Cập nhật mới

Dịch Full Bướm Trắng

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Tôi đậu xe cách xa quán bar Aretha. Tới phố Bone Street là sẽ nhìn thấy những tên bước đi loanh quanh một mình có khi là dắt díu nhau. Hè phố hỗn tạp nhiều thứ âm thanh, tiếng la hét, hôn hít, nôn ọe. Mấy em biểu diễn thoát y vũ ra về sau cùng nhất. Mấy bà mập ú vừa bước ra dáng điệu như những anh chàng chiến binh thất thểu từ mặt trận trở về.

Tôi liếc nhìn đồng hồ đã hai giờ hai mươi, nhưng mà chẳng sao. Nếu tôi cần Mouse sẽ tới ngay giờ này. Hắn luôn luôn sát cánh bên tôi, tươi cười và sẵn sàng xắn tay áo vào những cuộc xô xát.

Hắn bừa bước ra quán bar Aretha đóng cửa liền. Hắn mặc chiếc áo jacket màu vàng hai lớp, chiếc quần xám sậm. Chiếc áo so mi vải siu màu xanh lốm đốm mấy vệt màu da cam. Hôm nay hắn không đội mũ. Tôi nghĩ trong đầu ăn mặc kiểu này không lo bị giết.

Hắn bước lại gần xe lên tiếng “Thấy chỉ còn hai tên, Easy. Tớ làm đúng theo kế hoạch, cậu đừng lo tớ lừa gạt cậu”.

“Cửa còn mở chứ?”, tôi hỏi.

“Không. Tớ ra về quán khóa cửa, tớ chèn miếng lót vô cửa sau. Cậu theo tớ mở cửa vào”.

Chúng tôi đi tắt qua con hẻm cùng chiều với phố Bone, qua chiếc cổng hẹp lối vào cửa sau quán bar. Mouse đẩy cửa sổ nhìn thấy căn phòng bên trong tối om. Chúng tôi phải chui qua một cánh cổng dẫn tới chỗ của phòng khác nhìn vào thấy ánh đèn. Tôi lắng nghe giọng nói Charlene và Westley phía bên kia.

Mouse bước vào trước, Charlene ngáp một hơi dài, Westley hỏi: “Anh bị sao”. Ngay lúc đó tôi bước vào.

Hai người ngồi bên chiếc bàn tròn đặt trước sân khấu. Bọn chúng nhìn thấy tôi và Mouse bước vào, đèn thắp sáng trên trần. Hình như Westley muốn bỏ chạy ra ngoài cửa.

Charlene định tìm một vật quăng vô đầu chúng tôi. “Các ông vào đây làm gì?”, giọng nàng thách thức hơn là chào đón.

“Easy cần hỏi vài việc”, Mouse lên tiếng nhỏ nhẹ, “Cút xéo ngay đi!”, Charlene quát, bỗng nàng ngây người ra.

Tôi liếc nhìn thấy Mouse đã rút súng.

“Ta không đùa đâu nhé, Charlene. Bọn chúng mày phải cung khai hết những gì ta cần hỏi”, Mouse nói.

“Các ông cần những thứ gì?”, Westley bắt bẻ lại. Mắt hắn nhìn láo liên, hắn đang nghĩ cách hù dọa lại. Tôi không lo lắng cho dù hắn có hành động chống lại hoặc bỏ chạy đi nhưng tôi ngại Mouse có thể giết Westley. Tôi làm sao tự cứu mình ra khỏi tù.

“Nói cho ta nghe chuyện xô xát giữa tên lạ mặt đó với Gregory Jewel!”, tôi nhanh miệng nói. Tôi nghĩ cần phải tra hỏi thật nhanh rồi rút lui, không thì sẽ rắc rối to.

“Tôi đã khai hết rồi, Easy Rawlins? Ông còn dàn dựng có chuyện lôi thôi với cảnh sát”, Charlene lên tiếng.

“Tôi muốn biết tên lạ mặt kia là ai, ông khai ra hay là giả vờ không biết”.

“Tôi không biết thì đã sao nào?”, người phụ nữ to béo quát.

Mouse đứng đó nhe răng cười như một thằng nhóc con. Westley ngồi gác hai chân lên, hai tay kẹp hai bên mắt cá chân hắn mang vớ đỏ có cả một lớp vớ da màu nâu. Westley thò tay rút cây súng nhỏ xíu dưới ống quần. Tôi quát lên một tiếng “Đừng! rồi gạt tay súng của Mouse qua một bên. Charlene kêu lên “Ôi, đừng!”. Tiếng súng nổ chát chúa một bên tai. Tôi nhìn qua thấy Westley ngã xuống ghế.

Charlene thét lên một tiếng “West!” rồi chạy vụt ngay.

Mouse chỉa súng vô đầu tôi, tôi né qua kịp một bên.

“Cậu lôi thôi gì đấy hở, Easy”, hắn la lên.

Tôi thấy thà đừng trả lời. Mouse nhìn tôi trân trân, Charlen gục xuống bên thân mình Westley, tay gã phun máu.

Mouse bước tới, giơ tay kéo Charlene qua một bên. Hắn nhìn xuống vết thương trên tay chàng barman rồi lùi ra, nhặt lấy khẩu súng dưới sàn.

“Hắn chưa chết”, Mouse nói.

“Khai đi!, tôi nói với Charlene.

Mouse bật cò súng giật lui.

“Hắn tên là Sauders, hắn thiếu nợ tùm lum từ đây qua tới St.Louis; gây gỗ dùng chao đâm chém. Tôi không muốn xích mích với hắn”. Nàng khai ra ngay nhưng giọng bình tĩnh không chịu thua.

Cả lúc nhìn thấy hắn giết con bé?”, tôi hỏi lại.

Chuyện này tôi không biết. Đêm nào cũng có xô xát giữa Gregory Jewel với mấy người ra vào đây?

Tôi chợt nhớ hôm nào Jasper Filagret đánh gục Dorthea.

“Hắn còn bạn bè chưa?”, tôi hỏi.

Có dạo hắn cùng đi với người bà con tới đây. Một anh chàng tóc đỏ, nghe hắn gọi tên là Abernathy. Anh ta làm chung chỗ với đứa cháu ở cửa hàng thịt Federal Butcher. Tôi chỉ biết có vậy”.

Mouse thấy dễ chịu hơn, hắn vơ lấy tấm khăn lau phía sau quầy bar đưa cho Charlene.

Hắn chỉ đau trên vai với Mouse nói: “Anh chàng Easy đánh trúng tôi đấy?”.

Mouse không muốn cười. “Thôi đừng giở trò đó nữa, Easy Rawlins?”.

“Không khéo cậu giết chết hắn?”.

“Nếu không bắn vào tay thì hắn nhắm bắn cả hai đứa mình?”.

Hắn nói không sai.

Nói tới đây, Mouse nguôi giận: “Ta hỏi chuyện thằng nhóc bán hàng thịt ngày trước, Easy. Ta đón lỏng nó trước khi tới nơi bán hàng”.

“Lúc này không tiện”.

“Sao vậy?”.

“Tớ phải đưa Jesus đi học buổi sáng. Thầy giáo khiển trách nó, tớ phải lo đưa nó vào trường”. Chợt tôi thấy mệt đừ, vừa nói tôi vừa muốn ngủ.

“Đươc thôi. Sau giờ đó cậu tới nhà Minnie được chứ?”.

Tôi đồng ý, rồi đi ngay về nhà. Về tới nhà, tôi không thể nhấc tay mở cửa xe bước xuống.

Chợt tôi liên tưởng hình ảnh con bé ngồi chết dưới gốc cây một cách bình thản. Mouse đang đứng nói chuyện với nó, nói mãi không chán. Hắn nói gì đó không rõ hắn chăm chú đọc từng trang cuốn sách bìa đen như cuốn sổ ghi điện thoại.

Nàng vẫn ngồi một chỗ, bình thản lắng nghe. Mouse cứ nói huyên thuyên. Trên ngọn cây cao đàn chim đang bay về họp tổ. Chờ đến lúc Mouse ngừng nói chúng sà xuống rỉa mồi quanh xác chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Tôi lắng tai nghe tiếng ngáy như sấm, không hiểu sao dạo này Regina ngủ ngáy dữ vậy? Tôi nhấc cánh tay sờ vào người nàng nhưng đụng phải cái gì cưng cứng, láng bóng? Thì ra la tay lái xe ôtô.

“Thì ra hơi từ trong người thở ra nghe như sấm vang. Tôi thò đầu ra ngoài cửa xe ngước nhìn bầu trời, lác đác mấy vì sao, mắt nhìn thấy mờ mờ.

Khó khăn lắm tôi mới ngồi ngay ngắn lại được.

Tôi vừa thở dài bước đi từng bước vào nhà. Regina đang còn ngủ. Đã năm giờ sáng, tôi vào buồng tắm ngâm mình cho tới khi nghe nàng thức dậy đi vòng quanh. Tôi cạo râu lau mình rồi trở ra.

Tôi đang ngồi uống cà phê dưới bếp, nàng bước vào. Chiếc áo nàng mặc trên người vẽ hình con chim kết bên vạt sườn trái.

“Tối hôm qua anh không về nhà?”, nàng lên tiếng.

Tôi như người lang thang ở đường phố đang diễn trò. Không có ai kéo tôi xuống sân khấu, cho tới lúc định nói lời cuối cùng chợt đầu tôi quên hết.

Regina pha một cốc cà phê ngồi vào bàn. “Thế nào rồi?”.

“Bọn cớm đang đi tìm một chỗ chứa. Bọn chúng bỏ tù Mouse, anh phải thế vào”.

Nàng tròn xoe mắt.

“Tối qua anh rủ Mouse tới chỗ Aretha…”.

“Ai vậy?”.

“Tên quán bar Aretha?”.

“Ở đâu?”.

“Ở phố Bone Street”. Tôi cố nói bình thường nhưng tới đó giọng lại chùng xuống.

“Ôi” nàng gật đầu nhắm mắt lại tạm quên tôi trong chốc lát.

“Anh khác với người ta, cưng ạ! Anh cần gặp một người để trao đổi công việc. Lúc đó có một cuộc xô xát đổ máu, anh bỏ ra ngoài xe ngủ. Chắc là em không tin, em nghĩ anh làm chuyện càn quấy. Anh thề chuyện đó sẽ dàn xếp xong, anh nói thiệt”.

Nàng đặt cốc cà phê xuống bàn đứng dậy, tôi ngước nhìn theo.

“Anh khỏi thề thốt, Easy! Em không phải là người anh bảo vệ”, nàng nói.

“Em nên nhớ anh còn phải lo đối phó sau này”.

“Anh khỏi lo. Anh vắng nhà một bữa chẳng sao. Em không vì thế mà phiền hà. Em muốn biết vụ việc ra sao hay là anh có ai khác. Em chỉ hỏi vậy thôi”.

“Anh thương em!”.

Nàng bưng ly cà phê đi xuống bếp lo bữa sáng cho thằng nhóc Jesus. Lát sau Jesus trở ra ngồi trước cửa.

Regina đem chiếc túi ra. Nàng ngồi xuống xắn lại tay áo cho nó, đặt ngón tay lên một bên má chọc nó cười, nàng âu yếm nó như một người mẹ.

Bỗng nàng đứng dậy, quay mặt đi nước mắt lưng tròng.

Nàng vào buồng thay quần áo xong đi ngay không chào hỏi. Bà Gabby Lee bước tới đỡ lấy con bé Edna.

Tôi chở Jesus tới trường học, một ngôi trường đồ sộ tường màu xanh. Có ba dãy phòng học, một sân chơi tráng nhựa. Phía trái là một dãy nhà bunfalow dành cho học sinh tập thể dục thẫm mỹ, chạy nhảy. Nhờ có Jesus tôi biết được những sinh hoạt của nhà trường, nó sẽ biểu diễn trò thể dục cho con bé Edna và tôi ngồi coi.

Huấn luyện viên theo dõi trò chơi biểu diễn nằm ngửa hai tay ôm sau ót, cố ngoi đầu lên.

“Một, hai, huấn luyện viên hô to. “Một, hai”. Tôi chẳng biết gì trò chơi này. Bọn trẻ nằm ngửa co người lại.

Vừa nhìn thấy tôi và Jesus, ông Arnet hô to: “Xong rồi hãy nghe đây, thả bóng ngoài ô vuông!”.

Bọn trẻ nhảy lên cao la hét. Ông Arnet lôi quả banh trắng trong chiếc túi vải ra, ném bóng qua chỗ người đứng cao giơ tay. Bọn trẻ xúm lại chỗ ô vuông sơn trắng trong bóng qua lại. Một trò chơi sôi nổi.

“Thưa ông Rawlins”, ông Arnet lên tiếng. Dáng người ông cao, tóc vàng, da trắng, cổ dài quá khổ, bụng phệ. Ông bước tới gần không cao hơn tôi, chiếc cần cổ cao ngồng nhìn từ xa tưởng ông cao hơn tôi một cái đầu.

“Thưa ông Arnet, hình như ông đang có vấn đề”, tôi nói.

Ông lắc đầu gượng cười.

“Tôi úp mặt vào bồn nước mười lăm phút mới ra rửa sạch máu trong lỗ mủi, thằng nhóc con ông gây ra đó, ông Rawlins?”.

Nghe ông nhắc tên kể lại sự việc khiến tôi mủi lòng. Tôi ráng nuốt giận.

“Thằng nhóc biết nhận lỗ đó, ông Arnet. Tôi đã khuyên nó đừng có tái phạm”.

Ông thầy lại lắc đầu thò tay vào túi. Ông tặc lưỡi coi như tôi chưa hiểu ý ông.

Jesus là con ruột ông hả?”, ông hỏi.

Tôi nhìn qua Jesus nó đang tập trung tư tưởng.

“Con vô lớp đi, con, Bố còn nói chuyện với thầy Arnet”, tôi dịu dàng nói với nó.

Nó cười tạm biệt rồi chạy vụt về phía dãy nhà màu xanh.

“Thằng nhóc coi dễ thương”, tôi nói.

“Con ông đấy hả?”, ông Arnet nhắc lại.

Mắt ông gần như một màu vàng lẫn với nhiều đốm xám nhìn như là một màu xanh. Cặp mắt nhỏ xíu nhưng cái nhìn tinh xảo.

“Dạ, phải, con trai tôi đấy!”, tôi nói.

“Vợ ông là người Mễ?”.

Tôi đoán biết chuyện gì rồi. Tôi nuôi nó bao lâu nay tuy không phải là con đẻ. Nó bị bắt cóc đem bán để thỏa mãn lòng dạ xấu xa của một lão nhà giàu. Tôi đã cưu mang nó từ dạo đó, coi nhó như con. Ông Arnet quả là muốn làm rùm beng vụ này. Hoặc là thằng Jesus đã lỡ xúc phạm tới ông, hoặc là ông có tấm lòng nhân từ xót thương cho số phận mồ côi của nó.

“Ông thích làm nghề dạy học chứ, ông Arnet?”, tôi hỏi.

Nghe hỏi ông mất bình tĩnh. Ông nói ngay “Sao?”.

“Sỡ dĩ tôi hỏi là vì tôi được biết một người yêu nghề phải biết trụ lại không nản chí. Lấy ví dụ như tôi đây với thằng nhóc Jesus. Nó là đứa con tôi thương yêu nhất. Tôi cố gắng tới đây sáng nay mặc dù còn phải đi làm. Đêm qua làm ca tối, sáng nay buộc lòng phải dậy sớm để đi đến đây xem sự thể ra sao. Dù có ai đó muốn xô xát với nó thì tôi chịu không biết xử trí ra sao”.

Tôi nhìn ông dò xét, rồi lắc đầu. “Không, không bao giờ, không đơn giản vậy đâu. Nếu ai đánh nó tôi cũng liều mạng giết chết cái quân vô lại kia. Bởi ông thấy đó tôi mắc nợ nó, thương nó. Nó là đứa con của tôi.

Ông thầy biến sắc. Nghe tôi nói xong ông nuốt nước bọt lấy giọng.

“Tôi hiểu, ông Rawlins. Thời buổi này hiếm có bậc phụ huynh lo lắng cho con em một cách tận tình. Ông yên tâm cậu bé Jesus rồi sẽ ngoan như trước”, ông nói.

“Nếu có gì khác hơn nhờ thầy báo cho tôi hay, tôi nói. “Tôi mong nó được nên người”.

Tôi nhìn ông một hồi, nét mặt ông đăm chiêu hai tay siết chặt.

“Ôi, cũng may gặp ông, ông Rawlins”. Ông chìa tay ra tôi xích lại bắt tay ông. “Tôi phải trở lại lớp!”.

Ông rút chiếc tu huýt trong túi ra hướng về phía bọn trẻ thổi lên một hồi, ông cất tiếng, “Tất cả vào hàng!”, rồi ông vụt chạy tới chỗ vạch sơn trắng.

Tôi rời khỏi sân nhà trường đầu tóc tưng tưng, trống ngực đập thình thịch. Mọi việc coi vậy mà cũng gay đấy.

Tôi bước vào buồng điện thoại công cộng gọi cho Quinten Naylor. Tôi báo lại kẻ lạ mặt hành hung Gregory Jewel rối kéo theo con bé Juliette Le Roi hắn chính là tên Saunders.

Về tới nhà tôi nhận được tin nhắn do bà Gabby Lee ghi lại, nội dung là phải bỏ ra mười lăm ngàn đôla cho phía cung cấp tin tức bắt được thủ phạm và kẻ lạ mặt để bộ râu xồm xoàm chính là tên Saunders, nghi can số một.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Mười giờ mười lăm tôi bước ra tới chỗ Mouse hẹn. Minnie đang còn làm bên trong thẫm mỹ viện, có một bà khách ngồi chờ. Thì ra là Maxine Cone, con bồ nhí của Mouse…

Lúc tôi đến nơi, cả hai đang ngồi trên giường uống bia. Mouse mời tôi một ly, tôi đỡ lấy.

Vừa rót ly thứ ba Mouse nói: “Bọn anh còn phải đi ăn trưa”.

Tôi đặt chai bia xuống sàn nhà rồi đứng dậy.

“Mấy ông bỏ đi đâu”. Maxine hỏi. Nước da nàng đen, người mảnh khảnh, tóc để ngang vai chải ngược ra sau.

“Bọn anh có việc cần, Maxine. Em ở nhà lát nữa anh sẽ gọi”, Mouse nói.

Tôi chuẩn bị tinh thần cho một cuộc đụng độ sắp tới. Maxine nghiến chặt hai hàm răng nheo mắt lại như một xạ thủ đang nhắm bắn. Nàng dằn lại được, kể ra lúc này nàng chưa muốn nói. Nàng với lấy chiếc áo Pull treo trên tường rồi bỏ đi ra ngay.

Tôi với Mouse vừa ra tới chỗ xe đậu tôi gọi Maxine: “Cậu muốn đi nhờ xe không?”.

Nàng thủng thỉnh bước đi trên lề đường, tai không nghe. Nàng sẽ không còn dịp để ăn nằm với Mouse nữa. Nàng lấy Billy Tyler mới có bốn tháng.

Mouse chạy theo gái y như bọn trẻ đòi tặng quà sáng ngày Noel. Với Mouse ngày nào cũng là ngày hội hè; từ lâu lối sống của hắn là vậy.



• •

Cửa hàng thịt Federal Butcher nằm trong khu chung cư từ những năm bốn mươi. Về sau, nơi đây là nhà kho chứa hàng nhưng có cả một quày bar nhỏ hẹp ở trên lầu ba. Đây là quán bar do Joppy đứng tên.

Joppy và tôi là bạn cố tri hồi còn ở xóm Fifth Ward bên Houston; qua tới L.A vào giữa những năm bốn mươi. Gặp lúc làm ăn thất bát Joppy không còn lối thoát. Tôi đã từng lâm vào nhiều cảnh ngộ éo le giờ cũng còn những kỷ niệm khắp vùng Los Angeles.

Ăn uống no say, chẳng nhìn thấy kẻ lạ mặt nào da đen, tóc đỏ. Tôi ra quán bán hàng lẻ mua nửa chai Seagram và hai cái ly nhựa.

Tới xế trưa, tôi không còn mở mắt nổi.

“Ta làm một giấc đi, Easy!”, Mouse nói.

Nghe tiếng xe nhộn nhịp, ánh sáng đèn chói lọi nhảy múa trước mắt,tôi thức dậy. Bên kia đường người ra vào tấp nập. Trong cửa hàng thịt Federal Butcher, công nhân còn khoác chiếc áo bờ lu trắng dính đầy máu, họ phải tự giặt lấy, cửa hàng không mướn thợ giặt.

“Hắn kia rồi!, Mouse kêu.

Gã có cái nhìn lanh lẹ, mặc quần áo sậm màu đang vội tới cửa hàng Central. Mái tóc đỏ lưa thưa xen lẫn tóc nâu quăn tít. Người gã cao ráo chắc nịch, gương mặt ngăm ngăm xương xẩu. Gã bước đi ngang qua chiếc xe đang đậu. Mouse đề máy cho xe vòng lại.

Gã dừng lại ngay ngã tư đèn đỏ phố 110th Street chúng tôi đậu xe, đi bộ theo.

Đi tới phố 125th Street, gã rẽ qua đường khác. Đi được nửa chặng đường gã

dừng lại ngay trước căn hộ y hệt kiểu mấy căn phố Magnolia Street. Chúng tôi chờ gã đi khuất rồi mở hộp thư ra dò tên.

Randall Abernathy ở tầng chót căn hộ 3C.

“Cậu về trước, Raymond”, tôi nói.

“Sao?”.

“Tớ cần gặp riêng với anh chàng này”.

Mouse phải xoay sở cho được một việc, hắn không tranh cãi với tôi. Thế càng hay, tôi cần yên tĩnh và khôn khéo để đối phó với tình thế mới.



• •

Tôi đứng bên ngoài gõ cửa căn hộ 3C, có tiếng bước chân đi tới rồi chợt dừng lại im lặng.

“Ai đấy?” tiếng người hỏi dè dặt.

“Roger Stockton đây!”, tôi đáp dõng dạc, có lúc cũng cần phải vậy.

“Tôi không biết Roger là ai?”.

“Tôi làm ở hãng Star Meat Packing thành phố Clara, thưa ông Aberthany.

Tôi cần bàn chuyện làm ăn với ông”.

Người nghèo ai cũng mong có việc làm, dù đang có việc làm ổn định chắc gì đã là một chỗ làm bảo đảm lâu dài. Ông chủ đổi tính bất chừng có thể sa thải công nhân, hay gặp mẹ già đau yếu cần kiếm thêm thu nhập phải đổi chỗ làm.

Tôi không biết có phải Abernathy đang gặp lúc túng quẫn. Nhưng dù sao gã cũng phải mở cửa.

Tôi phải tươi cười để yêu cầu được chấp nhận, nếu tôi là một người da trắng.

“Chào ông Abernathy!”. Tôi nắm chặt tay ông giật giật”. Vậy là cuối cùng cũng gặp được ông?”.

Gã nhếch mép cười đáp lại, chợt cau mày lùi lại một bước. Tôi liếc nhìn cây thánh giá hắn đeo trên cổ, miệng mồm tôi còn nồng hơi men.

Ta muốn trở xuống dưới kia, người anh em Abernathy ở đây không tiện. Tôi vừa nhận được một việc làm cho ông chủ cửa hàng thịt Starr, tôi chợt nhớ đến ông bạn đây!

“Sao?”.

“Cho phép tôi vào trong nói qua việc này!”.

Tôi lê bước vào tới ngay giữa gian phòng. Tôi rành mấy chỗ này vì kiểu xây dựng giống như khu chung cư nơi tôi sống. Một căn hộ vừa đủ ở, một chỗ kê giường nằm, chỗ nấu ăn buồng tắm kề liền.

Nhìn cách trang trí bên trong, tôi biết đây là một căn hộ độc thân. Một bàn, một ghế một tủ đứng có ngăn kéo. Sàn nhà lau chùi sạch, không lót thảm.

Tôi tìm chỗ dựa lưng, duỗi thẳng chân cho dễ thở.

“Ông đau chân à?”, Abernathy hỏi.

Tôi nhìn thấy một cuốn Thánh kinh để trên bàn trước mặt đang đọc dở, gạch mực xanh hết phân nửa trang.

“Sao? Ồ, ông vừa nhắc cái chân đau?”.

Abernathy đứng ngay dậy, tôi phải nói dối cho thật hay.

“Tôi đi chiến đấu bị thương, còn nhiều mảnh đạn chưa gắp ra được. Bọn tôi bị pháo Trung Quốc do Bắc Triều tiên bắn đi…”.

Abernathy nghiêng người bên mép giường mới thay ra.

“…Tai nghe tiếng đạn pháo tôi nhảy xuống hố… lúc đó chỉ còn mỗi anh chàng Tooms tôi xô hắn nhào và bị trúng vào chân”.

Tôi nhăn mặt xoa tay lên chỗ vết thương tưởng tượng.

Randall hỏi tôi: “Vậy nên ông bạn mò tới đây?”.

Anh chàng Tooms thấy tôi nhào xuống hắn cứ tưởng tôi muốn cứu hắn? Hắn biết ơn tôi, nhưng thật tình tôi đã bỏ chạy trước.

“Nếu ông cứu được hắn thì hắn phải nhớ ơn ông chứ”.

Abernathy nói. Gã chưa lần ra hướng câu chuyện tôi vừa kể, giả vờ như là hiểu hết.

“Tôi cũng biết là vậy. Lúc cha nó muốn giao công việc nhà lại cho hắn thì Eagene, anh chàng tôi cứu mạng, đến gặp tôi nhờ đứng ra nhận làm người quản lý”.

“Đấy là hãng Star Meat Packing hiện nay”.

Tôi gật, một nụ cười thoáng hiện trên môi.

“Không phải vì chuyện đó nên ông tới đây, ông Stockton?”, người hàng thịt nói.

“Ôi”, tôi nhìn quanh, một chút nao núng. “Tôi nghĩ ông là một con chiên ngoan đạo, nên tôi không nói dối. Bữa đó tôi vào một quán bar, quên mất tên hình như ở phố Slauson thì phải. Đúng rồi, tôi nhìn thấy anh chàng và tôi thuật lại câu chuyện như mới nãy rồi gã nhắc tên ông. Gã khen ông là một tay giết thịt lành nghề, thật là không may nếu một tên Negro phục vụ cho chủ da trắng”.

Tôi kể lại cho bạn bè nghe ai nấy đều khen ông?

“Anh chàng kia là ai?”.

Tôi dằn được nỗi vui mừng không tả xiết nói: “Tôi không nhớ tên, nghe anh chàng barman hay gọi hắn là ông Saunders?”.

Randall nhảy dựng lên như chẳng may ngồi nhầm phải đống than hồng.

“Anh chàng to con phải không?”

“Gã để hàm râu rậm”, tôi gật đầu, nhắc lại.

“Ông nhớ kỹ lại xem bữa nào?”

Tôi rụt cổ so vai: “Để coi, hai ba tuần gì rồi?”.

“Sao ông chờ tới bữa nay mới nói”. Abernathy lo cuống cuồng.

“Thì nghe tôi kể ra đây. Eugene đề nghị tôi làm quản lý cửa hàng thịt, gã giúp tôi học nghề, cân đo đong đếm thành thạo, làm nghề này rất lu bu. Mãi ba tuần sau mới gặp ông thì có gì đáng trách”.

“Là vì tôi không ngờ Saunders lại đi rêu rao nói xấu về tôi”.

“Thấy hắn có vẻ khác lạ lắm, giờ ông mới chịu nói ra. Chắc là vì bữa đó hắn uống quá chén, hắn còn kể chuyện chơi gái nữa!”.

“Chơi gái”, Abernathy nói như muốn chửi. “Bọn đàn bà con gái là quỷ sa tăng”. Nghe gã nói tưởng hắn là ngài mục sư giảng đạo.

“Tôi thấy gã được lắm”.

“Còn bề trong nó thối ta, quỷ tha ma bắt nó. Chạy đâu cho khỏi tròi. Không có đức tin dù có thần dược cũng không cứu nổi. Không, không bao giờ. Chúa trừng phạt kẻ tà dâm mắc bệnh phong tình”.

Mặt gã đỏ bừng, môi miệng run lắp bắp. Nhà Saunders có tiền sử bệnh tâm thần.

“Ồ, hắn có kể cho tôi nghe chuyện của ông”, tôi nói. Thôi ta nói qua việc ông về làm cho hãng Star”.

Tôi bịa đến chuyện hãng Star đang cần một tay nghề quản lý cửa hàng đáng tin cậy. Rồi tôi hẹn hai tuần sau sẽ đưa gã đến gặp ngay Eagene Tooms. Tôi đưa địa chỉ và số điện thoại dỏm cho hắn.

“Còn tôi có thể gặp người bà con tại địa điểm nào?”.

Ra tới cửa tôi hỏi lại.

“Ông muốn hỏi J.T chi vậy”.

“Không nói được. Hắn tử tế với tôi, mời tôi uống rượu cho tôi biết tên ông. Như vậy còn hơn một câu chào”.

“Hắn bỏ đi lâu rồi”.

“Đi rồi, Ở đâu biết không?”.

“Về miền bắc”.

“Về Frisco àh?”.

“Nhà hắn ở tận bên Oakland, tôi chưa tới đó?”.



• •

Ba mẹ con Regina Jesus và Edna đang ở ngoài trước nhà. Jesus ngã người trên đùi Regina, Edna ngồi kế bên hất quả banh. Thoáng thấy tôi bước lên bậc thềm mấy mẹ con nhìn theo.

“Ô kìa, cưng”, Regina chỉ kịp thốt lên không nhìn tôi.

“Kìa mấy mẹ con”.

Edna muốn chồm dậy, Jesus níu tay lại khều lên người cho nó đừng khóc.

“Jesus con, con bồng Edna vào nhà chơi!”, tôi nói.

Hai anh em thích chơi trò cưỡi ngựa gỗ, bò dưới đất phá phách tùm lum. Mẹ Regina không cho, tôi muốn bày trò để chúng chơi một lúc cho rảnh rang.

Tôi hôn nàng rồi nắm tay dắt ra bờ rào trước sân. Công ty cây xanh sao lại đi trồng cây sồi trên khu đất cấm bên kia đường? Cây đâm rễ làm hư lề đường ăn qua tới bên kia. Che tối cả đường đi.

“Em hay biết gì về bệnh phong tình kể cho anh!”, tôi hỏi.

“Nghĩa là sao?”, Regina chới với, nàng vụt bỏ đi.

“Anh đâu có lỗi gì, anh muốn nói bệnh tình của tên tôi phạm kia, hắn đang uống thuốc Sulfa”, tôi nói.

“Bị lâu mau?”.

“Chưa biết bao lâu nhưng nghe nói bệnh nặng”.

“Nếu nặng thì nguy lắm. Bệnh phong tình nó ăn vào tới óc,điên luôn”.

“Sách báo nào nói về bệnh tình đó em? Nghe nói bên Texas có bệnh viện chuyên trị bệnh đó”, tôi hỏi.

“Em phải hỏi cho biết”.

“Hắn tên là Saunders, J.T. Saunders. Hắn còn uống thuốc, chưa đến lúc chích pê-ni-ci-lin”.

Tôi hôn phớt lên môi, nàng xích ra bước vào nhà. Thằng nhóc Jesus với con bé Edna đã xô ngả bàn nước làm ướt cả sàn nhà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Sáng ra, tôi lo đi kiểm tra lại số tài sản. Đi tới nơi anh chàng thợ mộc người Guatemala đang sửa sàn nhà một căn hộ ở phố Quizley Street. Tôi hỏi thăm anh chàng làm vườn bỏ việc sáu tuần lễ không xén cỏ. Đi dò xét nhiều chỗ, nhặt mấy mẫu rác, ghi dấu những chỗ sai sót để Mofass lần theo đó mà tìm.

Tôi lấy xe ra đi tới văn phòng làm việc của Mofass. Vừa tới thấy hắn ho khạc nhổ vô tấm khăn lau. Tôi vào tận trong giường hắn vẫn còn ho, hắn vừa ho vừa nhắc chuyện nhóm DeCampo thỏa thuận những điều kiện do tôi đưa ra.

“Ông DeCampo gọi máy trực tiếp”, Mofass nói khè khè.

“Kể ra gã cũng biết điều?”.

Chợt nghĩ lại tôi lỡ lời, e là nghe vậy Mofass lên cơn ho dữ dội hơn. Những cơn ho giày vò thân xác làm chảy nước mắt nước mũi tùm lum.

Khạc nhổ hết đàm rồi Mofass nói: “Ông định ký kết hợp đồng với họ sao?”.

Tôi ngại phải nói ra hết cho gã nghe. Bởi không, biết đâu hắn lăn đùng ra chết bất tử.

Tôi chỉ nói: “Để coi, ta sẽ bàn lại một lần nữa trước khi ký kết”.

Tôi không nghĩ là bọn này sẽ cướp mất tài sản. Nếu phóng con đường ngang qua chỗ tôi, tôi phải lo gặp ngân hàng đòi bồi thường trăm phần trăm.

“Để tôi gọi điện thoại”, tôi nói.

“Tôi phải đi ngay, tôi cảm thấy khó chịu trong người”, gã nói.

Tôi đứng nhìn gã khoác chiếc áo pa đờ xuy, đội mũ, quần áo dày cộm như một gánh nặng đeo trên vai đè bẹp gã xuống. Gã bước ra ngoài vừa đi vừa ho cho lúc xuống dưới cầu thang.

Tôi ngồi xuống quay số nào dễ nhớ ra nhất.

“Bệnh viện Temple Hospital tôi nghe đây”, người phụ nữ da trắng nói giọng mũi.

“Cho tôi nói chuyện với khu hộ sản lầu sáu”.

“Chờ một lát”, tiếng ngắt máy rồi có tiếng nhấc máy vo ve, một giọng nói rõ hơn lúc nãy, “Khu hộ sinh tôi nghe”.

“Cho tôi gặp Regina Rawlins”.

“Bà đang bận. Xin lỗi ai đầu dây”.

“Này Louise, nghe đây, nhờ em cho gặp vợ tôi?”, tôi nói.

“Phải Easy không?”

“Louise, mạnh khỏe chứ? Nghe Regina nói em đã đi làm lại”.

“Khỏe, cám ơn!”. Tiếng cười của người răng thưa “cũng nhớ lắm đấy”. “Thấy Regina quanh quẩn đâu đó không?”.

“Ôi, giọng nói nghe sao mà dễ thương quá!”.

“Gặp một người đẹp ăn nói duyên dáng như vậy lắm đàn ông thích đó, Louise”.

“Ok. Vậy thôi nhé?”.

“Chờ thêm một lát nghe tiếng vợ tôi trong máy”.

“Ô kìa, cưng”, nàng nói.

“Hắn vừa được xét nghiệm ở bệnh viên bên thành phố Oxnard, được sát nhập với bệnh viện hải quân. Trước kia hắn là thủy thủ tàu biển dương, chủ tàu lo trang trải viện phí”.

“Hắn còn vào đó nữa không?”

“Vắng lâu rồi, từ năm 1938. Mới nhập viện lại ba tháng nay. Nếu không lo chữa trị bệnh sẽ trở nặng hơn trước”.

“Em ghi lại địa chỉ rồi chứ”.

“Hắn để lại đây. Số hai-bốn tám- chín phố Stockard Street, Dakland, California. Số điện thoại Axminister 2-554”.

Tôi ghi vào kẹp giấy mà. Mofass để lại trên bàn.

“Anh đưa em đi ăn để bà Gabby Lee trông con”, tôi nói.

“Tối nay không nghỉ được, cưng”. Thấy nàng lúng túng.

“Em còn phải lo cho xong việc hết ca này, em đã dặn trước Butler tối em về trễ”.

“Thôi sáng mai”.

“Em phải vào làm, chào anh”.

Gác máy xong tôi cảm thấy bơ vơ. Chuyện của tôi chỉ mỗi mình tôi biết. Chẳng có ai hiểu rõ con người thật của tôi ra sao? Có thể Mouse và Mofass còn biết chút đỉnh, nhưng họ không phải là người bạn để tâm sự và để tưởng thưởng.

Nghĩ lại thấy Regina nói có lý. Nếu kể ra hết cho nàng thì tôi sẽ rùng mình nóng lạnh, cái cảm giác đương đầu với tử thần.



• •

Lúc tôi gọi tới Quinten Naylor còn làm việc.

“Có gì lạ không, Rawlins?”.

“Dành phần thưởng cho tôi đấy nhé!”.

“Nếu tóm được hắn thì có thưởng ngay!”.

“Còn trường hợp không tóm được hắn ở thành phố?”.

“Hắn đang ở đâu?”.

“Tận trên miền Bắc”.

“Bang Oakland hả”.

“Sao ông lại hỏi vậy?”. Ý tôi muốn nói sao không là San Francisco”.

“Vậy thì ông đã thấy gì nào, Rawlins”. Quinten hỏi tôi, với giọng nói của một tên cớm nhà nghề.

“Tôi đã kể hết chuyện ở quán bar Arthena với chuyện gã Gregory sao không thấy ông nói năng gì hết, còn tôi đích thân đi tìm cho ra thủ phạm”.

Biết đâu gã định nói ra ngay lúc đó tôi gác máy có nghe gì nữa đâu.

Tôi gọi cho Mouse báo sẽ có phần thưởng. Hắn hẹn tôi tại địa điểm trước nhà Minnie lúc bốn giờ sáng.



• •

Tôi lo xếp đồ đạc vào túi xách đi xa hai ba bữa.

“Nghe anh nói đây, bọn chúng ra giá mười lăm ngàn đôla cho ai tóm cổ được hắn. Một món tiền khổng lồ”.

“Anh đã báo trước chỗ hắn ở, nếu tóm được thì anh có tiền thưởng”.

Tôi biết nói gì hơn, nàng nói nghe có lý. Bởi vỉ đây là công của tôi nên tôi muốn chủ động. Nói vậy chứ ngồi một chỗ trước khi mọi việc cần làm sáng tỏ đang diễn ra trước mắt làm sao chịu nổi. Tôi phải bỏ đi xa một thời gian.

“Em không hiểu được đâu”, tôi nói lắp bắp.

“Ôi, em hiểu, thế đấy. Anh là một tên bịp bợm chẳng khác nào anh chàng Mouse. Anh thích chơi với bọn tội phạm, thích lang thang ở đường phố”.

“Em nói sao vậy”.

“Anh tưởng là em không biết gì về anh? Anh cho là vậy sao? Chuyện của anh chả có gì bí mật đâu, Easy. Em đã biết chuyện giữa anh với Junior Fornay, Joppy Shaz và Reverend Towe. Chính mắt em thấy anh bàn chuyện làm ăn với Mofass chứ không phải là phục vụ cho hắn. Này anh ơi, chuyện trong nhà trong cửa, anh không giấu được đâu”.

“Anh phải đi ngay, nói bấy nhiêu đó thôi. Chờ anh về ta bàn tiếp”, tôi nói.

Regina đặt tay lên trước ngực tôi chụm ngón tay lại chỉ vào tôi.

Sau một hồi im lặng nàng ghé mấy đầu ngón tay vào ngay giữa tim tôi. Tôi muốn nói thương nàng nhưng nghĩ lại nàng không muốn nghe.

“Anh phải để cho vợ anh nhìn thấy chỗ yếu, Easy”. Nàng muốn chứng tỏ đó là chỗ dựa vững chắc. Đàn bà không phải một món hàng mua bán bằng tiền, cũng không phải là cái máy đẻ”.

“Anh sẽ kể…”, chỉ nói được tới đó, nàng ấn mạnh mấy đầu ngón tay bảo tôi im.

“Suỵt”, nàng trề ra một hơi để em nói: “Người đàn bà không màng tới chuyện anh có thương họ. Em tìm được việc làm anh không hỏi một đồng. Vậy sao em phải đi làm? Anh lo thay tả cho con bé, tưới cây làm cỏ cả việc khâu vá nữa. Anh không đòi hỏi em một việc gì, Easy, không mảy may”.

Tôi cứ nghĩ mãi nếu ta giúp cho người, người sẽ nhớ ta; hoặc khi đem lòng thương yêu ta. Chả ai dòm ngó tới một anh chàng khóc than. Tôi khóc ngày mẹ tôi đi xa, tôi khóc ngày cha tôi qua đời. Chả ai thương xót giùm tôi. Tôi biết có mấy anh chàng ăn nói bạo mồm bạo miệng tối về tới nhà kêu than cuộc sống khó khăn vất vả. Tôi không thể hiểu vì sao mấy bà còn đeo theo mấy anh chàng đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Mouse ngủ trên băng ghế trước gần bên tôi. Dãy đá dựng một bên bờ biển California chỉ còn thấy lờ mờ dưới ánh nắng mai. Biển bên phía trái một màu xanh thẩm.

Tôi đứng trông theo đàn chim hải âu đang ngụp lặn trong màn sương sớm. Những mảng cây xương rồng mọc xen kẽ không hàng lối bám rễ sâu ngổn ngang dọc theo chân đồi. Bên ven đường những cây dây leo đang trổ bông trang điểm một màu tím rực rỡ.

Trên chặng đường xa lối hướng ra biển nhìn lại chỉ có mỗi chiếc Chryler tôi đang lái. Tôi cảm thấy rạo rực trong người sẵn sàng bắt tay vào việc.

Tiếng máy xe hòa nhập vào trong người, tôi muốn lái đi mãi.

“Kìa, Easy!”, Mouse nói giọng khàn đục.

“Cậu thức rồi hả?”.

“Cậu cười thấy lạ chứ nhỉ?”.

“Sống được tới nay là diễm phúc lắm, Raymond. Ta cứ vui sống”.

Hắn trở mình cuộn tròn lại rên rĩ “Cậu mới là điên, mới sáng sớm đã nhe răng cười cái kiểu đó. Khiếp thật, mới sáng sớm đã cười”.

“Tớ pha cà phê trong phích để sau xe, có cả bánh mì nướng với món mứt”.

Mouse ăn ngấu nghiến mấy cái bánh xăng uých pha một ly cà phê mời tôi. Mặt trời đã lên trên đỉnh đầu, mặt nước biển sáng long lanh. Cả tuần nay không uống rượu mà sao trong người vẫn cảm thấy sảng khoái. Vừa nhắc tới tôi thấy thèm một ly.

Xe chạy qua Dxard, Venture rồi Santa Barbara. Quốc lộ I ăn sâu vào đất liền rồi vòng trở ra miền duyên hải, ngoằn ngoèo chỉ nhìn thấy toàn ôtô du lịch, còn quốc lộ 101 chạy suốt nối liền Francisco với L.A.

Chạy được mấy tiếng, chúng tôi mới bàn chuyện. Khung cảnh bên ngoài khiến tôi cảm thấy dễ chịu, càng về khuya Mouse càng thấy khỏe hơn.

Qua hết một chặng đường ba trăm cây số hắn mới lên tiếng “Trên miền Bắc có gì lạ không nhỉ?”.

“Có J.T. Saunders Dakland. Tớ biết một chỗ đó thôi”.

“Gặp được hắn, cậu tính sao?” Mouse hỏi.

“Tôi không rành về tên này, Raymond. Kể ra hắn thuộc dạng sinh bất phùng thời. Nhiệm vụ của ta là đi báo nơi ở hiện tại cho bọn cớm”.

“Nhỡ hắn bỏ trốn thì sao?”.

“Chạy đâu cho khỏi, lưới trời lồng lộng?”.

“Cậu nghĩ vậy được à!”.

“Hắn không dám gặp ta vậy thì làm sao bỏ chạy được”.

Mouse gật rụt cổ xuống nói: “Hãy đợi đấy”.

Mười hai giờ trưa xe đi qua khỏi San Jose chạy tới vùng núi Santa Cruz. “Cậu đã nghe ai nói điều trị bệnh hoa liễu uống thuốc sulfa chưa?”, tôi hỏi.

“Tớ biết”.

“Mà sao?”

“Chính tớ đây, tớ dừng ở lại đó sáu tháng, theo dõi hết năm năm”.

“Cậu chữa khỏi?”.

“Khỏe re. Khiếp thật! Ớn tới già. Nó bắt đè xuống giường chích vô đít nó xông mùi lên tới miệng thối như cứt, đừng nhắc chuyện đó nữa”.

“Raymond, cậu nên đi khám bác sĩ”.

“Sao vậy?”.

“Bệnh phong tình nó còn ăn sâu vào trong người cậu thời gian lâu nó xì ra”.

“Tớ có bệnh tình đâu”.

“Thì cậu mới vừa nói ra đấy”.

“…Tớ chỉ nói xin điều trị. Trên đầu của quý tớ nổi lên cái mụt tàn nhang, chuyện thế này tớ có con bồ tên là Clovis nhìn thấy vậy nó không cho tớ ngủ, tớ đi khám bác sĩ. Khám xong,ông ta phán liền, “Bệnh giang mai”. Thế là mỗi tuần tớ phải đi chích thuốc”.

“Mới nhìn qua mà đã biết ra bệnh”, tôi nghĩ trong đầu làm gì có chuyện đó.

“Đâu phải. Chuyện là tối hôm đó tớ say định sáng ngày mai rủ Joe Dexter đi đăng lính. Tới giờ tớ hăng hái lên đường tới nơi khai có bệnh để khỏi đi lính. Tay lính già cho tớ hay không bệnh hoạn gì cả. Tớ có bị bệnh giang mai đâu”.

Có một dạo mấy ông bác sĩ da trắng thường gán cho bọn Negro mắc bệnh phong tình, hoa liễu tùm lum. Không cần phải qua xét nghiệm cũng biết là có bệnh.

Tôi hỏi lại “Sao cậu không chịu đăng lính?”.

“Lúc đó mới lục hồ sơ ở tù ra, chừng nào chiến tranh quyết liệt mới tuyển. Tới đây thì không thể biết lúc nào cuộc chiến tranh tàn khốc tôi mới được tuyển mộ”.



• •

Mấy năm sau, tôi trở lại nhà trọ Galaxy ở phố Lombard, mười đôla một đêm, có hai vợ chồng già Riley nhớ mặt tôi. Hai ông bà người Ái Nhĩ Lan theo bố mẹ qua đây định cư lập nghiệp. Nghe giọng nói nhỏ nhẹ, tính ông bà hay vui cười.

“Ồ kìa chào Easy, lâu lắm mới gặp lại anh”. Ông Roley nhác thấy tôi vừa bước vào phòng lát kính hỏi ngay.

Trên tường treo đầy bản đồ, lộ trình chuyến phà hướng dẫn du lịch trong thành phố.

“Công việc lu bu quá. Cực lắm hả ông?”.

“Vợ con ra sao rồi?”.

“Dạ bình yên. Bà Riley có khỏe không?”.

“Bà dạo này ở nhà trông cháu. Con bé Cecily mới đẻ sinh đôi”.

Tôi đặt phòng hai giường đôi có một ti vi.



• •

Tôi nhờ ông Riley gọi số 3-854 thông qua tổng đài, bên kia dầu dây Karl Bender đang nghe. Anh chàng này không biết ai là J.T Saunders cũng không biết mặt tôi là ai. Tôi muốn tìm cho ra hắn có số máy này bao lâu, địa chỉ nhà rốt cuộc chẳng đi tới đâu.

“Tính sao đây?”, Mouse hỏi.

“Tớ không biết. Tớ có được một địa chỉ cách đây hai chục năm”.

“Hai chục năm! Ái dà, hai mươi năm tớ dời qua biết bao nhiêu chỗ”.

“Còn ai nhớ mặt cậu không?”.

Mouse không thể nào cười được nữa, chưa hẳn là vậy; vì trước kia tôi đã từng thấy hắn quật ngã mấy tay có súng.

Trời vừa sẫm tối. Trên phố Lombard đèn hiệu rực sáng. Có hai gái điếm vừa vào mướn phòng sát bên hành nghề. Mouse và tôi nhìn nhau cười, cứ cách nhau năm phút là đến lượt anh khác vô. Vác tường mỏng như giấy, nghe rõ mòn một.

“Đừng – đừng, đưa tiền trước”, một em vừa la lên. Rồi kế đến hơi thở của anh chàng, tiếng quần áo sột soạt.

“Ôi!” em vừa la lên anh chàng chưa kịp làm tới rồi. Em lại la, “vào cuộc đi anh!”, chợt đâu anh chàng rống lên một tiếng gầm gừ, rên siết. Chẳng khác gì một anh chàng đi chơi ngày hội nhắm trúng đống chai sữa lại không chịu uống một giọt.

“Cậu tính sao chứ, Easy? Lúc đó là tám giờ sáng.

Mouse hỏi lại tôi: “Nếu không tớ phải tính, hay là bỏ tiền ra vui vẻ với mấy em bên phòng kia”.

“Thôi ta đi qua Dakland tìm cho ra chỗ ở anh chàng tên J.T.Saunders”, tôi nói.

“Vào cuộc đi anh!” một em ở phòng bên kia vừa la lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Xe chạy dưới dạ cầu Bay Bridze. Bữa đi nhằm tối thứ sáu hàng ngàn xe nối đuôi nhau. Nhìn vô kính chiếu hậu lấp lánh ánh đèn San Francisco chiếu sáng trên đầu đoàn xe đang lao vút tới.

Trời Dakland ấm hơn ở San Francisco. Vừa ra khỏi một vùng nơi thời tiết mát mẻ qua tới đây cởi nút áo.

Địa chỉ 2489 phố Stockard Street là một khu chung cư ba tầng. Nước sơn tường lâu ngày bong tróc lòi ra lớp gỗ bao quanh tường ngã màu xám xịt.

Người đàn bà ngồi trên thềm phe phẩy chiếc quạt, hai đứa trẻ xúm quanh trên tay cầm mấy thanh gỗ.

“Đùng đùng đùng đùng”, thằng nhóc múa miệng.

“Cắt bùm, cắt bùm”, thằnng kia giả giọng bắt chước tiếng đại bác.

Người đàn bà, chẳng thèm để ý tới cái trò chơi chiến tranh của bọn trẻ. Bà có nước da ngăm đen, tóc bạc trắng những gương mặt hãy còn trẻ.

“Thưa bà!”, tôi mở lời rồi bước lên hai bậc thềm. Bọn trẻ đứng trân trân, không còn nhớ cây súng gỗ trên tay.

Tay bà vẫn phe phẩy chiếc quạt, đưa mắt nhìn qua bên kia đường.

Tôi bước lên một bậc thềm: “Thưa bà!”.

Thằng nhóc há hốc mồm.

“Dạ?”, bà vẫn nhìn qua như ban nãy.

Tôi nhìn theo hướng đó. Thì ra cái ti vi đang chiếu bên trong cửa sổ, không làm nhìn rõ hình ảnh. Không thấy gì hon tôi.

“Ông đến có việc gì?”, bà hỏi.

“Thưa bà quanh đây thấy gia đình nhà Saunders ở chỗ nào?”.

“Chắc là có, thưa ông. Sao ông đoán tôi biết?”.

Thằng nhóc chơi trò tập bắn đạn giả núp sau lưng tôi, còn thằng kia nấp sau người đàn bà già trước tuổi.

Tôi nhìn xuống dưới kia, Mouse đang ngồi trên đầu xe thong thả hút thuốc.

Tôi đứng lại đó nhìn theo bà dõi mắt về hướng chiếc TV. Một lát sau bà nghển cổ lại nói lớn: “Nate!”.

Trên lầu cửa sổ mở ra một giọng nói nghe chát tai vọng xuống: “Dạ”.

“Có ông đây hỏi thăm biết ai là…” bà quay lại hỏi “Tên người đó là gì?”.

Tôi nói ra ngay.

“Saunders! Có ở gần đâu đây”, bà hét to.

“Trên này, số nhà Hai – Bảy”, giọng chát chúa lại nói.



• •

Thưa ông?”, tôi đứng bên ngoài tấm bình phong hỏi vọng vào.

Bên trong phòng khách là chỗ của Nate, dù chưa biết mặt lão là ai. Bên trong kê chiếc giường, một cái bàn vừa bày món ăn và bánh mì khô. Trên tường treo giá, đầy sách.

Lão chống gậy đứng dậy khỏi chỗ ngồi bên cửa sổ chậm rãi bước ra cửa. Tôi chờ lâu cả phút nhìn lão bước đi hai tay chống gậy, liệu còn đủ sức vặn nổi núm cửa.

“Chào cậu”, lão mở lời.

Một lát sau mới đưa lão trở lại chỗ cũ bên cửa sổ.

“Trời nóng lắm phải không?”, lão hỏi.

Tôi gật: “Sao ông lại che chắn lối ra vào trước cửa. Sợ có ruồi bay vô đây?”.

“Tôi vẫn để cửa chứ, ngặt bọn trẻ canh giấc ngủ trưa vào lấy cắp bánh ăn”.

“Ối chà!”.

“Cậu muốn biết nhà Saunders hả?”.

“Ông biết nhà ấy chứ?”

“Wathaniel Bly”, lão nói.

Tôi chới với một hồi, chợt nhớ ra lão vừa kể tên hắn.

“Còn tôi Vincent Charles”, tôi giới thiệu lại.

“Ông còn lui tới nhà ấy từ bao nhiêu năm nay hả ông Charles?”.

“Tôi nhớ mặt người con trai là J.T”.

Lão gật đầu khiến tôi mở cờ trong bụng. “Có thời gian bọn tôi phục vụ trên tàu viễn dương. Tôi có địa chỉ đó thôi”.

Lão Nate ngồi nhìn tôi gật đầu. Lão nhếch mép cười vừa đăm chiêu như chợt nhớ ra điều gì đó.

“Không biết có ai còn sống? Bố hắn chết trước ngày bỏ đi khỏi đây. Viola ở lại không trả nổi tiền thuê nhà, chỗ ở rộng rãi tốn kém quá mức. Tôi thích sống hợp với khả năng, bọn trẻ lo trả tiền cho tôi ở, tất cả ở quanh đây. Willie ở phố Morton và Betty ở trên phố mười bảy. Willie làm thợ sửa xe bên San Francisco còn Betty nấu ăn. Bọn trẻ không thích chọn nghề nấu ăn chỉ có Betty thích nghề này vì có được đồng vô đồng ra. Mới năm rồi kiếm được mười ngàn đôla…” lão kể.

“Hồi nhỏ cô bé có chơi chung với J.T”.

Nghe tới đó lão Nate giật mình. Lão quên mất chuyện tôi tới đây tìm cho ra tung tích một người.

“Không”, lão nói. Willie và Betty nhỏ hơn J.T với Squire tới hai tuổi.

“Squire nào nhỉ?”.

“Tôi ngỡ cậu là bạn với J.T? Vậy mà cậu không biết mấy anh em nó”.

Tôi khoái chí cười: “Bọn tôi làm trên tàu. Không nghe J.T. nhắc chuyện nhà, đưa cho tôi địa chỉ này, tôi không hỏi mấy chuyện kia”.

“Nó khác hơn người ta, nó thích hành hạ mấy con vật nuôi trong nhà và hay đánh đập bọn trẻ”. Lão Nate lắc đầu.

“J.T vậy đó sao?”.

“Squire kia. Còn J.T tính nhút nhát, lúc còn nhỏ nó còn tệ hơn nữa, nhìn thấy vật gì nó cũng run sợ - nhất là lũ rệp. Chẳng may có con kiến bò dưới đất nó không dám dòm. Mỗi lần thằng nhóc Squire bắt được con chuồn chuồn khè nó chạy theo níu áo J.T. Lúc Viola chạy lại, nó mới nói, “tớ đem cho nó nhiều hơn nữa kia”.

“Có bữa tôi đi xuống dưới tầng hầm, Squire tay cầm ống cao su đánh vô người J.T, mồm luôn miệng la hét “Giết nó đi! Giết nó đi!”. Thằng nhóc J.T chỉ còn nước khóc lóc rên rỉ. Xong rồi phải nhặt lấy con nhện nước bầm dập bỏ trên ống quần. Cậu biết không thằng nhóc lúc đó úp mặt xuống đất khóc huhu. Còn thằng Squire nhảy múa trước mặt nó như là một con ác quỷ. Nó là con quỷ chính hiệu”.

“Sao ông không chặn nó lại, Nate?”.

Lão Nate còn chưa tin tôi lão nhìn chăm chăm: “Chú em từ đâu tới vậy?”.

“Tôi ở Taxas, cả hai nơi Texas và Louisana”.

“Đường về lại đó xa lắm thì phải?”.

Tôi gật đầu gượng cười.

“Tôi cứ nghĩ trong đầu dân Negro là một bọn người Nigger nên vất vả lắm mới kiếm ra việc làm. Do đó tôi lo ngại một điều là nếu gặp một đứa trẻ được tôi cứu giúp hẳn là nó nghĩ ở đời này ai cũng phải giúp nó. Tuôi nuôi con lớn khôn cực nhọc lắm. Vì vậy giờ nó lo trả tiền mua thức ăn, đồ dùng nhưng chẳng khi nào hỏi han đến tôi. Bọn chúng nghĩ tôi là đồ bỏ”.

“Con cái đối xử vậy là không phải đạo rồi!”, tôi nói.

“Nhớ lại lúc thằng Squire đánh đập J.T tôi nghĩ là nó phải đi học võ để biết đỡ đòn. Nhưng mà sao lúc đó nhìn thấy thằng nhóc bị hành hạ trái tim tôi cùng đập một nhịp với Squire, rộn ràng hơn nữa kia”.

Nói xong lão nhìn qua cửa sổ.

Một lát sau tôi hỏi: “Thưa ông biết hiện giờ Viola Saunders đang ở đâu?”.

“Làm sao nói ra được?”.

Tôi trở xuống nhà dưới bọn trẻ đã nốc hết bình sữa lạnh còn người đàn bà kia vẫn dán mắt nhìn qua bên kia đường.

Chưa có ai để ý, nhìn theo tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Tên Viola Saunders có ghi trong niên gián điện thoại số: 386 3/4 phố Queen

Anne’s Lane.

Queen Anne’s Lane là một xóm nhỏ độ chừng một dãy phố, nhà lầu cao tầng. Bên hông là một bãi đất trống, còn bên kia một dãy nhà cao tầng xây trên dốc đồi.

Bọn tôi lên xuống mỏi cả chân không có căn nào có số 386 3/4. Phải tới ngay

căn hộ số 386 mới gõ cửa. Nhìn vô bên trong chiếc tivi đang mở ánh đèn hắt ra bên ngoài dãy hành lang.

Chợt một thằng nhóc từ đâu chạy xuống, đứng ngay lại trước cửa ngước nhìn tôi.

“Ôi!” nó thốt lên một tiếng.

Nó mặc chiếc áo thun sọc, dài thòng xuống quá rốn.

“Arnold!” giọng người đàn bà trong nhà vọng ra. Bà đi ngang qua hành lang hai tay nách hai đứa nhỏ, còn hai đứa kia dắt theo hai đứa.

Bà có vóc dáng người tầm thước, dễ nhìn. Bà mặc chiếc áo dài muu muu kiểu áo dân Ha Oai hở ngực, dính sát vô da ướt đẫm mồ hôi. Môi trễ xuống, da ngăm ngăm, mắt nhìn láo liên. Con mỗi đứa một màu da. Đứa nhỏ lúc nãy giống mẹ da ngăm ngăm, hai đứa ẵm trên tay đẻ sinh đôi da đen. Đứa con gái năm tuổi đứng dưới chân mẹ nó nhìn chúng tôi chằm chằm, da nâu sậm. Con em thì nước da trắng, mắt xanh, tóc vàng hoe nhớp nhúa. Nhìn cặp mắt đứa nào cũng giống nhau như anh em ruột, mắt nhìn trân trân láo liên như mẹ nó.

Bà mẹ trẻ liếc nhìn tôi rồi nhìn qua Mouse. Hắn mặc chiếc áo sơ mi xanh đậm bỏ ngoài quần tây màu xám, mang giày da lật màu xám tro. Hắn nhếch mép cười rạng rỡ, lòi chiếc răng cửa nạm kim cương.

“Ông cần hỏi ai?”, bà chậm rãi hỏi, rất thiện ý.

Hắn tươi cười khẽ nghiêng người, nói ra ngay: “Tôi đi tìm một người tên J.T. Saunders. Bà biết mặt ông ta chứ?”.

“Ôi – không”, bà nói, không cần biết đó là người nào. Chợt đứa bé ẫm trên tay khóc òa, người mẹ trẻ vội gọi “Vanessa, Tiffany lại đây!”, bà nghiêng người giao hai đứa bé cho hai đứa con gái lớn. “Bồng em vào trong phòng lớn”.

Hai đứa nhỏ trĩu người xuống lê bước đi về phía căn phòng mở máy.

Thằng nhóc Arnold chờ mấy chị em đi một lúc, nó bỏ chạy theo.

“Mời ông vô nhà!”. Bà mời Mouse. Bà kéo tấm bình phong qua một bên bọn tôi bước theo ngoài hàng hiên. Đi ngang qua chỗ chiếc TV ban nãy bước tới bên kia.

Đây là căn nhà bếp nhỏ hẹp, thắp một bóng đèn có sáu chục watt; tường quét vôi màu vàng nhờn nhợt, sàn nhà lót vải dầu, trên chậu lavabô chất đầy chén dĩa. Trên bếp lò chiếc chảo chiên cơm không đậy nắp mốc thếch. Trần nhà sơn trắng bám đầy khói mỡ dầu đen sì.

Chỉ mỗi mình tôi nhìn thấy mấy chỗ dơ bẩn. Bà chủ nhà mở tủ lạnh lấy ra chai bia mời Mouse. Hai người lặng lẽ nhìn nhau chỉ nói bằng mắt.

“Bà biết địa chỉ số nhà 386 ¾ nằm ở đâu?”. Tôi phải xen vào hỏi kẻo hai bên lại xáp vô ôm nhau.

“Hả?”, bà hỏi lại.

“Bà có thể cho biết tên?”, Mouse hỏi.

“Marlene”.

“Thưa bà Marlene,tôi muốn hỏi thăm địa chỉ số nhà 386 ¾ Mouse nói. Bà thích nói bằng mắt và phô trương bộ ngực ra.

Marlene chỉ tay qua khung cửa sổ phía trên lavabô.

“Mãi đằng kia, nhà ở hướng đó”, bà nói.

Nhìn qua cửa sổ hiện ra lối đi tráng xi măng ngang qua căn hộ số 386 tới dãy nhà thấp lè tè khuất sau dãy nhà cao tầng.

Arnold đứng ngay cửa nhìn theo, mũi xanh chảy lò thò.

Mouse nhìn Marlene đắm đuối.

Tôi ra tới cửa, Mouse lủi thủi đi theo sau.

“Khoan đi, Easy, cậu không nên bỏ đi một mình”, gã nói.

“Tớ tưởng cậu còn bận bịu?”

Marlene tiễn chúng tôi ra tận cửa. Mouse còn luyến tiếc “Bà còn lo gì nữa không, Marlene?”.

“Chả có gì?”.

“Nếu tôi quay lại bà nghĩ sao?”.

“Không sao, tôi còn ở đây”.



• •

Lối đi xi măng tối thui may là nhằm đêm có trăng. Phía bên trái là hàng rào cao không quét sơn ngăn không cho đi bộ băng qua lối này từ đây cho tới khu nhà Marlene.

Đường dốc leo được tới nơi Mouse và tôi thở muốn hụt hơi.

Đếm được bảy căn hộ đủ thứ số nhà.

Nhìn vô căn hộ 286 3/4còn để đèn.

Mouse và tôi còn lưỡng lự cách một đoạn đường đất nữa là tới nơi. Hắn cởi hết nút áo lắc thân người để nhanh tay rút súng nhanh, tôi bước đi tới trước cửa.

Một người đàn bà bước ra mở cửa. Trông tướng người bệ vệ quý phái, tóc muối tiêu quàng khăn cổ sọc đỏ- tím. Bà mặc chiếc áo dài màu san hô, nước da ngăm đen nổi lên như một ốc đảo.

“Dạ ông hỏi có việc gì?”, giọng nói bà nghe trầm bổng.

“Tôi hỏi thăm J.T có đây không?”. Tôi có thể đoán ra Mouse đang hồi hộp.

“Ông là ai vậy?”, bà hỏi.

“Martin”, tôi nói. “Martin Greer, ông Sammy đây là người bà con. Tôi xích ra chỉ tay về phía Mouse đang đứng. Gã nhếch mép cười.

“Ối dào! Các ông cần việc gì đây?”.

“Chúng tôi từ bên L.A tới. Abernathy bảo chúng tôi tới đây sẽ gặp được J.T”.

“Có phải là Randall Abernathy?”.

“Ờ, Randy”.

“Anh chàng đó đâu có ưa gì nhà này”.

“Chuyện đó tôi không nghe nói. Thật ra gã có kể J.T đã tìm được việc làm cho gã. Ờ, tôi có nghe ông ta khen anh J.T đây tử tế vui tính”.

“Còn ông thì sao. Ông cần hỏi việc gì”, bà hỏi lại Mouse.

“Không… ồ…” Mouse nhìn bà chằm chằm. Có thể bà ra uy cho gã sợ. Bà có thể tát vào mặt gã và gã phải xin lỗi lại làm bà đau tay.

“Ông cần hỏi việc gì?”, Viola Saunders nhắc lại. Trông bà ta lớn tuổi hơn chúng tôi, có lẽ đã ngoài sáu mươi nhưng còn uy lắm.

“Bà cho phép chúng tôi vào nhà?”, tôi hỏi.

Bà ta nhìn qua một hồi. Tôi muốn chườn mặt ra cho bà thấy tôi là người lương thiện. Chờ đến lúc vào tới nhà tôi mới trổ tài nói dóc.

Viola đưa tay mở cửa lướt nhẹ qua vai tôi.

“Tôi ngồi ngoài này chờ, Easy”, Mouse nói nhỏ vô tai tôi.



• •

Gian phòng thoạt nhìn thấy rộng rãi hóa ra không còn bao nhiêu chỗ, đồ đạc bày tùm lum. Nhìn chỗ nào cũng thấy kệ sách, đồ linh tinh, sách xếp dọc theo tường. Bên trong bày hai chiếc ghé trường kỷ, ba ghế nệm, một bàn cà phê, một bàn ăn bên cạnh cây đàn Piano. Tấm thảm màu xanh đậm dày cộm, bước đi rất êm chân.

“Mời ông ngồi, ông Greer!”.

“Cám ơn bà. Bà có căn nhà đẹp quá!”.

“Ông cần việc gì với đứa con trai tôi?”, bà đứng lên chiếc đàn Piano nói.

“Thật ra chẳng có gì đáng nói. Tôi vừa nghe nói anh chàng biết một nơi để tiêu khiển đó là bên Oakland và…”.

“Thôi cậu đừng nói đùa. James có việc gì vậy?” Người tôi muốn giãn ra không còn khả năng tự bịa ra chuyện xạo.

“Riêng tôi thì không có việc gì, thưa bà Saunders. Có thể anh chàng còn nhớ ra câu chuyện cùng với một cô gái cách đây mấy tuần?”.

“Con bé đang mang thai?”.

“Không nó chết rồi?”.

Viola Saunders ngã người rụt cổ xuống như con rắn đang thủ thế, mắt nhìn chòng chọc, vươn vai.

“Chết ra sao?”.

“Có kẻ giết nó và không phải một mình nó đâu”.

“Cậu cho là James?”.

“Theo chỗ tôi biết có người bắt gặp anh chàng đi chơi với nó và rồi sau đó là một cuộc xô xát”.

Bà nhắm mắt lại, môi bà chuyển động một lúc, cần cổ run rẩy.

“Thưa bà, James có đây không?”.

“Nó là đứa con ngoan, ông Greer ạ. Đi đâu có cũng mang quà về, lúc nào cũng có quà”.

Tôi nhìn quanh gian phòng trống vắng, yên lặng buồn hiu.

“Nó là đứa con ngoan”, bà nhắc lại. “Nay thì nó khác, không phải là chính nó như ngày xưa. Mỗi khi thấy tôi buồn bực nó giận dữ, tôi khóa cửa không cho nó vào, đứa con tôi đó”.

Tôi nghĩ bụng thà cứ để cho bà muốn nói gì thì nói, thế nào rồi bà cũng phải khai ra.

“Đừng làm phiền con tôi, ông Greer!” Bà vừa nhắc tới cái tên gã hù dọa lại tôi, bấy nhiêu đó là quá lắm rồi.

“Dạ đâu có”.

“Bạn cậu thì sao?”.

“Chúng tôi cần gặp anh chàng có chút việc, thế thôi”

“Nó là đứa con ngoan, nó rất dễ thương”.

“Bây giờ biết gặp anh ta ở đâu?”

“Tôi không muốn ông làm phiền con tôi vì tôi đã chỉ đường, ông Greer ạ!”

“Tôi chỉ muốn hỏi đầu đuôi vụ việc ra sao mà thôi”.

“Chuyện con bé kia?”

“Dạ đúng thế, có người bắt gặp con bé đi cùng với đứa con trai bà vậy mà không ai dám nói ra anh chàng đã giết chết con bé. Tôi cần hỏi vài chi tiết”.

Bà Saunders tin tôi, bà còn lo lắng vì chuyện khác.

“Nếu tôi kể ra e rằng anh chàng lo cảnh giác, thưa bà Saunders. Anh chàng sẽ hiểu là chỉ còn mỗi mình anh ta nhìn thấy con bé lần cuối”.

“Cậu tới chỗ quán bar Tiny Bland’s tìm nó. Ngoài phố Chino Street gần bên hồ Lake Merritt. Bữa thứ sáu tôi còn thấy nó đi lại với mấy ả làng chơi ở đó”.

Bà Viola bước ra sân trước nhà.

“Cậu đừng hại con tôi, cậu thiên lôi”, bà nói Mouse.

Hắn vấp chân trên lề, mắt nhìn xuống đất. “Dạ thư bà yên tâm”.

“Nghe đây này!”, Viola nói như ra lệnh.

Mouse nhìn vô mắt bà, nhìn cái vẻ sợ sệt của hắn tôi thấy rùng mình.

“Cậu đừng làm hại con tôi!”.

“Tôi hiểu mà”, Mouse gật rồi quay lại, bỏ đi.

Lúc bà trở vô nhà Mouse mới thấy yên tâm. Gã rất bình tĩnh hai chúng tôi bước ra ngoài phố.

Cậu nghĩ là Marlene sẽ đi theo bọn mình?”, gã bước lên xe rồi mới hỏi.

“Bà ta còn năm đứa con ai lo đây, Raymond”.

Hắn đưa tay gãi cằm nói: “Ờ, cậu nói có lý đấy” chợt hắn cười “đợi mẹ con vô giường tớ sẽ quay lại”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Đèn hiệu néon thắp sáng một hàng chữ lớn TINY BLAND’S BAR. Phía trước che chắn bởi một lớp kính màu làm mặt tiền hộp đêm.

Xe tấp vào khách xuống xe là dân Negro ăn chơi, mấy ông mấy bà ăn mặc sang trọng choàng áo lông thú, hàng siu. Mấy bà diện đồ lòe loẹt, đeo nữ trang, lủng lẳng, túi xách hàng da thiệt.

Bên kia đường những tay nghiện rượu bước đi loạng quạng, bọn trẻ gầy nhom đùa giỡn. Hai gã mặc áo pull quần jeans ngã người trên chiếc Chevrolet cũ kỹ mắt nhìn soi moi khách vào quán bar Tiny Bland’s ý muốn nói “Tao muốn đập mày, giết mày ăn tươi nuốt sống mày”, có khi giết luôn cả ba”.

Mấy tay vô ra quán phớt lờ đi, cười cười nói nói. Lãnh lương hai tuần đủ chơi một đêm ở quán Tiny Bland’s . Anh chàng da đen cao lớn mặc bộ đồ da mạ vàng đứng chình ình ngay trước cửa, cúi chào khách hàng và thẳng tay gạt mấy tên lén chui vô.

Anh chàng coi bãi đậu xe nghe theo lệnh tay gác cửa mặc trên người bộ đồng phục màu xanh đậm may hai nẹp vàng hai bên ống quần, luôn mồm dạ ông, dạ bà. Hai hàm răng đều như hạt bắp, túi đầy phiếu đổi tiền lẻ, sẵn sàng mời đón.

“Ta làm sao vào được chỗ này?”, tôi hỏi Mouse vì tôi nghĩ chắc hắn chưa tới đây.

Mouse rùng mình “Ta vào ngay cửa trước, như người ta thôi”.

“Ăn mặc thế này làm sao vào, Raymond?”.

Mouse phớt lờ không nghe. Hắn đi thẳng tới chỗ xếp hàng tôi theo chân hắn mặc dù chưa được cho vào. Giờ này tôi thấy hơi tỉnh rượu có thể theo dõi Saunders từ xa. Chúng tôi trà trộn theo mấy tên say rượu, bọn trấn lột đứng bên kia đường để mắt theo dõi đối tượng.

Anh chàng gác dan vừa mở cửa cho hai người khác bước vô. Khách là một tên Negro da nâu nhạt, đầu đinh kẹp hai tay con bồ tóc hoe, số còn lại bước theo vô hết bên trong. Tôi đứng một chỗ cho tới lúc gã gác dan nhìn thấy.

Tôi mặc bộ đồ quần vàng nhạt, áo sơ mi xám túi áo thủng hai lỗ thuốc lá.

Gã nhìn thấy lổ thủng trên túi áo rồi cất tiếng “Gì đấy, ông cần hỏi việc gì?”

“Cho tôi vào. Trong bar có máy lạnh không?”

‘Đừng hỏi vớ vẩn, ông không vào đây được!”.

Gã nhìn qua vai tôi, ý nói là đã qua hết môt phiên chờ đến lượt sau.

“Mở cánh cửa ra ngay không thì đưa đầu vô đó cũng vậy thôi” Mouse nói.

Gã chưa hề biết mặt Mouse, tưởng nhầm là đi cùng với tôi.

Gã cúi xuống nhanh miệng nói “Sao?”

“Mi nghe rõ chưa, Leonard, ta ra lệnh mở cửa ra ngay!”.

Mouse nhe răng cười. Tên mặc đồ mạ vàng cũng cười theo.

“Mouse đây”, gã lên tiếng.

“Hân hạnh được gặp ông Mouse!”, hai bên bắt tay vui vẻ.

Chợt Mouse hỏi lại: “Này ông bạn, ăn mặc gì lạ vậy?” Leonard xòe tay che ngang trước ngực, nhìn xuống bỡ ngỡ.

“Chú bảo sao nghe vậy, ông bạn” gã nói.

“Tớ hiểu”.

Bọn tôi được mời vào.

Bà chủ quán da đen đứng trên bục cao, bồi bàn, nhạc công đứng phía trước, trên sàn nhảy có đông đủ khách.

Mouse tìm bàn ngồi, tôi chặn lại bảo: “Chúng ta ngồi vô quán bar đi!”.

Tôi gọi mấy chai uýtky, Mouse uống bia.

“Chỗ ngồi ngon đấy hở, Easy?”

Hắn tươi cười đưa mắt nhìn quanh. Bên trong quán bar sân rộng rãi, trần thấp sơn một màu đen từ dưới lên trên. Mấy em phục vụ mặc váy satanh trắng, bồi bàn mặc đồ tuxedo.

Khách đang ùa vào tấp nập. Ban nhạc chơi nhạc jazz giật gân, không như lối chơi nhạc nhà thờ của ban LipsMcgee. Giữa nhà treo lơ lửng quả cầu thủy tinh vàng rực phát tấn những chùm tia sáng liêu trai mờ ảo. Ta bỏ ra một kỳ lương hai tuần lễ cũng đáng để được ngồi một đêm ở quán bar Tiny Bland’s.

“Làm sao cậu biết mặt hắn?”, tôi hỏi Mouse.

“Tớ bám chỗ này khá lâu”.

“Lâu mau?”

“Từ bữa Terry Peters bị giết chết”.

Chỉ vì hai ngàn đôla Mouse giết chết Terry tiếp theo sau một cuộc tranh cãi ngoài đường phố.

“Cậu định ngồi lâu không?”

“Chờ lúc nào có vụ nữa rồi bọn cớm nhốn nháo cả lên”.

Quầy bar trải dài một màu đen bóng. Dưới chân chúng tôi, Crew Cut đang ngồo uống kể chuyện cho con bồ da trắng nghe.

Con bé thì lo liếc đưa tình với anh chàng ngồi bàn kế bên.

Không hiểu sao con bé này giở trò mồi chài lắm chuyện, chắc là nghề nghiệp nó phải vậy? Còn anh chàng kia người tầm thước nhìn bộ vía coi bộ bặm trợn không phải vừa. Đầu tóc bù xù, để bộ ria mép mỏng dính. Gã đưa mắt nhìn lơ đãng dù đang chăm chú hướng về phía con bé da trắng đang ngồi. Không ai để ý vết sẹo sâu dưới cần cổ, một vét sẹo dài răng cưa ngay dưới cổ họng khó nhìn ra, mờ mờ một thứ vàng nhạt hơn là nước da ngăm ngăm trên người hắn.

Tôi đoán không chừng có khi do tai nạn xe hay là hắn đã từng đi lính bị thương. Lạ hơn nữa vì anh chàng to con lực lưỡng bị ra máu nhiều mà sống được cho tới nay. Nhìn thấy gã đang cười nháy mắt với con bé da trắng còn anh chàng Crew Cut mồm cứ khoe vừa gắn thêm cái radio trong chiếc ôtô Pontiac.

“Easy,” Mouse gọi. Tôi quay lại, hắn đang đảo mắt nhìn quanh bên trong.

“Gì hả?”.

“Không thấy hắn đâu, cậu ơi!”.

“Ta ăn mặc xềnh xoàng thế này, Raymind”.

“Tớ còn ngon lành”.

“Cậu thích mò về lại với con bé trong căn hộ ọp ẹp đó chứ gì? Cậu thích vậy phải không?”

Mouse đáp: “Tớ biết cả rồi”

“Nhỡ nó đem thằng bồ vào nhà lúc nửa đêm thì sao? Lúc đó cậu tính sao?”

“Làm sao thì cậu hiểu mà, Easy? Tớ thì giải quyết nhanh”.

“Này tên kia, vừa thôi chứ!”, có tiếng ai nói sau lưng, nghe có vẻ giận dữ, tôi bước lùi lại.

Anh chàng Negro nước da nâu nhạt kéo tay con bồ hắn ra khỏi chỗ anh chàng cổ sẹo kia, hắn đang dang tay ra ngửa hai bàn tay lên trời, nhếch mép cười, kiểu cười y như Mouse. Thế là nguyên cả ly uýt ky va đập trúng vào tay; tay tôi muốn tê cứng không cục cựa được.

Con bé trước mặt nhanh chân phóng ra ngoài còn tôi phản ứng không kịp. Anh chàng cổ sẹo nhấc tay lên giương nắm đấm vô ngay tên đầu đinh. Tôi cảm thấy một cú đòn tung trúng vô ngực từ cái lưng anh chàng Negro da nâu nhạt kia dội lại, đụng đầu vào dưới cằm. Hắn lấy đà dựa trên thân người tôi tung người ra phía trước.

Hắn tung tròn trật lất.

Hắn vừa ngả xuống sàn máu mũi chảy tùm lum. Mọi người xúm lại bao quanh hai đối thủ không ai có thể bỏ đi đâu được. Anh chàng Negro đầu đinh té ngửa, nằm thở dốc chống hai cùi chỏ, còn anh chàng cổ sẹo khom người lại mắt nhìn lơ láo. Tôi chợt nhớ cũng một cái nhìn như thế đó hồi còn chiến đấu ở một trận Bulge bên Châu Âu. Lúc đó tôi nằm dưới chân một tên lính Đức định kết liễu một phát súng.

Anh chàng cổ sẹo thò tay vô túi áo jacket.

Còn anh chàng negro nhìn theo nhếch mép cười. Anh chàng kia rút con dao bấm ra nhích tới.

Chợt một tiếng thét vang lên.

Anh chàng Negro rút súng ra nhắm bắn.

Thế là anh chàng tay cầm sao không còn nhìn thấy ai nữa. Hắn vừa bị hạ gục, tay sát thủ nhanh chân tẩu thoát; hắn chỉ còn có nước buông dao xuống.

Tôi chưa thể hiểu, anh chàng Negro vừa nhếch mép cười kia rút súng ra bắn trúng đích. Một phát đầu anh chàng sẹo cổ quỵ xuống. Bùm!... đầu gục xuống. Bùm!... chiếc cằm che hết sẹo cổ. Phát thứ sáu hắn ngã gục người xuống sàn.

Còn tên Negro kia trên môi vẫn giữ một nụ cười. Mọi người nhốn nháo bỏ chạy, vấp ngã. Một bà to béo ngồi khụy người xuống trong góc nhà. Con bồ da trắng vụt chạy ra cửa, còn tên kia lê bước đi không nổi. Một lát sau gã gượng đứng dậy được. Gã đưa tay phủi sạch quần áo một cách tự nhiên, vỗ nhẹ lên cánh tay và đầu gối, đút súng vào túi bước rồi tới ngồi vào quầy bar, giờ này quán bar vắng khách.

“Thôi ta về đi!”, Mouse xích lại nói “Bọn cớm tới bây giờ đó. Cậu nên nhớ tớ không thể trả lời những thắc mắc lúc về với Marlene”.

Được tận mắt nhìn thấy một cuộc thanh toán với Mouse chẳng khác nào Randall Abernathy nhìn thấy một con bò ngã bệnh. Chúng tôi là những tên Negro nghèo mạt đã từng sống chung với cái chết ngay từ thuở bé. Nhưng với Mouse thì khác hơn, hắn chấp nhận sống chung nó. Với hắn nhìn thấy cái chết như nhìn trời đổ mưa.

Tôi muốn ra về nhưng còn ám ảnh bởi cái chết vừa rồi. Mọi thứ diễn ra theo trình tự logic. Chuyện giết nhau vì đàn bà đã có từ trăm ngàn năm trước. Tôi tự hỏi sao hắn không thèm tìm một con bồ khác? Sao hắn không bỏ chạy?

Bọn tôi ra về lẫn trong dòng người ngoài phố. Tôi nghĩ trong đầu biết đâu gặp gỡ gã Saunders tại đây?

Chưa tới mười phút sau xe cấp cứu đã tới. Cảnh sát tới trước đó vài phút, xô đẩy tên sát thủ. Tôi không chắc có tóm được hắn không, gã vẫn còn ung dung, tay chưa bị còng.

Mouse đứng nói chuyện với gã gác dan, tôi dạo qua tìm anh chàng để bộ râu xồm xoàm. Tìm mãi không thấy.

Tôi nhớ mặt hai tên du côn đứng bên kia đường dòm ngó vô quán bar lúc nãy, đang nói chuyện với mấy khách quen. Tôi chợt nghĩ ra biết đâu bọn chúng biết vì sao có vụ án lạ lùng nên tôi lại gần giả vờ nghe ngóng.

Một tay ăn mặc lịch sự kể chuyện.

Gã nói: “Ờ. Tên để đầu đinh nhìn thấy anh chàng nọ nắm tay con bồ. Hắn liếc nhìn chiếc áo con bé rồi thè lưỡi liếm môi…”.

“Ờ, ờ” một tên mặt mũi đần độn nói: “Gặp tớ, tớ phải giết hắn thôi. Ông đồng ý không? Hắn rủ rê con bé rồi hắn chổng mông bước đi. Đâu có được vậy”.

“Bọn chúng mày”, một tên mặc áo pull nói.

“Kéo nhau vô đây định giở trò. Cứt bò, dám giở trò với con bé, còn đòi giết Bobby Lee”.

“Mày muốn ám chỉ ai?”, tôi quay qua hỏi.

Nhận ra được giọng nói hắn chăm chăm nhìn tôi. Có thể hắn vừa nhận ra ông sếp đã bỏ việc.

“Thằng Saunders!”, hắn muốn nghẹn họng.

“Có phải anh chàng để bộ râu xồm xoàm?”, tôi ra dấu dưới cằm cho hắn nhìn thấy.

“Ờ”

“Hắn quê ở đâu?”.

“Mà ông là ai mới được chứ?” Một tên khác xen vô. Hai tên ban nãy bỏ đi. Tôi chợt nhớ bọn chúng cũng bảnh lắm mà, tôi nên từ giã cái nghề này.

Tôi cần phải thanh toán hết bọn này, bọn ngựa non háu đá, có tên đã có tuổi. Tên ngồi bên trái hay tay bài ra dưới ánh đèn. Tôi đủ sức chọi lại. Tôi có thể bị giáng trả một đòn chảy máu tới mũi nhưng bọn này tôi bóp chết như ngóe.

Bọn chúng tản ra nhìn hai bàn tay và cả mắt tôi. Tôi đoán bọn chúng muốn thoát thân hay có thể là muốn trêu tôi.

Tôi thò tay vào túi móc ra hai tờ năm đôla chia cho mỗi tên.

“Chú mày đoán biết anh chàng Saunders từ đâu tới? Ta muốn biết quê hắn ở đâu?”, tôi hỏi.

“Hắn nói đùa đấy”, tên đứng trước nói xen vào, rồi chìa tay ra chớp lấy một vé.

“Ờ, hắn ăn nói không ra hồn “ong” lại ra “oong”. Tên kia nói.

“Anh chàng đó vừa tới đây đã bỏ đi rồi sao?”. Tôi hỏi cả hai. Có được tiền trong tay cả bọn tính bài chuồn, nhìn cặp mắt bọn chúng tôi hiểu ra ngay.

“Ấy, oong ơi, tôi đâu có lấy tiền để canh chừng cái thằng mát ma đó. Đồ cứt bò!”, giọng hắn chả chớt.

Nói xong hai thằng nhóc chuồn lẹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Vừa nghe chuông reo tôi nghĩ trong đầu phải ăn nói thế nào đây? Nhà bên cạnh đang mở tiệc có hai cặp bồ bịch. Ánh đèn néon nhà trọ chiếu hắt qua tấm màn che cửa sổ mỏng manh.

Mouse đang ở nhà Marlene, tôi đã cho hắn xuống xe như mọi khi.

“Alô” Quinten nhấc máy, giọng khản đặc.

“Xin lỗi ông, tôi đang có việc cần”.

“Đang ở đâu vậy?”

“San Francisco”

“Tìm ra Saunders chưa?”

“Ồ, thấy rồi”.

“Muộn mất rồi, Easy, tôi không đùa với ông đâu”.

Có lẽ cha của gã đã từng nói ra câu chuyện này khi Quinten mới tập tễnh vào nghề.

“Hắn chết rồi!”.

“Ở đâu vậy?”.

“Đang để tại nhà xác Oakland”.

“Chắc không?”.

“Chắc chứ. Chính mắt tôi nhìn thấy. Bọn chúng khiêng hắn đi phủ tấm ra trắng kín tận đầu”.

“Ông biết ai giết hắn?”

“Chả biết là ai. Bọn cớm đã khử luôn tên cưa”.

Đầu máy bên kia im lặng. Tôi không thấy cần phải lo lắng cho số phận hắn khi được tận mắt nhìn thấy hắn bị hạ gục tại một điểm xa xôi.

“Nhớ có mặt ngay tại Sở cảnh sát đóng tại Oakland đúng giữa trưa.”

“Ông đang ở đâu vậy?”.

“Tôi cho số điện thoại nhà trọ”.

“Nhớ có mặt đúng giấc trưa nếu có gì thay đổi tôi báo lại”.

“Ok, Quinten. Khá lắm, tôi sẽ đúng hẹn. Nếu đúng ngay đối tượng nhận tiền thưởng, tôi yêu cầu không cho ai ăn theo”.

“Không có ai đâu!”, gã nói xong gác máy.

“Alô”, giọng nàng nói thật khẽ, êm tai như mời gọi.

“Kìa, cưng anh làm em thức giấc”.

“Easy hở?”.

“Ồ anh đấy cưng?”.

“Chừng nào anh về?”.

“Độ chừng ngày mốt ngày kia gì đó. Chắc đến tối mới về tới. Em dậy rồi à?”.

“Chưa”.

“Có thức khuya không?”.

“Khó ngủ em xuống bếp dọn dẹp”.

“Thương lắm nhé cưng! Anh sẽ kể cho em nghe đủ thứ chuyện”.

“OK”, nàng nói nhỏ.

“Anh kiếm được nhiêu tiền đây, cả tiền cho em. Không bao giờ anh…?”.

“Chừng nào anh về, Easy?”.

“Nói ra bây giờ sao?”.

“Em không thích nghe nói trên máy. Anh về đi, Easy!”.

“Thương em lắm!”.

“Chờ anh về tha hồ nói”, nàng nói nghe rất nhỏ.

Sáng sớm tôi đến nhà Marlene.

“Mẹ còn ngủ”, con bé tóc vàng nhớp nhúa, nói.

Nó mới bây lớn đã có giọng rất khinh người. Nó ghét bọn đàn ông lạnh nhạt và oán trách cái tính xảo trá của mẹ nó.

“Nhờ cháu nói giúp với ông Mouse là…”

Nó cúi mặt xuống sàn nhà.

Tôi rút một đồng tiền năm mươi cent cho nó. Sao mặt nó nhăn nhó mãi, mắt tròn xoe đỡ lấy đồng tiền định bỏ đi nhưng tôi kịp níu tay lại.

“Nói lại với bố, bác sẽ quay lại bốn giờ chiều nay, OK?”.

“OK”, nó nhìn xuống tay tôi. Bỗng nó vụt chạy vào nhà gọi tên con chị nó. Ezekiel Rawlins” tôi phải nhắc lại tới ba lần nàng Crasshaw mới hiểu.



• •

“Nhờ ông nói rõ hơn nữa”, người thư ký tin cẩn, tóc bạch kim mới hỏi lại tôi, mặt lạnh như tiền.

“Tôi không biết nói gì hơn”.

“Sao?”.

“Từ nhỏ tôi không được học hành, mẹ tôi lo hết. Chưa có ai nhờ tôi đọc ra từng chữ một bởi lần đầu tôi mới nghe”.

Tôi đứng đó trên người mặc bộ đồ màu nâu mới tanh, chiếc áo sơ mi màu kem, nút áo măng sết bằng vàng y, giày mốt, vớ sọc, thắt chiếc cà vạt hàng siu vẽ tay thắt nút rất điệu nghệ.

Tay thư ký lõi đời này chỉ nhắc tên mỗi mình tôi. Tôi ngồi chờ từ nãy giờ hơn cả tiếng.

Tôi phải ráng nói ra sao cho đúng giọng dân da trắng “Nhờ bà nói giúp giùm với ông sếp. Đây là một việc lạ lùng, ông Quinten Naylor cảnh sát viên ở Los Angeles nhờ tôi tới đây gặp sếp bàn chuyện một vụ án ở Los Angeles nhưng lại giống như ở ngay trong cái thành phố xinh đẹp này”.

“Vậy ông nên trở về địa phương báo cáo lại mọi sự việc tại đó”. Nói xong bà cúi nhìn chỗ khác để tôi hiểu ý, tính bề rút lui cho được việc.

Tôi vẫn cố nán lại.

Chợt bà hỏi tên.

Tôi lặp lại rõ ràng từng chữ, bà gọi ngay người giúp việc báo cho ông sếp.

Bà quay lại nói, ông sếp đã nghe tên nhưng không biết tôi là ai.

Tôi phải nhắc lại lời yêu cầu một lần nữa.

Bà lại hỏi tên.

Suýt nữa thì giữa tôi và bà đã có chuyện ân oán, nếu không nhờ có người trợ lý ngài phó thị trưởng cho hay một nhân viên sở cảnh sát L.A. có quan hệ trước đây với ngài thị trưởng đang chờ người liên lạc bên L.A qua.

Nàng Granshaw đành nuốt giận, nối máy cho tôi nói chuyện, hai hàm răng nghiến chặt nghe ken két.

Vì đây là lần đầu tiên nàng phải tiếp một vị khách Negro như tôi. Tôi phục vụ vì tinh thần cầu tiến. Có phải đây là người ở Los Angeles, người đang có lệnh truy nã?”, ngài thị trưởng Wayland T. Hargrove hỏi tôi.



• •

Tôi đang ở trong nhà xác Oakland City bên chiếc bàn để xác J.T Saunders, trần truồng, thân hình lổ chổ, xông lên mùi rau quả thối sắp lên men.

Mắt hắn vẫn còn mở trừng trừng, đầu ngoẹo qua một bên. Vết thương dưới cổ chưa đến nỗi phải chết ngay.

“Hắn đây rồi, thưa ngài, chính tôi nhìn thấy hắn bị bắn, tôi nhìn thấy luôn cả thủ phạm. Có thể cho đây làmột trường hợp tự vệ hay không?”, tôi lên tiếng.

“Chuyện đó không cần thiết, chúng tôi muốn biết có phải nạn nhân đây là thủ phạm vụ giết mấy cô gái tại bãi biển South Bay”, ngài Bergman đến từ văn phòng ngài thống đốc nói. Ngài đến ngay nhà xác Oakland sau chúng ta mấy phút.

“Ngài cho là vụ án bên L.A?”.

“Không, Easy. Năm rồi tại đây xảy ra là ba vụ nạn nhân đây là một nghi can”. “Có phải vụ án mấy con bé da đen”, Quinten Naylor xen vô.

“Tất cả là nạn nhân!”, Quinten nhìn vô mắt tôi. Gã muốn thấy tôi giữ im lặng, tôi hiểu lý co vì sao. Gã cần phải làm rõ những vụ án ở L.A trước lúc không còn khả năng ở lại đây tiếp tục nhiệm vụ. Rất có thể một cuộc tranh luận nổ ra giữa hai bên là ngài Wayland T. Hargrove với ngài Bergman.

Tôi cảm thấy chán nản hỏi: “Sao?”.

Thị trưởng Gargrove nhướng mày khó chịu, trước thái độ của tôi. Ngài mặc áo sơ mi xám sọc, tóc bạc phơ.

“Nạn nhân đây là đầu đề mọi chuyện rắc rối xảy ra ở South Bay mười lăm năm về trước. Hắn bị tù năm năm vì tội ngộ sát, tình nghi là thủ phạm vụ giết vợ lớn nhưng không đủ chứng cứ buộc tội. Hắn còn bị giam giữ để điều tra về mấy tội sát thương, nhưng… ngài Hargrove nói chung chung.

“Chắc là ông nhắc lại vụ án mấy con bé da đen bị giết cùng một thủ phạm mà không ai hay biết?”.

“Cho nên ngài thống đốc mới phái tôi qua Los Angeles đó, ông Rawlins. Chúng tôi nắm vững vụ án ở Oakland, nhưng đến lúc xảy ra đồng thời bên Los Angeles mới thật là điên đầu”, ngài Bergman nói.

“Khác nhau ở chỗ, lần này nạn nhân là con bé da trắng”, tôi cười khẩy.

“Tối cẩn thận, này ông Rawlins, giữ kín công cuộc điều tra. Không có bằng chứng cụ thể nào chứng minh chỉ có một thủ phạm”.

Tôi phải giữ im lặng để củng cố sức lực nếu không thì tôi sẽ bóp nát đầu tên này.

“Chúng tôi hiểu”, Roland Hobbes nói. “Chúng tôi cần có bản lăn tay để so lại với dấu tay của những tên liên can trong vụ án Scott”.

“Tất nhiên, phải làm thôi”, ngài thị trưởng nói.

“Còn, thủ phạm lần này thì sao?”, tôi hỏi lại.

“Đấy là nhiệm vụ của Sở cảnh sát Oakland”, ngài Bergman nói.

“Tôi hiểu, thưa quý vị, tôi hiểu, dường như đó là nhiệm vụ tôi phải lo”.

“Hãy nhớ lấy, Easy, Ông chỉ là khách mời”, Naylor vừa thở dài vừa nói.

“Có quý vị nào đây vừa khám phá một vụ án rồi dập tắt đi. Còn nếu quý vị nào tham gia vô vụ này thì sao?”.

“Không phải vậy”, ngài trợ lý nói.

“Làm sao ông biết được?”.

“Vì hắn là một tên cớm”.

Tôi nghĩ biết đâu hắn đã lấy búa tạ nện vô đầu mình nát như tương rồi tắt thở luôn.

Ngài Bergman vừa đưa mắt nhìn vừa cười.

“Một tên cớm à!”.

Ngài Bergman tằng hắng nói: “Tôi chúc các bạn hoàn thành nhiệm vụ. Nếu các bạn có vướng mắc điều gì cứ hỏi tôi. Cho tôi gởi lời thăm ngài tới Voss và cảnh sát trưởng Violette”.

Ngài quay lại, hai bên là một đám vệ sĩ, cảnh sát cùng với người trợ lý, Ông trùm, Bergman cất bước theo sau còn lại bên trong nhà xác là Quinten Naylor, Roland Hobbes và tôi cùng với một người gác dan và ông bác sĩ vừa từ sân chơi golf tới đây chứng kiến cuộc khám nghiệm tử thi.

“Ông đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục chưa?”, ông bác sĩ hỏi lại Quinten.

“Ôi, Quinten đáp, nhìn về phía xác chết khó chịu.

“Tôi lo việc này”, Roland Hobbes nói.

Gã soạn đồ nghề lấy dấu tay ra. Quinten khều nhẹ tay tôi gã nói: “Ta ra ngoài, có việc tôi muốn nói”.

Ra ngoài nhìn thấy Quinten đỡ hơn một chút, gã sợ xác chết nên tìm cách tránh xa.

“Thế được rồi, Easy”, gã đứng lên nói.

“Xong à?”.

“Xong phần công việc của ông. Còn việc thẩm vấn để tìm ra thủ phạm giết Saunders là của chúng tôi, nhiệm vụ ông đã xong. Nếu muốn, ông ở lại đây cũng được, tôi thì nghĩ là không cần thiết, thật đấy”.

Bỗng tôi liên tưởng đến lúc Marlene nhìn thấy Mouse trở về chạy ra mở cửa, nàng mừng rỡ khôn xiết.

“Còn tiền thưởng đâu?”.

“Để tớ nói cho mà nghe, nếu kết quả điều tra cho thấy chính hắn, số tiền này cậu lấy hết”.

“Phần tôi và Mouse. Hắn đang trông tôi về”.

Chợt Quinten nhăn mặt hỏi: “Anh chàng đó đang ở đâu?”.

“Chỗ nào cũng thấy hắn. Khó mà nói”.

“Thôi được rồi”. Quinten không thèm nhìn tôi. “Ta sẽ tính sau. Ông có vé máy bay về chưa?”.

“Tôi có xe, với lại còn mấy điều cần hỏi cho ra”.

“Bọn chúng chờ giết ông đấy, Easy. Không đùa đâu”.

“Ông biết ai phái tay đó tới đây, Quinten?”.

“Tôi không biết, tôi gọi cho Violette rồi ông ta đi báo cho Voss và Bergman. Ngay sau đó, chúng tôi họp nhau bên trong tòa thị chính và nghe một cú điện thoại từ Oakland gọi tới. Chẳng có ai hỏi gì tôi về việc đó”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Giữa ban ngày, mà phố Queen Anne trông thật nhếch nhác. Người dân ngồi đầy trước cửa nhà, nhìn ai lạ đi ngang qua, nhìn cả tôi. Không có ai đi qua thì họ nhìn nhau cho đỡ buồn. Bọn trẻ chạy nhảy la lối om sòm bên chỗ bãi đất trống. Bọn con trai chơi trò đánh nhau còn bọn con gái ngồi coi nửa thích thú, nửa ái ngại.

Tôi tới ngay nhà Marlene. Đang đi sực nhớ mình đã lạc đường. Thay vì quay lại dãy nhà chung cư tôi lại lần theo con hẻm tráng xi măng, tới ngay địa chỉ bữa hôm nọ.

Cửa vừa mở tôi nhìn vào thấy một bà lão ngồi trên ghế bố. Nhìn vào sâu nữa, sau lưng bà rất đông người lui tới lăng xăng.

“Ông là ai vậy?”, bà lão hỏi.

Tôi tươi cười đáp lại hỏi tử tế. “Chào bà, tôi đến tìm bà Saunders”.

“Ủa sao lạ vậy?”.

Tôi nhớ lại gương mặt lạnh như tiền của cô thư ký già tên Cranshaw. Một người da trắng còn bà cụ này da đen nhưng hai cách nhìn lại như nhau.

“Tối qua tôi ghé lại đây, bà ta có nhờ tôi nhắn tin cho ông James. Nhưng tôi thể làm theo lời bà và ông ta đã bị giết chết từ lâu rồi”.

Mái tóc bạc hói ngay giữa đỉnh đầu.

“Ông cho biết quý danh?”.

Tôi cảm thấy rùng mình một hồi, chợt quên mất cái tên tự đặt. Nhưng tôi giữ được bình tĩnh và nhớ lại ngay. Thưa “Greer, bà cứ gọi tôi là Martin Greer”.

“Đến cái tên cúng cơm của ông mà cũng không nhớ ra nổi hay sao?”, bà cụ vặn lại. Tôi lấy làm lạ có phải mẹ của nàng đã từng tiếp đón một người như Mouse trong những ngày nàng lo chăm sóc người em trai.

Tôi nghĩ mãi vẫn không tìm ra câu trả lời. Chợt bà đứng dậy bỏ đi vào trong; một tay xách theo chiếc ghế còn tay kia khép cửa lại.

Lúc cửa mở ra lại, tôi càng sửng sốt. Người đàn bà tôi gặp đêm hôm trước nay mặc bộ áo đen chấm sát đất. Hai bên hông nở ra, mắt sưng vù trông rất đau đớn.

Còn tôi chỉ là một tên vô tích sự.

“Ông đến có việc gì?”, bà cất tiếng, mặt hất lên câng câng.

“Tối hôm qua tôi có đến đây”.

“Tôi nhớ ra rồi, ông Greer, còn ông kia đã chết rồi, tôi không còn nhờ ông nữa”.

Ngay lúc này mà bà khóc rống lên chắc là tôi bỏ chạy. Làm sao có thể nói lời an ủi với hạng người này.

“Tôi biết cả rồi!. Chính mắt tôi đã nhìn thấy hết mói việc”, tôi nói.

“Mà sao ông lại tỉnh như sáo vậy?”, bà nói với nước mắt lưng tròng.

“Làm sao tôi trở tay kịp…”

Bà gật đầu.

“Y như là”, như là…, tôi không nói ra được.

Bà dang hai tay ra tôi bước lại gần.

“Ông nói cho tôi biết!”, giọng bà nhỏ nhẹ.

Tôi kể lể. Ngay lúc đó tôi sực nhớ lại bàng hoàng có phải tôi là đầu mối của nỗi khổ đau mà bà phải gánh chịu.

“Chính ông nói rằng hắn cầm súng trên tay nhắm vào người James Thomas kia mà?”.

“Ồ”.

“Sao hắn đòi giết ông ta?”

“Làm sao tôi biết?”.

“Không, không thể được!”, bà gào thét.

“Ngay bữa đó tôi ra Sở cảnh sát khai báo. Tại đấy tôi mới hay cảnh sát truy nã kẻ mang tên J.T, là nghi can trong mấy vụ án ngoài bãi biển South Bay”.

Bà nhìn qua tôi.

“Chính hắn là thủ phạm giết mấy con bé ở L.A”, tôi nói.

Tôi kể lại ngày tháng mấy vụ mới xảy ra gần đây.

“Làm gì có chuyện đó?”.

“Hắn còn đây không?”.

“Lúc trước không thấy, chỉ mới gần đây như ông vừa kể. Bữa đó, hắn ở lại đây với tôi cả ngày.

“Chắc không”.

“Hắn ở lại đây mà”.



• •

Marlene ôm hôn giã từ Mouse thắm thiết, tôi ngồi trong phòng nhìn ra thấy hết. Mouse có duyên với đàn bà, vì hắn có lối sống trơ lì. Còn bọn tôi có lúc phải nhờ vả hắn, coi hắn như là vị cứu tinh. Hắn là giấc mơ như trẻ nhỏ thường mơ thấy. Hắn có tài làm cho người khác tin vô điều thần bí. Hắn là con quỷ để cho người ta đem bán rẻ linh hồn cho nó mà không thấy hối tiếc.

Bọn tôi về lại khách sạn, dùng bữa với gà rán và món sườn nướng mua ngoài quán Fat Carlie. Bữa đó nhằm tối chủ nhật, ti vi đang chiếu chương trình Ed Sallivan.

Món ăn dở ẹt lại thêm chương trình giải trí nhạt phèo.

“Cậu gặp chuyện không ổn hả Easy?”. Ăn xong Mouse mới hỏi tôi.

Phòng kế bên những người phụ nữ làm việc nhẹ, nhằm hôm nay nghỉ cuối tuần. Tiếng kêu khe khẽ gầm gừ dội qua bên này “Ôi, cưng ơi”.

“Có gì đâu?”

“Không à? Sao nhìn cậu phờ phạc vậy?”.

“Bọn chúng giết hắn rồi!”.

“Giết ai?”.

“Saunders. Bọn chúng còn đưa tớ ra để dựng chuyện”.

“Ai bảo thế?”.

“Làm sao biết được. Biết đâu Quinten hay là đồng bọn kéo tới nhà tớ, có khi là hết cả lũ, tớ đoán chừng vậy. Một tên đã giết hắn. Bọn chúng sau khi gặp tớ, hỏi được tên rồi giết hắn luôn:.

“Vậy là?” Mouse cảm thấy nhức nhối vì mọi chuyện đều do tôi gây ra.

“Lỗi hoàn toàn tại tớ mà ra!”.

“Bọn chúng giết luôn mấy con bé, đúng không?”. Mouse thở hắt ra một hơi “Tớ thề sẽ lấy mạng nó cũng vì chuyện đó”.

“Bữa đó hắn sẽ có mặt tại phiên tòa. Tòa xử thủ phạm giết mấy con bé và không ai hay biết riêng cái chuyện đó. Vì vậy bọn chúng mới giết hắn luôn. Bọn chúng không muốn thấy một phiên tòa mở ra mà thủ phạm còn ung dung ngoài vòng pháp luật”.

“Hắn chết rồi, Easy, thế là hết!”.

“Chưa hẳn là vậy”.

“Không, không phải, không nên nói vậy, Easy. Công lý chưa hề được ban phát cho bọn Nigger cho đến ngày vùi sâu dưới huyệt mộ. Nhìn quanh đây, đâu đâu cũng vậy thôi”.

“Vậy cậu bảo là tớ đành bỏ cuộc?”.

“Cậu không thể làm khác được”.

“Tớ sẽ không lùi bước chừng nào cậu còn ngồi tù, Raymond, tớ sẽ bảo lãnh cậu”.

“Ơ – hơ. Cám ơn! Bọn chúng mình kết nghĩa, cậu hiểu chưa. Cứt bò! Đừng có chơi xấu bạn tao không thì tao chửi cho một trận”.

Thế là cho qua đi. Mouse làm sao hiểu được hai chữ tội phạm, là trách nhiệm chung chung mơ hồ. Hắn dám chống lại cả một đám đông người để bảo vệ tôi với Etta Mae, vợ cũ với thằng con trai Lamarrque. Hắn bất cần luật lệ vì lo cho bạn bè. Mouse làm gì biết tới hai chữ đạo đức, nói chuyện đạo lý với hẳn chẳng khác nào giải thích cho anh mù hiểu màu đỏ là gì.

À nghĩ lại hắn nói nghe có lý, tôi ráng học theo. Thấy cái phải là tôi làm. Tôi biết được kẻ giết chết mấy con bé da đen. Tôi làm theo.

Tôi không mượn tay bọn cớm, tôi không hợp tác với bọn chúng nữa, bấy nhiêu đó thôi. Tôi còn lo cho vợ con. Thì ra thủ phạm chính là Saunders; ngay từ lần chạm mặt đầu tiên tôi đã nhận ra hắn.



• •

Tôi phải lo ngủ sớm. Nửa đêm Mouse thức dậy, hắn ngồi dưới chân giường miệng hút thuốc. Tôi lắng nghe hắn thở ra, bên kia mấy bà còn nói chuyện rôm rả.

Một lát sau Mouse bước ra ngoài, rồi tôi nghe tiếng một bà hỏi “Ai đó?”.

“Người phòng kế bên đây, tôi đi lấy chai rượu Jim Beam”. Mouse nói.

Cửa mở ra, mấy bà cười rộ lên. Bữa tiệc rượu tới sáng sớm mới tàn. Mấy bà chỉ biết vô giường ngủ lại. Thế rồi Mouse tìm về nhà tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Chặng đường đi qua vùng duyên hải cảnh vật nhìn đẹp mắt. Suốt cuộc hành trình Mouse nằm ngủ thẳng giấc.

Nghe tiếng máy xe và tiếng gió biển lồng lộng, vù vù qua cửa sổ chợt tôi sực nhớ lại vụ anh chàng J.T. Saunders. Chính hắn là thủ phạm, còn tôi được trở lại cuộc sống bình thường. Ý định của bọn cớm là muốn bưng bít vụ này, thật là một điều sai lầm, còn tôi không thể nào xoay chuyển tình thế khác đi.

Trưa nay trời mát mẻ, biển xanh thẳm. Ở ngoài bến cảng Ventura có tiếng máy bay vượt bức tường âm thanh, Mouse nhúc nhích người.

“Tiếng gì đó?”, gã hỏi.

“Không có gì. Cậu còn mớ ngủ”.

Hắn nhe răng cười nói: “Cậu bảo tớ phải tính thế nào đây, Easy?”.

“Sao?”

“Tớ lấy mớ tiền mua một chiếc T. Bird đời 57.

Tôi không đồng ý chuyện đó. Mouse là một tay biết ăn chơi.



• •

Tôi về tới nhà lúc năm giờ, không thấy xe Regina đậu ngoài này, cũng không thấy bà Gabby Lee với con bé Edna đâu. Cuối sân vườn còn nhìn thấy chiếc mô tô của Jesus. Mọi thứ trông yên tĩnh.

Tôi tậu được căn nhà này đã được mười năm nhưng đến ngày Regina về đây ở thì mới thành một gia đình.

Tôi còn nhớ lần gặp gỡ lần đầu. Bữa đó tôi đang có mặt ở câu lạc bộ Compton. Tôi có nhiệm vụ theo dõi anh chàng Addison Prine cho ông bố người yêu của hắn. Lão Tony Spigs biết anh chàng này có con bồ khác, nhờ tôi dò cho ra tên tuổi. Lão Spigs coi vậy mà cũng có máu ghen, lão muốn giữ đứa con gái bên lão, lâu lâu cho đi chơi. Lão Spigs là một tay thợ mộc lành nghề được Mofass thuê mướn tôi nghĩ bụng tính nhờ lão giúp một việc, trả tiền cao.

Addison đang ngồi ở bàn với một cặp nam nữ. Bàn kế bên, bà kia ngồi một mình, mặc trên người chiếc áo màu nâu giản dị. Trước mặt bà là cái ly với ống hút đã cạn, loại thức uống cặn lắng màu đỏ.

“Tôi ngồi đây được chứ?”, tôi chào hỏi lịch sự.

Nàng ngước nhìn, ánh mắt dịu dàng tôi thấy thương ngay.

Nàng nhìn tôi cười bằng mắt, rồi liếc quanh. Lác đác còn mấy bàn trống, giờ này quá xế trưa, quán bar Toucan chưa tới hồi cao điểm.

“Tôi thích ngồi bàn này!”, tôi nói ngay để nàng khỏi trố mắt nhìn.

Nàng quay qua chỗ khác, tôi ngồi xuống.

Addison đặt tay lên tay cô nàng ngồi chung bàn. Tôi gọi bồi mang rượu uýtky ra.

Regina không né tránh tôi, hình như là để mắt nhìn thẳng về phía trước chả thèm ngoảnh lại.

“Đừng, Nancy! Anh không quên em, anh đã mua vé sẵn trong túi”, Addison nói.

Cô nàng bên cạnh, ngực nở nang trong bộ đồ vải sọc carô chợt cười. Tôi chợt liên tưởng tới người yêu của Addison. Con bé Iona Spigs xinh đẹp môi miệng chúm chím, thích có nhà đẹp gọn gàng, thích đi lễ ngày chủ nhật.

Nancy thích để hai bàn tay nhớp nhúa. Nàng nghiêng người hôn lên má Addison rồi cười theo.

Tôi lắc đầu thở ra.

Người hẹn hò giả vờ ban nãy, liếc nhìn qua tôi giờ thì không nhìn nữa.

Tôi hớp một ngụm uýchky.

Nancy thè lưỡi liếm quanh miệng Addison.

Tôi ra dấu gọi bồi bàn. Gã tới đứng trước mặt tôi mới dạm hỏi người – vợ chưa – cưới bên cạnh “Em gọi thêm nữa đi?”

Nàng chìn chiếc ly không trên bàn gật đầu.

Tôi lại thở ra một lần nữa.

“Em sẽ tính thế nào đây?”, tôi nhìn vô chiếc ly hỏi.

“Sao?”

“Em tính sao nếu một người bạn có cô con gái định lấy anh chàng đang ngồi kia kìa?”. Tôi nghiêng đầu về phía Addison đang ngồi trong bàn.

Chàng với nàng nhìn nhau cười bằng mắt.

“Anh chàng đang hôn người con gái của bạn anh đấy hả”.

“Không biết có chắc không?”.

Giờ nàng mới cười đúng như, cái cười chân thật của người phụ nữ. Nàng ngã người ra sau, há hốc mồm chợt nàng nghiêng người ra trước gõ tay lên bàn, móng tay nàng không làm đẹp bằng nước sơn.

Tôi cười theo nhưng nét mặt không rạng rỡ. Người bồi bàn mang món uống ra.

“Anh mà tính toán gì được?”, Regina nói.

“Sao không?”, tôi hỏi vặn lại.

“Cô nàng chịu anh này, có lý lẽ của con tim mà có khi chính cô ta còn không hiểu nữa là”.

“Nếu anh chàng làm cho con bé thất vọng thì sao?”.

“Cô ta còn ở chung với người cha”.

“Thì ra con bé nó muốn được yên thân. Biết đâu nó muốn vậy?”.

Jesus đang ngồi ăn dưới bếp, hai tay đặt trên bàn. Nhìn không thấy món ăn nào, tôi bước tới xoa đầu nó mới nhìn ngước lên.

“Con ra ngoài chơi, không được ở trong này!”, tôi bảo nó.

Hai mẹ con Regina và Edna đi vắng, tôi lại càng thích. Tôi sẽ đi tìm về, có đông đủ mới vui cửa vui nhà. Con nhỏ Edna nhảy nhót trên chiếc ghế trường kỷ, còn thì Regina lo rửa chén bát.

“Em là người xuất thân từ tầng lớp nghèo mà không hổ thẹn”, có một đêm nàng nói với tôi. Rồi tôi sẽ báo lại cho lão Tony Spigs không tìm thấy anh chàng Addison đâu hết.

Regina không phải là người vợ lắm kế, nàng không biết bày trò mưu mẹo, không biết nhiều chuyện. Khi lấy nàng mọi thứ nơi người nàng đều thuộc về tôi. Nàng đến với tôi như con sóng vỗ bờ triền miên tràn đầy sức sống.



• •

Trên chiếc ti vi còn để lại mảnh giấy xếp đôi, đè lên chính trăm đô tôi giao cho nàng. Nhìn thấy vậy tôi hiểu ngay là đã mất tất cả.

“Anh Easy!

Thật khó mà xưng hô, một cách âu yếm ngay lúc này. Vì em đã có người tình mới. Em sẽ ra đi với chàng ta. Em muốn dừng lại mà chân em cứ bảo đi.

Easy anh thật là tuyệt vời, em đang đi tìm cái mà chúng ta không ai cho nhau được. Em yêu anh. Em yêu anh. Em yêu anh mà em cũng muốn xa anh.

Anh đừng oán hận gì vỉ em mang theo cả con bé Edna, nó cần có mẹ.

Vĩnh biệt anh”.

Cuốn từ điển còn để lại trên bàn. Nàng muốn tìm cho ra đúng cái chữ nàng chưa thể hiểu được. Tôi ứa nước mắt, hai chân muốn khuỵu xuống. Mãi một hồi sau ngẩng đầu lên thì Jesus còn ngồi một mình trơ trọi nhìn theo tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


áng hôm sau tôi ra siêu thị mua một bình Vodka, một thùng nước trái cây. Chờ Jesus đi học, tôi ngồi nhậu một mình. Tôi uống thoải mái như lúc tôi đang làm việc.

Nâng ly miệng nhấp nháp, rồi lại nâng ly cứ thế không ngừng nghỉ. Uống tới ly thứ hai mốt rồi, vẫn rót thêm.

Đến giữa trưa tôi lăn ra ngủ.

Jesus đi học về lúc ba rưỡi, nó đẩy cửa chạy thẳng vào buồng, quăng sách vở, thay quần áo. Lúc nó quay ra tôi níu tay lại nhấc bổng nó lên.

“Mày làm sao thế này, y như cái chuồng heo hả”.

Nó lủi thủi bỏ đi. Nghĩ lại thấy tội nghiệp nó, tôi đã lỡ say, mỗi lúc có chuyện lôi thôi tôi lấy rượu giải sầu.

Chuông reo lúc bốn giờ, thằng nhóc Jesus lật đật chạy vào, đứng nhìn theo. Tôi ngồi nhấm nháp, uống vài ly, chuông reo, cứ thế. Reo mãi cũng chán tôi bỏ mặc cứ đưa tay rót rượu ra ly.



• •

Jesus hâm nóng hai lon mì Spaghetti cho bữa tối, nghe mùi đồ ăn trong ruột tôi nó cồn cào. Tôi ngả lưng ra sau ghế một hồi.

Từ đâu vọng lại trong đầu, bài hát “trên bến cảng”, tôi đang ngâm nga theo giai điệu bài hát bỗng ngước nhìn thấy Mouse lù lù bước tới, như có phép mầu hiện về dưới bếp.

“Kìa Easy”, Mouse nói.

Jesus từ trên ghế nhảy xuống ôm chầm lấy anh chàng sát thủ điên rồ.

“Mouse”, tôi nhắc lại. Tưởng là nhìn ra hắn có tới hai khuôn mặt ai ngờ đâu mắt tôi chớp chớp, lờ mờ. Cả hai thứ giọng nói hòa quyện làm một thứ âm thanh cuồn cuộn bên trong gian phòng.

“Ngồi ngay lại đi nào! Cũng vì vậy mà Blacktoot Whitey nhào gãy cổ”.

“Nàng bỏ nhà ra đi”.

“Ờ. Tớ biết”.

“Thật à? Làm sao cậu biết?”.

Mouse ngồi ngớ ngẩn người ra một hồi. Sau những lúc hắn đăm chiêu như thế này là những lần hắn chuẩn bị ra đi gây án mạng. Vì vậy nhìn thấy tôi hắn càng lo, quên cả chuyện buồn giày vò ruột gan mình.

“Tất cả do Dupree”, hắn nói.

Mí mắt tôi giựt giựt, tim đập thình thịch. Đầu óc tôi đang nghĩ tới cảnh nàng đang nằm trong vòng tay lực lưỡng. Tôi cố nặn óc nghĩ ra hình ảnh nàng lúc không có tôi.

“Hắn bám theo nàng tại chỗ làm ở bệnh viện. Hắn là tay ăn nói bạo mồm bạo miệng nhất ở California…

“Sao cậu biết?”.

“Nàng Sophie kể lại, nàng giận vì một người anh em của mình làm hại bạn bè. Nhờ nàng cho hay tớ mới kể lại cho cậu nghe”.

Lúc đó Regina còn ở với tôi, giờ đây tôi vẫn còn thương nàng và mong nàng quay về.

Nghĩ tới nàng trong vòng tay Bouchard đầu óc tôi thêm ô uế. Một cảm giác ghê tởm, một sắc màu hỗn tạp phủ tràn lên mọi thứ quanh tôi, tôi muốn buồn nôn.

Jesus ngồi lại gần vòng tay qua cổ tôi, cọ sát vô một bên má.

“Tớ pha một ly nhé được không, Easy?”, Mouse hỏi.

Tôi chỉ gật đầu, không muốn nói. Vợ tôi đã bỏ tôi, ẵm theo con bé, chạy theo một thằng bạn. Không có bài hát nào trên đài nghe buồn não ruột như chuyện của tôi.



• •

Cái đêm hôm đó, còn in sâu trong tâm trí tôi. Tôi còn nhớ Mouse kéo tôi ra ngoài khoe chiếc xe B.Bird đời ’57 màu hoàng yến, mới cáo cạnh.

Hắn kể nhờ một tay cho vay nặng lãi ứng tiền trước; chứ chờ món tiền thưởng biết đến chừng nào mới sắm được xe.

Chợt nhớ lại mấy em khoe bộ ngực bên trong chiếc áo bờ lu rộng thùng thình, nhìn thấy lại những hình ảnh đó tôi muốn nổi gai ốc.

Tôi mơ thấy tiếng nhạc xập xình trên sàn nhảy nhìn lại mình mẩy tôi ướt đẫm mồ hôi.

Chợt nhớ lại anh chàng khóc lóc trên tay cầm con dao phay tiến lại gần tôi. Tôi nhích qua, giơ tay ra chột nhìn lại thấy mình đang ôm một em trong vòng tay. Nàng kề miệng vô tai tôi hét lên một tiếng. “Thôi đi! Dereck”.

Và rất nhiều giấc mơ nữa, những hình ảnh rời rạc, mờ nhạt. Tôi mơ thấy Mouse cười ngồi gần tôi trên xe. Hắn lao thật nhanh gió xé ngang rát cả mặt, tôi cười theo.

“Ôi, anh ơi!” giọng nói một em nào đó. “Thôi, đừng đừng”.

Từng tiếng một ra đập vô đầu tôi. Tôi mở choàng mắt ra thấy một em nằm đè trên người. Mặt mũi em đen đúa nhờ mái tóc vàng hoe óng ánh nên tôi mới nhìn ra em, nhưng mà em đang còn ngái ngủ.

“Ờ đấy đấy”, cũng giọng nói ban nãy. Chiếc giường chao đảo lúc lắc.

Nhìn qua bên trái là một em tôi chưa từng biết mặt. Nàng có đẹp hay xấu tôi không biết bởi đang lúc lên tới cực điểm khoái lạc. Nàng nằm một bên đưa mắt nhìn qua nhưng còn tôi thì không chẳng thèm để ý. Nàng đè lên vai trái Mouse cười, nhe hàm răng như con chó dữ. Hắn úp mặt vô người nàng toàn thân hắn khom khom chúi xuống, mồm con bé rên rỉ…

Tôi ngồi ngay dậy, xô em trên người qua một bên. Tôi bò xuống giường loạng quạng ra tới cửa.

“Ơ, kìa!”. Mouse gọi theo.

Con bé kia kêu lên một tiếng tôi chẳng thèm nghe, người một tôi làm lơ như xa lạ.

Mở cửa ra, ngoài trời mới mờ sáng tôi nhìn ra chỗ buồng tắm.

Một cảm giác tê buốt lúc tôi vừa đi tiểu, bụng thì đói cồn cào, thở ra cũng chảy nước miếng.

Chiếc thùng các tông ai quăng ra ngoài buồng tắm, tôi lỡ đụng chân hất nhẹ một cái nhức nhối tới giữa đỉnh đầu. Tôi đưa tay sờ lên mắt chợt nghe tiếng con nít khóc nó nằm ngủ trong thùng các tông.

Tôi cúi xuống bồng, trông nó còn nhỏ hơn con gái tôi. Tôi đưa chân đá vô cửa buồng ngủ lớn tiếng: “Ai bỏ con ngoài này?’.

Mouse đang còn ôm con bồ trên giường, không nhúc nhích. Nghe tiếng trẻ khóc người mẹ kia vùng dậy nhìn theo tôi.

Nàng cất tiếng: “Ông là ai?”.

“Con bà đấy phải không?”, tôi hỏi lại không một chút thông cảm.

Nàng chạy lại đỡ lấy đứa bé bỏ đi luôn. Miệng thì nói lắp bắp chửi, tôi thấy vừa giận vừa thương. “Mẹ mày!”.

“Sao bà đem quăng bỏ con vậy, chỗ buồng vệ sinh đó”, tôi quát.

Nàng xoay người qua, lại tìm chỗ đặt đứa bé.

“Con đẻ hoang, tao giết mày!”, nàng la mắng.

Nhìn nàng với tôi đang trần truồng cả hai mới tỉnh rượu.

“Suýt nữa là mất con rồi đấy”, tôi nói to.

Không làm sao đoán ra được hết ý nghĩ trên gương mặt người mẹ trẻ, mắt giựt giựt, môi miệng co rúm lại, nàng đứng đó run rẩy, đứa bé trên tay khóc òa.

Mouse chạy lại, trên tay cầm sẵn quần áo. Hắn kê xít lưng vô người tôi đẩy ra ngoài, đóng sầm cửa lại. Bên trong chỉ có hai em, hắn quăng bộ đồ cho tôi.

“Mặc đồ vào, Easy”.

Đứng ngoài này tôi còn nghe nó khóc. Tôi không thể nào để con mình khổ sở đến vậy?



• •

Lái xe đi được một đoạn không nghe Mouse nói năng gì hết dù có muốn tôi cũng không thèm nói.

Tới gần nhà Crenshaw hắn dừng xe bên lề. Mới hơn năm giờ, đường sá còn thưa thớt.

“Easy, tớ cần nói chuyện này với cậu”.

Tôi ngồi thở ra.

“Cậu không thể nào cứ vậy mãi, rượu chè cho nó khổ thân. Tớ muốn nói mọi chuyện đã rõ ràng, ta đã thanh toán xong anh chàng đó, còn con bé kia đã bỏ đi.

Tôi chợt nhớ Bonita Edwards ngồi dựa lưng vô gốc cây, một cách bình thản. Mouse lùi xe ra giữa đường, lái đưa tôi về nhà.

Tôi chẳng nói gì, hắn cũng im luôn.

Tôi đứng chờ bên ngoài một hồi mới vào nhà.

Jesus nằm ngủ trên chiếc ghế trường kỷ. Dưới sàn đồ chơi của con bé Edna còn bày đầy ra đó. Nó lấy chiếc gối nhỏ của con bé kê dưới đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Tôi nằm trên giường mắt cứ trao tráo, chợt tôi nhận ra được chính là mình. Tôi đang mơ thì phải, nghe tiếng chân người lui tới bên trong phòng, mồm huyên thuyên nói xấu tôi. Hết Regina tới Saunders rồi Quinten Naylor. Mỗi người kể một chuyện tôi không làm sao nói ngược lại được.

Tôi đưa mắt nhìn ra khung cửa sổ từ sáng tới khuya, bụng tôi nặng trịch, đầu mấy ngón tay tê buốt. Suốt đêm ngủ chập chòn, chỉ một lần tôi thức giấc dòm Jesus ngủ.

Căn phòng như có một phép lạ ma quái, tôi vừa liếc nhìn đồng hồ chỉ năm giờ năm thì chuông điện thoại reo. Nó reo, reo mãi.

Tôi vừa bước ra ngoài phòng khách để nghe thì Jesus đã ra tới ngoài này ngồi bên chiếc điện thoại hai tay khoanh trước ngực như đang cầu nguyện.

Tôi mặc cho nó reo một hồi thật lâu rồi mới nhấc máy.

Tôi đang nghĩ trong đầu phải ăn nói với nàng thế nào đây. Không hiểu do đâu chợt nghĩ ra được tôi thét lên một tiếng “Đồ con đĩ!”. Tiếp theo sau không còn tự chủ được tôi kéo nàng trở lại. Lấy hết sức lực tôi nhấc máy lên.

Tôi nhấc máy kề vô tai và thầm nghĩ, nàng phải lên tiếng trước tôi mới nói sau.

“Thưa ông Rawlins! Alô, có ai nghe không?”, giọng một người đàn ông.

“Ai gọi?”.

“Vernor Garnett đây, tôi là cha của Robin”.

“Ông có việc gì gọi sớm vậy?”.

“Xin lỗi ông, ngàn lần xin lỗi, chúng tôi nóng ruột, nên gọi cho ông, báo đài đồng loạt đưa tin Saunders bị giết chết và là nghi can trong nhiều vụ án. Hắn bị bắn chết trong trường hợp tự vệ tiếp theo sau một cuộc xô xát trong quán bar ở Oakland. Hắn là một tên côn đồ cực kỳ hung hãn, nhờ tài năng khéo léo của trinh sát Quinten Naylor dấu tay của y để lại hiện trường đã được đối chiếu so với những mẫu thu nhặt được trước vụ án Willia Scott. Thủ phạm chính là Saunders. Trước đó nhiều vụ án ở Oakland chưa được khám phá. Đến nay những người thân đã biết được hắn là thủ phạm giết chết đứa con gái, và hắn đã chết. Nhưng chính hắn là một công tố viên. Làm sao tôi có thể nói ra được hắn không thể tìm ra thủ phạm?”.

“Có việc gì rắc rối hả ông?”, tôi hỏi.

‘Tôi tới nơi khách sạn Robin ở lại tìm cho ra manh mối”.

Nghe ông kể tôi thấy xót xa, nghĩ tới đứa con mình vác thân tới cái xóm ổ chuột Hollywood Row cha mẹ nào không mủi lòng. Với tôi thì càng đau đớn hơn bởi tôi hiểu rõ hoàn cảnh một người cha mất con.

“Thưa ông Rawlins!”.

“Tôi nghe đây, thưa ông Garnett. Tôi thành thật chia buồn với ông, nhưng vậy cũng chưa đủ lí do vì sao ông phải bày tỏ riêng với tôi”.

“Robin, có một đứa con, theo chỗ tôi được biết là vậy”.

“Sao hả”.

“Tôi nghe một người, trong xóm kể lại nó đã có thai”.

“Người đó đòi tiền ông không?”.

“Ông chưa hiểu ý tôi muốn hỏi”.

“Anh chàng xin hai mươi đôla nếu muốn biết rõ tin tức, tôi đề nghị cứ nói ra hết mới trả tiền”.

“Vậy là anh chàng cho biết con bé có con”.

“Hắn cho tôi địa chỉ bệnh viện, hắn chở con tôi tới đó”.

“Ờ hở”, tôi ráng nhịn ngáp.

“Tôi đến ngay bệnh viện. Không ai thấy con tôi, nhưng mà… các nhân viên y tế đang làm xét nghiệm cho Cyndi Starr”.

‘Ông đùa đấy chứ?”

“Nó đẻ được ba tháng nay, tại chỗ đó, làm thủ tục giấy tờ khai sinh, đặt tên cháu ngoại tôi là Feather Starr”.

Mùi rượu xông ra dưới lỗ chân lông, tôi cảm thấy rùng mình, tôi còn nhớ lần đầu hoàn toàn tỉnh rượu.

“Ông còn giữ giấy khai sinh chứ?”.

“Có đây, tôi đang cầm trên tay”.

“Thú thật tôi không biết xoay sở ra sao, ông Rawlins. Cảnh sát đang điều tra tôi, tôi đã gặp ông Voss, mà chắc không có cơ may nào, thôi thì cứ hy vọng đi. Vợ tôi trông cho có được đứa cháu đó, ông Rawlins”.

“Vậy là ông nhờ đến tôi còn Sở cảnh sát coi như chịu thua?”.

“Ông đã đến với chúng tôi, ông tìm ra thủ phạm giết đứa con gái tôi”.

“Bọn cớm nói với ông vậy sao?”.

“Dạ”.

“Chúng bảo ông gọi cho tôi?”.

“Dạ không. Chúng tôi đã bàn trước, phải nhờ ông giúp giùm vụ này”.

“Giúp gì mới được chứ?”.

“Giúp tìm đứa cháu ngoại tôi đó, thưa ông Rawlins, nó là giọt máu của con bé Robin”.

Tôi cố nghĩ cho ra mà sao không tài nào nghĩ ra được. Tôi há miệng ra định nói gì đó. Tôi phải quyết tâm làm cho bằng được. “Đúng mười giờ tôi đến, ông Garnett. Tôi không dám hứa trước, dù là một việc nhỏ, nhưng tôi đã hứa là phải tới”.



• •

Tôi đến văn phòng Mofass lúc tám giờ sáng. Hắn đang ngồi ăn món bánh mứt, trời không nóng mà thấy hắn đổ mồ hôi như tắm.

Bỏ qua những câu bông đùa mọi khi Mofass hỏi ngay, “Ông đã chuẩn bị cho buổi họp chưa, ông Rawlins?”.

“Có, sẵn sàng đây rồi!”.

“Đúng ba giờ rưỡi chiều?”.

“Tôi đã dặn cậu thế nào, Mofass?”.

“Ò hơ?”.

“Cậu phải báo lại cho rõ, ta không cần gặp bọn chúng”.

“Sao?”

“Cậu nghe rõ này, bảo bọn chúng đừng có hòng. Ta có đất ta muốn làm thế nào cũng được”.

“Ông Rawlins, tôi không có quyền bảo ông làm gì với lô đất của ông nhưng mà…”.

“Ờ đúng thế, cậu không nên có ý kiến gì hết. Tiền của công sức tôi bỏ ra, tôi muốn làm gì thì làm.

“Nhưng tôi đã lỡ hứa, ông Rawlins, tôi bảo là sẽ vận động các cổ đông chấp thuận. Ông hứa với tôi đồng ý đi!”.

“Tôi không có ý kiến mấy việc đó”.

Mofass bặm môi lại, tôi chưa thấy hắn có phản ứng như thế đó ngay cả khi tôi gí súng vô đầu hắn.

“Tôi đã lỡ nhận năm ngàn đôla”, gã nói.

“Vậy sao?”.

“Tôi không giữ lại, tôi tiêu xài hết. Tôi nghĩ là ông cùng đứng về phía họ”.

Gã cảm thấy khó thở.

“Chuyện nhỏ, William”.

“Tôi lỡ nhân danh ông, tới nhận tiền của công ty”.

“Cứt bò”, tôi chỉ còn có nước văng tục cho đỡ tức.

Tôi bỏ ra đi mặc cho hắn ngồi ho sặc sụa một mình.



• •

Tôi đứng nhìn, căn nhà vẫn như xưa. Hai chiếc Caddy đậu một chỗ ngoài sân, không thấy mấy chiếc xe đạp đâu. Tôi quên cả chuyện bấm chuông, cửa đang để trống vào tới nửa chừng tôi mới sực nhớ lại.

Người nhà bước ra chào hỏi, ông Garnett tươi cười bắt tay tôi.

“Xin lỗi ông về chuyện bữa nọ, ông Rawlins. Tôi về nhà không nghe Sarah kể lại. Milo khoanh tay ngồi khóc”.

“Thực tình chính tôi mới đáng trách!”, tôi vừa nói vừa nhìn theo bà chủ nhà.

“Mời ông dùng cà phê, ông Rawlins”, Bà Garnett mời tôi.

“Dạ”, tôi đáp.

Tôi trở lại d8ây, cũng đang ngồi ở phòng khách. Hai ông bà ngồi gần nhau tay vịn thành ghế. Chợt tôi nhớ lại lần cuối còn ngồi bên Regina cũng như thế đó.

“Ông dùng thêm kem nữa!”, bà Garnett mời.

“Dạ thôi? Tôi nhìn theo hai ông bà một hồi. Thân hình ông cao lớn lực lưỡng nhưng cái nhìn thiếu vẻ quyết đoán. Tay ông vỗ nhẹ lên tay bà, mắt nhìn xuống sàn nhà. Trông bà còn khỏe mạnh, dù mới vừa trải qua cơn khủng hoảng, tóc màu nâu đã điểm bạc, đôi mắt xanh lạ lùng, nhìn qua tôi mà như đang nhìn đâu đâu.

“Ông có thể giúp được chứ?”.

“Để xem ông bà đã biết được gì rồi?”.

Chồng bà đang giữ giấy khai sinh đựng trong phong bì trang trọng, qua lớp giấy bóng kiếng nhìn vô thấy trang giấy đen do bàn tay thô kệch vò nhàu.

Feather Starr sinh ngày 12 tháng 8, không khai tên cha. Thời đó khai sinh phải ghi luôn thuộc chủng tộc nào vào một ô nhỏ. Cháu Feather thì ghi vô ô vuông một chữ “w” thường.

“Được đấy, tôi nhớ là báo đăng lên Robin hay Cyndi hay là gì cũng được lúc đó còn ở bên Châu Âu kia mà?”, tôi nói.

“Nó bỏ nhà đi sáu tháng trước đó, chúng tôi không dám nhìn nhận vì xấu hổ”, ông Vernor kể.

“Ông đi báo cho Sở cảnh sát rồi chứ?”.

Nó đã hai mươi mốt, thưa ông Rawlins, bỏ không học nữa. Cảnh sát không làm gì được. Gia đình chúng tôi mong được nhìn mặt đứa cháu ngoại, giờ này không biết đang ở đâu đó? Vậy là cháu tôi vẫn còn đâu đây? Ông Garnett vừa nói vừa khóc.

“Dạ, còn chứ!”.

“Ông nói sao?”, bà Garnett hỏi lại. Nghe hỏi tôi hiểu ngay bà không còn có thể nghe thêm gì nữa, nhưng tôi thì còn nhiều điều cần nói ra.

“Ai mà biết được một con bé như thế lại đi biết lo cho con?”

“Nó như thế nào?”, người cha hỏi.

“Ông là người vác đơn đi kiện, thưa ông>”, tôi nhìn ngay vô mắt ông. Ông biết rõ quá rồi, bọn con gái đó nhét tiền trong ngực trong ống quần? Tôi nhếch mép cười, mỗi lời tôi nói như một cú đấm giáng vô đầu ông.

Ông ngồi cúi đầu xuống nhăn mặt, tôi nói tiếp: “Một con mẹ ở xóm Hollywood Row lo làm tóc, lại chờ một anh chàng xăm mặt. Gã lo tiền, trước sau cũng phải trả thôi. Gã phải bỏ tiền mua rượu được nhìn em nhảy múa trong quán bar hay là phải gửi tiền lại trước khi ra về?”.

Vừa nói tôi vừa xích ra ngoài mép ghế. Ông Garnett ngồi dựa lưng ra sau – buông thỏng tay bà vợ.

“Sao ông ăn nói vậy? Ông làm cho ông ta đau đớn chi vậy?”, bà Garnett hỏi.

Nghe nói tôi chưng hửng, tôi dựa lưng ra sau cho đầu nhẹ bớt.

“Bà phải hiểu ý tôi, chỉ có vậy?”.

“Ý ông thế nào?”.

“Bọn con gái ở trong xóm Row, sống nhờ cái vốn trời cho, tiền nào của đó?

“Bà chưa hiểu đâu, ông chồng bà thì thừa hiểu”.

“Đứa bé mới lọt lòng mẹ thêm một món nữa”, tôi nói.

“Sao?”.

“Con nít cũng đó giá riêng, nắm vững thị trường thì càng có giá hơn”.

“Ý ông muốn nói Robin tính đem con bán?”, ông già Garnett hỏi dường như muốn đánh nhau với tôi.

Tôi từng thấy, có một anh chàng bỏ ra năm đôla để được kê đầu lên vai em?”

Ông Garnett đứng ngay dậy. Tôi không hề nao núng vì tôi đã thủ sẵn khẩu 25 đã lên đạn giấu trong túi.

“Mời ông ra khỏi nhà tôi!. Cút đi!”, ông quát.

Tôi đứng thẳng người lên nhìn vẫn còn thua Vernor một cái đầu.

“Được thôi, tôi biết sao nói vậy”, tôi nói.

Bà Garnett đứng dậy theo: “Ý ông nói sao?”.

“Chuyện con gái bà nó xấu xa vậy đó, ông bà không muốn dính dánh thì làm sao biết ra được đủ thứ chuyện trên đời, nào là một đứa bé nằm chết dọc đường, một tên ma cô đem bán cháu bà cho một nhóm mua bán trẻ em ở Las Vegas. Bà nhìn vô trong cái mớ hỗn độn đó sẽ thấy hết tất cả. Nếu bà không muốn thì ngay bây giờ bà sẽ thấy”.

Tôi chợt thương hại cho vợ chồng họ. Với Regina nàng còn biết lo cho đứa con của tôi. Họ đã mất một đứa, còn một đứa cháu nữa, không biết rồi sẽ sống chết ra sao?.

“Ông đừng lo lắng gì cho chúng tôi, ông Rawlins, tôi sẽ lo hết được mọi chuyện”, ông Garnett nói.

Tôi tin ông. Garnett hãy còn khỏe, lực lưỡng. Cặp mắt ông nhìn không dữ tợn, tuy không phải là một kẻ khiếp nhược như một vị bác sĩ nhìn con bệnh sắp chết, mới hôm nào đây.

Mọi người đứng nhìn nhau tôi không muốn ngồi xuống. Tôi sợ lắm, nhìn thấy hoàn cảnh đau đớn của bà tôi sẽ chết mất nếu còn ráng ngồi lại đây.

“Được lắm”. Tôi sẽ tìm ra đứa bé nếu nó còn đâu đây”. Tôi nói.

“Bao nhiêu hả ông?”, ông Garnett hỏi.

“Tôi chỉ nhận năm trăm đôla cộng thêm tiền công giao đứa bé”.

Bà Garnett đưa tôi ra tận cửa, đặt tay lên cánh tay tôi bà nhìn vào mắt. Mắt bà màu xanh xám, liếc qua liếc lại trước mặt tôi.

“Chừng nào ta có thể tiến hành được?”, bà hỏi.

“Bây giờ chưa đâu, chừng nào có tin mới tôi sẽ báo cho bà hay”.

“Tôi tin tưởng nơi ông, ông Rawlins. Chắc tôi không sống nổi chừng nào Vernor nhìn thấy đứa bé. Giá mà tôi tìm được nó!”.

“Bà nhìn tôi với cặp mắt tri ân, bà còn tính đi theo tôi.

“Tôi sẽ gọi lại”, tôi vừa nói vừa quay trở ra ngoài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Thoáng thấy tôi người thợ giặt sún răng tiệm giặt ủi Lin Chow nhớ ra ngay. Cô nàng tười cười lôi ra một gói đồ cột dây hẳn hoi. Tôi trả một đô bảy mươi lăm cent, cô ta lại cười đưa lại đưa hàm răng trống trơn.

Tai tôi vừa nghe một khúc hát ai oán, cung bật vút cao, tôi bước lên cầu thang, băng qua hành lang.

Lips đang ngồi trong bàn, ở trần hai chân không. Gã đang dạo kèn như đang hướng dẫn học trò biểu diễn nhac Jazz.

Tiếng kèn gợi cho tôi nhớ lại không khí ngày tàn cuộc chiến sau ngày DDay. Không còn nghe tiếng mảnh đạn, pháo vèo vèo trên trời. Xác chết phơi đầy cái mất cái còn, tôi không xót thương cho ai vì tôi còn sống sót, phải nói là số còn may. Tôi còn sống thêm được để phải chịu đau đớn thêm hơn.

Một nỗi đau ngọt ngào

Tôi ngồi bên cửa sổ, nghe gã chơi nhac một hồi lâu. Nhìn ra ngoài kia xe cộ, người qua lại gợi thêm cho Lips nhiều cảm hứng.

Một cô gái xinh đẹp băng qua đường theo sau là anh chàng có khuôn mặt hiền lành tay ra dấu. Đi được một quãng nàng đứng lại cười một mình, gã cũng cười theo. Rồi hai người đi sóng đôi . chăc là có gặp nhau đâu từ trước , hoặc là đã lấy nhau rồi.

“Cậu có việc gì cần không ?”, Lips chợt hỏi. Tôi nghĩ hắn đã hết chơi nhạc rồi.

“Cậu biết một đứa con của nó không?”.

“Con ai ?”.

“Cyndi”. Gã ngồi thừ người ra một đống.

“Thế nên nàng bỏ đi”,Nghĩ mãi gã mới nói ra.

“Cậu chưa hay sao?”.

“Chưa không phải riêng tôi. Ở đây lắm kẻ ra người vào. Nhìn người như chết rồi chưa chôn hồi ngày kia nghe nói có thai?’”.

“Ở đấy có ai thân với con bé nên nó mới kể?”.

“Chỉ có Sylvia? ”.

“Con bé nào vậy?”.

“Tớ đã kể cho cậu, nó là con bé da trắng, diễn viên điện ảnh đấy. Nghe bọn kia gọi nàng là Sylvia Bride. Giờ nó ở đâu chả biết?”.

“Chỉ có vậy?”.

“Còn có một anh chàng bên phòng kia, hắn tên là Prancer”

“Có phải chàng để ria mép?”.

“Ờ hớ, bọn chúng thân nhau lắm”.

Tôi bỏ lại hai mươi đô trên bàn ghì lại vào kẹp giấy mang theo.

Cửa không khóa, Tôi đứng gõ một hồi lâu mới nghe tiếng bên trong.

Gã bước ra mở cửa, trên người mặt chiếc quần sọt, chân mang dẹp, tóc tai bờm xờm, hai mặt đỏ ngầu. Gã nhìn tôi rất lâu cố nhớ lại.

“Ông đến có việc gì?” gã nghĩ chưa ra đành hỏi.

“Có phải ông Prancer?”

“Ông là ai?”

“Tôi vào nhà được chứ?”.

“Gã đứng rồi quay trở vào, tôi bước theo.

Tôi chưa kịp nghĩ ra, nhìn bên trong căn phòng thấy có vẽ lạ. Mọi thứ sạch sẽ ngăn nắp. Trên đầu giường chạm hình những thiên thần màu xanh, quanh bàn cà phê bày chiếc ghế trường kỹ một chiếc ghế dựa, nhiều thứ tạp chí ngỗn ngang trên bàn những báo điện ảnh nhiều hơn hết.

Trên giương treo một tấm áp phích in hình diễn viên nổi tiếng James Dean, trong vẽ mặt khắc khổ đăm chiêu.

Tôi ngồi xuống, Prancer còn đứng, tay dụi mắt, nhìn bộ dạng bề ngoài hai mươi gì đó, ba có lẽ, có khi ba mươi không chừng.

Hình như tôi nhớ mặt ông thì phải?” gã nói.

“Mới hôm kia tôi tới nhà Cyndi đây, ông yêu cầu tôi đi ra ngoài?”.

“Ông là cảnh sát?”, gã hỏi, chợt gã biến sắc và có vẽ khó chịu.

“Tôi cũng bình thường như ông! Tôi muốn tìm hiểu một sự việc”, tôi nói và cố vẽ mặt lạnh như tiền.

“Việc gì chứ?”.

“Nghe nói Cyndi đã có con?”.

“Ai bảo thế?”.

“Thì ông báo cho cha của nàng hay rồi?”.

Prancer đứng đó lặng thinh, gã vẫn nhìn theo tôi, bàn tay phải áp vào trước ngực y như lối ứng xử của phụ nữ.

“ Hai ông bà tới nơi bênh viện ông đã đưa nàng tới, lúc đó Cyndi Srarr đã sinh xong”.

Gã nhếch mép cười như thách thức, thân người lắc lư. “Tôi không nói gạt ai hết”.

“Ông biết đứa bé đang ở đâu chứ?”.

Gã lắc đầu như cách gã vuốt tóc cho khô ráo.

“Ông có thể chỉ cách cho tôi đi tìm ra đứa bé”.

“Làm thế nào?”.

“Có ông bà nào không thương cháu, họ chỉ cần được bấy nhiêu.

Chợt đâu gã chợt tỉnh người lại nói “ Nàng đẻ con gái!”, gã hỏi. Tôi gật đầu.

“Ông nghe này”, gã mở lời.

Vẽ kiêu hãnh trở lại trên gương mặt gã: “ Tôi thương xót cho hai mẹ con, tôi còn lo trả tiền thuê nhà. Nếu tôi mời ông vô đây nói chuyện thì chắc là mấy người đó có tiền”.

“Tôi còn ba chục đô đây, bấy nhiêu đó. Ông cam kết với tôi đi?”.

Prancer thè lưỡi liếm môi nhìn sáu tời năm đô nằm gọn trên tay.

“Ở chỗ nào?”.

“Ông biết nhà Bull Horker chứ?”.

“Đấy không phải là một địa chỉ”. Gã đặt tôi trước một vấn nạn, dù sao tôi cũng phải chấp nhận, thà vậy còn hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Bull Horker mở một quán bar xuềnh xoàng ở vùng ngoại ô. Hai anh em tậu được một ngôi nhà trệt lợp ngói trong khu đất trống thuê lại của một người bạn đang bị giam vì tôi ngộ sát.

Bull thân hình lực lưỡng, giống như pho tượng tác Balzac kết hợp cái đẹp thân thể và tâm hồn. Cái bụng chắc nịch, hai bên hàm nghiến chắc như muốn nhai nát cai ống điếu.

Da mặt lốm đốm nhiều chỗ như một tác phẩm điêu khắc gỗ phương đông, da căn ngược ra sau như con hà mã.

“Sylvia nào?”, gã vừa hỏi vừa ngoảnh mặt nhìn nghiêng một bên, tai áp xuống sàn.

Chúng tôi ngồi phía sau quán bar lụp xụp. Bailey, tay nấu bếp đã từng bị tù một lần, đang làm món thịt xườn lăn bột sau quầy bar.

Bull từ bên Mississipi di cư qua Chicago, giờ trụ lại L.A. lo làm ăn, gã không chịu nổi cái lạnh thấu xương bên đó. Tính gã hay làm phước, tôi cũng vậy. Horker giúp ai đều có giá, có khi tiền mặt, khi thì một món gì đó kèm theo.

Gã kiếm tiền đủ cỡ; từ nhặt một chiếc nhẫn đính hôn loại rẻ tiền việc đâm thuê chém mướn.

“Synvia Bode”.

Tôi nói ra. “ Tên hành nghề thì phải; con bé đó làm nghề biểu diễn thoát y vũ?”.

Tôi lắc đầu.

“Tôi cũng có sao đâu?”.

“Có chắc ông không biết con bé đó?”, tôi nhắc lại .

“Chắc như ly rượu này !”, gã thở ra một hơi.

“Bọn cớm đang truy tìm con bé đó, con bé Sylvia”.

“Vậy sao?”

“Bọn chúng theo chân tôi đi tìm. Nếu tôi chưa tìm ra, tôi hợp tác với bọn cớm?”.

Bull là một tay có máu mặt, muốn chọi lại hắn, tôi phải lận súng trong người. Trước mắt tôi gã trông như một cái xác chết, con mắt bên trái khép hờ, con phải nhìn trân trân.

Tôi lo thủ thế tẩu vi thượng sách.

Môi trên của gã méo xệch, lòi chiếc răng nanh y hệt như loài lang sói. Tôi ghé mắt nhìn vô hàm răng, nhẹ cả người hắn đang cười.

“Ông mò tới đây định dọa dẫm tôi hay sao, ông Rawlins”

“Tôi dọa ai đâu, tôi còn không dám động tới ông nữa. Tôi đang đi tìm con bé chợt nghe nhắc tên ông, nói thật đấy, bọn cớm đang truy nã ông. Tôi không hù dọa – có sao tôi nói vậy?”.

Bull rót thêm ly nữa, lần này một thứ rượu đỗ tùng, gã nốc một hơi.

Giữa tôi và gã không có một ân oán. Tôi không còn lo sợ như bất kỳ ai trước đây. Cái đáng sợ trước mắt là đối mặt với cái chết, không lo sợ người sống.

Cái chết đang chạy theo sau lưng tôi, nó chêt lởn vởn trên gương mặt binh thản của Bull Horker và trên thành phố Oakland, con bé ngồi dựa vô gốc cây cách nhà tôi không bao xa.

“ Nếu tôi phải nói ra thì tôi nói không biết gì chuyên con bé, tôi chỉ có thể nói ra bấy nhiêu đó”.

“ Còn nếu tôi kể cho nghe chuyện một người được một ngàn đôla để chuộc cái đã mất cuối cùng của Sylvia đã tìm ra thì ông có thể giúp tôi được không hả?”

Bull tròn xoe mắt nhìn.

Tôi ghi số điện thoại một bên góc mãnh giấy, tôi bỏ đi. Bên ngoài trời Los Angelles nắng ấm và mù sương.



• •

Khi tôi về tới nhà Jesus đi học chưa về. Nó đổ hết rượu trong chai ra, rồi xếp một hàng trên mép cửa sổ, cả chai rượu Armgnac giá một trăm đôla nó cũng đổ hết không còn một giọt.

Tôi thay quần áo đi ngủ.

Trong giấc ngủ tôi mơ thấy đứa trẻ khóc la.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Tôi thức dậy lúc sáng sớm, nhìn thấy Jesus đang ngồi ngũ dưới chân giường. Nó ngồi cuộn mình lại, quần áo còn nguyên, miệng há to. Nó chỉ là một đứa trẻ sống giữa một thế giới quay cuồng.

Jesus gốc gác ở đâu tới nay tôi chưa biết hết. Có một dạo tôi thấy nó sống chung với Primo, bạn tôi trong xóm dân nói tiếng Tây Ban Nha, sau đó Primo bỏ đi nó về sống với tôi.

Nó coi tôi như cha ruột, nhưng từ ngày Regira bỏ đi, ít khi tôi về nhà.

Tôi đem quăn mấy vỏ chai rồi trở vào nhà làm bữa ăn sáng, món bánh mì thịt Jambon. Jesus ngồi ăn lặng lẽ một mình.

“Con đừng có lo!, rồi mọi chuyện sẽ qua như mọi lần trước”, tôi dặn nó.

Jesus gật đầu biết vâng lời. Tôi khều vô người, nó nhào xuống đất.

“Chờ nó đi học tôi gọi cho Quinten Naylor.

“Gì hả?”, gã nói như hét vô tai.

“Ờ, tôi đây, ông là cảnh sát hay sao vậy?”.

“Rawlins hả?”.

“Robin Garnett, Cyndi Starr nay là gì cũng được. Con bé mới đẻ ba tháng , nó chưa lần nào đi qua Châu Âu , đã bỏ hoc trường UVLA”.

Im lặng một lúc gã mới nói. “ Ông cứ nói tự nhiên”.

“Viola Samders kể, nhìn thấy .I.J. tại quán bar lúc Robin bị bắn chết.

“Lên hàng trên nàng cũng muốn che chở cho hắn, chỉ có vậy”.

Tôi kể chuyên Prancer va Viola cho gã nghe.

“Tôi đã hạ được thủ phạm, Easy!”.

“Ông không giết được ai , ông đừng xía mũi vô chuyện này”.

Quiten gác máy, tôi ngồi dưa lưng ra sau.

Tôi thèm rượu, tôi nhớ Regina lấu tay vỗ vỗ vô đầu.

Tôi chợt nhớ ngày đưa mẹ tôi tới nơi an nghỉ cuối cùng , tại nghĩa trang St.Ive ngoại ô Louisiana. Cha tôi mặc đồ đen thắt cà vạt đen tay cầm một cành hoa kim ngân tay kia dắt tôi theo. Cô tôi và mấy người con đưa ra tới ngoài này. Ngày hôm đó không tốt trời, bầu không khí năng nề và oi nồng. Ông mục sư đọc lời tiễn biệt, cha tôi nắm chặt tay tôi không buông ra.

Một tuần sau, ông bỏ đi qua định cư bên Mississipi. Từ đó không quay về quê cũ , và không ai còn biết tin tức ông sống chết ra sao . Hay là ông có vợ mới đi làm ăn nơi khác. Hay có khi trong đêm ông đụng độ với ai đó, bắn chết người, bị bắt giam suốt quãng thời gian lúc tơi còn thơ ấu.

Tôi ngồi ăn dưới bếp, nhìn ánh nắng soi trên mặt bàn. Tôi ngồi xuống bàn thấy lại dấu khăn lau nhà lần cuối trước lúc Regina bỏ đi.

Chợt tôi òa khóc, khóc như lúc tôi còn nhỏ tôi đã trải qua những ngày đau khổ, nước mắt nước mũi đầm đìa. Tôi thấy cha tôi đang cầm tay tôi có một bà già chờn vờn phía sau khóc lóc sót thương cho tôi.

Tôi khóc rống lên, tay đập xuống bàn. Cho đến lúc tôi cảm nhận được nỗi đau mất mẹ lúc đó không còn sợ hãi cái chết nữa. Tôi căm ghét cha tôi, giá mà như lúc này ông quay về đứng ngoài kia tôi sẽ moi mắt ông ra.

Cái cảm giác đó vụt biến đi, tôi không còn tưởng nhớ đến Regina, hay ít ra tai tôi không còn nghe lại những tiếng kêu rêu.

Tôi thương nhớ con bé Edna như tôi thương tiếc cho chính tuổi thơ của tôi bị đánh mất từ lúc còn bé.

Lúc nghe tiếng điện thoại cũng là lúc tôi lấy lại hơi thở bình thường.

Tôi nhận ra được như một tín hiệu.

“Gì hả?” tôi nói và tôi đoán không phải Regina gọi, tôi không bao giờ còn được nghe nàng nói.

“Có phải ông Rawlins?”

“Dạ”

“Tôi Sylvia Bride đây”

“Ờ - hơ?”

“Ông có đem gì theo cho tôi không nếu tôi giao đứa bé lại cho ông?”.

“Đưa bé nào nhỉ?”

“Cái con khỉ họ”

“Với tôi không thành vấn đề, tôi không lừa gạt ai, nếu cô em nói có thiệt thì dễ thôi, nhà kia sẽ đền ơn”

Không nghe cô nàng nói gì, chỉ còn tiếng đứa bé khóc bên kia đâu đây.

“Ông biết chỗ khu nhà Beldin Arms?”

“Biết chứ” đó là dãy nhà cao tầng ở khu phố Sáu - Ba”.

“Hẹn ông một giờ sau tại đó”

“Ngay nhà nào?”.

“Ông cứ tới đó trước”, Nói xong nàng gác máy.

Tôi ăn mặt bình thương tới điểm hẹn, quần kaki áo sơ mi mang giày sandale không vớ. Tôi lận khẩu súng ngắn nòng 38 sau thắt lưng, một khẩu nòng 25 bỏ trong túi.

Vừa bước ra đã nghe điện thoại reo, tôi bỏ mặc, chả có gì cần thiết phải chờ.

Đúng một tiếng sau, tôi tới nơi hẹn khu chung cư Beldin Arms. Đứng ngoài hành lang nhìn theo mấy hộp thư không thấy tên Sylvia Bride.

Từ đâu bên ngoài, một thằng nhóc chạy lên cầu thang, người đó lùn tịt, chắc khỏe. Nó đi ẹo qua, ẹo lại ra vẻ ta đây với mấy đưa trẻ hay đùa và tưởng rằng sẽ được ai khen cho. Nó đứng lại ngay trước mặt tôi mở miệng “ Ông tìm bà nào đấy ?”.

“Sao?”

“Bà dặn ông cho tôi một đô tôi chỉ dùm cho?”.

Tôi cho một đô, nó bỏ chạy ra cửa, ngoái cổ lại nói “ Bà ở ngoài vườn bông”.

“Vườn bông nào?”

Nó đưa tay ra dấu “ Đằng kia”, nó tưởng đâu tôi là thằng em của nó.

Đi hết dãy nhà ra tới khu vườn bông Beldin Park. Quanh bãi cỏ trơ trụi chỉ còn bốn cây thông già. Sylvia Bride ngồi trên băng ghế dài.

Nàng mặt chiếc quần siu màu đỏ, bóp ống, khoác ngoài chiếc áo bờ lu hàng Trung Quốc màu đỏ. Chân mang giầy màu xanh nhạt, đầu tóc vừa mới sửa, chải ngược ra sau từng lọn không thèm gội . Nàng phì pha trên miệng điếu thuốc Lucky và một gói thuốc vơi hết một nữa để trên đùi.

“Đứa bé đâu ?”, tôi đứng trước mặt nàng cất tiếng hỏi.

“Mời ông ngồi”, nàng nói giọng bình thản.

Vừa ngồi xuống tôi hỏi lại: “ Đứa bé đâu?”

Nàng thò tay vô bao giấy kiếng đựng cây thuốc Lucky lấy ra tấm ảnh đưa cho tôi. Hình chụp Cyndi Starr bồng đứa trẻ mới sinh nước da nâu.

“ Tôi còn một album nữa, người mù còn nhận ra đây là hai mẹ con nữa kìa. Tôi còn giữ cuốn nhật ký, kể lại rất nhiều điều về đứa con Feather”.

“Một câu chuyện bình thường thôi hay sao?”

“Hả ?”

“Có phải cuốn nhật ký hay chỉ kể lại chuyện đứa con ?”

“Ồ đâu phải, Cyndi có trình độ, nàng là một sinh viên đại học, ông biết đấy, nàng còn làm thơ nữa là khác”.

“Chỉ kể cho tới ngày bị giết chết thôi sao?”

“Tôi không thể nói, tôi chưa đọc bởi nhật ký là những chuyện riêng tư”.

“Nhưng mà.. “tôi định nói ra nhưng nghĩ sao lại bỏ lửng. Bởi không lý do nào nàng cho tôi là một vật đáng trân trọng.

“Tôi cần hai ngàn đô, giao tận tay tôi sẽ trao lại đưa con, quyển nhật ký và cuốn album”

Tôi lục túi. “ Chờ xe, cô em cần tiền giấy mười hay hai mươi”

Nàng cười nhìn tôi. Nếu ở một nơi nào khác chăc tôi phải thích Sylvia Bride lắm.

Tôi sẽ trao đổi sau, nên chọn địa diểm cho an toàn. Tôi chỉ cần đủ hai ngàn đôla”.

Tôi sẽ lo kiếm đủ tiền. Ta có thể chọn địa điểm là sở thú hay ngoài biển, chỗ nào cũng không sao. Mà cô em phải cho thấy hàng rồi chúng tôi mới trao tiền. Nếu đúng hàng , ta sẽ trao đổi”.

Sylvia cắn răng lên môi miệng hồng hào mima chặt lại , nàng chợt nói “ OK ”, ông coi số máy tôi ghi sau tấm ảnh , khi nào có tin mới ông gọi ngay”.

Trước khi đi cô em còn muốn nhắn gì nữa không?”

“Ông nói sao?”.

“Cô em biết ai giết Cyndi?”.

Nàng thò tay vào bao thuốc rút một điếu tôi đưa rồi lấy quẹt ra bật .

“Tôi không biết, nghe nói thủ phạm là một tên cuồng sát thì phải ?”.

“Không có chuyện đó đâu, phi lý”.

“Ai cũng thương nhớ trân trọng nàng”.

“Trong số bạn bè có cả Bull Horker nữa chứ?”.

“Gã có nhà ở thành phố Redon cho nàng về ở nhờ trong lúc có thai, bấy nhiêu thôi”.

“Gã là cha đứa bé?”.

“Chỉ có trời biết chuyên đó, ông Rawlins ?”.

“Ở nhà không vậy lấy gì ăn?”.

“Vay mượn Dull gã không phải là người cho vay. Nàng phải lo trả ba ngàn đô”.

“Lấy đâu ra?”.

“Tôi không rõ, nghe kể, có người lo cho nàng”.

“Một người da trắng”.

“Không nghe nói, như thế này..” Sylvia không nói nữa, quay qua nhìn chổ khác.

Sylvia kể tiếp “Nàng nó là, không chịu tên nào đó nhưng cả hai phải lo trả nợ”.

Tôi với nàng để yên chuyện đó, chờ đến lúc nàng bỏ đi.

“Sylvia, sao em đi tìm tôi?”, tôi nói.

“Ông tìm tôi thì có chỉ có mình ông?”.

“Em đích thân gọi điện cha mẹ nàng được mà?”.

“Tôi không thể nói chuyện nay với một người da trắng”, nàng nói.

“Tôi nghe mãi chuyện này, phân nưa dân da đen gặp dân da trắng ở đằng xa cả cây số đã lo tránh mắt trước. Chuyện dân da trắng không tin tưởng lẫn nhay nới tôi chẵng có gì lạ, tôi còn không tin, vậy sao bọn chúng phải tin nhau?”.

Tôi đứng nhìn theo Sylvia băng qua đưồng đi men theo dãy phố. Đến đầu đưồng nàng bước lên chiếc Ford mới toanh, ngồi ở băng trước. Tôi đoán ra anh chàng nào cầm lái.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Tôi dẫn Jusus vào quán ăn Reco Bob’s Barbecue Heaven. Nó ăn hết hai đĩa sườn nướng. Tôi cho nó vô trong khu giải trí Santa Monica chơi trò quay số, cưỡi ngựa gỗ quay vòng vòng. Nó được một bữa chơi thỏa thích.

Tay cầm lon bia tôi chưa muốn uống , Juses thích món kẹo Camel, nó chỉ thích được dịp đi chơi thoải mái. Ánh sáng đèn pha chói chang trong khu giải trí khiến tôi va nó cảm thấy khó chịu.

Sáng nó có thói quen chậm chạp dù sao nó ngủ giường riêng. Tôi nhìn nó lên bước đi học, ra ngoài đường nó gặp hai đứa bạn gái. Trước đây, tôi chưa thấy nó đi học với bạn.

Bữa nay bà Garrnet có nhà.

“Hai ngàn đôla?” Bà nói như mắc nghẹn.

“Con bé đòi giá đó. Trước hết phải coi cuốn nhật ký, cuốn album đầy đủ hình Cyndi va Robin với đứa con gái”.

Tôi không quan tâm chuyện sinh đứa con da đen. Nhiều khi con da đen lúc mới đẻ thấy nó trắng, lớn lên thì mới biết. Tôi cứ mặc kệ chuyện màu da để họ lo không nên xía vô. Một đứa con da đen với tôi chẳng là gì cả.

“Tôi không biết chuyện này để hỏi lại ông chồng tôi”

“OK, tối nay tôi sẽ gọi lại. Nếu ông nhà đồng ý bao lâu bà nhận được tiền?”.

“Chưa biết chắc ông có đồng ý hay không”.

“Nếu ông chịu thì sao?”.

Bà ngập ngừng mới nói ra: “Chờ đến ngày mốt xem sao:

Ngay bữa đó, tôi lo dọn dẹp nhà cửa, quăng hết mọi thứ của Regina ra ngoài, chỉ còn mấy bộ quần áo, mấy món trang sức rẻ tiền, mấy thứ lặt vặt. Đồ chơi, chăn đắp con bé Edna tôi cột lại một bó, chất bên trong phòng khách, trùm mềm kỹ lưỡng.

Đến trưa tôi đọc cuốn “Linh hồn đồng loại da đen” của tác giả W.E.B. Du Bois, cuốn sách mà mấy năm trước Jackson Blue có kể cho tôi nghe qua.

Jesus đi học về ba giờ rưỡi chiều, tôi chơi với nó cho tới sáu giờ. Bữa ăn tối có món thịt heo lát, khoai tây nhừ chiên hành, măng tây. Món tráng miệng dành cho tôi và Jesus là cây kẹo. Tôi nhờ nó rửa bát dĩa.

Đúng tám giờ điện thoại reo.

“Alô”

“Thưa ông Rawlins. Vợ tôi cho hay ông đã tìm thấy được đứa cháu”.

“Nghe vậy thôi, thưa ông, tôi còn chưa rõ. Con bé kia đang giữ tấm hình ảnh cô con gái ông và đứa cháu”.

“Tên con bé đó là gì, nó còn đòi hỏi gì hơn, Robin”.

“Là bạn của Robin, tên cô nàng là Sylvia”.

“Sylvia gì?”.

“Dù ông có tìm trong danh bạ điện thoại cũng không thấy đâu, ông Garnett”.

“Bride, Sylvia Bride”, tôi nói.

“Ồ tôi chưa hề nghe cái tên này. Ông cho hay con bé đòi tới hai ngàn đôla?”.

“Cô nàng ra giá vậy”.

“Một cái giá cao mà chúng tôi chưa thấy gì làm bằng chứng?”.

“Ông nghe đây, ông sẽ gọi lại cho cô nàng kia hẹn địa điểm giao hàng. Coi xong nếu đúng là cháu gái ông chừng đó ông trả giá. Ông chưa vội mang tiền theo, giao cho luật sư giữ. Nếu ông đồng ý tôi gọi nàng ngay, hẹn bốn giờ chiều tại địa điểm trước nhà sách thành phố. OK?”.

“Tôi có nghe nói cuốn nhật ký?”.

“Dạ. Con gái ông kể lại nhiều chuyện về đứa cháu Feather. Cô nàng Sylvia nói nhờ cuốn nhật ký để lại mới biết ai là cháu ông”.

Tôi lặng thin một hồi.

“Sao hả?”.

“Tôi chưa thể nói ra ngay vì rất có thể đứa con gái ông là nạn nhân của cùng một tên cuồng sát?”.

“Cho tới giờ này con tôi đã chết, chưa tìm ra thủ phạm”.

“Ở quanh xóm tôi đổ xô nhau đi tìm, có mấy người nhìn thấy dấu vết nám trên người con bé”.

“Với tôi điều đó không ăn thua gì, ông Rawlins, tất cả đã được dàn dựng khéo léo”.

“Ngay cái hôm cô bé bị giết chết, nó còn đi chơi với bạn bè. Theo lời Sylvia, có kẻ lạ mặt đưa tiền cho nàng. Cuốn nhật ký này sẽ cho thấy ai là thủ phạm?”.

“Lạy chúa tôi”, Garnett nói.

Tôi lỡ lời khiến ông nói ra “Tôi cho là ông lầm rồi, tôi mong là… Dù gì ta cũng phải đến ngay điểm hẹn xem cô nàng kia giao hàng”.

“Ông chắc có đi không?”.

“Chắc chứ, tôi nói thiệt”.

“Thế thì hay lắm. Tôi gọi ngay cho cô nàng kia hẹn ngày giờ, có gì thay đổi tôi sẽ cho biết sau, ông nghe rõ chưa?”.

Ông thở ra một hơi dài nói “OK”.



• •

Thấy Sylvia không được vui, tôi dặn nàng không cần phải ẵm đứa trẻ theo, chỉ cần đem theo tập album và cuốn nhật ký. Điểm hẹn an toàn là trước nhà sách nơi công cộng.

Jesus tối lo ngủ sớm, sáng nó tới trường xong là tôi thức dậy.

Giờ trưa, tôi đang ở sau vườn nghe tiếng Quinten Naylor và Roland Hobbes đậu xe trước nhà, xuống xe bước ngang hàng tên nào cũng nhìn tôi một cách dửng dưng.

“Ezekiel Rawlins …” Roland Hobbes lên tiếng trước.

“Khoan đã, cho tôi gọi máy rồi các ông muốn làm gì làm. Vợ tôi đã bỏ đi, con tôi câm, cho tôi báo hàng xóm biết trước khi các ông dẫn giải tôi đi”, tôi nói.

Hobbes nhìn qua Naylor chờ lệnh, bọn chúng lặng thinh. Naylor nãy giờ im lặng, giờ gã mới gật đầu, Hobbes theo tôi vào bàn điện thoại.

“Ô kìa, Flower lên tiếng, giọng nàng nghe chùng xuống nghe ảm đảm như tiếng mưa nhiệt đới Nam Mỹ, như nhìn thấy đám đông bông huệ trắng trên cành cây khô queo. Tôi còn phải nghe cả tiếng trẻ con khóc sau lưng nàng, những đứa trẻ là anh em với Jesus trước khi nó về ở với tôi.

Tôi dặn nàng nhắn cho Primo chồng nàng đến giúp tôi, tôi đang bị giam. Nàng thở dài thông cảm làm theo ý tôi, nghe được vậy tôi mừng rơn vì trên đời này còn có một thằng bạn.

Tôi gác máy Roland Hobbes nói ngay: “Ezekiel Rawlins ông đã bị bắt!”.



• •

Bọn chúng không thèm nói với tôi một tiếng, tra còng vô tay đưa thẳng tới bót cảnh sát.

Tôi bị giam trong xà lim ngồi một chỗ cho tới sáng. Xà lim không ra xà lim, còn tệ hơn cái kho chất hàng. Ở giữa bày một cái ghế, một bóng đèn dính luôn trên trần, không trổ cửa sổ, không chấn song, bên trong mờ mờ. Bọn chúng tước hết gói thuốc lá, tôi cảm thấy bức rức trong người.

Tôi nhìn qua khe hở trên cánh cửa sắt, lâu lâu có bóng người che lại chắc có ai đứng bên ngoài rình dòm vô trong.

Hai tên cớm mặc đồng phục áp giải tôi ra trước phiên tòa, tôi được gặp mặt ngài luật sư tòa chỉ định đứng trước hàng ghế chủ tọa, không nhìn thấy bảng tên, ông ta không thèm bắt tay tôi.

Ngài luật sư cùng với ông thư ký bước tới bên bàn chủ tọa trao đổi với quan tòa. Số phận tôi được quyết định trong vòng mấy giây, ngài luật sư trở lại vị trí chỗ tôi đứng.

Ngài luật sư tóc bạc, thấp người hai tai vểnh. Tuổi độ trung niên, hao hao gầy, tướng người xấu mặc áo bỏ ngoài quá lưng quần.

“Thế này là thế nào?”, tôi hỏi ngài.

Ông quơ đại mớ giấy tờ bỏ đi. Quan tòa phán một câu. “Vụ kế tiếp” y như một màn kịch, nhân viên tòa án đẩy tôi đi chỗ khác.

Tôi níu áo ông lại.

“Cho tôi nói chuyện với người thân”, tôi nài nỉ.

“Ông còn thắc mắc điều gì, ông Rawlins?”, ngài luật sư tôi không biết tên hỏi.

“Sao lôi tôi vào đây làm gì, giờ tôi phải chịu gì đây?”.

“Ông can tội tống tiền, ông Rawlins, nếu không đóng đủ số tiền hai mươi lăm ngàn đôla ông sẽ chịu ngồi tù”.

Ngài luật sư bỏ đi, tôi bị giải vào căn phòng nhìn thấy đã có bốn tên vô trước nằm ngủ. Nửa tiếng sau, ba nhân viên tòa án tới lôi đầu dậy.

Cả bọn tôi bị tống vào chiếc xe buýt, trên xe bốn phía giăng kẽm gai bít kín ô cửa sổ, một tấm vách ngăn cách chỗ tài xế lái xe, anh chàng không lo bởi mấy tên tù bị còng vô then cài dưới chỗ ngồi.

Chúng tôi được dẫn giải tới khu nhà ở ngoại ô thành phố.

Khu nhà không phải làm nơi giam người, đây là nơi lò làm bánh mứt hay sản xuất vòng ổ bi gì đó. Vách tường xây thêm một lớp bê tông cốt thép.

Nhà giam giữ tù là một căn phòng rộng rãi bằng nửa sân bóng đá, xây một nhà lồng thép nằm ngang chính giữa như sở thú, chia ra độ khoảng năm mươi chỗ nhốt. Gần phân nửa lô đang giam giữ tù.

Mỗi ngăn giam một người, bên trong được trang bị một sạp gỗ làm giường nằm, hai xô đựng nước, một để uống, một để vệ sinh cá nhân.

Tôi mua được gói thuốc lá của một tên cai tù giá năm đô la khéo giấu trước lúc bị giải đi. Chờ mấy tay cai tù ra đi không bị xét hỏi tôi lấy ra một điếu châm hút.

Tôi còn nhớ mãi cái mùi thơm của điếu thuốc.

Bởi gặp lúc vận rủi nên tôi còn nhớ mãi cái cảm giác đê mê ngây ngất.

Một cuộc trao đổi ngắn giữa tù mới cũ. Tôi gợi chuyện một tay giam phòng kế bên: “Nhà tù kiểu gì lạ vậy?”

“Chỗ tạm giam” lão da trắng nói. “Sắp xây thêm nhà tù mới ở đây không đủ chỗ giam”

Tôi cho lão một điếu, châm thuốc lão hút.

“Cám ơn!”, lão nói.

Chợt tên lính gác ra lệnh im lặng.

Chuyện này kể ra chắc có người không tin nổi, ở nước Mỹ tù nhân phải biết rõ mình mắc tội gì, được gọi điện thoại về nhà, được chọn người biện hộ.

Tôi còn nhớ đã học quyển này chỉ dành riêng cho bọn da trắng, bọn tôi da màu làm gì được chiếu cố. Lâu dần tôi mới hiểu ra tất cả rồi phải chôn sâu dưới nấm mồ vô danh. Ban đầu cần làm dân sống trong một nước xã hội chủ nghĩa để bị ám sát, chuyện này nên hỏi JT Saunders.

Bọn cớm có thể xông vô nhà ngay bữa nay, lôi cổ bạn ra khỏi giường, đánh đập cho rụng hết răng rồi giam vô một xó cả tháng.

Tôi biết hết nhưng bỏ ngoài tai, ngã lưng xuống chiếc sạp thưởng thức mùi vị điếu thuốc lá.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Ở tù nhưng tôi không đơn độc, quanh tôi còn có Naylor, Voss, Violette với Hobbes.

Naylor bảo tôi: “Ông không muốn giúp con bé da đen, ông thích ăn chơi với một con điếm da trắng”.

“Tôi đã biết hết”, Hobbes nói.

Voss đứng nhổ cái phẹt lắc đầu.

Nhìn qua thấy Violett rút súng ra, gã lẩy cò ra sau nghe chát chúa không phải là tiếng cắc.

Chợt tôi nghe có tiếng ở bên ngoài giấc mơ “Coi chùng đó mày” một luồng gió mát lạnh vút qua trước mặt tôi, tiếp theo sau là một tràng tiếng chửi thề, tôi co người lại.

Gã đi ngang qua chỗ tôi nằm chỉa mũi dao xuống tấm nệm chớ không phải nhắm vô người tôi. Gã choàng người lên người tôi, ăn ngay một cú đòn đấm múc vô háng đến cả con khỉ đột còn phải chịu không nổi.

Gã nhào xuống sàn, ho sặc sụa, hắn mặc đồ tù, một tên da trắng. Tôi đá móc một cú vô ngay bá sườn, giậm chân lên bàn tay hắn, đi chân không tôi cảm thấy vết thương ở chân đau nhói thì ra hắn bấu mấy đầu ngón tay vô đó.

Tôi đạp mạnh cho gãy tay, không thèm giết chết. Tôi có quyền giết chết một tên sát thủ nhưng không tôi chỉ hủy hoại cho hắn mang tật.

Tôi lôi hắn dậy kéo xệch đi ngang qua dãy phòng giam, quăng nằm xuống ngoài cửa gần chỗ bót canh người gác tù. Lúc quay trở lại bọn tù nhân la nhốn nháo. Ngay lúc tôi khóa cửa buồng giam ngó ra thấy cả thảy bảy tên gác tù xúm quanh tên sát thủ giả định.

Hai tay hắn bụm dưới háng, ho sù sụ, bọn gác tù còn bàng hoàng.

Một mùi hôi tanh xông lên, hay vì sợ hãi nó gây cho tôi cái mùi đó.

“Hắn thủ sẵn chìa khóa”, một tay gác tù la to.

“Suỵt!”.

Hắn kêu la om sòm thân hình bị lôi kéo sềnh sệch dưới đất. Tôi sực nhớ mấy đầu ngón chân đau nhức do một cú đá gãy ba sườn.

“Suỵt!”, tên da trắng ở phòng bên lên tiếng.

Tôi nhìn qua, hắn cười theo, hai hàm răng trống trơn, “Thông cảm nhé không phải mấy điếu thuốc tớ hất xô nước tiểu này ra”. Gã há hốc miệng ra cười thì ra chính hắn ra dấu cho tôi biết, vừa té xô nước tiểu vô mặt tôi.

Gã cười khẩy nói: “May là không có cục cứt nào trong đó”.

Nghe vậy tôi phá ra cười theo, sực nhớ lại không dám cười to, sợ bọn gác tù nghe thấy sẽ nện cho một trận.

Tôi ngồi xuống nước mắt chảy xuống hai gò má, trống ngực đập thình thịch. Bọn gác tù đi ngang qua tôi cuộn mình dưới lớp chăn đắp che lấp mùi khói thuốc lá, tôi muốn nín thở luôn.

Một lát sau, bọn gác tù kéo xệch tên sát thủ kia, đi chỗ khác.

“Mày gặp thằng bạn này ở đâu đó?”, lão da trắng hỏi tôi, lão cũng mặc áo tù.

“Ông nói sao?”.

“Có tên nào đòi giết cậu đấy?”, lão nháy mắt. “Trừ khi mày biết mặt cái thằng đó”.

Tôi đưa cho lão năm điếu thuốc.

“Ông tên gì?”, tôi hỏi lão.

“Alamo. Alamo Weir”, lão nháy mắt qua tôi châm thuốc cho lão hút.

Tôi ngả lưng xuống, nằm nghĩ ngợi trong đầu. Theo lệnh Quinten Naylor tới nhà, chở tôi đi tới hiện trường xảy ra vụ án.



• •

Qua bữa sau tôi được phát bộ đồ tù, được dẫn vô căn phòng rộng rãi kê chiếc bàn dài ngồi vô ăn món cháo sữa. Buổi trưa được cho ra ngoài đi bộ một vòng, Alam xếp hàng bên bọn tù da trắng, còn tôi bên này với bọn da đen.

Trở vô lại nhà giam, tôi được dẫn giải tới chỗ Anthony Violette đang chờ.

“Hân hạnh được gặp lại ông còn sống ở đây, Rawlins!”, gã cười nhạo.

Tôi không nói, một ông cò cảnh sát muốn cho tôi chết đã chết từ lâu.

“Không đùa đâu hả? Ông có thể đem bia vô đây cho tớ uống được đấy”.

“Tôi không làm gì hại ông”, gã nói.

“Chứ sao”. Ông chả làm gì tôi được. Tôi là cò cảnh sát thi hành nhiệm vụ”.

“Ông can tội tống tiền”. Nụ cười gắn chặt vô mặt gã, thật quá nhục nhã. Một tên da đen dám hỏi vặn lại trước mặt thượng cấp, đáng tội chết.

“Tôi không tống tiền ai hết”.

“Vernor Garnett không nhắc tới chuyện đó”.

“Chính ông ta giết đứa con gái?” Tôi buột miệng nói ra ngay. Nụ cười vụt biến trên gương mặt Violette.

“Ông nói sao?”.

“Hắn giết đứa con gái rồi nghĩ ra mưu mẹo lấy ông với tôi làm bình phong che chắn”.

“Nghe này, Rawlins…”.

“Không, ông nghe tôi thì phải hơn. Trưa hôm qua Vernor định tìm gặp tôi trước cửa nhà sách. Một cô nàng biết mặt đứa con và hiện giữ bằng chứng trong tay chính là đứa con của Cyndi”.

“Bằng chứng nào mới được chứ? Đứa con nào?”, tên cớm miễn cưỡng hỏi.

“Cả một lô hình ảnh cùng với một cuốn nhật ký đủ chứng cứ nhận dạng ra tên sát thủ, chính hắn sẽ đem về cho nàng ba ngàn đô la”.

“Ông là ai? Có phải Charlie chăng?”.

“Bằng chứng đâu hắn khi tôi ra”.

“Chuyện ông làm đã rõ. Ông dọa đưa chuyện đứa con gái ông ta lên báo, ông định bên diếu chuyện đời tư con bé ở khu phố Watts”.

“Tôi dám cược với ông chuyện này có thật. Tôi dám cược nàng sẽ cho gia đình biết chuyện cả hai mẹ con. Đúng thế, ông ta đã biết chuyện đứa cháu”.

“Ông đi mất rồi, Rawlins. Cô nàng không có đứa con nào hết. Chính Vernor cũng chưa hay biết cô nàng là ai cho tới khi nghe ông kể lại”.

“Cô nàng có một đứa con, đã bỏ nhà ra đi sinh ra đứa con tại một trong những chỗ ở của Bull Horker”.

Gã không thèm nghe một lời tôi kể cho tới lúc vừa nghe thấy tên Horker.

“Ông định gặp cô nàng kia tại đâu?” tên cớm trở về với nhiệm vụ.

Tôi nhắc lại đầu đuôi câu chuyện, gã không nói gì. Vừa xong câu chuyện gã đứng ngay dậy, vội vã ra đi.

“Con tôi sao đây?”, tôi hỏi lại gã.

“Ông lo đầy đủ tiền chuộc?”.

“Tôi không tống tiền ai hết”.

“Chính miệng ông nói, có lẽ ông vừa mới đọc báo. Hãy đợi đấy?”.

“Ông nghe tôi đây”, tôi phải nói lớn tiếng để cho gã đứng lại chờ. “Tôi lo sợ có kẻ đang rình chúng tôi”.

Violette ngạc nhiên nhếch mép cười. “Không có ai đòi giết ông đâu, Rawlins. Hắn chỉ đặt tay bên vai rồi vặn cổ ông chơi tức thôi. Ông cần phải biết nếm đủ mùi”.



• •

Tôi với Alamo chia nhau mấy điếu thuốc cuối cùng, chúng tôi ngồi hút thuốc suốt đêm. Lão là một tên tội phạm chuyên nghiệp không từ chối một việc gì từ chuyện ăn trộm vặt đến chuyện giết người.

Lão sống ở một thị trấn thưa thớt người bên Iowa, giã từ quê nhà sau thời hạn ở quân ngũ hồi thế chiến thứ nhất.

“Thật là chuyện bất công, bọn chúng chết trẻ”, Alamo kể lại. Lão lắc đầu ân hận. “Bọn chúng đầu xanh vô tội chưa nếm trải đủ mùi đời. Cứt bò. Tớ có thể lục hết tiền bọn chúng, giết hết, bọn chúng có biết mẹ gì đâu”.

Lão như người tâm thần, tuy vậy nghe lão kể chuyện tôi được an ủi phần nào. Chỉ còn những kẻ tinh thần không tỉnh táo mới bắt giam tôi.

Sáng sớm bọn gác tù vào dẫn giải tôi đi. Đêm qua Alamo lén đưa tôi chiếc muỗng mài dũa nhọn, khéo đút vô trong tay áo. Tôi được dẫn ra ngoài, qua dãy bàn dài tới chỗ hai cánh cửa lớn khu vực nhà để xe.

Bọn lính sai tôi khiêng cái thùng giấy nằm trong góc, ghé mắt nhìn vô thấy quần áo tôi nằm trong đó.

“Mặc đồ vô!”, tên lính gác ra lệnh.

Tôi thay đồ ngay trước mặt hắn, cẩn thận giữ chiếc muỗng cất dưới tay áo. Mặc đồ thường xong tôi quăng bộ đồ tù vô một xó, bảo toàn được hung khí.

Một tên lính khác bước tới dẫn tôi ra chỗ đậu xe, bên trong xe bít bùng có hai tên cớm ngồi chờ. Bọn chúng xuống xe còng cả hai tay và chân.

“Tôi còn đi tới đâu nữa?”, tôi hỏi lại.

Tên cớm nhe răng cười.

Tôi ngồi ở ban sau, xe chạy vòng qua thành phố. Với tôi lúc này mỗi phút trôi qua phải cân nhắc kĩ. Tôi nhìn qua mấy quầy hàng người mẫu đứng quảng cáo chợt tôi ứa nước mắt. Một tên cớm giơ tay ra hiệu rẽ trái. Tôi nhớ đứa con trai ở nhà ruột gan muốn thắt lại.

Xe chạy vòng qua phố cả tiếng đồng hồ mà sao tôi thấy nhanh quá. Tôi cảm thấy lần này chắc có vẻ đang chờ chết, chiếc muỗng nhọn tôi cất giấu trong túi – không thể làm sao chọi lại được với bọn có súng, tôi cần phải có thêm một đồng minh, tôi có thể làm được việc này.

Đến trưa tôi được giải đến bót gác rào kẽm gai chung qua. Một tên lính gác giúi vô tay tôi chiếc phong bì lớn, bên trong một xâu chìa khóa với cái bóp đựng tiền, nhìn lại tôi cảm thấy rùng mình lo sợ. Tôi nghĩ không sai sắp đến giờ hành đạo.

Từ trong tòa nhà thị chính xây dựng gần bên trụ sở thành phố tôi bước đi vai rụt vô, đầu cúi xuống.

“Kìa Easy!”, hắn vừa ré lên một tiếng.

Tôi ngẩng đầu thủ thế định nhào tới nhè đâu anh chàng Raymond Alexander mặt mũi sáng rỡ quần áo bảnh bao, dày trắng ngà đội mũ hẹp vành. Mouse đứng từ xa nhìn tôi tươi cười.

“Trông cậu khiếp quá!”, hắn nói.

“Cậu đi đâu đây, Raymond?”.

“Tới lo tiền chuộc cậu đây, Easy tớ lãnh cậu ra”.

“Sao?”.

“Thôi ta đi cho khỏi chỗ này, bọn cớm sẽ bắt ta vô trở lại vì tội lang thang ngoài phố”.

Ngồi trong xe nhìn ra hai bên những nhóm nhà thấp lè tè từ thời những năm năm mươi từ Los Angeles qua tới khu phố Watts.

“Cậu muốn đi đâu, Easy?” đi một vòng giờ Mouse mới hỏi tôi.

“Cậu đem theo tiền chuộc tớ ra?”.

“Chớ sao. Hai mươi lăm ngàn đô. Bọn nô lệ làm gì có đủ tiền”.

“Kiếm đâu ra tiền nhiều dữ vậy! Cậu gặp Mofass chưa?”.

“Có tiền nhưng hắn ở lại trong bệnh viện?”.

“Ở bệnh viện sao?”.

“Ờ. Bọn da trắng lọt hết của hắn. Hắn nhờ tớ nhắn lại với cậu làm ăn chung với bọn đó bết bát lắm”.

“Cứt bò, cậu lấy đâu ra tiền”.

“Cậu muốn biết phải không?”. Hắn nhìn gã cười.

“Ở đâu ra?”.

“Tớ giật được mớ tiền tại sòng bạc ở Gradena”.

“Lắm tiền vậy hả?”.

“Còn một mớ nữa”.

“Cậu có bắn tên nào không?”.

“Có bắn một tên mà chắc không chết, hắn còn lê lết đâu đó”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Xác Bull Horker được tìm thấy trong con hẻm ở vùng San Pedro. Hắn bị bắn bảy phát vào trước ngực. Cảnh sát cho viết hắn bị bắn đâu trước đó rồi đem quăng xác vô đây, trùng với thời gian tôi hẹn gặp Sylvia và Vernor trước cửa nhà sách thành phố lúc tám giờ.

Bác đưa tin nạn nhân cố vùng vẫy xo xát với thủ phạm nhưng không nên rõ nguyên nhân nào.



• •

De Campo và Flower vui mừng gặp lại tôi. Thấy Jesus mừng rỡ tôi tưởng đâu nó nói được. Nó chạy tới ôm choàng lấy tôi không chịu buông ra, tôi để vậy ngồi xuống đặt nó trên đùi.



• •

Mofass đang nằm trên giường bệnh, trông hắn còn khỏe mạnh. Được nghỉ ngơi hắn mới lấy lại sức, vào tới đây thì chịu khó bỏ thói hút thuốc. Hắn chỉ lo cho mấy chổ sưng trên bàn tay chân trái bị dập ba chỗ.

“Bọn chúng xô tớ ngã xuống thang lầu, có chết chẳng có ai lo. Bọn chúng dọa nếu muốn sống thì phải cho mọi người biết bọn chúng không đùa đâu?”.

Mouse cuời khẩy.

“Tớ sẽ lo chuyện đó, William. Cậu nằm yên đây bỏ hút xì gà. Bọn chúng đòi thanh toán cậu nhanh hơn cả DeCampo”.

“Thà tôi chết còn hơn “ bỏ hút thuốc”.



• •

Tôi đưa cho Mouse danh sách DeCampo và những tay giúp việc. Tôi cho hắn địa chỉ hãng Culver City dặn nên lui tới thường xuyên nhân danh cá nhân hắn .

“Tớ muốn để bọn chúng hiểu là giết Mofass cũng không thể cứu được mạng sống bọn chúng”, tôi nói. “Còn nữa, Raymond”, tôi chỉ ngay vô mặt hắn. “Tớ không muốn thấy có người chết hoặc bị thương”.

Tôi đã từng đọc qua nhiều tác phẩm ca tụng tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, chẳng thấy cuốn nào nói đúng dù chỉ là một ly sự thật.



• •

Tôi ngồi vào bàn giấy coi lại báo cáo vụ giết Bull Horker. Tôi cố tìm cho ra manh mối chứng minh hung thủ phạm lả Vernor, hoàn toàn không thấy.

Tôi thấy cần phải giữ im lặng, ngay cả trước lúc Regina bỏ đi, đến lượt Edna, Jusus đang coi truyện , tôi vẫn còn sống nhăn.

Chợt tiếng cánh cổng mở ra ken két, tôi nhìn qua cửa sổ, Quinten Naylor quay lại đây. Gã vẫn mặt bộ đồ cũ y như bữa hôm đưa tôi tới nhà xác nhận diện Bonita Edwards.

Tôi trách móc hắn để cho Regina bỏ đi, nói ra vậy nhưng tôi tự biết mình sai.

Hắn không ngạc nhiên thấy tôi bước ra mở cửa, không chờ gã đưa tay gõ.

Tôi châm thuốc hút, gã đưa tay lên gãi đầu.

“Ông không còn bị buộc tội nữa?”. Naylor nói.

“Ối chà? Thế nào rồi ?”.

“Vợ ông ta bị bắt giam”.

“Còn Milo thì sao? Chợt tôi nhớ tới thằng nhóc đó trước tiên”.

“Đưa ra phiên tòa thiếu niên”.

“Đúng thế, tội lỗi trút lên đầu bọn trẻ, giam nó vô tù thay cho người lớn làm bậy”

“ Mẹ nó đã chịu tội ,bà đã thú tội”.

“Sao?” Tới giờ tôi chưa tin. Tôi còn nhớ gương mặt bà biến sắc ra sao lúc nhìn thấy mấy tấm ảnh tôi đưa ra?

“Bà ta chưa hiểu gì đâu, mãi về sau bà mới sắp xếp nhớ lại từ đầu. Ông Garnett kể a cho bà nghe qua mấy vụ giết người , trước lúc xảu a vụ án đứa con gái. Bà chưa thể nào nghĩ ra cho đến lúc ông kể cho bà nghe chuyện đứa cháu ngoại. Chính ông ra đã gặp gỡ Robin ngay sau khi nàng vừa bỏ học, chính ông ta phải biết con bé đã có thai”.

“Vậy nên nàng hiểu ra ngay khi ông ta đang theo dõi hành động Sylvia”.

“Ông ra lo sợ chuyện cuốn nhật ký. Robin dọa sẽ đến nơi ông làm việc, nàng ăn mặc như một gái làng chơi ẵm theo đứa bé nếu ông không chịu chỉ món tiền lo cấp dưỡng cho đưa con”.

“Giết con mình”. Nghe vậy tôi buồn thay.

“Nàng đưa đây ông mới nên nỗi, nàng là một gái làng chơi trơ trẽn vì đã nhúng chàm, nên mới dọa lại ông”, Quinten nói.

“Vì nàng, ông mới nên nỗi”, tôi nói. “ Vậy thì, cái gì đã lôi kéo nàng?”.

Quinten không hiểu được chuyện đó. Với gã có cái đúng cái sai không có gì rõ ràng. Gã đem chuyện đạo đức ra để so với lối làm ăn hái ra tiền ủa Mofass. Không thể so chuyên đầu tư lâu dài với những việc làm coi tiền là trên hết, tội lỗi là trên hết. Mofass không nhận ra được đồng tiền bọn lường gạt qua mặt hắn còn Quinten Naylor không hiểu được vì sao Vernor Garnett lại tự hủy diệt mình.

“Còn cha nó ở đâu?”, tôi hỏi.

“Lão chạy theo, đuổi băt cho được Sylvia, giết chết Bull Horker, vụ này chúng tôi biết được. Sau vụ này, ông ta vỏ đi cùng với con bé đó. Mới hôm qua, chúng tôi tìm thấy chiếc xe ô tô để lại ở vùng ngoại ô Hollywood. Trên băng ghế trước chỗ Bull Horker ngồi còn dính đầy máu”.

“Con bé kia thì sao?”.

“Chưa nghe nói. Mọi chuyện y như tôi vừa kể. Tên tuổi hình ảnh ông ta còn đây. Chúng tôi sẽ tóm được ngay”.

“Vậy thì chắc ăn rồi”.

“Nghĩa là sao?”.

“Ông bắt người thật tài tình, ông Quinten. Ông đã thành công trong vụ J.T. Saunders. Đến khi Violete nhờ tôi một việc tưởng có thể làm nhanh hơn ông nòa ngờ không phải vậy”.

“Ông định nói gì đó ông Rawlins?”. Nghe một bên nguyên đơn trình bày trường hợp mình bị tống tiền chúng tôi tin ngay lời khi đó. Nhất là gặp trường hờp của mấy tay cò cảnh sát.

“Kẻ tống tiền là một tên Nigger. Nó độ địa ở chỗ đó. Đúng thế. Này ông bạn, ông đến đây có việc gì? Ông định đưa tôi vô tù nữa hay sao?”.

Naylor nhìn xuống đầu mấy ngón tay rồi gã mới nói, “Thiệt tình tôi muốn nói xin lỗi ông”. Gã nói như muốn nghiến hai hàm răng không lọt ra ngoài một chữ. “ Tôi có thói quen thường cho là cò cảnh sát hay tống tiền. Tôi không biết ăn nói sao. Tôi lúc nào cũng tự nhận mình phục vụ trong hàng ngũ cảnh sát với hai bàn tay sạch. Tôi tự đặt mình trên ông. Ông đừng đưa tôi vô chỗ chết. Tôi không có ý nói ông biết sống đẹp, nhưng tôi cũng chẳng hơn gì ông”.

Có lẽ Naylor cũng không đến nỗi tệ. Biết vậy nên tôi không nói ra, tôi không nói một lời nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Chỉ mấy bữa sau, mọi việc trở lại bình thường, có thể tạm cho là vậy đi. Ai hỏi tôi chỉ nói Regina về nhà lo chăm sóc bà dì đang ốm.

Jack De Campo đến thăm Mofass trong bệnh viện – gã đến để tạ lỗi. Gã trách, chuyện chỉa mũi dùi vô những thành viên đứng ngoài cuộc, còn chuyện xáo trộn trong nội bộ không nghe nói.

Mofass không muốn tha cho hắn ngay lúc đầu, gã sực nhớ lại Mouse thường hay gieo nỗi sợ hãi cho người khác.

“Ông nên biết là ông Rawlins”. Mofass đang nói trong má, trông mặt mũi hắn trăng bệch quá sợ hãi nhìn thấy ra bằng hai tên da trắng .

Hiếm khi tôi với gã cùng phá ra cười vì một câu chuyện đùa.

Lúc tôi báo cho gã hay bạn bè ta đã có tên trong bảng lương thì chớ nên lo, tôi nghĩ gã phải nhào tới sau hôn tôi một cái.

“Ok, William, lần sau cậu phải lo làm ăn cho đàng hoàng”, tôi nói.

“Ơ hơ. Nhưng còn một việc nữa”.

“Việc gì?”.

“Bọn chúng muốn hùn thêm vốn , góp vốn một trăm hai mươi lăm ngàn đô, tính ra là hai mươi lăm phần trăm”.

Tôi nghĩ trong đầu hắn đang làm ăn theo kiểu tự sát.

“Ái dà…”.

“Bọn này có quan hệ làm ăn trong khi không có ngân hàng nào giúp cho một tên Negro”.

Nghĩ tới lúc DeCampo về làm cho tôi thì cũng được thôi , lũ lấy tiền quỹ ra mở rộng thêm.

“ Cậu nói, mình thỏa thuận nười tám phần trăm chịu không thì làm?”.

“Ok”. Tôi nghe tiếng hắn cười trong máy.



• •

Bốn bưa sau ngày Quinten Naylor tới đây chuông điện thoại reo. Mỗi khi nhấc máy ruột gan tôi muốn lộn phèo. Tôi nghĩ mãi mình phải ăn nói sao với nàng.

“Alô”.

“Có phải ông là Easy Rawlins?” tôi nghe giọng một anh chàng thanh niên.

“Dạ phải”.

“Vậy thì … thật tôi không biết , thưa ông. Đây là một chuyện lạ”.

“Chuyện thế nào ?”.

“Ồ, ông còn nhớ một cặp nhân tình đã đến ăn ở quán Chicken Pit cách nay một tuần?”.

Tôi thấy đau thắt cả ruột.

“Cách đây mấy bữa một cô nàng cong trẻ lắm bước tới bàn tôi ngồi xin một ly nước. Tay đưa ra cầm ly nàng lại chộp lấy tay tôi giúi vô mảnh giấy này, chắc cô nàng có điều gì lo lắng…?”

“Trong mảnh giấy ghi lại ra sao?”.

‘Chỉ là một góc bài báo, một phiếu đua ngựa đề tên ông cùng số điện thoại, ngoài lề ghi chú thêm “báo cho Sở cảnh sát, bọn tôi đang ở tại nhà trọ Seacrest, ký tên Sylvia”.

“Sao để tới hai bữa sau mới cho hay?”.

“Tôi đâu có biết chuyện gì. Lạ thật. Tôi sợ gặp rắc rối. Ông biết đó… Tôi không dám báo Sở cảnh sát”.

“Nhà trọ Seacrest ở đường nào?”.

“Nằm ngay góc ngã ba phố Adams và La Brea. Ông có cho là…”.

‘Bọn chúng còn ở lại đó bao lâu”.

“Qua bữa sau tôi nghỉ làm, tôi về San Diego không còn nhớ gì nữa…”.

“Cô nàng còn ở lại đó không?”.

“Không, chỉ còn một anh chàng, tôi xin thưa, tôi đã báo cho ông rõ sự việc”.

Tôi gác máy bước nhanh tới mở tủ, lấy khẩu súng. Jesus đeo theo tối níu chân lại. Tôi đứng lại hỏi nó, “Gì đó con?”.

Nó nhìn theo khẩu súng trên tay tôi.

“Không phải mẹ Regina, mẹ bỏ đi rồi, không phải mẹ gọi”, tôi nói cho nó nghe.

Mới nghe nó chưa tin. Tôi ngồi xuống giảng cho nó nghe một hồi, con ở nhà bố về sớm. Tôi bước ra lấy xe chạy thẳng tới nhà trọ Seacrest.

Cứ tới ngã tư tôi định gọi Sở cảnh sát. Qua mỗi chặng đường trường tôi nghĩ trong đầu phải giết Vernor Garnett, tôi căm ghét hắn đủ thứ. Hắn giết đứa con, còn vợ hắn đứng sau lưng hắn giật dây. Hắn chỉ còn một câu nói láo là tôi vào ngồi tù. Hắn là một tên da trắng.



• •

Nhà trọ Seacrest xây trệt, bên kia đường là bãi đậu xe quay mặt ra ngoài. Tôi lái xe vô bãi lúc ba giờ chờ đó.

Tôi ngồi chờ tới ba tiếng đồng hồ, đầu óc chỉ nghĩ tới Regina. Tôi muốn nhớ lại từ trước kia, càng nghĩ thấy càng nhức nhối. Nhưng lúc này đây ngồi chờ cái tên chó chết này, tôi quên mất hết nỗi đau nhức nhối. Tôi thấy căm giận Garnett đến tận xương tủy.

Ngay lúc nhìn thấy Garnett bước ra sau cùng đến lúc này tôi không nhớ ra gì nữa. Tôi không thể nói ra được vì sao nàng bỏ ra đi. Tôi không thể nói ra được lẽ ra tôi phải khác hơn.

Mặt mũi Garnett đầy lông măng mới nhú. Lão mặc chiếc áo choàng hai bên ve áo lật ngược. Lão đi bộ dọc theo đường phố tới quán ăn Chiken Pit, đầu cúi xuống.

Tôi đẩy mạnh cửa bước nhanh vào.

Sylvia đã chết từ lúc nào. Lão đặt nạn nhân nằm dưới sàn nhà cầu, khóa cửa lại. Cái xác giờ đã bốc mùi hôi, một bên màng tang lõm xuống. Bên trong gian phòng ngổn ngang đủ thứ, quần áo, hộp đồ ăn quăng tứ tung. Trên giường tờ báo đang coi dở dang tới trang chuyên đề du lịch. Ba chuyến đi Mêhicô được khoanh lại.

Tôi tắt đèn đứng lùi ra sau cửa, tôi đứng cho tới khi nào chán thôi. Chiếc giường, chiếc bàn trang điểm đổi màu mờ nhạt. Tay tôi lăm le khẩu súng.

Garnett trở về mở cửa đóng lại mới bật đèn. Tôi không lúng túng trước ánh đèn vừa bật sáng.

“Sao vậy?”, Vernor la to như muốn nói với một người nào đứng gần đó. Nhìn lại lão chỉ có một mình.

Giả sử ngay lúc đó lão nhào tới tôi sẽ níu lấy xác Sylvia theo về phía tôi. Nhưng không tay lão nắm chặt núm cửa.

Tôi chỉa súng ra, lão lắc đầu như thể là đang đối mặt trước một hoài niệm bất ngờ khó chịu. Tôi giáng thêm một cú đòn lão khuỵu xuống như lúc J.T. Saunders ra đòn hạ gục tên cớm.

“Tôi van ông!”, lão nói nhỏ nhẹ.

Một tiếng thét dội ngược vô đầu “Giết hắn đi!” Lặp đi lặp lại nhiều lần. Cần cổ tôi run giật. Ngay lúc đó tôi nhận ra là nếu không bóp cò tôi sẽ mất mạng. Mắt tôi nhòe đi, môi tôi muốn thét lên một tiếng, ruột gan tôi lộn xộn tay cầm khẩu súng không chặt.

Garnett cúi đầu nhìn vào cửa hai tay đưa lên úp vô mặt. Cả hai lão với tôi như những tên cuồng trí trước giờ lâm nguy, cả hai như thằng điên nhưng lão là một tay luật sư.

Lão cất tiếng trước. Mới vừa nghe tôi bàng hoàng được một lúc tôi mới thấy có lý. Lão nói vậy mà không phải vậy. Lão không có ý giết đứa con gái. Nhưng khi sự việc xảy ra rồi, lão mới giả mạo phiếu lãnh tiền đề tên Saunders, bởi lão đã biết rõ câu chuyện trong phiên tòa vừa xử.

“Lão giết con bé ngay trong xe”.

“Sylvia thì ra sao?”.

“Tôi chỉ cần lấy được cuốn nhật ký nhưng không ai mang theo”, lão nói.

“Nghĩ sao ông giết con bé?”.

“Nói làm gì nữa”, lão kể lể “Nó không đưa cho tôi – Nó muốn… muốn…”.

Tôi trói chặt lão Garnett, rồi khóa mồm lại đem quăng vào nhà cầu cùng với Sylvia Bride.

“Ô kìa”, Quinten Naylor cất tiếng.

Tôi đưa ra địa chỉ nhắc lại có người gọi gã, không rõ họ tên.

Với người khác coi cuộc trả thù thật là ngọt ngào. Tôi chỉ nhớ lúc đó chạy xe một quãng khá xa tôi dừng lại nôn mửa xong mới thở ra được.

Bailey tay nấu ăn cho Bull Horker rất đỗi vui mừng kể cho tôi biết chỗ ở của Cyndi ngoài bãi biển Redondo Beach. Chỉ cần bỏ ra thêm năm mươi đô la hắn sẽ thi hành nhiệm vụ báo thù giúp cho tôi.

Căn hộ ở khu phố Exeter là của bà lão Charla Fine. Bà giữ con cho Bull Horker, bà cũng không vui gì khi hay tin Bull Horker đã chết. Đứa cháu Feather thì vui vẻ một cách vô tư. Lần đầu tôi thấy nó, nó đang gặm ngón chân. Tôi nghiêng người xuống nó nhìn tôi cười.

Tôi bỏ ra năm trăm đôla mua được nó về tay tôi.



• •

Qua bữa sau báo đưa tin chi tiết hơn vụ án. Con bé diễn viên múa thoát y Sylvia Bride bị giết chết (tên thật là Phyllis Weistein) được đăng ảnh trên trang nhất,khắp California.

Phiên tòa xử được báo đưa lên trang nhất được mấy tuần. Mọi chuyện ngoài công tố viên muốn che đậy đã được công khai trên mặt báo. Tin về cuộc sống phiêu lưu và cái chết của đứa con gái. Tội ác của người cha, tôi che giấu tội phạm của người mẹ.

Chẳng có một ai lưu tâm đến đứa trẻ sơ sinh. Tin đồn mẹ nó đem đi vứt bỏ, và càng ly kỳ hơn không ai được thấy mặt đứa trẻ kể từ lúc mới sinh ra.

Vậy mà trên giấy tờ khai sinh ghi là một đứa trẻ da trắng. Thế là đứa bé Feather yên ổ ở lại với tôi.

Hai năm sau Vernor Garnett chết trong tù. Vợ lão được tòa xét trắng án, dọn qua ở địa phương khác.

Không còn ai nghe nhắc tới Milo.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom