Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Họa Quốc

Quyển 2 - Chương 80: Hồi thứ mười chín: Tân vương


Tháng ba, hoa xuân rực rỡ.

Muôn vàn cỏ cây đua nhau khoe sắc trong vườn hoa, đặc biệt là hoa lê, đóa đóa trắng thơm như tuyết, tô điểm cho cảnh trí tĩnh mịch thoát tục, phô bày ý xuân ngời ngời căng tràn sức sống.

Tiếng đàn từ trong một nhã xá đẹp đẽ phía xa như nước chảy mây trôi vang vọng tới.

Nam tử đi sau Hoài Cẩn dừng bước, chăm chú lắng nghe giây lát, tấm tắc khen ngợi: “Hay cho một khúc ‘Khúc kính thông u’[1], thật là hợp thời hợp cảnh”.

[1] Nghĩa là con đường ngoằn ngoèo yên tĩnh.

Hoài Cẩn nhoẻn cười: “Bệ hạ thích là được rồi. Mời đi theo nô tì”. Nói rồi dẫn vị khách đến trước nhã xá.

Tiếng đàn đó dường như cũng biết có khách nên ngừng lại.

Hoài Cẩn đẩy cửa phòng, cúi mình nói: “Nô tì chỉ đưa đến đây, mời bệ hạ tự mình vào trong”.

Nam tử nhấc chân bước qua bậu cửa, cửa phòng lập tức khẽ khàng được khép lại từ bên ngoài.

Bên trong là một sảnh nhỏ vuông vắn, một tấm bình phong bằng đá ngăn gian ngoài và gian trong. Sảnh ngoài đặt một chiếc bàn bằng gỗ đàn hương, bên trên có bày một cây đàn, nhưng người đánh đàn đã không còn ngồi đó. Trên bệ cửa sổ, hai bồn hoa nhài đang nở rộ, khiến toàn bộ căn phòng tràn ngập hương hoa thanh mát. Ngoài ra không còn vật gì khác.

Bày biện không thể đơn giản hơn, nhưng đâu đâu cũng toát lên cá tính tao nhã tự nhiên của chủ nhân. Cho dù là người thô tục hơn nữa, khi bước vào đây e rằng cũng đều trở nên giữ kẽ, huống hồ người đến lúc này vốn là một nhã khách.

Vì thế, chàng không nói gì mà bước đến bên cây đàn, ngồi xuống, cũng tấu một khúc. Tiếng đàn dìu dặt mênh mang, lãng đãng như gió mát, giai điệu nhẹ nhàng, cùng với ánh dương bên ngoài cửa sổ, thật là thích ý.

Bản nhạc đã dứt, người ở phòng trong vẫn chưa lên tiếng đáp lại, khách đến đã tự vỗ tay nói: “Không ngờ ba năm nay ta không đàn, mà vẫn không quên bài ‘Dương xuân bạch tuyết’ này đàn như thế nào, không tồi, không tồi”.

Từ gian trong truyền ra một tiếng cười nhẹ, tiếp đó, một giọng nói thanh thoát dịu dàng vang lên: “Đây cũng là lần đầu tiên ta nghe thấy một bản nhạc đàn sai hơn mười âm trở lên, nhưng cũng không đến nỗi quá khó nghe”.

Người khách cười hì hì: “Là đàn tốt. Chẳng trách nàng coi thường cây Lôi Ngã cầm của Chương Hoa. Có cây đàn Lục Y thiên hạ độc nhất vô nhị này, đúng là không cần cây danh cầm nào khác”. Ngừng lại một lát, chàng gọi tên đối phương: “Tiểu Ngu, đã lâu không gặp”.

Người sau bức bình phong im lặng một lát rồi mới trả lời: “Cách xưng hô này của bệ hạ, thật là khiến người ta hoài niệm... Cách biệt từ độ ở Trình quốc, dễ chừng đã hơn nửa năm không gặp, Nghi vương vẫn khỏe chứ?”.

Nam tử bên đàn ngước mắt lên, ánh mắt như nước, như lửa, như ánh sáng quét qua lưu ly, như mưa rơi trên mái hiên, như hết thảy những thứ linh động trên đời, có một sức mê hoặc câu hồn đoạt phách, người đó không phải ai khác, chính là quân vương của Nghi quốc - Hách Dịch.

Mà nữ tử được gọi là Tiểu Ngu đó không cần nói cũng biết chính là Khương Trầm Ngư.

Hách Dịch nhìn chăm chú vào bức bình phong chạm khắc cành hoa phù dung, ánh nhìn lại như xuyên thủng mặt đá để nhìn thấy người bên trong, biểu cảm có chút mơ màng, lại có chút vui mừng, nhẹ nhàng nói: “Nói một cách chính xác là tám tháng lẻ ba ngày, tổng cộng là hai trăm bốn mươi sáu ngày”.

Khương Trầm Ngư phía trong ngẩn người ra, bỗng chốc không nói gì nữa.

Lần này nàng đặc biệt hẹn Hách Dịch tới với mục đích là trả nợ. Tuy trước khi rời Trình quốc, ba cây pháo hoa Hách Dịch tặng đều bị nàng dùng hết, nhưng khi gặp khó khăn, người đầu tiên nàng nhớ đến có thể xin giúp đỡ vẫn là chàng.

Từ phút biết tin Cơ Anh chết, nàng đã quyết tâm nhất định phải điều tra ra chân tướng: Tại sao phụ thân phải giết Cơ Anh, tại sao Chiêu Doãn lại ngầm cho phép hành vi này? Vì thế, sau khi về cung, một mặt nàng đối phó với Chiêu Doãn, tiếp tục đóng vai Thục phi ngoan ngoãn nghe lời, một mặt lại ngầm điều tra chân tướng... Hết thảy những việc này đều cần đến tiền.

Khi nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, căn bản không thể sử dụng nhân lực và tiền bạc của Khương gia. Vì thế, trong lúc nguy cấp nàng liền nhớ tới Hách Dịch. Nàng và Hách Dịch liên lạc với nhau thông qua Tiết Thái, thỏa thuận với chàng: Chàng cấp cho nàng tất cả phí tổn của những việc này, sau khi xong việc, nàng sẽ phải trả gấp đôi.

Đến nay, đại quyền trong tay, thiên hạ mới an định là lúc nàng nên trả nợ.

Thế nhưng, rõ ràng là làm việc công, nhưng vì một câu nói này của Hách Dịch mà ý nghĩa đã hoàn toàn thay đổi.

Khương Trầm Ngư ngồi sau bình phong, trong lòng không phải không rõ: Sở dĩ Hách Dịch hào phóng cho nàng mượn tiền, không phải vì món lợi nhuận gấp đôi đó, mà bản thân mình năm đó rõ ràng đã từ chối tâm ý của chàng, nhưng sau cùng vẫn bất đắc dĩ phải mở miệng nhờ chàng giúp.

Có những chuyện, một khi đã mắc míu, thì không thể hoàn toàn cắt đứt được.

Nàng hiểu rõ điểm này hơn ai hết, nhưng vẫn phạm vào cấm kỵ.

Nợ tiền có thể trả, nhưng nợ tình... biết trả thế nào cho hết đây?

Chính trong lúc nàng ngổn ngang trăm mối suy tư, Hách Dịch phá tan bầu không khí bối rối gượng gạo bằng một tiếng cười sang sảng, sau đó đẩy cây cổ cầm ra, vuốt tóc mai, nói: “Nhiều ngày nay, ta đếm từng ngày, nhớ nhung từng ngày, lòng nghĩ không biết đến bao giờ nàng có thể trả tiền, rốt cuộc có thể trả nổi hay không? Đếm đến mức ta bạc mấy sợi tóc rồi...”.

Khương Trầm Ngư biết chàng đang nói dối, nhưng vẫn không nhịn được bị chọc cười: “Bệ hạ thật không hổ là thương nhân”.

“Cho nên những gì ta đầu tư vào luôn luôn chỉ có thể là thương vụ hái ra tiền”. Hách Dịch nói đến đây, mắt lộ vẻ tán thưởng, khẽ than: “Còn nàng, có thể nói là khoản đầu tư thành công nhất trong bao năm qua của ta”.

“Là tiền của bệ hạ tốt”. Câu này không phải là nói chơi. Nếu không phải nhờ khoản tiền khổng lồ do Hách Dịch cung cấp đó, cái khác không nói, chỉ riêng đại thái giám La Hoành và Thất tử của Bách Ngôn đường nàng đã không thể mua chuộc được. Sau khi nàng đầu độc Chiêu Doãn có thể thuận lợi bình định tất cả như thế, La Hoành và bọn Thất tử có công rất lớn.

Hách Dịch hiển nhiên cũng biết những việc này, vì thế, trong ánh mắt nhìn về bình phong chất chứa vài phần cảm khái: “La Hoành ở bên cạnh Bích vương chín năm, có thể nói là thuộc hạ được tín nhiệm nhất của Chiêu Doãn, mà đến ông ta nàng cũng có thể lôi kéo về phe mình, đó tuyệt đối không phải chuyện có nhiều tiền là có thể làm được”.

Khương Trầm Ngư cười nhạt: “La Hoành là một hoạn quan, đã được thăng cao đến cực đỉnh, không thể thăng chức thêm nữa, mà lão là nhân vật quan trọng bên cạnh hoàng thượng, thường ngày căn bản cũng không thiếu hối lộ. Cho nên, số tiền bình thường đương nhiên không có tác dụng. Nhưng phàm là người ai cũng có nhược điểm, thuở còn trẻ gia cảnh lão nghèo túng, bất đắc dĩ mới phải vào cung tịnh thân làm nô tài, không có con cái nối dõi là nỗi nuối tiếc lớn nhất của đời lão”.

“Mà nàng tìm được mối tình đầu lão từng ngưỡng mộ thời thiếu niên, chồng của người tình đó đã chết, để lại mẹ góa con côi không chỗ dựa. Nàng cho La Hoành một mái nhà. Chiêu Doãn tuyệt đối không thể tưởng tượng nổi thần tử mà hắn coi trọng như vậy lại phản bội lại hắn vì một nữ tử và một đứa con không chung huyết thống”.

Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Có lúc lòng người rất dễ được thỏa mãn. Núi vàng núi bạc cũng không bằng một người có thể ở bên cạnh để nói chuyện. Không phải sao?”.

Hách Dịch dường như bị câu nói này khơi dậy biết bao cảm xúc, ánh mắt sáng lấp lánh, thần sắc phức tạp. Để che giấu cảm xúc ấy, chàng đưa tay lên miệng hắng giọng vài tiếng, chuyển chủ đề khác: “Thế Thất tử thì sao? Từ sau khi Chiêu Doãn nổi giận bí mật xử tử Hàn lâm bát trí, để chọn ra những ‘quân sư’ mới cũng có thể coi là đã phí nhiều công sức. Bảy người này hắn đều điều tra kỹ lưỡng, cực kỳ yên tâm mới thu nạp vào Bách Ngôn đường, sao nàng có thể mua chuộc họ được?”.

“Ta không mua chuộc toàn bộ. Ta chỉ mua chuộc ba người trong bọn họ, bốn người còn lại chủ động tìm đến ta”.

Hách Dịch bật cười ha ha: “Đúng thế. Muốn mua chuộc một người có lẽ còn khó, nhưng muốn mua chuộc một tập thể, lại chỉ cần dùng một chiêu chia rẽ nội bộ là xong”.

“Vì con người rất sợ cô độc. Một khi đã quen với việc hợp tác có tổ chức có phân công, thì sẽ nảy sinh tâm lý ỷ lại. Khi họ phát hiện mình bị cô lập, lập tức sẽ cảm thấy sợ hãi. Dưới sự khống chế của cảm giác sợ hãi đó, để duy trì sự cân bằng vốn có, họ sẽ mù quáng làm theo. Thất tử đều là nhân tài hàng đầu, ta tin rằng để huấn luyện họ Chiêu Doãn đã tốn rất nhiều tâm huyết. Nhưng kết quả của việc huấn luyện nghiêm khắc chính là dẫn đến việc họ quen nghe theo mệnh lệnh và sự sắp đặt của chủ nhân, một khi không có chủ nhân chỉ đạo liền bị mất phương hướng”.

“Cho nên, một khi Chiêu Doãn bị lật đổ, họ sẽ tan đàn xẻ nghé. Đánh vào từng người một sau đó thu phục hắn”. Hách Dịch nghe đến đây, không nhịn được vỗ tay khen: “Nàng quả nhiên là trưởng thành rồi. Tiểu Ngu mà ta gặp ở Trình quốc năm đó, tuy rằng thông tuệ, nhưng không có chiều sâu và tâm cơ như thế này”.

“Ngài có tin rằng người ta có thể bạc đầu chỉ trong một đêm, cũng có thể trưởng thành chỉ trong một đêm không?”.

Ánh mắt Hách Dịch lay động: “Hy Hòa bạc đầu trong một đêm… giờ sao rồi?”.

“Nàng ta đã không còn tri giác, tuy vẫn còn sống, nhưng không thể cử động, không thể suy nghĩ, giống như ngủ vĩnh viễn”.

Hách Dịch thở dài: “Mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành lại có kết cục này, thật là… Có điều nàng ta cũng rất giỏi, có thể giả vờ điên che mắt nàng và Chiêu Doãn, còn lừa hai người thành công”.

“Khi một người quyết tâm làm một việc gì đó sẽ luôn có kỳ tích. Nhưng ta cảm thấy, sở dĩ Chiêu Doãn không phát giác ra, ngoài Hy Hòa giả điên rất giống ra, còn có một điểm là vì Chiêu Doãn thực sự… thích nàng ta. Quan tâm tất loạn. Một người đối với người mình thích sẽ luôn phòng bị ít đi một chút”.

“Ta muốn hỏi nàng một câu, nàng phải trả lời thành thực”. Giọng Hách Dịch trở nên nghiêm túc.

“Xin bệ hạ cứ hỏi”.

“Nói thế nào thì Chiêu Doãn cũng là chồng của nàng. Nàng đối với hắn ta như thế, nàng không hối hận sao?”.

Khương Trầm Ngư nhìn xuống đất trầm tư rất lâu, lâu đến mức Hách Dịch cũng bắt đầu hối hận vì đã hỏi câu này, bèn không nhịn được nói: “Thôi, nàng có thể không trả lời...”.

Nàng bỗng nói: “Thực ra Chiêu Doãn đối với ta rất tốt”. Vì nhớ đến chuyện cũ, nên trong giọng nói của Khương Trầm Ngư chứa đựng rất nhiều tình cảm phức tạp, những tình cảm đó đan xen giao thoa lẫn nhau, không phân ra nổi nàng thấy cảm kích nhiều hơn hay là áy náy nhiều hơn.

“Tuy hắn cưới ta vào cung là trái với ý nguyện của ta, nhưng ngoài điểm đó ra, hắn đối với ta cũng không thể coi là tệ. Trong lòng ta có người khác, không muốn làm hoàng phi, hắn cũng đồng ý, cho ta làm mưu sĩ của hắn, còn sai ta đi sứ Trình quốc để ta được mở mang nhận thức. Sau khi về cung, còn cho ta tiếp tục ở bên cạnh hắn để học tập, cuối cùng, thậm chí còn phong ta làm hoàng hậu... Có lẽ hắn đối với Cơ Anh, đối với Hy Hòa, đối với rất nhiều người đều mắc nợ, nhưng đối với ta... Cho nên, những ngày qua, ngày nào ta cũng mơ thấy ác mộng, trong mơ, hắn biến thành một đứa trẻ bé xíu, áo quần rách rưới, gầy nhẳng xanh xao, hắn khóc lóc hỏi ta - Tại sao? Tại sao hắn đối với ta tốt như thế, ta lại lấy oán báo ơn? Ta làm như thế, có khác gì hắn đối với Cơ Anh? Ta... ta...”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, tay nắm chặt vạt áo, toàn thân bắt đầu run rẩy.

“Tiểu Ngu?”. Hách Dịch đứng dậy theo bản năng, định bước vào trong, nhưng đi đến cạnh bình phong lại dừng bước, chần chừ một lúc rồi nhẹ nhàng đặt tay lên bình phong, dịu dàng nói: “Nàng có muốn nghe xem, ta nhìn nhận như thế nào về chuyện này không?”.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu: “Hả?”.

“Ta cảm thấy sở dĩ Chiêu Doãn đối với nàng không tệ là có hai nguyên nhân. Thứ nhất, nàng và hắn tạm thời không có xung đột về mặt lợi ích; thứ hai, tính cách nàng mềm mỏng, hiểu tâm ý người khác, hắn không lý do gì để không đối tốt với nàng. Nếu như hai điểm này không đủ để nàng thấy giải tỏa, vẫn còn điểm thứ ba - Đó chính là…”. Giọng Hách Dịch bỗng chốc trở nên nghiêm túc: “Hắn đối với nàng, căn bản không thể coi là tử tế”.

“Hả?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc.

“Trầm Ngư, nàng tâm địa lương thiện, phàm việc gì cũng luôn nghĩ cho người khác trước, cũng luôn nghĩ đến mặt tốt của người khác. Tại sao nàng không thử nghĩ, vì cớ gì Chiêu Doãn lại đồng ý cho nàng làm mưu sĩ của hắn? Lẽ nào không phải vì vừa hay nàng hội tụ đầy đủ tài năng cực kỳ xuất sắc về phương diện này, mà tài năng đó hắn có thể sử dụng? Chuyến đi Trình quốc không phải nhẹ nhàng, ba hoàng tử tranh đoạt ngai vị, còn có thêm một công chúa lạnh lùng vô tình, nàng suýt chút nữa mất mạng, không phải sao? Nếu nàng chết lúc đó, nàng còn thấy cảm kích hắn sao? Tại sao hắn phong cho nàng làm hoàng hậu... Thứ nhất, hắn đã đá được Cơ gia, nếu không muốn trừ bỏ nốt Khương gia, thì chỉ có cách thu phục trước đã, dù thế nào thế lực của cha nàng cũng không thể xem thường. Thứ hai, nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, cho thấy nàng sẽ không bị Khương Trọng lợi dụng, hắn có thể yên tâm phong nàng làm hậu, vì chí ít nàng sẽ không liên thủ với Khương Trọng để đối phó hắn; thứ ba, Cơ Hốt đã thành đồ bỏ đi, Hy Hòa phu nhân bị điên, tỉ tỉ của nàng lại không được hắn ưa thích, ngoài nàng ra, trong cung đâu còn ai khác để phong hậu nữa. Mà một quốc gia, trong một thời gian dài không có hoàng hậu, là chuyện không hợp với lễ pháp. Vậy thì, ngoài phong nàng làm hậu, hắn còn có lựa chọn nào tốt hơn đâu?”.

Không thể không nói Hách Dịch không hổ là thương nhân thành công nhất trong lịch sử, tài ăn nói cực kỳ lợi hại, khi đàm phán cũng như khi an ủi người khác đều như thế.

Khương Trầm Ngư vốn đang chìm đắm trong nỗi day dứt và tự trách bản thân, trong phút chốc đã thanh thản hơn rất nhiều, lập tức cảm kích nói:

“Bệ hạ thật biết ăn nói...”.

“Điều ta nói là sự thực. Đó chẳng qua là một mặt mà nàng không nhìn thấy mà thôi”. Hách Dịch chăm chú nhìn tấm bình phong, từ tốn nói: “Có điều, đến nay ta có thể xác thực một chuyện, tên tiểu tử Chiêu Doãn đó rốt cuộc đã làm được một chuyện tốt...”.

Khương Trầm Ngư hiếu kỳ: “Chuyện gì?”.

Hách Dịch bỗng nhếch môi cười, vẻ mặt bắt đầu trở nên thiếu nghiêm túc, khôi phục lại dáng vẻ như lần đầu nàng gặp: “Đó chính là... Chiêu Doãn, hắn... chưa động vào nàng. Đúng không?”.

Khương Trầm Ngư tuyệt đối không thể ngờ chàng lại nói đến chuyện này, mặt liền đỏ bừng lên, theo bản năng muốn giận dữ quát chàng vô lễ, Hách Dịch đã vòng qua bình phong, bước vào bên trong...

“Tiểu Ngu...”.

“Ngài!”.

Bốn mắt nhìn nhau, hai người đều ngơ ngẩn.

Với Khương Trầm Ngư, cố nhiên là kinh ngạc vì chàng không đếm xỉa đến lễ pháp mà xông vào.

Còn với Hách Dịch lại là vì nói đúng ra, đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy diện mạo thực sự của Khương Trầm Ngư.
 
Quyển 2 - Chương 81


Không có vết bớt màu đỏ trên mặt, cũng không ăn vận điểm trang giản dị như dược nữ.

Khương Trầm Ngư lúc này mặc áo tím phối với một chiếc váy dài màu xanh nhạt có nhiều nếp gấp, kết những hạt ngọc màu xanh biếc, cổ áo và gấu váy đều thêu hoa lê màu trắng nhỏ li ti, thật là băng tư ngọc cốt, sực nức hương thơm. Nàng vốn có dung mạo tuyệt mỹ, tư thái cao quý tao nhã, giờ hai gò má ửng hồng lại càng mê đắm lòng người.

Nhất thời, Hách Dịch nhìn ngơ ngẩn cả người.

Khương Trầm Ngư thấy chàng phản ứng như vậy, lại càng xấu hổ, không kìm được gắt khẽ: “Nhìn cái gì?”.

“Nhìn nàng”.

“Ta, ta có gì đáng nhìn!”.

Hách Dịch khẽ thở dài, giọng mơ màng như nói mê: “Trong mộng gặp nàng trăm nghìn lần, nhưng bây giờ mới biết, hóa ra nàng trông như thế này”.

“Ngài...”. Khương Trầm Ngư vừa xấu hổ vì chàng to gan thẳng thắn, lại vừa cảm động vì chàng vẫn luôn nặng tình, nhất thời, không biết phải trả lời ra sao, cuối cùng đành quay mặt nhìn sang chỗ khác: “Xin bệ hạ tự trọng”.

Hách Dịch chấn động, sắc mơ màng nơi đáy mắt cũng mau chóng tan đi, khi nhìn nàng, ánh mắt đã thêm mấy phần bi ai: “Nàng cho rằng... ta thật sự sẽ làm gì nàng sao?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư run rẩy: “Bệ hạ?”.

“Trên thế gian này, người ta không thể nào đối phó được nhất chính là nàng”. Hách Dịch nói đoạn cất tiếng cười khổ: “Nàng gặp nạn, ta chỉ có thể cứu; nàng muốn dầm mưa, ta chỉ có thể đi cùng; nàng nói nàng là sư muội của Giang Vãn Y, ta chỉ có thể tin theo; nàng nói nàng là phi tử của Bích quốc, ta chỉ có thể trơ mắt nhìn... Tiểu Ngu, một kẻ luôn bó tay trước nàng như ta, có thể làm gì nàng cơ chứ?”. Nói rồi chàng quay người bước ra gian ngoài.

Trái tim Khương Trầm Ngư thắt lại, tựa như có một phần nào đó của bản thân cũng đi theo chàng ra ngoài, sau đó rơi độp xuống đất, vỡ thành mảnh vụn.

“Bệ hạ, Trầm Ngư lỡ lời, xin bệ hạ lượng thứ!”.

Hách Dịch dường như không nghe thấy lời xin lỗi của nàng, bỗng nói: “Ta phải đi rồi”.

“Bệ hạ, ta... ta vẫn chưa trả tiền cho ngài...”.

“Ta không cần tiền”. Trong lúc nói, Hách Dịch đã đi đến định đưa tay mở cửa.

Khương Trầm Ngư không kiềm chế được nữa, vội vàng lao ra đè lên bàn tay đang mở cửa của chàng: “Bệ hạ...”.

Nàng không thể nói hết câu vì Hách Dịch trở tay, ấn nàng lên cửa, sau đó, thân hình ấm áp ập tới ôm lấy nàng.

Nàng ngẩng đầu là nhìn thấy ánh mắt sáng rỡ có thần, như lửa rực cháy chốn đồng hoang của chàng.

Cúi đầu là nhiệt độ cuồn cuộn không dứt từ cơ thể chàng truyền sang và hơi thở đầy nam tính của chàng.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư đầy hoảng loạn, vừa căng thẳng vừa khó xử, nhưng nàng không thể cựa quậy, chỉ có thể trơ mắt nhìn Hách Dịch gần ngay gang tấc.

Hách Dịch một tay nắm vai nàng, tay còn lại chầm chậm sờ lên gò má nàng, động tác run run nhưng dịu dàng, giọng nói đê mê mà buồn bã: “Khương, Trầm, Ngư... hóa ra, nàng ở đây...”.

“Bệ hạ?”.

“Bao nhiêu năm qua, trẫm đã gặp vô số nữ tử. Không phải là không có người xinh đẹp hơn nàng, thông minh hơn nàng, lương thiện hơn nàng, kiên cường hơn nàng... nhưng tại sao? Tại sao chỉ có nàng lại khiến trẫm khó quên như thế? Tựa như ông trời biết trẫm muốn gì, sau đó ghép từng chi tiết mà trẫm thích lại với nhau, tạo ra một mình nàng. Thế giới rộng lớn, biển người mênh mông, trẫm tìm kiếm lâu như thế, hóa ra... nàng ở nơi đây”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy bờ môi khô khốc, không nói ra lời.

Mà gương mặt Hách Dịch trong khoảng cách gần như thế, càng nhìn càng mê hoặc, đồng tử sâu thẳm, tựa như muốn hút trọn linh hồn người ta vào trong đó, e rằng trên đời này không có bất cứ một nữ tử nào, khi đối mặt với một nam tử như thế này, mà không bị đắm chìm? Huống hồ lời chàng nói, từng câu từng chữ từng âm điệu, đều mang một sức mạnh to lớn chấn động tâm can:

“Thế nhưng... tại sao nàng lại có thể là Khương Trầm Ngư? Con gái út của Khương thị hữu tướng Bích quốc, từng là hôn thê của Kỳ Úc hầu, phi tử của quân vương Bích quốc... mỗi một thân phận đều kéo nàng ra xa ta hơn, giống như đóa tuyết liên trên núi cao, có thể ngắm từ xa mà không thể lại gần, có thể chạm tới nhưng không thể có được... khiến trẫm... khó chịu, khó chịu biết bao”.

Ánh sáng xuyên qua từng ô nhỏ trên cửa lọt vào trong, kéo dài bóng hai người trên mặt đất, quấn quít lấy nhau, tựa như một mối ràng buộc mà số phận đã sắp đặt từ lâu, được viết ngoằn ngoèo trên trang giấy duyên phận.

“Khi nàng dùng hết toàn bộ ba cây pháo hoa trẫm tặng cho nàng, trẫm tuy không nỡ nhưng đồng thời cũng thấy nhẹ nhõm, trong lòng nghĩ như thế cũng tốt, cắt đứt triệt để như thế cũng đỡ phải ngày ngày nhớ nhung mòn mỏi. Thế nhưng tại sao? Nàng nói cho trẫm biết, tại sao nữ tử tên Tiểu Ngu ấy lại giống như khảm sâu trong tâm trí của trẫm, trong từng khoảnh khắc mỗi sớm thức dậy mỗi tối đi ngủ, mỗi cái ngước mắt, khom lưng, bốn mùa trôi qua, tóc trắng đã mọc đó, hình ảnh người ấy ùa về, khiến trẫm không thể kháng cự, cũng không thể trốn tránh?”.

Ngón tay của Hách Dịch vì quá kích động mà nắm chặt hơn một chút, cơn đau từ trên bả vai truyền tới, dần dần lan ra khắp cơ thể, Khương Trầm Ngư không thể cử động, không thể không thể nói.

“Trẫm không biết tại sao phải hết lần này đến lần khác tới Bích quốc, tự lừa mình dối người nói là đến Bích quốc để làm ăn; trẫm cũng không biết tại sao lại ghét Bích vương chưa từng gặp mặt đến như thế, trong lúc đố kỵ nhất, trẫm đã hận không thể lập tức xuất binh, đánh chiếm Bích quốc... Mà sau này, trẫm lại biết người trong lòng nàng, hóa ra không phải là Chiêu Doãn mà là Cơ Anh. Cho nên, khi tin Cơ Anh đã chết truyền tới, trong lòng trẫm ngoài sự thương tiếc còn có một chút mừng trộm. Rồi sau đó, khoảnh khắc nhận được lá thư xin viện trợ của nàng, khi trẫm vui mừng xé phong thư, bàn tay trẫm run lên... Khương, Trầm, Ngư, trên đời này không phải người nào trẫm cũng chịu giúp đỡ; không phải thương vụ nào trẫm cũng chịu làm; không phải cuộc giao dịch nào trẫm cũng lo lắng; cũng không phải món nợ nào, trẫm cũng đích thân đi đòi!”.

Ngón tay chàng hơi thả lỏng, buông nàng ra, sau đó, thân hình đang áp lên người nàng cũng tách ra.

Không khí trong trẻo đột ngột xộc vào mũi, sức mạnh đè nén nàng đã biến mất, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn áp sát trên cửa như cũ, không thể nhúc nhích. Nàng chỉ có thể mở to mắt, thẫn thờ nhìn chàng, không thể cử động, không thể nghĩ, không thể nói.

Hách Dịch hít một hơi thật sâu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại: “Nàng nghe cho rõ đây, trẫm không cần tiền. Lần sau, nếu nàng muốn trẫm đến đòi nợ, nhớ cho kỹ phải chuẩn bị thứ mà trẫm muốn”. Nói đoạn nhẹ nhàng kéo nàng sang một bên rồi mở cửa bước ra ngoài.

Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, men theo cánh cửa trượt xuống mặt đất. Cảm giác run rẩy lúc ấy mới bắt đầu dâng lên từ hai chân, rồi nhanh chóng tràn ra khắp cơ thể, nàng bó gối run lên bần bật.

Hoài Cẩn vẫn luôn đứng canh bên ngoài nhìn theo chiếc bóng dần khuất của Hách Dịch, rồi quay đầu nhìn Khương Trầm Ngư trong nhà, rất ý nhị không hỏi gì cả, chỉ lấy một chiếc áo khoác nhẹ nhàng đắp lên người nàng, dịu dàng bảo: “Nương nương, chúng ta nên về cung thôi”.

Khương Trầm Ngư gật đầu một cách gượng gạo.

Hoài Cẩn dìu nàng đứng dậy rời khỏi nhã xá. Xe ngựa chờ sẵn ngoài khu nhà, vì chuyến này bí mật ra khỏi cung nên họ đi bằng xe ngựa của Tiết Thái. Hai người lên xe, phu xe là Chu Long thúc ngựa, xe đi như bay về hoàng cung.

Về đến cung, Khương Trầm Ngư vừa mới bước xuống xe đã nhìn thấy trong tay Tiết Thái ôm một đống hồ sơ lớn, giống như đang đi ngang qua, lại giống như chờ đợi đã lâu, hắn trừng đôi mắt to đen láy của mình lên, trợn mắt nhìn nàng bằng một ánh mắt kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư cố gắng nén những suy nghĩ rối bời quẩn quanh nơi đáy tim mãi không chịu tan kia xuống, giơ tay lên sờ mái tóc của mình nói:

“Sao vậy?”.

Tiết Thái trừng mắt với nàng một cái rồi quay người, mở miệng nói: “Thất tử đang đợi trong phòng”. Dừng một lát, lại thêm một câu: “Nương nương về muộn quá!”.

Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong Bách Ngôn đường, bất ngờ phát hiện ngoài Thất tử và Tiết Thái ra còn một người nữa.

Người đó thít một chiếc khăn vuông, mặc một chiếc áo bào màu xám đơn giản, im lặng ngồi trong một góc, vì thế, thoạt nhìn Khương Trầm Ngư không nhận ra là ai, nhìn lại lần nữa mới sửng sốt kêu lên: “Di Phi?”.

Văn sĩ trước mặt giản dị không thể giản dị hơn, nho nhã không thể nho nhã hơn này lại là tam hoàng tử Trình quốc suốt ngày mặc trang phục hoa hòe hoa sói, lời nói cử chỉ phóng túng cợt nhả đó. Khương Trầm Ngư gần như không dám tin vào mắt mình.

Mà nàng càng không dám tin là gã lại xuất hiện trong hoàng cung của Bích quốc, trong thư phòng của chính mình!

“Ai, ai đưa hắn đến đây?”. Kỳ thực lời vừa phát ra khỏi miệng, nàng đã biết đáp án. Ngoài Tiết Thái ra, ai dám chưa được sự đồng ý của nàng mà đã đưa gã vào cung?

Còn Tiết Thái quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, chớp mắt một cái, lạnh lùng đáp: “Ta”.

“Ngươi...”. Khương Trầm Ngư căn bản không biết làm thế nào khác, đành quay người nhìn sang Di Phi: “Ngươi dám ngang nhiên xuất hiện ở đây?”.

Di Phi cười hi hi, đứng dậy hành lễ, lại khôi phục điệu bộ giảo trá mà nàng quen thuộc, lắc đầu ngoẹo cổ nói: “Tiểu vương phải cải chính với nương nương ba điểm. Thứ nhất, cái gọi là ngang nhiên, hồi bẩm nương nương, tiểu vương lén lút vào cung, có thể nói ngoài những người ở đây, không đến mười người biết hôm nay tiểu vương có mặt tại hoàng cung Bích quốc, cho nên nương nương có thể yên tâm”.

Khương Trầm Ngư lạnh lừng hừ một tiếng.

“Thứ hai, tiểu vương không có chuyện gì là dám hay không dám làm. Bích vương đã dám xuống tay với Kỳ Úc hầu sau đó lại gán tội danh đó cho tiểu vương, để chứng tỏ sự thanh bạch của mình, đương nhiên tiểu vương chỉ có thể tới đây đòi lại công bằng”.

Tiếng hừ lạnh lùng của Khương Trầm Ngư chuyển thành tiếng thở dài. Ngày đó ở Hồi thành, một mặt Vệ Ngọc Hành giăng bẫy hãm hại Cơ Anh, một mặt đổ tội cho Di Phi, nhưngDi Phi há lại là nhân vật đơn giản như thế? Khi Vệ Ngọc Hành xong việc dẫn quan binh đến phòng gã ở, gã đã biến mất từ lâu rồi. Có điều như thế cũng chẳng sao, chúng liền nghĩ ra cái cớ “Trình tam hoàng tử hại chết Kỳ Úc hầu, sau đó sợ tội bỏ trốn” báo lên triều đình, vì thế, bách tính đều coi Di Phi là hung thủ đại gian đại ác, sau này Chiêu Doãn cũng giả vờ giả vịt giáng chỉ truy nã Di Phi, nhưng vì trước sau không tìm thấy người, lại thêm Khương Trầm Ngư nắm quyền, việc này dần dần cũng bị bỏ qua.

Nhưng không ngờ, nhân vật mất tích thần bí này lại xuất hiện trở lại, hơn nữa vào tận hoàng cung Bích quốc như tự tìm cái chết, lần này gã định giở trò gì đây?

Có điều, tuy trong lòng muôn vàn thắc mắc, nhưng vì “Di Phi do Tiết Thái đưa đến”, cho nên tự nhiên nàng thấy an tâm, cũng không sợ hãi là mấy.

Mà lúc này, Di Phi lại nói tiếp: “Thứ ba, tiểu vương nghĩ đi nghĩ lại, cũng chỉ có thể đến đây. Yên và Nghi đều là nước đồng minh của con tiện nhân đó, nếu tiểu vương xuất hiện trong đất của họ, không đến ngày thứ ba, có lẽ đã bị bắt giải về Trình quốc rồi. Chỉ có Bích quốc luôn công bố với bên ngoài là không đội trời chung với tiểu vương, vẫn được an toàn một chút, đây gọi là nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Hơn nữa người nắm quyền Bích quốc hiện nay là hoàng hậu... dù sao chúng ta cũng có quen biết, hoàng hậu nhất định sẽ không nỡ để kẻ thanh bạch vô tội như tiểu vương chịu oan uổng đi tìm cái chết phải không?”. Vừa nói gã vừa làm bộ như một chú chim nhỏ sán lại gần nép vào người Khương Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư đang muốn tránh thì một cánh tay giơ ra tóm lấy đai lưng của Di Phi, kéo một cái, chiếc đai tụt ra.

Chủ nhân của cánh tay ấy là Tiết Thái, hắn lạnh lùng nói một câu: “Quần sắp tụt rồi”.

Di Phi khua chân múa tay loạn xạ một hồi cuối cùng mới kéo quần cười khổ nói: “Ta biết chúng ta tình cảm thắm thiết nhưng cũng đâu nhất thiết cứ hễ gặp mặt là thẳng thắn chân thành thế này?”.

Khương Trầm Ngư cười phì một tiếng, hơi quay mặt đi chỗ khác.

Tiết Thái đưa trả đai lưng cho Di Phi: “Bớt nói nhảm đi, ngồi xuống, đợi đấy rồi ký tên”.

“Ký tên cái gì?”. Khương Trầm Ngư tò mò.

Người áo vàng sẫm vội trình một cuộn giấy lên trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư giở ra đọc, hóa ra là một bản khế ước, bên trong viết là trong thời kỳ đặc biệt, Bích quốc tạm thời thu nhận Trình tam hoàng tử, ngày sau khi Di Phi phục quốc, sẽ phải cắt bao nhiêu bao nhiêu đất cho Bích quốc, còn phải tiến cống bao nhiêu bao nhiêu tiền bạc... từng điều từng điều một, tổng cộng là hai mươi bảy điều.

Sự hà khắc của điều kiện khiến Khương Trầm Ngư cảm thấy chấn động kinh ngạc: “Điều ước mất quyền lợi nhục quốc thể như thế này mà ngươi cũng ký?”.

Di Phi để lộ biểu cảm như thể tìm thấy cọng rơm cứu mạng, mặt xị xuống, đáng thương nhìn nàng nói: “Cho nên cầu xin nương nương nể giao tình của chúng ta bớt đi cho một chút...”.

Khương Trầm Ngư bình tĩnh gấp bản khế ước lại, bình tĩnh đưa trả cho người áo vàng sẫm, bình tĩnh nói: “Thêm mười điều nữa”.

Khương Trầm Ngư vừa cười vừa quay về tẩm cung.

Nàng vừa đi vừa nghĩ đến biểu cảm của Di Phi ban nãy là lại không nhịn được cười, đến nỗi mà sau đó, Tiết Thái đi sau nàng cuối cùng không kìm được cau mày nói: “Cho dù nương nương có được thêm ba thị bạc đề cử ti[2] cũng không cần hí ha hí hửng thế chứ?”.

[2] Đề cử ti là chức quan quản lý một lĩnh vực nào đó trong thời cổ. Thị bạc là cách gọi các thuyền bè buôn bán trong và ngoài nước, ở đây có ý nhắc đến điều khoản có lợi cho Bích quốc khi ký bản khế ước với Di Phi, Bích quốc sẽ có quyền kiểm soát, quản lý các thuyền buôn với Trình quốc.

Khương Trầm Ngư quay đầu liếc xéo hắn một cái, thu lại nụ cười, nói: “Ta còn chưa truy cứu ngươi chuyện tiền trảm hậu tấu, dám tự ý quyết định rước tên Di Phi đó vào cửa, ngươi lại dám chê trách ta trước à?”.

Khóe mắt của Tiết Thái bắt đầu co giật.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn: “Sao? Không còn lời gì để nói à?”.

Tiết Thái cắn răng nói: “Ta muốn nói nhưng người nào đó lại biến mất từ sáng sớm tinh mơ, đi xử lý cái gọi là chuyện ‘quan trọng’ nào đó, cho đến lúc nãy mới về, ta làm gì có cơ hội mà báo trước?”.

“Di Phi không thể hôm nay mới đến đế đô, ngươi đã liên hệ với hắn từ lâu, tại sao không nói trước cho ta?”.

Tiết Thái lộ vẻ lạnh nhạt, hai tay chắp sau lưng, thong thả nói: “Trước khi nắm chắc một việc, liệu nương nương có đi tuyên truyền ra ngoài không?”.
 
Quyển 2 - Chương 82


Hai người trừng mắt gườm gườm nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng vẫn là Khương Trầm Ngư nhìn đi nơi khác trước: “Ai gia không thèm chấp nhóc con”.

Phản ứng của Tiết Thái là nở một nụ cười châm chọc.

Bỗng Khương Trầm Ngư nghiêng đầu sang hỏi: “Ngươi dự định sắp xếp Di Phi như thế nào? Không thể giấu hắn trong cung được?”.

Tiết Thái chậm rãi trả lời: “Hàn lâm vốn là bát trí”.

“Rồi sao?”.

“Đến nay Bách Ngôn đường lại chỉ còn có Thất tử. Ban đầu hoàng thượng sờ dĩ chọn bảy người, là vì nương nương cũng được coi là một người trong bát trí”.

“Rồi sao?”.

“Bây giờ nương nương thành hoàng hậu, đương nhiên không thể giống như bọn họ được. Cho nên, Thất tử vẫn không hoàn chỉnh”.

“Rồi sao?”.

Cuối cùng Tiết Thái không vòng vo nữa, nhìn thẳng vào mắt nàng, nói ra câu mấu chốt của vấn đề: “Di Phi có thể làm hoa tử[3]”.

[3] Hoa tử tức người mặc áo hoa (bát trí mỗi người mặc một màu áo)

Khương Trầm Ngư cười phì thành tiếng: “Hoa tử... ha ha ha, chỉ có ngươi mới nghĩ ra, ha ha ha...”.

Tiết Thái không cười, gương mặt đầy vẻ nghiêm túc nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư cười mãi, nói: “Hóa ra ngươi cũng thích số tám, phàm việc gì đều phải ghép cho đủ. Đúng rồi, nghe nói sinh nhật của ngươi vào mùng tám tháng tám, cho nên bây giờ đã đủ tám tuổi rồi?”.

Mặt Tiết Thái liền sầm xuống, giọng điệu cực kỳ cứng cỏi đáp lại: “Ta không thích số tám”. Tuy trước đó hắn cũng chau mày chau mặt, nhưng ít nhiều cũng ra vẻ cố ý đối chọi với Khương Trầm Ngư, bây giờ vẻ mặt hắn biến đổi như vậy, Khương Trầm Ngư lập tức nhận ra rằng hắn thực sự giận dữ.

Tuy không biết vì sao hắn bỗng nhiên nổi giận nhưng Khương Trầm Ngư cũng không cười nữa, nghiêm mặt nói: “Nên tận dụng mọi khả năng của mọi vật, ngươi nói rất đúng. Có điều, hắn trước sau gì vẫn là người Trình quốc, nhiều chuyện nội bộ của chúng ta, vẫn không thể để hắn biết được. Như thế này đi, hắn rảnh rỗi thì để hắn điều tra tung tích của Cơ Hốt đi”.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó khom người nói: “Tuân chỉ”.

Tâm trạng Khương Trầm Ngư vốn dĩ khó khăn lắm mới vui vẻ lên một chút, nhưng vì nói đến Cơ Hốt nên nặng nề trở lại. Bốn tháng rồi. Từ khi đoạt quyền từ tay Chiêu Doãn nàng đã tìm tung tích của Cơ Hốt ở khắp nơi, nhưng Cơ Hốt giống như bốc hơi giữa biển người, không thể tìm nổi chút manh mối nào. Có lúc, Khương Trầm Ngư không kìm được hoài nghi có lẽ mình đã bị Chiêu Doãn dắt mũi, chân tướng sự thực đúng là người đó đã chết như suy đoán trước đây của nàng, nhưng sau đó theo lời chứng của Thôi quản gia, nữ tử chèo thuyền mà nàng thấy bên hồ Phượng Thê đó, dung mạo dáng vẻ quả thực là Cơ Hốt.

Cơ Hốt đi đâu?

Ngày nào chưa tìm thấy người ấy thì ngày đó nàng chưa thể yên tâm.

Để tránh Di Phi, vị hoàng tử chưa bao giờ chịu yên phận gây chuyện trong khoảng thời gian này, một mặt cố nhiên là phải trông chừng thật kỹ, không để gã xảy ra chuyện gì không hay; một mặt cũng không thể để gã nhàn rỗi quá, phải kiếm việc cho gã làm. Hy vọng gã có thể dùng cái đầu kỳ lạ cổ quái khác biệt với người khác của mình nghĩ ra vài chủ ý hay ho, biết đâu lại có thể tìm thấy Cơ Hốt thật.

Khương Trầm Ngư vừa đau đầu suy nghĩ, vừa vô thức bước đi, đến khi nàng nghĩ thông mọi điều, ngước đầu lên. Sao nàng lại đến nơi này?

Chỗ nàng đang đứng chính là góc Tây Bắc, nơi hẻo lánh nhất của hoàng cung, cũng chính là đầu nguồn của hồ Phượng Thê, Chiêu Doãn lớn lên ở nơi này, bên hồ còn lưu giữ lại một căn nhà nhỏ rách nát. Bây giờ, nó đã đổi chủ nhân mới.

Ánh nắng ngày xuân tươi sáng rực rỡ, tịch dương đỏ chói chiếu xuống khiến mặt hồ hồng rực lên. Trên mảnh đất vốn hoang vu, nay lại trồng các loại hoa tươi theo hàng lối, những cành hoa đung đưa nhè nhẹ trong gió, đẹp như tranh vẽ.

Một người ngồi trên chiếc xe lăn bằng gỗ, đang tưới nước cho hoa, một người khác đứng đằng sau hắn, thi thoảng lại giúp một tay.

Cảnh tượng này lọt vào trong mắt Khương Trầm Ngư, càng ấm áp thêm vài phần.

Nàng đi tới, khẽ gọi: “Sư Tẩu”.

Người tưới nước quay đầu lại, đúng là Sư Tẩu. Còn người đứng đằng sau hắn lại là Điền Cửu.

Sư Tẩu nhìn thấy nàng liền bỏ bình nước xuống, đẩy xe lăn tới, dù chỉ còn lại một cánh tay, nhưng động tác vẫn rất linh hoạt. Trái lại Điền Cửu phía sau lưng hắn, vẻ mặt cứng đơ, im lặng hành lễ rồi quay người đi vào trong nhà.

Sư Tẩu lộ vẻ vui mừng, nói: “Sao chủ nhân lại tới đây?”.

“Những ngày qua ngươi sống ở đây vẫn ổn chứ?”.

“Vâng”. Sư Tẩu nhìn những đóa hoa tươi xung quanh bằng cặp mắt tràn đầy tình cảm: “Hôm nay lại có hai cây tường vi mới nở hoa”.

“Thế... ca ca ngươi, hắn có ổn không?”. Khương Trầm Ngư đưa mắt nhìn về phía căn nhà.

Sư Tẩu nhận ra suy nghĩ thật sự của nàng, cười cười: “Ca ca... vẫn không thể tiếp nhận chủ nhân, có điều, thuộc hạ nghĩ ca ca sớm muộn sẽ có ngày nghĩ thông thôi. Bởi vì chủ nhân đã cho chúng ta cuộc sống mới. Có thể trồng hoa hóng gió, chuyện trò cùng huynh trưởng, cuộc sống như thế, thuộc hạ đến nghĩ cũng chưa từng dám nghĩ. Ca ca cũng vậy”.

Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng.

Tuy y thuật cao minh của Giang Vãn Y có thể giữ được tính mạng cho Sư Tẩu, nhưng hai chân và một cánh tay bị chặt đứt và một con mắt bị móc của hắn, vĩnh viễn không thể lấy lại được. Bây giờ mở một góc nhỏ như thế này trong hoàng cung cho hắn ở, ngoài mục đích cảm ơn hắn ra, còn có một nguyên nhân khác, đó là kiềm chế Điền Cửu.

Ngày đó khi nàng dùng Sư Tẩu để dụ Điền Cửu đi, khi Điền Cửu trở lại phát hiện Chiêu Doãn đã biến thành phế nhân, biểu cảm trên gương mặt của hắn lúc đó, nàng vĩnh viễn không thể quên... Điền Cửu không ra tay với nàng để báo thù cho Chiêu Doãn, nàng đã vô cùng cảm kích hắn rồi, nào có khát vọng xa xỉ là hắn có thể quay đầu về dưới trướng của mình? Kỳ thực... trong lòng nàng cũng không phải là không thấy đáng tiếc... Nghe Chu Long nói, võ công của Điền Cửu thậm chí còn cao hơn hắn, hơn nữa luận về mưu trí tài tình đều cực kỳ xuất sắc, nếu có thể thu phục, tất sẽ như hổ mọc thêm cánh.

Thế nhưng... nhân sinh xưa nay chưa bao giờ hoàn mỹ, chẳng phải thế sao?

Như bây giờ cũng tốt rồi.

Khương Trầm Ngư lắc đầu, gạt cảm xúc tiếc nuối hụt hẫng đó sang một bên, bước tới chăm chú thưởng thức những bông hoa Sư Tẩu trồng: “Đẹp quá...”.

“Đúng thế, chỉ cần đối đãi tốt với chúng, chúng sẽ tặng cho ta phong cảnh tươi đẹp nhất. Còn khi ta ngắm chúng sẽ cảm thấy hết thảy khổ đau tan đi như mây khói, biến thành những chuyện cũ gió thoảng mây trôi”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn Sư Tẩu, ý thức một cách vô cùng rõ ràng rằng người trước mặt này và ám vệ cùng nàng đi sứ Trình quốc kia, đã là hai người hoàn toàn khác nhau. Sư Tẩu khi đó, trong đầu chỉ có nhiệm vụ, ngoài mệnh lệnh ra, vạn vật đều không tồn tại trong mắt hắn, nhưng Sư Tẩu của hiện tại, nhìn thấy trời xanh, hồ biếc và các đóa hoa muôn hồng ngàn tía, thế giới chém giết thập tử nhất sinh đó đã hoàn toàn lùi xa.

Nàng tự hỏi lòng mình, nếu đổi lại là mình liệu có chịu dùng đôi chân, cánh tay và một con mắt để đánh đổi lấy cuộc sống yên bình như thế này không? Trong lòng Khương Trầm Ngư mãi lâu sau vẫn không có câu trả lời.

Nàng rốt cuộc vẫn không phải là Sư Tẩu.

Sư Tẩu không cha không mẹ, ngoài ca ca ra không còn người thân thích nào khác. Cho nên, buông bỏ thế giới này đối với hắn mà nói không phải là mất mát, mà trái lại là có được.

Nhưng nàng thì sao? Thứ níu giữ nàng thực sự là... quá nhiều quá nhiều...

“Chủ nhân? Dường như chủ nhân rất mệt, chủ nhân không ngủ được ư?”. Sư Tẩu bỗng nhiên hỏi như vậy.

Khương Trầm Ngư vô thức giơ tay lên sờ mặt mình: “Rõ thế à?”.

“Vâng”. Sư Tẩu đẩy xe lăn về phía hồ Phượng Thê một đoạn, nhìn chăm chú nơi trời nước giao nhau đó, thong thả nói: “Chủ nhân, chủ nhân biết cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ về những ngày này là gì không?”.

“Là gì?”.

“Cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ là: Hóa ra, trên thế giới này có nhiều chuyện vui vẻ như thế. Ngắm một đóa hoa nở, ngắm mưa rơi, ngắm mặt trời mọc mặt trời lặn, ngắm bầy cá bơi tung tăng dưới nước... Nếu chúng ta không sinh ra làm người thì không thể lĩnh ngộ được những thứ đẹp đẽ này, cho nên, những kẻ đã được trời cao ban cho ân sủng này nên cười nhiều một chút”. Sư Tẩu nói đến đây, xoay xe lăn về phía Khương Trầm Ngư, nói với một giọng chân thành không gì sánh được: “Chủ nhân nên cười nhiều một chút”.

Khương Trầm Ngư mấp máy khóe môi, có chút khó khăn, nhưng lại cười rất chân thành.

Nàng vừa cười, Sư Tẩu liền cười theo: “Chẳng phải rất dễ sao?”.

Khương Trầm Ngư ngẩng lên đón cơn gió từ mặt hồ thổi tới, nhắm mắt lại hít một hơi thật sâu, rồi lại từ từ thở ra, sau đó mở mắt, lại cười một lần nữa. Không khí ngột ngạt trước đây dường như cũng biến mất theo hai nụ cười này, chỉ còn lưu lại cảm giác vui vẻ khi đứng trước phong cảnh đẹp đẽ này.

“Sư Tẩu, ta biết ban nãy tại sao chân của ta tự động đưa ta đến nơi này rồi...”.

Sư Tẩu nhìn nàng, dùng một con mắt nhìn nàng, dùng một con mắt vốn đen tối nhất nhưng giờ lại sáng tỏ nhất thế giới này nhìn nàng, cuối cùng mỉm cười: “Sau này nếu chủ nhân có chuyện gì không vui, xin cứ đến đây. Thuộc hạ đã không thể giúp chủ nhân được gì, nhưng nơi này của thuộc hạ có rất nhiều hoa đẹp, còn có một đôi tai nguyên vẹn nữa”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc ướt nhòa.

Sư Tẩu, ám vệ Chiêu Doãn tùy tiện ban cho nàng ngày đó, ở Trình quốc, họ đã cùng gặp kiếp nạn sinh tử, để bảo vệ nàng, hắn đã trở thành tàn phế, nhưng bây giờ, hắn ngồi ở đó, vẻ mặt dịu dàng hiền hòa, giọng nói bình thản, tuy yếu ớt, nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ.

Hắn lại trở thành bến cảng tâm hồn ấm áp và thanh thản nhất của nàng.

Duyên phận như thế này, ai có thể ngờ đến được?

Thế sự an bài, quả nhiên có sự kỳ diệu định mệnh...

Khi hoa hạnh nở rộ, hoàng cung của Bích quốc đón một vị khách lâu ngày không gặp.

Hắn chính là người một dạo bị cách chức trục xuất khỏi kinh sư không được quay về, là người đã viết nên huyền thoại “từ áo vải đến vương hầu, rồi lại trở về áo vải” - thần y dân gian Giang Vãn Y.

Mà lý do trở lại của hắn lần này cũng hệt như lần trước - Hy Hòa.

Cùng trúng chất độc “Giấc mộng nghìn năm”, vì Hy Hòa không uống rượu nên độc tính phát tác muộn hơn Chiêu Doãn, nhưng hàm lượng thuốc mà nàng ta uống vào người lại nhiều hơn, nên mức độ hủy hoại cơ thể cũng nghiêm trọng hơn rất nhiều. Về sau da dẻ bắt đầu xuất hiện những mảng tím bằm lớn, thậm chí lan lên tận mặt, rồi bắt đầu rữa nát, hình dạng trông cực kỳ đáng sợ.

Vì thế, Khương Trầm Ngư sai người triệu hồi Giang Vãn Y cho hắn hai lựa chọn: Hoặc là, cứu nàng ta tỉnh lại; hoặc là ngăn bệnh tình xấu đi, để Hy Hòa khôi phục dáng vẻ ban đầu.

Nhưng ngày tiếp ngày trôi qua, hoa hạnh đã rụng hết, Giang Vãn Y vẫn không tìm ra thuốc giải.

“Tại sao? Thuốc độc huynh bào chế ra mà cũng không giải được ư?”. Khương Trầm Ngư thất vọng vô cùng.

Trong Bảo Hoa cung, bên giường của Hy Hòa buông một tấm rèm rất dày, rất nặng, không nhìn thấy dung nhan của nàng ta.

Đứng bên giường Hy Hòa, Giang Vãn Y vẫn một thân áo xanh nhưng đã tiều tụy gầy guộc đi nhiều, không còn dáng vẻ “thanh sam ngọc diện Đông bích hầu”[4] lúc đi sứ Trình quốc năm xưa. Nhưng khí độ của hắn càng ngày càng trầm ổn, điềm đạm nói: “Ngày đó, khi chế ra loại độc này cho nàng ấy, ta có nói là loại thuốc này vừa mới điều chế ra vẫn chưa được thành thục lắm, sau khi uống, tùy cơ địa từng người mà có sự khác biệt. Sở dĩ Hy Hòa phu nhân xuất hiện hiện tượng hoại tử, có lẽ là do loại độc nàng ấy từng trúng. Độc tố lần trước vẫn chìm sâu trong huyết dịch hòa lẫn với ‘Giấc mộng nghìn năm’ này chuyển thành một loại kịch độc khác. Hiện nay đã vượt quá phạm vi kiểm soát mà ta có thể giải cứu, mà thời gian không cho phép ta thử nghiệm thêm nữa...”. Nói đến đây, hắn phất tay áo, quỳ xuống: “Thảo dân có một thỉnh cầu to gan”.

[4] Nghĩa là “Đông Bích hầu hay mặc áo xanh, mặt đẹp như ngọc”.

“Xin cứ nói”.

“Hy Hòa phu nhân... hiện tại đau đớn vô vàn, vì trúng độc nên da thịt cứng đơ nên nhìn không ra biểu cảm đau đớn, nhưng cảm giác bị rữa nát này, bất cứ người sống nào cũng không thể chịu đựng nổi. Thảo dân bất tài, không cứu nổi phu nhân, chỉ biết trơ mắt nhìn phu nhân bị hoại tử từng chút từng chút một, thực sự là... không thể đành lòng. Cho nên khẩn cầu nương nương ban cho phu nhân được chết, để nàng ấy... sớm được giải thoát”. Nói những lời này, Giang Vãn Y ngừng lại mấy lần, rõ ràng là đau khổ đến cực điểm.

Kỳ thực những gì hắn nói trong lòng Khương Trầm Ngư đều hiểu rõ, nhưng... vừa nghĩ đến để Hy Hòa chết, trong lòng liền ngàn vạn lần không muốn.

Tuy lúc này Hy Hòa đã không còn tri giác, không khác gì người chết, nhưng chỉ cần Hy Hòa còn nằm trong Bảo Hoa cung là giống như trong chốn thâm cung này vẫn còn một người quen cũ của nàng, vẫn còn một chiến hữu chứng kiến nàng đã tay đẫm máu tanh như thế nào mới đi đến bước đường này.

Bảo nàng làm sao có thể trơ mắt nhìn một người quan trọng như thế biến mất?

Đặc biệt là sau khi nàng đã để mất Cơ Anh.
 
Quyển 2 - Chương 83


Vì thế, Khương Trầm Ngư do dự tới lui, nhưng vẫn lắc đầu: “Không... không được. Huynh phải cứu nàng ấy! Vãn Y, huynh nhất định phải cứu nàng ấy!”.

Giang Vãn Y quỳ vái dưới đất, trầm giọng nói: “Nương nương, nếu nương nương thật lòng nghĩ tốt cho phu nhân, thì hãy để nàng ấy ra đi”.

“Không được! Không được!”. Khương Trầm Ngư cố chấp từ bên cạnh chiếc bàn ở gian ngoài nhảy lên, xông đến trước mặt Giang Vãn Y, tóm chặt cổ áo hắn nói: “Sư huynh, sư huynh, muội cầu xin huynh, đừng buông tay, đừng để Hy Hòa chết có được không? Sư huynh...”.

Nàng lúc này vẫn là hoàng hậu tôn quý, lại dùng hai tiếng “sư huynh” để gọi một thảo dân tầm thường, rõ ràng là muốn dùng tình xưa nghĩa cũ để làm Giang Vãn Y động lòng, nhưng Giang Vãn Y nghe xong, ánh mắt lại càng đậm nét bi ai hơn: “Sớm biết có ngày hôm nay... hà tất phải có buổi ban đầu?”.

Sắc mặt Khương Trầm Ngư hơi trắng bệch. Không sai, ban đầu khi hắn rời đế đô, đã từng khuyên nàng dừng tay, nhưng khi ấy nàng bị hận thù che mắt, cố chấp phải báo thù cho Cơ Anh, đến nay biến thành như thế này, xem ra nàng cũng khó tránh được tội, nàng vốn không nên làm khó hắn, nhưng cứ nghĩ đến người đang nằm trên giường, đang rữa nát từng chút từng chút một không phải ai khác, mà chính là Hy Hòa!

Là Hy Hòa đệ nhất mỹ nhân của bốn nước!

Là Hy Hòa mà công tử yêu nhất khi còn sống!

Là Hy Hòa tự mình gánh tất cả tội nghiệt để lại cho nàng một tiền đồ như gấm thêu!

Nàng không có cách nào chấp nhận sự thật này. Làm sao có thể chấp nhận nổi.

“Sư huynh! Sư huynh...”. Nàng vừa khóc vừa kéo tay áo của Giang Vãn Y giống như năm đó, sau khi biết bệnh tình của Cơ Anh. Hai cảnh tượng lồng vào nhau trong trí óc của Giang Vãn Y nhìn nữ tử tuy không phải sư muội thật sự của hắn, nhưng đã cùng hắn trải qua rất nhiều việc, hắn hít một hơi rất sâu.

Khương Trầm Ngư ngỡ là hắn đã bị mình thuyết phục, ngước gương mặt đầy mong chờ lên nhìn hắn.

Nhưng Giang Vãn Y lại chầm chậm rút tay áo ra khỏi tay nàng, giọng điệu ôn hòa, nhưng lại kiên quyết chậm rãi nói: “Nương nương, Hy Hòa phu nhân đã ra thế này, sao nương nương không từ bỏ một chút lòng riêng đó của mình, thực sự nghĩ cho nàng ấy một chút?”.

Khương Trầm Ngư choáng váng nặng nề: “Cái, cái, cái gì?”.

Giang Vãn Y quay người, kéo tấm rèm ra: “Nàng ấy đang thối rữa, nương nương xem đi! Mức độ thối rữa mỗi ngày mỗi nghiêm trọng, dịch mủ chảy ra từ người nàng ấy đã ngấm vào giường chiếu chăn đệm, thậm chí có cả giòi bọ lúc nhúc bò trên người nàng ấy... Nàng nhìn đi, nương nương! Nếu như nàng thực sự thích nàng ấy, sao nỡ để thân thể nàng ấy chịu đựng sự giày vò đến nhường này? Chỉ bởi vì nàng ấy không có tri giác không thể cử động, cho nên nàng cảm thấy nàng ấy không biết đau đớn, không thể đau đớn hơn nàng sao?”.

Mùi hôi thối tỏa ra từ người Hy Hòa và mùi thuốc nồng nặc trong phòng quyện lại với nhau, nhìn Hy Hòa gần như không còn hình người nằm trên giường, Khương Trầm Ngư không thể chịu đựng thêm, nhảy dựng lên: “Ý của ngươi là ta cố ý hại nàng ấy phải không? Cố ý để nàng ấy thối rữa, cố ý hủy hoại dung nhan xinh đẹp của nàng ấy phải không? GiangVãn Y ngươi to gan, ngươi dám nói như thế với bản cung! Ngươi ngông cuồng quá đấy!”.

Giang Vãn Y nhìn thẳng vào mặt nàng, nói câu sau cùng: “Thế thì xin thứ cho thảo dân bất tài, thảo dân cáo lui”. Nói rồi, quay người chầm chậm bỏ đi.

Hành động này thực sự vô cùng lạnh lùng, đặc biệt là đối với Khương Trầm Ngư lúc này, nàng há miệng đứng như trời trồng bên giường, mãi không phản ứng lại được.

Giang Vãn Y không đóng cửa, gió thổi vào ù ù, Khương Trầm Ngư bỗng nhiên quay người, bên đầu giường có đặt chậu nước và khăn bông, nàng lấy khăn bông thấm nước, rồi vắt khô, sau đó lau những vết mủ trên mặt Hy Hòa, cắn răng nói: “Hy Hòa, bọn họ đều bỏ rơi nàng, nhưng không sao cả, ta tuyệt đối tuyệt đối sẽ không bỏ rơi phu nhân, họ chê phu nhân bẩn chê phu nhân hôi, không sao, ta sẽ tắm cho phu nhân, ngày nào ta cũng tắm cho phu nhân, phu nhân sẽ khỏe lên, phu nhân nhất định, nhất định sẽ khỏe lên... Phu nhân xem này, mạch của phu nhân vẫn đang đập, mũi phu nhân vẫn đang hít thở, rõ ràng phu nhân vẫn còn sống, làm sao có thể để phu nhân chết được? Đó là mưu sát! Mưu sát!”.

Nàng ra sức lau, nhưng càng lau mủ lại càng chảy ra nhiều, không sao lau hết được, cuối cùng khiến cả gương mặt đều nhoe nhoét, Khương Trầm Ngư sững sờ nhìn khuôn mặt mà ngũ quan đã bị biến dạng đó, lại nhìn nước mủ tím đen trên tay mình, “Hy Hòa đã không thể cứu được rồi”, sự thực này bây giờ mới chậm chạp truyền đến đại não Khương Trầm Ngư, chiếc khăn bông rơi xuống đất, nàng bưng mặt mình bằng đôi tay đầy mủ, sau đó quỳ xuống, khóc thất thanh.

Tại sao một lần, hai lần, nhiều lần như thế, luôn là thế này?

Càng muốn giữ lại thứ gì, càng không thể giữ được. Chỉ có thể trơ mắt nhìn thứ đó biến mất. Hoàn toàn vô phương cứu chữa. Cả cuộc đời này của mình, rốt cuộc còn có thể có được những gì? Giữ được những gì? Bản thân chẳng giữ được thứ gì, chẳng giải quyết được gì, thì cho dù có được cả thiên hạ, cũng để làm gì đâu?

Hy Hòa, Hy Hòa, nàng có biết hay không, nàng nằm ở đây, chết đi. Giống như một lần nữa ta nhìn thấy công tử chết trước mắt ta!

Trong tiếng khóc của Khương Trầm Ngư, một bóng người từ từ tiến sát lại. Thoạt đầu nàng còn tưởng là Giang Vãn Y quay lại, sau ngẩng lên nhìn thì ra là Tiết Thái.

Trong khoảnh khắc này, Khương Trầm Ngư quên mất mình là hoàng hậu Bích quốc, quên mất tuổi tác mình lớn hơn thiếu niên trước mặt này, nàng cứ thế quỳ trên mặt đất, ngửa đầu lên, nhìn hắn bằng ánh mắt vô cùng tuyệt vọng và gương mặt giàn giụa nước mắt.

Tiết Thái vẫn im lặng, đứng nhìn nàng một lúc, trên gương mặt nhỏ nhắn trắng trẻo của hắn không bộc lộ bất cứ biểu cảm nào, sau đó, hắn đến bên giường, nhìn gương mặt bị “lau chùi” đến mức thảm hại không nỡ nhìn của Hy Hòa, trong mắt lóe lên một tia tình cảm phức tạp.

Khương Trầm Ngư còn đang lau nước mắt.

Tiết Thái quay lại nhìn nàng một cái, nhanh như chớp kéo một tấm chăn mỏng trên giường, phủ kín đầu Khương Trầm Ngư.

“Đừng nhìn”. Hắn nói.

Tấm chăn mỏng chụp xuống đầu nàng, rồi lại từ từ trượt xuống, bóng tối vụt qua, cảnh tượng trong căn phòng dần dần hiện ra trong tầm nhìn: Tấm rèm bị gió thổi không ngừng đung đưa, chiếc chăn màu tím hoa lệ mềm mại, Hy Hòa nằm trên giường giống như đang ngủ... Trái tim Khương Trầm Ngư thắt lại, chợt hiểu ra hành động vừa nãy của Tiết Thái là gì, nàng nhào tới phía trước tóm lấy cổ tay Hy Hòa, hồi lâu sau, cứng đờ ngẩng đầu lên, nhìn thấy bóng mình trong mắt Tiết Thái.

Ngày mùng bảy tháng năm năm Đồ Bích thứ năm, Hy Hòa phu nhân qua đời.

Tiết Thái đã quyết định thay cho Khương Trầm Ngư do dự thiếu quyết đoán.

Khoảnh khắc chiếc chăn che lấp tầm nhìn của nàng đó, hắn đã ấn vào tử huyệt của Hy Hòa, đặt dấu chấm hết cho kiếp người đau khổ thê thảm của một mỹ nhân vì quá đẹp mà vốn không nên có mặt trên nhân thế này.

Sau khi Hy Hòa chết, Khương Trầm Ngư từ lâu không động bút đã tự tay vẽ một bức tranh cho nàng ta.

Hy Hòa trong tranh mỉm cười đứng giữa hoa hạnh bạt ngàn trời đất.

Khi nàng vẽ bức tranh ấy, Tiết Thái im lặng đứng sau lưng nàng quan sát, lúc sau giống như nhớ ra điều gì mới nói: “Giang Vãn Y vừa rời đi nửa canh giờ trước rồi”.

Khương Trầm Ngư “ừ” một tiếng.

“Lần này ngươi không đi tiễn hắn sao?”.

Khương Trầm Ngư cười thê lương. Sau khi xảy ra cuộc tranh cãi như thế, nàng còn mặt mũi nào mà đi gặp hắn?

“Tiểu Thái...”. Nàng dừng bút, giọng nói mơ màng: “Có phải ta thay đổi rồi không?”.

“Hử?”.

“Ta cảm thấy... từ sau khi ta trở thành hoàng hậu, không, từ sau khi ta quyết tâm báo thù cho công tử, ta đã dần dần thay đổi. Quen với việc ra lệnh cho người khác, quen với việc hất hàm sai khiến người khác, quen với việc không chịu nghe lời khuyên của người khác... Trước đây ta tuyệt đối không nói với sư huynh như thế, trên thế giới này những người ta kính trọng có thể đếm được trên đầu ngón tay, mà sư huynh là một trong số đó. Thế nhưng... hôm đó ta đã cưỡng cầu, đã làm khó huynh ấy như ma xui quỷ khiến, huynh ấy không làm ta còn nổi giận... Giờ nhớ lại, ta cảm thấy thật là đáng sợ”. Khương Trầm Ngư run rẩy quay người lại, nhìn Tiết Thái: “Ta cảm thấy mình thật đáng sợ, ta, ta sao có thể biến thành thế này? Rõ ràng, rõ ràng Hy Hòa đã bắt đầu rữa nát, ta còn cố chấp không chịu để nàng ấy chết. Sư huynh nói đúng, ta... ta quá ích kỷ... Giây phút ấy, ta chỉ nghĩ nếu không có nàng ấy ta sẽ đau khổ biết bao, nhưng không nghĩ rằng, sống mới là sự giày vò lớn nhất đối với Hy Hòa...”.

Tiết Thái không nói gì chỉ lặng lẽ nhìn nàng, trong đôi đồng tử đen láy đó, trước sau chỉ mang một sắc thái lạnh lừng khó hiểu, vì thế trông như hoàn toàn không động lòng trước sự hoang mang đau khổ của nàng.

Nhưng có lẽ, phản ứng lạnh nhạt vừa khéo như thế mới là thứ Khương Trầm Ngư cần, bởi vì, nàng thực sự chỉ muốn dốc bầu tâm sự, chứ không mong được an ủi.

“Ta cảm thấy ta đang thay đổi, thay đổi nhanh đến mức không nhận ra nổi chính mình. Cả đời ta chưa bao giờ hại bất cứ ai, nhưng lại từng bước biến Chiêu Doãn thành một kẻ dở sống dở chết, còn cướp thiên hạ của hắn... Tại sao lại như thế này? Có phải là quyền lực làm con người ta sa đọa không? Ta sợ lắm, sợ một ngày nào đó khi soi gương, phát hiện người trong gương đã hoàn toàn thay đổi... Đây có phải là trưởng thành không? Thế thì, rốt cuộc ta đã trưởng thành đến mức nào rồi? Tiết Thái, ta...”.

Tiết Thái ngắt lời nàng: “Ngươi chỉ là đang làm nũng”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người: “Làm nũng?”.

“Con đường này ban đầu là ngươi tự chọn lấy, nhưng bây giờ ngươi lại bắt đầu sợ hãi khổ sở, ngươi muốn lười biếng trốn tránh, hy vọng có ai đó đến giúp đỡ ngươi, giải quyết triệt để hết thảy những việc mà ngươi chán ghét, lát bằng con đường ngươi đi, để ngươi có thể đi trong rực rỡ vinh quang, lại có thể hai tay không dính máu tanh...”. Giọng nói non nớt còn chưa vỡ giọng của Tiết Thái, trong không khí như thế này, nghe lanh lảnh đến mức có chút đáng sợ: “Giống như Hy Hòa giúp ngươi giải quyết Chiêu Doãn, giống như ta giúp ngươi giải quyết Hy Hòa... Như thế, lương tâm của ngươi sẽ thanh thản hơn một chút, có thể lấy cái cớ ‘chí ít không phải ta đích thân hạ thủ’ để làm tê liệt bản thân an ủi bản thân, cảm thấy mình vẫn là một thiếu nữ khuê các không rành sự đời lúc ban đầu, không bị gió mưa ăn mòn, không bị thế giới bên ngoài vấy bẩn, có thể tiếp tục nhìn thế sự bằng tâm thế hồn nhiên, khoan dung...”.

Khương Trầm Ngư hoàn toàn sững sờ, không nói nổi đến nửa chữ.

“Ngươi không muốn trở nên lạnh lùng tàn khốc giống như Chiêu Doãn và vô số đế vương khác, nhưng nếu như không lạnh lùng tàn khốc thì không thể làm chuyện lớn, đây chính là điểm vướng mắc nhất hiện nay của ngươi. Nhưng đừng quên, sự tiêu vong của Chiêu Doãn bắt nguồn từ sự lạnh lùng tàn khốc của hắn, những đế vương độc ác khác cũng đâu cười được đến phút cuối. Cho nên, điều then chốt nhất không nằm ở việc muốn giành thắng lợi thì nhất định phải trở nên xấu xa, mà là cho dù xấu hay tốt, cuối cùng đều phải thắng”.

Tiết Thái nói đến đây, ánh mắt lạnh nhạt có chút thay đổi, để che giấu sự thay đổi đó, hắn quay lưng lại với nàng, nói nửa câu cuối bằng giọng điệu bình thản đều đều:

“Khương Trầm Ngư, ngươi có thể cười đến phút chót hay không? Hãy để thời gian chứng minh đi”.

Nếu cách an ủi của Hách Dịch khiến người ta ấm áp như ánh mặt trời tháng tư, có thể gạt mọi phiền não sang một bên, không nghĩ tới nữa; thì cách an ủi của Tiết Thái lại là lưỡi dao lạnh và sắc bén, chớp nhoáng cắt bỏ chỗ thịt thối khiến vết thương mau chóng lên da non.

Khương Trầm Ngư không biết hai cách thức này nàng thích cách nào hơn, nhưng trong giây phút này, từ tận đáy lòng nàng cảm thấy - thật tốt.

Khi cả thế giới vỡ vụn trước mắt rồi lại ghép lại thành một diện mạo hoàn toàn xa lạ, khi những người nàng quan tâm và coi trọng trong cuộc đời lần lượt rời xa nàng, ít nhất vận mệnh cũng để lại cho nàng hai con người này.

Đa tạ... thế này thực sự... là quá tốt rồi.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, bình ổn tâm tư rối bời, đang định nói cảm ơn với Tiết Thái, thì bỗng cánh cửa thư phòng bị đẩy ra, mà không, bị người khác xô bật ra mới đúng.

Cung nhân đó loạng choạng xông vào, hoảng loạn mà vui mừng như điên, hò hét lảm nhảm.

Khương Trầm Ngư bỏ qua sự vô lễ của cô ta, vì cô ta hét rằng: “Nương nương! Nương nương! Quý nhân sắp sinh rồi! Sắp sinh rồi!”.

Không đợi cô ta hét xong, Khương Trầm Ngư đã xông ra ngoài như một cơn gió.

Tiết Thái cau mày, đành chạy theo ra ngoài, nhìn Khương Trầm Ngư ở phía xa chạy nhanh như bay, đến tóc mai lòa xòa cũng để mặc, hoặc là nàng căn bản chẳng chú ý tới, cứ thế không giữ hình tượng xông thẳng vào Gia Ninh cung.

Tiết Thái dừng bước, vịn lan can thở hổn hển, biểu tình trên mặt càng nghiêm nghị, giống như dự cảm được một điều gì đó chẳng lành, lại giống như nhìn thấy một việc gì đó không muốn xảy ra, nhưng cuối cũng vẫn xảy ra...

Nhưng, Khương Trầm Ngư đương nhiên không lưu ý đến biểu cảm của hắn, cái tin “tỉ tỉ sắp lâm bồn” làm nàng vui mừng khôn xiết. Vì thế, khi nàng chạy tới Gia Ninh cung, cảnh tượng nhìn thấy lại là bọn cung nữ thái giám mặt đầy lo âu, thái y mặt chau mày khổ, nhất thời ngẩn ra, sau đó, nhìn sang Giang Hoài một cách đầy cảnh giác: “Sao vậy?”.

Giang Hoài quỳ xuống: “Hồi bẩm nương nương, quý nhân khó sinh, e là... tính mạng nguy kịch”.

Câu này, giống như một chậu nước lạnh dội ào ào từ trên trời xuống, khiến nàng ướt như chuột lột từ đầu đến chân, lạnh cóng. Khương Trầm Ngư chớp mắt, nén giọng hỏi: “Ông nói gì? Nói lại xem nào?”.

“Quý nhân ngôi thai không thuận, lại dùng sức quá sớm dẫn đến kinh sợ, hơi thở yếu, cho nên...”.

Câu tiếp theo Khương Trầm Ngư không còn nghe lọt vào tai nữa, nàng bước lên phía trước mấy bước, cách tấm bình phong và màn trướng, nhìn thấy bóng người trên đó, Khương Họa Nguyệt đang rên rỉ yếu ớt, bà đỡ lo lắng thúc giục và đám cung nữ ra ra vào vào... Tất cả giao hòa với nhau một cách hỗn loạn, khiến tầm nhìn của nàng đột nhiên nhòa đi.

Khương Trầm Ngư lắc đầu mấy cái, đưa tay dụi mắt.

Giang Hoài nhận ra sự khác lạ của nàng, vội vàng chạy lên đỡ nàng, kinh sợ nói lớn: “Nương nương, nương nương không sao chứ? Nương nương vẫn nên về cung nghỉ ngơi một chút đi... Bệnh mắt của nương nương lại phát tác phải không? Người đâu, mau đi lấy thuốc”.

Trước đó mắt nàng thỉnh thoảng bị mờ, Giang Hoài đã điều chế ra một loại thuốc nước, bây giờ đem ra dùng, vội vàng lấy ra nhỏ mắt cho nàng. Sau khi nhỏ thuốc xong, KhươngTrầm Ngư nhắm mắt ngồi tựa trên ghế nghỉ ngơi một lát, khi mở mắt, mọi vật rõ hơn một chút.
 
Quyển 2 - Chương 84


Giang Hoài bấy giờ mới yên tâm: “Nương nương không sao là tốt rồi, đừng đến mức đến nương nương cũng xảy ra chuyện...”.

Khương Trầm Ngư nắm chặt tay ông ta: “Thái y, ông nhất định phải cứu tỉ tỉ của ta”.

“Nương nương yên tâm, lão thần đương nhiên sẽ dốc toàn lực... Có điều, bây giờ tình hình nguy kịch, thai nhi vẫn kẹt bên trong chưa ra, cứ kéo dài, sợ là... nếu chỉ có thể giữ được mạng một trong hai người, nương nương hãy chọn...”.

“Giữ mẹ!”.

“Giữ hoàng tử!”

Hai giọng nói đồng thời vang lên.

Khương Trầm Ngư đang hét lên câu “Giữ mẹ”, mới nghe thấy còn có một giọng nói, liền quay đầu lại thì nhìn thấy Khương Trọng vội vã chạy tới.

Khương Trọng đi vào trong điện, đến áo choàng cũng không kịp cởi, đã dặn dò Giang Hoài một lượt: “Giữ hoàng tử! Giang thái y, cho dù ông phải dùng cách gì, đứa trẻ nhất định phải được sinh ra bình an!”.

“Phụ thân!”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc thét lên: “Cha đang nói gì thế? Lẽ nào đứa trẻ quan trọng hơn Họa Nguyệt sao?”.

“Đương nhiên quan trọng hơn Họa Nguyệt!”. Biểu cảm của Khương Trọng cực kỳ nghiêm túc, quay đầu lại nhìn nàng chằm chằm, nói gằn từng tiếng: “Đứa trẻ là thai phượng giống rồng, là huyết mạch duy nhất của đương kim thánh thượng, là người thừa kế giang sơn Bích quốc tương lai, nó quan trọng hơn Họa Nguyệt rất nhiều!”.

Khương Trầm Ngư từ lâu đã biết phụ thân máu lạnh, nhưng trong lúc này mà ông còn đến chen chân vào, thực sự khiến người ta ớn lạnh tâm can đến tột độ, nhưng sự việc nguy cấp, nàng không còn lòng dạ nào mà tranh chấp với ông, bèn quay đầu sang hạ lệnh cho Giang Hoài: “Ai gia là hoàng hậu, nghe ý chỉ của ai gia - giữ mẹ!”.

“Ta là quốc trượng, nghe mệnh lệnh của ta - giữ hoàng tử!”.

“Giữ mẹ!”

“Giữ hoàng tử!”.

“Phụ thân!”. Khương Trầm Ngư cuối cùng không nhịn được, thét lên: “Cho dù cha không coi Họa Nguyệt là con gái của mình, nhưng tỉ ấy vĩnh viễn là tỉ tỉ thân thiết nhất của con!”.

“Ta là nghĩ cho con đấy! Trầm Ngư!”. Khương Trọng tóm chặt tay nàng, nói nhanh: “Thời gian con vào cung ngắn ngủi, tuổi lại còn nhỏ như thế mà đã làm hoàng hậu, đây vốn là phúc của con, nhưng bây giờ hoàng thượng bệnh thành ra thế này mà con lại không có con cái để nương tựa, hiện tại tuy có lâm triều nghe chính sự, nhưng còn sau này thì sao? Ngộ nhỡ hoàng thượng có gì bất trắc, con phải làm thế nào? Trầm Ngư! Đứa trẻ này không chỉ quan trọng đối với Bích quốc, mà đối với con, nó cũng rất quan trọng!”.

Trái tim Khương Trầm Ngư nhói lên từng chặp, kỳ thực những điều phụ thân nói sao nàng lại không biết, tuy bây giờ nàng có thể dựa vào việc Chiêu Doãn thành kẻ dở sống dở chết mà muốn gì làm nấy, nhưng vẫn không phải là kế lâu dài. Hy Hòa đã chết, đủ chứng minh loại thuốc độc đó có thể giết người, một khi Chiêu Doãn chết đi, địa vị hoàng hậu của nàng cũng không thể giữ được, cho nên, nếu có một đứa trẻ bên cạnh, tất cả đều có thể giải quyết ổn thỏa. Thế nhưng... nhưng...

“Nhưng phụ thân... tương lai của con, có thể xảy ra vô số khả năng, vô số cơ hội, còn vô số cách để bù đắp và bổ cứu, còn Họa Nguyệt... chỉ có một thôi...”.

Đây chính là nguyên nhân vì sao nàng lại kiên trì muốn giữ tính mạng người mẹ.

Đừng nói Chiêu Doãn giờ vẫn chưa chết, cho dù nếu một ngày y đột ngột chết đi, việc là ở người, nàng không tin dựa vào năng lực và thế lực của nàng, mà không thể khống chế nổi thời cuộc, sẽ phải đi đến đường cùng.

Nhưng nếu Họa Nguyệt chết bây giờ, tức là sẽ hoàn toàn biến mất.

Nàng đã trơ mắt nhìn biết bao người ra đi như thế, những người đó là không được lựa chọn, nhưng người này có thể lựa chọn, nàng nhất định phải tranh giành một phen!

“Giữ mẹ!”. Nàng rốt cuộc đã ra mệnh lệnh cuối cùng với Giang Hoài.

Giang Hoài nhìn Khương Trọng mặt như đổ chàm nhưng không nói gì thêm, quay người, đi vào phòng sinh.

Thời gian tiếp theo biến thành một cuộc hành hình cực kỳ tàn khốc.

Tiếng rên rỉ đau đớn của Họa Nguyệt vang lên ngắt quãng, yếu ớt đến độ như thể phút sau không thể phát ra nữa, mà đám cung nữ ra ra vào vào càng lúc càng nhiều càng gấp, cảnh tượng hỗn loạn kinh khủng, khiến trái tim người ta càng rối bời hơn.

Cứ như thế, qua hai canh giờ, tiếng khóc oa oa của trẻ sơ sinh tuyên bố tất cả đã kết thúc.

Giang Hoài đầu ướt đẫm mồ hôi, áo quần ướt đẫm bước ra, run giọng nói: “May mà không nhục mệnh...”.

Khương Trầm Ngư và Khương Trọng đồng thanh hỏi:”Giữ mẹ hay giữ con?”.

“Hồi bẩm nương nương, hồi bẩm quốc trượng gia, quý phi sinh hạ hoàng tử, mẹ con bình an”.

Khương Trầm Ngư đột nhiên cảm thấy toàn thân bủn rủn, hai chân mềm nhũn, ngã vật ra ghế.

Những giọt nước mắt long lanh, vui mừng lăn xuống, hóa ra lần này, ông trời không tàn nhẫn với nàng.

Quá ổn rồi... Tỉ tỉ... quá ổn rồi.

Nửa canh giờ sau, các cung nữ dọn dẹp phòng sinh xong, dẫn Khương Trầm Ngư vào bên trong. Khi nhìn thấy Khương Họa Nguyệt sắc mặt trắng bệch như giấy nhưng rõ ràng vẫn còn “sống”, Khương Trầm Ngư cười tự đáy lòng, khẽ gọi một tiếng: “Tỉ tỉ...”. Còn chưa kịp nói lời chúc mừng đã thấy Khương Họa Nguyệt run run giơ tay về phía nàng, nàng vội vàng tiến đến nắm lấy, ngồi xuống bên đầu giường.

Rõ ràng vô cùng yếu ớt, rõ ràng đến nói cũng rất vất vả, nhưng không biết lấy sức lực từ đâu, Khương Họa Nguyệt bỗng ôm lấy nàng, ôm thật chặt.

Khương Trầm Ngư ngẩn người: “Tỉ tỉ?”.

“Trầm Ngư...”. Khương Họa Nguyệt nói bằng một giọng rất khẽ rất khẽ. “Cảm ơn”.

“Tỉ tỉ...”.

“Cảm ơn! Trầm Ngư! Cảm ơn! Cảm ơn! Cảm ơn...”. Khương Họa Nguyệt nói liền mấy tiếng cảm ơn, thanh âm lần sau lớn hơn lần trước, đến cuối cùng, cơ hồ như đang hét: “Ta... nghe thấy rồi... cảm ơn...”.

Tỉ tỉ... nghe thấy rồi.

Tuy không biết vì sao trong lúc nguy cấp như thế Khương Họa Nguyệt vẫn có thể nghe thấy nàng và phụ thân tranh cãi, nhưng không nghi ngờ gì nữa, cuộc tranh chấp này khiến Họa Nguyệt rốt cuộc đã trở lại là tỉ tỉ mà nàng quen thuộc. Tỉ tỉ thích nàng, yêu thương nàng, lúc nào cũng nghĩ cho nàng.

Hết thảy đều có thể trở lại điểm xuất phát.

Trở lại trạng thái nàng mong chờ nhất.

Khi Khương Trầm Ngư ra khỏi Gia Ninh cung đã là giờ Hợi, trời đã tối.

Trăng mờ sao thưa gió mát, có lẽ vì lòng người vui vẻ, phong cảnh trong hoàng cung nhìn cũng đẹp đẽ vô cùng. Nàng hít một hơi, xoa chiếc cổ tay hơi đau, vừa định quay về tẩm cung thì đã gặp Tiết Thái ở bên ngoài Gia Ninh cung.

Tiết Thái đứng dưới một cây bách bên đường, giống như đã chờ nàng từ lâu.

“Sao ngươi lại ở đây?”. Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên: “Không về nhà à?”. Đã muộn thế này rồi.

Tiết Thái vẫn nhìn nàng chăm chăm, mặt không biếu cảm như cũ. Người bình thường khi nhìn vào mắt người khác thường là chuẩn bị lên tiếng nói chuyện. Còn hắn ngược lại khi nhìn vào mắt người khác, là để khiến đối phương chủ động lên tiếng.

Nhưng Khương Trầm Ngư đã quá quen với điều này, hắn không trả lời, nàng tự chọn chủ đề: “Đúng rồi, tỉ tỉ của ta đã sinh hạ được một nam...”.

“Ta biết rồi”. Tiết Thái ngắt lời nàng.

Cũng đúng, hắn đứng chờ bên ngoài lâu như thế, cũng biết tin từ lâu rồi. “Ta nghĩ một cái tên cho đứa trẻ, gọi là Tân Dã, ngụ ý là ‘Cách cố đỉnh tân, ốc dã thiên lý’[5], ngươi cảm thấy thế nào? Là thái tử của Bích quốc, hy vọng sau này nó có thể lãnh đạo Bích quốc ngày càng phồn vinh thịnh vượng...”.

[5] Cách cố đỉnh tân, ốc dã thiên lý: Nghĩa là bỏ cũ lập mới, rộng đồng màu mỡ nghìn dặm.

Tiết Thái nhíu mày: “Thái tử?”.

“Đương nhiên. Ta đã sai người đi chọn ngày lành...”. Đối lập với vẻ hứng chí của Khương Trầm Ngư, Tiết Thái lại càng thâm trầm thấy rõ, hắn há miệng, giống như muốn nói gì đó, nhưng nhìn thấy Khương Trầm Ngư nói rất hăng hái, cuối cùng lại lựa chọn im lặng.

“... Tóm lại, nhất định phải làm thật hoành tráng, thật náo nhiệt!”. Khương Trầm Ngư miêu tả xong cảnh tượng trong đầu, nhìn thấy Tiết Thái vẫn giữ dáng vẻ sự việc chẳng liên quan đến mình, cảm thấy hơi mất hứng, đành đổi sang chủ đề khác: “Tại sao ngươi không về nhà?”.

Tiết Thái lạnh nhạt đáp: “Không muốn về”.

Khương Trầm Ngư nhận ra mình đã hỏi câu không nên hỏi, lập tức nín thinh.

Trước khi Cơ Anh chết, ngoài việc trao thế lực của mình cho Tiết Thái, cũng đem cả phủ đệ của mình cho Tiết Thái.

Tiết Thái hiện sống trong phủ Kỳ Úc hầu. Nhìn vật nhớ người, một Cơ phủ không có Cơ Anh, đối với hắn mà nói chẳng phải chỉ là chỗ để ăn cơm ngủ nghỉ thôi sao?

“Tiết Thái, sẽ có một ngày ngươi có được thứ ngươi muốn”. Khương Trầm Ngư nhìn hắn chằm chằm, chân thành nói: “Tin ta đi”.

Tiết Thái không đáp lại câu này của nàng.

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng treo trên bầu trời đêm, chậm rãi nói: “Mấy canh giờ trước, ta còn than phiền với ngươi, than phiền vận mệnh hà khắc với ta, ta rất tủi thân, cảm thấy không công bằng. Nhưng ngươi nói rất đúng, sở dĩ ta ấm ức, bất bình, là vì ta tham lam. Ta muốn có một số thứ, nhưng ta không chịu trả cái giá tương ứng. Cho nên ta làm nũng, ta muốn trốn tránh, ta luôn làm liên lụy đến người xung quanh. Nếu như ban đầu không phải vì cứu ta, Sư Tẩu sẽ không tàn phế; nếu như ta chịu dứt khoát một chút, Hy Hòa sẽ không cần dùng bản thân làm đồ bồi táng để đạt được mục đích; nếu như ta có thể chịu đựng đau khổ, thì nên đưa Hy Hòa đi sớm hơn... Tất cả của tất cả, đều là vì ta không làm tốt, ta không chịu trả giá bằng chính mình. Nhưng ban nãy, khi tỉ tỉ khó sinh, khoảnh khắc Giang thái y hỏi ta cần đứa trẻ hay cần tỉ tỉ, ta đã ngộ ra...”.

Ánh mắt nàng trong phút chốc sáng bừng lên, quay đầu sang nhìn Tiết Thái, mắt sáng long lanh.

“Tiểu Thái! Ta đã ngộ ra rồi! Phụ thân nói với ta, đối với ta Tân Dã cực kỳ cực kỳ quan trọng, có thể khiến con đường của ta sau này trở nên bằng phẳng, nhưng, tại sao ta nhất định phải đi con đường bằng phẳng? Nếu như gặp vấn đề thì dũng cảm đối mặt, nghĩ cách để xử lý; nếu như sợ hoàng thượng băng hà, thì tìm kiếm giải pháp, không để hắn chết; nếu như sợ triều thần làm khó mình, thì làm cho họ không thể chỉ trích... Có ai là một đời xuôi chèo mát mái, không từng bước từng bước khổ sở, nỗ lực đi tiếp đây? Dù sao cũng không thể tồi tệ hơn bây giờ, cho nên, phải chờ đợi ngày mai tốt hơn. Ta hiểu ra rồi”.

Trên gương mặt buồn rầu của Tiết Thái, cuối cùng cũnghé lộ chút biểu cảm hiền hòa, hắn nhếch khóe môi, dường như muốn cười, nhưng ánh mắt vẫn thâm trầm như cũ.

Khương Trầm Ngư liền nở nụ cười trước hắn, khẽ nói: “Cho nên, ngươi cũng không cần lo lắng Tân Dã ra đời sẽ tạo ra những ảnh hưởng không tốt với ta, nếu ngươi lo có thần tử sẽ lấy nó ra để uy hiếp địa vị của ta, thế thì tìm ra những triều thần đó, trừ bỏ họ; nếu ngươi lo lắng Tân Dã biết được sự thật về phụ vương rồi sẽ hận ta, thế thì, giáo dục nó từ nhỏ... Cho dù ngươi lo lắng điều gì, đối mặt với nó, thách thức nó, đập nát nó - sự việc là do con người làm ra”.

Cuối cùng Tiết Thái đã cười, ánh mắt lay động, môi đỏ răng trắng, mày kiếm mắt sao, ngũ quan đẹp không tả xiết.

Khương Trầm Ngư nhìn đến ngây ngẩn, khẽ than nói: “Nhóc con như ngươi, sau này lớn lên không biết sẽ làm bao nhiêu thiếu nữ đau lòng đây...”.

Nụ cười mới chớm nở của Tiết Thái trong nháy mắt đã sầm xuống, hắn trợn mắt nhìn nàng một cái: “Chẳng liên quan gì đến ngươi”.

“Là ta lo lắng thôi”.

“Ngươi lo lắng cho mình trước đi đã”.

“Ta có gì mà phải lo lắng. Ta lấy chồng rồi”.

“Cả đời làm quả phụ có gì đáng tự hào hả?”.

“Tuy đây là sự thực, nhưng ngươi nói toạc ra như thế, khiến ta bỗng cảm thấy cuộc đời mình rất bất hạnh...”.

“Ngươi vốn dĩ bất hạnh!”.

“Nhưng hôm nay ta rất may mắn, ông trời nghe thấy lời thỉnh cầu của ta, cứu tỉ tỉ của ta, cũng cứu cháu của ta...”.

“Ngươi phiền chết đi được!”.

“Bản cung không chấp trẻ con...”.

“Hứ...”.

“Hứ...”.

Ngày mùng mười tháng năm năm Đồ Bích thứ năm, Khương quý nhân sinh hạ hoàng tử, hoàng hậu vui mừng, đích thân ban tên Tân Dã, phong làm thái từ. Đại xá thiên hạ, cả nước chúc mừng.
 
Quyển 2 - Chương 85: Hồi thứ hai mươi: Tân tướng


Trên thế gian này có một cụm từ, gọi là “Thiên đạo nhân sự”.

Thiên đạo nhân sự không thể trái lại, tức là phải thuận theo đại thế.

Nhìn lại quá khứ, chẳng qua cũng chỉ là một câu thành ngữ bình thường, hiểu nó rồi liền gác qua một bên. Có rất nhiều rất nhiều câu thành ngữ trên đời, nhưng trong đờỉ một con người có thể thực sự trải nghiệm, kỳ thực lại rất ít rất ít.

Nhưng khi Khương Trầm Ngư đọc được sớ từ quan đề tên “Khương Trọng” đó, thứ đầu tiên bật ra trong đầu là cụm từ - thiên đạo nhân sự.

Sau khi Họa Nguyệt thuận lợi sinh hạ Tân Dã, mẹ tròn con vuông, lại có một việc khó đã từng làm khó nàng từ lâu bỗng tự động được giải quyết, không còn tồn tại nữa.

Nhưng so với Họa Nguyệt, trên thực tế, Khương Trọng mới là vướng mắc của nàng. Bởi vì, đối với Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư chỉ có thương xót và trân trọng, cho dù Họa Nguyệt có đố kỵ nàng, oán hận nàng đến đâu, đó đều là tình cảm của một mình Họa Nguyệt, Khương Trọng lại không giống vậy. Đối với phụ thân sinh ra nàng nuôi nấng nàng dạy dỗ nàng, dốc vô số tâm huyết cũng gửi gắm rất nhiều hy vọng vào nàng, tình cảm của Khương Trầm Ngư cực kỳ phức tạp.

Một mặt, nàng chán ghét nhân cách của ông, chính là “đạo bất đồng bất tương vi mưu”[1], Khương Trầm Ngư nàng không thể mù quáng nghe theo, tức đã định họ không thể là người đi chung đường.

[1] Nghĩa là quan điểm không giống nhau không thể hợp tác.

Nhưng mặt khác, cốt nhục chí thân, rốt cuộc không thể nói cắt đứt là cắt đứt, nói mỗi người một ngả là có thể mỗi người một ngả được.

Vì thế, xử lý cha của mình như thế nào đã trở thành việc khiến nàng đau đầu nhất. Tuy nàng cũng từng nói hết thảy đều làm theo phép công, nhưng sự thực khi bắt tay vào, lại vô cùng khó khăn, huống hồ có một số chuyện không phải xảy ra rồi thì có thể bỏ qua hoàn toàn, ví dụ như Đỗ Quyên.

Chuyện ở Hồi thành kết thúc, tuy Khương Trọng đã tìm được một cơ hội để triệu Vệ Ngọc Hành về đế đô và Đỗ Quyên cũng cùng hắn quay về, nhưng Khương Trọng vẫn không nhận đứa con gái này, thân phận của Đỗ Quyên vẫn không được thừa nhận. Khương Trầm Ngư vỗn dĩ còn phiền não vì chuyện này, nhưng khi nàng đến Vệ phủ thăm Đỗ Quyên, lại phát hiện đương sự là Đỗ Quyên trái lại nghĩ rất thoáng, lý do là “Chuyện đau khổ như thế, thêm một người biết là thêm một người chịu tội. Tỉ đã rất bất hạnh rồi, nhưng chí ít tỉ còn có thể giúp mẫu thân, người bị che mắt bịt tai, không hề có lỗi lầm gì trong chuyện này có thể tránh được sự đau khổ này. Cho nên, tỉ không thể nhận tổ quy tông được, tỉ cũng không muốn nhận tổ quy tông”.

“Thế sau này tỉ định thế nào? Lẽ nào cứ sống thế này?”.

Đôi mắt không có chút ánh sáng của Đỗ Quyên chiếu thẳng nàng, cuối cùng mỉm cười: “Tỉ sẽ không ngừng báo thù. Tỉ ở đây, không đi đâu cả, sau đó, tìm từng cơ hội có thể để lật đổ Khương Trọng. Cho dù không báo được thù, tỉ cũng phải căm ghét ông ta, để ông ta cắn rứt, để ông ta đau đầu, để ông ta lúc nào cũng nhớ - ông ta đã từng làm bao nhiêu chuyện bỉ ổi như thế”.

Đó chính là lựa chọn của Đỗ Quyên.

Khương Trầm Ngư cảm thấy kỳ thực Đỗ Quyên không nói thực lòng, nhưng hỏi thêm cũng không ra được nguyên cớ, nên đành từ bỏ.

Có lẽ, so với bản thân nàng, tình cảm Đỗ Quyên dành cho phụ thân còn phức tạp hơn nhiều.

Bây giờ, Khương Trầm Ngư ngồi dưới đèn, cầm quyển tấu sớ này, đọc rất lâu rất lâu, cuối cùng ngẩng đầu, hạ lệnh:

“Tuyên hữu tướng”.

La Hoành lập tức đi ra tuyên chỉ: “Hoàng hậu tuyên hữu tướng yết kiến”.

Lát sau, Khương Trọng chậm rãi đi vào thư phòng: “Lão thần tham kiến hoàng hậu, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”.

“Thừa tướng có thể nói rõ lý do từ quan không?”. Khương Trầm Ngư đưa quyển tấu sớ lại cho ông.

Khương Trọng không đưa tay ra nhận, vẫn khom lưng nói: “Tất cả đều đã nói trong tấu sớ”.

“Thừa tướng đang tuổi tráng niên, lại là lúc cống hiến tốt nhất cho đất nước, sao có thể nói là chán ghét phân tranh, xin được quy ẩn chứ?”.

Khương Trọng ngẩng đầu chăm chú nhìn nàng, lúc sau, nhẹ nhàng mỉm cười: “Hoàng hậu đang hoài nghi lão thần? Hoàng hậu cảm thấy lão thần đang lùi để tiến? Hoặc là có mưu đồ khác?”.

Khương Trầm Ngư không nói gì, chỉ là ánh mắt trở nên sâu thẳm.

Khương Trọng ngưng cười, trên gương mặt hiện vẻ cô đơn, thở dài một tiếng: “Hoàng hậu, có thể cho người bên cạnh lui ra hết không?”.

Khương Trầm Ngư im lặng một lát, hạ lệnh: “Ta và hữu tướng có chuyện cần bàn, các ngươi lui hết cả đi”.

Cung nhân vâng dạ lui ra. Thư phòng rộng lớn, trong nháy mắt đã trở nên lạnh lẽo. Ánh sáng của cung đăng cũng không còn sáng rỡ như bình thường, nhìn chỉ cảm thấy âm u tối tăm.

Mà trong bóng tối trùng trùng ấy, tấm thân cao gầy của Khương Trọng nhìn hơi còng xuống, nhìn kỹ lại, tóc mai cũng đã bạc đi không ít.

Phụ thân già rồi...

Khương Trầm Ngư bỗng phát hiện ra, trong khoảng thời gian nàng đối xử lạnh nhạt với ông, phụ thân đã mau chóng già đi, mới chưa đầy một năm, mà dường như đã già đi mười tuổi.

“Trầm Ngư...”. Trong lúc nàng im lặng dò xét, Khương Trọng từ tốn nói: “Mẫu thân của con, bà ấy... sắp không ổn rồi”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư chấn động đến mức lập tức đứng bật dậy.

“Con đừng vội, ngồi xuống, từ từ nghe ta nói”.

Khương Trầm Ngư lại chầm chậm ngồi xuống, một cánh tay không kìm được ôm ngực, cảm thấy trái tim của mình, không chịu nghe lời, đập lên điên cuồng.

“Mẫu thân con vốn không khỏe mạnh. Từ năm ngoái, thường xuyên cảm thấy đau đầu, nhưng nghỉ ngơi một lúc là khỏi, vì thế không quá bận tâm. Nhưng tháng trước, bệnh đau đầu của bà ấy lại tái phát, rồi rơi vào trạng thái hôn mê, ta đã mời danh y ở kinh thành đến chữa trị cho bà ấy, họ đều nói bệnh đau đầu của bà ấy rất nghiêm trọng, cần phải uống thuốc gây mê, lại dùng dao sắc mổ đầu ra lấy máu đọng bên trong ra mới có thể chữa khỏi. Nhưng cách này cực kỳ mạo hiểm, nếu có chút sai sót là chết ngay tức khắc. Cho nên, mẫu thân con sao có thể chịu chữa trị”.

“Sự việc nghiêm trọng như thế, tại sao giờ cha mới nói”. Khương Trầm Ngư lại đứng bật dậy lần nữa.

Khương Trọng cười cười, trong nụ cười ấy chứa đựng sự chua xót, sự bối rối, sự ngậm ngùi, còn có cả bao dung: “Con nắm quyền chưa lâu, căn cơ chưa ổn định, một ngày phải xử lý trăm việc, mẫu thân sợ con phân tâm, cho nên, không chịu cho ta nói với con”.

Lại là... lỗi của mình ư?

Khoảng thời gian này, nàng có quá nhiều việc, quá nhiều quyết sách, quá nhiều hành động... nhưng, nhiều việc như vậy, nhiều quyết sách như vậy, nhiều hành động như vậy đều không liên quan đến mẫu thân.

Hay nói cách khác, nàng chỉ để ý đến bản thân để ý đến tỉ tỉ để ý đến người trong lòng thậm chí để ý đến thiên hạ, nhưng lại bỏ sót mẫu thân của mình.

Trời ơi... trời ơi... trời ơi... cú sốc này quả thực không nhỏ, khiến cho toàn thân Khương Trầm Ngư run lên bần bật, buộc nàng phải bấu chặt vào thư án mới có thể chống đỡ cơ thể gắng gượng mà đứng được.

Mắt Khương Trọng loang loáng ánh lệ, ông thấp giọng nói: “Trầm Ngư, cha con đích thực không phải là người tốt, cả đời mê đắm quyền thế, vì lợi ích của cả gia tộc mà hy sinh cả con gái dứt ruột đẻ ra, nhưng., ta thật sự... yêu mẫu thân của con. Quyền thế có thể nói quan trọng hơn tất cả mọi thứ của ta; nhưng mẫu thân của con... lại là sinh mệnh của ta. Con có thể hiểu không?”.

Khương Trầm Ngư ra sức lắc đầu nguầy nguậy. Đúng thế, cả đời của phụ thân làm sai rất nhiều rất nhiều việc, nhưng duy chỉ đối với mẫu thân là chung thủy nặng tình.

“Cho nên... chúng ta đều sai rồi, chẳng phải sao? Nếu sớm biết mẫu thân con gặp đại hạn, cùng lắm chỉ có thể sống thêm ba năm, trước đây ta huấn luyện tử sĩ, triệt hạ đối thủ, tranh đoạt lợi ích để làm gì? Tốn bao thời gian để làm những chuyện vô dụng đó, mà không ở nhà với bà ấy, còn nổi giận với con gái của mình, khiến mẫu thân con kẹt ở giữa khó xử, bạc thêm bao nhiêu tóc...”.

Nước mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc lăn trào, xấu hổ bưng mặt.

“Cho nên, ta quyết định từ bỏ tất cả, ba năm còn lại đều ở bên cạnh mẫu thân con. Bình sinh chuyện bà ấy tiếc nuối nhất chính là vì thân phận nên không được ra ngoài, không thể ngao du danh sơn trong thiên hạ, nếm hết mỹ thực của nhân gian. Ta quyết định trong ba năm này sẽ bù đắp hết những điều bà ấy nuối tiếc”.

Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Phụ thân... cha muốn đi xa?”.

“Ừ”.

“Cha... muốn đưa mẫu thân cùng đi? Đi liền ba năm?”. Khương Trầm Ngư cuống lên: “Phụ thân đưa mẫu thân đi, thế con, con phải làm thế nào?”.

“Chúng ta thỉnh thoảng sẽ về thăm các con”.

“Nhưng...”.

Khương Trọng ngắt lời nàng: “Trầm Ngư, con... không còn là một đứa trẻ nữa”.

Khương Trầm Ngư chấn động.

Khương Trọng chăm chú nhìn nàng, giọng nói dịu dàng mà đau buồn: “Trên người con mặc phượng bào của hoàng hậu; trên bàn con bày ngọc tỉ của Bích quốc... Con không còn là một đứa trẻ nữa”.

“Cho nên, con không có quyền ở bên cạnh mẫu thân phải không?”. Khương Trầm Ngư giàn giụa nước mắt hỏi.

“Trầm Ngư, hãy để mẫu thân con vui vẻ một chút đi. Bà ấy đã bên cạnh con mười lăm năm rồi, chẳng phải sao?”.

Trái tim Khương Trầm Ngư chìm xuống. Cùng với đó là cảm giác bi thương sâu thăm thẳm ùa đến, là cảm giác chán ghét quen thuộc - chán ghét bản thân mình - Nàng... lại bắt đầu ích kỷ rồi. Vĩnh viễn chỉ nghĩ đến cảm giác của bản thân, cho nên, khi phụ thân nói muốn đưa mẫu thân đi du ngoạn, phản ứng đầu tiên chính là không được, như thế chẳng phải mình không được gặp mẫu thân sao, nhưng không hề đứng ở lập trường của mẫu thân mà suy nghĩ: Bà mong muốn có thể ngao du sơn thủy, mong muốn suốt cả một đời... Đến phụ thân, người chỉ chăm chăm đến quyền thế đến mức có thể hy sinh con gái của mình, không quan tâm đến hạnh phúc của cốt nhục, cũng bằng lòng từ bỏ quyền lực mà ông khổ tâm lăn lộn một đời mới có được vì mẫu thân, lẽ nào mình, kẻ được gọi là đứa con ngoan nhất, hiếu thuận nhất, chưa từng khiến mẫu thân phải nổi giận dù chỉ một lần, còn không bằng phụ thân sao?

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, nhìn phụ thân đứng cách nàng một trượng, không biết nói gì, chỉ cầm chiếc ấn ngọc tỉ trên thư án lên, chậm rãi, nặng nề, đóng lên trên tấu chương.

Bụi trần lắng đọng.

Vương ấn đỏ thắm.

Mùa thu năm Đồ Bích thứ sáu, hữu tướng cáo lão, từ quan về quê. Hoàng hậu khóc phê chuẩn.

Ngày hôm sau, tân tướng được lập, là Băng Ly công tử - Tiết Thái.

“Thư sinh gần đây rất không chịu an phận”.

Trong Bách Ngôn đường, người áo xanh lục phe phẩy quạt thong thả nói.

Sáu người còn lại vừa nghe thấy đều bật cười, cười rất kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư đang phê duyệt tấu chương nghe tiếng ngẩng đầu, không hiểu, hỏi: “Có chuyện gì?”.

Người áo xanh lục cuối cùng đã gây được sự chú ý của hoàng hậu, liền vội vàng gấp quạt lại hồi bẩm: “Hoàng hậu nương nương có biết vì sao mấy ngày nay Tiết tướng đều không đến tham gia nghị sự với chúng ta không?”.

Y nói thế, Khương Trầm Ngư mới nhớ ra. Tiết Thái đã bảy ngày liền không đến thư phòng, mỗi ngày chỉ vội vàng đến buổi chầu sớm, sau đó biến mất tăm mất tích, mà hôm nay lại càng quá đáng, đến chầu sớm cũng không xuất hiện.

“Hắn đang bận gì à? Có liên quan gì với thư sinh không chịu an phận? “.

“Hồi bẩm nương nương, là như thế này”. Người áo vàng sẫm đáp: “Tiết tướng tuy thành danh từ sớm, bốn bể đều hay, nhưng trước đây trong nhà xảy ra biến cố lớn, sau lại bị biếm thành nô lệ. Đến nay được khôi phục quan tịch, nhưng tuổi hãy còn quá nhỏ đã làm thừa tướng dưới một người trên vạn người, dân gian nghị luận xôn xao, có hai thư sinh là Ngô Thuần và Trần Long công khai phản đối, dựng sân khấu trên phố phê phán chính sự, kích động bách tính, càng làm càng loạn, đến nay ngày ngày đều có hơn trăm người tụ tập đến nghe”.

Đầu mày của Khương Trầm Ngư hơi nhíu lại; “Lại có chuyện này à? Tại sao không thông báo cho ta sớm?”.

“À, cái này...”. Giọng người áo vàng sẫm nhỏ dần đi: “Là Tiết tướng nói hoàng hậu bộn bề công việc, không được đem chuyện vặt này đến quấy nhiễu nương nương, tướng gia sẽ tự mình xử lý ổn thỏa...”.

“Thế hắn có xử lý ổn thỏa không?”.

Lời vừa thốt ra, bảy người nhìn nhau, rồi lại cười kỳ quặc như trước.

Bọn họ phản ứng như vậy, chắc chắn là sự tình đã được giải quyết, nếu không thần tình sẽ không nhẹ nhõm sảng khoái như thế. Khương Trầm Ngư thấy vậy trong lòng đã hiểu, nhưng mặt lại sầm xuống: “Hắn nói thế nào thì làm thế ấy, rốt cuộc hắn là chủ tử của các ngươi, hay ta là chủ tử của các ngươi?”.

Thất tử vội vàng lũ lượt đứng dậy khỏi ghế quỳ xuống, đồng thanh nói: “Hoàng hậu xin thứ tội!”.

Khương Trầm Ngư cảnh cáo xong, thấy thế liền thôi: “Đứng dậy đi. Nói cho ai gia nghe, rốt cuộc là chuyện gì? Hoa Tử, ngươi nói đi”.

Đối tượng bị gọi tên vốn luôn ngồi trên ghế, ngủ gật gà gật gù, bị gọi đột ngột, cả người giật bắn, cực kỳ hoang mang đứng dậy: “A? Cái gì?”.

Khương Trầm Ngư không nhịn được, bật cười một tiếng.

Thấy nàng cười, bọn Thất tử cũng trút được tảng đá đè trong lòng, cùng cười ầm lên.

Di Phi thấy mọi người cười, càng không hiểu, nhìn mọi người với vẻ cực kỳ nhếch nhác lẫn vô tội, thử thăm dò hỏi một câu: “Đến giờ ăn cơm rồi à?”.

Cả sảnh đường cười vang.

Khương Trầm Ngư mỉm cười nói: “Được rồi, ngươi ngồi xuống đã. Tử Tử (người áo tím), ngươi giỏi ăn nói nhất, ngươi kể đi”.

“Vâng”. Người áo tím khom lưng hành lễ, cũng không rề rà: “Sau khi Tiết tướng hay chuyện, liền cải trang trà trộn vào giữa đám người nghe bọn Ngô Thuần, Trần Long đó nói một buổi. Ngày hôm sau, khi Ngô Thuần, Trần Long vừa mới dựng sân khấu định nói chuyện tiếp, thì mười hai thiết kỵ đột ngột xuất hiện, tất cả đều mặc áo trắng, hơn nữa, trên dây cương ngựa đều thêu đồ đằng Bạch Trạch. Bách tính xung quanh nhìn thấy cảnh tượng này, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lũ lượt tản ra quỳ vái. Mười hai thiết kỵ đến trước sân khấu, xếp hàng như cánh quạt xòe ra, đi sau họ, chính là Tiết tướng đang cưỡi trên con Hãn Huyết bào mã”.

“Lớn tiếng phủ đầu, chiêu ra oai này quả không tồi”. Khương Trầm Ngư cười, tên tiểu tử Tiết Thái lại dám đem đồ đằng của công tử đi giễu khắp nơi, thật là ngày càng vô sỉ! Có điều, Bạch Trạch có địa vị rất cao trong lòng dân chúng Bích quốc, dùng nó để ra mắt, hiệu quả đúng thực rất tốt. Nàng hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”.

“Tiết tướng quét mắt nhìn sân khấu của bọn Ngô Thuần Trần Long một lượt, cười lạnh lùng, rút một quyển trục từ trong lòng ra, thúc ngựa đi đến trước một tửu lâu bên đường, vỗ cổ ngựa một cái tung thân bay lên, mở quyển trục kia ra, treo lên trên tấm biển hiệu, rồi nhẹ nhàng hạ xuống, đứng vững trên mặt đất. Động tác như nước chảy mây trôi, tư thế linh động, chân tay nhanh nhạy, khiến người ta phải tấm tắc khen hay...”.

Người áo tím còn định tán thưởng tiếp, Khương Trầm Ngư dở khóc dở cười nói: “Đủ rồi đủ rồi, ai gia khen ngươi giỏi ăn nói, ngươi lại thêm một tràng mỹ từ bóng bẩy, đâu phải bảo ngươi thuyết thư... Mau vào vấn đề chính đi!”.

“Vâng vâng vâng. Vi thần lỡ lời. Vi thần xin sửa”. Người áo tím cười cười khổ não: “Tất cả mọi người có mặt ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên quyển trục đó viết bốn chữ lớn ‘Đỉnh phanh thuyết thang’”.

“Gì?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc, sau đó lại thở dài: “Lẽ nào hắn muốn làm vậy thật?”.

“Tiết tướng treo xong quyển trục đó, quay người lại, lạnh lùng quét mắt nhìn một lượt, cao giọng nói: “Xưa Doãn tướng dùng cái vạc cái thớt nấu ăn cho vua Thang, lấy việc nấu ăn, ngũ vị để phân tích cục diện thiên hạ và đạo làm chính trị. Thang vương nhờ thế mà biết được ông có tài kinh thiên vĩ địa, xóa bỏ thân phận nô lệ, cất nhắc làm hữu tướng, từ đó khai sáng nên thịnh thế phồn hoa của triều Thương. Tiết Thái bất tài, mượn điển cố của cổ nhân, để làm chuyện ngày nay: Tại đây dựng lôi đài, trong bảy ngày, cho dù là ai, chỉ cần người đó cảm thấy có thực lực hơn ta, có thể làm thừa tướng của Bích quốc, đến đây khiêu chiến với ta, đánh bại ta, ta nguyện dâng tướng vị cho người đó, quyết không nuốt lời!”.
 
Quyển 2 - Chương 86


Khương Trầm Ngư nghe những lời này, trong lòng không biết là buồn cười hay là chấn động. Tiết Thái năm sáu tuổi đã dám nói với Yên vương “Yên là ngọc trong các nước, còn ta là ngọc trong loài người, hai thứ hợp nhau, có gì không thỏa đáng”. Tiết Thái năm bảy tuổi đã dám quát sủng phi của hoàng đế “Chim sẻ nhỏ nhoi, sao dám cản phượng giá”; Tiết Thái của hôm nay lại công khai tiếp nhận thư sinh thách đấu và dựng lôi đài trên phố, tự ví mình với Y Doãn... cho dù trải qua bao nhiêu trắc trở, Băng Ly vẫn là Băng Ly, ngạo cốt vẫn còn, không hề thay đổi một chút nào...

Người áo tím nói đến đây, mặt lộ vẻ khâm phục, cảm khái nói: “Hành động lần này của Tiết tướng mau chóng lan truyền ra ngoài, văn nhân các vùng lũ lượt đến đế đô, có người to gan thật sự lên thách đấu. Tiết tướng tuổi còn nhỏ nhưng kiến thức sâu rộng, trí nhớ tuyệt đỉnh, giỏi hùng biện, khẩu chiến nho sinh, đối diện với lời cật vấn của nhiều người vẫn ung dung ứng đối, thong thả đáp lời, khiến cho mọi người ai nếu đều thất sắc, đặc biệt là hai người Ngô Thuần Trần Long, đến phút cuối, phải hổ thẹn nói: “Cho dù ngươi tài hoa cái thế, kinh lược ngút trời thì sao? Chớ quên, cha ngươi và gia gia ngươi đều là nghịch thần! Là phản tặc! Là loạn thần tặc tử phạm thượng làm loạn! Là tội nhân thiên cổ mưu đồ lật đổ giang sơn Bích quốc! Ngươi thân là con cháu của họ, lại có thể đảm nhiệm chức thừa tướng của Bích quốc, há chẳng phải là cổ vũ người trong thiên hạ đều có thể thả sức tạo phản sao? Dẫu cho tạo phản không thành, con cháu của mình cũng vẫn có thể làm quan. Để mặc cho ngươi làm tướng, thì luật pháp thiên thu để vào đâu? Thể diện của hoàng tộc để vào đâu? Giang sơn xã tắc để vào đâu?”.

Tràng chất vấn này đến Khương Trầm Ngư nghe xong mặt cũng biến sắc. Chiêu này quả thực quá độc, phơi bày ra chuyện cũ, lại dùng hai chữ “tạo phản” để chèn ép. Phải biết rằng đế vương từ thiên cổ đều kỵ nhất là tạo phản, không thể khoan dung nhất cũng là tạo phản, vì thế, đối với hậu quả của việc mưu nghịch làm loạn, cũng là cánh cáo kẻ khác: Kẻ làm phản, tru di cửu tộc, tất phải chết! Thế mới có thể cảnh cáo thiên hạ, phải ngoan ngoãn nghe lời, không được ngông cuồng dấy lòng mưu phản.

Có điều... tuy nàng kinh ngạc, nhưng không cảm thấy lo lắng. Bởi vì, nếu là Tiết Thái, chắc chắn có thể giải quyết vấn đề khó này... Trong lòng nàng đầy tin tưởng như thế.

Quả nhiên, câu tiếp theo của người áo tím đã chứng thực điểm này: “Tiết tướng nghe xong, mặt không đổi sắc, lạnh lùng cười nói: ‘Việc sai lầm cha ta và gia gia ta làm, có liên can gì đến ta?’. Trần Long nói: ‘Lẽ nào ngươi không biết cha nợ con trả sao?’. Tiết tướng nói: ‘Nếu ngươi đã nói như thế, vậy thì tổ tiên của các ngươi cũng tạo phản, các ngươi sao có mặt mũi mà sống trên đời này?’“.

Khương Trầm Ngư cả kinh: “Cái gì? Bọn họ cũng là con cái của phản tặc sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, lời này của Tiết tướng vừa nói ra, hết thảy người nghe đều ngạc nhiên, phản ứng đều giống như nương nương. Mà tên Trần Long đó lập tức nhảy dựng lên, giận dữ đùng đùng nói: ‘Ngươi nói bậy! Tổ tiên ta ba đời đều là người đọc sách thanh bạch, làm gì có tạo phản? Đừng có ngậm máu phun người!’. Tiết tướng cười lạnh nói: ‘Tổ tiên ba đời không có? Thế thì mười đời? Hai mươi đời thì sao? Đừng quên Trần Thắng Ngô Quảng năm xưa, Đại Tần chính là diệt vong trong tay bọn họ’”.

Khương Trầm Ngư nhắm mắt - Nàng biết ngay mà... đến Trần Thắng Ngô Quảng cũng lôi ra được...

“Trần Long nghe đoạn càng nổi giận: ‘Cái, cái gì? Trần Thắng Ngô Quảng với, với với bọn ta có liên quan gì?’. Tiết tướng đáp: ‘Các ngươi cùng họ, truy ngược lên nghìn đời, tất là cùng gốc rễ mà ra’. Trần Long nói: ‘Cho dù, dù là tổ tiên của bọn ta, họ họ đều là thay trời hành đạo! Tần Nhị Thế thi hành bạo chính, hình phạt hà khắc, khiến muôn dân không được yên ổn...’. Tiết tướng ngắt lời hắn: ‘Ồ? Lúc này lại không đếm xỉa gì đến luật pháp thiên thu, thể diện hoàng tộc với giang sơn xã tắc nữa sao?’. Trần Long nói: ‘Ngươi, ngươi, ngươi...’”.

Trần thuật đến đây, Khương Trầm Ngư thở dài khe khẽ: “Tử Tử, ngươi cứ nói một mạch là được, không cần bắt chước cả điệu bộ nói lắp của họ đâu”.

Cả Bách Ngôn đường lại vang lên một trận cười.

Có lẽ bình thường họ đã quen với việc chế nhạo nhau, cho nên người áo tím tuy lúng túng, nhưng không thấy xấu hổ, vẫn cười vui vẻ như trước, nói: “Vâng. Vi thần xin sửa. Tóm lại bọn Trần Long nói không lại Tiết tướng, tức muốn chết, cuối cùng Tiết tướng nhìn đám đông một lượt, chậm rãi nói: ‘Trải qua nghìn năm, triều đại nào chẳng có phản thần, chẳng sinh nghịch tử, họ làm sai thì họ phải chịu phạt, nhưng vì thế mà tước đoạt công lao của con cháu họ, thì thực quá nực cười! Không sai, cha ta ông ta làm chuyện sai trái, nhưng rốt cuộc vì sao mà họ sai, trong lòng mọi người đều rõ. Trong triều đình, có thiên tử sao thần tử vậy, nếu phải nói Tiết gia nhà ta có tội, Tiết tộc nhà ta nợ Bích quốc, thế thì, để ta làm tướng quốc, há chẳng phải chính là cách chuộc tội tốt nhất sao? Nếu các ngươi cho rằng Tiết Thái ta năng lực không đủ, không thể làm tướng quốc, thì hãy dùng sự thực để chứng minh điểm này, chớ viện lý do nông cạn như xuất thân, tuổi tác gì đó, ta tuyệt đối không phục! Bảy ngày đã hết, các người đã thua. Nhưng ta biết các ngươi vẫn không phục, không sao cả, ta lại cho các ngươi thêm một cơ hội, ngày này hàng năm, ta đều đến đây dựng lôi đài, người trong thiên hạ đều có thể đến thử. Nhưng, chỉ là bảy ngày. Bất cứ thời gian bất cứ địa điểm khác nếu ta nghe thấy có người bàn láo chuyện triều chính, bôi nhọ danh dự của ta, chém!’. Tiếng chém cuối cùng chắc nịch đanh thép, lầu trên lầu dưới, không có ai dám ho he nữa, đều lặng ngắt như tờ”.

Khương Trầm Ngư tưởng tượng khung cảnh khi đó, không kìm được nói: “Giá như ta cũng có mặt thì hay biết mấy, thật muốn xem phong thái áp đảo quần hùng của Tiết Thái khi ấy”.

Người áo tím thở dài nói: “Trong Thất tử chỉ có vi thần hôm qua đích thân đi, nhìn thấy cảnh tượng quan trọng nhất đó, thật sự là cảm thấy... triều ta có thể có Tiết tướng, đúng là ông trời ban phúc”.

Khương Trầm Ngư nhớ ra một vấn đề: “Đợi đã! Ngươi nói hôm qua đích thân ngươi đi xem, cũng tức là thời hạn bảy ngày đến ngày hôm qua đã kết thúc. Vậy tại sao hôm nay Tiết Thái không đến?”.

Người áo xanh lục ở bên cạnh cười “phì” một tiếng, những người khác lại nở nụ cười kỳ quặc.

Nghe đến đây, Khương Trầm Ngư đã hiểu ra, bọn họ cười, không phải vì Tiết Thái khẩu chiến thắng bọn nho sinh, mà là đã phát sinh chuyện khác, hơn nữa, hẳn là chuyện này khiến Tiết Thái gặp xui xẻo. Nghĩ đến đây, không khỏi càng lúc càng tò mò: “Mau nói! Hắn làm sao?”.

Người áo tím nói: “Hồi bẩm nương nương, là như thế này, khi dựng sân khấu Tiết tướng quy định là từ giờ Ngọ đến giờ Tuất. Ngày hôm qua đến giờ Tuất, vốn dĩ tất cả đã kết thúc, bọn Trần Long cũng á khẩu không biết nói gì, thì một tên ngọc diện thư sinh đột nhiên ôm một cây đàn tiến vào tửu lâu, ngang nhiên đòi thi đàn với Tiết tướng”.

“Cái gì?”. Khương Trầm Ngư ngẩn ra một lúc, nhớ ra một vấn đề: Tiết Thái có biết chơi đàn không?

Tuy Tiết Thái là thần đồng, văn võ song toàn, nhưng cũng không phải cái gì cũng tinh thông, ví như chơi đàn, nàng chưa bao giờ nhìn thấy hắn chơi.

“Tiết tướng ngài... không biết chơi đàn”. Người áo tím nói ra đáp án.

Quả nhiên là thế... Khương Trầm Ngư đã lờ mờ đoán ra vì sao mọi người lại cười như thế.

“Vì vậy, thư sinh đó nói thi gảy đàn với ngài, không chỉ Tiết tướng ngẩn ra, mà những người xung quanh nghe thấy đều sững người. Tiết tướng chau mày nói; ‘Ngươi nói cái gì?’. Thư sinh đáp: ‘Ta muốn thi đánh đàn với ngài. Thừa tướng không phải nói, trong bảy ngày này bất luận là ai cũng có thể đến khiêu chiến ngài hay sao? Ta chính là đến khiêu chiến cầm nghệ của thừa tướng’”.

Di Phi sau khi bị gọi dậy không còn gật gù nữa, vẫn đứng bên cạnh, nghe đến đây, mắt đảo một vòng, “ồ” lên một tiếng, cười trộm nói: “Hay, hay, cái này hay! Đường đường là thừa tướng Bích quốc mà đến đàn cũng không biết gảy, đúng là quá mất phong nhã...”.

Khương Trầm Ngư lườm gã một cái: “Thứ lý lẽ ngụy biện này mà ngươi cũng nói ra được à? Ai gia muốn có một thừa tướng có thể xử lý chính sự chứ không cần một nhạc sư”.

Người áo tím nói: “Trên thực tế, khi ấy mọi người đều nghĩ như thế, đều cảm thấy thư sinh đó thật kỳ quặc, lại nghĩ ra được yêu cầu vớ vẩn như thế, chắc chắn Tiết tướng không biết chơi đàn, nhưng Tiết tướng nhìn thư sinh đó một cái, cười lạnh nói: ‘Được’”.

“Hắn đồng ý à?”. Điều này thực sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ.

“Vâng. Tiết tướng nhận lời, không chỉ như thế, ngài còn nói: ‘Ta biết trong lòng ngươi đang nghĩ gì, nếu ta không nhận lời ngươi, ngươi chắc chắn sẽ rêu rao với bên ngoài là lôi đài mà ta dựng có lỗ hổng, quy định thi đấu có lỗ hổng, cũng chỉ là hình thức, nếu có thi cũng không chính xác, từ đó mà tiến một bước xóa sạch toàn bộ thành tích huy hoàng trong bảy ngày qua của ta, đúng không?’. Thư sinh đó mỉm cười, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận. Tiết tướng tiếp tục nói: ‘Cho nên, ta tuyệt đối không để ngươi được thỏa nguyện. Ngươi muốn thi đàn à? Đến đây! Thi thì thi!’”.

Khương Trầm Ngư tuy biết sau cùng chắc chắn Tiết Thái sẽ thắng nhưng nghe đến đây, trong lòng cũng không khỏi lo lắng.

“Không phải hắn không biết chơi đàn sao?”.

“Hồi bẩm nương nương, Tiết tướng đích thực là không biết chơi đàn, đối phương chắc chắn cũng đã tìm hiểu về điểm này, cho nên mới dám đến khiêu khích không hề e sợ như thế. Thế là, thư sinh đó ngồi xuống, đặt cây cổ cầm xuống nói: ‘Trước tiên phải nói cho rõ, kỹ thuật đánh đàn, cao thấp khác biệt nếu như rất lớn, tự nhiên sẽ dễ phán đoán, nhưng nếu trình độ ngang ngang nhau, thì sẽ khó mà đoán định. Ta và ngươi phải phân giới hạn rõ ràng như thế nào?’. Tiết tướng đáp: ‘Ngươi nói đi’. Thư sinh nói: ‘Được. Ý của ta là, có mặt ở đây tổng cộng bảy mươi chín người, chúng ta đàn ra sao, hãy để bảy mươi chín người này chấm điểm, cuối cùng ai được ủng hộ nhiều nhất, người đó thắng. Thế nào?’. Tiết tướng nói: ‘Được’”.

Khương Trầm Ngư thở dài: “Thật là làm khó hắn rồi. Thế mà cũng nhận lời. Ai chẳng biết những người đi xem đó, kỳ thực đều là những người muốn nhìn thấy hắn thua cuộc, cho dù hắn có thể đàn hay như thư sinh kia, e là mọi người cũng mang tâm lý xấu xa muốn coi trò hay nên vẫn bỏ phiếu cho hắn thua thôi”.

“Vâng, vi thần cũng nghĩ như vậy, vì thế vi thần đứng bên nhìn mà lo lắng hết đỗi, thần tiến lên phía trước khuyên can, trái lại Tiết tướng căn bản không để ý đến thần, bước tới ngồi đối diện với thư sinh, nói: ‘Ở đây không có đàn, ta dùng đàn của ngươi có được không?’. Thư sinh nói: ‘Được’. Tiết tướng nói: ‘Thế thì ngươi là khách, ngươi đàn trước’. Thư sinh đồng ý, liền bắt đầu gảy đàn...”.

“Chắc hắn đàn rất giỏi”. Khương Trầm Ngư đoán.

Người áo tím lại lắc đầu.

“Sao? Lẽ nào hắn đàn cũng dở?”.

Người áo tím vẫn lắc đầu.

Khương Trầm Ngư đang cảm thấy kỳ quái, thì người áo tím đã nói rõ chân tướng: “Kỳ thực thì... căn bản hắn không đàn nổi. Hắn vừa mới gảy hai âm, dây đàn đã đứt. Cho nên, hắn đành phải thay dây đàn, nhưng gảy thêm được mấy âm, dây đàn lại đứt. Hắn lại thay dây, dây đàn lại đứt nữa... Tóm lại hắn cứ đàn được ba bốn tiếng, lại bị đứt một dây, cuối cùng, hắn đập bàn đứng dậy quát: ‘Tiết Thái, ngươi giở trò gì với đàn của ta phải không?’. Tiết tướng nói: ‘Đây là đàn của ngươi, dây cũng là ngươi tự tay mang theo’. Thư sinh nói: ‘Nhưng lúc ta gảy đàn ngươi lén lút dùng nội lực làm đứt dây đàn, đúng không?’. Tiết tướng mỉm cười: ‘Tỉ thí thôi mà. Nếu ngươi không phục, khi ta gảy đàn ngươi cũng thoải mái làm đứt dây đàn của ta’. Thư sinh giận dữ nói: ‘Ta không biết võ công!’. Tiết tướng nói: ‘Rất tốt, ta cũng không biết chơi đàn’. Thư sinh nói: ‘Thế thì ngươi thua rồi!’. Tiết tướng nói: ‘Dựa vào cái gì? Cầm nghệ đến đàn cũng không đàn nổi của ngươi cũng có thể coi là thắng sao?’. Thư sinh nói: ‘Đó là vì ngươi đứng bên cạnh phá hoại!’. Tiết tướng nói: ‘Ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, thì ta thắng’. Thư sinh kêu lên: ‘Thế mà gọi là thắng à?’. Tiết tướng bỗng nói thật chậm, từng tiếng từng tiếng rành rọt: ‘Đây chính là chiến thắng của sức mạnh’. Thư sinh sững ra, không nói gì nữa”.

Khương Trầm Ngư nhắc lại: “Chiến thắng của sức mạnh?”.

“Vâng. Tiết tướng nói: ‘Trên thế giới này có rất nhiều kỹ nghệ, duy chỉ có sức mạnh là có thể trấn áp tất cả. Cầm nghệ của ngươi có cao hơn nữa, nhưng ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, đây chính là biểu hiện của việc ta vượt trội hơn ngươi’. Nói đến đây, ngài xoay người, nhìn mọi người, cất cao giọng nói: ‘Các ngươi nghe rõ cho ta, những người khác muốn lợi dụng kiếm chác, muốn xuyên tạc lời ta, thì cũng phóng ngựa đến hết cả đây, nhưng trước khi đến, các ngươi phải chuẩn bị tâm lý cho tốt - Có lẽ các ngươi có thể thắng ta về một kỹ năng nào đó, nhưng, nếu võ công không thể thắng ta, đều là vô ích. Nếu võ công hơn ra, chớ quên sau lưng ta còn có mười hai thiết kỵ, ba vạn binh mã, quyền hành cả nước, các ngươi cứ khiêu chiến thử xem!’. Thư sinh thét lên: ‘Thế thi đấu còn gì là công bằng?’. Tiết tướng nhìn hắn khinh miệt, lạnh lùng cười: ‘Quyền thế cũng là một loại thực lực. Nếu ngươi không có thực lực vượt hơn ta, dựa vào cái gì mà đòi thay thế ta?’”.

Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu “Quyền thế cũng là một loại thực lực”, không khỏi có phần ngây ngốc.

Tiết Thái... Tiết Thái... xuất sắc như thế, kiêu ngạo như thế, lại bá đạo như thế!

Có lúc không khỏi hoài nghi hắn có thực sự là con người không? Một đứa trẻ tám tuổi, sao có thể có trí tuệ như thế? Hơn nữa, ngoài trí tuệ ra, hắn còn xuất thân cao quý, vì thế đã bồi dưỡng nên tính cách cao ngạo ngút trời, cậy tài khinh người, ngoài tính cách ra, hắn lại trải qua chuyển biến lớn kinh thiên động địa của đời người - từ trời cao rớt xuống bùn lầy, lại từ bùn lầy trở lại trời cao như thế, khiến hắn ngoài ngạo mạn, còn rèn luyện được tính thận trọng và chu toàn hơn người thường. Hành vi nhìn có vẻ như huênh hoang to gan, được ăn cả ngã về không của hắn vừa hay là biểu hiện của việc hắn chuẩn bị đầy đủ, không hề sơ sót.

Người bình thường, cho dù có được khả năng bẩm sinh như hắn cũng không thể có tính cách như hắn; cho dù có tính cách giống như hắn, cũng không thể có cảnh ngộ giống hắn... Hàng loạt các loại yếu tố này đã tạo thành thái độ ngang ngược coi thường hết thảy của hắn lúc này, mà thái độ ngang ngược ấy chính là điều không thể thiếu của một người làm chính trị thành công.

Có lẽ bản thân thật sự may mắn, may mà hắn đứng về phía nàng.

Nếu có một đối thủ như thế này, thực sự quá đáng sợ…

Mắt Khương Trầm Ngư hơi trầm xuống, trong lòng đã quyết: Cả đời này, tuyệt đối không thể cho Tiết Thái bất cứ cơ hội nào trở thành kẻ địch của nàng.

Người áo tím nói: “Tiết tướng nói xong những lời này, hết thảy mọi người có mặt tại chỗ đều im lặng, còn thư sinh đó đứng yên mà toàn thân run rẩy, trên mặt lúc trắng lúc đỏ, chính lúc mọi người tưởng hắn chắc chắn sắp tức đến chết, hắn đột nhiên lấy một vật từ trong chiếc hộp bên cạnh ra, ném vào người Tiết tướng. Đám thị vệ cả kinh, tưởng là ám khí, đang định xông lên phía trước hộ vệ, Tiết tướng giơ tay lên, tự mình dùng tay áo cuốn vật đó lại...”.

Bảy người còn lại nghe đến đây, lại bắt đầu cười khùng khục. Thế nên Khương Trầm Ngư biết cuối cùng đã kể đến đoạn mấu chốt, bèn hỏi: “Là thứ gì?”.

“Là tú cầu”.

Khương Trầm Ngư gần như hoài nghi câu mình nghe thấy, không nhịn được nhắc lại lần nữa: “Là thứ gì?”.

“Tú cầu”. Người áo tím nghiêm trang trả lời: “Chính là loại tú cầu thêu bằng chỉ màu, dùng để các thiếu nữ chưa chồng kết duyên...”.

“Ta biết cái gì là tú cầu”. Trầm Ngư ngắt lời y: “Ta chỉ muốn hỏi tại sao thư sinh đó lại ném tú cầu cho Tiết Thái?”.

“Khi đó, bọn thần nhìn thấy quả tú cầu đó, tất cả đều ngẩn người ra, nghi ngờ mắt mình bị làm sao. Thư sinh đó cười khúc khích, giọng nói đột ngột biến đổi, nếu nói ban đầu hắn nói giọng eo éo, thì khoảnh khắc đó lại biến thành giọng nữ nhi, hơn nữa còn giơ một tay chỉ vào Tiết tướng nói: ‘Được, quả nhiên không hổ là tiểu Băng Ly nổi danh thiên hạ! Ta phục rồi. Cho nên, ta quyết định lấy ngươi! Quả tú cầu này chính là tín vật định tình của ta, ta biết tuổi ngươi còn nhỏ, có điều không sao, ta có thể chờ ngươi. Bản cô nương chính là con gái của Hồ Cửu Tiên, tiểu danh là Sành Nương. Ngươi chớ có quên, ngày sau phải đến nhà xin cưới ta nhé’!’. Nói đoạn, ôm đàn thướt tha rời đi...”.

“Hồ Cửu Tiên?”. Cái tên này rất quen, dường như đã nghe thấy ở đâu rồi.

“Ông ta là người Nghi quốc, được mệnh danh là đệ nhất thương gia của bốn nước, giàu nhất thiên hạ, nơi nào cũng có sản nghiệp của ông ta. Mà Hồng viên nổi tiếng nhất đế đô chính là của ông ta”.

Khương Trầm Ngư “a” một tiếng, chẳng trách nàng cảm thấy quen tai, hóa ra là chủ nhân của Hồng viên.

“Ha ha ha ha ha, hay cho một cô nương to gan!”. Di Phi nghe xong đập bàn kêu tuyệt: “Hay cho một mối nhân duyên tuyệt diệu! Chúc mừng nương nương, chúc mừng nương nương, hữu tướng của nương nương sắp thành gia lập nghiệp rồi, ha ha ha ha ha...”.

Người áo tím cố gắng nhịn cười, tiếp tục nói: “Hồ tiểu thư đó bỗng nhiên bỏ đi, làm mọi người bất ngờ, vẻ mặt của Tiết tướng khi ấy thật là... cả đời này vi thần cũng không thể quên. Chuyện này lập tức đồn ra ngoài, vì thế, hôm nay Tiết tướng vốn dĩ muốn lên triều, nhưng kiệu của ngài vừa mới ra khỏi hầu phủ, liền phát hiện bên ngoài có một đám người đông đúc vây quanh, đều là những cô nương tuổi thanh xuân đứng chờ bên ngoài cả đêm, ngài vừa mới vén rèm kiệu lên thò đầu ra ngoài nhìn, liền có vô số tú cầu bay về phía ngài... Những cô nương đó vừa ném vừa hét: ‘Thừa tướng đại nhân, chúng ta cũng muốn lấy ngài...’. Họ đứng đông nghịt cả đường, chiếc kiệu căn bản không thể đi nổi, đành quay đầu về phủ, cho nên, hôm nay Tiết tướng không thể lên triều...”.

Lời của người áo tím còn chưa dứt, mọi người trong sảnh đã cười nghiêng cười ngả.

Chỉ có một người không cười, đó chính là Khương Trầm Ngư.

Mọi người cười xong một lúc, mới phát hiện hoàng hậu không cười, liền vội vàng thu lại nụ cười, lo lắng bất an nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, trầm mặc một lát, sau đó đẩy đống tấu sớ ra, nói: “Hôm nay đến đây thôi, các ngươi về cả đi. Ai gia cũng mệt rồi, về cung nghỉ ngơi đã”. Nói rồi, đứng dậy rời ghế.

Nàng bình tĩnh đi ra khỏi Bách Ngôn đường, rất bình tĩnh đi ra khỏi thư phòng, rất bình tĩnh đi vào trong Ân Bái cung, nói với cung nữ: “Ai gia muốn ở một mình một lúc, các ngươi lui cả ra đi”.

Bọn cung nữ vâng dạ rồi đi ra, đóng cửa phòng lại.

Khương Trầm Ngư đi đến bên giường, ôm chăn trùm kín đầu, bấy giờ mới cười to, cười đến nỗi chiếc giường rung lên bần bật, cười đến nỗi trào cả nước mắt: “Ha ha ha ha ha ha... Ha ha ha... Ha ha ha ha ha...”.

Tiết Thái... lấy vợ...

Ha ha ha ha ha...

Tiết Thái à Tiết Thái, ngươi cũng có ngày này!

Ha ha ha ha ha...

Tiếng cười của nàng loáng thoáng truyền ra ngoài điện, Ác Du nghe thấy tò mò: “Hoài Cẩn tỉ tỉ, nương nương sao thế? Có chuyện gì vui à?”.

Hoài Cẩn mỉm cười nhàn nhạt: “Chúng ta làm nô tài, chỉ cần vui thay nương nương là được rồi. Tiểu thư... đã lâu lắm rồi mới được vui vẻ như thế...”.

Đúng thế, kể từ sau khi Kỳ Úc hầu chết, ngoài lần thái tử Tân Dã chào đời, tiểu thư, chưa từng vui vẻ như thế…

Có thể cười như thế này, là chuyện tốt biết bao...

Ngày hôm sau trong buổi chầu sớm, Tiết Thái vẫn không xuất hiện. Nhưng khi Khương Trầm Ngư chuẩn bị đi vào thư phòng nghị sự cùng với Thất tử, hắn lại xuất hiện, hơn nữa còn không mặc quan phục, chỉ mặc một chiếc áo khoác màu đen, quấn kín từ đầu đến chân.

Khương Trầm Ngư thấy hắn nai nịt như thế, không kìm được mỉm cười: “Thừa tướng từ đâu đến, định đi đâu đấy?”.

Tiết Thái sầm khuôn mặt nhỏ trắng trẻo xuống, không trả lời, tự đi vào Bách Ngôn đường, cởi áo khoác rồi ngồi lên ghế tựa, cất tiếng hỏi: “Hôm qua và hôm nay có chuyện gì lớn xảy ra không?”.

Khương Trầm Ngư khoan thai đi vào trong, từ tốn nói: “Có đấy, chuyện lớn nhất chính là thừa tướng của Bích quốc sắp thành thân. Chuyện này có lớn không?”.

Khóe mắt Tiết Thái quả nhiên bắt đầu co giật.
 
Quyển 2 - Chương 87


Bọn Thất tử cũng mím môi nén cười, người áo vàng sẫm bật cười thành tiếng đầu tiên nói: “Nghe nói từ ngày hôm qua, tất cả các cô nương chưa lấy chồng ở đế đô đều xếp hàng dài trước cửa hầu phủ, chuẩn bị chặn thừa tướng đại nhân của chúng ta, một bầy oanh oanh yến yến, bao vây hầu phủ đến một giọt nước cũng không lọt. Tình hình này, thừa tướng vẫn có thể thoát thân đi khỏi, thật là lợi hại, thật là lợi hại”.

Tiết Thái “hừ” một tiếng.

Người áo xanh lục bên cạnh cười nói: “Ta biết rồi, hôm nay thừa tướng dùng kế kim thiền thoát xác, sai nô tì ngồi vào kiệu của mình đi ra cổng trước, còn mình cải trang âm thầm đi cổng sau, nhưng vì muốn tránh tai mắt của người ta, cho nên đến muộn một canh giờ, không kịp lên buổi chầu sáng”.

Khương Trầm Ngư cười híp mắt nói: “Sao thế, thừa tướng đại nhân, có cần ai gia ban hôn cho ngươi không?”.

Tiết Thái rít qua kẽ răng: “Không phiền nương nương nhọc lòng”.

“A, thừa tướng nói gì thế? Thừa tướng là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, hôn sự của thừa tướng là đại sự quốc gia. Cái cô Hồ Sảnh Nương đó cũng không phải nhân vật tầm thường, thừa tướng lấy cô ta, có thể gọi là được cả danh lẫn lợi, song kiếm hợp bích, đã vui lại thêm vui...”. Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Điều quan trọng nhất là, nếu như thế, những thiếu nữ trước cửa nhà thừa tướng kia, sẽ hết hy vọng. Nếu không, ngày ngày thừa tướng đau đầu vì việc ra ngoài, lần nào cũng đến trễ, ai gia không thể cho phép như vậy được”.

Mí mắt Tiết Thái giật giật, không biết là giận hay là buồn, nghiến răng nói: “Xin nương nương an tâm, tiểu thần đã nghĩ ra một cách giải quyết, không đầy nửa ngày, đám nữ nhân vô vị đó sẽ tản đi hết”.

Khương Trầm Ngư nghe xong lại càng cảm thấy hứng thú: “Ồ, không biết cách của thừa tướng là gì?”.

Tiết Thái còn chưa trả lời, một tiếng cười lớn từ bên ngoài truyền vào, tiếp theo, cửa mật thất mở ra, La Hoành dẫn theo Di Phi đi vào.

Di Phi nhìn thấy Tiết Thái mắt sáng rỡ lên, vừa cười lớn vừa đi đến bên cạnh hắn, vỗ vỗ lên vai Tiết Thái nói: “Hóa ra là như thế! Hóa ra là như thế! Không ngờ lớn thừa tướng Tiết Thái của chúng ta lại là một kẻ si tình. Ha ha ha ha!”.

Mọi người đều nhìn Di Phi bằng ánh mắt hiếu kỳ.

Di Phi che miệng cười, cuối cùng nhìn, sang Khương Trầm Ngư: “Nương nương, nương nương có biết Tiết tiểu thừa tướng nhà ta hôm nay đã làm chuyện kinh thiên động địa đến nhường nào không?”.

Khương Trầm Ngư cười cười nói: “Theo như ta biết, Tiết ái khanh ngày nào cũng làm những chuyện kinh thiên động địa”.

“Cũng đúng. Chỉ có điều, hôm nay là đặc biệt nhất mà thôi”. Di Phi lại vỗ vào vai Tiết Thái, thở dài nói: “Ngươi dù không thích những cô gái đó, cũng ít nhiều phải giữ chút thể diện cho họ chứ, sao có thể một đòn quét sạch như thế? Nếu ngày mai bọn họ treo cổ tự vẫn thì làm thế nào?”.

Người áo vàng sẫm nghe thấy hai mắt liền phát sáng, nói nhanh: “Tam hoàng tử muốn nói gì, mau nói nhanh nói nhanh, thừa tướng rốt cuộc đã làm gì?”.

“Thừa tướng... sai người treo một bức tranh bên ngoài cửa lớn của phủ Kỳ Úc hầu, và tuyên bố: Tiết Thái hắn là nhân vật kiệt xuất trăm năm khó gặp, đương nhiên phải lấy một mỹ nhân tuyệt thế có thể xứng với hắn. Vì thế, nếu vị cô nương nào không xinh đẹp bằng người trong bức tranh, thì hãy bỏ ý nghĩ lấy hắn đi...”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy có gì là lạ: “Đợi đã! Ngươi nói hắn treo một bức tranh? Lẽ nào là...”.

Tiết Thái bấy giờ ngẩng đầu lên, biểu tình u ám trên gương mặt biến mất, khóe môi cong lên, mang theo nét cười có chút gian trá: “Nói ra vẫn phải đa tạ nương nương. Nếu không phải là nét vẽ tuyệt diệu của nương nương, vi thần vẫn còn phải khổ não tìm đâu được một bức tranh như thế?”.

“Ngươi! Lẽ nào ngươi treo bức tranh ai gia vẽ cho Hy Hòa?”. Lời vừa thốt ra, Thất tử cũng thất kinh, hóa ra Tiết Thái lại treo tranh của Hy Hòa?

Tiết Thái “ừ” một tiếng.

Khương Trầm Ngư lập tức đứng dậy: “Ngươi dám ăn trộm tranh của ai gia!”.

“Tiểu thần chỉ mượn dùng mấy ngày thôi, đợi sự việc qua đi sẽ tự giác đem trả”. Tiết Thái nói rất ngang nhiên đường hoàng: “Đúng như nương nương nói, tiểu thần là rường cột của nước nhà, trọng thần của triều đình, nếu ngày nào cũng bị người ta vây kín dẫn đến không thể lên buổi chầu sớm, tổn thất này to lớn quá. Cho nên, nghĩ cho giang sơn xã tắc Bích quốc, nương nương cũng không nên hẹp hòi, tiếc một bức tranh cỏn con, đúng không?”.

Đến lượt Khương Trầm Ngư nói không nên lời.

Cứ như thế, Tiết Thái dùng tranh vẽ Hy Hòa phu nhân, thành công ép những tú nữ muốn gả cho hắn phải thối lui. Nhưng hành động này cũng để lại một ảnh hưởng rất xấu, đó chính là...

“A, ngươi nghe nói chưa? Thừa tướng của chúng ta có ý trung nhân rồi đấy!”.

“Hắn mới mấy tuổi mà đã có ý trung nhân?”.

“Ngươi thì biết cái gì, phàm chuyện gì mà gắn với Băng Ly công tử thì không thể suy luận theo lẽ thường được. Tóm lại là thế này, hắn đã sớm có ý trung nhân rồi, mà người hắn yêu không phải ai khác, chính là tiền phu nhân của triều ta”.

“Ngươi nói là... Hy Hòa phu nhân?”,

“Ngoài nàng ta ra còn có ai nữa! Đệ nhất mỹ nhân của bốn nước năm xưa, chậc chậc, đáng tiếc là chết sớm quá”.

“Lá gan của hắn cũng to thật nhỉ? Đến phi tử của hoàng đế mà cũng thầm thương trộm nhớ. May mà Hy Hòa phu nhân đã chết, nếu không đã thành tin xấu rồi!”.

“Luôn làm chuyện không bình thường, một hành động cả thiên hạ kinh ngạc. Không hổ là Băng Ly công tử...”.

“Đúng thế đúng thế...”.

Chuyện này càng đồn càng rộng, phiên bản cuối cùng chính là...

Thừa tướng của Bích quốc Tiết Thái, từ thuở còn bé tí đã thầm yêu Hy Hòa phu nhân, thậm chí miếng mỹ ngọc Băng Ly tuyệt thế mà Yên vương tặng hắn cũng đem tặng lại cho Hy Hòa phu nhân. Nào ngờ Hy Hòa phu nhân hồng nhan bạc mệnh, chẳng đợi hắn làm nên sự nghiệp đã ngọc nát hương tan.

Cho nên, Tiết Thái rất đau lòng, tuyên bố với bên ngoài rằng nhất định phải lấy một nữ tử có tướng mạo giống Hy Hòa làm vợ. Yêu cầu này quá cao, vì vậy, chuyện chung thân đại sự đành phải gác lại.

Đến đây, Tiết Thái đã không còn bị ai quấy nhiễu nữa.

Ngày tháng cứ trôi qua thi thoảng vội vàng, thi thoảng vui đùa cười nói, thi thoảng nguy hiểm, thi thoảng bận rộn như thế. Không biết bắt đầu từ khi nào, Tiết Thái càng ngày càng bận, thường xuyên nghị sự xong là mất tăm mất tích, mà không chịu về nhà giống như trước đây, cho dù không có chuyện gì cũng ở trong cung. Có lúc Khương Trầm Ngư hỏi hắn, hắn cũng không trả lời, lâu ngày, Khương Trầm Ngư cũng không hỏi nữa.

Dịp khai xuân năm Đồ Bích thứ sáu, xảy ra một chuyện vui.

Nói là chuyện vui, kỳ thực cũng không hẳn, có người lại cho là xúi quẩy, có người cho là đương sự thấy vui là được. Mà sự kiện gây nên sự chú ý và bàn tán rộng rãi ở Bích quốc này chính là - đại tướng quân Phan Phương lấy vợ.

Mọi người đều biết, đại tướng quân vốn có một người vợ chưa cưới mà y yêu chân thành, nhưng lại bị Tiết Túc gọi đến phủ để thuyết thư rồi làm nhục, không chịu nhục, nàng đã tự vẫn. Sau này đại tướng quân tuy đích thân dẫn binh đánh bại Tiết Hoài khiến cả Tiết gia sụp đổ, coi như đã báo được thù, nhưng người yêu đã chết, không thể vãn hồi. Sau đó lại phụng chỉ đến Trình quốc chuẩn bị hỏi cưới công chúa, cũng không ra đâu vào đâu... Tóm lại, nói đến vị đại tướng quân Phan Phương này, trừ việc hắn kiêu dũng thiện chiến ra, điều khiến người ta có thể bàn luận say sưa nhất chính là sự si tình của hắn.

Mọi người đều cho rằng hắn sẽ không thể thành thân lần nữa, không ngờ, hắn bất ngờ cưới vợ mà không hề báo trước. Vì thế, chuyện này đồn ra ngoài, cả nước kinh ngạc.

Mà điều khiến người ta ngạc nhiên nhất chính là vị thê tử kia của hắn...

Về việc này, Khương Trầm Ngư được biết thông qua báo cáo của Thất tử. Khi đó, người áo tím nói như thế này: “Nương nương, Phan tướng quân xảy ra chuyện rồi”.

Làm cho Khương Trầm Ngư sợ đến mức cuống lên: “Xảy ra chuyện gì?”. Phan Phương có thể nói là thần tử mà nàng yên tâm nhất, luôn an phận thủ thường, chưa từng kéo bè kết đảng, cũng không thích thể hiện bản thân, sinh hoạt càng cực kỳ đơn giản, ngày ngày không làm việc thì đóng cửa luyện tập võ công, uống rượu, rất hiếm khi ra ngoài. Một người như thế có thể xảy ra chuyện gì được? Nếu là người khác còn có khả năng mắc bệnh, còn Phan Phương, nếu đến hắn cũng đổ bệnh, thì trên đời này có lẽ chẳng có người nào khỏe mạnh nữa?

Người áo tím thở dài, sáu người còn lại lần lượt biểu lộ vẻ buồn rầu.

Vì thế, Khương Trầm Ngư càng lo lắng hơn: “Hắn làm sao?”.

“Hắn bị người ta hãm hại”.

“Ai dám to gan thế? Dám hãm hại cả Phan ái khanh?”.

“Là như thế này, ngoại ô kinh thành có một ông lão câu cá, ông có một cô con gái tên là Phương Cô, xấu xí không thể tả nổi, lại còn bị điếc hai tai, vì thế, năm nay đã hai mươi sáu tuổi mà vẫn chưa gả đi được, ông lão rất buồn rầu, trăn trở mãi phải làm sao, cuối cùng nương nương đoán thế nào?”.

“Có liên quan đến Phan ái khanh?”.

“Tháng trước không phải có một trận tuyết lớn sao? Ông lão liền lừa Phương Cô đến trước cổng Phan phủ, vứt cô ta ở đó. Khi Phan tướng quân mở cửa, nhìn thấy một người nằm ngất lạnh cóng trong tuyết, bèn tốt bụng cứu cô ta về, cứ thế qua một đêm. Sang ngày hôm sau, tướng quân đưa Phương Cô đã tỉnh về nhà, ông lão lại nói họ trai đơn gái chiếc ở chung với nhau một đêm, sự thanh bạch của con gái ông đã bị hủy hoại, không gả chồng được, bắt tướng quân phải chịu trách nhiệm. Cô Phương Cô đó thoạt đầu không biết là chuyện gì, sau biết rồi thì khóc ầm lên chạy đi nhảy xuống hồ. Nước hồ đóng băng, cô ta nhảy xuống hố băng, Phan tướng quân vội vàng cứu cô ta lên, khi cứu người đương nhiên không tránh được ôm ôm ấp ấp, thế là ông lão bám chặt lấy tướng quân... Thế nên, Phan tướng quân đã cưới cô ta”.

Thất tử lũ lượt thở dài: “Quá thảm!”. “Đúng thế đúng thế, chỉ có Phan tướng quân mới vậy, chứ người khác thì mặc xác ngươi chết hay là người…”. “Ông lão kia chắc chắn đã tìm hiểu tướng quân là người thế nào, biết tướng quân không dùng thế ép người, cho nên mới vu vạ cho tướng quân”. “Cái này gọi là ở hiền gặp ác mà...”. “Thực ra cũng chẳng có gì, coi như lấy một người thiếp, vấn đề là cô gái đó thực sự quá xấu xí ấy!”. “A, đại nhân cũng thấy rồi à? Mấy ngày trước quá hiếu kỳ nên ta cũng liếc một cái, kết quả là...”. “Đại trượng phu sống ở trên đời, những chuyện thảm nhất Phan tướng quân đều gặp cả, thật là đáng thương, đáng thương...”.

Lời Thất tử nói thể hiện tâm lý nam nhân một cách rõ rệt nhưng Khương Trầm Ngư nghe được, trong lòng cũng không vui.

Ngày hôm sau, nàng triệu Phan Phương vào trong cung, nói với hắn: “Phan tướng quân, nếu có chuyện gì khanh ngại không tự mình ra mặt từ chối, ai gia có thể giúp khanh từ chối”.

Phan Phương nhìn nàng với vẻ hơi ngạc nhiên, lát sau đáp: “Hồi bẩm nương nương, vi thần không có chuyện gì khó xử cả”.

“Khanh không cần giấu ai gia, ai gia đã nghe nói rồi, vị phu nhân đó của khanh...”.

Phan Phương cúi đầu.

Khương Trầm Ngư thấy điệu bộ này của y, lòng càng thương hơn, bèn giận dữ nói: “Dưới càn khôn rộng lớn, trời cao vời vợi này, lại có tên điêu dân ép hôn, hơn nữa còn ép đại tướng của triều ta, chuyện này tuyệt đối không thể tha được, người đâu! Truyền ý chỉ của ai gia...”.

Nàng còn chưa nói dứt câu, Phan Phương đã quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư kinh ngạc nói: “Phan ái khanh, khanh làm gì vậy?”.

Phan Phương cung kính dập đầu, khi ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ mà kiên định: “Vi thần tạ ơn nương nương quan tâm đến vi thần, nhưng chuyện cưới vợ là vi thần tự nguyện, không phải ép gạt, cho nên xin nương nương nguôi giận”.

“Nhưng... họ rõ ràng nói là ông lão đó cố ý vứt con gái trước cửa nhà khanh...”.

Phan Phương cụp mắt, thấp giọng nói: “Cho dù chuyện trước đó như thế nào, sự thực là vi thần đúng là đã ôm cô nương đó”.

“Phan ái khanh!”. Khương Trầm Ngư cũng không biết vì sao mình để ý chuyện này như thế, có lẽ là vì nàng đã từng tận mắt chứng kiến bi kịch của Phan Phương và Tần nương, trong lòng luôn cảm thấy hổ thẹn với y, vì thế, bây giờ đột nhiên có người nhét một nữ nhân cho Phan Phương, giống như một tay hủy diệt mối tình duyên bi thương đến cực điểm và cũng đẹp đẽ đến cực điểm ấy.

Ở nơi sâu thẳm nội tâm của nàng, không sao có thể tiếp nhận nổi, vì thế nàng hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói: “Tóm lại, hôn sự này ai gia không chấp nhận! Ai gia không thể trơ mắt nhìn khanh nhảy vào hố lửa!”.

Phan Phương ngẩng mặt lên, nhìn nàng chằm chằm, sau đó, bỗng nhiên bật cười.

“Khanh cười cái gì?”.

“Không có gì...”. Phan Phương khẽ thở dài, trong ánh mắt chất chứa vài phần hoài niệm: “Chỉ là cảm thấy, nương nương vẫn là nương nương của thuở ban đầu, vi thần... rất cảm động, cũng rất vui”.

Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng biết hắn ám chỉ bản thân mình lúc đi sứ Trình quốc năm nào. Cơn xấu hổ qua đi, nàng lại càng thận trọng.

“Chuyện này khanh nghe ta, được chứ?”.

“Nương nương... nếu, vi thần thực lòng muốn cưới Phương Cô thì sao?”.

“Cái, cái gì?”. Khương Trầm Ngư cả kinh. Phan Phương đối với Tần nương như thế, nàng tận mắt chứng kiến, một nam nhân như thế sao có thể thay lòng đổi dạ? Được thôi, cứ cho là hắn có thể thay lòng đổi dạ, nhưng Phương Cô đó, theo như Thất tử miêu tả là một cô gái xấu xí vô cùng! Sao có thể?

Dường như đọc được suy nghĩ trong lòng nàng, Phan Phương cười cười, nói: “Phương Cô là một cô gái tốt. Vi thần biết có lẽ nương nương cũng nghe nói rồi, nàng ta... bị điếc. Tướng mạo cũng không được ưa nhìn. Nhưng ngoài hai điểm kia ra, nàng thật sự, thật sự là một cô gái rất tốt”.

“Phan tướng quân...”. Nhất thời, Khương Trầm Ngư không biết phải nói thế nào.

“Vi thần biết trong con mắt người ngoài, đều cảm thấy cô ấy không xứng với thần, nhưng, tự vi thần lại cảm thấy thành thân với vi thần mới là thiệt thòi cho Phương Cô... Tóm lại, vi thần thật lòng thành tâm muốn cưới cô ấy, xin nương nương tác thành”.

Khương Trầm Ngư nhìn Phan Phương đăm đăm, lúc lâu sau cũng không nói được gì, cuối cùng đành để cho Phan Phương ra về.

Mấy ngày sau, nàng mặc thường phục xuất cung, cùng với Tiết Thái bí mật đến Phan phủ một chuyến. Phủ đệ của Phan Phương cực kỳ đơn sơ, là một căn nhà nhỏ nằm ở một mảnh đất vắng vẻ, qua tường rào, Khương Trầm Ngư nhìn thấy một cô gái đang quét sân.

Dấu tuyết trên mặt đất còn chưa tan, nàng ta quét từng li từng tí một, quét rất cẩn thận.

Một lúc sau, Phan Phương từ trong nhà bước ra, khoác áo khoác lên người nàng ta, nàng ta ngẩng đầu, cười ngọt ngào với Phan Phương...

Khương Trầm Ngư nhìn đến đây, hạ lệnh cho phu xe quay về hoàng cung.

Trong xe ngựa trên đường về cung, nàng hỏi Tiết Thái một câu: “Ngươi nói xem Phan tướng quân lấy cái cô Phương Cô đó, thật sự không nuối tiếc chứ?”.

Tiết Thái trầm ngâm rất lâu, mới trả lời nàng: “Tiếc hay không ta không biết, nhưng hẳn là rất hạnh phúc”. Nói rồi, liếc xéo nàng một cái: “Lẽ nào nương nương hy vọng hắn cô độc đến cuối đời? Đừng có ác độc quá thế”.

“Đợi đã, ta ác độc ở chỗ nào?”.

“Đừng tưởng ta không biết trong lòng nương nương nghĩ gì, nương nương cảm thấy Phan Phương đã yêu Tần nương, thế thì cả đời này phải vì Tần nương mà giữ thân như ngọc, quyết không lấy vợ...”.

“Ta đâu có nghĩ như thế!”.

“Tốt nhất là đừng nghĩ như thế. Bản thân nương nương đã như thế này, đừng có mong người khác cũng phải giống mình”.

“Đợi đã, cái gì mà bản thân ta đã như thế này? Lẽ nào ngươi nói ta đang đố kỵ Phan Phương? Đố kỵ vì hắn cuối cùng đã được giải thoát khỏi chấp niệm với Tần nương, còn ta vẫn đang chìm trong bùn lầy?”.

“Đây là tự nương nương nói, ta không có nói”.

“Ngươi...”. Khương Trầm Ngư tức chết đi được, nhưng lại không có cách nào nói lại Tiết Thái, cuối cùng đành ra đòn sở trường lần thứ một ngàn lẻ một: “Ai gia không chấp trẻ con”.

“Ta chín tuổi rồi”.

“Vẫn là trẻ con”.

“Hứ”.

“Hứ...”.
 
Quyển 2 - Chương 88: Hồi thứ hai mươi mốt: Gấm rách


Trung thu năm Đồ Bích thứ sáu chầm chậm đến trong cảnh tượng bừng bừng khí thế.

Trưa ngày mười bốn tháng Tám, khi Khương Trầm Ngư đang đút cho Chiêu Doãn ăn, La Hoành thông báo: “Nương nương, quý nhân cầu kiến”.

Khương Trầm Ngư đặt chén cháo thuốc xuống, vừa ra lệnh cho người hầu buông rèm, Khương Họa Nguyệt liền theo sau cung nữ dẫn đường bước vào bên trong: “Thần thiếp tham kiến hoàng hậu”.

“Tỉ tỉ chớ đa lễ, mau mời ngồi. Người đâu, dọn chỗ”. Khương Trầm Ngư bước ra, mời Họa Nguyệt ngồi xuống bên bàn ở sảnh ngoài, nhìn tỉ tỉ hai má phinh phính, không kìm được vui mừng nói: “Sau khi sinh tỉ tỉ hồi phục khá nhanh, khí sắc nhìn tốt lắm”.

“Từ sau khi ta nghe lời muội, không uống loại thuốc đó nữa, liền cảm thấy cơ thể mình mỗi ngày một khỏe hơn”. Khương Họa Nguyệt vừa nói, vừa cố tình liếc vào màn trướng ở gian trong một cái, mới nói: “Ta vừa nhận được một lá thư, hóa ra mẫu thân và phụ thân đang trên đường về kinh, nếu không có gì thay đổi, khoảng giờ Thân ngày mai là đến nhà. Cho nên ta đến hỏi muội, ngày mai có muốn về nhà một chuyến không?”.

“Đương nhiên muốn. Muội cũng nhận được thư, đang chuẩn bị đi kiếm tỉ tỉ để bàn việc này. Vừa khéo tỉ tỉ tới đây”. Từ khi nhận được thư của mẫu thân, biết hiện nay bà vẫn khỏe, Khương Trầm Ngư rất vui, vì thế liền sắp xếp chuyện về nhà thăm người thân, cứ nghĩ đến ngày mai là có thể gặp mẫu thân, trong lòng nàng khó có thể bình tĩnh được. Lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng tranh cãi, Khương Họa Nguyệt vội nói: “A, là vú nuôi của ta”.

Khương Trầm Ngư hạ lệnh: “Cho vú nuôi vào”.

Một nữ tử có dáng vẻ vú nuôi ôm một đứa trẻ đang khóc oa oa đi vào trong. Khương Họa Nguyệt tiến lên phía trước đón đứa trẻ: “Tân Nhi, sao thế con? Không phải bảo con ngoan ngoãn ở nhà chờ mẹ sao? Sao lại khóc thế?”.

Vú nuôi lo lắng nói: “Lão nô cũng không biết có chuyện gì, thái tử điện hạ đột nhiên khóc toáng lên, không sao dỗ được, đành phải đưa đến tìm nương nương”.

Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn đứa trẻ đó trắng trẻo bụ bẫm, rất đáng yêu, không kìm được nói: “Có thể cho muội bế một chút không?”.

“Đương nhiên”. Khương Họa Nguyệt quay người đưa đứa trẻ qua.

Khương Trầm Ngư cẩn thận đón lấy, khẽ đu đưa, đứa trẻ nín khóc, nhìn nàng một cái, miệng nhệch ra, lại khóc òa.

“Ô ô, ngoan, đừng khóc đừng khóc, hoàng di ở đây... tỉ tỉ, có phải nó đói không?”.

“Không đâu, nó vừa mới ăn mà”. Khương Họa Nguyệt thấy nàng bế cũng không có tác dụng, bèn đón lấy Tân Dã, dịu dàng dỗ một lát, nói: “Muội muội, ta có một thỉnh cầu hơi quá đáng...”.

“Tỉ tỉ cứ nói”.

Ánh mắt Khương Họa Nguyệt hướng về phía gian trong, nói: “Là thế này, từ khi Tân Nhi ra đời còn chưa được gặp hoàng thượng. Muội có thể để nó gặp phụ thân được không? Tỉ biết bây giờ hoàng thượng đang hôn mê bất tỉnh, vốn không nên đưa ra yêu cầu kiểu này, nhưng...”.

Khương Trầm Ngư hơi do dự, nhưng nhìn thấy Tân Dã khóc không thôi, lại mềm lòng bèn gật đầu nói: “Được, tới đây nào”. Nói đoạn, đứng dậy dẫn đường.

Hai người cùng đi vào gian trong, Khương Trầm Ngư ra hiệu cho cung nữ kéo rèm lên, rèm kéo lên rồi, khuôn mặt say ngủ bình thản của Chiêu Doãn xuất hiện trong tầm mắt Khương Họa Nguyệt. Y nằm ở đó, mái tóc, gương mặt đều vô cùng sạch sẽ, nhìn cũng biết là được chăm sóc rất cẩn thận.

Thấy nét mặt y hiền hòa, nhẹ nhõm, thật khó mà tưởng tượng, người này đã nằm ngủ suốt một năm ròng.

Nhớ đến cảnh ân ái ngày xưa, mắt Khương Họa Nguyệt hoe đỏ, cúi đầu nói với đứa con trong lòng: “Tân Nhi, đừng khóc nữa, nhìn này, đây là phụ vương của con. Phụ vương con đang ngủ, ngủ rất lâu rất lâu, cho nên không thể nói chuyện với Tân Nhi, nhưng không sao, đợi con lớn hơn chút nữa, phụ vương con sẽ tỉnh, đến lúc đó sẽ dẫn con đi chơi ở rất nhiều nơi... được không?”. Vừa nói vừa bế Tân Dã đến sát mặt Chiêu Doãn.

Đứa trẻ dường nghe hiểu lời nàng ta, bỗng ngừng khóc, giương đôi mắt to đen trắng rõ ràng, nhìn chăm chăm vào Chiêu Doãn nằm trên giường.

Khương Họa Nguyệt nhìn thấy nó có phản ứng, không kìm được vui mừng nói: “Muội muội xem kìa, đúng là có tác dụng. Tân Nhi nín rồi đó!”.

Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn thấy sự thần kỳ ấy, trong lòng không khỏi ngậm ngùi, huyết thống quả nhiên là thứ rất kỳ diệu, một đứa trẻ nhỏ như vậy, lẽ nào cũng cảm nhận được hơi hướm của phụ thân mà trở nên bình tĩnh hơn?

Khương Họa Nguyệt vỗ nhè nhẹ vào Tân Dã nói: “Tân Nhi ngoan, phải hay ăn chóng lớn khỏe mạnh, để có thể nói chuyện với phụ vương nhé. Phụ vương thích Tân Nhi nhất, ngoan nhé...”.

Mắt Tân Dã nhìn Chiêu Doãn không chớp một lúc, bỗng nhệch miệng khóc nức nở.

Khương Họa Nguyệt hoảng lên: “Ôi ôi sao thế? Đừng khóc đừng khóc... được rồi, ta nên đưa nó về cung thì hơn, có lẽ đến chỗ quen thuộc nó sẽ đỡ hơn..”. Vừa nói vừa vội vàng đi ra ngoài.

Chính lúc này một vật nặng loảng xoảng rơi xuống đất.

Khương Trầm Ngư quay đầu, hóa ra là một cung nữ đứng hầu bên cạnh đánh rơi chậu rửa mặt kê cạnh giường. Cung nữ tự biết đã gây ra họa, cuống quýt quỳ xuống nói bằng vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ: “Nương nương! Hoàng thượng... hoàng thượng...”.

“Hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư thuận theo ánh mắt của nàng ta nhìn qua, liền phát hiện trên mặt Chiêu Doãn, hai hàng lệ trong vắt từ từ chảy xuống.

Y... tỉnh rồi!

Khoảnh khắc đó, một nỗi lo sợ vô bờ bến cuộn trào từ chân lên đỉnh đầu, Khương Trầm Ngư gần như kinh sợ đến suýt kêu lên, nhưng cuối cùng nàng đã khống chế được bản thân, trợn trừng mắt nhìn hàng lệ chậm rãi lăn trên gò má Chiêu Doãn rơi xuống gối. Còn các bộ phận khác của Chiêu Doãn vẫn bất động như cũ.

Nàng tiến lên một bước, nắm tay y bắt đầu bắt mạch, chỉ cảm thấy mạch tượng lúc nhanh lúc chậm cực kỳ kỳ quái, với trình độ của bản thân không thể nhìn ra nguyên nhân, bèn trầm giọng nói: “Truyền thái y!”.

Đám cung nữ vội vàng đi gọi người.

Khương Họa Nguyệt bên cạnh lo lắng nói: “Muội muội, hoàng thượng sắp tỉnh phải không?”.

“Không biết”.

“Nhưng hoàng thượng chảy nước mắt kìa, hoàng thượng có phản ứng!”.

“Không biết”.

“Hoàng thượng? Hoàng thượng?”. Khương Họa Nguyệt không kìm được tiến lên mấy bước, đưa tay vuốt ve mặt Chiêu Doãn: “Hoàng thượng? Hoàng thượng có cảm thấy không? Thiếp là Họa Nguyệt... Thiếp đưa thái tử đến thăm người, nó tên là Tân Dã, vừa tròn bảy tháng tuổi, vẫn còn chưa biết nói...”.

Tân Dã khóc oa oa, Khương Họa Nguyệt lòng tràn đầy hy vọng và Chiêu Doãn nằm trên giường tuy chảy nước mắt song vẫn không tỉnh, hình thành nên một cảnh tượng kỳ lạ.

Khương Trầm Ngư nhìn cảnh tượng ấy, chỉ cảm thấy mình giống như một người ngoài cuộc, cách một tầng lụa cúi nhìn xuống mọi người. Nhưng trên thực tế, bất cứ cử động nào của Chiêu Doãn, là sống hay là chết đều có thể khiến nàng tan xương nát thịt.

Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói mệnh lệnh thứ hai: “Truyền Tiết tướng”.

Lại một toán cung nhân vâng dạ rồi rời đi.

Không lâu sau, Giang Hoài dẫn theo hai thái y hốt hoảng chạy đến, đang định hành lễ, Khương Trầm Ngư liền nói: “Đừng quỳ, mau xem hoàng thượng sao rồi?”.

Bọn Giang Hoài vội vàng vào khám, nhưng đang định bấm ngón tay bắt mạch cho Chiêu Doãn, thì trên mặt đã lộ một biểu cảm vô cùng cổ quái, sững sờ.

Khương Họa Nguyệt thúc giục: “Thái y? Sao thế?”.

Giang Hoài loạng chà loạng choạng lùi ra sau nửa bước, quỳ sụp xuống, run rẩy nói: “Vi thần đến trễ một bước, hoàng thượng đã... đã... băng hà rồi...”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tai mình “bùng” một tiếng, câu tiếp theo không còn nghe thấy nữa, đồng thời, tầm nhìn của nàng cũng tối sầm, loáng thoáng nghe thấy có người kinh sợ hét: “Nương nương! Nương nương sao vậy?”. Nhưng bóng tối vô bờ bến bao trùm đất trời đã ụp xuống, nàng đột ngột mất đi tri giác.

Trong bóng tối, rất nhiều giọng nói mông lung bồng bềnh trôi nổi.

“Nương nương? Nương nương...”.

“Muội muội? Muội muội...”.

“Trầm Ngư? Trầm Ngư...”.

Nhưng mà, không có thứ nàng muốn, hay nói cách khác, không có thứ nàng mong chờ. Nàng đang muốn điều gì? Rốt cuộc muốn điều gì?

“Tiểu thư của Khương gia?”. Là cái này sao? Là cái này sao?

“Trời không còn sớm nữa, Anh đưa tiểu thư về phủ nhé”. Là ai? Là ai?

“Tiểu thư hẹn Anh tới, tất có việc, đã có việc, là ai hẹn thì có quan hệ gì đâu?”. Là lúc nào? Là lúc nào?

“Là Anh hành sự đường đột, vội vàng truyền tin, hy vọng không quấy rầy chính sự của tiểu thư…”. Không, không cần câu này, không cần câu này. Cái nàng cần không phải câu này, không phải, chưa bao giờ là câu này!

Nhưng người đó chưa bao giờ gọi nàng bằng phương thức nàng hy vọng, từ tiểu thư lúc ban đầu, đến sau này, khi thân mật nhất cũng chỉ gọi một tiếng “Trầm Ngư”.

Người ấy là “Tiểu Hồng” của người khác, nhưng vĩnh viễn chỉ là “công tử” của nàng...

Khương Trầm Ngư cảm thấy đầu mình mù mịt nặng trịch, không biết mình đang nằm mơ hay là đang tỉnh nữa. Sau đó, bóng tối dần dần tan đi, loáng thoáng xuất hiện những bóng hình mờ nhạt: Một đứa trẻ vô cùng gầy yếu, kéo một thứ gì đó, cực kỳ vất vả đi về phía trước.

Bốn bề im ắng không một tiếng động.

Đứa trẻ đó nghiêng nghiêng ngả ngả, thứ kia quả thực quá nặng, mà nó quả thực quá gầy quá nhỏ, vì thế mỗi lần đi được hai bước lại phải dừng lại nghỉ một lát.

Cảnh tượng dần dần thu lại gần hơn, thứ trên mặt đất dần dần rõ nét, hóa ra là một nữ nhân nằm không nhúc nhích, không biết là đã chết hay vẫn còn sống. Linh cảm trỗi dậy, trong nháy mắt, dường như nàng đã biết mình đang nhìn thấy gì, một hơi hướm quen thuộc nào đó gần trong gang tấc, nàng nghiêng đầu nhìn, thất kinh phát hiện - Chiêu Doãn đang đứng cách nàng một bước, đứng ngang vai với nàng, im lặng nhìn cảnh tượng đó, nhìn đứa trẻ không ngừng lôi lôi kéo kéo không chịu buông tay đó.

“Hoàng thượng...”. Nàng nghe thấy mình run rẩy lên tiếng, trong lòng sợ hãi đến cực điểm, cũng hỗn loạn đến cực điểm.

Nhưng dường như Chiêu Doãn không phát hiện ra nàng, chỉ im lặng nhìn thiếu niên phía xa đó, hai hàng lệ từ hốc mắt y lăn xuống, bộ dạng không cười của y nhìn càng đau thương khôn tà.

“Hoàng thượng...”. Nàng không kìm được giơ tay hướng về phía Chiêu Doãn, muốn kéo tay áo y, nhưng trong chớp mắt sau đó lại phát hiện mình đang tóm tay đứa trẻ đó, gầy guộc trơ xương, lạnh giá như băng. Còn đứa trẻ đó ngẩng đầu lên nhìn nàng, các nét trên gương mặt mờ mờ, duy chỉ có đôi mắt đen lay láy.

“Giúp ta với...”. Đứa trẻ khóc nấc: “Giúp ta với... Mẹ ta uống rượu say ngã xuống hồ... giúp ta với...”.

Nàng cảm thấy rất buồn vì câu nói này, đang định nhận lời giúp nó, đứa trẻ đột nhiên trở nên hung hăng, nhìn nàng gào lớn: “Tại sao phải hại ta? Tại sao phải hại trẫm? Khương Trầm Ngư, nàng dám hạ độc trẫm! Nàng dám tước đoạt giang sơn của trẫm! Nàng sẽ không được chết tử tế! Nàng sẽ phải nhận báo ứng!”.

Báo ứng...

Báo ứng...

Báo ứng...

Tiếng thét thảm thiết dường như có một sức mạnh vô song, giống như một cánh tay lạnh ngắt, thò tới, hung hãn thít chặt cổ nàng.

Ai đến cứu nàng? Cứu nàng! Chỉ có một câu nói! Một câu nói chính xác là nàng có thể thoát ra khỏi cơn ác mộng này! Mau nói đi, mau nói câu nói chính xác đó đi...

Chính trong lúc nàng giãy giụa, một giọng nói trong trẻo có phần hơi hà khắc lại có chút lạnh lùng đột nhiên phá vỡ tầng tầng mây mù, đánh xuống như một luồng sét: “Chiêu Doãn chết rồi. Ngươi còn không tỉnh? Muốn trốn tránh đến bao giờ?”.

Mây mù tan biến trong chớp mắt, Khương Trầm Ngư lập tức mở mắt ra.

Lọt vào mắt là gương mặt hớn hở của Hoài cẩn: “Nương nương! Nương nương tỉnh rồi! Nương nương tỉnh rồi!”.

Khương Trầm Ngư hơi đờ đẫn đảo mắt nhìn một lượt, bên cạnh màn trướng màu đỏ thẫm là người toàn thân áo trắng như tuyết, vẫn biểu cảm thâm trầm, pha chút lạnh lùng như cũ, người tuổi vẫn còn nhỏ, nhưng chỉ cần hắn ở đây là nàng cảm thấy an tâm đến lạ lùng.

Nàng gắng ngồi dậy, cất tiếng nói, giọng lào khào: “Tiết Thái... ngươi, vừa nãy ngươi nói gì?”.

Tiết Thái mặt không biểu cảm đáp: “Cuối cùng nương nương đã chịu tỉnh rồi. Nếu nương nương không tỉnh, hoàng thượng sẽ không được hạ táng”.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy một tràng sấm dậy ầm ầm trong đầu, không nhịn được bưng chặt đầu mình. Đúng rồi, trước khi nàng ngất, thái y nói là Chiêu Doãn chết rồi... Đó không phải là một giấc mộng... Nhưng tại sao?

Rõ ràng nghe thấy tiếng khóc của Tân Dã cho nên mới rơi nước mắt;

Rõ ràng bắt đầu có phản ứng với thế giới bên ngoài...

Tại sao đột nhiên lại chết?

Y chết quá không cam lòng, cho nên mới tìm đến chất vấn nàng, đòi báo thù nàng trong giấc mộng chăng?
 
Quyển 2 - Chương 89


Đầu Khương Trầm Ngư đau như muốn nứt toác, không nhịn được rên rỉ thành tiếng.

Tiết Thái bên cạnh bỗng đi lên phía trước, bưng một bát canh đến trước mặt nàng, ra lệnh: “Uống đi”.

Khương Trầm Ngư nhìn bát canh giống như nước lọc nhưng lại tỏa ra mùi thuốc thoang thoảng đó, mày cau lại, nhưng không hỏi gì hết, chỉ ngoan ngoãn uống. Nói ra cũng kỳ lạ, vừa uống xong bát canh đó, cảm giác thanh mát lập tức lan tỏa khắp cơ thể, đến cơn đau đầu cũng giảm đi rất nhiều.

Nàng không kìm được hỏi: “Đây là cái gì?”.

“Thuốc độc”.

“Thật à?”.

“Giả đấy”. Tiết Thái trừng mắt nhìn nàng: “Để xem lần sau ngươi còn dám không hỏi rõ là thứ gì mà đã uống không”.

“Nhưng chẳng phải là ngươi cho ta uống sao?”.

Tiết Thái sững người, có chút cảm động, nhưng tức khắc lộ vẻ khinh thường nói: “Cứ cho là ta đưa, cũng không thể uống bừa được”.

“Hóa ra ngươi đa nghi đến mức nghi ngờ cả bản thân mình…”.

“Đó là bởi vì…”. Trong mắt Tiết Thái lóe lên một tia dị sắc, sau đó vô cùng nghiêm túc nén giọng xuống, nói: “Ngươi sắp trở thành đế vương một nước rồi, xung quanh có rất nhiều lang sói đang dòm ngó ngươi, chực xông lên để cấu xé nhai nuốt ngươi”.

Khương Trầm Ngư choáng váng, bàn tay đang vén tóc liền khựng lại giữa không trung, một lúc lâu sau, mới chậm chạp phản ứng lại, quay đầu nhìn chằm chằm Tiết Thái, khẽ hỏi: “Ngươi đang nói gì?”.

“Có rất nhiều lang sói đang dòm ngó ngươi, chực...”.

“Không phải câu này, câu trước cơ”.

Tiết Thái hít sâu, trầm giọng nói: “Ngươi sắp trở thành đế vương một nước rồi”.

Tuy toàn thân Khương Trầm Ngư vô cùng yếu ớt, nhưng nghe đến câu này cũng kinh sợ đến mức nhảy dựng lên: “Ngươi nói cái gì? Ai thành đế vương?”.

“Ngươi đó”. Giọng Tiết Thái gần trong gang tấc, nghe rõ mồn một đến mức gần như đáng sợ: “Chính là ngươi, Khương Trầm Ngư”.

“Ngươi nói đùa cái gì thế?”.

Tiết Thái tiến sát, nhìn thẳng vào mắt nàng, lạnh lùng nói: “Ta không nói đùa. Chiêu Doãn chết rồi, ngươi chính là đế vương kế nhiệm”.

“Đùa... đùa cái gì thế!”. Cuối cùng Khương Trầm Ngư nổi giận, hất chăn nhảy xuống đất, cũng không thèm để ý mình đang đi chân trần, nói nhanh: “Trong khoảng thời gian ta hôn mê đã xảy ra chuyện gì? Tại sao ngươi lại nảy sinh suy nghĩ điên cuồng như thế? Hoàng thượng đâu? Di thể của hoàng thượng bây giờ đang ở đâu? Không, không đúng... hôm nay là ngày mười lăm à? Mẫu thân về nhà rồi ư, ta phải đi gặp bà...”. Đầu nàng đột nhiên co giật, đau đến mức ngã ra đất, nàng bị sao vậy? Rốt cuộc nàng bị sao vậy?

Tiết Thái một tay bấu lấy tay của nàng, mạnh đến nỗi nàng suýt hét lên, nhưng cái đau thấu xương cốt như thế, kỳ lạ thay đã đẩy lui, làm tan biến cơn đau đầu, nàng run rẩy ngước mắt lên nhìn hắn, thấy biểu cảm của hắn là vẻ đau thương chưa từng có.

“Tiết Thái”.

“Một bước cuối cùng”. Tiết Thái nói bằng một giọng điệu dịu dàng mà nàng chưa bao giờ nghe, hoặc là hắn chưa bao giờ nói: “Chỉ kém một bước cuối cùng, đi qua là được. Khương Trầm Ngư, ngươi đi lâu như thế, bỏ ra nhiều thứ như thế, lẽ nào, chỉ đi đến đây thôi sao?”.

“Nhưng... ta... ta... không muốn làm hoàng đế...”. Có lẽ vì giọng nói của hắn quá dịu dàng, có lẽ là vì ánh mắt của hắn quá thân thiết, Khương Trầm Ngư bỗng òa khóc: “Ta chưa bao giờ muốn thay thế Chiêu Doãn. Ta chỉ muốn đòi lại công bằng, nhưng vì hắn quá quá đáng, hắn đem tuổi thơ bất hạnh của mình ra để quy mọi tội lỗi lên người công tử, còn làm công tử tổn thương sâu sắc, thậm chí cuối cùng đã vứt bỏ công tử... Mất công tử, ta quá đau khổ, ta phải tìm chút việc để làm, mới có thể xóa bỏ nỗi đau khổ kia. Cho nên ta lựa chọn khoác lên mình chiếc áo giả tạo ‘thay trời hành đạo’ đó, lao vào vòng xoáy chính trị xấu xa bẩn thỉu, đi cướp thứ quyền thế mà người trong thiên hạ đều muốn có... Ta căn bản không hề thích việc mỗi ngày phải thiết triều, ta cũng không thích phê duyệt tấu chương, ta càng không thích mở miệng khép miệng đều phải nói ai gia này ái khanh kia... Một người như thế không phải là ta, không phải là Khương Trầm Ngư!”.

“Nhưng ngươi đã làm rất tốt. Không phải sao?”. Trong ánh mắt Tiết Thái chất chứa sự bi thương rất sâu đậm, sâu đậm đến vô cùng vô tận, khiến hắn nhìn lại yếu mềm hơn bao giờ hết.

“Tiết Thái, vừa nãy ta nằm mơ gặp Chiêu Doãn, ta mơ thấy hắn biến thành một đứa trẻ, đáng thương lắm, thực sự rất đáng thương... Ta rất hối hận, ta hối hận ta đã không cho hắn chút cơ hội nào đã biến hắn thành một kẻ dở sống dở chết, ta hối hận mình đã không thể cho hắn một cơ hội tự sửa đổi bản thân, kỳ thực hắn làm đế vương phù hợp hơn ta, xuất sắc hơn ta, ta, ta không nên cướp của hắn... Tiết Thái, hắn chết rồi, bây giờ hắn chết rồi, ta có cắn rứt thế nào cũng không cứu vãn được, ta hối hận lắm, ta thực sự thực sự rất hối hận... Ta không muốn làm nữa, ta không muốn gì nữa”.

“Ngươi chỉ cảm thấy tội lỗi mà thôi. Chiêu Doãn chết rồi, cho nên ngươi cảm thấy hổ thẹn với hắn, cho nên không chịu đăng cơ, nhưng nghe ta nói đây: Ngươi nhất định phải đăng cơ”. Khẩu khí của Tiết Thái nghe rất nghiêm túc.

Nhưng lúc này Khương Trầm Ngư căn bản không nghe được gì nữa, chỉ lắc đầu nguầy nguậy: “Ta không cần, ta không cần. Ta muốn về nhà, ta muốn gặp mẫu thân... Đúng rồi, ta không làm gì cả, không quản gì cả, ta muốn về nhà sống với mẫu thân, ta muốn cùng mẫu thân ta sống phần đời còn lại của bà, ta muốn là một đứa con gái ngoan...”. Nói đến đây, nàng loạng choạng bò dậy, lảo đảo đi ra ngoài.

Tiết Thái khẽ gầm lên: “Thế giang sơn này phải làm thế nào?”.

“Chiếu theo lịch pháp của triều ta, truyền cho Tân Dã”.

“Nó mới có một tuổi”.

“Có các ngươi phò tá nó, có thể mà”.

“Ngươi cảm thấy chuyện này có thể sao? Khắp triều đình ai nghe theo nó?”.

Bước chân Khương Trầm Ngư khựng lại, đờ đẫn một lúc lâu, sau đó mới chậm rãi quay đầu nói: “Ngươi nói đúng... được, thế thì ta và tỉ tỉ cùng lâm triều quản chính sự, tiếp tục thay nó cai quản giang sơn này, đợi nó từ từ lớn lên. Nói tóm lại, ta tuyệt không muốn tự mình xưng đế. Đây là triều đình của Chiêu Doãn, ta phải trả nó cho con trai của hắn”.

Tiết Thái lộ biểu cảm cực kỳ thất vọng.

Hai người cứ nhìn nhau chằm chằm như thế, không nói gì trong suốt một quãng thời gian dài.

Qua thời gian chừng nửa tuần trà, Tiết Thái cụp mắt xuống, cuối cùng lên tiếng, giọng nói âm u đến mức đáng sợ: “Thế thì, xin thứ tội cho thần không thể ở cạnh thái hậu được”.

Trái tim Khương Trầm Ngư chùng xuống, cuống quýt hỏi: “Cái gì?”.

“Tạm biệt. Thái hậu của Bích quốc”. Tiết Thái lạnh lùng nói nốt rồi quay người bỏ đi.

“Đợi đã! Ta không cho phép ngươi đi”.

Tiết Thái dừng chân, nhếch môi cười chế giễu: “Chỉ có vương giả mạnh nhất mới có thể ra lệnh cho ta. Còn ngươi, một nữ nhân nhu nhược như thế, cứ ôm đứa trẻ tiếp tục mơ giấc mơ cả nhà hòa thuận đi”.

Khương Trầm Ngư vội vàng kéo hắn lại, nhưng chỉ tóm được một ống tay áo của Tiết Thái, sau đó nghe tiếng “soạt”, tay áo rách toạc. Tiết Thái không buồn liếc mảnh tay áo bị kéo rách lấy một cái, cứ thế sải bước ra khỏi Ân Phái cung.

Chỉ còn lại Khương Trầm Ngư, thẫn thờ nhìn nửa ống tay áo trong tay mình, rõ ràng mới vào đầu thu khí hậu mát mẻ dễ chịu mà phút này sao giá buốt như băng.

Tiết Thái không xuất hiện nữa.

Mới đầu Khương Trầm Ngư còn cảm thấy hắn chỉ là giận dỗi với mình, nhưng ngày tiếp ngày trôi qua, Tiết Thái vẫn không thấy đâu, nàng mới biết lần này hắn làm thật.

Đại tang của Chiêu Doãn do một tay Khương Họa Nguyệt tổ chức, bấy giờ nàng mới phát hiện kỳ thực tỉ tỉ của mình rất có năng lực, những chuyện vụn vặt phức tạp như thế, nàng ta đều xử lý ổn thỏa tỉ mỉ cẩn thận, có lớp lang, thuận lợi. Vì thế, một mặt ý định nhường vị trao quyền trong lòng càng kiên định, mặt khác lại bị chuyện Tiết Thái làm cho bứt rứt chẳng yên, không sao chuyên tâm xử lý triều chính được.

Cỏ lúc nàng nghĩ, bản thân cũng cảm thấy mình rất nực cười: Mình lại đi giận dỗi với một đứa trẻ lên chín. Nhưng Tiết Thái... đối với nàng mà nói, chưa bao giờ chỉ đơn giản là một đứa trẻ... Thậm chí có lúc Khương Trầm Ngư cảm thấy, vì sự tồn tại của Tiết Thái mà khiến nàng cảm thấy công tử chưa thực sự ra đi, vẫn còn một phần nào đó vĩnh viễn ở lại trên đời, ở lại bên cạnh nàng.

Nhưng bây giờ... đến Tiết Thái cũng đi rồi... mấy ngày liền Khương Trầm Ngư ăn không ngon, ngủ không yên, ngủ mơ nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, luôn cảm thấy Tiết Thái quay về rồi, nhưng đến lúc mở mắt ra, lại tràn đầy thất vọng.

Bộ dạng lo lắng không yên của nàng, cuối cùng đến Ác Du cũng nhận ra, nàng ta nói: “Nương nương, tại sao nương nương phải quan tâm đến Tiểu Tiết Thái đó như thế nhỉ. Tên nhóc già đời, cao ngạo, không coi ai ra gì đó, dám cãi lại nương nương, không hề có vẻ gì là thần tử. Loại nô tài này, bớt đi một đứa cũng chẳng sao, tránh cho mọi người học theo, còn tưởng là nương nương dễ bị bắt nạt”.

Nàng không trả lời. Ác Du không thể hiểu, không thể biết nếu trên đời này có một người, từng cùng mình đi qua giai đoạn đau khổ nhất, thì người ấy sẽ trở thành một phần không thể thiếu của mình.

Đối với nàng mà nói, Tiết Thái chính là người không thể thiếu ấy.

Thế sự thần kỳ biết bao, bao năm nay, loạng choạng, lảo đảo đi được đến hôm nay, biết bao người hợp rồi tan, tan rồi hợp, đến đi vội vã, biến mất không dấu vết.

Chỉ có hắn, từng bước từng bước đi bên cạnh nàng.

Bây giờ, hắn quay người bỏ đi, cạnh nàng liền trống một khoảng, không thể bù đắp được.

Phải làm sao... phải làm sao...

Hoài Cẩn rót một chén trà, bưng đến bên nàng, dịu dàng nói: “Nương nương, uống trà đi”.

Khương Trầm Ngư cúi đầu, lại là trà cúc Đại Khê, trong lòng càng thêm rối bời. Người giống như mình đã thích một loại trà là sẽ uống mãi loại trà đó, nếu đã quen với một người, nay đột nhiên người ấy biến mất, sao có thể chịu nổi...

“Nương nương, nếu không... nương nương đi thăm thừa tướng đi”.

Khương Trầm Ngư run run hỏi: “Cái gì?”.

Hoài Cẩn cười cười, trong nụ cười hàm chứa sự thấu hiểu trong vắt như nước: “Nương nương và thừa tướng giận dỗi mấy ngày nay, cũng đến lúc làm hòa rồi. Nương nương đã không nỡ rời xa thừa tướng như thế, thế thì hãy dẹp tự ái đi làm lành đi. Nô tì nghĩ, thừa tướng có lẽ cũng đang đợi nương nương đó”.

Khương Trầm Ngư “a” một tiếng, rồi sững người ra.

“Nương nương, thừa tướng tuy có tài năng lớn, là thần đồng trăm năm mới gặp, nhưng ngài chung quy vẫn còn quá nhỏ, cũng có chỗ ngài làm không tốt lắm, nhưng có chỗ ngài lại làm rất tốt, đó là vì không có ai dạy ngài. Nương nương, thử nghĩ mà xem, thừa tướng bảy tuổi cả nhà đã diệt vong, ông bà cha mẹ, họ hàng thân thích đều chết hết cả. Bây giờ đến nương nương cũng bỏ mặc ngài, nương nương cảm thấy, giờ một mình ngài ở nhà, trong phủ đệ cô quạnh như thế, lẽ nào không đáng thương sao? Cho nên...”.

Hoài Cẩn còn chưa nói hết câu, Khương Trầm Ngư đã bật dậy xông ra ngoài, vừa chạy vừa hét: “Chuẩn bị xe! Chuẩn bị xe! Ta phải đến phủ thừa tướng...”.

Hoài Cẩn nói rất đúng.

Kỳ thực Tiết Thái còn đáng thương hơn nàng. Chí ít, nàng còn có cha mẹ tỉ tỉ, nhưng Tiết Thái ngoài cô cô Tiết Mính vẫn đang ở trong lãnh cung, thì đâu còn người thân nào nữa.

Nếu mình thật sự quan tâm hắn, không nỡ xa hắn, thì nên cố gắng giữ hắn lại, biện pháp tích cực này mới giống phong cách hành xử vốn có của Khương Trầm Ngư.

Tiết Thái, trên thế gian này nhất định có phương pháp vẹn cả đôi đường. Ta không làm hoàng đế, nhưng ngươi cũng không được đi, có được không? Có được không?

Khương Trầm Ngư vô thức túm lấy tay áo mình, giống như túm lấy hy vọng chân thực nhất, không nỡ buông tay.

Một ngọn đèn cô lẻ chiếu lên khung cửa sổ lạnh giá.

Những cành trúc đung đưa nhè nhẹ trong cơn gió đêm, phát ra tiếng kẽo kẹt kẽo kẹt, càng làm nổi bật sự u tịch của không gian.

Bóng người màu đen hắt lên giấy dán cửa sổ màu trắng dường như cũng ngừng cử động

Khi Khương Trầm Ngư đặt chân lên Cơ phủ, được Thôi quản gia dẫn vào sân trong, từ xa nhìn thư phòng, thứ nàng thấy chính là cảnh tượng này.

Trước sau Tiết Thái vẫn không dọn ra khỏi Cơ phủ, sau khi đã trở thành thừa tướng, vốn dĩ hắn có thể có phủ đệ riêng, nhưng hắn lại từ chối. Về điểm này, Khương Trầm Ngư hiểu rất rõ, nếu đổi lại là nàng, nàng cũng chọn ở lại Cơ phủ. Không chỉ vì nơi này còn lưu giữ hơi hướm của công tử, điều quan trọng hơn là, phủ đệ của Cơ Anh thực sự rất tiện lợi, rất gần hoàng cung, giao thông thuận tiện, hơn nữa đồ đạc trong phủ đều đầy đủ, cần gì có nấy, thiết kế hợp lý, cho dù làm chuyện gì, đều có thể mất thời gian ngắn nhất để đạt hiệu suất cao nhất.

Nhưng bây giờ, khi nàng tận mắt nhìn thấy cảnh tượng Tiết Thái ở trong Cơ phủ, nàng lại cảm thấy mình đã sai. Bởi vì, mọi thứ hiện lên trước mắt nàng đều thê lương như thế, sống ở đây, sao có thể vui vẻ được?

Thôi quản gia theo sau nàng nói: “Từ khi Tiết tướng tiếp nhận nơi này, đã giải tán toàn bộ người hầu, chỉ giữ lại lão nô và một trù nương nấu cơm. Bình thường lão nô chỉ giúp dọn dẹp nhà cửa, còn những việc khác không được mó tay vào”.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bóng người đang cúi đầu đọc sách bên bàn hắt trên giấy dán cửa sổ, khẽ hỏi: “Thừa tướng vẫn luôn một mình thế à?”.

“Tiết tướng tính cách khá cô độc, hàng ngày chỉ có bọn thuộc hạ của ngài đến nghị sự, họa hoằn mới có người đến thăm, hơn nữa...”. Thôi quản gia nói đến đây, lại thở dài, không biết là thương cảm hay là gì khác: “Ngài ấy không biết vì sao không tín nhiệm một ai, ngài ấy không gọi, bọn lão nô cũng không được tự tiện vào thư phòng của ngài”.

Trái tim của Khương Trầm Ngư nặng nề thêm mấy phần, nàng xua xua tay, ra hiệu cho Thôi quản gia lui xuống, sau đó một mình tiến lên đẩy cửa thư phòng ra.

Đúng như nàng nhìn qua cửa sổ giấy, Tiết Thái đang đọc sách, nghe thấy tiếng động cũng không ngẩng đầu, vẫn vùi đầu trong đống sách như cũ.
 
Quyển 2 - Chương 90


Hắn đã không chào hỏi nàng, nàng cũng không lên tiếng, đầu tiên nàng dạo một vòng quanh thư phòng. Thư phòng gần như không có bất kỳ thay đổi nào so với lần trước nàng thấy, xem ra, Tiết Thái cũng cố ý giữ nguyên hiện trạng. Cây cung treo trên tường cũng không được gỡ xuống, Tiết Thái chưa chuẩn bị xong sao?

Khương Trầm Ngư im lặng quan sát một lúc, sau đó đi đến cạnh bàn, ngó đầu qua nhìn, Tiết Thái đang dọc “Lục Tổ đàn kinh”, bèn chậm rãi đọc thuộc một đoạn trong đó: “Tâm bình hà lao trì giới? Hành trực hà dụng tu thiền? Ân tắc thân dưỡng phụ mẫu, nghĩa tắc thượng hạ tương lân. Nhượng tắc tôn ti hòa mục, nhẫn tắc chúng ác vô huyên. Nhược năng toàn mộc xuất hỏa, ứ nê định sinh hồng liên. Khổ khẩu đích thị lương dược, nghịch nhĩ tất thị trung ngôn...”[1]

[1] “Lục Tổ đàn kinh” hay còn gọi là “Pháp bảo đàn kinh”, một trong những bộ điển tịch thiền tông Phật giáo kinh điển, do Lục Tổ Huệ Năng khẩu thuật, đệ tử là Pháp Hải ghi lại thành sách, về sau gọi là Đàn kinh. Đoạn văn trên dịch nghĩa như sau: “Tâm bình thản thì cần gì phải vất vả giữ giới luật, hành vi chính trực thì cần gì dụng công tu thiền? Ơn thì phụng dưỡng cha mẹ, nghĩa thì yêu thương anh em. Nhượng thì tôn ti hòa thuận, nhẫn thì mọi điều ác đều tan biến. Nếu có thể đục gỗ tạo lửa, ở giữa bùn tất sinh hoa sen đỏ. Đắng miệng chính là thuốc lành, nghịch tai chính là lời trung...”.

Quả nhiên, đọc đến đây, Tiết Thái cười phì một tiếng, ánh mắt vẫn đặt trên cuốn sách như cũ, không chịu nhìn nàng.

Khương Trầm Ngư dứt khoát đưa tay chặn lên cuốn sách đó, nói: “Ngươi thấy ta đến đây, cho nên cố ý đọc cuốn sách này để châm chích ta phải không? Có gì sao không nói thẳng trước mặt ta?”.

“Ta và thái hậu chẳng có gì để nói cả”. Tiết Thái rút cuốn sách trong tay nàng ra, quay sang hướng khác tiếp tục đọc.

“Thật uổng cho ngươi là thừa tướng của Bích quốc, ăn nói càn rỡ như vậy, đáng bị chém đầu”.

“Thế thì chém đi”. Tiết Thái tỏ vẻ không coi lời nàng nói ra gì: “Dù sao hai năm trước đầu của ta cũng nên bị chém rồi”.

“Tiết Thái!”. Khương Trầm Ngư giật cuốn sách trong tay hắn, giận dữ nói: “Nhìn ta đây!”.

Tiết Thái ngước mắt lên, lườm nàng: “Thái hậu có gì căn dặn à?”.

“Không cho phép ngươi nói với ta lạnh nhạt như thế nữa”. Lại thấy Tiết Thái cười nhạt, Khương Trầm Ngư theo bản năng giơ tay ra nhéo tai Tiết Thái.

E là Tiết Thái cả đời này cũng chưa bị người khác đối xử như thế, bất giác sững người.

Còn Khương Trầm Ngư bây giờ mới ý thức rốt cuộc mình đã làm chuyện luống cuống như thế nào, nhìn bàn tay mình rồi lại nhìn tai Tiết Thái, cứ thế đứng như phỗng.

Hai người mắt to mắt nhỏ nhìn nhau im lặng một lúc.

Cuối cùng vẫn là Khương Trầm Ngư tự tỉnh ra trước, hoang mang thu tay lại, bối rối giấu sau lưng, hắng giọng mấy tiếng nói:

“Tóm lại, ta cố ý tới đây thăm ngươi, ngươi... không được phép bày bộ mặt thần giữ cửa đó ra với ta”.

Tiết Thái im lặng nhìn nàng, đồng tử đen láy sâu thẳm, giống như không chút biểu cảm, lại giống như vì chất chứa quá nhiều biểu cảm nên không thể nhìn ra nổi.

Trái tim Khương Trầm Ngư bỗng nhiên mềm nhũn, nàng dịu giọng nói: “Tiết Thái, ngươi luôn hiểu lý lẽ, thế thì hôm nay ta đến đây để nói lý với ngươi. Nếu ngươi có thể thuyết phục ta, ta sẽ nghe theo ngươi, nhưng nếu ta thuyết phục được ngươi, thì ngươi phải nghe theo ta, ngoan ngoãn quay lại lên triều cùng ta. Ngươi... đồng ý chứ?”.

Tiết Thái chăm chăm nhìn nàng một lúc lâu, rồi nhìn sang chỗ khác. Theo sự hiểu biết của Khương Trầm Ngư về hắn, biết rằng như vậy là hắn đã đồng ý. Thế nên nàng hít một hơi thật sâu, nghiêm mặt nói: “Vậy ta nói trước. Tiết Thái, ta không muốn xưng đế, có ba nguyên nhân. Một là, nữ tử làm hoàng đế, đối với đất nước là tai họa. Tuy bây giờ đã có một vị nữ đế của Trình quốc là Di Thù, nhưng, mọi người nói cô ta như thế nào, nhìn cô ta như thế nào, chúng ta đều rất rõ. Khương Trầm Ngư ta không có dũng khí đi thách thức truyền thống lễ pháp cả mấy nghìn năm”.

Tiết Thái không có bất cứ phản ứng nào.

Khương Trầm Ngư lại nói: “Thứ hai, nếu như ta xưng đế, ngươi để Tân Dã sau này dùng thân phận gì để kế thừa Bích quốc đây? Nếu ta là hoàng đế, giang sơn tất đổi, từ đây hoàng tộc họ Khương không còn là họ Lý, thế thì chiếu theo luật pháp, trừ phi giữa chừng có người tranh quyền đoạt vị, nếu không quân vương đời sau sẽ phải mang họ Khương. Ta không thể để Khương tộc đi đến bước này, gánh lấy tội danh soán quyền đổi nước. Cho dù ta có thể nhất thời dùng thủ đoạn cứng rắn để khống chế thời cuộc, nhưng trăm năm sau, sử sách sẽ viết về ta như thế nào? Viết về Khương thị như thế nào? Lại viết về Tân Dã như thế nào? Việc này đối với nó, thực sự quá tàn nhẫn. Tiết Thái, bao nhiêu năm qua, bởi vì chuyện kế vị mà những đứa trẻ bị hủy hoại còn chưa đủ nhiều sao? Nếu Chiêu Doãn không bị đưa vào cung, hắn đâu có hình thành tính cách méo mó như thế, công tử và Hy Hòa đâu có bị chia lìa; Di Phi nếu không mồ côi mẹ từ nhỏ, thì sẽ không quái gở, điên điên cuồng cuồng; Di Thù nếu không bị cha mình cưỡng bức, thì đâu có nham hiểm buông thả, máu lạnh như vậy; thậm chí... cả ngươi. Tiết Thái, đối với một con người, tuổi thơ yên lành quan trọng biết bao, ngươi đáng lẽ phải biết rõ điều này hơn ai hết. Chúng ta đã không thể cứu vãn được, thế nhưng, chí ít chúng ta có thể để lại hạnh phúc và niềm vui cho đời sau, không phải sao? Ta không thể ích kỷ, chỉ nghĩ cho riêng mình như thế, ta phải nghĩ cho Tân Dã, ta phải nghĩ cho sự an cư lạc nghiệp của bách tính thiên hạ”.

Ánh mắt Tiết Thái sáng rỡ lên mấy hồi, dường như có chút bị thuyết phục.

Khương Trầm Ngư chầm chầm đặt cuốn kinh thư trong tay xuống mặt bàn: “Thứ ba, Tiết Thái, ngươi biết không? Lúc sinh thời Chiêu Doãn nói với ta, nếu như ta thực sự muốn tốt cho Tân Dã, vậy thì hãy nhận nó làm con, biến nó thành con trai của ta, tự tay nuôi dưỡng nó. Đương nhiên, khi đó tình hình khác bây giờ, Chiêu Doãn vẫn còn sống, có lẽ phi tử khác cũng sẽ có con cái, cho nên muốn lập Tân Dã làm thái tử, người duy nhất kế vị hoàng vị, thì được hoàng hậu nuôi dưỡng là danh chính ngôn thuận nhất. Tân Dã bây giờ đã không phải lo lắng chuyện này nữa. Nhưng khi đó, ta nghe Chiêu Doãn nói xong, trong lòng rất khó chịu, tối hôm đó, ta đã nằm mơ. Ta mơ thấy rất nhiều cung nữ thái giám xông vào Gia Ninh cung, bế Tân Dã đi, nói là phải giao cho hoàng hậu cũng chính là ta nuôi nấng. Lúc đó tỉ tỉ ngã trên mặt đất, vừa khóc vừa bò lên phía trước, đòi trả con lại cho tỉ ấy, nhưng đều vô dụng cả. Sau đó, tỉ tỉ bị điên, bị nhốt sau hàng rào, đầu tóc xõa xượi, mặt đầy máu và nước mắt kêu gào: ‘Trả con lại cho ta, trả con lại cho ta...’. Ta tỉnh mộng, toàn thân run rẩy”.

Bờ môi Tiết Thái mấp máy mấy cái, sau đó lại mím chặt hơn.

“Tiết Thái, khi tỉnh lại ta đã tự nói với mình, người sau hàng rào đó là tỉ tỉ của ta, tuy không có máu mủ ruột rà nhưng tình như chân tay, ta không thể đẩy tỉ tỉ của mình vào hoàn cảnh đó được, ta không thể hủy hoại một đời của tỉ ấy. Chiêu Doãn có thể vô tình với Cơ Anh, Di Thù có thể ép các ca ca của mình chết, nhưng ta không thể. Nếu ta cũng làm như thế, thì ta so với bọn họ - những kẻ ta coi thường - có gì là khác biệt đâu? Cho nên, Chiêu Doãn chết rồi, hoàng vị này là của Tân Dã, không thể, cũng không cho phép bất cứ rắc rối nào phát sinh. Ngươi có thể hiểu không?”.

Tiết Thái lặng im cầm cuốn kinh thư lên, quay người nhét nó vào lại giá sách, sau đó, vẫn giữ tư thế quay lưng với nàng, nhẹ nhàng, ngập ngừng, cực kỳ khó mở lời, nói: “Ta chỉ là... muốn... ngươi lấy chồng mà thôi...”.

Mắt Khương Trầm Ngư đột nhiên trợn tròn, không thể không nói, nàng đã từng nghĩ vô số khả năng, nhưng lại chưa hề nghĩ qua, lý do Tiết Thái cố chấp lại là điều này.

Ánh đèn chiếu lên lưng Tiết Thái, cũng kéo bóng của hắn trùm lên giá sách, nhìn như thể có hai người. Còn hắn xoay lưng lại với Khương Trầm Ngư, trước sau vẫn không quay người lại, thấp giọng nói: “Chiêu Doãn chết rồi, ngươi chính là thái hậu, nghĩa là số phận đã định sẽ chết già trong cung, cô độc cả đời. Nhưng ngươi mới mười bảy tuổi, con đường tương lai còn rất dài rất dài, tuy... Cơ Anh chết rồi, nhưng ngươi sẽ gặp những người khác biết trân trọng ngươi, đối tốt với ngươỉ - chỉ cần ngươi có cơ hội đó. Mà xưng đế, chính là cơ hội tốt nhất cũng là duy nhất của ngươi. Sau khi làm nữ hoàng, ngươi có thể mở hậu cung, ngươi có thể tùy ý lựa chọn trượng phu mà mình thích, ngươi... có thể có hạnh phúc...”.

Giọng hắn càng nói càng nhỏ, cuối cùng lý nhí đến mức gần không nghe ra.

Sống mũi Khương Trầm Ngư cay cay, không kìm chế được tiến lên phía trước, ôm Tiết Thái từ đằng sau.

Tiết Thái thấp hơn nàng một cái đầu, nàng ôm hắn, giống như ôm một đứa trẻ - mà trên thực tế, hắn cũng thực sự là một đứa trẻ.

“Đồ ngốc... đồ ngốc...”. Nước mắt của nàng lăn xuống, vừa cảm động vừa chua xót: “Sao ngươi có thể nghĩ đến lý do này? Lại còn vì lý do này mà giận dỗi với ta, không thèm để ý ta, để ta buồn mất mấy ngày... đồ ngốc...”.

Tiết Thái đứng bất động, để mặc cho nàng ôm, khuôn mặt giấu vào bóng tối, dù là ai cũng không thể nhìn rõ biểu cảm của hắn lúc này.

“Ta...”. Khương Trầm Ngư nói ngắt quãng: “Ta không muốn lấy chồng, thật đó. Có lẽ ngươi và tất cả mọi người đều thấy, ta là một nữ nhân mệnh khổ, người ta muốn lấy thì không thích ta, lại còn chết rồi. Người cưới ta cũng không thích ta, cũng chết. Là quốc mẫu, ta còn chưa thực sự trưởng thành đã bắt đầu già nua; sau này làm thái hậu tức là cả đời sẽ tàn úa sớm như thế này. Nhưng đồ ngốc ạ, tại sao ngươi không biết? Ở đây của ta, ở chỗ này...”. Nàng sờ lên lồng ngực của mình: “Bởi vì từng có một người, một người hoàn mỹ như thế, cho nên, tuy ta cô độc, nhưng không thấy trống vắng”.

Nàng xoay người Tiết Thái lại, nâng mặt hắn lên, dùng ánh mắt dịu dàng vô hạn cũng bi thương vô hạn, nhìn thẳng vào hắn nói: “Đúng như lời ngươi nói, chỉ có người đẹp hơn cả Hy Hòa phu nhân mới có thể trở thành thê tử của ngươi...”.

Hàng mi Tiết Thái rung lên một cái, lên tiếng phản bác: “Ta chỉ cố ý gây khó dễ...”.

Khương Trầm Ngư mỉm cười: “Nhưng đổi lại là ta, thực sự là cảm giác ‘tằng kinh thương hải nan vi thủy’[2]”.

[2] Câu thơ nổi tiếng của Nguyên Chẩn, nghĩa là “ai đã từng qua biển lớn sẽ cảm thấy nước bình thường không sao sánh được nước biển”, ví với việc trong lòng Khương Trầm Ngư không có ai được như Cơ Anh.

Tiết Thái lại trầm ngâm, hàng mi dài cụp xuống, che phủ đôi mắt.

“Cho nên, Tiết Thái...”. Khương Trầm Ngư kéo tay hắn, cứ thế bốn bàn tay nắm lấy nhau, truyền hơi ấm cho nhau: “Chúng ta làm lành nhé. Có được không?”.

Bàn tay Tiết Thái run lên rõ rệt.

Bấy giờ Khương Trầm Ngư mới để lộ một chút biểu cảm ấm ức, hạ thấp giọng nói: “Ta có thể coi chuyện trước đây của chúng ta là cãi nhau không? Nếu như có thể, ta có thể đề nghị không cãi nhau nữa không? Tiết Thái, nếu bây giờ hỏi ta người ta không muốn mất đi trên đời này nhất là ai... câu trả lời của ta chính là ngươi”.

Hơi thở của Tiết Thái loạn nhịp rõ rệt.

“Nếu ta mất đi mẫu thân, bởi vì trong tiềm thức luôn biết sẽ có một ngày như thế, cho nên ta chuẩn bị đủ dũng khí để đi tiếp; nếu ta mất đi tỉ tỉ, tuy đau thương nhưng ta sẽ cố gắng nuôi nấng Tân Dã, để tỉ ấy không phải vương vấn; nếu ta mất đi những người khác, ta đều có đủ mọi phương thức để bù đắp và cắt bỏ; nhưng... nếu ta mất ngươi... Tiết Thái, ngươi có biết không, đối với ta, ngươi không chỉ là ngươi đâu. Ngươi là lý do ta đã yêu công tử năm mười ba tuổi; ngươi là thanh kiếm báo thù cho công tử của ta; ngươi còn là cánh tay thứ ba từ sau khi ta lên ngôi hoàng hậu Bích quốc...”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư úp hai bàn tay vào nhau, bao bọc tay Tiết Thái bên trong, ánh mắt chăm chú nhìn hắn, nói rành rọt từng chữ từng chữ một: “Số mệnh đã định đời này ta và ngươi kết duyên, thế thì, tuyệt đối không cho phép những chuyện ngoài thiên mệnh phá hỏng. Chúng ta làm lành nhé”.

Tiết Thái nhìn chằm chằm hai đôi bàn tay giao nhau rất lâu, cuối cùng, gượng gạo gật đầu một cái, coi như đồng ý.

Nụ cười lập tức thắp sáng gương mặt Khương Trầm Ngư: “Thế là nói chắc rồi nhé, ngày mai ngươi phải lên triều đấy”.

Tiết Thái khẽ “ừm” một tiếng.

Khương Trầm Ngư nhìn hắn đăm đăm, thở dài buồn bã nói: “Ngươi... có lúc thật giống ca ca của ta...”.

Khóe mắt Tiết Thái bắt đầu co giật.

Khương Trầm Ngư cười phì: “Nhưng nhiều lúc ngươi lại giống tiểu đệ đệ không hiểu chuyện hơn”.

Tiết Thái lập tức rút tay từ trong lòng bàn tay nàng ra, sau đó cau mày, trừng mắt lườm nàng.

Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, cố ý chọc ghẹo: “Thực ra, ngươi biết không? Tuy làm thái hậu không thể gả cho người khác một cách quang minh chính đại, nhưng kỳ thực cũng có thể có hậu cung, thu thập một đống nam sủng. Ví như Triệu Cơ và Lao Ái đời Tần; ví như Phùng thái hậu va các thần tử

Vương Duệ Lý Xung Lý Dịch thời Bắc Ngụy, lại ví như...”.

Tiết Thái lập tức quay trở lại bên cạnh thư án, vừa lấy giấy viết thư bắt đầu viết hồi âm, vừa lạnh lùng nói: “Nếu nương nương không có chuyện gì khác thì mời về đi. Vi thần rất bận”.

Khương Trầm Ngư thấy đã đạt được mục đích, bèn mím môi cười quay người chuẩn bị rời đi. Vừa đi đến cửa, sau lưng vang lên tiếng của Tiết Thái: “Đợi đã”.

Nàng quay đầu, ánh mắt lưu chuyển: “Chuyện gì? Tiết đệ đệ?”.

Tiết Thái không có phản ứng gì với cách xưng hô này của nàng, trên khuôn mặt nhỏ nhắn, nghiêm túc hiện lên một sự thương xót kỳ lạ: “Những lời ngươi nói hôm nay, từng chữ ta đều ghi nhớ”.

“Cho nên”. Thấy hắn nghiêm trang như thế, nàng lại cảm thấy bất an.

“Cho nên, nếu sau này xảy ra chuyện gì, ngươi chỉ cần nhớ đêm nay, ngươi đã nói những lời này là đủ”.

“Hả?”. Nàng càng lúc càng không hiểu.

“Không có chuyện gì. Ngươi đi đi”. Tiết Thái nói xong, cúi đầu bắt đầu viết thư.

Khương Trầm Ngư ngơ ngác nhìn hắn một lúc, lòng biết rõ nếu hắn không muốn nói, thì dù nàng tiếp tục truy hỏi cũng chẳng ích gì, thôi bỏ đi, sớm muộn gì cũng biết thôi. Cứ nghĩ đến nàng và Tiết Thái đã giảng hòa, lòng không kìm được vui vẻ, suốt dọc đường cứ tủm tỉm cười đi ra khỏi phủ. Nàng lên xe ngựa, ngồi trong xe nhớ đến một loạt phản ứng của Tiết Thái ban nãy, nhớ đến câu nói của hắn - “Ta... chỉ là... muốn ngươi lấy chồng mà thôi...”. Trong lòng vừa ngọt ngào lại vừa chua xót.

Ngọt ngào đương nhiên là vì Tiết Thái lại nghĩ cho nàng đến mức này, một đứa trẻ cao ngạo, không coi ai ra gì như thế, lại có thể một lòng một dạ nghĩ cho nàng, ấm áp biết bao, cảm động biết bao.

Chua xót là vì đúng như hắn nói, trở thành nữ đế nàng mới có cơ hội có được mái ấm và hạnh phúc về tình cảm. Còn làm thái hậu... cái gọi là nam sủng chẳng qua chỉ là nói giỡn mà thôi. Nàng không phải là người như thế. Về điểm này, nàng biết rõ và Tiết Thái cũng hiểu rất rõ.

Mẫu thân, xin lỗi người... cả đời này của con gái, xem ra thật sự vô duyên với việc sinh con đẻ cái, cử án tề mi rồi... Vừa nghĩ tới đây, xe ngựa đột ngột dừng lại, sự va đập bất ngờ khiến nàng nhất thời không ngồi vững nổi, ngã sang một bên. Không màng tới cánh tay đau nhức, nàng vội vàng vén rèm cửa sổ lên, thò đầu ra hỏi: “Xảy ra chuyện...”.

Mới nói ba tiếng, thanh âm đã ngưng bặt.

Một mũi tên xé gió bay tới, cơ hồ sát sàn sạt má nàng, cắm phập vào thành xe.

Khương Trầm Ngư lập tức rụt vào trong xe, sau đó, bên ngoài vang lên tiếng hò hét của thị vệ và tiếng leng keng của binh khí va vào nhau, thỉnh thoảng còn có tiếng rên đau đớn vì bị thương, hỗn loạn vô cùng...

Khương Trầm Ngư co mình trong xe, túm chặt vạt áo của mình, không kìm được run bần bật. Lần này xuất cung chỉ là ý muốn tức thời của nàng, vì thế không mang theo nhiều hộ vệ, hơn nữa phủ Kỳ Úc hầu rất gần, cứ nghĩ là sẽ không thể xảy ra chuyện gì, chưa từng nghĩ lại bị phục kích như thế này.

Là ai?

Là ai muốn ám sát nàng?

Nhất thời, trong đầu lóe lên vô số suy nghĩ, nhưng mỗi suy nghĩ đều tàn nhẫn đến mức khiến người ta sợ hãi.

“Phập” một tiếng vang lớn, một lưỡi đao chém vào thành xe, rồi kéo mạnh một cái, cả thùng xe liền vỡ toác ra như một chiếc hộp giấy. Thành xe đổ xuống, cuối cùng Khương Trầm Ngư cũng nhìn thấy tình hình bên ngoài - Hai mươi thị vệ nàng mang theo đều ngã trên mặt đất, chết đi trong bộ dạng vô cùng đáng sợ.

Tiếng gió thổn thức trên con phố dài vắng vẻ, mười mấy tên áo đen bịt mặt bao vây nàng ở giữa.
 
Quyển 2 - Chương 91


Đây là lần thứ hai trong đời Khương Tram Ngư gặp phục kích.

Lần trước là ở Trình quốc. Lần đó chí ít vẫn còn có Sư Tẩu ở bên cạnh nàng, vì thế tuy thê thảm, nhưng cũng không cảm thấy quá sợ hãi, còn lần này, lại thực sự chỉ còn lại một mình nàng.

Những người này muốn làm gì? Bọn chúng muốn có thứ gì? Nếu như có thể thương lượng, có lẽ vẫn còn một cơ hội sống... Nhưng một tên áo đen trong đó giơ tay lên làm hiệu “giết”, trái tim Khương Trầm Ngư đột ngột chìm xuống tận đáy vực sâu - Thứ chúng muốn chính là tính mạng của nàng! Cho nên hoàn toàn không cho nàng bất cứ cơ hội nào!

Nhìn thấy những tên sát thủ lao vào nàng từ bốn phương tám hướng, Khương Trầm Ngư không khỏi nhắm mắt lại một cách tuyệt vọng. Nhưng, chính trong chớp mắt nàng nhắm mắt đó, bên tai tiếng gió rít vang lên, vô số thanh âm hỗn loạn đột nhiên trỗi dậy, nỗi đau không ập đến như trong tưởng tượng, Khương Trầm Ngư ngây ra một lúc rồi mới chầm chậm mở mắt, chỉ thấy mười tên áo đen bịt mặt đó vẫn giữ nguyên tư thế lao tới, không hề nhúc nhích, nhưng trong đôi mắt để lộ ra ngoài khăn bịt mặt lại tràn ngập sợ hãi, cho thấy bọn chúng vẫn chưa chết.

Chuyện gì vậy?

Xảy ra chuyện gì?

Khương Trầm Ngư vội vàng quay người lại, liền thấy Chu Long.

Ngón tay của Chu Long thong thả rút về từ lồng ngực của một tên áo đen, sau đỏ nghiêng người chắp tay bái kiến nàng: “Thuộc hạ cứu giá chậm trễ, xin nương nương thứ tội”.

“Ngươi... ngươi, ngươi từ đâu ra?”. Trước khi nàng nhắm mắt, bốn bề chẳng có một ai, cứ cho là Chu Long khinh công giỏi hơn đi chăng nữa, cũng không thể chỉ trong nháy mắt có thể bay mười mấy trượng để xuất hiện ở đây, không những thế còn điểm huyệt, khống chế liền mười mấy người.

Chu Long vẫn cung kính như cũ, nói: “Bẩm nương nương, thuộc hạ vẫn ẩn mình phía dưới xe ngựa của nương nương”.

Khương Trầm Ngư kinh hãi nhìn chiếc xe ngựa đã bị tan nát thành bốn năm mảnh, duy chỉ có sàn xe là vẫn còn nguyên vẹn nằm trên bánh xe, cũng có nghĩa là, trước đó Chu Long nấp dưới sàn xe?

“Tại sao ngươi lại nấp dưới xe ngựa của ta? Còn nữa, bọn chúng là ai? Tại sao bọn chúng lại muốn giết ta...”.

“Những vấn đề này, để chủ nhân nói với nương nương”.

“Hả?”. Khương Trầm Ngư sửng sốt, kế đó quay đầu lại nhìn theo ánh mắt của Chu Long, liền thấy cuối phố, một đội người ngựa từ từ đi tới, thuần một sắc bạch y hiên ngang mạnh mẽ, áo khoác thêu đồ đằng.

Bạch Trạch.

Là Bạch Trạch.

Trái tim Khương Trầm Ngư thít chặt lại, sau đó nhìn thấy một bóng người nhỏ nhắn, đi sau đoàn người ngựa, đi về phía nàng một cách từ từ, khoan thai, bằng một khí độ ung dung thong thả.

“Tiết Thái...”. Là hắn.

Hắn... cũng... đến rồi...

Tiết Thái đi đến trước mặt nàng, khua khua tay, mười hai thiết kỵ bạch y lập tức xuống ngựa, trói gô những tên áo đen kia lại, lột khăn bịt mặt của chúng ra, để lộ dung mạo thực sự.

Tiết Thái đi đến trước mặt một tên, lạnh lùng cười: “La đại nhân, đã lâu không gặp”.

Người này ước chừng ngoài ba chục tuổi, thân hình vừa gầy vừa nhỏ, trên mặt còn có một nốt ruồi to bằng đồng tiền, dáng vẻ nhìn rất quen, nhưng nhất thời Khương Trầm Ngư không nhớ ra lai lịch của hắn.

Người đó giận dữ trừng mắt, mắt như sắp tóe ra lửa, nhưng khổ nỗi huyệt vị bị khống chế, không thể nói, vì thế đành căm hận lườm Tiết Thái.

Tiết Thái quay người, bình tĩnh nói một câu: “Giết”.

Thiết kỵ vâng một tiếng, tay giơ lên đao hạ xuống, đầu liền lìa khỏi cổ, một dòng máu vọt ra, bắn hết lên chiếc cột đằng sau lưng hắn.

Khương Trầm Ngư thất kinh, không ngờ Tiết Thái không thèm hỏi gì mà đã hạ thủ giết người. Còn những người áo đen khác hiển nhiên cũng bị kinh sợ trước cảnh tượng vừa rồi, mặt mày trắng bệch.

Tiết Thái chắp hai tay sau lưng, nhẩn nha đi qua trước mặt từng tên áo đen một, vừa đi vừa nói: “Trương Đại Đông, biểu muội của ngươi vẫn còn trong kỹ viện đợi ngươi đem tiền đến chuộc cô ta à? Lục Tiểu Chu, đi theo La Dữ Hải mười năm, hắn cuối cùng cũng chịu đề bạt ngươi, chỉ tiếc võ công của ngươi chẳng tiến bộ được chút nào. Giả Tiểu Cửu, cưới con gái của Tiêu tướng quân cũng không thể giúp ngươi một bước lên trời sao? Sao còn phải tự mình đích thân đi giết người hả...”. Mỗi khi bước qua mặt một người, hắn đều nói ra thân phận lai lịch của đối phương, nói đến mức đối phương vốn đã mặt cắt không còn giọt máu, nay lại càng mặt xám xịt như người chết.

Tiết Thái nói xong, quay người cười lạnh nói: “Các ngươi tưởng ta sẽ dùng hình tra khảo để ép các ngươi khai ra kẻ sai khiến là ai sao? Các ngươi tưởng có thể ỷ vào bí mật này để ép ta sao? Mỗi người các ngươi, ta đều rõ như lòng bàn tay, chỗ dựa sau lưng các ngươi là ai, mục đích muốn đạt được là gì, ta cũng rõ như lòng bàn tay... cho nên, ta căn bản không cần bức cung các ngươi, cũng không cần chứng cớ gì hết. Có điều...”. Nói đến dây hắn cố ý liếc Khương Trầm Ngư vẫn ngẩn người đứng nguyên tại chỗ một cái, trong ánh mắt lóe lên một thần sắc phức tạp, khi nhìn lại bọn áo đen, đã có thêm vài phần tà ác: “Hôm nay tâm trạng ta khá vui vẻ, cho nên quyết định tha cho ba người trong bọn ngươi. Ba kẻ nào trong bọn ngươi lớn tiếng trước, kể lại một lượt chân tướng sự việc cho hoàng hậu nương nương của chúng ta nghe, thì ta sẽ tha cho ba kẻ đó. Những người khác, hừ”. Tuy hắn không nói những người khác sẽ làm sao, nhưng nhìn cái đầu be bét máu tươi còn lăn lóc trên mặt đất, kết cục ra sao đã rất rõ ràng.

Vì thế, bọn áo đen nhìn nhau, sợ hãi tranh nhau kêu lên: “Nương nương! Là La Dữ Hải đại nhân chỉ thị bọn thuộc hạ đến ám sát nương nương!”.

“La Dữ Hải nhận lợi lộc của Tiêu tướng quân, nói xong việc sẽ thăng cho hắn làm quan nhị phẩm...”.

“Khương quý nhân cấu kết với Tiêu tướng quân, chỉ cần trừ bỏ nương nương, phù trợ tiểu thái tử đăng cơ, Khương quý nhân sẽ dùng bọn thuộc hạ...”.

“Thuộc hạ chỉ muốn kiếm chút tiền đi cứu biểu muội mà thôi, hu hu hu hu hu...”.

Từng giọng nói vô cùng hỗn loạn trộn lẫn với nhau. Khương Trầm Ngư ngẩn ngơ đứng nguyên chỗ cũ, chỉ cảm thấy giữa trời đất rộng lớn nhường này, bỗng nhiên chỉ còn lại một mình nàng, không còn tồn tại ai khác. Nàng không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì.

Tại sao?

Tại sao tại sao tại sao tại sao?

Bọn áo đen mồm năm miệng mười, càng nói càng loạn, càng nói càng rối, cuối cùng Tiết Thái hét một tiếng: “Dừng!”.

Những âm thanh bát nháo bấy giờ mới ngừng lại.

Tiết Thái xua xua tay, đám thiết kỵ giải những kẻ áo đen đó đi.

Bây giờ hắn mới đi đến trước mặt Khương Trầm Ngư, im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó giơ tay về phía nàng.

Rèm mi Khương Trầm Ngư run run, ánh mắt di chuyển từ bàn tay hắn lên đôi mắt hắn, rồi sau đó, đẩy tay hắn ra.

Tiết Thái để lộ biểu cảm đã đoán được trước nàng sẽ như vậy, không hề tức giận, chỉ nhìn nàng, lạnh nhạt nói: “La Dữ Hải câu kết với Tiêu Thanh xúi giục Khương quý nhân âm mưu ám sát ngươi, vốn dự định vào ngày mười lăm tháng tám sẽ tiến hành lúc ngươi về nhà thăm người thân. Nhưng ngày đó xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Ngươi vì chấn động do hoàng thượng qua đời nên hôn mê, sau đó đóng cửa không ra ngoài, La Dữ Hải hết cách, đành nằm im chờ đợi. Mà trước lúc đó, hắn và Khương quý nhân đã ngầm mua chuộc cung nữ hầu hạ thiết thân của hoàng thượng, cho hoàng thượng uống một loại độc dược khác để y chết trước thời hạn. Cũng có nghĩa là, bắt đầu từ nửa năm trước chúng đã lên kế hoạch cho tất cả. Sau khi ta nhận được tin này, để tránh đánh rắn động cỏ, ta đành im lặng quan sát, âm thầm bố trí, không vạch trần chúng ra”.

“Sau đó ngươi đã cố ý cho họ một cơ hội”. Cuối cùng Khương Trầm Ngư đã có thể lên tiếng, nhưng giọng nói khô khốc đến mức đáng sợ: “Ngươi thông đồng với thị nữ Hoài Cẩn của ta? Để nàng ta thuyết phục ta đến thăm ngươi và loan tin tức này ra ngoài, khiến những người kia cho rằng đã đến thời cơ, cho nên mai phục ở đây chờ ám sát ta? Có phải ngươi cảm thấy ta nên cảm ơn ngươi? Cảm ơn ngươi đã cứu ta?”.

“Ta chỉ là nói sự thực cho ngươi biết, có rất nhiều lang sói đang ngấm ngầm dòm ngó trong bóng tối, đợi chờ để cấu xé ngươi. Mà con sói lớn nhất tên là Khương Họa...”.

“Đủ rồi!”. Khương Trầm Ngư xé giọng hét lên.

Tiết Thái lần nữa biểu lộ ánh mắt thương xót đó, mấp máy môi, nhưng không nói nữa.

Khương Trầm Ngư bưng mặt, chỉ cảm thấy trong cơ thể dường như có một ngọn lửa đang thiêu đốt, bỏng cháy đến mức sắp phát nổ, buộc phải làm chuyện gì đó mới có thể phát tiết hết ra ngoài. Thế nên nàng quay sang Chu Long, trầm giọng nói: “Ngươi đưa ta về cung!”. Lại đi đến trước mặt một thiết kỵ: “Đưa ngựa của ngươi cho ta!”.

Thiết kỵ lập tức đưa dây cương. Khương Trầm Ngư cầm lấy, quay người lên ngựa, sau đó thúc roi một cái, con ngựa trắng kêu lên đau đớn, tung vó phi điên cuồng.

Chu Long nhìn sang Tiết Thái, Tiết Thái gật đầu với hắn, Chu Long bấy giờ mới trở người lên ngựa, đuổi theo nàng.

Trên con phố dài hun hút, hai con ngựa trắng một trước một sau phi như bay, tiếng vó ngựa vang lên cộc cộc, như thể giẫm nát trái tim của con người.

Tiết Thái nhìn theo bóng hai người, ánh mắt sâu thẳm, có chút mong chờ, lại có chút bi thương.

Khương Trầm Ngư tóm chặt dây cương, không để ý tới gió táp vào mặt, thổi tung vô số lọn tóc của nàng, mái tóc dài xòa ra, bay sang tứ phía. Nàng chỉ đỏ mắt vung roi, thúc giục bạch mã phi nhanh hơn, nước mắt trào ra theo nhịp lên xuống trên lưng ngựa, mau chóng bị gió thổi khô.

Kỹ thuật cưỡi ngựa của nàng thực ra không giỏi, nhưng lúc này rạp người trên lưng ngựa lại vững vàng đến lạ thường, đến Chu Long phóng ngựa phía sau cũng có vài phần kinh ngạc.

Qua thời gian chừng một tuần trà hai người đã đến cửa cung.

Đám thị vệ trước cửa cung đang định ngăn cản, Khương Trầm Ngư vung roi ngựa: “Bọn nô tài mắt mù, đến ai gia cũng không nhận ra sao?”.

Thị vệ cả kinh thất sắc, vội vàng quỳ xuống hành lễ.

Khương Trầm Ngư xuống ngựa, vừa rảo bước đi vào trong vừa hét lên: “Tất cả quỳ xuống cho ta! Quỳ tại chỗ không được nhúc nhích!”.

Mấy tên thị vệ định lén lút quay người chuồn đi lập tức sợ đến mức quỳ phịch xuống.

“Kẻ nào dám ngông cuồng cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”. Nàng bản tính dịu dàng, hiếm khi nghiêm khắc như lúc này, bây giờ, ba tiếng “chém” liên tiếp vang lên, tất cả bọn người đang quỳ đều cảm thấy sát khí đằng đằng ập thẳng vào mặt chúng.

Khương Trầm Ngư không nhìn bọn người đang quỳ trên đất, mà tự mình sải bước tiến về phía trước. La Hoành nghe tin vội vã chạy đến, vừa kêu một tiếng nương nương, đã bị một roi của nàng làm cho sợ mất mật, lập tức quỳ xuống.

“Ta nói lại một lần nữa”. Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn quanh, nói từng tiếng rành rọt: “Trừ Chu Long ra, tất cả kẻ khác, kẻ nào dám cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”.

Mọi người nhìn thấy ngay đến La Hoành là người có quyền thế lớn nhất trong cung cũng quỳ xuống, nhất thời sợ đến mức không dám thở, toàn thân run bần bật, cúi gằm mặt không dám ngẩng lên.

Khương Trầm Ngư đi như bay đến Gia Ninh cung.

Hai cung nữ trước điện nhìn thấy nàng, đang định mở miệng, nàng đã vung roi quất mạnh vào khoảng không bên cạnh hai cung nữ, khiến chúng nhất thời phù dung thất sắc, quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư nhấc bước, đẩy cửa điện, trong nhà, Khương Họa Nguyệt đang đắp chăn cho Tân Dã, nghe tiếng động ngẩng đầu lên, nhìn thấy nàng, sắc mặt rõ ràng trắng bệch, nhưng rất mau đã lộ một nụ cười, nói: “Muội muội... sao lại đến... giờ này?”.

Khương Trầm Ngư sầm mặt đi vào trong, quét mắt nhìn bọn cung nhân khác trong phòng một lượt, lạnh lùng hạ lệnh: “Tất cả các ngươi lui ra, quỳ hết ở bên ngoài, ta không gọi, không được phép vào”.

Đám cung nhân liền nhìn Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư nhăn mày một cái, gọi một tiếng: “Chu Long”.

Chu Long lập tức tiến lên trước, mỗi tay một người, hai tiếng vèo vèo vang lên, cung nhân bị ném ra khỏi cung, chúng rên lên thảm thiết, cũng không biết là bị văng đến đâu. Những người còn lại thấy cảnh này nào còn dám do dự, bèn lần lượt lui hết. Chỉ có vú nuôi đang bế Tân Dã vẫn còn chần chừ. Khương Trầm Ngư lập tức liếc nàng ta một cái lạnh như băng: “Ngươi cũng cút ra”.

“Vâng...”. Vú nuôi run lập cập bồng Tân Dã ra ngoài. Khi đi qua nàng, Khương Trầm Ngư bỗng giơ tay chặn lại: “Bỏ thái tử xuống”.

“Cái, cái gì ạ?”. Vú nuôi vẫn còn chấn động, kinh hãi, Chu Long đã ẵm Tân Dã ra khỏi lòng nàng ta trong nháy mắt, động tác nhanh chóng nhẹ nhàng, Tân Dã vẫn đang say ngủ không hề tỉnh giấc.

“Trả con lại cho ta!”. Khương Họa Nguyệt lập tức cuống lên, xông lên phía trước muốn ngăn cản, Khương Trầm Ngư lại tóm lấy cánh tay nàng ta, miệng nói: “Các ngươi lui hết ra”.

Chu Long một tay bế Tân Dã, một tay tóm vú nuôi, lôi vú nuôi ra khỏi cung, sau đó “cạch” một tiếng, cửa cung nặng nề đóng lại.

Khương Họa Nguyệt giãy giụa thét lên: “Trả con lại cho ta! Các ngươi muốn làm gì? Các ngươi to gan thật đấy, dám động thủ với cả thái tử!”.

Khương Trầm Ngư bỗng buông tay, Khương Họa Nguyệt không kịp thu lực về, trong nháy mắt lao về phía trước, ngã lăn ra đất, khi quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự sợ hãi: “Trầm Ngư! Muội muốn làm gì? Muội muốn làm gì hả?”.

“Muội muốn làm gì à?”. Trên gương mặt trắng trẻo của Khương Trầm Ngư không bộc lộ chút biểu cảm nào, nhìn tỉ tỉ mà mình trân trọng nhất cũng bảo vệ nhất, trong lòng tràn ngập sự lạnh lẽo: “Trái lại muội đang muốn hỏi tỉ tỉ, tỉ muốn làm gì?”.

“Cái, cái gì?”. Khương Họa Nguyệt thoáng chột dạ, nhưng vẫn cứng miệng nói: “Ta, ta không biết muội đang nói gì! Tối đến mà muội điên cái gì thế, mau trả Tân Dã lại cho ta...”.

“Tỉ tỉ cũng biết là trời tối, trăng mờ gió lặng đêm đen, thích hợp để phát điên, cũng thích hợp để giết người, có phải không?”.

Khương Họa Nguyệt tiếp tục giả ngốc: “Ta không nói chuyện phiếm với muội, ta phải đi tìm Tân Dã...”. Nói đoạn đi ra cửa.

Khương Trầm Ngư lạnh lùng nói: “Người tỉ muốn tìm bây giờ không phải là Tân Dã, mà là bọn Trương Đại Đông, Lục Tiểu Chu, Giả Tiểu Cửu đúng không?”.

Toàn thân Khương Họa Nguyệt run bắn, bước chân dừng lại.
 
Quyển 2 - Chương 92


Đây là lần thứ hai trong đời Khương Tram Ngư gặp phục kích.

Lần trước là ở Trình quốc. Lần đó chí ít vẫn còn có Sư Tẩu ở bên cạnh nàng, vì thế tuy thê thảm, nhưng cũng không cảm thấy quá sợ hãi, còn lần này, lại thực sự chỉ còn lại một mình nàng.

Những người này muốn làm gì? Bọn chúng muốn có thứ gì? Nếu như có thể thương lượng, có lẽ vẫn còn một cơ hội sống... Nhưng một tên áo đen trong đó giơ tay lên làm hiệu “giết”, trái tim Khương Trầm Ngư đột ngột chìm xuống tận đáy vực sâu - Thứ chúng muốn chính là tính mạng của nàng! Cho nên hoàn toàn không cho nàng bất cứ cơ hội nào!

Nhìn thấy những tên sát thủ lao vào nàng từ bốn phương tám hướng, Khương Trầm Ngư không khỏi nhắm mắt lại một cách tuyệt vọng. Nhưng, chính trong chớp mắt nàng nhắm mắt đó, bên tai tiếng gió rít vang lên, vô số thanh âm hỗn loạn đột nhiên trỗi dậy, nỗi đau không ập đến như trong tưởng tượng, Khương Trầm Ngư ngây ra một lúc rồi mới chầm chậm mở mắt, chỉ thấy mười tên áo đen bịt mặt đó vẫn giữ nguyên tư thế lao tới, không hề nhúc nhích, nhưng trong đôi mắt để lộ ra ngoài khăn bịt mặt lại tràn ngập sợ hãi, cho thấy bọn chúng vẫn chưa chết.

Chuyện gì vậy?

Xảy ra chuyện gì?

Khương Trầm Ngư vội vàng quay người lại, liền thấy Chu Long.

Ngón tay của Chu Long thong thả rút về từ lồng ngực của một tên áo đen, sau đỏ nghiêng người chắp tay bái kiến nàng: “Thuộc hạ cứu giá chậm trễ, xin nương nương thứ tội”.

“Ngươi... ngươi, ngươi từ đâu ra?”. Trước khi nàng nhắm mắt, bốn bề chẳng có một ai, cứ cho là Chu Long khinh công giỏi hơn đi chăng nữa, cũng không thể chỉ trong nháy mắt có thể bay mười mấy trượng để xuất hiện ở đây, không những thế còn điểm huyệt, khống chế liền mười mấy người.

Chu Long vẫn cung kính như cũ, nói: “Bẩm nương nương, thuộc hạ vẫn ẩn mình phía dưới xe ngựa của nương nương”.

Khương Trầm Ngư kinh hãi nhìn chiếc xe ngựa đã bị tan nát thành bốn năm mảnh, duy chỉ có sàn xe là vẫn còn nguyên vẹn nằm trên bánh xe, cũng có nghĩa là, trước đó Chu Long nấp dưới sàn xe?

“Tại sao ngươi lại nấp dưới xe ngựa của ta? Còn nữa, bọn chúng là ai? Tại sao bọn chúng lại muốn giết ta...”.

“Những vấn đề này, để chủ nhân nói với nương nương”.

“Hả?”. Khương Trầm Ngư sửng sốt, kế đó quay đầu lại nhìn theo ánh mắt của Chu Long, liền thấy cuối phố, một đội người ngựa từ từ đi tới, thuần một sắc bạch y hiên ngang mạnh mẽ, áo khoác thêu đồ đằng.

Bạch Trạch.

Là Bạch Trạch.

Trái tim Khương Trầm Ngư thít chặt lại, sau đó nhìn thấy một bóng người nhỏ nhắn, đi sau đoàn người ngựa, đi về phía nàng một cách từ từ, khoan thai, bằng một khí độ ung dung thong thả.

“Tiết Thái...”. Là hắn.

Hắn... cũng... đến rồi...

Tiết Thái đi đến trước mặt nàng, khua khua tay, mười hai thiết kỵ bạch y lập tức xuống ngựa, trói gô những tên áo đen kia lại, lột khăn bịt mặt của chúng ra, để lộ dung mạo thực sự.

Tiết Thái đi đến trước mặt một tên, lạnh lùng cười: “La đại nhân, đã lâu không gặp”.

Người này ước chừng ngoài ba chục tuổi, thân hình vừa gầy vừa nhỏ, trên mặt còn có một nốt ruồi to bằng đồng tiền, dáng vẻ nhìn rất quen, nhưng nhất thời Khương Trầm Ngư không nhớ ra lai lịch của hắn.

Người đó giận dữ trừng mắt, mắt như sắp tóe ra lửa, nhưng khổ nỗi huyệt vị bị khống chế, không thể nói, vì thế đành căm hận lườm Tiết Thái.

Tiết Thái quay người, bình tĩnh nói một câu: “Giết”.

Thiết kỵ vâng một tiếng, tay giơ lên đao hạ xuống, đầu liền lìa khỏi cổ, một dòng máu vọt ra, bắn hết lên chiếc cột đằng sau lưng hắn.

Khương Trầm Ngư thất kinh, không ngờ Tiết Thái không thèm hỏi gì mà đã hạ thủ giết người. Còn những người áo đen khác hiển nhiên cũng bị kinh sợ trước cảnh tượng vừa rồi, mặt mày trắng bệch.

Tiết Thái chắp hai tay sau lưng, nhẩn nha đi qua trước mặt từng tên áo đen một, vừa đi vừa nói: “Trương Đại Đông, biểu muội của ngươi vẫn còn trong kỹ viện đợi ngươi đem tiền đến chuộc cô ta à? Lục Tiểu Chu, đi theo La Dữ Hải mười năm, hắn cuối cùng cũng chịu đề bạt ngươi, chỉ tiếc võ công của ngươi chẳng tiến bộ được chút nào. Giả Tiểu Cửu, cưới con gái của Tiêu tướng quân cũng không thể giúp ngươi một bước lên trời sao? Sao còn phải tự mình đích thân đi giết người hả...”. Mỗi khi bước qua mặt một người, hắn đều nói ra thân phận lai lịch của đối phương, nói đến mức đối phương vốn đã mặt cắt không còn giọt máu, nay lại càng mặt xám xịt như người chết.

Tiết Thái nói xong, quay người cười lạnh nói: “Các ngươi tưởng ta sẽ dùng hình tra khảo để ép các ngươi khai ra kẻ sai khiến là ai sao? Các ngươi tưởng có thể ỷ vào bí mật này để ép ta sao? Mỗi người các ngươi, ta đều rõ như lòng bàn tay, chỗ dựa sau lưng các ngươi là ai, mục đích muốn đạt được là gì, ta cũng rõ như lòng bàn tay... cho nên, ta căn bản không cần bức cung các ngươi, cũng không cần chứng cớ gì hết. Có điều...”. Nói đến dây hắn cố ý liếc Khương Trầm Ngư vẫn ngẩn người đứng nguyên tại chỗ một cái, trong ánh mắt lóe lên một thần sắc phức tạp, khi nhìn lại bọn áo đen, đã có thêm vài phần tà ác: “Hôm nay tâm trạng ta khá vui vẻ, cho nên quyết định tha cho ba người trong bọn ngươi. Ba kẻ nào trong bọn ngươi lớn tiếng trước, kể lại một lượt chân tướng sự việc cho hoàng hậu nương nương của chúng ta nghe, thì ta sẽ tha cho ba kẻ đó. Những người khác, hừ”. Tuy hắn không nói những người khác sẽ làm sao, nhưng nhìn cái đầu be bét máu tươi còn lăn lóc trên mặt đất, kết cục ra sao đã rất rõ ràng.

Vì thế, bọn áo đen nhìn nhau, sợ hãi tranh nhau kêu lên: “Nương nương! Là La Dữ Hải đại nhân chỉ thị bọn thuộc hạ đến ám sát nương nương!”.

“La Dữ Hải nhận lợi lộc của Tiêu tướng quân, nói xong việc sẽ thăng cho hắn làm quan nhị phẩm...”.

“Khương quý nhân cấu kết với Tiêu tướng quân, chỉ cần trừ bỏ nương nương, phù trợ tiểu thái tử đăng cơ, Khương quý nhân sẽ dùng bọn thuộc hạ...”.

“Thuộc hạ chỉ muốn kiếm chút tiền đi cứu biểu muội mà thôi, hu hu hu hu hu...”.

Từng giọng nói vô cùng hỗn loạn trộn lẫn với nhau. Khương Trầm Ngư ngẩn ngơ đứng nguyên chỗ cũ, chỉ cảm thấy giữa trời đất rộng lớn nhường này, bỗng nhiên chỉ còn lại một mình nàng, không còn tồn tại ai khác. Nàng không nhìn thấy gì, cũng không nghe thấy gì.

Tại sao?

Tại sao tại sao tại sao tại sao?

Bọn áo đen mồm năm miệng mười, càng nói càng loạn, càng nói càng rối, cuối cùng Tiết Thái hét một tiếng: “Dừng!”.

Những âm thanh bát nháo bấy giờ mới ngừng lại.

Tiết Thái xua xua tay, đám thiết kỵ giải những kẻ áo đen đó đi.

Bây giờ hắn mới đi đến trước mặt Khương Trầm Ngư, im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó giơ tay về phía nàng.

Rèm mi Khương Trầm Ngư run run, ánh mắt di chuyển từ bàn tay hắn lên đôi mắt hắn, rồi sau đó, đẩy tay hắn ra.

Tiết Thái để lộ biểu cảm đã đoán được trước nàng sẽ như vậy, không hề tức giận, chỉ nhìn nàng, lạnh nhạt nói: “La Dữ Hải câu kết với Tiêu Thanh xúi giục Khương quý nhân âm mưu ám sát ngươi, vốn dự định vào ngày mười lăm tháng tám sẽ tiến hành lúc ngươi về nhà thăm người thân. Nhưng ngày đó xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Ngươi vì chấn động do hoàng thượng qua đời nên hôn mê, sau đó đóng cửa không ra ngoài, La Dữ Hải hết cách, đành nằm im chờ đợi. Mà trước lúc đó, hắn và Khương quý nhân đã ngầm mua chuộc cung nữ hầu hạ thiết thân của hoàng thượng, cho hoàng thượng uống một loại độc dược khác để y chết trước thời hạn. Cũng có nghĩa là, bắt đầu từ nửa năm trước chúng đã lên kế hoạch cho tất cả. Sau khi ta nhận được tin này, để tránh đánh rắn động cỏ, ta đành im lặng quan sát, âm thầm bố trí, không vạch trần chúng ra”.

“Sau đó ngươi đã cố ý cho họ một cơ hội”. Cuối cùng Khương Trầm Ngư đã có thể lên tiếng, nhưng giọng nói khô khốc đến mức đáng sợ: “Ngươi thông đồng với thị nữ Hoài Cẩn của ta? Để nàng ta thuyết phục ta đến thăm ngươi và loan tin tức này ra ngoài, khiến những người kia cho rằng đã đến thời cơ, cho nên mai phục ở đây chờ ám sát ta? Có phải ngươi cảm thấy ta nên cảm ơn ngươi? Cảm ơn ngươi đã cứu ta?”.

“Ta chỉ là nói sự thực cho ngươi biết, có rất nhiều lang sói đang ngấm ngầm dòm ngó trong bóng tối, đợi chờ để cấu xé ngươi. Mà con sói lớn nhất tên là Khương Họa...”.

“Đủ rồi!”. Khương Trầm Ngư xé giọng hét lên.

Tiết Thái lần nữa biểu lộ ánh mắt thương xót đó, mấp máy môi, nhưng không nói nữa.

Khương Trầm Ngư bưng mặt, chỉ cảm thấy trong cơ thể dường như có một ngọn lửa đang thiêu đốt, bỏng cháy đến mức sắp phát nổ, buộc phải làm chuyện gì đó mới có thể phát tiết hết ra ngoài. Thế nên nàng quay sang Chu Long, trầm giọng nói: “Ngươi đưa ta về cung!”. Lại đi đến trước mặt một thiết kỵ: “Đưa ngựa của ngươi cho ta!”.

Thiết kỵ lập tức đưa dây cương. Khương Trầm Ngư cầm lấy, quay người lên ngựa, sau đó thúc roi một cái, con ngựa trắng kêu lên đau đớn, tung vó phi điên cuồng.

Chu Long nhìn sang Tiết Thái, Tiết Thái gật đầu với hắn, Chu Long bấy giờ mới trở người lên ngựa, đuổi theo nàng.

Trên con phố dài hun hút, hai con ngựa trắng một trước một sau phi như bay, tiếng vó ngựa vang lên cộc cộc, như thể giẫm nát trái tim của con người.

Tiết Thái nhìn theo bóng hai người, ánh mắt sâu thẳm, có chút mong chờ, lại có chút bi thương.

Khương Trầm Ngư tóm chặt dây cương, không để ý tới gió táp vào mặt, thổi tung vô số lọn tóc của nàng, mái tóc dài xòa ra, bay sang tứ phía. Nàng chỉ đỏ mắt vung roi, thúc giục bạch mã phi nhanh hơn, nước mắt trào ra theo nhịp lên xuống trên lưng ngựa, mau chóng bị gió thổi khô.

Kỹ thuật cưỡi ngựa của nàng thực ra không giỏi, nhưng lúc này rạp người trên lưng ngựa lại vững vàng đến lạ thường, đến Chu Long phóng ngựa phía sau cũng có vài phần kinh ngạc.

Qua thời gian chừng một tuần trà hai người đã đến cửa cung.

Đám thị vệ trước cửa cung đang định ngăn cản, Khương Trầm Ngư vung roi ngựa: “Bọn nô tài mắt mù, đến ai gia cũng không nhận ra sao?”.

Thị vệ cả kinh thất sắc, vội vàng quỳ xuống hành lễ.

Khương Trầm Ngư xuống ngựa, vừa rảo bước đi vào trong vừa hét lên: “Tất cả quỳ xuống cho ta! Quỳ tại chỗ không được nhúc nhích!”.

Mấy tên thị vệ định lén lút quay người chuồn đi lập tức sợ đến mức quỳ phịch xuống.

“Kẻ nào dám ngông cuồng cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”. Nàng bản tính dịu dàng, hiếm khi nghiêm khắc như lúc này, bây giờ, ba tiếng “chém” liên tiếp vang lên, tất cả bọn người đang quỳ đều cảm thấy sát khí đằng đằng ập thẳng vào mặt chúng.

Khương Trầm Ngư không nhìn bọn người đang quỳ trên đất, mà tự mình sải bước tiến về phía trước. La Hoành nghe tin vội vã chạy đến, vừa kêu một tiếng nương nương, đã bị một roi của nàng làm cho sợ mất mật, lập tức quỳ xuống.

“Ta nói lại một lần nữa”. Khương Trầm Ngư lạnh lùng nhìn quanh, nói từng tiếng rành rọt: “Trừ Chu Long ra, tất cả kẻ khác, kẻ nào dám cử động, chém! Dám mật báo, chém! Dám lên tiếng cảnh báo, chém!”.

Mọi người nhìn thấy ngay đến La Hoành là người có quyền thế lớn nhất trong cung cũng quỳ xuống, nhất thời sợ đến mức không dám thở, toàn thân run bần bật, cúi gằm mặt không dám ngẩng lên.

Khương Trầm Ngư đi như bay đến Gia Ninh cung.

Hai cung nữ trước điện nhìn thấy nàng, đang định mở miệng, nàng đã vung roi quất mạnh vào khoảng không bên cạnh hai cung nữ, khiến chúng nhất thời phù dung thất sắc, quỳ sụp xuống.

Khương Trầm Ngư nhấc bước, đẩy cửa điện, trong nhà, Khương Họa Nguyệt đang đắp chăn cho Tân Dã, nghe tiếng động ngẩng đầu lên, nhìn thấy nàng, sắc mặt rõ ràng trắng bệch, nhưng rất mau đã lộ một nụ cười, nói: “Muội muội... sao lại đến... giờ này?”.

Khương Trầm Ngư sầm mặt đi vào trong, quét mắt nhìn bọn cung nhân khác trong phòng một lượt, lạnh lùng hạ lệnh: “Tất cả các ngươi lui ra, quỳ hết ở bên ngoài, ta không gọi, không được phép vào”.

Đám cung nhân liền nhìn Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư nhăn mày một cái, gọi một tiếng: “Chu Long”.

Chu Long lập tức tiến lên trước, mỗi tay một người, hai tiếng vèo vèo vang lên, cung nhân bị ném ra khỏi cung, chúng rên lên thảm thiết, cũng không biết là bị văng đến đâu. Những người còn lại thấy cảnh này nào còn dám do dự, bèn lần lượt lui hết. Chỉ có vú nuôi đang bế Tân Dã vẫn còn chần chừ. Khương Trầm Ngư lập tức liếc nàng ta một cái lạnh như băng: “Ngươi cũng cút ra”.

“Vâng...”. Vú nuôi run lập cập bồng Tân Dã ra ngoài. Khi đi qua nàng, Khương Trầm Ngư bỗng giơ tay chặn lại: “Bỏ thái tử xuống”.

“Cái, cái gì ạ?”. Vú nuôi vẫn còn chấn động, kinh hãi, Chu Long đã ẵm Tân Dã ra khỏi lòng nàng ta trong nháy mắt, động tác nhanh chóng nhẹ nhàng, Tân Dã vẫn đang say ngủ không hề tỉnh giấc.

“Trả con lại cho ta!”. Khương Họa Nguyệt lập tức cuống lên, xông lên phía trước muốn ngăn cản, Khương Trầm Ngư lại tóm lấy cánh tay nàng ta, miệng nói: “Các ngươi lui hết ra”.

Chu Long một tay bế Tân Dã, một tay tóm vú nuôi, lôi vú nuôi ra khỏi cung, sau đó “cạch” một tiếng, cửa cung nặng nề đóng lại.

Khương Họa Nguyệt giãy giụa thét lên: “Trả con lại cho ta! Các ngươi muốn làm gì? Các ngươi to gan thật đấy, dám động thủ với cả thái tử!”.

Khương Trầm Ngư bỗng buông tay, Khương Họa Nguyệt không kịp thu lực về, trong nháy mắt lao về phía trước, ngã lăn ra đất, khi quay đầu lại nhìn nàng, trong ánh mắt đầy sự sợ hãi: “Trầm Ngư! Muội muốn làm gì? Muội muốn làm gì hả?”.

“Muội muốn làm gì à?”. Trên gương mặt trắng trẻo của Khương Trầm Ngư không bộc lộ chút biểu cảm nào, nhìn tỉ tỉ mà mình trân trọng nhất cũng bảo vệ nhất, trong lòng tràn ngập sự lạnh lẽo: “Trái lại muội đang muốn hỏi tỉ tỉ, tỉ muốn làm gì?”.

“Cái, cái gì?”. Khương Họa Nguyệt thoáng chột dạ, nhưng vẫn cứng miệng nói: “Ta, ta không biết muội đang nói gì! Tối đến mà muội điên cái gì thế, mau trả Tân Dã lại cho ta...”.

“Tỉ tỉ cũng biết là trời tối, trăng mờ gió lặng đêm đen, thích hợp để phát điên, cũng thích hợp để giết người, có phải không?”.

Khương Họa Nguyệt tiếp tục giả ngốc: “Ta không nói chuyện phiếm với muội, ta phải đi tìm Tân Dã...”. Nói đoạn đi ra cửa.

Khương Trầm Ngư lạnh lùng nói: “Người tỉ muốn tìm bây giờ không phải là Tân Dã, mà là bọn Trương Đại Đông, Lục Tiểu Chu, Giả Tiểu Cửu đúng không?”.

Toàn thân Khương Họa Nguyệt run bắn, bước chân dừng lại.
 
Quyển 2 - Chương 93


Cánh cửa nặng nề từ từ được đóng lại.

Ánh đèn chiếu từ bốn phương tám hướng, soi sáng toàn bộ căn phòng, không có góc tối nào. Còn Khương Trầm Ngư tắm trong ánh đèn sáng trưng như ban ngày, im lặng ngồi một lúc, sau đó đi đến trước một bình hoa, tóm lấy, ném mạnh về phía tường một cái, “choang choang”, chiếc bình hoa vỡ tan.

Nàng lại đi đến bên những chiếc bình hoa khác, nhấc lên, ném một cái; nhấc lên, ném một cái; nhấc lên... choang choang, choang choang, choang choang... Không lâu sau, trên mặt đất toàn mảnh gốm vỡ. Còn nàng vẫn không ngừng nghỉ, xông đến kéo ghì bức rèm trướng, dùng sức xé toang.

Xoẹt xoẹt xoẹt... Không đủ! Không đủ! Như thế còn lâu mới đủ!

Những âm thanh này hoàn toàn không thể làm tiêu tan nỗi thống khổ trong lòng nàng! Còn có gì nữa! Còn có gì nữa?

Khương Trầm Ngư nhìn quanh, những thứ có thể ném đã ném hết, những thứ có thể xé đã xé hết, những thứ có thể đập đã đập hết, đập đến mức không còn gì để đập như thế, xé đến mức không còn gì để xé như thế, phá đến mức cả một gian nhà ngổn ngang vỡ vụn xong, nàng cũng không thể chịu đựng được, vật ra đất mà khóc thất thanh.

Rõ ràng tất cả đều có thể ổn thỏa!

Rõ ràng vốn có thể rất hạnh phúc!

Thậm chí nàng đã lựa chọn từ bỏ tương lai của mình để chuẩn bị trút mọi tâm huyết vào Tân Dã, bảo vệ nó, bảo vệ giang sơn Bích quốc, cùng tỉ tỉ sống tiếp cuộc sống tương thân tương ái...

Tại sao phải ép nàng?

Tại sao phải đích thân đập vỡ giấc mộng tươi đẹp nhất của nàng trước mặt nàng, để nàng nhìn thấy sự thực trần trụi, máu me, mỗi một chi tiết đều thấm đẫm sự bẩn thỉu và xấu xí!

Tại sao?

Tại sao tại sao?

Tại sao tại sao tại sao?

Bấy giờ lời Tiết Thái nói lại vang lên, cuối cùng nàng đã hiểu tại sao hắn lại gọi nàng lại, sau đó nói với nàng: “Nếu sau này xảy ra chuyện gì, ngươi chỉ cần nhớ đêm nay, ngươi đã nói những lời này là đủ”.

Hắn đã cho nàng uống thuốc trước để nàng có chút sức đề kháng khi cơn đau ập đến, nhưng hắn lại không biết rằng liều thuốc đó căn bản vô hiệu, nàng vẫn đau đớn đến mức xé gan xé phổi, đau đến mức ruột gan đứt đoạn, đau đến mức hận không thể một ngàn lần, một vạn lần, chết đi như thế này!

Bởi vì quá đau khổ, một suy nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu, nàng nhẹ nhàng hỏi: “Ta có thể lại tha thứ cho Họa Nguyệt một lần nữa hay không?”.

Lại tha thứ một lần nữa, sau đó, tất cả đều bước tiếp theo viễn cảnh mà nàng đã tính toán lúc đầu...

Tân Dã vẫn là hoàng đế.

Nàng và Họa Nguyệt vẫn là thái hậu.

Thiên hạ thái bình, triều thần hòa thuận, tất cả đều thuận lợi.

Chỉ cần nàng chịu quên đi chuyện xảy ra trong đêm nay, lại tha thứ cho Họa Nguyệt một lần nữa.

Khương Trầm Ngư bắt đầu bò lên phía trước, dùng cánh tay nhích cơ thể đang cứng đơ của mình lên trước từng chút từng chút một, nhích qua mặt đất đầy những mảnh vỡ, không quan tâm đến bản thân máu me be bét.

Nếu như đau đớn như thế này, thế thì, tha thứ cho Họa Nguyệt chẳng phải tốt hơn sao?

Tha thứ cho nàng ta, không oán hận nàng ta muốn giết mình, không tính toán chuyện nàng ta ích kỷ như thế, không để ý nàng ta ngu xuẩn như thế... tha thứ cho nàng ta!

Khương Trầm Ngư thét lên chói tai, tròng mắt cũng không chịu nổi thứ áp lực đang thít chặt nàng này, nàng bắt đầu lớn tiếng gào thét khóc lóc.

Khóc đến mức muốn nôn cả trái tim ra ngoài.

Khóc đến mức muốn phun toàn bộ máu huyết ra ngoài.

Khóc đến mức dường như đã đau thương hết nỗi đau thương của mười kiếp, không hề kiềm chế.

Mà trong tiếng khóc đau đớn tột cùng đó của nàng, cửa cung nhẹ nhàng mở ra, một người xuất hiện trước cửa dưới ánh đèn.

Khương Trầm Ngư không ngẩng đầu, cũng không ngừng khóc, tiếp tục kêu gào.

Người đó đóng cửa cung lại, sau đó bước từng bước một, rất chậm nhưng rất vững chãi tiến về phía nàng, cuối cùng dừng trước mặt nàng.

Khương Trầm Ngư nhìn thấy hài của người ấy, một đôi hài trắng nhỏ, mũi hài còn thêu đồ đằng, nhưng không phải là Bạch Trạch, mà là phượng hoàng. Phượng hoàng màu vàng kim, lửa đỏ rực rỡ, dường như thiêu đốt cả mắt nàng.

Nàng chật vật, gắng gượng, yếu ớt ngẩng đầu lên.

Trong tầm mắt là khuôn mặt dịu dàng lạ lùng của Tiết Thái: Hắn nhìn nàng, ánh mắt long lanh như thủy tinh, cuối cùng giơ tay ra, đỡ lấy đầu nàng.

“Xưng đế đi”.

Tiết Thái nói như thế.

Khương Trầm Ngư phát ra một tiếng kêu rên thật dài.

“Chỉ khi ngươi thực sự có đủ sức mạnh áp chế tất cả, mới có thể đích thân tạo ra hạnh phúc mà ngươi muốn”. Tiết Thái nói đoạn nước mắt chầm chậm trào ra khỏi hốc mắt: “Xưng đế đi”.

Nước mắt của hắn nhỏ xuống gương mặt của Khương Trầm Ngư, thế nên, Khương Trầm Ngư đang khóc thảm thiết đã nín một cách lạ kỳ.

Không có gió mà cung đăng lắc lư chao đảo, trong nháy mắt, trong Ân Phái cung, quang ảnh trùng trùng.

Một tháng sau, vào buổi chạng vạng, một cỗ xe ngựa bí mật lao ra khỏi cửa cung, đến một khu vườn ở ngoại ô.

Nửa canh giờ sau, một cỗ xe ngựa khác cũng tiến vào khu vườn này.

Người trong xe cúi người xuống xe, người cầm đèn dẫn lối vẫn là Hoài Cẩn.

“Bệ hạ, xin đi theo nô tì”.

Cùng một lối mòn nhỏ quanh co, ngoằn ngoèo trải dài. Cùng một quý khách áo bào hoa gấm, im lặng đi sau. Cùng một tiếng đàn chậm rãi vẳng ra từ trong nhã xá, nhưng biểu cảm của vị khách hôm nay trong chốc lát lại trở nên bi thương.

Hoài Cẩn dẫn chàng đến trước cửa, khom mình nói: “Nô tì đưa đến đây, mời bệ hạ tự mình vào bên trong”.

Đến câu này cũng giống y lần trước.

Trong lòng vị khách khe khẽ thở dài, đẩy cửa phòng bước vào bên trong.

Lần này, tiếng đàn không ngưng, nhưng người gảy đàn lại đặt cây đàn ở một vị trí khác, không bày ở sánh ngoài mà là ở gian trong.

Bức bình phong chắn giữa gian ngoài và gian trong cũng được dẹp, chỉ buông một mức rèm mỏng.

Cách tấm rèm lụa, có thể nhìn thấy Khương Trầm Ngư đang cúi đầu gảy đàn bên trong, tiếng đàn càng làm lòng người đắm say.

Khách đến lặng im lắng nghe, không nói một lời, cho đến khi nàng đàn xong bản nhạc, mới nhẹ nhàng vỗ tay.

Khương Trầm Ngư thu tay, chăm chú nhìn người mới đến, giây sau mới khẽ nói: “Ngài vẫn đến, bệ hạ”.

“Ta vẫn đến”.

“Ta cứ tưởng ngài sẽ không đến”.

Hách Dịch cúi đầu, cười khổ một lát: “Ta cũng tưởng mình sẽ không đến”. Nói đoạn ngồi xuống cạnh chiếc bàn ở gian ngoài. Trên bàn đặt một bình trà, chàng cầm chén lên tự rót cho mình, không ngờ, sau khi rót ra phát hiện lại là rượu.

Chàng hơi bất ngờ ngước nhìn Khương Trầm Ngư: “Đêm lạnh khách tới rượu thay trà sao?”.

“Có lẽ là vì ‘Chủ nhân ví biết mời say khách. Non nước đâu là chẳng cố hương’[3]”.

[3] Hai câu trong bài “Khách trung tác” của Lý Bạch, Trần Trọng San dịch.

“Nàng muốn ta say? Tại sao?”.

“Bởi vì...”. Giọng Khương Trầm Ngư trở nên mơ màng: “Có một số chuyện, có lẽ chỉ khi say ta mới dám nói, cũng chỉ khi say ngài mới dám nghe”.

Hách Dịch vốn định uống, nhưng nghe xong câu này bèn bỏ ly rượu xuống, chăm chú nhìn bóng hình sau tấm rèm hồi lâu mới mở miệng nói: “Kỳ thực... ta đã biết nàng muốn nói gì”.

Khương Trầm Ngư thấp giọng nói: “Ngài không biết đâu”.

“Không, ta biết”. Hách Dịch nhếch môi, tự cười giễu cợt: “Đừng coi thường mạng lưới thông tin của trẫm ở đế đô như thế...”.

“Thế thì, bệ hạ đã biết những gì rồi?”.

“Ta biết tỉ tỉ nàng câu kết với người khác, muốn đẩy nàng vào chỗ chết. Nhưng bọn họ quá ngây thơ, dựa vào mấy tên võ công quèn không trốn khỏi cặp mắt của tên tiểu hồ ly Tiết Thái. Để ép nàng hết hy vọng, đối mặt với hiện thực, tên tiểu hồ ly Tiết Thái án binh bất động, để mặc bọn chúng làm càn, nhưng lại xuất hiện vào thời khắc then chốt nhất, khiến bọn chúng hoàn toàn thảm bại, cũng để nàng nhìn thấu tất cả...”.

Lần này đến lượt Khương Trầm Ngư tự giễu mình: “Sự tình đến bệ hạ cũng biết, vậy mà ta đến lúc chúng động thủ, định giết mình mới phát giác... Xem ra, ta thật sự là kẻ mù mờ thông tin nhất Bích quốc rồi”.

Hách Dịch chăm chú nhìn nàng, nhẹ nhàng nói: “Tiết Thái chỉ là muốn bảo vệ nàng. Hắn tuy bé người mà tinh ranh, có lúc không biết rốt cuộc hắn muốn gì, hắn cần gì, nhưng có một điểm rất rõ ràng, hắn nguyện phò tá nàng, cũng rất có năng lực phò tá nàng. Nàng có được một vị thừa tướng như vậy, thật khiến vô số người ngưỡng mộ, đặc biệt là cái tên ở Yên quốc đó”. Nói đến đây, không nhịn được bật cười.

Khương Trầm Ngư nghe thấy nhưng không cười, mà quay mặt qua chỗ khác cúi đầu nói: “Cho nên, bệ hạ cho rằng hôm nay ta mời bệ hạ đến vì cái gì?”.

“Dù sao cũng không phải là trả nợ”. Hách Dịch ngẫm nghĩ, vẫn cầm ly rượu đó lên, uống cạn một hơi: “Rượu ngon! Đủ cay!”.

“Tại sao bệ hạ cho rằng ta không muốn trả nợ?”.

Hách Dịch lại rót thêm một chén, ngửa đầu uống cạn, giọng nói mơ hồ không rõ: “Nàng sắp đăng cơ rồi, cho dù ta có hoang đường đến đâu nữa, cũng biết một vị đế vương sẽ không trả nổi món nợ nhân tình đâu”.

Giọng nói của Khương Trầm Ngư trở nên hơi cổ quái: “Thế tại sao bệ hạ còn đến?”.

Hách Dịch ngẩng đầu lên, ngẩn ngơ nhìn ngọn đèn phía trên bức rèm sa, lẩm bẩm nói: “Ai mà biết được... Có lẽ, ta chỉ là đang đợi một kỳ tích? Không biết nữa... Ta, ta... haizz, nàng cứ coi như ta không đến, nàng cũng không ở đây đi!”. Nói đoạn, dứt khoát nhấc bình rượu đó lên, dốc hết vào cổ họng.

Khương Trầm Ngư bỗng đứng dậy, từ từ vén bức rèm bước ra.

Bàn tay của Hách Dịch khựng lại giữa lưng chừng, rượu từ trong miệng bình chảy rớt ra ngoài, thấm ướt y phục chàng. Chàng hoàn toàn ngây ngẩn.

Bởi vì, Khương Trầm Ngư mặc một chiếc áo đỏ mỏng như cánh ve, thân hình tuyệt mỹ ẩn hiện dưới ánh đèn, mái tóc buông xõa, dịu dàng phủ trên vai, là dáng vẻ một đại khuê nữ chuẩn bị đi ngủ sau khi tẩy trang.

Rượu trong bình đã chảy hết, sau đó, “xoảng” một tiếng, chiếc bình rớt xuống đất, lăn mấy vòng.

Hách Dịch liếm môi: “Nàng...”.

“Lần trước bệ hạ nói trừ phi có thể trả thứ mà bệ hạ muốn, mới có thể lần nữa hẹn gặp ngài. Mà ta đã hẹn gặp ngài lần nữa, tại sao bệ hạ lại cho rằng, ta nhất định là một kẻ quỵt nợ?”. Khương Trầm Ngư thong thả đi đến trước mặt chàng, mày mắt như vẽ lại được ánh đèn chiếu sáng, ngoài cực kỳ trang nhã, lại thêm vài phần quyến rũ.

“Nàng...”. Hách Dịch dường như biến thành một thiếu niên mới biết yêu lần đầu, đối diện với thiếu nữ mà lòng mình ngưỡng mộ, chân tay trở nên luống cuống không biết làm gì.

“Bệ hạ, thứ bệ hạ muốn... là ta ư?”. Khương Trầm Ngư vừa nói, vừa từ từ cởi đai áo của mình.

Hách Dịch lập tức chộp lấy tay nàng, ngăn nàng tiếp tục cởi. Biểu cảm trên mặt chàng biến đổi hết lần này đến lần khác, cuối cùng ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào nàng nói: “Nàng có biết mình đang làm gì không?”.

“Trả nợ”.

“Nàng! Ta... nàng...”.

“Bệ hạ, ta là người không thích nợ nần người khác, nhưng thật sự ta nợ ngài quá nhiều quá nhiều... Muốn trả ngài tiền, nhưng ngài không cần; nếu bảo ta dâng cho ngài Bích quốc, ta tuyệt đối không làm được, may mà... ta vẫn còn chính bản thân mình”. Trên gương mặt trắng trẻo xinh đẹp của Khương Trầm Ngư hiện lên một vẻ bình tĩnh đến lạ thường, mà vẻ bình tĩnh đó lại khiến trái tim của Hách Dịch vì thế mà bắt đầu run rẩy.

“Tiểu Ngu”.

“Tiểu Ngu”.

“Tiểu Ngu...”.
 
Quyển 2 - Chương 94


Chàng gọi liền ba tiếng, sau đó im lặng hồi lâu.

Trong im lặng, chàng chầm chậm thả tay Khương Trầm Ngư ra, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, mở cánh cửa vốn đóng chặt ra, ngọn gió đêm của buổi chớm đông ùa vào, thổi tan hơi ấm và sự mê hoặc trong phòng.

“Nàng... không còn là nàng nữa”. Chăm chú nhìn lên bầu trời đêm đen như mực không một ánh sao le lói, Hách Dịch nói như thế: “Tiểu Ngu, có lẽ nàng vẫn không biết đế vương thực sự nghĩa là thế nào đâu, thế thì hãy để một người từng trải là ta nói cho nàng hay. Nó có nghĩa là toàn thiên hạ đều là của nàng chỉ duy có bản thân nàng không phải là của nàng”.

Khương Trầm Ngư ngẩn người.

“Cho nên, món lễ tạ này của nàng, ta không dám nhận, cũng không thể nhận, đúng như ta đã nói trước đó, coi như hôm nay ta không tới, mà nàng cũng không ở đây... Như thế, sau này chí ít nhớ đến ngày hôm nay, sẽ không cần hối hận”.

Khương Trầm Ngư buồn rầu nói: “Bệ hạ không thích ta sao?”. Nàng phải lấy hết dũng khí mới có thể làm được việc này. Mặc bộ áo đỏ mà xưa nay chưa bao giờ mặc, hẹn gặp một nam nhân đến khuê phòng của nàng, sau đó coi mình là lễ vật để đem dâng tặng.

Nếu nói khi nàng bày tỏ tình cảm với Cơ Anh năm xưa, vẫn còn mang tâm thái của một thiếu nữ; thì ngày hôm nay, nàng dùng sự giác ngộ của một người đàn bà để đến gặp Hách Dịch. Thế nhưng, Hách Dịch cũng giống như Cơ Anh, đều cự tuyệt nàng.

“Ta không thích nàng ư?”. Hách Dịch quay người lại, nhìn nàng, bên khóe môi hiện lên một nụ cười khổ, ánh mắt càng lúc càng dịu dàng: “Tiểu Ngu, để ta nói cho nàng biết khi ta không thích một người là như thế nào. Ta sẽ không vì đọc được thư của người ấy mà lòng mừng vui khấp khởi, không vì biết tin về người ấy mà buồn bã như mất đi thứ gì, không vì sắp đến gặp người ấy mà thấp thỏm bất an, không vì phải cáo biệt người ấy mà lưu luyến không nỡ, khi người ấy chủ động, càng không phải kiềm chế toàn bộ dục vọng của bản thân, dùng chút tỉnh táo cuối cùng để nói không được”.

Mắt Khương Trầm Ngư đã hoen ướt.

“Không được. Tiểu Ngu, nàng có biết hai chữ này, phút giây này đây, ta nói ra được khó khăn đến nhường nào không?”. Hách Dịch nhìn khoảng cách giữa nàng và mình, cười càng chua chát: “Thậm chí, ta còn không dám gần nàng thêm một chút, ta sợ chỉ gần thêm một chút là sẽ quên mất thân phận của nàng, cũng quên mất thân phận của ta. Có một câu nói, ta đã nói hai lần, hiện tại, ta lại nói lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng... Đêm nay ta không đến. Còn nàng cũng không ở đây”.

Một trận gió thổi tới, tấm rèm sa tung bay, cũng thổi tung mái tóc xõa của Khương Trầm Ngư, bay về phía sau.

Không gian bị kéo xa hơn trong nháy mắt, thời gian dường như ngừng trôi.

Nàng và chàng, đứng ở hai đầu của căn phòng, chỉ là khoảng cách năm sáu bước chân, nhưng lại là cách một con kênh ngăn giữa hai đất nước.

Khương Trầm Ngư nhắm nghiền mắt lại.

Sau đó nàng xoay người, quay lưng lại với Hách Dịch, nói: “Bệ hạ, kỳ thực nơi này không chỉ có đàn và rượu”.

“Hả?”.

“Ta còn bày một bàn cờ”.

Mắt Hách Dịch phút chốc sáng bừng lên, rồi nở một nụ cười mỉm, thong thả nói: “Trẫm đánh cờ rất giỏi đấy”.

“Thật khéo, ta cũng vậy”. Khương Trầm Ngư tươi cười, mở mắt ra quay lại nhìn chàng, nói: “Thế thì bệ hạ, đêm dài đằng đẵng, có muốn chơi một ván cờ cùng A Ngu không?”.

Đêm dài đằng đẵng.

Hai người im lặng đánh cờ.

Gạt bỏ hết thảy hồng trần tục thế.

Vứt bỏ hết thảy ràng buộc ham muốn.

Chỉ có niềm vui của tri kỷ gặp gỡ.

Chỉ có sự thản nhiên của núi cao nước chảy.

... Như lần đầu chàng và nàng gặp gỡ.

“Tuy biết là suy nghĩ viển vông, có điều...”. Ngày hôm sau, khi tia nắng ban mai chiếu lên giấy dán cửa sổ, khi ván cờ cuối cùng đã đi đến hồi kết, Hách Dịch lặng lẽ nói một câu: “Ta vẫn muốn xem xem, trong số mệnh có kỳ tích hay không, cho nên, ta sẽ đợi nàng ba năm, trong ba năm, cho dù nàng thay đổi ý định bất cứ khi nào, đều có thể đến tìm ta”.

“Ý định gì?”.

“Đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích bản thân. Cũng tức là khi nàng thay đổi chủ ý, chính là lúc nàng không muốn làm hoàng đế nữa”.

“Nếu ta không thay đổi chủ ý thì sao?”. Tuy xưng đế không phải là nguyện vọng của nàng, nhưng đã quyết định xưng đế thì không thể thay đổi trong sớm chiều, bỏ dở giữa chừng được.

“Vậy thì, ta sẽ phải kết hôn”. Hách Dịch vừa cười vừa nói câu này.

Ba năm.

Ba năm sau, Hách Dịch ba mươi tuổi.

Ba năm này sẽ xảy ra những biến đổi to lớn đến đâu, Khương Trầm Ngư không biết, nhưng có một điểm nàng rất rõ: Là nữ đế của Bích quốc, toàn bộ nam tử của Bích quốc đều có thể là của nàng, nhưng Hách Dịch vĩnh viễn không phải là một thần dân của Bích quốc.

Cũng như vậy, thân là một hoàng đế, nữ nhân trong toàn thiên hạ Hách Dịch đều có thể cưới, chỉ trừ nữ đế như nàng và Di Thù.

Sự tình đến mức này, giống như ván cờ tàn cuộc trên bàn, đã đi đến nước chết.

Hách Dịch... Hách Dịch...

Hóa ra ta và chàng, đời này kiếp này cũng vô duyên...

Mùa đông năm Đồ Bích thứ sáu, Khương quý nhân và phế hậu Tiết Mính lần lượt bệnh nặng qua đời. Hoàng hậu khai ân, ban cho hai người này được hợp táng với tiên đế.

Trên triều đường, quần thần dâng tấu thư khẩn cầu hoàng hậu xưng đế, hoàng hậu từ chối.

Ba ngày sau, cao tăng ở Định Quốc tự quan sát tinh tướng, kinh hãi nói rằng: “Hoa nở theo gió, đế tinh xuất hiện, nhưng lại nấp sau mây, khác hẳn với bình thường, nếu không gạt mây chính danh, e là chẳng lành”.

Quần thần lại dâng tấu thư của vạn dân, hoàng hậu thở dài, cuối cùng đồng ý.

Đến đây, Đồ Bích cáo chung.

“Đồ Bích. Hoàng hậu truyện”.

Đại kết cục

Hạnh phúc là ở việc hiểu được cách từ bỏ

Đại kết cục

Mùa đông, năm Lê Yến thứ ba.

Tuyết trắng như lông ngỗng bay lả tả, phủ lên cả hoàng cung một tầng trắng như bạc. Khi Di Phi bước vào Bách Ngôn đường, Khương Trầm Ngư đang khẽ thảo luận gì đó với Tiết Thái, còn những người khác đang im lặng làm việc, ngọn lửa trong lò than hồng đang cháy rực, thỉnh thoảng phát ra tiếng nổ lép bép, khiến cho cả căn mật thất có vẻ yên bình lạ thường.

“Không đúng không đúng, rõ ràng ta tính là cách Vĩnh Xuyên ba trăm bảy mươi hai dặm, sao đến chỗ ngươi lại thành ba trăm sáu mươi chín dặm?”. Khương Trầm Ngư cầm một quyển sổ, băn khoăn không thôi.

Tiết Thái cũng lộ vẻ hơi kinh ngạc, ngẫm một lúc, trả lời: “Có lẽ là đo lường có nhầm lẫn”.

Di Phi rũ rũ chiếc áo lông cừu bám đầy hoa tuyết, tới sau lưng Tiết Thái nhìn: “Đang làm gì đấy?”.

Chỉ thấy trong tay Tiết Thái cũng cầm một cuốn sổ, ghi chép chi chít toàn là con số.

Khương Trầm Ngư vẫy tay nói: “Hoa Tử, ngươi đến đúng lúc lắm, chúng ta đang đo vẽ bản đồ mới nhất của Bích quốc, nhưng có vài chỗ số liệu nhận được không giống nhau lắm, ngươi giúp xem xem là thế nào”.

Khóe mắt Di Phi hơi co giật, thở dài nói: “Này này này, đừng có đặt cho ta cái tên khó nghe này nữa, nghe chẳng khác gì ăn mày cả...”.

“Nếu ngươi không thích Hoa Tử, thế gọi là Phi Tử cũng được”. Tiết Thái vùi đầu trong những con số, không ngẩng đầu lên. Di Phi lườm hắn một cái, bước đến ngồi cạnh bàn: “Thì sai có ba dặm, có sao đâu, các người thật là rảnh đến mức vô vị, lại tự mình làm chuyện vặt vãnh này. Này, ta mang đến một chuyện rất thú vị, các người có nghe không?”.

Khương Trầm Ngư và Tiết Thái đều tỏ vẻ không quan tâm, đặc biệt là Tiết Thái còn ngáp một cái.

Di Phi bẽ mặt: “Được rồi, dù sao cũng không can hệ gì đến Lê quốc, nhiều nhất là con dân Nghi quốc phát rầu mà thôi”.

Nghe đến hai chữ Nghi quốc, Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên: “Nghi quốc làm sao?”. Gần đây không nghe thấy bên đó có chuyện gì lớn xảy ra cả.

Di Phi cười hì hì, để lộ vẻ mặt: “Thế nào? Bây giờ muốn nghe rồi à? Đáng tiếc ta lại không muốn nói nữa”, gã bắt chéo chéo, rồi thuận tay tự rót cho mình một chén trà nóng.

Tiết Thái cũng không ngẩng đầu lên nói: “Có thể truyền đến tai hắn, chắc chắn chỉ là mấy chuyện vớ vẩn, không thể có chính sự”.

“A, lần này ngươi lầm rồi. Cái ta sẽ nói ra không những là chuyện lớn, hơn nữa ít nhiều cũng có chút liên quan đến Lê quốc, thậm chí là thừa tướng ngươi”.

Khương Trầm Ngư trong lòng tò mò, nhưng lại không muốn Di Phi đắc chí, bèn quét mắt nhìn khắp phòng một vòng rồi nói: “Tử Tử đâu?”.

“Đến đây đến đây, thần đến đây!”. Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến ngay, cửa gian mật thất mở ra, người áo tím theo sau La Hoành vội vàng đi vào trong, tiết trời lạnh giá như thế, hắn lại chạy đến mức mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển không ra hơi, vừa vào đến cửa vừa bái kiến vừa kích động nói: “Hoàng thượng, Nghi quốc xảy ra chuyện rồi!”.

Mọi người có mặt nghe đến đây, không ai là không quay đầu lại nhìn Di Phi, để lộ biểu cảm “Xem kìa, không có ngươi cũng đâu có sao”.

Di Phi mắt thấy người áo tím cướp mất cơ hội ra vẻ của mình, đành sờ sờ mũi, cười hì hì nói: “Quả nhiên, về trình độ nhanh nhạy thông tin, Tử Tử không bị tụt hậu so với bất cứ người nào!”.

“Tử Tử, có chuyện gì từ từ nói”. Khương Trầm Ngư căn dặn.

Người áo tím lấy tay áo lau mồ hôi, không buồn ngồi xuống, vội vã kể ngay: “Là như thế này, ngày mùng bảy tháng mười một chính là ngày sinh nhật của Nghi vương Hách Dịch, mà năm nay ngài ấy đã ba mươi tuổi”.

Khương Trầm Ngư nghe đến đây, nhớ đến lời Hách Dịch đã từng nói với nàng, lờ mờ đoán ra “xảy ra chuyện” mà họ nói là chỉ chuyện gì. Không biết tại sao, rõ ràng đã sớm biết sự tình, nhưng khi thực sự đối diện với điều này, ngón tay vẫn không kìm được run lên, sau đó khi lên tiếng, giọng nàng cũng hơi khàn khàn: “Nghi vương... chọn ai... làm hoàng hậu?”.

Sẽ là ai nhỉ?

Trong Nghi quốc, vị thiên kim tiểu thư của danh môn nào có thể xứng với vị quân vương phong lưu phóng khoáng đó?

Nữ tử nào có thể cùng chàng chơi cờ? Có thể gảy đàn cho chàng nghe? Có thể cùng chàng xuất hành? Có thể phụ tá cho chàng trị lý thiên hạ Nghi quốc?

Cho dù như thế nào... Hách Dịch đã chọn người ấy, thế thì, người ấy nhất định có thể làm được.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, trong lòng dấy lên một nỗi chua chát xót xa, rốt cuộc là cảm giác gì, đến bản thân mình cũng không rõ nổi. Chính vào lúc này, một câu nói lọt vào tai nàng: “Nghi vương không cưới ai cả”. Thoạt đầu, giọng nói vẫn còn mơ hồ, lúc ẩn lúc hiện, nhưng đột nhiên, như một tiếng sấm giữa đất bằng, sáu tiếng ấy vang lên rành rọt.

“Ngươi nói gì?”. Nàng kinh ngạc đến mức lập tức đứng bật dậy. Tiết Thái bên cạnh cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, lườm nàng một cái.

Người áo tím thấy mình đã thành công trong việc thu hút sự chú ý của quân vương, vô cùng tự hào, ưỡn thẳng ngực cao giọng nói lại một lần nữa:

“Nghi vương không cưới ai cả”.

Sáu tiếng này, âm nào cũng đẹp.

Như tuyết tan, như hoa nở, như ánh dương vươn khỏi tầng mây, như đứa trẻ con nhú chiếc răng mới... Vô cùng tuyệt mỹ.

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy trái tim của mình thình thịch thình thịch, đập rất nhanh, sau đó, nghe thấy giọng nói của mình vui mừng như trời hửng nắng trong tiết trời tuyết giá, như nụ hoa chúm chím đợi bung nở: “Tại, tại sao?”.

“Là thế này, từ nửa năm trước, các lão thần của Nghi quốc đã bắt đầu tuyển phi cho hoàng đế của bọn họ, lựa chọn được hơn khoảng ba trăm khuê nữ danh môn, mỗi người đều được vẽ một bức tranh, trình lên trước mặt Nghi vương để ngài lựa chọn. Còn Nghi vương bệ hạ chọn trái chọn phải, không phải chê người này lông mày thô quá, thì cũng chê người kia dái tai nhìn không đẹp... Tóm lại là những lý do viện ra đều khiến người ta tức chết. Cuối cùng các lão thần hết cách, phải hỏi ngài thích như thế nào. Thế là, Nghi vương bệ hạ liền...”. Người áo tím nói đến đây, mắt cong cong liếc sang Tiết Thái, cố nhịn cười nói: “Đã làm một chuyện khiến cả nước chấn động giống như Tiết tướng”.

Tiết Thái thấy chủ đề bị chuyển sang hắn, liền cau có nhíu mày.

Khương Trầm Ngư là nhân vật tầm cỡ nào, lập tức hiểu ngay, “a” một tiếng, nói: “Không phải là Nghi vương cũng dùng tranh vẽ Hy Hòa phu nhân để bịt miệng thế gian đấy chứ?”.
 
Quyển 2 - Chương 95


Người áo tím ngay tức khắc quỳ sát đất: “Hoàng thượng thánh minh! Hồi bẩm hoàng thượng, Nghi vương chính là dùng chiêu này. Vì thế, hiện tại người trong toàn thiên hạ đều biết: Hóa ra Nghi vương bệ hạ cũng một lòng thầm thương trộm nhớ Hy Hòa phu nhân của nước ta, chẳng trách khi phu nhân còn sống, ngài lén lút đến Bích quốc mấy lần! Đến nay, khắp đầu đường ngõ phố đều lưu truyền một quyển thoại bản ‘Mộng hoa hạnh’, trong đó ám chỉ Hy Hòa phu nhân một đời làm chúng sinh điên đảo, có mắc mứu tình cảm với vô số đế vương khanh tướng, từ ngữ sinh động linh hoạt, cũng khá dễ đọc, vi thần mua một cuốn, hoàng thượng có muốn đọc không?”. Vừa nói, vừa rút một cuốn sổ bìa màu xanh lam từ trong người ra, trình lên trước mặt Khương Trầm Ngư.

“...”. Khương Trầm Ngư dán mắt vào ba chữ “Mộng hoa hạnh” viết xiêu xiêu vẹo vẹo trên bìa sách, mí mắt giật giật một hồi, cuối cùng gượng gạo đẩy nó ra, nói với Tiết Thái: “Chúng ta tiếp tục đi. Núi Hướng Dương cao chín mươi tư trượng thật à?”.

Tiết Thái gật đầu: “Đã từng cao hơn trăm trượng, nhưng gió sương ăn mòn, bây giờ thành thấp như vậy”.

Người áo tím thấy không có ai đếm xỉa đến lời mình nói, đành hụt hẫng cất cuốn sách đi, ngoan ngoãn tìm chỗ ngồi xuống.

Di Phi sán lại, vỗ lên vai y, ra chiều thần bí nói: “Chỗ ta còn bản chưa bị cắt xén, có đọc không?”.

Người áo tím giật thót người, vội vàng nhìn sắc mặt Khương Trầm Ngư, thấy nàng thần sắc bình thường, có lẽ là không nghe tháy câu ban nãy, bấy giờ mới an tâm, cũng không nói gì, chỉ thò tay ra dưới gầm bàn.

Di Phi chớp chớp mắt, giơ một ngón tay lên: “Một quyển một trăm lượng...”.

“Ngươi...”.

“Chê đắt à, thế thì không bán nữa”. Di Phi nhướng mày, quay người ra vẻ định bỏ đi.

Người áo tím vội vàng kéo gã lại, không lằng nhằng nhét một thỏi bạc cho gã.

Di Phi cười hì hì, cũng rút một cuốn sách từ trong người ra. Tất cả đều phát sinh dưới gầm bàn thần không biết quỷ không hay - nhưng không lọt qua nổi cặp mắt của Tiết Thái.

Đầu mày của hắn cau lại càng chặt hơn, cuối cùng trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư, hạ giọng nói: “Bọn họ làm bậy như thế, hoàng thượng cũng không quản?”.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, dễ tính nói: “Đấy là bản tính của con người, cấm cũng không được, cứ mặc họ”.

Tiết Thái nhìn nàng chăm chú một lúc, “hừ” một tiếng, bất mãn nói: “Chẳng qua hoàng thượng nghe Hách Dịch không thành thân, cho nên tâm trạng vui vẻ mà thôi...”.

Vì giọng nói của hắn thực sự rất nhỏ, nên nhất thời Khương Trầm Ngư chưa nghe ra: “Hả? Ngươi nói cái gì?”.

“Không có, thần chẳng nói gì cả”. Tiết Thái không nói gì nữa, lại vùi đầu vào đống sổ sách, không ngẩng đầu lên nữa.

Tuyết bên ngoài rơi càng lúc càng lớn.

Nháy mắt đã lại đến giao thừa.

Tân Dã đã lên bốn tuổi, nhưng vẫn chưa biết nói, tính cách cũng khá hướng nội, hay ngồi một mình ngẩn ngơ, nhìn không có vẻ gì là hoạt bát nhanh nhẹn, khiến một đám cung nhân lo lắng đến chết đi được.

Sáng sớm ngày giao thừa, Khương Trầm Ngư đã đến tẩm cung của thái tử, đích thân mặc quần áo cho nó. Tuy nó phát triển chậm về các phương diện khác, nhưng vóc dáng lại lớn rất nhanh, khuôn mặt đều tập trung hết những ưu điểm của Chiêu Doãn và Họa Nguyệt, vô cùng vô cùng tuấn mỹ. Rất nhiều người già trong cung nói, thậm chí còn đẹp hơn cả Tiết Thái năm xưa. Vì thế, khi chọn xiêm y cho nó, nàng cũng dụng tâm: Một chiếc áo bông nhỏ, mặt ngoài là hoa vàng nền đỏ, thêu hoa văn chìm hình con rồng vàng nhỏ bốn móng, mặt trong nụ hoa màu hồng phấn trên nền màu vàng mơ, cổ áo và tay áo đều chần một vòng lông chồn màu trắng như tuyết, làm nổi bật gương mặt nhỏ ngây thơ, đáng yêu không tả xiết.

Khương Trầm Ngư nhìn rất thích, không kìm được bẹo má nó: “Trắng như đánh phấn tạc ngọc, chính là nói con đó”.

Tân Dã giương đôi mắt to tròn, đen láy như sơn, nhìn nàng không chớp mắt, ngũ quan vô cùng thanh tú nhưng biểu cảm vẫn đờ đẫn, cũng không biết nghe có hiểu không.

Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng, đội mũ lên cho nó rồi nắm tay nó nói: “Đi thôi. Hoàng di dẫn con đi cắt mai”.

Cái gọi là cắt mai là một tập tục mới thịnh vài năm gần đây, trước đêm trừ tịch, cắt một cành hoa mai vùi xuống đất, ngụ ý “cắt bỏ vận xui, để điềm gở quay về với cát bụi”.

Trong cung vốn không có mai đỏ, nên đã đặc biệt trồng mấy cây bên ngoài Ân Phái cung.

Sau khi xưng đế, Khương Trầm Ngư đã chuyển đến Cảnh Dương điện, nơi ở cố định của hoàng hậu các đời - Ân Phái cung bị bỏ trống. Lúc bấy giờ đi đến trước Ân Phái cung không người ở, thấy các cung nữ thái giám đã chuẩn bị xong xuôi từ lâu, đang đứng chờ dưới gốc cây. Trong cảnh tuyết trắng giăng trời, mấy cây mai ngạo nghễ bung cánh nở, từng đóa từng đóa đỏ tươi, phong cảnh cực kỳ trang nhã.

Cung nữ bê một chiếc khay bằng gỗ mun lên, vén lớp khăn nhiễu điều ra, bên trên có đặt một cây kéo mới, trên kéo còn buộc dây tơ bảy màu. Màu sắc của dây tơ này cũng được chọn cẩn thận, xanh xanh đỏ đỏ, nhìn rất vui mắt.

Thái giám giữ thang thật chắc chắn, Khương Trầm Ngư cầm kéo bước lên thang.

Kể ra thì đây thực chất là một phong tục rất đáng ghét, đặc biệt là nhát kéo đầu tiên của mỗi năm đều phải do hoàng thượng đích thân cắt, hơn nữa cây mai càng cao càng tốt. Nghi quốc và Yên quốc thì không sao, hoàng đế đều là nam, nhưng đến Bích quốc và Trình quốc, hai vị nữ vương đều đau đầu nhức óc vì nó.

Năm ngoái Khương Trầm Ngư giẫm lên váy khi trèo thang, suýt chút nữa thì ngã, vì thế năm nay nàng đã đổi sang mặc Hồ phục khi cưỡi ngựa, đi giầy thúc ngựa để trèo thang, quả nhiên không bị chật vật như năm ngoái.

Nhất thời trong lòng đắc ý, nàng trèo đến bậc thang cao nhất xong, nhón gót kiễng lên cắt cành mai cao nhất.

Phía dưới tiếng hoan hô của mọi người vang lên.

Khương Trầm Ngư cúi đầu nhìn Tân Dã, lắc lắc cành mai trong tay, kết quả thanh gỗ chắn ngang dưới chân bị gãy làm đôi, nàng lập tức chới với, rơi xuống.

“Hoàng di...”. Một giọng nói non nớt vang lên đầu tiên. Những người khác bấy giờ mới kinh hoảng hò hét, lũ lượt chạy đến cứu giúp.

“Hoàng thượng, hoàng thượng không sao chứ?”.

“Hoàng thượng, hoàng thượng sao rồi? Ngã có đau không?”.

Khương Trầm Ngư bị mọi người vây quanh, nhưng cũng chẳng buồn để ý đến cái chân bị trẹo lúc ngã, vội vàng đẩy mọi người ra, khập khiễng đi đến trước mặt Tân Dã, giọng run run nói: “Tân Dã, vừa nãy là con... gọi ta phải không?”.

Trong đôi mắt to của Tân Dã vẫn còn sót lại vẻ sợ hãi, sau đó, nó nhào đến ôm chặt nàng, òa lên khóc.

Khương Trầm Ngư sững người ra một lúc, sau đó ngồi xuống, ôm lại nó, nói: “Tân Dã, hóa ra con biết nói! Tốt quá rồi! Thật sự tốt quá! Gọi lại một lần nữa đi!”.

“Hoàng di...”. Giọng nói sợ sệt, vì trước đó chưa từng nói nên nghe lại càng cứng nhắc.

Nhưng Khương Trầm Ngư lại giống như được nghe thứ âm thanh tuyệt vời nhất thế gian, vui đến phát khóc, nói: “Tốt quá rồi... tốt quá rồi... Tân Dã! Tốt quá rồi...”.

Tân Dã không bị câm điếc, cũng không bị chậm phát triển trí tuệ, nó biết nói, hơn nữa, câu đầu tiên lại là gọi nàng.

Khương Trầm Ngư bỗng cảm thấy tất cả nỗi đau mà Khương Họa Nguyệt mang đến cho nàng, khoảnh khắc này, toàn bộ đều được đền bù nhờ Tân Dã.

“Tân Dã, ngoan lắm, ngoan lắm...”.

Nàng hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Biết làm sao được, hoa rơi rụng. Như từng quen biết yến quay về[1].

[1] Hai câu trong bài từ “Hoán khê sa - Nhất khúc tân từ tửu nhất bôi” của nhà thơ đời Tống Yến Thù (991 - 1055).

Một khi đã yên ổn, thời gian sẽ trôi qua rất nhanh, nước chảy mây trôi, nháy mắt là đã qua hai năm.

Năm Lê Yến thứ năm, ông trời rốt cuộc không còn đối xử ưu ái với con người như trước nữa.

Đầu tiên là tháng tư khai xuân, Khương phu nhân cả đời sống trong những lời dối trá đã kết thúc cuộc đời một cách bình yên trong giấc ngủ ngàn thu. Khương Trầm Ngư đương nhiên đau đớn vạn phần, cử hành tang lễ rất long trọng cho mẫu thân. Khương Trọng không quay về Khương phủ, mà chọn cất một ngôi nhà nhỏ bên cạnh mộ phần của vợ mình, ngày ngày câu cá trồng hoa, sống cuộc đời ẩn dật.

Đến khi vào hạ, ôn dịch bùng phát, chỉ trong chưa đầy hai tháng ngắn ngủi, đã lây nhiễm bảy tòa thành trì chủ yếu trong vùng Hàn Cừ, Hán Khẩu, mỗi ngày đều có đến hơn trăm người chết vì dịch bệnh.

Khương Trầm Ngư cử liền bảy mươi đại phu dược sư đi theo quân đội đến bảy thành, nhưng không khống chế được dịch bệnh, cuối cùng, trên triều đường, Tiết Thái xin được đích thân đi thị sát tình hình dịch bệnh.

Khương Trầm Ngư đắn đo rất lâu, cuối cùng đồng ý.

Chuyến này Tiết Thái đi liền nửa năm.

Trong nửa năm, Khương Trầm Ngư chỉ có thể dựa vào những tấu sớ chuyển đến chuyển đi và những lời kể vắn tắt của Thất tử để biết được tin tức của Tiết Thái.

Nghe nói, đầu tiên hắn đến thành Hàn Cừ, chạm trán Giang Vãn Y ở đó. Sau khi vào thành, hắn không đi thăm bệnh nhân bị nhiễm bệnh trước, mà tuần sát quanh thành một vòng, cuối cùng phát hiện nguồn nước trong thành Hàn Cừ bị ứ đọng lâu năm, bùn đất tích tụ khiến nguồn nước ô nhiễm, là nguyên nhân gây ra dịch bệnh. Vì thế, bắt đầu cho thợ nạo vét kênh ngòi.

Đồng thời, lập ra Lục Tật quán, cách ly toàn bộ những người bị nhiễm bệnh. Việc này dẫn đến sự phản đối gay gắt, cho rằng hành động đó là bất nhân.

Tiết Thái chẳng nói chẳng rằng, vứt hết những người phản đối vào trong Lục Tật quán này, từ đó tất cả im bặt, không còn người nào dám phản kháng.

Về sau, hắn còn thi hành một loạt các biện pháp như “xây Lậu Trạch viên để chôn thi thể những người nhiễm bệnh”, “phàm những người chôn được một trăm người chết dịch thì được thưởng mười lạng vàng để khích lệ”, cuối cùng, trước sự nỗ lực của hắn và Giang Vãn Y, đến mùa đông, ôn dịch coi như đã được giải quyết. Khi số người chết mỗi ngày một ít đi, gần vạn người còn sống sót sau khi uống thuốc do GiangVãn Y điều chế, thì một bi kịch chấn động đã xảy ra...

Tiết Thái đã bị nhiễm bệnh.

Vô phương cứu chữa.

Mà khi hắn tự biết bệnh của mình không thể chữa được, hắn chỉ nói một câu: “Ta đứng đầu bách quan, phải lấy làm gương”. Bèn chủ động chuyển vào Lục Tật quán, không ra ngoài nữa.

Khương Trầm Ngư ở đế đô nghe được tấu báo trên buổi chầu sớm, lập tức bật dậy khỏi ngai vàng, mặt không còn giọt máu, sau đó bệnh ở mắt tái phát, trước mặt tối sầm liền ngất đi.

Văn võ khắp triều kinh hãi hoảng loạn.

Khi Khương Trầm Ngư tỉnh lại, tức khắc hạ chỉ đến thành Hàn Cừ, mặc kệ quần thần ra sức phản đối, dẫn theo Phan Phương và thị vệ thiết thân. Một đoàn hơn trăm người cưỡi khoái mã ngồi khinh xa đến thành Hàn Cừ.

Khi nàng đến Hàn Cừ đã là mười ngày sau.

“Thảo dân Giang Vãn Y, tham kiến hoàng thượng”. Giang Vãn Y và các quan viên nghe tin đến ngoại thành tiếp giá, đang định quỳ lạy thì Khương Trầm Ngư đã tóm cánh tay hắn, kéo lên.

“Tiết tướng đâu?”.

“Tiết tướng vẫn ở trong Lục Tật quán...”. Giang Vãn Y còn chưa nói xong, Khương Trầm Ngư đã hạ lệnh: “Đưa trẫm đến Lục Tật quán”.

Hắn còn chưa kịp nói gì, mười mấy quan viên lớn nhỏ bên cạnh đã lũ lượt quỳ xuống nói: “Không được đâu! Hoàng thượng thân thể ngàn vàng, tuyệt đối không thể đi tới đó! Nếu đến hoàng thượng cũng bị lây nhiễm, thì biết làm thế nào?”.

Khương Trầm Ngư không thèm nhìn bọn họ, chỉ nhìn thẳng vào mắt Giang Vãn Y: “Sư huynh, huynh dẫn ta đi!”.

“Hoàng thượng...”.

“Sư huynh”. Khương Trầm Ngư bỗng chốc hét lên, đồng tử co lại, gương mặt đầy vẻ kiên nghị: “Lẽ nào trẫm tạm gác quốc sự ngàn dặm xa xôi chẳng ngủ chẳng nghỉ đến đây là để nhìn thấy một đám các ngươi khóc lóc sao?”.

Câu này quả thực quá mạnh mẽ, Giang Vãn Y không có cách nào phản bác, cuối cùng, đành thở dài một tiếng, nói: “Được rồi. Xin hoàng thượng theo thảo dân”.

Thế là, cuối cùng Khương Trầm Ngư đã đến trước Lục Tật quán.

Đó là một khu nhà trệt nằm ở ngoại ô hẻo lánh, vì gấp rút xây dựng trong thời gian ngắn, nên cực kỳ đơn giản sơ sài. Bốn bề trống trải, đến cây cối cũng chẳng có. Gió đông thổi ù ù, quạ kêu “quà quạ”, trong tích tắc mắt Khương Trầm Ngư cay xè.

Giang Vãn Y đưa cho nàng một viên đan dược, nói: “Để đề phòng, xin bệ hạ uống viên thuốc này”.

Khương Trầm Ngư nhận lấy, thái giám bên cạnh đang định thử thuốc thì nàng đã uống hết, nhảy xuống xe chạy về phía cửa lớn, khoảnh khắc này, nàng quen mất mình là hoàng đế của Bích quốc, là nữ tử quý tộc đi không lộ chân cười không lộ xỉ, nàng chỉ dùng tốc độ nhanh nhất của mình, dồn toàn lực để chạy, vừa chạy vừa kêu: “Tiết Thái! Tiết Thái!”.

Thế nhưng, cánh cửa của Lục Tật quán vẫn đóng im ỉm.

Khương Trầm Ngư đập cửa: “Tiết Thái! Tiết Thái! Người đâu, mở cửa cho trẫm! Mở cửa ra!”.

Đám thị vệ đi cùng mặt đầy vẻ do dự.

Khương Trầm Ngư nổi giận: “Các ngươi dám kháng chỉ?”.

Thị vệ vội vàng đi lên phía trước, đang định đẩy cửa, một giọng nói trong trẻo, đanh vang, rõ ràng từ bên trong vẳng ra ngoài: “Không được vào trong”.
 
Quyển 2 - Chương 96


Khương Trầm Ngư lập tức nhận ra đó là giọng của Tiết Thái, liền đập cửa nói: “Tiết Thái! Là ngươi sao? Mau mở cửa! Là trẫm đây! Trẫm đến rồi”.

Bên kia cánh cửa im lặng một thời gian rất dài, hắn mới chậm rãi nói một câu: “Hoàng thượng... mời về cho”.

“Nói đùa gì thế? Lẽ nào trẫm vứt bỏ quốc sự nghìn dặm xa xôi không ngủ không nghỉ đến đây là để nhìn cánh cửa đóng kín này sao? Mau mở cửa ra cho trẫm!”. Nàng lại lôi lý do này ra.

Nhưng rõ ràng Tiết Thái không phải là Giang Vãn Y, cũng không phải là bất cứ một quan viên nào khác, hắn chính là hắn, Băng Ly công tử Tiết Thái. Vì thế, hắn vẫn không mở cửa, lạnh nhạt nói: “Vi thần cỏ bệnh trên người, nếu hoàng thượng lại gần sẽ bị lây nhiễm. Cái lễ quân thần tuy quan trọng, nhưng sức khỏe của hoàng thượng còn quan trọng hơn, thần không dám làm tội nhân thiên cổ. Cho nên, hoàng thượng xin giữ cho vi thần cái danh trong sạch”.

“Tiết Thái!”. Tiếng đầu tiên thốt lên là phẫn nộ, nhưng đến tiếng thứ hai, lại chuyển thành vô cùng ấm ức và đau thương: “Tiết Thái... ngươi đừng giận dỗi nữa, ngươi mở cửa được không? Trẫm, trẫm... thật sự rất lo lắng cho ngươi... Mười ngày nay, trẫm sợ mình đến muộn, sợ không gặp được ngươi... Ngươi mau mở cửa đi...”.

Tiếng nói nghẹn ngào thảm thiết, đến người bên cạnh cũng không đành lòng nghe. Huống hồ nàng thân phận là cửu ngũ chí tôn mà lại van nài một thần tử như vậy.

Những người bên cạnh ai biết rõ quan hệ của nàng và Tiết Thái, nhìn thấy đều không khỏi thương xót; còn người không biết hoặc lần đầu gặp hoàng thượng, đều trợn mắt há mồm - Hoàn toàn không dám nghĩ, sao lại có thần tử bất kính với hoàng đế như thế.

Đối mặt với tiếng khóc lóc van nài của Khương Trầm Ngư, Tiết Thái vẫn không có động tĩnh gì, giọng điệu vẫn lạnh nhạt đến gần như thờ ơ: “Hoàng thượng, cánh cửa này thần tuyệt đối sẽ không mở. Người đừng hy vọng nữa”.

“Ngươi! Ngươi! Ngươi dám kháng chỉ?”. Khương Trầm Ngư tức tối giậm chân: “Trẫm sẽ giết cả nhà ngươi, tru di cửu tộc nhà ngươi”.

“Cả nhà thần đã chết hết từ lâu rồi”.

“Ngươi ngươi ngươi!”. Khương Trầm Ngư không thuyết phục được hắn, liền quay sang sai khiến các thần tử khác: “Các ngươi qua đây, phá cánh cửa này cho trẫm, sẽ có trọng thưởng”.

Đám thị vệ còn chưa kịp hành động, Tiết Thái đã lạnh lùng nói: “Nếu vì thế mà hoàng thượng nhiễm bệnh, cả nhà các ngươi đều bị diệt môn, có gan thì cứ qua đây đi”.

Đám thị vệ nhìn nhau, nhất thời không ai dám động thủ.

Khương Trầm Ngư vừa giận dữ vừa đau lòng, đành tự mình đập cửa, nàng đập rất mạnh, đến mức cả bàn tay đều sưng đỏ lên: “Tiết Thái, ngươi dám cư xử như vậy với ta, ngươi là đồ khốn! Ngươi không phải là người! Người vong ơn phụ nghĩa! Ngươi coi thường hoàng uy...”. Nàng mắng chửi hết một lượt những từ có thể nghĩ ra, mắng đến mức giọng khản đặc, mắng đến mức sức cùng lực kiệt, cuối cùng đôi chân mềm nhũn, trượt xuống theo cánh cửa ngồi bệt trên mặt đất.

“Hoàng thượng...”. Tiết Thái trước đó vẫn luôn im lặng không lên tiếng để mặc cho nàng mắng chửi, đến lúc này mới chậm rãi mở miệng, nói: “Hoàng thượng, nước không thể một ngày không có vua, người... mau về sớm đi”.

Khương Trầm Ngư ngồi trên mặt đất không chút hình tượng, bưng mặt, toàn thân run rẩy.

Tiết Thái im lặng đợi một lúc, không nghe thấy phản ứng của nàng, bèn nói tiếp: “Vi thần có hai việc muốn nói với hoàng tlìượng, nhưng trước đây không ngờ hoàng thượng sẽ đến, cho nên đã nhờ Chu Long viết thành tấu chương đưa về đế đô. Bây giờ có lẽ cũng đã đến nơi rồi. Sau khi hoàng thượng quay về, đọc xong sẽ hiểu”.

Khương Trầm Ngư vẫn không phản ứng lại.

Giọng Tiết Thái mơ hồ như đang than thở: “Hoàng thượng... người... thật sự... không nên đến”.

“Ngươi bớt lời đi!”. Giọng Khương Trầm Ngư đầy vẻ căm giận: “Trẫm tới hay không là chuyện ngươi có thể bình luận được sao?”.

“Hoàng thượng, vi thần... không còn nhiều thời gian nữa”. Hắn bỗng mềm mỏng nói câu này, Khương Trầm Ngư rúng động, sau đó nước mắt tuôn rơi.

Thái giám sau lưng muốn lấy lòng nên đi lên phía trước đưa khăn tay cho nàng, Khương Trầm Ngư quay lại nói: “Toàn bộ các ngươi lui hết, đứng cách thật xa. Ta nói chuyện với Tiết tướng, không cho phép các ngươi nghe!”.

Mọi người vội vàng lùi ra sau trăm trượng, ở đây trống trải hoang vắng, lại sắp vào đêm, một nhóm ngươi run lập cập chờ trong gió lạnh, từ xa nhìn đôi quân thần đó, trong lòng có đủ mọi suy nghĩ.

Còn bản thân đương sự lại hoàn toàn không để ý đến ánh mắt của người khác, lao đến trước cửa khóc đến mờ mịt cả đất trời: “Tiết Thái, ngươi mở cửa ra. Ta phải gặp mặt ngươi, nhìn thấy ngươi xong, ta sẽ đi ngay. Ngươi mở cửa đi... Tiết Thái, ngươi đừng như vậy với ta, đừng như vậy với ta có được không?”.

Tiếng hít thở của Tiết Thái lọt qua tấm ván cửa, lờ mờ truyền đến, khoảnh khắc này hắn đang có biểu cảm như thế nào? Trong lòng hắn đang nghĩ gì?

Dung nhan nhìn chẳng được, tâm tư đoán không xong. Đứa trẻ này đối với nàng mà nói chưa bao giờ là thuộc hạ, chưa bao giờ là đệ đệ, mà là huynh trưởng, là chỗ dựa của nàng!

Khương Trầm Ngư thút thít nói: “Ngươi có biết không, mấy ngày hôm nay trong đầu ta chỉ nghĩ có một chuyện? Đó chính là tại sao ta phải phái ngươi đi Hàn Cừ? Là ta hại ngươi, ngươi sắp chết rồi, cả đời ta sẽ vì thế mà cắn rứt và tự trách, là ta, là ta đã khiến Tiết Thái mới chỉ mười lăm tuổi chết ở nơi đất khách quê người!”.

“Mười lăm tuổi...”. Tiết Thái nhắc lại ba chữ này, dường như hơi ngây ngốc: “Vi thần... ba tháng trước, đã tròn mười lăm rồi”.

“Đúng thế, ngày mùng tám tháng tám, ta tặng quà cho ngươi, ngươi nhận rồi chứ?”.

“Ừ”. Ngừng một lát, lại nói: “Thần rất thích”.

Món quà nàng tặng cho hắn là một bức tranh đích thân nàng vẽ, tranh vẽ quang cảnh Tiết Thái và Cơ Anh tỉ thí trong đại thọ của phụ thân nàng vào năm Đồ Bích thứ hai.

Đó là cảnh lần đầu tiên nàng gặp Cơ Anh.

Đó cũng là cảnh lần đầu tiên nàng gặp Tiết Thái.

Nhiều năm trôi qua như thế, cảnh tượng đó vẫn sống động trong trí não nàng, mỗi một chi tiết đều rõ mồn một. Thế nên khi nàng vẽ xong, liền sai người từ đế đô đem đến Hàn Cừ.

Lúc ấy Tiết Thái hoàn toàn không có hồi âm, cho nên một dạo nàng vẫn nghĩ có lẽ hắn không thích món quà này cho lắm. Nhưng phút này, tai nghe thấy mấy tiếng “thần rất thích” của hắn, tại sao cùng với vui mừng, lại lời lời như đâm vào tim như vậy?

“Tiết Thái, ngươi mở cửa ra, dù vắt kiệt sức lực của toàn thiên hạ, ta cũng phải cứu ngươi. Ngươi sẽ khỏe lên, nhất định sẽ khỏe lên. Ta không để truyền kỳ của ngươi kết thúc vào tuổi mười lăm đâu! Cho nên, ngươi mở cửa ra đi!”.

Tiết Thái hít một hơi thật sâu: “Trầm Ngư”.

Cánh tay Khương Trầm Ngư vốn dĩ chuẩn bị đập cửa bỗng dừng lại giữa khoảng không.

Tiết Thái gọi... gọi... nàng là gì?

Hắn luôn không dùng kính ngữ, thậm chí gọi cả tên kèm họ của nàng ra, đây là lần đầu tiên hắn gọi nàng là Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư ngẩn ngơ trả lời: “Cái gì?”.

“Mười lăm tuổi”. Tiết Thái nhắc lại ba chữ này một lần nữa, sau đó, giọng nói bỗng chốc trở nên vô cùng dịu dàng, cũng vô cùng thê lương: “Lần đầu tiên khi ta gặp nàng, nàng cũng mười lăm tuổi”.

Tuy Khương Trầm Ngư gặp Tiết Thái trong buổi thọ yến của Khương Trọng, nhưng khi ấy nàng nấp sau rèm cửa, Tiết Thái không nhìn thấy nàng. Sau đó, hắn khiến Hy Hòa ngã xuống hồ, rồi xông đến Cảnh Dương điện thỉnh tội, lần đó kỳ thực cũng được coi là lần đầu tiên, nhưng khi ấy Tiết Thái chỉ mải thỉnh tội, căn bản không chú ý đến trong đám người xung quanh còn có một người là nàng.

Lần đầu tiên họ chính thức đối mặt nhìn nhau là khi Tiết Thái đã bị biến thành nô lệ, khi Khương Trầm Ngư dẫn hắn đến lãnh cung gặp Tiết Mính. Nàng còn nhớ khi đó nàng chìa tay ra, hắn lại lùi lại một bước, nói: “Tiết Thái là nô tài, không dám cầm tay tiểu thư”.

Năm đó nàng mười lăm tuổi.

Trái tim của Khương Trầm Ngư bỗng chốc run rẩy thít chặt lại.

“Ta không thích số tám, nàng có biết tại sao không?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu.

Tiết Thái dường như ngần ngừ một lát, nhưng cuối cùng vẫn nói ra: “Bởi vì, khoảng cách giữa chúng ta là tám năm”.

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng mở to đến cực đại.

Tiết Thái khẽ cười: “Rất kinh ngạc sao? Thực ra ta cũng thế. Có một ngày, ta phát hiện ra nguyên nhân tại sao ta lại ghét con số này như thế, là vì số tuổi của nàng trừ đi số tuổi của ta, đáp án là tám. Khi ấy, bản thân ta cũng rất kinh ngạc”.

“Tiết Thái...”. Khương Trầm Ngư không kìm được gọi tên hắn, nhưng gọi xong, lại không biết phải nói gì.

“Nếu như, ta ra đời sớm tám năm, vào ngày mùng một tháng một năm Đồ Bích thứ tư, khi nàng đến tuổi cập kê, trong bốn nước, người xứng với nàng nhất kỳ thực không phải là Cơ Anh, mà nên là ta, chẳng phải sao?”.

Khương Trầm Ngư cảm thấy có một bàn tay vô hình, trong khoảng khắc này, bóp chặt trái tim nàng.

“Tám năm... cho dù ta có trưởng thành sớm như thế nào, cho dù ta có thần thông ra sao, cho dù ta có nỗ lực trưởng thành nhanh gấp ba người khác như thế nào, thế nhưng, tám năm này, ta không sao vượt qua nổi...” Giọng nói của Tiết Thái càng lúc càng trầm thấp mơ hồ, giống như đang nói mơ: “Đối với sinh mệnh, ta lạm chi quá nhiều, cho nên, bây giờ, đến lúc hoàn trả rồi...”.

“Hoàn trả cái gì? Lạm chi cái gì?”. Khương Trầm Ngư cuống lên: “Ngươi mới mười lăm tuổi! Ngươi còn có thể sống đến tám mươi tuổi! Ta không cho phép ngươi nói như thế”.

“Đối diện với sự thực đi, Trầm Ngư. Cả đời này của nàng, mỗi lần gặp phải chuyện không muốn đối mặt, nàng liền chọn cách trốn tránh, nhưng lần này, ta không cho nàng trốn tránh”.

Khương Trầm Ngư lại bàng hoàng lần nữa.

“Để ta nói cho nàng nghe, những gì ta nói sau đây rất quan trọng. Ta đã tìm ra tung tích của Cơ Hốt, nội dung cụ thể ta đã sai Chu Long đưa cho nàng; còn trong triều thần hiện nay, có vài người có thể bồi dưỡng, có vài người cần phải cấp tốc cách chức, trong lòng nàng rất rõ; nhưng để cho chắc chắn, ta cũng viết cả ra rồi... Năm năm qua, ta kế thừa chí hướng của Cơ Anh, mỗi ngày trăm công nghìn việc khổ sở vất vả lao tâm khổ tứ, cuối cùng đã được đền đáp. Đến nay, trong nước quốc thái dân an, quan hệ bốn nước hòa hảo, trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chiến sự. Cho nên!”. Giọng hắn bỗng dưng trở nên kích động, nói từng tiếng rành rọt: “Nếu như nàng muốn thoái vị lấy chồng, đây là thời cơ”.

“Ngươi nói cái gì?”. Khương Trầm không thể ngờ đến điều hắn muốn nói lại là điều này, cơ hồ hoài nghi mình lầm.

Nhưng giọng nói của Tiết Thái lại càng lúc càng sáng rõ, rành mạch và gấp gáp: “Nàng thích Hách Dịch đúng không? Nhưng vì thân phận của hai người, cho nên không thể ở bên nhau đúng không? Hiện tại, nàng có cơ hội rồi đó”.

“Ta không biết ngươi đang nói gì!”.

“Cơ Hốt là chủ nhân của Tứ quốc phổ, năm năm qua vì trốn tránh nàng, nàng ta đã chọn ẩn cư, nhưng chỉ cần nàng mời nàng ta lần nữa nàng ta sẽ xuất sơn, nàng có thể gửi gắm Tân Dã cho nàng ta, nàng ta vẫn sẽ giúp cháu của mình. Mẫu thân nàng đã qua đời, cũng là lúc mời phụ thân nàng quay về rồi. Hai người bọn họ, một người là bù nhìn rơm, một người là cáo già, tuy đều rất bạc tình, nhưng đối với Tân Dã, đều sẽ tận tâm tận lực. Cho nên nàng, cuối cùng cũng có thể rút lui khỏi vòng xoáy lớn này”.

“Ngươi... ngươi...”. Khương Trầm Ngư nói không nên lời.

“Trầm Ngư, có câu này có thể khá phũ phàng, nhưng lại là sự thực - Nàng không có tố chất làm hoàng đế. Năm năm nay, sở dĩ nàng có thể làm hoàng đế thuận buồm xuôi gió, ngoài vì nàng khoan dung độ lượng, được lòng người ra, còn có một phần nguyên nhân là - Những việc xấu xa, bẩn thỉu, nàng không muốn làm ta đều làm thay nàng. Bây giờ, ta sắp chết rồi, trừ phi nàng dùng Khương Trọng giúp nàng, nhưng, chắc chắn nàng không muốn lại đối diện với ông ta, cho nên... lúc này là lúc rút lui rồi. Lấy chồng đi, Trầm Ngư”.

Lấy chồng đi, Trầm Ngư.

Năm tiếng cuối cùng chắc nịch đanh thép, không ngừng vang vọng.

Nhất thời, trên trời dưới đất, đều lặp đi lặp lại năm tiếng này - Lấy chồng đi, Trầm Ngư. Lấy chồng đi, Trầm Ngư. Lấy chồng đi, Trầm Ngư.

Khương Trầm Ngư kêu thét lên, bịt chặt tai mình.

Giọng nói của Tiết Thái hơi nghẹn ngào, nhưng vẫn cố gắng kìm chế: “Năm đó ta ép nàng xưng đế là vì ta có tính toán riêng, ta không muốn nàng và Hách Dịch tiếp tục dây dưa, ta sợ nàng thực sự vứt hết tất cả đi theo hắn ta, cho nên, ta sử dụng tất cả mọi thứ để giữ nàng lại. Ta biết chuyện Khương Họa Nguyệt và hai tên Tiêu La thông đồng, ta cố ý không đánh tiếng, ta cho ả ta có cơ hội đoạn tuyệt với nàng, kỳ thực, nếu như không cho họ cơ hội, chị em nàng vẫn có thể tiếp tục hòa thuận chung sống; ta biết nàng đã hai lần đi gặp Hách Dịch, ta ghen muốn chết, nhưng, ta nhất định phải cho hai người cơ hội cắt đứt, cho nên ta mạo hiểm việc có thể mất nàng, dùng xe ngựa của mình để che giấu cho nàng... Ta thận trọng từng bước, khổ tâm trù tính, ta tưởng rằng... chỉ cần cho ta thêm vài năm là sẽ có hy vọng. Từ nhỏ ta đã muốn gió được gió, muốn mưa được mưa, cho dù sau này nhất thời thất thế, nhưng cũng là nhận đủ vinh sủng, vì thế trên thế gian này, không có thứ gì là ta không có được, bao gồm cả nàng trong đó. Cho nên, ông trời cuối cùng đã không chấp nhận, giáng một đòn chí mạng cuối cùng xuống ta”.

“Tiết Thái...”. Khương Trầm Ngư run run ấn lên cánh cửa, không thể tưởng tượng nổi vẻ mặt của Tiết Thái khi nói những lời này ở bên kia cánh cửa, hắn đang khóc ư? Lần duy nhất hắn khóc chính là lần khuyên nàng xưng đế, nhưng lần đó hắn tuy lòng xao động, nhưng không phải là kích động.

Băng Ly.

Danh hiệu mà Yên vương phong tặng kỳ thực là sự miêu tả chân thực về Tiết Thái. Cứng cỏi như băng đá, trong suốt như lưu ly.

Một con người như thế này, lại, lại... lại thích nàng. Sự thực này khiến cho cả trời đất đều trở nên ảm đạm.

“Nàng đi đi”. Tiết Thái mềm yếu nói.

“Ta không đi! Ta không đi! Cho dù ngươi có đuổi ta như thế nào, ta cũng không đi! Trừ phi ngươi đi cùng ta!”. Khương Trầm Ngư cố chấp lắc đầu.

Tiết Thái hít sâu một hơi, cười với một vẻ bất lực: “Nàng ấy... quả nhiên là khắc tinh của đời ta...’.

“Tiết Thái... ngươi, ngươi thật sự thích ta sao? Thế thì...”. Khương Trầm Ngư cắn môi, mỗi từ nói ra đều rất khó khăn: “Chỉ cần ngươi khỏe, khỏe lên, ta, ta sẽ lấy ngươi... Ta sẽ lấy ngươi, được không? Cho nên, Tiết Thái, ngươi đừng từ bỏ, ngươi ra đây đi, ta không tin bao nhiêu danh y trong thiên hạ, bao nhiêu thuốc quý như thế mà không cứu nổi ngươi!”.

Bên kia cánh cửa, im lặng rất lâu.
 
Quyển 2 - Chương 97


Khương Trầm Ngư đợi một lúc, không kìm được lại đập cửa: “Tiết Thái, Tiết Thái, ngươi có nghe thấy không? Ngươi có nghe thấy ta nói không? Ngươi đã lên kế hoạch lâu như thế, còn ép ta phải làm hoàng đế, để dọn đường cho quan hệ giữa chúng ta, sao lại có thể dừng lại ở đây? Ngươi không thích ta sao? Hãy cưới ta đi! Cưới ta đi!”.

“Không kịp nữa rồi!”. Giọng Tiết Thái vô cùng vô cùng khản đặc, khản đến mức khiến người ta cảm thấy dây thanh đới của hắn có thể đứt bất cứ lúc nào.

Khương Trầm Ngư mặt trắng bệch như tờ giấy: “Gì cơ?”.

“Nàng còn nhớ cái lần Hy Hòa chết đó không, ta dùng chăn chụp lên đầu nàng, không cho nàng nhìn? Lần này... cũng như thế...”.

Khương Trầm Ngư run rẩy lảo đảo đứng dậy: “Tiết Thái, ngươi, ngươi sao thế? Bộ dạng của ngươi bây giờ... rất đáng sợ sao?”.

“Đúng thế. Cho nên, nàng không thể nhìn. Nếu như nàng thấy... cả đời này sẽ toàn mơ ác mộng, hơn nữa mỗi lần nhớ đến lại là một lần đau khổ. Còn ta, tuyệt đối không thể để lại nỗi đau khổ này cho nàng. Cho nên...”. Tiết Thái nhẹ nhàng nói với nàng, bằng giọng điệu dịu dàng mà nàng chưa từng được nghe: “Không được nhìn. Trầm Ngư, không được nhìn”.

“Tiết Thái...”.

“Ta đã nói hết, nàng... đi đi”.

“Tiết Thái”. Nước mắt đầm đìa trên gương mặt Khương Trầm Ngư.

Tiếng bước chân lạo xạo, loáng thoáng truyền tới từ đầu bên kia cánh cửa, sau đó, câu nói cuối cùng của Tiết Thái vang lên: “Thực ra, hôm nay nàng có thể đến đây thăm ta, ta thật sự... rất vui”.

Sợi dây cuối cùng ở nơi sâu thẳm cõi lòng nàng cũng vì câu nói này mà đứt phựt, Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy mắt mình bỗng dưng nhòe đi, sau đó, sương mù dày đặc màu đỏ như máu tươi bao phủ, che hết tất cả cảnh vật trước mắt.

Nàng ngất đi.

Đến khi Khương Trầm Ngư tỉnh lại, trên mắt đã bị băng một dải lụa, có thể lờ mờ cảm thấy mình đang ở trên xe ngựa, bánh xe lăn lộc cộc, chòng chành lắc lư.

Nàng sờ dải lụa: “Chuyện gì thế?”.

Bên cạnh, giọng nói của Giang Vãn Y vang lên dịu dàng: “Hoàng thượng, bệnh mắt của người tái phát, lần này tương đối nghiêm trọng, cho nên phải điều trị cẩn thận. Hơn nữa... Tiết tướng dặn dò chúng thần đưa người về kinh, cho nên, bây giờ người đang trên đường về kinh.”

“Muội không đi!”. Khương Trầm Ngư giãy lên muốn ngồi dậy: “Muội không đi, muội phải nói chuyện với Tiết Thái, muội còn phải...”.

“Tiết tướng chết rồi!”. Giang Vãn Y lạnh nhạt nói một câu, nàng run lẩy bẩy.

“Huynh... nói gì?”.

“Sau khi hoàng thượng ngất, Tiết tướng vô cùng lo lắng, dặn dò chúng thần đưa người về kinh, nhưng dặn dò được một nửa thì không nghe thấy tiếng nữa, chúng thần vội vàng phái người vào trong, thì phát hiện Tiết tướng đã... ngừng thở”.

“Cũng có nghĩa là... đến nhìn mặt hắn lần cuối muội cũng không được nhìn?”. Có lẽ vì không nhìn thấy gì, nên KhươngTrầm Ngư trở nên yên tĩnh, không còn kích động nóng nảy như lúc đập cửa nữa.

Giang Vãn Y nhìn nàng một cách thương xót, “ừ” một tiếng.

Cả người Khương Trầm Ngư không hề nhúc nhích.

Giang Vãn Y nhẹ nhàng cầm tay nàng, khẽ nói: “Nếu muốn khóc thì cứ khóc đi”.

“Muội không khóc”.

“Hoàng thượng...”.

“Muội không thể khóc. Mắt của muội đang đắp thuốc, nếu muội khóc, nước mắt sẽ làm trôi hết thuốc”. Khi Khương Trầm Ngư nói câu này, giọng nói vẫn còn run rẩy, nhưng biểu cảm đã bình tĩnh đến mức đáng sợ.

Giang Vãn Y sờ lên dải lụa băng mắt nàng: “Ba ngày sau là được tháo băng, hoàng thượng có thể nhìn thấy trở lại”.

“Muội biết rồi. Cho nên, muội không khóc”. Khương Trầm Ngư cầm tay hắn, giống như đang nắm chặt chỗ dựa cuối cùng của mình, nói từng tiếng một: “Muội sẽ mau chóng khỏe trở lại, sau đó, muội sẽ đích thân đưa tiễn Tiết Thái. Truyền ý chỉ của trẫm, hỏa táng thi hài của Tiết tướng thành tro, rồi lấy tro cốt cho vào hộp, mang về đế đô. Trẫm sẽ đích thân chủ trì đại tang cho Tiết Thái!”.

Ánh mặt trời mùa đông chiếu xuyên qua cửa sổ rọi lên gương mặt nàng. Tuy đôi mắt không nhìn thấy gì, nhưng khóe môi cương nghị, cái cằm xiết chặt, không điểm nào là không bộc lộ quyết tâm và ý chí của vị nữ vương này.

Trong lòng Giang Vãn Y bỗng trào dâng một niềm kính trọng, hắn không nói thêm gì nữa.

Năm Lê Yến thứ năm, thừa tướng Tiết Thái nhận đế mệnh đến bảy thành trì xử lý dịch bệnh, không may nhiễm bệnh, chết ở Hàn Cừ. Hoàng đế nghe tin chảy nước mắt, lệnh hỏa táng di thể thừa tướng, đưa tro cốt về kinh.

Ngày mùng một tháng mười hai, hoàng đế đích thân chủ trì tang lễ cho thừa tướng.

Ngày thừa tướng nhập thổ, tuyết rơi nhiều như khóc, cả nước đau buồn.

Hoàng đế mất đi cánh tay phải, bệnh nặng, ba tháng sau băng hà, truyền ngôi cho thái tử Tân Dã, lệnh cho tiền thừa tướng Khương Trọng, tiền quý tần Cơ Hốt phò tá thái tử, đổi quốc hiệu thành Bích, niên hiệu Tân Bình.

Người đời sau để phần biệt, gọi giai đoạn trước triều Lê là Tiền Bích, sau triều Lê là Tân Bích.

Bức tranh mỹ nhân treo trên tường, xiêm áo bị gió thổi phấp phới, tựa như sắp bước từ trong tranh ra.

Nhưng vì ngày ngày dãi gió dầm mưa, nên có những chỗ đã bắt đầu ố vàng, khiến nàng vừa cao ngạo, cách biệt nhân thế, lại vừa thêm vài phần tịch liêu không thê tả xiêt.

Bức tranh này treo trên một tửu lâu hai tầng có tên là “Long Phượng lâu”, tọa lạc trên con phố phồn hoa nhất Nghi quốc. Còn ông chủ của tửu lâu này không phải ai khác chính là Nghi vương.

Từ hai năm trước, sau khi chàng treo bức tranh này lên, chặn đứng tâm tư muốn mai mối của một số đại thần, cũng thu hút được vô số văn nhân tao khách đến đây, bọn họ người thì muốn đến xem Hy Hòa phu nhân trong truyền thuyết rốt cuộc trông như thế nào, người thì muốn đến so sánh nàng ta với nữ quyến trong nhà mình... Người người đều nghe nói về một bức tranh như thế, người người đều chạy đến đó ăn cơm. Tóm lại, hành động này của Hách Dịch không những thành công trong việc từ chối hôn sự của mình, còn kiếm được bộn tiền.

Nhưng cũng hoàn toàn trì hoãn hôn sự của chàng. Đến nỗi khi người Nghi quốc nhắc đến hoàng đế của mình, đều tỏ vẻ lo lắng: “Ngươi nói xem hoàng đế của chúng ta tuổi có còn nhỏ đâu mà vẫn còn kén cá chọn canh như thế. Sao không chịu tìm một nữ nhân để ổn định chứ?”.

“Ngươi thì biết gì, bây giờ hoàng đế ngài muốn đi đâu thì đi đấy, muốn làm gì thì làm nấy, không có ai quản tốt biết bao nhiêu. Hơn nữa tuy ngài không lấy vợ, nhưng hồng nhan trí kỷ, một đêm phong lưu chắc chắn là vô số, hi hi, đây mới là cảnh giới cao nhất của nam nhân: Có quyền, có tiền, có nữ nhân, còn có tự do!”.

“Nhưng không có con cái nối dõi thì vẫn không ổn”.

“Sợ cái gì chứ, chúng ta còn có tiểu công tử. Dù sao hoàng thượng quanh năm suốt tháng cũng không ở đế đô, nếu không có tiểu công tử, ngài có thể thoải mái như thế không?”.

“Cũng đúng. Tiểu công tử thật sự rất lợi hại... Đúng rồi, năm nay ngài cũng mười sáu tuổi rồi đúng không? Cũng có thể thành gia rồi nhỉ? Ngươi nói xem, ở Nghi quốc chúng ta, thiên kim tiểu thư của nhà nào có thể xứng với tiểu công tử?”.

“Ồ, cái này ấy mà, phải suy nghĩ cho thật kỹ...”.

Những cuộc thảo luận kiểu này có khắp trong các tửu lâu, lọt vào tai một người nào đó, y liền không nhịn được mỉm cười?

Người này thân khoác áo khoác màu đen, đi lên cầu thang vội vã lên tầng hai, đến trước bức tranh.

Nữ tử trong tranh đứng trước chiếc gương đồng, dáng người cực kỳ thướt tha yểu điệu, mái tóc như mây bay lãng đãng, còn trong gương đồng lại có thể nhìn thấy gương mặt của nàng - mày đậm môi son, không phải là nhan sắc của nhân gian.

Bức tranh này truyền từ Tiết Thái đến Hách Dịch, giúp hai nam tử xuất sắc từ chối hôn sự, vì thế có thể thấy nó được vẽ đẹp đến nhường nào.

Thế nhưng, người thân khoác áo choàng đen đó đứng trước bức tranh, nhìn thần thoại do tự tay mình vẽ ra, lại hiểu một cách sâu sắc rằng, thứ nàng vẽ ra chẳng được đến bảy phần của Hy Hòa phu nhân.

Có lẽ do nàng đứng nhìn chăm chú trước bức tranh quá lâu, cho nên đã thu hút sự chú ý của vài người khách:

“A? Ngươi xem, lại có người ngơ ngẩn trước bức tranh đó”.

“Đừng nhìn nữa, năm nào chẳng có bao nhiêu thằng ngốc như thế, có phải hiếm thấy đâu...”.

“A! Nhìn kìa!”.

“Có cái gì hay mà nhìn...”.

“Mau nhìn mà xem! Người đó gỡ bức tranh xuống rồi!”.

“Cái gì? Giữa thanh thiên bạch nhật, lại có người dám trộm tranh!”.

Khách khứa trong tửu lâu nhốn nháo cả lên, nhìn lên tiêu điểm của tầng hai, đoán xem kẻ nào không sợ chết dám lấy bức tranh đó xuống.

Nhưng từ góc nhìn của bọn họ, chỉ thấy người áo choàng đen đó kín mít từ đầu đến chân, không hở ra một chút da thịt.

Ngay tức khắc có tiểu nhị xông lên lầu chuẩn bị bắt giữ y. Nhưng lúc này, người áo đen nói một câu: “Nghe nói, muốn gả cho Nghi vương bệ hạ, phải đẹp hơn người trong tranh, đúng không?”.

Giọng nói nhỏ nhẹ dịu dàng, linh động như khói, triền miên như nước, lại ngân vang như chuông.

Nữ nhân?

Tất cả mọi người có mặt đều ngẩn ra, tiểu nhị cũng đứng yên tại chỗ.

Sau đó, người áo đen lại nói câu thứ hai: “Thế thì ta đến ứng cử, hãy đưa ta yết kiến Nghi vương bệ hạ”.

Sau một hồi im lặng chết chóc, cả tửu lâu bùng lên náo loạn.

Trong tiếng huyên náo của mọi người, chưởng quầy của tửu lâu đi lên cầu thang, chắp tay hành lễ: “Mời tiểu thư đi theo ta”.

Hai người rất mau chóng biến mất ở góc rẽ cầu thang.

“Người đó là nữ nhân? Nữ nhân? Nàng ta còn đẹp hơn cả người trong tranh?”.

“Đã dám hạ bức tranh đó xuống, chắc chắn là như vậy. Nếu không là khi quân, bị chém đầu đó...”.

“Trời ơi, vừa nãy sao không kéo áo choàng của nàng ta xuống? Muốn biết nàng ta trông thế nào quá!”.

“Đừng có ngốc thế! Nếu người đó quả thực xinh đẹp hơn cả Hy Hòa phu nhân, hơn nữa thực sự trở thành hoàng hậu của Nghi quốc, dung mạo của nàng ta có thể dễ dàng cho ngươi nhìn thấy sao?”.

“Tuy nói như vậy, nhưng vẫn muốn biết quá á á á á á...”. Tiếng than thở, tiếng ngạc nhiên, tiếng tò mò và đủ mọi giọng nói hòa lẫn với nhau, khiến tửu lâu càng lúc càng náo nhiệt hơn bình thường.

Mà lúc này, người áo đen được chưởng quầy của tửu lâu dẫn dắt, đã bước vào một căn phòng ở tầng hai.

Hai tên thị vệ tiến lên phía trước chuẩn bị lục soát người, Hách Dịch ở trong phòng xua tay: “Không được làm mỹ nhân kinh sợ. Các ngươi lui ra, để nàng vào trong”.

Người áo đen chậm rãi đi đến trước mặt chàng, dừng lại cách chàng khoảng một trượng.

Hách Dịch dò xét nàng từ đầu đến chân một lượt, cười nói: “Nàng thật may mắn, hôm nay trẫm lại ở đây”.

“Đừng có coi thường thế lực của ta ở Nghi quốc”.

“Ha ha”. Hách Dịch cười vui vẻ: “Ta đương nhiên biết rõ thế lực của nàng, chỉ có điều ta lại không ngờ đến bây giờ nàng vẫn còn có thể sử dụng những thế lực này”.

Đám thị vệ nghe đến đây, cuối cùng đã hiểu hóa ra vị cô nương này là chốn quen biết cũ với hoàng thượng!

Người áo đen cầm bức tranh lên, từ tốn nói: “Ta nghe nói, muốn gả cho ngài, cần phải đẹp hơn nàng ta!”.

Hách Dịch tươi cười nhìn năng.

Người áo đen bỏ bức tranh xuống: “Nhưng ta không đẹp bằng nàng ta, còn có thể gả cho ngài không?”.

Ánh mắt của Hách Dịch liền trở nên sâu thẳm: “Cởi áo choàng ra”.

Người áo đen từ từ cởi bỏ chiếc đai, thả hai tay ra, chiếc áo choàng trùm từ đầu đến chân tụt xuống đất như nước chảy.

Các thị vệ nhìn thấy dung mạo của nàng xong, hai mắt trợn tròn.

Hách Dịch nhìn phản ứng của mọi người một lát rồi mỉm cười: “Nếu như nàng nhìn phản ứng của những người này xong còn cảm thấy chưa đủ tự tin...”. Chàng đứng dậy, đi thêm khoảng một trượng, dừng trước mặt người khách, giơ tay lên, nhẹ nhàng kéo lấy tay nàng: “Vậy thì để ta nói cho nàng hay, trong mắt ta, Hy Hòa phu nhân căn bản không bằng một phần vạn của nàng”.

Người đó run rẩy, giọng run run: “Cái hẹn ba năm đã qua... lại thêm hai năm nữa, còn có hiệu lực không?”.

Hách Dịch chăm chú nhìn nàng một cách dịu dàng vô hạn: “Đối với nàng... ta nghĩ hẳn là có hiệu lực vĩnh viễn...”.

Ngừng lại một lát, gọi tên nàng:

“Tiểu Ngu”.
 
Quyển 2 - Chương 98


Năm Tân Bình thứ nhất, có nữ tử lấy bức tranh Hy Hòa trên Long Phượng lâu xuống, tự xưng dung nhan mình còn đẹp hơn nàng ta. Nghi vương gặp xong, quả nhiên cả mừng, bèn cưới nàng, giấu trong thâm cung không ai được gặp.

Năm Tân Bình thứ hai, Nghi vương truyền ngôi cho người cháu, tức Hiền vương mà người Nghi quốc gọi thân mật là “tiểu công tử” Dạ Thượng.

Nghi vương cùng vợ thoái vị ẩn cư, làm ăn trong bốn bể, vô cùng thích ý.

Năm Tân Bình thứ ba, có sử quan khẩn cầu biên lại Bích sử, khi hạ bút đến đoạn Khương Trầm Ngư, lời lẽ phần nhiều miệt thị, nói là họa quốc (gây họa cho đất nước).

Bích vương Tân Dã mới chín tuổi đọc xong, sai người phạt trượng.

Sử quan hoảng sợ, định sửa lại, Bích vương giữa triều đường lại nói: “Cứ như thế đi, không cần sửa”.

Thế nên, Bích sử ghi rằng:

Lê vương Khương Trầm Ngư, con gái út của hữu tướng của triều Tiền Bích Khương Trọng, dung mạo xinh đẹp, được Bích vương Chiêu Doãn yêu thích, cưới về trong cung, phong làm Thục phi, sau lại tấn phong hoàng hậu. Người này giỏi về quyền thuật, lòng dạ độc ác thủ đoạn sâu xa, kiêm cả văn sử, tài năng ngút trời. Vào đêm được phong hậu, đầu độc giết Bích vương, khiến ngài bệnh mãi không khỏi, nhân cơ hội lâm triều xử lý chính sự, nắm chính quyền trong tay. Năm Đồ Bích thứ sáu, Bích vương băng hà, tỉ muội họ Khương tranh quyền, thị được thừa tướng Tiết Thái hỗ trợ, giết tỉ tỉ của mình, từ đây lên ngôi, tự xưng Duệ đế, đổi quốc hiệu thành Lê.

Năm Lê Yến thứ năm, Tiết tướng bệnh chết, không lâu sau Khương thị cũng qua đời.

Phía dưới bình luận:

Trong thời gian tại vị tuy Lê vương làm được rất nhiều việc tốt, nhưng trước thị giết chồng sau lại giết chị, ngay đến cha mình cũng không tha, vì ý kiến bất đồng với Khương tướng nên đã bãi miễn ông, khiến ông nhiều năm không được quay về kinh, vì thế người này có thể nói là bạc tình lạnh lùng đến cực độ. Đồ Bích mênh mông, thiếu chút nữa là bị hủy hoại trong tay người phụ nữ này, buồn thay đau thay! Hy vọng người đời sau lấy đây làm gương...

“Thanh sơn viễn cận đái Hoàng Châu, Tễ cảnh Trùng Dương thướng bắc lâu. Vũ yết đình cao tiến cúc nhuận, Sương phi thiên uyển ngự lê thu. Thù du sáp mấn hoa nghi thọ, phỉ thúy hoàng thoa vũ tác sầu. Mạn thuyết Đào Tiềm ly hạ túy, Hà tằng đắc kiến thử phong lưu...”[2].

[2] Bài “Cửu nhật đăng cao” của Vương Xương Linh (thời Đường). Nhà thơ kể lại tình cảnh đăng cao vào tết Trùng Dương theo phong tục, leo lên Bắc lâu, cảnh núi non trùng điệp từ xa tới gần thu vào tầm mắt. Tạm dịch nghĩa như sau: Núi xanh từ xa tới gần trải dài đến kinh đô, sau cơn mưa leo lên lầu Bắc vào tiết Trùng Dương. Mưa tạnh đình cao hoa cúc tươi tốt, sương giăng vườn ngự uyển hoa lê vào thu. Cành thù du gài tóc, hoa trường thọ, trâm phỉ thúy cài ngang dáng như mỹ nhân âu sầu nhảy múa. Chẳng trách Đào Tiềm uống say mèm dưới hàng rào, đời người có được mấy lần phong lưu như thế này...

Ngữ điệu chậm rãi, nhẹ nhàng vang vọng giữa những tán bách xanh tươi, nam tử ăn vận thoải mái vừa đi vừa ngâm nga, có vẻ vô cùng thoải mái.

Sau lưng chàng, một người dáng vẻ như a hoàn đang dìu một nữ tử, nữ tử này nghe xong liền cười: “Nhìn chàng vui vẻ như thế, tiết Trùng Dương sắp đến, lẽ nào chàng không có chút ưu sầu ‘biên sáp thù du thiểu nhất nhân’[3] nào sao”.

[3] Một câu trong bài “Cửu nhật cửu nguyệt ức Sơn Đông huynh đệ” của Vương Duy, nghĩa là vào tiết Trùng Dương nhớ người thân nơi phương xa hôm nay đều đăng cao, cài thù du lên tóc, duy chỉ thiếu có mình.

Nam tử lập tức quay người lại, ra hiệu cho a hoàn lui ra, tự mình đỡ tay nữ tử, nói: “Ta có ái thê xinh đeo ở bên cạnh, lại còn có con trai chưa chào đời đang chờ đợi, có gì mà phải ưu sầu?”.

Nữ tử chớp chớp mắt: “Sao chàng khẳng định là con trai?”.

“Con gái càng tốt, xinh đẹp giống như nàng, có tố chất gây họa cho nước nhà”.

Nữ tử đang định cười thì phía trước có mười mấy người đi đến, nhìn dáng vẻ cũng là leo núi vãn cảnh, những người đó ăn vận theo kiểu văn sĩ, vừa đi vừa bàn luận:

“Này, huynh có nghe nói Bích vương sai người soạn lại sử sách Tiền Bích, trong đó viết về Lê vương rất tệ không!”.

“Ả vốn gây họa cho nước cho dân, theo ta thấy, viết như thế vẫn còn nhẹ đấy”.

“Chẳng trách ả chết rồi trước mộ chẳng có lấy một tấm bia. Không giống như Võ hậu thời Đường cho mình một tấm bia không chữ”.

“Võ Tắc Thiên dù có thế nào đi chăng nữa, cũng không hạ độc chồng mình, so với Khương Trầm Ngư, còn nhân từ hơn nhiều”.

“Nhưng ta nghe nói, người hạ độc không phải là Lê vương, mà là đệ nhất mỹ nhân của bốn nước - Hy Hòa phu nhân”.

“Thôi đi. Làm gì có ai hạ độc cả bản thân mình. Đừng quên cuối cùng Hy Hòa chết thảm nhường nào... Chắc chắn là Khương Trầm Ngư đố kỵ với dung nhan kiều diễm của nàng, Bích vương vừa bị bệnh, ả liền lập tức ban cái chết cho Hy Hòa, còn tung tin với bên ngoài là bệnh chết, ai tin chứ!”.

“Thế xem ra Khương Trầm Ngư này quả nhiên là mầm họa lớn!”.

“May mà ông trời có mắt, làm cho ả bị bệnh mà chết. Tạo nghiệt quá nhiều sẽ có kết cục này”.

“Ta cảm thấy, để cho ả chết vẫn là dễ dàng cho ả, loại đàn bà độc ác này, đáng nhẽ phải lôi ra giễu phố lăng trì mới có thể giải hết hận!”.

“Được rồi, ai bảo hoàng đế của chúng ta nhân từ nương tay, nói thế nào đi chăng nữa, ngài cũng do một tay nữ nhân kia nuôi lớn, giống như là mẹ vậy... Đổi lại là ta, ta cũng thấy khó xử. Hoàng thượng đáng thương, mới chín tuổi mà phải đối mặt với những chuyện này... May mà ngài vẫn còn ông ngoại và Cơ thái hậu yêu thương ngài...”.

Tiếng bàn luận của đám văn nhân này càng lúc càng xa, chẳng ai buồn đưa mắt liếc về phía bên này một cái.

Đợi khi họ đi khuất tầm mắt, a hoàn mới “phì” một tiếng, căm hận nói: “Những kẻ đọc sách này là đáng ghét nhất, nói nhăng nói cuội, bàn luận vớ vẩn!”.

Nam tử cười hi hi: “Thế theo Hoài Cẩn, phải trừng phạt bọn họ như thế nào?”.

“Ừm... bắt bọn họ đi làm ruộng hết đi! Xem bọn họ còn nhàn rỗi như thế không?”.

Nam tử lộ vẻ kinh ngạc, quay sang nói với nữ tử: “A đầu này của nàng thật là ghê gớm đấy!”.

Nữ tử mỉm cười.

Hoài Cẩn bất mãn nói: “Tiểu thư, bọn chúng nói tiểu thư như thế, tiểu thư không tức giận sao? Còn nữa, hoàng thượng sao lại đồng ý cho sử sách viết về tiểu thư như thế? Còn cả lão gia nữa, sao lão gia cũng đồng ý...?”.

Nữ tử dịu dàng ngắt lời nàng ta, nói: “Thiên tử thay đổi thần tử cũng thay đổi, để củng cố chính quyền, đẩy hết lỗi lầm cho triều đại trước là một hành động sáng suốt”.

“Nhưng mà...”.

“Không sao. Dẫu sao... Khương Trầm Ngư đã chết rồi, người đời sau bình luận về nàng thế nào, nàng cũng không có ý kiến gì”.

“Đúng đấy đúng đấy!”. Nam tử ghé sát lại, trong ánh mắt tràn ngập sự tán thưởng: “Tiểu Ngu nhà ta nghĩ thông suốt nhất, cho nên mỗi ngày mới hạnh phúc như thế”.

Tiểu Ngu ngẩng đầu lên, nhìn nam tử cao hơn mình nửa cái đầu, ánh mắt sáng lấp lánh, có chút cảm khái, lại có chút cảm ơn: “Hạnh phúc của thiếp... lẽ nào không phải do phu quân ban cho sao?”.

Hai người dù đã thành hôn nhiều năm, nhưng phút này nhìn vào mắt nhau, tình ý vẫn triền miên như cũ.

Hoài Cẩn ở bên cạnh đã quen, nên quay đầu đi làm bộ không thấy.

Nữ tử bỗng kêu một tiếng rất khẽ.

Nam tử đột nhiên biến sắc, lo lắng hỏi: “Sao vậy?”.

“Con... đạp thiếp...”.

“Đi nào, ta bảo bọn Tiểu Chu đánh xe đến, chúng ta mau về thôi”. Nam tử nói đoạn rồi gọi người.

“Đừng... đừng gấp gáp như thế... chỉ là đạp thiếp một cái thôi, không phải sắp lâm bồn đâu...”. Nữ tử bị phản ứng của nam tử chọc cười, lườm chàng một cái: “Chàng luôn không cho thiếp ra khỏi cửa, làm cho thiếp chán chết đi được. Hôm nay khó khăn lắm mới dẫn thiếp leo núi, gì thì gì thiếp cũng phải leo đến đỉnh núi mới thôi”.

“Ta đâu có không cho nàng ra khỏi cửa”. Nam tử mặt đầy vẻ oan uổng, cười khổ nói: “Trước đây nàng ngôi thai không thuận, động một chút là nôn ọe, sư huynh nàng nói nàng khí hư thể nhược, không nên hoạt động nhiều”.

“Sư huynh sư huynh sư huynh, rốt cuộc chàng nghe huynh ấy hay là nghe thiếp?”.

“Ta đương nhiên là...”. Nam tử nói đến đây, mắt đảo một vòng, bỗng cúi xuống: “Nghe ‘Song Hoàng Liên’ nhà chúng ta!”.

Hoài Cẩn ở bên cạnh bật cười thành tiếng, che miệng nói: “Cô gia thật quá đáng, sao lại đặt cho tiểu thiếu gia tương lai một cái tên khó nghe như thế!”.

“Tuy khó nghe, nhưng lại gần gũi, độc nhất vô nhị. Ngươi nghĩ xem, ta từng là hoàng đế, còn phu nhân của ta cũng từng là một hoàng đế, hai hoàng đế kết hợp lại mới có đứa trẻ này, thế chẳng phải là ‘Song Hoàng Liên’ sao?”.

“Sao chàng không gọi là ‘Song Đản Hoàng’ (trứng hai lòng) đi?”. Nữ tử lườm chàng một cái, quay người đi lên phía trước.

Nam tử vẫn rất nghiêm túc ngẫm nghĩ: “Song Đản Hoàng... hình như cũng không tồi đâu...”.

“Này, thiếp chỉ tùy tiện nói ra thôi! Nếu chàng thật sự dám đặt tên như thế, thiếp không chịu đâu”.

“Ha ha ha ha...”. Ba người tiếp tục đi lên núi, lại gặp đám văn nhân đó xuống núi, tiếng bàn luận của họ vẫn chưa dứt, lại đổi sang một chủ đề khác.

“Nghe nói Trình vương tháng trước bị ám sát chết rồi?”.

“Ừ, hơn nữa, nghe nói là huynh trưởng của nàng ta làm”.

“Huynh trưởng của nàng ta chẳng phải đã chết cả rồi sao?”.

“Còn một người bỏ trốn. Đó chính là kẻ đã hại chết Kỳ Úc hầu của chúng ta!”.

“Ồ... hình như tên là Di gì đó, Di Phi thì phải”.

“Đúng. Hắn quả là giỏi nhẫn nhịn, mười năm đằng đẵng, cuối cùng đã phục quốc thành công!”.

“Quả nhiên là một nam nhân như lạng sói...”.

Tiếng bàn luận xa dần.

Hoài Cẩn nhớ đến diện mạo thực sự của nam nhân bị bình luận là như “lang sói”, không kìm được lại cười “phì” một tiếng nữa: “Nào có giống lang sói, rõ ràng là một con công!”.

“Mười năm...”. Trong mắt của nam tử lại ngập tràn sự cảm khái: “Hóa ra đã mười năm rồi...”.

“Đúng thế, mười năm phong vân biến ảo của thiếp, cũng là mười năm nếm mật nằm gai của Di Phi”. Nữ tử nói đến đây, cũng bộc lộ vẻ mặt đầy phức tạp: “Hắn tuy bề ngoài cười cợt không nghiêm túc, nhưng thực sự là một nam nhân rất giỏi. Cũng may, hắn cũng không phải kẻ địch của thiếp”.

Nam tử mỉm cười rất kỳ dị.

Nữ tử không kìm được hỏi: “Chàng cười cái gì?”.

Nam tử thong thả nói: “Di Phi không thể là kẻ địch của nàng được”.

“Tại sao chàng lại khẳng định như vậy? Nếu như năm đó thiếp không chịu đồng ý thu nhận hắn...”.

Nam tử ngắt lời nàng: “Nàng nhất định sẽ thu nhận. Bởi vì, nàng đã từng thề phải báo thù cho Sư Tẩu, tuyệt đối không thể tha thứ cho Di Thù. Thế thì còn có cách gì tốt hơn là thu nhận cái gai trong mắt của Di Thù?”.

Nữ tử nhìn chằm chằm chàng một lúc xong cười rạng rỡ: “Chàng quả thực rất hiểu thiếp”.

“Sở dĩ ta nói Di Phi không thể trở thành kẻ địch của nàng, ngoài việc hai người có chung một kẻ địch ra, còn có một nguyên nhân, đó là...”.

“Là gì?”.

Nam tử bỗng nín thinh, không chịu nói.

“Mau nói đi! Mau nói mau nói...”.

“Không nói”.

“Hách Dịch!”.

“Đại trượng phu nói không nói, tức là không nói. Nàng gọi tên của ta cũng vô dụng”.

Hoài Cẩn bên cạnh đưa mắt liếc qua liếc lại hai người, sau đó cũng cười. Kỳ thực, nguyên nhân đó nàng cũng biết, chỉ có điều tiểu thư... dường như thật sự thật sự không biết...

Tiểu thư quả thực là một người rất chậm hiểu.

Năm đó trong mắt chỉ có một mình Cơ Anh. Tâm tư của những người khác đối với nàng thế nào, nàng hoàn toàn không hay biết. Nếu không phải cô gia là người đầu tiên dũng cảm bày tỏ với nàng, có lẽ người bên cạnh tiểu thư hôm nay chưa chắc đã là cô gia.

Nói ra, đáng thương nhất vẫn là thừa tướng, hắn nói sớm một chút thì tốt rồi, nhưng lại đến lúc gần chết mới nói, hại cho tiểu thư khóc đến suýt mù cả đôi mắt...

Vừa nghĩ đến muôn vàn chuyện năm xưa, nàng bỗng hắt xì hơi một cái, lại nhìn thấy hai người - một người vẫn truy hỏi không thôi và một người cười kỳ lạ trước mắt, một cảm xúc từ từ trào dâng, mềm mại lan tỏa khắp toàn thân.

Tên của loại cảm xúc này chính là hạnh phúc.

Ngàn năm trôi qua, đời sau bình luận.

Hạnh phúc vui sướng lại ở hôm nay.

Mùa đông năm Tân Bình thứ hai, Trình quốc Di Phi xưng đế. Lịch sử bốn nước, một lần nữa sang trang.

HẾT CHÍNH VĂN
 
Quyển 2 - Chương 99: Ngoại truyện: Giấc mộng nhiều năm


Sương trắng như khói.

Lại lờ mờ như tuyết, cứ giăng lả tả lả tả, bao phủ lên cơ thể nhưng không cảm thấy lạnh.

Khương Trầm Ngư nghĩ: Cảnh tượng này, tựa hồ đã gặp ở đâu rồi.

Nhưng cuối cùng vẫn không nhớ ra.

Thế là nàng đi về phía trước.

Đường đi dài tít tắp, quanh co, mềm và xốp, hai chân giẫm trên mặt đất, giống như bị sương mù bao trùm. Một sức mạnh nào đó đang ngăn cản nàng tiến về phía trước, lại có một sức mạnh nào đó đang thôi thúc nàng tiến về phía trước. Nàng bị hai loại sức mạnh này lôi kéo, không thoát thân nổi và cũng không muốn thoát thân.

Bởi vì, sâu thẳm trong ý thức, tựa như biết rằng, phía trước có một thứ rất quan trọng, rất quan trọng.

Sau đó nàng nhìn thấy một con thuyền, thoắt ẩn thoắt hiện xuyên qua làn sương mù, từ từ tiến lại gần.

Người đứng ở mũi thuyền, xiêm áo phấp phới, phiêu diêu như tiên.

Đến khi lại gần, có thể thấy người ấy quay người về phía nàng, giơ tay, khuỵu gối, khom lưng, vái lạy nàng.

Tựa như còn nói câu gì đó, nhưng nàng không nghe rõ.

Trong nháy mắt mắt Khương Trầm Ngư đẫm lệ. Một nỗi bi thương vô hình, không rõ nguyên nhân, nỗi thê lương giống như ấm ức giống như không cam lòng giống như vĩnh viễn không muốn nhớ lại bỗng trỗi dậy.

“Nương nương? Nương nương?”. Hơi ấm truyền đến từ cánh tay đã đánh thức nàng dậy.

Trong nháy mắt, sương mù biến mất, người đó cũng không thấy đâu, chiếc thuyền nhỏ cũng biến mất, tất cả đều biến mất...

Khương Trầm Ngư bỗng tỉnh giấc! Lọt vào tầm mắt là khuôn mặt lo lắng sốt ruột của Hoài Cẩn: “Nương nương, người lại nằm mơ thấy ác mộng”.

Khương Trầm Ngư đưa tay lên theo bản năng, sờ lên mặt, nước mắt ướt đẫm.

Cảm giác bi thương trong mộng đó vẫn chưa tan đi, vẫn còn quanh quẩn ở nơi sâu thẳm của cơ thể, ẩn ẩn hiện hiện, nhưng thực sự tồn tại. Nàng nhớ đến người đứng ở mũi thuyền vái nàng, trái tim lại run rẩy một chặp.

“Nương nương”. Hoài Cẩn lấy một chiếc khăn ướt còn ấm lau mặt cho nàng, dịu dàng nói: “Nương nương có muốn ngồi dậy không?”.

“Mấy giờ rồi?”.

“Giờ Thân hai khắc rồi”.

“Giờ Thân?”. Khương Trầm Ngư ngạc nhiên, còn tưởng là mình nghe lầm.

Hoài Cẩn gật đầu: “Vâng. Nương nương đã ngủ liền mười hai canh giờ, trong lúc đó còn sốt nhẹ, may mà hết sốt rồi. Thái y nói, nương nương do mệt mỏi quá độ, lại gặp tiết trời lạnh đột ngột gần đây, hàn khí xâm nhập cơ thể, cho nên mới bị hôn mê. May mà cuối cùng đã tỉnh lại, vẫn kịp tham dự đại lễ vào giờ Tí”.

Khương Trầm Ngư vừa nghe đến hai chữ “đại lễ”, liền vội vàng hất chăn xuống giường: “Ta ngủ say quá, cũng không biết những thứ đó đã được bố trí ổn thỏa chưa...”. Vừa nói vừa hớt hơ hớt hải đi ra cửa, vừa mở cửa phòng ra, nhìn thấy cảnh vật bên ngoài, giọng nói liền ngưng bặt.

Sắc trời âm u, hoa tuyết bay lất phất, hành lang sáng trưng trải dài, đèn cung đỏ rực. Thực ra rất nhiều năm trước, nàng đã nhìn thấy cảnh tượng này, nàng của khi đó ngồi trong kiệu vào cung thăm tỉ tỉ, vẫn còn bốc đồng bình luận long phượng điêu khắc trên tường, chê chúng thô tục, nhưng sau đó, Chiêu Loan công chúa xuất hiện, nhiệt tình thân thiết gọi nàng, đưa nàng đi xem trò hay, cũng chính ngày hôm đó, nàng nhìn thấy Hy Hòa phu nhân...

Chuyện cũ còn ngay trước mắt, rõ ràng như mới xảy ra ngày hôm qua, sao nháy mắt một cái, đã biến thành năm đó?

Phía xa, có người đang đốt pháo hoa, bầu trời bị pháo hoa chiếu sáng, tỏa ra những tia sáng ngũ sắc.

Khương Trầm Ngư ngây ngốc chăm chú nhìn những tia sáng đó.

Hoài Cẩn đứng bên cạnh cười nói: “Bất ngờ không? Đại lễ buổi tối không cần nương nương quá lo lắng, có người đã bố trí ổn thỏa đâu ra đấy từ lâu rồi. Nghe nói năm nay pháo hoa dùng trong cung đều không phải là của Bích quốc tự sản xuất, mà mua từ Nghi quốc về đó. Trong đó còn có một hòm, là Nghi vương chỉ rõ tặng riêng cho nương nương, đợi lúc nữa nương nương tham dự đại lễ sẽ đốt”.

Đại lễ kỳ thực là một loại tập tục từ thời Bích quốc dựng nước đến nay: Đêm trừ tịch mỗi năm, hoàng đế đều dẫn theo phi tử quan trọng đi lên thành lâu, đích thân đốt Trường Minh đăng, cùng vui đón giao thừa với bách tính, và cầu cho năm mới mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Vì thế, có thể nói đây là một nghi thức rất long trọng.

Năm Đồ Bích thứ nhất, Chiêu Doãn dẫn Tiết Mính đi châm đèn; năm Đồ Bích thứ hai, Chiêu Doãn dẫn tỉ tỉ; năm Đồ Bích thứ ba, thứ tư, Chiêu Doãn dẫn Hy Hòa phu nhân, mà nay... cuối cùng đã đến lượt nàng.

Cuối cùng đã đến lượt Khương Trầm Ngư đi lên thành lâu, tỏ rõ với thiên hạ bách tính, ở Bích quốc hiện nay, nữ tử quan trọng nhất là ai.

Nhưng... kết cục như thế này lại không thể khiến nàng vui vẻ chút nào.

Trước mắt dường như lại hiện lên cảnh tượng trong giấc mộng: Mũi thuyền quẩn sương trắng, người ấy vái lạy về phía nàng, vái lạy khiến trái tim nàng tan nát.

Đồ Bích... bảy năm rồi.

Bảy năm mưa gió điên đảo, quốc gia này mấy phen động loạn, đầu tiên là Vương thị ép thái tử phản nghịch, rồi bị trấn áp; sau Chiêu Doãn bức Tiết thị tạo phản, lại trấn áp; lại đến Cơ gia suy thoái, Khương gia nổi lên... Suốt một chặng đường, là máu tanh lầy đất, không nhẫn tâm nhìn. Phong thủy luân hồi, mỗi năm mỗi khác, vào năm Đồ Bích thứ tư, văn võ trong triều có mấy người có thể ngờ rằng, phồn hoa tan hết, cuối cùng hoa rụng vào Khương gia.

Rụng trúng đầu Khương Trầm Ngư nàng?

Đứng trước chiếc gương đồng Bách Quỹ Triều Dương cao ngang người, Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn bóng mình trong gương: Trên mái tóc đen nhánh là chiếc vương miện tuyệt thế chạm trổ bằng bạch ngọc Lam Điền, khảm chín mươi chín viên hồng châu Nam Hải; khoác trên hai bờ vai nhỏ nhắn là chiếc áo choàng lông phượng dệt bằng lông bạch hồ Thiên Sơn; rủ sau đuôi váy là lụa Thiên Vũ Cung dệt bằng tơ bảy mươi hai màu... Phải tôn quý nhường nào, mới có thể hội tụ bảo vật thiên hạ lên người? Lại phải tôn quý bao nhiêu, mới có thể xứng với thứ phục trang long trọng này?

Nhưng vì sao nàng nhìn vào trong gương, lại chỉ nhìn thấy tai trái của mình?

Trên tai trái, một viên Trường Tương Thủ đung đưa đung đưa, cô đơn cô đơn.

Khương Trầm Ngư không đành lòng nhìn tiếp, quay người bỏ đi. Hai nữ quan tiến lên dìu nàng, lại có hai mươi tám nữ quan khác cấp tập theo gót phía sau.

Ngoài điện, đội quân nghi thức trang phục trang trọng đứng nghiêm, uy nghiêm đế vương ập vào tầm mắt.

Trước sự cung nghênh của các nữ quan, Khương Trầm Ngư bước lên bảo xa, hai bên chiêng trống tưng bừng, sau một tràng tù và rúc dài, phu xe bắt đầu thúc tuấn mã, từ từ đi về phía thành lâu.

Những dải tua màu vàng kim và hoa tuyết bay lả tả hòa vào nhau, chập chờn trước mắt nàng.

Xe ngựa đi qua Đoan Tắc cung đầu tiên.

Cung điện này xây dựng trên hồ, bốn bên là nước, nói thẳng ra đây là một hòn đảo nhỏ cô độc.

Muốn vào cung, chỉ có thể chèo thuyền từ bến phía chính Đông, từ bờ hồ đến cửa cung, nhanh nhất cũng phải mất thời gian một khắc.

Nghe nói vì Cơ Hốt tính tình cổ quái, lại ghét lễ tiết cung đình, cố ý xây dựng cho mình một tòa cung điện cách biệt thế gian như vậy. Nàng ta không thích người khác thăm hỏi, cũng không muốn thăm hỏi người khác. Vì thế, đại bộ phận người trong cung đều chỉ nghe tên nàng ta mà chưa từng gặp mặt.

Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn Đoan Tắc cung ngói xanh tường đỏ, nàng đã bao giờ nghĩ rằng chân tướng đằng sau nhân vật được coi là thần thoại đó, tài nữ văn thái tinh tuyệt khiến văn nhân bốn nước đều phải thẹn chẳng bằng đó, tỉ tỉ của nam tử mà mình ngưỡng mộ suốt đời đó hóa ra là như thế này.

Thế sự mỉa mai, chẳng qua cũng chỉ như vậy mà thôi.

Đi qua cầu Động Đạt là đến Bảo Hoa cung. Lưu ly vẫn sáng lấp lánh trong tuyết đêm như xưa, ánh đèn giống như nước chảy róc rách trên ngói, đẹp đến tận cùng, cũng linh động đến tận cùng.

Giống như chủ nhân cũ của nó, đẹp đến mức không tì vết.

Thế nhưng, hết thảy ánh sáng đều đến từ thế giới bên ngoài, cửa sổ giấy âm u, bên trong tối đen như mực.

Bên trong đã không còn ai nữa.

Bảo Hoa cung đã từng ca vũ thái bình, đêm đêm yến tiệc, nay đã thành một tòa cung điện chết chóc.

Gió thốc nắng táp, xuân đi thu đến, nơi đây đã bị thời gian mài mòn, biến thành hoang phế.

Sẽ không còn có phi tử thứ hai đến sống ở nơi này nữa.

Bởi vì, Khương Trầm Ngư không cho phép có phi tử thứ hai vào sống ở cung này.

Thế gian này cũng không còn phi tử thứ hai xứng đáng sống tại cung này nữa.

Đi qua Bảo Hoa cung chừng ba khắc mới đến Gia Ninh cung

Nàng đã từng quen thuộc với nơi này biết bao.

Ở nơi đây, nàng lần đầu tiên hành lễ vái lạy tỉ tỉ là quý nhân, vái xong, Khương Họa Nguyệt một tay ôm eo nàng đỡ nàng đứng dậy, tươi cười nói: “Muội muội không cần đa lễ, về sau ở đây cứ thoải mái như ở nhà chúng ta”.

Nàng tin rằng tỉ tỉ thật lòng thật ý khi nói câu này.

Nhưng, tỉ tỉ ngây thơ, nàng cũng ngây thơ.

Thâm cung nội viện, một phi tử đến vận mệnh của mình cũng không có cách gì khống chế, đến tương lai của bản thân cũng không thể biết được, làm sao có thể coi nơi đây là nhà?

Cây mai vàng trước sân đã chết khô. Hai cung nữ mặc đồ trắng đang quỳ trước sân vái lạy nàng từ phía xa.

Khương Trầm Ngư không kìm được giơ tay lên sờ hạt minh châu trên tai trái của mình, nhớ đến cảnh tượng ngày hôm đó, tỉ tỉ lấy hạt châu từ trong hộp ra, dịu dàng đưa cho nàng, trong lòng chua xót, vội vàng hạ rèm xuống, không đành nhìn tiếp.

Xe ngựa đi qua Ngọc Hoa môn, Cảnh Dương điện, đến Thiên Đoan thập nhị giai.

Cái gọi là Thiên Đoan thập nhị giai là bậc thang lấy Cảnh Dương điện làm trung tâm, phương vị được triển khai chia đều theo mười hai canh giờ, lần lượt là Tí bệ, Sửu bệ, Dần bệ, Mão bệ, Thìn bệ, Tị bệ, Ngọ bệ, Mùi bệ, Thân bệ, Dậu bệ, Tuất bệ và Hợi bệ.

Mà xe ngựa của Khương Trầm Ngư dừng trước Ngọ giai hướng về phía Nam, tương đối rộng rãi so với mười một bậc thang còn lại.

Một tên tiểu thái giám sải bước tiến lên phía trước, đặt viên đá kê chân khảm ngọc xuống, Khương Trầm Ngư giẫm lên đá bước xuống xe, vịn vào tay đại thái giám La Hoành, nâng nhẹ gấu váy, bước lên bậc thang.

Tuyết vẫn bay lất phất trong không trung, nhưng trên mặt đất không có lấy một vệt tuyết nào, hoa tuyết rơi xuống bậc đá hình cửu long tranh châu, lập tức tan chảy. Nghe nói, chỗ này đều lát ngọc ấm Bình Khê, có độ ấm vĩnh cửu tự nhiên, đông ấm hạ mát. Người bình thường khó mà gặp một lần, còn hoàng gia xa xỉ, lại dùng nó để lát đường.

Khương Trầm Ngư khe khẽ thở dài trong lòng.

Đi hết mười hai bậc thang, văn võ bách quan đã quỳ kín tại thành lâu phía trước.

Bách quan đồng loạt vái lạy: “Trời phù hộ Đồ Bích, triều ta phồn vinh hưng thịnh”.

Khương Trầm Ngư đón lấy ngọn Trường Minh đăng từ trong tay thị quan, từ từ đi lên thành lâu. Bên ngoài lầu tiếng huyên náo nổi lên, giống như làn sóng càng lan càng rộng, tụ thành một mảng.

Xuyên qua hàng rào, Khương Trầm Ngư nhìn thấy sông hộ thành, dân chúng đang đứng thành hàng chờ đợi trên khoảng đất trống bên bờ sông, nhìn thấy nàng, hưng phấn cao giọng hò hét.

Nàng giơ một cánh tay, khẽ gạt xuống, tiếng hò hét lập tức nín bặt.

Tất cả mọi người đều im lặng nhìn nàng, vô số cặp mắt xuyên qua hoa tuyết bay phất phơ dán chặt lên người nàng.

Cái gọi là “vạn mắt đổ dồn”, cũng chẳng qua là như thế thôi.

La Hoành đưa một quyển trục màu vàng cao quá đầu, trình lên trước nàng, Khương Trầm Ngư lại lắc đầu, đẩy quyển trục ra, bước lên phía trước một bước, giơ Trường Minh đăng lên, để bách tính phía dưới có thể nhìn rõ hơn.

Sau đó, nhìn thẳng phía trước, mở miệng ngâm:

Đại minh chi thần,

Dạ minh chi thần,

Ngũ tinh liệt tú chu thiên tinh thần chi thần,

Vân vũ phong lôi chi thần,

Chu thiên liệt chức chi thần,

Ngũ nhạc ngũ sơn chi thần,

Ngũ trấn ngũ sơn chi thần,

Cơ vận tưởng thánh thần Liệt Thiên Thọ Nạp Đức ngũ sơn chi thần,

Tứ hải chi thần,

Tứ tân chi thản,

Tế địa liệt chức chi linh,

Thiên hạ chư thần,

Thiên hạ chư chi,

Phiền vi ngô vận nhĩ thần hóa, cung suất thần dân, tí hựu lai niên, phong điều vũ thuận, quốc thái dân an, chính thông nhân hòa, bách phế câu hưng. Phong niên tường triệu, thử đăng trường minh.

Đặc thử thượng tôn, vọng thần nghi tất tri, cẩn cáo[1].

[1] Đoạn trên là bài tế, tạm dịch như sau: Thưa các vị: Thần mặt trời/ thần mặt trăng/ Các vị thần sao/ Thần mây mưa gió sấm/ Các thần coi các sao trên trời/ Thần coi sóc Ngũ nhạc ngũ sơn/ Thần soi sóc Ngũ trấn ngũ sơn/ Thánh thần Cơ Vận Tường, thần của năm ngọn núi Liệt - Thiên - Thọ - Nạp - Đức/ Thần bốn biển/ Thần bốn bờ/ Thần đất các nơi/ Chư vị thiên thần trong thiên hạ/ Chư vị thần đất trong thiên hạ. Xin các vị vì ta mà ban phép thần, dẫn dắt thần dân, phù hộ năm tới, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, chính sự hanh thông người người hòa hảo, trăm phế đều hưng. Mùa màng bội thu, điềm lành dồi dào, đèn này sáng mãi.

Dâng phụng ở đây, mong chư thần thấu tỏ, cẩn cáo.

Nói xong, châm đèn, chỉ nghe thấy mấy tiếng xèo xèo, Trường Minh đăng từ từ bay lên, dân chúng phía dưới thấy vậy hoan hô vang dội.

Đồng thời khi ấy, pháo hoa bùng lên bốn phía, mà ở hướng chính Bắc, một ngọn lửa màu xanh cực lớn bay vọt lên bầu trời, nở bùng giữa không trung, biến thành một con cá khổng lồ.

“Oa...”. Đến đám thị vệ trên thành lâu đều ngẩng đầu lên há hốc mồm kinh ngạc.

Con cá màu xanh lam lượn vài cái, nổ bùng lên lần nữa, biến thành mấy chục đóa hoa lê to nhỏ khác nhau, chầm chậm rớt xuống.

Khương Trầm Ngư thầm biết đây chính là pháo hoa Nghi vương tặng riêng nàng mà Hoài Cẩn nhắc đến, vừa kinh ngạc vì sự khéo léo kỳ công, trong lòng lại thoáng dấy lên một nỗi buồn.

Tình cảnh ngày đó vẫn còn hiện lên mồn một trước mắt, đến nếp áo, vẻ tịch liêu nơi đôi mày của đối phương cũng đều rõ ràng...

Hách Dịch nói: “Ta sẽ đợi nàng ba năm. Trong ba năm, cho dù nàng thay đổi chủ ý bất cứ khi nào, đều có thể đến tìm ta”.

Nàng đáp: “Nếu ta không thay đổi chủ ý thì sao?”.

Hách Dịch cười cười, một nam tử trong sáng tiêu sái như thế, khi cười ánh mắt lại ưu sầu vô cùng: “Vậy thì, ta sẽ phải kết hôn”.

Chàng không nói tiếp nữa, nhưng nàng làm sao mà không biết được?

Ba năm sau, Hách Dịch đã ba mươi tuổi. Một vị quân vương ba mươi tuổi mà còn chưa kết hôn, còn không có con cái nối dõi, thì không biết phải ăn nói với con dân thế nào.

Cả nước gây áp lực nặng nề, dù cho Hách Dịch luôn tùy ý phóng túng, cũng không thể gánh đỡ nổi.

Hách Dịch không gánh đỡ nổi.

Khương Trầm Ngư nàng càng không gánh đỡ nổi.

Cho nên, cái gọi là ước hẹn ba năm, cũng chẳng qua là một ý niệm si mê cuối cùng như hoa trong gương như trăng dưới nước mà thôi.

Hách Dịch. Hách Dịch. Hách Dịch à...

Hóa ra trên thế gian này, thực sự có một loại ân tình trả không nổi, trả không được và không dám trả.

Trường Minh đăng lượn vòng bay lên, bầu trời rộng lớn, giống như chỉ còn lại một ngọn đèn như thế, cháy giữa đất trời, cháy trong càn khôn, cháy trong tim mỗi người.

Tăng lữ hoàng gia khác trên mình áo cà sa vung tay, chuông đồng kêu vang.

Boong...

Boong...

Boong...

Chuông đồng vang mười hai tiếng, tiếng nhạc nổi lên tứ phía, pháo hoa sáng lòa, dân chúng vốn chỉ đứng xem, bỗng ồn ào hẳn lên, trong tay mỗi người đều cầm một cây đèn, thắp sáng xong, giơ lên cao, nhìn từ trên thành lâu, xếp thành tám chữ “Phương thần vĩnh hảo, thọ ngang trời đất”.

Khương Trầm Ngư cả kinh.

Không sai, ngày mùng một tháng Giêng ngoài là ngày bắt đầu năm mới ra, còn là sinh nhật của nàng.

Nháy mắt, nàng đã mười tám rồi.

Lại nhớ về cái năm nàng vào tuổi cập kê đó, như thể đã cách một đời.

La Hoành đứng bên cạnh khẽ nói: “Việc này đều do Tiết công tử sắp xếp”.

Khương Trầm Ngư không khỏi quay đầu, thấy Tiết Thái đang cùng bách quan đứng dưới bậc thềm, cúi đầu chẳng tỏ thái độ gì. Còn lúc này, La Hoành đã quỳ dưới đất, cao giọng hô: “Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Cung chúc hoàng thượng sinh nhật an lành, thọ ngang trời đất, vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế...

Từng tiếng từng tiếng lần lượt truyền tới.

Khương Trầm Ngư đột ngột quay người, nhìn thấy tất cả mọi người có mặt đồng loạt quỳ gối, vái lạy dưới đất, đất trời như liền một dải, trong chớp mắt, không có ai khác đứng cao hơn nàng.

Cuối cùng Khương Trầm Ngư nhớ đến mộng cảnh, câu mà người ấy nói khi vái lạy nàng, người ấy nói là: “Tạm biệt, hoàng thượng”.

Giấc mộng nhiều năm. Lệ đổ như mưa.

Cơ Anh Cơ Anh, có phải chàng đã sớm tính được số mệnh của ta không? Cho nên trong giấc mộng khi từ biệt ta, chàng đã nói ra kết cục của ta.

Cơ Anh Cơ Anh, thế nhân nói chàng là Bạch Trạch luân hồi, đầu thai vì phù trợ Chiêu Doãn. Hóa ra, quân vương mà chàng muốn phù trợ không phải là Chiêu Doãn, mà là... ta.

Là ta!

Chàng rèn giũa ta, hướng dẫn ta, ép buộc ta, từng bước từng bước, đi đến ngày hôm nay.

Đi đến ngai vàng đế vương này, trở thành chủ tể của càn khôn này.

Thế nhưng... thế nhưng... thế nhưng...

Có cả thiên hạ không sở nguyện, mơ ước phu thê hóa hão huyền.

Thứ Khương Trầm Ngư ta tâm tâm niệm niệm, chẳng qua là có thể được chàng yêu thích. Giống một nữ tử được một nam tử yêu thích...

Tất cả trước mắt, mơ hồ trùng khít với cảnh tượng trong giấc mộng.

Trên không trung, pháo hoa mà Nghi vương tặng đang nở rộ.

Dưới mặt đất, Tiết Thái đương tuổi thiếu niên nhìn nàng từ xa.

Năm Đồ Bích thứ bảy chầm chậm đến trong cảnh tuyết bay đầy trời, pháo hoa dệt gấm.

Năm nay là tròn ba năm sau khi Khương Trầm Ngư nhiếp chính, là năm đầu tiên nàng đăng cơ trước tình thế quần thần nhiều lần dâng thư của vạn dân khẩn cầu nàng xưng đế.

Mùng bảy tháng Giêng, nữ đế tự xưng là Duệ đế, định Nguyên Đô đời đời là Thần Đô, đổi quốc hiệu là Lê.

Lịch sử bốn nước, lại một lần nữa được viết lại, mà lần này...

Đã đến thời đại của Khương Lê.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom