và khung cảnh dàn dựng ở góc cuối phòng là một nhóm người, trong đó có một anh thợ ảnh tóc dài đang lúi húi trước camera. Khung cảnh dàn dựng được chiếu sáng rực rỡ bằng một chuỗi các loại đèn chuyên dụng và tấm hắt ánh sáng, bao gồm mấy chiếc ghế cũ nát được sắp đặt điệu nghệ, một cái ngã chỏng chơ dưới đất và ba cô người mẫu. Ba cô này trông khác hẳn nhau, tỉ lệ gương mặt và cơ thể hiếm có, vừa lạ lùng vừa ấn tượng. Cả ba mảnh khảnh, gầy gò như ốm đói. Strike đoán hẳn Somé chọn họ vì ba người có màu da và đường nét khác hẳn nhau. Cô người mẫu da đen như Somé, tóc xù, mắt xếch khiêu khích ngồi trên chiếc ghế đặt ngược, giống kiểu ngồi của người mẫu kiêm điệp viên Christine Keeler. Cco ta dạng cặp chân dài mang tất phun trắng ra hai bên, từ thắt lưng trở lên không mặc gì cả. Một cô lai Á- u đứng ngay đằng sau. Cô này tóc đen thẳng cắt mái so le, mặc áo lót trắng có đính dây xích trang trí, chỉ vừa đủ che chỗ kín. Bên cạnh là Ciara Porter, nghiêng người đứng dựa một mình vào lưng ghế, da trắng như sứ, tóc vàng mềm mại, mặc một bộ áo liền quần màu trắng gần như trong suốt, thấy rõ nhũ hoa phơn phớt, nhòn nhọn.

Chuyên viên trang điểm cũng cao và gầy gần như ba cô người mẫu, đang cúi cuống cô gái da đen để dặm phấn vào hai bên mũi. Ba cô người mẫu im lặng chờ đợi tại chỗ, tĩnh tại như ba bức chân dung. Gương mặt họ bình thản, không biểu cảm, như đang chờ lệnh. Những người khác trong phòng (tay thợ ảnh có hai thợ phụ, Somé đứng một bên cắn móng tay, cạnh đó là người đàn bà mặt sưng sỉa đeo kính) đều chỉ nói thầm, cứ như sợ sẽ phá vỡ một sự cân bằng mong manh nào đó.

Cuối cùng cô chuyên viên trang điểm tiến về phía Somé, ông này nói liên tục nhưng Strike không thể nghe được là nói gì, huơ tay loạn xạ. Cô ta quay bước về phía chỗ có ánh đèn sáng rực, đánh rối mớ tóc dài của Ciara Porter rồi chỉnh lại mà không nói năng gì cả. Ciara làm như không hề biết có người đang chạm vào mình, tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi. Bryony đi lùi lại trong khoảng tối và hỏi Somé gì đó. Ông ta trả lời bằng một cái nhún vai, rồi ra vẻ chỉ dẫn, vẫn thầm thì không rõ tiếng, khiến Bryony nhìn quanh quất cho tới khi thấy Strike.

Hai người gặp nhau ở ngay dưới chân cầu thang.

“Chào anh,” cô ta thầm thì. “Đi qua đây.”

Cô ta dẫn hắn đi ngang sảnh qua phòng đối diện. Phòng này tuy nhỏ hơn căn phòng vừa rồi, giữa phòng là một cái bàn lớn bày buffet, la liệt thức ăn. Ngay trước bệ lò sưởi là mấy cái giá treo quần áo có bánh xe, đầy nhung nhúc những mẫu đồ đính kim sa, bèo nhún và lông chim, sắp xếp theo màu sắc. Đám khán giả vừa bị đuổi đứng tụ tập ngay trong phòng, tất cả đều khoảng hai mấy tuổi. Họ nói chuyện thầm thì, thỉnh thoảng lại nhón tay vào mấy đĩa đựng phô-mai mozzarella và thịt muối Parma đã vơi một nửa, kè kè điện thoại để gọi điện hoặc nghịch vớ vẩn. Vài người ngước lên nhìn Strike ra vẻ dò xét khi hắn đi theo Bryony vào căn phòng nhỏ phía sau, nơi được dùng như phòng trang điểm tạm thời.

Ngay bên khung cửa sổ duy nhất trong phòng kê hai chiếc bàn, trên bàn đặt những tấm gương soi lớn. Cửa sổ nhìn thẳng ra hai khu vườn tỉa tót. Mấy chiếc hộp nhựa nhiều ngăn màu đen đặt chung quanh khiến Strike nhớ đến đồ nghề câu cá bằng ruồi nhân tạo của cậu Ted, chỉ có điều trong các ngăn hộp của Bryony chứa đầy phấn màu. Các thể loại ống màu và chổi lông bày la liệt trên mấy chiếc khăn trải đầy bàn.

“Chào anh,” cô ta lớn tiếng, lần này giọng to hơn bình thường. “Trời ơi, căng thẳng quá. Guy lúc nào cũng cầu toàn, nhưng đây là lần chụp hình nghiêm túc đầu tiên kể từ khi Lula chết vậy nên ổng cực kỳ khó tính.”

Tóc Bryony sẫm màu, bồng bềnh, nước da hơi tái, nét to thô, nhưng cũng khá quyến rũ. Cô ta mặc quần jeans bó để lộ đôi chân hơi vòng kiềng và áo ba lỗ màu đen. Trên cổ đeo vài sợi dây chuyền vàng mảnh, tay đầy nhẫn, kể cả ngón cái. Bryony mang giày da cũng màu đen, trông giống giày ballet. Loại giày này luôn khiến Strike thấy tụt hứng vì giông giống mấy đôi dép mang trong nhà mà mợ Joan hay gấp lại để trong túi xách, khiến hắn liên tưởng ngay đến bệnh nấm kẽ chân và các loại mụn nhọt.

Strike bắt đầu giải thích hắn muốn hỏi cô ta những gì, nhưng Bryony cắt ngang.

“Guy có nói trước hết rồi. Anh hút thuốc không? Ở trong này vẫn hút thuốc được nếu mở cửa ra.”

Bryony vừa nói vừa đẩy cánh cửa mở thẳng ra lối đi lát gạch trong vườn. Cô ta dẹp một ít đồ trên chiếc bàn lỉnh kỉnh, ngồi lên đó; Strike chọn một chiếc ghế trống và rút cuốn sổ ra.

“Được rồi, anh nói đi,” cô ta lên tiếng, nhưng hắn chưa kịp nói gì thì cô ta đã tiếp tục. “Thực tình, tôi cứ nghĩ hoài về buổi chiều hôm đó. Buồn quá đi.”

“Cô có quen thân với Lula không?” Strike hỏi.

“Ừ, cũng khá thân. Tôi trang điểm cho Lula vài lần, có làm cho cổ hồi đại nhạc hội Rainforest Benefit nữa. Tôi nói với Lula là tôi biết se lông mày...”

“Cô biết làm gì kia?”

“Se lông mày. Giống như nhổ vậy, nhưng làm bằng sợi chỉ đó?”

Strike không hình dung nổi vụ này.

“Vậy à...”

“...Rồi Lula nhờ tôi tới nhà làm. Đám săn ảnh bám theo cổ miết, mọi lúc mọi nơi, ngay cả khi đi làm đẹp. Điên cả đầu. Vậy là tôi nhận lời làm cho cổ.”

Bryony hay lắc đầu ra sau rồi hất phần tóc mái dài phủ mắt, vừa nói vừa thở nhẹ. Rồi cô ta lại hất tóc qua một bên, đưa tay lên vuốt và nhìn Strike qua lớp tóc mái.

“Tôi tới nhà Lula lúc ba giờ chiều. Lula và Ciara đang rất háo hức chuyện Deeby Macc sắp đến. Hai người đang tám đã đời, con gái với nhau mà. Vậy mà sau đó... đúng là không thể nào biết được.”

“Lula háo hức lắm hả?”

“Trời đất, anh nghĩ sao? Anh thấy sao nếu một người từng viết bài hát tặng... Ờ,” cô ta nói tiếp, vừa cười vừa thở. “Chắc là đàn bà con gái mới vậy. Deeby Macc thật là quyến rũ. Tôi với Ciara cứ giỡn hoài vụ đó khi tôi làm lông mày cho Lula. Rồi Ciara nhờ tôi làm móng luôn. Sau đó tôi trang điểm cả hai người, nên tôi ở đó chắc cũng phải tới ba tiếng đồng hồ. Khoảng sáu giờ tôi đi về.”

“Cô thấy lúc đó Lula rất háo hức à?”

“Ờ. Nhưng mà cổ cũng có vẻ hơi lơ đãng sao đó; cứ nhìn điện thoại hoài. Cổ để điện thoại ngay trên đùi khi tôi se lông mày cho cổ. Tôi biết ngay mà, lại là Evan giở trò nữa.”

“Cô ấy nói vậy à?”

“Không, nhưng tôi biết Lula đang rất bực Evan. Tại sao anh nghĩ cổ lại nói vụ ông anh với Ciara? Vụ để hết lại cho ông anh đó?”

Strike thấy Bryony dường như đã suy luận hơi quá.

“Cô có nghe Lula nói vậy không?”

“Gì kia? Không, nhưng tôi có nghe nói vậy. Ciara kể hết với tụi tôi. Tôi nghĩ hồi cổ nói tôi ở trong toilet. Nhưng mà tôi tin có vụ đó. Chắc chắn luôn.”

“Tại sao vậy?”

Bryony lúng túng.

“Thì... cổ rất thương ông anh còn gì? Trời đất, rõ vậy mà. Ông đó chắc là người duy nhất mà cổ tin được. Mấy tháng trước lúc cổ với Evan chia tay tôi trang điểm cho cổ đi dự show của Stella. Cổ cứ nói là đang rất bực ông anh vì ổng cứ nói đi nói lại chuyện Evan ăn bám cổ. Anh hiểu không, mà hôm đó Evan lại giở trò nên chắc cổ cho là ông James – phải tên ổng vậy không? – trước giờ toàn nói đúng. Lula cũng biết ông anh chỉ lo cho cổ thôi, mặc dù nhiều khi ổng hơi to tiếng. Cái nghề này bạc lắm, anh biết đó. Ai cũng muốn dính phần.”

“Ai muốn dính phần với Lula?”

“Trời đất, ai mà không muốn,” Bryony nói, tay cầm điếu thuốc kéo một đường, lướt qua hết những phòng bên ngoài đang có người. “Lula là người mẫu nổi nhất, ai cũng muốn đu theo. Guy, chẳng hạn...” Bryony chựng lại “Đành rằng Guy là dân làm ăn, nhưng ổng ghiền cổ lắm; sau vụ cái thằng rình mò đó ổng muốn cổ dọn vô ở chung luôn. Ổng chưa có bình thường lại đâu. Nghe nói ổng đi kiếm thầy bà gì đó để gặp hồn Lula nữa kìa. Margo Leiter nói vậy đó. Ổng còn buồn lắm, cứ nghe tên cổ là khóc à. Nhưng mà,” Bryony kết luận, “tôi chỉ biết có vậy à. Tôi không bao giờ ngờ được buổi chiều hôm đó là lần cuối cùng tôi thấy Lula. Lạy Chúa.”

“Lula có nói gì về Duffield không, khi cô đang... à... se lông mày cho cô ấy?”

“Không,” Bryony đáp, “nhưng nếu hắn đang giở trò thật thì cổ cũng không muốn nói chuyện đó đâu, đúng không?”

“Vậy như cô nhớ thì Lula chỉ nói chuyện về Deeby Macc thôi?”

"Ờ... đúng ra là Ciara với tôi nói chuyện ông đó nhiều hơn."

"Nhưng cô nghĩ Lula rất háo hức vì sắp gặp Deeby?"

“Trời, tất nhiên rồi.”

“Nói tôi nghe, hôm đó cô có thấy tờ giấy màu xanh nào có chữ viết tay của Lula không?”

Bryony lại hất tóc qua mặt rồi đưa cả bàn tay lên vuốt.

“Gì kia? Không. Không. Tôi không thấy thứ gì như vậy cả. Mà sao kia, giấy tờ gì vậy?”

“Tôi không biết,” Strike đáp, “nên tôi hỏi cô đó.”

“Tôi không thấy giấy tờ gì cả. Anh nói giấy màu xanh hả? Không có.”

“Cô có thấy bất kỳ tờ giấy nào có chữ viết tay của Lula không?”

“Tôi chẳng nhớ có giấy tờ gì cả. Không có đâu,” Cô ta lại hất mớ tóc phủ mặt. “Thực ra, mấy thứ như vậy có thể ở quanh đó, nhưng tôi không để ý mấy.”

Căn phòng tối lù mù. Có lẽ Stike vừa tưởng tượng ra rằng Bryony vừa đỏ mặt, nhưng chắc hẳn hắn thấy cô ta vặn bàn chân phải rồi kéo lên tới đầu gối, ngắm nghía đế giày như đang tìm thứ gì đó.

“Lái xe của Lula, Kieran Kolovas-Jones...”

“Ồ, cái anh chàng xinh ơi là xinh đó hả?” Bryony đáp. “Tụi tôi hay ghẹo Lula vụ Kieran lắm. Anh ta mê mệt Lula. Giờ hình như thỉnh thoảng Ciara có thuê anh ta.” Bryony khẽ cười ý nhị. “Ciara cũng hơi bị mang tiếng. Ý tôi là, cổ dễ thương thiệt, nhưng...”

“Kolovas-Jones nói là sau khi ra khỏi nhà mẹ, Lula viết gì đó lên tờ giấy màu xanh ngay trong xe,...”

“Anh nói chuyện với mẹ cổ chưa? Bà đó hơi quái.”

“... nên tôi muốn biết tờ giấy đó là giấy gì.”

Bryony búng tay vứt tàn thuốc ra ngoài cửa, loay hoay không yên trên ghế.

“Chắc giấy tờ gì đó.” Strike chờ đợi câu trả lời hiển nhiên nhất, và ngay lập tức không bị thất vọng. “Chắc là giấy ghi mấy thứ cần mua hay gì đó.”

“Cũng có thể, nhưng cứ đặt giả sử, nếu đó là thư tuyệt mệnh...”

“Nhưng không phải mà... ý tôi là, thật kỳ cục... thư thiếc gì? Ai lại đi viết thư tuyệt mệnh từ sớm như vậy, rồi mất công trang điểm để đi nhảy nhót? Vô lý đùng đùng!”

“Tôi cũng thấy là không hợp lý thật, nhưng dù sao nếu biết được tờ giấy đó là giấy gì cũng tốt hơn.”

“Biết đâu không dính gì đến chuyện cổ chết. Biết đâu là thư gởi Evan hay gì đó, để nói cho hắn biết cổ bực hắn ra sao?”

“Nhưng mãi tối hôm đó Evan và Lula mới gây gổ với nhau. Hơn nữa, vì sao cô ấy lại viết thư, khi đã có sẵn số điện thoại của Evan, lại biết trước sẽ gặp anh ta ngay đêm đó?”

“Tôi biết đâu,” Bryony nói, tỏ vẻ nôn nóng. “Tôi chỉ nói vậy thôi, có là giấy tờ gì nữa thì cũng thay đổi được gì đâu.”

“Cô có chắc là không thấy tờ giấy đó không?”

“Có tôi chắc mà,” cô ta nói, tự dưng mặt đỏ bừng lên. “Tôi tới đó làm việc, chứ không phải đi tò mò chuyện của cổ. Còn gì nữa không?”

“Được rồi, tôi nghĩ vậy đủ rồi,” Strike nói tiếp, “nhưng có khi cô giúp được tôi chuyện khác. Cô có biết bà Tansy Bestigui không?”

“Không,” Bryony đáp. “Biết em bả thôi, Ursula á. Bà này có thuê tôi làm vài lần khi đi ăn tiệc. Bà đó trời ơi lắm.”

“Trời ơi sao?”

“Thì kiểu mấy bà giàu có hư hỏng... ờ,” Bryony nói, nhếch miệng, “bà giàu vậy nhưng vẫn chẳng thấy ăn thua gì. Hai chị em nhà Chillingham lấy toàn mấy ông già nhiều tiền: giống kiểu săn đại gia vậy đó. Ursula cứ tưởng lấy Cyprian May là trúng số độc đắc rồi, nhưng ông này không giàu như bả tưởng. Bả cũng gần bốn chục tuổi rồi; đâu còn nhiều cơ hội nữa. Chắc vì vậy mà bả chưa đá ông chồng để lên đời.”

Rồi nhận ra đã hơi quá lời, cần phải giải thích thêm, Bryony lại nói tiếp.

“Tôi xin lỗi, nhưng bả dám lu loa là tôi nghe trộm lời nhắn trên điện thoại bả.” Cô chuyên viên trang điểm khuỳnh tay ngang ngực, nhìn Strike. “Thiệt tình. Bả quăng điện thoại vô mặt tôi, nói nhờ gọi giùm taxi, không có một tiếng cảm ơn cảm iếc gì. Tôi bị chứng loạn chữ nên bấm nhầm nút. Bả chửi tôi không kịp vuốt mặt.

“Tại sao bà ta lại tức tối vậy?”

“Chắc vì tôi nghe thấy giọng của một ông không phải chồng bả, nói là đang nằm trong khách sạn, mơ đang... vét bả,” Bryony đáp, tỉnh khô.

“Vậy chắc bà ta đang tính chuyện lên đời hả?” Strike hỏi.

“Lên liếc gì cái mối đó,” Bryony đáp, nhưng rồi vội vã nói thêm, “Ý tôi là, tin nhắn sến lợm. Tôi, tôi phải đi ra lại đây, Guy sắp nổi đóa rồi.”

Strike để Bryony đi. Sau khi cô ta đã đi khỏi, hắn viết thêm hai trang ghi chú. Bryony Radford rõ là một nhân chứng không đáng tin cậy, thích gợi ý và hay xuyên tạc. Nhưng cô ta khiến hắn biết thêm được nhiều chuyện mà chính cô ta cũng không ngờ.

7

Buổi chụp hình kéo dài ba tiếng đồng hồ nữa. Strike đứng đợi sau vườn, hút thuốc và uống nước lọc. Trời tối dần. Cứ một lúc hắn lại đi vào nhà xem tình hình tới đâu. Công việc có vẻ chậm chạp kinh khủng. Thỉnh thoảng Strike nhác thấy Somé hay nghe giọng ông ta. Somé có vẻ đang nóng, liên tục la hét chỉ đạo anh nhiếp ảnh gia và mấy ngươi giúp việc mặc đồ đen len lách giữa đám giá treo đồ. Cuối cùng, gần chín giờ tối, sau khi Strike đã ăn vài miếng pizza do tay trợ lý ủ rũ mệt mỏi gọi mang đến thì Ciara Porter cũng vừa đi xuống cầu thang, nơi cô mới chụp hình với hai đồng nghiệp. Cô ta theo Strike đi ra phòng trang điểm. Bryony đang mải thu dọn đồ đạc.

Ciara vẫn còn mặc áo đầm ngắn vải cứng màu bạc, phục trang trong mấy tấm ảnh cuối vừa chụp. Cô ta có dáng dấp mảnh khảnh, đường nét góc cạnh, da trắng như sữa, tóc màu sáng và hai mắt to xanh biếc, nằm cách xa nhau. Ciara mang giày bánh mì có buộc chỉ bạc quanh ống chân, đôi chân dài miên man. Cô ta châm một điếu Malboro Light.

“Chúa ơi, tôi không thể tin nổi anh là con của Rokers!” Ciara nói không ra hơi, đôi mắt mèo và cặp môi dày đều mở to. “Đúng là lạ đời! Tôi có biết Rokers, ông ấy từng mời Looly và tôi đi dự buổi ra mắt album Greatest Hits hồi năm ngoái! Tôi biết cả em trai của anh nữa, Al và Eddie! Hai người có kể là có ông anh trong quân đội! Lạy Chúa. Quái thiệt. Xong chưa Bryony?” Ciara hỏi, có ý dò xét.

Cô chuyên viên trang điểm dường như mất khá nhiều thời gian để dọn dẹp đồ nghề. Sau khi Ciara hỏi, cô ta nhanh tay hẳn lên. Ciara hút thuốc, im lặng quan sát Bryony.

“Xong rồi,” Bryony nhanh nhẹn nói. Cô ta vác trên vai một chiếc thùng nặng nề, mỗi tay cầm thêm vài hộp đồ. “Chào cô, Ciara. Chào anh,” cô ta quay sang chào Strike, rồi đi ra ngoài.

“Con nhỏ đó nhiều chuyện lắm, buôn dưa dã man.” Ciara kể với Strike. Cô hất mái tóc sáng màu ra sau, xếp đôi chân dài như hươu lại, rồi hỏi Strike:

“Anh có hay gặp Al và Eddie không?”

“Không” Strike đáp.

“Cả mẹ anh nữa,”cô ta nói, thản nhiên, nhả khói thuốc qua khóe miệng. “Ta nói, mẹ anh giống như... một huyền thoại vậy đó. Anh biết không, Baz Carmichael làm nguyên một bộ sưu tập hai mùa trước có tên là ‘Fan nữ cuồng’, lấy cảm hứng từ Bebe Buell và mẹ anh đó? Toàn váy maxi, áo sơ mi không cài nút và giày bốt đó?”

“Tôi không biết,” Strike đáp.

“Ờ, kiểu như là... anh biết không, kiểu như cái câu gì nói về các mẫu áo đầm của Ossie Clask đó, đàn ông rất mê mấy kiểu đồ đó vì dễ tuột ra, xơi ngay được. Đúng y như thời mẹ anh vậy.”

Cô ta hất mớ tóc rũ xuống mắt và nhìn hắn chằm chằm, không giống như kiểu nhìn lạnh lùng hằn học của Tansy Bestigui, mà có vẻ thẳng thắn, kinh ngạc thực sự. Hắn không biết liệu cô ta đang nói thật lòng, hay chỉ đang diễn cho trọn vai. Ciara quá đẹp. Sắc đẹp của Ciara như một tấm mạng nhện dày ngăn cách giữa cô ta và người đối diện.

“Vậy nếu cô không phiền tôi muốn hỏi cô về Lula.”

“Lạy Chúa, được thôi. Được mà, không, nói thiệt đó, tôi rất muốn giúp anh. Khi tôi nghe có người đang điều tra về vụ này, tôi nghĩ thầm, tốt rồi. Cuối cùng cũng có người làm.”

“Vậy sao?”

“Lạy Chúa thiệt mà. Chuyện quá sốc, thật khốn nạn. Tôi không thể tin được. Tôi vẫn còn lưu số cổ trên điện thoại, anh coi nè.”

Cô ta lục lọi một hồi trong cái túi xách to đùng, cuối cùng lấy ra một cái iPhone màu trắng, rồi nghiêng người về phía Strike, ngón tay kéo danh bạ trên điện thoại xuống, chỉ cho hắn xem cái tên “Looly” trên đó. Mùi nước hoa của Ciara ngọt ngào, hơi cay nồng.

“Tôi cứ chờ cổ điện,” Ciara nói, chùng xuống trong giây lát rồi thảy cái điện thoại vào túi xách. “Tôi không thể nào xóa tên cổ được, cứ vừa định làm thì lại thôi, muốn giữ hết lại, anh có hiểu không?”

Cô ta loay hoay rướn người, uốn éo cẳng chân dài ngoẵng, ngồi xuống lại và im lặng hút thuốc trong vài giây sau đó.

“Vào ngày cuối cùng của Lula cô ở với cô ấy khá lâu, đúng không?”

“Đừng nhắc đến cái ngày khốn nạn đó nữa,” Ciara đáp, nhắm mắt lại. “Tôi nghĩ tới nó mới có một triệu lần thôi. Tôi cứ nghĩ mãi, không hiểu làm sao đi từ chỗ hoàn toàn vui vẻ tưng bừng đến cái chết chỉ trong có mấy tiếng.”

“Cô ấy vui vẻ tưng bừng?”

“Lạy Chúa, mấy ngày trước đó cổ rất vui, xưa giờ tôi chưa thấy cổ vui như vậy. Tụi tôi vừa mới đi Antigua chụp cho Vogue về, rồi cổ với Evan quay lại với nhau, rồi hai người làm lễ cam kết. Mọi chuyện vô cùng tuyệt vời, cổ lâng lâng như ở trên chín tầng mây vậy.”

“Cô có đi dự cái lễ cam kết đó không?”

“Có chứ,” Ciara nói, dụi tàn thuốc vào lon nước ngọt, tàn thuốc xì một tiếng rồi tắt ngấm. “Lạy Chúa, còn hơn là lãng mạn nữa kia. Evan làm một cú rất bất ngờ, ngay tại nhà của Dickie Cadbury đó. Anh biết Dickie Cadbury không? Ông chủ nhà hàng đó? Ông ta có cái nhà đẹp mỹ mãn ở Cotswolds, cuối tuần tụi tôi đổ hết về đó, Evan đã mua trước một cặp vòng tay mạ bạc cực xinh của Fergus Keane. Rồi ảnh bắt hết cả đám đi xuống chỗ hồ nước sau bữa tối, trời lạnh ngắt, tuyết rơi nữa, xong rồi ảnh đọc bài thơ ảnh viết tặng Looly, xong rồi đeo vòng cho cổ. Looly cười quá trời, nhưng mà đọc ngay một bài thơ khác trả lời. Thơ Walt Whitman. Lúc đó,” Ciara nói tiếp, đột nhiên tỏ ra nghiêm chỉnh hẳn lên, “thiệt tình, quá là ấn tượng luôn, bài thơ quá hợp, hoàn hảo, cứ tự nhiên như không vậy. Người ta tưởng người mẫu dốt lắm, anh hiểu không.” Cô ta lại hất tóc ra sau, mời Strike một điếu rồi rút ra thêm một điếu nữa cho mình. “Tôi quá chán chuyện cứ phải thanh minh là tôi đã được nhận vào học Văn ở Cambridge, nhưng đang bảo lưu kết quả.”

“Vậy hả?” Strike hỏi lại, không giấu được sự ngạc nhiên trong giọng nói.

“Ừ” cô ta nói, miệng phì phèo thuốc lá trông thật xinh, “nhưng anh thấy đó, vụ làm người mẫu đang ngon ăn. Tôi định làm thêm một năm nữa. Mở ra nhiều cơ hội lắm, anh hiểu không?”

“Vậy cái lễ cam kết này diễn ra khoảng... một tuần trước khi Lula chết?”

“Ờ,” Ciara đáp, “Ngay thứ Bảy trước đó.”

“Chỉ có trao cặp vòng với hai bài thơ. Không có thề thốt, chủ hôn gì hết hả?”

“Không, lễ đó không có chính thức như đính hôn kết hôn gì đâu, chỉ là một khoảnh khắc hoàn hảo, ngọt ngào như vậy thôi. Bực cái là Freddie Bestigui cũng ở đó, lão đó thiệt là khó ưa. Nhưng ít ra,” Ciara rít một hơi thuốc thật sau, “là không có mụ vợ mắc dịch của lão.”

“Tansy?”

“Tansy Chillingham. Đồ quỷ cái. Hai người ly dị cũng chẳng lạ; đã đường ai nấy đi rành rành, có bao giờ thấy cặp kè gì đâu.”

“Thực ra mà nói, hôm đó Fredie cũng không đến nỗi, mặc dù mang tiếng ghê gớm như vậy. Lão chỉ sến sẩm chán bỏ xừ, cứ đi theo o bế Looly, nhưng mà không đến nỗi tệ như người ta hay nói. Tôi có nghe chuyện này, kiểu là, một đứa ngây thơ rành rành được lão hứa hẹn cho một vai trong phim, rồi... Nhưng tôi không biết có thật không.” Ciara nheo mắt nhìn đầu thuốc. “Dù sao thì con nhỏ đó cũng không tố lão.”

“Cô nói Freddie khó ưa là ý sao?”

“Trời đất, lão ta cứ nhằng nhẵng đi theo Looly, khen hoài là cổ chắc chắn ăn hình hết ý, rồi còn nữa, hồi xưa ông già cổ hay ho thế nào.”

“Ngài Alec hả?”

“Ừ, đương nhiên là Ngài Alec rồi. Lạy Chúa,” Ciara nói, mắt mở to, “nếu mà lão biết cha thiệt của cổ, Looly hẳn đã nhảy cẫng lên rồi! Vì vậy thì coi như mơ ước cả đời của cổ thành sự thật mà! Nhưng không, lão chỉ nói là có quen Ngài Alec từ hồi lâu lắc lâu lơ, hai người đều là dân phía Đông thành phố, ở cùng xóm hay sao đó, nên đúng ra có thể coi lão như cha đỡ đầu hay gì đó của Looly. Tôi nghĩ lão đang cố diễn trò hài nhưng mà chẳng có gì tức cười cả. Ai cũng thấy được là lão đang chài Looly đóng phim. Hồi lễ cam kết lão rất là dở hơi, cứ ré lên “Để tôi giao cô dâu cho chú rể,” làm như là ông già cổ không bằng. Lão say mèm, tại trước đó uống dữ lắm. Dickie cứ phải nhắc lão ngậm miệng lại. Rồi sau đó tụi tôi trở vô nhà, uống champagne và Freddie làm thêm hai chai nữa. Lão cứ gào lên với Looly là cổ sẽ thành diễn viên bá cháy, nhưng cổ không quan tâm gì hết. Cổ lơ đẹp Freddie. Cổ nằm trên sofa với Evan, hai người...”

Rồi đột nhiên đôi mắt kẻ đậm của Ciara ngấn nước, cô ta quay mặt đi, đưa bàn tay trắng muốt lên chùi nước mắt.

“...đang sung sướng hạnh phúc. Cổ đang rất hạnh phúc, chưa bao giờ tôi thấy cổ vui như vậy.”

“Đêm Lula chết cô có gặp lại Freddie Bestigui đúng không? Cô với Lula chạm mặt ông ta ngay ở sảnh dưới nhà, khi chuẩn bị đi ra ngoài?”

“Đúng vậy,” Ciara đáp, tay vẫn chặm mắt. “Làm sao anh biết?”

“Người bảo vệ tên Wilson kể. Ông ta nói là Bestigui có nói gì đó mà Lula không thích tí nào.”

“Ừ, đúng rồi. Tôi quên mất vụ đó. Freddie nói gì đó về Deeby Macc, chuyện Looly đang rất phấn khởi vì Macc sắp chuyển tới, rồi chuyện lão rất muốn hai người đóng phim chung. Tôi không nhớ chính xác là nói gì, nhưng mà lão nói thô lắm, anh hiểu không?”

“Lula có biết chuyện Bestigui là chỗ quen biết với Ngài Alec không?”

“Cổ nói với tôi là chưa nghe chuyện đó bao giờ. Cổ luôn né Freddie khi về tới nhà. Cổ cũng không ưa gì mụ Tansy.”

“Tại sao vậy?”

“Ờ, Looly không có quan tâm mấy cuộc lê la bàn tán coi chồng ai có du thuyền to nhất, cổ không thích đám đó. Looly hay ho hơn vậy nhiều. Khác hẳn với hai chị em nhà Chillingham.”

“OK,” Strike đáp, “Giờ cô kể lại buổi chiều và buổi tối hôm đó, lúc cô ở với Lula có được không?”

Ciara dụi đầu thuốc thứ hai vào lon nước ngọt, lại một tiếng xì rồi tắt ngấm. Cô ta châm ngay một điếu nữa.

“Ừ, được rồi, để tôi nhớ coi. Buổi chiều hôm đó tôi tới nhà cổ. Bryony ghé qua làm lông mày, rồi cuối cùng làm móng cho cả hai đứa tôi. Hai đứa tụi tôi ngồi tám chuyện con gái cả buổi chiều.”

“Cô thấy khi đó Lula ra sao?”

“Cổ...” Ciara ngập ngừng. “Cổ không được vui bằng mấy ngày trước đó. Nhưng mà không có gì là sắp tự tử hết, không thể nào.”

“Kieran, tài xế của Lula nghĩ là cô ấy có vẻ hơi khác sau khi ra khỏi nhà mẹ ở Chelsea.”

“Trời đất, thì còn gì nữa? Mẹ cổ bị ung thư mà, không phải vậy sao?”

“Khi gặp cô Lula có nói gì về phu nhân Bristow không?”

“Nói gì đâu. Có kể là ngồi với mẹ một lúc, vì bả hơi... anh biết rồi đó...suy sụp sau ca mổ, nhưng mà không ai nghĩ phu nhân Bristow sắp chết cả. Mổ miếc là để chữa cho khỏi mà, không phải vậy sao?”

“Lula có nhắc đến bất kỳ chuyện gì khác làm cho cô ấy không vui bằng mấy ngày trước không?”

“Không,” Ciara đáp, chậm rãi lắc đầu, mớ tóc vàng nhạt ve vuốt gương mặt. Cô ta cào ngược tóc ra sau, rồi rít thêm một hơi thuốc thật sâu. “Đúng là cổ có vẻ hơi buồn thiệt, hơi mất tập trung sao đó, nhưng tôi nghĩ chỉ là do vừa gặp mẹ. Quan hệ giữa hai mẹ con cổ kỳ lắm. Phu nhân Bristow kiểu... bảo bọc quá mức, cứ bám theo cổ hoài. Làm Looly nhiều khi thấy ngột ngạt, anh hiểu không?”

“Cô có nhớ chiều hôm đó Lula có gọi điện cho ai không?”

“Không,” Ciara đáp, sau khi im lặng ngẫm nghĩ một lúc. “Tôi nhớ là cổ cứ mở điện thoại xem hoài, nhưng không nói chuyện với ai hết, nếu tôi nhớ đúng. Nếu mà có gọi cho ai thì chắc là cô muốn giữ kín. Vì cổ cứ đi vô phòng ngủ hoài. Tôi cũng không biết nữa.”

“Bryony nghĩ là Lula rất háo hức vì Deeby Macc sắp đến.”

“Hả, trời đất,” Ciara thốt lên, mất kiên nhẫn. “Thực ra mấy người kia mới háo hức về Deeby Macc... Guy, Bryony với... cả tôi cũng háo hức, một chút,” cô ta nói, vẻ thật thà dễ mến. “Nhưng Looly không có tha thiết gì chuyện đó. Cổ đang rất hạnh phúc với Evan. Không phải Bryony nói gì cũng tin được đâu.”

“Lúc đó Lula có cầm tờ giấy nào không, cô nhớ không? Một tờ giấy màu xanh có chữ viết tay của Lula?”

“Không,” Ciara hỏi, y hệt những người khác. “Sao vậy? Giấy tờ gì?”

"Tôi cũng chưa biết chắc," Strike đáp, Ciara đột nhiên hoảng hốt như vừa ngộ ra điều gì đó.

"Lạy Chúa... anh đừng nói là thư của cổ để lại? Lạy Chúa tôi. Làm sao có chuyện điên khùng khốn kiếp đến vậy? Nhưng... không lẽ...! Vì nói vậy hóa ra... cổ đã có ý định từ trước."

"Có thể là giấy tờ gì khác," Strike đáp. "Cô khai trong hồ sơ điều tra là Lula muốn nói để lại hết cho anh trai cô ấy, đúng vậy không?"

"Ừ, đúng rồi," Ciara nói, gật đầu, giọng thành thật. "Chuyện là, Guy gởi cho Looly mấy cái túi hàng mới cực xinh. Tôi biết ngay là mình chẳng có phần, mặc dù tôi cũng có mặt trong quảng cáo đó. Tôi mở bao đựng cái túi trắng, cái Cashile đó, anh biết không, đẹp mỹ mãn. Bên trong có lớp lót bằng lụa, có thể tháo ra được, in hoa văn kiểu châu Phi rất chi là độc đáo. Guy làm riêng tặng cho Lula mà. Vậy là tôi nói, "Looly, bồ để cái này cho mình nha?" giỡn chơi vậy thôi. Rồi cổ nói, thiệt nghiêm chỉnh, "Sẽ để lại hết cho ông anh, nhưng chắc bồ thích gì ổng cho thôi."

Strike vừa quan sát và nghe ngóng thật kỹ, tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy Ciara đang bịa chuyện hay nói quá lên không, nhưng lời nói của cô ta rất tự nhiên, thẳng thắn.

"Nghe lạ thật nhỉ?" Hắn hỏi.

"Ừ, tôi cũng thấy vậy," Ciara đáp, lại hất tóc ra sau. "Nhưng mà kiểu Looly như vậy đó, lâu lâu lại hơi u ám, trầm trọng hóa vấn đề. Guy hay nói, 'Bớt khùng đi, Cuckoo ơi.' Nhưng mà," Ciara thở dài, "cổ chẳng hiểu ý tôi chút nào, vụ cái túi Cashile đó. Vậy mà tôi cứ tưởng là cổ cho tôi luôn, thiệt tình, cổ có tới bốn cái lận."

"Cô nghĩ mình có thân thiết với Lula không?"

"Tất nhiên rồi, siêu thân luôn, chuyện gì cổ cũng kể với tôi."

"Có người nói rằng Lula rất khó tin ai. Rằng cô ấy rất sợ mấy việc riêng tư bị tung lên báo. Tôi có nghe kể là cô ấy còn hay thử bạn bè, xem họ có đáng tin không."

"Ờ đúng rồi, sau khi bị bà mẹ ruột bán cho báo, cổ hơi bị... đa nghi. Cổ còn hỏi tôi," Ciara nói, tay phe phẩy điếu thuốc. "Là liệu tôi có xì chuyện cổ vừa quay lại với Evan không. Ta nói, trời đất. Kiểu gì mà cổ giữ kín vụ đó được. Ai mà không biết. Tôi nói với cổ. "Looly, bị nói sau lưng còn đỡ hơn là không bao giờ được nhắc tới. Câu đó của Oscar Wilde," cô ta tử tế giải thích thêm. "Nhưng Looly không thích mặt trái của sự nổi tiếng."

"Guy Somé nói rằng Lula ắt hẳn đã không quay lại với Duffield nếu ông ta không đi công tác."

Ciara liếc về phía cánh cửa, hạ giọng.

"Đương nhiên Guy sẽ nói vậy. Ổng siêu bảo bọc Looly mà. Ổng rất mê tít cổ, thương cổ thực sự. Ổng nghĩ Evan chẳng đem lại cái gì tốt đẹp cho Looly, nhưng thiệt tình, ổng không biết con người thật sự của Evan. Evan đúng là khùng dã man thiệt, nhưng ảnh là người tốt. Mấy hôm trước ảnh có ghé thăm phu nhân Bristow. Tôi nói. 'Tại sao, Evan, mắc gì mà lại phải làm vậy?' Vì anh biết đó, gia đình cổ rất ghét Evan. Anh biết ảnh nói sao không. ' Tôi chỉ muốn nói chuyện với ai đó có thể đồng cảm được với mình.' Nghe tội không?"

Strike hắng giọng.

"Báo chí lúc nào cũng chĩa vào Evan, thật là không công bằng tí nào, ảnh làm gì cũng bị chửi."

"Duffield có ghé qua nhà cô ngay trong đêm Lula chết, phải vậy không?"

"Trời đất, đúng rồi, cuối cùng cũng tới chuyện này đây!" Ciara bực bội nói. "Báo viết y như là tụi tôi ngủ nghê gì với nhau vậy! Ảnh không có tiền trong túi, tài xế thì biến mất tăm cho nên phải cuốc bộ hết cả London tới nhà tôi ngủ tạm. Ảnh ngủ trên ghế sofa. Hai tụi tôi cùng biết tin một lúc."

Cô ta đưa điếu thuốc lên miệng, rít một hơi sâu, mắt nhìn xuống sàn nhà.

"Thật là tệ hại. Anh không tưởng tượng được đâu. Kinh khủng lắm. Lúc đó Evan... lạy Chúa... Và rồi," cô ta nói tiếp, giọng thầm thì, "ai cũng nói ảnh là thủ phạm. Nhất là sau khi Tansy Chillingham khai có nghe tiếng cãi nhau. Báo chí nổi điên lên. Thật không tả nổi."

Cô ta ngước nhìn Strike, đưa tay giữ tóc khỏi xõa xuống mặt. Ánh đèn chói gắt trên đầu làm vóc dáng hoàn hảo của Ciara càng nổi bật.

"Anh vẫn chưa gặp Evan, đúng không?"

"Tôi chưa gặp."

"Anh có muốn gặp không? Giờ đi luôn với tôi. Ảnh nói tối nay ảnh đi Uzi."

"Vậy thì hay quá."

"Tuyệt vời. Đợi chút."

Cô ta nhảy lên rồi đứng ở cửa gọi:

"Guy ơi, cho mặc luôn bộ này được không cưng? Đi mà. Mặc đi Uzi được không?"

Somé bước vào. Đôi mắt ông ta trông rất mệt mỏi sau tròng kính.

"Được rồi. Nhưng làm sao làm phải dính vài cái hình. Coi chừng bị hư là tôi kiện cô tới số luôn."

"Sẽ không hư hỏng gì đâu mà. Em dẫn Cormoran đi gặp Evan."

Cô ta nhét bao thuốc vào chiếc túi xách to đùng, dường như đựng cả quần áo thường ngày, rồi choàng qua vai. Mang giày cao gót, Ciara chỉ kém Strike có hai phân. Somé ngước nhìn Strike, nheo mắt lại.

"Nhớ cho thằng quỷ con đó biết mùi lễ độ."

"Guy!" Ciara chu miệng, "Đừng có ác vậy."

"À, coi chừng đó, ngài Rokeby," Somé nói với theo, giọng châm chích như thường lệ. "Ciara lẳng lơ đĩ thõa lắm đó, phải vậy không cưng? Nó cũng giống tôi vậy, toàn thích mấy tay dữ dằn to con không à."

"Guy!" Ciara hét lên, giả bộ sửng sốt. "Đi nào Cormoran. Lái xe chờ sẵn ở ngoài rồi."

9

Robin chạy rầm rầm lên cầu thang sắt, chân vẫn nguyên đôi giày gót thấp đã mang suốt từ hôm qua. Hai mươi tư tiếng đồng hồ trước, vì không sao gạt khỏi đầu hình ảnh hấp dẫn của chàng "thám tử vườn đi giày cỏ”[1], cô đã chọn đôi giày tuềnh toàng nhất đi khắp chốn. Rồi hôm nay, sau khi làm được một số việc đáng kể, Robin trở nên vô cùng phấn khích, đến nỗi đôi giày đen cũ kỹ giờ với cô cũng lung linh không khác gì giày thuỷ tinh của Lọ Lem. Háo hức muốn kể cho Strike nghe tất cả những việc vừa làm được, cô đi như chạy qua phố Denmark, băng ào qua những đống gạch đá dưới nắng ấm. Robin tin chắc rằng những phát hiện xuất sắc ngày hôm qua sẽ khiến cả hai vô cùng phấn khích và khoả lấp hết mọi sự ngượng ngùng còn vương lại từ vụ say xỉn bê tha của Strike hai đêm trước.

[1. Nguyên gốc tiếng anh "gumshoe": giày đế mềm, ngoài ra còn có nghĩa tiếng lóng là thám tử tư - ND]

Nhưng khi lên đến tầng hai, Robin sững lại. Lần thứ ba, cánh cửa gương bị khoá, văn phòng bên trong tối om, im ắng lạ thường.

Cô mở cửa vào trong, nhanh chóng quan sát một vòng. Cửa phòng Strike vẫn mở. Chiếc giường xếp được gấp lại ngay ngắn. Trong thùng rác không có tàn tích của bữa ăn đêm trước. Màn hình máy tính tối đen, ấm đun nước nguội lạnh. Robin buộc phải rút ra kết luận là đêm qua Strike đã không về nhà.

Cô treo áo khoác lên móc, rút ra một cuốn sổ nhỏ từ trong túi xách và bật máy tính lên. Robin cố lần lữa đợi thêm vài phút xem Strike có trở lại không, cuối cùng đành bắt tay gõ lại tóm tắt những việc đã làm được. Vậy mà đêm trước cô hầu như không ngủ được vì háo hức muốn gặp Strike để kể hết cho hắn nghe. Mất hứng quá, bực cả mình. Tên sếp tạm đi đâu mà vẫn chưa về?

Tay vẫn gõ lia lịa trên bàn phím, tự dưng Robin nghĩ đến một khả năng chẳng hay ho gì. Rõ là Strike tan nát cõi lòng sau khi nghe tin bồ cũ đính hôn, biết đâu hắn ta đã chạy đến cầu xin cô nàng đừng có lấy cái anh chàng kia nữa? Chẳng phải hôm đó hắn đã hét to trước cả phố Charing Cross rằng Charlotte không hề yêu Jago Ross sao? Biết đâu đấy, biết đâu Charlotte đã lại sà vào vòng tay của Strike, rồi hai người đã làm lành, giờ đây đang ôm nhau ngủ trong căn nhà mà Strike vừa bị đuổi ra cách đây bốn tuần? Robin nghĩ đến mấy câu bóng gió của Lucy khi nhắc đến Charlotte. Nếu hai người quay lại thật thì chắc công việc của cô cũng chẳng còn được bao lâu. Nhưng không hề gì, Robin tự nhắc mình, tay vẫn tức tối gõ phím, liên tục mắc lỗi, sự thuần thục ngày thường đi đâu mất cả. Một tuần nữa là đi hẳn rồi. Nhưng suy nghĩ đó lại càng làm cho Robin thấy bức xúc.

Ngược lại, cũng rất có thể Strike đã đến tìm Charlotte rồi bị cô ta đuổi thẳng cổ. Như vậy, chuyện "giờ này anh ở đâu?" trở nên cấp bách hơn, không còn là chuyện riêng tư nữa. Biết đâu sau đó, hắn lại đi uống, không có ai ở bên coi chừng, rồi lại say xỉn bét nhè thì sao? Ngón tay gõ phím chậm lại rồi dừng hẳn, ngay giữa một câu dang dở. Cô quay ghế, nhìn về phía chiếc điện thoại để bàn nằm im lìm.

Có thể cô là người duy nhất biết được rằng Cormoran Strike đã tạm thời mất tích. Có lẽ cô nên gọi vào máy di động cho hắn? Rồi nếu hắn không bốc máy thì sao? Phải đợi bao nhiêu tiếng đồng hồ mới báo cho cảnh sát? Cô thoáng nghĩ đến việc gọi điện cho Matthew, nhưng dẹp ngay ý định đó.

Đêm đó Matthew và Robin đã cãi nhau khi cô về tới nhà rất trễ, sau khi phải dìu tên Strike say xỉn từ quán Tottenham về lại văn phòng. Matthew lại càm ràm rằng cô thật ngây thơ, dễ bị ảnh hưởng và quá thương người. Rằng Strike chỉ nhăm nhe kiếm một cô thư ký giá rẻ, nên mới lợi dụng lòng thương người của cô như vậy; rằng chẳng có Charlotte Char-liếc gì cả, tất cả chỉ là một âm mưu để lấy lòng và ép cô tận tụy thêm vì hắn mà thôi. Robin giận sôi lên, cô đáp trả rằng người đang muốn ép cô chính là Matthew, vì anh ta suốt ngày ra rả chuyện đáng ra cô phải kiếm được bao nhiêu, rồi cứ bóng gió chuyện cô không làm ra nhiều tiền như anh ta. Chẳng lẽ anh ta không thấy được là cô rất thích làm việc cho Strike, chẳng lẽ đầu óc kế toán hẹp hòi, khô khan của anh ta không nhận ra rằng cô đang sợ phải đối mặt với công việc nhân sự cực kỳ nhàm chán? Matthew sửng sốt nghe cô nói, rồi tỏ ý ăn năn (mặc dù vẫn giữ ý chê bai hành vi của Strike). Ngày thường Robin là người dễ chịu, luôn dĩ hoà vi quý. Nhưng Matthew đã xin lỗi rồi mà cô vẫn thấy xa cách và giận dữ. Sáng hôm sau, mặc dù đã làm lành, hai người (mà chủ yếu là Robin) vẫn còn khá cay cú.

Giờ đây, trong cảnh im lặng đến phát ngốt, nhìn chiếc điện thoại, tự dưng Robin giận lây sang cả Strike. Hắn đang ở đâu? Đang làm gì? Tại sao hắn cứ muốn chứng tỏ Matthew nói đúng, rằng hắn là kẻ vô trách nhiệm? Cô thì ngồi cố thủ ở đây, còn hắn thì mải chạy theo người cũ, chẳng màng gì đến công việc chung…

… công việc của hắn thì đúng hơn….

Có tiếng bước chân lên cầu thang. Robin thoáng nhận ra nhịp chân hơi chông chênh của Strike. Cô chờ đợi, nhìn về phía cầu thang, cho tới khi chắc chắn tiếng bước chân vẫn tiếp tục vang lên sau khi đã đi qua tầng một. Cô quay hẳn ghế nhìn vào màn hình máy tính, gõ phím liên tục, trống ngực đập thình thịch.

"Chào cô.”

"Chào.”

Cô liếc nhanh về phía Strike rồi tiếp tục gõ phím. Trông hắn mệt mỏi, râu ria chưa cạo, nhưng ăn mặc bảnh bao khác thường. Ngay lập tức cô đoán ắt hẳn hắn đã cố làm lành với Charlotte, mà xem chừng đã thành công. Hai câu tiếp theo trong văn bản đầy lỗi đánh máy.

"Sao rồi?" Strike hỏi, để ý thấy vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng của cô.

"Tốt." Robin đáp.

Cô định sẽ trình bản báo cáo hoàn hảo ngay trước mặt hắn, rồi sẽ lạnh lùng thông báo chuyện nghỉ việc sau một tuần nữa. Cô sẽ đề nghị rằng ngay trong tuần này hắn nên thuê một nhân viên tạm thời khác, để cô có thể bàn giao công việc trước khi nghỉ.

Chỉ vài giờ trước đó, Strike tự dưng "trúng số độc đắc" một cách ngoạn mục, sau một chuỗi những chuyện xui xẻo liên tục trong thời gian qua. Mấy tháng rồi hắn mới thấy vui vẻ như vậy. Hắn rất trông đến văn phòng để gặp cô thư ký. Strike hoàn toàn không có ý định chiêu đãi Robin bằng chuyện đêm qua hắn làm gì (đặc biệt là vụ "trúng số”, khiến hắn phục hồi lại chút tự ái đàn ông tưởng đã te tua). Hắn vốn kín tiếng trong những chuyện như vậy. Ngoài ra, hắn cũng muốn cứu vớt cái ranh giới nghiêm túc giữa hai người, hắn đã bị sứt mẻ khá nhiều sau trận say bia trong quán Tottenham. Tuy nhiên, Strike cũng đã chuẩn bị sẵn trong đầu bài xin lỗi về sự vụ hai đêm trước đó, thêm một lời cảm ơn sâu sắc và cuối cùng là khoe khoang những kết luận hay ho có được sau mấy cuộc phỏng vấn hôm qua.

"Uống trà không?”

"Không, cám ơn.”

Hắn nhìn đồng hồ.

"Tôi chỉ đi trễ có mười một phút thôi mà.”

"Anh muốn tới mấy giờ mà chẳng được. Ý tôi là," Robin cố vớt vát, nhận ra giọng điệu của mình thật hung hăng, "chuyện anh làm gì… à… đi làm mấy giờ không phải là việc của tôi.”

Vậy mà Robin đã tập dượt sẵn trong đầu vài câu đáp trả thật dịu dàng, rộng lượng, vì cô cứ tưởng gặp cô Strike sẽ rối rít xin lỗi về vụ say xỉn cách đây bốn mươi tám tiếng. Ngược lại, thái độ của hắn lúc này thật vô duyên, chẳng hề có chút xấu hổ ân hận gì cả.

Strike loay hoay với chiếc ấm đun và mấy tách trà. Vài phút sau hắn đặt xuống trước mặt Robin một tách trà bốc khói.

"Tôi đã nói là tôi không…”

"Cô đặt bản đánh máy quan trọng đó qua một bên, một phút thôi, để tôi nói cái này được không?”

Robin gõ phím ầm ầm để lưu văn bản, quay sang nhìn hắn, hai tay vòng lại trước ngực. Strike ngồi xuống chiếc ghế sofa cũ.

"Tôi muốn xin lỗi về chuyện đêm trước.”

"Không cần đâu," Robin đáp, nhỏ giọng, kiệm lời.

"Cần chứ. Tôi không nhớ rõ đã làm gì. Tôi chỉ mong là lúc đó tôi không be bét quá.”

"Không đâu.”

"Chắc cô cũng đoán ra chuyện gì rồi. Vợ chưa cưới của tôi vừa đính hôn với bồ cũ. Chỉ ba tuần sau khi tụi tôi chia tay cô ấy đã đeo nhẫn mới. Là nói văn hoa vậy thôi; chứ thật ra trước giờ tôi còn chưa mua nhẫn cho cô ấy. Tôi chưa bao giờ có đủ tiền mà mua.”

Nghe giọng hắn Robin đoán là hẳn hai người vẫn chưa làm lành, nhưng vậy thì tối hôm qua hắn ở đâu? Cô bất giác buông hai cánh tay xuống, cầm tách trà lên.

"Cô không có trách nhiệm đi tìm tôi như vậy, nhưng nếu không có cô hẳn tôi đã ngã xuống cống, hay đã đấm vỡ mặt ai đó. Vậy nên, cám ơn cô rất nhiều.”

"Không có gì," Robin đáp.

"À cảm ơn vụ Alka-Seltzer luôn," Strike nói tiếp.

"Có tác dụng không?" Robin hỏi, vẫn lạnh lùng.

"Sém chút nữa là tôi phun ra khắp chỗ này," Strike trả lời, nắm tay đấm nhè nhẹ vào chiếc ghế sofa sờn cũ, "nhưng uống xong một lúc thì đỡ hẳn.”

Robin bật cười. Strike chợt nhớ lại nội dung mẩu giấy cô luồn dưới khe cửa khi hắn đang ngủ và lý do cô đưa ra cho sự vắng mặt vô cùng tế nhị của mình.

"Được rồi, tôi đang rất mong được nghe cô báo cáo công việc hôm qua," hắn nói dối. "Đừng để tôi phải hồi hộp nữa.”

Robin tươi tỉnh hẳn lên, bừng nở như bông súng trên mặt hồ.

"Tôi đang gõ lại…”

"Cứ nói đã, rồi cô có thể lưu hồ sơ sau," Strike đáp, nghĩ thầm nếu phần Robin sắp nói chẳng có ích gì thì hắn sẽ gạt luôn ra khỏi hồ sơ.

"Ok," Robin nói, vừa hào hứng vừa hồi hộp. "Như tôi đã nhắn với anh, tôi đọc trong hồ sơ thấy anh đang muốn điều tra Giáo sư Agyeman và khách sạn Malmaison ở Oxford.”

Strike gật đầu, thấy nhẹ nhõm vì hắn không nhớ chi tiết đến vậy. Khi đọc mẩu giấy của Robin hắn vẫn còn say mờ mắt.

"Vậy là," Robin nói tiếp, thoáng hụt hơi, "đầu tiên tôi đến khu Russell Square, đến trường SOAS - Viện nghiên cứu Đông phương và Châu Phi, phải ý anh chỉ chỗ đó không?" Cô giải thích. "Tôi xem bản đồ: đúng là chỉ cách Bảo tàng Anh Quốc một khoảng đi bộ. Có một chỗ anh viết nhắc tới chi tiết này, đúng không?”

Strike lại gật đầu.

"Rồi tôi đi vào SOAS, giả vờ là đang viết luận văn về chính trị châu Phi và muốn có thông tin về Giáo sư Agyeman. Tôi gặp được một bà thư ký rất nhiệt tình trong khoa Chính trị, bà này từng làm việc cho giáo sư Agyeman, cho tôi rất nhiều thông tin về giáo sư, bao gồm danh mục sách và tiểu sử tóm tắt. Giáo sư từng học Đại học ở SOAS.”

"Thật sao?”

"Đúng vậy." Robin tiếp. "Tôi còn kiếm được hình nữa.”

Nói rồi cô rút từ trong cuốn sổ ra bản sao một tấm ảnh và đưa Strike xem.

Trong ảnh là một người đàn ông da đen, gương mặt dài, xương gò má cao, tóc đã ngả bạc cạo sát đầu. Ông ta đeo kính gọng vàng, hai tai lớn quá khổ. Strike nhìn tấm hình một lúc lâu. Cuối cùng, hắn thốt lên:

"Trời.”

Robin chờ đợi, hãnh diện.

"Trời." Strike lại thốt lên lần nữa. "Ổng chết khi nào vậy?”

"Năm năm trước. Bà thư ký rất buồn khi nói chuyện đó, kể là giáo sư rất thông minh, một người thật tử tế, tốt bụng. Một tín đồ Cơ-đốc mẫu mực.”

"Có gia đình gì không?”

"Có. Vợ và một người con trai.”

"Con trai," Strike lặp lại.

"Đúng vậy," Robin nói. "Tại ngũ”

"Tại ngũ," Strike buồn rầu lặp lại lời Robin. "Đừng nói..”

"Anh ta đang làm nhiệm vụ tại Afghanistan.”

Strike đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, tay vẫn cầm bức ảnh của giáo sư Josiah Agyeman.

"Cô không hỏi được đơn vị nào hả? Cũng không sao. Tôi có thể tìm được," hắn nói.

"Tôi có hỏi," Robin đáp, nhìn xuống sổ, "nhưng tôi không hiểu lắm… có đơn vị nào tên là Sappers hay gì đó không…?”

"Kỹ sư Quân đội Hoàng gia," Strike đáp. "Có manh mối này là tôi tìm thêm được rồi.”

Hắn dừng lại ngay bên cạnh bàn của Robin, nhìn tấm hình của Giáo sư Josiah Agyeman một lần nữa.

"Giáo sư là người gốc Ghana," Robin nói tiếp. "Nhưng gia đình đã định cư ở Clerkenwell từ lâu, cho tới khi ông ấy chết.”

Strike đưa tấm hình lại cho Robin.

"Coi chừng mất. Cô làm giỏi thật, Robin à.”

"Chưa hết," cô nói tiếp, mặt ửng đỏ, cố không mỉm cười mặc dù rất phấn chấn. "Buổi chiều tôi lấy tàu đi Oxford, đến khách sạn Malmaison. Anh biết không, khách sạn đó hồi trước là nhà tù, sau này mới cải tạo lại thành khách sạn?”

"Vậy hả?" Strike hỏi, từ từ ngồi xuống ghế sofa.

"Ừ. Thật ra cũng đẹp lắm. Tôi định sẽ đóng giả làm Alison, đến đó để xem Tony Landry có để quên đồ ở đó không, hay đại loại vậy…”

Strike nhấp một ngụm trà, nghĩ thầm thật khó tin chuyện ba tháng sau hội thảo, ông luật sư phải cử cô thư ký đến tận nơi chỉ vì lý do cỏn con như vậy.

"Dù sao thì, sai lầm là ở chỗ đó.”

"Vậy sao?" Strike nói, cố giữ giọng bình thường.

"Đúng vậy, bởi vì ngày bảy tháng Giêng bà Alison có tới đó để tìm gặp Tony Landry. Tôi thiếu điều muốn chui xuống đất. Một cô làm lễ tân có gặp Alison hôm đó, nên vẫn nhớ mặt bà ta.”

Strike hạ tách trà xuống.

"Hừm, vụ này," hắn nói, "đúng là hay ho.”

"Tôi cũng thấy thế," Robin phấn khởi kể tiếp. "Vậy là tôi phải suy nghĩ thật nhanh.”

"Cô có nói tên cô là Annabel nữa không?”

"Không," cô đáp, thoáng bật cười. "Tôi nói, à vậy thì, tôi đành nói thật, tôi là bạn gái của ông Landry. Rồi tôi khóc thút thít.”

"Cô khóc?”

"Thật ra cũng không khó lắm." Robin đáp, tỏ vẻ ngạc nhiên. "Tôi vào vai ngon ơ. Tôi nói là tôi nghi ngờ ông Landry đang có người khác.”

"Cô không giả bộ nghi ngờ Alison chứ? Nếu họ thấy bà ta rồi chắc chắn họ sẽ không tin…”

"Không, nhưng tôi nói là nghi ổng nói dối, nghi là hôm đó ổng không hề ở Malmaison… Rồi tôi khóc lóc một hồi. Cô gái từng gặp Alison phải kéo tôi ra một bên dỗ dành. Cô ta nói là họ không thể cung cấp thông tin về người khác mà không có lý do chính đáng, luật lệ của khách sạn qui định vân vân và vân vân… anh biết rồi đó. Nhưng tôi cứ khóc mãi, cuối cùng cô ta đành phải nói ông Landry có làm thủ tục nhận phòng vào tối ngày Sáu, rồi trả phòng buổi sáng ngày Tám. Lúc trả phòng có phàn nàn chuyện khách sạn không đưa đúng loại báo ổng muốn đọc, nên cô nhân viên mới nhớ mặt. Vậy chắc chắn là Landry có ở đó. Tôi còn ráng nức nở hỏi thêm một chút, rằng làm sao cô ta biết chắc người đó là ông Landry. Cô ta mô tả tới chân tơ kẽ tóc. Còn tôi đã biết mặt ổng rồi," cô nói thêm, trước khi Strike kịp hỏi. "Trước khi đi Oxford tôi có coi hình trước trên trang web của công ty LMP.”

"Cô cừ thật," Strike nói, "vụ này nghe quá xá mờ ám. Cô nhân viên đó có kể gì về Alison không?”

"Kể là Alison đến nơi, hỏi gặp ông Landry, nhưng lúc đó ổng không có ở khách sạn. Nhưng họ xác nhận với Alison là ổng đã làm thủ tục nhận phòng. Rồi Alison đi về.”

"Quái thật. Đáng ra Alison phải biết là ông Landry đã đi dự hội thảo; tại sao không đến thẳng đó trước?”

"Tôi không biết.”

"Cái cô nhân viên được việc này có kể ngoài lúc nhận phòng và trả phòng ra thì có thấy mặt Landry lúc nào khác không?”

"Không." Robin đáp. "Nhưng mà ta đã biết là Landry có dự hội thảo rồi còn gì? Tôi kiểm tra vụ đó rồi, anh không nhớ sao?”

"Ta biết là Landry có đến hội thảo, ghi tên và có lẽ lấy bảng tên đeo. Nhưng rồi sau đó lái xe về Chelsea ngay để gặp phu nhân Bristow. Tại sao vậy?”

"Thì… bà ấy đang bị ốm.”

"Vậy sao? Nhưng bà vừa được phẫu thuật cho hết bệnh kia mà.”

"Phẫu thuật cắt tử cung," Robin đáp. "Như vậy thì hậu phẫu phải đau đớn lắm.”

"Nhưng ông này không yêu quý gì bà chị lắm - cái này tôi nghe tận miệng Landry - rồi ông lại biết bà chị vừa trải qua một cuộc phẫu thuật cứu mạng, biết đã có hai đứa con của bà ta đến thăm nom. Can cớ gì ông ta phải đi thăm gấp gáp vậy?”

"Thì," Robin nói, không còn chắc chắn nữa, "Tôi đoán… chắc là vì bà ấy mới xuất viện…”

"Nhưng chắc hẳn Landry phải biết chuyện đó trước khi đi Oxford chứ. Vậy tại sao không nán lại London và đi thăm ngay nếu ông ta thấy sốt ruột, rồi chỉ dự phần hội thảo buổi chiều hôm đó? Tại sao phải lái xe hơn năm mươi dặm, ngủ một đêm ở cái nhà tù xa hoa kia, rồi đến hội thảo chỉ để ghi tên, rồi lái xe quay trở lại London ngay?”

"Có thể có ai gọi điện nhắn là phu nhân Bristow đang rất mệt chăng? Biết đâu John Bristow gọi điện cho Landry, nhắn ông ta đến ngay?”

"Bristow không hề nhắc đến chuyện đó. Tôi thấy thực ra hai người giờ đang khá căng thẳng. Họ có vẻ khó chịu khi nhắc đến chuyến thăm nom đó của Landry. Cả hai đều không thích nói tới khi tôi hỏi.”

Strike đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, hơi cà nhắc nhưng hầu như không để ý đến cái chân đau.

"Không phải," hắn nói tiếp, "Bristow nhắn em gái ghé qua, Lula là người được mẹ cưng nhất - chuyện đó nghe có lý. Nhưng chuyện nhờ ông cậu, người đang ở xa London, lại không ưa gì phu nhân Bristow, ngược đường chạy về để thăm nom… nghe chẳng hợp lý tí nào. Và giờ ta còn biết được là Alison có đi tìm Landry ở ngay khách sạn. Hôm đó lại không phải là ngày cuối tuần. Phải chăng bà ta đang tự đi rình Landry, hay có ai sai đi?”

Điện thoại đổ chuông. Robin nhấc ống nghe. Strike thấy bất ngờ khi cô ngay lập tức giả giọng Úc điệu đà.

"Xinh lỗi nha, cổ hông có đây… Hông… hông. Tôi hông biết cổ làm ở đâu… Hông phải… Tơn tôi là Annabel…”

Strike khẽ bật cười. Robin nhìn hắn, giả vờ nhăn mặt đau khổ. Sau một phút đóng giả một cô gái người Úc nói như đang bị bóp cổ, Robin dập máy.

"Giải pháp Tạm thời gọi," cô nói.

"Tôi cứ phải giả làm Annabel, mỗi lần mỗi khác. Cô Annabel vừa rồi nói nghe giống giọng Nam Phi hơn là Úc.”

"Giờ tôi muốn biết hôm qua anh làm được việc gì," Robin nói, không giấu được vẻ nôn nóng nữa. "Anh có gặp Bryony Radford và Ciara Porter không?”

Strike kể lại tất cả mọi thứ, chỉ trừ đoạn sau khi hắn rời khỏi căn hộ của Evan Duffield. Hắn nhấn mạnh chuyện Bryony Radford cứ khăng khăng là cô ta bị loạn chữ, bấm nhầm nút nên mới tình cờ nghe được lời nhắn trên điện thoại của Ursula May; Ciara thì liên tục nói rằng Lula có kể sẽ để lại hết cho anh trai; rồi Evan Duffield rất bực vì Lula cứ liên tục xem giờ khi ở Uzi, và cả bức email đe doạ mà Tansy Bestigui gởi cho ông chồng cũ.

"Vậy lúc đó Tansy ở đâu?" Robin hỏi, sau khi đã chăm chú nuốt lấy từng lời của Strike. "Nếu ta có thể biết…”

"Ồ, tôi biết quá rõ bà ta ở đâu lúc đó," Strike đáp. "Vấn đề là làm sao để bà ta thừa nhận, vì nếu làm vậy bà ta có thể mất đứt khoản tiền triệu dàn xếp ly hôn của Freddie. Khó là ở chỗ đó. Nếu cô nhìn vào mấy tấm hình của cảnh sát, cô cũng sẽ đoán được lúc đó bà ta ở đâu.”

"Nhưng...”

"Nhìn kỹ hình chụp mặt tiền toà nhà buổi sáng sau khi Lula chết, rồi suy nghĩ xem nó khác gì so với hôm chúng ta tới xem. Sẽ rất có ích nếu cô muốn làm thám tử sau này.”

Nghe Strike nói, Robin thấy vô cùng hào hứng, nhưng ngay lập tức sau đó cô lại thấy tiu nghỉu tiếc nuối, vì nhớ ra là cô sắp phải rời xa chỗ này để bắt đầu công việc nhân sự.

"Tôi phải đi thay đồ đã," Strike nói, đứng dậy. "Cô thử gọi cho Freddie Bestigui lần nữa được không?”

Hắn biến mất sau cánh cửa phòng trong, đóng cửa lại và cởi bỏ bộ complet may mắn (từ nay về sau hắn sẽ gọi bộ đồ này như thế). Hắn thay áo sơ mi cũ và quần dài rộng rãi thoải mái hơn. Khi Strike đi ngang qua bàn của Robin để ra nhà vệ sinh, cô đang gọi điện cho Bestigui. Gương mặt Robin vừa tập trung vừa thờ ơ, đúng kiểu người đang bị cho chờ trên điện thoại. Strike đánh răng bên chậu rửa mặt đã nứt gãy. Hắn thấy nhẹ nhõm hẳn với Robin, sau khi đã âm thầm thừa nhận chuyện ăn ngủ luôn trong văn phòng. Đánh răng xong, hắn quay trở vào, Robin vừa mới dập máy, trông rất cáu tiết.

"Tôi nghĩ giờ họ còn không ghi lại tin nhắn gì của tôi nữa," cô nói với Strike. "Họ nói ông ta đang ở trường quay Pinewood, không được quấy rầy.”

"Thôi được, ít ra cũng biết là ông ta đã về nước," Strike đáp.

Strike với tay lấy báo cáo điều tra từ kệ đựng hồ sơ, ngồi xuống ghế sofa rồi bắt đầu im lặng ghi chép lại những cuộc nói chuyện hôm qua. Robin khẽ liếc Strike, thích thú nhìn hắn tỉ mỉ ghi lại tất cả những phát hiện điều tra, chú thích rõ mỗi mẩu thông tin được lấy ở đâu, lấy như thế nào, ai là người cung cấp.

"Chắc là," cô lên tiếng, sau một hồi lâu im lặng, vừa lén quan sát Strike làm việc, vừa xem hình chụp mặt tiền toà nhà số 18 Kentigern Gardens trên Google Earth, "anh phải hết sức cẩn thận như vậy, để khỏi quên gì hết.”

"Không phải chỉ có vậy," Strike trả lời, vẫn không ngẩng lên. "Mà còn là để luật sư bên bị không có đường phản công.”

Hắn nói bình thản và quá hợp lý khiến Robin phải dừng lại ngẫm nghĩ một lúc, sợ không kịp hiểu hết ý.

"Ý anh là… nói chung?" cô nói thêm. "kiểu theo nguyên tắc phải vậy?”

"Không," Strike đáp, vẫn tiếp tục ghi chép. "Ý tôi là tôi không muốn để tay luật sư bên bị khi ra toà có thể chứng minh rằng tôi không biết cách lưu giữ hồ sơ, rồi sau đó đặt nghi vấn về độ tin cậy của tôi trong vai trò nhân chứng.”

Rõ là Strike đang ra vẻ chút đỉnh, hắn cũng biết vậy, nhưng hắn không kiềm được. Mọi thứ chạy đang bon bon như có đà, hắn nghĩ thầm. Hẳn có người sẽ thấy đi điều tra án mạng mà thấy thích thú như vậy thật chẳng ra gì, nhưng Strike từng cười được trong những hoàn cảnh còn u ám hơn.

"Cô đi mua bánh mì được không Robin?" hắn nói, chỉ để ngước lên nhìn vẻ mặt sửng sốt thán phục của cô thư ký.

Trong khi Robin đi ra ngoài, hắn cũng ghi chép xong, vừa định gọi cho một đồng đội cũ ở Đức thì Robin chạy vào, tay cầm hai cái bánh mì kẹp và một tờ báo.

"Trang nhất tờ Standard có hình anh nè," cô thở hổn hển.

"Cái gì?”

Đập vào mắt hắn là tấm hình chụp Ciara đang đi sau Duffield vào nhà anh ta. Ciara trông thật xinh đẹp. Trong vòng nửa giây Strike nhớ lại lúc hai giờ rưỡi sáng, khi Ciara nằm ngay dưới người hắn, trắng trẻo, trần truồng, mái tóc dài óng ả tràn khắp gối như nàng tiên cá, miệng khẽ thì thầm, rên rỉ.

Strike cố tập trung trở lại. Trong hình hắn bị cắt mất một nửa. Hắn đang đưa tay lên cản đám paparazzi.

"Không sao," hắn nhún vai, trả lại tờ báo cho Robin. "Họ nghĩ tôi là bảo kê.”

"Bài báo nói là," Robin nói, lật tới trang ở trong, "cô ta rời nhà của Duffield cùng với vệ sĩ lúc hai giờ sáng.”

"Thấy chưa.”

Robin nhìn hắn chằm chằm. Lúc nãy khi kể lại chuyện hôm qua, hắn dừng ngay ở đoạn hắn, Duffield và Ciara ở nhà của Duffield. Mải mê với những mẩu chứng cứ hắn vừa tìm được, cô quên không thắc mắc hôm qua hắn ngủ ở đâu. Cô cứ nghĩ là hắn để cô người mẫu ở nhà tay diễn viên rồi đi.

Nhưng rõ là khi về đến văn phòng hắn mặc đồ y như trong hình.

Cô quay mặt đi, đọc hết bài báo ở trang hai. Bài báo ám chỉ lộ liễu rằng tối đó Ciara và Duffield mặn nồng với nhau, còn tên to con giống bảo kê đợi ở ngoài.

"Ở ngoài cổ có đẹp vậy không?" Robin hỏi, gấp tờ báo lại, cố ra vẻ bình thường,

"Ừ, đẹp lắm," Strike đáp. Hắn ngờ ngợ không biết ba từ hắn thốt ra nghe có khoe khoang quá không. "Cô muốn ăn bánh mì kẹp phô-mai và dưa góp, hay trứng và mayonaise?”

Robin chọn bừa một cái rồi mang về bàn của mình. Ngồi đoán già đoán non chuyện đêm qua Strike ở đâu, cơn phấn chấn nãy giờ của cô nàng hơi nhụt đi. Thật là khó hình dung Strike – một gã lụy vì tình trong suy nghĩ của Robin, lại vừa qua đêm với một siêu mẫu (thật khó tin, nhưng cô nghe ra được vì hắn không cách gì giấu nổi vẻ khoái chí.)

Điện thoại lại đổ chuông. Miệng vẫn đầy bánh mì và phô-mai, Strike đưa tay lên cản Robin. Hắn nuốt ực rồi bốc máy.

"Cormoran Strike.”

"Strike, Wardle đây.”

"Ê Wardle, sao rồi?”

"Không hay lắm. Tụi tôi vừa vớt được một xác người dưới sông Thames, có kẹp theo danh thiếp của anh. Không biết anh có muốn nói năng gì không?”

10

Kể từ khi dọn đồ ra khỏi nhà Charlotte, đây cũng là lần đầu tiên Strike gọi taxi mà không thấy áy náy. Hắn thờ ơ nhìn đồng hồ tính tiền nhảy liên tục. Chiếc taxi chạy về hướng quận Wapping. Suốt đường đi bác tài thao thao chứng minh Gordon Brown làm chính khách mà chẳng ra cái gì. Strike ngồi im lặng hết cả quãng đường.

Đây không phải là nhà xác đầu tiên Strike từng đến và hoàn toàn không phải là tử thi đầu tiên hắn phải xem. Strike đã quá quen mắt với những vết thương súng đạn; những cơ thể bị giày xé, bầm dập, nội tạng lồ lộ ra như ở hàng thịt, máu me đỏ lói. Hắn không còn thấy chợn chạo chút nào. Những tử thi không toàn vẹn nhất, những thân thể lạnh lẽo trắng toát trong ngăn trữ đông với người làm nghề như hắn đều chỉ là những vật phẩm đã được sát trùng, tiêu chuẩn hoá. Chỉ có những xác người vừa chết, chưa qua xử lý theo thể thức mới cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của Strike. Mẹ hắn nằm trong nhà tang lễ, mặc áo đầm dài tay phồng - chiếc áo lúc sinh thời bà thích nhất, hốc hác nhưng trông vẫn trẻ trung, không thấy một vết kim tiêm nào. Trung sĩ Gary Topley nằm trên con đường lầm bụi đẫm máu ở Afghanistan, gương mặt vẫn vẹn nguyên, nhưng phần cơ thể từ lồng ngực trở xuống đã bay mất. Khi Strike nằm giữa đám bụi đường nóng bỏng, hắn cố không nhìn vào gương mặt trống rỗng đó. Hắn sợ không muốn nhìn xuống bên dưới cơ thể mình, sợ phải biết đã mất những gì… nhưng hắn nhanh chóng ngất đi và chỉ biết được câu trả lời khi tỉnh dậy trong bệnh viện dã chiến…

Bức tường gạch trần trụi của phòng chờ ở nhà xác treo bản in của một bức tranh trường phái Ấn Tượng. Strike nhìn chăm chú, cố nhớ ra là đã thấy ở đâu, rồi cuối cùng nhận ra bức tranh treo trên bệ lò sưởi ở nhà Lucy và Gregg.

"Anh Strike?" ông nhân viên nhà xác tóc bạc lên tiếng, ghé mắt qua cánh cửa ngăn cách. Ông ta mặc áo blu trắng, mang găng tay nhựa. "Vào trong này đi.”

Những người coi sóc tử thi dường như lúc nào cũng có vẻ dễ chịu, tử tế. Strike theo ông ta vào căn phòng bên trong rộng rãi và lạnh toát, không hề có cửa sổ. Chạy dọc theo bức tường bên tay phải là hàng loạt những cánh cửa tủ đông bằng thép khá lớn. Sàn nhà lót gạch vuông được láng thoai thoải, đổ xuống một rãnh thoát ở giữa. Ánh đèn trong phòng chói loá. Mỗi tiếng động phát ra đều dội vào những bề mặt cứng và sáng bóng, nghe như cả một nhóm người rầm rập tiến vào phòng.

Một chiếc xe đẩy bằng thép được đặt sẵn trước cánh cửa tủ đông, đứng bên cạnh là hai nhân viên cục điều tra tội phạm, Wardle và Carver. Wardle gật đầu, miệng lầm bầm chào Strike. Carver, bụng phệ mặt rỗ, vai áo đầy gàu, chỉ hầm hừ cho có lệ.

Nhân viên nhà xác kéo nắm cửa dày bằng thép trên tủ đông. Ba đầu thi thể lộ ra, đặt chồng lên nhau, mỗi thi thể được bọc trong một tấm vải trắng đã cũ mèm và mỏng dần đi qua nhiều lần giặt giũ. Nhân viên nhà xác kiểm tra bảng tên đính vào tấm vải phủ lên thi thể ở giữa; không có tên, chỉ nguệch ngoạc ngày tháng hôm qua. Ông ta nhẹ nhàng kéo cả khay trượt dài lẫn tử thi trên đó xuống chiếc xe đẩy gọn ơ. Strike để ý thấy miệng Carver cử động khi ông ta bước lùi lại, nhường chỗ cho ông nhân viên nhà xác kéo chiếc xe đẩy ra xa tủ đông. Sau một tiếng choang và một tiếng rầm, hai tử thi còn lại khuất mất sau cánh cửa tủ.

"Không cần phải đem vô phòng quan sát, tại trong này không có ai khác," ông nhân viên nhà xác nói nhanh. "Ánh sáng ở giữa phòng là rõ nhất," ông ta thêm vào, dừng chiếc xe đẩy ngay trên rãnh thoát, rồi mở tấm khăn phủ.

Trước mắt hắn là Rochelle Onifade, trương phình, đầy nước. Vẻ nghi ngại thường thấy tên gương mặt Rochelle đã biến mất, thay vào đó là một vẻ ngơ ngác trống rỗng. Từ những lời ngắn ngủi của Wardle trên điện thoại Strike đã đoán được sẽ thấy xác của ai. Nhưng vẻ yếu đuối khủng khiếp của người chết vẫn khiến hắn giật mình. Trông Rochelle nhỏ bé hơn nhiều so với lúc ngồi đối diện hắn, vừa ăn khoai tây chiên vừa lấp liếm sự thật.

Strike nói tên cô gái, đánh vần từng chữ để nhân viên nhà xác và Wardle ghi lại chính xác trên bảng tên và sổ sách. Hắn khai luôn địa chỉ duy nhất của Rochelle mà hắn biết: Nhà trọ St Elmo dành cho người vô gia cư, Hammersmith.

"Ai tìm thấy cô ta vậy?”

"Cảnh sát tuần sông vớt được hồi khuya hôm qua," Carver lần đầu tiên lên tiếng. Ông ta nói giọng người phía Nam London, có gì đó rất hằn học. "Xác chết thường mất khoảng ba tuần mới nổi lên, đúng vậy không?" ông ta nói thêm, hướng câu hỏi như một lời bình luận đó về phía nhân viên nhà xác. Ông này khẽ hắng giọng cẩn trọng.

"Trung bình là vậy, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên gì nếu thi thể này mới hơn. Có nhiều dấu hiệu…”

"Được rồi, bên pháp y sẽ lo vụ đó," Carver nói, không thèm để ý tới ông kia.

"Không thể là ba tuần được," Strike nói, ông nhân viên nhà xác thoáng mỉm cười, ra vẻ đồng ý.

"Vì sao không?" Carver hoạnh hoẹ.

"Vì cách đây đúng hai tuần một ngày tôi còn mua bánh burger và khoai tây chiên cho cô ta.”

"À," nhân viên nhà xác lên tiếng, gật đầu với Strike từ phía đối diện. "Tôi vừa định nói nếu trước khi chết mà ăn nhiều tinh bột thì sẽ có ảnh hưởng nhất định lên vẻ ngoài của tử thi. Rõ là có dấu hiệu trương phình…”

"Anh đưa danh thiếp cho cô ta lúc đó à?" Wardle hỏi Strike.

"Đúng vậy. Tôi không ngờ vẫn còn đọc được.”

"Danh thiếp để chung với thẻ Oyster đi tàu xe, ở trong ví kẹp bằng ni lông nhét túi sau quần jeans, vì vậy mà không bị nát.”

"Khi vớt lên cô ta mặc gì?”

"Áo khoác lông giả màu hồng. Trông giống con rối Muppet vừa bị lột da. Quần jeans, mang giày thể thao.”

"Cô ta mặc y như vậy khi gặp tôi.”

"Trong trường hợp đó, khám nghiệm mẫu dạ dày của thi thể có thể cho thấy chính xác…" Ông nhân viên nhà xác lại bắt đầu thao thao.

"Anh biết cô ta có gia đình bà con không?" Carver hạch hỏi Strike.

"Có một bà cô ở Kilburn. Tôi không biết tên gì.”

Mắt Rochelle khép hờ, lộ ra khe cầu mắt trắng lạnh, đúng kiểu tử thi chết đuối. Quanh nếp da gần hốc mũi có vết máu trào.

"Hai bàn tay tử thi như thế nào?" Strike hỏi nhân viên nhà xác, vì tấm vải che chỉ vừa kéo xuống ngang ngực Rochelle.

"Tay tiếc gì nữa," Carver nạt nộ rồi lớn giọng với nhân viên nhà xác "Xong việc ở đây rồi, cảm ơn," giọng ông cảnh sát dội khắp phòng. Ông ta quay sang Strike: "Tụi tôi muốn nói chuyện với anh. Xe đậu ngoài kia.”

Strike đang hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát. Hắn còn nhớ nghe được cụm từ đó trên bản tin lúc còn nhỏ xíu. Từ nhỏ Strike đã mê mẩn công việc của cảnh sát. Mẹ hắn luôn cho rằng chính anh trai bà, cậu Ted đã khiến Strike có sở thích kỳ quặc này. Cậu Ted là cựu quân cảnh, với Strike cậu còn là một kho tàng các câu chuyện ly kỳ về những nơi đây đó, các bí mật và những chuyến phiêu lưu. Hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát: lúc năm tuổi Strike hình dung ra một công dân vô tư, cao quý, hi sinh thời gian và công sức để giúp cảnh sát phá án, được trang cấp một chiếc kính lúp và dùi cui để hoạt động bí mật, thật hấp dẫn.

Nhưng thực tế là đây: một căn phòng thẩm vấn nhỏ xíu và một cốc cà phê pha bằng máy Wardle vừa đưa cho. Anh chàng cảnh sát này mặc dù thái độ không có sự hằn học như ứa ra từ mỗi lỗ chân lông như Carver, nhưng cũng chẳng còn thân thiện gì với Strike như trước. Strike ngờ rằng sếp của Wardle không biết hết mấy vụ qua lại trước đó giữa hắn và anh ta.

Trên mặt bàn trầy xước có một cái khay nhỏ màu đen chứa mười bảy xu toàn tiền lẻ, một chiếc chìa khoá Yale và một thẻ đi xe buýt bọc nhựa; danh thiếp của Strike đã phai màu và nhăn nheo nhưng vẫn còn đọc được.

"Túi xách tay của cô ta thì sao?" Strike hỏi Carver đang ngồi đối diện. Wardle đứng dựa vào tủ hồ sơ trong góc phòng. "Cái túi màu xám, trông rẻ tiền, giống như làm bằng nhựa. Không thấy đâu hả?”

"Chắc cô ta vứt ở cái xó xỉnh tạm bợ nào rồi chứ sao," Carver đáp, móc máy. "Không lẽ đi nhảy cầu tự tử mà mang theo xách tay.”

"Tôi không nghĩ cô ta tự tử," Strike đáp.

"Ồ, vậy sao, lại thế nữa?”

"Tôi muốn nhìn bàn tay của tử thi. Nạn nhân rất ghét nhúng mặt xuống nước, cô ta từng nói vậy với tôi. Khi người ta loay hoay chống chọi trong nước, vị trí bàn tay…”

"Hay ho quá hả, chuyên gia có khác," Carver nói tiếp, lớn giọng mỉa mai. "Tôi biết chú là ai rồi, Strike à.”

Ông ta ngồi dựa lưng xuống ghế, hai tay đan lại đặt sau đầu, để lộ mấy mảng mồ hôi đã ráo ngay dưới nách áo. Mùi mồ hôi chua loét, nồng nồng như củ hành từ bên kia bàn thoảng qua trước mũi hắn.

"Ảnh là cựu nhân viên SIB," Wardle đứng ở tủ đựng hồ sơ nói chen vào.

"Biết rồi," Carver nạt, nhướng hai hàng chân mày khô cứng, lấm tấm vảy. "Anstis ca nguyên bài về vụ chân cẳng vinh quang gì gì đó, rồi huy chương cứu người. Một bản lý lịch hơi bị đẹp.”

Carver rút hai bàn tay ra từ sau đầu, nghiêng người về phía trước rồi đan các ngón tay trên mặt bàn. Dưới ánh đèn tuýp nước da đỏ như thịt bò muối và bọng mắt thâm quầng của ông ta trông càng tối sầm sì.

"Tôi biết ông già anh là ai, biết hết.”

Strike đưa tay gãi cằm lún phún, chờ đợi.

"Cũng muốn giàu có nổi tiếng như tía chú em chứ gì? Hoá ra là vậy đó hả?"

Carver có cặp mắt màu xanh sáng quắc nhưng đầy những tia máu đỏ ngàu, luôn khiến Strike liên tưởng đến một bản tính bạo lực, nóng nảy (hắn từng biết một tay thiếu tá bên lính nhảy dù cũng có đôi mắt như vậy – tay này về sau bị sa thải vì tội cố ý gây thương tích nghiêm trọng).

"Rochelle không tự tử. Lula Landry cũng không.”

"Không cái con c*c!" Carver hét lên. "Mày đang nói chuyện với hai người đã có công chứng minh rằng Landry nhảy lầu tự tử. Tụi tao căng mắt coi hết từng chi tiết chứng cứ, không sót cái đếch gì. Tao biết mày đang giở trò gì rồi. Mày đang cố bòn tới xương tay Bristow ngu ngốc tội nghiệp. Cười cái đếch gì?”

"Tôi đang nghĩ tới chuyện trông anh sẽ ngớ ngẩn ra sao khi vụ này được đưa lên báo.”

"Đừng hòng lấy báo ra mà dọa tụi tao, đồ khốn.”

Gương mặt bành bạnh, cục mịch của Carver cau lại. Cặp mắt xanh trừng trừng trên nền da mặt đỏ tía.

"Mày gặp rắc rối lớn rồi, biết chưa nhóc. Ông già nổi tiếng, cái chân giả và thành tích chiến tranh gì gì cũng không đỡ nổi đâu. Làm sao tụi tao biết được mày không làm cho con ranh tội nghiệp đó sợ hãi tới mức đâm đầu nhảy xuống sông? Nó có bệnh tâm thần, không phải vậy sao? Biết đâu mày đã lải nhải vào tai nó rằng nó đã làm việc gì sai trái? Mày là người cuối cùng gặp nó. Thực tình, tao không muốn ở vào vị trí của mày lúc này chút nào.”

"Sau khi gặp tôi, Rochelle băng qua đường Grantley, vẫn sống nhăn răng như anh ngồi đây. Anh sẽ tìm ra ít nhất một người đã nhìn thấy cô ta sau khi cô ta gặp tôi. Không ai đã từng nhìn thấy cái áo khoác đó mà quên được.”

Wardle rời tủ đựng hồ sơ, kéo một chiếc ghế nhựa cứng lại rồi ngồi xuống cạnh bàn.

"Nói đi," anh ta đề nghị Strike. "Cho tụi tôi nghe giả thuyết của anh.”

"Cô ta đang tống tiền thủ phạm giết Lula Landry.”

"Dẹp đi!" Carver nạt ngay, còn Wardle thì cười khẩy, hơi bị kịch.

"Ngày hôm trước khi Landry chết," Strike nói, "cô ấy có gặp Rochelle khoảng mười lăm phút tại cái cửa hàng ở Notting Hill. Cô ấy lôi ngay Rochelle vào trong phòng thử đồ, rồi gọi điện nài nỉ ai đó tới gặp mình tại căn hộ lúc khoảng một hai giờ sáng. Một nhân viên cửa hàng đứng ở buồng bên cạnh, chỉ cách một tấm màn tình cờ nghe được cuộc nói chuyện đó. Cô này tên là Mel, tóc đỏ, có xăm mình.

"Đụng tới người nổi tiếng thì khối đứa chỉ chực thêu dệt vớ vẩn," Carver nói.

"Nếu Landry có gọi điện ở đó thật," Wardle lên tiếng, "thì hẳn cô ta gọi cho Duffield hay ông cậu. Danh sách cuộc gọi cho thấy trong chiều hôm đó cô ta chỉ gọi cho mỗi hai người đó thôi.”

"Vậy tại sao cô ta muốn Rochelle ở trong buồng thử đồ khi gọi điện?" Strike hỏi. "Tại sao phải lôi Rochelle vô đó?”

"Đàn bà hay làm vậy," Carver nói. "Đi tè còn đi thành bầy nữa mà.”

"Chịu khó động não chút đi: cô ta dùng điện thoại của Rochelle," Strike tức điên cả người. "Trước đó cô ta đã thử hết thảy mấy người thân quen, xem ai là người bán cô ta cho báo chí. Rochelle là người duy nhất biết ngậm miệng lại. Landry kết luận rằng cô gái này đáng tin cậy nên mua cho cô ta một cái điện thoại, đăng ký thuê bao lấy tên Rochelle nhưng trả tiền hết. Lula Landry từng bị nghe lén điện thoại, không phải vậy sao? Cô ta rất hoang mang về chuyện bị nghe lén rồi bị đưa lên báo, vậy là cô ta mua một con Nokia, lấy tên người khác đăng ký thuê bao để mà có phương tiện liên lạc hoàn toàn kín đáo khi cần.

"Ừ thì như vậy cũng không loại trừ người cô ta gọi là ông cậu, hay Duffield vì biết đâu họ đã tự đặt ra dấu hiệu nào đó bằng cách gọi với những số khác nhau. Hoặc cũng có thể cô ta dùng điện thoại của Rochelle để nói chuyện với một người khác; một người cô ta không muốn lộ ra với báo chí. Tôi có số của Rochelle ở đây. Các anh có thể xem cô ta dùng mạng nào, rồi kiểm tra lại hết những chuyện tôi vừa nói. Điện thoại của Rochelle là một con Nokia màu hồng, gắn đầy hột cườm, nhưng các anh sẽ không tìm ra đâu.”

"Vì nó đang nằm dưới đáy sông Thames," Wardle đáp.

"Tất nhiên không phải," Strike nói. "Tên giết người đã lấy đi rồi. Hắn đã tước từ tay Rochelle trước khi xô cô ta xuống sông.”

"Dẹp phứt mày đi!" Carver nhạo, Wardle lắc đầu nguầy nguậy, mặc dù không tin Strike nhưng rõ ràng vẫn bị cuốn vào.

"Vậy tại sao Landry muốn Rochelle ở đó khi cô ta gọi điện?" Strike lặp lại. "Tại sao không gọi trong xe? Tại sao, mặc dù vô gia cư, nghèo kiết xác, Rochelle vẫn chưa bán Landry cho báo cho ấm thân? Rochelle còn chờ gì nữa, Landry đã chết, còn ai làm gì được nữa?”

"Vì Rochelle là người tử tế?" Wardle gợi ý.

"Đó là một khả năng," Strike đáp. "Khả năng khác là cô ta đã kiếm đủ bằng việc tống tiền chính tên thủ phạm giết Lula.”

"Tống cái con c*c!" Carver gầm gừ.

"Anh nghĩ vậy sao? Cái áo khoác Muppet mà cô ta mặc lúc được vớt lên có giá một ngàn năm trăm bảng đó.”

Im lặng trong mấy giây.

"Chắc của Landry cho," Wardle lên tiếng.

"Nếu vậy Landry đã mua một món chưa hề ra cửa hàng hồi tháng Giêng.”

"Landry là người mẫu, hẳn quen biết nọ kia… mà liên quan quái gì," Carver lớn tiếng, cứ như vừa tự chuốc lấy bực bội.

"Tại sao," Strike nói tiếp, đặt hai cánh tay xuống bàn rồi rướn người về vùng xú khí quanh Carver, "tại sao Lula Landry chỉ ghé qua cửa hàng đó trong vòng có mười lăm phút?”

"Cô ta đang bận gì đó.”

"Vậy thì tại sao phải ghé?”

"Cô ta không muốn để Rochelle phải thất vọng.”

"Cô ta khiến Rochelle đi từ bên kia thành phố tới… Chính cô bạn gái bần cùng, vô gia cư mà cô ta thường cho quá giang về nhà trọ bằng xe có tài xế riêng chứ không phải ai xa lạ. Nhưng lần này Landry lôi Rochelle vào trong buồng thử đồ, rồi mười lăm phút sau bước ra, để Rochelle tự đi về nhà.”

"Thì kiểu tiểu thư hư hỏng quen được o bế mà.”

"Nếu vậy thì việc gì phải tới Vashti? Bởi vì cô ta đang cần làm một việc gì đó. Và nếu không phải vậy thì hẳn cô ta phải lo lắng hay giận dữ sao đó, nên hành động mà không suy nghĩ. Có nhân chứng vẫn còn sống từng nghe được Lula nài nỉ ai đó trên điện thoại đến gặp mình ở căn hộ, khoảng sau một giờ sáng. Còn có một tờ giấy màu xanh Landry cầm trước khi vào Vashti, mà không ai khai là đã nhìn thấy sau đó cả. Cô ta đã làm gì với tờ giấy? Tại sao lại viết ngay trong xe, trước khi gặp Rochelle?”

"Chắc là…" Wardle lên tiếng.

"Cóc phải giấy ghi mấy thứ cần mua," Strike tức tối nói trước khi Wardle kịp gợi ý, đập tay xuống bàn, "và không ai lại đi viết thư tuyệt mệnh trước khi tự tử đến tám tiếng đồng hồ, rồi đi nhảy nhót. Cô ta đang viết di chúc, anh không hiểu sao? Cô ta đem tới Vashti để Rochelle làm chứng…”

"Chứng cái con c*c!" Carver lại cảm thán, nhưng lần này Strike lơ hẳn ông ta, chỉ nói với Wardle.

"…khớp với chuyện cô ta nói với Ciara Porter là sẽ để lại mọi thứ cho ông anh, không phải vậy sao? Cô ta cần có người làm chứng để hợp thức hoá di chúc. Hôm đó Landry liên tục nghĩ đến việc này.”

"Tự dưng đi làm di chúc chi vậy?”

Strike ngập ngừng, rồi ngồi xuống trở lại. Carver liếc đểu hắn một cái.

"Trí tưởng tượng tới đó thôi hả?”

Strike thở dài ngao ngán. Một đêm uống như hũ chìm, rồi vụ vui vẻ quá đà tối hôm qua, rồi suốt nửa ngày trong bụng có mỗi nửa cái bánh mì kẹp phô mai và dưa góp. Hắn thấy mệt lả, trống rỗng.

"Nếu tôi có bằng chứng cụ thể, tôi đã mang đến đây rồi.”

"Anh có biết người gần gũi với nạn nhân tự tử cũng có có tỉ lệ tự tử rất cao hay không? Cái cô Raquelle này còn bị trầm cảm nữa. Hôm đó hẳn cô ta đang rất buồn, nhớ lại cách bạn cũ chết rồi bắt chước làm một cú như vậy. Quay lại với anh, chuyên truy bắt người ta, đẩy người ta…”

"… đến đường cùng" Strike nói. "Lại vậy nữa. Trong hoàn cảnh này thì ăn nói như vậy quá vô duyên. Còn bằng chứng của Tansy Bestigui thì sao?”

"Nữa hả Strike? Tụi tui đã chứng minh là bà ta không thể nghe được gì," Wardle nói. "Đã chứng minh chắc chắn rồi.”

"Không hề," Strike nói. Cuối cùng, hắn bất ngờ nổi nóng thật sự. "Anh rút ra kết luận về vụ án dựa trên một giả thuyết bậy bạ. Nếu anh nghe kỹ lời Tansy Bestigui, nếu anh phân tích rõ ràng và buộc bà ta phải nói ra sự thật, thì hẳn giờ Rochelle Onifade vẫn còn sống.”

Carver nổi trận lôi đình, giữ Strike ở lại thêm một tiếng nữa. Rồi trút giận cú cuối cùng bằng cách lệnh cho Wardle tiễn phức "Ngài Rokeby con" ra khỏi trụ sở, cấm lảng vảng.

Wardle đi theo Strike đến cửa trước, không nói năng gì.

"Tôi cần anh làm một chuyện," Strike nói, dừng ngay trước cửa, bên ngoài bầu trời đang tối sầm lại.

"Đủ rồi, bồ tèo" Wardle nói, cười gượng gạo. "Tôi sẽ phải chịu trận vụ đó," anh ta đưa ngón tay cái chỉ về sau vai, nơi có Carver và cơn thịnh nộ của ông ta, "trong nhiều ngày tới, tất cả chỉ vì anh. Tôi nói đã nói anh rồi, vụ đó là tự tử.”

"Wardle, trừ khi có ai mang tên khốn đó đem nộp cho anh, sẽ có hai người nữa lăm le bị giết.”

"Strike…”

"Nếu tôi mang cho anh bằng chứng rằng hôm đó Tansy Bestigui không ở bên trong căn hộ khi Lula ngã xuống? Rằng bà ta ở một nơi có thể nghe được hết?”

Wardle nhìn lên trần nhà, nhắm mắt trong giây lát.

"Nếu anh có bằng chứng…”

"Tôi chưa có, nhưng sẽ có trong hai ngày tới.”

Hai người đàn ông bước ngang qua mặt họ vừa đi vừa nói chuyện. Wardle lắc đầu, mặt cáu kỉnh, nhưng vẫn chưa bỏ đi.

"Nếu anh muốn nhờ vả gì bên cảnh sát thì gọi Anstis. Anh ta mới là người nợ nần anh."

"Anstis không thể giúp tôi vụ này. Tôi cần anh gọi cho Deeby Macc.”

"Để làm quái gì?”

"Anh nghe tôi nói rồi đó. Deeby Macc sẽ không nói chuyện với tôi. Nhưng anh ta sẽ nói với anh: anh là nhà chức trách, với cả hình như Deeby Macc rất khoái anh.”

"Không lẽ ý anh là Deeby Macc biết Tansy Bestigui ở đâu khi Lula Landry chết?”

"Không, đương nhiên anh ta biết thế quái nào được. Lúc đó anh ta còn đang ở Barrack. Tôi muốn biết anh ta nhận được món quần áo gì gởi từ Kentigern Gardens về khách sạn Claridges. Tức là, Guy Somé tặng anh ta những món gì.”

Strike không thèm phát âm tên của Somé là "ghi" trước mặt Wardle.

"Anh muốn biết… nhưng tại sao?”

"Bởi vì một trong hai người bỏ chạy trên đoạn băng từ camera an ninh mặc một cái áo ấm được gởi cho Deeby.”

Wardle căng mặt trong giây lát, rồi trở lại giận dữ.

"Áo đó ở đâu chẳng có," rồi nói tiếp. "Mấy cái đồ GS đó. Đồ bộ chống thấm, đồ thể thao nọ kia.”

"Nhưng cái áo thun dày liền mũ đó rất đặc biệt, được làm riêng cho Deeby Macc, trên thế giới chỉ có mỗi một cái. Cứ gọi cho Deeby, hỏi Somé gởi cho anh ta những món gì. Tôi chỉ cần vậy thôi. Nếu tôi đúng thật thì anh muốn đứng về phe ai hả Wardle?”

"Đừng có hù tôi, Strike…”

"Tôi không hù hiếc gì hết. Tôi đang nghĩ đến một tên giết người hàng loạt vẫn còn đang lởn vởn tính vụ tiếp theo… nhưng nếu anh còn lo chuyện báo chí, tôi nói thật, bọn chúng sẽ không nhẹ tay với bất cứ người nào còn khăng khăng giữ giả thuyết tự tử sau khi một nạn nhân mới xuất hiện. Gọi Deeby Macc đi Wardle, trước khi một người nữa bị giết chết.”

11

"Không được" Strike nói dứt khoát trên điện thoại tối hôm đó. "Càng lúc càng nguy hiểm. Đi theo dõi không phải là việc của thư ký.”

"Đi tới khách sạn Malmaison ở Oxford hay tới trường SOAS cũng có phải đâu." Robin chỉ ra, "nhưng anh vẫn để tôi làm cả hai việc đó.”

"Nhưng khi đó cô không theo dõi ai cả, Robin à. Tôi nghĩ Matthew cũng sẽ không vui nếu biết được.”

Thật buồn cười, Robin nghĩ thầm. Cô mặc áo choàng tắm ngồi trên giường, điện thoại áp sát tai. Strike nhớ tên vị hôn phu của cô, mặc dù chưa một lần gặp mặt. Robin thấy đàn ông thường không thèm nhớ những thông tin như vậy. Matthew thường xuyên quên tên người khác, thậm chí tên cháu gái mới sinh cũng không nhớ nổi; nhưng cô đoán là Strike đã được đào tạo để biết cách nhớ chi tiết như vậy.

"Tôi không cần xin phép Matthew," Robin nói. "Mà cũng sẽ không có gì nguy hiểm cả, anh không nghĩ là Ursula May đã giết ai đó chứ…”

(Robin lí nhí thêm mấy từ "phải vậy không?" cuối câu)

"Không, nhưng tôi không muốn có người nghĩ tôi đang chú ý tới bà ta. Vì như vậy có thể đánh động thủ phạm, tôi không muốn có ai bị xô chết nữa.”

Robin nghe tim mình đập thình thịch sau lớp vải áo choàng mỏng. Cô biết Strike sẽ không nói ra hắn đang nghĩ ai là thủ phạm. Thậm chí cô còn thấy hơi sợ phải nghe chuyện đó, mặc dù trong đầu không thể nghĩ đến chuyện gì khác lúc này.

Chính cô chủ động gọi cho Strike. Đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc hắn nhắn tin cho cô, báo là phải đi đến Trụ sở Cảnh sát London và nhờ cô khoá cửa văn phòng khi ra về. Robin đã rất lo lắng.

"Thì gọi cho anh ta đi, không thì trằn trọc mãi," Matthew nói vậy, không bực hẳn mà cũng không nói thẳng rằng mặc dù chưa biết mọi chi tiết, anh ta vẫn đồng ý với bên cảnh sát.

"Nghe này, tôi muốn nhờ cô làm một việc." Strike nói. "Gọi cho John Bristow ngay khi cô đến văn phòng sáng mai và báo với ông ta vụ Rochelle.”

"Được rồi," Robin đáp, mắt nhìn vào con voi nhồi bông to tướng mà Matthew tặng cô dịp Valentine đầu tiên, cách đây tám năm. Người tặng quà hiện đang ngồi xem bản tin Newsnight trong phòng khách. "Mai anh sẽ làm gì?”

"Tôi sẽ đến trường quay Pinewood để có vài lời với Freddie Bestigui.”

"Anh làm sao vào đó được?" Robin nói. "Họ sẽ không để anh tới gần ổng.”

"Được hết." Strike đáp.

Sau khi Robin dập máy, Strike ngồi im một lúc lâu trong văn phòng tối om. Vụ bữa ăn McDonald vẫn chưa tiêu hoá hết trong thi thể trương phình của Rochelle không hề làm Strike lợm giọng. Hắn vẫn ăn hết được cả hai cái Big Mac, một hộp khoai tây chiên lớn và một hộp kem McFlurry trên đường về văn phòng từ Trụ sở Cảnh sát London. Bụng hắn sôi ùng ục, hoà với tiếng bass thình thịch từ quán Bar Café số 12 dưới nhà mà giờ đây Strike hầu như không còn để ý nữa, cứ như đã trở thành mạch đập của hắn.

Căn hộ điệu đà, bừa bộn của Ciara, khuôn miệng mở rộng, rên rỉ, đôi chân dài trắng muốt quấn quanh lưng hắn, tất cả như đã lâu lắm rồi. Giờ đây hắn mãi nghĩ về chỗ trú thân tạm bợ, và Rochelle Onifade xấu số. Hắn nhớ lại cách cô ta nói ào ào trên điện thoại, chưa đầy năm phút sau khi rời quán Mc Donald, mặc y bộ đồ như khi được vớt từ dưới sông lên.

Hắn biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Rochelle đã gọi điện cho thủ phạm để kể chuyện cô ta mới ăn trưa với một tay thám tử tư. Sau đó hai người hẹn gặp nhau. Tối hôm đó, sau một bữa ăn hay vài cốc bia, cả hai đi thơ thẩn trong bóng đêm, về phía bờ sông. Hắn nghĩ về cây cầu Hammersmith, cây cầu hai màu, xanh lá xô thơm và ánh vàng, gần nơi Rochelle vừa khoe là đã mua nhà, rồi nghĩ về dòng nước sông Thames chảy xiết dưới cầu. Cô ta không biết bơi. Trời tối: một cặp trai gái đang đùa giỡn gần đó, một chiếc xe chạy vụt qua, một tiếng hét rồi tiếng nước bắn lên. Liệu đã có ai nhìn thấy Rochelle?

Không ai cả, nếu thủ phạm có một thần kinh thép và liên tục gặp may. Yếu tố thứ nhất từng được thể hiện rõ ràng ở nạn nhân đầu tiên. Đúng là thủ phạm luôn ra tay táo tợn, cứ như biết mình sẽ luôn gặp may. Luật sư bên bị chắc chắn sẽ viện dẫn tâm lý bất ổn, vì kẻ thủ ác trong trường hợp này hành động quá liều lĩnh, khinh suất một cách khác thường và có lẽ, Strike nghĩ thầm, ở đây còn có cả vấn đề bệnh lý nữa, một chứng điên loạn nào đó. Nhưng lúc này hắn không quan tâm tới khoa tâm lý học. Cũng như John Bristow, hắn muốn đi tìm công lý.

Trong bóng tối, Strike suy nghĩ lan man. Dòng suy nghĩ ngược thời gian, đột ngột đọng lại ngay cái chết của người gần gũi nhất với Strike, dù chẳng liên quan gì. Cái chết mà Lucy luôn đinh ninh (một cách sai lầm) rằng đã ám ảnh mọi cuộc điều tra của hắn, ảnh hưởng đến mọi vụ án mà hắn tham gia. Cái chết đó đã chia cắt cuộc đời của hắn và Lucy thành hai chương rõ rệt, trước đó và sau đó. Lucy cứ nghĩ rằng hắn bỏ hết, quyết vào Quân cảnh Hoàng gia chỉ vì cái chết của bà Leda; vì hắn bất mãn sau khi không chứng minh được tội lỗi của ông cha dượng. Cô ta cho rằng mỗi xác chết mà hắn gặp trong khi làm việc hẳn đã làm Strike nhớ lại người mẹ, còn mỗi tên sát nhân hắn gặp hẳn nhắc Strike về ông chồng hờ của bà ta. Lucy tin rằng hắn lao vào điều tra những cái chết khác để bù đắp chuyện không thể đưa thủ phạm giết mẹ hắn ra ánh sáng.

Nhưng thực ra Strike đã chọn nghề này từ rất lâu, trước khi bà Leda tiêm mũi ma túy cuối cùng; trước cả khi hắn hiểu rằng mẹ hắn (và tất cả những người khác) đều sẽ phải chết, và những vụ án giết người không đơn giản chỉ là những câu đố chưa có lời giải. Lucy mới chính là người không thể quên chuyện cũ. Em gái hắn vẫn sống giữa mớ ký ức như đám ruồi nhặng bâu quanh xác chết. Lucy mới là người nhìn mọi cái chết bất thường với những xúc cảm mâu thuẫn từ sự ra đi đột ngột của mẹ hắn.

Tuy vậy, tối nay Strike lại làm cái việc mà hẳn Lucy nghĩ hắn luôn làm: hắn nhớ lại bà Leda và liên hệ với vụ án trước mặt. Leda Strike, fan nữ cuồng. Người ta luôn chú thích như vậy trong tấm ảnh nổi tiếng nhất của mẹ hắn, cũng là tấm ảnh duy nhất có cả cha lẫn mẹ của Strike. Ảnh trắng đen chụp mẹ hắn, với gương mặt trái tim, mái tóc sẫm màu mượt mà, đôi mắt mở to chăm chú. Đứng giữa mẹ hắn và Jonny Rokeby là một tay buôn nghệ thuật, một tay dân chơi quý tộc (về sau một người đã tự tử còn người kia chết vì AIDS) và người mẫu Carla Astofi, vợ thứ hai của Rokeby. Ngôi sao nhạc rock trông ái nam ái nữ, hoang dại, tóc dài gần bằng tóc của Leda. Ai cũng cầm ly martini và thuốc lá, khói thuốc vờn ra từ khoé miệng cô người mẫu nhưng mẹ hắn mới là người trông duyên dáng nhất.

Trừ Strike ra, tất cả đều cho rằng cái chết của Leda là hậu quả đáng tiếc nhưng không có gì bất ngờ của một lối sống phóng túng, vượt ra ngoài khuôn khổ xã hội. Đến cả những người thân quen lâu năm nhất của Leda cũng chấp nhận rằng chính bà ta tự chuốc ma tuý quá liều vào người. Tất cả đều đồng ý rằng Leda đã bước đến những ranh giới tội lỗi của cuộc sống; và chẳng có gì ngạc nhiên khi một ngày nào đó bước thêm một bước nữa, rơi xuống vực thẳm chết chóc, bất động và lạnh lẽo trên chiếc giường dơ dáy.

Không ai biết tại sao Leda làm việc đó, ngay cả cậu Ted cũng không (cậu chỉ đứng dựa vào chậu rửa bát trong bếp, lặng im đau đớn) hay mợ Joan ( mắt đỏ ngàu nhưng giận dữ, ngồi ở bàn ăn, choàng tay ôm Lucy lúc đó mới mười chín tuổi đang dựa đầu vào vai mợ nức nở). Chuyện chơi ma tuý quá liều hoàn toàn ăn khớp với lối sống của Leda lúc đó: ở nhà hoang tạm bợ, cặp kè với đám nhạc sĩ, tiệc tùng hư hỏng, rồi cuộc sống nghèo khó với ông chồng hờ cuối cùng. Chung quanh Leda lúc nào cũng có sẵn ma tuý, bà luôn muốn phê, muốn có những cảm xúc dữ dội. Chỉ có mỗi Strike tự hỏi mẹ hắn đã chuyển sang chích heroin từ khi nào. Chỉ mình Strike thấy lạ vì mẹ hắn vốn chỉ thích cần sa, mà lại đột ngột chết vì heroin. Một mình hắn có những câu hỏi bỏ ngỏ và nhận ra những tình tiết đáng nghi ngờ. Nhưng lúc đó hắn chỉ là cậu sinh viên hai mươi tuổi, chẳng ai thèm nghe hắn nói.

Sau phán quyết của tòa, Strike thu dọn hành lý và để lại sau lưng tất cả: vụ ồn ào ngắn ngủi trên báo chí, nỗi thất vọng của mợ Joan trước chuyện hắn bỏ học ở Oxford, Charlotte đau khổ giận dữ vì phải xa hắn nhưng cũng đã kịp ngủ với người khác, những màn khóc lóc gào thét của Lucy. Với sự ủng hộ duy nhất từ cậu Ted, Strike mất hút vào quân đội, tìm lại được cuộc sống mà Leda từng dạy cho hắn: một cuộc sống rày đây mai đó, sự tự lập và sức hấp dẫn vô tận của những thứ mới mẻ.

Tối nay, Strike cảm thấy bà Leda không khác gì một người chị tinh thần của hai cô gái đó. Một người xinh đẹp, yếu đuối và trầm cảm, cuối cùng tan xương nát thịt trên mặt đường giá băng. Một người xấu xí thô kệch vô gia cư, cuối cùng nằm trong nhà xác lạnh lẽo. Leda, Lula và Rochelle khác xa với Lucy hay mợ Joan. Cả ba đều không dè dặt trước bạo lực hay rủi ro. Họ không trói buộc mình vào cuộc đời bằng những thứ như nợ mua nhà trả góp, những công việc thiện nguyện, những ông chồng tốt bụng và những đứa con mặt mũi sạch sẽ. Vì vậy cái chết của họ không được xem là "bi thảm", như cái chết của các bà nội trợ đoan trang đáng kính.

Thật quá dễ dàng để phán xét một con người, để nói rằng chính họ tạo ra bi kịch của mình. Quá dễ dàng để khiến họ đi đến bước đường cùng, rồi bàng quan nhún vai đồng ý rằng đó chỉ là kết cục hoàn toàn biết trước của một lối sống suy đồi, hỗn loạn.

Gần như mọi chứng cứ vật chất trong vụ án của Lula đều đã bị xoá sạch từ lâu. Vết chân kẻ thủ ác đã bị dẫm đạp lên, hay bị tuyết rơi dày che phủ. Mẩu chứng cứ thuyết phục nhất mà Strike có được chỉ là đoạn phim trắng đen mờ mịt quay hình hai người đàn ông chạy khỏi hiện trường, mà cảnh sát chỉ xem cho có lệ rồi vứt qua một bên. Cảnh sát không tin có người đột nhập vào toà nhà, hoàn toàn bị thuyết phục rằng là Landry đã tự tử và cho rằng hai người trong đoạn phim chỉ là hai tên trộm đang lảng vảng chờ thời.

Strike bừng tỉnh, nhìn xuống đồng hồ. Mười giờ rưỡi nhưng hắn chắc người hắn đang muốn gọi điện vẫn còn thức. Hắn bật công tắc đèn để bàn, lấy điện thoại di động ra và bấm một số ở Đức.

"Oggy," một giọng lành lạnh ở bên kia đầu dây rống lên. "Sao rồi mậy?”

"Nhờ chút được không bồ tèo,”

Rồi Strike nhờ Trung uý Graham Hardacre cung cấp mọi thông tin có được về một người có họ Agyeman mà hắn còn không biết tên và cấp bậc, thuộc biên chế Kỹ sư Quân đội Hoàng Gia. Hắn đặc biệt quan tâm đến ngày tháng của những chuyến làm nhiệm vụ ở Afghanistan.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Đây là chiếc xe thứ hai Strike từng lái sau khi mất đi chân phải. Hắn từng cố lái chiếc Lexus của Charlotte, nhưng hôm nay, để tỏ ra thật mạnh mẽ lạnh lùng, hắn đã thuê một chiếc Honda Civic số tự động.

Từ văn phòng đến Iver Heath mất gần một tiếng đồng hồ. Strike vào được trường quay sau khi giở mọi ngón: nói thật nhanh, doạ dẫm và xẹt ra mấy thứ giấy tờ tuỳ thân không hề giả mạo nhưng đã hết hạn. Tay bảo vệ, ban đầu vô cùng nghiêm túc, đã bị thuyết phục hoàn toàn trước thái độ thản nhiên như không của Strike, cùng với cụm từ "Cục điều tra đặc biệt" và tấm thẻ có hình hắn.

"Anh có hẹn trước không?" Ông ta hỏi Strike, đứng cao hơn hắn ba tấc trong cabin ngay cạnh barrier điện, bàn tay ông ta chụp lên ống nghe điện thoại.

"Không.”

"Chuyện gì vậy?”

"Chuyện ông Evan Duffield," Strike đáp. Hắn thấy tay bảo vệ sưng sỉa mặt mày và lầm bầm gì đó vào điện thoại.

Khoảng một phút sau, Strike được chỉ đường và mở barrier cho vào. Hắn chạy xe dọc theo một con đường uốn thoai thoải quanh toà nhà trường quay, vừa đi vừa nghĩ mấy vụ tai tiếng của Duffield coi vậy mà cũng có thể dùng vào việc có ích.

Một chiếc Mercedes đậu ở khoảng riêng tại bãi, chỗ có gắn bảng tên ghi chữ GIÁM ĐỐC SẢN XUẤT FREDDIE BESTIGUI. Strike đậu xe ngay sau đó vài hàng, rồi lừng lững đi ra khỏi xe. Tay tài xế của Bestigui nhìn theo hắn qua kính chiếu hậu. Hắn đi qua một lớp cửa kính, đến một cầu thang trông tầm thường như ở những toà nhà công cộng. Một thanh niên đang chạy xuống cầu thang, anh này giông giống Khỉ Con, nhưng sạch sẽ gọn gàng hơn một chút.

"Ông Freddie Bestigui ở đâu?" Strike hỏi anh ta.

""Tầng hai, văn phòng thứ nhất bên tay phải.”

Bestigui xấu xí y như trong những tấm hình hắn từng xem, cần cổ trùng trục, mặt dày rỗ. Ông ta ngồi ở bàn đặt trong góc phòng, phía sau tấm kính ngăn với văn phòng ngoài, đang nhăn nhó nhìn vào màn hình máy tính. Văn phòng ở bên ngoài đông đúc và chật chội. Nhiều phụ nữ trẻ đẹp đang làm việc tại bàn. Poster quảng cáo film dán đầy lên mấy cây cột. Trên vách đầy hình chụp thú cưng với thời gian biểu quay phim. Một cô gái xinh đẹp ngồi ngay gần cửa, mang một bộ tai nghe và micro trực điện thoại. Cô ngẩng lên nhìn hắn, hỏi:

"Chào anh, tôi giúp gì được cho anh?”

"Tôi tới đây để gặp ông Bestigui. Cô khỏi lo, tôi tự đi vô được.”

Hắn đi vào trong phòng của Bestigui, trước khi cô ta kịp nói gì.

Bestigui ngước lên nhìn, hai mắt ti hí giữa những nếp thịt chảy xệ, da ngăm ngăm lốm đốm nốt ruồi.

"Anh là ai?”

Ông ta đã chống tay đứng lên, bàn tay chuối mắn giữ chặt mép bàn.

"Tôi là Cormoran Strike, thám tử tư. Tôi được...”

"Elena!" Bestigui đánh đổ cốc cà phê ra bàn, cà phê chảy tràn trên mặt gỗ bóng, ướt hết mớ giấy tờ. "Cút mẹ đi! Cút ra! CÚT”

"… anh trai của Lula Landry, John Bristow thuê để…”

"ELENA!”

Cô gái xinh đẹp mảnh khảnh vẫn đeo tai nghe chạy ngay vào, đứng run rẩy cạnh Strike. Trông cô ta hết cả hồn vía.

"Gọi cho bảo vệ đi, con ranh ngủ gục kia!”

Cô ta chạy ngay ra ngoài. Bestigui cao chừng một mét rưỡi là cùng. Lúc này ông ta đã đứng hẳn dậy, đi ra trước bàn. Ông nhìn Strike như một con chó Pitbull vừa phát hiện thấy lãnh địa mới bị một con chó Rottweiler xâm chiếm. Elena để cửa mở, nhân viên ở văn phòng bên ngoài lố nhố nhìn vào, vừa sợ hãi vừa tò mò không rời mắt được.

"Tôi đã cố bắt liên lạc với ông trong mấy tuần rồi, thưa ông Bestigui…”

"Mày gặp rắc rối to rồi con à," Bestigui nói, tiến lại gần hắn, miệng gầm gừ, cặp vai bệ vệ khom lại.

"… để nói chuyện hôm cô Lula Landry chết.”

Qua cửa kính, hắn thấy hai người đàn ông lực lưỡng, mặt mày căng thẳng, mặc áo sơ mi trắng, cầm theo bộ đàm đang chạy đến từ phía bên phải.

"Đem nó ra khỏi đây!" Bestigui gầm lên, chỉ tay về phía Strike. Hai người bảo vệ va vào nhau ở cửa rồi chen vào hết trong phòng.

"Cụ thể là," Strike nói tiếp, "về vị trí của vợ ông, bà Tansy, khi Lula ngã xuống…”

"Tống nó ra ngoài và gọi cảnh sát ngay! Làm quái nào mà nó vào đây được?”

“…bởi vì có người cho tôi xem mấy tấm hình chứng tỏ lời khai của bà nhà. Bỏ ra," Strike quay sang nói với tay bảo vệ trẻ hơn, tay này vừa níu cánh tay hắn lại, "nếu không tôi sẽ vứt anh qua cửa sổ.”

Tay bảo vệ không buông ra nhưng nhìn Bestigui, chờ lệnh.

Cặp mắt màu xanh đậm của Bestigui quắc lên, nhìn chằm chằm vào Strike. Ông ta nắm chặt bàn tay lại rồi thả ra. Một lúc lâu sau ông ta lên tiếng.

"Nói năng nhảm như cứt.”

Nhưng ông ta không ra lệnh cho hai người bảo vệ kéo Strike ra khỏi phòng.

"Người chụp hình đứng trên vỉa hè đối diện nhà ông lúc sáng sớm ngày Tám tháng Giêng. Anh ta không biết được bức hình đó có giá trị như thế nào. Nếu ông không muốn nói chuyện với tôi, cũng được thôi. Cảnh sát và báo chí sẽ vào cuộc. Đằng nào thì cũng vậy cả.”

Strike bước ra phía cửa. Hai người bảo vệ vẫn còn túm lấy cánh tay hắn bị bất ngờ, trong giây lát trông như đổi ý quyết giữ hắn lại.

"Cút ra," Bestigui đột ngột nói với đám thuộc hạ. "Khi cần tao sẽ gọi. Đóng cửa lại.”

Hai người đi ra. Khi cánh cửa đã đóng, Bestigui nói:

"Được rồi. Đồ khốn. Cho mày năm phút.”

Strike ngồi xuống chiếc ghế bọc da màu đen đối diện với bàn của Bestigui, mặc dù chưa được mời mọc gì. Nhà sản xuất phim trở lại chỗ ngồi cũ, vẫn nhìn Strike bằng cặp mắt lạnh lùng, cứng rắn, khác hẳn với cái nhìn của bà vợ ông ta. Bestigui có cặp mắt tính toán thận trọng của một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Ông ta với tay lấy gói cigar cỡ nhỏ, kéo cái gạt tàn thuỷ tinh màu đen tới trước mặt và rút hộp quẹt vàng ra châm thuốc.

"Được rồi, vậy mấy cái hình giả định đó có gì," ông ta nói, nheo mắt nhìn qua lớp khói thuốc hăng hắc, đúng kiểu ông trùm điện ảnh.

"Chụp lại bóng đổ," Strike nói, "của một người đàn bà đang cúi người trên ban công, ngay bên ngoài cửa sổ phòng khách nhà ông. Trong hình bà ta dường như không mặc gì, nhưng cả tôi và ông đều biết, là có mặc đồ lót.”

Bestigui phả mạnh một hơi thuốc trong vài giây, rồi rút điếu cigar ra và nói:

"Vớ vẩn. Từ bên kia đường không thể thấy được. Nền ban công bằng đá nguyên khối, từ góc đó không thấy được gì cả. Hơi bị liều đó.”

"Trong phòng khách của ông lúc đó có bật đèn. Có thể thấy được bóng bà Tansy qua khe hở trên ban công. Có đủ chỗ cho bà ta ở đó, đương nhiên rồi, vì lúc đó làm gì có chậu cây cảnh, phải vậy không? Người ta thường bứt rứt không yên, phải làm méo mó hiện trường cho bằng được, mặc dù đã yên ổn." Strike nói thêm, thản nhiên như không. "Ông cố làm như trên ban công không có đủ chỗ cho ai đứng cả, đúng không? Nhưng ông không thể quay ngược thời gian để dùng Photoshop chỉnh sửa sự thật. Thực tế là Tansy lúc đó hoàn toàn có thể nghe được tất cả những gì xảy ra trên ban công tầng ba, ngay trước khi Lula Landry chết.

"Tôi cho là như thế này," Strike nói tiếp, trong khi Bestigui tiếp tục nheo mắt nhìn hắn qua làn khói từ điếu cigar. "Ông và bà nhà hẳn đã cãi nhau khi bà ta đang cởi áo ngoài chuẩn bị đi ngủ. Có lẽ vì ông tìm thấy vài tép trong nhà tắm, hay bắt quả tang bà đang phê. Vậy là ông quyết định phạt Tansy bằng cách tống cổ ra ngoài ban công, giữa cái lạnh dưới không độ.”

"Người ta chắc sẽ đặt câu tại sao một con phố đầy ắp paparazzi mà không ai nhìn thấy một người đàn bà gần như trần truồng vừa bị đuổi ra ngoài ban công ngay trên đầu họ. Nhưng đêm đó tuyết rơi rất dày. Còn đám thợ săn ảnh vừa phải liên tục dậm chân xuống đất để giữ ấm vừa phải tập trung nhìn về cuối đường vì Lula và Deeby có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Tansy cũng không hề la hét đúng không? Bà ta cúi người xuống, nấp kín, không muốn lộ mặt ra trước báo giới, khi trên người chỉ có mỗi bộ đồ lót. Có thể ông đã tống cổ bà ta ra đó ngay lúc xe của Lula vừa về đến nơi. Không ai lại đi nhìn lên cửa sổ nhà ông khi Lula Landry vừa xuất hiện, mặc áo đầm mỏng manh.”

"Toàn nhảm nhí vớ vẩn," Bestigui nói. "Anh cóc có tấm hình nào cả.”

"Tôi chưa bao giờ nói là tôi có mấy tấm hình đó. Tôi chỉ nói là có người đã cho tôi xem.”

Bestigui rút điếu cigar ra khỏi miệng, rồi đổi ý không muốn nói nữa, ngậm lên trở lại. Strike đợi một lúc khá lâu nhưng khi đã rõ là Bestigui không nói năng gì, hắn tiếp:

“Tansy hẳn đã đập lên cửa ngay sau khi thấy Landry rớt xuống. Ông không ngờ bà ta lại đập cửa la lối đúng không? Sợ phải phơi bày bản tính vũ phu trước bàn dân thiên hạ, ông mở cửa ngay. Tansy vừa la hét vừa chạy vào, ngang qua mặt ông, chạy thẳng xuống nhà dưới để báo với Derrick Wilson.

"Lúc đó ông mới nhìn xuống lan can và thấy Lula Landry nằm chết trên mặt đường.”

Bestigui phả khói thuốc chậm rãi, mắt vẫn không rời khỏi gương mặt Strike.

"Bồi thẩm đoàn hẳn sẽ thấy chuyện ông làm ngay sau đó vô cùng mờ ám. Ông không gọi 999. Ông không chạy theo bà vợ bị lạnh cóng, còn đang hoảng loạn. Ông thậm chí còn không chạy vào toilet để phi tang hết chỗ ma túy vẫn còn vương vãi trong đó, dù nếu ông làm chuyện này thực thì bồi thẩm đoàn thấy còn có vẻ hợp lý.

"Không, ngay sau đó, trước khi chạy theo bà vợ hay gọi cảnh sát, ông lại đi lau cửa sổ thật sạch. Nên trên cửa sổ không hề có dấu tay của Tansy vịn vào từ bên ngoài, đúng vậy không? Ưu tiên hàng đầu lúc đó của ông là xóa sạch dấu vết vụ tống bà vợ ra ngoài ban công, trong khi bên ngoài âm mười độ. Ông đã sẵn tai tiếng bạo lực hiếp đáp, cộng thêm vụ lùm xùm với cô nhân viên cũ vẫn còn lơ lửng, dại gì mà cúng thêm bằng chứng cho báo chí hay công tố viên?

"Sau khi đã yên tâm rằng mọi dấu vân tay trên cửa kính đều bị xoá sạch, ông chạy xuống nhà dưới rồi bắt bà Tansy quay trở về căn hộ. Trong thời gian ngắn ngủi đợi cảnh sát đến, ông khống chế Tansy, buộc bà ta không được khai ra đã ở đâu khi Lula rơi xuống. Tôi không biết ông hứa hẹn hay hù doạ gì bà ta, nhưng rõ là có tác dụng.

"Nhưng ông vẫn chưa thấy yên tâm, vì lúc đó Tansy quá sốc và hoảng loạn, ông e là bà ta sẽ buột miệng nói ra hết. Vậy là ông cố đánh lạc hướng cảnh sát bằng cách lu loa về cái bình hoa bị bể, để Tansy có thời gian bình tĩnh lại và làm đúng theo lời ông.

"Mà đúng là bà ta giữ lời thật còn gì nữa? Có Chúa mới biết vụ này tốn của ông bao nhiêu, nhưng mặc cho báo chí bủa vây, mặc cho người ta gọi mình là một kẻ hoang tưởng thối trí vì cocaine, bà ta trước sau vẫn khăng khăng rằng đã nghe thấy tiếng Landry và kẻ sát nhân cãi vã, mặc dù ở cách hai tầng lầu và có cả kính cách âm.

"Nhưng nếu biết được đã có tấm ảnh này," Strike tiếp, "tôi nghĩ bà ta sẽ nhẹ nhõm mà khai hết. Bà vợ ông nghĩ mình mê tiền hơn tất cả những thứ khác trên đời nhưng cũng bị cắn rứt lương tâm lắm. Tôi tin chắc là chẳng bao lâu nữa bà ta sẽ khai hết thôi.”

Bestigui đã hút điếu cigar đến mẩu chót. Ông ta chậm rãi dụi đầu thuốc vào chiếc gạt tàn thủy tinh màu đen. Những giây tiếp theo dài dằng dặc, âm thanh ở văn phòng bên ngoài vọng vào qua cửa kính, tiếng người nói lao xao, rồi tiếng điện thoại đổ chuông.

Bestigui đứng dậy, kéo tấm rèm vải bạt xuống, che hết bức tường kính ngăn cách với bên ngoài, khuất mắt đám con gái tò mò hồi hộp. Ông ta ngồi xuống, ngón tay chuối mắn chậm rãi sờ soạng lên chiếc cằm sần sùi, nhìn Strike rồi nhìn ra ngoài, dán mắt vào tấm bạt màu kem trống trơn vừa được kéo xuống. Strike dường như thấy rõ ông ta đang cân nhắc từng lựa chọn, như đang lựa các lá bài, tính kế chơi tiếp.

“Màn cửa đã được kéo lại,” cuối cùng Bestigui lên tiếng. “Không có đủ ánh sáng chiếu ra để nhìn thấy một người đàn bà đang trốn trên ban công. Tansy sẽ giữ nguyên lời khai.”

“Chưa chắc,” Strike nói, duỗi chân ra; chiếc chân giả vẫn còn khó chịu. “Nếu tôi nói với bà ấy, đúng như ngôn ngữ của tòa, rằng việc hai người đã làm là ‘cản trở quá trình điều tra’. Nếu thành khẩn khai báo thì Tansy sẽ tránh được tù tội; cộng thêm sự thương hại chắc chắn của công chúng dành cho một nạn nhân bạo hành gia đình, rồi cả những lời mời mọc phỏng vấn độc quyền. Khi Tansy nhận ra rằng bà ta có quyền nói trước tòa, lần này người ta sẽ tin lời bà ấy, rồi có thể giúp lôi kẻ thủ ác ra ánh sáng, thì ông Bestigui à, tôi không nghĩ lúc đó ông có đủ tiền để Tansy ngậm miệng nữa đâu.”

Mép da sần sùi quanh miệng Bestigui giật khẽ. Ông ta cầm gói cigar lên nhưng không rút thêm điếu nào nữa. Một lâu sau đó ông ta chỉ im lặng, vờn gói thuốc qua mấy ngón tay.

Cuối cùng ông ta nói:

“Tôi không khai khiếc gì hết. Cút ra.”

Strike đứng im.

“Tôi biết ông rất muốn gọi cho luật sư,” hắn nói, “nhưng tôi nghĩ ông đã bỏ sót một cơ hội ở đây.”

“Đủ rồi. Tôi nói rồi, cút ra.”

“Có khó khăn đến đâu nữa thì thừa nhận sự thật đêm hôm đó vẫn còn hơn là trở thành nghi can số một trong một vụ án mạng. Từ lúc này trở đi ông chỉ có thể chọn phương án đỡ tệ hơn mà thôi. Nếu khai thật ông sẽ không bị dính gì đến vụ giết người nữa.”

Lúc này Strike đã có được sự chú ý của Bestigui.

“Ông không thể là thủ phạm được,” Strike nói, “bởi vì nếu ông xô Landry xuống từ hai tầng lầu phía trên, ông sẽ không có đủ thời gian mở cửa cho Tansy vào trong nhà, chỉ vài giây sau khi thi thể rơi xuống. Tôi nghĩ ông tống bà vợ ra ngoài, đi thẳng vào giường nằm một lúc – bên cảnh sát có nói trên giường chăn gối lộn xộn, như vừa có người nằm – nhưng lúc đó ông vẫn để mắt nhìn đồng hồ. Tôi nghĩ ông không muốn ngủ quên luôn, vì nếu Tansy bị nhốt ngoài ban công quá lâu mà chết cóng thì ông sẽ bị khép tội ngộ sát. Chẳng lạ gì khi Wilson nói rằng khi chạy xuống nhà bà ta run như cầy sấy. Có lẽ lúc đó bà ta đang bị hạ thân nhiệt giai đoạn đầu rồi.”

Lại im lặng. Chỉ nghe được tiếng mấy ngón tay cục mịch của Bestigui gõ nhè nhẹ trên cạnh bàn. Strike rút cuốn sổ tay ra.

“Bây giờ ông trả lời vài câu hỏi được không?”

“Đồ khốn!”

Cơn giận dữ của Bestigui bị kiềm chế nãy giờ đã bùng nổ. Ông ta nghiến hàm, vai gồng lên ngang lỗ tai. Hắn hình dung lúc nạt nộ bà vợ gầy gò, đang phê trắng mắt chắc ông ta trông cũng như vậy, thêm hai bàn tay co vuốt toan bóp cổ.

“Ở đây nói thẳng ra là ông đang ngập bùn tới mũi rồi,” Strike nói thản nhiên như không, “nhưng chìm tới đâu nữa là tùy ở ông. Ông có thể phủ nhận tất cả, rồi đấu đá với bà vợ tại tòa và trên mặt báo, rồi ngồi tù vì tội khai man và cản trở người thi hành công vụ. Hoặc ông có thể bắt đầu hợp tác, ngay lúc này đây để có được sự biết ơn và thiện ý của gia đình Lula. Như vậy sẽ được coi là thành khẩn khai báo, sẽ rất có ích khi xin giảm tội. Nếu thông tin mà ông cung cấp giúp tìm ra thủ phạm, tôi nghĩ cùng lắm ông chỉ bị khiển trách. Trong vụ này, cảnh sát mới là chỗ sẽ hứng trọn đòn của dư luận và báo chí.”

Bestigui thở nặng nhọc, nhưng dường như đang cân nhắc lời của Strike. Cuối cùng, ông ta gầm gừ:

“Đếch có tên sát nhân nào cả. Wilson chẳng thấy ai trên đó cả. Landry nhảy lầu,” ông ta nói, đầu giật giật, ra ý phủ nhận, “Cô ta cũng chỉ là một đứa nghiện ngập điên khùng, như mụ vợ khốn nạn của tôi.”

“Có một tên sát nhân,” Strike nói ngắn gọn, “và ông đã giúp hắn ta thoát tội.”

Dường như ở vẻ mặt Strike có gì đó khiến Bestigui không tiếp tục bỉ bai hắn được nữa. Khi ngẫm ngợi về những lời Strike vừa nói, cặp mắt Bestigui nheo lại, chỉ còn như hai sợi chỉ đen.

“Tôi nghe nói ông muốn mời Lula đóng phim?”

Bestigui có vẻ lúng túng khi Strike thay đổi chủ đề.

“Chỉ mới định vậy thôi,” ông ta lầm bầm. “Bình hoa di động, nhưng quá đẹp.”

“Ông muốn đưa cô ấy và Deeby Macc vào cùng một phim?”

“Hai đứa đó đứng chung thì hái ra tiền.”

“Còn bộ phim ông định làm sau khi cô ấy chết nữa – kiểu dựa theo chuyện có thật, phải vậy không? Tôi nghe nói Tony Landry không được vui lắm.”

Strike ngạc nhiên khi thấy một nụ cười dâm dật hiện dần lên trên gương mặt phì nộn của Bestigui.

“Ai nói với anh vậy?”

“Không đúng à?”

Dường như mãi đến lúc này Bestigui mới làm chủ lại được tình thế.

“Không, sai bét. Anthony Landry đã nhăm nhe trước với tôi là sau khi phu nhân Bristow chết, ông ta sẽ sẵn sàng nói chuyện với tôi.”

“Lúc gọi cho ông về chuyện đó ông Landry không tức tối gì à?”

“Chỉ nói miễn là làm sao phải tế nhị, đừng thô quá, vân vân…”

“Ông có quen biết Tony Landry không?”

“Tôi có biết ông ta.”

“Trong hoàn cảnh nào?”

Bestigui gãi cằm, mỉm cười một mình.

“À, đương nhiên rồi, Landry là luật sư của vợ ông trong vụ ly dị.”

“Hiện thời là như vậy,” Bestigui nói.

“Ông nghĩ Tansy sẽ thôi mướn Landry à?”

“Có thể,” Bestigui nói, nụ cười trở nên đểu cáng tự đắc. “Có mâu thuẫn quyền lợi. Để rồi xem.”

Strike nhìn xuống cuốn sổ, tính toán rủi ro, lạnh lùng như một tay chơi bài poker chuyên nghiệp. Hắn tự hỏi nếu khai thác hết hướng điều tra này thì có liều quá không, thực tế vẫn chưa có chứng cứ.

“Ý ông là,” hắn nói, ngẩng lên nhìn Bestigui, “ông đã nói với Landry rằng ông biết tay này đang ngủ với vợ của Cyprian May?”

Bestigui sững lại trong giây lát, rồi phá ra cười, thô lỗ và dữ dằn, rất đắc chí.

“Biết vụ đó hả?”

“Làm sao ông biết được?”

“Tôi thuê một thằng như anh vậy. Tôi cứ tưởng Tansy đang mèo mỡ, nhưng hóa ra là mụ ta bao che cho con em khốn nạn, trong khi Ursula ăn nằm với Tony Landry. Vui bỏ mẹ đi được nếu hai vợ chồng đó dắt nhau ra tòa. Cả hai bên đều có luật sư sừng sỏ. Công ty luật gia đình lâu đời sẽ giữa đường đứt gánh. Cyprian May coi vậy mà không vừa đâu. Ông ta đại diện cho mụ vợ thứ hai của tôi. Tôi sẽ sướng kinh người khi xem vụ đó. Dễ gì có dịp bọn luật sư vặt cổ lẫn nhau.”

“Như vậy ông đã thủ sẵn được một đòn trong vụ ly dị?”

Bestigui cười đểu qua làn khói thuốc.

“Chưa đứa nào biết là tôi biết cả. Tôi vẫn đang chờ đúng lúc mới nói.”

Nhưng rồi Bestigui dường như đột ngột nhớ ra là hiện giờ trong tay Tansy còn có một thứ vũ khí còn mạnh hơn, nụ cười của ông ta nhạt dần thành vẻ chua chát trên khuôn mặt sần sùi.

“Cuối cùng,” Strike nói. “Đêm Lula chết, sau khi ông chạy theo bà vợ xuống dưới sảnh để kéo bà ta quay trở lên, ông có nghe được gì bên ngoài căn hộ không?”

“Chứ không phải anh đang cố chứng minh là đếch nghe được gì trong nhà tôi nếu đóng cửa sổ hả?” Bestigui bật lại.

“Không phải từ ngoài đường; ý tôi là tiếng động ngay bên ngoài cửa căn hộ. Lúc đó hẳn Tansy còn la lối, nhưng lúc hai người đã vào trong nhà, khi ông cố ý làm bà ấy bình tĩnh lại? – Lúc đó có tiếng động gì ở bên ngoai không? Hay Tansy la to quá?”

“Mụ ta ồn ào bỏ mẹ,” Bestigui nói. “Tôi không nghe gì cả.”

“Hoàn toàn không có gì hết?”

“Không có gì đáng ngờ. Chỉ là Wilson chạy ngang qua cửa.”

“Wilson.”

“Đúng vậy.”

“Lúc nào?”

“Lúc anh nói đó. Khi vừa quay lại trong nhà."

“Ngay sau khi đóng cửa?”

“Ừ.”

“Nhưng lúc ông xuống dưới sảnh thì Wilson đã chạy lên lầu rồi, phải không?”

“Đúng thế.”

Những nếp nhăn trên trán và ở khóe miệng Bestigui trở nên sâu hơn.

“Vậy lúc ông vào lại trong nhà thì Wilson đã đi quá xa?”

“Ờ…”

“Nhưng ông nghe có tiếng bước chân trên cầu thang, ngay sau khi đóng cửa lại?”

Bestigui không trả lời. Lần đầu tiên Strike thấy ông ta đang khớp mọi thứ trong đầu lại.

“Tôi có nghe… đúng vậy… tiếng bước chân. Chạy ngay qua. Từ cầu thang xuống.”

“Được rồi,” Strike hỏi tiếp. “Ông có nhớ được là bước chân của một người hay hai người không?”

Bestigui nhướng mày, mắt ông ta giãn ra, không nhìn Strike nữa mà hồi tưởng lại ký ức lờ mờ cách đây ba tháng. “Hình như… một người. Vì vậy mà tôi nghĩ là Wilson. Nhưng không lý nào… Wilson vẫn còn ở trên tầng ba, kiểm tra căn hộ của Lula… vì sau đó tôi có nghe tiếng ông ta đi xuống trở lại… lúc sau… sau khi tôi gọi cảnh sát, tôi nghe tiếng chân ông ta chạy ngang cửa…”

“Tôi quên mất,” Bestigui nói, trong giây lát, ông ta có vẻ yếu đuối lạ kỳ. “Tôi quên mất. Lúc đó ồn ào quá. Tansy thì la hét.”

“Và, đương nhiên, ông còn bận nghĩ cho cái thân mình nữa” Strike nói gọn, đút cuốn sổ và cây viết vào túi rồi đứng lên. “Được rồi, tôi sẽ không làm mất thì giờ của ông nữa, hẳn ông đang muốn gọi điện cho luật sư. Ông đã giúp tôi rất nhiều. Hẹn gặp nhau ở tòa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Ngày hôm sau Eric Wardle gọi cho Strike.

“Đã gọi Deeby,” anh ta báo cáo cụt ngủn.

“Sao nữa?” Strike hỏi, ra dấu nhờ Robin chuyển cây viết và tờ giấy. Hai người vừa ngồi ở bàn của Robin, uống trà ăn bánh qui và nói về bức thư dọa giết gần đây nhất từ Brian Mathers. Trong thư hắn ta hứa, không phải là lần đầu tiên, sẽ rạch bụng Strike và tè một bãi vô đó.

“Deeby nói và Somé gởi một cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng. Trước áo có đính khuy xếp hình khẩu súng còn sau lưng có vài dòng lời bài hát.”

“Chỉ một cái thôi hả?”

“Ừ.”

“Còn gì nữa không?” Strike hỏi.

“Anh ấy nhớ là có một cái dây thắt lưng, một cái mũ tròn và một bộ măng-sét.”

“Không có găng tay sao?”

Wardle dừng lại, có lẽ là kiểm tra trong ghi chép.

“Không, anh ấy không nhắc gì tới găng tay hết.”

“Vậy là rõ rồi,” Strike đáp.

Wardle không nói gì nữa. Strike đợi xem anh chàng cảnh sát sẽ dập máy hay nói thêm gì nữa.

“Điều tra chính thức bắt đầu từ thứ Năm này.” Wardle đột ngột nói. “Vụ Rochelle Onifade.”

“Vậy à.” Strike đáp.

“Anh không quan tâm sao?”

“Không.”

“Tôi tưởng anh chắc chắn vụ đó là án mạng?”

“Tôi chắc chứ, nhưng điều tra sẽ không rút ra kết luận gì cả. Có biết tang lễ lúc nào không?”

“Không,” Wardle nói, có vẻ bực bội. “Để làm gì vậy?”

“Tôi tính tới dự.”

“Để làm gì?”

“Cô ta có một bà cô, nhớ không?” Strike đáp.

Wardle dập máy, Strike ngỡ là vì anh cảnh sát hết chịu nổi hắn nữa.

Bristow gọi Strike ngay trong buổi sáng hôm đó, cung cấp thời gian và địa điểm đám tang Rochelle.

“Alison tìm ra được hết mấy thông tin đó,” ông ta nói với tay thám tử trên điện thoại. “Cô ấy thật là lanh lợi.”

“Rõ là vậy.” Strike đáp.

“Tôi sẽ đến dự. Thay mặt Lula. Đáng ra tôi phải giúp đỡ Rochelle mới phải.”

“Chuyện này cũng khó tránh khỏi, John à. Alison có đi cùng anh không?”

“Cô ấy cũng muốn đi,” Bristow nói, nghe giọng không tha thiết gì lắm.

“Gặp anh ở đó vậy. Tôi mong sẽ nói chuyện được với cô của Rochelle, nếu bà ta có đến dự.”

Khi Strike nói với Robin rằng bạn gái của Bristow vừa tìm ra thời gian và địa điểm tổ chức tang lễ, trông cô hơi thất vọng. Cô cũng đã cố tìm kiếm những thông tin đó theo yêu cầu của Strike. Robin có cảm giác như Alison vừa thắng “một-không” với mình.

“Tôi không biết là cô ganh đua tới vậy đó,” Strike nói, thấy tức cười. “Đừng lo. Chắc vì bả có lợi thế đi trước cô thôi.”

“Đi trước sao kia?”

Nhưng Strike lại đang nhìn cô, ra vẻ tính toán.

“Gì kia?” Robin hỏi lại, hơi bị tự ái.

“Tôi muốn cô đi cùng tôi tới đám tang Rochelle.”

“Ồ.” Robin ngạc nhiên. “Được thôi. Nhưng tại sao?”

Cô tưởng Strike muốn đi thành cặp để trông tự nhiên hơn, như hồi đi Vashti. Nhưng hắn lại nói:

“Có một chuyện tôi muốn nhờ cô làm ở đó.”

Sau khi hắn giải thích, rõ ràng và cụ thể việc mà hắn muốn nhờ làm, trông Robin vô cùng hoang mang.

“Nhưng tại sao?”

“Tôi không nói được.”

“Tại sao không?”

“Tôi cũng không nói được luôn.”

Robin không còn nhìn Strike bằng con mắt của Matthew như hồi đầu, không còn nghi ngờ rằng hắn đóng kịch hay ba hoa chích chòe hay làm ra vẻ thông minh. Nên cô không cho là hắn đang cố tỏ ra bí hiểm một cách không cần thiết. Robin lẩm bẩm lặp lại, như thể sợ nghe nhầm:

“Brian Mathers.”

“Đúng vậy.”

“Thằng cha chuyên gởi thư dọa giết.”

“Đúng thế.”

“Nhưng,” Robin nói, “Cha đó thì dính gì đến án mạng của Lula?”

“Không dính gì hết,” Strike đáp, nghe cũng thành thật. “Chưa dính.”

Ba ngày sau, đám tang của Rochelle được cử hành ở nhà hỏa táng ở phía Bắc London, một nơi lạnh lẽo, không tên tuổi và nhuốm màu phiền muộn. Mọi thứ đều trung dung, trôi tuồn tuột qua mất, từ những dãy ghế gỗ sẫm màu và những bức tường trống trơn, không hề có một dấu hiệu tôn giáo nào cả; đến tấm tranh kính màu trừu tượng ghép từ những hình vuông nhỏ xíu như hạt cườm trên cửa sổ. Strike ngồi trên băng ghế cứng. Người chủ lễ giọng eo éo liên tục đọc nhầm tên Rochelle là “Roselle”. Mưa bụi rơi lấm tấm đầu khung cửa sổ lòe loẹt ngay trên đầu hắn. Giờ đây hắn mới thấy hết tác dụng của những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, các thể loại thần thánh tạc bằng thạch cao, những máng xối hình thù kỳ dị, những thiên thần trong Kinh Cựu Ước rồi những cây thập giá vàng đính đá quý. Tất cả những thứ đó tạo ra không khí uy nghiêm hoành tráng, như lời hứa hẹn chắc chắn về nước Chúa, cũng như làm cho người đi đưa đám phải nghĩ đến phẩm giá của người đã khuất. Rochelle, cô gái xấu số đã từng được nếm mùi thiên đường trên mặt đất, thiên đường có những món hàng hiệu, những người nổi tiếng để mà cô dè bỉu sau lưng và các anh lái xe đẹp trai để cợt đùa chút đỉnh. Rochelle từng khao khát thế giới đó, và đây là kết cục của cô ta: bảy người đưa đám và một vị chủ lễ còn không đọc đúng tên của cô.

Đám tang của Rochelle lạnh lùng đến mức trơ tráo. Người đi đưa có vẻ hơi ngượng ngùng, lúng túng tránh không nói gì về cuộc đời của Rochelle. Dường như không ai cảm thấy mình có quyền ngồi ngay hàng ghế đầu. Đến cả người đàn bà da đen béo phì mang kính dày và đội mũ len, mà Strike đoán là cô của Rochelle, cũng chọn ngồi cách miệng lò hỏa thiêu đến ba hàng ghế, tránh xa chiếc quan tài rẻ tiền. Ông nhân viên hói đầu mà Strike gặp ở nhà trọ St Elmo cũng đến dự, mặc áo sơ mi không cài nút cổ và áo khoác da. Ngồi sau là một gương mặt xa lạ - một thanh niên châu Á mặc complet gọn gàng, Strike đoán hẳn đây là bác sĩ tâm thần ở khu ngoại trú nơi Rochelle đi chữa bệnh.

Strike mặc complet màu xanh đen. Robin mặc váy đen và áo khoác hôm đi phỏng vấn. Hai người ngồi ở hàng ghế phía sau. Ở hàng ghế đối diện với bên kia lối đi là John Bristow, tái nhợt và rầu rĩ, ngồi cùng với Alison. Bà ta mặc một chiếc áo khoác đi mưa màu đen cổ bẻ, mấy giọt nước mưa đọng trên áo ánh lên dưới ngọn đèn lạnh lẽo.

Tấm màn đỏ rẻ tiền được kéo ra, rồi cỗ quan tài biến mất đằng sau đó, cô gái chết đuối giờ đây bị ngọn lửa thiêu trụi. Những người khách lặng lẽ gượng gạo mỉm cười khách sáo với nhau sau khi ra khỏi khu hỏa táng, nán lại thêm một chút để lễ tang vốn dĩ đã sơ sài không tàn cuộc quá nhanh đến bẽ bàng. Cô của Rochelle trông lập dị, gần như bất bình thường, tự giới thiệu tên là Winifred rồi lớn giọng tuyên bố, nghe như dọa nạt:

“Bên quán xẵng bánh mì kẹp rồi đó. Tui cứ tưởng có nhìu ngừ hơn.”

Bà ta dẫn đường đi ra ngoài, như thể không chấp nhận sự phản đối nào cả, ngược lên quán Red Lion. Sáu người còn lại đi theo sau, hơi cúi đầu tránh mưa.

Món bánh mì kẹp trông khô khốc và chẳng ngon lành gì sắp sẵn trên khay bằng giấy nhôm, có bọc ni lông kín, đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong góc quản rượu cũ kỹ. Trên đường đến quán Red Lion, Cô Winifred đã kịp nhận ra John Bristow là ai. Khi vào trong quán bà ta kè kè đi theo ông luật sư, giữ ông ta đứng mãi ở quầy bar và nói liên tu bất tận. Bristow cố trả lời mỗi khi bà ta cho phép xen vào, nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn Strike cầu cứu. Hắn vẫn đang nói chuyện với bác sĩ điều trị của Rochelle. Càng về sau Bristow càng liên tục liếc về phía hắn, trông vô cùng thống thiết.

Anh chàng bác sĩ tâm thần khéo léo né tránh mọi nỗ lực của Strike khi hắn cố moi thông tin về nhóm bệnh nhân ngoại trú. Cuối cùng trược một câu hỏi về Rochelle, anh ta lịch sự nhưng cứng rắn từ chối trả lời hắn, nhắc lại nguyên tắc bảo mật thông tin bệnh nhân.

“Anh có ngạc nhiên khi nghe tin Rochelle tự tử không?”

“Không, không ngạc nhiên mấy. Cô ấy có rất nhiều vấn đề, anh biết rồi đó. Rồi vụ Lula Landry cũng làm Rochelle bị sốc nặng.”

Không lâu sau đó anh ta chào tạm biệt rồi ra về.

Robin cố bắt chuyện với Alison ở bàn nhỏ cạnh cửa sổ, nhưng bà ta cứ trả lời nhát gừng. Cô bỏ cuộc, đi vào nhà vệ sinh.

Strike đi qua sảnh nhỏ, ngồi vào ghế Robin vừa đi khỏi. Alison nhìn hắn, không lấy gì làm thân thiện, rồi quay lại dán mắt về phía Bristow vẫn đang bị bà cô của Rochelle thuyết giáo. Alison không mở nút áo đi mưa. Một ly rượu nhỏ, có vẻ là rượu port đặt trên bàn ngay trước mặt bà ta. Miệng Alison thoáng cười khinh khỉnh, vẻ như mọi thứ xung quanh toàn là rơm rác. Strike vẫn còn đang nghĩ cách bắt chuyện thì bà ta đột ngột lên tiếng trước:

“Đáng ra sáng nay John phải đi họp với đại diện Conway Oates chứ. Ông ấy để Tony đi một mình. Tony giận lắm.”

Giọng bà ta như ám chỉ rằng Strike có trách nhiệm trong vụ này. Và hắn phải biết được hắn đã gây rắc rối như thế nào. Bà ta nhấp một ngụm port. Tóc Alison đổ xuống vai, đôi bàn tay to của bà ta khiến cái ly trông nhỏ xíu. Vẻ ngoài tầm thường thô kệch không khiến Alison chìm lẫn giữa đám đông, mà lại làm toát lên ở bà ta vẻ trịch thượng.

“Chị không nghĩ John đến dự đám tang vậy cũng là tử tế hay sao?” Strike hỏi.

Alison hừ một tiếng, cười nhạt.

“Có phải như ông ấy thân thiết gì con bé này đâu.”

“Thế tại sao chị lại đi cùng?”

“Tony muốn tôi đi.”

Strike để ý thấy vẻ lúng túng nhưng trìu mến trong cách bà ta gọi tên ông sếp.

“Tại sao vậy?”

“Cần để mắt đến John.”

“Tony nghĩ cần phải trông chừng John à?”

Bà ta không trả lời.

“John và Tony cùng dùng chị phải không?”

“Anh nói gì?” Bà ta hỏi, gay gắt.

Strike thấy nhẹ nhõm vì đã phá được cái vỏ bình tĩnh của bà ta.

“Ý tôi là họ cùng dùng chị làm thư ký đó?”

“À, ờ, không phải vậy. Tôi làm việc cho Tony và Cyprian; tôi là thư ký của thành viên cấp cao.”

“Ra vậy. Tại sao tôi cứ nghĩ chị cũng là thư ký của John nhỉ?”

“Tôi làm việc ở mảng hoàn toàn khác,” Alison nói. “John dùng tổ thư ký chung của công ty. Tôi không dính gì đến ông ấy trong công việc cả.”

“Vậy mà tình yêu nảy nở xuyên qua phòng ban và các tầng lầu?”

Bà ta đáp lại câu bông lơn rẻ tiền của hắn bằng cách im lặng, tiếp tục tỏ thái độ khinh khỉnh. Dường như Alison chỉ coi Strike như một tên ưa gây sự, du thủ du thực, không đáng phải giữ phép tắc trước mặt hắn.

Ông nhân viên nhà trọ đứng một mình trong góc, ăn bánh mì, rõ là đang cố giết thời gian cho đến lúc có thể cáo lui một cách lịch sự. Robin đi ra khỏi nhà vệ sinh, ngay lập tức bị Bristow cầu cứu. Có vẻ như ông ta chịu hết nổi Cô Winifred.

“Vậy chị với John được bao lâu rồi?” Strike hỏi.

“Vài tháng.”

“Hai người bắt đầu quen nhau trước khi Lula chết, phải không?”

“Không lâu sau đó ông ấy ngỏ lời với tôi,” bà ta nói.

“Chắc lúc đó ông ấy buồn lắm nhỉ?”

“Suy sụp.”

Giọng bà ta chẳng có gì là cảm thông, mà hơi khinh thường.

“Trước đó ông ấy tán tỉnh chị có lâu không?”

Hắn nghĩ bà ta sẽ từ chối trả lời. Nhưng hắn sai. Mặc dù cố làm ra vẻ thản nhiên, câu trả lời của Alison tỏ rõ sự thỏa mãn, tự đắc không lẫn vào đâu được.

“Ông ấy đi lên lầu gặp Tony. Tony đang bận, nên John đứng chờ trong văn phòng của tôi. Rồi bắt đầu nói về cô em gái, rồi bị xúc động mạnh. Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.”

Mặc dù Alison có vẻ chẳng tha thiết gì với Bristow, Strike vẫn cảm thấy bà ta hãnh diện trước lời mời ấy, như vừa được trao giải gì đó. Strike tự hỏi không biết trước Bristow đã có người nào mời bà ta đi ăn tối hay chưa. Một sự giao thoa giữa hai con người có nhu cầu không bình thường: Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.

Ông nhân viên nhà trọ bắt đầu cài nút áo khoác. Bắt gặp ánh mắt của Strike, ông ta vẫy tay chào rồi ra về mà không nói gì với ai.

“Vậy ông sếp lớn thấy sao khi cô thư ký hẹn hò với cháu trai của mình?”

“Tony không có quyền ý kiến về chuyện riêng tư của tôi,” bà ta nói.

“Cũng đúng,” Strike nói tiếp, “Dù sao thì, Tony lấy tư cách gì mà lên án chuyện lẫn lộn giữa làm ăn và bồ bịch, phải vậy không? Nhất là khi ổng đang ngủ với vợ của Cyprian May.”

Giọng thản nhiên của Strike khiến trong giây lát Alison không kịp để ý thấy hắn vừa nói gì, toan mở miệng đáp trả. Và khi nhận ra ý nghĩa của câu nói, sự tự tin của Alison hoàn toàn bị bóp vụn.

“Không đúng!” Bà ta giận dữ nói, mặt bừng bừng. “Ai nói với anh vậy? Dối trá. Đặt điều. Không đúng. Không đúng tí nào cả.”

Trong sự phản đối của Alison có cả nỗi sợ hãi của một đứa trẻ.

“Vậy sao? Vậy thì tại sao Cyprian May lại sai chị đi xuống Oxford để tìm Tony vào ngày Bảy tháng Giêng?”

“Chuyện đó… chỉ vì… ông ấy quên đưa Tony ký mấy thứ giấy tờ quan trọng, có vậy thôi.”

“Và ông May không dùng máy fax hay chuyển phát nhanh bởi vì…?”

“Giấy tờ nhạy cảm.”

“Alison,” Strike lên tiếng, thích thú trước sự bối rối của bà thư ký, “cả hai chúng ta đều biết lý do chị đưa ra rất vớ vẩn. Cyprian nghi là Tony đã chuồn đi đâu với Ursula ngày hôm đó, không phải vậy sao?”

“Không phải! Không có chuyện đó!”

Ở quầy bar, Cô Winifred vừa nói vừa hăng hái vẫy tay như hai cánh quạt cối xay gió về phía Bristow và Robin. Hai người cười gượng chịu trận.

“Chị gặp Tony ở Oxford đúng không?”

“Không, bởi vì…”

“Chị tới nơi lúc mấy giờ?”

“Khoảng mười một giờ, nhưng ông ấy đã…”

“Hẳn là chị vừa đến công ty thì Cyprian sai đi ngay, đúng không?”

“Giấy tờ đó rất khẩn.”

“Nhưng chị không gặp được Tony ở cả khách sạn và trung tâm hội thảo?”

“Tôi lỡ mất ông ấy,” bà ta nói, tức tối bất lực, “vì ông ấy vừa quay lại London để thăm phu nhân Bristow.”

“À,” Strike đáp. “Đúng rồi. Ổng không nói với chị hay Cyprian là đang trên đường về London à, kể cũng hơi lạ nhỉ?”

“Ừ,” bà ta đáp, cố lấy lại vẻ trịch thượng lúc nãy. “Nhưng tôi liên lạc được. Ông ấy không tắt điện thoại. Có gì đâu.”

“Chị có gọi vào máy di động của ông ta không?”

Alison không trả lời.

“Chị gọi mà không ai bốc máy hả?”

Bà ta im lặng nhấp rượu port, mặt mày sưng sỉa.

“Thì cũng đúng thôi, khi đang hành sự mà phải nghe điện thoại của thư ký thì mất hứng quá còn gì.”

Hắn đoán bà ta sẽ thấy xúc phạm nặng nề. Hắn không phải thất vọng.

“Anh là cái đồ gớm ghiếc. Thật quá thể.” Giọng bà ta ồm ồm, gò má đỏ sẫm, xấu hổ nhưng vẫn cố khoác cái vẻ cao kỳ.

“Chị sống một mình à?” Hắn hỏi.

“Chuyện đó thì liên quan gì?” Bà ta hỏi lại, lúc này Alison đã hoàn toàn mất bình tĩnh.

“Hỏi vậy thôi. Vậy chị không thấy có gì kỳ lạ sao, Tony nhận phòng khách sạn ở Oxford trong đêm, rồi sáng hôm sau lái xe về London, rồi trở lại Oxford, chỉ vừa kịp trả phòng khách sạn ngày hôm sau?”

“Ông ấy trở lại Oxford để dự hội thảo buổi chiều,” Bà ta vẫn khăng khăng.

“Ồ, vậy sau? Chị có ở lại gặp ổng ở đó không?”

“Ông ấy có ở đó,” bà ta trả lời, lẩn tránh.

“Chị có bằng chứng à?”

Bà ta không nói gì cả.

“Vậy thì,” Strike nói, “chị thấy chuyện nào nghe được hơn, Tony lên giường với Ursula cả ngày hôm đó, hay bận về nhà hoạnh họe cô cháu gái?”

Ở quầy bar, Cô Winifred đưa tay vuốt chiếc mũ len và siết lại thắt lưng. Có vẻ như bà cô đang chuẩn bị ra về.

Trong vài giây Alison bình tĩnh lại. Và rồi, như giải tỏa một nỗi lòng bị kiềm nén lâu ngày, bà ta nói, giọng vẫn thì thầm nhưng bốc khói:

“Họ không có bồ bịch gì. Tôi biết là không có chuyện đó. Không thể được. Ursula chỉ quan tâm tới tiền, chỉ có vậy thôi, mà Tony thì không giàu có bằng Cyprian. Ursula đời nào cặp với Tony. Đời nào.”

“Ồ, nhưng biết đâu được. Nhục cảm cũng có thể lớn hơn lòng tham tiền chứ,” Strike nói, quan sát kỹ lưỡng Alison. “Cũng có thể lắm. Tôi là đàn ông thì hơi khó nhận xét, nhưng Tony trông cũng đâu đến nỗi nào, phải không?”

Hắn thấy sự đau đớn, giận dữ lộ rõ trên gương mặt Alison. Giọng bà ta nghèn nghẹn:

“Tony đã nói đúng… anh chỉ có lợi dụng thôi… chạy theo la liếm… John thì không bình thường… Lula nhảy lầu. Cô ta tự tử. Cô ta đã mất thăng bằng từ lâu. John rất giống mẹ, dễ bị kích động, tưởng tượng ra đủ chuyện. Lula dùng ma túy, cô ta là loại người như vậy, mất kiểm soát, lúc nào cũng gây chuyện để gây sự chú ý. Hư hỏng. Ném tiền qua cửa sổ. Cô ta muốn gì mà chẳng được, muốn ai mà không xong, nhưng bao nhiêu cũng không đủ cả.”

“Tôi không biết là chị rành Lula như vậy.”

“Tôi… Tony có nói.”

“Ông ấy không ưa gì Lula cả, đúng vậy không?”

“Ông ấy chỉ thấy đúng bản chất Lula thôi. Cô ta chẳng tốt đẹp gì. Nhiều người đàn bà,” bà ta nói, thở gấp gáp dưới chiếc áo khoác thùng thình, “chẳng ra gì.”

Một cơn gió lạnh thổi vào phòng, ngay khi cô của Rochelle vừa đẩy cửa đi ra. Bristow và Robin giữ nụ cười gượng gạo cho tới khi cánh cửa đóng hẳn, rồi nhẹ nhõm nhìn nhau.

Nhân viên quầy bar đã đi đâu mất. Trong phòng chỉ còn lại có bốn người. Strike nhận ra bản nhạc ballad thập niên 80 đang bật trong quán: bài The Power of Love của Jennifer Rush. Bristow và Robin tiến tới bàn của hai người.

“Tôi tưởng anh muốn nói chuyện với cô của Rochelle?” Bristow hỏi, trông tiu nghỉu như vừa phải chịu trận mà chẳng được gì.

“Không tới mức phải chạy theo gợi chuyện,” Strike hồ hởi trả lời. “Anh kể lại với tôi cũng được mà.”

Vẻ mặt của cả Robin và Bristow cho thấy cả hai đều nghĩ thái độ thờ ơ của Strike thật khó hiểu. Alison lục lọi gì đó trong túi xách, cúi mặt xuống.

Mưa đã tạnh, vỉa hè trơn trượt. Bầu trời ảm đạm như hứa hẹn sắp thêm một trận mưa xối xả nữa. Hai người phụ nữ đi đằng trước trong im lặng, trong khi Bristow thuật lại kỹ càng cuộc trò chuyện với Cô Winifred cho Strike. Tuy nhiên. Strike không nghe gì cả. Hắn mải nhìn tấm lưng của hai người phụ nữ đi đằng trước, đều mặc đồ đen – mới nhìn thoáng qua thì giống hệt nhau. Hắn nhớ đến chi tiết chạm trổ hình con hươu ở hai bên cổng Queen’s Gate vào công viên Hyde Park: không hề giống nhau, mặc dù con mắt lười quan sát sẽ thấy vậy. Một bên đực, một bên cái, cùng thuộc một loài nhưng khác nhau một trời một vực.

Khi Alison và Robin dừng bước bên cạnh một chiếc xe BMW mà hắn đoán là xe của Bristow, Strike cũng đi chậm lại, ngắt lời Bristow còn đang thao thao kể lại mối dây nhợ đầy sóng gió giữa Rochelle và gia đình cô ta.

“John, tôi muốn hỏi lại một chi tiết này với anh.”

“Anh cứ nói.”

“Anh nói là có nghe tiếng ông cậu đi vào nhà mẹ buổi sáng trước khi Lula chết?”

“Vâng, đúng vậy.”

“Anh có chắc người đó là Tony không?”

“Đương nhiên rồi.”

“Nhưng anh không thấy mặt, đúng không?”

“Tôi…” Gương mặt thỏ của Bristow trông như bị đánh đổ. “… không, tôi… tôi không nghĩ là có gặp cậu. Nhưng tôi nghe tiếng cậu đi vào. Tôi nghe tiếng cậu từ phòng khách.”

“Có khi nào, vì anh đang đợi Tony đến, nên anh cứ nghĩ người đó là Tony không?”

Lại im lặng.

Rồi, Bristow lạc giọng:

“Ý anh là Tony không có ở đó?”

“Tôi chỉ muốn biết anh có chắc người đó là Tony không.”

“Thì… cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn chắc chắn. Ngoài Tony ra, không ai khác có chìa khóa vào nhà mẹ tôi. Không thể là ai khác ngoài Tony cả.”

“Vậy là anh nghe có người bước vào nhà. Anh nghe một giọng đàn ông. Người này nói chuyện với mẹ anh, hay với Lula?”

“Ơ…” Hai cái răng thỏ của Bristow lộ hẳn ra khi ông ta ngẫm nghĩ câu hỏi của Strike, “Tôi nghe tiếng ông ấy đi vào. Tôi nhớ là nghe ông ấy nói chuyện với Lula…”

“Anh có nghe tiếng ông ấy đi về không?”

“Có, tôi nghe tiếng ông ấy bước ngoài sảnh, nghe tiếng cửa đóng lại.”

“Khi Lula tạm biệt anh, cô ấy có nhắc gì đến Tony không?”

Lại im lặng. Bristow đặt tay lên miệng suy nghĩ.

“Tôi… nó ôm tôi tạm biệt, chỉ có vậy thôi… Tôi… Đúng rồi, tôi nhớ là nó nói có nói chuyện với Tony. Có không ta? Hay tôi cứ tưởng là nó đã nói chuyện với Tony vì tôi nghĩ…? Nhưng nếu người đó không phải là cậu tôi thì còn là ai được nữa?”

Strike chờ đợi. Bristow nhìn lên vỉa hè, suy nghĩ.

“Nhưng chắc phải là Tony. Lula ắt hẳn đã thấy có người vào, và thấy không có gì lạ thường, như vậy thì có thể là ai khác ngoài Tony? Còn ai nữa có chìa khóa?”

“Có bao nhiêu chìa khóa tất cả?”

“Bốn cái. Ba cái dự phòng.”

“Nhiều vậy.”

“Thì Lula, Tony và tôi mỗi người một cái. Mẹ tôi muốn tất cả tụi tôi đều có thể tự mở cửa ra vào được, nhất là khi mẹ tôi bị ốm.”

“Hiện giờ anh có biết tất cả các chìa khóa ở đâu không?”

“Biết chứ… tôi nghĩ vậy. Tôi đoán là chìa của Lula hẳn đã được trả lại cho mẹ tôi, cùng với tất cả đồ đạc của nó. Tony vẫn còn chìa của ông ấy, tôi có chìa riêng đây còn chìa của mẹ tôi… Tôi nghĩ chắc ở đâu đó trong nhà.”

“Vậy anh không nghĩ là có chìa nào bị lạc mất?”

“Không.”

“Và không ai trong số bốn người có cho người ngoài mượn chìa khóa?”

“Lạy Chúa, tại sao lại làm vậy?”

“Tôi chỉ nhớ lại file hình ảnh bị xóa từ máy tính của Lula lúc đã mang về nhà mẹ anh. Nếu có một chìa khóa nữa nằm ở đâu đó…”

“Không thể được,” Bristow nói. “Chuyện này… Tôi… tại sao anh lại nói là Tony không có ở đó? Ông ấy hẳn đã ghé qua. Chính ông ấy nói đã nhìn thấy tôi trong thư phòng kia mà.”

“Anh đi đến công ty sau khi rời nhà Lula đúng không?”

“Đúng vậy”

“Để lấy giấy tờ?”

“Đúng thế. Tôi chạy ào vào lấy. Cũng nhanh thôi.”

“Vậy anh trở lại nhà mẹ lúc…”

“Chắc chắn là chưa quá mười giờ.”

“Và cái người đi vào sau anh đó, ông ta tới đó lúc mấy giờ?”

“Chắc là… chắc là khoảng nửa tiếng sau? Thực tình tôi không nhớ rõ. Tôi không nhìn đồng hồ. Nhưng tại sao Tony lại nói là có ghé qua nếu không ghé?”

“Nếu ông ấy biết trước hôm đó anh làm việc ở nhà, ông ấy có thể dễ dàng nói rằng có ghé qua, không muốn quấy rầy anh, nên chỉ đi thẳng xuống nhà để nói chuyện với mẹ anh. Mẹ anh chắc đã xác nhận như vậy với cảnh sát rồi hả?”

“Tôi nghĩ vậy.”

“Nhưng anh không chắc?”

“Tôi không nghĩ là mẹ tôi có nhắc tới chuyện này với tôi. Lúc đó mẹ tôi rất mệt mỏi, đau đớn và mê man. Rồi sáng hôm sau thì có tin Lula…”

“Nhưng anh chưa bao giờ thấy lạ là Tony không ghé vào thư phòng để chào anh một tiếng sao?”

“Chẳng có gì lạ cả.” Bristow đáp. “Ông ta vẫn còn cay cú vụ Conway Oates. Nếu ông ta xởi lởi hơn thì mới đáng ngạc nhiên.”

“John, tôi không muốn làm anh sợ, nhưng tôi nghĩ cả anh và mẹ anh đều đang gặp nguy hiểm.”

Tiếng cười căng thẳng của Bristow nghe rất yếu ớt và không hề thuyết phục. Strike thấy Alison đang đứng cách đó khoảng bốn lăm mét, bà ta khoanh tay lại, phớt lờ Robin, tập trung quan sát hai người đàn ông.

“Anh… anh đùa à?” Bristow nói.

“Tôi nói rất nghiêm túc.”

“Nhưng… Cormoran, ý anh là anh đã biết ai giết Lula?”

“Tôi nghĩ thế - nhưng tôi vẫn cần nói chuyện với mẹ anh, trước khi kết luận chính thức.”

Vẻ mặt của Bristow như muốn đọc hết những suy nghĩ trong đầu Strike. Cặp mắt cận của ông ta nhìn khắp mặt Strike, trông ông ta nửa sợ hãi, nửa tha thiết nài nỉ.

“Tôi phải có mặt ở đó,” ông ta nói. “Mẹ tôi yếu lắm rồi.”

“Đương nhiên rồi. Sáng mai được không?”

“Tony sẽ tức điên lên nếu tôi lại vắng mặt trong giờ làm việc.”

Strike chờ đợi.

“Được rồi,” Bristow nói. “Được rồi. Mười giờ rưỡi sáng mai vậy.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Sáng hôm sau trời trong mát, nắng đẹp. Strike đi tàu điện đến khu Chelsea hiền hòa, nhiều cây cối. Mặc dù từng sống lang thang khắp London, hắn hầu như không bao giờ bén mảng đến đây. Mẹ Strike chưa bao giờ với tới nổi một tấc đất gần Bệnh viện Hoàng Gia Chelsea, ngay trong những giai đoạn bà phung phí tiền bạc mạnh tay nhất. Dưới ánh nắng mùa xuân, tòa nhà bệnh viện hiện lên trầm mặc và nền nã.

Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.

Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.

Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.

Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:

Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.

Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:

Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?

Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.

“A lô?” Strike nói.

“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”

“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”

“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”

Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.

“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”

“Để đó tao email cho một cái.”

Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.

Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:

Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?

Strike thở dài.

“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.

Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.

Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.

[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]

“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.

“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”

Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.

“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”

“Vâng, được.”

Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.

Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.

“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”

Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.

Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.

Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.

“Anh là thám tử à?”

Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.

“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”

“John đâu rồi?”

“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”

“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”

Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.

Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.

“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.

“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”

“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”

[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]

Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?

“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.

“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.

“À, đúng rồi. Anh có nói.”

“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”

“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”

“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”

“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.

“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”

Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.

“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”

“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”

“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”

“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”

“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”

Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.

“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”

Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:

“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”

“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”

Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.

“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”

“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”

“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”

Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:

“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”

“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”

“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.

“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”

Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.

“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”

“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”

“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.

“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”

“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”

“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”

“Anh của cô ấy…?”

“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”

Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.

“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”

Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.

“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”

Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.

“Thuốc nào…”

“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.

Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.

“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”

Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.

“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”

“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”

“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”

Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.

“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”

Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.

“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.

“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”

Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.

“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.

“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”

Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.

“Vậy nên Tony đã nói sai.”

“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.

Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.

“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”

“Tại sao không?” Strike hỏi.

“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”

Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.

“Tony nói gì vậy?”

“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.

“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”

Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:

“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”

Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:

“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”

“Evan Duffield?”

“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.

Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.

“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.

“Người khác là ai?”

“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.

“Tại sao anh ta ân hận?”

“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.

“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”

Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.

“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.

“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”

Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.

“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.

“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.

Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.

“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.

“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.

“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.

“Tại sao vậy?”

“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.

“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”

Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.

“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.

Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.

“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.

Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.

Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.

Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.

Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.

Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.

Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.

Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.

Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.

“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.

Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.

Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.

“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.

“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.

Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.

“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.

“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.

“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.

“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.

Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.

“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”

Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.

“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.

“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.

Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.

“Mẹ kiếp! Đau quá!”

“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.

“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.

Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.

Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.

Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.

Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.

Phần Năm

Felix qui potuit rerum cognoscere causas

Người đời ai dễ gặp may

Ngọn ngành nguyên cớ tỏ hay tận tường.

- Virgil, Georgics, Quyển 2

1

“Tôi cứ nghĩ”, Eric Wardle chậm rãi nói, nhìn xuống tờ di chúc đựng trong bao ni lông, “hẳn anh muốn đưa cái này cho thân chủ xem trước”.

“Thì vậy, nhưng ổng đang ở Rye”, Strike nói, “mà vụ này thì rất khẩn. Tôi đã nói rồi, tôi đang cố ngăn ngừa hai vụ án mạng nữa. Hiện giờ chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên loạn, Wardle à”.

Mồ hôi hắn rịn ra vì đau đớn. Hắn ngồi bên cạnh cửa sổ nắng rọi của quán Feathers vừa khẩn thiết kêu gọi tay cảnh sát vào cuộc vừa lo lắng không biết đầu gối có bị trật khớp không và khúc xương chày ngắn ngủn còn lại liệu có bị nứt thêm không sau cú ngã cầu thang vừa rồi. Lúc còn ở trong xe hắn không muốn giở chân ra xem. Chiếc taxi chở hắn đến vẫn còn đang đứng đợi ngay bên mép đường. Đồng hồ tính tiền đang dần dần ngấu nghiến khoản ứng trước mà Bristow đã trả. Có thể hắn sẽ không được nhận thêm khoản nào nữa vì lệnh bắt hung thủ có thể được phát ra ngay hôm nay, nếu Wardle chịu đứng dậy ra tay.

“Đồng ý là cái này có thể cho thấy động cơ…”

“Có thể?” Strike lặp lại. “Có thể?” Mười triệu bảng mà chỉ có thể là động cơ hả? Nói nghe hay quá…”

“…nhưng tôi cần có chứng cứ rõ ràng tại toà, mà anh lại không mang tới”.

“Tôi vừa nói chứng cứ ở đâu rồi đó! Từ đầu đến giờ tôi đã sai chưa? Tôi đã nói là có tờ di chúc, rồi đây”, Strike giật mép cái túi nhựa, “Cái quỷ gì đây? Anh còn chờ gì nữa mà còn chưa xin lệnh soát?”

Wardle đưa tay lên vuốt ve gương mặt điển trai, như thể đang bị sâu răng, rồi cau mày nhìn tờ di chúc.

“Trời đất”, Strike nói, “bao nhiêu lần nữa đây? Tansy Bestigui lúc đó ở ngoài ban công, bà ta nghe tiếng Landry nói “Đã xong hết rồi…”

“Anh liều quá đó bồ tèo”, Wardle nói. “Luật sư bên bị sẽ chụp ngay vụ anh dám nói dối với nghi can. Một khi Bestigui biết anh bịa vụ tấm ảnh, lão ta sẽ phủ nhận tất cả”.

“Cứ để lão phủ nhận. Tansy sẽ nói thật. Bà ta muốn nói lắm rồi. Nhưng nếu anh gan sứa tới mức không chịu làm gì cả, Wardle à”, Strike nói, mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng còn khúc chân phải thì đau như thiêu như đốt, “và nếu thêm một người thân nữa của Landry bị giết chết, tôi sẽ đi thẳng tới chỗ bọn báo chí to mồm đó. Tôi sẽ nói rằng tôi đã cung cấp cho anh đủ mọi thông tin anh tìm được, rằng anh đã có mọi cơ hội để bắt tên giết người mà vẫn không chịu bắt. Lúc đó tôi sẽ bán độc quyền câu chuyện cho chúng, rồi bù vào tiền công điều tra, anh cứ nhắn lại với Carver như vậy.

“Đây”, hắn nói, đẩy một mẩu giấy vừa xé về phía Wardle, trên mẩu giấy có vài mật mã sáu số hắn vừa ghi ra. “Cứ thử mấy số này trước. Giờ thì lo đi xin lệnh soát nhà đi”.

Hắn đẩy tờ di chúc về phía Wardle, trượt xuống khỏi chiếc ghế cao. Mấy phút đi bộ từ quán rượu ra taxi dài dằng dặc. Hắn cứ tì người lên chân phải là vết thương nhức buốt.

~*~

Từ một giờ chiếu, cứ mười phút Robin lại gọi cho Strike, nhưng hắn vẫn không bốc máy. Cô gọi lại lần nữa khi hắn đang chật vật leo lên cầu thang, bám tay vào tay vịn, nặng nhọc nhấc người lên. Cô nghe tiếng chuông điện thoại vọng lên từ cầu thang, bỏ máy xuống và chạy ngay ra.

“Anh đây rồi! Tôi gọi cho anh mãi, có nhiều… Có chuyện gì vậy, anh không sao chứ?”

“Tôi ổn mà,” hắn nói dối.

“Không, anh đang… Chuyện gì vậy?”

Cô chạy xuống cầu thang đỡ hắn. Mặt hắn trắng bệch, mồ hôi rịn ra, Robin thấy như hắn sắp nôn.

“Anh uống nữa hả?”

“Không, uống iếc gì!” Hắn gắt. “Tôi vừa… xin lỗi cô, Robin. Tôi hơi đau. Cần phải ngồi xuống một lát”.

“Mà có chuyện gì? Để tôi…”

“Không sao. Không sao cả. Tôi tự đi được”.

Hắn chậm rãi nhấc người lên bậc thang rồi lê lết về phía chiếc ghế sofa cũ. Khi hắn ngồi phịch xuống, Robin nghe tiếng khung ghế kêu cái rắc. Cô nhủ thầm, Phải mua một cái mới, ngay sau đó lại nghĩ tiếp Nhưng mình sắp đi khỏi đây rồi.

“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.

“Tôi bị ngã cầu thang,” Strike đáp, thở hổn hển một lúc, vẫn còn chưa cởi áo khoác. “Như thằng đần.”

“Cầu thang nào? Có chuyện gì vậy?”

Mặc dù đang rất đau, nhìn vẻ mặt Robin nửa sợ hãi, nửa hồi hộp, hắn không nhịn được cười.

“Tôi không đánh đấm gì cả, Robin à. Tôi chỉ bị trượt chân ngã thôi”.

“Ồ, hiểu rồi. Anh trông hơi… hơi tái. Anh nghĩ có gì nghiêm trọng không? Để tôi gọi taxi… có khi anh phải đi bác sĩ?”

“Không cần đâu. Còn thuốc giảm đau hôm trước không?”

Cô mang ra cho hắn nước lọc và paracetamol. Strike uống thuốc, rồi duỗi chân ra, nhăn mặt. hắn hỏi Robin:

“Sáng giờ có chuyện gì không? Graham Hardacre có gởi tấm ảnh nào không?”

“Có”, Robin trả lời, vội chạy về phía màn hình máy tính. “Đây này”.

Cô kéo chuột ra, nhấp một cái. Bức ảnh Trung uý Jonah Agyeman phóng lớn trên màn hình.

Cả hai im lặng ngắm gương mặt của người thanh niên đẹp trai không thể chối cãi, mặc dù được di truyền hai cái tai to quá khổ từ người cha. Quân phục màu đỏ, đen và ánh vàng rất hợp với anh ta. Nụ cười hơi lệch một bên, xương gò má cao, cằm bạnh và nước da đen hơi ánh đỏ au như màu trà mới pha. Cũng như Lula, anh ta có một vẻ quyến rũ tự nhiên, một điều gì đó không gọi thành tên, nhưng khiến người ta không thể rời mắt.

“Anh ta giống Lula thật,” Robin thì thầm.

“Ừ, giống thật. Còn gì nữa không?”

Robin tập trung trở lại.

“Trời đất, còn nữa… John Bristow gọi cách đây nửa tiếng, nói là không cách gì liên lạc được với anh, còn Tony Landry gọi tổng cộng ba lần.”

“Tôi cũng đoán vậy. Ông ta nói gì?”

“Ổng rất là… lần thứ nhất ổng đòi nói chuyện với anh, rồi khi tôi nói là anh không có ở đây thì dập máy ngay, tôi còn không kịp đưa số di động. Lần thứ hai thì nói là anh phải gọi ngay cho ổng, nhưng dập máy trước khi tôi kịp nói anh vẫn chưa về. Nhưng lần thứ ba thì… ổng rất giận dữ. Chửi bới om sòm.”

“Ở đó mà chửi với bới,” Strike nói, nhăn nhó.

“Thực ra thì ổng không có chửi bới gì tôi, toàn là chửi anh thôi.”

“Ổng nói gì?”

“Tôi cũng chẳng hiểu ổng nói gì, ổng gọi John Bristow là ‘cái thằng đần’ rồi tự nhiên oang oang gì đó về chuyện Alison bỏ việc, hình như nghĩ là có anh nhúng vô, vì sau đó ổng dọa sẽ kiện anh tội phỉ báng, rồi lại tiếp tục chửi bới loạn cả lên.”

“Alison bỏ việc?”

“Đúng vậy.”

“Ổng có nói Alison đi đâu… mà không, đương nhiên là ổng không biết, làm sao mà biết được?” Dường như Strike đang tự nói với mình, thay vì đáp lời Robin.

Hắn nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ rẻ tiền hình như đã va vào một chỗ nào đó khi hắn ngã cầu thang, kim dừng lại ở một giờ kém mười lăm.

“Mấy giờ rồi?”

“Năm giờ kém mười.”

“Trễ vậy sao?”

“Ừ. Anh cần gì nữa không? Tôi có thể ở lại thêm một lúc nữa.”

“Không, tôi muốn cô đi về.”

Giọng hắn nghe kỳ khôi đến nỗi thay vì đi lấy áo khoác và túi xách, Robin vẫn đứng lì tại chỗ.

“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì hả?”

Strike vẫn loay hoay với chỗ gắn chân giả, ngay dưới đầu gối.

“Không có gì cả. Gần đây cô làm quá giờ nhiều rồi. Hẳn Matthew sẽ rất vui nếu hôm nay cô về sớm.”

Hắn không thể chỉnh lại chân giả mà không kéo ống quần lên.

“Thôi mà Robin, đi về đi,” hắn nói, ngước nhìn cô thư ký.

Robin chần chừ một lúc nữa rồi đi lấy áo khoác và túi xách.

“Cảm ơn cô,” hắn nói. “Hẹn mai gặp lại.”

Robin đã đi khỏi. Strike đợi nghe tiếng giày Robin gõ lên cầu thang sắt rồi mới kéo ống quần lên, nhưng hắn chẳng nghe gì cả. Cửa kính mở ra, Robin quay trở lại.

“Anh đang chờ một người nào đó,” Robin lên tiếng, nắm chặt mép cửa. “Phải vậy không?”

“Cũng có thể,” Strike trả lời, “nhưng không có gì đâu.”

Nhìn vẻ căng thẳng lo lắng trên gương mặt cô thư ký, hắn cố mỉm cười.

“Đừng lo gì cho tôi cả.” Sắc mặt Robin vẫn chưa giãn ra. Hắn nói tiếp. “Hồi còn tại ngũ tôi có chơi đấm bốc đó, cô biết không.”

Robin thoáng cười.

“Đúng rồi, anh có kể chuyện đó.”

“Thật sao?”

“Kể đi kể lại nữa là khác. Đêm đó… anh nhớ mà.”

“À, ra vậy. Nhưng mà tôi có chơi đấm bốc thật.”

“Thực ra anh chờ ai vậy?”

“Matthew sẽ không cảm ơn tôi đâu nếu tôi nói cho cô biết. Về nhà đi Robin. Tạm biệt cô, mai gặp lại nhé.”

Lần này, mặc dù vẫn còn miễn cưỡng, Robin ra về thật. Hắn đợi nghe tiếng cánh cửa mở ra phố Denmark đóng sầm lại rồi mới kéo ống quần lên, tháo chân giả ra và kiểm tra phần đầu gối bị sưng phồng, rồi cả mỏm chân cụt trầy trụa tấy đỏ. Không biết cái chân bị hành tội tới cỡ nào, nhưng tối nay hắn không còn thời gian để đi bác sĩ.

Hắn hơi tiếc. Giá mà lúc nãy hắn nghĩ ra chuyện nhờ Robin đi mua ít thức ăn trước khi cô về. Strike chật vật nhảy lò cò, bám vào bàn, nóc kệ đựng hồ sơ rồi tay vịn ghế sofa. Loay hoay một lúc hắn cũng pha được trà. Hắn ngồi xuống ghế của Robin, ăn hết nửa gói bánh qui và ngắm gương mặt của Jonah Agyeman. Mấy viên paracetamol dường như vẫn chưa ngấm gì cả.

Sau khi ăn sạch sẽ gói bánh, Strike mở điện thoại ra kiểm tra. Có rất nhiều cuộc gọi nhỡ từ Robin và hai cuộc từ John Bristow.

Trong số ba người mà Strike dự đoán sẽ mò tới văn phòng tối nay, hắn muốn Bristow là người đầu tiên xuất hiện. Nếu cảnh sát muốn bằng chứng rõ ràng thì một mình thân chủ của hắn cũng có thể cung cấp được (mặc dù có lẽ ông ta vẫn chưa nhận ra điều đó). Nếu Tony Landry hoặc Alison Creswell xuất hiện. Mình sẽ phải… Strike thoáng phì cười một mình, vì hắn vừa nghĩ trong đầu câu “vững chân mà tùy cơ ứng biến”. Chân với chả cẳng!

Nhưng đã sáu giờ, rồi sáu giờ rưỡi. Vẫn không có ai bấm chuông. Strike xoa kem vào mỏm chân cụt, rồi nghiến răng gắn chân giả vào, vẫn vô cùng nhức nhối. Hắn lê lết vào văn phòng bên trong, miệng rên hừ hừ vì đau, ngồi phịch xuống ghế. Strike bỏ cuộc, không chờ đợi gì nữa. Hắn tháo chân giả ra, úp mặt xuống bàn, không thiết làm gì hơn là chợp mắt một lúc.

2

Có tiếng bước chân trên cầu thang. Strike ngồi bật dậy, không biết vừa ngủ năm phút hay năm mươi phút. Rồi có tiếng đập rầm rầm vào cửa kính.

“Vào đi, cửa mở!” hắn ngồi tại chỗ hét lên, tranh thủ cúi xem ống quần đã thả xuống chưa. Chiếc chân giả vẫn chưa được gắn lại.

Strike thấy nhẹ cả người khi John Bristow bước vào, mắt liên tục hấp háy đằng sau cặp kính dày, trông rất kích động.

“Chào anh. Anh ngồi xuống đi.”

Nhưng Bristow bước về phía hắn, mặt đỏ rần rần, giận dữ hệt như lúc hắn từ chối không nhận điều tra vụ án. Thay vì ngồi xuống, ông ta đứng đó, với tay chụp lấy lưng ghế.

“Tôi đã nói với anh rồi,” ông ta nói, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chỉ ngón tay xương xẩu vào mặt hắn. “Tôi đã nói rõ ràng là tôi không muốn anh gặp mẹ tôi mà không có mặt tôi.”

“Tôi biết là anh đã nói vậy nhưng…”

“Mẹ tôi giờ bấn loạn không thể tưởng. Tôi không biết anh đã nói gì với mẹ tôi, nhưng cả buổi chiều hôm nay tôi cứ phải nghe mẹ tôi khóc lóc rền rĩ trên điện thoại!”

“Tôi rất tiếc; vậy mà tôi thấy phu nhân không phiền gì khi tôi…”

“Mẹ tôi yếu lắm rồi!” Bristow hét lên, hàm răng thỏ lấp ló. “Ai cho anh đi đi gặp mẹ tôi mà không có tôi? Ai cho anh làm chuyện đó?”

“John à, như tôi đã nói hôm đám tang Rochelle, tôi nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với một tên giết người hàng loạt,” Strike đáp. “Tình hình vô cùng nguy hiểm, tôi muốn chuyện này phải chấm dứt.”

“Anh muốn nó chấm dứt à? Thế anh nghĩ tôi muốn gì?” Bristow la hét, giọng ông ta khàn khàn, the thé. “Anh có biết là anh vừa làm gì không? Mẹ tôi thì bấn loạn, còn bạn gái tôi thì biến mất, Tony đang đổ hết cho anh đó! Anh đã làm gì với Alison? Cô ấy ở đâu rồi?”

“Tôi không biết. Anh thử gọi điện cho cổ chưa?”

“Alison không bốc máy. Chuyện quái gì thế này? Ngày hôm nay tôi chạy đến bở cả hơi tai mà công cốc cả, rồi tôi về lại văn phòng…”

“Chạy bở hơi tai mà công cốc?” Strike lặp lại, kín đáo nhấc đầu gối, đặt ngay lên chân giả.

Bristow ngồi vào ghế đối diện, thở hồng hộc, nheo mắt nhìn Strike đang ngồi trong ánh nắng chiều gay gắt rọi qua cửa sổ sau lưng tay thám tử.

“Có ai đó” ông ta giận dữ nói, “gọi cho thư ký của tôi ngay sáng nay, giả vờ là một khách hàng rất quan trọng của công ty ở Rye, đòi họp khẩn cấp. Tôi cất công đi đến đó, chỉ để nghe người ta nói rằng ông ấy đang ở nước ngoài, mà cũng chẳng có ai ở đó gọi tôi cả. Anh làm ơn,” ông ta nói thêm, đưa tay che mắt, “kéo cái rèm cửa xuống? Chói quá tôi chẳng thấy gì cả.”

Strike giật sợi dây, tấm rèm lạt xạt rơi xuống. Căn phòng mát hẳn, mờ tối, chỉ còn mấy vạt nắng qua khe rèm.

“Nghe lạ thật,” Strike nói. “Cứ như thể có người muốn dụ anh đi khỏi thành phố vậy.”

Bristow không đáp lại. Ông ta nhìn hắn chằm chằm, thở phập phồng.

“Đủ rồi,” Bristow đột ngột lên tiếng. “Tôi muốn chấm dứt cuộc điều tra ở đây. Anh cứ giữ hết phần tôi đã trả. Tôi phải lo cho mẹ tôi trước.”

Strike rút điện thoại ra khỏi túi quần, bấm vài nút rồi đặt lên đùi.

“Anh không muốn biết hôm nay tôi tìm thấy gì trong tủ quần áo của mẹ anh hả?”

“Anh tìm… anh dám lục lọi tủ của mẹ tôi?”

“Đúng vậy. Tôi muốn xem mấy cái túi xách tay được gởi cho Lula, ngay hôm cô ấy chết.”

Bristow bắt đầu lắp bắp:

“Anh… anh…”

“Mấy cái túi đó có lớp vải lót ở trong, có thể tháo rời được. Kỳ khôi thật, đúng không? Trong cái túi màu trắng, ngay dưới lớp vải lót là một tờ di chúc viết tay của Lula, viết trên giấy màu xanh lấy từ thư phòng nhà mẹ anh. Rochelle Onifade ký tên làm chứng. Tôi đã nộp cho cảnh sát rồi.”

Bristow há hốc miệng. Trong vòng vài giây dường như ông ta cứng họng, không nói được. Cuối cùng, ông ta thì thào:

“Nhưng… di chúc viết gì vậy?”

“Rằng cô ấy để lại mọi thứ, tất cả tài sản, cho anh trai, Trung úy Jonah Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia.”

“Jonah… ai kia?”

“Anh ra xem máy tính ở bên ngoài. Có hình trên đó.”

Bristow đứng dậy, đi như mộng du ra phòng ngoài. Strike thấy màn hình máy tính sáng lên khi Bristow kéo chuột. Gương mặt điển trai của Agyeman hiện lên, nhếch mép cười trong bộ quân phục tinh tươm.

“Ôi trời đất ơi,” Bristow thốt lên.

Ông ta quay lại chỗ Strike, ngồi xuống ghế, miệng vẫn còn há hốc.

“Tôi… tôi không thể tin nổi.”

“Đó cũng chính là người bị camera an ninh quay lại,” Strike nói, “khi đang bỏ chạy từ hiện trường trong đêm Lula chết. Khi đó anh ta đang nghỉ phép. Anh ta ở cùng bà mẹ góa bụa dưới Clerkenwell. Vì vậy mà hai mươi phút sau anh ta phải ba chân bốn cẳng chạy về phía phố Theobalds để về nhà.”

Bristow há hốc, nấc một tiếng.

“Vậy mà họ nói là tôi bị hoang tưởng,” ông ta gần như hét lên. “Nhưng tôi chẳng hề hoang tưởng chút nào!”

“Không, anh không hề hoang tưởng,” Strike nói. “Không hoang tưởng. Mà là điên loạn vô đối.”

m thanh của London vọng vào qua khung cửa sổ phủ rèm. Thành phố dường không lúc nào ngơi nghỉ, luôn có những tiếng ầm ầm, la lối, cả tiếng máy lẫn tiếng người. Trong phòng lúc này không có tiếng động nào trừ hơi thở gấp gáp của Bristow.

“Xin lỗi?” ông ta lên tiếng, lịch sự đến lố bịch. “Anh vừa nói gì đó?”

Strike mỉm cười.

“Tôi nói là anh điên loạn vô đối. Anh giết em gái mà không hề bị phát hiện, rồi lại đi nhờ tôi điều tra cái chết của cô ấy.”

“Anh đừng… đừng có đùa chuyện này.”

“Tôi nói rất nghiêm túc. Ngay từ ban đầu tôi đã thấy anh chính là người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lula. Mười triệu bảng, sau khi mẹ anh cũng lên đường. Không hề nhỏ, đúng không? Nhất là khi anh chẳng có gì hơn là tiền lương hiện tại, mặc dù anh cứ ra rả về mớ thừa kế của ông già. Cổ phiếu của Albris dạo này rẻ hơn vé số, phải vậy không?”

Bristow tiếp tục há hốc thêm mấy giây nữa, rồi ngồi thẳng dậy, liếc về chiếc giường xếp trong góc phòng.

“Một người nghèo mạt rệp, phải ăn nhờ ở đậu ở ngay chỗ làm mà dám nói vậy, tôi thấy thật nực cười.” Giọng của Bristow bình thản, nhạo báng nhưng hơi thở lại gấp gáp lạ thường.

“Tôi biết anh có nhiều tiền hơn tôi,” Strike đáp. “Nhưng, như anh đã nhận xét hoàn toàn đúng, thực ra ai mà chẳng có nhiều tiền hơn tôi. Thế mà, tôi có thể tự nói rằng tôi chưa bao giờ thụt két thân chủ nào cả. Anh chôm của Conway Oates được bao nhiêu thì Tony mới phát hiện ra?”

“Ồ, bây giờ tôi còn thêm tội tham ô nữa à?” Bristow đáp trả, bật ra một tiếng cười giả tạo.

“Đúng thế,” Strike nói. “Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không quan tâm chuyện anh giết Lula vì anh muốn có tiền bù vào chỗ đã ăn cắp của Conway Oates, hay vì anh muốn có mấy triệu bảng của cô ấy, hay vì anh căm ghét Lula. Nhưng chắc bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết. Mấy người đó lúc nào cũng quan tâm tới động cơ phạm tôi.”

Hai đầu gối Bristow lại giật lia lịa.

“Anh mất trí rồi,” ông ta nói, cố cười thành tiếng. “Anh tìm ra được một tờ di chúc, theo đó Lula không để lại gì cho tôi, mà cho cái người kia.” Ông ta chỉ tay về phía phòng ngoài, nơi có hình ở Jonah. “Anh vừa nói đó là người đi về phía căn hộ của Lula đúng cái đêm con bé ngã khỏi ban công, rồi mười phút sau bỏ chạy, hình ảnh bị ghi lại hết trên đoặn băng. Vậy mà anh dám buộc tội tôi. Thật lố bịch.”

“John, ngay từ trước khi tìm đến thuê tôi điều tra, anh đã biết người trong đoạn băng là Jonah. Rochelle đã nói với anh. Cô ta có mặt ở Vashti lúc Lula gọi cho Jonah, hẹn gặp ngay đêm đó. Rồi sau đó chính cô ta làm chứng tờ di chúc. Rochelle đã tìm gặp anh, kể lại mọi thứ để tống tiền. Cô ta muốn có tiền để mua nhà và mấy thứ quần áo đắt đỏ. Đổi lại cô ta sẽ ngậm miệng về chuyện thực ra anh không phải là người thừa kế của Lula.

“Rochelle không hề biết anh giết Lula. Cô ta tưởng chính Jonah đẩy Lula qua cửa sổ. Cô ta rất hận vì phải làm chứng một tờ di chúc không hề có phần mình, rồi sau đó bị Lula bỏ rơi ngay trong cửa hàng. Vậy nên miễn có tiền thì cô ta cũng chẳng thèm quan tâm chuyện thủ phạm vẫn còn nhơn nhơn đâu đó.

“Toàn là bịa đặt. Anh điên rồi.”

“Anh đã tìm mọi cách gây khó để tôi không tìm ra Rochelle,” Strike tiếp tục nói, như thể không nghe thấy Bristow vừa nói gì. “Anh giả vờ là không biết tên cô ta, không biết cô ta sống ở đâu. Anh làm ra vẻ hoài nghi khi tôi nói rằng Rochelle có thể giúp được quá trình điều tra. Chưa hết, anh còn xóa sạch hình trên máy tính của Lula, để tôi không biết Rochelle trông như thế nào. Đành rằng, Rochelle có thể chỉ ngay đến người mà anh muốn gán tội, nhưng mặt khác, cô ta cũng biết có một tờ di chúc không hề có tên anh. Mục tiêu hàng đầu của anh là giữ im lặng về tờ di chúc đó, cho đến khi anh tìm ra và thủ tiêu nó hoàn toàn. Thật là trớ trêu, vì trong suốt thời gian đó, tờ di chúc vẫn nằm trong tủ áo ở nhà mẹ anh.

“Nhưng ngay cả khi anh đốt tờ di chúc thì sao? Anh vẫn không biết liệu Jonah có hay chính anh ta mới là người thừa kế của Lula. Rồi có thêm một nhân chứng từng thấy tờ di chúc mà anh vẫn chưa biết: Bryony Radford, chuyên viên trang điểm của Lula.”

Bristow liếm môi. Strike thấy tay luật sư bắt đầu sợ hãi.

“Bryony không muốn thừa nhận chuyện cô ta lục lọi đồ đạc của Lula. Nhưng cô ta đã nhìn thấy tờ di chúc ở nhà Lula, trước khi Lula kịp giấu đi. Phải tội Bryony bị chứng loạn chữ, nên đọc “Jonah” thành “John”. Cô ta khớp ngay chuyện đó với chuyện Ciara nói Lula sẽ để lại hết cho anh trai, rồi tự thấy khỏi cần khai đã đọc trộm được gì vì đằng nào anh cũng được thừa kế. Anh đúng là được quỷ thần phù hộ, John à.

“Nhưng tôi vẫn hiểu được, với một người bệnh hoạn như anh, giải pháp tốt nhất vẫn là gán tội cho Jonah. Nếu anh ấy bị án chung thân thì chuyện di chúc có xuất hiện hay không cũng không thành vấn đề, lúc đó thì nếu Jonah hay bất kỳ ai khác biết đến tờ di chúc cũng không thay đổi được gì. Đằng nào tiền cũng nằm trong túi anh rồi.”

“Thật nực cười,” Bristow nói, hổn hển. “Anh nên từ bỏ nghề thám tử, chuyển qua viết tiểu thuyết đi Strike. Anh chẳng có lấy một chút bằng chứng nào cả…”

“Tôi có đấy.” Strike ngắt lời ông ta. Bristow im lặng ngay lập tức, gương mặt xanh xao của ông ta hiện ra trong bóng tối. “Đoạn băng hình.”

“Đoạn băng đó cho thấy Jonah Agyeman bỏ chạy từ hiện trường vụ án, như anh vừa công nhận đó thôi!”

“Trên đoạn băng có một người nữa.”

“Vậy anh ta có đồng phạm… một tên cảnh giới.”

“Tôi tự hỏi luật sư bào chữa sẽ viện cớ gì cho anh hả John?” Strike nhẹ nhàng hỏi. “Chứng ái kỷ? Một thứ rối loạn phức cảm, nghĩ mình là Thượng đế? Anh nghĩ không ai làm gì được anh, phải không, vì anh là thiên tài còn tất cả chỉ là khỉ đột? Người bỏ chạy thứ hai không phải là đồng phạm hay cảnh giới của Jonah, cũng không phải là tên trộm xe. Anh ta thậm chí còn không phải là người da đen nữa kia. Anh ta là người da trắng mang găng tay màu đen. Là anh.”

“Không,” Bristow đáp. Tiếng kêu cộc lốc bật ra, đầy hoảng loạn, nhưng sau đó, ông ta gắng nhếch mép cười mai mỉa. “Làm sao là tôi được? Lúc đó tôi ở Chelsea với mẹ tôi. Bà ấy nói với anh thế còn gì. Tony cũng gặp tôi ở đó. Lúc đó tôi ở Chelsea.”

“Mẹ anh là một bệnh nhân nghiện Valium, gần như suốt ngày hôm đó bà ấy ngủ li bì. Sau khi giết Lula anh mới đến Chelsea. Tôi nghĩ hẳn anh đã vào phòng mẹ anh lúc sáng sớm, vặn ngược đồng hồ, đánh thức mẹ anh dậy và giả vờ chỉ mới đến giờ ăn tối. Anh tưởng anh là một tay tội phạm thiên tài nhưng mánh đó đã được làm hàng triệu lần rồi, chỉ là không được dễ dàng như vậy. Với chừng ấy thuốc men trong người, mẹ anh còn không biết hôm đó là ngày nào, nói gì đến giờ giấc.

“Tôi ở Chelsea cả ngày hôm đó,” Bristow lặp lại, đầu gối giật lia lịa. “Cả ngày, chỉ trừ lúc đến văn phòng lấy hồ sơ.”

“Anh lấy cái áo thun dây liền mũ và đôi găng tay từ căn hộ ngay bên dưới nhà Lula. Trong đoạn băng anh mặc hai thứ đó.” Strike nói tiếp, bất chấp câu chen ngang của Bristow, “Sai lầm là ở chỗ đó. Vì cái áo anh mặc là thứ độc nhất vô nhị. Trên thế giới chỉ có một cái, của Guy Somé làm riêng để tặng Deeby Macc. Anh chỉ có thể lấy nó được từ căn hộ của Deeby Macc, nhờ đó mà tôi suy ra được anh nấp ở đâu.”

“Anh không hề có bằng chứng gì cả,” Bristow nói, “Tôi vẫn đợi bằng chứng đây.”

“Đương nhiên là anh đợi rồi,” Strike nói, thản nhiên. “Một người vô tội sẽ không ngồi im nghe tôi nói, mà đã bỏ đi ra từ lâu. Nhưng đừng lo. Tôi có bằng chứng.”

“Anh không thể có gì cả,” Bristow khàn giọng.”

“Động cơ phạm tội, phương tiện và cơ hội, John à. Anh có đủ hết.

“Thôi thì, trở lại ban đầu vậy. Anh không chối chuyện anh đến gặp Lula sáng hôm đó…”

“Đương nhiên tôi không chối.”

“…bởi vì có người thấy anh ở đó. Nhưng tôi nghĩ Lula không hề đưa cho anh hợp đồng với Somé, để anh phải cầm lên lầu cho cô ấy. Tôi đoán anh xoáy cái hợp đồng từ trước. Wilson để cho anh lên nhà. Chỉ vài phút sau anh và Lula cãi nhau dữ dội ngay trước cửa nhà cô ấy. Anh không thể chối vụ đó, vì người lao công có nghe thấy. Thật may cho anh, tiếng Anh của Lechsinka rất tệ nên cô ấy xác nhận đúng như anh kể: rằng anh giận dữ vì Lula vừa quay lại với tay bạn trai nghiện ngập đào mỏ.

“Nhưng tôi nghĩ cuộc cãi vã đó thực ra là về chuyện Lula từ chối không cho anh đồng nào. Bạn bè của Lula, những người tinh ý một chút đều kể rằng từ lâu anh đã nhăm nhe tiền bạc của cô em. Nhưng hôm đó ắt hẳn anh phải bấn lắm, mới xông vào la lối như vậy. Phải chăng hôm đó Tony vừa nhận ra con số thất thoát trong tài khoản của Conway Oates? Lúc đó anh cần tiền gấp lắm sao?”

“Phỏng đoán vô căn cứ,” Bristow nói, đầu gối vẫn giật lên xuống lia lịa.

“Cứ đợi ra tòa rồi biết có căn cứ hay không,” Strike đáp.

“Tôi chưa bao giờ phủ nhận chuyện Lula và tôi có cãi nhau.”

“Sau khi Lula từ chối ký séc cho anh và đóng sầm cửa lại, mặc anh đứng ngoài, anh quay trở xuống. Ngay lúc đó căn hộ tầng hai đang mở cửa. Wilson và nhân viên bảo trì vẫn mải đứng xem bảng điều khiển. Lechsinka hẳn vẫn còn ở trong đó, có lẽ đang hút bụt. Nhờ tiếng động đó mà anh có thể lẻn vào ngay sau lưng hai người kia.

“Nhưng thực ra vụ này cũng chẳng liều lĩnh gì lắm. Nếu họ quay lại và trông thấy anh, anh có thể giả vờ vào tìm Wilson để cảm ơn vì ông ta đã cho anh vào nhà khi sáng. Trong khi hai người còn mải loay hoay với hộp cầu chì, anh lẻn vào rồi nấp đâu đó trong căn hộ. Có nhiều chỗ nấp mà. Tủ áo trống trơn. Hay dưới gầm giường.

Bristow lại lắc đầu, lặng lẽ phủ nhận tất cả. Strike nói tiếp, giọng vẫn thản nhiên như không:

“Hẳn anh có nghe thấy Wilson chỉ cho Lechsinka cách đặt lại báo động và cả mã số 1966. Cuối cùng Lechsinka, Wilson và nhân viên Securibell đi ra, chỉ còn có mỗi một mình anh trong căn hộ. Không may là Lula cũng vừa đi khỏi, nên anh không thể trở lên lầu để tiếp tục bức ép cô ấy nhả tiền ra.”

“Toàn là bịa đặt” ông luật sư nói. “Trong đời tôi chưa bao giờ đi vào căn hộ số Hai. Tôi rời chỗ Lula rồi đến thẳng văn phòng để lấy hồ sơ...”

“Lấy từ Alison, như anh đã kể lúc gặp tôi lần đầu tiên?” Strike hỏi.

Những đốm đỏ bắt đầu hiện ra trên chiếc cổ nổi gân của Bristow. Sau một thoáng ngập ngừng, ông ta hắng giọng nói:

“Tôi không nhớ là có lấy từ... Tôi chỉ nhớ là tôi lấy rất nhanh; tôi muốn trở về chỗ mẹ tôi ngay.”

“John à, anh nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi Alison ra trước tòa và kể lại với bồi thẩm đoàn rằng anh bắt cô ta nói dối? Trước mặt cô ta, anh đóng vai người anh đau buồn vì vừa mới mất cô em gái, rồi mời cô ta đi ăn tối. Có dịp chứng tỏ với Tony là mình cũng có giá nên Alison nhận lời ngay. Sau vài cuộc hẹn anh thuyết phục Alison nói rằng đã gặp anh tại văn phòng buổi sáng ngày Bảy tháng Giêng. Cô ta cứ tưởng anh chỉ bị rối trí, hoảng loạn, đúng vậy không? Cô ta còn tin là anh đã có sẵn chứng cứ ngoại phạm ngay trong ngày hôm đó từ Tony, người cô ta thầm yêu trộm nhớ. Cô ta nghĩ có đáng gì khi nói dối một chút, chỉ để anh bình tĩnh lại.

“Nhưng hôm đó Alison không có ở văn phòng, John à, không hề đưa hồ sơ giấy tờ gì cho anh cả. Vừa tới công ty, Cyprian đã sai cô ta đi Oxford để tìm Tony. Sau đám tang của Rochelle anh bắt đầu thấy căng thẳng khi nhận ra tôi đã biết hết mấy chuyện đó, đúng vậy không?

“Alison không được lanh lợi lắm,” Bristow chậm rãi nói, hai tay liên tục xoa vào nhau, đầu gối vẫn giật lia lịa. “Cô ta hẳn đã nhầm lẫn ngày tháng. Cô ta rõ là đã hiểu lầm tôi. Tôi chưa bao giờ nhờ cô ta nói có gặp tôi ở văn phòng hôm đó cả. Ở đây là chuyện ông nói gà bà nói vịt. Có thể cô ta đang tìm cách trả thù tôi, vì tụi tôi vừa chia tay.”

Strike bật cười.

“Đúng ra phải nói là anh bị Alison đá. Sau khi trợ lý của tôi gọi điện cho anh sáng nay để dụ anh đi tới Rye...”

“Trợ lý của anh?”

“Đương nhiên rồi. Chẳng lẽ tôi lại muốn có anh đứng bên cạnh khi tôi lục lọi trong nhà mẹ anh? Chính Alison đưa cho tụi tôi tên của vị khách hàng ở Rye đó. Tôi đã gọi điện cho Alison, kể hết mọi chuyện, luôn cả chuyện tôi có bằng chứng Tony ăn nằm với Ursula May, và chuyện anh sắp bị bắt vì tội giết người. Nghe xong cô ta quyết định bỏ cả việc lẫn bồ. Tôi hi vọng cô ta đã đến nhà mẹ ở Sussex... như tôi khuyên. Anh cặp kè với Alison vì anh nghĩ cô ta là chứng cứ ngoại phạm của anh, và cũng muốn lợi dụng Alison để biết Tony đang nghĩ gì. Vì anh rất sợ ông cậu. Nhưng gần đây tôi lo là Alison chẳng có lợi ích gì với anh nữa, nên biết đâu cô ta sẽ lại phải ngã xuống từ một chỗ khá cao.”

Bristow cố bật cười thành tiếng, nhưng tiếng cười nghe giả tạo và trống rỗng.

“Vậy là không có ai thấy anh vào văn phòng sáng hôm sau đó để lấy giấy tờ cả,” Strike nói tiếp. “Anh vẫn còn nấp trong căn hộ tầng giữa ở tòa nhà số mười tám, Kentigern Gardens.”

“Tôi không có ở đó. Tôi ở Chelsea với mẹ.” Bristow nói.

“Lúc mới nấp trong căn hộ tầng hai tôi nghĩ anh vẫn chưa tính đến chuyện giết Lula,” Strike tiếp tục nói. “Có lẽ anh chỉ định chặn đường gây gổ tiếp khi cô ấy về nhà. Hôm đó mọi người ở công ty đều biết rằng anh làm việc ở nhà, để trông bà mẹ đang ốm. Tủ lạnh trong căn hộ thì đầy nhóc thức ăn. Anh còn biết cả cách đi ra đi vào mà không kích hoạt báo động. Từ bên trong anh có thể nhìn thấy rõ dưới phố, nếu Deeby Macc và bầu đoàn có xuất hiện anh vẫn có đủ thời gian để chạy ra rồi đi xuống cầu thang, ai hỏi thì chỉ cần bịa chuyện vớ vẩn là phải ngồi đợi Lula rất lâu trên lầu. Rủi ro duy nhất, mà cũng không đáng kể, là nhỡ có người chuyển bưu kiện hay đồ đạc lên đúng phòng đó, nhưng khi bình hoa hồng được mang vào vẫn không ai thấy anh cả, đúng vậy không?

“Tôi đoán tới lúc đó anh mới nhen nhóm ý định giết người, sau hàng tiếng đồng hồ nấp trong chỗ sang trọng đó. Phải chăng anh bắt đầu tưởng tượng ra nếu Lula chết thì sao? Anh không nghĩ Lula đã lập sẵn di chúc. Hẳn mẹ anh cũng sẽ dễ chịu hơn với anh nếu bà chỉ còn một mình anh. Như thế chẳng phải tuyệt vời hay sao, đúng không John? Rằng cuối cùng anh cũng được làm cục cưng duy nhất? Không bao giờ phải bị ra rìa khi có thêm đứa em xinh xắn, đáng yêu hơn một lần nữa?”

Trong bóng tối đang đặc dần lại, hắn thấy Bristow bắt đầu nghiến răng, cặp mắt bạc nhược nhìn chằm chằm.

“Anh có chu đáo đến đâu, đóng trọn vai người con hiếu thảo dường nào thì vẫn không bao giờ là số một trong lòng mẹ anh, đúng vậy không? Bà ấy lúc nào cũng yêu Charlie nhất, phải không? Mà ai cũng thế cả, kể cả cậu Tony. Sau khi Charlie mất, anh cứ tưởng mình sẽ có được mọi sự chú ý, nhưng không, chuyện gì xảy ra nữa? Lula xuất hiện, rồi mọi người bắt đầu lo lắng cho Lula, chăm sóc Lula, ngưỡng mộ Lula. Mẹ anh còn không muốn để hình của anh bên giường bệnh. Chỉ có Charlie và Lula thôi. Chỉ có hai đứa con được bà ta yêu mến.”

“Khốn khiếp,” Bristow gào lên. “Đồ chó đẻ. Mày thì biết cái gì, với con mẹ đĩ thõa đó? Mẹ mày chết vì cái quỷ gì vậy, lậu liếc gì hả?”

“Hay thật!” Strike nói, cảm thán. “Tôi vừa định hỏi là không biết ban đầu anh có tìm hiểu đời tư của tôi không, khi anh muốn tìm một thằng khờ để giật dây. Tôi cá là anh nghĩ tôi sẽ rất cảm thông với John Bristow tội nghiệp vừa mất em gái, đúng không, vì mẹ tôi cũng chết rất trẻ, cũng trong hoàn cảnh mờ ám? Anh cứ tưởng sẽ tha hồ giật dây tôi như một con rối...

“Nhưng không sao, John à. Nếu luật sư của anh không tìm ra được một chứng rối loạn nào để gán cho anh, tôi đoán hẳn họ sẽ lý luận rằng chính môi trường nuôi dạy của anh mới có lỗi. Không được yêu mến. Bị bỏ rơi. Luôn ở trong bóng tối. Lúc nào cũng thấy bị thiệt thòi, đúng không John? Tôi nhận ra ngay hôm đầu tiên gặp anh, khi anh bật khóc nức nở kể lại chuyện Lula được bế vào nhà. Bố mẹ anh còn không chở anh theo khi đi đón Lula, đúng không? Họ để anh một mình ở nhà, như một con chó cảnh. Anh không thể nào bù đắp khoảng trống sau khi Charlie chết, rồi một lần nữa anh phải đứng vị trí thứ hai.”

“Tôi không phải nghe những chuyện này,” Bristow thì thào.

“Anh cứ ra về,” Strike nói, nhìn vào cặp mắt đang tối sầm lại sau hai tròng kính. “Tại sao anh chưa đi?”

Nhưng ông luật sư vẫn ngồi đó, một bên đầu gối vẫn giật lên xuống, hai bàn tay xoa vào nhau, chờ đợi Strike đưa ra bằng chứng.

“Lần thứ hai chắc dễ ra tay hơn phải không?" tay thám tử khẽ hỏi. “Giết Lula dễ hơn giết Charlie?”

Hắn thấy hàm răng Bristow lộ ra khi ông ta hé miệng, nhưng rồi ông ta không nói tiếng nào cả.

“Tony biết chính anh xô Charlie, phải không? Anh bịa ra chuyện Tony nói xấu mẹ anh sau khi Charlie chết. Sự thật là Tony có ở đó. Ông ấy thấy anh đạp xe bỏ chạy sau khi đã xô Charlie xuống. Anh thách Charlie tới gần mỏm đá, đúng không? Tôi biết Charlie: cậu ta không bao giờ từ chối một lời thách đố. Tony thấy Charlie nằm chết ngay dưới mỏ đá. Ông ấy nói với bố mẹ anh rằng ông ấy đoán chính anh đã ra tay, đúng vậy không? Vì vậy mà bố anh xông vào đánh Tony. Vì vậy mà mẹ anh ngất xỉu. Bố anh cấm cửa Tony sau khi Charlie chết không phải vì Tony nói rằng mẹ anh dạy hư con, mà vì ông ta dám nói rằng mẹ anh đang nuôi một kẻ điên loạn bệnh hoạn.”

“Thật là... Không,” Bristow thốt lên, giọng khàn. “Không!”

“Nhưng Tony không muốn làm lớn chuyện. Ông ấy giữ im lặng. Mặc dù vậy ông ấy hoảng sợ khi nghe bố mẹ anh sắp nhận nuôi một bé gái, đúng không? Ông ấy gọi điện, cố cản họ. Tony lo là đúng. Tôi nghĩ xưa nay anh luôn sợ ông ta. Thật là trớ trêu làm sao khi cuối cùng Tony phải ngậm miệng, cắn răng tạo chứng cớ ngoại phạm cho anh.”

Bristow không nói gì cả. Hơi thở càng gấp gáp hơn.

“Tony phải giả vờ là hôm đó ông ta không hề đi khách sạn với vợ của Cyprian May, nên mới nói đã lái xe về London để thăm chị bị ốm. Rồi ông ta nhận ra lúc đó cả anh và Lula dường như đều có đến Chelsea.

“Lula đã chết, không thể đối chất gì được; vậy là Tony không còn sự lựa chọn nào khác, đánh giả vờ là có trông thấy anh trong thư phòng, nhưng không nói năng gì với anh lúc đó. Anh cũng xác nhận như vậy. Cả hai vừa nói dối không ghê răng, vừa tự hỏi không biết người kia đang giở trò gì, nhưng không dám nói thẳng. Tôi nghĩ Tony định khi sau mẹ anh mất sẽ làm ra lẽ với anh. Có lẽ ý định đó làm ông ta đỡ áy náy. Nhưng ông ta vẫn rất lo lắng, đến nỗi phải nhờ Alison theo dõi anh. Trong khi đó anh bịa chuyện Lula ôm anh chào tạm biệt, rồi hai người làm hòa trước khi cô ấy đi khỏi nhà mẹ anh, thật là lâm ly.”

“Tôi có ở đó,” Bristow nói, thì thào nghiến răng ken két. “Tôi có ở nhà mẹ tôi. Nếu Tony không tới đó thì là việc của ông ấy. Anh không thể vin vào đó mà chứng minh là tôi cũng không có ở Chelsea.”

“Tôi không chứng minh gì ở đây cả John ạ. Tôi chỉ muốn nói là hiện giờ chứng cớ ngoại phạm duy nhất còn lại của anh chính là bà mẹ nghiện Valium.

“Nhưng thôi, quay trở lại câu chuyện lúc nãy. Trong khi Lula đến thăm bà mẹ đau ốm và Tony đang vui vẻ với Ursula ở một khách sạn nào đó, anh vẫn nấp trong căn hộ số Hai. Anh chợt nghĩ ra một phương án táo bạo hơn để giải quyết vụ kẹt tiền. Anh chờ đợi. Rồi anh mang đôi găng tay da màu đen làm tặng cho Deeby để sẵn trong tủ, để tránh lưu lại vân tay. Thật là đáng ngờ. Cứ như thể anh chuẩn bị làm chuyện gì ác ôn.

“Cuối cùng, chiều hôm đó Lula trở về nhà, nhưng không may là cô ấy có bạn đi cùng. Hẳn anh đã nhìn thấy qua lỗ nhìn trộm trên cửa.

“Và bây giờ đây,” Strike nói, giọng hắn đanh lại. “Tôi nghĩ tội của anh bắt đầu nặng. Lý lẽ bào chữa theo hướng ngộ sát, cho rằng tất cả chỉ là tai nạn, hai người giằng co rồi Lula ngã xuống từ ban công, vẫn có thể chập nhận được, nếu cả ngày hôm đó anh không nấp ngay ở tầng dưới, trong khi anh biết Lula đang có khách. Nếu anh chỉ chăm chăm bắt nạt Lula để cố ấy nhả cho một tờ séc, thì có lẽ anh chỉ cần đợi đến lúc cô ấy ở nhà một mình. Nhưng anh đã thử rồi, không thành công. Vậy tại sao ngay lúc đó anh không đi lên lầu, nhân lúc Lula vui vẻ hơn khi sáng, để cố xin một lần nữa? Biết đâu vì có bạn trong nhà cô ấy sẽ đưa phứt cho anh một ít, chỉ để anh biến cho rồi?”

Strike gần như cảm thấy đừng đợt sóng sợ hãi và căm ghét ngùn ngụt bốc lên từ bóng đen ngồi bên kia bàn đang dần hòa vào màn đêm.

“Nhưng không,” hắn nói tiếp, “anh tiếp tục chờ đợi. Anh đợt suốt buổi tối hôm đó. Lula lại rời khỏi nhà một lần nữa. Hẳn khi đó anh rất cay cú. Nhưng anh cũng có đủ thời gian để tính kế. Anh đã quan sát đường phố; anh biết chắc chắn ai đang có mặt trong tòa nhà, ai đang ở ngoài. Anh nghĩ ra cách chuồn đi êm thấm nhất, mà không để ai biết. Và cũng đừng quên là anh từng ra tay giết người rồi. Ở đây chuyện đó rất quan trọng.”

Bristow giật người lên; Strike gồng căng người chờ đợi, nhưng Bristow vẫn ngồi yên. Strike lo lắng nhớ ra chiếc chân giả chỉ đang khớp hờ vào đầu gối.

“Anh nhìn ra cửa sổ, thấy lần này Lula về nhà một mình, nhưng đám săn ảnh vẫn còn ở đó. Hẳn khi đó anh thấy nản lắm, đúng không?

“Và rồi, như một phép màu, cứ như trời muốn giúp John Bristow có được những gì anh ta muốn, đám săn ảnh tản đi hết. Tôi cá là tay lái xe của Lula đã nháy với đám này rằng Deeby còn lâu mới về. Tay này rất chịu khó o bế bọn phóng viên.

“Vậy là đường phố vắng tanh. Thời cơ đã đến. Anh mặc áo của Deeby vào. Sai lầm nghiêm trọng. Nhưng không lẽ cứ gặp may mãi sao?

“Và rồi... lần này tôi cho anh mười điểm, vì anh làm tôi đau đầu khá lâu... anh rút vài cành hoa từ trong lọ ra, đúng không? Anh lau cuống hoa cho đỡ ướt... không kỹ càng lắm nhưng cũng tạm ổm... rồi anh cầm hoa, ra khỏi căn hộ số Hai, để cửa hé và lên nhà em gái.

“Anh không biết rằng mình đã đánh rơi mấy giọt nước trên đường đi, làm Wilson trượt chân ngã sau đó.

“Anh lên đến căn hộ của Lula, gõ cửa. Khi nhìn qua lỗ nhìn trộm trên cửa, cô ấy thấy gì? Hoa hồng trắng. Cô ấy vừa đứng trên ban công, cửa sổ mở toang, hồi hộp ngóng chờ người anh thất lạc đã lâu. Không hiểu sao anh ấy lên tận đây rồi mà cô không thấy! Lula rất phấn khích, mở cửa ngay. Anh bước vào.”

Bristow ngồi im như tượng. Ngay cả đầu gối cũng không còn giật nữa.

“Rồi anh giết Lula, giống như cách anh từng giết Charlie, và sau đó là Rochelle: anh đẩy cô ấy, thật mạnh và thật nhanh... có thể anh đã nhấc cô ấy lên, nhưng cũng như hai người còn lại, cô ấy bị bất ngờ, đúng không?

“Anh hét vào mặt Lula vì cô ấy không đưa tiền cho anh, cô ấy giành hết phần yêu thương của bố mẹ, làm anh lúc nào cũng phải thiệt thòi, đúng không John?

“Rồi Lula hét lại rằng anh sẽ không được một xu nào, ngay cả khi anh giết cô ấy. Rồi anh ra tay, dồn Lula về phía ban công và đẩy cô ấy xuống. Nhưng Lula đã kịp nói rằng cô ấy có một người anh trai khác, anh ruột. Rằng anh ta đang trên đường đến, và rằng cô ấy đã lập di chúc để lại hết cho anh ta.

“Muộn rồi. Đã xong cả rồi!” cô ấy hét lên. Và anh gọi Lula là con láo toét khốn nạn, rồi anh ném cô ấy xuống đường, chết ngay tại chỗ.”

Bristow ngồi im, dường như nín thở.

“Tôi nghĩ hẳn anh đã vứt lại mấy cái hoa ở trước cửa. Anh chạy trở ra, nhặt chúng lên, chạy xuống tầng dưới và vào căn hộ số Hai, nhét lại vào bình. Thật không tưởng tượng được là anh lại tiếp tục gặp may. Cái bình hoa sau đó bị một tay cảnh sát hậu đậu đánh vỡ tan tành. Mà chỉ có mấy cái hoa đó mới cho thấy có người vừa nấp trong căn hộ; vì chắc chắn rằng anh không thể cắm lại chúng y như ban đầu, nhất là khi chỉ có vài phút để tẩu thoát.

“Đoạn tiếp theo vô cùng gay cấn. Anh không ngờ là có người phát hiện ra ngay. Tansy Bestigui khi đó bị nhốt ngoài ban công tầng một. Anh nghe tiếng bà ta la hét và nhận ra anh có rất ít thời gian để trốn thoát, trái với dự tính ban đầu. Lúc này Wilson chạy ra đường để xem có đúng Lula vừa rơi xuống không. Sau đó anh thấy ông ta chạy lên cầu thang, qua lỗ nhìn trộm trên cửa.

“Anh đặt lại báo động, ra khỏi căn hộ rồi chạy xuống cầu thang. Hai vợ chồng nhà Bestigui đang gào vào mặt nhau. Anh chạy xuống... Freddie Bestigui có nghe tiếng chân anh, nhưng lúc đó ông ta còn bận nghĩ việc khác... Sảnh lễ tân trống trơn... Anh chạy ra ngoài, tuyết vẫn rơi dày.

“Rồi anh chạy tiếp, đúng không, mũ áo kéo lên, mặt che lại, hai tay đeo găng nắm chặt. Khi chạy đến cuối đường anh thấy một người khác cũng đang trối chết chạy khỏi góc đường, nơi anh ta vừa thấy cô em gái rơi xuống. Khi đó anh không biết anh ta là ai. Tôi nghĩ khi đó anh còn chẳng thèm để ý đến anh ta. Anh chạy thật nhanh, mặc áo của Deeby Macc, qua mặt camera và chạy xuống phố Halliwell, tới đây anh lại tiếp tục gặp may vì không còn camera nào nữa.

“Tôi đoán anh đã vứt cái áo và đôi găng tay vào thùng rác và nhảy lên taxi, đúng không? Cảnh sát không bao giờ nghi ngờ hay bỏ công tìm kiếm một người đàn ông da trắng mặc complet trong đêm đó. Anh về nhà mẹ, soạn thức ăn tối, vặn ngược đồng hồ và đánh thức bà ấy dậy. Đến giờ bà ấy vẫn tin rằng hai người đang nói chuyện về Charlie ngay lúc Lula ngã xuống. Anh khá thật đấy, John à.

“Anh đã thoát một cách ngoạn mục. Anh đã có thể bịt miệng Rochelle bằng tiền cả đời. Rồi biết đâu, Jonah Agyeman sẽ bỏ mạng ở Afghanistan. Cứ mỗi khi nhìn thấy hình một người lính da đen tử trận trên báo anh lại khấp khởi hi vọng, đúng không? Nhưng anh không thể phó mặc hết cho vận may. Anh là một tên khốn tráo trở, ngạo mạn nên muốn tự tay sắp đặt mọi thứ.”

Im lặng một hồi lâu, không ai nói gì nữa.

“Không có bằng chứng,” cuối cùng Bristow lên tiếng. Bóng tối ngập khắp phòng, Strike chỉ còn thấy mờ mờ bóng ông ta trước mặt. “Không có bằng chứng gì cả.”

“Tôi e là anh sai rồi,” Strike nói. “Bên cảnh sát hẳn đã có lệnh soát nhà.”

“Soát gì?” Bristow hỏi, cuối cùng cũng đủ tự tin để bật cười. “Soát thùng rác ở London để tìm ra cái áo bị vứt cách đây ba tháng à?”

“Không, soát két sắt ở nhà mẹ anh chứ,”

Strike tự hỏi không biết hắn có đủ thời gian để kéo rèm lên không. Hắn đang ở khá xa công tắc đèn, văn phòng hiện giờ tối om. Nhưng hắn không muốn rời mắt khỏi Bristow đang ngồi lù lù trước mặt. Hắn chắc rằng tên giết người ba lần này không thể đến tay không.

“Tôi có ghi sẵn cho họ vài mã số mở két,” Strike nói tiếp, “Nếu mở không được chắc họ phải gọi chuyên gia đến. Nhưng nếu phải cá cược, tôi sẽ đặt tiền cho số 030483.”

Có tiếng sột soạt, một cánh tay tai tái đưa lên cao, Bristow lao tới. Mũi dao sượt qua ngực Strike khi hắn đẩy Bristow qua một bên. Ông luật sư trượt khỏi mặt bàn, ngã lăn quay rồi lại lao vào hắn. Lần này cả Strike và chiếc ghế bật ra sàn, kẹt giữa bức tường và chiếc bàn, Bristow ngồi lên người hắn.

Strike nắm lấy cổ tay Bristow, nhưng hắn không thấy con dao ở đâu: chung quanh là bóng tối. Hắn đấm một cú thật lực vào ngay dưới cằm Bristow, đầu ông ta bật ngửa ra sau, cặp kính văng xa. Strike bồi thêm cú nữa, Bristow dội vào tường, Strike cố ngồi dậy trong Bristow dùng chân kìm chiếc chân cụt của hắn xuống đất. Mũi dao đâm vào cánh tay Strike. Hắn cảm thấy lưỡi dao sắc nhọn xuyên qua da thịt, máu ấm chảy ra, nhức nhối.

Trên cửa sổ mờ mờ bóng cánh tay Bristow lại đưa lên. Strike cố gượng ngồi dậy vật ông luật sư xuống, né mũi dao thứ hai và lấy hết sức bình sinh đẩy Bristow qua một bên. Chiếc chân giả trượt ra khỏi ống quần khi hắn cố đè kẻ giết người xuống. Máu bắn khắp nơi, vẫn còn ấm. Hắn vẫn không thấy con dao đâu.

Chiếc bàn đã bị lật qua một bên khi Strike vật Bristow xuống. Hắn tì đầu gối của cái chân còn nguyên vẹn lên người Bristow, dùng cánh tay không bị đâm loay hoay tìm con dao. Đèn trong phòng sáng lên. Hắn lóa cả mắt. Một người đàn bà đang đứng đó, há miệng hét.

Mắt hắn hoa lên, chỉ thoáng thấy con dao đang dí thẳng xuống bụng; hắn chụp ngay lấy chiếc chân giả ở bên cạnh, phăng tới tấp vào mặt Bristow, một cú, rồi hai cú...

“Dừng lại! Cormoran, DỪNG LẠI! ANH GIẾT ÔNG TA MẤT!”

Strike tụt khỏi người Bristow, giờ đây đã bất động. Hắn vứt cái chân giả qua một bên và vật ra sàn nhà, ôm lấy cánh tay đầm đìa máu, bên cạnh là chiếc bàn chỏng chơ.

“Tôi tưởng...” hắn hổn hển, mắt hoa lên không nhìn rõ mặt Robin. “... Tôi bảo cô đi về nhà rồi kia mà?”

Nhưng Robin đã nhấc điện thoại lên.

“Cảnh sát! Cấp cứu!”

“Gọi thêm taxi nữa!” Strike làu bàu từ dưới sàn nhà, cổ họng hắn khô rang sau khi nói quá nhiều. “Tôi không đi chung xe với thằng chó này đâu.”

Hắn với tay, nhặt chiếc điện thoại nằm cách đó vài mét. Màn hình đã bị vỡ, nhưng điện thoại vẫn còn tiếp tục ghi âm.

Lời kết

Nihilestabomni

Parte beatum.

Nothing is an unmixed blessing.

Cuộc đời họa phúc ai ngờ

Tưởng may hóa rủi, tưởng mờ lại trong.

- Horace, Odes, Quyển 2

Mười Ngày Sau Đó

Quân đội Hoàng gia Anh quốc đòi hỏi mỗi quân nhân phải biết hi sinh mọi nhu cầu và quan hệ cá nhân ở một mức độ mà thường dân không thể hiểu nổi. Lợi ích của tổ chức luôn được đặt cao nhất, vượt xa bất kỳ những yêu cầu khác. Những biến cố không thể lường trước trong cuộc đời mỗi người – sinh nở, tang chế, cưới xin, ly hôn và bệnh tật thường không ảnh hưởng mấy đến các kế hoạch hành quân, tựa như mấy hòn sỏi lăn lóc dưới bụng xe tăng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ. Nhờ có một trường hợp ngoại lệ như vậy mà chuyến làm nhiệm vụ ở Afghanistan lần thứ hai của Trung úy Jonah Agyeman bất ngờ được rút ngắn.

Sở Cảnh sát London yêu cầu Trung úy về nước ngay lập tức. Thông thường quân đội chẳng nể nang gì Sở cảnh sát London, nhưng lần này lại sẵn lòng hợp tác. Cả thế giới đang đổ xô chú ý vào câu chuyện xoay quanh cái chết của em gái Trung úy. Quân đội Hoàng gia nhận định cơn bão truyền thông bao quanh một anh lính quèn sẽ chẳng ích lợi gì cho bản thân anh ta hay tổ chức cả. Vậy là Jonah được lên máy bay về nước ngay lập tức, trong sự che chắn cực kỳ ấn tượng của nhà chức trách, khuất mắt báo giới đang háo tin.

Quần chúng theo dõi tin tức đều cho rằng Trung úy Agyeman hẳn phải mừng lắm. Đầu tiên là được về nhà khỏi phải đánh đấm gì nữa, rồi lại được thừa kế một món tài sản nằm mơ cũng không thấy nổi. Tuy nhiên, người lính trẻ mà Cormoran Strike hẹn gặp ăn trưa trong quán Tottenham, mười ngày sau khi thủ phạm giết em gái anh ta bị bắt, lại chẳng có vẻ gì như thế cả. Anh xem ra vẫn còn chưa hết sốc, thậm chí có vẻ tức giận.

Agyeman và Strike đều từng sống đời lính, đều đối mặt với cái chết. Đó là một sự gắn bó đặc biêt, người ngoài quân đội không thể hiểu được. Trong suốt nửa tiếng đồng hồ, họ chỉ nói về những ngày tháng tại ngũ.

“Hồi đó anh làm điều tra viên quân cảnh hả?” Agyeman nói. “Hèn gì, cứ có mấy tay đó nhúng vô là rối tung cả, chỉ giỏi phá đời người ta.”

Strike mỉm cười. Hắn thấy mặc dù nói vậy nhưng Agyeman không hề có ý vô ơn. Mấy mũi khâu ở cánh tay vẫn nhức nhối mỗi khi hắn nâng ly bia lên.

“Mẹ tôi muốn tôi giải ngũ,” người lính đáp. “Nói rằng vụ này chỉ được mỗi chuyện đó.”

Đó cũng là lần đầu tiên một trong hai người nhắc đến lý do thật sự khiến họ hẹn gặp ở đây hôm nay, cũng chính là lý do tại sao Jonah không còn ở bên đồng đội để sống cuộc đời mà mình từng lựa chọn nữa.

Thế rồi, khá đột ngột, Jonah bắt đầu nói, như thể đã chờ đợi Strike hàng tháng trời.

“Mẹ tôi không hề biết chuyện ông già có con riêng. Ổng có nói gì đâu. Ổng còn không chắc là mụ Marlene đó nói thật vụ có bầu. Ngay trước lúc mất, khi chỉ còn có mấy ngày, ổng kêu tôi lại rồi nói. ‘Đừng làm mẹ buồn,’ ổng nói, ‘Ba nói chuyện này vì ba sắp đi rồi, mà ba không biết là con còn có em ở ngoài nữa không.’ Ổng nói là mẹ đứa đó người da trắng, đã dọn đi đâu mất rồi. Biết đâu đã phá rồi cũng có. Gì chứ, cóc tin nổi. Nếu anh có quen ông già tôi thì anh mới hiểu. Không Chủ nhật nào không đi nhà thờ. Trước khi chết còn nhận Thánh thể. Tôi không ngờ có chuyện như vậy, không tưởng tượng nổi.

“Tôi định sẽ không nói gì với mẹ cả. Nhưng rồi, tự dưng ở trên trời rơi xuống, có người gọi điện. Lạy Chúa là lúc đó tôi vẫn còn nghỉ phép ở nhà, nên lại bốc máy. Lula…” anh ta nói tên cô em gái ngập ngừng, như thể không chắc mình có quyền gọi cô ấy như vậy, “…có nói là nếu người bốc máy là mẹ tôi thì cổ đã dập máy ngay. Cổ nói không muốn làm ai đau khổ hết. Cổ cũng không đến nỗi.”

“Tôi cũng thấy vậy.” Strike đáp.

“Ừ… nhưng mà nói thật, kỳ khôi cóc chịu được! Nếu là anh, anh có tin không, nếu tự dưng có một cô siêu mẫu gọi điện đến tự nhận là em gái anh?”

Strike nghĩ đến cái gia đình kỳ quặc của hắn.

“Có khi tôi cũng tin đó,” hắn đáp.

“Ờ há… chắc vậy. Ai lại đi bịa chuyện đó làm gì? Mới đầu tôi nghĩ vậy. Rồi tôi cho cổ số di động, rồi có nói chuyện vài lần, mỗi khi cổ gặp được Rochelle. Cổ đã tính hết, sao cho báo chí khỏi phát hiện ra. Cũng hợp ý tôi. Tôi không muốn mẹ tôi phải buồn.”

Agyeman rút ra một gói thuốc Lambert and Butler, sốt ruột vờn nó giữa mấy ngón tay. Chắc là thuốc mua rẻ ở NAAFI[1], Strike nghĩ thầm, thấy nhoi nhói trong lòng khi nhớ lại cảnh xưa người cũ.

[1. Navy, Army and Air Force Institutes: Hiệp hội hỗ trợ quân nhân – Một tổ chức chuyên cung cấp hàng hóa và dịch vụ giải trí cho quân nhân Anh quốc và người thân. - ND]

“Cổ gọi cho tôi, ngay hôm trước đó… trước khi xảy ra sự việc,” Jonah nói tiếp, “năn nỉ tôi tới gặp. Tôi đã nói là không thể gặp trong đợt phép đó được. Thiệt tình, đau đầu quá xá. Em gái tôi là siêu mẫu nổi tiếng. Mẹ tôi thì đang lo vụ tôi sắp bị điều tới tỉnh Helmand. Tôi phải ngậm miệng vụ ông già có con riêng. Không thể nói lúc đó được. Nên tôi nói với Lula là tôi không kiểu gì đi gặp được.

“Cổ cứ một hai phải gặp trước khi tôi lên đường. Nghe giọng cổ rất lo lắng. Tôi nói thôi được rồi, tôi sẽ đến. Nhưng phải đợi tới giờ mẹ tôi đi ngủ. Tôi sẽ nói là đi ra ngoài làm một ly với bạn hay gì đó. Lula còn nói tôi cứ tới thật trễ, khoảng một giờ rưỡi sáng càng tốt.

“Vậy là,” Jonah kể tiếp, lung túng đưa tay gãi đầu, “tôi tới đó. Nhưng vừa tới ngay góc đường thì… nhìn thấy…”

Anh ta đưa bàn tay quẹt qua miệng.

“Tôi chạy thục mạng. Chạy như ma đuổi. Không biết cóc khô gì cả. Tôi không muốn có mặt ở đó, tôi không muốn phải giải thích với ai hết. Tôi biết là Lula có bệnh tâm thần, tôi nhớ lại trên điện thoại nghe giọng cổ rất buồn, rồi tôi nghĩ, hay là cổ dụ tôi tới đó, để chứng kiến cổ nhảy xuống?

"Tôi không thể ngủ được. Nên thấy nhẹ cả người khi tới ngày lên đường, thiệt tình với anh. Khi đó, tôi chỉ muốn đi thật xa, khỏi phải đọc báo nghe đài gì cả.”

Quán trở nên nhộn nhịp, khách ăn trưa đông dần lên.

“Tôi nghĩ Lula rất muốn gặp anh vì bà mẹ nuôi vừa kể với cô ấy một chuyện.” Strike nói. “Phu nhân Bristow hôm đó uống rất nhiều Valium. Tôi đoán là bà ấy muốn Lula phải thấy áy náy vì không muốn ngồi lại lâu hơn. Vậy là bà ấy kể lại chuyện John xô Charlie xuống mỏ đã, theo lời Tony.”

“Vì vậy mà Lula rất bấn loạn khi rời khỏi nhà mẹ. Cũng vì vậy mà suốt buổi chiều hôm đó cô ấy liên tục gọi cho ông cậu, chỉ để hỏi chuyện đó có thật không. Và tôi nghĩ cô ấy rất muốn gặp anh, muốn gặp một người nào đó, bất kỳ một ai mà cô ấy có thể yêu thương và tin tưởng. Bà mẹ nuôi thương cổ nhưng rất chướng, lại đang hấp hối, cô ấy không ưa gì ông cậu, lại vừa nghe chuyện anh trai mình là một kẻ giết người. Hẳn lúc đó Lula rất tuyện vọng. Tôi nghĩ có khi còn sợ hãi nữa. Ngay hôm trước Bristow có đến gây gổ, bắt cô ấy phải đưa tiền. Có lẽ Lula lo không biết hắn ta sẽ giở trò gì tiếp.”

Trong quán lao xao tiếng người nói chuyện, tiếng ly tách cụng vào nhau, nhưng giọng Jonah vẫn vang lên rõ ràng.

“Tôi mừng là anh đã đấm vỡ hàm hắn.”

“Cả mũi nữa,” Strike khoan khoái nói, “Cũng còn may là hắn kịp đâm tôi một nhát, nếu không tôi cũng sẽ không viện cớ ‘tự vệ hợp lý’ được.”

“Hắn có hung khí,” Jonah trầm tĩnh nói.

“Đương nhiên rồi,” Strike đáp, “Tại đám tang Rochelle, tôi dặn thư ký phải kể với hắn là tôi liên tục nhận được thư dọa giết từ một gã điên khùng, suốt ngày đòi rạch bụng tôi. Nên trong đầu hắn đã có ý sẵn. Hẳn Bristow đã tính rằng, cùng lắm, hắn chỉ cần đổ hết cho tay Brian Mathers kia thôi. Giết tôi xong, hắn sẽ đi về nhà, vặn đồng hồ của bà già, rồi giở lại mửng cũ. Hắn không bình thường. Nhưng không có nghĩa là hắn không biết tính toán.”

Có vẻ cũng chẳng còn gì để nói nữa. Khi chuẩn bị rời khỏi quán, Agyeman trước đó đã nằng nặc đòi trả tiền bia, giờ lại muốn tặng Strike một khoản. Hẳn Jonah đã đọc trên báo về hoàn cảnh túng thiếu của tay thám tử. Strike từ chối ngay, cũng không hề tự ái. Hắn thấy rõ anh chàng kỹ sư quân đội trẻ tuổi đang phải đau đầu với khoản tài sản kếch xù vừa rơi xuống. Kéo theo đó là một mớ trách nhiệm mới, rồi những yêu cầu sinh ra từ đó, liên tục bị chú ý, rồi phải quyết định nhiều chuyện đi kèm. Jonah dường như đang lo sợ chứ không mừng rỡ gì. Lại thêm cái lý do khiến anh ta được món tiền đó, một lý do vô cùng khủng khiếp mà ai cũng biết. Strike đoán tâm trí Jonah đang bị giằng xé giữa đồng đội ở Afghanistan, những chiếc xe thể thao và cô em gái cùng cha khác mẹ nằm chết giữa tuyết. Liệu còn ai cảm nhận rõ con xúc xắc của số phận, hơn là một người lính từng vào sinh ra tử, lại tự dưng có được một khoản tài sản kếch xù?

“Hắn sẽ không thoát tội chứ?” Agyeman đột ngột hỏi, khi hai người chuẩn bị chia tay.

“Không, tất nhiên là không rồi,” Strike đáp. “Báo chí vẫn chưa biết chuyện cảnh sát tìm ra điện thoại di động của Rochelle trong két sắt ở nhà mẹ hắn. Bristow không dám thủ tiêu cái điện thoại nên đã tự tay sửa lại mã số két sắt để không ai biết. Hắn đặt mã số là 030483 – Ngày Chủ nhật Phục sinh, năm một chín tám ba, ngày hắn giết Charlie bạn tôi.”

~*~

Hôm đó cũng là ngày làm việc cuối cùng của Robin. Strike đã mời cô đi cùng hắn đến gặp Agyeman, người cô có công tìm kiếm, nhưng Robin từ chối. Strike có cảm giác như Robin đang cố tách khỏi vụ án, công việc, và cả hắn nữa. Chiều hôm đó hắn có cuộc hẹn khám ở Trung tâm Bệnh nhân Khuyết chi ở Bệnh viện Queen Mary ngoài Roehampton. Nếu để khám xong mới về lại văn phòng thì sẽ không gặp Robin được nữa. Hắn biết cuối tuần đó Matthew có kế hoạch rủ cô về Yorkshire chơi.

Strike lê lết về phố Denmark, qua những bãi đào đường hỗn độn. Hắn tự nghĩ liệu sau ngày hôm nay hắn có còn gặp lại cô thư ký tạm thời nữa không. Hắn e là không. Vậy mà cách đây không lâu, hắn chấp nhận để Robin ở lại làm chỉ vì biết trước sau gì cô cũng sẽ đi ra. Nhưng giờ đây hắn biết là sẽ rất nhớ cô. Robin đã đi cùng hắn trong chiếc taxi đến bệnh viện, lấy áo khoác bọc cánh tay đầm đìa máu me của hắn.

Những ồn ào trên báo chí sau khi Bristow bị bắt khiến công ăn việc làm của Strike cũng khá lên trông thấy. Có khi hắn phải thuê thư ký mới thật. Khi đang cà nhắc lên cầu thang, hắn nghe thấy giọng Robin trên điện thoại.

“…tôi e là phải đặt lịch hẹn vào thứ Ba, vì thứ Hai đã kín hết rồi… Vâng… đúng rồi… vậy để tôi đặt cuộc hẹn lúc mười một giờ cho ông. Vâng, cảm ơn. Chào ông.”

Khi Strike mở cửa vào, cô xoay ghế một vòng.

“Jonah là người như thế nào?” cô hỏi ngay.

“Được lắm” Strike đáp, ngồi phịch xuống ghế sofa. “Đang rất đau đầu vụ tiền nong. Nhưng vẫn còn hơn là để Bristow ẵm hết mười triệu, nên có đau cũng phải ráng mà quen thôi.”

“Có ba thân chủ mới vừa gọi,” cô nói, “nhưng tôi không chắc lắm về người cuối cùng. Hình như là phóng viên, lại nữa. Ông ta chỉ chăm chăm hỏi chuyện anh.”

Đã có một vài cuộc gọi như vậy. Báo chí hả hê chụp ngay lấy câu chuyện rối rắm ly kỳ, toàn những tình tiết giật gân. Strike cũng được lên báo khá nhiều. Hắn mừng thầm là báo chí đa số chọn đăng tấm hình hắn chụp mười năm trước, khi mới vào quân cảnh. Nhưng họ cũng kịp bới ra tấm hình chụp ngôi sao nhạc rock cùng người vợ thứ hai và fan nữ cuồng nổi tiếng.

Báo chí tốn không ít giấy mực chỉ trích cảnh sát. Carver bị chụp một pô khi đang chạy trên đường, vạt áo khoác xộc xệch, thấy cả vệt mồ hôi trên nách áo. Nhưng Wardle, anh cảnh sát bảnh bao đã có công giúp Strike bắt Bristow lại được tung hô săn đón, đặc biệt là bởi các nữ ký giả. Phần lớn tin tức truyền thông vẫn lại rỉa rói Lula Landry một lần nữa. Mỗi bài báo đều đi kèm những tấm hình chụp cô người mẫu quá cố, gương mặt không tì vết, thân hình mềm mại, cân đối như tượng.

Hình như Robin đang nói gì đó. Strike không tập trung nghe gì cả, vì tay chân vẫn còn nhức nhối.

“… ghi chú hết lại hồ sơ và lịch làm việc của anh. Bởi vì anh sẽ cần một người mới, anh biết rồi đó, một mình anh không thể lo hết mấy chuyện này.”

“Đúng vậy,” hắn đồng ý, loạng choạng đứng dậy. Hắn định sẽ đợi tới khi cô sắp về mới làm việc này. Nhưng bây giờ cũng được, tiện thể đứng dậy luôn mặc dù vô cùng khó chịu. “Robin này, tôi vẫn chưa cảm ơn cô…”

"Rồi, anh cảm ơn rồi," cô vội vã nói. "Hồi ở trong xe taxi đến bệnh viện, với lại cũng không cần. Tôi rất thích làm việc với anh. Thực sự là rất thích."

Hắn tập tễnh đi vào phòng trong. Vẫn chưa nghe thêm một tiếng "nhưng" nào cả. Món quà gói rất vụng về được cất kỹ dưới đáy túi thể thao.

“Đây,” hắn nói. “Cái này tặng cô. Không có cô tôi sẽ không làm được vụ vừa rồi.”

“Ôi,” Robin thốt lên. Strike vừa xúc động vừa lo lắng khi mấy giọt nước mắt bắt đầu lăn xuống má cô thư ký. “Anh không cần…”

“Về nhà hẵng mở,” hắn nói, nhưng đã quá muộn. Món quà tự tuột khỏi lớp giấy ngay trên tay Robin. Một màu xanh mướt, lấp lánh, mềm mại chui ra từ chỗ giấy rách, tràn xuống bàn. Robin há hốc miệng.

“Anh… Trời đất ơi, Cormoran…”

Cô cầm chiếc áo đầm lên. Chính là chiếc áo mà cô đã mê mẩn thử ở Vashti. Cô nhìn hắn, đỏ bừng mặt, đôi mắt ngấn nước.

“Anh làm sao mua nổi cái này!”

“Mua được chứ,” hắn nói, đứng dựa vào bức vách, thấy còn thoải mái hơn ngồi trên ghế sofa. “Công việc cũng bắt đầu nhiều lên rồi. Cô quá giỏi. Chỗ mới phải may lắm mới tìm được cô.”

Lúc này Robin liên tục lấy tay áo chùi nước mắt. Cô thổn thức, nói gì đó hắn nghe không rõ. Robin với tay lấy hộp khăn giấy mới mua, phòng khi có thêm những khách hàng như bà Hook. Cô sụt sùi hỉ mũi, chặm mắt, quên mất chiếc áo xanh vẫn còn nằm trên đùi. Robin nức nở:

“Tôi không muốn đi đâu cả!”

“Tôi không thuê nổi cô, Robin à,” Strike đáp, thẳng thừng.

Không phải là hắn không nghĩ đến việc này. Đêm qua hắn nằm trên chiếc giường xếp, tính toán xem liệu có thể trả cho Robin một mức lương không quá bèo so với bên công ty truyền thông hay không. Không cách nào được. Hắn không thể cứ khất nợ lần lữa mãi. Rồi tiền thuê văn phòng đang ngấp nghé tăng, mà hắn cũng phải tìm một chỗ ở mới, không thể ở đây mãi được. Tình hình có sáng sủa hơn thật, nhưng vẫn không có gì chắc chắn.

“Tôi không cần anh phải trả bằng mức lương bên phía kia,” Robin nói, giọng khàn khàn.

“Tôi còn không với được gần mức đó nữa,” Strike đáp.

(Nhưng hơn ai hết, cô biết rõ tình hình tiền nong của Strike. Cô đã đoán trước được mức cao nhất hắn có thể trả. Đêm qua, khi Matthew thấy cô sụt sùi vì sắp phải chia tay công việc ở văn phòng thám tử, cô đã nói hết suy nghĩ của mình.

“Nhưng hắn ta còn chưa nói năng gì cả mà,” Matthew đáp. “Hay hắn đã nói gì rồi?”

“Chưa, nhưng nếu…”

“Thì tùy em vậy,” Matthew nói, cứng giọng. "Lựa chọn của em. Em phải tự quyết định lấy."

Cô biết Matthew không muốn cô tiếp tục làm ở đây. Hôm đó Matthew đã ngồi đợi cả mấy tiếng đồng hồ trong khoa Cấp cứu khi người ta khâu vết thương cho Strike. Anh ấy nói (hơi bị lạnh lùng) rằng là cô đã làm đúng, cô đã rất lanh lợi bình tĩnh, nhưng sau đó cứ tỏ vẻ xa cách, có gì đó không bằng lòng. Nhất là khi bạn bè của cả hai cứ tò mò muốn biết chuyện từ người trong cuộc, sau khi báo chí làm ầm lên.

Nhưng chắc hẳn Matthew sẽ thích Strike, nếu hai người gặp nhau? Và chẳng phải Matthew đã nói tùy cô quyết định đó sao…)

Robin đứng thẳng lại, hỉ mũi một lần nữa rồi nói với Strike, cố giữ giọng bình thường sau khi vừa nấc thêm một tiếng. Cô nói ra mức lương đã nghĩ đến.

Mất vài giây Strike mới đáp lại được. Hắn có thể trả mức đó; ít hơn mức hắn đã tính tới năm trăm bảng. Robin quá giỏi, không thể nào tìm được người thay thế ở mức lương đó cả. Chỉ kẹt mỗi một chuyện nho nhỏ…

“Tôi trả được mức đó,” hắn nói, “Ừa, trả được.”

Điện thoại đổ chuông. Robin nhìn hắn cười tươi rói. Cô trả lời điện thoại, giọng phấn khích như thể đã đợi cú điện thoại đó từ lâu.

“Ôi chào anh Gillespie! Anh khỏe chứ? Anh Strike vừa gởi cho anh tấm séc, chính tôi gởi bưu điện sáng nay… Hết mấy khoản trả chậm, đúng vậy, rồi thêm một ít nữa… Vậy sao, ông Rokeby tử tế quá nhưng anh Strike muốn trả hết. Anh ấy hi vọng là sẽ trả sạch trong vòng vài tháng tới…”

~*~

Một tiếng đồng hồ sau đó, Strike ngồi trên chiếc ghế nhựa cứng tại Trung tâm Bệnh nhân Khuyết chi, duỗi thẳng cái chân bị thương. Nếu biết Robin sẽ tiếp tục ở lại, hắn đã không mua chiếc áo đầm xanh làm gì. Món quà hẳn sẽ làm Matthew phật ý khi thấy Robin mặc vào, rồi phải nghe chuyện cô từng mặc thử trước cho hắn xem.

Hắn thở dài, với tay lấy tờ tạp chí Private Eye trên bàn gần đó. Khi bác sĩ gọi hắn lần đầu tiên, Strike không nghe thấy vì mải đọc bài báo “LandryBalls”, toàn những ví dụ cho thấy báo chí đã lắm chuyện như thế nào trong vụ án mà hắn và Robin vừa phá. Rất nhiều tay ký giả còn nhắc đến Cain và Abel[2], khiến tạp chí phải tương một mục đặc biệt về chủ đề này.

[2. Hai người con trai của Adam và Eve trong Kinh thánh – Cain đã giết Abel. Ở đây giới ký giả ví von chuyện anh em chém giết lẫn nhau. – ND.]

“Anh Strick?” vị bác sĩ hét lên, lần thứ hai. “Anh Cameron Strick?”

Hắn ngẩng lên, nhe răng cười.

“Strike,” hắn nói rõ ràng. “Tên tôi là Cormoran Strike.”

“Ồ, tôi xin lỗi… mời anh vào…”

Strike đứng dậy, tập tễnh đi vào phòng khám. Hắn tự dưng nghĩ đến một câu thơ. Hắn đã nghe câu này rất lâu rồi, từ trước khi chứng kiến xác chết đầu tiên, trước khi ngẩn ngơ ngắm thác nước bên triền núi châu Phi, và trước khi thấy sắc mặt của một tên giết người tối sầm lại.

I am become a name.

“Mời anh nằm lên bàn, vui lòng tháo chân ra trước.”

Câu đó ở đâu ra ấy nhỉ? Strike nằm đó, cau mày nhìn trần nhà, miệng lẩm bẩm, mặc vị bác sĩ đang loay hoay với khúc chân còn lại.

Vài phút sau, hắn nhớ ra hết mấy câu thơ đã học từ lâu.

I cannot rest from travel: I will drink

Life to the lees; all times I have enjoy’d

Greatly, have suffer’d greatly, both with those

That loved me, and alone; on shore and when

Thro’ scudding drifts the rainy Hyades

Vext the dim sea: I am become a name…[3]

[3. Ta chẳng thể dừng chân: Ta sẽ uống

cạn chén đời; nhớ sao những ngày vui,

những tháng buồn, bên người thương,

hay cả khi đơn côi, nơi bờ bến lạ

rồi khi mưa tạt gió vờn và sao giăng báo bão

giữa đại dương mịt mờ bóng tối:

Và đời biết tên ta…
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom