Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20 :  Chương 19: Hành trình bắt đầu


Sáng hôm sau, Hùng trở về núi Két, chỗ bàn đá thấy Chín Danh và Sinh đã ngồi sẵn. Cả hai đều trầm ngâm, họ đã biết rõ sự tình. Sinh quỳ xuống cảm ơn Hùng, nhưng anh chỉ đỡ dậy, không nói gì. Bỗng Chín Danh bảo Hùng đưa ông xem viên ngọc rết, xem xong ông lắc đầu, bảo: “Tưởng đúng viên thì còn có cơ may cứu được nó.” Nghe đến đó, mắt Hùng sáng lên, anh hỏi cặn kẽ là sao. Chín Danh bảo, Thông đã thành Xà Niêng, bị âm khí bao bọc, đá sập cũng chưa chắc làm nó chết, cả người nó lúc này chỉ như bùn đất, xương cốt có nát vụn thì có thể khôi phục được. Nhưng nếu nó bị dập nát xương cốt mà đẩy khí âm ra ngay đương nhiên nó sẽ chết. Cho nên phải dùng loại thuốc hồi phục lại thể trạng cho Thông, rồi dùng ngọc rết đẩy âm khí ra. Hùng ngạc nhiên: “Ngọc rết này không dùng được là sao vậy chú?” . Chín danh đằng hắng, rồi nói: “Lửa cũng có nhiều loại lửa, ví dụ như lửa trong nồi, lửa từ gỗ, lửa từ dầu, từ xăng, từ các chất khác nhau, màu lửa và thuộc tính cũng khác. Đâu thể lẫn lộn được.” Nói rồi ông đưa mắt nhìn cô bé quét sân, ra hiệu cho cô ấy nói, cô ta vừa cúi đầu quét, vừa trả lời: “Đồ hình Việt Nam tựa như vòng Thái Cực đồ, Hải Nam là dương trong âm, biển hồ bên Campuchia là âm trong dương, miền Nam là cực dương của đồ, từ đó kết tinh ra ngọc rết. Dương thì có Thiếu Dương và Thái Dương, muốn đẩy âm khí ra thì chỉ cần dùng ngọc Thái Dương là đủ. Vốn dĩ viên anh vừa tìm về là Thái Dương, nhưng do nhiễm âm khí hồ ly quá lâu, nên thuộc tính mất dần, không đủ để đẩy âm khí ra được nữa.” Hùng hỏi vậy giờ nên làm sao, cô bé kia trả lời: “Ít nhất ở miền Tây có ba chỗ có Ngọc Rết, Thất Sơn An Giang, Kiên Lương Kiên Giang và U Minh Cà Mau. Thất Sơn là ngả dễ đi nhất, nhưng đáng tiếc là hai anh chọn nhầm lúc để đi!” Hùng quay sang hỏi Chín Danh, thuốc gì có thể chữa lành nội thương. Chín Danh trầm ngâm, bảo là ông nghe những người từng làm được kể thôi, chứ ông cũng chưa từng thử bao giờ tại chưa có dịp, cứ tìm một viên ngọc rết có năng lực Thái Dương về đây, tự khắc ông sẽ làm. Sau đó, Chín Danh lấy một bọc vải gói cuốn sách đưa cho Hùng, bảo là đêm qua, trước khi về chùa, Viễn Từ có mang theo thứ này, ông ấy lên núi gặp Chín Danh, không nói gì cả mà chỉ trầm ngâm thở dài, bảo Chín Danh cứ giữ lấy, tặng cho người hữu duyên. Chín Danh nghĩ món này Hùng giữ là đúng nhất. . Rồi họ từ biệt nhau, Hùng đưa Sinh về chùa, hẹn có dịp gặp lại. . Hùng kể xong câu chuyện, tôi thấy mắt anh ngấn lệ. Tôi hỏi về món quà của Viễn Từ là gì, Hùng lấy ra một cuốn sách cổ, có những dòng chữ Hán đã mờ, tên là Phục Ma Thư. Trong đó là một ngàn không trăm tám mươi bài chú và ấn chú diệt ma. Tôi tiếp: “Thông giờ sao rồi anh?” . “Nó kẹt trong vách ma giấu, Chín Danh để nó ở đó, thỉnh thoảng vẫn đến xem xét tình hình. Đợi ngày tìm được ngọc rết rồi về cứu nó”, Hùng nói. Tôi mới thắc mắc là sao bấy lâu nay anh chưa làm chuyện đó, Hùng bảo do chưa đủ năng lực cho nên anh không muốn lôi thêm ai vào rắc rối nữa cả. Tôi rít hơi cuối cùng rồi quăng tàn thuốc, hỏi: “Giờ đạo hạnh của anh thế nào?” “Đủ cao”, Hùng trả lời đầy tự tin “Vậy anh định khi nào đi tìm ngọc?” “Khi anh có đủ đội” “Ủa, còn thiếu người hả anh?” - tôi tò mò. “Đúng rồi, thiếu một người mà anh mới tìm thấy rồi. Em nghĩ sao nếu anh rủ em đi tìm viên ngọc rết ở Kiên Lương!” [Hết Thiên 1: Đại Nam Quái Truyện - Thất Sơn U Linh]
 
Chương 21 :  Đại Nam Quái Truyện Thiên II - Phần 1: Thiên Hổ Phù


Theo những thư tịch cổ, trên lãnh thổ Việt Nam vào những năm đầu Công nguyên xuất hiện ba nền văn mình và Nhà nước được xếp vào hạng sớm nhất Đông Nam Á, đó là văn hoá Đông Sơn ở nước Văn Lang - u Lạc; văn hoá Sa Huỳnh ở nước Chăm Pa; và văn hoá Óc Eo ở nước Chân Lạp. Óc Eo vào thời điểm hiện tại, vì là cầu nối giao thương của các nước ở lưu vực sông Mekong, Ấn Độ và phương Tây nên văn hoá trở nên hết sức đa dạng còn kinh tế thì thịnh vượng vô cùng. Hàng loạt đồ gốm, đá quý, đá bán quý, cổ vật và dụng cụ làm muối sau này được các nhà khảo cổ đào lên đã chứng minh cho điều đó. Thế nhưng, còn một loại văn minh, một đế chế với những điều luật bất thành văn cũng hình thành song song đó mà không phải ai cũng biết. Người biết được ít nhiều thì gọi họ là Lục Lâm. Khi nhắc đến hai từ “lục lâm” thì nhiều người lầm tưởng đến một nhóm sơn đầu thảo khấu, chuyên đi cướp bóc, đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ; thật ra người ta đang nhầm lẫn với lũ lục lâm Trung Quốc. Lục lâm ở Óc Eo mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Thuở ban đầu, lúc tổ chức hành chính trên đất đai vùng Nam Bộ chỉ vừa mới được kiện toàn, làm gì có đường xá, giao thông kết nối giữa các tỉnh như bấy giờ, cả một vùng đất đai bạt ngàn chỉ toàn những rừng sậy cao hơn đầu người, “rừng thiêng nước độc” ông bà ta truyền miệng nhau quả thật không sai. Dẫn theo đó là những bảo vật của trời đất ẩn mình, chỉ chờ những người dũng cảm, đam mê khám phá, phiêu lưu đến tìm. Lại có thêm sự đốc thúc khai hoang của các đời chúa Nguyễn, những người trai tráng bắt đầu quẩy tay nải, lên đường đi tìm những bảo vật đó. Bảo vật: tất nhiên là đắt tiền, hoặc nói là vô giá cũng không phải dốc láo gì ai. Cho nên quá trình đi tìm gian lao, khổ cực thì khỏi phải bàn tới. Giới lục lâm ban đầu chỉ có vài người, phần vì không phải ai cũng chịu được khó khăn hoặc nguy cơ bỏ mạng, phần vì một điều luật bất thành văn đã hình thành, khiến cho không phải ai muốn đi cũng đi được. Đó là căn nguyên hình thành của ngôn ngữ lục lâm. Con người vốn lòng dạ đa đoan, bề ngoài trông như vậy thôi nhưng bên trong lại giống như một tảng băng chìm, có trời mới biết họ đang giấu những gì. Chỉ một người thôi đã như vậy, thử tưởng tượng cả một xã hội thì như thế nào?! Một quán nước ven đường, một ông lão ngồi câu cá, một bà hàng thịt béo phị; chỉ cần nói được thứ ngôn ngữ không đầu không đuôi đó, thì cuộc sống giàu sang có khi đã nắm được trong tay một nửa. Giới lục lâm lúc ban sơ chưa có cơ sở để xác định rõ rệt, nhưng càng về sau thì người ta chia làm ba đường để dễ phân biệt: Thông Hải, Xuyên Lâm và Tẩu Lộ. Giới Thông Hải, chỉ nghe đồn là đi tìm ngọc trai, tổ Yến Chúa chứ chưa nghe thông tin chính xác, nguyên nhân là nó đã thất truyền. Giới Xuyên Lâm gồm những người đi tìm trầm, đá phong thuỷ, kỳ nam gọi chung là đi Trồng Lan (nhánh của Hùng Bonsai), những người đi giết ma dạo, diệt yêu, trừ tà gọi chung là Đập Miễu (nhánh của Thạch Sinh) và những người đi tầm long, trấn yểm gọi chung là Đào Giếng. Giới Tẩu Lộ gồm những người đi hái thuốc, chữa bệnh gọi chung là Hàng Rong, những người cung cấp mặt hàng đặt biệt cho lục lâm gọi chung là Hàng Thịt và những người quản lý giao thương gọi chung là Thả Diều. Biết được tên gọi chỉ là nhập môn, người muốn tinh thông loại ngôn ngữ này không còn cách nào khác, phải sống trong nó, tích góp kinh nghiệm từng ngày. Anh Hùng nói đến đây liền nhìn lên trần xe rồi thở dài, có lẻ những điều anh vừa kể đáng ra là dành cho anh Thông, vào một buổi nhậu ở góc quán nào đó mà hai người bọn họ đã hứa hẹn. Tôi thấy anh buồn nên cũng không dám bắt chuyện, cho anh tự chìm vào khúc mắc của mình. Cũng vì phần tôi có khá nhiều chuyện để suy tính. Từ vụ tai nạn của anh Thông cho tới nay cũng ngót năm năm trời, trong khoảng thời gian đó, anh Hùng vẫn tiếp tục đi trồng lan, đi diệt ma dạo, sẵn tiện tu luyện cho nhuần nhuyễn cuốn Phục Ma Kinh, thêm vào đó anh đi bái sư, học nghề đủ cả. Nhìn thần thái trong ánh mắt anh có thể đoán biết được rằng anh là loại người như thế nào, cũng giống như cảm giác ấn tượng ban đầu anh đem lại cho tôi vào buổi cà phê hôm đó. Những chuyện xảy ra tiếp theo tôi nghĩ một phần cũng do số phận đã sắp đặt như vậy rồi. Nói thẳng ra tôi đã chán công việc, sổ sách; chán giao thông, tắc đường, ngập nước; chán luôn con người. Khi anh Hùng nói anh đang đợi tôi xuất hiện, rồi còn rủ tôi đi một chuyến với anh, tôi không giấu được sự hân hoan, tôi là người thích đi đây đi đó, thích tự do, nhưng muốn đi chơi thì phải kiếm tiền trước: đó là cuộc sống cũ, tôi xin gác nó lại phía sau. Tôi tưởng tượng chuyến xe tôi đang đi lúc này là chuyến xe mang trọng trách rẽ cuộc đời tôi sang một hướng đi mới, một cuộc đời đầy phiêu lưu như lời kể của Hùng bon-sai, nhưng không phải là đi chơi cho vui, mà là đi kiếm bảo vật bán lấy tiền, để có thể trang trải cho những cuộc phiêu lưu kiếm bảo vật bán lấy tiền khác. Cho dù có nguy hiểm đến tính mạng, có thể tôi sẽ chết, nhưng tôi chết làm một con người tự do, tự định đoạt. Bác tài thả chúng tôi ở bến xe Miền Tây, bắt một chiếc Grab, chúng tôi lên đường đến chợ Bến Thành. Anh Hùng là người đã đi nhiều, nên đồ đạc anh chỉ gói gọn trong cái ba-lô bộ binh, còn tôi lỉnh kỉnh đủ thứ, lúc nhét cái vali vào thùng xe còn muốn không đủ chỗ. Anh Hùng cười nói: “Thôi, để mai mốt anh soạn lại đồ cho chú.” Sẵn tiện tôi hỏi luôn: “Mình đi chợ Bến Thành chi vậy anh? Mua thêm đồ hả?” “Đồ đạc gì nữa, đi tìm một người bạn cũ thôi.” “Ai vậy anh?” “Truyền nhân của Lục Tỷ, là đệ tử thứ sáu của Lý sư phụ, một Tẩu Lộ cứng khừ đó!” Xe dừng trên đường __, một khu phố người Ấn hay người Hoa gì đó, những tiệm thời trang, ẩm thực mang phong cách huyền bí của phương Đông. Chúng tôi cuốc bộ vào con hẻm gần đó rồi dừng lại trước một tiệm thuốc Nam. Phía trong quầy thuốc có bà lão đang ngồi vừa nghe đài vừa nhai trầu, sau lưng bà là hàng trăm ngăn tủ đựng thuốc và những tờ giấy dán tên thuốc đã ố vàng gần hết. Hùng đi vào lối đi nhỏ bên trái căn nhà, anh bốc ra năm cây thuốc rồi đặt chúng lên bàn, anh lấy ấm nước gần đó, cho tay lên thấy nước vẫn còn dùng được liền rót chúng vào nồi sành rồi chăm lửa. Vẫn chưa thấy động tĩnh gì từ bà lão, tôi nhìn sang anh Hùng nhưng anh chỉ kiên nhẫn đứng chờ nước sôi rồi cho mấy cây thuốc vào (lúc này tôi không phân biệt chúng là những loại gì), khoảng năm phút sau, đến khi thuốc đã sắc lại, anh rót một ly đầy rồi đưa ly lên trước mặt, trông rất trang trọng, anh nói: “Con kính cụ!”, đoạn một hơi ực sạch ly thuốc. Thuốc có vẻ khó uống hay sao mà sau đó anh ho sặc sụa, như muốn phun luôn cả phổi ra ngoài. Bà lão thấy vậy liền lên tiếng: “Ba năm rồi không uống lại, mùi vị vẫn như ngày nào phổng?” Hùng cười rồi đáp: “Dạ, ngoại khỏe không ngoại?” Bà lão tắt đài radio, phun trầu vào thố rồi nhặt chiếc quạt lên phe phẩy: “Khỏe re bây ơi, dạo này toàn bốc thuốc, bán buôn cũng được mà không thấy thằng nào ghé, chán, chán!” Chuyện này Hùng có nói với tôi, cơ bản là vì báu vật trên thế gian giờ không còn nhiều, những chỗ dễ đi, dễ tìm đã bị lấy hết. Còn lại những chỗ khó đi, khó tìm thì nhiều người e dè, số lượng lục lâm cũng từ đó mà giảm hẳn. Hùng nói tiếp: “Cô Sáu đâu rồi ngoại?” “Chết rồi.” Hình như anh không bất ngờ với thông tin đó. “Vậy còn Tú Linh…?” “Con Linh lo tan cho sư phụ nó xong cũng bỏ nghề. Phần cũng vì… Mày hiểu rõ hơn ngoại mà đúng không. Dù gì thằng Thông cũng là bạn nối khố của nó, trong cùng một năm mà mất đi hai người như vậy… Mày tìm nó chi?” “Dạ…” “Lại đi rừng nữa chứ gì. Thôi bỏ đi con ơi!” “Ngoại đừng hiểu lầm, con làm gì cũng có tính trước tính sau hết rồi. Đi chuyến này cũng vì lợi ích của cô ấy. Và thêm nữa là con sẽ không để chuyện gì xảy ra với những người đi cùng với mình nữa đâu, nên một phần con cũng cần cô ấy đi chung.” “Nó bỏ đi lâu rồi, có trời mới biết giờ nó đang ở cái xó nào, làm cái nghề gì. Mày biết tính nó rồi đó.” Bà lão từ nãy đến giờ nói chuyện mà chỉ nhìn xa xăm, chợt bà ngước đầu lên nhìn Hùng, tôi có thể thấy rõ trong đó sự bất ngờ của một người đã lâu không gặp anh, giờ lại thấy được cặp mắt đó, bộ râu đó, thần thái đó sẽ bị choáng ngợp. Tôi chỉ đoán vậy thôi, có thể tôi đã đúng vì tiếp sau đó bà lão liền thở dài, như kiểu biết được không có gì ngăn cản được Hùng đi tìm cô gái tên Tú Linh kia. Bà nói: “Ít lâu trước tao có gặp thằng Nam, nó nói lúc đi thả diều ở biên giới Cam chỗ cửa khẩu Xà Xía có nghe người ta nhắc con Linh.” Chúng tôi lên đường đi Hà Tiên một tuần sau đó, tôi cũng đã binh lại con 67, gắn thêm cái túi đôi, thay vỏ, thay sên cho nó, còn Hùng thì binh lại...mớ đồ tôi mang theo. Hùng cũng dân mê xe tay côn nên hai anh em thay phiên nhau chạy, trên đường trò chuyện cũng nhiều, có một điều khá thú vị. Lúc đó tôi hỏi: “Sao người ta gọi cô kia là Lục Tỷ vậy anh? Mấy đệ tử của Lý sư phụ theo lời anh kể thì có Bảy Săm với Chín Danh, đáng lẽ phải là Sáu Tỷ chứ?” Hùng nói: “Chính xác là như vậy đó. Cô đó tên Tỷ, là đệ tử thứ sáu. Nhưng có một giai đoạn phim kiếm hiệp lên ngôi, mấy người thân tiết gọi cô là Lục Tỷ nghe cho nó ngầu. Chết danh từ đó luôn!” Tôi cười, nghe cũng ngầu thiệt! Xà Xía là tên cũ của cửa khẩu Hà Tiên ngày nay, nó là cửa khẩu quốc tế đường bộ thông thương với tỉnh Kampot của nước bạn Campuchia. Tại đây người ta có thể đi tới bãi biển Kep, núi Bokor hoặc suối Teuk Chhou, còn về phần chúng tôi, Hùng lái xe rẽ vào một lối mòn dọc triền núi, hai bên cây cối um tùm. Cuối lối mòn có một khu nhà, trong đó phát ra tiếng ồn của hàng trăm con người, anh cho xe dừng lại trước một bức tường đá, một ông chú mặc áo thun ba lỗ, vai u thịt bắp, đầy hình xăm bước ra đặt bàn tay hộ pháp lên cái đèn xe, ngăn chúng tôi lại. Gã nói: “Đường phía trước hai bên bị cây lấp, thú hoang thích ăn thịt người, lại có vực thẳm, quay về được rồi.” Hùng chỉ cười nhẹ rồi lạnh lùng đáp: “Tiều phu, thợ săn và thợ mỏ.” Vừa dứt lời thì gã to con đứng nép sang một bên, nhường đường cho chúng tôi qua, tôi còn nghe gã gọi với theo: “Chúc vui nhé người anh em!” Chạy xe được ít lâu thì tôi thấy một bức tường đá khác, nó đã tróc gần hết xi-măng, dài chừng năm mươi mét với xe máy đậu ngổn ngang giữa núi rừng bao la, trên bức tường có một cái lỗ bị đục ra thành cánh cửa, Hùng đá chân chống rồi khoác tay ra hiệu đi vào trong, tôi hỏi không sợ mất đồ mất xe sao thì anh chỉ nhìn tôi kiểu châm chọc. Tiếng ồn, tiếng la hét ngày càng khủng khiếp. Vừa bước qua cánh cửa, ấn tượng đầu tiên của tôi là mùi nồng của mồ hôi và con người; dưới chân tôi nào là tàn thuốc, vỏ bao ni-lông trộn lẫn với đất đá và không khí náo nhiệt chẳng khác gì lần tôi đi khánh thành cầu Mỹ Thuận. Có hàng chục người đứng quay quanh thành vòng tròn, họ đang hò reo, la hét dữ dội, ở giữa vòng tròn là trận chiến ác liệt của hai chú gà trống. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một ổ đá gà lớn như vậy. Hùng quay lại bảo tôi là nhớ bám sát, không thôi bị lạc là khỏi tìm. Chen chân giữa biển người hôi thối này được một lúc thì tôi nghe tiếng chửi bới, Hùng cũng quay sang phía đó, một đám bốn thanh niên cao to, da đen như da trâu đang vây quanh một người phụ nữ nhỏ người, cô ta ngồi bắt chéo chân sau một cái bàn chất đầy giấy. Người thanh niên to con nhất lớn tiếng nói: “Tụi tao bắt con gà số 46, nó mới đá ăn xong, rõ ràng là mỗi thằng năm phiếu, tổng cộng là hai chục phiếu, sao mày chung cho tụi tao có mười sáu phiếu?” Người phụ nữ vẫn bình thản đáp, giọng cô ta hết sức đanh đá và quyền lực: “Chế ghi sao thì chế chung vậy. Tụi bây biết chế bao lâu rồi giờ ra đây khiếu nại, khác nào nói chế lừa đảo?” Một thằng khác hét: “Chế chế con mẹ mày. Chung tiền đi!” Chợt có hai người to con khác xuất hiện, trên cánh tay có đeo băng đỏ, chắc là bảo vệ của khu này. Vừa thấy hai người này đám thanh niên có chút dè chừng, chúng tiếp tục chửi bới nhưng không dám lại gần. Hai người bảo vệ mời chúng ra, tên to con nhất cũng không dám chống cự định quay đi nhưng dường như hắn nổi máu điên. Hắn hét lên trong cơn thịnh nộ: “Bọn lục lâm chúng mày đúng là đồ chó má!” Đúng lúc đó, hai người bảo vệ khựng người lại, như thể đang hoảng sợ. Tôi quay sang nhìn Hùng, nghe anh trút một tiếng thở dài. Còn cô gái kia thay đổi rõ rệt, không còn thái độ dửng dưng bất cần, thay vào đó ánh mắt cô đanh lại, miệng cô hơi xiết chứng tỏ hai hàm răng đang nghiến chặt. Cô đổi tư thế ngồi, hai tay cho vào túi quần, chợt gấu áo cô động đậy rồi phất lên như có vật gì đó bay ra ngoài. Bốn người thanh niên gục xuống, lăn qua lăn lại trên cái nền dơ bẩn, kêu lên như heo bị chọc tiết. Cô gái kia bước đến, nhìn xuống cảnh tượng thảm thương trước mặt mình rồi nói: “Tụi mày muốn làm gì làm, nhưng đéo bao giờ được xúc phạm lục lâm!” Nói rồi cô bước về ngồi xuống tư thế cũ, hai người bảo vệ lôi bọn thanh niên đi, chúng vẫn rên lên những tràng đau đớn. Tôi thúc anh Hùng: “Đi tiếp đi anh. Người anh kiếm ở khúc nào anh biết không?” Anh Hùng nhìn tôi rồi chỉ vào cô gái kia. Anh nở một nụ cười gượng gạo. Tôi bất ngờ, không phải, tôi đang hoảng sợ. Tôi chưa biết gì về dân lục lâm, lỡ có nói sai gì đó rồi có kết cục như mấy người thanh niên lúc nãy thì sao. Nghĩ vậy tôi hỏi liền, mắt vẫn nhìn theo hai người bảo vệ: “Mấy thằng đó bị gì vậy anh?” Anh Hùng đáp: “Coi như suốt đời tụi nó sẽ không lấy vợ được đi.” Đoạn anh bước tới chiếc bàn đầy giấy của cô gái kia. Tôi phải công nhận, phong thái cô gái kia đã ngời ngời nhưng anh Hùng là một cái gì đó rất khác, tôi cảm thấy an tâm lạ thường, bước theo anh mà không còn lo sợ gì nữa. Anh Hùng đứng trước bàn, đối diện với cô gái, cô ta vẫn không có phản ứng gì. Anh gục mặt, cười mỉm rồi nói: “Có cần phải làm quá vậy không em?” Cô gái đáp: “Thứ như anh còn dám vác mặt vô đây đánh giá tôi? Nhờ vả gỉ, nói đi, tôi sẽ mạnh dạn giúp anh. Mục đích chủ yếu là để anh biến mẹ khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt!” “Đi Kiên Lương với anh.” Cô gái châm điếu thuốc, một điếu ba số, cô rít thật sâu rồi hỏi: “Chi?” “Tìm ngọc rết…” Hùng dừng giữa câu, chờ xem phản ứng của cô ta, tôi thấy ánh mắt cô chỉ hơi sáng lên một chút rồi vụt tắt, Hùng nói tiếp: “Em biết công dụng của nó rồi. Chúng ta sẽ cứu thằng Thông!” Gương mặt Tú Linh vẫn lạnh lùng, giờ để ý kỹ mới thấy, cô ấy đẹp tuyệt trần. Không. Từ đó không đúng, vẻ đẹp này không phải tuyệt trần, vẻ đẹp này thật...hoang dã. Chân mày rậm, mắt to và tròn, sống mũi dọc dừa cong lên đầy thách thức và đôi môi có vẻ hơi nhô nhưng điều đó lại mang lại sự hoàn hảo đến mê say. Tú Linh không biểu hiện gì ra ngoài cả, chỉ ngồi hút thuốc, đúng là một người phụ nữ bí ẩn, tôi tự hỏi ngày xưa giữa hai người đã xảy ra chuyện gì?! Hùng vẫn im lặng chờ đợi, cô ném tàn thuốc rồi nói: “Vậy anh đã tìm đủ người? Ai? Thằng nhóc này à?” Thằng nhóc???! Tôi định gân cổ lên cải nhưng Hùng liền ngăn, anh gật đầu, Tú Linh bảo anh chứng minh đi. Anh nhìn sang tôi rồi từ tốn nói: “Cởi ra đi mày!” Tôi hơi bất ngờ và ngượng, chắc tại có người con gái đẹp ở đây nhưng tôi nhớ lại lúc trên đường đến đây, Hùng có nói là nếu anh bảo tôi như vậy thì cứ làm theo. Tôi là dân thể thao, bụng cũng có vài múi nên không ngại làm gì. Tôi cởi áo ra, chợt Tú Linh và hai gã bảo vệ trợn mắt đầy bất ngờ, sau đó cả trường đá gà nín bặt, tiếng động của mấy trăm con người nãy giờ cứ vo vo bên tai bỗng tắt ngắm, hàng ngàn con mắt đang đổ dồn về phía tôi. Đang chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra, anh Hùng đã bước đến, anh khai một ấn chú gì đó bằng hai đầu ngón tay rồi ấn chúng vào trán tôi. Bỗng trên vai phải, tôi nghe một tiếng gầm chói tai. Một âm thanh dũng mãnh, uy nghiêm và đầy đe doạ. Chợt tầm nhìn của tôi bị nhoè đi, như thể có một bàn tay che mất mọi sự vật đang bày ra trước mắt. Tôi hốt hoảng hỏi anh Hùng: “Có gì trên vai em hả anh? Anh thấy gì trên vai em à?” Tú Linh bật người dậy, tôi nghe tiếng chị ta chửi: “Mẹ nó, lâu lắm rồi mới thấy lại cái giống này!” Hùng cũng thêm vào, giọng anh hơi xúc động: “Thiên Hổ Phù.”
 
Chương 22 : Phần 2 “Thiên Hổ nghịch vuốt che mắt đời”


Chúng tôi đến nhà của Tú Linh lúc đêm muộn, bên tai tôi vẫn còn tiếng o o của đám đông bát nháo ở trường đá gà. Mặc dù vậy tôi vẫn nhớ như in cảm giác nghẹt thở lúc hàng trăm con người đó im phăn phắc, nhìn trầm trầm vào tôi. Lúc ấy, anh Hùng liền bắt ấn rồi nhấn vào trán tôi thêm một lần nữa thì mọi chuyện mới trở lại bình thường. Dường như Tú Linh cũng bị thuyết phục một phần nào đó nên liền bảo chúng tôi ở lại xem đá gà, đến tối, lúc cô “tan ca” sẽ mời chúng tôi về nhà ăn một bữa. Tôi vốn không có hứng thú với mấy trò cờ bạc cá độ này, duy chỉ có anh Hùng thì khá là hăng. Anh thua sặc máu. Tú Linh nói, và tôi cũng thừa biết, vùng rừng núi này sơn hào không thiếu, nhưng muốn kiếm được đồ ngon thì phải biết nói chuyện. Mới đi có một vòng mà giỏ hàng của chúng tôi đã đầy ắp nào thỏ, nào nai với mấy loại cây tôi không biết tên. Anh Hùng bắt vỉ nướng, Tú Linh thì mần thịt, còn tôi được giao cho công việc chạy vặt. Đến khi mồi rượu no say, chúng tôi leo lên một mỏm đá, cạnh căn nhà gỗ được cất thủ công của Tú Linh, ngồi ngắm nhìn núi rừng thoắt ẩn thoắt hiện trong đêm. Thú thật là tôi chịu hết nổi rồi, tôi lên tiếng: “Thiên Hổ Phù là gì vậy anh?” Anh Hùng châm điếu thuốc rồi nói: “Thôi thì từ đây về sau, mấy chuyện này mày cũng nên biết. Thế giới của lục lâm vốn phức tạp, từ bản chất đến cách thức vận hành, ngồi kể chắc không bao giờ hết. Anh xin bỏ qua phần giới thiệu nhé. Đi vào phần trừ ma, có bốn cách chính: Quyết, Ấn, Chú và Phù. Quyết là bấm những huyệt trên bàn tay để “tiếp lửa” cho tam muội chân hỏa, tạm thời cố định lại chúng. Ấn là đả thông kinh mạch, triệu hồi một thế lực nào đó để giúp làm những việc cụ thể. Chú nghĩa là xăm Ấn lên người, ví dụ như thằng Sinh là nó xăm Ấn Phục Ma Chú. Còn Phù…”, anh Hùng ngừng nói, kéo một hơi thật sâu, có vẻ đăm chiêu lắm rồi nói tiếp: “Vốn có nhiều loại phù, nhưng chỉ có bốn cái là “ngon” nhất: Địa Long, Thiên Hổ, Hải Phượng và Không Quy. Bốn thứ này là đồ hiếm, cách làm hết sức phức tạp, chỉ có những lục lâm cao tay, lão làng mới có thể Kết Phù được. Nói thẳng ra, anh chỉ nghe đồn về chúng. Giờ mày nhớ lại xem, lúc trước mày có bị tai nạn gì không? Tại sao mày lại có thứ này trên người?” Tôi ngồi ngẫm một hồi, đúng như anh Hùng nói, lúc nhỏ tôi có bị vong nhập, chỉ nhớ mang mác, sau này tôi có nghe kể lại. Ba mẹ tôi nói, lúc tôi sinh ra, mọi người đều nói bát tự của tôi rất tốt. Chẳng là tôi sinh vào giờ Tý, ngày Thìn, tháng Thân, một bộ “tam hạp” theo quan niệm phương Đông. Duy chỉ có ông nội tôi là không được vui như mọi người, ai hỏi ông cũng không nói. Mãi đến ngày ông mất, tôi mới biết, ông cũng là người có bộ tam hạp như vậy: Thân, Tý, Thìn. Có lẽ với một người thâm sâu như ông, kinh qua bao lằn ranh sống chết, ông mới hiểu rằng cái tam hạp đó như một món quà trời ban, nhưng cũng phải xem mạng đủ lớn để hưởng món quà đó hay không. Ông sợ tôi cũng sẽ trải qua những thứ đã in dấu ám ảnh lên đời ông. Trước khi ông mất, ông dặn nhà tôi chôn theo ông hết những vật dụng của mình, tuy nhiên chừa lại cái răng chuột và một cây thước dây. Mọi người tuy cũng chất chứa những thắc mắc, nhưng không ai dám hỏi, đành theo vậy mà làm. Ông mất được ít lâu, lần ấy tôi bị vong nhập. Chuyện là có lần nọ, một người bán cua đồng đi ngang nhà, thấy tôi thèm nên mẹ có kêu vào mua vài ký. Trong bầy cua ấy có một con kích thước to hơn hẳn loài cua đồng bình thường. Hai cái càng khổng lồ, trên đó loang lổ những vết đốm trắng đen, mắt nó màu nâu đỏ, miệng cũng tiết chất bọt màu gỉ sét. Theo lẽ dĩ nhiên, con cua sau khi luộc chín đều có màu sẫm, nhưng con cua này, khi chín rồi, nhìn vẫn như sống. Ba tôi luộc đến mấy lần vẫn vậy, nó không hề đổi dạng, ba tôi bực quá nên đem ra ăn luôn. Thấy con đó to nhất, cả nhà nhường cho tôi. Nhưng thịt nó tanh, rất tanh, tôi cũng ráng ăn xong hai cái càng rồi đem vứt đi. Tôi chỉ nhớ đến đó, một quãng ký ức bị mất đi, khi tôi ý thức lại được thì thấy mình đang nằm dưới bàn thờ ông nội, mọi người quây xung quanh dáo dác nhìn. Ông bác (anh của bà nội tôi) đang quỳ trước bàn thờ, nhẹ nhàng nói: “Trục xong rồi đó!” Sau này, cả nhà kể lại câu chuyện trong mười ngày tôi bị vong nhập đó mà tôi vẫn còn nổi da gà vì sợ. Miền Tây từ thuở khai hoang mở cõi, dân ở đây có thói quen chôn cất ngay trên ruộng vườn. Thời gian trôi qua, có nhiều ngôi mộ như vậy thành vô chủ, lớp gạch đất bên ngoài sạt lở, nấm mồ trở thành đất bằng, rồi từ đất đó người ta lại tưởng là ruộng, cứ cày cấy, trồng trọt bình thường. Quả thật mà nói, bên dưới lớp đất hàng ngày chúng tôi sinh hoạt, không biết bao nhiêu tầng lớp những quan tài của người xưa. Con cua đó sống ở đồng, hang của nó thông xuống một quan tài như vậy, cho nên thường thì nó ăn xác chết. Oán khí từ xác chết tàng ẩn trong nó, gặp thân thể của thằng nhóc như tôi thì bộc phát. Ngay đêm vừa ăn xong, tôi cứ gầm gừ không thôi. Cả nhà thức dậy thấy tôi ngồi trong góc, đôi mắt trợn ngược, miệng sùi bọt mép nhưng vẫn chửi bới. Đó là một tiếng chửi của người phụ nữ tầm trung niên, về chuyện sao để thằng nhóc này ăn thịt bả. Cả nhà thấy vậy, biết là đã bị vong nhập, ba tôi nhờ một vài người trong xóm, bắt trói tôi lại. Ban đầu có một vài đạo sĩ đến, tự xưng là trục được vong này ra, nhưng rặt chỉ là bọn lừa đảo, lại gặp ngay gia đình có dân trong nghề nên bị ba tôi dọa đánh. Mọi thứ đang rối tung lên, chợt ông bác tôi xuất hiện. Gia đình bà nội tôi có ba người, ông bác rồi đến bà nội tôi rồi đến một người con gái út nữa, tung tích bà cô thì nội tôi không liên lạc được đã lâu, ông bác thì lúc đó đã hơn tám mươi, thường đi đây đó châm cứu bấm huyệt chữa bệnh, cộng với xem phong thủy. Nghe đâu tay nghề về phong thủy, ông được học từ một cao nhân ở Chợ Lớn. Ông bác đến, cả nhà cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Ông bảo đêm qua ông nằm mộng, thấy ông nội tôi hiện về, bảo rằng tôi đang gặp nguy, thế là vừa tỉnh dậy, ông bác bắt xe về nhà tôi ngay. Vừa đến nơi, ông sai người vật tôi ra, đoạn ông chạy đi lấy cây thước Lỗ Ban nội tôi để lại, cạo một ít bột ở mực đo 3,3 mét (bằng một trượng), đổ vào một chén rượu rồi rót vào họng tôi. Tiếp đến, ông giơ tay bốc từ lư hương nội tôi ra đúng chín chân nhang, vẩy một cái, tàn tro còn lại của chân nhang bay mất, rồi ông ghim 2 cái vào thái dương tôi, một cái ở đan điền, một cái giữa ngực, bốn cái ở tay và chân. Cái vong kia vẫn liên hồi chửi rủa, tựa như đau đớn lắm, rồi nó van xin không ngớt. Thấy vậy, ông bác mới kéo thước dây ra, cột vòng quanh tôi, rồi bảo nó đi ra theo sợi dây, dứt lời ông giựt phăng một cái, dây thước vừa bung ra ông thu về ngay, từ miệng tôi bốc lên một làn khói trắng, ông bảo khôn hồn thì đi đi, lo tìm đường siêu thoát, chớ nên hại người, nếu không sẽ không yên với ông. Thế rồi tôi ngã sóng soài ra đất và tỉnh dậy. Sau đợt ấy, ông bác mắng ba mẹ tôi một hồi rồi ông cũng đi biệt tăm. Lúc ấy, cả nhà tôi biết, ông nội tôi tuy đã mất, nhưng vẫn đang dõi theo và bảo vệ gia đình. Lúc ông bác sắp đi, ông có kêu tôi lại, rồi ông lấy một mảnh đất sét in lên bả vai tôi như là đóng dấu vậy, ông lẩm bẩm gì đó, tôi chỉ nghe loáng thoáng là do ông nội bảo ông làm vậy, ông cũng không hiểu ý ông nội tôi là gì. Từ đó, chỗ ông bác tôi “đóng dấu” nổi lên một vết bớt trông như vết móng vuốt của loài hổ. Ngày ấy tôi còn quá nhỏ, đâu biết được rằng, trò chơi Thân, Tý, Thìn mà ông trời tạo ra, tôi đã bước một chân vào nó. Anh Hùng và Tú Linh im lặng, không có biểu hiện gì gọi là bất ngờ với câu chuyện tôi vừa kể, tôi nghĩ đây là lẽ tự nhiên, cần gì phải to tát. Anh nói, giọng hời hợt: “Vậy thì chắc trăm phần trăm rồi!” “Chắc gì anh?” “Cái mảnh đất sét mà ông cậu mày in lên bả vai mày ấy, thật ra nó là cao hổ cốt. Nhưng không phải loại thường, loại này lấy từ xương của con hổ già đang mang thai. Cách làm như sau…” “Thôi!” Tú Linh chen ngang: “Ác như chó, kể làm gì!” “Thì thôi.” Hùng nhún vai. “Có câu nói người lục lâm truyền miệng nhau như thế này: Thiên Hổ nghịch vuốt che mắt đời, mày là người đặt biệt, sinh ra trong gia đình cũng thuộc hàng cộm cán trong giới lục lâm cho nên vong của mày dễ bị bọn ma quỷ dòm ngó. Ông chú mày chắc nghe lời ông nội, kết Thiên Hổ Phù lên vai, để cho con cọp suốt đời ngồi trên đó, lấy tay che cặp mắt mày lại, bảo vệ mày khỏi mấy thứ cõi âm. Cho nên chuyến đi Bảy Núi, mặc dù cũng đi qua những chỗ như nhau, nhưng vì có Thiên Hổ Phù nên mày không thấy gì hết, chỉ cảm nhận được là có gì đó không ổn thôi.” Tôi nằm trên chiếc giường tre, bất giác lại lấy tay mơn trớn vết thẹo trên bả vai, suy nghĩ về những ngày lang thang cũ. Anh Hùng muốn tôi trở thành “con mắt” của cả đoàn trong chuyến đi lần này và về sau nữa nếu có thể, vai trò cụ thể như thế nào thì tôi cũng không rõ. Thú thật, đi với hai người bọn họ tôi hoàn toàn an tâm, cảm giác an toàn họ mang đến là không thể chối cãi. Chưa kể anh Hùng còn nói sáng mai sẽ lên đường đến chỗ ở mới của Thạch Sinh ở Ba Thê, tôi nóng lòng muốn biết mọi điều về anh chàng đó, tôi muốn biết cậu ta là người như thế nào, hình ảnh tôi tưởng tượng thấy trong câu chuyện của Hùng bon-sai tôi đoán đúng bao nhiêu phần, vân vân. Nghe đâu tôi lớn hơn cậu ta đến ba tuổi, Tú Linh thì bằng tuổi tôi. Lúc nãy anh Hùng đuổi tôi đi ngủ vì Tú Linh vẫn chưa bị thuyết phục hoàn toàn, anh có nói dậm lại là mọi chuyện sẽ kể sau. Tôi thì chỉ nhún vai, chuyện nam nữ các người trong đêm khuya thanh vắng làm cái gì ta đây không tha thiết muốn biết. Chúng tôi đợi Tú Linh chuẩn bị đồ, sắp xếp công việc các thứ thì cũng đến trưa mới có thể xuất phát. Như tôi dự đoán, Hùng đã sang chở Tú Linh bỏ tôi chạy một mình, tôi nói: “Anh hay lắm Hùng, tự xưng ta đây cho lắm vào cũng không qua được ải mỹ nhân!” Anh chỉ cười he he rồi nhấn ga lên đường. Tú Linh sở hữu con Honda Win được binh lại, nhìn cũng khá ngầu. Hai chiếc xe, hai tiếng máy nổ giòn khấu, chúng tôi đi Thoại Sơn, Óc Eo - ngôi nhà của lục lâm. Lúc trước anh Hùng có liên lạc, Thạch Sinh nói mình đã xuất tự, cất ngôi nhà nhỏ ở lưng chừng núi, mở quán nước, cũng có chút danh tiếng nên cũng cơ số người tìm đến nhờ đập miễu giúp. Đường lên không khó đi lắm, chỉ có một số đoạn hơi dốc thôi, khi chúng tôi leo đến thì trời đã chạng vạng, ngôi nhà sàn với những chân trụ to đùng dần hiện ra trong màu xám tro của chiều tàn, có ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn tròn rót ra từ những ô cửa. Nhắm về hướng đó mà đi, bỗng từ bên trong một bóng đen bay vụt ra bên ngoài, không, đúng hơn là bị đánh văn ra bằng một lực tác động cực mạnh. Cái bóng đập vào tảng đá, nằm bất động, cả bọn tức tốc chạy lại thì thấy một sinh vật đầu người, mình cây với cặp mắt đỏ đang tắt dần, sinh vật này ré lên những tràng chói tai, lấy tay ôm vào phần ngực, trông như đang bị tra tấn dã man lắm, nó lăn qua lăn lại rồi khoảng vài giây sau thì tan thành tro. Anh Hùng lẩm bẩm: “Mộc quỷ!” Đột nhiên từ phía căn nhà phát ra những tiếng bước chân lộp cộp trên nền gỗ, tôi ngước lên nhìn thì thấy một cậu thanh niên tóc dài che cả đôi mắt, cơn gió núi không biết vì sao lại nổi lên thổi những lọn tóc kia bay phấp phới, đôi mắt sáng đầy uy lực cũng từ từ lộ diện, hình như cậu ta đang say, tay vẫn còn cầm chai rượu Gò Đen. Cậu ta nấc rượu rồi nói: “Mẹ bà, đang uống ngon lành mà tới phá. Mày không biết bố mày là ai chắc?! Còn mấy đứa dưới kia muốn gì? Có đem mồi với rượu tới không hử?” Tôi đơ cả người, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, nhưng để đảm bảo tôi hỏi lại: “Anh Hùng, không lẽ…” Anh cười nhếch mép, trông có vẻ gượng gạo: “Ừ, Thạch Sinh đó…”
 
Chương 23 : Quỷ đút cơm - Ma cho tiền


Thạch Sinh chắc say lắm rồi nên đứng trên gian nhà gào thét kêu chúng tôi muốn nhờ đi đập miễu thì phải dâng thêm mồi với rượu lên cho cậu ta. Đến khi chúng tôi bước vào vùng sáng của ánh đèn thì cậu mới tá hỏa, ném cả chai Gò Đen đi rồi chạy xuống, chắc định bụng ra đón chúng tôi lên, ai ngờ mới chạy chưa được ba bước thì té cái đụi, úp cả mặt xuống nền đất, rồi lăn từ từ xuống triền núi. Anh Hùng kêu tôi cõng cậu ta lên, khi vừa bước vào nhà thì mùi men xộc lên làm tôi suýt nữa thì nôn. Căn nhà sàn cũng khá rộng rãi nhưng phần lớn diện tích đã bị rác chiếm hết, nhà được chia thành hai gian, phía sau là nhà bếp, nhà vệ sinh còn phía trước có một bộ bàn ghế, một cái giường và một đống rác. Trên các mảnh ván ép tường vẽ đầy những biểu tượng cổ quái bằng phấn trắng. Mặc dù căn phòng đã được thắp sáng bằng bóng đèn sợi tóc nhưng bốn góc phòng vẫn có cắm đèn cầy, sáp chảy đỏ như vũng máu đặc. Chính giữa căn phòng là “buổi tiệc” của đám kiến và ruồi, chúng bâu quanh đống xương gà, thịt gà mà Thạch Sinh đang ăn dở. Anh Hùng nói tôi đặt Sinh lên giường, đoạn anh mở ba-lô lấy ra chai dầu gió rồi bóp trán cho cậu ta, tôi có cảm giác như Hùng lúc này không khác gì người anh ruột của Sinh cả. Quay sang Tú Linh, tôi thấy cô nàng có vẻ bồn chồn nên hỏi: “Vụ gì vậy?” “Chỗ này dơ quá…” Tôi cười. “Chế vốn ghét dơ, ê Nhóc, cầm giùm!” Tôi chỉ ngón trỏ vô bản mặt mình ý muốn hỏi “Nói tao á hả?” nhưng cái ba-lô bộ binh của Tú Linh đã bay về phía tôi, tôi vội chụp lấy, Tú Linh xắn tay áo rồi bắt tay vô dọn dẹp, không quên dặn tôi cứ đứng ôm ba-lô, làm rớt là chết với nhỏ. Ổn thôi, tôi không nạnh với đứa con gái làm gì. Tôi và Hùng nấu ăn trong lúc Tú Linh dọn dẹp, lúc xong cũng gần mười giờ. Anh Hùng gọi Sinh dậy ăn cháo gừng cho tỉnh rượu, chúng tôi cùng ngồi xếp bằng dưới đất, trong gian nhà phía trước. Gương mặt Sinh bơ phờ nhìn vào chén cháo, chưa dám lên tiếng gì cả. Anh Hùng hỏi: “Sao tóc mày ra nhanh vậy?” Sinh nói: “Anh hỏi em rồi em biết hỏi ai giờ!?” “Mấy năm qua không gặp, nghe nói mày vẫn đi đập miễu bình thường?” “Đúng rồi. Phải kiếm tiền mua rượu chứ. Mà nhắc mới nhớ, ăn cháo không vậy đó hả anh? Làm vài ly đi!” Đoạn, Sinh đứng dậy đi về phía sau, tôi nghe tiếng xoong nồi va chạm, tiếng mở cửa tủ gì đó rồi còn có cả tiếng ly cốc nữa. Một lúc sau Sinh ôm một chai Gò Đen khác cùng vài cái cốc uống rượu, bước chân cậu ta loạng choạng, nôm có vẻ chưa tỉnh hẳn, bỗng cậu trật chân nhoài cả người về trước. Suýt sắp mặt thêm một lần nữa thì anh Hùng đã nhanh chóng chụp cậu lại. Anh nhăn mặt, giựt chai Gò Đen trên tay Sinh rồi sẵn tiện xắn ống tay áo cậu lên luôn, trên cánh tay rám nắng có một hình xăm kì lạ, một vị thần phật đang ngồi trên toà sen, phía sau ông ta có hàng trăm cánh tay giơ lên không trung, xung quanh là những hoa văn phù điêu trông giống với trường phái xăm henna của người Ấn Độ. Tôi lầm bầm: “Ấn Phục Ma Chú?” Anh Hùng gật đầu rồi cũng lập lại lời tôi: “Ấn Phục Ma Chú?!” Giọng anh chen lẫn tức giận: “Mấy năm qua anh tưởng mày xuất sơn đi giúp đời rồi cũng song song đó là tập luyện. Mày muốn một đợt nửa sống nửa chết, không biết phần trăm thành công mà cứ lao vào làm giống đợt con Phét Đặp nữa không?” Tôi thắc mắc: “Ủa, sao vậy anh?” Anh lạnh lùng nói: “Dân đi đập miễu, đạo hạnh là thứ quyết định bởi số lượng Chú trên hai cánh tay. Thằng cứt này chỉ có một cái Chú này chứng tỏ mấy năm qua bỏ bê, lười biếng không chịu tu luyện!” Anh nhìn sang Sinh rồi gằn giọng: “Đúng không??” Sinh cười ha hả rồi nói: “Anh coi thường thằng em này quá rồi!” Xong cậu ta đứng dậy cởi luôn cái áo rồi quay lưng lại, tôi giật thót mình phải ngồi lùi về sau một chút, trên tấm lưng trần của Thạch Sinh là một gương mặt quỷ to tướng có màu xanh hết sức ma mị, hai cái nanh trắng hếu dài thườn thượt với bộ hàm nhọn hoắc, nó đang thè cái lưỡi dính đầy máu ra ngoài và điểm đặt biệt thấy ghê nhất chính là con quỷ này không có tròng mắt, chỉ thấy một lỗ sâu hoắm như nó được khoét vào xương sườn của Sinh vậy. Hùng thốt lên: “Dạ Xoa Ấn Chú!” Tú Linh nói: “Nghe đồn cái này thất truyền rồi mà?” Sinh đáp: “Bà chị đây nói không sai, Dạ Xoa Ấn Chú có nguồn gốc từ Phật Giáo Mật Tông, vốn bị phật tử ngày xưa coi là tà ma, ngoại đạo nên không có nhiều người tu tập, từ từ cũng bị thất truyền ít nhiều. Ngày nay vẫn có người vừa tu Thiền Tông vừa tu Mật Tông, tuy vậy những thứ như Dạ Xoa Ấn Chú em đây dám cá số người biết tới không quá trăm!” Hùng nói: “Anh cũng có biết chút chút, nhưng mày giải thích kĩ hơn đi.” Sinh mặc áo vào rồi tiếp: “Thật ra chuyện dài dòng lắm nhưng chủ yếu là có đạo hạnh là một phần, có duyên tới chín phần mới may mắn sở hữu Dạ Xoa Ấn Chú. Hôm nào hứng thú bên đống lửa gì đó, em kể anh nghe. Còn về phần công dụng, phải nói đến truyền thuyết truyền miệng nhau rằng Dạ Xoa là loài quỷ địa ngục, chuyên đi làm nhiệm vụ tra tấn, thực thi hình phạt. Cái đó là sai, Dạ Xoa vốn là một loài chúng sanh trong bát bộ chúng, có những Dạ Xoa còn quy y, đến nghe Đức Phật thuyết giáp. Ấn này trên lưng em để triệu hồi một trong những con đó, nhưng nói thật, nó có thiện tâm nhưng là sinh vật trong truyền thuyết, đâu dễ gì bị em điều khiển. Cho nên cùng đường lắm mới phát Chú, sau khi phát lâu nhất là một phút, chậm thì vài giây…” Hùng cắt ngang: “Vậy là mấy năm qua mày chỉ tu luyện được Chú này?” Khuôn mặt Sinh thoáng buồn, tôi nghĩ nãy giờ không phải là anh Hùng hỏi mà thằng nào khác chắc số phận cũng giống như con Mộc Quỷ lúc chiều, chắc vì Sinh kính trọng Hùng hết mực nên mới vậy. Cậu nói: “Chưa hết đâu đại ca. Thôi vậy đi, giờ anh em mình uống vài cốc, ngồi tâm sự, sẵn tiện làm quen hai người bạn mới này luôn. Xong mai mình đi Hòn Sơn một chuyến, em có kèo đi đập miễu cũng khá lớn ngoài đó với lại…” Sinh rót rượu, lần lượt đưa cho Hùng, Tú Linh và tôi, đoạn quay sang kính Hùng rồi nói tiếp: “Thằng em cũng muốn tận mắt chứng kiến đạo hạnh anh thâm hiểm tới đâu rồi!” . Bốn chúng tôi ngồi quây lại với nhau giữa ánh đèn dầu leo lét, nội dung cuộc trò chuyện thực ra chỉ xoay quanh cuộc phiêu lưu ngày xưa của Hùng và Sinh. Lâu lâu Sinh lại vỗ đùi đen đét những đoạn cậu ta thích thú, rồi giải thích thêm. Uống chẳng được bao nhiêu thì Sinh say mèm, lật ngang ngáy khò khò. Hùng nhìn vừa thương vừa buồn, mặt anh đăm chiêu hết sức, tỏ vẻ rất lo âu, có lẽ vì Sinh khác với những kỳ vọng của anh. Anh bảo tôi đi sắp xếp chỗ ngủ, anh kè Sinh lên còn Tú Linh thì dọn dẹp. Đêm ấy trôi qua lặng lẽ, do lạ chỗ cho nên tôi còn thao thức, lâu lâu lại nghe Hùng thả những tiếng thở dài sầu não vào đêm đen. Sáng hôm sau tôi thức khá sớm, phần vì nôn nao cho cuộc khởi động là chuyến đi đập miễu ở Hòn Sơn - Kiên Giang, phần vì ngủ không được. Không khí buổi sớm ở đây hết sức trong lành, khiến người ta dễ chịu, tâm hồn khoan khoái. Nhìn ra sân trước, tôi thấy Sinh đang đứng tấn làm gì đó. Khi tôi ra thì cậu ta ngưng lại, quay sang nhìn tôi khiến tôi ngạc nhiên. Thần thái khác hẳn, một Thạch Sinh hoàn toàn tỉnh táo, gương mặt lạnh tanh, ánh mắt sắc lẻm, mồ hôi nhễ nhại làm tóc bết lại, ngay lúc đó tôi có cảm giác nơi Sinh cũng tỏa ra một cái gì đó na ná như anh Hùng, nhưng lại mang một màu sắc rất khác. Chẳng biết diễn tả sao cho đúng nữa! . Khởi hành từ Ba Thê, chạy xe máy chẳng được bao lâu chúng tôi đã đến bến tàu Rạch Giá vừa kịp mua bốn vé. Hòn Sơn, hay còn gọi là Hòn Sơn Rái, là xã đảo phía Tây Nam tỉnh lỵ Kiên Giang, cách Rạch Giá tầm 40km, là một địa điểm du lịch mới nổi thu hút rất nhiều phượt thủ từ chuyên tới không chuyên, với nào nón, nào áo giáp mô tô, áo dạ quang đủ các thứ làm chiếc tàu khách trông như tàu quân sự, ngột ngạt khó chịu. Sinh thì có vẻ hòa nhập nhanh vì cậu ta đã kịp nốc gần lít Gò Đen trên đường đi, vừa ngồi xuống ghế là ngủ khì ngay. Cũng cần nói thêm là Hùng cũng chẳng hỏi Sinh về cái miễu ngoài này là loại gì, ai thuê cậu ta, vân vân. Hình như đó cũng là một quy tắc bất thành văn trong giới lục lâm: đừng tò mò về công việc của nhau. Riêng chuyện đi Kiên Lương, Sinh đã đồng ý với anh Hùng rồi, cho nên chắc hôm sau khi về đất liền thì chúng tôi sẽ tiếp tục hành trình. Tàu chạy hơn một giờ thì đến nơi. Vừa cập bến, Sinh như bừng bừng sinh khí, lên cầu cảng đi thẳng. Cuối cảng có một người đàn ông tầm năm mươi tuổi, dáng người gầy gò đang đợi sẵn trên con xe còn nát hơn chiếc mà Hùng đi với Thông đợt nọ. Hai chiếc xe tống ba chạy men theo những con dốc ngoằn ngoèo dưới chân núi, chỉ chút là đến một căn nhà nhỏ, bên ngoài đứng bảy tám người đang láo nháo, thấy Sinh bước vào thì bỗng im bặt. Có lẽ đây là nhà có người bị vong nhập. Tôi hồi hộp hết sức, trước giờ chưa từng tận mắt thấy chuyện trục vong, lần hồi nhỏ thì tôi chỉ được nghe kể lại. Hình ảnh một vị đạo sĩ khấn chú, dán bùa, múa kiếm các thứ bắt đầu xuất hiện trong đầu tôi. Trong sảnh nhà chính, trước mắt tôi chỉ có một bé trai chừng mười hai mười ba tuổi, tóc tai bù xù, mắt trợn ngược, miệng trào bọt mép không ngớt, tay chân co quắp. Sinh nhét chai Gò Đen vào túi quần, quay sang mẹ đứa bé nói: “Như giao kèo, tôi trục ra, khi nó tỉnh bà cho nó dẫn đường lên chỗ đó cho tôi, khi đó nó về, được chưa?”, người mẹ gật đầu cảm tạ. Sinh không làm gì khác, tóc anh vẫn còn rối do gió biển, người đầy mùi rượu, quần áo có phần xốc xếch, trong tay nó cũng không có gươm ngọc phất trần gì cả - có thể nói chính xác nó chỉ có đôi bàn tay. Sinh ngồi xuống kế bên thằng nhóc, khẽ xắn tay áo bên Chú Phục Ma, lấy tay đó chụp lên trán nó, tay còn lại dùng ngón trỏ và ngón giữa thọc vào miệng thằng bé, rồi Sinh khẽ chau mày một cái, lôi tọt ra một con gì đấy như đỉa nhưng dài gần nửa mét. Thân nó đầy gân máu đen, bốc mùi hôi thối, dưới “bụng” là chi chít các giác bám như mực vậy. Con vật lạ vừa lôi ra ngoài chưa được vài giây đã khô đét lại rồi rã ra như cát bụi. Trước sự ngỡ ngàng của tất cả mọi người lúc đó, thằng bé tỉnh dậy như chưa từng trải qua cơn thập tử nhất sinh. Sinh đứng dậy phủi tay, ra vẻ như chuyện này hết sức cỏn con, kiểu như nếu nó không vì mục đích nào đó sâu xa khác thì đừng mơ nó nhúng tay vào làm. Cậu ta quay sang nói với gia đình đứa bé: “Xong rồi đó, giờ theo đúng cam kết, tui nhờ thằng nhỏ này dẫn đường cho tui, xong rồi ông bà đến rước nó!”. Cha mẹ đứa bé gật đầu, Sinh dặn họ đứng ở Bắc đảo đợi dưới chân núi, chuyện sẽ xong sớm thôi, không được phép đi theo Sinh, nếu không thì tự rước họa vào thân. Tới lúc theo chân Sinh đi lên lưng chừng Ma Thiên Lãnh, dừng trước một hốc đá nhỏ, tôi vẫn chưa thể hiểu nổi tất cả những chuyện vừa mới xảy ra. Chính xác chúng tôi vừa đặt chân lên đảo được bốn mươi phút và Sinh vừa thu phục được một con yêu còn hiện giờ thì chuẩn bị đánh trọn ổ của nó. Đứa bé được Sinh cho về, nó tuy vẫn còn mệt sau chuỗi ngày bị vật nhưng vẫn ráng ù té chạy một mạch xuống chân núi - nó quá sợ cái hang đá này rồi. Lúc này, Sinh mới quay sang nói với Hùng: “Thằng đó sau này có thể là dân đập miễu tiềm năng đó anh, sinh giờ Dần, ngày Dần, tháng Dần, tam muội chân hỏa được đốt bằng ba mắt hổ, vía nó nặng như núi, vậy mà… vậy mà nó chỉ cầm có một cái đồng xu ở trước cái hang này về thì bị vật. Nghe thú vị chưa?” Sinh đến lúc này mới móc chai Gò Đen trong túi quần ra, làm một hơi rồi nói ngồi nghỉ chút, sẵn nó kể chuyện cho nghe. Hùng và Tú Linh vẫn bình thường, có lẽ họ hiểu được câu chuyện Sinh vừa gặp, cho nên khi Sinh nói cậu ta sẽ kể chuyện, Hùng cho rằng người nghe nên là tôi thôi. Bốn ngày trước, Sinh nhận được cuộc gọi của mẹ thằng bé, bà ta lại biết Sinh qua một người bạn đã từng nhờ Sinh đập miễu, mà người bạn đó lại có mối quan hệ nhờ Sinh đập miễu thông qua lời giới thiệu từ một người bạn khác nữa. Thằng bé từ nhỏ đến giờ, vía phải nói mạnh đến át cả tổ tông, có nó trong nhà đôi khi cúng ông bà còn không về được. Buổi chiều nọ, nó dẫn một đoàn khách tham quan lên đỉnh Ma Thiên Lãnh, lúc đi xuống, trong khi khách nghỉ mệt, nó nghe có tiếng động ở bụi cây phía sau, nghĩ là có thú rừng cho nên định rượt bắt. Đoàn khách chỉ thấy nó lủi vào trong đó chừng mười lăm phút, khi quay ra thì không thấy có con thú nào cả, trên tay là một đồng xu như tiền cổ, màu đen nhánh, nhưng nhìn nó có vẻ phờ phạc đi lắm. Chưa đến được chân núi thì nó đã bị vật đến ngất đi, tay chân co quắp lại y như lúc nãy, chỉ ú ớ không ra tiếng, gia đình ập tức nhờ thầy - Thạch Sinh! Sinh sau khi nghe kể xong, đoán được khu lưng chừng núi Ma Thiên Lãnh ắt có mộ huyệt bị trấn yểm, tuy nhiên một số lần cậu ra đó thì không thấy, có thể kẻ yểm cũng sử dụng một loại kỹ thuật tương tự như Tiêu Đồ Hống tại Vách Ma Giấu, ảo giác che mắt không cho người khác xâm nhập. Thằng bé này do vía nặng quá, phần nào áp tỏa được trận yểm bên ngoài nên vượt qua được, đến trước cửa hang này đây thì gặp được đồng xu, còn gặp như thế nào thì nó không tài nào nhớ nổi. Sinh lại cho rằng, khả năng cao sẽ có một bà lão ngồi ở cửa hang, thấy nó đến thì cho đồng tiền - đây gọi là Quỷ đút cơm, Ma cho tiền mục đích để vật chết những kẻ xâm phạm đến khu vực được yểm. Nốc thêm một hơi rượu nữa, Sinh quay sang nói với Hùng: “Tới khúc này mới hay nè anh…” Hùng cũng thấy cậu ta nghiêm túc, cho nên cũng giả vờ chăm chú lắng nghe: “Đồng tiền thằng bé cầm được chính là vật tùy táng theo nghi thức Quỷ Reahu, có một cái ấn bằng đồng đen!”. Nghe tới đó, Hùng chú tâm hẳn về cục đồng đen. Sau đợt quay về từ Núi Két, Sinh tu ở chùa cũ không được bao lâu thì chuyển đi, trước khi chuyển đi, có một người bạn lâu năm của sư trụ trì đem đến gửi chùa một bộ kinh thư, ghi chép lại đời sống vùng Thuỷ Chân Lạp lúc trước. Khoảng cuối thế kỷ mười tám, tình hình bến đấy hết sức rối ren. Một vị hoàng thân tên Lạp Nel, sau khi mưu sát vua không thành, dẫn theo một số tuỳ tùng trốn ra biển tây, không dám lên bờ mà cũng không dám sang Xiêm La do sợ bị bắt lại. Sử ghi chép lại chỉ biết ông ta trú thuyền tại các đảo nhỏ thuộc địa phận Kiên Giang ngày nay, chờ ngày nội công ngoại kích tái chiếm kinh thành. Không bao lâu sau, tàn dư của Lạp Nel bị triều đình tiêu diệt, quan binh đem quân ra đảo bao vây, nhưng lúc tấn công lên định bắt nhưng chỉ thấy Lạp Nel trở nên điên dại, cả người bóng nhẫy, bốc mùi hôi thối, số tuỳ tùng đi theo đều bị ăn thịt hết. Để hạ được ông ta cũng phải mất đến hai mươi người. Vị quan kia không muốn đem thi thể lão Lạp Nel về, sợ lại gây phiền phức, bèn dùng nghi thức táng quỷ Reahu - con quỷ nuốt mặt trăng mặt trời trong thần thoại Khmer để yểm ông ta lại. Nghi thức này quan trọng dùng đồng đen khi luyện có tiếp xúc máu người, tính chất hết sức đặc biệt: Càn Âm Hàn Dương. Nghĩa là nó không thuần về âm hoặc dương như các vật phong thuỷ khác, nó cũng như là một nguồn pháp khí độc lập, có thể liên tục phát ra áp lực kiềm chế nếu có thái âm hoặc thái dương xuất hiện. Khi táng lạp Nel, họ để viên đồng đen khắc ấn đó trong miệng lão ta, xung quanh là các hũ sành đựng các xu bằng đồng đen nhỏ. Bị yểm trong trận thế đó, giống như là bị rớt vào khối bê tông, không cử động được. “Nghe có đồng đen là khoái rồi đúng không đại ca” - Sinh cười nhìn Hùng. Đúng là anh đang cần loại đồng đen khắc ấn đó, cách luyện hết sức công phu - cần đến cả tấn đồng tinh chất, luyện trong ba tháng, nhưng chỉ thu về khối ấn nặng tám mươi mốt gram. Có được khối ấn loại đó không khác nào Hùng như hổ mọc thêm cánh, có thể ra vào kỳ động ở Kiên Lương như chốn không người. Tôi hỏi Sinh: “Như ông nói, cục đồng đen đó khắc chế cả thái âm và thái dương, ghê gớm vậy sao?” Sinh lúc này mới nhìn tôi, ra vẻ khó hiểu nói: “Chú chưa nghe về quỷ sống à? Quỷ sống là một kiểu càn dương nhập tâm đó.” Tôi lại hỏi tiếp: “Chẳng phải mình cần tìm một nguồn Thái Dương sao? Nếu có cục đồng đó thì mình cứu Thông được rồi”. Nghe đến đây, cả ba người họ đều quay sang nhìn tôi, Sinh thì thở dài, anh Hùng giải thích: “Ấn đồng đen là một vùng Pháp khí tỏa ra liên tục để áp chế làm quân bình âm dương, nếu để gần Thông, không phải Thông sẽ được đẩy phần âm ra, mà là phần áp khí đó làm Thông tiêu tan cũng không chừng. Tóm lại làm vậy rất mạo hiểm.” Chợt Sinh nhích lại gần, nhìn vào mắt tôi hết sức khó hiểu, gương mặt cậu sáng lên rồi cậu trầm trồ: “Chà! Đó giờ có hàng ngon mà gặp ngay người không biết xài, tiếc quá!” Hùng cười, nói với Sinh: “Mày đừng chê nó, đợi khai Phù cho nó hoàn tất, cỡ hai đứa mình nó chấp mấy xác đó.” Hùng đứng dậy, quẩy ba-lô lên rồi nhìn Sinh: “Sao mày để người già đợi vậy?” Hùng, Tú Linh và Sinh đứng dậy nhìn thẳng về cửa hang, tôi chỉ thấy thấp thoáng, từng đồng xu một lăn ra khỏi đó.
 
Chương 24 : Phần 4 Ca Lâu La


Tôi dụi mắt hai ba lần, quả đúng là từ cái hốc đá nhỏ đó, chốc chốc lại có một đồng xu màu đen, to chừng cái nắp chai nước, lăn ra giống như có ai đang điều khiển chúng. Khuôn mặt ba người kia pha lẫn bình thản và phấn khởi, thấy tôi cứ bồn chồn không yên, Tú Linh đang đứng gần tôi có vẻ cũng hiểu sự bứt rứt tôi đang chịu, cô ta đưa tay lên, nhẹ nhàng ấn vào đỉnh đầu, rồi từ đó hai ngón trỏ và giữa trượt dài xuống, nhấn mạnh vào mắt. Tôi kêu lên một tiếng nhưng khi đặt tay lên ướm thử, nó không hề đau! Từ từ mở mắt ra, thoạt đầu vẫn có cảm giác mắt bị mờ đi như có một lớp khói trước mắt, nhưng khi tập trung thì nhìn rõ lại bình thường. Cái hốc đá nhỏ có một bàn tay trắng bệch đang thò ra, thả từng hòn đá lăn lăn trên đất, nhưng lúc nãy tôi nhìn ra là đồng xu. Bàn tay đó hẳn rất dài, nhìn sâu vào hang chẳng thể thấy được gì. Bỗng anh Hùng ngồi xuống châm điếu thuốc, nhìn sang Sinh kiểu như: “Đi đi, để anh coi mày làm sao”. Tú Linh thấy vậy cũng đặt ba lô xuống, lấy thuốc ra và hút, chỉ còn tôi đứng lớ ngớ đó, anh Hùng ra dấu ý bảo tôi đi theo Sinh vào trong. Tôi quay sang nhìn Sinh, mặt nó đanh lại theo kiểu “Ờ, được thôi, để tôi làm cho mọi người sợ thằng Sinh này”. Sinh nói với Tú Linh: “Bà chị khai nhãn tạm thời cho “ông nội” này dùm tui được không? Chứ để ổng vô đó xớ rớ, ma xó bóp cổ chết thì tui không chịu trách nhiệm đâu à”. Tú Linh cười lớn, bảo: “Chế đâu để cưng nhắc, nãy chế có làm rồi, đi vô đi, được cỡ nửa tiếng đó, nếu chú em yếu quá không xong trước nửa tiếng mà để nó bị ma xó vật, thì chế không biết cưng lên rừng xuống biển hay gì, phải lôi về cái Thiên Hổ Phù thứ hai cho chế, nghe chưa!” Sinh có vẻ không thích kiểu xưng hô của Tú Linh, nhưng không nói ra, nhìn tôi theo kiểu đi đứng nhớ cẩn thận. Cậu ta đi đến kế cái hốc đá, cánh tay dài ngoẵng nhăn nheo kia thụt vào lại, chỉ thấy một màu đen âm u. Sinh đi vòng quanh xem xét địa thế hốc đá, hốc quá nhỏ, không đủ chui lọt. Nhìn kỹ kết cấu các tảng đá xung quanh, Sinh phát hiện ra gì đó rồi kết ấn Đại Lực Hộ Pháp, một đấm phang thẳng vào phiến đá trên hốc. Trước sự kinh ngạc của tôi, cả khu vực mặt trước của hốc đá, vốn là những tảng đá to, dần nứt ra rồi đổ sang hai bên, không có hòn đá nào kể cả hòn sỏi rơi trúng chỗ Sinh đứng. Lớp đá sạt ngang để lộ một bề mặt khá phẳng, như mặt tiền của một ngôi nhà, chính giữa là cửa, xung quanh trang trí bằng chữ Phạn, vẻ như là kinh văn gì đó, trên cửa ra vào có vẽ một bàn tay rất to như đang che lấy lối đi. Theo tôi ước lượng, khoảng cách từ cửa hầm đến cái hốc đá lúc nãy cũng phải ba mét… Nói vậy thì cái tay kia hẳn phải dài kinh khủng. Sinh nhìn kinh văn trên đấy một hồi, quay sang tôi hỏi: “Ông biết gì không!”, tôi lắc đầu quầy quậy, Sinh phá lên cười, bảo: “Ờ, dễ gì biết, này là Kinh Đại Phạn Thiên, thần Vũ Trụ của Bà La Môn, cái tay đó là tay Đại Phạn Thiên, không gì vượt qua được ổng đâu, vẽ hình này là bên trong có Quỷ Reahu hàng thật rồi!” Trong một thoáng, tôi thấy mặt Sinh khác lạ, y hệt lúc sáng tôi gặp cậu ta đang lúc đứng tấn. Sinh nhét chai Gò Đen vào túi quần, xắn tay áo lên, quay sang tôi nói, vẻ mặt nghiêm túc lắm: “Ông đi sau lưng tôi, Thiên Hổ chủ về quan sát và kiềm tỏa, khi tôi đang giao đấu, ông bắt ấn như này… Như này, nhớ chưa, khi đó hãy tập trung tinh thần để thử xem Thiên Hổ có nghe lời ông không”. Tôi ghi nhớ cách kết ấn đó, gật đầu nói: “Ok, mày yên tâm, tao sẽ ráng không để vướng tay vướng chân mày.” Sinh đến bên cửa chính, cánh cửa bằng đá phiến rất to, trên đỉnh có một khe hở, tôi hỏi Sinh giờ làm sao, cậu ta kết một ấn khác - Khai Sát Thiên, đẩy mạnh đá phiến. Sinh nói: “Cửa này thuộc phạm vi của Đại Phạn Thiên, ấn Đại Lực Hộ Pháp không ăn thua đâu, không khéo còn bị nội thương, ấn tôi vừa làm là Khai Sát Thiên, chuyên dùng để “xin đường”. Nói dứt lời, Sinh cầm đèn pin tiến vào cửa chính, tôi đi ngay phía sau. . Bên trong có kết cấu khá chắc chắn, cửa hầm cao hơn đầu người, vẫn khắc rất nhiều kinh văn mà theo lời Thạch Sinh, không phải của Phật Giáo, mà là của đạo Hindu hoặc đại loại vậy. Điều này làm cậu ta lo lắng, kiểu khó hiểu không biết thiết kế hỗn tạp này đang trấn yểm điều gì. Tôi thì lúc này đã trấn tĩnh hơn nhiều lắm, đi sau Sinh, tay lúc nào cũng giữ ấn, nó không làm tôi mỏi nhưng lại khá bứt rứt, vai có cảm giác như con gì bấu vào. Thông đạo không dài nhưng ngoằn ngoèo ăn sâu vào lòng núi. Ma Thiên Lãnh là đỉnh núi chính của Hòn Sơn, nằm chính diện, quay mặt về hướng Bắc, địa hình bên trong chủ yếu là đá vôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lách mình qua những rễ cây ăn sâu vào hang động để tiến lên. Bên trong một số chỗ có binh khí rớt lại, đã hoen gỉ. Hang này dài chỉ chừng hai mươi mét thôi, nhưng địa thế khó đi nên cũng phải gần mười phút, tôi và Sinh mới đến một cánh cửa gỗ, có vẻ sau nó là căn phòng mộ chính. Sinh dừng lại, lấy hai nhánh rễ cây rồi quấn vải đem theo trong ba lô, có lẽ nó là bùa vẽ trên vải chứ không phải là loại thường. Cậu ta quấn lên cây làm đuốc, lửa cháy lên màu xanh lơ, Sinh cầm một cây rồi cậu ta hất hàm về tôi, ý là cầm một cây đi. Tôi nhìn cây đuốc rồi nhìn đèn pin, không hiểu có đèn pin rồi sao còn đốt đuốc làm gì. Sinh dường như hiểu ý tôi, dúi cây đuốc vào tay tôi rồi nói: “Đập miễu đừng dùng đèn pin, quỷ nó liếm một phát là hư, lúc đó không chuẩn bị đuốc sẵn thì ba giây là bị nó vật. Đuốc này đốt bằng bùa phép, ông yên tâm, con quỷ nào mà liếm tắt được cây này, thì anh Hùng có ở đây chắc cũng chết thôi, nhớ cầm cây này cho chắc.” Tôi hiểu ra, tắt cây đèn pin rồi cầm đuốc, nhìn Sinh nhẹ nhàng đẩy cánh cửa gỗ đó ra. Một âm thanh rợn người đè lên cánh cửa cũ kỹ, từ bên trong lùa ra một làn âm phong vừa thối vừa lạnh khiến tôi muốn nôn mửa. Tuy nhiên đúng như Sinh nói, cây đuốc không hề suy giảm uy lực. Chúng tôi bước vào trong, cuối cùng cũng đến căn phòng chính. Nó là một hang tự nhiên, hình trụ, cao chừng bốn năm mét, rộng phải hơn mười mét, cuối căn phòng là quan tài bằng đồng thau, có lẽ là của Lạp Nel. Trên quan tài, dựa vào vách tường đối diện, là một bức tượng một người khổng lồ, tay dài, đang ngồi tựa đầu vào gối, hai chân kẹp quan tài lại. Bỗng vai tôi nhói lên, nhớ lại lời dặn của Sinh, tôi kết ấn, tập trung tinh thần nhìn về phía quan tài thì phía đó có một làn sương màu xanh lơ đang tụ lại ở dưới chân tượng. Sinh quay sang tôi nói nhỏ: “Thấy Quỷ Reahu chưa?” Tôi lắc đầu, dĩ nhiên là chưa gặp bao giờ, Sinh đưa cây đuốc của cậu ta cho tôi cầm, bảo tôi đứng nép vào góc không thôi ăn đòn oan. Tôi còn chưa định thần lại, thì phía cuối phòng, ánh đuốc lập lòe soi lên bức tượng, tôi thấy nó ma mị đến lạ lùng, khác hẳn cảm giác lúc nãy. . Nó có tóc. Tóc dài phủ cả lên gối. Đầu nó ngẩng lên nhìn thẳng vào tôi, đầu nó rất to, hai hốc mắt đen ngòm không có gì cả, miệng nó há rộng chỉ thấy chi chít nanh lởm chởm. Ánh đuốc soi những vết khô nháp, lở loét trên da nó, sần sùi, rồi khi tôi còn chưa kịp bình tĩnh, thứ đó hét lên tràng dài hết sức chói tai. Không khí như đặc nghẹt lại, tôi không thể thở như bình thường, nên vội cắm hai cây đuốc xuống đất, tay bắt ấn, tập trung lại ngay. Dù có mất vài giây, nhưng vừa kết ấn xong, tôi có cảm giác trước mặt mình như có làn khói mỏng, nó che áp khí con quỷ tỏa ra, thế là tôi đành ngồi đó chết trân nhìn Sinh. Cậu ta lấy tay che tai lại, khẽ nhăn mặt khó chịu rồi lao đến con quỷ. Nó vung cánh tay sần sùi, lởm chởm nhưng đầy gai nhọn. Tôi không chắc ngay lúc đó Sinh đã làm như thế nào, nó quá nhanh, cậu ta băng đến, cánh tay con quỷ đứt lìa. Lần này nó cũng hét lên, nhưng do đau đớn và áp khí từ Sinh, đã quá trễ. Bụi trên trần hang rớt xuống làm tôi không nhìn rõ động tác của Sinh, chỉ thấy trong đám bụi lóe lên một tia sáng, rồi tiếng con quỷ tắt hẳn, không còn có dấu tích gì nữa. Sinh phủi tay, nhưng không phải là cái phủi tay thanh thản giống lúc trục vong cho thằng nhỏ. Cậu ta tiến đến gần tôi, nói: “Ông có cảm thấy hoặc nhìn thấy gì không?”, tôi lắc đầu, nói: “Nãy là Quỷ Reahu đó hả, cũng đâu ghê gớm gì đối với mày đúng hong?” Sinh lắc đầu, mặt cậu ta nghiêm túc lại: “Không, nó là ma xó thôi, con Reahu thật thì hơi mệt.” Lúc này một luồng gió, nhưng là từ bên ngoài cửa, thổi vào kéo theo nhiều bụi bặm khiến hai chúng tôi nheo mắt lại. Ngọn đuốc không bị gì cả, nhưng trong lúc nhắm mắt, tôi nghe tiếng kim loại va chạm nhau - cái quan tài! Vừa mở mắt ra tôi lui nhanh vào góc, Sinh cũng làm y vậy, cậu ta nhìn tôi kiểu: “Ông cũng khá đó.” Hướng đuốc về quan tài, nó bị hở một khe nhỏ, từ đó đang bốc lên làn khói màu xanh lơ, bay là là sát đất. Sinh bảo tôi đứng đó, cầm đuốc, cậu ta đến xem xét. Dĩ nhiên là như vậy thôi, chứ tôi có tài phép gì đâu, ngoại trừ con hổ “pet” mà tôi còn chưa thấy mặt. Không khí âm u đi hẳn, không gian được chiếu sáng bằng ngọn lửa xanh lơ từ cây đuốc trông như màu sắc của chết chóc. Tôi có thể cảm thấy được sự nghiêm túc rõ rệt trong từng bước chân của Sinh! . Trong thần thoại Khmer, Quỷ Reahu là một nhân vật hung ác, nuốt mặt trăng mặt trời, chỉ có Đại Phạn Thiên mới thu phục được hắn, Reahu rất ham ăn, có cặp mắt trợn ngược, cái mũi to, miệng rộng, hai nanh dài. Mộ yểm Quỷ Reahu thực ra nói cho chính xác, là dùng Quỷ Reahu yểm kẻ trong quan tài, tuy nhiên Quỷ Reahu tâm tính khó lường nên phải để Đại Phạn Thiên yểm thêm vòng bên ngoài. Những kẻ lúc sống bị cho là tà ma ác quỷ, ăn thịt người thì khi chết phải bị yểm bằng thế trận này, nếu không thì chúng vẫn có thể hồi sinh. Sinh chầm chậm tiến đến sát bên quan tài, có thể thấy cậu ta đã sẵn sàng bằng cách xắn tay áo lên, hai tay bắt ấn Đại Hắc Thiên. Nắp quan được tán bằng đinh đồng, có con ma xó kẹp lại, tuy nhiên do Sinh đã diệt con ma xó, nên không loại trừ khả năng Reahu thoát ra. Vừa đến quan tài, Sinh tung cước, lật tung nắp quan lên - ánh đuốc bập bùng soi sáng bên trong, rỗng không! Bỗng Sinh hiểu ra ý gì đó, quay lại hét lên với tôi: “Nhảy qua đây nhanh!” Câu nói đó vừa vang lên, cây đuốc tôi đang cầm bị mất đi một vệt lửa, mắt tôi nhìn thấy kế bên vai mình là một cái đầu rất to, hai con mắt trợn ngược mở thao láo, miệng nó ngoác rộng, từ đó thò ra một chiếc lưỡi dài còn đang dính chút lửa từ cây đuốc, tôi chỉ kịp nghĩ trong đầu: “Bỏ mẹ, gặp Reahu thật rồi!” . Lúc đó, Hùng và Tú Linh đang ngồi hút thuốc thì nghe tiếng con ma xó hét lên. Anh bảo: “Có ma xó nữa à, rắc rối thế”. Tú Linh nhìn anh, vừa kéo xong hơi thuốc, thả ra tràng khói dài rồi nói: “Hình như anh đang bực vì thằng Sinh cứ nhậu nhẹt không chịu tu luyện?” Hùng trầm ngâm: “Anh không hẳn là bực, anh chỉ đang lo chuyến đi sắp tới, nếu Sinh chỉ như vậy thì làm sao chúng ta vượt qua được Ma Thành.” Tú Linh nghe đến hai chữ Ma Thành cũng có phần e sợ, cô chỉ cúi đầu hút thuốc tiếp. Bỗng từ hang vọng ra tiếng Sinh kêu tôi tránh ra, Tú Linh lập tức đứng dậy, định bụng vào tiếp cứu, nhưng Hùng nắm tay cô lại. Anh bảo: “Anh nghĩ không cần em vào đâu.” Tú Linh không hiểu Hùng đang nghĩ cái gì nữa, lúc thì anh bảo Sinh chưa đủ, lúc thì lại nghĩ Sinh lo được. Thấy vậy, Hùng nhìn vào hang nói: “Anh chỉ nghĩ là nó đã luyện được “cái kia” rồi, nên buồn, còn dăm ba cái loại này anh tin nó nhai được”. Nghe vậy Tú Linh mới ngồi xuống nhưng vẫn bồn chồn không yên. Chuyện này lúc sau tôi nghe anh Hùng kể lại vậy. . Quả nhiên, chỉ chưa hết điếu thứ hai, Sinh đã cõng tôi trở ra, dĩ nhiên là nguyên vẹn. Tú Linh bấm huyệt, tôi tỉnh dậy nhưng vẫn còn rất choáng, Hùng quay sang hỏi Sinh trong đó có chuyện gì, Sinh kể mà nhìn tôi với vẻ mặt hết sức e dè. Chuyện là con Reahu nhập vào xác Lạp Nel, đu trên trần nhà, lợi dụng lúc Sinh đến quan tài xem thì phóng đến bên vai tôi, liếm tắt một cây đuốc. Thấy tôi đứng chết trân, Sinh lao đến, bắt ấn Đại Hắc Thiên nhưng không áp chế được quỷ khí của Reahu, nó quay sang Sinh hét lên làm Sinh khựng lại, một tay nó ném thẳng tôi vào góc tường, tôi bất tỉnh luôn. Sinh khai ấn Thiên Thủ, con Reahu dần yếu thế. Bỗng nhiên, nó lui ra sau vẻ đầy hoảng loạn, Sinh biết là không phải do áp khí từ Thiên Thủ ấn làm được chuyện này, Sinh thấy tôi đứng dậy, khẽ gầm những tiếng gừ gừ. Trước sự bất ngờ từ Sinh, căn phòng từ màu xanh lơ chuyển sang màu trắng bởi một ánh sáng lóe lên từ vai tôi, rồi rất nhanh, một cái gì đó chộp lấy con Reahu đập nó trở lại cái quan tài. Tới đó thì tôi ngất xỉu tiếp, Sinh mặc dầu đang rối như mớ bòng bong nhưng vẫn nhanh chóng lao đến yểm chú Đại Phạn Thiên lên xác Lạp Nel. Cả ba người nhìn tôi ngơ ngác, Sinh nói: “Anh Hùng nói đúng, khai ấn cho ông rồi, ông chấp tui mấy xác.” Tôi chẳng biết lúc nãy sao lại làm Thiên Hổ phát ra được, nhưng vai thì đau lắm. Tú Linh nói: “Muốn khai ấn cho chú em cũng kỳ công lắm đó, chuyến đi Kiên Lương này về rồi làm mới được, hiện giờ chỉ mở tạm, nhưng tác hại của mở tạm là rất đau đớn khi phát ấn.” Anh Hùng bảo: “Sau này không cần phát ấn nữa, mày chỉ cần quan sát giúp anh là được, còn chuyện quan sát ra sao thì trên đường đi anh chỉ mày.” Đoạn anh quay sang Sinh: “Có hàng không?” Sinh cười hề hề móc trong túi ra chai Gò Đen, ực một cái rồi mới lấy ra một gói vải, bên trong có một thỏi đồng đen hình bán nguyệt, trên đó khắc chìm rất nhiều tiếng Phạn. Hùng cầm trên tay rồi hỏi Sinh: “Lúc nãy em mày vô đó, có phải trên tường có điêu khắc hình chim đúng không?” Sinh gật đầu, nói: “Em cũng không biết sao cái mộ này hỗn tạp quá, có hình Kim Sí Điểu nữa.” Hùng lắc đầu nói: “Không đâu, đó là hình Ca Lâu La đó. Hình dạng Ca Lâu La và Kim Sí Điểu giống nhau, nhưng Kim Sí là hộ vệ của Phật, có thiện tính, Ca Lâu La là con vật hung ác, thích ăn rồng và rắn…” Hùng cầm cục đồng đen, đúng là nhìn kỹ sẽ thấy đây thực ra là một nửa của một khối đồng đen hình tròn, giữa hình tròn có khắc một con Ca Lâu La hết sức tinh xảo, nhưng nửa miếng anh đang cầm chỉ có phần cánh và một chân của nó. Hùng nhìn Sinh và Tú Linh, bảo: “Có ai nghe về Ca Lâu Thành của Phù Nam quốc chưa?” Sinh có nghe rồi, Tú Linh thì chưa. Hùng hết sức đăm chiêu, vừa định kể gì đó bỗng từ xa có một ông lão chạy hớt hải lại tìm Thạch Sinh. Có lẽ ông ta là ngư dân, người vẫn còn rất nặng mùi cá biển. Ông ta cầm tay Sinh vừa khóc vừa nói: “Thầy Sinh đúng không, thầy ơi giúp tôi với.” Sinh ngạc nhiên hỏi sao ông biết, ông ta quẹt nước mắt nói là thấy nhà kia có đứa con vừa trục vong xong, biết có thầy cao tay nên vội đến tìm. Sinh nốc một ngụm rượu, nói: “Ờ đúng là tui nè, mà tui gấp lắm rồi, không có trừ ma giúp ông được đâu!” Ông lão khẩn khoản: “Không có trục vong bắt ma gì đâu thầy ơi, thầy giúp tôi tìm người…” Sinh trợn mắt: “Tìm người thì ông đi gặp công an, tui sao mà tìm!” Ông ta khóc càng thảm thiết hơn, kể: “Thầy ơi, vợ tui bị bắt vong, cả tuần lễ rồi, không tìm thấy xác, tối nào bả cũng hiện về đầu giường than khóc với tui, tui khổ tâm lắm, thầy làm ơn làm phước giúp tui với thầy” Sinh định gạt tay ông ta đi nhưng Hùng ngăn lại, hỏi: “Ma quỷ giấu vợ ông được?” Ông lão lại mếu máo: “Vợ chồng tui làm cái ghe cào, lần đó đi gặp quỷ biển, bả rớt xuống bị nó giấu xác rồi vong cũng bị đem đi rồi!”
 
Chương 25 :  Phần 5 - Thiên Đăng Ẩn Quang Chú


Lâm Gia Thái Bảo - Quỷ Biển? Tôi hết sức ngạc nhiên trước tên gọi này, hầu như những ngư dân tôi gặp đều là những người đi biển lâu năm nhưng chưa hề nghe họ kể về thứ như thế. Sinh nhìn ông lão chằm chằm: “Thôi bớt chém gió đi ông, vùng này làm gì có cái giống đó?” Tú Linh quay sang Sinh, nói thêm: “Sư phụ chế, hồi thời còn đi chung với Lý Tổ sư, cũng có thấy chúng,nhưng người kể là chỉ có vùng Hải Vực Trường Sa, Mồ Cá Côn Đảo là có Quỷ Biển. Vùng biển Kiên Giang, bao bọc trong Vịnh Thái Lan, khí hậu ôn hòa, âm dương tề tựu, làm sao Quỷ Biển sống được?” Ông lão càng khóc thảm hơn: “Trời đất ơi, các cô các cậu nói đúng, vùng này trước giờ dễ gì có Quỷ Biển, nhưng quả thực tuần rồi tôi có gặp mà…” Anh Hùng bảo lão kể đầu đuôi lại xem, Sinh còn ép uống hết một ngụm rượu để kể cho máu thì cậu mới giúp. Ông ta ngồi xuống, gương mặt không che giấu nỗi sợ hãi. Chuyện là, tuần rồi, ông và vợ đang kéo lưới đêm như thường lệ để kịp phiên chợ sớm. Vùng biển hôm ấy im lặng lạ thường, trên trời ánh trăng vẫn đều đều tỏ ánh sáng mờ ảo, mặt nước không hiểu sao là là một màn sương dày đặc. Mẻ lưới khá nặng khiến lão loay hoay mãi mà chẳng kéo lên được. Ông cùng vợ mình lấy đèn soi về phía lưới, chỉ thấy một vùng biển đen đặc, dường như có khói bốc lên. Thử lại một lần nữa, lúc này thì nhẹ tênh, hai người làm một loáng, lưới đã nằm trên khoang. Bà vợ tím tái mặt mày ngay khi thấy bên trong lưới là một cỗ quan tài. Bà kêu ông mở lưới rồi quăng lại về biển nhanh, thứ này không phải đồ lành. Ông lão vốn tò mò, đến mở lớp lưới ra thì thấy xung quanh quan tài vẫn còn quấn đến mấy lớp rong biển. Những sợi rong dai nhách, bản to phải đến bàn tay mà trước đây ông chưa từng gặp. Dưới ánh đèn mập mờ, ông chỉ thấy quan tài bằng đá, có hoa văn kỳ lạ, những đường nét khắc họa một loài chim gì đó. . Đang định đẩy vật đó xuống biển lại, bỗng xung quanh gió nổi lên ầm ầm, sóng dâng cao dữ dội, trong cơn cuồng phong đó, ông thề rằng trong những con sóng có một cặp mắt đỏ đang nhìn vào thuyền. Bỗng thuyền bị húc mạnh, chao đảo dữ dội, vợ ông rớt xuống biển, ông cũng phóng theo định vớt nhưng bốn bề là sóng cả, dập liên hồi làm ông tối tăm mặt mũi, trước khi mất ý thức, ông chỉ nhớ được tiếng đập nước tựa như cả ngàn con cá Ông bơi cùng một lúc. Sáng hôm sau, cả ông và con tàu bị dạt vào bờ biển, lạ là tàu không hề hư hại gì cả, ông cũng vậy, nhưng vợ lão thì mất tăm. Kể từ đó, cứ đến một, hai giờ sáng, đúng giờ như lần kéo lưới đó, vợ ông lại hiện về trên đầu giường khóc lóc thảm thiết, mỗi lần như vậy ông sực tỉnh thì đều thấy mình đã nằm trên bãi cát ở bờ biển từ lúc nào, trên chân vẫn hằn dấu như có gì đó quấn lấy rồi lôi ông đi vậy. Một tuần trôi qua, đêm nào cũng như thế, lo sợ quỷ biển lại bắt mình cho đủ cặp nên khi nghe có người nói rằng Thạch Sinh đang trên đảo, ông đã hớt hải đến tìm. . Nghe xong câu chuyện, tôi thì cảm thấy rờn rợn về biển cả, còn ba người kia thì vẫn trơ ra: Sinh nốc rượu, không quan tâm; Tú Linh nghi hoặc còn Hùng thì có chút biểu cảm và suy tư. Anh Hùng quay sang giật chai rượu trên tay Sinh, nói: “Đủ rồi, bớt bớt đi mày!” Sinh im lặng một phép. Hùng nhìn Tú Linh hỏi: “Có đem “hàng rong” trên biển không em?”, Tú Linh ra dấu okay, rồi Hùng mới đến vỗ vai tôi: “Mày sẵn sàng chưa?”, tôi chỉ đợi anh nói câu đó để gật đầu cái rụp. Hùng quay sang ông lão: “Tụi con sẽ giúp ông, giờ về nhà ông, đêm nay 11h ông cứ chở tụi con đến chỗ thả lưới hôm bữa, nhưng con nói trước sẽ phải có thù lao.” Mới đầu ông lão nghe đến ra biển lúc đêm, lại đến cái nơi hôm bữa thì không giấu nổi sợ hãi, nhưng cũng đành chấp nhận, ông nói là ông nghèo lắm, tiền bạc không có bao nhiêu, nhưng sẽ ráng. Hùng chỉ bảo: “Con không lấy tiền, chỉ lấy một vật bất kỳ trên ghe của ông, được không?” Nghe đến đấy ông lão đồng ý liền, cái ghe nát ấy thì có gì mà lấy. Chúng tôi lập tức thu dọn đồ đạc theo ông lão về nhà, trên đường đi thỉnh thoảng Hùng lại nhìn vào cục đồng đen dường như có nhiều suy tư lắm. Tôi cũng có nhiều câu hỏi, thấy anh đang như vậy nên quay sang Sinh, nói: “Sao nãy anh Hùng nhắc đến Ca Lâu Thành vậy? Chỗ đó là sao?” Sinh ra bộ thèm rượu nhưng không dám uống, thọc tay vào túi quần nói: “Khoảng mấy năm đầu thế kỷ hai, ba, ở vùng Nam Bộ này là Vương Quốc Phù Nam, cái đó thì chắc ông biết rồi, tuy nhiên miền ven biển từ Hà Tiên đến mé Rạch Giá, Cà Mau thì có một đô thị cổ, mạnh về giao thương, ban đầu thành chủ là dân di cư từ Ấn Độ qua, ổng thờ chim thần Ca Lâu La, người ta gọi đô thị đó là Ca Lâu Thành. Nơi này nổi tiếng giàu có, muốn gì cũng tìm được, có một ghi chép từ một nhà buôn người Hán ghi lại, thành Ca Lâu có hai mươi tháp, mỗi tháp xây trong một núi, tháp lớn có tượng chim Ca Lâu La ngậm ngọc bằng vàng. Đến cuối thế kỷ thứ ba, viên ngọc đó mất tích, thành Ca Lâu không hiểu sao cũng dần dần hoang phế, lúc này Phù Nam mới mạnh lên thành một thế lực. Về lý mà nói, khả năng cao Ca Lâu Thành có ngọc quý là một viên Ngô Công Kim Thân cũng không đến nỗi hoang đường.” Tôi ngạc nhiên hỏi tiếp: “Nếu vậy chẳng phải là có thêm manh mối để đi vào kỳ động ở Kiên Lương sao?” Sinh lắc đầu bảo: “Dễ vậy thì anh Hùng đâu có lo, lúc Ca Lâu Thành tồn tại, phía bắc là các thế lực lớn khác, nhưng nó không bị tấn công, ghi chép còn sót lại của sử Đế chế Angkor thời đầu nhắc đến Ca Lâu Thành chỉ vỏn vẹn mười hai dòng, duy chỉ có câu kết là khó hiểu: Ca Lâu Vương pháp lực cao cường, sai khiến mười tám con quỷ, thành khó bị đánh. Cho nên nếu kỳ động ở Kiên Lương là tàn tích Ca Lâu Thành, dễ gì không có Ca Lâu Vương ở đó, ông thông chưa?” Tôi khe khẽ gật đầu, cảm thấy con đường sắp tới trăm phần ly kỳ khó đoán. Tú Linh nãy giờ nghe tôi và Sinh nói chuyện, cũng chen vào: “Nếu nói vậy, để chế nghĩ cách khai cái phù này cho chú em sớm, dù gì cẩn tắc vô ưu mà”. Tôi bất giác lại sờ lên vai. Thiên Hổ Phù mạnh đến cỡ nào, đúng là tôi không tưởng tượng được, nhưng nhìn khuôn mặt ba người kia khi nhắc đến Hổ Phù cũng đủ biết nó rất “ngon”. . Con đường núi ngoằn ngoèo dẫn về nhà lão, nhà cấp bốn bình thường, xung quanh chất đầy ngư cụ, dưới bến là con tàu nhỏ nhìn cũ lắm. Từ ngày bị Quỷ Biển tấn công, lão hết dám ra khơi xa, chỉ chạy vòng quanh bờ, nên chẳng thu hoạch được gì nhiều. Lúc này đã ngả chiều, Hùng bảo mọi người nghỉ ngơi đi, đêm nay đi đập miễu. Tôi lên võng trước nhà, vừa nằm xuống, lưng đã kêu lên những tiếng uể oải. Khoan khoái kéo thuốc nhìn xa xăm ra biển thì anh Hùng đến hỏi tôi còn thuốc không. Anh ngồi xuống nền nhà, hoàng hôn ửng hồng trong tròng mắt anh, anh hỏi: “Mày cảm thấy thế nào?” Tôi ngồi dậy: “Về cái gì anh?” Anh trầm ngâm: “Về hành trình sắp tới, mày có tưởng tượng ra được không?” Tôi dụi điếu thuốc, thú thật cũng khó nghĩ lắm, phần thì hào hứng phần thì sợ hãi, tôi nói: “Sợ, hơi hơi thôi, nhưng chỉ cần anh có trong đội là em an tâm rồi, chỉ không muốn ngáng tay chân mọi người.” Anh Hùng nhìn tôi rồi cười, bảo: “Anh tin mày có năng lực, đừng để tâm mấy chuyện đó đi.” Cả hai lại hút tiếp, tôi sực nhớ chuyện đập miễu, hỏi: “Anh, Quỷ Biển mạnh không?” Anh Hùng nhăn mặt, nói: “Mạnh. Nó là quỷ, nhưng lại càn dương, nên khó trị.” Thấy tôi ngạc nhiên pha lẫn khó hiểu, anh dành hẳn cho tôi một khóa học cấp tốc về ma quỷ trong con mắt Lục Lâm. Giới săn lan với đập miễu thường phải gặp ma quỷ nhiều nhất. Người sống có ba “khí” chính là vong, hồn và phách. Ma là loại sơ cấp nhất năng lực không nhiều, chỉ có vong, không hồn không phách nên vật vờ, chuyên hù dọa người sống, hút dương khí để níu vong lại nhân gian, tránh khỏi sa vào cõi ta bà không siêu thoát được. Quỷ là loại có vong và hồn, thiếu phách, phách là nơi hồn và vong hòa lại, nên quỷ chủ về tấn công tâm trí con người nhằm lấy phách của họ. Nếu Quỷ mà có thêm phách thì sao? Thì nó thành Quỷ Sống, như người thường ma lực tụi này rất cao cường. Tôi hỏi: “Vậy đó giờ đi đập miễu, có cái nào là ma da, ma xó gì không anh?” Anh cười, nói: “Dăm ba con đó, ngày xưa mới đi săn lan anh diệt còn được, không đáng kể. Anh chỉ đi đập miễu mà chỗ đó một là có “lan”, hai là con đó pháp lực cao, vậy mới khoái” Tôi hỏi tiếp: “Vậy Quỷ Biển thì sao?” Anh chồm người tới, nói: “Anh cũng chỉ nghe kể thôi. Mấy con ma quỷ khác đều là âm khí, duy chỉ có Quỷ Biển đặc biệt hơn, nó vừa có âm tính vừa có dương tính. Lý do là vì biển đặc thù là âm, âm này không phải là âm khí, mà là âm lưu, cho nên nội lực của nó phải có dương thì mới sống trong biển được, da nó thì lại âm mới không bị hấp thu. Quỷ Biển hình thành khi các loài tôm cá ăn phải các vong ác, từ đó hấp thu âm khí, con vật là nội lực dương, âm khí chuyển ra bên ngoài tạo thành ngoại bì âm. Khó diệt nó là vì nó sống trong nước, có thể lặn sâu cả trăm mét, dân đập miễu bình thường không trụ lâu dưới biển được. Đó là lý do khó trị nó, chỉ cần nó bỏ chạy xuống vài trăm mét nước thì bó tay.” Bỗng đâu Tú Linh xuất hiện, nói: “Sư phụ em ngày xưa đi với Lý Tổ sư có trừ một con ở Hải Vực, lần đó nó bị Tổ sư một chưởng làm mất cả nửa thân, lập tức bỏ trốn, ông khai ấn Hải Long Kim Cang, một hơi bơi theo nó suốt mười phút, sư phụ em kể, lần đó cả đáy biển sáng lên như có một mặt trời dưới đó, chốc sau Lý Tổ sư đem theo trái tim của nó nổi lên.” Tôi mới nhớ, bèn hỏi về Hải Vực và Mồ Cá, anh Hùng nói: “Vùng biển gần quần đảo Trường Sa của mình, thực ra đáy biển bị một tầng bụi phủ lên trông như đáy biển, nhưng bên dưới nó là một khe nứt tự nhiên, khu vực đó có nhiều Quỷ Biển, Hải Thần sinh sống. Còn Mồ Cá là vùng biển gần Côn Đảo, nơi đó giống như là Vách Ma Giấu anh kể mày nghe rồi đó, không ai vào đó được nếu không biết cách. Nơi đó không hiểu sao có rất nhiều xác Quái Ngư, dù để bao lâu cũng không phân hủy. Có thể đó là âm mưu của Na Long Hội, tuy nhiên sau khi Lý Tổ sư từ trần, đệ tử của ông người mất người ẩn cư, chẳng ai có thể đi vào đó để tìm hiểu bí mật của nó nữa, với lại, Thông Hải từ lâu đã biệt tích khỏi lục lâm, săn lan như anh hay đập miễu như Sinh vốn dĩ chưa đủ trình ra đó.” Không hiểu sao cả ba lại im lặng. Anh Hùng bảo tôi nghỉ ngơi, nếu không đêm nay không đủ sức đâu. Lúc này thì Sinh đang nhậu với ông lão, kỳ thực là lão bị Sinh ép, bằng không sẽ mặc lão bị Quỷ Biển bắt. Tú Linh thì ra bãi biển, Hùng thì vào trong, chắc lại nghiên cứu cục đồng đen. Tôi nằm trên võng lát sau cũng chìm vào giấc ngủ. . Cú tát như trời giáng làm tôi ngã từ trên võng xuống, là Tú Linh. Tôi vừa xoa vừa lẩm bẩm chửi, cô ấy nói: “Cái thằng này lề mề, kêu mãi không chịu dậy, chế chỉ tán là may cho mày đó, đi chuẩn bị nhanh, tới giờ rồi.” Tôi coi đồng hồ, đã 11h đêm, vậy là tôi ngủ một mạch hơn bảy tiếng. Xuống bếp lục cơm chỉ còn lại một ít với con cá khô, đành ăn vội cho đỡ đói. Rửa mặt cho tỉnh ngủ, chuẩn bị đồ đạc rồi tôi trở ra sân thì thấy mọi người đã tập trung lại. Họ nhìn tôi, chính xác là nhìn cái ba lô tôi mang theo, Sinh nói: “Ông tính đi xuyên Việt hả mà mang theo dữ vậy?”, thấy tôi còn lơ ngơ, anh Hùng bảo: “Mày chỉ cần xách cái Phù đó theo anh, đi biển đập miễu mà đeo ba lô, ra đó rớt xuống biển thì khỏi cần Quỷ Biển mày cũng chết nữa.” Chúng tôi lên con tàu nát của ông lão, con tàu kêu răng rắc như muốn rã ra khi nổ máy. Lần đầu tôi được đi biển ban đêm, lại là đi bằng tàu cá, cảm giác phiêu lưu thật khó diễn tả. Biển chỉ đen đặc, khá lặng, ít sóng, trên cao dải Ngân Hà hiện rõ một vầng sáng, cảnh đẹp chưa từng thấy. Đang thơ thẩn nhìn trời biển thì nghe những tiếng động đều đặn, quay sang thì thấy anh Hùng đang ném những con cá chết được quấn bùa xuống biển. Thấy tôi nhìn, anh Hùng giải thích: “Anh đang dẫn dụ con Quỷ Biển, mỗi con cá được quấn bùa Khai Đạo, lợi dụng âm tính từ cá chết, khiến Quỷ Biển tưởng là mồi ngon mà đến.” Chiếc tàu chạy chậm lại rồi dừng hẳn, ông lão run cầm cập bỏ neo xuống, quay sang nói với Hùng là tới chỗ rồi. Lúc này có lẽ tàu cách bờ chừng ba mươi cây số, bốn bề chỉ thấy sóng biển mênh mông, xa tít tắp thấp thoáng ánh đèn của các tàu câu mực. Bỗng nhiên anh Hùng quay sang bảo ông lão vào khoang đóng chặt cửa lại, giống như anh có linh cảm gì đó đang đến. Quả nhiên đúng như vậy, cửa khoang vừa đóng sập lại, mặt biển bỗng ngưng sóng, không gian im bặt lạ thường, mặt nước là là một màn sương dày đặc không biết từ đâu lan tới, chỉ một loáng đã bao vây con tàu. Ba người kia vẫn tỏ ra bình tĩnh, Sinh cầm chai rượu lên tu; Tú Linh thì lấy cái túi nhỏ cầm trên tay, tôi không biết trong đó có những gì; còn anh Hùng thì một tay bỏ túi quần, tay còn lại cầm điếu thuốc, đôi mắt anh rảo quanh quan sát. Anh nói: “Con Quỷ Biển này cũng khá đó, nó nhả âm khí lên che cả bầu trời rồi kìa.” Mọi người cùng nhìn lên, tôi giật mình khi thấy bầu trời đầy sao lúc nãy, giờ đây đã đen kịt, nhưng nhìn kỹ thì không phải do mây, mà là có gì đó như khói đen, bao quanh khoảng không. Sinh vừa uống xong chai rượu, quăng vỏ xuống rồi quay sang Tú Linh kêu khai nhãn cho tôi hỗ trợ quan sát. Anh Hùng quay sang nói: “Khoan, không cần vậy, Sinh, mày dạy nó ấn Thiên Nhãn Hộ Pháp đi, mày la không biết chắc anh giết mày!” Sinh cười hề hề, bảo okay. Ấn Thiên Nhãn Hộ Pháp là ấn triệu hồi Thiên Nhãn Kim Cang, một vị thần cai quản phương hướng. Ấn này khai cho người thường thì thị giác minh mẫn, nhìn trong đêm như loài mèo. Tuy nhiên, dụng ý của Hùng thì anh cho rằng đối với tôi, ấn đó tựa như “hack” Thiên Hổ Phù, tuy không có công dụng như lần Thiên Hổ vật Reahu, nhưng ít ra sẽ giúp khai phát khả năng quan sát của Thiên Hổ. Sinh dạy tôi một loáng là tôi đã làm được, cảm giác tập trung thì tôi đã nắm trong khi vào hang ở Ma Thiên Lãnh rồi. Anh Hùng đang đứng ở mũi tàu, bỗng anh quay xuống, vỗ vai Sinh vừa cười vừa nói: “Nó làm anh rét quá, anh giao cho mày xử nó đó.” Ai mà không biết anh muốn thử Sinh, Tú Linh còn bĩu môi bảo anh làm màu. Sinh cũng hiểu ý, lân này Sinh cởi hẳn áo ra, để lộ lưng, ngoài bức xăm Dạ Xoa ghê tởm kia còn có nhiều vết xăm nhỏ, trông như con giun. Mặt anh Hùng bỗng thay đổi một thoáng rồi giãn ra lại. Sinh bước chậm rãi lên mũi, lần đầu tôi thấy hai tay cậu ta bắt ấn cùng lúc, rồi ném một lá bùa xuống. Mặt biển đang im lặng bỗng rợn lên làn sóng nhỏ, có con gì đó húc vào đáy tàu làm con thuyền chao đảo. Từ mặt biển vung lên rất nhiều thứ như sợi vải, nhìn kỹ thì ra là rong biển, chúng đập tới tấp vào thuyền, anh Hùng hét lên với tôi: “Né lẹ đi thằng quỷ!” Tôi chỉ biết thụt đầu xuống, những sợi rong quất ngang kêu vun vút vài cái, phần giàn khô trên tàu đã vỡ ra! Sinh quay lại nói: “Mẹ nó, ông ở đó làm chó gì, lên coi giúp tui nó ở đâu.” Tôi lồm cồm bò lên mũi, tập trung tinh thần, tôi giật mình hết sức bởi khi vừa nhắm mắt tập trung lại, tôi thấy cả vùng biển xung quanh con tàu, mà phía dưới có cặp mắt đỏ lòm to như cái thúng đang nhìn lên. Tôi bảo Sinh: “Nó ở ngay dưới thuyền!” Sinh vung tay chặt đứt mấy sợi rong, nhìn về phía tôi đầy nghĩ ngợi. Bỗng từ biển vọt lên những hình người, như những con rối, được điều khiển bằng rong biển. Dễ nhận thấy rằng, các con rối này chính là các xác người bị con quỷ ăn mất. Bọn chúng lại lao đến cắn xé. Hùng và Tú Linh chỉ đơn giản né tránh, thậm chí họ không cần dùng ấn gì cả. Bỗng sinh hét lên: “Con mẹ nó, lũ chó hạ đẳng làm bố mày tốn thời gian!” Nói rồi anh phóng ùm xuống biển. Tôi ngơ ngác nhìn theo, không hiểu Sinh đang làm gì. Hùng quay sang nói với tôi, chất giọng lẫn giữa châm chọc và một sự khẳng định rằng phán đoán của anh là đúng: “Chú em đây theo dõi Sinh “đại ca” thi triển Thiên Đăng Ẩn Quang Chú nhe.” Lúc đó, đáy biển dưới thuyền chỗ Sinh lặn xuống lúc nãy bỗng sáng lên, tựa như có hàng ngàn đèn pha rọi cùng một lúc...
 
Chương 26 : Phần 6: Di chỉ dưới đáy biển


Những đường sáng rực rỡ, chìm sâu dưới nước trông như pha lê rọi cả một vùng biển. Con thuyền bỗng lắc lư dữ dội bởi những đợt sóng, chúng đập vào sườn của chiếc thuyền làm vang lên tiếng “phập phập” liên hồi, mặc dù trời hoàn toàn lặng gió. Anh Hùng và Tú Linh bám vào bẹ thuyền, tôi thì bước chân chao đảo, đang cố đi xuống chỗ hai người bọn họ, tôi loạng choạng sắp té may mắn sao té ngay vào chỗ mình cần đến. Bên trong khoang thuyền tôi nghe tiếng ông lão đang gào thét, tội nghiệp, chắc lão ta đang sợ lắm. Chúng tôi bám vào mạn thuyền, đưa mắt nhìn xuống mặt biển, nó đang sôi lên ùng ục. Chợt những đường sáng đang rực rỡ bỗng chói lòa, đâm xuyên qua cả mặt biển vào tầng mây đen kịt bên trên, như muốn xuyên ra cả vũ trụ chứ chẳng chơi. Kéo theo sau đó, chừng vài giây thôi là một tiếng nổ kinh hồn, như muốn vật ngã cả chiếc thuyền. Lần này, một thứ ánh sáng lân tinh khác lóe lên, soi rọi cả một vùng trời rồi chợt tắt ngắm. Cả đại dương lại chìm vào bóng tối, mặt biển cũng ngừng động, tôi cảm thấy như nó còn êm đềm hơn trước. Tôi lo lắng hỏi anh Hùng: “Vụ gì vậy anh?” Anh đáp: “Là thằng Sinh đó, đúng như anh đoán, nó đã luyện thành Chú này…” Tú Linh cắt ngang: “Nhưng vẫn còn rất yếu. Theo lời của sư phụ chế kể lại, thì Thiên Đăng Ẩn Quang Chú phải đúng như cái tên của nó: sáng như mặt trời!” “Thôi vậy cũng được rồi,” anh Hùng nói rồi đứng dậy, “coi như vùng này may mắn đi.” “Là sao anh?” “Thiên Đăng Ẩn Quang Chú là loại Chú thanh trừng, người thi triển Chú này mỗi lần kết Ấn có thể diệt sạch đám ma xó, ma cỏ trong phạm vi rất rộng, riêng những con như Quỷ Biển đứng ở cự ly gần này, nếu thằng Sinh làm đúng thì xác định nó rồi. Nổi lên rồi kìa…” Quả vậy, mặt biển xuất hiện những bong bóng nước rồi vài giây sau Sinh cũng trồi đầu lên. Cậu ta hớp một hơi oxy thật đầy rồi bơi về thuyền, tay trái bám vào mạn thuyền, cậu ném lên một vật gì đó tròn tròn, nhơn nhớt, nhìn kỹ lại mới nhận ra đó là một con ngươi mắt. Sinh lấy đà phóng lên thuyền rồi ngồi xuống thở hồng hộc, dường như thi triển Chú vừa rồi lấy đi rất nhiều sức lực của cậu. Tôi bước đến chỗ con mắt, nó to như cái rổ, xung quanh vẫn còn dính những mạch máu, chúng đang tuôn ra những dòng huyết màu xanh trông rất tởm, tròng mắt lõm vào trong, trắng bệch, không có một chút sinh động gì cả. Tôi cúi xuống thấp hơn để quan sát tiếp thì một bàn tay lạnh ngắt tóm lấy vai tôi, ấn tôi đến sát con mắt kèm theo một chữ “Hù!” xanh rờn. Tôi xanh mặt đưa tay ra thủ thế, nhưng thì ra là anh Hùng. Anh hù tôi xong rồi cười ha hả, Tú Linh lấy thuốc ra châm giả bộ làm lơ, còn thằng Sinh thì dù đang thở vẫn cố lấy hơi cười đểu tôi vài cái. Tôi chửi “Má..” một cái rồi đứng tránh ra cho Hùng đi qua, anh nói: “Đúng là loài Quỷ Biển không mày?” Sinh vẫn còn cười, tôi đưa mắt hình viên đạn nhìn nó nó mới chịu thôi, nó nói: “Cũng không hẳn. Con này là ác ngư thành tinh thôi anh, em cũng hiểu hơi hơi là tại sao rồi!” “Chẳng lẽ…” “Lúc nãy phát Chú, đáy biển sáng lên, em thấy một thứ rất thú vị nhưng ở vùng nước sâu không đủ hơi lặn tới được. Hình như là một kiểu di chỉ gì đó. Phải chi tới đó được thì sẽ biết lý do ở đây lại có ác ngư hóa thành Quỷ Biển.” Anh Hùng đang đứng trầm ngâm, hồ như đang nghĩ cách hay gì đó thì từ phía sau tôi nghe tiếng mở cửa khoang tàu, ông lão thò cái đầu nấp sau cánh cửa, ánh mắt trợn lên, dò xét tình hình rồi mới dám bước ra. Đôi tay ông run rẩy chấp lại trước ngực, giọng ông khô khan như cả năm trời không uống nước: “Sao..rồi thầy…?” Hùng và Sinh chia nhau ánh mắt, dường như đã hiểu ý, Sinh nói: “Con quỷ coi như diệt xong, nhưng nếu ông muốn được ngủ yên, phải rước vợ ông về, mai táng đàng hoàng mới được.” Ông lão tiến đền gần chút nữa: “Rước về? Vợ tôi còn nằm ở dưới hả thầy?” Ba người bọn họ khẽ cười, anh Hùng tiến đến chỗ ông lão, vỗ vai ông ta rồi chỉ lên nóc tàu. Ông ta nhìn theo thì la ú ớ từng đợt, như cổ họng bị nghẹn, ông ta ngồi phịch xuống nền tàu, trông hết sức bần thần. Trong khi tôi còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nghe Sinh bảo bắt ấn Thiên Nhãn Hộ Pháp, tôi liền làm theo rồi nhìn lên nóc thuyền, là bà lão! Tóc bà ta rũ xuống, vẫn còn những dòng nước biển chảy xuống từ chân tóc, bà vận bộ đồ bà ba cũ mèm, có những vết rách trên da như con gì đó cắn xẻ thịt nhưng không thấy máu chảy ra. Bà ta khẽ lắc lư, hình như cũng nhận ra là ông lão đã thấy mình liền thút thít mấy tiếng, ông lão đến giờ vẫn chỉ ú ớ thêm vài tiếng nữa rồi ông cũng bật khóc. Ông bò bằng đầu gối đến chỗ vợ mình, rồi tức tưởi than trời than đất, chợt bà lão chìa tay ra, trên đó là một vỏ sò, trong lòng vỏ sò còn có một viên ngọc màu xanh lam. Ông lão gật gật cái đầu, đoạn thì bà lão cũng nhòe đi rồi biến mất. Ông lão mếu máo: “Giờ sau nữa thầy?” Anh Hùng nói: “Phải lặn xuống dưới trụt xác của bà lên, à nhầm, giờ chắc cái xác đó không còn nữa đâu mà trục, phải xuống lấy cái vỏ sò lúc nãy lên rồi rước bà về.” Sinh thêm vào: “Nhưng lặn sâu vậy không có công cụ, tụi tui đâu phải thần tiên hiển linh.” Ông lão giơ ngón trỏ lên như nhớ lại gì đó rồi chạy tọt vào trong, lát sau ông đem ra một bình dưỡng khí nhỏ với cái kính lặn. Sinh định chụp lấy rồi tiếp tục bay xuống nhưng anh Hùng đã giành, anh nói nó nghỉ ngơi tí đi, mấy chuyện này anh lo được. Chúng tôi ngồi đợi anh Hùng, người nào làm việc người nấy: Tú Linh thì bấm lại mấy cái huyệt cho thằng Sinh trong khi nó tiếp tục nốc rượu, ông lão co ro trong góc, ánh mắt ông ướt đẫm và đầy sợ hãi, còn tôi thì ra trước mũi tàu, đưa mắt nhìn xung quanh. Cảm giác như anh Hùng đã nói, chỉ là cảm giác thôi, rằng khu vực này đã yên bình hơn hẳn, có phải là không còn con ma xó, ma cỏ nào thật không? Thiên Đăng Ẩn Quang Chú lợi hại vậy sao? Khoảng nửa tiếng sau thì anh Hùng ngoi lên, trời tối om mà anh lại không có đèn lặn, như vậy không biết làm sao anh mò đường dưới đó được, tôi muốn hỏi lắm nhưng nghĩ lại để sau cũng được. Anh Hùng trèo lên tàu, anh cởi bộ dụng cụ lặn rồi tiến đến chỗ ông lão, lúc này đã nhõm cả người dậy, ánh mắt mong chờ kết quả của cuộc tìm kiếm. Anh Hùng không cần chần chừ, chìa cái vỏ sò ra đưa cho ông lão, ông ta vội chộp lấy rồi dùng cả hai bàn tay áp nó vào má mình, ôm ấp nó nhìn thương vô cùng, tôi nghĩ chắc đây là kỷ vật hẹn ước lúc trẻ của hai người bọn họ. Chúng tôi quay tàu về, trên đường đi Hùng và Sinh thay nhau căn dặn ông lão phải làm như thế này, như thế kia, chỉ là những nghi lễ, thủ tục an táng cho bà lão, cũng không có gì đặt biệt lắm. Tàu cặp bờ, ông lão quỳ xuống cảm tạ cả bọn nhưng anh Hùng đã nhanh tay đỡ ông dậy. Anh nói: “Ông không cần làm vậy, hai bên đã có giao kèo, giờ ông về làm theo những gì tụi con đã dặn là mọi việc coi như xong. Ngày mai, con sẽ đến lấy một món đồ trên thuyền của ông như đã nói từ trước.” Ông lão bước về nhưng vẫn chỉ đi lùi, còn khấu đầu vài cái. Cả ba người Hùng, Sinh và Tú Linh thì lạnh lùng quay người đi, tôi cũng làm theo (tôi tưởng tượng, chà, giờ có cái máy quay nào quay lại cảnh này chắc nhìn ngầu lắm). Chúng tôi thuê nhà trọ gần với chợ Hòn Sơn, Tú Linh ở một phòng, Hùng, Sinh và tôi một phòng. Anh Hùng ra trước mua về một thùng Lager rồi còn kêu nhà bếp làm thêm vài món nhắm, tắm rửa cho thoải mái xong thì cũng gần sáng rồi, tôi nghĩ thầm bộ mấy người này là quái vật hay sao mà còn rủ nhậu nữa, nhưng cũng đúng ý tôi nên thôi, nhậu thì nhậu. Cạnh bên chỗ chúng tôi ở có một lối mòn dẫn xuống một bệ đá mọc nhô ra ngoài, xung quanh cây rừng phủ xuống thành một mái vòm tự nhiên, dưới đó chủ nhà trọ cho lợp một sàn gỗ khá rộng, chắc đủ cho mười người, từ chỗ sàn gỗ này nhìn ra là cảnh biển thơ mộng hiện lên trong tiếng sóng biển rì rào, đằng xa là ánh đèn nhấp nhô của những tàu cá, tàu mực. Ngồi ở đây nhậu thì chỉ có thể tả bằng một từ: Chí! Lúc đầu, chẳng ai nói với ai gì cả, chỉ lo nốc bia, đến khi ngà ngà thì lôi chuyện lúc nãy tôi bị hù ra chọc. Tôi thì ổn thôi, mặc dù cũng có chút quê nhưng thấy thân thiết với mấy người này hơn nhiều. Chợt Sinh lên tiếng: “Tìm thấy “nó” không đại ca?” Anh Hùng tu một hơi bia, đốt thuốc rồi nói: “Thấy.” Tôi hỏi: “Thấy gì vậy anh, cái vỏ sò á hả?” Tú Linh cười: “Nhóc con, nhóc “đù” vừa thôi. Bộ nhóc không thấy sao, nếu mục đích chính của lặn lúc nãy mà chỉ để kiếm cái vỏ sò cỏn con thì anh Hùng có tự làm không?” Tôi cũng quen với kiểu xưng hô này rồi nên cũng mặc kệ. Tôi hỏi tiếp: “Vậy thấy cái gì vậy anh?” “Ca Lâu Thành, ở dưới đó là di chỉ của Ca Lâu Thành. Anh vớt được cái này nè.” Anh lấy ra một viên ngọc màu đỏ như mã não, vừa trong vừa đục, bên trong có những đường cong màu vàng uốn quanh nhau, kết nối với nhau trông hết sức đẹp mắt. Tôi hỏi anh Hùng thì anh nói đây là ngọc rết thường, bán cũng được một khoảng kha khá, ăn uống khỏe re cho mấy chuyến đi nữa. Tôi nói là loại thường mà đã đẹp như vậy rồi, Ngô Kim Công Thân không biết còn tới mức nào nữa. Sinh chật lưỡi: “Thiệt. Hồi chiều ông lão đó nói vớt được cái quan tài rồi gặp Quỷ Biển là em cũng nghi nghi rồi.” Anh Hùng cũng nói thêm, ban đầu nghe kỳ động ở Kiên Lương là tàn tích của Ca Lâu Thành, nhưng còn có một chuyện nữa là Ca Lâu Thành có tới hai mươi tháp lớn, giờ tìm được di chỉ của cỗ thành đó dưới đáy biển, vậy thì Ca Lâu Vương ngày xưa đã cho xây thành trên một vùng trãi dài từ Kiên Lương, Hà Tiên rồi ra cả vùng biển ở Hòn Sơn Rái, những chỗ này thật sự cách nhau không xa. Lúc lặn xuống đáy, anh thấy những tảng đá có kích cỡ khổng lồ nằm ngổn ngang, chúng vây quanh một kiến trúc cao và tròn, cho rằng là tòa tháp nên anh mới bơi vào trong thì tìm được viên ngọc rết kia. Ngoài ra, xung quanh tòa tháp này còn có những bức tượng Ca Lâu La, cao như tòa nhà ba-bốn tầng. Cỗ quan tài tình cờ mắc vào lưới ông lão chính là một trong những cái xác được chôn dưới đáy tháp để trấn yểm, dung hòa thái âm cho viên ngọc rết của toàn bộ kiến trúc, vốn đã hấp thụ thái dương của trời đất, đem đến sự thịnh vượng lâu dài, cân bằng trong âm dương nghĩa là vậy. Sau khi mất ngọc, cả tòa tháp chìm xuống biển sâu, cổ quan tài này cũng chìm theo. Ngày nọ, có con Cá Mút Đá tình cờ bơi ngang xác chết trong cỗ quan, ăn thịt cái xác đó rồi hấp thụ âm khí, dần dần bị thi biến, hình hài bị biến dạng, trở thành loài “Quỷ Biển”. Sinh gõ mạnh lon bia đã cạn xuống bàn, “khà” một cái khoái chí rồi nói: “Vậy ra chuyến đi đập miễu lần này cũng hên nhỉ? Có khi khỏi cần đi Kiên Lương hả đại ca?” Hùng nhăn mặt: “Không biết được, Ca Lâu Thành có tới hai chục tháp, khả năng cao là mỗi tháp có một pháp bảo. Ví dụ thôi, là có Ngô Công Kim Thân đi, đâu thể biết được trung tâm của thành cổ, nơi cất giấu của viên ngọc rết này. Mà anh sẽ không làm theo cảm tính, một lần là đủ. Mày quên rồi hả Sinh?” Lúc này tôi có quá nhiều câu hỏi, không chịu được sự tò mò nên hỏi anh Hùng: “Khoan anh ơi, em hỏi mấy này cái đã, thứ nhất: chuyện mình đi Kiên Lương có liên quan Ca Lâu Thành không? Thứ hai: em thấy anh quan tâm cục đồng đen, vậy nó với ngọc rết thì sao? Thứ ba: di chỉ dưới biển có chính xác là Ca Lâu Thành hay không?” Sinh định lên tiếng nhưng anh Hùng ngăn lại, anh nói: “Mày hỏi đúng, để anh nói suy nghĩ của anh từ lúc đập miễu trên Ma Thiên Lãnh đến giờ. Thứ nhất, kỳ động mình sắp đi ở Kiên Lương, thú thật anh chưa biết vị trí chính xác, cho nên không chắc Ca Lâu Thành có dính líu đến, đồng nghĩa với việc bảo ngọc trấn Ca Lâu Thành có thể không phải ngọc rết Ngô Kim Công Thân mà là loại khác. Thứ hai: anh quan tâm đồng đen vì nó cũng là một pháp bảo thượng phẩm, thể nào cũng có cách dùng riêng, với lại, theo những gì anh biết, đồng đen đó xác suất cao là Trấn Môn Thiên Đỉnh, loại pháp bảo dùng để khóa cửa tông miếu. Nếu có thể tìm được nửa phần còn lại, khi đó phải nói cục đồng này trở thành cực phẩm thượng hạng. Thứ ba: di chỉ anh thấy lúc nãy, khả năng cao nhất anh nghĩ chỉ có liên quan đến Ca Lâu Thành, có thể như là một quan ải vệ tinh. Tuy nhiên có một điểm hồi chiều Sinh kể mày nghe về Ca Lâu Vương là có thật, nếu đụng độ với Quỷ hồn Ca Lâu Vương thì…hơi mệt đó!” Sinh cười hehe: “Vậy mai mình đi Kiên Lương, làm gì căng!” Hùng đứng dậy, vươn vai: “Không, không. Mai mình vẫn phải ra biển một chuyến.” Chúng tôi đánh một giấc đã đời, thức dậy thì cũng gần mười giờ sáng. Chuẩn bị đồ xong xuôi thì liền lên đường đến nhà ông lão. Vừa bước vào đã thấy xác nhang rơi đầy sân, trước hiên nhà có một cái miễu mới được dựng lên, trên đó là di ảnh của bà lão và cái vỏ sò. Chắc tối qua lúc chúng tôi nhậu say bí tỉ, ông lão cũng đã lo xong mọi chuyện. Ông lão thấy chúng tôi tới liền lật đật chạy ra, ông cung kính cúi đầu làm tôi cũng phải cảm thấy ngại. Anh Hùng chào ông rồi đi luôn vào vấn đề chính về cuộc trao đổi, ông lão dẫn chúng tôi ra chỗ đậu thuyền, anh Hùng phóng lên trên rồi nói vọng xuống: “Con xin phép được lấy cái vô lăng nghe!” Anh kết ấn, một tiếng rắc vang lên giòn khấu, ông lão vẫn không có phản ứng gì cả, thật ra tôi nghĩ ông lão biết ơn thì biết ơn, chứ chắc cũng có cười trong bụng, ai mà đi lấy cái vô lăng làm thù lao thế này, thợ mộc làm vài buổi là xong. Tôi thì nghĩ anh Hùng làm gì cũng có lý do nên chỉ đứng im lặng nhìn. Anh phóng xuống rồi nói: “Ông cho con hỏi, ai là người thợ làm ra cái vô lăng này?” Ông lão đáp: “Một người bà con của lão, làm thợ mộc ở Nam Du.” “Ông có địa chỉ không? Cho con xin?” Sinh lên tiếng: “Đại ca, anh nói mẹ ra đi, úp mở chi hoài vậy?” Anh Hùng nhăn mặt rồi ném cái vô lăng cho Sinh, nó soi kỹ một hồi thì thốt lên: “Kinh văn?” “Đúng, trên đó là kinh văn, ngôn ngữ gần giống tiếng Phạn trong Phật Giáo, anh chưa đọc được chính xác. Nhưng khả năng cái vô lăng này làm từ một khối gỗ có xuất xứ liên quan đến Ca Lâu Thành. Lần ông đây gặp quỷ biển với tối qua, con quỷ đủ sức cắn nát tàu, nhưng nó không dám làm, chính là vì cái này! Nếu tìm ra nguồn gốc khúc gỗ này, có thể giải đáp được ba câu hỏi tối qua.” Sinh nhìn kỹ vào ký tự thêm lần nữa, có vài đoạn chen vào hình một con chim có đầu người. Rồi nó quay sang ông lão, giọng nói đầy hào hứng: “Nào ông, địa chỉ?” Ông lão nói: “Không muốn làm mất hứng mấy thầy, nhưng mà ổng mới chết. Đêm qua. Tui đang định bắt tàu đi Nam Du đây…”
 
Chương 27 : Ngoại Truyện: Kim Thủ Thần Y Lục Tỷ


Những năm 1930, vùng Tân Quới, Tân Lược thuộc Thốt Nốt, Cần Thơ ngày nay, cư dân vẫn còn rất thưa thớt, chủ yếu tập trung ven sông. Từ Long Xuyên nếu về ngang Tân Quới, chỉ đếm được chừng chục ngôi làng co cụm bên những rặng dừa nước. Một đêm hạ tuần tháng 8, xóm giữa bị khuấy động bởi tiếng hét thất thanh của Tư Bàng, làm nghề giăng câu. Đêm đêm cứ độ hai, ba giờ sáng, ông ta đều đi từ xóm dưới lên xóm trên rồi về, mỗi đêm cũng kiếm dễ đến hai chục ký cá tôm. Đêm nay, khi vừa neo xuồng lại ở bến nhà ông Ba Lê, rặng dừa nước bỗng như níu xuồng Tư Bàng lại. Thấy lạ, ông ta kéo lớp lá dừa ra. Dưới ánh trăng huyền ảo, không gian không có cả tiếng ếch nhái, dưới nước trồi lên một cái đầu lâu trắng hếu. Nghe tiếng la, ông Ba chạy ngay ra xem, xóm giữa bắt đầu sáng đèn. Tư Bàng lúc này leo tọt lên bờ ngồi, run như cầy sấy, không nói được từ gì, lập cập chỉ về hướng cái đầu lâu khi nãy. Có mấy thanh niên trong xóm đoán chừng có con gì, cũng hùng hổ lội xuống xem, vừa dạt lá ra cũng một phen thất kinh khi thấy từ lúc nào bộ xương đã lù lù dựa vào thân dừa. Thế là mọi người đã rõ Tư Bàng thấy gì, họ bèn họp lại để vớt xác lên, an táng cho người ta để còn mong phù hộ. Tuy nhiên, mấy người to khỏe đào hì hục mãi mà bùn không hề bớt, bộ xương cũng chỉ lộ ra nửa thân trên dựa vào rặng dừa, mặt gục xuống tựa hồ như ai oán đau khổ đầy bất lực. Đào mãi gần cả giờ, mồ hôi nhễ nhại, ai nấy đều thấm mệt nhưng chẳng tiến triển được gì. Dân làng đang xôn xao, bảo là nên thỉnh thầy về mới được, bỗng đâu trong nhà, Út Dung, con gái của Ba Lê đi lù lù ra, vừa đi vừa dụi mắt như còn buồn ngủ lắm. Con bé chen qua đám người rồi đi thẳng đến rặng dừa. Ông Ba ban đầu định la lên, nhưng nghĩ có thể nó có người âm theo, nên bảo mọi người để yên xem sao. Út Dung lấy tay xoa lên phần trán hộp sọ, vốn nham nhở những phần da, rồi nó vịn hai xương đòn kéo lên rất nhẹ nhàng. Trước sự ngạc nhiên pha lẫn chút sợ hãi từ dân làng, cái xác dần dần trồi lên hẳn. Vừa có người xuống để vớt xác thì Út Dung đổ ra ngất. . Sáng hôm sau con bé tỉnh dậy, hỏi gì cũng không nhớ, nó chỉ biết lúc đang ngủ, có một cô gái trẻ, áo đỏ quần đen, mái tóc dài đen nhánh đứng ở đầu giường, vén mùng lên đưa tay vào nắm lấy tay Út Dung, bảo là: “Em đi theo chị, giúp chị cái này với.” Đến đó là nó hết nhớ gì. Ông Ba kinh ngạc vì cái xác tối qua đúng là tóc còn bết lại rất nhiều, dài đến eo, vận áo bà ba đỏ và quần đen. . Nhà Ba Lê ở xóm giữa này đã ba mươi năm, từ thời ba của ông. Ông chẳng khá giả gì, đi làm thuê làm mướn lúc rảnh, nhà chỉ có ba công ruộng nhưng nuôi đến tám miệng ăn. Một hôm, có chiếc xe rất sang trọng đến xóm giữa. Trong xe bước ra hai người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, một người mặc comple, có lẽ là chủ, người kia vận áo sơ mi quần kaki xám. Họ đến thẳng nhà ông Ba, ông chủ vào thẳng vấn đề, bảo là mười lăm năm trước, ông ta và chị bị lạc nhau ở gần đây, tìm mãi không thấy người chị nên cả nhà đành chạy loạn lên Sài Gòn. Mấy hôm nay, ông ta nằm mơ thấy chị mình hiện về, bảo đến nhà này tìm sẽ gặp. Ba Lê hết sức ngạc nhiên, khi vị chủ kia mô tả bề ngoài Út Dung y hệt. Thế là Ba Lê dẫn vị kia đến phần mộ mới đắp, nghi lễ cải táng nhanh chóng được tiến hành. Trước lúc trở về, vị kia giới thiệu mình tên là Quách Quý Khải, đang là chủ một nhà hàng ở Chợ Lớn, thấy thương tình nhà Ba Lê khó khăn, muốn nhận nuôi Út Dung, cho học nghề bếp. Ba Lê vừa mừng vừa thương con, nhưng càng nghĩ càng thấy để Út ra đi sẽ tốt hơn cho con, ông đồng ý. Năm đó Út Dung mới mười hai tuổi. . Ngày đầu lên nơi phồn hoa, Út Dung ngỡ ngàng hết cái này đến cái khác. Nhà hàng của Quách gia tọa lạc ngay đường lớn, thời ấy nói ra ai cũng biết tên. Bếp chính là vị đi theo ông Khải hôm bữa, tên là Triệu Kiến Minh, một tay bếp lão làng ở Hương Cảng, do lánh nạn nên đến Chợ Lớn mưu sinh, được Quách gia giúp đỡ tận tình nên nguyện đi theo ông. Tuy là đại thế gia, nhưng Quách Quý Khải sống rất chan hòa, đặc biệt thương yêu Út Dung, căn dặn Kiến Minh dạy dỗ tận tình. Có chuyện Út nhớ mãi về Triệu Sư phụ này, chẳng là lúc cô mới về ở, có một nhóm của nhà hàng gần đó đến sinh sự. n oán đã lâu, nay đầu bếp của nhà hàng bên kia thẳng thừng thách đấu Triệu Kiến Minh so tài, bên nào thua phải bị chặt tay, cả đời không được sống ở Chợ Lớn nữa. Cả nhà hàng náo loạn cả lên, Kiến Minh chỉ cười khẽ, bảo: “Huynh đây nếu có nhã ý, mỗ tôi đành nghe theo.” . Bếp bên kia là của Mã Sư phụ, Mã Quát, vốn là đầu bếp số một ở khu này trước đây, nay bị Kiến Minh đến tranh giành, uy danh mười phần cũng giảm bốn năm phần. Hai bên chọn Hội đồng Hiệp, ở vùng Mỹ Tho làm trọng tài. Ông này ra luật, lính của ông ta sẽ đi ngẫu nhiên vào chợ, đến cuối chợ có con gì mua về con nấy, món ăn đầu bếp muốn làm sao tùy ý. Lát sau, một người đi mua cho Mã sư phụ đem về con cá tai tượng chừng tám ký, còn gã lính mua đồ cho Triệu Kiến Minh thì đem về con vịt cồ già. Khỏi phải nói cũng biết do tay Hội đồng đó sắp xếp cả, tuy nhiên Kiến Minh chỉ cười khà khà. Lát sau, Mã sư phụ dọn lên món Lý Ngư Vọng Nguyệt, thực ra là cá tai tượng hấp tương gừng, thịt cá mềm như lụa, óng ánh như kim sa, trang trí nhìn con cá như vẫn còn đang sống, quẫy đuôi từng hồi để ngắm trăng vậy. Lúc này mọi ánh mắt đổ dồn vào Triệu Kiến Minh. Vịt cồ thịt đã dai sẵn, lại gặp ngay con vịt già thì ai cũng cho rằng ăn như lốp xe thôi. Kiến Minh đem con vịt từ nồi hấp ra, để lên dĩa được lót rau sẵn. Con vịt nhìn nguội lạnh, kém hấp dẫn hẳn. Những tiếng xì xầm bắt đầu vang lên, Mã Quát đập bàn: “Con mẹ mày, chớ câu giờ, nhìn là biết mày thua rồi, người đâu, đưa dao tao chặt tay nó!” Gương mặt Triệu sư phụ vẫn điềm nhiên bảo cứ đợi đã. Đoạn ông lấy chiếc đũa, gõ nhẹ lên phần lưng vịt, tức thì con vịt rã ra thành đúng Tám Mươi Mốt miếng thịt vuông vắn, bên trong khói bốc ngào ngạt, thịt vừa chín tới, tám mươi mốt miếng tuy rơi ngẫu nhiên, nhưng ngay hàng thẳng lối như bàn cờ. Phương pháp Triệu sư phụ sử dụng gọi là Phụng Trảo, nghĩa là chặt nguyên liệu ra rồi ghép lại bằng tương, giữ nguyên hình dạng lúc chế biến. Tuy hấp nhưng nguyên liệu bên trong giữ nhiệt lâu, làm con vịt chín từ trong ra. Hội đồng Hiệp ăn thử một miếng, không hề dai mà lại mềm và dai nhẹ như thịt gà. Mọi người la hét vang cả sàn đấu. Rõ ràng kết quả thắng bại hiện rõ trên mặt Hội đồng Hiệp. Lúc này Mã Quát quỳ thụp xuống xin tha, khóc lóc ỉ ôi kể khổ về mẹ già con thơ. Thấy vậy, Triệu Kiến Minh đến, đỡ ông ta dậy rồi cười bảo là mình thông cảm cho hoàn cảnh Mã Quát. Mã sư phụ vừa cúi đầu cảm tạ, Triệu Kiến Minh vung tay lên, một đòn chặt bằng tay không, chỉ nghe tiếng xé gió vút lên là cánh tay Mã Quát nằm dưới sàn, vẫn còn giật. Út Dung không bao giờ quên nụ cười sư phụ mình lúc vỗ vai Mã Quát đang gào khóc, nụ cười thâm độc nhưng vẫn niềm nở: “Tôi hơi quá tay, Mã huynh lượng thứ.” . Thời gian qua dần, Út Dung học càng ngày càng mau lẹ, chẳng bao lâu đã học đến bảy tám phần từ Triệu Kiến Minh, món ăn Út Dung làm lúc nào cũng bình dị bên ngoài nhưng tinh tế bên trong. Dạo nọ, có một vị khách trạc năm mươi tuổi, ngày nào cũng đến quán gọi món gà, mà phải do chính tay Út Dung làm y mới chịu. Nhưng nhìn thái độ ông ấy, Út nghĩ không hề có chuyện ổng vì tình cảm mà làm vậy. Năm đó Út Dung mười tám tuổi. . Thời gian này, tư gia Quách Quý Khải có nhiều chuyện lạ, người ở ai cũng bảo có ma. Có người quả quyết thấy bóng trắng miệng đầy máu lang thang trong nhà lúc ba giờ sáng, người thì thấy bóng cô gái mặc áo bà ba đỏ đứng chải tóc trước gương lúc hai giờ sáng, nhìn kỹ thì da đầu bong ra từng mảng, quay mặt sang nhìn chỉ thấy là đầu lâu trắng hếu. Thấy vậy, Quách Quý Khải mới bảo người làm về quê vài ngày, để ông ta cho sửa lại nhà. Đêm đó, Út Dung đang ngủ bỗng thấy như ai đang liếm ở cổ mình, giật mình tỉnh dậy thì tá hỏa khi thấy Triệu Kiến Minh, mặt mày ma quái, lưỡi dài, đang thè ra liếm cổ cô đầy đáng sợ và dục ý. Út hét lên, nhưng cả nhà còn ai đâu, cô vùng dậy chạy đi, sực nhớ Quách tiên sinh, cô tìm đến phòng ông, nhưng than ôi khi mở ra chỉ thấy một cá xác khô quắp queo ngồi trên ghế, con mắt lồi ra, miệng như đang kêu cứu. Có lẽ ông chết đầy đau đớn. Lù lù sau lưng, Triệu lão quái tiến đến cùng tràng cười ma quỷ và những tiếng khè khè như rắn kêu. Ông ta vật Út Dung ra sàn, cô chống cự cỡ nào cũng không được, bỗng nhiên cửa sổ toang, một bóng người rất quen thuộc đã đứng trên đó từ lúc nào, tóc người nay bay phất phơ mở đường cho đôi chân mày đang trĩu xuống vì cơn thịnh nộ. Kiến Minh trong hình hài quái thú có lẽ cũng cảm nhận được có chuyện với y, bèn thả lỏng tay ra rồi lui về sau. Bóng người đó nói: “Gà nuôi, tốt cỡ nào cũng chỉ để ăn thịt, đó là ý mỗ muốn nói cho cô biết” - thì ra là vị khách quen nọ. Trong ánh sáng lờ mờ, Út Dung chỉ thấy ông ấy phi đến chỗ Kiến Minh, một tay dán bùa, tay còn lại tung chưởng toác cả lưng lão quái. Mọi chuyện xảy ra hết sức nhanh chóng khiến Út Dung không hiểu được mình đang phải đối mặt với cái gì. . Vị đó bình thản mở đèn phòng lên, ngồi xuống ghế, châm trà rồi nói: “Tôi họ Lý, cứ gọi Lý đạo sĩ hoặc Vạn Lĩnh là được. Triệu Kiến Minh vốn là thầy ngải, cha y người Miến, mẹ y người Hoa, học được chút ít bùa ngải từ Miến Điện rồi qua Hương Cảng kiếm ăn, bị phát hiện rồi dọa giết, phải trốn sang đây đi theo Quý Khải. Cô có còn nhớ vụ Quý Khải tìm chị không? Cái xác kia vốn dĩ không phải chị của y, mà thực tế y cũng không hề có chị gái nào thất lạc cả, Kiến Minh dùng bùa mê thuốc lú cho Khải dùng hằng ngày, tiện bề sai khiến. Cái xác kia là Linh Thi, chết ngay giờ hắc đạo, oán khí cao, khó siêu thoát, hắn rắp tâm cướp cái xác về để luyện ngải, sẵn thấy cô cũng có cốt khí, sau này có thể dùng thi thể để trấn yểm được, nên bày trò đem cô về nuôi, kỳ thực là đợi ngày giết cô mà thôi!” Ông nhấp ngụm trà rồi nói tiếp: “Đêm nay, lúc luyện ngải, quả báo cho hắn lại bị ngải vật, hóa thành ác quỷ nên mới định ăn thịt cô. Bần đạo ban chiều có gieo quẻ, biết đêm nay không lành, nên đành phải vào nhà người ta cứu cô thế này”. . Sau đó, Lý Sư phụ hỏi Út Dung có muốn theo ông học nghề không, Út Dung lúc ấy chẳng biết gì cộng với còn đang sợ nên chỉ lắc đầu quầy quậy, Lý đạo sư chỉ cười rồi đứng dậy, loáng cái đã mất dấu. Ngay đêm đó, Út Dung đón xe về lại nhà cũ. Sáu năm qua, cô chỉ về nhà được vài lần nên nỗi nhớ nhà da diết bắt đầu ập đến. Vừa đứng trước sân, cô đã nghe tiếng em mình kêu khóc thảm thiết, cô vội chạy vào thì thấy mẹ cô vừa mất do bệnh. Lúc này ở xóm giữa đang có loại bệnh lạ, cứ vài ngày lại có một người mất. Út Dung khóc lóc thảm thiết. Hôm chôn mẹ cô, thấp thoáng bên ngoài khu nghĩa trang, Út Dung thấy Lý Đạo sư. Sau khi an táng xong, cô không theo mọi người về nhà mà đi thẳng đến chỗ Vạn Lĩnh đang đứng. Cô hỏi: “Rốt cuộc thầy là ai?” Lý đạo sĩ đáp: “Ta là của nhân gian, nhân gian cần người nào, thì ta là người đó.” Đoạn, ông nhìn Út Dung rồi hỏi: “Con muốn làm người như thế nào?” Út Dung trả lời ngay: “Giúp người ta no khi đói, chữa người ta lành khi bệnh, thầy dạy chuyện đó được không?” Lý sư phụ cười lớn, gật đầu nói: “Được, được, tất nhiên ta dạy được.” . Cô ngay lập tức về nhà chuẩn bị đồ đạc, tiền bạc và tư trang dành dụm được, cô gửi lại cho ông Ba Lê, rồi từ giã lên đường. Trước khi quay đi, cô quỳ lạy trước sân nhà, nói với ông Ba rằng: “Từ nay, tên cha mẹ đặt, con xin không dùng. Từ nay, con là Tỷ.” Chữ Tỷ trong tiếng Hán có rất nhiều nghĩa, ngoại trừ nghĩa là “chị” ra thì ít nhất phải hơn chục nghĩa khác. Út Dung chọn chữ “Tỷ” vì nó có nghĩa ám chỉ người mẹ đã chết, hai là mang nghĩa “đi theo”, khẳng định con đường sắp tới từ đâu mà có. Những năm 1968, chiến sự miền Nam đang ác liệt. Khu vực miệt Cái Sâu khi ấy vẫn còn cỏ cao đến ngực, lẫn bên dưới là rất nhiều mả. Nếu băng qua được vùng cỏ âm u ghê rợn đó sẽ đến một con kênh, băng qua con kênh này thì đến một cái trũng nhỏ, giữa trũng là một gian nhà sàn được bao bọc bởi các tán cây sú, vẹt, mắm. Cứ ngày hai cử, trưa và chiều, có một người phụ nữ tầm bốn mươi tuổi, mái đầu đã bạc phơ, khuôn mặt vẫn hết sức sắc sảo với sóng mũi cao hơn dọc dừa của xứ Bến Tre đang dùng hai cây dầm làm mui để nấu cơm. Cơm vung đầy hai cái chảo lớn, dễ phải cho gần ba chục người ăn mới hết. Đôi tay bà mảnh khảnh nhưng điều khiển hai mái dầm trên chảo cơm hết sức điệu nghệ. Đồ ăn bà nấu, các anh chiến sĩ ai cũng khen, đơn vị họ ngày nào cũng được ăn uống đầy đủ sau những trận đánh ác liệt. Mặc dù có khi địch càn bằng trực thăng là là trên đầu, nhưng giống như gian nhà sàn đó được phù phép biến mất, chẳng tên địch nào thấy được cả. Đêm đến, bà ấy lại châm cứu cho các chiến sĩ bị thương, bệnh. Đôi tay mảnh khảnh đã điều khiển hai mái dầm một cách mạnh mẽ nhưng khi châm cứu lại rất nhẹ nhàng, chuẩn xác. Có lần để cầm máu, bà châm Tám Mươi Mốt (81) cây kim trong vòng chưa tới mười giây, lần khác để kích hoạt toàn bộ công năng của huyệt vị, trong một huyệt nhưng bà châm được đến Một Trăm Lẻ Tám (108) cây kim! Người người ai cũng sửng sốt, đến độ nghẹt thở. Nhưng chưa ai trong khung trũng này nghi ngờ, họ chỉ lo rằng một ngày nào đó bà sẽ không ở đây nữa thôi. Các anh chiến sĩ, mỗi lần có món gì đó ngon đều mời bà, có xì gà thượng hạng luôn là bà hút trước, những câu chuyện anh em vào sinh ra tử trên chiến trường đều kể bà nghe. Nói thẳng ra, họ coi bà như một người mẹ của cả đội… Chiến tranh kết thúc, những người lính năm xưa ngơ ngác khi bà ấy lặng lẽ biến mất, không chút dấu vết. Ai ngờ đâu giữa nghĩa trang đìu hiu ngày đó đã sản sinh ra một trong những Tẩu Lộ cứng nghề nhất nhì đến độ vang danh thiên hạ, biệt hiệu Kim Thủ Thần Y. Ngày nọ, cơn bão số Năm kinh khủng ập đến, cả một vùng Cà Mau tan hoang không nhìn ra được. Giữa những đội cứu hộ, người ta vẫn thấy một bà lão, đôi tay mảnh mai nấu cơm cứu trợ, hỗ trợ châm cứu, bốc thuốc. Từ đống đổ nát, người ta cứu ra được một bé gái chừng bốn năm tuổi, cú sốc quá nặng từ việc mất hết người thân và kẹt trong nhà hai ngày nên cô đã lâm vào trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chịu nhiều đau đớn lắm. Bà vuốt mặt cô bé rồi thì thào: “Con tên gì?” Cô bé ho khụ khụ rồi đáp: “Tú Linh…” Bà nói: “Không sao đâu con gái, có bà rồi, con sẽ không sao đâu. Nha!” Cô bé thủ thỉ, những tiếng nói cuối cùng trước khi hoàn toàn mất ý thức: “Bà tiên ơi, bà tiên tên gì vậy?” Bà lấy cái túi đồ nghề gồm hàng ngàn kim châm ra, vừa nức nở, vừa châm cứu rồi nói: “Lục Tỷ, họ gọi bà là Lục Tỷ!”
 
Chương 28 : Phần 7 : Đảo Bia Mộ


“Tại sao lại bắt tàu đi Nam Du vậy ông? Sao không lấy tàu này tự chạy ra…” Tôi bỏ dở câu hỏi, tự thấy mình hỏi có phần hơi ngu. Vô lăng bị anh Hùng bẻ ra mất rồi làm sao mà lái tàu. Dường như anh cũng nhận ra việc mình vừa làm có phần hơi...lố hay sao ấy, anh ném cái vô lăng cho Thạch Sinh rồi bảo nó gắn lại giúp anh. Nó nói: “Này thì làm màu…”, sau đó còn cười nắc nẻ mấy cái nhưng vẫn không dám cãi. Nó phóng lên tàu, đục đẽo cũng phải một hồi mới xong. Ông lão nói: “Mấy th...thầy đúng là cao cường, cái gì cũng biết làm!” Tú Linh nói: “Dạ thưa, cái này để tạm bợ thôi nghe ông, sau này về phải để thợ mộc chuyên nghiệp sửa lại cẩn thận mới được, chứ một lát lên nhà ông cụ ở Nam Du cũng phải bẻ ra lần nữa thôi.” Tôi để ý thấy Tú Linh nói chuyện với ông ta khá lễ phép, không còn thái độ chủ cả như lúc nói chuyện với tôi, anh Hùng hay thằng Sinh nữa. Nói sơ về Nam Du, hay chính xác hơn là Quần Đảo Nam Du gồm có hai mươi mốt đảo lớn nhỏ song song nhau theo hướng bắc-nam, nằm ở hướng đông nam đảo Phú Quốc trong vịnh Thái Lan, cách bờ biển rạch giá khoảng sáu mươi lăm hải lý, cách Hòn Sơn Rái khoảng hai mươi hải lý (một hải lý bằng khoảng một phẩy tám kilomet), quần đảo này thuộc quản lý của xã An Sơn và xã Nam Du, Rạch Giá, Kiên Giang. Chúng tôi lênh đênh trên biển, phải nói đi bằng tàu cá cảm giác khác hẳn những lần tôi đi chơi đảo bằng tàu cao tốc. Mặc dù tàu cao tốc cũng được phép lên đứng trên boong nhưng cảm giác nó đem lại không được như lúc này: gió lùa qua tóc tôi, ríu rít mừng lắm, vừa vào địa phận Nam Du thì trên biển lồi lõm những hòn đảo hiện ra xa tít ở đường chân trời, cảm giác tự do thì khỏi phải nói tới, lâu lâu đổi phương tiện di chuyển như vậy thích thật. Đang xé nước phóng như bay, bỗng tôi nghe tiếng máy “tạch, tạch” mấy cái rồi cả tàu giật mạnh, theo quán tính tôi nhoài cả người về trước, một màn sương dày không biết từ đâu kéo đến che hết cả tầm nhìn trước mắt. Anh Hùng, Tú Linh và Sinh nãy giờ ngồi trong khoang cũng mở cửa chạy lên xem, khuôn mặt họ hết sức nghiêm túc. Con tàu kêu lên vài tiếng rồi chết máy. Chỉ còn nghe lại những tiếng kẽo kẹt của ván ép đã cũ hai bên mạn tàu, tiếng rẽ nước chầm chậm róc rách bên tai, chen giữa đó là âm thanh “u u” như khi ta dùng miệng thổi vào cổ chai. Tôi hốt hoảng nhìn sang anh Hùng thấy anh đang chống tay vào mạn tàu phóng ánh nhìn về phía xa, tôi cũng bắt Ấn rồi nhìn về hướng đó. Có một ngôi mộ mọc lên giữa biển cả mênh mông, không, chính xác hơn là chỉ có cái bia mộ đang bị sóng biển khẽ đập vào, mô đất ở dưới không biết có phải mộ huyệt hay không, chỉ thấy màu đất đen xì. Anh Hùng nói: “Chết mẹ, lạc vào hòn Tre rồi!” Tôi nói: “Ủa anh, hòn Tre là ở khúc trong mà, còn gần hơn Hòn Sơn mình đi nữa? Sao mình lạc xa vậy?” “Không, là hòn Tre “kia”, không phải cái ở gần Rạch Giá như mày nói.” Sinh nói: “Vậy là thật rồi. Tui có nghe nói là hòn này thuộc quần đảo Nam Du nhưng không có dân cư sinh sống, người ta dùng nó làm nghĩa địa. Nó còn có tên gọi khác là Đảo Bia Mộ.” Tôi thắc mắc: “Tại sao?” Anh Hùng không trả lời mà khều vai tôi kêu tôi nhìn về hướng mũi tàu, trước mắt tôi, trong màn sương dày đặc màu xám tro dần hiện lên một trái núi khổng lồ, nhưng thay vì những rừng cây xanh màu lá như những trái núi bình thường thì nơi đây thấp thoáng một thứ gì khác, cảm giác như một thế lực vô hình. Ngoài sương mù còn có khói bốc lên, rất nhiều, sương mù màu xám còn khói thì màu trắng, trông như những bóng ma đi lang thang trên triền núi. Và có hơn một trăm, hai trăm hay nhiều hơn nữa những bia mộ, trông chúng vẫn còn như mới chứ không có dấu hiệu hư hao gì cả. Nhưng mà như lời anh Hùng nói thì không có cư dân sống trên đây mà, chẳng lẽ… Tôi định chắp tay bắt Ấn nhưng Sinh đã vội ngăn lại. Nó nói: “Đừng có chơi dại!” Tôi hỏi, hơi khó chịu: “Sao vậy?” Anh Hùng nhìn lên vai tôi rồi nói: “Thiên Hổ đang nổi giận. Nó nhe nanh dữ lắm, mày mà bắt Ấn kéo tay nó ra khỏi mắt mày lần này chắc số phận nguyên đám xuống đáy biển ở, làm mồi cho cá rỉa.” Đoạn anh Hùng nhìn lên ông lão, giờ đang nấp sau vô lăng: “Ông đợi tàu quay lại, rồi sau đó nhắm mắt, cố giữ vô lăng cho vững, cứ thế mà đi ra thôi.” Anh nhìn sang Sinh và Tú Linh, hai người cũng hiểu ý. Sinh chạy ra sau chỗ máy dầu, nó chụp cái tay quay đặt vào họng máy, sẵn sàng đợi mệnh lệnh. Tú Linh phóng lên buồng lái chỗ ông lão rồi đứng cạnh ông, như muốn bảo đảm chuyện gì đó, còn anh Hùng thì cặp kè vai tôi dẫn ra phía mũi tàu. Tôi tò mò hỏi anh: “Anh Hùng, nếu trên núi có miễu sao mình không dùng Thiên Đăng Ẩn Quang Chú của thằng Sinh diệt luôn một thể? Tội gì phải bỏ chạy?” Anh Hùng cười, không phải kiểu cười chế nhạo mà nghe như muốn chỉ bảo tôi: “Chú đó là để diệt ma cỏ, ma xó như anh đã nói. Còn những vụ đập miễu kiểu như phải vào hang động, hoặc là những nơi như thế này mà phát Chú không khác gì “Lạy ông con ở bụi này” cả. Có thể đuổi được tụi ranh ma, nhưng có những loài mày con chưa biết tên, hình dạng, đặt tính, điểm mạnh, điểm yếu các thứ nữa. Nói chung làm gì việc gì, cẩn thận phải là ưu tiên hàng đầu, lúc thằng Sinh phát Chú ở Hòn Sơn thì nó đã ý thức được rằng con Reahu, là con đầu sỏ ở đó đã bị diệt nên mới phát Chú.” Đoạn, anh nhìn vào phần dưới của mũi tàu săm soi gì đó, thấy ổn anh liền quay lại nói tiếp: “Thực tình thì anh không phải thằng nói nhiều, nhưng nguyên đám tụi mình sau này vào sinh ra tử với nhau nên anh sẽ giải thích còn mày ráng nghe. Vùng Đảo Bia Mộ này chỉ cần đánh động thôi là cầm chắc cái chết, cũng may nhờ có cái vô lăng, chính nó đã làm cho máy tắt trước khi đi vào vùng nguy hiểm. Người làm ra nó không phải là tay Hàng Thịt dạng vừa đâu. Giờ anh sẽ quay đầu tàu, lúc đó thằng Sinh sẽ nổ máy đồng nghĩa với chuyện làm kinh động đám trên núi kia, Tú Linh sẽ giữ vô lăng tiếp ông lão, còn mày, anh muốn mày quan sát tình hình, lỡ có gì xảy ra anh la lên thì mày bắt Ấn, nhờ Thiên Hổ Phù làm con mắt cho cả bọn là như vậy. Hiểu chứ?” Quả thật lần này anh Hùng có nói hơi nhiều, nhưng tôi hiểu vì sao anh làm vậy, anh sẽ không để cho chuyện gì xảy ra với cả bọn như anh Thông! Nghe xong, sĩ khí tôi cũng có phần dâng cao. Tôi liền gật đầu cái rụp rồi hỏi: “Quay đầu tàu kiểu gì anh?” Anh cười rồi vịn vào mạn trái của chiếc tàu, đu mình ra ngoài, một chân anh trụ thật vững còn chân kia thì vun lên đạp mạnh vào đầu tàu trong khi tôi trố mắt đứng nhìn. Ban đầu chiếc tàu không hề động đậy, tôi nghĩ thầm làm sao mà động đậy được chứ, nhưng đã quá nhiều lần sự ngờ vực của tôi luôn luôn sai bét. Và lần này cũng vậy, chiếc tàu bắt đầu trở mình, chầm chậm quay đầu lại. Lúc này Sinh cũng đã bắt đầu quay máy dầu, tiếng nổ máy giòn khấu vang lên cũng là lúc từ trên triền núi có một luồng băng phong thổi xuống làm tôi lạnh cả sống lưng. Chiếc tàu bắt đầu di chuyển trong khi anh Hùng vẫn còn đu mình trên mạn tàu, nhìn ra phía sau. Ông lão lúc này đứng cũng không còn vững nữa, khi ông quay ra phía sau nhìn thì ngã phịch xuống luôn, cũng may nhờ có Tú Linh đứng trên điều khiển cho chiếc tàu chạy thẳng. Tôi cũng ráng đưa mắt nhìn về phía sau nhưng chỉ có luồng gió thổi lên và bọt biển trắng xóa khi chân vịt máy dầu xé nước mà thôi. Từ lúc quay máy xong, Sinh cũng ngóc đầu lên xem xét tình hình, chợt nó xanh mặt gọi với lên: “Đại ca!...” Anh Hùng khua tay: “Kệ nó, cho nó rượt đi, mình qua màn sương là được, nó không dám ra ngoài đâu!” Tôi hỏi: “Cái gì rượt vậy anh…” Anh nói: “Theo như anh thấy, hòn Tre này nằm trong khu cực sâu của thế vòng tròn Bát Quái ở Việt Nam. Ví như Hải Nam là Dương trong Âm, đó là lẽ hiển nhiên, nhưng hòn Tre là Dương trong Âm mà lại trở thành khu nghĩa địa, điều đó đi ngược lại với đạo lý bình thường. Tuy nhiên, đó là chuyện lục lâm thích, anh đoán chỗ này là ổ của những Hàng Thịt, vừa rồi thấy có người xâm nhập liền thả một con Thối Nha Hồn Ngư, vốn là loài vật giữ cửa chuyên ăn ác vong ở nghĩa địa ra truy đuổi.” Anh vừa nói xong tôi nghe bên tai những tiếng rít gió, kèm theo đó là mặt biển vốn đã động nay còn có những gợn sóng khổng lồ như có chiếc tàu chở dầu nào đó chạy gần bên. Tôi cũng có chút ngứa tay muốn bắt Ấn xem con này là thứ gì. Anh Hùng gọi về phía sau: “Còn chút nữa thôi!” Rồi anh phóng lên đứng cạnh tôi, anh nói: “Té thôi, không có gì phải căng.” Con thuyền phóng ra ngoài, màn sương chợt biến mất, biển lại êm đềm như chưa có chuyện gì xảy ra. Tàu cập cảng Bãi Chệt ở hòn Củ Tron khoảng một giờ sau, sau khi ông lão cột thuyền đàng hoàng thì anh Hùng liền bẻ cái vô lăng ra thêm một lần nữa rồi vắt nó vào cái ba lô bộ binh của mình. Ông lão dẫn đường, khi đi qua khu nhộn nhịp nhất quần đảo Nam Du này cũng chính là trung tâm của cả hòn, tôi bị những hải sản tươi rói, những quầy đồ lưu niệm đủ màu sắc, những rặng dừa mọc đằng xa xa, những tiếng chào hàng ầm ĩ làm cho ấn tượng dữ dội. Tôi nghĩ về đêm ở đây chắc nhộn nhịp lắm, nào là cửa hàng tạp hóa, karaoke, cà phê, nhà nghỉ, quán nhậu, vân vân đều tập trung ở Bãi Chệt này. Ra khỏi trung tâm, chúng tôi đi vào một con đường mòn nhìn rất thơ mộng, hai bên đường cây che mát rượi, dưới đất lá khô rơi đầy tạo cảm giác như đang đi vào chốn thâm sơn cùng cốc nào đó. Ở đây nhà mọc lên khá thưa, chắc là khu của người bản địa, có một căn nhà đông người hơn bình thường, cờ đen, khăn tang treo đầy chứng tỏ chúng tôi đã đến nơi. Ông lão cởi mũ rồi bước vào nhà, từ bên trong có một anh thanh niên bước ra đỡ tay ông, anh có nước da ngăm đen, cơ bắp cuồn cuộn, mái đầu đinh, khuôn mặt vuông vức, rắn rỏi, ánh mắt từng trải. Anh thanh niên dẫn chúng tôi vào một bàn đang bỏ trống, trên đó có mồi và tí rượu, thằng Sinh vừa thấy liền rót ra uống lấy uống để. Anh thanh niên hỏi chuyện ông lão một hồi thì ông xin phép đi thắp nén nhang, khi ông vừa quay đi, ánh mắt của anh ta thay đổi rõ rệt, anh nhìn anh Hùng rồi nói: “Lan mọc trên đất, người hái lan cứ lo hái lan, sạp thịt ngoài khơi xa thế này, làm gì có lan mà đến, ngoài trồng lan, ai mới đi mua thịt?” Nghe xong, cả bọn ba người đều bất ngờ. Tú Linh nói: “Lan núi lan rừng có hơn tám mốt loại, tìm cũng không biết đường, đói cơm nên tìm thịt, tìm thịt để lấy lan, ăn no đi đường cần Tẩu Lộ.” Sinh uống miếng rượu rồi thêm vào: “Miểu biết hát còn nhiều, người xây còn thì người đập vẫn còn.” Anh Hùng nói: “Săn lan thường thì dễ, săn lan khó mới quý, lan Kiên Lương nghe đâu còn dưới đất chưa mọc lên, nhân vậy mà đi săn lan thử coi sao.” Quý đáp: “Thịt vẫn còn, nhưng người cầm dao đi mất, không biết còn bán được không, nhưng thử để xem người săn lan có đói thịt không đã.” Đoạn, anh thanh niên đó đứng lên, lấy ly cho từng người, rót một vòng rượu, mời chúng tôi uống rồi anh quay về vị trí của mình, anh ngồi xuống, bắt đầu kể. Anh tự giới thiệu mình tên Quý, ba anh được người dân trong vùng này gọi thân mật là Ba Lành, ông làm nghề thợ mộc, cái gì liên quan đến gỗ ông đều làm được, nhưng công việc chủ yếu là đóng và tu sửa tàu thuyền cho ngư dân. Lục lâm cũng thường hay ghé đến, nhờ ông sửa chữa hoặc chế tạo vũ khí cho họ, tất nhiên khoảng tiền họ phải bỏ ra là không nhỏ, Ba Lành chính là một trong mười người đệ tử của Lý sư phụ, tiếng tăm ai ai cũng biết. Khoảng ba ngày trước, có một nhóm người đến nhờ ông giúp làm vài thứ gì đó, nghe xong ông nổi trận lôi đình, đuổi cổ họ về, lúc đó cũng đã khuya. Anh Quý lo công việc ở cầu cảng Bãi Chệt xong, vừa về đến nhà thì thấy ba mình đang mắng trời chửi đất gì đó dữ lắm. Biết có chuyện chẳng lành, anh vào khuyên nhủ rồi còn làm vài món ăn, nhâm nhi tí rượu với ông, lúc sau ông mới chịu bình tĩnh lại, thế nhưng anh Quý vẫn còn khá lo lắng, ba mình đã tuổi cao sức yếu, mấy chuyện sóng gió lục lâm ông đã gác lại, chẳng biết thế lực gì làm ông trở nên như vậy. Anh Hùng hỏi: “Vậy những người đến nhà nhờ vả hôm đó, anh có hỏi lại ba anh không?” Anh Quý đáp: “Tất nhiên. Ba tui nó họ gồm có ba người, ăn mặc cũng bình thường, chỉ lạ cái là trên đầu họ quấn khăn rằn sọc trắng đen không thấy được khuôn mặt, ngoài ra họ còn tỏ ra một thứ áp khí quỷ dị rất nặng. Ba tui nghĩ họ không phải thứ lục lâm thường, họ chỉ dám thì thầm vào tai ông thứ họ muốn, là một cái xích sắt, khi ba tui hỏi làm cho ai thì họ tự xưng mình là Na Long Hội. Lúc đó ba tui mới nổi trận lôi đình, hai ngày sau thì ông chết.” Vẻ mặt anh Hùng hơi thất kinh, nhưng chỉ trong một thoáng, anh nói tiếp: “Na Long Hội đã tan rã lâu rồi, làm gì có chuyện đến nhờ làm xích sắt. Không phải muốn xúc phạm ông anh đây, nhưng tôi không nghĩ họ thật thụ là Na Long Hội đâu!” Anh Quý trả lời: “Không cần phải màu mè, chuyện gì rồi thì cũng đã rồi. Quý tôi tuy cũng chỉ có vài ba thủ thuật bỏ túi nhưng nhìn qua cũng dư biết mục đích của mấy anh chị. Sao nào?” Anh Hùng cười rồi lấy cái vô lăng để lên bàn, vừa trông thấy vật này anh Quý tỏ ra hết sức bất ngờ, chắc anh nhận ra nó được chính bàn tay ba mình làm ra. Anh chụp cái vô lăng rồi săm soi kỹ lắm, anh nói, tay chỉ về phía ông lão: “Đây là cái vô lăng ba tui làm cho chú Năm mà…” Cả đám im lặng, chờ anh Quý nói tiếp. “Ngày xưa có một chú kia lại rủ ba tui đi bán thịt ở Mo So, chắc cũng ngót hai mươi năm rồi, ông tìm thấy một khúc gỗ trong hang, xong lần đó về nhắc đến Kiên Lương là ba tôi lạnh người. Tên chính xác của khúc gỗ là Ưu Đàm Thủy Nha Mộc, loại gỗ này rất quý, âu cũng nhờ vào cách chế tác phức tạp mà ra. Phải chôn gỗ dưới bốn mươi chín mét đất trong một con trăng, khi đào lên thì hơ lửa than hồng trong vòng ba ngày, lúc xẻ gỗ nhất định phải dùng một loại dao đặc biệt đã được yểm Ấn mới được. Nó cứng, chắc và hữu dụng vô cùng, làm nắp quan tài hay cửa thì vật chủ bên trong có thể yên tâm mấy phần. Lúc trước ba tui quý chú Năm lắm nên lấy một phần của khúc gỗ làm cái vô lăng cho ông đi biển được an toàn hơn.” Sinh nói: “Đại ca, anh nhìn kĩ chút nữa đi, trên đó có kinh văn đó!” Anh Quý nghe xong cũng không bất ngờ mà chỉ thở dài: “Tui biết, tui biết. Mấy người muốn nói đến kinh văn của Ca Lâu Thành chứ gì. Thôi đừng úp mở nữa!” Lúc này, cuộc nói chuyện tuy không căng thẳng nhưng tôi có cảm giác nếu không nói hết thì anh Quý này sẽ không tiết lộ gì thêm đâu. Anh Hùng chắc cũng biết vậy, anh lấy lại cá vô lăng rồi nói: “Đúng vậy. Thật ra chúng tôi đang trên đường đi tìm ngọc rết Ngô Công Kim Thân ở Kiên Lương, hôm qua có thấy di chỉ Ca Lâu Thành, nghi ngờ rằng tàn tích ở Kiên Lương kia cũng có liên quan đến tòa thành này nên muốn điều tra ra đầu đuôi?” Anh Quý nghe đến đó thì thất kinh: “Mấy người định vào chỗ của Ca Lâu Vương hả? Không nên, không nên. Quỷ Hồn của ông ta cứ thi thoảng bốc lên, âm khí bao trùm cả một vùng. Vào đó khác gì đi tự tử?” Hùng đáp: “Cám ơn ông anh đã lo. Nhưng tôi còn một người em thân thiết, lúc trước đi trồng lan không may hóa thành hồ ly nên…” Anh nghẹn lại, bỏ dở câu nói, đây là lần đầu tiên tôi thấy anh như vậy, chắc tại không khí trong đám tang này ảnh hưởng đến anh chút đỉnh. Quý thấy vậy thì thở dài, anh nói: “Muốn biết chắc thì chỉ có tìm lại khúc gỗ đó thôi, kinh văn đã có sẵn lúc ba tôi tìm ra nó rồi, cho nên tui nghĩ nếu coi lại có thể biết thêm chút ít. Ba tui giữ nó trong nhà kho, mấy người muốn thì tôi biếu luôn đó!” Sinh nói: “Ông anh hào phóng quá. Nhưng tụi tui không cần của cải gì đâu.” Hùng cũng thêm vào: “Đúng vậy, chỉ cần biết thông tin về Ca Lâu Thành là đã quá đủ rồi. Không biết nhà kho của chú ở đâu nhỉ?” Anh Quý đáp gọn ơ: “Hòn Tre.” Tôi xanh mặt, quay qua lay anh Hùng: “Anh ơi, hòn Tre “này” hay hòn Tre “kia” vậy anh?” Anh Hùng cười gượng, Tú Linh thì chửi thề vài tiếng, Sinh nhìn tôi, nhếch mép nói: “Đoán xem?”
 
Chương 29 : Phần 8: Như Lai Ngũ Chỉ Thiên


Nhớ lại cảm giác hòn đảo u ám lúc ban sáng kèm với sóng lưng rợn rợn làm tôi khô cả họng. Anh Hùng đảo mắt nhìn cả nhóm một lượt, kiểu như dò ý mọi người xem họ có muốn đi tìm nhà kho hay không, không thì anh đi một mình cũng được. Tú Linh thì quay lưng đi, tỏ ra bình thản; Sinh chỉ lo nốc rượu rồi chê không ngon bằng Gò Đen. Anh Hùng quay sang Quý, nói: “Anh có ghe chở tôi ra đó được không?” Quý nhấp ngụm rượu, bảo: “Sao không lấy ghe chú Năm đi kìa?” Anh Hùng nói: “Ghe ổng vướng cái vô lăng, nó có dám vào vùng trong đâu, giờ liều sấn vô cũng được, nhưng bọn Thối Nha mà cắn, hư tàu tội ổng!” Quý cúi mặt, kiểu như anh đang suy nghĩ lung lắm, xong rồi anh ngẩng lên bảo: “Ghe nhỏ thì tôi có, nhưng các anh tự đi, tôi không đi chung, vì còn lo đám cho ông già, phần thì tuy tôi biết về lục lâm nhưng tánh tui ghét nó, hứa với lòng không dính dáng vô rồi.” Anh Hùng gật đầu, bảo chỉ cần vậy là được. Quý hỏi khi nào đi, Hùng bảo càng nhanh càng tốt, Quý hất hàm ra sau, ý nói dưới bến sau nhà có cái ghe dưới đó, tự đi. Ba người Hùng, Tú Linh và Sinh nhất loạt đứng dậy đi thẳng ra sau, Tú Linh quay lại mắng: “Thằng này lề mề, đi nhanh, chế tán cho bây giờ!” . Chiếc ghe loại câu mực nhỏ, nhưng còn mới và chắc chắn, anh Hùng nhìn mà tấm tắc mãi: “Đồ của hàng thịt làm có khác.” Tôi hỏi có gì khác biệt, anh Hùng bảo nhìn kỹ từng tấm ván, tôi cúi xuống xem thật kỹ thì chúng chi chít những ký tự, có thể là kinh văn (đi với họ ít nhiều tôi cũng có chút kiến thức). Tú Linh nói thêm: “Ghe này không dùng đinh tán hay bù-lon gì đâu, toàn dùng Lỗ Ban Tỏa ghép gỗ lại thôi, tuy dùng thủ công nhưng thách Nhóc dùng lực tách nó ra được, có cái này rồi thì đi qua vùng nước của mấy con Thối Hồn Nha cái một.” Nghe Thối Hồn Nha thì tôi lại run lên, những con vật huyền thoại hồi sáng chỉ nghe tiếng rít gió với đập nước cũng đủ làm tôi ghê ghê, nhưng không biết hình thù nó ra sao, Tú Linh nói vậy không biết cô ta trị được bọn chúng hay không, dù sao thì thú thật tôi cũng hơi nghi ngờ khả năng đập miễu của Tú Linh, cô ta là Tẩu Lộ mà. Bốn chúng tôi ngồi gọn trên chiếc ghe, Sinh phụ trách chạy, máy dầu thường giống loại ông Năm nên Sinh chạy ngon ơ. Chúng tôi đi thẳng một mạch về hướng Hòn Tre hay còn gọi là Đảo Bia Mộ. Cùng là đi trên biển bằng ghe như lúc sáng, nhưng hiện giờ tôi không tài nào cảm thấy hào hứng như ban sáng nổi, mặc dù biết tôi đang chung thuyền với những con quái vật giới lục lâm cộng với cả cái phù trên vai, nhưng những thứ chưa biết luôn làm chúng ta lo sợ, giống như ban sáng hình ảnh một hòn đảo đầy bia mộ nhìn thẳng ra biển, sương mù cùng những quái vật trên đó, trên hết là lời dặn của anh Hùng: tại sao tôi đừng chơi dại “bật” Hổ Phù lên? . Hòn Tre hiện ra trước mắt, sương mù lúc sáng đã tan bớt, chỉ có một hòn đảo nhìn bình thường hết sức nếu không tính tới cả ngàn cái bia quay thẳng ra biển. Vẫn còn gần cả cây số mới đến vùng lãnh địa của bọn Thối Hồn Nha, tôi thấy anh Hùng đang ngồi ở mũi, có vẻ suy tư, tôi hỏi: “Sao vậy anh, khó nghĩ gì hả?” Anh vẫn nhìn xa xăm, bảo: “Anh thấy có chuyện gì đó cấn cấn, kiểu như... vụ này không đúng. Những thứ lẽ ra phải theo chính xác những gì anh tính nhưng lòng vòng một hồi lại vào ngõ cụt.” Tôi hỏi chỗ nào không đúng thì anh chỉ lắc đầu, bảo là tôi chưa hiểu được, nói ra chỉ tổ làm tôi lo thêm thôi. Bỗng anh quay sang Tú Linh, nói: “Hàng rong đi biển em có đem đúng không?”, Tú Linh nói có, hồi sáng do mình tránh nên không vào, giờ muốn vào để cô ra tay cho. Sinh vừa lái tàu, nghe vậy bỗng cười kiểu châm chọc: “Làm được hông à nghe chị đẹp, hông thôi em cứu hổng nổi à nha.” Chỉ thấy Tú Linh khịt mũi, cười mỉa mai. Bỗng đâu sương mù lại nổi lên, đặc hơn cả hồi sáng, tôi hỏi anh Hùng lý do sao lại vậy, anh ấy bảo: “Sương mù này không phải sương mù tự nhiên, đồ trấn yểm hết đó, nếu là dân không phải lục lâm đi vào thì sẽ không sao, nếu là dân lục lâm thì âm khí dương khí trên mình hỗn độn, tự động kích hoạt địa thế được yểm sẵn. Bọn Thối Hồn Nha cũng vì thế mới thức giấc, mày sẵn sàng chưa?”, tôi gật đầu đầy mạnh dạn, anh Hùng kêu Tú Linh bước lên. Xung quanh tôi bắt đầu vang lên những tiếng đập nước và rít gió như ban sáng, tôi thầm nhủ sắp chạm trán rồi, để xem bọn nó tài phép cỡ nào! Anh Hùng quay sang bảo tôi bám vào thuyền cho chắc, thuyền nhỏ, lát nữa rung lắc mạnh không khéo tôi lại văng xuống biển. Đầu mũi, Tú Linh đứng chống nạnh nghĩ ngợi gì đó rồi nhìn xung quanh, lấy trong cái túi nhỏ ra vài cây kim châm cứu châm vào huyệt vị ở quanh mắt. Thuyền chúng tôi chầm chậm tiến vào màn sương, nhìn xa không quá mười mét. Một tiếng đập nước rất lớn, sau đó là tiếng gào rú man dại, thình lình từ màn sương phía trước bay đến một cái đầu người khổng lồ, cái miệng há to ra như cái miệng giếng đen ngòm, tóc rất dài bết lại bởi nước. Thối Hồn Nha đã xuất hiện, mình cá heo, đầu người, răng nhọn, tóc dài, chuyên ăn linh hồn, tuy bản thể của nó cũng là linh hồn, giống như Thiên Ma Thù mà anh Hùng gặp ở Mộ Hồ Ly, loài Thối Hồn Nha này cũng có thể gây tác dụng vật lý. Tôi giật mình kinh hãi một phen, chỉ thấy Tú Linh vẫn điềm tĩnh đứng đầu mũi tàu, vung tay tựa như đang phi tiêu, cái đầu đó hóa thành tro bụi. Con quái ngư đầu tiên vừa ngã ra thì trong màn sương, bóng dáng của những cái đầu khác đang ngóc khỏi mặt nước, nhìn trân trân vào bốn chúng tôi. Tú Linh cũng đảo mắt qua lại, tựa như đang kiếm gì đó. Bốn, năm con Thối Hồn Nha khác lao tới, những cây kim từ tay cô lại bay đi vun vút, làm bọn ác ngư còn lại khá e dè. Bỗng cô hét lên: “Chế thấy rồi nhé!”, tức thì một tay cho vào túi rút ra một cây kim khá to, phóng thẳng vào sương mù, tôi nghe tiếng kim loại va vào nhau, trong màn sương lóe lên tia lửa, lúc ấy màn sương tan đi cũng nhanh như khi nó xuất hiện, mặt biển yên lặng, những cái đầu người to tướng đã không còn bơi xung quanh thuyền nữa. Tú Linh phủi tay, ra bộ chuyện cỏn con, tôi đứng dậy nhìn xung quanh thật kỹ thì thấy phía trước cách chúng tôi chừng trăm mét, có một cây cột, đến gần mới nhận ra đó là cây cột bằng sắt, trên đó khắc nhiều hình cá heo mặt người, tựa như con Thối Hồn Nha lúc nãy. Tôi hỏi Tú Linh vừa nãy là sao, cô ta quay sang Sinh, kiểu như dằn mặt rồi mới giải thích cho tôi. Có thể hiểu đại khái là, vùng biển này được trấn yểm bằng bốn cột sắt ghim xuống biển, gọi là Vu Hồi Trụ, nếu cô đoán không lầm thì bốn hướng của Hòn Tre có ghim bốn cây lần lượt theo hướng Đông-Tây-Nam-Bắc là bốn loài quái thú trấn giữ: Hoảng Báo Đầu (báo biển), Thối Hồn Nha (cá heo), Diệp Mặc Đẩu (bạch tuộc) và Sa Cáp Lị (con hàu). Cây cột sắt được rèn trong lửa phép, chịu được ăn mòn, có chức năng như cây ăng-ten thu sóng âm dương, khi âm dương hỗn độn thì mở cửa cho bọn trấn thú xuất hiện. Bọn quái thì đông vô kể, chiến đấu ngày đêm cũng không giết hết, chỉ có cách duy nhất là tìm được cây cột, ghim vào đó vật trung hòa, hoặc Ảo Khí Chức, mảnh vải tựa như bùa, đánh lừa cách mà cột sắt phân định được âm dương. Đã biết được nguyên nhân, việc còn lại quá đơn giản, Tú Linh tự khai thông huyệt đạo, nhắm thẳng hướng đó mà bắn thôi. Thuyền chạy qua cây cột, tôi vẫn nhìn thấy trên đó còn ghim cây kim mà Tú Linh đã phóng, lút cả nửa cây! Thế là tôi không dám coi thường cô ta nữa. Nếu không tính lũ quái ngư ngoài kia và cả ngàn cái mộ thì Hòn Tre vẫn khá đẹp. Chúng tôi đậu thuyền ngay một bãi đá nhiều màu, không có bãi cát, trước mắt là một cánh rừng nhỏ, cây khá thưa nên có thể thấy phía sau là một khu nghĩa địa. Anh Hùng bảo anh nghĩ hướng đó là nhà kho, vì đảo này nhỏ, nên đi đường nào cũng đến, nên lựa đường ngắn nhất vậy. Nghĩa địa sau cánh rừng gồm cả ngàn ngôi mộ, tuy nhiên điểm làm tôi thấy sợ không phải nó có quá nhiều mộ, mà là cách bố trí. Mộ ở đây không thấp như những cái tôi biết, nó cao hơn đầu, bia mộ cũng to hơn, thân mộ đắp đủ kiểu, có cái bằng đất, có cái đắp gạch nung thô, cái thì xây theo kiểu Chàm nữa, đặc điểm chung là tuy chúng đều mang dấu ấn thời gian rất lớn, Sinh bảo những người dưới kia hẳn đã nằm đó cả trăm năm, nhưng lại khá sạch sẽ. Anh Hùng dẫn đường, tôi và Tú Linh đi giữa rồi đến Sinh. Con đường xuyên nghĩa địa không thẳng, mà gấp khúc liên tục, cảm tưởng như chúng tôi đang đi trong một con hẻm chứ không phải ở nghĩa địa. Ngộ cái là nền đất ở đây không cứng, bước đi cảm thấy lún xuống nhẹ, như lò xo vậy, lâu lâu dưới lòng đất có tiếng “uỳnh uỳnh”, nghe như con gì đang đi hoặc là có xe cơ giới nào chạy vòng quanh vậy. Hòn Tre có chiều dài khoảng ba cây số, chiều ngang rộng nhất cũng chỉ chưa đến một cây số, tuy nhiên chúng tôi đi hơn nửa tiếng vẫn chưa ra khỏi nghĩa địa. Cảm thấy có chuyện không ổn, Sinh không cần ai nhắc liền đánh dấu lên một ngôi mộ. Tôi không hiểu sao lại đánh dấu làm gì, vì đường chúng tôi đi cảm giác luôn đi tới, không có trạng thái đi vòng lặp, điều này khác hẳn lúc tôi lạc trong Vách Ma Giấu. Tôi quay sang hỏi Sinh nhưng cu cậu im lặng. Anh Hùng và Tú Linh bỗng đứng lại, anh Hùng nói: “Lãnh địa hàng thịt có khác, anh chỉ nghe điều này trong sách vở, hôm nay tận mắt chứng kiến quả là mở rộng tầm mắt!” Tú Linh nói thêm: “Cỡ ông Ba thì có thể đó.” Tôi hỏi ba người họ chuyện gì, Sinh bảo cứ để đó đi, lát cho tôi mở mắt. Anh Hùng ra dấu cho chúng tôi đi tiếp, những ngôi mộ cao hơn đầu người làm tôi thấy lạnh lẽo đến đáng sợ, những bia mộ cũ sứt mẻ, thỉnh thoảng có những di ảnh nhìn trân trân. Quả nhiên chưa đầy năm phút sau, Sinh phát hiện ra chỗ mình đánh dấu lúc nãy, tuy nhiên cảnh vật xung quanh, vị trí các ngôi mộ khác hẳn. Anh Hùng bảo tất cả dừng lại, rồi quay sang tôi giải thích là đã lọt vào một loại mê cung, tên của nó là Rùa Cõng Mộ. . Phục Ma Thư mà Viễn Từ để lại cho Chín Danh, rồi ông Chín lại đưa cho Hùng, bao gồm một ngàn không trăm tám mươi (1080) bài chú diệt ma, ngoài ra còn có một số câu chuyện liên quan, kể về các công cụ hỗ trợ. Trong đó có nhắc đến chú Triều Áng Quân, loại chú diệt ma nước bình thường, người tạo ra ấn này không rõ lai lịch, chỉ biết được rằng trong giới trồng lan, đập miễu thì nó có tên là Triều Áng Quân, còn trong giới bán thịt cũng có những công cụ có tính chất tương tự, gọi là Sân Rùa, Sân Rùa là tên của Mê Cung theo cách gọi dân hàng thịt, anh Hùng kể ra một số loại Sân Rùa như Rùa Chạy, Rùa Bù Lốc, Rùa Trôi Sông và Rùa Cõng Mộ. Sân Rùa là cách vận dụng âm dương của giới hàng thịt khi muốn cản trở ai đó, giống với giới săn lan và đập miễu thì dùng Tiêu Đồ Hống như ở Vách Ma Giấu chẳng hạn. Một bên dùng ấn chú, bên còn lại dùng… tự nhiên. Sân Rùa, đúng như tên gọi của nó, là cả ngàn con rùa kết hợp lại với nhau theo ý đồ của người bày trận. Lý do chọn rùa là vì tuy nó chậm nhưng sống thọ, có thể bố trí một trận đồ mà đến trăm năm sau vẫn sử dụng được, nghe nói ngày xưa, các tiền bối hàng thịt có tạo một trận đồ như vậy cho giới Xuyên Hải, nhưng làm bằng tôm hùm. Thông tin đó chưa kiểm chứng được, nhưng nếu có trận đồ bằng tôm hùm thì hầu như vài trăm năm là bình thường. Trở lại chỗ chúng tôi đang kẹt, Rùa Cõng Mộ, anh Hùng giải thích, nếu theo đúng trận đồ, khu nghĩa địa này có hình bát giác, bên trong chia ra ba trăm sáu mươi (360) hình vuông và bảy (7) hình thang nằm vòng rìa, bên dưới cái mà tôi nghĩ là “mặt đất”, kỳ thực có tổng cộng ba trăm sáu mươi bảy (367) con rùa cạn khổng lồ, mỗi con được đắp một khoảnh đất trên lưng, ba trăm sáu mươi con có khoảnh đất vuông, bảy con hình thang là “hội đồng đầu đàn”, khi phát hiện có nguồn khí hỗn độn, những con rùa này sẽ để cho đối phương đi trên lưng, khi vào gần giữa trận đồ thì chúng sẽ di chuyển để tạo cảm giác lạc trong mê cung. Trận đồ này không có sát ý, chỉ là làm kẻ địch thối chí, không tiến vào được, khi đó sẽ bị ảo giác từ các ngôi mộ làm sợ hãi mà phải quay ra. Tôi hỏi nếu vậy sao không leo lên các ngôi mộ mà đi, anh lắc đầu, bảo là trận này chỉ hù dọa, nếu kẻ bị hù còn ngoan cố, thì trên đỉnh mộ là đủ thứ bẫy, rắn, rết, trình độ “chơi đồ” của hàng thịt vốn không thể xem thường. Cho nên nếu quay đầu đi trở lại, tự khắc sẽ được dẫn ra chỗ lúc mới vào, còn cứ sấn tới thì càng đi càng rối, leo lên trên thì gần như cầm chắc cái chết. Tôi cực kỳ khó nghĩ, không biết làm sao ra khỏi đây, tới lui hoặc leo lên đều không được, không lẽ chui xuống đất? Anh Hùng ra dấu cho Sinh đào một lớp đất chỗ tiếp giáp hai ngôi mộ, nó khoét cái lỗ cỡ cái tô rồi đạp mạnh, bên dưới lộ ra một hang nhỏ phát ra những tiếng uỳnh uỳnh dữ dội. Anh Hùng phóng xuống trước rồi tới Tú Linh, Sinh nhìn tôi, giục: “Nhảy đi cha, đứng nhìn cái gì.” Thú thật tôi thấy rất lo, không thứ gì đang chờ bên dưới nữa, chần chừ mãi cũng nhảy xuống, cũng may có anh Hùng đỡ lại nên té đỡ đau. Sau đó, anh kéo tôi vào cạnh anh, vừa đó Sinh cũng nhảy xuống, đứng sau lưng tôi. Dưới này tối om, không gian nồng mùi cỏ và rất hôi, anh Hùng bảo bắt ấn khai nhãn, tôi làm theo thì một cảnh tượng hết sức bất ngờ đập vào mắt. Tôi đang đứng dưới chân một con rùa khổng lồ, khe nứt lúc nãy tôi chui xuống nằm giữa hai khoảng đất của hai con kế nhau. Nhìn xung quanh chỉ có những cái chân sần sùi to như cột đình, ngẩng lên thì cái mai phải cao đến ba, bốn mét. Những con rùa vẫn đang di chuyển như được lập trình sẵn, rất nhịp nhàng, con này qua trái, con kia qua phải, tiến, lùi, ngang, chéo đủ cả. Anh Hùng ra dấu tiến về trước, phía xa có một ánh sáng le lói, có lẽ là đường ra, chúng tôi cúi thấp người, di chuyển qua những cái cột khổng lồ kia, nếu không có anh Hùng và Sinh hướng dẫn, chắc tôi bị đạp bẹp dí rồi. Do phải cúi người, đi và né nên di chuyển chậm, tuy nhiên tầm mười phút sau đã chui ra ngoài, nhìn lại thì lỗ ra là một hốc trong ngôi mộ kiểu người Tàu hay xây. Cả đám thở phào, thấy vậy tôi mới hỏi sao anh Hùng biết cách này, anh chỉ cười rồi nói: “Anh đoán vậy thôi.” Có khi anh đoán thật, làm nghề săn lan, linh cảm là một thứ hết sức quan trọng mà chỉ những người sành sỏi mới luyện được. Tôi hỏi thêm về trận đồ này, về lũ rùa đó, anh Hùng bảo, lũ rùa đó chắc cũng đã trăm tuổi cả rồi, chúng là Rùa Đá. Người tạo trận, trước hết dùng La Kinh chọn một mạch đất âm, làm nền bằng đá trắng, trên nền đá khắc chú, dùng để “lập trình” cách di chuyển cho bọn rùa, bọn rùa này được nuôi bằng cỏ Máu Chó, mọc liên tục trên các đường nối của các mảnh đá trắng, nguồn âm khí trên các ngôi mộ tạo một môi trường khép kín, ngăn không cho thế lực bên ngoài làm hại chúng, chúng cứ ăn, đi vòng quanh khi có kẻ lạ xâm nhập, khi bình thường thì ngủ. Do lối vào và lối ra là cố định chỉ có đường đi bên trong là xáo trộn, nên về lý thuyết có thể thấy được lối ra khi đứng ở chân rùa. Tôi nghe đến đó xong rồi quay lại nhìn vào cái hốc, bên trong theo tôi đúng là một kỳ quan, cổ nhân đôi khi làm ta kinh người. . Tạm gác chuyện Mộ Rùa sang một bên, tôi đưa mắt nhìn khu này một lượt, xung quanh có rất nhiều cây cao che mát cả một vùng. Giữa nơi đó là một cái chòi con, có vẻ là nhà kho, tuy nhiên có một điều không bình thường: ánh đèn bên trong. Quái lạ, trên đảo này toàn mộ, làm gì có ai sinh sống? Anh Hùng vẫn đi trước, anh nói: “Tới thì cũng tới rồi, hy vọng là chú Ba không còn thứ nào làm tụi mình lên bờ xuống ruộng.” Sinh cười lớn, bảo: “Chắc kèo rồi anh ơi, anh nhìn mấy cái gốc cây kìa!” Theo lời Sinh, bọn tôi vừa đi vào trong, thấy rằng dưới mỗi gốc cây có một thứ trông giống cái chuồng chó, nhưng lại na ná miễu. Bên trong có lư hương, đèn cầy đã tắt, lại có thêm một tượng chó to như con bò, bị một tấm vải đỏ trùm đầu lại. Xung quanh như lời Tú Linh nói là hết sức bình thường, không có dấu hiệu âm khí dâng cao hay quỷ hồn lan tỏa, áp khí lại càng không. Anh Hùng dừng lại, tiến đến gần một cái miễu nhìn kỹ vào bên trong. Bỗng đâu xung quanh vang lên tiếng cười “hí hí” rất quái dị, tuy nhiên vẫn như khi nãy, không có dấu hiệu gì của âm khí cả! Tiếng cười vang lên càng lớn, bỗng đèn cầy trong miễu chỗ anh Hùng đến xem bừng cháy, anh lui ra sau, hét lên: “Tạm thời rút về chỗ lúc nãy, nhanh!” Anh chưa nói dứt câu, hàng loạt những cái bóng đen phóng từ trong miễu ra, những pho tượng chó đã biến thành chó thật. Mảnh vải đỏ vẫn trùm trên đầu chúng, chỉ có cái lưỡi đỏ hoét, dài thườn thượt thè ra bên ngoài. . Cả trăm con chó đã bao vây chúng tôi, những tiếng cười hí hí lúc nãy là của chúng. Sinh nói: “Mọi người dạt qua, để tui xử đẹp lũ chó dại này!”, nói rồi nó kết Ấn, đạp chân xuống đất, nó đang cố đánh ngã những con chó này. Nhưng vô dụng! Ấn không thành. Lũ chó cười man dại và siết chặt vòng vây hơn, chúng đi vòng quanh như chờ sơ hở là xông vào. Sinh ngơ ngác vì Ấn không thành, nó làm lại cả chục lần cũng vậy. Tôi cũng thử khai nhãn, vô dụng nốt. Anh Hùng và Tú Linh cũng như thế. Tú Linh nói với anh Hùng: “Lúc trước, có lần sư phụ em kể về ngày còn theo Lý Tổ sư, thầy có một bài chuyên dành cho hàng thịt, dĩ nhiên là chỉ có ông Ba làm được, tên là Như Lai Ngũ Chỉ Thiên.” Cả tôi, Sinh và anh Hùng đều quay nhìn Tú Linh. Cô kể, trong giới săn lan và đập miễu dùng bốn cách diệt ma là Quyết, Ấn, Chú và Phù thì những người hàng thịt cũng có bốn cách hay nhất để làm “đồ chơi” cho lục lâm, gọi là Quan, Tập, Hình, Thiên. Quan là đồ gây sát khí trực tiếp như dao, kiếm, rựa, búa, vân vân. Tập là cách bày trận đồ, tựa như Rùa Cõng Mô lúc nãy, Hình là điều khiển vật vô tri còn Thiên là tạo một không gian bị ngăn cấm. Nói nôm na cho dễ hiểu, ví dụ người tạo ra Bất Tiếu Thiên, ai vào khu vực đó không được cười, nếu cười sẽ bị hút sinh khí, thành xác khô mà chết. Một Thiên được tạo thành bởi ít nhất bốn Tỏa, nghĩa là những cột mốc đánh dấu khu vực “Thiên”. Trong các loại Thiên, Như Lai Ngũ Chỉ Thiên thuộc hàng thượng thừa, bởi người nào lọt vào đây, không thể dùng được Ấn, Quyết, Chú hoặc Phù. Muốn phá Như Lai Ngũ chỉ Thiên có một cách duy nhất là tìm được năm Tỏa của nó, rồi tìm cách hủy, chỉ cần hủy hai trên năm Tỏa là được. Nhưng hiện giờ bốn phía bị chó dữ bao quanh, vật lộn với nó đã khó huống gì còn phải đi tìm năm cái Tỏa. Bốn chúng tôi co cụm lại, tạm thời anh Hùng vẫn chưa có giải pháp tốt nhất, lũ chó thì càng ngày càng lại gần hơn cùng với những tiếng cười khó chịu. . Bỗng đâu có tiếng gậy đập vào đá kêu lên chan chát, rồi một ông lão ốm nhom lù lù xuất hiện, tóc búi củ hành, áo bà ba đen, quần nâu xắn quá đầu gối, ông cất tiếng tựa như chủ nhà la mấy con chó ngưng sủa vậy, nhưng bằng ngôn ngữ gì nghe lạ lắm, quả nhiên lũ chó nằm xuống rên lên ư ử. Tôi nhìn kỹ khuôn mặt ông lão thì thấy có gì đó không đúng, Sinh cũng nghĩ giống tôi nên nó hỏi: “Sao ông này nhìn quen quen vậy?” Anh Hùng cũng ngây ra, rồi nói: “Ừ, mày thấy quen là đúng rồi, hồi nãy mày có nhìn di ảnh của ổng rồi mà!” Tôi giật bắn người: trước mặt tôi là Ba Lành sao?
 
Chương 30 : Ngoại truyện


Đầu thế kỷ thứ nhất, thứ hai, đã xuất hiện những ghi chép cổ nhất về các nhóm người sống ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long ngày nay. Trình độ tổ chức xã hội tuy chưa cao nhưng họ cũng có một số cơ sở về văn hóa, thành thị, tạo tiền đề về các đô thị sau này của văn hóa Óc Eo (Phù Nam). Khu vực này vào thời đó đã là một trạm trung chuyển hết sức sầm uất, các tuyến đường từ Ấn Độ, Indonesia thậm chí xa hơn là từ Trung Đông, Tiểu Á khi đến giao thương với Trung Quốc đều dừng ở đây để sửa chữa thuyền, tiếp lương thực, khi quay về thì mua ở đây các nguyên liệu, ngọc quý, trang sức. Nhu cầu vàng, bạc, đá quý khi đó phải nói là cực kỳ lớn, miền Tây khi đó chủ yếu là đầm lầy, kênh rạch, lượng vàng không nhiều, chủ yếu là kiểu mua đi bán lại, như vậy thì làm sao mà lời nhiều được, với lại không chủ động được lượng hàng. Hai thế kỷ này đánh dấu một tiền đề cho giới Lục Lâm, bắt đầu xuất hiện những con người đi thu mua, lúc ấy họ được gọi là Phệ Đà (vì hay cải trang thành người truyền Ấn Độ Giáo, dùng kinh Phệ Đà, rồi có tên như vậy) mãi sau này mới có danh xưng chính thức cho họ, Thả Diều. . Sang cuối thế kỷ thứ hai, đầu thế kỷ thứ ba, nhà nước Phù Nam bắt đầu xác lập vị thế, bên cạnh đó khu vực này đang nổi lên một số thế lực khác như thời kỳ tiền Angkor, các đô thị nhỏ như Ca Lâu, Cổ Ngạn, Tất Đà phân bố lẻ tẻ từ dải Hà Tiên, Thất Sơn, Hồng Ngự. Lúc này, vị thế trạm trung chuyển của khu vực ĐBSCL đã trở thành một trung tâm thương mại rất lớn. Lý do là thay vì chỉ thu mua rồi bán lại bảo vật như trước kia, nhóm những người Phệ Đà đã phát triển ra thêm, họ đi săn những thứ là thế mạnh của vùng đầm lầy đồi núi ở Nam Bộ, như da hổ, nanh hổ, nanh trăn, mật vích, sừng tê rồi đến cả ngọc rết, ngọc kỳ lân, kỳ nam, trầm hương. Những mặt hàng này khi ấy săn hãy còn dễ, giá trị cao, các vùng Trung Hoa và Tiểu Á rất ưa chuộng. Lúc này, một nhóm nhỏ từ Phệ Đà dần tách hẳn ra khỏi giao thương, chuyên đi săn hàng, họ chính là giới Săn Lan. . Thời kỳ đầu của Lục Lâm kéo dài đến khoảng thế kỷ thứ bảy, khi đó vương quốc Phù Nam sụp đổ, biến mất hết sức khó hiểu. Từ một trung tâm giao thương sầm uất, Nam Bộ lúc này dần trở lại hình thức đô thị nhỏ lẻ như xưa, thành quách mọc lên rừng cây, rồi từ rừng cây mọc lại thành quách không biết bao nhiêu lần. Lúc này, Lục Lâm co cụm lại, vẫn tiến hành các hoạt động săn tìm và giao thương, phía bắc thì các vương quốc Tiền Cham Pa (lúc ấy gọi là Lâm Ấp) Tây thì qua Chân Lạp, vẫn có các thuyền buôn từ Tiểu Á, Ấn Độ tuy quy mô không còn lớn. Lúc này xuất hiện một biến động tiếp theo, khoảng năm 605, nhà Tùy bên Trung Quốc, thời Tùy Dạng Đế đánh chiếm Lâm Ấp, lập ra quận Tỷ Ảnh. Lâm Ấp khi đó có thuật chế tác cả đá và gỗ rất tốt, những thợ thuyền chuyên làm đồ táng cho vua chúa xứ này bị nhà Tùy truy lùng gắt gao, một phần đã trốn chạy về phương Nam, tụ lại với Thả Diều và Săn Lan, họ chế tác các đồ thủ công phục vụ mục đích hai giới kia, ban đầu còn chưa có danh xưng, họ hay gọi mình là Bách Phường Thợ, nghĩa là chế tác đồ gì cũng được, sau này khi Lục Lâm ổn định, họ có tên gọi chính thức là Hàng Thịt. . Thời kỳ tiếp theo của Lục Lâm khá bình ổn, thị trường chủ yếu lúc này là Angkor và Trung Hoa. Biến động tiếp theo mãi đến năm 1258, tức là lần đánh quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Lúc này, một đạo quân thủy do Toa Đô chiếm đánh Chiêm Thành, phía nam Đại Việt, tạo thế gọng kìm với hai cánh quân phía bắc, quyết tiêu diệt vua tôi nhà Trần. Trong lần hai này, do rút kinh nghiệm lần đầu binh lính do không quen thổ nhưỡng phương Nam, chết rất nhiều, Toa Đô bèn đem theo rất nhiều thầy thuốc để lo cho quân sĩ. Lần hai thất bại, Toa Đô rút chạy, lo sợ bị trả thù cho nên các vị thầy thuốc này bỏ trốn rất nhiều. Chiêm Thành là nước nhỏ, lại gần tầm ảnh hưởng của quân Mông Cổ, họ bèn chạy thật xa vào phương Nam, đến khu vực ngày nay thuộc Biên Hòa, Tây Ninh rồi định cư. Thời gian đầu, Lục Lâm vốn ở ĐBSCL vẫn chưa có thông tin về họ, sau này do danh tiếng nên cũng tìm đến, đầu thế kỷ XIV, Lục Lâm chính thức có một nhóm chuyên lo thuốc thang, trị thương riêng. Thời gian đầu, nhóm thầy thuốc này gọi là Hoa Đà Túc, nghĩa là cái chân của Hoa Đà, nghe qua có ý như khiêm tốn về tài năng của họ, tuy nhiên thực ra nó nghĩa là “Hoa Đà chạy trốn” với lại nhờ có chân nên Hoa Đà mới “đứng được” - khẳng định họ “đứng được” nhờ tài năng. Họ chính là tổ tiên của Hàng Rong. . Khoảng cuối thế kỷ XIV, Hồ Quý Ly chuyên quyền, uy hiếp vua tôi nhà Trần. Vùng quê Thiên Trường, Nam Định của vua Trần trước kia là làng chài yên lành, nay bỗng nhiên bị truy sát. Bên Trung Quốc lúc này nhà Minh đang ráo riết chuẩn bị đánh Đại Việt, dòng họ vua Trần ghét cay ghét đắng những kẻ như Trần Ích Tắc, thà chết chứ không qua đất Bắc, nên cũng dạt về Nam. Phương Nam biển đẹp, cá nhiều, sản vật xa khởi vô cùng phong phú, những người này ban đầu đi săn tổ yến máu, san hô bảy màu, vi cá rồi bán ra. Lục Lâm nghe tiếng, bèn tìm đến đặt hàng những kèo ngon. Họ là những Thông Hải thời đầu, tuy nhiên khi đó họ tự gọi là Trần Vĩnh Thôn, đóng tại vùng nay là Tuy Hòa, Phú Yên. . Cũng thời gian đó, ngoài Bắc Hà đang vào giai đoạn Nam Bắc Triều, nhà Mạc rút lên Cao Bằng, có sự giao thoa văn hóa với vùng Vân Nam, Trung Quốc. Khi nhà Mạc bị diệt, một số người rút sang Trung Quốc mưu đồ phục hưng nhà Mạc. Tuy nhiên nhà Minh lúc này đã vào thời tàn vận, khi nhà Mạc vong khoảng năm 1592, nhà Thanh đang dần lớn mạnh, Việt Nam vào thời Lê - Trịnh có quân đội hùng mạnh, vua Minh chứa chấp loạn quân Mạc triều không khéo lại tạo cơ hội nhà Trịnh kéo quân sang, cho nên ép bức tàn dư Mạc Triều phải đi nơi khác. Nhánh này di dân sang Miến Điện lúc này là triều Taungoo, tuy nhiên nội bộ Miến lúc này rối loạn, điều kiện sống khắc khổ, nhánh Mạc này tiếp tục di dân về phía nam, theo dòng Mekong, lần lượt qua các nước Lan Xang, Ayutthaya, Chân Lạp, mãi đến đầu thế kỷ XVII, khoảng năm 1620, họ đến vùng Nam Bộ, lúc này vẫn là vùng đất ít chịu ảnh hưởng từ các quốc gia khác. Họ dừng chân ở Gò Công và Cái Bè, lập ra Tưởng Mạc Thôn. Trải qua bao năm bôn ba lặn lội từ Trung Hoa, qua các nước Miến, Xiêm, Chân Lạp, thứ họ thu được nhiều nhất là phương thức bùa, chú của các văn hóa trên. Miền Tây khi ấy hãy còn là rừng thiêng nước độc, ma quỷ vô số. Thầy pháp khi ấy không phải không có, tuy nhiên phương pháp còn thô sơ. Những hậu nhân họ Mạc này đem đến một phương pháp khác, uy lực hơn và hiệu quả! Khi đó họ hay đi trừ ma kiếm sống, xưng là Tưởng Mạc Đạo nhân (Đạo sĩ nhớ về nhà Mạc), họ tạo ra các phương pháp diệt ma, tạo ra Phù. Họ là tiền nhân của Đập Miễu. . Tám mươi năm sau, cũng là họ Mạc, nhưng là một nhóm người Trung Quốc di cư tránh nhà Thanh, những năm 1700, họ cập bến vùng Hà Tiên ngày nay, biến Hà Tiên thành một đô thị sầm uất trở lại. Những người này dẫn đầu bởi Mạc Cửu. Trong những người đi theo ông, có một nhóm thầy phong thủy, lo sợ bị nhà Thanh bắt đi xây lăng mộ nên đã vượt biển. Họ có tài về xem long mạch, trấn yểm, kể cả các loại bùa ngải trấn long khác. Ban đầu họ sống ở Hà Tiên, rồi dần dần di sang các vùng khác. Ngành nghề của họ phù hợp cho những ai muốn đi săn lan hoặc đập miễu, thế là không rõ chính thức từ lúc nào, họ trở thành một phần của Lục Lâm, với tên gọi là Đào Giếng.
 
Chương 31 : Phần 9: Quỷ Hồn Ca Lâu Vương


Cả nhóm đứng im lặng, không khí xung quanh trở nên ngột ngạt đến lạ thường khi ông lão đằng kia tiến đến gần chúng tôi. Hùng ra dấu bảo chúng tôi lùi ra sau, anh đứng chắn phía trước, giơ tay ra chặn ông lão lại khi ông ấy đi xăm xăm tới. Rõ ràng đó là khuôn mặt trong di ảnh, không thể lẫn đâu được. Sinh quay sang anh Hùng nói nhỏ: “Phục Ma Thư có chú nào siêu thoát không anh, làm một bài tiễn ông nội này đi giùm em đi.” Anh Hùng nói: “Có thì có, bài cứng lắm, nhưng này là người thật, ông nội anh mới làm ổng siêu thoát được, hay mày giết ổng đi rồi tao tụng chú siêu thoát cho.” Sinh lắc đầu ngao ngán. Anh Hùng nói: “Chẳng hay ông đây là?”, ông lão nọ phá lên cười khà khà những tràng rất khoái chí rồi quăng cây gậy ra, bảo: “Mèn đét ơi, tưởng đâu mày dẫn theo Lý Tổ sư, khà khà.” Cả đám lại ngơ ngác nhìn nhau, Hùng giả vờ: “Chú Ba khoẻ không?” “Khoẻ, khoẻ re, hề hề” - ông lão kia đáp làm phần nào đó trong chúng tôi bắt đầu có cảm giác đây chính là Ba Lành! Bỗng ông lão nhảy chồm đến phía tôi, định lấy tay kéo lưng tôi quay về phía ổng, anh Hùng chụp tay ổng lại, nói: “Chú Ba nãy nhắc đến Lý Tổ sư? Chẳng phải ông ta chết rồi sao?” Hùng vừa nói xong, không hiểu thế nào mà lão bỗng ngồi thụp xuống, lấy tay che đầu lại, điệu bộ hết sức hốt hoảng làm đám chúng tôi cũng một phen hú vía, ông nói mà như hét: “Con đâu biết gì đâu, Thầy đừng đánh con, Thầy đừng đánh con…con đâu biết gì đâu, Thầy ơi...” . Hùng quay sang nhìn Tú Linh, mặt cô cũng thoáng chau lại rồi mới đưa mắt nhìn Hùng, điệu bộ như đồng ý với suy nghĩ của Hùng: ông Ba đã hoá điên! Anh Hùng vừa định đến bên ông Ba nói gì đó thì bị Tú Linh ngăn lại, cô ngồi thụp xuống kế bên, khoác tay lên vai ông Ba, trông rất gần gũi, bảo: “Bác Ba nhớ con hông, con là đồ đệ của Lục Tỷ nè.” Vừa nói, tay cô rất nhanh, dùng hai đầu ngón trỏ và áp út, nhưng thực ra có lẽ là phần móng tay, ấn vào đỉnh hai bên sau đầu rồi hai bên cổ. Bỗng nhiên ông lão vẻ mặt bình thường trở lại, quay sang nhìn Tú Linh, cười điệu bộ hết sức thân mật, bảo: “Mày hả Sáu? Hôm nay mày đến thăm tao hả? Mày đừng đến đây…”. Ông bỏ lửng câu nói chỗ đó rồi đưa mắt rảo xung quanh như kiểu xem có ai đang theo dõi hay không, rồi ghé tai nói nhỏ với Tú Linh: “Thầy còn sống, còn sống đó, mày đừng đến gặp tao, Thầy biết là thầy xử hai đứa đó, nghe chưa, mày nhớ hồi đó mà phải hông, con Tám đó, tao giả chết nên Thầy tha tao đó, mày nghe tao đi Sáu!” Thú thật lúc ấy, khuôn mặt của bốn chúng tôi đều như nhau - ngơ ngác. Tú Linh muốn chắc lại, bèn thử hỏi về các kỹ thuật của Hàng Thịt cũng như các vấn đề của Lục Lâm khác, lão đều trả lời răm rắp, nhưng vẫn gọi Tú Linh là “Sáu”. Cô đứng dậy, ra vẻ bất lực, đi về phía anh Hùng bảo: “Theo những nhận dạng em biết được về chú Ba thì đúng là người này rồi, cái bớt trên trán không lẫn đâu được!” Tuy nhiên trước mặt chúng tôi là một Ba Lành đang bị mất trí, vô cùng hoảng loạn mỗi khi nhắc đến Lý Tổ sư. Nếu vậy thì trong quan tài là ai? Anh Hùng cảm thấy thế này thì không ổn, bèn đến bên ông Ba, hỏi: “Chú Ba, con nghe nói chú từng đi vào hang Mo So, con định tìm Ngọc Rết trong đó, trong đó có không vậy chú?” Trái ngược với suy nghĩ của anh Hùng rằng lão vẫn trả lời ngây ngô, đột nhiên mặt lão căng lại, tỏ vẻ rất trầm ngâm, rồi như nhớ lại gì đó kinh khủng lắm, ông lại ôm đầu kêu lên: “Có, có, tui vô trỏng rồi, đừng có vô, a a…” Anh Hùng ra hiệu Tú Linh tiếp tục điểm huyệt, cô làm ông trấn tĩnh lại một chút rồi mới hỏi nhỏ: “Anh Ba, em định vô đó, mà nghe nói có Quỷ hồn Ca Lâu Vương, em sợ đi công cốc, vừa không tìm được Ngọc Rết, vừa gặp Quỷ Vương thì chết em.” Cô nhái cách nói chuyện của Lục Tỷ. Ông Ba bình tĩnh lại, thở đều, rồi nói: “Lúc đó tao đi với thầy, có Ngọc Rết đó, có Ngọc Rết đó…” rồi ông lại cười khà khà và vỗ đùi chan chát! Anh Hùng hỏi: “Chú Ba, nãy con ghé nhà gặp anh Quý, anh Quý không biết chú ở đây, chú làm sao hay vậy?”, rõ ràng là anh đang muốn hỏi về thực hư chuyện ông giả chết. Ông Ba quay sang nhìn Hùng, nhếch mép cười: “Thằng hai nó chỉ được cái làm theo lời tao nói, chớ đụng chuyện mà không có tao, nó biết kỹ thuật là gì thì tao cùi cho mày xem!” Chúng tôi vẫn im lặng, ông Ba nói tiếp: “Tụi bây biết sao hông, tao thấy không ổn, tao sợ Thầy phạt tao, tại Thầy tới kiếm tao, mà tao đâu có chịu đi với Thầy. Thầy khác rồi...tao sợ lắm, Thầy tao ổng dữ lắm đó, cái tao giả chết, tao lấy cây gòn, dùng Hình tạo dáng cho nó, thế mà thằng hai nhà tao không nhìn ra, uổng công tao dạy nó gần ba chục năm nay!” Thì ra ông lão dùng hình nhân thế mạng. Sau đó cả anh Hùng, Tú Linh và Sinh cố dở hết mánh của Lục Lâm để khai thác ký ức từ ông Ba, nhưng ông thực sự bị mất trí rồi, nên chẳng nhớ được gì, cứ hễ kể đến lần nhóm ba người lạ mặt đến thì ông lại nói Lý Tổ sư về kêu ông đi theo làm đồ, ổng không chịu, sợ thầy phạt nên ổng giả chết trốn ra Hòn Tre này, đó cũng là lúc ổng dựng nên Tứ phong ấn bốn phía đảo. Chúng tôi cảm thấy bế tắc đang dần hiện rõ, bỗng ông Ba nhìn lên ba lô anh Hùng đem theo và thấy cái vô lăng, ông kêu lên rồi chạy đến sờ vào nó, hết sức nhẹ nhàng như người chủ đang vuốt ve chú cún. Thấy vậy, anh Hùng liền hỏi: “Này đồ chú Ba làm phải hông? Đẹp lắm đó, sao chú khắc được mấy chữ này vậy?” Ông Ba cười hề hề, bảo là chữ này tiếng Phạn cổ thôi, có gì ghê gớm, Lục Lâm lão làng ai mà không tinh thông. Bỗng ông như sực nhớ lại gì đó rồi đứng dậy ù chạy vào căn nhà lụp xụp, chúng tôi cũng chạy theo sát bên. Căn nhà kho chỉ chừng ba mươi mét vuông nhưng chứa rất nhiều đồ, dụng cụ, hết sức ngăn nắp. Ông Ba thì đang lúi húi như lục lọi gì đấy, tôi tranh thủ đảo mắt quanh căn phòng, nhìn những thứ treo trên vách nhưng không biết nó là gì, chỉ biết dựa vào khuôn mặt ba người kia để biết đó là những bảo bối hết sức quý giá đối với giới Lục Lâm. Tôi thấy anh Hùng cứ chăm chăm nhìn vào một cây búa, cán gỗ chạm hình rồng phượng hết sức tinh xảo và đẹp mắt hài hoà, phần đầu thì nhìn hơi gỉ sét nhưng lưỡi lại sắc lạ thường. Dĩ nhiên tôi biết đấy cũng thuộc hàng pháp khí thượng thừa, vừa định hỏi anh Hùng về lai lịch của nó thì nghe ông lão kêu lên: “Hê hê, thấy rồi, thấy rồi, Sáu, mày qua đây, anh cho mày xem cái này nè.” Ông lão bày ra một tấm giấy da trâu, trên đó được khắc chữ Hán, trông tấm da hết sức cũ kỹ nhưng nét chữ nhìn còn hệt như vừa mới khắc ngày hôm qua. Tú Linh đón tấm da, chỉ vừa đọc vài dòng cô đã không thể kìm nén sự kinh ngạc trên khuôn mặt, Hùng hỏi trên đó viết gì thì Tú Linh chỉ đáp gọn lỏn: Ca Lâu Thành. Tôi hỏi Tú Linh: “Chế đẹp đây biết cả tiếng Hán cổ à?” Cô chỉ cười nhếch mép rồi nói: “Đặc thù nghề nghiệp thôi nhóc ơi, Hàng Rong nào cũng phải tinh thông ít nhất ba ngôn ngữ cổ thường thấy: tiếng Hán, tiếng Phạn, và tiếng Khmer cổ, đọc được tấm da này với chế dễ ẹc.” Ba chúng tôi đứng lại kế bên Tú Linh như ra hiệu cho cô bắt đầu kể nội dung trên đó, cô trải đều tấm da ra cho chúng tôi xem - dày đặc những chữ là chữ. Tú Linh đưa mắt đọc một hồi, càng đọc thì cô càng thể hiện những biểu cảm hết sức khó hiểu. Doc chừng mười phút, cô quay sang giải nghĩa cho cả đám. Thì ra miếng da trâu đó được viết bởi một người nước Tây Tấn, tên là Từ Khoái. Năm Thái Khang thứ chín triều Tây Tấn, Trung Quốc (khoảng năm 288, tức thời vua Tấn Vũ Đế - Tư Mã Viêm, ai đọc Tam Quốc hẳn đều biết ông này), Từ Khoái được lệnh thống lĩnh hai mươi thuyền xuôi về phương nam, tìm kiếm các vương quốc mới để mở rộng quan hệ, khi đi ngang vùng biển Vịnh Thái Lan, đội tàu của ông bỗng dưng gặp cuồng phong, đều chìm cả, duy chỉ một chiếc của Từ Khoái hư nhẹ, dạt vào bờ. Tại đây có Ca Lâu Thành, một tiểu quốc nhỏ, khá độc lập. Theo miếng da ghi lại, Ca Lâu Thành được thành lập khoảng chín mươi năm trước (những năm 200) bởi một người tên là Ca Lâu Kiên Đà, vốn là hoàng thân của Đế chế Quý Sương (sử liệu chính thống hay gọi là Kushan, một quốc gia cổ đại vùng Trung Á ngày nay, tên Quý Sương là do Đế chế này có nòng cốt từ bộ lạc Quý Sương, gốc tại vùng Tân Cương, Trung Quốc) do chạy loạn khỏi thanh toán nội bộ, đã dong thuyền men theo bờ biển, đến vùng Kiên Lương, Hà Tiên thuộc Kiên Giang rồi xây thành lập ấp, lấy biểu tượng chim thần Ca Lâu La làm Hộ quốc thú, mong muốn phục hưng vương triều Kushan ở nơi xa xôi này. Trải qua ba đời Quốc vương, thời điểm Từ Khoái đến, Ca Lâu Vương có tên là Tỳ Khâu Đạt Bà, một người hết sức anh minh, được lòng muôn dân. Thấy Từ Khoái là người có học thức, văn chương nho nhã, am tường thiên văn địa lý nên Ca Lâu Vương nhờ ông ghi chép lại biên niên sử Ca Lâu Thành hòng lưu lại cho hậu thế. Trên miếng da không có biên niên sử chi tiết, chỉ là vài dòng tâm sự của Từ Khoái. Đáng chú ý, trong đó có ghi chép lại một chuyện làm Hùng và Sinh có vẻ lo lắng khi nghe. Ca Lâu Thành là một hệ thống lớn, gồm mười chín thành nhỏ và một thành chủ, xây dựng dọc theo triền núi mà Từ Khoái gọi là Địa Nguyệt Sơn, dài trăm dặm, rộng mười dặm. Mỗi thành đều có một pháp bảo trấn thành, thành nằm trong lòng núi, lối vào quanh co hiểm hóc, không có người dẫn vào thì mười phần lạc hết chín! Tỳ Khâu Đạt Bà chỉ có một vợ, khi vợ chết ông không lập thêm thê thiếp, nguyện chỉ sống một đời còn lại lẻ loi để tưởng nhớ hoàng hậu. Ông có một cô con gái, Ca Lâu Công chúa năm đó mười sáu tuổi, xinh đẹp như hoa, văn võ song toàn, cách năm mươi bước chân có thể bắn tên xuyên qua nhẫn, cách trăm bước chân có thể phóng lao trúng một cái lá cây Tha La. Ca Lâu Vương hết mực yêu quý con gái mình, luôn dành cho cô những gì tốt đẹp. Bỗng một ngày nọ, khí tượng thay đổi, âm khí dâng cao, hôm ấy ngay lúc công chúa đi săn trong rừng bị sét đánh trúng nhưng không chết, chỉ hôn mê mấy ngày. Sau lần đó cô như thành một người khác, tóc dài ra rất nhanh, chuyển dần sang màu trắng, da xanh xao, nanh dài, mắt đỏ. Mọi người đồn cô đã bị Quỷ nhập tràng, Ca Lâu vương một mực không tin con gái yêu quý của mình đã hoá quỷ, tuy nhiên khi dân chúng phát hiện cô đang ăn thịt người, ông đành xuống tay giết chết con gái. Lúc đó, cảm động trước tình cảm Ca Lâu Vương, một vị cao tăng từ Ấn Độ có dịp đi ngang qua đây đã giúp ông một cách để làm công chúa sống dậy, đó là dùng một viên Ngô Công Kim Thân, lấy ngãi quấn quanh tim, sau đó làm phép cho trục quỷ hồn ra ngoài. Ca Lâu Vương mừng rỡ, mời vị cao tăng đó tiến hành, tuy nhiên vị sư có nói, làm cách này chỉ cho công chúa sống thêm một thời gian, bảy năm sau phải chôn thì mới không gây ra đại hoạ. Tỳ Khâu Đạt Bà đồng ý. Nghi lễ tiến hành trong ba ngày ba đêm, xong rồi vị sư ra đi ngay, để Ca Lâu Vương hạnh phúc bên con gái mới hồi sinh của mình. Chuyện này ngoài nội bộ triều đình thì không ai biết, vua chỉ cho công chúa đi trong cung điện, cấm ra ngoài. Mọi thứ tưởng đã ổn thỏa, tuy nhiên thời gian đầu công chúa còn cười nói bình thường, sau này thì mất dần cảm xúc, trơ ra như khúc gỗ. Thời hạn bảy năm thấm thoát trôi qua, đến ngày phải chôn sống công chúa. Ca Lâu Vương hết sức đau lòng, không nỡ giết con thêm lần nữa, bèn trái lời vị sư kia, cứ giam lỏng công chúa trong phòng, hy vọng lời cao tăng là sai. Một ngày nọ khi đến thăm con, ông vô cùng hốt hoảng khi thấy cô đã ăn thịt các tỳ nữ, quan lại hết sức hỗn loạn, tin đồn nhanh chóng lan ra cả vương quốc. Sức ép dâng cao buộc vua phải giết công chúa rồi thiêu xác. Các thế lực bên ngoài lợi dụng dân tình Ca Lâu Thành đang biến động, sẵn sàng quân lính để gây chiến. Tình thế hết sức cam go, vua đành phải chính tay giết con gái mình lần thứ hai. Tình hình vương quốc sau đó ổn định lại, tuy nhiên Ca Lâu Vương thì không. Ông như là con người khác, ít nói rồi trở nên cộc tính hơn, râu tóc mọc dài trông hết sức đáng sợ. Ông ra lệnh đổi hai mươi pháp bảo ở hai mươi thành, chỉ thấy đó là những hòm gỗ cỡ người, có tin đồn rằng ông đã dính vào tà thuật, dùng quỷ trấn thành. Sau đó có người bắt được cự điểu ngoài biển, cho là Ca Lâu La trong truyền thuyết, bèn đem về dâng vua. Viết tới đây thì miếng da bị rách, các chữ phía sau mất, không tài nào đoán được. Anh Hùng sau khi nghe xong thì trầm ngâm suy nghĩ như thường lệ, anh bảo Tú Linh cất tấm da rồi quay sang nói với ông Ba: “Nhà ông Ba nhiều đồ lạ quá, con chưa thấy cái này bao giờ.” Vừa nói anh vừa chỉ vào cây búa cán tía. Ông Ba cười khà khà, cầm cây búa lên coi rồi bảo: “Đồ hiếm, trên đời chỉ có một cây mà thôi.” Anh Hùng bèn nháy mắt ra hiệu cho Tú Linh, cô đến đóng vai Lục Tỷ rồi bảo xin cây búa đó, ông Ba cười, nói: “Ờ, tưởng gì, Sáu mày cứ lấy đi, tao giờ dùng đâu nổi nữa.” Nói đến đó, ông Ba lại lên cơn, hét bảo rằng Lý Tổ sư về đánh ổng rồi ù té chạy ra ngoài, mất tăm vào cánh rừng đầy mồ mả tăm tối. Sinh bảo: “Chết mẹ rồi đại ca, có khi nào vào đó còn gặp thêm Quỷ Sống không?” Ý Sinh đang nói đến cô công chúa, tức là chưa biết được “trùm cuối” trong kỳ động Kiên Lương là ai, đã vậy giờ còn nghe có cả Ca Lâu La trong đó. Tú Linh nói: “Ít nhất giờ chúng ta có manh mối khá chắc chắn về nơi sắp đi, chưa kể có thêm đồ chơi khủng nữa kìa.” Nói đoạn, cô chỉ tay về cây búa. Tôi sực nhớ câu hỏi lúc trước, bèn đến nhờ anh Hùng giải thích nguồn gốc của nó. Anh giơ cán búa lên, vẻ mặt rất trân quý, rồi nói: “Chính cây búa này đã tạo nên tên tuổi của Lỗ Ban Tiểu Tử - Ba Lành. Lấy than đá để trong quan tài đốt lửa, dùng thép nấu trộn với một ít xương đùi người và lông mọc ở đầu hổ. Thân búa làm từ lõi cây Long Đỉnh ngàn tuổi, lõi nằm ở rễ chỉ dài chừng hai tấc là đã quý, lõi này dài đến năm tấc bảy phân, trên thân chạm khắc hoạ tiết rồng phượng, tượng trưng cho cả âm và dương. Anh nhớ không lầm, ông Ba Lành hồi xưa hay gọi nó là Đoá Thiên Phủ, nghĩa là Búa Chặt Trời.” Tôi thử cầm cây búa trên tay, nó nặng đến lạ thường, dễ gì cũng phải hơn mười ký, thế mà anh Hùng cầm nhẹ như không. Tôi hỏi giờ anh không dùng cọc kỳ nam nữa sao mà chuyển sang dùng búa, anh chỉ cười rồi bảo đợi đó sẽ cho tôi xem. Chợt ông Ba bỏ chạy, để lại chúng tôi trong căn phòng toàn là hàng thượng phẩm Lục Lâm, thú thực là không tránh khỏi chuyện chúng tôi “cầm nhầm” vài thứ cho cuộc hành trình sắp tới, rồi lặng lẽ xuống thuyền quay về. Lúc lên thuyền, chúng tôi lại trao đổi về chuyện ông Ba hoá điên. Tú Linh cam đoan người đó là Ba Lành, anh Hùng cũng cho là đúng, vì cái áp khí kinh người mỗi lần ông hoảng loạn cũng đủ nói lên tay nghề không khác được của Lỗ Ban Tiểu Tử. Tuy nhiên tại sao ông ta cứ nhắc đến Lý Tổ sư? Lý Tổ sư mất khoảng giữa thế kỷ trước, Lục Lâm đều thấy cả, vậy thì ai đến gặp Ba Lành mà ông ta lại cho rằng Lý Tổ sư quay về? Còn quá khứ về “Con Tám” - Tức đệ tử thứ Tám của Lý Tổ sư, chuyện đó như thế nào? Rốt cuộc Lý tổ sư là con người ra sao? Có quá nhiều câu hỏi ập đến, chúng tôi cứ loay hoay mãi chẳng thể nào hiểu được. Anh Hùng chốt lại vấn đề, anh nói: “Theo anh, mọi chuyện xảy ra từ đầu đến giờ khá là lạ và bí ẩn, linh cảm anh cho rằng có gì đó không đúng, hay kiểu như có bàn tay ai đó sắp xếp, hiện giờ cứ cẩn trọng, chớ nên vội vàng khinh suất mà lại gặp hoạ. Anh tin nếu chúng ta cẩn thận thì không sao cả!” Nghe đến đó, chúng tôi phần nào cũng bớt nghĩ lại, nhưng cũng im lặng, chẳng ai nói câu gì nữa. Thuyền quay lại Hòn Củ Tron, trả cho Quý. Chuyện gặp Ba Lành còn sống, chúng tôi chẳng tiết lộ ra để tránh rắc rối. Sau đó anh Hùng cũng trả lại cái vô lăng cho ông Năm, dĩ nhiên là Sinh phải leo lên lắp vào lại cho lão. Tôi quay sang hỏi anh Hùng: “Tiếp theo mình đi đâu anh?” Anh Hùng ngồi thụp xuống cái lốp xe cũ, thở thuốc hắt ra, rồi nói: “Thì đi Kiên Lương chứ đâu, giờ đủ dữ liệu rồi.” Nghe đến Kiên Lương, máu tôi như sôi lên khi nghĩ đến những gì sắp tới, bỗng tôi sực nhớ lại, hỏi thêm về Ca Lâu Thành. Anh Hùng cho rằng, di chỉ chúng tôi gặp hôm bữa ngoài biển Hòn Sơn chỉ là một tháp canh hoặc một tiền đồn nhỏ, việc nó có ngọc rết thường đã nói lên điều đó. Thứ nữa là Từ Khoái có chép về hai mươi thành nằm dọc trên núi Địa Nguyệt Sơn, điều này giải thích tại sao anh cho rằng di chỉ dưới biển kia không thuộc hệ thống thành chính, còn địa danh Địa Nguyệt Sơn thì đúng là lần đầu anh được nghe, không biết nó ở đâu. Mặc dù khu vực Hà Tiên - Kiên Lương cũng có khá nhiều núi, nhưng chúng nằm lẻ tẻ, rải rác, làm gì có dãy nào dài trăm dặm, rộng mười dặm. Có thể Từ Khoái nói quá lên chăng? Rốt cuộc vẫn không biết được. Lát sau khi Sinh sửa xong vô lăng, anh Hùng đề nghị chú Năm chở cả bọn từ Hòn Sơn đi đến vịnh Cây Dương, Kiên Lương. Ông Năm đồng ý cái rụp. Chiếc tàu nhỏ lại lênh đênh lần nữa, biển lần này khá lặng, gió mát, mọi người đều tranh thủ nằm ngủ một chút lấy sức trước khi đến Kiên Lương, tôi cũng chợp mắt theo. Tiếng máy đều đều bỗng dưng chậm lại rồi tắt hẳn làm tôi tỉnh ngủ: chúng tôi đã đến nơi. Ông Năm để chúng tôi ở chợ Kiên Lương, mùi cá chợ chiều làm tôi khá khó chịu. Ông Năm nhất mực không chịu nhận tiền dầu từ anh Hùng, ông vẫn còn muốn cám ơn ngược lại chúng tôi. Sinh thấy vậy lẻn lên tàu, để lại tiền kế bên vô lăng rồi lấy hộp thuốc đè lên. Chúng tôi ghé vào quán cóc bên đường uống ít nước đỡ khát, kế hoạch là hôm nay sẽ nghỉ ở đây một đêm, sáng mai đi sớm. Tuy đã biết xác suất lớn đường vào nằm ở Hang Mo So, tuy nhiên hang này có khá nhiều khách du lịch, không hiểu bằng cách nào mà lối vào không ai thấy được. Tạm thời chỉ đoán thôi, đợi mai vào xem thực địa vậy. Lúc này bàn kế bên đang có một nhóm khách du lịch có vẻ tiếc do định vào Mo So nhưng cảnh sát ngăn lại, bảo là đang huy động tìm người mất tích trong đó, tạm thời không cho vào hang. Thông tin này đối với chúng tôi mà nói là hết sức gay go, phen này chắc không thể đợi được đến sáng mai mà đi trong đêm mới mong qua mắt được bên cảnh sát và cứu hộ. Trong khi đó, Tú Linh bảo: “Âm khí đằng đó nhả lên quá trời kìa, không chừng Hang Mo So nằm hướng đó…”. Tôi đưa mắt nhìn theo, chỉ thấy trên nền trời trong xanh một làn khói mỏng, đều đặn phụt lên, tựa như ai đó đang thở trong khí trời rét buốt. Sinh uống ngụm Gò Đen, khà ra sảng khoái rồi nói: “Săn lan thì săn lan, cũng phải từ từ với có chút rượu chứ!” Bỗng nhiên, từ phía sau chỗ chúng tôi ngồi, ông thợ sửa xe trung niên nói vọng lên: “Săn lan mấy đũa? Ở đây có đũa vàng đũa bạc, nhưng không biết người mua đằng kia là ai?” Chúng tôi giật mình nhìn ra sau, ông lão vẫn giả vờ cặm cụi sửa xe, bỗng nhìn lên anh Hùng với ánh mắt dò xét.
 
Chương 32 : Phần 10 Lăng Trì Nương Nương


Lâm Gia Thái Bảo Chúng tôi ai nấy đều thoáng ngỡ ngàng, anh Hùng đứng dậy đi ra sau rồi ngồi cạnh bên ông lão, anh nói: “Kiên Lương không thiếu lan, người tìm không đủ lực, quẩy gánh hàng đựng đồ đi tìm miễu, có miễu đập miễu, có lan hái lan, chẳng hay ông biết lan đó bao đũa?” Nghe đến đó ông lão cười khoái chí rồi ra hiệu cho bọn chúng tôi ra bàn phía sau quán ngồi để tránh tai mắt. Ông rửa vội đôi tay đầy nhớt xe, tôi để ý mới thấy ông bị mất một chân, phải đeo chân giả, bước đi khập khiễng. Ông giới thiệu mình tên Nghĩa, gọi Sáu Nghĩa là được, trước kia đi thả diều ở khu vực Tây Ninh. Trong một lần ở Bù Đăng, tay đập miễu do khinh địch nên bị vật chết, ông thì thoát được nhưng bị gặm mất cái chân. Đợt ấy không nhờ đồng đạo lên cứu kịp thì chắc ông đã bỏ mạng. Đó là chuyện của mười lăm năm trước, từ đó tới nay ông trở về quê Kiên Lương, làm nghề sửa xe sống qua ngày. Suốt quãng thời gian đó, ông không thấy có dân lục lâm ghé qua vùng này, mặc dù lan quý còn rất nhiều. Nói đến đây, Sáu Nghĩa mới hỏi lai lịch của bọn tôi, Sinh giới thiệu qua một loạt, đến Tú Linh thì ông Nghĩa hết sức ngạc nhiên khi biết cô là đồ đệ của Lục Tỷ. Lần bị gặm chân, suýt chút nữa bị âm khí nhập thân, may mà chở lên cho Lục Tỷ kịp. Tôi nhìn Sáu Nghĩa, một dân lục lâm bình thường. Những người trong giới tới giờ tôi biết đều có bản lĩnh rất cao cường, làm những việc kinh thiên động địa. Lúc ấy tôi nhận ra rằng, ngoài kia vẫn còn rất nhiều người như vậy, chỉ vì mưu sinh sẵn sàng liều mạng, số người gia nhập lục lâm chắc cũng ngang ngửa với người vừa chết. Sáu Nghĩa hỏi anh Hùng sao lại đến đây, săn thứ gì. Anh Hùng nhìn xung quanh, cũng không cần giấu giếm với bậc tiền bối, bèn kể lại chuyện Thông hóa thành Xà Niêng và chuyện sắp đi vào Mo So tìm Ca Lâu Thành. Sáu Nghĩa không giấu nổi vẻ bất ngờ, ông nói: “Cái gì, chú em đùa sao? Đâu thiếu chỗ chết, vô đó làm gì cho chết mất xác?” Anh Hùng hỏi: “Chú ở đây, có thể nói cho tụi con biết chút về hang Mo So không?” Ông Sáu trầm ngâm giây lát rồi bảo: “Tao ở đây hồi nhỏ, lớn lên đi thả diều ở xa, về lại cũng mười lăm năm, chuyện về kỳ động trong đó chắc biết chưa được trang giấy. Tuy nhiên, có nghe nói chừng hai mươi năm trước, có hai cao nhân đã vào được đó, sao mày không tìm họ luôn?” Anh Hùng nói: “Người đó là Lỗ Ban Tiểu Tử - Ba Lành, tụi con đến tìm thì ổng chết rồi.” Sáu Nghĩa ngạc nhiên, có lẽ là do chúng tôi có mối quan hệ với toàn dân thứ dữ, tôi tự hỏi nếu anh Hùng nói là anh còn quen Chín Danh và từng được Bảy Săm cứu mạng không biết Sáu Nghĩa còn ngạc nhiên thế nào nữa! Ông Sáu nói: “Vào đó thì tao chưa vào, nhưng tao có nghe kể lại cách tìm đường để vô trong, trước kia có thử mấy lần nhưng không được, giờ cụt chân thế này càng không được!” Chúng tôi tò mò hỏi về cách đó, ông Sáu nói: “Nếu tụi mày tinh thông Tiên Thiên Bát Quái thì được, Mo So là Bát Quái Động đó!” Nghe đến đây bỗng anh Hùng và Tú Linh có phần hơi e dè, Sinh mới hỏi Bát Quái Động là sao, Sáu Nghĩa nhìn trước sau rồi bảo: “Hông ấy giờ vầy đi, tụi mày qua nhà tao nằm nghỉ một chút, dù gì cũng đang kẹt công an với cứu hộ đang quây kín mẹ nó rồi, tụi mày có vô được đâu, qua làm lai rai với tao, tối tao dẫn đến cửa hang.” Nghe đến đó, anh Hùng cười rồi nói: “Được chú Sáu giúp đến vậy, tụi con biết ơn lắm.” Nói đoạn, anh quay sang bảo cả bọn đứng lên đi theo chú Sáu về nghỉ, trước khi đi anh còn kêu Tú Linh đưa ba lô anh đeo cho đỡ mệt. Chúng tôi khởi hành về nhà chú Sáu, từ chợ Kiên Lương đi về hướng Chùa Hang, chưa đến ngã ba rẽ vào hang Mo So thì có một cây cầu ván nhỏ bắc sang con kênh rộng chừng sáu, bảy thước. Đi dọc theo con đường đầy lau sậy và những hàng dừa cao, cuối cùng chúng tôi vào một con đường mòn, đi vừa đủ một người. Tính ra đi từ chợ Kiên Lương đến đây mất khoảng bốn mươi phút. Con đường mòn khá ngoằn ngoèo, tôi nghĩ trong đầu rằng đúng là lục lâm có khác, nơi ở cũng phải thật khác người. Từ lúc vừa bước vào con đường nhỏ này, tôi để ý có một đứa nhóc chừng sáu, bảy tuổi, mặc quần vải nâu, cởi trần, trên mình lấm lem bùn đất cứ chạy theo sau lưng chúng tôi, mỗi lần tôi quay ra sau dòm nó thì nó lại lui lại mấy bước rồi nép vào một tán cây gần đó, đầu cứ lắc qua lại nhẹ nhẹ. Phía trước anh Hùng đi hàng đầu cùng chú Sáu, đang trao đổi đủ thứ chuyện lục lâm, Tú Linh thì vừa đi vừa ngắm cảnh ruộng đồng, thứ mà ở Sài Gòn cô không thấy, phần Sinh thì nó cứ ba bốn bước lại kẹp nhẹ một hớp rượu. Vào con đường mòn lúc ấy đã gần 6h tối, nơi đây không có đèn đường, đi mười phút thì đến nhà của chú Sáu. Đó là một mái nhà tranh đẹp như vẽ, trước mặt là hồ cá, hai bên trái phải là vườn cây và đồng ruộng, sau lưng là một quả núi dựng đứng (nếu đi từ đường quốc lộ sẽ thấy nơi này đang được khai thác đá làm xi măng). Lúc này nhà chú Sáu đã lên đèn, ánh đèn dầu lúc sáng lúc tỏ, nơi này vẫn chưa có điện. Từ trong nhà, một bà lão rất già bước ra, có vẻ như mắt đã mờ, bảo: “Thằng Sáu hả? Bây về trễ vậy? Má nấu cơm rồi đó, mày vô ăn đi.” Chú Sáu quay ra bảo: “Tới nhà tao rồi, đây là má tao đó.” Ông quay sang nói nhỏ với chúng tôi đầy chua xót: “Làm lục lâm, bảo vật có khi cầm cả vài tỷ trong tay mà ngay cả mẹ ruột tao cũng không lo cho được cái nhà đàng hoàng, chua xót lắm mấy đứa ơi!” Nghe xong lời chú Sáu nói, tôi chợt giật mình nghĩ về những thứ xa xôi, lỡ đâu mình về già cũng như ông Sáu? Sáu Nghĩa tiến đến thưa mẹ ông ấy hết sức lễ phép rồi giới thiệu về chúng tôi, bỗng tôi nhớ lại về thằng nhỏ, quay ra sau thì thấy hình như nó đã lẩn ra sau hàng chuối gần đó, tôi thấy hơi lạ vì sau đó thấp thoáng rất nhiều mả đất, thấy nó đi rồi nên tôi cũng không thắc mắc với chú Sáu làm gì. Bà lão đã già, mắt đã kém, không nhìn rõ được chúng tôi, chỉ hướng mặt về phía Sáu Nghĩa rồi cười hề hề, hết sức bình dị. Không hiểu sao lúc đó, tôi thấy tình cảnh ông Sáu hết sức đáng thương, đời người chỉ một kiếp, lục lâm giàu thì vô số nhưng chết hoặc tàn phế cả đời cũng nhiều không kém, khi đó cuộc đời có tăm tối như chú Sáu chăng? Căn nhà tranh lụp xụp bỗng rộn ràng hơn. Tú Linh ở nhà trước châm cứu cho bà lão đỡ đau lưng, Sinh thì lo mần con vịt, tôi nhóm lửa, anh Hùng vẫn đi theo chú Sáu hỏi mãi về những chuyện săn lan thả diều. Buổi nhậu nhanh chóng được dọn lên, chỉ có vài món đơn giản và ít rượu chuối, Sinh không giấu nỗi thất vọng khi hết Gò Đen, tuy nhiên nó vẫn uống lấy uống để rượu chuối trên bàn đến mức chú Sáu còn sợ. Rượu hôm nay có vẻ khá nặng, uống chưa được một xị tôi đã chóng mặt, mặc dù tửu lượng tôi không tệ, tôi chỉ thấy hình như bọn tôi đều sỉn cả, Sinh thì gục trước, thậm chí đã ngáy khò khò, ọc một bãi ra. Lúc tôi gục xuống cũng thấy Tú Linh đang sắp tới bến. Rồi tôi vật ra đất, ngất đi. Đầu nhức ong ong, lưng trần cảm thấy lạnh ngắt, lúc đó tai tôi nghe có tiếng nói lạnh ngắt: “Chạy đi!” Tôi mở mắt ra, mặc dù đầu còn rất choáng. Khi còn chưa định hình được xung quanh, tôi chỉ thấy lưng mình rất lạnh, như đang nằm trần trên nền đá vậy. Cố nhắm mắt, định lấy tay dụi thì tôi phát hiện ra nó đã bị trói! Sự hốt hoảng làm tôi tỉnh táo ngay lập tức, tôi vùng dậy nhưng cổ cũng đã bị trói lại, chính xác còn thêm cả hai chân. Những sợi dây thừng to tướng siết chặt, trông tôi như tử tù đang đợi ngũ mã phanh thây. Định thần lại, tôi thấy mình đang cởi trần, nằm trên một cái bàn đá trong một căn hầm đất, rễ cây mọc tua tủa, nhìn những nhánh rễ cây đâm ra, chắc hẳn nó phải rất to - đồng nghĩa căn hầm này đang nằm sâu dưới đất. Không gian được chiếu sáng bởi ba cây đèn dầu cũ mèm đặt ở cái bàn trông bẩn thỉu ở góc. Kế bên đèn, anh Hùng, Tú Linh và Sinh đang gục xuống, bị trói chặt vào ghế. Trong lúc tôi đang hết sức hoảng loạn, chưa biết chuyện gì đang xảy ra thì âm thanh mài dao vang lên phía đầu tôi. Tôi cố ngước lên quay về phía âm thanh rùng rợn kia. Trong ánh đèn leo lét, bà lão đang cặm cụi làm gì đó, có lẽ là mài dao. Cảm giác sợ hãi hiện diện ở từng lỗ chân lông, ngay lập tức tôi quay về phía ba người kia hét lên hết sức bình sinh, hy vọng họ tỉnh lại, biết đâu có cái Ấn nào giải quyết được tình cảnh này chăng! Tôi vừa cất tiếng, bà lão liền ngưng mài dao, từ từ quay đầu sang rồi tiến về bàn đá tôi nằm. Về phần mình, tôi cứ ra sức hét, nhưng bên kia, ba người họ vẫn còn gục - có vẻ thuốc mê rất nặng. Bà lão đến sát bên, cây dao miết nhẹ trên da cổ tôi lạnh ngắt, tóc tai bù xù che khuất khuôn mặt, ánh đèn vàng vọt chỉ chiếu được cái miệng rộng và đỏ lòm, đôi mắt rực lên hai lằn chỉ máu. Bà ta cúi xuống ngang tai tôi, thì thào những tiếng ghê rợn: “Kêu làm mẹ gì, khi chết đừng có kêu lớn, la thì chết không có được đầu thai mà bắt làm quỷ khóc, cô hồn vất vưởng đó cháu à!” Đúng giọng của mẹ Sáu Nghĩa, tôi hét lên: “Bà làm cái gì vậy, không có giỡn đâu, thả tôi ra ngay!” Bà ta phá lên cười điên dại, nói: “Đâu sớm vậy, để tao lột da mày đi rồi mày mới chết được, chết giờ mất thiêng!” Tôi hét lên lần nữa: “Thả tôi ra, bà làm cái gì vậy! Anh Hùng, Tú Linh, Sinh, tỉnh dậy nhanh lên!” Bà lão lại cười, mặt áp sắt mắt tôi, tôi có thể thấy rõ lớp da nhăn nheo, đôi mắt trắng dã chỉ có một vệt máu như mắt mèo, nanh nhọn hoắc, miệng hết sức hôi thối, tay vẫn lăm lăm con dao bầu như chực chờ chọc tiết tôi. Bỗng bà ta khựng lại, quay sang nhìn tôi đầy căm thù, bảo: “Hét lên đi, mày hét lên lớn hơn nữa đi, coi thằng nào cứu được mày! Má nó, mười lăm năm nay, thằng Nghĩa cụt giò, mất mẹ hết mối làm ăn, nay đem về hàng độc như mày, có chết cũng đừng trách tụi tao độc ác, có trách thì trách sao mày mang Hổ Phù đi!” Trong cơn hoảng loạn, tôi thấy phía cửa căn phòng, dưới ánh đèn chập chờn bóng thằng bé lấm lem hồi chiều. Nó đứng dựa vào cửa, hai tay ôm bản lề, đôi mắt đen ngòm không có lòng trắng, thân thể khô đét gầy gộc, da nứt nẻ và miệng cứ chảy dài máu đỏ. Thằng bé cứ đứng đó nhìn tôi chằm chằm. Mụ già kia đi vòng quanh, lựa thêm đồ nghề gì đó từ cái hòm gỗ đen kịt, có lẽ là do máu thấm lâu ngày mà thành. Tôi nghĩ chỉ có cách câu giờ, hy vọng ba người kia tỉnh lại thì có cách gì đó, tôi hỏi: “Bà định làm gì tôi?” Mụ già ngẩng đầu lên, có vẻ như mụ đã tìm thấy thứ cần thiết, là một cây gắp bằng đồng. Mụ quay sang tôi, ré lên những tiếng cười quái quỷ, rồi mụ ta nói bằng giọng nghe như thều thào chứ không mạnh: “Tao lột da mày, lột cả bộ, mà trước đó tao cắt cổ mày, hứng huyết, thêm miếng ngò vô là thơm dữ dằn, da mày đó, da mày còn non, lột ra đẹp dữ lắm đó, mà được cái là mày còn có thêm Hổ Phù, hé hé, da mày mà đem ra bán, ít nhất cũng bảy tám tỷ, tao sống dày!” Mẹ kiếp! Tôi chửi thầm. Hổ Phù trên vai tôi thoạt nghe thì uy lực vô biên, thế mà đến giờ tôi sắp bỏ mạng khi còn chưa bộc phát được năng lực của nó. Hai tay mụ ta cầm kẹp đồng và một bộ dao, cây nào cây nấy sáng loáng, mụ quay lại bàn đá chỗ tôi nằm. Trong phút giây tuyệt vọng, tôi nhìn ra cửa, chỉ thấy thằng nhóc lúc nãy đã mất lớp da, cơ thể nó chỉ còn lớp thịt đỏ ối còn rỉ máu, miệng nó cứ mấp máy, nghe như “Chạy đi, chạy đi...” Mắt tôi quen dần với ánh sáng trong phòng, khi tôi đảo xung quanh kêu cứu thì thấy trên trần, những bộ rễ cây đang quấn quanh mấy bộ xương người đủ kích cỡ. Lúc ấy tôi chỉ hối hận, chết mà không biết nguyên do, ai hoặc cái gì gây ra, quả là cái chết thống khổ. Mụ già đã đến bên giường, mụ sờ vào chân, rồi lân sang đỉnh đầu, có vẻ như đang lựa chỗ để bắt đầu xẻ da ra lột. Mụ xoa xoa chỗ ngực tôi, ngay cơ hoành, mụ ấn mạnh vào làm tôi tắt thở đến mấy giây rồi phá lên cười, coi bộ khoái chí vì lựa được chỗ đâm dao. Mụ ta xoa bàn tay nhăn nheo xương xẩu lên má tôi, rồi giả bộ cười nhân từ, nói: “Có chết đừng tìm ngoại, ngoại chỉ làm việc ngoại nên làm, con chết là đáng, ai kêu con có đồ quý!” Vừa nói dứt lời, tôi chỉ thấy ánh đèn như khẽ lay động, ánh sáng lúc này chập chờn hơn nữa, mụ già co tay lấy thế rồi đâm thẳng tới ngực tôi, định một dao xuyên tim. Tôi nhắm chặt mắt lại, sẵn sàng đón nhận cái chết, nhưng không tài nào chấp nhận được! Không cam tâm! Khi mắt tôi còn đang nhắm chặt, chỉ nghe mụ già chửi ai đó: “Thằng chó, sao mày còn tỉnh?” Nghĩ là ảo giác do đang chết dần, tôi chẳng dám mở mắt ra, sợ thấy âm tào địa phủ, Đầu Trâu Mặt Ngựa đang dẫn đường thì khổ. Bỗng giọng thằng Sinh vang lên: “Dăm ba cái Hổ Phù tào lao thôi mà để Lăng Trì Nương Nương phải đích thân ra tay sao? Ổng còn chưa khai phù xong mà, thằng óc chó nào dám trả bảy, tám tỷ cho ngoại để mua miếng da lộn hả? Bán có được con mẹ gì đâu, ngoại xa lục lâm lâu quá nên ngu muội đi nhiều rồi đó. Muốn lột da hả, lột dùm con cái Chú Dạ Xoa nè!” Tôi choàng tỉnh dậy, Sinh đang siết chặt cánh tay mụ già, tay còn lại đã bắt Ấn. Sinh vút một cái định tung chưởng vào mụ quỷ, ai ngờ mụ ta loáng cái đã thoát được, đu lên trần nhà rồi bò ra phía cửa trốn đi, nhìn hết sức dị hợm. Tôi hét lên: “Sinh, cởi trói cho tao lẹ, tao tưởng mày chết rồi chứ!” Sinh nhìn tôi rồi cười châm chọc, nói: “Để lão đại làm đi, tui đi xử con mụ già này cái.” Dứt lời thì Sinh cũng vọt đi, tôi quay sang nhìn anh Hùng và Tú Linh thì thấy họ cũng vừa cởi dây trói xong. Tú Linh lầm bầm: “Con bà nó, giả ngất mà cũng tê cổ hết mẹ nó rồi!” Anh Hùng cởi dây trói cho tôi, hỏi tôi có bị gì không, tôi lắc đầu quầy quậy, không tin là mình còn sống, tán mấy cái liên tiếp vào mặt đến đỏ cả má. Anh nói: “Nghe lục lâm đen đã lâu, nay không ngờ rơi vào ổ của chúng.” Tôi ngồi dậy, mặc áo vào, hỏi anh Hùng lục lâm đen là gì. Anh kể, lục lâm thời kỳ đầu hết sức ô tạp, đầu thế kỷ XIX, một tiền bối tên Mạc Hải Vinh đưa nó vào quy củ. Năm 1858, thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, tình hình bắt đầu biến đổi, có nhiều lục lâm hoạt động cho Pháp trong việc khai thác bảo vật. Đến trước năm 1914, hình thành hẳn một nhóm lục lâm làm tay sai cho thực dân, bọn này phá bỏ luật lệ của Mạc Hải Vinh đưa ra, chuyên làm chuyện thương thiên hại lý, cướp của giết người. Bọn này không phải Na Long Hội, tuy nhiên cách làm cũng tương tự - săn bảo vật bất chính rồi bán lại. Những năm 1950, Miền Tây nổi tiếng với một người phụ nữ có biệt hiệu Lăng Trì Nương Nương, nghĩa là Bà Lột Da. Mụ này hết sức tàn nhẫn, chuyên lột da sống người khác rồi bán lại. Nếu họ là người trẻ, trên da không có Chú hoặc Phù thì bà ta bán cho những kẻ muốn cải trang hoặc đóng giả người khác, hoặc dùng cho thuật trường sinh; nếu là người có xăm Chú, kết Phù thì da đó hết sức có giá trị, Chú và Phú đó có thể lột ra từ người này rồi ép lên cơ thể của người khác. Chuyện này vốn dĩ lúc mới vào lục lâm, anh Hùng chỉ nghe kể, cảm thấy như những lời “chém gió”, nay tận mắt thấy mụ Lăng Trì Nương Nương định lột da tôi lấy Hổ Phù đem bán thì anh mới biết chuyện ghép Phù là có thật. Lúc chiều khi gặp lão Sáu Nghĩa, anh Hùng đã có chút nghi ngờ, bởi vì lão tự xưng là thả diều nhưng hành xử không phải là thả diều. Lục lâm, ngoài Thông Hải vốn đã mất tích từ lâu, trong các nhánh còn lại thì thả diều là kín tiếng nhất, chẳng ai thả diều mà tự giới thiệu trước cả, luôn luôn là để người ta tự đến tìm, Sáu Nghĩa vồn vã quá đã khiến anh Hùng sinh nghi. Thứ hai là cách gọi, nếu thực sự là thả diều, họ sẽ không tự nói là mình đi “thả diều” ở đâu cả mà sẽ gọi là đi “giật dây”. Vì thế nên anh theo sát chân Sáu Nghĩa không rời, cứ nghĩ làm thế là lão sẽ không bỏ thuốc vào rượu thịt được, ai dè nhà lão lúc nào cũng có sẵn thuốc mê trong vật dụng. Cũng may có mượn trước ba lô Tú Linh, anh lấy ra một cây kim, giắt vào đồng hồ, lúc nãy tôi hét như heo bị chọc tiết làm anh có chút ý thức lại, cử động tay cho kim đâm vào da, nhờ thế mà tỉnh táo hoàn toàn. Còn chuyện mở dây, mấy trăm năm giới lục lâm đúc kết ra không biết bao nhiêu cách tự tháo dây trói. Anh Hùng nói: “Cẩn thận mà còn bị lũ này úp sọt, cũng may chúng ta phước lớn mạng lớn, không thôi là xong phim hết cả đám rồi!” Giờ thì tôi hiểu tại sao hồi chiều anh Hùng hành xử hơi khác, tôi hỏi anh sao lại muốn đến nhà Sáu Nghĩa làm gì, anh bảo: “Trừ hại thôi!” Dứt lời anh xắn tay áo lên, đi ra cửa, tôi sực nhớ lại thằng nhóc lúc nãy nên bảo anh Hùng dừng lại. Tôi kể chuyện mình gặp vong thằng nhỏ đi theo, anh có thể siêu thoát cho nó được không, anh Hùng nhìn xung quanh căn phòng rồi tiến đến một góc, nơi có một cái tủ gỗ rồi giật tung cánh cửa ra. Cảnh tượng bên trong hết sức kinh khủng, Tú Linh phải quay mặt đi: hàng chục bộ xương trẻ em xếp lẫn lộn, trên có treo một vài bộ da, vài bộ còn nguyên vẹn cả tóc! Bọn bất nhân này không trừng trị không được. Anh Hùng siết chặt nắm đấm, nghiến răng lại, đóng cửa tủ rồi châm lửa, miệng anh lầm rầm đọc chú, có vẻ như là chú siêu thoát, nghe đầy căm giận. Ánh lửa cháy làm căn phòng bừng sáng, khắp nơi là những dấu bàn tay kéo lê, nhìn khá cũ, tuy nhiên xung quanh cũng có những vết máu tung toé! Anh Hùng quay ra cửa, cầm lại cây búa của chú Ba Lành mà mụ quỷ già để trên bàn, quyết tâm rửa hận cho thanh danh lục lâm. Tú Linh và tôi đi theo sau lưng. Vừa ra đến cửa, nhìn qua hành lang bên trái có cầu thang dẫn lên, có vẻ như đường ra. Sinh bước từ trên xuống, đôi tay lấm lem chất lỏng màu đen nhầy nhụa. Anh Hùng hỏi xong chưa, Sinh gật đầu, mặt khá âu lo, nói: “Hai mẹ con thằng này luyện ngải đó anh, cẩn thận, nhóm mình không có dân đào giếng nên trừ bọn này khó lắm. Lúc nãy em trừ được mụ Lăng Trì Nương cũng do mụ đã già, công lực chưa đủ, còn thằng chó Sáu Nghĩa thì em chưa gặp.” Anh Hùng bảo chúng tôi đứng đợi ở đây, anh sẽ quay vào trong tìm Sáu Nghĩa tính sổ. Bỗng mặt đất khẽ rung nhẹ, phía hành lang bên trong vọng ra tiếng cười the thé. Chỉ có thể là Sáu Nghĩa, anh Hùng quay người chạy thẳng vào trong, dĩ nhiên chúng tôi lòng dạ nào mà đứng đợi bên ngoài được, nên cũng chạy theo anh. Đường hầm càng vô trong càng tối, chỉ có ánh đèn cà na chập chờn. Một mùi hôi xộc lên khi chúng tôi đến một ngõ cụt, bên phải có một cửa hang, anh Hùng lấy cây búa ra cầm trên tay rồi tiến vào, trong căn phòng tối, nhờ ánh đèn le lói ngoài kia hắt vào, chúng tôi thấy được vô số lớp rễ cây to cỡ cánh tay, đan cài khắp nơi, tới động ngải rồi! Đối diện là bóng của Sáu Nghĩa đang cúi đầu, Tú Linh bật đèn pin lên rọi vào hắn ta, chỉ thấy phần thân dưới của hắn đã dính liền với một gốc cây khổng lồ. Hùng và Sinh nhớ lại cảnh đánh kumanthong ngày xưa, cảm giác ngải này mạnh hơn bọn ma con đó cả trăm lần. Sáu Nghĩa ngẩng đầu dậy cười man dại, lúc này áp khí từ hắn toả ra khiến tôi như ngộp thở, không cử động được. Anh Hùng bảo tôi và Tú Linh lùi ra sau, chuẩn bị chạy, rồi anh ra dấu sang bảo Sinh lên cùng. Tú Linh tuy cảm thấy hết sức lo lắng, nhưng đạo hạnh cô chưa đủ để trừ được ngải, đành trông cậy vào hai người họ, cô kéo tôi ra trước cửa. Bên trong, Sáu Nghĩa dùng rễ cây đánh tới tấp, Sinh vận công lực bộc phát Thiên Đăng Ẩn Quang Chú lần nữa. Lúc này tôi chứng kiến lưng nó sáng lên những hình vẽ như giun, tay nó phát sáng tỏa ra áp khí, thiêu đốt hàng tá đám rễ cây, cản bước Sáu Nghĩa. Anh Hùng lợi dụng thời cơ Sáu Nghĩa chậm lại, lao đến toan chém một búa vào đầu nhưng lão đã né được, nhát chém bị lão đẩy ra, lưỡi búa găm vào những gốc cây phía sau, máu đen không biết từ đâu phun ra như xối. Tôi nghe Tú Linh chửi thầm: “Mẹ nó, Mộc huyết…” Lão thốt ra những tiếng cười châm chọc rồi dùng xúc tu từ những gốc cây tấn công Hùng và Sinh, lúc cả hai vừa nhảy ra né cũng là lúc những cái đầu nhọn hoặc đâm thủng mặt đất, Hùng dùng búa còn Sinh dùng tay bắt Ấn, chặt đứt vài cái làm lão Sáu Nghĩa thét lên. Sáu Nghĩa nghiến răng, hồ như đang nổi điên, lão gầm lên rồi nhoài cả thân người về trước, những cái rễ cây giờ là thân mình dưới của lão bị bốc lên biến thành chân, trông lão giờ chẳng khác gì con bạch tuộc làm bằng gỗ. Hùng quay sang Sinh, nó gật đầu dường như đã hiểu ý, cả hai quay đầu chạy về phía tôi và Tú Linh, anh Hùng ngoắc tay rồi nói thầm: “Ra chỗ đường cùng lúc nãy. Nhanh!” Vừa ra đến nơi, anh Hùng liên quay sang Sinh: “Làm được không mày?” Nó chậc lưỡi: “Được đại ca, mà không nhiều nước như bọn đào giếng đâu nghe!” Anh Hùng gật đầu ý nói nó triển luôn đi. Tôi hỏi thì anh nói là quan sát đi sẽ biết. Sinh thọc cả hai tay xuống nền đất vẽ một vòng tròn to bằng cái giếng, miệng đọc những câu rất khó hiểu, bỗng nhưng đường xăm kỳ lạ xuất hiện từ cổ tay nó, chạy dài lên cả vai, sau đó một tiếng nổ vang lên, đất bên trong vòng tròn bay tứ tung, từ tâm vòng tròn những bọt nước bắt đầu hiện lên rồi sau đó thì cả vòng tròn chìm trong đã ngập hết cả. Tả thì lâu chứ mọi chuyện diễn ra trong vòng chưa tới năm giây. Chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi, Mộc tuy thuận với Thủy, nhưng cũng tuỳ thuỷ, nước có độc thì cây chết, đây là một cái bẫy dành cho lão Sáu Nghĩa! Cả bọn nấp vào bức tường, từ phía sau lão Sáu Nghĩa đã đuổi đến, tiếng những cái xúc tu vang vọng trong lòng hang làm tôi nghĩ đến một bầy rết mấy ngàn con đang đuổi đến chứ không phải con bạch tuộc gỗ nữa. Vừa chạy lão vừa gào lên: “Thiên Hổ Phù! Đưa tao Thiên Hổ Phù!” Chúng tôi vẫn kiên nhẫn đợi lão, tôi có thể cảm nhận được tiếng thở nặng nề của anh Hùng và Sinh, đủ biết chuyện bùa ngải đối với hai người quả thật là nghiêm trọng, không dễ dàng như mấy lúc săn lan, đập miễu mà từ đầu chuyến hành trình đến giờ tôi thấy cả đám làm ngon ơ. Một tiếng “Rầm” vang lên chỗ khúc cua, Sáu Nghĩa đã đuổi đến, tiếng bước chân ngày càng gần, chợt lão ré lên những tràng đau đớn, biết là lão đã sập bẫy, anh Hùng và Sinh liền bay ra ngay. Con “bạch tuộc” giờ đang chửi thề những tiếng rất khó nghe, lão ta cố vùng vẫy nhưng đã quá muộn, những cái xúc tu thấy nước liền hút lấy hút để, nhưng thứ nước bị Sinh yểm Ấn nên trở nên độc hại vô cùng, từ những cái lỗ trên thân cây túa ra những dòng mộc huyết xanh lè. Không chần chừ, anh Hùng vung búa nhảy lên tựa vào phần xúc tu trên hong Sáu Nghĩa, rồi bằng một nhát búa dũng mãnh chém phăng đầu lão, trong ánh mắt lão hiện rõ vẻ kinh hãi và hối hận. Lão gục xuống, những thương cảm tôi dành cho lão lúc đầu cũng trôi theo những dòng mộc huyết xanh lè. Bỗng mặt đất rung rinh dữ dội, đất đá từ trên trần hang bắt đầu sạt lở, những phiến đá to hơn đầu tôi bắt đầu rớt xuống. Anh Hùng, tuy vẫn còn thở hồng hộc vẫn hét lớn: “Chạy ra ngoài! Lão chưa chết đâu!” Tôi hơi bối rối, đã chặt đầu rồi mà chưa chết, chẳng lẽ ngải mạnh vậy sao, vậy đạo hạnh của đào giếng tới cỡ nào?! Chúng tôi chạy vắt dò lên cổ, cũng phải khó khăn lắm mới thoát ra được, phần vì phải né tránh đất đá. Phía cửa ra dẫn đến một cánh rừng tràm. Có đường đi là được, chúng tôi cứ thế băng vào, vừa chạy tôi vừa hỏi: “Anh với Sinh đánh với thả diều mà vất vả vậy à?” Anh Hùng bảo: “Anh với thằng Sinh đi săn lan đập miễu, Sáu Nghĩa tuy là thả diều, nhưng lại chơi ngải, chỉ có dân đào giếng mới diệt được ổng, anh với thằng Sinh toàn Ấn với Chú. Hôm nào rảnh anh giải thích rõ hơn cho mày!” Có lẽ lúc này anh Hùng đang nghĩ về cô bé quét sân chỗ Chín Danh, không biết pháp lực đào giếng của cô ta ra sao mà Chín Danh có vẻ khá e dè. Cảm thấy chạy một đoạn đủ xa, cả bọn mới dừng lại, dựa vào gốc tràm thở lấy thở để. Bỗng Tú Linh chỉ tay về hướng bìa rừng, nói: “Mọi người, nhìn kìa!” Theo hướng cô chỉ, tôi thấy âm khí trong bóng đêm biến thành một làn khói trắng mỏng, thì ra nó phụt lên từ một ngọn núi đá, hang Mo So đã ở kia! Chúng tôi ngồi lại, hiện giờ muốn đến hang Mo So, đường gần nhất là băng qua một vùng đồng cỏ, có thể có đầm lầy. Tôi hỏi: “Chuyện hồi chiều Sáu Nghĩa bảo Mo So là Bát Quái Động là sao vậy anh?” Anh bảo đó giờ anh cũng chỉ nghe về những hang động thuộc miền Bắc hoặc Bắc Trung bộ có bố trí kiểu Bát Quái, chỉ một loại hình mê cung, nếu không đi đúng sẽ bị dẫn mãi qua một vòng tròn. Tam Quốc có nhắc đến Bát Quái trận đồ, kỳ thực chỉ là một cách bày binh bố trận khép kín, dụ quân địch vào trong rồi chia cắt đội hình, khiến quân địch không thoát ra được, từ đó bị tiêu diệt. Bát Quái Động trong hang Mo So nếu có, hẳn không phải loại này. Lúc chiều Sáu Nghĩa bảo là có liên quan đến Tiên Thiên Bát Quái, thực hư không biết thế nào, tuy nhiên địa hình hang Mo So có vẻ giải thích được cho chuyện đó. Hang Mo So, theo tiếng Khmer nghĩa là Đá Trắng, hang động ăn luồn nhau, có nhiều ngõ ngách trong núi, vách là đá vôi. Thuở xưa, khi chân núi còn tiếp giáp với biển, những cơn chấn động địa chất đã gây ra hiện tượng đất đai bị sụt lún làm nước biển tràn vào đất liền. Theo thời gian nước biển cùng với sóng xâm thực xoáy sâu vào chân núi tạo thành nhiều hang động. Sự tác động liên tục và kéo dài đã tạo ra những quần thể hang động khác nhau, lòng hang trông rất kỳ lạ và đa dạng nhưng thường có hình bầu dục, bóng loáng và rộng rãi. Những lối đi xung quanh hang, nếu anh Hùng đoán không lầm, có tác dụng như những Quẻ, nói vậy nghĩa là có sáu mươi bốn nơi gọi là cửa vào, về mặt lý thuyết thì bắt đầu từ cửa nào cũng được, tuy nhiên qua mỗi lớp cửa phải chọn một trong ba hoặc bốn ngã rẽ nữa, cứ như vậy cho đến lớp cuối cùng. Đó là lý do vì sao đó giờ chưa nghe ai nói phát hiện được của vào Ca Lâu Thành, ngoại trừ Ba Lành và người bí ẩn kia, nếu hôm nay chúng tôi muốn tiến vào Ca Lâu Thành tìm ngọc rết, giải mã bí ẩn đó là điều bắt buộc. Từ chỗ rừng tràm, trong bóng tối vùng trũng Kiên Lương, hang Mo So hiện lên sừng sững, ước tính đi đến đó chắc mất khoảng một giờ. Vừa định bước đi bỗng anh Hùng nói: “Không ổn rồi, vùng này có Ma Thành kìa!” Chúng tôi nhìn theo hướng anh chỉ, sát chân núi, thấp thoáng ánh lửa màu xanh lơ, tựa hồ như có thôn xóm, đình chùa đủ cả, nhưng nhìn đượm nét xưa cũ, bên trong vật vờ những bóng trắng đen lượn lờ qua lại làm vai tôi lại nhói lên!
 
Chương 33 : Thả diều trong hang


Lâm Gia Thái Bảo - Khu phố hiện lên trước mắt tôi, hàng chục mái nhà thấp thoáng dưới những đường sáng lân tinh màu xanh lục, chúng lọt thỏm trong một thung lũng thu nhỏ có diện tích ước tính chắc cũng khoảng vài trăm mét vuông, đếm ra khoảng hai chục “hộ gia đình” sinh sống. Có lần tôi đi Hà Nội chơi, cuốc bộ qua một khu phố cổ, kiến trúc nhìn cũng khá tương tự ở đây: một con đường lót đá hình lục giác cắt khu phố thành hai dãy, nhà ở đây căn nào cũng có hai cây cột ở phía trước, bên trên trang trí hình bông sen hoặc hình chóp tam giác, cấu trúc nhà ống một hoặc hai tầng, mái ngói nghiêng dán đầy các bảng hiệu. Khu phố ở Hà Nội sống động và nên thơ như thế nào thì khu phố này lại âm u như thế ấy, khói trắng bay đầy đường, lẫn giữa đó, đang lang thang trên những con đường là những cái bóng màu đen. Bốn chúng tôi nấp sau bụi cỏ, tôi nghĩ giờ nếu bắt Ấn chắc còn thấy nhiều hơn nữa, nhưng thế nào cũng bị ba người kia ngăn lại. Có điều làm tôi thắc mắc nên tôi hỏi anh Hùng: “Lúc nãy thằng Sinh khai Thiên Đăng Chú sao mấy con ma ranh này không bị gì vậy anh?” Anh châm điếu thuốc rồi nói: “Ở dưới cái hang ngải, với trình của thằng Sinh giờ thì nhằm nhò gì…” Anh nhìn sang Sinh ý nói chú mày còn yếu lắm rồi nói tiếp: “Theo anh thấy thì Ma Thành chắc cũng rộng lắm, đây chỉ là cái làng nhỏ thôi. Mấy chỗ âm khí tích tụ không tán được như thế này, vùng Kiên Lương không thiếu, đặc biệt là ở mấy thung lũng, dương khí đè xuống, cỏ cây xung quanh ngăn lại, lâu dần trở thành nơi sinh sống của bọn ma quỷ lang thang. Chúng không chủ động làm hại ai bao giờ, diệt thì cũng dễ nhưng mà số lượng đông vậy thì tránh vẫn là ý hay.” Đoạn, anh khoác tay ra hiệu, dẫn cả bọn men theo triền dốc, khuất sau những bụi cỏ mà chạy. Được một đoạn cũng khá xa thì chúng tôi nghe tiếng sột soạt phía sau, kèm theo đó là những đường sáng trắng tinh xuyên qua những lùm cây và một tiếng la xé tan màn đêm: “Ê! Mấy đứa kia, đi đâu vậy?” Quay lại thì thấy có hai bóng người đang cầm đèn pin chiếu về phía chúng tôi, ánh sáng trực diện làm tôi chỉ thấy mờ mờ nhưng cũng có thể nhận ra đồng phục của công an, sáng nay lại nghe được tin có người bị kẹt trong hang nên cũng dễ hiểu. Chưa biết phải phản ứng ra sao thì đã thấy Tú Linh tiến về phía trước, cô nói với chất giọng điệu đà: “Mấy anh công an ơi, tụi em bị lạc. Mà cái chân em đau quá, mấy anh có đem đồ sơ cứu không. Ui da!” Tôi nghe mà da gà nổi còn hơn mấy lúc gặp ma, hai anh công an thấy vậy thì bước về phía Tú Linh, lúc cả hai vừa đến trước mặt cô, cô liền nhanh tay châm hai mũi kim vào trán họ làm họ đứng bất động. Cả bọn thấy vậy liền tức tốc bỏ chạy tiếp, tôi la lên: “Trời ơi chế, chế làm gì mấy người đó vậy, bị bắt rồi sao!” Tú Linh nói: “Có gì đâu, nhóc lo xa quá. Năm phút sau họ tỉnh lại ngay á mà.” Anh Hùng thêm vào: “Nhưng giờ hơi gay rồi đó, phải vào hang thôi, họ tỉnh dậy cử đội đi lùng là coi như khỏi săn lan, đập miễu gì đi. Chắc phải nhờ tới chú em mày rồi…” Nói xong anh kéo tôi vào một hốc đá: “Giờ mày để tay như thế này, rồi vuốt từ đây lên trán, nhớ dùng hai ngón thôi nhé, tới đó đi rồi anh chỉ tiếp.” Tôi gật đầu cái rụp, làm y hệt những điều anh Hùng vừa dạy, vừa vuốt hai ngón tay lên cầm, chợt bả vai tôi đau buốt, nóng ran như bị dội nước sôi, anh Hùng bảo cứ tiếp tục, khi vuốt lên trán thì cơn đau đã lên đến cực độ, tôi đổ sụp xuống đất, giờ chỉ có thể trụ trên đầu gối. Anh Hùng thấy vậy liền cất tiếng, tôi lặp lại theo lời anh, vì đau quá nên nghe như hét: “Thiên Hổ nghịch vuốt che mắt đời - Thiên nhãn khai quang chiếu khắp nơi - Hổ trảo dọc ngang chia thiên địa - Nhất đắc thăng thiên vạn tầng trời.” Dứt bốn câu thơ, tôi cảm nhận được sức nặng kinh hồn giờ không chỉ đè lên bả vai mà cả lưng, cả thân thể mình, khụy chân như muốn nằm sấp xuống đất, tôi hét lên một tràng, hình như như ba người bọn họ biết rõ chuyện này nên không thấy phản ứng gì cả. Bất chợt, cơn đau biến mất, mắt tôi đang nhắm nghiền bỗng bị một thế lực nào đó kéo lên, trợn trừng. Cánh mũi tôi cứ phập phồng, cặp môi thì hểnh lên để lộ hàm răng đang nghiến chặt. Tôi lồm cồm ngồi dậy, nhưng kỳ lạ thay tôi không đứng thẳng người được, thấy Tú Linh mấp máy, hình như nói nhỏ lắm nhưng tôi nghe mồn một: “Thiên Hổ…” Không chỉ có tai mà còn những giác quan khác nữa, tôi có cảm giác mình nhìn rõ hơn, những thứ lờ mờ trong đêm tối nãy giờ sáng rực như ban ngày, và đặt biệt là mặt đất. Mặt đất giờ không còn là những tảng đá, những bụi cỏ hay con đường mòn gì nữa, giờ trông nó chẳng khác gì một tấm vải màu vàng thêu những hoa văn rắc rối, các hoa văn này phút chốc lại chuyển động, trùng lập vào nhau, tách ra khỏi nhau, thỉnh thoảng lại có những đường chỉ vuông vức, những đường chỉ song song hoặc cắt nhau hình chữ thập, chúng bay lơ lửng, thoạt nhìn có vẻ vô trật tự nhưng linh cảm mách với tôi rằng hãy chạy theo chúng. Tôi lập tức nhìn sang anh Hùng, không hiểu vì sao anh lùi lại một bước, nôm như hình dáng bây giờ của tôi thấy ghê lắm hay sao ấy. Tôi định cất tiếng nói nhưng không được bèn hất đầu về phía những khối hình lơ lửng, anh Hùng gật đầu, tôi liền dắt cả bọn chạy về phía đó. Chạy được vài giây bỗng tôi không còn nghe tiếng chân sau lưng mình nữa, tôi quay lại thì thấy Sinh thở hồng hộc, nó nói: “Chạy từ từ thôi cha…” Tôi vẫn ý thức mọi chuyện xung quanh nhưng không hiểu sao không cất tiếng lên nói được. Tôi thử cúi người về phía trước, “bò” chậm lại, một lúc sau thì thấy có một cửa hang, bên trong thấp thoáng thứ gì đó kèm theo một tiếng động kỳ lạ, định phóng vào trong nhưng một cơn đau bả vai khác lại ập đến, sau đó tôi chẳng còn nhớ gì nữa. Tiếng lửa đốt gỗ kêu lên tanh tách làm tôi tỉnh giấc, vừa mở mắt ra tôi phải nhắm nghiền lại ngay, đau dữ dội, đưa tay lên định dụi vào thì một bàn tay mềm mại của ai đó đã nắm lại. Tôi nghe giọng của Tú Linh: “Đừng có chơi dại, hư vật báo của chế, chế thiến.” Thiên Hổ của cô ta khi nào vậy? Chưa kịp cãi thì tôi cảm nhận được hai thái dương bị cả chục mũi kim cắm vào, ấy vậy mà chỉ đau như kiến cắn. Khóe mi tôi đang cay xè bỗng dịu dần, mở mắt ra thì thấy anh Hùng đang ngồi hút thuốc nhìn tôi, Sinh đang nốc rượu, chất rượu màu vàng nhạt chắc không phải Gò Đen rồi, Tú Linh đang ngồi cạnh tôi, cô đưa tay lên rút những mũi kim trên hai thái dương, tôi nghe một mùi hương thoang thoảng, dễ chịu bay ra từ cổ tay cô. Tôi vừa cười vừa hỏi: “Dầu gì thơm vậy chế?” Chỉ thấy cô ta lườm tôi ghê lắm. Từ từ ngồi dậy, tôi thấy cả bọn giờ đang vây quanh đống lửa, phía xa có ánh sáng mờ mờ, chắc là cửa hang, bên trong hang chỉ có ánh lửa vàng chiếu lên những bức tường đá vôi chứ không rõ như lúc nãy nữa, tiếng động cũng không còn nghe. Anh Hùng nói: “Nãy anh đánh liều mà có hiệu nghiệm thật. Chúc mừng mày, đây là một trong sáu mươi bốn cửa dẫn vào Bát Quái Động. Thấy sao rồi?” Sinh cười đểu, nói: “Anh tôi, cuối cùng cũng vào được hang.” Tôi hỏi anh Hùng: “Giờ sao nữa anh?” “Giờ vào trong, mình tìm cách phá hang Bát Quái này, tiến thẳng vào Ca Lâu Thành.” Anh Hùng phán một câu xanh rờn xong đứng dậy phủi quần áo, Sinh bẻ khúc cây rồi quấn miếng vải có yểm bùa làm thành cây đuốc như lúc vào hang Reahu, Tú Linh cũng thu dọn đồ đạc rồi đi theo, tôi sờ vào bả vai thấy hơi nhói thôi, rõ ràng là đỡ đau hơn lúc bắt Ấn, vả lại cảm giác cũng khác nữa, giống như Thiên Hổ vẫn còn đâu đây chứ không mất tăm, dù sao cũng chỉ là cảm giác, tôi nhún vai rồi chạy theo cả bọn. Cái hang mà chúng tôi đi vào không cao nhưng rộng, bên phải là lối đi, bên trái là một dòng suối nhỏ, càng đi vào sâu thì tiếng nước nhỏ giọt càng nghe rõ hơn. Không gian xung quanh tối om, ánh lửa từ ngọn đuốc chỉ đủ soi sáng lối đi phía trước. Chúng tôi không ai nói với ai một chữ, thú thật tôi cũng chưa biết sẽ phải đối mặt với cái gì, nhưng chỉ cần nghe tới chuyện Động Bát Quái sáu mươi bốn cửa vào, hình thành từ rất lâu rồi, vậy mà chưa ai đi tới được Ca Lâu Thành thì trong lòng cảm thấy vừa sợ vừa khó hiểu. Kệ, miễn sao đi với những người này thì không cần phải lo nghĩ nhiều. Nửa tiếng trôi qua, chúng tôi ngoài leo lên, trượt xuống, nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác thì chưa thấy đường đi phức tạp gì nhiều. Đang bước đi, bỗng từ phía xa xa có tiếng khóc thút thít, sau đó là tiếng chửi bới, tiếng vật gì đó bằng kim loại bị ném vào tường, âm vang cả một vùng hang động vốn im ắng. Cả bọn nhìn nhau rồi thận trọng tiến về phía phát ra những tiếng động kia, chúng khuất sau một ngã rẽ. Phía đó có ánh sáng nên anh Hùng bảo Sinh tắt đuốc, giờ có thể đứng trong bóng tối thoải mái quan sát, thì ra là có hai người, một nam một nữ, họ ăn mặt kỳ quái với áo khoác màu cà phê sữa có nhiều túi nhỏ, quần kaki bó chặt, đi ủng cao gần tới đầu gối, trên đầu đeo đèn pin thợ mỏ. Người nam nghẹn ngào nói: “Em đừng có khùng quá Thùy, có cái chỗ nào để móc dây mà đòi leo xuống dưới, giờ đi về, anh muốn đi về!” Cô gái tên Thùy có vẻ bình tĩnh hơn rất nhiều, cô lạnh lùng đáp: “Anh muốn vậy chứ gì. Được rồi, em chiều ý anh. Anh ở trên đây nắm đầu dây cho em leo xuống dưới cứu bạn mình ra, còn anh xong việc muốn chạy đâu thì chạy. Đồ chết nhát!” “Anh không có chết nhát, anh đang chơi khôn đây. Tụi nó chết dưới đó rồi, té vậy chịu gì nổi?” Cô gái không nói không rằng, tiến về chỗ cái ba lô rồi lôi ra cuộn dây thừng quăng xuống chân anh chàng kia, giờ đã ngồi sụp xuống. Cô gái quát: “Cầm lên, coi như em ngu đi, nhưng giờ ở đây không có ai thì em chỉ biết nhờ anh thôi, anh chỉ cần cầm chắc sợi dây, em nhẹ tơn hà. Nhanh!” Người nam vẫn chần chừ chưa chịu đứng dậy, tôi định quay sang anh Hùng hỏi ý, nhưng hình như anh không còn đứng đây nữa thì phải, chợt tôi nghe tiếng anh phát ra từ phía hai người kia: “Hai bạn là đám người bị lạc mà công an tìm hôm qua giờ đúng không?” Cả hai giật thót mình khi thấy anh Hùng lù lù xuất hiện từ phía bóng tối, riêng anh chàng kia thì lùi mấy bước bằng cặp mông của mình, miệng la lên oan oan: “Ma...ma…” Anh Hùng nói: “Ma cái thằng cha anh.” Đoạn, anh quay sang cô gái: “Sao?” Thùy tuy có hơi sợ, nhưng chỉ trong một thoáng, cô nói: “Anh là ai vậy? Đội cứu hộ à?” Anh Hùng cười, nói: “Có ông cứu hộ nào giống tôi không?”, rồi dang tay cho họ nhìn kỹ hơn rồi tiếp: “Từ đây đến cửa hang cũng gần, sao không ra ngoài đi?” Thùy bảo: “Không được, bạn tôi bị té xuống kia rồi…” Nói xong cô ta quay đầu về sau, ánh sáng đèn pin rọi tới thì thấy có một cái vực rộng khoảng hai, ba mét, dài năm sáu mét nằm chắn ngang lối đi. Cô gái nói tiếp: “Tôi có gọi vọng xuống, không nghe tiếng trả lời, nhưng không thể vì vậy mà bỏ về được. Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi đó. Anh là thằng nào?” Anh Hùng cười ha hả. Tôi định bước ra nhưng Sinh và Tú Linh đã ngăn tôi lại. Anh Hùng bảo: “Tôi đi thám hiểm thôi, có máu phiêu lưu mà. Ba núi có năm thần, năm sông có chín bá…” Nhìn Thùy hơi bối rối, cô im lặng một hồi mới lên tiếng: “Anh nói cái gì vậy?” Đến lúc này thì Tú Linh và Sinh mới bắt đầu tiến về phía đó, tôi cũng theo sát đằng sau. Mấy người này công nhận cẩn thận quá, phải biết chắc rằng cô bé tên Thùy ấy không phải lục lâm mới xuất hiện, xem điệu bộ thì có lẻ muốn che giấu thân phận rồi, với lại sợ có bẫy gì đấy nên chưa xuất hiện vội. Nguyên đám, gồm cả anh chàng tên Tùng kia cùng ngồi lại, không khí cuộc nói chuyện đầy vẻ dè chừng. Thùy giới thiệu sơ qua về nhóm của cô, thì ra bọn họ là sinh viên năm cuối của trường địa chất, hai người rơi xuống dưới là bạn cùng trường với họ, tên Dũng và Châu. Hôm nay bọn họ vào đây chủ yếu là để làm bài thu hoạch về những di chỉ cổ xưa. Tuy nhiên, tôi giật toát mình khi nghe cô gái ấy nhắc tới Ca Lâu Thành, cũng là mục đích khiến họ dấn thân vào chuyến đi này, chưa đi được bao xa thì đã gặp nạn. Sinh nốc rượu rồi nói: “Vậy là bà chị đây cũng là dân thứ dữ he!” Thùy tròn xoe mắt: “Tại sao?” Giờ mới để ý, cô gái này cũng đẹp lắm chứ chẳng chơi, mà không phải kiểu Tú Linh, đẹp kiểu ngây thơ thì đúng hơn. Anh Hùng bảo: “Tại vì tụi này cũng nghe sơ sơ về Ca Lâu Thành, hôm nay đi đại vô biết đâu tìm được thì sao?” Thúy hớt lên bất ngờ: “Mấy anh chị cũng học trường địa chất hả? Đang làm bài luận cuối kỳ đúng không? Mà anh nói nghe như giỡn chơi, tòa thành đó tồn tại mấy ngàn năm nay vậy mà chưa ai bước chân vô được hết. Anh đi vô đại mà đòi gặp, làm như đi chợ mua cá không bằng!” Tôi thấy cô gái này khá thú vị, ăn nói bạo dạn, bị lạc trong hang tối om om vậy mà bình tĩnh như không có chuyện gì, trái ngược hẳn anh chàng tên Tùng kia, nhìn to con mà nhát như cấy, nãy giờ ngồi co ro, im thin thít, dựa lưng vào bức tường, đưa mắt nhìn dáo dác xung quanh. Anh Hùng thắc mắc, giọng nói anh thì nghe có vẻ chỉ hỏi vu vơ vậy thôi chứ có chủ đích cả: “Ủa Thùy, rồi sao em đi vô cái hang này, ngoài kia biết bao nhiêu đường dễ đi sao không vô?” Ý anh Hùng là làm sao chọn đúng một trong sáu mươi bốn cửa của Bát Quái Động như vậy, nhưng hình như cô gái không có chút nghi ngờ: “À cũng tại em…” Để tìm được Ca Lâu Thành, cả nhóm của Thùy quyết định sẽ không chọn những cửa hang mà khách hay vào tham quan để bắt đầu hành trình, thay vào đó, họ sẽ đi sâu vào rừng, tìm những hang ẩn nấp trong thiên nhiên. Hôm đó họ tìm thấy cũng khá nhiều cửa hang nhưng đi một hồi thì toàn vào ngõ cụt, đến đêm thì cả đám mệt lả nên quyết định dựng trại. Khoảng 1h sáng, ca trực của Thùy, đang ngồi lim dim bỗng cô thấy một bóng người màu trắng xuất hiện trong màn đêm đen như mực, cách ăn mặc của ông ta khá dị hợm, đã vậy còn cầm một sợi dây cước to đùng giật giật cái gì đó trên trời. Thùy vốn tò mò, cô gọi cả bọn dậy rồi đứng rình cái bóng trắng, vừa cách khoảng mười mét thì cái bóng này chui tọt vào một con đường mòn, đám của Thùy rượt theo một hồi thì đến cửa hang này, còn cái bóng trắng thì biến đâu mất tăm. Tùng nói: “Thôi đi về mấy đứa ơi…” Dũng, nhỏ tuổi nhất nhưng rất liều, nó bảo: “Sao về được anh, biết đâu cái hang này không phải ngõ cụt thì sao nào? Em nghe đồn về Bạch Y dẫn đường hoài mà giờ mới gặp, đám mình hên lắm đó!” Tùng than: “Anh mỏi chân quá hà, buồn ngủ nữa…” Châu nói: “Thôi giờ vậy đi, mình đi vô hang coi thử, sẵn có đèn pin nè, nếu là ngõ cụt nữa thì đi chút là hết rồi, mà thấy có triển vọng thì mình quay ra, chuẩn bị đồ đạc cẩn thận rồi tới sáng mình vào lại.” Cảm đám nghe có vẻ hợp lý liền mạnh dạn tiến vào cửa hang, hành trình Thùy mô tả giống y hệt với những gì mà chúng tôi đi qua, đi được nửa tiếng, chính là tới chỗ này. Chợt Thùy nghe một tiếng cười ghê rợn, kèm theo đó là những âm thanh trên vách đá, như có tiếng chân người đang chạy, mặt đất không biết vì sao trở nên trơn trượt khác thường, chỗ Dũng và Châu đang đứng cảm giác như một viên gạch phẳng lì dính đầy dầu mỡ chứ không phải là đất đá nữa, cả hai chưa kịp phản ứng thì đã trượt chân, ngã xuống vực. Nghe đến đây thì Tùng mới lên tiếng, giọng đầy trách móc: “Cũng tại em không chứ gì nữa! Tại cả ba đứa luôn! Anh nói đi ra sao không ai nghe! Giờ ăn nói làm sao với ba mẹ chúng nó đây? Hả?” Thùy lúc nãy còn hùng hổ đòi xuống, nhưng khi kể xong câu chuyện có vẻ cảm thấy hối lỗi nên chỉ biết xụ mặt, miệng mấp máy câu xin lỗi, ấy vậy mà cái anh chàng tên Tùng này vẫn chưa chịu dừng lại, anh ta đứng thẳng người dậy, mặt và tai đỏ ửng, thấy chửi được chửi tới luôn: “Mấy anh chị học hành cho lắm vô, biết bao nhiêu kiến thức về địa chất mà dám chui vào hang buổi tối, rồi còn Bạch Y dẫn đường con mẹ gì nữa! Lần này về là t…” “Chát!” Chưa nói dứt câu thì Tùng đã ăn trọn một cú tát trời giáng từ Tú Linh, nói thật tôi cảm thấy khá hả dạ vì hành động vừa rồi của cô nàng. Sinh cười đểu rồi nốc một hơi rượu dài, anh Hùng tiến về phía Tùng, giờ đã nằm sải lai dưới mặt đất, ôm gò má, mắt rưng rưng muốn khóc. Anh nói: “Ông bạn bình tĩnh chút đi, em nó cũng nhận lỗi rồi, chuyện đã xảy ra rồi, chửi nhau cũng có được gì đâu, thay vào đó ngồi lại tìm cách giải quyết mới đáng mặt đàn ông con trai chứ.” Tú Linh khịt mũi: “Con trai mẹ gì thằng này!” Sinh khà một tiếng rồi hỏi: “Sao cô bé biết về Ca Lâu Thành vậy?” Thùy đáp: “Ông em có để lại một món da cổ, trên đó có ghi thông tin của tòa thành này. Để em cho mấy anh chị coi.” Tú Linh chậc lưỡi: “Nô nô, từ đây về sau phải gọi là chế.” Thùy cười, vừa định móc thứ gì đó trong ba lô thì mặt Tú Linh chợt biến sắt, cô chụp vai của Thùy lại, đoạn chỉ tay về phía bên kia của hang đá vôi, chỗ ánh sáng nãy giờ không chiếu tới. Thùy thấy vậy chỉnh lại đèn pin rồi chiếu về hướng đó mới phát hiện: thì ra nãy giờ cả bọn ngồi nói chuyện cạnh bên một bộ xương đen sì, cũ kỹ. Anh Hùng nói Sinh đốt đuốc rồi cả bọn tiến về phía đó, Thùy nói cái bóng trắng cũng ăn vận một bộ đồ như thế này, cô nhớ khá kỹ vì nó rất dị hợm. Anh Hùng ngồi xuống, dỡ ống xương bàn tay của bộ xương này ra thì thấy bên trong là một bộ dây chất liệu như cước, nhưng bản to đùng. Chợt chúng tôi nghe xung quanh mình những tiếng bước chân của con gì đó đang đến, rồi từ trong bóng tối của vực thẳm, những con mắt đỏ như máu chớp tắt liên hồi, nhìn sơ quá chắc cũng cả ngàn con, nhỏ thì như hạt đậu, to thì như cái bát. Một cái chân lông lá, gai gốc đang bám vào mép vực mà leo lên, rồi hai cái chân, bốn cái chân, tám cái, kèm theo đó là tám con mắt đỏ quét, đứng trước mặt chúng tôi giờ là một con nhện to như chiếc xe bốn chỗ. Anh Hùng chụp ba lô, bảo mọi người lùi lại sau, anh hạ giọng nói: “Gặp thả diều thứ thiệt rồi…”
 
Chương 34 : Phần 12: Bó đũa và nhện bồ Câu


Lâm Gia Thái Bảo - Con nhện lù lù xuất hiện, trông nó có vẻ cẩn trọng, nó nhìn vào cả đám, ngoe nguẩy cặp chân vào không khí như đang đánh hơi, rồi nó ré lên một tiếng, chồm cả cái đầu về phía chúng tôi, anh Hùng vẫn đang dang rộng đôi tay che chở, thấy đi lùi có vẻ không ổn, anh ra hiệu cho Sinh, bảo nó đi vòng sang mép bên kia của hang động, tôi thấy vậy cũng đi theo nó, rồi Tú Linh, Thùy, anh Hùng, duy chỉ có thằng Tùng vẫn đứng chết trân, nó đưa cái ngón trỏ giờ đang run cầm cập lên chỉ vào con nhện, miệng mấp máy như con cá mắt cạn, sợ đến độ không thốt ra được lời nào, anh Hùng phải kéo nó đi, thiếu điều như muốn cõng luôn trên vai. Con nhện thấy cả đám đi về phía bên này cũng men theo mép của cái vực, vòng về phía bộ xương, quay mông về phía chúng tôi. Đoạn nó phóng lên, xoay một vòng một trăm tám mươi độ, đứng che chắn bộ xương ấy như muốn bảo vệ nó vậy, những cặp mắt đỏ xung quanh cũng dồn về phía con nhện khổng lồ, chẳng thèm để ý xem chúng tôi đang làm gì. Tôi thắc mắc: “Gặp thả diều thứ thiệt là sao anh?” Anh nói: “Giống như ông lão nuôi cá sấu anh gặp ở Trà Sư đó. Ở mấy chỗ địa hình như thế này rất hay gặp những người thả diều lão làng, họ sẽ tự “nuôi bồ câu”. Anh có nghe nói về những người thả diều nuôi Nhện Thiên Mẫu, loại đó anh chỉ nghe nói nó to cỡ cái bàn là cùng, con này tám mắt đỏ, chân móng đôi màu ánh kim, đuôi có ba sợi lông đỏ, kiểu này chắc nhện Thiên Mẫu chúa rồi”. Đợi chúng tôi giật mình một phen, anh mới nói tiếp: “ Đây chắc là lớp vỏ đầu tiên, bảo vệ không cho người thường tiến vào Ca Lâu Thành.” Tú Linh bảo: “Nhưng mà ông lão chết rồi, em thấy tình hình có vẻ không ổn, không có thả diều điều khiển thì bọn bồ câu không có chở khách, mà bọn này không chở thì có thành tiên cũng không biết phải đi tiếp như thế nào…” Thùy nghe anh Hùng với Tú Linh nói chuyện mà không hiểu gì hết, cô hết nhìn Hùng, nhìn Tú Linh xong rồi nhìn qua tôi với ánh mắt cầu xin, tôi cũng có chút động lòng nhưng biết giải thích sao bây giờ, đúng như anh Hùng nói thì phải sống chung mới hiểu được vài phần. Thế nhưng, dù sao thì cũng phải bắt liên lạc với Thùy cái đã, tôi nói với cô ấy: “Em đừng để ý hai người này, chủ yếu là có đường vào Ca Lâu Thành rồi, giờ tìm cách thêm thôi! Mà, em có sợ nhện không?” Thùy lắc đầu: “Nhện thì em không sợ, nhưng mà nhện khổng lồ thì có hơi ghê. Đó giờ em cũng đi động, đi hang nhiều mà có bao giờ gặp mấy thứ như vầy đâu trời!” Tôi cười, dăm ba cái chỗ đó làm sao so được với Bát Quái Động. Trong lúc đó thì Sinh và anh Hùng đã tiến về phía con nhện, vài bước thôi, họ vẫn cố giữ khoảng cách, rồi họ tách ra hai hướng, mỗi người đi tới một bên mép hang. Anh Hùng ra dấu cho Tú Linh, cô lấy trong túi ra một nhúm bột màu cam đất, rải thành vòng tròn xung quanh chúng tôi, rồi nhanh như cắt châm sáu cây kim vào đỉnh đầu từng người. Tùng lắp bắp: “Cô… cô làm cái gì vậy?” Tú Linh vẫn nhìn đám nhện, nghiêm giọng nói với anh ta: “Chế làm cái gì đừng có hỏi, xớ rớ chết ráng chịu.” Thấy điệu bộ Tùng và Thuỳ còn ngơ ngác, ra vẻ mơ hồ, không khéo lại làm hỏng chuyện, nhân lúc lũ nhện bị nhúm bột đó làm phân tâm, cứ nhảy qua lại, cô mới giải thích: “Bột này làm từ đá vỏ ốc, âm khí cao, kim châm trên đỉnh đầu làm dương khí không tán ra xung quanh mà chỉ vây quanh, đá vỏ ốc hấp thu. Bọn nhện này sống trong hang động phong toả đã lâu, rất nhạy cảm với dương khí, dùng cách này có thể câu giờ, làm chúng khó xác định được cả bọn!” Anh Hùng sờ đến cây búa, nói: “Lũ nhện này chưa tấn công chắc có lý do gì đó, hoặc là con Thiên Mẫu vẫn chưa ra lệnh.” Đoạn, anh chỉ xung quanh: “Vòng tròn này chỉ là phương án phòng hờ, cẩn trọng vẫn là trên hết. Đợi anh nghĩ cách cái đã”. Chợt phía sau lưng anh Hùng vang lên những tiếng ré, thì ra là đã có thêm vài con nhện có kích cỡ nhỏ hơn rất nhiều xuất hiện, trên lưng chúng có một biểu tượng màu vàng trông như cọng lông vũ, chúng chui vào bộ xương đen, len lỏi giữa những hốc mắt, hốc tai rồi cả xương sườn. Dường như phát hiện được gì đó, chúng bám vào những cái gai trên chân con Thiên Mẫu Chúa rồi leo lên lưng nó, bò về phía đầu, con nhện Nữ Hoàng này vẫn đứng nhìn chúng tôi chân trân, cả thân mình khổng lồ phập phồng theo từng nhịp hô hấp. Lũ nhện lông vũ bò lên những con mắt của Thiên Mẫu rồi kêu rin rít, chợt con nhện khổng lồ gầm lên những tiếng ghê rợn, nó nhõm cả tứ chi phía trước lên như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi, giờ tôi đã có thể cảm thấy sát khí ngun ngút. Bỗng nhiên từ phía vực thẳm, hàng trăm tiếng bước chân đều nhau vang lên, như cả một đội quân đang duyệt binh, rồi từng đợt, từng đợt những lũ nhện có kích cỡ nhỏ hơn Thiên Mẫu Chúa, nhưng vẫn còn rất to ngoi lên, chúng cao khoảng một thước, trên lưng có một biểu tượng lông vũ màu đỏ, cặp nanh to khác thường, bên trong là những chiếc răng nhọn hoắt, trắng háu. Có lẽ đây là lũ nhện Cận Vệ, sau khi nghe mệnh lệnh của Thiên Mẫu đã ngoi lên, lăm le về chỗ vòng tròn mà bao vây. Sinh chậc lưỡi: “Con mẹ gì vậy? Chẳng phải lúc nãy không có tí sát khí sao?” Anh Hùng cũng thêm vào: “Đúng vậy, lũ nhện của thả diều đâu phải tụi khát máu. Chắc phải có nguyên do gì đó!” Chợt nghe phía sau Thùy kêu lên một tiếng kinh hồn, nhìn qua thì thấy cô đang chỉ vào Tùng, trên tay nó đang cầm cuộn dây mà ông lão thả diều nắm chặt khi chết. Tôi nghe tiếng Tú Linh chửi “Má…” một cái rồi cô để ba lô xuống, lấy ra một cuộn vải đen, mở nó ra rồi vắt vào đùi, bên trong có hơn mấy trăm cây kim, Sinh thì xắn tay áo lên, nó nhắm mắt lại, Ấn Phục Ma Chú bỗng phát sáng vài giây rồi tắt, anh Hùng lấy cây rìu của Ba Lành ra vắt trên hong, anh bảo Sinh đưa cây đuốc cho Thùy rồi nói: “Em đứng sau chế Tú Linh nhe, có gì cũng không được chạy ra khỏi vòng tròn, chết chắc đó.” Cô bé gật đầu quyết đoán rồi nhận lấy cây đuốc từ tay Sinh, nhưng trong ánh mắt tôi thấy cô có vẻ đang kinh sợ, bối rối và đầy những câu hỏi kiểu như “Mấy người là ai? Chắc không phải đám người ham phiêu lưu như lúc đầu mấy người nói rồi.” Lũ nhện chỉ bước đi từ từ nhưng vòng vây cũng đã sắp khép, tuy nhiên tôi để ý thấy rằng chúng chưa phát hiện được chỗ đứng của chúng tôi chính xác là ở đâu, chúng cứ đi loanh quanh chỗ cái vòng tròn, tôi nghĩ giờ đưa tay ra là có thể chạm vào chúng, nhưng làm vậy thì ngu quá. Nhắc ngu mới nhớ, tôi nhìn sang chỗ Tùng thấy gã đang gãi đầu, cười he he: “Mấy người làm gì căng vậy, không cho lấy thì tôi trả lại…” Nói đến đó Tùng lăm le định bước ra khỏi vòng tròn, tôi nghĩ vậy cũng tốt, cứ để cho nhện ăn thịt gã cho khỏe nhưng anh Hùng đã chụp vai gã lại. Tôi nhìn sang Tú Linh và Sinh thấy hai người bọn họ không có phản ứng gì cả, dường như trong mắt họ tên Tùng này đã chết rồi. Anh Hùng xoay người Tùng lại rồi lạnh lùng nói: “Ông bạn này năm nay bao nhiêu tuổi, đã đi qua mấy cái hang?” Gã vênh mặt lên đáp: “Tôi là nhà địa chất có máu mặt trên Sài Gòn, thu thập về không biết bao nhiêu mẫu đất, khoáng thạch, hóa thạch phục vụ nghiên cứu. Tôi còn dẫn đoàn đi thám hiểm hang động đều đều, các anh chị mới ngộ. Nãy giờ cứ nhè tôi ra mà trách mắng, mà ăn hiếp…” Nói đến đó thì cánh tay của Hùng đã khoát ngang vai gã, anh dẫn gã đi ra phía sau vòng tròn, chỗ vách đá vôi rồi nói, giọng nhỏ nhẹ nhưng tôi nghe đầy mùi tử khí: “Vâng, vâng. Thay mặt khoa học, cám ơn Giáo sư Tùng. Nhưng mà, Hùng tôi xin được nói chuyện này một lần, anh Tùng xin hãy lắng nghe thật kỹ vì tôi sẽ không lặp lại bằng lời nữa.” Tới đây, anh Hùng chụp cổ áo gã rồi nhấn gã vào vách đá, bằng một chút sức lực đã nhấc bổng gã lên không trung, anh nói tiếp, giọng anh cứ đều đều, không lên cao, không xuống thấp, không nghiến răng, cũng không nhấn mạnh: “Từ đây về sau, ông anh mà còn làm chuyện gì ảnh hưởng tới an nguy của cả đội thì tôi đéo nể mặt Thùy mà chơi đẹp với ông anh nữa. Đừng có coi nhẹ chuyện sống chết trước mặt tôi. Hiểu chưa?” Gã Tùng dường như cũng hiểu được một phần, cảm nhận được thứ sát khí phát ra từ lời nói của anh Hùng nên gã trợn mắt lên, gật đầu lia lịa. Anh thả gã xuống rồi giật lại cuộn dây của ông lão thả diều. Bỗng từ phía sau, con nhện Thiên Mẫu kêu lên những tiếng xì xì như huýt gió, nó trở cả thân mình, dùng hai cái chân phía trước rạch những đường thẳng trên mặt hang, nó đã đoán được có vòng tròn bột đá vỏ ốc, con nhện này thông minh hơn tôi tưởng. Chỉ còn vấn đề thời gian trước nơi ẩn náu giới bị phá, anh Hùng nhìn sang tôi, tôi cũng hiểu nhiệm vụ của mình rồi, để sẵn hai ngón tay, tôi nép ra phía sau lưng anh. Anh nói: “Chừng nào anh kêu thì mày hả làm, lạm dụng cái này quá sau này khỏi khai phù luôn!” Đoạn, anh nhìn cả đám một lượt, đảm bảo mọi người đã vào vị trí, anh rút cây rìu ra thủ thế, chân trái của con nhện hất rất nhiều nước bọt về phía chúng tôi, nước cuốn trôi đi lớp bột, phá vỡ trận địa phòng thủ Tú Linh dựng lên, bầy nhện xung quanh cảm nhận được chuyển động, nhịp thở của chúng tôi liền ré lên những tràng điếc tai rồi bay vào tấn công. Chiều ngang của hang khá rộng, vòng bột sau khi bị phá thì lũ nhện giờ cách chúng tôi khoảng năm mét. Tú Linh là người “bắn phát súng” khai mào, những cái kim bay vun vút, xé gió làm vang lên âm thanh như để cái micro trước chiếc loa, chúng găm vào chân của lũ nhện làm chúng kêu lên rồi đổ gục xuống, chỉ còn ngoe nguẩy được cái đầu và cặp nanh, nhưng dễ gì lũ nhện chịu chùn bước, chúng bò lên đồng loại mình rồi vẫn tiếp tục xông lên, tôi đếm chắc dễ cũng gần ba bốn chục con. Vòng vây chưa bị khép chặt, không gian vẫn còn khá rộng, anh Hùng, Tú Linh và Sinh đứng ở ba góc chính, bảo vệ cho tôi, Thùy và gã Tùng. Anh Hùng không sử dụng lưỡi rìu mà chỉ dùng phần cán tía khắc rồng phụng, tay còn lại không biết có bắt Ấn Chú gì không mà thấy rất chắc, một con nhện xông tới, nó phóng lên định bắt gọn anh rồi đè xuống mặt đất nhưng nó đã quá xem thường đối thủ, anh lách nhẹ sang một bên, thục cán búa vào bụng nó làm nó lăn ra bất tỉnh, thêm hai ba con nữa cũng bay tới, anh không hề nao núng, hết né tránh rồi ra đòn rất gọn, không lâu sau thì xung quanh anh đã đầy nhện, chúng nằm co chân lên trời, không tài nào ngồi dậy được nữa. Phần Sinh thì còn gọn hơn gấp bội, nó vốn là dân đập miễu mà, tôi còn chưa thấy nó đổ một giọt mồ hôi, thế mà lúc nãy tôi tưởng phải khai Dạ Xoa Ấn Chú để thoát thân. Một lúc sau vấn đề cũng khá khả thi, thấy nhẹ nhõm trong lòng nên tôi bỏ tay xuống, chợt nghe phía Tú Linh có tiếng hét, thì ra là Thùy, một con nhện đã bò lên trần hang, phục kích cả đám từ phía sau lúc nào không hay, Tú Linh vừa phóng ra một loạt kim, chưa kịp “nạp đạn”, con nhện đã ở ngay trên đầu Thùy. Tôi định chạy lại nhưng chợt nhận ra: “À chắc không cần nữa…” Cô bé ấy chỉ thét lên vì giật mình vậy thôi, chứ không phải dạng yếu đuối gì, con nhện phóng tới, Thùy thủ thế, vun cây đuốc ra trước mặt mình, cản bước tiến của con nhện, nó bị ngọn lửa có bùa bắt vào người, cháy xém một mảng, chưa kịp hoàn hồn thì nhận ngay một cú đánh trời giáng từ Thùy, bất động luôn. Tú Linh nói: “Chế có lời khen nghe em gái!” Thùy cười hề hề: “Cám ơn…” Quay sang chỗ anh Hùng và Sinh thì thấy cũng đã dọn xong lũ nhện, chúng nằm la liệt trên nền hang, tám đốt chân co giật liên hồi nhưng không con nào ngồi dậy nổi. Tôi cảm thấy có gì đó cấn cấn, mặc dù đã tai qua nạn khỏi nhưng có gì đó không đúng, đó giờ có làm gì mà dễ dàng vậy đâu? Quả thật, linh cảm không hề sai, vừa nghĩ đến đó thì con Thiên Mẫu Chúa lại ré lên, lần này tiếng động từ phía dưới vực sâu nghe còn hùng dũng hơn lúc nãy, và thêm vào đó là một luồng băng phong dựng cả da gà sau lưng tôi thổi đến. “Nghiêm túc rồi…”, tôi nghĩ thầm, nín thở chờ những con mắt đỏ như máu từ từ bò lên như lúc nãy. Nhưng không có gì hết! Chỉ nghe tiếng bước chân, anh Hùng la lên, bảo soi đèn và đuốc về phía đó thì tá hỏa, phải lùi lại mấy bước. Từ dưới vực sâu, những con nhện đang xếp hàng nhau bò lên, tụi này không phải lũ Cận Vệ nữa, chúng đen nhánh, gai mọc đầy chân, trên không có lông vũ gì cả, và đặt biệt là chúng không có mắt! Anh Hùng chậc lưỡi: “Nhện mù. Gay go rồi đây!” Trong quần thể nhện này có rất nhiều loại, con Thiên Mẫu Chúa to khổng lồ, đứng ra lệnh và bảo vệ bộ xương ông lão, những con nhện Trinh Sát với lông vũ vàng, nhện Cận Vệ với lông vũ đỏ, vậy thì lũ nhện mù này chính là Chiến Binh. Nhện này không có mắt vì chúng sâu dưới lòng đất, nơi không có bất cứ thứ ánh sáng gì chiếu tới nên dần dần thị giác cũng tiêu biến, nhưng độ hung hăng và trâu bò thì lại phát triển hơn hết, có hiệu lệnh của con Chúa thì mới xuất quân. Chúng lại có cả đội hình, dàn hàng trước con Thiên Mẫu, leo lên cả trần hang, vách hang, nhất loạt xông tới. Cả đám lại phải chiến đấu, nhưng lần này vất vả hơn nhiều, đến một lúc sau thì bị dồn vào một góc vừa chỗ đứng, tất nhiên là anh Hùng, Tú Linh và Sinh đều đánh được nhưng quan trọng là ở số lượng, từng đàn, từng đàn những con nhện mù này không biết từ đâu kéo tới mà đánh mãi không xong. Anh Hùng nói: “Mẹ nó, anh bực rồi đó, đánh mà không có tí động lực, chẳng hiểu lý do vì sao như này!” Sinh bảo: “Đại ca, hay là cứ giết đi, anh sợ dính máu trên tay thì để thằng em này làm.” Cả anh Hùng và Tú Linh đều đồng thanh: “Không được.” Tú Linh nói: “Lúc đầu lũ nhện này đâu có ý định làm gì mình, con Thiên Mẫu chỉ bảo vệ chủ thôi. Tới lúc phát hiện ra là bị trộm mới tấn công. Chế là Tẩu Lộ, đâu thể vì lỗi của mình mà giết bồ câu của tiền bối được!”Sinh cằn nhằn: “Chế đẹp lại làm quá, giờ không giết thì chẳng lẽ đứng đây vậy hoài, còn Ca Lâu Thành?” Anh Hùng chậc lưỡi, chưa biết giải quyết ra sao thì một luồng băng phong khách lại thổi tới. Tôi tự nhủ: “Không biết chuyện gì nữa đây…” Chợt từ phía sau con Thiên Mẫu vang lên một tiếng cười the thé, lúc trầm lúc bổng, một giọng nói già cằn, chất phát: “Hô hô hô… Ba núi có năm thần, thần nào quản núi nấy, năm sông có chín bá, mỗi bá quản một đoạn, núi liền núi liền núi, sông liền sông, đũa ở Ca Lâu là vàng hay bạc?” Tiếng nói này làm cả bọn đứng đực ra vài giây, anh Hùng hô lớn: “Ca Lâu chưa biết có đũa vàng hay bạc, người muốn liệng ngang mặt hồ lỡ làm đứt bó đũa của bồ câu, không hề cố ý!” Bỗng phía sau con Thiên Mẫu, một bóng người màu trắng bước ra, tay vẫn còn làm động tác giật dây nhưng không thấy cuộn dây đâu, dựa theo cách ăn mặc và phản ứng lúc này của Thùy thì cái bóng này chính là cái bóng đã dẫn đám Thùy vào hang, và là vong của ông lão đang nằm ở kia. Ông lão nói tiếp, giọng âm vang: “Người muốn liệng ngang mặt hồ không cần múc nước trả bồ câu, buộc bó đũa lại dâng vào sớ Thiên Đình, miệng đọc Quan m Phổ Độ Ta Ba Chú ắt sẽ qua được mặt hồ!” Nói xong ông lão tan biến vào không khí, chỉ còn nghe tiếng cười the thé lúc nãy. Sinh la lên: “Làm liền đi đại ca, em đánh một hồi nữa là em nổi điên đó, khỏi bồ câu bồ kết gì luôn!” Anh Hùng gật đầu nói: “Vậy chỗ này giao lại cho mày với Tú Linh!” Đoạn, anh ném búa cho tôi, phóng qua hai con nhện, sẵn đạp đầu chúng cho chúng bất tỉnh rồi len lỏi ra khỏi vòng kết giới, tiến về phía bộ xương sau lưng con Thiên Mẫu. Tú Linh và Sinh đứng đâu lưng lại, phía sau là tôi và Thùy, gã Tùng giờ đã ngồi sụp xuống, ôm đầu la lên oan oan, vòng vây giờ lại bị khép thêm chút nữa. Anh Hùng trượt xuống nền đất trên hai đầu gối, lòn qua bụng con nhện, anh lấy tay chụp gọn lên trán của bộ xương, miệng nhẫm nhẫm bài chú gì đấy. Con nhện thấy người lạ động vào chủ liền nhảy lên quay người một trăm tám mươi độ, vung những cái chân đầy gai góc lên không trung, nhắm thẳng vào anh Hùng mà đâm. Đọc chú chưa xong, anh đã phải bỏ tay ra để né tránh, tôi nghe anh chửi thề vài tiếng, anh cố lại lần nữa nhưng vẫn bị con Thiên Mẫu phá. Anh quay đầu lại, lần này cầm cái dây của ông lão rồi móc vào chân con nhện, sử dụng thân thủ nhanh nhẹn anh quấn mấy vòng dưới tám cái chân rồi nhảy ra xa dụ nó, nó định cử động thì bị những sợi dây rắn chắc quấn vào nhau, vật nó ngã xuống, mặt đất bị sức nặng của nó làm rung chuyển dữ dội. Tuy nhiên, theo tôi quan sát, nó chỉ cần vùng vẫy vài cái là lại thoát ra và đứng dậy được thôi, nhưng phải mất chút thời gian. Anh Hùng chỉ cần có vậy, anh chạy một mạch về phía bộ xương rồi tiếp tục niệm chú. Tay anh nổi gân, lòng bàn tay chỗ chạm vào quỷ hồn phát ra ánh sáng nhẹ màu vàng. Như một phép màu gì đó, chợt một ma khí màu xanh lơ từ bộ xương bay mất, tựa như có một lớp da bị hoá ra tro bụi, để lộ ra bên trong một hình hài như người còn sống, có ánh sáng màu vàng nhẹ phát ra xung quanh. Anh vừa xong cũng là lúc con nhện lồm cồm bò dậy. Nó ré lên những âm thanh chói tay rồi chạy về phía anh Hùng với tốc độ kinh hồn, nó đã nổi điên. Tôi thấy cảnh tượng trước mặt liền la lên dữ dội, anh Hùng vẫn còn quay lưng về phía con nhện, chưa thấy anh có phản ứng gì cả. Con nhện nhe nanh, vung càng đầy sát khí, anh Hùng vẫn đứng bất động, anh từ từ quay lại, bỗng tôi thấy phía sau anh một bóng trắng bay vụt lên trần của hang động. “Nghiệt súc! Còn không dừng lại mà cúi đầu với ân nhân!” Con nhện nghe xong liền khựng lại, thì ra là ông lão thả diều, ông đang lơ lửng trên trần hang, thân thể phát ra ánh sáng lân tinh nhìn hết sức kỳ diệu, ông nói: “Lục lâm quật khởi, người sau còn giỏi hơn người trước, không biết người muốn liệng ngang mặt hồ này tên gì?” “Hùng bonsai.” “Giỏi, giỏi!” Ông lão cười ha hả rồi bay xuyên qua trần hang, những con nhện mù liền nới lỏng vòng vây, chúng chạy về phía Thiên Mẫu Chúa, giờ đang đưa mặt xuống áp sát anh Hùng, dùng tám con mắt đỏ như máu săm soi anh, đoạn lùi về sau mấy bước, rồi khụy hai chi trước, cúi đầu trước anh Hùng như thể cung kính lắm, nó kêu lên một tiếng, lũ nhện xung quanh nghe được cũng làm theo. Thú thật tôi chẳng hiểu gì cả, mới mấy giây trước còn hung hăng lắm mà, một lát nữa thế nào tôi cũng sẽ hỏi anh Hùng cho ra lẽ, Tú Linh và Sinh nhìn thì biết tôi sắp làm vậy rồi, Sinh vỗ vai tôi rồi thu dọn bãi chiến trường. Một lúc sau lũ nhện cũng từ từ bò dậy, lũ Trinh Sát, Cận Vệ, Chiến Binh thi nhau chui xuống vực thẳm, biến mất tăm, chỉ còn con Thiên Mẫu vẫn đang cúi mình. Tôi vẫn còn thấy nhiều điều chưa ổn nên sẵn hỏi anh trong lúc mọi người đang dọn đồ: “Nãy em tưởng ông lão này là thả diều của Ca Lâu Thành chứ anh?” Anh bảo: “Làm gì có, ông này biết lục ngữ, thời Ca Lâu Thành chưa có, mãi đến thế kỷ XIX mà!” “Vậy ổng là ai mới được, sao ổng lại chết ở đây?” “Theo anh thấy thì lúc nãy trên xương sườn của ông ta có vài chỗ đáng ngờ lắm, không phải chết do tự nhiên mà bị ngoại lực đánh vào, gãy mấy chỗ. Lúc nãy đã đọc chú siêu thoát nên có hỏi thì ông ta cũng không biết đâu…” Thùy nãy giờ đứng ngơ ngác, giờ ánh mắt lại tràn đầy bối rối, nôm như muốn phát nổ luôn rồi, cô ta dồn hết can đảm thốt lên: “Mấy anh chị là ai vậy? Nãy giờ có chuyện gì em không hiểu gì hết!” Anh Hùng cười rồi nói: “Kể ra thì dài lắm em. Còn chuyện ông lão, tạm hiểu thì ông ta là “canh cửa”, muốn vào được Ca Lâu Thành phải qua ổng, ổng cung cấp phương tiện di chuyển. Cửa hang phong bế ngàn năm, dương khí bên ngoài quá lớn, âm khí trong này cũng dữ dội không kém, làm oan hồn lão không sao siêu thoát được, cứ đi quanh quẩn các cửa động. Lúc Tùng cầm cuộn dây, oan hồn lão bị kinh động nên bộc phát, lũ nhện cảm nhận được nên vây lại bảo vệ chủ mình. Lúc đó, anh tiếp cận lão, dùng Quán m Phổ Độ Ta Bà Chú siêu thoát thì chuyện này mới hết đó, còn lý do ổng chết thì...!”, anh Hùng bỏ lửng ở đó. Thùy tuy gật gù, chen lẫn một chút ngưỡng mộ nhưng nhìn vẫn còn lấn cấn nhiều câu hỏi lắm. Cũng dễ hiểu. Chúng tôi loay hoay một hồi cũng chấn chỉnh xong đội hình, tôi hỏi anh Hùng giờ làm gì nữa đây, anh còn chưa trả lời thì thấy con nhện khổng lồ tiến về phía vực thẳm, nó trở mình, phóng tơ lên trần hang rồi đu người ra ngoài, hai chi trước bám vào mép của cái vực, anh Hùng quay sang nhìn cả bọn rồi hỏi: “Sẵn sàng liệng ngang mặt hồ chưa?” -
 
Chương 35 : Phần 13: Biển Oan Hồn


Lâm Gia Thái Bảo - Thuỳ vẫn ngơ ngác: “Là sao anh?” Anh Hùng nói: “Là giờ mình đi xuống dưới đó!” “Nhưng anh ơi, dây đâu mà leo xuống bây giờ?” Sợi dây lúc nãy có lẽ bị vướng vào chân con nhện nào đó nên bị lôi đi rồi. Thùy loay hoay kiếm mà không thấy đâu hết. Anh Hùng vỗ vai cô, chỉ về phía con Thiên Mẫu. Thùy kinh ngạc: “Ý anh là leo lên con nhện đó cho nó đu xuống dưới? Anh đùa à?” Tôi thì đã nghe anh Hùng kể về chuyện cưỡi cá sấu băng qua Rừng tràm Trà Sư rồi, nên cũng đoán được phần nào. Tú Linh và Sinh đã rảo bước đến kế con Thiên Mẫu, anh Hùng ra hiệu nhanh lên, Thuỳ háo hức lên trước, tôi thì phải kè gã Tùng, gã cố sống cố chết cũng không dám leo lên, nhưng đuổi gã về thì gã không chịu đi một mình. Sợ trên đường ra gặp hồn ma nào nữa thì chắc đái trong quần, tôi lôi gã lại mé vực rồi mặc kệ, muốn làm gì thì làm, một lúc sau cũng tíu tít chạy theo cả đám. Hít một hơi thật sâu, tôi bước chân lên lưng con nhện. Tôi tưởng rằng nó sẽ mềm mại, nhầy nhụa, đứng không bám chân được nhưng sự thật hoàn toàn trái ngược, cái lưng con Thiên Mẫu vừa chắc, lại có mấy cái gai tua tủa, không đâm vào chân mà lợi dụng ma sát từ chúng, đứng cực kỳ vững. Con nhện khổng lồ cõng cả bọn năm người trên lưng mà không hề thấy nó nao núng, tơ nhện thì khỏi nói, bình thường đã làm được áo giáp chống đạn, tơ của Thiên Mẫu chắc dùng làm dây trục container được chứ chẳng đùa. Càng xuống sâu nhiệt độ càng thấp, đứng trên lưng Thiên Mẫu cho nó thả người xuống khoảng mười phút rồi vẫn chưa thấy tới. Từ nãy đến giờ, ở hai bên mép vực, tôi thấy có rất nhiều hốc đá, bên trong lâu lâu lại vang ra âm thanh huýt gió, xuống thêm chút nữa, số lượng những hốc đá này ngày càng dày đặt, Sinh lia ngọn đuốc với phía đó làm tôi hoảng hồn, một con rắn vàng khè, to bằng cổ tay đang len lỏi giữa những lỗ hang, sau đó thì thấy thêm nhiều con nữa, chúng có màu sắc khác nhau: đen, vàng, đỏ, xanh lơ đủ cả, tròng mắt chúng trắng háu, cái lưỡi thụt ra thụt vô nhìn bọn chúng tôi và con Thiên Mẫu. Hình như chúng đang dè chừng, sợ con nhện khổng lồ hết mấy phép, nếu không có con Thiên Mẫu chắc lũ rắn này đã cắn chết cả bọn rồi. Thùy nói: “Lúc nãy mà em đu dây leo xuống chắc…” Tôi cười, không dám tưởng tượng tới cảnh đó. Một lúc sau cũng đến đáy hang, con Thiên Mẫu nhìn anh Hùng rồi ré lên vài tiếng, nó cúi đầu y hệt lúc ở trên rồi bò lên lại, nó vừa quay đi thì lập tức có hai con nhện Cận Vệ lông vũ đỏ bò tới, như canh cho chúng tôi khỏi lũ rắn vậy. Dưới này không tối như tôi tưởng, anh Hùng bảo Thùy tắt đèn pin rồi nói Sinh chuẩn bị thêm hai cây đuốc nữa, lý do thì lúc trước Sinh có nói rồi, chúng tôi đã qua ải đầu tiên của Bát Quái Động, đến càng gần Ca Lâu Thành thì phải càng thận trọng. Vả lại ba ngọn đuốc là quá đủ ánh sáng, những đốm sáng vàng vọt hắt lên vách tường đá vôi của hàng động, địa hình không khác ở trên, bề mặt sần sùi hơn một chút thôi, riêng mặt đất thì khá bằng phẳng. Công việc đầu tiên, chúng tôi chia nhau ra tìm dấu hiệu của Dũng và Châu, Thùy đi với Tú Linh, tôi đi với Sinh còn Anh Hùng đi với Tùng, tại vì chỉ còn mình anh nói chuyện với gã, mỗi nhóm đi một hướng về phía những vách hang, dưới đây khá rộng. Sinh đi trước, tôi đi sau, được một lúc thì hai thằng thấy dưới đất có một miếng gỗ bị bụi phủ kín, trên đó có khắc những ký tự giống như kinh văn trên cái vô lăng nhưng nét vẽ thô kệch hơn, có lẽ là dùng than chì. Càng đi tới thì thấy thêm nhiều mảnh gỗ nữa, theo linh tính, Sinh rọi đuốc về trước, tôi cũng cố căng mắt ra nhìn theo, khi mắt quen dần thì phát hiện phía trước là một kiến trúc tháp khá cao. Sinh ngoắc tay ra hiệu tiến về phía trước, đến gần mới thấy tòa tháp đổ nát này cao chạm nóc hang, những bức tường nham nhở các lỗ hổng để lộ ra các bậc thang hư hại gần hết. Cỏ mọc xung quanh cao hơn đầu chúng tôi mấy thước, loại cỏ này tôi chưa thấy trên mặt đất bao giờ, lý do chúng có thể mọc ở nơi thiếu ánh sáng như này cũng khó hiểu không kém. Tôi hỏi Sinh là có muốn vào không, nó lia ngọn đuốc qua lại, xem xét tình hình rồi bảo: “Vào xem qua tầng một cái đi, nhỡ mấy người kia vào đây trốn rồi sao?” Tôi gật đầu. Cửa vào tòa tháp có một đường chỉ gỗ rộng vài centimet, bên trên khắc hình chim thần rất tinh xảo, có thể thấy rõ những cái miệng đầy răng nhọn hoắt của chúng. Kiến trúc tầng một của tháp hình tròn, dưới nền lót ván gõ, ở giữa những kẽ hở cỏ mọc lên, ngọn đuốc của Sinh lia đến đầu thì bóng của cỏ bị hắt xuống đến đó, trông giống hàng chục người đang chạy dọc trên nền gỗ. Bên trong tháp không rộng lắm nên có thể dễ dàng nhận thấy không có dấu hiệu của Dũng và Châu, thất vọng, chúng tôi rủ nhau đi ra thì nghe phía bên kia Thùy đang hét lên: “Mấy anh chị, lại đây coi cái này nè!” Tôi và Sinh tức tốc chạy đến, thấy Tú Linh đang ngồi ngụy gối, sờ vào nền đất, anh Hùng và gã Tùng cũng chạy đến ngay sau đó. Dưới nền đất, chúng tôi bàng hoàng phát hiện ra hai vệt dài, nếu loại bỏ hết mọi khả năng không thể xảy ra thì đây chính là dấu vết kéo lê mà “vật gì đó” đã để lại khi di chuyển cơ thể Dũng và Châu, dấu vết ăn khá sâu vào mặt đất nên không thể nhầm lẫn được. Dường như Thùy cũng hiểu chuyện, cô lấy tay bịt miệng, giấu một tiếng nấc, còn khuôn mặt gã Tùng thì hiện rõ vẻ bàng hoàng. Sinh chậc lưỡi: “Tình hình này chắc hết hy vọng rồi. Hang cao chết mẹ, rớt xuống què dò gãy cẳng là còn hên, rồi nhện và rắn các thứ. Chuyện khó hiểu duy nhất là ai đã lôi hai đứa này đi?” . Thùy nghe đến đây thì đã không còn kiềm được sự xúc động, mặc dù tôi nhận xét thấy cô ta mạnh mẽ là có, nhưng sự thật mà Sinh nói ra quá tàn nhẫn, phản ứng này hoàn toàn dễ hiểu. Cô gục đầu vào vai Tú Linh thút thít, đến lúc này thì Tú Linh trợn mắt nhìn Sinh trách mắng, nó trút hơi thở kèm chút giễu cợt rồi cầm chai rượu bỏ ra phía xa. Anh Hùng lên tiếng: “Thôi, mọi người chắc cũng mệt rồi, giờ mình kiếm chỗ dựng trại, nghỉ ngơi lấy sức, theo anh nghĩ giờ này ở trên cũng gần trưa rồi.” Ánh lửa bập bùng soi sáng khuôn mặt bần thần của Thùy và gã Tùng, mỗi người một miếng lương khô, không ai nói với ai câu gì, Sinh tìm được một gốc cây bị đổ, nó dựa lưng vào đó, nằm bắt chéo chân, vừa ăn vừa uống rượu, nôm không có chút gì hối hận về kết luận của mình. Tú Linh ăn xong thì đứng lên đi về phía Thùy, cô nói sẽ mát-xa trán cho cô bé bớt chút căng thẳng, gã Tùng cũng đòi nhưng Tú Linh bỏ ngoài tai hết trọi. Tôi xin anh Hùng điếu thuốc, kéo vài hơi thấy đầu óc tỉnh táo ra hẳn, lúc này tôi mới hỏi: “Ông lão chết oan vậy, mà lại là lục lâm thứ dữ, em thấy cấn cấn sao á anh?” Anh bảo: “Đâu phải mình ên mày cấn, như lúc nãy anh có nói, xương sườn lão gãy mấy cái, lực tác động không phải nhỏ. Kiểu này thì chỉ có khả năng là do một tay lục lâm khác cao tay hơn giết mà thôi. Lục lâm đen chẳng hạn? Thằng Sáu Nghĩa với bà mẹ nó thì không phải rồi…” Tú Linh chen vào: “Theo em thấy, nếu xương mà đen đi như vậy, ông lão thả diều chết cũng khoảng hai mươi, ba mươi năm trước.” Anh Hùng suy ngẫm một hồi, nhìn anh có vẻ căng thẳng lắm, vài lần anh định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thấy cơ mặt anh chùn lại, anh gục đầu xuống, cánh tay vô thức ném một viên đá vào đống lửa, anh trút tiếng thở dài: “Lúc ở đảo Bia Mộ, bác Ba có nói về chuyến đi vào Ca Lâu Thành với một người mà bác cho là Lý sư phụ mấy chục năm trước. Chẳng lẽ…” Nghe xong, tôi ngã người về sau một chút, tiếp nhận thông tin mà không khỏi bất ngờ. Nếu bác Ba nói đúng, thì chẳng lẽ người giết ông lão thả diều là hai người bọn họ, vậy thì hợp lý rồi, họ chính xác là “lục lâm thứ dữ”. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, khả năng những lục lâm ám sát lẫn nhau là rất nhỏ, Lý sư phụ và mười người đệ tử của ông tiếng tăm đâu phải nhỏ, họ nổi lên nhờ vào việc bao dung và luôn giúp đỡ kẻ yếu mà. Thêm vào đó, lúc chúng tôi gặp bác Ba, ông đã điên điên khùng khùng, tuy có kính trọng nhưng tôi không nghĩ mấy người này tin vào lời ổng nói. Thật vậy, anh Hùng tuy có nói thế nhưng anh cũng ghim lại một câu: “Giờ khoan hãy kết luận, không đủ cơ sở mà kết luận rồi đâm ra nghi ngờ tiền bối tội họ, tập trung vào chuyện Ca Lâu Thành trước đi.” Đoạn, anh quay sang bảo Thùy: “Em nói em có cuộn da gì đó ghi thông tin về tòa thành này đúng không, giờ lấy ra đi, mình sắp vào đó rồi, biết đâu tìm được thông tin bổ ích!” Thùy gật đầu cái rụp rồi bước đến ba lô móc ra một cuộn da màu nâu cũ kỹ, nó được cột lại bằng sợi dây thừng nhỏ màu đen đã tơi tả gần hết, anh Hùng nói Tú Linh lấy cuộn giấy đọc đi rồi “phổ cập” lại cho cả bọn, Thùy nói là cô có nhờ ông anh nào đó dịch giùm rồi nhưng anh Hùng chỉ cười, làm lơ. Tôi nghĩ đây là dịp tốt để hỏi về thân phận của Thùy nên nói luôn: “Sao em quyết định đi tìm Ca Lâu Thành vậy, nếu viết luận như em nói lúc đầu thì chui vô mấy chỗ nguy hiểm này làm gì cho mệt?” Thùy cười (chậc, cười gì đẹp dữ), cô nói: “Mới đầu gặp, mọi người không biết từ đâu lù lù bước ra, em cũng phải chừa đường lùi chứ. Giờ mọi người muốn nghe thì em kể, nhưng mà sau đó anh cũng nói cho em biết thật sự mọi người là ai nha?” Tôi và Thùy nhìn anh Hùng, anh gật đầu, cô nói tiếp: “Thật ra là do ông nội em cả…” Ông nội của Thuỳ tên là Hoàng Quý Châu, gốc gác ở Lái Thiêu, năm 1948 chạy loạn về sống ven kênh Tàu Hủ, giao báo dạo, đánh giày, chạy việc chạp phô hay bán cao đơn hoàn tán việc gì ông cũng kinh qua, mục đích chỉ là bám trụ lại đất Sài Gòn. Lại nói về Sài Gòn thời ấy vẫn chia ra làm Sài Gòn (khu vực trung tâm ngày nay) và Chợ Lớn (Quận 5, 6) nhưng dân Minh Hương không gọi là Chợ Lớn mà gọi là Đề Ngạn, theo tên xưa. Lúc ấy, ông Châu hay chạy vặt cho người Hoa, người lúc nào cũng khua khoắng tay chân, không chịu nghĩ nên người Hoa ở đây đều biết cái danh Lão Hoàng (nghĩa thực ra là Lão Châu Chấu, do ông họ Hoàng, châu chấu tiếng Hán là Hoàng Trùng). Do biết tích cóp nên chẳng bao lâu đã để dành đủ số vốn, Lão Hoàng bắt đầu buôn. Ban đầu chỉ là mua đi bán lại mấy loại thuốc lậu, dần dà đủ vốn rồi thì lụa là gấm vóc cho đến kỳ trân dị bảo đều thấy ông bán đủ cả. Bến của ông lúc nào cũng đậu bốn, năm chiếc ghe chở đủ thứ hàng chờ giao, thời vận phải gọi là cực kỳ tốt. Người ta vẫn nói, dư tiền rồi chẳng biết làm gì, Lão Hoàng khi đứng ở đỉnh cao cũng thế, hễ thứ gì ông thích thì đều không tiếc tiền mua về trưng trong nhà, ban đầu cũng chỉ là ngọc ngà đồ trang sức, kế đó thì đến sừng tê, da hổ trắng, sau này đến cả báu vật lôi từ dưới mộ cổ đào được ở đâu đâu ông cũng đem về, dĩ nhiên là ông thích. Chợ Lớn ngày ấy chỉ có ba trục đường chính, cắt nhau nhìn như chữ Điền Hán tự, ý nghĩa Chợ Lớn thì hết sức đơn giản: y hệt như cái tên Việt hoá của nó, mua gì cũng có. Trong cái bàn cờ nhỏ ấy, Lão Hoàng đi muốn nát hết cả, thế mà cứ vài ngày ông đều dạo qua khu đồ cổ, xem có gì hay ho thì mua về, cục đá cũng được. Hôm nọ trời vào tháng bảy âm lịch, khu người Hoa lác đác đã có người đốt vàng mã cúng cô hồn đề phòng bị quấy phá, về khuya ít người buôn bán hơn. Lão Hoàng tối đó chỉ định đi ra ngoài dạo chút rồi về, ai ngờ đi thế nào đến khi định tần lại thì đã thấy đặt chân đến khu đồ cổ. Định bụng quay về thì bỗng nhiên có ánh đèn lồng đi gấp vào con hẻm. Quái lạ, Lão Hoàng đi bộ khắp cái Chợ Lớn này ít gì cũng hơn mười năm, làm gì có con hẻm nào ông chưa biết, chỗ này rõ ràng không hề có cái hẻm nào cả thì nay lù lù ở đâu xuất hiện khiến ông không khỏi nghi ngờ. Ghé mắt nhìn vào trong chỉ thấy đó là con hẻm nhỏ, bên trong tối mờ mờ, hắt thứ ánh sáng đỏ do giấy dán cửa sổ ra ngoài. Nghĩ bụng có thể do ông chỉ đi ban ngày qua đây, buổi sáng người ta bày đồ la liệt, che cả đường vào nên ông không biết sự tồn tại của cái hẻm này, dù gì cũng lỡ đi đến đấy rồi thì vào thử xem sao. Nghĩ là làm, Lão Hoàng bước thẳng vào con hẻm mờ mờ, vừa lúc đó ngoài đường chính ùa đến trận gió lạnh ngắt, thổi giấy tiền vàng bạc bay tứ tung. Con hẻm càng đi vào càng rộng ra, đến một khúc ngoặt thì Lão Hoàng hết sức sửng sốt khi thấy ở đây người ta vẫn mua bán náo nhiệt, đèn đuốc sáng rực. Họ nói với nhau đủ thứ tiếng, trao đổi hết sức ồn ào, sầm uất. Lão Hoàng đi dọc con phố đó, nó cũng chỉ khoảng trăm mét, chủ yếu bày bán đồ ăn uống, vốn dĩ Lão Hoàng đâu quan tâm, lão vẫn quan sát xuôi ngược, xem có ai bán đồ cũ đồ cổ hay ho gì không. Đang định quay trở ra, ông bỗng thấy góc khuất bên kia có một lão già đang nằm bên cạnh một cái chiếu bày đủ đồ đồng la liệt. Tò mò bước sang thì thấy đa phần là đồ thờ cúng, duy chỉ có một tấm da trâu được buộc dây đen, trông hết sức bẩn thỉu. Chính sự cũ kỹ bẩn thỉu đó lại thu hút Lão hoàng rất nhiều, ông mở ra xem, bên trong toàn chữ Hán cổ, dĩ nhiên lão đọc chữ được chữ không, nhưng nội dung thấp thoáng gì đó về một tòa thành cũ thuộc phạm vi trấn Hà Tiên, Rạch Giá. Lão già nằm nãy giờ, thấy có khách đến thì ngồi dậy, khuôn mặt hết sức kỳ quái: không có chân mày, mũi tẹt thấp, da căng bóng, hai mắt híp lại, hơi thở nhẹ như không có, cả người tỏa ra sự lạnh lẽo đáng sợ. Lão Hoàng hỏi về cuộn da, lão già vẫn không tỏ ra chút cảm xúc gì, bảo: “Mua làm gì?” Lão Hoàng trố mắt ra, nghĩ bụng ai đời có người bán nào lại hỏi thế, bèn nói: “Lão phu thích trưng đồ cổ, vật này có gì đó mỗ mua không đặng hay sao?” Lão già nói như thở ra từng chữ: “Chỉ sợ nó làm ngươi chết không nhắm mắt thôi!” Lão Hoàng giận đến tím mặt, để lại một lúc sáu chỉ vàng dằn mặt lão già rồi đùng đùng quay trở ra. Lúc về, Lão Hoàng bèn tìm người biết chữ, về dịch lại cho lão nghe. Biết được nội dung của tấm da, từ đó về sau Lão Hoàng đổi tính hẳn, không đi mua đồ về trưng nữa, chỉ lục tìm sách cổ, thư tịch, mọi thứ về địa chí vùng Kiên Lương Hà Tiên, rồi các manh mối về một thứ ông chỉ mấp mé khi có ai hỏi: Ca Lâu Thành. Kể tới đó, giọng Thùy đượm chút buồn, cô nhìn qua cuộn da mà Tú Linh đang cặm cụi đọc rồi nói: “Ông nội em sau đó bị ám ảnh với cuộn da đó, bỏ hết công chuyện làm ăn, tuyển lực điền, thầy phong thủy, rồi vệ sĩ đủ cả, lên đường đi tìm tòa thành Ca Lâu trong truyền thuyết, nhưng lần nào về cũng thất bại, cả đoàn người chết gần hết. Nhưng ông vẫn cứ kiên quyết, ông nói đây là sứ mạng của đời ông, đêm trăng đó, con phố đó, ông lão bán hàng đó. Ông lúc này đã giàu sụ nên có suy nghĩ của người đứng trên đỉnh cao, đâm ra bệnh tưởng, nói là ông Trời sắp đặt cho ông đi vào khu phố đó và giao phó nhiệm vụ tìm Ca Lâu Thành lại cho ông. Em thương ông lắm, lúc ông hấp hối trên giường, ông đuổi hết mọi người ra ngoài rồi nói với em, rằng em là người thông minh, có tố chất nhất dòng họ, ông nắm chặt tay em, truyền cuộn giấy lại cho em rồi bắt em hứa là phải giúp ông hoàn thành sứ mạng, không thôi Ngọc Hoàng không cho ông lên Thiên Đình. Em chịu gật đầu ông mới bỏ tay em ra.” Tôi nói: “Vậy cho nên em mới quyết định thi vô trường địa chất hả?” Thùy bảo: “Đúng rồi anh. Nói thật em chưa bao giờ quên lời dặn của ông nội. Sau này em cũng ghiền luôn khảo cổ, thám hiểm. Đi vào đây tưởng chỉ là cái hang thôi có gì đâu, ai ngờ…” Tôi cố an ủi Thùy: “Em đừng lo, từ giờ về sau, em đi với anh và mấy người này thì yên tâm, không có gì xảy ra nữa đâu.” Anh Hùng tằng hắng, Sinh cũng thêm vào “ĐI với ANH luôn mới ghê…”, tôi lườm nó mấy cái. Lúc này, anh Hùng mới đốt điếu thuốc, ngồi trò chuyện với Thùy về bọn chúng tôi, nhưng anh vẫn giữ lại rất nhiều thông tin, đặt biệt là thông tin liên quan đến lục lâm, tuy vậy Thùy vẫn ngồi nghe rất chăm chú, lại còn trầm trồ mấy lần. Một lúc sau, Tú Linh đã đọc xong cuộn da liền bảo chúng tôi ngồi tụm lại, cô nói: “Nhìn chất liệu thì khá giống với cuộn da ở đảo Bia Mộ, nhưng em không dám chắc nghe. Cuộn này thì khá chung chung, chỉ thấy ghi lại công đức của Ca Lâu Vương, ca ngợi công lao của ổng ngày xưa trừ yêu phục ma, về của cải, rồi ghi về quân đội của Ca Lâu Thành, hai ngàn thần binh, mình cao hai thước, có cả chuyện Ca Lâu Vương có phép trường sinh. Về mặt sử liệu có vẻ như không đáng tin bằng thông tin của Từ Khoái” Anh Hùng chậc lưỡi: “Vậy chắc là giai đoạn trước khi ổng hóa điên rồi. Còn gì khác không em?” “Còn, trong đây có ghi lại thông tin về đường dẫn vào thành chủ, sau khi đã đi qua Bát Quái Động, đọc qua thì nghe như hư cấu, nếu đúng như trong này ghi, mình cách thành chủ khoảng mười tám cây số. Đặt biệt có chi tiết làm em quan tâm, người viết ghi lại rằng mặc dù diện tích tòa thành rất lớn, nhưng đứng ở chỗ nào cũng thấy một “ánh mắt nhìn trừng trừng vào mặt trời đỏ rực”. Thùy kinh ngạc: “Em đâu nhớ có đoạn đó đâu ta?” Tú Linh cười chế giễu: “Thông tin quan trọng đó cưng.” Anh Hùng bảo: “Đúng vậy. Anh không dám nói gở, nhưng mà có khi đó là Ngô Công Kim Thân, còn phát sáng vậy là Thái Dương chắc rồi. Nhưng mà...” Tôi hỏi: “Nhưng sao anh?” “Quả thật đó là thông tin tốt, nhưng tất cả những chuyện này bốc mùi kinh khủng, lấy ví dụ cuộn da mà Tú Linh vừa đọc ghi lại giai đoạn trước khi Ca Lâu Vương hóa quỷ thì tại sao nó lại nằm riêng; cuộn da ở đảo Bia Mộ có chỗ bị xé ra, thông tin đằng sau ghi lại sự việc gì, tại sao lại xé nó ra, ai đã xé nó ra; ông lão thả diều là do ai giết, vân vân.” Tôi nghe anh Hùng tổng hợp lại thông tin cũng nổ đom đóm mắt, quá nhiều câu hỏi, nhưng nghĩ lại thì cũng có chút yên tâm, chứ mọi chuyện dễ dàng quá cũng không làm tình hình khá lên bao nhiêu, thà như lúc này. Lúc này, anh Hùng mới thông báo là cả đoàn sẽ đi tiếp, tôi đứng dậy vươn vai vài cái, cảm thấy trong lòng phấn chấn lạ thường. Đường đi vẫn bằng phẳng, không có gì để kể. Đi được một chốc, anh Hùng đưa tay ra hiệu cả đoàn dừng lại, tôi biết là sắp có chuyện rồi. Tôi hỏi: “Sao v….”, chưa kịp dứt lời thì anh đưa ngón trỏ lên môi, rồi chỉ vào lỗ tai, ý muốn bảo im lặng lắng nghe thử đi. Tôi nhíu chân mày lại, ngoài tiếng nhỏ nước thì có nghe gì khác đâu? Cả đoàn như muốn nín thở, bỗng tôi nghe được tiếng gì đó thật, rất nhỏ thôi nhưng đúng là ngoài âm thanh nhỏ giọt của nước còn có một âm thanh “rạo rạo” khác vang lên. Anh Hùng định hướng lại rồi dẫn chúng tôi rẽ vào hướng khác, chỗ ánh đuốc chiếu vào có một cái hang đủ hai người chui cùng một lúc, bước qua hang, đoạn đường trong đây trở nên tối hơn hẳn, tiếng “rạo rạo” giờ đã rõ hơn rất nhiều, đi khoảng mười phút, chúng tôi phát hiện một kiến trúc trông giống như tường thành nhưng không cao lắm, chỉ khoảng ba thước, ở giữa có một bậc thang dẫn lên trên. Cảnh tượng phía sau những nấc thang này làm tôi không khỏi choáng ngợp, mờ ảo hiện ra một con đường dài tăm tắp, hai bên đầy sỏi và đặt biệt là con đường này cắt một mặt hồ, hay mặt biển gì đó, không phân biệt được, chỉ thấy sóng đang vỗ từng hồi vào hai bên lề đường, tấp những hòn sỏi lên trên rồi lôi chúng xuống, âm thanh “rạo rạo” ghê rợn là từ đây mà ra. Chúng tôi nhìn nhau, hồ trong núi thì tôi có nghe qua, nhưng hồ kiểu này thì lạ lắm, rõ ràng không khí hoàn toàn lặng gió, không thể nào có sóng được. Chúng tôi theo chân anh Hùng, bước xuống con đường xẻ biển, giờ mới phát hiện những hòn sỏi này có kích cỡ khá to. Đang đi chợt anh khựng lại, anh ngồi xuống xem gì đó, Tú Linh và Sinh cũng nhìn nhau như hiểu rằng có chuyện không ổn, anh với tay nhặt lấy một hòn sỏi rồi chầm chậm quay nó lại, thứ trên tay anh cũng “nhìn” anh, chỉ có cái, hốc mắt nó đen ngòm, là một cái đầu lâu. Tôi bàng hoàng nhìn xuống bờ nước, nghe giọng Tú Linh vang lên bên cạnh: “Biển Oan Hồn…”
 
Chương 36 : Phần 14: Quỷ Hài Nhi


Lâm Gia Thái Bảo - Tôi hết sức bàng hoàng, nhìn thật kỹ dưới chân mình toàn là những đầu lâu, xương trắng trộn lẫn nhau. Nói vậy thì cái Biển Oan Hồn này trải dài như vậy, chẳng phải là có cả ngàn cả triệu cái đầu lâu hay sao? Chúng tôi lần bước từ từ tiến về trước, lâu lâu lỡ chân dẫm nhầm lên một cái đầu lâu mục nát, chúng bể rôm rốp dưới gót chân khiến gai ốc nổi đầy. Cảnh vật vẫn vậy, con đường trên biển phủ đầy hộp sọ, đủ cỡ già trẻ lớn bé, chất chồng lên nhau mà nếu không để ý kỹ cũng khó nhìn ra chứ chẳng đùa. Sóng từ đâu ngoài khơi cứ ập đến liên hồi, mỗi lần đón một đợt sóng, những cái đầu lâu đó theo nước lăn lên, nước rút đi kéo theo chúng lăn xuống, mỗi đợt như thế lại vang lên tiếng “rạo rạo” nghe như núi rung đá lở. Nhóm chúng tôi tuy cũng có bàng hoàng ngơ ngác, nhưng đáng kể nhất phải là Thùy và Tùng. Cả đời họ chắc chỉ ngày đêm đèn sách, cùng lắm thì chui vào những hang động bình thường khác, còn những nơi chỉ riêng lục lâm mới đến như thế này quả thật vượt xa trí tưởng tượng của họ. Gã Tùng bước đi cứ liêu xiêu, ra bộ nhát chân lắm, mỗi lần dẫm bể một cái đầu lâu gã lại la “Ối!” lên một tiếng hết sức buồn cười. Tôi đưa mắt nhìn ra xung quanh, chỉ tuyền một màu đen, tiền rớt cách ba mét chưa chắc đã thấy mà nhặt. Anh Hùng chắc cũng nghĩ giống tôi, anh đưa tay lên vuốt mặt, hình như sắp đưa ra quyết định liều lĩnh gì đó. Anh đặt ba lô xuống rồi móc cây đèn pin ra, anh đưa nó lên mắt rồi tắt mở mấy lần như đang kiểm tra độ sáng, xong thì anh chậc lưỡi nói: “Không đủ sáng!” Tôi hốt hoảng nói: “Bộ anh đinh mở đèn pin trong đây hay gì á, nhưng mà thằng Sinh nói lúc ở hang Reahu…” Anh cắt ngang: “Đúng vậy, ánh đèn sẽ thu hút sự chú ý của mấy cái vong. Nhưng mà, mày cứ nhìn con đường đi, mặt nước thì trải dài hun hút, con đường thì không thấy đích đến, lại tối như hũ nút. Giờ cầm đuốc xông vào, trượt chân té xuống dưới thì xong phim. Anh thà đánh với lũ vong ở chỗ khô, như vậy cơ hội sống sót vẫn lớn hơn rất nhiều.” Đoạn, anh quay sang Thuỳ: “Em chắc có mang đèn pin công suất lớn đúng không?” Cô gật đầu rồi lôi ra hai cây, tay cầm màu đen, mặt đèn to như cái tô. Anh Hùng nhận đèn rồi móc trong ba lô của mình một cuộn vải, trên đó có vài ký hiệu ngoằn ngoèo khó đọc, anh quấn chúng quang mặt đèn của hai cây công suất lớn và bốn cây nhỏ, tôi thắc mắc đó là cái gì, anh làm xong rồi mới nói: “Đây là vải liệm thường rồi vẽ bùa lên thôi, có công dụng kìm lại ánh sáng chói chang đầy dương khí của đèn pin, làm giảm nguy cơ dẫn dụ ác vong.” Xong thì cả bọn lại lên đường. Mấy cây đèn của bốn người bọn tôi thì chỉ là loại thường, ánh sáng chiếu không xa, dễ bị nhòe, cũng may có thêm hai cây chuyên dụng của Thùy và Tùng, ánh sáng xa và rõ hơn. Không biết còn phải đi dưới lòng đất này bao lâu nên anh Hùng bảo cất kỹ hai cây “xịn”, tạm thời chỉ mở hai cây nhỏ, Sinh đi đầu dẫn đoàn một cây, đến Thùy, tôi, Tú Linh, Tùng, anh Hùng chốt đoàn một cây, làm vậy để tiết kiệm pin, đề phòng bất trắc kẹt lâu hơn dự tính. Tôi quay sang hỏi Tú Linh sao cô biết Biển Oan Hồn này, cô ấy nói: “Chế thấy miếng da có ghi, ngày khai quốc, Ca Lâu Vương đời đầu đem những tù nhân chiến tranh xử tử một lượt, làm thành con đường đi ngang “long vương”, đến thành chủ. Cứ tưởng nó nói quá lên, ai dè có thật. Sau đó, các tử tù trong vương quốc khi xử tử đều bị vứt ra đây.” Tôi nghe mà lạnh cả người. Con đường “sỏi” đầu lâu dường như dài tít tắp vậy, cái gì mà cách thành chủ mười tám cây số, tôi lội bộ vã mồ hôi ra, phần vì đi trên xương rất khó, trơn trượt dễ té, hai là địa hình cũng nhấp nhô như những đụn cát bình thường. Xung quanh ngoài ánh đèn là không thấy gì khác, đang lúc leo lên một con dốc nhỏ, tôi bỗng thấy phía xa xa, một thứ gì đó như đèn tín hiệu trên mấy tháp ăng ten truyền hình, cứ chớp tắt liên tục. Khi nãy mới vào tôi có nhìn nhưng tuyệt nhiên không thấy gì khác cả, giờ xuất hiện thứ này không khiến làm tôi càng thấy khó nghĩ. Tôi kêu mọi người nhìn lên, họ cũng bất ngờ hệt tôi vậy. Ánh sáng không nhỏ như đèn tín hiệu, có vẻ nó to hơn, nó có màu đỏ lập lòe rất ma mị. Tú Linh nói: “Miếng da lúc nãy có nhắc đến “con mắt quan sát cả thành”, phải chăng là nó?”. Tùng quay sang vui mừng nói: “Con mắt gì, đèn tín hiệu đó, chắc ở đó có đường ra, sắp được cứu rồi!”. Sinh đâu thể để tên Tùng nói nhảm mãi được, bèn đốp lại: “Ngoài anh ra có ai mắc nạn gì mà để “cứu”? Con mẹ nhà anh, không làm gì được thì cứ im lại, thở ra câu nào là chịu không nổi câu đó!” Tùng tuy là con thỏ đế chính hiệu, nhưng độ cãi cùn cũng không thua ai, y bèn bảo: “Các người bị khùng rồi, cái gì mà Ca Lâu Vương, cái gì mà trường sinh bất tử, hành tung mấy người vô cùng đáng ngờ, không chừng thực ra lại là đám cướp đường cướp chợ, định bán nội tạng bọn tôi chứ gì?” Anh Hùng từ phía cuối đoàn thấy có lùm xùm định đứng ra can, chưa kịp làm thì Sinh đã chộp cổ áo Tùng, giọng nói pha lẫn tiếng nghiến răng ken két: “Tao nhắc lại lần nữa, một là mày phắn khỏi cái nhóm này, tự đi về chỗ con nhện rồi nó đưa mày lên, hai là mày câm mồm, còn nói xàm thì tin tao một chưởng đưa mày về với cát bụi không?” Thấy tình hình không ổn, Thùy và Tú Linh can ra. Tay Tùng lẽo đẽo đi về cuối đoàn, bị anh Hùng lườm thêm cái nữa, miệng hắn nghe đâu vẫn lẩm bẩm: “Ánh đèn thiệt mà…” Anh Hùng nói: “Ánh đỏ như vậy, đúng là nếu phát ra từ viên ngọc rết thì một là khó tin, hai là viên này phải to dữ lắm!” Chúng tôi vừa đi về trước, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn ánh chớp đỏ, có nó cũng hay, giống như là tín hiệu dẫn đường, nó ở tít trên cao nên chúng tôi cứ nhắm hướng đó mà đi có lẽ sẽ thuận tiện rất nhiều. Tôi nhìn sang thấy Thùy có vẻ đang rất lo lắng, bèn bắt chuyện với cô: “Em học địa chất hả, bên đó có giải thích được làm sao có cái động khổng lồ thế này dưới hang Mo So không?” Thùy ngơ ngác, bảo cô không chắc lắm rồi quay ra hỏi Tùng, anh ta quay trước sau nhìn Sinh và Hùng như kiểu: “Em không nói bậy đâu!”, rồi mới dám mở lời. Theo Tùng, địa hình như thế này vô cùng hiếm. Nếu theo địa chất miễn cưỡng mà lý giải, chỉ có thể nói là xác suất vô cùng nhỏ. Khả dĩ, có thể vào Thế Canh Tân (Còn gọi là Thế Pleistocen, khoảng từ 1.8 triệu năm đến 11.500 năm trước), vùng này vẫn còn những vụ kiến tạo nhỏ, hai mạch dung nham nằm tương đối gần nhau (gần nhau trong địa chất có khi là vài trăm kilomet là chuyện bình thường) phun trào cùng lúc, đè chồng lên lớp trầm tích có từ trước. Tưởng tượng có thể như thế này, lấy một xô cát đổ ra, sau đó đổ kim loại nung chảy lên bề mặt cát, đợi kim loại cứng lại thì moi cát ra, bên trong kim loại có một khoảng trống. Thiên nhiên ngày xưa, khả năng dòng chảy mạch nước thay đổi, vô tình xói mòn và kéo theo đất cát, phù du còn lại trong lòng hang, tạo thành một kỳ tích tuyệt diệu chưa từng thấy. Nghe đến đó, bất giác tôi nhờ Sinh lia đèn lên “trần” hang - hoàn toàn không thấy được đỉnh, chỉ có bóng đen lặng lẽ nuốt trọn ánh sáng. Nghe Tùng giải thích xong, Thùy bèn chêm vào: “Anh Tùng giỏi mấy vụ này lắm đó, ngoài ra còn phân biệt cổ vật hoặc phán đoán niên đại nữa, em nghĩ anh ấy sẽ hữu ích cho nhóm mình.” Chỉ thấy gã Tùng lại bẽn lẽn nhìn Hùng và Sinh cái nữa. Tú Linh quay sang hỏi Tùng: “Đó giờ cưng có biết núi nào ở gần đây tên là Địa Nguyệt Sơn không?” Cả Tùng và Thùy đều ngơ ngác, lắc đầu không biết. Tú Linh bèn giải thích thêm về miếng da mà Từ Khoái viết về Ca Lâu Thành có hai mươi thành trong lòng núi, trải dài trên Địa Nguyệt Sơn dài trăm dặm, rộng mười dặm, cả vùng Kiên Lương Hà Tiên này đào đâu ra con núi hoành tráng thế? Ngay cả lên vùng Thất Sơn cũng không có, ngoài ra cô còn kể về tàn tích dưới biển ngoài khơi Hòn Sơn Tú Linh và bảo là nếu có chuyện tạo hang động kỳ vĩ thế này thì có khả năng thực tế về Địa Nguyệt Sơn là cái gì. Tùng nghĩ một hồi rồi mới nói, nếu vậy, xác suất cao thời kỳ đó, Địa Nguyệt Sơn là một dãy núi hình cánh cung, khởi nguồn từ Hà Tiên, vòng qua Kiên Lương, cong ra hướng biển đến tận Hòn Sơn? Nếu vậy có thể giải thích được những đồi núi thấp ở Kiên Giang ngày nay thường co cụm lại, chạy theo một hướng. Thực tế ở vùng Hòn Đất, cách trung tâm thành phố Rạch Giá 45km, có một cụm núi gọi là Ba Hòn, gồm: Hòn Me, Hòn Đất và Hòn Quéo, xung quanh cũng có các núi nhỏ khác, Tùng không biết chúng có nằm trong hệ thống Ca Lâu Thành hay không, nếu có thì quả thực Từ Khoái không hề nói thêm mà thậm chí còn làm giảm độ hoành tráng của dãy Địa Nguyệt Sơn. Có thể nói ngắn gọn lại thì thế này: vào thế Canh Tân, vùng ngày nay thuộc Hà Tiên, Kiên Lương trải dài ra Hòn Sơn còn là biển, kiến tạo địa chất thời kỳ trước tạo ra một dãy núi hình cánh cung theo hướng kể trên, vòng cung lõm quay về Tây Bắc. Tự nhiên thay đổi dòng chảy cuốn hết đất cát đọng trong hang ra để lộ phần hang trống, cộng với nước biển rút đi, tạo thành nơi sinh sống lý tưởng. Đến đầu thế kỷ thứ hai, nền tảng Ca Lâu Thành được thành lập trong những hang động xuyên suốt dãy Địa Nguyệt Sơn này. Cộng những ngọn núi vừa ở Kiên Giang, kể cả Ma Thiên Lãnh (Hòn Sơn), trừ đi những cụm núi con mọc ra từ nhánh chính, thì vừa tròn có hai mươi cái, vừa khít với truyền thuyết Ca Lâu Thành có hai mươi động. Về chuyện hiện giờ nó thành tàn tích, nguyên nhân do sự biến động địa chất lần cuối ở khu vực ĐBSCL, khiến dãy Địa Nguyệt Sơn xảy ra những đứt gãy, cộng với nước biển dâng, Ma Thiên Lãnh tách thành đảo, các đồi khác thì bị phù sa trầm tích bồi đắp phần chân nên giờ trông cứ thấp lè tè. Bọn chúng tôi nghe cứ gật gù, cũng có thể là vậy thật, thiên nhiên đôi khi khiến chúng ta không khỏi trầm trồ. Tôi lại đưa mắt nhìn ra “biển” hay “hồ” gì đó lần nữa, rồi hỏi Tùng: “Vậy còn đống nước này?” Nước đó có mùi biển, cứ đục đục mờ mờ một màu đen như mực. Tùng nói phần nước thì anh bó tay, chỉ nghĩ được nó đã nằm đó từ thượng cổ đến giờ, thông qua những khe nứt ngày xưa, lúc mực nước biển cao nên nước theo đó tràn vào đây. Nếu kỳ thực không phải vậy thì anh ta cũng bó tay, chúng tôi cũng thật không hiểu nổi đống nước này từ đâu mà có, đã tồn tại bao lâu hay… nó có chứa đựng thứ gì trong nó hay không. Tất cả câu hỏi của tôi chỉ có màn đêm và tiếng rì rào đáp lại. Sực nhớ đến tiếng rì rào, là sóng, tôi bèn hỏi mọi người: “Thế quái nào mà dưới này không có gió mà có sóng được nhỉ?” Cả đám đi chậm lại, để ý từng con sóng vỗ bờ, không còn hung hãn như lúc nãy nữa mà chỉ phả nhẹ nhẹ, nhưng như vậy cũng đủ chứng minh là mặc dù không hề có gió nhưng nước vẫn tạo ra được sóng dưới này. Lại một điều nữa vượt ngoài khả năng thấu cảm của cả bọn. Ca Lâu Thành ra đi đột ngột, để lại không biết bao nhiêu câu hỏi, 1800 năm mới đón những người khách đầu tiên ghé thăm, rồi 20 năm sau đó lại thêm một nhóm người khác đến nhưng bí mật của nó mang giữ có lẽ vẫn còn nhiều vô số. Sáu người bọn tôi chân thấp chân cao tiếp tục bước đi, cảm giác con đường này trải dài tít tắp vậy. Dưới chân, tiếng “lạo xạo” vang lên theo mỗi bước chân cùng tiếng xương gãy vụn. Thùy đã dần quen, trở nên mạnh dạn hơn, Tùng thì vẫn còn rét lắm, cứ hụt chân mãi, nhưng lúc này hắn không nằng nặc đòi về như lúc nãy nữa. Trước mắt chúng tôi, nhìn chung thì vẫn là con đường “sỏi” đầu lâu, tuy nhiên địa hình có chút thay đổi khi xuất hiện rất nhiều tảng đá lởm chởm nằm ngổn ngang. Giữa những tảng đá có thể nhận ra dấu vết đường đi từ xa xưa, đã bị hao mòn rong rêu hoặc mục nát. Hai bên đường, ngoài đá tảng lởm chởm ra thì còn có những gốc cây đại thụ to phải đến mấy người ôm mới xuể, đèn chiếu lên tít phía trên cũng không thấy được phần ngọn. Tuy nó đã chết cả ngàn năm nhưng thịt vẫn còn cứng chắc đến lạ thường. Lúc này địa hình có hơi cao hơn lúc nãy một chút, nhìn xuống chân thì thấy mặt biển đoạn này khá lặng, không còn sóng nữa mà chỉ là những gợn nước lăn tăn. Cái gì cũng thế, thay đổi đột ngột quá thường là dự báo của những chuyện không ổn. Thùy là người đầu tiên nhắc đến chuyện này, cô trong lúc trò chuyện với Tú Linh thì chợt nói: “Nãy giờ sóng bớt đánh lại, không còn nồng mùi nước biển nữa, dễ chịu hơn quá chị.” Hai người họ nhìn ra biển đen ngòm. Tú Linh bảo Sinh dừng lại, cô nói tất cả im lặng nghe thử xem. Lúc này ngoại tiếng “rạo rạo” do cả ngàn cả triệu cái đầu lâu lăn theo nước biển đã bị chúng tôi bỏ lại phía sau khá xa, ở đoạn này sóng không có, nên tạp âm cũng không, lắng tai tập trung nghe thì có thể cảm nhận khoảng cách khá xa ở hướng đối diện chỗ chúng tôi đang đứng có vẻ cũng có cái “bờ” nào đó, và hiện giờ bên kia đang nghe tiếng sóng vỗ, mà theo tôi cảm nhận, nếu tôi đang đứng bên đấy thì sóng còn dữ dội hơn lúc nãy dập vào bờ bên này nữa. Tú Linh quay sang nói với anh Hùng: “Sóng đổi hướng? Không có gió mà có sóng to, giờ thì sóng đổi qua đánh vào bờ bên kia?” Trong nhất thời anh Hùng cũng chưa có giải đáp nên cũng im lặng tập trung lắng nghe. Vừa mới nãy, sóng còn đánh loạn xạ vào bờ bên này, thế mà chưa hút xong điếu thuốc đã quay ngoắt một trăm tám mươi độ, biển trở nên im lặng lạ thường không khỏi làm đám chúng tôi lo lắng. Bỗng Thùy hơi run run nói nhỏ với Tú Linh: “Hình như có con gì mà lớn lớn đập nước cũng làm nước rung động tạo ra sóng phải không chị?” Tôi tự nghĩ trong đầu, linh cảm bờ bên kia cách ít gì cũng cả cây số, con gì mà đập nước khoảng cách đó tạo ra sóng ầm ầm như lúc nãy được, kể cả cá voi xanh? Cả đám còn hoang mang, Tú Linh sực nhớ lại gì đó, kêu lên: “Chạy! Chạy về hướng ánh sáng đỏ mau! Chết hết bây giờ!” Giọng hết sức khẩn cấp của cô khiến cả đám bất giác chạy theo. Đá lởm chởm nằm ngổn ngang, đường mòn thì nhỏ nên dù cố chạy cũng kẹt lại, khó mà di chuyển nhanh được. Bỗng tôi nghe rõ ràng một tiếng “vút” của vật gì đó rất to bay lên khỏi mặt nước, tiếng rào rào của nước chảy xuống, linh cảm tôi với tay ra nắm lấy Tùng kéo mạnh về trước. Gã vừa ngã ra thì từ trên khoảng không đen ngòm phía trên, một đống thịt nhớp nháp trắng bệch, mọc đầy vảy to nhỏ không đều nhau đập mạnh xuống đến nát cả đá. Nó vừa đập xuống thì từ từ trôi nhẹ ra biển. Tôi nhìn thấy những cái giác bám to như cái mâm con trên đó thì tá hỏa kêu lên: “Bạch Tuộc gì to vậy trời!” Anh Hùng hét lên bảo tôi chạy nhanh, Tú Linh cũng đồng thanh hô theo: “Chạy nhanh đi, Bạch Tuột Hổ, để nó đập một phát thì má nhìn không ra đâu!” Khỏi cần cô ta nói, nhìn cục đá lúc nãy tôi cũng hiểu rồi, có lẽ gã Tùng hiểu nhiều hơn tôi thì phải, chỉ thấy gã ù té chạy lên một mạch. Trên mặt biển đen kịt lúc này, trong ánh sáng mờ ảo, tôi thấy có khoảng hơn một chục quả cầu rất to màu trắng vằn đen trông như lông hổ đang nổi lập lờ, từ đó liên tục vung ra những cái xúc tu khổng lồ đập vô hồi kỳ trận vào nơi chúng tôi chạy qua. Cũng may chúng không tấn công từ nãy, lúc còn đoạn đường trống không có đá tảng, chứ nếu không có trời mà cứu nổi. Ở đây tuy khó đi hơn nhưng ít ra còn có thứ để ẩn nấp, thấy ổn thì lại di chuyển. Chợt phía sau tôi lại vang lên những tiếng “lạo xạo”, “rôm rốp” ghê tai, quay ra thì hồn phách lên mây khi ở sau lưng, cách cũng khá xa, có vài con Bạch Tuộc Hổ leo hẳn lên đường đi, chúng đứng bằng bốn xúc tu, vươn thẳng lên cao cũng phải hơn mười lăm hai chục mét, nhìn hết sức kinh dị. Chúng dùng bốn xúc tu trước lôi thân người, bốn cái làm trụ, lần mò rượt theo đám chúng tôi. Tôi hét lên thông báo tình hình. Tú Linh lấy trong túi ra vài cây kim, phóng xé gió trong bóng đêm. Bình thường chỉ vài cây đã thấy tác dụng, lần này cảm giác như Tú Linh dùng gấp hai ba lần mới xi nhê, chúng di chuyển chậm lại, Tú Linh đã câu giờ thành công, tôi thấy mừng thầm, chạy thụt mạng về trước. Tôi vừa chạy vừa quay sang hỏi anh Hùng: “Anh với Sinh không có cách nào sao?”. Anh nói: “Anh nói mày rồi mà, tụi anh đi đập miễu trên rừng trên núi, chứ có phải Thông Hải làm ngoài biển đâu mà trị được mấy con này!” Sinh cũng quay lại, đế thêm vào: “Con mẹ nó, gặp cả đàn Bạch Tuộc Hổ kiểu này, cao nhân thông hải chắc cũng phải chạy thôi.” Đến một đoạn, đường mòn rộng ra chút, hai bên xuất hiện nhiều gốc cây thấp, có vẻ đã sắp đến đất liền. Bọn Bạch Tuộc Hổ sau lưng vẫn cứ dí đến, phát ra những tiếng kêu ré ré điếc cả tai. Thử nghĩ xem 1800 năm không có ai vào được động này, hai mươi năm mà có hai đợt khách vào thôi thì có đói đến mờ mắt đi, không thể bỏ lỡ cơ hội này nên luôn bò sát sạt sau lưng. Bỗng Sinh la lên: “Nhanh lên đi, sắp thoát rồi!” Chúng tôi bất giác nghe thế thì tự thân cố mà chạy nhanh hơn nữa, Thùy chạy thế nào vấp té làm tôi phải vòng lại kéo cô ấy dậy, vừa ngẩng đầu lên thì đã thấy lù lù một tảng thịt trắng bệch khổng lồ đang rơi xuống trước mặt. Định bụng chết đến nơi rồi thì anh Hùng lao đến, một búa một dao chém cái xúc tu ấy gần lìa, chỉ nghe tiếng con bạch tuộc rú lên kinh khủng, anh hét lên: “Đợi chết hay gì không chạy đi.” Thì ra lúc nãy Sinh thấy một cấu trúc tựa như tường thành thấp mà chúng tôi đã leo lên trước khi bước vào Biển Oan Hồn. Theo chân nó bọn tôi rút lên trên, ở đó cũng có một kẽ hở đủ hai người chui lọt. Bọn Bạch Tuộc bò đến gần cổng thành này bỗng kêu ré ré, tỏ vẻ chần chừ không dám tiến vào tựa hồ như đang sợ một thứ gì đó bên trong, tất cả chúng rút về biển cũng đột ngột như lúc chúng xuất hiện. Để cho chắc, chúng tôi tiếp tục chạy thêm một đoạn nữa, cho đến khi không còn cảm nhận được tiếng lạo xạo xương vỡ mới dám dừng lại thở. Từ khi chui ra khỏi khe hẹp, chúng tôi tiến vào một tàn tích có nhiều dấu vết nhà cửa cùng những gốc cây đại thụ khổng lồ nằm ngổn ngang. Không ai nói ai, cả bọn lựa một chỗ đất bằng, ngồi nằm la liệt. Có thể nói là lượn qua lượn lại Quỷ Môn Quan mấy vòng cũng không quá. Tôi tuy còn rất mệt, cũng ráng quay sang hỏi Tú Linh: “Chế đẹp lúc nãy sao biết về mấy con bạch tuộc quái vật đó mà kêu chạy vậy?” Ánh mắt mọi người đổ dồn về cô như đợi xem câu trả lời. Tú Linh thở vài hơi rồi nói: “Có nhớ lần chế kể sư phụ chế theo Lý Tổ sư đi đập miễu tận Hải vực Trường Sa không? Lần đó về, sư phụ chế có nói về những con vật không đội trời chung với thông hải, Hổ Chương Ngư hay còn gọi là Bạch Tuộc Hổ, con bình thường to cỡ cái xuồng ba lá, con to thì cỡ ghe chở lúa, vằn vện như hổ, răng nhọn, mắt đỏ… Mấy con hồi nãy mình gặp đích thị là quái vật rồi chứ không còn là Bạch Tuộc Hổ nữa. Loài này bơi rất nhanh lẹ, thậm chí còn leo lên bờ đi được, chúng ngậm nước phun ra có thể đâm thủng thuyền gỗ như chơi. Thông hải mò ngọc, bỏ mạng vì nó không ít.” Cô ngưng lại thở rồi nói tiếp: “Lúc nãy Thùy nó nói rằng đôi khi cá lớn đập nước cũng ra sóng nhỏ, chế sực nhớ lại chuyện Bạch Tuộc Hổ, lắng nghe kỹ trong tiếng sóng thì đúng là có tiếng phun nước rất mạnh, hẳn là con này rất to, nên bảo mọi người chạy. Ai dè không những nó to mà còn đông thấy mẹ…” Tôi thở hắt ra, thấy chúng tôi vẫn còn may mắn lắm, hy vọng chuyến này đi thuận lợi. Anh Hùng và Sinh cầm đèn pin đi khảo sát xung quanh, có vẻ nơi đây là ngoại ô, nhà cửa còn khá thưa thớt. Nhà ở đây xây bằng đá tảng kết hợp với bùn đất, trải qua gần 2000 năm mà chỉ thấy hư hại nhẹ chứ chưa sụp đổ hoàn toàn. Khắp nơi dưới đất mọc lên những thứ như nấm, màu trắng đục. Ngoại ô này tính ra chắc cũng rộng đến vài cây số chu vi, đèn rọi bốn phía mà không thấy điểm dừng. Không khí bên này có mùi ẩm mốc, không hôi, hơi lạnh từ các ngôi nhà phả ra rất quỷ dị. Bỗng Thùy kêu: “Mấy anh chị qua coi cái này nè.” Nền đất bùn hơi ẩm ướt xuất hiện vết hằn như lúc trước, là vết kéo lê! Tôi suy nghĩ: “Thế nào mà đi nãy giờ không thấy vết kéo này mà đến đây lại xuất hiện?” Tựa hồ như có con gì đó kéo họ bay lên, đến đây thì hạ xuống nghỉ mệt rồi bay tiếp cho nên vết kéo lê cũng chỉ được một đoạn ngắn rồi mất dấu. Thùy lại nức nở thêm lần nữa, Tùng thì vẫn kinh hãi, nhưng ít ra y cũng cứng rắn hơn một chút, không đến nỗi tím tái mặt mày như trước. Có vẻ như anh Hùng, Sinh và Tú Linh cùng có suy nghĩ giống tôi, chỉ thấy họ lia đèn lên không tìm kiếm rất kỹ. Trần hang không thấy điểm trên cùng, tuy nhiên có vẻ nó rất cao, phần thấp lại không có tán cây nào, lý thuyết con gì đó bay được quắp xác hai người họ đi cũng khá có lý, dơi khổng lồ chẳng hạn, nhưng ở địa điểm này, có vẻ chưa phải là nơi con quái thú đó dừng chân. Anh Hùng bảo mọi người kiểm tra lại đồ đạc, xem có ai bị thương không rồi tiếp tục lên đường. Đường đi lúc này bằng phẳng, được lát đá xanh, dễ đi lại không còn trơn trượt. Càng đi tới, nhà cửa càng xuất hiện nhiều hơn, cái nào cũng như cái nào, mái bằng, tường đất và đá, vài chỗ sụp đổ, thậm chí một số cái nhà vẫn còn những tấm vải treo phía trước, hễ đụng nhẹ vào là tan rã thành cát bụi. Thêm một điểm chung là vào trong này, đa phần đều thấy ở chỗ giữa nhà có một thứ nhìn tựa như quan tài, nhỏ, có lẽ là quan tài con nít. Sinh mạnh bạo bước vào trong nhà xem qua một cái, nó nói: “Gỗ Ưu Đàm Thủy Nha, bên trong chỉ thấy đất bám, sót lại chút xương, có vẻ đúng là xương con nít, qua hơn ngàn năm thì tan rã ra.” Nghe đến đây tôi chợt rùng mình, quay sang hỏi Thùy: “Em đoán ngày xưa dân số Ca Lâu Thành vào khoảng bao nhiêu người?” Thùy nghĩ ngợi một hồi, căn cứ vào nhà cửa, tàn tích, cô nói: “Em đoán chắc cũng phải gần một trăm ngàn người.” Cảm giác một trăm ngàn người chết cùng lúc, nằm im 1800 năm rồi bị người khác kinh động, không biết âm khí phải đến cỡ nào? Hay là quá dày đặc đến độ làm chúng tôi mất cảm giác? Giữa tàn tích này, từng có cả trăm ngàn người sống, thế mà giờ mẩu xương vụn kiếm còn khó. Không thể nào trong điều kiện hang này mà ngần ấy năm không còn sót lại xương gì khác, ngoài cái đống xương ngoài Biển Oan Hồn. Hay có con gì đó ăn sạch sẽ cả rồi? Càng nghĩ càng thấy khó hiểu, bí mật của Ca Lâu Thành làm cho tôi có cảm giác chỉ muốn xông thẳng đến thành chủ để moi hết ra vậy. Bỗng phía sau có âm thanh gì đó như có ai chạy trên nền đất. Dĩ nhiên nếu là bình thường thì chúng tôi không tài nào nghe được, nhưng ở trong hang đang hết sức im lặng, ngay cả thở chúng tôi cũng không dám thở mạnh, cho nên những âm thanh dù rất nhỏ cũng được khuếch đại, chưa kể do vang vọng lại nữa. Tôi quay nhanh ra sau, anh Hùng lia đèn pin một vòng, không có bóng dáng ai cả. Vô lý, tất cả chúng tôi đều nghe rõ mồn một. Lúc này xung quanh vang lên nhiều tiếng chạy nữa, vẫn rất nhỏ, trong các căn nhà còn nghe lên tiếng vật gì đó rớt xuống. Thùy nép sát vào Tú Linh, run lên, nhưng vẫn chưa bằng Tùng khi chân cậu ta như dính vào nhau. Bỗng anh Hùng lia đèn xuống lớp nấm mọc dưới đất, tôi thấy một dấu bàn chân đạp lên đó rất rõ ràng. Vết chân chạy theo mép nhà dẫn vào trong, tối om chẳng thấy được gì tiếp nữa. Đang còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, đột nhiên vai tôi nhói lên nhẹ, lúc này nhìn vào các căn nhà xung quanh tôi thấp thoáng thấy những bóng trắng, tựa như con nít, cởi trần, đang đứng sâu trong nhà nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Có vẻ anh Hùng biết được tôi thấy gì đó liền kéo tôi đến, hỏi tôi: “Có chuyện gì vậy mày?” Tôi xoa vai vài cái, bảo: “Em cảm thấy có mấy đứa con nít dòm mình từ trong nhà.” Anh Hùng tỏ vẻ ngạc nhiên: “Sao mày thấy được?”, cái này thì tôi chịu, bảo là có thể do linh cảm. Anh Hùng thở dài, nói: “Không lẽ Thiên Hồ đu trên vai mày từ lúc ngoài cửa hang đến giờ?” Anh Hùng vừa dứt lời, các căn nhà xung quanh chúng tôi ầm ầm vang lên tiếng vật gì đó rớt bể, kèm theo đó là tiếng cười ré kinh khủng, như của cả ngàn đứa con nít cùng cất giọng, nghe lạnh đến ghê người! ...
 
Chương 37 : Hiểm nguy trùng trùng


Lâm Gia Thái Bảo - Giữa không gian im ắng, tiếng cười quỷ dị của con nít vang lên không khỏi làm đám bọn tôi có chút bất thần kinh hãi, như phản xạ, Sinh và anh Hùng lập tức bọc hai đầu, Thùy nấp sau Tú Linh còn tôi đứng kế Tùng. Khỏi phải nói cũng biết hai người mới gia nhập lục lâm một cách bất đắc dĩ kia đang sợ như thế nào, tuy nhiên nhìn Thùy có vẻ pha lẫn giữa sợ sệt và hứng thú khi cô liên tục nhìn Hùng và Sinh, xem họ sắp thi triển những pháp thuật gì nữa. Tùng thì lắp bắp niệm Phật, tôi phì cười trong bụng, dù có niệm gãy cả răng cũng chẳng tích sự gì, chừa sức mà đối phó có phải hay hơn không? Mọi việc nói thì có vẻ dài dòng, nhưng từ lúc tràng cười vang lên, chỉ độ vài giây thôi, tiếng động của sành sứ bể nát cứ đổ đến dồn dập, tạo thành một vòng vây âm thanh, chúng tôi muốn tập trung quan sát một hướng cũng khó vì phải căng não ra xung quanh. Đã quen với tính cách của anh Hùng và Sinh, tôi biết rằng họ đang án binh, chưa tung ra Ấn Chú gì âu cũng có nguyên do. Từ lúc bắt đầu cuộc hành trình này, thú thật ban đầu tôi vẫn cho rằng những Ấn Chú đó như một bài thuốc trị bách bệnh, công dụng thì đúng là có, đạo hạnh của hai người họ cũng không phải tầm thường, tuy nhiên những lục lâm lão làng, quan trọng hơn những thứ xăm vẽ lên người kia, còn một thứ khác, chính là cái đầu. Tôi cho rằng, tới thời điểm này, Thiên Đăng Ẩn Quang hay Phục Ma đúng là những bài Chú cứng tay, tuy nhiên không phải là thứ có thể tùy tiện lấy ra xài. Thứ nhất, việc đó dẫn dụ thêm nhiều miễu biết hát đến, không sợ một hai con mạnh, chỉ sợ cả ngàn cả vạn con yếu cùng lên một lúc, khi đó thì dù có ba đầu sáu tay cũng khó tránh khỏi què chột; thứ hai đập miễu nếu không ở thế chủ động, đang dồn toàn lực hàng yêu phục ma, tung đòn quyết định hoặc là trong cảnh cùng đường mạt lộ, tuyệt không nên sử dụng. Miễu biết hát trong thế giới của lục lâm nhiều vô số, những nơi lục lâm đi qua chẳng phải đều là rừng sâu núi thẳm, không thì cũng là hang không đáy, biển không thấy bờ hay sao, nếu cứ tùy tiện sử dụng Chú, pháp khí suy giảm, lỡ đâu lúc đó còn vài miễu biết hát sót lại ẩn nấp đâu đó lao đến thì chẳng phải chết một cách ngu ngốc? Giới lục lâm chỉ nghe lại những truyện về tiền bối đạo hạnh cao thâm như Lý Tổ sư cùng Thập đại đệ tử, với những người ấy thì cũng có thể gọi là muốn khai chú khu ma thì khai, muốt phát ấn diệt quỷ thì phát, vốn chẳng cần bận tâm, còn những người khác thì cứ khiêm tốn mà tự nhận mình còn non kém, chớ nên vọng động lạm dụng, mất sức thì chết bỏ xác oan uổng, dù gì trong tôn chỉ lục lâm cũng có nói: lan thì quý, nhưng mạng còn quý hơn lan! Tiếng cười lúc này thoắt ẩn thoắt hiện, có khi cảm giác sát bên tai hoặc hơi lạnh phả vào gáy, nhưng quay sang thì không có gì cả, đó thực sự là một kiểu tra tấn tinh thần. Nhận thấy cứ thế này không ổn chút nào, anh Hùng quay ra nói với cả bọn: “Té lẹ, rút về hướng ánh sáng đỏ, nhanh lên!” Anh bảo Sinh dẫn đường, bản thân thì chốt đoàn, chúng tôi lập tức chạy về phía trước, địa hình khá dễ đi, bọn chúng tôi cứ thế mà chạy thôi chứ chẳng làm hành động anh hùng gì cả. Lại nói về chuyện ma khóc quỷ cười, phàm là ma, tức là chỉ có phần vong, không hồn không phách, thường là những người khi chết còn có tâm sự chưa giãi bày được hoặc có điều oan khuất lúc còn sống, nên khi chết chưa được siêu thoát ngay, ngày qua ngày đều khóc than. Đi đêm qua đường vắng hoặc mồ mả mà nghe tiếng khóc lạnh lẽo âm u, đích thị là gặp ma, tốt nhất nên chạy lẹ, nếu nấn ná để ma thấy hợp vong thì nó sẽ đi theo mãi. Quỷ thì thiếu phần phách, không nơi trú ngụ, thường đi đây đó tìm phách mà nhập vào. Quỷ có thể là nhân quỷ hoặc thú quỷ, nhân quỷ là người bị chết oan, lúc chết có điều căm giận, chỉ có mong muốn trùng sinh trả thù, thù càng lớn càng dễ thành quỷ. Quỷ thì luôn mong muốn trả thù, cho nên thường xuất hiện cùng tràng cười ma quái, quỷ không hay ở gần nghĩa địa hoặc nơi có người chết, quỷ chỉ xuất hiện nơi âm u vắng vẻ, âm khí ngưng tụ, ở đó chúng mới gia tăng ma pháp được. Nói về trẻ con, lúc sống còn chưa hiểu được gì về cuộc đời, chết do bệnh hoặc tai nạn đột ngột quá thì chỉ cần nhờ thầy thỉnh vong về nhà, tụng kinh ngày ngày cho siêu thoát là được. Tuy nhiên có một số trường hợp, bọn chúng đón nhận cái chết từ từ và đau đớn, thiên bẩm trẻ con thù dai nhớ lâu thì khi đó làm sao chết thanh thản mà siêu thoát cho được? Dân đập miễu hay gọi bọn quỷ trẻ con mỹ miều là Hài Nhi Quỷ hoặc Vong con nít. Bọn này phá phách là nhiều, sát ý thì tùy nơi hoặc tùy cách chết. Tôi nhớ ngày xưa, nội tôi vẫn hay kể lại những năm 1955, ông chạy ghe chở gạo khắp vùng miền Nam, Đồng Nai Bình Dương cho đến Cà Mau Hậu Giang, vùng nào cũng từng đi qua. Thời ấy, kênh rạch miền Tây chằng chịt đan xen, mười phần sông chỉ có một phần có nhà cửa, còn lại chỉ toàn một màu xanh dây leo, cây rừng chằng chịt, đêm đêm chạy ngang sông Vàm Rau Răm (gần vùng Tiền Giang đổ về sông Hậu), cứ khoảng hai, ba giờ sáng là nghe tiếng nhảy sông ì đùng hai bên bờ cùng tiếng cười the thé, trăm lần như một. Những lần mới đi qua, ông tôi còn bán tín bán nghi, thò đầu ra khỏi cabin nhìn xuống làn nước sông đen đặc, thấy cả đám con nít khoảng bảy, tám tuổi đang tắm hết sức bình thường, bỗng một đứa quay mặt lên nhìn vào nội tôi làm ông một phen kinh hãi: cái đầu bị gặm nát mất phân nửa, không thấy mặt mũi, chỉ có cái quai hàm đung đưa, lúc ấy vang lên giọng nói trầm trầm trong không gian: “Ông ơi xuống tắm với con cho mát nè.” Khỏi phải nói cũng biết ông tôi chạy hết tốc lực, một mạch đâm thẳng cho đến khi trời sáng mới dám dừng lại. Sau này ông mới biết, vùng Vàm Rau Răm này khi xưa có con cá sấu lớn, nó cắn chết sáu đứa trẻ đang tắm sông, từ đó hễ cứ đêm về là người ta nghe bọn chúng lại bày trò nhảy sông ầm ầm. Người dân phải dựng miếu thờ mới bớt phá. Lần khác đi ngang miệt An Biên, lúc ấy tầm ba giờ sáng, ông tôi nghe tiếng kêu thất thanh, rồi từ bụi dừa nước bên sông có bóng hai ba đứa trẻ vừa kêu “Nóng quá, nóng quá!” Thân hình chúng đang bốc cháy ngùn ngụt, chúng gào lên re ré rồi lao thẳng xuống sông. Ông tôi cùng mấy người bạn bèn lái ghe đến gần, dùng đèn pin rọi xuống thì thấy mặt nước tĩnh lặng, làm gì có ai phóng xuống. Đang tìm xem có dấu vết gì không thì thấy đầu mũi ghe có hai ba bóng đen đang ngồi xổm, bạn của ông tôi soi đèn về hướng đó thì thấy ba đứa con nít cháy đen, lở cả thịt đỏ ối, mắt lòi ra ngoài đang nhe răng ra cười rồi phóng xuống sông mất dạng. Con nít chết oan thường là do đuối nước hoặc nghịch lửa mà chết, chuyện tắm sông mắc vào cỏ nước chết thì lúc còn nhỏ tôi đã thấy. Năm ấy nghỉ hè, tôi theo ba mình đi đến một xã thuộc Minh Lương, cách Rạch Giá chừng hai mươi kilomet. Chúng tôi xây một cái bờ kè tại nơi là ụ ghe biển. Ụ ghe là nơi có rất nhiều sắt vụn, ngày ngày có đám con nít chừng bảy tám đứa đến tranh nhau nhặt về bán. Hôm ấy có một đứa nhặt sắt kế bên con mương thải nước từ ụ ghe ra sông, khi cả đám còn lại về sẵn quay sang gọi thằng bé ấy, ngặt cái gọi mãi không thấy nó đâu, tá hỏa, chúng tôi chạy đi gọi người lớn, họ mới đổ xô đi tìm. Mãi đến hơn 11h đêm, một thằng nhóc khác chung nhóm đi nhặt đồ nghe có tiếng gọi bên cửa sổ: “Ê mày ra nói với ba mẹ tao là tao kẹt chỗ cái mương á, muỗi với lạnh quá, mày ra nhanh nhanh nha!”, nghĩ là đứa bạn trêu mình, thằng nhỏ đó cũng chạy ra ụ ghe coi sao. Mọi người đang tìm từng ngóc ngách nhưng không thấy đâu, thằng này mới lại nói với ba mẹ của đứa mất tích, họ chạy đến cái mương mà lúc nãy kỳ thực cũng đã có tìm rồi thì thấy dưới đám lục bình, khuôn mặt trắng dã mắt trợn ngược của nó lồ lộ lên, nhìn hết sức đau đớn. Thì ra lúc ban sáng nó đi nhặt sắt, vô ý làm sao rớt xuống đó, nước sâu thực ra cũng chỉ ngang đầu con nít, ngoi lên là được, nhưng chân nó đạp phải dằm, đau quá nên kêu lên, nước tràn vào phổi làm tắc thở. Tuy nhiên khi kéo lên, dưới chân nó thấy có mấy đám rễ cây bần gấn đó đang quấn chặt như có tay ai đó nắm lấy, chặt đứt rễ cây ra thì bên dưới có một cái tiểu đựng cốt. Sau đợt đó, đêm đêm, thằng bé chết đuối cứ về gọi đám bạn nhặt sắt ra ụ ghe làm đám kia sợ đái ra quần, không dám bén mảng đến đó nữa làm hại ba mẹ tôi bắt tôi ở lì trong nhà không cho ra ụ ghe nữa. Nói vậy để thấy, đối phó Quỷ Hài Nhi nói dễ không dễ nói khó không khó, đều phụ thuộc rất nhiều vào sát ý con quỷ đó tỏa ra mà thôi. Đám chúng tôi dù gì cũng có dân lục lâm cứng nghề, nhưng đứng giữa thành phố ma như vầy, thà là chúng cứ nhảy xổ ra mà hơn thua đủ thì còn dễ, đằng này quỷ khí tỏa ra cứ chập chờn lúc mạnh lúc nhẹ, tiếng cười thoắt ẩn thoắt hiện thật là không biết đường nào mà lần, đánh lại thì đánh làm sao? Ba mươi sáu kế, chỉ có chạy mà thôi. Đường càng vào sâu, nhà cửa càng san sát, đường đi ngang dọc như bàn cờ nhưng lại quanh co, thật rất khó phân biệt được đang chạy hướng nào, ánh đèn cầm trên tay Sinh cứ lia lung tung, xung quanh tối đen chỉ như chực chờ có cái quỷ hồn nào lao ra cắn vào cổ. Thục mạng chạy như thế tuy nhiên tiếng cười vẫn như ở sát sau gáy. Đang chạy băng băng bỗng vai tôi nhói lên, cảm giác như đang rỉ máu, lấy tay đưa lên xoa vài cái tôi cũng liếc mắt xuống xem sao thì bỗng va sầm vào tường nhà, té lăn ra đất. Ngộ cái là đâm vào tường nhưng lại không thấy đau, cảm giác như đâm vào một đám rau cải thì đúng hơn. Thấy tôi ngã lăn quay, bọn họ cũng ngừng lại, Tú Linh gần tôi nhất vội lao đến đỡ dậy. Đột nhiên mặt đấm như mềm oặt ra tựa hồ cả đám đang đứng trên một vũng bột nhão khổng lồ. Không chỉ mặt đất mà tất cả các ngôi nhà xung quanh đếu như thế, từ những thứ nhão nhão mềm mềm ấy đang có những đụn nhô lên rồi như có bàn tay vô hình nào đó nặn chúng thành những khuôn mặt trẻ con đang cười khóc đủ kiểu. Tình thế lúc ấy đã nguy hiểm thập phần nay lại như ngàn cân treo sợi tóc. Những khuôn mặt quái dị kia đều quay mắt nhìn trừng trừng vào cả đám, rồi cái đống nhão ấy như cố chui ra khỏi vách nhà, bò từng con từng con một, đều sứt mẻ tứ chi hoặc ngũ quan, lết từng bước đến, dồn chúng tôi vào góc. Tôi chửi thầm trong bụng, cứ tưởng chuyến này thuận lợi, đi để mở mang tầm mắt, ai dè gặp toàn thứ yêu ma quỷ quái thiên cổ không rõ lai lịch, phải bỏ mạng nơi này. Đang chửi trời trách đất. đột nhiên vai tôi lại nhói lên dữ dội, cảm giác như da toác cả ra, máu chảy đầm đìa. Trong cơn đau, mắt tôi nhòe đi, hệt như lúc mới khai tạm cái Thiên Hổ Phù - vuốt hổ che mắt? Sực nhớ lại lần anh Hùng và Thông gặp ông kẹ, tôi liều mình quay sang Tú Linh, đưa tay lấy vài cây kim trong túi, lúc này cô còn đang bận tụ lại với anh Hùng và Sinh, che chắn cho tôi và Thùy cùng Tùng nên không thấy. Không hiểu động lực nào khiến tôi làm việc có vẻ điên rồ này, nhưng tôi cứ thế, cầm cả nắm kim, đâm mạnh vào đùi của Tú Linh, cô kêu đau rồi rút nhanh nắm kim ra, nhìn tôi một cách đầy khó hiểu, mắt tôi vẫn còn rất nhòe, đang nằm gục ra đất vì đau, tôi lấy hai tay chỉ vào mắt mình ra dấu, hy vọng cô hiểu được ý tôi. Tú Linh nhăn mặt, có vẻ tôi đâm hơi sâu, rất đau, chỉ thấy cô rút kim ra rồi nhìn xung quanh, kêu “Má nó!” một cái lập tức lấy mấy cây kim khác ghim vào đỉnh đầu và sau gáy tôi, bảo tôi cứ nằm ra đó, đừng đi đâu cả. Sau khi được châm kim, mắt tôi đỡ nhòe hẳn, thấy Tú Linh cũng châm cho những người còn lại, ai cũng kêu lên những tiếng rất đau. Đến lúc này, chúng tôi nhốn nháo, thốt lên kinh hãi: trước mặt chúng tôi không hề có những đống bầy nhầy hình hài trẻ con nữa, mà cả bọn đang đứng dưới một rừng những cây nấm khổng lồ, đường kính phải đến năm sáu người ôm, cao hơn hai ba chục mét, thân màu da bò bóng nhẫy, trên đó mọc những vảy khô cứng đủ hình dạng. Anh Hùng cậc lưỡi nói: “Không lẽ đây là Nấm Cô Hồn? Anh nghe nhiều người kể về nó, mà chỉ nói nó to lắm cỡ con chó thôi…” Sinh chưa từng nghe đến loại nấm kỳ lạ ma quái này, quay sang hỏi anh: “Loại đó anh nói nhỏ, cây này khổng lồ vậy, sao biết nó cùng loại?” Anh Hùng đưa tay, chỉ vào thân cây rồi nói: “Mày nhìn kỹ thân cây thì thấy, trên đó như có mấy khuôn mặt đang lồi ra đúng không? Đặc trưng của nó đó. Loại này thường mọc vùng ranh giới giữa âm khí ngưng tụ và dương khí càn phá, tuy nhiên dưới địa động này thì anh không chắc có đúng vậy không.” Lúc này Thuỳ bước lên trước, nhìn kỹ vào một thân cây nấm gần đó, quả thật trên đó có những khúc gồ lên, nhìn trông giống mặt người đang la hét. Cô quay sang hỏi anh Hùng: “Vậy tất cả những gì mình gặp nãy giờ, là do ảo giác từ cây nấm này gây ra?” Tú Linh vừa nghiến răng, có lẽ đùi còn ê, cô nói: “Đúng rồi, hồi đó dạy về chữa độc, sư phụ chế có đưa ra một mẫu vật của cây này, to cỡ một người lớn, nghe nói lấy ở Trường Sơn về. Đặc thù của nó là toả ra xung quanh một loại phấn, dẫn dụ con mồi đến gần, tạo ảo giác làm con mồi gục chết từ từ rồi ăn thịt!” Nghe đến đó, Tùng nổi da gà da cóc rần rần, nói: “Ăn thịt…nhưng…nhưng có thấy nó có răng gì đâu?” Anh hùng vỗ vai Tùng rồi chỉ đến gốc của nó: chi chít những sợi nhỏ, màu đen, nhìn giống râu bắp, to hơn và dài hơn rất nhiều, đang quấn quanh một số xương cốt động vật, những con vật xấu số không hề nhỏ mà to cỡ con voi làm chúng tôi phát khiếp. Thì ra khi con mồi chìm trong ảo giác, sẽ bị tê liệt hệ thần kinh từ từ, nằm im bất động, khi đó những sợi kia sẽ bò đến, lôi xác con vật vào gốc, rồi ghim vào thân hút sạch xương cốt thịt mỡ. Nghe qua cũng thấy chết đau đớn đến như thế nào. Bọn Nấm Cô Hồn này nếu không dính phải mê phấn từ nó thì về cơ bản là chúng vô hại, Tú Linh bảo Thuỳ và Tùng lấy trong túi ra một số khăn vải dùng để quấn cổ vật, đưa cho cô, cô lại lấy trong túi của mình một ít bột màu vàng, trộn ít nước lên đó, đưa cho mỗi người một cái bảo đeo lên để ngăn ngừa mê hồn phấn từ đám nấm. Chúng tôi thấy vậy rút lẹ, không dám nấn ná lâu ở chốn quỷ quái này. Dọc đường đi, Tú Linh vỗ vai tôi, nói: “Nhờ cưng mà cả đám thoát chết, mà sao lúc nãy cưng phát hiện được mình đang bị ảo giác?” Tôi lắc đầu, ra ý không biết tại sao, có thể Thiên Hổ thực sự ngồi trên vai tôi, như một vị cứu tinh xuất hiện khi nguy hiểm cận kề? Tôi không biết được, chỉ thấy nhói ở vai, mắt nhoè đi, sự vật tuy mờ ảo nhưng tôi vẫn nhìn ra được khung cảnh xung quanh đã thay đổi, sừng sững hiện ra những cây cột cao - là lũ nấm. Những cây kim đó cũng may đâm vào vùng cơ mềm, làm Tú Linh đau đớn, phút chốc lấy lại thần trí, nhờ đó phát hiện mình bị ảo giác, lập tức dùng kim châm phong tỏa các huyệt vị cảm giác. Việc đó cũng na ná như việc anh Hùng dùng sả và tỏi để tỉnh táo khi đánh với ông kẹ vậy. Tuy nhiên cái nào cũng có nhược điểm, đối với loại mê hồn phấn mạnh như của nấm này, sả và tỏi lại không đủ đô, còn cách của Tú Linh thì phong tỏa huyệt vị cảm giác, “giết” nó rồi “hồi sinh” nó lại, như khởi động lại máy tính, nhược điểm của phương pháp này là dễ gây mất hẳn cảm giác, vô cùng nguy hiểm. Nói đến những thứ nguy hiểm trong lục lâm, tôi thấy rằng, những thứ ảo giác gây ra bởi ông kẹ hay cây nấm này còn đáng sợ hơn là miễu biết hát nữa, chúng làm ta xoay vòng vòng rồi chết một cách hoang mang, không minh bạch, quả là không cam tâm! Khu rừng nấm này cũng không quá rộng, đi thêm chừng trăm mét nữa, chúng tôi đến chân một tường thành cao, đã bị hư hỏng nặng, tuy nhiên vẫn leo qua được. Đứng trên đó về cơ bản thì nhìn xung quanh vẫn tối om om, không thấy gì khác ngoài cái vệt sáng màu vàng tạo bởi đèn pin và một ánh chớp đỏ trên cao. Tôi tự hỏi nếu hang động này sáng đủ, nó sẽ trông lộng lẫy đến nhường nào với những tường thành, nhà cửa, tháp canh, cung điện, thật hùng vĩ đến khó tưởng. Lò mò bước xuống, chúng tôi có vẻ tiến vào gần đến trung tâm. Dấu vết, tàn tích của nhà cửa xuất hiện dày đặc, về cơ bản cũng đã đổ nát từ lâu. Tôi lo sợ đây lại là ảo giác, Tú Linh vỗ vai tôi bảo không có đâu. Khu vực này nếu được phục chế, tôi tin sẽ rất hoành tráng: từ cổng chính thành có một con đường lát đá thẳng tắp, hai bên có hai bức tượng chim Ca Lâu La cao chừng ba mét, dang cánh giơ chân trông hết sức uy dũng mặc dù đã hư hại do thời gian. Dọc hai bên đường chính là nhà cửa san sát, nhìn đống đổ nát đã khiến ta choáng ngợp, thử hỏi nếu đứng ở đây trong những ngày Ca Lâu Thành còn thời hoàng kim thì sẽ thế nào nữa đây. Anh Hùng ngắm kỹ những tượng chim thần và tàn tích xung quanh, bảo là giống hệt với những gì anh thấy ở biển Hòn Sơn, nếu vậy thì giả thuyết về một Địa Nguyệt Sơn trải dài từ Hà Tiên, về Kiên Lương, Hòn Đất rồi cong ra Hòn Sơn hoàn toàn khả thi: một vòng cung dài khoảng 200 kilomet. Mặc dù Tú Linh đã bảo rằng, với những kim châm và khăn đeo, khó có ảo giác xảy ra, cũng có thể không xảy ra ảo giác nữa, nhưng vai tôi vẫn còn nhói nhói âm ỉ. Nghĩa là nguy hiểm vẫn còn. Bước từ từ vào trong, chúng tôi hết sức bất ngờ khi thấy trên đống đổ nát, có một loài cây lạ xuất hiện. Chúng mọc rất dày, gần như là một cánh rừng nhỏ. Thân to chừng bắp đùi người lớn, cao nhưng khá ngoằn ngoèo, lá mọc tán dày, trông như bàn tay đang xòe, hết sức quái lạ. Đám bọn tôi không ai biết tên nó là gì, kể cả Tùng có lục lại trí nhớ cũng không có manh mối. Điểm kỳ lạ nữa ở đây đó là nhìn lên trên, phía sâu trong cánh rừng nhỏ ấy, chúng tôi thấy những vệt sáng dài màu xanh da trời, mờ ảo như lân tinh nhưng nhìn rất bắt mắt. Không ai dặn ai, cả bọn đều cẩn thận đi đến phía trước. Trong không gian tối om của địa động, những tán cây của loài cây kỳ lạ kia chụm lại vào nhau, tạo thành một mái vòm tự nhiên rất cao và rộng rãi, từ trên mái vòm rủ xuống cả ngàn sợi dây trông như đèn huỳnh quang, to cỡ ngón tay cái, phát ra ánh sáng lục lam, thỉnh thoảng lại chớp chớp, soi sáng một bãi đá sỏi nhỏ mọc đầy rêu xanh ở phía dưới. Chúng tôi cứ như ngây ra phải một lúc mới từ từ bước đến gần, anh Hùng nói: “Cái gì đẹp quá lại ẩn chứa nguy hiểm, huống hồ gì chúng ta đang ở kỳ động ma quái, tốt nhất nên đi nhanh lên thôi.” Thuỳ quay sang Tú Linh, vẻ mặt như nghĩ ngợi gì đó, rồi nói: “Nhìn mấy sợi dây này quen quen… hình như em thấy ở đâu rồi thì phải…” Tùng đi ngang qua, bước đến gần rồi nói: “Trông cứ như làm từ silicon ấy… kiểu như là nước bọt của con gì đó”, vừa nói gã đưa tay ra tính chạm thử, bỗng Thuỳ vô thức hét lên: “Coi chừng, hang Sâu Đóm đó!” Tùng quay ra ngơ ngác nhìn Thuỳ, bảo: “Sâu đóm đúng là có tiết ra mấy sợi silicon nhưng rất nhỏ, mấy con sâu đó…”, nói đến đây, có lẽ gã cũng nhớ lại kích thước của những thứ gã gặp từ lúc vào hang đến giờ, bất thần quay đầu bỏ chạy. Lúc này trên cao vang lên tiếng rào rào như có con gì đang bò xuống, từ trên vòm cây, một thứ hình thù như tấm thảm cuộn tròn, to bằng hai bao lúa đang lao xuống, một lỗ hổng đỏ lòm há rộng, tựa như cái miệng một con trăn chực chờ săn mồi, chỉ nghe Sinh hét lên: “Mẹ nó, sâu đóm thật!” Tùng cống cuồng phóng tới trước, may mắn né được cú đớp của con sâu. Miệng con sâu đóm khổng lồ có hình tròn, răng mọc vòng quanh nhọn hoắc. Anh Hùng bảo Sinh đốt đuốc lên, còn anh lao đến chỗ Tùng, một tay cầm dao găm chém thẳng vào đầu còn sâu, tay còn lại lật ngược đầu búa dọng vào miệng nó gãy đến mấy cây răng, tạo thời cơ cho Tùng chạy đi. Gã vừa bò dưới đất vừa la lên: “Đừng chạm vào sợi dây đèn, có độc đó.” Sinh ra ứng cứu tiếp anh Hùng, tôi cùng Thuỳ và Tú Linh chia nhau quấn vải liệm đốt đuốc, dù gì bọn này vẫn kỵ lửa, cứ tìm được đường ra khỏi đây trước cái đã hẳn lo đến miễu biết hát. Lúc này trên mái vòm, những âm thanh ào ào như cả đoàn quân đang di chuyển, rồi cả trăm, cả ngàn con sâu đóm lông tua tủa màu vàng đầy dịch độc rớt xuống như bần rụng. Chúng bò rất nhanh tiến đến chỗ chúng tôi, may mà lúc đó vừa đốt đuốc lên kịp, chia cho mỗi người một cây xua đuổi làm chậm bước tiến của bọn sâu quỷ dị này. Hết cửa chết này đến cửa chết khác liên tục ập đến, bọn chúng tôi chưa kịp nghỉ chân đã phải chạy tiếp. Lúc này, ánh sáng màu đỏ vẫn chớp trên cao, dẫn đường cho cả bọn chạy một hơi. Mỗi nơi vừa chạy qua, sâu rớt xuống tạo nên những âm thanh “bịch bịch” rợn người, có vài lần tưởng chừng sẽ bị nó rớt trúng người nhưng đều thoát chết trong gang tấc. Khu rừng lúc này, cũng nhờ có ánh sáng từ mấy sợi dây quái dị kia mà hiện rõ dần, cảm giác dễ chạy hơn tuy phải liên tục né những sợi dây phát sáng mà theo lời Tùng là có độc, những ngọn đuốc trên tay huơ qua lại không ngừng để cản lũ sâu quái vật. Sau lưng chúng tôi, tiếng “sệt sệt” tạo thành do lũ sâu di chuyển càng lúc càng lớn, tưởng chừng như có cả ngàn con đang bò theo sát nút. Cắm đầu chạy một lúc cũng thoát khỏi cánh rừng mọc loại cây kỳ quái đó. Chúng tôi tiến đến chỗ trông giống với quảng trường của toà thành, xung quanh rộng rãi, cao thoáng hơn rất nhiều, bốn phía có những cửa động rất to dẫn đi đâu không biết. Lúc này, âm thanh của lũ sâu sau lưng nhỏ lại dần, tôi quay ra sau nhìn thì thấy chúng dừng ở mép rừng, không dám tiến lên, chần chừ như sợ sệt lắm. Có vẻ mọi người cũng thấy chuyện đó, nhận thấy khoảng cách đủ xa và an toàn, chúng tôi dừng lại thở lấy hơi. Thuỳ vừa thở vừa nói: “Lúc trước thầy em có nói về loài sâu đóm cổ đại, tiết ra chất như nước bọt, kết tinh lại như silicon, phát sáng dẫn dụ con mồi, hễ chạm vào sợi dây sẽ bị độc ngấm qua da, gây tê liệt, lúc này lũ sâu từ trên lao xuống hút dịch não. Hồi nãy mình gặp chắc là nó…”. Cũng may, nếu không thì sau Tùng, có thể tôi cũng vì mê hoặc vẻ đẹp của nó mà chạm vào, lũ sâu bị bỏ đói quanh năm, ăn cho bằng sạch. Anh Hùng rọi đuốc xung quanh, vẫn chỉ là những phế tích và tượng chim thần, tuyệt nhiên không thấy dấu vết gì của những người từng sống ở đây, kể cả một mảnh xương. Bỗng anh đi đến chỗ một bệ chữ nhật bằng đá, cao hơn mặt đất chừng một mét, rộng chừng năm sáu mét, dài thì gấp đôi, trông rất giống với sân khấu biểu diễn cải lương ở những quảng trường lớn. Bệ lát đá tảng, vẫn còn khá nguyên vẹn hình dáng, phía sau nó có một cái cửa động rộng rãi sâu hun hút, bên ngoài có một số dây leo kỳ quặc. Bỗng anh kêu Thuỳ lại, bảo: “Bạn em có ai mang đôi giày màu nâu không?” Thuỳ vội chạy đến, ngạc nhiên làm sao anh Hùng hỏi câu đó, anh giơ đuốc ra phía trước, trong vầng sáng lập loè đó hiện ra đôi giày màu nâu, một cái quần jeans rách rưới và một đống bầy nhầy màu đỏ ối như máu. Thuỳ kêu lên, trong tiếng nấc, cô bảo số đồ này chính xác là của Dũng và Châu, xong thì cô gục mặt vào vai của Tú Linh, chế đẹp thấy vậy liền ôm cô chặt hơn, gã Tùng đứng gục mặt, không nói không rằng, tôi nghe tiếng gã thút thít. Thuỳ nức nở nói: “Sống thấy người, chết thấy xác, em vẫn phải tìm cho ra tung tích của bạn em!” Thấy dấu vết nằm gần cửa động, cô định vào đó xem thử nhưng anh Hùng cản lại, anh nói đầy lo ngại: “Dấu vết kéo lê, ngắt quãng, đi qua bọn bạch tuộc, đám nấm với lũ sâu như chơi, anh đoán chỉ có loài có cánh, to mới đủ sức tha được hai người họ. Em nghĩ cái hang này có phải là ổ của nó không, liều làm gì vậy?” Tùng quay sang hỏi: “Anh đoán là con gì? Dơi….dơi…khổng lồ hay sao?” Sinh vừa nhấp xong ngụm rượu, khà ra, nói: “Ông anh to đầu mà chậm hiểu quá, ở đằng kia có cái ổ sâu khổng lồ, chỗ nào có sâu thì có con gì có cánh?” Tôi chỉ kịp nghĩ thoáng trong đầu: là bướm, tức thì, từ trong động vang lên những tiếng phành phạch khiến gió thổi dữ dội, lạnh ngắt. Dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn đuốc, trong cửa động tối om xuất hiện một khuôn mặt người khổng lồ, hai hốc mắt nó đen ngòm, miệng há to tới vành tai, phía sau gáy thấp thoáng vật gì đó bay phấp phới trong như lá cờ màu đỏ thẫm. Rồi bên trái và bên phải nó, lần lượt xuất hiện thêm nhiều khuôn mặt y hệt, chúng mở toác mồm quay sang hét vào nhau, âm thanh như lợn bị chọc tiết, đoạn gồng cả cơ thể, những lá cờ bung rộng ra thành đôi cánh, chúng bay về phía bọn tôi với tốc độ kinh hồn, miệng vẫn không ngừng la lên ren réc.
 
Chương 38 : Phần 16: Ca Lâu Thành


Lâm Gia Thái Bảo - Không cần phải là lục lâm cũng thừa biết lũ bướm mặt người này chỉ có bắt, giết rồi ăn thịt chứ không có ngoại lệ, sát khí phát ra từ chúng làm tôi cảm thấy nghẹt thở vô cùng. Dưới ánh sáng leo lét, tôi bất thần trông rõ mặt bọn nó, chúng có những đốm hoa văn trên mặt, để ý kỹ mới thấy, nếu nhìn sơ ngang thì y hệt như mặt người đang gào khóc. Tôi bất giác bước một bước về sau nhưng bàn tay của anh Hùng đã nhanh chóng áp vào lưng tôi tự lúc nào, anh nói, chỉ sự dụng hơi chứ không thành tiếng: “Đừng có cử động!”, rồi anh ra dấu cho Sinh quăng các cây đuốc đi chỗ khác. Tôi lập tức hiểu ra ý anh, chỉ trong phút chốc thôi nhưng một suy nghĩ lóe ngang ngay khoảnh khắc tay anh chạm lưng tôi, nó vừa đủ để vực dậy một suy nghĩ mà nếu làm ngược lại tôi đã mất mạng: lũ bướm này bị mù. Điều này vốn dĩ cũng không có gì lạ, hang động này gần 2000 năm không có ánh sáng bên ngoài, các loài vật cơ bản đã tiêu biến hẳn cơ quan thị giác. Cả đám cúi sát đầu ngồi thụp xuống, né tránh một đàn bướm khổng lồ lên đến cả ngàn con đang bay tới tấp từ trong ra, lao vun vút lên trần hang, vừa bay vừa kêu réc réc chói tai vô cùng. Một số con lao đến tấn công vào các cây đuốc, ngọn lửa nhỏ nhoi ấy về cơ bản không đủ gây thiệt hại gì, một loáng đã bị chúng nhai sạch sẽ. Loài này tuy không có mắt nhưng các giác quan khác phát triển cực độ, bù đắp hoàn hảo cho đặc tính săn mồi. Đám chúng tôi nằm im bất động, cả thở cũng không dám thở mạnh, đán bướm quái vật cứ bay ra không ngớt, chừng mười phút hơn vẫn nghe những tiếng đập cánh nhức óc, mặt đất thỉnh thoảng lại rung nhẹ không rõ lý do. Mãi một lúc sau khi tiếng vỗ cánh đã thưa bớt, tôi từ từ nhìn lên trần hang, mặc cho anh Hùng nói đừng lạm dụng Thiên Hổ, tôi lấy tay vuốt mắt nhìn thử, chỉ thấy phía trên dày đặc lũ bướm, nhưng ở rất cao phía trên, tiếng kêu nhỏ hơn nhiều. Tôi ra dấu cho mọi người an toàn rồi, họ mới từ từ ngồi dậy, bò đến một góc khuất rồi thì thầm hỏi thăm nhau có bị gì không. Anh Hùng nói: “Nơi này quỷ quái thật, năm năm qua anh đi tu luyện, săn lan đập miễu có cả mà chưa nghe gì về con bướm mặt quỷ đó hết.” Tùng vẫn còn chưa hoàn hồn hẳn, run run nói: “Cũng không ít tài liệu nói về loài bướm cổ đại vùng Trung Á, sải cánh khoảng hai mét, nhưng con hồi nãy sải cánh chắc cũng bốn đến năm mét là ít.” Thùy thêm vào: “Mà sao các con vật ở đây đều khổng lồ như vậy?” Tùng suy nghĩ một hồi rồi giải thích: “Các loài côn trùng thường có kích thước phụ thuộc vào mật độ oxy trong không khí. Ví dụ vào Kỷ Phấn Trắng, mật độ oxy trong không khí rất lớn, các hóa thạch hoặc đá hổ phách chứa các mẫu vật ong to cỡ con chó là bình thường.” Anh Hùng nói: “Theo anh thấy, ở dưới này không phải là do mật độ oxy gì như chú em nói đâu, trong giới tụi anh chỉ căn cứ vào sự cân bằng âm dương mà lý giải, vùng Thất Sơn xưa có nói về con thằn lằn, do ăn vật có âm khí cao, vô tình trở thành một điểm thu hút năng lượng, dần to lên trở nên khổng lồ. Dưới này nếu nói do âm dương rối loạn mà sinh vật biến đổi kích thước, theo anh thấy cũng có khả năng.” Lúc này Tú Linh mới nói: “Mọi người có thấy lũ bướm bay ra khá kỳ lạ không?” Tất cả chúng tôi đều không hiểu, kỳ lạ chỗ nào? Tú Linh giải thích: “Nếu nói vì bọn mình gây động làm bọn chúng thức giấc khá vô lý, vì nếu như vậy chúng phải bay là là dưới này để tấn công chúng ta chứ sao lại bay tít lên trên kia? Giống như chúng đang sợ thứ gì trong hang chứ không phải chúng ta…” Nói đến đây Tú Linh bỗng ngưng lại, không phải vì cô nói sai gì đó, mà là mặt đất bỗng rung nhẹ nhẹ lên, cảm giác như lúc nãy, nhưng nhịp đều hơn và...gần hơn. Tùng quay qua lắp bắp: “Co...con gì nữa đây…” Tôi cũng không bất ngờ với phản ứng của Tùng, từ đầu chuyến đi đến giờ cả đoàn đã gặp biết bao nhiêu loài côn trùng, bò sát, quái thú, con nào con nấy cũng khổng lồ, nếu xuất hiện một loài vật có khả năng làm bọn bướm mặt quỷ sợ đến trốn chạy đi hết, khả năng cao thì bọn đó cũng có kích thước không nhỏ. Thật vậy, lồm cồm bò ra từ trong hang, là một con tắc kè to bằng chiếc xe bus, con này cũng không có tròng mắt, chỉ thấy một lỗ trắng hối, thêm vào đó là lớp lông trông hết sức cứng cáp, trên đó mọc đầy gai nhọn, vùng hốc mắt hõm sâu, mọc lên nhưng thứ lông có đỉnh hình cầu, rất nhiều lớp hình cầu đang đung đưa qua lại, tựa như một con mắt để quan sát bằng các cảm nhận trong không khí. Con tắc kè này đang nhai ngấu nghiến một trong những con bướm mặt quỷ, thấp thoáng trong đó là cánh tay dính đầy máu. Bất giác, Tùng đứng bật dậy, không biết cánh tay đó là của Dũng hay Châu nhưng nó làm gã hết sức xúc động, gã nghẹn ngào rồi gào lên, nhắm thẳng hướng con tắc kè mà xông tới. Thật ra con tắc kè này vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của cả bọn, tiếng la của Tùng đã thu hút sự chú ý của nó, nó quay đầu sang hướng chúng tôi, nuốt ừng ực miếng ăn đang nhai rồi cũng bắt trớn, lấy tư thế, chuẩn bị phóng cái lưỡi dài của mình ra đớp trọn con mồi. Hùng kêu tên Sinh thật lớn rồi kéo cả bọn chạy về phía lớp đổ nát để lẩn trốn. Sinh nghe xong chửi thề mấy tiếng rồi tức tốc chạy về phía Tùng, con tắc kè lúc này há to mồm, bên trong phụt ra cái lưỡi đỏ lờm, âm thanh “phẹt phẹt” của chất nhầy vang lên hết sức tởm lợn. Tùng thấy vậy, hình như gã phát giác ra sự bốc đồng của mình, liền quay đầu lại chạy, khuôn mặt hiện rõ vẻ hốt hoảng. Nhưng làm gì kịp, cái lưỡi đã sát sau ót gã, tưởng chừng như nắm chắc cái chết thì Sinh đã xuất hiện kịp thời, nó đẩy gã Tùng té xống xoài, không còn thời gian để né tránh nên nó bắt chéo hai tay trước ngực, miệng lẩm bẩm gì đó rồi hứng trọn cú móc của chiếc lưỡi, tôi hét lên, chồm cả người dậy nhưng đã bị anh Hùng kéo lại, ánh mắt anh nhìn tôi đanh lắm, một cái nhìn kiểu tin tưởng rõ rệt. Tôi cũng nhớ ra, động tác đó quen lắm, thằng Sinh đã xài trong hang ngải rồi, là Thiên Đăng Ẩn Quang Chú! Nghĩ tới đó, tôi quay ngoắt đầu lại, thấy cái lưỡi của con tắc kè rụt lại giữa chừng rồi phủ xuống, thằng Sinh do bị quấn bên trong nên Thiên Đăng không hề phát sáng. Tôi lo lắng, và cũng cảm nhận được cảm xúc tương tự từ cả đoàn, gã Tùng ngồi dậy, hình như gã đang mếu máo, tôi nghe gã kêu trời, chắc hối hận lắm nhưng vẫn đứng rìa ngoài không dám chạy lại chỗ của Sinh. Đột nhiên, anh Hùng và Tú Linh đứng dậy, trong ánh mắt họ hiện rõ sự nhẹ nhõm. Tôi chưa kịp hỏi thì một tiếng “Xạch” vang lên, Sinh đang bò ra từ cái lưỡi, nhìn sang con tắc kè nó đã nằm lăn quay, bụng vẫn còn nhấp nhô, chắc nó chỉ bất tỉnh. Sinh ho sặc sụa, chửi thề om trời, áo nó đã bị rách. Tú Linh vội vã chạy lại, không nói không rằng châm liên tiếp hàng đống kim vào tay và bả vai của Sinh. Thạch Sinh đã chảy máu! Tùng thấy cả bọn xuất hiện nên lật đật chạy lại, suýt té mấy lần, đầu tóc gã rối bù, ánh mắt thất thần, miệng mấp máy, gã vừa thoát cơn đại nạn mà. Gã lên tiếng, nói với anh Hùng: “Xin lỗi, xin lỗi, anh đừng la tôi nữa. Tại vì tôi thấy cánh tay của…” Anh Hùng nhìn Sinh, thấy nó không có phản ứng gì nhưng cũng không mang ý trách móc, anh bảo: “Cái này khác rồi ông anh, nếu là bạn tôi thì tôi cũng hành động như vậy thôi. Chuyện cũng đã qua, Tú Linh làm nhanh lên em, xong rồi mọi người đi tiếp thôi. Lũ bướm ngửi thấy hết mùi nguy hiểm xà xuống thì gay go nữa!” Tôi hỏi: “Đi đâu anh?” Anh chỉ về chỗ tàn tích chúng tôi ẩn nấp lúc nãy, chính là đằng sau của bệ đá trông như sân khấu cải lương rồi nói: “Phía sau có lối đi.” Chúng tôi đợi Tú Linh băng bó cho Sinh xong, nó đứng lên vươn vai vài cái rồi còn trách anh Hùng đùn đẩy trách nhiệm, anh Hùng cười hê hê rồi thúc cả bọn đi tiếp. Phía sau bệ đá có một đường hầm, vừa bước vào, nó không chỉ dài mà còn tối nữa, phía cuối đường hầm có đốm sáng mờ, không biết sẽ dẫn chúng tôi về đâu nhưng ít ra còn đỡ hơn chốn quỷ quái này. Tôi nuốt nước bọt, không biết còn thứ ma, quỷ, côn trùng gì trong đây nữa. Xuyên suốt chặn đường, tôi cứ mãi thấp thỏm chờ đợi con gì đó nhảy ra, âm thanh nào đó vang lên, cảm giác như cả đoàn cũng chia chung ý nghĩ. Thế nhưng, không có gì cả. Chính xác đây là quãng đường đi dài nhất mà chúng tôi không bị cái gì làm cho hoảng hồn. Ánh sáng càng rõ dần, lối ra đã ở trước mặt, tôi nhìn lại đoạn đường hầm vừa đi qua mà không khỏi bối rối, mọi người ai cũng vậy, riêng chỉ có gã Tùng là thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi hồi hộp chui ra, ở ngoài tôi nghĩ chắc không sáng lắm nhưng vì ở trong tối quá lâu, thành ra vô thức cả bọn đưa tay che mắt. Cảnh vật phía trước làm tôi choáng ngợp, một toà thành uy nghi, tráng lệ và hùng dũng hiện lên trong khung cảnh huyền bí, u tối của Bát Quái Động. Không còn nhầm lẫn nữa rồi… Tôi nghĩ thầm trong bụng, hiểm nguy ở phía trước chưa biết ra sao, hiểm nguy ở phía sau khiến tôi vài lần bỏ mạng, tất cả những chuyện đó không bỏ được so với thành quả nhất thời này: chúng tôi đã tới Ca Lâu Thành. Dưới chân là con đường lát đá như bình thường, nó dẫn tới một dãy tường thành được xây lên cao, dãy tường này kéo dài ra một vách núi rồi nối lên chiếc cầu dẫn vào tòa thành khổng lồ, chân cầu là những cột đá tảng to như chiếc xe tải xếp chồng lên nhau, nâng đỡ, bao trùm kiến trúc hùng vĩ phía trên, không biết phía gốc của những chân cầu này là gì, chỉ thấy một màu tối đen như hũ nút. Thỉnh thoảng, trên đỉnh tháp cao nhất của tòa thành, ánh sáng màu đỏ chớp tắt, soi rọi một phần rộng lớn khuôn viên bên ngoài, tôi thấy hai bên cây cầu có những bụi cây không có lá, chúng mọc lên chia chỉa, trông giống những bàn tay gầy còm, da bọc xương đang giơ lên không trung, chết đuối trong dòng sông màu đen. Anh Hùng là người bước lên trước nhất, trong khi chúng tôi vẫn còn ngỡ ngàng về vẻ đẹp tráng lệ mà ma mị của Ca Lâu Thành, anh bảo giờ cả đoàn sẽ dùng đuốc chứ không dùng đèn pin nữa, chúng tôi cũng chẳng ai phàn nàn hoặc đặt ra câu hỏi gì cả, dường như đã quen với chuyện làm gì cũng có lý do của anh Hùng. Sẵn tiện, anh châm điếu thuốc, đưa bao thuốc cho Tú Linh, tôi và Sinh, tôi có thử mời Thùy và Tùng nhưng cả hai đều lắc đầu ngao ngán, cả đoàn bỏ ba lô xuống rồi bước đến chỗ bờ vực ngồi nghỉ chân, ai làm việc nấy. Từ lúc ngồi xuống cho đến khoảng mười lăm phút sau, tôi thấy anh Hùng và Sinh cứ đứng ngồi không yên, thằng Sinh nốc vài hơi rượu nhưng mỗi lần trút ngược đít chai, nó đều nhăn mặt. Thú thực tôi cũng có cảm giác bồn chồn, tôi thử sờ lên bả vai, tìm kiếm một cảm giác quen thuộc, nhưng hoàn toàn không có gì cả. Tôi không còn cảm thấy đau nữa. Nếu dùng lô-gic mà giải thích, thì chỉ có một kết luận duy nhất đó là xung quanh không còn nguy hiểm, nhưng về tình về lý thì không đúng chút nào, rìa ngoài Ca Lâu Thành đi đâu cũng gặp ma, quỷ, côn trùng, ngồi yên chưa được năm phút thì đã phải chạy tiếp, thực tình từ lúc vào đường hầm, tôi không dám mong chờ sự an toàn chút nào. Dường như anh Hùng cũng hiểu ý tôi hay sao, anh đến ngồi cạnh, phóng tầm mắt lên tòa thành cao ngất ngưỡng, chỉ vào nó rồi nói: “Mày cũng cảm nhận được đúng không?” Tôi gật đầu, anh tiếp: “Suy nghĩ sơ thì thấy vô lý, nhưng mày cũng nên nhớ một chuyện, trong cuộn da của Thùy có ghi về việc Ca Lâu Vương ngày xưa trừ ma diệt quỷ, có thể ông ta đã đặt trong tòa thành thứ gì đó có uy lực ngất trời, ngăn cho bọn ma quỷ không dám bén mảng đến gần.” Tôi hỏi: “Ngô Công Kim Thân hả anh?” Anh lắc đầu: “Không không, viên ngọc rết đó không liên quan. Nó chỉ là viên ngọc hiếm, mang Thái Dương, vậy thôi. Nó tỏa ra dương khí cực mạnh, không thu hút bọn ma quỷ thì thôi chứ làm gì có chuyện trấn yểm, phòng ma.” “Vậy rốt cuộc là cái gì?” Sinh xoa xoa vết thương rồi quay sang nói: “Làm sao mà biết được ông ơi, ngoài việc đi vào đó rồi tự mà tìm hiểu.” Thùy và Tùng chỉ ngồi im lặng, họ vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng không ai lên tiếng. Tú Linh bảo: “Tiền bối của mình đã thiếu gì bài, như bác Ba đó, lập nguyên cái vòng vây xung quanh đảo Bia Mộ, ông nội Ca Lâu Vương này hành tung bí ẩn, mới có hai ghi chép của hai người mà thông tin đã làm mình loạn cả lên, không biết ổng còn giấu cái gì trong đó nữa.” Anh Hùng gật đầu, thêm vào: “Đúng. Nói ổng có khả năng lập hàng rào trấn yểm cũng không phải nói ngoa, nhưng hàng rào đó (nếu có) cũng là thứ tồn tại để bảo vệ tòa thành. Mình tiến vào là xâm phạm, phải cẩn thận gấp hai gấp ba lần so với lúc đi qua Bát Quái Động.” Kể từ lúc anh Hùng nói câu đó thì không khí lại trở nên im lặng, mười lăm phút sau cả đoàn lại lên đường. Chiếc cầu vào Ca Lâu Thành dài khoảng một trăm mét, hai bên có bờ tường cao ngang hong, khoảng mười mét trưng tượng chim thần Ca Lâu dang cánh dũng mãnh. Chiếc cầu này được xây nên bằng nhiều loại đá khác nhau, đá nhỏ để lát đường, đá to làm thành lan can, đá khổng lồ làm chân cầu. Hai ngọn đuốc, một của anh Hùng dẫn đoàn, một của Sinh chốt đoàn nhấp nhô soi xuống mặt đường, trông những hòn đá như đang nhảy múa. Ở đây hoàn toàn lặng gió nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác như những bụi cây trụi lá bên dưới đang lắc lư, chực như có con gì nhảy lên thành cầu rồi cả bọn sẽ lại nghĩ cách đối phó, ấy vậy mà chuyện bình thường như thế thôi đã không xảy ra. Chỉ có sự im lặng bao trùm không gian, tiếng đế giày xèn xẹt lết trên nền đá của chiếc cầu, cảm giác nghe được tiếng thở của từng người, tiếng trống ngực dồn như kéo quân. Không lâu sau cánh cửa đã hiện ra phía trước, nó có mái vòm hình thang, màu lam đậm bám trên đó không biết là màu sơn hay màu rêu, những chấm đen như vết ố bám đầy, cánh cửa thành cao chừng ba thước, một đóng, một mở, không có dấu hiệu bị phá hủy. Phía sau cánh cửa là vườn hoa, tôi nghĩ vậy thôi vì nó đã biến thành bãi cỏ, những cây cỏ cao hơn đầu người mà tôi và Sinh đã thấy chỗ tòa tháp bên ngoài. Đi được phân nửa khu vườn, bỗng phần cao nhất của những ngọn cỏ sáng lên, ánh sáng không biết từ đâu rọi vào, nghĩ trong bụng là sắp có chuyện rồi nên chúng tôi ai nấy đều đứng vào tư thế đâu lưng, ẩn nấp vào nhau, chờ điều sắp tới. Nhưng khoảng một phút trôi qua, vẫn không có gì ngoài sự im lặng đáng sợ. Chợt Tùng thốt lên: “Nhìn bên trên kìa!” Nhất loạn, cả bọn ngửa đầu lên thì thấy từ những ô cửa sổ của Ca Lâu Thành hắt ra ánh sáng màu vàng nhạt của ngọn đèn bão, những ngọn cỏ cao xung quanh chính là bị thứ ánh sáng này rọi lên chứ không phải ma quỷ gì hết. Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, muốn giải thích cũng không biết phải nói như thế nào, đành đi tiếp thôi. Pha lẫn giữa phấn chấn và sợ hãi, chúng tôi tiến đến cánh cửa dẫn vào bên trong Ca Lâu Thành. Cánh cửa này cao khoảng hai mét, không có khóa ngoài, được bao bọc bằng khung màu đen, chẳng biết có phải kim loại hay không, khoen cửa hình tròn được ngậm bởi hai con chim thần, anh Hùng nắm chặt một bên cửa rồi nhìn về phía cả đoàn, ánh mắt ai cũng lộ rõ vẻ căng thẳng, biết rằng nếu tồn tại một vòng trấn yểm thì cánh cửa này chính là thứ kích hoạt nó. Anh Hùng hít một hơi thật sâu rồi hé nhẹ cánh cửa, từ bên trong, ánh sáng màu vàng lọt ra, vẽ một đường chỉ nhỏ trên khuôn mặt anh, anh đưa mắt vào nhìn, tròng mắt đảo liên hồi, đoạn anh sang nhìn cả bọn, gật đầu báo an toàn rồi đẩy cánh cửa ra vừa đủ một người đi, chúng tôi thay phiên nhau bước vào. Bên trong Ca Lâu Thành...sạch sẽ tinh tươm, những bức tường xây bằng đá tảng được cắt gọt tỉ mỉ, xếp đều vào nhau hết sức đẹp mắt. Tôi nghĩ nơi đây chính xác là chánh điện của tòa thành này vì nó rộng kinh khủng, cao khoảng mười thước, ở bức tường chính giữa là tượng chim thần Ca Lâu La há miệng như đang gầm rú, vung đôi cánh to lớn và cặp móng nhọn hoắt về phía chúng tôi. Hai bên bức tượng có hai dãy cầu thang dẫn lên trên, đếm ra chắc có hơn mấy trăm bậc, tầng trên phủ xuống cờ hiệu của Ca Lâu Thành với hình chim thần vẽ cách điệu, vây quanh là hai nhánh cây tôi không biết tên, chỉ thấy hết sức uy nghi. Trên trần có một cây đèn chùm, trên bệ đèn và tất cả những bức tường xung quanh đều có cấm một thứ gì đó trông như đèn cầy, nhưng có màu xám và được lồng trong khung thuỷ tinh: chính là nguồn ánh sáng mà tôi nghĩ là phát ra từ đèn bão. Thuỳ trầm trồ: “Đèn cầy vĩnh cửu à. Không ngờ chỗ này cũng có thứ đó…” Sinh cười nhếch mép: “Chà, thấy vậy mà cũng biết nhiều lắm chứ!” Tôi gãi đầu, thấy hơi ngượng khi hỏi Thuỳ câu này: “Đèn cầy này cháy vĩnh viễn thật à em?” Thuỳ nói cũng không hẳn là không bao giờ tắt, nhưng thời gian cháy là rất lâu. Có những ghi chép cho thấy trên khắp thế giới, trong những ngôi mộ cổ được khai quật thường tìm thấy những ngọn đèn trông như đèn cầy, bọc trong một cái khung thuỷ tinh như kiểu chắn gió, kỳ lạ ở chỗ, lúc người ta tìm thấy thì chúng vẫn còn cháy, ngọn lửa ổn định chứ không phải âm ỉ là đằng khác. Dựa vào độ tuổi của ngôi mộ, tính đến thời điểm chúng được tìm thấy thì tuổi thọ của những cây đèn cầy này nằm trong khoảng 500 năm đến 2000 năm. Tùng nghe xong còn nhấn mạnh rằng chúng được tìm thấy trên “khắp thế giới”, từ Syria đến ngôi đền Isis ở Ai Cập; từ phần mộ của Pallas thời La Mã cho đến mộ phần của Tần Thuỷ Hoàng ở Trung Hoa; từ mộ phần của cha hoàng đế La Mã Constantin tại Yorkshire cho đến mộ phần bí ẩn mà một người lính tình cờ tìm ra nằm ở vùng Grenoble ở Pháp. Không ngờ ở Ca Lâu Thành cũng tồn tại sản phẩm sáng tạo tuyệt vời này. Tôi nhìn cả tòa thành được thắp sáng bởi hàng trăm ngọn đèn cầy vĩnh cửu mà không khỏi trầm trồ, nhưng một ý nghĩ ghê rợn ập đến, tôi xanh mặt quay sang nhìn anh Hùng: “Vậy sao đứng từ xa không nhìn thấy ánh đèn, đến lúc vào khu vườn mới thấy sáng? Có khi nào bị ảo giác nữa không anh?” Anh bảo: “Không phải đâu, có thể chúng ta bước qua một loại rào cản nào đó, ngăn không cho ánh sáng chiếu ra xa thôi. Mày đừng có cái gì cũng ảo giác ảo giác. Tú Linh đã điểm huyệt rồi!” Tôi nhìn sang Tú Linh thấy cô ta đang lườm mình. Định lên tiếng xin lỗi, bỗng tôi nghe từ phía sau bức tượng chim thần một tiếng ồn giống như tiếng nước đổ, sau đó từ hai bậc thang chảy xuống những dòng nước đỏ ối, bốc mùi tanh của máu me và chết chóc. -
 
Chương 39 : Phần 17: Dạ Xoa Pháp Chú


- Thấy những dòng máu tuôn ra, tôi quay đầu định bỏ chạy nhưng nghe tiếng Thùy: “Không phải máu đâu anh ơi!” Quả vậy, suy nghĩ kỹ mới biết, nếu là máu thì màu đỏ không thể nào tươi như vừa bị cắt ra như vậy, chắc chỉ là thứ nước quỷ dị nào đó thôi. Dòng nước này tuôn không ngừng từ những kẽ gạch của hai bức tường dẫn lên cầu thang, không chạm vào nhưng có cảm giác nhớp nhúa, bốc mùi tanh như cá chết. Ngày xưa có người bạn tôi bị tai nạn xe, tôi có chở nó vào bệnh viện cấp cứu, chính xác thì mùi máu không phải mùi này, tôi tự trách mình, suýt nữa thì hành động thiếu suy nghĩ. Tuy vậy khỏi hỏi cũng biết không ai trong chúng tôi muốn chạm vào thứ nước kia để xem nó chính xác là cái gì, mười phần thì chín phần là họa rồi. Anh Hùng bảo: “Chánh điện khá rộng nên tạm thời chưa có gì phải gấp gáp, nhưng cũng không thể chần chừ được. Anh thấy thế này, hai bên đều có hành lang, dẫn đi đâu thì có gọi hồn ông Ca Lâu Vương về mới biết, cầu thang vẫn chưa ngập nước đỏ, phương án tốt nhất hiện giờ là đi lên, dù gì thì viên ngọc cũng ở tầng tháp cao nhất mà.” Tôi phóng tầm mắt nhìn sang hai bên, hai dãy hành lang kéo dài như vô tận được thắp sáng bởi vô số ngọn đèn cầy vĩnh cửu, những cây cột to đùng chạm nổi hình chim thần, đầu chim với mõm nhọn hoắt, sắp dọc hành lang trông như một đoàn quân thần điểu đang xếp hàng chuẩn bị ra trận. Anh Hùng dẫn đầu, chúng tôi cũng nép theo sau, sắp thành một hàng đi lên phía trên, tránh né những đường nước màu đỏ đang trào ra ngày càng nhiều, nhìn xuống thì thấy chánh điện dần dần biến thành một màu đỏ thẫm, điệu này chắc khoảng ba mươi phút một tiếng sau là không còn chỗ đứng. Đi gần dòng nước, mùi hôi tanh bốc lên cay cả mắt, chúng tôi vẫn còn đeo cái băng tẩm vỏ ốc mà Tú Linh làm lúc gặp lũ Sâu Đóm, vậy mà cái mùi này vẫn còn rất hanh, thử tưởng tượng bỏ cái “khẩu trang” ra không biết còn thế nào nữa. Phía sau cầu thang là một kiến trúc kiểu mái hiên, hai lá cờ hiệu tôi thấy khi đứng dưới chánh điện hồi nãy được mắc vào hai thanh gỗ cứng cáp nằm song song với hàng rào, trải qua cả ngàn năm nhưng nhìn như mới. Chính giữa mái hiên có một cánh cổng cao chừng ba mét, rộng năm mét, phía trong là một dãy hành lang không sâu, có tổng cộng bốn cánh cổng nhỏ dẫn vào bốn căn phòng, chúng không có cửa, bước vào thì mới biết những phòng này hoàn toàn thông với nhau, cách bày trí hết sức uy nghi và tráng lệ. Kỳ lạ ở chỗ, kiến trúc bên ngoài đều có đèn cầy vĩnh cửu thắp sáng nhưng trong đây thì không, anh Hùng nói Sinh đốt đuốc rồi cả bọn bước vào. Sinh lia ánh đuốc, tôi thấy phía cuối phòng có một cái bực được xây cao lên, trông như chiếc bàn làm bằng đá nhưng được điêu khắc cực kỳ tỉ mỉ, bên trên trưng tượng bán thân của một người đàn ông đeo mặt nạ chim thần Ca Lâu, chỉ thấy được bộ tóc dài, thân mình vạm vỡ, đôi mắt sắc lạnh, phía sau có vẽ bích họa ông ta đang đứng cạnh mười bảy người đeo mặt nạ chim thần khác, chỉ tay về phía tòa tháp cao nhất của Ca Lâu Thành. Dọc bên lối đi dẫn lên cái bực chính giữa là hai hàng tượng quân lính làm bằng đất với cái mũ chóp nhọn tam giác, bên dưới mặt y phục xà rông phủ đầu gối, tay cầm vũ khí có hình thù giống với cây đinh ba, tất cả đều đeo mặt nạ, mắt trợn, gò má phồng lên với đôi chân mày nhíu chặt, mặt nạ còn được trang trí bằng ria mép phủ lên cái miệng đang cau có. Tôi nghĩ thầm: “Sao giống Ông Địa quá…” Ánh đuốc lia tới đâu thì thấy những bức tượng đeo mặt nạ dõi theo đến đó, cặp mắt lạnh tanh nhưng có cảm giác như họ đang săm soi từng bước chân của cả đoàn khi mà chúng tôi tiến đến cái bực cuối phòng. Đến nơi mới thấy ngoài bức tượng bán thân còn có một mảnh da. Ánh mắt gã Tùng lộ rõ vẻ tò mò, suy cho cùng thì mọi thông tin về Ca Lâu Thành đều xuất phát từ những mảnh da như thế này mà, gã đưa tay nhặt lên xem thì nghe Tú Linh thở cái khịt rồi nói: “Da người đó, thằng thỏ đế như chú mày dám cầm lên chế có lời khen!” Gã Tùng nghe xong liền chầm chậm quay cái đầu lại, mắt gã trợn lên thấy rõ tròng đen tròn trĩnh, tròng trắng thì nổi gân máu đỏ quét, tựa như muốn khóc, gã nhìn xuống mảnh da rồi ném lên không trung, may sao anh Hùng đã bắt gọn, trong lúc hoảng loạn, gã la oai oái rồi trượt chân té, đầu đập vào bức tượng Ông Địa làm nó lung lay, rồi thì một tiếng “Rầm!” vang lên, bức tượng đã bị vỡ! Cả bọn đứng lùi ra sau vài bước, Sinh chửi thề mấy tiếng rồi nạt nộ, bảo Thùy đỡ gã Tùng dậy, anh Hùng còn thận trọng vòng ra trước mặt cả bọn, dang tay ra che chở. Tôi hỏi: “Sao vậy anh?” Anh bảo: “Mấy bức tượng ở đây có tuổi đời cực lớn, thêm được bố trí trong căn phòng như thế này, mày đâu suy nghĩ đơn giản được. Dựa vào kiến trúc, thì căn phòng này có thể là…” Tú Linh chen ngang: “Phòng của Tư Tế.” “Đúng vậy.” Tư Tế chính xác là những người thầy cúng của vua, trực tiếp thực hiện những nghi lễ cúng bái, nếu theo ghi chép thì họ còn quảng cả việc bào chế thuốc trường sinh bất tử cho Ca Lâu Vương, binh lính đi theo chắc cũng không phải hạng tầm thường. Tôi lo sợ nhìn xuống bức tượng vỡ, sau khi nghe anh Hùng nói, lỡ bên trong có cả ngàn con rết bò ra thì tôi cũng không bất ngờ mấy. Chúng tôi hồi hộp, đứng chờ đợi điều sắp đến, khoảng vài phút sau vẫn chưa có gì cả thì không khí mới trở nên giãn ra một chút. Anh Hùng ra hiệu cho Sinh rồi cả hai cầm đuốc đến bên bức tượng, cái đầu của nó nằm lăn lóc, như bị chặt ra, mặt nạ Ông Địa tuy vất vưởng trên mặt đất, nhưng cảm giác nó vẫn đang nhìn trừng trừng vào chúng tôi, từ nãy đến giờ chỉ thấy lớp đất bị bong ra, che mất cả, không biết bên trong rỗng hay đặc, ẩn chứa hung hay cát nữa. Anh Hùng ngồi bằng một đầu gối, không quên móc cây rìu chạm khắc rồng phượng, anh dùng cán rìu lùa từng lớp đất, chúng tôi ai nấy đều nín thở đứng phía sau lưng anh, thứ lộ ra bên trong làm tôi một phen thất kinh, là một xác người cụt đầu, bị lột da. Quái lạ, Ca Lâu Thành hai ngàn năm, nếu có người chết thì cái xác đâu thể nào còn như mới thế này được. Vẻ mặt anh Hùng nhìn Tú Linh cho thấy điều tôi nói hoàn toàn có cơ sở khoa học, nhưng suy đi nghĩ lại thì có lẽ khoa học đã không còn là một bức tường để chúng tôi dựa vào từ lâu rồi. Cái xác cụt đầu không mảnh vải che thân, cả cơ thể, da bị lột ra làm lộ những đường cơ màu đỏ, đường gân màu trắng, trên đó loang lổ vết đâm. Chỗ cần cổ có vết khứa cẩu thả, thịt tuy nhìn không thấy dấu hiệu hoại tử thế nhưng lại trắng phau phau, từng thớ từng thớ xếp chồng lên nhau, chính giữa là đốt sống cổ, cái này thì lại được cắt gọn gàng, như ai đó dùng lực cực mạnh chém phăng cái đầu vậy. Dường như hiểu ra gì đó, anh Hùng soi đuốc xuống phía dưới, anh dừng lại chỗ mắt cá của cái xác, những đường cơ chỗ này có dấu hiệu cho thấy chúng bị buộc lại. Anh lẩm bẩm: “Ngạ Quỷ Nimugga à?” Tiếng gã Tùng cất lên từ phía sau, vẫn còn run lẩy bẩy: “Anh đừng đùa em chứ…” Tôi thắc mắc Ngạ Quỷ Nimugga là gì, Tùng ngồi phịch xuống, vò đầu bứt tai như đau khổ lắm, gã gào lên, chắc là áp lực từ đầu chuyến đi đến giờ cộng với sự thật mới nhận ra làm gã sắp nổi điên rồi. Tú Linh thở dài, cô tiến đến bên gã rồi châm hàng chục cây kim lên đầu, xong quay sang bảo Thùy trông chừng, không thôi gã lại làm chuyện gì hại cả đám nữa thì khổ. Vẻ mặt anh Hùng có vẻ trầm ngâm, anh thấy tôi bối rồi liền giải thích nhanh gọn. Cơ bản thì Ngạ Quỷ là loài xếp trên Địa Ngục và Súc Sinh, có hai mươi bốn loại tổng cộng, chúng vốn là người, lúc còn sống làm những điều sai trái khác nhau, khi chết đi sẽ biến thành quỷ. Nimugga là con Ngạ Quỷ thứ mười bảy, kiếp người của nó chuyên đi dâm dục vợ người ta, về nhà còn đè vợ con mình ra đánh đập, trong đầu tồn tại suy nghĩ dâm ô nhưng luôn che dấu thân phận giả bộ làm người lương thiện. Dựa theo truyền thuyết Ca Lâu Vương trừ tà, diệt ma thì có thể kết luận: vị tư tế được trưng tượng trong căn phòng này đã tra tấn những người mang tội dâm dục trong thành bằng cách cho họ leo lên những cây cột sắc có ghim đầy gai trong vòng bảy ngày, đến khi da cứng lại, sau đó lột da, buộc chân, trỏng ngược thân thể, dùng dao khứa xung quanh cần cổ, đợi cho máu chảy sạch hết thì một nhát kiếm chém bay đầu. Máu đó trộn với đất sét rồi đắp lên những cái xác, khiến chúng trở thành loài Ngạ Quỷ, phục tùng cho nhà vua. Khá giống với việc chú Chín Danh nhốt xác những tên đạo sĩ lên Anh Vũ Sơn tu luyện tà ma, nhưng phương thức thì tàn nhẫn hơn nhiều. Sinh nốc miếng rượu rồi bảo: “Tàn nhẫn gì đại ca ơi, lũ này đi hiếp dâm con gái nhà lành, làm vậy còn hơi nương tay. Em bắt đầu thích ông Ca Lâu Vương này rồi đó!” Anh Hùng cười nhẹ, không bình luận gì với câu nói của Sinh. Anh đứng lên rồi nói: “Nếu vậy thì xung quanh đây còn mười bảy căn phòng khác nữa, mỗi căn phòng trừng trị những tội khác nhau. Ca Lâu Vương có mười tám vị tư tế, thay mặt ông ta mà hành đạo.” Đoạn, anh nhìn lên bức bích họa rồi hạ giọng: “Giả thuyết là thế… Thôi, không nghĩ nhiều nữa. Tú Linh ơi, chắc phải nhờ em nữa rồi!” Tú Linh nhận cuộn da trên tay anh Hùng rồi bắt đầu ngồi đọc. Tùng nãy giờ chắc cũng đã bình tĩnh lại, gã gãi đầu, xin tôi vài ngụm nước. Thú thật, lúc nãy mà là tôi, phát hiện được cuộn đó làm bằng da người, chắc cũng giật mình. Tú Linh thì không có chút nao núng, cô cầm cuộn da người đặt trên đùi, săm soi từng chữ mà vẻ mặt lại bình thản vô cùng. Nửa tiếng sau, cô gọi cả đám lại như thường lệ rồi nói: “Cuộn này chi tiết hơn, giọng văn thì có vẻ giống với cuộn trên đảo Bia Mộ, có thể là do Từ Khoái viết…” Những ngày gần kề thời hạn hết tác dụng của Ngô Công Kim Thân, Ca Lâu Vương Tỳ Khâu Đạt Bà hết sức đau buồn, ông lệnh cho mười tám vị tư tế dừng hết tất cả công việc, tập trung lại, cùng ông nghĩ bước tiếp theo để cứu công chúa, phải trả giá thế nào cũng được. Trong mười tám vị tư tế đó, có một vị tên là Tỳ Giả, tuổi còn trẻ nhưng thông minh, tài giỏi hơn người nên được nhà vua hết sức trọng dụng. Y thương thầm công chúa bấy lâu nay nhưng nhà vua không hề hay biết, bởi vậy, y chính là kẻ đau buồn nhất khi công chúa lâm vào tình cảnh như hiện giờ. Sau cuối một buổi họp căng thẳng nhưng chưa nghĩ ra được cách gì, lúc này cũng đã tối, Ca Lâu Vương thấy cả thảy mười tám người tùy tùng của ông ai nấy đều đã mệt nên cho lui, riêng ông thì về phòng thăm con gái mình, nhưng chỉ nhận lại sự lạnh nhạt. Lúc đóng cửa đi ra thì thấy Tỳ Giả đã đứng sau lưng, y thật ra cũng muốn đến thăm công chúa, Tỳ Giả hành lễ, nhà vua thấy vị tư tế trẻ tuổi ở chốn này không khỏi giật mình nhưng vẫn làm ra vẻ bình thản, ông hỏi y đến đây làm gì. Tỳ Giả nói dối, thưa rằng y lo cho Ca Lâu Vương, thấy vua ngài đã khuya mà chưa đi ngủ nên cố tình đi theo. Đoạn nêu nhã ý cũng muốn vào xem tình hình công chúa như thế nào, Tỳ Khâu Đạt Bà nghe xong cũng không mảy may nghi ngờ, mở cửa cho Tỳ Giả vào trong rồi đứng đợi, tuy vậy ông hết sức bối rối khi thấy lúc Tỳ Giả đi ra lại lấy tay che mặt, nhanh chóng cúi đầu rồi biến mất sau hành lang. Về sau, nếu không có ghi chép cũng không ai biết được sự thật, là sau đêm hôm đó, Tỳ Giả động viên mười bảy vị tư tế còn lại, họ không ăn không ngủ, ngày đêm nghiên cứu kinh văn, thư tịch, tìm mọi cách để cứu công chúa, cuối cùng cũng tìm ra cách. Hôm đó, sau buổi thiết triều, Ca Lâu Vương thấy mười tám vị tư tế đi vào, họ quỳ xuống rồi thưa lên phương thức vừa tìm được: thay pháp bảo. Nhà vua sau khi nghe xong thì trở nên căng thẳng tột độ, hỏi về lý do tại sau mười tám vị tư tế của mình lại quỳ gối như thế. Họ đồng thanh trả lời rằng hai mươi pháp bảo mà vị Quốc vương ngày xưa đặt vào đã hết tác dụng, chịu không nổi áp lực quỷ dị từ quỷ hồn của công chúa, đang dần thoái hóa, nếu không sớm thay thế, e là không lâu sau sẽ hư hoại, lúc ấy dù có thần Ca Lâu La gánh đỡ cũng không tránh khỏi họa vong quốc. Tuy nhiên, nay lại tìm ra cách dùng pháp bảo là người thật, chỉ cần có người chịu làm, vừa có thể dùng dương khí duy trì thành không sụp đổ, vừa có thể chế áp quỷ hồn công chúa, dần dần đưa cô quay trở lại làm người. Nhà vua nghe đến đó thì trầm ngâm, biết tìm người ở đâu bây giờ, tức thì mười tám vị này dập đầu, đồng thanh tâu lên rằng: “Hãy để hạ thần đảm nhận trọng trách đó!” Nhà vua hết sức kinh ngạc, không ngờ họ nguyện hy sinh tính mạng để trở thành pháp bảo thay thế, ngàn năm trấn thành cứu lấy công chúa, cứu lấy Ca Lâu Thành, chết cũng không hối tiếc. Chúng tôi nghe xong ai nấy đều bàng hoàng, không ngờ hai mươi tòa tháp của Ca Lâu Thành thì mười tám trong số đó đã là mười tám mạng người. Tinh thần của những người tư tế đó thật sự làm tôi cảm thấy thán phục. Anh Hùng nói: “Vậy thì có thể phần nào xác định là có mười tám pháp bảo, vậy mà tổng cộng tới hai mươi tòa tháp, khả năng tòa tháp trong Ca Lâu Thành này chính là để xác của công chúa, trái tim vẫn còn quấn Ngô Công Kim Thân, nhờ mấy người tư tế hy sinh áp chế quỷ khí mà đến giờ vẫn còn Thái Dương. Tòa tháp còn lại để xác của Ca Lâu Vương.” Tôi hỏi: “Giờ sao nữa anh?” Anh nói: “Đi tiếp thôi, phải tìm đường lên trên mà.” Chúng tôi ra khỏi khu vực Ngạ Quỷ Nimugga, đất bị vỡ ra bao trùm lên cái xác không đầu, tôi nhìn lại mà khẽ rợn người. Len lỏi khá lâu, leo lên những bậc thang, chúng tôi cuối cùng đến một căn phòng còn to hơn cả cái khi nãy chúng tôi đi qua. Căn phòng này tạo cho chúng tôi một cảm giác âm u rợn người khó tả, dĩ nhiên khỏi phải nói thì vai tôi vẫn còn nhói nhói, chắc là do dư âm lúc nãy. Tôi đang quan sát xung quanh bỗng nghe giọng Thùy: “Mọi người nhìn xem, trên tường có gì nè”, tôi lập tức quay qua thì suýt giật mình lùi ra mấy bước. Dãy tượng người bằng đất xếp ngay ngắn, y phục giống như tượng đeo mặt nạ Ông Địa ở dưới, cắt quãng một chỗ chừng sáu mét, ở đó vẽ hình một quái vật tóc dài, thân thể cao to, mặt đen, nanh nhọn, hai đầu, bốn tay, bốn chân đang cầm bốn loại khí giới, trông dũng mãnh nhưng rất ma quái. Bức tranh diễn tả “nó” đang chiến đấu với cả một đội quân bao vây xung quanh, người chết dưới chân như rạ, trên đầu là biểu tượng Ca Lâu La dang cánh, xung quanh chim thần là mười tám bóng đen tựa hồ như đang trợ lực cho con quái vật kia tàn sát mọi thứ. Bức tranh này đã nằm ở đây gần hai ngàn năm nhưng trông vẫn rõ nét, mọi thứ vẫn còn sạch sẽ đến đáng ngờ, giống như có ai đó lau chùi nó hàng ngày vậy. Lạ là những người lính như được đắp nổi, kích cỡ tương đương người thật, hết sức chi tiết và sinh động, chẳng biết có ướp xác bên trong như ở dưới không? Gã Tùng nhìn bức bích họa một lúc rồi nói: “Nhìn phục sức và cách vẽ tóc, tay, có thể cho rằng hình tượng con quỷ trong tranh này là một nữ giới, có địa vị cao quý.”Tú Linh nghe vậy liền nói: “Công chúa Ca Lâu Thành?” Anh Hùng tỏ ra đồng ý với suy nghĩ đó, anh nói: “Liên hệ tới lời nguyền của dòng họ đế vương Ca Lâu Thành thì bức tranh này chắc mô tả trạng thái quỷ hóa của công chúa, còn quỷ hóa kiểu gì mà ra hai đầu bốn tay thế thì anh thua.” Thùy thêm vào: “Theo em thấy, người xưa khi ghi chép hoặc vẽ tranh bích họa ít nhiều thường phóng đại lên, với lại chuyện kể lúc nãy cũng có nói là mười tám vị tư tế đã hy sinh tính mạng để trấn yểm quỷ hồn của cô ta lại mà, có thể trạng thái hai đầu bốn tay kia ý nói cô ta là hai người chứ không phải một.” Tôi nghe xong thì gật đầu đồng ý. Dưới ánh sáng mờ ảo hắt ra từ mấy cây đuốc, cả đám người chúng tôi như bị chìm đắm vào bức tranh, cảm giác như tay chân con quỷ trong đó vẫn còn cử động, vung kiếm và giáo ngang dọc, ánh mắt đầy căm hận muốn ăn tươi nuốt sống những người lính nọ. Bỗng tôi bị thu hút bởi một chi tiết khá khó hiểu bèn nói với mọi người: “Nhìn chỗ tay xem, nó có cảm giác như vẽ rời ra vậy.” Tùng quan sát thật kỹ chỗ tôi chỉ đến, gã ta gật đầu: “Đúng là vậy thật, dù gì Ca Lâu Thành cũng có xuất xứ từ Đế quốc Kushan, các bức tranh từ thời Kushan không có cách vẽ cắt khúc ra như thế này, dù là quỷ thần hay Phật ngàn tay ngàn mắt thì đều được thể hiện chi tiết và liền mạch, ý của bức tranh này nói gì khi vẽ hai tay hai chân kia như rời ra?” Tôi nghĩ vu vơ, nói: “Con quỷ này được may thêm tay chân vào chắc?” Bức bích họa miêu tả nhiều tình tiết liên quan, anh Hùng cho rằng cứ tiếp tục tìm kiếm, thêm thông tin về Ca Lâu Thành thì càng tốt thôi. Còn một chi tiết đó là mười tám cái bóng đen phía trên, nếu đúng là mười tám vị tư tế hy sinh thân mình làm pháp bảo trấn thành nghe cũng đúng, nhưng vị trí vẽ họ trong bức tranh này lại giống như họ đang giúp sức cho con quỷ khổng lồ. Đang tập trung nhìn bức tranh bỗng lưng tôi lạnh ngắt đi khi nghe một âm thanh ma quái, giống như một người bị ngộp nước khi ngoi lên cố gắng hít một hơi thật sâu, nó vang lên từ hàng tượng đất sau lưng tôi. Có lẽ không chỉ mình tôi nghe được âm thanh đó mà những người còn lại cũng vậy. Không ai nói ai, cả bọn đều quay ra sau. Ánh đuốc chập chờn soi những hàng tượng đeo mặt nạ Ông Địa đang đứng im. Xung quanh trở lại không gian im ắng lạ thường, khắp người tôi đã đổ mồ hôi lạnh, vai nhói lên cho thấy nguy hiểm gần kề, tôi quay sang ra dấu với anh Hùng nên đi tiếp, té khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt. Anh Hùng khỏi cần tôi nói có lẽ cũng đã cảm nhận được mùi nguy hiểm đang dâng lên, ra dấu cho cả bọn di chuyển, anh đi trước rồi đến Tú Linh và Thùy, tôi với Tùng đi sau, Sinh chốt đoàn, vừa đi ngang khỏi bức tranh, tôi nghe có tiếng lộp bộp, quay ra sau nhìn thì thấy bức tranh bị tróc một mảng, rơi ra cục đất to cỡ lòng bàn tay. Căn phòng đang rất im ắng cho nên dù tiếng con muỗi đập cánh cũng nghe rõ mồn một, cục đất rơi xuống như cây đinh đóng vào tai chúng tôi. Cả bọn quay lại nhìn bức tranh đầy dè chừng, thấy có vài chỗ phù điêu đắp hình quân lính cũng có thêm vài miếng đất rơi ra. Anh Hùng tiến đến gần, lấy tay gõ nhẹ vào chỗ đắp nổi, thấy nó làm bằng đất sét, tác động vào là nứt vỡ, để lộ bên trong là thứ gì đó nhớp nhúa màu đen bốc mùi hôi thối. Như một suy nghĩ thoáng chốc, Thùy nói: “Không hiểu sao những bức tượng nhồi xác này làm em liên tưởng tới đội quân đất nung của Tần Thủy Hoàng.” Nghe xong, tôi bất giác nhìn ra xung quanh, cảnh tượng trong lăng Tần Vương có lẽ cũng na ná thế này mà thôi: những bức tượng đeo mặt nạ xếp ngay ngắn, có rất nhiều hàng phía sau mà tôi không tài nào đoán được chúng kéo dài đến đâu. Tùng bảo: “Chuyện vua chúa khi chết đem quân đội làm vật tùy táng nghe qua rất nhiều, nhưng công phu đến độ chặt đầu lột da người ta ra rồi đắp đất lên thì có lẽ chỉ ở Ca Lâu Thành này có mà thôi.” Anh Hùng nói những kẻ ở đây là những tử tù, phải chịu hình phạt lột da, trở thành đội cận vệ của Ca Lâu Vương ở thế giới bên kia, chứ ở quy mô nhỏ như Ca Lâu Thành mà có đến cả trăm, cả ngàn lính tuẫn táng theo thế này thì quả thật có hơi khó tưởng tượng. Đám chúng tôi không ai bảo ai, khi thấy thứ đen đen bên trong bức bích họa thì đều liên tưởng đến những bức tượng cụt đầu lúc nãy, có thể tấm phù điêu bích họa này là những con người thật được đắp đất sét lên rồi tô vẽ. Nghĩ đến cảnh chặt đầu người, lột da rồi đắp đất sét lên, gắn một cái đầu giả thì lại thấy sởn cả gai ốc, anh Hùng tiện tay gỡ đất thêm ra để xem có đúng vậy không thì một bàn tay lòi xương còn dính những thứ nhầy nhụa màu đen hiện ra. Tôi nghĩ trong đầu, nếu như những người này là cận vệ của Ca Lâu Vương ở thế giới bên kia, thì hẳn đội quân miễu biết hát bằng đất nung này phải rất ghê gớm. Lúc này, từ những chỗ đắp nổi, cứ mỗi một miếng đất rơi xuống thì bên trong lại rỉ ra một chất lỏng màu đen, chỗ nứt ngày càng nhiều, chỉ một loáng, cả bức tranh đã đầy những đường thẳng màu đen chảy dài xuống. Đinh ninh mười phần thì đủ mười sắp gặp miễu biết hát, Sinh lên tiếng: “Nó chứ còn gì nữa, tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em rút lẹ đi, chần chừ gì nữa!” Thằng Sinh vừa dứt lời, âm thanh quỷ dị lúc nãy lại vang lên. Anh Hùng dẫn đầu, mọi người theo sau nhanh chóng tiến về trước. Cảm giác đi kế bên những hàng tượng đất sét nhồi người thật bên trong phải nói ám ảnh vô cùng, những cặp mắt lồi, cái miệng mếu xuống, đôi mắt trợn trừng trên gò má phúng phính, có cảm giác cứ sau mỗi bước chạy qua một cái tượng, những cái mặt nạ không đầu đều quay sang nhìn theo, nhờ có ánh sáng của đuốc mà những cái mặt nạ này trông sống động như thật. Đang chạy bỗng Tùng kêu lên, chúng tôi quay sang nhìn theo hướng gã đang chỉ: giữa hàng tượng đất xếp ngay ngắn, có một cái không nằm trong hàng, nó đứng quay lưng lại với chúng tôi, cách hàng tượng chừng một hai bước chân. Thú thật mặc dù lúc ấy chỉ muốn chạy nhanh khỏi chỗ này nhưng bản tính tò mò của chúng tôi lại trỗi dậy, ai cũng đều chậm lại để xem hướng ấy có gì không. Từ chỗ chúng tôi đến bức tượng đó cách chừng tám mét, với khoảng cách như vậy ánh đuốc không thể nào soi rõ được, cứ mờ mờ ảo ảo làm tôi có cảm giác cái tay của bức tượng đang cử động. Bỗng một trận âm phong xộc tới, như một điềm báo của miễu biết hát, chúng tôi nghe tiếng rên “hờ hờ” vang lên, cái đầu bức tượng quay lưng bỗng như bị ai đó bẻ đột ngột ngay đốt sống thắt lưng, gập cả thân người phía trên xuống, nhìn chòng chọc vào chúng tôi. Ngọn đuốc như sáng hơn, soi rõ con mắt lồi ra và cái miệng vốn đã rộng nay còn ngoác tới mang tai, răng nanh lởm chởm. Tức thì, như một cơn bão ập đến, tiếng đất rơi vỡ đồng loạt vang lên tứ phía. Từ bức bích họa, những cái xác đen cụt đầu nhớp nhúa rơi ra và giống hệt những con rối, tay chân chúng cứ như có ai đó đang điều khiển, co quắp lại, bò tới phía bọn tôi như những con thằn lằn. Lúc này tình huống hết sức khẩn cấp, cả bọn đành nghĩ ba mươi sáu kế, chạy vẫn là hay nhất, chẳng dại gì mà dây dưa với đám miễu biết hát này làm gì. Đất sét trên thân các bức tượng còn lại cũng nứt toác, rơi vỡ nghe như một trận lở đá, ầm ầm tưởng sát bên tai. Mỗi bức tượng vỡ ra thì bên trong một cái xác cụt đầu ngã oạch ra đất rồi cũng như những bọn rơi ra từ phù điêu, chúng bò như điên về phía bọn tôi bằng tư thế vặn vẹo khó coi, khác ở chỗ những cái xác không đầu trên phù điêu có màu đen, bọn trong tượng đất sét thì thịt vẫn còn tươi mới. Anh Hùng bảo phải tăng tốc, anh đã thấy hành lang dẫn lên trên, còn chừng trăm mét nữa nên chúng tôi dồn hết sức bình sinh mà chạy. Phía sau vẫn là những cơn sóng xác cụt đầu đánh tới, chúng bò đầy khắp nơi, leo cả lên tường, cột, trần nhà. Tú Linh vừa chạy vừa nói: “Mẹ nó, thằng cha Ca Lâu Vương này ghê thật, hẳn căn phòng này như bức tường phòng vệ cho ổng ở thế giới bên kia, nhưng nếu pháp lực ông ta mà điều khiển được cả đội quân như thế này, không sợ chuyện diệt quỷ của ổng là bịa, chỉ sợ chuyện ổng làm quỷ thật, khi đó lấy ngọc rết trở ra được thì đúng là khó hơn lên trời!” Lúc này, Sinh đang chốt đoàn chửi thề gì đó, đoạn nó cởi áo ra, giắt vào thắt lưng, rồi nó hét lên với anh Hùng: “Anh dẫn mọi người chạy lên trước đi, em chốt cái cửa này lại cho!” Anh Hùng vừa nghe thấy vậy liền hiểu ra nó định làm gì, vội kêu Tú Linh dẫn đầu, tôi đi cuối, anh rút mọi người vào cửa rồi cũng lôi thằng Sinh đến gần, nói: “Mày làm được chưa?” Sinh đứng dang tay ra, mặt điềm tĩnh bảo: “Em mới thử một lần thôi, nhưng lần đó chưa bộc phát toàn chú, lần này thử mới biết!” Anh Hùng gật đầu, nói: “Mày làm đi, anh hỗ trợ!” Nói xong, anh quay sang bảo Tú Linh dẫn chúng tôi lên trước, nhưng đời nào Tú Linh làm vậy được, mặc dù cô chưa hiểu Sinh định thi triển thứ gì nhưng nghe Hùng bảo lên trước thì xem như bỏ ngoài tai, lấy túi kim ra sẵn sàng. Thùy và Tùng chỉ còn mong chờ vào tôi, tôi nghĩ thầm Thiên Hổ khi có khi không nhưng vẫn bắt hai ngón tay, sẵn sàng vuốt lên trán, hai người thấy vậy liền đứng nép vào. Anh Hùng nhìn Sinh, nó gật đầu, anh cũng bắt ấn Đại Hắc Thiên, bước đầu tạo ra áp lực cản bước những cái xác gần bò đến, khiến chúng bò thối lui lại. Lúc này, Sinh gồng tay, khom người xuống lầm bầm thứ gì đó mà tôi nghe Tú Linh thốt lên: “Tiếng Phạn… Không lẽ thằng này tính khai Dạ Xoa Tàn Diệt Chú?” Tôi soi ánh đuốc lên hình xăm Dạ Xoa trên lưng thằng Sinh, nó phập phồng như muốn bò ra, cái miệng trên hình trông như đang nhe nanh, thè lưỡi, liếm một vòng quanh lưng rồi khi thằng Sinh hét lớn lên một tiếng: “Khai!” Tức thì từ lưng nó, một bóng đen lan ra khắp nơi, nuốt trọn mọi thứ, kể cả đám xác cụt đầu giờ đã bò đến sát bên. -
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Đang hoạt động
Không có thành viên nào
Back
Top Bottom