Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!

Dịch Full Họa Quốc

Quyển 1 - Chương 40: Ngoại truyện: Dễ tỉnh sớm hôm, dễ say lòng người


Ánh dương nhô lên trên mặt biển, hóa ra không giống như khi nhìn qua cửa sổ ở nha.

Lúc ở nhà, bình mình đến một cách không rõ ràng, luôn phải đợi trời sáng bạch mới nhận ra được, có một làn ánh sáng mỏng manh rọi từ trên trời xuống, rớt xuống lòng bàn tay, không còn chút hơi ấm.

Nhưng trên mặt biển, giữa màn đêm đen kịt, đột nhiên có một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu sáng, vẻ rực rỡ hoa lệ trong nháy mắt đó lại khiến người ta gần như ngừng thở.

Ta không kìm được nghĩ, ánh sáng như thế này kỳ thực không khác gì ngọn lửa. Đến cũng trực tiếp, dứt khoát, kinh động hồn phách như thế.

Mà tiểu thư tắm trong bình minh như lửa đó, im lìm đứng trên mũi thuyền, chăm chú nhìn về phương xa. Gió biển thổi bay phần phật mái tóc và chiếc áo choàng đencủa nàng, làn da của tiểu thư trắng trong như bạch ngọc.

Bức tranh này được thời gian nung thành vĩnh hằng, khắc sâu trong tâm trí ta. Mãi mãi ta không thể quên được dáng vẻ khi đó của tiểu thư. Có lẽ, không chỉ mình ta mà những người khác cũng không thể quên được.

Tiểu thư là một mỹ nhân.

Xưa này đều là vậy.

Ta nhớ lần đầu tiên gặp tiểu thư là bảy năm về trước. Khi đó, cha ta làm ăn thất bại, nhảy sông tự vẫn, bỏ lại con côi quả phụ phải sung làm nô dịch nhà qua. Ta coi như vẫn còn tốt số hơn mấy chị em, được sắp xếp đến nhà hữu tướng gia vốn có tiếng tốt. 

Ngày vào phủ là một ngày mưa gió bão bùng, ta được một vị quản sự goi là Dung thẩm dẫn đến đại sảnh bái kiến chủ nhân, vừa đến cửa, phía sau đã nổi lên một tràng tiếng bước chân gấp gáp, một thiếu niên và một thiếu nữ lấy tay áo che đầu vội vàng chạy từ đầu sân bên kia lại, khi chạy qua ta, thiếu niên kia còn đâm sầm vào người ta một cái. 

Ta đau điếng người, nhưng nhìn áo quần dát vàng khảm ngọc của hắn, liền cuống quýt nén tiếng kinh hãi đã vọt đến cổ họng xuống thật sâu. Người này không phải giàu cũng là quý tộc, không thể đắc tội.

Còn thiếu nữ kia vừa vắt tay áo ướt, vừa quay đầu lại kêu: “Trầm Ngư, nhanh lên nào!”.

Bây bây giờ ta mới chú ý đến, thì ra còn có người thứ ba.

Đó là một nữ đồng bảy, tám tuổi, chắc nhỏ hơn hai người kia, nàng chầm chậm từ trong làn mưa đi tới, gấu váy không hề lay động. Lúc sinh tiền, phụ thân ta rất chuộng hư vinh, hận không thể nuôi dạy con cái thành tiểu thư khuê các đại gia tuyệt thế vô song, vì thế yêu cầu cực kỳ nghiêm khắc đối  với mọi cử chỉ lời ăn tiếng nói của sáu chị em ta, cười không lộ xỉ, đi không lộ bàn chân. Ta cho rằng mình được huấn luyện lâu năm như vậy, đã làm rất tốt rồi. Nhưng bây giờ, nhìn thấy nữ đồng này mới biết thế nào là phong cốt quý tộc thực sự.

Tuy nàng chỉ mặc một chiếc áo trắng, trên đầu vấn hai búi tóc, cũng không cài trang sức châu báu gì, nhưng từng hành động cử chỉ đều thể hiện sự tôn quý và giáo dưỡng, so với nàng, vị thiếu niên lúc trước rõ ràng chỉ là phường lưu manh phố chợ.

Ta chấn động trước sự tao nhã của nàng, vội vàng lùi ra phía sau để nhường đường. 

Nàng bước lên bậc thềm, nhìn thấy ta thối lui, liền ngẩng đầu mỉm cười với ta một cái.

Những hạt mưa tí tách rơi, cảnh vật vốn dĩ u ám, nhưng cái ngẩng đầu này của nàng, nụ cười này của nàng lại tựa như ánh sáng, lập tức chiếu sáng cả thế gian này.

Ta không kìm được kêu lên kinh ngạc, rồi tự thấy mình luống cuống, vội vàng dùng tay bịt miệng lại.

Dung thẩm quay lại mắng: “Kêu cái gì? Sao không có quy củ thế?”.

Nữ đồng đó nhìn ta tò mò, rèm mi còn đọng nước mưa, khiến đôi mắt lại càng thêm sáng.

Ta đỏ bừng mặt, lý nhí: “Vị tiểu thư… này xinh đẹp quá, giống hệt Ngọc Nữ bên cạnh Phật Bà Quan Âm”.

Bên môi Dung thẩm thoảng nét cười, nhưng miệng vẫn dạy dỗ: “Chớ có nói những lời ngốc nghếch, còn không mau bái kiến tam tiểu thư đi. Tam tiểu thư, đây là nha đầu mới đến phủ, chưa hiểu chuyện, xin tiểu thư đừng trách”.

“Ồ? Hôm qua nói mới thu nhận một tốp nha đầu mới, trong đó có một người rất xinh, là cô ta sao? Ta xem nào, ta xem nào!”. Thiếu niên lúc trước vốn đã bước nửa chân vào đại sảnh, nghe nói vậy liền lập tức quay lại, xông đến trước mặt ta, dòm ta thật kỹ.

Ta không biết làm thế nào, hoảng loạng quay sang cầu cứu Dung thẩm.

Dung thẩm cười nói: “Đâu có gì xinh đẹp, cũng chỉ là sạch sẽ sáng sủa một chút thôi, cũng rất nhanh nhẹn, hơn nữa trước đây còn từng đọc sách, biết chữ, cho nên dẫn đến cho phu nhân xem xem, nói là cho vào làm trong nhà lớn”.

Cặp mắt của thiếu niên giống cái bàn chải quét đầu, quét đi quét lại người ta một lượt từ đầu đến chân, sau đó khóe miệng cong lên, cười chớt nhả nói: “Nhìn cũng không tệ. Đúng lúc ta đang thiếu một nha đầu, hãy giao cô ta cho ta”.

Ta thất kinh, còn chưa kịp có bất kỳ phản ứng nào, thiếu nữ đầu tiên đã bỉ bai nói: “Hứ! Huynh còn thiếu nha đầu? Ở chỗ huynh đã có đến bảy, tám nha đầu rồi!”.

“Huynh nói thiếu là thiếu, muội càm ràm cái gì?”. Thiếu niên trừng mắt lườm nàng ấy một cái, quay sang Dung thẩm: “Nói vậy là xong rồi nhé. Đưa cô ta bái kiến mẹ xong, thì dẫn cô ta đến phòng ta”.

Sắc mặt Dung thẩm trông rất khó coi, nhưng rốt cuộc vẫn khom lưng vâng dạ.

Trái tim ta chùng xuống, tuy chỉ lần đầu gặp gỡ,  không biết gì về phẩm hạnh của vị thiếu gia này, nhưng thấy ít mà hiểu nhiều, từ việc vừa rồi hắn lỗ mãng xông đến, hoàn toàn không đếm xỉa đến ta ở trước mặt, đâm sầm vào ta để tranh đường đi, cộng thêm vẻ mặt nhìn ta thèm thuồng không biết gì là xấu hổ lúc này, ta liền biết là họa chứ không phải là phúc.

Gia đạo sa sút vốn đã đau lòng, nếu lại gặp thêm một chủ tử xấu xa nữa…

Ta giấu tay trong tay áo, khó giấu nổi nỗi bi thương…

Nữ đồng kia nhìn ta một cái, không nói gì, tự mình vào phòng trước. Dung thẩm ra hiệu cho ta đi theo sau. Bước vào trong phòng, thấy một vị phu nhân xinh đẹp tuổi chừng ngoài ba mươi, y phục trang sức hoa lệ quý phái đang ngồi tựa trên chiếc sập nói chuyện với người bên cạnh. Thiếu niên vừa kêu một tiếng “mẹ” vừa chạy vào, đến bên sập.

Vị phu nhân xinh đẹp đó đưa tay vuốt phẳng cổ áo xộc xệch của hắn, cười nói: “Đi chỗ nào chơi thế? Sao lại dầm mưa?”.

“Con đi thả diều với các muội muội. Không ngờ thời tiết quỷ quái này thoắt cái đã đổ mưa!”. Hắn đang oán trách, thiếu nữ đã cười khanh khách, nói: “Mẹ à, mẹ không biết ấy, vừa nãy Trầm Ngư thấy trời tối đen, đã đề nghị về nhà, nhưng huynh ấy không nghe, còn đòi chơi tiếp, kết quả là trên trời đột nhiên giáng một tia sét xuống ngay cạnh chân huynh ấy. Mẹ nhìn quần huynh ấy mà xem, bị cháy xém rồi kìa”.

Phu nhân xinh đẹp cả kinh: “Sao lại như thế được? Không sao chứ, Hiếu Thành! Để mẹ xem nào…”.

Thiếu niên tên gọi Hiếu Thành không thèm để ý, nói: “Mẹ nghe Họa Nguyệt nói nhăng cuội làm gì, con về nhà an lành rồi đấy thôi”.

“Thằng bé này, con đúng là ham chơi”.

“Được rồi, mẹ, đừng nhắc chuyện này nữa. Con nói với mẹ chuyện khác”. Khương Hiếu Thành vừa nói, ánh mắt liếc sang phía ta, trong lòng ta đã biết hắn sẽ nhắc đến chuyện nhận ta, không kìm được cắn chặt môi.

Chẳng ngờ hắn còn chưa mở miệng, một giọng nói trong trẻo non nớt đã vang lên trước: “Mẹ, hôm nay trong buổi học, phu tử có bói cho con một quẻ”.

Ta quay đầu, người vừa nói chính là nữ đồng có gương mặt như ngọc tác đó.

Phu nhân xinh đẹp bị nàng thu hút, tò mò hỏi: “Phu tử bói thế nào”.

Nữ đồng cụp mắt xuống, lộ rõ vẻ u buồn, “Phu tử nói mệnh lý con vô duyên với ngọc”.

Khương Hiếu Thành cười ha một tiếng: “Nói bừa, nhà ta còn không có ngọc sao? Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”.

“Mệnh lý không ngọc,là chữ ký trong từ ‘lý niệm’, không phải chữ lý trong từ ‘lý diện’ (*)”.

(*) Hai từ lý, đọc đồng âm nhưng tự dạng và nghĩa khác nhau, từ thứ nhất nghĩa là lý số, luân lý, lý lẽ, từ thứ hai là bên trong.

“Có gì khác nhau”. Khương Hiếu Thành gãi đầu.

Nữ đồng đi đến trước mặt phu nhân xinh đẹp, kéo tay bà nói: “Mẹ, phu tử nói nếu người thường không có ngọc thì không có vấn đề gì lớn. Nhưng con thì khác, đời này của con, việc có liên quan đến ngọc rất quan trọng, nhẹ thì lo lắng mất ngủ, nặng thì mang họa sát thân.

Phu nhân xinh đẹp lo lắng nói: “Vậy phải làm thế nào? Chu phu tử có nói bổ cứu như thế nào không?”.

Nữ đồng gật gật đầu: “Có. Thầy nói tìm hai nữ tử sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc, sớm chiều bầu bạn, tuy không thể trừ họa hoàn toàn, nhưng cũng có thể giúp con một đời bình an”.

“Trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc…”. Phu nhân xinh đẹp đưa mắt nhìn Dung thẩm, 

“Trong phủ nhà ta có những a hoàn như thế này không?”.

Dung thẩm ngẫm nghĩ, đáp: “Con gái út nhà thủ quỹ Cung là phù hợp. Sau đó chính là…”, bà nhìn sang ta, “a đầu này cũng thế…”.

Khương Hiếu Thành đột nhiên cảnh giác: “Cái gì? Không được! Mẹ, a đầu này con nhìn trúng trước, không thể cho Trầm Ngư!”.

“Con nhìn trúng?”. Đầu mày phu nhân xinh đẹp khẽ chau lại.

“Đúng thế, mẹ. Trong phòng con thiếu một a đầu đọc sách, vừa hay cô ta lại biết chữ…”. Khương Hiếu Thành còn chưa nói hết, thiếu nữ tên Họa Nguyệt đã hừ mũi, nói: 

“Cái đồ đầu đất như huynh, có đến mười a đầu hầu đọc sách cũng vô dụng, có cũng chỉ là lãng phí”.

“Nói tóm lại chuyện này không được”. Khương Hiếu Thành không thèm đếm xỉa đến nàng ấy, trực tiếp nói với nữ đồng: “Trầm Ngư, muội không thể tranh giành với huynh”.

Nữ đồng im lặng nhìn hắn, một lúc sau mới lên tiếng: “Ca ca, nếu khuyết ngọc,muội sẽ chết đấy”.

Mặt Khương Hiếu Thành biến sắc. Phu nhân xinh đẹp vội nói: “Trầm Ngư, lời này không thể nói bừa được đâu!”.

“Con không tranh với ca ca”. Nữ đồng nói: “Dung thẩm, trong phủ còn a hoàn nào có điều kiện phù hợp không?”.

“Cái này… một chốc một lát thì thực sự không có. Hay là tôi ra ngoài mua tiếp được không?”.

“Mua làm gì, chẳng phải đã có sẵn một người sao?”. Khương Họa Nguyệt đẩy ta đến trước mặt nữ đồng, “Cứ thế này đi. A đầu này và con gái của Cung thủ quỹ đều thuộc về Trầm Ngư!”.

Khương Hiếu Thành còn chưa kịp nói, Khương Họa Nguyệt đã hung hăng trợn mắt nhìn hắn: “Chuyện ăn uống vui chơi của huynh quan trọng hơn hay tính mạng của muội muội quan trọng hơn?”.

Khương Hiếu Thành lụng bụng trong miệng, quả nhiên không đòi hỏi nữa.

Phu nhân xinh đẹp khẽ thở dài: “Cứ làm như thế đi”.

Sự tình chuyển biến quá nhanh, đến nỗi nhất thời ta cũng không thể tin rằng mình lại đổi chủ tử. Nữ đồng mỉm cười với ta, quay người rời đi trước. Ta được Dung thẩm dẫn đi lĩnh đồ dùng hàng ngày, sau đó vào trong một căn phòng nhỏ thì gặp một thiếu nữ khác sinh năm Tân Tị, trong mệnh có thổ, trong tên có ngọc. Cuối cùng hai chúng ta được dẫn đến chỗ ở của tam tiểu thư.

Đó là một tòa đình viện vô cùng xinh đẹp.

Giữa màn mưa, những đóa hoa lê trắng tinh khôi vẫn không giấu nỗi vẻ diễm lệ, yên lặng nở rộ, thanh khiết cao quý, dưới một cành lê trắng là một khung cửa sổ được hồ bằng vải voan thượng đẳng, một nữ đồng đang ngồi lặng lẽ bên cửa sổ, chống má chăm chú nhìn ra xa, thanh tú khôn xiết.

Đó chính là tam tiểu thư của hữu tướng phủ - Khương Trầm Ngư.

Dung thẩm dẫn chúng ta đi vào, khom người nói: “Tam tiểu thư, người đưa đến rồi. 

Đây là Cung Ngọc, đây là Liễu Phác”.

Nữ đồng quay lại nhìn chúng ta, cuối cùng ánh mắt dừng trên người ta, “Liễu Phác, cái tên đẹp thật”.

Ta vội vàng đáp tạ: “Đa tạ tiểu thư khen ngợi”.

“Phu tử nói mệnh lý của ta thiếu ngọc, vì thế cần hai ngươi ở cạnh, việc này Dung Thẩm đã nói qua với các ngươi rồi chứ?”. Thấy chúng ta gật đầu, nàng nói tiếp “Phu tử còn nói, tuy là ngọc nhưng lại kỵ sáng. Cho nên, ta sẽ đặt lại tên cho hai ngươi. Ừm, gọi tên gì thì hay nhỉ…”. Nàng nghĩ một lúc, đứng dậy, đi đến bên thư án, nhấc bút viết ra hai cái tên: “Gọi thế này đi”.

Ta ngó đầu sang nhìn, trên giấy viết: “Ác Du, Hoài Cẩn”. Trong lòng không khỏi kinh ngạc. Vị tam tiểu thư này trông có vẻ tiểu thư khuê các dịu dàng yếu đuối, không ngờ, khi đặt tên cho người khác lại cao ngạo hào phóng đến thế. Ác Du, Hoài Cẩn, lẽ nào nàng muốn Thục tướng Khổng Minh và đô thống Chu Du đều ở bên cạnh mình hay sao?

Bên kia, thiếu nữ tên Cung Ngọc tò mò hỏi: “Ác… Du, Hoài… đọc là chữ Cẩn ư? Cái này có quan hệ gì với ngọc?”.

Nữ đồng vẫn chưa trả lời, Dung thẩm đã cười nói: “Hai chữ Du, Cẩn, đều là cách gọi khác của mỹ ngọc. Còn không mau tạ ơn tam tiểu thư ban tên?”.

Cung Ngọc a một tiếng: “Vậy nô tì gọi là gì?”.

Nữ đồng hỏi: “Ngươi thích tên nào?”.

Cung Ngọc ngẫm nghĩ: “Cung Ác Du, Cung Hoài Cẩn… Ừm, nô tì thích Ác Du”.

“Vậy ngươi tên là Ác Du”. Nữ đông quay sang ta, trong ánh mắt thấp thoáng nét cười nhàn nhạt, “ngươi tên là Hoài Cẩn, có được không?”.

Ta nào dám nói không được, vội vàng tạ ơn lần nữa. Cứ như thế, từ đó trong hữu tướng phủ, có thêm một cặp đôi a hoàn Hoài Cẩn Ác Du, là thị nữ cho tiểu nữ của hữu tướng gia, bầu bạn với nàng.

Nói cũng lạ, tuy về sau liên tiếp nghe thấy những chuyện phong lưu của Khương gia đại công tử Khương Hiếu Thành, nào là hắn thích cô danh kỹ nào đó cả đêm không về, nào là hắn có tư tình với vị quả phụ nào đó, nào là hắn trêu ghẹo con gái nhà ai không được… Thế nhưng, hắn không hề gây phiền phức cho ta. Cho dù có gặp nhau trong phủ, hắn cũng chỉ nhìn ta bằng ánh mắt vừa háu sắc vừa tràn đầy tiếc nuối, chứ không có hành động gì.

Về chuyện này, Ác Du từng hỏi: “Tại sao mỗi lần đại công tử thấy Hoài Cẩn tỉ tỉ đều có vẻ mặt đau đớn không thiết sống?”.

Khi ấy, đúng lúc nhị tiểu thư Khương Họa Nguyệt có mặt, nghe thấy liền cười phì một tiếng: “Đương nhiên là thế rồi.Miếng thịt béo huynh ấy ngắm trúng, đưa lên tận miệng rồi còn bị người ta cướp đi, hơn nữa miếng thịt béo này còn thường xuyên đung đưa trước mắt, nhìn được mà không ăn được, huynh ấy dĩ nhiên là đau đớn không thiết sống”.

Ta xấu hổ đỏ bừng mặt, giận dỗi nói: “Nhị tiểu thư lại ví nô tì với miếng thịt béo…”.

Nhị tiểu thư cười nói: “Ngươi thoát khỏi móng vuốt của huynh ấy đã là may mắn lắm rồi, chịu thiệt một chút thành miếng thịt béo thì đã làm sao? Phải biết rằng, trong phủ này, thứ gì của Trầm Ngư thì huynh ấy sẽ không động đến, nếu ngươi là a hoàn của mẹ ta hoặc là của ta có lẽ huynh ấy đã ăn cả không chừa rồi”.

Trái tim ta run lên. Điều nhị tiểu thư nói là sự thật. Quả thực, Khương Hiếu Thành là con trai duy nhất của hữu tướng gia, từ nhỏ đã được sủng ái, cực kỳ không có phép tắc, muốn gió được gió muốn mưa được mưa, hiếu sắc hoang dâm, lại kiêu ngạo ngang tàng. Duy lại đối xử tốt với muội muội Trầm Ngư, tất cả thói hư tật xấu cứ đến trước mặt nàng là đều mất tăm.

Nhị tiểu thư gõ trán tam tiểu thư, đùa rằng: “Muội nói đi, cùng là muội muội, tại sao cái tên heo ấy đối với ta xấu xa thế, còn đối với muội lại tốt thế? Thật khiến người ta ghen tị”.

Tam tiểu thư chậm rãi đáp: “Chắc… là vì muội xưa nay chưa bao giờ gọi huynh ấy là heo?”.

Lời vừa nói ra, tất cả mọi người đều cười ồ.

Đợi đến khi nhị tiểu thư đi rồi, khi ta chải đầu cho tam tiểu thư, nàng bỗng nắm chặt tay ta, im lặng nhìn ta. Ta thấy lạ lùng, hỏi: “Tam tiểu thư, sao thế?”.

“Em theo ta, có hối hận không?”.

“Tam tiểu thư nói gì thế, nô tì có thể theo tam tiểu thư là phúc phận của nô tì, người khác cầu còn chẳng được, sao lại nói đến hối hận?”.

“Ca ca thích em, nếu năm đó em tới chỗ huynh ấy, có thể bây giờ đã là thiếp, không cần phải làm kẻ hầu người hạ bưng trà rót nước…”.

Ta không đợi nàng nói xong, vội nói: “Nhưng nô tì không muốn đến chỗ công tử!”.

Tam tiểu thư không nói gì nữa.

Ta căn môi, nhìn thẳng vào mắt nàng,trầm giọng nói: “Tam tiểu thư… năm đó chẳng phải cũng chính vì nhìn ra điều này, cho nên mới… đòi nô tì, từ trong tay đại công tử sao?”.

Ánh mắt tam tiểu thư lóe sáng, nàng buông tay tar a, mỉm cười: “Hóa ra em biết”.

“Vâng. Ân đức của tam tiểu thư đối với nô tì, nô tì mãi khắc ghi trong lòng”.

“Thực ra ta rất không phải với ca ca. Nhưng, nếu em đi theo huynh ấy, thì đúng là bị hủy hoại. So với việc mãn nguyện sự háo sắc của ca ca, ta nghĩ để một cô gái sống vui vẻ tự do một chút mới là điều quan trọng”. Nói đến đây, nàng khẽ thở dài.

Ta mím chặt khóe môi, rồi lùi ra sau một bước, quỳ xuống.

"Em làm gì vậy?”.

“Bốn năm trước, nô tì gặp kiếp nạn lớn, phụ thân tự vẫn, mẫu thân và các chị em phân ly từ đây, mỗi người một phương, đời này còn có thể găp lại hay không cũng không biết. Ngỡ rằng đó đã là đau khổ đến cùng cực, cũng từng nghĩ đến cái chết. Nếu không phải vào tướng phủ, gặp được tiểu thư, thật không biết cuộc đời về sau của nô tì sẽ ra sao. Mà bây giờ nô tì được ăn no mặc ấm, còn có thể tiếp tục đọc sách đọc chữ, tiểu thư đối với nô tì… tình thân như tỉ muội… Nô tì nghĩ trong thiên hạ không có a hoàn thứ hai nào có thể hạnh phúc như nô tì. Cho nên, đại ân của tiểu thư, đời này Hoài Cẩn mãi mãi khắc ghi, vĩnh viễn không quên!”.

“Mau đứng dậy đi!”. Nàng đưa tay dìu ta dậy. Rõ ràng nhỏ hơn ta, nhưng lực độ và hơi ấm từ đôi bàn tay ấy lại khiến ta cảm nhận được một sức mạnh khôn tả, mạnh mẽ nhưng ấm áp vô tận.

“Hoài Cẩn. Ta cần hai a hoàn sinh năm Tân Tị là bịa đặt, nhưng nói mệnh lý thiếu ngọc thì không phải là giả”. Tam tiểu thư có đôi mắt đẹp nhất thế gian:  đen như mực, mềm mại như ánh trăng, và… cô tịch như sao lạnh.

Vẻ mặt của nàng khi nói câu đó, ta vẫn luôn ghi nhớ trong lòng, mà nàng lại nhìn ta bằng một biểu cảm khiến cả đời này ta mãi mãi không quên, nói từng tiếng: “Hy vọng em và Ác Du có thể giúp ta bình an, bổ sung những thứ gì ta thiếu”.

Ba năm sau, lời đoán mệnh năm đó của tiểu thư đã ứng nghiệm.

Nam tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ, gần như sắp trở thành phu quân của nàng, chỉ trong một đêm, vì một đạo thánh chỉ mà biến thành người qua đường.

Nam tử đó ôn thuận như ngọc, người đời gọi là Kỳ Úc.

Mệnh lý thiếu ngọc, hóa ra là chỉ… ngài.

Đầu hạ ba năm sau, ta theo tiểu thư đến Trình quốc, tại đó, tiểu thư gặp lại Kỳ Úc hầu. 

Sau đó, tiểu thư cùng ngài về Bích quốc.

Từ Lô Loan đến Thanh Hải, ba mươi sáu ngày.

Tiểu thư dùng thời gian ba mươi sáu ngày đó ở bên Kỳ Úc hầu nhiều nhất có thể. Mỗi ngày từ giờ Tị nàng đã đến bái kiến ngài, cùng tiểu công tử của Tiết gia đánh cờ, chơi đàn, đun trà, mài mực, nghị sự trong thư phòng. Cứ như thế cho đến giờ Dậu, về phòng rồi cũng không ngơi nghỉ, mà lại đọc hàng đống, hàng đồng y thư, đọc một lèo đến đêm khuya.

Nàng luôn là một mỹ nhân, nhưng khoảng thời gian đó, nàng gần như không hề che giấu, phô bày triệt để vẻ đẹp của mình, trở nên rực rỡ, tươi sáng, thu hút như ánh dương trên mặt biển.

Những người đi theo đều rất kinh ngạc, họ không biết cái gì đã khiến cho sư muội của Đông Bích hầu, người vốn cực kỳ kín đáo giấu mình, thay đổi chỉ trong một đêm. Cho dù trên mặt nàng vẫn còn vết bớt, cho dù nàng vẫn khoác trên người chiếc áo choàng đen, nhưng mỗi người đều cảm nhận được sự thay đổi của nàng.

Nàng càng u uất, lại càng rực rỡ.

U uất và rực rỡ vốn là hai tính chất hoàn toàn khác nhau, nhưng lại đồng thời bộc lộ trên người nàng.

Khi nàng mỉm cười với người khác, mọi người có thể nhìn thấy đóa hoa nở trong đáy mắt nàng; khi nàng im lặng, lại phảng phất bi thương như tuyết bay trong gió.

Mọi người đều kinh ngạc, họ xì xào bàn tán, dò đoán sau lưng. Nhưng không một ai biết được đáp án thực sự. Có lẽ chỉ có ta là biết được đáp án đó.

Chính bởi vì ta biết đáp án, cho nên mỗi lần nhìn thấy tiểu thư như thế, ta lại thấy buồn.

Khi thuyền đến bến cuối cùng – Nguyên Châu là vào một buổi sớm mai. Tiểu thư cả đêm không ngủ, gần đến giờ Dần, tiểu thư hỏi ta, có thể cùng tiểu thư lên mũi thuyền ngắm mặt trời mặt hay không.

Chúng ta đi lên trên sàn tàu, khi ấy mặt biển vẫn đen ngòm, chỉ có ánh đèn trên thuyền tỏ ra thứ ánh sáng vàng vọt, mờ mờ chiếu sáng mọi thứ trước mắt.

Tiểu thư cứ thế đứng trên mũi thuyền, hứng gió biển, im lặng không nói một lời.

Nhưng sau đó, mặt trời ló dạng.

Vầng sáng trong nháy mắt đã chiếu rọi cả thế gian.

Trong khoảng khắc quang ảnh giao nhau đó, dường như ta đã nhìn thấy tiểu thư khóc, nhưng khi nhìn lại, trên gương mặt nàng không hề vương dấu lệ. Nàng chỉ chăm chỉ nhìn mặt biển đang sáng bừng như lửa cháy, lặng lẽ nhìn, nhìn đăm đắm, như thể muốn nhìn như thế đến tận khi thiên hoang địa lão.

“Tiểu thư, về phòng nhé?”.

“Ta từng không hiểu, tại sao phu tử lại nói mệnh lý của ta thiếu ngọc, sẽ thành thương tổn lớn. Ta ngỡ liên quan đến bát tự, đến ngũ hành. Ngọc không phải kim loại không phải đá, thiếu hay không thiếu thì có quan hệ gì? Không ngờ… thật không ngờ…”. Giọng nói của nàng mông lung như nói mơ.

“Tiểu thư…”.

“Hoài Cẩn, rõ ràng ta đã có em và Ác Du, tại sao vẫn còn vô duyên với ngọc?”.

“Tiểu thư…”.

“Rõ ràng ta không tin số mệnh. Thế nhưng, e rằng ta thực sự bị nguyền rủa cũng không chừng”.

“Tiểu thư…”, ngoài tiếng gọi này ra, ta không biết nên nói gì.

Tiểu thư quay người lại, nhìn thẳng vào ta rồi bỗng nở nụ cười giống như bảy năm về trước, ngày đầu tiên ta bước vào tướng phủ, trong màn mưa nàng ngẩng đầu lên mỉm cười với ta. Cảnh tượng xưa cũ trùng khớp với cảnh tượng lúc này, mắt ta bỗng dưng ươn ướt.

Tiểu thư giơ tay ra, khẽ nắm tay ta, cười nói: ‘Cho dù thế nào, ta đã có ba mươi sáu ngày này. Ta phải… cảm tạ ba mươi sáu ngày này. Trong ba mươi sáu ngày này, ta rất vui. Thực sự, thực sự rất vui…”.

“Tiểu thư…”.

“Hoài Cẩn, em nhìn xem, ánh dương đẹp làm sao”. Tiểu thư chăm chú nhìn mặt biển sáng bừng trước mắt, nói như vậy.

Gió biển thổi bay phần phật mái tóc và chiếc áo choàng đen của nàng, làn da của nàng trắng trong như bạch ngọc.

Ta vĩnh viễn không thể quên cảnh tượng này.

Bởi vì, đó là buổi sáng cuối cùng tiểu thư ở trên biển.

Cũng là buổi sáng cuối cùng nàng ở bên Kỳ Úc hầu.

Sau ngày hôm đó, tiểu thư đã triệt để, hoàn toàn đánh mất “ngọc duyên” trong mệnh lý của mình.

Dịch tỉnh thần hôn dịch túy nhân.

Ảo giác kim sinh ngộ kim sinh.

(Dễ tỉnh sớm hôm, dễ say lòng, ảo giác đời này lỡ kiếp này).
 
Quyển 1 - Chương 41: Ngoại truyện chọc cười: Khi xuyên không gặp RPG (*)


(*) RPG: Viết tắt của Role – playing game, loại hình game nhập vai.

Cánh cửa sổ mở ra một nửa, gió biển ùa vào, hoa lan trên chiếc giá điều khắc bằng gỗ cây dương bắt đầu nở, cả căn phòng tràn ngập hương hoa.

Khương Trầm Ngư cầm chiếc bút lông, chăm chú nhìn trang giấy trên kỳ án, mày hơi chau lại, ngần ngừ không chịu hạ bút.

Cửa phòng kẹt một tiếng, có người đẩy cửa bước vào, đó là Tiết Thái.

Chỉ thấy hắn đặt quyển sách đang ôm trong lòng xuống một chiếc bàn khác rồi quay người bước tới phía nàng: “Ngươi giam mình trong phòng ba ngày để làm gì?”. Ánh mắt hắn dừng lại trên trang giấy đó, lông mày nhướn lên, đọc lên từng tiếng: “Tội – kỳ - thư? (Thư kể tội bản thân)”.

Khương Trầm Ngư ừ một tiếng.

“Viết cái này làm gì? Định bắt chước Vũ Thang (*) hả?”.

(*) Vũ Thang tức vua Đại Vũ và Thành Thang hai vị vua nổi tiếng anh minh, hiền đức

“Chuyến đi sứ Trình quốc lần này, yêu cầu của hoàng thượng là lấy được phương pháp luyện binh khí bí mật của Trình quốc và xin cưới Di Thù công chúa. Hai nhiệm vụ này ta đều không làm được, tuy kết cục hiện nay trông có vẻ tốt hơn, nhưng đó đều là công lao của công tử”.

Tiết Thái cười châm biếm, “Cho nên ngươi sợ sau khi hồi kinh, hoàng thượng trách tội, liền dứt khoát tự mình thỉnh tội?”.

“Ừ”.

“Ngươi cảm thấy làm thế có tác dụng sao?”.

“Chính vì không biết, cho nên chần chừ không thể hạ bút”.

Ánh mắt Tiết Thái lóe sáng, rồi hắn ngồi xuống bên cạnh, nghiêng người,  đánh giá nàng từ một khoảng cách rất gần.

Bị hắn nhìn với ánh mắt sáng rực đến bức người như vậy, Khương Trầm Ngư không khỏi có chút bối rối, ngại ngần hỏi: “Sao thế?”.

“Lần trước đến Trình quốc, sai lầm lớn nhất của ngươi không phải là không lấy được phương pháp bí mật, cũng không phải là không hỏi cưới được công chúa”.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, tiếp lời Tiết Thái, “Ta biết. Sai lầm lớn nhất của ta là… cứu Nghi vương”.

“Cho nên, cho dù trong thư kể tội, ngươi có liệt kê một trăm lý do không hoàn thành nhiệm vị cũng đều vô dụng, bởi vì hoàng thượng ám sát Hách Dịch là chuyện cơ mật, cơ thể không thể tiết lộ ra ngoài, ngươi không thể viết ra giấy. Mà thứ ngươi có thể viết ra giấy, đều không phải là mấy chốt thực sự của vấn đề. Viết cũng bằng không, Ngươi nên bớt lo nghĩ đi”.

Khương Trầm Ngư rầu rĩ. Thực ra sao nàng không biết đây là việc thừa thải, chỉ là… thấy ngày mai đã cập bến Bích quốc, nàng vẫn không nghĩ ra nên đối diện với sự trách tội của Chiếu Doãn như thế nào. Mà vị đế vương không thể nắm bắt, lạnh lùng cố chấp này sẽ xử lý nàng ra sao? Không thể xác định được, vì thế, lòng nàng đầy lo sợ.

Tiết Thái nhìn nàng, bỗng nở nụ cười cay nghiệt: “Thực ra ngươi có bao giờ từng nghĩ, có lẽ ưu điểm lớn nhất của ngươi không phải là mưu?”.

Khương Trầm Ngư ngước mắt đầy kinh ngạc.

Ánh mắt của Tiết Thái trong sáng sâu thẳm, ẩn chứa sự thông thái không thể tưởng tượng nổi ở một đứa trẻ độ tuổi này, hắn nhìn nàng, nhìn chằm chằm, nói rành rọt từng tiếng: “Bao nhiêu người khen ngươi đẹp, lẽ nào, như vậy không đủ cho ngươi tự tin sao?”.

Khương Trầm Ngư không ngờ hắn lại nói câu này, sau cơn kinh ngạc, khuôn mặt lập tức đỏ bừng lên.

Tiết Thái đứng dậy, lạnh nhạt nói: “Chớ quên, thiên hạ đều yêu thích người đẹp. Hoàng thượng mê đắm Hy Hòa cũng không phải là ngoại lệ”. Nói đoạn liền bỏ đi.

Khương Trầm Ngư vẫn đỏ mặt trơ mắt nhìn hắn, khi hắn bước qua bậc cửa, nàng bỗng hỏi: “Ngươi… có thật chỉ có bảy tuổi không?”.

Tiết Thái dừng bước, vịn vào khung cửa, mãi lâu mới trả lời: “SInh nhật của ta đã qua rồi, bây giờ là tám tuổi”.

“Cho dù là tám tuổi cũng không thể có trí tuệ như thế. Rõ ràng, rõ ràng là mưu trí đến mức gần như, gần như yêu quái…”. Khương Trầm Ngư nói ngắt quãng câu này, vốn cho rằng Tiết Thái sẽ nổi giận, ai ngờ hắn chỉ cười phì một tiếng, quay đầu lại, ánh mắt lấp lánh nét cười, bộc lộ sự vui vẻ hiếm có.

“Ta có một bí mật tày trời, ngươi có muốn biết không?”. Hắn nói bằng một giọng điệu thần bí.

“Bí mật gì?”.

“Thực ra…”.

“Hả?”.

“Ta…”.

“Hả?”.

“Xuyên không đến”.

Trong tích tắc, Khương Trầm Ngư hóa đá.

Tiết Thái thỏa nguyện nhìn phản ứng của Khương Trầm Ngư đúng như hắn chờ đợi, cuối cùng bật cười ha ha. Trong tiếng cười của hắn, Khương Trầm Ngư cúi đầu, ngây ngốc một lúc mới ngẩng đầu lên, nhìn lại hắn, thong thả nói: “Thực ra, ta cũng có một bí mật lớn, ngươi có muốn biết không?”.

“Ồ? Lẽ nào ngươi muốn nói với ta ngươi cũng là xuyên không đến?”.

Khương Trầm Ngư lắc đầu, “Ta không phải xuyên không đến. Nhưng…”.

“Hả?”.

“Ta là…”.

“Hả hả?”.

“Game thủ”.

Tiết Thái cả kinh, sau đó nhìn thấy khóe môi của Khương Trầm Ngư cong lên, nở một nụ cười cực kỳ diễm lệ, nói với một giọng vô cùng êm ái: “Họa quốc” là một game RPG, ta là game thủ, bước vào thế giới này, lựa chọn quân cờ mà ta muốn, lựa chọn anh chàng đẹp trai mà ta muốn theo đuổi, kiến tạo kết cục mà ta muốn có. Mà ngươi cũng là một quân cờ”.

Tiết Thái hóa đá.
 
Quyển 2 - Chương 42: Bộ thứ tư: Ngọc vỡ


*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Là hoa tàn hoa rụng của ba thu

Là duyên sâu duyên mỏng của một đời

Là sự tích lũy trùng điệp của lịch sử

Là mắc mớ buồn vui của luân hồi

Là giữ trọn lời thề

Là số mệnh lưu luyến

Cũng là hết thảy, hết thảy những gì thuộc về chàng trước mắt ta.

Cầu xin chàng... đừng chết
Cầu xin chàng...
Công tử... của ta.
Hồi thứ mười hai: Hồi thành
Ngày hai mươi tư, tháng sáu, năm Đông Bích thứ tư.
Trăng treo giữa trời, cung đăng sáng rực.
Trong Gia Ninh cung vô cùng náo nhiệt. Phóng tầm mắt nhìn ra bốn phía, đèn đỏ rượu xanh, ca vũ thái bình. Toàn bộ phi tử mỹ nhân của hậu cung đều tập trung trong một sảnh đường để tham gia thọ yến lần thứ mười chín của Khương quý nhân - Khương Họa Nguyệt.
Trên ghế chủ thượng, Chiêu Doãn mỉm cười thể hiện rõ tâm trạng vui vẻ hơn ngày thường, thậm chí còn tự tay gắp thức ăn cho người được chúc thọ, khiến Khương Họa Nguyệt vốn bị lạnh nhạt hơn nửa năm nay mừng khôn xiết, cảm động đến mức mắt đỏ rưng rưng.
Rượu quá nửa tuần, Điền Cửu bỗng xuất hiện, thì thầm mấy câu gì đó bên tai đại thái giám La Hoành, khiến sắc mặt ông ta đột ngột biến đổi, vội vàng tiến lên mật tấu với Chiêu Doãn. Khương Họa Nguyệt thấy vậy, trái tim nàng chùng xuống, một dự cảm không lành trỗi dậy, nhưng Chiêu Doãn vẫn yên vị trên ghế, vẻ mặt bình tĩnh, không vui cũng chẳng giận, La Hoành vẫn nói gì đó, rõ ràng ông ta đang rất lo lắng.
Cuối cùng, Chiêu Doãn giơ một tay lên, ra hiệu cho La Hoành lui ra, ông ta vội nói: "Nhưng hoàng thượng..."
Chiêu Doãn lại xua xua tay. La Hoành lập tức khom lưng lui ra.
Khương Họa Nguyệt không kìm được hỏi: "Hoàng thượng, có chuyện gì sao?".
Chiêu Doãn rời mắt khỏi đám ca múa phía trước, y cười với nàng: "Không có chuyện gì. Tối nay, không gì quan trọng bằng sinh nhật của ái phi".
Lúc này, trái tim đang treo lơ lửng của Khương Họa Nguyệt mới rơi phịch xuống, nàng thở phào, ngọt ngào nói: "Hoàng thượng đối với thần thiếp thật tốt...", vừa thì thầm nàng vừa ngả người về phía y. Chiêu Doãn cũng không cự tuyệt, y đưa tay ôm lấy nàng, cùng dựa vào ghế rồng xem ca múa. Ân sủng rõ ràng như thế, khiến đám phi tử ngồi đấy không khỏi bặm môi nghiến răng, trong lòng thầm chua xót, không hiểu tại sao chỉ trong một đêm mà Khương quý nhân lại bắt đầu được sủng ái. Những kẻ hiếu sự càng không nhịn được nghĩ, tại sao cảnh tượng như thế này mà Hy Hòa phu nhân và Cơ quý tần không có mặt cơ chứ, nếu hai người bọn họ cũng có mặt, thì Khương Họa Nguyệt đâu thể một mình chiếm hết vinh quang như vậy được. Nhưng hai người đó, một người nói ngọc thể bất an, còn một người ba ngày trước đã đến Định Quốc tự bái Phật vẫn chưa về, mãi đến lúc thọ yến kết thúc cũng chẳng thấy bóng dáng.
Tiệc tàn, Chiêu Doãn đương nhiên cũng ở lại trong Gia Ninh cung, nhưng vào giờ Dần một khắc, y đột nhiên tỉnh giấc, không làm kinh động đến Khương Họa Nguyệt đang say giấc nồng bên cạnh, khoác áo bước ra khỏi phòng.
Bên ngoài tĩnh mịch yên ắng, đám cung nhân đều bị đuổi đi ngủ cả, thị vệ gác đêm nhận được mệnh lệnh từ trước, nhìn thấy y, cũng chỉ cúi người hành lễ, không phát ra tiếng động nào.
Điền Cửu giống như ma trơi trong đêm trăng, lặng lẽ đứng đợi y trong gió, trên tay cầm một chiếc áo khoác, thấy y bước ra khỏi cửa cung liền tức tốc chạy tới, khoác áo lên mình y.
Chiêu Doãn vừa đi vừa hỏi: "Người đâu?".
"Đều đợi ở Bách Ngôn đường".
"Để các ngươi đợi lâu rồi".
"Làm nô tài, đợi chủ tử là chuyện đương nhiên. Hơn nữa, chủ tử vì nhận lời Thục phi nương nương mới không thể đi khỏi được, thuộc hạ biết ạ".
Chiêu Doãn cười nhạt, vẻ mặt không nhìn ra là vui mừng hay châm biếm, cứ cao sâu không thể nắm bắt như thế, y đến thẳng ngự thư phòng, sau đó rẽ qua cửa ngách, tiến vào một gian mật thất.
Mật thất không có cửa sổ, nhưng lại được bài trí cực kỳ trang nhã, gồm một chiếc bàn ngọc dài, bên cạnh là tám chiếc ghế tựa êm, trên mỗi chiếc ghế đều có một người đang ngồi đợi, tuy mỗi người một vẻ, nhưng đều là những nam tử tài hoa, người lớn tuổi nhất cũng không quá ba mươi, mà người nhỏ tuổi nhất lại chưa đến hai mươi. Cửa mở, tám người lũ lượt đứng dậy khấu đầu bái kiến.
Chiêu Doãn xua tay, rảo bước đến ngồi xuống bên bàn, nói; "Nói đi. Rốt cuộc là chuyện gì?".
Người mặc chiếc áo dài màu xanh ngọc lam, mặt vuông chữ điền, đường nét khuôn mặt tuy rất bình thường nhưng đôi mắt sáng và tinh nhanh đến bức người; vừa nghe Chiêu Doãn nói xong liền đứng dậy, sang sảng tấu: "Hoàng thượng, chúng thuộc hạ vừa nhận được tin mật mới nhất: Năm ngày tới, người đăng cơ trong buổi thọ yến của Trình vương không phải là đại hoàng tử Lân Tố, mà là đế nữ Di Thù. Tất cả đều do một tay Kỳ Úc hầu tác thành".
Chiêu Doãn hơi chau mày, không nói gì.
Người mặc áo tím, mặt chuột tai dơi, dáng vẻ cay nghiệt, giọng cao hơn người đầu tiên đứng lên thưa: "Trước đây, thuộc hạ đã cảm thấy việc Kỳ Úc hầu tự mình đến Trình quốc là chuyện vô cùng không ổn. Sau khi hắn đến đó, quả nhiên phóng túng làm càn, thay đổi càn khôn, phá hoại toàn bộ kế hoạch mà chúng ta đã dày công suy tính bao năm!".
Một thiếu niên áo xanh lục chừng mười tám mười chín tuổi lạnh nhạt nói: "Bây giờ như thế này, thực ra cũng không có gì không tốt".
"Thế nào gọi là không có gì không tốt?". Giọng của người áo tím đột nhiên trở nên gay gắt, quay người giận dữ nhìn thiếu niên áo xanh lục, nói: "Đừng quên tâm nguyện ban đầu của chúng ta là gì! Đâu phải chỉ mở thêm vài bến cảng, thu thêm ít tiền thuế, kiếm thêm ít bạc đâu! Theo ta thấy, nếu mục đích ban đầu không đạt được, thì có nghĩa là có tổn thất. Mà có tổn thất, chính là vô cùng không tốt".
Người mặc áo lam gật đầu tán đồng: "Không sai. Di Thù xưng đế, bề ngoài thân thiện với nước ta, nào là mở bến cảng rồi ưu đãi thuế má; nhưng lại hoàn toàn khác so với kế hoạch lúc đầu của chúng ta. Chúng ta căn bản không cần tiền tài kỹ thuật bí mật, cái chúng ta cần là ba nước hỗn loạn, để chúng ta tọa sơn quan hổ đấu làm ngư ông đắc lợi, là lấy chiến tranh để nuôi đất nước, là xưng hùng bốn bể! Đến nay, Kỳ Úc hầu làm vậy, chẳng phải là khoái đao trảm loạn ma[1] mau chóng triệt tiêu tình trạng hỗn loạn vốn có, cứ thế này hai nước Yên, Nghi theo đà sẽ chiếm lợi thế, thế lực đất nước tất sẽ thịnh vượng, mà Trình quốc cũng có thời gian nghỉ ngơi hưu dưỡng".
[1] Câu thành ngữ mang ý nghĩa là giải quyết dứt khoát, giải quyết nhanh gọn giống như rút nhanh đao chém đứt mớ đay rối vậy.
Một nam tử áo xám chậm rãi mở miệng nói: "Đừng quên, nữ nhân xưng đế, là mối họa lớn".
Thiếu niên áo xanh lục xen lời một cách thản nhiên: "Xin nhắc các vị nhớ cho một điểm - Đừng bao giờ coi thường nữ nhân". Hắn nhếch khóe môi, cười cười: "Đừng coi thường Di Thù. Hơn nữa, nàng ta chỉ dựa vào bản thân đã có thể khiến Kỳ Úc hầu giơ tay viện trợ. Thử hỏi, đổi lại có mấy người trong các vị ngồi đây có thể làm được điều này?".
Người áo tím cười lạnh: "Cho nên ta mới nói hành động này có vấn đề! Về tình về lý, Kỳ Úc hầu đều không nên phù trợ Di Thù, nhưng hắn lại giúp nàng ta. Còn nữa, hắn đã tự ý quyết định mà không hề bẩm báo với thánh thượng. Rốt cuộc hắn có ý gì?".
Lời vừa thốt ra, khắp phòng im bặt.
Trong bầu không khí im lìm dị thường đó, Chiêu Doãn tiện tay nhấc một chiếc bút lông trên bàn lên nghịch chơi, mọi người đổ dồn ánh mắt vào y, đợi chờ thái độ của y, nhưng y vẫn không tỏ vẻ gì khác, chỉ khẽ nheo mắt, nói: "Nói tiếp đi, chớ dừng lại".
Vậy nên người áo tím đành tiếp tục nói: "Hoàng thượng, thuộc hạ tuyệt đối không có thành kiến với Kỳ Úc hầu. Những việc hắn làm vì hoàng thượng mấy năm nay cũng thực sự là tận tâm tận lực. Nhưng, chính vì biểu hiện trước đây của hắn quá tốt, cho nên hắn ngày càng được ngài coi trọng, quyền lực ngài trao cho hắn cũng ngày càng lớn. Bốn nước quanh đây, thiên hạ ai chẳng biết Kỳ Úc hầu đứng đầu quần thần Bích quốc; còn muôn dân bách tính Bích quốc thì ai chẳng tôn sùng hắn như thần như thánh chứ. Tuy hắn không nắm quân quyền, nhưng mấy đại danh tướng hiện nay có người nào không do hắn đề bạt tiến cử; tuy hắn không can thiệp đến quan văn, nhưng hai kỳ thi đều do hắn cầm trịch... Trong lúc không ai hay biết, hắn đã có vô số môn nhân; trong lúc không ai hay biết, hắn đã ban ơn đầy nội; và cũng chính trong cái lúc không ai hay biết ấy... hắn đã trở thành một kẻ vô cùng có thế lực".
Khóe mắt Chiêu Doãn giật giật mấy cái, nhưng y vẫn im lặng.
Người áo tím hít sâu một hơi, thở dài nói: "Hoàng thượng, lịch sử đã minh chứng thần tử mà có quyền thế quá lớn, danh vọng quá cao, tất sẽ dẫn đến làm phản. Khi một người bị đẩy đến một độ cao nào đó, cho dù bản chất của hắn đơn thuần đến đâu, lý tưởng của hắn tầm thường đến đâu, thì cũng đều không thể chống nổi hai chữ "thời thế". Nhớ Hán Cao Tổ Lưu Bang năm xưa chẳng qua chỉ là một tên đình trưởng nhỏ bé, còn bị cha mắng là "vô lại", ai có thể nghĩ ngày sau ngài lại thống nhất Trung Nguyên, thậm chí đánh bại chiến thần Hạng Vũ? Trần Thắng Ngô Quảng vốn là bần nông nhưng có thể khiến thiên hạ Đại Tần diệt vong; Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn cũng chỉ từ một cấm vệ quân thăng một lèo lên thành Ngự tiền Đô kiểm hiệu, cuối cùng khoác hoàng bào đoạt được Hậu Chu... Hoàng thượng, những chuyện như vậy trong sử sách chúng ta nghe còn ít sao?".
"Chú ý đến ngôn từ của ngươi". Nam tử áo xám lạnh lùng nói: "Hạng Vũ tự kiêu, Tần vương ngu tối, Chu chủ vô năng, há có thể đem ra so sánh với hoàng thượng của chúng ta?".
"Được, không nhắc chuyện cổ nhân. Vậy đơn cử Hộ quốc đại tướng Tiết Hoài mới đây, năm đó đối với tiên đế cũng là lòng son dạ sắt, lên núi đao xuống biển lửa; đối với đương kim thánh thượng lại càng tận tâm phù trợ, toàn lực bảo vệ. Kết quả thì thế nào? Lẽ nào chúng ta còn cần một Tiết Hoài thứ hai?". Nói đoạn ánh mắt người áo tím sắc như dao lia qua gương mặt của từng người, vẻ mặt mỗi người một khác.
Thiếu niên áo xanh lục trầm ngâm hồi lâu, ngẩng lên quay lại nhìn người áo tím nói: "Ngươi nói nhiều như thế, nhưng ta chỉ muốn biết - Từ trước đến giờ Kỳ Úc hầu đã làm sai điều gì?"
"Hắn chưa được cho phép đã lén lút đến Trình quốc, là tội thứ nhất; hắn không màng đến nguyện vọng ban đầu của hoàng thượng, bình định Trình loạn, đó là tội thứ hai; hắn phù trợ một tân vương khôn ngoan, đó là tội thứ ba. Dựa vào ba tội danh này đủ khép hắn vào tội chết cả trăm lần". Nói đến đây, trong mắt người áo tím bỗng lóe lên một ánh nhìn thô tục, hắn cười lạnh nói: "Nếu ba tội danh này chưa đủ, ta còn có thể chỉ ra nhiều hơn nữa, còn chưa kể hắn và Thục phi quá thân mật. Theo tin mật thám, từ khi hắn gặp Thục phi đến giờ, hai người dính nhau như hình với bóng".
Sắc mặt của thiếu niên áo xanh lục hơi nhợt nhạt, cuối cùng lặng im.
Tự nghìn xưa, đế vương kỵ nhất chuyện thần tử dám dòm ngó đồ của mình, hơn nữa, trên danh nghĩa Khương Thục phi đáng lẽ vốn là thê tử của Kỳ Úc hầu, nhưng giữa đường bị một đạo thánh chỉ của hoàng đế cưỡng ép cướp đi. Trong tình huống này, dụng ý của hoàng thượng hẳn đã rất rõ ràng, là thần tử thì càng phải tránh né mới phải, nhưng Kỳ Úc hầu vẫn không né tránh. Thật không biết là hắn quá ngay thẳng không kiêng dè; hay là cố ý thị uy với hoàng thượng?
Thấy mọi người trầm mặc, người áo tím quay sang, khom người nói với Chiêu Doãn: "Hoàng thượng, thuộc hạ và Kỳ Úc hầu không hề có tư thù, nói ra những lời công kích này thần cũng không cố ý đối đầu với hầu gia. Chúng thần chỉ là mưu sĩ của hoàng thượng, chức trách của chúng thần là vì hoàng thượng mà suy nghĩ sao cho đế thuật chu toàn, phòng trừ hậu họa về sau. Mà sau khi thương thảo, kết quả chúng ta có được chính là quyền thế của Kỳ úc hầu quá lớn, lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến đế vị. Nên, việc trước mắt là phải làm cho hắn suy yếu đi. Nếu để hắn tiếp tục lớn mạnh, thì e rằng đến lúc muốn kìm chế hắn cũng không kịp. Hơn nữa, hoàng thượng chỉ sủng ái mình hầu gia, trước mắt tuy không xảy ra mối hiểm họa lớn nào, nhưng sau này khó tránh dẫn đến sự bất mãn của quần thần. Trời cao giáng mưa, phải chú ý ban đều, nếu chỉ luôn ban cho một chỗ thì mảnh đất đó phì nhiêu, còn chỗ khác sẽ thiếu nước nên cạn khô. Xin hoàng thượng suy xét cho kỹ".
Chiêu Doãn vừa chăm chú lại vừa lơ đễnh kẹp cán bút, dùng ngón tay cái khẽ đẩy, chiếc bút xoay xoay như bay giữa các ngón tay, y cứ lặp đi lặp lại như vậy hết lần này đến lần khác.
Người áo tím và áo lam đối mắt nhìn nhau, người áo lam lên tiếng: "Thuộc hạ biết hoàng thượng yêu quý hầu gia, hầu gia đích thực là nhân tài trăm năm mới có, chúng thuộc hạ tuyệt đối không có ý "đại nhân tài thì không phải là kẻ thánh thượng có thể chế ngự". Khi nuôi hổ, nếu ta cho ăn một cách mù quáng thì không thể khiến con hổ thực sự biết nghe lời, cách huấn luyện tốt nhất là đan xen giữa việc lúc nào nên thưởng thịt, lúc nào cần phạt roi. Hoàng thượng đã cho con hổ hầu gia này ăn quá nhiều thịt, bây giờ là lúc nên phạt vài roi, để hắn nhớ ai mới là chủ nhân của hắn. Như thế, sau này hắn mới không dám hành sự mà không thông báo".
Người áo tím lại bổ sung thêm: "Cũng có nghĩa là, thực ra phù trợ ai xưng đế không quan trọng, quan trọng là trước khi hành sự hắn phải xin ý chỉ của hoàng thượng. Chỉ khi hoàng thượng đồng ý, hắn mới được phép thực hiện. Nếu hoàng thượng không đồng ý, hắn tuyệt đối không được làm!".
"Cạch" một tiếng, chiếc bút trượt khỏi tay Chiêu Doãn rớt xuống chiếc bàn dài, lăn lông lốc đến tận cuối bàn.
Vừa khéo lăn qua mặt tám vị mưu sĩ ngồi ở đó.
Ánh mắt tám người lóe sáng, đối với tình huống này rất khó để nói rõ hành động vừa rồi của hoàng thượng là vô tình hay cố ý, trong lòng ai nấy đều thầm cân nhắc.
Sau đó bọn họ lại nghe thấy một tiếng thở dài nhẹ nhàng thoát ra từ hai cánh môi cong cong mềm mỏng nhưng ưu mỹ khó tả đó, thánh thượng của bọn họ, cuối cùng đã thu ánh mắt chiếu trên chiếc bút về, nhìn thẳng vào mọi người, chậm rãi mở miệng: "Một lần cuối cùng".
Tám người quay sang nhìn nhau.
Chiêu Doãn đứng dậy, dửng dưng lặp lại một lần nữa như đang ra lệnh với bọn họ, lại như đang tự nói với chính mình: "Một lần cuối cùng". Nói đoạn, rũ áo bỏ đi để lại tám người đang trố mắt nhìn nhau, không hiểu ra sao.
Đợi khi Chiêu Doãn bước ra khỏi Bách Ngôn đường, lại qua một lúc lâu, mới có một giọng nói e dè cất lên phá vỡ sự im lặng: "Hoàng thượng nói một lần cuối cùng, là... ý gì?".
Thiếu niên áo xanh lục lạnh lùng nói: "Ta nghĩ, hoàng thượng muốn nói, đây là lần cuối cùng người dung túng Kỳ Úc hầu mà không truy cứu".
Người áo lam nhíu mày: "Cũng có nghĩa là...".
Người áo tím tiếp lời: "Cũng có nghĩa là, lần sau Kỳ Úc hầu tái phạm cũng là lúc hắn bị hủy diệt".
Trong nhà, một cây nến bỗng cháy xèo xèo bùng lên hoa nến, khiến ánh sáng hắt ra sáng bừng trong khoảnh khắc, cũng khiến cho bức hoành phi "Bách Ngôn đường" bằng gỗ mun treo phía trước sảnh hiện rõ vẻ kỳ dị.
Mà khi đó, Chiêu Doãn đã đi ra hành lang dài bên ngoài thư phòng, ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng hạ huyền[2] treo trên bầu trời, một chú quạ vừa bay vụt qua, rớt lại hai tiếng kêu "quạ quạ".
[2] Trăng hạ huyền là trăng sau ngày rằm.
Điền Cửu theo sát phía sau y, nghe thấy vậy bèn búng ngón tay, chú quạ đen đó kêu lên thảm thiết, rồi từ trên tầng không rơi xuống, cách chân Chiêu Doãn đúng nửa thước.
"Tiểu nhân sẽ đi xử lý". Điền Cửu nhanh như tên chạy lên phía trước, định nhặt con quạ, nhưng Chiêu Doãn bình thản giẫm lên mình con quạ, đi tiếp. Điền Cửu hơi sững lại, hắn ngước mắt thăm dò thái độ của chủ tử, dưới ánh trăng gương mặt xanh xao hơn bình thường đó bởi không cười nên càng có vẻ cao thâm khó đoán.
"Hoàng thượng?". Hắn cẩn thận dè dặt mở miệng.
Dưới đêm trăng, ngũ quan Chiêu Doãn được nhuộm ánh bạc nhàn nhạt, đôi mắt đen thẫm, ngoài vẻ tuấn mỹ và tà mỵ ra lại phô bày một vẻ u sầu khó tả thành lời.
Y cứ ngẩng đầu như thế, ngước nhìn vầng trăng trên bầu trời, trầm lặng đứng hồi lâu, rồi mới nói sáu chữ: "Trẫm muốn đi thăm Hy Hòa".
Bảo Hoa.
Hai chữ đại tự viết bằng Điệp thể[3] khắc trên tấm hoành phi bằng ngọc phỉ thúy, bốn góc còn khảm thêm một viên dạ minh châu lớn bằng mắt rồng, tô điểm cho cánh cửa cao bằng gỗ tử đàn và bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng ở phía dưới.
[3] Điệp thể: Một thể chữ thư pháp, tạo hình xòe sang hai bên như cánh bướm.
Theo cầu thang đi lên, sau bảy tầng hành lang quanh co là tòa nhà tường bằng lưu ly, sàn bằng thủy tinh. Dù đêm đã khuya, nhưng đèn đuốc vẫn sáng trưng, loáng thoáng tiếng tơ tiếng trúc từ đại sảnh vẳng ra, nghe không chân thực chút nào.Tìm kiếm với từ khoá:  
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
1 thành viên đã gởi lời cảm ơn ngocquynh520 về bài viết trên: sâu ngủ ngày
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
 03.09.2015, 13:10
[Diendantruyen.Com] Họa Quốc

[Diendantruyen.Com] Họa Quốc
 Re: [Cổ Đại] Họa Quốc - Thập Tứ Khuyết - Điểm: 11
Cần phụ làm Mục Lục Truyện! Tuyển Editor! Beta-er! Designer! Type-er! Developer!
Chiêu Doãn không đi sang phía đó, mà men theo con đường nhỏ của Bích lâm rẽ ngoặt sang một góc, rồi đi vào hậu viện. So với sự huyên náo ồn ào của tiền viện, hậu viện lại lặng ngắt như tờ.
Hai cung nhân ngồi cạnh bậc thềm ở cuối hành lang đang thì thầm to nhỏ, thấy y xuất hiện đều giật thót kinh sợ, toan khom mình hành lễ thì y đã vén bức rèm voan trắng đi vào trong.
Ánh trăng hắt qua song cửa sổ đang mở, soi rõ căn phòng tĩnh mịch.
Trong ánh trăng tĩnh mịch ấy, một nữ nhân đắp chăn nằm trên giường, mái tóc đen dài giống như thác nước buông xõa bên gối, nàng nhắm mắt, hơi thở đều đều.
Chiêu Doãn nhẹ bước qua đó. Ánh trăng rớt trên mặt Hy Hòa, rèm mi và chiếc mũi cao của nàng hắt xuống chiếc bóng lờ mờ, ngũ quan trong lúc say ngủ nhìn bình tĩnh mà hiền hòa.
Chiêu Doãn ngồi xuống cạnh giường, nhìn nàng hồi lâu, trong đáy mắt y dường như có thứ gì đó mở ra biến thành sâu thẳm và mềm yếu. Y giơ ngón tay cẩn thận dè chừng khẽ vuốt ve bờ môi nàng.
Thế là Hy Hòa nhếch khóe môi nhoẻn cười.
Ánh mắt Chiêu Doãn lóe sáng, rồi cũng cười theo nàng.
“Đừng làm ồn...". Hy Hòa hơi nghiêng nghiêng đầu nũng nịu.
Chiêu Doãn cúi người xuống hôn nàng, Hy Hòa vừa cười vừa vô ý xua tay, lý nhí nói: “Đừng làm ồn nữa... Tiểu Hồng".
Động tác của Chiêu Doãn bỗng nhiên sững lại.
Ánh trăng như lụa.
Làn da của mỹ nhân dưới lớp lụa trắng ngần, ngũ quan sáng rõ đẹp đẽ. Đặc biệt giờ khắc này, nụ cười càng tươi rói, cho dù vẫn đang trong mộng chưa tỉnh, nhưng đầu mày khóe mắt đều hàm chứa vẻ quyền rũ khôn tả, dấy lên sự phong lưu vô tận, đẹp đến khuynh quốc khuynh thành.
Y cứ giữ tư thế cúi lưng như thế một lúc lâu mới chầm chậm ngồi thẳng dậy. Lại lần nữa nhìn Hy Hòa đang nằm trên giường, ánh mắt đầy băng giá.
Hy Hòa dường như ý thức được điều gì, rèm mi rung rung, nàng ta đã tỉnh lại. Thấy y, nàng ta có chút ngạc nhiên lại có chút hoang mang: "Hoàng thượng", lời còn chưa dứt, Chiêu Doãn đã giang tay, ôm nàng ta thật chặt vào trong lòng.
Hy Hòa vô thức giãy ra, Chiêu Doãn khẽ thả lỏng, nhưng vẫn không buông tay ra. Hy Hòa không giãy nữa mà lười biếng hỏi: "Đêm nay không phải là thọ yến của Khương quý nhân sao? Hoàng thượng không ở chỗ quý nhân, mà đến chỗ thiếp làm gì?".
"Trẫm nhớ nàng".
"Hả?". Hy Hòa nhướn mày, nếu nói là kinh ngạc chẳng thà nói là châm biếm còn hơn.
Chiêu Doãn lại vùi đầu vào hõm cổ nàng ta, hít sâu một hơi, lầm rầm như thể nói mơ: "Hy Hòa... Hy Hòa... Hy Hòa của trẫm...".
Làn môi của Hy Hòa khẽ mấp máy, dường như muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn không nói ra.
"Nàng có biết lần đầu tiên trẫm thấy nàng là khi nào không?".
Hy Hòa nhếch miệng: "Lẽ nào không phải cái ngày các cung nữ mới tiến cung đến bái kiến Tiết hoàng hậu sao?".
Chiêu Doãn lắc đầu: "Không phải. Trước đó trẫm đã thấy nàng rồi, biết nàng rồi".
Ánh mắt Hy Hòa lóe lên một tia dị sắc, vẻ mặt đột ngột cảnh giác mấy phần.
"Đó là tháng ba tiết xuân còn lạnh, nàng ăn mặc rất phong phanh, mũi và bàn tay đều đỏ lên vì giá lạnh ngồi giặt quần áo bên hồ, sau đó nàng lại lấy từ phía sau ra một bình rượu, uống vài ngụm rồi tiếp tục giặt...". Chiêu Doãn nói đến đây thì thả tay ra, tách mình ra khỏi nàng ta, thấy vẻ mặt Hy Hòa hoang mang, y lại cười cười, đưa tay vuốt mái tóc nàng bằng một thái độ dịu dàng vô song, nói: "Khi đó, nàng quá chú tâm giặt quần áo, hoàn toàn không biết ta vẫn luôn ngồi trong xe ngựa ngắm nàng ở bên đường, bắt đầu từ khi đó, ta đã tự nhủ nhất định phải có được nàng".
Gương mặt Hy hòa bắt đầu biểu lộ vẻ chán ghét.
Còn Chiêu Doãn lại không hề giận dữ trước vẻ mặt của nàng, ngược lại còn cười: "Nàng có biết tại sao không?".
Hy Hòa không đáp.
Ánh mắt Chiêu Doãn xuyên qua vai nàng nhìn về phía xa, lạnh nhạt nói: "Từ khi trẫm biết ghi nhớ đến nay, cảnh tượng nhìn thấy nhiều nhất chính là hình ảnh mẹ đang giặt quần áo. Bà xuất thân hèn kém, phụ vương nhất thời hứng khởi lâm hạnh bà, cuối cùng quên bà. Những cung nữ như bà đối với bà vừa đố kỵ lại vừa mỉa mai, lũ lượt giậu đổ bìm leo, thường xuyên sai bà đi làm những công việc khổ cực nhất mệt mỏi nhất. Bản tính bà yếu đuối, hết thảy đều phục tùng, mọi người ném quần áo cho bà, bà đều ngoan ngoãn đi giặt. Trời lạnh giá rét, đôi bàn tay bà sưng vù như chiếc bánh bao, nứt toác vô số vết, một giọt nước thấm vào mà đau thấu tận tim gan, để giảm bớt đau đớn bà phải đến trù phòng ăn trộm rượu...".
Hy Hòa nhìn y chằm chằm, lần này nàng ta hoàn toàn sững sờ.
Từ khi nàng ta vào cung đến nay, hưởng hết ân sủng, có thể nói là người ở bên Chiêu Doãn nhiều nhất trong hậu cung, nhưng đây là lần đầu tiên nghe thấy Chiêu Doãn kể lại những chuyện thời thơ ấu của mình.
Bóng trăng che phủ, khuôn mặt Chiêu Doãn vì thế mà nhìn không rõ, chỉ có đôi mắt vừa sâu thẳm lại vừa sáng rỡ, khi giấu đi nụ cười gian tà thường ngày lại để lộ một vẻ bi thương khôn tả.
"Bà uống rượu vào thì trở nên vui vẻ, vừa ca hát vừa giặt quần áo, bà không xinh đẹp nhưng hát rất hay. Mỗi khi ta nghe thấy tiếng hát của bà, ta cũng sẽ quên đi bao nhiêu bất hạnh mà mẹ con ta đã trải qua. Thế nhưng, vì mất quá nhiều rượu nên đám đầu bếp phát hiện ra, bọn họ chửi mắng bà bằng những lời khó nghe nhất thế gian này, dùng đồ đạc ném bà, bà kéo ta chạy trốn thục mạng, ta không biết những đứa trẻ đồng trang lứa bên ngoài cung sống ra sao, nhưng có lẽ, ta của khi đó cũng chẳng khác thằng nhỏ ăn mày đầu đường xó chợ là bao nhiêu".
Hy Hòa thấp giọng nói: "Chẳng trách hoàng thượng thích Cơ Hốt đến thế...".
Chiêu Doãn đảo mắt, nhìn thẳng vào mắt nàng.
"Cơ Hốt hát rất hay, không phải vậy sao?".
Chiêu Doãn nhếch môi khẽ cười, lắc đầu nói: "Không... không, không liên quan đến chuyện đó... Cơ, Cơ Hốt nàng ta... không giống. Nàng ta khác các nàng...".
Hy Hòa hừ lạnh một tiếng, lộ vẻ không đồng ý.
Chiêu Doãn nắm chặt tay nàng, tiếp tục nói: "Mùa đông năm ta lên chín tuổi đó, có một sáng, mẹ đi giặt quần áo, còn ta ở trong phòng đợi bà, đợi mãi đợi mãi, đợi đến khi trời tối mịt cũng không thấy bà về. Thế là ta ra ngoài tìm, mới phát hiện ra bà bị ngất bên hồ, một nửa thân mình chìm trong nước lạnh giá. Ta nắm tay bà, ra sức lắc, ra sức gọi, nhưng lắc gọi thế nào bà cũng không tỉnh lại. Ta cảm thấy sợ hãi vô cùng, sợ bà cứ như thế mà chết, bỏ ta mà đi. Thỉnh thoảng có cung nữ thái giám đi qua, ta cầu xin họ giúp đỡ, nhưng không ai giúp ta, không một ai. Cuối cùng không còn cách nào khác, ta phải về nhà kiếm một tấm ván gỗ và dây thừng, đẩy mẹ ta lên tấm ván gỗ, rồi lấy dây thừng buộc bà lại cho chắc, kéo từng chút từng chút một về nhà. Khoảng cách từ bờ hồ đến căn nhà nhỏ tổng cộng năm trăm bước chân, ta kéo mất ba tiếng đồng hồ. Không có trăng sáng, chỉ có ánh đèn tù mù hắt từ phía xa xa lại, ta vừa kéo vừa run rẩy, đến khóc cũng không thể khóc lên nổi".
"Bà ấy chết rồi ư?".
Chiêu Doãn chăm chú nhìn sâu vào đôi mắt Hy Hòa, im lặng một lúc lâu, mới trả Iời nàng: "Nếu như nàng nói ngay lúc đó thì bà ấy chưa chết."
Hy Hòa mím môi: "Vậy... sau đó sao?"
"Bà ấy nằm liệt giường suốt mười ngày trời mới ra đi."
Hy Hòa "à" một tiếng rồi không nói gì nữa.
"Mười ngày đó, không một ai đến thăm bà ấy, đương nhiên, cũng không có ai đến thăm ta. Vầng thái dương nhô cao từng chút từng chút một, rồi lại lặn xuống từng chút từng chút một, chiếc bóng cũng từng chút từng chút một di chuyển men theo khe cửa, rất chậm rất chậm. Ta nhìn những chiếc bóng đó, trong cơn mờ mịt nghĩ rằng tại sao ta lại gặp phải số mệnh như thế, ta là một hoàng tử cơ mà, có thân phận cao quý nhất trên đời, tại sao lại có một tuổi thơ như thế? Tại sao thái tử Thuyên bọn họ có thể muốn gì được nấy, áo gấm cơm ngọc, còn ta đến đưa mẹ mình về nhà cũng không có ai giơ tay ra giúp? Tại sao những phi tử khác bị bệnh là có ngự y đến hầu hạ, còn mẹ ta lại ngắc ngoải hơi tàn trên giường suốt mười ngày, không một ai đến hỏi thăm một câu? Thế gian này tại sao lại bất công đến vậy? Tại sao phải đối xử với ta và bà ấy như thế? Ta... ta...". Chiêu Doãn từ từ nắm chặt tay, giọng nói trong chốc lát trở nên thật nặng nề: "Ta không cam tâm!".
Hy Hòa im lặng nhìn y với biểu cảm phức tạp, mãi sau mới nói: "Tại sao hoàng thượng phải nói cho thiếp những chuyện này?".
"Tại... sao... ư?". Chiêu Doãn chậm rãi nhắc lại một lần nữa ba chữ đó, bỗng nụ cười u uất đen tối lại xuất hiện. Trong lòng Hy Hòa thoáng lo sợ, mỗi khi Chiêu Doãn cười như vậy nghĩa là có người sắp gặp xui xẻo.
Quả nhiên, câu sau của Chiêu Doãn chính là: "Vài năm sau đó ta biết được tại sao ta lại phải gánh chịu tất cả cảnh ngộ trớ trêu đó, biết được nguyên nhân thực sự vì sao ta phải sống khổ sở như thế, mà nguyên nhân đó thực ra lại vô cùng giản đơn, chỉ có hai chữ - nàng muốn biết không?". Y đột nhiên kéo cánh tay nàng, khiến cả người nàng bị lôi lại gần sau đó nhả từng chữ một trong khoảng cách gần như gang tấc: "Cơ... Anh".
Hy Hòa run rẩy từng cơn.
"Cơ Anh! Là Cơ Anh khiến tuổi thơ của ta bất hạnh như vậy, là Cơ Anh đã cướp đi cuộc đời hạnh phúc đáng nhẽ ta sẽ có! Cho nên, khi ta biết tất cả đầu mối tội lỗi này đều bắt nguồn từ hắn, việc đầu tiên ta làm là sai người giám sát hắn, xem xem con cưng thực sự của ông trời kia sống cuộc đời vinh hoa phú quý khác biệt hoàn toàn với ta như thế nào!". Chiêu Doãn nói đến đây, mắt bỗng lộ ra vẻ mơ màng, y nhìn nàng đăm đắm, ánh mắt lần nữa lại trở nên bi thương vô tận: "Sau đó, ta... nhìn thấy nàng. Ta nhìn thấy nàng rồi, à không, trẫm nhìn thấy nàng, Hy Hòa. Ngày hôm đó, trẫm đã nhìn thấy nàng".
Vành mắt Hy Hòa đột nhiên đỏ hoe, khàn giọng nói: "Sao Cơ Anh lại có thể có lỗi với hoàng thượng được?".
Chiêu Doãn không trả lời câu hỏi của nàng, nói thẳng toẹt: "Nàng khi đó đã là tình nhân của Cơ Anh, hơn nữa, khi giặt quần áo, nàng lại dùng cách giống như mẹ ta, uống rượu để xua lạnh... Khoảnh khắc đó trẫm cảm thấy vận mệnh bỉ ổi làm sao, cũng đáng thương làm sao. Nó cướp đi của trẫm một người, rồi trả lại cho trẫm một người. Cho nên, mấy ngày sau trẫm tuyên triệu Cơ Tịch vào cung, nói với lão thất phu đó trẫm muốn tình nhân của con trai lão".
Hy Hòa thở hắt ra một hơi lạnh, run rẩy hỏi: "Cho nên, ngày hai mươi chín tháng ba, trong rừng hạnh, Cơ Anh..".
"Ngày hai mươi chín tháng ba, Cơ Anh viết thư hẹn nàng đợi hắn trong rừng hạnh, nhưng mãi mà hắn chẳng xuất hiện. Nàng đợi mãi mà không thấy hắn đến, khi tức giận quay về nhà thì phát hiện cha nàng đã bán nàng cho người khác vì thua bạc. Ngày hôm sau thì nàng vào cung...".
Cả người Hy Hòa bắt đầu run rẩy dữ dội: "Là hoàng thượng sắp đặt... tất cả những việc đó đều do người sắp đặt?".
Chiêu Doãn dán mắt nhìn nàng ta, không hề chớp mắt: "Đúng".
Hy Hòa không chút nghĩ ngợi vung tay, Chiêu Doãn không né tránh, "bốp" một tiếng, trên gương mặt y lằn năm vết ngón tay.
"Người! Người... người...". Hy Hòa chân trần nhảy xuống giường, tức giận đến mức gần như không thở nổi, ôm ngực nói: "Tại sao hoàng thượng phải làm như thế? Tại sao lại phải chia cắt ta và Cơ Anh? Tại sao? Chàng rốt cuộc đã cướp của hoàng thượng thứ gì? Không phải chàng là đại công thần phò trợ hoàng thượng lên ngôi hay sao? Không phải chàng là thần tử mà hoàng thượng tín nhiệm nhất hay sao? Chàng...".
Chiêu Doãn lạnh lùng ngắt lời nàng ta: "Nàng nghĩ xem, hắn vì cái gì mới phò tá trẫm thành tân đế?".
Hy Hòa sững người.
"Nàng nghĩ xem, vì cái gì mà Cơ gia không giúp thái tử Thuyên thế lực mạnh nhất, không giúp Tấn vương vốn có danh vọng, không giúp Hoằng vương tài trí hơn người, lại chỉ giúp một kẻ không quyền không thế, xuất thân hàn vi, không chút sở trường như ta?". Mỗi câu hỏi thốt ra, y lại bước gần Hy Hòa một bước, Hy Hòa bị dồn ép, lùi đến góc tường, cuối cùng không còn chỗ lùi nữa nàng ta thất thanh kêu lên, ngồi thụp xuống đất.
Chiêu Doãn từ trên cao nhìn xuống nàng ta như thế, ánh mắt sắc nhọn lạnh lẽo như kiếm như băng, giống như hết thảy mũi nhọn sắc bén trên đời này: "Chính là vì hắn nợ ta! Hy Hòa, Tiểu Hồng của nàng đã thực sự nợ ta quá nhiều quá nhiều, cho nên, ngay cả đền nàng cho ta thì hắn vẫn nợ ta, còn lâu hắn mới trả đủ, mãi mãi không trả đủ".
Là bao nhiêu năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng gian phòng tối tăm, chiếu sáng người đó mặt mày điên cuồng, soi tỏ y đang gào thét - Nợ ta, nợ ta, cả đời này kiếp này hắn đều nợ ta!
{STENT{
Đầu Cơ Anh vã mồ hôi lạnh, chàng tỉnh dậy.
Tim chàng bỗng nhói đau dữ dội, tựa như bất cứ lúc nào cũng có thể xé rách lồng ngực chui ra, cơ thể lại hoàn toàn bất động, giống như đang chìm trong đầm lầy, không thể nào cựa quậy nổi.
Chàng há to miệng, hít vào thở ra thật sâu, nhưng vẫn không cảm nhận được sức mạnh của không khí, chỉ cảm thấy bản thân mình sắp đứt hơi đến nơi.
Chính lúc này có người kéo màn sang một bên, rồi một bàn tay ôm chặt lấy cánh tay chàng, một bàn tay khác cầm bình thuốc lạnh ngắt áp lên môi chàng, chất lỏng đắng ngắt rót xuống, không khí dường như cũng theo đó mà tràn vào khoang mũi, cảm giác ngạt thở biến mất trong tích tắc, lúc này chàng mới có thể thả lỏng người.
Đập vào mắt chàng là khuôn mặt nhỏ nhắn đang mặt chau mày nhíu của Tiết Thái: "Ngài bị bóng đè rồi".
Cơ Anh thở hổn hển, ánh mắt có chút bải hoải vì cơn đau vừa mới qua đi.
Tiết Thái cất bình thuốc, đột nhiên lại quay người, hỏi một câu: "Tiểu Hồng là ai?".
"Hử?". Cơ Anh hơi sững sờ.
Tiết Thái nhìn chàng: "Ban nãy ngài vừa gọi cái tên này".
Cơ Anh liếc nhìn xuống, không tỏ thái độ gì, Tiết Thái lại nói: "Được rồi, không cần nói đâu". Nói đoạn, hắn tiếp tục bước về phía trước. Khi hắn vén mức màn chắn gió, Cơ Anh lên tiếng: "Đại Thiên thế giới[4], chúng sinh muôn vàn, có thể nói cái tên là đặc chất bẩm sinh. Khi tất cả mọi người cùng dùng một cái tên giống nhau để gọi ngươi, cái tên đó đã trở thành tượng trưng cho ngươi. Nhưng, luôn có một người vô cùng đặc biệt với ngươi, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi". Nói đến đây, chàng dừng lại một lát, khóe môi khẽ nhếch lên, nở một nụ cười nhàn nhạt: "Tiểu Hồng chính là cái tên đặc biệt đó của ta".
[4] Viết tắt của "Tam Thiên Đại Thiên thế giới", là thuật ngữ Phật giáo, thường được hiểu với nghĩa là một thế giới có phạm vi rất rộng lớn.
Tiết Thái im lặng nhìn chàng, ánh mắt sáng lấp lánh.
 
Quyển 2 - Chương 43


Hàng lông mày Cơ Anh chau lại, kế đó lại duỗi ra, dáng điệu mang theo một chút xấu hổ hiếm gặp, càng lúc càng dịu dàng hơn: "Cách xưng hô này có phải rất cổ quái không?".

"Không cổ quái!". Tiết Thái đáp: "Ngài vốn dĩ thích màu đỏ".

Lần này đến lượt Cơ Anh ngạc nhiên: "Sao ngươi biết?". Người đời đều biết Kỳ Úc hầu thích màu trắng, đến thánh thượng cũng ban thưởng cho chàng Bạch Trạch.

"Trong thọ yến của hữu tướng năm đó, ta hỏi xin ngài chiếc bản chỉ, ngài nhất định không cho. Mà chiếc bản chỉ đó màu đỏ".

Nụ cười của Cơ Anh nhạt dần, gương mặt trong khoảnh khắc đã nhuốm màu bi thương.

Nơi sâu thẳm của màng nhĩ bỗng khẽ rung lên, phảng phất như có âm thanh từ phương xa vọng lại, xa xôi như cách cả một đời. Giọng nói đó nói:

"Ta gọi chàng là gì nhỉ? Ta á, sẽ không gọi chàng là công tử, như thế nghe xa cách quá; cũng không thể gọi chàng là Cơ Anh, như thế nghe bình thường quá; càng không thể gọi chàng là Cơ lang, như thế nghe khoa trương quá... Ta muốn dùng một cái tên khác tất cả mọi người trên thế gian này để gọi chàng, như thế mới chứng minh được, đối với chàng, ta cũng khác với tất cả mọi người trên thế gian này. Đối với chàng, ta khác với mọi người, đúng không? Tiểu Hồng... của ta".

"A ha, lông mày của chàng chau lại kìa, khóe mắt cũng nheo lại, chàng không thích cái tên này sao? Tại sao thế? Chàng không thích màu đỏ à? Nhưng mà, màu đỏ là màu ta thích nhất. Thích nhất nhất đấy. Ta dùng màu sắc mà ta thích nhất nhất, để gọi chàng - người mà ta thích nhất nhất, nghĩ như thế, chàng sẽ chấp nhận được phải không? Tiểu Hồng... của ta".

"Ta không biết thích một người là cảm giác như thế nào. Nhưng mỗi lần gặp được chàng, trong lòng ta rất ấm áp. Mỗi lần không gặp được chàng, chỉ cần nhớ đến chàng, là ta lại cảm thấy lạnh lẽo biết bao. Quá trình tỉa cây, hái hoa, rao bán vốn khô khan và kéo dài, thế nhưng, nghĩ đến dáng hình của chàng, nghĩ đến những lời chàng đã nói với ta và cả những lời chàng sắp nói, thời gian đã trôi nhanh hơn, vụt cái đã qua. Thần kỳ biết bao, tại sao trong sinh mệnh con người, lại xuất hiện kỳ tích nhường này? Rõ ràng không có gì thay đổi, nhưng chỉ vì có thêm một người, từ đây, ánh dương mỗi ngày đều mới mẻ, không khí mỗi ngày đều thơm hương, những người xa lạ ta gặp đều trở nên thân thiết và dễ nhìn hơn... Chàng có phải tiên nhân trong truyền thuyết, đến để thi triển phép thuật mầu nhiệm với ta hay không? Mà sao lại khiến ta trở nên vui vẻ và hạnh phúc thế này. Tiểu Hồng... của ta".

"Ta thực sự vui vì chàng xuất thân quý tộc, gia thế hiển hách. Ấy, dường như chàng hơi ngạc nhiên, chàng không vui sao? Hãy nghe ta nói hết đi mà. Ta cảm kích biết bao vì ông trời đã thiên vị cho chàng như thế, khiến chàng vừa ra đời đã có được những thứ tốt đẹp nhất thế gian - Được các văn sĩ xuất chúng dạy dỗ, được rèn giũa và hun đúc bởi nền văn hóa thượng lưu tao nhã, giúp chàng có được học thức uyên bác, tầm nhìn sâu rộng, khiêm nhường cung kính văn nhã độ lượng, chiếm được vị trí cao mà những kẻ phàm phu tục tử vì thiếu điều kiện nên cả đời cũng không thể đuổi kịp. Xuất thân của chàng đã tạo thành chàng của hiện tại, cho nên, bây giờ ta mới có thể gặp được chàng tót vời như thế này, cho nên ta rất vui. Tiểu Hồng... của ta.”

"Tiểu Hồng... của ta".

"Tiểu Hồng... của ta".

Giọng nói đó xoay tròn, quẩn quanh, lặp lại. Hết lần này đến lần khác, từng từ từng chữ rõ ràng đến thế, mà biểu cảm trên gương mặt của người nói khi đó, lúc nhíu mày lúc nhoẻn cười, lúc nhướn mi lúc chớp mắt, vẫn rõ ràng như thế.

Thế gian này, đau đớn nhất chính là hai chữ "đặc biệt".

Khi ngươi gặp một người đặc biệt, khi những gì người đó nói với ngươi, làm cho ngươi đều hoàn toàn khác những người bình thường khác, thì chắc chắn nàng đã trở thành khắc cốt ghi tâm của ngươi.

Đặc biệt là, khi đó, năm đó, còn thơ ngây biết mấy.

Cơ Anh trầm ngâm trong giây lát, khoác áo xuống giường, đẩy cửa ra, bên ngoài đêm lạnh như nước.

"Ánh trăng này chiếu xuống Trình quốc, cũng chiếu xuống Bích quốc".

Đối diện với câu nói chẳng đầu chẳng cuối của chàng, Tiết Thái không hề tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ lạnh nhạt tiếp lời: "Nhưng dưới ánh trăng của Bích quốc, mới có thứ mà chủ nhân nhớ nhung".

Cơ Anh nghe xong, thái độ lại càng trầm xuống hơn, một lúc lâu sau chàng mới quay người, nhìn thẳng vào mắt Tiết Thái nói: "Có thứ của ta. Phải chăng cũng có thứ của ngươi?".

Tiết Thái cụp mắt, thấp giọng nói: "Nô tài không có thứ gì để nhớ nhung".

Cơ Anh nhìn hắn đăm đăm một lúc, rồi lần nữa ngẩng đầu nhìn vầng trăng hạ huyền trên bầu trời, thầm thì: "Không có cũng tốt. Bởi vì một khi có rồi là không thể cắt đứt nổi. Giống như ta giờ phút này, lại... muốn về nhà đến thế".

Chàng ngừng lại một lát, nhắc lại: "Ta muốn về nhà, Tiểu Thái".

Ánh mắt Tiết Thái lóe lên mấy cái, rồi cũng chìm vào tịch liêu.

™’STENT

Ngày mùng một tháng tám.

Trăng đêm như móc câu, ánh sáng mờ tối.

Ánh trăng chiếu xuyên qua khung cửa sổ bằng vải lụa lọt vào trong khoang thuyền, soi lên Khương Trầm Ngư đang lấy tay làm gối, mơ màng ngủ ngục trên đống sách vở bừa bãi cuốn mở cuốn gập trên bàn.

Một cuốn sách y thuật bị cánh tay nàng chạm phải, rơi từ trên bàn xuống, khi chạm đất phát ra tiếng "bộp". Nàng bỗng choàng tỉnh giấc, dụi dụi mắt rồi khẽ gọi: "Hoài Cẩn?".

Trong phòng vẫn im lặng như tờ, không có ai trả lời.

Nàng nhìn đồng hồ cát đặt trên bàn, vừa mới qua giờ Sửu, lúc nửa đêm canh ba như thế này, Hoài Cẩn không thể ra ngoài, lẽ nào ngủ say quá, cho nên không nghe thấy nàng gọi?

Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi vào gian phòng sau chiếc bình phong, nhìn thấy Hoài Cẩn đang ngồi trên sàn bên cạnh giường, tựa vào đầu giường không hề nhúc nhích. Nàng không kìm được bật cười: "Sao lại ngồi ngủ thế? Hoài Cẩn, mau tỉnh dậy, lên giường ngủ đi chứ...". Ngón tay mới chạm vào bả vai cả người Hoài Cẩn đã đổ ập xuống đất.

Khương Trầm Ngư kinh sợ, còn chưa kịp gọi, cánh tay đã bị tóm chặt, kế đó trên cổ cũng có cảm giác lạnh lẽo, hai cánh tay đã bị bẻ quặt ra sau lưng, không thể cựa quậy được.

Đồng thời, một giọng nói vô cùng quen thuộc vang lên sát bên tai nàng: "Ngu thị, đã lâu không gặp...".

Trái tim Khương Trầm Ngư trùng xuống - Là Di Phi.

Ánh đèn trên thư án phía xa chiếu hắt vào khoảng sau lưng nàng, phác họa nên gương mặt của kẻ đang uy hiếp nàng, lông mày dài đến tóc mai, mắt tựa hoa đào, khi cười chỉ thấy một bên khóe miệng nhếch lên, lộ rõ vẻ tà mị và cay nghiệt, không phải ai khác, chính là tam hoàng tử Di Phi đã nhảy xuống nước tháo chạy khi nội loạn Trình quốc xảy ra.

Không ngờ gã lại ở trên thuyền của Bích quốc!

Càng không ngờ gã lại cùng thuyền của mình tiến vào lãnh thổ Bích quốc!

Gã muốn làm gì?

"Sao? Ngạc nhiên lắm phải không?". Di Phi cười hì hì: "Di Thù giăng thiên la địa võng trong đất Trình quốc để bắt ta, nhưng không ngờ ta sớm đã chuồn lên quan thuyền của các nàng xuất cảnh từ lâu. Nàng không muốn biết ta lên thuyền bằng cách nào sao?".

Khương Trầm Ngư cố gắng hết sức để trấn tĩnh bản thân, đáp lại lời gã: "Ta chỉ thấy lạ là vì ngươi mai phục trên thuyền lâu như thế, tại sao trong đêm cuối cùng, khi đã sắp thành công ngươi lại xuất hiện trước mặt ta?".

Di Phi cười "ha ha", cúi đầu xuống sát gần mặt nàng, giọng nói trầm thấp và mềm mỏng, tựa như thủ thỉ với tình nhân:

"Đương nhiên... là vì... ta nhớ nàng. Ngu thị, nàng không biết chứ, mấy ngày nay, mỗi ngày trong bóng tối nhìn nàng và vị hầu gia tài giỏi của nàng ra vào sóng đôi, mắt liếc đưa tình với nhau, ta ghen đến chết đi được...".

Sắc mặt Khương Trầm Ngư hơi tái.

Di Phi lại chậc chậc lưỡi, than: "Đến kẻ ngoài cuộc như ta còn ghen tị như thế, nàng nói xem, ngộ nhỡ chuyện truyền ra ngoài đến tai vị phu quân tài giỏi hơn nữa của nàng, hắn liệu có ghen tị hơn cả ta không?".

Khương Trầm Ngư bị kích động đến mức giãy giụa vùng vẫy theo bản năng, Di Phi lập tức gia tăng lực độ, giữ chặt nàng, trầm giọng quát: "Đừng nhúc nhích! Ta không muốn thực sự làm nàng đau!".

Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tầm nhìn bắt đầu mơ hồ, nàng vội vàng chớp mắt để dằn lệ xuống.

"Đúng rồi, như thế mới đúng, ngoan nào, chớ phản kháng. Nếu không, không chỉ nàng mà đến tì nữ của nàng, còn có tên ám vệ nửa sống nửa chết ở gian bên cạnh, e là cũng không giữ được tính mạng đâu". Di Phi vừa nói vừa đưa tay ra rờ rẫm gương mặt nàng, ánh mắt lóe sáng, nói: "Ta đã nói một dược nữ quèn sao có thể có được tài hoa khí độ như nàng? Chỉ là ta đoán vô số khả năng, nhưng lại không ngờ rằng, hóa ra nàng lại là hoàng phi của Bích quốc. Tên tiểu tử Chiêu Doãn đó đúng là không biết thương hoa tiếc ngọc, lại phái nữ nhân của mình đi vào chỗ ra sống vào chết, xem ra hắn thực sự chẳng quan tâm đến nàng chút nào. Đã không quan tâm đến nàng, ban đầu sao còn phải cướp nàng khỏi tay Cơ Anh chứ?".

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, xem ra Di Phi ẩn mình trên thuyền mấy ngày nay, đã điều tra rõ hết thảy mọi điều về nàng. Mà giờ này phút này, bị gã khống chế, bị gã khinh mạn, bị gã dùng những lời cợt nhả nói ra quá khứ mà nàng không muốn nhớ lại, nếu nói không kích động, không đau đớn, hay không phẫn nộ thì đều là giả dối tất. Nhưng nếu tỏ ra nửa phần đau khổ, thì chẳng phải sẽ thỏa mãn tâm nguyện của tên tiểu nhân này hay sao.

Khương Trầm Ngư đã quyết ý, tuyệt đối không để Di Phi toại nguyện, vì thế nàng mở to mắt nhìn thẳng đối phương, trên gương mặt trắng bệch không để lộ bất cứ cảm xúc nào.

Thấy dáng vẻ của nàng, Di Phi lại cười nhạt, thân mật nói: "Thật mạnh mẽ làm sao... có điều, nàng như vậy, thực sự khiến người ta thích đó...". Nói đoạn, gã hôn lên gò má nàng, làn môi nhẹ nhàng di chuyển, từng chút từng chút một, chậm rãi mà dâm đãng tiến lại gần.

Thấy môi gã sắp di chuyển đến môi nàng, cuối cùng Khương Trầm Ngư đành mở miệng: "Ngươi đã có điều muốn cầu xin ta, vậy thì không được bỡn cợt ta".

Di Phi dừng lại, nheo mắt nói: "Cái gì?".

Khương Trầm Ngư tiếp tục nhìn chằm chằm về phía trước, bình thản nói dằn từng từ một: "Nếu không, nỗi sỉ nhục mà ta phải chịu ngày hôm nay, ngày mai ngươi chắc chắn phải trả lại gấp mười gấp trăm lần. Đừng quên đây là Bích quốc. Mà Bích quốc là địa bàn của Khương gia ta".

Di Phi nheo mắt nhìn nàng một lúc lâu, cuối cùng gã buông tay ra.

Khương Trầm Ngư vội quay người lùi ra sau mấy bước, nàng tựa vào vách thuyền, cảnh giác nhìn gã. Hai người cứ mặt đối mặt nhìn nhau rất lâu rất lâu như thế, Di Phi đột nhiên lại đưa tay ra một cách vô cùng lịch thiệp làm tư thế mời: "Thục phi nương nương, mời ngồi".

Khương Trầm Ngư lại nhìn gã vài cái, rồi mới kéo một chiếc ghế bên cạnh và ngồi xuống. Trong ống tay áo, có thể cảm thấy một cách rõ ràng tay nàng đang không ngừng run lẩy bẩy. Nàng bỗng cảm thấy vừa có chút chán nản vừa có chút tức giận, làm thân con gái dù cho có thông minh như thế nào, nhưng khi đối diện với kẻ bỉ ổi như thế này, cũng hoàn toàn thất thế.

Di Phi ngó nàng, thong thả nói: "Nhìn điệu bộ của nương nương như là hận không giết được ta vậy".

"Không, ta không muốn giết ngươi". Khương Trầm Ngư cố ý ra vẻ lạnh lùng nói: "Ta chỉ muốn tìm mười bảy, mười tám người tới, làm lại một lần nữa việc mà ngươi vừa làm với ta lên người ngươi".

"Hả? Vậy thì ta được hưởng thụ quá rồi...". Lời của Di Phi còn chưa dứt, Khương Trầm Ngư đã bổ sung: "Tên nào tên ấy mập mạp mũm mĩm trên hai trăm cân, mười năm không tắm rửa, vừa lăn lộn trong bùn, miệng nhai tỏi và cá sống...".

Lông mày Di Phi dựng lên thành một đường cong kỳ dị, gã nhìn nàng, ánh mắt nửa cười nửa không sáng lên.

"Đúng rồi, còn phải toàn là đàn ông". Nói xong, nàng cũng tự thấy không chịu nổi, liền bật cười thành tiếng.

Còn Di Phi lại không cười, chăm chú nhìn nàng nhẹ nhàng nói: "Nếu nàng có thể thỏa mãn ước nguyện của ta để nàng trút giận như vậy, cũng đâu có gì đáng ngại".

Khương Trầm Ngư sững người một lát. Trong ánh sáng vàng mờ tối, Di Phi đứng bên cạnh bức màn dầy và nặng, vận áo vải gai màu xám như một tên tùy tùng bình thường của Bích quốc, không còn dáng vẻ phong lưu khoa trương khi trước. Mà vứt bỏ cái vẻ bề ngoài cuồng vọng cợt nhả này, thì gã chẳng qua cũng chỉ là một thiếu niên mười chín tuổi gầy gò mà thôi.

Ánh sáng hắt từ sau lưng gã tới, vạch ra một đường gầy guộc.

Khương Trầm Ngư cụp mắt, khẽ giọng than: "Ngươi lên nhầm thuyền và cũng cầu xin nhầm người rồi".

"Câu này nghĩa là sao?".

"Đáng nhẽ ngươi không nên lên thuyền của Bích quốc. Nếu ngươi lên thuyền của Yên quốc, có thể mượn nghìn quân; Nếu ngươi lên thuyền Nghi quốc, có thể vay nghìn vàng; nhưng ngươi lại lên thuyền Bích quốc, thì chẳng có gì cả. Đó là điều thứ nhất. Phụ thân ta tuy là hữu tướng, nhưng trong tay không nắm thực quyền; ta tuy là đế phi, nhưng không được sủng ái. Ngươi không đi cầu người khác, lại đến cầu một kẻ không quyền không thế là ta. Đó là điều thứ hai. Vậy nên tâm nguyện của ngươi sao có thể thỏa mãn?".

Di Phi chăm chú nhìn nàng, rất lâu sau mới nở nụ cười nhàn nhạt, gã cũng kéo một chiếc ghế rồi lười nhác ngồi xuống, thong thả nói: "Nương nương thực sự biết ta muốn cầu xin thứ gì sao?".

"Ngoài hoàng vị ra lẽ nào còn thứ gì khác?".

"Hoàng vị?". Dường như Di Phi nghe thấy câu chuyện hài nực cười nhất trên đời, gã bật cười ha hả. Khương Trầm Ngư không khỏi cau mày - Cười như vậy không sợ người ngoài nghe thấy sao? Xem ra không chỉ mình gã, mà ba tên thị vệ võ nghệ cao cường của gã cũng cùng lên thuyền, lúc này đang canh gác ngoài cửa, thế nên gã mới dám không kiêng nể gì như vậy.

Di Phi vừa cười vừa nói: "Nương nương ơi là nương nương, uổng cho nàng thông minh băng tuyết, lại nhìn nhầm tiểu vương ta. Thứ tiểu vương ta muốn không phải là hoàng vị, không những không phải là hoàng vị, ngược lại ta lại muốn lấy hoàng vị làm quà để cầu kiến một người".

Trong đầu Khương Trầm Ngư đột nhiên vỡ òa ra một đáp án, mà Di Phi rất nhanh đã nói ra đáp án đó: "Ta muốn nhờ nương nương dẫn mối, để ta gặp Chiêu Doãn một lần".

Cát chảy như nước, tia khúc xạ từ chiếc đồng hồ cát ánh lên gương mặt hai người, mờ mờ tỏ tỏ. Trong phòng ngủ, bầu không khí tĩnh mịch, dường như đến tiếng hít thở cũng nhỏ đến mức không thể nghe thấy.

Rõ ràng chỉ trong khoảnh khắc điều cấm kỵ đã được sáng tỏ, nhưng khi xác nhận lại chẳng thể nào khẳng định. Kéo một sợi tóc mà làm lay động đến toàn thân, trong lòng Khương Trầm Ngư tự vấn: Chuyện này nên hay không nên giúp; có thể hay không thể giúp?

Tại sao Di Phi muốn tìm Chiêu Doãn, nguyên nhân quá đơn giản: Gã chỉ có thể tìm Chiêu Doãn.
 
Quyển 2 - Chương 44


Từ khi Hách Dịch và Chương Hoa ủng hộ Di Thù lên ngôi, liên minh bốn nước đã được tuyên bố thiết lập. Như thế, muốn thuyết phục Hách Dịch và Chương Hoa thay đổi phe phái, rõ ràng cực kỳ khó khăn. Có thể coi là mắt xích yếu nhất trong phe đồng minh chính là Bích quốc, nước duy nhất quốc chủ không tự mình đến Trình quốc. Muốn phá hoại mối liên minh này, thì phải bắt đầu xuống tay từ đây.

Hơn nữa, so với Hách Dịch và Chương Hoa, Chiêu Doãn hiển nhiên dễ dàng bị thuyết phục hơn nhiều. Bởi vì…

"Nương nương đang nghĩ... tại sao? Tại sao ta lại không tìm Nghi vương giàu nứt đố đổ vách, không tìm Yên vương hùng tài thao lược, mà lại chỉ đi tìm Bích vương nền móng còn yếu?". Di Phi giơ một bàn tay lên khẽ vuốt lông mày bên trái của mình, trong nụ cười lại tràn đầy sự châm biếm: "Đương nhiên là vì... so với hai vị hoàng đế kia, Bích vương tham lam hơn hẳn".

Tham lam.

Không sai, chính là từ này.

Nhớ lại vị quân vương thiếu niên luôn cười híp mắt nhưng nụ cười không toát lên từ đáy mắt đó, Khương Trầm Ngư bất giác thấy ớn lạnh.

"Từ năm ngoái, Bích vương đã âm thầm liên hệ với đại ca của ta, nói sẽ giúp huynh ấy xưng đế và tặng kèm các đồ vật quý hiếm như sắt bát sắc. Chẳng ngờ tên ca ca bất tài của ta lại đem kế hoạch nói cho Di Thù và tặng số sắt đó cho Di Thù".

Khương Trầm Ngư nhớ đến đầu ngọn thương bị Phan Phương đánh gãy.

"Đại ca ta vẫn luôn tưởng rằng Di Thù thực lòng muốn giúp huynh ấy, cho nên cái gì cũng dựa vào ả, kết quả lại bị Di Thù lợi dụng, cùng với Kỳ Úc hầu tài trí giỏi giang đó của ả mưu tính cướp thế lực, đoạt ngai vàng của huynh ấy. Nếu như ta đoán không nhầm, hành động lần này của Kỳ Úc hầu, Bích vương không được báo trước".

Trái tim Khương Trầm Ngư từ từ chìm xuống: Kỳ thực nàng cũng lờ mờ đoán được khả năng này, nhưng thấy Cơ Anh trước sau vẫn có sẵn chủ kiến như không có chuyện gì xảy ra, nên cũng tạm gác lo lắng, nhưng bây giờ lại bị Di Phi cố ý khơi ra, bỗng cảm thấy áp lực nặng nề ập đến.

Di Phi chớp mắt: "Cho nên, nương nương cảm thấy còn có người nào có thể dễ dàng gây chuyện hơn vị đế vương đang phẫn nộ này? Và có người nào có thể dễ dàng thuyết phục hơn vị đế vương tham lam này?".

Khương Trầm Ngư mặt mày trắng bệch, trầm giọng nói: "Nhưng ngươi dựa vào cái gì mà cho rằng ta sẽ giúp ngươi?".

Di Phi không trả lời ngay, gã thu lại nụ cười, chăm chú nhìn nàng với vẻ buồn bã.

Khương Trầm Ngư tiếp tục: "Như ngươi nói, lúc trước Kỳ Úc hầu là ý trung nhân của ta, tại sao ta phải giúp ngươi để khiến hoàng thượng vì chuyện Trình quốc đột ngột đổi chủ mà trút giận lên người trong lòng ta?".

Đồng tử trong mắt Di Phi bắt đầu co lại, rất lâu sau gã mới nói: "Những lời như vậy mà nàng cũng dám nói ra....".

"Có gì mà ta không dám?". Khương Trầm Ngư nhìn gã chằm chằm, cười lạnh: "Ngươi cho rằng vì cái gì mà ta không chịu ngoan ngoãn làm hoàng phi, mà lại làm một mưu sĩ có thể bị hi sinh bất cứ lúc nào? Ngươi cho rằng vì cái gì mà ta phải dùng tấm thân nhi nữ yếu đuối này bất chấp lành ít dữ nhiều nhảy vào vòng xoáy chính trị? Ngươi cho rằng vì cái gì mà lúc này ta phải chịu sự đối đãi vô lễ khinh bạc như thế này của ngươi ở nơi đây?".

Di Phi nheo mắt, nén giọng xuống cực thấp cực chậm, dường như từng chữ từng chữ đều lọt qua từng kẽ răng: "Là vì Cơ Anh?".

Khương Trầm Ngư không hề do dự đáp: "Đúng thế! Cho nên, ta sẽ không dẫn mối giúp ngươi, ta sẽ không làm bất cứ chuyện gì tổn hại đến Cơ Anh! Hãy nghe cho rõ, ta, tuyệt đối, không làm".

Ánh mắt Di Phi liếc nhìn Hoài Cẩn nằm dưới đất.

Khương Trầm Ngư lập tức bổ sung thêm: "Dù cho ngươi có dùng tính mạng của thị nữ thân cận và ám vệ của ta để uy hiếp ta cũng vô dụng. Bọn họ nếu chết vì ta, ta cùng lắm cũng sẽ lấy mạng đền cho họ, nhưng chuyện không thể làm, ta vĩnh viễn sẽ không làm".

Nét mặt Di Phi trở nên cổ quái, vì quá phức tạp mà khó có thể hiểu được, gã dán mắt nhìn nàng, rất lâu sau vẫn không nói năng gì.

Trong bóng sáng, thiếu nữ ngồi trên ghế mày mắt như tranh vẽ, hàng mi đen rợp, ánh mắt sáng trong, khóe miệng mím chặt, yếu đuối mà kiên cường, giống như một viên dạ minh châu phát sáng lấp lánh.

Đồng tử trong mắt Di Phi từ nhạt chuyển sang đậm, cuối cùng gã khẽ thở dài một tiếng: "Nàng tên là Khương Trầm Ngư, là Trầm Ngư trong "trầm ngư lạc nhạn"?".

"Chẳng phải ngươi đã biết rồi sao?".

"Nàng chào đời vào giờ Thìn ba khắc ngày Bính Sửu tháng Canh Tí, năm nay mới mười lăm tuổi".

Khương Trầm Ngư cảm thấy câu hỏi của gã rất kỳ quặc, không khỏi có ý đề phòng: "Rốt cuộc ngươi muốn nói gì?"

Di Phi lấy tay vuốt mày, hơi hơi cúi đầu, cười rung cả vai, vừa cười vừa lắc đầu than rằng: "Nhân sinh như một ván cờ, quả nhiên không sai chút nào. Mùa xuân năm ngoái, ta từng gặp cha nàng ở Tân Châu, Cầm Tửu hiến kế cho ta hãy xin cưới con gái của ông ta, lúc đó ta cao ngạo, không chịu đồng ý, sớm biết người sẽ gặp là nàng...". Nói đến đây, giọng gã thấp dần, thấp đến mức không nghe thấy gì nữa.

Mặt Khương Trầm Ngư đỏ bừng như phát sốt, một mặt cố nhiên là nàng không ngờ giữa mình và Di Phi có một mối liên quan sâu xa đến vậy, một mặt bị chấn động vì sự thực phụ thân nàng và Di Phi từng ngầm qua lại với nhau. Nghĩ lại thái độ của phụ thân từ khi nàng đi sứ đến nay, rõ ràng thân là thần tử của Bích quốc, nhưng lại không theo hoàng thượng phù chính Lân Tố, cũng không theo Cơ Anh giúp đỡ Di Thù, sao lại có thể đặt mình ngoài cuộc không hề đếm xỉa như vậy chứ. Ngẫm lại, chẳng lẽ phụ thân chọn tam hoàng tử Di Phi sao? Mà trước đây Di Phi không chỉ âm thầm giành được sự ủng hộ của Nghi quốc, mà cũng đã thỏa thuận được điều kiện nào đó với phụ thân nàng rồi chăng?

Hết câu hỏi này đến câu hỏi khác bật ra trong đầu, càng nghĩ càng cảm thấy đáng sợ, nàng nắm chặt tay lại, cảm giác có một nỗi bất an trào dâng trong lòng - Vận mệnh lớn mạnh như thế, phức tạp như thế, khiến người ta kinh hãi như thế...

Khương Trầm Ngư cụp mi, cất giọng nói pha lẫn chút mỏi mệt: "Cho nên, sở dĩ ngươi có thể thuận lợi ẩn nấp trên thuyền của chúng ta, đều là nhờ phụ thân ta âm thầm giúp đỡ?".

"Ha ha". Di Phi chỉ cười, nhưng nụ cười đó không nghi ngờ gì nữa đã xác minh tất cả.

"Cho nên, ngươi điều tra ra thân phận thực sự của ta, hòng đêm khuya khoắt đến tìm ta, bảo ta đưa ngươi đến gặp Chiêu Doãn, vì đoán chắc rằng ta sẽ không thể chối từ?".

"Ha ha".

"Nếu như ta từ chối, việc phụ thân ta và ngươi ngầm liên hệ với nhau sẽ bị phơi bày, hoàng thượng biết được chắc chắn sẽ nổi giận, đến lúc đó Khương gia chúng ta sẽ là Tiết gia thứ hai?".

Khương Trầm Ngư túm chặt ống tay áo của mình, chất lụa mềm mại biến dạng trở nên nhàu nhĩ dưới ngón tay nàng: "Phụ thân ta xưa nay hành sự luôn luôn thận trọng, nhưng lại để lại nhược điểm lớn như thế này cho ngươi... Xem ra đây không chỉ là ý của ngươi, mà cũng là ý của ông ấy chăng?".

Lần này, Di Phi không cười nữa. Gã im lặng nhìn nàng ánh mắt dìu dịu mang lẫn chút xót thương.

Ánh mắt Khương Trầm Ngư đờ đẫn rớt xuống đất, ván nền bằng gỗ cây dữu[5] bóng loáng bị bóng râm che phủ, giống như cuộc đời của nàng, rõ ràng mong mỏi ánh sáng đến tột độ, nhưng lại đủ thứ níu kéo, kìm chân, không thể giải thoát.

[5] Họ cây cam, quýt.

Phụ thân của nàng nhìn tưởng như nhược, ngu tối vô năng.

Nhưng một người vô năng thực sự sao có thể trở thành hữu tướng của Bích quốc suốt bảy năm? Trong quãng thời gian đó trải qua một loạt sóng gió, tiên đế băng hà, thái tử chết trận, Chiêu Doãn đoạt ngôi, Tiết gia diệt môn, nhìn tưởng như không hề làm gì, nhưng trước sau luôn yên ổn.

Một người vô năng sao có thể bí mật huấn luyện nhiều ám vệ đến thế, ngấm ngầm bố trí thế lực đến tận các nước khác?

Phụ thân của nàng kỳ thực lợi hại hơn những gì nàng thấy, nàng biết và nàng tưởng tượng.

Lợi hại đến mức lúc này phải dùng một người ngoài để ép nàng đưa ra lựa chọn.

Hễ nghĩ đến điểm này, trái tim nàng lại đau đến mức không thể kìm nén nổi.

Việc làm của phụ thân không nghi ngờ gì nữa là muốn đối đầu với Cơ gia, cho nên, ông đang ép nàng, ép nàng vứt bỏ công tử, toàn tâm toàn ý bảo vệ gia tộc.

"Ngày này...". Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói u uất: "Quả nhiên đến rồi...".

Ta sợ công tử lấy ta, không biết là họa hay là phúc.

Nỗi lo từ rất lâu về trước đó, theo thời gian đã lắng kết thành lời nguyền, biến thành kiếp nạn khắc cốt ghi tâm đã đến ngay trước mắt rồi?

Bởi vì ta là con gái của Khương gia.

Nàng họ Khương, tên gọi Khương Trầm Ngư.

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ, ta sẽ hi sinh công tử, lựa chọn nhà mẹ đẻ.

Một lời thành sấm truyền.

Vận mệnh.

Vận mệnh lớn mạnh, phức tạp và khiến người ta sợ hãi như thế.

Vầng thái dương từ trên mặt biển xé tầng mây nhô lên, ánh nắng sớm.

"Tiểu thư, về phòng nhé". Hoài Cẩn nói.

Khương Trầm Ngư mở miệng, giọng nàng mơ mơ hồ hồ như nói mơ: "Ta từng không hiểu tại sao phu tử nói trong mệnh của ta thiếu ngọc, sẽ thành thương tổn lớn. Ta ngỡ liên quan đến bát tự, đến ngũ hành. Nhưng ngọc không phải kim loại không phải đá, thiếu hay không thiếu thì có quan hệ gì? Không ngờ... thật không ngờ...".

"Tiểu thư...".

"Hoài Cẩn, rõ ràng ta đã có em và Ác Du, tại sao vẫn còn vô duyên với ngọc?

"Tiểu thư...".

"Rõ ràng không phải tin số mệnh. Nhưng, e rằng ta thực sự bị nguyền rủa cũng không chừng".

"Tiểu thư...". Bộ dạng của Hoài Cẩn như chực khóc đến nơi.

Khương Trầm Ngư quay người, nhìn thẳng vào nàng ta, bỗng mỉm cười, sau đó lại nhẹ nhàng nắm chặt tay nàng ta nói: "Cho dù thế nào, ta đã có ba mươi sáu ngày này. Ta phải... cảm tạ ba mươi sáu ngày này. Trong ba mươi sáu ngày nay, ta rất vui. Thực sự, thực sự rất vui."

"Tiểu thư...".

Khương Trầm Ngư quay người nhìn biển lớn xán lạn không chớp mắt, rành rọt nói: "Hoài Cẩn, em nhìn xem, ánh dương đẹp làm sao".

Ánh dương đẹp làm sao.

Thế nhưng, lần này nó không mang đến những ngày tháng hi vọng. Mà sẽ mang tới sự hủy diệt thiêu đốt hết thảy.

Một tia sét rạch ngang bầu trời, những đám mây đen kịt đột ngột rách toang, hắt ra một tia sáng màu đỏ đậm, ngay sau đó trời đổ mưa như trút nước.

Khương Trầm Ngư vén rèm ngẩng đầu nhìn ra xa, Hoài Cẩn phía sau nói: "Bầu trời trên biển thật là kỳ lạ, ban sớm còn nắng hừng chiếu rọi, bây giờ đã mưa tới tấp rồi".

Bờ sông phía xa xa có một đám người áo xanh ô đỏ đứng xúm lại, trông cực kỳ bắt mắt. Khương Trầm Ngư liếc nhìn họ một cái rồi quay người lấy quyển trục trên bàn, Hoài Cẩn vội vàng tiến lên phía trước giúp nàng giở quyển trục ra, bên trong là một bức địa đồ của Bích quốc.

Hoài Cẩn nhìn tấm địa đồ một cách dò xét, nói: "Chúng ta sắp đến Hồi thành rồi. Thành chủ của Hồi thành bây giờ là Vệ Ngọc Hành".

"Vệ Ngọc Hành?".

Hoài Cẩn che miệng cười nói: "Tiểu thư không nhớ sao? Hắn là võ trạng nguyên gây chấn động đế đô năm năm về trước đó. "Há đâu cam chịu khuất quyền thế, Kết tóc se tơ chẳng chia lìa", chính là nói đến hắn".

Khương Trầm Ngư "à" một tiếng, bỗng nhiên nhớ ra.

Năm năm trước, Vệ Ngọc Hành mười tám tuổi tài hoa đương thịnh, giành được ngôi võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu. Khi cùng văn trạng nguyên triều kiến thiên tử, bá quan văn võ đều kinh ngạc: Hắn mặc áo tím, mũ cao giáp bạc, mắt phượng thân rồng, nổi bật đến mức khiến cho toàn bộ đám thư sinh văn nhược xung quanh đều thất sắc lu mờ.

Năm đó trong ngự hoa viên, nụ ngọc hoa quỳnh đều bung cánh nở, cảnh sắc tươi sáng như tuyết, nhưng lại không sánh được với nụ cười của hắn.

Con gái độc nhất của tả tướng gia Tuyên Lưu vừa gặp hắn đã đem lòng ngưỡng mộ. Tả tướng liền khẩn cầu tiên đế vời hắn làm con rể. Ai ngờ trước Cẩm Dương điện, Vệ Ngọc Hành lại khước từ, nguyên nhân chỉ có năm chữ - đã có vợ Đỗ Quyên.

Tuyên Lưu si mê hắn, nguyện lấy thân phận thiên kim tiểu thư tôn quý để hai gái chung một chồng, nhưng ngày hôm sau, khi Vệ Ngọc Hành dìu người vợ kết tóc se tơ của hắn là Đỗ Quyên tấn kiến thánh thượng, tất cả mọi người nhìn nữ nhân đó thì không thốt lên nổi nửa lời.

Bởi vì...

Nàng ta là một người mù.

Hoàng đế Hành Xu than rằng: “Bạn lúc nghèo hèn chẳng thể quên, vợ lúc tao khang không thể phụ. Thôi, thôi, thôi".

Ba tiếng "thôi" này đã cắt đứt hoàn toàn si niệm của thiên kim tả tướng, trở thành một giai thoại tình chồng vợ lúc nghèo hèn còn bền vững hơn vàng đá. Nhưng cũng vì thế mà để lại mầm họa khiến Vệ Ngọc Hành thất ý chốn quan trường sau này. Trong cuộc tranh ngôi giữa thái tử Thuyên và Chiêu Doãn, tả tướng tìm được một cái cớ để ép hắn rời đế đô, từ đó về sau, Vệ Ngọc Hành không còn quay lại đế đô được nữa.
 
Quyển 2 - Chương 45


Không thể không thừa nhận, càng là những nhân vật đình đám, muốn nổi danh thiên hạ thì không thể thiếu được hai chữ "địa lợi". Bởi vì thế, Vệ Ngọc Hành rời khỏi đế đô tuy anh tài vẫn còn đó, nghĩa dũng vẫn y nguyên, nhưng không thể nào làm được chuyện lớn. Lâu dần, mọi người quên mất còn có một người như vậy... Khương Trầm Ngư nghĩ đến đây, không khỏi có chút nuối tiếc, mà trong sự tiếc nuối của nàng, thuyền đã vào gần đến bờ, từ từ cập bến.

Trên bờ sông, theo tiếng hô hiệu lệnh, tiếng nhạc đón khách của Hồi thành vang lên, thật khác với những địa phương khác, trong thứ nhạc này tràn ngập màu sắc trang nghiêm và thê lương.

Một người đứng ra khỏi hàng, nhìn con thuyền cập bến đất mẹ, liền bước lên phía trước một bước, ôm quyền thi lễ nói: "Vệ Ngọc Hành của Hồi thành cung nghênh chư vị đại sứ".

Màn mưa mờ mịt, ô đỏ xoay tròn, nam tử dưới ô ngẩng đầu lên, nhướn mày, giống như có một luồng ánh sáng rớt xuống khuôn mặt hắn, trong nháy mắt trở thành vĩnh hằng.

Mưa lớn vẫn rơi rào rào, xung quanh tứ phía, chim chóc im bặt.

Áo tím giáp bạc, độc nhất vô nhị.

Thời gian năm năm, mấy độ xuân thu, hoạn lộ mờ mịt tiền đồ tối tăm, nhưng không hề làm phong độ của hắn giảm đi phân lượng nào.

Hắn cầm một chiếc ô đỏ tắm trong mưa rào, thái độ lạnh nhạt giống như một vị khách đứng ngoài cuộc.

Giây lát sau, một tiếng cười khe khẽ thong thả cất lên, Cơ Anh bước ra phía trước, đáp lễ: "Đã làm Ngọc Công vất vả rồi".

Mấy chữ này giống như một chiếc khóa thần kỳ, trong khoảnh khắc sự yên ắng được hóa giải, sự ngượng ngùng tiêu tan, thần trí của tất cả mọi người cũng quay trở lại.

Cơ Anh giới thiệu bọn Giang Vãn Y và Phan Phương với Vệ Ngọc Hành, mọi người bắt đầu lục tục xuống thuyền, theo sau đội ngũ đón khách tiến về phía dịch quán.

Mưa tuôn xối xả, đường trong thành lầy lội cực kỳ khó đi, bánh xe thỉnh thoảng lại lọt xuống bùn, qua mấy hồi trắc trở, khi đến dịch quán, chân người nào người nấy bê bết toàn bùn là bùn.

Hoài Cẩn không kìm được than khẽ: "Xem ra mấy năm nay Ngọc Công quả nhiên đã sa sút nhiều...".

Khương Trầm Ngư nhíu mày: "Nói thế nghĩa là sao?"

"Tiểu thư nhìn kiến trúc trong thành mà xem, phần lớn đều là nhà cửa xây dựng hơn mười năm, cũ kỹ đến mức không tả nổi. Đường đi lại lầy lội khó đi như thế, có thể thấy về phương diện kiến thiết, không phải không làm, mà là không có tiền để làm".

"Sao em biết số tiền đó không phải đã bị hắn tham ô? Theo ta biết, mỗi năm quốc khố đều cấp tiền trợ giúp xây dựng cho các thành".

Hoài Cẩn lắc đầu đáp: "Không đâu! Ngọc Công tuyệt đối không tham ô! Một người chính trực thà đắc tội với tả tướng chứ tuyệt đối không vứt bỏ người vợ mù của mình không thể làm cái chuyện bẩn thỉu như tham ô được!".

Khương Trầm Ngư thấy vẻ nghiêm túc hiếm thấy của Hoài Cẩn, bèn cười cười không nói tiếp nữa, mà theo đám người đi vào trong dịch quán. Dịch quán chẳng qua chỉ là một dãy nhà ngói, tương đối cũ kỹ, may mà được quét dọn rất sạch sẽ, trong sân còn trồng rất nhiều loại cây cỏ, xanh tốt um tùm, tắm mưa mà nở, khiến khung cảnh trở nên rạng rỡ hơn hẳn.

Khi Khương Trầm Ngư đi qua một hàng cây trong đó, nàng khẽ "ồ" một tiếng.

Giang Vãn Y ngoái đầu lại hỏi: "Sao thế?".

"Lan cánh cúc".

Lời vừa thốt ra, không chỉ Giang Vãn Y mà cả đám Cơ Anh và Tiết Thái phía trước cũng lần lượt quay đầu lại.

Lan cánh cúc là một loài quý hiếm trong họ nhà lan, vì cánh hoa giống cánh hoa cúc nên có tên gọi như vậy. Cây hoa trong sân lúc này màu sắc càng thuần túy, cánh hoa nở bung, nở hơn hai mươi cánh, cực kỳ hiếm thấy, đã quý lại còn hiếm hơn!

Giang Vãn Y không kìm được hơi quỳ xuống ve vuốt một chiếc lá hoa, trong mắt tràn ngập sự kinh ngạc, than: "Loài hoa này xưa nay đều nở vào tiết cuối đông đầu xuân, mà bây giờ đang là mùa hạ...".

"Không chỉ như thế". Khương Trầm Ngư giơ tay ra chỉ: "Nhìn xem, bên kia còn có hoa súng".

Trong đầm phía không xa, mấy bông súng tím nở rộ, màu sắc rực rỡ, cực kỳ diễm lệ, nhụy vàng óng ả, từ nhụy đến cánh sắc tím càng lúc càng đậm, cuối cùng chuyển hẳn thành tím biếc.

Lan cánh cúc, hoa súng, bình thường có thể gặp được một trong số chúng đã là may mắn, lúc này lại có thể thấy ở cùng một nơi, hơn nữa lại còn mọc trước căn nhà ngói xấu xí này; chẳng phải sẽ khiến những người đi đường có nằm mơ cũng không ngờ rằng, cách họ một bức tường lại là nỗi nuối tiếc cả đời sao.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: "Thợ làm vườn ở đây là ai?".

Vệ Ngọc Hành quay người lại, lạnh nhạt đáp: "Hoa cỏ chốn này đều do một tay nội tử trồng".

Một tràng xuýt xoa vang lên, ai cũng biết thê tử của hắn là một người mù, nhưng nàng ta lại có thể trồng được loại hoa hiếm có mà ối thợ giỏi phải sầu não vì không trồng nổi, sao có thể không khiến người ta sững sờ kinh ngạc?

"Vậy phu nhân bây giờ ở đâu? Có thể cho phép ta bái kiến được không?". Khương Trầm Ngư giải thích: "Là như thế này, sắp đến ngày sinh nhật của gia mẫu, người rất yêu hoa lan, nếu có thể học được cách trồng loài hoa này...".

Hai hàng lông mày Vệ Ngọc Hành hơi nhíu lại một chút, hắn thấp giọng đáp: "Bệnh nằm trên giường, không tiện gặp khách".

"Vậy à...". Khương Trầm Ngư khó giấu vẻ thất vọng, đành lùi ra sau mấy bước, hòa lẫn vào trong đám người.

Ánh mắt Cơ Anh dừng lại trên người nàng một lát rồi quay người bước tiếp, đoàn người lại chầm chậm bước vào nhà.

Tiệc trong nhà đã được bày biện sẵn, mọi người lần lượt ngồi vào bàn, theo lệ Khương Trầm Ngư vẫn ngồi bên cạnh Giang Vãn Y, Giang Vãn Y thấy nàng cúi đầu chau mày ra chiều buồn bã không vui, bèn nghiêng người qua thì thầm: "Ta tìm cơ hội khám bệnh cho Vệ phu nhân, rồi sẽ đưa muội đi cùng".

Khương Trầm Ngư nghe xong liền ngẩng đầu mỉm cười.

Bên kia, Vệ Ngọc Hành rót đầy ly rượu, nâng chén mời Cơ Anh: "Hầu gia đường xa quay về, Ngọc Hành thay mặt các sơn thành chốn biên cương mời hầu gia một chén".

"Ngọc Công, mời". Cơ Anh đáp lễ, uống cạn ly rượu, hai hàng lông mày khẽ động, khẽ tới mức gần như không thấy được, nhưng trong nháy mắt sắc mặt lại bình thường, tươi cười nói: "Cách biệt mấy năm, cây hải đường mà Ngọc Công đích thân hồng trong Hàn Du viện năm đó đã cao hơn hai trượng rồi".

Gương mặt vốn thừa nghiêm trang, thiếu thoải mái của Vệ Ngọc Hành vì câu nói đó mà tươi tỉnh lên ít nhiều, ngậm ngùi nói: "Vốn dĩ lúc mua là một cây bệnh, tất cả mọi người đều nói nó không sống nổi".

"Ta vẫn nhớ vì cái cây này mà Ngôn ông đánh cược với ngươi...".

"Ha ha! Ngôn Duệ là đệ nhất trí giả đời nay, học rộng hiểu nhiều, kiến thức phi phàm, những sự vật mà ông ta đã nhận định không bao giờ sai. Đáng tiếc, ông ta thật không thể nào ngờ...".

"Ông ta không thể nào ngờ rằng, không chỉ có một vị võ trạng nguyên yêu hoa như tính mạng, mà vị võ trạng nguyên này còn có một vị thê tử tinh thông trồng hoa. Được sự chuyên tâm chăm chút của hai người, cây hải đường đó đã sống được".

"Đúng thế...". Vệ Ngọc Hành nói, mắt nhìn ra xa, hắn vốn dĩ dung mạo anh tuấn phi phàm, lúc này hàng lông mày giãn ra, ánh mắt dịu dàng, hơi tươi cười, trông lại càng phong độ ung dung: "Ngôn Ông thua cược, ở nhà hạ quan nửa năm, đem hết sáng tác lúc bình sinh của ông ta khắc vào thẻ tre. Lúc rời kinh, tất cả mọi thứ đều vứt bỏ, duy chỉ có số sách này là hạ quan không nỡ vứt, đành thuê một chiếc xe trâu thồ đi, vì thế mà chậm tới Hồi thành mất mười ngày... Nội tử đến nay vẫn còn giữ những cuốn thẻ tre này, ngày ngày sờ để đọc".

Cơ Anh nhíu mày nói: "Nếu là ta, rề rà hơn mười tháng ta cũng phải mang theo, số thẻ tre Ông Lão tự tay khắc e là trong thiên hạ chỉ có một bộ này... Hai năm trước, sau khi ông ta gác bút viễn du, tất cả mọi người đều mất liên lạc với ông ta, cũng không có tác phẩm mới nào ra đời, thật là khiến vô số người mỏi mắt trông ngóng, luyến tiếc thở dài".

"Gác bút?". Vệ Ngọc Hành kinh ngạc.

"Ừ".

"Tại sao?".

Cơ Anh im lặng một lát, mới cúi nhìn, đáp: "Nghe nói có liên quan đến đệ tử của ông ta là Diệp Nhiễm, nhưng nguyên do thực sự trong đó lại không thể nào biết được".

Nghe đến cái tên Diệp Nhiễm, Khương Trầm Ngư hơi ngạc nhiên. Diệp Nhiễm chính là phụ thân của Hy Hòa phu nhân, tuy là đồ đệ của Ngôn Duệ, nhưng lại là kẻ bất tài nhất, suốt ngày say sưa túy lúy, mơ màng sống qua ngày. Đối với tên đồ đệ này, Ngôn Duệ hẳn cũng cực kỳ chán ghét, sao lại vì hắn mà gác bút? Thật ngoài sức tưởng tượng...

Vệ Ngọc Hành lại không hề kinh ngạc, chỉ lầm rầm nói một câu: "Diệp Nhiễm... ông ta khỏe không?".

"Diệp Công...", giọng Cơ Anh trở nên trầm thấp: "Đã về cõi tiên năm ngoái rồi".

Ánh mắt Vệ Ngọc Hành thoáng chốc trở nên mịt mờ, im lặng một lúc lâu mới trấn tĩnh trở lại, nói: "Cũng tốt".

Trong lòng Khương Trầm Ngư hết đỗi tò mò, chỉ mong hai người đó nói chuyện nhiều thêm một chút, ai ngờ Vệ Ngọc Hành lại không nói cặn kẽ, chỉ vẫy tay dặn dò người hầu bưng đồ ăn lên.

Đồ ăn bưng lên rất đơn giản, gồm hai món chay hai món mặn, các sứ thần đi đường đã quen được tiếp đãi ê hề rượu thịt, nay nhìn thấy bàn tiệc tổng cộng có bốn món chính, không khỏi có chút kinh ngạc - Hồi thành thực sự đã nghèo nàn đến mức này sao?

Vệ Ngọc Hành lại chẳng hề mảy may xấu hổ, rất bình tĩnh nói: "Đây đều là những món nội tử cẩn thận tuyển chọn, hầu gia nếm thử xem có vừa miệng hay không?"

"Được". Cơ Anh cầm đũa. Mọi người thấy vậy cũng lần lượt động đũa, đúng là không ăn thì không biết thế nào, nhưng vừa đưa vào miệng là khiến người ta giật mình. Những món ăn nhìn thì bình thường, nhưng vào miệng thì thơm lừng, vị ngon không tả xiết.

Vệ Ngọc Hành giới thiệu: "Món măng tre hun khói này làm từ loại măng xanh như ngọc bích của núi Tảo Xuân nổi tiếng nhất bản thành. Cách chế biến không khó, vào tiết khai xuân hàng năm lên núi hái măng, sau buổi trưa thì dùng khói lửa hun, rồi đào hố chôn, đến mùa hạ mới đào lên nấu lại lần nữa mới có thể giữ nguyên hương vị, giòn bùi thơm ngon".

Cơ Anh khen ngợi: "Ngon".

"Món thứ hai là Ngư Hương Gia Long, cách chế biến tương đối phức tạp, cà tím rửa sạch, khía hai bên rồi xiên vào xiên tre, đem ngâm trong một loại nước điều chế đặc biệt, một khắc sau lấy ra phơi khô, lăn qua bột chiên giòn, rồi chiên dầu đến khi quả cà được định hình thì vớt ra, đợi dầu sôi trở lại lại bỏ vào chiên sơ một lần nữa đến khi ngoài giòn trong mềm thì rút bỏ chiếc xiên tre. Cuối cùng còn phải điều chế loại nước ướp cá[6] trộn hạt điều rồi rưới nước sốt lên quả cà. Lúc này mới được coi là thực sự hoàn thành".

[6] Nguyên văn "ngư hương tương trấp", là một loại gia vị chuyên để ướp cá của Trung Quốc.

Cơ Anh cười nói: "Xem ra Ngọc Công không chỉ thích hoa, mà còn nghiên cứu khá kỹ về ẩm thực".

"Hai món còn lại là cá hấp, canh rau thập cẩm Uyên ương, tiểu quan không cần phải nói thêm, tránh bị chê cười". Lần này Vệ Ngọc Hành giải thích xong xuôi, trong chốc lát mọi người đã thay đổi hẳn cách nhìn về hắn, những món ăn tưởng chừng như sơ sài thô lậu, lập tức trở thành những sơn hào hải vị hiếm có. Cá thịt ngày nào cũng ăn, nhưng những món mỹ vị đẳng cấp này, cũng giống như các loài kỳ hoa dị thảo bên ngoài, đều trân quý hiếm gặp. Trong một lúc tiếng khen ngợi tấm tắc nổi lên rào rào, mọi người ngon miệng nên ăn rất hào hứng.

Trong lòng Khương Trầm Ngư lại hiểu rất rõ rằng, vị Ngọc Công này rõ ràng là "dùng sự đặc biệt mới mẻ để giành phần thắng". Hắn làm như thế không ngoài hai lý do, nếu không phải cố ý làm theo sở thích của Cơ Anh để lấy lòng thượng cấp; thì là đã thực sự cùng đường bí lối, không hề dư dả, nên chỉ có thể đánh vào mùi vị của thức ăn. Hơn nữa mọi người ở trên thuyền chòng chành lắc lư suốt một tháng, không được ăn hoa quả rau xanh tươi ngon, nên càng thấy những món ăn như thế này ngon miệng hơn.

Theo nàng thấy, khả năng thứ hai cao hơn khả năng thứ nhất.

Vừa nghĩ đến đây, nàng không kìm được thở dài - Nếu năm đó hắn không từ chối hôn ước, thì bây giờ e rằng thành tựu còn hơn cả Phan Phương. Rồi nàng liếc mắt nhìn hoa cỏ bên ngoài cùng những món ăn bày trên bàn, nàng lại cảm thấy, cưới được người vợ như thế, người chồng còn mong gì hơn?

Vị phu nhân Đỗ Quyên đó thực sự có chỗ hơn người...

Bữa tiệc tẩy trần đã kết thúc trong bầu không khí vui vẻ và an lành, đám người hầu của Vệ phủ đang định dẫn mọi người đến phòng dành cho khách để nghỉ ngơi, Giang Vãn Y khẽ kéo tay áo của Khương Trầm Ngư, nói với Vệ Ngọc Hành: "Tại hạ cũng hiểu sơ sơ y thuật, nếu như không chê, liệu có thể khám cho tôn phu nhân hay không?".

Vệ Ngọc Hà sững ra một lát, mới nói: "Y thuật của hầu gia tuyệt đỉnh thiên hạ, Ngọc Hành cũng đã nghe tiếng, chỉ có điều... nội tử tuy bệnh đã lâu, nhưng cũng không có gì đáng ngại, không dám phiền đến kim thể của hầu gia...".

Khương Trầm Ngư thầm kinh ngạc: Phải biết rằng Giang Vãn Y nay đã mang thân phận tôn quý khác xưa, tuy bản thân hắn không muốn làm phách ra vẻ, nhưng muốn được hắn đích thân chẩn trị, phải xếp vào hàng vương hầu khanh tướng mới được. Chỉ là phu nhân của một chủ thành nhỏ nơi biên ải, nếu không phải là cơ duyên tình cờ, thì sao có thể mời được hắn, chẳng ngờ một kẻ xưa nay vốn yêu vợ như Vệ Ngọc Hành lại chẳng buồn nghĩ ngợi mà đã từ chối chuyện tốt từ trên trời rơi xuống này.

Hiển nhiên Giang Vãn Y còn sửng sốt hơn cả nàng, hắn nói với vẻ không hiểu: "Không phiền, là ta tiện thể mà thôi...".

"Vẫn xin được đa tạ mỹ ý của hầu gia, thực sự không cần đâu...".

Lúc này, một bà lão mặc áo xám trạc ngũ tuần rảo bước đi tới, vừa đi vừa nói: "Bên đó là Đông Bích hầu Giang đại nhân phỏng?".

Vệ Ngọc Hành nhìn thấy bà lão, sắc mặt hơi biến đổi: "Dì Mai, sao dì tới đây?".

Bà lão được gọi là dì Mai đó vội vã đến trước mặt Giang Vãn Y, thi lễ nói: "Phu nhân nhà ta mời Giang đại nhân".

Giang Vãn Y nhíu mày: "Phu nhân nhà bà?".

Vệ Ngọc Hành cười khổ đáp: "Chính là nội tử".

"Giang đại nhân, mời đi bên này". Dì Mai khom người làm tư thế mời. Giang Vãn Y nhìn Vệ Ngọc Hành, Vệ Ngọc Hành lộ vẻ bất đắc dĩ, cuối cùng lui một bước nhỏ, thế là Giang Vãn Y đưa mắt ra hiệu với Khương Trầm Ngư, xách hòm thuốc đứng dậy.

Khương Trầm Ngư theo hắn ra khỏi phòng khách, trong lòng lại càng đong đầy mối nghi hoặc. Vệ Ngọc Hành mấy lần từ chối rõ ràng là không muốn Giang Vãn Y thăm bệnh cho phu nhân, chẳng ngờ Đỗ Quyên lại tự mình sai người hầu đến mời.

Thú vị.

Xem ra, đêm nay ở lại Hồi thành còn có thể chứng kiến được rất nhiều chuyện hay ho đây...
 
Quyển 2 - Chương 46: Hồi thứ mười ba: Cờ đêm


Đi một mạch về phía Tây xuyên qua một dãy tường bao con đường nhỏ vốn được lát đá đã được sửa thành lát gỗ, hai bên còn có tay vịn, dưới ván rỗng không, đi lên đó phát ra âm thanh lộc cộc.

Cách một quãng nhất định, ở chỗ tiếp nối của mỗi nhịp tay vịn còn treo một ngọn đèn sáng, những chiếc đèn đó phía dưới là nến, phía trên là tinh dầu, loại dầu đó không biết làm từ gì mà đốt lên lại tỏa ra thứ mùi thơm thoang thoảng.

Bấy giờ mưa đêm lất phất, hương thơm thấm phổi, cảnh trí càng làm người ta thư thái, phòng ốc tuy không tinh xảo mỹ lệ, nhưng mỗi cây mỗi hoa, mỗi rèm mỗi ghế, mỗi chi tiết đều chất chứa tâm tư ở trong đó.

Phía cuối hành lang gỗ là hai gian phòng nhỏ.

Từ xa Khương Trầm Ngư đã nghe thấy tiếng động lách cách rất có quy luật, đến gần thì hóa ra là một nữ tử đang ngồi dệt vải.

Cửa phòng mở rộng, nữ tử đó đang ngồi trước khung cửi quay lưng lại với khách, chiếc áo bằng vải gai màu xanh nhạt, mái tóc dài đen nhánh buông xõa mềm mại trên áo tựa dòng nước chảy, tựa luồng ánh sáng, khung cảnh rõ ràng là "tĩnh" nhưng lại có cảm giác "động" vô cùng vi diệu.

Chỉ nhìn bóng dáng ấy, Khương Trầm Ngư liền khẳng định: Không nghi ngờ gì nữa đó chính là Đỗ Quyên.

Trong những lời đồn đại đều nói Đỗ Quyên là người xấu xí, không phải là một mỹ nhân. Nhưng nữ tử xuất thân bần hàn lại thêm đôi mắt mù lòa này lại có thể khiến một nam nhân như Vệ Ngọc Hành dám vì nàng ta mà chối từ thiên kim tướng gia, vứt bỏ tiền đồ, ắt phải có điểm đặc biệt.

Mà điểm đặc biệt này có lẽ bắt nguồn từ sự tồn tại yên tĩnh mà linh động của Đỗ Quyên.

Rõ ràng hai bàn tay và đôi chân của nàng ta đều đang thực hiện động tác dệt vải trên khung cửi nhưng nhìn lại có vẻ trầm tĩnh; rõ ràng có vẻ rất trầm tĩnh nhưng lại khiến người ta cảm thấy mỗi điểm trên cơ thể nàng ta như đang nói chuyện, như đang biểu đạt điều gì.

Vẻ vừa mâu thuẫn vừa hài hòa đó dường như tập trung hên người nàng ta một cách rất tự nhiên.

Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, từ nhỏ tới lớn nàng đã gặp nhiều nữ tử, dung mạo tuyệt mỹ như Hy Hòa, hiền thục mẫn tuệ như Tiết Mính, yểu điệu khéo léo như tỉ tỉ, yêu mị như Di Thù... nhưng người như Đỗ Quyên, thì quả thực đây là lần đầu tiên nàng gặp.

Nàng đang nghĩ thì tiếng khung cửi ngừng lại, nữ tử đó thong thả đứng dậy, quay người lại, khom lưng thi lễ: "Dân nữ Đỗ Quyên bái kiến hầu gia."

Giang Vãn Y vội đáp: "Xin phu nhân mau đứng dậy."

Dưới ánh đèn gương mặt Đỗ Quyên vô cùng gầy gò, mày nhạt môi mỏng, hai mắt đờ đẫn, không có chút thần sắc nào. So với sự linh hoạt của bóng lưng, khuôn mặt không chút linh lợi này rõ ràng tầm thường biết bao. Lẽ nào ban đầu Tuyên Lưu đau lòng tuyệt vọng là vì thân là thiên kim tướng phủ dung mạo hoa nhường nguyệt thẹn, nhưng cuối cùng lại thua một cô gái mù, mà còn là một cô gái mù xấu xí.

Đỗ Quyên nói: "Dì Mai, dọn chỗ. Cũng lấy cho cô nương này một chiếc ghế đi".

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: "Sao phu nhân biết còn có ta nữa?". Nàng đã cố ý nhẹ bước, tại sao Đỗ Quyên vẫn có thể biết còn một người thứ ba đang ở đây? Hơn nữa, còn nói toạc ra là một "cô nương"?

Đỗ Quyên nhếch môi cười cười: "Ngày nào ta cũng đi trên hành lang gỗ trước cửa hơn chục lần, bốn năm qua mỗi một âm thanh trên ván gỗ ta đều khắc sâu trong tim. Đến bao nhiêu người, là người như thế nào, cao hay thấp, béo hay gầy, ta đều có thể phân biệt đến bảy, tám phần. Nếu như ta đoán không nhầm, cô nương là một mỹ nữ thân hình yểu điệu, cử chỉ đoan trang. Bởi vì, bước chân của cô nương rất khẽ, rất ổn định, rất ngay ngắn, khi bước đi váy áo không phát ra tiếng loạt xoạt, rõ ràng đã được dạy dỗ cực kỳ tốt".

Khương Trầm Ngư chỉ còn nước thán phục. Đỗ Quyên lại tiếp: "Không chỉ như thế, ta còn đoán được cô nương cũng có thân phận cao quý. Bởi theo lý mà nói, nếu người đi cùng hầu gia là người hầu trợ thủ hoặc là đồ đệ thì sẽ phải đi sau ngài. Nhưng cô nương và hầu gia lại sánh vai mà đến, từ đó có thể thấy được địa vị của cô nương chắc chắn không dưới hầu gia, cho nên ta mới sai dì Mai dọn thêm một chỗ ngồi".

Trong lòng Khương Trầm Ngư cả kinh, bấy giờ mới ý thức được vừa nãy mình không chú ý, đúng là đã đi ngang hàng với Giang Vãn Y.

Tuy là người mù nhưng khả năng nhận biết lại còn tinh chuẩn hơn cả người mắt sáng, vị Đỗ Quyên phu nhân này quả nhiên không phải người bình thường. Trong lòng nàng bội phục, vội nói: "Phu nhân quá khen rồi, tiểu nữ đâu phải quý nhân gì, chẳng qua chỉ là sư muội của Đông Bích hầu mà thôi, vì từ nhỏ đã được chiều chuộng cho nên thiếu lễ phép, dám đi ngang hàng với huynh ấy. Phu nhân mau mời ngồi, nghe nói phu nhân bệnh đã lâu ngày, sư huynh tiểu nữ đang muốn khám bệnh cho phu nhân đó".

Đỗ Quyên cười nói: "Cũng được. Xin đa tạ hầu gia".

Giang Vãn Y đặt hòm thuốc xuống, Khương Trầm Ngư đứng bên hỗ trợ một cách thành thục, lấy chiếc đệm mềm đặt dưới cổ tay Đỗ Quyên, chuẩn bị xong Giang Vãn Y ngồi xuống ghế, bắt mạch cho Đỗ Quyên một lúc, nét mặt vốn dĩ căng thẳng chăm chú giãn ra, khẽ cười nói: "Phu nhân hơi suy nhược, nhưng cũng không phải là bệnh nặng, chịu khó nghỉ ngơi an dưỡng nhiều hơn thì sẽ không thành vấn đề".

Khương Trầm Ngư hơi bất ngờ, nàng cứ tưởng Vệ Ngọc Hành không cho họ khám bệnh là vì bệnh của vợ hắn có ẩn tình gì, ai ngờ lại không có gì nguy hại. Lẽ nào nàng đã cả nghĩ chăng?

Nàng nghe thấy Đỗ Quyên nói: "Vậy thì tốt. Dân nữ vốn dĩ không mắc bệnh nặng, chỉ vì khí hậu Hồi thành ẩm ướt nhiều gió, tuy đã đến đây nhiều năm nhưng vẫn không thể thích nghi được nên thường xuyên mệt mỏi. Có điều, bản tính của dân nữ không chịu nhàn rỗi, một ngày không chăm hoa cắt cỏ là cảm thấy thiếu thiếu gì đó, ngủ không yên...".

Khương Trầm Ngư than: "Tài trồng hoa của phu nhân quả thật hiếm có...".

Đỗ Quyên lập tức quay mặt về phía nàng, đôi đồng tử không có thần sắc cũng nhìn nàng không chớp, cơ hồ mang theo vài phần mong chờ nhiệt thành, nói: "Cô nương thích những bông hoa đó sao?".

"Vâng, vô cùng thích. Đặc biệt là cây lan cánh cúc đó... Không giấu gì phu nhân, gia mẫu thích nhất là loài hoa lan này, trong nhà cũng trồng rất nhiều, nhưng loài lan cánh cúc trong truyền thuyết đó lại luôn là nỗi tiếc nuối trong lòng người, đã tìm rất nhiều năm, nghĩ đủ cách nhưng không thể kiếm được. Vì thế, lúc nãy nhìn thấy loài hoa lan đó trong sân tiểu nữ còn không dám tin vào mắt mình, không ngờ trên đời lại có người trồng được loài kỳ hoa hiếm có đó, hơn nữa còn là một cây hoa hoàn mỹ đến vậy..."

Lời của nàng còn chưa dứt, Đỗ Quyên đã nắm lấy tay mà nói: "Vậy tặng cho cô nương đi!".

"Hả?".

Đỗ Quyên nhận ra sự luống cuống của mình, liền thu tay lại, cười nói: “Danh hoa tặng mỹ nhân. Có thể nuôi dạy nên một cô con gái như cô nương, lệnh đường hẳn cũng là một nữ tử tuyệt vời, vậy thì, bồn hoa lan cánh cúc đó tặng cho bà ấy cũng coi như là danh kiếm gặp anh hùng, tôn thêm vẻ sáng rỡ cho nhau".

"Không không không, sao có thể làm thế được". Khương Trầm Ngư không ngờ vị Đỗ Quyên phu nhân này lại hào sảng đến vậy, cũng không ngờ nàng ta lại đem loài hoa trân quý nhất thiên hạ này tặng cho người khách lần đầu gặp mặt, tuy trong lòng nàng rất muốn, nhưng vẫn phải chối từ: "Quân tử không đoạt thứ người khác yêu thích, phu nhân đã tốn biết bao tâm huyết tinh lực cho bồn hoa đó, sao tiểu nữ có thể vô duyên vô cớ nhận lễ hậu đến vậy của phu nhân? Tuyệt đối không thể...".

Đỗ Quyên lại giơ tay nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng. Nàng ta dùng đôi bàn tay đầy vết chai do lao động nhiều năm của mình vuốt ve đôi bàn tay da dẻ trơn láng tựa ngọc, khẽ thổi là rách của Khương Trầm Ngư, trên mặt hiện lên vẻ cảm khái: "Lễ hậu hay bạc chẳng qua chỉ là do mắt nhìn của người ngoài. Không biết vì sao, vừa nghe thấy tiếng của cô nương là ta đã thấy thích cô nương, luôn cảm thấy có duyên với cô nương, cho nên, đối với ta mà nói, tặng món quà như thế nào cho người mình thấy có duyên đều không phải là lễ hậu. Nếu như cô nương cố chấp không nhận chẳng phải là đã coi thường ta, cho rằng thân phận ta thấp hèn, không xứng tặng quà cho cô nương sao?".

Khương Trầm Ngư thấy những lời này quá nghiêm trọng, không khỏi có chút hoảng hốt, lúc này Giang Vãn Y mới đứng ra giải vây, nói: "Sư muội, muội nhận đi. Nếu cảm thấy áy náy trong lòng thì hãy tìm một món quà để tặng lại phu nhân là được rồi".

Trong lòng Khương Trầm Ngư thầm cười khổ, câu này nói nghe thật nhẹ nhàng, nhưng trong thời gian ngắn, nàng đi đâu để tìm được quà tặng đáp lễ đây? Hơn nữa, món quà có giá trị ngang với loài hoa vừa quý hiếm vừa mỏng manh đó đâu dễ tìm thế chứ.

Đỗ Quyên vỗ nhè nhẹ vào mu bàn tay nàng, dịu dàng nói: "Hầu gia nói không sai, thực ra bây giờ cô nương có thể giúp ta làm một việc".

Khương Trầm Ngư vội nói: "Xin phu nhân sai bảo".

Đỗ Quyên nhẹ nhàng gọi dì Mai, dì Mai hiểu ý quay người bước vào trong nhà, không lâu sau bưng ra một thứ. Khương Trầm Ngư nheo mắt nhìn, thì ra là một bàn cờ.

Dì Mai đặt bàn cờ trên bàn, Đỗ Quyên nói: "Ngoài trồng hoa và dệt vải, thực ra ta còn rất thích đánh cờ. Nhưng vì mắt kém nên khi đánh cờ thường chậm hơn người bình thường rất nhiều, vì thế Ngọc Hành cảm thấy thiếu kiên nhẫn khi chơi cờ cùng ta. Mà đám người hầu trong phủ đều không biết chơi cờ, người ngoài thì ta không tiện gặp, kể từ khi đến Hồi thành, đã bốn năm ta chưa hề chơi cờ. Nếu cô nương thực sự muốn cảm tạ ta đã tặng cô nương bồn hoa đó, vậy thì cô nương có thể cùng ta chơi một ván không? Ta nghe đám người hầu nói, cô nương là người chơi cờ giỏi nhất trong đoàn sứ thần, còn từng thắng cả Nghi vương".

Khương Trầm Ngư xấu hổ, quả nhiên con người ta không nên quá phô trương, ban đầu nàng vì cứu Hách Dịch mà cố ý đánh cờ suốt đêm với chàng trên thuyền, chẳng ngờ lại lưu truyền đến tận tai của phu nhân thành chủ Hồi thành.

Nhưng đánh cờ cũng chẳng phải là việc khó khăn gì, người ta đã chịu tặng hoa, thì chút yêu cầu mọn này sao có thể thoái thác?

"Thế thì tiểu nữ xin được múa rìu qua mắt thợ vậy". Khương Trầm Ngư ngồi xuống đối diện bàn cờ. Đỗ Quyên quay sang nói với Giang Vãn Y: "Hầu gia có mệt không? Nếu hầu gia cảm thấy mệt, xin mời về phòng nghỉ ngơi trước. Bởi dân nữ đánh cờ rất chậm, tuy chỉ một ván thôi, nhưng không chừng đến sáng cũng chưa đánh xong đâu".

Giang Vãn Y vẫn chưa trả lời, Khương Trầm Ngư đã cười đáp: "Sư huynh không biết gì về kỳ nghệ, nếu ở lại đây, đối với huynh ấy quả là sự giày vò".

Giang Vãn Y ngại ngùng cười nói: "Từ nhỏ ngu độn, gặp phải những chuyện phải động não tính toán là cảm thấy đau đầu. Cho nên, xin lượng thứ ta không thể phụng bồi".

"Vậy cũng được. Dì Mai, tiễn hầu gia về".

Dì Mai tiễn Giang Vãn Y đi rồi, Khương Trầm Ngư nhìn bàn cờ, lại nhìn những quân cờ trong chiếc bát, đang nghĩ xem phải đánh cờ với một người mù như thế nào thì Đỗ Quyên lên tiếng: "Mắt ta bất tiện, nên phiền cô nương giúp đặt quân cờ".

"Phu nhân nói gì vậy, đó là điều nên làm mà".

"Vậy, nếu không ngại, để ta đi trước được chứ?"

"Đương nhiên là được".

"Được, vậy nước đầu tiên chính là...". Đỗ Quyên hít sâu một hơi, chậm rãi nói: "Thiên Nguyên".

Khương Trầm bất giác kinh ngạc.

Giang Vãn Y cùng với dì Mai ra khỏi Tây viện, một trận gió to đột nhiên thổi tới, chiếc ô giấy trong tay bỗng gẫy hai nan, trong phút chốc mưa xối xả trút xuống, chỉ nháy mắt đã làm ướt đẫm áo quần.

"Mưa to quá". Hắn than.

"Đúng vậy". Dì Mai đứng đằng sau khe khẽ nói: "Trận mưa tối nay, không tạnh được đâu...".

Giang Vãn Y nghe giọng điệu lạ lùng của dì Mai, vô thức quay đầu lại nhìn, đúng lúc một tia chớp xé rạch màn đêm, khiến gương mặt bà ta trở nên xanh tối, đường nét vốn hiền lành cũng bị bóng tối làm méo mó biến dạng.

"Ngươi...". Giang Vãn Y không thể nói hết câu, gáy đột nhiên bị đánh mạnh, hắn liền ngất lăn ra đất.

Tiếng bước chân gấp gáp, từ trái qua phải lại từ phải qua trái cứ như thế lặp đi lặp lại mấy lần, nhỏ nhẹ rời rạc.

Lông mày Cơ Anh khẽ động, đôi mắt đang nhìn vào trang sách ngước lên, nhìn nơi phát ra tiếng động rồi khẽ than: "Ngươi làm ồn quá, Tiểu Thái".

Bấy giờ kẻ gây ra tiếng ồn - Tiết Thái mới dừng bước, hắn quay người lại, gương mặt đầy cảnh giác nói: "Có vấn đề".

"Có vấn đề gì?", Cơ Anh đưa tay lật một trang sách.

So với vẻ thản nhiên của chàng, Tiết Thái lại lộ rõ vẻ nôn nóng sốt ruột lạ thường: "Nếu tiểu nhân biết là vấn đề gì thì nó đã không còn là vấn đề nữa rồi". Dứt lời hắn đi đến bên cửa sổ, đẩy cửa sổ ra, gió mưa bên ngoài bỗng chốc rào rào thổi vào làm những trang giấy trên mặt bàn bay tứ tung.

"Ngài ngửi xem!".

"Ngửi cái gì?".

"Ngài không cảm thấy mùi hoa này quá nồng sao?".

Cơ Anh không nhịn được cười, giơ một tay lên khẽ day day lông mày: "Ta không biết hóa ra ngươi còn ghét cả hoa".

Tiết Thái hừ một tiếng.

"Khác với ngươi, ta thích hoa". Cơ Anh quả quyết gập cuốn sách lại, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, nhìn ra những cụm hoa vẫn nở trong mưa đêm, ánh mắt dịu dàng: "Ta cảm thấy hoa là một sinh vật vô cùng kỳ diệu. Ban đầu chúng chỉ là những mầm lá bình thường, không có chút đặc điểm nào, cũng không chút thu hút, nhưng một khi bừng nở thì sẽ đẹp đẽ vô ngần, phô rõ sự khác biệt của nó; hơn nữa vẻ đẹp đó lại mau chóng tàn lụi, đó vốn là một điều tiếc nuối nhưng lại từ đó kết nên quả ngọt, thứ quan trọng và có giá trị cao hơn..." Nói đến đây, chàng dừng lại một lát, ánh mắt sâu thăm thẳm tựa mặt hồ tối phủ đầy sương mù trong đêm trăng, khiến người ta không thể nhìn rõ biểu cảm thực sự.

Một lát sau, Cơ Anh nhẹ nhàng đóng cửa sổ lại, thấp giọng nói: "Có điều ngươi nói đúng, hoa ở nơi này... thực sự có mùi hơi nồng".

Ánh mắt Tiết Thái bỗng sáng bừng lên, khẽ hừ nói: "Thật sao? Không ngờ gan của Vệ Ngọc Hành lại to đến vậy".

"Chắc gì đã là hắn". Cơ Anh quay lại bàn, dùng ngón tay trỏ gõ nhẹ vào mép bàn, cúi đầu trầm ngâm.

Tiết Thái chớp chớp nhìn chàng bằng đôi mắt to của hắn.
 
Quyển 2 - Chương 47


Cơ Anh nghiêng đầu, nhìn thấy vẻ mặt sốt ruột này của hắn, không nhịn được phì cười: "Ngươi đoán xem khi một người lâm vào tình cảnh khó khăn thì sẽ làm thế nào?".

"Phán đoán xem tình cảnh khó khăn trước mặt rốt cuộc là gì, và làm thế nào để thoát ra được".

"Vậy thì, theo ngươi tình cảnh khó khăn hiện nay là gì?"

"Nơi này lạ lùng, không nên ở lâu".

"Lạ lùng như thế nào?".

Tiết Thái giơ ba ngón tay lên: "Thứ nhất, không thấy thủ vệ của chúng ta đâu, những kẻ canh gác ở bên ngoài sân, căn bản đều lạ mặt; thứ hai, tuy bây giờ đã về đêm nhưng vẫn chưa đến giờ Tuất, về lý mà nói vẫn chưa phải là giờ đi ngủ nhưng ngoài nơi này của chúng ta những phòng khác đều tối như hũ nút không có ánh đèn; thứ ba, đang đêm mưa gió tầm tã sẽ có rất nhiều âm thanh chúng ta không thể nghe thấy, giữa những hương hoa quá nồng sẽ có rất nhiều thứ chúng ta không thể ngửi được".

"Ví dụ như?".

"Ví dụ như...". Tiết Thái bỗng giơ tay trái lên, ống tay áo tụt xuống, hắn xoay lòng bàn tay lại, phía trên có một vết máu nhàn nhạt. Hắn giải thích: "Tiểu nhân vô ý dính phải khi mở cửa sổ lúc nãy.

Đồng tử Cơ Anh co lại: "Nếu như ban nãy bên ngoài có một trận chém giết, thì dù mưa to hơn gấp mười lần, ta cũng không thể không nghe thấy".

Tiết Thái cười: "Không sai. Võ công của ngài tuy không thể coi là thượng thừa, nhưng tiểu nhân tin rằng nếu có người động thủ với ngài ở bên ngoài cửa sổ, ngài vẫn có thể cảm nhận được".

Câu nói này nửa khen nửa không, nửa chê nửa không, Cơ Anh chỉ cười khổ, Tiết Thái liền chuyển chủ đề, tiếp tục nói: "Cho nên, tiểu nhân không nói đó là chuyện vừa mới xảy ra".

Cơ Anh không tỏ thái độ gì.

Tiết Thái tiếp tục phân tích: "Cũng có nghĩa là cho dù đã xảy ra một trận chém giết ở đây cũng là phát sinh trước lúc chúng ta đến. Có lẽ vì trận mưa lớn này, cho nên sát thủ không kịp dọn dẹp ổn thỏa, nên đã để vệt máu còn dây lại trên khung cửa".

Cơ Anh nghe tới đây, nhướn mày nói: "Về căn bản ta đồng ý với phân tích của ngươi, có điều, ta lại có cách nhìn khác về vết máu".

"Ồ".

Cơ Anh quay người lại, hướng ra khung cửa sổ, ánh mắt hơi chùng xuống, giọng nói trong phút chốc cũng trở nên chậm và nhỏ lại: "Ta cảm thấy, vệt máu đó không phải sơ suất để lại, mà là có người cố ý".

"Cố ý?". Tiết Thái mở to mắt: "Tại sao?".

Cơ Anh lấy một tờ giấy trên bàn, trải phẳng ra, mỉm cười chậm rãi nói bốn chữ: "Là để cảnh báo".

Mưa gió sầm sập đập vào tấm rèm cửa sổ kêu lạch cạch.

Nước đun trên bếp lò đã sôi lục bục, đẩy nắp ấm nảy lên, nhưng hai người ngồi đánh cờ bên cạnh lò hình như hoàn toàn không nghe thấy gì, không ai thèm để ý. Hơi nước trắng mờ từ từ bao phủ, khuôn mặt Khương Trầm Ngư chìm trong màn hơi mờ, giống như một pho tượng tạc bằng ngọc.

Nàng cầm một quân cờ, nhưng mãi không nhúc nhích.

Nắp ấm dần dần không nảy lên nữa.

Trong phòng yên ắng vô cùng. Chỉ có tiếng hít thở của hai người, nhè nhẹ nhàn nhạt, cực kỳ bình tĩnh.

Một khoảng thời gian dài cứ trôi qua như thế, cuối cùng Khương Trầm Ngư đã cử động, chầm chậm, từng chút từng chút ngẩng đầu lên, chăm chú nhìn vào Đỗ Quyên phía đối diện. Đỗ Quyên dường như cảm nhận được ánh nhìn của nàng, giãn đôi mày ra, cười nhạt nói: "Cô nương đã nghĩ được nước sau đi thế nào chưa?".

Khương Trầm Ngư "ừm" một tiếng.

"Vậy tại sao cô nương không đi?".

Khương Trầm Ngư nhìn nàng ta chằm chằm, một lát sau nàng lắc lắc đầu: "Tiểu nữ không dám".

Đỗ Quyên lại cười, trong nụ cười có một thứ gì đó đang từ từ lắng kết lại: "Ồ, tại sao không dám? Nói ra ta nghe nào. Cô nương sợ thua ư?".

Khương Trầm Ngư xoa xoa quân cờ, chậm rãi nói: "Nước đầu tiên phu nhân đi là Thiên Nguyên, tiểu nữ đã thất kinh. Vì rất ít người khai cuộc như thế, thông thường kỳ thủ dám khai cuộc bằng nước Thiên Nguyên phải có lá gan tày trời, nếu không phải có kỳ nghệ cực cao. Cho nên, tiểu nữ không dám lơ là, cẩn thận từng chút một, nhưng đánh một chặp lại phát hiện ra..".

Đỗ Quyên mỉm cười tiếp lời nàng: "Lại phát hiện ra kỳ nghệ của ta chẳng qua cũng chỉ như thế mà thôi, có lẽ còn chẳng bằng kỳ thủ hạng ba, đúng không?".

Khương Trầm Ngư thừa nhận bằng sự im lặng.

"Như thế chẳng phải cô nương không cần phải sợ hãi nữa sao? Bởi ván cờ này cô nương đã chắc thắng rồi".

Khương Trầm Ngư cụp mắt, hạ giọng nói: "Phu nhân kỳ nghệ bình thường, tại sao lại muốn hẹn ta đánh cờ?".

Đỗ Quyên che miệng cười: "Lẽ nào cô nương chưa từng nghe thấy càng kỳ nghệ bình thường lại càng khao khát tìm người chơi cờ?".

"Nếu như là người khác, có lẽ là như thế, nhưng là phu nhân...". Khương Trầm Ngư do dự một lát, lại tiếp: "Trước khi ngồi đây, khi nhìn thấy những khóm hoa mà phu nhân trồng đó, tiểu nữ đã nghĩ nếu không phải người thông minh tột đỉnh, cao ngạo mạnh mẽ tột đỉnh, thì sẽ không thể trồng được".

Đỗ Quyên đáp qua loa: "Cô nương nói thông minh cũng được, nhưng chỉ là trồng hoa mà thôi, đâu có thể nói là cao ngạo với mạnh mẽ?".

"Sở dĩ tiểu nữ nói như vậy là chỉ việc phu nhân biết sở trường của mình và biết cách phô diễn sở trường này cho người khác biết, bản chất của hành vi này chính là biểu hiện của sự cao ngạo, mạnh mẽ. Lượng thứ cho tiểu nữ nói thẳng, đôi mắt của phu nhân bị hỏng, nếu đổi lại là người thường, thì tính cách có thể sẽ trở nên hướng nội hoặc thu mình hoặc sợ sệt tự ti, dù có dũng cảm đối mặt với cuộc sống, cũng sẽ trở nên tương đối an phận thủ thường. Nhưng phu nhân lại khác, tài trồng hoa cũng phải thách thức ở mức độ khó nhất, hơn nữa còn có thể xếp vào hàng đệ nhất thiên hạ. Nhìn từ phương diện này có thể thấy phu nhân là người hễ quyết định làm việc gì thì nhất định sẽ làm tốt nhất. Mà người có tính cách như phu nhân, tiểu nữ không tin nếu phu nhân thực sự thích cờ lại không chơi cờ giỏi được."

Nụ cười trên khuôn mặt Đỗ Quyên vụt tắt, nàng ta cụp mắt không trả lời.

Khương Trầm Ngư đặt quân cờ trong tay vào lại chiếc bát, nhân tiện lật những quân cờ khác: "Hơn nữa, bộ cờ này cũng thực sự hơi quá mới. Tiểu nữ tin rằng số lần nó được dùng tuyệt đối không quá ba lần".

Khóe môi Đỗ Quyên kéo ra thành một đường cong, nửa cười nửa không nói: "Cô nương đoán đúng rồi. Thêm lần này nữa là hai lần ta sử dụng bàn cờ này".

"Vậy còn lần trước?". Khương Trầm Ngư kéo dài giọng ra đầy hàm ý. Đỗ Quyên quả nhiên nói tiếp: “Sáng nay, ta sai người ra chợ mua bộ cờ này, sau khi mở hộp, liền mời người đến dạy ta quy tắc cơ bản".

Trong lòng Khương Trầm Ngư bỗng thấy kinh hoàng - Đây là lần thứ hai nàng ta đánh cờ! Vốn nàng chỉ cảm thấy kỳ nghệ người này thường thường, nhưng khi biết được chân tướng mọi việc trở nên hoàn toàn khác, nàng tự hỏi, đổi lại là mình, liệu có thể chơi được như vậy ngay trong lần thứ hai hay không, đáp án là không thể. Còn Đỗ Quyên đã làm được, xem ra sự thông tuệ của nàng ta vượt xa mình...

Trong lòng nàng chấn động, vì thế giọng nói hơi run run: "Tại sao phu nhân phải học chơi cờ?".

Đỗ Quyên đáp lại nhanh chóng: "Bởi vì ta nghe nói cô nương biết chơi cờ".

Khương Trầm Ngư càng không hiểu: "Tại sao tiểu nữ biết chơi cờ phu nhân lại phải học".

Gương mặt Đỗ Quyên lộ một vẻ vô cùng phức tạp, im lặng một lúc lâu mới ngẩng đầu nhìn thẳng về phía Khương Trầm Ngư, chậm rãi nói bằng một giọng nói rất nghiêm trang: "Bởi vì ta rất muốn mượn cơ hội này để quen biết cô nương Khương Trầm Ngư, ta muốn quen biết ngươi... đã... rất lâu rất lâu rồi".

Khương Trầm Ngư hoàn toàn ngây người ra.

"Cảnh báo? Ai muốn cảnh báo chúng ta? Tại sao phải cảnh báo". Tiết Thái hỏi dồn.

Cơ Anh không trả lời, chàng vừa cầm chiếc bút lông lên bắt đầu viết như múa trên tờ giấy viết thư, vừa hỏi vặn lại: "Lại kiểm tra ngươi, bây giờ đích xác là chúng ta đang gặp nguy hiểm, vậy theo ngươi chúng ta nên làm thế nào?".

"Phân tích điểm mạnh yếu của bản thân, để tìm cách tự bảo vệ mình".

"Thế thì, điểm mạnh nhất của chúng ta là gì?".

Mắt Tiết Thái sáng lóe lên mấy cái: "Đại tướng quân Phan Phương".

Cơ Anh cười cười.

Tiết Thái quay người nói: "Bây giờ tiểu nhân đi tìm tướng quân! Có tướng quân và Chu Long ở đây, cho dù có mười bảy mười tám thích khách cũng không sợ!".

Cơ Anh không ngăn cản mà chỉ hờ hững nhìn hắn lao ra ngoài, nhưng ngón tay Tiết Thái vừa chạm vào tay nắm cửa liền đột ngột dừng lại: "Không đúng!".

Cơ Anh nhướng mày.

"Không đúng...". Bàn tay Tiết Thái bắt đầu run rẩy, khi quay người trở lại vè mặt hắn đã thoáng kinh sợ mất bình tĩnh: "Với chúng ta thì chiếc ô bảo vệ mạnh nhất chính là Phan Phương. Nếu chúng ta có thể nghĩ tới, thì hà cớ gì địch nhân không thể nghĩ tới? Vì thế, nếu có người muốn đối phó với chúng ta, bước đầu tiên chính là loại bỏ Phan Phương, chặt đứt cánh tay của chúng ta. Nếu bây giờ thuộc hạ đi tìm Phan Phương, e rằng sẽ rơi vào cảnh khốn đốn hơn nữa".

Nụ cười nơi khóe môi Cơ Anh lại sâu thêm một phần, cho đến lúc này trong đáy mắt mới lộ vẻ tán thưởng.

"Cho nên, bây giờ tìm Phan Phương cũng vô ích, có lẽ chính hắn cũng khó bảo toàn. Vậy nên tìm ai đây? Lẽ nào là... Giang Vãn Y?".

Cơ Anh vẫn không tỏ thái độ gì, im lặng nhìn Tiết Thái.

Tiết Thái ngẫm nghĩ một lúc, lại lắc đầu: "Hắn cũng không được. Y thuật của hắn cao siêu, thiên hạ đều biết. Địch nhân cũng không thể để hắn ở lại bên cạnh chúng ta... Chẳng trách mụ vợ của Vệ Ngọc Hành vừa ăn cơm xong đã cấp tốc gọi hắn đi, hóa ra là như thế!".

Cơ Anh không khỏi mỉm cười: "Mụ vợ? Ngươi dùng từ càng ngày càng thô tục rồi đấy".

Tiết Thái lườm chàng một cái: "Thô tục thì đã làm sao? Bây giờ tiểu nhân đã là kẻ hạ tiện, dùng từ văn vẻ để làm gì? Dẫu sao cũng không thể đỗ trạng nguyên".

Cơ Anh bắt đầu day lông mày đầy vẻ bất lực. Tiết Thái trừng mắt nhìn chàng: "Mụ vợ! Mụ vợ!".

"Được rồi được rồi. Mụ vợ". Cơ Anh lấy tay ra hiệu hắn nói tiếp.

Bấy giờ Tiết Thái mới hài lòng, ngẩng đầu lên tiếp: "Thuộc hạ cảm thấy Vệ Ngọc Hành có vấn đề. Nhớ năm đó, hắn đỗ trạng nguyên vẻ vang biết bao nhiêu, nhưng vì cự tuyệt một nữ nhân dám mặt dày mày dạn đòi cưới hắn mà bị tả tướng ghim hận trong lòng, đẩy đến cái xứ rách nát chim chẳng buồn ỉa này...".

Khi Cơ Anh nghe đến bốn chữ "chim chẳng buồn ỉa", khóe mắt lại hơi giật giật. Nhưng Tiết Thái căn bản chẳng buồn để ý đến phản ứng của chàng, vẫn thao thao bất tuyệt: "Đại trượng phu sao có thể cam tâm thu mình ở chốn này, suốt ngày xử lý những việc vặt vãnh như nhà đông bị ăn trộm mất con gà, nhà tây bị thiếu con chó? Nam nhi hảo hán là phải chinh chiến sa trường, giết giặc lập uy, giáp sắt giáo dài, thiên binh vạn mã, chặt đầu giặc, tắm máu thù, bảo vệ lê dân bách tính, giữ gìn xã tắc non sông...".

Cơ Anh khẽ than: "Nếu ngươi nói gọn hơn một chút, ta sẽ cho ngươi điểm cao hơn".

Tiết Thái bước nhanh đến cạnh chàng: "Vậy thì chính là bốn chữ: Khuất tài[1], đố kỵ".

[1] Có tài nhưng mà không phát huy được.

"Đố kỵ ai?".

"Đó kỵ với ngài". Tiết Thái tiến đến trước mặt chàng, hạ hấp giọng, nhưng lại nở nụ cười có vài phần ác ý: "Cho nên lén đặt bẫy để hại ngài. Chủ nhân của ta ạ".

"Ngươi là ai?".

Ánh lửa trong chiếc bếp lò nhảy nhót bập bùng mờ mờ tỏ tỏ chiếu lên mày mắt của hai người ngồi đối diện nhau. Nước trong ấm sắp bốc hơi cạn hết, bắt đầu phun khói ra ngoài.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên không chớp mắt: Ban đầu chỉ cảm thấy nữ tử này tướng mạo bình thường nhưng có phong thái đẹp, bây giờ nhìn kỹ bất chợt lại thấy có cảm giác quen thuộc như đã từng quen biết. Đôi mắt này, cái mũi, cái miệng này, dường như đã từng gặp ở đâu đó.

Uổng cho nàng xưa nay luôn tự phụ về trí nhớ của bản thân, chỉ cần là sách đã đọc qua, lời từng nghe qua, người từng gặp qua là tuyệt đối không quên. Nhưng bây giờ càng nhìn vị Đỗ Quyên phu nhân này nàng càng thấy quen mắt, nhưng không tài nào nhớ ra nổi.

"Ngươi là ai?". Khương Trầm Ngư nén giọng hỏi lại một lần nữa. Chuyến này nàng hành động cơ mật, dẫu cho về sau số người biết thân phận thực sự của nàng càng ngày càng nhiều, nhưng phu nhân của một thành chủ cỏn con nơi biên ải cũng biết được, thì thật sự quá đáng ngờ. Hơn nữa, vị thành chủ phu nhân này xem ra không chỉ biết "một chút". Mấy từ "rất lâu rất lâu" của nàng ta có ý gì?

Hết nghi ngờ này đến nghi ngờ khác nổi lên trong đầu Khương Trầm Ngư, rõ ràng là một đêm mưa rào lạnh lẽo, nhưng sau lưng nàng mồ hôi chảy ròng ròng ướt đẫm.

Biểu cảm của Đỗ Quyên so với nàng cũng không nhẹ nhõm là bao nhiêu, khóe miệng nàng ta nở một nụ cười có ba phần ngậm ngùi ba phần chần chừ ba phần cô độc và một phần đau thương không thể nói rõ, chậm rãi nói: "Ta? Không phải người trong thiên hạ đều biết ta là ai sao? Một kẻ mù tốt số được gả cho võ trạng nguyên, một người vợ mù vô đức hại chồng đến nỗi uất ức bất đắc chí, một nữ nhân được rất nhiều người hâm mộ cũng bị rất nhiều người ghen ghét".
 
Quyển 2 - Chương 48


Khương Trầm Ngư hỏi thẳng: "Tại sao ngươi biết ta?".

"Ta không chỉ biết ngươi, mà còn biết cha mẹ ngươi, ca ca, tỉ tỉ của ngươi...". Đỗ Quyên lại cười, ngũ quan nàng ta bình thường, nhưng khi cười lại có phần thanh tú, mũi hơi chun lại, hai lúm đồng tiền bên khóe miệng như ẩn như hiện. Khương Trầm Ngư "a" một tiếng đứng bật dậy, giơ một ngón tay run rẩy chỉ vào mặt nàng ta, kêu lên thất thanh: "Ngươi, ngươi, ngươi là...".

Đỗ Quyên hơi ngẩng mặt lên, tiện cho nàng nhìn rõ hơn: "Ngươi nhận ra rồi, đúng không?".

Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, nàng ngồi phịch xuống chiếc ghế, sững sờ nhìn gương mặt nàng ta, không thốt nổi nửa lời.

"Nếu như chỉ là đố kỵ, vậy như ngươi nói lá gan của Vệ Ngọc Hành quá lớn rồi". Im lặng một lúc rất lâu, cuối cùng Cơ Anh mới mở miệng nói vậy.

Tiết Thái nghe xong liền bĩu môi cười: "Đã đến nước này rồi, ngài còn phải tự lừa mình dối người làm gì?".

Cây bút trong tay Cơ Anh dừng lại, mực rỏ giọt trên trang giấy đang bắt đầu nhòe đi, giống như sắc đêm ngoài kia, tối tăm mà ẩm ướt. Trong mắt chàng bỗng dấy lên bao nỗi đau thương.

Tiết Thái vừa lạnh lùng nhìn chàng vừa nói: "Chuyến đi đến Trình quốc lần này của hầu gia tiến hành bí mật, lúc sắp về lại đổi ứng cử viên làm Trình vương, khi đó thuộc hạ đã cảm thấy có điểm không ổn. Giờ ngài vừa bước chân lên địa bàn Bích quốc đã bị người ta dòm ngó, theo tình hình trước mắt xem ra đối phương đã giăng bẫy đợi ngài nhảy xuống từ lâu rồi. Vậy ai là người có thể biết hôm nay chúng ta sẽ đến Hồi thành sớm nhất? Ai là người có quyền lực để ra lệnh cho Vệ Ngọc Hành? Hiện tại, ở Bích quốc ai có thể xuống tay với ngài, dám xuống tay với ngài?".

Cơ Anh nhíu mày, nói: "Đừng nói nữa".

Tiết Thái vẫn không ngừng, nói càng lúc càng nhanh: "Săn được thỏ rồi thì giết thịt chó săn. Gia tộc lớn mạnh ở Bích quốc không chỉ là một mình Tiết gia...".

"Ta nói, đủ rồi!". Cơ Anh quát lên một tiếng rồi nhận ra mình đã luống cuống, sững sờ một lúc.

Tiết Thái nhìn chàng với vẻ thông cảm.

Cơ Anh day day lông mày, lắc đầu nói: "Không đâu... Không đâu. Y sẽ không làm vậy đâu".

"Năm đó, gia gia ta cũng cho rằng y sẽ không làm vậy", Sự thông cảm trong mắt Tiết Thái nhạt dần, thay vào đó là một sự lạnh lùng như băng giá nghìn năm.

Cơ Anh ngẩng đầu lên, rồi lại im lặng đến thất thần mới lẩm bẩm: "Không đâu. Ta và tổ phụ của ngươi khác nhau, chúng ta... khác nhau".

Thấy chàng khẳng định như vậy, Tiết Thái bất giác nảy sinh nghi ngờ.

Cơ Anh hít sâu vào một hơi, đưa bút viết tiếp, vừa viết vừa nói: "Bây giờ tranh luận những thứ này chẳng có ý nghĩa gì, chân tướng sự tình thế nào, đợi sau rồi hãy nói. Trước tiên, ngươi hãy đưa giúp ta phong thư này".

"Với tình hình hiện tại, chúng ta còn có thể ra ngoài sao?”

Cơ Anh gấp lá thư đã viết xong lại, bỏ vào phong bì, rồi đưa đến trước mặt Tiết Thái, chỉ nhìn thấy trên lá thư có hình Bạch Trạch, nét bút vẫn rất đẹp, không hề rối loạn, viết tên một người - Vệ Ngọc Hành.

Khương Trầm Ngư cảm thấy mình như rơi xuống vách đá cheo leo, vì mất trọng lực mà choáng váng không thể nhúc nhích, không thể suy nghĩ, thậm chí không thể hít thở.

Một giọng nói vang lên từ đáy lòng: Đừng nghĩ, Trầm Ngư, đừng nghĩ nữa. Sẽ đau, sẽ rất đau rất đau đấy.

Nhưng lại một giọng nói khác đều đều, không cảm xúc, rành mạch đến lạ thường vang lên bên tai: "Ngươi nghĩ ra rồi đúng không? Họ đều nói trong những đứa con của Khương gia, ngươi là người xuất sắc nhất, thông minh như ngươi, đương nhiên sẽ nghĩ ra".

Mắt Khương Trầm Ngư bỗng trào lệ, bàn tay nàng nắm chặt, buông lỏng, rồi lại nắm chặt, nhưng vẫn không thể ngăn được sự run rẩy phát ra từ linh hồn mình.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn vô cùng bình tĩnh: "Lệnh đường thích hoa lan của ta không?".

Nước mắt rõ ràng đã dâng lên trong mắt, nhưng vẫn ngần ngừ chưa rớt xuống, Khương Trầm Ngư giữ tư thế hơi cúi đầu, cứng nhắc đáp: "Rất thích. Nhưng số hoa đó đến nhà ta đều không sống qua nổi mùa đông năm đó".

Đỗ Quyên nói: "Điều đó là tất nhiên".

"Mẫu thân mời biết bao thợ trồng hoa đến đều không ăn thua. Bà cứ tưởng là vì bà không có duyên trồng loại hoa này, bây giờ mới biết...".

Đỗ Quyên thay nàng nói tiếp: "Bây giờ mới biết, sự thực là ta đã chôn độc vào dưới đất trồng hoa. Nếu như hoa của nhà ngươi không chết, thì ta đâu có cớ gì để tiếp tục gửi hoa tới?".

Mắt Khương Trầm Ngư đỏ hơn: "Mẫu thân luôn muốn có lan cánh cúc".

"Cho nên ta trồng nó bao nhiêu năm nay, cuối cùng đã thành công. Ngươi có thể mang về cho lão nhân gia".

Khương Trầm Ngư ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt Đỗ Quyên: "Ta còn có thể quay về sao?"

Đỗ Quyên nhếch môi cười: "Nếu không, ngươi tưởng vì sao ngươi ở đây?".

"Ngươi không có bệnh, nhưng lại sai dì Mai mời Giang Vãn Y khám bệnh cho ngươi, là vì ngươi biết chắc ta nhìn thấy số hoa lan đó sẽ muốn gặp người trồng hoa, mà ta là sư muội của Giang Vãn Y, huynh ấy đi ta đương nhiên cũng đi theo. Sau đó, ngươi lại cố ý đòi ta chơi cờ cùng ngươi, là muốn giữ chân ta ở đây, ta đã ở đây rồi, cũng có nghĩa là...". Khương Trầm Ngư nói đến đây liền nghẹn ngào: "Những nơi khác đều không an toàn, đúng không?".

Đỗ Quyên khen ngợi: "Quả nhiên ngươi rất thông minh. Không chỉ thông minh, nghe nói ngươi còn là một mỹ nhân. Vừa thông minh vừa xinh đẹp lại vừa có phúc. Ta ngưỡng mộ ngươi biết bao".

Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, cuối cùng bật ra câu hỏi then chốt nhất: "Vệ Ngọc Hành định làm gì Kỳ Úc hầu?”

Đỗ Quyên nhướng mày, chậm rãi hỏi ngược lại: "Ngươi nói xem?".

Khương Trầm Ngư nghe thấy một tiếng động lớn, chói tai, chát chúa, hơn nữa không thể bịt tai, không thể trốn tránh, vì đó là tiếng động phát ra từ bên trong cơ thể nàng.

Đó là tiếng trái tim vỡ nát.

"Thuộc hạ không tin Vệ Ngọc Hành sẽ đến vào lúc như thế này". Tiết Thái không cầm mà nhìn chằm chằm phong thư đó.

Cơ Anh nhướng mày: "Tại sao ngươi không thử xem".

"Không cần thử cũng biết, chẳng phải rõ ràng lắm sao? Hắn bố trí thiên la địa võng để chuẩn bị giết ngài, sao có thể tự mình đến trước mặt ngài trong thời khắc mấu chốt này, để cho ngài có cơ hội xoay chuyển tình thế?".

Cơ Anh vẫn kiên trì: "Ngươi cứ đưa đi rồi sẽ biết".

Tiết Thái hồ nghi nhìn chàng, cuối cùng nhận lấy phong thư, mở cửa bước ra.

Cơ Anh nhìn hắn bước ra ngoài, không biết hắn nói những gì với thủ vệ. Thủ vệ lùi lại một bước thả cho hắn đi, sau đó, bóng dáng nhỏ bé đó liền biến mất bên ngoài bức tường bao, không nhìn thấy đâu nữa. Cơ Anh chớp mắt, đồng tử sâu thăm thẳm như đang nghĩ ngợi điều gì, lại như chẳng nghĩ gì. Cuối cùng, chàng từ từ đứng dậy, xốc lại áo, chắp tay đi đến trước cửa sổ, đẩy cửa sổ nhìn ra màn mưa mù thê lương mờ mịt bên ngoài, mở miệng thì thầm: "Vẫn... không muốn tỉnh... giấc mộng lớn này".

Bỗng một ngọn lửa bùng lên, trong chớp mắt đốt cháy màn đêm.

Ánh sáng màu đỏ tràn vào cửa sổ mà không hề báo trước, tiếp sau nó âm thanh ồn ào vang lên bên ngoài tường bao ở phía xa, loáng thoáng nghe thấy có một người hét lên: "Cháy rồi...".

Trái tim của Khương Trầm Ngư bỗng thít chặt lại, cơ thể bật dậy theo bản năng, lao đến bên cửa sổ.

Đẩy cửa sổ ra, chỉ thấy phía Đông đã đỏ rực một góc trời, khói đen cuồn cuộn, vô số tiếng kêu tiếng hét vang lên, rõ ràng Đông viện là nơi ở của Cơ Anh.

Bàn tay nàng bất chợt bấu chặt vào mép cửa sổ, nàng túm váy trèo qua cửa sổ chứ chẳng buồn đi lối cửa ra vào, một đôi bàn tay to bè thô ráp bỗng tóm chặt lấy eo nàng, ném nàng trở lại ghế. Nàng còn đang giãy giụa, người đó đưa ngón tay nhanh như chớp điểm vào mấy huyệt đạo của nàng, cơ thể nàng lập tức không thể nhúc nhích.

Người đó chính là dì Mai.

Dì Mai thu tay lại, cung kính nói: "Đắc tội rồi, tam tiểu thư."

Đỗ Quyên đứng bên cạnh lạnh nhạt nói: "Nếu không muốn bị thương, Khương tam tiểu thư nên ngoan ngoãn nghe lời thì hơn".

"Sao ngươi dám làm thế này! Sao ngươi lại dám làm thế này! Ngươi, ngươi...". Khương Trầm Ngư tức đến nỗi thở hổn hển, trong đáy mắt tràn ngập nỗi tuyệt vọng: "Cơ Anh chính là rường cột quốc gia, ngươi giết ngài là muốn đẩy Bích quốc vào chỗ nào đây?".

Đỗ Quyên nghe thấy lạnh lùng cười nhạt: "Năm đó mọi người đều cảm thấy Tiết Hoài chính là gốc rễ của nước nhà."

"Tiết Hoài phản quốc, trừ bỏ là chính nghĩa. Nhưng Cơ Anh không phải! Ngươi giết ngài ắt sẽ có vô số tử sĩ báo thù cho ngài, những môn sinh đó của ngài sao có thể chịu để yên? Hà cớ gì ngươi phải gánh tội danh đại nghịch thiên hạ?"

Đỗ Quyên phá lên cười ha hả: "Thật kỳ lạ, giết Cơ Anh rõ ràng là người khác, ta có tội danh gì mà phải gánh?".

Khương Trầm Ngư sững sờ.

Đỗ Quyên lười biếng nhíu mày, nhìn chòng chọc vào hướng đối diện - phía nàng bằng cặp mắt vô hồn, không chút ánh sáng, rất nhẹ nhàng, từ tốn nói: "Lẽ nào không phải là tam hoàng tử của Trình quốc, Di Phi bí mật đàm phán với Kỳ Úc hầu không thành, cho nên thẹn quá hóa giận, lật mặt trong phút chốc, cuối cùng cả hai cùng lưỡng bại câu thương sao?".

Trước đó Khương Trầm Ngư cảm thấy trái tim mình đang vỡ nát, đau đến mức không thể hít thở, nhưng nghe câu nói này xong, trái tim nàng không đau nữa, bởi vì đã hoàn toàn không còn trái tim nữa rồi.

Khi ánh lửa bùng lên, Tiết Thái vẫn chưa đi đến tòa nhà chính, màn mưa đêm trong sân bị luồng ánh sáng đỏ chiếu vào trong nháy mắt trở nên rực rỡ, hắn lập tức quay đầu, liền nhìn thấy phía Đông viện ngọn lửa rừng rực bùng lên giống như một chiếc miệng lớn nuốt trọn toàn bộ khu nhà.

Phản ứng đầu tiên của hắn chính là chạy về, nhưng chân trái vừa nhấc liền dừng lại đột ngột, sau đó thì đứng im không nhúc nhích giống như ngây như ngốc nhìn chằm chặp vào ngọn lửa càng cháy càng lớn đó.

Bên cạnh, vô số người cuống quýt chạy qua, lẫn trong đó là một giọng nói quen thuộc: "Có chuyện gì thế?" giọng của Vệ Ngọc Hành.

Vệ Ngọc Hành mặt đầy sửng sốt nhìn ngọn lửa lớn bùng lên ở Đông viện, hắn nhấc gấu áo, bước nhanh về phía trước nói: "Lệnh xuống, mau dập lửa, lấy nước cứu người!".

Tiết Thái không nhúc nhích, im lặng nhìn chằm chằm vào hắn, hắn đi đến bên cạnh tường bao, nhấc thùng nước mà đám người hầu mang tới, hắt vào phía trong sân. Vì hắn dáng cao như ngọc, lại mặc áo tím, cho nên nổi bần bật, cực kỳ bắt mắt giữa đám đông lúc nhúc.

Tiết Thái không kìm được nghĩ: Quá chân thật... Cảnh tượng trước mắt quá chân thật. Giống như một vở kịch đã được diễn tập vô số lần, đạo cụ, diễn viên, thiên thời, địa lợi, đầy đủ tất cả.

"Thành chủ, ngọn lửa này lạ quá!". Một người hầu thét lên: "Theo lý mà nói, mưa to như thế này, lửa không thể cháy mới đúng, nhưng ngọn lửa này không những không tắt mà còn càng bùng to hơn! Thành chủ, ngài nhìn mà xem bao nhiêu nước hắt vào đều vô ích...".

"Câm mồm!". Vệ Ngọc Hành một tay đẩy gã người hầu ra, tiếp tục đón thùng nước trong tay người khác hắt thật mạnh vào trong. Ai ngờ lửa gặp nước lại càng bốc mạnh hơn, còn liếm ngược trở lại suýt nữa thì cháy lan đến chính bản thân hắn.

"Thành chủ cẩn thận!". Đám người hầu hoảng loạn.

Vệ Ngọc Hành cắn răng, dứt khoát nhấc một thùng nước dội lên người, rồi lại dùng chiếc áo khoác sũng nước bịt mũi, chẳng nói chẳng rằng xông thẳng vào trong đám lửa.

Tất cả mọi người kinh ngạc thất sắc kêu gào: "Thành chủ! Thành chủ...".

Tiết Thái lạnh lùng đứng bên cạnh nhìn, vẫn không thốt một lời, thò tay vào tay áo, móc lá thư mà Cơ Anh sai hắn chuyển tới Vệ Ngọc Hành ra, chầm chậm mở...

Mưa rơi rào rào, nhanh chóng thấm ướt trang giấy.

Phong thư mở ra, trắng muốt như tuyết, không chút ố bẩn, không có vết mực... Đó là một trang giấy trắng.

Nước mát rót vào trong ấm nước đã bị lửa đun đỏ rực, bốc lên một làn khói trắng. Dì Mai rót nước trong ấm vào chén, sau cùng bưng chén đến trước mặt Khương Trầm Ngư: "Tam tiểu thư, uống trà".

Khương Trầm Ngư mím môi không mở miệng.

Đỗ Quyên ở bên cạnh nói: "Ta khuyên ngươi ít nhiều cũng nên uống một ngụm, mưa to thế này, hương hoa nồng nặc, ngươi hít vào trong người một số thứ không nên hít, ta lại không muốn làm tổn thương đến ngươi".

"Ngươi hạ độc bọn ta?". Khương Trầm Ngư nghe thấy một giọng nói khàn đặc, sau đó mới phát hiện ra đó chính là giọng của mình.

Đỗ Quyên lắc lắc đầu: "Giang Vãn Y là thần y, sao ta có thể múa rìu qua mắt thợ. Có điều có những thứ, ngay đến cả đại phu cũng không có cách gì phòng được".

"Ngươi đã làm gì?".

"Ngươi uống xong chén nước này, ta sẽ nói cho ngươi biết".
 
Quyển 2 - Chương 49


Dì Mai lại bưng chén nước kề sát môi Khương Trầm Ngư, mắt nàng đỏ vằn lên, cuối cùng đành há miệng. Dì Mai thuận thế dốc cả chén nước vào miệng nàng.

"Đúng rồi, như thế mới ngoan". Đỗ Quyên cũng không úp úp mở mở, thẳng thắn giải thích: "Trên thế gian này có rất nhiều thứ vốn không độc, nhưng kết hợp với nhau lại có thể biến thành không an toàn. Trong bữa tiệc tối, ngoại trừ trong thức ăn ở bàn của ngươi và Giang Vãn Y là không bỏ một loại hương liệu tên là "Ngọc Lộ", còn những người khác đều ít nhiều nếm phải nó, đặc biệt là Kỳ Úc hầu ăn nhiều nhất".

Mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch, rất vất vả mới nói nên lời: "Có Ngọc Lộ, sẽ có Kim Phong, đúng không?".

"Rất thông minh. Cái gọi là Kim Phong thực ra chính là mùi hương tỏa ra từ phần rễ của hoa súng". Đỗ Quyên nhướng mày nói: "Kim Phong Ngọc Lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số[2]. Kỳ Úc hầu ăn Ngọc Lộ vào, lại ngửi mùi Kim Phong, e rằng muốn bỏ nhân gian mà đi...".

[2] Xem chú thích ở tập một.

Kim Phong Ngọc Lộ hễ tương phùng.

Có lúc bi ai đến cùng cực, lại muốn bật cười.

Khóe môi Khương Trầm Ngư nhếch lên, nước mắt lại trào ra khỏi tròng mắt theo nụ cười mỉm đó, lặng lẽ rơi xuống.

Đây là lần thứ hai nàng nghe thấy câu nói liên quan đến Cơ Anh này, lần đầu tiên là ở Trình quốc, khi Di Thù mê hoặc Cơ Anh. Công tử và câu nói này thật có duyên... thật có duyên... thật có duyên...

Đầu óc nàng đã hoàn toàn đánh mất sự nhanh nhạy cơ trí thường ngày, nên đành nhắc đi nhắc lại phán đoán vô cớ này hết lần này đến lần khác.

Nàng ngồi đấy nhìn ngọn đèn, nghe tiếng người, liên tưởng đến nam tử áo trắng phấp phới đó, lại nhìn kỹ nữ nhân mỉm cười gần ngay trong gang tấc này, chỉ cảm thấy tất cả của tất cả đều không chân thực.

Không chân thực biết bao.

"Hãy giết ta đi!". Khương Trầm Ngư nói khẽ bằng một giọng điệu bình tĩnh đến chết chóc.

Nụ cười trên gương mặt Đỗ Quyên nhạt dần, vẻ mặt phức tạp im lặng rất lâu, rồi mới trả lời: "Ngươi biết điều này là không thể".

"Hãy giết ta đi!". Khương Trầm Ngư hít vào một hơi thật sâu, rồi lại chậm rãi thở ra, nói ra hai tiếng cuối cùng: "Tỉ tỉ".

Giấy trắng.

Tiết Thái bất động hồi lâu.

Mưa tầm tã thấm ướt trang giấy trắng, nó không còn cứng cáp nữa mà mồm oặt rũ xuống.

"Thật... là... làm bộ làm tịch...". Tiết Thái khẽ lầm bầm. Rõ ràng trước đó vẫn viết chữ, sau cùng lại đưa cho hắn một tờ giấy trắng, đúng là nếu luận về giả vờ giả vịt, làm bộ làm tịch thì trên đời này chẳng ai bì được với Cơ Anh.

Nhân lúc tứ phía hỗn loạn, Tiết Thái vo tròn tờ giấy bỏ vào trong tay áo, vuốt nước mưa trên mặt, quay người đi lẫn vào trong màn mưa, không lâu sau thì biến mất giữa biển người.

Mà cùng lúc đó trong Tây viện, hai người ngồi im lặng đối diện nhau, không ai chịu lên tiếng trước.

Bỗng một người vội vã mở cửa chạy vào, hoảng hốt nói: "Phu nhân phu nhân, không hay rồi, không hay rồi!".

Đỗ Quyên khẽ cau mày: "Chuyện gì".

"Đông viện bị cháy, thành chủ đã tự mình xông vào biển lửa cứu người".

Đỗ Quyên "hừ" một tiếng: "Biết ngay là y sẽ làm thế. Dì Mai, dì đi xem, dì biết phải làm thế nào rồi chứ?".

"Vâng". Dì Mai cùng với người đó mau chóng rời đi. Cứ thế, trong căn phòng chỉ còn lại hai người: Khương Trầm Ngư và Đỗ Quyên. Đỗ Quyên xoắn một món tóc, cười rất tươi: "Từ lúc nào muội biết đến sự tồn tại của ta?".

"Mười tuổi".

"Làm sao biết được?". Trên gương mặt Đỗ Quyên thoáng chút mỉa mai: "Chuyện xấu xa như thế, lệnh tôn không thể nói thẳng cho muội nghe được, đặc biệt có cả... vị Khương Họa Nguyệt kia".

Đáy mắt Khương Trầm Ngư nổi lên chút mơ hồ - Đúng thế, rốt cuộc làm sao mà nàng biết được? Thực ra, chẳng phải là... luôn không hay biết gì sao?

Tuy những dấu vết đó tản mát trong những mảnh ký ức, nhưng nàng thực sự chưa từng sắp xếp và phân tích chúng. Chỉ là loáng thoáng biết rằng, phụ thân có bí mật, mà bí mật đó, ông không chỉ giấu ba huynh muội nàng, giấu mẫu thân, mà còn giấu tất cả mọi người...

Mùng một Tết năm nàng lên mười.

Quản gia mang đến một bồn hoa lan, nói là không biết ai đã đặt ở ngoài cửa, nhìn đẹp mắt, lại nhớ ra phu nhân yêu hoa, cho nên mới bưng vào dâng lên. Đương nhiên là mẫu thân rất vui vẻ, cảm thấy trời ban báu vật, coi đó là điềm lành. Nhưng đêm đó khi chuyển bồn cho cây hoa, lại đào được một vật từ trong bọc đất, đó là một hòn đá vô cùng bình thường, phía trên vẽ hai con mắt.

Mẫu thân nhìn thấy tấm tắc kêu lạ, nhưng khi đưa cho phụ thân xem, phụ thân bất ngờ biến sắc.

Đêm đó, đèn trong thư phòng sáng cả đêm, rất nhiều ám vệ ra ra vào vào, bóng dáng phụ thân hắt trên giấy dán cửa sổ đi đi lại lại. Trực giác mách bảo với Khương Trầm Ngư rằng, có chuyện gì đó đã xảy ra. Nhưng phụ thân vẫn luôn thần thần bí bí như thế, vì vậy nên nàng cũng không nghĩ ngợi gì nhiều.

Từ đó về sau, mùng một Tết năm nào bên ngoài cửa phủ cũng xuất hiện một bồn hoa lan, mà người tặng hoa mãi vẫn không lộ diện. Nhắc đến chuyện này, dĩ nhiên mẫu thân nàng chỉ coi đó là một giai thoại, còn thái độ của phụ thân mỗi lần như vậy đều có gì đó gượng gạo.

Chắc chắn ông biết người tặng hoa là ai.

Hơn nữa, ông còn không định nói cho mẫu thân biết đáp án.

Vì thế, Khương Họa Nguyệt còn nói đùa, không chừng phụ thân có tình nhân ở bên ngoài, nên mùng một Tết mỗi năm vị tiểu thiếp đó đều sốt sắng tặng quà cho đại nương. Khương Hiếu Thành tỏ vẻ đồng ý với kết luận này. Nhưng Khương Trầm Ngư lại không cho rằng như vậy.

Bởi vì, một nam nhân giống như phụ thân nàng, nếu thực lòng muốn nạp thiếp bên ngoài, thì người thiếp đó tuyệt đối sẽ không có cơ hội xuất hiện trước mặt mẫu thân nàng với bất cứ hình thức hay cách thức nào; chứ đừng nói là sau lần đầu tặng quà bị phụ thân biết được, còn có lần thứ hai.

Về sau, khi bắt đầu học y thuật với Giang Vãn Y, lúc tra cứu tư liệu nàng vô tình phát hiện ra sự kỳ lạ của các thành phần dược liệu có mùi rất thơm mà Khương Họa Nguyệt uống, bao gồm hạt cải dầu và hoa cà tím. Theo "Bản thảo cương mục", hạt cải dầu sắc cùng với sinh địa, bạch thược, đương quy và xuyên khung, uống vào sẽ có tác dụng triệt sản. Cũng tức là sẽ dẫn đến chứng vô sinh. Mà hoa cà tím cũng là thuốc tránh thai.

Tại sao trong phương thuốc chữa vô sinh của Họa Nguyệt, lại có vị thuốc dẫn đến chứng không thể đậu thai?

Phát hiện điểm kỳ lạ này, Khương Trầm Ngư còn chưa kịp tiếp tục tra cứu kỹ hơn thì đã gặp chuyện ở Hồi thành.

Hôm nay, khi nhìn thấy hoa lan trong dịch trạm, trong tâm trí nàng hơi xao động nhưng vẫn chưa liên hệ ba sự kiện với nhau. Nhưng khi Đỗ Quyên nắm tay nàng, nói tặng hoa cho nàng, thì nàng đã bắt đầu lờ mờ cảm thấy có gì đó không đúng. Đến khi đánh cờ, phát hiện nụ cười thẹn thùng của Đỗ Quyên rất quen thuộc vì nàng ta giống mẫu thân của mình đến ba phần thì phong ấn lâu ngày cuối cùng đã ầm ầm sụp đổ, ào ào lao ra, đó chính là lời nguyền rủa đối với vận mệnh, sự mỉa mai đối với gia tộc...

Nếu như, Đỗ Quyên chính là người tặng hoa đó;

Nếu như, Đỗ Quyên và phụ thân luôn ngầm liên hệ, vậy thì đó là mối quan hệ như thế nào mới có thể khiến phụ thân ngầm cho phép nàng ta tặng hoa cho mẫu thân hàng năm? Mới tiết lộ tin tức cơ mật Di Phi cũng ở trên thuyền đi sứ cho nàng ta? Và phải là tình cảm như thế nào thì mới khiến cho nàng ta tặng hoa cho phu nhân của hữu tướng hàng năm? Khiến nàng ta khi nhắc đến mẫu thân, lại đầy vẻ khao khát và tình cảm?

Một khả năng nào đó nổi lên trong đầu nàng...

"Tỉ tỉ?"

Khương Trầm Ngư thốt ra hai tiếng ấy bằng tâm trạng tuyệt vọng nhất cùng phong thái bình tĩnh nhất. Trong âm điệu có ba phần thăm dò bảy phần cầu nguyện. Đáng tiếc kết cuộc cuối cùng là...

Đỗ Quyên không hề phủ nhận.

Tại sao...

Tại sao lại để suy nghĩ hoang đường nhất này của nàng trở thành sự thực? Tại sao lại để nàng biết trước đáp án, rồi lại đi đoán lý do? Giống như giờ này phút này, khi biết rõ thân phận thực sự của Đỗ Quyên rồi, cảm giác nghi hoặc mơ hồ trong đầu Khương Trầm Ngư đã biến thành một lưỡi dao cứng như thép, mỗi câu hỏi đều là một vết thương:

Tại sao Đỗ Quyên lại là tỉ tỉ của nàng?

Tại sao tỉ tỉ của nàng lại bị mù?

Tại sao phụ thân chưa bao giờ nhận đứa con gái này?

Tại sao nàng ta lại được gả cho Vệ Ngọc Hành, giờ lại ngồi bày ván cờ ở đây?

Nàng ta muốn gì? Hay là, phụ thân... muốn gì?

Từng lý do trong đó, Khương Trầm Ngư không phải không thể nghĩ ra, mà là không dám. Nàng không dám nghĩ.

Nàng chỉ có thể sững sờ ngây ngốc nhìn Đỗ Quyên gần trong gang tấc, bờ môi run rẩy, ánh mắt lấp lánh lệ, một từ cũng không thốt nên nổi.

Nàng câm lặng, còn Đỗ Quyên lại lên tiếng: "Buồn sao? Trầm Ngư?".

Khương Trầm Ngư không lắc nổi đầu.

"Đau lòng sao? Trầm Ngư?".

Khương Trầm Ngư không nén nổi lòng.

Đỗ Quyên cười nhạt, giọng nói mảnh như tơ, từng chút từng chút đan vào nhau, mềm mại khẽ khàng, nhưng rất chắc nịch: "Phát hiện mình vô duyên vô cớ có thêm một tỉ tỉ; phát hiện người trong lòng mình tính mạng như chỉ mành treo chuông; phát hiện một âm mưu tày trời thực ra đã bắt đầu được giăng bẫy, chuẩn bị, nung nấu từ rất nhiều năm trước; phát hiện cái thế giới mà ngươi tưởng rằng hạnh phúc, vui vẻ sung sướng thực ra là giả... phát hiện ra tất cả, ngươi có muốn khóc không?".

Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, không chịu trả lời.

Đỗ Quyên liền tự mình nói tiếp; "Nhưng so với kẻ không biết gì, hưởng phú quý trong mộng là ngươi, ta mới là kẻ có tư cách nhất, có lý do nhất để khóc chứ. Bởi vì, ta là kẻ bị hy sinh, bị vứt bỏ, bị tước đoạt quyền được hạnh phúc rồi lại phải cam tâm tình nguyện để cho người khác lợi dụng...".

Cuối cùng Khương Trầm Ngư lên tiếng, giọng nói mềm mỏng: "Ta... có thể không nghe được không? Ta... không muốn nghe".

Trong thoáng chốc, mặt Đỗ Quyên sầm lại, nghiến răng nói: "Ngươi dựa vào cái gì mà có thể không nghe? Đây là vận mệnh của ta cũng là vận mệnh của Khương gia, ngươi, Khương Trầm Ngư, dựa vào cái gì mà không nghe?".

Câu nói này giống như một cái bạt tai, đập mạnh vào mắt Khương Trầm Ngư, cả người nàng chao đảo, im lặng trở lại.

Thế là, chuyện cũ thối nát trong chớp mắt đã làm vết sẹo vỡ toác, chất dịch tanh tưởi màu đen tràn ra khắp nơi, mưa rơi sấm giật bên ngoài cửa sổ, rõ ràng là mùa hạ tháng tám oi bức, nhưng đêm nay lại lạnh đến thấu linh hồn.

Ngày hai mươi tư tháng sáu của mười tám năm về trước, trong nhà của hữu tướng Khương Trọng, Khương phu nhân sau cơn giày vò đau đớn suốt ba ngày trời, cuối cùng đã sinh hạ một cô con gái, nhưng Khương Trọng còn chưa kịp được hưởng niềm vui có con gái cưng đã phát hiện đứa bé này bị mù bẩm sinh.

Sau khi cửa phòng sinh đóng im ỉm suốt một canh giờ, Khương Trọng mới mở cửa bước ra, tuyên bố với bên ngoài con gái vừa chào đời đặt tên là Họa Nguyệt.

"Thừa tướng phu nhân mong đợi đứa trẻ này đã lâu, nếu biết đứa trẻ mình hoài thai suốt mười tháng trời, đau đớn ròng rã ba ngày mới sinh hạ lại là một đứa bé mù, thì hẳn sẽ đau lòng biết bao nhiêu. Sinh con khó khăn, cơ thể suy nhược, khí tức yếu ớt, nếu tiếp tục bị kích thích, e là bà sẽ không chịu được cú sốc này mà qua đời. Cho nên, người vốn cực kỳ yêu vợ như thừa tướng đại nhân đã mua chuộc đám người hầu, bà đỡ có mặt hôm đó, đem đổi lấy một bé gái khỏe mạnh. Đứa bé mù bị đem cho một đôi vợ chồng câm điếc trong một thôn hẻo lánh nuôi. Còn đứa bé khỏe mạnh kia được giữ lại trong phủ, trở thành đại tiểu thư ngồi mát ăn bát vàng". Giọng điệu của Đỗ Quyên rất bình tĩnh, thậm chí không hề có chút lên xuống nào, nhưng sự mỉa mai tràn ngập gương mặt: "Thừa tướng đại nhân yêu vợ ông ta làm sao, vì sự an nguy của vợ mà đến đứa con ruột cũng chẳng cần, thật khiến người ta xúc động. Tình yêu vĩ đại quá... chậc chậc chậc... ngươi không cảm động ư? Trầm Ngư? Hơi thở của ngươi sao lại gấp gáp như thế? Ngươi đang khóc sao? Thực ra ngươi đâu có gì phải khóc? Ta nghe nói không những ngươi khỏe mạnh mà còn rất xinh đẹp, không những xinh đẹp mà còn rất thông minh, không những thông minh, quan trọng nhất nhất là ngươi còn rất hiếu thuận. Thứ họ muốn chính là một đứa con gái như ngươi đấy. Ngươi là đứa con phù hợp với tất cả mọi điều kiện của Khương gia, cho nên, ngươi không bị đánh tráo, ngươi đâu cần phải khóc".

Một tia chớp xé trời, soi rõ gương mặt trắng xanh lạnh lùng và méo mó của Đỗ Quyên. Nàng ta vừa cười tự trào như thế, vừa tiếp tục chậm rãi nói với giọng như nước không gợn sóng: "Thuở nhỏ, cha và mẹ nói với ta, trong núi có một nàng tiên hoa, người có duyên nếu gặp được nàng, cầu ước điều gì cũng sẽ thành sự thực. Cho nên, rõ ràng ta không nhìn thấy gì, nhưng ngày nào cũng chạy vào trong núi, ta luôn hy vọng có thể gặp được nàng tiên hoa ấy, cầu xin nàng chữa lành đôi mắt cho ta, chữa lành đôi tai cho cha, chữa lành cổ họng cho mẹ, để cả nhà chúng ta được khỏe mạnh, giống như những người bình thường khác. Ta cứ tìm mãi tìm mãi mà không thấy nàng tiên hoa, nhưng lại học được rất nhiều thứ, ví như có một số loài hoa phải trồng bằng những cách đặc biệt, có những loài hoa nhìn có vẻ an toàn nhưng thực ra là loài kịch độc. Ta học từng chút từng chút một, sờ mó từng chút từng chút một, cuối cùng, năm mười ba tuổi, chậu hoa lan lớn nhất ta trồng đã bắt đầu nở hoa. Cha mẹ bàn sẽ đem nó tặng cho vị đại ân nhân của họ, ta rất không nỡ nhưng họ vẫn đem đi. Tết đến, họ đi mấy chục dặm đường núi để tặng hoa, rồi lại đi mấy chục dặm đường núi để quay về, tâm trạng rất vui vẻ hào hứng, cảm thấy mình đã báo đáp được vị đại ân nhân đó. Nhưng ngày hôm sau, khi ta còn chưa tỉnh ngủ, đã ngửi thấy mùi máu tanh vấy khắp mọi nơi... Ngươi đang nín thở sao? Ngươi cũng đoán được chuyện gì rồi chứ? Không sai, bồn hoa đó đã gây ra đại họa, vì ta đã vẽ một đôi mắt trên hòn đá rồi vùi vào trong đất để cầu nguyện với thần hoa. Nhưng kẻ có tật giật mình nào đó lại tưởng đó là sự uy hiếp, nên cả quyết sai bọn ám vệ, cha và mẹ ta...". Nói đến đây, Đỗ Quyên ngừng lại một lát, giọng nói trở nên xa xôi: "Bị giết chết...".
 
Quyển 2 - Chương 50


Đêm đó, đèn trong thư phòng phụ thân sáng cả đêm.

Đêm đó, ám vệ ra ra vào vào.

Đêm đó, Khương Trầm Ngư đã linh cảm được chuyện gì đó đang xảy ra. Chỉ là nàng không thể ngờ rằng, năm năm sau nàng có thể biết được chân tướng, hơn nữa, tận mắt nhìn thấy người bị hại của đêm đó trần thuật chuyện xưa trước mặt mình.

"Họ là những người rất chân chất, ngày nào cũng dậy từ lúc gà gáy, cày cuốc dệt vải, đợi mùa thu hoạch, lấy ít ngũ cốc, rau dưa đi chợ đổi lấy thịt. Người vợ có lần bị sốt, để khám bệnh nên phải mượn vay ít tiền của nhà thợ săn, nhưng không thể trả được. Lúc ấy, đại ân nhân lại tặng cho họ một cô con gái, còn cho họ một thỏi bạc mười lượng. Họ trả được nợ, mua đủ thuốc, chữa được bệnh cho người vợ. Họ cảm thấy cuộc đời mình bắt đầu có được hạnh phúc từ khi ấy, họ vô cùng cảm kích vị đại ân nhân ấy, cho nên thành tâm dưỡng dục đứa con gái bị mù lòa, không chút máu mủ kia, gắp miếng thịt duy nhất trên bàn ăn vào bát đứa bé, dùng chút vải bông mới còn lại may quần áo cho nó, họ không biết chữ, nhưng lại biết dạy dỗ đứa trẻ làm người phải lương thiện, phải khoan dung, phải biết cảm ơn, cứ như thế ngày qua ngày đã nuôi đứa bé khôn lớn. Bọn họ nghe nói phu nhân của đại ân nhân thích hoa lan, bèn đem hoa lan mà con gái trồng được đi tặng...". Đôi mắt của Đỗ Quyên không chớp lấy một cái, hai đồng tử to tròn, không chút ánh sáng lại lạnh lùng đến nhường ấy: "Điều mỉa mai nhất là họ thậm chí còn chẳng biết đại ân nhân thực sự là ai, cứ một mực cho rằng đó chỉ là một người làm nào đó trong tướng phủ".

Nước mắt Khương Trầm Ngư lăn xuống lã chã.

Có lúc, mềm mại cũng là một thanh đao, không đánh mà thắng.

Đặc biệt là dùng thái độ như không có gì xảy ra, dùng giọng nói bình tĩnh nhất để thuật lại sự thực tàn nhẫn nhất.

Đến nàng nghe còn thấy xé nát tâm can như vậy, thật không dám tưởng tượng Đỗ Quyên năm mười ba tuổi phải đối diện với bi kịch máu tươi đầm đìa đó như thế nào.

"Sau đấy, vị thừa tướng tài giỏi đó xuất hiện, nói với đứa bé gái rằng nó vốn là con gái của ông ta, nói ông ta vì bất đắc dĩ thế nào mới phải vứt bỏ nó, nói bao năm nay ông ta luôn hối hận, nói tuy rằng ông ta không thể cho nó danh phận thiên kim tướng phủ, nhưng nguyện chăm sóc cho cuộc sống từ đây về sau của nó... Ông ta nói rất khéo léo, cảm động, tình sâu như biển. Đứa con gái nhỏ vừa nghe vừa khóc, cuối cùng khóc mệt đến nỗi ngủ thiếp đi, khi nó tỉnh dậy, phát hiện thừa tướng đại nhân đã thức cạnh bên giường của nó suốt một ngày một đêm. Đứa con gái nhỏ xúc động trước tình yêu của người cha vĩ đại liền ôm chặt ông ta, gào lên một tiếng - phụ thân."

Đỗ Quyên nói đến đây bèn bật cười ha hả: "Vòng vèo mười ba năm, cuối cùng cốt nhục đã nhận nhau, cảm động làm sao. Đáng thương thay cho tiếng gọi "phụ thân" đó của ta, đáng thương thay cho song thân dưỡng dục ta, thi thể trên bùn đất vẫn còn chưa lạnh, vong linh trên trời của họ phải mở to mắt mà nhìn con gái mà mình vất vả nuôi nấng dạy dỗ ngã vào vòng tay của hung thủ, nối mối thiên luân!".

Khương Trầm Ngư tiếp tục khóc, nước mắt giống như trào thẳng ra từ hai hốc mắt, nức nở không hề kiềm chế. Rõ ràng đã đoán ra được: Sở dĩ phụ thân phải đánh tráo trưởng nữ, dụng ý thực sự chưa chắc đã là sợ mẫu thân đau lòng, mà là nếu như trưởng nữ bị mù thì sẽ không thể gả cho đế vương vào cung làm phi, cho nên đổi lại là một bé gái xinh đẹp sẽ thuận lợi đưa nó tiến cung. Cũng rành rành nghe ra rằng: Sở dĩ Đỗ Quyên gọi ông ta một tiếng "phụ thân", cũng không phải cảm động vì cha con tương phùng, mà là nén cơn hận để mưu đồ báo thù. Trong bi kịch này, hai người đều diễn kịch, ta lừa ngươi gạt, khiến hai chữ "tình thân" mình đầy thương tích như thế.

Bảo nàng phản ứng thế nào? Và có thể phản ứng thế nào?

Tiếng cười của Đỗ Quyên dần ngừng lại, rồi lại nói với ngữ điệu như nước lặng không gợn sóng: "Thừa tướng nhận lại con gái, bắt đầu dốc tâm dạy dỗ nó. Con gái thông minh đến không ngờ, học gì cũng rất nhanh. Ba tháng sau, thừa tướng gả con gái cho người ta. Thừa tướng nói, người đó nghi dung tuấn mỹ, uy vũ phi phàm. Thừa tướng nói, người đó võ nghệ siêu quần, tương lai ắt sẽ thành nghiệp lớn. Thừa tướng nói, người đó thành thực dịu dàng, sẽ đối tốt với nó... Ông ta nói rất nhiều rất nhiều, sau cùng con gái nói: "Phụ thân, con sẽ lấy. Nếu cha muốn con lấy, con sẽ lấy". Cứ thế, nó lấy chồng, hai tháng sau, người đó thi đỗ võ trạng nguyên, nhất thời vui sướng phấn chấn, quả nhiên tiền đồ vô lượng".

Thương thay cho Khương Trầm Ngư nghe đến đây, đến thở dài cũng không dám - vốn cho rằng phụ thân hạ lệnh giết đôi vợ chồng câm điếc, giữ lại cái mạng của con gái, coi như là còn niệm chút tình thân, nhưng bây giờ ngẫm ra lại là vì năm đó nhìn trúng Vệ Ngọc Hành vẫn còn ở thuở hàn vi, vì muốn lôi kéo hắn nên mau mau chóng chóng gả con gái của mình cho hắn. Còn Vệ Ngọc Hành sở dĩ có thể đỗ võ trạng nguyên, e là cũng có sự giúp đỡ ngấm ngầm của phụ thân.

"Đáng tiếc người tính không bằng trời tính. Thừa tướng những tưởng mình có thêm một cánh tay, nhưng chẳng ngờ vẻ đẹp trời sinh của con rể lại bị con gái của tả tướng gia nhìn trúng. Thừa tướng sao chịu để con vịt đã dâng đến tận miệng còn bị người khác cướp mất một nửa? Vì thế, chỉ thị cho con rể không đồng ý. Như thế đã đắc tội với tả tướng, con rể bị biếm chức, ông ta cũng không thể lộ diện bảo vệ, mà chỉ nói với con rể và con gái rằng, trước tiên cứ đến biên thành đợi vài năm, thời cơ chín muồi, ắt sẽ vinh quang quay về". Đỗ Quyên vuốt ve mái tóc dài của mình, bỏng ngậm ngùi nói: "Chờ liền bốn mùa xuân thu".

Bốn năm.

Phải quyết tâm như thế nào mới có thể khiến một người thân thể yếu ớt không thể sống lâu ở nơi ẩm ướt, mạo hiểm tính mệnh cư trú tại Hồi thành suốt bốn năm trời?

Và phải có dã tâm thế nào mới có thể khiến nàng ta nén nhịn nỗi ấm ức oán hận âm thầm che giấu tài năng?

Rõ ràng là cùng dòng máu, thậm chí là cùng có trí tuệ thông minh như nhau, nhưng chỉ vì nàng ta bị mù, dáng vẻ không đủ xinh đẹp, là đã mất đi tư cách có được hạnh phúc...

Nàng tự hỏi, nếu đổi lại là mình, sẽ phải làm thế nào?

Khương Trầm Ngư không dám nói mình sẽ không oán hận, càng không dám nói mình sẽ không báo thù. Vì thế, đối diện với Đỗ Quyên nhìn tưởng như bình thản nhưng từng câu từng chữ thốt ra đều bức người trước mặt, nàng chỉ có thể khóc.

Buồn nỗi buồn của nàng ta. Đau nỗi đau của nàng ta.

Chuyện xấu của gia tộc là như thế.

Khương Họa Nguyệt tiến cung, bản thân nàng tiến cung và Đỗ Quyên không tiến cung. Họ thực ra đều giống nhau.

"Ta rất muốn nhìn ngươi...". Đỗ Quyên khẽ nói: "Những chuyện có liên quan đến ngươi ta đã được nghe suốt năm năm nay, biết càng nhiều lại càng tò mò. Đến nay cuối cùng ta đã đợi được cơ hội gặp ngươi, nhưng cũng là cơ hội... hại ngươi".

Khương Trầm Ngư đột nhiên lóe lên một tia hy vọng, chẳng kịp nghĩ ngợi liền đi vòng qua chiếc bàn, lập tức quỳ xuống dưới chân Đỗ Quyên, nắm chặt tay của nàng ta, đau đớn cầu xin: "Tha cho công tử, có được không?".

Rèm mi của Đỗ Quyên run run.

"Tỉ tỉ, tỉ tỉ, cầu xin tỉ đó! Tha cho công tử, muội cầu xin tỉ...". Nàng bắt đầu dập đầu.

Đỗ Quyên không ngăn nàng, chỉ thấp giọng than: "Tại sao người thông minh như ngươi lại hỏi một câu ngu xuẩn như thế?".

"Muội không hỏi, muội cầu xin! Tỉ tỉ...". Khương Trầm Ngư giữ chặt hai tay nàng ta, tóm rất chặt rất chặt, giống như dùng toàn bộ sức lực của cả cuộc đời: "Muội không còn cách nào khác. Hơn nữa, điều quan trọng nhất là muội biết tỉ có thể làm được. Tỉ tỉ, tỉ tỉ...".

Đỗ Quyên lạnh nhạt nói: "Nếu ngươi cho rằng ta vì chống đối thừa tướng, cho nên muốn giết hại Cơ Anh, sau đó đổ cho Di Phi kẻ mà phụ thân đại nhân ngầm phù trợ, phá hoại kế hoạch của ông ta thì ngươi sai rồi".

Khương Trầm Ngư cứng đờ người.

"Ngươi còn không hiểu sao?". Đỗ Quyên nhẹ nhàng nắm tay nàng, trong động tác hàm chứa biết bao thương xót: "Người muốn giết Cơ Anh chính là hoàng thượng...".

Mắt Khương Trầm Ngư trong chốc lát mở lớn đến cực đại.

"Còn phụ thân chẳng qua chỉ góp tay thuận nước đẩy thuyền, làm động tác cuối cùng mà thôi...".

Tiếng cuối cùng thong thả kết thúc, trong căn phòng im lặng như tờ. Chỉ có mưa bên ngoài cửa sổ, rào rào rào rào, ngọn lửa ở Đông viện phía xa chiếu đỏ cả bầu trời.

Cung đăng sáng rực như ban ngày.

"Hoàng thượng giá...", chữ "đáo" còn chưa phát ra khỏi miệng, thái giám phụ trách thông báo đã bị đôi hài màu vàng nhạt đá ngã lăn ra đất, thiên tử thiếu niên rảo bước vào trong, đằng sau, một hàng thị vệ nơm nớp lo lắng đi theo, đến cửa thì dừng lại. Chỉ có đại thái giám La Hoành kéo tấm thân núc ních theo sát phía sau, đi vào phòng mé bên của ngự thư phòng, còn chưa đóng cửa lại đã nghe thấy chủ tử cười lạnh một tiếng, trầm giọng nói: "Các ngươi giỏi quá, to gan quá, phải không? Làm giỏi quá, đúng không?".

Trong Bách Ngôn đường, ánh nến nhảy nhót, tám người bên bàn, mỗi người một vẻ mặt.

Chiêu Doãn vứt phịch tờ mật báo xuống trong tay xuống bàn, cuốn sách nhỏ vạch một đường cong dài, bay ra tứ phía.

Uy nghi thiên tử nhất thời khiến mọi người kinh sợ. Trong chốc lát, giữa căn phòng im lặng chỉ có tiếng hít thở vang lên. Hồi lâu sau, người áo tím ngồi cuối cùng chầm chậm đứng dậy, lặng lẽ lượm từng trang giấy lại, xếp ngay ngắn rồi cung kính đặt lại lên bàn.

Chiêu Doãn phẩy tay áo, quyển mật báo lại lần nữa rớt xuống đất.

Người áo tím không dám ho he, lại lần nữa khom lưng nhặt quyển sách lên, đặt lại vị trí ban đầu.

Chiêu Doãn phẩy tay áo lần thứ hai, quyển mật báo va vào trán của người áo tím, người áo tím vẫn giữ tư thế khom lưng, mặc cho những trang giấy rơi vào mặt mình, từng trang từng trang rớt xuống đất.

"Nhặt đi". Khóe miệng Chiêu Doãn kéo thành một nụ cười, nhưng ánh mắt vẫn lạnh như băng: "Nhặt tiếp cho trẫm xem!".

Trong nháy mắt, bầu không khí trong căn phòng lạnh lẽo như một hầm băng, bảy người còn lại ai cũng cúi gằm, lo lắng vạn phần.

Người áo tím quỳ sụp, không dám nói gì, chỉ phủ phục trên mặt đất, dáng vẻ cực kỳ nghe lời. Nhưng Chiêu Doãn nhìn thấy lại càng tức thêm, cười lạnh nói: "Sao không nói gì? Câm rồi à? Trẫm nuôi các ngươi bao nhiêu năm, các ngươi báo đáp trẫm như thế hả? Hả? Dám không đếm xỉa gì đến ý chỉ của trẫm tự lộng hành à? Các ngươi đang ép trẫm phải không? Các ngươi dám ép trẫm phải không?" Nói đến đây giận quá bèn giơ chân đạp vào lưng người áo tím, người áo tím rên rỉ một tiếng trong cổ họng, mồ hôi lạnh trên trán trong chốc lát túa ra như tắm.

La Hoành đứng bên cạnh không kìm được lên tiếng khuyên nhủ: "Hoàng thượng, bây giờ hoàng thượng nổi giận cũng không giải quyết được gì, chi bằng mau chóng nghĩ cách nên bổ cứu như thế nào...".

Chiêu Doãn sầm sì nói: "Bổ cứu? Không sai, phải bổ cứu cẩn thận. Ta không cần biết tám người các ngươi dùng cách gì, lập tức dừng kế hoạch ám sát. Nếu Cơ Anh mất một sợi lông tơ, thì tám người các ngươi sẽ phải bồi táng cho hắn!"

Lúc này, không chỉ người áo tím, mà cả bảy người kia đều nhìn nhau, rồi đồng loạt rũ áo quỳ xuống.

Chiêu Doãn nhướn mày, gằn giọng quát; "Thế nào? Các ngươi thị uy với trẫm phải không?".

Thiếu niên áo xanh lục quỳ ở hàng đầu ngẩng đầu lên, vẻ mặt nghiêm trang, chậm rãi đáp: "Xin hoàng thượng bớt giận, nghe chúng thần giải thích".

"Được, ngươi giải thích, trẫm sẽ nghe xem, là lý do cao siêu gì mà khiến các ngươi dám làm chuyện gan to tày trời, đại nghịch bất đạo này". Chiêu Doãn vén áo bào, ngồi xuống ghế.

Mọi người thấy tình thế đã dịu đi, bấy giờ mới thở phào một hơi, toàn bộ đều mong ngóng nhìn thiếu niên áo xanh lục, thiếu niên áo xanh lục hít vào một hơi thật sâu, rồi móc ra một quyển sổ từ trong tay đưa áo đưa cho La Hoành, La Hoành giơ tay đón lấy, trình cho Chiêu Doãn xem. Chiêu Doãn vốn chỉ hờ hững lật giở, nhưng khi đọc nội dung bên trong thì mặt đột nhiên biến sắc.

Thiếu niên áo xanh lục bấy giờ mới chậm rãi giải thích: "Đây là so sánh thu chi của quốc khố năm nay và năm Gia Bình thứ hai mươi bảy. Tiên đế trong thời gian tại vị, bình định Giang Lý, Yến Sơn, đất đai thu về, khiến dân số nước ta vượt ngưỡng bảy mươi triệu người, khi đó số bạc trong quốc khố là hai trăm mười triệu lạng. Đến nay xem lại, dân số không hề tăng thêm, chiến sự không phát sinh, nhưng hiện nay quốc khố chỉ còn lại tám triệu lạng. Vậy tiền đi đâu?".

Mấy câu ngắn ngủi, giống như một tia sét giữa trời quang, vang vọng rất lâu trong gian mật thất.

Chiêu Doãn dường như thực sự bị sét đánh trúng, để lộ vẻ mặt đầy mâu thuẫn.

Thiếu niên áo xanh lục lại rút từ trong tay áo ra một cuốn sổ khác, giơ cao quá đầu.

Chiêu Doãn liếc y một cái, lạnh nhạt nói: "Trẫm không đọc, có gì cứ nói ra đi".

Thiếu niên áo xanh lục mở cuốn sổ ra, đọc to: "Đồ Bích năm thứ nhất, cửu khanh bãi miễn thất khanh, các thần tử mới đều xuất thân từ hai tộc Cơ, Tiết; Đồ Bích năm thứ hai, đô úy tướng quân thay đổi, thăng cấp cho ba mươi bảy người, đều là môn sinh của Kỳ Úc hầu; Đồ Bích năm thứ ba, Cơ thị phụng chi xây dựng đê điều, chi phí tốn kém một khoản lớn; Đồ Bích năm thứ tư, chiến dịch phạt Tiết, Cơ tộc lại một tay sắp xếp... Tiền của quốc khố, đều vì những khoản chi này khoản chi kia mà "vô tình" trở nên trống rỗng".

Người áo tím dập đầu xuống đất, mặt mày đẫm lệ nói: "Hoàng thượng! Tiết thị lộng quyền làm phản, nhưng tịch thu gia sản cũng không quá ba triệu lạng bạc; còn Cơ thị nhìn tưởng như kín đáo, kỳ thực mới là tham ô vơ vét, loạn chính họa quốc! Chúng nắm quyền mới chưa đầy bốn năm đã thành như vậy, nếu để lâu ngày, thì sẽ thế nào? Loài độc trùng này không trừ bỏ, xương tủy của Bích quốc sẽ bị gặm nhấm hết!".

Chiêu Doãn lim dim đôi mắt phượng hẹp dài, lạnh lùng nói: "Các ngươi nói Cơ Anh tham ô ư?".

Người áo tím tâu: "Cơ Anh không tham ô, không có nghĩa là cả Cơ gia không tham ô; Cơ gia tham nhũng lớn đã thành đại họa. Nhưng chỉ cần Cơ Anh còn Cơ gia tuyệt đối không thể bị lung lay, cho nên, muốn trừ bỏ Cơ gia, thì phải trừ bỏ Cơ Anh trước tiên!".

Người mặc áo màu lam bỗng xen lời vào: "Bản thân Cơ Anh cũng chưa chắc đã thanh bạch! Nhìn đồ hắn ăn mặc tiêu xài đều là hàng thượng phẩm. Nghe nói, hắn may một chiếc áo bào, phải cần tới bảy mươi hai thợ dệt, mất ba tháng ròng rã để thêu hoa ở vạt áo, cổ áo, nhìn thì không có gì đặc biệt mà kỳ thực càn khôn vô tận. Còn một món hắn ăn, cho dù là món đạm bạc bình thường nhất, cũng cần tới mấy chục loại dược liệu trân quý...".

"Đủ rồi!". Chiêu Doãn sầm mặt.

Người áo lam lập tức ngoan ngoãn ngậm miệng lại.

Thiếu niên áo xanh lục nói: "Nói những điều này cũng chẳng ích gì. Việc cần làm trước mắt là làm thế nào để bổ sung quốc khố. Mùa hạ sắp đến gần, nếu lúc đó lũ lụt tám triệu lượng có thể chống đỡ không? Năm nay hạn hán hoành hành, nếu mất mùa thì quốc khố cứu tế ra sao? Khi sự tồn tại của một gia tộc đã làm nguy hại đến kinh tế dân sinh, vậy tại sao không thể triệt từ nó? Quốc gia quan trọng hay là thần tử yêu quý quan trọng? Hoàng thượng, đối diện với những con số kinh tâm động phách này, xin người suy xét cho kỹ!". Nói đoạn, cúi đầu sát đất, dập đầu thật mạnh ba cái.

Bảy người còn lại đồng thanh hô vang: "Cúi mong hoàng thượng suy xét cho kỹ!".

Đối diện với các mưu sĩ nhất loạt quỳ xuống đất, ánh mắt Chiêu Doãn lộ vẻ tịch liêu. Y ngồi giữa quần thần mà giống như đang chìm đắm trong thế giới của riêng mình, không cười, không nói, không nhúc nhích.
 
Quyển 2 - Chương 51: Hồi thứ mười bốn: Quyết biệt


Bởi vì ta là con gái của Khương gia...

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ ta sẽ hy sinh công tử chọn nhà mẹ đẻ...

Một lời thành sấm truyền.

Rất lâu rất lâu rồi... trong một khoảng thời gian rất dài, Khương Trầm Ngư cảm thấy nàng đắm chìm trong một mộng cảnh hư ảo nào đó do chính nàng dệt nên. Trong giấc mộng này, nàng mang theo khát vọng nhỏ nhoi, ngóng trông một tia hy vọng cuối cùng.

Hy vọng có thể trở thành bằng hữu của Cơ Anh.

Cho dù không phải là tình nhân, cho dù không liên quan đến ái tình, nhưng là chiến hữu, là đối tác, là người rất thân thiết.

Vì thế nàng tranh đấu, nàng cầu xin, nàng không chấp nhận số phận.

Nàng - Khương Trầm Ngư xưa nay chưa từng cam tâm. Xin làm mưu sĩ cũng được, mà đi sứ Trình quốc cũng xong, dưới cái vẻ ngoài tưởng như nguy hiểm mà muôn phần đặc sắc đó, chẳng qua chỉ là sự chống đối vận mệnh của nàng mà thôi.

Nhưng nay, hai câu nói của Đỗ Quyên đã tuyên bố sự chống đối này của nàng biến thành một câu chuyện cười thực thụ.

Phụ thân...

Phụ thân...

Rốt cuộc cha đang nghĩ gì?

Hoặc nói cách khác, cha đang mưu toan gì? Kế hoạch của cha phải chăng đã bắt đầu từ nhiều năm trước? Bây giờ chính là thời điểm cha ra tay sao?

Ngấm ngầm giúp đỡ Di Phi trốn khỏi Trình quốc là bước quan trọng nhất trong kế hoạch ám sát Cơ Anh của cha sao?

Phụ thân... muốn... giết... Cơ Anh...

Sáu chữ này đau thấu tâm can.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên cách mình chỉ một bước, nghĩ đến thân phận thực sự của nữ tử này, nghĩ đến tất cả cảnh ngộ mà nàng ta đã gặp phải, lại nghĩ đến Họa Nguyệt trong cung, lại nghĩ đến bản thân phút này, nước mắt từ từ ngưng lại, thay vào đó là một tràng cười lớn vang lên.

Cười đau khổ. Cười nhạt. Cười lạnh. Cười tự trào. Cười như điên dại.

Nàng nhắm mắt lại, cười điên cuồng. Tiếng thét chói tai xé toang lồng ngực, tuôn trào bùng nổ.

Khương Trầm Ngư chưa bao giờ biết rằng hóa ra mình còn có thể gào lớn đến thế, nhưng cho dù dùng lực như thế nào dường như vẫn không đủ, không đủ, vĩnh viễn không đủ!

Đỗ Quyên bị giật mình vì tiếng thét của nàng, nàng ta co rúm người lại, cuối cùng chau mày: "Trầm Ngư".

Trầm Ngư không hề e ngại vẫn một mực hét, như thể phải xả hết thảy nỗi ấm ức trong đời, như thể loạn trí.

Đỗ Quyên bình tĩnh trở lại, lạnh nhạt nói: "Gào đi. Ngươi cứ thả sức mà gào đi. Năm đó ta cũng muốn kêu gào, nhưng cho dù là cơ hội kêu gào ấm ức ông trời cũng chẳng ban cho ta. Chỉ một điểm này thôi, ngươi cũng may mắn hơn ta rất nhiều. Khương Trầm Ngư, dù cho ngươi có thừa nhận hay không, ngươi vẫn là đứa con may mắn nhất của Khương gia. Ngươi có biết tại sao Khương Họa Nguyệt không thể hoài thai không?".

Nghe nàng ta đột ngột nhắc đến Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư run rẩy một lúc, tiếng thét đau đớn trong nháy mắt đã nhỏ đi, chỉ còn tiếng nghẹn ngào thổn thức của loài động vật bị thương còn sót lại trong cổ họng.

"Bởi vì Khương gia chỉ cần một hoàng hậu, mà Khương Trọng... chọn ngươi".

Khương Trầm Ngư liền ngẩng đầu lên, khàn giọng hỏi: "Tỉ nói gì?"

Nụ cười trên môi Đỗ Quyên trở nên có phần ác ý: "Ta nói còn chưa đủ rõ ràng sao? Trầm Ngư, ngay từ khi bắt đầu, Khương gia đã chọn ngươi - đứa con xuất sắc nhất, được yêu thích nhất của bọn họ, tiếp nối dòng máu của hoàng tộc, trở thành cánh tay đắc lực nhất, mạnh mẽ nhất của họ, thao túng Bích quốc. Cho nên, ngươi đã được chọn lựa để vào cung, Họa Nguyệt chỉ là một viên đá lót đường mà thôi".

Cả người Khương Trầm Ngư run lên dữ dội. Chân tướng sự việc ào ào lộ diện, thậm chí còn chẳng cho nàng mảy may cơ hội nghỉ lấy hơi. Vốn cứ tưởng rằng là trời long đất lở, mà chưa từng nghĩ rằng còn có thể đau đớn hơn, thương tâm hơn, tuyệt vọng hơn nữa.

"Tình cảm của ngươi và Khương Họa Nguyệt rất thắm thiết phải không? Ngươi được ban cho quyền tự do vào cung thăm nàng ta phải không? Mỗi lần ngươi vào cung thăm tỉ tỉ, người nhà có phải đều rất ủng hộ không? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao dân gian lại lưu truyền câu nói "con gái út của Khương gia đẹp như tiên nữ, nghiêng nước nghiêng thành" sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao danh thiếp của Kỳ Úc hầu lại vô duyên vô cớ bốc cháy sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao hoàng thượng lại đột nhiên muốn ngươi vào cung sao? Hơn nữa còn để cho ngươi vừa vào cung đã đứng đầu quần phi?".

Khương Trầm Ngư cuống quýt hỏi: "Ý tỉ là tất cả đều vì... phụ thân?".

Đỗ Quyên nhướn nhướn mày, vẻ mặt lại càng lộ vẻ giễu cợt: "Ngươi biết theo truyền thống một hoàng hậu cần có những điều kiện gì không? Phải xuất thân danh giá, nghi dung đoan trang, khí độ cao vời, tự nhiên hào phóng. Cho nên, ngươi được nuôi dạy khôn lớn theo tất cả những phẩm chất mà một hoàng hậu cần có, ngươi thử nghĩ mà xem, từ nhỏ đến lớn mọi người đều yêu cầu với ngươi nghiêm khắc nhất phải không? Phu tử dạy dỗ ngươi dụng tâm nhất phải không?".

Nàng ta vừa nhắc tới, Khương Trầm Ngư liền nhớ ra, thuở nhỏ quả thực là như vậy. Bình thường, ca ca luôn quên làm bài tập, phu tử cũng không trách phạt, tỉ tỉ không làm tốt, phu tử cũng không soi mói. Chỉ có nàng, nếu có sơ suất, là sẽ bị dạy dỗ một cách rất tỉ mỉ kiên nhẫn, bị chỉnh đốn rất nghiêm khắc. Khi đó, chỉ nghĩ là phu tử cố ý bắt chẹt mình, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng nội tình lại ẩn chứa chuyện sâu xa như thế?

"Ngươi cũng rất giỏi, đã trưởng thành đúng theo mong muốn của Khương Trọng. Từ sau khi ngươi mười ba tuổi, thiên hạ đều biết con gái út của hữu tướng, mỹ mạo còn hơn cả tỉ tỉ, tài đức song toàn, được mệnh danh là Bích quốc đệ nhất mỹ nhân".

Lời đồn chốn phố chợ phần nhiều là thổi phồng, vì thế nàng tuy đã nghe thấy những tin đồn đó, nhưng chưa từng để tâm. Nhưng phản ứng của Hoàng Kim Bà, phản ứng của Chiêu Loan, rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của những tin đồn đó, cũng ngấm ngầm thừa nhận địa vị của nàng. Lúc này lại nghe Đỗ Quyên vạch rõ huyền cơ, cảm giác thật là... giống như một sự chế giễu trắng trợn.

"Để che giấu chờ thời, Khương gia luôn dùng thuật trung dung, tức là với bất cứ việc gì cũng không tỏ ra xuất chúng không phạm sai lầm, không lập công lao. Cho nên, khi ngươi vừa tới tuổi cập kê, để dập tắt ý muốn của những người muốn cầu thân với ngươi, Khương Trọng đã cố ý tung tin hứa gả ngươi cho Cơ Anh. Nhưng sau lưng lại âm thầm khẩn trương khai triển các khâu then chốt, lót sẵn đường, đốt canh thiếp, lại lợi dụng lòng đố kỵ của Hy Hòa phu nhân đối với ngươi, sự phòng bị của Chiêu Doãn đối với Cơ Anh, để ngươi thuận lợi vào cung, ngồi vững trên cái ngai Thục phi".

"Lòng đố kỵ?". Chân tướng giống như một tấm lưới lớn bị chìm dưới đầm lầy nhiều năm, khi nổi lên, loang lổ rách nát, tả tơi tàn tạ, lại vừa sắc lẹm, từng sợi từng sợi làm người ta bị thương.

Đỗ Quyên cười ha ha, vuốt ve mái tóc dài, than khẽ: "Quả nhiên, đến chuyện quan trọng nhất Khương Trọng cũng giấu ngươi, không cho ngươi biết. Ngươi nghĩ Hy Hòa phu nhân vào cung như thế nào? Ngươi nghĩ nàng ta vốn dĩ là ai?".

"Nàng ta vốn dĩ là ai?". Câu hỏi này vừa bật ra, Khương Trầm Ngư liền âm thầm phòng bị, nhưng khi Đỗ Quyên thong thả chậm rãi nói ra đáp án, nàng còn phải hứng chịu sự đả kích và nỗi tổn thương lớn hơn.

"Nàng ta vốn dĩ là tình nhân của Cơ Anh. Nàng ta mới là vị hôn thê thực sự của Cơ Anh!"

Ngày đó, nam tử ấy vuốt ve chiếc bản chỉ, mỉm cười lắc đầu, nói không được, không thể nhường cho người khác;

Ngày đó, nam tử ấy ôm hòn giả sơn nôn ọe, toan vứt chiếc bản chỉ đó đi, nhưng cuối cùng lại không nhẫn tâm;

Bộ dạng tiều tụy của chàng, nàng từng nhìn thấy rõ ràng;

Còn nỗi lòng sâu kín của chàng, nàng lại chưa từ hiểu rõ.

Hóa ra, tất cả sự luống cuống đó, tất cả sự ấm ức đó, tất cả nỗi khổ đau đó, đều vì con người ấy, mỹ nhân tuyệt sắc một thân bạch y quỳ giữa trời băng đất tuyết ấy, sủng phi của hoàng đế diễm lệ nhất cung đình, nổi bật giữa trần thế ấy, nữ tử thực sự cùng Cơ Anh thề nguyền sánh đôi mà phải chia lìa đó...

... Hy Hòa.

Khương Trầm Ngư nhớ tới Hy Hòa, nhớ tới điệu bộ mặt không cảm xúc quỳ bên ngoài cửa cung ngày hôm đó của nàng ta, nhớ đến Cơ Anh của ngày hôm đó vội vã chạy đến, đi lướt qua nàng ta, mắt không hề nhìn xuống;

Nhớ đến Hy Hòa triệu nàng vào cung đánh đàn, nàng im lặng đàn, Hy Hòa lặng lẽ nghe, sau đó, lệ sa đầm đầm;

Nàng nhớ đến Hy Hoa nôn ra máu, nhớ đến Cơ Anh cấp tốc dẫn theo Giang Vãn Y vào cung trị bệnh...

Những cảnh tượng đó nàng tận mắt chứng kiến, nhưng trong khoảnh khắc này, nàng mới thực sự hiểu rõ chân tướng sự việc.

Hóa ra...

Người công tử thích là nàng ta...

"Sao có thể?". Khương Trầm Ngư lẩm bẩm: "Sao có thể, nếu như công tử thích Hy Hòa, sao có thể để nàng ta vào cung thành phi tử của hoàng đế?".

"Ai mà biết được". Đỗ Quyên tỏ vẻ không tán thành nói: "Thứ hoàng đế muốn, kẻ làm thần tử có thể không dâng lên sao? Nhưng cặp đôi này cũng thật thú vị quá đi, thường xuyên gặp mặt, lại có thể vờ như không liên quan đến nhau, nếu không phải đám mật thám của Khương Trọng có bản lĩnh, khơi ra được, thì đâu có ai biết Hy Hòa phu nhân của triều ta hóa ra từng tằng tịu với Kỳ Úc hầu".

"Hy Hòa... Hy Hòa...". Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm cái tên này, trong lòng trào dâng một thứ tình cảm vô cùng phức tạp. Nói không ghen tị là giả dối, vì dù gì vị công tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ chính vì sự tồn tại của nữ tử này mà không thể thích một nữ tử nào khác; nhưng dường như không phải là rất oán hận, bởi Hy Hòa cũng chẳng thể ở bên Cơ Anh, phần nhiều nàng thấy bi thương, một nỗi bi thương rối bời.

Bởi vì, công tử khổ biết mấy...

Khổ biết mấy...

Con người ôn hòa như thế, phải yếu sâu sắc đến nhường nào mới có thể uống cạn chén này đến chén khác trên bàn tiệc, buồn bã luống cuống? Một Kỳ Úc hầu phải nhẫn nhịn đau khổ đến nhường nào mới có thể giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh thường ngày khi gặp người cũ giữa hoàng cung?

Khương Trầm Ngư nàng còn có thể mở miệng nói một tiếng "Ta ngưỡng mộ công tử" với Cơ Anh, còn công tử, đến một tiếng gọi âu yếm cũng không dám gọi nữa.

Hy Hòa phải đố kỵ biết mấy mới có thể không muốn nhìn thấy cảnh chàng lấy người khác?

Giữa chàng và nàng ta, rốt cuộc là yêu hận đan xen đến đâu, không thể nào biết rõ, nhưng có một điểm rất rõ ràng rằng: Đó là thế giới chỉ thuộc về riêng hai người Hy Hòa và công tử, Khương Trầm Ngư nàng không thể nào chen vào.

Từ khi bắt đầu, nàng đã thua cuộc.

Tiên nhân trong mây nào đâu thấy?

Đã rõ nhân duyên chẳng đúng người.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn tiếp tục vang lên: "Cho nên, Cơ Anh không lấy ngươi, Hy Hòa cũng không để hắn lấy ngươi, hoàng đế lại càng không. Hoàng đế vì không muốn Cơ gia trở thành Khương gia thứ hai, nên không thể để hai nhà Cơ - Khương liên hôn, muốn phá đám hôn sự này thì phải dùng một hôn sự long trọng hơn để áp chế nó, lại thêm các mưu sĩ thúc giục bên cạnh, ngươi, Khương Trầm Ngư, đã từng bước từng bước trở thành Thục phi của hoàng đế, theo kế hoạch của Khương Trọng, mở cánh cửa đi đến ngai vị đế hậu đúng như ước nguyện của ông ta".

Khương Trầm Ngư vô thức lắc đầu, lỗ tai trên tai trái như bị một ngọn lửa vô hình đốt cháy, khiến nàng đau đến bỏng rát, nó chứng kiến nàng đã từng khắc cốt ghi tâm như thế nào. Mỗi lần sờ lên đó nàng đều không kìm được nghĩ, nhất định là vì mình không đủ tốt, còn khiếm khuyết ở điểm nào đó, cho nên, mới không thể khiến người ấy thích. Sau đó nàng nghĩ mình phải thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn nữa, cố gắng hết sức có thể để gần chàng thêm chút nữa.

Giờ ngẫm lại, những suy tư ấy chẳng khác gì một cái bạt tai, vả vào mặt nàng một cú bỏng rát.

"Ngươi biết tại sao đêm nay ta phải giữ ngươi ở đây không? Bởi vì ngươi thân đáng giá vạn lượng hoàng kim, vốn liếng của Khương Trọng đều đặt cả vào ngươi, cho nên, ngươi tuyệt đối không thể xảy ra bất cứ sơ sảy nào. Hơn nữa, giữ ngươi ở đây còn có một dụng ý, chính là để ngươi mở to mắt ra nhìn rõ tất cả mọi việc". Đỗ Quyên nói đến đây, ngữ điệu bỗng trở nên chậm rãi, thấp giọng thì thào như nói mơ: "Giấc mộng này, ngươi đã mơ suốt mười lăm năm, cũng nên tỉnh rồi".

Khương Trầm Ngư không đáp lại.

Thực tế, chưa đợi nàng phản ứng lại, đã có một giọng nói thay nàng lên tiếng: "Không sai, giấc mộng này đúng là nên tính rồi. Nhưng, người phải tỉnh không phải là nàng ấy, mà là ngươi".

"Hoàng thượng thánh minh!".

Cùng với câu cung giá đồng thanh của tám vị mưu sĩ, Chiêu Doãn thả bước từ từ đi ra khỏi Bách Ngôn đường. Vừa đến cửa thư phòng, một trận gió ùa tới thổi chiếc trường bào và mái tóc dài của y tung bay về phía sau, y đưa tay lên giữ lại, qua kẽ tay mặt trăng cong như móc câu, không sáng cho lắm, trên bầu trời chẳng có một vì sao.
 
Quyển 2 - Chương 52


Y ngẩng đầu, cứ nhìn chăm chăm như thế, ánh sáng lấp loáng, còn y đứng trong bóng tối, một vùng hư ảo.

Phía sau, La Hoành khom lưng, nói: "Hoàng thượng, chúng ta..."

Chiêu Doãn thả bàn tay đang giữ mái tóc xuống, ánh mắt bỗng dưng lạnh căm, khóe môi từ từ nhếch lên, kéo một đường cong mỏng mảnh thành một nụ cười cực kỳ lạnh lẽo nói: "Các ngươi đã dám hại chết thần tử trẫm yêu quý nhất thì phải có ý thức trả giá. Bạch Trạch lìa đời, thể nào cũng cần có chút đồ bồi táng chứ?".

"Vâng". La Hoành chợt hiểu ra, lại cúi người lùi lại mà không phát ra tiếng động nào.

Đêm đó, Hàn lâm bát trí (tám vị quân sư) chết đột ngột tại nhà. Hung thủ không rõ danh tính. Trở thành vụ án còn bỏ ngỏ của đế đô.

Ở một nơi rõ ràng chỉ có hai người, nhưng lại xuất hiện tiếng nói của người thứ ba, khiến Đỗ Quyên trong chốc lát kinh sợ hoảng hốt, vừa định nhảy lên thì cánh tay đau nhói, tiếp theo là mấy huyệt đạo bị điểm trúng, không thể nhúc nhích được nữa.

"Ai? Là ai?". Đỗ Quyên vội hét lên: "Dì Mai! Dì Mai!". Hét được hai câu, giọng nói đó đã lười biếng cất lên: "Đừng gọi nữa, dì Mai công phu mèo cào của ngươi bây giờ không chừng đã ngủ trong xó xỉnh nào rồi, ngủ rất say, có lẽ không thể đến cứu chủ được nữa".

"Ngươi... ngươi...". Sau giây phút luống cuống ngắn ngủi Đỗ Quyên mau chóng lấy lại bình tĩnh, chau mày đoán hỏi: "Ngươi là Tiết Thái?".

Phía sau lưng nàng ta, một thiếu niên chậm rãi bước ra, ánh đèn dịu dàng chiếu lên thân hình mảnh khảnh của hắn, đôi mắt bờ mi đen láy, không phải ai khác, chính là - Tiết Thái.

Tiết Thái cười cười: "Không hổ là chị ruột của Khương Thục phi".

Đỗ Quyên "hừ" một tiếng: "Giờ này có thể âm thầm lẻn vào chỗ ở của ta, hơn nữa giọng nói còn non nớt như thế, giọng điệu lại ngạo mạn như thế, thì chỉ có thể là kẻ bị đày xuống làm nô lệ nhưng không hề giác ngộ - Băng Ly công tử".

Đối diện với sự châm chích này, Tiết Thái chỉ lạnh nhạt nói một câu: "Nói hay lắm".

"Với võ công của ngươi thì không thể đến được đây mà không làm kinh động đến ba tầng ám vệ bên ngoài. Nói đi, người đến cùng với ngươi, điểm huyệt đạo của ta là ai?". Đỗ Quyên nói đến đây, đầu lông mày nhíu chặt: "Trừ phi là Phan đại tướng quân cũng đến?".

Một thân hình cao lớn xuất hiện trong phòng mà không có lấy một dấu hiệu báo trước tựa tia sét, tựa gió lốc. Người đó bước nhanh đến trước mặt Khương Trầm Ngư, giải huyệt đạo cho nàng, Khương Trầm Ngư mắt nhòe nhoẹt nước ngẩng lên nhìn y, trăm ngàn cảm xúc rối ren, vừa tủi thân vừa chua xót, không kìm được khẽ gọi một tiếng: "Phan tướng quân...".

Người đó chính là Phan Phương.

Đỗ Quyên có được đáp án im lặng một hồi, hai hàng lông mày cong cong như lá liễu nhướn lên, hướng về Khương Trầm Ngư nói: "Từ lâu đã nghe muội muội thông tuệ, hóa ra trình độ diễn kịch cũng vào hàng thượng thừa. Cố ý hét toáng lên, để át tiếng động khi bọn họ lại gần, khiến ta không hay không biết, lại còn một lòng nghĩ ngươi đáng thương... Chậc chậc chậc, đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Khương Trầm Ngư... ngươi quả nhiên... rất lợi hại...".

Khương Trầm Ngư vịn vào tay Phan Phương, sắc mặt trắng bệch, không thừa nhận mà cũng chẳng phủ nhận.

Đỗ Quyên lại nói: "Được rồi, dù sao ta cũng không mong mọi chuyện có thể thuận lợi. Có thử thách mới có lạc thú... Hai vị đại nhân không đi cứu vị chủ tử siêu phàm của các ngươi, lại đến chỗ của ta, thiết nghĩ tuyệt đối không phải vì muốn nghe chuyện nhà của tỉ muội ta. Vậy thì để ta đoán nhé...”.

Tiết Thái ngắt lời nàng ta: "Không cần đoán, chúng ta đến đây là để bắt ngươi!".

Gương mặt Đỗ Quyên như bị kim đâm, nụ cười ngay lập tức tắt ngấm.

Còn Tiết Thái lại cười: "Ngươi muốn khoe mẽ sự thông minh của ngươi, cho nên chuyện gì cũng phải suy đoán một lượt, để người khác phải kinh ngạc, phải đau khổ, ngươi mới thấy vui. Ban nãy ngươi vừa giày vò Thục phi nương nương, giày vò đã chưa? Đáng tiếc thay, ta sẽ không cho ngươi cơ hội này".

Đỗ Quyên chẳng nói chẳng rằng, sắc mặt cực kỳ khó coi.

"Bắt giặc phải bắt tướng trước. Bây giờ, phiền thành chủ phu nhân đi cùng chúng ta một chuyến".

"Đi đâu?". Đỗ Quyên cười hiểm độc: "Đông viện à? Ta khuyên các vị đừng tốn công phí sức nữa. Loại Thiên Hỏa Thần Du mà ta cố ý sai người mua về từ Trình quốc đó, chỉ cần đốt lên các loại nước bình thường đều không thể dập tắt nổi, nó có thể đun sôi một bể nước chỉ trong thời gian một khắc. Ngọn lửa ở Đông viện cháy lâu như thế, e rằng Kỳ Úc hầu của các ngươi đã sớm hóa thành tro rồi".

Tiết Thái thong thả nói: "Ai bảo bọn ta muốn đưa ngươi đến Đông viện?".

Đỗ Quyên sững người ra một lát.

"Đề ra: Giáp muốn giết Ất, sau đó giá họa cho Bính. Nhưng đột nhiên Bính mất tích, hay nói cách khác, Bính chưa từng xuất hiện... thì phải làm sao?".

Đỗ Quyên bỗng nhiên biến sắc: "Ngươi...".

"Nếu hoàng tử Di Phi không hề vào đất của Bích quốc, mà lại xuất hiện trong yến tiệc của Yến vương ở ngàn dặm xa xôi, xin hỏi làm thế nào thành chủ phu nhân và phu quân của phu nhân gánh được tội danh không bảo vệ được Kỳ Úc hầu, để ngài chết trong phủ đệ của các ngươi?".

Mặt Đỗ Quyên từ trắng chuyển sang đỏ, lại từ đỏ biến thành xanh, cắn môi nói: "Lẽ nào các ngươi... Không thể! Tuyệt đối không thể!".

"Cái gì không thể? Là Di Phi không thể trốn khỏi cạm bẫy phu nhân giăng ra, hay là hắn không thể có mặt ở Yên quốc xa xôi?". Ngữ điệu của Tiết Thái bỗng nhiên chậm lại: "Hay là... việc ám sát Cơ Anh chẳng qua chỉ là một màn kịch hay mà phu nhân và tôn phu diễn cùng với nhau?".

Đùng đùng, tiếng sấm bên ngoài cửa sổ vang lên ầm ầm.

Trong nhà im lặng như tờ.

Chỉ có Khương Trầm Ngư kinh ngạc nhìn Tiết Thái, rồi suy tư lại rối bời quay sang nhìn Đỗ Quyên nhất thời không đoán ra nổi sự tình bên trong. Trong lúc nàng còn đang mờ mịt, Đỗ Quyên bật cười, đầu lông mày đang chau cũng giãn ra, khóe môi cong lên, vẻ mặt vốn dĩ thâm trầm trong chốc lát cũng trở nên hiền hòa khôn xiết, giống như vừa khôi phục lại khoảnh khắc lần đầu Khương Trầm Ngư gặp nàng ta - tĩnh lặng tao nhã như nước, linh hoạt thanh tú như ánh sáng.

"Quả nhiên không gì có thể lừa được Băng Ly công tử...". Nàng ta vỗ tay.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: "Chuyện là thế nào?".

Tiết Thái quay đầu nhìn nàng, trong ánh mắt mang theo một chút thương cảm, cuối cùng quay mặt đi nói: "Ta mệt rồi, không muốn nói".

"Vẫn nên để ta nói cho nàng". Phan Phương vẫn đứng bên cạnh nàng, y cất giọng: "Sau khi chúng ta đến dịch sở, cũng là lúc nàng cùng Đông Bích hầu đến chỗ này, Vệ thành chủ thẳng thắn giải thích tất cả mọi duyên cớ với hầu gia, sau khi suy nghĩ hầu gia quyết định án binh bất động. Vệ phu nhân là Gia Cát trong đám nữ nhân, một mặt vừa lập kế hỏa thiêu để đối phó Khương Trọng, một mặt sai người lén đào một đường hầm bí mật phía dưới nhà ở Đông viện, lại nhân lúc Vệ thành chủ dập lửa, để cho y xông vào biển lửa đưa hầu gia thoát ra ngoài theo đường hầm".

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên: "Cũng có nghĩa là...".

"Cũng có nghĩa là...". Đỗ Quyên tiếp lời: "Ta đợi đã năm năm, cuối cùng đã đợi được cơ hội báo thù cho cha mẹ!".

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run rẩy mãi không thôi, nàng nghĩ đến chân tướng.

Đỗ Quyên lạnh lùng cười nói: "Khương Trọng cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để lật đổ Cơ gia, nhưng bản thân ông ta không thể đích thân ra mặt, cho nên mới giao trọng trách này cho người ông ta tín nhiệm nhất, cũng là người có dòng máu thân thiết nhất với mình, con gái lớn của ông ta - chính là ta. Còn ta, điều binh khiển tướng dưới sự chỉ đạo của ông ta, đặt mai phục, mua dầu thiên hỏa, tìm một kẻ thế thân, ngồi đợi ngư ông đắc lợi. Ông ta tưởng rằng như thế là tuyệt đối kín kẽ, ha ha".

Phan Phương nói: "Phu nhân thấu hiểu đại nghĩa, sau khi thương lượng với thành chủ, quyết định trở giáo giúp đỡ hầu gia. Cho nên đã diễn vở kịch lửa cháy đêm mưa, bây giờ có lẽ hầu gia cũng đã đến được nơi an toàn rồi".

Đỗ Quyên bĩu môi: "Thấu hiểu đại nghĩa cái gì, ta chính là vì báo thù! Ta muốn Khương Trọng toi đời, đó mới là mục đích!".

Khương Trầm Ngư nghe xong câu này, trong lòng trỗi dậy trăm ngàn cảm xúc. Không, nàng nghĩ, mình không buồn, nghe xong những điều này mình không hề buồn một chút nào, bởi vì mình đã tê liệt rồi, thực sự tê liệt hoàn toàn rồi...

Phan Phương nói tiếp: "Mà việc cơ mật này, vì thận trọng thành chủ chỉ nói cho ta, đến Tiết Thái cũng bị giấu giếm".

Tiết Thái cao ngạo nói: "Hừ, không nói thì không nói. Tưởng ta thèm chắc? Cơ Anh vốn định dẫn ta cùng chạy trốn trong biển lửa, chẳng ngờ lại bị ta phát hiện ra huyền cơ trong mùi hương hoa, cho nên ngài lập tức thay đổi kế hoạch, mượn cớ đưa thư để tách ta ra, còn giả vờ giả vịt viết một trang giấy trắng để ta đưa cho Vệ Ngọc Hành".

Thật hiếm khi Phan Phương mới để lộ vẻ tươi cười: "Hầu gia nghĩ cho sự an toàn của ngươi".

"Ngài đang thử ta mà thôi". Tiết Thái hứ một tiếng: "Tưởng một tờ giấy trắng là làm ta bó tay hết cách à? Ngài sai ta đi tìm Vệ Ngọc Hành, ta lại không tìm, mà hơn nữa lúc ấy Vệ Ngọc Hành cũng xông vào trong đám cháy rồi. Ta liền đi tìm Phan tướng quân, bụng nghĩ nếu Vệ Ngọc Hành có đi đời nhà ma, thì phải bắt mụ vợ của hắn đã rồi hẵng nói, chẳng ngờ lại biết được chân tướng sự việc ở chỗ Phan tướng quân".

"Bây giờ, mật thám của Khương Trọng hẳn đã nhận được tin tức giả là kế hoạch thực hiện thuận lợi, chắc chắn sẽ lơi lỏng. Nhân cơ hội này ta đưa công tử bí mật về kinh gặp thánh thượng, vạch rõ từng tội trạng của ông ta, Khương Trọng sẽ không thể trốn thoát". Có lẽ là vì sợ làm Khương Trầm Ngư kích động, khi nói những câu này, Phan Phương không nhìn vào mặt nàng: "Câu kết nước địch, ám sát trọng thần, hai tội danh này gộp thành tội chết".

Đỗ Quyên nói; "Sở dĩ ta giữ ngươi ở đây, ngoài việc sợ ngươi nhất thời xúc động nghĩ cách cứu Cơ Anh rồi làm hỏng kế hoạch của chúng ta, thì nguyên nhân lớn nhất chính là để Khương Trọng an tâm, quân cờ quan trọng của ông ta phải được bình an vô sự".

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt đáp: "E là để phòng bất trắc giữ cho mình đường lui mà thôi?". Nàng nằm trong tay Đỗ Quyên, cho dù phụ thân biết được kế hoạch của bọn họ, thì cũng ném chuột sợ vỡ bình quý, nên sẽ dè chừng.

Quả nhiên, Đỗ Quyên nghe thế liền bật cười: "Ngươi muốn nghĩ như thế, thì tùy ngươi".

"Vậy...". Khương Trầm Ngư bỗng nhiên cũng cười cười, trong nụ cười hàm chứa một nỗi xót xa khó tả thành lời: "Các ngươi định xử trí ta thế nào đây?".

Bọn Đỗ Quyên nghe xong đều cứng đờ cả người.

"Tỉ tỉ, chẳng nhẽ tỉ không biết, nếu phụ thân sa cơ thì cả Khương gia chúng ta còn có thể sống sao?".

"Ta chỉ đối phó một mình Khương Trọng, ta đã cầu xin Kỳ Úc hầu một lời đảm bảo, cái chết của Khương Trọng sẽ không làm liên lụy đến người khác". Đỗ Quyên nói một cách từ tốn: "Dẫu cho ngươi không tin ta, cũng nên tin... công tử của ngươi chứ?".

Khương Trầm Ngư cười buồn bã: Công tử... của nàng.

Ha ha.

Giấc mộng lớn này, bây giờ cũng không thể không tính rồi...

Công tử chưa bao giờ thuộc về nàng, không những không thuộc về nàng, mà còn là kẻ thù định mệnh của nàng. Cho dù là vì nguyên nhân gì, hình thức gì và kết cục gì.

Nghĩ đến ban đầu chỉ mong được sánh vai cùng chàng mà nay mộng tan, hóa ra đến làm người xa lạ cũng không thể.

Tạm biệt.

Công tử, tạm biệt.

Khoảnh khắc này, ta, Khương Trầm Ngư, quyết biệt với chàng.

Rút cục cả đời này, không còn mặt mũi nào mà gặp, lo lắng thấp thỏm, không nỡ gặp...

Mãi mãi không gặp lại chàng.

Ngoài cửa sổ mưa vẫn rơi rào rào, mang đến cho người ta ảo giác rằng đêm nay sẽ kéo dài vô cùng vô tận, ánh sáng sẽ không đến, mưa gió sẽ không ngừng, mà hết thảy những chuyện vui sướng, những điều tốt đẹp, những thứ ấm áp, sẽ kết thúc từ đây.

Chính là:

Đoạn trường chính hẳn đêm nay.

Tương tư một tấc tro tày mười phân.

Tiếp theo Tiết Thái và Đỗ Quyên còn nói gì đó nữa, nhưng Khương Trầm Ngư chẳng nghe lọt vào tai một chữ nào. Nước mắt đã chảy cạn cùng câu chuyện thân thế mà Đỗ Quyên kể ban nãy, còn giờ phút này, cho dù đau lòng hơn, nhưng nàng lại không rơi một giọt lệ nào.

Chỉ có tê dại, một sự tê dại sâu hun hút, giống như tơ bọc lấy cơ thể và trái tim của nàng, nàng nghĩ, như thế cũng tốt, bởi vì bọc kim rồi sẽ không còn bị thương, dẫu cho bên trong có thối nát đến đâu, máu chảy thành mủ đến thế nào đi nữa.
 
Quyển 2 - Chương 53


Lúc này, một tiếng bước chân gấp gáp từ xa đến gần, ngay sau đó cửa bị đập mạnh: "Phu nhân, không xong rồi! Phu nhân!".

Đỗ Quyên cất cao giọng hỏi: "Chuyện gì?".

Người ngoài cửa đáp: "Phu nhân, lửa đã tàn rồi. Nhưng, nhưng... không những Kỳ Úc hầu, mà đến thành chủ cũng không thấy đâu nữa".

Đỗ Quyên cả kinh: "Cái gì?".

Phan Phương lập tức giải huyệt đạo cho nàng ta, rồi dìu nàng ta đi ra mở cửa, bên ngoài là một người hầu trong Vệ phủ.

Đỗ Quyên hít sâu một hơi, trầm giọng nói: "Hít thở sâu, nói cho ta nghe".

"Vâng, vâng!". Người đó quỳ xuống, run rẩy nói: "Là như thế này, ở bên này chúng thuộc hạ thấy ngọn lửa bốc cao không làm sao dập tắt được, cuối cùng một trù nương nghĩ ra cách dùng bột mì ướt ném vào, cuối cùng cũng dập được lửa. Nhưng tìm trong đó suốt một lúc lâu mà không thấy Kỳ Úc hầu và thành chủ đâu...".

Đỗ Quyên trầm ngâm một lúc, nói: "Ta biết rồi. Ngươi về trước đi, ta sẽ tới ngay".

"Vâng!". Người đó báo tin xong liền vội vã rời đi.

Phan Phương hỏi: "Chuyện là thế nào?".

"Thời gian dập lửa sớm hơn so với dự tính, có lẽ là Vệ Ngọc Hành chưa kịp đưa hầu gia quay về". Đỗ Quyên nhíu mày, nói: "Thận trọng trăm điều vẫn có sai sót, cứ tưởng trận hỏa hoạn này sẽ kéo dài tới tận giờ Mão mới ngừng".

Tiết Thái bỗng phì cười một tiếng.

"Ngươi cười gì?".

"Không có gì, ta chợt nghĩ, trù nương của quý phủ thật là lợi hại. Nhưng thật khổ cho thành chủ đại nhân, nếu hắn tiễn công tử xong rồi quay về, không biết chừng lửa ở bên ngoài đã tắt, mở cánh cửa ngầm bên trong đường hầm nhảy vọt ra ngoài... chậc chậc...". Tiết Thái còn chưa nói tiếp. Đỗ Quyên đã giậm chân nói: "Mất bò mới lo làm chuồng, bây giờ chứng ta đi sơ tán người bên đó, tuyệt đối không để người khác phát hiện ra đường hầm".

Việc không thể chậm trễ, lập tức hành động.

Tiết Thái liếc Khương Trầm Ngư đang đứng im không nhúc nhích như một con rối gỗ, nói: "Này, ngươi có đi được không?".

Phan Phương nói: "Ta đỡ nàng". Lời vừa mới dứt, Khương Trầm Ngư đột nhiên cử động.

Việc đầu tiên nàng làm chính là rút khăn tay lau khô nước mắt, sau đó gạt tay Phan Phương ra, lảo đảo đứng dậy, hít thật sâu, đứng thật vững, ưỡn thẳng sống lưng rồi bước qua bậu cửa.

Tuy nàng chẳng nói lấy một lời, nhưng đã dùng hành động để trả lời. Ánh mắt Tiết Thái nhìn nàng trong chốc lát bỗng sâu thẳm, tựa như thương xót, tựa như tìm tòi, lại như nỗi bi ai như có như không...

Đi qua hành lang gỗ dài hun hút, xuyên qua cánh cửa lớn, mùi khét cháy trong gió càng lúc càng nồng nặc.

Khương Trầm Ngư nhìn thấy một khoảng đất trống đen trắng đan xen, màu đen là những cây gỗ cháy, màu trắng là bột mì, về cơ bản là cháy rụi chẳng còn thứ gì, những đoạn tường đứt gãy còn sót lại cũng đổ la liệt, cao không quá thắt lưng, vì thế chỉ nhìn qua là có thể thấy quả thực không có ai trong đó cả.

Ngược lại xung quanh có một đám đông bao vây, mồm năm miệng mười, bàn tán xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Nhìn thấy Đỗ Quyên đến, lập tức im lặng. Điều đó cho thấy địa vị của vị phu nhân này trong phủ.

Đỗ Quyên còn chưa mở miệng, Tiết Thái đã xông vào giữa bãi đổ nát, đi một vòng, rồi trở về trước mặt Đỗ Quyên, một tay nắm chặt lấy tay áo nàng ta, giọng gấp gáp hỏi: "Sao, sao đến xương cốt cũng không có hả? Chủ nhân đâu? Chủ nhân đâu?".

Đỗ Quyên sững người ra một lát, rồi thấy tay Tiết Thái luồn vào ống tay áo của nàng ta, viết lên lòng bàn tay nàng ta một chữ "khóc". Nàng ta lập tức phản ứng lại ngay, làn run rẩy, thất thanh khóc lớn.

Nàng ta vừa khóc, đám người dưới lại càng hoảng loạn lũ lượt khuyên nhủ an ủi.

Tiết Thái lại viết thêm một chữ "ngất".

Đỗ Quyên lập tức khó thở, ngã nhào ra phía sau, không ngoài dự liệu, đã được Phan Phương đứng bên đỡ lấy.

"Phu nhân, phu nhân? Phu nhân làm sao thế? Phu nhân.... Mọi người nháo nhác hỗn loạn.

Tiết Thái cao giọng quát: "Các ngươi còn chờ gì nữa? Còn không mau đi mời đại phu?".

Lập tức có một nhóm người quay lưng chạy đi, Tiết Thái dặn dò những người còn lại: "Các ngươi, xuống nhà bếp nấu canh gừng, mọi người ở đây đều ướt như chuột lột hơn nửa đêm nay, đừng để tất cả đổ bệnh ra đó. Các ngươi, đi truyền lệnh khóa cửa thành lại, trận hỏa hoạn này rất kỳ lạ, hiện tại lại vô cớ mất tích một số người, trước khi điều tra rõ chân tướng sự việc, không cho phép bất cứ người nào ra khỏi thành! Còn các ngươi nữa, đừng có đứng ngây ra đó, phải làm gì thì đi làm đi, đợi đại phu đến, thì mau chóng đi mời đại phu khám bệnh cho phu nhân...". Hắn tuy là người ngoài, tuổi còn nhỏ, nhưng lại là một nhân vật lớn được nhắc đến thường xuyên khắp đầu đường cuối ngõ ở Bích quốc. Lần này hắn đặt chân lên Hồi thành, mọi người đã được diện kiến người thực đương nhiên cũng bàn luận về hắn từ lâu, nên tất cả đều nhận ra hắn. Vì thế lúc này hắn từ khách đổi thành chủ ra lệnh, mọi người đều cảm thấy không có gì là không thỏa đáng, lần lượt làm theo lời hắn, không lâu sau đã tản đi hết.

Tiết Thái hạ lệnh cho người còn lại cuối cùng đi khóa cửa Đông viện lại, không cho người khác vào trong, sau đó dẫn theo một đám người đưa Đỗ Quyên giả vờ ngất về Tây viện.

Còn Phan Phương lại nhân lúc đám đông hoảng loạn khiêng Đỗ Quyên về phòng, chớp mắt một cái bóng dáng đã biến mất.

Khương Trầm Ngư thu trọn tất cả sự việc trong tầm mắt, trong lòng rõ hơn bao giờ hết: Tiết Thái lợi dụng cơ hội Đỗ Quyên ngất xỉu, điều toàn bộ đám người lộn xộn đi chỗ khác, lại sai Phan Phương ở lại chỗ bí mật đợi Vệ Ngọc Hành quay về, như thế, cho dù phụ thân có nghi ngờ, muốn sai ám vệ đến điều tra thì cũng không thể làm được.

Diệu kế...

Khương Trầm Ngư dán mắt nhìn vào bóng lưng Tiết Thái, y phục và mái tóc của hắn đều ướt sũng nước mưa, dính bết trên thân hình gầy guộc của hắn, rõ ràng chỉ là một đứa trẻ chưa đến tám tuổi, nhưng lại có trí tuệ như thế, thật không thể biết được, có phải là trời muốn diệt Khương gia, gặp một Cơ Anh chưa đủ, còn phải gặp thêm một Tiết Thái nữa hay không.

Phụ thân ơi, dẫu cho người tính toán chu toàn, nhưng sinh chẳng gặp thời thì vẫn là sinh chẳng gặp thời, Yên có Chương Hoa, Nghi có Hách Dịch, mà Bích đã có Tiết Thái, chính là trời định Bích quốc không thể là thiên hạ của người được...

Sai lầm trong phút chốc của năm đó, giữ lại hắn để chế Cơ Anh, kết quả hắn lại trở thành cánh tay mạnh nhất của Cơ Anh.

Ý trời! Ý trời! Ý trời...

Nhưng ý trời cũng có lúc không hoàn toàn giúp đỡ một phía.

Chuyện phát sinh một canh giờ sau đó đã chứng minh rất rõ điều này.

Khi sáu vị đại phu bị mời ra khỏi phòng vì không thể chẩn đoán bệnh chứng và kê đơn cho thành chủ phu nhân, thì Tiết Thái luôn lặng lẽ trầm ngâm đứng cạnh cửa sổ đã không thể nhẫn nại thêm được nữa, quay người lại hỏi Đỗ Quyên: "Tại sao Vệ Ngọc Hành vẫn chưa quay về?".

Đỗ Quyên cũng mặt mày ưu tư: "Không biết... Ta đã bàn với chàng, đưa hầu gia ra khỏi cửa, chàng phải lập tức quay về. Tính thời gian, nửa canh giờ trước đáng lẽ chàng đã phải trở về rồi. Lẽ nào có việc gì khiến chàng chậm trễ?".

"Lúc này mà còn có gì khiến hắn chậm trễ, tức là kế hoạch đã thất bại". Tiết Thái cắn môi nói: "Ngoài ngươi và Vệ Ngọc Hành ra, còn có ai biết chuyện đường hầm không? Có người tiết lộ...".

Chưa đợi hắn nói hết, Đỗ Quyên liền lắc đầu: "Không thể nào".

"Ngươi chắc chắn chứ?".

"Ta chắc chắn". Lời lẽ của Đỗ Quyên rất kiên quyết: "Có tất cả bốn người tham gia đào đường hầm, bọn họ đều không quen biết lẫn nhau, mỗi người chỉ phụ trách một đoạn trong đó, bốn đoạn ghép lại mới có thể thông đến cửa ra. Hơn nữa, để bảo mật, ta đều diệt khẩu cả bốn người rồi".

Tiết Thái nhìn nàng ta bằng ánh mắt đầy phức tạp, không rõ là khâm phục hay là cảm khái nữa, cuối cùng nói: "Ngươi nói vị trí đường hầm cho ta, ta và Phan tướng quân đi thăm dò thử xem sao".

Đỗ Quyên do dự một lúc. Tiết Thái cười lạnh: "Sao? Ngươi không tin ta à?".

Đỗ Quyên thở dài, nói: "Điều cốt yếu không phải là tin hay không tin. Nếu như hầu gia xảy ra bất trắc, chúng ta đều phải chết. Ngươi ghé tai vào đây".

Tiết Thái bước lên phía trước, Đỗ Quyên thì thầm một lượt vào tai hắn, hắn gật gật đầu, rồi quay người nhảy lên, nhảy lên nhảy xuống mấy lần rồi cuối cùng cũng biến mất bên ngoài cửa sổ.

Đỗ Quyên dỏng tai lắng nghe, cảm khái nói: "Thằng bé này trời sinh kỳ tài, tuổi còn nhỏ mà đã hiểu biết và có võ công như thế, nếu gặp thời vận, tất sẽ có thành tựu lớn".

Khương Trầm Ngư vẫn ngồi im trên ghế bên cạnh, dường như không nghe thấy.

Đỗ Quyên thấy nàng không có phản ứng, bèn cười nói: "Tiêu cực như thế, không giống ngươi".

Khương Trầm Ngư hỏi vặn lại: "Ta nên như thế nào đây?".

Đỗ Quyên từ tốn đáp: "Khương Trầm Ngư mà ta nghe kể, dám yêu dám hận, cầm lên được cũng bỏ xuống được, bất cứ lúc nào cũng đều tích cực, quả quyết, sẽ không giậm chân tại chỗ, càng không bỏ mặc cho người khác sắp đặt".

"Cho nên?".

"Cho nên, nếu ta là ngươi, lúc này lại càng phải nghĩ cách tự cứu mình khi nguy cơ đại thế đã mất, làm sao để thương tổn và tổn thất giảm xuống thấp nhất".

Gương mặt luôn bình tĩnh như thể đã chết của Khương Trầm Ngư cuối cùng đã có thay đổi, nàng ngước mắt nhìn Đỗ Quyên không chớp, nói bằng một giọng như đang nói mơ: "Nhưng ta không phải là ngươi. Cho nên, ta không cần tự cứu mình".

Đỗ Quyên choáng váng.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nụ cười nhàn nhạt thoảng qua trên gương mặt xanh xao, chiếu sáng đường nét như tranh vẽ của nàng, rõ ràng là một vẻ đẹp tuyệt đỉnh, nhưng lại xen lẫn một nỗi bi ai khó tả thành lời: "Sự tình đã đến nước này, sức của một người thực sự quá nhỏ nhoi".

Đỗ Quyên đang định nói thì Trầm Ngư lại tiếp: "Ta không cần tự cứu mình, bởi vì ta không thể rõ thiện ác, phân đúng sai, từ bỏ gia tộc, hiểu đại nghĩa đi cứu công tử đang gặp cơn nguy nan, lại càng không thể trọn đạo hiếu vẹn toàn tình thân để giúp gia tộc vào giờ phút then chốt. Cho dù xét về phương diện nào, ta cũng không có cách nào tha thứ cho bản thân, đối mặt với bản thân. Cho nên, kẻ sống thừa thãi như ta, căn bản không cần thiết phải tồn tại".

"Ngươi...".

Khương Trầm Ngư lại nói: "Hơn nữa, sở dĩ ta không tự cứu mình, có lẽ cũng vì ta biết trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chuyện gì chăng".

"Ý của ngươi là gì?". Đầu lông mày của Đỗ Quyên nhíu lại.

"Trong sự việc lần này, ta thừa nhận phụ thân đã coi thường ngươi, đó là sai lầm của người. Thế nhưng, chẳng phải ngươi cũng coi thường người hay sao?". Nói đến đây, khóe môi của Khương Trầm Ngư nổi lên nụ cười châm biếm: "Tuy ta ngu độn, nhưng một người có thể lừa dối những người thân sớm tối bên mình hơn mười năm trời, ta không tin, trước bất cứ kế hoạch nào, ông ta sẽ không chừa cho mình một con đường lùi".

Sắc mặt Đỗ Quyên đột ngột biến đổi.

"Nói không chừng, tôn phu chậm trễ chưa quay về lại là một trong các đường lui của người...". âm kết thúc của chữ cuối cùng nặng nề kéo dài, một trận gió thổi ào tới khiến ánh nến trên bàn lay động, trong bóng tối, gương mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết, lạnh lẽo như sương.

Tiết Thái khoác chiếc áo tơi lên người, theo Phan Phương tiến vào đường hầm.

Đường hầm vốn dĩ cũng không có gì đặc biệt, mặt đất rất bình thường, sàn gỗ đã bị thiêu cháy trong cơn hỏa hoạn, nhấc phiến đá còn sót lại lên, đó chính là lối vào. Nhưng sâu vào bên trong, lại là một khoảng trời đất khác. Đúng như Đỗ Quyên đã nói, đường hầm từ Đông viện ra bên ngoài này do bốn người lần lượt đào và ghép lại mà thành, vì thế khi đi đến điểm cuối của mỗi đoạn đường, đều phát hiện con đường phía trước bị bít kín, mà huyền cơ lại nằm ở điểm nối các thông đạo với thông đạo, các điểm giao tiếp mỗi điểm mỗi khác. Có điểm ở phần đầu, có điểm ở phần giữa, lại có điểm phải nhảy lên trên, tách ngọn đèn phía trên đầu và vòm đá hình vòng cung ra, mới có thể phát hiện một lối vào khác nằm ở bên trên.

Nếu không phải đã được nói trước, e rằng lần mò tìm kiếm thì phải mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm được lối ra.

Có thể cảm thấy rõ ràng đoạn thông đạo cuối cùng chếch xéo lên phía trên, mặt đất lầy lội, ướt lép nhép.

Phía cuối có một cánh cửa bằng đá.

Tiết Thái mở ô vuông ngầm ở bên cạnh cửa theo cách Đỗ Quyên chỉ, kéo cái móc bên trong ra gõ mấy cái, rồi nói với Phan Phương một câu "Nín thở", sau một tiếng "cạch", cánh cửa đá từ từ mở ra, một dòng nước ồ ạt ào vào trong phút chốc.
 
Quyển 2 - Chương 54


May mà hai người đã có chuẩn bị trước, nín thở bơi lên phía trên, không lâu sau liền trồi lên khỏi mặt nước.

Hóa ra cửa ra của đường hầm lại là một chiếc giếng khoan.

Hai người men theo vách giếng trèo ra ngoài, bên ngoài là một khoảng sân nhỏ, trong sân đang phơi vô số tấm vải, nhìn có vẻ như đây là một phường nhuộm vải. Cửa nhà phía không xa không đóng kín, bị gió thổi một cái liền phát ra tiếng cọt cà cọt kẹt.

Phan Phương trầm giọng nói: "Ta vào trước".

Tiết Thái gật gật đầu.

Phan Phương giơ ngón tay đếm đến ba, tung người một cái, không một tiếng động chạy qua mở cánh cửa.

Ngọn đèn dầu bên trong cánh cửa chao đảo vì cơn gió đột ngột tạt vào, dưới bóng sáng mờ mờ tỏ tỏ, Tiết Thái đứng thẳng nhìn về phía trước, sắc mặt hơi bệch ra.

Máu.

Vết máu vương vãi khắp nơi.

Thi thể la liệt.

Nhìn cách ăn vận của những thi thể ấy, dường như là thợ làm công của phường dệt vải, mười bảy người, không một ai sống sót.

Phan Phương tiến lên kiểm tra vết thương của họ, kinh ngạc nói: "Những người này tuy ăn mặc như người làm công, nhưng gân cốt cứng cáp, võ công không tồi. Nhưng họ đều chết hết. Từ đó có thể thấy, kẻ giết họ có võ công cực cao".

Tiết Thái không nói gì, đi đến trước một thi thể, vừa khám xét vừa nói: "Y phục tuy cũ kỹ, chí ít cũng phải giặt ba lần trở lên, nhưng đồ mặc bên trong vẫn còn mới, chất vải là vải gai Ô Long do huyện Thừa của Giang Đông sản xuất. Đồ bên trong và đồ bên ngoài không bị sờn cho lắm, có thể thấy họ mới thay quần áo chưa lâu".

"Cũng có nghĩa là?".

"Cũng có nghĩa là...". Tiết Thái đứng dậy, nhìn những thi thể nằm trên mặt đất: "Những người này không phải là người Vệ phu nhân sắp xếp đợi ở đây ứng cứu, mà đã bị người khác đánh tráo".

"Ý ngươi nói họ là người của Khương Trọng phái đến đợi ở đây mai phục hầu gia?".

"Nếu là người của Vệ phu nhân, nàng ta đã chọn phường nhuộm vải này làm cửa ra, chắc chắn không phải là chuyện trong một hai ngày, để bưng bít tai mắt thiên hạ, cho dù nàng ta có đổi người thì cũng không thể đổi toàn bộ trong một ngày, hơn nữa bên ngoài là phố chợ, nơi này ban ngày vẫn phải mở cửa làm ăn buôn bán. Nếu đột nhiên thay người làm mới, hàng xóm tất sẽ sinh nghi. Mà những người do nàng ta sắp đặt cũng không thể đồng loạt cả mười bảy người thay áo lót trong cùng một ngày. Cho nên, căn cứ vào hai điểm này ta đoán rằng, họ tuyệt đối không phải người của Vệ phu nhân".

Phan Phương gật gù, nói: "Không sai. Có thể tắm rửa thay áo trước khi hành động, để gột bỏ tất cả manh mối có thể bị truy tìm trên người, chỉ có một loại người - sát thủ. Mà theo cách nói của triều đình Bích quốc, họ còn có tên gọi là - ám vệ.”

Tiết Thái đẩy một cánh cửa khác trong phòng bước vào bên trong, bên trong là phòng ngủ, nhìn như không có gì khác lạ, nhưng mùi máu tanh nồng nặc, Tiết Thái khụt khịt mũi, lần theo mùi máu đi đến bên cạnh giường, kéo bức màn ra - quả nhiên lại có một đống thi thể chất chồng nằm trên giường, mà hết thảy đều bị lột sạch lớp áo ngoài.

Phan Phương lại kiểm tra vết thương của họ, nói: "Đây mới là những người làm thực sự. Bọn họ đều không biết võ công. Xem ra bọn họ bị những kẻ ngoài kia giết. Chúng ta có thể đưa ra một giả thiết như thế này không? Vệ thành chủ đưa Hầu gia từ mật đạo ra ngoài thì phát hiện ra những người thợ làm này đã bị bọn ám vệ đánh tráo, cho nên Vệ thành chủ mới giết những tên ám vệ này, hộ tống Hầu gia rời khỏi đây, cho nên mới quay về dịch sở muộn?".

Tiết Thái "ồ" một tiếng: "Xem ra có vẻ là như vậy... Đỗ Quyên làm việc cẩn thận, nơi này đã là cửa ra, đương nhiên càng bình thường càng tốt. Nếu là ta, ta cũng sẽ tuyển người làm thực sự". Nói đến đây, đầu mày của hắn chau lại, lầm bầm nói: "Kỳ lạ quá...".

"Cái gì kỳ lạ...?".

"Tướng quân đếm đi". Tiết Thái chỉ vào đống thi thể.

Phan Phương đếm đi đếm lại, tổng cộng trên giường có mười tám thi thể.

"Tại sao trong này có mười tám xác chết, mà ngoài kia chỉ có mười bảy? Nếu có tất cả mười bảy tên ám vệ đến, thì không có lý gì chúng lại cởi hết quần áo trên mười tám người thợ làm này. Nếu chúng đã cởi hết mười tám bộ quần áo, thì điều đó cho thấy có mười tám tên ám vệ cần hóa trang. Vậy tên ám vệ còn thiếu đã đi đâu mất?".

"Có lý". Phan Phương gật đầu tán đồng, y trầm mặc nói: "Lẽ nào tên ám vệ đó đã biến mất cùng Hầu gia? Cũng có nghĩa là, chính hắn đã giết mười bảy người ngoài kia."

"Một lúc giết chết mười bảy người, không phải là điều mà một người võ công bình thường có thể làm được..

"Đúng vậy, lúc đầu ta vốn nghĩ rằng mười bảy tên ám vệ là do Vệ Ngọc Hành giết chết, bởi dù gì hắn cũng là một võ trạng nguyên, cao thủ đệ nhất, nhưng giờ xem ra sự việc lại cơ hồ không giản đơn như vậy...".

Tiết Thái đi vài bước, ánh mắt bỗng bị thứ gì đó thu hút, hắn thất thanh kêu "á" một tiếng.

"Sao thế?".

Tiết Thái chạy đến bên cửa sổ, mép cửa có chỗ bị nứt, vì thế ở phía góc có ngoắc lại một miếng vải, hắn lấy miếng vải xuống, thở dài nói: "Là của chủ nhân".

Đoạn Thiên La, chỉ kim tuyến, đường thêu tinh xảo độc nhất vô nhị - thiên hạ bây giờ chỉ có Cơ Anh mới có thể mặc, xứng để mặc và dám mặc chiếc áo trắng này.

Trên góc viền của miếng vải còn dính vài vết máu. Dẫu không thể xác định là máu của Cơ Anh hay máu của người khác, nhưng phát hiện này đã đủ khiến người ta kinh hoảng.

Tiết Thái cầm miếng vải, rồi lại lục soát tứ phía, cuối cùng hắn đã tìm ra được một thứ khác nằm im lìm trong một góc tường tăm tối nhất. Nếu như miếng vải khiến hắn chỉ mới chau mày, thì bây giờ nhìn thấy vật này hắn đã hoàn toàn hoàn toàn kinh sợ...

Đó là chiếc bản chỉ khâu bằng da thuộc.

Chỗ mép đã bị sờn lông, màu sắc nhạt nhòa nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra vốn dĩ nó có màu đỏ.

Nếu không phải là Tiết Thái tìm kỹ, mắt lại tinh tường, thì thật khó có thể phát hiện có một vật như thế nằm trên mặt đất.

Phan Phương tò mò hỏi: "Đây cũng là đồ vật của hầu gia?".

"Đâu chỉ có vậy". Tiết Thái lẩm nhẩm: "Ta có thể vạn lần khẳng đinh, chủ nhân thà vứt bỏ mọi thứ cũng không nỡ vứt bỏ chiếc bản chỉ này".

"Nó quan trọng đến thế à?". Phan Phương cả kinh: "Vậy...".

"Chiếc bản chỉ xuất hiện ở đây có nghĩa là...". Tiết Thái quay đầu, gương mặt nhỏ bé đến lúc này mới lần đầu tiên để lộ sự hoảng loạn - sự hoảng loạn bình thường mà một đứa trẻ tám tuổi nên có: "Chủ nhân chết rồi. Phải làm sao? Phan tướng quân, chúng ta... phải làm sao?".

Cửa Tây viện khẽ khàng đẩy ra.

Một đôi giày thêu hoa màu đỏ bước vào một cách không gấp cũng không chậm, trong tay bưng một chiếc khay, trên khay có một bát canh đặc, màu sắc xanh đen, rất kỳ lạ.

Đỗ Quyên nghe thấy tiếng động liền cau mày, cất tiếng hỏi: "Là ai? Lẽ nào ta chưa hạ lệnh không được sự cho phép không được tự ý xông vào sao?".

Người đó cười khẽ: "Là ta đây, cũng không được vào sao?".

"Dì Mai?". Sau cơn kinh ngạc, Đỗ Quyên lại càng nghi ngờ: "Sao dì lại tới đây?". Không phải bà ta bị bọn Phan Phương Tiết Thái bắt giữ rồi sao?

"À...". Dì Mai day day cổ của mình, nói: "Cú đánh đó Phan tướng quân cũng thật hiểm, ta nằm trên đất hai canh giờ mà vẫn không đứng dậy nổi. Nếu không phải có người tới cứu, lão nô có lẽ cũng chết trong phòng chứa củi rồi".

Não của Đỗ Quyên ầm một tiếng, nhận ra có gì đó không đúng.

Dì Mai là tâm phúc của nàng ta.

Là người nàng ta đã chọn ra từ trong đám tử tù khi đến Hồi thành năm đầu tiên.

Dì Mai tên thật là Thẩm Mai, vốn là thất phu nhân của đầu lĩnh sơn trại tội ác chồng chất Nhất Phách Châu, sau khi Nhất Phách Châu bị tống vào ngục, bà ta cũng bị khép vào tội chết. Đỗ Quyên sau khi chứng thực hoàn cảnh thân phận của Thẩm Mai mới cất nhắc bà ta làm nô bộc thân thiết của mình. Mà hơn bốn năm qua, người này cũng thực sự đáng tin cậy, trong tối lẫn ngoài sáng đều giúp đỡ nàng ta không ít việc.

Nhưng Đỗ Quyên bản tính thận trọng kín đáo, tuy là tâm phúc, nhưng việc của Cơ Anh lần này cũng chưa từng nói rõ với bà ta. Khi Đông viện bị cháy, chỉ là giả vờ giả vịt sai dì Mai đi cản trở Vệ Ngọc Hành. Nghe nói bà ta bị Phan Phương đánh ngã, trong lòng còn thở phào nhẹ nhõm, không ngờ bây giờ bà ta lại xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện này lại còn kỳ lạ như thế. Lẽ nào, cũng có chuyện gì xảy ra với bà ta rồi sao?

Đỗ Quyên tuy lòng đầy nghi ngờ nhưng vẫn kìm chế, lạnh nhạt nói: "Đêm nay trong phủ tình hình rối như canh hẹ, ta đúng là quên mất dì. Trở về là tốt rồi. Dì mang cái gì vào thế? Là thuốc à?".

Dì Mai cười: "Mũi của phu nhân quả nhiên vẫn thính như xưa. Không sai, lão nô nghe nói phu nhân mắc bệnh nặng, cho nên mang tới một phương thuốc lành".

Bà ta càng lại gần, mùi thuốc càng nồng, Đỗ Quyên cụp mi, gằn giọng nói: "Dì Mai khách sáo quá. Nhưng ta cảm thấy khỏe hơn rồi, bát thuốc này không cần dùng đâu".

"Ấy, phu nhân nói gì thế? Càng là lúc sắp khỏi bệnh càng nên uống trọng dược, để bệnh bị đẩy hoàn toàn ra khỏi người. Phu nhân xem, lão nô đã mang tới rồi, tốt xấu gì phu nhân cũng uống một ít đi". Dì Mai nói đoạn, nhẹ nhàng ấn vào lưng Đỗ Quyên, đưa bát thuốc đến bên môi nàng ta.

Rốt cuộc Đỗ Quyên không thể giả vờ không có chuyện gì nữa, giãy giụa quát: "To gan! Mụ dám ép ta uống thuốc?".

Dì Mai không hề nhúc nhích, trên mặt nở một nụ cười mỉm ngọt ngào thân thiết, nói: "Phu nhân bị bệnh rồi, có bệnh thì phải uống thuốc. Ngoan, đừng sợ, thuốc này rất ngọt, không đắng tẹo nào đâu...".

"Buông ra! Buông ta ra ngay... khụ... mụ! Mụ dám... khụ khụ... mụ...". Đỗ Quyên tuy giãy giụa rất mạnh, nhưng vẫn bị đổ vào miệng không ít thuốc, sự phản kháng của nàng ta dần dần biến thành tuyệt vọng: "Tại, tại sao? Khụ... tại sao... dì Mai?".

Dì Mai đổ xong chỗ thuốc đó, buông tay ra, cười híp mắt nói: "Phu nhân không phải sợ hãi thế. Không phải là thuốc độc."

"Nhưng... nhưng ta... Trời ơi!". Đỗ Quyên thét lên một tiếng, lăn từ trên giường xuống, cả thân hình bắt đầu không ngừng co quắp, thảm thiết kêu gào: "Là thứ gì? Đây là thứ gì?"

"Đây chẳng qua chỉ là một chút hình phạt ban cho ngươi mà thôi". Người nói câu này không phải là dì Mai.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn đứng bên cạnh lạnh lùng quan sát bấy giờ quay đầu lại nhìn về phía phát ra giọng nói, thì thấy Vệ Ngọc Hành bên ngoài cửa.

Gió tối hiu hiu thổi, ánh sáng và bóng tối loang lổ, hắn đứng ở cửa ra vào, áo bay phấp phới, mơ hồ như tiên khách trên trời.

Lúc này, hắn lại xuất hiện bằng cách đó, thực sự kỳ dị đến cực điểm. Nhưng Khương Trầm Ngư giờ đã không còn kinh ngạc, hay nói cách khác, thiên hạ này đã chẳng còn điều gì có thể khiến nàng ngạc nhiên được nữa. Nàng cứ thờ ơ nhìn như thế nhìn Vệ Ngọc Hành anh tuấn hào sảng văn nhã với nụ cười nhạt trên môi, cũng nhìn Đỗ Quyên không ngừng rên rỉ đau đớn vạn phần nằm trên mặt đất.

Đỗ Quyên dùng tay chống đất nhỏm nửa thân trên dậy, mặt ngoảnh về hướng của Vệ Ngọc Hành, nói với vẻ đầy kinh sợ: "Ngọc Hành? Chàng về rồi? Là, là, là chàng sai dì Mai ép ta uống bát thuốc đó? Tại sao? Tại sao? Xảy ra chuyện gì? Tại sao phải trừng phạt ta?".

Vệ Ngọc Hành im lặng nhìn nàng ta một lúc, không nói một lời, chỉ rút một thứ từ trong người ra, quẳng xuống trước mặt Đỗ Quyên.

Mảnh vải màu trắng muốt lượn trong không trung, rồi lại từ từ rơi xuống, không một tiếng động.

Nhưng mũi Khương Trầm Ngư đã ngửi thấy một mùi hương quen thuộc - Phật thủ cam.

Đỗ Quyên đưa tay sờ sờ lên mảnh vải, rồi rụt lại một cách đầy kinh sợ, ngừng một lúc, lại run run giơ tay nắm chặt vật đó, mở ra. Đó là một chiếc trương bào, phía sau lưng bị rách một lỗ lớn, còn điểm những vệt máu tươi.

Trong phút chốc mắt Khương Trầm Ngư ướt nhòa.

Còn Đỗ Quyên đã thét lên: "Đây là y phục của Kỳ Úc hầu! Ngài thế nào rồi? Ngài thế nào rồi? Không phải ta bảo chàng hộ tống ngài đi khỏi đây sao? Tại sao áo của ngài lại ở đây, hơn nữa còn có mùi máu? Không! Không chỉ thế, trong máu còn có mùi của độc quỳ, đã có chuyện gì?".

"Rất đơn giản". Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói bằng một giọng điệu lạnh lùng tàn khốc: "Ta giết hắn rồi. Còn đây là chiến lợi phẩm của ta".

"Không thể nào!". Câu nói này đồng thời thốt ra từ miệng hai người.

Một là Đỗ Quyên. Một là Khương Trầm Ngư.
 
Quyển 2 - Chương 55


Vệ Ngọc Hành bật cười nham hiểm, càng cười càng lớn tiếng, cuối cùng ngửa cổ cười một tràng dài, nói với một giọng điệu gần như điên cuồng: "Năm năm! Năm năm... ta đợi ngày hôm nay, đã đợi suốt năm năm rồi! Ha ha ha! Cơ thị, ta đợi chúng sụp đổ, đợi đã năm năm rồi!".

Khương Trầm Ngư rốt cuộc vẫn không kìm được lên tiếng: "Tại sao?".

"Tại sao à?". Vệ Ngọc Hành quay đầu qua, nhìn nàng với vẻ mặt rất kỳ quái: "Đương nhiên là vì...".

Một canh giờ trước...

Ngọn lửa lớn hừng hực bị tấm vách ngăn của đường hầm cản lại bên trên.

Đường hầm chật hẹp vì ngọn lửa mà trở nên nóng bức, Cơ Anh đi theo Vệ Ngọc Hành một lúc bỗng ngừng bước, dường như có điều gì đang phải suy nghĩ.

Vệ Ngọc Hành quay đầu lại: "Sao vậy?".

Ánh mắt Cơ Anh sững sờ, cuối cùng cười cười nói: "Không có gì, đi tiếp thôi".

Vệ Ngọc Hành "hừ" một tiếng, đi đến cuối đường hầm lúc sắp mở cửa, Cơ Anh bỗng nói; "Đợi đã...", vẫn chưa kịp nói hết câu, một làn khói trắng từ bên ngoài cửa xộc vào, Vệ Ngọc Hành đứng phía trước thì không sao, nhưng Cơ Anh ngay lập tức lại giống như bị người ta thít chặt cổ, cả gương mặt trắng bệch ra, co rúm ngã xuống.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng nhìn chàng.

Cơ Anh ngã trên mặt đất, trên trán rịn những hạt mồ hôi to bằng hạt đậu, trong nháy mắt, toàn thân ướt đẫm. Chàng mở to mắt, lồng ngực phồng lên xẹp xuống dữ dội, xem ra việc hít thở cực kỳ khó nhọc.

Vệ Ngọc Hành nói: "Mùi của loại khói này thế nào? Đối với người thường nó vô hại, nhưng với người có bệnh tim, lại là loại chí độc".

Một tay Cơ Anh ôm chặt lấy lồng ngực, một tay duỗi ra phía trước, năm ngón tay xòe ra hết cỡ dường như muốn tóm thứ gì. Những dẫu là lúc khốn đốn như thế này, chàng vẫn không rên rỉ kêu thét như những người bình thường, thậm chí có thể nói chẳng thốt ra một liếng nào.

Trong mắt Vệ Ngọc Hành ánh lên vẻ thương xót, nhưng khoảnh khắc sau lại chuyển thành căm hận: "Đến lúc này rồi ngươi còn phải kiên cường sao? Chà chà, Cơ Anh à Cơ Anh, ngươi quả nhiên không hổ là kẻ nhẫn nhịn nhất mà ta từng biết, không, ngươi không phải là người, ngươi căn bản là con rùa rụt đầu. Gặp chuyện thì rụt cổ lại, không dám phản kháng một tiếng, đấy chính là ngươi!". Đột nhiên, hắn bước lên trước vài bước, tóm lấy vạt áo Cơ Anh, kéo chàng thật mạnh, nghiến răng nói từng chữ một: "Trả, Cơ, Hốt, lại, cho, ta!".

Trả Cơ Hốt lại cho ta...

Trả Cơ Hốt lại cho ta...

Sáu chữ quẩn quanh hồi lâu trong đường hầm nhỏ hẹp.

Làn khói trắng dần dần tản mát đi hết.

Khuôn mặt của Cơ Anh càng lúc càng trắng xanh, đôi đồng tử bắt đầu mờ đục, lúc này dẫu muốn nói gì cũng không thể nói ra được.

"Trả cho ta... trả cho ta... ngươi mang trả Cơ Hốt lại cho ta..". Tay Vệ Ngọc Hành bắt đầu run bần bật, xé giọng thét:

"Các ngươi vì vinh hoa phú quý, đang tâm chia cắt ta và Hốt Nhi, đưa nàng vào hoàng cung. Ta vì muốn gặp nàng một lần đã phải cố hết sức thi đậu võ trạng nguyên, vốn tưởng rằng nếu có thể làm ngự tiền thị vệ của đấng kim thượng, dẫu cho đời này chẳng thể thành đôi thì chí ít cũng có thể bảo vệ nàng, đến buổi đại lễ cũng có thể nhìn mặt nàng từ xa. Ta chỉ mong có thế, nhưng đến cơ hội này các người cũng không cho ta, ngầm xúi giục tả tướng chọn ta làm con rể, muốn cắt đứt nỗi nhớ nhung của ta dành cho Hốt Nhi! Sao ta có thể cho các ngươi thỏa nguyện, cho dù ta lấy người khác, ta cũng không lấy nữ nhân mà các ngươi sắp đặt. Cho nên, ta thà dựa dẫm vào hữu tướng, lấy đứa con riêng của ông ta còn hơn, nhưng các ngươi vẫn không buông tha cho ta, cấu kết với tả tướng biếm chức ta, đẩy ta vào chốn rách nát sơn cùng thủy tận này chờ đợi liền bốn năm trời... Vệ Ngọc Hành ta có tài có mạo, văn võ song toàn, đối với Hốt Nhi lại càng một khối tình si, trời đất có thể chứng giám, dựa vào tài hoa của ta, phong hầu bái tướng cũng chưa chắc là không thể, tại sao? Tại sao đến nửa cơ hội các ngươi không chịu cho ta? Tại sao lại phải chia rẽ ta và Hốt Nhi? Tại sao cứ phải gả nàng cho hoàng đế? Ta, ta, ta hận các ngươi...".

Vệ Ngọc Hành nói đến đây, thái độ kích động bỗng biến thành bình tĩnh, nhưng dưới sự bình tĩnh này lại ẩn chứa một sự căm hận đáng sợ hơn cả giận dữ: "Cho nên, ta đã tự thề với lòng mình, ta muốn Cơ gia các ngươi không được chết tử tế. Ta muốn mọi mưu tính của các ngươi đều hóa thành công cốc. Ta muốn ngươi chết. Cơ Anh".

Vẻ mặt của Cơ Anh vô cùng bi thương.

Đó là một nỗi bi thương vì hòa trộn quá nhiều cảm xúc cho nên không thể hiểu nổi.

Đó cũng là một nỗi bi thương vì thấu hiểu mọi thứ nhưng lại không thể làm gì.

Nỗi bi thương đó rất sâu nặng, rất đậm đà, nhưng lại là vì người khác, mà không phải vì bản thân chàng.

Cuối cùng, chàng chỉ có thể nhắm nghiền hai mắt.

Vệ Ngọc Hành lại bị kích thích bởi động tác này của chàng, hắn thô bạo kéo chàng ra khỏi mật đạo, vừa đi vừa nói: "Ngươi tưởng ngươi đứng ngoài sự việc được sao? Ngươi tưởng ngươi không phản kháng là xong à? Nói cho ngươi biết, Cơ Anh, ngươi muốn chết, đâu có dễ như thế! Người đâu!".

Lập tức rất nhiều người ăn vận như người làm công nhưng thân thủ phi phàm xông ra từ trong phường nhuộm vải, một người trong đó chạy lên trước, ôm quyền khom lưng nói: "Chủ nhân, tất cả đều chuẩn bị xong rồi".

"Ừm". Vệ Ngọc Hành gật gật đầu, vứt Cơ Anh lên chiếc ghế nằm chính giữa sân. Cơ Anh đã không còn chút khả năng phản kháng nào, nhưng chúng vẫn không yên tâm, tiến lên trói nghiến tay chân của chàng lại.

Cơ Anh mở mắt he hé, hơi thở yếu ớt, nhưng ánh mắt mát lạnh, giống như nước suối dưới trăng đêm, ôn hòa mà linh lợi.

"Thắc mắc tại sao ta không giết ngươi à?". Vệ Ngọc Hành đi đến đối mặt với Cơ Anh, dán mắt nhìn chàng từ trên cao.

Cơ Anh nở một nụ cười nhàn nhạt. Trong nụ cười không hề có ý khinh miệt, châm biếm, tựa như lúc này người đang bị trói nghiến, đau đớn đó không phải là chàng. Nhưng trong mắt Vệ Ngọc Hành, không còn nghi ngờ gì nữa nụ cười này mang ý mỉa mai.

Ánh mắt hắn sa sầm, lạnh giọng nói: "Chết đến nơi rồi, ngươi có lời gì muốn nói không?".

"Chết ư?". Cơ Anh thở dốc, nụ cười càng lúc càng tươi rói: "Tại sao ta phải chết? Hay nói cách khác, sao ta có thể chết được?".

Vệ Ngọc Hành rút ra một thanh chủy thủ, kề lên cổ chàng, hung hăng nói: "Ta chỉ cần gạt nhẹ một cái là ngươi đã bỏ mạng tại chỗ, ngươi còn cảm thấy ngươi không thể chết nữa hay không?".

"Ta chết rồi, ai đưa cho ngươi Tứ quốc phổ?".

Câu nói này vừa bật ra giống như một cú sét đánh trúng người Vệ Ngọc Hành, hắn choáng váng, mí mắt không ngừng giật giật.

Cơ Anh phát âm rất khó khăn, nhưng thần tình xem ra lại càng nhẹ nhõm hơn: "Nếu ngươi không mang được Tứ quốc phổ về gặp Khương Trọng, lão sẽ buông tha ngươi sao?".

Vệ Ngọc Hành ấn mạnh tay, lưỡi dao sắc lập tức cứa vào thịt Cơ Anh, dòng máu đỏ tươi từ từ chảy ra.

Lông mi Cơ Anh hơi run rẩy, nhưng chàng vẫn không phát ra bất cứ tiếng rên rỉ nào.

"Nếu ngươi đã biết, thì thức thời một chút, mau nộp Tứ quốc phổ và cả Liên thành bích ra đây!".

"Các ngươi không đến nhà ta tìm sao?".

"Hừ, nếu bọn ta tìm thấy, ngươi còn có thể kéo dài chút hơi tàn ở nơi này sao? Trên người ngươi hả?". Vệ Ngọc Hành miệng nói tay lục soát. Nhưng trong người Cơ Anh chẳng có thứ gì ngoài một chiếc bản chỉ.

Vệ Ngọc Hành nhìn chiếc bản chỉ chẳng đáng tiền đó một cái rồi tiện tay vứt đi.

Chiếc bản chỉ vạch một đường cong giữa không trung, bay qua cửa sổ vào trong nhà, biến mất tăm.

Ánh mắt Cơ Anh lo lắng, rồi chàng nhắm mắt lại.

Nếu như Vệ Ngọc Hành có thể tinh tế hơn một chút, hắn sẽ phát hiện hai bàn tay Cơ Anh đang run rẩy, nhưng cho dù nhìn thấy, hắn cũng chỉ coi đó là phản ứng bình thường do cơn đau đớn trong cơ thể gây ra nên không hề chú ý.

"Không ở trên người... cũng không ở trên thuyền sứ đi Trình quốc, vậy chắc cất giấu ở chỗ khác?".

Cơ Anh phá lên cười ha ha, vừa cười được hai tiếng thì chuyển thành ho sặc sụa, bây giờ, không chỉ cổ mà trong miệng cũng ộc máu.

"Nói, ngươi cất hai thứ ấy ở chỗ nào? Chỉ cần ngươi nói, ta sẽ để ngươi bớt đau đớn".

Cơ Anh nhìn Vệ Ngọc Hành chằm chằm, cuối cùng mở miệng nói: "Nhục hình vô dụng đối với ta".

"Ngươi!". Vệ Ngọc Hành nổi giận, thu đao lùi về phía sau vài bước, đánh mắt ra hiệu cho bọn tay sai.

Hai tên tay sai bước lên phía trước, một tên cầm một cơ quan có hình ống trụ tròn trong tay, một tên khác cầm mộ chiếc túi vải, chụp túi vải lên đầu Cơ Anh rồi khởi động cơ quan, một làn khói trắng chui trọn vào trong chiếc túi vải. Cơ thể của Cơ Anh lập tức co rúm một cách dữ dội.

Vệ Ngọc Hành chậm rãi nói: "Mùi của loại khói này rất khó chịu phải không? Bây giờ có phải ngươi cảm thấy có trăm ngàn lưỡi dao đang khoét vào tim ngươi đúng không? Lại giống như vài trăm con thỏ đang nhảy thình thịch trên đó? Mỗi lần hít vào là một lần giày vò với ngươi, nhưng không hít thở thì ngươi sẽ chết... Cơ Anh, thứ này được chuẩn bị cho riêng ngươi, ngươi hãy trải nghiệm cho kỹ đi".

Một ống khói trắng phun xong, tên tay sai gỡ chiếc túi vải ra, để đầu của Cơ Anh lộ ra, chỉ thấy trong mắt chàng toàn tơ máu, trên gương mặt chỗ trắng chỗ đỏ, các cơ thịt đau đớn rúm ró lại, bộ dạng rất đáng sợ.

"Thế nào? Vẫn không chịu khai à? Không sao, ta đã chuẩn bị tổng cộng hai mươi tám ống khói, hai ống vừa mới dùng ban nãy mùi còn nhẹ, những ống phía sau càng dùng càng nồng, ngươi có thể thưởng thức từng ống từng ống một, cho đến khi ngươi chịu xin dừng lại".

Cơ Anh thở hổn hển rất lâu, cuối cùng mở miệng, nhưng chỉ nói một chữ: "Phì".

Khóe mắt Vệ Ngọc Hành giật giật, giậm chân nói: "Người đâu! Dùng hình tiếp cho ta! Phun thật đặc vào!".

Hai, ba tên tay sai thay nhau luân phiên tra tấn.

Phun đến ống thứ sáu thì Cơ Anh ngất xỉu.

Vệ Ngọc Hành lạnh lùng ra lệnh: "Dội nước vào hắn".

Một tên tay sai bưng một chậu nước tới, hai tên bên cạnh Cơ Anh đều đứng tránh ra nhường đường, để tiện cho tên kia hắt nước. Nhưng trong khoảnh khắc chúng tách ra, tên tay sai đột nhiên trở tay hắt cả chậu nước lên người chúng; nhân lúc hai người né tránh liền phóng hai lưỡi dao găm về phía chúng, chuẩn xác, nhanh như cắt, dứt khoát, hai tên tay sai đến kêu cũng không kịp kêu liền đổ gục xuống.

Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, một bóng đen như con rắn nhảy lên đầu hắn, hắn đành phi thân lùi về phía sau, chính trong tích tắc hắn kinh sợ thối lui, chỉ nghe thấy ting ting ting... năm tiếng liên tiếp, tất cả những người bên cạnh đều ngã xuống.

Đây là loại võ công đáng sợ dến nhường nào?

Vệ Ngọc Hành nheo mắt lại, tư thế vốn dĩ chuẩn bị nhảy lên cũng ngừng lại, cảnh giác nhìn tên tay sai kia, người đó lại chẳng thèm liếc hắn lấy một cái, thu roi lại rồi ôm lấy Cơ Anh, nhanh chóng điểm mấy huyệt đạo trên người chàng, trầm giọng nói: "Xin lỗi, thuộc hạ đã đến muộn. Công tử".

Cơ Anh vốn đã ngất xỉu nay mới từ từ mở mắt, nhìn người đó, khóe môi nhếch lên, dường như đang cười, nhưng lại càng yếu ớt hơn: "Ngươi quả nhiên chưa bao giờ làm ta thất vọng, Chu Long".

Người đó chính là thị vệ theo sát bên chàng - Chu Long!

Vệ Ngọc Hành chầm chậm lùi lại hai bước, ánh mắt đảo nhanh quanh bốn phía một vòng: "Tại sao ngươi có thể tìm được nơi này".

Chu Long đáp: "Đánh dấu".

"Không thể! Dọc đường ta đều chú ý quan sát, Cơ Anh không thể có bất cứ cơ hội nào đánh dấu cho ngươi!".

Tựa như để hắn tuyệt vọng, hoặc là để tấn công hắn thêm một bước nữa, Chu Long tiếp tục trả lời: "Dấu ấn của công tử, không phải là ký hiệu, mà là mùi".

"Cái gì?". Sau cơn kinh ngạc, Vệ Ngọc Hành bỗng hiểu ra: Trên người Cơ Anh thoang thoảng mùi Phật thủ cam, người bình thường ngửi chỉ cảm thấy vị công tử này bản tính phong lưu ưa sạch sẽ, nào ngờ kỳ thực lại có dụng ý khác. Hơn nữa, cho dù chú ý đến mùi hương này, nhưng vì nó rất nhạt rất nhẹ, đi qua là tan, sao có thể trở thành manh mối cho người ta phân biệt?

Vị Chu Long này rốt cuộc là nhân vật như thế nào? Không những võ công cao cường đến mức đáng sợ, đến khứu giác cũng vượt xa giới hạn của con người.

Vệ Ngọc Hành lại lùi về phía sau thêm một bước, hai tay dần dần nắm chặt, so với đối thủ trước mặt, nếu bây giờ hắn ra tay thì chỉ có vài phần thắng.
 
Quyển 2 - Chương 56


Cơ Anh nhìn thấu tâm tư của hắn, bỗng nói: "Ngươi không phải là đối thủ của Chu Long".

"Vì sao?".

"Vì là ta nói". Cơ Anh nằm trong lòng Chu Long, tuy yếu đến độ dường như có thổ chết bất cứ lúc nào, nhưng giọng nói vẫn cực kỳ kiên định: "Ta - Cơ Anh nói - ngươi không phải là đối thủ của hắn".

Hai chữ "Cơ Anh" thốt ra, cả thế giới bỗng nhiên chìm xuống, không khí cũng vì hai chữ này mà trở nên đặc quánh đến dị thường.

Người trước mặt mang danh Bạch Trạch, sinh ra trong gia đình quý tộc của cường quốc.

Đến đệ nhất trí giả đời nay là Ngôn Duệ cũng nhận xét là tuyệt thế tài tuấn, "Qua mười năm nữa, người thiên hạ chỉ biết đến Kỳ Úc hầu mà không biết lão phu".

Là nhân vật tối thượng trở tay làm mây lật tay làm mưa, nhất cử nhất động đều ảnh hưởng đến thời cuộc.

Mà nay, chàng nói một câu "ngươi không bằng hắn", trong chốc lát dường như cả thế giới đều đứng về phía chàng, khiến kết luận của chàng trở thành một sự thực chắc như đinh đóng cột, không thể mảy may lay động. Tay Vệ Ngọc Hành cứ run rẩy không tuân theo sự khống chế của hắn.

"Còn nữa". Cơ Anh lại bổ sung thêm một câu: "Kẻ thất bại bất tài như ngươi, căn bản không đủ tư cách cưới tỉ tỉ của ta. Không, đến tư cách nhìn tỉ ấy cũng không có".

Vệ Ngọc Hành bị chọc giận đến cực điểm, hét vang một tiếng rồi nhào qua.

Chu Long một tay ôm Cơ Anh, một tay múa cây roi dài, nhẹ nhàng tránh được. Thực ra Vệ Ngọc Hành thân là võ trạng nguyên năm Gia Bình thứ hai mươi sáu, võ công cũng không kém Chu Long là bao. Mà Chu Long lại phải ôm Cơ Anh, bị vướng víu, tình thế rất bất lợi, nhưng vì Cơ Anh cố ý chọc giận Vệ Ngọc Hành khiến cho lâm trí hắn rối loạn.

Cũng vì thế, không lâu sau, trên người Vệ Ngọc Hành đã trúng ba roi, áo quần bị rách, hắn thở hồng hộc, lại lùi về phía sau, thần tình vốn dĩ kích dộng cũng dần dần bình tĩnh trở lại.

Cơ Anh thầm than hỏng rồi, tiếp theo liền nghe Vệ Ngọc Hành đưa ngón tay lên miệng huýt một tiếng sáo rất vang.

Cơ Anh lập tức nói: "Mau chạy".

Nhưng Chu Long vừa mới ôm chàng quay người, thì nhìn thấy bên ngoài tường bao của phường nhuộm vải mọc ra một vòng cung tiễn thủ đen kịt. Hóa ra Khương Trọng hành sự cẩn thận, đánh tráo một đám tay sai còn chưa đủ, lại còn sắp xếp thêm cung tiễn thủ ngầm mai phục. Bấy giờ bọn cung tiễn thủ nghe thấy hiệu lệnh, lũ lượt hiện thân, đầu mũi tên lạnh lẽo hướng thẳng về phía hai người đang ở giữa sân.

"Ngươi tưởng có một trợ thủ đến cứu là có thể trốn được sao?". Vệ Ngọc Hành giơ một tay lên, lập tức có một cung tiễn thủ nhảy xuống khỏi tường bao đưa cung tên của mình cho hắn. Hắn đón lấy cung tên, nheo mắt nhắm thẳng vào Cơ Anh, trầm giọng nói: "Hôm nay, cho dù ngươi có bản lĩnh thông thiên, cũng đừng mơ bước ra khỏi nơi này!".

Đối diện với vô số mũi tên, Cơ Anh chẳng hề có chút sợ hãi, chỉ nhếch khóe môi lên, khẽ khàng nói ba chữ: "Tứ quốc phổ".

Sắc mặt Vệ Ngọc Hành đột ngột trắng bệch.

Mà trong khoảnh khắc đó, Chu Long ôm theo Cơ Anh tung thân vọt qua tường bao, đá hai tên cung tiễn thủ, phá vòng vây thoát ra ngoài.

Đám cung tiễn thủ đang định bắn tên, Vệ Ngọc Hành vội vàng quát: "Bắt sống".

Đám tiễn thủ sợ đến mức vội vàng bắn chệch đi, những mũi tên vốn dĩ nhằm chuẩn vào Cơ Anh cũng lần lượt bắn lệch khỏi mục tiêu ban đầu, bắn sượt qua người Chu Long rơi xuống đất.

Vệ Ngọc Hành hận đến mức nghiến răng ken két, trọng binh trong tay, người đông như thế, chỉ vỏn vẹn có hai người mà đành bó tay, đây đúng là chuyện tức tối và bực bội biết bao! Đáng hận là Tứ quốc phổ ở đâu vẫn chưa tra ra, Cơ Anh còn chưa thể chết. Cho nên Cơ Anh liền dựa vào điểm này để nghịch chuyển tình thế, đáng ghét! Đáng ghét!

Mũi tên trong tay rung rung, chỉ cần buông hai ngón tay ra là có thể khiến thiên hạ đệ nhất danh thần bỏ mạng tại chỗ ngay lập tức.

Nhưng, lại không thể bắn được... Đáng ghét! Đáng ghét!

Trên bức tường phía bên kia, Chu Long đang định nhảy xuống, Cơ Anh bỗng "a" một tiếng, hai tay vô thức giơ về phía sau.

"Sao vậy?".

"Cái bản chỉ..."

"..."

Chu Long trong lòng vạn phần không muốn, nhưng cuối cùng vẫn quay ngược trở lại, ngắm thật chuẩn cửa sổ rồi nhảy vào bên trong.

Vệ Ngọc Hành vốn dĩ đã chuẩn bị tâm ý đổ hai người chạy thoát nào ngờ hai người lại quay lại, ngón tay co một cái, dây cung đã căng đến cực điểm, không còn chịu sự khống chế nữa mà trượt qua ngón tay, đẩy mũi tên bay ra, xé rách không khí.

Không sai không lệch, nhằm trúng lưng của Cơ Anh.

Còn Chu Long bấy giờ vừa mới nhảy qua khung cửa sổ, "soạt" một tiếng, tấm trường bào của Cơ Anh đã bị mắc vào gỗ, Chu Long không kịp nghĩ ngợi, thuận tay kéo một cái, dứt khoát cởi cả chiếc áo ra, vứt ra ngoài cửa sổ.

Bạch bào tung trong gió, giống như một bức màn che kín cửa sổ.

Đợi đến khi bức màn rớt xuống, đám cung tiễn thủ lũ lượt xông vào trong nhà, chỉ thấy trong nhà trống không, không có Chu Long, cũng chẳng có Cơ Anh.

Vệ Ngọc Hành nhặt chiếc áo nhuộm máu đó lên, sắc mặt cực kỳ khó coi, một lúc lâu sau mới tức giận nói: "Chúng chạy chưa xa được đâu. Đuổi theo cho ta!".

Bọn cung tiễn thủ vội vàng đuổi theo.

Tên cung tiễn thủ đưa cung tên cho hắn ban nãy chần chừ một lát, rồi bước lên nói: "Vệ thành chủ...".

"Chuyện gì?".

"Mũi tên có độc".

"Độc?". Vệ Ngọc Hành giật mình kinh sợ, theo bản năng nhìn xuống cây cung trong tay.

"Vâng. Thiên hạ kịch độc, gặp máu thì tắt thở, trúng độc lập tức chết, vô phương cứu chữa".

Trái tim Vệ Ngọc Hành đập thình thịch, giọng nói trở nên gấp gáp: "Cũng có nghĩa là...".

"Bây giờ Kỳ Úc hầu đã là một người chết rồi". Cung tiễn thủ cúi gằm mặt, trong giọng nói pha lẫn sự thương xót.

Mưa đã tạnh từ lâu, nhưng tiếng gió nghẹn ngào, giữa đất trời là khung cảnh tiêu điều xơ xác.

Nửa canh giờ sau...

Tiết Thái và Phan Phương đi ra khỏi đường hầm, họ nhìn thấy phường nhuộm vải đã người vắng nhà không.

Tiết Thái khi tìm thấy chiếc bản chỉ trong xó nhà lòng đã đầy tuyệt vọng, muốn tiếp tục truy tìm tung tích nhưng chẳng có lấy chút manh mối; muốn từ bỏ nhưng lại không cam tâm. Đang lúc bó tay hết cách, bên cửa sổ đột nhiên phát ra một tiếng "cạch" rất nhỏ.

Phan Phương lập tức chạy ra ngoài nhanh như một tia chớp.

Còn Tiết Thái ngây ra một lát rồi cũng chạy theo ra ngoài. Họ phát hiện, hóa ra là một viên đá nhỏ bị người ta ném vào cửa sổ, không bị văng ra sau khi va chạm như thông thường mà bị kẹt vào giữa phần gỗ.

Bốn phía một màu đen kịt, mưa cũng dần tạnh, ngoài tiếng gió ra không có một thứ gì khác.

Là ai đang ngầm mai phục? Tại sao lại phải ném đá để nhắc nhở hai người về sự tồn tại của hắn? Để cảnh báo? Hay là uy hiếp?

Tiết Thái đang lúc nghi nghi hoặc hoặc, chỉ nghe thấy "cạch" một tiếng nữa, lại là một viên đá bất ngờ văng đến trước mặt họ rồi rơi xuống đất.

Tiết Thái và Phan Phương đối mắt nhìn nhau, đồng loạt lao như bay về phía viên đá đó.

Cứ như vậy, viên đá ấy luôn xuất hiện trong thời khắc mấu chốt, giống như dẫn dường đưa hai người rời khỏi phường nhuộm vải, thậm chí dẫn qua phố chợ, càng đi lại càng hẻo lánh. Trước đó Tiết Thái từng hạ lệnh đóng cửa thành phong tỏa đường ra, cấm người ra vào thành. Nhưng người ném đá này lại biết một con đường khác men theo bờ sông, xuyên qua bụi gai lại có một bức tường đứt gãy không ai coi sóc, nhảy qua tường là đã ở bên ngoài thành.

Hai người đuổi theo đến đây lại càng tò mò về thân phận của người thần bí đó, nhưng người đó võ công cao cường đến mức khó mà tưởng tượng nổi, Tiết Thái vì tuổi còn nhỏ, đuổi đến đoạn về sau thì thở hổn hển, dần dần không gắng gượng được nữa, còn Phan Phương phải chăm sóc cho hắn, đương nhiên cũng không đuổi kịp nữa.

Cuối cùng, Tiết Thái dừng bước, ngồi khụy xuống đất, vừa thở phì phò vừa nói: "Phan, Phan tướng quân, ngài không cần quan tâm đến ta. Đuổi, đuổi theo hắn mau! Đây là manh mối duy nhất hiện nay của chúng ta!".

Phan Phương bối rối: "Nhưng một mình ngươi...".

"Tướng quân yên tâm, người đó nếu có ý hại chúng ta thì đã ra tay từ lâu rồi. Hắn dụ chúng ta ra đây, tất có ý đồ, tướng quân mau mau đi xem xem hắn rốt cuộc muốn gì đi".

Phan Phương xưa nay không phải là một người hay lằng nhằng, vì thế chỉ thoáng nghĩ qua rồi gật đầu, nói: "Được, vậy ngươi nhớ cẩn thận đấy". Lại nghĩ thêm gì đó rồi lấy trong người ra một cây pháo hoa: "Nếu gặp nguy hiểm, nhớ đốt pháo báo hiệu".

Tiết Thái đưa tay nhận lấy, Phan Phương liền đi khỏi, chỉ nhảy mấy bước là đã biến mất ở phía trước.

Tiết Thái nhìn cây pháo hoa trong tay, ngồi xuống một lúc, đợi hơi thở bình ổn trở lại rồi đột nhiên nói: "Ông có thể ra rồi đó, Chu Long".

Một bóng xám đột ngột hiện ra giữa không trung, đáp xuống bên cạnh hắn tựa như một làn khói. Người đó đứng yên, đúng là Chu Long phía trên lông mày bên trái có một hình con rồng ba móng màu đỏ.

Tiết Thái nhíu mày nói: "Ta nhìn thấy viên đá trên khung cửa là đã đoán ra ông. Ông đã ở đây, lẽ nào... ông biết tung tích của chủ nhân?".

Chu Long gật gật đầu, nói một câu "Đi theo ta" rồi quay người dẫn đường.

Tiết Thái không nhịn được hỏi: "Tại sao phải dẫn chúng ta ra khỏi thành? Còn cố ý vòng vèo đưa ám hiệu ta phải đuổi Phan Phương đi?".

"Bởi vì chủ nhân dặn dò phải gặp ngươi trước, sau đó một lúc mới dẫn Phan tướng quân đến".

Tuy Tiết Thái thấy kỳ lạ nhưng không hỏi thêm nữa, cùng Chu Long đi lên phía trước, đoạn đường này càng đi lại càng cao, họ đi lên núi.

Cơn mưa lớn lúc trước khiến cho con đường núi ướt lầy lội. Tiết Thái bước thấp bước cao, từ đầu đến cuối không hé răng than khổ lấy nửa tiếng, vì thế, khi Chu Long dừng lại, trong ánh mắt của hắn là vẻ tán thưởng.

"Ngươi đợi một lát". Nói đoạn, Chu Long tung người nhảy lên trên một cái cây lớn. Những hạt mưa từ trên cành lá rào rào rơi xuống, Tiết Thái còn chưa kịp né thì đã thấy Chu Long ôm một người nhảy xuống.

Đôi mắt Tiết Thái trong phút chốc đỏ hoe, cuống lên gọi: "Chủ... nhân".

Người trước mặt chỉ mặc áo trong, mái tóc ướt đẫm lòa xòa dính trên người như một con rắn, hơi thở yếu ớt, dường như có thể chết bất cứ lúc nào, đâu có giống chủ nhân của hắn, Kỳ Úc hầu cười nhạo phong vân, quyền nghiêng triều dã. Danh thần Bạch Trạch nhất cử nhất động đều khiến thế nhân ngưỡng mộ. Công tử tuyệt thế tài hoa vô song, phong độ xuất trần - Cơ Anh.

Tuy Cơ Anh vẫn chưa chết như hắn tưởng tượng, nhưng chàng như thế này thì càng khiến người ta cảm thấy đau lòng hơn là chết.

Tiết Thái vội vàng bước lên nắm lấy một cánh tay của chàng, phát hiện cả cánh tay đó đều chuyển sang màu xanh đen. Hắn trợn trừng mắt, cuống quýt hỏi: "Là ai hại chủ nhân?".

Hàng mi của Cơ Anh run rẩy vài cái, đôi mắt vốn dĩ nhắm nghiền từ từ hé ra, nhìn thấy hắn thì ánh lên chút vui mừng: "Ngươi đến rồi à?".

"Bây giờ ngài không tìm Giang Vãn Y mà lại sai Chu Long tìm ta? Ngài là heo à?". Tiết Thái vừa mắng vừa quay người, đang định đi tìm Giang Vãn Y thì bàn tay lạnh ngắt, hóa ra là Cơ Anh kéo tay hắn.

Tay của Cơ Anh không còn chút sức lực, hắn chỉ cần giật nhẹ một cái là có thể vùng ra.

Thế nhưng, bị bàn tay yếu ớt vô lực như thế kéo lại, Tiết Thái cứng đờ người ngay lập tức và chẳng thể nhúc nhích nổi bước chân.
 
Quyển 2 - Chương 57


Hắn quay đầu lại, nhìn thấy Cơ Anh sắc mặt vàng vọt không chút sinh khí, nhưng vẫn mỉm cười với hắn, một nỗi bi ai bất lực trào lên, hắn chỉ có thể lý nhí nói một câu: "Ngài ấy...".

Cơ Anh dùng một cánh tay còn lại nhẹ nhàng rẽ vạt áo của mình ra, Tiết Thái hít vào một hơi lạnh, chỉ nhìn thấy vị trí gần tim của chàng, một đầu mũi tên lộ ra, mặt cắt bằng thép tinh khiết mài bóng ánh ra tia hàn quang, chiếu lên mắt người thật đau đớn. Còn lồng ngực của Cơ Anh cũng đã biến thành màu đen giống như cánh tay của chàng.

Mũi tên đó không chỉ xuyên qua cơ thể chàng, mà đầu mũi tên còn có độc, độc tố đã hoàn toàn xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, thần tiên khó cứu, bây giờ tuy chàng vẫn còn sống nhưng cũng chẳng qua là kéo dài chút hơi tàn mà thôi.

Vừa nghĩ đến người trước mặt có thể chết bất cứ lúc nào, cả người Tiết Thái liền run lên bần bật.

Nhìn thấy bộ dạng này của hắn, Cơ Anh lại cười cười: "Ta còn tưởng mình còn năm năm nữa, cho nên có nhiều thứ còn chưa dạy cho ngươi, có nhiều việc còn chưa làm được. Xin lỗi".

"Ta không cần ngài dạy!". Tiết Thái oán hận cụp mắt xuống, giọng nói gần như nức nở: "Ngài có gì ghê gớm chứ, cái gì ngài làm được ta đều biết cả, cái gì ngài không biết ta cũng biết! Qua mấy năm nữa, chắc chắn ta còn giỏi hơn ngài! Ngài... ngài... ngài dựa vào cái gì mà chết vào lúc này? Dựa vào cái gì mà không cho ta cơ hội vượt qua ngài, đồ giảo hoạt! Ngài quá giảo hoạt!".

Cơ Anh chầm chậm giơ tay lên, sờ sờ mái đầu của hắn: "Ngươi nghe đây, Tiểu Thái. Ta không còn nhiều thời gian nữa, độc dược trên mũi tên cực kỳ đáng sợ, nếu không phải nhiều năm qua hàng tháng ta đều uống các loại thuốc nên có chút sức đề kháng, thì đã chết từ lâu rồi. Sở dĩ ta chống chọi được đến bây giờ là để gặp ngươi một lần nữa. Điều ta nói sau đây vô cùng quan trọng, ngươi phải chú tâm lắng nghe".

Tiết Thái ngước mắt lên nhìn.

"Ngươi có hai con đường. Con đường thứ nhất, đến Yên quốc đầu quân cho Chương Hoa, Yên vương là đấng quân vương nhân hậu, biết dùng người tài, tất sẽ đối tốt với ngươi". Cơ Anh ngừng lại một lát, thấy Tiết Thái trợn trừng đôi mắt to đen láy, không tỏ thái độ gì, bấy giờ mới nói tiếp: "Con đường thứ hai, nộp thủ cấp của ta cho Chiêu Doãn".

Tiết Thái cắn chặt môi, vẫn không nói gì, nhưng trong mắt dâng lên một màn sương mù.

"Hai con đường đều có thể khiến ngươi một bước lên trời, dưới một người mà trên vạn người, chỉ có điều một con đường đơn giản hơn, còn một con đường lại vô cùng gian nan".

Tiết Thái thấp giọng đáp: "Dựa vào đâu mà ngài cho rằng mục đích của ta là dưới một người mà trên vạn người?".

Cơ Anh nhìn hắn dịu dàng, chậm rãi nói: "Bởi vì... ta hiểu ngươi, giống như ngươi hiểu ta vậy. Chúng ta là những người giống nhau. Ta, ngươi và cả Trầm Ngư, đều là những người giống nhau".

Trên gương mặt Tiết Thái hiện lên vẻ suy sụp, hai đầu gối mềm nhũn, đột ngột ngã quỵ xuống mặt đất.

Cơ Anh đưa mắt nhìn về phía xa, khẽ than rằng: "Chúng ta đều trưởng thành trong gia tộc, rồi lại bị gia tộc trói buộc cả đời không được tự do. Đứng trước gia tộc, không có cái tôi, không có thiện ác, không có đúng sai. Năm mười bốn tuổi ta lên nắm quyền, cũng bắt đần từ đó đã nhìn thấy hết sự xấu xa dưới lớp áo hoa lộ, muôn hình vạn trạng. Đường thúc của ta tham ô, biểu cữu của ta ăn hối lộ, con cháu Cơ thị ngang ngược hoành hành đầu đường phố chợ, làm theo ý riêng mà rối loạn kỷ cương, không một người nào là trong sạch. Thế nhưng, dầu cho như thế, cũng phải tiếp tục chống đỡ cho gia tộc, bởi vì, cha mẹ huynh đệ, cốt nhục tình thâm, lẽ nào có thể nhẫn tâm nhìn họ lâm vào đường cùng mạt lộ? Vì thế, tuy biết khối u ác tính này càng ngày càng lớn, càng ngày càng nguy hại, nhưng không thể vung tay cắt bỏ. Ta vốn tưởng rằng khi thời cơ chín muồi, có thể chỉnh đốn kỹ lưỡng một phen, nhưng ông trời lại không cho ta thời gian...". Nói đến đây, chàng đưa mắt nhìn Tiết Thái, nói với một vẻ không biết là đau thương hay là lạnh nhạt: "Coi như là Cơ gia đến hồi nhận báo ứng mà thôi. Một khi ta chết đi, khối Âu Cơ thị này cuối cùng cũng có thể cắt bỏ".

Tiết Thái chẳng thể nói được lời nào, chỉ nắm chặt lấy tay Cơ Anh, run rẩy như một con thú nhỏ.

Cơ Anh dịu dàng xoa đầu hắn: "Tuy đã biết cái lẽ thịnh suy là như thế, nhưng thực sự người trong cuộc không có lựa chọn nào khác, phải không? Cho nên, Tiểu Thái, nếu như ngươi lựa chọn con đường thứ hai, thì hãy làm một việc vì ta".

Tiết Thái nhìn Cơ Anh không chớp mắt, đôi mắt trong veo phản chiếu bóng hình chàng như muốn khảm sâu dáng vẻ của người này vào trong tâm trí, mãi không biến mất, mãi không phai mờ.

"Thực ra với thực lực của mình, Khương Trọng đã có thể xoay chuyển thời cuộc từ lâu, nhưng lão chần chừ không ra tay, một mặt cố nhiên là vì đợi Khương Trầm Ngư trưởng thành, một mặt là vì trong triều ngoài dã lưu truyền tin đồn - Cơ gia có một quyển Tứ quốc phổ".

Tiết Thái mím môi, rồi mở miệng nói: "Thuộc hạ biết".

Cơ Anh cười: "Xem này, đến ngươi cũng biết rồi".

Tiết Thái trầm giọng đáp: "Sinh thời gia gia của ta đã từng bí mật bàn với cha ta. Không chỉ Tứ quốc phổ, Cơ gia còn có một miếng Liên thành bích. Cái gọi là Tứ quốc phổ là chỉ những tin tức bí mật quốc gia của ba nước xung quanh được những gian tế mà Cơ gia phái đi tích lũy và ghi chép trong suốt mấy trăm năm, nếu bất cứ một bí mật nào trong đó bị tiết lộ ra ngoài đều có thể kinh động thiên hạ, gây biến đổi triều chính. Mỗi gia tộc đều có những bí mật phải cẩn thận bảo vệ không thể truyền ra ngoài, mà kẻ biết được bí mật này có thể lợi dụng điều đó thao túng họ. Đây chính là điểm đáng sợ nhất, cũng là điểm chí mệnh nhất của Tứ quốc phổ".

Cơ Anh im lặng lắng nghe, không phát biểu ý kiến gì.

Thế nên Tiết Thái tiếp tục nói: "Còn cái gọi là Liên thành bích chính là chìa khóa để mở kho báu gồm một khối lượng lớn tài sản và châu báu mà tổ tiên của Cơ gia đã chôn giấu khi dự đoán mấy trăm năm sau gia tộc có thể sa sút. Cơ gia có hai vật đó là có thể duy trì sự phồn thịnh, đời đời không suy vong."

Cơ Anh hít một hơi thật sâu, nói bằng giọng điệu bình tĩnh lạ thường: "Thế, ngươi có tin không?".

Tiết Thái trầm ngâm chốc lát, cuối cùng thận trọng lắc lắc đầu.

"Tại sao không?".

"Bởi vì...". Mắt Tiết Thái ướt nhòe, hắn thấp giọng đáp: "Nếu thực sự có những vật đó, ngài đã không mệt mỏi nhường này...".

Đáp án này hiển nhiên nằm ngoài dự tính của Cơ Anh, chàng hơi há miệng, có chút kinh ngạc, có chút xúc động xen một chút tình cảm khác nữa.

"Ta biết ngài mệt mỏi nhiều lắm, ta đều biết cả. Nếu thực sự có Tứ quốc phổ và Liên thành bích gì đó, ngài sẽ không phải vất vả ngày đêm, chạy đôn chạy đáo, chưa từng được một đêm an giấc, đến thời gian dưỡng bệnh cũng chẳng có. Ngài nói ngài chỉ có thời gian năm năm, nhưng rõ ràng ngài biết, nếu ngài có thể vứt bỏ tất cả, cùng với Vãn Y đi đến nơi nào đó non xanh nước biếc chú ý tĩnh dưỡng thì có thể điều dưỡng cơ thể!".

Cơ Anh cụp mắt, im lặng trong giây lát, định nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn không nói ra, tích tắc sau chàng ngước đôi mắt tựa ánh sáng, tựa nước, tựa hết thảy những thứ linh hoạt mà mềm dịu, cứ nhìn Tiết Thái như thế, nói: "Có".

Tiết Thái sững sờ kinh ngạc.

Cơ Anh nở một nụ cười khổ, khẽ giọng từ tốn nói: "Tứ quốc phổ, Liên thành bích, đều có thực".

Lúc này, Tiết Thái không nói nổi lời nào nữa.

Cơ Anh hít sâu một hơi, ghé sát tai Tiết Thái, nói vài câu.

Tiết Thái vốn mở mắt rất to, nhưng vì kinh ngạc quá đỗi nên càng trợn to hơn.

Cơ Anh nói xong, liền thở dốc khôi phục tư thế ban đầu, hầm giọng nói: "Ta dự định năm sau bắt đầu thực thi cải cách, nhưng giờ xem ra cần phải lùi thêm mười năm. Mười năm sau, tất cả đều nhờ cả vào ngươi".

Tiết Thái đứng im không nhúc nhích như đã bị trúng phép định thân.

"Hy vọng ngươi không thay đổi bản tính lương thiện chính trực, khi phục hưng gia tộc cũng nên nghĩ cho bách tính thiên hạ, nghĩ xem ý nghĩa thực sự của cuộc đời chúng ta là gì?". Cơ Anh vừa nói vừa nở nụ cười thực sự: "Ngày đó, nhận lời cầu xin cứu ngươi của Trầm Ngư, giờ ngẫm lại quả là chuyện đúng đắn nhất mà ta đã làm trong đời. Ta rất vui... tuy cả đời ta không thực sự cống hiến được gì cho nước nhà, nhưng sau cùng vì Bích quốc, vì thiên hạ, vì chúng dân, ta đã để lại hai người - một là ngươi, hai là Trầm Ngư".

"Không, không... không...". Tiết Thái run rẩy, ngước đôi mắt mờ mịt, toàn thân hắn lộ rõ sự yếu ớt bất lực tột độ: "Không chết không được sao? Cầu xin ngài, đừng chết! Cơ Anh, ngài không được chết... không được chết, cầu xin ngài đấy...".

Cơ Anh nghe xong thì ngây người, lại thở dài: "Đứa trẻ ngốc này...".

"Ta không phải trẻ con! Ta không phải là trẻ con!", Tiết Thái nhảy lên, hổn hển nói: "Khi các người cầu xin ta đều không coi ta là trẻ con; nhưng khi giễu cợt ta đều bảo ta là trẻ con. Ta giống trẻ con ở chỗ nào? Trong thiên hạ này làm gì có đứa trẻ nào giống như ta? Ta nói cho ngài biết, Cơ Anh, từ khi ta biết đi đến giờ, ta không phải là một đứa trẻ! Ta không cần nhũ mẫu ru ta ngủ, không cần chơi cùng bạn bè đồng trang lứa. Khi những đứa trẻ khác còn thò lò mũi xanh, ta đã vào cung hiến nghệ làm đẹp lòng tiên đế; khi những đứa trẻ khác còn đang vừa khóc lóc đọc thuộc sách vừa viết chữ nguệch ngoạc, ta đã đại diện triều đình đi sứ; cha mẹ khen ta thông minh nên muốn ta làm rạng rỡ tổ tông; cô cô khen ta mạnh mẽ nên muốn ta chấn hưng gia tộc; còn ngài, lại đem cả thiên hạ ủy thác cho ta, ngài dựa vào cái gì? Ta thì liên can gì đến cả thiên hạ? Ngài cũng dựa vào cái gì mà đại diện cho cả thiên hạ? Ngài chỉ cần chết đi là được giải thoát, dựa vào cái gì mà ta phải tiếp tục sống để hứng chịu tất cả? Các người! Các người! Những người lớn các người... không hề có trách nhiệm... Ta hận các người! Ta hận! Ta hận vô cùng!". Nói đến đây, ngẩng đầu òa khóc nức nở.

Cơ Anh lặng lẽ nhìn hắn khóc, cũng không ngăn cản, trong đáy mắt chàng bắt đầu trào dâng một thứ tình cảm phức tạp đan xen giữa vui mừng và bi thương.

Màn đêm từ từ buông xuống, chân trời le lói những tia sáng bàng bạc. Tiếng gió thổi vi vu trong rừng cây, tựa như đang khóc than cùng với thiếu niên ấm ức này.

Bảy tuổi.

Thậm chí đứa trẻ này còn không thể gọi là thiếu niên.

Thế nhưng, nó đã kinh qua những chuyện mà cả đời một người bình thường cũng không thể nào trải qua, có được thành tựu rực rỡ hơn cả thành tựu của vạn người.

Ba tuổi biết làm văn, bốn tuổi biết làm thơ, năm tuổi giương cung bắn hổ trước nhà vua, sáu tuổi đi sứ Yên quốc danh chấn bốn nước, bảy tuổi cả nhà diệt môn, bị biếm làm nô lệ.

Mà nay lại bị gửi gắm hy vọng của toàn thiên hạ.

Người lớn có thể còn không gánh vác được, huống hồ chỉ là một đứa trẻ non nớt?

Chỉ là, ngoài hắn ra, không còn ai khác.

Cuộc đời tàn khốc như thế. Bi ai như thế.

Cơ Anh nhìn Tiết Thái mặt mày đẫm lệ, thứ tình cảm phức tạp trong đáy mắt cuối cùng đã bị sự thương xót bao trùm, chàng thở dài một tiếng thật khẽ, cố gắng giơ cánh tay ra, ôm Tiết Thái vào lòng.

Tiết Thái ôm chặt chàng, khóc càng dữ hơn.

Cơ Anh vỗ nhè nhẹ lên lưng hắn, động tác cực kỳ dịu dàng.

Chu Long ở bên cạnh, mắt cũng đã đỏ hoe, len lén lau nước mắt.

Một khoảng thời gian cứ thế trôi qua, thực sự rất ngắn, nhưng đối với ba người mà nói, lại dài như một đời vậy.

Cuối cùng Tiết Thái cũng lấy tay áo cố gắng ngăn dòng lệ,

Cơ Anh hỏi: "Khóc xong rồi à?".

Tiết Thái "ừm" một tiếng, lạnh mặt nói: "Ngài còn trăn trối gì thì mau nói hết ra đi. Tránh để ta khóc quá lâu, ngài chưa kịp nói xong thì đã chết, đến lúc đó lại biến thành ma quấy nhiễu ta!".

Cơ Anh bật cười thành tiếng, lại dịu dàng xoa đầu Tiết Thái: "Hết rồi".

"Hết rồi?". Tiết Thái trừng mắt nhìn chàng: "Ngài không còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành sao?".

"Tâm nguyện chưa hoàn thành?". Cơ Anh nhìn bầu trời phía xa xa, hững hờ nói: "Tâm nguyện chưa hoàn thành thì có quá nhiều, cũng coi như đã hoàn thành hết rồi đi".

"Vậy những vướng bận không từ bỏ được thì sao?".

Cơ Anh hơi cau mày lại, trong khoảnh khắc ánh mắt trở nên tịch liêu, im lặng giây lát rồi mới nói: "Chu Long, gọi bọn họ đến đây đi".

"Vâng". Chu Long đáp lời rồi đi.

Tiết Thái sửng sốt - Sao? Nơi này vẫn còn người khác.

Không lâu sau, ba người đàn ông trung niên trạc tứ tuần xuất hiện cùng với Chu Long, khi tiến lại gần đều nhất loạt quỳ bái: "Chủ nhân".

Cơ Anh "ừm" một tiếng.
 
Quyển 2 - Chương 58


Một người trong đó nói: "Bọn Lão Thất cũng đang trên đường, sẽ mau đến thôi".

"Không có gì...". Cơ Anh kéo tay Tiết Thái, đẩy hắn ra trước mặt mọi người: "Tìm các ngươi qua đây là để tuyên bố một việc, ba người các ngươi cũng sẽ truyền lệnh xuống cho những người không đến được. Từ hôm nay trở đi, Tiết Thái chính là người thừa kế của Bạch Trạch".

Ba người đưa mắt nhìn nhau một lượt, rồi lại nhìn Tiết Thái, xong lần nữa quỳ xuống: "Bái kiến tân chủ".

Tiết Thái cắn chặt môi, bước chân hơi dịch chuyển giống như muốn lùi về phía sau, nhưng cuối cùng vẫn bước lên phía trước, một đứa trẻ với thân hình bé nhỏ như thế đứng trước mặt những người lớn hơn hắn rất nhiều, cất tiếng: "Đứng... đứng dậy đi".

"Đa tạ tân chủ". Ba người đứng dậy.

Vẻ vui mừng lộ rõ trong đáy mắt của Cơ Anh, chàng quay đầu sang dặn dò Chu Long: "Hãy đưa ta qua đỉnh núi bên kia".

"Vâng". Chu Long lập tức ôm lấy chàng đi về phía đỉnh núi.

Rừng cây lần lượt rơi lại phía sau, khi đứng trên đỉnh một vách núi, cả Hồi thành đều thu trọn trong tầm mắt, mà nơi xa hơn, cây cối um tùm tươi tốt, cùng với ánh sáng càng lúc càng rõ, màu sắc cũng càng lúc càng tươi tắn hơn, lộ rõ vẻ đẹp tráng lệ mà chỉ thiên nhiên mới có.

Từ trong lòng Chu Long, Cơ Anh ngẩng đầu lên, si ngốc ngắm phong cảnh phía xa.

Sau lưng, một người đàn ông trung niên trong đám người nghẹn ngào nói: "Chủ nhân, nếu bây giờ đi xe thật nhanh tới Nghi quốc, có lẽ vẫn còn kịp...".

Cơ Anh lắc đầu.

Một người khác nói: "Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Tuy mọi ngả đường từ đế đô đến nơi này đều đã phong tỏa, chúng ta không thể về được, nhưng đi Yên quốc thì vẫn được mà..."

Người thứ ba nói nhanh: "Đúng thế! Chủ nhân, còn núi xanh sợ gì thiếu củi đốt! Trên thế gian này không có thuốc độc nào là không thể giải! Chúng thuộc hạ đi đón Giang thần y, rồi lại đi tìm Ông Lão, hai người ấy hiệp sức chắc chắn sẽ giải được chất độc của chủ nhân."

"Chủ nhân không thể từ bỏ!".

"Chủ nhân! Cầu xin người. Trước hết chúng ta rời khỏi Bích quốc! Thế lực của Khương Trọng có lớn hơn nữa, quyền uy của hoàng thượng có mạnh hơn nữa, chỉ cần ra khỏi Bích quốc thì không gì là không...".

"Chủ nhân..."

Dường như Cơ Anh đều không nghe thấy những lời cầu xin đó, chàng vẫn hỏi Chu Long: "Bên kia có phải là hướng về đế đô không?"

"Vâng".

"Độc tính phát tác quá nhanh, tầm nhìn của ta càng lúc càng nhòa...". Cơ Anh nheo mắt. "Nhưng, ta có thể tưởng tượng được dáng vẻ của nó... Đế đô là nơi đẹp nhất Bích quốc, bốn mùa trong năm khí hậu ôn hòa, cứ độ xuân về rừng hoa Hồng viên lại nở rộ, đẹp không tả xiết... đẹp không tả xiết...".

Tiết Thái nhớ đến một chuyện, vội vàng móc chiếc bản chỉ trong người ra, đưa cho chàng.

Cơ Anh run run cầm lấy chiếc bản chỉ, nụ cười trên gương mặt biến mất, ngàn vạn cảm xúc dâng trào trong đáy mắt, sau đó, chầm chậm đưa chiếc bản chỉ lên môi, giữ nguyên tư thế hôn đó, không hề động dậy.

Ba người kia vẫn tiếp tục cầu xin thảm thiết.

Tiết Thái bỗng nói: "Các người đừng nói nữa, vô ích rồi".

Ba người sững sờ, ngẩng đầu lên đau đớn nhìn hắn.

Ánh mắt của Tiết Thái từ đầu đến cuối đều không rời khỏi Cơ Anh, chậm rãi nói: "Bởi vì... tha hương không phải là cố quốc".

Tha hương không phải là cố quốc.

Cho nên, đừng nói Cơ Anh vốn không thể đi nổi. Mà cho dù có cơ hội, chàng cũng không đi.

Tuy biết Bích quốc đầy rẫy nhiễu nhương, tuy biết Khương Trọng sẽ truy sát chàng, hoàng thượng cũng không buông tha chàng, nhưng, chàng vẫn không thể trốn sang nước khác.

Trong cuộc đời con người, có những kiên trì, có những lưu luyến trong mắt người khác có lẽ là rất mù quáng ngoan cố không thể nào lý giải nổi, nhưng lại quý giá lạ thường.

Cơ Anh nhìn dãy núi dưới ánh dương buổi sớm, đặt nụ hôn lên thứ mà chàng yêu quý nhất. Nét mặt của chàng thanh thản, dịu dàng, cũng chân thật nhất.

Chàng đang nghĩ gì?

Khoảnh khắc này, phải chăng chàng đang nhớ đến người làm ra nó? Phải chăng đang nhớ đến rất lâu rất lâu về trước, khi chàng còn căng tràn sức trẻ đã từng yêu rất rất sâu đậm người con gái yêu kiều mỹ lệ đó? Phải chăng đang nhớ đến những phút giây trái tim mình thổn thức loạn nhịp mỗi khi đến gần nàng, rồi mượn cớ mua hoa của nàng? Phải chăng đang nhớ đến lời thề sẽ lấy nàng, rồi lại phải giương mắt mà nhìn nàng bị gả cho người khác? Phải chăng đang nhớ đến lúc tuyệt vọng nhất đã từng muốn vứt bỏ tất cả, dẫn theo nàng cao chạy xa bay, nhưng lại bị người trong tộc gồm cả người cha già đã lay lắt như ngọn nến trước gió của chàng quỳ gối van xin phá vỡ kế hoạch? Phải chăng đang nhớ đến phút tương phùng lại đã xa cách tựa một đời, chàng quỳ trên đất gọi nàng là phu nhân, còn người con gái ấy băng lạnh nhìn chàng?

...

Tất cả điều này, ngoài Cơ Anh ra, không một ai hay biết.

Vĩnh viễn không ai hay biết.

Ngay cả Chu Long, những gì hắn thấy chẳng qua cũng chỉ là Cơ Anh đã vứt bỏ cơ hội tẩu thoát an toàn ở trong phường nhuộm vải, cố chấp đòi quay lại nhặt chiếc bản chỉ, để rồi trúng một mũi tên độc xé gió phi tới, đâm vào lưng của chàng.

Nếu lúc đó chiếc bản chỉ không bị Vệ Ngọc Hành vứt đi...

Nếu lúc đó Cơ Anh không quay lại nhặt chiếc bản chỉ đó...

Nếu trên mũi tên của Vệ Ngọc Hành không có độc...

Chỉ cần bất cứ điều nào trong số đó không tồn tại, kết cục đã không như thế này.

Chiếc bản chỉ này phải chăng đã khắc sâu nỗi nhớ của Cơ Anh dành cho Hy Hòa, đồng thời cũng chôn giấu oán niệm của Hy Hòa đối với Cơ Anh? Cho nên, trong thời khắc then chốt nhất, bằng phương thức đáng sợ nhất, nó đã hủy diệt Cơ Anh.

Họa thủy! Họa thủy!

Chu Long thầm thở dài trong lòng.

Khi tất cả mọi người đều tưởng Cư Anh sẽ cứ hôn mãi như thế, thì Cơ Anh lại nhìn sang Tiết Thái, cuối cùng, từ từ đưa chiếc bản chỉ ra trước mặt Tiết Thái.

Tuy chàng không nói gì, nhưng Tiết Thái hiểu ý của chàng.

Chiếc bản chỉ này hắn đã từng hỏi xin, khi ấy Cơ Anh không nỡ cho, bây giờ, trước lúc lâm chung lại cho hắn, cũng coi như bù đắp sự tiếc nuối năm đó của hắn.

Nhưng tình này cảnh này, làm sao hắn có thể nhận một vật quan trọng đến thế của Cơ Anh?

Tiết Thái lắc lắc đầu.

Cơ Anh lại đưa chiếc bản chỉ đến trước mặt hắn.

Tiết Thái vẫn kiên trì lắc đầu, mắt phải của Cơ Anh bỗng một giọt lệ.

Chất lỏng trong vắt, long lanh như hạt châu, lăn dài trên gương mặt thanh nhã vô ngần đó, trong khoảnh khắc trời đất trở nên xa xôi, trong khoảnh khắc vạn vật như biến mất, chỉ còn lại một gương mặt, một giọt lệ như thế trước mắt, ai oán giã biệt cõi đời.

Tiết Thái hoảng hốt, không dám từ chối nữa, ngoan ngoãn xòe tay ra.

Cơ Anh đặt chiếc bản chỉ vào lòng bàn tay hắn, nhưng bàn tay giơ giữa chừng của chàng đã buông thõng xuống, chiếc bản chỉ rớt trên mặt đất, lăn thêm vài vòng, cùng với đó là tiếng gào khóc thê lương của Chu Long và ba người còn lại: "Hầu gia! Chủ nhân! Hầu gia! Chủ nhân...".

Tiết Thái vội vàng quay người chuyên tâm nhặt chiếc bản chỉ, không dám nhìn.

Không dám nhìn dáng vẻ đã chết của người ấy.

Không dám nhìn vẻ mặt khi chết của người ấy.

Không dám nhìn khoảnh khắc buông tay của người ấy, là buồn bã là lưu luyến là đau thương hay là được giải thoát...

Những điều ấy, hắn đều không dám nhìn.

Một tia sáng từ từ chiếu trên mặt hắn, từ đầu bên kia mặt biển xa xôi, vầng thái dương đã bắt đầu nhô lên.

Tiết Thái nhìn vầng thái dương diễm lệ hơn cả trước đây, ánh mắt sáng rỡ, đồng tử từ nhạt chuyển sang đậm, lòng bàn tay nắm chiếc bản chỉ đó nắm thật chặt thật chặt.

Trên chiếc bản chỉ dường như vẫn còn sót lại hơi ấm của người đó.

Nhưng người đó, đã mãi mãi ra đi rồi.

Ngày mùng hai tháng tám, Giáp Dần, trời nắng. Đại cát. Thích hợp làm mọi chuyện.

Ngày hôm đó, Khương Trầm Ngư cùng với Vệ Ngọc Hành và những sứ thần khác đi xe ngựa hồi kinh. Suốt dọc đường đi, dân chúng khấu bái, tiếng hô trùng trùng, nàng nhìn thẳng về phía trước, sắc mặt trầm tĩnh, từng bước từng bước, nghi thái vô song.

Ngày hôm đó, trong Lưu Ly cung Hy Hòa phu nhân say rượu nằm trên giường, tửu hứng dâng cao, uyển chuyển hòa mình múa cùng đám cơ nữ ca vũ, đắm chìm trong cảnh vàng son hoa gấm, sống trong say sưa chết trong giấc mộng.

Ngày hôm đó, nghe nói Cơ Hốt thi hứng bộc phát, chân trần tóc xõa, vung bút viết lên tường, bài thơ này từ trong cung truyền ra ngoài, các văn nhân tranh nhau sao chép, trở thành danh tác.

Ngày hôm đó, buổi trưa Khương Trọng cùng vợ dạo chơi trong vườn, ngắm nhìn những bồn hoa lan một lượt, khí hậu đương đẹp, cảnh sắc vừa xinh, phu thê ân ái, cực kỳ hòa hợp.

Ngày hôm đó, Chiêu Doãn nhốt mình trong ngự thư phòng không thượng triều, không uống lấy một giọt nước, đám thái giám sợ sệt bất an quỳ đầy mặt đất ngoài thư phòng.

Ngày hôm đó, Chương Hoa đang gảy đàn bỗng bị đứt một dây, y ngây người nhìn cây đàn một hồi, cuối cùng cau mày, cười hì hì nói: "Danh cầm mua từ cửa tiệm của ngươi lại không chắc chắn thế này, hừm hừm, hãy xem ta sẽ tính sổ với tên gian thương Hách Dịch này như thế nào".

Ngày hôm đó, Hách Dịch bỗng hắt xì khi đang phê tấu chương: "Ô... là cô nương nhà ai đang nhớ nhung trẫm đây? Thân là một đế vương lại còn anh tuấn mỹ mạo, gây ra nhiều tương tư thế, tội lỗi, thật là tội lỗi quá...".

Ngày hôm đó, Di Thù đang chải đầu thì phát hiện ra mặt gương bị nứt, nàng tức thời ném gương nổi cơn thịnh nộ, ban chết cho hai cung nữ.

Ngày hôm đó, nghe đâu là ngày đại cát hoàng đạo trăm năm mới gặp.

Bộ thứ năm: Tân hậu

Những gì phụ các ngươi, những gì nợ các ngươi,

Hãy để ta giúp các ngươi đòi hết về!

Thế nào là công bằng? Đây là công bằng!

Ta, Khương Trầm Ngư, sẽ cho các ngươi công bằng!
 
Quyển 2 - Chương 59: Hồi thứ mười lăm: Điên dại


Tơ trúc réo rắt, du dương êm ái. Trong Lưu Ly cung, ca múa thanh bình.

Hy Hòa tựa người trên chiếc giường cẩm thạch kim tuyến, nhâm nhi ly rượu hai mươi năm được ướp lạnh, ánh mắt lười biếng.

Trên vũ trì có một thiếu niên áo đỏ nhảy cực đẹp, bầy yến yến oanh oanh xung quanh đều làm nền cho hắn.

Hy Hòa gỡ bông hoa bằng ngọc cài trên đầu xuống, ném cho thiếu niên, thiếu niên đảo người một cái trên không, bắt lấy, ánh mắt lấp lánh, nói: “Đa tạ phu nhân ban thưởng”.

Hy Hòa nhìn hắn cười rạng rỡ không nói gì, góc mày khóe mắt có phần lẳng lơ. Nàng ta ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoàn toàn không đếm xỉa đến sự tồn tại của người bên cạnh như thế, mà Chiêu Doãn kế bên cũng không nổi giận, thấy ly rượu của Hy Hòa rỗng không, còn rót đầy cho nàng ta.

Cứ vui vẻ như thế đến khoảng giờ Tuất, bỗng từ xa vọng lại tiếng bước chân gấp gáp, tên tiểu thái giám hớt hơ hớt hải chạy trên bậc thang dài, vừa chạy vừa kêu: “Hoàng thượng, không hay rồi! Hoàng thượng, không hay rồi…”.

“Câm mồm! Đây là chốn nào mà dám la lối om sòm?”. Đại thái giám đi cùng vội vàng chạy tới giáo huấn.

Tiểu thái giám ngã nhào xuống đất, khi nhỏm dậy mặt mũi đã nhòe nhoẹt nước mát: “Khởi bẩm hoàng thượng, Kỳ Úc hầu và đoàn đi sứ Trình quốc đã bị hoàng tử Di Phi của Trình Quốc ám toán phục kích ở Hồi thành, hầu gia trúng tên độc không thể chữa trị, đã bỏ mạng!”.

“Ngươi nói cái gì?”. Hy Hòa nhảy dựng lên, chiếc váy dài kéo lê khiến mỹ tửu sơn hào hải vị trên chiếc bàn thấp đều rơi loảng xoảng xuống đất.

Cùng với tiếng kêu sửng sốt của nàng ta, tiếng nhạc ngừng bặt, ca múa tạm dừng, trong đại điện im lặng như tờ.

Chiêu Doãn liếc mắt nhìn Hy Hòa một cái, thủng thẳng nói: “Nghe thấy chưa? Nói lại lần nữa.”

Tiểu thái giám sụt sịt vừa khóc vừa nói: “Hoàng thượng, khi Kỳ Úc hầu đến Hồi thành thì bị tam hoàng tử của Trình quốc ám sát, thân trúng tên độc, không thể chữa trị, nên đã bỏ mạng! Nô tài Tiết Thái hiện đang ôm di thể của hầu gia đợi ngoài điện, xin được diện kiến hoàng thượng!”.

Hy Hòa không kịp xỏ giầy lập tức xông ra ngoài, đôi chân trần giẫm lên những mảnh gốm vỡ, bị cứa rách chảy máu, nhưng dường như nàng ta không cảm thấy gì, cứ thế lao vút đi, mái tóc và chiếc váy tung bay giống như một ngọn lửa rực cháy.

… Tiết Thái đang quỳ ngoài cửa điện, thứ đầu tiên hắn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.

Giây sau đó, ngọn lửa ấy xông đến trước mặt hắn, một tay tóm chặt cổ áo hắn giống như định nhấc bổng cả người hắn lên, thét lớn: “Cơ Anh đâu? Hắn ở đâu? Gọi hắn ra đây? Gọi hắn ra đây…”.

Ánh mắt Tiết Thái nhìn mặt đất bên cạnh.

Hy Hòa hướng theo ánh mắt của Tiết Thái liền thấy một chiếc hòm. Nàng ta ngây ra một lát, sau đó đi đến bên cạnh chiếc hòm, dừng lại, nhìn chằm chằm vào chiếc hòm đó, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hoảng hốt vừa nghi hoặc lại vừa do dự, cuối cùng, nghiến chặt răng, đưa tay mở chiếc hòm ra. Gương mặt khiến nàng ta kiếm tìm cả trong giấc mộng, quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn đó, bỗng gần ngay trước mắt.

Cơ Anh nhắm mắt, nét mặt hiền hòa, giống như đang say giấc.

Nhưng lại chỉ có một cái thủ cấp.

Hy Hòa sững sờ nhìn cái thủ cấp đó, lùi về phía sau một bước, hai bước, ba bước rồi ngã phịch xuống đất.

Bấy giờ, những người khác cũng lần lượt từ trong Lưu Ly cung bước ra, nhìn thấy chiếc hòm đó, không ai là không kinh hãi.

Duy chỉ Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn đầu Cơ Anh, cau mày một cái, lạnh lùng quát: “Nô tài to gan, ngươi dám xử lý thi thể của Cơ khanh như thế này sao?”.

Tiết Thái dập đầu, cao giọng tấu: “Hồi bẩm hoàng thượng, trên mũi tên bắn trúng chủ nhân có chất kịch độc, ngoài phần đầu ra các bộ phận còn lại đều bị nát rữa rồi”.

Chiêu Doãn há miệng, trong mát thoáng vẻ đau lòng, đang định nói điều gì thì một tràng cười vang lên tận tầng mây. Mọi người kinh ngạc quay đầu, hóa ra là Hy Hòa phu nhân đang cười.

“Phu nhân”. Một cung nhân dè dặt thăm dò.

Hy Hòa ngồi trên mặt đất, ngửa đầu cười như điên như dại, mọi người không biết nàng ta cười gì, nên vừa nghi hoặc vừa sợ hãi.

Có một cung nữ bước lên phía trước, định dìu nàng ta đứng dậy, nhưng bị nàng ta cắn mạnh vào cánh tay, cung nữ kêu lên thảm thiết vừa bò vừa lăn tránh ra.

Hy Hòa cười tiếp: “Ha ha ha ha…”.

Có người thì thào: “Phu nhân… hình như phu nhân có gì đó là lạ, đi tìm thái y đến khám xem sao?”. Thấy Chiêu Doãn vẫn lạnh lùng đứng bên quan sát không tỏ thái độ gì, thì ai dám tự ý hành động, mọi người đành đứng phỗng ra đó.

Hy Hòa vừa cười vừa loạng choạng đứng dậy, chạy về Bảo Hoa cung.

Mọi người chỉ có cách chạy vào cung điện theo nàng ta.

Những kẻ nhảy múa trước đó vì không biết xảy ra chuyện gì mà lại chưa được cho phép rời đi, nên đành đứng chụm đầu chuyện trò ở giữa vũ trì, nhìn thấy Hy Hòa phu nhân quay về, vừa định thở phào thì thấy nàng ta xiêu xiêu vẹo vẹo chạy đến trước mặt thiếu niên áo đỏ. Thiếu niên áo đỏ vừa mừng vừa ngạc nhiên, nụ cười vừa nở trên môi, thì ngay lúc đó liền bị Hy Hòa đẩy mạnh vào tường.

“Phu, phu… nhân?”.

Hai tay Hy Hòa bắt đầu thô bạo cởi quần áo của y.

Đám cung nhân ở bên thất sắc kinh hoảng, vội vàng xông lên ngăn lại: “Phu nhân, không được! Phu nhân, dừng tay đi, phu nhân định làm gì thế?”.

Hy Hòa đều không để vào tai, giật mạnh chiếc áo đỏ của thiếu niên nọ, dán mắt nhìn vào đó một lúc lâu, còn thiếu niên bị lột lớp áo ngoài cũng đứng ngây ra đó, hoàn toàn không hiểu đang xảy ra chuyện gì.

Y nở nụ cười ngọt ngào, ngại ngùng hỏi: “Phu nhân… phu nhân sao thế?”.

Hy Hòa lắc đầu một cái rồi lại bỏ chạy.

Hy Hòa chạy ra khỏi cung điện, chạy đến trước chiếc hòm nọ, mở chiếc áo bào trong tay ra, vừa quàng lên chiếc thủ cấp vừa nói:

“Không lạnh, không lạnh, Tiểu Hồng, không lạnh. Tiểu Hồng, Tiểu Hồng…”.

Hai từ bình dị nhất thế gian phát ra từ miệng nàng lại dịu dàng lưu luyến vô cùng.

Tiết Thái choáng váng, nhớ lại hôm đó khi ở trên thuyền Cơ Anh từng nói với hắn: “Đối với ngươi luôn có một người không giống những người khác, vì thế, cũng sẽ dùng một cái tên khác để gọi ngươi… Tiểu Hồng, chính là cái tên đặc biệt đó của ta”.

Tiểu Hồng…

Dù biết Cơ Anh có một tình nhân khắc cốt ghi tâm nhưng có duyên mà không có phận;

Dù biết người tình đó gọi Cơ Anh là Tiểu Hồng;

Mà sao lúc này khi tận tai nghe thấy, tận mắt nhìn thấy người tình đó của Cơ Anh, Tiết Thái lại cảm thấy bị sốc nặng như thế này, tay hắn rụt vào trong tay áo, chạm phải chiếc bàn chỉ mà Cơ Anh đưa cho lúc lâm chung, hắn cảm thấy chiếc bàn chỉ như đang thiêu đốt bàn tay mình, trong khoảnh khắc, toàn thân hắn nóng bừng lên.

Còn Hy Hòa chẳng thèm nhìn ai, chẳng thèm ngó ai, chỉ cầm chiếc áo đỏ quấn hết vòng này đến vòng khác, giọng như đang nói mơ: “Không lạnh, phải không? Tiểu Hồng, ta hát cho chàng nghe nhé, hễ ta hát là chàng không lạnh đâu”.

Sau đó nàng ta bắt đầu cất tiếng hát.

Đây là lần đầu tiên Tiết Thái nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Đây là lần đầu tiên mọi người nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Thậm chí đây cũng là lần đầu tiên Chiêu Doãn nghe thấy tiếng hát của Hy Hòa.

Từ trước tới nay, Hy Hòa phu nhân chìm đắm trong nhung lụa vàng son, nhưng đều chỉ nghe người khác đàn ca diễn xướng, vì thế, cho dù mọi người biết nàng ta thích ca múa nhưng không ngờ hóa ra nàng ta cũng biết hát.

Nàng ta chăm chú nhìn thủ cấp của Cơ Anh, chuyên tâm hát, tiếng hát càng lúc càng réo rắt, giống như ngọn gió lướt qua sơn cốc đẩy muôn tầng sóng biếc; giống như vô số hạt mưa rơi tí tách trên hiên nhà biến thành những giọt châu bay lóng lánh; giống như làn sương dâng lên mênh mang trên mặt hồ dưới đêm trăng; giống như hạt cát bị gió thổi bay phiêu diêu khắp chốn.

Nàng ta hát còn hay còn đẹp hơn bất cứ loại nhạc cụ nào.

Nói cách khác, tiếng hát của nàng ta chính là loại nhạc cụ tuyệt diệu nhất thiên hạ.

Nàng ta hát rằng;

Trăng mọc chừ, nước mênh mang

Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng.

Tưởng tiên dạo chơi mây núi, dại dột giáng trần ai.

Suối chảy chừ, mưa lưa thưa,

Tựa lầu chừ, lắng nghe mưa.

Mơ hồ nhận ra khúc cố nhân, biết được vạn năm si mê.

Biển xanh đẫm lệ mấy ai hay?

Rả rích đêm ngày mưa chẳng ngớt.

Ngày xuân đương đẹp muôn hoa nở,

Sao nỡ úa tàn ai xót thay?

Cầu đến tiên nhân hái thược dược,

Tam sinh xin nối duyên kiếp này.

Hồng trần xa lắc trời đất rộng,

Xuân thu bất tận mãi vui vầy.



Nàng ta hát hết lần này đến lần khác, tiếng hát bay bổng trên cung điện, vương vấn mãi không tan.

Tiết Thái nhẩm lại câu “Cầu đến tiên nhân hái thược dược, tam sinh xin nối duyên kiếp này”, trong phút chốc không kiềm được thoáng ngẩn ngơ. Nếu hắn không nhầm thì lời bài hát này là do Cơ Anh viết, Cơ Anh của năm đó rốt cuộc đã ôm một khối tình si đến nhường nào mới có thể viết ra khúc ca này, và đã dùng phương thức thân thiết đến nhường nào để dạy nó cho Hy Hòa, tình cảm chứa đựng trong đó, không cần nghĩ cũng có thể biết được.

Mọi người trong phút chốc hết thảy đều bị cảm động trước khúc ca tuyệt mỹ này, im lặng lắng nghe.

Duy chỉ Chiêu Doãn, nỗi căm hận dần dần dâng lên trong mắt, cuối cùng y bước lên phía trước nắm chặt tay Hy Hòa, quát: “Đủ rồi”.

Hy Hòa giật tay lại, đẩy y thật mạnh, ôm lấy cả chiếc hòm đứng lên, lùi từng bước về phía sau, nói: “Không cho ngươi qua đây! Ngươi sẽ cướp áo của Tiểu Hồng, ngươi sẽ làm chàng lạnh chết, không cho ngươi qua đây!”.

Chiêu Doãn sững ra một lúc, kế đó giận dữ quát: “Nàng đang nói linh tinh gì thế, mau đặt di cốt của Kỳ Úc hầu xuống!”.

Hy Hòa ôm khư khư chiếc hòm trong lòng, tiếp tục lùi lại: “Đây là của ta, Tiểu Hồng là của ta, ngươi không thể cướp của ta!”.

“Người đâu!”. Chiêu Doãn liếc mắt, lập tức có mấy tên thị vệ xông lên đoạt lấy chiếc hòm, Hy Hòa giãy dụa điên cuồng, vừa cắn vừa xé, nhất quyết không buông tay, đám thị vệ cũng không dám động thủ với nàng ta, hai bên cứ giằng co như thế.

Chiêu Doãn tức đến mức nghẹt hở, mắng: “Các ngươi làm cái gì vậy? Mau bắt nàng cho trẫm!”.

Đám thị vệ nói một tiếng “đắc tội” rồi hai tên xông lên tóm lấy cánh tay Hy Hòa, giữ nàng ta không cựa quậy nổi, một tên khác lại bẻ những ngón tay của nàng ra, chỉ nghe “rắc” một tiếng, xương ngón tay của Hy Hòa gãy lìa.

Mặt Chiêu Doãn biến sắc, y giậm chân nói: “Dừng tay! Dừng tay! Dừng tay cho trẫm. Các ngươi dám làm nàng bị thương! Đồ bỏ đi! Toàn một lũ bỏ đi!”.

Đám thị vệ không dám đoạt chiếc hòm nữa, vì làm Hy Hòa bị thương nên hoàng thượng khiển trách, không tên nào dám động đậy.

Đang lúc bó tay hết cách, một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên: “Hoàng thượng, để thần thiếp thử xem sao!”.

Chiêu Doãn quay đầu nhìn thấy Khương Trầm Ngư.

Dưới ánh tịch dương còn le lói, Khương Trầm Ngư toàn thân áo lụa màu lam nhạt, mái tóc đen như mun chải ra phía sau, tuy sắc mặt có vẻ mệt mỏi, nhưng ánh mắt sáng rỡ, không nhuốm bụi trần tựa tiên giáng trần vậy.

Nàng quay về lúc nào? Sự nghi hoặc lóe lên trong đầu Chiêu Doãn, nhưng lập tức lại bị sư lo lắng thế chỗ, y gật đầu nói: “Được, nàng đến thử xem!”.

Khương Trầm Ngư bước chầm chậm về phía Hy Hòa, nói với đám thị vệ: “Thả phu nhân ra”.

Thị vệ lần lượt buông tay.

Hy Hòa vừa được thả là lập tức ôm chiếc hòm lùi về phía sau, cảnh giác nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cực kỳ sợ sệt.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nhẹ nhàng cất tiếng hát: “Trăng mọc chừ, nước mênh mang. Tựa ngọc chừ, tựa dáng chàng…”.

Bài nàng hát chính là khúc ca Hy Hòa vừa hát ban nãy.

Chính xác từng chữ một.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom