Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] [Việt Nam] Thất Sơn Truyện

[Việt Nam] Thất Sơn Truyện
Tác giả: Monkeyness
Tình trạng: Đang cập nhật




Từ xưa cổ nhân đã dạy "nhân tại nhân gian, quỷ ngụ quỷ môn, chớ để rối loạn", hàm ý không chỉ gói gọn ở việc giữ gìn tôn ti trật tự giữa các giới, mà còn hướng đến sự tôn trọng quy luật của vũ trụ - đừng mang sự kinh động ảnh hưởng đến quỷ thần.

Bạn có bao giờ nghĩ rằng giờ sinh của một người sẽ quyết định một phần vận mệnh của người đó? Giả dụ như... gặp ma quỷ chẳng hạn? Lúc đầu tôi cũng chẳng tin nhưng những sự kiện xảy ra trong một năm qua đã khiến sự kiên định của tôi lung lay phần nào. Mọi chuyện bắt đầu khi tôi đến thăm một ngôi chùa...
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1 : Chùa Khmer


Xã Núi Tô nằm ở huyện Tri Tôn, An Giang nổi tiếng với ruộng đồng bạt ngàn, đúng với diễn tả cò bay thẳng cánh mà ông bà ta thường dùng. Cưỡi trên con xe 67 của ba tôi để lại, vừa ra khỏi nội thành, ánh mắt tôi liền bị cảnh đẹp nơi đây gội cho sạch sẽ tinh tươm. Những thửa ruộng chín vàng, những đám mây xám xịt ngập ngừng chưa dám đổ cơn mưa cuối tháng Tám, những chiếc máy gặt đập liên hợp nhai từng tất đất, chậm rãi và ngấu nghiếng. Tôi dừng xe lại, đứng dưới bóng mát khổng lồ của bầu trời. Đôi tay vô thức gỡ cái mắt kính xuống, đã lâu rồi tôi chưa được tự do thế này. Cũng phải nói thềm về mục đích chuyến đi hôm nay. Sinh ra và lớn lên ở Cần Thơ, tôi hoàn toàn bị mê hoặc với những sự tích ở vùng Bảy Núi này cho nên vẫn mong một lần được thoả sức vẫy vùng nơi đây. Một hôm, khi đi cà phê với một ông anh, anh ta dẫn theo một nhân vật tên là Hùng, là tay chơi bon-sai có tiếng ở Sài Gòn, nhưng ngộ cái là ông này không phải chơi bon sai tạo dáng nhân tạo, mà chuyên băng rừng vượt núi để tìm những dáng bon-sai mọc tự nhiên. Tay Hùng này là người đã đi mòn chân trên đất An Giang. Vừa đặt đít xuống, gã đã châm điếu thuốc, khua qua khua lại trước mặt. Nhìn phong thái, tôi biết ngay người này hiểu biết rộng, nhưng hơi ngạo mạn. “Đi hồ Tà Pạ chơi sao rồi mày” - ông anh tôi hỏi. “Dạ cũng ok lắm anh.” “Kể nghe đi”, anh hào hứng nói, “lần trước anh cũng đi mà vừa bước vô chỗ nào cũng thấy dợn dợn nên không tham quan được gì.” Tôi cười, theo quan niệm xưa, do ông anh tôi vốn sinh vào buổi chiều nên yếu bóng vía vì giờ đó âm khí đang lên, dương khí đang suy, còn tôi sinh vào đầu giờ Dần thì ngược lại (khoảng 3h sáng) nên ba cái chuyện ma cỏ linh tinh này tôi không quan tâm. Nhìn qua tay Hùng bon-sai, ánh mắt dấu sau cặp kính của gã có vẻ sáng lên một tí, gã chống cùi chỏ ngồi giả bộ nghe. Tôi uống tí cà phê, châm điếu thuốc rồi bắt đầu kể. Hôm đó, sau khi ra khỏi nội ô Tri Tôn, điểm tham quan đầu tiền tôi muốn tới là ngôi chùa Nam Tông không có tên nằm trên triền dốc gần núi Trà Sư. Ngôi chùa rất dễ tìm vì nó nằm gần với trục đường chính dẫn vào khu du lịch. Mười mấy cây cột khổng lồ mọc ra từ triền núi nâng đỡ khối kiến trúc vàng, đỏ đặt trưng của người dân tộc Khmer. Nhìn những cây cột này như có sự sống, như một đội binh già nua, thầm lặng, kiên nhẫn với nắng, mưa, gió, thiên tai, qua năm dài tháng rộng gánh vác trên vai vẻ đẹp mà cha ông ta đã khó nhọc tạc nên. Thoát khỏi con đường chính, tôi lái xe chạy vào con đường làng nhỏ dưới dốc đèo, vừa đi khoảng vài trăm mét thì thấy bên phải có con dốc lát gạch, chúng đóng rêu xanh rờn. Con dốc này nghiêng khoảng 45 độ, hai cây cột dựng trước lối vào khắc hình hai con sư tử theo trường phái Nam Tông rất tinh xảo, hai bên lan can chạm khắc hình con gì đấy có vẻ như là rắn nhiều đầu mà tôi hay thấy ở các chùa Nam Tông khác, đầy vẻ cổ kính và bạc màu theo tháng năm. Phía dưới con sư tử bên trái có dòng chữ “Cấm chạy xe lên”, bên phải là dòng chữ tương tự nhưng viết bằng tiếng Anh. Xung quanh đó, có rất nhiều nhang, vài cây vừa được cắm xuống, phần lớn thì đã cháy đen đầu. Nhìn lên con dốc, hai hàng cây rợp tán che kín con đường cho nên tôi không thấy phía trên con dốc là gì cả, tôi để ý thấy có nhiều vết rêu đã bị lột ra. Không, kiểu giống như là có vật gì to bằng cơ thể người trượt ngang làm chúng bong ra. Có khi do người ta ngã từ trên xuống cũng không chừng. Tôi trề môi, đành đi kiếm đường khác vậy. Hỏi người địa phương một hồi cũng tìm ra con đường chính dẫn lên chùa, cổng chùa nằm khuất vào trong những tán cây, nói là cổng chùa nhưng thật ra chỉ là hai cây cột cao, sơn màu xanh lá đã tróc ra gần hết. Chúng nâng đỡ một bức tượng có hình đầu của vị phật nào đó, không biết có bị bám rêu hay không, chỉ thấy đen ngòm. Con đường dẫn lên chùa này không dốc, lại rất rộng. Bên phải nó là nghĩa trang nhân dân, vì không có ai trông nom nên đã xanh cỏ, thấp thoáng trong đấy là những bia mộ đủ màu sắc, không đọc được tên người. Tôi trả số xe, tay côn nhả nhẹ, chậm chầm lướt qua con đường không người, vây quanh bởi những cái xác không còn ai khóc thương. Cách họ chỉ đường lên chùa ở đây cũng thật độc đáo, vì phải rẽ nhiều lần nên ở mỗi khúc cua đều có những bức tượng hình người đầu thú, một tay cầm vũ khí, một tay chỉ vào hướng cần đi, và ở hướng ngược lại, luôn có một con đường dẫn xuống bởi những bậc thang đã ố đen, con đường nhìn sâu hun hút, tối om và đầy lá phú trên. Càng vào sâu, cây càng nhiều, cho đến lúc chỉ còn tôi, con đường lát đá, những bức tượng, tiếng kêu xào xạc của thiên nhiên, và màu sắc âm u tĩnh mịch giống như trời đã ngã về chiều nhưng thật ra chỉ mới gần trưa. Vừa hết con đường lát đá là con đường đổ gạch nhấp nhô, nghĩ thầm trong bụng rằng tôi quá thương con xe 67, không thể nào để nó chịu đựng những vết đâm này được nên tôi đành dựng xe, cuốc bộ vào chùa. Đi khoảng năm phút, thứ đầu tiên tôi thấy là gian nhà mái gỗ được che tạm bợ bằng những tắm bạt xanh đỏ trắng, bên trong chất những đống củi khô. Một khối gỗ khổng lồ, cắm trên đó là cây rìu sắt, lưỡi của nó trông như đã bị rỉ sét, có vài vết đen chảy dài, tràn xuống cả đất. Khuất sau kho gỗ, ngôi chùa dần dà hiện lên theo những sải chân náo nức của tôi. Sân chùa rộng lớn, trồng đủ thứ loại cây thân to mà tôi không kể tên được. Tôi bước đến dãy lan can nhìn xuống con đường trục chính dẫn vào khu du lịch lúc nãy, gió lùa vào tóc tôi ríu rít như tiếng kêu của loài diều hâu. Tôi tự hỏi, trời chắc đã giữa trưa mà sao không có một giọt nắng nào rót xuống. Nhìn ngắm sự hùng vĩ của vùng Bảy Núi được một lát thì tôi nghe sau lưng có tiếng đọc đồng thanh, quay lại thì thấy có sáu người tu hành, khoác áo cà sa màu cam ngả bạc đang ngồi học. Bước lại gần, tôi thấy trên bảng là hai đoạn văn được viết bằng tiếng của người dân tộc Khmer. Sáu người này tuy biết tôi đứng nhìn nhưng thái độ của họ vẫn dửng dưng, cũng dễ hiểu, chuyện có người vào đây tham quan đối với họ chắc là chuyện thường ngày. Tôi quay đi, chợt một cảm giác lạnh toát chạy khắp xươn sườn (từ nhỏ đến lớn, tôi rất ít khi bị chuyện gì làm cho nổi da gà), bỗng tôi nhớ về một bộ phim, cảnh tượng trong đầu tôi lúc này giống như lúc đó, là cảm giác dửng dưng khi tôi đứng nhìn sáu người bọn họ, nhưng khi tôi quay đi, sáu cái đầu lập tức bẻ về một hướng, họ nhìn tôi chằm chằm, tròng mắt trợn trắng. Tôi nhún vai, cảm giác chỉ là cảm giác, giờ phải đi tham quan ngôi chùa. Điều đặc biệt đập ngay vào mắt tôi là ở chùa có quá nhiều mèo, đủ màu lông, đủ mập ốm. Chúng nằm la liệt khắp nơi. Tuy nhiên có điểm làm tôi chú ý, đó là hầu như con nào cũng dính bùn ở chân và mép, mặc dù sân chùa được lát đá sạch sẽ. Khó hiểu nhưng do không có câu trả lời nên tôi cũng kệ, bước tiếp vào khu chánh điện. Lối dẫn lên chánh điện khá hẹp, vừa đi hết thì thấy một bức tượng to đùng, lư hương chỉ còn sót lại những xác nhang đỏ ói, tro rớt đầy trên sàn, chúng bị gió thổi đi, đập vào chân bức tượng rồi lại rớt xuống, rồi lại bị gió thổi, rồi lại rớt xuống như đang bị tra tấn. Bức tượng này rất đẹp, cao gần ba mét, tay phải ông ta đang cầm một vật gì đó giống như bông lúa, ông khoát bộ áo được điểu khắc hết sức tỉ mị, ông toát lên thần thái siêu phàm, quyền năng. Tôi thắp một nén nhang, cắm vào lư hương rồi tiến đến chánh điện. “Ủa”, ông anh tôi cắt ngang câu chuyện, “vậy tên tượng phật là gì sau để bên ngoài ta?” “Em không biết”, tôi nói tỏ vẻ tiếc nuối. “Mày dở quá”, anh ta trề môi, “đáng lẽ mày nên tìm hiểu về văn hóa chùa chiền của người Khmer trước khi mày lên đó!” Tôi im lặng đồng ý. Tay Hùng bon-sai từ nãy đến giờ vẫn chăm chú nghe tôi kể chuyện, nhưng ánh mắt của gã tỏ vẻ gì đó muốn phản bác lại câu chuyện của tôi. Dù trông gã có vẻ tập trung, nhưng cái tay châm thuốc không ngớt và cái cằm cứ thụt vào trong đầy giấu diếm. Tôi hơi bực vì sự vô duyên này nhưng vẫn chưa đủ để đưa ra góp ý gì. Tôi bèn kể tiếp. Bao quanh ngồi chùa là hai dãy lan can được đỡ bởi những bức tượng hình người mặt quỷ, chúng được điêu khắc sao cho trông chúng giống như đang bị sức nặng của lan can đè lên nên phải khom cả đầu gối, hay tay cầm thanh kiếm bản to cắm sâu xuống đất. Những bức tượng này được sơn hai màu khác nhau, bên ngoài chánh điện chúng có màu đỏ, bên trong thì lại có màu tím. Xung quanh chánh điện có tám cánh cửa được khắc phù điêu hoa lá tinh xảo, tôi đánh một vòng nhưng tất cả những cánh cửa này đều bị khóa ngoài. Thất vọng, tôi định quay ra hỏi mấy người tu hành kia, bất chợt tôi thấy một bức tượng gỗ nhỏ nằm trơ trọi phía sau lan can, lúc nãy đi vào nên không để ý thấy. Tôi nhặt bức tượng lên xem, nó cao chừng 2 tấc, trông giống như một cây đinh khổng lồ, phần phía dưới rất nhọn. Phần gỗ bên trên khắc hình Phật đang toạ thiền khá tinh xảo, viền theo xung quanh là một dòng chữ tiếng Khmer mờ, và dĩ nhiên có rõ thì tôi đọc cũng không được. Chất gỗ sáng đỏ rất đẹp, nhưng lại lấm chút bùn. Tôi lại tò mò về công dụng của nó, nhưng không hiểu nổi. Thấy hay hay tiện tay cầm theo vậy. Tôi nhớ có ai đó nói với tôi rằng chùa Khmer cũng là nơi để hỏa thiêu, nhưng chưa bao giờ có dịp vào thăm nghĩa địa của họ. Nghĩ thế tôi bước đi nhanh hơn về phía sau chánh điện, nơi tôi thấy thấp thoáng chiếc cầu, hai dãy lan can trên đây vẫn giữ lối kiến trúc tượng hình người mặt thú cũ. Phía bên kia đầu cầu là một khoảng sân nhỏ, đứng từ đây có thể nhìn bao quát cả một vùng mọc cỏ xanh tươi, nhấp nhô trên đó là hơn hai chục nhà mồ với những mái vòm nhọn hoắc trông như đầu viết bi, cái “đầu viết” này được chia ra nhiều ngăn nhỏ theo chiều dọc, mỗi ngăn được tạc hoa văn cây cỏ hoặc phù điêu hình người mặt quỷ. Khu mộ này nằm trong một khuôn viên hình lục giác, mỗi góc có một tượng gì đó mà tôi thấy có khuôn mặt khá dữ dằn tay câfm vũ khí. Theo kiểu tôi không biết là mấy bức tượng đó bảo vệ những người nằm trong này khỏi bọn tà ma ác quỷ hay là những bức tượng lại bảo vệ cái núi này khỏi những người nằm dưới kia? Kiến trúc của từng tháp rất công phu: đỉnh của nó có hai mãnh kim loại xòe ra như đôi cánh. Phía sau bức tường của nhà mồ này, tôi có thể thấy được chỗ học của sáu người tu hành lúc nãy. Có lẻ kiến trúc của ngôi chùa này được xây bao quanh nhà mộ, như một kiểu trấn yểm, chắc vậy. Tôi ngắm được một lát thì cũng đi ra. Tôi băng qua chánh điện, bức tượng trên tay tôi thoáng loé sang lên, tôi cho là do nắng… nhưng nãy giờ trời ui ui thôi mà? Làm gì có đâu? Tôi gặp lại sáu vị tu hành, họ vẫn không để ý gì. Lấp ló phía sau cánh cửa là sư thầy gầy gò, xanh xao. Cậu ta chỉ dám thò đầu ra nhìn tôi, ánh mắt dè chừng như nhìn vào kẻ sát nhân. Tôi đi ngang lũ mèo vẫn còn đang nằm sưởi nắng với đủ tư thế, những con không ngủ thì mắt nhìn đăm đăm theo tôi… giống như muốn ăn cái gì đó vậy. Bỗng tôi nghe tiếng gọi: “Anh ơi” – vị sư gầy gò khi nãy đang hớt hải đuổi theo tôi – “anh đưa tôi cái tượng, đừng đem theo!” – vị sư vừa rảo bước vừa nói bằng chất giọng lơ lớ. “Dạ bẩm, cái này có sao vậy thầy?” – tôi rút bức tượng nhỏ xíu đó ra. Vị sư thoáng chốc sợ hãi khi nhìn thấy bức tượng, giống như cố tránh mặt nó vậy, rồi ông ta quay sang nhìn đám mèo và nói: “Mèo nó đào trong mả, cái này chôn theo mấy đứa con nít chết oan cho nó đừng đi quậy phá nữa, đi siêu thoát, không phải đồ lành đâu, anh để lại đi” – vị sư nói rất chân tình, chìa tay ra đón bức tượng nhỏ từ tay tôi, sau đó lại tất tả quay đi khi tôi còn chưa hiểu mô tê gì. Đi trên con đường rãi đá, tôi chợt phát hiện ra một cảnh tượng thú vị: lò thiêu. Nó được xây khuất vào trong một tảng đá lớn, cánh cửa đã nâu và rỉ sét, trông nó như một cái phễu trúc ngược mà đáy phễu chính là ống khói. Bên trên tảng đá gần đó còn có một bức tượng chỉ đường khác, một con ác điêu khổng lồ như trong truyện cổ Thạch Sanh đang há cái miệng rộng, tinh tươm những giọt sơn màu đỏ, đôi chân nó ngoạm vào một bức tượng cô gái, ánh mắt cô ta chưa được sơn nên trắng bệch, không biết có đang sợ hay không. Cánh trái của con ác điêu, chỉ vào lò thiêu. Giờ tôi hiểu cái lều đầy những củi kia dùng để làm gì rồi. Tôi đứng nhìn khung cảnh này cũng khá lâu rồi mới quay đi. Ra ngoài thì thấy chiếc 67 đã ngã sõng soài từ lúc nào, bánh xe sau vẫn còn quay quay. Tôi nổi máu điên, tôi thương con xe này còn hơn phụ nữ, đứa nào xô ngã tôi thề sống chết với nó. Nhưng quay qua quay lại không thấy ai cả. Tôi chửi thề vài tiếng, dựng xe lên nghĩ bụng gần đó có cái hồ đẹp lắm nên chạy lại thưởng ngoạn. Lúc này gió lên, mạnh lắm, cây rừng xào xạc làm tôi cảm giác như có tiếng con nít cười giỡn ngay sau xe mình vậy. Mà chắc không phải đâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2 :  Chương 2: Cái giếng trong rừng


Hôm đó, tôi định đi tìm cái hồ nhưng nghĩ lại trời trưa nắng thế này, ra đó không có bóng cây nên thôi. Với lại, có một thứ cứ làm tôi canh cánh trong đầu. Lúc thả xe từ từ xuống dốc, đi khỏi chùa Khmer, một khối đá hình vầng trăng khuyết, đứng hiên ngang giữa triền núi, như thách thức trời đất đã thu hút ánh mắt tôi. Hùng bon-sai nghe tới đó liền đổi tư thế ngồi, giống như tự sửa soạn lại bản thân. “Giữa triền núi thoai thoải, làm sao lại có vách viếc gì được?”, ông anh tôi thắc mắc. “Em không biết. Cái vách đó nhìn thì gần lắm, mà em lật tung lên chắc cả cái huyện, hỏi ai cũng lắc đầu không biết. Nhưng thề không nản chí. Em lên GPS định vị tọa độ núi, sau đó nhắm hướng vách đá, ước chừng chỉ cách 5km về hướng Tây Bắc. Sau đó lên bản đồ, chấm ra một điểm gần nhất so với chỗ đó mà bản đồ có đường đi được. Em định đi đến gần nó, rồi thì dù không có đường vô cũng quyết băng rừng mà đi. Phen này bằng mọi giá phải hỏi cho ra…” Hơn 11h, tôi xuất phát sau khi uống vội ly nước thốt nốt. Trời âm u sang giờ đã rỉ rả cơn mưa rào, bầu trời đen xám càng làm cho vùng núi thêm âm trầm tĩnh mịch. Xe chạy bon bon trên đường vắng, do trưa cộng thêm trời mưa nên chẳng ai ra đường. Căn cứ theo bản đồ, tôi quẹo vào một con đường nhỏ. Chỗ này vẫn còn thuộc địa phận thị trấn Nhà Bàn, hướng về Tịnh Biên tầm 1km. Con đường này chừng 200m đầu tiên là nhựa nhưng về sau là đất. Đường lầy lội, hai bên đường chỉ toàn cây dại, cây rừng cao ngang đầu, thỉnh thoảng có một số nhánh rẻ là đường mòn nhỏ xíu chạy khuất sau hàng cây dẫn đền nơi nào có trời mà biết. Tôi tiết kiệm thời gian nên cứ nhắm đường chính mà chạy. Những khúc ngoặt tối om do cây che khuất, cơn mưa không lớn, gió lặng, ông trời đang ủ rủ còn tôi thì ngồi nhấp nhỏm trên con xe 67. Đồng hành với tôi chỉ có tiếng xe máy, thỉnh thoảng là tiếng chim rừng kêu lên bất chợt rồi tắt ngấm, lọt thỏm giữa những ngôi mộ mà không biết người nằm dưới đó đã được bao nhiêu năm rồi. Vùng gì mà ngộ, núi nào cũng đầy những mộ, mộ mới có, hương khói có, vô chủ có, thậm chí những nấm đất cao cũng có. Đang hăng máu lắm nên nhìn chung tôi không sợ gì cả, chỉ lo lỡ xe hư thì dẫn ra hơi bị mệt. Đi chừng 3km trong con đường mòn đó, ngay khi tôi vừa chột dạ vì thấy hơi xa so với điểm chấm trên bản đồ, đang định quay xe ra thì thấy thấp thoáng mái ngói đỏ của một ngôi chùa. Phần đường dẫn vào chùa được lát đá thềm khá đẹp, tuy hơi nhiều rêu, cổng chùa được sơn vàng, nhìn còn mới lắm, bên trong nhìn giống "miểu" hơn là chùa. Có một gian chính và hai gian phụ, nhìn như chữ "U". Sân chùa có một cái lư lớn bằng đất nung, chỉ có chân nhang đã bạc màu do nắng gió. Tôi dựng xe vào góc định kiếm người hỏi thăm. Ấn tượng của tôi là gian chính đẹp, nền lót gạch tàu, cổ kính với những liễn và hoành phi, nhang khói thịnh, bức tượng Phật giữa chính điện đem đến cảm giác rất an nhiên tự tại. Nghe tiếng động, một sư thầy tuổi chắc cũng ngoài 70 bước ra. Tôi chắp tay trước ngực, chào thầy theo kiểu Phật giáo, rồi hỏi về cái vách đá bí ẩn kia. Cuộc trao đổi diễn ra khá chóng vánh, sư thầy chỉ tay ra phía sau và bảo đường xuống phía dưới đó hơi khó đi và dặn tôi nên cẩn thận vì trời mưa, vắt đỉa nhiều lắm. Tôi chắp tay thi lễ rồi nhanh chóng ra phía sau chùa, tôi đi vòng giữa gian trái và gian chính, có con đường nhỏ cũng được lát bằng đá thềm. Đường xuống chừng 30m, là một cái dốc được dẫn bởi những bậc thang đá xanh, bề ngang chắc đi được hai người. Do dốc với nhiều rêu, như kiểu mưa vài tuần nay rồi không ai đi vậy, cho nên tôi đi khá chậm. Phía dưới con dốc là con đường mòn, hoặc nó đã từng là như vậy, dấu cỏ cho thấy trước đây đã có người qua lại chỗ này, chắc cũng mới gần đây người ta không đi nữa thôi. Xung quanh tôi lúc này có thể gọi là rừng được. Đủ thứ cây dại: còng, chuối, tre, thị, và những bụi cỏ không cao lắm nhưng làm khung cảnh rất um tùm rậm rạp. Tôi chỉ sợ có con gì nhảy xổ vào người thì chắc tè ra quần mất. Trời mưa làm không khí trong này hầm hập như lò xông hơi, ẩm ướt khó chịu. Tôi buộc ống quần, thắt dây giày lại đề phòng côn trùng, đĩa vắt chui vào. Xả tay áo ra và không quên đội nón lên. Cho an tâm thôi. Giữa trưa, do cây rậm rạp và trời mưa nên không gian khá tối, tôi lần mò theo con đường quanh co. Phía sau tán cây, tôi thấp thoáng thấy cái gì đó sừng sững, chắc mẩm là vách đá tôi đang tìm rồi nên tôi càng vui vẻ đi tới. Không gì to lớn lắm nhưng với tôi cảm giác như sắp khám phá ra một lục địa mới vậy. Kể ra thì lúc đó tôi cũng gan thật, đa phần mọi người sẽ sợ ma hay thứ gì đó siêu nhiên, thề là tôi chỉ thấy sợ muỗi đốt hay kiến hay ong hay mấy con rắn. Gớm chết đi được. Mẹ tôi hay nói tôi sinh vào giờ Dần, dương khí vượng, nên kiểu như nặng vía dữ lắm, cho nên tôi không thấy được thế giới tâm linh và do đó tôi cũng không biết sợ những gì tôi không thấy. Hết đường mòn. Trước mặt tôi là ba ngôi nhà lá, nền đất, mặt tiền dựng ván, vách lá dừa. Trông chúng cũng khá cũ kỹ và tơi tả, cũng phải, có lẽ do điều kiện của chủ nhà không đủ sửa sang lại. Bỗng nhiên tôi thấy an tâm hẳn. Ít ra cảm thấy đỡ cô đơn thôi. Nghe tiếng người lạ tới, trong nhà vọng ra tiếng chó sủa vang cả núi đồi làm tôi giật cả mình. Tôi lại thấp thoáng thấy vấch đá phía sau tán cây, nên vòng qua 3 ngôi nhà đó để đi tiếp. Phía sau, đúng như dự đoán của tôi, không còn đường nữa. Trước mặt tôi là những cây chuối, tôi nghĩ là nó mọc dại, không cao như những cây chuối thường thấy, thân cũng nhỏ hơn nhưng lá nhiều và kín, những buồng chuối non chắc bị khỉ gặm nham nhở, thâm đen và rỉ ra nhựa. Theo hướng thì đúng rồi, chắc nó chỉ sau cái hàng chuối này thôi. Tôi bước tiếp, nhìn xa thì chuối khá rậm nhưng lại gần thì vẫn đủ chỗ cho hai người đi. Tôi đi qua lại trong đấy, chắc chừng 50m thì hết rừng chuối, trước mặt tôi lại hiện lên cảnh rừng rậm quen thuộc. Tuy nhiên, có một thứ ko đúng ở đây, đó là cái giếng. Vâng, một cái giếng giữa rừng. Tôi cho là do những người sống trong ba ngôi nhà kia đào. Nhưng chắc ko đâu, vì giếng này khô rồi, khá nông và hôi, thành giếng đóng rêu đen xì, xi măng bong ra từng mảng. Tôi nghĩ trong đầu, lúc tôi quay đi mà có con ma nữ tóc dài nào trèo từ dưới giếng lên, như trong phin The Ring, chắc tôi đạp nó xuống lại thôi chứ cũng không gì. Tôi băng qua giếng để đi tiếp, nhưng lúc vừa đi ngang miệng giếng, trong đầu tôi vang lên âm thanh gì đó chói tai kinh khủng, chỉ vang trong đầu tôi thôi chứ không phải là từ bên ngoài vọng đến. Nó làm tôi choáng váng phải nhắm mắt lại vài giây, choáng như kiểu ngồi lâu rồi thình lình đứng dậy vậy. Từ từ mở mắt ra thì hết hẳn. Nhưng tôi cảm thấy khung cảnh xung quanh có gì đó khác khác, kiểu như khác những chi tiết nhỏ thôi nhưng không tìm ra được, đại loại giống như có ai đó chum khăn lên đầu bạn rồi dẫn bạn đến một chỗ khác rồi mở khăn ra vậy, ờ, nói thế cho giống với từ mấy người yếu vía hay gọi là “bị ma giấu” ấy, là linh cảm vậy. . Lòng nghĩ là do tác động hồi nãy nên tôi vẫn hăng hái sấn bước tới trước. Qua cái giếng là trở lại địa hình rừng cây. Nền đất nơi đây là cát, toàn cát, nhưng chúng còn khá tơi chứ không kiểu khô cứng lại như đất. Với lại không bằng phẳng, cứ nhấp nhô liên tục, làm tôi di chuyển hết sức chậm chạp. Nào là mưa, cây che khuất ánh sáng, cây bụi gai và đủ thứ gì dính dính dưới chân khiến tôi suýt té mấy lần. Có những con dốc nhỏ chừng 5 hay 6 mét gì đó nữa, leo lên rồi lại leo xuống, cho nên quãng đường thì chừng vài trăm mét thôi nhưng phải nói là tôi như lên bờ xuống ruộng. Mồ hôi tuôn ra như tắm, tôi căng thẳng dò đường đi. Mà ngộ cái là khi trong đấy, chắc là do tôi mệt với căng thẳng, nên trong đầu tôi văng vẳng những tiếng vo ve gì đó của cả ngàn con côn trùng, kiểu như… có ai thì thầm hoặc đứa nhỏ nào khóc vậy. Tôi vẫn cho là của đám côn trùng nào đó, chứ con nít đâu ra? Dưới giếng à? Hừm… Trước mặt tôi lại có một con dốc nhỏ, linh cảm tôi cho thấy sau con dốc này là cái vách đá kia rồi. Tôi phấn khởi leo lên. Vạch tán cây ra, tôi đờ cả người. Dĩ nhiên là không có cái vách núi nào cả, mà là cái giếng! Vô lý, tôi đi theo la bàn, rõ ràng không hề đi vòng tròn! Quái lạ. Tôi không hề có cảm giác mình đang đi vòng, bình thường tôi định hướng khá tốt. Không chấp nhận chuyện mình vừa đi một vòng, tôi lấy điện thoại ra mở la bàn lên, xác định lại hướng của vách đá, rồi băng rừng đi tiếp. Lạ một chỗ là trời tuy mưa nhưng tai tôi ko nghe dc tiếng mưa rơi trên lá, mà chỉ nghe được những tiếng ù ù, thực ra nó giống tiếng thều thào của ai đó hơn, hoặc cũng giống như tiếng thút thít của trẻ con, là cái tiếng nãy giờ cứ văng vẳng trong đầu tôi đó, rất là bực. Nhưng tôi không cho là giữa chốn rừng núi này có thể có những tiếng giống vậy được. Không. Toàn cây là cây thôi, chắc là do tiếng côn trùng đập cánh cộng thêm tôi bị mệt nên có ảo giác. Tôi nghĩ vậy và càng tự tin sấn tới trước, tay giữ khư khư la bàn trong điện thoại, tôi tự tin là mình đang đi con đường khác lúc nãy, vì các bụi cây ở đây không có dấu đổ rạp. Vừa leo lên một con dốc nhỏ, vén bụi cây gai trước mặt, nằm im lìm phía kia không phải là cái vách đá tôi muốn tìm mà dĩ nhiên là cái giếng. Mẹ kiếp! Tôi chửi thầm. Sao cứ đi vòng mãi thế, rõ ràng tôi đi theo la bàn mà? Nhìn xuống la bàn trong điện thoại thì bỗng nó tắt ngóm. Hết pin. Cục sạc dự phòng tôi lại để trong xe. Phen này chắc đành gác lại ham muốn tìm kiếm lại mà quay ra xe thôi. Nhìn lại cánh rừng sau lưng một lần nữa đầy hối tiếc, tôi quay đi. Vừa qua khỏi cái giếng, cảm giác như tiếng côn trùng đập cánh nhiều lắm hay sao ấy, mà nghe như tiếng cười, y hệt luôn. Mà quái, trời mưa làm gì có con gì bay? Tôi lần mò theo đường cũ chẳng mấy chốc mà tới nơi đậu xe, nhanh chóng lấy cục sạc ra. Giữa chốn rừng núi này, tôi không quan tâm có ma quỷ hay ko, chỉ sợ là gặp tai nạn mà không liên lạc được với ai thì mới chết chắc. Tôi đứng nhìn triền dốc dẫn xuống khu rừng, bụng còn đang nghĩ hay là bất chấp làm một cú nữa cho ra ngô ra khoai, thì bỗng phía cánh rừng, mưa tuôn dữ dội, trong khi chỗ tôi đang đứng đây thì chỉ mưa lâm râm. Nhìn mưa đấy tôi không dám vào, đanh chào sư cụ rồi ra lấy xe. Nhưng ko thấy sư cụ đâu, gian chính điện lúc nãy khá ấm cúng giờ cứ thấy lạnh lạnh thế nào ấy. Tôi nghĩ có lẻ ông nghỉ trưa rồi cũng nên, 12h rồi mà, nên tôi dắt xe ra luôn. Vừa chạy khỏi cổng chùa, tôi ngạc nhiên khi phía tay phải cổng, phía sau một bụi cỏ thấp, là một cụm mả được tạo nên bởi ba nhóm mộ nhỏ gồm tám cái cả thảy, lọai mộ đất vừa đắp, phía trên còn để nhiều đồ cúng và còn chân nhang, có vẻ mới đắp tầm hai tuần thôi vì đồ cúng nhìn hư cả rồi. Hồi nãy chạy vào sao không thấy được nhỉ? Chắc do nôn nao tìm cái vách đá nên không để ý. Tôi vừa chạy xe ra, ngoái nhìn lại ngôi chùa cổ kính yên lặng lần cuối. Mới để ý, lúc nãy tôi đi lên chùa bằng chính con đường tôi xuống, sao không nhớ có đi ngang ba ngôi nhà vậy? Đúng là bấn loạn hết rồi không để ý gì hết… Xe chạy bon bon, đường gì nhiều rêu vậy, mưa như mấy nay thì cũng phải 2 tuần rồi không ai chà rửa. Tội ông sư già lỡ bị gì rồi sao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3 :  Chương 3: Ba chiếc quần đỏ


Gạt tàn đầy. Ba cái ống khói chúng tôi hoạt động không ngừng nghỉ, tôi cũng bị cuốn hút vào chính câu chuyện của mình. Vừa gọi thêm gói Marlboro mới, ông anh tôi bóc vỏ cẩn thận, không quên chừa lại phần giấy để hơi thuốc không bay mất. Anh lấy ra ba điếu, chúng tôi chuyền nhau cái hột quẹt. Cách, cách, cách. Tiếng mồi lửa bắt đầu cho câu chuyện về ba đứa trẻ mặt quần đỏ tôi gặp trong hồ Tà Pạ. Lí do tôi không ghé qua hồ Tà Pạ lúc vừa xuống chùa Khmer như tôi đã kể là do trời mưa, sau khi đi mấy vòng quanh cái giếng chết tiệt lúc nãy, tôi cũng có hơi bực trong người. Cũng may lúc tôi vừa ra tới đường chính, trời đã quang mây đã tạnh từ lúc nào. Nhìn đồng hồ, mới 3h, tôi quyết định quay xe lại. Hồ Tà Pạ nằm trong một ngã rẽ lên chùa Khmer, chạy đến bức tượng chỉ đường thứ hai, thay vì đi theo hướng ngón trỏ của vị hình người mặt quỷ thì tôi được người dân bản địa mách rằng: phải đi vào con đường mòn hướng ngược lại. Tôi ngồi chễm chệ trên con 67, vỗ vào bình xăng như một kiểu trấn an, tội nghiệp cô gái ấy, con đường mà chúng tôi sắp đi vào toàn sìn là sìn. Ôi sao tôi thù trời mưa đến thế! Nhả côn, lên ga, tôi cố chạy thật chậm, được một lúc thì đến ngã ba, bên trái là con đường sâu hun hút, lại khá tối; bên phải có một ngôi nhà tường trắng, hàng rào vây kín mít. Theo bản năng, tôi rẽ phải. Chạy được một hồi mà chẳng có dấu hiệu của cái hồ nào, chỉ thấy cỏ mọc ngày càng dày đặc. Lâu lâu lại có những tán cây không biết gốc ở đâu, chúng oằn mình vì sức nặng, phủ kín trên đầu như một mái vòm. Tôi cũng ngờ ngợ rằng mình đã rẽ nhầm đường, nhưng cho đến khi đụng đường cùng, tôi chịu chấp nhận. Rõ ràng tôi vẫn đứng trên con đường mòn, nghĩa là cỏ dưới chân tôi bị người đi đường dẫm đạp thường xuyên tạo thành con đường đất. Tôi nhấn mạnh như vậy là vì trước mặt tôi, con đường bị rừng cây cắt đứt, kiểu như “Rụp”, mày chỉ mòn tới đây thôi. Tôi đành ngậm ngùi quay lại, nhìn vào con đường hun hút đã đi vào lúc nãy, tôi thấy có gì đó không đúng. Giống như bạn đi làm vào buổi sáng, đồ đạc trong phòng để chỗ nào bạn cũng biết, nhưng đến tối quay về, có cái gì đó đã bị di dời, nhưng bạn không biết đó là cái gì vậy. Ngập ngừng một lúc chưa chịu đi ra, tôi đưa mắt nhìn quanh, thấp thoáng nơi những bụi cỏ thấp hơn, tôi thấy những bóng trắng kì lạ đang đung đưa qua lại trong gió. “Đ.m.” tôi tự nhủ, “cái đứa trẻ trâu nào dám hù bố mày!” Tôi đá chân chống, thủ sẵn cái nón bảo hiểm trong tay, vạch cỏ đi đến hướng những bóng trắng kia. Tôi đang nổi máu điên, trừ khi nó cằm rắn hù tôi, không thôi nó bay ra là tôi đập nó sml. Chen qua những hàng cỏ dày đặt cuối cùng, tay tôi vung cái nón bảo hiểm hết cỡ. Nhưng không có đứa trẻ trâu nào đứng chờ tôi, chỉ là những ngôi mộ. Đếm ra thì có khoảng hơn chục cái. Chúng được sơn rất nhiều màu, mới có, cũ có, có khoảng ba hoặc bốn ngôi gì đó có bia màu trắng, thì ra đây là cái tôi thấy. Để ý kĩ thì, những ngôi mộ này có kích cỡ khá nhỏ, tôi nhìn lên những dòng chữ năm sinh – năm mất để xác nhận lại suy đoán của mình: mộ trẻ con! Nhớ lại chuyến đi vào rừng vừa rồi, trong cơn mưa rừng, thỉnh thoảng tôi đã nghe thấy tiếng thủ thỉ của trẻ con. Tôi đứng lặng người, cố lắng nghe thêm lần nữa. Nhưng chỉ có tiếng gió. Tôi nhún vai, trút tiếng thở dài rồi lặng lẽ đi ra. Thật tội nghiệp cho những sinh linh nhỏ bé này. Quãng đường vòng lại cũng không có gì đặt biệt, khoảng mười phút chạy xe, né những hố sìn khổng lồ, tôi cũng đến nơi. Trước mặt tôi là tấm bảng ghi chữ “Độ sâu nguy hiểm 17m. Cấm vào!” Bên trái tấm biển có ngôi nhà gỗ hai gian, những tấm ván ép thấm màu thời gian có màu nâu ngã đen, những cây cột dầu loang lỗ tổ ong bầu, và một người đàn ông trung niên đung đưa trên cái võng trước hiên nhà. “Chú ơi,” tôi gọi lớn, “tấm biển này...” Chưa đợi tôi nói hết câu, người đã ông đã vẫy vẫy cánh tay của mình trên không trung, có ý bảo tôi rằng cứ việc đi vào. Tôi thả lại tiếng “Con cám ơn” rồi cho xe chạy tiếp. Sao cánh tay người đàn ông này lại có thể vẫy mạnh như vậy, quan trọng hơn, sao vẫy mạnh như thế mà không hề sống động? Chắc tại ông ta đã quá quen với việc người ta hỏi về tấm biển báo, chắc vậy. Chạy xe trên con đường dốc và đầy đá, vừa lên tới đỉnh đèo, cảnh vật của vùng Bảy Núi lại hiện hết sức choáng ngợp và huyền diệu. Nhìn sang phải, tôi thoáng thấy mặt nước màu xanh ngọc lấp lánh như bầu trời đầy sao. Cảm thấy rạo rực, tôi cho xe thả xuống dốc núi, tiến vào hồ Tà Pạ. Vừa đậu xe, tôi liền tức tốc chạy lên chỗ cao nhất để ngắm nhìn toàn cảnh nơi đây. Mõm đá mà tôi chọn nằm phía bên trái của căn chòi bán nước. Tôi không biết mẹ tự nhiên đã tạo nên chỗ này như thế nào, chỉ thấy bà thật vĩ đại. Bàn tay của bà khéo léo khoét một cái lỗ sâu hoắm rồi rót vào đó những giọt nước tinh khiết nhất, ấy vậy mà bà vẫn chưa chịu dừng lại, bà lại tiếp tục chơi đùa với cảnh vật, kĩ càng lựa chọn những hòn đá, bụi cây rồi gói gọn chúng lại, thổi hồn vào chúng, không quên căn dặn hãy tồn tại với tất cả những gì bà đã cho chúng: hãy trở thành một ánh mắt đẵm lệ, mang một sự xúc động bất tận với nguồn thơ của mênh mông ruộng đồng. Tôi đứng trên mõm đá khá lâu, thấy hơi tiếc vì không chạy xe lên đây được. Lúc tôi leo xuống, nhìn đồng hồ vừa đúng 4:20, à nhầm 4:30, sẵn tiện có cái chòi nước, tôi bước vào gọi lon bò cụng, ngắm nhìn mặt hồ cho thư giản rồi 5h đi ra cũng được. Chợt tôi nghe một tiếng “Ùm” như có vật gì vừa rơi xuống nước. Quay đầu về hướng tiếng động, tôi thấy ba đứa trẻ mặt quần thun màu đỏ đang đùa giỡn trên mõm đá ở giữa hồ. Một trong ba đứa vừa nhảy xuống nước, vì hồ khá trong nên tôi có thể thấy rõ tay và chân nó đang vùng vẫy. Lạ nhỉ, tôi thấy cả ba đứa đang cười đùa vui lắm, nhưng tôi không nghe thấy gì cả ngoài tiếng vẫy nước. Chị bán nước đem lon bò cụng ra cho tôi cũng là lúc cặp đôi vào trước đó tính tiền về. Chị ta dọn bàn của họ rồi cũng ngồi xuống nghỉ ngơi, vì căn chòi khá nhỏ nên tôi ngồi cách chị ta không xa lắm. “Chị ơi,” tôi đốt điếu thuốc rồi hỏi, “thường ngày khách vào đây đông không chị?” “Lúc trước đông lắm chú, không có chỗ đậu xe luôn kìa. Có xe du lịch vô nữa. Mà giờ thì lắc nhắc.” “Vậy hả chị. Ủa sao kì vậy ta?” “Có người chết dưới hồ chú à. Chú thấy cái bảng dưới kia chưa?” Tôi gật đầu. “Thì từ vụ đó là khách mới bắt đầu bớt đi.” Chị nói, giọng chị nghe buồn hẳn ra. Tôi thấy khá áy náy nên định lái qua chuyện khác. Chợt một loạt tiếng “Ùm” nữa lại vang lên. Ba đứa nhỏ đều nhảy xuống nước, tôi thấy chúng bơi về phía bên kia hồ, tứ chi chúng lợn rợn trong nước như những xúc tu, thoáng cái đã không thấy chúng đâu. Thấy cơ hội tôi liền chớp lấy. Tôi chỉ ra mõm đá ở giữa hồ. “Mấy đứa nhỏ kia chắc dân ở đây hả chị. Thấy vậy mà gan quá nha!” Hình như chị không nghe thấy câu hỏi của tôi hay sao, chỉ thấy thoáng qua đôi mắt chị mở hơi to trong một khoảnh khắc rồi trở lại bình thường. Chị ta không nhìn ra mõm đá, cũng không trả lời tôi mà đứng lên lấy cái giẻ ra lau bàn. Lạ nhỉ, nãy mới lau mà? Tôi cũng không để ý nữa. Hút cạn lon bò cụng, tôi tiến lại phiến đá phẳng gần bờ hồ, ngắm nhìn tuyệt tác của mẹ thiên nhiên thêm một lần nữa trước khi ra về. Giờ mới thấy bờ đá cao nhất ở phía bên kia cũng chính là nơi nâng đỡ mõm đá tôi đứng lúc nãy. Nước phản chiếu ánh sáng lay lắt cuối ngày, long lanh soi lên đó những đường lân tinh. Nhìn kĩ mới thấy, vách đá khá phẳng phiu nhưng lại có những đường thẳng song song cao bằng đứa trẻ. Tôi đếm cũng có khoảng hơn hai chục đường như vậy, không biết chúng có kéo dài đến tận đáy hồ không. Bất chợt những đốt ngón tay tôi run nhẹ, ngón trỏ và ngón giữa động đậy trong vô thức. Tôi ém bàn tay lên vách đá, tự nhủ sao những đường thẳng kia trông giống vết tay cào quá. Không biết ai rãnh vậy? Tôi lên xe ra về, lòng vẫn còn lân lân đầy luyến tiếc. Tôi chạy qua con đường đá, thả dốc xuống đèo, cái biển báo lúc nãy không biết ai đã xô ngã. Trong nhà, chỉ còn chiếc võng đong đưa. Chắc ông chú đi ăn rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4 :  Chương 4: Lư hương trên núi


Tôi liếc mắt nhìn Hùng, gã vẫn giữ ánh mắt đầy tâm sự nhưng địêu bộ thì pha lẫn giữa giấu diếm và cười cợt. "Rồi mày leo núi tiếp hả?", ông anh tôi hỏi. "Dĩ nhiên rồi anh, phải lên đó chứ, trên đó êm lắm, mà lần này em leo núi khác, không leo núi Cấm nữa." "Núi gì vậy mày?" "Em cũng không biết tến nó nữa, nhưng có cái này em quan tâm hơn cái tên nó nè..." Tôi dừng xe dưới chân núi là đã 5h45 chiều. Trời tháng 8 nên tối chậm hơn, nhờ vậy mà còn thấy đường leo lên. Lý do tôi chọn leo ngọn núi này là vì nó ít nổi tiếng, kiểu như không có mấy bạn phượt thủ chuyên nghiệp với nón full đầu, áo dạ quang, giày hịêu, đến và xả rác rồi đi. Nó trong lành, cảm nhận của tôi thì đúng là vậy thật. Điều này tôi được một người chị kể cho nghe. Chị ấy đi núi này một cách vô tình khoảng ba tháng trước, kiểu như bả đến nhầm chỗ nhưng vẫn leo lên, rốt cuộc thấy đẹp quá nên về khoe. Tuy nhiên điều hấp dẫn tôi nhất từ những tấm hình chị tôi khoe cho tôi đó là từ đỉnh núi nhìn xuống, cách ko xa lắm có một ngọn đồi nhỏ kiểu như đã bị khai thác đá, lộ ra vách đá hình vòng cung khá đẹp mắt. Hình ảnh vách đá hình vòng cung đều đặn nằm giữa cánh rừng đã kích thích tôi khá nhiều cho nên tôi đi chuyến này là để tận mục sở thị. Gửi xe dưới núi, tôi nhanh chóng tiến hành leo lên, không quên hành trang là ít thịt bò để nướng và bếp than vốn được chuẩn bị từ trước chuyến đi, và.. rượu. Lúc này đã 18h. Mây trên cao đã chuyển sang ửng hồng và ráng chiều đã làm không khí trở nên buồn man mác. Núi này không cao, ước chừng hơn 200m, tuy nhiên đường đi lại có độ dốc cao và chiều cao bậc thang không đều nhau, khiến tôi leo khá vất vả. Độ dốc có những đoạn tôi ước chừng phài hơn 50 độ, nếu không có những thanh sắt lan can chắc tôi té cả chục lần rồi. Đường đi dốc, quanh co và lắm côn trùng. Trời lúc đó đã bắt đầu nhá nhem, gió thôi mạnh làm cây rừng kêu xào xạc. Tôi mới để ý là chỉ có mình tôi leo lên thôi, chẳng có ai khác cả. Cảm giác rất thoải mái, tự tại. Nếu là người khác, có khi họ lại tưởng tượng ra những ánh mắt trong lùm cây hay hốc đá đang dõi theo họ; tiếng thì thầm trong những khoảng không hay con gì đó đang bay qua lại. Trên đường đi, có nhiều miểu, lọai miểu nhỏ hay thấy thờ thổ thần, nằm rải rác. Có cái ngay đường đi, có cái tôi vô tình liếc ngang thì thấy nó nằm ở xa, cách đường lên vài chục mét, ẩn dưới một tảng đá to. Tuy nhiều miểu, nhưng cái nào cũng được thắp nhang, hoặc có ánh đèn cháy trong đó. Hầu như cái nào cũng có cả. Nó tạo cảm giác cho tôi thấy đây như là nơi tu hành của các đạo sĩ vậy. Leo chừng bốn mươi phút, tôi ngồi dựa lưng vào một cái miểu như vậy và nhìn lên trên thì thấy còn chút xíu nữa là tới rồi. Một cái đài cao có tựơng quan âm trên đấy. Hít mạnh vào không khí mát lạnh, tôi phấn khởi bước tiếp. Đường lên có một đoạn gấp khúc, do dốc cao, trời hơi tối và bậc thang không đều, tôi phải cúi đầu xuống. Vừa qua khúc ngoặc, đường thoải hơn, tôi ngẩng đầu lên để đi thì giật cả mình vì có một người đứng bên đường, cầm khẩu súng chỉa vào tôi. Hết hồn. Thì ra đó là một bức tượng nữ du kích, cao chừng hai mét, mặc áo xanh, quấn khăn rằn, đội nón tai bèo. Đối diện với tượng là tôi, sau lưng tôi là lan can, sau lan can có một tảng đá to, dưới tản đá có một cái miểu. Miểu này to hơn những cái khác một chút. Ngộ là những cái miểu bên dưới đều hướng mặt xuống núi thì cái này lại hướng mặt lên trên núi, chính xác hơn là hướng về phía bức tượng. Nhờ ánh đèn trong miểu, tôi lại nhìn rõ hơn. Tượng kiểu này gặp đầy trong các khu du lịch ở miền tây. Tôi rất chán cách làm du lịch ở miền mình, làm cẩu thả, các bức tượng đắp lên cho có, nhìn không cân đối và thiếu thẩn mỹ tệ hại. Về cơ bản, tượng nữ du kích này cũng vậy. Khá xấu. Nhưng nó nhìn gần rất sống động, màu sơn trên tượng còn mới, các chi tiết như khăn hoặc nón nếu nhìn riêng thì cũng chấp nhận được, khá thực. Mặt tượng tô một lớp sơn hồng, các chi tiết mắt mũi miệng được vẽ bằng sơn đen, khá là chớt nếu không muốn nói là kinh dị. Bức tượng này, kiểu riêng này thôi, tôi nhớ là đã gặp ở đâu rồi. Quen lắm. Nhìn tượng này tôi liên tưởng đến tượng kia ngay, nhưng ngặt nỗi không nhớ được là gặp cái còn lại ở đâu cả. Với lại, tượng này cao quá, to, gì mà tới hai mét, dưới chân còn có một lư hương rất cũ, có ba cây nhang mới cháy được một nửa. Nhìn kỹ rồi, cũng tranh thủ để nghỉ mệt, vừa lấy hơi lại là toi đi lên luôn. Trời tối, ánh đèn trong miểu hắt ra ánh sáng vàng vọt chiếu lên mặt bức tượng, trông như nó đang quay đầu theo nhìn tôi vậy. Một ảo giác khá thú vị. Leo lên đến đỉnh, trời trên đó còn chút ánh sáng để tôi ngắm nhìn vùng núi non hùng vĩ. Ngay dưới chân núi là thị trấn Nhà Bàn, ban đêm lên đèn tựa như ngôi sao năm sánh sáng rực. Phía xa xa là dãy núi bên đất Cam, thấp thoáng ánh đèn trên triền núi. Ngăn cách giữa nước ta và nước bạn là một vùng mênh mông toàn nước là nước, là những cánh đồng đón lũ về. Nhìn về hướng đông là Châu Đốc, đèn đô thị như những ánh nến lung linh giữa đất trời. Đắm mình trong khung cảnh đó tôi quên đi hết cặp giò đang run lên bần bật do mỏi, quên luôn cái áo ướt đẫm mồ hôi. Đứng hút thuốc một hơi, trời lên gió mạnh làm tôi thấy lạnh, bèn đi xuống ngôi nhà, mà theo chị tôi nói, có thể ngủ đêm ở đó. Đường dẫn đến ngôi nhà đó khá đẹp, với hai tảng đá to dựa vào nhau, để lộ ra một khe trống. Lách người qua khe đó là một cây cầu gỗ, sơn đỏ, tuy trời tối nhưng vẫn thấy nổi bật giữa khung cảnh núi rừng. Tôi nôn nóng đến sang mai để thấy được vẻ đẹp kiến trúc nơi này. Qua cây cầu, tôi đi xuống chừng chục bậc thang để dẫn đến gian nhà chính. Gian ngủ của tôi nằm bên trái nhà, bên phải chếch lên chút xíu, là một gian thờ Phật. Cuối gian ngủ cũng là một bàn thờ Phật được thắp sang bởi ánh đèn led. Gian ngủ nền lát gạch men, có tám cái võng mắc trong đấy dành cho khách ngủ. Gian ngủ không có cửa, thoáng gió, chỉ có mái che bằng tole nhìn khá cũ, vì mỗi khi gió lên tôi lại nghe những tiếng kêu răng rắc. Nhìn chung chỗ ngủ cũng tươm tất và sạch sẽ. Tranh thủ tắm rửa, tôi dựng ngay cái bếp nướng dã chiến lên nướng thịt. Qua làn khói và hơi ấm, tôi và anh chủ nhà có cuộc nói chuyện với nhau. Anh ăn chay, độ ba mươi lăm tuổi, dáng người mảnh khảnh, nói chuyện rất thoải mái. Sau một số câu chào hỏi đơn thuần, tôi có hỏi về những cái miểu nằm rải rác khắp núi. Anh trả lời là không phải có cái miểu trước đâu. Ngày xưa nơi này còn nhiều đá hơn, những vị đạo sĩ đầu tiên lên đây tu hành họ cũng đã phát hiện những hốc đá hoặc chỗ thích hợp để toạ thiền. Qua quá trình sống ở đây, họ đi và để lại những lư hương, có chỗ lư hương tượng trưng cho chỗ họ từng ngồi, có chỗ người đời sau đặt lư hương vì thấy có cặp rắn thần, ông Hổ hay đi lại chẳng hạn. Càng về sau thì họ thấy linh thiêng, nên không để lư hương riêng nữa mà mới xây miểu, hình thành nên một quần thể những miếu nhỏ như bây giờ. Khách hành hương lên núi để trải nghiệm tâm linh, họ thường thắp nhang trên các miếu đó, lúc tôi leo lên tầm 6h thì lượt khách cuối cùng vừa về, có thể nhang đó do họ đốt. "Ủa sao em thấy có một chỗ có lư hương mà không có miểu vậy anh?", tôi hỏi về chỗ bức tượng. "Chỗ nào em?" "Chỗ cái tượng nữ du kích, đường quẹo lên chỗ này nè anh.", tôi chỉ tay ra lối lên ước chừng. "Ý em là cái tượng hổ dưới chân núi hả?" "Dạ không, cái tượng nữ du kích cầm súng, đặt ngay khúc quẹo cuối cùng để lên điện thờ Quan Âm đó anh." Anh ra vẻ đăm chiêu. Rồi mặt anh cũng đỡ căng thẳng, giãn ra, và anh nở nụ cười: "À, nhớ rồi, không sao đâu em." Bỗng nhiên anh đứng dậy, bảo là để tôi tự nhiên nên đi vào trong tụng kinh, dặn tôi trên đây nhiều muỗi, nhớ đi ngủ sớm và tắt đèn, vì vấn đề an ninh trên núi không cho mở đèn khuya. “Không sao đâu em?”, ý anh nói thế là gì, tôi suy nghĩ mà không hiểu. Tôi ăn uống xong xuôi cũng chỉ mới hơn 9h. Đi dạo một vòng rồi quay về võng ngủ, phần vì mệt phần vì ngà say nên tôi nằm chỗ lạ nhưng cũng cảm thấy rất thoải mái. Tôi tắt đèn. Cả ngọn núi chìm vào màn đêm như nút. Gió nổi ầm ầm, cây quẹt vào mái tole ầm ĩ, ngoài khoảng sân trống thỉnh thoảng vang lên tiếng bịch bịch, tôi nghĩ là của bọn khỉ núi, nãy anh cũng bảo khỉ trên đây nhiều lắm. Sáng hôm sau tôi thức khá sớm để đi ngắm mặt trời mọc. Cảnh thật hung vĩ với những dãy núi chạy dài, trời trong vắt, cao thật cao, xa xa thì mây như một bức tường thành bằng tuyết trắng tinh. Những cành cây đã thấy lũ khỉ chuyền qua lại. Khung cảnh đó với tôi thật thanh tịnh, như gột rửa tâm hồn mệt mỏi, hữu hiệu, hữu hiệu! Quay vào thu dọn nhanh đồ đạc rồi khởi hành đến điểm tiếp theo cho kịp lộ trình, tôi đi ngang khoảnh sân gần chỗ tôi nằm ngủ tối qua, ngăn bởi tấm vách tole hoen gỉ. Chỗ đó nền lót đá thềm mỗi viên hình vuông nhìn rất đẹp, phía trên có ít bùn do cây cỏ mục và nước mưa tạo nên, nhờ có bùn nên tôi thấy được có vết gì đó như vết giày in trên đó, mà vết giày đó không giống đôi giày nào tôi từng tưởng tượng. Nhiều vết giống vậy lắm, chỉ xuất hiện xung quanh khu vực có bùn đó. Kiểu như tối qua có ai đứng ngoài này vậy! Tôi xuống núi, nhanh chóng lên xe, vỗ về chiếc xe thân yêu và nhắm hướng Tịnh Biên, mục đích ra biên giới chơi. Chạy được một quãng, tôi cảm giác như mình vừa quên quên một cái gì đó. Thì ra là cũng như lần đi tìm vách núi lúc quay lên tôi không để ý ba ngôi nhà, lần này lúc leo xuống cũng không thấy bức tượng nữ du kích, như kiểu tôi bỏ quên một tảng đá sặc sỡ mà chỉ có mù mới không thấy vậy, bực lắm, hoặc như nó có chân chạy đi chỗ khác vậy, tượng có chân mà, tôi nghĩ rồi cười. Xe chạy về hướng Tịnh Biên được một quãng nữa, có chạy ngang một chùa Khmer khác, ngoài chùa có một cái tháp, trên một mặt của nó mà tôi thấy, có đắp một bức tượng Phật đang toạ thiền. Tôi nhớ rồi, tôi nhớ tôi gặp bức tượng còn lại ở đâu rồi. Ngày trước khi tôi đi thi đại học, tôi có xin ở “ké” một ngôi chùa Khmer. Chính điện nằm ở tầng hai với một cầu thang dẫn thẳng lên đó, tầng một được bố trí như chỗ đạu xe, khu ăn uống của các sư và ở đó cũng có một cái tượng một vị sư già đang toạ thiền. Tôi ấn tượng với bức tượng đó bởi vì nó được khoác áo cà sa, kiểu như bức tượng đó đứng dậy, mặc áo vào đầy đủ rồi mới toạ thiền. Tượng làm bằng xi măng, cũng tô khuôn mặt một lớp sơn hồng, ngũ quan vẽ màu đen, ánh đèn chiếu lên lớp xi măng bóng nhẵn như thoa dầu. Hai bức tượng tạo cho tôi cảm giác chúng giống nhau. Mãi sau này, lúc học đại học rồi, tôi có lui tới chùa đó một vài lần nữa thì mới nghe nói rằng bức tượng đó chính là vị trụ trì chùa trước đây, khi viên tịch thì thân thể không hoại, người sau cho rằng ông đã hoá Phật, nên đắp xi măng lên thành tượng. Tôi chỉ nghe vậy thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5 :  Chương 5: Cái võng


Trời đã gần khuya, quán cà phê đã thưa bớt khách, và câu chuyện về chuyến đi An Giang của tôi cũng sắp đi đến hồi kết. Ông anh tôi ra sức hối thúc, sợ để mai, câu chuyện bị mất mạch thì tiếc lắm. Gã Hùng bon-sai giờ ngồi dựa lưng vào ghế, hai chân dạng rộng, cái cằm dài không còn thu vào nữa mà đã hơi đưa ra, nom có vẻ thoải mái. Tôi nhấp ngụm trà đá cho thanh giọng rồi kể tiếp. Sau khi xuống núi, tôi cho xe chạy về hướng quốc lộ 61, rẽ vào đường tránh thành phố Châu Đốc, tạt ngang Cần Thơ thăm mấy đứa bạn rồi mới về Sài Gòn. Định bụng là như vậy, nhưng còn một địa điểm tôi muốn ghé nữa, đó là một khu bảo tồn thiên nhiên, kiểu rừng ngập nước. Thật ra chỗ này tôi đi rồi, nhưng là đi theo tour, ngồi trên xuồng tam bảng, đi khoảng một tiếng là hết rừng tràm, chuyến đó khá là chán nếu không có lũ chim sặc sỡ và lạ mắt bay qua lại hay đang đậu trên tổ. Còn lần này, tôi quyết định sẽ chạy xe máy, để xem cảm giác có gì khác không. Vừa vào rừng tràm, thay vì vào mua vé tại phòng vé bên tay trái, người muốn chạy xe máy sẽ rẽ phải. Đi qua một con đê nhỏ, rẽ trái thêm lần nữa sẽ thấy con đường sâu hun hút với hai hàng tràm xanh và dài bất tận. Đoạn đường này khá vắng, tôi chạy xe khoảng mười phút mà chỉ gặp chưa tới năm người, có người dừng lại chụp hình, ăn sáng hoặc chỉ đơn giản là ngắm những thửa ruộng đang vô mùa ngập nước. Tôi cho xe chạy rất chậm, chợt tôi thấy một lối mòn bên trái, kích cỡ vừa một chiếc xe. Đường đất khá khô ráo, hai bên ngập trong lá cây khô, vừa đủ khoảng trống ở giữa cho tôi chạy vào. Cây hai bên đường mòn to gấp mấy lần bình thường, lại thêm tán rộng cho nên chưa được 9h mà cứ tưởng trời đã xế chiều. Cây đó tôi chịu, không biết nó tên gì nhưng lá khá giống lọai cây hay trồng trên vỉa hè, hai hàng cây không cao, đầu chúng chụm vào nhau tạo nên một khung cảnh có gì đó ma mị mà lại lãng mạn khi những tia nắng chiếu qua kẽ lá, soi sáng phía dưới, rất lung linh. Con đường này giống cái đê, ngăn giữa một bên là rừng tràm nước phèn và bên kia giống nước kênh dùng tưới tiêu. Tôi nghĩ, con kênh nhỏ như vậy, xuồng tam bảng không thể nào vô được, đây chắc chắn là địa điểm lần tham quan trước tôi chưa từng đi qua. Cảm thấy háo hứng, tôi liền cho xe chạy vào. Phải công nhận, đường lót đan vẫn còn phản phất cái hơi nực của sớm muộn, còn đoạn đường mòn này, vừa bước vào tôi bỗng nhiên cảm thấy mát mẻ ngay lập tức, có khi còn hơi lạnh nữa chứ, hơi lạnh giống như ai ngậm đá và phà vào cổ bạn vậy. Về độ rộng lớn và hùng vĩ của rừng tràm này thì khỏi phải bàn, phải nói là ở vùng Bảy Núi An Giang này, thứ gì cũng làm tôi choáng ngợp. Từ những ngọn núi, ngôi chùa, cảnh đẹp, rồi đến hồ Tà Pạ và...cả vách đá bí ẩn kia nữa. Nghĩ đến đây, tự nhiên thấy tiếc. Xen vào đó là một chút hân hoan, vì tôi biết tôi sẽ trở lại, chừng nào tìm được vách đá đó mới thôi. . Càng tiến vào, con đường càng làm cho tôi có cảm giác như sâu hun hút. Tán cây càng lúc càng dày đặc, thỉnh thoảng có loài chim lạ nào đó bay ngang làm tôi hết sức thích thú. Phía rừng ngập nước là những gốc cây tràm to đến gần cả người ôm, gốc đen sì tua tủa những rễ hay cái gì đó của một cây khác. Nước hơi đen và có bọt váng. Các gốc cây nằm gần nhau, đan xen như một mê cung khổng lồ. Thỉnh thoảng, ẩn hiện sau những gốc cây tràm, tôi thấy có vật gì đó nổi lên rồi lại chìm xuống, dài hơn mét rưỡi, đen và tròn, như kiểu bong bóng căng lên. Tôi nghĩ một là có cá gì đó, không thì do con vật nào chết rồi trương lên. Nhưng không có mùi hôi. Phía rừng bên tay trái tôi, ngăn bởi con kênh nước ngọt, chừng vài chục mét thì có người bên đấy, chắc là mấy ông bên kiểm lâm. Có khi họ quay lưng với tôi, có khi họ nhìn theo kiểu tò mò, có cả mấy đứa nhỏ nữa. Mà mấy ông kiểm lâm này ăn mặc khá đa dạng, sơ vin có, bèo nhèo có. Mà họ chỉ đứng im đó thôi, kiểu như đứng đã lâu rồi. Rừng bên đấy thì thưa, trồng giống cây khác nhưng lá dày đặc hơn, phía dưới là cỏ ngang đầu gối. Vừa chạy xe vừa ngắm cảnh, bất chợt tôi phát hiện ra một điểm chung lập đi lập lại của khu rừng này. Cứ khoảng bốn năm cây lại thấy cột một miếng vải màu đỏ, sâu trong rừng, thấp thoáng phía sau những miếng vải màu đỏ này là những sợi dây thừng treo lủng lẳng trên cành cây. Vì chạy xe rất chậm nên tôi có thể thấy rõ: những sợi dây thừng này bị cắt ngang chứ không hề đứt một cách tự nhiên. Thấy khá tò mò nhưng cũng không thể lí giải nên tôi chỉ biết nhún vai cho qua, tấp xe vào cái quán cóc làm ly cà phê sáng cái đã. Quán cóc này có diện tích nhỏ nhưng vì nằm trong rừng, được những cây tràm già nhất bao phủ nên chỉ cần nhìn thôi là đủ biết nó thoáng mát như thế nào. Chỗ này lần trước đi tham quan tôi cũng có ghé ngang, nhưng lúc đó đi với nhóm bạn nên không để ý kỹ. Quán có khoảng năm bộ bàn ghế, tất cả đều làm từ những thanh gỗ trông khá mục nát, nhưng khi tôi ngồi xuống thì thấy độ rắn chắc không phải tầm thường. Cách chỗ tôi ngồi một bàn, có hai người độ bốn mươi ngoài đang ngồi nhậu. Mồi màn trên bàn đã cạn, chỉ còn chai rượu đế. Hai người họ đang huyên thuyên về chuyện trục vớt gì đó, nhưng vì tôi chưa có miếng cà phê nào trong người nên chỉ nghe chữ được chữ không. Chủ quán là một bà lão, không biết bà bao nhiêu tuổi, chỉ thấy nếp nhăn dường như đã chiếm gần hết khuôn mặt. Thị giác của bà, nếu còn tỏ, chắc chỉ thấy thế giới như một đường kẻ. Lưng bà khom gần tới đất, còn giọng nói thì đục như dòng kênh sau căn chòi của bà. Nhận ly cà phê, tôi nói cám ơn nhưng dường như bà không nghe thấy. Tôi đốt điếu thuốc, hớp ngụm cà phê, rít một hơi thật sâu, để cho hương cà phê đi theo dòng khói chạy khắp cơ thể, trở thành loại thuốc tiên của những người chưa tỉnh ngủ. Mà, tôi đã thừa biết hút thuốc lá là có hại cho sức khỏe. Giờ tôi mới bắt đầu chú ý tới những lời hai người đàn ông kia nói với nhau. Chú lớn tuổi hơn có một nốt ruồi dưới cầm, mặc nhiên trên đó mọc ra những cọng râu trông như dòng thác. Tôi biết chú lớn hơn vì cách xưng hô thôi. Chú còn lại có đôi mắc xếch, môi dưới khá dày chống đỡ cho cánh mũi cứ phập phồng. “...tao nói, bữa nào lội mương mà không nghe mùi là bữa đó khỏe”, chú lớn tuổi vừa nói, vừa vuốt mấy cọng râu, “còn gặp như bữa hổm thì thôi thôi...” “Tại anh hên thôi anh Tám ơi”, chú nhỏ cự, “bên phía tui tuần này tính ra thôi là ba cái!” “Trên bờ hay dưới mương?” “Trên bờ hai, dưới mương một! Mà ngặt, cái dưới mương hết kéo lên được. Phải lấy chài lôi lên.” “Bị “nó” níu lại đó, lần đó tao cũng bị, hai cái dưới gốc tràm, “nó” lôi vô tới đó luôn mày, tao gỡ không ra tới khi cúng nó mới nhả ra đó” “Bởi vậy, thà là cắt mấy cái trên cây xuống nhẹ hơn dữ dằn” “Ơn trời. Mô phật, mô phật!” Nói tới đó, hai người rót rượu đầy ly rồi cùng nhau cạn. Xong rồi mỗi người lại nhìn một hướng, vẻ mặt đăm chiêu thấy rõ. Tôi thấy vậy cũng không để ý tới họ nữa. Đưa mắt nhìn một vòng, tự nhiên thấy tít ngoài sâu trong khu rừng, đối diện với chòi nước có thứ gì đó đang đong đưa. Nhìn kĩ thì thấy đó là một chiếc võng, dây nhợ thòng xuống cả đất, chắc đã bị thủng. Xung quanh nó là các cây rừng, mật độ cũng khá dày, cỏ không cao lắm nhưng nhìn âm u. Chiếc võng này được mắc giữa hai thân cây nhỏ, dưới đất, lá khô chất đống giống như đã lâu lắm không ai nằm đó để phải gạt cỏ ra. Tôi nghĩ chắc là có gió mạnh ngoài kia lắm, vì cái võng bị thổi nghiêng sang một bên, sau đó dường như gió lặng nên nó lại rơi xuống, đong đưa qua lại. Rồi lại có gió, chiếc võng bị thổi, rồi gió lại tắt. Có nhịp điệu hẳn hoi, nhìn cũng khá giống với việc có ai đó ngồi lên, lấy trớn, rồi thả ra cho võng lắc lư, mà cũng giống thật vì phần võng bành ra chứ không xếp lại như khi không ai nằm. “Chú ơi”, tôi nghe chất giọng đục ngầu của bà lão nên quay lại, “chú từ đâu tới?” “Con ở Sài Gòn ngoại ơi!” Bà cụ bị lãng tai, không nghe rõ tôi nói gì nên hếch cả mồm lên, làm vẻ mặt nghiêm trọng. Tôi thấy vậy liền hét câu đó thêm lần nữa. “À, người “xì phố” đi du lịch phải chưa. Lâu lâu cũng có dăm ba cô chú đi lạc vô như chú vậy đó!” “Con không có đi lạc ngoại ơi”, tôi thét lên, “mà ngoại cho con hỏi, cái võng ngoài kia của ai nằm mà rách hết trơn vậy ngoại?” Bà cụ thấy tôi chỉ tay cũng cố gắng hết sức nhướn phần thịt trên chân mài lên nhìn theo, nhưng chắc vô vọng rồi. Sau đó thì bà ngoài cả người về phía đó luôn. “Võng nào? Có kiểm lâm người ta ngủ trên tháp canh mới mắc võng, chứ rừng rú làm gì có võng?” Chắc bà không thấy nên tôi cũng ậm ừ lái qua chuyện khác. “Ngoại ơi, ngoại biết mấy miếng vải đỏ với mấy sợi dây thừng trong rừng không?”, tôi nghĩ bà sống ở đây lâu rồi nên chuyện này chắc kèo là bà sẽ biết. “Người ta chết trong rừng đó chú,” bà thả câu nói nhẹ tơn, như thả cái lông gà lông vịt, “dây thừng là người ta treo cổ phải cắt thì mới đưa xuống được. Gỡ không ra. Còn miếng vải đỏ là của mấy ông thầy chùa cột, để siêu thoát. Với lại người nhà cũng biết chỗ mà lại đốt nhang. Thỉnh thoảng cũng có xác chết trôi...” Đột nhiên, bà dừng lại giữa chừng như sực nhớ hay sợ hãi điều gì đó, quay ngoắt cổ về sau làm những thớ thịt già nua cong lại, sắp lớp. Tôi nhìn theo hướng đó, trong nhà, trên một cái bàn gỗ đã cũ, có một cái lư hương, nhang vừa cháy hết, phía sau là một bức ảnh thờ, đáng lý ra là vậy, nhưng trong khung ảnh thì không có gì cả. Không ảnh, không hình, cũng không có cả chữ tàu chữ tây. Chỉ đơn giản là một khung ảnh thờ màu đen, bên trong lót một tấm carton, bên ngoài cũng có tấm kính. Khung ảnh đã mòn hết mép, lấm tấm những chỗ như bị nhang chấm vào. Bà lão đứng dậy, lật đật chạy vào thấp một nén nhang mới như sợ cái chuyện bàn thờ lạnh tanh thì có cái gì đó ghê gớm lắm. Tôi thấy vậy liền để lại hai mười nghìn rồi đứng lên đi về. Trên đường ra, gió thổi cây rừng kêu xào xạc như phụ họa cho tiếng lòng tôi cũng đang gào thét dữ dội; một cảm giác gì đó làm tôi cứ bồn chồn không yên. Tôi nghĩ về cuộc hội thoại của hai ông chú, những lời nói của bà lão và hàng loạt những chuyện khác tôi đã trãi qua trong hành trình về Bảy Núi lần này. Chẳng lẻ tôi muốn được tin và được sợ? Tôi dựng xe, cảm thấy luyến tiếc. Khoảng chưa tới mười tiếng đồng hồ nữa thôi là tôi lại trở về với hồ sơ, với bộn bề công việc, với xe cộ, đèn đường và con người. Tôi ngồi khụy gối, bất giác bốc một nắm đất rồi thả cho gió mặc sức cuốn đi, ngước lên nhìn, trên cái cây trước mặt tôi là miếng vãi đỏ đang phất phơ như gửi lời tạm biệt. “Meo.” Sau lưng tôi, bên kia đường, một con mèo đen đang ngồi chễm chệ. Nó nhìn tôi, kêu thêm vài tiếng nữa. Chợt đôi mắt nó như trợn lên, hớt hải chạy về phía tôi, lông trên lưng nó dựng ngược. Tôi tưởng nó chạy sang chỗ tôi cho tôi nựng nịu nên cũng có chút mong chờ. Nhưng tôi đã lầm, ánh mắt nó không phải trợn ngược với tôi mà với cái gì đó sau lưng tôi. Có lẽ vậy. Nó làm tôi thoáng giật mình quay ra sau thì không có gì cả. Đường vẫn vắng ngắt. Nó chạy ngang tôi cái “vụt”, lúc tôi quay lại thì chỉ thấy cây cỏ động đậy chứ không thấy bóng dáng nó nữa. Mà kể cũng lạ, tôi có cảm giác con mèo này như chỉ có cái đầu và hai chân trước. Như con người thiếu đi phần thân giữa. Hai cái chân uyển chuyển, còn đầu thì to quá khổ. Chắc nó chạy nhanh quá tôi nhìn không rõ. Xe chạy ra đường lớn, ngoái đầu nhìn lại con đường vừa thơ mộng vừa ma mị thêm một lần nữa, những sợi dây thừng đong đưa, mảnh vải phất phơ, nước ngập đen ngòm cả khu rừng bên kia, bất giác tôi nghĩ: “Lỡ chân té xuống mà mắc kẹt trong cái gốc tràm đó chắc trời mà biết."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6 :  Chương 6: Chuyện kể của Hùng Bon-sai - Vong Mèo Ma ở Chùa Khmer


Đã ba giờ sáng và tôi không thể chợp mắt nổi, buổi café lúc tối quá ám ảnh tôi. Sau câu chuyện về chuyến đi An Giang, cả 3 cùng nói chuyện phiếm thêm một chút nữa rồi cũng về khi đã khuya. Không phải do tôi say café mà ngủ không được, mà là vì câu nói của tay Hùng bon-sai. Lúc ra bãi xe, do cứ bị thôi thúc về thái độ khó hiểu của gã, tôi đã hỏi là gã cảm nhận gì về chuyện của tôi. “Chú em còn sống về được tới đây là được ông bà đỡ cho rồi đó” – hắn trả lời tỉnh queo rồi quay xe đi, trước khi khuất vào bóng tối, hắn quay ra sau nói vọng lại: “Có dịp café nữa đi rồi anh kể cho nghe!”. Ý ổng là gì vậy? Không lẽ những nơi mình đi qua trong chuyến vừa rồi đều có ma? Nếu vậy thì có thể lý giải được những chuyện kỳ quặc, tuy nhiên mình có thấy ma cỏ nào đâu? Những câu hỏi đó cứ xoáy vào tôi làm mắt tôi nặng dần rồi nhắm lại. Gió vẫn thổi ào ào bên ngoài cũng như cái đêm ngủ trên núi, nhưng không còn tiếng dậm chân bịch bịch nữa. Sáng hôm sau, tôi có đi ngang quán café hôm qua và thấy tay Hùng đang ngồi đó với một cậu trai trẻ, chừng cấp ba. Tôi định vào bắt chuyện, nhưng bỗng cậu trẻ kia tức giận chuyện gì rồi đùng đùng đi ra. Hùng vẫn ngồi điềm nhiên, cặp mắt vẫn sắc lẻm nhìn theo bóng cậu trai trẻ kia theo kiểu đề phòng thằng bé đó làm chuyện càn quấy. Thấy có cơ hội, tôi giả vờ đi ngang để bắt chuyện, tôi nói: “Đang cãi nhau với em anh hả?” câu hỏi đó phá ngang khuôn mặt suy tư của tay Hùng. Thấy tôi gã không tỏ vẻ ngạc nhiên gì mấy, giống như đều nằm trong dự định của gã cả. Hùng nói: “Đâu phải, anh mới gặp người này lần đầu, nhưng anh cảm nhận được từ từ anh em mình cũng có dịp gặp lại nó”. Tôi không quan tâm thằng bé ấy, ngọai trừ thấy nó có đôi mắt sắc lạnh, mặt sáng, mà tay Hùng nói là tôi và gã? Ý gì nhỉ? Gã mời tôi ngồi, rồi như thói quen, gã châm điếu thuốc mới và nói: “Đêm qua khó ngủ lắm đúng không chú em?” “Làm gì có” – tôi đáp lại, còn gã chỉ cười. Kiểu như gã thực sự đọc được tôi đang nghĩ gì nên gã vào đề luôn mà không vòng vo nữa: “Ba năm trước, anh cũng có một chuyến đi Bảy Núi giống chú vậy đó, lần đó anh suýt chết không dưới chục lần… Những địa danh hôm qua chú kể, đối với anh không khác gì tử lộ cả. Mỗi nơi mỗi cảnh đều có những câu chuyện kinh dị đến rợn người mà nếu anh không thập tử nhất sinh với nó, chắc anh cũng không tin.” Nhận thấy tôi còn đang mắt tròn mắt dẹt nửa tin nửa ngờ, Hùng đưa tôi một điếu thuốc, rồi bảo tôi làm một hơi cho tỉnh táo lại. Nhấp một ngụm lớn café, kéo thêm hơi thuốc, đầu óc tôi bớt chút căng thẳng để sẵn sàng cho câu chuyện của Hùng. Tôi có linh cảm, sau cuộc nói chuyện hôm nay, đời tôi sẽ rẽ sang một hướng hoàn toàn khác. Hùng Bon-sai cũng kéo thêm một hơi thuốc, khói bay lên tràn ngập, rồi gã bắt đầu kể. Theo quan niệm xưa, mỗi ngày Quỷ Môn Quan sẽ mở một lần lúc giờ Ngọ ba khắc (12h) và đóng lúc canh ba ba khắc (00h), đó là dựa vào khí âm dương trong trời đất. Sau 12h trưa, dương khí sụt giảm dần, âm khí trong trời đất bắt đầu lớn mạnh, cho đến đỉnh điểm vào 00h, rồi âm khí lại suy tàn nhường cho dương khí, cứ thế vận động không ngừng. Những người sinh vào giờ Ngọ và giờ Tý đặc biệt hơn những người khác, thường những ai sinh vào giờ Tý, chịu sự ảnh hưởng lớn dần của dương khí, nên vía rất cứng, khó thấy được chuyện ma cỏ, và ngược lại cho ai sinh giờ Ngọ, do âm khí đang hồi lấn át cho nên đối với họ, cánh cổng thông tới Quỷ Môn dường như lúc nào cũng mở, thấy được âm giới như cơm bữa. Hùng sinh vào giờ Tý, ngày Tý, năm Tý, thuở nhỏ có ông thầy bói bảo cậu ta có số Ô Thử Kim Huyệt tức là con chuột đen trong cái huyệt vàng. Tương truyền trong những lăng mộ xây theo phong thủy, trong những long mạch tốt, các con chuột trong đó hấp thu được linh khí đất trời, có thể đi bằng hai chân, mắt màu xanh lục, lông đen tuyền như mèo, to như gà mái. Giống chuột đó hết sức quý hiếm, cũng là một báu vật trong phong thủy. Tuy cầm tinh chuột nhưng Hùng không hề tỏ ra nhút nhát. Từ bé hắn đã nổi tiếng gan dạ và quậy cùng làng cuối xóm. Lớn lên, Hùng không thích làm việc nhàn hạ mà chỉ đi phiêu lưu đây đó săn “lan”. . “Lan” là tiếng lóng, ám chỉ việc tìm đồ quý trong rừng như trầm hương hoặc đá quý. Ba năm trước, Hùng cùng một người em kết nghĩa lên đường đi Bảy Núi để tìm Ngọc Rết, lọai ngọc màu đen tuyền, nhìn như con rết nên có tên như vậy. Có lần Hùng đi săn đồ cổ, thấy có người bảo là ở vùng Tri Tôn, Tịnh Biên, gần núi Két có một cái vách đá, ở đó có Ngọc Rết,tuy nhiên người này lại mua viên ngọc từ một người “trồng lan” khác, cho nên không biết đường đi. Bộ sưu tâp ngọc của Hùng có nhiều loại, duy chỉ có ngọc rết là chưa, vây nên anh ta rủ thêm một người em nữa đi chung. . Kể tới đó, Hùng bỗng ngừng lại châm điếu thuốc rồi quay sang nhìn tôi, nói: “Cái chùa Khmer đầu tiên em kể, nó là cái Quỷ Môn đầu tiên anh lướt qua ở vùng Bảy Núi!” Tôi hỏi lại: “Quỷ Môn? Ý anh là anh suýt chết ở đó? Tai nạn hay sao anh?” Hùng đáp lạnh tanh: “Quỷ, anh gặp quỷ, vong quỷ con nít trong những cái xác mèo, mấy ông thầy trừ tà hay gọi là Vong Mèo!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7 :  Chương 7: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Tiên cá dưới hồ Tà Pạ


Trong giới “trồng lan”, có hai loại bảo vật họ rất thích, một là trầm hương và kỳ nam, vốn có nhiều ở vùng miền Trung, Tây Nguyên và hai là các loại đá âm dương. Đá âm dương thực chất là một dạng đá phong thủy mà công dụng chính là để tạo ra thêm phần âm hoặc phần dương để cân bằng với không gian xung quanh. Chúng ta thường nghe rằng, những vật phong thủy đặt ở những phương vị phù hợp, có thể hóa hưng thành cát cho gia chủ, kỳ thực những vật đó như chiếc đinh, níu giữ những “khí lưu” tốt với mệnh người dùng nó, chứ chưa hẳn là có thể hóa hung thành cát, nôm na mà nói, cũng như uống thuốc cầm chừng ngăn bệnh phát tác ra hơn nữa mà thôi. Phong thủy có mối liên quan hết sức mật thiết với lý thuyết Kinh Dịch, bản thân phong thủy cũng là một hình thức khai thác năng lượng tâm linh dựa vào bày trí, cho nên mới nghe những chuyện dựa vào thế núi sông để phân kim định huyệt tầm long mạch. Sự cân bằng là mấu chốt. Phàm những huỵêt gọi là xấu hoặc tốt, đều là do nơi đó có mất căn bằng giữa âm và dương hay không, nhiều dương quá thì khô héo, nhiều âm thì mục rữa, nguyên lý vũ trụ cổ kim là thế. Lại nói về chuyện “trồng lan” dùng đá và ngọc, vốn dĩ dựa vào xuất xứ, có những loại đá ngậm âm nhiều hơn dương, cũng như có nhiều loại ngọc bồng âm nhiều hơn cõng dương, nếu lấy những vật đó đặt vào những nơi mất căn bằng như đã nói, có thể điều tiết năng lượng, hóa hung thành cát là vậy! . Ngọc Rết kỳ thực là đá đúng hơn là ngọc, nó là lớp nằm xen kẽ giữa các phiến đá vôi, do nhựa cây hoặc loài động vật nào đó mắc kẹt, thời gian biến đổi thuộc tính, tạo thành tinh thể màu cánh gián, thường ở dạng thỏi, uốn lượn như con rết, ngang chừng một phân, dài chừng bảy tám phân đã là cực phẩm. Giới “trồng lan” xưa nay đúng là có đồn về một loại thượng hạng cực phẩm của Ngọc Rết, tên gọi mỹ miều là Ngô Công Kim Thân Ngọc, loại này thì đúng là từ con rết mà thành. Tuy nhiên chưa ai từng thấy cả, chỉ nghe nói nếu có con rết sống trong rễ cây, lúc nó dài chừng ba tấc ba mà cái rễ cây đó hóa bùn, trong điều kiện ấy đủ thời gian thì thân thể con rết hóa thành ngọc màu xanh, vân trắng. Cơ hội để chuyện đó xảy ra, nói thôi đã thấy cực kì nhỏ, họa chăng lại bằng không. . Hùng thích săn đá hơn là tìm kỳ nam hoặc trầm hương, săn đá dễ bán, dễ tìm hơn hai loại kia và quan trọng hơn là tính mạng ít bị đe dọa. Bởi vậy mới có câu “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”. Đó giờ Hùng chỉ nghe dân săn đá bỏ mạng vì té khi đang leo núi là cùng, chứ chẳng nghe ai bị hổ vồ, ma giấu, quỷ moi gan giữa rừng do đi săn đá cả. Tuy nhiên, giới tìm kỳ nam hoặc trầm hương thì những chuyện như vậy rất nhiều. Lần này đi tìm Ngọc Rết, Hùng muốn bổ sung vào bộ sưu tập của mình, nếu được vố đậm thì kiếm ít tiền mua con xe mới, với lại y rất hào hứng khi nghe người ta kể ở vùng Tri Tôn, có một vách đá chỉ thấy mà không đến được, tìm được vách đá đó mới tìm được Ngọc Rết. Điều đó thôi thúc gã lên đường. . Đi cùng với Hùng là Thông, một người em trong hội săn đá đã cùng gã kinh qua nhiều vụ “trồng lan” trải dài từ Nam Trung Bộ đến Miền Đông. Thông nhỏ hơn Hùng hai tuổi, dáng người cao to vạm vỡ, đầu húi cua, nước da ngăm đen, tay y sần sùi những vết sẹo sau những chuyến phiêu lưu. Đôi mắt rất “giang hồ”, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống ánh nhìn của kẻ khác. Thông là người Phú Yên, vào nam từ nhỏ, sống ở Biên Hòa với mẹ và người chị gái, từ sau khi mẹ y mất độ bảy năm trước, y cũng bỏ nhà chuyển xuống Sài Gòn, rồi từ đó gặp Hùng và thành anh em. . Hai người lần đầu đến An Giang, vùng đất linh thiêng Cửu Long với Thất Sơn oai linh và thâm trầm. Trước giờ Hùng chưa có dịp xuống đây, vì “lan” miền ngoài đã nhiều và dễ kiếm nên y cũng chẳng để tâm Nam tiến làm gì. Do không biết đường, loay hoay một hồi thế nào cứ vòng quanh Tri Tôn, họ dừng xe dưới một tán cây thốt nốt. Quang cảnh trước mắt Hùng thật yên bình với đồng lúa xanh và những dãy núi nằm im lặng dưới mây. Lúc này đã là 5h30 chiều. Ánh nắng gay gắt còn sót lại chiếu vào mặt Hùng khi anh quay một vòng để nhìn toàn cảnh. Mắt anh nheo lại để nhìn cho rõ trái núi trước mặt mình. Lưng chừng núi có một ngôi chùa Khmer, dáng vẻ hùng vĩ được chống đỡ bằng những cột đá sừng sững càng làm cho nơi đó trở nên tráng lệ đến lạ thường trước nắng chiều. Hai người thấy vậy mới nảy sinh suy nghĩ là đêm nay tá túc ở đó, phần vì mây đen đang kéo đến và họ lại kẹt ở giữa vùng đồng không mông quạnh, đến cả nấm mồ còn không có cho nên họ nhanh chóng trực chỉ hướng ngôi chùa. . Đường dẫn đến ngôi chùa là con đường đất, đủ cho hai xe chạy song song, mặt đường còn hơi nhão do cơn mưa hôm qua, hai bên là cỏ cao tới gần đầu gối, cứ chục mét lại có một cây thốt nốt. Núi nhìn thì gần nhưng do đường quanh co nên chạy cũng khá mất thời gian. Khoảng 6h, họ mới đến chân núi. Trước mặt Hùng là một con dốc, nghiêng chừng bốn mươi độ, mặt dốc phủ một lớp rêu mỏng, từ dưới dốc nhìn lên phía trên bị tán cây phủ cho nên không biết cuối đường là gì. Chỗ chân dốc có một cái cổng bằng xi măng, hai bên tạc hình thần thú sư tử kiểu Nam Tông, trên cổng là tượng một vị Phật có ba mặt, lan can là hai bức tượng quái xà chín đầu nhe nanh đầy hung dữ. Kế bên Hùng có một bó nhang cháy gần hết. “Này là đường âm!”, Hùng nói, mắt nhìn vào con đường sâu hun hút. “Đường âm là sao?”, Thông thắc mắc. “Đường này thường dẫn đến khu nghĩa địa sau chùa, họ xây một cái đường để hồn ma có thể từ trên đó đi xuống mà không phạm vào đường của con người, dưới này có tượng Phật và rắn thần, mục đích là để ngăn bọn ma quỷ vào khu nghĩa địa quấy phá, ăn vong, có vậy người chết mới siêu thoát được. Mà anh thấy âm khí chỗ này quá nặng, tất nhiên sẽ có vong không chịu đi, thường sẽ trú ngụ trên mấy cái cây gần đó, hù dọa những người vô tình đi vào đường này, em thấy mấy cái vết rêu bong ra không? Do người ta té lăn từ trên đó xuống đó”. Nói đoạn, Hùng lấy một viên đá, khắc lên dòng chữ “Cấm chạy xe lên”, bên con sư tử còn lại là chữ “Stop”. . Sau khi khắc xong, Hùng đứng nhìn một lát nữa, thấy vừa ý mới quay sang nói với Thông: “Anh với chú cất xe ở đây, rồi đi bộ lối này lên”. Thông đã quá quen với tính khí của Hùng nên anh cũng không buồn hỏi nữa, Hùng làm vậy hẳn phải có lý do, có vẻ như anh đánh hơi được gì đó trong cái không gian đặc sệt âm khí này! Còn chiếc xe, quá tồi tàn để bọn trộm có thể để ý, một chiếc wave nát. Hai người để nó vào một bụi cây, rồi thận trọng bước lên con dốc đầy rêu. Tuy hơi trơn, nhưng do mặt dốc ghồ ghề, cộng với đế giày bám nên họ đi cũng không khó khăn lắm. Vừa đi, Hùng vừa đọc lầm rầm một bài chú bằng tiếng Phạn, tay nắm chặt cây dao găm. Thông cũng làm tương tự. Họ hành sự chung với nhau cũng bốn năm năm rồi nên có những chuyện không cần phải nhắc. Con dốc nhìn từ dưới lên thì chỉ thấy tối, nhưng khi đi lên còn thấy cả lạnh, cảm giác lưng đổ mồ hôi như có ai đang đu trên người mình vậy. Tán cây rậm rạp thỉnh thoảng lại kêu xào xạc như có cái gì đó đang di chuyển. Còn chừng ba mươi mét nữa là hết con dốc thì Hùng đã thấy thấp thoáng chánh điện của chùa. Lúc này bỗng nhiên da gà cả hai người đều nổi rần rần khi tiếng con nít khóc bỗng vang lên ngay sau lưng. Kiểu khóc thút thít giống như sắp hết hơi, kèm theo cảm giác uất nghẹn khó tả. Thông nhìn Hùng để xác nhận anh có nghe được không, Hùng khẽ gật đầu, đưa tay lên che tay lại làm dấu là đừng để ý, anh biết là nếu lúc này quay lại, sẽ bị “nó” hù đến hồn xiêu phách lạc, thậm chí bị “giấu”. Không gian đang im lặng đến ngộ ngạt đầy đáng sợ, đột nhiên có tiếng thét vang lên làm Thông choáng váng nhắm mắt che tay lại và ngồi thụp xuống. Tiếng thét im bặt cũng nhanh như lúc nó đến, Thông từ từ mở mắt, lúc này con dốc như biến mất, anh thấy mình đang đứng giữa một khu rừng, xung quanh là sương mù, trên đầu là những cành dây leo đan nhau dày đặc. Mặc dù đã kinh qua những chuỵên tương tự nhưng lúc này, Thông không tránh khỏi cảm giác lo sợ. Đưa mắt nhìn kỹ, những đám dây leo là những chùm ruột còn nhỏ máu! Tiếng khóc xuất hiện trở lại, ngay sau lưng Thông, anh nhanh chóng quay người ra sau, tay lăm lăm cây dao găm, nhưng trước mặt anh chỉ có đứa bé đang cúi mặt khóc. Đứa bé độ sáu bảy tuổi, da trắng bệch, gầy cộc, trên người chỉ có mỗi chiếc quần đùi. Còn chưa biết làm sao, đứa bé đột nhiên nín khóc, ngẩng mặt lên nhìn Thông, tuy môi nó không mở ra nhưng anh vẫn nghe trong đầu vang lên tiếng nói: “Trả mắt cho con chú ơi…!”, khuôn mặt thằng bé đầy vết như bị cào, cắn, thịt rách ra từng mảng rất nham nhở, hố mắt sâu hoắm đen thui - mắt đã bị móc ra. Bỗng cú tát như trời giáng làm Thông tỉnh dậy. Anh đang nằm trên nền đất, phía dưới một kiến trúc tháp Khmer, có vẻ anh vừa ngất đi một lúc và Hùng đã tát để anh tỉnh lại. Đỉnh con dốc là cổng vào khu nghĩa địa của chùa, đúng như Hùng nói. “Em bị sao vậy anh?”, Thông vừa xoa má vừa hỏi. “Nó phá mày chứ gì, lúc nãy mày ngưng niệm chú đúng không?”, Thông khẽ gật đầu, đúng là thật nguy hiểm, lúc nãy đang leo lên gần đến đỉnh, Thông đột nhiên ngã lăn ra bất tỉnh, Hùng nhanh chóng kéo anh theo, lên đến nơi mới dùng gừng xoa quanh mũi và tát để Thông tỉnh dậy. Thường khi bị vong phá như vậy, trong cơn mơ nạn nhân sẽ bị hù dọa, nhẹ thì tỉnh tỉnh mê mê hoặc tâm thần, nặng thì có thể vỡ mật mà chết, như vậy sẽ thế chỗ cho ác vong đó hay làm cho nó thêm mạnh. Hai người đứng dậy, sửa soạn lại đồ đạc, lúc này Hùng mới quay qua giải thích với Thông: Tao nghe mùi kỳ nam lẫn trong mùi tử thi, đâu đó quanh đây có kỳ nam, phen này vố đậm đó mày”. “Anh đoán hay sao? Sao em không phát hiện gì hết?”. Hùng tra dao găm vào bao, nhìn xung quanh một lượt rồi trả lời: “Không, anh biết chắc. Kiến trúc chùa Khmer cổng vào thường là tượng thần Bramah bốn mặt, phía dưới con dốc chỉ có ba mặt thôi, không có mặt hướng lên dốc cộng với con rắn tám đầu, đó không phải lọai rắn tốt, nó tượng trưng cho ma quỷ, cái ác, lúc ban đầu anh nghĩ con dốc này là đường âm như các chùa Khmer bình thường, nhưng sau đó anh thấy con đường này có chủ đích khác, nơi này chính xác là một cái lăng mộ lộ thiên, tuy nhiên không phải chôn người bình thường mà là chôn những người tùy táng hoặc nô lệ hoặc những người lúc sống bị coi là quỷ. Để trấn yểm những người đó, trong mộ họ thường có một cái đinh bằng gỗ kỳ nam, chạm khắc Phật hoặc thần Bà La Môn. Đồ đáng giá đó.” “Có phải những chỗ đó thường có rất nhiều mèo, chôn chung với chủ mộ, mục đích là để mèo ăn phần xác, chia nhỏ hồn phách của chủ mộ để không được siêu thoát, những con mèo đó là vong mèo, sau đó sẽ khoét đất chui ra ngoài lại đúng không anh?”. Hùng gật đầu. Thông nói tiếp: “Sao em không thấy mèo?”. Hùng đứng sang một bên, Thông nhìn phía sau anh là một phần tháp mộ, chỉ lộ ra phần đỉnh tháp, phần thân tháp bị bùn đất lấp đầy, dây leo đan kín, phần đỉnh có một lỗ hổng lớn, bên trong có những cặp mắt xanh nhìn trừng trừng ra hai người họ. . Hùng trầm ngâm, lấy một cuốn sổ nhỏ ra xem gì đó rồi nói: “Nếu đúng như anh nghĩ, vố này đậm đó, nhưng hơi căng”. Thông trố mắt ra hỏi căng vụ gì, Hùng lặng lẽ nhìn vào cái tháp hoang phế rồi nói: “Dưới này, nếu anh đoán đúng, là truyền thuyết đã lãng quên của vùng Thất Sơn, gần đây có cái hồ đá, gọi là hồ Tà Pạ, dưới tháp này là “tiên cá” của hồ đó!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8 :  Chương 8: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Miễu biết hát


Nhắc đến Tiên cá hồ Tà Pạ, đúng là Thông có nghe truyền thuyết này. Rất lâu về trước, trên núi không có hồ sâu như bây giờ, mà chỉ có một khe suối và một cái hồ nhỏ như ao nước. Thường ngày người dân gần đó vẫn đến suối sinh hoạt, tuy nhiên đến một ngày, các vụ mất tích xảy ra. Kỳ lạ là chúng không hề có dấu vết gì cả, giống như những người đó bị bốc hơi vậy! Từ đó về sau, không còn ai dám bén mảng ra suối nữa, kể cả ngày hay đêm, cũng từ đó, dân làng hay nghe được tiếng gì đó như tiếng hát của một cô gái trẻ, chỉ là nhũng âm điệu ngân nga nhưng lại hết sức sâu lắng và da diết. Giữa đêm tĩnh mịch, từ phía suối vọng về âm thanh đó, mười phần chắc chín là không phải điều tốt rồi, tuy nhiên, cứ đêm nào cũng nghe, từ canh ba đến gà gáy cũng làm cho nhiều người nao lòng, đặc biệt là các cậu thanh niên. Có người nọ tò mò, ra suối rình xem thử rồi cũng mất tích, người khác thì quyết chí tìm ra đáp án, gặp ma giết ma gặp quỷ giết quỷ, kéo theo mấy người nữa ra suối. Đêm đó khi tiếng hát im bặt đột ngột là tiếng hét đầy đau đớn vang lên. Rồi không gian lại trở về sự tĩnh mịch, nhưng chỉ một chốc sau, tiếng hát lại cất lên như cũ. . Dân làng hết sức hoảng loạn, cầu cứu quan binh, quan trấn lúc đó cử hai cơ (khoảng 30 lính) đến suối xem xét, lệnh đóng lại đó cho đến khi giải quyết được mối lo cho bà con đặng yên ổn làm ăn mới rút về. Tuy nhiên hôm sau dân làng đem cơm đến thì thấy khung cảnh tan hoang, dưới đất là máu và bùn đất bầy nhầy ruột gan, tứ chi vương vãi như bị xé ra một cách đầy tức giận. Chuyện này làm quan trấn lo lắm, mất hai cơ lính có thể đổ cho phỉ, nhưng nếu ông viết sớ dâng lên triều thì ai mà tin, họ còn gán cho ông cái tội bất tài nữa thì khổ! Tâm trạng bất an, vị quan này mới ra đình thần vái lạy. Lúc này, dân làng xôn xao cả lên, đã bắt đầu có người định bỏ làng ấp mà đi. . Bỗng từ ngoài đình, có một chàng trai độ chừng hai tám hai chín tuổi, tóc búi củ hành, mặt mày khôi ngô, thân hình tuy có vẻ thư sinh nhưng lại rắn chắc, mình mặc áo đạo, tay cầm gậy trúc đến tìm gặp vị quan trấn. Người này nói trên suối có yêu quái, anh ta trị được con quái đó, sáng mai giờ Thìn ba khắc sẽ đem đầu nó đến trình làng, bằng không sẽ chịu làng phạt, anh ta để hành lý lại làm tin, tuy nhiên anh ta chỉ xin làng nếu anh ấy trừ yêu được, thì trong đình thần này có một cái hộp dưới lư hương, trong hộp đó có vật gì thì nó cũng sẽ thuộc về anh ta. Quan trấn suy nghĩ, đình thần lập cũng hơn trăm năm, chưa từng nghe dưới lư hương có vật gì, cũng không đoán nổi nó là đồ gì, có quý giá hay không nên cũng đành thay mặt dân làng mà đồng ý, miễn sao trừ được yêu quái. Chàng trai vui vẻ nhận lời, hẹn sáng mai giờ thìn đem đầu yêu quái đến, nói đoạn anh ta rời đi, mua 2 vò rượu rồi đi thẳng lên suối. Anh ấy lấy trong người ra một số vật dụng như dao, móc câu, rồi cởi lớp áo đạo ra, nai nịt gọn gàng. Trời đã bắt đầu tối, cậu trai ấy nhóm lửa, lấy rượu ra uống với lương khô. Trên núi bóng đêm ập xuống nhanh đến không ngờ, chỉ một chốc sau, xung quanh đã phủ đầy sương mù dày đặc. Chàng trai cứ thong dong vừa ăn vừa uống, đến gần nữa đêm thì ngà ngà, anh loạng choạng đứng dậy định đi vệ sinh, bỗng anh nghe tiếng rẽ nước từ phía suối. Anh vội quay lại, lúc này dưới hồ, chỗ suối đổ vào, mặt hồ như được phủ một lớp lân tinh, ánh sáng màu xanh vừa huyền diệu vừa ma mị chiếu sáng một phần khiến chàng trai thấy được có bóng một người con gái đang ngâm nửa thân mình dưới nước, không gian lúc này thoang thoảng mùi hương rất dễ chịu. . Hiếu kỳ, chàng trai mạnh dạn tiến bước về trước, lúc này, ngoài mùi hương, anh ta còn bị thu hút bởi một giọng hát ngân nga rất nhập tâm. Người con gái nọ quay lưng với anh, chỉ để lộ ra đôi vai trần và mái tóc dài đen nhánh, nước da trắng mọng. Càng đến gần, chàng trai như mụ mẫm cả người, cứ đờ đẫn mất hồn, nhắm hướng cô gái mà đi. Cái hồ này rộng chỉ chừng hai trượng, gọi là cái ao mới đúng, nước ở giữa sâu chừng một trượng (3.3m), gần bờ thì nông hơn rất nhiều. Cậu trai trẻ bước hẳn xuống hồ, hoàn toàn như người mất hồn. Bỗng tiếng hát im bặt đột ngột, cô gái đó như có vật gì kéo về phía bờ, chỉ cách chàng trai gang tấc, tựa hồ đưa tay ra có thể chạm vào làn da ngà ngọc và đôi vai kiều diễm! Không gian lúc này không có một tiếng động, cả núi rừng như đang lo sợ cho chàng trai vắn số, không dám hó hé tiếng nào. Bỗng tảng đá phía sau chàng trai cử động, thì ra đó là một con thằn lằn khổng lồ, lớp da sần sùi làm nó trông như một tảng đá nếu nó nằm im, hai mang của nó có những cái mào trông như loài thằn lằn Mexico. Nó đứng thẳng dậy cao gấp đôi người lớn, miệng nó đầy những nanh sắc đang nhe ra chuẩn bị vồ một cú vào đầu chàng trai. Cú vồ nhanh và canh rất chuẩn, hứng trọn cú đó chắc ngọc đá cũng nát chứ đừng nói gì người thường, nhưng người thanh niên còn nhanh hơn nó vài bậc, lúc nó chuẩn bị vồ xuống, anh đã thủ thế móc sẵn cây dao, nghiêng người ra sau né cú đớp, tay trái cầm dao tay phải anh nắm cái mào, lợi dụng đặc tính loài thằn lằn đớp xong hay rụt cổ lại để nâng người lên cao, một dao đâm thẳng vào cổ con quái tích. . Thì ra chàng trai này lúc sáng đã có lên núi, phát hiện được một số dấu tích sinh sống của loài Tích Thạch Lĩnh (thằn lằn núi đá). Loài này bình thường chỉ dài chừng một sải tay người lớn, nhưng trong trường hợp nó ăn phải ngọc quý giúp hấp thu dưỡng chất không ngừng thì mới to lớn lên nữa, trước đây chàng ta chỉ nghe hoặc thấy Tích Lĩnh dài hai thước là cùng, còn con này dễ phải dài đến sáu bảy thước, tứ chi to như cột, cuối đuôi mọc ra thứ như lông ở đuôi ngựa, ngâm nước nhìn rất giống tóc, con quái Tích này nằm sát mép nước, đêm đến thì dùng phần đuôi phát ra dao động tần số cao, nghe xa như tiếng hát, miệng nó nhả ra chất dịch như lân tinh để tạo mùi và màu mờ ảo làm người ta bị ảo giác, dẫn dụ con mồi đến mép nước rồi một đớp nuốt gọn. Tuy nhiên hôm nay nó đã gặp phải dân trong nghề, dăm ba trò lừa mị đó không qua mắt được cậu trai kia, trong loại rượu anh uống có thuốc chống ảo giác, anh tương kế tựu kế ép con quái phải xuất đầu lộ diện. . Cú đâm vừa rồi tuy mạnh nhưng vẫn chưa làm con Quái Tích kia suy yếu, nó hất chàng trai ra rồi lui về sau, ghè cổ xuống, thè lưỡi, giương mắt ra quan sát. Chàng trai lộn vòng rồi đáp đất nhẹ nhàng, trong lòng đã có cách đối phó nên mạnh dạn lao tới, sẵn tay phóng cây móc về phía con quái. Con quái dễ dàng dùng đuôi đánh văng nó đi, toan giơ vuốt lên toan tán vào chàng, nhưng anh đã tính trước, cái móc câu chỉ để con quái phân tâm, trong tích tắc anh hạ thấp người, trượt đến dưới cằm con vật, tay phải anh cầm chắc con dao, lợi dụng cú trượt người để rạch một đường dài dưới cổ nó. Đối với loài Tích Lĩnh này, điểm yếu chỉ có tim, nó có hộp sọ dày, khó dùng tay đánh nát được, tim thì nói dễ không dễ nói khó không khó, do nó nằm dưới thấp, phải tiếp cận rất trầy trật. Cú rạch vừa rồi tiếc là vẫn chưa đủ lực chọc thẳng vào tim nó tuy nhiên cũng làm nó trọng thương. Con vật điên tiết lên, dùng chi trước cào vào chàng trai để gạt ra, anh ta giơ tay ra đỡ liền bị hất đi xa vài thước. Cũng may anh đã chuẩn bị sẵn, dưới lớp tay áo là những mảnh kim loại, không thì tay anh đã bị chặt thành bốn khúc! Con quái đang suy yếu, nó có dấu hiệu thoái lui để chạy trốn, nếu để nó trốn thì e là bắt lại nó khó hơn lên trời. Nghĩ vậy anh ta tiếp tục tấn công, anh ta chạy vòng về hướng con quái định bỏ chạy, ném móc câu về phía nó, lần này nó đã đề phòng hơn chỉ né tránh chiếc móc, mắt vẫn đề phòng đối phương, tuy nhiên anh ta vẫn xông tới đầy chắc chắn, vào thế kẹt, nó phóng chiếc lưỡi ra, quấn chặt người anh ta, định lôi cho cả vào miệng. Tuy nhiên, cậu trai chỉ đợi có vậy, vung dao lên cắt đứt chiếc lưỡi đầy gai nhớp nhúa. Con vật chồm dậy rống lên thảm thiết, thấy nó đứng cao người, anh nhanh chóng nhắm ngay ngực nó ghim thẳng một dao gần lút cán rồi lách sang một bên đề phòng nó đổ gục đè lên anh. Con quái giẫy vài giây rồi đổ xuống, âm thanh vang lên như đá đổ, cát bụi bay mù mịt. . Ban sáng, khi lên núi xem xét, biết được trên này có một con Cự Tích Lĩnh, nhưng không biết nó trốn ở đâu, nên anh đành bày mưu kế bắt giết nó. Vì anh biết, để một con Tích Lĩnh thường trở thành loài Cự Tích thì hẳn là nó đã nuốt được bảo vật, với lại lúc anh đi ngang đình, nhận thấy kiến trúc nơi đây rất khác lạ, chỉ là một mái đình nhưng lại tuân theo phong thủy mộ táng bậc đế vương đến lạ lùng, chỉ có thể ngôi đình đó là nơi nằm lại của một cao nhân nào đó, theo lý thuyết, các lăng mộ bình thường, vị trí vào huyệt tương ứng ở đình này chính là ở cái lư hương lớn, anh đoan chắc dưới cái lư hẳn có thứ quý giá, cho nên một công ba việc, vừa trừ hại cho dân vừa có được hai bảo vật. Đợi con quái chết hẳn, anh rạch phần bụng nó ra. Trong bao tử nó vẫn còn bầy nhầy thịt người chưa phân hủy, mùi hôi thối nồng nặc, anh ta lấy gậy bươi ra một hồi thì thấy có gì đó như cái kén, dính chặt vào thành bao tử con quái. Cắt lớp kén ra, bên trong nó có một lớp đá lấp lánh, vừa nhìn thấy nó, anh ta hết sức ngạc nhiên, cực phẩm trong dân gian tên gọi đá Hổ Tủy. Nó kỳ thực là phần xương hổ mọc thừa, ở những con hổ lâu năm, phần xương này lẫn vào các tinh thể lấp lánh trong suốt như thủy tinh nhưng cứng chắc vô cùng. Anh giơ viên đá ra, cẩn thận gói vào tấm da rồi thản nhiên nằm đó ngủ. . Hôm sau đúng hẹn, giờ Thìn, dân làng đứng đầy cả sân đình, đêm qua chắc ai cũng được một phen hú vía khi nghe tiếng gầm thét vang trời của con quái, họ cũng phần nào tin tưởng người tráng sĩ đã thành công vì sau đó không còn nghe tiếng hát nữa. Ba khắc vừa điểm, từ xa xa, dân làng đã thấy dáng thư sinh của anh chàng nọ, dáng người nhỏ nhắn vác theo vật gì to lù lù sau lưng, nhưng anh vẫn đi rất nhẹ nhàng. . Anh đặt cái đầu của con quái giữa sân đình, trẻ em thì khóc thét còn đàn bà thì không ai dám nhìn. Chỉ có mấy tay thanh niên tò mò đến gần xem xét kỹ. Vị quan trấn hết sức vui mừng, mời chàng trai trẻ ở lại làng ít lâu, nhưng anh ta nhất mực đòi đi, mới xin quan và làng lấy vật báu như ước hẹn. Họ kéo nhau vào sảnh, nơi đặt chiếc lư đồng đường kính cũng phải năm tấc, vậy mà anh nhấc nó lên như không, dưới cái lư đồng là một hốc đá, bên trong chỉ có một khúc gỗ. Ông quan và mọi người tỏ ra khó hiểu lắm, còn anh chàng nọ thì lại tỏ ra vui còn hơn nhặt được vàng, vội cáo từ mọi người. Trước lúc đi, vị quan có nói: . “Lý mỗ hết sức cảm tạ tráng sĩ, nạn này không có tráng sĩ cứu giúp chẳng phải bá tánh phải lầm than hay sao, công ơn của tráng sĩ, Lý mỗ không biết cảm tạ làm sao cho đặng!” Vị tráng sĩ nói: “Gặp việc nghĩa thì nên ra tay cứu giúp, vốn là chuyện bình thường, quan ngài chớ nên suy nghĩ. Tuy nhiên, con quái này đã thành tinh, ngài nên đem phần thân nó rồi làm thế này…” đoạn ghé tai nói nhỏ với quan trấn. Vị quan cung kính gật đầu,nói: “Chẳng hay cao danh quý tánh của tránh sĩ là chi?” Chàng trai trẻ đáp: “Tại hạ họ Võ, tên Kỳ Hưng, quan ngài chớ khách sáo”. Nói rồi Võ Kỳ Hưng cầm khúc gỗ đi thẳng, thoắt cái đã chẳng thấy đâu. . Sau đó, vị quan trấn theo lời của Kỳ Hưng, xây một ngôi mộ nhỏ, dùng cọc kỳ nam chạm tượng Phật ghim vào tim, chôn chung với mèo để linh hồn con cự tích không quấy phá dân làng, ở đó ông cho dựng một ngôi chùa Nam Tông vì lúc ấy bên Chân Lạp (Campuchia ngày nay) đang có chiến tranh, sư sãi di cư qua nhiều. Sau nhiều biến động thời cuộc, ngôi chùa ngày xưa không còn nữa, trên phế tích của nó mọc lên ngôi chùa mới, nhưng Thông và Hùng phán đoán, phần mộ con thằn lằn kia hẳn vẫn còn bên dưới cùng với khúc kỳ nam. Thông quay sang hỏi Hùng: “Rốt cuộc ông đạo sỹ kia tìm thấy vật gì nhỉ?” Hùng chỉ cười rồi nói: “Đợi đi, có dịp anh cho mày biết.” Thông gật đầu rồi Hùng nói tiếp: “Không ngờ chuyến này gom được nặng như vậy, nhưng không phải chuyện chơi, giờ mà đào lên dễ gì người ta chịu, đêm nay chắc đành phải tá túc ở chùa này rồi mới tính được”. Thông đồng ý với kế hoạch này, ngoài kia đã bắt đầu mưa, trời này có khi mưa lớn đến sáng, xung quanh là đồng trống thì biết đi đâu được. Hai người họ gom đồ đạc, nhắm hướng chánh điện mà đi. . Khu nghĩa địa sau chùa này âm u hơn những khu nghĩa địa trong chùa khác mà cả hai biết. Nó lạnh lẽo và ma quái với những tháp mộ Khmer xen lẫn mả kiểu người Kinh bình thường, tất cả được phủ bởi lớp dây leo mỏng, dưới đất là cỏ rậm rạp chạy theo con đường nhỏ quanh co. Hùng quay sang dặn kỹ Thông lần nữa: “Đêm nay mày phải để dao dưới gối, giữa đêm dù có nghe thấy gì cũng không được quay lại nhìn, không ra khỏi chùa, khi đó cứ bình tâm niệm chú là được. Mày mà ra, tao có ba đầu sáu tay cũng không cứu mày được đâu”. Thông tỏ vẻ nghi hoặc, thấy vậy Hùng tiếp lời: “Lúc nãy tao nói chuyến này vồ đậm, lý do là vì nếu tìm được cái mộ dưới kia, khúc kỳ nam đó đáng giá một, còn thứ khác chôn chung lại đáng giá mười đó! Xung quanh khu này không phải là người âm đơn thuần đâu, mà là quỷ rồi, âm khí nặng dữ lắm nặng. Mình mà quyết đào lên, tụi nó dễ gì tha mình được” . Làn sương mờ ảo từ từ tan bớt khi cả hai đặt chân vào cây cầu dẫn vào sân chánh điện. Cầu làm bằng đá thềm, hai bên lan can tạc hình rồng thần Naga, dưới bệ là hình quái điểu dang cánh dùng tay nâng hết sức tỉ mỉ và sống động. Chùa xây theo kiểu Tàm Thực, quyên góp được bao nhiêu xây bấy nhiêu, có thể thấy, ngoài chánh điện có lẽ đang xây dở dang thì các khu khác của chùa khá đơn sơ nếu không nói là sơ sài. Trước điện là khoảng sân xi măng rộng, được chống đỡ bởi những cột đá khổng lồ dựng trên triền núi, mà xen kẽ trong đám cỏ dưới chân cột vẫn thấp thoáng những mộ tháp. Bao quanh sân vẫn là lan can với họa tiết rồng thần Naga và quái điểu. Tường chánh điện đang vẽ dở dang những bức bích họa về sự tích trong Phật Giáo. Cửa chính được làm từ gỗ bên, chạm khắc tinh xảo các vị thần, hộ pháp theo lối Bà La Môn kết hợp Nam Tông Phật Giáo. Do còn dang dở nên chỗ này chưa có đèn đóm gì cả, trời tối trông rất âm u tĩnh mịch, Thông phải bật đèn pin lên mới thấy đường đi. Cả hai còn đang loay hoay thì nghe tiếng người phía sau: “Hai người là ai vậy? Ở đâu tới đây làm gì?” Hùng và Thông quay ra sau, trước mặt họ là một vị sãi trẻ, tay cầm bó nhang, dáng người gầy gộc, mắt hõm sâu trông như cả ngàn năm canh gác khu mộ này chưa một ngày được ngủ. Hùng chắp tay thi lễ rồi thành thật bảo: “Hai chúng tôi đang đi du lịch ngang vùng này, đến chân núi thấy chùa đẹp quá, định trú mưa sẵn xin một chỗ ngủ qua đêm, mong sư thầy giúp đỡ”. Vị sãi tuy tuổi đời hãy còn nhỏ, cặp mắt kia cũng tiều tụy nhưng ánh lên sự sắc sảo, anh ta nhìn ngang bọn Thông, Hùng một thoáng dường như đã hiểu ra nhiều thứ, bèn nói: “Nếu chỉ xin ngủ lại thì không sao, nhưng tôi khuyên hai người chớ nên suy tính chuyện sai trái, tôi không đảm bảo được mạng của hai người đâu”. Hùng cảm thấy cậu trai trẻ kia (người Khmer có tập tục đi tu khi tới tuổi) có vẻ cũng biết hai người họ thuộc loại gì, nên anh cũng không úp mở nữa mà hỏi: “Ba núi có năm thần, thần nào quản núi nấy, bảy sông có chín bá, mỗi bá trị một đoạn, núi liền núi, sông liền sông, núi sông này có bao nhiêu miễu biết hát?” Vị sãi kia lạnh lùng đáp lại: “Dưới nguồn sạch, trên nguồn sạch, cả dòng nước mặt trong, không thấy đáy bùn, đò chìm thì nhiều nhưng không thấy người, miễu biết hát thì có, nghe tiếng hát chứ chưa thấy miễu, chỉ biết nhà tôi có sáu cây cột đã chìm.” Hùng khẽ cười hỏi tiếp: “Khách đi đò qua sông sâu, biết sông sâu sao không bắc cầu, hà cớ còn đốt nhang cho miểu?” Cậu kia tiếp lời: “Vốn dĩ chỉ đợi gió, không phải vì qua sông nên không cần cầu, với lại thấy sông nhỏ nhưng làm cầu mới khó, đành ngồi bên sông mà coi nhang khói cho miễu.” . Nói rồi cậu cắm nhang vào các hốc dưới lan can rồi quay đi, trước khi rẽ vào góc khuất, cậu nói vọng lại: “Đêm nay mưa lớn, trăng tròn, mèo kêu quạ khóc chớ ra ngoài, hy vọng hai vị bình an!”, nói rồi cậu đi thẳng về con đường bên phái chính điện, tức đối diện với đường băng qua nghĩa địa mà Hùng và Thông đã lên, ở đó có một gian nhà gỗ, có lẽ là nơi ở của cậu. . Thông ngơ ngác hỏi hồi nãy hai người nói gì sao cậu chẳng hiểu, Hùng trả lời đó là tiếng lóng trong giới lục lâm, vốn dành cho mấy người đạo sĩ đi trừ tà ma “dạo” dùng để dò hỏi nhau về địa phương đó nếu họ tình cờ gặp. Ban đầu Hùng hỏi, ý là ở đây có “nó” đúng không, bao nhiêu “con”, cậu kia trả lời không biết bao nhiêu, nhưng cậu ta có sáu vị sư huynh cùng tu tại chùa đã bị bọn nó vật chết, Hùng mới hỏi tiếp ý là: cậu cũng là dân tròn nghề, sao không cùng hiệp sức tiêu diệt nó? Cậu ta đáp rằng không đủ sức, đành chờ thời cơ thôi, sẵn tiện canh gác chỗ này để nó không thoát ra ngoài. Sở dĩ Hùng nhận biết được cậu kia là dân trong giới, vì trên cánh tay của y có hình xăm Phục Ma Ấn Chú, lọai chú chỉ có dân trừ ma theo dòng Nam Tông Tiểu Thừa bậc trung trở lên mới có. Nhìn hình xăm đó làm Hùng nhớ đến một người bạn đã lâu không gặp, cũng là dân “trong nghề”, chính cậu ta đã dạy Hùng những điều trên, anh nghĩ chuyến này nếu có cậu ấy theo thì tiện biết mấy. . Cả hai lọ mọ mở cửa chánh điện, để đồ ra sàn, nhóm lửa lên nấu ít nước nóng và ăn lương khô. Bên trong chánh điện rất rộng rãi, trần cao hơn chục mét, tường vẫn là những hình vẽ sự tích đức Phật và các hoạt cảnh sinh hoạt. Chính giữa là một bức tượng Phật Tổ tọa thiền đắp bằng xi măng. Họ đốt lửa bằng bếp cồn ở ngoài chính điện, ăn uống xong xuôi cũng đã hơn tám giờ tối, trời lúc này đã bắt đầu mưa như trút kèm theo giông rất lớn tựa hồ muốn thổi bay cả tòa điện. Họ lui vào trong, Hùng cẩn thận và rất nghiêm túc, bảo Thông đi kiểm tra và khóa chặt các lối ra vào. Xong xuôi, cả hai trải bạt ra ngủ dưới bức tượng Phật. . Bên ngoài, giông gió vẫn không ngớt kêu gào. Thông bỗng mở mắt ra, không biết anh thiếp đi tự lúc nào, định lấy điện thoại ra xem mấy giờ thì anh bỗng nghe bên ngoài vang lên tiếng như vật gì đó rất nặng đang bị kéo lê trên nền xi măng, kèm theo đó là âm thanh như ai đó đang thở phì phò. Tiếng phì phò nghe rất rõ mặc dù mưa vẫn dội ầm ầm bên ngoài, tựa hồ như tiếng đó sát bên tai Thông. Đột nhiên, xung quanh im bặt, mưa ngừng rơi, gió ngừng thổi, cây ngừng xào xạc, giống như có thế lực nào đó giấu chánh điện này vô một cái thau khổng lồ. Lo sợ bị “ám” giống lúc chiều làm Thông như bị bóng đè, không thể cử động được, mặc dù anh biết chắc rằng bên ngoài đang là “cái miễu biết hát”. Anh định hét lên để gọi Hùng dậy thì một bàn tay lạnh ngắt từ phía sau bóp chặt miệng anh lại!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9 :  Chương 9: Chuỵên kể Hùng bonsai - Quật xác


Hùng vội bịt miệng Thông lại từ phía sau, kéo anh nằm rạp xuống, ra dấu im lặng và anh chỉ tay lên nóc nhà ý nói chú ý bên trên hơn. Lúc này, Thông mới hiểu, cả tòa chánh điện này đang bị vật gì đó “bao phủ”, tiếng phì phó như nó đang thở vang động khắp nơi, có vẻ như xuất phát từ trên nóc, cho nên Thông có cảm giác nó thật gần là vì lẽ đó. Lúc chiều Hùng đã dặn kỹ Thông về việc giữ im lặng. Lý do thì Thông phần nào hiểu được, quan niệm của người xưa khi gặp ma quỷ không được hét lên vì một là làm cho hồn phách bản thân bị dao động hai là tạo đường cho ma quỷ nhập tâm, vì người xưa nghĩ ma nhập vào người bằng cách qua đường miệng vào tim, từ đó chiếm thân xác. Còn thực ra trong giới “trồng lan” như hai người, không hét lên chỉ để bình tĩnh giải quyết vấn đề, tránh làm lộ địa điểm mà thôi, vì chuyện giành ngọc mà hạ thủ nhau cũng không phải hiếm. Nhưng lúc nãy khi Thông định hét lên, may mà Hùng bịt miệng Thông kịp lúc, không thì con quỷ bên ngoài bị kích động, có khi nó xổ vào thì chết cả nút! Thông trấn tĩnh lại, tay mò cây dao găm để dưới gối. Lúc này Hùng đã tỏ ra sẵn sàng chống trả bất cứ thế lực gì nhảy xổ vào hai người họ. . Hùng bình thường là người ít nói, kể cả với bạn thân thì anh cũng rất kiệm lời, con người đó luôn làm cho ta yên tâm trong những lúc cấp bách, chính điểm đó làm Thông luôn kính nể Hùng như một người anh cả. Lúc này trước mắt anh không còn là người ít nói trầm lặng mà chính xác là một vị tướng soái sắp ra trận. Hông Hùng đeo một túi da nhỏ, bên trong là một vài dụng cụ đục đẽo, từ lúc nào cuộn dây thừng đã được khoác lên vai và tay thì đã cầm sẵn con dao găm. Thông lúc này đã bình tĩnh hơn, cũng chuẩn bị sẵn vật dụng quan trọng đem theo bên người, Hùng ra dấu bảo Thông lấy sợi dây đá mắt hổ ra đeo để tăng dương khí. . Tòa chánh điện cứ chốc chốc lại kêu lên răng rắc, tiếng cào cửa vang lên ngày một lớn. Để ý kỹ vẫn nghe thấy tiếng mưa và gió, nhưng có vẻ như nó bị ngăn cách bởi một vật thể đang bao trùm tòa điện. Hùng chau mày, thứ quái nào có thể làm được chuỵên này. Hiện giờ không thể cứ ở mãi trong này được, suy đi tính lại cũng phải tìm đường ra ngoài, ít nhất để biết được thứ gì đang chầu chực sau cánh cửa. Việc đó dĩ nhiên hết sức nguy hiểm và thực tế thì Hùng chưa từng đối mặt với thế lực tâm linh nào ngoài mấy con ma vú dài hay ma trơi thường hù dọa nơi làng xa xôi hẻo lánh. Hùng và Thông dựa lưng nhau, nhất thời chưa có giải pháp thì bỗng nhiên tiếng kêu bên ngoài im bặt, kèm cả tiếng thở phì phò cũng đi đâu mất, tựa như cái thứ gì đang quấn chặt tòa chánh điện đang nhả nhẹ ra để nhử hai con mồi vậy. Tuy nhiên, tiếng thở vừa dứt, bên ngoài lại vang lên tiếng cười re ré của con nít. Hùng nghĩ phen này xong rồi, thà nghe ma khóc còn hơn gặp quỷ cười. Nửa đêm đi đường vắng thường sẽ nghe tiếng khóc, đó là ma. Ma thì thường hiện ra ở một điểm cụ thể, dụ người lại gần rồi doạ người ta sợ, hút bớt dương khí của họ để không bị vào cõi không được siêu thoát, hồn bay phách tán. Còn đi đêm gặp quỷ, chỉ nghe có tiếng cười, không biết từ đâu tới, cứ âm vang trong đầu ta, đó là quỷ ám tâm trí làm ta hoảng sợ, nó ăn luôn cả phần hồn phách ta trong chính ta chứ không như lũ ma vất vưởng. Tiếng cười vang lên càng lúc càng nhiều, ở khắp mọi nơi, từ trên nóc lẫn trước cửa...và ngay sau lưng Hùng. . Cả hai đâu lưng nhau, quay mặt sang hai bên trái phải của chánh điện, phía sau là bức tượng Phật nơi vừa phát ra tiếng cười the thé dễ sợ. Hùng vội lia đèn pin sang, tiếng cười vẫn tuôn ra một tràng không dứt, đèn chiếu đến vai của bức tượng thì thấy một con mèo, chính xác là con mèo đang quay đầu nó ra sau… Tiếng cười vẫn còn và cả hai đều biết con mèo là nơi tiếng cười phát ra âm thanh kinh dị đó. Đèn không đủ sáng để chiếu được cả thân hình nó, cái đầu bị che khuất, và hình như nó to lù lù. Đột nhiên nó quay ngoắt đầu lại, mặc dù cả hai đã cố sức bình tĩnh và tưởng tượng ra những thứ kinh khủng để chuẩn bị nhưng vẫn bị sốc trước cái cảnh gớm ghiếc họ đang nhìn. Nơi đáng ra là cái đầu con mèo thì lại là một cái đầu con nít cỡ bốn năm tuổi, phần cổ được may lại bằng chỉ đen rất bầy nhầy, cái đầu trọc lốc, hai mắt trắng dã như chính làn da của nó, miệng không thấy răng nhưng lại đỏ ối màu máu, máu từ đó cứ rỉ xuống từng giọt từng giọt. Từ trên vai bức tượng, con mèo… hay cái thứ quái vật đó phóng xuống một cách nhẹ nhàng và ngay sát chân của hai người họ. . Sát bên! Nó ngẩng cái đầu bầy nhầy và kinh tởm đó, cùng đôi mắt ghê người và nụ cười tà ma, dồn họ lui lại cửa chính! Một làn âm phong thổi thốc tới từ cửa chính, cả hai nhanh chóng đổi thế thủ, Thông đối diện với con quái vừa phóng xuống, đâu lưng với Hùng nhìn ra cửa. Trước mặt Hùng là cả bầy những cái đầu bầy nhầy đặt trên mình mèo đang đứng đầy ngoài sân, bám trên các cột, trên mái… cả trăm con quái vật như thế cùng cười rúc rích làm Hùng chẳng thể nào bình tâm nổi nữa, lưng anh ướt đẫm mồ hôi và anh biết Thông cũng đang chịu áp lực tương tự. Không biết có phải do không khí quá căng thẳng mà Hùng bị ảo giác hay không, dưới ánh đèn chập chờn, anh thấy những bức bích hoạ trên tường như quay mặt sang nhìn hai người bọn anh với những ánh mắt vô hồn, gương mặt không có chút cảm xúc, những bức vẽ hình quỷ mặt xanh đỏ đang nhe nanh như muốn chui ra khỏi bức tường để đến mà moi gan mổ bụng họ. Hùng khô cả họng. Đột nhiên, cả đám quái vật ấy bỗng rú lên lộ vẽ khá kinh hãi, chúng ngoác cái miệng ra rộng hoác, lởm chởm đầy nanh nhỏ và máu tanh, rồi quay đầu biết mất. Mọi việc xảy ra hết sức nhanh làm hai người họ không hiểu được đang xảy ra điều gì. Lúc này, vị sãi trẻ tuổi mới từ cửa chính bước vào, trên tay anh ta cầm một bát tro, lưng buộc theo một con dao đi rừng và một cái hộp gỗ, tay còn lại cầm một bó nhang lớn. Anh đi chậm rãi vừa đi vừa tụng niệm gì đó. Anh ta cắm nhang vào hai bên cửa chính, tay vẫn cầm bát tro đến trước mặt Hùng và Thông, hai người họ giờ vẫn còn thở dốc, tim đập loạn xạ nhưng mặt cắt không còn hột máu! Vị sãi hỏi Hùng: “Anh định tìm mộ tiên cá đúng không?” Hùng lúc này bình tĩnh hơn chút, đáp: “Đúng vậy, tôi cũng không giấu, chúng tôi muốn tìm cọc kỳ nam chôn chung với nó!”. Vị sãi kia nói tiếp, giọng pha chút thất vọng: “làm gì còn cái mộ ấy nữa!” Rồi anh ta đưa bát tro cho hai người, bão họ lấy một ít thoa vào mặt, anh ta sẽ giúp hai người tìm được khúc kỳ nam, tuy nhiên hai người họ phải giúp anh một chuyện, nhưng trước tiên, anh ấy kể lại căn nguyên mà có cái “Miểu Biết Hát” ma quỷ như vậy ở đây. Anh ta tên Thạch Sinh, bố là người Khmer, mẹ là người Hoa di cư từ Chợ Lớn vào An Giang này. Năm mười ba tuổi đã đi theo thầy làm nghề “đập miểu” - tiếng lóng của dân trong nghề, gọi nôm na là đi trừ tà, diệt ma. Người sư phụ anh ta theo học họ Lý, cũng là gốc Hoa. Tuy nhiên, khi đến chùa này, cũng vì muốn tìm mộ tiên cá mà thầy anh ta mất mạng, do không ngờ trước được vốn dĩ dưới tháp mộ đó không phải chôn tiên cá, mà là ác linh kumanthong! Quay trở lại câu chuyện Võ Kỳ Hưng diệt quái tích Tà Pạ, quả là Quan trấn họ Lý có làm một ngôi mộ trấn yểm con quái kia, tuy nhiên vị trí chính xác của ngôi mộ ấy trong khu vực nào của đồi Tà Pạ không ai biết, qua nhiều lần loạn lạc, người xưa đã hoá thiên cổ, càng không đối chứng được. Tuy nhiên, trước khi có sự tích kia, vào thời kỳ Tây Sơn ở Việt Nam, sau nhiều trận đánh thua liên tiếp, thế lực Nguyễn Ánh rút dần về phía biển, tìm đường qua Xiêm. Lúc còn ở An Giang, có một viên tướng dưới trướng Nguyễn Ánh, tên là Trần Đương, nghe kể có lần ông định vượt sông, thì thấy một ông lão đang sắp đuối nước giữa dòng. Thấy vậy Trần Đương cho người vớt ông lão vào bờ, ông ta khư khư ôm một cái túi, bên trong là xác bốn đứa bé chừng năm tuổi đã co quắp lại. Thì ra đó là ông thầy luyện kumanthong, bị triều đình Chân Lạp truy sát thì ngã khỏi thuyền. Ông ta mới tâu lên Đương rằng, để trả ơn cứu mạng này, ông ta sẽ tạo cho ngài một lukkros - chính là bốn con kumanthong còn gọi là “Ma Con” trong thời gian ngài ở tại đây, bốn con này sẽ bảo vệ ông ta khỏi quân Tây Sơn. Bốn con đó là Phet Phum Ngan, Phet Sun, Phet Kong Độ, Phet Đặp. Để luyện được loại này phải hết sức tàn độc, móc mắt cắt lưỡi đứa trẻ rồi đổ thuỷ ngân vào khi nó còn giãy. Quả nhiên thời gian ẩn trốn tại vùng An Giang rất an toàn, bọn ma con kia hết sức tàn độc, nhờ vậy mà quân Tây Sơn không lần ra được tung tích. Tuy nhiên, sau đó nhận thấy thời cơ hợp quân với Nguyễn Ánh lúc đó ở Xiêm La, Trần Đương tìm đường ra biển để đến Xiêm. Lúc này không thể đem bọn ma con theo được, Xiêm cũng là vùng đất nhiều bùa ngãi, dân luyện kumanthong không ít, làm như vậy sẽ bị vua Xiêm nghi kỵ, tuy nhiên để lại cũng không yên, Đương ra lệnh hạ sát ông lão, mặc dù ma con lão luyện ra rất mạnh, nhưng trong lĩnh vực này không có hai chữ “giỏi nhất”, tìm được người cao tay hơn lão cũng không khó! Sau khi giết được lão, họ chôn chung với bốn con ma con, xác mèo, máu chó mực, máu gà, rồi nguỵ trang như một tháp mộ bình thường. Tuy nhiên oán giận của bọn ma con còn quá lớn, không có chủ quản nên tha hồ phá phách. Đợt ấy, vùng có một con hổ, do sinh sống gần bọn ma con nên càng ngày càng khát máu hơn, tàn sát sinh linh vô số. Hôm nọ trời đổ mưa lớn, con hổ bị sét đánh liền ba cái nên chết. Gần đấy có con tích lĩnh, vốn cũng chịu tà khí oán độc từ vùng đất này nên thường ưa ăn thịt hơn ăn cỏ cây, nó vô tình ăn phải khúc xương thừa Hổ Tuỷ từ xác con hổ, rồi lại nhờ đó mà hoá khổng lồ. Kế sách trấn yểm của Kỳ Hưng bày cho quan trấn, vốn dĩ là muốn khắc chế bọn ma con, anh ta cảm nhận rõ ràng oán khí tuy nhiên trừ ma không phải là sở trường cho nên y đành trấn tạm ở đó, đợi ngày tìm được người đủ khả năng thì trừ hẳn. Tuy nhiên sau lần đó chẳng thấy anh ta quay lại, dân làng loạn lạc cũng ra đi tứ xứ hết, về phần vị quan trấn, nghe đồn đã về vùng sông Hậu mở làng lập ấp mới khi từ quan. Sau đó ngôi chùa mọc lên, vốn dĩ các sư sãi ở đây cũng biết mối nguy hại đó nên vẫn thường tụng niệm để áp chế phần nào quỷ khí tà ma. Tuy nhiên thời gian vẫn trôi, không ai trừ được cái mối hoạ ghê gớm này. Lần đó, Lý sư phụ, thầy của Thạch Sinh cũng vì tưởng lầm tháp mộ đó có xác tiên cá nên đã bị Phet Đặp - con ma con ác nhất, vật chết, cũng may trước khi ông ấy quy tiên cũng đã kịp bắt ấn, niệm chú, trấn bùa vào cái tháp mộ đó, khiến cho bọn ma con chỉ còn vài phần công lực. Đau buồn trước sự ra đi của sư phụ, Sinh quyết định tu tại chùa, vừa tu tập vừa nâng đạo hạnh, đợi ngày trả thù cho thầy. Các vị sư sãi trong chùa cũng hiểu điều đó, giúp đỡ Sinh rất nhiều, sáu vị sư huynh đồng tu trong các lần cố gắng trừ cũng bị vật chết. Đó là những gì xảy ra đầu những năm 2000. Sau khi kể xong, Thạch Sinh ngồi im lặng, nhìn Hùng và Thông như mong đợi một câu hỏi gì đó. Hùng nói: “Vô đề chính luôn đi, anh cần bọn tôi giúp chyện gì?” Sinh lạnh lùng đáp: “Trừ kumanthong với tôi!” Hai người ngơ ngác, Thông nói thẳng: “Đại ca, hồi nãy đại cứu bọn em, ơn đó em không bao giờ quên, nhưng đi vào chỗ chết để trả ơn đại ca thì cho em xin khất qua kiếp sau!” Hùng thì từ tốn hơn, anh hỏi lại: “Kumanthong đâu thể nói trừ là trừ được, anh với các sư huynh anh còn không đủ mạng cho nó vật, huống gì hai chúng tôi không có kinh nghiệm, bọn vong mèo hồi nãy còn lo chưa xong, làm sao trừ kumanthong tiếp anh được!”. Thạch Sinh không hề tỏ vẻ chán nản, diễn giải ý định rõ ra cho bọn Hùng Thông: “Các anh hiểu lầm rồi, việc trừ kumanthong trong mộ thì chính tôi sẽ làm, tuy nhiên trong lúc tôi làm phép trong ấy, các anh bảo vệ tôi khỏi lũ quái bên ngoài! Bát tro đó chính là tro xá lợi, thoa vào má thì không còn bị ác linh quấy nhiễu, khi nãy nó tạo ảo giác hù doạ các anh mà thôi. Đúng là ở đây có nhiều miểu biết hát, tuy nhiên bọn nó không dám mò đến chính điện này! Các anh dùng tro này nhuốm máu, thoa lên lưỡi dao thì dù quỷ có hiện ra anh cũng chặt nó thành năm khúc cũng được! Các anh bảo vệ tôi khi tôi vào trong, trừ kumanthong rồi các anh mới lấy cọc kỳ nam được!” Hùng và Thông thoáng nhìn nhau, tác dụng của loại tro này thì hai người đã thấy rồi, nhiệm vụ canh gác cùng lắm nếu Thạch Sinh có chết trong mộ, họ vẫn có thể bỏ chạy, còn nếu không chung xuồng với Thạch Sinh, e là khúc kỳ nam kia chắc đến chết họ chưa lấy được. Thông tỏ vẻ đồng ý, tuy nhiên Hùng xác nhận lại: “Làm sao anh chắc dưới đó có cọc kỳ nam?” “Vì sư phụ tôi lấy lên rồi!” - vừa nói Sinh vừa mở chiếc hộp đem theo bên mình. Bên trong chiếc hộp gỗ đó đích thực là một khối kỳ nam hình dạng như một viên đạn, một đầu nhọn, đầu kia loe to ra, dài chừng ba tấc, cầm gọn trong tay, khối kỳ nam ánh lên vân màu đen tuyền, chính giữa tạc hình Phật toạ thiền, xung quanh Đức Phật chạm khắc các hộ pháp, La Hán đang đức chầu, nhìn hết sức tinh vi, lộ lên vẻ uy nghiêm thần thánh! Hùng lờ mờ hiểu ra, cọc kỳ nam này có tác dụng như cái then cài, nhốt bọn kumanthong ở dưới, nhưng Lý sư phụ nhầm mộ nên đã lấy cọc ra, làm bọn ma con lộng hành, giờ không thể ghim cây cọc vào nữa, chỉ còn cách quyết diệt một lần cho xong. Thạch Sinh đưa hẳn chiếc hộp và khúc kỳ nam cho Hùng rồi nói: “tôi tin anh sẽ giữ lời bảo vệ tôi, nếu tôi không xong, hai người hãy chạy thật xa là xong, phần này anh cứ nhận trước!”. Hùng tật ngạc nhiên, khúc kỳ nam này gần như vô giá, buồn miệng đưa ra bao nhiêu giá cũng được, ậy mà anh ta đưa Hùng như không, Hùng cũng cảm nhận được niềm tin của Sinh là anh sẽ không bỏ trốn cùng với khúc kỳ nam mà bỏ mặc mình. . Hùng và Thông đồng ý, chuẩn bị đủ đồ cần thiết, cả ba lập tức rời chánh điện, trở lại khu nghĩa địa. Lúc này là 11h đêm, Sinh bảo nếu thuận lợi có thể xong trước 3h sáng. Lý do không thể làm việc này ban ngày được là vì vốn dĩ kumanthong không sợ ban ngày, mà phép trừ bọn nó dùng nhiều dương khí, ban ngày khí dương lại nhiều, dễ dẫn đến người làm phép bị càn hỏa nhập tâm thiêu đốt hồn phách mà chết, nên chỉ làm ban đêm để nhờ âm khí ban đêm cân bằng với dương khí bộc phát, như vậy mới đảm bảo được tính mạng, tuy là làm ban đêm thì ma quỷ dễ quấy nhiễu. Chính vì vậy, khi biết bọn Thông Hùng cũng có chút khí phách, Sinh quyết định trong đêm nay phải giải quyết xong mọi chuỵên. Đường ra khu nghĩa địa ban đêm khỏi phải bàn về độ âm u ma quái. Dưới đất lớp sương dày trắng đục bao phủ, trên đầu thì chỉ một màu đen, thỉnh thoảng có tiếng gì đấy đu trên cành cây phát ra âm thanh hết sức quái dị. Ba người lặng lẽ luồn cây mà đi, không ai nói với ai câu gì, ánh sáng của hai cái đèn pin mà Hùng và Thông cầm theo chỉ sáng đủ chừng mười bước chân, còn lại thi màn đêm nuốt chửng tất cả. Thạch Sinh cầm theo cái đèn bão leo lét. Dọc đường đi, khi băng qua các mộ tháp, Thông giật thót mấy phen khi cảm giác được các hình tượng thần Brahman bốn mặt tạc trên mộ dường như hiện lên một khuôn mặt gầy gò trắng bệch, hai mắt trợn trắng nhưng làm cho người ta cái cảm giác nó đang dõi theo từng bước chân. Thông ra dấu cho Hùng, anh cũng ra dấu lại là anh cũng thấy vậy, nhưng hãy im lặng mà đi tiếp! Có lúc đi ngang những ngôi mộ bằng, cỏ thấp che khuất từ ống quyển trở xuống, nhưng Thông chắc chắn rằng có cái gì đó như bàn tay, lạnh ngắt, thò ra từ bia mộ bám vào chân anh rồi kéo nhẹ. Ban đêm đường hơi khó đi, cho nên mất chừng hai mươi phút, cả bọn mới dừng trước con dốc “âm”, bên cạnh nó là chóp của cái mộ tháp vỡ một góc để lộ không gian tối đen sâu thẳm bên trong. . Sinh xé một mảnh vải từ cà sa, quấn vào hai cây củi khô, lấy bùa kẹp giữa rồi dùng lửa của đèn bão anh đem theo đốt thành hai cây đuốc. Ánh sáng từ đuốc không phải màu vàng như lửa thường, ánh lửa này màu xanh lơ, chiếu sáng một màu ma quái lên khu mộ tháp. Sinh chỉ vào hai cây đuốc rồi nói: “Cây bên trái là của tôi, cây bên phải là hai anh, nếu cây của tôi tắt lửa thì hai anh nên bỏ chạy ngay…” “Vậy cây bên phải tắt thì sao?”-Thông hỏi lại. Sinh nhìn hai người giây lát rồi nói: “Lúc đó chắc trời mà cứu được hai người!” Giọng nói lạnh lùng lấp lửng làm Thông thấy hết sức khó chịu. Hùng giục Sinh tiến hành nhanh thôi, Sinh bảo anh ta cần khoảng một giờ. Trong một giờ đó, Hùng và Thông tuyệt đối không đi xa ánh lửa, không ngủ gục, không hét lên. Bọn Hùng gật đầu ra dấu đã hiểu. Sinh lấy trong hộp ra một sợi dây đỏ có vật gì đó như móng hổ quấn quanh bằng bùa rồi lấy dao rạch lòng bàn tay một đường nhỏ, sau đó thoa lên hình xăm Phục Ma Chú, kỳ lạ là hình xăm vừa gặp máu bỗng tươi mới hơn, chuyển dần sang màu đỏ rực. Trước khi chui vào cái lỗ hổng tối đen ấy, Sinh quay sang nhắc bọn Hùng lần cuối: “Đuốc bên trái tắt thì chạy đi ngay!” Thông nghĩ thầm trong bụng: “Không đợi ông nhắc đâu, làm như bọn tôi xuống đó cứu ông được vậy!” Dứt lời, Sinh chui tọt vào. Không gian im lặng đến đáng sợ. . Hùng ra dấu cho Thông tập trung, thủ sẵn dao và nhớ để ý cây đuốc của họ. Khoảng vài phút trôi qua, khu rừng lặng gió, tĩnh mịch lạ thường, hai cây đuốc vẫn đều đều chiếu sáng một màu ma quái. Cả hai người thần kinh đến giờ mới giãn giãn ra được một chút, Thông quay sang đưa gói thuốc cho Hùng, cả hai kéo một hơi đầy sảng khoái, Hùng nghĩ anh và Thông lo lắng quá, trong tay có bát tro xá lợi, còn mang thêm dao phép, chắc chỉ có quỷ chúa mới làm hại họ được. Đang hút dở điếu, Hùng nghe tiếng sột soạt phía sau lưng Thông, cả hai tập trung tinh thần cảnh giác, anh lia đèn pin về hướng đấy, vẫn là cánh rừng bình thường…ngọai trừ hai cây khô đứng song song! Lúc nãy anh không thấy hai cái cây đấy. Càng nhìn, Hùng càng thấy nó giống cái chân. Anh nghĩ người nào có cặp chân này chắc phải cao đến sáu bảy mét. Rồi anh soi lên cao. Có một khúc gập giống đầu gối nhưng bẻ ngược về phía trước. Rồi anh soi theo hướng đầu gối, nó rất dài, một vậy gì đó nhăn nheo, khô khốc đang phát ra tiếng rên nho nhỏ phía sau bụi cây mà cặp chân dài, khô và nhăn nheo của nó thì bị bẻ ngược về trước. Lúc này Thông lắp bắp kế bên: “Cây đuốc bên phải tắt rồi!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10 :  Chương 10: Chuyện kể Hùng bonsai - Đò Ma Trà Sư


Hùng quay sang nhìn cây đuốc bên phải - nó đã tắt ngấm! Anh quay lại lia đèn vào chỗ vật thể lạ kia thì không thấy nó đâu cả. Cả một vật lù lù thế mà cứ như bốc hơi trước mắt hai người bọn họ. Hùng hết sức ái ngại, về việc hai cây đuốc biểu thị sự đe doạ tính mạng, anh thấy thái độ của Sinh thì nó là hoàn toàn nghiêm túc. Bên cạnh đó, tay anh đang cầm pháp bảo, ma quỷ muốn gây hại anh thì hẳn có ma pháp hết sức cao cường, vùng này mà lại có một con quỷ mạnh như vậy sao đó giờ anh chưa nghe được? Theo những gì anh và Thông vừa mới thấy, hai người đã chạm trán “miểu biết hát” thật rồi, vấn đề là họ chỉ như con cá trên thớt, con quỷ kia thì đã ẩn mất. Hai người lập tức trở về thế thủ đâu lưng quen thuộc. Xung quanh tĩnh lặng như tờ, một mùi hôi thối xộc lên, ngày càng nặng hơn, hôi như mùi chuột chết, đúng hơn là cả ngàn con. Bỗng nhiên trong đầu Hùng chợt loé lên một suy nghĩ, giống như là linh cảm được đúc kết qua hàng chục năm trong nghề khi kinh qua muôn trùng hiểm nguy, anh lấy tay đẩy Thông ra xa. Thông ngơ ngác quay lại nhìn, Hùng dùng hết lực đẩy Thông văng mạnh, cả hai vừa tách nhau ra, một bàn chân to bèn bẹt như cái thúng dậm mạnh xuống. Cái chân khô đét, nhăn nheo và bốc mùi kinh tởm. Trước mặt họ là một bóng đen cao hơn chóp tháp mộ, thân hình đồ sộ, khuôn mặt nó chỉ có một màu đen, từ đó cặp mặt đỏ như máu và hai cái răng nhanh lòi ra. Hai cánh tay gầy nhẵng cũng như đôi chân, đầy móng nhọn sáng quắc. Nó đứng trông thật kỳ quặc, phần đầu nằm dưới thấp, hai tay giơ ra như bò cạp, lưng uốn kên trên, cong như chữ “o”, hai chân đặt ra trước đầu,Hùng nhảy ra xa, còn Thông thì mất đà lộn hai ba vòng rồi cũng nhanh chóng ngồi dậy, Hùng la với lên: “Bỏ mẹ, gặp quỷ La Sát rồi!”. Lại nói về phần Sinh, kết cấu mộ tháp này anh đã từng đi vào một lần cùng sư phụ, cho nên tuy chỉ có trong tay cây đèn bão chập chờn leo lét, anh vẫn leo xuống một cách nhẹ nhàng. Bên trong là tường gạch nung nham nhở, kết dính với nhau bằng chất liệu đất sét trộn rơm, phần trên nhọn, phần dưới thoải, đáy mộ cách đỉnh chừng 15m. Thời gian đã bao phủ lên nó một lớp rêu. Tuy có lỗ hổng phía trên, nhưng dưới này vẫn còn nặng mùi ẩm mốc, tuy nhiên không hề nghe mùi phân chuột phân gián. Chuyện này Sinh cho rằng, làm gì có con nào sống được dưới này, ác linh ăn sạch cả rồi, chỉ trừ bọn mèo thì trốn ra ngoài sống. Nghĩ tới đó Sinh thoáng rùng mình. Anh không biết đạo hạnh sau tám năm tu tập của mình có đủ để diệt trừ hoạ kumanthong này hay không. Trên đường leo xuống, xung quanh Sinh vang lên tiếng cười rúc rích của con nít, cảm giác có con gì bò qua bò lại xung quanh nhưng soi đèn vào thì không thấy đâu. Khỏi phải thấy tận mắt, Sinh cũng biết bọn kumanthong bắt đầu giở trò. Đáy mộ là một căn phòng hình chữ nhật, trần chừng hơn hai mét, xung quanh Sinh tối đen, dưới chân đầy xương động vật. Anh đặt cây đèn bão xuống nền, chỉnh cho tim đèn cao lên, ánh lửa cháy mạnh hắt ánh sáng vàng vọt lên căn phòng. Xung quanh vẫn là những hình vẽ Đức Phật, La Hán, Hộ Pháp như lần trước anh xuống, màu sắc cs phần ảm đạm hơn nhiều. Trong góc phòng, nơi ánh đèn chiếu ít nhất, là thi thể co quắp của lão thầy Nam Vang. Có vẻ trước khi chết, lão đã chịu sự tra tấn dã man như cách lão luyện bọn ma con. Kế bên lão là bốn chum sành bị vỡ một phần, bên trong đựng thi thể kumanthong. Trần Đương lúc trước cũng thử dùng nhiều phương pháp để huỷ cả xác, nhổ cỏ tận gốc bọn ma con này, tuy nhiên vị đạo sĩ ông mời về không thể trừ được hoàn toàn, cũng chỉ có cách giam chân bọn này mà thôi. Tuy nhiên, sau này Sinh mới biết, Phục Ma Chú trên tay anh, cộng thêm chú Bồ Tát Kim Cương Thủ, có thể chế áp bọn ma con, làm chúng suy yếu thực sự rồi mới dùng đèn lưu ly, loại dầu trong đèn cầy đốt lâu năm ở gian thờ Phật mới có thể thiêu đốt được bọn chúng. Sinh đến chỗ cái xác lão thầy ngải, dùng sợi dây đỏ đính bùa luồn qua cổ lão, sau đó lôi ra giữa phòng. Bốn chum sành anh cũng đặt gần đấy. Không gian im lặng, thỉnh thoảng lại nghe tiếng cười khúc khích, tiếng bò loạt soạt trên tường. Sinh vẫn bình tĩnh buộc những sợi dây đỏ kia lên miệng chum. Xong xuôi anh ta tọa thiền ngay giữa phòng, trước khi tiến hành nghi thức, Sinh thoáng chau mày khi nghe tiếng hét của Hùng từ trên vọng xuống… . Trong thần thoại Phật Giáo, có một con quỷ tên là quỷ La Sát. Truyền thuyết về loài này gặp rất nhiều, nó do oán khí của ác linh và súc vật kết hợp mà thành hình, thân cao ba trượng, tay dài ba trượng, không đứng thẳng, chân gập như chân nhện, mặt đen như tro, nanh dài, mắt đỏ, mùi hôi thối, chuyên hút máu huyết người và vật nuôi, thường sống ở những nơi nhiều ác linh. Hùng từng nghe một số người bạn là dân tìm trầm kể đã gặp bọn này ở dải Hạ Lào, Trường Sơn nhưng chuyện ở An Giang này có, anh không ngờ chính mình lại được trải nghiệm. Dân săn trầm thường gọi quỷ này là Quỷ Mắt Đỏ. Tuy nhiên, những lần nghe kể, Hùng biết bọn này thường đi theo đôi, sống chung một nơi là thân cây lớn, tuy nhiên hiện giờ anh chỉ thấy có một con. Loài này sợ loại nước được pha với bùa trấn yêu, sợ ánh mặt trời. Hiện giờ nếu đợi mặt trời lên chắc anh và Thông đã hoá người thiên cổ rồi, còn bùa thì Hùng lại không biết vẽ. Tình hình bọn họ lúc này cũng chỉ như mành treo chuông, nếu cả hai không có những tháng ngày săn đá, đu leo vách núi rèn sự khéo léo và phản xạ, chắc bây giờ đã bị móng con quỷ này xẻ thịt mất rồi. Tuy bị con quỷ dồn ép, nhưng cả hai vẫn cố gắng chạy loanh quanh ngôi mộ tháp, không phải vì họ muốn giữ lời bảo vệ Sinh, mà vì chạy vào rừng lúc này chỉ có nước chết thảm, thà ở đây còn có ánh đuốc, phần nào cũng làm con quỷ mắt đỏ không bộc phát toàn bộ ma lực được. Thông chạy thế nào chân vấp phải tảng đá, ngã lăn quay, con quỷ ở ngay sau lưng anh vồ tới, chực chờ dùng vuốt xả thịt, Hùng lúc này đang đứng trên tháp mộ không ngần ngại phóng xuống, dùng dao xả mạnh một đường vào lưng con quỷ, tuy nhiên Hùng cảm giác anh chỉ đang chém vào không khí. Nhờ vậy mà con quỷ cũng bỏ quên Thông, quay ra sau dùng tay tán mạnh vào Hùng, anh chưa kịp né hoàn toàn nên bị hất văng ra xa, lúc này Thông kịp đứng dậy và chạy vòng ra sau tháp mộ, còn Hùng thì ngã vào một bụi sả dại. Sả cứa vào da thịt đau rát, mùi sả bốc lên nồng nặc, Hùng hơi hoa mắt nhìn về phía ngọn đuốc và con quỷ, anh không thấy con quỷ đâu cả, chỉ thấy Thông đang chạy loanh quanh, vừa chạy vừa như đang tránh né cái gì đó. Lập tức Hùng hiểu ra mọi chuyện, anh nói với qua chỗ Thông: “Mày ráng trụ giùm tao một chút, tao có cách xử con chó này rồi!” Thông vừa cuống cuồng né tránh vừa hét lên: “Nhanh nhanh đại ca ơi, em chưa muốn báo mộng cho anh đánh đề đâu!” Nói đoạn, Hùng bứt ngay một nắm sả, dù tay không bứt sả tứa cả máu anh cũng không quan tâm, dùng giày đạp dập phần rễ rồi đưa lên mũi hít một hơi thật mạnh, anh lấy một ít nhét vào cổ áo giữ mùi, tay anh cầm nắm rễ sả dập còn lại cùng cây dao, lao phăng phăng về phía Thông… . Mồ hôi trên trán Sinh túa ra ngày càng nhiều mặc dù bên trong mộ tháp hết sức lạnh lẽo. Tiếng cười ngày một ma quái hơn, không hề tỏ ra sợ sệt trước những lời chú anh đọc. Xung quanh Sinh lúc này, cảm giác như có hàng trăm bóng trắng đang đứng, đôi mắt đen ngòm xoáy chòng chọc vào gáy. Nếu Sinh chưa tu tập đủ lâu thì không cần bốn con ma con, chỉ riêng cái áp lực ấy cũng đủ làm anh vỡ mật mà chết. Phương pháp Sinh đang làm là dùng chú siêu thoát cho những oán linh bị bọn ma con vật chết, sau đó áp chế tinh thần bọn chúng bằng chú Bồ Tát Kim Cương Thủ, khi chúng yếu đi rồi mới dùng đèn lưu ly thiêu đốt. Những bóng trắng xung quanh anh là những oán hồn đã chết vì bọn ma con, anh vẫn nhận ra sáu vị sư huynh của mình đang đứng lẫn trong đấy. Lời chú được đọc ra đều đều, cứ chốc chốc, lại có một nhóm bóng trắng biến mất. Tâm lý Sinh đến thời điểm hiện tại vẫn tĩnh, chỉ có điều anh đang suy nghĩ, bốn con ma con đó, có hai con phụ trách “coi nhà”, một con chuyên đi phá phách và một con chuyên giết người. Theo như Sinh quan sát, hai con giữ nhà đang ngồi trong góc, thời gian bị giam cầm dưới mộ tháp, bị yểm bùa siêu thoát của Lý sư phụ, cộng thêm tiếng tụng niệm từ chùa truyền lại ngày này qua tháng nọ, ít nhiều cũng làm tâm tính chúng không còn hung hăng; con phá phách thì đang bò quanh tường, thỉnh thoảng lại ném xương vào người Sinh, điều này cũng không sao, duy chỉ có con ác nhất - Phet Đặp, chuyên hạ sát kẻ thù thì anh vẫn chưa thấy nó xuất hiện. Sinh dồn hết pháp lực vào những câu chú, các bóng trắng biến mất ngày một nhiều hơn, bóng dáng con Phet Đặp vẫn chưa thấy đâu. Tuy nhiên, tiếng cười của của ma phá phách bò loạn xạ trên tường kia dường như đang nhỏ lại, rồi im bặt, hai con ma giữ nhà trong góc cũng lùi dần vào bóng tối. Cứ như là bọn chúng đang rất sợ một cái gì đó sắp xuất hiện! Những bóng trắng cuối cùng vừa biến mất, một trong bốn cái chum vỡ ra, sợi dây đỏ bị đứt, đó là cái chum đựng xác con Phet Đặp. Nó đã xuất hiện. Sinh trấn tĩnh tiếp tục đọc chú, ba con ma con kia lo sợ ác linh con này một phép, nên đã biến mất. Từ trong góc phòng, ánh đèn bão leo lét soi lên thi thể khô queo của tay thầy ngải Nam Vang, Sinh thấy cánh tay lão cử động, rồi cái đầu lão ngoẹo hẳn sang một bên, miệng há to ro, một bên xương hàm sắp rớt xuống, rồi lão từ từ đứng dậy. . Thông lồm cồm bò trên đất sau cú hất như trời giáng của con quỷ, đầu óc anh quay cuồng, chỉ thấy Hùng từ xa lao tới chém vào hạ bộ con quỷ, nó ré lên một tiếng đầy đau đớn, từ nơi vết thương rỉ ra làn khói đen dày đặc. Hùng quăng nắm sả qua, bảo Thông đưa lên mũi hít một hơi thật sâu. Sả nồng làm Thông sặc vài giây, nước mắt dàn dụa. Hùng đỡ anh dậy, lui về sát tường của tháp mộ. Thì ra lúc ngã vào bụi sả, hương sả làm Hùng tỉnh ra. Vốn dĩ, quỷ không như ma, nơi quỷ xuất hiện là tâm trí, chúng điều khiển tâm trí ta, khiến ta rơi vào ảo giác, khi đó những thầy pháp thường dùng lưu huỳnh hoặc mùi sả, một là để hắt xì, khiến não có rung động, đẩy sự ảo giác của quỷ ra, mùi sả giúp tần trí tỉnh táo, không tiếp tục rơi vào ảo giác nữa. Trong lúc hít mùi sả, Hùng phát hiện ra trước mắt mình không phải là quỷ mắt đỏ nguy hiểm nữa mà là ông kẹ. Ông kẹ là loại ma quỷ thường gặp, chỉ gây được ảo giác, làm con người sợ hãi rồi dồn họ vào chỗ chết, từ đó mà cướp được sinh khí. Ông kẹ không có hình dạng cố định, lúc Hùng tỉnh táo, anh thấy thực ra nó chỉ là một cục dạng như khói, màu đen đặc bay vòng quanh. Lúc đó, nó đang dồn Thông vào góc, Hùng vội phóng tới, cắm dao vào cục khói, chỉ nghe tiếng rống lên sau âm thanh “phập” gãy gọn. Bị thương, ông kẹ biến mất, tuy nhiên Hùng cảm giác như nó chưa bỏ đi mà chỉ chực chờ cơ hội phục thù. Cả hai nhét sả vào cổ áo giữ mùi, tay cầm dao lăm lăm. Thì ra do ảo giác của ông kẹ gây ra mà họ thấy cây đuốc của họ bị tắt, tâm lý hai người suýt chút nữa đã rơi vào tuyệt vọng. Lúc này thực tế hai cây đuốc vẫn cháy đều đều. Bỗng nhiên khói đen từ cánh rừng túa ra đầy chân họ, Hùng nhanh chóng nhảy lên tường tháp mộ, Thông chưa kịp làm vậy thì bị làn khói đó quấn lấy chân lôi đi, anh nhanh chóng dùng dao chặt mạnh vào làn khói, quả là có công hiệu khi đánh trúng vào thực thể của nó. Nó buông chân Thông ra, rít lên những âm thanh chói tai, lúc này một lần nữa Hùng lại phóng xuống nhưng anh không dùng dao đâm, mà là cọc kỳ nam. Cây cọc vốn dĩ bản thân nó đã có pháp lực, lại trải qua không ít năm trấn yểm bọn kumanthong, chỉ có càng ngày càng cứng chắc hơn chứ không hề yếu đi. Cú đâm rất mạnh, làn khói như dính chặt vào đất, tiếng hét của ông kẹ yếu dần rồi tắt hẳn, khói cũng tan đi. Tuy nhiên Hùng biết, ông kẹ không thể bị giết, cũng như con người không thể nào hết sợ, khi nào con người còn sợ hãi, ông kẹ vẫn hiện diện đâu đó. Cảm giác được ông kẹ đã đi mất Hùng và Thông dựa lưng vào tường nghỉ sức, chia nhau một điếu thuốc. Việc chiến đấu với ông kẹ vừa rồi khá nguy hiểm, tuy nhiên khi đuổi được nó, hai người họ cũng rất hưng phấn, sẵn sàng thử sức nếu có thêm ma quỷ nào xuất hiện. Từ khu rừng, chỉ vang lên những tiếng mèo kêu thỉnh thoảng, còn không thì nó hoàn toàn im lặng, im lặng đến ngột ngạt và đáng sợ. Lúc này, Hùng nghĩ chỉ cần đợi Sinh chui lên rồi anh và Thông té ngay, khỏi cần đi tìm cái viên ngọc rết kia nữa, khúc kỳ nam này cũng đủ để hai người trở thành đại gia nửa đời còn lại rồi. Nghĩ vậy, anh vô tình liếc về hướng cây đuốc, lần này là cây đuốc của Sinh, nó không tắt, nhưng ánh sáng xanh lơ chuyển thành màu đỏ rực, ánh lửa không còn mạnh, chỉ leo lét chực chờ tắt ngóm. Hai người vội đứng dậy nhòm xuống dưới thông qua lỗ hổng, chỉ thấy được giữa ánh đèn bão mờ mờ, Sinh đang co quắp lại bởi một thứ gì đó không nhận dạng được. Hai người vội rụt cổ lại, Thông lên tiếng: “Té lẹ thôi đại ca!”, vừa nói anh cũng vơ luôn cái ba lô. Có lẽ chỉ trong mười giây hoặc ngắn hơn, Thông đã chạy tót đến chân núi rồi, nếu như anh không thấy Hùng vẫn đang đứng lại đó, đang chuẩn bị dây thừng. “Anh có bị gì không? Anh định xuống đó cho nó vật chết hả?” Hùng chỉ lặng lẽ đáp: “Ừa, anh quyết rồi, anh bỏ chạy bỏ mặc thằng Sinh ở đây, cả đời chắc anh không còn mặt mũi nhìn ai!” vừa nói, Hùng vừa nhìn vào chiếc hộp đựng cọc kỳ nam - có lẽ chính sự tin tưởng Sinh đặt cho anh đã làm anh quyết định xem Sinh là đồng đội, mà là đồng đội thì ai lại bỏ mặc cho được nếu kẻ đó còn chút lương tri. Huống hồ giới trồng lan, quan trọng nhất là sống có đạo nghĩa. Hùng nói tiếp: “Anh với mày coi như xong việc ở đây, mày cầm lấy hộp kỳ nam này, đợi anh ở thị trấn!” Thông vốn là người thẳng tính, suy nghĩ đơn giản và hơn hết là tin tưởng Hùng tuyệt đối. Tuy trong tâm vẫn còn thấy cân cấn, cảm giác kiểu bất an không biết là gì nhưng anh vẫn chụp lấy hộp kỳ nam rồi quay đầu chạy. Trước khi đi không quên nói vọng lại, quả quyết rằng sẽ đợi Thông và Sinh ở thị trấn như lời hẹn. Lại nói về Sinh, khi thấy thi thể của lão thầy Nam Vang cử động, cậu ta hiểu ngay là con Phet Đặp đã nhập vào cái xác để giảm bớt sự ảnh hưởng của chú Bồ Tát Kim Cương Thủ. Cái xác đứng dậy, tứ chi co gập khó coi, phần bụng của lão nứt ra, từ đó lòi ra một khuôn mặt nhỏ, hốc mắt to và sâu hoắm, nó ngoác miệng ra hét lên những tiếng chói tai. Từ tứ chi của lão thầy ngãi mọc ra những thứ như xúc tu, nó phi tới đánh vào người Sinh những cú mạnh như trời giáng. Lúc đó xung quanh Sinh có pháp khí toả ra từ Ấn Chú Phục Ma, cộng với lời kinh Bồ tát Kim Cương Thủ, con Phet Đặp khó lòng lại gần, đành dùng xúc tu tấn công từ xa, tuy nhiên có vẻ sau mỗi cú đánh, người đau lại chính là nó. Sinh biết lúc này là lúc nó đang trên đà suy yếu, nên đành bất chấp hiện nguyên hình, chỉ cần cậu cố gắng thêm chút nữa sẽ thành công. Con Phet Đặp lại tuôn ra một tràng tiếng thét, bỗng đâu ba con ma con còn lại lù lù xuất hiện từ bóng tối, đầy e dè nhảy vào cắn Sinh. Hai con giữ nhà do quỷ khí hãy còn yếu, bị đánh bật lại, chỉ có con quỷ phá, nó cứ bò loanh quanh cười the thé vào tai Sinh… Từ trạng thái thiền định, cứ nghĩ Sinh không thể bị ảnh hưởng, tuy nhiên con quỷ phá lại sợ con Phet Đặp, nó cứ bất chấp pháp khí toả ra, bò lên người Sinh, làm anh nhớ đến cái chết đầy đau đớn của Lý sư phụ. Hình ảnh đó quả đúng là đã đánh trúng tâm lý của Sinh, chỉ trong một sát na dao động, anh đã bị phá vỡ khỏi trạng thái thiền định, pháp khí anh tỏa ra bị suy yếu, ngay lập tức con Phét Đặp vung tới tấp xúc tu đánh vào anh. Sinh cuộn tròn người lại né tránh, không quên găm một dao vào con quỷ phá làm nó kêu ré lên rồi biến mất. Đến nước này, Sinh đành bất chấp đốt hết tất cả. Nghĩ đoạn, anh lấy tay che chắn, đồng thời lộn vòng chụp lấy cây đèn cầy, định lực cầm chắc rồi xông vào cái xác ông thầy ngãi, đồng quy vu tận. Tuy nhiên, vừa đứng dậy thì xúc tu tứ phía đã bủa vây đánh vào chỗ hiểm. Sinh không kịp suy nghĩ nhiều, anh bộc phát toàn bộ dương khí của Bồ Tát Kim Cương Thủ, khai phá Ấn Chú Phục Ma cầm cự. Hai bên giằng co, con quỷ muốn huỷ cây đèn nhưng cũng bị áp chế, Sinh muốn xông tới được thì phải giữ thế cân bằng đám xúc tu. Mồ hôi Sinh túa ra ướt cà sa, do việc vận pháp khí như vậy rất tốn sức chỉ một giây sơ sẩy như lúc nãy sẽ phải trả giá bằng tính mạng. Đang căng mình ra, Sinh bỗng nghe từ phía đỉnh tháp có một tiếng hét, rồi từ trên, Hùng nhảy xuống chém mạnh vào đám xúc tu. Con quỷ con thét lên, rụt về. Tuy Hùng chém đứt đến mấy cái xúc tu, tuy nhiên trước áp khí quỷ dị quá lớn từ Phet Đặp, anh cũng văng ra xa hồn phách cũng bị dao động. Cơ hội ngàn vàng xuất hiện, Sinh lập tức lao tới, luồng pháp khí dâng cao mạnh mẽ, tay cầm ngọn đèn lưu ly, anh ấn vào bụng của cái xác. Ngọn lửa lưu ly cộng hưởng với pháp khí, cháy lên rừng rực, con Phet Đặp vừa trọng thương lại dính ngay lửa lưu ly, chưa kịp thoát ra ngoài, chịu thiêu đốt hồn phách. Nó vun xúc tu khắp nơi, những tiếng thét như cả ngàn con trâu rống cùng lúc. Loại lửa lưu ly này bạ đâu cháy đó, khi cháy rồi thì vật bị đốt thành tro mới dừng, con Phet Đặp vun vẫy một hồi làm lửa bắn ra như pháo bông, thoáng cái cả cái hố đã chìm trong biển lửa. Chỗ đứng của Hùng và Sinh giờ thu lại chỉ vừa đủ hai người. Hùng quát lớn: “Lên được rồi. Một hồi tao với mày thành người quay bây giờ!” Không chờ câu trả lời của Sinh, Hùng chụp lấy sợi dây thừng, giựt mạnh vài cái để kiểm tra độ chắc, theo bản năng thôi. Anh thúc Sinh leo lên trước rồi anh cũng nối gót theo sau. Ai ngờ, con Phet Đặp dường như còn chút ý thức, thấy cả hai bỏ chạy liền nảy ra ý định lôi xuống chết chung. Nó khua toàn bộ xúc tu về phía sợi dây, lửa lưu ly bay như súng súng phun lửa, Sinh nhìn lên trên, miệng anh liên tục niệm Phật, mong sau cho đám lửa đừng trúng sợi dây thừng. Nhưng thật xúi quẩy! Dây thừng đứt. Cả hai chưa trèo được bao nhiêu lại phải rớt xuống, lưng đập xuống sàn đá nghe như tiếng bao cát. Cũng may không rớt xuống chỗ đám cháy, không thì một phần sống chín phần người quay. Sinh quay lại, thấy con ma phá phách cười lớn hơn bao giờ hết, giọng điệu ma mi như báo trước cái chết giờ đã đuổi đến sát đít: chỉ còn một lần vẫy lửa của con Phet Đặp nữa thôi. Hùng chửi thề mấy tiếng, cố bám bờ đá mà trèo nhưng vô ích, nó quá trơn. Anh quay sang Sinh, thấy vị sãi trẻ đã toạ thiền tự bao giờ, giống như nhiệm vụ của Sinh đã xong, cái chết giờ chỉ nhẹ như cái lông gà lông vịt mà thôi. Chợt Hùng rưng rưng, không phải vì sợ cái chết, mà chỉ thấy cái an yên này thật đẹp và phi thường. Anh cũng bắt chéo hai chân, định ngồi xuống cạnh Sinh. “Đại ca!” Giọng nói rắn rẻo không lẫn được vào đâu của Thông gọi vọng xuống, tiếp theo đó là cái đầu dây thừng nặng chịch rơi cạnh chân Hùng, “anh đánh giá thấp thằng em này quá rồi. Cùng đi thì cùng về, trèo lên nhanh, chỗ này sắp thành lò luyện đơn mẹ nó rồi!” Thấy Sinh đã mở mắt nhưng còn chưa định thần, Hùng chạy đến lay rồi nói: “Coi như đức Phật vẫn còn thương anh em mình!” Hùng nhanh nhẹn đu người lên sợi dây, trên trần đã xuất hiện những vết nứt sau trận lửa lưu ly lúc nãy. Hùng vừa leo, vừa ngoái nhìn bên dưới. Ngọn lửa nhanh chóng thiêu đốt con Phet Đặp, màu lửa xanh lơ mạnh mẽ rồi chập chờn dần, lúc này trần cũng đã bắt đầu sụp lở. Sinh đu theo dây leo lên nhanh, cả hai vừa ra đến ngoài, những tảng đá tảng đỡ trần tháp đã sụp xuống, đè lên cái xác cháy đen của oán linh. Ba người ngồi thụp xuống, còn chưa kịp thở thì họ rợn người khi nghe một âm thanh còn kinh dị hơn tiếng thét con ma con - tiếng ong đập cánh. Do phần chóp tháp mộ dính với một phần dây leo của một nhánh cây, trên đó có một tổ ong vò vẽ. Khi mộ tháp sụp đổ đã kéo theo cành cây đó rớt xuống. Tiếng rơi nói lên tổ ong đó không hề nhỏ. Cả ba nhìn nhau, rồi Sinh nói: “Chạy theo tôi! Nhanh!”. Cả ba phóng như bay, phía sau là muôn triệu tiếng đập cánh đáng sợ. Mỗi người chỉ cần để nó chích khoảng hơn chục mũi, thì mình mẩy đã tròn như cái bánh tét, chết như vậy quả thật không ai muốn. Rừng đêm âm u, chỉ có nước chạy đến hồ Tà Pạ gần đó, phóng xuống nước mới cắt đuôi được, Hùng và Thông bám đuôi sát sau chân Sinh, luồn lách các thứ thì sau lưng rất gần vẫn là tiếng đập cánh chết chóc. Vừa may, khi bọn ong đuổi kịp, cả ba người đã phóng thẳng xuống hồ. Hồ Tà Pạ là thành quả còn lại sau đợt khai thác đá, hồ sâu nhất có chỗ lên đến 17m, giữa đêm phóng xuống, làn nước lạnh hơn băng nhưng cả bọn không thể ngoi lên ngay được. Theo sự hướng dẫn của Sinh, họ lặn vòng qua một nhánh nhỏ hơn của hồ. Vừa trồi lên, họ hít lấy hít để không khí trời đêm cũng lạnh ngắt, phía bên kia mô đá, tiếng đập cánh nghe như một trận cuồng phong. Họ men theo mép nước, bơi ra xa rồi mới leo lên bờ. Cả ba vừa ngồi xuống thở, còn chưa kịp nói với nhau câu gì, Sinh bỗng hét lên rồi đổ vật ra, điệu bộ đầy đau đớn. Hùng vội xem cánh tay của Sinh, chỗ Ấn Chú Phục Ma xuất hiện những vết thâm, gân máu nổi lên bầm đen, nhìn như vùng đó có dấu hiệu hoại tử, chúng đang lan ra, tuy rất chậm! Hùng nghĩ, phen này Sinh bị nhiễm âm khí nặng rồi. Sinh gom chút sức lực, thì thào gì đó nghe không rõ, Hùng phải kê sát tai vào mới hiểu được. Vẻ mặt Hùng căng thẳng cực độ khi Sinh ngất đi, không nói được nữa. Hùng bỗng kéo tay áo anh lên, xem bắp tay, trên đó cũng đã xuất hiện vết bầm giống của Sinh, nhưng nhỏ hơn nhiều. Thông lo lắng hỏi: “Có chuyện gì nữa vậy anh?”, Hùng bối rối trả lời: “Tao cũng không hiểu ý nó là gì, ngoại trừ… “, Hùng bỏ lấp lửng làm Thông hỏi mãi, Hùng định thần lại rồi mới nói đầy nghi hoặc: “Từ đây tới 3h sáng, nó bảo mình phải tới được Trà Sư, tìm cái “đò ma”, nếu không thì tao với nó chết chắc trong ngày mai!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11 :  Chương 11: Chuyện kể của Hùng Bon-sai - “Múc nước cho bồ Câu”


Hùng vừa dứt lời thì Thông xanh mặt nhưng chỉ trong phút chốc, vốn dĩ Thông cũng là tay gan dạ, cộng với những chuyện xảy ra trong mấy ngày qua, anh cũng có tí khâm phục sự chân thành của Sinh. Lúc Hùng bảo anh đợi ở thị trấn, anh có bỏ chạy, không phải do chết nhát mà là do suy nghĩ anh đơn giản thôi. Chạy được một hồi thì não mới thông, lúc đó anh cũng tự rủa bản thân, Hùng bonsai lo cho anh mà anh bỏ chạy kiểu tuyệt tình tuyệt nghĩa như vậy, anh liền quay lại, nhờ vậy mà cả Hùng và Sinh mới còn sống tới bây giờ. Bản thân Thông cũng cảm thấy có chút tự hào, kiểu như ý chí dâng cao tột độ, cho nên anh là người sốt sắng nhất, anh cõng Sinh trên lưng chạy thật nhanh ra đường chính, trong khi Hùng lo chuẩn bị đồ đạc, xe cộ. Thời gian gấp rút nên mấy đồ lỉnh kỉnh Hùng đều bỏ lại, chừa chỗ để tống ba cho dễ. Hùng nổ máy, Thông bế Sinh đặt ở giữa sau đó ngồi kềm phía sau, chiếc xe phóng như bay, tiếng động cơ gầm lên giữa đêm tối tĩnh mịch của vùng đồng quê Thất Sơn. Vì không thông thuộc đường ở đây nên khá nhập nhằng Hùng mới chở được cả bọn tới khu rừng tràm. Trời đã tối nên dân tình ngủ hết cả rồi. Hùng dựng xe, quay lại định hỏi Thông có ổn không nhưng chưa kịp nói gì thì đã thấy chú sãi nhỏ con nằm gọn trên tấm lưng lực lưỡng của anh chàng. Hùng cười rồi nói: “Giờ đi bộ, trời tối rồi, không phải là nhát gan gì nhưng chỉ còn anh với mày, tốt nhất là đừng có đánh động. Cái “bến đò” cũng ở gần đây thôi.” Thông gật đầu. Con đường dành cho người đi bộ và đi xe vốn dĩ vắng người, lại còn sâu hun hút, buổi sáng nhìn vào đã thấy dợn nói gì đến ban đêm khuya khoắt như thế này. Trăng bị mây che, lúc mờ lúc tỏ, cánh đồng ngập mặn ở bên phải con đường phản chiếu ánh sáng lay lắt, gợn sóng, lâu lâu ánh sáng này lại biến mất, như có con gì đó dưới đồng ngoi lên đớp. Cuốc bộ khoảng mười lăm phút, Hùng đứng lại quan sát xung quanh, có thể thấy mờ mờ những tán cây khuynh diệp, cây tràm đu đưa qua lại, chim chóc đã ngủ cả nhưng tiếng xào xạc lâu lâu lại vang lên. Gió như con vật máu lạnh, luồn qua ống tay áo, mơn trớn trên sống lưng cả hai. Định vị lại phương hướng, Hùng rẽ lùm cỏ rồi cùng Thông tiến vào một bờ nước. Trên đầu cả ba, cây cối um tùm. Lúc nãy có tí ánh trăng còn có thể thấy lờ mờ lối đi dưới chân, nhưng đoạn kênh chỗ bờ nước này tối đến nổi giơ tay lên không thấy ngón. Hùng lấy đèn pin ra soi nhưng ánh sáng khá yếu, chỉ đủ giúp cả hai thấy một vùng nước đen ngòm nhỏ bằng cái tô in trên mặt kênh. Hùng lia một vòng ngang bờ nước, ánh sáng vừa chiếu đến chỗ một gốc tràm thì cả hai giật thót mình, một ông lão râu tóc vừa dài lại bạc phơ, khuôn mặt ông trắng bệt duy chỉ cặp môi là đen ngòm, lão ta vừa nhai trầu vừa...thả diều. Hùng chỉ đoán vậy thôi, vì thấy lão già đang giật giật một sợi cước theo kiểu động tác thăng bằng diều, nhưng khi nhìn lên thì trời tối đen có thấy gì đâu. Thông bồn chồn: “Giờ sao nữa đại ca?” “Tình hình thằng Sinh sao rồi?” “Còn thở, mà yếu xìu hà. Lâu lâu nó co cả mình lên, hình như là đau lắm.” “Còn cử động là còn chưa sao. Giờ khoảng 1h sáng, mình còn tới hai tiếng đồng hồ để đi lấy “thứ đó”. Nói xong Hùng tiến một bước về trước, cất giọng nói với ông lão: “Cò trên trời có bảy con, nhất loạt sà xuống bắt cá. Sếu trên cành ngót năm mạng, nhất loạt mổ vào cành cây. Bồ câu trên cao có liệng ngang mặt hồ?” Lão già phun mẻ trầu đang nhai rồi trả lời: “Bồ câu vừa uống nước vừa ngậm đá, vô tình làm nước rơi ra. Người liệng ngang mặt hồ nhớ múc nước trả bồ câu.” “Nhất định. Nhất định.” Hùng vừa dứt lời lão già liền đứng dậy buộc sợi cước vào gốc tràm rồi phóng mình xuống con kênh. Lão gầm lên vài tiếng, nghe như tiếng cọp beo nhưng trầm hơn, đột nhiên lão nhúng cả đầu xuống kênh rồi giật lên thật mạnh, nước dính vào râu tóc bay tứ tung khiến Hùng và Thông phải che mặt lại. Đến đó, mặc cho râu tóc rối bù xù, lão già đứng bất động, chờ đợi. Chợt đằng xa có tiếng vật gì rất nặng rơi xuống kênh, sau đó là hàng loạt tiếng rẽ nước như có cả trăm mái chèo của những lực điền khỏe nhất. Hùng lấy đèn pin rọi ra phía đó thì tá hỏa, một con cá sấu dài chừng năm thước đang vẫy đuôi bơi về phía bờ nước với tốc độ điên cuồng. Hai người Hùng Thông lùi về sau một bước, chỉ có lão già vẫn đứng bất động, con cá sấu bơi vừa tới, ban đầu có vẻ dè chừng nhưng sau đó thì, giống như con chó con mèo ngửi ra mùi chủ, nó bơi xung quanh lão già, nôm có vẻ vui lắm. Lão vuốt nó vài cái rồi leo lên bờ, gỡ sợi cước ra, tiếp tục “thả diều”. Con cá sấu thấy vậy hình như cũng hiểu ý chủ, nó bơi về phía Hùng, Thông và Sinh, tấp vào bờ nước gọn gàng như cách đậu của thuyền tam bản. Thông chưa kịp phản ứng gì thì đã thấy Hùng tiến về phía trước, lấy đà phóng lên lưng con cá sấu. Thấy vậy, Thông giữ Sinh thật chắc, rồi “hấp” một cái cũng đứng trên lưng con cá sấu. Cả ba thanh niên nặng hơn hai trăm kí vậy mà con cá sấu không có dấu hiệu gì gọi là nao núng, nó vẫy cái đuôi khổng lồ trong nước rồi bắt đầu di chuyển. Hùng lia đèn pin, nước vẫn đen ngòm, lâu lâu con cá sấu há miệng đớp cái gì đó, chắc là con cá hay con tôm làm cả “chiếc đò” run lên, cả hai loạng choạng suýt té ngã mấy lần. Con kênh này rộng khoảng ba mét, lia đèn pin lên hai bên bờ thì thấy rễ tràm trong giống như những bàn tay với bộ móng dài thườn thượt, cấm xuống mặt kênh như đang lôi vật gì lên. Trên đầu họ vang lên những âm thanh ma mị nhưng nghe riết thành ra cũng mặc kệ: tiếng xào xạc như con gì đang chuyền cành, tiếng xì xầm như có người đang trò chuyện. Thông thắc mắc: “Đại ca, đó giờ anh em mình đi chung biết bao nhiêu chuyến, chuyện lạ trên đời em tưởng em thấy gần hết rồi. Ai ngờ chuyến đi An Giang lần này em mới thấy em hơi ngu. Sẵn vậy em hỏi anh câu này luôn?” Hùng nói: “Mày vòng vo chi vậy, có gì hỏi thì hỏi mẹ đi!” Thông cười hề hề rồi đáp: “Làm sao anh biết bờ nước này có bến đò, rồi còn nói mấy câu nhảm nhảm gì đó với ông già lúc nãy nữa?” Hùng nói mà không quay đầu lại, chỉ cố nheo mắt nhìn về phía trước: “Bến đò” là do một phần trực giác thôi, tao biết giải thích sao giờ, đứng lại nhìn vòng vòng thấy có cảm giác ngồ ngộ, kiểu vừa biết chắc vừa không biết chắc, thì rẽ cỏ đi vào thôi. Còn mấy câu tao nói với thằng Sinh hôm bữa, rồi với lão già lúc nãy tao có nói mày rồi. Đó là ngôn ngữ của bọn “lục lâm”, kể ra thì dài, sau chuyến này còn sống trở về, anh em mình đi uống vài chai tao kể chi tiết cho nghe. Đơn giản thì nó cũng giống với chuyện mày vô khách sạn, được “phục vụ” như thế nào tất cả đều nhờ vào cách mày trò chuyện với thằng tiếp tân vậy đó! Với lại...” Chợt mặt Hùng biến sắc, như phát hiện ra điều gì đó, linh cảm thì đúng hơn. Sợ mình mệt nên nghĩ bậy, anh nhăn mặt, quay về phía sau nhìn Thông với vẻ nghiêm trọng: “Ê Thông, nãy giờ con cá sấu này bơi, nó có rẽ trái hay rẽ phải gì không?” Thông nghĩ một lát rồi lắc đầu, cũng có hơi chột dạ. Hùng nói tiếp: “Tao nghe nói rừng tràm Trà Sư này hệ thống kênh rạch chằng chịt như mê cung, nãy giờ cũng gần mười phút rồi, không có lý nào chỉ đi theo đường thẳng như này được! Chẳng lẽ...” Đoạn, Hùng lia đèn pin về phía xa, mặc dù không đủ sáng nhưng vẫn có thể thấy mờ mờ, những bụi lục bình, bèo ta, những ụ đất phủ đầy rễ cây, những chỗ đáng lẽ phải ở đó để tạo nên “sự chằng chịt như mê cung” đang di chuyển chầm chậm, mở đường cho con cá sấu. Thông hốt hoảng: “Chẳng lẽ lại gặp “miểu biết hát” hả đại ca?” Hùng nói: “Bậy. Nhìn kĩ đi, bọn cá sấu đó!” Thật vậy, ngẫm kỹ lại thì không thể nào chỉ có một con cá sấu sống trong hệ thống kênh rạch rộng lớn này, “chẳng lẽ bọn này là do lão già kia nuôi, ban ngày thì nằm im trong kênh, đêm xuống lại trở thành những người lái đò?” Thông tắc lưỡi: “Thôi anh nói sao thì em nghe vậy. Mà quên, trước khi xỉu, thằng Sinh nó có nói bên kia bờ nước là cái gì không?” Hùng vẫn giữ nguyên đèn pin, ngắm nhìn lũ cá sấu rẽ nước cho cả bọn đi, trong lòng cũng có chút thích thú, và hơn hết là cảm giác hào hứng tột độ. Mấy lần thoát chết trong gang tấc đã tiếp thêm sức mạnh cho anh, chuyến phiêu lưu lần này cũng làm cho Hùng nhận ra một vài điều về bản thân mình, lúc trước anh chọn nghề “trồng lan” vì nó ít nguy hiểm; vì anh tưởng rằng anh sợ chết. Lần này về Bảy Núi, anh mới biết mình sai trầm trọng. Anh bắt đầu thấy thích cảm giác này, dường như trở về dù có Ngọc Rết hay không, anh cũng đã quyết định được hướng đi của đời mình. Nghĩ vậy, Hùng nói, không kìm được một nụ cười trên môi: “Tao biết chết liền.” Con cá sấu vì chở đến ba người nên di chuyển có phần chậm chạp, phải mất ít lâu sau thì một bờ nước khác mới hiện ra trong ánh đèn pin mờ ảo. “Chiếc đò” đậu lại bên bờ, y như lúc nó rước cả ba, Hùng và Thông thay nhau phóng lên. Kích cỡ bờ nước này rộng hơn, đang chưa biết đi đâu thì có tiếng động lạ vang lên, nghe như kiểu có ai đang lôi vật gì đó trên mặt đất, Hùng lia đèn pin về hướng phát ra tiếng động thì thấy một mái vòm được đan bằng những bộ rễ tràm, mái vòm này vừa tròn vừa đều đặn, kiểu như hang động. Hùng quay sang Thông, thấy cu cậu gật đầu kiên quyết lắm, anh liền mở ba lô, lấy cây cọc kỳ nam ra rồi tiến về phía hang động rễ tràm. Rừng tràm Trà Sư với diện tích gần chín trăm héc-ta, tất nhiên, đúng với tên gọi của nó thì ở đây toàn tràm là tràm, âm u khó lần. Người dân sống ở đây, ví dụ chấm bừa một điểm tọa độ, bảo họ lần đường ra ngoài họ còn do dự, nói chi là những người mù đường như bọn Hùng, Thông và Sinh. Do vậy, muốn tìm ra cái hang rễ tràm này mà không nhờ cá sấu chở đi thì chắc chỉ có tiên phật. Hùng thủ cọc kỳ nam trên tay phải, tay trái cầm ngược đèn pin, Thông xốc Sinh lên cho gọn, đi sát sau lưng Hùng tiến vào trong. Hang này mặc dù được cấu tạo từ những bộ rễ tràm nhưng không thưa thớt như loài rễ tràm bình thường, nhiều lần chiếu đèn pin một vòng, Hùng thấy ánh sáng rất đầy đủ, nghĩa là không có tia sáng nào lọt được ra ngoài. Lũ cóc nhái, chuột và đặt biệt là rết nhiều vô số, dường như không biết con người là loài gì nên chúng không tỏ ra chút gì gọi là sợ sệt. Thông phát hiện ra những con rết đặt biệt to, có con dài gần nữa mét, lớn như ngón chân cái. Anh nghĩ bụng nếu tính mạng của Sinh đang không bị đe dọa thì chắc anh đã bắt vài con về, bán cũng được tiền triệu chứ không ít. Anh cũng nghĩ thêm là đợt này về phải nhờ Hùng chỉ cho một tí ngôn ngữ “lục lâm”, để không bỏ lỡ những chuyện kiểu này. Đi cũng đã lâu mà chưa thấy chuyện gì xảy ra, nói đúng hơn là cả Hùng, Thông và Sinh (nếu không bị ngất) cũng đang mong chờ một chuyện gì đó phải xảy ra, vì đó là quen thuộc, đó là lẽ hiển nhiên. Ví dụ con ma con quỷ gì đó xuất hiện thì cả ba tính đường đối phó nó; còn dễ chịu hơn nhiều so với chuyện cứ thấp thỏm chờ đợi. Hang động này cũng yên lặng đến lạ, gần nước mà không nghe tiếng nước, dưới những tán cây mà không nghe tiếng lá. Thông trộm nghĩ, có khi những âm thanh nghe riết từ hôm trước giờ lại tốt hơn nhiều. Định cất tiếng nói chuyện với Hùng thì một cơn gió khá mạnh nổi lên, làm cả hai phải che mặt, lạnh cả sống lưng, kèm theo đó là một âm thanh trầm đục, ù ù, nghe như tiếng người khóc vang vọng cả hang rễ tràm. “Tới rồi!”, cả bọn đều có chung ý nghĩ. Hùng khựng lại, anh vừa phát hiện một chỗ những rễ tràm đang mọc rộng ra, khu trước mặt có ánh sáng lay lớt và những cái bóng màu đen in lên cái nền sần sùi của hang động. Nắm chặt cọc gỗ kỳ nam trong tay, Hùng và Thông hít một hơi thật sâu rồi sau đó, như nín thở, họ tiến về phía trước. Càng lại gần thì có thể nghe thấy một âm thanh khác nữa, không phải là tiếng ù ù như tù và mà là tiếng phành phạch như có một tấm bạc bị gió thổi bay. Đứng nấp sau bức tường chỗ giao nhau với hang bị mở rộng ra, Hùng thận trọng thò đầu nhìn vào bên trong, lăm lăm khối kỳ nam trên tay, sẵn sàng tấn công bất cứ thứ gì nhảy ra. Nhưng không có gì cả, chỉ là một khoảng sân, với hàng trăm chiếc võng mắc vất vưởng, vô trật tự. Ở mỗi đầu võng đều có một cây đèn cầy đã cháy được phân. Thông đứng phía sau sốt ruột: “Sao rồi?” nhưng khi thấy Hùng đã mạnh dạn bước ra khỏi chỗ nấp cũng lật đật cõng Sinh chạy theo sau. Trước mặt họ, những chiếc võng rách rưới, mắc tạm bợ vào những nhánh rễ tràm phủ xuống đang đong đưa, chúng dừng lại trên không một chút rồi lại đong đưa, như có ai đó đang ngồi đánh đu. Bất chợt, gió thổi mạnh hơn, hơi lạnh cũng theo đó mà tăng đột ngột. Vậy mà, hàng trăm chiếc võng như có ai đó chống chân xuống đất, ngừng lắc lư. Khung cảnh mang sự trái ngược hết sức táo tợn này làm cả bọn Hùng và Thông phải lùi lại mấy bước. Giọng Thông lí nhí: “Té thôi đại ca ơi…” rồi anh định lấy đà chạy qua, chợt Hùng giang tay, ra dấu đừng manh động. Anh nói mà không quay đầu lại, khoé môi chỉ mấp máy: “Đừng có đánh tiếng. Chỗ này anh có nghe qua. Không ngờ “bến đò” mà thằng Sinh ám chỉ không phải chỗ tụi mình leo lên con cá sấu lúc nãy.” Thông gãi đầu: “Là sao anh? Cứ vòng vo vậy hoài chắc em bị tim thòng quá!” “Anh nói mày lúc trước rồi. Đúng giờ Dần một khắc tức là 3h sáng, Quỷ Môn sẽ mở để...tiện đường giao thông giữa âm giới và dương giới, cứ gọi vậy đi cho nó dễ hiểu. Mấy cái võng này là chỗ để ma quỷ chờ “đò”, lũ ma đi lạc của ngày hôm trước, loanh quanh trên nhân giới phải có mặt ở đây để bị đưa về trừng trị. Chúng sẽ không dám làm càn đâu, Đầu Trâu Mặt Ngựa sắp ghé nhang rước chúng về. Nhưng anh với mày phải hết sức cẩn thận, chờ cho võng tiếp tục đong đưa, không nhìn trực diện mà tiếp tục đi thẳng thôi!” Phải đứng chờ rất lâu nên không khỏi sốt ruột, phần vì tốn thời gian, phần vì khung cảnh rùng rợn trước mặt cộng với tiếng gió cứ thổi u u làm cả Hùng và Sinh đôi khi chỉ muốn tốc chạy cho rồi, ra sao thì ra. Nhưng may thay, những chiếc võng phía xa bắt đầu động đậy, sau đó là cả khu đất, Hùng thở phào như trút được gánh nặng, anh ngoắc tay, không quên làm dấu khẽ thôi, ý là kêu Thông theo mình mà lặng lẽ đi tiếp. Đi thêm một chút nữa thì ánh mắt của bọn Hùng và Thông bị một thứ ánh sáng lân tinh thu hút, chúng phát ra từ một lối mòn khá hẹp, chỉ vừa một người đi. Hùng nhìn sang Thông, anh biết thứ linh cảm này, dù vật họ đang tìm là gì đi nữa thì nó nhất định nằm sau con hẻm này. Không chần chừ thêm nữa, vừa ra khỏi hẻm, cảnh tượng đập vào mắt họ hùng vĩ đến độ họ phải đứng chết trân một lúc lâu. Con hẻm này dẫn đến một cái trũng, đúng hơn là bên trong một bộ rễ tràm khổng lồ, trông nó giống như kiểu kiến trúc mái vòm của người Ấn Độ, nhưng được hình thành tự nhiên. Ở giữa mái vòm, nơi đáng lẽ có những bức bích họa thì rễ cây bị bong ra, ánh trăng từ bên ngoài chiếu vào, tạo thành những cột sáng, nhìn vừa huyền ảo vừa ma mị. Căn phòng được ánh trăng chiếu sáng nên không cần đến đèn pin họ vẫn nhìn được khá rõ: những đóa hoa súng rũ xuống trên mái vòm như những cái đèn chùm trong cung điện, phía dưới là khu rừng tràm mọc trong lòng hang động với những thân cây trồi lên như hàng chục ngòi bút khổng lồ. Hùng tặc lưỡi: “Con mẹ nó, tao biết thằng Sinh kêu mình tìm thứ gì rồi!” Thông sốt ruột: “Gì vậy anh?” “Người xưa có câu “lấy độc trị độc” ví như việc chữa bệnh vảy nến bằng cách cho cá ăn tế bào chết hay chữa viêm ruột bằng giun sáng, đó là cách thông thường. Còn những đạo sĩ đi trừ ma “dạo”, khi bị nhiễm âm khí thường tìm đến loài rắn. Nhưng không phải là rắn thường, mà là rắn sống ở những chỗ có âm khí nặng hơn là “bến đò” này đây. Anh cá với mày luôn, đâu đó trên đám hoa súng kia, có một con Rắn Bông Súng Chúa!” “Rắn bông súng xào xả ớt thì em ăn hoài. Gì chứ bắt rắn anh cứ để thằng em!” “À, cái đó thì anh biết. Mà loài này không phải rắn thường nghe, độc tính nó hơn khoảng gấp mười lần, thường ngụy trang thành cây súng, treo lủng lẳng để dụ con mồi. Giờ anh rọi đèn, còn mày thì thấy nó phải cắt đuôi nó liền.” Nói xong, Thông thả Sinh xuống còn Hùng lấy con dao găm trong ba lô ra ném cho Thông. Thông khởi động rồi đu người lên nhánh cây gần đó, “hấp, hấp” vài cái đã thấy anh như một vận động viên thể dục dụng cụ, truyền từ cành này sang cành kia, tiến đến rừng súng treo lơ lửng trên không. Thông tuy thân hình vạm vỡ nhưng thân thủ lại nhanh nhẹn hơn người, Hùng đứng dưới rọi đèn theo từng cái chuyền cành của anh mà có khi còn theo không kịp. Đứng trên nhánh cây ngay bên dưới vườn súng, Thông chỉ tay vào một chỗ rồi gọi lớn: “Chiếu sang đây nè đại ca!” Hùng vừa rọi đèn sang liền thấy lớp vảy của con rắn bông súng chúa óng ánh những màu xanh lam, xanh lá mạ rất đẹp mắt, cái đầu rủ xuống, những lớp mang xếp lại, trông không khác gì búp hoa súng. Thông vừa vun nhát dao lên định một nhát đứt đuôi thì ngay lập tức con vật cựa quậy, cái đầu trông như đóa hoa vô hại của nó co lại, nó nhe hai chiếc răng nanh trắng hói, mang phùng ra như đóa hoa súng bừng nở, lấy đà đớp lấy cánh tay đang co lại vì chém hụt của Thông, định một đòn kết liễu anh chàng, nhưng nó đã quá coi thường đối thủ, Thông nhanh nhẹn rút tay lại, quán tính làm anh quay tròn trên nhánh cây, suýt té ngã. Con rắn thấy không ổn liền rụt người vào đám bông súng, toan bỏ chạy nhưng đã bị Hùng bắt kịp. Thông hét lên: “Nó lại kiếm đường ngụy trang đó đại ca, cứ giữ nguyên như vậy!” Nói xong, anh ngậm con dao rồi chuyền cành như một con sóc, quyết tâm dâng cao. Ánh đèn của Hùng rọi vào cái vảy sáng loáng, con rắn bông súng chúa tưởng nó an toàn nên vẫn nằm im. Thông vung tay mạnh hết cỡ, nhắm vào đuôi nó mà chém. Lại hụt! Con rắn tuy không chạy được, vẫn phải trốn trong vườn súng nhưng nó quá nhanh kèm theo trực giác nhạy bén. Thông thất bại đến năm sáu lần như vậy nên có phần nổi máu điên. Giọng chửi của anh dậy cả rừng tràm: “Con mẹ nó!” Hùng thì bình tĩnh hơn, anh đã nắm bắt được đường đi nước bước của con vật, anh gọi với lên trên: “Thông! Chém mấy cái bông súng đi!” Thông gõ trán, có vậy mà cũng không nghĩ ra. Anh vung dao chém cây súng rơi tơi tả, tiếng hoa súng rớt xuống trũng nước nghe như tiếng mưa đêm. Lý do làm vậy một phần là vì muốn triệt tiêu chỗ nấp của con rắn bông súng chúa, một phần vì con vật này coi chỗ này là nhà, chọc nó điên lên có khi lại lộ sơ hở. Thật vậy, chém được một lúc thì Thông nghe tiếng sột sạt sau lưng mình, anh nhanh chóng quay lại thì thấy con rắn phóng cả thân thể về phía mình, hai cái nanh nhe ra đầy sát khí. Nhưng Thông không hề nao núng, anh né cú mổ của nó, tiện tay chụp luôn cái cổ lôi xuống, rồi bằng một nhát chém lạnh lùng, kết liễu cuộc đời của con rắn bông súng chúa. Thông định phóng xuống thì nghe tiếng Hùng cản: “Khoan xuống mày, còn phải tìm đồ ăn cho con cá sấu nữa.” “Đồ ăn gì? Anh có cảm tình với nó hay sao mà phải cho nó ăn nữa?” “Khùng. Là yêu cầu của lão già lúc nãy thôi, “múc nước cho bồ câu” nghĩa là kiếm gì đó cho con cá sấu ăn. Trong rừng này, loài cá sấu là bá chủ rồi, những thứ trên cao với nó khác nào cao lương mỹ vị. Mày nhìn trên đó coi có trứng con gì không?” “Sao anh biết trên này có trứng?” “Linh cảm thôi.” “Chậc. Đợi em chút!” Thông tìm một hồi cũng được hơn chục cái trứng đủ kích cỡ, lớn nhất cũng bằng cái chén, hỏi ra thì cả hai chỉ nhún vai, có trời mới biết đó là trứng con gì. Hùng thận trọng gói xác con rắn vào một miếng vải, xắn gấu áo lên để nhét tạm mấy cái trứng. Đoạn đường ra cũng không có gì đặc biệt, đi ngang những cái võng họ cũng vẫn đi thật khẽ, con cá sấu chờ ở chỗ bở nước thấy Hùng và Thông liền há cái mồm to đùng lên chờ đợi, Hùng ném cho nó đống trứng, con vật nhai rạo rạo một hồi cũng xong. Cả bọn nhảy lên lưng nó để nó chở về. Trên đường ra, cả hai im lặng không nói với nhau câu gì. Phần vì Thông thấy những co giật của Sinh xảy ra thường xuyên hơn lúc nãy, chứng tỏ bệnh tình ngày càng nguy kịch nên anh có hơi lo lắng. Hùng thì hơi lấn cấn, anh vẫn chưa biết phải xử lý con rắn như thế nào, định bụng sẽ ra ngoài hỏi lão già. Chợt con cá gầm lên, như có vật gì đó vừa đánh mạnh vào đầu nó, nhìn chuyển động có vẻ là nó đang hốt hoảng, rồi cả thân hình nó bị vật gì đó nâng lên. Cả hai loạng choạng, chưa kịp lấy lại thăng bằng thì con cá sấu đã nhanh chóng lặng xuống nước, mất tăm! Con kênh không biết sâu bao nhiêu mét nước, chỉ thấy khua chân không thấy đáy, phải khó nhọc lắm Thông mới xốc nách Sinh, giữ cho cái đầu chú sải khỏi bề mặt. Hùng chỉ tay về phía một gò đất rồi cả hai bơi về phía đó. Chợt Hùng khựng lại, như phát hiện ra có điều gì đó không đúng, miệng anh mấp máy hỏi Thông: “Ê, chốn đầm lầy này, ngoại trừ cá sấu còn con gì sống không?” Thông trợn mắt dường như hiểu ra ý của Hùng: “Anh đừng nói với em mấy cái trứng chà bá hồi nãy là của…” Bỗng từ phía sau vang lên âm thanh của vật gì đó đang rẽ nước, Hùng và Thông xanh mặt quay lại. Chỗ ánh sáng lay lắt của chiếc đèn pin, đang từ từ thò ra ngoài, là cái đầu to như cái bàn của một con trăn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12 :  Chương 12: Truyện kể của Hùng Bon-sai - Ông Năm Chèo


Từ xưa đến nay, trăn luôn là loài hiền lành, không làm hại con người, lúc bò cũng chậm chạp chứ không loằn nhoằn chạy mất như loài rắn. Bình thường, trăn hoang dã thường thả nổi trên mặt nước, có khi để săn mồi, còn không thì chỉ là thú vui của chúng vậy thôi. Trăn sống ở sâu trong khu đầm lầy, không bị con người săn bắt nên có độ tuổi rất cao; chưa kể đến khu hang động rễ tràm bị âm khí từ bọn ma đi lạc bao phủ, con trăn sống ở môi trường như thế thì có Đức Phật mới biết nó to như thế nào. Về phần Hùng và Thông, mới chỉ thấy cái đầu của nó thôi thì tay chân đã rệu rời, phải lấy hết sức bình sinh mới bơi được tới chỗ gò đất. Lại nói về sự hiền lành của loài trăn, bình thường thì chúng không làm hại ai cả, chỉ săn chuột hoặc cá, nhưng có những thời điểm, con người nên tránh xa loài động vật này: khi chúng lột da, ấp trứng hoặc đói mồi. Hùng có suy nghĩ thoáng qua rằng con trăn này đang trong thời kỳ ấp trứng, vừa bò ra khỏi tổ để kiếm gì đó bỏ bụng thì lại bị hai thằng không biết từ đâu tới ăn trộm trứng của mình, cho nên nó đang khá là điên máu. Dường như nó biết là nó đã bị phát hiện nên bơi chậm lại, cả thân mình chìm xuống dưới kênh, chỉ còn cái đầu ngoi lên, những tiếng “khè, khè” rít qua kẽ răng, những tiếng “his his” phát ra theo chuyển động của chiếc lưỡi đỏ ói, nghe mà lạnh cả sống lưng. Gò đất chỗ Hùng và Thông đang đứng nhỏ như cái lu, nếu Thông thả Sinh xuống vẫn vừa đủ cho ba người nhưng lại chật chội vô cùng. Xung quanh thì tối om, ánh sáng duy nhất là từ chiếc đèn pin, Hùng không dám lia đèn để tìm đường chạy, lỡ đâu vừa lia đèn đi con trăn lặn đâu mất tăm thì nắm chắc chín phần số phận là sẽ nằm trong bụng nó; nhưng cứ soi lăm lăm vào nó như thế này, khác nào là phương án buông xuôi để biết thời gian chầu trời chính xác của mình là lúc nào. Khó càng thêm khó, suy nghĩ mãi cũng không biết phải tính như thế nào. Trong khi đó, con trăn chỉ cách bọn Hùng, Thông và Sinh chừng hai chục mét nữa thôi. Thông chửi thề: “Bà mẹ con cá sấu, lần này mà bố còn sống về bố lột da mày đem bán!” Hùng nói: “Con trăn còn không biết đánh lại không, ở đó lo con cá sấu.” “Đại ca, giờ phải chửi chứ, nghĩ nát óc cũng tìm được đường nào đâu. Má nó, bữa giờ bị ma ám, quỷ dọa giết mà không chết. Không ngờ cuối cùng lại phải nằm ngủ trong bụng trăn!” “Anh cũng hơi bậy nữa. Nãy thấy cái trứng chà bá cũng hơi cấn cấn mà…” “Thêm anh nữa,” Thông cắt ngang, “giờ anh lo nhận lỗi thì được cái gì đâu. Em nghĩ không ra cách là chuyện bình thường, anh thông minh hơn em thì phải khác chứ!” “Mày nói đúng…”, Hùng cười, anh cởi balo để xuống gò đất rồi nói tiếp: “Coi như lần này anh em mình kém duyên, mày mà không đem thằng Sinh ra khỏi chỗ này thì anh về ám cả lò nhà mày!” Nói rồi Hùng phóng xuống nước, nhắm về hướng con trăn mà bơi, Thông đứng trên bờ la oai oái: “Đại ca, anh làm cái chó gì vậy, đây không phải phim, bớt bớt đi!” Nhưng Hùng làm gì nghe được, thật ra thằng Hùng thường ngày sẽ là người trốn tránh việc phải hy sinh cho kẻ khác, nhưng như những suy nghĩ mà anh đã có lúc vừa vào khu đầm lầy này: anh đã quyết định lộ trình của cuộc đời mình. Anh chỉ có hơi tiếc nuối, không ngờ lộ trình đó lại kết thúc chóng vánh như vậy, anh đang mong chờ những cuộc phiêu lưu đầy cam go, những khám phá mới và một trái tim đói khát kiến thức. Hùng chậc lưỡi, “Không nghĩ đến chuyện đó nữa…”Anh biết là mình nhất định sẽ chiến đấu, dùng tay bóp cổ hay dùng chân đạp nước, làm gì cũng được, phần vì không muốn buông xuôi chịu chết, phần vì có thể sẽ câu được chút thời gian cho bọn Thông và Sinh vì anh biết chắc mẩm là Thông sẽ không quay lưng mà chạy liền đâu. Tuy nhiên Thông đang cõng Sinh, đó cũng là một kiểu trách nhiệm nào đó, anh cười nhếch mép, hét lớn: “Chạy đi thằng ngu”. Con trăn giờ đã ở trước mặt Hùng nên anh có thể nhìn nó khá rõ, nó vươn cả thân mình ra khỏi mặt nước rồi cúp cái đầu to tướng xuống nhìn anh, đôi mắt vàng vọt của nó đong đưa qua lại (nôm có vẻ bối rối nhưng chỉ trong phút chốc). Hùng có thể cảm nhận được cả thân mình to đùng của nó đang quấn quanh cơ thể mình, chỉ cần một cú siết nhẹ thì xương của anh sẽ gãy vụn như bánh ống. Về phần Thông, đợt diệt con Phet Đặp, anh đã bỏ Hùng và Sinh lại mà không thèm suy nghĩ, trong tâm trí Thông, đó được tính như một lần chết nhát. Anh định bụng sẽ bơi ra chỗ con trăn với Hùng, chết bỏ. Chợt Sinh co cả người lên làm Thông giật mình, đúng như Hùng suy đoán, trong phút chốc Sinh đã quên đi trách nhiệm của mình. Anh nghiến răng, chửi lầm bầm vài tiếng rồi hét lớn: “Mẹ nó, anh hay lắm nghe Hùng, nhớ về báo số đề cho thằng em này đó!” Nói xong Thông đeo cái balo Hùng để lại trước ngực, có thể cứu được Sinh là suy nghĩ duy nhất trong đầu anh lúc này. Khi anh nhìn lại, vòng siết của con trăn đã nối chặt, Hùng cố vùng vẫy nhưng không có tác dụng, rồi thì Hùng ngất đi. Con trăn há cái miệng rộng hơn cái cổng chào của nó ra định nuốt trọn Hùng, nhưng không hiểu sao, đột nhiên nó khựng lại. Trong một khoảnh khắc, cả đầm lầy như đang nín thở, vạn vật im thin thít, giống thời gian ngưng lại. Rồi sau đó, Thông có thể thề rằng mình nghe thấy một âm thanh kì lạ, một tiếng động của vật gì đó đang chen giữa những cây rừng, mở lối mà đi, kể cả con trăn cũng phản ứng như đang dè chừng, tất cả trực giác của nó dồn về phía tiếng động ấy. Con trăn rít lên một tiếng chói tai, nới rộng vòng siết. Nó ngoái cổ, định bỏ chạy, bản năng của nó đang mách bảo rằng, cái thứ đang xẻ rừng xông đến kia cực kỳ nguy hiểm. Nó thả Hùng ra, cong cả thân thể lên chuẩn bị cho một cú phóng hết tốc lực. Nhưng đã quá muộn. “Phập!” Một hàm răng to đùng với những chiếc răng trắng toát nhọn hoắt từ bóng tối rừng tràm nhô ra, đã táp ngang thân hình của con trăn làm nó đứt thành hai mảnh, cái hàm nhai rau ráu, nuốt xuống ừng ực rồi sẵn tiện “xơi” luôn những phần còn lại, Thông nghĩ vậy thôi chứ anh có thấy gì đâu, chỉ nghe tiếng động. Trong khi Thông còn chưa biết phải hành động như thế nào thì anh nghe tiếng lội nước và không lâu sau, đứng lù lù trước mặt anh là một sinh vật mang hình hài cá sấu nhưng da nó không sần sùi mà bóng loáng, lỗ mũi đỏ chót của nó chợt phát ra ánh sáng mờ ảo, soi rọi cả một vùng đầm lầy rộng lớn, quan trọng hơn hết là nó to như một tòa nhà, hay nói cách khác, no lù lù như một chiếc tàu ai đó khéo léo đặt trong cái rừng này vậy. Thông cũng là người lớn con nhưng đứng còn chưa tới bụng của nó. Anh ngoái nhìn xung quanh: toàn nước là nước, chỉ thấy hàng ngàn cây tràm chứ không thấy đâu là bờ, lúc nãy có quẩy balo mà cõng Sinh bơi đi thì cũng không thoát được con trăn. Con vật khịt mũi, một luồng khí tanh rình phả vào mặt Thông. Chợt một ý nghĩ lóe ngang đầu anh: Hùng đâu rồi? Đột nhiên, phía sau sinh vật bí ẩn nổi lên hàng loạt bong bóng nước, sau đó con cá sấu “lái đò” trồi lên và cõng Hùng trên lưng, anh vẫn chưa bất tỉnh hoàn toàn mà chỉ đang ho sặc sụa. Con cá sấu chở Hùng đến bờ đá, Thông thả Sinh xuống rồi lôi Hùng lên để anh nằm ngửa ra, hai chân chìm dưới nước. Hùng vừa nói, vừa ho: “Sao m...khụ khụ...sao mày chưa...khụ khụ… chạy nữa?” Kể ra thì dài chứ những chuyện vừa rồi xảy ra trong vòng chưa đến một phút, Thông chỉ biết nhún vai cười, anh đỡ Hùng ngồi dậy, lườm lên con vật to lớn với ánh mắt dè chừng, nó vẫn đứng đó thờ phì phí, chưa thấy động tĩnh gì chứng tỏ nó muốn tấn công cả bọn. Thông nói: “Con gì vậy đại ca? Thần rừng hả?” Hùng nheo mắt, anh ngước cổ lên nhìn con vật một hồi rồi quay sang nói với Thông: “Ông Năm Chèo?!” Sự tích về “ông Năm Chèo” có lẽ người dân Hậu Giang, An Giang nào cũng biết tới, người này truyền miệng người kia, người kia lại kể cho người nọ thế nên câu chuyện lại bị thêm mắm thêm muối nhiều lần. Trước khi về Bảy Núi, Hùng có thử tìm hiểu về những sinh vật bí ẩn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhân vật “ông Năm Chèo” là một trong số đó. Chuyện kể rằng, Đức Phật Thầy Tây An ngày xưa có một đệ tử tên là Đình Tây, sau khi xuất sơn thì quyết tâm đi khắp nơi làm việc thiện. Ngày nọ, ông Đình Tây đi ngang vùng Láng Linh thì nghe tiếng phụ nữ kêu đau rất thảm thiết, lúc chạy vào, ông phát hiện người phụ nữ này đang trở dạ, sắp sinh con đến nơi. Tìm mãi không thấy người chồng, ông quyết định cùng dân làng che vách, lợp mái, gọi bà mụ về đỡ đẻ. Trong lúc cao trào, bỗng một chân giường bị gãy, ông Đình Tây nguyện xả thân, lao vào dùng lưng chống cho chiếc giường khỏi ngã. Đến khi người chồng về, cảm kích trước tấm lòng của ông Đình Tây, anh ta liền khoe với ông con thú lạ vừa bắt được: nó giống con cá sấu nhưng da lại bóng như loài cá trê, chớp mũi nó có màu đỏ, lâu lâu lại bừng lên như ngọn đuốc, thêm vào đó là tứ chi có ngón và móng, có thể cầm nắm như loài người. Ông Đình Tây vốn say mê những sinh vật huyền bí, nghe lời mời tặng của người chồng thì nhận ngay. Ông về báo công trạng với Đức Phật Thầy, sẵn tiện khoe luôn con vật kỳ lạ. Tuy nhiên, vừa nhìn thấy nó, Ngài thở dài, vẻ mặt có vẻ ngao ngán, Ngài khuyên ông Đình Tây không nên nuôi, đây là loài ác ngư, sau này lớn lên sẽ làm hại dân làng. Nhưng ông Đình Tây nỡ lòng nào giết nó, ông đem về buộc dây vào chân nó rồi lén Đức Phật Thầy nuôi nó ở hồ sen. Con vật càng lớn càng hung hãn, sợi dây buộc nó cũng phải thay bằng sợi xích to. Một hôm, trời mưa như trút nước, sấm nổ rền trời, ông Đình Tây có linh cảm bất an bèn ra kiểm tra thì mới tá hỏa: con vật đã trốn mất. Nó tự cắn đứt bàn chân mình, bỏ trốn xuống sông mất rồi! Đức Phật Thầy nghe tin liền nổi trận lôi đình, lệnh cho ông Đình Tây lấy theo năm món bảo vật gồm hai cây lao, một cây mun cổ phụng, một lưỡi câu và một đường dây băng, sau đó còn truyền cho khẩu quyết lục lăm, sai ông lên đường bắt con ác ngư, trừ hại cho dân. Ông Đình Tây bôn ba trên vùng sông nước Cửu Long để tìm con sấu nhưng chuyện đó đâu phải dễ. Cho đến một ngày, ông nghe người dân than thở, bảo rằng có một con quái vật mũi đỏ xuất hiện ở vùng Láng Linh, nó to bằng cái nhà, mỗi lần nổi lên là tạo nên sóng thần, thuyền bè bị lật, gây biết bao tổn thất cho người dân. Nó còn bắt cả gia súc, phá vỡ bờ đê, gây biết bao thiệt hại. Ông Đình Tây nghe tin liền ba chân bốn cẳng về Láng Linh, nhưng oái oăm thay, khi ông đến thì nó không dám xuất hiện nữa. Ông dựng lều, quyết tâm chờ bắt con sấu nhưng nó vẫn không chịu ngoi lên. Ông nổi đóa, bèn đứng trên bờ, gọi vọng ra ngoài sông: “Hỡi loài ngặc ngư, nếu thiên cơ đã định, ngươi nên nằm yên sám hối tu hành, còn nếu số người đã tận, thì hãy theo ta về.” Kỳ lạ thay, từ thời điểm đó cho tới ngày ông Đình Tây mất, không còn thấy con sấu xuất hiện nữa. Chỉ còn những tin đồn, ví như mỗi lần sạc đất hoặc lật thuyền, người ta lại truyền miệng nhau: “Ông Năm Chèo làm đó!” Nhưng không ai dám chắc cả. Không ngờ, nó lại trốn trong khu rừng tràm Trà Sư này. Thông thắc mắc: “Anh chắc không?” “Sự tích thì mãi là sự tích thôi,” Hùng nói, “người ta truyền miệng nhau sao thì tao kể lại như vậy. Nhưng mày nhìn vào mắt nó đi, không có sát khí!” Hùng vừa dứt lời, ông Năm Chèo liền cúi người xuống, hơi thở hôi thối của nó như gió mạnh từng đợt, thổi tóc của bọn Hùng và Sinh phút chốc lại bay lên. Cả hai không dám và cũng không thể lùi lại, nên đành lấy hết can đảm đứng yên xem nó sẽ làm gì. Con quái ngư vừa cúi xuống ngang tầm mắt Hùng thì ngoặt đầu sang, đưa con mắt bên trái ra săm soi cả bọn. Nó hết liếc ngang thì lại liếc dọc, sau đó còn khịt lên một tiếng rõ to như kiểu coi thường loài người nhỏ bé, đoạn nó rụt đầu về phía con cá sấu “lái đò” (giờ con cá sấu này mặc dù dài hơn năm thước nhưng chẳng khác nào loài giun loài dế trước ông Năm Chèo), con quái ngư gầm lên vài tiếng, con cá sấu con mở miệng ra kêu như muốn đáp lời, con quái ngư lại gầm lên, con cá sấu con lần này thì dùng đuôi đập nước, bơi một vòng tròn giống như lúc nó gặp lão già. Lúc này, ông Năm Chèo bắt đầu dùng đôi mắt nhìn chết trân vào bọn Hùng, Thông và Sinh. Nó bắt đầu quay đi, ánh sáng trên cái mõm màu đỏ mờ dần rồi tắt ngắm. Hùng nghe nó khịt thêm một tiếng nữa. Thông nói, giọng lắp bắp: “Đại ca...anh có thấy...hai con vật này như vừa mới...nói chuyện không?” Hùng cũng cảm thấy như vậy, có vẻ lúc cả bọn té xuống kênh, chính con cá sấu này đã bơi đi tìm ông Năm Chèo chứ không phải bỏ trốn, mặc kệ tính mạng “khách hàng” của mình. Hùng cũng tưởng tượng đến cảnh con quái ngư này đúng như lời Thông nói, chính là “thần rừng” của Trà Sư, nếu nó có thể nói chuyện thì những tiếng khịt vừa rồi chắc cũng sẽ mang ý nghĩa kiểu như: “Con giun con dế nào vừa ăn hiếp con tao!” hoặc “Loài Người kia, đã tai qua nạn khỏi, coi như lời cảm ơn của ta vì đã cho con ta ăn!”, hoặc hơn nữa là những lời dặn dò với con sấu trước khi nó quay đi. Càng nghĩ càng nhức đầu nên Hùng chỉ nhún vai, cùng Thông leo lên lưng để “lái đò” chở đi. Thông trộm nghĩ: “lúc nãy mình chửi con cá nhỏ, đòi lột da nó, không biết nó có méc Ông Năm không…”. Đi thêm một lúc nữa thì đến bờ nước, lão già vẫn còn ngồi giật sợi dây cước, thấy cả bọn trở về cũng không thèm đưa mắt nhìn. Con cá sấu bơi đến chỗ lão cho lão vuốt vài cái rồi sau đó bơi đi, mất tăm trong đêm tối. Hùng soi đèn pin, Ấn Phục Ma Chú trên cánh tay của Sinh giờ đã không còn hình dạng nữa, những mạch máu xung quanh ngày càng đen hơn và vết thương cũng đã lan rộng ra nhiều. Sinh đổ mồ hôi nhễ nhại, Thông có lau thì cũng vô ích. Hùng sốt ruột, anh tiến đến chỗ lão già, như ý định lúc trước của mình, anh muốn hỏi phải xử lý con rắn bông súng chúa như thế nào mới đặng. Nhưng chưa kịp lên tiếng thì Sinh thét lên thảm thiết, cả người chú sãi co lên, miệng sùi bọt mép, ánh mắt trợn ngược không thấy tròng đen. Hùng nhìn đồng hồ: Ba giờ! Hùng hốt hoảng nhìn xuống tay mình, máu đen cũng bắt đầu xuất hiện, những chấm li ti kích cỡ bằng chân nhang. Chợt anh có cảm giác như đầu mình bị hàng trăm loài côn trùng cắn xé, những chiếc răng gớm ghiếc găm vào hộp sọ rồi lan ra đến bộ não, đau không thể tả được. Anh gục xuống, la thất thanh. Lúc này, Thông đang kìm Sinh lại để cu cậu không bị rơi xuống kênh thì thấy Hùng như vậy liền chửi thề than khổ. Đột nhiên, lão già cột sợi dây cước của mình vào bộ rễ tràm, lão xắn tay áo, rồi thọc cả cánh tay vào một cái lỗ trên bộ rễ kia. Mặt lão nhăn lên, răng nghiến chặt, trông rất đau đớn. Đoạn, lão rút tay ra, hàng trăm con vắt bám đầy trên đó, chúng khua thân người trông kinh tởm vô cùng. Lão già, mặc dù đang rất đau, vẫn cố hết sức chạy về phía Sinh, lão cặp cánh tay mình vào cánh tay chú sãi, lũ vắt liền bò sang, bám đầy vào Ấn Phục Ma Chú, thân thể chúng căng phồng lên, kỳ lạ thay, Sinh trấn tĩnh lại, máu đen cũng ngừng không lan ra nữa. Lão cũng làm điều tương tự với Hùng. Một tiếng sau thì Hùng tỉnh dậy, anh thấy Thông đang ngồi cạnh Sinh trên bờ nước, lão già đang cuốn sợi dây cước, trông mặt lão ta khá mệt mỏi. Thông kể lại sự vụ vừa rồi cho Hùng nghe, anh chỉ tắm tắc, “đúng là gừng càng già càng cay mà!” Chợt lão già lên tiếng: “Thằng nhãi Thạch Sinh, bảy tám năm rồi không gặp, chắc đã báo thù xong!”, lão thở dài rồi nói tiếp: “Đã bắt được con rắn chưa?” Hùng gật đầu rồi lễ phép hỏi lão già: “Cụ ơi, nói thật là con không biết phải làm gì tiếp theo, cụ có thương thì thương cho trót, mách kế cho con được không ạ?” Lão cười khà khà rồi nói: “Giỏi. Nói được tiếng lục lâm, lại biết kính kính trên nhường dưới như vậy là tốt. Máu độc cũng đã hút ra, nhưng chỉ là cầm chừng. Ở Núi Két, có một vị đạo sĩ ở ẩn, lên đó cho ông ta xem con rắn, ông ta tự khắc biết làm gì.” Ngưng một chút rồi ông lão tiếp lời: “Tụi bây đánh nhau với nó, còn toàn mạng trở ra dù dính chút âm khí, lão phu có lời khen!”. . Giữa vùng quê An Giang, chiếc wave cũ lại gầm lên, cả ba chạy như xé gió đến địa điểm tiếp theo: Núi Két hay còn gọi là Anh Vũ Sơn. Cả bọn đến chân núi lúc trời vừa tảng sáng, vứt bừa chiếc wave cùn không buồn gửi, Thông cõng Sinh phóng như bay lên đỉnh. Hùng coi lại đồ đạc một cách qua loa rồi cũng chạy thục mạng phía sau. Thông vốn sức trâu, có coi mệt mỏi là cái thứ gì, anh phóng một lần ba bậc thang, cũng do một phần lúc Sinh và Hùng lên cơn co giật lúc nãy, anh cảm thấy lỡ mà có mất đi hai người anh em vào sinh ra tử này, chắc anh cũng không muốn sống mà trở về nữa. Vừa đi được vài bậc thang, đang đắm chìm trong suy nghĩ vẩn vơ, anh nghe tiếng Hùng la lên ở phía sau. Thông vội vã ngoái đầu lại, vừa lúc thấy một bóng đen xuất hiện, cái bóng đấm một cú thôi sơn vào bụng Hùng khiến anh gục xuống, máu tươi trào ra từ cửa miệng, không biết sống chết thế nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13 :  Chương 13: Chuyện kể của Hùng Bon-sai - Ma chạy


“Ê, mày là thằng nào, tự dưng đánh người đau bệnh không biết nhục à?” Thông hét lớn, hai chân anh vẫn đứng khập khiễng trên những bậc thang. Bóng đen bí ẩn sau khi thụi một đấm vào bụng Hùng vẫn đứng bất động, hắn cúi đầu nhìn anh đang lồm cồm bò dậy, cùng lúc đó thì Thông cũng bắt đầu cõng Sinh chạy ngược xuống. “Ê!” Thông hét còn lớn hơn lúc nãy, chợt Hùng ho lên từng đợt, mỗi lần ho nghe như muốn văng cả phổi ra ngoài, cảm giác cuống họng chua lè, cả cơ thể anh đang dồn hết sức lực tống khứ thứ gì đó: Hùng nôn! Cảm giác lo lắng nhưng không phải vì có chuyện chẳng lành, Thông cũng chạy đến đứng cạnh bóng đen bí ẩn kia. Trong bãi ói máu, có một vật mang hình hài của trái chôm chôm và nó đang động đậy. “Trái chôm chôm” này còn có hai lỗ mũi và một cái miệng, nó thoi thớp, cửa mồm đang mở ra đóng lại như con cá mắt cạn, nó ré lên những tiếng chói tai rồi...tắt thở?! Hùng tỉnh dậy trong một gian nhà bằng gỗ mát mẻ, đây là lần thứ hai trong vòng có mấy tiếng đồng hồ anh phải trải qua những cơn đau dữ dội rồi sau đó bất tỉnh. Anh nhìn xuống chân, một chiếc chăn được đắp rất gọn gàng làm anh cảm thấy thật ấm áp. Bên ngoài khung cửa sổ với hai bản lề đã bị mối gặm gần hết, những tán lá xanh rờn đang đong đưa theo gió, âm thanh xào xạc mang màu sắc thiên nhiên và...hoàn toàn bình thường. Không phải trong chùa Khmer hay rừng tràm mà là ngoài cửa sổ của một gian nhà yên ắng. Hùng thấy khó chịu. Anh bật dậy, anh thấy nhói ở ngực và lạt miệng lạ thường. Đặt bàn chân trần xuống sàn gỗ, một cảm giác mát lạnh chạy khắp người anh, anh chụp ly nước lọc trên chiếc bàn ở đầu giường rồi ực một hơi hết sạch. Ánh nắng vàng vọt và buồn bã của buổi chiều xuyên qua hàng tá những cái lỗ trên vách nhà, chúng chân thật đến nổi cảm giác có thể chạm vào và bóc đi. Anh xỏ đôi dép tổ ong rồi mở cửa, những dãy núi hùng vĩ của xứ Thất Sơn hiện lên rõ mồn một trước mắt, sau lưng, bên trái và bên phải của anh, núi rừng đang ôm ấp anh, thì ra anh đang ở trên đỉnh của Anh Vũ Sơn rồi. Cạnh bên gian nhà của anh là một khoảng sân lát đá khá rộng, cuối sân có một cầu thang dẫn lên cao hơn nữa, anh thấy tòa sen và tà áo phất phơ của Quan Âm Đại Sĩ. Dưới bậc tam cấp của giang nhà nghỉ là lối mòn dẫn ra giang nhà chính, từ phía đó vang lên tiếng nói chuyện ồn ào, chính là Thông chứ không ai khác. “Con xin lỗi chú rồi,” Thông cắn một miếng bánh mì rồi vừa nhai vừa nói, “con là vậy đó, chửi trước rồi tính gì tính. Có ba anh em hà, đi rừng mà tự nhiên có ai bay ra đánh chú, chú có chửi nó không? Cũng tại…” Thông ngừng giữa câu nói vì thấy Hùng đang lật đật đi ra, nôm chưa dám lại gần vì thấy bóng đen bí ẩn lúc sáng chính là người ngồi đối diện với Thông. Thấy vậy, anh gọi vọng ra: “Đại ca, tỉnh rồi à. Lại đây ăn bánh mì nè.” Bóng đen bí ẩn kia cũng quay lại, Hùng vừa trông thấy thần thái của con người này liền hạ mọi rào chắn xuống, một người đàn ông khôi ngô đầy vẻ dặm trường, ông ta chỉ độ ba lăm tuổi, bộ râu đen nhánh ôm chặt khuôn mặt xương xẩu, ánh mắt sắc lẻm ẩn dưới đôi chân mày rậm rạp, ông ta ngồi khoác cùi chỏ lên thành ghế đá, không có chút cảm xúc nào để lộ ra ngoài. Kiểu người đem lại sự an toàn tuyệt đối mỗi lần xuất hiện. Hùng gật đầu chào rồi bước đến, ông ta cũng chào lại. “Đứa bé bị ngã giữa đường, làm trầy hết quần áo, không dám khóc gọi mẹ,” ông ta cất tiếng nhưng giọng lại nghe già hơn tuổi rất nhiều, “thằng cha tiều phu say bí tỉ, làm rớt rìu xuống ao, không dám quỳ gối nhờ Bụt.” Hùng khẽ nhăn mặt, trả lời hết sức dứt khoát: “Mẹ sẽ đỡ con, Bụt ắt giúp người hiền.” Đoạn anh quay sang Thông hỏi: “Thằng Sinh đâu rồi?” Thông nói: “Nó nằm nghỉ trong nhà chính. Cũng nhờ chú đây, hồi sáng là chú trị cho anh đó. Hết luôn rồi!” Hùng tròn xoe mắt nhìn người đàn ông, dường như ông ta cũng hiểu vì sao bèn lên tiếng: “Bần đạo tên Danh, là con thứ chín trong nhà nên người ở đây gọi là Chín Danh. Tiểu sư phụ sau khi trút độc ra khỏi cơ thể, dùng phép phong ấn dựng một rào chắn xung quanh Tam Muội Chân Hỏa, tình hình cũng bớt nguy kịch. Còn thí chủ, vì nhiễm âm khí nhẹ, chỉ cần đánh vào huyệt đan điền, đuổi tâm ma trào ra khỏi cổ họng là coi như xong.” Hùng nói cám ơn rồi đến ngồi cạnh Thông, anh nói: “Vậy còn con rắn bông súng chúa có tác dụng gì?” Chín Danh bắt chân chữ ngũ, vừa rung đùi vừa nói tiếp: “Rắn bông súng chúa sống trong đầm lầy đầy âm khí mà không nhiễm âm khí, cứ gọi là một kiểu tu luyện. Dùng nọc rắn pha với mực, khôi phục lại hình dạng của Ấn Phục Ma Chú, lúc đó mới yên tâm mà sống tiếp, không sợ âm khí phát tán mà dẫn tới thi biến.” “Vậy chú Chín phục hồi Ấn Phục Ma Chú được không? Nếu được, sau này cả bọn chúng tôi sẽ chăm chỉ cúng dường!”, Hùng nhoài cả người về trước, ánh mắt anh tràn đầy hy vọng. Chín Danh cười ha hả, ông vuốt bộ râu rồi nói: “Công quả, cúng dường là từ tâm mà ra. Chẳng ai ép cả.” Thông chen vào: “Vậy chú làm được hả?” Ông gật đầu: “Dĩ nhiên!” Hùng nhìn sang Thông, vẻ vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt họ, chợt họ nghe Chín Danh nói tiếp với một vẻ bình thản đến rợn người: “Làm được nhưng đâu có nói là sẽ làm.” Họ chỉ vui được vài giây. Thông vừa nghe thấy một điều hết sức vô lý, Chín Danh là người tu hành nhưng vừa từ chối giúp người gặp nạn, bất chợt máu điên anh nổi lên. Hùng hiểu rõ người em của mình nhất, anh nhanh chóng đưa tay ra ý nói Thông hãy từ từ; đoạn anh quay sang nói với Chín Danh, vẫn giữ thái độ bình tĩnh: “Chú Chín, thằng Sinh vì muốn diệt con Phet Đặp mà nửa sống nửa chết. Tất cả mọi phương tiện đều đã mang đến rồi, sao chú lại nói không làm?” Chín Danh hớp ngụm trà rồi nói: “Hai người quá hấp tấp rồi. Bần đạo còn chưa nói xong, Thông thí chủ ăn to nói lớn, thiếu kiên nhẫn rất khó làm việc lớn. Chuyện là vầy, trên Anh Vũ Sơn này có một con Ma Chạy, rất thích phá phách. Tôi nhiều lần muốn xuống phía lưng chừng núi, ở đó có hai bức tượng Ông Cọp đã bay hết màu sơn, tôi muốn sơn lại nhưng con ma này cứ quấy rầy, nó làm đổ sơn, làm hư cọ, rắc rối vô cùng. Tôi muốn nhờ hai thí chủ hãy đi bắt nó lại, sẵn tiện sơn giúp hai bức tượng. Làm xong tôi sẽ cứu Sinh tiểu sư phụ.” Hùng thắc mắc: “Chú Chín mà cũng nhờ người ta giúp sao, tự làm sẽ nhanh hơn hai thằng nghiệp dư như tụi tôi mà?” Ông quả quyết: “Đúng, nếu là ngày xưa thì tôi đâu cần nhờ ai. Nhưng tôi đã xuất gia, mấy việc này tôi không còn làm nữa.” Khoảng bảy giờ tối, Chín Danh phải xuống núi để tiếp một đoàn khách bên Campuchia, trước khi đi không quên dặn lại nhiệm vụ tối nay của Hùng và Thông, cộng với việc không được làm phiền Sinh vì cậu ta đang trong quá trình thiền định và hồi phục. Khi Chín Danh vừa quay đi thì nghe tiếng chổi dừa vang vọng trong những bờ đá của Anh Vũ Sơn. Họ ngưng nói, quay về hướng có tiếng động thì thấy một cô gái chừng mười tám, hai mươi tuổi, đang quét lá trên bậc tam cấp của điện Chư Thần. Cô gái có thân hình nhỏ gọn, mái tóc nhuộm màu hạt dẻ, mũi cao, môi hình trái tim và hơn hết, ánh mắt thẫn thờ, xa xăm nhưng toát lên vẻ lém lỉnh và thông minh. Cô bé xuất hiện từ lúc nào mà cả đám đều không hay biết, ngay cả Chín Danh cũng có chút bất ngờ. Ông tằng hắng rồi hô to: “Hôm nay xong công việc sớm quá Vy...” Vừa nói đến đó thì ông nín bặt, không phải, đúng hơn là một cái nhìn giản đơn của cô bé quét lá làm ông phải nín bặt. Ông quẩy tay nải, quay mặt đi, nôm có vẻ vội vàng pha lẫn chút bối rối. Bọn Hùng và Thông thì không hiểu đầu cua tai nheo gì cả, sau khi Chín Danh đi khỏi, họ bàn bạc, chuẩn bị cho công việc cho đêm nay. Theo như nhận định của Hùng (và Thông cũng đồng ý), bọn ma cỏ chuyên đi quậy phá con người, không đứa nào dám xuất hiện trước giờ Tý (tức 12h đêm). Trong lúc chờ đợi, Hùng rủ Thông chuẩn bị dụng thùng sơn, cọ vẽ đầy đủ, đi thám thính khu vực xung quanh một chút rồi sau đó ngủ một giấc lấy sức. Đồng hồ điểm 11h30, Thông đang ngủ ngon giấc trong căn phòng mà Hùng nằm lúc chiều, bỗng anh thức dậy, anh có linh cảm không lành, mắt anh mở to, bên ngoài trời gió từng đợt, như muốn thổi bay cả mái tôn. Chợt, một bàn tay lạnh ngắt chộp lấy miệng anh, anh trợn mắt, định dùng võ để tự vệ thì anh nghe tiếng của Hùng: “Im!” Thông chửi thầm “Lại nữa!!”, lúc Hùng vừa buông tay, anh phàn nàn ngay: “Anh Hùng, mẹ bà! Hồi ở chùa một lần rồi, em muốn đái trong quần, sao anh có một bài mà chơi hoài vậy?” Hùng vẫn giữ nguyên tư thế, anh có vẻ không quan tâm đến lời phàn nàn vừa rồi, anh nói mà chỉ dám dùng hơi: “Cửa sổ…” Nghe đến đây, Thông có hơi bực nhưng vẫn thận trọng liếc mắt về hướng khung cửa bị mối ăn, khi thấy cái thứ ngoài đó, anh cũng phải trút một hơi thở hốt hoảng, da gà da vịt thi nhau nổi lềnh bềnh: một khuôn mặt trắng như vôi với ngũ quan được vẽ lên hết sức cẩu thả, nó đang nhìn chằm chằm vào chiếc giường nơi Hùng và Thông nằm ngủ. Bỗng Hùng bật dậy, trong đầu anh vang lên câu hỏi: “Vẽ à?!” rồi anh tốc tấm chăn, phóng về khung cửa sổ nhưng không kịp. Khuôn mặt đầy vôi kia đã tháo chạy rất nhanh, gió đang thổi mạnh thì nín bặt, cả Hùng và Thông đều có thể nghe thấy tiếng bước chân của nó trên mái tôn, chẳng khác gì tiếng chân của loài mèo hoang. Thông khều vai Hùng, anh cũng hiểu ý thằng em của mình, cả hai tức tốc chạy ra phía sau, chỗ cửa sổ mà “bức tượng” lúc nãy đứng loang lổ những dấu chân. Thông nói: “Con ma chạy hả anh?” “Chắc vậy. Nhưng mà….” Hùng định không nói thêm, đột nhiên anh nghĩ lại chuyện những cái trứng trăn, anh tiếp: “Mày thấy ngộ không? Mấy “đứa” phá phách không bao giờ dám xuất hiện trước giờ Tý, anh chắc kèo với mày luôn. Còn con này lại cả gan đứng nhìn mình ngủ…” “Em nghĩ cũng giống như mấy con rết trong hang rễ tràm thôi, tại vì ít tiếp xúc nên tụi nó không biết sợ là gì.” “Tao không nghĩ Núi Két có ít người qua lại đâu. Nhưng mà thôi, kệ nó, nó biết sợ mình vậy cũng tốt. Giờ đi lấy đồ, tao với mày đi sơn tượng Ông Cọp.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14 :  Chương 13-2: Chuyện kể của Hùng Bon-sai - Ma chạy 2


Đường xuống nhà mát dưới lưng chừng núi khá khó đi, vì lúc sáng Thông đi lên một lần rồi nên anh còn nhớ man mán, mặc dù vậy cũng phải vất vả lắm mới đến nơi. Con đường gập ghềnh, được lót đá và thắp sáng bằng những bóng đèn tròn treo trên những cây tre dựng tạm bợ. Nhà mát này có ba khu: một quán nước được dựng thụt vào trong vách đá, đối diện với nó là giang nhà có treo võng dành cho khách hành hương nghỉ chân, và khu điện thờ với hai bức tượng Ông Cọp đang đứng oai phong canh giữ. Như lời của Chín Danh, chúng đã phai màu gần hết, không còn phân biệt được đâu là vằn đen, đâu là lông cam nữa, phần bụng thì rêu bám đen kịt. Thông đặt ba thùng sơn xuống, anh nhìn một vòng rồi nói: “Phân chia công việc sao đây “sếp”? Hùng đáp: “Mày ngồi sơn đi, để anh lo con ma.” Rồi anh lấy cây cọc kỳ nam ra, vũ khí tối thượng mà lúc nào anh cũng tin tưởng. Mọi chuyện bắt đầu khá suôn sẻ, Thông vốn là loại người công việc gì cũng đã từng kinh qua nên anh làm rất gọn, thoáng cái đã gần xong phân nửa con hổ. Anh nói: “Êm không đại ca?” Hùng đang ngồi trên bệ đá gần đó, khua khua cái cọc kỳ nam: “Ờ ờ… Sơn phủ lên lớp cũ thôi mà, mày hỏi vậy sao anh biết đường trả lời?!” “Không phải cái này, em hỏi con bé quét sân hồi chiều kìa, anh thấy nó êm không?” “Nơi tôn nghiêm, không lo làm việc mà ở đó địa gái hả mậy!” Thông cười hehe: “Ông trời cho anh con mắt làm gì, miễn sao tâm anh tịnh thì thôi. Mà thấy vậy chứ con bé đó không đơn giản đâu, đạo hạnh cũng thuộc hàng khủng đó…” Hùng tò mò: “Ý mày là sao?” Thông đang ngồi khuất sau tượng hổ, anh ngóc đầu lên rồi nói: “Lúc anh bất tỉnh, chú Chín có nói với em là con nhỏ mới lên đây ở thôi, nghe đâu lúc trước dính dáng tới vụ gì tày đình lắm, sau đó có người bảo nó trốn lên Núi Két. Chú Chín còn nói nó là trùm của cái gì mà phong thủy, rồi trấn yểm gì gì đó…” Chợt Hùng đưa tay lên, ý bảo Thông ngừng nói, anh phóng tầm mắt về phía quán nước trong vách đá, là khuôn mặt trắng bệch lúc nãy. Nó đang nấp sau một bụi cây lởm chởm, tưởng rằng không ai thấy. Hùng khẽ cười, anh thận trọng trèo xuống mỏm đá, đưa ngón trỏ lên miệng ra dấu với Thông, anh lần theo bức tường của điện thờ, con Ma Chạy vẫn chưa phát hiện. Anh hạ thấp trọng tâm áp sát, con ma giờ chỉ còn cách anh khoảng năm sáu bước, Hùng thủ thế, nắm chặt cọc kỳ nam, định bụng sẽ một nhát siêu thoát luôn cho con ma phá phách. Anh hét lớn rồi lao lên. Nhưng anh đã quá coi thường loài Ma Chạy, nó quá nhanh, chỉ cần một cú lách nhẹ đã né nhát chém gọn hơ. Nó cười the thé, dậm chân xuống đất kiểu con nít làm nũng rồi vèo cái đã thấy nó tới khúc quanh xuống núi. Hùng nhầm hướng nó chạy mà đuổi theo, giọng ơi ới kêu Thông cứ tiếp tục sơn tượng. Vừa đuổi đến khúc quanh, Hùng thấy bóng dáng con ma vừa chui tọt vào một bụi cây. Anh cũng không chần chừ làm gì, lấy hai cánh tay che mặt rồi cũng phóng vào theo. Chỗ đáng lẽ có vách núi thì lại có lối mòn dẫn xuống, nó chỉ tối chứ không sâu lắm, có thể thấy một cửa hang ẩn hiện phía cuối đường, Hùng men theo những bậc thang bằng đất, quyết tâm đuổi theo con ma đến cùng. Hang động này có thể hình thành trong tự nhiên, nhưng để ý kỹ thì có dấu vết của con người, những thân cây bị chặt, dấu dao làm cỏ và chính cả bậc thang đất lúc nãy. Bên trong hang, một loại ánh sáng màu xanh lục hắt lên những vết sần sùi của vách tường. Nhắm hướng phát ra ánh sáng, Hùng thận trọng tiến tới, anh nấp chỗ bóng tối, thò đầu nhìn vào bên trong. Hùng kinh hồn phát hiện ra hàng chục bức tượng khác, nhìn vào cách tạc tượng, có thể kết luận là cùng một nghệ nhân: những khuôn mặt trắng bệch, ngũ quan được vẽ cẩu thả, thứ duy nhất khác nhau là bộ đồ chúng đang mặc. Trong đây có bộ đội, nông dân, tiều phu, hàng thịt đủ cả. Hùng sợ con Ma Chạy lợi dụng điều này, đứng nấp vào những bức tượng, đợi thời cơ bỏ trốn nên anh thận trọng dùng cọc kỳ nam gõ lên từng bức một, âm thanh “cộc, cộc” của đá vôi rỗng ruột vang lên trong ánh sáng màu lục ma mị. Đột nhiên Hùng nghe giọng Thông la thất thanh phía trên: “Đại ca, cứu em với con ma nó đè em nè!” Anh tức tốc chạy lên, khi anh vừa khuất bóng, nhất loạt mấy chục bức tượng chầm chậm xoay đầu của mình kêu răng rắc, chúng dồn ánh mắt về phía cửa hang. Phía Thông, lúc Hùng vừa chạy đi anh cũng nhún vai rồi ngồi xuống sơn tiếp, sơn được mấy cái vằn thì anh nghe tiếng động sau lưng mình. Lúc anh quay lại thì cả thân người phì nhiêu của con Ma Chạy đã lù lù trước mặt, anh chỉ kịp hét lên gọi Hùng. Con ma đè lên cơ thể anh, nó ấn cả đầu anh xuống những vết sơn bị chảy ở dưới đất rồi cất tiếng cười the thé, nghe vừa rờn rợn vừa đáng ghét. Thông nổi máu, anh chống tay xuống đất, lấy hết sức để bật dậy. Không thành công. Anh tiếp tục thử, hai lần, ba lần, đến lần thứ tư con ma không còn giữ nổi nữa. Nó bị Thông đẩy bật ngửa. Không thể thấy được cảm xúc từ những đường vẽ cẩu thả trên mặt nó, nhưng Thông chắc mẩm rằng nó đang hốt hoảng, dăm ba con ma chuyên đi phá người thế này đâu có đường nào so được với những chuyện cả bọn đã trải qua mấy ngày nay. Con Ma Chạy lồm cồm ngồi lên toan bỏ chạy nhưng Hùng đã xuất hiện sau lưng nó từ lúc nào, anh choàng một tay kềm chặt cổ nó rồi vun cây cọc kỳ nam cắm vào ngực nó. “Phập!” Con ma hét lên một tiếng chói tay, dãy dụa như cá bị đập đầu, không lâu sau thì nó đã bị Hùng “siêu thoát.” Thông nhìn Hùng, anh nở nụ cười chế giễu rồi quay sang tiếp tục sơn, mặt anh dính những đốm màu sơn đen, cam, trắng. Một lúc sau, tượng Ông Cọp đầu tiên cũng sơn xong, từ nãy đến giờ Hùng cứ loay hoay quanh cái “xác” của con Ma Chạy, vừa lúc Thông định bắt tay vào sơn bức tượng thứ hai thì anh nghe tiếng Hùng gọi: “Thông, mày lại đây coi cái này nè!” Hùng lắc cây cọc kỳ nam qua lại, chỗ vết đâm bốc lên mùi hôi thối không chịu được, còn thối hơn hơi thở của ông Năm Chèo. Hơn nữa, trong đó còn có vài con dòi đang cố chui ra ngoài. Hùng rút cọc kỳ nam, vẻ mặt anh có vẻ lo lắng, anh nói: “Chẳng lẻ chú Chín…” nhưng chưa kịp dứt lại thì phía dưới khúc quanh vang lên hàng trăm tiếng chân, chúng dồn dập rồi phân ra như đang bao vây Hùng và Thông. Vào tư thế lưng đâu lưng quen thuộc, Thông nói: “Vụ gì nữa đây anh!” “Lúc anh rượt con Ma Chạy, anh có tìm thấy một cái hang, trong hang có hơn mấy chục bức tượng nữa!” “Anh nói là có nhiều hơn một con hả?” “Sao tao biết được, có khi ông Chín ổng gài mình rồi!” “Tượng mà cử động được là ma chạy đúng không anh?” “Hình như vậy…” Bỗng Hùng và Thông đều nín bặt, dường như cả hai đều có chung một suy nghĩ. Họ nhìn vào vật thể mà Thông sơn từ nãy đến giờ, cả hay liền hốt hoảng, phóng nhanh ra sau mấy bước. Hai Ông Cọp đang trở mình, quay ngoặc cả đầu về sau nhìn trực diện vào Hùng và Thông, ánh mắt chúng sáng rực một màu đỏ chết chóc. Con hổ Thông vừa sơn xong vẩy lông như vừa bị rớt xuống nước làm sơn bay tứ tung. Chúng gầm lên, tiếng gầm oai hùng của chúa sơn lâm rồi dồn Thông và Hùng vào góc, đúng lúc đó, từ những vách đá, bụi cỏ lại có thêm hàng chục tượng Ma Chạy khác thò đầu vào xem, chúng cười the thé, giọng cười lúc trầm lúc bổng, lúc trong lúc đục. Hùng tặc lưỡi, một hai con thì còn dễ xử lý, chứ số lượng đông như thế này coi bộ hơi căng, lại có thêm hai con hổ nữa. Anh cần thêm tí thời gian để nghĩ cách, nhưng hai con hổ này làm gì cho anh một thứ xa xỉ như vậy, chúng thủ thế, phóng lên vồ không một chút do dự. Chợt từ phía sau vang lên một tiếng “Đoàng!”, thì ra là Chín Danh, ông ta đang cầm một cây súng hỏa mai, họng súng vẫn còn bốc khói. Hai con hổ nghe tiếng súng chợt ngừng tấn công, đám ma chạy đứng xung quanh cũng nín cười. Chín Danh đứng bệ vệ trên triền núi, ông đặt báng súng xuống đất rồi ném ánh nhìn về phía Hùng và Thông, chờ đợi. Thông gọi với lên: “Chú Chín, người trong nghề cả, sao lừa nhau kỳ vậy?” Ông ta đáp: “Thông thí chủ, bần đạo nhờ hai người bắt ma và sơn tượng, chứ không nhờ hai người một nhát “siêu thoát” nó đúng chứ?” Cả Hùng và Thông đều cứng họng, tình thế lúc nãy nguy cấp, Hùng có thừa nhận anh hành động hơi hấp tấp. Anh nói: “Biết là vậy, nhưng đụng chuyện rồi mới biết mình lỡ tay. Chú Chín lúc chiều cũng đâu tiết lộ là mình còn hơn mấy chục thi thể không phân hủy cho tụi này nghe. Coi như hai bên đều có lỗi!” “Mấy cái xác đó là do Danh tôi phong ấn, chúng đều là bọn tà ma đạo sĩ lên đây tu làm việc ác rồi bị vật chết. Tôi lấy xi-măng đắp lên người chúng, không cho chúng “siêu thoát”, suốt đời làm vật giữ nhà. Mục đích tôi kêu hai người xuống đây, chỉ là muốn thử bản lĩnh thôi.” Hùng hừ một tiếng rồi nói: “Thôi được, vậy coi như huề cả làng nhé!.” Chín Danh thở dài, ông bước xuống: “Chưa đâu. Còn một chuyện khác nữa, sư phụ của Sinh vốn có quan hệ thân thiết với bần đạo, thấy đệ tử của bạn mình bị như vậy cũng bứt rứt. Rốt cuộc, hai người có giao ước gì với cậu ta?” Đến nước này Hùng cũng không muốn nói dối làm gì nữa, anh cùng Thông, hai người kể lại những chuyện xảy ra trong mấy ngày qua, từ việc đi tìm kỳ nam rồi nhận được nó từ tay của Sinh, giúp Sinh diệt con Phet Đặp, rồi những sự cố tiếp theo dẫn họ lên Núi Két này. Chín Danh nghe xong, ánh mắt cũng có chút thán phục. Ông lại hỏi: “Kỳ nam ở vùng ngoài cũng đâu thiếu, tại sao lại tới An Giang?” Hùng đáp: “Bọn tôi muốn tìm vách đá, nơi đó có cất giấu Ngọc Rết trong truyền thuyết.” Nghe đến đó, Chín Danh trợn mắt, giọng nói trở nên nghiêm trọng: “Hai đứa bây định đi tới Vách Ma Giấu? Đùa tao chắc!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15 :  Chương 14: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Vách Ma Giấu


Chín Danh trầm ngâm theo kiểu khó nghĩ, rồi ổng nhìn Hùng nói: “Chỗ mấy anh định đi, đúng là ngọc rết nhiều lắm, thực ra nó “nhìn” thì thấy gần đây thôi, nhưng vào được nói dễ không dễ nói khó không khó, quan trọng là bản lĩnh”. Thông lại hấp tấp: “Chú Chín à, hai anh em con xét về tiền bạc thì không có gì để khoe, nhưng bản lĩnh thì cũng một bụng, chú nói chỗ đó thế nào?”. Ai ngờ Chín Danh bước đến vừa cười bỗng cốc đầu Thông một cái, nghiêm giọng nói: “Chú mày còn nóng vội như vậy, có một trăm cái mạng cũng không cúng nổi cho cái đất Thất Sơn này đâu!”. Không hiểu sao Hùng cảm thấy chú Chín cốc đầu Thông như một vị sư phụ dạy dỗ đệ tử, chứ không hề có ý ghét bỏ. Thông chắc cũng nhận ra chuyện đó nên cậu ta bẽn lẽn hẳn. Hùng lên tiếng: “Thưa chú, kỳ thực mục đích đi chuyến này là để tìm ngọc rết, nhưng sau khi có cọc kỳ nam, con cũng định cứu thằng Sinh rồi cũng về Sài Gòn thôi. Nhưng… Nhưng chú biết đó, nghe một cái chỗ kỳ dị như vậy, con kìm lòng sao được!”. Chín Danh không nói không rằng, quay lưng trở lên gian nhà chính, Hùng và Thông đi theo sau. Lên đến nơi, ông ngồi xuống ghế đá, nhìn bọn họ rồi nói: “Tui đâu có cấm cản hai cậu, đêm hôm qua, lúc hai cậu cùng thằng Sinh diệt kumanthong, tui đứng trên núi, thấy sao dời, khí tượng thiên văn có biến đổi, điềm đó ứng vào hai người, cho nên cái gì đến rồi thì cũng đến, có thể nói đó như là số mạng hai cậu đã được định đoạt, giờ thì đi ngủ đi, sáng mai tui chỉ cho “nhìn” nó, tìm được hay không, còn phải coi có duyên hay không nữa!”. Hùng và Thông nghe theo, hai hôm nay quá nhiều chuyện xảy ra, họ có được nghỉ ngơi nghiêm túc đâu. Cả hai tắt đèn, Anh Vũ Sơn chìm trong bóng đêm huyền bí. Sáng hôm sau, Thông lọ mọ dậy thì đã 7h, lật đật chạy ra, thấy ông Chín và Hùng đang đứng ở khoảng sân trước (người ở đó gọi là sân tiên). Thông chạy đến, cảnh vật làm cậu phải dụi mắt mấy lần cho tỉnh hẳn: núi non trùng điệp, sương trắng phủ ở những sườn núi, thung lũng, xa xa là biên giới với Campuchia được ngăn cách với An Giang bằng con kênh Vĩnh Tế thẳng tắp. Chính giữa khung cảnh đẹp như tranh vẽ đó là hình ảnh một vách núi hình vòng cung đều đặn, xung quanh là một màu xanh cây rừng, tô điểm cho màu trắng của vách đá sừng sững, cũng phải cao đến 20m. Đó chính là nơi họ sẽ đi tìm Ngọc Rết, gọi là Vách Ma Giấu! Thông nghĩ trong đầu: “Mẹ bà, chú Chín chơi con hả? Nhìn sờ sờ vậy sao không đi tới được?”. Quả thật, đúng như Thông nghĩ, nhìn vách đá đó chỉ cách chân núi Két cao lắm là tám cây số về hướng Tây Bắc, xung quanh có rất nhiều vật mốc có thể dẫn đường như cột ăng ten, nóc chùa, với kinh nghiệm tìm lan xưa nay, chuyện tìm được vách đá đó đối với Thông và Hùng chắc chỉ cần một phút ba mươi giây. Bỗng suy nghĩ của Thông bị ngắt bởi tiếng nói của Hùng: “Nếu quả thực như chú Chín nói, con với thằng đệ sẽ cẩn thận!”. Thông chẳng hiểu nãy giờ hai người kia trao đổi những gì, anh chêm vào: “Không tìm được cái vách đó, em quỳ gối từ đây về Sài Gòn!”. Vừa nói xong, Hùng quay sang lườm anh một cái khiến Thông phải sợ. Ánh mắt của Hùng nói lên phần nào thông tin mà Chín Danh cho Hùng biết, anh đang rất thận trọng. Máu phiêu lưu trong Hùng đang dâng cao hơn bao giờ hết, anh muốn nhân đợt này, khai quật hết những huyền bí vùng Bảy Núi u linh. Cả hai ăn bữa sáng Chín Danh đã chuẩn bị sẵn rồi lên đường, lúc ấy đã 9h. Trước khi đi, Hùng không quên cảm ơn chú Chín đã cứu mạng anh và Sinh, việc khôi phục Ấn Chú Phục Ma đành nhờ ông cả. Chín Danh không nói gì, chỉ nhoẻn cười và khoát tay ra dấu cứ đi đi. Từ trên cao lúc nãy Hùng có để ý gần vách đá có con đường mòn (vì tán cây mọc thưa ra theo hàng), anh chạy xe về hướng Tịnh Biên, tìm con đường đó, phía trước nó có hẳn một cây ăng-ten đỏ chót làm dấu nên khá dễ tìm. Thông ngồi sau xe im lặng, anh đang rất hối lỗi, sau bao nhiêu chuyện mấy ngày nay Thông cảm thấy mình vô dụng đã đành, lại thêm chết nhát và nói nhiều nữa, nên cảm thấy muốn xin lỗi Hùng nhưng chưa mở lời được. Lát sau Hùng quay sang nói: “Mày đừng có để bụng chuyện hồi nãy, anh coi mày như thằng em ruột, chỉ là lúc nãy Chú Chín nói về những truyền thuyết của Vách Ma Giấu, anh tin là ổng nói thật nên đang lo cho hai thằng. Thiệt tình là hổm rày không có mày, anh chết chắc hai ba mạng rồi, nhưng chuyến này không có giỡn được, mày ráng giúp anh nghe!” Thông nghe Hùng nói xong mà muốn rớt nước mắt, vỗ vai Hùng chửi một câu: “Mẹ nó, sao hôm nay anh như bê đê vậy, cái vách đó có cô hồn dã quỷ mẹ gì mà anh lo dữ vậy?” “Hồ Ly, Hồ Ly của Bảy Núi, mày có nghe chưa?” Thông im lặng, chính xác là anh lặng người đi. Hùng nói thêm: “Ban đầu tìm được cọc kỳ nam, anh nghĩ chuyến này anh em mình vớ bở, bán đi là sống nửa đời còn lại như tỷ phú, nhưng… Hổm rày mày thấy đó, báu vật như vậy, anh sẽ không bán đâu, mà không lẽ đi chuyến này công cốc cho nên vẫn phải lôi ngọc rết về. Mày biết hồi sáng chú Chín nói trong đó có ngọc rết đúng không?” “Đúng, em có nghe” Hùng nói tiếp: “Không phải ngọc thường đâu, cú này không chừng tìm được Ngô Công Kim Thân đó!” Ngô Công Kim Thân là ngọc được kết tinh bởi chính con rết, ít nhất phải dài ba tấc, khi chết phải nằm trong thân các giống cây quý, ngâm trong bùn hoặc nước suối, trải qua vài trăm năm tạo nên một viên ngọc hình tròn dẹp. Loại ngọc này chủ về dương khí, các nhà giàu cầu tự hay làm ăn đều rất muốn săn ngọc này, nhưng đâu dễ tìm được. Thông nói: “Đợt đó anh nói có cọc kỳ nam là có cọc kỳ nam, lần này em tin cũng vậy thôi”. Hùng trầm ngâm, nghĩ trong đầu: “Quan trọng là lấy được hay không thôi”. Thông hỏi thêm về những điều Chín Danh chia sẻ tuy nhiên Hùng không muốn gây áp lực lên Thông, nên đành để đó, định lát tìm được vách núi rồi nói sau. Xe chạy về hướng Tịnh Biên chừng mười phút, bên tay trái là cây cột ăng ten. Thấy đúng đường, cả hai sấn vào ngay. Đó là con đường đất hai bên đầy những cỏ hơn gối, sâu hơn chút là cây rừng. Rừng âm u tĩnh mịch đến đáng sợ. Kinh nghiệm bao năm lăn lộn cho Hùng một kinh nghiệm: rừng im lặng là có biến. Càng yên tĩnh thì càng nên lo lắng. Đảo mắt xung quanh, anh đoán được phần nào nguyên nhân, đây là núi mộ. Bảy Núi, kỳ thực theo lời Chú Chín kể, là một thế trận yểm ma hết sức công phu của tự nhiên, rất lâu về trước không rõ cao nhân nào đã sắp đặt những chỗ chôn cất, một số ngôi chùa cổ, kênh đào. Vùng này ngày xa xưa còn rặt lam sơn chướng khí, tiền nhân đã tốn không ít công phu cải tạo, cả về tự nhiên lẫn tâm linh. Có một số khu, ví dụ như các đồi thấp mé Tri Tôn, Tịnh Biên thường có rất nhiều mồ mả vòng quanh núi, ngày nay chúng ta không chắc tại sao lại có tập tục đó, Chín Danh cho rằng đó là để giữ long mạch, các ngôi mộ như những bờ đê, ngăn nguồn dương khí chảy tràn lan. Hãy thử hình dung vùng này xưa kia, trên mặt đất rất nhiều âm khí, nhưng cây cối lại tốt tươi chứ không bị thối rữa hoặc có đầm lầy, lý do là bên dưới mặt đất có nguồn dương khí làm cân bằng âm khí bên trên. Sau này, dự đoán được con người sẽ khai làng lập ấp, làm âm khí bên trên suy giảm, điều đó làm mất cân bằng của tự nhiên, nếu không điều tiết thì dương càn làm mọi vật khô héo, hoặc lại trôi chảy đi hết. Từ đó, có một số khu có rất nhiều mồ mả, tựa như những con kênh phân phối dương khí ra đều khắp cả vùng, mà nguồn của nó khởi phát từ Núi Cấm. Hùng thắc mắc về những những điều như long mạch trấn yểm đó thì Chú Chín chỉ cười và lắc đầu, đoạn chỉ tay về cô bé quét sân, nói: “Cái gì cũng cần có duyên, khi số mệnh cậu phải biết được những chuyện này, tự khắc sẽ có người nói cho cậu biết những chuyện này thôi!” Con đường mòn này nằm trên một triền núi nhỏ, thoải, phía sau các bụi cây rậm rạp là hằng hà sa số mộ phần. Anh lờ mờ đoán được anh đang đi đúng đường, vách núi như phần dương đan xen phần âm, vách núi nhỏ như vậy có thể cân bằng được với bao nhiêu mộ phần này, hẳn là viên Ngọc Rết nằm trong đó, và nó cũng phải to lắm! Họ đi lòng vòng trong con đường núi mộ đó được chừng nửa giờ, thấp thoáng cuối con đường hiện ra một mái ngói đỏ của ngôi chùa cổ. Hùng dựng xe bên ngoài, không quên dặn Thông chớ có bộp chộp, khéo lại gặp cao nhân ở ẩn thì khổ. Ngôi chùa nhỏ nhưng rất trang nghiêm ấm cúng, bên trong sân có chú tiểu độ mười lăm tuổi đang quét sân, Hùng thi lễ rồi hỏi về tung tích vách đá, anh mô tả rất kỹ nhưng chú tiểu chỉ lắc đầu nói không biết, thậm chí còn không ngẩng đầu lên nhìn anh lấy một cái. Hùng nghĩ có lẽ cậu ta không biết thật, bỗng từ ngoài cổng Thông kêu lên: “Tìm thấy rồi anh ơi!”. Hùng vội chạy ra thấy Thông đang leo lên một thân cây, chỉ về hướng sau chùa. Nhìn theo hướng đó, sau các tán cây cao rậm rạp đan kín, đúng là có một vật thể sừng sững màu trắng. Đoan chắc là Vách Ma Giấu, Hùng xin chú tiểu gửi xe ở chùa, chú ta vẫn quét sân, khẽ gật đầu bảo: “Mô phật, thí chủ đừng để chấp niệm cố tìm ra làm gì”. Nghe thật lạ. Hai người họ chuẩn bị hành lý nai nịt gọn gàng, vòng ra sau chùa theo con đường mòn. Chùa nằm ở gần đỉnh đồi thấp, nên con dốc dẫn xuống cũng khá cao, đường lại trơn trượt và rậm rạp nên cả hai di chuyển khá mệt nhọc. Vừa xuống hết đường, trước mặt họ là một cánh rừng, chuối và các cây khác mọc đan xen không thấy đường đi, nhìn chẳng thấy vách núi đâu nữa. Đang chưa biết đi hướng nào, Thông chỉ Hùng nhìn về bên trái họ, sau rặng tre rừng là ba căn nhà tranh, từ trong đó vọng ra tiếng chó sủa inh ỏi. Thông định lại đó hỏi thăm, bất giác Hùng đưa tay cản lại: “Đừng, Nhà Cô Hồn đó, mày muốn bị ám hay gì?”. “Nhà Cô Hồn? Đó giờ em chỉ thấy nó to cỡ cái miểu thôi, này là cả một xóm rồi?” - Thông hỏi lại. Hùng bước tới trước, ngó sang khu nhà, rồi quay lại nói: “Xà ngang treo xương chó, vách nhà dựng quan tài, cửa sổ quấn vải liệm, chái nhà rủ cờ tang, đây là Nhà Vong. Mày có thấy cả con đường mình vô bao nhiêu là mộ, mà không có cái miếu ông địa nào không? Vong ở đây không có chỗ trú, nếu gặp ngày trời mưa có sấm sét thì dễ bay ra nhà dân phá quấy, cho nên người ta lập ra mấy cái nhà này cho nó trú!” Xung quanh Nhà Vong trong khoảng chín bước chân là ma địa, vào đó nếu yếu vía sẽ bị lạc trong cái nhà đó, chạy mãi không ra được nhưng kỳ thực chỉ bò xung quanh cửa. Những Nhà Vong trước giờ Hùng chỉ nghe bạn anh ta đi săn trầm kể lại, hôm nay thấy tận mắt ở chốn Bảy Núi u linh này, quả thật cũng làm anh có phần e sợ. Thông rợn tóc gáy, mới hỏi là giờ nên làm sao, Hùng ướm chừng lại hướng mình thấy vách đá lúc nãy, rồi bảo Thông đi vòng ra phía sau ba căn nhà đó, Hùng còn dặn kỹ chớ đi gần mấy cái nhà. Họ lần bước theo mé rừng, vòng ra sau nhà, dĩ nhiên sau nhà vẫn là một cánh rừng khác. Tuy nhiên, cây ở đây không dày đặc bằng, tán thưa hơn dù chỉ một chút, cũng đủ để lộ ra hình ảnh vật thể sừng sững màu trắng muốt phía sau. Hai người bọn họ như được tiêm doping, xốc lại tinh thần hăng hái tiến về trước. . Bỗng Hùng khựng lại, lúc nãy lo để ý bìa rừng, anh không thấy ở đây có một cái giếng. Cái giếng nằm cách ba căn nhà đó khá xa với lại đó giờ anh chưa nghe ai đào giếng cho nhà vong bao giờ. Sự xuất hiện của nó ở đây làm một cảm giác lo ngại khó tả dâng lên trong anh. Thông cất tiếng giục Hùng đi, quay ra sau thì thấy Hùng đang đến cái giếng, anh vội chạy lại theo. Họ vừa đến gần giếng, chỉ cần ngẩng cổ sang là đã thấy bên trong, nhưng thình lình trời đất tối sầm lại, mây đen che kín - nãy giờ chuyển mưa mà họ không để ý. Hùng vội xem đồng hồ, 12h trưa! Anh bắt đầu thấy bất an vì giờ này âm khí đang lên, không nhanh ra khỏi đây có khi gặp miểu biết hát cũng không chừng! Hai người ngay lập tức cầm sẵn đèn pin trong tay. Lúc này, từ phía cánh rừng thổi tới một luồng âm phong lạnh ngắt, cát bụi bay mù trời làm Thông đau rát cả mắt, loay hoay thế nào thì hụt chân làm anh chới với rớt cây đèn pin xuống giếng. Giếng khô và nông nên chỉ nghe tiếng đèn rớt xuống khá nhanh. Họ đến miệng giếng nhìn xuống, Thông chỉ kịp kêu lên một tiếng khi dưới giếng là một khuôn mặt trắng bệch đang há miệng nhìn thẳng vào anh! “Mày bị gì vậy, chỉ có tấm gương thôi mà!” - Hùng vừa nói vừa níu vai Thông lại. Sau một thoáng hồn vía lên mây, Thông cũng định thần lại nhìn xuống giếng. Đúng là bên dưới cạn khô, có một cái gương soi đặt ngay ngắn bên dưới, trông không giống như ai đó vứt bừa xuống mà là để đó có chủ đích. Thông cảm thấy thật xấu hổ, một phần cũng vì không gian lúc đó quá u ám. Hùng đảo mắt nhìn xuống đáy giếng một hồi, anh có linh cảm cái gương có một vai trò hết sức quan trọng, nhưng nhìn tới nhìn lui cũng không đoán được. Thông xung phong xuống dưới lấy cây đèn, Hùng bảo lỗi của ai thì người đó đi lấy, còn bày đặt xung phong. Đáy giếng nông nên thoắt cái Thông đã leo lên. Hùng buột miệng hỏi: “Dưới đó có gì khác không mày?”, Thông đơ ra rồi lắc đầu. Thực ra lúc leo xuống, Thông chỉ lo nhắm mắt chộp lẹ cây đèn rồi đu lên ngay, có kịp nhìn thấy gì khác đâu. Cả hai bỏ qua cái giếng và đi tiếp, nhưng khi vừa quay đi bỗng đâu có một âm thanh chói tai vang lên trong đầu khiến họ ngồi xuống. Nhận thấy có điều không ổn, Hùng mở mắt ra, chộp ngay cọc kỳ nam trong tay, Thông cũng cầm sẵn rựa, tuy nhiên xung quanh vẫn là khu rừng âm u như nãy. Hình như không giống “như nãy” lắm. Hùng quay sang hỏi Thông: “Ê mày có thấy khác không?” “Có anh, mà không biết có cái gì khác!” - Thông vừa xăm soi khu rừng vừa nói. Họ nhẹ nhàng đứng dậy và tiến về trước, theo hướng họ nghĩ là chỗ vách núi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16 :  Chương 15: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Quỷ núi


Khu rừng nhìn gần thì không đến nỗi tù đường, các bụi chuối xen lẫn vẫn đủ chỗ để hai người lách nhẹ qua. Tuy nhiên do trời chuyển mưa, cộng với tán cây khá dày làm không gian hết sức u ám, hai cây đèn pin cũng chỉ đủ để nhìn con đường cỡ ba mét đổ lại. Từ lúc bước vào đây, Hùng và Thông cứ nghe tiếng cười the thé suốt, họ nhìn nhau lập tức nghĩ đến kumanthong mà rùng mình. Hùng vừa bước thận trọng vừa nói: “Vách đá mình tìm chỉ cần đi qua khu rừng này là thấy, ở đây cây mọc dày đặc, lại như mê lộ không tìm được lối ra, cho nên Chín Danh mới gọi chỗ này là Vách Ma Giấu!” . Hùng biết rằng, tiếng cười nãy giờ anh nghe không phải là của quỷ hay kumanthong mà là tiếng ma dẫn đường. Đôi khi đi đêm hay ngang chỗ nhiều mồ mả ta vẫn nghe tai mình ù ù, đó là tiếng ma thì thầm, ai yếu vía thì sẽ nghe rõ hơn, dụ họ đi đến tử huyệt! Còn đối với Hùng và Thông, anh không lo lắm về chuyện nó dụ anh vào con đường chết được, chỉ sợ ma rừng quỷ núi xổ ra mà thôi. . Địa hình trong đó gồ ghề khó đi, lên dốc rồi lại xuống dốc, cho nên tốn thời gian nhưng kỳ thực chẳng đi được là bao. Tuy nhiên, an ủi tinh thần hai người là phía trước. Họ hồ hởi leo lên một triền cát nhỏ phủ đầy dây leo, vạch tán lá ra: trước mặt họ là cáo giếng cũ kỹ ban nãy. Hùng cẩn thận đến kiểm tra xem, dưới đó vẫn là cái gương, với lại khó mà nhầm lẫn vì cách cái giếng không xa là ba cái nhà vong! Trời lúc này đã chuyển mưa đen đặc, gió rít lên từng hồi, không khí lạnh ngắt nhưng trán Hùng vẫn đẫm mồ hôi: trong cái nhà vong anh nghe rõ những tiếng mài dao, tiếng bước chân, những nếp lá vách được kéo nhẹ cho một con mắt xanh lè từ trong nhìn ra. . “Mẹ kiếp, sao giờ đại ca?” - tiếng Thông hỏi làm Hùng sực tỉnh lại. Anh nhìn ba cái nhà Vong lần nữa, chúng bình thường, không có gì cả. Hùng nói: “Cú này chỉ còn cách dựa vô bản lĩnh thôi, cọc kỳ nam không tránh được ma giấu, phải chi nó nhào ra còn đỡ, phen này anh với mày đi một chuyến nữa, không được thì rút ra nhanh, âm khí cao quá rồi!”. Thông gật đầu, rồi họ nhanh chóng tiếp tục, cẩn thận đi chậm rãi, đề phòng bị vẽ đi vòng tròn. Họ thấy vách đá, họ leo lên dốc, vạch tán cây ra: lại là cái giếng! . Vừa lúc này, trời trút cơn mưa, Hùng quay sang Thông kêu lên: “Mẹ nó, chạy!”. Thông không hiểu Hùng thấy cái gì, tuy nhiên nghe giọng anh quá khẩn trương nghiêm túc nên cậu ta cũng té chạy theo. Vừa qua khỏi nhà Vong, Thông ngoái lại nhìn thì trên các thân cây, mặt đất, mặt giếng là chi chít những gương mặt lồi ra đang nhe nanh. Lúc nãy Hùng không tinh ý e là họ đã thành ma núi rồi không chừng! Họ chạy một mạch đến con dốc, thấy phía trên là chùa, với lại đã cách xa bìa rừng, cả hai mới đứng lại thở hổn hển nhìn cảnh tượng khó tin: ngoài này trời vẫn đang nắng, chỉ riêng khu rừng đó mưa như trút! Thông hỏi Hùng sao anh biết được ma núi hiện ra, anh bảo là thực ra anh cũng không thấy, nhưng Chín Danh có dặn, vào đó mà trời mưa thì cứ đường cũ mà chạy ra nhanh. Mưa tượng trưng cho trời đất giao thoa, âm dương gặp nhau, ở đó ma quỷ tránh được cái khí càn dương của mặt trời, có thể tự tung tự tác, cho nên ta thường nghe trời mưa dễ gặp ma, còn giờ tý canh ba mà mưa nữa thì gặp quỷ còn dễ hơn! Lúc trời vừa rớt hạt, không hiểu sao vẫn là linh tính của Hùng mách bảo phải chạy ngay, gặp cả bầy ma núi như vậy, dăm ba cái cọc kỳ nam không thấm tháp gì chúng nó. Cả hai bỏ lên chùa, Hùng còn định quay về gặp Chín Danh, bằng mọi cách hỏi cho ra cách vào. Có vẻ Thông hiểu được ý đó, anh nói: “Đại ca, gì thì gì, em không chịu về núi Két hỏi chú chín đâu, làm vậy ổng coi mình ra gì!”. Hùng đơ người, thấy vậy Thông nói tiếp: “Anh nghĩ coi, trước sau có phải ổng muốn thử bản lĩnh anh em mình, từ vụ sơn ông cọp rồi đến vụ này, anh về đó thì khác nào bảo hai đứa mình là dân tay ngang?”. Hùng nghĩ vậy cũng hợp lý, dạng người cao nhân thâm sâu khó lường như chú chín, lúc nào cũng đã dự tính mấy chuyện này. Hùng nhớ lại cái cốc đầu rồi những câu dặn dò, Hùng thấy thậm chí việc hai người bọn họ đi tìm ngọc Rết, chín Danh đã biết được, anh lờ mờ cảm nhận được, ổng còn mong hai người họ tìm được ngọc, nhưng không phải bằng cách dễ dàng nhất. Bỗng Hùng nghĩ về cô bé quét sân, nếu đúng như Thông kể, sau chuyến này chắc phải tầm sư nó mới được. Bỗng Thông kêu lên đã năm giờ chiều! Hùng lấy điện thọai ra xem, cả đồng hồ đeo tay, tất cả đều chỉ 5h! Không lẽ thời gian họ lạc trong đấy bị kéo dài đến vậy. Cảm thấy càng đứng đó càng không ổn, Hùng giục Thông lên chùa. Trong chùa lúc này cũng chỉ có chú tiểu, Hùng thấy trời đã tối, đường ra cũng hơi căng nếu xe hư, đang nghĩ thì Thông nói nhỏ: “Anh, có phải đêm tới thì tụi miểu biết hát nó mạnh hơn đúng không?”, Hùng nhíu mày: “Đúng vậy, ý em mày là gì?”, “Mình xin nghỉ đêm, khuya nay mình vượt cái vách đó thử, vì đêm tụi nó mạnh hơn nên có thể nó lộ chân thân ra, khi đó lấy cọc kỳ nam xử nó” - anh nói chắc nịch. Hùng suýt chút phì cười, nói: “Mày hay lắm, có một cọc thôi, trong khi đó chỗ cái vách có cả sư đoàn ma núi, đường nào đâm cho đủ, có chết cũng lựa cách nào khôn hơn chút chứ”. Hai người quyết định đêm nay ngủ lại, đợi gần sáng thì vượt vách lần nữa xem sao. Họ vào xin tá túc qua đêm, chú tiểu vui vẻ đồng ý, cũng không thèm hỏi lại chuyến đi vừa nãy của bọn Hùng ra sao, cảm giác như chú ta biết hết rồi vậy. Thông thắc mắc hỏi trụ trì đâu, tiểu nói rằng ông ấy đang trên đường từ Sóc Trăng về, có lẽ đêm nay mới tới. Nói rồi cậu ta đi sắp xếp chỗ cho hai người. Đêm đó, sau khi dùng cơm, Hùng có hỏi chú tiểu về nơi này, thấy hai người cứ thắc mắc mãi, chú tiểu chỉ nói ngắn gọn: “Quả thực tôi biết các người vào đó làm gì, cũng như biết trong đó có thứ gì và cách vượt qua, tuy nhiên sư phụ dặn tôi nơi đó là ma lộ, không phải nơi dành cho con người, đi vào mười phần chắc chín phần chết! Lần cuối, xin hai vị hãy từ bỏ!”, rồi cậu ta quay vào trong bắt đầu trì chú. Lời nói của chú tiểu, để làm người khác sợ thì còn có thể, chứ với hai kẻ như Hùng và Thông thì chỉ tổ làm họ ngứa thêm. Đếm đó hai người ngủ sớm, định lấy sức sáng mai khoảng 4h sẽ đi thêm chuyến nữa, không được thì đành cúi đầu xin lỗi Chú Chín. Phòng ngủ họ nằm ở sau chánh điện, phòng bày trí đơn giản, tuy nhiên có điều làm Hùng chú ý đó là bức tranh Phật Mẫu Chuẩn Đề đang toạ trên đài sen, nhắm mắt và bắt ấn. Hùng mới quay sang bảo với Thông, ấn này anh có thấy trước đây rồi, dùng để trừ tà, nếu hai người họ đủ pháp lực, không chừng chỉ cần bắt ấn iệm chú này là có thể hạ được bọn ma núi. Nhưng anh biết dễ gì họ đủ pháp lực, đây là chú cần rất nhiều năng lượng tinh tần, đạo hạnh phải cao, chứ không lại chẳng làm gì được mà còn mất nguyên khí. Thấy vậy Thông mới nói: “Anh, mấy nay em bị nhát nhiều quá, thấy ậy mà em yếu vía, hay anh cho em mượn cây cọc, tối nằm nhét túi cho đỡ sợ!”, Hùng cười ré lên, tán đầu Thông một cái rồi nói: “Thằng quỷ mày cũng biết sợ sao, nè, cầm lấy, muốn dùng gì thì dùng, mày mà bán là anh thiến!”. Cả hai cười nhau rồi cũng tắt đèn ngủ. Đêm trên núi gió thổi ào ào, chỉ có tiếng lá cây quẹt vào mái chùa nghe như kêu gào than khóc. Thỉnh thoảng nóc chùa lại kêu răng rắc. Thông đang ngủ ngon giấc thì nghe tiếng cửa đóng mạnh, anh giật mình tỉnh giấc, còn chưa hoàng hồn, cứ nhớ lại đêm ở chánh điện chùa Khmer thì xoắn cả lên, cầm vội cây dao để dưới gối. Nhưng trong phòng không có ai, chỉ có cánh cửa bị gió thổi tốc ra. Trong phòng không có ai, Thông tự trấn an, nhưng Hùng đâu? Thông hốt hoảng chạy ngay ra cửa, sân chùa tối om giơ tay ra còn không thấy, anh kêu lên mấy tiếng thì chẳng ai hồi đáp cả. Biết rằng có chuyện không hay xảy ra, anh vội quay vào phòng vớ vội cây đèn pin, dao găm, kiểm tra cọc kỳ nam có trong túi hay không rồi phóng đi ngay. Ra đến sân cũng gặp chú tiểu hốt hoảng chạy đến, bảo thấy có tiếng động dưới triền ốc, nhìn xuống ai như là Hùng đang bị dắt đi. Chú tiểu bảo Thông và cậu ta phải rượt theo liền mới kịp. Thông chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, trên đường đi chú tiểu bảo cách để đi qua vách ma giấu chỉ có cách dùng ấn chú Phật Mẫu Chuẩn Đề, đồng thời phải nhắm mắt băng ngang, dọc đường đi dù có nghe âm thanh gì cũng không được mở mắt ra. Họ chỉ một loáng đã đến cuối dốc, theo ánh đèn pin, Thông có thể thấy rõ có bóng người lách vào khu rừng. Đột nhiên chú tiểu dừng lại, đi chầm chậm khiến Thông hết sức sốt ruột, cậu ta vừa đi vừa nói: “Tới rồi, tới rồi,...”. “Nè nè, sao đứng lại rồi anh hai” - Thông kêu với theo. Đột nhiên Thông thấy cậu ta không dẫn anh đi theo hướng có bóng người chạy đằng kia, mà chú tiểu đang đi từ từ lại nhà Vong! Lúc này mây kéo đi, trăng chiếu ánh sáng vàng vọt hắt lên ba cái nhà Vong. Thông thấy tận mắt cánh cửa kêu két két rồi từ từ hé mở, bên trong chỉ thấy ánh đèn cầy leo lét. Lúc này Thông còn bình tĩnh lắm, bèn lại nắm vai chú tiểu lay một cái, nói: “Chú mày giỡn với anh hả? Sao không đuổi theo Hùng, vô đây làm gì?”. Dưới ánh trăng, không gian như đông cứng lại trong mắt Hùng, khi chú tiểu vặn đầu ra sau nhìn thẳng vào anh bằng cặp mắt đen ngòm, miệng hoác rộng, nhểu máu, miệng cậu ta lẩm bẩm: “Thì...tới...nhà...tôi...rồi”. Thông hét lên một tiếng, ù té chạy, chửi thầm trong bụng, giờ đành liều một phen. Nghĩ vậy là làm ngay, anh nhắm hướng thấy Hùng rẽ vào lúc nãy, nghĩ bụng dù gì bắt ấn Chuẩn Đề thử xem sao, cùng lắm gặp ma chém ma gặp quỷ chém quỷ. Lúc ấy trong lòng cậu ta chỉ có lo lắng cho an nguy của người anh em chứ chẳng hề có chút sợ sệt, thực ra là còn cảm giác tội lỗi nữa, lúc ấy Thông cứ nghĩ do cậu mượn cây cọc nên Hùng bị ma bắt đi. Tay bắt ấn, miệng đọc chú, quả nhiên có hiệu lực, mặc dù nhắm mắt đi xăm xăm trong khu rừng ken đặc cây cối, nhưng Thông không hề đụng phải cành cây nào. Xung quanh thì luôn là những tiếng than khóc, có khi là tiếng nấc, khi là tiếng cười man dại. Chốc chốc lại có cảm giác một bàn tay xương xẩu lạnh ngắt từ đâu đó dang ra nắm lấy vai hay kéo áo, Thông cứ giằng ra rồi sấn tới, cho đến khi bên tai anh vang lên tiếng kêu yếu ớt: “Thông ơi, Thông ơi…”. Đúng là tiếng Hùng rồi, nhưng làm sao biết được nên mở mắt ra hay không đây, nhỡ đâu nó dẫn xuống âm tào địa phủ thì sao. Thông chần chừ hồi lâu, chỉ nghe tiếng kêu lại vang lên: “Anh nè, mày làm cái gì vậy, cứu anh!”. Đánh liều một phen, mở mắt ra, trước mắt anh là khu rừng tối om, Hùng đang nằm bẹp dưới đất, có vẻ thương tích nặng lắm. Thông ngay lập tức lao đến, đỡ Hùng dậy. Người Hùng lạnh ngắt, tóc tai rũ rượu, che cả mặt. Hùng thu thào: “Giờ đi tới đó đi em”- anh chỉ tay về một vùng có ánh sáng xanh leo lét. Thông thắc mắc: “Tới đó làm gì anh?”, “Đó là đường ra đó, đi, em ráng vác anh theo đi, anh lạnh quá…”, Hùng vừa nói vừa siết tay lên vai Thông cho chắc. Thông cứ thế kè Hùng, lúc này chỉ có thể thều thào những tiếng đau đớn. Bỗng Hùng nói: “Thông, đưa anh cây cọc kỳ nam, anh tìm ra cách rồi…”, Thông chỉ dạ lên một tiếng, rồi anh lấy cọc ra, đâm mạnh vào tay Hùng một cái xuyên qua cả bàn tay, Hùng chỉ thét lên đầy đau đớn!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17 :  Chương 16: Chuyện kể Hùng Bon-sai - Hồ Ly bưng đèn


Thông nhảy lùi về sau một bước, Hùng ôm tay rú lên những tràng chói tai. Từ vết đâm, một lớp mủ đen chảy ra bốc mùi hôi thối. Thông chửi lớn: “Mẹ mày, định dụ bố cũng diễn cho đạt một chút, đại ca tao không phải loại uỷ mị với tham sống sợ chết như vậy!”. Quả nhiên, vật thể trước mặt Thông co quắp lại rồi chỉ còn một vũng đen bầy nhầy. Bỗng theo cảm tính, da gà Thông nổi rần rần - nguy hiểm đang đến. Lúc này, thân cây xung quanh Thông bỗng cử động. Lớp vỏ sần sùi dần tách ra, để lộ phần thịt cây bên trong đỏ ối như thịt người, một khuôn mặt nổi lên, miệng nó ngoác rộng ra thè chiếc lưỡi gớm ghiếc, kèm theo đó là những tiếng kêu re ré làm Thông muốn bay cả não. Thoạt đầu Thông còn rất lo sợ, nhưng rồi anh sực nhớ lại, từ đó tới giờ và đặc biệt là mấy ngày qua, mỗi lần gặp ma quỷ thì đều là Hùng cân hết, anh đâu thể cứ là gánh nặng mãi vậy được. Nghĩ đến đó, Thông lấy hết can đảm, đầu tiên anh giữ bình tĩnh phân tích tình hình, xem nên chạy hướng nào. Quay về có lẽ là an toàn hơn cả, Thông lăm lăm cây dao trong tay, dù gì cây dao vẫn còn vướng chút tro xá lợi Sinh cho hôm trước nên nó vẫn còn khá hiệu quả. Ban đầu có vài con quỷ núi xông ra, Thông đành liều mình nhắm mắt chém bừa, thế lại hù được bọn nó, vậy nên chúng chỉ núp sau các thân cây, kích động Thông bằng những âm thanh hết sức hỗn tạp. Bỏ qua tất cả mấy cái giọng cười khóc vớ vẩn đó, Thông băng băng chạy về trước, nhưng Thông chới với khi phát hiện mình vừa chạy một vòng, trở về chỗ lúc nãy anh đâm chết con quỷ núi. . Lúc này, tâm trạng Thông hết sức hoang mang, anh chửi thầm: “Con mẹ nó, tưởng vượt qua được Vách Ma Giấu rồi, sao lại bị vẽ nữa vậy trời!”. Không để nản chí, anh xốc lại tinh thần chạy thêm một lần nữa - vẫn về đến chỗ cũ. Bọn quỷ núi núp sau các thân cây đồng loạt ré lên cười man dại, như muốn Thông mau chóng cạn kiệt tinh thần thì lúc đó chúng sẽ xông ra ngay lập tức. Lúc này, anh ngồi thụp xuống, nỗi sợ bắt đầu xâm chiếm trí óc. Dù đã cố gắng kìm nén, nhưng tình hình hết sức tuyệt vọng làm anh khó mà lạc quan được. Tiếng cười càng lúc càng dồn dập, đột nhiên Thông đứng phắt dậy, cầm dao chém phập vào một thân cây gần đó, một con quỷ không còn cười nữa mà chỉ rú lên. Thông như hóa điên, anh cầm dao đâm chém loạn xạ, mục đích là có chết cũng đem theo bọn quỷ núi khốn nạn này. Vung tay một hồi lâu, Thông bắt đầu thấm mệt trong khi bọn chúng chẳng hề suy yếu, Hùng nói đúng, có khi chúng có hẳn biên chế sư đoàn quỷ núi cũng không chừng. Trong đầu Thông lúc đó đã sẵn sàng cho cái chết: “Đại ca, mong kiếp sau vẫn là anh em!”. Thông vừa nhắm mắt lại, anh thấy bàn tay giựt lưng áo mình, anh ngã xuống đất rồi cứ thế nằm bất động. Không gian xung quanh tối đen, chẳng nhìn thấy được gì cả, nhưng có một mùi rất nặng xộc lên mũi làm Thông buồn nôn. Mùi này kỳ thực không hôi, nhưng khó chịu vô cùng, một hỗn hợp của sả, tỏi, nghệ và quế. Phen này dù có chết cũng nôn cái đã, Thông nghĩ vậy rồi cứ thế mà ọc ra, miệng anh đắng nghét làm thần trí tỉnh táo lại. Anh đang nằm dưới con dốc, ngậm đầy hỗn hợp bột sả nghệ, Hùng thì đang lấy tay xoa vào vai. Thấy anh tỉnh dậy, Hùng mắng: “Ê, mày có cái gì hay mà ma quỷ Thất Sơn này khoái dụ mày quá vậy?”, Thông chỉ cười, anh nhìn ra xung quanh: mình đang đứng trước ba cái nhà vong! . Thật ra, lúc nãy Hùng đang ngủ ngon giấc thì nghe tiếng Thông bật dậy đi ra cửa, cảm thấy không ổn nên anh định đuổi theo, nhưng cả người cứng đờ, không nhúc nhích được. “Má! Bóng đè ngay lúc này!”- Hùng chửi thầm. Thông khuất sau cửa, nghe tiếng là đang bước dần xuống dốc, kiểu này bị vong nhập rồi. Hùng cố gắng tập trung phá bóng đè nhưng vô dụng. Bỗng anh sực nhớ lại bức tranh Chuẩn Đề Phật Mẫu, trong đầu trì chú, đến lần thứ ba thì vả người nhẹ tênh. Lập tức anh bật dậy, nhưng không chạy thẳng xuống dốc mà vòng vào bếp tìm sả, tỏi, nghệ và quế rồi lao ngay xuống dốc. Tới nơi, Hùng thấy Thông đang đứng ở trong nhà vong, đầu bị tấm vải liệm quấn quanh. Cảnh tượng hết sức ma quái, ánh đèn cầy màu xanh lơ cháy bừng lên trong đó làm Hùng phải e ngại ma khí. Cọc kỳ nam nằm trong túi Thông, Hùng chỉ có cây dao phủ tro xá lợi, liều xông vào thì quá nguy hiểm nhưng nhìn thằng em mình đang giẫy từng hồi thì Hùng đành thử một phen. Hùng lấy đà lao thẳng vào, miệng đọc chú, một tay chém đứt tấm vải liệm, một tay nắm cổ áo Thông lôi mạnh ra, tất cả chỉ diễn ra trong vòng chưa tới ba mươi giây. Cũng may là Hùng thuộc dạng nặng vía, cộng với mùi sả nghệ cay nồng làm anh tỉnh táo, cho nên chưa rơi vào bẫy của nhà vong. Hùng đặt Thông nằm xuống, nhét sả nghệ vào miệng rồi xoa tay cho ấm ấn lên trán và hai vai, mục đích là thắp lại tam muội chân hỏa, ổn định thần trí hồn phách. Quả nhiên lát sau Thông nôn ra thì tỉnh hẳn. Anh lấy cây cọc ra đưa lại cho Hùng, nói: “Khụ… em tưởng.. Khụ… Có nó thì không bị ma dẫn… Khụ.. Ai dè, thôi trả anh nè." Đến lúc này, quả thật Hùng có hơi tò mò, từ lúc bắt đầu chuyến đi An Giang đến giờ, toàn là Thông bị ma hù, không lẽ nó có điểm gì khác thường? Lúc trước đi săn lan, cũng băng rừng lội suối, ma quỷ cũng có kinh qua một hai lần, nhưng không lần nào Thông bị nhát nhiều đến vậy. Bỗng trong nhà vong thổi ra một luồng gió, làm mảnh vải liệm bay phần phật, nhưng cánh cửa làm bằng gỗ quan tài thì khép lại kêu ken két giữa đêm khuya, ánh đèn trong đó mờ dần rồi tắt hẳn. . Hùng đỡ Thông đứng dậy, cả hai nhìn về hướng cái giếng, rồi Thông quay sang hỏi: “Sao giờ đại ca?” Hùng vẫn nhìn thẳng, trả lời chắc nịch: “Mày biết rồi còn hỏi!” Rồi không ai bảo ai, cả hai cùng tiến từng bước đến bìa rừng. Hùng ra dấu dừng lại, anh nói: “Anh đoán được cách vượt qua vách này rồi, mày thử với anh không?” Thông gật đầu cái rụp, Hùng thấy vậy nói tiếp: “Có nhớ bức tranh trong phòng không? Theo anh đó là chìa khóa” Thông nói: “Có phải là bắt ấn đọc chú Chuẩn Đề không anh?” Hùng lắc đầu: “Phải bịt tai lại!” Anh nhìn xung quanh có vẻ như củng cố lại suy nghĩ của mình rồi nói: “Theo anh đoán, nơi này không phải tự nhiên mà hình thành vách ma giấu, có lẽ có cao nhân nào đó trấn yểm nơi này, tạo nên một ma lộ để che giấu thứ bên trong. Xác suất khá cao là sư trụ trì chùa biết những chuyện này, nên ông ta mới treo bức tranh Chuẩn Đề Phật Mẫu nhắm mắt. Tranh Phật thường vẽ Phật ở trạng thái trung dung, không vui không buồn, nhưng không bao giờ vẽ nhắm mắt. Ấn Chuẩn Đề là ấn trừ ma, theo anh, ngụ ý của bức tranh đó chính là nếu lạc trong vách ma giấu này, không bắt ấn Chuẩn Đề được, vì cơ bản ở đây làm gì có ma mà trừ!” Thông không giấu nổi vẻ khó hiểu, hỏi: “Ma nó hù em muốn đái trong quần, anh nói không có là sao?” Hùng giải thích tiếp: “Các loại ấn chú trong Phật Giáo, kỳ thực là một hình thức triệu hồi thế lực siêu nhiên. Người thường thì triệu hồi được thổ địa, ma giữ nhà, có pháp lực cao hơn thì gọi hộ pháp, thiên binh, đạo hạnh cao thâm thì thỉnh được chư phật thánh thần. Chuẩn Đề vốn dĩ là bậc “cao cấp”, không phải ai cũng bắt ấn được, ý nghĩa bức tranh tựa như là chê trách thói ảo tưởng của nhân loại, chỉ biết bắt ấn cho có nhưng lại quên để ý Phật có mở mắt đâu mà thấy. Khu vực bìa rừng này, có thể đã được quỷ thần canh giữ, tạo ra ma lộ cho những ai muốn vào. Mày có nhớ lần mình đi ngang giếng, có chuyện gì xảy ra không?” Thông suy nghĩ một hồi thì nhớ lại: “Tiếng hét.” Hùng gật đầu, nói: “Đó giờ mày có nghe về Tiêu Đồ Hống chưa, tương truyền rồng có chín đứa con, trong đó đứa út là Tiêu Đồ, thần thú có hình dạng rắn, vảy đồng, đầu sói, nanh cọp, chỉ thích nằm ngủ, không muốn ai phá rối, cho nên những nhà giàu giữ của thường yểm bùa Tiêu Đồ, kẻ trộm vào thì sau đó không thoát ra được. Anh nghĩ cái gương dưới giếng kia là vật yểm, thế Tiêu Đồ phủ ngang nơi này, người nào dựng nên cũng thuộc dạng cao thủ trong cao thủ!” Thông nói vậy giờ làm sao, Hùng vớ nắm đất dưới chân, vò lại thành cục, nhét vào hai tai. Thông hiểu ra cũng làm tương tự. Cảm thấy đã “cách âm” ổn, họ lần bước qua giếng, cả hai đều hết sức hồi hộp, không biết liệu cách này có ổn không, nếu không được thì đúng là hết cách. Họ đi ngang giếng, không có tiếng hét nào vang lên, tuy nhiên vẫn chưa chắc là có thoát được vách ma giấu này hay không cho nên hai người vẫn thận trọng từng bước. Địa hình vẫn giống như lúc trưa họ đi, lên dốc rồi lại xuống dốc, rồi lại băng rừng một chốc sau, đến tán cây cuối cùng, họ vạch đường ra, cả hai vui mừng hết sức khi trước mắt họ hiện lên khung cảnh vách đá sừng sững, cao hơn hai mươi thước, chạy hình vòng cung đều đặn dài hơn ba trăm thước, ngổn ngang đá tảng to như chiếc xe hơi. Ánh trăng trên cao rọi sáng một ánh vàng vàng êm ả. Không hề có tiếng con côn trùng hay ếch nhái, chỉ có tiếng gió lùa qua vách núi, phát ra âm thanh như tiếng hú khe khẽ. . “Thành công rồi đại ca ơi!” - Thông kêu lên. Hùng chỉ cười nhẹ rồi nói: “Thành công một phần ba thôi, tìm được ngọc rết là thành công hai phần ba” “Vậy làm sao mới thành công trăm phần trăm đây?” - Thông leo lên một tảng đá, đầy vẻ đắc ý. “Toàn mạng trở ra." Thông nghe xong liền cụt hứng, anh leo xuống rồi hỏi Hùng rõ hơn về những gì Hùng và Chín Danh trao đổi lúc sáng, chính xác là anh muốn biết con Hồ Ly Bảy Núi là cái quỷ gì. Hùng ngồi xuống một tảng đá, lấy bao thuốc ra làm một điếu rồi đưa cho Thông, ra dấu cho cu cậu ngồi nghỉ, sẵn anh kể hết. . Ban sáng, Chín Danh nói rằng thực ra trong này có viên Ngô Công Kim Thân hàng thượng phẩm, nhưng không phải là nó sinh ra trong vách núi, mà do người ta đặt đây để trấn yểm một con hồ ly. Những năm thế kỷ mười sáu, vùng Bảy Núi ngày nay vẫn chưa nằm dưới sự quản lý của Đàng Trong, mà nơi này là một thành thị nhỏ mạnh về nông nghiệp, giống như một tiểu vương quốc thuộc Thủy Chân Lạp. Tuy chỉ là vùng đất nhỏ, nhưng do địa thế nhiều núi non kênh rạch, nơi này vẫn có sự tự chủ nhất định cộng với khả năng quân sự và thế mạnh nông nghiệp, tóm lại đó là một đô thị trù phú. Vị trưởng quan của thành mộ hôm đến chân núi Cấm đi săn bỗng trời kéo mây đen, sấm đánh vang trời, con ngựa bỗng lồng lên rồi chạy thẳng vào núi. Vị này đi lạc, lúc sau trời đổ mưa to nên đành tìm chỗ trú, chưa quay về thành được. Thấp thoáng sau một cây còng cổ thụ là một mái nhà tranh. Ngài đến đó trú mưa. Trong nhà chỉ có một bà lão và con gái. Cô gái xinh đẹp tuyệt trần làm vị trưởng quan kia mê mẩn, sau hôm đó thì đến cưới cô ấy về làm vợ. Ông mời bà lão về ở trong thành nhưng bà nhất mực từ chối, bảo là muốn sống ở mái nhà tranh này hơn, chỉ xin ông ban cho mỗi tháng ba con bò để bà cúng tế thần linh và làm từ thiện. Ông ấy chuẩn y. Hàng tháng cứ ngày 15 thì đem bò đến cho bà lão. Vài tháng sau, cư dân vùng ven thành bảo là gia súc hay bị con gì cắn chết. Sự việc càng ngày càng nhiều khiến trưởng quan không khỏi lo nghĩ. Hôm đó cô gái xin về nhà thăm mẹ, ở vài hôm, ông đồng thuận. Cô ấy vừa đi, có người dân ở gần núi Trà Sư đến báo trong thôn nhiều heo gà bị cắn chết. Vị ấy liền đến xem, khung cảnh hết sức ghê tởm, súc vật bị cắn ngang cổ họng, uống sạch máu, một số con bị moi lòng ra vứt bừa bãi. Ông cử một số lính tráng ở lại tuần rồi quay về thành sai người đến điều tra. Trên đường về thấy tiện đường nên ông ghé thăm nhà mẹ vợ. Đến nơi, ông dừng ngựa phía trước, đi bộ vào. Vừa đến hiên nhà, ông nghe tiếng rên gừ gừ bên trong, ghé mắt nhìn sang ông vô cùng kinh hãi khi thấy trong nhà là hai con hồ ly có bộ lông trắng muốt, đang gặm nham nhở bộ lòng bò còn tanh máu. Người vợ xinh đẹp của ông ta thì đang dùng tay thọc tiết một con lợn. Máu bắn cả lên người, bỗng cô ta đứng dậy, lấy tay tách da đầu ra, lột bộ da trên người xuống, bên trong là lớp thịt bầy nhầy có cái đầu con hồ ly. Trên vách là bộ da của bà lão. “Cô ta” quay sang nói với hai con hồ ly kia, chỉ cần ăn thêm ba mươi sáu con bò nữa là có thể chuyển hóa hoàn toàn thành người. Nghe đến đó, cả bọn lại cười lên những tràng như chồn kêu. Vị quan sợ hãi, lên ngựa chạy thẳng về thành, huy động quân lính lập tức bao vây toàn bộ chân núi. Bọn hồ ly sợ hãi trốn vào rừng. Vây mấy ngày mà vẫn chưa bắt được đám hồ ly, vị quan tức giận đốt rừng, cả đám yêu tinh chết cháy, trước khi chết chỉ rú lên những tiếng đầy oán giận. Cứ tưởng vậy là đã trừ xong ác nghiệp, tuy nhiên sau đó linh hồn bọn chúng liên tục đến quấy phá, làm cho mất mùa hạn hán và dịch bệnh liên tục xảy ra. Vị quan hết sức lo buồn, bèn mời một vị cao tăng ở Phú Xuân vào, bày thế trấn yểm linh hồn bọn hồ ly. Vị ấy chọn Hòn Chông Chênh, dùng quan tài thép, quấn xích sắt, đóng đinh tán giữa nắp rồi chôn chính giữa núi. Xung quanh là các mộ cải táng của người khác. Về sau, đúng là cuộc sống trở lại bình thường, tuy nhiên vị quan kia bỗng hóa điên, thế lực thành thị đó suy giảm nhanh chóng, bị phỉ liên miên, sau này người dân cũng tứ tán, cả một vùng trù phú bỗng chốc hoang tàn đổ nát. Vách Ma Giấu là nơi dẫn vào Hòn Chông Chênh, hay chính xác là mộ của con hồ ly. Tuy bị trấn yểm, nhưng yêu khí lâu ngày đã hồi phục, nghe đồn viên ngọc rết được đặt vào quan tài của nó. Điều đó đồng nghĩa với việc, muốn lấy được ngọc rết, phải tiêu diệt con hồ ly, bằng không sẽ là thả hổ về rừng. Chín Danh và chú tiểu trong chùa có ý ngăn cản bọn Hùng Thông có lẽ là vì lẽ ấy. . Chuyến đi lần này, đúng là bọn họ đã tận mục sở thị được những thứ vốn dĩ là truyền thuyết, tuy nhiên thực tình mà nói, hồ ly thì quá mức kỳ vọng của Hùng. Nửa phần anh lo sợ nhưng cũng có nửa phần tò mò. Anh đâu biết rằng, sự tò mò hôm đó khiến anh hối hận rất nhiều. Kể xong, Hùng cũng hút hết điếu, bảo Thông xắn tay lên, chuẩn bị tìm ngọc rết. Cẩn thận hơn, anh đưa cho Thông một ít sả còn dư, đề phòng cu cậu lại bị ảo giác. Thông hỏi cả vách núi rộng lớn thế này, biết ngọc rết nằm ở chỗ nào. Hùng nhìn địa thế rồi nói: “Vách núi đều đặn, cỏ cây xanh tốt như nhau, theo anh đoán, ngọc rết chỉ nằm đâu đó ở giữa chỗ này, như vậy mới cân bằng âm dương, nơi này không có dấu hiệu mất cân bằng càng làm anh nghĩ như vậy!”. Cả hai leo qua một số tảng đá nhỏ, tiến đến sát chân vách. Gió lúc này nổi lên, vách núi kêu u u như tiếng khóc, không gian ngoài âm thanh đó thì tĩnh mịch hết sức. Bỗng đâu từ phía bên kia chân núi, có âm thanh nghe như tiếng bước chân. Cả hai soi đèn về phía âm thanh nhưng chỉ có bóng tối và vách đá sừng sững, sau lưng phía chân bên kia lại vang lên tiếng bước chân, họ lại rọi đèn qua nhưng cũng như vậy. Hùng đã cầm cọc trong tay, Thông cũng sẵn sàng, anh nói: “Mẹ nó, gặp sớm quá vậy đại ca?”, Hùng quay sang nói chắc thần hồn nát thần tính thôi, bỗng Thông trợn mắt hỏi: “Anh, ông Chín Danh có nói bọn hồ ly thích cầm đèn cầy không?”. Hùng ngạc nhiên nói không, sao Thông hỏi thế. Anh chỉ tay về sau lưng Hùng, trên một mỏm đá nhỏ, có ánh đèn cầy leo lét, soi sáng một khuôn mặt trông như chồn, với cặp mắt đen ngòm chòng chọc nhìn vào họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18 : 


Vách núi âm u dưới ánh trăng vàng vọt, gió thổi qua tạo ra âm thanh như tiếng khóc, bỗng mây kéo đến che khuất trăng, không gian trở về màn đêm tối sầm. Hùng và Thông vẫn đứng như trời trồng, không dám rời mắt khỏi vật thể chồn đằng kia. Cả hai không dám quay lưng bỏ chạy, chỉ đứng sát vào nhau, Thông quay ra sau nhìn thì chỉ thấy vách đá và màn đêm. Có vẻ họ chỉ đang phải đối mặt đối với mỗi con yêu tinh trước mặt mà thôi. Để đề phòng ảo giác, Hùng đưa sả lên hít mạnh, nhưng phía kia vẫn là con yêu tinh đang cầm đèn cầy bằng hai chân trước, dáng nó đứng thẳng, bộ lông màu cam, cặp mắt đen ngòm cứ mờ mờ ảo ảo theo ánh đèn cầy leo lét. Dù gió có to cỡ nào, cảm giác như ngọn đèn đó chỉ đung đưa ngọn lửa qua lại một chút mà thôi. Thông hỏi: “Sao giờ đại ca?”, thấy Hùng tay cầm cọc tay cầm dao, anh cũng hiểu ý, thủ thế chuẩn bị. Bỗng nhiên con hồ ly đi về phía họ, nó cầm cây đèn cầy bằng một chân, tay kia giơ ra xòe các ngón về phía Hùng. Ban đầu khoảng cách giữa nó và bọn họ là hơn trăm mét, không hiểu nó di chuyển kiểu gì, rõ ràng vẫn thấy nó bước chậm rãi nhưng chỉ thoắt vài cái đã lù lù trước mặt hai người. Tình huống lúc đó rất nhanh, con hồ ly chỉ cách Hùng chưa tới một mét, trong tầm chém của dao nên Hùng quyết một nhát xả thịt nó, nhưng tay anh không cử động được! Chính xác là cả thân người đều như vậy, có vẻ như Thông cũng đang gặp tình huống tương tự, anh kêu lên: “Nó điểm huỵêt hai anh em mình bằng cách nào vậy?”, Hùng đoán do hai người quá sơ hở đã nhìn vào mắt nó, nhưng giờ biết được thì đã quá muộn. Dần dần họ không còn kiểm soát ý thức của mình được nữa, không gian xung quanh bị bóp méo, ảo giác xuất hiện, Hùng đoán nó chỉ đang hút hết sinh lực, khi đó hai người chỉ còn cái xác khô! Quả thật Hùng không cam tâm, trải qua bao hiểm nguy, nay phải chết dưới tay con hồ ly cỏn con này, chuyện đó thật khó chấp nhận. Hùng chỉ tiếc là đã lôi Thông vào chuyện nguy hiểm này. Anh nói với Thông: “Kiếp sau anh không rủ mày đi tìm ngọc rết nữa đâu!”. Thông lúc này có vẻ như sắp cạn kiệt sinh khí, đôi mắt trợn trắng, tay chân run lên bần bật. Bỗng đâu gió từ bìa rừng thổi tới, không phải âm phong lạnh ngắt, mà là một luồng gió mát, không hiểu sao Hùng thấy rất dễ chịu, sắp chết sao lại có cảm giác vậy được. Giữa màn đêm mịt mùng, anh nghe trên đầu mình có tiếng như một tấm vải đang bay trong gió, một tấm vải vuông vắn… như một cái áo cà sa! Con hồ ly hoàn loạn, nhưng chưa kịp chạy đã bị tấm áo cà sa quấn chặt, giữa vách đá không còn tiếng u u như khóc than, không gian vang vọng tiếng tụng chú Đại Hắc Thiên, tiếng chú càng ngày càng lớn cũng là lúc con hồ ly bị quấn chặt, ra sức giãy giụa nhưng vô ích, tiếng nó kêu re ré, rồi tắt hẳn. Đến lúc này, Hùng mới cảm giác lại được thân thể, mệt lã ra nên anh ngã cái đạch. Thông cũng bật ra, nằm bất động. Hùng cố bò đến, lay cậu dậy nhưng cả người Thông cứng đờ, lạnh ngắt. Đang bối rối chưa biết nên làm gì, từ phía bìa rừng Hùng thấy một ông lão khoan thai bước tới. Đến gần mới biết đó là một lão tăng, râu để dài, khuôn mặt rắn chắc nhưng phúc hậu, lão tăng vừa đi vẫn vừa niệm chú. Ông ta đến bên chiếc cà sa, nhặt lên thì thấy con hồ ly chỉ còn lại bộ xương trắng! Không nói không rằng, ông ấy đến bên Hùng, một tay đặt lên vai Hùng tay kia đặt lên đầu Thông rồi ông ấy lầm rầm gì đó nghe như tiếng Phạn. Thông ho sặc sụa, thân thể mềm trở lại, khuôn mặt phục hồi sinh khí còn Hùng cũng cảm thấy khỏe trở lại. . Hùng cảm tạ vị lão tăng rối rít, ông ấy chỉ khoát tay ra dấu không nên câu nệ. Thông lúc này đã tỉnh hẳn, cũng vái chào vị lão sư ân nhân, hỏi: “Ơn cứu mạng của sư thầy cả đời con không quên, chẳng hay sư thầy có phải tu ở chùa trên triền dốc kia không?”. Ông ấy gật đầu rồi nói: “Hai vị thí chủ đây bất chấp lời khuyên của đồ đệ bần tăng, hậu quả thì hai vị thấy rồi đó, giờ hai vị hãy theo bần tăng trở ra, mô phật”. Hùng nói: “Lúc nãy không có sư thầy, tụi con chết chắc rồi, sư thầy có thể cho con có câu hỏi, là có phải Vách Ma Giấu ngoài kia là sư thầy dựng nên đúng không? Trong này nếu chỉ có mộ hồ ly không thôi thì con nghĩ chẳng phải nhọc sức đến vậy, vậy quả thực nơi này có bí mật gì không?”. Ông ấy nhìn Thông và Hùng, thấy họ dù gì cũng không có ác ý, chỉ là tò mò phiêu lưu quá nên mới quyết đi vào nơi này, ông thở dài, mời họ ngồi xuống rồi kể về lai lịch Vách Ma Giấu. Vị sư đó pháp danh là Thích Viễn Từ, tục danh là Bảy Săm, vốn là sư huynh của Chín Danh. Ngày xưa khi xuất sơn, hai người họ cùng về vùng này, khi đó là khoảng những năm 1960. Hùng và Thông hết sức kinh ngạc, nói vậy tuổi đời Chín Danh ắt hẳn cũng phải hàng bảy tám mươi tuổi, nhưng trông ông ta trẻ hơn rất nhiều. Viễn Từ Đại sư kể, ngày đó họ theo học một thầy Đạo Giáo ở Chợ Lớn, họ Lý, đồ đệ ông ta gồm chín người, Viễn Từ là đồ đệ thứ bảy, Chín Danh là người cuối cùng Lý sư phụ thu nhận. Sau khi vị sư phụ do dính vào ân oán giang hồ đã lâu, bị người ta dùng ngãi hại chết, ông căn dặn đệ tử không nên tính đến chuyện báo thù, hãy đi khắp nơi phát dương quang đại giáo lý trừ yêu diệt ma giúp đời… Khoảng những năm 60, Bảy Săm và Chín Danh đến vùng Bảy Núi, dự định là tu tập nâng cao pháp lực. Họ chọn Anh Vũ Sơn làm nơi thiền định. Đối diện núi này là một ngọn đồi thấp, khoảng 70m, người dân quen gọi là Hòn Chông Chênh. Lúc này, chính quyền cho khai thác đá ở đồi để làm đường và các công sự gần đó. Họ huy động một tiểu đoàn công binh cùng rất nhiều máy móc cơ giới. Mọi việc đều bình thường cho đến ngày thứ sáu, thứ bảy thì bỗng họ bắt đầu đào được rất nhiều quan tài. Ban đầu là các quan tài gỗ thường, sau đó đến các quan tài chạm khắc cầu kỳ hơn. Nhìn vào chúng và cả những thi thể bên trong khó lòng đoán nổi niên đại của nó, nhưng ít nhất cũng phải vài trăm năm tuổi. Kỹ sư trưởng ban đầu cũng thấy bình thường, nhưng càng lúc càng đào được nhiều quan tài, mỗi lần đào được thì lại có công nhân lăn ra ốm, máy móc hư hỏng, ông ta lo lắm, bèn lên núi Két tìm gặp Bảy Săm. Bảy Săm cùng sư đệ đến nơi xem xét, thấy nơi đây là mộ hợp táng, có lẽ xuất hiện vào những năm 1500, khi đó Chúa Nguyễn vẫn chưa khai phá vào tới đất này, họ đoán đây là một thành thị nhỏ thuộc ảnh hưởng của Chân Lạp. Các mộ được hợp tác theo hình tròn, quây xung quanh tâm là Đồi Chông Chênh nằm ở vị trí chính giữa. Bảy Săm nhìn sơ ngang đã biết chôn kiểu này chỉ có để trấn yểm, theo ông đoán, vật chủ bị trấn yểm hẳn phải nằm ở tâm vòng tròn được tạo nên bởi các quan tài. Nếu vậy thì phải khoan vào lớp núi đá, Bảy Săm nói với ông kỹ sư, đào thẳng vào chính giữa đồi. Quả nhiên ngày hôm sau, lôi ra được một quan tài gỗ, đặt trong quách đá, xung quanh chạm nổi họa tiết rồng mây theo kiểu hoa văn Khmer hết sức cầu kỳ. Bên trong là thi thể một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi, da thịt vẫn còn căng, không có dấu hiệu thối rữa, nhưng miệng cứ ọc ra chất dịch màu đen, ngập đến gần nửa quan tài. Nghĩ đó chính là yêu quái, Bảy Săm lập đàn phá trận trấn yểm, thiêu hủy thi thể kỳ lạ kia. Sau đó mặc dù còn đào được quan tài nhưng không ai bệnh, xe máy không hư nữa. Thấy vậy kỹ sư trưởng cám ơn rối rít. Đột nhiên, đại sư huynh của họ có việc, hai người phải từ núi két chạy lên Chợ Lớn ngay để giải quyết. Mười ngày sau họ về, khu vực Đồi Chông Chênh trở nên hoang vu lạ thường, không còn công nhân lẫn máy móc nào ở đó nữa, chính xác thì nó đã biến thành một tử địa đầy mùi âm khí! Tử khí bốc lên đến độ, từ Châu Đốc cách gần ba mươi cây, họ còn có thể cảm nhận được. Bảy Săm hỏi chuyện khắp nơi, mới hay là ngay ngày họ đi, công nhân tiếp tục khai thác khu vực giữa núi bỗng nhiên nền đá sụp xuống, để lộ ra một cái hang nhỏ, miệng hang có một cái quan tài bằng thép quấn xích sắt chéo, chính giữa có ghim một cây đinh tán rất to. Kỹ sư trưởng thấy bình thường, bèn kêu mở nắp quan ra thiêu xác. Bỗng đâu trời kéo mây đen kịt, người dân trong khu vực chỉ nghe tiếng động rất lớn như nổ mìn, làm rung chuyển dữ dội. Mọi người kéo đến xem, khi thấy cảnh tượng trước mắt, họ không thể không rùng mình kinh sợ: hơn hai trăm công nhân đều chết cả, cả nửa vách núi bỗng đổ sập xuống, đè chết hết cả những người gần đó, những người không bị đá đè chết thì thi thể cũng bị vặn vẹo hết sức khó coi, vị kỹ sư kia thì không hiểu sao lại mắc kẹt tít ở đỉnh vách, cả người bị gập ngược lại. Vụ việc xảy ra quá kinh hoàng, thế là người ta ém nhẹm vụ việc, không còn khai thác đá ở đó nữa. . Bảy Săm hết sức bàng hoàng, ông nghĩ là do lỗi của mình khi không khảo sát kỹ lưỡng khu vực, cứ tưởng đã trừ được yêu ma chính, không ngờ việc đó lại mở ra cánh cổng ác ma kia sống dậy. Căn nguyên ở chỗ, địa thế Hòn Chông Chênh tròn, phần đã khai thác đá gặp quan tài là phần dương, phần bên kia là phần âm, quan tài gỗ trong quách đá kia là dương trong âm, chồng lên quan tài sắt quấn xích là âm trong dương. Việc hủy thi thể người đàn ông cũng như giọt nước làm tràn ly, phá vỡ sự cân bằng. Việc cả công trường bị vật chết, chẳng qua là do âm khí bộc phát khiến yêu ma trong vùng được bổ sung ma lực, làm hại người, còn thứ bị trấn yểm chính vẫn chưa thoát ra được, khi nào chưa tháo nắp quan. Bảy Săm lập tức tìm đến hang nông có quan tài sắt. Dọn mấy tảng đá đó đối với ông không có gì khó cả. Sự thật được tìm ra trong đó khiến ông không khỏi ngỡ ngàng. Đó chính là truyền thuyết về Hồ Ly Bảy Núi như đã biết. Lúc ấy, ông cũng định trừ hại một lần cho xong, nhưng lần đó Bảy Săm suýt chết. Ma pháp của hồ ly quá cao cường, bên cạnh nó còn có Đại Ma Thiên Sư Thù, một loại oán linh kết hợp từ oán khí và âm mạch. Điều này làm ông hết sức khó hiểu, ai là người đã nguyền Đại Ma Thiên Sư vào cái quan tài Hồ Ly? Lo sợ có người tò mò vào làm nó thoát ra, ông ta tạo nên Vách Ma Giấu bằng Tiêu Đồ Hống ấn chú, mục đích chỉ là ngăn chặn phòng hờ mà thôi. Sau đó, để tiện bề tìm cách trừ ma, ông ta dựng một cái nhà trên triền dốc gần đó, còn Chín Danh thì đang bế quan thiền định. Sự thật chẳng bao lâu sau được phơi bày ra về câu chuyện Hồ Ly Bảy Núi. Cô gái nọ kỳ thực không phải là hồ ly hóa thân gì cả, cô ấy là hậu duệ của Nữ Tu Phù Nam, là một vương quốc cổ ở Miền Nam, hồi những thế kỷ thứ hai, ba. Dòng máu tròn người cô ta được đồng hóa với long mạch Bảy Núi, hết sức quý hiếm. Có một thế lực là Na Long Hội, nguồn gốc thần bí, xuất phát từ vùng Miến Điện, Vân Nam, chuyên đi gom long mạch rồi cất giấu, như nhà giàu chôn tiền, đợi khi nào “bán” được sẽ kiếm chác. Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ XIX, Na Long Hội đột nhiên biết mất khỏi giang hồ. Quay lại câu chuyện hồ ly, vị trưởng quan vì nghe lời xàm tấu, quy chụp cô gái là hồ ly, tất cả đều là âm mưu Na Long Hội. Sau khi chôn cất cô gái, thuộc phần âm trong đồ trấn yểm, họ thủ tiêu cả vị trưởng quan, đặt vào phần dương, thảm sát cả thành để làm vật táng cho trọn bộ. Mục đích chỉ để ươm mầm cho một long mạch mới, mà kẻ nào làm chủ được mạch này, có thể điều khiển mạch của cả vùng Thất Sơn, chuyện đó kể ra dài dòng, Bảy Săm bảo khi có dịp, Hùng có thể hỏi Chín Danh. Sau khi biết được thế lực đứng sau vụ trấn yểm Hòn Chông Chênh, Bảy Săm hết sức lo ngại, phần vì đây là tổ chức hết sức hung ác, phần vì tuy cô gái kia không phải là hồ ly nhưng thực tế trong mộ huyệt lại có vong hồ ly, sức lực bản thân ông không trừ được, ông bèn bịa chuyện với Chín Danh, rồi phong ấn khu vực đó lại, ngày đêm canh gác tàn dư Na Long Hội làm chuyện xấu. Nhưng cái chết của biết bao công nhân vô tội làm ông hết sức đau buồn, ngày này qua tháng nọ, ông tìm đến cửa Phật để thanh thản tâm hồn. Từ đó tới nay, người của Na Long Hội không thấy xuất hiện, cũng chẳng ai vượt qua được Vách Ma giấu, Viễn Từ cảm thấy đã an tâm phần nào cũng như nguôi ngoai chuyện xưa, nay bọn Hùng tìm đường vào được khiến ông bối rối ngăn chặn. . Vừa kể xong, Viễn Từ ngồi trút ra những hơi thở nặng trịch, Hùng cảm thấy ông đang mang suy nghĩ tiêu cực, gánh nặng trên vai rất lớn. Nhưng thực tế anh không đồng ý cách làm của ông, còn chưa kịp nói gì thì Thông đã lên tiếng: “Sư phụ, con nói nãy rồi, ơn cứu mạng của sư phụ con khắc cốt ghi tâm, thề mãi không quên, nhưng sư phụ làm vậy liệu có xứng làm người tu hành không?”. Cả Hùng và Viễn Từ đại sư quay sang nhìn Thông, anh có chút bối rối rồi nói tiếp: “Con nói thiệt, như đợt mới đây tụi con cùng thằng Sinh diệt kumanthong, nó có đạo hạnh được bao nhiêu đâu, mà nó vẫn quyết chí làm, vì nó không trốn tránh trách nhiệm… đúng vậy, con thấy việc thầy làm chẳng qua thầy chỉ ráng che giấu lỗi lầm quá khứ chứ có giải quyết được quái gì đâu? Chi bằng hồi đó, thầy liều một phen sống mái với nó, có chết thì mười tám năm sau cũng là hảo hán anh hùng, con nói thẳng, giờ một là thầy giết hai thằng con, rồi lôi xác ra ngoài, còn không thì cùng lắm hai thằng con thí mạng với bọn cô hồn yêu tinh đó rồi lấy ngọc rết đi ra!”. Nói xong, Thông liếc mắt sang Hùng, sợ mình nói sai gì đó, chỉ thấy Hùng khẽ cười rồi gật đầu, ra bộ hài lòng lắm. . Không đợi Viễn Từ trả lời, Hùng và Thông đi đến giữa vách núi tìm dấu vết của hang động. Chỉ thấy Viễn Từ vẫn nhìn xa xăm cùng những tiếng thở dài sầu não. Hai người căn cứ lời kể của Viễn Từ đại sư, đến giữa núi, thấy sát vách núi là một tảng đá to, bên dưới có một khe nứt gõ lên đá nghe tiếng vang dội ra bên trong. Chắc kèo là đúng nơi, họ loay hoay nghĩ cách đẩy tảng đá qua một bên. Đang thử sức đẩy, đòn bẩy, nâng, dùng đủ thế vẫn không được gì cả. Bỗng từ sau, Viễn Từ sừng sững đi tới, ông cởi áo sòng đang mặc, tấm thân già nua hằn lên dấu vết thời gian nhưng trên lưng là hình xăm bốn con rồng kết thành hình chữ Vạn hết sức sinh động. Viễn Từ đặt áo xuống, mình trần, một tay ông bắt ấn, đồng thời tay kia đấm vào chính giữa tảng đá. Dưới sự kinh ngạc của Thông và Hùng, tảng đá nát ra thành cả ngàn cục to nhỏ. Thông lắp bắp: “Viễn Từ đại sư. Đúng là danh bất hư truyền, con xin lạy một lạy…”. . Viễn Từ đứng thẳng người, ánh trăng rọi vào khuôn mặt ông lạnh tanh, ông nói: “Đừng gọi tôi là Viễn Từ nữa, hãy gọi tôi là Bảy Săm!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19 :  Chương 18: Chuyện kể Hùng Bon-sai : Giữa hòn Chông Chênh


Ngày xưa trong lần chiến đấu với cả hồ ly và Ma Thiên, Bảy Săm yếu thế, suýt chút nữa phải bỏ mạng nơi hang núi, lúc trở ra may mà dùng tảng đá bịt hang lại. Hồ ly vốn dĩ yêu hồn vẫn còn kẹt trong quan, chỉ có thể dùng ma khí vậy mà còn làm Bảy Săm lên bờ xuống ruộng. Tảng đá vỡ ra, để lộ lối vào đủ cho một người đi, bên trong tối om, không khí lạnh lẽo ẩm mốc. Ba người đốt đuốc, cầm đèn tiến vào trong, trước khi vào, Bảy Săm nhắc vào hang nếu chưa có động tĩnh gì thì tuyệt đối không được mở miệng, dương khí của con người sẽ đánh động đám Ma Thiên và hồ ly. Để đánh lừa chúng, ông đưa cho hai người họ Đá Vỏ Ốc. Loại này Hùng biết, nó chính là vỏ con ốc bươu bình thường, khi chết lấp đầy bởi cát, sỏi, nếu đầm lầy khô cạn, hoặc nung trong lửa cao, các tinh thể kết dính với nhau thành một thể khá rắn chắc, có màu nâu đen. Loại này dễ làm, nhưng ít ai sử dụng, do âm khí rất mạnh, dĩ nhiên nghe đến âm khí, chẳng ai dám để nó trong dương trạch rồi. Nhưng để đánh lừa bọn ma thiên, che đậy dương khí, thì Đá Vỏ Ốc là lựa chọn chính xác. Bọn họ bỏ vỏ ốc vào miệng, ngậm chặt lại, như vậy thì hơi thở ra cũng bị che mất đi dương khí, nhưng không thể ngậm lâu được, nếu vậy thân thể nhiễm âm tính, nhẹ thì liệt người, nặng thì mất mạng, chỉ có thể dùng khoảng một giờ. Bảy Săm còn dặn thêm, nhiệm vụ của ông ta là diệt hồ ly, nhưng trước khi vào đến được quan tài, phải đi qua trận yểm của bọn Ma Thiển, lúc đó thì ông sẽ cản bước chúng trước, Hùng và thông phải đánh vào giữa ngực bọn nó. Lý do là vì Ma Thiên khá gần với ông kẹ, tức là bọn nó về cơ bản cũng chỉ từ hư vô, thầy luyện dùng Ngọc Thi, là ngọc trai để trong miệng người chết hơn sáu mươi năm, viên ngọc đó như là cái khuôn để âm khí và oán khí tích tụ lại tạo ra hình. Ma Thiển đáng sợ hơn ông kẹ ở chỗ nó có thực thể vật lý, nó không chỉ hù dọa con người để hút sinh lực mà còn có thể giết người bằng móng hoặc răng. Hình dạng thì mỗi lúc mỗi khác. Chỉ cần đập bể viên ngọc đó là được. Hùng và Thông gật đầu đầy quyết tâm, rồi cả bọn cùng vào hang. Đây là hang đá tự nhiên, do nhiều khối đá to xếp chồng lên nhau mà thành, trần hang ở cửa chỉ cao tầm hai mét, càng vào sâu thì trần càng lên cao, có thể thấy cuối hang là một nơi dễ phải cao đến sáu, bảy mét, rộng cũng hơn ba mươi mét. Bảy Săm đi trước, bó đuốc ông cầm soi sáng hai bên vách, lúc này Hùng để ý kỹ hơn thì thấy vách đá như có ai tạc nhưng phù điêu hình người đang đứng, nằm, ngồi rất nhiều tư thế. Phía trước thì chỉ thấy tấm lưng của Bảy Săm với bốn con rồng hết sức sống động, chỉ đợi có yêu ma là bay ra phun lửa, vẩy đuôi. Ba người họ bước từng bước thận trọng, Thông vẫn mang một đống suy nghĩ, muốn hỏi Thầy Bảy nhưng không mở miệng được định bụng xong chuyện sẽ trao đổi, ai ngờ đi thế nào lại đập đầu vào một phiến đá nhô ra, anh kêu lên một tiếng, viên đá vỏ ốc vì thế văng ra khỏi miệng. Hùng và Bảy Săm quay ra nhìn, Thông với tay chụp viên đá, bỏ lại vào miệng, luống cuống làm sao đó mà viên đá chui tọt vào bụng. Cảm thấy không ổn, nhưng Thông ko dám nói, cứ nghĩ ói viên đá ra là được. Nghĩ vậy anh ra dấu cho Hùng và Bảy Săm là mọi chuyện vẫn ổn. Hai người định đi tiếp, bỗng trong hang kín, gió từ bên ngoài thổi vào tới tấp, ngọn đuốc của Bảy Săm tưởng chừng như sắp tắt. Bảy Săm lập tức bắt chú niệm ấn đánh một chưởng về sau lưng Hùng. Thì ra, lúc làn gió thổi tới, các bức phù điêu trong hang cử động, bò ra khỏi vách đá. Đó là Ma Thiên. Sự việc nói thì rườm rà, nhưng tất cả chỉ diễn ra trong vòng chục giây, lúc này từ phía cửa hang đổ dài vào trong, họ bị vây bởi hơn mười con. Bọn này tay và chân đều dài, da thịt thối rữa, tóc phủ cả khuôn mặt chỉ để lộ cái miệng lởm chởm răng nhọn, ngón tay như một móc câu khổng lồ, để nó cấu một phát chắc chỉ có thịt nát xương tan. Hùng và Bảy Săm phun viên đá ra, Bảy Săm vận khí đánh một chưởng, trong bán kính năm mét bọn ma thiên đều tan thành khói bụi. Hùng hết sức thán phục, định bụng thoát ra rồi cũng phải học chiêu này mới được. Bảy Săm bảo giờ cứ theo phân công, Hùng và Thông cứ dùng ấn Chuẩn Đề để giảm bớt uy lực của ma thiên, sau đó đánh vào ngực chúng, Bảy Săm sẽ lo con hồ ly. Thông quay sang bảo: “Đi chuyến này về anh em mình làm thầy pháp luôn rồi” - vừa nói anh vừa né cú đánh của con ma thiên. Hùng hét lên: “Mày cẩn thận đó, làm thầy pháp mà cụt tay cụt chân thì ko ai mướn đâu!”. Hùng dùng cọc kỳ nam, Thông thì hai tay hai cây, một dao găm một dao đi rừng có phủ tro xá lợi. Bọn ma thiên được cái đông và hung hăng, tuy nhiên nhờ chú Chuẩn Đề tỏa ra áp khí xung thiên mà bọn ma bị yếu đi rõ rệt, Hùng và Thông tránh né khá dễ, chỉ khó cái là tiếp cận được ngực nó mà kết liễu thôi. Bảy Săm tiến đến cuối hang, nơi đặt quan tài hồ ly. Lúc nãy ông vận khí phát chưởng Thối Tán Hồn, uy lực rất cao, nhưng đồng thời cũng làm hao tổn nguyên khí. Ông không muốn liều lĩnh, đành tin vào bọn Hùng sẽ cản được đám ma thiên. Từ đầu hang trở vào, ông đoán có thể tới vài chục con, tuy nhiên cũng may lúc họ vào là đã quá nửa đường, từ đó vô trong không có ma thiên, lúc nãy có vài con đứng gần ông đã thổi bay sạch rồi. Chỉ cần hai người họ trụ được giúp chừng nửa giờ là đủ! Tuổi đã cao cộng với lâu năm rồi không còn vận khí khiến ông thở dốc. Còn cách vài mét nữa là đến quan tài, lúc này âm hồn hồ ly cũng đã thức tỉnh, chỉ với vài phần ma lực, nó bộc phát yêu khí quỷ dị hết sức, tạo thành một bức tường vô hình cản bước Bảy Săm. Áp lực tỏa ra vô cùng lớn, đến cả Hùng và Thông cách đó hơn chục mét cũng thấy khó thở. Bảy Săm trụ tấn, hai tay bắt ấn trước ngực, lúc này hình xăm rồng sau lưng ông chuyển động, bốn con bò ra, quấn lên tay và ngực, trông hết sức dũng mãnh. Kỳ thực đây chỉ là hình thức xăm ẩn, vốn đã thất truyền lâu năm, nghệ nhân xăm nhiều hình chồng lên nhau, chỉ khi khí huyết được vận hành như thế nào thì các hình xăm mới hiện lên, cũng giống như hoạt hình được vẽ từ nhiều khung rồi cho tua nhanh vậy. Lúc này Bảy Săm đã vận hết khí, khai quan các huyệt, cảm giác như ông sẵn sàng đồng quy vu tận với con hồ ly. Ông dùng chắc cũng phải đến bảy, tám phần công lực, khai phát Thối Tán Thượng Chú, dùng tay như một mũi dùi, khoan vào lớp áp lực mà con hồ ly tạo ra. Đoạn, ông nhặt năm hòn sỏi nhỏ, lấy trong túi ra mấy lá bùa, gói bìa vào sỏi, đặt sỏi xung quanh quan tài. Có thể thấy được việc đó tốn sức và căng thẳng như thế nào qua nào qua nét mặt ông. Công việc bày trận đã hoàn thành, giờ đã đến lúc khai quan tiêu diệt con ác tinh. . Bên vòng ngoài, Hùng và Thông vẫn đang vật lộn với cả đàn Ma Thiên. Cũng may bề ngang khá hẹp, bọn chúng khó lòng đồng loạt tấn công, chỉ lên lần lượt, nhưng như vậy cũng đủ làm hai người lên bờ xuống ruộng. Tay chúng vươn dài, đầy móng nhọn, cả hai liên tục né tránh, chật vật lắm Hùng mới hạ được ba con, Thông thì hai. Thông vừa né vừa quay sang hét lên: “Bọn này yếu xìu, sao ông Bảy ngày xưa sợ bọn nó thế?” Hùng cũng thấy khó hiểu. Nhìn bọn chúng cũng chậm chạp, cỡ cỡ anh với Thông về năng lực, tuyệt đối không thể làm khó ông Bảy được. Lúc này Hùng dần hiểu ra dụng ý của Bảy Săm bảo hai người dùng chú Chuẩn Đề, lý do nằm ở lời nguyền lên bọn Ma Thiên, Hùng kêu lên: “Anh hiểu rồi, sức mạnh bọn này có thể chỉ như con kiến, cũng có thể thổi nát cả vũ trụ, quan trọng là năng lực của người mà nó đối phó thôi!” Thông né một cú, lui về sát bên Hùng, thắc mắc: “Gì mà khó hiểu vậy đại ca?” Hùng bình tĩnh trả lời: “Sở dĩ ông Bảy kêu mình bắt ấn niệm chú Chuẩn Đề, là làm cho mình hao chút sinh khí đó, trình anh với mày sao triệu hồi được Chuẩn Đề Phật Mẫu. Bọn này nó như ông kẹ, ông kẹ thì làm ra ảo ảnh mà mày sợ, bọn này nó giống như bản sao của mình vậy, năng lực mình tới đâu, ma pháp của nó cao đến đó, mày thử nghĩ, cỡ năng lực của thầy Bảy, gặp ba chục con Ma Thiên đạo hạnh ngang ngửa, đánh đường nào lại!” Thông hiểu ra, liền nói: “Vậy có phải mình nên tăng cường niệm chú, để làm giảm sinh lực của nó, không phải do bài chú hiệu nghiệm, mà do mình bị yếu đi?” Hùng gật đầu, anh chỉ đoán vậy thôi, trong cuộc chiến này, ai lại liều lĩnh làm mình yếu đi, sơ sẩy là mất mạng như chơi! Thế mà Thông làm, cậu ta làm ngon ơ, niệm chú rõ hơn, Thông cảm thấy bản thân có chút mệt mỏi, nhưng Ma Thiên trước mặt anh cũng vậy, thế là đã bắt bài được chúng, Thông hạ liền hai con một lúc. Anh quay sang Hùng, vuốt mũi đầy đắc ý, Hùng thấy vậy cũng xông lên làm tương tự, bọn Ma Thiên bay màu ngày càng nhiều. Chỉ còn lại vài con vẫn đang xông tới, bỗng một số chỗ trên vách nứt ra, từ đó phóng tới cái gì đó như cái lưỡi, nhưng cái lưỡi dài đó lại được ghép bởi rất nhiều cái lưỡi nhỏ. Trông như lưỡi người, đỏ thẫm màu máu. . Bảy Săm vận lực, một chưởng đánh bay nắp quan tài, yêu khí bốc lên nghi ngút, cũng may do lần vận khí đó tại áp lực đẩy luồng khói độc dạt sang bên. Ông hết sức ngạc nhiên khi bên trong quan tài, thi thể cô gái vẫn còn hết sức hồng hào, không hề có dấu hiệu thối rữa, trên cổ cô đeo chiếc vòng, mặt dây là viên Ngô Công Kim Thân to bằng chén ăn cơm. Có viên đá chế áp yêu hồn, ông chưa lấy ra vội. Nắp quan mở ra, đồng nghĩa với việc con hồ ly đã thức tỉnh được dễ phải đến sáu bảy phần công lực. Bảy Săm vẫn căng thẳng hết mức, duy trì Thối Tán Thượng Chú, tay run run bày trận yểm trong quan tài, miệng ông đã rỉ máu! Về việc tại sao Na Long Hội phải kỳ công táng con hồ ly chung với cô gái, Bảy Săm từ lâu đã có câu trả lời. Khoảng sáu trăm năm trước, vùng Thượng Lào, khi đó vẫn là nước Lan Xang, có tin đồn về một con yêu tinh nghe đâu đã tu cả ngàn năm trên núi. Nó tàn sát sinh linh vô số, đến độ trong bán kính hai mươi dặm xung quanh núi, không người dân nào dám ở. Sau đó chỉ biết được có một vị cao tăng từ Hy Mã Lạp Sơn đến, thu phục được con ác hồ đó sau một trận chiến kinh thiên động địa làm sạt cả nửa trái núi. Vị cao tăng không giết nó, cho nó đi theo, ngày đêm giảng giải kinh Phật, từ đó con hồ ly tu thân, đi cùng sư phụ làm việc thiện. Bọn Na Long nghe đến con hồ ly thì thèm nhỏ dãi, bày kế giết chết vị cao tăng, dụ con yêu tinh bộc phát lại ma lực, rồi giết nó, xong thì lột da. Khi đó, vị cao tăng đang ở Chân Lạp, bọn kia liền đem da con hồ ly chạy sang vùng Thất Sơn, bày kế hại chết cô gái, chôn cô ta chung với bộ da, mục đích chính là để nuôi dưỡng oán khí. Huyết thống của cô gái nọ cộng vớ ma pháp hồ ly tu luyện lại nằm giữa vùng Bảy Núi tạo nên một thế trận trấn yểm có một không hai. Chính xác là một long mạch nhân tạo, nhưng là âm long, hút dần cả mạch núi sông vùng Tây Nam. Tuy nhiên, đáng lẽ sau đó, bọn Na Long phải đến quật mộ, lấy thi thể cô gái đã luyện thành âm mạch đem đi phục vụ mục đích kiếm chác, nhưng không hiểu sao bọn chúng lại biệt tăm giang hồ, để lại cho Bảy Săm một bài toán khó giải! . Cái lưỡi quái dị đó xuất hiện thình lình làm Hùng và Thông cuống cuồng né tránh. Chỉ thấy cái lưỡi cứ đánh qua lại, bọn Ma Thiên chạm vào nó thì tan chảy ngay. Thông vừa né vừa kêu lên: “Con mẹ nó, cái thứ mắc dịch gì nữa vậy?” Hùng cũng bối rối không kém: “Ngạ quỷ! Nó ám cả ngạ quỷ vào cái hang này, lũ súc vật Na Long Hội có vẻ kỹ tính!” Thời gian họ vào hang đến giờ đã hơn nửa giờ, có lẽ những kẻ yểm hang đã tính toán, nếu đủ thời gian thì ngạ quỷ sẽ được khai phóng, nó ăn tất cả mọi thứ, như vậy đảm bảo Hồ Ly sẽ luôn còn đó đợi bọn chúng. Hùng hét lên: “Thầy Bảy, xong chưa, tụi con sắp chết rồi nè” Vừa nói anh vừa lôi Thông chạy dần vào trong, né những cú liếm chết người. Bảy Săm vẫn nghe được Hùng nói, chỉ là không còn tâm trí mà trả lời, ông đang dùng pháp khí, diệt bớt yêu lực của hồ ly. Hai luồng khí chế áp nhau dữ dội, trần hang bắt đầu nứt ra, mọi thứ dần trở nên hết sức tồi tệ. Theo từng lời chú Bảy Săm đọc ra, thi thể cô gái cũng theo đó mà thối rữa dần. Hùng và Thông nép sau lưng của thầy Bảy, nhưng áp lực quá lớn, đành đứng sau một hốc đá. Họ nhìn vào quan tài, nơi có viên ngọc cực phẩm. Chỉ sát bên thế thôi, nhưng không tài nào chạm đến được, cũng không đủ khả năng giúp được Bảy Săm. Cái lưỡi tử thần càng lúc càng dài ra, sắp vươn đến cuối hang. Bảy Săm chảy máu càng ngày càng nhiều, cảm nhận đã đến lúc, ông châm lửa đốt bộ da hồ ly đặt bên trong, đồng thời phong tỏa không để yêu hồn thoát ra. Lúc này, cô gái chỉ còn bộ xương khô, âm hồn con yêu tinh thét lên những tràng dữ dội hết sức chói tai. Chỉ thấy khi tiếng thét vừa dứt cũng là lúc Bảy Săm đổ gục xuống, ói ra rất nhiều máu. Áp khí biến mất, Hùng biết mọi thứ đã xong, liền bay đến đỡ Bảy Săm dậy, tìm đường ra, Thông thì nhanh tay nhặt viên ngọc bỏ vào túi, cả hai cẩn thận né những cú liếm, dao chặt vào cái lưỡi ấy cũng không xi nhê, lấy cọc đâm thì sợ bị liếm vào tay. Đang chưa biết nên làm sao, bỗng Bảy Săm mở trừng mắt ra, bảo họ tránh xa ông ta ra! Hùng hốt hoảng nhìn vào mắt ông, một bên thì trắng dã, bên kia thì nhìn y hệt mắt cáo. Đoán được ông ta bị hồ ly nhập thể, Hùng đành bất lực đứng nhìn. Trong chút ý thức còn sót lại, Bảy Săm ngồi dậy, bình tĩnh tọa thiền. Cảm giác như con người Bảy Săm được thay thế bằng Viễn Từ đại sư vậy. Ông chỉ run run nói: “Cám ơn hai thí chủ, chúc hai thí chủ bình an!”, vừa nói dứt câu ông vận khí một lần nữa, hình xăm bốn con rồng tóe máu, áp khí tỏa ra khiến cái lưỡi co rút lại, Viễn Từ hết lên: “Chạy đi!” Hùng chỉ vái lạy được một cái, rồi cũng đành chạy ra, chỉ thấy khi họ vừa quay đi, Viễn Từ tự dùng một chưởng đánh vào ngực, ói máu rồi cũng viên tịch. . Cá lưỡi vừa rụt vào rồi cũng thè ra trở lại, vừa ra đến miệng hang, Thông bỗng ngã lăn ra- viên đá vỏ ốc làm Thông nhiễm âm khí! Hùng còn đang loay hoay thì thấy cái lưỡi đã tung đến, quấn chặt chân Thông lôi vào. Hùng chỉ kịp chụp lấy cánh tay Thông, lúc này không hiểu sao lại mọc rất nhiều lông! Hùng hốt hoảng nhìn thằng em mình đang biến đổi trở thành yêu tinh. Do âm khí từ viên đá cộng với áp lực từ yêu hồ khiến cơ thể Thông không tan ra do cái lưỡi, mà anh đang dần trở thành một con hồ ly hình người. Thông lúc này cũng sắp mất ý thức. Anh ném viên ngọc ra ngoài, rồi bảo Hùng chạy đi. Dĩ nhiên Hùng không thể nào để mặc anh ở đó được, Hùng lao tới dùng dao cố gắng chặt cái lưỡi nhưng vô dụng. Bỗng cánh tay lông lá của Thông hất mạnh anh ra cửa hang, chỉ nghe cậu ta nói theo: “Xin lỗi đại ca, thằng đệ này không theo anh được nữa rồi!”, ngay lúc này, trần hang sập xuống. Những tán đá to tướng lấp dần cửa hang, cuốn theo hình dáng vai to, thịt bắp, nước da đen nhánh. Nụ cười hiền từ tắt dần theo bóng tối, chỉ còn cánh tay Hùng với theo như thể anh đang ước rằng một phép màu nào đó sẽ xảy ra, một người đạo hạnh cao thâm nào đó sẽ xuất hiện, ông ta sẽ hét lên câu thần chú nào đó và cứu Thông ra khỏi hang hồ ly. . Thế mà, giữa Hòn Chông Chênh, chỉ nghe được tiếng Hùng thét lên đầy đau đớn.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom