Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Ẩn Sĩ

Ẩn Sĩ
Tác giả: Lê Thanh Tùng
Tình trạng: Đang cập nhật

--- oOo ---


Thể loại: truyện ma, tiên hiệp, huyền huyễn,

Trên dòng lịch sử của nhân loại, từng có một kiểu người trong tay có những quyền năng đặc biệt có thể nắm giữ quy luật của trời đất mà mở ra chứa đựng những khả năng to lớn mà con người không thể tưởng tượng nôi, nhưng rồi họ lại cảm thấy chán nản việc đời, họ lại tự tìm đường lánh mình đi, biến mất khỏi thế gian không ai có được tin tức gì. Vậy thật sự thì họ là ai, là tinh túy của cả một nền Văn Hiến bốn ngàn năm, là mạch sống của cả một dân tộc, họ là Ẩn sĩ!
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1: Á quỷ


Mỗi lần về nhà thăm nhà ông bà ngoại, tôi lại cảm thấy lạnh lạnh mỗi khi rảo bước một mình. Nhà ông bà tôi nằm làng Cổ Định- một trong những vùng đất cổ xưa nhất có dấu chân của con người. Và đương nhiên, nó cũng không thiếu những thứ huyền hoặc, kỳ dị tới mức mê hoặc chính những con người ở thời đại mới như chúng ta.

Trước đây nhà bà ngoại tôi ở vườn có trồng một cây Dầu- tôi không rõ cây này lắm, nhưng nghe bà ngoại tả nó có quả như cây xoan, nhét vào súng ống nứa bắn rất rát, trẻ con khi xưa mười đứa thì chín đứa thích chơi trò này. Khi mẹ của tôi lớn lên thì cây Dầu chặt đi lâu rồi, do có nhiều chuyện liên quan đến cây này không hề ít. 

Chuyện là khi ông ngoại tôi mới chuyển công tác về quê tôi bây giờ, thì mua được một mảnh đất một ông cùng cơ quan. Ông bà tích cóp vay mượn đủ để xây nhà nhưng xây xong lận đận quá. Lúc mái gianh bị cháy, lúc thì cột nhà mục nó sụp một mảng nhà- dù là gỗ cột là gỗ lim ông cùng các bác tự đi chặt về, rồi trộm đục tường, các kiểu. Một thời gian sau ổn định, bà tôi chăn nuôi thì thời gian đầu mọi chuyện nó bình thường, sau thì đàn gà nhà bà tôi nuôi không một con gà mái nào đẻ nữa- kiểu như đẻ hết trứng rồi. Sau đó con nào con ấy gáy như gà trống vậy, nhưng con nào gáy thì chỉ ba bốn ngày sau là lăn ra chết.

Bấy giờ chúng toàn chết kiểu như bệnh rũ gà giờ, nhưng lông gà rụng dần rồi ấy, lúc làm thịt thì chả còn giọt máu nào cả. Còn chó thì bà tôi kể không bao giờ nuôi được chó lông màu khác chó màu vàng, nuôi con nào chết con ấy. không hiểu chết kiểu gì mà con nào con ấy cứ đập đầu vào cây Dầu rồi chết dưới gốc cây ấy, ông bà tôi hoang mang lắm, nhưng vì các con nên cố bám trụ- vì ông đang có công tác ổn định ở nơi đây, còn bà thì bươn chải buôn bán kiếm một chút tiền rau dưa hàng ngày.

Còn chó thì bà tôi kể không bao giờ nuôi được chó lông màu khác chó màu vàng, nuôi con nào chết con ấy. Mà mười mấy năm nay hàng xóm bạn bè chưa thấy nhà bà nuôi được con chó nào màu khác vậy, chó lông vàng thì mắc đủ bênh đủ tật, ghẻ lở gì kinh qua hết, mà nó sống dai như bọ, còn chó đen chó vện thì được dăm bữa nửa tháng, là thấy ông bà lụi cụi mang chôn rồi. Rồi một ngày ông bà mới vỡ lẽ ra tại sao nhà mình nó lại lần đạn thế, thì hôm ấy là mùng 1 tháng bảy âm- tháng âm lịch thì nó đọc nhất hai ngày- mùng 1 và rằm, nếu mọi người ai chưa rõ thì mình xin nói nhiều chút: Rằm thì trăng tròn nhất, khi ấy Thái Âm khí từ mặt trăng mạnh nhất, nên âm khí nó thịnh, ma quỷ dễ lên, nhưng thánh thần cũng dễ hiện. Còn mùng một thì độc hơn, “Mùng một lưỡi trai”- nghĩa là bình thường ngày này không có trăng, học trăng chỉ hé như miệng con trai- lúc này Thái Âm khí không có, chỉ có Thiếu Âm khí từ mặt đất thôi, nên Thánh thần không có hiện ra, mà chỉ có ma quỷ ngày này- vong, ngạ quỷ,… nên cúng mùng 1 là thế. Hôm ấy thì ông đi từ nhà máy về, đi về đến ngõ thì nom thấy bóng người vắt vẻo trên cây Dầu, ở dưới là một đám lố nhố nữa, tưởng là trẻ con trong xóm trèo lên cây hái quả, ông mới quát:

– Tối thế này mà bọn mày trèo lên cây à, ngã lộn cổ bây giờ, xuống ngay!

Thì đứa trên cây mới quay đầu sang phía ông, cười khanh khách mấy cái, rồi nói vọng ra- giọng nói nghe ông kể lại là nó kèn kẹt như kiểu bụi tre lúc gió bão ấy, khó nghe, ghê ghê:

– Nhà taooo…. tao ở đấy…

Rồi nó đưa tay với lấy đầu, kéo nghẹo cổ sang một bên, vừa nói vừa cười khanh khách:

-Ngã lộn cổ như thế này đấy phỏng….

Trong ánh mắt kinh hãi của ông thì nó buông người từ cây Dầu rơi xuống đất bịch một cái, tức thì đám đen dưới đất vừa khóc vừa cười, lại rú lên một cách ghê rợn, ông mình lúc đấy khiếp hãi lắm rồi, liền vứt bịch cái xe Phượng Hoàng xuống, chạy ù té vào nhà, không phải là ông tôi lúc ấy nhát gan, mà là ông chạy vào xem bà với các bác mình có việc gì không! Vào đến nơi thì ông thở phào, vội lay bà dậy rồi hỏi bà có nghe gì không, bà lắc đầu, xong đấy ông chỉ ra gốc cây Dầu ngoài vườn thì bà thấy đám ấy, nhưng mắt chúng nố đỏ lòm lên như đám đom đóm lớn màu đỏ tươi vậy, chúng vừa khóc vừa cười rồi cứ dần dần tiến về nhà ông bà tôi, ông bà sợ quá ôm lấy các bác mà chẳng biết làm gì. Nhưng đến lúc đấy thì bống có tiếng gà gáy vang lên, bọn nó biến mất tăm…

Hôm sau, trời vừa sáng bảnh, ông liền lập tức xuống nhà ông Nhĩ- thầy cao tay nhất mấy làng mình ngày xưa. Mình kể sơ qua về cụ một chút, cụ Nhĩ ngày xưa học chữ Nho, sau bãi bỏ thi cử thì cụ từ quan về quê, nhưng cụ đỗ Tú Tài nên người cùng làng gọi cụ là thầy Tú Nhĩ, cụ nuôi Âm Binh- không phải Âm Binh kiểu thầy phù thủy nuôi là vong, quỷ đói, ngạ quỷ,.. mà cụ nuôi Binh Hồn. Ông mình kể là Binh Hồn là vong linh của binh lính tử trận, hoặc là vong linh có linh tính, không màng hương hoa, không đòi âm đức- nghe cụ Tú Nhĩ bảo đây à phép của Đạo giáo Nội tu Toàn Chân, chứ không phải phép của Ngoại tu kiểu Phù Thủy như Mao Sơn. Cụ có một cái túi, cất giữ một nhúm đậu, gọi là Đậu Binh, làm pháp Tát Đậu Thành Binh, lại có một chiếc gương bát quái- vừa là gương vừa là La Bàn, mỗi khi cụ đi làm phép thì cầm nó đi xem trạch địa từng nhà, xem hướng xem giờ đủ cả. Ông mình vừa tới thì đã thấy cụ ngồi ngay ngắn ở cái phản rồi, cụ vừa cười vừa rót nước chè rồi nói:

– Chú sang sớm thế có chuyện phỏng? Tôi thấy sắc mặt chú vượng khí không tốt, tối qua chắc gặp vật không lành, nay sang chắc vì chuyện vậy chăng?

– Cụ phán chuẩn quá ạ, chả là nhà con…

Vừa nói ông mình vừa kể chuyện nhà mình cho cụ nghe, cụ Nhĩ vừa nghe vừa nhíu mày, rồi cụ mới ôn tồn nói:

– Hỏng! Thú thực với chú, ngày xưa đất nhà chú là nơi đất nghịch- năm xưa Duy Tân ra Bắc, nhưng đến Thanh Hóa là bị giữ lại, không bước nửa chân qua Tam Điệp- sĩ phu Bắc Kỳ uất hận, dâng sớ lên Văn Miếu, rồi nguyện khất thực bộ hành từ Hà Nội vào kinh đô gặp vua, ai ngờ đâu Toàn quyền nó biết, nó bắt hết gia quyến nhà người ta, mang chém hết. Xã ta có bốn cụ tham gia bộ hành, người nhà mang chém ngót 40 người, tất cả vùi thây ở sau hào tre làng, có lẽ chết vì oán hận, nên oán khí không tan, gặp ngày mồng Môt tụ lại mà tác quái..

– Chẳng lẽ đất nhà con…

– Trước đất nhà chú gọi là Đồng Than- vì cứ mỗi tháng lại nghe tiếng than khóc, tiếng rên rỉ của gần bốn mươi mạng người chết oan kia, sau mấy cụ cao niên thỉnh Thành Hoàng ngự xuống, thì Người mới bảo là chị áp chế được hai giáp thôi, nhưng hơn ba chục năm rồi không thấy động tĩnh gì! Không nghĩ nó lại hoành hành thế. Rồi cụ lại thở dài, nói tiếp “Mà chú cũng liều, gà qué chết như vậy mà không nói tôi sớm, tôi trộm nghĩ có lẽ bọn này hút huyết khí của gia cầm, không còn là vong nữa đâu… Có khi thành đã trở thành á quỷ rồi!”

Ông mình nghe thế giật mình lắm, mới hỏi gấp cụ Nhĩ:

– Á quỷ là gì hả cụ?

– Người có tinh, khí, thần, tinh là huyết nhục, thể xác, tinh mạnh thì sống thọ, tinh yếu thì chết yểu. Thần là tinh thần, ba hồn bảy vía, thần mạnh thì vía mạnh, ma sợ quỷ khiếp, can qua được tai họa. Còn Khí, cái này ảo diệu nhất, mỗi người có khí riêng, không ai giống ai, nhưng phần nhiều chia thành Ám khí, Linh khí, người Ám khí nặng thì phần nhiều đầu trộm đuôi cướp, người Linh khí mạnh thì giàu có, phước lộc nhiều. Mà người Ám khí át Linh khí chết đi thì thành Vong, Vong này không có Tinh, lại thiếu Thần, chỉ có Khí- vậy nên không trung hòa được bản tính của mình, mà từ từ tích uất hận nên trở nên hại người. Tích nhiều quá trở thành Á Quỷ- Quỷ này là Hậu thiên, nghĩa là bẩm sinh không phải Quỷ, mà do luyện thành. So với Quỷ bình thường, nó không mạnh bằng, nhưng luận độ độc ác, gian tà, thì không Quỷ nào địch được.

Ông mình khiếp hãi lắm, bồn chồn không yên, lại nhìn thấy cụ Nhĩ đăm chiêu nên lại càng bứt rứt, thì cụ Nhĩ như sực tỉnh, quay sang nói với ông mình:

– Giờ chú nghe tôi này, bây giờ chú cứ về nhà trước, đưa thím với mấy đứa con nít đi chỗ khác ngay, rồi về đây ta tính chuyện sau, bước nào hay bước đấy. Rồi cụ bấm bấm đốt tay, gật mạnh đầu hối thúc: “Nay là ngày Thân, tháng Bảy à? Thế chú phải đưa thím ngay trong giờ Thìn, nhanh lên, không là không kịp, đợi nó đến giờ Mùi là hỏng chuyện, rồi chú về nhà tôi luôn, mai ta về nhà chú!”

Cụ Nhĩ nói thê rồi đưa tiễn ông, ông lập tức về nhà đưa bà về, vì lúc ông từ nhà cụ về đã 8 rưỡi sáng rồi, chỉ còn hơn hai tiếng để dọn đi thôi! Lu bu mãi sáng hôm sau mới về nhà cụ được!

Sau khi ông đưa bà đi, về nhà cụ Nhĩ, bấy giờ thì trong gian nhà của cụ có sẵn hai người trung niên cùng một cụ xêm xêm tuổi cụ Nhĩ nữa, cụ cười cười rồi giới thiệu với ông mình:

– Chắc chú chưa biết, đây là hai học trò lớn của tôi, giờ nó đang tu Đạo trên Thái Vi, tận trên tỉnh Ninh Bình, tối qua tôi gửi chim bắn tin, chúng nó về phụ tá một tay!

Vừa nói cụ vừa chỉ sang một hai người cạnh ông mình- hai người này vẻ mặt hiền hòa, nhàn nhã, mặc áo bào khoác hờ lên vai, nhẹ nhàng cúi đầu chào ông mình. Hồi đấy người ta vẫn mặc áo the, nhưng mặc áo bào thì hiếm, ngay cả lý trưởng cũng không mặc nữa. Tiếp đấy cụ Nhĩ lại chỉ vào cụ già bên cạnh, nói:

– Đây là sư đệ của tôi, tận trong Vinh, so với tôi thì bản lĩnh của hắn phải hơn tôi ba phần, có hắn chuyện nhà chú không phải là khó khăn gì.

Ông mình nghe thế vội quay sang cúi chào cụ già kia, cụ này nghe là sư đệ của cụ Nhĩ, nhưng mái tóc bạc trắng, mang vẻ già nua, có vẻ già hơn cụ Nhĩ phải hai chục tuổi, cụ này nghe thế đang nhắm mắt dưỡng khí liền mở hai mắt ra, cười mỉm:

– Sư huynh quá lời, tạp kỹ của tôi há lại bằng sư huynh, tôi là đi đường tắt, luyện thêm cả Ngoại tu, trả giá bằng Âm đức, Nguyên Khí mới lay lắt đến hôm nay. Giờ giúp được ai hay người ấy. Nhìn người này Vong khí quấn thân, có vẻ gặp chuyện không lành…

Cụ Nhĩ liền quay sang kể chuyện về đất nhà mình, cụ già kia càng ngày càng nhíu mày, thở hắt ra:

– Sư huynh, Á Quỷ chắc rồi, huyết chó vốn là vât tanh bẩn, nhưng có tính kị tà, mà chúng lại hút huyết chó, thì e rằng tà khí của chúng không phải dạng vừa đâu…

Cụ Nhĩ lúc đấy mới quay sang dặn dò tất cả người trong phòng:

– Tối nay ta sang nhà chú T một lần, mọi người nghỉ sớm!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2: Á quỷ 2


Đến tối, cả đoàn năm người băng qua đồng hoang về nhà ông mình, nhà ông mình không phải nằm ở trong làng mà phải đi qua một cánh đồng nữa mới tới, đến nơi, cụ Nhĩ lấy chiếc La bàn ra, ngắm nghía một chút rồi quay lại dặn dò từng người.

– Ấm khí nặng quá! Giờ tôi chưa xác định được vong tà nó tập trung đến mức nào. Theo tôi thì ta nên kết Bắc Đẩu trận- tôi và sư đệ mỗi người hai cung, chú T với hai đồ đệ tôi mỗi người một cung! Bắc Đẩu tinh chủ tử, là vong hồn chi chủ- kết trận này để mượn tử khí tránh đi Quỷ Nhãn của Á Quỷ, rồi sau đấy theo sách cũ mà làm.

Mọi người gật gật đầu, ông mới hỏi cụ Nhĩ:

– Thưa cụ, con không biết pháp, chỉ là người thường, kết trận liệu có ảnh hưởng lắm không?

– Chú không cần boăn khoăn gì! Chú tuổi Dần, tôi sẽ sắp cho chú chủ vị Thiên Y- chỉ cần giữ vững tinh thần, không nên lo sợ phá vỡ vị trí, thì chắc chắn không có bất cứ thương tổn gì cả.

Rồi cụ Nhĩ xoay xoay La Bàn, đi vòng vòng quanh nhà, nhìn ngắm nhà mình một chút rồi ấn định từng người vào chỗ riêng, Bắc Đẩu trận bàn có 7 vị, năm người đứng một chỗ, còn hai vị trí thì cụ Nhĩ để ở đấy chiếc La Bàn, một vị trí thì sư đệ cụ để lại một cái thước lớn. Vừa bày xong trận thì cụ Nhĩ tung nắm đậu ra, trong ánh mắt kinh ngạc của ông mình hạt đậu dần dần run rẩy rồi bay tà tà mặt đất ngang eo người lớn, tỏa ra ánh sáng màu lam nhạt, cụ liền chỉ tay vào nhà rồi hét:

– Càn chi Thiên, Thiên tựa Thương Khung. Khôn vi Địa, Địa như Huyền Hoàng. Linh Khí quy Thiên, Ám khí trầm Địa. Tát Đậu thành Binh, Hào khí ngang Vân, kết lập Xã Đàn, pháp lập tựa Thiên Võng. Tế Trời, Tế Linh Khí, triệt Ám Khí. Thái Vi pháp lệnh, phán quyết: Sát Sát Sát!!!

SAu ba tiếng Sát của cụ, Đậu Binh tiến thành một dòng lũ lao vào đất nhà mình, đa phần lao vào cây Dầu, rồi bỗng nhiên lúc đấy gió lạnh thổi lên, thổi tắt hơn một phần ba nến mà cụ Nhị thắp lúc đọc lệnh. Rồi một tiếng the thé vang lên:

– Phá hỏng chuyện của tao… Tao vặt đầu từng thằng…

Rồi từ cây Dầu lao ra một bóng đen, mắt nó sáng rực như đèn, cao lêu nghêu, miệng há rộng đỏ lòm như máu, vừa cười méo xệch miếng lại vừa nghiến răng kèn kẹt. Nó lom lom nhìn vào từng người, rồi đưa tay với sang bên người nó. Là xác một con dê lớn, không trách dạo này hàng xóm mất nhiều súc vật, lợn gà, chó không kể, mà mất cả một số súc vật lớn như Dê, nghé nữa. Cụ Nhĩ thấy thế giật mình, nhưng vẫn quát lớn:

– Quỷ nơi nào há lại dám hoành hành như vậy! Chết là hết, lại dám quanh quẩn làm hại sinh linh, không muốn Luân hồi nữa chăng?

– Câm mồm, thằng nho già! Còn dạy tao, chết hết đi…

Nói rồi nó vung tay lên, ném xác con dê về phía cụ Nhĩ, lại tiếp tục vung tay lần nữa, nó tựa như biến thành làn khói, bây về phía Đạu Binh, mõi lần lao đến phía đám Đậu, tuy đều bị giữ lại nhưng ánh sáng của đậu yếu đi rất nhiều. Vừa lao nó vừa cười khe khé:

– Chết hết đi…tao giết hết…giết hết.

Ông mình thấy thế sợ hãi lắm, nhưng vẫn cố đứng nguyên vị trí, lúc này cụ Nhĩ mới quay sang nói lớn:

– Sư đệ, nhanh tay! Quỷ này hút được tam thực khí, hút đủ huyết khi Bò, Lợn, Dê rồi, không sợ dương khí nữa! Giúp tôi nhanh!

Lúc này sư đệ của cụ Nhĩ mới cười nhạt, nhếch môi cười khẽ, rồi phất phất tay, từ tay áo cụ mới bay ra một đoàn khói nhạt- mờ mờ ảo ảo, bay về phía trận chiến phía trước, nhưng đoàn khí vụ này không lao về phía con quỷ Dầu, mà lao về phía đậu binh, nhất thời âm binh đã yếu thế không chịu nổi nữa, tan tác như gianh. Cụ Nhĩ lúc này tâm thần tập trung vào Đậu binh, binh vỡ thì tướng cũng phải chịu ít nhiều, cụ liền run rẩy, phun một nhúm máu ra, vẻ mặt nhợt nhạt không thể tin được quay sang nhìn cụ kia:

– Sư đệ, cớ ra làm sao?

– Sư huynh, vô độc bất trượng phu! Trao pháp quyết mà sư phụ trước khi quy trần đưa cho tôi, nếu không… Nói đến đây cụ kia cười một lần nữa, ánh mắt loe lói lên, lại phất tay một lần nữa, con quỷ kia tỏ vẻ sợ sệt, lùi dần rồi tiến đến cạnh lão, ra vẻ rất cung kính, đến bấy giờ thì ai cũng đã rõ, thì ra lũ chúng nó ủ mưu, làm ra tuồng kịch để ám cụ Nhĩ một kích:

Cụ Nhĩ nét mặt bệnh tật, run rẩy không đứng vững, con hai vị đồ đệ của cụ thì cứ đứng ở vị trí cũ quay cuồng đâm chém vung tay không thôi, riêng ông tôi thì không có việc gì, có lẽ lão kia cảm thấy ông mình là người thường, chẳng có tác dụng gì nên cũng lười chả thèm ra tay. Cụ nhìn lão một lúc, hỏi lớn:

– Là mi dùng pháp giúp con Quỷ này thu huyết khí, áp đi linh thức của Thổ Địa, Thành Hoàng, từ từ tu luyện?

– Phải, năm năm rồi... Nếu không phải thằng này xây nhà nơi này, tôi há phải làm gấp gáp thế? Nhưng mà nhờ nó, tôi mới có cơ hội lấy mạng sư huynh chứ…

Nói rồi lão cười rộ lên, vẻ mặt ánh mắt có vẻ thỏa mãn lắm, rồi liên tục vuốt râu, nhìn về phía cũ Nhĩ. Ai ngờ lúc này con Quỷ bên cạnh lão mới đưa tay đâm lão một cái xuyên từ bụng qua lưng. Lão giật mình, đau đớn nhìn xuống, bàn tay đen xì của con quỷ mới xoắn mạnh một cái nữa, hoàn toàn làm vết đâm loang rộng ra, rồi kéo một cái nữa, móc tim của lão ra. Cuối cùng lão chỉ kịp trợn mắt lên rồi ngã xuống đất, trào máu, chết không nhắm mắt. Con Quỷ cầm tim lão, hít hà mấy cái rồi vứt toạt vào miệng rộng đầy máu, nhai nhóp nhép:

– Tim người…Người…tao muốn ăn…

Lão chết thì ảo thuật che mắt hai học trò cụ Nhĩ mất hẳn, hai học trò cụ sực tỉnh lao lại, chỉ cần nhìn họ cũng hiểu điều gì xảy ra, một người căm giận nói:

– Không ngờ sư thúc hắn dám đi theo con đường dưỡng quỷ, ai ngờ người tính không bằng trời tính! Quỷ kế đa đoan, tin lời quỷ, thà rằng tự tìm chết…

Bấy giờ con quỷ đứng yên như đang cố hấp thụ tim lão sư đệ, thì mở to mắt ra, từ mắt nó chảy ra một dòng mắt màu đỏ sậm, tanh tưởi khôn cùng, nhe lớn hai hàm răng ra, nó cười khàn rồi lao vụt lại phía đám người. Một vị đồ đệ cụ Nhĩ mới ôm ngang eo ông ngoại tôi, chạy vụt ra ngoài, số là cụ Nhĩ thấy bất ổn liền nói nhỏ với vị ấy, tí nữa liệu căm gắp mắm, thấy khó là lui, bảo kê ông nên đi trước, nếu không mạng người khó giữ.

Cụ Nhĩ và người đệ tử còn lại tiếp tục đứng bắt quyết, tay liên tục tạo thành pháp ấn, rồi lầm nhầm tung về phía con Quỷ. Sau đấy mọi chuyện không rõ ra sao, nhưng nghe ông ngoại thuật lại thì đi băng qua cánh đồng vẫn nghe tiếng gào tú, tiếng ấm ấm như đốt pháo.. Mãi tận gần sáng, cụ Nhĩ cùng đồ đệ cụ mới về nhà, ai đấy đầu tóc rối bù, mặt tái nhợt đi như mất máu, cụ Nhĩ vừa ngồi xuống đã thở dốc rồi nói:

– Lần này gặp may, mang được thân già về, tôi tưởng tôi không qua nổi đêm nay nữa, nhưng con Quỷ này cũng xổng mất rồi, không thể bắt được. Lần này phúc không bằng họa rồi, tôi phỏng đoán nó tu dưỡng an ổn, lại về làng mình thôi….

Ông ngoại nghe thế sợ lắm, xin cụ Nhĩ nghĩ cách giúp cho. Cụ cũng chỉ thở hắt một hơi, rồi nói với ông rằng:

– Tôi còn một đứa đồ đệ nữa, là đồ đệ quan môn của tôi, tôi đã nhắn nó. Sau này nếu làng bất ổn, nó sẽ về ngay! Còn chú, tôi khuyên chú chuyển nhà đi, dù gì chú thím cũng có công tác, chuyển vào trong làng có Âm trạch Thành Hoàng, dễ hơn…

Ông tôi nghe thế cũng cảm ơn cụ Nhĩ lắm, rồi mấy hôm sau vay mượn, mua mảnh đất trong làng, còn mảnh đất nhà cũ, ít lâu sau ngôi làng bắt đầu rộ phong trào đào đất sét làm gạch, chỗ đó hóa lò gạch… Chỉ ban ngày mới có người tới, còn ko ai vãng lai cả, riêng gốc cây Dầu vẫn còn- và nó còn gây nhiều chuyện cho làng nữa…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3: Quỷ di ái


Từ khi ông tôi chuyển hẳn vào làng đã ba bốn năm trôi qua, mảnh đất Đồng Than bỏ hoang một hai năm thì rộ lên phong trào cắt đất sét làm gạch, cả cánh đồng cứ mỗi chiều đỏ rực ánh lửa. Rồi kháng chiến nổ ra, cả làng xơ xác, tiêu điều hẳn, thanh niên thì đi lính, làng chỉ còn người già và trẻ con, với số ít người đứng tuổi. Cuối năm 52, dân quân làng ở cái lò hoang Đồng Than phục kích được một toán lính Tây, giết được một thằng Việt gian. Dân làng phấn khởi lắm, nhưng vài ngày thì Pháp về, nó cáu quá đốt phá cả làng,từ cái Đình làng, đến chùa làng, đều bị đập hết, rồi đốt gần hết cả xóm Giáp. Từ đấy dân làng bỏ đi tứ xứ, mãi đến năm 54 mới về xây dựng lại.

Cụ Nhĩ bây giờ đã yếu lắm rồi, cụ cười móm mém rồi nhìn lại từng gốc cây, từng mái nhà trụi lủi., rồi cụ nhíu mày bước vội đến Đình làng. Cụ Nhĩ vội vã lật đống gỗ gạch còn sót lại của Đình lên, nhiều người lại hỏi cụ nhưng cụ chỉ lắc đầu không đáp mà chăm chú làm tiếp, mãi một lúc sau cụ thảng thốt nói lớn vọng ra:

– Cái triện đồng của Thành Hoàng đâu mất rồi! Hay là bị Tây mang đi mất rồi, thế thì hỏng!

– Cụ nói sao? Cái Triện giấu trong cột gỗ lim lâu lắm rồi không ai biết, mất rồi thì giờ tính làm sao hả cụ?

Mấy cụ cao niên khác nghe thế vẻ mặt cũng hốt lắm, không một ai hiểu lý do vì sao, rồi cụ An dè dặt hỏi. Cụ Nhĩ thì vẫn tư lự lắm, đăm chiêu một lúc thì mới thở dài đáp

- Đâu khắc có đấy, các cụ cứ dựng tạm lại Đình làng ta, rồi ta tìm cách lo liệu sau!

Nói thế mọi người liền gật đầu, làng mình từ đấy bắt đầu xảy ra việc lạ. Cứ mỗi chiều từ núi sát ngay làng bay ra từng đàn chim lợn, cứ chập tối là từ ngọn tre ở hào làng kêu từng tiếng eng éc… eng éc… nghe đến giật mình. Bọn nó kêu rất lâu, tầm gần tiếng lại bay lại về núi, mỗi ngày như thế đâm ra dân làng sợ vẩn vơ hết. Từ lâu người ta đồn rằng chim lợn kêu là có người chết, đàng này nó cứ đứng ở hào làng kêu, mà không chỉ một con, mà là hai ba chục con một lần. Người làng ra xua đuổi đi thì chỉ được một vài phút, một vài phút sau thì lại về túm tụm lại ngọn tre rồi. Rồi cuối cùng không chỉ là chim lợn nữa, mà có người làng đã bị doa đến chếp khiếp.

Cứ tờ nờ sáng, là một túm đàn bà trong làng lại quẩy gánh, quảy hàng lên chợ huyện buốn bán, đặng kiếm vài xu về tăng gia thêm bữa cơm bữa cháo, chợ Huyện mở sáng, mà làng lại xa nên phải đi từ lúc canh ba chưa sáng rõ. Các bà đi qua cây tre, thân tre vang lên tiếng xào xạc ngày càng to, một bà mới thấy lạ hỏi lớn:

– Mấy bà có thấy lạ chửa? Rõ là không có gió mà lũy tre kêu như có bão ấy nhờ!

Mấy bà kia cũng gật gật, thì từ lúc này cây tre như đổ rạp ra giữa đường chắn nguyên đường, rồi một tiếng cười khé..khé… vang lên giữa đêm tối. Từ trong bụi tre bò ra bóng người bò ra, nó đen đúa dưới ánh trăng, cả người nát bươm như bị đá đè nát bét vậy, nó chỉ bò bằng hai tay mà nhanh như người đang chạy từng bước nhỏ. Lũy tre dài năm sáu chục mét, àm nó bò thoăn thoát như con thạch sùng, mới đấy đã đến gần đoàn người rồi, lúc này các bà mới nhìn rõ nó. Nó chỉ có phần thân trên của con người, dính với một cái chân cụt tới đùi, ổ bụng nát bét hết, vừa bò nó vừa cười, từ miệng phát tiếng cười ghê rợn, lưỡi dài quết đất, đỏ lòm. Các bà thấy thế sợ đến đờ người, may mà có một bà sợ quá tiểu cả ra, con vong thấy thế liền chần chừ không bò lại nữa, mà nhìn chăm chăm cả đoàn người. Lúc này cả đoàn mới sực tỉnh, vội rặn mỗi người một ít, rồi bôi khắp người, vứt hết gánh hàng chạy vê phía làng, vẫn nghe đàng sau tiếng thổi gió như tiếng con rắn lớn trườn vậy.

Nỗi sợ lớn dần, dân làng đành làm phiền cụ Nhĩ, cụ nghe thế liền đi ra chỗ hào tre. Cái hào tre này trồng từ lâu rồi, năm xưa mỗi làng đều là một đất riêng- nội bất xuất, ngoại bất nhập, cái hào tre trồng rắt một loại tre gai để làm thành hào thành lũy ngăn người ta ra vào. Cụ Nhĩ đến cạnh lũy tre, cụ bấm bấm đốt tay rồi mang cái La bàn ra, lẩm nhẩm vài câu. Lúc này kim La Bàn xoay tít vài vòng, các khớp răng của La Bàn, rồi dừng lại ở Khảm và Ly, lúc này cụ Nhĩ mới nhìn về phía mặt trời, rồi lẩm bẩm nói:

– Ly sính Hỏa, Khảm ưa Thủy, Nội Khảm ngoại Ly, vậy đây là quẻ Thủy Hỏa Vị Tế. Quẻ này theo Tả Ao tiên sinh giải chú thì là Chồn con qua sông, hấp tấp ướt đuôi- ắt hẳn là có tà vật mới luyện thành nhưng chưa dứt được âm khí, hơn nữa lũy tre làng mọc về phía Đông Nam làng! Đông Nam có cây lớn, cây ấy ắt dưỡng quỷ- cổ nhân nói không sai bao giờ.

Rồi cụ gọi người làng đang đứng đợi cạnh, nói lớn:

– Các chú các thím đào trốc gốc lũy tre này lên cho tôi, nhớ kỹ, nhà nào có trẻ con chưa được nửa giáp thì lùi về sau!

Tức thì người làng hè nhau đào lũy tre lên, đào sâu khoảng ba bốn mét thì thấy một bộ xương đen xỉn, chỉ có phần xương thân trên, không có xương chân phải. Cụ Nhĩ nhíu mày, liền nghĩ ngợi một chút, mới bảo tiếp:

-Các chú thím chịu khó đào về phía tay trái chú bảy mươi bước chân nữa cho tôi…

Mọi người nghe lời liền đào thêm một lúc, lúc này mới thấy dưới chân lũy tre là một ổ rắn, nhưng chỉ còn một lớp da lột, lớp da này dài dễ cả ba bốn mét, rộng hai gang tay. Cụ Nhĩ thấy thế mặt biến sắc lắm, bảo với dân làng:

– Tôi nghe nói trước làng ta có phục kích được cả tiểu đội Tây đi càn, giết được thằng Tây với thằng Việt gian phỏng? Vâng, đúng rồi cụ- một bác cầm cái mai nói vọng lên.

– Thế thì đúng rồi, thằng Tây chết lính Tây nó mang xác về rồi, còn xác này chắc là của thằng Việt gian, bọn Tây nó quẳng ở đây. Nó chết hận quá, vong nó lại quấy quá! Mà xác nó lại bị con rắn ăn mất, giờ ta phải tìm cho ra con rắn này, giết ngay nếu không để lâu tôi e có biến!

Nghe cụ nói thế người làng ai nấy mặt tái không còn giọt máu, nhất là mấy bà bị ma dọa hôm trước càng tỏ vẻ e sợ. Cụ Nhĩ trầm ngâm, rồi bảo dân làng xin chân hương ở Chùa với Đình làm mồi, sau đấy đốt luôn cái bộ xương đấy đi. Lúc đốt bộ xương, đàn chim lợn lại từ núi bay tới, kêu eng éc cả khoảng trời, mãi tới khi đốt xong cả đàn mới tản đi. Cụ Nhĩ chia phần tro thành bảy phần, bảo dân làng trôn lần lượt ở bảy nơi trong làng, cụ giải thích:

– Chia làm bảy, vì nó là đàn ông, có thất khiếu, tối lấy xương giả làm thất khiếu để tán cái Âm khí của nó ra. Mà tôi chôn đều ứng với các đỉnh của núi ta, lấy đỉnh núi làm thành hình kiếm, tựa thế Thái Sơn áp đỉnh mà từ từ làm nó yếu bớt đi.

Xong xuôi đâu đấy, cả dân làng giải tán, các cụ cao niên thì cùng nhau ra Đình bàn chuyện. Được quá nửa tuần rượu, thì có một chú hớt hải chạy đến báo:

– Không hay rồi cụ ơi, anh Định, anh Huy bị vong nghịch rồi cụ ơi..

Bác Định, bác Huy là một trong những người tham gia việc đào lũy hôm nay, nghe thế cụ Nhĩ cùng các cụ tức tốc chạy đến nhà hai bác. Lúc này sân đông nghẹt người, ai cũng lo lắng, vì nay mới làm được việc nhỏ, mà đã bị thế này, thử hỏi hôm sau còn nghiêm trọng thế nào nữa. Không biết thân mình còn giữ được mạng không.

Cụ Nhĩ chạy đến, tức thì thấy bác Huy, bác Định vị trói vào cột, mấy người khác thì vừa vẩy nước tiểu vừa lấy cành dâu vụt vào người hai bác, quật đến tóa cả máu mà mắt hai bác cứ long sòng sọc lên, lưỡi thì thụt ra thụt vào như lưỡi rắn, thở hơi ồ ồ, bụng thì to như bụng trống. Thấy cụ đến, bác Định gái mới mếu máo thưa:

– Chồng con xong việc làng, về đến nhà ăn uống xong, bảo đi đặt cái vó… Mãi không thấy về, con đi tìm thì thấy chồng con, bác Huy với bác Tiến ở lũy tre làng. Sợ quá con chạy về báo cho dân làng, từ lúc ấy chồng con đã thế này rồi cụ ạ. Mong cụ giúp chồng con, không ông ấy chết mất…

– Chú Tiến đâu…Cụ Nhĩ thấy không ổn liền quay sang hỏi gấp.

Dân làng lúc ấy mới sực tỉnh, một cụ cao niên mới giật mình:

– Thằng Tiến nó gọi mình mà chú… Thôi chết!!! Nó bị vong nghịch như thăng Định, thằng Huy cơ mà….

Rồi cụ Nhĩ mới móc trong túi một viên thuốc, bảo với bác Định gái:

– Thím hòa viên này với nước tiểu trẻ em cho chú uống, rồi lấy tiết gà trống đánh gió cho chú ấy! Nhớ kỹ là gọi người túc trực cạnh chú nhà, rồi rải vôi trước sân, cửa, vẽ thành hình cung tên! Với đốt nhanh cho các cụ, nội tối nay không được để hương tắt, tôi phải ra Đình gấp, thím thông cảm…

Rồi cụ với mấy chục người khác ra đình, chạy vào sân Đình, các cụ sững người: Đình làng tan hoang như vừa có một cơn bão quét qua, lư hương, ban bệ lung tung lộn xộn, bàn ghế xiêu vẹo, nhất là cái Vạc hóa hương của Đình lăn ra tận sân, cụ Nhĩ thấy thế kinh hãi lắm. Cụ chạy lại chỗ cái Vạc, nói lớn:

– Chết rồi, phần tro cốt của thằng Việt gian mất rồi. Tôi ếm trong này…

– Thằng Tiến nó dám...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4: Quỷ di ái 2


Cụ Nhĩ bấy giờ đã bình tĩnh, cụ lặng lẽ lắc đầu:

– Không phải thằng tiến, mà là thằng Việt gian kia. Thứ ta thấy chỉ là thân xác thằng Tiến thôi… Tôi chủ quan quá. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra ngay từ lúc đào được cả xương thằng Việt gian, kèm theo là da của con rắn…

– Xin cụ giải thích cho chúng tôi đôi điều.. Mấy cụ cao niên nghe thế giật mình lắm, các cụ xưa nay chỉ nghe về ma Thần Vòng, ma Da,… chứ có nghe ma nào mà lừa được cả người đâu. Họa may chỉ có yêu tinh!

– Tôi chắc bảy phần, con này thành Quỷ Di Ái rồi! Quỷ Di Ái là cách gọi của phái chúng tôi, nguồn gốc nó như sau. Năm xưa thời Trần, Trần Di Ái là vương thất, Thái Tông cho đi sứ Tàu, ấy thế mà phản chúa cầu vinh, rước voi về giày mả tổ, cùng với quân Nguyên sang xâm lược nước ta, sau bị Hưng Đạo Vương giết ở Lạng Sơn, vùi thây nơi rùng rú, nhưng chết mà oán khí không tan, lại bị sơn cẩu dã thú ăn thịt. Chúng nó ăn thịt oán khí này, thành nghiện, liền tích tụ Âm khí của hắn, sau đấy bị vong của hắn phụ thể vào, từ sinh linh còn sống hóa thành quỷ vật. Thế nên con rắn kia tôi phỏng nghĩ là ăn thịt thằng Việt gian, bị vong nó phụ thể rồi, hóa thành quỷ Di Ái, không biết cớ làm sao chú Tiến lại cũng bị thế… Mà do tôi chủ quan trong Đình không ma quỷ nào vào được nên thành ra hắn đắc thủ…

Mấy cụ cao niên nghe thế sợ hãi ra mặt, quay sang nhìn nhau. Yên lặng một lúc thì một cụ mới ngỏ lời:

– Giờ mọi chuyện chỉ trông mong hết vào cụ… Chúng tôi thì vô phương thật rồi… Cần gì cụ cứ nói!

– Hôm nay mùng ba tháng năm, đến mùng năm âm, vào hôm Đoan Ngọ tôi sẽ cố một lần, dĩ dật đãi lao- ta cứ nghỉ ngơi an nhàn trước, tránh hao tổn lực lượng. Làm một lần, tiêu diệt gọn, thà mệt một lần chứ không để nó quấy quá nữa!

– Mọi chuyện nghe cụ..

Thế là mọi chuyên trong làng tạm lắng xuống, trừ chuyện bác Tiến từ hôm ấy mất tăm tích, những đàn chim lợn không còn xuất hiện nữa, giống như thời điểm bình yên trước cơn bão lớn. Đúng tiết Đoan Ngọ, sáng sớm, mọi người đã tập hợp ở sân Đình, thì cụ Nhĩ mới nói to:

– Giờ việc khẩn tôi không dài dòng, giờ làng cần chín trai đinh còn tân, tuổi Dần tuổi Thân! Bảy đứa con gái tuổi Tỵ, tuổi Mão. Ai gan lớn thì bước ra lo việc làng! Tôi thay mặc dân làng cảm ơn trước!

Tức thì có mấy thanh niên bước ra, cụ Nhĩ cười mỉm rồi quay sang nói với mấy cụ cao tuổi:

– Các cụ ở lại cứ làm theo lời tôi nhờ hôm trước, nghe bất cứ tiếng gì cũng không được mở cửa Đình, kể cả là tiếng tôi! Còn nữa, các cụ nếu thấy hương khói ở Đình tự nhiên bùng cháy, thì phải lấy ngay chiếu biểu sắc phong của Đức Thành Hoàng ra ngay… Tôi nghĩ là con Quỷ Di Ái nó sẽ về lại chỗ nó chết, để ép cái xác rắn lột xác lần nữa, cũng thuận tiện lợi dụng đất Đồng Than mà mạnh thêm…

Rồi cụ cắt đặt các bà mua về gà trống, chó mực, mèo đen, máu dê,… rồi cụ đưa cho mỗi thanh niên một túi vải nói.

– Chút nữa cứ an vj theo lời tôi, các anh chị mỗi người một túi Càn Khôn này, bày trận xong ngồi xếp bằng, nhắm mắt lại, nam tay trái cầm, nữ tay phải cầm! Dù thế nào cũng không được nhúc nhích một bước, cứ an tâm là không có gì gây nguy các anh chị hết! Lúc nào nghe tiếng gà gáy thì hãy mở mắt!

Rồi chiều tối hôm đó, cụ cùng đoàn thanh niên ra ngoài lũy tre làng đến cái lò gạch bỏ hoang, cụ xếp bảy cô gái về phía Bắc cái lò gạch, còn chín thanh niên nam về phía Nam, sau đấy cụ lấy tiết gà hắt về phía Đông, lấy máu chó rải một vòng quanh người các người kết trận kia. Xong xuôi đâu đấy, cụ bắt lấy con mèo, thả nó ở cạnh cái lò gạch, lúc này con mèo mới lò dò đi lại cái lò gạch. Bỗng nhiên bước chân nó run rẩy, rồi kêu thảm mấy tiếng, cúi xuống ngang bụng tự cắn ngang ổ bụng, lôi ruột ra rồi chết. Mất thanh niên đi cùng cụ Nhĩ thấy cảnh tượng kỳ dị thế tái mặt ngay! Cụ Nhĩ mới vung nắm đậu lên, hét lớn:

– Thái Vi pháp lệnh, Tát Đậu thành Binh! Nội Ly hành Hỏa, Ngoại Khảm hành Thủy. Bắc Minh kết trận Thất Sát chi âm trận, khai khai khai!! Nam Hoang kết Cửu Dương chi trận, khai khai khai!!! Nội Dương Ngoại Âm, Kinh Dịch chi lục thập tam trận- Thủy Hỏa Ký Tế, phược phược phược!!

Sau khi cụ niệm chú, từ vòng huyết cho của bảy cô gái ngoài cùng, bảy chiếc túi Càn Khôn dâng lên ánh sáng màu lam nhạt, bay về phía đoàn Đậu Binh, tức thì ánh sáng đậu binh sáng bừng lên. Còn từ vòng càn khôn của chín anh thanh niên thì làm ánh sáng cam nhạt, thoát cái bay về phía La Bàn của cụ. Từ trong cái kì gạch cũ vụt ra một bóng đen, lao thẳng vào đám đậu binh. Từ ánh sáng mờ ảo, cụ Nhĩ nhận ra đây là một con rắn lớn, nhưng ánh mắt của nó không phải màu vàng khé, mà là chia rõ đồng tử đen trắng như mắt người, nó vừa cắn xé vừa phun ra những thứ bầy nhầy về phía cụ, cụ Nhĩ liền vung La Bàn lên dạt hết ra. Tức thì nghe tiêng nói vang lên, tiếng nói như tiếng người ta bị bóp họng, kêu khè khè:

– Phá tao… lũ ngu dân phải chết… giết mày xong…tao giết hết….

Cụ Nhĩ liền nhíu mày, tiếp tục niệm chú, tức thì ánh sáng từ trận pháp kết từ các thanh niên trong làng càng mạnh, nó sáng đến chói mắt khiến con Quỷ phải hét lên đau đớn. Rồi tự nhiên nó rít lên một tiếng rít gió như muốn đục thủng màng nhĩ người ta, tức khắc từ trong lò gạch chạy ra một bóng người, là bác Tiến. Nhưng lúc này thì bác không còn bình thường nữa, cụ Nhĩ trông thấy cũng giật mình, người bác giống như mọc vảy, hai mắt vàng quạnh lại, đồng tử thu nhỏ thành một vạch ngang mắt. Bác chạy bốn chi như con thú, lao vào giữa đám Đậu binh, nhưng kỳ lạ là tứ chi bác khép vào người chỉ chừa ra một chút, mỗi lần lao vào người bác lại như bị chém nhẹ vài phát, máu ứa ra nhỏ tong tong xuống đất.

Cụ Nhĩ thấy thế một mặt bấm quyết cho đám Đậu binh chống cự con rắn cùng bác Tiến, một mặt xếp bằng hai tay đặt thế niêm hoa, từ từ nâng chiếc La Bàn lên, rồi cụ mở bừng mắt ra, tung mạnh chiếc La Bàn về phía con rắn, hét lớn:

– Đoan Ngọ chi dạ, Khuất Nguyên chi hiền nhân anh linh. Nay kẻ này khi chết tham sống phản quốc, khi chết thành quỷ tạo nghiệt. Nay kính xin Ngài cho ta mượn dùng một ít Chân Dương chi khí tiễu trừ yêu nghiệt, há để nó làm càn!!

Oành… một tiếng vang như nổ pháo vang lên, con rắn va với chiếc là bàn sáng như ngọn đèn và vào nhau tạo thành một vụ nổ đẩy cụ Nhĩ cùng đám Đậu Binh ra xa ba bốn mét. Lúc này con rắn người gần như nát bét, máu chảy đỏ quạnh, nó liền lao về phía bác Tiến, cụ Nhĩ biết nó định làm gấp việc phụ thể với bác, nên cụ nén đau vơ hết đám Đậu binh lại, nhân lúc nó không để ý nhét thẳng vào mồm nó. Cuối cùng phát lên một tiếng nổ bùng bục, cái đầu rắn nát bét!!! Cụ Nhĩ cùng bác Tiến bị bắn ra xa, đến lúc này thì đám gà trống được cụ mang theo nhất thời gáy to lên. Mấy người thanh niên nghe đàn gà gáy liền mở choàng mắt ra, mang cụ Nhĩ cùng bác Tiến về trong làng.

Hôm sau, cụ kể lại rằng: Cụ cần thanh niên nam nữ để kết quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, nguyên lai là quẻ trước của quẻ Thủy Hỏa Vị Tế khi còn quỷ Di Ái chết đi, là khắc nhau. Quẻ Vị Tế là giả vờ kết thúc, nhưng mà chưa xong, ý nói âm khí mạnh mẽ tưởng chết nhưng vẫn sống, tức là thành vong thành quỷ. Cụ bắt quẻ Ký Tế thì là chết hẳn, vạn đời không được siêu sinh nữa. Còn con quỷ hóa thành quỷ Di Ái ấy cụ tìm mãi không được cái triện đồng của Thành Hoàng, e rằng không phải nó lấy đi, nhưng vì nó ở trong hào làng đã lâu, nên dính khí tức của làng, Thành Hoàng không phân biệt được, nên nó lấy được tro cốt mang đi. Về phần tro cốt là dùng để hoán xác với bác Tiến, nếu hoàn thành, bác Tiến sẽ hóa xà tinh, còn nó có thân xác thịt, có dương khí của bác, nhưng mọi chuyện chưa thành thì đã bị diệt trừ. Còn về bác Tiến là do bác trong lúc đào xác nó thấy có con dao dù của Pháp nên bác cầm về, ai ngờ dính phép của con quỷ. Từ sau lần đấy bác bị câm không nói được, nghe nói do lưỡi bị thụt vào, sức khỏe cũng giảm dần, vài năm sau bác mất.

Lại nói ngày Đoan Ngọ là để tưởng niệm Khuất Nguyên- thân là kẻ sĩ yêu nước, sau trầm mình tự tử ở Mịch La, chết thành tiên. Là người thương dân, hay tiễu trừ ma quỷ, hận kẻ bán nước cầu vinh, nên nhàm ngày Đoan Ngọ để mượn dùng linh lực của người này!

Cuối cùng, thì kẻ bán nước cầu vinh không có kết gì tốt, sống bị phỉ nhổ, chết không siêu sinh được, nhớ kỹ nhớ kỹ~~~
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5: Câu hồn quỷ


Sau lần cả làng trừng quỷ Di Ái rồi, tuy là mọi chuyện sinh hoạt của làng đều vô cùng bình thường, tinh lặng, nhưng người tinh ý thì phát hiện ngay ra đây chỉ khoảng thời gian tĩnh lặng trước cơn bão. Từ khi các cụ phát hiện cái Triện đồng của Thành Hoàng đã biến mất không tung tích, thì trong làng nhiều chuyện khó hiểu liên tiếp xảy ra nhưng với nhân vật chính là người khác- những người không phải là dân gốc của làng. Họ là những người ngụ cư mới chuyển tới gần đây.

Theo tục lệ của làng, thì không phải dân ly tán cứ đến là được ở trong làng, muốn nhập tịch làng, thì có hai cách: Thứ nhất, chồng đủ tiền đóng góp cho làng, chính là mua một chức kiểu ông hương, ông cửu rồi mở tiệc khao cả làng, lúc này thì cố nhiên có một suất hương ước. Thứ hai là Tam đại đồng hương, nghĩa là từ ba đời ở cạnh jàng thì nếu có nguyện vọng nhập làng thì sẽ cho nhập. Nhưng sau thời kháng chiến thì mấy cái thủ tục này bị loại bỏ, nên nhiều người cũng chuyển về làng ở, một phần vì vùng độc lập lúc này còn chưa ổn định, thứ hai vì làng tôi có vị trí khá thuận lợi. Ngặt một nỗi, đất trong làng cũ thì không đủ do có cái lũy tre trồng sẵn rồi, vậy nên hầu hết người ngụ cư đều chuyển ra phía ngoài làng, chỗ Đồng Than cũ mà đất nhà ông tôi ở, tạo thành một xóm nhỏ tầm mươi nóc nhà, chúng tôi gọi đấy là xóm Trại. Tầm vài ba tháng đầu thì không có chuyện gì to tát, cho đến một hôm trời vừa tang tảng sáng thì có người ở xóm Trại hốt hoảng chạy vào trong làng báo tin: Nhà cô Huy mới chuyển tới xóm Trại đều thắt cổ chết hết cả rồi! Mọi người trong làng nghe thế mới hoảng sợ chạy ù ra xóm Trại, bước vào mái nhà gianh của cô Huy, ai ai cũng thấy kinh hoàng: Ba xác chết lủng lẳng giữ nhà, dây thừng treo trên xà nhà bện từ hai ba sợi dây đay lớn, nó thít chặt phần cổ họng của ba thân xác người xấu số, khiến cho người họ tím tái hẳn đi, nhưng kinh dị nhất là vẻ mặt của ba tử thi, một vẻ mặt khiến ai cũng ám ảnh! Cả ba xác chết đều xuất huyết ở tai, mũi và mắt, mặt tím ngắt vì thiếu khí nhưng lại có vẻ mặt cực kỳ mãn nguyện, khóe miệng cười rộng hết cỡ, ánh mắt mở to ra như họ đang thực hiện một việc vui sướng nhất cuộc đời. Các cụ cao niên vùng dân làng thấy thế ai cũng chết lặng đi, vẻ mặt quỷ dị của họ làm cho lòng người bất an. Xôn xao nửa ngày, các cụ mới sực nhớ ra phải hạ thi xuống đất, liền sai người gỡ vòng dây đay ra hạ thân xuống, rồi cụ An trầm giọng nói:

– Nay cụ Nhi đi có chuyện không ở làng, nên mấy chuyện quỷ quyệt như thế này thì làng khó quyết! Nhưng mà vẫn phải làm, tôi thì tôi có nghe phong phanh về ma Thần Vòng. Ngặt một nỗi chỗ Đồng Than này chưa từng nghe có vụ thắt cổ nào hết, nhưng để chắc chắn các chú cứ đào đất dưới chân nhà cô Huy cho tôi!

Tức thì tiếng có tiếng dạ vâng, mấy chú liền đào thật sâu xuống chỗ chân xác chết, liền đào lên ba cục đá màu đen nhánh, có mùi tanh tanh như cá ươn, cụ An nhíu mày liền lấy tay nải ra bỏ cả ba viên vào đấy,, rồi bảo người làng đặng làm phúc chôn cất cho cả ba người nhà cô Huy, sau đấy gửi điện báo cho chú Huy đang công tác ở tỉnh về chuyện này.

Chú Huy đang làm ở Sở Điện tỉnh nghe thế tức tốc về nhà ngay, nhưng về đến nơi chỉ kịp nhìn mặt vợ và hai con lần cuối, chú suy sụp đến mức đờ đẫn hết cả người. Rồi khoảng năm sáu ngày sau thì chú dường như phát điên hản, suốt ngày cười thơ thẩn, rồi đột nhiên lại khóc oàn như đứa trẻ con. Gặp ai đều chạy đến núp sau lưng người ta hết, hoảng hốt như một đứa trẻ chỉ lắp bắp về phía nhà chú:

– Nó… nó lại đến kìa…nó đến bắt tôi…bắt hết….

Nghe chú nói thế đầu tiên mấy người xung quanh chỉ cười cười và không để ý, nhưng cho tới khi căn nhà cũ của chú xuất hiện tiếng cười văng vẳng khiến mấy nhà gần đấy thấp thỏm lo sợ. Vì chú Huy đã ngủ vạ ngủ vật trong làng từ lâu không về nhà, còn điều họ sợ nữa là tiếng cười trâm trầm như tiếng người đàn ông bốn năm mươi tuổi, nhất là khi phát ra tiếng cười khanh khách giữa đêm khuya thế này mà chó không hề sủa lên một tiếng nào, cứ như chỉ có người làng mới có thể nghe được tiếng cười này vậy Từ đấy nhà cô Huy vắng hẳn người qua lại, ít người bén mảng tới hẳn, nhưng người làng đi đặt vó đêm vẫn đồn có hai ba bóng trắng lảng vảng trong căn nhà, rồi thỉnh thoảng nhà có ánh đèn sáng vút lên như đom đóm rồi tắt hản.

Rồi sự việc cũng loãng dần, cho đến một hôm mọt nhóm đàn ông đi gặt thuê của làng em đi gặt cho xã bên, nên cơm đùm cơm nắm đi từ sáng cho nhiều người thuê với đỡ nắng, thế là cả mấy người ôm thành một đoàn băng qua cánh đồng Than để đi tắt cho nhanh, đến gần nhà cô Huy thì một chú mới quay sang lẩm bẩm:

– Sao mới vụ Chiêm mà tự nhiên buốt thế nhể?

Thế là chú này mới xoa xoa tay vào nhau chõ đỡ cảm giác lạnh thì tự nhiên quờ phải thứ gì cứng cứng, lạnh nhớt như viên đá lạnh, chú giật mình quay lại đàng sau thì là cô Huy, cô không khác gì lần cuối người ta nhìn thấy cô cả: Mắt đỏ thẫm nhỏ máu như sắp lồi ra ngoài, miệng lưỡi do thiếu khí nên thè hết ra ngoài gần nửa gang tay, mũi tai toàn máu bết đen xì, nhưng miệng vẫn cười đến tận mang tai…. Cô Huy như thế không nhìn thấy chú cứ thế là thì thầm “Nó bắt tối… Nó bắt tôi.. Nó sắp đến rồi…” Làm chú điếng hết cả người, kỳ lạ nhất là mấy chú bác khác vẫn cứ đi bình thường như không có cảm giác gì cả! Chú sợ quá không dám nói năng gì, thì chú đụi dụi mắt, hai thằng con trai của cô Huy mỗi đứa bá cổ hai bác đi cùng, lấy tay che mắt các bác lại. Da hai đứa này xám toét lại, mặt mũi máu me đen xì, vẫn cái lưỡi dài cùng miệng cười ngoác tận mang tai, hai tay bọn nó như dài như hai cái đòn gánh xoắn quanh đầu hai bác nữa, khum khum như che mắt họ lại, như cảm nhận được chú đang nhìn bọn nó, cả hai đắ từ từ vặn cổ ngược lại, lưỡi thụt ra thụt vào rồi cười khé…khé… Sau đấy vươn cổ dài ra như muốn dí sát mặt vào chú vậy, lúc này chú sợ quá liền quay mặt sang trái mà vô thức quên mất cô Huy (hay là thứ giống cô Huy) đang đứng bên cạnh, như đoán trước được chú sẽ quay sang, miệng nó càng lúc càng rộng rồi rách toạc ra, vẫn điệu cười giống hệt hai đứa phía trước, nó giơ hai tay với móng tay cáu bẳn dài ngoằng cùng há mồm như chậu máu về phía chú… Đúng lúc nó định làm gì với chú thì như bị một tầng vô hình ngăn lại, nó gào rú lên đau đớn một cách ghê rợn rồi hú một tiếng, hai con ma quái kia liền từ mấy bác phía trước buông chi trước đang xoắn quanh đầu họ ra, bò lại phía cái bóng kia… Rồi hai con bám lấy phần thân giữa con quái quỷ giống cô Huy ấy, nó liền từ từ trèo lên ngọn tre rồi nhảy từ ngọn này sang ngọn khác, sau đấy mất hút luôn trong ánh trăng. Lúc này chú Thả mới ngồi bệt xuống đất thở, chú tưởng chết chắc hôm nay rồi, sau một hồi chú bật dậy lay lay mấy người đi cung,f ai cũng như dại ra đứng đực giữa đường không cử động một tí nào, chú lại lay lay mấy cái, thì mấy ong này mới sực tỉnh. Ai cũng nghỉ là mệt quá ngủ quên giữa đường, nhưng nghe chú Thả kể lại thì mặt ai cũng trắng bệch ra, không ai bảo ai quay ngược về làng.

Tầm trưa nắng oi ả không ngừng, việc đồng áng vào mùa nên ai cũng vừa thở dốc vừa nghỉ ngơi một chút rồi lại làm việc. Khi mọi người đang nghỉ dưới gốc cây bông cụ gần ruộng làng cho mát thì thấy chú Huy chạy ra, ai cũng thấy là lạ, Vì nguyên lai trước nay chú Huy là dân trí thứ, ít khi ra đồng, nay lại dở điên dở dại nên ai cũng thấy khó hiểu. Chú chạy lại phía dân làng vừa cười vừa khóc rồi nói:

– Nó bắt vợ tôi… Tôi mất vợ rồi… Vợ con tôi…

Rồi nói đến đây chú lại cười khe…khé lên làm ai cũng giật mình sởn tóc gáy cả lên, chú Thả thấy thế mới hoảng hốt, vì nó giống hệt giọng cười hôm qua mà con quỷ quái giống cô Huy cười, chú mới gặng hỏi:

– Nói cho em biết nó là ai hả bác Huy? Hay là cái gì??

Lúc này chú Huy đang cười mới trợn tròn mắt ra, càng cười tợn hơn, cười đến mức thè cả lưỡi ra không thwor nên hơi mà nói đứt tiếng:

– Nó bắt hết.. hé..hé..hé..

Dần đàn thì mọi người thấy chú Huy không ổn thì mấy người đàn ông nhìn nhau, cùng chạy lại ôm lấy chú Huy, sợ chú lại phát cơn động kinh, liền chạy lại mỗi người ôm lấy một phần chân tay chú, ai dè lúc này chú tự nhiên khỏe không thể tin được, chú Huy hất nhẹ vai một cái làm mấy bác mất đà ngã chúi hết xuống. Mọi người đang ngạc nhiên thì chú càng cười tợn, rồi chạy như bay tới dòng sông cạnh đồng, mọi người vội vã chạy theo chú. Chú chạy lên cái cầu gỗ liền quay lại nhìn đám người làng, rồi chú vẫn cười, lưỡi lúc này thè dài hẳn ra, mắt trợn tròn lên chảy máu ra, miệng thì há rộng hết cỡ, chú đăm đăm nhìn dân làng một lượt rồi nói trong tiếng cười một thanh âm ghê rợn:

– Tao bắt hết…tao giết hết…

Rồi chú nhảy ùm xuống sông, lúc này mọi người vội vã chạy đến cũng nhảy xuống mò vớt mà chả thấy chú đâu. Không cần nhìn cũng biết ai đấy đều vô cùng sợ hãi, mọi chuyện kéo dài trong hai ngày, mỗi ngày đều cho người giăng lưới tìm xác chú nhưng không thấy, thì cụ Nhĩ về!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6: Câu hồn quỷ 2


Lần này cụ Nhĩ đi khá lâu, hơn một tháng, nghe nói cụ về thăm môn phái cũ của cụa ở mạn Ninh Bình, nhưng đồng môn giữ lại nên cũ trễ nãi như vậy. Vừa về đến làng, cụ Nhĩ bỗng sửng sốt, rồi lấy cái La Bàn ra xoay xoay một chút, rồi bước nhanh về phía cánh đồng chung của làng, lúc này hầu như tất cả dân làng đều tập chung ở đấy cả. Cụ đi đến thì mọi người đều dạt cả ra cho cụ đi vào, cụ hỏi thăm thật kỹ rồi thở dài. Lúc này sau khi biết chuyện gia đình cô Huy thì cụ cũng giật mình lắm, vội rút ra một quyển thẻ tre, rút ra một thẻ rồi lấy thổi lửa từ ông mồi châm vào thẻ tre. Lúc này thẻ bùng lên cháy như tẩm dầu lạc vậy, cụ mới cầm mẩu tre cháy dở ném xuống sông, lầm nhầm mấy câu, lúc này thẻ tre rơi xuống sông vẫn tiếp tục cháy mạnh rồi trôi ngược dòng ra gần giữa sông. Cụ mới quay sang bảo các mấy bác trong làng bơi thuyền ra chỗ ấy vớt xác chú Huy lên, lúc thuyền ra giữa dòng thì mặt sông quanh đấy hai mét sủi bọt tăm lên, một mảnh sông đang xanh biếc chuyển sang màu đỏ lựng như phù sa, rồi sác chú Huy nổi lên từ đáy sông, mặt bị nước vào phù ra, nhưng không che hết vẻ quỷ dị trước khi chết của chú: Vẫn mắt lồi như gần rơi ra, lưỡi thè hẳn ra dài cả nửa gang tay, và vẫn giữ nụ cười ám ảnh trước lúc nhảy sông đấy.

Cụ Nhĩ nhìn thấy xác của chú Huy liền đứng yên lặng nhìn chăm chăm vào, cụ đang suy nghĩ cái gì đấy, sau đấy cụ quay sang hỏi cụ An:

– Nghe nói hôm nhà cô Huy treo cổ chết cụ ở đấy phỏng”

Cụ An gật đầu, rồi kể lại tỉ mỉ một lần cho cụ Nhĩ nghe, càng nghe lông mày cụ càng nhíu lại, cụ Nhĩ mới thở ra một hơi nói.

– Thôi hỏng, lần này việc khó rồi!

Nghe cụ Nhĩ nói thế ai cũng lo lắng, sau một hồi thì cụ Nhĩ mới tiếp lời, cụ bảo:

– Các cụ nhầm đây là do có con ma Thần Vòng nó xui cô Huy treo cổ nên mới đào đất ba thước tìm Thần Vòng, nhưng tôi suy đoán thì đây không phải Thần Vòng gì cả, các cụ bị nó đánh lừa rồi!

Cụ An thấy thế biến sắc, mới quay sang thảng thốt:

– Tôi có cho người cắt dây, đào dưới phần xác, có điểm nào sai hả cụ?

– Tôi e đây là Quỷ Câu Hồn, chứ chẳng phải Thần Vòng gì, ma Thần Vòng chỉ là Á Quỷ làng nhàng dụ dỗ người ta treo cổ mà chết lúc người ta đang bấn loạn, con con Câu Hồn Quỷ này thì khác, nó rút từ từ phần hồn phách của người ta. Con người có ba hồn bảy phách, nó đánh lừa mà khiến người ta tự giao ra hôn cho nó, nó huyễn hoặc người ta tự mình tìm chết. Mà còn độc địa hơn, Câu Hồn Quỷ giống như Hắc Bạch Vô Thường, đến trong minh minh, chỉ khác rằng Hắc Bạch Vô Thường là Dẫn Hồn Quỷ sứ, chuyên nhiệm vụ đưa hồn phách người tận dương thọ xuống Âm tào địa phủ để thưởng thiện phạt ác, tiến nhập Luân hồi, còn Câu Hồn Quỷ thì dụ dỗ người nhẹ dạ, nhằm cướp lắm hồn người ta, để làm nô bộc cho nó, hoặc làm thức ăn nuôi dưỡng nó, hoặc đôi khi chỉ lấy hồn phách người ta chỉ vì sở thích của nó, muốn chơi đùa! Vậy nên, Câu Hồn Quỷ vừa tà ác vừa gian trá, rất khó đối phó!!!

Nghe cụ Nhĩ nói thế dân làng ai cũng run lên vì sợ, hồi ức vê Quỷ Di Ái vẫn chưa phai nhạt chút nào, cụ Nhĩ lại đăm chiêu, thì lúc này bỗng nghe tiếng cười the thé vang lên, mọi người nhìn xung quanh thì không thấy phát hiện được gì, bỗng lúc này xác chú Huy giật giật mấy cái, rồi bò nhanh rồi nhảy tủm một cái xuống sông. Hành động nhanh quá khiến cho tất cả dân làng đều giật mình không kịp ngăn cản gì hết, lúc này cụ Nhi cũng không kém phần sửng sốt. Cụ liền bảo mọi người về hết, nhất định trong chiều nay tất cả phải có mặt đông đủ ở sân Đình, có lẽ mọi chuyện đã đi qua chiều khống chế của cụ!

Tối đến sân Đình đông nghẹt người, lần này thì có lẽ dân làng đã qua một lần tổng duyệt nên khá là nghiêm chỉnh, cụ Nhĩ mới hắng giọng nói to:

– Tôi không ngờ mọi chuyện nó lại rối rắm như thế này, e rằng Quỷ Câu Hồn nó đã mạnh lắm rồi, vậy nên phải có sự giúp sức của cả làng thì mới ổn việc được. Bây giờ tôi chỉ nói như thế này, Quỷ Câu Hồn không sợ Phù chú, không sợ Dương khí, vậy nên ta có tìm vật có tính kỵ tà cũng không ăn nhằm gì. Các chú thím cứ cứ tìm cho tôi các thứ sau: Gạo nếp, gỗ táo già, chông tre, cùng máu gà. Ngoài ra cho tôi mượn chín con chó mực! Cùng cái vạc đồng của Đình, còn lại thì cả làng cứ an tâm, tôi tất có an bài sau!

Cụ An mới boăn khoăn hỏi gấp:

– Cụ biết nó ở đâu hay sao?

– Lúc nãy, khi tôi đốt thẻ tre, lửa và muội than đã bám vào xác chú Huy, tôi chỉ cần bấm độn là sẽ tìm được nó ngay, cụ cứ yên chí!

SAu mỗi ngày một việc, thoắt cái chuẩn bị xong, cụ Nhĩ bấm độn đốt tay, rồi nhờ dân làng mang hết đồ tới gốc cây bông giữ đồng Than, ai cũng khí hiểu sao lại nơi này, cụ Nhĩ vừa bày biện vừa giải thích:

– Tất cả mọi sự đều không thoát khỏi được Dịch, tôi thấy nhà cô Huy nó dụ 3 người treo cổ, không khác gì ba dấu Khôn, Khôn tức là Đất. Vì treo cổ nên chân cách xa Đất, nên đồ hình là hình Khôn, oán khi tụ dưới Đất, mà do Câu Hồn Quỷ đã dụ ba mạng người chết, toàn là trẻ con và phụ nữ, nên nó nặng về phần âm. Cần phần Dương để trung hòa, vâỵ nên cần chú Huy bị nó dẫn chết ở dưới nước, cốt để âm khí thêm nặng oán khí thêm tinh, nhưng lại phải có nộ khí, sự giận dữ của người sắp chết làm giả Nghiệp hỏa, mới trung hòa Âm Dương được! Quẻ này là quẻ thứ ba mươi sáu: Địa Hỏa Minh Di- Tả Ao tiên sinh dịch nghĩa là “Mặt trời (Ly) lặn xuống đất (Khôn) thì gây ra Bóng tối (Minh) gây ra đau thương, mất mát, chết chóc… Suy ra đúng là hợp với sự nhà chú Huy…

Nói rồi cụ nhanh tay đóng cọc gỗ táo xuống đất, chia thành Lưỡng Nghi, Lục Hợp, Bát Quái, Cửa Cung bốn trận tất cả 108 cọc, sau đấy lấy chỉ ngũ sắc cẩn thận buộc lên từng cọc, vòng quanh đấy cụ rắc gạo nếp thành một đường nhỏ dài nối các cọc với nhau, Tiếp đến cụ nhờ người chôn ống tre đựng huyết gà xuống các vị trí khác nhau! Sắp xếp xong xuôi đâu đấy, cụ chỉ giữ lại mấy người con trai tuổi Thìn và Dần, đưa cho họ mỗi người bốn túi Càn Khôn rồi bôi máu gà khắp người, sau đấy cụ đứng đợi một mình ở đấy. Đúng như cụ dự đoán, tầm hai giờ sáng có một bóng đen lững thững đi chầm chậm lại gần cây bông, lúc nó tiến lại gần thì mới nhận ra đây là chú Huy, nhưng người chú đã bắt đầu rữa nát, thịt da trên người sau khi ngâm nước hai ba ngày vừa trương lên vừa mủn ra, lại bốc mùi tanh thối nồng nặc khiến người ta phải nhíu mũi. Nó vừa đi vừa cười khe khe, rồi giương mắt nhìn cụ Nhĩ, nói bằng một cái giọng khiến người ta cảm thấy ghê sợ:

– Cút điii…. Tao không muốn giết màyyyyy

– Đừng giả bộ vô can, không ngờ Quỷ Câu Hồn lại xuất hiện trắng trợn như mi, mi giết người làm vui, bôi nhọ chức danh Quỷ Sứ, lại còn dám lộng ngôn?

Nói rồi cụ lấy nắm đậu binh ra, ném về phía con quỷ. Con Quỷ cũng khôngnói nhảm nhiều, liền lao vút lại phía cụ Nhĩ, nó thè cái lưỡi dài ngoằng ra, há to miệng cắn một ngụm vào đám Đậu binh, ngay lập tức cắn mất một húm, Cụ Nhĩ cũng ko chịu kém, ngay khi nó nuốt Hồn binh, cụ bấm quyết làm lích nổ một cái, khiến con Quỷ trong xác chú Huy nổ bay mất nửa mặt. Nó gào rú lên một tràng dài, rồi phun một đám máu ra, từ đám máu hóa thành một đám quỷ đói, quỷ lùn, ma xó lao hết vào đám Đậu, tuy đám đậu tinh nhuệ nhưng ma xó ưu thế là đông, nó kềm chế lũ Hồn Binh của cụ Nhĩ, con Quỷ thấy thế liền móc vào bụng, rút ra một cái xương sườn, hà một hơi rồi lại liếm một cái, đàng sau nó hiện ra hơn chục cái vong. Nhưng cụ Nhĩ chỉ cần đảo mắt là thấy được cô Huy cùng hai đứa con trai của cô ấy, con Quỷ cười the thé rồi chỉ tay vào cụ Nhĩ, lầm bầm vài câu niệm chú! Cụ Nhĩ cũng không hoảng hốt, liền bấm quyết hét lớn.

– Tam Tà Thiên Địa Nhân, Thiên chi Thương Khung, Càn sinh chi vị Thánh! Địa chi Huyền Hoàng, Khôn diễn hóa chư Ma. Nhân chi vạn vật chi linh, thương sinh vận vật chi tà, Hồng Mông chi bất khí vị tức, Quỷ Thần chi bất vị thượng giai. Thiên Nhai quy vị bách lẻ bát cấm! Thiên Cang tam thập lục Cương! Địa sát thất thập nhị Sát! Sát SÁt SÁt!!!

Cụ Nhĩ vừa niệm xong pháp chú, thì từ một trăm linh tám cọc gỗ hiện lên ba mươi sáu hào quang màu đỏ nhạt, bảy mươi hai hào quang màu tím lam, bay về phía La Bàn của cụ, cụ tung cái La Bàn lên rồi ngồi xếp bằng xuống, sau đấy dùng phần cạnh sắc của LA Bàn rạch một đường dài trên tay, nhỏ lên La Bàn rồi niệm tiếp:

– Thiên Địa Huyền môn vô vi bất định, Lưỡng Nghi Âm Dương chi Âm trạch Dương Khí, Hắc Bạch Vô Thường Dẫn Hồn Quỷ sứ chi Âm Dương Hoàng Tuyền chưởng khống giả! Ta- Thái Vi đạo môn chi Thiên Nam Hộ Đạo giả, thỉnh Vô Thường hiện! Xuất Xuất Xuất!

Đàng sau lưng cụ xuất hiện một cánh cửa to, cánh cửa này hư hư ảo ảo, từ từ cánh cửa mở ra, xuất hiện hai bóng người cao lớn. Người bên trái áo trắng tóc trắng, lông mày trắng mắt đỏ, người bên phải tóc đen, áo đen, mắt trắng- hai kẻ này là Hắc Bạch Vô thường. Khi hai kẻ này xuất hiện, Quỷ Câu Hồn liền hoảng sợ, hắn gào thét rồi bắt đầu niệm chú gọi thêm càng nhiều vong, quỷ đói, hắn thét lên:

– Hắc Bạch Vô thường lại nghe theo một tên phàm nhân ư? Dẫn Hồn sứ giả của Diêm Vương như bọn mi thật danh khả hư truyền! Lũ phế vật!

Hắc Bạch Vô Thường lẳng lặng đứng cạnh cụ Nhĩ, yên lặng chờ đợi, lúc này cụ Nhĩ từ từ huyền phù so với mặt đất, liền đưa tay tung nhẹ chiếc La Bàn về phía con quỷ, nhất thời con Quỷ phun một đám máu đen, rồi nhân lúc cụ không để ý bay vút ra ngoài. Nó bay nhanh như con chim cắt, nếu không có chuẩn bị trước thì lúc này nó đã tẩu thoát, nhưng lúc này thì từ hai mười sáu cọc tre huyết gà tạo thành một vòng đổ nhạt, thành một màng nhỏ khiến con Quỷ không thoát ra được, nó gào thét, cắn xé nhưng không qua nổi cái vòng mỏng manh ấy.

Lúc ấy, Hắc Bạch Vô Thường mới nhẹ nhàng lướt tới, Hắc Vô Thường cầm xích, Bạch Vô Thường cầm liêm đao! Bạch Vô thường cầm đao gặt nhẹ một cái, đầu của xác chú Huy rơi xuống, từ cổ chú bay ra một làn khói đen, Hắc Vô Thường liền tung xích trói ngay con quỷ lại. Sau đấy chúng quay lại thì đậu binh và La Bàn chứa Linh khí của cụ Nĩ đã giải quyết hết đám vong quỷ kia rồi. Hai tên Vô Thường liền gật nhẹ đầu, rồi mang tên Câu Hồn Quỷ qua cánh cửa kia, nó từ từ khép lại!!!

Cụ Nhĩ thở dài, huýt sáo to cho mấy bác dân làng ra thu dọn bãi ngổn ngang, sau này cụ mới thuật lại: Hắc Bạch Vô thường là sứ giả mang hồn người chết về Âm phủ, là Quỷ Dẫn Hồn. Quỷ Dẫn Hồn chỉ có hai đứa, còn Quỷ Câu Hồn là một Á Quỷ tu luyện đã lâu, luyện thành thần thông, có phép câu hồn, chuyên dùng hút đi hồn phách của con người! Vậy nên, nếu gặp nơi nào cảm thấy tâm trí bản thân mình hơi mộng mị, cẩn thận, có thể có Quỷ Câu Hồn!!

Cụ bấm quẻ ra chỗ chết nhà cô Huy là quẻ ba mươi sáu Địa Hỏa Minh Di, vậy nên cụ xếp trận theo thẻ thứ năm Thủy Thiên Như, quẻ này hàm ý là “Lợi thiệp đại xuyên”- “Mọi chuyện hung hiểm, đều hóa lành cả”, lợi thế đại Cát mà hóa nguy thành an. Lại nói, cụ Nhĩ tìm gỗ táo già là có mục đích cả, nếu ai chưa biết thì người xưa có câu “Táo già hóa Vàng Tâm”- Vàng tâm là loại gỗ quý dùng để đóng bài vị, bàn thờ, có tính thanh không kỵ tà, dùng an dưỡng đi hồn. Nhưng do khá quý nên cụ Nhĩ lấy gỗ già thấy, dùng để an tĩnh hồn vong quỷ, ma đói mà Quỷ Câu Hồn đã giết chết, sau đấy từ từ suy yếu nó rồi mới có thể tiêu diệt được.

Có thể nói, Ma Thần Vòng, Ma Da cũng có thể là Quỷ Câu Hồn cấp thấp, nếu chúng tu luyện, bắt thêm nhiều người mà ko nguyện ý luân hồi, thì sẽ trở thành Quỷ Câu Hồn thật sự!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7: Thiên trùng quỷ


Năm năm lăm năm sáu là thời hỗn loạn nhất ở đất nước ta, lúc này miền Bắc mới xây dựng được chế độ, đi đâu cũng giăng khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam”, thành thử hầu như mười phần thì tám phần thanh niên rời quê đi chiến trường hết. Bỏ lại quê một mảnh tiêu điều, xác xơ, nói là hỗn loạn, vì thời này thật đúng là thời “Ma quỷ sống chung với người”. Khói lửa chiến tranh lan tới, người chết như rạ, lại thêm nạn đói, dịch bệnh vong quỷ càng nhiều, thanh niên lại đi hết, chỉ còn người già trẻ em nên làng quê càng thiếu đi sinh khí, ma quỷ càng lúc càng làm bậy. Nhưng hầu như cái gì riết cũng quen, người ta quen dần với ma quỷ, những ma đói, Thần vòng, ma da,.. người ta coi như đồ trẻ con, nhưng chỉ có một thứ khiến ai nhắc tới cũng phải run rẩy, chính là Trùng- Trùng tang- nó như ám ảnh tâm trí mỗi người, cắn rứt linh hồn người ta. Khiến ai ai cũng sợ hãi, lo sợ!

Tháng sáu năm nhăm sáu, cả làng lại nô nức tiễn thanh niên vào B- hầu như cảnh tượng của mọi vùng quê miền Bắc những năm tháng ấy- vui vẻ lắm, như ngày hội làng khi xưa, ai cũng vui mừng, háo hức, vì được góp phần sức cho đất nước. Mới được vài tháng, thì có tin từ chiến trường báo về, anh Tú cháu cụ An hi sinh- anh mới đi được ba tháng- vào trong chiến trường đã ngã bệnh sốt rét, cuối cùng không qua được! Cả làng như chết sững, ai nấy đều buồn, vì anh Tú xưa nay được lòng cả làng lắm, vừa đẹp trai lại học giỏi, anh được trường Đại Học giữ lại nhưng quyết ý vào Nam, ai ngờ anh mới đi được vài tháng mà đã thành ra cơ sự ấy! Những năm ấy thì liệt sĩ chết trên đường hành quân, hay chết trận trên chiến trường người ta đều không có gửi được di hài về, họa may là một số đồ dùng cá nhân, hay vài bộ qần áo, kèm theo giấy Báo tử. Cả nhà anh khóc lên khóc xuống, ngày chôn anh ai nấy cũng buồn, riêng cụ Nhĩ đứng một góc đăm chiêu lắm, ai cũng nghĩ cụ thương anh Tú, vì ngày xưa cụ cưng chiều anh Tú như cháu cụ- hai ông cháu quấn quít lắm. Rồi cụ Nhĩ thở dài, đi về, bóng lưng cụ đi lạc trong ráng chiều…

Rồi bẵng đi vài tháng, tuy mọi người vẫn tiếc anh Tú lắm, nhưng rồi bận bịu tăng gia sản xuất nên dần cũng quên bẵng đi. Rồi càng ngày làng càng có nhiều việc lạ, dạo gần đây cá từ dưới sông cứ đến khoảng đầu giờ chiều là nhảy lên mặt nước liên tục- giống như thiếu khí vậy. Dân làng thấy lạ rồi cũng tặc lưỡi nghĩ là do mấy ngày này sắp có giông, nên cá thiếu khí nhảy lên đớp khí. Nhưng rồi hai ba ngày cá vẫn nhảy, mà giời thì chẳng có con mưa nào cả, đến hôm cuối thì nguyên khúc sông chảy qua làng cá nhảy lên bờ ngáp ngáp, ộc máu đen như mực tàu rồi chết. Dân làng đã hãi lắm rồi, đánh bạo vào hỏi cụ Nhĩ thì cụ chỉ lắc đầu đáp:

– Tôi cũng không rõ ràng lắm, bắt quẻ thì vẫn là quẻ “U nhân trinh cát”- hẳn là chưa có việc gì bất lợi với làng ta!! Khó hiểu quá!! Thôi các anh chị cứ về lo làm ăn, có gì tôi sẽ báo lại ngay!

Tất cả nghe cụ Nhĩ nói vậy thì cũng an tâm lắm, hồ hởi về nhà thì lại thấy gà vịt ủ rũ hẳn đi, rồi một vài đàn thì chết rũ cả. Nghĩ là có dịch nên ai đấy cũng chỉ mang đám gà vịt ra ngoài hào tre vứt hết thôi. Rồi một đêm nọ chú Tị mới nửa đêm trốn qua hào tre để đào đám vịt gà chiều nay làng mới vứt về làm thịt, chả là túng quá làm liều, chú nghĩ là ra đào về làm thịt rồi mang ra chợ Huyện bán kiếm ít tiền mua ngô mua gạo. Vừa trèo qua lũy đất thì chú bỗng thấy phía trước có bóng người. Chú ngơ ngác ngước lên thì thấy một bóng người cao lớn, chú giật mình nên đánh tiếng hỏi:

– Ai đấy?

Thì người kia không đáp, chỉ đứng lẳng lặng nhìn chú, ánh mắt đỏ ké nhìn chăm chăm chú như con thú hoang vậy. Chú run lắm rồi, lúc này chú mới để ý là chú đang ở trên cái lũy đất, mà từ cái lũy đất đến cái hào tre của làng chênh nhau cả mét. Thế chẳng ra “cái đứa” trước mặt chú nó phải cao gần ba mét cơ à? Nghĩ đến đây chú sợ hãi lắm, người cứng đờ lại, lại thấy mắt nó đỏ ké như hòn than, chú như không thở được! Lúc này thì cái bóng đen như lướt trên mặt đất từ từ tiến lại phía chú, nó há mồm rộng, cái mồm từ từ há ra rồi kéo rách toạch cả khoang miệng, đỏ lòm lòm như chậu máu lớn. Chú Tị lúc này điếng người rồi, sắp ngất thì nó từ từ giơ tay lên, tay nó dài ngoằng ngoẵng như cái đòn gánh, vừa gầy vừa xương lại trắng ởn- trắng như củ dong riềng- vừa dài lại thon thon béo múp míp như con nhộng. Nó quơ tay lại phía chú Tị định túm lấy thì chú đờ người quên không bám vào cái cọc tre cốt củ lũy đất, thế là chú ngã lăn xuống bãi cỏ. Cái bóng kia với tay bắt hụt vào khoảng không, nó liền thét lên một tiếng rú dài rít lên như tiếng sáo tre vậy, nghe vừa đanh vừa khô vang khắp làng, lúc ấy chú Tị mới định thần nhìn vào mặt nó, tuy là nó trắng ởn với cái miệng gần như rách toạc kéo xuống cổ nhưng chú vẫn nhận ra mang máng- nó giống hệt anh Tú. Một lần nữa, chú lại đờ người, lúc này cái “thứ kia” quay lại nhìn chú, mắt nó đỏ rực lên, rồi nó lại rít lên một tiếng nữa, gầm gừ ngoài lũy đất giống như có một thứ gì ngăn cản không cho nó vào vậy, lúc này sợ quá chú ngất đi.

Lúc chú tỉnh lại thì chú đã ở nhà rồi, quây quanh chú là dân làng, cả làng nghe tiếng rít thì mới đốt đuốc chạy ngay ra. Ai ai cũng hoảng, vì lúc ra lũy đất thấy chú bất tỉnh rồi, hơi thở thì vào ít ra nhiều, may có cụ Nhĩ châm cứu cho một hồi. Lúc này chú mới thở hắt ra nói thều thào:

– Thằng Tú… nó…về…nó ở ngoài hào làng…nó định.. bắt cả cháu…

Nhà cụ An nghe thế sửng sốt lắm, mẹ anh Tú thì gào khóc lên. Cụ Nhĩ nghe vậy thì mới hỏi kỹ chú Tị, lúc nghe đến lúc da “nó” trắng ởn lại béo múp như con nhộng, cụ Nhĩ hoảng hốt lại thúc cụ An gọi hết nhà cụ lại cho kiểm tra. Cụ Nhĩ liền bắt mọi người trong nhà cụ An quệt lên ấn đường một đám bột đỏ, rồi quẹt lên lòng bàn chân nơi huyệt Dũng Tuyền, nơi trán ở Mi tâm, rồi lòng bàn tay tổng cộng năm điểm. Rồi cụ niệm chú, lúc này bắt đầu có khói bốc lên từ đám bột đỏ, cả nhà cụ An mới hãi lắm, vì đám bột đỏ của nhà cụ còn nguyên, chỉ có đám bột nơi mi tâm của em trai anh Tú là bắt đầu bốc khói như bị đốt, nó dần đen kịt lại. Cụ An sợ hãi quá, liền hỏi cụ Nhĩ việc này cớ ra làm sao, thì cụ Nhĩ mới lắc đầu đáp:

– Nói cụ bỏ quá cho, tôi vừa dùng phép “Sa Giả Thiên Nhãn” để nhìn mệnh của cả nhà cụ! Phép này Chu Sa quết ở năm huyệt Dũng Tuyền ở hai chân, Hợp Cốc ở tay, cùng với mi tâm, tựa như một vòng ngũ hành luân chuyển- từ tinh khí tiết ra để đoán lấy số mệnh. Dựa vào phép này, tôi e thằng Tú thành Trùng rồi- nó có lẽ về bắt từng người nhà cụ. Mà người dính họa này đầu tiên chắc là thằng Tuấn mất thôi!

Nghe đến trùng thôi mà cả làng ai cũng tái mặt, vì vong quỷ thì cũng chỉ một hai người thôi, nhưng trùng thì khác. Nó không có cách nào tránh, nó như con dòi trong xương, bám theo cả dòng họ, có thể làm cả họ tuyệt tự, bắt dần bắt mòn từng người cho tới người cuối cùng. Lúc này cụ An sợ hãi lắm, cụ lo cho cả họ hà mình, lo cho thằng cháu chưa hiểu chuyện đứng cạnh bên. Cụ Nhĩ thì đứng suy nghĩ một lúc, lúc này cả làng đứng quanh không ai dám thở mạnh, thì cụ Nhĩ mới lắc đầu bảo cụ An:

– Việc này khó! Cụ nghe lời tôi trước cứ về nhà đã, tôi xét thì thằng Tú nó chưa về bắt người ngay đâu, vì qua phép tôi thấy mới tắt mệnh ở mi tâm, chỉ khi tắt đi Sa mệnh ở Dũng Tuyền thì mới gấp. Tôi phải cẩn thận lo liệu mới được, tôi sẽ mời sư huynh của tôi về, cụ cứ an tâm!

Cụ An nghe thế chỉ biết thở dài, lúc này cụ Nhĩ mới bảo cả làng tản đi, rồi cụ lại trầm ngâm ngồi dưới ánh đèn một lúc.

Từ lúc nghe tin có trùng, dân làng đóng cửa lên đèn sớm, trẻ con không được ra ngoài chơi đêm nữa. Vì cứ đến giữa đêm từ ngoài làng vọng về tiếng tru rít vang vọng giữa đêm. Ai đấy đều nơm nớp lo sợ…

Rồi sư huynh cụ Nhĩ cũng đến sau đấy một ngày, cụ Nhĩ cười cười rồi ra tận cổng làng đón. Cụ Nhĩ gọi dân làng ra sân Đình rồi cười bảo:

– Xin thưa dân làng, đây là sư huynh tôi- cũng là chưởng môn của phái chúng tôi hiện nay. So với sư huynh thì Ấn Pháp của tôi không khác gì ánh đom đóm. Có ngài ấy, mọi người cứ an tâm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8: Thiên Trùng quỷ (hậu)


Sư huynh cụ Nhĩ nghe thế liền lắc đầu, cười mỉm liên tục. Cụ râu tóc bạc trắng, cũng khoác chiếc áo bào đạo sĩ dài, sau lưng áo có hình Âm dương ngư, nhìn xêm xêm tuổi cụ Nhĩ thôi nhưng cụ có vẻ béo tốt hơn một chút. Cụ Nhĩ liền nói tiếp:

– Sư huynh tôi luyện pháp “Bế Ngôn”- không nói chuyện được nên dân làng chớ trách. Bây giờ việc gấp không nhiều lời, tôi cần mười hai cái chum, mỗi chum chứa xương của mười hai con giáp. riêng chum nào làng ta không tìm được xương thì cứ để đấy mặc tôi! Kiếm thêm cho tôi ba mươi sáu ông đầu rau- "là viên đất đặt trên bếp mà ngày xưa miền Bắc hay dùng"- chủ yếu để giữ lại tro bếp với lửa tàn, sau dễ nhóm lửa! Cùng rượu gạo loại mạnh, tốt nhất là loại rượu gạo sủi tăm đấy nhé!

Rồi cụ Nhĩ quay sang nhìn chăm chú sư huynh cụ một lúc, sau đấy cụ liên tục gật đầu, tỏ ý đã hiểu, rồi cụ lại quay sang bảo tiếp:

– Tôi xin làng ta cho tôi xin các thứ sau: Địa tương thủy, Nước mưa mới hứng chưa dùng; Diêm tiêu; Lửa hương đèn chưa tắt; Dao chọc tiết thật sắc; Đề ngựa; Gỗ lim ngâm; Ngọn cây đa; Đất sét đỏ cùng Phù sa! Xin làng nhanh chóng tìm cho!

Mãi một ngày sau cả làng mới tìm được đủ hết cho cụ Nhĩ, cụ liền lấy Chu Sa ra quết lên một mảnh xương trâu, rồi lấy mực tàu vẽ thành từng miếng vảy như vảy rắn, bỏ vào chum có chữ “Rồng”. Xong xuôi đâu đấy cụ quay sang bảo với cụ An:

– Tối nay có gì cũng không được mở cửa đâu cụ nhé, nhất là không được để nhang trên bàn thờ các cụ tắt- không là khước trạch các cụ không về được. Với lại nhang ở Thổ Địa nữa cụ ạ, nếu không là trùng lọt vào nhà đấy! Cuối cùng là mấy ngọn nến mà tôi đã thắp ở tứ chi thằng Tuấn cũng không được tắt, là Mệnh đăng của nó cả đấy, tắt một cái sau rắc rối lắm!

Nói rồi cụ cùng sư huynh cụ đi ra khỏi làng, bước vội ra ngoài cánh đồng Than. Bấy giờ cụ đi chôn mười hai cái chum thành một vòng tròn, mỗi chỗ cụ bỏ thêm một chút mực Tàu, rồi rắc Thần Sa nối chúng lại với nhau. 

Còn chôn mười thứ kia thành hai đoàn, một đoàn gồm Địa tương, Diêm tiêu, Dao chọc tiết, Gỗ lim, Đất sét cụ chôn thành một ngôi sao năm cánh, cụ tưới lên đấy một chút huyết gà. Rồi còn năm thứ kia cụ chôn thành một vòng bên trong nữa. Xong xuôi đâu đấy cụ đứng đợi một lúc, lúc này sư huynh cụ nhíu mày, giơ tay lên bấm độn vài cái. Rồi cụ rút từ tay nải ra một cái thẻ tre, một cái bút lông, cụ đang định viết thì bỗng nghe tiếng rít vọng lại… 

Một bóng đen lướt tà tà mặt đất về phía hai cụ, cụ Nhĩ lẫn sư huynh cụ đều biến sắc mật. Vì không chỉ một bóng đen, mà là một đám, chúng bay lờ lờ mặt đất như cơn gió, thoát từ phía xa mà đã xuất hiên gần sát cạnh hai người rồi. Lúc này sư huynh cụ mới thở hắt một hơi, nói với cụ:

– Thiên Trùng!!!

– Tôi tính sai rồi! Ắt hẳn là Thiên Trùng Quỷ mới bắt nhiều Trùng quỷ thế này bắt người! E là không dễ đối phó đâu! Thiên Trùng từng là Quỷ Sứ, Phán Quan của Âm Ti nhưng lại sa đọa mà tu luyện trái đường, mê hoặc vong hồn kẻ xấu số mà về bắt thân nhân người ta, từ đấy kiếm Số vận, Huyết khí,…Nhìn số Trùng Quỷ này, e rằng Thiên Trùng đã tu luyện lâu lắm rồi!

Sư huynh cụ Nhĩ không nói không rằng, giơ ngon tay trỏ lên nói lớn:

– CẤM!

Tức thì đám Trùng quỷ đứng yên lại như bị thứ gì trói lại, miệng mở to rú rít lên ghê gớm! Cụ Nhĩ cũng không đứng không, Cụ liền tung nắm Đậu binh ra, sau đấy rút chiếc La Bàn rồi hét lên:

– Thiên Can thập nhị linh, Đại Chi thập chi hồn. Thập Nhị Chân Dương chi Tứ Quý vi Trận! Kết lục lục tam thập lục tiểu trận!! Khai Khai Khai!!! Thập Chi Sinh Hồn Chi Nguyên Âm vi Ngũ Hành chi trận! Thi triển ngũ ngũ nhị thập ngũ tiểu trận! Kết Kết Kết!

Tức thì từ hai luồng sáng, một đỏ cam một xanh bạc bay về phía cụ, luồng sáng màu đỏ bay về phía Đậu Binh, màu xanh bạc thì chia về phía cụ Nhĩ và sư huynh cụ. Lúc này đám Trùng Quỷ như phát điên, chúng cắn xé ròi lao về phía cả hai người, sắc mặt sư huynh cụ tái nhợt hẳn đi, cụ Nhĩ thấy thế liền tung cái La Bàn về phía đám Trùng Quỷ. 

La Bàn màu đỏ sậm lao như thiêu thân về đám bóng đen, tức thì có tiếng xì xèo như đốt cháy, cùng tiếng rú lên thảm thiết, tiếng rít gào căm hận, cụ Nhĩ cố gắng giữ thân mình đứng vững. Sư huynh cụ nhíu mày, từ trong tay cụ kéo ra một luồng sáng màu tím nhạt pha lẫn đỏ cam, cụ chỉ về phía đám Trùng Quỷ đang bị giữ lại, khẽ nói:

– Trảm!

Luồng sáng bay vụt nhanh qua đám bóng đen, tức thì chém chúng thành hai nửa, từ thân mình chúng rơi xuống đất từng mảng trắng ởn như củ dong riềng, khi rơi chạm đất thành những con Trùng béo mũm mĩm, to ệch, trông như những con mỗi chúa cực lớn bò lổm ngổm khắp mặt đất!

Hai cụ thở hắt một hơi thì lúc này bỗng nghe tiếng cười khanh khách, từ đám bóng đen vọt ra một bóng người. Bóng người này nhỏ thó, hai tay dài hơn hông, đứng lom khom như thể một cụ già còng lưng vậy. Khiếp sợ nữa là gần như nó không có mặt, hoặc chính xác hơn là mặt nó đen kịt, không có mắt mũi mồm miệng, chỉ có một mảng hư vô. Cụ Nhĩ mới giật mình, hỏi dò:

– Thiên Trùng Quỷ???

Tức thì mộtt tiếng cười lại vang lên, nó bỗng phất tay, cả đám Trùng Quỷ đang bò lổm ngổm dưới đất bỗng lao về phía hai cụ như tên bắn, cụ Nhĩ đang cả kinh thì sư huynh cụ khẽ phất tay, nhẹ nhàng nói:

– Vệ!

Tức thì đám Trùng Quỷ lao lại như va phải một bức màn, rồi mắc ở đấy nổ tung lên, bay ra hàng đám nhớt xanh bốc khói thum thủm, hai cụ thở dài một hơi.

Lúc bấy giờ, cụ Nhĩ liền tung chiếc La Bàn về phía Thiên Trùng, miệng bấm quyết. Từ mười hai cái chum lại bốc lên một làn khói tía, mười hai làn khói hiển hiện mười hai thiên can, tiếng gầm rú của chúng hòa lẫn vào nhau. Rồi tất cả đều lao vào đám khói xanh do đám Trùng vừa tỏa ra. Tức thì đám khói xanh như mỡ gặp chảo nóng, tan ra với tốc độ mắt thường cũng có thể nhìn thấy được. Trong làn khói xanh vang lên từng tiếng Két..két.. két rợn người như tiếng xương vỡ vụn, rồi ngọn lửa xanh thanh lãnh bỗng bùng lên như lửa cháy trên cánh đồng cỏ khô.

Xong xuôi đâu đấy đợi đám khói tan bớt thì không thấy con Thiên Trùng đâu nữa.

Sau lúc về làng, cụ Nhĩ kể Thiên Trùng Quỷ là loại Quỷ tu từ những vị Quan gia dưới trướng các Thánh, các Vương cõi âm, lợi dụng được phép tu của Âm Ty nên sai khiến được Vong Quỷ. Chúng luyện vong thành hình những con Trùng rồi sai Trùng về bắt người, bắt càng nhiều thì càng mạnh! Còn về sư huynh cụ Nhĩ, cụ luyện thuật “Pháp Ngôn”- luyện thành “Ngôn xuất Pháp tùy” mọi câu nói đều thành pháp thuật, nên phải Bế Khẩu, đây cũng là một trong ba độc môn của Thái Vi. 

Còn về việc chôn các chum thì lấy xương của các mười hai con giáp tức mười hai thiên can. Thái Vi tương truyền rằng Thập nhị Thiên can qua được ải Trời, có thể chịu tải được linh khí, có tư cách tu hành. Phàm vạn vật sinh linh trong cõi trời đất này, trừ con người là vạn vật chi linh, trừ phi cầm ác điểu ngẫu nhiên may mắn, thì đa số yêu vật sinh linh đều tu luyện từ Mười hai con giáp này.

Còn về sự thay thế xương Rồng bằng xương Trâu và Chu sa, Tây Bình thư có kể lại "Quỳ là thần thú chỉ có một chân, đầu trâu chân trâu, tiếng kêu như Sấm nổ. Sau này kết hợp với Long sinh Long Ngưu, Long Ngưu lại kết hợp với Bạch Thụy sinh Ngưu" Vậy nên, có thể nói trong Ngưu có huyết mạch của rồng, lại dùng Chu Sa vẽ vảy rồng miễn cương cũng có thể thay thế được.

Rồi sau đó sư huynh cụ rời đi, cụ thở dài, rồi bắt đầu kể cho dân làng nghe về môn phái của cụ- Đạo quán Thái Vi!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9: Sâm lâm hổ yêu


Sau khi giam trùng ở Đồng Than xong, cụ Nhĩ cùng sư huynh cụ mệt mỏi lê bước về làng. Bấy giờ, làng cửa nẻo đóng chặt, phụ nữ và trẻ em thì được tập hợp ở Đình làng, còn chỉ có đám thanh niên đốt đuốc đứng ở cổng làng trông ra cánh Đồng. Thấy bóng hai cụ thất thểu đi về làng, mọi người túa ra, cụ Nhĩ bấy giờ sắc mặt tái nhợt, chỉ thở hắt ra rồi ngã quỵ xuống. Mọi người thấy thế hoảng hốt đưa hai cụ về lại Đình, xông bò kết, bóp rượu một hồi lâu thì hai cụ mới sực tỉnh. Bấy giờ sắc mặt cụ Nhĩ mới phục hồi chút huyết sắc, cụ nhấp một ngụm rượu cho ấm người, rồi thều thào nói như tự hỏi bản thân:

– Không ngờ vẫn mang được bộ xương già này về làng! Mệnh lớn thoát chết lần nữa chăng?

Rồi cụ nhìn về phía xa xăm, thở dài. Sư huynh cụ bấy giờ cũng đã tỉnh lại, ngồi trầm ngâm rồi quay sang nhìn cụ, hỏi:

– Niệm?

– Đúng thế sư huynh, tôi đang nghĩ về Đạo ngôn của Sư phụ lúc ta mới nhập môn, e rằng sắp ứng nghiệm rồi!

*****

Năm ấy, sau khi vua Hàm Nghi thảo chiếu Cần Vương, sĩ phu Bắc Hà cùng Ngài kháng chiến mười năm, cuối cùng thất bại vì phản trắc. Mười năm, cậu tú Nhĩ từ khi đầu còn để chỏm cũng lớn lên trở thành một thanh niên mười bảy tuổi. 

Vừa đậu Tú Tài kỳ thi Hương ở trường thi Vinh, cậu liền bỏ kỳ thi Hội năm ấy vượt đèo trèo dốc về Tân Sở thì nghe tin dữ, liền thay đổi lộ trình, đi ra Bắc tìm về nơi căn cứ cuối cùng của cuộc khởi nghĩa- Yên Thế. Khi ấy cậu tú Nhĩ rời làng, ông Cử cha cậu tức đến nổ phổi, thằng con ông nuôi lớn bằng đầu bằng cổ, chỉ mong nó học dăm ba chữ Thánh hiền rồi ra làm quan, rạng rỡ tông tộc họ hàng.Cuối cùng nó bỏ lên rừng làm giặc cỏ, quản chi Hàm Nghi, giờ là năm Đồng Khánh nguyên niên, có Chủ thượng nào phải chui rừng chui rú đâu? Chỉ có Hoàng đế ở trong Cấm thành với Tây chứ còn ai nữa.

Cậu tú Nhĩ đi theo một đoàn thương lái bông đi từ Thừa Thiên ra Hà Nội, vốn là cậu đi một mình nhưng dọc đường đến Thanh Hóa thì gặp thương đoàn này, cả đoàn tải hàng đi thì người trong đoàn bị sốt rét nặng. Lúc ấy tưởng cửu tử nhất sinh thì gặp được cậu tú Nhĩ, vốn học được ít tâm đắc về thuốc Nam ở quê, cậu tận tình chạy chữa, sau đấy kết đoàn cùng đám người này. Vừa để dễ dàng chiếu cố nhau, vừa an toàn khi đông người vượt rừng núi không gặp phỉ, gặp cướp hay thú dữ gì.

Bấy giờ nước ta vẫn còn hoang sơ lắm, núi rừng còn lắm beo hổ, nên người ta phải kết thành đoàn đông người mới dám vượt núi vượt rừng. Bấy giờ mới sang Thu, đoàn thương lái đi tới Tam Điệp rồi, ông trưởng đoàn mới thở hắt một hơi, nói lớn:

– Giờ tới Tam Điệp rồi phỏng, vậy đầu Đông là ta chắc chắn tới được Hà Nội! Tối nay ta nghỉ ở đây, ngày mai lên đường sớm nhé các bác?

Nghe thế cậu Tú cũng chỉ cười cười, bấy lâu nay cậu chỉ quen ở nhà ăn no mặc ấm, nay ngủ ngoài trời, lại giữa rừng thế này thì có gì thú hơn. Cả đoàn người giả gianh, căng lều, ăn no rồi để lửa tại đấy đi ngủ. Ở nơi rừng rú hoang vu này, chỉ có tiếng gáy đêm của cú từ xa vọng về, tĩnh mịch đến đáng sợ. Cậu tú nằm thấp thỏm mãi, vừa thiếp đi một lúc thì nghe tiếng sột soạt, cậu hé mắt ra thì thấy một người đàn ông đồng hành đang mò mẫm đi ra ngoài. 

Chắc mẩm người này đi vệ sinh, cậu lại nhắm mắt, chừng chục phút sau không thấy người kia quay lại, cậu tò mò dậy thì hoảng hốt: Cả lều năm sáu người nãy ngủ cùng cậu đều không một ai còn ở đây. Cậu Tú cũng sợ hãi, liền lồm cồm bò dậy, vén lều nhìn ra bên ngoài, rồi cậu sang bên lều của chủ đoàn, khẽ khàng hỏi:

– Chú Vinh! Chú Vinh ơi! Cháu bảo cái này!

– Cái gì vậy cậu Tú? Tôi ra ngay đây!

Rồi ông chủ đoàn chui ra, nghe cậu Nhĩ kể lại, liền giật mình lắm. Sắc mặt ông tái mét lại, mồm lắp bắp nói:

– Nói dại mồm, hay là bị Ma rừng nó dẫn đi rồi?

Sau khi bàn bạc một lúc cả hai người quyết định đốt đuốc đi tìm năm sáu người kia, cả hai chắc mẩm họ chỉ đi loang quanh rồi lạc đường không tìm được về trại. Dặn dò sơ sơ người nhà đi cùng, ông trưởng đoàn xốc lại quần áo, cầm thêm con dao rựa đi cùng cậu tú vào sâu trong rừng.

Buổi đêm ở rừng tĩnh mịch đến lạ kỳ, ở ngài có đám lửa trại nhìn vào tối hun hút khiến con người e sợ chùn chân bước tới. Đám lửa trại ở ngoài rừng, hai người liền cầm dao phát một đường nhỏ len vào, lần theo dấu chân mờ mờ dưới đất mà mấy người kia để lại đi sâu vào trong. Trong rừng cây cối rậm rạp khiến không khí như đặc quánh lại, nồng lên mùi ẩm thấp lân mùi lá mục, tán cây lại dày khiến ánh trăng không thể len qua kẽ lá, làm cho ánh đuốc chỉ nhấp nhem khoảng một sải tay. Cậu tú Nhĩ lúc này đảo mắt nhìn xung quanh, nhăn mũi hỏi:

– Chú có ngửi thấy mùi gì không? Cháu thấy có mùi tanh tanh, mà nó nồng lắm, không biết có ở gần đây không?

– Cậu tú ngửi thấy gì à, tôi không ngửi ra? 

Trưởng đoàn chun mũi hít hà xung quanh, nhưng tựa như không ngửi ra gì, liền quay lại đáp.

Lúc này mặt bác Vinh trưởng đoàn thương lái mới tái lại, mặt cắt không còn giọt máu, cậu tú thấy lạ mới quơ tay lại lắc lắc, miệng hỏi lớn:

– Cái gì thế chú? 

Rồi không đợi bác đáp cậu quay đầu lại nhìn. Mặt cậu cũng tái mét ra, sâu khỏi ánh đuốc là những đốm sáng đỏ chóe như ánh đom đóm lớn, nó cứ lập lòe như nhìn chăm chăm vào hai con người. Mồ hôi mẹ, mồ hôi con thi nhau chảy ra, lúc này thì một tiếng loạt tiếng cười khanh khách như đánh thẳng vào phòng tuyến tâm lý cuối cùng của họ- tiếng cười vừa ghê rợn, vừa ma mị lại vang lên giữa rừng sâu khiến cả hai người gần sụm cả hai đầu gối xuống, không đứng vững nổi.

Những ánh đốm đỏ ấy nhấp nháy, lại nghe tiếng soàn soạt, tựa như cái gì đang đạp cây mà tới, lại có hơi gió mang theo khí tanh tưởi tới buồn nôn từ đây lướt tới, làm hai người càng ngày càng sợ hãi.

Lúc này thì từ bìa rừng vọng ra một tiếng gầm như sấm, tất cả đốm sáng kia bỗng nhiên tắt ngúm hết, cả khoảnh rừng lại trở nên tĩnh lặng. Rồi sau đấy vài phút, một tiếng thét xé gan xé ruột vang lên, lảnh lót xuyên qua tán lá. Chú Vinh đứng phắt dậy, lao ngay ra phía đấy, miệng hét lớn:

– Con tôi…

Cậu tú cũng giật mình vùng chạy cầm đuốc lao ra, tiếng thét từ bìa rừng vọng lại là nơi thân nhân bác Vinh đang ở lại chờ đợi hai người. Đang chạy theo chú Vinh thì cậu tú cũng lao ra theo, đang chạy thì tự nhiên thấy lạnh đốt sống lưng như có hơi lạnh thổi qua, cậu ngoái đầu lại nhìn thì sợ tới mức suýt rơi cả ngọn đuốc xuống. Ở cái nơi cậu và ông Vinh trưởng đoàn vừa đứng, bỗng nhiên xuất hiện hai ba cái bóng sáng mờ mờ, chúng cúi mặt bay tà tà mặt đất. 

Cậu đứng sững như trời trồng, lúc này một cái bóng khẽ khàng ngẩng đầu lên, nhìn sơ qua thì cậu tú đoán “nó” là một cô gái. Nhưng chỉ có mái tóc dài thôi, còn mặt gần như nát bét cả mặt, cơ thịt và da mặt gần như tan nát hết cả, lộ xương hàm trắng hếu, còn hàm răng dưới thì gần như rơi ra hết. Tay chân nó cũng không còn nguyên vẹn, nó gần như đứt rã rời, lại giống như bị thứ gì đó cắn đứt, chỗ đứt nham nhở, máy chảy từng giọt lỏng tỏng xuống mặt đấy. Làm cậu tú điếng người nữa là nó mở mồm cười lên một tràng dài nữa, âm vang khe…khé.. như bị ai đấy bịt miệng phát ra, làm tim cậu tú rớt thịch một cái. 

Nhìn kĩ thì cổ họng nó bị đứt, dây thanh quản cũng lòi ra một khỏng, còn hàm răng thì gần như sắp rơi xuống tận yếm ngực, máu thì như nhuộm đen cả bộ áo tứ thân vốn màu sặc sỡ kia. Nó cười cười rồi mắt lóe lên, là cái ánh sáng màu đỏ ma mị ban nãy, thoát cái nó bay tà tà về phía cậu.

Đúng lúc này thì lại có một tiếng gầm vâng vọng từ bìa rừng vọng vào, lũ ma quái kia giạt thót mình, như sợ hãi một thứ gì đấy, hoặc giả như được thứ gì đó gọi đi, liền quay sang nhìn cậu tú Nhĩ bằng ánh mắt thèm khát man rợ, rồi chần chừ quay người bay hun hút đi, biến mất trên tán cây cao.

Cậu tú vẫn còn sợ hãi, liền lồm cồm bò dậy, cầm đuốc lao theo ánh lửa le lói của chú Vinh mà chạy ra bìa rừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10: Sâm lâm hổ yêu (tiếp)


Tới nơi, đập vào mắt cậu là chú Vinh nửa quỳ nửa đứng ở chỗ trại- đúng hơn là chỗ từng cắm trại của cả thương đội. Đám lửa trại bị dập tắt, còn trại thì bị phá tan nát như có một con bão đi qua. Khủng khiếp hơn nữa là toàn bộ ngựa thồ đều bị móc họng, máu chảy từng vũng từng vũng đỏ ngầu, mắt con nào con nấy cũng kinh hoàng, tựa như gặp điều gì vô cùng khủng khiếp. Chúng thở phì phò, chờ đợi cai chết đang đến gần, cậu Nhĩ hơi tỉnh táo, liền lay lay chú Vinh, hỏi:

– Chú Vinh! Chú có nghe tôi nói không…

Tức thì chú Vinh quay phắt đầu lên nhìn cậu tú trân trân, măt chú dại ra, miệng méo xệch rồi vừa khóc vừa cười đáp. Giọng chú lạc hẳn đi, nhưng nghe vẫn thấy sự đau đớn, tuyệt vọng đến cực độ, âm thanh lại xé tan cái tĩnh mịch của một đêm rừng:

– Hổ bắt vợ con tôi rồi… Nó giết con tôi..

Cậu tú liền hoảng hốt đảo mắt ra xung quanh, thì mới thấy cả hai hàng dấu chân hổ to tướng, cái nào cái ấy to như cái niêu đất cỡ nhỡ, dậm nát cả vùng đất lẫn cây cối xung quanh. Để ý kỹ giữa vết chân còn có máu tơi đỏ thắm, chắc chỉ mới vừa rồi. Đoán sơ qua cũng biết đó là máu của vợ con hú Vinh, chắc con hổ lựa lúc cả hai lao vào rừng tìm người, đã nhảy ra vồ cả người lẫn ngựa, rồi tha hai mẹ con cô Vinh đi.

Đương lúc cậu tú giật mình, thì chú Vinh vùng lên, cầm con dao rựa lao vào rừng như con thiêu thân. Cậu Nhĩ cũng giật mình, vội cầm ngọn đuốc lao theo. Kỳ lạ chú Vinh như hăng máu, mất hết tri giác, lao vào rừng không xem đường gì, chỉ cốt lao theo vết chân con hổ cùng vết máu. Gai với cành cây đâm hết vào người chú tóe máu, nhưng chú không mảy may nháy mắt một cái. Ánh lửa thù hận trong mắt chú ngày càng lóe lên, ảnh mắt chú sáng rực lên, cùng với ánh sáng hắt lên từ con dao khiến người ta rợn người. Đến một bãi đất trống trong rừng, nơi này chỉ có trảng cỏ, không biết sao không có cây mọc ở chỗ này, chú liền ngừng lại, dấu chân hổ cùng vết máu tới đây là ngớt. Chú đảo mắt rồi chạy lại một chỗ trẳng cỏ, hét lớn đến rách cả miệng:

– Con ơi…

Năm ở hóc tối là một cái đầu trẻ con nằm lăn lóc một góc, mắt nó trợn trừng lên, miệng há hốc toàn máu. Cậu tú đi lại, sợ tới suýt nôn, cảnh tượng quá kinh khiếp, thằng bé chỉ còn lại mỗi đầu, và một phần cổ, như bị thứ gì ngoạm lấy cắn đứt nên vẻ mặt nó nhăn nhúm đau đớn lắm. Ánh mắt trợn trừng vô hồn càng làm cho người ta xót xa, rải rác quanh đấy là mấy mảnh quân áo vương chút máu cùng thịt vụn của nó. 

Lúc này một cơn gió tanh tưởi thốc đến, gió thổi mạnh khiến cậu tú như ngã dúi về phía trước. Cậu ngoảng lại thì từ trong đêm từ từ một con hổ bước tới, măt nó ánh lên le lói trong màn đêm nhìn chăm chăm vào hai người, mép nó khẽ nhếch lên như đang cười. 

Cậu tú liền dụi mắt, ngỡ là mình nhìn nhầm, thì ra không hề, mép nó dần nhếch lên, rồi từ trong rừng một đám bóng bay ra, quây lại đàng sau nó cung kính, tựa như nó là chủ nhân của bọn ma quái này vậy. Nhìn thoáng qua cậu Nhĩ cũng thấy được mấy cái bóng của đoàn thương lái, họ vật vờ, ngơ ngác đứng cùng đám ma ấy, cậu còn nhìn thấy cái bóng ma nữ mà lúc nãy đã thấy. Cậu sợ hãi, thở không ra hơi.

Con hổ liền ngồi xuống bằng hai chân sau, mõm vẫn nhếch như cười nhạo đám con người kia, cả đám ma quái cung kính quỳ xuống hai bên, mặt cúi gằm. Lúc này chú Vinh ngẩng đầu lên, rồi bất thần chú cầm con dao rựa lao đến chỗ con hổ tinh. Ý cười trong mắt con hổ càng đậm, môt nó nhếch lên, liền vung trảo đợi chú Vinh lại gần tát nhẹ một cái khiễn lưỡi dao rựa của chú bật ra ngoài.

Rồi nó đứng dậy, từ từ đi lại chỗ chú, trong ánh mắt kinh sợ của cậu tú, nó đưa vuốt từ từ lên ngực chú, rồi đâm sâu vào trong. Chú Vinh lúc này hét thảm một tiếng, mắt trợn ngược lên, miệng chú chảy ra một búng máu. Con hổ cúi xuống ngửi ngửi, tựa như thưởng thức hương vị món ăn ngon, rồi đưa lưỡi liến một cái trên ngực chú. Cãi lưỡi nhám toàn gai quét một cái là lóc một đám thịt của chú ra, máu bắn lên tung tóe.

Cậu tú sợ hãi, máu me cùng tiếng kêu thảm thiết của chú Vinh làm cậu ngã quỵ, hơi thở dồn dập, cậu cảm thấy khó thở, miệng thử dốc không ra hơi. Đang định nhắm mắt chờ đợi nhưng phút giấy cuối cùng của cuộc đời thì từ đâu lóe lên một ánh sáng chói lóa, rồi Xoẹt một tiếng- một vầng sáng như cây lao bây từ rừng ra cắm thẳng vào ức con hổ tinh. Lưỡi lao tuy nhanh nhưng con hổ dày dặn kinh nghiệm, trong khảng khắc nó vẫn lắc người tránh được chỗ hiểm, lưỡi lao không đâm vào tim và chệch sang phía chân trái nó. Nó gầm lên đau đớn, tức thì đám ma rừng bên cạnh nó run rẩy, bây vút về phía vừa phi r cái la ánh sáng kia.

Bọn chúng vừa lao tới thì có một âm thanh vang lên, cậu tú Nhĩ nghe loáng thoáng mấy từ “Pháp Vi luật lệnh, tát đậu thành binh…” ngay lúc ấy có một quầng sáng, một đám đậu đỏ to như ngón út lao từ phía rừng ra, lao đến đám ma. Cả hai va vào nhau phát ra tiếng ầm ầm nho nhỏ như sấm, lại nghe tiếng leng keng như đao kiếm va vào nhau, nhất thời đám ma bị kiềm hãm không tiến thêm một bước nào.

Từ khoảng rừng tối mịt có một ông cụ bước ra, cười cười nói khẽ:

– Không hổ là Hổ Vương sống trăm tuổi, khá lắm! Tránh được sát chiêu của lão đạo này, xem ra tạo nghiệt không ít. Nhưng vẫn là chịu chết đi thôi…

Cụ già đưa tay bấm bấm quyết, lúc này cậu tú mới định thần nhìn kỹ người này: Người này tầm sáu mươi tuổi, da dẻ hồng hào, mắt mũi tinh anh nhưng râu tóc bạc trăng hết cả. Cụ mặc áo the dài màu đen, khoác bên ngoài một chiếc áo bào đạo sĩ màu xám đã bạc màu. Lão đạo sĩ này phất tay một cái, tức thì từ trong tay lão liền nắm một thanh kiếm đồng. Lúc này con hổ tinh thu thế, nhăm nhe đợi lão sơ hở để lao vào, mắt nó léo lên từng tia dữ tợn. Rồi nó gào một tiếng, vuốt từ từ mọc dài ra, dài đến tận hơn một gang tay mới dừng, toàn một màu đỏ như máu. 

Rồi nó lao vút lại phía lão đạo, lão không hề nao núng, đưa thanh kiếm đồng rạch nhẹ một đường ngang tay tay trái, rồi chém mạnh thanh kiếm mọt cái. Ánh sáng đỏ như máu từ thanh kiếm lao ra, chém bay qua phía con hổ, con hổ lúc này lắc lắc đầu, phía ria nó lóe lên vài chùm sáng, rồi ria nó sáng rực lên, bắn về phía ánh sáng đỏ của thanh kiếm.

Một ánh sáng chói lóa khiến mắt cậu tú Nhĩ đau đớn, vội vã nhắm mắt lại thì Ầm..Ầm… âm thanh như tiếng pháo nổ liền bên tai, cùng đó là một cơn gió mạnh hất cậu Nhĩ văng vào gốc cậy. Đau ê ẩm, cậu mệt mỏi gần như bất tỉnh, nhưng vẫn nghe được vài câu:

– Càn chi Thương Khung, Khôn vị Huyền Hoàng… Sâm lâm chi chủ Tản Viên Sơn thánh, thưởng thiện phạt ác, tru tà trừ ma….

Rồi ánh sáng lại lóe lên, hình ảnh cuối cùng cậu nhìn thấy là thanh gươm đồng rỉ nát của lão đạo sĩ cắm thẳng vào sọ con hổ tinh, rồi nó gục thẳng dưới chân lão.

Phải đến hai ngày sau, cậu tú Nhĩ mới tỉnh, do gặp quá nhiều chuyện ngoài sức tưởng tượng, cậu hôn mê rất sâu. Khi cậu tỉnh dậy thì đã thấy lão đạo sĩ bên cạnh, lão nhìn cậu cười nửa miệng. Cậu định hỏi thì lão đã đưa tay ngăn cản, nói:

– Con đang còn bị thương, đừng nói nhiều. Từ hôm đấy đến nay đã hai ngày rồi, trong số tất cả người của thương lái đó, ta chỉ cứu được mình con, còn lại tất cả đã là vong hồn dưới hàm của hổ tinh kia rồi.

Trầm mặc một lúc, lão tiếp “Hổ nếu ăn được thịt người, thì sẽ thành nghiện, từ đấy chỉ chăm chăm bắt người ta ăn thịt. Nếu như con hổ ăn đủ bảy bảy bốn chín người, thì sẽ thành yêu, hơn nữa nếu nó ăn được trái tim của người đẻ ngày Dần, tháng Dần, năm Dần, thì yêu lực của nó sẽ tăng mạnh. Lúc này ria mép của nó sẽ chuyển sang màu đỏ pha bạc, mạnh mẽ vô cùng, còn vong hồn những người bị nó ăn thịt, mãi không thể siêu thoát mà chỉ quanh quẩn làm nô lệ cho nó- dân gian gọi đấy là ma Trành, còn phái ta thì xưng hô là Vong nô.

Cậu tú lúc này không nhịn được, liền quay sang hỏi lão đạo sĩ “Tại sao người lại nói với con như vậy ạ?”

Lão đạo sĩ cười cười, nhìn thẳng vào mắt cậu tú mà đáp:

– Con có muốn theo ta học Đạo không?

Chú giải:

– Thứ nhất: Từ câu chuyện này sẽ trở về quãng thời gian cụ Nhĩ tầm đạo, lúc này cụ còn trẻ, nên danh từ xưng hô sẽ là “Cậu tú Nhĩ”, để các bạn đỡ thắc mắc.

– Thứ hai, tôi sẽ cố gắng kéo dài chuyện thành nhiều chương, và do đây là quãng thời gian cụ học đạo, nên sẽ ít đi phần kinh dị, để làm một khoảng cho truyện về sau, nên có thẻ không hay với một số người.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11: Hồng Hà Si Mị thượng


Bấy giờ, cậu tú Nhĩ đã theo lão đạo sĩ cả thảy gần ba tháng, đối với lão đạo cũng hiểu rõ hơn không ít. Thời gian ba tháng này, ngoại trừ việc đi về nơi môn phái lánh đời của lão, đôi thầy trò còn tranh thủ dạo một vòng vùng Hà Ninh trừ tà bắt ma, theo lão đạo nói thì đấy là hạ sơn tạo phúc cho dân chúng, nhưng cậu tú thừa biết rằng đấy chính là đi kiếm chút tiền nhang khói.

Lại nói môn phái của lão đạo sĩ vốn gọi là Thái Vi, mà lão tự vỗ ngực xưng là Thánh địa Đạo gia của cả Lĩnh Nam, nhưng cậu tú lại bĩu môi, vì đúng nơi ấy từng là Thánh đại Đạo gia thật, nhưng từ thời Thánh Tông Hồng Đức vốn dĩ nước ta độc tôn Nho giáo, nên Thái Vi cũng lùi dần vào vũ đài lịch sử.

Đến tận đời lão đạo sĩ tổng cộng qua bốn mươi hai đời, mà hơn ba mươi đời đều là độc đinh- thầy trò rau cháo nuôi nhau. Nghĩ đến đây cậu tú lại ngán ngẩm- Đạo gia vốn suy tàn, có mấy môn phái được như pháp tràng Nội Đạo Tràng trong xứ Thanh Hoa, mấy vạn tín đồ, giáo chủ lại được tôn làm Thượng Sư, còn Thái Vi thì đúng là nghèo hàn đến mức dột nát.

Vừa đi vừa suy nghĩ, bỗng nhiên cậu tú sững người, bấy lâu nay cậu đi theo lão đạo sĩ cũng không phải nằm không, đã học được một ít chân truyền của lão- mà theo lão là công phu Đạo gia truyền thời Chử Đạo Tổ tới nay, cậu khịt khịt mũi, rồi nhìn quanh quất. Tức thì lão đạo sĩ liếc sang, cười nửa miệng rất tà dị. Cậu tú hiểu ý liền nhìn xuống tay lão, thấy ngón trỏ tay phải lão áp sát vào Hợp Cốc, liền lẳng lặng nuốt những lời định nói vào lòng. Bởi vì, đây chính là ám hiệu riêng của Thái Vi, nghĩa rằng- “Xương cứng” trước mặt, không được đánh động.

(Xương cứng chính là yêu vật tu vi không tầm thường, có thể mang phép biến hóa, có sức phiên giang đảo hải, lại mang trong mình thần thông. Thường thường, môn nhân Thái Vi khi gặp yêu vật hạng này, thường thường bày trận pháp để phòng yêu vật có thể tẩu thoát).

Bấy giờ cậu tú Nhĩ cũng lẳng lặng theo đoàn người xếp hàng lên thuyền, những năm đầu Đồng Khánh nào đã có cầu Long Biên, nên người dân ven Nhĩ Hà đều phải đi lại bằng thuyền. Việc đi lại bằng tuyền đò lúc bấy giờ ở sông Nhị Hà cũng vô cùng bất tiện, mùa Thu Đông còn đỡ được phần nào, tuy có hơi lạnh nhưng cũng không tới mức nguy hiểm. Nhưng khi Hạ về, tiết Đại Thử mang theo lũ về, cả dòng Nhĩ Hà đục ngầu, sống lớn gầm thét. Bấy giờ triều đình ngoài việc phải ra sức tu chỉnh đê điều, lại càng phải khuyến cáo người dân không nên vượt sông. Nhưng hiềm nỗi "Dân dĩ thực vi thiên"- Vì tiền liều cả mạng, nên mỗi năm Nhĩ Hà thường thường luôn có tai nạn luôn luôn, ngư phủ sống quanh sông lại có quan niệm "Người rơi xuống nước lật thuyền là do Hà Bá muốn kẻ này xuống làm người hầu, cứu kẻ này là đắc tội với Hà Bá". Vậy nên số người vong mạng dưới sông thật không thể đếm xuể.

Khi cả hai bước lên con thuyền lớn để vượt sông, cậu tú cùng lão đạo sĩ không nói không rằng lùi dần về phía mạn thuyền, cả hai nhẹ nhàng không làm ai chú ý. Cậu tú Nhĩ mới thì thầm nói khẽ:

– Con thấy khi chúng ta bước lên thuyền này, tự nhiên lạnh lẽo bất thường, lại mang theo hơi lạnh vương vất mùi tử khí. Ắt hẳn có quỷ quái làm trò quỷ quái...

– Không chỉ là hơi lạnh, mà cả con thuyền này e chẳng phải thứ nên xuất hiện ở đây...

Lão đạo sĩ vẫn treo nụ cười nửa miệng trên môi mà thì thầm đáp lại, nhưng hơn ai hết trong lòng lão bất an lạ kỳ. Loại bất an này đến từ tiềm thức, tựa hồ mỗi khi trước tai họa đến, mọi loài vật đều có linh cảm- linh cảm của người tu Đạo càng mạnh mẽ.

Con thuyền nhẹ nhàng rẽ sóng vượt qua lòng sông Nhị Hà, lúc này trên thuyền đủ loại hành khách, trẻ có, già có, đàn ông có, đàn bà lại càng nhiều. Họ trò chuyện với nhau ồn ào, rôm rả đến nhức cả tai, bỗng nhiên có một thiếu phụ chun chun mũi, rồi hỏi lớn:

– Trên thuyền có mùi gì lạ quá?? Như mùi … ưm..như mùi thịt thối vậy??

Tức thì cả thuyền im bặt, như đồng tình với người thiếu phụ. Tuy nhiên, trong giây phút này, sự yên lặng thật đáng sợ, không gian tĩnh lại tựa hồ có thể nghe được âm thanh của trái tim đang đập. Người thiếu phụ cũng nhận ra vẻ bất ổn, liền dáo dác nhìn xung quanh, tức thì nhận lại hàng chục ánh mắt lạnh băng đổ dồn vào mình.

Ả sợ hãi quá, bật ngã ngay xuống lòng thuyền.

Bấy giờ một người hành nam khách đứng tuổi mới đứng dậy, trên thân hình người này bỗng trở nên trương phình ra gấp rưỡi, làn da vốn hồng hào lại trắng bợt đi như ngâm nước lâu ngày, rồi trở nên nhớp nháp, tanh tưởi. Rồi làn da như bột bông phèn gặp trời nóng, nó nhão ra, chảy xuống lòng thuyền, từng đàn dòi bọ trắng nhung nhúc tuôn ra từ lớp da hư thối ấy. 

Người thiếu phụ thét lên, bò dần xuống cuối thuyền, hiển nhiên nhận ra cuối thuyền vẫn còn hai người đàn ông bình tĩnh lẳng lặng đứng nhìn, liền liều mạng bò tới nhằm nắm lấy cọng rơm cứu mạng này.

Không gian như đặc quánh lại, bấy giờ cậu tú liền nhận ra cả con thuyền lớn ban nãy liền mất đi màu sơn sáng bóng, dần chuyển sang màu nâu xỉn, mang theo mùi mục nát sộc thẳng vào mũi, còn bấy nhiêu hành khách trên thuyền, ngoại trừ hai thầy trò cậu cùng thiếu phụ kia. Dĩ nhiên lại là một đám không phải “người”.

Thiếu phụ bấy giờ đã núp sau lưng hai thầy trò, tuy sợ hãi đến gần chết, nhưng trong tình cảnh này, tư duy con người lại càng trở nên tỉnh táo, liền hỏi vu vơ hai người:

– Chúng là thứ gì?

– Là Vong hồn táng mạng dưới sông này, hay còn gọi là Ma da!

Lão đạo sĩ cau mày trả lời, rồi lão tiện tay quơ quơ mạn thuyền vài cái, bẻ một miếng gỗ ở thành thuyền- chất gỗ vốn mủn nát niền bở ra như xốp, thoắt cái đã bị lão bẻ mất một mảng to như cái rổ rồi!

Lão vân vê miếng gỗ mục rồi thủng thỉnh nói:

– Thuyền này mục nát không phải do dầm trong sông nước, mà là do bị hút Mộc khí của gỗ nên mủn nát. Bọn mi cũng không khác, vong mạng mà Linh đài chưa cạn đã tắt, tinh khí không còn, hẳn là do Võng Lượng?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12: Hồng Hà Si Mị thượng (tiếp)


Khi lão đạo sĩ nhắc đến hai từ “Võng Lượng”, tức thì đám hành khách kia bắt đầu gào rú, con thuyền liền tròng trành như sắp lật. Nhưng tuyệt nhiên mặt sông vẫn phẳng lặng như không nổi bất cứ sóng gió gì. Bất ngờ, cả đám hành khách kia thân thể bắt đầu trương phềnh lên, mặt mũi chúng lúc này không còn là dáng vẻ của con người nữa.

Chúng lồi lõm, nát bươm vì bị cá rỉa tứ tung, hơn nữa rời bọ nhung nhúc chui từ chỗ hở thịt, thật khiến người khác buồn nôn. Chúng từ từ lết đến gần ba người, mỗi bước đi liền rơi rớt từng miếng thịt thối, mắt chúng nhìn chăm chăm vào ba con người đang sống trước mặt. Thều thào những tiếng khó nghe, bởi vì cả hàm và quai miệng của chúng đã đứt lìa, chỉ còn lủng lẳng gắn với cái sọ bằng ít thịt nát, nên họng không mấy khi phát ra âm thanh.

Lão đạo sĩ cũng không tỏ vẻ kinh sợ, lão liền lục tay nải đeo cạnh người, rút ra mấy tấm bùa vẽ chu sa. Tức thì gắn thêm vài viên Thần Sa đặt trên mùa, ném về phía lũ ma da. Bọn ma da sau khi dính phải bùa, liền quằn quại đau đớn, chúng điên cuồng càng bò nhanh hơn về phía đuôi thuyền, nhưng không được mấy bước thì thân thể chảy nhũn ra, chỉ còn là bộ xương dính gân thịt nhầy nhụa mà bò, còn thịt thì nhão nhoẹt trên lòng thuyền không ngừng tan chảy.

Cả ba người thở phào, tưởng chừng qua được một kiếp, bỗng nhiên cậu tú Nhĩ bỗng thấy tay phải nhơm nhớp, hóa ra trên bàn tay cậu tựa vào mui thuyền từ nãy tới giờ không phải là gỗ, mà là thịt thối y như thịt của lũ Ma da kia. Hoặc có lẽ, thịt lũ ma da kia chảy xuống, hoàn toàn bị con thuyền ma này hút hết rồi. Và nó từ một con thuyền ma làm bằng gỗ, giờ trở thành một con thuyền ma làm từ thịt xác thối…

Lão đạo sĩ tức thì hiểu rằng:”Cả con thuyền này vốn dĩ là một thể với lũ ma da kia. Dù dùng bùa làm tan chảy hết thịt rữa trên người chúng, thì cũng không có tác dụng gì với con thuyền này!” 

Lão liền ra hiệu với cậu tú, cả hai ôm theo người thiếu phụ kia bỏ thuyền nhảy xuống sông. bởi vì, con thuyền kia sau khi trở thành một xác thuyền thịt nát, thì số thịt nát mang theo dòi bọ ấy hình thành xúc tu thịt như con giun lớn, đã vươn tới cả ba người.

Lúc này, khi cả ba nhảy ùm xuống nước, bỗng nhiên gió lớn từ đâu thỏi thốc tới, cả lòng sông bắt đầu nổi lên sóng nước. Còn thuyền lắc lư chao đảo, rồi lật ngửa lên, chìm xuống lòng sông sâu thẳm. Cậu tú chưa kịp mừng thầm thì hốt nhiên một lực kéo mãnh liệt kéo mạnh vào chân, làm cậu mất đà chìm hẳn xuống nước. Không kịp ngưng nghỉ, cậu vội nhìn thì ra dưới bắp vế cậu có hai bộ thi thể rữa nát đang túm chặt, không ngừng kéo xuống. 

Thì ra con thuyền ma quái chìm xuống, là lúc mà bọn Ma da sẽ trơ về với lòng sông, nơi chúng mang theo oán hận vô tận mà vong mạng. 

Cậu tú không kịp nghĩ ngợi gì, vội nín thở mà lấy từ tay nải một đống chai lọ hồ lô, tất cả đều là dược liệu từ tà mà lão đạo sĩ đã đưa cho trước khi lên thuyền, đổ hết ra. Dược liệu hòa tan trong nước sông, làm màu nước xung quanh đục ngầu, hai con ma da đang ôm lấy chân cậu tú có vẻ đau đớn không cùng, da thịt vốn đã rữa nát liền như bị thiêu cháy, mỗi phần thịt rữa đều sủi bọt lên miếng bọt biển nhúng nước vậy, rồi từ từ đen cháy hết cả. Rồi hóa thành hai bộ xương trắng hếu chìm xuống dòng nước. Cậu tú được giải thoát, vội ngoi lên mặt sông nhìn tứ phía xem.

Bỗng cậu phát hiện lòng sông bấy giờ xuất hiện một vùng nước đen kịt, cậu lặn xuống cố nhìn vào phía vùng nước. Ở đấy có hai thứ, là lão đạo sĩ và một vật tựa như khối thịt, nhưng lại có một khuôn mặt giống người ở bốn phía. Cậu tú mới sực tỉnh, hóa ra nó chính là Võng Lượng trong lời của sư phụ. Cả con thuyền mà ấy chính là Võng Lượng- nó hóa trang thành thuyền buồm chuyên trở người qua sông, đến giữa dòng người này không để ý, liền nhân cơ hội lấy mạng người.

Trương Bình Tử Tây Kinh phú có từng ghi “Võng lượng la quỷ thần, ngụ trong gỗ đá. Tương truyền rằng thời Thương, có nho sinh tên Lượng, bỏ bê nghiệp đèn sách, chỉ vui thú thói phấn hoa, sau say rượu ngã sông mà chết. Oan hồn y vất vưởng không tan, nhập vào gỗ đá dưới sông mà hóa thành Lượng. Lượng trời sinh quái ác, nhằm người yếu bóng vía mà ăn thịt người ta. Lại có thói ẩn mình sâu kín mà rình. Nên tục thêm tên là Võng- tức là núp như cái bóng. Võng Lượng sau này được thờ như thần sông”.

Cậu tú cố gắng vớt được người thiếu phụ lên bờ, rồi đứng trên bờ mà lo lắng nhìn xuống. Tự biết tài phép mình chưa đủ, xuống nước chỉ hiềm vướng tay vướng chân lão đạo sĩ. 

Bỗng “Ầm … Ầm..” hai tiếng lớn, lòng sông như bị rạch ra bằng lưỡi dao vô hình, rồi Võng Lượng thét lên một tiếng như tiếng trẻ con khóc, nó quay người nhìn chằm chằm vào lão đạo sĩ đang huyền phù ở mặt nước, sau đó không cam lòng lặn mất. 

Dù chỉ nhìn thoáng qua, nhưng cậu tú biết ắt hản nó đã ăn không ít đau khổ, thân thể nát ra thành nhiều mảnh, từng tảng thịt thối trôi từng mảnh dập dờn trên mặt nước, năm khuôn mặt người giờ chỉ còn hai. Tức thì cậu tú lao xuống bơi dìu lão đạo sĩ, vì lão cũng đã mệt lử người, dáng vẻ không tốt lắm.

Bấy giờ, người thiếu phụ đã tỉnh, ả ngơ ngác nhìn xung quanh, ánh mắt vẫn hốt hoảng như chưa tỉnh cơn ác mộng. 

Nhận thấy lão đạo sĩ đang thở hắt từng hơi yếu đuối, ả liền sắm sửa lại quần áo, đon đả mời cậu tú và lão đạo sĩ về nhà,. Cậu tú vẫn dùng dằng chưa quyết, vì nghĩ làm phiền người ta là không nên, nhưng ả thiếu phụ mời chào gắt gao quá, lại thấy sư phụ mình đang mệt nhọc mà tạm thời lịm đi. Cậu tú liền cõng lão đạo sĩ theo chân ả thiếu phụ kia rảo bước đi về phía trước, mà không để ý rằng ánh mắt của á khẽ lóe lên sáng rức, miệng cười cười…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13: Hồng Hà Si Mị hạ


Cậu tú xốc lão đạo sĩ lên vài lần nữa, để chắc chắn lão không tuột. Người lão nhũn như chi chi, hơi thở lúc có lúc không, vẻ mặt trắng bệch như sắp đứt hơi. Cậu tú thấy thế hốt hoảng lắm, liền giục giã ả thiếu phụ nhanh chân thêm một chút. Người thiếu phụ cũng cười cười đon đả đáp lại, ả dẫn cậu tú xuyên qua lũy tre tiến vào một thôn xóm nhỏ. Thôn xóm này tịch mịch lạ thường, buổi chiều nhưng vắng lặng tựa như đêm khuya canh năm vậy.

Đường làng không một bóng người, thậm chí ngay cả một con gà, con chó cũng không thấy. Cậu tú thấy làm lạ, đang định hỏi thì ả thiếu phụ như là biết ý, liền quay sang cười tủm tỉm rồi đáp:

– Bấy giờ vào vụ Chiêm, nên người ta ra đồng hái gặt cho được ngày cậu ạ! Làng giờ vắng như chùa bà Đanh thế này đấy!

Trăm việc thì việc có ích nhất là đọc sách, mà vô dụng nhất cũng chỉ là đọc sách! Cậu tú Nhĩ vốn là loại “Học trò dài lưng tốn vải”, nào có biết vụ mùa gì đâu. Vậy nên, nghe ả thiếu phụ nói thế cũng bùi tai, bao nhiêu nghi ngờ vứt hết ra khỏi đầu, gật gù lia lịa rồi tiếp tục cõng lão đạo sĩ theo bước chân ả đi về cuối thôn.

Đến trước một căn nhà to, ả thiếu phụ khẽ khàng mở cổng mời cậu tú vào. Đến đây thì cậu tú cũng sửng sốt, căn nhà gạch bảy gian to, mái ngói tường hoa, xung quanh là hàng dâm bụt cùng trà mạn xanh ngắt. Vào thời buổi này, nhà gỗ ở vùng quê đã được xem là phong lưu, vậy thì ắt hẳn chủ của căn nhà gạch này cũng thuộc dạng có máu mặt lắm. Vừa nghĩ cậu tú vừa lẽo đẽo bước vào, bấy giờ đã xẩm tối, mặt trời dần xuống núi, ánh sắng cuối ngày vừa đủ để gà có thẻ lên chuồng, còn mắt người đã bắt đầu nhấp nhem. Tuy nhiên, vừa bước qua cánh cổng, cậu tú bỗng thấy lạnh toát sống lưng. Một cảm giác lạnh lẽo chạy dọc từ chân lên đỉnh đầu, khiến da đầu cậu gai lên, tóc gấy dựng lên hết. Hơi lạnh len lỏi không biết từ nơi nào xoắn tới thân hình cậu, tựa như có hàng ngàn lưỡi dao cạo sáng loáng rờ rẫm khắp thân thể.

Cậu tú đang hoảng hốt, đứng như trời trồng trước cổng nhà thì bỗng có người vỗ vai cậu một cái. Cái vỗ vai bất ngờ khiến cậu giật thót, suýt buông cả tay đang cõng sư phụ trên lưng, cậu quay phắt sang thì ra là ả thiếu phụ. Rõ ràng là ả thiếu phụ đi trước cậu cả vài thước, không ngờ một phút bần thần mà ả lại có thể đi vòng sau lưng cậu được rồi.

Ả thiếu phụ thấy cậu tú bần thần, liền ngọt ngào nói với cậu:

– Cậu tú sao thế? Tôi đợi mãi mà không thấy cậu với cụ đâu! Giờ cậu đưa cụ lên nhà trên nghỉ nhé, tôi làm cơm ngay bây giờ!

Rồi chẳng nói chẳng rằng, ả vừa mời vừa đẩy cậu tú lên bằng nhà trên bằng được. Nhà trên trong căn nhà bảy gian thường là nhà thờ, chỉ khi có khách quý thì chủ nhà mới mời lên, cậu tú lúc đầu cũng ái ngại từ chối, nhưng ả thiếu phụ muốn đền ơn cứu mạng của hai thầy trò nên nhất quyết bắt cậu lên phản giữa nhà để ngồi. 

Cậu tú vừa bước vào gian giữa, thì cái cảm giác lạnh lẽo kia lại xộc thẳng vào cậu. Dù mới đầu tháng mười nhưng cậu tú đã thấy hơi lạnh về như tiết Hàn thử, cậu Nhĩ vội lục tay nải lấy cái áo choàng khoác vội cho lão đạo. Sau đó liền lấy chiếc đỉnh đồng đen ba chân của sư phụ, đốt lên một mảnh Kỳ Nam nhằm xua đi hơi lạnh, cũng xông khí hương trầm cho sư phụ mau tỉnh.

Đang loay hoay bấm huyệt cho lão đạo, cậu Nhĩ liền nghe tiếng thiếu phụ gọi lên khe khẽ, đang định đáp thì bỗng thấy ả đã mon men đứng trước cửa rồi.

Cậu tú bỗng hốt hoảng, vừa rồi nghe tiếng ả gọi, cậu nghe đoán ít ra ả cũng đang ở giếng dưới nhà, cách vài chục thước nữa. Vậy mà vừa dứt lời ả đã ở trước cửa, là cậu đoán nhầm, hay ả vốn có vấn đề gì chăng? Cậu không dám khinh suất cử động, vội vàng nín thở, vì ả thiếu phụ vừa bước vào nhà thì ánh mắt đảo khắp phòng, nhưng kỳ lạ là ả như không nhìn thấy hai thầy trò. Ánh mắt ả thiếu phụ trở nên đỏ rực, mặt mũi méo mó, hung quang trong mắt tràn ra, ả nhảy bổ về phía chỗ phản lớn nơi cậu tú và sư phụ đang nằm nghỉ.

Cậu tú thấy thế định trở thân ngăn trở thì từ đàng sau có một cánh tay khô gầy bịt miệng cậu, một cánh tay nó túm vào vai giật ngược người cậu về sau. Trong cơn kinh hãi, cậu chợt nhân ra đấy là sư phụ, liền thở hắt ra một hơi. Lúc này ả thiếu phụ gần như không còn hình người nữa, khắp người nó bắt đầu mọc lông tơ màu xám xịt, móng vuốt dài ra, ánh mắt màu đỏ rực như lửa đèn. Sau cú vồ hụt, nó lại gào rít trong nhà, nghĩ rằng hai kẻ kia đã bỏ trốn mất dạng, con quái vật không nghĩ ngợi gì vội vọt ra ngoài.

Lúc này, cậu tú mới hết sợ hãi. Quay sang nhìn sư phụ thì thấy lão đã tỉnh táo, lão lúc này mới mặc áo bào dài vào, quát khẽ:

– Ngươi quả thật không biết sợ là gì! Vừa trừ xong yêu vật, há làm sao có thể theo kẻ lai lịch bất minh thế này!

Cậu tú cũng biết mình sai, nên không dám cự cãi. Lúc này cậu đánh bạo hỏi dò:

– Trong yêu vật đấy không khác người thường, lại không có tà khí! Lúc đấy tâm thần con đương bấn loạn, nên mới đi theo ả! Nhưng quả thực kỳ lạ lúc đấy con cảm thấy yêu vật này rất giống người thường, không biết duyên cớ ra sao?

Lão đạo lúc này đã sửa soạn lại xong, lão phẩy phẩy tay về phía đỉnh nhỏ mấy cái, hương Kỳ Nam đang tụ lại thành cái kén khói quanh hai thầy trò bỗng tản ra, bay lờ lờ khắp căn nhà, tạm thời xua tan đi cái lạnh. Lão cười gằn một tiếng, tiếp lời:

– Nó nào có phải yêu quái yêu vật gì chăng mà có tà khí quấn thân! Nếu vi sư không nhầm, nó chính là Sơn thần chi nô, là linh bộc, nô bộc của Tản Viên thánh nhân- danh xưng Si Mị. Cũng đừng tưởng Si Mị nào cũng giống nhau, Xuân Thu có viết: “Si là thần núi, hình thú. Mị là quái vật sinh ra từ đá!”. Thái Vi chúng ta từ xưa tới nay đã sưu tầm được 142 chủng Si Mị, tiễu trừ Si Mị hàng ngàn hàng vạn, nhưng mỗi đầu Si Mị là khác nhau. Tốt nhất không được khinh địch.

Cậu tú lúc đầu mới âm thầm ân hận, thì ra mình bị yêu vật lường gạt, chút nữa hại cả sư phụ. Bỗng chốc khói tầm tan hết khắp căn phòng, liền hiện ra cảnh tượng kinh dị đến tột cùng. 

Bộ trường kỷ bên trái gian phòng có năm cái xác người- có già trẻ lớn bé, trai gái nam nữ đều có. Và tất cả đều một thảm trạng trước khi chết, làn da khô quắt như mất nước, cả người nhũn ra, mắt bị móc mất. Cậu tú cố nén sợ hãi đi lại gần quan sát, thì mới phát hiện ra máu của toàn bộ năm người này đã bị hút sạch, gân cốt trong người bị tán cho nát vụn hết. 

Điều đáng kinh tởm hơn, là phía sau đầu như bị xé toang ra, toàn bộ não tương đều bị hút sạch. Cậu tú vừa sợ vừa giận đến run người, không ngờ đầu Si Mị này lại ra tay tàn độc đến thế, sau đó cậu bỗng giật mình- cả làng này không có chút sinh khí, chẳng lẽ là bị đầu Si Mị này tàn sát hết rồi chăng?

Bấy giờ lão đạo mới nhanh lại chỗ cậu, lão cũng hơi giật mình nhưng vội kéo cậu tú, khuyên bảo:

– Rất nhanh đầu Si Mị kia sẽ quay lại, nhanh đi khỏi chỗ này trước. Âm Địa bực này ở lại không phải là điềm hay, chúng ta đợi trời sáng sẽ quay lại…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,338
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14: Hồng Hà Si Mị hạ (tiếp)


Cậu tú với lão đạo sĩ vội vàng chạy nhanh về phía rìa làng, lúc này cả hai chạy không ngưng nghỉ. chạy được tầm hơn một canh giờ, cả hai ngồi xuống thở dốc. Đang nghỉ ngơi thì bỗng nhiên gió lạnh thổi thốc tới, theo đó là một mùi vị bất an khó diễn tả được. Lão đạo sĩ nhíu mày, liền ngay đó cắn ngón tay trở tay trái, vẽ lên gốc cây chò đối diện một đạo phù văn, sau đó niệm chú:

– Lĩnh Nam thiên vi Hồng Bàng nhân, La Bình lâm chủ vi Sơn Tiêu chi binh! Khởi… Khởi… Khởi.

Tức thì từ trong cây chò đối diện bỗng nứt dần ra, rồi từ chỗ nứt có một dị vật bò ra. Thoắt cái, từ hình dạng nhỏ như bàn tay người lớn, nó đã lớn như thổi cao gần ba trượng, mặt mũi dữ tợn, hai hàng răng nanh dài như lưỡi dao. Thân thể cao lớn dị thường, lông dài màu xanh như rêu, trên đều có sừng như sơn dương, lại chĩa nhánh như hươu, thân thể to lớn nhưng hai tay lại dài giống vượn, mắt có tới sáu con, nhưng lại ba cặp thì có hai cặp mắt như mắt mèo, còn đôi mắt còn lại đồng tử vàng khé, sọc dài như mắt rắn. Không cần bàn cãi nữa, cậu tú biết rừng đây là Linh vật mà người ta ngày đêm đồn thổi, Sơn Tiêu!

Lúc này đầu Si Mị kia đã đuổi tới, cậu tú lúc này mới nhìn rõ được chân thân của nó. Si Mị mang cánh dơi, chân dê, đuôi như đuôi hổ đập đi dập lại xuống đất. Ả có khuôn mặt mèo nhưng lại có tai trâu, vuốt dai nửa gang tay người, tuy thân thể có lông mao màu xám, nhưng ẩn hiện ở dưới lại là một tầng lân phiến thật dày như con tê tê. Cậu tú hit lạnh một hơi, rõ ràng đây là đầu lĩnh của Si Mị, Tu La Kiền Si.

Lại nói về Kiền Si, trong Kinh Phật có viết “Khi Đức Phật ngồi tham ngộ dưới gốc cây Bồ Đề, Ác Ma Thiên có đến quấy quá Ngài, hắn cùng Ngài đấu trí đấu Pháp liền thua. Nhưng thủ hạ của hắn trốn thoát có Thiên ma Ba Tuần cùng Tu La Kiền Si”. Còn Thái Vi có viết “Kiền Si là đầu lĩnh của chư thiên Si Mị. Si Mị oán khí tích dày, lại không có Thần để tu luyện, không sinh Linh đài, không tạo Nguyên Anh. Nhưng Kiền Si vào ngày Hạ nguyên (Tết Trùng Thập) mà lợi dụng Âm Dương giao hòa, cướp đoạt đi Dương khí mà trở Kiền!”. Vậy nên dù lý giải theo Phật hay Đạo thì Kiền Si pháp lực không thể nghi ngờ được.

Kiền Si và Sơn Tiêu đều có thân dựa nuí, lấy sơn linh thạch khí mà nâng cao pháp lực. Hai chủng này không giống như Si Mị và Võng Lượng lãnh thổ địa bàn xa nhau, tạm thời mà cấu kết- chúng nhìn thấy nhau như nhìn thấy tử địch thiên sinh. Hơn nữa Kiền Si vốn là ma vật tự tu mà thành, còn Sơn Tiêu là sơn linh dưới trướng của Mẫu Thương Ngàn La Bình thánh mẫu, vốn chính tà đối lập, chúng liền lao vào nhau mà tử chiến.

Kiền Si cùng Sơn Tiêu mạnh mẽ không hợp lẽ thường, chúng lại chiến đấu không màng sinh tử, nên cả một cùng rừng núi như có cơn bão tó đi qua, bạt thành từng mảnh. Tiếng động vang lên ồn ã như tiếng sấm, gió thổi cùng tiếng rít gào khiến người khác sợ đến nhũn gối. Cậu tú ngoảnh lại thấy bọn chúng đang lao vào nhau cắn xé nhau như mãnh thú. Cả hai thứ yêu vật vốn dĩ hình thể to lớn hơn con người rất nhiều, giờ hung tính trỗi dậy khiến chúng không ngại triển hết thực lực, liền hóa lớn lên mà tiêu diệt tử địch.

Lúc này lão đạo mới kéo cậu tú, cả hai tiếp tục chạy sâu vào rừng, men theo sao Bắc Đẩu mà chạy ngược ra. Sao Bắc Thần chiếu sáng cả mảnh trời phương Bắc, cả hai liền chạy theo hướng Nam, lúc này lão đạo mới âu sầu mà nói:

– Kiền Si này không biết đã ăn bao nhiêu người, không phải tám chục cũng đến cả trăm! Giờ yêu khí nó đã trở nên quá tà dị rồi, đừng thấy Sơn Tiêu đang đánh ngang tay, chẳng qua là cái vỏ thôi, chúng ta mau chạy về phương Nam. Vi sư ắt có cách tiêu diệt yêu nghiệt đấy.

Chạy thêm hai ba dặm nữa, cả hai thầy trò đều thở không ra hơi. Đến lúc này lão đạo sĩ mới cười lớn, vội vàng nói với cậu tú Nhĩ:

– Nguyên Nhĩ, con mau lấy Chu Sa, cốt Xương Bồ, Kim Đồng mẫu, Thủy Liên sương rắc một vòng thành hình mũi tên cho ta. Lại thêm lấy chỉ ngũ sắc bện thật chắc thành hình mũi tên đặt lên. Ta nghĩ trận chiến bên kia đã ngã rồi, chuẩn bị vẫn hơn.

Rồi lão lại lấy tiền đồng ra rải khắp thành hình một mũi tên nữa, cậu tú nhìn kỹ mới phát hiên ra không phải là Gia Long thông bảo thường thấy, mà là một đồng tiền cổ, tuy vậy nó vẫn phát ra ánh đồng đến mê người. Lão đạo sĩ lúc này mới cười cười nói:

– Tiền đồng vì sao lại được dùng để trừ tà biết không? Người ta nói, tiền đồng qua tay nhiều người, nhiễm dương khí nặng nên mới được dùng để trừ tà. Đúng một phần thôi, đồng là con của hoàng kim, mà kim khắc tử vật, nên ta mới dùng đồng! Đồng tiền này là Càn Phù thông bảo, đúc thời Lý, đến nay gần một ngàn năm hun đúc linh khí, không thể coi thường đâu.

Rồi lão mới thở hắt ra, đi một vòng cảm thán:

– Chỗ mà chúng ta đang đứng có thể trước là một trọng thập quý phúc đại phong thủy, chính là Long Hổ cao tủng. Thế này chính là tả Thanh Long hữu Bạch Hổ, cung nhau ôm địa thế. Nhưng chắc lũ Tây dương đã cho nổ gò Thanh Long để làm gì đó, nên giờ thành kiểu Thanh Long phi khứ- Thanh Long tùy thời mà bay. Lại thêm gò Bạch Hổ vốn là chủ hành Kim, thế vốn đang dung hòa lại bị phá, nên sát khí càng nặng. Con nhìn địa thế phía trước, cả khoảng rừng bị phá đi non nửa, giống hệt thế Xung xạ Sát. Kiền Si mà tới, ta ắt xạ Kim Đồng ngũ sắc tiễn.

Vừa nhắc liền tới, cơn gió tanh tưởi từ đâu lùa về, thốc bay cả hai thầy trò lùi ra sau cả mét, từ sau con gió Kiền Si đang dần tiến tới. Sau cơn kịch chiến người nó thảm hại vô cùng, hai cánh dơi một cánh bị mất, một cánh nát bươm. Con mắt trái bị móc ra, toàn thân đầy má, mà cánh tay trái bị cụt phân nửa. Cậu tú vô cùng chấn động, càng chấn động hơn nữa là trong tay nó cầm một cái đầu toàn máu, là đầu của Sơn Tiêu. Trông thấy cả hai sư đồ, Kiền Si trong mắt ánh lên vẻ hung tàn, liên cầm đầu Sơn Tiêu lên mà cắn một cái, máu mé phút ra, rồi nó nhìn về phía hai người như đe dọa. Lúc này lão đạo sĩ lại bấm quyết, giọng khàn khàn.

– Xích Quỷ tinh dạ chiếu thập nhị bát tú… Hồng Bàng nhân thụ Xích Quỷ quang vĩnh tỏa…

Tức thì cậu tú có cảm giác từ sao Xích Quỷ có một luồng sáng tụ vào người lão đạo, rồi lão bấm quyết lần nữa,ảnh sáng đấy từ người lão đưa vào trong hình tiễn mà cậu tú đã xếp trước đó. Lcs này Kiền Si mới hốt hoảng, vội lao vào, thì dưới ảnh sáng từ người lão đạo, Chu Sa, Xương Bồ, Kim Đồng, Thủy Liên nhanh chóng bị hòa tan ra. Gò Bạch Hổ bên phải phát ra tiếng gầm như hổ gầm, tiếng gầm lớn dần rồi thoắt cái không khí như ngưng đọng. Từng khí lạnh từ gò Bạch Hổ bay ra, như hư như thực bàng bạc, cậu tú từng đi vào trong khu kháng chiến Cần Vương, từng nhìn thấy người chết, thấy chiến trường. Cậu biết rõ đấy là sát khi ngưng thực từ gò Bạch Hổ. Bấy giờ mũi tên nhuộm đỏ ánh sáng màu huyết của sao Xích Quỷ, quay tròn rồi như có một cánh cung vô hình, nó bị kéo lại.

Kiền Si biết nguy hiểm tới gần, liền quay đầu định bỏ chạy.

Lúc này cánh cung vô hình bỗng như buông ra, mũi tên bay như sao băng lao thẳng về phía nó. Theo nó là cả một cơn lốc sát khí nhưng tụ của khu tuyệt địa phong thủy “Thanh Long phi khứ, Bạch Hổ bất viên nhu, Xung xạ Sát. Liền Si vừa chạy

ưa được chừng trăm trượng mũi tên đã phá gió, trong ánh mắt tuyệt vọng của nó, mũi tên bắn thủng thân thẻ, cùng gió lốc như xoáy nát phần còn lại.

Lúc này, lão đạo mới thở dài một hơi, lão bỗng cảm thấy mát lạnh. Sờ lên thì thấy lạnh lạnh, ra là lão vận quá nhiều linh lực nên quá sức, đã phát triển tới mức phản phệ, máu mũi liền trào ra.

Lão chỉ kịp quay ra nói vội một câu với cậu tú: “Trở về tông môn!” rồi ngất lịm.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom