Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Có Giọt Mưa Xuân Sà Vào Lòng Sông

Quyển 2 - Chương 60


Tàu chở hàng Tinh Nguyệt là một con tàu cũ đã hơn hai mươi năm tuổi. Ba năm trước Tinh Nguyệt ngừng chạy, từ đó nó đã nằm im trong kho hàng, đến năm ngoái mới lại xuất hiện ngoài bờ sông. Sáng sớm hôm sau, từ biệt Cảnh Ninh xong, Tử Chiêu trở về cảng Vũ Xương, thấy con tàu chở hàng bé nhỏ lênh đênh trong màn sương mờ hơi nước, cậu bùi ngùi khôn xiết.

Đây là món quà sinh nhật mười tám tuổi cha tặng cậu. Khi ấy cậu đang ở Berlin, cha chụp ảnh Tinh Nguyệt rồi gửi cho cậu. Tử Chiêu tiện tay kẹp ảnh vào trong một cuốn sách. Với một Tử Chiêu thời niên thiếu mà nói, “Đại Quân” quả đúng là “Đại Quân”, nó nặng trĩu, nặng tới mức chỉ cần nghĩ tới thôi cũng đủ làm cậu sợ. Cậu chưa từng tưởng tượng tới chuyện mình sẽ sống cả đời với những con thuyền chở hàng như cha, nhưng cuối cùng cậu vẫn dấn thân vào ngành chuyên chở. Lần đầu học lái tàu, cậu đã lái chính con tàu Tinh Nguyệt này.

Khung tàu làm bằng gỗ sồi, mạn tàu gồ ghề, tỏa mùi nhựa đường, vì khung sườn thô to nên trông con tàu vô cùng cồng kềnh. Tuy vậy, khi lướt đi trên mặt sông, nó lại nhanh nhẹn vững vàng tới lạ. Tử Chiêu nhớ hồi mới tới bến tàu, thuyền trưởng già họ Lam vừa thấy cậu đã cười lạnh.

“Cậu ấm xinh trai quá!” Thầy Lam khoanh tay.

Thuyền trưởng Lam dáng vóc cao gầy, mặt vuông mắt lồi, lại cực kỳ nóng tính, ông là một trong những tiền bối được kính trọng nhất tại Đại Quân. Mạnh Đạo Quần mời ông dạy Tử Chiêu lái tàu, để cậu có thể làm quen với bến tàu cũng như việc chuyên chở. Thật ra ngày còn nhỏ Tử Chiêu từng ngồi tàu ông lái, có lần Tết đến, Đạo Quần mời các tiền bối của Đại Quân đến nhà ăn cơm, thầy Lam còn từng ôm cậu, khen cậu lanh lợi. Nhưng có vẻ ông chẳng hề thích vẻ láu lỉnh nghênh ngang hiện giờ của Tử Chiêu.

Tử Chiêu không giận, cậu cười ngỏn ngoẻn, vén áo lên, cởi tấm áo gi-lê màu sợi đay ra, ném sang một bên rồi phăm phăm tiến vào khoang tàu. Cậu vẫy chiếc kính râm trong tay, gõ kính vào tay lái:

“Cháu nghe nói muốn làm học trò của bác thì phải biết uống rượu, để đầu óc mơ màng chếnh choáng thì lái tàu mới đã. Hôm nay cháu tới xin học, không biết phải uống bao nhiêu mới đủ?”

Mặt thầy Lam lạnh tanh: “Cậu nhóc, tìm chỗ khác chơi đi, cẩn thận lại làm hỏng quần áo đẹp đấy.”

Đám thuyền viên bắt đầu ồ lên, có hai ba người ham vui vác một vò rượu vào, đặt hai chiếc bát lên bàn.

Tử Chiêu vươn tay: “Lấy thêm tám cái bát nữa đi.”

Mọi người kinh ngạc, Tử Chiêu cười: “Đặt cho đủ một mét, uống từng mét rượu một. Rót đầy cho tôi!” Cậu nâng ly rượu, uống liền tù tì tám bát mà mặt không đổi sắc. Thấy cậu liều mạng uống, đám người xung quanh dần lặng đi, sợ xảy ra chuyện không hay nhưng lại chẳng dám can. Tử Chiêu uống xong một lượt, đang định rót thêm, thầy Lam đã túm tay cậu ngăn lại: “Cậu nhóc, tôi hỏi cậu, tại sao người lái tàu lại phải uống rượu?”

“Uống cho nóng người, cho to gan.”

“Được, cậu vẫn chưa say bí tỉ. Tôi hỏi cậu tiếp, cậu có biết nguồn gốc cái tên Tinh Nguyệt này không?”

Mắt Tử Chiêu sáng lấp lánh, cậu mỉm cười nói: “Hai mươi mốt năm trước, cha cháu và bác lái con tàu này băng qua eo Cù Đường xuyên đêm, trời mưa nặng hạt không dứt, khi qua Quỳ Môn, dù ngoài sông đang mưa, nhưng mây mù trên phía trái đỉnh núi lại rạp sang hai bên, để lộ mặt trăng cùng sao trời. Bắt gặp cảnh tượng lạ lùng này, cha cháu vô cùng phấn chấn. Về sau, con thuyền bình an cập cảng Vu Sơn, nắng mai chiếu rọi, mưa dữ chợt tạnh. Cha nhận được điện báo, biết đêm hôm ấy mẹ cháu đã suôn sẻ hạ sinh cháu, nên mới đặt cho cháu cái tên Tử Chiêu, ngụ ý là vô tư, sáng ngời. Đồng thời ông cũng lấy Tinh Nguyệt làm tên con tàu này để kỷ niệm chuyến vượt sông lúc nửa đêm trập trùng hiểm nguy nhưng được ánh sáng che chở bình an.”

Nét mặt thầy Lam dịu lại: “Nhưng con tàu này cũ rồi, không chạy được nữa đâu.”

“Gia đình cháu đã mua máy móc thiết bị mới rồi, cháu sẽ đưa người tới lắp ráp, tàu Minh Nguyệt còn có thể vượt sóng hai mươi năm nữa.”

Thầy Lam nhướng mày: “Cậu biết lắp ráp máy móc sao?”

“Cháu theo học chuyên ngành này mà.” Tử Chiêu tươi cười rạng rỡ.

Ngày nào cậu cũng tới bến tàu từ lúc trời còn chưa sáng, chẳng quan tâm tới chiếc áo sơ mi ướt đẫm, đến da thịt và đầu tóc ám mùi dầu máy, cậu vẫn cứ chăm chỉ, chuyên tâm làm việc, không mảy may nôn nóng sốt ruột. Nhưng khi công việc kết thúc, nhất định cậu sẽ chạy vào phòng tắm, rửa ráy thật sạch sẽ rồi khoác lên mình bộ đồ sang trọng, thường là một bộ Âu phục thẳng thớm, ăn bận rất đỏm dáng. Nghe lời mọi người bàn tán, thầy Lam biết cậu nhóc này đang theo đuổi tiểu thư nhà họ Phan của Hán Khẩu.

Nửa tháng sau, cuối cùng Tinh Nguyệt cũng trở lại với vẻ rực rỡ như mới, ngày chính thức chạy thử tàu, Tử Chiêu bật mí với thầy Lam: “Lát nữa sẽ có một cô gái tới đây, bác ngắm cho kỹ nhé.”

Thật ra khách lên thuyền không chỉ có mình cô gái ấy, nhưng vừa liếc thầy Lam đã biết người Tử Chiêu nhắc tới là ai: Xinh đẹp sáng sủa, ba phần duyên dáng bảy phần cao quý, lộng lẫy không sao tả xiết. Tuy thế, trong mắt cô gái này còn ẩn chứa thứ sức mạnh kỳ lạ. Không biết nên diễn tả sao đây? Thầy Lam đã bắt gặp hàng nghìn hàng vạn người cứ đến rồi đi tại cái bến tàu này, có kẻ giàu sang, có loại mạt hạng, nhưng đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy khí khái cởi mở, phóng khoáng trong mắt một cô tiểu thư con nhà giàu. Ở chốn bến sông Hán Khẩu, khí chất của cô thiếu nữ ấy rất dễ khiến người ta cảm thấy gần gũi thân mật. Cậu cả đúng là có mắt nhìn người.

“Thầy Lam, làm thế nào để tàu chạy êm hơn nữa vậy, cháu sợ Ninh Ninh khó chịu.”

Hôm ấy, cậu thiếu gia họ Mạnh trông bề ngoài như chẳng để tâm tới bất cứ điều gì lại trở nên vô cùng căng thẳng, răng cậu nghiến chặt, bàn tay đặt trên bánh lái run lẩy bẩy.

Thầy Lam nhìn mặt sông ngoài khoang thuyền: “Tàu có chạy êm hay không vừa phụ thuộc vào kỹ thuật của cậu, vừa phụ thuộc vào chất lượng tàu, ngoài ra còn do ông trời nữa. Nếu tâm trạng ông trời tốt, đương nhiên tàu sẽ lướt sóng êm ái, còn nếu trời muốn làm khó cậu, cậu phải mạnh mẽ vào, sóng đánh tới mà không chịu được, cậu sẽ phải xuôi theo nó.”

Dù có tay nghề lái tàu điệu nghệ tới mức nào cũng không tránh khỏi gió bão khắc nghiệt. Cũng như sự đời khôn lường, những biến cố có thể xảy ra luôn vượt quá sức tưởng tượng của con người.

Thầy Lam cũng biết chuyện hôn ước bị hủy bỏ. Ông xót xa cho Tử Chiêu, đứa bé này giấu hết đau khổ vào lòng, sáng nào cũng gắng gượng tới bến tàu bằng được. Sau khi được tân trạng lại, tàu Tinh Nguyệt bắt đầu nhận nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa trên Xuyên Giang. Trước khi bắt đầu hoạt động, tàu cần được thử nghiệm một thời gian. Cùng lúc ấy, Tử Chiêu đã trở thành tổng giám đốc của Đại Quân. Mạnh Đạo Quần chỉ gánh vác chức vụ chủ tịch, còn Tử Chiêu đã trở thành người nối nghiệp danh chính ngôn thuận của cha.

Trong khoảng thời gian này, Tử Chiêu không uống dù chỉ một ngụm rượu, cậu sợ uống say, cơn sầu não sẽ lại ùa tới, không sao dằn lại được. Rồi một đêm, khi cậu đang miệt mài trông coi công nhân sửa chữa thiết bị trục trặc, thầy Lam đưa cậu một bình rượu.

“Lên boong ngồi đi.”

Tử Chiêu không đáp lời, cũng chẳng nhúc nhích.

Thầy Lam cười: “Đến máy móc linh kiện cũng phải liên tục tra dầu, huống chi là con người? Thỉnh thoảng thả lỏng một chút cũng tốt. Đi thôi.”

Trăng thu treo mình trên trời cao, lác đác có mấy vì sao làm bạn, nước sông trong vắt, tĩnh lặng như tờ. Mấy con thuyền đậu ngoài bến đổ những chiếc bóng khổng lồ, trông hùng vĩ tới lạ dưới ánh trăng.

Thầy Lam hút thuốc, chầm chậm cất lời: “Thật ra vào buổi tối hai mươi mốt năm trước, trừ ông chủ ra, không một ai khác trong tàu nhìn thấy trăng sao trên trời.”

Tử Chiêu sững sờ: “Chẳng lẽ cha cháu nhìn nhầm ư?”

Thầy Lam lắc đầu: “Quả thực tình thế khi ấy rất nguy hiểm, tinh thần của mọi người kiệt quệ cả rồi, chỉ có mình ông ấy vẫn bình tĩnh như thường. Về sau tôi nghĩ có lẽ vì muốn nhìn thấy tia sáng ấy nên ông chủ mới bắt gặp chúng thật. Ở vào tình cảnh nguy khốn, một chút khao khát hy vọng rất hữu dụng với con người. Con tàu Tinh Nguyệt này đã quá cũ kỹ, tại sao chúng ta còn phải giữ nó lại? Cha cậu hoàn toàn có thể mua thêm một trăm con thuyền hơn đứt nó.”

Tử Chiêu uống một hớp rượu, hai mắt cậu sáng người.

“Chắc cậu chủ cũng biết tại sao ông chủ lại muốn giữ Tinh Nguyệt lại.” Thầy Lam nhìn Tử Chiêu.

Mạch đập của nước sông cuồn cuộn như đang dội vào tâm hồn. Ánh nước dần thấm ướt mắt Tử Chiêu: “Cha muốn cháu biết dù là vào thời điểm khốn cùng nhất, ông cũng không từ bỏ hy vọng. Niềm tin của cha chính là ánh sáng ông nhìn thấy trên chặng đường nguy nan, ông mong cháu cũng có thể nhìn thấy nó, mong cháu kéo dài niềm hy vọng ấy. Cha muốn nói cho cháu biết Tinh Nguyệt và Đại Quân có thể vượt qua hiểm cảnh, và cháu cũng vậy.”

Thầy Lam vỗ vai cậu: “Con người ta sống ở đời, nếu không bao giờ gặp phải sóng gió, mãi sống trong yên ả bình an thì có gì là thú vị? Cậu là con trai vua thuyền Hán Khẩu, từ ngày sinh ra, đời cậu đã gắn liền với sóng gió, vậy nên nhất định cậu phải trụ vững, tôi đang chờ thấy cảnh cậu đạp gió rẽ sóng cùng Đại Quân đây.”

Cơn sóng lòng trong Tử Chiêu cuồn cuộn, cậu ngẩng đầu, uống cạn rượu trong bình.

Gương mặt đã kinh qua đủ gió sương đời người của thầy Lam nở nụ cười yêu thương: “Cậu chủ, giấu nỗi khổ trong lòng không phải lối sống của những con người lênh đênh mặt sông. Muốn uống cứ uống, muốn mắng cứ mắng, muốn làm gì, thì hãy cứ thoải mái làm đi. Đừng nghĩ tới thắng thua, cũng đừng quan tâm về sau mình có đạt được hay không, quan trọng là bản thân cậu đã cố gắng hết sức chưa.”

Tử Chiêu nở nụ cười nhạt: “Có những chuyện dù cố gắng hết sức cũng chẳng cứu vãn nổi…”

“Quan tâm tới kết quả làm gì? Kẻ chịu được sự giày vò của ông trời là con người kiên cường, làm gì cũng phải nỗ lực hết sức, đã là thân đàn ông thì không được trốn chạy.”

Nắng ban mai chậm rãi nhuộm sắc cho đất trời, xua đuổi bóng tối mờ mịt, bầu trời nặng trịch những mây bắt đầu hé những tia đỏ màu hoa hồng, sương mù quẩn quanh trên mặt sông, tiếng còi hơi vang lên đánh thức thành phố ven sông, cũng kéo Tử Chiêu trở lại từ cõi hồi ức. Gió thổi, đường ranh nơi tóc và cổ thoang thoảng hương thơm, đây là mùi hương Cảnh Ninh lưu lại cho cậu. Một thứ tình cảm dịu dàng buồn đau cuồn cuộn trong cậu, cùng với đó là cả niềm vui vì tìm lại được điều mình đã đánh mất.

Các nhân viên đi làm sớm đang chuẩn bị bảng biểu trong văn phòng, thấy vị tân tổng giám đốc tiến vào, bèn vội vã đứng dậy chào hỏi. Tử Chiêu thường xuyên qua lại Hán Khẩu và Vũ Xương, đáng lý ra công việc ở bến tàu chỉ là một phần việc nhỏ trong nghiệp vụ chuyên chở, nhưng giờ họ đang trong khoảng thời gian đặc biệt, cậu phải can thiệp đến công đoạn quản lý máy móc thiết bị, cho đến chuyên chở, thủ tục hải quan xuất nhập khẩu, hay thậm chí là những vấn đề vụn vặt như xếp dỡ hàng hóa.

Đưa hàng lên tàu phải xếp thế nào, xếp bao nhiêu tấn đều cần tính toán cặn kẽ. Đạo Quần từng nói cho Tử Chiêu nghe, có hiệu buôn Nhật Bản giấu giếm trọng lượng hàng chuyên chở, khiến hàng hóa đè chết cả công nhân. “Thương nhân kiếm tiền là lẽ dĩ nhiên. Nhưng Đại Quân cần giữ lương tâm và khí phách, nhất định phải đối xử tử tế với người làm công của mình.” Tử Chiêu nhớ thật kỹ lời cha, vậy nên tác phong công việc của cậu rất thận trọng, ngày nào cũng phải ghé bến tàu một chuyến. Vậy là chẳng mấy chốc khắp cả bến tàu, từ nhân viên phổ thông cho đến công nhân chuyên chở đều đã quen thân với Tử Chiêu.

Các thuyền viên dùng bữa sáng trên đê. Tử Chiêu bước khỏi phòng làm việc, băng qua con cầu che mái, các công nhân nhiệt tình chào hỏi cậu, có người còn chu đáo chuẩn bị cho cậu một bát bún canh cá. Tử Chiêu mỉm cười nhận lấy bát bún, tựa lưng vào lan can, vùi đầu ăn như rồng cuốn, rồi cậu ngẩng đầu, thấy thầy Lam bưng một bát mì đang nhìn cậu, cười như không cười.

“Thầy Lam,” Tử Chiêu quệt miệng, cười, “chào buổi sáng!”

“Tối qua cậu không về nhà.” Thầy Lam trộn mì, gắp một miếng đút vào miệng rồi chầm chậm thốt, “Bác Trần tới chỗ tôi tìm cậu, tôi nói cậu cả của chúng ta tới Kiều Khẩu kiểm tra thiết bị rồi.”

Tử Chiêu “ồ” một tiếng, nhưng cũng chẳng buồn giải thích, chỉ tiện nâng tay lên nhìn đồng hồ, cậu nói: “Cháu cũng phải tới Kiều Khẩu thật, khách mua hàng phía Kiều Khẩu có vẻ không phải người trong ngành, chỉ e để ông ta mua được thiết bị tốt cũng phí.”

“Không nỡ hả?”

Tử Chiêu nhún vai: “Không nỡ cũng vô ích, ai bảo chúng ta thiếu tiền chứ? Hơn nữa máy móc có phải mỹ nhân đâu, cháu cũng không thể ôm nó đi ngủ được.”

Thầy Lam biết nỗi dằn vặt trong lòng cậu đã được cởi bỏ, bèn bật cười ha hả: “Cái thằng nhóc này!”

Nét mặt Tử Chiêu thả lỏng, để lộ nụ cười xán lạn. Cậu tới thăm tàu Tinh Nguyệt, giám sát công nhân kiểm tra khoang tàu, chỉ ít hôm nữa thôi con tàu chở hàng nhỏ mới được tân trang này sẽ trở lại dòng Xuyên Giang hiểm trở. Tử Chiêu thờ ơ lau vết dầu máy dính trên ống tay áo. Cậu không ý thức được cuộc sống từng cách xa một trời một vực với đời mình nay đã lại thành những ngày thường nhật của cậu, quả là tạo hóa trêu ngươi.

Tuy nhiên, thứ quy luật vĩnh hằng bất biến nhất trên thế gian này lại là: Mọi thứ đều đang thay đổi. Sự thay đổi mà con người tầm thường không thể khống chế được đặt cho danh xưng “vô thường”, một tay chơi cừ khôi với tài khống chế sự đời.

Từ năm 1930 tới 1932, kinh tế suy thoái trên phạm vi toàn cầu. Sự suy thoái này khiến một số thứ trở nên càng thêm đáng sợ với người Trung Quốc: Như thiên tai, chiến loạn, hay nền chính trị hỗn tạp rối bòng bong. Kể từ Sự kiện Phụng Thiên (*) cho tới Trận Thượng Hải (**), sự suy sụp của nền kinh tế lại càng gia tốc. Lũ lụt liên miên trải từ Thiên Tân, Hà Bắc đến lưu vực Trường Giang. Nông dân mất trắng vụ thu, vụ đông cũng lâm vào đình trệ. Chính phủ không quan tâm tới tính mạng người dân, chỉ lo bắt tay với thương nhân Mỹ bán tháo lúa mì, giá lương thực trong nước bị kéo xuống thê thảm, nông dân bán một thạch ngũ cốc mà chẳng đủ tiền may một bộ quần áo.

(*) Sự kiện Phụng Thiên: Sự kiện do Nhật Bản dựng nên để xâm chiếm vùng đông bắc Trung Quốc.

(**) Trận Thượng Hải: trận chiến đầu tiên trong số 22 trận giao chiến lớn giữa Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc và Lục quân Đế quốc Nhật Bản

Vật giá tụt dốc thảm hại, tình cảnh giao thương tiêu điều. Một Hán Khẩu hẵng còn chưa hồi phục sau nạn lụt năm 1931 vẫn cứ là núi vàng của khu vực Hoa Trung (*), cuộc chiến tranh tiền tệ không hề để lộ dấu hiệu chấm dứt, mà chỉ càng lúc càng thêm thảm khốc, càng thêm ác liệt. Vì tiền, ba hiệu buôn Tây lớn đã bắt tay hất ngã Hãng tàu Đại Quân; vì tiền, Hiệu buôn Phổ Huệ âm thầm tiến hành thu mua Khải Nhuận, đồng thời nội bộ hiệu buôn này cũng đang có những biến động khổng lồ; vì tiền, chỉ trong tích tắc bạn bè đã hóa kẻ địch, mà thoáng chốc kẻ địch cũng hóa bạn bè.

(*) Hoa Trung: bao gồm vùng Hồ Bắc, Hồ Nam ở trung du Trường Giang

Vì tiền, mọi chuyện con người ta không sao lường trước đều có thể xảy ra.
 
Quyển 2 - Chương 61


Cuối cùng, khâu thủ tục sau chót trong kế hoạch thu mua Khải Nhuận của hiệu buôn Tây Phổ Huệ cũng đã hoàn thành. Tình cảnh Phan Thịnh Đường giờ đây bi tráng như kẻ đang đứng hiên ngang trước bờ vực thẳm.

Phan Thịnh Đường đã làm chức mại bản cho Phổ Huệ được hơn ba mươi năm. Suốt ba mươi năm ròng, ông ta quản lý các cửa hiệu, đưa vô số những mặt hàng như bột mì, sợi bông, len dạ, vải vóc, dầu trẩu, đường mía, đồ da, lông lợn, đậu nành vào kho hàng của Phổ Huệ và tàu thủy viễn dương. Rồi lại đưa thuốc lá, rượu, vải vóc nước ngoài len lỏi vào cuộc sống thường nhật của cư dân Trung Quốc. Ông ta sử dụng khả năng giám định hàng hóa và phán đoán tình hình thị trường của mình để không ngừng cống hiến cho tầng lớp quản lý cấp cao hiệu buôn Tây, xuất nhập khẩu lượng hàng hóa khổng lồ không sao đong đếm được, biến chúng thành khoản lợi nhuận kếch xù cho hiệu buôn Tây, tạo nên nền tảng của cải vững chắc như bàn thạch cho nhà họ Phan.

Thịnh Đường đã trả giá bằng tất cả những gì mình có thể để đổi lấy địa vị và tiền bạc. Nhoáng cái, hàng chục năm đã trôi qua. Trời sinh ông ta có tài trù mưu tính kế, lấy làm hãnh diện vì sự khắc khổ thanh liêm của mình. Tác phong kinh doanh của ông ta rất thận trọng, thực dụng, tuyệt đối không bao giờ thực hiện những vụ đầu cơ mua bán có rủi ro cao. Chỉ cần là chuyện có liên quan tới tiền bạc, ông ta ắt sẽ nhúng tay kiểm soát tất cả, tính toán chi li tới từng đồng, chẳng bao giờ mượn tay kẻ khác, dù có là vợ con mình đi chăng nữa. Vì vậy mà trong quá trình tích cóp tiền tài, ông ta gần như chưa bao giờ phải chịu tổn thất to lớn nào.

Dường như mọi thiệt hại xảy đến đều là ngoài ý muốn. Ví dụ như khoản tiền lớn ông ta phải bỏ ra sau khi cậu con trai thứ hai bị bắt cóc. Đây là điều Phan Thịnh Đường không sao kiểm soát nổi. Tuy vậy, chuyện này cũng khiến ông ta cảnh giác, phòng bị nghiêm ngặt hơn. Thói đời hiểm ác, chính ông ta cũng suýt bị bọn trộm cướp hãm hại. Để có thể diệt trừ tận gốc những mối nguy như vậy, ông ta sẵn sàng đóng cửa không ra khỏi nhà trong gần hai năm ròng, để rồi trở thành thương nhân bí ẩn quái dị nhất làng ngoại thương Hán Khẩu.

Ai cũng biết Phan Thịnh Đường thận trọng tới mức người bình thường không sao tưởng tượng nổi, vậy nên khi ông ta xuất hiện trước tầm mắt mọi người, tiến hành thu mua hiệu buôn Khải Nhuận, mặc cho đại đa số cổ đông Phổ Huệ có lên tiếng phản đối, mọi người đều phải lấy làm kinh hãi trước hành động mạo hiểm của Phan Thịnh Đường.

Có lẽ những người khác sẽ cảm thấy Phan Thịnh Đường càng lớn tuổi càng cứng đầu bảo thù, chẳng ai rõ cõi lòng ông ta chất chứa bao nhiêu nỗi sợ. Với Phan Thịnh Đường, trên đời chỉ có hai chuyện, một là chuyện của mình, hai là chuyện của trời. Ông ta chỉ có thể hoàn thành chuyện của mình một cách hoàn hảo, còn chuyện của trời, ông ta không sao kiểm soát nổi. Ví như thiên tai nhân họa, hay tình hình kinh tế suy thoái hiện giờ và sự tụt dốc không phanh của hiệu buôn Tây.

Mại bản là gì? Là vừa phải mua, vừa phải điều hành. Mua, là thu mua hàng hóa, điều hành, là vận hành các hoạt động tài chính, vận chuyển, lưu kho. Một tổng mại bản cần kiêm nhiệm thật xuất sắc công năng “mua và điều hành”, chỉ biết mua mà không điều hành hay giỏi điều hành nhưng không biết mua đều coi như thất trách. Lũ lụt hủy hoại nền nông nghiệp, không thu hoạch được, nên cũng chẳng biết đường nào mà thu mua. Sản lượng dầu trẩu không cao, nhu cầu lại lớn, đây là hạng mục thu lời lớn của Hiệu buôn Tây Phổ Huệ, nhưng thực ra công trạng của Thịnh Đường cũng không đến mức bết bát. Nền tài chính rối bòng bong, xuất nhập khẩu khi được khi không, là một tổng mại bản, thân mang “nghĩa vụ cao quý” tận tâm cống hiến cho hiệu buôn Tây, để có thể cứu vãn tình thế ảm đạm tiêu điều, ông ta buộc phải sử dụng mọi biện pháp cần thiết. Nguồn vốn hiệu buôn Tây thu vào đột ngột sụt giảm, khiến Thịnh Đường sợ hãi cùng cực, ông ta lại càng sợ uy quyền tổng mại bản của mình sẽ tan theo mây khói. Vậy nên Thịnh Đường đã bắt đầu tự kiểm điểm sự rụt rè thận trọng của bản thân trên thương trường và đưa ra kết luận: Sự bảo thủ cố hữu của ông ta càng lúc càng không phù hợp với thị trường chất chồng biến số đang liên tục phát triển.

Một chuỗi các vấn đề quay cuồng trằn trọc trong đầu ông ta, cuối cùng một ý tưởng đột phá xuất hiện: “Nếu thu mua một hiệu buôn xuyên quốc gia, phát triển vài nghiệp vụ mới, liệu vũng nước tù Phổ Huệ có thể khởi sắc không?”

Hãng buôn Khải Nhuận vốn là một hiệu buôn nhỏ thuộc Hiệu buôn Tây Thịnh Xương. Mới đầu, Khải Nhuận làm đại lý cho nghiệp vụ tổng hợp. Thịnh Xương là hiệu buôn vốn Mỹ, chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính từ Mỹ, lại thêm thiên tai thảm họa vùng Viễn Đông khiến việc kinh doanh của hiệu buôn nay trượt dốc không sao gượng nổi. Hai cổ đông lớn nhất của Khải Nhuận bèn mua toàn bộ cổ quyền từ Thịnh Xương, tách hãng buôn này ra khỏi công ty mẹ để tiến hành kinh doanh độc lập. Họ tự mở ra con đường của riêng mình, bắt đầu làm đại lý cho mảng thuốc lá của khu vực Đông Nam Á và vàng của các quốc gia châu Á nhỏ. Tài lực và thực lực của Khải Nhuận lớn dần, làm nên vị thế riêng trong tình cảnh tiêu điều của các hãng buôn hiện nay.

Mấy năm nay, Edmund đã nhận được không ít những lời chào mời thu mua, đa phần đến từ Hiệu buôn Tây Thịnh Xương đang bên bờ sụp đổ. Hiệu buôn Anh và hiệu buôn Mỹ vừa là thù vừa là bạn. Khi Hiệu buôn Thịnh Xương trượt dốc, Khải Nhuận là hãng đầu tiên tách khỏi công ty mẹ, hệt như một con ngựa non dồi dào sinh lực, tràn trề nhựa sống. Tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng quản trị hãng buôn, ông Crawford, là người miền Nam nước Mỹ. Có thể nói ông ta dốt đặc trong mảng kinh doanh tại đất Hoa, nhưng lại mong phát triển sự nghiệp ở Trung Quốc. Muốn được vậy, Crawford phải tìm được một người dìu dắt vững chắc, đáng tin cậy. Trong một buổi tiệc rượu, Crawford đã chủ động kiến nghị Edmund nên để Phổ Huệ thu mua Khải Nhuận.

Tối đó Edmund gọi điện cho Thịnh Đường, yêu cầu ông ta phân tích các mặt lợi – hại trong vụ làm ăn này, điều tra tình hình vốn của Khải Nhuận và phán đoán tính khả thi của phi vụ thu mua.

Đó là một quá trình bí mật dài đằng đẵng, những nhọc nhằn gian khổ trong khoảng thời gian đó quả là không sao kể xiết. Trải qua vô số những đêm mất ngủ, sức khỏe của Thịnh Đường cũng đã như đèn cạn dầu, gắng gượng đến phút cuối khi sân khấu đã được kéo màn, thản nhiên thông báo ngọn ngành của dự án lớn cho các đại cổ đông rồi, ông ta vẫn cần đối mặt với sự chỉ trích và hoài nghi gần như nhất trí của cả phòng kế toán Tây lẫn Hoa. 

Bọn họ hùng hồn cho rằng: Phan Thịnh Đường đang vẽ ra một phi vụ làm ăn mà tất cả mọi người đều không sao hiểu nổi, mà cũng chẳng thật sự cần thiết. Thuốc lá thì không nói làm gì, đây là nghiệp vụ Phổ Huệ vốn đã có, nhưng còn vàng thì sao? Giờ này ai lại chơi vàng? Đổ cả một khoản kếch xù vào, cần đợi một khoảng thời gian mới nhìn thấy lợi nhuận, trước khi thu lời, nguồn vốn lại bị đóng băng, không sao xoay xở nổi!

“Chúng ta cần phải lấy tiền đẻ ra tiền, tiền bắt buộc phải đem lại lợi nhuận, ta không nên dùng tiền để mua một mối nguy hiểm lỗ vốn.” Giám đốc James của Phòng Kế toán Tây thẳng thắn bày tỏ thái độ, “Giờ ông Phan đang bày ra cho chúng tôi một thị trường mù mờ khó đoán, mời chào vài vị khách mà có thể chúng tôi vừa không hiểu vừa không thích tới thành lập một nghiệp vụ mà những người này hoàn toàn không am hiểu. Tôi có thể tưởng tượng được, đây là một quyết định ngu xuẩn được đưa ra vào một thời điểm sai lầm, do một nguyên nhân sai lầm.”

Đám người nước ngoài này nào ai hiểu được câu “Tìm đường sống trong cõi chết”. Hiệu buôn Tây Phổ Huệ là một con ngựa già, rất có thể rồi nó cũng sẽ thành ngựa chết như Thịnh Xương. Nếu không mạo hiểm, Phổ Huệ sẽ bỏ lỡ cơ hội tuyệt cải tử hoàn sinh tuyệt vời, mà những cơ hội như vậy liệu đến được mấy lần? Thịnh Đường ra sức tóm lấy cơ hội ấy, gánh trên vai áp lực khổng lồ để thực hiện kế hoạch, không tiếc lấy tiền của mình tại phòng kế toán Hoa để ứng một phần khoản vốn cần cho phi vụ thu mua.

Hợp đồng vừa được ký, giới kinh doanh Hán Khẩu đã chao đảo. Phòng kế toán của các hiệu buôn Tây khác lập tức giúp Phổ Huệ cân đo tính toán, xét về mặt quy mô nghiệp vụ, Hiệu buôn Tây Phổ Huệ đã mở rộng gấp năm lần so với một trăm năm trước, khi vừa mới thành lập. Nếu nói đây là mạo hiểm, Phổ Huệ cần bỏ ra khoản vốn hơn 3 triệu hiện kim, nhưng Khải Nhuận lại đem lại cho nó giá trị ghi sổ gần như tương đương, triệt tiêu phần nào nguy hiểm của hành động rót vốn. Nếu xét đường dài, việc thúc đẩy hợp nhất hai hiệu buôn Phổ Huệ và Khải Nhuận vẫn thể hiện thủ đoạn kinh doanh luôn rất lý tính của hiệu buôn Tây Phổ Huệ. Lợi ích sau khi hợp nhất ắt sẽ càng lúc càng hiển hiện rõ theo thời gian. Bọn họ không thể không thừa nhận, kẻ giật dây phi vụ thu mua trông có vẻ rất lặng lẽ, khiêm tốn này quả là nhân vật đáng gờm, khiến người ta phải nể nang.

Khi Crawford và Edmund đang mỉm cười bắt tay nhau, cùng đón lấy ánh đèn flash đang không ngừng chớp lóe, Thịnh Đường ôm gương mặt xanh xao giấu mình nơi góc khuất, lặng lẽ như một cái bóng.

“Ông Phan Thịnh Đường chính là công thần lớn nhất của hiệu buôn Phổ Huệ, cũng là người bạn, người thân trung thành nhất của chúng tôi.” Edmund nói với ký giả.

Nghe câu này, ánh lệ chợt lóe lên nơi khóe mắt Thịnh Đường, dường như có tia lửa đang lập lòe thiêu đốt. Ngân Xuyên đứng cạnh ông ta, quan tâm cất lời: “Cha, mình tìm chỗ nào ngồi đi.” Thịnh Đường khoát tay.

Ngân Xuyên nói: “Mọi chuyện coi như đã ổn thỏa rồi, không uổng công cha khổ cực.”

Thịnh Đường bình tĩnh nói: “Con đừng trách cha giấu con. Khải Nhuận là món hàng nóng phỏng tay, trước khi chắc chắn chín phần mười, để lộ dù chỉ một chút thông tin thôi cũng sẽ gây ra nguy hiểm lớn.”

“Con hiểu ạ.”

Thịnh Đường đưa mắt nhìn anh, nở nụ cười trấn an.

Ngân Xuyên hạ giọng: “James thấy uy tín của cha lên cao tới đỉnh điểm như vậy ắt cũng phải nịnh hót bợ đỡ. Giữa tháng James sẽ tổ chức một bữa tiệc rượu kiểu Hoa tại nhà hàng Đức Minh, lấy danh nghĩa Phòng Kế toán Tây thiết tiệc quản lý cao cấp của Phòng Kế toán Hoa, cha tới ngồi ghế chủ tiệc nhé.”

Thịnh Đường đanh mặt: “Đúng là vớ vẩn! Cha ngồi ghế chủ tiệc thì ngài Edmund ngồi đâu?”

“Đây cũng là ý của ngài Edmund, ngài nói cha đã cực khổ suốt bao năm, hiệu buôn Tây nên bày tỏ lòng cảm kích với cha.”

“Không thể hành động thiếu phép tắc như vậy, dù có thế nào đi chăng nữa cũng phải để chủ tịch ngồi ghế chủ tọa. Tổ chức tiệc kiểu Hoa ở Đức Minh sao? Đám người này làm xằng làm bậy thật.”

“Cha yên tâm đi, con sẽ góp sức sắp xếp.” Ngân Xuyên nói, “Chắc chắn sẽ rất thỏa đáng.”

Cuối cùng gương mặt Thịnh Đường cũng thoáng nét phấn chấn: “Để cả nhà theo cùng đi, lâu lắm rồi mới có chuyện đáng ăn mừng thế này.”

“Ninh Ninh còn đang ở Vũ Xương, chắc hôm ấy con bé vẫn phải đi học, có lẽ sẽ không về kịp…”

Thịnh Đường khoát tay với vẻ ghét bỏ: “Cha có bảo đưa nó đi đâu.”
 
Quyển 2 - Chương 62


Đương gần buổi nhá nhem, Cảnh Ninh và các bạn bước khỏi trường, cô bất ngờ phát hiện Ngân Xuyên đang đứng trước cổng. Nửa tháng rồi cô không thấy anh, dường như anh gầy đi nhiều. Anh vẫy tay với các cô gái, mấy túi giấy anh đang ôm cũng đung đưa theo.

Đám con gái đưa mắt nhìn nhau, nở nụ cười hoạt bát.

Đến gần ngửi thấy hương thơm, Phương Kỳ Kỳ và Lưu Trình Viễn bèn cười tươi chào hỏi Ngân Xuyên, Cảnh Ninh lại ló đầu ra nhìn chiếc túi trên tay anh, trong có kẹo vừng, đậu phộng hạt dưa, và còn cả hạt dẻ đường nóng hôi hổi.

Cảnh Ninh cười hì hì: “Anh cả, anh có ý với Kỳ Kỳ hay Trình Viễn hả? Anh muốn theo đuổi cô nào? Hai bạn em có hôn phu cả rồi nhé.”

Ngân Xuyên trách cô: “Nói linh tinh nữa là anh đi luôn đấy.”

Cảnh Ninh làm mặt quỷ với anh, Ngân Xuyên thấy vẻ ủ dột chán chường của cô mấy ngày trước đã tiêu tan, giờ trông lại sáng sủa tươi tắn khác thường. Anh chợt nhận ra điều gì, gương mặt tức khắc tối sầm. Hai cô bạn tưởng Cảnh Ninh đùa giỡn linh tinh làm cậu cả nhã nhặn kiêu ngạo nhà họ Phan tức giận, các cô lại đâm ngại, thoáng có phần lúng túng.

Cảnh Ninh thấy Ngân Xuyên nhìn mình lom lom, không khỏi thoáng có cảm giác khác lạ. Cô lấy mấy túi quà vặt trong tay anh đưa cho hai người bạn, bảo bọn họ về nơi ở trước rồi mới cười làm lành với Ngân Xuyên: “Anh cả đến ăn cơm tối với em phải không?”

Vốn Ngân Xuyên định trách cô mấy câu, nhưng thấy cô nũng nịu nhỏ nhẹ nên cũng chỉ đành nói: “Anh mua hạt dẻ cho em, muốn em được ăn quà nóng, em lại đưa cho người khác. Dù người ta có để dành phần em thì khi về cũng nguội ngắt rồi, làm sao ăn được?”

Cảnh Ninh cười tươi, lúm đồng tiền như hoa: “Vậy anh lại đưa em đi mua tiếp!”

Dáng vẻ tựa như quên hết mọi sầu não ấy khiến lòng anh dần lạnh ngắt, anh biết rất rõ người có thể khiến cô thay đổi trong chớp mắt là ai. Anh không nói gì thêm, chỉ lẳng lặng bước về phía chiếc xe Buick đang đỗ. Cảnh Ninh cũng bám theo. Ngân Xuyên chợt dừng bước, anh quay đầu, ánh mắt lạnh như băng như tuyết, anh nói: “Em làm lành với Mạnh Tử Chiêu rồi?”

Cô gật đầu.

“Bao lâu rồi?”

“Được tám chín ngày.” Cảnh Ninh hỏi vặn lại, “Chẳng lẽ anh cả không thấy mừng thay em sao?”

Ngân Xuyên cười: “Em vui thì anh cũng vui.” Nhưng nụ cười ấy còn lạnh lùng hơn cả biểu cảm của anh, như đang nói một đằng nghĩ một nẻo. Tâm trạng vốn đang rất tốt của Cảnh Ninh chợt tuột dốc không phanh. Nét mặt cũng thoáng khó coi. Ngân Xuyên nhìn cô một lát rồi mở cửa xe ngồi vào, bắt đầu khởi động máy. Cảnh Ninh do dự trong chớp mắt, cuối cùng vẫn lên xe, ngồi xuống bên anh.

Anh có phần thấp thỏm không yên, đi được một quãng nhưng cũng chỉ chọn bừa đường mà lái, không có đích đến. Ánh mặt trời biến thành từng đường cong uyển chuyển trải mình trên cửa sổ xe, mái tóc và bờ mi đen nhánh của anh được nhuộm sắc vàng kim nhàn nhạt.

Càng đi Cảnh Ninh càng thấy hoang mang, cô không kìm được phải hỏi: “Chúng ta đi đâu vậy?”

Ngân Xuyên sực tỉnh, anh dừng ngay xe bên lề đường, nói: “Anh nhớ sai đường. Giờ em có đói không? Nếu không đói thì mình ngồi nghỉ một lát.”

Cảnh Ninh nói: “Em không đói. Anh cả mệt lắm à? Hay anh chợp mắt một lát đi.”

“Ừ, anh mệt, rất mệt.” Ngân Xuyên quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ.

Khói mù của đám rơm rạ được đốt ngoài ngoại ô bốc lên, tà dương đổ sắc đỏ cho khung trời, khoảng trời đằng Đông tối mờ như bức thủy mặc được điểm tô. Đàn chim nhạn ngày thu bay qua, loáng thoáng nghe thấy tiếng kêu ríu rít.

Anh nói: “Tối ngày kia có buổi tiệc, cha bảo cả nhà đến dự, anh từ chối thay em rồi.”

“Dù sao em cũng không muốn đi, có khi tới cũng chỉ tổ khó xử. Cảm ơn anh.” Cảnh Ninh cảm kích cất lời.

Ngân Xuyên quay đầu nhìn cô, gương mặt anh mệt mỏi, nhưng đã dịu dàng hơn khi nãy rất nhiều. Cảnh Ninh xao động, hỏi: “Anh tới tìm em vì có chuyện muốn nói sao?”

Ngân Xuyên thờ ơ đáp “ừ”.

“Không, thật ra anh tới vì muốn an ủi em đúng không? Không phải anh từ chối giúp em, là cha không muốn em đi, phải chứ?”

Ngân Xuyên nhún vai: “Em đâu cần anh an ủi.”

“Anh cả!”

“Đừng gọi anh là anh cả!” Anh chợt cao giọng, tức giận thét lên, “Anh không muốn làm anh cả của em! Anh chưa từng muốn! Không bao giờ muốn!”

“Nhưng anh chỉ có thể là anh cả của em thôi!” Cảnh Ninh lớn tiếng, vẻ cố chấp thấp thoáng trong đôi mắt trong vắt của cô, nhưng ánh mắt anh lại cuồn cuộn nỗi đau khổ và thất vọng. Họ nhìn nhau, không còn tránh né ánh mắt của nhau nữa.

“Tử Chiêu tha thứ cho em rồi, em đã kể cho anh ấy nghe tất cả sự thật, anh ấy vẫn tha thứ cho em. Anh cả, em không hiểu anh đang giận chuyện gì. Vì em đã quay lại với Tử Chiêu sao? Không phải anh bảo em tới tìm anh ấy ư?”

“Anh chỉ mong em không còn tiếc nuối gì nữa,” Ngân Xuyên cau mày, lắc đầu, “anh, anh tưởng…”

Cảnh Ninh cười nhạt: “Anh nghĩ anh ấy sẽ ghét bỏ em suốt đời ư? Anh đoán anh ấy sẽ không tha thứ cho em, anh bảo em tới tìm Tử Chiêu vì muốn em tuyệt vọng?”

Anh điếng người, cô đã nói ra tâm sự của anh.

“Anh muốn em tuyệt vọng, rồi ngoan ngoãn nghe lời cha, cưới Từ Đức Anh.” Càng lúc giọng cô càng sắc bén, “Anh nói anh muốn giúp em, nhưng thật ra anh chỉ đang lừa em. Sao anh có thể giúp em chứ!”

Anh giận đến bật cười: “Em có biết mình đang nói gì không?”

“Vậy anh có biết anh đang nói gì không? Anh không làm anh của em, vậy anh muốn làm gì?” Cảnh Ninh hỏi vặn lại gay gắt, “Lòng dạ anh luôn khó lường, ngày còn nhỏ, anh lén giấu cha ra ngoài kiếm tiền, anh là con buôn giống cha từ trong xương cốt! Anh cũng muốn đẩy em tới nhà họ Từ, để nhà họ Phan được giới chính trị trợ giúp. Anh và cha đều muốn như vậy! Em nói cho anh biết, Phan Cảnh Sâm, không ai có thể nắm giữ hạnh phúc cả đời của em, cả anh và cha đều không thể. Em không phải công cụ của các người! Em chỉ yêu mình Tử Chiêu, anh đừng nghĩ tới chuyện chia rẽ bọn em, em đã là người của anh ấy rồi, cả thân xác và trái tim em đều là của anh ấy!”

Mọi âm thanh chung quanh đều như đã tan biến, chỉ còn sót lại tĩnh lặng đáng sợ.

Cô ngỡ anh sẽ đánh cô, nhưng anh không làm vậy. Anh chỉ nhìn cô, nhưng cũng như không nhìn. Trong mắt anh có một quầng sáng, là thứ ánh sáng còn đáng sợ hơn cả lửa giận.

Cô chưa từng nhìn anh chăm chú ở một khoảng cách gần tới mức này. Cảm giác này xa lạ vô cùng, nó khiến cô hoảng loạn tột độ. Bề ngoài anh đã thay đổi rồi sao? Anh tiều tụy rồi ư, anh già rồi ư? Không, từ nhỏ tới lớn, cô đã biết anh là chàng trai đẹp nhất Hán Khẩu, giờ đây anh chỉ thanh tú chỉnh tề hơn trước mà thôi, đôi đồng tử đen láy của anh như đầm nước sâu, hàng mày dài thanh thanh, làn da trắng trẻo, đường nét rõ ràng như tạc khắc. Tuy vậy, gương mặt ấy được tô kín bởi nỗi tuyệt vọng và bi ai, cô chưa từng thấy anh đau khổ nhường này.

Một thứ cảm giác tựa như tan nát vụt qua trong cô, cô không dám chắc liệu đó có phải đau đớn hay không, nhưng rõ ràng nó đã khiến cô từ bỏ sự cứng rắn của mình, chỉ còn mềm yếu sót lại.

Cảnh Ninh chầm chậm cúi đầu, cô khẽ cất giọng: “Anh cả, em xin lỗi.”

Anh nhẹ nhàng thốt: “Bé Hạt Dẻ, giá em mãi mãi không bao giờ lớn lên thì tốt biết bao? Chỉ cần đừng trưởng thành, em sẽ không nói những lời như vậy.”

Cuối cùng những câu nói này cũng đâm vào lòng cô, nước mắt long lanh chầm chậm ứa ra.

Anh nhìn cô, nói: “Em nghĩ anh sẽ bán em vì lợi ích của nhà họ Phan ư? Em nghĩ anh như vậy sao? Em đúng là người duy nhất trên đời có thể đâm một dao vào tim anh.”

“Không, em không có ý đó, em không muốn khiến anh tổn thương, cũng không muốn làm anh buồn.” Cô lắc đầu quầy quậy, không dám nhìn anh, “Giờ lòng em đang rối bòng bong, dạo gần đây xảy ra nhiều chuyện quá. Em… ngày nào em cũng sống trong giày vò.”

Ngân Xuyên chợt muốn bỏ mặc tất cả. Có một giọng nói cứ luôn âm ỉ kêu gào trong anh: “Nói cho cô ấy, nói tất cả cho cô ấy, nói cho cô ấy thân thế của mày, nói mày yêu cô ấy, mày yêu cô ấy hơn bất cứ ai, nói với cô ấy mọi nỗi đau đớn, căm phẫn và tuyệt vọng của mày đều có nguyên do, trên thế gian này mày chỉ có mình cô ấy là người thân, là điều quan trọng nhất mà mày lưu luyến, cô ấy là tất cả! Mày có thể đưa cô ấy đi, rời xa những nỗi phiền não này, rời xa mọi chuyện quá khứ đau đớn, thậm chí là rời xa…”

Những mơ tưởng hão huyền trong anh chợt ngưng bặt.

Anh rời đi được sao? Mối huyết hải thâm thù của cha mẹ còn báo không? Sự nhẫn nhục chịu đựng suốt bao năm liệu có cần một kết quả không? Anh không sao trả lời nổi, huống chi, anh còn chẳng thể thẳng thắn bộc bạch tất cả với cô. Mà khi anh đặt tay lên vai cô, khi cô ngẩng đầu, e sợ nhìn anh, anh chợt đánh mất dũng khí.

Nói cho cô thì sao? Cặp mắt cô tràn ngập tình yêu với một người đàn ông khác, còn anh chưa bao giờ có cơ hội bước vào tim cô, anh chỉ biết giấu kín tất cả tình cảm dành cho cô như một tên trộm.

Nói cho cô biết rồi thì làm gì tiếp đây? Có lẽ anh sẽ đánh mất cô mãi mãi.

Cuối cùng anh cũng cất lời, nhưng lại đổi thành câu khác: “Mạnh Tử Chiêu định làm gì? Cậu ta… có thể chịu trách nhiệm với em không?”

“Tháng sau anh ấy sẽ đi châu Âu để lo chuyện làm ăn,” cô cất lời, thoáng vẻ thấp thỏm, “anh ấy muốn em theo cùng, giờ đang chuẩn bị thủ tục rồi.”

“Em đồng ý rồi sao?”

“Em không muốn ở lại Hán Khẩu, không muốn sống trong những hồi ức xấu xí.”

Trái tim Ngân Xuyên nhẹ bẫng, chẳng còn thấy đau nữa, anh ngồi thẳng lưng, khởi động xe.

“Anh cả, anh là người thương em nhất nhà, cũng là người hiểu em nhất. Anh cả, nếu lần này em có cơ hội sống cuộc sống mình muốn, anh có nỡ nhẫn tâm để em đánh mất nó không?” Cảnh Ninh khẩn khoản.

Ngân Xuyên mắt nhìn thẳng, cố gắng giữ giọng mình thật bình tĩnh: “Dạo gần đây hiệu buôn Tây có rất nhiều việc, cha không còn lòng dạ quấy rầy em đâu. Em muốn làm gì thì cứ cố làm đi, nhưng em hãy nhớ thật kỹ, năng lực của anh chỉ có hạn thôi, anh sẽ không giúp em, nhưng cũng không ngăn cản em.”

“Anh nói thật ư?” Tia sáng hoài nghi lướt qua đôi mắt ướt át của cô.

“Thật,” anh nhìn cô, “dù em có tin hay không, anh cũng thật lòng mong em hạnh phúc, còn chuyện quan trọng nhất với anh hiện giờ là em có đói không.”
 
Quyển 2 - Chương 63


Phòng tiệc dưới tầng một và tầng hai nhà hàng Đức Minh được bao trọn, hoa cỏ xếp ngập từng góc phòng: Nào lan hồ điệp, nào hoa hồng, nào thược dược, hay thậm chí là thủy tiên vàng. Hán Khẩu đương vào giữa thu, những loài hoa này rất khó kiếm, mà cũng vô cùng đắt đỏ. Khoảng gác nhỏ trải từ cầu thang xoắn ốc lên đến giữa tầng hai được trang hoàng khéo léo thành sân khấu kịch, phía sau có bày nhạc cụ và ghế ngồi, các nhạc công đã ngồi ngay ngắn tự bao giờ. James và Ngân Xuyên tới sớm một tiếng, nhận trọng trách tiếp đón khách khứa. Thấy Cảnh Huyên dẫn vợ chồng Thịnh Đường vào cửa, James đưa tay ra hiệu cho các nhạc công, khúc nhạc đón khách rộn ràng chợt vang vọng khắp đại sảnh.

Ngân Xuyên chắp tay với James, nói với vẻ khâm phục: “Làm khó cho giám đốc phải nghiền ngẫm ca dao Quảng Đông chúng tôi, ngài James quả là chu đáo tỉ mỉ, thông thái uyên bác.”

James cười: “Nếu không nhờ cậu mời đoàn hát Quảng Đông này tới giúp tôi, sao tôi có thể tỏ ra tỉ mỉ chu đáo, thông thái uyên bác cho được?”

Ngân Xuyên mỉm cười, tiến về phía Thịnh Đường và gia đình. Cảnh Huyên thấy anh bước lại bèn hào hứng reo lên: “Anh cả giỏi quá! Nhà hàng của chủ nước ngoài mà anh cũng biến thành phong cách Quảng Đông được. Anh cừ thật!”

Ngân Xuyên không tiếp lời, chỉ cười hỏi Thịnh Đường: “Cha có hài lòng không?”

Thịnh Đường nghiêm mặt, nhưng nét vui sướng lại lập lòe trong đáy mắt: “James thích bày vẽ, con cũng học theo người ta. Chả ra thể thống gì.”

Ngân Xuyên ân cần nói: “Nào phải bày vẽ đâu cha, tháng Chạp này là đại thọ sáu mươi của cha rồi, con chỉ luyện tập bày tiệc trước cho cha thôi.”

Thịnh Đường thở dài: “Thời gian trôi nhanh quá, cha đã sắp sáu mươi, cha già rồi!”

“Cha không già chút nào.”

Phía cổng vào tầng một có bày một chiếc bình phong cực lớn bằng gỗ tử đằng, nạm lá ngọc điểm mai vàng, như tỏa hương khắp phòng ốc. Bước qua bình phong, lưng đưa hướng bắc mặt đưa phương nam, thấy có hai chiếc bàn đặt ngang dành cho các nhân vật chính, dọc xuống chia làm hai hàng, mỗi hàng có chín bàn, bày đầy sơn hào hải vị. Tiếng miền Nam văng vẳng quanh tai, bồi bàn đều là người Quảng Đông, nam đường nét sắc sảo, nữ màu da như mật, vô cùng ý vị. Nhà họ Phan là thương nhân Quảng Đông nổi danh nhất giới mại bản Hán Khẩu. Trông cách bài trí bữa tiệc là biết ngày dù bề ngoài người nhà họ Phan là khách, nhưng thực chất đã được đưa lên hàng chủ.

Thấy vậy, Thịnh Đường quay sang gật đầu với Ngân Xuyên, thoáng lộ ý khen ngợi, rồi lại dặn Cảnh Huyên lát ra ngồi bàn Thiệu Từ Ân, trò chuyện mời rượu cho chu đáo. Bà Vân đứng dậy cùng mọi người, tự đến tìm các nữ quyến thân thuộc để chuyện trò. Chẳng mấy chốc, các mại bản của phòng kế toán Hoa đã tề tựu đông đủ, giám đốc và quản lý cấp cao phòng kế toán Tây, các nhân vật sừng sỏ của hãng buôn Khải Nhuận cũng đã có mặt. Edmund là người đến cuối, Thịnh Đường tiến lại tiếp đón, kiên quyết từ chối ghế ngồi chủ tọa, cung kính nhường lại cho Edmund. Thấy Edmund không thể không mỉm cười an vị, ông ta mới nhũn nhặn ngồi xuống bên ngài chủ tịch, Ngân Xuyên và James cũng tìm ghế trống trên bàn để ngồi.

Đồ ăn đã được dọn lên: Có phật nhảy tường, san hô bách hoa bào, bóng cá hầm nấm bắc, cá song hấp, bào ngư om vi cá, tôm hùm hấp, cá mú hoa nâu chưng xì dầu, rồi lại thêm sườn xào ớt, vịt quay… Có chay có mặn, có chiên có xào, có hấp có hầm, có om có trộn. Món nào món nấy đều được chế biến theo phương cách Quảng Đông.

Edmund cười với Thịnh Đường: “Ngài Phan coi hiệu buôn Tây như gia đình, chúng tôi cũng coi ngài Phan là người nhà, hôm nay muốn ăn một bữa cơm quê nhà cùng ngài.”

Thịnh Đường tiến lại, khom người với Edmund: “Xin cảm ơn tình cảm của ngài Edmund.”

Đây quả là lần đầu tiên Hiệu buôn Tây Phổ Huệ hạ mình tổ chức tiệc mừng công cho một giám đốc Hoa. Thịnh Đường đưa mắt nhìn chung quanh, tất cả mọi người đều đang tươi cười, có nụ cười là nịnh hót, có nụ cười là mong ngóng, có nụ cười khinh thường, có cả cười thật thà, rồi hờ hững, hay nét cười nghiến răng nghiến lợi… Ông ta sớm đã quen với những điệu cười ấy, cũng như nỗi gian nan khổ sở lướt qua trước mắt tựa khói bụi, sau khi màn sương mờ tan đi, đã chẳng một đợt sóng nào có thể gợn lên, nhưng tim ông ta có một khoảng trống, không sao lấp đầy nổi, có vết sẹo, cứ chốc chốc lại nhói đau. Chẳng hiểu tại sao nỗi bi ai này lại bước đến tận đây, ngoảnh đầu lại, chỉ thấy trắng xóa, thấy trống rỗng, chẳng nhìn ra đường lùi.

Edmund chậm rãi đứng dậy, đọc bài diễn văn mở đầu buổi tiệc, tâm tư Thịnh Đường đã bay đi rất xa, đôi mắt ông ta thoáng mờ nhòa. Ông ta cúi đầu nhìn thức rượu trong suốt đựng trong chiếc ly thanh hoa, dòng chảy tháng năm như đang bồng bềnh trong đó, như trần duyên cõi mộng; rồi ngẩng đầu, tầm mắt ông ta đã lại rõ ràng, sau những gương mặt tươi cười ấy có giấu giếm bao nhiêu ân oán và gian trá? Ông ta chợt thấy căng thẳng, lòng nghĩ lát nữa mình phải thay mặt phòng kế toán Hoa phát biểu đôi câu, ông ta không thể quên câu từ đã được soạn sẵn:

“Thưa các vị khách quý, Thịnh Đường tôi bất tài, kể từ thời Tiền Thanh tới nay, tôi đã làm việc tại phòng kế toán Hoa của hiệu buôn Tây Phổ Huệ suốt ba mươi mốt năm, quả đúng là thời gian thấm thoát thoi đưa. Năm ấy, phòng kế toán Hoa chật vật lập nghiệp, hiệu buôn Tây giao trọng trách cho Thịnh Đường, Thịnh Đường biết ơn tri ngộ sâu sắc, chỉ lo thận trọng nề nếp, chưa từng dám lười biếng dù chỉ một ngày. Đời người cũng như một chặng sự nghiệp, nếu không làm việc cho tốt thì sống còn có ích gì? Nếu không dành hết tâm sức mà tìm kiếm danh lợi thì sống có ích gì? Nếu không dấn thân lo toan việc khó thì sống có ích gì? Nếu không tận tụy với chức trách, phục vụ tập thể, thì sống có ích gì!…”

Ông ta tự thấy cảm động, vành mắt hoe đỏ, ngẩng đầu lau khóe mắt. Ồ, lạ quá, đại sảnh tĩnh lặng thế này từ bao giờ vậy? Dù cũng chẳng nghe lọt được mấy lời Edmund nói ban nãy, nhưng ông ta vẫn lập tức phát hiện ra có điều gì đó là lạ. Thịnh Đường quay đầu, vừa khéo Edmund cũng đang quay sang nhìn ông ta bằng ánh mắt quái đản.

Edmund mỉm cười gật đầu với Thịnh Đường, nói: “Khải Nhuận sáp nhập với Phổ Huệ, phòng kế toán Hoa của hãng buôn này cũng sẽ hợp làm một với chúng ta. Đương nhiên ngài Phan vẫn phải làm đầu tàu cho phòng kế toán Hoa, nhưng các tiền bối quản lý người Hoa là bốn vị Tạ, Thiệu, Mẫn, Hứa, thế hệ thanh niên tài giỏi như phó tổng mại bản Phan Cảnh Sâm, và cả hai vị anh tài của Khải Nhuận là Lưu Chương, Chu Thiếu Phổ cũng nên tham gia vào hội đồng quản trị. Để đảm bảo công bằng, tôi có xin chỉ thị của trụ sở chính London, trụ sở đã phê chuẩn quy trình mới, tăng thêm thành viên cho hội đồng quản trị phía Hán Khẩu. Đồng thời cũng sẽ có một quá trình tái thẩm định tố chất của các đồng nghiệp sắp tham gia hội đồng quản trị. Nhưng tôi có thể đảm bảo chúng ta sẽ không tiêu tốn nhiều thời gian. Nói chung, tầng lớp quản lý cấp cao của hiệu buôn Tây Phổ Huệ Hán Khẩu luôn cần đến những làn gió mới, tư tưởng mới. Đây chính là ý kiến tôi và ngài Phan Thịnh Đường đã thống nhất trước khi thực hiện thương vụ thu mua lần này. Ngài Phan, ngài nói có phải không?”

Một quyết định quan trọng nhường này, sao có thể không bàn bạc với các cổ đông mà tùy tiện đưa ra trong một buổi tiệc mừng?

Thịnh Đường tỉnh dậy khỏi miền ảo tưởng rời rạc. Cạm bẫy. Ông ta nghĩ tới từ này. Edmund đã không tin tưởng ông ta, không chỉ không tin, lão còn coi ông ta là kẻ địch giả tưởng. Edmund đã bắt tay với những kẻ khác, cùng đứng về phe đối lập với Phan Thịnh Đường.

Thịnh Đường là thành viên người Hoa duy nhất trong hội đồng quản trị hiệu buôn Phổ Huệ. Cổ quyền trong tay ông ta chiếm một nửa vốn liếng phòng kế toán Hoa, nhưng lại chỉ bằng một phần rất nhỏ của tổng tài sản Phổ Huệ. Tuyệt đại đa số cổ phần vẫn về tay người Anh. Dù có thế, thứ quyền lực nhỏ nhoi chẳng đáng kể này lại do Phan Thịnh Đường dùng máu, nước mắt và tâm huyết của mình, từ từ tích lũy gây dựng trong suốt ba mươi năm ròng. Nó cũng mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại với phòng kế toán Hoa – đại diện cho lợi nhuận của người Hoa. Để một loạt người Hoa bước vào trung tâm lợi ích của Phổ Huệ chẳng khác nào chia một con dao ra thành nhiều mảnh sắt vụn, để họ mỗi người nắm một mảnh, nhưng lại chẳng thể ghép thành vũ khí. Lúc này, Phan Thịnh Đường đã để mếch lòng người của phòng kế toán Hoa, ông ta cũng chẳng còn người đồng đội thực sự nào cùng chung kẻ địch. Đối với Edmund, mượn thời cơ này, để đám người Hoa tự tàn sát lẫn nhau chính là cách đánh lui kẻ địch tuyệt diệu nhất.

Quả là một màn biểu diễn qua cầu rút ván quá sức long trọng.

Những tiếng xì xào vang lên, Thịnh Đường chậm rãi đưa mắt nhìn, nhặt nhạnh hết những biểu cảm của bao người vào đáy mắt: Nét ngượng ngập nhục nhã của Vân Tú Thành, vì trong số những người Hoa được Edmund cất nhắc chẳng có phần ông ta; Tạ Tề Phàm vẫn cứ dửng dưng như thường; Thiệu Từ Ân tươi cười rạng rỡ, mang cả phần cảm kích do niềm vui bất ngờ; Mẫn Bách Xuyên dương dương đắc ý; Hứa Tĩnh Chi có vẻ còn chưa kịp hoàn hồn, đương nhiên cũng có thể ông ta đang giả vờ; còn hai kẻ đến từ Khải Nhuận không nằm trong phạm vi quan tâm của Thịnh Đường. Cuối cùng ánh mắt ông ta dời lên gương mặt Ngân Xuyên, vừa khéo anh đang ngồi đối diện, bình tĩnh như một tảng băng.

Edmund ra hiệu cho Thịnh Đường phát biểu, ông ta lại nhẹ nhàng khoát tay: “Tôi vốn không khéo ăn nói, nào dám bêu xấu, thôi thì nên để mọi người sớm khai tiệc thì hơn.”

“Ngài là ngôi sao của hiệu buôn Tây Phổ Huệ mà, nếu ngài không nói đôi câu, e là mọi người chẳng dám động đũa.” Edmund tươi cười rạng rỡ, nhưng ánh mắt lại hừng hực bức ép.

Thịnh Đường đứng dậy, ông ta nâng ly rượu: “Vậy tôi xin cùng ngài Edmund kính các vị đây ly rượu, chúc cho hiệu buôn Tây Phổ Huệ mãi huy hoàng như ngày hôm nay, mãi rực rỡ như hiện tại.”

Lời ông ta hàm ý sâu xa, mọi người nghe xong mà bất giác lạnh gáy, chỉ có người của Khải Nhuận vì mới tới nên không rõ mối quan hệ phức tạp chồng chéo của Phổ Huệ, những tưởng đây là lời chúc tụng thông thường, bèn nâng ly đứng dậy. Vậy là tất cả mọi người cùng cầm ly rượu đứng lên.

“Cạn ly!” Thịnh Đường cao giọng, uống cạn một hơi. Vừa ngồi xuống, cổ họng đã nóng rực, ông ta thở hổn hển muốn ngăn lại, nhưng nào ngờ luồng hơi cuộn lên, tiếng ho khan dữ dội bật ra. Edmund nhìn ông ta đầy “lo lắng”, dịu dàng hỏi han: “Ngài Phan, ngài ổn chứ?”

Thịnh Đường nặn ra một nụ cười: “Không sao ạ.”

Trong tiếng chén đũa lách cách, nhạc công vung tay, tiếng đàn tam thập lục vang lên, sau đó là cả tiếng sáo và đàn nhị ngân nga theo, nhịp điệu gấp gáp rồi lại sang chậm rãi, sau khoảng chuyển, một nữ ca sĩ thướt tha bước lên sân khấu, ngân rằng:

“Không nuôi tằm xuân không dệt sợi,

Tìm vịnh Lệ Chi hái sen thơm.

Đài sen dễ đứt tơ khó đoạn,

Mong buộc lòng chàng chóng về nhà.”

Đây là bài thơ dân gian lưu hành ở Quảng Châu cuối thời nhà Thanh, được cô thiếu nữ Quảng Đông da bánh mật, mắt đen láy cất tiếng xướng, như đưa theo cả cơn gió ấm miền nam. Dù đa phần những người có mặt ở đây không hiểu tiếng Quảng, nhưng giọng ca du dương ngọt ngào vẫn khiến bầu không khí căng thẳng dịu lại.

Tim Tạ Tề Phàm rung lên, ông lặng lẽ đưa mắt nhìn Ngân Xuyên. Anh như cười như không, ánh mắt vẫn khóa chặt trên gương mặt Thịnh Đường.

Thịnh Đường nâng ly trà chuẩn bị uống, khi tiếng hát vang lên, tay ông ta chợt khựng lại, ngực phập phồng, ánh mắt chuyển về phía sân khấu như đang tìm kiếm một thứ nào đó. Nhưng đương nhiên, ông ta chẳng thể tìm được bất cứ điều gì. Mặt Thịnh Đường xanh mét, vươn tay trỏ Ngân Xuyên, khóe miệng méo xệch quái lạ, như muốn nói gì đó, hoặc là đã nói rồi. Miệng ông ta đang mấp máy, chỉ là chẳng ai nghe rõ lời Thịnh Đường muốn thốt.

Ngân Xuyên ân cần đứng dậy, bước vòng qua dãy bàn ghế, tiến về phía Thịnh Đường.

Một bước, rồi lại một bước… Tiếng ca trên sân khấu càng thêm rõ ràng:

“Ngoài vịnh Lệ Chi tà dương trầm,

Dưới vịnh Lệ Chi nước sông sâu,

Ngó sen Phán Đường chàng chớ ngắt,

Tấc tấc tơ ngó, lòng thiếp đây.”

Khi điệu hát vang tới câu này, Ngân Xuyên đã bước đến trước mặt Thịnh Đường, hai tay vươn ra dợm đỡ ông ta.

“Cha tìm con sao?”

Thịnh Đường mất kiên nhẫn phất tay, như ngại anh nhiều lời. Ngân Xuyên nhẹ nhàng nghiêng người, nở nụ cười mỉm, cúi đầu nói bên tai ông ta: “Cha, tiếp theo là bài mẹ con thích nhất đấy…”

Thịnh Đường chợt siết chặt cánh tay anh, ông ta đứng bật dậy, miệng mấp máy như muốn nói gì. Lúc này nhạc công đã lại gảy dây đàn, âm điệu đàn nhị thay đổi, cô ca sĩ ngâm nga ca:

“Nước thanh thanh, hương vải thoảng,

Tre biếc mảnh, tương tư dài.

Chuông tối bầu bạn cùng đêm buông,

Tình tan chiều tàn ngày lại nối.”

Lồng ngực Thịnh Đường phập phồng, như muốn hít thở thật sâu, nhưng vừa hít vào, phổi ông ta đã lại co rút, bàn tay buông lỏng, thân mình Thịnh Đường ngã ngược ra sau, Ngân Xuyên toan vươn tay kéo ông ta nhưng không kịp, sống lưng ông ta đập lên chiếc ghế gỗ sưa, một tiếng động chói tai vang lên. Thịnh Đường gần như ngửa mặt lên trời, cả thân thể lẫn chiếc ghế cứng ngắc cùng ngã ruỳnh xuống đất.

Đại sảnh lâm vào hỗn loạn, mọi người đứng bật dậy, tất cả đều như sợ điếng mình, đến cả Tạ Tề Phàm luôn thong dong bình tĩnh cũng lộ vẻ khiếp sợ kinh hãi.

Ngân Xuyên sững sờ trong chớp mắt rồi lại cúi xuống dìu Thịnh Đường, xem chừng vô cùng sốt sắng, lớn tiếng gọi người tới giúp. Tạ Tề Phàm thờ ơ quan sát, hơn bất cứ ai, ông biết chàng thanh niên ấy đã mong chờ giờ phút này đây suốt bao năm ròng. Nhưng ông phát hiện, ánh mắt Ngân Xuyên bình tĩnh như thể đã diễn thử màn kịch này hàng nghìn hàng vạn lần.

Tạ Tề Phàm chưa được chuẩn bị tâm lý kỹ càng trước tất cả những chuyện vừa xảy ra, bao gồm cả lời phát biểu của Edmund. Rõ ràng Ngân Xuyên đã ngấm ngầm tiến hành một phi vụ hợp tác nào đó với Edmund, anh giấu tất cả mọi người, bao gồm cả ông. Tạ Tề Phàm thầm thốt, đứa bé này ẩn nhẫn thận trọng, hành sự chu đáo, e sẽ chẳng ai bì kịp. Sự phát triển của sự tình vượt ngoài sức tưởng tượng, biểu cảm sốt sắng và ánh mắt tỉnh táo của Ngân Xuyên tách bạch rõ ràng, khiến Tạ Tề Phàm ngổn ngang trăm mối. Ông từng hết lòng hy vọng Ngân Xuyên sẽ sớm ngày trở nên lạnh lùng khôn khéo, lựa thời lựa thế được như hôm nay, nhưng cuối cùng, khi tận mắt chứng kiến sự lột xác ấy, ông lại chẳng mảy may vui sướng. Ngược lại, ông thấy bi ai, thậm chí là tự trách. Có lẽ việc đời biến chuyển đã thay đổi tâm ý khi xưa, sự vô thường khiến mọi thứ liên tục đổi khác.

Hủy diệt, tái sinh, lật đổ, điều hòa, chẳng ai tránh nổi bàn tay lôi kéo của vô thường.

Đời người là lòng lò bị ngọn lửa vô thường thiêu đốt, chẳng ai đoán được vận mệnh mình sẽ được tôi rèn thành hình dạng gì trong đó.

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 64


Phan Thịnh Đường sinh vào ngày 23 tháng Chạp Âm lịch, hay còn gọi là ngày “ông Táo về trời”, bậc cha chú trong gia tộc cho rằng chắc chắn ông ta có vận làm giàu, có mệnh làm quan.

Thời tiền bạc còn chất đầy Chợ Mười Ba, nhà họ Phan từng “thịnh” tới chừng nào?

Hành thương là giới thương nhân được chính phủ đặc biệt cho phép kinh doanh cùng người nước ngoài, cũng chính là “King’s Merchant” trong mắt người phương Tây. Nhà họ Phan là gia tộc đứng hàng nhất nhì giới hành thương, khi ký các hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hóa, hàng trăm nghìn lượng bạc cứ thế ra vào nhẹ như bẫng, tô thuế chấp nhận bảo hiểm lên tới mấy chục nghìn hay thậm chí là hơn cả trăm nghìn lượng. Câu chuyện “trả hàng” mà Edmund nhung nhớ mãi không thôi cũng là một giai thoại trong lịch sử giao thương hai nước Trung – Anh.

Khi ấy nhà họ Phan làm đại lý cho mặt hàng trà Phúc Kiến của một công ty Anh nhỏ, công ty này chở một thuyền đầy lá trà tới châu Âu. Thuyền mắc cạn, khiến quá nửa lá trà hư hỏng trên chặng đường đi, bên Anh quốc yêu cầu đổi trả hàng, chẳng hề đề cập dù chỉ một chữ về chuyện vừa xảy ra mà chỉ nói: “Chất lượng lá trà chưa đạt tiêu chuẩn, yêu cầu trả hàng, đổi lại lô trà mới.” Lô trà này lại được chở về Quảng Châu, một phần rải rác trong bao đay và thùng gỗ, một phần chất thẳng trên boong tàu, đại đa số bao bì đều đã hư hại tới độ không nhìn rõ cả số hiệu. Ông cố của Phan Thịnh Đường – Phan Chấn Quan vừa điều tra đã biết ngay chân tướng. Hơn một nghìn hòm lá trà, tổng khoản tiền hoàn trả vượt quá mười nghìn lượng bạc, vậy mà ông chẳng hề chần chừ, thậm chí không buồn buông một lời biện bạch cho hiệu buôn của mình, mà cứ thế lập tức chất hàng mới lên tàu, đổi lại cho người Anh.

Ông nói: “Lời lãi không phải chuyện trước mắt, cũng như hai mặt âm dương vậy, tổn thất tạm thời không có nghĩa tương lai không thu được lợi nhuận. Chuyện gì cũng phải có người tiên phong. Dù trước đây chưa từng xảy ra tiền lệ trả hàng, nhưng hãy để hiệu buôn Phổ Huệ tạo ra tiền lệ này.” Đến công ty Đông Ấn Độ nghe xong cũng phải giơ ngón cái, ca ngợi sự thành thật quyết đoán của thương nhân người Hoa này. Kể từ ấy, mọi lô lá trà có mang ký hiệu “Phổ Huệ” đều thông hành thuận lợi trên châu Âu, bán chạy tới hàng chục năm. Công ty nước Anh nọ cũng khắc sâu câu chuyện này trong lòng. Sau khi nhà họ Phan lụi bại, công ty Anh tiếp tục sử dụng hai chữ “Phổ Huệ” làm danh xưng cho hãng buôn Trung Quốc của mình, từ đó, ta có hiệu buôn Tây Phổ Huệ như ngày hôm nay.

Mối quan hệ làm ăn giữa người hành thương tại Chợ Mười Ba và dân phương Tây gắn bó hòa hợp, cùng tạo nên nguồn tiền tài dồi dào trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Tuy vậy, truyền thuyết huy hoàng ấy vẫn không thoát khỏi bàn tay bóp méo, nghiền nát của vận nước cuối triều Thanh.

Trong lòng hầu hết những người thời ấy, sự nghiệp kinh doanh của hiệu buôn Phổ Huệ đúng thực là con đường kinh doanh đứng đắn: Nào tơ tằm, lá trà, vải vóc, gốm sứ… Nhưng những hiệu buôn nước Anh có quan hệ mật thiết với gia tộc nhà họ Phan còn từng dấn thân vào mối kinh doanh một mặt hàng tội ác, đó là thuốc phiện. Trong quá trình điên cuồng tiêu thụ thuốc phiện, bạc trắng cứ thế ào ào trút vào túi người Anh, cán cân tiểu ly thặng dư thương mại bắt đầu nghiêng lệch. Ở vào hoàn cảnh ấy, trọng thần triều đình Lâm Tắc Từ nhận hoàng lệnh, cấm các địa điểm miền Nam Trung Quốc hút thuốc phiện. Chợ Mười Ba kẹt giữa triều đình và người phương Tây, bắt đầu đón nhận cảnh ngộ muôn phần gian nan.

Có lần, Lâm Tắc Từ muốn truyền lệnh cho người nước ngoài, nhưng không để quan lại thông báo chính thức, mà cho hải quan Quảng Châu chọn một hành thương truyền lời, hành thương này chính là người từng được các thương nhân trong ngoài nước ngợi khen cảm phục, Phan Chấn Quan. Ông Phan Chấn Quan cổ đeo xích sắc, được áp giải tới nhà người nước ngoài như một con chó, chỉ để nói giúp chính phủ một câu: “Lâm đại nhân lệnh cho ngài Charles lập tức vào thành.” Người ta gọi đây là “quýt làm cam chịu”. Vào thời đại phong kiến phân hóa đẳng cấp nghiêm ngặt, khinh thường giới kinh thương, dù có là tham quan hay thanh quan cũng chẳng một ai thật sự tôn trọng thương nhân, mặc cho kẻ này có sở hữu gia sản chất cao như núi hay chăng.

Mùa hạ năm 1841, quân đội Anh tấn công thành Quảng Châu, một trong những người đứng đầu Chợ Mười Ba là Ngũ Thiệu Vinh đại diện cho phe Trung Quốc đàm phán với tổng chỉ huy Elliot, sau khi “Hòa ước Quảng Châu” được ký kết, quân đội Anh rút lui khỏi Hổ Môn, còn triều đình nhà Thanh buộc phải gom gấp sáu triệu lượng bạc trắng trong vòng bảy ngày, một phần ba khoản tiền khổng lồ ấy được hành thương Chợ Mười Ba chung tay gồng gánh, không góp tiền là hạng bán nước, không góp tiền bắt buộc phải chết.

Phan gia của hiệu buôn Phổ Huệ đã cống hiến toàn bộ gia nghiệp.

Cuối cùng, Chợ Mười Ba đất Quảng Đông vẫn bị ngọn lửa chiến loạn thiêu đốt, thể chế quan liêu hủ bại và cuộc chiến kéo dài nhiều năm liền đẩy các hành thương vào đường cùng. Dù nhà họ Phan còn giữ lại một phần tài sản nhỏ nhoi, nhưng quả thực gia cảnh họ đã suy tàn cùng cực, Phan Thịnh Đường thuở nhỏ từng trải qua bao đêm mưa lạnh gió rét, giúp đỡ người mẹ yếu đuối bệnh tật dệt vải là áo, ông cố Phan qua đời vì sầu não, trên con thuyền tại Châu Giang, người nước ngoài viết cho ông một bài điếu văn nặng tình hào nhoáng, nhưng lại chẳng biết con cháu người thương nhân này đang đứng trên bờ, tranh cướp chai rượu bọn họ ném từ trên thuyền xuống.

Từ “Quan” từng khảm vào tên mỗi hành thương Chợ Mười Ba: Ngũ Hạo Quan của hiệu buôn Di Hòa, Lư Mậu Quan của hiệu buôn Quảng Lợi, Phan Chấn Quan của hiệu buôn Phổ Huệ, Trịnh Quỳnh Quan, Trịnh Đình Quan của hiệu buôn Vĩnh Hòa… Cha truyền con nối, anh buông em tiếp, cứ đời nọ thừa kế đời kia, mang theo cái tên thương nhân đệm chữ “Quan” nối liền không dứt, trân quý không khác máu thịt, ngỡ như nó có thể đem lại danh dự và vận may cho cuộc đời vật lộn khốn đốn của đám hành thương.

Đến thời Phan Thịnh Đường, vận mệnh của gia tộc hành thương đã tận, đừng nói là cái tên đậm chất thương nhân, mà có khi cả bàn tính hay thước chặn giấy của cửa hàng cũng để thất lạc. Phan Thịnh Đường sinh ra vào một ngày đẹp, mệnh nằm trên khoảng đại vận tài quan. Theo tập tục, đáng lý tên ông ta cũng phải mang theo chữ “Quan”, nhưng nhà họ Phan đã lụi bại, hy vọng chấn hưng gia tộc quá đỗi mong manh, nghĩ chữ “Quan” lại khiến người ta nhớ tới quá khứ huy hoàng nhà họ Phan, chỉ tổ rước lấy phiền muộn vào thân, cha Phan Thịnh Đường đưa mắt nhìn hoa hải đường trong sân nở sớm giữa tiết trời ấm áp, bèn viết nên hai chữ “Thịnh Đường” trong tiếng khóc vang vọng của con.

Nói theo kiểu Quảng Đông, từ nhỏ Phan Thịnh Đường đã “mắt tinh mày khôn”, cái vẻ bền bỉ nhẫn nại, mạnh mẽ táo tợn của bậc tổ tiên từng đạp gió rẽ sóng tại duyên hải Phúc Kiên cũng ngấm sâu vào máu ông ta. Cha mất sớm, con trai trưởng của người bác duy nhất chết yểu, Thịnh Đường thừa tự hai nhà, từ nhỏ đã buộc phải nai lưng làm công khắp chốn, tích cóp tiền của nuôi sống gia đình. Ngày ngày ông ta đều buộc phải kiếm được mấy đồng đưa cho mẹ. Hơn một trăm năm trước, tổ tiên nhà họ Phan vác đòn gánh bán hải sản, thúng đan, gom góp làm giàu. Hơn một trăm năm sau, Phan Thịnh Đường chạy việc vặt, học nghề ở hiệu buôn Tây, làm lại tất cả từ đầu.

Mười bốn tuổi, ông ta học việc với mức lương còm bốn hào ở hiệu buôn Tây Thái Cổ chuyên vận tải hàng hải và buôn bán đường ăn. Thịnh Đường đâm đầu vào học tiếng Anh, trình độ giao tiếp và đọc viết tiếng Anh của ông ta thậm chí còn nổi trội hơn rất nhiều các quản lý cấp cao tại hiệu buôn Tây. Các mại bản Quảng Đông của Thái Cổ người thì ham ăn biếng làm, kẻ lại chẳng được trò trống gì, Thịnh Đường mượn cơ hội này để tham gia vào nhiều mối làm ăn của hiệu buôn Tây. Chuyên chở đường thủy là tài nguyên huyết mạch của Thái Cổ, Thịnh Đường không chỉ rõ tình hình của từng khoang tàu hay việc vận chuyển như lòng bàn tay, mà còn thường xuyên kiểm hàng kịp giờ tàu chạy vào lúc nửa đêm để tránh trễ nải lịch chuyên chở. Bến tàu nhập về lượng hàng khổng lồ, đường ăn và hàng hóa chất cao như núi, đám trộm cướp thường xuyên tới bến tàu thó hàng, nếu bị phát hiện, chúng sẽ thẳng tay giành giật cướp bóc, không ngừng sinh sự, Thịnh Đường từng bầm dập mình mẩy, tả tơi áo quần suốt một năm ròng vì chúng.

Chàng trai trẻ này không thích rượu thuốc, không mê đánh bạc, lại nói năng thận trọng, khiến người ta tấm tắc vì sự lanh lợi trung hậu. Ông ta liên tục bôn ba quanh hai chốn hải quan và hiệu buôn Tây, sử dụng mánh khóe xã giao ngày một lão luyện để bắt nối quan hệ với đủ loại người, đồng thời, khoản vốn Thịnh Đường quản lý luôn được điều động theo phương hướng sinh lợi tuyệt hảo. Đương nhiên một con người như ông ta sẽ được hiệu buôn Tây trọng dụng. Hai mươi tuổi, ông ta chính thức trở thành mại bản cho hiệu buôn Tây, dùng số tiền riêng tích cóp được để kinh doanh một vườn trà nhỏ tại quê nhà Phúc Kiến, tiền kiếm về lại bỏ ra để mua các hộ trồng trà nhỏ lẻ, dần trở thành bên cung cấp hàng hóa cho hiệu buôn Tây. Người phương Tây nếm được hương vị xưa cũ từ thức trà của Thịnh Đường, sau khi nghe ngóng mới biết chủ vườn trà này chính là hậu duệ nhà họ Phan của “hiệu buôn Phổ Huệ” Chợ Mười Ba, cháu chắt của Phan Chấn Quan nức tiếng một phương. Từ đó, họ lại càng phải nhìn Thịnh Đường bằng cặp mắt khác xưa.

Thịnh Đường nghiêm khắc với bản thân tới kỳ lạ, ngày nào ông ta cũng bắt tay vào công việc từ lúc trời còn chưa sáng. Vào thời đại mà điện thoại là một thứ gì đó hết sức mới mẻ, ông ta thường liên tục di chuyển giữa các bến tàu và kho hàng, tìm hiểu sự biến động mới nhất của giá cả để có thể kiểm soát, thay đổi hóa đơn xuất hàng bất cứ lúc nào. Ông ta là một người thực thi mệnh lệnh luôn tự tay dốc sức làm tất cả mọi chuyện, dù có mệt mỏi tới mức nào, ông ta cũng vẫn tỏ ra kiên trì và vững vàng. Thịnh Đường vốn kiệm lời, nhưng một khi đã nói thì luôn nhằm thẳng vào trọng tâm, khiến người ta phải tâm phục khẩu phục. Mỗi khi những người dưới quyền mất một khoảng thời gian lớn để trúc trắc báo lại một sự việc với Thịnh Đường, gương mặt nghiêm túc và ánh mắt sáng rực của ông ta luôn khiến người ta run rẩy. Sự oai phong, tài lực và quyền thế của ông ta cũng cứ thế mà leo cao chóng mặt.

Hai mươi sáu tuổi, ông ta đã trở thành nhân tài mới khiến bao kẻ đỏ mắt trong giới kinh doanh Quảng Châu. Thịnh Đường không bao giờ bỏ qua cơ hội làm quen với các nhân vật máu mặt. Ông ta còn có một cuốn vở ghi chép mọi thông tin liên quan tới những người này, sẵn sàng sửa sang thay đổi bất cứ lúc nào. Chẳng mấy chốc ông ta đã có thể tham gia một số những buổi tụ hội quan trọng của người nước ngoài. Khi phố mới lên đèn, bên bờ Châu Giang dập dờn đèn hoa, người ta luôn dễ dàng bắt gặp bóng chàng trai trẻ bận áo sơ mi đắt đỏ nhã nhặn, vội vã tìm tới địa điểm từng buổi dạ tiệc. Nếu để ý kỹ, người ta có thể nhìn thấy vẻ thỏa thuê đắc ý, hăm hở mừng vui trên nét mặt tuấn tú của kẻ này. Hai mươi tám tuổi, ông ta cưới ái nữ của Tuần phủ Quảng Châu Vinh Khiêm, bắt nối quan hệ với giới quan lại. Ba mươi tuổi, ông ta trở thành tổng mại bản của hiệu buôn Tây Phổ Huệ. Cùng thời điểm ấy, các mối kinh doanh ngoại trang của ông ta như bảo hiểm, kho dầu, vườn trà, xưởng đường phất lên như diều gặp gió. Mấy chục năm ròng, ông ta đã dệt nên một tấm lưới của cải khổng lồ cho mình, dần trải dài ra tận Thượng Hải, Quảng Châu, Hán Khẩu, đế quốc tiền tài của Thịnh Đường từ từ quật khởi.

Ông ta đã lê từng bước tới ngày hôm nay…

Ánh sáng lọt qua cửa sổ, chiếu lên đầu giường, khiến những sợi chỉ vàng thêu bên mép gối cứ thoắt sáng thoắt tối. Vì phòng ốc lạnh ngắt nên trông hệt như cõi ảo ảnh. Mùi thuốc nước nồng nặc khắp phòng, hộ sĩ rút đầu kim khỏi mu bàn tay Thịnh Đường, ống tiêm đã qua sử dụng vang tiếng lanh lảnh trong chiếc khay trắng muốt, thứ âm thanh này khiến người ta rét buốt tột cùng.

Hai mắt Thịnh Đường nhắm nghiền, cứ chốc chốc đôi môi lại run rẩy. Tỉnh lại, kiểu gì ông ta cũng phải ho sặc sụa, hoặc là vì ho sặc sụa mà thức dậy. Ông ta đã mê man liền ba đêm, đầu óc chẳng còn tỉnh táo. Bà Vân ngồi trên chiếc ghế đặt gần ông ta nhất, thỉnh thoảng lại vươn tay gạt lệ. Trước khi đi, hộ sĩ chào tạm biệt bà, rồi lại thì thầm nhắc nhở mấy câu. Bà Vân gật đầu, nói: “Nếu có việc gì tôi sẽ gọi.” Hộ sĩ đi rồi, bà ta lại sụt sịt khóc. Cảnh Ninh đứng gần đó, nhận lấy chiếc lư đồng sưởi ấm từ tay Tiểu Quân. Thấy mẹ khóc, cô cau mày: “Mẹ, bác sĩ bảo bệnh tình cha không nặng mà, mẹ khóc như vậy làm gì. Với cả nếu cha tỉnh lại thấy mẹ thế này, ông lại tức cho đấy.”

Bà Vân nghẹn ngào: “Vậy con làm cách nào cho ông ấy tỉnh dậy đi, dù tỉnh rồi ông ấy có trút giận lên mẹ cũng được. Nếu ông ấy không dậy nổi, e là nhà họ Phan không còn chỗ cho ba mẹ con mình đâu…”

“Mẹ nói cái gì vậy.” Cảnh Ninh bực bội.

“Mẹ muốn ở một mình với cha con, mấy đứa ra ngoài trước đi.” Bà Vân cầm khăn tay lau nước mắt, rồi ngẩn ngơ nhìn chồng mình chằm chằm. Thấy mẹ như vậy, Cảnh Ninh thở dài, nhét chiếc lư giữ ấm vào lớp chăn dưới chân cha rồi rời khỏi phòng cùng Tiểu Quân.

Cửa vừa khép, vẻ đau xót của bà Vân đã tức khắc hóa thành bình tĩnh tới lạnh lùng. Đôi mắt sáng lập lòe của bà nán lại hồi lâu trên gương mặt Thịnh Đường. Thấy ông ta vẫn đang chìm vào cơn mê man, bà lập tức dời tầm mắt.

Bọn họ đã ngủ riêng được nhiều năm rồi. Mấy ngày gần đây bà mới năng qua lại căn phòng ngủ này. Căn phòng được sửa sang lại y hệt như phòng làm việc tại hiệu buôn Tây, chỉ khác ở chỗ đặt thêm chiếc giường. Trừ Thịnh Đường ra, không ai trong nhà này có thể lưu lại phòng ông ta quá một tiếng đồng hồ, dù đó có là cậu con trai cả dường như được ông ta yêu thương nhất. Nhưng hôm nào cũng có người từ hiệu buôn Tây ghé tới, quá nửa là nhân viên cấp cao của phòng kế toán Hoa, hoặc là luật sư hoặc là kế toán, bọn họ tới đây để báo cáo công việc cho Thịnh Đường, rồi nghe chỉ thị để xử lý công chuyện. Nhưng thật ra, Thịnh Đường gần như không bước chân ra khỏi nhà đã xử lý một phi vụ thu mua kếch xù giúp hiệu buôn Tây. Đúng, ông ta đã hoàn thành mọi công tác điều tra trong thương vụ hãng buôn Khải Nhuận ngay tại căn phòng này.

Ông ta đã làm cách nào vậy?

Giờ đây, căn phòng này lại có thêm một chức năng, nó đã được biến thành một phòng bệnh lớn, có đủ các trang thiết bị điều trị, chăm sóc sức khỏe. Những chiếc điện thoại hay máy điện báo trên bàn chẳng còn đổ chuông nữa. Sợ ảnh hưởng tới bệnh nhân, cậu cả nhà họ Phan đã tự ý rút hết đường dây điện thoại. Thịnh Đường thoi thóp hơi tàn nằm trên giường, để lộ tất thảy vẻ yếu ớt bất lực mà một người già có thể phơi bày. Thời gian đã lột mất vẻ uy nghiêm và thô bạo trên cơ thể ông ta.

Bà Vân đứng dậy, tuần tra tứ phía như một con mèo mẹ nhanh nhẹn, lẳng lặng lật giở xem xét từng góc phòng. Bà ta đã tìm kiếm suốt mấy ngày trời, chỉ cần có cơ hội được lưu lại căn phòng này, sau khi đuổi được mọi người ra ngoài, bà ta sẽ tìm kiếm đào bới theo bản năng, dù bà Vân cũng không biết rốt cuộc mình đang tìm gì. Phan Thịnh Đường không giống kiểu người sẽ viết sẵn di chúc. Với ông ta, tài sản là tất cả. Sao ông ta nỡ để lại nó cho kẻ khác trước khi nhắm mắt xuôi tay. Vả lại, ông ta gần như không bao giờ nghĩ mình sẽ chết. Ông ta sợ chết vô cùng. Nhưng sợ chết nữa thì có sao, chẳng phải ông ta vẫn thành ra thế này đây thôi, nằm trên giường như một cái xác.

Trực giác bà Vân mách bảo chắc chắn căn phòng này có ẩn chứa bí mật của Phan Thịnh Đường. Hôm qua bà ta đã tìm xong giá sách, bên trong xếp đầy mớ sổ sách nặng trịch, xem mà chỉ thấy mệt, nhưng bà ta vẫn kiểm tra rất nhanh. Tuy thế, bà chẳng tìm được thứ gì đáng giá. Hôm nay bà ta đào bới xong ngăn kéo, nhưng tay trắng vẫn hoàn tay trắng. Phan Thịnh Đường là một con buôn thứ thiệt, không thiết gì máu mủ, chỉ chăm chăm tiền tài. Bà ta gần như không thể tìm ra một dấu vết nhỏ nhoi nào có liên quan tới cuộc sống gia đình trong căn phòng này, đến ảnh cũng chẳng có một tấm. Căn phòng này là một phòng làm việc, một phòng bệnh, có thể rồi sẽ trở thành nhà xác, nhưng nó không phải một căn nhà.

Bà Vân mệt mỏi ngồi xuống chiếc xô pha da, những giọt nước mắt chân thật của bà ta ứa ra. Vừa khóc bà ta vừa mắng, giọng nhỏ như tiếng muỗi, vì bà ta vẫn còn rất sợ kẻ sống dở chết dở trên giường. Tuy vậy, bà ta thật sự oán hận, nước mắt trào ra liên tục: “Ông chết thì cứ chết, liệt thì cứ liệt mà chẳng hề lo liệu chuẩn bị cho tôi một chút nào. Tôi theo ông bao nhiêu năm ròng mà ông không bao giờ nhớ nhung tới tôi, trong lòng ông chỉ có tiền. Hay lắm, ông cứ nằm chết dí ở đấy đi, tiền còn có tác dụng gì? Nó có đổi được hơi thở thông thuận cho ông không? Ông hận bà vợ đầu của ông như vậy, nhưng chẳng phải ông đã ép cô ta vào đường chết sao? Giờ tiền đồ thằng con trai người ta đẻ ra khấm khá lắm rồi, có thể làm chủ cái nhà họ Phan này, lấy mớ tiền của ông đi nhẹ như bẫng, ông vui chưa? Ông có chết thì chết nhanh lên, chết đi còn xuống gặp người phụ nữ khốn kiếp đó, xem xem cô ta chế nhạo ông thế nào!”

Khóc mệt rồi, mắng mệt rồi, bà ta mới đứng dậy, bước về phía giường Thịnh Đường rồi cúi đầu nhìn theo thói quen. Nhưng lần này bà ta suýt sợ mất mật.

Vì chẳng biết Thịnh Đường đã mở mắt từ lúc nào, ông ta đang nhìn bà chằm chằm.

Chân bà Vân mềm nhũn, run rẩy thốt: “Mình, mình à!”

Thịnh Đường ho khan, đờm nghẹn lại trong miệng, tiếng nghe vang dội, bà Vân hoảng hốt đâm quên cả đưa ống nhổ cho chồng, chỉ đứng im như một pho tượng.

Thịnh Đường thều thào: “Khát nước.”

Bà Vân hoàn hồn, vội đỡ Thịnh Đường ngồi dậy nhổ đờm, rồi lấy khăn tay lau miệng cho chồng, rót nước cho ông ta. Thịnh Đường bải hoải dựa vào cánh tay vợ mình, bà có thể cảm nhận được cơn run rẩy của ông ta, bèn dè dặt hỏi: “Mình tỉnh từ bao giờ vậy?”

Thịnh Đường quay đầu nhìn bà Vân, gương mặt ông ta lạnh tanh. Bà Vân sợ nhất là khi ông ta nhìn mình như vậy, sống lưng bà ta tê dại. Thịnh Đường khàn giọng: “Sợ tôi chết tới vậy ư? Khóc sưng cả mắt rồi kìa.”

Bà Vân nước mắt đầm đìa: “Mình à, mấy ngày nay tôi lo đến vỡ tim mất. Sao tôi và các con có thể sống thiếu ông được.”

Thịnh Đường chậm rãi nằm xuống, nhắm mắt lại: “Ừ, tôi biết.”

Bà Vân ân cần đắp chăn cho ông ta, rồi lại đổi vị trí chiếc lư ấm dưới chân chồng: “Mình có lạnh không?”

Thịnh Đường lắc đầu: “Tôi ngủ bao lâu rồi?”

“Tối qua uống thuốc xong là mình ngủ tới tận giờ, lúc này đã là hơn hai giờ chiều rồi.”

“Cũng sắp hết một ngày tới nơi, thời gian trôi nhanh quá.” Thịnh Đường lẳng lặng, dù giọng ông ta yếu ớt nhưng hơi thở lại nhẹ nhàng, rõ ràng bệnh tình đã chuyển biến tốt đẹp. Bà Vân vốn thấp thỏm không yêu, giờ mắt chợt sáng bừng, vỗ tay nói: “Để tôi gọi Ninh Ninh và A Huyên vào! Biết ông tỉnh chắc chắn chúng nó sẽ mừng lắm, mấy ngày nay hai đứa chăm sóc ông quên ăn quên ngủ…”

“A Sâm đâu?” Thịnh Đường hỏi.

“Nó…” Gương mặt bà Vân trở lạnh, “nó ở hiệu buôn Tây suốt. Edmund tạm thời để nó xử lý công việc của tổng mại bản, nó chỉ nán lại nhà một lúc hôm ông đổ bệnh thôi.”

“Gọi điện thoại cho thằng bé, nói tôi tỉnh rồi.”
 
Quyển 2 - Chương 65


Cảnh Ninh ngẩng đầu, cô thấy được nét mặt mệt mỏi của bản thân trong mắt Ngân Xuyên. Cô đã ngồi một mình dưới hàng hiên rất lâu rồi, đầu óc cô trống rỗng, cũng chẳng biết anh đã tới tự bao giờ.

Anh dịu dàng nói: “Em về trường đi, ở đây cũng không làm được gì đâu. Bệnh tình của cha không nghiêm trọng. A Huyên đâu rồi?”

“Mẹ bảo anh ấy đi tìm bác Thiệu.”

Ngân Xuyên thầm cười lạnh: “Chắc là sợ chia gia sản nên muốn tìm chỗ dựa.”

“Anh cả, anh xử lý xong công việc chưa?” Cảnh Ninh hỏi, ba ngày nay anh gần như không ở nhà, lúc nào cô cũng lo anh vất vả quá, vì giờ đây anh đã rất gầy rồi.

Ngân Xuyên không trả lời câu hỏi của cô, anh chỉ nói: “Em không cần ở lì trong nhà đâu. Đã có anh rồi, còn cả mẹ và anh hai em nữa, đừng để việc này làm ảnh hưởng tới chuyện quan trọng của em.”

Cô đỏ bừng mặt vì ba chữ “chuyện quan trọng”, nhưng cũng không dám chắc ý anh là gì. Cô nhìn anh, ánh mắt anh rất bình tĩnh, có vẻ như không hề thất vọng, mà tựa đang bình thản vì đã có thể buông bỏ một thứ gì đó. Anh từng nói anh mong cô hạnh phúc, cô nhìn thấy niềm kỳ vọng ấy trong mắt anh, nhưng cô chưa từng cảm thấy nhẹ nhõm, mà thậm chí còn thoáng đau khổ vì sự xa cách đang càng lúc càng rõ nét giữa họ.

“Em muốn đi thì đi mau lên, đến nơi em muốn, để người đó chăm sóc cho em. Giờ em đang có cơ hội, nhưng ngồi nhà thế này không giúp em nắm được cơ hội ấy đâu.”

“Anh… thật sự đồng ý để em đi ư?” Nét hoài nghi hiển hiện trên gương mặt cô.

Giọng điệu anh vô cùng kiên định, nói như muốn ép chính mình phải tin: “Đúng, anh muốn em rời khỏi Hán Khẩu ngay bây giờ. Anh mong em có thể hạnh phúc.” Rồi anh vội vã dời mắt, bước tới phòng ngủ của Thịnh Đường.

Cảnh Ninh điếng người. Cô nhìn bóng lưng anh, cảm thấy cơ thể mình cứng đờ như tượng. Lát sau, bà Vân cũng bước ra, gương mặt nhuốm màu âu lo. Cảnh Ninh tưởng cha làm sao, nào ngờ mẹ lại run rẩy thốt: “Liệu hôm nay cha con có để lại lời trăng trối không? Cứ nằng nặc đòi gọi anh cả con về, chắc chắn là có điềm gì rồi.”

Cảnh Ninh thấy phản cảm tự tận sâu đáy lòng, cô máy móc cất lời: “Con muốn về trường.”

Bà Vân trừng mắt nhìn cô: “Lát cha tìm con thì sao? Lúc chia gia sản con không có phần thì có khóc cũng chẳng kịp.”

“Con sẽ không khóc vì chuyện này.” Cảnh Ninh nói, “Mẹ, con không quan tâm.”

Bà Vân tức giận tới trắng bệch mặt mũi, bà cười lạnh: “Con không quan tâm, vì con có phải nhọc lòng bao giờ đâu! Càng không quan tâm càng có người khổ sở hiến kế tranh giành hộ con, chẳng làm gì cả mà thứ gì cũng có, người ta gọi đây là tốt số đấy. Con cứ mặc kệ tất cả đi, để cho mẹ con khổ cả đời, nhọc lòng cả đời.”

Cảnh Ninh nén rơi lệ, nói: “Nếu là gia sản thì mẹ thật sự không cần tranh giành cho con đâu. Giờ con chỉ mong mình có thể đoản mệnh chết luôn đi, như vậy mẹ cũng đỡ phải phiền lòng. Nếu con được chia một phần gia sản, con cam tâm tình nguyện để lại cho mẹ, nhưng lỡ cha không cho con thì con cũng chịu. Chỉ tiếc giờ con không dám chết, con sợ đau, sợ phiền toái, còn nhát gan không nỡ lìa đời, con là một đứa chuyên gây tai họa, ích kỷ chỉ biết đến mình. Chi bằng ngày ngày khi thắp hương mẹ hãy xin ông trời sớm đưa con đi, để mẹ không phải khổ vì con, coi như phí công sinh ra đứa con gái này.”

Bà Vân không ngờ cô sẽ nói những lời ấy, nghe mà nước mắt bà chảy ròng ròng. Cảnh Ninh thấy mẹ như vậy, cuối cùng vẫn đau lòng, quay lại vươn hai tay ôm bà. Bà Vân mềm lòng, ôm con khóc nức nở. Lúc này, cửa phòng Thịnh Đường được người bên trong nhẹ nhàng khép lại. Bà Vân càng thấp thỏm không yên, bà ta biết hai vị chủ nhân của nhà họ Phan đang bắt đầu trò chuyện rồi. Có lẽ cuộc trò chuyện này sẽ thay đổi số mệnh của tất thảy các thành viên trong gia tộc.

Cây tỏa bóng sum suê, tiếng gió ngoài cửa nghe như triều dâng, ánh trăng vội vã chảy xuôi trên mặt đất.

Ngân Xuyên đóng cửa, ngồi xuống trước cửa sổ, mặt đối mặt với Thịnh Đường. Ánh đèn phủ lên gương mặt xâm xẩm hoàng hôn của Thịnh Đường, đôi đồng tử của ông ta in bóng sáng như vằn da hổ: “A Sâm, con có muốn nghe chút chuyện quá khứ không?”

Ngân Xuyên đáp: “Có sức ông cứ nói, còn không thì không cần.”

Thịnh Đường như không nghe thấy lời anh, ông chỉ cười nhạt: “Trước khi Mẫn Huyên hứa hôn với ta, các thanh niên tài giỏi nổi danh Quảng Châu đua nhau nô nức tới nhà họ Vinh cầu hôn. Đến cả Trịnh Đình Quan cũng đích thân nhờ bà mai ghé đến Vinh gia. Khi ấy, gần như cả Tây Quan đều nằm trong tay nhà họ Trịnh, sự nghiệp kinh doanh của Trịnh Đình Quan tại hải ngoại cũng rất phát triển. So với Trịnh Đình Quan, ta thua kém cả về gia thế lẫn thực lực. Nhưng mẹ con không hề động lòng, cô ấy luôn thanh cao kiêu ngạo, Trịnh Đình Quan đã có thê thiếp, đương nhiên Mẫn Huyên sẽ không chịu kiếp chung chồng. Hơn nữa, hồi ông ngoại con mới tới Quảng Châu nhậm chức, ta có giúp nhà họ Vinh xử lý rất nhiều chuyện. Mẫn Huyên và ta đã quen nhau từ trước. Vừa gặp Mẫn Huyên ta đã ái mộ cô ấy, chỉ tiếc Mẫn Huyên là một tiểu thư khuê các chân chính.”

Ngân Xuyên mím chặt môi, hơi thở dần gấp gáp.

Thịnh Đường đắm chìm trong hồi ức, ánh mắt mông lung: “Một tiểu thư khuê các sẽ không dễ dàng để lộ trái tim của mình cho người khác thấy. Dù có yêu ai tới chết đi sống lại, cô ấy cũng sẽ chôn sâu bí mật ấy vào lòng. Cái tính ấy đã hại ta và hại cả mẹ con. Đến khi Mẫn Huyên cưới ta rồi, ta vẫn không dám chắc liệu cô ấy có thật sự bằng lòng gả cho mình không. Cô ấy còn rất trẻ, hơn nữa lại vô cùng xinh đẹp, sao cô ấy lại để ý tới ta chứ? Còn ta… nhà họ Phan từng sa sút suốt một khoảng thời gian dài, dù ta có phát tài cũng chẳng khác gì đám nhà giàu mới nổi. Khi cô ấy cau mày, khi cô ấy im lặng, ta luôn cảm thấy ta và cô ấy cách nhau một khoảng rất xa. Dù ta có bạt mạng làm ăn kiếm tiền, ra sức dấn thân vào xã hội thượng lưu Quảng Châu, khoảng cách này vẫn không thể rút ngắn. Cô ấy như một bình hoa đẹp đẽ, một bộ đồ đắt đỏ. Ta rất thích chúng, muốn có chúng, trút hết tâm sức để đoạt lấy chúng, nhưng lại không dùng được, cũng chẳng mặc nổi. Ta sợ bình hoa rơi vỡ, sợ áo quần mặc lên không vừa, muốn vứt đi nhưng lại không nỡ… Con thử nói xem ta có thích cô ấy không? Có lẽ. Nếu ta thật sự không yêu Mẫn Huyên thì sao ta lại nghĩ không thông như vậy, tại sao lại làm ra vô số những chuyện trái với lương tâm mình như vậy? Bài thơ con để nữ ca sĩ hát trong buổi tiệc ăn mừng là thơ ta viết cho Mẫn Huyên, con có tưởng tượng nổi không? Kẻ như ta mà cũng viết thơ tình cho người phụ nữ mình yêu.”

“Lòng mẹ chỉ có mình ông.” Ngân Xuyên nghiến răng, “Đến lúc chết bà vẫn nhớ tới ông. Tận khi sắp chết mẹ vẫn đọc bài thơ ấy.”

Thịnh Đường chật vật vươn tay ra sau lưng, vỗ lên chiếc gối dựa chèn bên eo: “Kể ra thì thật mỉa mai, lúc cưới Mẫn Huyên, ta thề sẽ coi cô ấy như báu vật, nhưng thực tế ta đã ép cô ấy phải chết. Cô ấy tự sát không chỉ một lần. Lần đầu tiên là vào cái đêm ta phản bội cô ấy…”

Chợt ông ta thoáng thấy choáng váng, tiếng guốc gỗ và bóng buồm bên bờ Châu Giang như ẩn như hiện trước mắt.

Người vợ trẻ trung xinh đẹp, đôi chân nhỏ bé giẫm lên boong thuyền hoa, thuyền chòng chành trên nước, ông ta cẩn thận dìu cô vào khoang thuyền. Cô ngồi xuống, nở nụ cười dịu dàng tỏ ý biết ơn. Lòng ông ta chợt bị chiếm đóng bởi nỗi bi thương. Ông ta không tài nào nhìn thẳng vào gương mặt sáng trong ấy. Đôi mắt trong veo của Mẫn Huyên lấp lánh sóng nước, nhìn ông thoáng vẻ thắc mắc. Ông ta chợt đặt một nụ hôn thật sâu lên bờ môi mềm mại của cô. Cô giật mình, bàn tay chặn trước ngực ông ta. Mẫn Huyên luôn nhẹ nhàng dè dặt, cô có phần kháng cự trước sự đường đột của ông ta. Ông ta chợt thấy nản chí, chỉ nói: “Anh có chút chuyện phải xử lý, em ngồi đây đợi anh nhé.”

Cô dịu dàng đồng ý, ông ta vội vã quay người dợm đi.

“Thịnh Đường!” Cô gọi tên ông ta.

Bước chân ông ta khựng lại. Cô ngượng ngùng cúi đầu, như một đứa trẻ bẽn lẽn: “Em hơi đói.”

Ông ta mỉm cười đáp: “Anh sẽ mang bánh củ năng về.”

Cô đỏ mặt gật đầu, ông ta không nén nổi lệ, thành lũy vững chắc trong lòng suýt nữa đã sụp đổ tan tành, ông bèn nhẫn tâm, vội vã bước khỏi khoang thuyền.

Nhà ai đang ca:

“Hoa rơi ngợp trời che trăng sáng,

Mượn rượu này xin kính Phượng Đài,

Đôi bóng cây âm u Khởi Điện,

Vạn minh châu chiếu phấn hoa vàng…

Ôi, ôi, thuyền nhẹ phương xa, núi muôn trùng…

Rồi nhà ai lại đang gõ trống.

Tùng, tùng… Thuyền nhẹ đi xa… Người cách muôn trùng núi… ”

Tiếng nước róc rách, bông sứ tỏa hương ngào ngạt, ánh trăng thê lương, cuối cùng khi ông ta rời xa bờ sông, lần cuối ngoảnh đầu lại, rừng vải rậm rạp che bóng, Thịnh Đường đã chẳng phân biệt nổi cô đang trên chiếc thuyền nào rồi. Thuyền dân trên Châu Giang đông nghìn nghịt, thuyền hoa chạm trổ hoa lệ cũng nhiều không sao đếm xuể, đám nam nữ trên đó hoặc đang say sưa vui thú, hoặc đang sinh ly tử biệt, vạn sự cõi trần đều được nước sông mang về nơi phương xa trong im hơi lặng tiếng, hòa vào làn khói đen phủ kín chân trời.

Ngày hôm sau, ba trăm nghìn lượng bạc được rót vào tài khoản. Phan Thịnh Đường trở thành tổng mại bản của hiệu buôn Tây Phổ Huệ như ý nguyện, người trong họ bày tiệc rượu linh đình, chúc tụng đại thiếu gia nhà họ Phan được ngồi lên cái ghế thủ lĩnh phòng kế toán Hoa.

Sáng sớm hôm ấy Hà Sĩ Văn đón Vinh Mẫn Huyên về nhà, còn Trịnh Đình Quan cũng rời Quảng Châu đi Nam Dương ngay trong ngày.

Lúc bẩm báo lại tình hình, ánh lệ thoáng lướt qua mắt Hà Sĩ Văn: “Trịnh Đình Quan ngồi ngoài đầu thuyền, khoác một chiếc áo mỏng, vẻ mặt hết sức chật vật. Thấy tôi đến, anh ta gõ cửa khoang thuyền, nói: ‘Cô Phan, người nhà cô tới đón cô.’ Cô bèn khẽ đáp lời… Vào khoang thuyền, tôi thấy xiêm áo cô ướt đẫm. Hóa ra đêm qua Trịnh Đình Quan sợ cô nhảy khỏi thuyền chạy mất nên đã chèo thuyền ra giữa sông. Nhưng cô, cô lại nhân lúc anh ta… anh ta không để ý để lao xuống sông. Cũng may vẫn cứu lên được.”

Ban đầu, dù Mẫn Huyên có hành xử kích động tới mức nào, Thịnh Đường cũng sẵn lòng lượng thứ. Ông ta khẩn nài Vinh Mãn Huyên tha thứ, ra sức giải thích trên thương trường Trịnh Đình Quan chèn ép mình tới mức nào, mất đi cơ hội trở thành tổng mại bản của Phổ Huệ sẽ khiến nhà họ Phan tổn thất ra sao, thứ uy danh thời Chợ Mười Ba khó khăn lắm Phan gia mới tìm lại được không thể sụp đổ, ông ta vẫn sẽ đối xử với cô như xưa… Cô hoàn toàn không nghe lọt tai lời nào. Không nghe cũng chẳng hề gì, ông ta nghĩ mình vẫn sẽ yêu cô như trước. Thậm chí ông ta còn đưa cô về ở trong một căn biệt thự ngoại ô, lánh xa sự huyên náo thị thành, bên cô như hình với bóng suốt nửa tháng. Với một kẻ luôn cần cù công việc như ông ta mà nói, đây chẳng phải chuyện gì dễ dàng cho cam. Nhưng tính tình Mẫn Huyên đã thay đổi hoàn toàn, cô không còn thuận theo kẻ khác, cũng chẳng bao giờ dịu dàng ngoan ngoãn nữa. Họ hàng Phan gia không biết nguyên do, chỉ nghĩ cô tiểu thư nhà quan này kiêu ngạo xấc láo, không giữ được nết đàn bà. Bọn họ ghét bỏ cô, chửi rủa cô, còn cô thì khinh thường chẳng buồn phản bác. Cứ thế suốt một năm, đến Thịnh Đường cũng thấy vô vị. Cách hay nhất để trốn tránh sự tủi nhục và áy náy chính là lãng quên. Ông ta không thể chịu nổi bộ dạng của bản thân mỗi lần đối mặt với cô, cái bộ dạng nhún nhường tủi hổ ấy.

Càng lúc Thịnh Đường càng đắm chìm vào kinh doanh, thành công trong sự nghiệp như một tấm mạng nhện long lanh mật ong, khiến ông ta lưu luyến thức ngon ngọt, rồi lọt vào vòng xoáy không sao vùng vẫy thoát ra. Đối với một người đàn ông hừng hực dã tâm, chẳng gì không thể mang ra đổi chác. Tiền đồ vững chắc đang bày trước mắt, tất cả những điều còn lại đều có thể vứt bỏ sau lưng. Ông ta lặn lội khắp Thượng Hải, Hán Khẩu, Ninh Ba, thậm chí là lên thuyền viễn xứ, để Mẫn Huyên cô độc ở nhà. Đến tận khi tin ông ta cưới vợ lẽ truyền từ Hán Khẩu tới Quảng Châu, Mẫn Huyên sốc nặng, lần đầu trong đời cô buông bỏ sự kiêu ngạo của mình, viết thư cầu xin ông ta về nhà. Thịnh Đường hân hoan trở lại, rồi sau đó, cô có thai, sinh con… Ông ta từng chắc chắn cho rằng đó là con của mình.

Trong khoảng thời gian bình yên ngắn ngủi này, nhiều lúc ông ta tìm được đôi chút ấm áp như thuở mới kết hôn, nhưng nó mong manh như một lớp băng mỏng, ẩn nấp bên dưới là dòng xoáy của hỗn loạn và hoài nghi. Gió táp ập tới, dễ như trở bàn tay. Lần này, nó đã hủy diệt tất cả.

Thịnh Đường cũng tự thấy nực cười, tại sao cuộc đời mình lại có một nhân vật như Vinh Mẫn Huyên. Ông ta khôn ngoan lý trí, kiên định vững lòng là thế, ông ta hoàn toàn có thể gạt bỏ một người phụ nữ không hề có trọng lượng, chỉ là một người phụ nữ thôi mà, có phú thương nào lại thiếu đàn bà không? Cô ta là tiểu thư nhà quan thì có sao? Ông ta đã đoạt được thứ mình cần từ nhà họ Vinh rồi, phàm là dân kinh doanh có đầu óc ở Quảng Châu đều hiểu rõ lý lẽ này: “Quen quan lại nghèo, quen thương buôn giàu, quen con bạc thua mất quần, quen hòa thượng được vài món cơm chay.” Kết cục của những kẻ kết giao với quan phủ hầu như chỉ có hụt tiền lỗ vốn, nên biết thu tay đúng lúc mới là khôn khéo. Giá trị lợi dụng từ thân phận cao quý của Vinh Mẫn Huyên chẳng kéo dài được lâu. Nhà họ Vinh bại trận, giá trị này cũng cạn, Phan Thịnh Đường mang thân phận con rể nhà họ Vinh, đồng nghĩa với việc phải đối đầu với không ít hiểm nguy.

Nhưng cô vẫn là ngoại lệ mà ông ta không sao khống chế nổi. Vừa nhìn thấy cô, Phan Thịnh Đường đã cảm thấy như thất tình lục dục, tham sân si của mình bị lột trần sạch sẽ, cô chính là oan gia, là tai họa của ông ta.

Phát hiện cô lén tư thông cùng Trịnh Đình Quan, Thịnh Đường chợt có cảm giác như trút được gánh nặng. Ông ta không muốn tìm hiểu lý do sâu xa, không muốn nghĩ tới chuyện mình từ chối giúp đỡ người cha vợ lưu đày đã khiến cô đau lòng thất vọng nhường nào. Chọn lựa thù hận luôn dễ dàng hơn là yêu thương si dại. Chọn chiếm đoạt và phá hủy luôn thoải mái hơn là buông tay và tha thứ. Bán Mẫn Huyên để đổi lấy tiền bạc là nỗi sỉ nhục lớn nhất đời ông ta. Ông ta thấy cảm giác không còn nợ nần cô thật dễ chịu, cảm giác không còn thấp kém hơn cô lại càng tuyệt diệu hơn. Sự phản bội của cô đã ân xá cho tội lỗi Phan Thịnh Đường gây ra với cô. Cuối cùng ông ta cũng trong sạch, còn cô thì dơ bẩn cùng cực.

Mọi chuyện trở nên đơn giản hơn nhiều. Ông ta có thể hành hạ cô, làm nhục cô, bỏ mặc cô, hưởng thụ sự kiêu ngạo của kẻ bề trên mà chẳng cần hổ thẹn. Ông ta có thể thoải mái báo thù, tấn công Trịnh Đình Quan, cứ thế cho đến lúc đã cất bước cuối cùng tàn nhẫn tuyệt tình nhất…

Hồi ức đóng băng, rời rạc, ngổn ngang. Những đường nét tưởng nặng nề mà sao nhẹ bẫng, những vỡ vụn như ẩn như hiện, khẽ khàng di động trong lòng ông ta. Vết thương năm xưa ứa máu tươi, nhưng chủ nhân của nó đã có thể coi nhẹ cơn đau nó đem lại, rải một lớp muối giễu cợt lên như tự hành hạ bản thân.

Thịnh Đường cười ha hả, giọng ông ta khàn khàn vỡ vụn, ông ta thờ ơ nói: “Nếu con là ta, khi con biết người phụ nữ mình yêu tư thông với kẻ thù sau lưng con, đứa con con yêu như châu báu có thể là nghiệt chủng của gã gian phu nọ, con sẽ làm gì?”

Hai tay Ngân Xuyên lạnh ngắt, ánh mắt sắc lẹm nhìn thẳng vào mắt ông ta: “Tôi không phải ông.”

“Con không phải ta, nhưng chưa chắc con sẽ không rơi vào tình cảnh như ta năm ấy.”

“Không thể.”

Thịnh Đường lại cười khà khà: “Một đời dài lắm, chẳng thể chắc chắn nổi đâu. Nếu một ngày được thấy con trở nên giống ta, chắc hẳn sẽ phải thú vị lắm…”

Ngân Xuyên nhướng mày: “Tinh thần ông tốt hơn nhiều rồi, không phải là hồi quang phản chiếu đấy chứ?”

Thịnh Đường thở dài, như đang vô cùng bất lực: “Ta phải nhanh bàn chuyện chính thôi. A Sâm, trong ba ngày này con đã sắp xếp những gì cho ta rồi?”
 
Quyển 2 - Chương 66


Ngân Xuyên nói: “Hiệu buôn Tây đang điều tra sổ sách cũ của phòng kế toán Hoa, đa phần là các thương vụ chính tay ông phụ trách, tôi không có quyền cự tuyệt, cũng không thể giấu giếm tất cả. Vậy nên tôi đã kể hết những chuyện ông lén lút làm sau lưng hiệu buôn Tây cho họ rồi. Bọn họ thu hoạch được rất nhiều thông tin. Cuối cùng Edmund cũng biết kẻ luôn tỏ vẻ tận tụy trung thành trước mặt ông ta đã ngấm ngầm tư lợi không ít của cải. Ông ta tức tới độ suýt nữa bệnh tim tái phát.”

Thịnh Đường bình tĩnh gật đầu, ông ta nói: “Tim ông ta không khỏe, tưởng tượng ra cảnh Edmund thở hổn hển ta cũng thấy thú vị.”

Đôi đồng tử của Ngân Xuyên lập lòe, như đốm lửa nhỏ trong đêm đen: “Chuyện mấy năm trước ông dùng khối tài sản lớn của hiệu buôn Tây để thu mua công trái cũng lộ tẩy rồi, người ta đang tính lại khoản nợ này đấy. Đợi khi nào cả vốn cả lãi tính xong xuôi, người ta sẽ cầm bằng chứng tới tòa án kiện ông. Chắc chẳng đến lượt tôi sắp xếp gì cho ông đâu nhỉ?”

Thịnh Đường vẫy tay: “Con lại gần đây, tai ta kém, khó nghe lắm.”

Ngân Xuyên tiến lại, ngồi xuống chiếc ghế bên giường, gương mặt anh lạnh tanh.

“Căng thẳng không?” Thịnh Đường liếc nhìn anh, chưa đợi anh đáp ông ta đã nói tiếp, “Không việc gì phải căng thẳng. Giờ ta chỉ là một lão tàn phế, con còn sợ gì?”

“Có gì đáng để sợ? Tôi đâu phải người ngồi tù, cũng đâu phải kẻ tàn phế.”

Thịnh Đường ho khù khụ một tràng, ho tới độ mồ hôi lạnh lấm tấm trên trán, bả vai lẩy bẩy run.

Ngân Xuyên bình tĩnh nhìn ông ta: “Ông sợ rồi sao?”

Hơi thở của Thịnh Đường dịu trở lại, ông ta thở dài: “Ta đã sống quá nửa đời người trên thương trường, trông bao kẻ đến đến đi đi như đèn kéo quân. Ngày hôm nay huênh hoang phô tài, ngày mai đã suy sụp tàn tạ. Nói thực, ta không hề ngạc nhiên trước kết cục này. Nhưng cái thân xác già cỗi của ta đã bệnh tật ngấm tận xương, chẳng gánh nổi nạn ngục tù. Nếu mấy hôm nay chết luôn thì tốt, còn nếu không, niệm tình ta có công dưỡng dục con, hay con chịu kiếp nạn này thay ta đi?”

Ngân Xuyên nói: “Đương nhiên tôi phải đền đáp công ơn dưỡng dục của ông, vậy nên lỡ ông có vào tù, tôi đảm bảo sẽ không để ông rơi vào kết cục giống Hà Sĩ Văn. Hà Sĩ Văn chết thế nào nhỉ? Nuốt đũa chết phải không? Tôi sẽ cho người đút cơm cho ông ăn hằng ngày, ông chẳng cần dùng đến đũa đâu, thế có được không?”

“Cảm ơn con, con nghĩ sâu xa chu đáo quá. Chỉ là cuộc trò chuyện hôm nay hơi quái lạ, ta vẫn chưa kịp quen.”

“Tôi cũng không quen nói thật lắm. Ta cứ làm quen từ từ, không phải vội.”

“Khổ cho con phải nhẫn nhịn tới tận ngày hôm nay.” Ánh mắt Thịnh Đường chưa từng rời khỏi gương mặt Ngân Xuyên tới một giây.

Đã đến bước đường này rồi, tất thảy mọi chuyện trong quá khứ đều không còn là bí mật nữa, tất thảy câu hỏi đều đã có đáp án, dù bề ngoài vẫn có thể cười nói ung dung, nhưng trong mắt hai kẻ này đều đang hừng hực lửa cháy.

Thịnh Đường nhắm mắt, dùng đốt ngón trỏ day mi tâm theo thói quen, một lần, hai lần, ba lần… Rồi ông ta mở mắt, mỉm cười: “Con không mong ta chết, phải chứ?”

“Ông còn chưa trả xong nợ, ông trời cũng chưa xử lý ông, sao tôi có thể để ông chết được?”

Thịnh Đường nhướng mày: “Con trai, con lật bài tẩy sớm quá, cẩn thận lại chịu đòn ngược đấy. Con nghe ta khuyên một câu, về sau phải thận trọng hơn một chút. Ta nói câu này không lọt tai lắm, nhưng con còn trẻ, con không hiểu cung cách làm việc của ông trời đâu.”

Hơi thở của Ngân Xuyên dần trở nên gấp rút, nhưng khóe môi lại cong lên tạo thành một nụ cười.

Thịnh Đường cất lời đầy ẩn ý: “Ông trời thích nhất là đùa bỡn với đám thương nhân chúng ta, con nghĩ thử xem, trên thương trường lấy đâu ra công lý?”

Ngân Xuyên cũng gật đầu: “Đúng vậy, nếu trời cao thật sự có thể ban phát công lý thì e ông đã hóa thành hồn ma từ lâu rồi.”

“Đúng vậy, ta chẳng những không hóa oan hồn mà còn sống tới hiện giờ, nuôi con trai kẻ thù thành nhân tài.”

Ngân Xuyên lặng lẽ mỉm cười: “Sao năm đó ông không giết tôi?”

Thịnh Đường hỏi ngược lại: “Sao trong trận lụt năm ngoái con lại cứu ta?”

“Tôi chưa đạt được kết quả mình muốn.”

Thịnh Đường lại bật cười, như vừa nghe thấy chuyện gì mừng vui lắm: “Không hổ là đứa con ngoan ta đích thân dạy dỗ, tác phong hành sự giống hệt ta không khác một ly.”

Ngân Xuyên đáp lại bằng sự im lặng.

Thịnh Đường cười một hồi, thấy khát nước, bèn cựa mình lấy ly nước trên tủ đầu giường, chỉ tiếc ông ta không đủ sức. Vừa chạm tay, ly nước đã rơi xuống giường, chảy ướt đẫm gối và nền nhà. Ngân Xuyên ngồi im không nhúc nhích, nhìn ông ta chật vật loay hoay. Thịnh Đường cũng chẳng bận lòng, ông ta liếm môi rồi chầm chậm nằm xuống, cất một hơi thở dài, tiếp tục thều thào: “Bức huyết thư Mẫn Huyên để lại trước khi chết nói ta là cha ruột của con, ta chọn tin tưởng lời cô ấy. Năm đó nếu ta dám chắc con là con của Trịnh Đình Quan, ta sẽ không giữ con lại.”

Gợn sóng chợt lăn tăn trong đôi mắt phẳng lặng của Ngân Xuyên: “Ồ, vậy ông biết từ khi nào?”

“Ban nãy. Vậy nên ta mới nói con để lộ lá bài tẩy quá sớm. Tiếc thay, ta thật sự đã nuôi nấng con như con ruột suốt bao năm nay.”

Cơn rét lạnh chầm chậm lướt lên sống lưng Ngân Xuyên. Lão già này đây tuy đang khép hờ mắt, bộ dạng như sống dở chết dở, nhưng vẫn hừng hực thứ sát khí nồng nặc.

Thịnh Đường nói: “Cũng dễ hiểu thôi, người trẻ mà, dù có thận trọng tới mức nào thì khi nghĩ mình thắng rồi cũng sẽ không kiềm chế được phải khoe khoang một phen, huống chi bao năm nay con cần cù khắc khổ là thế, không nắm chắc phần thắng con đã chẳng dễ lật mặt. Ta đoán con cũng chẳng nhẫn nhịn nổi nữa rồi… Thôi được, theo lý mà nói, có vẻ ta cũng không đủ khả năng mà cò kè mặc cả với con, nhưng hôm nay con có thể kiên nhẫn ngồi đây, vậy ắt hẳn ta còn có chỗ gì đó hữu dụng. Nói ta nghe đi, con muốn ta làm gì?”

“Tất thảy những điều ông gây ra cho người khác khi xưa đều đang chầm chậm quay trở lại cắn xé ông. Tôi cũng sẽ khiến ông phải đem trả cả vốn lẫn lời, đền lại những gì ông đã cướp mất.” Khóe mắt Ngân Xuyên hời hợt liếc sang khay trái cây trên tủ đầu giường, “Ví thế này. Giả dụ xưa ông đã ăn một quả táo mình không nên ăn, điều tôi muốn làm bây giờ chỉ là khiến ông nôn hết cả cây táo ra thôi.”

Đôi mắt Thịnh Đường chợt trợn trừng. Trong tích tắc, ông ta rất muốn bóp chặt lấy cổ họng Ngân Xuyên, bóp nó nát tan thành từng mảnh, hoặc khoét đôi mắt chẳng buồn che lấp những chùm sáng rừng rực nọ, khiến chúng không thể nhìn ông ta nghênh ngang chẳng mảy may sợ hãi như vậy nữa. Nhưng đó cũng chỉ là những suy nghĩ vụt qua trong chớp mắt, ông ta còn không đủ sức mà vươn tay. Thịnh Đường nín lặng hồi lâu, dằn nỗi đau đớn như trăm ngàn mũi kim xuyên thẳng vào lồng ngực, ông ta khàn giọng: “Con…”

“Thật ra những thứ đó cũng không là gì với ông. Chẳng phải ông vẫn vượt qua được thời khắc khó khăn nhất đó sao? Nực cười thật, bán vợ đổi lấy tiền cọc mới nhặt được cơ hội trở thành mại bản, cúc cung tận tụy với chủ nhân nước ngoài suốt chục năm ròng, thế mà cuối cùng kết cục vẫn như chó nhà có tang đấy thôi?”

Thịnh Đường chỉ thấy thứ chất lỏng tanh tanh xộc lên cổ họng, ông ta vội vươn tay bịt chặt miệng, luồng hơi nóng phả thẳng vào lòng bàn tay, máu tràn ra khỏi kẽ ngón tay. Nỗi thương hại khó ai phát hiện thoáng dấy lên trong Ngân Xuyên, anh đưa cho ông ta chiếc khăn tay, Thịnh Đường nhận lấy, lau sạch tay và khóe miệng. Cuối cùng nụ cười bên khóe môi cũng tan biến.

Ngân Xuyên mở chiếc cặp táp đặt bên cạnh, lấy một xấp tài liệu ra: “Trong này có một trang do Edmund đích thân chép, ông ta đã xin ý kiến Thượng Hải và trụ sở chính London cho ông nghỉ hưu, tất cả các thành viên trong hội đồng quản trị đều ký tên rồi. Hiệu buôn Tây đã thật sự bỏ rơi ông. Cho ông cái này làm kỷ niệm.”

Nghe tới đây, bắp thịt nơi gò má Thịnh Đường giần giật, Ngân Xuyên chậm rãi thưởng thức nét biến hóa trên gương mặt ông ta.

Gót chân Achilles, bán thần mình đồng da sắt cũng có nhược điểm trí mạng. Với Phan Thịnh Đường, sự tín nhiệm của hiệu buôn Tây chính là nhược điểm của ông ta, sự tin cậy lẫn nhau và bản hợp đồng đã được gây dựng từ hàng chục năm hợp tác cuối cùng cũng mong manh chẳng chịu nổi một đòn tấn công.

Hợp đồng là gì? Với đám thương nhân, chẳng qua hợp đồng cũng chỉ là lợi ích. Thương nhân là hạng không có lợi sẽ chẳng ra tay, từ cổ chí kim chẳng có một ngoại lệ. Thử tách chữ lợi này ra, một bên là “lúa”, một bên là “dao”(*). Để Edmund có thể tặng Thịnh Đường một dao, Ngân Xuyên đã trừ mưu tính kế suốt thời gian dài.

(*) Chữ “lợi” (利) gồm có chữ “hòa” (禾): lúa, và chữ “đao” (刀): dao

“Hai tập còn lại có một phần là thỏa thuận chuyển giao cổ quyền, một phần là bản tuyên bố mối quan hệ thật sự của chúng ta. Tôi không cần bất cứ món địa sản, phòng ốc hay ngoại trang nào. Tôi chỉ cần tất cả cổ phần hiệu buôn Tây trong tay ông và Cảnh Huyên. Nếu ông không phản đối thì xin hãy ký đại danh của mình vào đây.”

“Ta không ký thì sao?”

“Như vậy thì không lý trí lắm đâu. Ông chia tay với Edmund rồi, cũng nên chuyển sang phe tôi, không còn vị trí ở hiệu buôn Tây ông vẫn có thể ở nhà dưỡng lão như thường. Còn nước còn tát, việc gì phải sầu, mất chút tiền có đáng là gì, dù sao vẫn đỡ hơn là ngồi tù chứ nhỉ? Chẳng lẽ ông thật sự muốn tôi cho người hằng ngày vào tù bón cơm cho ông sao? Tôi đang thật sự muốn để lại đường lùi cho ông đấy.”

Thịnh Đường nói: “Con lấy mất cổ phần chẳng khác nào xóa sạch tâm huyết suốt ba mươi mốt năm của ta, ta nghĩ con nên giết ta thì hơn. Hoặc không thì nói thêm mấy câu cho ta tức đến chết đi, đừng để lại đường lùi nữa. Năm đó ta để lại đường lùi cho con nên mới lâm vào cảnh hôm nay.”

“Ba mươi mốt năm của ông được đổi lấy nhờ bán mẹ tôi. Ông mưu hại cha tôi, nhân lúc nhà họ Trịnh không có ai chèo chống để vừa đạp đổ, vừa lừa cướp núi vàng núi bạc, chắc ông cũng biết ông cướp mất bao nhiêu từ nhà họ Trịnh rồi. Đừng nói mình lương thiện như vậy, có thể ông nhất thời mềm lòng tha cho tôi, nhưng ông chưa từng ngừng hoài nghi và thăm dò tôi. Ông vô cùng tự tin, dù tôi có là con trai của kẻ thù, ông cũng tự phụ mình đủ thủ đoạn đày đọa tôi đến chết. Trước khi đày đọa tôi đến chết, ông còn có thể khiến tôi bán mạng kiếm tiền về cho nhà họ Phan.”

“Con thông minh thật, ta còn không biết mình nên khen ngợi con thế nào.”

“Vậy nên ông không thể chết được. Cha tôi là đại ân nhân của ông, ông còn chưa báo hết ơn mà. Tôi sẽ không cho mọi người hay ông là tên hung thủ giết người vô liêm sỉ, tôi sẽ nói với họ vì muốn đền đáp ân huệ, ông đã nuôi dưỡng tôi, cả đời ông cũng không thể quên đại ơn đại đức của nhà họ Trịnh. Vậy nên ông yêu thương che chở, nuôi dưỡng tôi như con trai ruột. Giờ ông già rồi, sắp chết rồi, còn tôi cũng đã trưởng thành, nên ông quyết định công khai thân phận thật sự của tôi, yên tâm giao phó lại cho tôi sự nghiệp vốn thuộc về tôi.” Nụ cười của Ngân Xuyên như gió xuân thoảng qua mặt sông kết băng.

Dường như Thịnh Đường chẳng mảy may thương tổn vì lời nói này, mà ông ta chợt trầm lặng trong chốc lát, như nhớ về chuyện gì đó xa xăm lắm. Gương mặt ông ta thoáng ngẩn ngơ, có cả phần thương cảm, chẳng thể dùng lời lẽ mà hình dung. Lòng Ngân Xuyên lại càng thêm cảnh giác, đoán không biết lão cáo già này có đang trù tính thứ âm mưu thâm độc nào không. Thịnh Đường lại chật vật ngồi dậy, vươn tay nói: “Đưa cho ta đi.”

Ngân Xuyên do dự trong chớp mắt, anh đưa tài liệu cho ông ta. Thịnh Đường dụi mắt, vừa lật giở tài liệu vừa nói: “E là Edmund không dễ bị thuyết phục đâu, chắc con phải mất một khoản tiền lớn rồi.”

Đến lúc này, Ngân Xuyên cũng không thể không khâm phục khả năng kiềm chế của Thịnh Đường, anh đáp: “Tôi tặng ông ta một chút cổ phần ngân hàng.”

Thịnh Đường nhướng mày, tỏ ý muốn anh giải thích.

Vẻ tươi cười của Ngân Xuyên hóa thành một mũi dao nhọn: “Cuối tháng này Hiệu bạc Phú Hưng sẽ chính thức trở thành ngân hàng, tôi là một trong các đại cổ đông của họ. Tiền vốn… được tôi lấy về từ London.”

Thịnh Đường đặt tài liệu xuống, ông ta mỉm cười, chậm chạp vỗ tay mấy nhịp: “Hay, làm hay lắm!”

Lúc này chút sắc máu lưu lại trên môi ông ta đã cạn sạch, trông sao khô héo phờ phạc, nhưng cặp mắt lại lập lòe sáng rực, như một con rắn sắp chết, chẳng còn sức tấn công, nhưng vẫn còn giữ được sự kiêu ngạo cay nghiệt: “Năm đó Trịnh Đình Quan vừa chết ta đã bắt tay với các hiệu buôn, mất hai năm mới có thể hủy hoại nhà họ Trịnh, cứ ngỡ cuối cùng kẻ địch đã bại, nào ngờ ông trời vẫn còn nhân từ với Trịnh gia. Trịnh Đình Quan để lại tiền, còn ta lưu lại mạng cho con, để con đánh một màn chiến chuyển mình đẹp tới nhường này!”

“Cần bút không?” Ngân Xuyên lắc chiếc bút máy. Thịnh Đường vươn tay nhận, ký tên mình và mọi trang cần chữ ký, tóc bạc tang thương, cổ tay run rẩy. Ký xong, ông ta khẽ thốt: “Nhìn con bây giờ như nhìn thấy chính mình hơn ba mươi năm trước. Quạnh quẽ góc khuất, một thân một mình, A Sâm, chắc chắn giờ con đang cô độc lắm.”

“Chúng ta không giống nhau.”

“Cũng đúng, con không giống ta. Vì ta là Phan Thịnh Đường, còn con là con. Con giống ta nhưng không phải là ta.”

“Có lẽ vậy.”

“Ta muốn hỏi con một câu, câu hỏi này đến chính ta cũng thấy có phần hoang đường.”

“…”

“Chúng ta có thể thử hòa giải không?”

“Hòa giải?”

“Dừng chân ở đây, đường đường chính chính làm người, học cách buông tay, buông bỏ những thứ mà con không nên có. Những thứ ấy có độc. Con hãy trả chúng lại cho ta, ta đã đánh mất tâm tính của mình trong dục vọng, đã quen với chất độc của chúng. Nhưng con không phải ta. A Sâm, dừng lại đi, ta bằng lòng đặt dấu chấm hết với con trong ngày hôm nay. Con hãy làm lại từ đầu, sẽ có một con đường xa hơn, thích hợp với con hơn. Hãy buông bỏ mối ân oán này đi, con tha thứ cho ta, ta cũng tha thứ cho con.”

Vẻ siêu việt khiến con người ta kinh ngạc bàng hoàng hiện lên trên gương mặt Phan Thịnh Đường, khiến Ngân Xuyên cảm thấy nực cười, cũng thấy nguy hiểm:

“Nếu muốn tha thứ, ông nên đi hỏi người mẹ người cha đã khuất của tôi, hỏi họ xem rốt cuộc từ này có ý nghĩa gì. Hơn nữa tôi cũng chẳng có gì cần ông tha thứ.”

Thịnh Đường cười khổ: “Cũng đúng. Giữa chúng ta sao nhắc nổi tới từ hòa giải.” Ánh sáng lập lòe trong mắt ông ta, “Nhưng trận chiến của hai ta cũng chẳng có thắng hay thua. Kết cục của đôi bên ra sao vẫn phải nghe ý trời.”

Ngân Xuyên cất tài liệu đi, lạnh nhạt thốt: “Vậy chỉ có thể đợi thôi.”

“Con gọi mọi người trong nhà vào đi, gọi tất cả vào, kể cả người làm. Đây là lúc nên công khai thân phận thật sự của con… Con muốn ta nói thế nào ta sẽ nói như vậy.”

Ngân Xuyên hoài nghi nhìn Thịnh Đường.

Thịnh Đường khẽ nhếch đôi môi khô nứt, khinh thường gật đầu: “Dù ta nói xằng nói bậy với họ thì liệu có thể tổn hại gì tới con? Hay để ta đoán thử xem con còn đang kiêng dè điều gì…”

“Tôi không kiêng dè, cũng không sợ hãi.” Ngân Xuyên ngắt lời ông ta.

“Vậy thì… A Sâm, tạm biệt.” Thịnh Đường như cười như không, ông ta chậm rãi nằm xuống, nhắm mắt lại.
 
Quyển 2 - Chương 67


Quá trình công bố thân phận thuận lợi hơn trong tưởng tượng nhiều. Cũng vì vậy mà Ngân Xuyên bắt đầu có dự cảm bất an. Nhưng dự cảm này không giúp được gì cho anh. Có lẽ Phan Thịnh Đường nói đúng, quả thực anh còn quá trẻ, tầm nhìn anh bị vây khốn bởi hiện tại, bởi thù hận và dục vọng, không sao phóng mắt ra xa nổi.

Sự hỗn loạn ngày hôm ấy chẳng hề lưu lại dấu tích quá sâu đậm trong anh. Bà Vân định bụng thương lượng chuyện gì đó, Cảnh Huyên kinh hãi, phẫn nộ bỏ đi, Vân Thăng phấn khởi hồ hởi, càng thêm nịnh nọt phụ họa. Anh chẳng hề chú tâm tới bất cứ điều gì. Anh chỉ nhớ so với phản ứng của mọi người, Cảnh Ninh bình tĩnh tới lạ kỳ, thậm chí vẻ mặt cô còn hờ hững thờ ơ. Cô quay đầu nhìn chiếc đồng hồ đặt trên bàn, nhìn chằm chằm nhịp dao động của con lắc, chẳng buồn thốt một lời.

Ngoài cửa, gió thổi lồng lộng, những tia sáng nhốn nháo phản xạ qua lớp cửa kính, chiếu lên trần nhà. Hễ tán cây chuyển mình, ánh trăng sẽ lại liên tục đung đưa. Ngân Xuyên và mọi người không muốn làm phiền Thịnh Đường nghỉ ngơi nên đã dời vào thư phòng để tiếp tục bàn bạc. Cảnh Ninh cau mày, quay trở lại phòng mình. Bà Vân gọi tên cô hai lần, cô đều làm như không nghe thấy.

Đến tận nửa đêm, sự xao động và nỗi bất an vẫn cứ bủa vây Ngân Xuyên. Anh đã quá mệt mỏi, mệt tới độ không sao ngủ nổi. Anh đứng dậy bước khỏi phòng ngủ, lang thang trong căn nhà đã gắn bó với mình suốt hơn mười năm một cách vô định. Chiếc đèn tường thủy tinh phủ một lớp hơi nước. Bức tranh treo trên vách, lớp rèm cửa bằng vải tỏa ra thứ hương rất đỗi thân quen. Người làm trực đêm trong bếp đang chuẩn bị đồ ăn ngày mai và thuốc cho Thịnh Đường, đủ thứ hương vị hòa trộn vào nhau, nghèn nghẹn nặng trịch. Ngân Xuyên xuống tầng, bước vào thư phòng, mở cửa sổ hít thật sâu mùi rêu xanh ngoài vườn hoa.

Có tiếng bước chân nhẹ nhàng vọng lại từ phòng khách, càng lúc càng gần hơn. Anh biết chắc chắn là Cảnh Ninh, cô đang bước về phía anh.

“Anh cả.” Cô khẽ cất tiếng gọi anh.

Không biết vì lẽ gì, anh chợt mất dũng khí để quay đầu lại. Cũng may Cảnh Ninh chỉ đứng ngoài cửa chứ không bước vào.

Trước đó cô đã ngồi ngơ ngác trên sô pha phòng khách cả buổi, những ký ức từ thuở thơ ấu tới khi trưởng thành trở nên sinh động tươi tắn dưới ánh đèn mờ. Rất lâu, rất lâu trước đây, cũng tại căn phòng khách này, cô đã nhìn thấy người anh trai bé nhỏ có đôi mắt thật to, gương mặt thật đẹp nhưng lại buồn bã tới lạ. Cô cố tình chạy tới cướp đồ chơi của anh, cô muốn anh chú ý tới mình, cũng muốn trêu anh, làm anh vui. Cô còn nhân cơ hội thơm anh, với cô, đây là cách dễ khiến mọi người vui vẻ nhất. Sau đó đúng là anh đã cười thật.

Cô chưa từng quên, chuyện đã từ lâu lắm rồi nhưng cô vẫn nhớ. Vì nhớ nên cô lại càng đau khổ. Vì nhớ nên khi nghe tiếng anh bước vào thư phòng, cơn sóng lòng trong cô lại cuộn trào, lại kìm lòng không đậu, lặng lẽ đi theo anh.

Cuối cùng Ngân Xuyên cũng quay lại. Cảnh Ninh ngơ ngác, nhìn anh chằm chằm.

Anh vừa cất bước cô đã lập tức xua tay, thì thầm: “Đừng lại đây.” Cô khựng lại, rồi giải thích, “Anh xem, nói với anh một câu thôi em đã chỉ muốn khóc rồi, anh mà lại đây thì em biết làm thế nào?”

Ngân Xuyên không đáp lời.

Trong sự tĩnh lặng khôn tả, họ nhìn gương mặt nhau từ xa, rồi lại cùng phát hiện ra thứ khí chất tương tự nào đó ở nhau: Sự lặng im và bướng bỉnh toát ra từ nơi sâu thẳm nội tâm, lúc nhẹ nhàng ngẩng đầu lên, lại thấy bão táp mưa sa ẩn hiện nơi đáy mắt, hừng hực cố chấp như một bóng ma.

Đột nhiên, cô hiểu ra nổi đau khổ của anh, nỗi đau khiến cô sợ hãi cùng mối nguy hiểm rình rập đang chầm chậm lan khắp cơ thể cô. Cô dợm bỏ chạy theo bản năng, còn anh lại nhanh chóng tiến đến níu cô lại, anh kéo cô vào phòng, đóng cửa, không nói lời nào.

Cô kinh hoàng, còn cơ thể anh lại khẽ khom xuống, áp cô vào tường, hai người gần nhau trong gang tấc, hơi thở giao hòa như vừa nhấm nháp ly rượu nóng.

Ánh mắt anh chèn ép cô, đôi đồng từ đen như mực, hừng hực lửa cháy, cuồn cuộn cuồng phong, nhưng cũng ấm áp như nhung tơ.

Đây là một người đàn ông đang nhìn người anh ta yêu.

Suốt bao năm ròng, trong ký ức của cô, anh luôn đáp ứng mọi yêu cầu cô đưa ra, cô muốn gì anh cho nấy, dù cô khinh thường anh, mắng mỏ anh, trút giận lên anh, anh luôn cam tâm tình nguyện chấp nhận, tại sao chứ? Tại sao Cảnh Huyên cũng là anh trai cô, thậm chí huyết thống họ còn thân cận gần gũi hơn, nhưng Cảnh Huyên cũng chưa bao giờ tốt với cô được như anh.

Tại sao chứ?

Thực chất cô đã nhận ra từ lâu rồi, chỉ là nỗi hổ thẹn và bất an lởn vởn khiến cô không muốn đào sâu thêm, tâm tư vừa chạm tới cánh cửa cấm đoán bí mật ấy, cô đã tự giác tháo chạy ngay. Lúc này họ gần sát bên nhau, ánh mắt anh vừa lạ lẫm, vừa quen thuộc. Anh đã luôn nhìn cô như vậy, từ rất lâu, rất lâu rồi, ánh mắt anh đã luôn là thế!

Ngón tay thon dài, nhiệt độ lành lạnh, như mặt nước hồ tĩnh mịch thoang thoảng cơn gió, tay anh vuốt ve gò má cô. Tim Cảnh Ninh đập thình thịch, đầu nặng trịch, chân nhẹ bẫng, cô vươn tay chặn Ngân Xuyên lại, không để anh lại gần, nhưng lại chẳng thể ngăn được ánh sáng cháy rực trong mắt anh.

Không kịp rồi.

Anh đã níu được đôi môi cô.

Cô không sao thở nổi, cô như đang trong một giấc mơ, ngã từ trên trời cao xuống, ngã xuống vực sâu vạn trượng, bay bổng, hốt hoảng tới cùng cực. Còn kẻ đang điều khiển cô lại vô cùng ung dung, bàn tay anh lướt trên từng đường cong cơ thể cô, cương quyết mạnh mẽ, không biết thỏa mãn; đôi môi anh khống chế cô, lôi kéo cô, hừng hực, mà vững vàng, phá tan thành lũy trong cô, khiến tâm tư hỗn loạn của cô như ánh trăng ngoài cửa sổ bị cuốn theo cơn gió thu lay.

Đáng lẽ phải như vậy từ sớm, đáng lẽ phải phơi bày từ sớm. Nhẫn nhịn chịu đựng suốt bao năm ròng, rồi lúc này lý tính và mưu mô tiêu tan sạch sẽ, đầu hàng trước khát vọng tha thiết chẳng thể nói thành lời. Trong vô số những đêm dài mất ngủ, Ngân Xuyên từng chống cự lại những mộng tưởng hão huyền này, liều mạng chống cự chúng, nhưng theo thời gian, thứ tình yêu cố chấp ấy đã hóa thành thuốc độc, ngấm vào mỗi tấc huyết quản anh từ lâu. Cô vĩnh viễn không bao giờ biết được thứ tội lỗi nhục nhã anh oằn mình mang trên lưng, anh đã gồng gánh nó suốt bao năm ròng, cô sẽ vĩnh viễn không bao giờ hiểu anh đáng khinh, đáng thương hại tới nhường nào.

Nhưng trên cõi đời này đây, ngoài báo thù ra anh liệu anh còn có gì? Đời người mịt mờ, vì còn có cô nên mới không trơ trọi lẻ loi. Mọi ao ước mọi gửi gắm, niềm khao khát ấm áp từ sâu thẳm thâm tâm, tất cả đều là cô… Sao anh có thể trơ mắt nhìn cô yêu một người đàn ông khác?

Mặc mọi mối tâm tư như ngựa đứt cương, anh đắm chìm trong sự ấm áp và hương thơm của cô, anh siết chặt cô, ôm lấy cô như bằng sức lực của cả đời người, chỉ sợ hễ lỏng tay, hễ ngừng môi hôn, cô sẽ bỏ chạy. Lớp áo trước ngực ướt đẫm vì nước mắt cô, cô không phải là giả, không phải mộng mị, cô đang trong lồng ngực anh, nhưng làm sao để có thể giữ cô lại đây mãi mãi?

Gò má anh nóng rát. Cô ra sức vùng vẫy, giáng một bạt tai nặng nề lên mặt anh.

Cô run rẩy nói: “Anh muốn ép em phải chết đúng không?”

Ngân Xuyên như bừng tỉnh khỏi giấc mộng, anh buông tay, lý trí quay lại rồi, cơ thể vẫn còn run rẩy.

Hai tay Cảnh Ninh ôm lấy vai, cô cuộn mình lại, chầm chậm quỳ xuống, người run lẩy bẩy, nhưng một chú chim nhỏ gãy cánh trong trận mưa rền gió dữ.

“Bé Hạt Dẻ…”

“Đừng gọi em như vậy…” Cảnh Ninh lấy tay che mặt, khó khăn khống chế cảm xúc mình, “Anh là anh trai em, anh là anh trai em, dù anh có là Phan Cảnh Sâm hay Trịnh Ngân Xuyên, anh vẫn là anh trai em. Anh là anh cả của em… Anh là…”

Hốc mắt Ngân Xuyên nóng rực, có hòn đá nghẹn nơi cổ họng, anh gắng gượng thốt: “Em có biết anh mệt mỏi tới mức nào không? Chắc chắn em biết anh đã đau khổ thế nào suốt bao năm nay, Hạt Dẻ…”

Cô lắc đầu, tủi thẹn tột cùng: “Em xin anh đừng gọi em như vậy nữa, em sợ anh gọi em bằng cái tên này, coi như anh thương hại em đi… Trước đây anh có đối xử tốt với em tới mức nào em cũng có thể thản nhiên nhận lấy, nhưng giờ thì không được nữa. Anh gọi em như vậy là sai, ban nãy anh làm vậy với em cũng là sai. Ngay cả việc em và anh cùng ở chung dưới mái nhà này cũng là sai.”

Cô cắn răng, không nhìn anh thêm nữa, cứ thế mở cửa lảo đảo bỏ đi, cô không quan tâm tới nỗi giày vò anh đang phải chịu đựng, không quan tâm trái tim anh có thứ gì đó vỡ vụn sụp đổ.

Ngân Xuyên ngơ ngác đứng đó, phía trước như chợt dâng lên một khoảng không mênh mông cuồn cuộn, ngăn cô bên một bờ cõi anh không bao giờ có thể chạm tới.

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 68


Đứng trên gác tòa tháp đồng hồ bên bờ Giang Hán nhìn xuống Trường Giang, bạn sẽ chẳng nghe nổi tiếng nước chảy mà chỉ thấy gió sông vô hình, nó ra sức khuấy động sóng dữ, ép hơi cuồn cuộn. Trong luồng hơi này, thanh âm huyên náo nơi phố chợ được điểm thêm những nốt mơ hồ, hòa vào tiếng gió, nhộn nhạo trong ý thức con người, khi vô hình, lúc hữu hình, như gần như xa, tựa thực tựa ảo.

Nếu trái tim có thể nhảy lên một chốn nào đó cao hơn, lên mây xanh, lên trời cao, nếu bạn bằng lòng đứng đó, tiếp tục dõi mắt xuống thế gian, giới hạn thời gian và không gian sẽ bị phá bỏ, cả thế giới này rồi cũng hóa thành một chỉnh thể hỗn độn, sự tụ hội và va chạm giữa người với người bỗng hóa im hơi lặng tiếng.

Ai đã một tay sắp đặt tất thảy, đã sắp đặt một thế cờ khổng lồ không sao kiểm soát nổi, mà cũng là thế cờ nhỏ bé lạ kỳ có thể đổi khác bất cứ lúc nào? Ai đã quyết định nguyên lý tồn tại của nó?

Khi bạn đứng trên cao, ở một nơi vời vợi vượt lên trên vạn vật, mọi chuyện trên đời chẳng còn phân chia lớn nhỏ, chẳng còn tính đến xa gần trước sau. Tất cả chỉ còn là hỗn độn. Nhưng lại có một tràng huyên náo gấp gáp còn đang tồn tại, nó là sự rung động tâm can của nhân thế nhỏ bé.

Mùa thu năm 1932, tại trụ sở chính London của Phổ Huệ, các quản lý cốt cán đang đau đầu vì kế hoạch cắt giảm chi nhánh Đông Á. Những áp lực nặng nề của nền kinh tế ảm đạm ép họ phải đổi mới, phong cách chững chạc khiêm nhường của London trôi vào dĩ vãng, thứ phong độ được giới quý tộc châu Âu lâu đời bị xem nhẹ và đang lung lay, dần phải nhường chỗ cho phong cách Mỹ cấp tiến, coi trọng hiệu suất và tốc độ, sở hữu chế độ sử dụng nhân lực linh hoạt. Lúc này, một phong thư thông báo được đặt trên bàn phòng họp, nó đã được người ta thờ ơ đọc qua một lượt, nói là thơ ơ vì thực chất nội dung bên trong chẳng có gì đáng nói, chỉ đề cập tới sự thay đổi nhân sự của một chi nhánh của Phổ Huệ tại Trung Quốc. Chỉ một thành viên hội đồng quản trị thoáng tò mò với hai cái tên người Trung Quốc được nhắc trong thư: “Chẳng lẽ họ không phải cha con ư? Sao lại một người họ Phan, một người họ Trịnh?” Đương nhiên ông ta không hề hay biết câu hỏi bâng quơ của mình đã gây ra làn sóng chấn động lớn tại thành phố Hán Khẩu Trung Quốc cách họ vạn dặm, đồng thời kéo theo bao người lọt vào vòng nước xoáy, trải nghiệm một sự biến đổi lâu dài.

Các tòa soạn hay tin hôm nay phòng kế toán Hoa của Phổ Huệ chuẩn bị công bố một thông tin quan trọng, hay nói cách khác, gia tộc họ Phan chuẩn bị công bố một việc quan trọng. Thực chất giới kinh doanh và giới báo chí đã biết trước về chủ nhân tương lai của phòng kế toán Hoa nhà họ Phan, chắc hẳn Phan Cảnh Sâm sẽ vững vàng bước lên ghế tổng mại bản, nhưng giả sử đây là chuyện được công bố hôm nay, trong khi cuộc họp báo lại được công khai một cách vội vã thì ắt phía sau còn ẩn tình gì đó.

Tiếng chuông bên bờ Hán Giang vọng lại từ xa, lúc này là 10 giờ sáng, có hai chàng trai trẻ đang bước từ phía mái hiên của tòa hiệu buôn Tây nguy nga ra, đó chính là Vu Tố Hoài và Lý Nam Gia. Sau lưng họ là Phan Thịnh Đường, Phan Cảnh Sâm cùng các ngài Mẫn, Tạ, Thiệu, Hứa,… Đây đều là những nhân vật đứng đầu hãng buôn trăm năm tuổi, tiếng đèn flash lập tức vang lên dồn dập, đám ký giả chen chúc dưới bậc thang ùa lên.

Phan Thịnh Đường chắp tay chào hỏi, cất lời bằng chất giọng khàn khàn ốm yếu: “Cảm ơn các ký giả, mọi người chờ lâu rồi.”

Tất cả cùng nín thở.

Chẳng khó phát hiện vẻ ốm yếu tiều tụy của Phan Thịnh Đường, ông ta bước đi loạng choạng, nói năng thều thào không ra hơi, tay run lẩy bẩy, xem ra tin tức Phan Thịnh Đường rút lui vì bệnh tật cũng không phải lời đồn vô căn cứ. Cậu cả nhà họ Phan phong độ ngời ngời đứng bên Thịnh Đường, anh mặt bộ vest đen thẳng thớm, cứ chốc chốc lại đưa mắt ngó Thịnh Đường đầy quan tâm, nhỏ giọng nhắc ông ta chú ý bậc thang, nét mặt rất mực nhã nhặn khiêm nhường, nhưng lại tỏa ra khí phách của kẻ nắm quyền. Đồng thời còn có một tiểu tiết nhỏ chứng minh cho vị thế của hàng trai này, đó là các nguyên lão Thiệu Từ Ân, Mẫn Bách Xuyên, Tạ Tề Phàm đều đang đứng bên tay phải anh như tốp người ủng hộ.

Thịnh Đường mắt nhìn thẳng, cười nói: “Thịnh Đường vô cùng cảm kích vì bạn bè cánh báo chí bỏ thời gian ghé tới đây. Hôm nay có hai chuyện tôi muốn tuyên bố với các vị. Thịnh Đường nay đã gần sáu mươi, từ ngày hai mươi theo nghề kinh doanh tới nay đã được bốn mươi năm. Thịnh Đường tôi vốn khỏe mạnh minh mẫn, tuy thế năm ngoái lũ lụt tràn đến gây nên bệnh phổi, năm nay bệnh tình trở nặng, không sao khá nổi. Đời người lắm bất trắc, mai kia Thịnh Đường nhắm mắt xuôi tay, sống chết có số phú quý do trời, chuyện này chẳng có gì đáng bận tâm. Nay trọng bệnh, Thịnh Đường tôi chỉ có hai chuyện canh cánh trong lòng. Một là việc kinh doanh của phòng kế toán Hoa không được có bất cứ sai sót nào, bệnh tình của Thịnh Đường khó lường, khó lòng đảm đương chức trách của một tổng mại bản, kể từ nay trở đi, phòng kế toán Hoa sẽ do cậu Trịnh Ngân Xuyên quản lý.” Ông ta ngừng lại, bồi thêm một câu, “Cậu Trịnh Ngân Xuyên chính là người đang đứng bên cạnh tôi đây, con nuôi của tôi, Phan Cảnh Sâm.”

Thời gian như ngưng bặt trong khoảnh khắc ấy, rồi rất nhanh sau đó lại tựa nổ tung, mọi người bắt đầu xôn xao.

Thịnh Đường nhẹ nhàng ngoảnh đầu, liếc nhìn chàng trai đã trở thành tiêu điểm của đám đông, vầng trán anh nhẵn bóng, đôi tròng mắt đen láy đưa ánh nhìn sáng rực dõi khắp, khóe miệng lại khẽ giãn ra, nở một nụ cười bình tĩnh đã được luyện tập bài bản. Điều này đã khiến Phan Thịnh Đường tìm lại được thứ tâm tình mình đã đánh mất từ lâu, thứ tâm tình này từng xuất hiện khi ông ta vác bọc hành lý trên lưng, lên đường rời nhà theo con đường kinh doanh, cũng từng xuất hiện khi ông ta có một hiệu buôn thuộc về mình, vào ngày ông ta giành được một chỗ ngồi bé nhỏ trong cái thế giới mình hằng ước ao, và từng xuất hiện vào thời khắc ông ta gần như đã đánh đổi mọi thứ bản thân có thể để ngồi lên được lên cái ghế tổng mại bản. Chẳng phải khi ấy ông ta cũng như vậy sao. Cũng căng thẳng, cũng hưng phấn, cũng nghiêm túc, tràn ngập cảnh giác và đề phòng.

Thế giới này nào thiếu những người như họ, ác nghiệt như một hòn đá, tàn nhẫn như một lưỡi dao, không tin vào một sự bình yên, vững chắc chân thực, họ có thể đánh mất bất cứ lúc nào, có thể cướp đoạt bất cứ lúc nào, mãi mãi không bao giờ nhận thua; thế giới nào thiếu thứ tâm tình như vậy, cái bóng ma quỷ xảo quyệt của nó sẽ không tan vào hư vô theo năm tháng, dù vùi lấp trong đống hoang tàn của ký ức, rồi cũng đến lúc nó sẽ hừng hực bùng cháy như lửa rừng.

“Cuộc đời còn nhiều chuyện ngoạn mục hơn cả những màn kịch.” Thịnh Đường thầm thốt, “A Sâm, con hãy tận hưởng màn kịch hay này đi…”

Sự ung dung tuyệt vời không sao kể xiết khiến ông ta quên cả cơn đau trong lồng ngực, bỏ qua luôn sự sốt ruột do những câu hỏi liên miên tới tấp của đám ký giả. Ông ta vươn tay, ra hiệu cho mọi người giữ yên lặng rồi nói tiếp:

“Chuyện thứ hai tôi muốn thông báo với mọi người chính là thân thế của Ngân Xuyên. Vì sự tôn trọng của tôi dành cho Ngân Xuyên và cha ruột của chàng trai này, tôi buộc phải công bố chân tướng cho mọi người. Thành thực mà nói, trước giờ phúc họa luôn đi liền với nhau, những năm nay nhà họ Phan gặp phải nhiều biến cố trắc trở, suy cho cùng nguyên nhân đều là vì chữ ‘tiền’, vào tháng Năm của năm Tuyên Thống đầu tiên, ân nhân họ Trịnh đã giao phó Ngân Xuyên cho tôi chăm lo, về sau cốt nhục chia ly, xa rời phút chốc bỗng hóa đoạn tuyệt vĩnh hằng, tất cả cũng chỉ vì phú quý chuốc lấy hung hiểm. Những chuyện xưa cũ phức tạp thôi thì không nhắc nữa, người ta hay bảo ăn tám lạng trả nửa cân, huống chi ân tình nhà họ Trịnh với chúng tôi như núi như biển… Thịnh Đường không thể chối bỏ trách nhiệm, ắt phải tự tay nuôi nấng, chăm sóc Ngân Xuyên như con ruột…”

Có ký giả mất kiên nhẫn ngắt lời: “Ngài Phan, cho hỏi tại sao tới ngày hôm nay ngài mới công bố thân thế của anh Trịnh?”

Thịnh Đường cười nhạt: “Cha ruột Ngân Xuyên chính là con trai độc đinh ba đời nhà họ Trịnh năm ấy bất hạnh bị kẻ gian sát hại, họ Phan tôi mong bảo vệ giọt máu duy nhất của nhà họ Trịnh, đương nhiên sẽ phải cảnh giác, chưa mười phần chắc chín thì nào dám dễ dàng công bố tin này?”

Có ký giả biết sơ về chuyện năm nọ tại Châu Giang lập tức truy hỏi: “Vậy ân nhân họ Trịnh mà ngài nhắc tới có phải chính là mại bản số một Quảng Đông năm xưa, ngài Trịnh Đình Quan không?”

Thịnh Đường liếc nhìn Ngân Xuyên, anh vẫn đứng vững không nhúc nhích, nơi sâu đáy mắt là nỗi đau đớn, là sự vùng vẫy mà chỉ mình ông ta thấy được. Thịnh Đường thở dài, nở nụ cười bất đắc dĩ, trả lời câu hỏi: “Không, dù nguyên nhân họ qua đời có phần tương tự, nhưng đây là hai người hoàn toàn không dính dáng tới nhau.”

Ông ta nhấn mạnh cụm từ “hoàn toàn không dính dáng” như để thể hiện sự chắc chắn. Ký giá đặt câu hỏi thoáng thất vọng, rồi lại chợt lộ vẻ tò mò, đang định bụng tiếp tục đặt câu hỏi, Thịnh Đường đã chắp tay: “Chuyện cần nói Thịnh Đường đã nói cả, còn những việc riêng của gia đình xin các vị cho phép Thịnh Đường giữ lại cho mình. Nói chung, giờ đây cái tên Trịnh Ngân Xuyên đã chính thức được công nhận, nhưng Ngân Xuyên vẫn là đứa con trai yêu dấu khác họ của tôi, nhà họ Phan vẫn là nhà của Ngân Xuyên. Từ hôm nay trở đi, Ngân Xuyên sẽ chính thức thay tôi trở thành tổng mại bản của hiệu buôn Tây Phổ Huệ, xin các vị hãy yêu thương và giúp đỡ Ngân Xuyên như đã quan tâm tới tôi năm ấy. Thịnh Đường xin cảm ơn các vị!”

Nói rồi, ông ta khom người thật thấp rồi chầm chậm đứng thẳng lưng, tựa đã mệt mỏi rã rời, chẳng thốt nổi nên lời. Ngân Xuyên dìu ông ta xuống nấc thang, các ký giả gần như bao vây họ, Tố Hoài và Nam Gia nhanh nhẹn xử lý, tạo khoảng trống cho họ di chuyển.

Thịnh Đường thoáng mơ màng, đến khi xe chuyển bánh rồi ông ta mới quay đầu cười với Ngân Xuyên: “Sau này con phải vất vả rồi.”

Ngân Xuyên mỉm cười, nói: “Ông cứ yên tâm.”

Bữa tiệc trưa kiểu Tây được tổ chức tại nhà hàng Toàn Cung, số người tham dự không nhiều, chủ yếu là quản lý cấp cao của phòng kế toán Hoa và các ký giả, theo lời Ngân Xuyên nói thì khách khứa toàn là người nhà mình.

“Thằng bé này cuối cùng cũng giống một vị chủ nhân rồi.” Thiệu Từ Ân cười khà khà, ông ta quay đầu nói với đám Hứa Tĩnh Chi, “Hội đồng quản trị không chỉ có một mình cậu ta, cậu ta tưởng mình đi theo con đường của lão Phan là không ai cản được cậu ta sao?”

Hứa Tĩnh Chi nói: “Món sườn cừu này ngon lắm, anh ăn đi.”

Thiệu Từ Ân không giấu nổi sự phẫn nộ, gân xanh nổi đầy trán: “Biết thừa mấy lão già này cao tuổi mà lại chuẩn bị cá sống, sườn cừu, chuyện này thôi thì cứ tạm bỏ qua, không ăn là được chứ gì? Giờ đến cả thứ tự chỗ ngồi cũng không xếp, cứ bưng khay ngồi linh tinh, còn gì là phép tắc nữa?”

Mẫn Bách Xuyên ngồi bên tay phải ông ta lười biếng liếc nhìn: “Có chỗ để ngồi, có cơm để ăn là tốt rồi. Đừng quên cổ phần của chúng ta từ từ được rót vào túi cậu Trịnh kia thế nào.”

Thiệu Từ Ân giận dữ: “Thằng nhóc này đâm bị thóc thọc bị gạo, mua chuộc lũ xã hội đen phá hoại việc kinh doanh của tôi, quân tử báo thù mười năm chưa muộn, rồi sẽ có một ngày tôi…”

Mẫn Bách Xuyên giơ ngón tay tỏ ý giữ im lặng: “Rồi sẽ có một ngày ư, ngày nào? Sau khi anh trăm tuổi à?” Ông ta thở dài, nhìn bát phật nhảy tường nho nhỏ trước mặt mình, rồi chầm chậm múc mấy thìa ăn, nói, “Cũng đâu phải không có món để ăn, không có chỗ để ngồi, cậu ta có chừng mực của mình, đám thế hệ trước chúng ta cũng nên biết thỏa mãn, dù sao thì mặt ngoài ta vẫn là ‘người của cậu ta’, anh Tề Phàm nói có đúng không?”

Sau khi lấy thức ăn, Tạ Tề Phàm cũng ngồi cùng bàn với họ, nhưng ông giữ im lặng từ đầu chí cuối, đến giờ mới ngẩng đầu như vừa sực tỉnh. Ông không đáp lời Mẫn Bách Xuyên mà chỉ quay ra nói với Thiệu Từ Ân: “Thằng bé thuê xã hội đen phá hoại việc kinh doanh của anh sao?”

Thiệu Từ Ân cười lạnh: “Anh Tạ, anh đừng giả vờ hồ đồ nữa. Trong bốn người chúng ta, anh là kẻ thân cận với cậu Trịnh nhất, một câu chú, hai câu chú.”

“Chẳng phải thằng bé cũng rất kính trọng yêu mến các anh sao?”

“Kính trọng yêu mến,” nhắc đến đây Thiệu Từ Ân lại nghiến răng, “nếu kính trọng yêu mến thật thì đã chẳng gửi đạn tới nhà tôi, đã chẳng giấu thuốc phiện trong cửa hàng của tôi… Ai phát tài mà chẳng có vài chuyện khuất tất, chẳng rõ cậu ta hay tin thế nào mà biết phòng quản giáo đang theo dõi tôi, cho tôi một vố nhớ đời, không thể không chuyển cho cậu ta một nửa cổ phần, chẳng khác nào cắt lìa tay mình. Ai chịu nổi cái loại kính trọng yêu mến này của cậu ta chứ? Anh có làm được không?”

Vẻ mặt Tạ Tề Phàm dần sầm xuống.

Hứa Tĩnh Chi thở dài: “A Sâm luôn tỏ ra khiêm nhường, mấy năm nay thằng bé đi theo Thịnh Đường, đã bắt đầu trò giỏi hơn thầy. Đám thế hệ trước chúng ta đứng chắn trước mặt thằng bé nhiều năm rồi, thấy thằng bé thật thà, ta cũng chèn ép nó không ít, chẳng phải chưa từng làm những chuyện đáng xấu hổ. Giờ A Sâm tính sổ cũng là lẽ thường tình, chỉ là… thằng bé hơi tàn nhẫn quá rồi… Anh Tề Phàm, chẳng lẽ anh không hiểu tính tình thằng bé sao?”

Tạ Tề Phàm ủ rũ lắc đầu: “Tôi thật sự không hiểu.”

Mẫn Bách Xuyên nói: “Chỉ cần việc kinh doanh của mọi người được thuận buồm xuôi gió, ai làm tổng mại bản mà chẳng vậy. Dù sao mấy năm nay Thịnh Đường cũng gàn dở chuyên quyền, chúng ta chịu khổ nhiều rồi. Tình cảnh làm ăn tệ hại, nếu phòng kế toán Hoa thật sự có khởi sắc thì có khi đây lại là chuyện tốt.” Rồi đột nhiên ông ta lại hào hứng ngó ra cổng đại sảnh, “Ồ, anh Thiệu, con rể anh tới kìa.”

Thiệu Từ Ân lập tức quay sang, thấy Phan Cảnh Huyên bước vào thật. Tóc cậu dài hơn những người đàn ông bình thường khác đôi chút, vừa khéo che mất phần khiếm khuyết bên tai, nhưng dù mọi người có thấy điểm tỳ vết này cũng chẳng ai phủ nhận được vẻ tuấn tú của Cảnh Huyên. Đương nhiên, đây là một sự tuấn tú thoáng phần đáng thương.

Thiệu Từ Ân cười khổ: “Đúng là không nhẫn nhịn được, trước đó còn bảo không tới.”

“Đây mới chính là cậu cả thật sự của nhà họ Phan, thứ chúng ta bị cướp mất chỉ là một ít cổ phần, so với thằng bé này thì có đáng là gì.” Hứa Tĩnh Chi cất giọng đầy ẩn ý.

Tạ Tề Phàm cau mày.

“Giới mại bản vốn theo nếp cha truyền con nối,” Mẫn Bách Xuyên thong thả thốt, “giờ thì một người họ Phan một kẻ họ Trịnh, e quy tắc cũ cũng coi như vứt.”

Cảnh Huyên chậm rãi bước tới bên Ngân Xuyên, thấy Ngân Xuyên bị hai ký giả bao vây phỏng vấn, cậu bèn lẳng lặng đứng cạnh chờ đợi.

Ngân Xuyên mỉm cười gật đầu với cậu, rồi tiếp tục đĩnh đạc phát biểu: “Giờ đã là thời đại mới, địa vị kinh tế của nước ta được nâng cao, phòng kế toán Hoa cũng phải đối mặt với những tình huống phức tạp khó lường hơn. Tuy vậy, tôi vẫn coi mọi thay đổi này là những cơ hội tốt, tôi thường nói với đồng nghiệp, sự cố chấp sẽ không giúp chúng ta đạt được bất cứ thành tựu gì, điều cần làm nhất hiện giờ là tìm ra điểm thiếu sót, tìm ra bước ngoặt có thể giúp ta tiến xa và nỗ lực vì mục tiêu hướng tới cái mới.”

“Thành viên hội đồng quản trị nước ngoài có ý kiến gì về những hành động cách tân của anh sau khi nhậm chức tại phòng kế toán Hoa không?” Một ký giả hỏi.

“Hãng buôn Tây lâu đời cần một sự thay đổi phù hợp với thời đại, huống chi phòng kế toán Hoa còn tham gia vào các mối làm ăn có nền tảng là cả đất nước Trung Hoa, họ cũng hy vọng vào một sự thay đổi hoàn toàn mới.”

Có ký giả trông thấy Cảnh Huyên lẳng lặng đứng bên, bèn to gan hỏi: “Anh Trịnh, giờ thân phận thật sự của anh đã được công khai, cha nuôi anh – ngài Phan Thịnh Đường nói địa vị của anh tại nhà họ Phan sẽ không thay đổi, nhưng liệu những thành viên khác của Phan gia có nghĩ vậy không?”

Ngân Xuyên trả lời nửa thật nửa giả: “Họ là động lực tinh thần của tôi, luôn thúc giục tôi không được chùn chân.”

Vừa khéo lúc này Cảnh Huyên đã bước lại, Ngân Xuyên niềm nở khoác vai cậu, vành mắt hoe đỏ, nhưng đang vô cùng bùi ngùi xúc động.

Cảnh Huyên lấy một ly sâm banh từ khay của nhân viên phục vụ đứng cạnh. Thấy vậy, Ngân Xuyên cười: “Bình thường em không thích uống loại rượu này mà.” Rồi anh quay đầu dặn nhân viên mang rượu Sherry ra.

“Không sao, thế nào cũng được,” Cảnh Huyên nâng ly mỉm cười, “anh cả, em thay mặt người nhà họ Phan chân thành chúc mừng anh!” Nói rồi, cậu hắt ly rượu vào mặt Ngân Xuyên.

Đột nhiên căn đại sảnh lặng ngắt như tờ, hai ký giả mắt tròn mắt dẹt, tất cả mọi người đều đổ dồn ánh nhìn về đây. Vu Tố Hoài tiến lại thật nhanh, đứng chắn trước mặt Ngân Xuyên, Nam Gia vội vã bước đến bên một ký giả đang cầm máy ảnh chụp hình, lịch sự ngăn anh ta bấm màn trập.

Tố Hoài trầm giọng: “Hôm nay là ngày trọng đại của phòng kế toán Hoa, cậu Phan, mỗi lời nói mỗi cử chỉ của cậu đều đại diện cho bộ mặt của gia tộc họ Phan, xin cậu hãy tự trọng.”

Cảnh Huyên đặt ly rượu rỗng không lên khay, cười lạnh: “Cậu Phan nào? Vị này hay là tôi?”

Ngân Xuyên lau mặt và tóc bằng khăn tay, anh lẳng lặng nhìn Cảnh Huyên một lát rồi khoan dung vỗ vai cậu, lại khẽ khom người với khách khứa: “Xin thứ lỗi cho, lát nữa tôi sẽ lại tiếp tục thiết đãi các vị.” Nói rồi anh quay người bước ra ngoài. Cảnh Huyên mau chóng đuổi theo, Ngân Xuyên như có mắt sau lưng, anh nói: “Tố Hoài, đừng cản cậu Phan.”

Vu Tố Hoài do dự trong chốc lát, cuối cùng vẫn buông bàn tay dợm cản Cảnh Huyên xuống.

Phòng nghỉ nằm trên gác, đó là một căn buồng trong nho nhỏ, bọn họ bước lên cầu thang xoắn ốc, như hai bóng ma lặng lẽ, làm nổi bật thêm tiếng cười nói náo nhiệt, cụng ly đối chén chung quanh.

Có hai đứa bé chừng năm, sáu tuổi đang cười đùa bước từ tầng ba xuống, đứa bước trước là một cậu nhóc với gương mặt bụ bẫm, chân đi thoăn thoắt, hai viên kẹo trong túi quần rơi ra nhưng nó chẳng hề để ý. Đứa bé đi sau phát hiện, đôi mắt to sáng rực, thằng bé khom người nhặt kẹo lên rồi vội vã nhét một viên vào túi, nó cầm viên còn lại, đuổi theo cậu bé bụ bẫm: “Cậu đánh rơi một viên kẹo này.”

Đứa bé bụ bẫm hào phóng nói: “Tớ tặng cậu đấy.” Nhóc nhặt kẹo lắc đầu, nhét kẹo vào túi quần bạn. Hai đứa bé khoác vai nhau bước xuống nhà.

Bước chân Cảnh Huyên chậm lại, cậu ngó ra cầu thang, vừa khéo thấy được một góc đại sảnh tầng một: Bàn tròn gỗ hồ đào, trên đặt máy hát đĩa đang phát điệu nhạc du dương. Tiếng nhạc jazz như ánh sáng buổi chiều hôm, lại như cơn mưa phùn ngày thu, chậm rãi trút nỗi bi ai lạnh lẽo của thời gian xuống. Quả thực đứa bé bụ bẫm nọ hoạt bát hơn đôi chút, nó chạy đến bên máy hát đĩa, kiễng chân nhìn, rồi vươn tay gạt kim đĩa ra, tiếng nhạc im bặt, đóng băng trong không trung, như không kịp phát ra tiếng kêu gào. Đứa bé còn lại lẳng lặng đứng sau cậu nhóc bụ bẫm, gương mặt nó phồng to, hóa ra nó đang ăn kẹo, có lẽ chính là viên kẹo mới nhặt được ban nãy.

Cảnh Huyên mím môi, chợt lòng cậu trăm mối ngổn ngang, như cũng đang ngậm một viên kẹo trong miệng, chẳng phân biệt nổi mùi vị là đắng hay ngọt.
 
Quyển 2 - Chương 69


Ngân Xuyên áp khăn lên mặt, giọng anh vọng lại ồm ồm từ phòng rửa tay: “May có em giải vây, nói thật anh chẳng bao giờ thích xã giao cả.”

“Anh có mệt không?” Cảnh Huyên ngồi trên xô pha buông lời mỉa mai, gương mặt đầy vẻ châm biếm.

“Đương nhiên là mệt, luôn tay luôn chân từ sáng tới giờ mà.”

“Anh diễn màn kịch này với chúng tôi suốt hai mươi năm rồi. Nào là phụ tử tình thâm, huynh đệ cốt nhục, khả năng diễn kịch của anh quả là một chín một mười so với vai tiểu sinh mặt trắng ở phố Hoa Lâu. Dù anh rất có khiếu diễn kịch, nhưng… anh thật sự không thấy mệt ư?”

Ngân Xuyên vừa lau mặt vừa bước đi, anh ngồi xuống đối diện Cảnh Huyên. Dung mạo anh từng tuấn tú một cách dịu dàng khiêm nhường, như thể người cõi tiên không biết đến khói lửa trần gian. Nhưng giờ đây, mỗi biểu cảm của anh đều sặc thứ mùi vị nhân thế, tràn ngập vẻ khéo léo dối trá.

Anh dịu dàng nói: “Anh hiểu tâm trạng của em, vậy nên em có nói gì anh cũng không để bụng.”

Cảnh Huyên nói: “Từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng thiếu thốn thứ gì, tranh giành cướp đoạt không phải bản tính của tôi. Trước đó tôi cướp đồ chơi, tôi cãi cọ với anh chỉ do tính nết trẻ con. Năm 16 tuổi, cha muốn chọn một trong hai anh em chúng ta tới thực tập tại hiệu buôn Tây, tôi tưởng anh thật lòng nhường tôi nên tôi mới đi. Thành thực mà nói, tôi chẳng có chí hướng gì, cuộc sống đầu tắt mặt tối cả ngày không phải thứ mà tôi muốn. Tôi sợ mệt, mà tôi cũng biết mình không có bản lĩnh kiếm được tiền từ ví người nước ngoài, nhưng tôi nghĩ được đi thực tập sẽ khiến tôi nở mày nở mặt với mọi người, tất cả là do sự phù phiếm của tôi. Nhưng sự phù phiếm này chẳng kéo dài được bao lâu, tôi không làm được, mà cũng không làm nổi việc tại hiệu buôn Tây. Trước giờ thân thích bên nhà ngoại luôn nhắc tôi phải đề phòng anh, nói nếu để anh lên làm chủ cái nhà này, nhất định anh sẽ không tha cho anh em tôi, nhưng chưa bao giờ tôi tin họ. Về sau… anh cứu tôi từ tay Hồng Toàn Căn, tôi lại càng thấy một người không tiếc tính mạng cứu tôi sao có thể làm hại tôi?” Vành mắt cậu đỏ hoe, cậu khẽ ngẩng đầu, “Tôi sùng bái anh, tin tưởng anh, coi anh như gương sáng, nhưng không ngờ mọi việc anh làm đều có ý đồ toan tính, mọi điều tốt đẹp của anh đều ẩn giấu động cơ chẳng dám để ai biết. Giờ anh lấy hết cổ phần của nhà họ Phan rồi, hiệu buôn Tây Phổ Huệ không còn chỗ cho người nhà họ Phan nữa, tâm huyết mấy chục năm của cha bị anh gạt đổ tan tành. Rốt cuộc năm đó gia đình anh ban cho nhà họ Phan ân huệ gì mà bắt chúng tôi phải lóc xương lóc thịt trả lại anh?”

Ngân Xuyên nhìn sâu vào mắt cậu, anh bình tĩnh nói: “Anh không cần một đồng gia sản của nhà họ Phan, anh cũng đã cố gắng hết sức để giữ gìn tình cảm với các em rồi. Hơn nữa kế hoạch này đã được cha em đồng ý.”

“ Nhà họ Phan, cha tôi, ha ha, anh thay đổi cách xưng hô nhanh thật.”

“Chẳng ai muốn nói dối cả đời, dù là vì bất cứ lý do nào đi chăng nữa.” Ngân Xuyên nói, “Giờ mỗi lời anh nói với em đều là lời thật lòng. Anh có thể nói cho em biết, số cổ phần anh giữ của gia đình em không hề trái với lương tâm.”

Cảnh Huyên lạnh lùng nói: “Vậy anh giở trò với sổ sách của tôi, khiến cha không tin tưởng vào năng lực của tôi, sau đó còn phái tôi đi quản lý ngoại trang của cậu, thuyền linh kiện Đức của tôi đang yên đang lành thì bị đổi hết thành hàng nhái, khiến giám đốc hiệu buôn Tây ghét cay ghét đắng tôi. Anh làm những việc này có trái với lương tâm không?”

“Còn em thì sao? Năm đó em biết người lũ bắt cóc định chọn từ đầu là anh, nhưng em vẫn không nói dù chỉ một lời, khi anh mạo hiểm tính mạng đổi mình lấy em, em có thấy yên lòng không?”

Cảnh Huyên biến sắc, cậu kinh hãi nhìn Ngân Xuyên.

Ngân Xuyên dửng dưng nói: “Anh không có ý gì, chỉ là không mấy đồng tình với thái độ của em bây giờ thôi.”

Cảnh Huyên khẽ thốt: “Có lẽ anh sẽ không tin, nhưng từ rất lâu trước đây tôi đã vô cùng hối hận vì chuyện này. Tôi cũng muốn bù đắp cho anh, nhưng năng lực tôi có hạn, dù có cố gắng làm gì đó cho anh thì anh cũng sẽ hiểu sai, vì anh luôn cảm thấy tôi đang muốn cướp của anh chứ không phải chia sẻ với anh.”

Nét mặt Ngân Xuyên thoáng thay đổi, anh cau mày không nói gì.

Cảnh Huyên nở nụ cười thất vọng: “Tôi không nói sai, phải chứ? Thật ra chỉ cần anh muốn, tôi có thể cho anh cổ phần, ngoại trang, tôi có thể hai tay dâng anh tất cả. Vì tôi biết tôi nợ anh, còn từng suýt khiến anh phải chết. Nhưng… kể từ khi anh bắt đầu tính kế tôi, có lẽ thứ gọi là tình anh em giữa chúng ta cũng đã tiêu tan rồi.”

“Không, thật ra không phải vậy.” Giọng điệu Ngân Xuyên thoáng vẻ thương cảm, “Thật ra chúng ta vẫn như trước đây, anh không hề rời khỏi nhà họ Phan…”

Cảnh Huyên khoát tay: “Anh Trịnh, anh là dân kinh doanh, chắc anh cũng phải biết đời này chẳng có mối làm ăn nào vẹn cả đôi đường chứ? Tiền anh cũng muốn, tình cũng muốn, lòng người cũng muốn, có phải anh hơi tham lam quá rồi không?”

Cậu bước ra cửa, nói: “Cha đi Vũ Xương dưỡng bệnh rồi, người nhà họ Phan chúng tôi đã bàn nhau, chúng tôi đều không mong anh trở lại nhà, ở với nhau như vậy gượng gạo lắm. Anh cũng nói anh có thể rời đi, chắc anh đã có nơi để ở rồi. Nếu anh vẫn muốn ở lại nhà họ Phan… không, chắc anh sẽ không muốn trú lại nơi mình không được chào đón đâu.”

“A Huyên!”

Cảnh Huyên ứa nước mắt: “Anh cả, anh đi nhanh quá, xa quá, chúng em không theo kịp đâu, anh bảo trọng nhé.”

“Đứng lại!”

Cảnh Huyên dừng bước, nhưng không hề quay đầu.

“Anh sẽ không chấm dứt mối quan hệ với nhà họ Phan, không bao giờ.” Ngân Xuyên lớn tiếng.

“Anh đã chấm dứt nó rồi.” Cảnh Huyên bi thương cất lời rồi vội vã rời đi.

Ánh sáng ngoài cửa sổ tõe thành từng tia mong manh trên mặt sàn, chúng chậm rãi chuyển động, Ngân Xuyên thẫn thờ nhìn những tia sáng ấy, nhìn chúng nhạt dần, nhìn thứ tình cảm và ký ức mong manh chồng chéo lên nhau, chậm rãi tan biến theo ánh sáng.

Anh đứng dậy thay quần áo, xuống nhà thiết đãi khách khứa cho tới khi buổi tiệc kết thúc. Tố Hoài và Nam Gia bận dúi tiền cho các ký giả, giúp sự cố gượng gạo nọ nhiều nhất chỉ lưu lại nơi chót lưỡi. Sau khi khách khứa ra về, Ngân Xuyên nhờ nhà hàng làm một bát mì thịt bò rồi ngồi ăn bên chiếc bàn lớn một mình.

Tạ Tề Phàm bước vào, kéo chiếc ghế cạnh Ngân Xuyên ra rồi ngồi xuống.

Ngân Xuyên không ngẩng đầu: “Chú Tạ chờ cháu một lát, trưa nay cháu chưa ăn no, có gì chú đợi cháu ăn xong hẵng nói.”

“Ừ, cháu cứ ăn từ từ đi.”

Tóc mái anh rũ xuống, che mất bờ trán trắng ngần, lông mi anh rất dài, dáng vẻ ngấu nghiến thức ăn vẫn lờ mờ có nét hồn nhiên, chắc anh đã đói lắm rồi.

Chẳng mấy chốc bát mì đã thấy đáy, Ngân Xuyên lấy khăn lau miệng, ngại ngùng nói: “Chú Tạ, đúng là lời tuyên bố ban sáng của Phan Thịnh Đường có giấu giếm nhiều chuyện, nhưng cũng hết cách, một là cháu không muốn để nhiều người biết chuyện riêng tư của cha mẹ mình, hai là giữ mối quan hệ ôn hòa ngoài mặt với nhà họ Phan có lợi cho công việc của cháu tại hiệu buôn Tây…”

Tạ Tề Phàm nâng tay: “Dù trong kinh doanh hay cuộc sống thì thân thế đơn giản một chút cũng tốt hơn. Nếu người ngoài nghĩ cháu là kẻ lòng dạ khó lường thì dù có nhân danh báo thù cho cha, việc kinh doanh của cháu cũng gặp nhiều khó khăn. Việc cháu đưa ra quyết định này sau khi cân nhắc cũng không đáng trách.”

“Nhưng… cháu có cảm giác dường như chú đang trách cháu.”

Tạ Tề Phàm lắc đầu: “Chú chỉ muốn biết bước tiếp theo cháu định thế nào?”

Ngân Xuyên trầm ngâm: “Giờ lực lượng đang phân tán, cháu cần gom số cổ phần hữu dụng lại. Cháu muốn dọn dẹp phòng kế toán Hoa.”

“Nên cháu nhờ Đồng Xuân Giang bỏ thuốc phiện vào kho hàng của Thiệu Từ Ân, nên cháu dùng sử dụng những cách như vậy để ép đám Hứa Tĩnh Chi bán cổ phần cho cháu?”

“Ngài Đồng là người bạn chú giới thiệu cho cháu, chú nói khi cần cháu có thể nhờ ông ấy giúp đỡ.”

Tạ Tề Phàm lặng đi trong giây lát, rồi ông thở dài, “Phải, chuyện này cũng tại chú. Dù chú và ông ấy tình nghĩa sâu đậm, nhưng thật lòng, nghĩ đến cách làm việc của cháu bây giờ, chú vẫn thấy hơi đau lòng.”

Nét mặt Ngân Xuyên chùng xuống.

“A Xuyên, cháu có vui không?” Tạ Tề Phàm quay đầu nhìn anh.

Khóe môi Ngân Xuyên gượng gạo nhếch lên: “Đương nhiên là vui.”

“Cách”, hai, ba cánh cửa sổ trên hàng cửa dài nối nhau bị gió thổi rung lên, tiếng chuông xe kéo, tiếng còi xe hơi vọng lại nghe giòn tan, thanh âm vang lên đột ngột không xoa dịu nổi nét mặt rét lạnh như băng của anh.

Tạ Tề Phàm nói: “Chú còn có thể làm gì cho cháu?”

“Cháu cần quyền khống chế tuyệt đối với phòng kế toán Hoa. Nếu bằng lòng, chú có thể nhượng cho cháu 40% số cổ phần của mình, xin chú yên tâm, cháu sẽ không bao giờ để chú chịu thiệt.”

Tạ Tề Phàm nhìn Ngân Xuyên trân trối, không sao tin nổi, nhưng ông cũng biết rõ anh sẽ nói lời này. Một con người tay trắng suốt một khoảng thời gian dài, giờ dùng mọi cách có thể để góp nhặt những thứ đem lại cho mình cảm giác an toàn cũng chẳng phải chuyện lạ lẫm gì.

Tạ Tề Phàm cương quyết: “Chú sẽ không cho cháu. Một xu cũng không. Lần này chú sẽ không đứng về phía cháu.”

Ngân Xuyên cau mày, ưỡn thẳng lưng: “Không sao, dù có thế nào đi chăng nữa cháu cũng sẽ mãi mãi khắc ghi ân tình của chú.”

“Cha cháu có ơn với chú, nhưng ông ấy chưa bao giờ yêu cầu chú báo đáp. Mọi thứ chú làm cho cháu thật ra cũng chỉ vì muốn bản thân yên lòng yên dạ, chú không cần cháu khắc ghi. Chú không cho cháu cổ phần không phải vì không tin cháu, cũng không phải vì không muốn giúp cháu. Chỉ là chú thấy cháu cần đi chậm lại. Ngân Xuyên, nếu cháu coi chú là bậc cha chú, chú mong cháu có thể nhớ câu này: Có người chạy như bay về phía trước, có người bị bỏ lại đằng sau, đi trước chưa chắc đã là thắng, vì rất có thể phía trước là vách đá, chú mong cháu có thể bước chậm lại để nhìn đường.”

Ngân Xuyên mỉm cười, đang định cất lời đã có người làm mở cửa, nói: “Anh Phan, à không, anh Trịnh, có người gọi điện cho anh.”

Người gọi tới là Vân Thăng, có tiếng ồn ã vọng lại, Vân Thăng cao giọng: “Cậu cả, cậu có nghe thấy không?”

“Không phải anh theo ông chủ tới Vũ Xương rồi sao?”

“Chúng tôi đã tới bến tàu rồi, đang đợi xe tới. Đột nhiên ông chủ lại nhớ ra một chuyện, nằng nặc đòi tôi gọi cho cậu.”

“Nói đi.”

“Ông chủ bảo trước khi thu mua hãng buôn Khải Nhuận, ông có một tập tài liệu đánh giá để trên tủ sách phòng ngủ, ông nói khi về nhà nhất định cậu phải mở ra xem.”

Ngân Xuyên siêt lấy ống nghe: “Bên cạnh ông ta có ai?”

“Có y tá đi theo, tài xế đang lái xe rồi ạ.”

Thật ra Phan Thịnh Đường đã tự tay giao bản báo cáo nọ cho Ngân Xuyên từ sáng rồi.

Tạ Tề Phàm đứng gần đó, thấy Ngân Xuyên ngẩn ngơ cầm điện thoại, đôi mắt sáng tới lạ lùng, đây là lần đầu ông thấy Ngân Xuyên có ánh mắt này: Đó là ánh mắt của nỗi sợ hãi chân thực, không chút giả dối.
 
Quyển 2 - Chương 70


Đời lúc nào cũng ly kỳ hơn là kịch. Mùa thu năm 1932, nhà họ Phan đã cho dân Hán Khẩu đủ chuyện để tán phét trong hàng năm liền.

Phan Thịnh Đường mất tích rồi. Tại bến tàu Vũ Xương, lão già đau ốm thoi thóp đuổi quản gia và hộ sĩ chăm sóc mình đi rồi biến mất trong biển người qua lại như đưa thoi.

Chẳng ai biết ông ta đi đâu.

Dường như ông ta không bị bắt cóc, cả nhà họ Phan lẫn cảnh sát đều không nhận được bất cứ thông tin đòi tiền chuộc nào trong mấy ngày liên tiếp. Thời gian qua dần, khả năng Phan Thịnh Đường tự bỏ đi càng lớn hơn.

“Có một tập tài liệu để trên tủ sách phòng ngủ… nhất định phải mở ra xem.”

Đây là lời Phan Thịnh Đường nhờ Vân Thăng chuyển lại trước khi mất tích.

Thật ra tủ sách chẳng có tài liệu gì cả, đến sổ sách cũng không có, tất cả sách vở đều được kiểm tra, chất đống dưới đất, vách tủ thứ ba có một chiếc móc kéo bằng đồng nho nhỏ, kéo ra ngoài, “cách” một tiếng, dường như vách trong tủ sách khẽ nhúc nhích, thử vươn tay đẩy, một khe hẹp tối đen như con mắt ai dài hẹp chầm chậm hé mở, lẳng lặng, chăm chú nhìn kẻ đang đối mặt với nọ.

Bà Vân khẽ kêu lên, bà ta lùi về phía sau, Cảnh Ninh và Cảnh Huyên nhào tới đỡ bà. Tất cả đều kinh khiếp vì cảnh tượng trước mắt.

Cảnh sát chiếu đèn pin vào lối đi bí mật, mùi mốc ẩm ướt mới gay mũi làm sao, nhưng chắc chắn không có mùi xác chết thối rữa, những nấc thang chật hẹp kéo dài tít xuống dưới, như nối liền với cõi âm ty. Hai viên cảnh sát to gan bước xuống kiểm tra, phát hiện lối đi bí mật này được thiết kế từ lúc căn nhà mới xây cất, nó lợi dụng sự rộng rãi thông thoáng của kiến trúc kiểu Tây với kẽ hở hành lang và không gian từ các khúc ngoặt, sau con đường nhỏ chật chội là một căn phòng tương đối lớn, tường gạch xám, có công tắc điện, ấn thử, thấy đèn chớp nháy mấy lần rồi bừng sáng.

Một chiếc bàn, một chiếc ghế, một chiếc giá sách. Đây giống như căn phòng làm việc đơn sơ, và giờ thì trông thật nực cười kỳ dị. Trên bàn có vài xấp tài liệu cùng chiếc bàn tính bám đầy bụi, cảnh sát lau bàn tính, những hạt tính bóng loáng, đầu hạt nào cũng có vệt lõm, đây là dấu tích của vật được chủ nhân sử dụng trong một thời gian dài. Trên giá sách có sổ kế toán, rất nhiều, chỉ vài cuốn bị mốc, vậy rõ ràng chúng đã thường xuyên được dọn dẹp hoặc thay mới. Người ta đưa tài liệu trên bàn cho người nhà họ Phan xem, trông nét bút có thể đoán kẻ làm việc trong không gian tù túng khép kín này chính là Phan Thịnh Đường. Mặt còn lại của căn phòng có một con đường nhỏ chật chội dài chừng một trăm mét, thông với tường bao của dinh thự nhà họ Phan, lối ra bị bụi cây rậm rạp phủ kín.

Bệnh phổi của Phan Thịnh Đường không phải từ trận lũ năm ấy mà ra, người ta cũng chợt hiểu vì sao bao năm nay ông ta giam mình trong nhà, gần như không bao giờ ra đường. Mà có lẽ, vụ mất tích của ông ta cũng mang một ý nghĩa khác.

“Người này hẳn phải yêu tiền kinh khủng lắm.” Hai viên cảnh sát rỉ tai nhau.

Tất cả tài liệu trong căn phòng bí mật đều được mang ra, về cơ bản, chúng là thông tin chi tiết về các thương vụ kinh doanh, ghi chép mỗi ngày kiếm được khoảng bao nhiêu tiền, lợi nhuận tăng lên bao nhiêu, và cả những khoản tiêu xài hay thậm chí chi tiêu trong nhà. Đúng vậy, đây là sổ sách do Phan Thịnh Đường ghi chép, sổ sách của chính ông ta.

Nhà họ Phan loạn như cào cào, đến nửa đêm cảnh sát còn chưa đi.

Đám người làm xì xào bàn tán, đôi mắt ánh lên sự hưng phấn, Vân Thăng cố tỏ ra oai phong bệ vệ, như giờ đây trong nhà chỉ mình anh ta có năng lực chủ trì đại cục, dù cánh tay còn đang quấn băng chưa tháo, nhưng anh ta vẫn hùng hổ trách cứ Tiểu Quân nép bên khung cửa hóng hớt. Vân Thăng lệnh cho Tiểu Quân và mấy người giúp việc khác mau chuẩn bị trà bánh tiếp đãi các ngài cảnh sát, rồi lại cất bước vững vàng tới trước mặt Cảnh Huyên cùng một viên cảnh sát, cố làm bộ thân thiết ghé tai Cảnh Huyên nói: “Tôi nghĩ nên để luật sư nhà họ Phan xem sổ sách của ông chủ trước thì hơn, không thể dễ dàng để người ngoài…”

“Cảnh sát trưởng Kim!” Chợt nghe giọng Cảnh Ninh vang lên, gương mặt cô trắng bệch, mắt thâm quầng.

Viên cảnh sát đang trò chuyện với Cảnh Huyên gật đầu chào cô: “Cô Phan có gì căn dặn?”

Cảnh Ninh do dự trong chốc lát, nói: “Ban nãy mọi người nói có vẻ cha tôi không bị bắt cóc, hơn nữa cũng chẳng có gì chứng minh anh cả tôi,” cô khựng lại, rồi sửa lời, “chẳng có gì chứng minh anh Trịnh liên quan tới vụ việc này, tại sao anh ấy còn chưa được thả?”

“Em mất trí rồi sao?” Cảnh Huyên chỉ thẳng mặt Cảnh Ninh, giận dữ quát, “Đến tận giờ phút sống chết rồi mà em vẫn còn muốn giúp anh ta?!”

“Anh ấy là người tốt! Anh ấy không có tội!” Giọng Cảnh Ninh run rẩy, “Em có thể không nhận anh ấy làm anh mình, nhưng anh ấy chưa bao giờ là kẻ xấu! Anh hai, anh ấy từng cứu anh mà!”

“Anh ta có ý đồ đấy!” Cảnh Huyên thét, “Em đúng là đồ ngốc!”

Cảnh Ninh cố chấp nhìn cảnh sát trưởng Kim, hoàn toàn không quan tâm tới lời trách cứ của cậu. Cảnh sát Trưởng Kim suy nghĩ, sau khi Vân Thăng rời đi, người này mới bình tĩnh cất lời: “Cô Phan, chúng tôi giam giữ anh Trịnh không phải vì nghi ngờ anh Trịnh dính líu tới vụ bắt cóc cha cô. Ngược lại, chúng tôi còn có đủ chứng cứ chứng minh anh Trịnh không liên quan gì tới vụ việc này.”

“Vậy tại sao…”

“Hiệu buôn Tây Phổ Huệ có một khoản thất thu do cha cô, ông Phan Thịnh Đường gây ra. Giả dụ ông Phan không mất tích, người bị giải đi có thể chính là ông ấy. Chắc cô Phan cũng biết cha cô đã chuyển giao hết chức quyền, bao gồm cả cổ phần tại hiệu buôn Tây cho anh Trịnh. Hiện giờ anh Trịnh… anh Trịnh còn chưa tách khỏi nhà họ Phan, anh ấy buộc phải bổ khuyết lỗ hổng này cho ông Phan.”

Viên cảnh sát nói tới đây, đến cả Cảnh Huyên cũng tròn mắt ngạc nhiên: “Thất thu bao nhiêu?”

Cảnh sát họ Kim cười khà khà: “Người nước ngoài có bao giờ thật sự tin tưởng dân Trung Quốc đâu? Nếu khoản thất thu không lớn thì sao họ phải nhờ hội đồng thành phố chúng tôi tạo áp lực, lặng lẽ đưa anh Trịnh đi? Họ sợ anh ấy cũng chạy mất đấy. Chỉ tiếc cho anh Trịnh xui xẻo, nếu không giải quyết được vụ việc này, e anh ấy sẽ phải gánh tội thay ông Phan Thịnh Đường.”

Cảnh Ninh thấy lồng ngực tức nghẹn, hai chân nhẹ bẫng, cô ngồi xuống xô pha. Cổng dinh thự còn đang mở, gió lùa vào nhà, lạnh căm căm, cô vòng tay ôm lấy mình, co rúm lại. Cảnh Huyên tiến tới, khoác tấm áo choàng đặt bên cạnh lên cho cô, cậu thở dài: “Ninh Ninh, nhà họ Phan cần có chúng ta chèo chống.”

“Thế giới này thật đáng sợ, lòng người còn đáng sợ hơn.” Cảnh Ninh lẩm bẩm, “Hóa ra chúng ta không hề hiểu cha nghĩ gì, chúng ta chưa từng hiểu… Ông ấy là cha chúng ta mà! Ông ấy có coi cái nhà này là nhà mình không? Chúng ta có được xem là cốt nhục, là người thân của ông ấy không? Tại sao ông ấy lại khiến mọi chuyện thành ra thế này. Còn anh cả…” Cô chợt ngưng bặt.

Cảnh Huyên lặng im hồi lâu mới nói: “Có lẽ tình cảnh hiện giờ chính là mục đích của cha. Xét theo một góc độ nào đó, anh cả cũng đã trả giá cho những hành động của mình. Anh cũng mong anh ấy có thể tìm cách thoát khỏi hiểm cảnh. Nhưng Ninh Ninh à, chúng ta chẳng làm được gì đâu, mà cũng không nên làm gì.”

Mấy viên cảnh sát đứng ngoài phòng khách, cầm lấy đồ ăn thức uống trên khay người làm. Từ khi Phan Thịnh Đường mất tích, căn nhà này đã tràn ngập những kẻ xa lạ. Đây là nơi Cảnh Ninh đã sống bao năm, là nhà của cô, nơi đây từng có bao chuyện xảy ra, cả vui lẫn buồn.

Cô chưa từng nghĩ mình sẽ trơ mắt nhìn cảnh sát đưa Ngân Xuyên khỏi đây.

Khi ấy Ngân Xuyên mới từ ngoài trở lại. Nhà đang rất loạn, cô, Cảnh Huyên và mẹ đổ hết tội lỗi vụ mất tích của cha lên đầu Ngân Xuyên, nói với anh bao lời tuyệt tình. Anh không phản bác cũng chẳng đáp lời. Tối đó cảnh sát đến, họ chẳng nói năng gì, cứ thế dẫn anh về đồn. Họ không giải thích nguyên nhân, nhưng dường như anh biết tất cả. Anh lập tức phối hợp, theo cảnh sát rời đi.

Bà Vân đuổi theo đến tận ngoài cổng, bà cao giọng khen hay, như viên tướng vừa thắng trận, bà vừa khóc vừa cười, nói, mau ra mà xem, kết cục của nó đấy, thằng dối trá vong ân phụ nghĩa! Ông trời ra mà xem, lưới trời lồng lộng.

Ngân Xuyên quay đầu, anh rất bình tĩnh, ánh mắt như đang tìm kiếm ai, nhưng anh thất bại, vì Cảnh Ninh đang trốn sau chiếc giá cổ ngoài cửa. Anh lẳng lặng bước đi, rồi lại quay đầu, vừa khéo thấy cô đang ló mình ra. Cô không sao thấy được nét mặt anh trong đêm đen, chỉ nghe tiếng anh vang dội: Hãy tin anh!

Tin gì đây? Tin anh trong sạch, hay tin thứ tình yêu mà cô không bao giờ đáp trả được.

Khoảnh khắc ấy, cô phát hiện ra tim mình có một con nhện. Có lẽ nó đã xuất hiện từ sớm, chỉ là chưa từng bị ai phát hiện, nó lẳng lặng dệt tơ, không một tiếng động, rồi chầm chậm bò, không bỏ sót một góc khuất nào, chân nó nhẹ nhàng siết lấy tim cô, không khiến cô chết đi, nhưng đủ làm cô đau.
 
Quyển 2 - Chương 71


Tiếng cười của Ngân Xuyên khản đặc, anh vừa cười vừa hút thuốc, hút không biết bao nhiêu điếu, như kẻ đói bụng đang và cơm, thoáng nét hung tàn. Căn phòng giam cầm anh bí bức ẩm ướt, anh xắn tay áo, mở cúc cổ, vai và đầu gối lạnh buốt, thi thoảng cứ hít vào là môi lại khẽ run rẩy, mất ngủ mấy đêm ròng khiến anh tiều tụy hốc hác vô cùng.

Anh bị bí mật giam giữ đã được chín ngày, cuối cùng nhờ có Đồng Xuân Giang giúp đỡ, Vu Tố Hoài và Lý Nam Gia đã có thể gặp anh.

Anh không ngừng cười, như đang nghe thấy một chuyện thú vị khôi hài không sao kể xiết.

“Vâng, tầng hầm bí mật nằm trong phòng ngủ ông ta, khóa mở nằm trong tủ sách.” Vu Tố Hoài nói.

Lý Nam Gia lấy nước sôi rửa ly trà, pha cho Ngân Xuyên một ly. Ngân Xuyên nâng ly nhấp một ngụm, anh cười: “Tất cả mọi người trong nhà họ Phan đều không biết? Phải, đến tôi cũng không biết, còn ai có thể biết được trừ Phan Thịnh Đường! Quả là nực cười. Đúng là quái nhân trăm năm khó gặp. Loại ích kỷ độc địa, không tin tưởng bất cứ ai như ông ta sao phải cần đến gia đình? Như vậy chẳng khác nào tự rước lấy khổ vào thân.”

Vu Tố Hoài cười khổ: “Nghe nói khi cảnh sát phát hiện ra căn hầm bí mật trong thư phòng, cả nhà họ Phan đều có mặt, bà Phan ngất xỉu ngay tại chỗ.”

Ngân Xuyên lại cười, nhưng cười mãi, cười mãi, rồi nụ cười cũng lặng xuống: “Chủ cũ của tòa dinh thự này là người Anh, kiến trúc sư cũng là người Anh, có hầm bí mật không phải chuyện lạ. Ở Anh thời trung cổ, những căn hầm bí mật này được sử dụng để đào thoát hoặc cho người truyền giáo ra vào. Còn giờ thì Phan Thịnh Đường lại coi nó thành phòng làm việc thật sự của mình, chắc hẳn nó là nơi ông ta cảm thấy đáng tin nhất. Thật là vừa thảm hại, vừa đáng sợ!”

Anh sầm mặt, liếc nhìn bức điện đặt trên bàn, bức điện này viết hai chữ:

“Phó bệnh.”

Đây là mật văn nội bộ của hiệu bạc Phú Hưng. Chục năm gần đây, quân phiệt Trung Hoa hỗn chiến, những người làm trong ngành tiền bạc rất cảnh giác với khủng hoảng tài chính, chỉ cần nghe phong thanh tin tức hay biến động, họ sẽ lập tức phát mật hiệu cho chi nhánh và những người phụ trách chính của mình.

“Phó” là tên gọi khác của Phú Hưng, “bệnh” ám chỉ nguy cơ có làn sóng đổi tiền mặt, nếu “bệnh nặng”, các chi nhánh phải ngừng đổi tiền, nếu là “bệnh chết”, cần ngừng việc kinh doanh. Giờ Phú Hưng chỉ đang đối mặt với mối nguy nhỏ nhất trong số ba loại khủng hoảng, nhưng do trong năm nay, đã hai lần ngân hàng quốc danh phát động làn sóng đổi tiền mặt gây ảnh hưởng tới Phú Hưng, nếu không có hậu thuẫn tài chính vững chắc, Phú Hưng sẽ chìm ngập trong tai ương.

Nhưng đây vẫn chưa phải tình trạng tồi tệ nhất.

Vu Tố Hoài nghiến răng, nói: “Sau khi người ta phát hiện ra căn hầm bí mật, quân đội đã tiến hành kiểm soát khu vực quanh nhà họ Phan, người nhà họ Phan muốn ra vào cũng phải có kẻ đi theo… Nhưng không phải để bảo vệ, mà vì muốn quản thúc, sợ họ chạy trốn như Phan Thịnh Đường.”

“Sinh hoạt và an toàn của họ có gặp vấn đề gì không?”

“Trừ việc không tiện ra ngoài thì còn lại vẫn ổn.”

Ngân Xuyên thở phào nhẹ nhõm.

Tố Hoài nói tiếp: “Hai năm trước suýt nữa Phan Thịnh Đường đã bị ám sát ngoài ngân hàng Chartered, từ đó trở đi ông ta rất ít khi ra đường, nhưng Phan Thịnh Đường không chỉ khống chế những phi vụ kinh doanh trên bề nổi, mà có thể cũng đã âm thầm hoài nghi cậu rồi, thế nên ông ta mới giấu giếm cậu rất nhiều chuyện.”

“Ông ta đã làm gì?”

“Mùa đông năm kia, ông ta lén bắt nối quan hệ với tổng tham mưu lục quân giúp Edmund để lấy công văn phê chuẩn bao trọn một nhánh đường sắt vận chuyển than đá, ông ta là tổng phụ trách kinh doanh, giao hết lợi nhuận lên cho phòng kế toán Tây, hằng năm thu về một khoản hoa hồng dành cho mại bản theo quy định, ngoài ra ông ta còn lập vài kho hàng chứa than đá trên danh nghĩa ngoại trang của hiệu buôn Tây, có ban kế toán độc lập. Phòng kế toán Hoa không biết chuyện này, khoản tiền bôi trơn cũng là tiền túi ông ta. Cuối năm ngoái, phe phái quân đội tranh đấu quyết liệt, cưỡng ép thu hồi nhánh đường sắt, người ta bắt đầu kiểm tra lại sổ sách kho than, tiến hành bàn giao tài sản, mùa hè năm nay đã gần như xong rồi…”

Ngân Xuyên chợt nói: “Hao hụt tiền sao?”

Nét mặt Tố Hoài thoáng hiện vẻ kinh ngạc khâm phục, anh ta gật đầu.

Ngân Xuyên lạnh lùng nói: “Xem ra lão hồ ly căm giận tôi đến phát điên rồi, ông ta không chỉ báo thù tôi mà còn báo thù cả Edmund. Phan Thịnh Đường mang bao nhiêu tiền đi?”

Nét mặt Tố Hoài vẫn rất khó coi: “Trừ mọi khoản chi tiêu và tiền thôi việc cho nhân viên ra thì tổng cộng là hơn một triệu bảy trăm nghìn.”

“Hơn một triệu bảy trăm nghìn,” Ngân Xuyên lặp lại, “gần hai nghìn lượng hoàng kim.”

“Rõ ràng số tiền này được giữ trong tài khoản riêng của Phan Thịnh Đường, vẫn chưa được giao cho hiệu buôn Tây hay Edmund. Buổi chiều ngày Phan Thịnh Đường mất tích, ông ta đã chuyển số tiền này đi từ ngân hàng Chartered. Nhưng Phan Thịnh Đường không rút, mà chuyển tiền đến một tài khoản thuộc ngân hàng HSBC, James tới HSBC nghe ngóng, nhưng họ rất kín miệng, trừ việc khoản tiền vẫn chưa bị rút ra, họ không tiết lộ bất cứ thông tin nào khác. Phan Thịnh Đường là tổng giám đốc kho than. Trên danh nghĩa, kho than là ngoại trang của phòng kế toán Hoa, giờ cậu là giám đốc mới của phòng kế toán Hoa, cũng là chủ nhân của Phan gia… Có thể cậu sẽ không rũ bỏ được mối quan hệ này.”

Ngân Xuyên cười: “Trừ khi tôi từ bỏ vị trí tổng mại bản, trừ khi tôi cắt đứt hoàn toàn quan hệ với nhà họ Phan.”

Tố Hoài không dám nhìn anh, anh ta khẽ cất lời: “Cũng không có tác dụng mấy đâu. Sự đã rồi mới phủi bỏ quan hệ thì đã quá muộn, việc này khoan chưa nhắc tới, nhưng những nghiệp vụ này phát sinh khi cậu đang là phó tổng mại bản, cậu vẫn phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, Phan Thịnh Đường còn dùng tiền công để mua công trái, cậu đã tham gia cùng ông ta. Cậu sử dụng chuyện này để nắm đằng chuôi Phan Thịnh Đường, còn Edmund thì do tự vệ nên cũng tóm đằng chuôi cậu…” Anh ta khựng lại, nghĩ xem nên lựa lời nào cho phải, “Giờ tự dưng Edmund bị mất một khoản tiền lớn, chắc chắn ông ta sẽ trút giận lên cậu, không để cậu an ổn thoát tội đâu. Nhưng ông ta cũng nói hiệu buôn Tây không định mang chuyện này ra kiện, chỉ muốn xử lý cho xong vấn đề thôi, ám chỉ mong muốn giải quyết riêng sự tình.”

Ngân Xuyên im lặng hồi lâu mới hỏi: “Tôi còn tiền bù vào không?”

Tố Hoài nói: “Trước đó chúng ta đã mất hơn tám trăm nghìn để giành quyền phát hành in ấn năm triệu tiền giấy. Khoản tiền còn lại cần để dành cho Phú Hưng ứng phó với cơn sốt đổi tiền mặt, nếu không, không chỉ kế hoạch thành lập ngân hàng tan tành, mà đến hiệu bạc Phú Hưng…”

“Cũng sẽ phá sản.” Ngân Xuyên khó khăn cất lời, “Nếu đưa cho Phổ Huệ khoản tiền đó, hiệu bạc sẽ sụp đổ, tôi vẫn phải ngồi tù, hơn nữa danh dự còn bị hủy hoại, trở thành một kẻ lừa đảo thực thụ, không bao giờ đứng dậy nổi trong thương giới nữa.”

Trước đó Nam Gia nhất nhất không nói tiếng nào, giờ mới chịu cất lời: “Cậu Trịnh, có lẽ cậu phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.”

Ngân Xuyên cau mày: “Anh muốn tôi từ bỏ Phổ Huệ?”

Nam Gia gật đầu: “Vâng, không cần quan tâm tới Phổ Huệ hay nhà họ Phan nữa, hãy cứ dốc hết sức bảo vệ Phú Hưng. Nếu Phổ Huệ trở mặt, thưa kiện lên tòa án, cậu cũng chẳng phải người chịu trách nhiệm lớn nhất, cùng lắm chỉ bị phán mấy năm tù, chúng tôi sẽ nghĩ cách giảm bớt thời gian thi hành án cho cậu.”

“Anh muốn tôi ngồi tù ư?!” Ngân Xuyên cao giọng.

Nam Gia lẳng lặng nhìn anh: “Nếu không tránh được thì cũng chưa chắc đây đã là chuyện xấu. Cậu coi như mình đang khổ tu một thời gian đi, có lẽ cậu sẽ có thể tự nhìn thấu vài vấn đề một cách rõ ràng.”

Ngân Xuyên nhìn anh ta chằm chằm, phỏng đoán ẩn ý trong lời Nam Gia. Nam Gia vô cùng bình tĩnh, ánh mắt hiển hiện sự kiên định không sao che lấp nổi.

Gió lọt vào phòng qua kẽ hở của bức tường xám xịt, lạnh buốt thấu xương, Ngân Xuyên xoa mắt, nói: “Mấy hôm nay tôi cứ nghĩ mãi, dù diễn xuất của Phan Thịnh Đường có tốt tới mức nào đi chăng nữa, căn bệnh của ông ta chắc chắn vẫn là thật. Một mình ông ta không thể chạy thoát nổi. Tôi nghĩ rất lâu, trong số những kẻ chi viện cho ông ta, hiện giờ có một người khả nghi nhất.”

Nam Gia và Tố Hoài đồng thanh: “Đó là ai?”

“Ngô Phong Lâm. Ông ta không hề rời khỏi Hán Khẩu, việc tới Thượng Hải làm ăn chỉ là cái cớ để che mắt tôi. Do tôi quá sơ suất, nhiều chuyện tôi đều nghĩ là lẽ đương nhiên, sao tôi có thể tin lão hồ ly đó lại dễ dàng trở nên cô độc, không có lấy một trợ thủ như vậy? Sao tôi không suy xét đến chuyện ông ta chỉ đưa theo vài quản lý chẳng hề đáng tin mà có thể dễ dàng thu mua Khải Nhuận? Mà nếu ông ta không để lộ tin tức, chắc cả đời này chúng ta cũng chẳng phát hiện ra căn hầm bí mật. Quả thật ông ta rất giỏi.” Ngân Xuyên cười, đây là nụ cười từ trong thâm tâm anh, không mảy may hối hận oán trách, mà tràn ngập tự giễu, “Phải, đáng đời tôi lắm.”

Anh là người không bao giờ để mình lâm vào trạng thái sa sút uất ức, sau khi xốc lại tinh thần, anh nói: “Hãy nhờ ngài Đồng nghĩ cách tìm ra Ngô Phong Lâm, tôi biết chuyện này không dễ dàng, nhưng nhất định phải tìm ra ông ta bằng được. Ngoài ra, hãy nhờ ngài ấy giúp giải quyết chuyện của hiệu bạc Phú Hưng, cứu vãn được chừng nào hay chừng ấy, dù sao ngài Đồng cũng là cổ đông hiệu bạc. Còn nữa, chuyển lời cho Vân Thăng, dặn anh ta phải chăm sóc cẩn thận cho người nhà họ Phan.”

Tố Hoài do dự: “Anh ta là kẻ xảo trá, cậu không sợ anh ta bỏ đá xuống giếng ư?”

“Nói với anh ta, chỉ cần tôi còn sống, tôi sẽ để người lo liệu cho số sản nghiệp của anh ta thật cẩn thận, sẽ không có bất cứ vấn đề nào xảy ra. Tôi không phải Hà Sĩ Văn, ngồi tù chẳng khiến tôi chết nổi đâu. Tôi có làm sao thì mấy món tài sản cỏn con của anh ta cũng chẳng trụ nổi. Anh ta không phải hạng chưa từng nếm mùi khổ sở.”

Tố Hoài vâng lời, anh ta đứng dậy, nói: “Cậu Trịnh, chúng tôi phải đi rồi.”

Nam Gia bảo: “Trong hành lý có quần áo để cậu thay, còn có cả chăn nệm nữa, chúng tôi giao cho quản ngục rồi, hắn sẽ đưa lại cho cậu.”

Ngân Xuyên muốn nói lại thôi, niềm hy vọng phức tạp anh ánh trong mắt. Nam Gia suy nghĩ, cuối cùng vẫn nói: “Đó là quần áo cô Phan sắp cho cậu.”

Khóe môi Ngân Xuyên khẽ run run.

Sau khi Tố Hoài và Nam Gia rời đi, cai ngục mang chiếc vali da vào, đặt trên bàn, hắn gác tay trên vali, toét miệng cười với Ngân Xuyên, Ngân Xuyên cởi chiếc đồng hồ trên tay đưa cho hắn, nói: “Phiền anh quá.”

Cai ngục đút đồng hồ vào túi áo, Ngân Xuyên kéo vali lại, thấy cai ngục quay người bỏ đi, lát sau hắn mang chăn ga vào, đặt lên chiếc ván giường bé tí, nói với giọng như đang tán gẫu: “Xem ra hơi to nhỉ, gấp một nửa trải lên giường nằm sẽ êm hơn đấy.”

Ngân Xuyên không lên tiếng, cũng chẳng buồn liếc hắn, anh nhìn nhìn chiếc vali đã được mở ra thật chăm chú.

Cai ngục lại nói: “Cậu có muốn ăn gì không?”

Ngón tay Ngân Xuyên chầm chậm đặt lên bộ đồ mềm mại, khẽ men theo từng tấc vải, bốn chiếc áo len này anh vẫn thường xuyên mặc, đồ lót được cất gọn trong một chiếc túi vải nhỏ, tất cuộn thành hình tròn, nhét trong khe hành lý. Ngoài ra còn có năm quả táo và một cuốn tuyển tập thơ tiếng Anh.

Cai ngục ngó nghiêng, nói: “Ồ, táo ngon quá nhỉ, để tôi nếm thử xem nào.” Hắn vươn tay toan lấy mất, Ngân Xuyên ngẩng đầu nhìn hắn, sát ý hiển hiển trong mắt.

Cai ngục sững sờ, hắn gãi đầu, cười: “Tôi đùa tôi mà, ha ha, đùa thôi.” Vừa nói hắn vừa bước ra ngoài, ra đến cửa còn quay đầu nhìn, chàng thanh niên gầy gò ngồi lẻ loi trong phòng giam, như một cây tùng ngày rét buốt.

Đêm đó, cuối cùng Ngân Xuyên cũng có thể thiếp ngủ sau bao ngày chật vật, tuy nhiên anh chỉ có thể ngủ tới nửa đêm.

Tiếng cánh cửa bật mật khiến anh bừng tỉnh, bị giam cầm trong bóng tối khiến giác quan của anh bén nhạy lạ thường. Anh mở mắt, nơi này tối đen như mực, nhưng nguy hiểm lại đang rành rành trước mắt.

Có một kẻ xách tay anh lên, khi ngủ Ngân Xuyên mặc một chiếc áo len, lúc này tay áo đã nhăn nhúm lại, lông cừu và da thịt ma sát, làm bùng lên cơn đau thiêu đốt. Anh bị ấn xuống giường, cánh tay bẻ ngoặt ra sau lưng, một người khác lao lại, cái bóng đen cao lớn ấy chắn mất ánh đèn rọi vào từ hành lang ngoài cửa sắt, lập tức ánh đèn đã lẳng lặng đong đưa xoay vần.

“Rắc!” Âm thanh xương sườn đứt lìa vang lên, cùng với đó là cơn đau dữ dội, trong đêm đen sao mà rõ rệt lạ thường.

Ngân Xuyên quỳ dưới đất.

Tiếng kêu nghèn nghẹt run rẩy thoát ra từ lồng ngực, máu huyết trong người anh như bị rút cạn, toàn thân lạnh ngắt, trán lại tựa bốc lửa. Trần nhà tỏa thứ hơi lạnh rét buốt, anh cố mở to mắt, nhìn thẳng phía trước, đầu tiên trước mắt anh là sương mù, sau đó lại như nổ đom đóm, cơ thể anh mềm nhũn, khuỵu xuống, hai tay chống trên nền đất. Đây vốn là động tác mà anh rất ghét, vì sáng nay cai ngục nhổ nhổ nước bọt xuống đất, giờ rất có thể anh đang tiếp xúc với thứ vết tích buồn nôn ấy.

Nhưng còn cách nào khác đây, anh bị đánh đập như một con chó, chẳng có lấy một chút sức lực phản kháng. Anh nghe thấy tiếng xương cốt mình vỡ vụn sau cú đánh, như một vốc kim chợt bị ai thả xuống, len kín đâm sâu lục phủ ngũ tạng anh.

Rồi lại có một người chậm rãi bước từ ngoài cửa vào, bước tới trước mặt anh, đứng từ trên dõi xuống trong ánh đèn mờ, người đó có một gương mặt rất trung hậu.

Từ Đức Anh.

Từ Đức Anh vươn tay như muốn dìu anh dậy. Ngân Xuyên nghiêng mình tránh né, anh vịn giường, chật vật ngồi xuống, như một bệnh nhân ho lao, thở gấp một cách khó khăn.

Khi rời đi, hai tên côn đồ mở đèn trong phòng giam. Đức Anh thấy vết máu và bãi nôn mửa trên đất bèn bước vòng qua, ngồi xuống ghế, cậu ta nói: “Đau không? Cảm giác khi tôi tự đâm mình một nhát còn đau hơn anh hiện giờ nhiều. Anh Phan, chắc anh phải rõ anh bị đánh như vậy không oan đâu, người ta gọi đây là gieo gió gặt bão đấy. Từ Đức Anh tôi không có bản lĩnh gì, nhưng chẳng phải loại vô liêm sỉ dám làm không dám chịu, tôi khinh thường việc bỏ đá xuống giếng, nhưng hôm nay thấy anh thế này, tôi lại dễ chịu khoan khoái hơn nhiều.”

Môi Ngân Xuyên tái nhợt, anh nhắm mắt, phớt lờ cậu ta.

Đức Anh nói: “Tôi sẽ không nhắc đến ân oán giữa chúng ta nữa, từ hôm nay mọi chuyện coi như kết thúc. Tôi đến đây thứ nhất là để trút hết nỗi uất ức tôi phải chịu đựng bao lâu nay, thứ hai là muốn báo cho anh Phan biết kể từ khi tô giới lần lượt bị thu hồi, Bộ Tài chính đã muốn Trung Quốc hóa một số hiệu buôn Tây đang xuống dốc, với năng lực hiện tại của cha tôi, dù chúng tôi không thể cứu anh khỏi tù ngay lập tức, nhưng ít ra cũng có thể xin chính phủ giải quyết vấn đề bên hiệu buôn Tây trong một khoảng thời gian nhất định. Cũng đồng nghĩa với việc tôi có thể cho anh Phan một cơ hội thoát thân.”

Cuối cùng cậu ta vẫn gọi Ngân Xuyên là “anh Phan”.

“Anh Phan tài hoa hơn người, lại là sinh viên xuất sắc của Oxford, ngồi tù chưa chắc đã khiến anh bỏ mạng, nhưng nó có thể hủy hoại danh dự và tiền đồ của anh. Chúng ta đều biết trên đời này chẳng nơi nào thực dụng như hiệu buôn Tây, mà nhà họ Phan mất ông chủ rồi, nếu không có ai chèo chống, gia tộc này sụp là cái chắc. Nếu anh được thả tự do, anh có thể bù đắp lại mọi tổn thất.”

Ngân Xuyên trước sau không lên tiếng.

Đức Anh thở dài: “Anh cả không tiếp lời tôi vì đang đoán điều kiện của tôi là gì đúng không?”

Cậu ta không vội vã chờ đợi câu trả lời của Ngân Xuyên, mà chỉ đưa mắt nhìn vách tường đá mốc meo, lắc đầu đầy cảm khái, như thể đang chứng kiến nơi Ngân Xuyên bị vây khốn, đâm hết sức xót thương.

Những giọt nước đọng trên bờ tường ẩm thấp, phát ra tiếng nhỏ giọt chậm rãi.

“Anh Phan, anh có biết nhân quả báo ứng là gì không?” Từ Đức Anh khẽ thốt, “Trước kia tôi không tin mấy, nhưng giờ thì dần dần cũng tin rồi.”
 
Quyển 2 - Chương 72


Tân Nguyệt chuẩn bị hoạt động trở lại trên chuyến chuyên chở Xuyên Giang, việc hợp tác giữa Đại Quân và SS Conte Verde cũng đã tiến đến bước cuối, hai việc này đều tiến triển khá thuận lợi. Sức khỏe Đạo Quần chuyển biến rất tốt đẹp, hiện ông nghỉ ngơi tại nhà, thỉnh thoảng có tham gia quyết định những công việc quan trọng của công ty, nhưng vẫn dành hầu hết thời gian để nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Bạn bè thường tới thăm Đạo Quần, nếu thời tiết tốt, ông sẽ vui vẻ ra vườn hoa uống trà, trò chuyện cùng họ. Ông đã vất vả quá nửa đời người, cuối cùng lại có thể nhân cơn trọng bệnh tới không đúng lúc này để hưởng thụ chút an nhàn. Đạo Quần cũng nghe được chuyện của hiệu buôn Tây Phổ Huệ và nhà họ Phan, người ta đồn đại vụ mất tích của Phan Thịnh Đường còn ly kỳ hơn kịch nam. Đạo Quần giữ thái độ ngờ vực với phần lớn những lời đồn đại, nhưng ông cũng biết rõ những chuyện này không hề gây ảnh hưởng xấu tới Đại Quân. Sau khi kinh qua cơn sóng lớn thăng trầm, Đạo Quần cảm thấy cả mình và gia nghiệp nhà họ Mạnh đều đã cải tử hồi sinh, đâm vô cùng phấn khởi.

Cứ tới thu đông, bệnh suyễn của Tử Chiêm lại tái phát. Đạo Quần nhường phòng ngủ hướng nam cho con trai nhỏ để chuyển sang căn phòng hướng tây. Nhiệt độ đường nước nóng của căn phòng này không được cao lắm, bà Mạnh sợ chồng cảm nên bắt ông sang ngủ với Tử Chiêu, nhưng Đạo Quần không muốn, sợ làm ảnh hưởng con nghỉ ngơi. Sau cơn bạo bệnh, ông rất trân trọng khoảng thời gian ở bên người nhà, lại càng kỳ vọng nhiều hơn vào hai đứa con trai, đặc biệt là Tử Chiêu đang gánh vác trách nhiệm nặng nề, cậu như một con chim ưng non bất chấp gian khổ để bay lượn trong bão táp. Tử Chiêu không chỉ là người lèo lái sự nghiệp nhà họ Mạnh, mà còn là trụ cột tinh thần cho Mạnh Đạo Quần. Đạo Quần không thể để cậu mảy may ảnh hưởng.

Tử Chiêu hay về muộn, nhưng chỉ cần thấy phòng cha sáng đèn, cậu sẽ lại vào chào ông. Đạo Quần luôn phần đồ ăn khuya cho cậu, để cậu ăn xong rồi mới đi ngủ. Đêm nay cũng như vậy.

Tử Chiêu vào nhà, lúc này Đạo Quần còn chưa ngủ, ông tựa vào giường, gật đầu với câu. Bà Mạnh đang lục tung tủ quần áo, phòng có một chiếc tủ đứng rất lớn, đựng đồ da và những món trang phục ngày thường ít mặc. Đạo Quần chỉ tủ đầu giường, ý bảo cậu mau uống cốc sữa đặt trên tủ đi. Tử Chiêu ngồi xuống bên mép giường, cười với mẹ: “Khuya rồi mà mẹ còn lục tìm gì vậy?”

Bà Mạnh không quay đầu lại: “Em nhớ năm ngoái anh mua cho em một chiếc khăn choàng lông chồn màu trắng, chẳng hiểu sao lại không tìm thấy đâu.” Bà nói với Đạo Quần.

Đạo Quần đáp: “Chưa chắc đã cất trong tủ này đâu. Phòng em còn mấy chiếc tủ nữa mà, để mai rồi tìm.”

“Không kịp, sáng mai người ta đi rồi.”

Tử Chiêu lấy làm lạ, hỏi: “Ai đi ạ?”

“Chị họ con đi Đông Bắc, hôm nay con bé với bác ba con đến nhà mình chơi, mẹ thấy càng ngày con bé càng gầy, muốn tặng nó món gì đó.”

“À.”

Bà Mạnh chợt quay phắt lại, nói với Tử Chiêu: “Hay con tặng chị chiếc áo choàng lông cáo đen đi, sau này con cưới vợ mẹ sẽ đền con một chiếc bằng lông chồn tía.”

Tử Chiêu bật cười: “Mẹ à, mẹ đổi lông chồn tía lấy lông cáo là lỗ to đấy.”

“Mẹ không sợ lỗ. Thế nào, con có đồng ý không?”

“Sắp tới con phải đi châu Âu, không muốn trích tiền công ty ra làm lộ phí nên con đổi áo choàng lấy tiền rồi.”

Bà Mạnh ồ lên: “Mấy hôm trước lúc phơi đồ cho con mẹ còn thấy nó mà, vẫn cất trong tủ đấy thôi. Con keo kiệt thật đấy, lừa mẹ làm gì.”

“Con mang đi đổi từ hôm qua rồi, không tin thì mẹ vào phòng con mà kiểm tra.”

“Nếu mẹ tìm thấy thì con định làm gì?” Bà Mạnh cười.

Tử Chiêu lẳng lặng uống hết cốc sữa rồi đứng dậy, lạnh nhạt nói: “Vậy mẹ đi cùng con.”

Bà Mạnh dợm cất lời, Mạnh Đạo Quần lại nói: “Cầm mấy món đồ lặt vặt lấy tiền không phải giải pháp lâu dài, hơn nữa cũng dễ khiến người ta cười chê. Nhưng giờ tình hình nhà mình và công ty cũng không ổn thật, hay bán căn nhà ở Vũ Xương đi, nên xử lý luôn trước khi Tử Chiêu lên đường.”

Tử Chiêu liếc nhìn cha mình.

Bà Mạnh tiếp lời: “Chiêu Chiêu bận lắm, đừng để nó phải lo thêm chuyện, việc này cứ để em làm.”

Tử Chiêu ngáp dài.

Đạo Quần nói với cậu: “Con mau về ngủ đi.”

Bà Mạnh rời phòng cùng Tử Chiêu. Tử Chiêu cười nói: “Chẳng lẽ mẹ định đi lục tủ của con thật?”

Bà Mạnh vờ giận, giả bộ phát vào đầu cậu. Tử Chiêu cau mày né tránh, bà Mạnh lại rụt tay về, cười: “Mẹ muốn nói với con sáng sớm mai mẹ phải đi tiễn gia đình bác ba, mai dậy con nhớ để ý cha uống thuốc, dù ông ấy khỏe hơn rồi nhưng bệnh vẫn chưa khỏi hẳn, không được sơ suất đâu đấy.”

Tử Chiêu vâng lời mẹ.

Bà Mạnh lại nói: “Con bận bịu thì cũng phải chú ý an toàn, chăm lo cho bản thân. Nhà mình không gánh nổi cơn sóng gió nào nữa đâu, nhất là cha con, ông ấy không thể chịu bất cứ kích thích nào nữa. Nói thật, cũng may chuyện kết thân với nhà họ Phan không thành, nếu phải gánh mớ phiền phức nhà họ thì chẳng biết gia đình mình sẽ ra sao.”

“Mẹ có muốn vào ngồi một lát không?” Tử Chiêu mở cửa phòng, quay đầu hỏi mẹ.

Bà Mạnh cười: “Không, con đi ngủ đi.”

Tử Chiêu thức trắng đêm.

Sáng sớm hôm sau, cho cha uống thuốc xong, Tử Chiêu vội vã rời nhà.

Mặt trời lên, muôn con đường trải sắc cam của ánh dương, nắng ban mai như sương như khói. Sắc nước và ánh nắng như cùng nhảy múa, những con thuyền đậu bên bờ sông khẽ đong đưa theo sóng, như thể tĩnh lặng im lìm luôn thường trực nơi đây, những sóng gió gầm thét chỉ là chuyện hi hữu ngoài ý muốn. Tâm trạng Tử Chiêu tồi tệ hơn bao giờ hết, nhưng cậu vẫn cố gắng kiềm chế, dù Cảnh Ninh có tới muộn hơn giờ hẹn tới gần một tiếng đồng hồ.

Ánh dương buông xuống, giàn giáo cao phủ vải bố, gió thổi phần phật, đường rìa đá hoa cương trắng muốt lộ ra qua khe hở. Tòa nhà lớn hiệu buôn Tây Thái Cổ đang thi công cách Trường Giang chưa tới một trăm mét, vì xưởng xây dựng đang bãi công nên vào buổi sáng, công trường này gần như không có người.

Cuối cùng Cảnh Ninh cũng tới, mí mắt cô sưng húp, cô xỏ giày đế bằng, như lùn đi cả một đoạn. Tử Chiêu cầm túi xách giúp cô, hỏi: “Sao em tới muộn vậy? Em không khỏe à?”

“Nhà em có chút chuyện, biết vậy em đã bảo anh đừng chờ em, em đi phà qua sông cũng được.”

Tử Chiêu cất lời: “Em đừng nói bậy, Tân Nguyệt sắp phải chạy trên Xuyên Giang rồi, mấy hôm nữa em không đi được nữa đâu, mà chưa kể anh còn là người lái nữa.”

Cảnh Ninh bật cười, vươn tay khoác tay cậu theo thói quen. Lúc băng qua con ngõ nhỏ dẫn ra đường lớn bên bờ sông, Tử Chiêu khẽ khàng rút tay ra, nói: “Mấy hôm nay cha để ý anh kỹ lắm, có khi ông cho người theo dõi anh rồi.”

Cảnh Ninh lẳng lặng đi theo cậu vài bước rồi dừng lại.

“Hay là bỏ đi.”

Tử Chiêu sững sờ, không tiếp lời.

“Trong khoa có vài thầy cô đối xử rất tốt với em, em đột nhiên nghỉ học thì có lỗi với họ lắm. Thật ra hôm nay em cũng không muốn tới trường mấy,” cô khựng lại trong chốc lát rồi nói tiếp, “chắc em chưa sẵn sàng.”

Tử Chiêu nén giận, cậu kéo tay cô: “Được rồi, Phan đại tiểu thư, để anh nắm tay em, như vậy đã được chưa?”

Cảnh Ninh giằng tay ra.

Tử Chiêu hạ giọng: “Hôm nay tâm trạng anh tệ lắm, em đừng cãi nhau với anh được không.”

Cảnh Ninh nói: “Giờ em thật sự không đủ khả năng quan tâm tới tâm trạng anh.”

“Vậy em muốn anh làm gì? Anh đã nghĩ bao nhiêu cách, làm bao nhiêu chuyện, ra đến nước ngoài chúng ta sẽ kết hôn luôn, em còn muốn anh làm gì nữa?”

“Em không ép anh kết hôn, anh không cần tỏ vẻ như đang lỗ vốn mất tiền thế.”

Tử Chiêu cố nín nhịn, nén cơn giận xuống, cậu tiến lại kéo tay cô, cười: “Anh sợ em rồi. Anh cưới được em còn vui hơn nhặt được núi vàng núi bạc, lỗ vốn mất tiền gì chứ, em thật là. Sao tay em lạnh thế, ngoan nhé, để anh ủ ấm tay cho em.”

Cảnh Ninh nhìn cậu.

Bốn nhau giao nhau, họ đọc được sự mệt mỏi và chán chường trong mắt đối phương, lòng tin kiên định chợt thoáng lung lay, vết thương họ cố gắng xem nhẹ giờ cũng bắt đầu nhói đau. Bọn họ đều thấy mình rất yêu đối phương, yêu là từ họ ra rả luôn miệng, nhưng “yêu” là gì? Khoảnh khắc ấy, hai người họ đều rất hoang mang, như đang bị đẩy vào một trò chơi mà chính người trong cuộc cũng chẳng hiểu đầu đuôi, bọn họ quá ngây thơ, họ không biết cách làm chủ cuộc chơi này.

Vành mắt Cảnh Ninh đỏ hoe, cô nói: “Tử Chiêu, em không muốn ra nước ngoài, gia đình em thành ra thế này rồi, sao em có thể đi được? Dù kết hôn nhưng gia đình anh vẫn không chấp nhận em thì biết làm thế nào? Kết hôn rồi, anh sẽ không quan tâm, không đoái hoài tới chuyện nhà em sao? Chỉ cần em than phiền kể lể với anh, anh sẽ lại như hôm nay, anh sẽ bảo tâm trạng mình không tốt, bảo em đừng cãi nhau với anh ư?”

Tử Chiêu nghiêm mặt: “Em có thể oán năng lực anh còn kém cỏi, không thể giúp gì cho em, nhưng anh đã cố gắng làm tốt nhất trong phạm vi có thể rồi. Anh nghĩ đủ mọi cách để tạo nên một mái ấm cho chúng ta, nhưng nhiều chuyện chỉ có thể đi từng bước một. Ninh Ninh, anh hoàn toàn không phải con người vô trách nhiệm, vậy nên anh sẽ không, mà cũng không dám dễ dàng hứa hẹn với em điều gì, vì bằng năng lực của anh hiện giờ, có một số chuyện anh thật sự không thể làm nổi. Hơn nữa… gia đình anh giờ cũng đang khó khăn.”

“Vậy anh lo việc nhà mình trước đi, đừng để em khiến anh phân tâm.”

Cuối cùng cậu cũng không nén nổi cơn giận: “Phan Cảnh Ninh, em công bằng một chút đi được không! Anh đã làm biết bao nhiêu chuyện mà giờ em còn bóng gió chỉ trích anh ư!”

Cô nước mắt ầng ậc: “Ừ, đúng vậy đấy, em đã làm chuyện có lỗi với anh, anh thương hại em, còn muốn tiếp tục ở bên em, chuyện này vốn đã chẳng công bằng với anh rồi.”

Tử Chiêu vô cùng phiền muộn: “Trừ nói những lời này ra thì em còn làm được gì cho chúng ta?”

“Em muốn san sẻ với anh, nhưng anh có cho em cơ hội không?” Cảnh Ninh nghẹn ngào, “Anh cả em trong tù bị người ta đánh, đánh gãy cả xương sườn, chiều qua mới được bảo lãnh ra, giờ nhà em rối bòng bong rồi! Anh nói xem em biết phải làm sao? Anh bảo em hôm nay đi xin thôi học, thôi học rồi em biết phải làm sao? Anh muốn em kết hôn với anh, nhưng anh chỉ muốn em là vợ của Mạnh Tử Chiêu, quên mất em là con gái nhà họ Phan, anh muốn em vứt bỏ gia đình em, mà chính anh cũng muốn vứt bỏ nó. Anh không muốn gồng gánh cục diện rối rắm của nhà em!”

“Anh vứt bỏ ư? Nếu anh muốn vứt bỏ thì đã chẳng dây dưa với em!”

“Là em vô liêm sỉ, bám lấy anh không buông, thế đã được chưa?!”

Tử Chiêu giận quá hóa cười: “Anh ta chỉ bị đánh thôi mà, sao em phải đau khổ tới mức này? Anh ta bị đánh thì đáng thương thật, nhưng dù sao cũng được bảo lãnh khỏi tù, không phải tốt quá rồi sao? Anh thật sự không sao hiểu nổi, hai người không hề có quan hệ huyết thống, giờ anh ta cũng đổi cả họ rồi, chẳng còn là người nhà họ Phan với em nữa, sao em phải la lối cãi cọ ầm ĩ với anh vì anh ta?”

“Anh có ý gì?” Cảnh Ninh chỉ Tử Chiêu, cô cao giọng.

“Em đừng giơ tay chỉ anh, anh ghét người ta chỉ vào mặt anh.” Tử Chiêu lạnh lùng nói.

Cảnh Ninh buông tay xuống, cô quay mặt đi: “Mạnh Tử Chiêu, chắc anh cũng hiểu rõ tình cảm của em dành cho anh là thế nào. Em rất xin lỗi đã khiến anh phải phiền lòng, rất xin lỗi vì không thể làm gì cho anh mà vẫn khăng khăng đòi anh phải quan tâm tới cảm xúc của em, rất xin lỗi vì đã chỉ vào mặt anh. Giờ thì xin anh để em đi đi.”

Tử Chiêu quay người bỏ đi, nhưng được ba bốn bước, cậu lại quay trở về bên cô, siết chặt cô vào lòng.

Cô ngửi thấy mùi hương quen thuộc trên cơ thể cậu, bật khóc: “Em xin lỗi, em xin lỗi. Là tại em.”

Cậu không hiểu nổi cô đang nghĩ gì, chỉ dịu dàng vỗ về cô. Cậu còn quá trẻ, dù thông minh khôn ngoan nhưng trời sinh giản đơn, mới vào đời chưa lâu, bất chợt phải gồng gánh gánh nặng của gia đình, rồi trên gánh nặng ấy còn có cả cô.

“Anh muốn em trở thành vợ anh, gia đình em cũng là gia đình anh, anh sẽ không bỏ mặc họ.” Cậu liên tục nói, thấy cô bình tĩnh hơn, cậu bèn nắm tay cô, nói, “Đi thôi, mình qua sông thôi.”

Cô nghe lời, đi theo cậu, bước chân nhẹ bẫng, trán rịn mồ hôi, giờ đang vào thu, trời đã rất lạnh, cô lại thường đột ngột nóng bừng người. Tử Chiêu phát hiện cô đang run rẩy, bèn gắng hết sức dịu dàng hỏi han cô, chỉ lo cô hiểu lầm mình mất kiên nhẫn, hết lòng hết dạ nương theo ý cô. Cảnh Ninh cảm thấy quá đỗi tuyệt vọng, cô nói: “Em vẫn nên ngồi phà thì hơn, em… em đang đến ngày, không tiện lắm, em không thoải mái.”

Tử Chiêu nhìn cô chăm chú, cậu nói: “Thật sự không cần anh đi cùng chứ?”

Cô lắc đầu.

Cậu đành nói: “Khi nào về thì tới bến tàu thì báo với anh một tiếng, anh sẽ ở đó đến chiều.”

Cảnh Ninh đáp vâng: “Vậy anh mau đi đi, em đi chậm lắm, không theo kịp.”

“Nhớ là nhất định phải tới tìm anh, anh còn có món đồ muốn đưa cho em, không đến là mất đấy.” Cậu tỏ vẻ bí ẩn.

Cô đáp: “Anh lắm mồm quá.”

Tử Chiêu cười hì hì, nhưng thật ra cậu đang rất phiền lòng, bèn vội vã rời đi.

Một chiếc xe phóng vút qua đường cái, bánh xe ma sát mặt đường, phát ra tiếng vang ù ù. Cảnh Ninh thấy choáng váng, nền đất như sàn phòng khiêu vũ, có hàng trăm đôi chân đang cùng nhảy múa. Cô hít một hơi thật sâu. Lại có một chiếc xe chở hàng lao qua, thanh sắt kêu leng keng, sao lại nhiều xe tới vậy, cứ chiếc này nối chiếc kia, mùi xăng dầu nồng nặc; bầu trời xanh biếc từng cao ngất rực rỡ, từng dịu dàng bao phủ lấy cô, giờ đột nhiên lại trở nên dữ dội, đè nặng xuống cơ thể cô.

Cô thở hổn hển, bắt đầu nôn ọe, nôn xong, lại như bị chuột rút, cất một bước thôi cũng hao hết sức lực.

Cô nói dối.

Cuối cùng cô không ngồi phà, cũng chẳng đi tìm Tử Chiêu; cô không đến ngày, mà ngược lại.

Cô đang có thai, đứa con không phải của cậu.

Từ lúc nhà họ Phan chưa xảy ra chuyện cô đã phát hiện mình có gì đó bất thường. Cảnh Ninh có dự cảm không hay, bèn lén lút tới một phòng khám nhỏ chốn hẻo lánh, vào giờ phút nhận được kết quả, cô cảm thấy như có sét đánh ngang tai, cô lập tức hiểu rõ mình đã không có tư cách tiếp tục ở bên Tử Chiêu. Vốn cô đã phụ lòng cậu một lần, mà lần sau còn tàn nhẫn hơn lần trước. Cô tự lừa mình dối người một khoảng thời gian, đêm ngủ mơ, cô mơ thấy mình không có thai, trong mộng cô vô cùng mừng rỡ, khi tỉnh lại, cô bị bủa vây bởi tuyệt vọng. Phản ứng cơ thể cô đã quá rõ ràng rồi.

Cô không muốn phá đứa bé này, có lẽ do sợ, đến một con vịt chết cũng khiến cô buồn bã suốt một thời gian dài, huống chi là tự tay giết chết một con người, huống chi đó còn là con cô. Mỗi ngày cô đều bị hành hạ bởi nỗi hổ thẹn, sợ hãi và nuối tiếc, mỗi lần Tử Chiêu cố gắng làm gì vì tương lai hai người, nỗi đau khổ của cô càng sâu đậm thêm. Sau đó thì Thịnh Đường mất tích, Ngân Xuyên bị bắt, nhà cô lâm đại loạn. Rồi cứ thế dằn vặt tới hiện tại.

Cành ngô đồng xào xạc đung đưa, có mấy chiếc xe đang đổ trước cổng dinh thự nhà họ Phan như thường lệ, trừ xe của Phòng Tuần bộ ra, từ ngày hôm qua đã có thêm một chiếc xe nữa… Từ Đức Anh là người đưa Ngân Xuyên về sau khi được bảo lãnh. Bà Vân không hạ lệnh đuổi khách, vì bà ta không có năng lực này, mà cũng do bãi chiến trường của nhà họ Phan cần người dọn dẹp, tội lỗi của Phan Thịnh Đường cần người gánh vác. Người gánh tội đã được đưa vào phòng.

Chẳng ai ngờ Từ Đức Anh lại đi theo sau đám Vu Tố Hoài, cậu ta lặng lẽ không gây tiếng động, nhưng nét mặt lại đường đường chính chính.

Cái thế giới này đảo điên tới độ chẳng biết phải miêu tả ra sao. Cảnh Ninh thấy kinh sợ. Cô ngồi trên xe kéo, ngơ ngác nhìn chằm chằm cánh cổng nhà mình, như thể dù có xuống xe hay không, vẫn có một bờ vực sâu đang lặng lẽ chờ đợi cô.

Kể từ ngày đó, cô không liên lạc với Tử Chiêu nữa, cho tới tận khi cậu tìm đến cửa.

- -----oOo------
 
Quyển 2 - Chương 73


Một niêu canh gà vườn, một đĩa rau cải xào, một đĩa cá xào, vẫn là ba món khi xưa thường ăn.

Chủ quán bưng đồ ăn lên rồi cầm ghế băng ra ngồi, vừa tắm nắng vừa sửa sang lại tấm lưới đánh cá rách.

“Mình ăn cơm trước đã.” Cảnh Ninh bưng bát lên múc canh, đặt trước mặt Tử Chiêu, “Anh uống ít canh đi, mặc phong phanh thế này thể nào cũng cảm.”

Cậu không nhúc nhích, nhìn cô chằm chằm bằng ánh mắt chất vấn.

Chắc chắn đã có chuyện gì rồi. Thường thường cô luôn là người chủ động liên lạc với cậu cho tiện. Từ ngày lỡ hẹn, cô không còn xuất hiện nữa, cũng chẳng gọi cho cậu. Tử Chiêu không chịu đựng được, gọi vô số những cuộc điện thoại tới nhà họ Phan. Khi thì Vân Thăng nghe máy, lúc lại là anh hai cô. Khi họ nói cô ngủ, lúc lại bảo cô ra ngoài. Hai nhà Phan Mạnh có khúc mắc, nhà họ Phan là bên đuối lý, vậy nên trước sau họ luôn giữ thái độ khách khí lịch sự với Tử Chiêu. Nỗi lo lắng bất an giày vò Tử Chiêu tới độ khiến cậu phát điên. Trong mấy ngày mất liên lạc, cậu đã tưởng tượng ra mọi tình cảnh tồi tệ nhất, thậm chí cậu còn cho rằng cô bị người nhà sát hại, sự cứng cỏi từ trong xương cốt của cô và cái nông nổi giấu sau vẻ ngoài nhu nhược chắc chắn có thể khiến cô hành động quá khích.

Cuối cùng cậu vẫn tìm tới nhà họ Phan. Sau khi Tử Chiêu nhờ người gác cửa báo tin, không ngờ Cảnh Ninh lại mau chóng bước ra, cô xách túi, khoác áo choàng lông cừu trắng trên cánh tay, nói: “Mình tới Vũ Xương một chuyến, ngồi thuyền của anh đi.” Thấy gương mặt cậu trắng bệch, cô khẽ mấp máy môi, muốn nói rồi lại thôi. Cô đưa túi xách cho cậu, chầm chậm khoác áo choàng, như thể đây là một cuộc hò hẹn không thể bình thường hơn được nữa.

Tử Chiêu không nói cho cô giây phút cậu nhìn thấy cô, chân cậu đã mềm nhũn.

Cậu nén nỗi giận dữ sục sôi, cuối cùng lời cậu thốt lại là: “Em quá đáng lắm, làm anh lo chết mất.”

Cảnh Ninh cười, nói: “Mình đi ăn cá đi, vẫn là quán cũ nhé, bữa này để em mời, anh thấy sao?”

Cậu nói: “Ừ.”

Trông cô có vẻ rất mệt mỏi, trên đường đi cô chẳng nói tiếng nào. Sau khi xuống thuyền, đổi xe, cô dựa vào ghế lim dim gà gật. Cậu không bức bách cô, chỉ kiên nhẫn chờ đợi tới tận lúc này.

“Tại sao không tới tìm anh?” Cuối cùng cậu cũng hỏi.

Tim cô đập thình thịch, bèn dời mắt: “Tử Chiêu, ăn cơm xong hẵng nói.”

“Em nói ngay bây giờ đi!”

Cô cười khổ, thở dài, lại chợt nhìn thẳng về phía cô, nhìn vào mắt cậu, rành rọt thốt từng từ: “Chúng ta chia tay đi.”

Vốn Tử Chiêu đã đặt tay lên bàn, nghe đến câu này, tay cậu chợt siết thành nắm đấm, gân xanh chằng chịt, run rẩy không ngừng.

“Đây không phải lần đầu tiên em nói câu này. Phan Cảnh Ninh, lại thế này nữa thì nhạt nhẽo lắm đấy.”

“Đây là lần cuối cùng. Em nghiêm túc đấy, hôm nay em lấy hạnh phúc cả đời mình, lấy tính mạng này ra để thề với anh, em đang nghiêm túc: Mạnh Tử Chiêu, mình chia tay đi. Nếu có nửa lời không phải thật tâm, em sẽ bị…”

“Im đi!” Cậu run giọng, “Em không được nói nữa. Anh không muốn em chết, dù có chia tay thật anh cũng không muốn em đau khổ.”

Hai hàng nước mắt lặng lẽ ứa khỏi khóe mắt Cảnh Ninh.

“Đừng khóc,” cậu nói, “em đừng tỏ vẻ vô tội đáng thương như vậy nữa, anh ghét nhìn dáng vẻ này của em, em đùa cợt anh thế này còn chưa đủ sao? Nếu em còn niệm tình chúng ta, nếu không muốn anh khổ sở đau lòng, thì đừng khóc.”

Cảnh Ninh đứng dậy, bước tới trước mặt cậu rồi chầm chậm quỳ xuống: “Xin lỗi, Mạnh Tử Chiêu. Em có lỗi với anh, cả đời này em có tội với anh!”

Cậu đứng bật dậy: “Phan Cảnh Ninh! Rốt cuộc em nghĩ gì vậy? Em không có lương tâm sao!”

Cô ngửa mặt nhìn cậu, bờ môi run rẩy, gương mặt giàn giụa nước mắt.

“Được,” cậu quỳ gục xuống sàn, hai mắt đỏ rực như lửa cháy, “cầu xin em đấy, anh cầu xin em, Phan Cảnh Ninh, đừng giày vò anh nữa! Anh cầu xin em! Em muốn anh dập đầu trước em sao? Chẳng bằng em giết anh luôn đi cho rồi.”

Cô khóc tới độ run rẩy, bàn tay chống trên sàn, hoảng loạn quờ quạng, nhưng cuối cùng cô vẫn vươn tay về phía cậu, ôm lấy bờ vai cậu.

Chủ quán ngồi ngoài nghe tiếng bèn thò đầu vào nhìn, tức khắc đã tròn xoe mắt: Hôm nay đôi tình nhân trẻ này lại nổi chứng gì vậy, còn quỳ dưới đất ôm đầu khóc lóc nữa? Lần trước cô gái kia nhảy hồ, chẳng lẽ hôm nay lại có trò mới sao? Ông đâm sợ hãi tột độ.

“Ừm…” Chủ quán rụt rè khuyên, “Này hai cô cậu, cô cậu… đừng có nghĩ quẩn đấy nhé, tôi… chỗ tôi làm ăn cũng khó khăn lắm. Lần trước cô đây nhảy hồ, chúng tôi vẫn chưa thay được chăn và ga giường cho cô mượn dùng đâu, tiền kiếm khó lắm, cuộc sống cũng chẳng dễ chịu, nhưng tính mạng thì vẫn cứ nên giữ lại đi…”

Ông tốt bụng khuyên nhủ, lời nói lại lộn xộn lắp bắp, phá vỡ cả bầu không khí đau thương tuyệt vọng.

Cảnh Ninh bật cười.

Chủ quán cười nói: “Ôi trời, thế mới đúng chứ. Vợ chồng son là phải nói nói cười cười, cứ hục hặc mãi thì sao được? Cười rồi phải không, cười là tốt rồi! Không sao nữa rồi, chuyện lớn đến đâu được chứ…”

Còn chưa dứt lời đã nghe có tiếng tanh tách vang lên, rồi sau đó là một tiếng động lớn hơn.

“Choang!”

Niêu đất đựng canh gà chợt vỡ làm hai mảnh, thịt và canh vãi đầy bàn.

Chủ quán trân trối, đứng đờ ra.

Tử Chiêu kéo Cảnh Ninh lên, để cô nhìn bãi hổ lốn trên bàn, nói với giọng đùa giỡn: “Cô bé thối, làm anh không kịp uống ngụm canh nào, anh nên phạt em sao đây?”

Chủ quán vội cười, nói: “Không sao, không sau đâu, trong bếp vẫn còn đấy, để tôi đi múc bát khác. Cái niêu này hỏng này cũng vẫn sửa được, lấy nước cơm là dán được mà.” Đoạn, ông vội dọn dẹp, còn nói bể vỡ báo hiệu bình an.

Cảnh Ninh và Tử Chiêu lại ngồi xuống, nhìn ông chủ quán hiền lành bưng chiếc khay đầy mảnh vỡ đánh leng keng bước vào bếp, gương mặt hai người đều đượm u uất thê lương.

Điềm xấu tựa số mạng định sẵn bủa vây họ.

“Tại sao?” Cậu khẽ cất tiếng hỏi.

“Từ Đức Anh đã tới nhà họ Phan, nói cậu ta biết em hận cậu ta, biết em không hề yêu cậu ta, nhưng cậu ta không quan tâm, cậu ta có thể trả giá tất cả vì em. Cậu ta sẽ nghĩ cách cứu anh cả em, cũng sẽ dốc hết sức để giúp nhà họ Phan một tay.”

“Vậy em vì lời cậu ta, vì cậu ta có thể làm những chuyện đó cho em mà định vứt bỏ hạnh phúc của chính mình ư?”

“Em có thai rồi.” Cô khó khăn cất lời thẳng thắn, “Đó là con của Từ Đức Anh. Đến giờ cũng chỉ có mình em biết chuyện này. Em không biết cưới Từ Đức Anh có khiến em hạnh phúc không, nhưng em biết rõ mình không thể không đưa ra quyết định này.”

Cơ mặt Tử Chiêu giần giật.

Giọng cô rất nhẹ, mỗi lần nói một từ đều như bị rút mất một phần sức lực: “Tử Chiêu, chúng ta chỉ có thể chia lìa thôi. Vấn đề giữa anh và em, vấn đề giữa hai gia đình chúng ta không thể giải quyết bằng cách trốn tránh được. Mà giờ em đã thành ra thế này… Em không còn cách nào nữa.”

Cậu siết chặt tay cô.

Cảnh Ninh cười buồn bã, hai mắt ầng ậc nước: “Từ đầu chí cuối em luôn là người có lỗi với anh. Giờ chuyện thành ra thế này, anh cũng không có cách nào khác phải không? Anh có thể chờ đợi em trọn kiếp, em có thể tới chết không sờn với anh, nhưng ta chẳng giải quyết được vấn đề gì. Em…” Cô nghẹn ngào tới độ không thể nói năng một cách hoàn chỉnh, “Em không có tư cách ra đi cùng anh và bỏ mặc tất cả ở lại.”

Nước mắt cậu nhỏ xuống cánh tay cô, một giọt, rồi lại giọt nữa.

Đây là lần đầu cô nhìn thấy cậu khóc. Cậu chưa từng khóc trước mặt cô, chưa bao giờ. Lúc đau lòng buồn bã, cùng lắm cậu cũng chỉ nổi nóng, mắng chửi người ta, gây gổ cãi cọ, hoặc là tỏ vẻ lạnh lùng. Nhưng cậu chưa từng khóc, cậu hiếu thắng như vậy đấy.

Nhưng cậu vẫn khóc, vì cô nói đúng, cậu thật sự không còn cách nào khác. Cậu khóc, thút thít, một con người kiêu ngạo như vậy, mà nước mắt lại rơi tí tách trên mặt bàn.

Hồi lâu sau, cuối cùng cậu cũng buông tay cô ra.

“Phan Cảnh Ninh, hãy đồng ý với anh một chuyện.”

“Vâng.”

“Đời này kiếp này đừng bao giờ tới tìm anh nữa, anh không muốn có bất cứ liên hệ gì với em, không muốn biết bất cứ tin tức gì của em, không muốn gặp lại em lần nữa. Muốn đoạn tuyệt thì chúng ta hãy đoạn tuyệt dứt khoát.”

“…Thức ăn nguội rồi.” Cảnh Ninh nói, cô thoáng ngẩn ngơ, bắt đầu ăn nói lộn xộn.

Cậu rưng rưng nhìn cô.

“Anh đi đi Tử Chiêu.” Cô day trán, “Anh yên tâm, em sẽ chăm sóc tốt cho mình, em sẽ sống thật vui vẻ.”

Cậu không nhúc nhích.

“Lát nữa Từ Đức Anh sẽ tới đón em.” Cô nói.

Nghe câu này, cuối cùng cậu cũng đứng dậy bỏ đi, không quay đầu lại nữa.

Vì mất hết hy vọng nên cô từ bỏ cậu, và cũng vì lý do này mà cậu để cô từ bỏ mình.

Cảnh Ninh ngồi một mình hồi lâu, đến khi Đức Anh tìm tới, cậu ta đứng ngoài cửa một lát rồi dè dặt tiến vào, tán ngô đồng bên hồ lớn tiếng xào xạc trong gió, hơi nước mờ mịt, muốn mưa mà chẳng mưa nổi, nơi triền núi và bầu trời xa xa tiếp giáp nhau lấp lánh thứ ánh sáng mỏng manh.

Cổ tay gầy gò của cô chống dưới cằm, gương mặt nghiêng sang một bên, âm thanh nhẹ bẫng thiếu chân thực: “Anh đã chuẩn bị xong xuôi để cưới tôi chưa?”

Hồi lâu mà Đức Anh không nói gì, cô ngước mắt nhìn cậu ta, dường như đang thấy khó hiểu vì cậu ta không phản ứng.

Cậu ta bước tới trước mặt cô, nửa quỳ xuống, đặt tay lên đầu gối cô, đôi mắt tràn ngập tình yêu và niềm vui sướng.

“Anh biết thật ra em không muốn cưới anh. Ninh Ninh, anh thề sau khi kết hôn, anh sẽ không ép buộc em làm bất cứ chuyện gì em không thích. Chúng ta sẽ ở bên nhau thật bình yên.”

Tay cô lơ đãng men theo mặt bàn, vệt nước mắt Tử Chiêu lưu lại đã khô rồi.

Sau khi lên xe, cô nói cho Đức Anh biết mình đang mang thai.

Đức Anh biến sắc, cậu ta quay đầu lại: “Em chắc chứ?”

Cảnh Ninh cười khổ: “Không sao, có thể nó không liên quan đến anh.”

“Không, không, anh không có ý này,” Đức Anh có phần căng thẳng, nhưng chẳng mấy chốc cậu ta đã bật cười, như thể đang vui mừng khôn xiết, miệng cũng chẳng khép nổi, “anh chỉ vui quá thôi, làm sao mà không vui được chứ. Ha ha ha, anh vui quá!”

Cảnh Ninh nhìn cậu ta chằm chằm.

Đức Anh do dự một lát rồi nói: “Chúng ta nên kết hôn càng nhanh càng tốt, nếu không đợi con…”

“Được.” Cô biết tiếp theo đây cậu ta sẽ nói gì, bèn thẳng thừng ngắt lời cậu ta.

“Ninh Ninh… chuyện có tin mừng mình có thể hoãn lại công bố sau. Tốt nhất… tốt nhất là đừng nói cho ai khác, có thể như vậy sẽ tốt cho người nhà hai bên, với em… với em như vậy cũng tốt.” Cậu ta cắn môi, gian nan cất lời.

Cảnh Ninh nghĩ ngợi một chốc, đỏ mặt tía tai.

Đức Anh vội bảo: “Nếu em không muốn…”

“Anh nói đúng, tôi sẽ nghe anh.”

“Em không vui sao?” Đức Anh lo lắng nhìn cô.

Cảnh Ninh lắc đầu.

Đức Anh mừng rỡ nói: “Vậy là tốt rồi, ôi, anh phải nghĩ một cái tên thật hay cho con chúng mình mới được.”
 
Quyển 2 - Chương 74


Về đến nhà, Cảnh Ninh bắt đầu thu dọn đồ đạc, cô lấy quần áo trong tủ ra, cất từng món vào vali. Tiểu Quân hốt hoảng gọi bà Vân qua. Thấy con gái như vậy, bà rất tức giận, bèn quở trách: “Con thấy nhà mình còn chưa đủ loạn hả, con định đi đâu?”

“Vì căn nhà này quá loạn nên con mới không muốn ở lại đây nữa.” Cảnh Ninh không ngẩng đầu, “Một đám thượng vàng hạ cám trong nhà, nhìn thôi cũng mệt.”

Bà Vân thở dài: “Mẹ biết con không muốn nhìn thấy A Sâm, nhưng trước khi cha con về, A Sâm vẫn còn tác dụng với nhà họ Phan, mẹ không thể đuổi nó đi được, dẫu sao mình cũng chưa chia gia sản.”

Cảnh Ninh cau mày.

Bà Vân nói: “Dạo này nhà mình nhiều chuyện quá, mấy hôm nữa mẹ sẽ cùng con đi giải sầu. Nếu muốn đi chơi thì cùng lắm là nghỉ học, ra nước ngoài một thời gian.”

Cảnh Ninh chợt nói: “Con đã làm thủ tục thôi học rồi.”

Bà Vân kinh hãi: “Con nói gì?”

“Con thôi học rồi, vì con muốn kết hôn với Từ Đức Anh. Đây là cách tốt nhất để giải quyết mối phiền phức của gia đình ta, dù chưa chắc nó đã có tác dụng.”

Bà Vân ngơ ngác ngồi xuống.

Cảnh Ninh mỉm cười, nói: “Trước kia con không chịu kết hôn với cậu ta thì mẹ không vui, giờ con đồng ý rồi, thái độ của mẹ lại thế này?”

Bà Vân lặng im, dưới ánh đèn, gương mặt bà xám ngắt, những nếp nhăn chăng đây khóe mắt, bà thở dài: “Người làm mẹ đương nhiên phải hy vọng con gái mình hạnh phúc, nếu con muốn đi, mẹ có thể cho con tiền, con muốn đi đâu thì cứ đi, dù không bao giờ trở lại nữa cũng được.”

Cảnh Ninh hoàn toàn không ngờ mình sẽ nghe được những lời này, cô vô cùng kinh ngạc.

“Chỉ là mẹ rất sợ, bao năm nay mẹ luôn sống trong nỗi sợ hãi. Mẹ sợ mất đi tiền tài, sợ mất cha con, sợ mất con và A Huyên, vậy nên mẹ mới nghe lời cha con răm rắp, mới không nỡ để con và A Huyên ra nước ngoài du học, vì mẹ muốn các con ở bên mẹ, như vậy mẹ mới thấy an toàn.” Bà Vân đau khổ cất lời, “Ninh Ninh, mẹ nghe lời cha con cũng vì có nỗi khổ riêng, mẹ chẳng có tác dụng gì ở cái nhà này, mẹ không có quyền quyết định. Mà giờ cha con đã vứt bỏ cả nhà chúng ta rồi, còn mẹ thì chỉ có thể trơ mắt nhìn con vứt bỏ hạnh phúc của chính mình… Mẹ là đồ vô dụng.”

“Mẹ, mẹ luôn là nữ chủ nhân của nhà họ Phan, tại sao mẹ lại tự ôm áp lực lớn như vậy?”

Bà Vân cười khổ: “Cái danh nữ chủ nhân này là mẹ may mắn nhặt được. Nếu người vợ trước của cha con còn sống, cái nhà này nào có vị trí cho mẹ? Các con cũng chỉ là con trai con gái của vợ lẽ mà thôi. Con có biết tại sao năm ấy Thịnh Đường lại nạp mẹ làm vợ lẽ không? Chỉ là do bóng lưng của mẹ rất giống người phụ nữ ấy!”

Cảnh Ninh kinh ngạc, cô lặng đi trong phút chốc, nói: “Nhưng bà ấy đã qua đời từ lâu rồi.”

“Đúng vậy, may là bà ấy đã qua đời. Nhưng bao năm nay mẹ luôn cảm thấy mình vẫn như một kẻ trộm, mẹ vụng trộm bước vào cái nhà này, cướp mất chồng của bà ấy, trở thành thế thân cho bà ấy. Mỗi lần nhìn A Sâm, dường như mẹ lại thấy người phụ nữ đáng thương đó. Khi Thịnh Đường công bố thân phận của A Sâm, nói thằng bé là con nuôi, mẹ không hề tin, mẹ đã nhìn thấy ảnh của người phụ nữ đó rồi, A Sâm quá giống bà ấy… Ninh Ninh, con không biết bao năm nay mẹ đã bị giày vò khổ sở tới chừng nào đâu, mẹ nghe lời cha con là vì mẹ có nỗi khổ riêng, vì mẹ không có chút tác dụng nào trong cái nhà này, mẹ không thể cho các con một cuộc sống an ổn giàu sang.”

“Mẹ!”

Bà Vân nghẹn ngào: “Nhưng hôm nay, khi con thật sự quyết định vứt bỏ chính mình, nghe lời mẹ cưới Từ Đức Anh, mẹ lại do dự. Con gái mẹ, con còn trẻ lắm, cuộc đời con còn rất dài, dù con đã làm sai nhưng mẹ không có lý do để ép con phải sống cả đời với một người đàn ông con không yêu. Một đời, đây là chuyện quá đáng sợ với một cặp vợ chồng không yêu thương nhau, mà nỗi đau khổ người vợ phải chịu đựng sẽ luôn lớn hơn điều cô ấy tưởng tượng rất nhiều.”

Bà Vân ôm con vào lòng, rưng rưng nói: “Rồi sau này con sẽ gặp được người đàn ông con yêu, nhưng một khi con cưới chồng, con sẽ rất khó tìm đường lùi. Giờ con đang rất đau khổ, vậy nên con không muốn suy nghĩ kỹ càng, con cần thời gian để đưa ra quyết định cho tương lai. Về phần Mạnh Tử Chiêu, con không từ bỏ được cậu ấy cũng không sao, nhưng con hãy tin mẹ đi, khi con tìm thấy tình yêu mới, con sẽ không còn đau khổ vì những ký ức này nữa.”

Cảnh Ninh vùi trong lòng mẹ, hỗn loạn dần bủa vây tim cô. Cô biết mẹ nói đúng, cô cần thời gian để suy nghĩ kỹ càng. Những ngày qua cô đã tìm đủ mọi cách để cứu vãn tình cảm với Tử Chiêu, nhưng cô lại không cho mình thời gian để thẳng thắn đối diện với nội tâm của chính cô.

Tìm thời gian ở đâu đây? Cô có còn thời gian không?

Bỏ đi. Cứ như vậy thôi.

Cảnh Ninh cắn răng, nói: “Không ai ép buộc con đưa ra quyết định này cả, càng sớm hạ quyết tâm có lẽ sẽ càng tốt cho con và cả Tử Chiêu. Con đã để lỡ quá nhiều thời gian của anh ấy rồi, con sẽ khiến cuộc đời anh ấy lỡ dở.”

“Nhưng liệu A Sâm có đồng ý không?” Bà Vân lo lắng nói.

“Anh ấy?!” Cảnh Ninh kinh ngạc.

“Nó không đồng ý đâu.” Bà Vân cau chặt mày, “Một khi nhà họ Từ và nhà họ Vân kết làm thông gia, quyền khống chế của nó với nhà họ Phan sẽ lung lay, chắc chắn nó sẽ ngăn cản con.”

Cảnh Ninh cúi đầu nhìn bộ quần áo trên tay, cô khẽ thốt: “Dù có đồng ý hay không thì anh ấy cũng không có quyền chi phối quyết định của con.”

Ngoài cửa mưa thu buông từng hồi, mưa gõ vào song cửa cùng đám lá rơi, không gian ngập tràn trong những tiếng bể nát. Trong phòng chỉ còn lại một ngọn đèn bàn đang sáng, Ngân Xuyên đang lim dim tựa vào giường, gương mặt anh trắng bệch như giấy, có lẽ do anh đang đau đớn.

Cảnh Ninh mở cửa, đi thẳng vào phòng, ngồi trên chiếc ghế vuông gần anh, nhìn anh chăm chú.

Anh đối xử rất tốt với cô, mà thật ra cô cũng luôn đối xử với anh rất tốt.

Cô nhớ lại thời còn nhỏ, thời còn rất nhỏ, rất nhỏ, cô luôn gây phiền phức, không thích ăn cơm, không chịu đi ngủ. Cô hay nghịch ngợm, hoặc cuộn tròn người lại như một chú chó con, cuộn tròn như chó con đã đành, cô còn hay mút ngón chân cái, quả là một thói quen tức cười. Mẹ sợ sau này răng cô mọc lệch, bèn dặn hai anh trông cô. Có hôm cô mơ màng tỉnh giấc, thấy có chùm sáng rọi vào ngoài cửa sổ, anh cả bảy tuổi tựa lưng vào tủ đầu giường, hai chân đặt trên thảm, ánh nắng chiếu lên gương mặt trắng muốt và mái tóc đen nhánh của anh, đây là thời khắc anh thả lỏng nhất: Anh cẩn thận, chăm chú ăn một miếng dưa hấu. Cô không dám phát ra tiếng động, cô yêu thứ mùi hương trong trẻo sạch sẽ này, cũng muốn anh có thể ăn cho xong miếng dưa hấu ấy.

Nhưng tất cả đã thay đổi.

“Anh cả.” Cô cất tiếng gọi anh.

Ngân Xuyên sực tỉnh, nhìn thấy cô, nhịp thở của anh lập tức thay đổi.

Anh muốn bước xuống giường, Cảnh Ninh nói: “Không cần đâu, nói xong em sẽ đi ngay.”

“Không được.” Anh đã nhìn thấu lòng cô, “Cả anh lẫn an nguy của cái nhà này đều không cần đến sự hy sinh của em, không cần em phải làm vật tế.”

Cảnh Ninh không nói tiếng nào.

“Nhìn anh đi!” Ngân Xuyên ra lệnh, “Bé Hạt Dẻ, nhìn vào mắt anh.”

Vậy là cô nhìn vào mắt anh.

Từ ngày anh bộc bạch cõi lòng với cô, đây là lần đầu cô nhìn thẳng vào mắt anh. Dù vậy, cô vẫn biết hết mọi nỗi bịn rịn, hối hận, tuyệt vọng, khuất nhục và tan nát đau đáu trong mắt anh.

Cô lại dời tầm mắt, nhưng vẫn nghe thấy tiếng áo quần ma sát, Ngân Xuyên phăm phăm tiến lại, kéo cô lên, ôm cô vào lòng, hơi thở nóng rực phả vào gáy cô.

“Em, không thể cưới bất cứ ai.” Anh lẩm bẩm, giọng run rẩy, cơn đau từ nơi xương sườn gãy lìa cứ nhức nhối, nhưng anh không buông cô ra. Cô giãy giụa một lát, anh vẫn không buông tay.

“Anh sẽ không để em rời xa anh, anh sẽ không từ bỏ em.”

“Anh muốn hủy hoại tôi phải không?” Mặt cô trắng bệch, “Mẹ và anh hai đều đang ở nhà, thế này còn ra thể thống gì! Buông ra.”

Cô hất mạnh anh ra, Ngân Xuyên lảo đảo, ngã ngồi xuống bên giường, dường như có muôn ngàn lưỡi dao sắc bén đang găm, đang cứa vào ngực anh, đau tới độ thở cũng khó.

Cảnh Ninh lùi ra sau, nói: “Từ giờ tới lúc kết hôn em sẽ chuyển tới nhà họ Phương ở, nếu anh còn niệm tình anh em bao năm nay của chúng ta, xin anh hãy để em được đi cưới chồng một cách đàng hoàng tử tế, để em có cơ hội được sống những ngày bình yên.”

“Anh chưa bao giờ muốn hủy hoại em, nếu trước đây anh…” Anh hé môi, muốn cao giọng cất lời nhưng lại thất bại, đến hơi sức nói chuyện anh cũng chẳng còn, nhưng anh vẫn rành rọt cất lời, “Anh chưa từng muốn cướp đoạt tài sản nhà họ Phan, anh cũng sẽ không để sản nghiệp nhà họ Phan bị hủy hoại. Đúng, có thể anh sẽ phải ngồi tù, nhưng anh chưa từng nghĩ tới việc mang hạnh phúc cả đời em ra để đánh đổi lấy tự do cho mình. Anh sẽ không mang nợ nhà họ Từ, dù Từ Đức Anh có hứa hẹn em thế nào thì với anh cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đúng là nhờ có sự giúp đỡ của cậu ta mà anh mới được tạm tha, nhưng anh chưa từng đồng ý với cậu ta bất cứ điều kiện gì có liên quan đến em. Anh lấy tính mạng mình ra, lấy người thân đã mất của anh ra để thề.”

“Em muốn cưới ai không liên quan đến anh.”

Sự kiềm chế và tỉnh táo của anh, sự toan tính và khôn khéo của anh, tất cả đều trở nên vô dụng trước mắt cô, anh nói gần như cố chấp: “Bé Hạt Dẻ, có phải em biết tình cảm anh dành cho em trong suốt bao năm nay không? Vì biết nên em mới trốn tránh anh, em biết nên mới không dám đối mặt với anh, phải không? Nói cho anh biết đi, anh còn có thể làm gì cho em? Rốt cuộc em muốn gì? Nếu có thể làm được, anh sẽ làm ngay vì em, dù em có muốn anh chết anh cũng có thể chết ngay lập tức.”

“Em không muốn anh chết!” Cô vẫn không chịu nhìn anh, “Em muốn cha về nhà, em muốn nhà họ Phan bình yên, em muốn anh bình an vô sự, em muốn gia đình chúng ta trở lại như trước.”

“Em đang lừa mình dối người.”

“Là anh lừa mình dối người!” Cô hạ giọng, nhưng vẫn đủ để anh nghe thấy rõ ràng, “Em từng cho rằng mình là người hạnh phúc nhất trên đời, vì em có người anh trai như anh, có gia đình này, vì người em yêu cũng yêu em, không biết từ bao giờ mọi thứ đều đã sụp đổ tan tành. Giờ thứ duy nhất em còn lại chính là cái nhà tràn ngập nguy khốn này, em chỉ còn lại anh, em mong anh và gia đình này được bình yên. Xin anh đừng cướp mất hy vọng cuối cùng của em.”

“Hạt Dẻ!” Anh tuyệt vọng nói.

Sự quyết đoán trong lời cô còn hơn cả vẻ lạnh lẽo trong mắt cô: “Nếu anh muốn hủy hoại tất cả thì tùy anh. Nhưng em nói cho anh biết, nếu anh làm vậy thì đừng nói là anh em, mà thậm chí chúng ta còn chẳng thể trở thành những người bạn bình thường nhất, em sẽ hận anh, khinh miệt anh, tránh xa anh. Nếu anh còn muốn nhìn thấy em trong cái nhà này, xin anh hãy tôn trọng quyết định của em, chúng ta… vẫn sẽ là người thân như trước.”

Cô vội vã bước khỏi phòng, đội mưa để Cảnh Huyên đưa mình tới nhà Phương Kỳ Kỳ.

Đêm đó, giấc ngủ của cô êm ái tới lạ. Chỉ là cô đã mơ một giấc mơ, trong mơ, cô tới một thành phố xa lạ, thậm chí cô còn nhớ sau khi bước ra khỏi một căn nhà nào đó, men theo đường là có thể tới một nơi thật quen thuộc, cô từng bước đi trên con đường ấy vô số lần. Cô muốn tới một nơi nào đó, nhưng không biết rốt cuộc mình tới đó làm gì, khi đi ngang qua một căn nhà thờ tổ, cô nhìn thấy bài vị và bàn thờ thần, băng qua con đường thưa người, xa xa có núi, trên núi có mai đỏ tuyết trắng, cô cứ đi mãi đi mãi, đi rất mệt, có một phu xe kéo xe chạy tới, nói: “Cô bé, tôi tới đón cô đây!” Cô bèn ngồi lên xe, xe lao vút đi như bay, gió lướt bên tai, vừa êm ái vừa tự do.

“Đi vẫn tốt hơn.” Trong mơ, cô nói với mình như vậy.

Cô mới ở nhà Phương Kỳ Kỳ được ba ngày Ngân Xuyên đã gọi điện tới, anh ra lệnh: “Về nhà, dù sao ở chỗ người ngoài cũng bất tiện, ở nhà mình thoải mái hơn.”

Cảnh Ninh im lặng.

Ngân Xuyên lại nói: “Anh đi, em về.”

Cô vẫn không nói năng gì, chỉ là nhịp thở đã có phần thay đổi.

“Em không cần lo cho anh, anh không về nhà tù, anh còn chỗ ở khác tại Hán Khẩu, cũng bày biện ổn thỏa rồi.”

“Anh…” Cuối cùng cô cũng cất lời, nhưng lại không biết nên nói gì.

Anh cố gắng nói một cách thật bình tĩnh: “Mấy hôm nay anh đã nghĩ rất nhiều rồi, anh sẽ cố gắng làm theo lời em nói… Vì từ nhỏ tới lớn, em muốn gì anh đều đồng ý.”

“…Anh định thế nào?”

Anh cười: “Còn định thế nào? Tránh mối họa trước mắt, còn lại thì vẫn phải xử lý chuyện kinh doanh cho tử tế, đúng rồi, còn phải nghĩ cách tìm ra cha nữa.”

Anh vẫn gọi Thịnh Đường là cha, nghe xong, lòng cô ngổn ngang trăm mối, nghĩ tới mớ phiền phức vẫn đang bủa vây anh, cô muốn hỏi, nhưng lại cảm thấy không phải lúc thích hợp để hỏi, chỉ đành nói: “Vết thương của anh sao rồi?”

Anh im lặng hồi lâu, không trả lời, chỉ nói: “Trước khi tìm ra tung tích cha, anh sẽ cùng A Huyên kiểm tra tất cả sổ sách trong nhà, đợi thằng bé quen rồi, anh sẽ giao mọi thứ lại cho nó, còn anh sẽ toàn tâm toàn ý lo chuyện của hiệu buôn Tây.”

Cảnh Ninh giữ nhịp thở đều đặn, nói: “Vâng.”

Ngân Xuyên ngừng lại một lát, gom góp hết sức lực mới có thể khiến mình nói ra lời này: “Đừng để mình chịu tủi thân, sau khi cưới người ta, nếu có ai khiến em buồn, anh sẽ khiến kẻ đó không cười nổi. Nhớ lấy, anh chính là gia đình của em.”

Nước mắt trào dâng, Cảnh Ninh chớp mắt, nói: “Em nhớ rồi.”
 
Quyển 2 - Chương 75


Theo dự định, căn nhà tọa lạc tại đường Bảo Thuận sẽ được dành ra làm phòng làm việc mới cho hiệu buôn Tây. Căn nhà trang hoàng theo phong cách văn phòng, có đường ống nước nóng nhưng còn chưa mời công nhân than đốt tới vận hành nên phòng ốc rất lạnh, vết thương của Ngân Xuyên chưa lành, người còn đang cuốn băng bó bột, sao chịu nổi rét lạnh, hơn nữa anh lại chỉ có thể ngủ trên giường lò xo. Đám Nam Gia hết lời khuyên anh chuyển sang nơi khác.

“Chưa nói đến việc ở khách sạn, dù tới Dữ Kỳ Trai cũng vẫn dễ chịu hơn là ở đây.”

Ngân Xuyên nói: “Phòng ốc ở Toàn Cung được đặt dưới danh nghĩa hiệu buôn Tây, giờ tôi tới đó chẳng phải là tự chuốc lấy phiền sao? Dữ Kỳ Trai là nơi dùng cơm, tới đó ở cũng chẳng ra thể thống gì. Chi bằng cứ ở chỗ của mình, nói chuyện hay làm việc cũng tiện.”

Anh chẳng đem nhiều đồ đạc tới, chỉ có mấy bộ đồ để thay, đồ dùng vệ sinh cá nhân và đệm giường đơn, định ở tạm đôi ngày. Thu dọn xong xuôi, Ngân Xuyên tựa mình trên giường thép, lật giở sổ sách, sau lưng lót gối dựa. Tố Hoài đi mua hai con gà quay, mấy cái bánh sandwich và một chai rượu gạo. Về đến nơi, anh ta lập tức đun nước hâm nóng rượu, Nam Gia thì xuống căn phòng dưới tầng hầm nhóm bếp lò, chẳng mấy chốc căn nhà đã trở nên ấm áp.

Tố Hoài xé lớp giấy bọc gà quay, Ngân Xuyên mở sáng đèn, ánh đèn phản chiếu lớp giấy loáng mỡ, gà quay cũng trở nên thơm ngon hơn, anh không khỏi mỉm cười, nói: “Xé cho tôi ăn cái cánh với. Giờ tôi là bệnh nhân, tôi có thể hất hàm sai bảo các anh rồi.”

Tố Hoài cười, đưa cánh gà cho anh. Ngân Xuyên vui vẻ ăn, Tố Hoài và Nam Gia lại chỉ thấy buồn.

Phan Thịnh Đường đã ngã ngựa, ông ta bị loại bỏ hoàn toàn khỏi hiệu buôn Tây Phổ Huệ, nhưng ai ngờ cơ sự lại ra nông nỗi này? Ngân Xuyên không những chẳng được lợi lộc gì mà còn gặp phải thất bại lớn nhất cuộc đời, nếu không vượt qua ải này, có thể tiền đồ của anh sẽ bị hủy hoại hoàn toàn.

“Các anh nghĩ tôi có thể vượt qua không?” Ngân Xuyên chợt hỏi, như đã nhìn thấu lòng họ.

Nam Gia khẽ cất lời: “Trước đó chúng tôi từng nói với cậu rồi, cách tốt nhất là từ bỏ Phổ Huệ, bảo vệ Phú Hưng. Nhưng cậu lại nhất quyết không chịu từ bỏ hiệu buôn Tây, còn chịu tội thay Phan Thinh Đường. Tôi bảo rồi, cậu đang mờ mắt vì tình cảm đàn bà…”

Tố Hoài liếc nhìn Nam Gia, ngắt lời anh ta: “Không trách cậu Trịnh được, cũng vì Phan Thịnh Đường quá giao xảo, chó cùng rứt dậu, nghĩ ra cách độc địa nhường này để trả đòn. Dù sao ông ta cũng là kẻ đã lăn lộn trên thương trường nhiều năm, chúng ta đã khinh thường lão già này.”

Ngân Xuyên lặng đi hồi lâu, anh nói: “Không, tất cả là lỗi của tôi. Nam Gia nói đúng, lời chú Tạ trước đó cũng đúng. Tôi bị trói buộc bởi ham muốn cá nhân, bị báo thù che kín hai mắt, chỉ mong ngóng trả được thù nên mới gây nên mối họa lớn nhường này, tới mức…” Anh lắc đầu, không muốn nói thêm.

Nam Gia thử dò hỏi: “Nam Kinh đã điều chuyên viên tài chính tới Hán Khẩu rồi, có lẽ sẽ có chút tác dụng.”

Ngân Xuyên nói: “Tôi không muốn dựa vào người nước ngoài lẫn chính phủ.”

“Như vậy sẽ rất khó thoát nạn.”

Ngân Xuyên nói: “Cứ đợi đi đã.”

Tố Hoài rất sốt sắng: “Giờ đã là lúc nào rồi, ngồi đợi không thôi thì sao được.”

Nam Gia cân nhắc: “Chắc chắn người của bên Nam Kinh tới Hán Khẩu là để lôi kéo các quản lý của phòng kế toán Hoa. Chắc hẳn Edmund sẽ không dám hành động thiếu suy nghĩ, cậu Trịnh có thể mượn cơ hội này để đổi lấy một khoảng thời gian an toàn, chúng ta phải mau chóng nghĩ cách xoay tiền hùn vốn, tìm kiếm người hỗ trợ.”

Ngân Xuyên thật sự rất mệt mỏi, anh không nói gì thêm.

Ngày thứ tư sau khi chuyển tới đường Bảo Thuận, tình thế ngặt nghèo của Hiệu bạc Phú Hưng có chuyển biến, Đồng Xuân Giang rót cho hiệu bạc khoản vốn kếch xù một triệu hiện kim, đủ cho hiệu bạc tạm thời chống chịu trước cơn sốt đổi tiền. Nghe tin, Ngân Xuyên chẳng hề vui mừng, trái lại, lòng anh trĩu nặng tâm sự. Đôi hôm sau, anh chủ động gọi điện cho Đồng Xuân Giang, mời ông ta tới Bảo Thuận gặp mặt. Đồng Xuân Giang khéo léo khước từ.

“Ngài đã giúp tôi một việc lớn, dù có thế nào tôi cũng nên mời ngài mấy ly.” Ngân Xuyên nói.

“Chuyện phiền phức còn chưa qua, giờ tôi gặp cậu cũng không có lợi cho đôi bên, để lộ át chủ bài cho lắm kẻ dòm ngó, về sau sẽ rất khó ra chiêu. Cứ để dành rượu uống sau đi.”

Câu “để lộ át chủ bài” thật sự khiến lòng Ngân Xuyên đau nhói, đây là bài học khó quên nhất đời anh.

“Ngài Đồng có thể nói cho tôi chú Tạ đang ở đâu không?”

Đồng Xuân Giang hờ hững nói: “Đương nhiên ông ấy đang làm việc mình cần làm, đang ở nơi mình cần ở.”

Ngân Xuyên nói tiếp: “Vậy ngài có thể thay tôi cảm ơn và xin lỗi chú không?”

“Lời cảm ơn à xin lỗi của cậu tôi sẽ chuyển giúp, nhưng ông ấy cũng có một câu muốn tôi chuyển lời cho cậu.”

“Mời nói.”

“Ông ấy muốn cậu nhớ kỹ, chết nơi biển rộng sông sâu, ai đâu lại chết vũng trâu ven làng.”

Ngày cưới của Cảnh Ninh đã gần kề, món quà cưới Trình Viễn chuẩn bị cho bạn là mấy cuộn đăng ten Pháp thế kỷ 18, hiển nhiên Cảnh Ninh rất thích, nhưng lại không thể không nói với bạn mình: “Chắc tớ không dùng được đâu, lễ cưới làm theo kiểu cũ mà.”

Trình Viễn than tiếc mãi không thôi, nhưng vẫn nói: “Vậy thì để sau này dùng vậy, làm đăng ten cho sơ mi hoặc đầm lễ phục cũng được.”

“Tớ không nỡ đâu, tớ nhất định phải cất thật kỹ món đồ quý giá này.” Cảnh Ninh nói.

Anh trai Trình Viễn là dân kinh doanh thường xuyên di chuyển giữa Trung Quốc và châu Âu, cũng là người bạn đã chơi đùa cùng đám Cảnh Ninh từ nhỏ tới lớn, anh có một hiệu buôn hai tầng trên đường Hoa Lầu, chuyên bán mấy món hàng nước ngoài như dầu ô liu, rượu Tây, nước hoa, mũ phớt. Đăng ten vừa được chuyển tới hiệu buôn của anh, Trình Viễn đã đưa Cảnh Ninh tới lấy ngay.

Cổng vào đường Hoa Lầu không mấy rộng rãi, hai bên đường là những dãy kiến trúc Á – Âu kết hợp, vừa dùng để ở vừa mang ra kinh doanh, quá nửa những tầng lầu bên dưới là cửa hàng, bên trên là nhà ở, hoặc là được kết hợp vừa buôn bán vừa ăn ở cùng một chỗ. Con đường chật hẹp lát đá đọng nước, trời đẹp nên nhiều người tranh thủ giặt giũ quần áo, sào phơi đồ dựng thành giá, áo quần rồi ga giường bay phấp phới như cờ, đi bên dưới nghe tiếng gió vù vù.

Có một chiếc xe đỗ ngoài hiệu buôn, thấy xe, bước chân Cảnh Ninh khựng lại, cô nói: “Tớ nên đến sau thì hơn.”

Mạnh Tử Chiêu và nhà họ Trình có mối quan hệ thân thuộc, thường xuyên qua lại kinh doanh, nhưng quả thực Trình Viễn không ngờ hôm nay cậu cũng có mặt tại đây.

Mấy ngày nay không ai nhắc tới nhà họ Mạnh, tới Mạnh Tử Chiêu với Cảnh Ninh, nhưng Trường Giang ở đây, bến tàu ở đây, thuyền bè qua lại trên sông, tiếng còi vang vọng trong gió sông. Chẳng thể tránh né nổi.

“Chắc không phải cậu ấy đâu, có thể chỉ là người của công ty cậu ấy thôi, để tớ qua xem.” Trình Viễn nói.

Cảnh Ninh lắc đầu. Cô đã đồng ý sẽ không bao giờ gặp cậu, không bao giờ tìm cậu nữa. Cô không thể làm gì cho cậu, chỉ có thể làm được vậy thôi. Vậy là cô quay người bỏ đi. Trình Viễn không thuyết phục được cô, chỉ đành đi theo bạn. Ra đến giao lộ, lại có chiếc xe tiến lại từ đằng sau, bọn họ nghiêng người nhường đường, một người phụ nữ đang giặt quần áo, Cảnh Ninh và Trình Viễn đứng chen chúc giữa hai chậu đồ giặt.

Đường chật, chiếc xe lướt qua họ, khoảng cách chưa tới hai thước, xe đi rất chậm, có thể thấy rõ người ngồi phía trong.

Tử Chiêu hạ kính xe, hơi ló cổ ra, gật đầu chào hỏi, nhưng ánh mắt không hề dừng lại bên Cảnh Ninh.

Trình Viễn cười: “Cậu Mạnh, ngọn gió nào đưa cậu tới đây vậy?”

“Anh cậu nhờ tôi mang ít đồ tới. Tôi đi trước đây.” Nói xong, Tử Chiêu mau chóng quay đầu nhìn về phía trước, giẫm chân ga.

Cảnh Ninh đứng bất động từ đầu chí cuối chợt đuổi theo chiếc xe, nhưng dường như Tử Chiêu đã liệu trước hành động của cô, chiếc xe tăng tốc, Cảnh Ninh chỉ chạy được hơn mười bước chân đã bị bỏ xa lại phía sau, ngơ ngác đứng giữa đường, chân run lẩy bẩy.

Trình Viễn tiến lại, Cảnh Ninh tự giễu: “Cậu xem tớ có giống một đứa ngớ ngẩn mặt dày không? Đuổi kịp thì làm được gì? Thì nói được gì? Đúng là ngốc.”

Chẳng hiểu vì cớ gì, Trình Viễn lại thấy chua xót, cô thở dài: “Số mệnh đã định không có được thứ gì thì dù có nắm được trên tay cũng chỉ là trò đùa của ông trời với cậu thôi. Chớp mắt, bàn tay cậu sẽ lại trống không. Ninh Ninh, nếu không muốn đau lòng thì hãy từ bỏ đi.”

Một người phụ nữ đang giặt đồ hất ào chậu nước xuống đường, đột nhiên, bốn bề như vang vọng tiếng nước rào rào, cả thế giới tựa bị tạt một gáo nước.

Cảnh Ninh cúi đầu nhìn đôi giày ướt, cô cười, nói: “Ông trời đúng là xấu thật.”

Trình Viễn chỉ thấy âu sầu. Trình Viễn bầu bạn bên Cảnh Ninh từ nhỏ tới lớn, cũng thầm ngưỡng mộ Cảnh Ninh. Cô là cô gái được bao kẻ vây quanh o bế, người gặp người yêu như đóa hoa hồng, nhưng giờ trông lại thảm thương tới vậy.

“Cũng may mình không phải cậu ấy.” Trình Viễn nghĩ.

Trước hôn lễ, Đức Anh và Cảnh Ninh mời cơm bạn bè thân thiết, phát thiếp mời cho từng người. Bữa cơm lần này thiếu mất một vị khách, một vị khách mà chẳng ai dám nhắc tới.

Lúc cụng ly, Kỳ Kỳ và Trình Viễn đều đỏ hoe mắt, không biết là đang vui hay buồn, giọng hai cô nghẹn ngào, Kỳ Kỳ nói với Đức Anh: “Từ Đức Anh, cậu mà cả gan đối xử tệ với Cảnh Ninh, tôi… tôi sẽ nguyền rủa cậu.”

Cảnh Ninh lườm bạn: “Nguyền rủa cậu ấy thì giúp được gì cho tớ?”

Kỳ Kỳ òa khóc, Cảnh Ninh mếu máo: “Ôi, ghét quá đi mất, hôm nay phải vui vẻ chứ.”

Kỳ Kỳ gạt lệ, nhoẻn miệng cười với Cảnh Ninh, nhưng trông còn khó coi hơn khóc.

Đức Anh chợt lớn tiếng: “Tớ biết tớ không xứng với Cảnh Ninh, tớ nhát gan, xoàng xĩnh, không phóng khoáng, không xuất chúng, cũng chẳng biết nói những lời màu mè, nhưng tớ sẽ đối xử tốt với cô ấy suốt đời này. Tớ thề, sau này nếu tớ có bạc đãi Cảnh Ninh, ông trời…”

“Được rồi!” Cảnh Ninh ngắt lời, “Ông trời ông trời, suốt ngày thề thốt, câu không sợ ông trời phiền muốn chết à.”

Tay Đức Anh còn đang nâng ly rượu, người cứng đờ như một cây gậy, miệng lại lẩm bẩm: “Ông trời… ông trời làm sao mà chết được…”

Cảnh Ninh lườm cậu.

Mọi người cười ầm lên, đập bàn cười ngặt nghẽo.

“Đức Anh có phúc đấy, cậu giỏi lắm, tìm được một bà Sư tử Hà Đông.”

“Cảnh Ninh gặp Đức Anh cũng bó tay, Đức Anh là một học giả lô-gích.”

“Đây gọi là trời sinh một cặp.”

Đức Anh nhìn Cảnh Ninh chăm chú, rồi từ từ nở một nụ cười hạnh phúc.
 
Quyển 2 - Chương 76


Sáng ngày thành hôn, cây cối rậm rạp trên Quy Sơn Xà Sơn như vơ vét hết mây khói. Nhà cửa, đường xá, cây lá được phủ một lớp màu mông lung, sông nước cũng mịt mù hơi sương, chỉ có đám chim nước đậu bên mạn thuyền vẫn đang thong thả chờ trời sáng theo thói quen, chuẩn bị vồ lấy lũ cá quẩn quanh bên sóng nước khi thuyền giăng buồm, đôi cánh chúng khuấy động sương mù, từ từ vén lên lớp màn sân khấu, đánh thức thành phố tỉnh giấc.

Cô dâu mặc đồ cưới đỏ rực, thêu mẫu đơn chỉ vàng, chân tóc được chải dầu đen nhánh, hai bên túm sát ra sau ót, búi thành búi thật chặt, cố định bằng cây trâm vàng hai mũi. Đám bà mai tán dương cô dâu xinh đẹp, cô dâu mặt lạnh tanh, im lặng không nói một lời, lại có mấy người phụ nữ đứng quanh ngắm nghía, thảo luận trang phục mang hơi hướng Lĩnh Nam của cô, tò mò không biết chiếc vòng vàng trên cổ cô nặng chừng nào. Từ đầu chí cuối cô vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng, lặng im không một lời, vậy là có người bắt đầu to gan tiến lại, vươn tay sờ thử đám xuyến vàng xếp chồng trên cổ tay cô.

Cô bị trói buộc trong đám gông cùm, không sao nhúc nhích nổi, những chiếc xuyến nặng trĩu khiến cô chẳng còn sức mà giơ tay, nhưng khi đám phụ nữ lạ mặt kia cười nói tiến lại, cô ngước mắt, chuẩn bị giáng một bạt tai xuống, tuy vậy, dường như nhớ ra điều gì, bàn tay cô khựng lại nửa đường. Người phụ nữ lỗ mãng nọ sợ hãi, đờ ra không biết phản ứng ra sao, gương mặt trang điểm lộng lẫy của Cảnh Ninh chẳng rõ buồn vui, nhưng ánh mắt lại rất lạnh lẽo.

Vì vết thương còn chưa lành hẳn nên Ngân Xuyên chỉ giấu mình ngồi trong góc, khi tiếng pháo vang lên, cô dâu được dắt vào đại sảnh, anh mới có thể hít một hơi, từ từ đứng dậy.

Cảnh Ninh đứng thẳng tắp giữa đại sảnh, đầu phủ khăn lụa đỏ, Đức Anh tỏ rõ vẻ mừng rỡ, trân trọng, mắt lấp lánh phát sáng. Bà mai dẫn Cảnh Ninh làm lễ, bàn tay ấn lên sống lưng cô, Cảnh Ninh thoáng khom người, mà mỗi lần cúi mình sát đất, mắt mày Đức Anh đều hiện rõ niềm vui.

Làm lễ xong, Đức Anh tiến vội một bước về phía trước, cậu ta vươn tay, chợt ôm ngang Cảnh Ninh lên, tay Cảnh Ninh quờ quạng trong không trung như đang khiếp sợ, cuối cùng lại không thể không phủ lên vai cậu ta, một chiếc xuyến trượt xuống, tinh tang rơi xuống đất, chẳng mấy chốc đã được người khác nhặt lên, đeo lại vào tay cô, động tác bé nhỏ ấy bị nhấn chìm trong tiếng cười nói, hệt như niềm kiêu hãnh cuối cùng của cô dâu, đang dần hóa hư không.

Gương mặt lặng như đầm nước chết của Ngân Xuyên thoáng thay đổi, anh muốn lùi về phía sau vài bước, lại quên đằng sau còn có ghế, vậy là lại ngã ngồi xuống, đụng phải vết thương, cơn đau như xé gan xé phổi.

Anh là người chuẩn bị chính cho hôn lễ này, nhưng do thân phận tại nhà họ Phan đã thay đổi, còn vướng phải kiện cáo chưa xong nên những chuyện cần ra mặt anh để Cảnh Huyên đứng ra lo liệu cả, thực chất những quyết định quan trọng đằng sau vẫn là do anh đưa ra. Khoảng thời gian ấy, hai mẹ con nhà bà Vân dường như đã gắng hết sức cởi bỏ hiềm khích với anh, dù sao mấy năm nay anh cũng không phải người dưng trong nhà, khi có việc cũng chỉ có thể để anh gánh vác, “đồng tâm hiệp lực” xử lý hôn sự cho ổn thỏa.

Hồi môn của Cảnh Ninh đã được chuẩn bị xong từ lâu, tích cóp dần từng năm, đến khi chuyện vui tới chỉ phải thêm thắt chút ít, đổi thay chút đỉnh, dù vặt vãnh như vậy nhưng Ngân Xuyên vẫn không hề lơ là. Từ giường đệm, đồ dùng trong nhà đến áo quần trang sức, hay thậm chí là khăn trải bàn, trải ghế, bình hoa, thau rửa mặt… việc to việc nhỏ, anh đều trút hết tâm sức lo liệu.

Tự tay lo hết mọi việc, lại trơ mắt nhìn chúng được đưa đi cùng cô.

Chú rể bế cô dâu vào động phòng, đám người vây quanh cũng tiến vào theo, ngoài sân chỉ còn xác pháo đỏ đầy đất, tán ngô đồng không hiểu lòng người như còn vương lá chưa rụng hết, rơi xuống lại bị thổi đi, thổi đi rồi, lại tiếp tục rơi xuống. Cuối cùng sương mù mịt mùng cũng tan, bầu trời trong và trắng xóa như đang đông đặc lại, mùi thức ăn, rượu thuốc càng lúc càng nồng, mấy đứa trẻ cười nói nhặt mớ dây pháo còn sót trên nền đất, men hương thơm lần qua khung cổng vòm, chạy vào nhà ăn, Ngân Xuyên ngồi lặng đi hồi lâu, chỉ chầm chậm ngước mắt.

Chạm mắt rồi, thấy một chàng trai trẻ đứng trước cửa đang quay người bỏ đi.

Mạnh Tử Chiêu không biết tại sao mình lại tới đây. Thật ra cậu không tin mình và cô sẽ chia ly, dù có liên tục cãi vã, dằn vặt nhau, họ cũng như hai gốc dây leo, có chết khô cũng quấn quýt lấy nhau không rời. Cậu nhớ lần ấy cô đuổi theo xe cậu như phát điên, đó là lần đầu tiên cậu dứt khoát vứt bỏ cô, cậu như cảm thấy có niềm vui được giải thoát.

Dù lần ấy cậu cũng không nghĩ cô sẽ thật sự rời đi.

Lễ cưới này chân thực tới tàn khốc, gọn gàng mà dứt khoát, khoảnh khắc cô dâu chú rể bái đường, Tử Chiêu chợt bừng tỉnh, hóa ra tương lai được bên cô mà cậu từng mong ngóng đã đổ vỡ tan tành.

Cuối cùng chuyến xuất ngoại đã được quyết định, đêm trước khi đi, cậu trao cho mẹ chiếc áo choàng lông cáo đen.

“Giấu giấu giếm giếm, cuối cùng cũng không giấu nổi.” Bà Mạnh trêu ghẹo.

Tử Chiêu cười.

Bà Mạnh vuốt tóc con, mềm mại, hệt như tóc máu trẻ sơ sinh.

“Đời này có rất nhiều chuyện còn quan trọng hơn so với những việc vặt vãnh con đang vướng bận, sinh nhai kiếm sống, tiền đồ sự nghiệp, bao thứ ập tới, muốn sống cho tốt chẳng dễ gì, mà tìm được người thương phù hợp với mình cũng rất khó, nhưng cuối cùng con vẫn sẽ tìm được, cũng như thời gian rồi sẽ trôi đi.”

Tử Chiêu đáp vâng.

“Chiêu Chiêu, con có muốn biết mẹ nghĩ gì về Cảnh Ninh không?”

“Giờ nói những chuyện này còn nghĩa lý gì nữa ạ?” Cậu lạnh lùng đáp.

Bà Mạnh ôn hòa đáp: “Từ giây phút đầu tiên nhìn thấy con bé, mẹ đã thầm nghĩ mình thật sự chưa từng gặp cô bé nào trong sáng thẳng thắn như vậy. Đến tận bây giờ, cái nhìn của mẹ với cô bé vẫn không hề thay đổi.”

Tử Chiêu vươn tay xoa khóe mắt, nhưng lại không thấy lệ.

Cậu từng rơi lệ vào cái ngày đoạn tuyệt bên Đông Hồ.

Sau khi gặp cô tại đường Hoa Lầu, đêm ấy cậu đã có một giấc mơ, cậu mơ thấy mình xuống xe, tiến lại kéo tay cô không buông. Cảnh Ninh rất vui mừng, vung vẩy tay cả hai, cười hi hi nói: “Mạnh Tử Chiêu, mình ra sông chơi đi, ngồi thuyền nhà anh nhé.”

Trong mơ, cậu khóc rất to. Thật ra cậu cũng biết rõ biệt ly không có gì đáng sợ, chỉ là nó sẽ khiến người ta đau lòng thôi.

Cuối thu 1932, Từ Đức Anh và cô dâu mới của cậu ta xuất phát tại bến tàu Hán Khẩu, giong thuyền về phía Nam, bắt đầu chuyến du lịch trăng mật; Mạnh Tử Chiêu đã đi thuyền tới Thượng Hải trước, sau đó tiếp tục tiến về đích đến châu Âu; Tạ Tề Phàm trở về Quảng Đông, ông sẽ sống phần đời còn lại một cách bình lặng tại quê nhà Phật Sơn, từ đó không trở lại Hán Khẩu nửa bước.

Hôm Tạ Tề Phàm đi, Ngân Xuyên đã đứng đợi từ sớm tại bến tàu, chỉ sợ lỡ giờ tiễn biệt. Tạ Tề Phàm chẳng có mấy hành trang, ông mang ít hành lý, cũng không đưa người theo trợ giúp, chỉ để một quản lý hãng buôn Thuận Đức Tịch già cả theo cùng. Ngân Xuyên quay người nhìn về phía họ, nở nụ cười vương nét thê lương, như thể đã dự cảm được đây chính là vĩnh biệt.

Gương mặt Ngân Xuyên tê cóng đến trắng bệch trong sắc trời xanh, tuấn tú mà gầy gò, hệt như chàng trai anh tuấn, tốt bụng khờ khạo trong ký ức của Tạ Tề Phàm. Nỗi thương xót gờn gợn trong mắt chẳng vì tuổi tác lớn dần mà nhạt đi đôi phần, luôn có một thứ cảm giác bất an quẩn quanh trong đó. Đã bao năm trôi qua rồi, niềm hy vọng và hạnh phúc của đứa trẻ này chưa từng tìm nổi cho mình chốn yên thân.

Tạ Tề Phàm bùi ngùi cảm khái.

“Chú Tạ, cháu đã chuẩn bị xong từ sớm rồi, vẫn còn kịp ăn cơm.” Ngân Xuyên mỉm cười nói, hai người trợ thủ của anh đứng xa xa một góc.

Tạ Tề Phàm vẫy tay, đưa mắt ra hiệu cho trợ lý, người trợ lý già gật đầu, xách hành lý bước xuống bậc thang.

“Vết thương của cháu đỡ hơn chưa?” Sau khi bước lên khoảng đất bằng trên đê, Tạ Tề Phàm ân cần hỏi.

Ngân Xuyên mỉm cười lật áo khoác ra, để Tạ Tề Phàm thấy phần áo sơ mi phồng to của anh.

“Chưa tháo bột nên cháu không dám vận động mạnh, nhưng đã đỡ hơn nhiều rồi.”

Tạ Tề Phàm nhìn anh chăm chú, sự dịu dàng anh ánh trong mắt ông, hồi lâu, ông nói: “Chú thật sự hy vọng cháu có thể trở thành một thương nhân bình thường, chịu bớt khổ sở thôi, sống cho thật bình yên…” Chưa nói dứt lời, ông đã cười, “Cháu sẽ không thích cuộc sống như vậy.”

“Chú Tạ, cháu cũng muốn tâm sự với chú lời trong lòng cháu.” Ngân Xuyên nói.

Có mây, nắng chiếu tản mát, bên này một ít, bên kia một chút, khiến nước sông cũng dần sáng lên.

“Cháu từng nghĩ, nếu ngày ấy mẹ cháu để cháu chết chìm dưới Châu Giang thì tốt, hoặc lần đầu tiên gặp chú, chú giết cháu luôn thì tốt, hoặc không thì để Phan Thịnh Đường giết cháu cũng được. Nhưng mọi người lại để cháu sống, sống trong địa ngục, sống suốt hơn hai mươi năm trời.”

Giọng Ngân Xuyên không lớn, gân xanh trên mu bàn tay nổi lên, anh đang cố khống chế bản thân, đây là thói quen đáng buồn mà anh đã tập cho mình suốt nhiều năm, anh chưa từng có cơ hội thể hiện cảm xúc thật của mình, dù là trước mặt người đáng để tin cậy nhất.

“Từ nhỏ tới lớn, bạn bè của cháu tính ra chẳng được quá ba người, thậm chí có thể nói cháu không có một người bạn nào. Cháu hòa nhã, thành thật, chăm chỉ, đối xử tốt với tất cả mọi người, nhưng không một ai muốn gần gũi cháu. Mặt cháu có thứ gì đáng sợ lắm sao? Hay cử chỉ của cháu quái lạ lắm? Không phải. Nhưng cháu không giống mọi người, dù là ở hiệu buôn Tây hay tại nhà họ Phan, hoặc là trong trường thì cháu cũng không giống mọi người. Những người ấy đề phòng cháu, như thể cháu có thể cướp mất của báu của họ bất cứ lúc nào. Vậy nên lúc nào họ cũng bắt tay với nhau, đám tồi tệ, đám ngu ngốc, họ hùa vào cô lập cháu, bọn họ thân thiết kề cận nhau lắm, không bao giờ coi cháu là bạn.”

Tạ Tề Phàm khẽ thở dài.

“Chú Tạ, cháu biết chú muốn cháu quay đầu, nhưng cháu biết quay về đâu đây? Cháu mang bao nhiêu gánh nặng trên vai, cháu biết đi về đâu đây? Lết từng bước tới ngày hôm nay, cháu phải về đâu? Chú thấy cháu ra tay tàn nhẫn, vâng, cháu cũng nghĩ là vậy, nhưng cháu thấy vẫn chưa đủ, cháu muốn những ngươi đó nhìn xem, nhìn phòng kế toán Hoa tàn tạ xuống dốc khi về tay Ngân Xuyên sẽ thay đổi ra sao, dân Trung Quốc làm việc tại hiệu buôn Tây như chúng ta bị người nước ngoài chèn ép ức hiếp, bị người Trung Quốc khinh miệt dè bỉu, cháu muốn thay đổi tình cảnh này, cháu thật sự muốn… Nhưng chú nói không sai, cháu đi quá nhanh, quá vội vã, cháu phải trả một cái giá rất đắt.”

Tạ Tề Phàm nói: “Cháu muốn phòng kế toán Hoa thoát ly khỏi hiệu buôn, nhưng lại dùng cách tổn hại tới lợi ích của mọi người, dù cháu đoạt được thứ cháu muốn thì cháu cũng đã đánh mất nhân tâm.”

Ngân Xuyên gật đầu: “Vâng, cháu không chỉ tập hợp cổ phần của phòng kế toán Hoa mà còn hãm hại rất nhiều cổ đông, vả lại Edmund cũng luôn ôm thái độ thù địch với cháu.”

Tạ Tề Phàm nhướng mày: “Vậy là cháu muốn có cả hiệu buôn Tây Phổ Huệ.”

Ngân Xuyên lắc đầu: “Cháu không bì được với cha ruột cháu, cũng không bì được tiền bối Phan Thịnh Đường, bọn họ đều là những thương nhân bậc nhất trên đời, đến người nước ngoài cũng dè chừng họ. Cháu không ôm chí hướng lớn, không đủ bản lĩnh đoạt được cả hiệu buôn Phổ Huệ, cháu chỉ muốn chi nhánh Hán Khẩu của nó, vì cháu biết cháu có khả năng ấy. Chú Tạ, cháu muốn hiệu buôn Vĩnh Hòa của nhà họ Trịnh hồi sinh tại Hán Khẩu, cháu muốn cướp lại những gì người Trung Quốc đáng có được từ tay người Anh, cháu muốn vong linh cha mẹ cháu trên trời cảm thấy tự hào vì cháu.”

Tạ Tề Phàm liếc nhìn anh, ánh mắt này chứa đựng muôn nghìn lời muốn nói: “Đây là lần đầu cháu nói với chú nhiều lời trong lòng như vậy, Tiểu Xuyên, chí hướng cháu cao xa, vượt qua cả tưởng tượng của chú, cha mẹ cháu trên trời sẽ tự hào vì cháu.”

Ngân Xuyên quay mặt lại, nhin Tạ Tề Phàm chăm chú: “Chú Tạ, trong lòng cháu chú cũng như cha cháu, chú là người thân của cháu. Nhưng giờ đây dù sự thiếu tin tưởng của cháu đã khiến chú tổn thương, dù mọi hành động của cháu đều khiến chú đau lòng thất vọng, vào thời điểm cháu gặp hiểm nguy nhất, chú vẫn đứng bên cháu, dốc hết tất cả để giúp đỡ cháu. Cháu biết khoản vốn ngài Đồng cấp cho Phú Hưng là tiền của chú, để giúp cháu bù đắp lỗ hổng của phòng kế toán Hoa Phổ Huệ, chú gần như đã mất hết gia tài mình tích cóp cả đời. Cháu không biết nên báo đáp đại ân đại đức của chú ra sao, mà chú… cũng biết cháu không thể báo đáp nên mới quyết định rời đi.”

Tạ Tề Phàm im lặng hồi lâu, vạt áo trước phấp phới trong gió.

Ngân Xuyên quỳ xuống, chậm rãi dập đầu trước ông: “Chúc chú Tạ lên đường bình an.”

Tạ Tề Phàm vươn tay đỡ anh, mắt rơm rớm: “Chú già rồi, mệt rồi, muốn an hưởng tuổi già, sống những ngày bình yên, không thể đi tiếp cùng cháu nữa. Sau này chỉ dựa vào mình cháu thôi.”

Ngân Xuyên không đứng dậy, anh vẫn gục đầu xuống đất, nắng ban mai chiếu lên mái tóc đen nhánh của anh.

“Tiểu Xuyên à,” Tạ Tề Phàm thở dài, “cháu có tư chất hiếm có, nếu vì muốn báo thù mà để thù hận nuốt chửng tâm hồn, hoặc trở thành người bất phân phải trái, điên cuồng vì tiền tài lợi ích thì quả thực là được một mất mười. Cháu còn rất trẻ, là do chú đã dẫn cháu đi nhầm đường, mọi điều chú làm cho cháu đều là trả giá cho tội nghiệt của chú. Chú không có tư cách khuyên cháu quay đầu, có nói cũng không có tác dụng, nhưng tất cả đều có cái số của nó rồi, vấn đề chỉ là sớm hay muộn thôi, mọi điều đã trải qua, mọi trắc trở va vấp, mọi người, mọi chuyện cuối cùng đều là để khiến cháu hiểu chính cháu hơn. Cháu hãy cứ làm chính mình đi.”

Nắng mai đậu trên mặt đất lạnh như băng, bao lấy đất như khói, trải trên đất như lụa, tựa không nỡ chia lìa, nhưng bến tàu Hán Khẩu đã quá quen với những yêu hận biệt ly, luôn có bước chân giẫm nát lên niềm lưu luyến, luôn có cơn gió thổi tan mọi bịn rịn.

Ngân Xuyên nghiến răng, nước mắt lại không nghe lời, nhỏ từng giọt xuống đất.

Hôm ấy anh đã làm một chuyện rất tức cười, sau khi rời bến tàu, anh tới thẳng dinh thự nhà họ Phan, cho người nhét bốn con vịt vào lồng rồi một mình lái xe đem chúng đi, chạy thẳng tới Than Trạch phía tây ngoại ô.

Xe lao đi vừa nhanh vừa xóc, lồng vịt đặt ở ghế sau, bốn con vịt sợ hãi, cứ liên tục co rúm lại với nhau, cắn mổ lẫn nhau, kêu lên quàng quạc, khiến anh phiền muộn tột cùng, dừng xe lại, thế là đám vịt không kêu nữa, xe vừa lăn bánh, chúng lại tiếp tục om sòm.

Ngân Xuyên phì cười, rồi bắt đầu phá lên ha hả, động đến vết thương, nhưng anh chỉ lo cười, cười đến mức nước mắt giàn giụa, trông lại như không hề đau đớn.

Ôi, anh cười, nghĩ, sao tất cả đều đi, lại chỉ còn mình tôi ở đây.

Trăng tròn cuối thu lặng lẽ vươn mình lên từ phía chân trời.

Thượng hạ tứ phương, cổ vãng kim lai, thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang.

- -----oOo-----
 
Quyển 2 - Chương 77


Đầu hạ năm 1933, công trình cải tạo lâm viên trên Xà Sơn, Vũ Xương đã bắt đầu có hình hài cụ thể, người ta mắc dây điện, khai phá đất đai, dọn dẹp khang trang, trồng thêm cây cối, tu bổ di tích, làm đường nhựa và đường bộ dọc từ chân núi lên sườn núi, xe con có thể đi thẳng tới Bão Băng Đường. Đỉnh núi có bức tượng đồng của anh hùng Tân Hợi Hoàng Hưng, tượng quay mặt về hướng đông, mắt dõi ra xa, tay áo tung bay, rất hợp với ý cảnh trong câu thơ “Đứng trơ trong cõi mịt mờ, Gió êm se sẽ vờn bay áo người” của ông. Ngày hoàn thành bức tượng, những nhân vật nổi danh trong đủ các ngành nghề cùng các cư dân thành phố leo lên Xà Sơn để tổ chức buổi tiệc mừng. Trước đó, cả thành phố Vũ Xương chẳng có lấy một công viên tử tế. Ở Trường đua ngựa Tây Thương cũ ngoài Hán Khẩu từng xuất hiện tiền lệ “Cấm người Hoa và chó”, dù sau đó đã có Trường đua ngựa Hoa Thương, tiền bạc vẫn là tấm bình phong kiên cố ngăn cách người với người. Cuối cùng, cách một con sông, ngay tại Vũ Xương này cũng đã có một chốn nghỉ ngơi dành cho tất cả mọi người, không kể giàu sang phú quý hay nghèo đói ti tiện, có thể khen một câu “Trông cõi giang sơn, bình an tốt lành”.

Sau buổi lễ mừng long trọng, đám người tản đi, có kẻ bước vào quán trà dựng tạm uống ly nước nghỉ ngơi, có kẻ ra tham quan các thắng cảnh còn đang kiến thiết, người thì ngồi trên bãi cỏ nhấp rượu thưởng cảnh, cũng không ít khách khứa đứng chụp ảnh tập thể trước tượng đồng. Hôm nay tiết trời râm mát, dù đã gần trưa nhưng nắng mặt trời vẫn rất dịu nhẹ, đây là dịp thích hợp chụp ảnh. Gió mát lượn quanh, hương hoa vờn chóp mũi, vạt nắng lấp lánh êm ái trong tiếng nói cười.

Người chụp ảnh rất đông, mấy tốp cuối cùng toàn là danh gia vọng tộc, không nhóm nào ít hơn năm người, trong đó có một gia đình ăn mặc rất sang trọng thanh lịch, cử chỉ lời nói nhã nhặn, lúc người khác chụp ảnh, họ đứng nép một bên rất lịch sự, dù có khách bước ra chiếm chỗ, họ vẫn chẳng cáu giận, cứ lẳng lặng chờ đợi, cuối cùng đến lượt mình mới thong dong bước lại.

Nhiếp ảnh gia cắm đầu vào máy ảnh, cậu trợ lý trẻ phụ giúp sắp xếp vị trí cho khách khứa. Đường đất không mấy bằng phẳng, cậu trai trẻ nhắc nhở một thiếu phụ bụng bầu rất chu đáo: “Mợ cẩn thận kẻo vấp chân, mợ bước sang bên phải một chút đi, đúng rồi, đứng gần chồng mình hơn một chút ạ.”

Thiếu phụ có hàng mày dài mảnh, gương mặt thanh tú hơi sưng do mang thai, cơ thể cô cứng đờ không nhúc nhích, một đôi mắt như nước hồ thu lạnh nhạt đưa qua, người đứng bên tay phải cô là một người đàn ông vô cùng tuấn tú, nghe vậy, anh dời một bước nhường chỗ nhưng thiếu phụ vẫn đứng im, dưới chân có hai hòn đá nên rõ ràng cô đang không được thoải mái. Người đàn ông biến sắc, đang định nói gì thì một người khác đứng bên tay trái thiếu phụ đã mỉm cười, khẽ cất lời: “Cẩn thận.” Cậu ta vươn tay ôm eo thiếu phụ, lúc này cô mới nhẹ nhàng di chuyển.

Cậu trai biết mình lỡ lời, sau khi mọi người đã đứng vào vị trí, cậu ta nhanh chóng trở về bên cạnh nhiếp ảnh gia. Nhiếp ảnh gia lườm cậu trai, thì thầm: “Đó là mợ trẻ nhà thị trưởng Từ, người đứng bên trái là cậu Từ, bên phải là anh cả mợ ấy, không đoán được thì đừng nhiều lời.”

Cậu trợ lý lén lè lưỡi.

Mấy hôm sau anh đã được rửa, đưa đến phòng làm việc của Từ Đức Anh tại hiệu buôn Tây Vũ Xương, cậu ta bèn mang về nhà. Lúc về hẵng còn sớm, người làm vẫn chưa bắt đầu chuẩn bị cơm, Cảnh Ninh đang trong phòng ngủ, tựa mình trên giường đọc sách. Thấy cậu ta bước vào, cô không ngẩng đầu, chỉ hờ hững nói: “Về rồi à.”

Từ Đức Anh đưa cho cô tấm ảnh: “Đây là ảnh chụp hôm trước, anh đã gửi cho cả vợ chồng Trình Viễn rồi, anh gửi chuyển phát nhanh đấy, chắc họ về Bắc Bình mấy hôm là nhận được.”

Cảnh Ninh không có ý muốn tiếp lời, chỉ lật giở cuốn sách lý luận âm nhạc, không biết xem có vào đầu không. Đức Anh ngồi bên giường, chỉ tấm ảnh nói: “Chụp đẹp lắm đấy, em đã ra dáng một người mẹ rồi.”

Nghe vậy, Cảnh Ninh không khỏi quay đầu lại, cậu ta bèn tiện thể ngồi luôn xuống, để cô tựa vào người mình.

Ảnh có chín người, đều những chàng trai cô gái trẻ tuổi, duyên dáng chỉnh tề. Cảnh Huyên đã kết hôn với cô tư nhà họ Thiệu, hai vợ chồng đều xuất hiện trong ảnh; trừ vợ chồng Từ Đức Anh ra, nhà họ Từ còn có hai người bà con họ nội góp mặt; ngoài ra có cả Lưu Trình Viễn và chồng, sau khi kết hôn họ đã chuyển tới Bắc Kinh, dịp này về Hán Khẩu để tham dự hôn lễ người thân; còn một người nữa là Ngân Xuyên, hôm ấy anh tham gia với tư cách nhà tài trợ tham dự nghi lễ cắt băng, vậy nên mới bị mọi người kéo vào chụp ảnh cùng, anh luôn không thích góp mặt vào những cuộc vui, chụp ảnh xong là đi ngay.

Cảnh Ninh trong ảnh không nở nang, mắt mày hẵng còn vương vẻ ngây thơ, nếu không phải vì chiếc bụng thì chẳng ai nghĩ cô đã làm mẹ rồi.

Cô không nói tiếng nào, chỉ nhìn tấm ảnh chằm chằm, Đức Anh đưa mắt nhìn xuống, thấy lông mi cô khẽ run lên, cánh mũi trắng muốt nhẹ nhàng chuyển động theo nhịp thở, thần thái giống một cô gái nhỏ hơn là một bà mẹ.

Cậu ta không bao giờ quên được cảnh tượng lần đầu gặp cô.

Khi ấy cậu ta từ Chiết Giang chuyển tới mảnh đất Hồ Bắc lạ lẫm, trở thành một nhóc học sinh mới trong ngôi trường xa lạ, giáo viên quốc văn gọi cậu ta lên bục giảng tự giới thiệu, cậu ta lại ngây ra như phỗng, nói cũng chẳng dám nói. Có tia sáng gắt gỏng ngoài cửa sổ chiếu lên cô bé ngồi hàng trước, sợi tơ trên bộ đồ màu ngó sen tinh tế lấp lánh tia sáng. Cô nhìn cậu ta, khi hàng mi khẽ chớp, đôi đồng tử của cô long lanh, cũng lấp lánh phát sáng, bờ môi cong, làn da trắng muốt, lỗ chân lông nhỏ xíu hòa trong ánh sáng, hóa thành cảnh tượng mà đời này cậu ta khó lòng quên được.

Giờ cô bé ấy đang ở bên cậu ta, cô trở thành vợ cậu ta, chuẩn bị sinh nở.

Cô là Cảnh Ninh, nhưng dường như cô không phải Cảnh Ninh trong ký ức của cậu ta.

Mỗi sớm thức dậy, Đức Anh sẽ lại lặng lẽ quan sát cô, nhìn gương mặt tinh tế được trải một tầng nắng ban mai, ngắm mãi không chán. Cậu ta cũng yêu cả cái cách cô hất mái tóc mình, yêu động tác cởi áo khoác quen thuộc của cô mỗi lần về nhà, yêu dáng vẻ hoạt bát sáng sủa của quá khứ mà thi thoảng mới xuất hiện nơi cô. Có lần, cô mặc đồ ngủ, ngồi trước bàn trang điểm chải đầu, cậu ngồi dậy, to gan bước tới hôn lên phần gáy trần trụi của cô, cô không quay người, để mặc cậu ta hôn, nhưng cô vẫn rùng mình ớn lạnh, cái rùng mình ấy khiến cậu ta phiền muộn suốt mấy ngày trời. Bọn họ không thể thật sự thân mật với nhau, cậu ta từng thử vô số lần, cô cũng ép mình phải thích ứng, nhưng cuối cùng chẳng ai thành công, cảm giác xa lạ vô hình mà bèn chắc khiến cả hai cảm thấy vô vọng. Việc mang thai đã cho họ cái cớ để trì hoãn những hành động thân mật hơn, cũng vì vậy mà cuộc hôn nhân này mang một thứ ảo giác tôn trọng nhau như khách, chẳng ai muốn xé toạc nó.

Vụ mất tích của Phan Thịnh Đường được xếp xó trong ngăn đựng hồ sơ đồn cảnh sát, biến thành một vụ án treo. Khoảng thời gian này cũng không có biến chuyển nào. Ngoài ra, vẫn có rất nhiều chuyện đã xảy đến.

Ví dụ như Phương Kỳ Kỳ đã chuốc lấy một mối bất hạnh khiến người ta phải khó xử. Hồi đầu năm, cô ấy kết bạn với một chàng trai Thượng Hải qua thư từ, sau một thời gian trao đổi thư, Kỳ Kỳ nảy sinh tình cảm với chàng trai. Nhận lời mời, cô giấu gia đình, lén lút tới Thượng Hải, hai người trải qua một ngày một đêm ngọt ngào bên nhau. Sáng sớm hôm sau, chàng trai đưa cô tới tiệm làm đầu, làm được một nửa, chàng trai nói mình ra ngoài mua đồ ăn sáng, thế là không về nữa. Túi xách Kỳ Kỳ để anh ta giữ, trong đó có chứa toàn bộ lộ phí của cô. Người làm trong tiệm đưa Kỳ Kỳ đi báo cảnh sát, đến khi nhà họ Phương cho người từ Vũ Hán đến Trường Sa, tiền làm đầu mới được thanh toán xong xuôi.

Nhà vị hôn phu của Kỳ Kỳ biết chuyện bèn lập tức hủy bỏ hôn ước. Để giấu chuyện xấu mặt, nhà họ Phương đưa Kỳ Kỳ tới Tứ Xuyên. Khi đi, Kỳ Kỳ còn chưa kịp từ biệt Cảnh Ninh và Trình Viễn. Chẳng bao lâu sau Trình Viễn cũng kết hôn rồi chuyển tới Bắc Bình cùng chồng. Vì vậy mà Cảnh Ninh đã mất cả hai người bạn thân thiết nhất. Cảnh năm người đi chơi thuyền ngoài hồ vẫn còn rõ như ngày hôm qua, ấy thế mà chớp mắt, ngoại trừ Cảnh Ninh và Đức Anh đã nên vợ nên chồng ra, những người còn lại đều lưu lạc tứ phương.

Ngoài mặt, Đức Anh không nhận thấy bất cứ thay đổi nào của Cảnh Ninh, nhưng cậu ta biết lòng cô đang nặng trĩu. Cậu ta hiểu nỗi buồn của cô, vì người bỏ đi không chỉ có hai người bạn của Cảnh Ninh, mà còn có cả người cô thật sự đem lòng yêu.

Đức Anh thật lòng muốn đối xử tốt với Cảnh Ninh, Cảnh Ninh cũng luôn cố gắng làm tròn chức trách của bà chủ gia đình. Nguồn cơn của cuộc hôn nhân này là trận phong ba kín đáo không ai dám tiết lộ, đây cũng là vết thương trong lòng người nhà họ Từ, Đức Anh từng rất lo, không biết mẹ mình sẽ đối xử với Cảnh Ninh ra sao.

Mẹ chồng nàng dâu vốn rất khó cơm lành canh ngọt, gặp người mẹ chồng như bà Từ lại càng khó hơn. Bà Từ mắc bệnh sạch sẽ, đi đường về là lập tức phải rửa tay thay đồ, mà không chỉ thay có một lần. Nhà họ Từ toàn quan chức nhà nước, không có nhiều kẻ hầu người hạ, có lúc bận bịu quá, chủ nhà vẫn phải đỡ đần việc nội trợ. Riêng chuyện thay đồ của bà Từ thôi đã rất phức tạp. Nào đồ nhà bếp, đồ phòng khách, đồ trong phòng nghỉ, mỗi nơi bà phải mặc một món khác nhau. Nếu ra ngoài vườn hoa ngắm cảnh, khi vào nhà bà sẽ phải thay ngay một bộ quần áo mới rồi mới ngồi xuống xô pha. Đức Anh đã nhắc trước với Cảnh Ninh về thói quen của mẹ mình, mong cô có thể chuẩn bị tâm lý trước, vậy nên ngày đầu bước vào cửa, chuyện đầu tiên Cảnh Ninh làm là chuẩn bị cho mình mấy bộ đồ để sẵn thay bất cứ lúc nào.

Bát đĩa nhà họ Từ cất trong tủ, trước khi mang lên phòng ăn bắt buộc phải ngâm nước một lần, rồi lại xối nước nóng thêm ba lần nữa. Đến Từ Chúc Linh và Đức Anh cũng thấy thái quá. Đức Anh sợ Cảnh Ninh không thích ứng nổi, cô là một cô gái phóng khoáng, không chịu ràng buộc, có khi mẹ chồng nàng dâu lại xung đột với nhau, nhưng phản ứng của Cảnh Ninh lại khiến Đức Anh vô cùng kinh ngạc.

Sau khi nghe bà Từ dặn dò cẩn thận, cô chỉ mỉm cười, ngoan ngoãn nói: “Dạ vâng ạ, con sẽ xối nước nóng năm lần!”

Cô không hề đùa giỡn, tất cả mọi chuyện bà Từ chỉ yêu cầu cô làm chừng bảy phần là được, cô lại cứ nhất quyết làm đến chín phần hoặc tròn mười phần. Cô biến hẳn thành một con người khác, khác xa tưởng tượng của Đức Anh. Sự cần mẫn, hiếu thảo, không một lời phàn nàn của cô đã khiến bầu không khí gia đình trở nên hết sức hòa thuận, sau khi công bố tin mang thai, vợ chồng Từ Chúc Linh càng yêu thích cô con dâu xuất thân trong gia đình kiểu Tây này hơn.

“Đức Anh này, đứa hiền lành thật thà như con vớ được vàng rồi đấy!” Bà Từ không khỏi cảm thán.

Đức Anh không tiếp lời, không tính đến chuyện thật thà hay không, nhưng miếng vàng này chẳng phải do cậu ta vớ được, cậu ta đã hao hết tâm trí để tranh cướp nó. Vì vậy nên cậu ta vô cùng bất an.

Chỉ mình cậu ta thấy được sự hời hợt xa cách của Cảnh Ninh sau nụ cười gượng gạo, hằng ngày cô đều ứng phó với đủ người, đủ việc, chỉ cần làm đẹp lòng nhau là con người ta sẽ trở nên ung dung hòa nhã. Sự dịu dàng của cô nói dễ nghe là thỏa hiệp, nói khó nghe thì là làm vì muốn bớt phớt toái, mong được người ta để yên. Cô sống rất khổ sở, sức khỏe cũng rất tệ, cơn nôn nghén vốn nên chấm dứt vẫn tiếp tục kéo dài, đến khi tình hình chuyển biến tốt đẹp hơn đôi chút, hai người bạn thân lại lần lượt rời Hán Khẩu, cô mất ngủ mấy đêm liền, càng lúc càng trở nên gầy gò, hơn nữa người còn bị sưng phù đau đớn.

Đức Anh không biết phải làm sao để cô khá lên, vui lên, vô ưu vô lo như thời thiếu nữ. Trong hoang mang bất lực, cậu ta quyết định cầu cứu một người.

Sau khi ở tạm tại đường Bảo Thuận một thời gian, Trịnh Ngân Xuyên chuyển tới một căn nhà tại Tô giới Đức, không lưu lại nhà họ Phan nữa. Anh vùi đầu vào công việc, mất chừng nửa năm để thoát khỏi vụ tố tụng khó nhằn. Trong gần một năm nay, anh sống vô cùng lặng lẽ, dù cũng liên lạc với nhà họ Phan và nhà họ Từ, nhưng anh cũng không quá niềm nở chủ động.

Đức Anh mặc Nam Gia ngăn cản, cứ thế xông vào phòng làm việc của Ngân Xuyên. Ngân Xuyên ngẩng đầu, nhướng mày: “Sao em rể không đưa đám côn đồ của mình về theo, như vậy sẽ hoành tráng hơn đấy. Nếu không đủ tiền, không thuê được thì tôi có thể cho cậu một ít.”

“Em không có hứng đùa với anh cả đâu.” Đức Anh lạnh mặt, thuật lại tình hình của Cảnh Ninh cho anh.

Ngân Xuyên nghe mà mặt không đổi sắc, gân xanh trên thái dương khẽ giật, anh chầm chậm cất lời: “Năm Ninh Ninh bảy tuổi, người ta tổ chức một cuộc thi dương cầm cho thiếu niên ở Tô giới Anh, con bé tham gia, đoạt giải Tư nhưng lại được nhiều phần thưởng hơn cả, vì trong số các thí sinh tham gia, Ninh Ninh là nhỏ tuổi nhất. Có một thành viên Cục Quản lý Tô giới rất thích con bé, bèn bế con bé, cho ngồi trên đầu gối mình, nói con bé là công chúa Bạch Tuyết. Cảnh Ninh lắc đầu liên tục, nói cháu không thèm làm công chúa Bạch Tuyết đâu. Người nọ bèn cười: Không làm công chúa Bạch Tuyết thì chắc cháu muốn làm Lọ Lem nhỉ? Con bé lại lắc đầu, nói, cháu cũng không làm Lọ Lem đâu. Lãnh sự nọ bèn hỏi thế cháu muốn làm gì? Cảnh Ninh đám, cứ người trong cung là cháu không thích, cứ vật trong lồng là cháu không làm, cháu muốn trở thành chú chim nhỏ bay trên trời cao.”

Đức Anh mím môi, Ngân Xuyên chật vật nở nụ cười: “Người như cô bé ấy cuối cùng lại bị xiềng xích thế này.”

Đức Anh nói: “Cuộc sống của cô ấy coi như cũng tốt đẹp, không ai hà hiếp cô ấy, mọi người trong nhà nâng cô ấy như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Cô ấy muốn gì có nấy, thích đi đâu cứ việc đi nấy.”

“Muốn gì có nấy, thích đi đâu cứ việc đi nấy?” Ngân Xuyên dửng dưng lặp lại, anh ngước mắt nhìn cậu ta, “Vậy sao?”

“Xin anh hãy nói cho em biết em nên làm gì để giúp cô ấy vui lên?”

“Đưa con bé ra ngoài dạo phố, con bé thích ăn đồ ăn bên ngoài, đưa con bé ra ngoài ăn đi.” Ngân Xuyên xé một tờ ghi chú ra, viết vội tên vài nhà hàng, rồi lại viết thật nhiều tên những món ăn.

Đức Anh nhận lấy, đáp cảm ơn.

Ngân Xuyên nói: “Phải rồi, con bé không thích ăn vỏ bánh mì, nó thích ăn đồ mềm, đồ ngọt. Con bé rất thích âm nhạc, Handel, Haydn, Bach, Mozart, Debussy là những nhà soạn nhát con bé thích nhất. Nhà cậu có piano không?” Thấy Đức Anh gật đầu, Ngân Xuyên lại nở nụ cười buồn bã, “Có cũng vô ích… Con bé thích đàn bản ‘Love’s Sorrow’ nó cải biên một cách lộn xộn nhất, còn cả bản ‘Sonata số 11 cho piano cung La trưởng’ của Mozart nữa, nhưng kể từ khi… chắc con bé sẽ không muốn đàn dương cầm nữa, không ai còn có thể khiến con bé đàn lại nữa.”

Tia sáng buồn đau ánh lên trong mắt anh: “Tiếng đàn của con bé là âm thanh đẹp đẽ nhất trên đời.”

Đức Anh cúi đầu, im lặng hồi lâu, cậu ta ngẩng đầu, nói: “So với anh cả thì em đúng là vô dụng.”

Ngân Xuyên quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, không đáp lại.

“Phương Kỳ Kỳ và Lưu Trình Viễn đều đã rời Hán Khẩu, hằng ngày Cảnh Ninh giam mình trong nhà, không đi lại, cũng ít khi nói chuyện, em không biết phải làm thế nào mới giúp cô ấy vui lên.”

“Cậu về đi, tôi sẽ nghĩ cách.” Ngân Xuyên nói.

Vài ngày sau, một thiếu phụ trẻ xinh đẹp hoạt bát tờ nhà họ Từ thăm Cảnh Ninh, Đức Anh từng gặp cô gái này tại hôn lễ, đó là vợ của Đồng Xuân Giang.

Bà Đồng mang rất nhiều đồ thêu tới, nói muốn dạy Cảnh Ninh làm áo quần và giày cho em bé, coi như giúp cô giết thời gian, luyện tập trí não. Cô gái này ăn nói thẳng thắn, không sợ động chạm, nhưng nghe lời cô gái ấy, Cảnh Ninh lại nảy sinh niềm yêu mến khoan dung. Cứ như thể cô đang quay về thời mình còn là một cô bé, khi ấy cô luôn yêu mến mọi cô bé yếu đuối hơn mình. Đó là một thứ tình cảm giữa những người chị em. Nhưng Đức Anh không thấy bà Đồng yếu đuối, ngược lại, thiếu phụ này tự do vui vẻ như một gốc cỏ dại, có lẽ đây chính là điểm khiến Cảnh Ninh yêu mến cô.

Cảnh Ninh hỏi bà Đồng: “Cô học chữ thế nào rồi? Đọc xong hết từ điển chưa?”

“Hóa ra cô giáo quẳng gánh giữa đường còn nhớ tôi à.” Bà Đồng bĩu môi.

Cảnh Ninh cười, nói: “Nếu cô không ngại phiền thì cứ thường xuyên tới nhà tôi, cô dạy tôi may quần áo, tôi tiếp tục dạy cô học chữ, thế nào?”

“Tôi chỉ chờ có câu này thôi đấy!”

Lần thứ hai quay lại, bà Đồng dắt theo cậu con trai Tiểu Hỉ hai tuổi, thằng bé kháu khỉnh bụ bẫm, ai ai cũng mến, Cảnh Ninh nhìn Tiểu Hỉ, không khỏi bật cười. Thực ra đứa bé trong bụng cô cũng có tên mụ, là tên Từ Đức Anh đặt cho bé, “Tiểu Quai”.

Khi ấy Đức Anh cũng có nhà, tim cậu ta rung lên, đây là lần đầu tiên cậu ta thấy được niềm yêu mến từ tận đáy lòng Cảnh Ninh kể từ khi kết hôn.

Đức Anh đắm chìm trong những suy nghĩ đứt đoạn, Cảnh Ninh đặt tấm ảnh xuống, kéo tay áo cậu ta: “Ngơ ngác gì thế?”

Cậu ta sực tỉnh, thấy Cảnh Ninh ngẩng đầu nhìn mình bèn cười, nói: “Anh đang nghĩ chẳng mấy chốc là em sẽ trở dạ, trong lúc này em đừng để mình vất vả quá, không phải lo chuyện nội trợ, có khó chịu chỗ nào thì cứ nói để còn chuẩn bị trước. Anh định sẽ mời thêm mấy người làm.”

Cô cũng đã sắp đến ngày lâm bồn, sớm hơn một tháng so với ngày thông báo trước gia đình, Đức Anh luôn nhớ rất rõ ngày.

“Em chuẩn bị sẵn từ trước rồi.” Giọng điệu cô rất nhẹ nhàng, thậm chí có phần dửng dưng thờ ơ, “Cũng không nhất thiết phải thuê người ở, nếu nhà bận bịu quá thì mời cô người làm Tiểu Quân ở nhà mẹ đẻ em đến một thời gian là được, cô ấy ở bên em từ ngày nhỏ, nghe lời lắm.”

Đức Anh cau mày, tưởng cô đang muốn tiết kiệm tiền cho mình, bèn rút một phong thư ra từ túi áo, dè dặt đặt vào tay cô.

Cảnh Ninh mở ra xem, thấy bên trong có một xấp tiền dày, không bật cười: “Anh định làm gì vậy? Em có tiền mà.”

Đức Anh nói: “Trước đây em bảo muốn có một cửa hàng piano, lúc đó anh đã nói chắc chắn anh sẽ ủng hộ em, em còn nhớ không? Giờ em đã là vợ anh rồi, anh càng phải ủng hộ giúp đỡ em hơn chứ. Vậy nên anh quyết định mỗi tháng sẽ tiết kiệm chút tiền giao cho em, sau này em sinh con xong, tĩnh dưỡng khỏe mạnh rồi, vợ chồng mình sẽ cùng mở một cửa hàng piano nhé, được không?”

Cảnh Ninh sững sờ.

Đức Anh lúng túng nói: “Anh là con người nhàm chán, chỉ biết dùng cách ngốc nghếch thế này để lấy lòng em thôi, có phải anh kém cỏi lắm không?”

“Không, em không thấy vậy.” Cảnh Ninh nắm lấy tay cậu ta, ngón tay gầy gò khẽ vuốt ve đốt ngón tay Đức Anh.

Đức Anh nhẹ nhàng ngẩng đầu lên, nhưng chỉ nở nụ cười bất đắc dĩ: “Ninh Ninh, thà rằng em mắng anh, oán trách anh còn hơn, anh không muốn em tha thứ cho anh một cách đơn giản như vậy.”

Cảnh Ninh buông tiếng thở dài trong im lặng.

Mấy ngày sau, Từ Chúc Linh quyết định tổ chức một buổi tiệc trà tại nhà, chiêu đãi một vài nhân vật nổi tiếng và bạn bè cũ trong giới chính trị và kinh doanh. Bà Từ và Cảnh Ninh phụ trách thu xếp bữa tiệc. Đức Anh kiên quyết phản đối với lý do Cảnh Ninh không chịu được mệt nhọc, bà Từ cười nói: “Ba ngày trước khi sinh con mẹ còn làm việc ở phòng văn thư, không sao đâu, còn lâu Ninh Ninh mới sinh, hơn nữa càng gần ngày chuyển dạ càng nên hoạt động nhiều hơn.”

“Sao lại như vậy?!” Đức Anh sốt sắng.

Cảnh Ninh xen vào: “Mẹ là người có kinh nghiệm, lời mẹ nói chắc chắn phải có lý rồi.”

Đức Anh giậm chân: “Em đừng góp vui vào nữa, nghe lời anh đi.”

Cảnh Ninh nói: “Nếu anh từng sinh con rồi thì em sẽ nghe lời anh.”

Bà Từ phì cười, ôm lấy vai Cảnh Ninh: “Ninh Ninh à, con chỉ đưa ý tưởng thôi là được, chuyện mua sắm đồ đạc cứ để mẹ lo, con không phải nhọc công đâu.” Rồi bà lại bảo, “Bụng con có vẻ lớn lắm rồi đấy, chắc đây là một đứa bé mập mạp.”

Cảnh Ninh cười.
 
Quyển 2 - Chương 78


“Hiệu buôn Vĩnh Hòa” đã bắt đầu kinh doanh tại đường Bảo Thuận từ đầu năm nay. Có thể nói, hiệu buôn này đã phải vượt muôn ngàn khó khăn mới được đi vào hoạt động. Sau khi Ngân Xuyên trải qua một loạt các sự kiện như thoát nạn tù tội, giúp hiệu bạc Phú Hưng vượt qua khủng hoảng, chỉnh đốn lại phòng kế toán Hoa của Phổ Huệ, khoản vốn kinh doanh có thể đổ vào hiệu buôn Vĩnh Hòa chỉ còn lại chưa tới hai mươi nghìn hiện kim.

Một hiệu buôn mới dù lớn hay nhỏ cũng đều cần có nền móng vững chắc. Ngân Xuyên dùng khoản tiền lương và hoa hồng cao ngất làm mồi để lặng lẽ thu hút những rường cột trẻ của Phổ Huệ, bổ nhiệm họ làm người phụ trách cho các bộ phận lưu trữ, vận chuyển, vân vân. Người phụ trách phòng kế toán là Vu Tố Hoài, còn Lý Nam Gia chín chắn kiệm lời tiếp tục lưu lại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, làm trợ thủ cho Ngân Xuyên tại phòng kế toán Hoa.

Từ thời nhà Thanh đã có tiền lệ mại bản Trung Quốc của hãng buôn Tây vốn nước ngoài sở hữu một hiệu buôn cho riêng mình. Ban đầu khi mới thành lập, “Hiệu buôn Vĩnh Hòa” chẳng khác những ngoại trang tầm thường là bao, nhưng Edmund lại rất đề cao cảnh giác. Thấy Ngân Xuyên bắt đầu thôn tính cổ quyền của phòng kế toán Tây Phổ Huệ, Edmund như ngồi trên đống than, oán hận nghiến răng ken két. Để đuổi Ngân Xuyên đi, ông ta đã sử dụng đủ thủ đoạn, khiến không ít rắc rối nảy sinh, ấy vậy mà Ngân Xuyên lại đổi hẳn cái tính nhã nhặn từ tốn xưa kia, anh chẳng những không sợ giằng co đối chọi với ông ta, mà tác phong hành sự cũng trở nên quyết đoán tàn nhẫn. Hơn nữa anh còn là con người cực kỳ thận trọng, khiến chiêu trò của Edmund gần như không có đất dụng võ.

Mặt hàng chính của hiệu buôn Vĩnh Hòa là dầu trẩu. Khối lượng mỗi lô dầu trẩu xuất khẩu phải đạt tới 300 tấn Mỹ, với nguồn lực hiện tại, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ rất khó xoay vòng vốn. Vì vậy nên Ngân Xuyên tranh thủ ghé tới những kho dầu trẩu nhỏ đang cần xuất khẩu hàng gấp nhưng không tìm được cửa ngõ tiêu thụ tại Xuyên Tương Ngạc, anh lợi dụng mối quan hệ của mình với hiệu buôn Tây, giật dây bắc cầu làm đại lý tiêu thụ hàng hóa cho các kho hàng nội địa. Anh áp dụng một phương pháp đại lý tiêu thụ với phương thức bảo hiểm hết sức đơn giản: Tìm hiệu buôn nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu, để bọn họ tự điền chứng từ tín dụng vốn, ký kết hợp đồng, trong một khoảng thời gian nhất định, hiệu buôn Vĩnh Hòa sẽ chịu trách nhiệm mua hàng tại Trung Quốc rồi vận chuyển ra nước ngoài, sau đó lại kết toán ngoại hối với ngân hàng, trong đó mọi chi phí lưu trữ, vận chuyển, chiết xuất, xuất khẩu, bảo hiểm đều do phía tư sản nước ngoài chịu trách nhiệm, hiệu buôn Vĩnh Hòa chỉ thu tiền hoa hồng. Như vậy có phòng tránh những nguy hiểm do giá cả tăng giảm thất thường đem đến cho hiệu buôn Vĩnh Hòa, đồng thời còn giải quyết được vấn đề thiếu hụt vốn một cách tài tình.

Tháng kinh doanh đầu tiên, hiệu buôn Vĩnh Hòa đã bán được hơn bảy trăm tấn dầu trẩu, tháng thứ hai bán ra hai nghìn tấn, đến tháng thứ ba con số này đã lên tới bảy nghìn năm trăm tấn. Tháng thứ hai sau khi Vĩnh Hòa thành lập, hiệu bạc Phú Hưng được Ngân Xuyên rót vốn đã trở thành Ngân hàng Phú Hưng. Xét địa vị của Ngân Xuyên tại hiệu buôn Tây Phổ Huệ, tình hình đang ngày một tốt đẹp của hiệu buôn Vĩnh Hòa cùng vị cổ đông chủ chốt là nhân vật bang hội như Đồng Xuân Giang, thể theo tập tục chốn thương trường, những ông lớn sừng sỏ giới tài chính kinh doanh đã cùng gửi một lượng tiền giấy và vàng thỏi lớn vào Phú Hưng để chúc mừng.

Chẳng mấy chốc, văn phòng trên đường Bảo Thuận đã trở nên chật hẹp, đầu tháng Năm, Ngân Xuyên thành lập một văn phòng mới trên đường Tam Dân, Hán Khẩu cho hiệu buôn Vĩnh Hòa.

Cuối tháng Năm, Ngân Xuyên bắt gặp Mạnh Tử Chiêu tại Hội Tân Lâu trên đường Tam Dân.

Đây là nhà hàng nổi tiếng nhất đường Tam Dân, tầng một bán đồ ăn vặt, tầng hai bày tiệc rượu, cứ đến giờ ăn cơm là khách khứa lại xếp hàng đông nườm nượp, đến cả phòng bao tầng hai cũng thường có khách phải ghép bàn.

Rõ ràng Mạnh Tử Chiêu chưa đặt bàn trước, sau khi lên tầng, cậu khoanh tay đứng đợi ngoài cầu thang. Ngân Xuyên gọi món xong, vừa khéo nhìn thấy cậu, lâu không gặp, người điều hành Đại Quân lại càng tuấn tú phong độ, đôi mắt cậu vẫn sáng ngời, phấn chấn như xưa, nhưng ánh mắt lại chững chạc hơn nhiều.

“Cậu Mạnh,” Ngân Xuyên vẫy tay với Tử Chiêu, “nếu cậu không chê thì chúng ta có thể ngồi chung bàn.”

Nghe tiếng, Tử Chiêu ngoái lại nhìn, sắc mặt cậu hơi thay đổi nhưng vẫn tiến lại ngồi đối diện với anh.

“Lâu lắm rồi không gặp, nghe nói đợt trước cậu đi Malacca, cậu về từ bao giờ vậy?”

“Cũng được mấy hôm rồi.” Tử Chiêu cầm thực đơn lên.

“Đại Quân đã giành được hợp đồng SS Conte Verde rồi chứ?” Ngân Xuyên nói.

“Vâng,” Tử Chiêu trả lời rất thẳng thắn, “rất xin lỗi đã khiến các anh phải thất vọng.”

“Dù có thế nào đi chăng nữa cũng chúc mừng cậu.”

Tử Chiêu ngẩng đầu, híp mắt: “Cũng chúc mừng hiệu buôn Vĩnh Hòa của anh Trịnh mới mở cửa đã thành công vang dội tại Hán Khẩu.”

“Bánh bao thịt nước tương ở đây vừa miệng lắm.” Ngân Xuyên nói.

“Vâng, đậu hũ hướng dương cũng rất ngon.”

Cứ người nọ tung kẻ kia hứng như vậy, cả hai đều không khỏi mỉm cười.

Tử Chiêu nâng ly trà, muốn nói gì đó nhưng lại ngập ngừng, Ngân Xuyên cất lời: “Con bé vẫn rất ổn, tháng sau là sinh rồi.”

Tử Chiêu biến sắc, như đang vô cùng sửng sốt, Ngân Xuyên ngỡ cậu không biết chuyện Cảnh Ninh mang thai nên cũng không nhiều lời, anh cụng ly với cậu: “Dùng trà thay rượu để chúc con bé bình an suôn sẻ thôi.”

Tử Chiêu ngẩng đầu, uống cạn ly trà.

Dinh thự nhà họ Từ là biệt thự kiểu Tây, Cảnh Ninh trang trí lại phòng khách và phòng trà theo phong cách Trung Quốc, cô tìm được mấy mẫu chữ Hành nhỏ xíu đã được lồng khung gỗ lim trong kho, mang treo lên, mẫu chữ nhiều thì ngay ngắn rõ ràng, tự nhiên phóng khoáng, mẫu chữ ít thì được in giữa lớp giấy viết thư rắc kim sa, trông rất nhẹ nhàng thanh tao, vừa vặn phù hợp. Cô bày hai tấm bình phong cổ để ngăn đôi lối vào phòng khách, trong đó một lối có bày bàn vẽ với bút mực giấy nghiên và đồ trang trí, lối còn lại là bàn trà và ghế bành, các góc có thêm mấy chiếc ghế nhỏ. Tiết Tiểu mãn vừa qua, hoa thược dược nở rộ, đến cửa hàng hoa còn mua được cả mẫu đơn, Cảnh Ninh quyết định phối thược dược đỏ với mẫu đơn trắng, đặt một bình ở cửa, một bình ở phòng trà, một bình ở phòng khách.

Trừ hoa cả ra, phòng ốc gần như đã được trang trí xong xuôi cả.

Bà Từ vốn đã rất tán thành cách bài trí của Cảnh Ninh, Từ Chúc Linh cũng vô cùng hài lòng, ông chắp tay đi mấy vòng trong phòng khách, liên tục gật đầu: “Đẹp, đẹp lắm!”

Sau khi mọi người ngồi xuống ông mới bật mí nguồn cơn của buổi tiệc trà bất ngờ này, nguyên nhân là do một người bạn tri kỷ của ông đột nhiên qua đời vào mấy hôm trước.

Từ Chúc Linh than thở: “Khi ấy cha và Duệ Chi tạm biệt nhau tại ga tàu hỏa Đông Kinh, đến tận khi tàu lăn bánh ông ấy mới nhảy lên như một chú khỉ, vừa bám lấy cửa nói với cha rằng, anh nhớ phải tới Quảng Châu thăm tôi đấy. Đến tận giờ này cha vẫn chưa một lần tới gặp ông ấy, nhoáng cái đã hai mươi năm trôi qua rồi. Hôm nọ con trai ông ấy viết thư, nói ông ấy vừa qua đời tháng trước. Vậy là cha không thể gặp lại Duệ Chi nữa rồi. Nhiều lúc duyên phận giữa con người với nhau là thế đấy, chẳng ai nói từ biệt mà ông trời lại để chúng ta vĩnh viễn không còn cơ hội gặp lại, người ta thường bảo ‘Có duyên ắt sẽ có tâm’, nhưng phải có tâm thì mới có duyên được. Khi Duệ Chi còn sống, nếu cha thật sự quyết tâm muốn gặp ông ấy thì cũng không phải không được, nhưng lại chỉ mong may mắn gặp mặt nhau, lòng vẫn cứ nghĩ sau này sẽ còn cơ hội, nhưng không ngờ sự đời vô thường, cứ thế không hẹn ngày gặp lại. Vậy nên cha muốn nhân mấy ngày nay còn đang rảnh rỗi để mời bạn bè tới hội họp, vớt vát được chừng nào duyên phận thì hay chừng ấy.”

Cảnh Ninh cúi đầu, bà Từ tưởng cô mệt bèn bảo cô về phòng nghỉ. Đức Anh đi theo sau lưng cô, cậu ta khẽ cất lời: “Cha gửi thiệp mời cho cả người nhà họ Mạnh nữa, chắc là muốn cởi bỏ khúc mắc giữa hai nhà, nghe nói Tử Chiêu về Hán Khẩu lâu rồi, có lẽ cũng sẽ tới.”

Ý tại ngôn ngoại, cậu ta ám chỉ mình cũng mong khúc mắc của cô sẽ được gỡ bỏ.

Bước chân Cảnh Ninh không dừng lại: “Anh ấy sẽ không tới.”

Cô nói đúng.

Hôm tổ chức tiệc trà, Mạnh Đạo Quần và bác Trần – quản gia nhà họ Mạnh – tới tham dự một lát. Sức khỏe ông không được tốt, đi chuyến này là đã nể mặt Từ Chúc Linh rồi, ông tới vội, đi cũng nhanh. Cảnh Ninh thậm chí còn không có cơ hội gặp mặt ông. Còn Tử Chiêu thì không tới thật.

Lần này vợ chồng Cảnh Huyên và Ngân Xuyên cũng tham gia tiệc trà. Cảnh Huyên mang theo cả quà đã mua sẵn từ trước, khách nam mỗi người được một bộ áo len cashmere, khách nữ mỗi người nhận một chiếc khăn lụa tơ tằm; Ngân Xuyên đưa theo một nghệ sĩ dương cầm và nghệ sĩ sáo, Cảnh Ninh suy tính rất cẩn thận nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót, dù bữa tiệc được trang trí rất tao nhã tinh tế, mang hơi hướng xưa cũ nhưng vẫn thiếu thiếu điều gì đó. Hai nhạc sĩ đến vừa khéo lại đệm thêm chút âm nhạc cho buổi tiệc trà. Khách khứa dự tiệc có lão thần triều Thanh, có chính khách, có doanh nhân lẫy lừng, cũng có cả học giả và họa sĩ, hầu hết đều là người qua lại thân thiết với Từ Chúc Linh, nghệ sĩ dương cầm đàn khúc “Tri âm tri kỷ”, mọi người cùng thưởng trà nghe nhạc, ngâm thơ điền từ, vô cùng thoải mái cởi mở.

Cảnh Ninh là thai phụ, dù chỉ cần xã giao qua loa nhưng như vậy cũng đã hơi quá sức cô. Cô tìm một góc yên tĩnh để ngồi xuống, đầu bếp làm đồ ngọt là người của nhà họ Phan được gọi tới đây, Cảnh Ninh cầm một miếng bánh ga tô, chậm rãi thưởng thức bột hạt dẻ phủ phía trên, như chộp được một khoảnh khắc tự tại ngắn ngủi. Đến khi vợ của Cảnh Huyên là Thiệu Anh Lan tiến lại, cô mới buông đồ ăn trong tay xuống để hàn huyên một cách khách sáo với chị dâu. Anh Lan sinh sống tại ngoài lâu năm, hoàn toàn không biết đến chuyện tày trời trái đạo của cô em chồng trước khi kết hôn, không rõ nỗi đau đớn đổi thay con người cô từng trải qua, Anh Lan chỉ cảm thấy Cảnh Ninh dịu dàng dễ gần, lịch sự lễ độ, lời nói cử chỉ thể hiện rõ sự chu đáo và phong độ của một mợ chủ, hiềm nỗi ánh mắt hơi cứng rắn, thoáng nét ngạo mạn được ẩn giấu kỹ càng. Đây chính là cặp mắt của một kẻ ương bướng không an phận.

Họ chỉ bâng quơ những chuyện tầm phào, Cảnh Ninh mệt mỏi cất lời xã giao, gắng gượng trò chuyện, cứ chốc chốc lông mi lại rũ xuống, khiến gương mặt trắng muốt lại càng tiều tụy. Bà Từ tinh ý, bèn tiến lại dặn cô về phòng nghỉ ngơi, lúc này cô mới thoát thân được. Lúc đi ngoài hành lang cô bị người ta gọi lại. Cảnh Ninh quay người, vẻ khó chịu lóe qua cặp mắt cô, rồi hóa thành nụ cười ấm áp.

“Anh cả.”

Ngân Xuyên liếc ra ngoài đại sảnh: “Để anh gọi Đức Anh tới.”

Cảnh Ninh nói: “Anh ấy là chủ tiệc, còn phải tiếp khách, sao có thể ngồi với vợ được, như vậy thì còn gì là lễ nghĩa.”

Ngân Xuyên mỉm cười, rất chậm rất chậm rãi.

Nụ cười ấy khiến Cảnh Ninh ngượng ngùng, cô cố gắng ép luồng nhiệt trên gò má tan đi, như một đứa trẻ đang vờ tỏ vẻ trưởng thành rồi lại bị người lớn nhìn thấu vẻ ngây ngô ấu trĩ. Cô tự nhận rằng bản thân đã là một bà chủ nhà đúng chuẩn, nhưng không biết vì sao mà cô cứ cảm thấy trước mặt Ngân Xuyên, mình vẫn cứ như một cô bé con, lúng túng mất tự nhiên.

Ánh nắng lúc ba giờ chiều xuyên qua khung cửa sổ kính, đường nét gương mặt và đôi mắt tràn ngập ân cần của anh trở nên dịu dàng tới lạ. Cả ngày hôm nay Cảnh Ninh đã sức cùng lực kiệt, đặc biệt là sau khi Mạnh Đạo Quần vội đến vội đi, cô lại càng khó chịu tới cùng cực, nhưng vẫn cố gồng mình lên, Ngân Xuyên cảm nhận được rõ ràng sự thay đổi phức tạp trong lòng cô, như ngửi rõ thấy hương thược dược cô đặt ngoài cổng.

“Mau đi nghỉ đi…” Anh nháy mắt với cô, hồi nhỏ cứ mỗi lần anh tỏ vẻ như vậy thì hầu như đều đang chuẩn bị cho cô một món đồ thú vị nào đó.

Cô hoài nghi nhìn anh, còn Ngân Xuyên chỉ cười rồi quay người bỏ đi. Về đến phòng, Cảnh Ninh cẩn thận nhìn xung quanh, băn khoăn không biết lát anh có cho người làm mang thứ gì đó vào không, nhưng lại chẳng có gì. Cô nằm xuống, mình mẩy đau nhức, rã rời kiệt sức, nhưng lại càng thấy phiền muộn hơn.

Tiếng sáo văng vẳng bay vào phòng.

Đây là giai điệu đã quá đỗi quen thuộc với cô. Ngay khi nốt nhạc đầu tiên vang lên, cả khúc nhạc đã chảy xuôi trong đầu cô một cách hoàn chỉnh.

“Love’s Sorrow”.

Thời niên thiếu kiêu ngạo tự ý biến khúc violon thành một bản dương cầm, đàn loạn một mạch, cô bé vô ưu vô lo sao có thể thật sự hiểu được nỗi ưu sầu của tình yêu. Mà đến khi cảm nhận được mùi vị của nó rồi, bị mắc trong tơ tình ngổn ngang trăm mối, mừng và tủi đều vượt qua những tưởng tượng khi trước, mọi chua cay ngọt đắng lưu lại trong ký ức lại trằn trọc trong lòng hết lần này tới lần khác như nhịp Valse nhẹ nhàng dứt khoát. Một cây sáo trúc mà cũng có thể khiến điệu nhạc Tây Dương trở nên rung động khác thường tới thế. Dù có những nốt nhạc không được giống lắm, giai điệu cũng hơi khác biệt nhưng tiếng nhạc trong veo thanh sạch, dịu dàng như trăng sáng trải bạc đầy đất, bầu trời trong xán lạn ngoài cửa như được ai lọc thành vầng trời sao tĩnh lặng, sao sáng kết thành tấm mạng, thành màn che dệt bởi hào quang treo trên trời cao, mang theo sự vỗ về nhân từ, nhìn xuống từng linh hồn bé nhỏ.

Cảnh Ninh chìm vào giấc mộng, cô tìm được sự lặng im ngắn ngủi quý giá.
 
Quyển 2 - Chương 79


Cảnh Ninh hạ sinh một bé gái, đứa bé mất tới hơn mười tiếng đồng hồ để chào đời, mà tệ hơn là sau khi sinh con được ba tiếng, Cảnh Ninh bắt đầu sốt cao, lâm vào hôn mê nhiều lần.

Ông Fujiwara – viện trưởng người Nhật của Bệnh viện Đồng Nhân, nói thẳng với người nhà cô: “Tình hình của mợ đang rất nguy hiểm, tôi lo đây là triệu chứng báo trước của chứng giật kinh phong, trong vòng hai mươi tư giờ tính từ lúc này, nếu mợ gặp phải hiện tượng co giật, nhà ta buộc phải tính tới tình huống xấu nhất.”

“Tình huống xấu nhất?” Đức Anh trợn tròn mắt, không sao tin nổi.

“Nếu chẩn đoán đúng thì gần như vô phương cứu chữa rồi. Giờ điều duy nhất chúng ta có thể làm là chờ đợi…”

“Đợi cô ấy chết sao?!” Đức Anh cười lạnh, quay sang nhìn đám người, để lộ biểu cảm cay nghiệt hiếm thấy, “Kẻ này còn chẳng nói sõi tiếng Trung! Mọi người tin lời ông ta sao? Vô phương cứu chữa ư? Giờ đã là thời đại nào rồi kia chứ, tôi không tin phụ nữ sinh con mà lại gặp chuyện xấu được.”

Fujiwara không giận, chỉ kiên nhẫn nói: “Chúng tôi đã cho mợ dùng thuốc, nhưng ngoài ra thì không thể làm gì hơn. Tôi bảo đợi ý ở đây là đợi hai mươi tư giờ qua đi an ổn. Giờ người bệnh cần yên tĩnh, nếu mợ tỉnh lại, mọi người cũng phải giữ tâm trạng ổn định cho mợ, không được khiến mợ căng thẳng. Mợ mất quá nhiều máu, hơn nữa còn có thể tiếp tục băng huyết bất cứ lúc nào. Xin các vị đây rời phòng bệnh, nếu phải ở lại thì để một hai người ở phòng bệnh là được. Tôi sẽ cầu nguyện cho mợ.” Ông khom người thật thấp rồi rời khỏi phòng bệnh.

Tất cả mọi người đều như bị sét đánh, phòng bệnh yên lặng đến mức gần như có thể nghe thấy tiếng thuốc nhỏ giọt trong ống truyền. Trên giường bệnh, Cảnh Ninh cứ khi mê khi tỉnh, lông mày cô luôn cau rất chặt, như đang chịu đựng một nỗi đau đớn kinh khủng lắm.

Bà Vân chợt ôm mặt khóc thút thít.

Đức Anh nhìn bà: “Mẹ, tốt nhất mẹ ra ngoài đi.”

Gương mặt cậu ta đau khổ sợ hãi, đôi mắt ngập trong hỗn loạn, lời ăn tiếng nói cũng rất thiếu chừng mực, bà Từ vội bảo: “Mọi người đừng tụ tập trong phòng bệnh nữa, như vậy mới tốt cho Cảnh Ninh. Thế này đi, Đức Anh à, con ở lại đây nhé. Những người khác thì đi xem đứa bé, lát nữa rồi về.”

Trong tất cả mọi người, chỉ mình Ngân Xuyên là giữ vẻ mặt bình tĩnh tới lạ lùng, thậm chí từ đầu chí cuối ăn còn chẳng hề biến sắc, khiến người ta lấy làm lạ. Bà Từ vừa dứt lời, anh đã cúi đầu nhìn đồng hồ rồi vội vã rời khỏi phòng bệnh, như chỉ sợ nán lại thêm một phút là lỡ mất công chuyện hệ trọng của mình.

Bà Vân gạt lệ, nhìn bóng lưng Ngân Xuyên, bà oán hận: “Đáng ra không nên nghe A Huyên, gọi cái kẻ đó đến làm gì kia chứ?”

Cảnh Huyên cau mày, nói: “Mẹ, dù sao trong lòng Cảnh Ninh anh ấy cũng là người anh cả con bé kính yêu.” Ngân Xuyên bỏ đi như vậy cũng khiến Cảnh Huyên rất bất mãn, nhưng cậu không biết vài tiếng đồng hồ sau, Ngân Xuyên lại quay trở về.

Ba giờ sáng, ngoài trời mưa như trút nước, cây cối gào thét chao đảo, ánh đèn trắng trong phòng bệnh lọt qua khe cửa, tia sáng dài dao động theo nhịp chân, rồi lại bị bước chân cắt đoạn. Ngân Xuyên đi quá nhanh, đến mức gần bước tới cuối hành lang mới nhận ra mình đã đi quá phòng bệnh, anh lại vòng về, tìm phòng bệnh của Cảnh Ninh. Anh đứng trước cửa hồi lâu, tay chân run rẩy, có lẽ vì áo khoác đã ướt đẫm, cũng có khi anh chỉ đang sợ, vì anh không hề lạnh, trước đó anh đã uống một ly rượu rum lớn không pha nước.

Anh do dự không biết có nên tiến vào không, nỗi sợ hãi và sự kỳ vọng đối chọi trong tim anh, anh sợ khi mở cửa ra mình sẽ nhìn thấy chiếc giường trống không, sợ sẽ vĩnh viễn mất đi cô.

Cửa mở, Từ Đức Anh bước ra, tay cầm chiếc khăn mặt, thấy anh đứng trước cửa, cậu ta không hề kinh ngạc, chỉ nói: “Ninh Ninh tỉnh được một lúc rồi, không chịu ăn gì cả.”

“Cậu đi đâu đấy?” Ngân Xuyên hỏi, anh cởi áo khoác ướt đẫm, đặt xuống chiếc ghế dài cạnh cửa, lúc này Đức Anh mới nhìn thấy anh đang ôm một chiếc bọc trong lòng.

“Em đi rửa mặt.”

“Tình hình cô ấy thế nào rồi?”

“Không ổn lắm… tỉnh tỉnh mê mê, liên tục nói sảng.” Tiếng Đức Anh nghẹn lại, cậu ta tiến vào phòng cùng anh, Ngân Xuyên không quay đầu, chỉ lạnh nhạt nói: “Tôi không ở lại đây lâu đâu, lát nữa còn có người tới.”

Đức Anh ngẩn ra, nét mặt cậu ta thay đổi hẳn.

Giọng Ngân Xuyên rất nhẹ nhàng, nhưng cũng vô cùng kiên quyết cứng rắn: “Người con bé mong ngóng nhất hiện giờ chưa chắc đã là tôi hay cậu. Khi nào người đó tới tôi sẽ đi ngay, cậu cũng đừng nán lại nữa.”

Đức Anh chán nản lùi bước, quay đầu rời khỏi phòng, ngồi xuống chiếc ghế dài cạnh cửa.

Ngân Xuyên đặt chiếc bọc lên tủ đầu giường, anh mở bọc, lấy những món đồ bên trong ra, thật cẩn thận sao cho không phát ra tiếng động.

Trong bọc là người bạn “Meo Meo” Cảnh Ninh thích nhất, trước khi xuất giá cô đã đặt con búp bê cũ kỹ này vào hòm đồ cưới, nhưng anh lại lén lấy mất. Anh biết rõ cô sẽ đi tìm, biết không tìm được cô sẽ rất buồn, nhưng anh vẫn lấy nó đi. Phải, anh còn lấy cả chiếc hộp đựng thẻ rượu ngà voi, giờ anh lại mang nó đến. Đúng là ấu trĩ, cứ luôn lấy mất những thứ cô thích rồi lại ngốc nghếch mang trả về.

Cô tỉnh rồi, đôi mắt vô hồn lẳng lặng nhìn anh, chẳng mấy chốc cô đã lại tiếp tục đau đầu, cô đau đớn cau chặt mày. Anh vội vàng buông món đồ trong tay, ngồi xuống chiếc ghế bên giường, ghé lại gần bên cô.

“Ninh Ninh!” Anh gọi cô.

“Anh cả… em đau lắm, em không ngủ được.” Cô khẽ thốt.

“Không ngủ được thì đừng ngủ.” Anh mỉm cười với cô, mắt lại ầng ậc nước.

Mắt cô dại đi, gương mặt nóng đỏ bừng, giọt lệ treo trên khóe mắt, tựa sắp rơi mà lại không rơi, như hóa thanh màu hồng nhạt, gương mặt tiều tụy hóp lại, chỉ còn đôi mắt to đang mơ màng mở ra. Cô gây gò như vậy, đáng thương nhường này.

Anh đau đớn nhìn cô, lòng nói: Hạt Dẻ đáng thương, em khó chịu lắm phải không? Đứa bé đó khiến em khổ sở đến vậy, em có ghét nó không? Anh thật sự rất hận nó, nó hại em khổ sở nhường này.

Anh hận đứa bé ấy. Anh không thích nó chút nào, cái thứ ốm yếu như một chú chuột con ấy, khi Từ Đức Anh ôm nó, khi tất cả mọi người đều âu yếm vỗ về gương mặt bé nhỏ của nó, thứ bé xíu ấy phát ra âm thanh rầm rì yếu ớt cũng khiến anh căm ghét vô cùng. Thứ nghiệp chướng ấy hoàn toàn không quan tâm tới việc mẹ mình đang vùng vẫy bên bờ vực sống chết, suýt nữa nó đã hại chết mẹ nó… Liệu nó có hại chết cô không?

Ngân Xuyên lấy dũng khí, vươn tay gạt sợi tóc trên chóp mũi Cảnh Ninh, Cảnh Ninh thậm chí còn không có sức giơ tay lên, cô buồn bã nói: “Anh cả, em sắp chết rồi phải không… Bác sĩ đó nói có thể em sẽ chết… Em nghe thấy rồi…”

“Em có nhớ hồi còn nhỏ không?” Ngân Xuyên mỉm cười nói, “Chúng mình tới Tô giới Nhật bày trò nghịch ngợm, bảo sẽ ăn mất con chó của người Nhật Bản nên bọn họ không thích chúng mình, ông bác sĩ ấy cố tình nói linh tinh để chọc tức em đấy.”

Cảnh Ninh cũng muốn cười, nhưng khóe môi lại trĩu xuống, gương mặt cô vô cùng bi thương.

“Ninh Ninh, em nhìn này, Meo Meo đấy.”

Ngân Xuyên đặt con búp bê vải xuống bên gối cô, rồi lại mở hộp thẻ rượu ra, trút chúng xuống, tìm lấy tấm thẻ cử nhân rồi đặt hết xuống gối cô, dỗ dành cô như dỗ một đứa trẻ, anh thật sự không còn cách nào khác.

Cảnh Ninh mệt mỏi ngước mắt, cô chỉ thoáng liếc nhìn rồi đã kiệt sức thốt: “Anh cả, em mệt quá, em muốn đi, anh để em đi đi.”

“Được, không sao, em muốn đi đâu anh cũng đi cùng em.” Anh vẫn mỉm cười.

Cảnh Ninh lắc đầu, nước mắt nhỏ xuống, ý thức của cô không mấy rõ ràng, chưa được bao lâu đã lại mắt đầu nói mê.

Cõi lòng Ngân Xuyên lại rất bình tĩnh. Đúng vậy, dù chuyện xấu nhất có xảy ra anh cũng không sợ, cô đi đâu anh cũng sẽ theo cùng, có gì đáng sợ chứ?

Có tiếng bước chân vọng lại, anh ngoảnh đầu, nói với chàng trai đang tiến lại: “Ninh Ninh gọi tên cậu mãi.”

Người chàng trai nọ ướt rượt, đầu tóc mặt mũi đẫm nước mưa, cậu bước nhanh về phía chiếc giường, quỳ xuống định nắm lấy tay Cảnh Ninh.

“Tay cậu vừa ướt vừa lạnh, đừng để con bé bị rét.” Ngân Xuyên lạnh nhạt.

Tay Tử Chiêu khựng lại, cậu sốt sắng nhìn anh: “Cảm ơn anh. Cảm ơn anh đã gọi em đến.”

Ngân Xuyên im lặng bước khỏi phòng, ra đến cửa quay người lại, thấy Tử Chiêu đang liên tục hà hơi vào tay để bàn tay ấm áp thêm đôi chút. Lòng anh chợt chua xót, anh khép cửa lại, Từ Đức Anh ngồi trên chiếc ghế dài ngoài hành lang như một pho tượng, tay còn đang siết chiếc khăn mặt.

“Cô bé thối, anh tới rồi đây.” Tử Chiêu khẽ thốt, nắm lấy bàn tay nóng hầm hập của Cảnh Ninh.

Cô mơ màng nhìn cậu, đau đớn nhắm mắt lại: “Anh ấy sẽ không gặp lại em đâu, anh cả, anh đừng đi tìm anh ấy.”

“Mở to mắt ra nhìn anh đi, anh là Mạnh Tử Chiêu.” Cậu hôn đốt ngón tay mảnh mai của cô như khi xưa, thì thầm, “Em trông em kìa, sao lúc nào cũng gây phiền phức cho anh vậy? Em muốn anh phải chết ư? Em nói em nghĩ rất thoáng, em nói chỉ cần còn sống bình yên trên cõi đời nay là coi như đang bên nhau, không phải chúng ta luôn ở bên nhau sao? Cô bé xấu xa! Nếu em không giữ lời anh sẽ không bao giờ tha thứ cho em. Đồ xấu xa, em muốn anh hận em suốt đời sao?”

Cô không mở mắt, giọng nói của cậu đưa cô vào một giấc mộng, cô đắm chìm trong cơn mơ đẹp ấy, khóe miệng nở nụ cười ngọt ngào, cô khẽ thốt: “Ừ, anh là đồ quỷ đáng ghét.”

Tử Chiêu mỉm cười nhưng nước mắt tuôn rơi: “Phải, anh là quỷ đáng ghét.”

Hơi thở của Cảnh Ninh dần trở nên ổn định. Tử Chiêu nhìn cô không chớp mắt, cậu thầm hồi tưởng, đếm lại mọi ký ức về cô, những niềm vui và nỗi đau ấy, những mảnh vỡ vụn nát không thể nhặt lại ấy, những thời khắc quý giá không thể quay trở về ấy.

“Phan Cảnh Ninh, anh xin em, hãy sống tiếp thật tốt. Phải như vậy anh mới có thể sống được.”

Cậu đặt một nụ hôn lên gò má nóng rực của cô, nước mắt của cậu và cô hòa vào nhau, nhưng giọt nước mắt của câu là nước mắt đau khổ, sự chia ly của họ đã được định sẵn, không thể nào cứu vãn được nữa.

Thời gian chầm chậm trôi đi, có lẽ đây là cái đêm khốn khổ nhất cuộc đời bốn con người trong và ngoài phòng bệnh, yêu hận tự mình, ly hợp tự trời, những dấu vết vận mệnh lưu lại trong cuộc đời con người cứ vết sau sâu hơn vết trước. Tiếng mưa ngoài cửa sổ như triều dâng, hung hăng lao tới, trong xao động xốn xang lại ẩn giấu lặng im mênh mang.

Tảng sáng, mưa dần tạnh. Nước đọng từng vũng dưới tán cây trong vườn hoa bệnh viện, chảy theo con đường lát đá xanh, kim ngân và hoa hồng trên hàng rào quấn quýt lấy nhau, mấy chú chim đang nhảy nhót, nước đọng trên cánh hoa lách tách đáp xuống, mưa bụi dần tan, tiếng chim hót càng lúc càng âm vang, tất thảy như đang sống dậy, sáng bừng.

Tử Chiêu nhẹ nhàng rời khỏi phòng bệnh, cậu tìm thấy Ngân Xuyên dưới mái hiên cửa vào tầng một. Anh đứng đó hút thuốc một mình, không biết đã đứng bao lâu.

“Cảnh Ninh đã bình an rồi, nếu còn gặp lại em sẽ chỉ đem lại phiền phức cho cô ấy thôi. Nhờ anh đưa cô ấy món đồ này giúp em.”

Tử Chiêu đưa anh một ống thư chạm ngà voi.

“Tôi có thể xem không?”

“Vâng.”

Ngân Xuyên mở nắp san hô, rút một cuộn giấy nhỏ ra từ ống thư, trên tờ giấy Tuyên Thành ngả vàng là hai chữ Khải nho nhỏ rất thanh tú hàm súc: Tĩnh An.

“Em mua từ một cửa hàng bán đồ cổ Trung Quốc ở Quảng Châu, dù biết chưa chắc đã có cơ hội tặng cô ấy nhưng vừa thấy đã không cầm lòng nổi, từ nhỏ Cảnh Ninh đã thích những thứ này. Sau khi về Vũ Hán, em mang nó tới chùa Quy Nguyên, dập đầu trước các vị Bồ Tát… Giờ tặng cô ấy coi như lời chúc phúc cho hai mẹ con.”

“Tôi sẽ đưa cho con bé.” Ngân Xuyên nói, “Nhưng phải đợi nó hồi phục một thời gian đã.”

Tử Chiêu đáp vâng, rồi chợt nói: “Anh Phan, à không, anh Trịnh, em rất ghét anh, anh biết chứ?”

Ngân Xuyên cất ống thư vào túi rồi lạnh nhạt nói: “Tôi cũng rất ghét cậu, trước đó ghét, bây giờ cũng vậy. Chỉ là cậu còn phải làm ăn ở Vũ Hán, thể nào cũng sẽ thường xuyên gặp mặt tôi, vậy nên chúng ta chỉ có thể thích ứng thôi.”

“Chào anh.” Tử Chiêu chắp tay.

Ngân Xuyên gật đầu đáp lễ, đưa mắt nhìn cậu bỏ đi, nước mưa trên mái hiên nhỏ xuống nền xi măng, phát ra tiếng vang trống rỗng.

Không lâu sau, Tử Chiêu đính hôn với con gái của một thành viên hội đồng quản trị Ngân hàng Vĩnh Lợi, Hán Khẩu, bà Mạnh quả thực không hề nuốt lời, vừa quyết định hôn sự xong xuôi, bà đã lấy tiền riêng mua cho con dâu mình một chiếc áo khoác chồn tía.

Đêm mưa ấy là lần gặp cuối cùng trong đời Mạnh Tử Chiêu và Phan Cảnh Ninh.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom