Tiên Hiệp Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân

Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 40: Mỹ Vị Sơn Trang


Mỹ Vị Sơn Trang, y như tên gọi, là một thế lực rất lâu đời ở Huyền Hoàng Giới, nổi tiếng về các món ăn ngon. Sơn trang này nằm ở đại Tề, cách ải Quan Lâm rất xa. Thế nhưng nếu dùng truyền tống trận, thì chỉ cần đi chừng vài ngày là tới.

Mỹ Vị sơn trang không chịu quản thúc của các vương triều thánh địa, siêu nhiên tại ngoại, truyền thừa hàng vạn năm. Theo như hiểu biết của Vũ Tùng Lâm, từ khi nước Việt ban lệnh cấm làm thịt trâu bò cho đến nay, chắc cũng chỉ nơi đây mới có người còn biết chế biến thịt bò thành món ăn mà thôi.

Mỹ Vị sơn trang sở dĩ có thể ngang nhiên không chịu quản thúc, ấy là do nó là nơi duy nhất cả Huyền Hoàng giới bảo tồn được Trù đạo. Sơn trang này trên dưới có sáu bảy trăm đệ tử, trưởng lão, toàn bộ đều là đầu bếp. Bọn họ lấy ngũ vị tu hành, dùng trù nghệ nhập đạo, tự thành một lối.

Nghe nói trước Phản Thiên chi chiến, trù đạo luyện đến tột cùng có thể thái trời, nướng đất, hầm núi, ninh biển, chiến lực không hề thua kém gì mấy nhà Nho, Phật, Đạo.

Đại Việt lấy nông canh làm gốc, trâu bò chính là nguồn sống của dân cày. Thành thử, kể từ khi lệnh cấm của hoàng đế được ban ra, cả nước Việt không ai dám giết mổ trâu bò trái phép. Từ đó, cũng chẳng còn mấy ai biết làm thứ thịt này cả. Cho dù trâu bò có chết già, chết bệnh, cũng chỉ có nướng muối hoặc luộc đơn giản lên ăn cầm chừng mà thôi.

Tay nghề thô thiển như vậy, Nguyễn Đông Thanh đương nhiên không thể nào chấp thuận dùng để làm món ăn tiến vua.

Vũ Tùng Lâm thân là tổng binh, phải ở lại trấn giữ ải Quan Lâm, không thể tự ý rời thành. Lão suy nghĩ mãi, bèn quyết định phái thêm hai người nữa đi theo, vừa để chỉ đường, vừa để tiện bề hộ vệ cho Đông Thanh.

Chỉ đường: ấy là do muốn đến Mỹ Vị sơn trang ắt phải dùng đến truyền tống trận.

Còn hộ vệ: Vũ Tùng Lâm thấy Bích Mặc tiên sinh bây giờ đang đóng vai phàm nhân, tu vi cao cách mấy cũng không tiện ra tay, nên mới cố tình phái thêm hai hộ vệ để giải quyết những rắc rối cắc ké trên đường.

Vũ Tùng Lâm gọi tên lính hầu bên ngoài, nói:

“Cho mời lão kiếm tiên và cái tiền bối đến đây.”

Tên lính nhận lệnh, chẳng mấy chốc đã dẫn vào phòng hai người. Đi bên trái là một ông già râu tóc bạc phơ, mặc áo bện từ cỏ, lưng đeo một thanh kiếm giản dị, sắc mặt đầy vẻ kiệt ngạo. Một đoạn trúc chẻ đôi làm cán, kẹp lấy một miếng sắt thô sơ không gia công mấy, mũi kiếm vuông vức không mũi nhọn. Người bên phải là một ông già ăn mày thấp lùn, áo vá giày rách, lưng đeo hồ lô, tay cầm bát mẻ. Trên người lão có một mùi hơi chua chua, song không gây mũi, trái lại phảng phất một mùi thuốc bắc.

Hai người này chính là tán tu có tiếng ở nước Việt: Kiếm Tiên Sở Tinh Hà, Cái Đế Đặng Không.

“Tướng quân cho mời hai ta đến là có chuyện gì?”

Sở Tinh Hà nhướn mày, cất tiếng.

Vũ Tùng Lâm cười dài, nói:

“Lão phu lần này cho mời hai vị, là muốn nhờ hai vị hộ tống vị tiên sinh này đến Mỹ Vị sơn trang một chuyến.”

“Vũ tướng quân muốn hai ta bảo vệ một người phàm? Chẳng nhẽ tướng quân cho rằng lão đây già cả tay run, không còn cầm nổi thanh kiếm, nên mới ép lão làm cái chuyện trông trẻ này?”

“Vũ tướng quân. Xưa nay lão ăn mày vẫn ôn hòa hơn lão cầm kiếm, nhưng không có nghĩa lão không biết nổi nóng đâu.”

Cả Sở Tinh Hà, lẫn Đặng Không, đều tỏ thái độ không vui.

Vũ Tùng Lâm trợn măt, thầm nghĩ bình thường đã quá kính nể hai lão già này, khiến hiện giờ cả hai sinh lòng kiêu căng. Lão khó khăn lắm mới tranh thủ được cơ duyên đi theo tháp tùng Bích Mặc tiên sinh, vốn định giữ lại bồi dưỡng hai người này, nào ngờ hai lão già này không biết tốt xấu như vậy.

Nếu không phải hai người này tu vi đạt đến đệ tứ cảnh, lại là tán tu, chỉ e là lão đã sớm dùng quân pháp xử trí.

Vũ Tùng Lâm cười, quay sang chỗ Nguyễn Đông Thanh, nói:

“Tiên sinh chớ trách. Để bản tướng thuyết phục hai người này.”

“Được rồi, cảm tạ tướng quân đã lo lắng. Thế nhưng nếu hai vị tiền bối đây đã chê tại hạ là kẻ phàm phu vướng víu tay chân, thì thiết nghĩ cũng chớ nên cưỡng ép làm gì. Tướng quân phái hai binh sĩ theo hộ vệ cho tại hạ là được.”

Nguyễn Đông Thanh chắp tay, cười.

Kiếm Tiên, Cái Đế đồng thời gật đầu:

“Thằng nhóc này thế mà biết điều.”

“Xem ra cũng là dòng dõi thế gia đại tộc, hành xử cũng khiêm cung lễ độ. Chẳng qua tu vi yếu ớt một chút, khó mà được gia tộc coi trọng.”

Vũ Tùng Lâm cười lạnh.

Không được coi trọng?

Buồn cười. Lát nữa bản tướng quân xem xem mấy người các ngươi có hối hận thối ruột hay không.

oOo

Cuối cùng, thể theo yêu cầu của Nguyễn Đông Thanh, Vũ Tùng Lâm sắp xếp hai tiểu binh tháp tùng gã. Lão cố tình chọn một người trong quân hỏa tiêu, thạo đường lối, giỏi thăm dò. Người còn lại Vũ Tùng Lâm chọn một binh sĩ thuộc quân y, xưa nay quen việc chăm sóc quán xuyến cho người khác.

Xong xuôi đâu vào đấy, Vũ Tùng Lâm mới lấy một cái nhẫn chứa đồ đưa cho Đông Thanh, nói:

“Lần này tiên sinh làm việc cho ải Quan Lâm, lộ phí đi đường không thể để tiên sinh tự bỏ ra được. Ở đây có chút đỉnh, tuy không đủ thành kính ý, nhưng của ít lòng nhiều, chúc tiên sinh thượng lộ bình an, mã đáo thành công.”

“Tướng quân quá lời.”

Nguyễn Đông Thanh nhận nhẫn chứa đồ, chắp tay cảm tạ, sau đó dời bước đi về phía cửa phủ thành chủ. Vũ Tùng Lâm theo sát tiễn đưa, hành động cung kính khách sáo dị thường này của lão không khỏi khiến hai người Kiếm Tiên, Cái Đế tò mò. Thế là không ai bảo ai, hai lão cũng đi theo Vũ Tùng Lâm.

Sáu người rồng rắn ra đến cổng, thì chợt một người dáng vẻ lùn nhỏ, toàn thân nước da đỏ hồng lịch bịch chạy đến, nói:

“Tiên sinh, bây giờ lên đường sao?”

Vũ Tùng Lâm trông thấy Hồng Đô, đôi mắt cơ hồ trợn lên tưởng muốn rơi ra khỏi hốc mắt.

Trời đất, đây rốt cuộc là thủ đoạn thông thiên gì?

Lão nhìn chằm chằm vào tạo vật đang chạy lon ton khắp sân, sau đó đưa tay bứt một sợi râu cằm. Cơn đau nhói truyền thẳng lên não, nói cho Vũ Tùng Lâm biết lão không nằm mơ.

Huyền Hoàng giới kỳ thực cũng có thuật khôi lỗi, thuật cơ quan.

Nhưng cho dù là khôi lỗi, hay người cơ quan, thì cho dù có lấy linh hồn của tu hành giả làm hạch tâm, thì cũng không thể nào có được cảm xúc và nhân tính hoàn chỉnh như người lùn trước mặt lão được.

Càng huống chi, khôi lỗi và cơ quan dù có cao minh cách mấy cũng dựa vào khớp nhân tạo để cử động, khó trách động tác có mấy phần cứng nhắc vô hồn. Song người lùn đi cùng Nguyễn Đông Thanh cử động cực kỳ linh hoạt, trôi chảy trơn tru, thậm chí so với cử động của người thường còn mượt mà hơn một chút.

Nói là quỷ thần chi tác, xảo đoạt thiên công cũng không ngoa.

Lão còn thất thố như vậy, hai người Tiên Kiếm, Cái Đế thì lại càng không phải nói nhiều.

“Tướng... tướng quân... lão phu xin đi trước.”

Lão già cõng kiếm và lão ăn mày lắp bắp để lại một câu, sau đó vội vội vàng vàng rời khỏi phủ thành chủ. Vũ Tùng Lâm đã sớm phát giác một nét tham lam lóe lên trong đôi mắt hai người này, thầm nghĩ:

“Hi vọng hai ngươi biết điều, tự kiềm chế bản thân. Bằng không từ nay về sau chỉ e ải Quan Lâm lại thiếu hai vị cao thủ, ngoài thành nhiều hơn hai nấm mồ.”

Chợt, lão vỗ trán một cái, mắt sáng lên dường như nhận ra điều gì đó.

“Đúng vậy! Tiên sinh là nhân vật bậc nào? Há lại có chuyện làm việc mà không có dụng tâm sâu sắc, ẩn ý cao thâm? Trước tiên chỉ nhận hai tên tiểu binh làm hộ vệ, sau lại để người lùn xuất hiện, ắt là để khiến hai tên tán tu lòi mặt chuột ra.

Tiên sinh đây là đang đề tỉnh ta lòng người khó dò, hai tên tán tu này dù tu vi cảnh giới có cao cũng chẳng trông cậy vào được. Vẫn là nên vun trồng lớp trẻ, chú trọng nhân tâm hơn tu vi mới phải.”

Vũ Tùng Lâm càng nghĩ, lại càng cảm thấy mình đoán đúng ý của Bích Mặc tiên sinh. Thế là, lão hướng về phía cỗ xe bò của Nguyễn Đông Thanh, xá một cái thật dài.

oOo

Lúc này...

Nguyễn Đông Thanh ngồi cùng Hồng Đô sau xe bò, để hai binh sĩ đánh xe. Hai người này tu vi một người là đệ nhị cảnh, một người thậm chí mới chỉ vừa bước vào nhất cảnh, mó tay vào doanh trại nhắm mắt bốc bừa cũng ra được một đống.

Quả thực chính là kẻ không mấy nổi bật trong quân ngũ.

Hai người này tuy thấp cổ bé họng, không có tư cách biết nhiều về Nguyễn Đông Thanh, song không phải kẻ ngốc. Chỉ nhìn thái độ của Vũ Tùng Lâm lúc nói chuyện với vị Bích Mặc tiên sinh này là thấy y chẳng phải người thường. Thành thử, hai người không dám qua loa tắc trách chút nào, cẩn thận chú ý nhất cử nhất động của Nguyễn Đông Thanh.

Lúc này, Bích Mặc tiên sinh và người lùn tên Hồng Đô chính đang chơi một trò chơi quái lạ.

Hồng Đô cầm một miếng ngọc giản dùng để khắc công pháp, thỉnh thoảng lại hí hoáy dùng thần niệm thay đổi sửa chữa nội dung của miếng ngọc. Nguyễn Đông Thanh thì ngả đầu ra sau, vừa kể chuyện, vừa miêu tả, vừa đọc thoại vẽ nên một chốn giang hồ. Nơi đó, Hồng Đô đóng vai một nữ hiệp vừa mới rời núi, chính đi trên con đường diệt bạo trừ gian.

Lúc cỗ xe đi qua khỏi ải Quan Lâm được bốn năm dặm đường gì đó, chợt Hồng Đô đặt miếng ngọc xuống, cười:

“Hai vị, bám theo đã lâu như vậy, có phải nên ra ngoài nói chuyện một chút hay không?”

Lời nói vừa dứt, tức thì trước cỗ xe xuất hiện hai tên áo đen, đeo mặt nạ quỷ.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 41: Mèo Máy Này Có Chút... Bạo Lực


“Tiểu tử, khôn hồn thì giao cơ quan nhân này cho ta.”

“Bảo vật cỡ này, không phải thứ một tên phàm phu tục tử có thể nhúng chàm.”

Hai người bịt mặt trầm giọng, lên tiếng, sau đó toàn thân tu vi bộc phát, tạo thành một luồng gió xoáy kinh khủng thổi bạt ra bốn phía. Nhất thời, cây đổ, cỏ rạp, cát bay, đá chạy, hai cậu lính và Nguyễn Đông Thanh không tài nào mở nổi hai mắt.

“Giấu đầu lòi đuôi, còn không phải là hai tên tán tu sinh lòng đạo tặc hay sao?”

Hồng Đô là một trong hai người duy nhất không hề bị ảnh hưởng. Cô nàng hừ lạnh một cái, cười khẩy đầy vẻ khinh thường.

Chỉ nghe hai tên này hừ lạnh một tiếng, sau đó đưa tay, gỡ cái mặt nạ xuống để lộ ra dung mạo thật. Ngoại trừ Sở Tinh Hà và Đặng Không thì còn ai vào đây nữa?

Sở Tinh Hà lấy thanh trúc kiếm thường dùng ra, l**m mép một cái. Lão nhìn Hồng Đô mà hai mắt tưởng chừng như b*n r* tia lửa, một chữ “tham” viết rõ trên gương mặt già. Đặng Không cũng lấy cái bát mẻ dùng xin ăn ra, vuốt ria mép một cái, cười khằng khặc đầy ác ý.

“Cơ quan nhân, nếu không muốn chủ nhân của mình phải chịu nổi khổ đạo hỏa đốt hồn, hình thần câu diệt thì ngoan ngoãn nhận chủ, bọn ta sẽ để chủ cũ của ngươi ra đi thanh thản một chút, chí ít còn có nấm mồ. Bằng không... cũng chớ trách bản kiếm tiên độc ác.”

“Chúc mừng Sở huynh đạt được bảo vật. Sau này tu vi nhất định có thể phá ngũ cảnh, nhập Vụ Hải. Đến lúc đó xin chớ quên tiểu đệ.”

“Tất nhiên. Tất nhiên. Đặng lão đệ cứ yên tâm.”

Nhìn hai tên tán tu kẻ tung người hứng, giống như nắm chắc tiêu diệt cả bọn trong lòng bàn tay, Hồng Đô không khỏi cảm thấy cực kỳ tức cười.

“Hành vi của các người khác nào cường đạo, cũng xứng xưng làm tiên làm đế?”

Nguyễn Đông Thanh nhướn mày, quát.

Hắn không hiểu tu luyện, không nhìn ra hai người phía trước rốt cuộc có tu vi cao thấp thế nào. Song... thấy Hồng Đô vẫn bình chân như vại, gã cũng yên tâm phần nào.

Dù sao cũng là bản làm nhái của con mèo máy nào đó, chẳng có nhẽ lại không biết tự lượng sức mình?

Sở Tinh Hà nghe thế, cười càng dữ tợn, nói:

“Đặng lão đệ, té ra là thằng thư si của Nho môn.”

“Đọc sách váng đầu đây mà. Thế mà lại đem cái thứ luân thường sáo rỗng ấy của Nho môn ra nói với chúng ta.”

Đặng Không cũng gập bụng, cười đến chảy cả nước mắt.

Sở Tinh Hà bấy giờ lại nói:

“Tiểu tử, chớ nói đến cả cái đám Nho môn cũng chẳng ai làm theo mớ đạo lý đó, thì người tu hành bọn ta ai mà không cướp đoạt thiên địa tạo hóa? Trời đất cũng dám cướp, nói gì đến loại người phàm mạng rẻ như rơm rác?”

Đặng Không cũng hùa theo:

“Nhược nhục cường thực, thiên kinh địa nghĩa. Kiếp sau đầu thai, nhớ đọc ít sách thôi. Phải nhớ lấy rằng thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội. Trên đời có những thứ ngươi có mạng lấy được, chưa chắc đã có số hưởng được.”

“Hay cho một câu thiên kinh địa nghĩa. Vậy dám hỏi vị tiền bối đây, con thỏ tự ăn phân của mình, con chó cũng có chuyện ăn thứ vật tanh hôi, há chẳng phải cũng là lẽ tự nhiên? Sao chưa thấy lão nhân gia ngài tự thưởng thức thứ mình sản xuất?”

Nguyễn Đông Thanh cười, nói.

Đấu tu vi... xin lỗi, không cần đấu, hắn nhận thua từ vòng gửi xe.

Thế nhưng đánh võ mồm? Các vị, thứ lỗi, tại hạ bất học vô thuật, chỉ học qua sinh học đại cương, cộng thêm làm nghiên cứu sinh nông nghiệp mấy năm.

Không thắng được các người, tại hạ nguyện đổi tên thành Tôn Tử.

Sở Tinh Hà đưa tay ngăn Đặng Không đang muốn nổi giận, đoạn nói:

“Tiểu tử, tưởng rằng bản tọa không biết ngươi đang kéo dài thời gian hay sao? Đáng tiếc, bản tọa đã lập một trận pháp bên ngoài phủ thành chủ. Chỉ cần Vũ Tùng Lâm rời đi nửa bước, bản tọa sẽ biết ngay. Chờ hắn đuổi đến đây, ngươi đã sớm chết rồi. Tuyệt vọng không? Phàm nhân?”

Hai chữ “phàm nhân” được lão nghiến giọng rất nặng, trong khinh thường còn có mấy phần căm thù.

Đặng Không nghe thế, cười phá lên, khen:

“Sở huynh thần cơ diệu toán!”

Nguyễn Đông Thanh nhìn hai lão già mèo khen mèo dài đuôi, thầm nhủ bụng:

“Có cần gọi đến một nhân vật quần chúng, các ngươi nói một câu bọn hắn hít một hơi khí lạnh, các ngươi ra một chiêu bọn hắn bàn tán nửa ngày trời cho nó đúng quy trình hay không?”

Đời trước, đọc văn mạng, Nguyễn Đông Thanh ghét nhất là cái trò câu chương này.

Không ngờ, hai lão già này không cần khán giả, chỉ đứng tự tâng bốc nhau cũng có thể kéo dài đến mười lăm hai mươi phút. Cho dù hắn không muốn, thì cũng không thể không bội phục hai tên này.

“Tiểu tử, để lão phu cho ngươi hiểu thế nào là vạn cân đạo lý không bằng nửa điểm tu vi! Kiếm tới!”

Lão rút phắt thanh kiếm sau lưng, nhất thời kiếm ý phóng lên trời như dòng sông lớn, tiếng kiếm khí rít gào lanh lảnh cất lên rúng động cả không gian. Sở Tinh Hà cười ha hả, một kiếm này vì cao hứng sắp có được cơ quan nhân, nên thi triển càng thêm thông thuận, đã siêu việt cực hạn thường ngày.

“Tiểu tử ngươi không phải thích nói đạo lý lắm sao? Bản kiếm tiên dùng một câu thơ, tiễn ngươi lên đường:

Thập bộ sát nhất nhân.

Thiên lý bất lưu hành.

Chém!”

Một kiếm bổ xuống, ánh kiếm nặng như núi đè, nháy mắt đến cả ánh mặt trời cơ hồ cũng ảm đạm đi mấy phần.

Đặng Không hét một tiếng:

“Kiếm này đáng sợ. Sở huynh cách đệ ngũ cảnh e là chỉ có một bước mà thôi.”

Rắc.

Chỉ thấy... Hồng Đô đưa nắm tay tròn vo ra, đấm một cái.

Kiếm quang vỡ vụn, kiếm ý sụp đổ, kiếm khách máu phun ba thước, trường kiếm gãy làm ba đoạn.

“Chỉ có thế này?”

Hồng Đô Bĩu môi, lại đưa tay ra trước mặt, hất hất hai cái:

“Kiếm tiên đại nhân, không bằng ngươi chém lại lần nữa. Yên tâm. Lần này bản cô nương hứa chỉ dùng hai phần sức mạnh, để ngươi kiên trì thêm một lúc mới thua, thế nào?”

Kiếm tiên đại nhân Sở Tinh Hà vừa gượng đứng được lên, nghe xong câu này, phun máu phè phè, mắt trợn trắng lên.

Xỉu.

oOo

Lại nói chuyện của ba sư huynh muội Lý Thanh Vân.

Sau khi rời khỏi Đại Sở, ba người cũng chẳng còn tâm trí đâu mà dừng lại bên đường. Tạ Hàn Thiên theo đó cũng một đường bay thẳng, trực chỉ đại Tề.

Có lẽ do chê chậm, hoặc có lẽ do ngồi đã chán, lần này Tiểu Thạch tự mình đi đường. Tạ Hàn Thiên bấy giờ giống như vứt được một quả núi khỏi lưng, nhất thời phấn chấn, tốc độ vỗ cánh lại nhanh thêm mấy phần.

Chỉ sau hơn một ngày, cả nhóm đã tới được Đại Tề.

Nước Tề vốn là nước yếu nhất, chẳng hiểu vì sao lại bỗng nhiên nhảy ra một tên sát thần Nghiêm Hàn, một chi kỳ binh đánh phá năm nước, buộc toàn bộ năm nước cúi đầu xưng thần. Từ đó, cương thổ nước Tề thoáng cái rộng gấp mười, quốc lực phong phú, binh cường mã tráng, tất thảy đều nhờ công của Nghiêm Hàn.

Đối với bá tánh năm nước, Nghiêm Hàn chính là ác ma.

Thế nhưng đối với người nước Tề, y chính là thần nhân giáng phàm, anh hùng cái thế.

Khắp cả nước, ngoại trừ đế đô, thành nào cũng dựng một tượng Nghiêm Hàn trang trọng nhất đặt chính giữa thành. Hơn nữa, cũng có quy định nhà cửa xây lên không được phép cao hơn tượng của Nghiêm Hàn tướng quân.

Ba người đến Hoàng Đô, vừa mới chuẩn bị vào thành, thì lính canh cổng đã nhắc nhở:

“Chư vị nếu đến để tham gia Võ Bảng hội thì không cần vào thành nữa, do Thiên Cơ các vừa báo sẽ đổi địa điểm tổ chức rồi. Bây giờ đi nhanh chắc vẫn còn kịp đến nơi.”

“Cám ơn tiểu ca. Không biết nơi tổ chức Võ Bảng hội đã dời đến nơi nào?”

“Chính là thành Tây An, từ đây đi về hướng tây trăm dặm là đến.”

Lính canh cổng thành nói về Tây An, trên gương mặt thoáng qua một vẻ tự hào không giấu diếm được.

Tạ Hàn Thiên cười vang, đưa cho tên lính này một món tiền tương đương với phí vào thành. Lính canh cổng không ngờ đối phương ra tay hào phóng đến thế, vội vàng chộp lấy, rốt rít cảm ơn một phen.

Nhóm người Tạ Hàn Thiên chính đang chuẩn bị khởi hành, thì bỗng nhiên phía cửa thành truyền đến một tiếng nói:

“Chậm đã!”

Bước ra là một tên cả người gầy nhẳng, mình mặc áo mãng bào màu đen, đầu đội quan vàng ghim trâm ngọc, chân bước cao bước thấp, tóc rối tung tổ quạ. Tên này vẻ mặt hèn mọn, mắt một bên xịt một bên nổ, chính đang hấp háy nhìn về phía mấy người Tạ Thiên Hoa, Đỗ Thải Hà, Lâm Phương Dung.

Quần áo sang trọng quý phái, lại cho người ta cảm thấy vài phần thô kệch quê mùa. Quả thực chính là hiện thân của câu trưởng giả học làm sang, chỉ được cái mã ngoài.

Kẻ này lóc cóc đi đến chỗ sáu người, hất hàm:

“Ba vị cô nương, Võ Bảng Hội thì có gì hay ho? Chi bằng bây giờ di giá đến tẩm cung của bản vương, chúng ta tổ chức một lần Diễm Bảng Hội được không? Hoắc hoắc hoắc.”

Nếu lúc trước người này trông chỉ có vài phần hèn mọn, thì khi cái điệu cười “hoắc hoắc” của y cất lên, trong nháy mắt ấn tượng của mọi người về y đã thay đổi.

Trở thành “ngứa đòn”.

Lính canh cổng thành vội vàng quỳ xuống, hô:

“Tiểu... tiểu nhân tham kiến Nghiêm thân vương.”

“Khốn kiếp! Nghiêm thân vương là để cho nhà ngươi gọi hay sao? Phong tước của bản vương là Chiến Vương, trên đường xuống hoàng tuyền thì nhớ cho kỹ!”

Nghiêm thân vương bỗng chốc đưa tay, dồn chân khí, vỗ một cái nhè ngay đỉnh đầu tên lính gác cổng.

Bành!

Chỉ thấy trong lúc điện quang hỏa thạch, Lý Thanh Vân bỗng đưa tay giật một cái, chưởng lục hút lấy cổ tay của Nghiêm thân vương khiến một chưởng của hắn chệch đi, cứu được người lính một mạng.

“Phản rồi! Phản rồi!”

Nghiêm thân vương hét lớn, trong đôi mắt thình lình hiện lên vẻ âm hiểm.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 42: Hổ Phụ Sinh Hồ Tử


Lý Thanh Vân biết sở dĩ cậu lính giữ cổng hô to “Nghiêm thân vương” là muốn nhắc bọn họ gã gầy nhỏ trông cực kỳ vô lại này chính là con trai của sát thần Nghiêm Hàn, ý muốn cảnh báo bọn họ không chọc nổi hắn.

Cũng vì thế mà đắc tội tên này.

Lý Thanh Vân đương nhiên không thể đứng yên mà nhìn, bèn vội vàng ra tay cứu người.

Không ngờ, Nghiêm thân vương lúc này lại la hét, ôm lấy cổ tay mình, quát tháo gọi người. Chỉ trong nháy mắt, binh mã đại Tề lù lù tập hợp, bao vây sáu người vào giữa. Những tên này cả người mặc áo giáp đen sì, trên mặt cũng đeo mặt nạ khô lâu, ánh nắng rọi xuống người chúng giống như cũng tối sầm lại ít nhiều.

“Huyền... Huyền Giáp vệ?”

Tên lính canh ngã xuống đất, lắp bắp từng tiếng một, trong đôi mắt tràn đầy sự khiếp hãi.

Tạ Hàn Thiên thấy ba sư huynh muội nghệt mặt ra, bèn thản nhiên giải thích:

“Huyền Giáp vệ là chi quân đội đáng sợ nhất Đại Tề, do đích thân Sát Thần Nghiêm Hàn lập nên. Thứ chiến giáp kia đúc bằng cửu thiên huyền thiết, mỗi một bộ nặng đến vạn cân.”

“Một vạn cân? Thế chẳng phải ít mỗi một binh một tốt đều cần có tu vi tam cảnh trở lên hay sao?”

Lý Thanh Vân giật mình.

Đại Việt chia binh theo lối thập hộ, cứ mười người làm một đơn vị, gọi là Hộ. Một Hộ thì có một người chỉ huy, gọi là Thập Hộ trưởng. Mười Thập Hộ trưởng lại dưới quyền một Bách Hộ trưởng, cũng tức là có trong tay một trăm quân, mười tên đàn em.

Trong trí nhớ của Lý Thanh Vân, chỉ cần tu vi bước vào đệ tam cảnh, ở ải Quan Lâm đã có thể làm một chức Bách Hộ rồi.

Không ngờ... ở đại Tề thậm chí chỉ vừa đủ tư cách gia nhập Huyền Giáp vệ.

Tạ Thiên Hoa nghe xong, bĩu môi:

“Mỡ đấy mà húp. Tu hành giả mới vào tam cảnh chỉ vừa đủ sức nâng được vạn cân. Muốn mặc một bộ giáp một vạn cân đánh nhau, chí ít cũng là tam cảnh đỉnh phong.”

Huyền Giáp vệ không ngờ sáu người kia đã bị mình bao vây mà còn nhàn nhã ngồi tán phét. Tên thiếu niên áo đen, đeo thanh kiếm quái dị thậm chí còn vừa ngáp lên ngáp xuống, vừa thọc tay ngoáy mũi, nhìn cả đám bằng nửa con mắt.

“Còn đứng ngây ra đó làm gì? Nam giết! Nữ phế tu vi, trói lại cho bản vương!”

Nghiêm thân vương trợn mắt, miệng phun nước bọt ầm ầm, vừa chỉ tay tứ tung vừa quát mắng ầm ĩ. Những người chung quanh, thậm chí cả Huyền Giáp vệ cũng chỉ biết ngao ngán lắc dầu.

Không cần độc tâm thuật cũng biết, chắc hẳn là vừa đặt Nghiêm thân vương cạnh Nghiêm Hàn, sau đó cảm thán hổ phụ sinh khuyển tử.

Thế nhưng, rốt cuộc, Huyền giáp vệ cũng vẫn phải ra tay.

Chỉ thấy mấy tên này nhanh chóng thủ thế, chân bước, eo chuyển, cơ hồ không cần mệnh lệnh cũng hợp được thành một trận chữ phẩm dồn sáu người nhóm Tiểu Thạch vào giữa.

“Chư vị, lên đường bình an!”

Huyền Giáp vệ đồng thanh, chuẩn bị lấy thương dài đâm sáu người “xấu số” thành cái sàng, thì Lâm Phương Dung trừng mắt một cái. Lập tức, Huyền Giáp vệ hung danh hiển hách đồng thời bị uy áp đánh văng đi hơn ba trượng. Tuy không đến mức ngã nhào, nhưng cũng khí huyết nhộn nhạo, quỳ một gối xuống.

Biểu hiện của Huyền Giáp vệ cũng khiến chính tác giả khung cảnh này – Lâm Phương Dung – phải bất ngờ.

Nàng đã tiến vào Vụ Hải, hơn nữa còn là một trong tam tổ của Kiếm Trì, cường giả Vụ Hải bình thường cũng chắc chắn không phải đối thủ của nàng. Nào ngờ, uy áp thả ra, lại chỉ có thể bức lui Huyền Giáp vệ, không thể đánh ngã bất cứ một người nào.

Phải biết...

Những người này tu vi hầu hết là chỉ vừa bước vào tứ cảnh.

Lâm Phương Dung cau mày, đưa tay nắm chuôi kiếm, quát:

“Hải lão nhi, đây là đạo tiếp khách của đại Tề các người phải không?"

"Kiếm tổ bớt giận. Kiếm tổ bớt giận.”

Lúc này, từ trong Hoàng Đô, một trung niên mũm mĩm đầu đội mũ miện, mình mặc áo bào vàng, chân đi hài đính ngọc, vội vàng bay ra ngoài. Sở dĩ không gọi là long bào vì trên áo của người này không thêu kim long ngũ trảo, trái lại có hoa văn năm cái đồng tiền vừa to vừa sáng.

Nghiêm thân vương dường như vừa rồi bị tu vi của Lâm Phương Dung dọa cho sợ điếng người, lúc này thấy trung niên mập mạp xuất hiện, giống như thấy được cứu tinh, hô to:

“Hải thúc! Hải thúc! Mau đến đây! Có người bắt nạt ta!”

Vị gọi là “Hải thúc” này đáp xuống, cười:

“Quý hóa quá. Không ngờ hôm nay Tạ đại hiệp cũng đến đại Tề, quả thực khiến Hoàng đô ta bừng sáng. Quả nhân bảo quái lạ vì sao sáng nay ngủ dậy lại nghe có tiếng chim khách kêu vang, té ra là khách quý tới chơi.”

Người này không phải ai khác, chính là hoàng đế nước Tề, Hải Đại Quý.

Nếu như Nguyễn Đông Thanh ở đây, tuyệt đối sẽ không màng sinh tử tiến lên hỏi:

“Dám hỏi bệ hạ có họ hàng gì với một lão công công mù hay chăng?”

Mũi Tạ Hàn Thiên giật một cái, sau đó khoát tay:

“Bớt cái trò này đi Hải lão nhi. Ai mà không biết trong tẩm cung của ngươi cứ mỗi chỗ rẽ, mỗi ngã tư đều có một cái lồng chim khách? Ngươi không nghe thấy chim khách kêu, trừ phi là bị điếc.”

“Thế thì chẳng phải càng nói rõ quả nhân hiếu khách, coi mỗi một người tiến vào đại Tề ta đều là khách quý đó sao? Kiếm tổ... thôi thì nể mặt quả nhân cùng là cường giả tiến nhập Vụ Hải với nhau, tha tội chết cho nó. Nghiêm đại ca tráng niên mất sớm, cũng chỉ còn nó là huyết mạch mà thôi.”

Hải Đại Quý câu trước còn hồ hởi cười hềnh hệch, câu sau đã mặt ủ mày chau, sầu bi khổ kiểm. Chiêu biến diện bằng mặt thật này của lão tuyệt đối là độc đoán vạn cổ, cho dù nghệ nhân biến diện Tứ Xuyên có xuyên qua Huyền Hoàng giới, trông thấy Hải Đại Quý cũng phải thắp hương vái ba vái xưng làm tổ nghề.

Thế nhưng không thể không nói... chiêu này của hắn hiệu quả.

Tay hung không đánh mặt cười, càng huống hồ Hải Đại Quý thân là hoàng đế nước lớn, lại là cường giả đã vào Vụ Hải, vừa trườn mặt ra đã vừa cười vừa khóc, rối rít nhận sai.

Hai người Tạ, Lâm có muốn làm căng cũng không có cơ hội.

Cuối cùng, chuyện hôm nay dựa vào việc Hải Đại Quý chấp nhận mở quốc khố, bồi thường một khoản rất lớn cho ba người Thiên Hoa, Thải Hà và Lâm Phương Dung mà kết thúc.

Hải Đại Quý hứa hẹn sẽ không những không trách phạt cậu lính thủ thành đã đứng ra nói đỡ cho bọn Tạ Hàn Thiên, trái lại còn thưởng thêm cho hắn một khoản bằng lương bổng ba năm. Cậu lính bị miếng bánh to oạch từ trên trời rơi xuống nện cho váng cả đầu, cười không ngậm được miệng.

Nghiêm thân vương thì kêu be be như lợn bị chọc tiết, muốn chạy cũng đã không còn kịp. Hải Đại Quý hạ lệnh tống Nghiêm thân vương vào ngục cảnh tỉnh một năm, không cho ra ngoài khi nam bá nữ gây chuyện thị phi nữa. Cả Hoàng đô cơ hồ vỡ òa vì vui sướng trong một ngày, tiếng hô “anh minh”, “vạn tuế” vang vọng khắp mọi nẻo đường ngách phố, trên bến dưới thuyền đều hô may mắn là tên khuyển tử nhà Nghiêm chiến thần đã bị giam lại.

Nhóm Thiên Hoa cũng tranh thủ lên đường đi Tây An cho sớm.

oOo

Hoàng Đô.

Hắc Sơn Ngục.

Nơi này năm xưa do đích thân Nghiêm Hàn khoét lòng núi dựng lên, chẳng những thủ vệ sâm nghiêm, còn có trận pháp phong bế âm thanh, chặn đứng thần thức.

Có thể nói là con kiến bay không lọt.

Dân gian có câu, một lời nói ra trong ngục Hắc Sơn, cho dù là diêm vương cũng không nghe được.

Bấy giờ, trong ngục, có kê một cái bàn gỗ đơn sơ, trên đặt một bầu rượu nóng và mấy đĩa thức ăn, kèm theo một bàn cờ vây chơi dở một nửa.

Có hai người ngồi đối diện nhau.

Chính là Nghiêm thân vương nổi tiếng là tên vô lại ỷ vào uy danh của cha, cùng với hoàng đế Đại Tề Hải Đại Quý.

Khác biệt ở chỗ...

Lúc này, vẻ đớn hèn trên mặt Nghiêm thân vương đã bay biến sạch, thay vào đó là một đôi mắt thâm sâu đầy cơ trí và thần sắc cực kỳ nghiêm túc cẩn thận.

Hải Đại Quý tự rót một chén, nói:

“Lần này quá mạo hiểm, sau không thể theo lệ này nữa.”

Nghiêm thân vương – Nghiêm Quảng – gõ một ngón tay lên bàn cờ, cười:

“Nhưng đáng giá mà, phải không Hải thúc?”

Y ngừng lại một chốc, đoạn lắc đầu:

“Đáng tiếc... không thăm dò được thực hư của ba tên đồ đệ và thiếu niên lạ mặt lưng cõng quái kiếm kia.”

Hải Đại Quý cười.

Thế nhân chỉ thấy Nghiêm Quảng lông bông bá đạo, cà lơ phất phơ, khi nam bá nữ. Thế nhưng, chỉ có cao tầng đại Sở là biết...

Năm xưa Nghiêm Hàn đánh ngũ quốc, người quân sư sau màn kỳ thực chính là con trai của y – Nghiêm Quảng. Khi đó... Nghiêm Quảng này mới chỉ có mười tuổi.

Hổ phụ sinh khuyển tử.

Thực ra, hổ phụ sinh hồ tử mới đúng.

Nghiêm Quảng này dùng một lớp vỏ bọc vô dụng ăn hại để ngụy trang, hòng khiến kẻ khác mất cảnh giác với y. Gian xảo, quỷ quyệt, cơ trí, tàn nhẫn.

Ấy mới là bộ mặt Nghiêm Quảng chỉ cho một số ít người xem.

Không ai biết, bao gồm cả Hải Đại Quý, liệu bộ mặt cơ trí này có thực sự là bộ mặt thật của Nghiêm Quảng hay không.

Hải Đại Quý nhặt một quân cờ đen ra khỏi bàn cờ, cười:

“Thắng thì thành công thăm dò được hư thực của vị Bích Mặc tiên sinh thay cho Nghiêm đại ca. Thua thì thừa cơ này diễn một màn kịch, mua chuộc lòng người, mà cháu thì nhân cơ hội này chuyển từ sáng vào tối. Một bàn tính đằng nào cũng thắng, làm ăn không vốn, tính toán hay thật. Chỉ tiếc đối phương quá cẩn thận, để Lôi Đình Kiếm Tổ ra mặt.”

Nghiêm Quảng lắc đầu, không đáp, mà thả một con cờ trắng vào bàn.

Hải Đại Quý bèn hỏi:

“Sau này có dự định gì?”

Nghiêm Quảng đưa tay, lấy ra một cái mặt nạ da người. Vừa dán lên mặt, lập tức toàn bộ ngũ quan, vóc người, tóc tai mày mắt y đều thay đổi chóng mặt.

Nháy mắt, một lão trung niên mặt vuông nghiêm nghị, cường tráng, cao đến nửa trượng xuất hiện trước mặt Hải Đại Quý. Nếu như cậu lính được thưởng ban nãy có mặt ở đại lao, tất nhiên sẽ nhận ra người trung niên này chính là Lý Đại Lực – mãng hán thô lỗ có tiếng trong quân.

Cũng chính y là người nhắc cậu ta nên báo cho người vào thành chuyện Võ Bảng hội đổi địa điểm, để cho khách vãng lai đỡ phí thì giờ.

Hơn nữa, không chỉ một mình cậu ta, tám cổng thành khác vào Hoàng Đô đều có một người được Lý Đại Lực nhắc chuyện này. Cả chín đều là thiếu niên nhiệt huyết, làm người thiện lương, nhân phẩm rất được.

“Đương nhiên là đi tham gia Võ Bảng hội rồi.”

Nghiêm Quảng cười.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 43: Tiên Sinh Thật Dễ Mềm Lòng


Lại kể chuyện của Nguyễn Đông Thanh...

Lúc này, hai lão già đến chặn cướp thì Sở Tinh Hà đã không chịu nổi đả kích mà ngất xỉu, Đặng Không thì cũng nhìn ngang ngó dọc một hồi, sau đó ngã oạch ra đất mà co quắp.

Lúc này, từng là kẻ sất trá phong vân trong ải Quan Lâm, đường đường tự xưng là Cái Đế, chỉ ước sao trên trời rơi xuống một viên thuốc.

Viên thuốc tên “nếu như”.

Lão ước gì mình không bị tham lam mờ mắt.

Ước gì không hống hách ngạo mạn.

Cuối cùng... ước sao mình không tự cho là thông minh, coi thường Nguyễn Đông Thanh.

Mà lúc này, Bích Mặc tiên sinh đứng lên trên xe bò, nhìn về phía lão ăn mày, bĩu môi một cái.

Thằng cha này chắc chắn đang diễn.

Nguyễn Đông Thanh nhún vai, nói:

“Nhân quả tuần hoàn, các ngươi có ngày hôm nay âu cũng là do tự chuốc lấy mà thôi. Hồng Đô. Làm ơn giữ mạng hai tên này, phế bỏ tu vi. Ta còn có chuyện muốn hỏi lão già Sở Tinh Hà.”

“Được rồi tiên sinh.”

Hồng Đô gật đầu một cái, sau đó vung tay bắn hai đạo chân khí về phía Sở Tinh Hà và Đặng Không, phế bỏ hoàn toàn tu vi của cả hai lão.

“A!!!”

Cơn đau khiến Sở Tinh hà ngồi xổm dậy, kêu gào thất thanh. Thế nhưng, lúc cảm nhận được đan điền rỗng tuếch không có bất cứ một chút chân khí nào, lão lại trợn mắt lên, bất tỉnh một lần nữa.

Đặng Không thì quằn quại ôm lấy bụng, lệ rơi đầy mặt.

Hai cậu lính trói gô hai lão già lại, chất lên xe bò. May sao thùng xe này bình thường Nguyễn Đông Thanh vẫn dùng để chất đồ, diện tích rộng rãi. Cho dù có thêm hai tên tán tu được gói như người ta gói bánh tét thì vẫn đủ chỗ cho cả gã và Hồng Đô ngồi.

Đoàn người tiếp tục đi về phía trước...

Trải qua chuyện bị chặn cướp, hai cậu lính đã bớt căng cứng gượng gạo hơn nhiều, bắt đầu chủ động nói chuyện với Nguyễn Đông Thanh. Một người hỏi:

“Tiên sinh. Mới nãy ngài nói nhân quả tuần hoàn, dám hỏi tiên sinh tin phật sao?”

Nguyễn Đông Thanh cười, lắc đầu.

Phật gia chủ trương đời là bể khổ, tu hành để siêu thoát. Gã tuy nhát gan một chút, nhưng tự thấy trên răng dưới các tút cũng có vài ba ưu điểm, lạc quan là một trong số đó. Thành thử, Đông Thanh không bài Phật, song cũng không phải quá tin vào Phật.

Càng huống chi, hắn cũng không rõ Phật Môn của Huyền Hoàng giới có giống nhà Phật ở Việt Nam, địa cầu hay không. Sư tăng ở đây tu hành ra sao, tin vào cực lạc hay không, nhập thế nông hay sâu, gã không dám chắc.

Thế nhưng, nếu nước Việt Huyền Hoàng giới không xuất hiện mấy vị Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông, thì có lẽ dòng thiền ở đây cũng không giống ở quê nhà.

Nguyễn Đông Thanh cười, lấy túi nước ra uống một ngụm, rồi mới chậm rãi:

“Tại hạ tin vào nhân quả, nhưng không phải loại nhân – quả tiền sinh hậu kiếp như Phật gia. Giải thích nhiều mất công, chỉ xin gói gọn bằng bảy chữ ‘đi đêm lắm có ngày gặp ma’ thôi vậy.”

Hai cậu lính nghe xong, “ồ” lên một cái, sau đó bắt đầu trầm tư.

Hồng Đô ngồi kế bên cũng có điều suy ngẫm.

Đạo lý thực ra rất đơn giản. Hai người Sở Tinh Hà, Đặng Không đương nhiên không phải lần đầu tiên ăn cắp. Thế nhưng làm nhiều, ắt có một ngày đạp phải cái đinh sắt, trêu phải người bọn hắn không chọc nổi.

Cuối cùng, giống như lần này, bị phế tu vi nằm như chó chết trên xe.

Hồng Đô thầm nghĩ...

“Nếu như hành vi của một người là do tính cách của người đó quyết định. Vậy hậu quả của hành vi của người này chẳng phải cũng quay lại ảnh hưởng đến tính cách của họ hay sao? Một vòng khép kín, gọi là nhân – quả hay chăng?”

Càng nghĩ, cô nàng càng thấy Bích Mặc tiên sinh này sâu không thể lường nổi. Giao dịch với Hồng Vân đi theo y, xem ra là không lỗ.

Lại không biết...

Bản thân Nguyễn Đông Thanh cũng chả nghĩ sâu xa khái quát đến thế.

Hai cậu lính cũng giống như ngộ ra được thứ gì đó, đồng thời nói lời cảm tạ:

“Tiên sinh đại tài, tại hạ xin thụ giáo. Sau này nếu như có chuyện cần nhớ đến, Nguyên Phương (Trần Dũng) xin nguyện góp sức mọn.”

Dứt lời, bèn luân phiên xá Nguyễn Đông Thanh một cái, hành lễ “nửa sư”.

Nguyên Phương, Trần Dũng vốn xuất thân từ một gia đình thờ Phật, vẫn luôn tâm tâm niệm niệm rằng ở hiền ắt gặp lành, ở ác thì gặp dữ. Thế nhưng từ khi tòng quân, chứng kiến nhiều đièu tăm tối, bất lực nhìn kẻ ác cười vui, người hiền thầm khóc, bọn họ thấy hoang mang tột cùng.

Hôm nay, Nguyễn Đông Thanh nói chuyện “nhân quả tuần hoàn”, vô tình lại khiến bọn họ đặt xuống được tâm kết.

Những chuyện tu hành này Bích Mặc tiên sinh tuyệt nhiên không biết tí ti ông cụ nào cả. Gã thân là một phàm nhân, đừng nói là nhìn, cảm nhận được chân khí cũng là chuyện viển vông, tự nhiên không biết hai người này tu vi biến đổi ra làm sao.

Gã chỉ thấy tò mò, không chờ nổi muốn hỏi Sở Tinh Hà rốt cuộc lão ta nghe câu thơ kia ở đâu.

Bởi... rất có thể, Nguyễn Đông Thanh gặp được đồng hương.

Hai câu thơ này lấy ý sách Trang Tử, kỳ thực là nguyên tác của Lý Bạch.

Sở Tinh Hà vốn cũng là người xuyên không? Hay lão nghe được câu thơ này từ đâu đấy? Chuyện này Nguyễn Đông Thanh không biết, thế nên mới cố ý mang lão theo, chờ tỉnh lại sẽ hỏi cho ra nhẽ. Hồng Đô thấy gã chỉ muốn hỏi tay kiếm tiên giờ đã tàn phế chứ không cần đến tên ăn mày, bèn đề nghị Nguyễn Đông Thanh để mình xử luôn Đặng Không, diệt cỏ tận gốc.

Gã nghe thế, lắc đầu.

“Không được.”

Dọc đường, không phải Nguyễn Đông Thanh chưa từng nghĩ đến chuyện cho hai tên này lên đường mạnh giỏi. Thế nhưng, cuối cùng, gã lại gạt đi.

Không hoàn toàn vì tư tưởng hiện đại.

Có một phần nhỏ, là do Nguyễn Đông Thanh sợ cái ý nghĩ tự cho mình cái quyền phán quyết, đứng trên bục cao đạo đức mà nhìn xuống.

Hắn dựa vào cơ sở nào kết án đối phương? Đạo đức hay pháp luật?

Khác biệt về văn hóa, khác biệt về tam quan, lấy gì để khẳng định Nguyễn Đông Thanh luôn đúng?

Quyền sinh sát là một quyền lực rất lớn. Gã cũng không cho rằng... mình có thể không đắm say trong thứ quyền lực quá lớn này, không yếu lòng, không sa ngã trước nó.

Lúc này, Nguyễn Đông Thanh lại nghĩ, có lẽ thế giới tu tiên không phù hợp với kẻ như hắn thật. Đứng trước cơ hội này, hắn cũng không bước qua ranh giới đó được. Cuối cùng, giữa thế giới tu hành dẫm máu và Nguyễn Đông Thanh, vẫn tồn tại một bức tường mỏng, khiến hắn mãi mãi không thể hòa nhập, vĩnh viễn là kẻ lạc loài.

Trong mắt người tu hành, có lẽ suy nghĩ của hắn thật ấu trĩ, thật yếu đuối, thậm chí là nhu nhược hèn nhát.

Thế nhưng, cuối cùng, Đông Thanh vẫn tin rằng con người ta sẽ thay đổi. Không chỉ xấu hơn, mà còn tốt lên. Đương nhiên... cũng chỉ có thể nói về đại đa số người. Mà vội vã giết người, cũng tương đương với khẳng định người nọ đã hết thuốc chữa, rằng cả thế giới đều là hạng lấy oán báo ơn, không xứng đáng có một cơ hội sửa chữa.

Hắn thấy... sống như vậy... quả thực là hành hạ bản thân.

Hồng Đô đương nhiên sẽ tôn trọng quyết định của Nguyễn Đông Thanh. Cô nàng chỉ nhún vai, bụng bảo dạ...

“Tiên sinh dễ mềm lòng thật. Nhưng... có lẽ đây chính là nguyên nhân tiên sinh lựa chọn quay lại bản tâm, làm một người phàm. Tu hành gian truân, người lừa ta gạt, mấy ai giữ được bản tâm?”

oOo

Đoàn người ở lại thôn trang nhỏ một đêm.

Sáng hôm sau, Nguyễn Đông Thanh hỏi Sở Tinh Hà chuyện về hai câu thơ lão đọc lúc tung một kiếm hôm nọ.

Lão lúc này đã hoàn toàn chấp nhận sự thật tu vi mình cực khổ tu hành đã hoàn toàn bị phế, lòng lạnh như tro. Bây giờ bỗng nhiên Nguyễn Đông Thanh hỏi chuyện, chẳng khác nào ném xăng vào lửa.

Lão nổ.

Sở Tinh Hà cười gằn, nói:

“Muốn biết sao? Thế nhưng ta nhất quyết không nói cho ngươi biết. Cầu xin ta đi. Lạy lục ta đi!”

“Đáng không?”

Nguyễn Đông Thanh thở dài, hỏi.

Gã không ngốc. Gã biết Sở Tinh Hà đang cố tình khiêu khích hắn, để hắn g**t ch*t lão.

“Sao? Không trào phúng? Lão phu hiện giờ cũng là kẻ phàm phu tục tử, con sâu cái kiến. Lúc này ta sống không bằng chết. Ngươi hài lòng chưa? Nhìn chán chưa? Nếu rồi... thì làm ơn làm phước, để lão phu chết đi.”

Nguyễn Đông Thanh ngồi xuống.

Hắn không tranh thủ giết người tru tâm, cũng không nói lời hạ nhục đánh mặt. Gã nhìn Sở Tinh Hà một cái, cuối cùng nói:

“Có thể lão cho rằng ta chỉ là kẻ người phàm mắt thịt, không thể nào hiểu cái cảm giác từ trên trời cao rơi xuống đất bùn của lão. Bây giờ, chỉ cần lão nói một câu lão bước lên đường tu hành chỉ là vì tăng thêm tu vi, ta sẽ đi. Sau này lão sống hay chết, giàu hay nghèo, không liên quan đến ta.”

“Ta...”

Sở Tinh Hà vốn đang định làm theo lời Đông Thanh. Chỉ hơn mười chữ ngắn ngủn, lão nói chỉ mấy một hơi là xong. Thế nhưng, Sở Tinh Hà trầm mặc, im lặng.

Lúc này, lão rơi vào đốn ngộ.

oOo

Trên đời có kẻ ngay từ lúc bập bẹ nói cười, là đứa bé ngây ngô đã nói mấy lời “theo đuổi tận cùng của đại đạo”, “khám phá bí ẩn thiên địa” hay chăng? Có. Không phải thần kinh, thì chính là nhân vật phong vân một cõi, hiếm như lông phượng sừng lân.

Sở Tinh Hà không phải loại người này.

Lão từng là một người bình thường, cũng giống như hiện tại, nửa điểm tu vi cũng không có. Một kẻ phàm phu chỉ cầu ngày ba bữa cơm, trên đầu có nóc nhà, bên ngoài có thửa ruộng, trong chuồng có trâu có lợn, lại có một người đầu gối tay ấp, bình dị hết đời mà thôi.

Ấy... từng là mộng tưởng của lão – Sở Mộc Đầu của thôn Hòe.

Cách vách, Sở Mộc Đầu có một cô gái thôn quê, tên là Y Y. Dáng người có chút thô kệch, da có chút đen, nụ cười có chút sáng.

Cho đến một ngày, tu hành tông môn buông xuống, vì một lời đồn vô căn cứ rằng thôn Hòe có bí cảnh, có bảo tàng. Hôm đó... cả thôn không ai còn sống cả.

Y Y của lão cũng không còn cười nữa.

Thậm chí hài cốt đẻ an táng cũng chẳng có, chỉ có một vũng máu chết lặng bên cái trâm gỗ chính tay Sở Mộc Đầu đeo tặng cho nàng.

Sở Mộc Đầu khóc. Lão căm ghét phàm nhân, khinh thường người thường, kỳ thực cũng là khinh thường căm ghét chính mình lúc là phàm nhân. Lão ghét sự vô tri, bất lực, tuyệt vọng lúc đó của chính mình.

Hôm đó, Sở Mộc Đầu bước lên con đường tu hành đầy chông gai và máu tanh, đạp lên thây khô xương trắng hòng vung thanh kiếm báo thù về phía tông môn đã tiêu diệt thôn Hòe. Lão đổi tên. Không còn là đầu gỗ nữa, mà là một mảnh trời sao. Thiếu niên ngây ngô thuở đó cho rằng trời sao trên đầu chính là linh hồn người cả thôn hóa thành, soi rọi con đường tu hành tầm tiên vấn đạo của lão.

Lão là tán tu, không phải vì không có tông môn nào chịu nhận, mà là vì những kẻ đã tận diệt thôn của lão cũng là người của tông môn.

Máu đã đổ, lệ đã rơi.

Cừu nhân cuối cùng cũng đã phải trả giá.

Trời cũng khóc. Mưa trắng xóa, rửa trôi đi đống máu đọng trên phế tích, bao trùm thân ảnh lưng đeo kiếm dài, quỳ gối giữa đống hoang tàn.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 44: Cắm Trại


Sở Tinh Hà tự vấn lòng.

Hỏi trời hỏi đất dễ, vấn tâm mới là khó. Lúc này, Sở Tinh Hà tự hỏi từ bao giờ mình đã quên mất chuyện thôn Hòe, quên cả Y Y.

Câu trả lời có lẽ chính là sau cái ngày lão tàn sát tông môn kẻ thù.

Sở Tinh Hà chống thanh kiếm vấy đầy máu tươi, chỉ thấy rỗng tuếch. Lòng lão rỗng không, đầu lão rỗng không, ngay cả trái tim cơ hồ cũng bị đào rỗng mất.

Bây giờ lão phải làm gì?

Lão tu hành để mà làm gì nữa?

Thù đã báo, bây giờ theo lý mà nói chẳng phải nên về gặp người cả thôn hay sao?

Thế nhưng... cuối cùng, Sở Tinh Hà còn sống. Lão không muốn chết. Lão tiếc nuối một thân tu vi mình phải kinh qua trăm đắng ngàn cay mới tu thành được. Lão không muốn chết, thế nên cần phải tìm cho mình một lý do để sống tiếp. Cuối cùng, Sở Tinh Hà vin vào tu vi của chính mình, vin vào tài nguyên tu luyện.

Cứ thế, tranh tranh giành giành, lừa gạt, cướp giết...

Thiếu niên Sở Mộc Đầu chống kiếm nhìn trời năm xưa đã chẳng còn tung tích đâu nữa.

oOo

Sở Tinh Hà ngồi thừ ra đó, lạc trong dòng hồi ức, sắc mặt biến hóa lúc trắng lúc đỏ, mấy lần mở miệng như định nói gì rồi lại thôi. Nguyễn Đông Thanh thấy vậy, biết lão ta cần thời gian suy nghĩ thì cũng liền đứng dậy đẩy cửa đi ra ngoài. Trước khi bỏ đi, còn nói:

“Tạm thời hai lão cứ ở lại thôn này mà suy nghĩ, chúng ta còn có việc đi trước.”

Hắn đắn đo giây lát rồi để lại thêm mấy câu:

“Hy vọng khi tôi trở lại, ông có thể suy nghĩ thông suốt. Việc ban nãy tôi hỏi, vẫn hy vọng sẽ được ông giải hoặc. Thế nhưng nếu sau này chúng ta không còn gặp lại nữa thì đành coi như thằng Thanh này vô duyên với câu trả lời ấy vậy. Dù gì thì cũng mong ông từ nay sống đời tử tế, đừng làm những việc hại người nữa!”

Lời dứt thì cửa cũng đóng sập, để lại Sở Tinh Hà thẫn thờ ngồi đó.

Nguyễn Đông Thanh bước ra ngoài thì liền đi tìm gọi Hồng Đô và hai người Nguyên Phương, Trần Dũng, tiếp tục lên đường xuôi về Mỹ Vị sơn trang.

Kỳ thực, khi nghe hai câu thơ từ miệng Sở Tinh Hà, Nguyễn Đông Thanh thật sự nóng lòng muốn biết. Thế nhưng nhìn tình cảnh hiện tại của lão, hắn không nỡ ép hỏi, lại chẳng thể chờ lão ta bình tĩnh lại để hỏi. Đâu thể biết lão ta sẽ mất bao nhiêu thời gian, hắn lại còn có công vụ trên người.

Mà chẳng lẽ lại áp giải cả hai người kia cùng đi với mình? Thêm hai miệng ăn lại còn vác theo hai kẻ có thể đâm lén sau lưng mình bất cứ lúc nào? Nguyễn Đông Thanh tin vào sự tử tế trong mỗi con người, cũng như sẵn sàng cho họ cơ hội sửa sai, làm lại cuộc đời. Nhưng điều này không đồng nghĩa với việc hắn ngu! Những việc nên làm để phòng thân Nguyễn Đông Thanh vẫn biết rõ. Thành thử, cách tốt nhất là để hai người họ lại đây, rồi hy vọng khi xong việc quay trở lại, Sở Tinh Hà có thể bình tĩnh lại mà giải đáp thắc mắc cho hắn. Có câu “quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy” là ý như vậy.

Còn nếu hai người họ thực sự rời đi trước khi hắn quay lại? Vậy thì y như lời hắn nói với Sở Tinh Hà ban nãy thôi, hắn không có duyên được biết. Dù gì Nguyễn Đông Thanh muốn biết cũng chủ yếu vì tò mò. Đây cũng không phải ngày hắn mới tới thế giới này, cũng đã bắt đầu cắm rễ ở nơi đây rồi. Ngoại trừ cô hàng xóm cùng hai con Cải Thảo, Đá Nhỏ, giờ còn có ba người học trò cùng vài người quen biết tại ải Quan Lâm. Thành thử, việc tìm được đồng hương đối với Nguyễn Đông Thanh cũng tốt, nhưng nếu không được cũng chả sao. Người xưa chả có câu “bán anh em xa, mua láng giềng gần” còn gì? Hà huống, còn chưa biết người “đồng hương” tiềm năng này nhân phẩm ra sao, là địch hay là bạn!

Nhận lệnh từ Bích Mặc tiên sinh, hai người Nguyên Phương, Trần Dũng liền chuẩn bị xe bò. Còn về phần Hồng Đô, nàng ta còn ngoái nhìn về phía hai lão Sở Tinh Hà, Đặng Không một lúc lâu, chẳng biết là nghĩ gì, rồi mới theo Nguyễn Đông Thanh lên xe.

oOo

Xe bò lại lóc cóc trên đường, bốn người trên xe quay lại với công việc hôm qua. Nguyễn Đông Thanh kể chuyện, Hồng Đô ghi ghi chép chép gì đó, hai cậu lính ngồi phía trước lo đánh xe, tìm đường. Cái khác biệt so với hôm qua là không khí đã bớt phần ngượng ngùng, thêm phần hài hòa. Vị Bích Mặc tiên sinh này khác với tưởng tượng của hai người Nguyên Phương, Trần Dũng, cực kỳ hòa đồng, gần gũi. Mà những câu chuyện y kể thì thực là vừa cuốn hút, lại cũng không kém phần kinh tâm động phách.

Nghe một hồi bị nghiện, cũng chẳng rõ ai trong hai người lên tiếng hỏi trước, chỉ biết về sau hai người họ chia nhau ra, một ngồi trước đánh xe, một chui vào trong xe vừa nghe vừa hỏi chuyện Nguyễn Đông Thanh. Vị Bích Mặc tiên sinh này cũng chẳng vì vậy mà phật ý, lại còn kể hăng say hơn.

Do trong nhẫn chứa đồ Vũ Tùng Lâm đưa, có cả lương khô phòng hờ, thế nên đoàn người của Nguyễn Đông Thanh cứ thẳng đường mà đi, nếu thuận tiện thì mới ghé vào thôn xóm ven đường ăn uống các bữa, còn nếu không thì ăn trên xe luôn.

Lúc vui vẻ thì thời gian cảm giác như trôi rất nhanh, thành ra bốn người đi chả mấy đã tới lúc chạng vạng.

Xét thấy trời đã sắp tối mà xung quanh không có làng mạc gì, hai người Nguyên Phương, Trần Dũng còn đương định đề xuất quay lại thôn xóm đi qua hồi chiều, thì đã thấy Nguyễn Đông Thanh quyết định đêm nay cắm trại ngủ ngoài trời. Hai người toan can ngăn nhưng hắn chỉ cười bảo không sao.

Nguyên Phương, Trần Dũng đều là lính, ở khổ đã quen, bọn họ lo chủ yếu là lo Bích Mặc tiên sinh không quen thôi, nhưng thấy y nhất nhất quyết như vậy thì cũng không bàn cãi nữa mà lẳng lặng nghe theo. Kỳ thực, Bích Mặc tiên sinh của chúng ta thời sinh viên cũng từng đi tình nguyện vùng cao, đến đủ tuổi cũng bị lôi đi nghĩa vụ, thậm chí đặt chân đến Huyền Hoàng Giới rồi cũng sống một cuộc sống mộc mạc giản đơn. Thành thử, chút chuyện cắm trại ngủ trời này hắn đã từng trải qua những năm còn đôi mươi, nên cũng không tính là khó khăn gì.

oOo

Việc quan trọng nhất của qua đêm ngoài trời là làm sao giữ ấm giữa đêm lạnh và có một cái mái che đề phòng mưa xuống. Chả thế mà trong phim truyền hình, vẫn hay thấy những người vô gia cư tụ tập sống dưới gầm cầu, lại hay đốt lửa trong những thùng kim loại.

Nguyễn Đông Thanh biết nhóm lửa, thế nhưng so với hai cậu lính sống trong quân ngũ thì hiển nhiên hắn không bằng. Thế nên, khi phân chia công việc, hắn tự nhận đi nhặt củi đốt, còn giao cho Hồng Đô đi kiếm thêm các loại đồ ăn tươi. Hai người Nguyên Phương, Trần Dũng không yên tâm để Nguyễn Đông Thanh đi một mình nên cuối cùng một người ở lại dựng trại, một người đi theo hắn vào bìa rừng ven đường kiếm củi.

Nguyên Phương đi theo Nguyễn Đông Thanh, thấy vị Bích Mặc tiên sinh này ngoại trừ thể lực đúng chuẩn “thư sinh trói gà không chặt” ra thì kiến thức của y về động thực vật cũng như sinh tồn trong thiên nhiên cũng xấp xỉ chứ chẳng kém mình là bao nên vô cùng ngạc nhiên. Phải biết, “học phí” Nguyên Phương phải trả cho những kiến thức ấy là mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả máu. Y từng phải ngậm gai nếm mật trong quân ngũ bao năm tháng mới có được những hiểu biết này. Thế nhưng vị tiên sinh này, tuy là bước thấp bước cao, thở thì phì phò, nhưng từ chọn củi đốt đến nhặt quả rừng, thậm chí tránh các loại cây cỏ có độc thì lại như làm nhiều thành quen.

Sau khi hai người tìm được kha khá củi lửa thì liền quay lại tựu họp ở chỗ hạ trại. Lúc này, Hồng Đô đã bắt được vài con thỏ nhỏ, còn Trần Dũng cũng đã đào xong một cái hố nông, chất sẵn đá sỏi xung quanh. Đợi khi hai người Nguyễn Đông Thanh mang củi trở về y cũng liền bắt tay vào nhóm lửa.

Đốt lửa trại, muốn cháy được lâu mà an toàn, thì nên đào đất lõm xuống một chút rồi mới chất củi lửa vào, lại đặt đá sỏi to cỡ bàn tay, nắm đấm xung quanh tạo thành một vòng tròn, vừa che chắn bớt gió để củi dễ cháy lúc bắt đầu nhóm lửa, lại cũng phòng hờ đêm ngủ lăn lộn lung tung xảy ra tai nạn. Thế nhưng, một khi lửa đã cháy rồi, thì lại cần xếp củi sao cho không khí có thể lưu thông, còn mượn nhờ sức gió giữ cho lửa cháy được lâu không tắt. Kỳ thực, đây cũng là nguyên lý hoạt động của các lò hóa vàng mà dân ta vẫn dùng hiện nay.

Cùng một sự vật sự việc, thế nhưng hai người Nguyên Phương, Trần Dũng thì hiểu nhờ kinh nghiệm đúc kết, còn Nguyễn Đông Thanh lại hiểu thông qua lý luận khoa học tự nhiên. Ấy âu cũng là sự khác biệt của thời đại, thế hệ, những hiểu biết của con người cũng như cách truyền dạy chúng qua từng thời kỳ. Tương tự như việc Nguyễn Đông Thanh “học” trước rồi mới “(thực) hành” những kiến thức về sinh học, sinh tồn, còn Nguyên Phương thì phải “(ăn) hành” trước rồi mới “học” được những kiến thức ấy vậy.

Nguyên Phương toan định xiên đám thỏ lên nướng thì Nguyễn Đông Thanh cản lại, tranh phần nấu chúng. Nguyên Phương lúc đầu cũng từ chối, bảo việc nhỏ này của đám hạ nhân bọn họ, không đáng để hắn ra tay, thế nhưng sau khi thấy thái độ hắn khăng khăng thì cũng không cãi nữa. Nguyễn Đông Thanh hí hửng, rút từ trong người ra một cái túi, bảo cậu lính chia cho mọi người ăn trong lúc chờ hắn chế biến mấy con thỏ, rồi liền bắt tay vào làm.

Nguyên Phương giở cái túi ra, thì thấy thứ mà Bích Mặc tiên sinh đưa cho y là một loại thịt khô, giống ruốc mà chẳng phải ruốc, lại có mấy thứ hình như là lá chanh với ớt. Y tò mò, bỏ một miếng nhỏ vào miệng nhấm thử, thì ôi chao, ngon chảy cả nước mắt!

Thịt là thịt gà, thớ thịt dai dai, mỗi lần răng Nguyên Phương nhai xuống thì đủ loại vị, từ cay của ớt, ngọt của mật ong, đến mặn của mắm, thơm của lá chanh cùng các loại gia vị khác lại trào ra, quyện vào nước miếng, dạo một vòng trong miệng y, trước khi trôi xuống cuống họng. Nuốt ực miếng đầu tiên xuống, Nguyên Phương hít sâu một hơi, thở khà ra, cực kỳ hưởng thụ dư vị còn vương lại trong miệng mình. Đoạn, quay người chạy đến chỗ Trần Dũng, chia cho đồng bạn mình ăn cùng.

Thì ra, thời gian gần đây, con gà trống nhà Nguyễn Đông Thanh làm chết không biết bao nhiêu là gà mái, bỏ đi thì tiếc mà làm gà luộc quanh năm vừa nhàm vừa không để được lâu. Thế là Bích Mặc tiên sinh của chúng ta vào bếp, làm món khô gà lá chanh. Món này tương đối mới, nên kể cả nếu như Đại Việt của Huyền Hoàng giới có nền ẩm thực giống y hệt với Đại Việt của địa cầu đi chăng nữa thì hai người Nguyên Phương, Trần Dũng hẳn là cũng chưa bao giờ được nếm qua món đồ khô này.

Bàn về khô gà là chanh, cách làm món này có bốn năm phần tương tự ruốc (hay chà bông). Đều là trần qua thịt, đều là cắt hoặc xé miếng nhỏ, đều là tẩm ướp gia vị vừa đủ rồi làm khô trên chảo, lại cùng là món khô để ăn dài ngày. Thế nhưng khác biệt của hai món này, nằm ở mục đích làm, cũng như độ khô cần thiết.

Ruốc ra đời từ sớm hơn rất nhiều, là món ăn của nhà nghèo để tiết kiệm thịt. Thành thử, ruốc ban đầu rất mặn, rất khô, chủ yếu vì để được lâu ngày không sợ hỏng. Về sau ruốc làm bớt mặn đi, cũng để mềm hơn, thế nhưng tiêu chí về khô và để lâu vẫn không thay đổi nhiều. làm ruốc rất tốn thời gian, nhiều công đoạn, khi làm phải đứng đảo đến mỏi cả tay, nhưng cũng để được rất lâu không sợ hỏng.

Khô gà lá chanh thì khác. Món này tương đối mới, nếu có ra đời trước thời hiện đại thì cũng không trước bao lâu. Chỉ tiêu khi nấu đề cao ngon, bùng nổ hương vị, chứ lại không quá đề cao để được thật lâu, mặc dù cũng vẫn bảo quản được trong một quãng thời gian không ngắn. Khô gà lá chanh làm nhanh và ít công đoạn hơn, lại cần giữ lại độ ẩm nhất định mới ngon, chứ cũng không nên hay cần phải xao cho ráo nước hẳn như ruốc.

Mà trong khi hai cậu lính trẻ đang vừa ăn vừa tấm tắc khen món lạ này của Bích Mặc tiên sinh, thì Nguyễn Đông Thanh cũng đã làm gần xong khâu đầu tiên của xử lý thịt thỏ.

Thịt thỏ rất ngon, nhưng nếu khâu sơ chế làm không tốt thì sẽ để thịt bị rất hôi, khó ăn. Đây cũng là lý do Nguyễn Đông Thanh khăng khăng đòi tranh phần chế biến. Hắn ở Huyền Hoàng giới đến nay cũng không phải chỉ mới ngày một ngày hai. Tuy vẫn cảm thấy bản thân lạc lõng, nhưng về phong tục tập quán cũng như ẩm thực thì cũng đã có tìm hiểu không ít. Vậy nên, hắn biết người dân ở ải Quan Lâm chưa biết cách khử mùi hôi của thịt mà vẫn nghĩ thịt thỏ vốn là phải như vậy.

Cái hôi của thịt thỏ, nguyên nhân chính, ngoại trừ do không làm sạch lông trước khi nấu, nằm ở đoạn xương đuôi sát hậu môn và phần tuyến sữa của chúng. Vậy nên, bước đầu tiên cần làm khi sơ chế thịt thỏ, là phải cạo sạch lông, thui qua lửa, cũng như cắt bỏ hai “hung thủ” gây mùi này. Tiếp đó, muốn khử sạch mùi hăng còn sót lại, thì cần tẩm ướp thịt thỏ trong rượu cùng các loại gia vị như gừng, tỏi, xả, để trong vài giờ. Đợi đến khi thịt ngấm, hết mùi, thì mới đem ra chế biến.

Trong lúc đợi thỏ ngấm gia vị, Nguyễn Đông Thanh quay về bên lửa trại thì thấy hai người Nguyên Phương, Trần Dũng đã chiến đấu xong già nửa gói khô gà hắn đưa ban nãy.

Hắn cười cười, đoạn ngồi xuống bên cạnh họ, rút thêm một gói khô gà khác từ trong người ra, vừa nhấm nháp vừa nói chuyện phiếm.

Đêm hôm đó, sau khi khai vị bằng món lạ của Bích Mặc tiên sinh, hai người Nguyên Phương, Trần Dũng lần đầu tiên được biết thịt thỏ nướng lại còn có thể ngon đến như vậy.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 45: Thiên Cơ Các Quá Có Tiền


Sau khi rời khỏi Hoàng Đô, sáu người bọn Đỗ Thải Hà nhanh chóng đi đến thành Tây An.

Tây An và Đông An được coi là hai lá chắn của Hoàng Đô, được xây dựng từ lúc nước Tề lập quốc. Hơn hai trăm năm trước nước Tề thua nước Hàn, quốc lực suy kiệt, cương thổ trở nên nhỏ nhất trong sáu nước.

Nếu không phải có Đông An và Tây An thủ vững kinh thành, có lẽ Đại Tề đã sớm bị các nước khác nuốt chửng, cũng chẳng thể nào chờ được đến lúc sát thần Nghiêm Hàn xuất thế, quật khởi trở thành bá chủ sáu nước.

Tây An cách Hoàng Đô không quá xa, dựa vào tốc độ của Tạ Hàn Thiên chỉ nhoáng một cái là đã đến nơi.

Bấy giờ, trước cổng thành phía đông đã xếp hàng cơ man không biết bao nhiêu người cho xuể, rồng rắn nuối đuôi nhau thành một hàng dài đến vài dặm có dư. Loáng thoáng thấy kề bên dòng người có cả binh sĩ khí giới tuốt trần đứng canh, khiến cho tuy nhiều người, lại không một ai dám làm loạn.

Thanh Tước xuất hiện, lập tức khiến cho đoàn người bên dưới vỡ tổ.

Thần điểu xé không mà bay, sải cánh trải hàng trăm thước, cứ vỗ cánh một cái là biển mây trên trời lại tan tành tán loạn, Ráng chiều đỏ ối đổ ánh nắng cuối ngày lên bộ lông xanh muốt. Thể theo kiểu ăn nói của Tạ Hàn Thiên mà nói, quả thực là “soái khí bức người”.

Trong thành, lúc này chợt có tiếng nhạc tình tang cất lên. Trong ánh mắt ngạc nhiên của dòng người đang xếp hàng ở ngoài thành, hai cô gái mặc áo trắng, tay xách một cái đèn lồng trắng vẽ hình một con mắt bằng mực son đỏ chót, nhẹ nhàng đạp gió bước lên không trung.

Sau lưng, lại có hai thiếu nữ mặc áo vàng, tay cầm hai cái lẵng, nhẹ nhàng tung hoa. Mỗi cánh hoa lại là một màu, bên trên chứa đạo vận huyền ảo, mùi hương thơm ngát khiến lòng người mê say. Người bên dưới biết là bảo vật, nhao nhao ngồi xuống tranh thủ tu hành.

Cuối cùng, một thiếu nữ mặc áo đỏ, tóc cắt ngang vai, trên cổ đeo vòng vàng bẻ thành hình một con mắt nhẹ nhàng đạp lên cánh hoa mà bước. Tay nàng ta cầm một tấm thảm đỏ, nhẹ nhàng trải từ tường thành ra đến hơn mười trượng mới ngừng lại. Tấm thảm tuy kéo ra giữa trời, bên dưới không có chống đỡ gì, thế nhưng khi thiếu nữ thả tay ra thì nó vẫn căng ra thẳng tăm tắp, không trùng xuống một chút nào cả.

Trên lưng Tạ Hàn Thiên, Tạ Thiên Hoa chặc lưỡi một cái:

“Ra tay hào phóng thật. Thiên Cơ Các này quả thực là lắm tiền.”

“Sư muội, nhìn ra thứ gì rồi sao? Không biết có thể chia sẻ một hai để hai ta mở mang tầm mắt hay không?”

Lý Thanh Vân ngồi một bên, chỉ thấy nghi thức tiếp khách của Thiên Cơ Các quả thực là xa xỉ hoa lệ, song lại không rõ cụ thể dùng thứ gì mà đến nhị sư muội đường đường là thánh nữ tộc Thanh Tước cũng phải khen “hào phóng”.

Đỗ Thải Hà tuy không lên tiếng, nhưng ánh mắt mười phần hiếu kỳ, hiển nhiên có cùng chung một suy nghĩ với ông sư huynh,

Tạ Thiên Hoa hít sâu một hơi, nói:

“Hai cái đèn lồng sử dụng da của Hàm Nguyệt Ngư Yêu, một loại yêu thú sống rất sâu dưới đáy biển Phong Bạo. Thứ này nhẹ, mỏng, dai, lại hoàn toàn không sợ lửa đốt. Sử dụng làm lồng đèn cho dù có nghiêng đổ ra sao cũng không sợ hỏa hoạn.”

“Hoa rải ra đón khách là Đốn Ngộ Hoa. Hoa này sinh cùng thiên địa, cả Huyền Hoàng giới chỉ có tám cây. Hoa nở ra, mỗi cánh một màu. Càng nhiều màu thì công hiệu giúp người ngộ đạo càng mạnh. Trong làn có bảy loại cánh hoa, nếu thực sự là gỡ ra từ thất diệp Đốn Ngộ Hoa, thì đủ khiến cường giả sơ nhập Vụ Hải tiến thêm một bước.”

“Cuối cùng. Thảm kia là da rồng đính lông chim phượng.”

Cô nàng vừa nói xong, cả Lý Thanh Vân và Đỗ Thải Hà cơ hồ điếng người, kém chút thì ngã khỏi lưng của Tạ Hàn Thiên.

Quả thực... quá hào phóng.

“Chả bù cho sư phụ.”

Lý Thanh Vân thở dài, nhỏ giọng. Sau khi thấy thế giới của người có tiền, cậu chàng lại càng khâm phục tâm cảnh của sư phụ mình hơn.

Đỗ Thải Hà, chú cháu Tạ Thiên Hoa, Lâm Phương Dung cũng gật đầu. Đỗ Thải Hà nói:

“Có thể bỏ nhừng thứ xa hoa thế này để sống hoàn toàn như một phàm nhân, tâm cảnh của sư phụ quả thực cao đến không tưởng, độc bộ thiên hạ, kinh thế hãi tục.”

“Kính chào Tạ đại hiệp, Lâm kiếm chủ. Tiểu nữ là các chủ phân các đại Tề - Hàn Giáng Tuyết, ở đây chờ các vị đại giá quang lâm đã lâu.”

Thiếu nữ áo đỏ cung tay, cúi đầu, lễ số đầy đủ, thái độ cung kính lễ phép, có thể nói là không chê vào đâu được.

“Các chủ khách khí rồi.”

Tạ Hàn Thiên hóa thành hình người, lại phất tay áo giữ cho Lý Thanh Vân khỏi rơi lộn cổ xuống đất. Chớ thấy cậu chàng có thể đánh ngang cường giả tứ cảnh không chết mà lầm tưởng, thực chất Thanh Vân vẫn là kẻ đã mất hết tu vi, đương nhiên không thể nào đạp gió cưỡi mây được.

Hàn Giáng Tuyết nhoẻn cười:

“Ba vị tiền bối tu vi thông huyền, đương nhiên là xứng đáng nhận được đãi ngộ này của Thiên Cơ các.”

Nàng ta nói câu này cũng không cố tình hạ thấp âm thanh, sáu người bọn Tạ Thiên Hoa lẫn những người dưới thành chỉ cần ngưng thần là có thể nghe rõ mồn một.

Đám người nhất thời quên cả xếp hàng, trố mắt, ngưng thần nhìn về phía sáu người đứng trên thảm long phượng.

Hai người Tạ, Lâm thì quá nổi danh rồi, thế nhưng thể theo câu vừa rồi của Hàn Giáng Tuyết, trong bốn thiếu niên nam nữ trông chỉ mười mấy hai mươi tuổi thế mà còn có người đứng được ngang vai ngang vế với Tạ Phong Tử, Lâm Kiếm Tổ?

Ba người Lý Thanh Vân thì cũng giật mình, nghẹn giọng nhìn về phía Hàn Giáng Tuyết. Bọn họ đương nhiên biết Tiểu Thạch có chiến lực kinh người, nếu giao thủ tuyệt đối có thể đánh cho Tạ Hàn Thiên ôm đầu chạy.

Thế nhưng... cả một đường từ ải Quan Lâm đến Tây Đô, gã chỉ ra tay đúng một lần vào mấy ngày trước ở thành Ngự Long.

Ấy vậy mà Thiên Cơ các ở tận Đại Tề cũng đã biết đại khái Tiểu Thạch là cao thủ, hơn nữa còn cho đánh giá không thua kém gì hai người Tạ, Lâm.

Năng lực tình báo này... cũng không khỏi quá đáng sợ một chút.

Hàn Giáng Tuyết xem như không trông thấy ánh mắt của người khác. Chỉ thấy cô ta lật bàn tay, dâng hai miếng ngọc giản lên cho Lâm Phương Dung và Tạ Hàn Thiên., Hai người sử dụng thần niệm thăm dò, thấy bên trong là tư liệu về đội ngũ lần này của Kiếm Trì và Lục Trúc Hải. Trong ngọc giản ghi lại người dẫn đội lần này là ai, theo sau là những vị thiên tài thiên kiêu nào, được Thiên Cơ các sắp xếp cho dừng chân ở đâu, bố cục tỉ mỉ chu đáo.

Hàn Giáng Tuyết tranh thủ lúc cả hai đang xem ngọc giản, lại quay sang chỗ Tiểu Thạch, cười:

“Dám hỏi tôn tính đại danh của tiền bối. Không biết tiền bối có muốn đề danh Võ Bảng hay chăng?”

“Vương Tiểu Thạch. Đề chơi một lần cũng hay.”

“Đã rõ. Chư vị, xin mời vào trong thành nói chuyện.”

Hàn Giáng Tuyết lại hơi khom lưng, đưa tay làm thủ thế mời. Chờ cho sáu người cất bước, nàng ta mới chậm rãi bước theo ở phía sau.

oOo

Lý Thanh Vân ngồi bên bàn trà, nhìn ra phía hoa viên bên ngoài. Nơi này hậu viện có núi giả, vườn trước có ao cá, xung quanh tiểu viện tổng cộng gộp lại trồng vừa đúng bảy bảy bốn mươi chín thân cây, hết thảy đều là tiên thụ thần mộc. Có Ngộ Đạo Thần Trúc, có Bàn Đào, có cây quả nhân sâm, lại không biết dùng cách gì để cho tất cả cùng ra hoa một lúc, hương thơm ngào ngạt tràn ngập cả căn phòng.

Trong ao, chín con cá bơi lội thỏa thích, vảy phản chiếu ánh đèn bóng lên bảy sắc, thỉnh thoảng lại nghe thấy chúng khẽ gầm lên, phát ra một tiếng long ngâm.

Lại có chín lồng tre đan bằng trúc Ngộ Đạo, sân trước ba cái bày theo thế tam tài, hậu viện sáu chiếc bày theo lối lục hợp. Trong lồng cũng nuôi toàn là các giống tiên cầm huyết mạch cao quý.

Lý Thanh Vân quả thực bị độ xa xỉ của nơi này lóe cho mém thì mù mắt, cuối cùng bèn nhìn sang chỗ hai vị sư muội, nói:

“Nếu bây giờ sư phụ đứng đây, tuyệt đối có thể viết thành truyền thuyết chí cường giả hóa phàm thể ngộ hồng trần.”

Ao cá nuôi rồng, lồng chim nhốt phượng, khắp nơi trồng tiên mộc, quả thực khớp y sì trong những truyền thuyết mà cậu chàng đọc được.

Thiên Cơ các thế mà đùng để tiếp khách.

Hơn nữa còn không phải phòng hạng nhất.

Đỗ Thải Hà nhún vai:

“Mấy thứ xa xỉ này và khả năng tình báo của Thiên Cơ các, em vẫn thấy sợ cái sau hơn.”

Hai vị đệ tử còn lại nghe xong, cũng gật đầu đồng tình. Không vì nguyên do gì khác, mà là bởi sắp xếp của Thiên Cơ các quả thực quá hợp lý, hợp lý đến nỗi cả ba cơ hồ có cảm giác cả chặng đường đến Đại Tề mình bị người ta theo dõi.

Ba người Tạ, Lâm và Tiểu Thạch được sắp xếp ở một trang viên chữ thiên tách hẳn khỏi ba người bọn họ. Quan trọng hơn là kế sát là tửu lầu lớn nhất Tây Đô – Túy Tiên Lầu.

Ba sư huynh muội muốn lịch luyện, nên ba cường giả hộ đạo cần phải tránh mặt.

Tiểu Thạch thích rượu.

Cơ hồ là tái hiện hành trình của họ ở Ngự Long thành.

Riêng Tạ Thiên Hoa, cô nàng có tâm sự riêng.

Dù sao xuất thân của cô nàng là cao nhất trong ba sư huynh muội, thế nên sự xa xỉ của Thiên Cơ các tuy cũng khiến Tạ Thiên Hoa kinh ngạc, song vẫn nằm trong khả năng thừa nhận chứ không đến nỗi hoàn toàn chết lặng như Lý Thanh Vân. Cô nàng cũng từng tiếp xúc với cơ mật cao tần của tộc Thanh Tước, thế nên năng lực tình báo của Thiên Cơ các cô nàng cũng đã biét một hai, thành thử không đến nỗi phải giật mình như Đỗ Thải Hà.

Điều khiến Tạ Thiên Hoa thấy ngờ vực nhất chính là Hàn Giáng Tuyết.

Trừ vòng cổ và dung mạo, vô luận là kiểu tóc, trang sức, y phục, vị các chủ Thiên Cơ phân các này có thể nói là gần như sao y bản chính Hồng Vân tiên tử.

Sở dĩ không nói cho hai người Thanh Vân, cũng không cố ý đi điều tra, ấy là do cô nàng vẫn còn nhớ lời dặn của Tiểu Thạch.

Không ngờ, vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã đến ngay.

Ba người còn đang bàn tán sôi nổi, thì đã nghe thấy ngoài cửa có tiếng nói lảnh lót của một thiếu nữ:

“Lý thiếu hiệp, hai vị cô nương, không biết Giáng Tuyết có thể vào được không?”

Lý Thanh Vân ra mở cửa, quả nhiên vị các chủ phân các đã đứng bên ngoài chờ. Cô nàng nhún mình chào một cái, rồi mới nhẹ nhàng đi vào tiểu viện theo lời mời của anh chàng. Hàn Giáng Tuyết đến trước cửa viện, thế nhưng không bước vào phòng mà đứng bên dưới thềm.

Cô nàng chờ Lý Thanh Vân khép cửa bước vào, mới nói:

“Tiểu nữ không làm phiền ba vị nghỉ ngơi chứ?”

“Không. Hàn các chủ đến tìm ba người bọn ta, không rõ là có gì cần dạy bảo?”

Tạ Thiên Hoa cười đáp lễ.

Hàn Giáng Tuyết bấy giờ mới đáp:

“Đêm nay Nhất Phẩm Lâu có tổ chức một buổi đấu giá hội, kỳ trân dị bảo phong phú vô cùng, cực kỳ đặc sắc. Không biết ba vị có muốn tham gia hay không?”

Hai người Lý Thanh Vân, Đỗ Thải Hà lập tức có hơi động tâm.

Tạ Thiên Hoa thì bình tĩnh cười, hỏi:

“Hàn các chủ xin cứ nói thẳng.”

Cô nàng biết Thiên Cơ các có tình báo lực rất mạnh, ắt hẳn đã biết việc ba người bọn họ dạo chợ thành Ngự Long tìm mua quà cho sư phụ. Về lý mà nói, chỉ cần đến thông báo đã dành được cho ba người suất tham gia đấu giá hội, chắc chắn ba người sẽ không từ chối.

Hàn Giáng Tuyết làm người tinh tế, nếu đã đến hỏi ý kiến, tức là có khả năng ba người không muốn đi.

Thiếu nữ áo đỏ cười:

“Thịnh hội cỡ này, tất nhiên sẽ thu hút vô số thế lực. Thế nên, rất có thể ba vị sẽ gặp ‘người quen’ nếu tham gia. Tiểu nữ băn khoăn mãi không biết quyết sao, cuối cùng thấy cứ đến hỏi thẳng ba vị là hay nhất.”

Nàng ta sau đó nhẹ nhàng dâng lên ba tấm thẻ màu đen, chính là thân phận bài dùng để tham dự đấu giá hội của Nhất Phẩm Lầu.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 46: Nhất Phẩm Lầu Đấu Giá Hội


Ba người Lý Thanh Vân cân nhắc một hồi, cuối cùng cũng nhận lấy ba tấm thẻ thân phận.

Chớ nói Nhất Phẩm Lâu là một trong các thương hội lớn nhất Huyền Hoàng giới, mỗi lần tổ chức đấu giá hội, đều là sự kiện oanh động sáu nước, báu vật tiên tài xuất hiện như nấm.

Chỉ nội việc Hàn Giáng Tuyết chủ động đến tìm, cũng đã đủ lý do để ba người đi một chuyến.

Năng lực tình báo của Thiên Cơ các mạnh đến mức nào, ba người đã tự mình trải nghiệm. Nếu bọn họ đã lên tiếng, thậm chí là chuẩn bị sẵn cả thân phận bài, vậy thì chứng tỏ đấu giá hội lần này mười phần chắc cả mười mươi có thứ có thể khiến ba người Tạ Thiên Hoa động tâm.

Hàn Giáng Tuyết thấy ba người đã thu nhận ba tấm thẻ, bấy giờ mới cúi mình, nói:

“Trong thẻ này Thiên Cơ các đã chuẩn bị sẵn hai mươi vạn cho ba vị. Một chút tấm lòng, bất thành kính ý, những mong ba vị nhận cho.”

Bấy giờ, ba sư huynh muội vốn định đi gặp nhóm Tiểu Thạch hỏi mượn ít tiền để dùng, lúc này được biết Thiên Cơ các ngay cả kinh phí cũng đã chuẩn bị xong, không khỏi cảm thấy kinh ngạc. Tạ Thiên Hoa chặc lưỡi, khen:

“Không hổ là Thiên Cơ các, suy tính chu toàn thật.”

“Không dám. Tạ cô nương đã quá khen rồi.”

Hàn Giáng Tuyết nhoẻn miệng, cười.

oOo

Nhất Phẩm lầu...

Cũng giống như Nhất Phẩm cư ở nước Việt, Nhất Phẩm lầu ở nước Tề chính là chỗ tiêu tiền xa xỉ bậc nhất. Hơn nữa, không chỉ ở hai nước, năm nước còn lại cũng có một thế lực “Nhất Phẩm” xuất hiện. Thí dụ như nước Sở có Nhất Phẩm Thủy Tạ.

Ở đây không nói võ, không luận đạo, thứ duy nhất có quyền lên tiếng chính là “tiền”. Chỉ cần có đủ tiền, cho dù là muốn thuê hộ vệ tu vi đã nhập Vụ Hải, hay muốn đan dược trân quý, thiên tài địa bảo gì, bọn họ cũng có thể tìm được.

Trong dân gian có truyền lưu: chỉ cần trả đủ tiền, cho dù sao trên trời Nhất Phẩm lầu cũng có thể giúp ngươi hái xuống.

Hơn nữa, tuy các thế lực “Nhất Phẩm” xưa nay chủ trương hòa khí sinh tài, xưa nay không lên mặt gây chuyện với ai, nhưng cũng không ai ngốc đến độ nghĩ rằng chúng là quả hồng mềm dễ bóp.

Bởi... sau lưng bọn chúng có chốing lưng: Hữu Tiền Liên Minh.

Cái tên cực kỳ dung tục, thực lực cực kỳ đáng sợ.

Nếu như Thiên Cơ các là tổ chức tình báo đứng đầu Huyền Hoàng giới, thì Hữu Tiền Liên Minh chính là thế lực nắm giữ hơn nửa huyết mạch kinh tế cả thiên hạ. Cơ hồ, hàng hóa muốn hanh thông vận chuyển, tài nguyên muốn từ cấm địa chảy ra, từ chỗ người bán đến tay người mua cơ hồ ít nhiều đều dính tới Hữu Tiền Liên Minh.

Thành thử, không ai dám đắc tội thế lực “Nhất Phẩm”.

Mà có Hữu Tiền Liên Minh đứng phía sau, các thế lực “Nhất Phẩm” mới dám tự tin nói chỉ cần có tiền, yêu cầu nào của khách cũng có thể thực hiện.

Đương nhiên...

Thực hiện được, cũng không có nghĩa là sẽ thực hiện.

Tất cả đều phải xem chênh lệch giữa tổn thất và ích lợi ra sao.

Ba người Tạ Thiên Hoa theo chỉ dẫn giấu trong thẻ thân phận, đến một căn nhà dân trông cực kì tầm thường nằm ở khu phố nghèo. Ba người gõ cửa ba cái, lại nói khẽ:

“Tôn lão công, khách sáo khách sáo, xuân quang minh mị, hà thời lâm bồn?”

(Ông cụ họ Tôn, đã khách sáo, sắc xuân tươi đẹp, bao giờ thì đẻ?)

Cửa nhà khẽ kêu “két” một cái, một lão già lọm khọm chống gậy đi ra, mặt cười toe toét, nói:

“Mời vào, mời vào. Mấy người thật là. Đi lâu như vậy, là muốn để ông già này nhớ chết sao?”

Chờ ba người vào trong, lão mới gạt chân đá vào một viên gạch cạnh cửa. Lập tức, nền nhà xuất hiện mấy đạo phù văn, hoàn toàn phong bế ngôi nhà lại. Chẳng những ngăn cản thần thức, lại có thể chặn hết âm thanh, vừa nhìn là biết chính thị là loại trận pháp dùng trong Hắc Sơn Ngục.

Bấy giờ, lão già lọm khọm mới đứng thẳng người, gỡ mặt nạ ngụy trang xuống, để lộ ra một gương mặt trang điểm đậm, đầu mắt cuối mắt đều mang theo vẻ kiều diễm vũ mị. Người này nhoẻn cười một cái, ném một ánh mắt đầy ẩn ý về phía Lý Thanh Vân, đoạn cười khanh khách:

“Ô... tôn khách quang lâm, hoan nghênh hoan nghênh. Xin quý khách cho xem thân phận bài.”

Ba người đưa tấm thẻ thân phận được Hàn Giáng Tuyết chuẩn bị sẵn ra, giao cho người đàn bà này. Cô ta dùng thần niệm kiểm tra một lát, rồi nói:

“Té ra là khách quý của Thiên Cơ các. Lần này Tam Nương thất lễ rồi.”

Đoạn, gõ lên nhẫn chứa đồ, lấy ra ba chiếc mặt nạ trắng bệch như bôi vôi.

“Các vị nếu muốn che giấu thân phận, chỉ cần đeo thứ này lên là được. Một lát nữa, ba vị sẽ được truyền tống đến nơi tổ chức đấu giá. Xuyên toa không gian, có thể sẽ hơi xóc nảy buồn nôn, ba vị nên chú ý cẩn thận.”

Tam Nương nói rất chậm, để cho ba người nghe thật kỹ, chắc chắn là không lọt bất kỳ một chữ nào rồi, sau đó mới tiếp tục:

“Ghế ngồi sắp xếp hoàn toàn ngẫu nhiên, chỉ có thể đảm bảo ba vị sẽ ngồi cạnh nhau mà thôi. Trên tay ghế có một cơ quan, một khi muốn rời khỏi buổi đấu giá, chỉ cần nhấn nhẹ một cái, các vị sẽ xuất hiện tại một cơ sở truyền tống ngẫu nhiên trong thành Tây An này.”

Lý Thanh Vân nghe không chớp mắt, đến lúc này mới vê cằm, lầu bầu hỏi nhỏ:

“Một buổi đấu giá mà thôi, không ngờ chỉ có ra vào đã lắm điều rắc rối phức tạp đến thế.”

Tam Nương nghe vậy cũng không giận, cười khanh khách, nói:

“Công tử nói lời này, bọn thiếp xin ghi nhận. Song cũng mong công tử thông cảm, Nhất Phẩm lầu làm những chuyện này, cũng là để khách hàng có thể yên tâm hô giá. Điều chúng ta muốn làm, chính là đảm bảo chỉ cần đấu giá thành công, vật phẩm chắc chắn là của ngài, không ai có thể cướp được. Khách hàng chỉ cần đến Nhất Phẩm lầu, có thể an tâm mà tiêu tiền, chẳng cần sợ tiền mất tật mang. Nếu cũng làm qua loa tắc trách như mấy nhà đấu giá hội khác, ra khỏi cửa là phủi tay không lo, sau này còn ai dám an tâm đến chỗ chúng ta nữa? Công tử nói phải không?”

Lý Thanh Vân bị nàng ta bắn liên thanh một hồi, hai bên tai lùng bà lùng bùng. Cậu chàng xuất thân bần hàn, được làm tiểu vương gia đâu đó cũng chỉ gần một năm, những nơi đốt tiền như đấu giá hội hiếm khi dời gót đến. Thế nhưng từ lúc lang bạt chân trời, nhất là sau khi nhập ngũ, Lý Thanh Vân cũng được nghe kể đấu giá bảo vật xong bị truy sát ra sao, người cướp ta trộm dấy lên từng hồi gió tanh mưa máu thế nào. Thậm chí, cũng không thiếu thế lực, gia tộc vì chuyện đó mà diệt môn.

Mà những lần như vậy, đấu giá hội cơ hồ đều tụ thủ bàng quan.

Bây giờ nghe Tam Nương phân tích, thấy cũng có vẻ có lý.

Tam Nương cười khanh khách, lại giải thích thêm một số quy tắc của buổi đấu giá nữa, rồi mới để ba người bước lên một tiểu đình nhỏ, xoay một cơ quan, lập tức trận truyền tống được khởi động. Té ra cái bàn đá kê ở giữa đình chính là trận nhãn ngụy trang mà thành.

oOo

Phòng đấu giá của Nhất Phẩm lầu không nằm trong thành Tây Đô, mà là trong lòng một quả núi lửa.

Cả căn phòng là một bán cầu đường kính độ ba trăm thước, sàn nhà lẫn mái che đều trong suốt. Ánh sáng cam đỏ từ nham thạch dưới chân hắt lên, khúc xạ theo từng góc cạnh được cắt gọt tỉ mỉ, khiến cả căn phòng đấu giá chan hòa một ánh sáng vàng cam dìu dịu.

Trong căn phòng vừa mát vừa thoáng, giống như không hề chịu bất cứ một chút ảnh hưởng nào từ môi trường xung quanh cả. Lý Thanh Vân nhìn ngang ngó dọc mãi cũng không thấy căn phòng đấu giá này được gắn vào vách núi bằng cách nào, dường như nó cứ thế lơ lửng trong không trung.

Lúc ba người ngồi xuống thì đã có hơn một nửa ghế trong phòng có chủ. Trái hẳn với ba sư huynh muội, hầu hết người tham dự buổi đấu giá hôm nay của Nhất Phẩm lầu đều không sử dụng chiếc mặt nạ được phát, hơn nửa cờ giong trống mở, giống như chỉ sợ người khác không biết thân phận của mình vậy.

Ba người Lý Thanh Vân đã được Tam Nương giải thích, nên cũng không lấy làm lạ.

Luật của buổi đấu giá có nói, nghiêm cấm giữa chừng tiết lộ thân phận, đe dọa khách đấu giá. Nếu muốn dùng thân phận thật, cờ giong trống mở, khoa trương thanh thế là được. Nhược bằng dám mở lời uy h**p, lấy thế lực sau lưng ra bắt chẹt không cho kẻ khác ra giá, Nhất Phẩm lầu lập tức sẽ ngừng ra giá vật phẩm hôm đó lại, kẻ gây rối đương nhiên không tránh khỏi trừng phạt.

Thế nên, trừ những người như ba sư huynh muội, hầu hết người của thế lực lớn đến phòng đấu giá của Nhất Phẩm lầu đều cực kỳ trương dương.

Lý Thanh Vân nhíu mày, quay sang hỏi Đỗ Thải Hà:

“Tam sư muội, rốt cuộc hai mươi vạn trong thẻ này là bao nhiêu?”

Cậu chàng xưa nay chưa từng rời khỏi nước Việt, mà trên Huyền Hoàng giới, tiền tệ các nước khác nhau, thành thử Lý Thanh Vân hoàn toàn không hiểu rốt cuộc hai mươi vạn ở nước Tề là lớn hay nhỏ.

Tạ Thiên Hoa cũng hơi hiếu kỳ.

Kỳ thực, chỉ sau khi đển Lão Thụ cổ viện, cô nàng mới biết đến khái niệm “tiền bạc”. Trước đó, trong tộc Thanh Tước ưa chuộng lấy vật đổi vật, thành thử cũng không cần đến cái gọi là tiền bạc kim ngân.

Đỗ Thải Hà tuy không phải người Tề, lại xuất thân thôn làng nhỏ bé, nhưng cũng là người dân sáu nước. Cô nàng ngẫm một lát, rồi nói:

“Rất lớn. Nếu Lão Thụ cổ viện tiếp tục chi tiêu như bây giờ, số tiền này có thể dùng hai trăm năm không hết.”

“Nhiều như vậy?”

Lý Thanh Vân giật mình, không ngờ Thiên Cơ các lại hào phóng đến thế.

Vì mua một lần nhân tình, vung tay đưa tặng bọn họ sáu mươi vạn tiền nước Tề.

Lúc này, bên cạnh ba người, chợt có một tiếng nói chua loét cất lên, kèm theo một giọng khịt mũi đầy vẻ khinh thường:

“Đồ nhà quê từ đâu chui ra? Mới hai mươi vạn mà đã kinh ngạc như vậy? Thế nhưng kể cũng đúng. Đến thân phận thật cũng không dám lộ ra, hẳn là xuất thân từ một vài thế lực nhỏ không đáng để tâm. Gom góp được hai mươi vạn cũng không dễ, lát nữa hẳn là có thể mua một ít đồ rác rưởi.”

Ba người nhìn sang bên cạnh, chỉ thấy người vừa cất giọng là một thanh niên trên dưới hai mươi, tóc trên đầu hói đến quá đỉnh, phần tóc còn lại bọc quanh hậu tâm và hai mai, nhìn cũng có vài phần khôi hài. Người này mặt rỗ, da sạm, răng vẩu, mặt méo, chỉ có thể nói không phải gu của chín thành đàn bà con gái Huyền Hoàng giới.

Y đang mặc một bộ áo bào màu xanh, phía trên dùng chỉ bạc thêu hình hai con rồng cuộn lấy tai một cái đỉnh lớn.

Kẻ này tu vi cũng tính là cao, đã đạt đến đệ tứ cảnh, hơn nữa xem chừng thời gian nhập cảnh so với Đỗ Thải Hà còn lâu hơn vài năm, có cơ hội đột phá vào ngũ cảnh trước năm hai mươi lăm tuổi.

Cũng có thể xem là người nổi bật trong đồng lứa.

Chung quanh, có thêm năm sáu người đi cùng, tất thảy đều mặc chiến giáp, xem kiểu giáng và tiêu chí khắc trên hộ tâm thì giống y hệt như bộ Phó Kinh Hồng từng mặc trong trận sen máu lên bờ.

Không cần nói cũng biết, nhóm người này chắc chắn là người nước Sở, kẻ mặc áo xanh thậm chí còn là người của hoàng thất.

Ba người hừ lạnh một cái.

Sau khi biết chân tướng dưới sông, ba sư huynh muội đương nhiên không có chút hảo cảm nào với hoàng thất của Đại Sở. Lần này bất lực rời đi, đã bực dọc không chỗ phát tiết, không ngờ người của hoàng thất nước Sở lại chủ động gây sự.

Quả thực là oan gia ngõ hẹp.

Bấy giờ, sau lưng ba người lại vang lên tiếng cười ha hả.

“Thượng Quan điện hạ, bản quân nhớ đại Sở các người bình thường cũng chỉ mang được năm mươi vạn đến đấu giá hội Nhất Phẩm lầu này thôi. So với mấy vị bằng hữu trước mắt dường như cũng chẳng hơn được là bao nhiêu. Vậy mà vẫn có mặt mũi ở đây nói kháy người ta. Bội phục. Bội phục.”
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 47: Phong Vân Tế Hội


Ba sư huynh muội chưa kịp ngoái đầu, đã nghe thấy tiếng truyền âm:

“Tiện dân, bản quân chỉ dùng các ngươi đả kích tên tiểu tử nước Sở này một phen, chớ có mà si tâm vọng tưởng. Đừng có bắt chuyện với bổn quân.”

Tuy là truyền âm, nhưng cái ngữ điệu kẻ cả bề trên lại không thèm che giấu, cực kì ngạo mạn khinh người. Mới đầu, ba người Lý, Tạ, Đỗ còn có một chút hảo cảm với gã vì đứng ra mắng tên nước Sở, nhưng bây giờ thì chẳng còn sót lại tẹo nào.

Tên họ Thượng Quan nghiến răng:

“Hải Thiên Luân, ngậm miệng lại. Nhớ cho rõ thân phận của ngươi. Cô (1) là thái tử, mà ngươi thì chỉ là một thân vương chi thứ, bắn đại pháo cũng chưa chạm đến được Hải Hoàng mà thôi. Người ta gọi ngươi một tiếng Hiền Vương liền thực sự cho rằng mình có tư cách xưng vương đó sao?”

(1: Cô ở đây là xưng hô của vua chư hầu, nước nhỏ dùng khiêm nhường. Thỉnh thoảng cũng có vài tác phẩm thể hiện thái tử dùng xưng hô này. Ở Huyền Hoàng giới, vua xưng quả nhân/trẫm, thái tử xưng cô.)

Gã Hiền Vương kia giống như bị nói chạm chỗ đau, răng nghiến vào nhau trèo trẹo, nói:

“Thái tử nước chư hầu mà thôi, có gì hay ho? Thượng Quan Trường Không, nhớ cho bản quân bây giờ ngươi đang đứng ở đại Tề, chứ không phải tiểu Sở.”

“Nước nhỏ thì sao? Vẫn làm cho cái tên Nghiêm Hàn của các ngươi biết khó mà lui. Không giống như Hải Tinh Thần (2) ngươi, thậm chí địa vị còn chẳng bằng một tên con cháu ngoại tộc Nghiêm Quảng. Cô thấy nên dứt khoát đổi tên thành Tịnh Thân, con cháu sau này đỡ phải chịu cái nhục Hải chẳng bằng Nghiêm.”

(2: Hiền vương tên Thiên Luân, tự Tinh Thần)

Thượng Quan Trường Không cũng không chịu kém, lập tức đốp lại ngay.

Hải Đại Quý không có con nối dõi, thế nên các vương gia được thụ phong hầu như đều là con cháu họ hàng, không một ai là dòng chính cả. Chuyện này âu cũng là do sau chiến bại hai trăm năm trước, nước Tề tuy dựa vào hai thành Tây An, Đông An tránh được họa diệt quốc, song cũng phải chấp thuận vô vàn yêu cầu của năm nước còn lại. Trong đó, bao gồm dòng chính nước Tề không thể nạp phi, đời đời đơn truyền một nam duy nhất.

Thành thử, Hải Đại Quý mới gặp cảnh dưới gối không con, lại thêm áy náy vì cái chết của Nghiêm Hàn, thế nên địa vị của Nghiêm Quảng ở nước Tề cực kỳ cao. Thậm chí, có người còn nói cho dù sau này Hải Đại Quý có chọn một trữ quân trong số các vương gia bây giờ, thì địa vị của Nghiêm Quảng vẫn vững như bàn thạch.

Đương nhiên, ít nhất trên bề mặt là như thế.

Chuyện này đối với các vương gia, nhất là Hiền Vương mà nói, quả thực chính là cái dằm trong lòng, khiến cả đám ăn không ngon ngủ không yên, cảm thấy cực kỳ mất mặt, khó bề ngẩng đầu làm người.

Hiền Vương cười lạnh:

“Nếu không phải Ngân Hà quỷ dị, ngươi tưởng bây giờ trên bản đồ Huyền Hoàng giới vẫn còn nước Sở hay sao? Có giỏi thì cứ làm con rùa rúc đầu sau Ngân Hà đi.”

Hai bên tiếp tục cãi nhau, hoàn toàn không để ý gì đến ba sư huynh muội Lý Thanh Vân. Dù sao, chuyện hai nước Tề, Sở vẫn còn kèn cựa nhau từ lúc Nghiêm Hàn cầm binh cũng chẳng phải chuyện gì cơ mật, hà huống tuy Thượng Quan Trường Không tỏ ý khinh thường, nhưng phàm là đã có mặt ở hội đấu giá Nhất Phẩm thì địa vị cũng không thấp, thành thử hắn và Tề Hiền vương càng chẳng e ngại gì, chửi nhau không ngớt mồm.

“Việt Linh vương đến!”

Đúng lúc này, một tiếng hô xướng vang lên như sấm, cắt ngang cuộc tranh cãi của Trường Không thái tử và Tề Hiền vương. Chỉ thấy, lúc này, ở hàng ghế xa nhất bên góc trái xuất hiện một đội nhân mã, người nào người nấy đều cường tráng bặm trợn, nai nịt cẩn thận, ánh mắt như điện. Dẫn đầu là một thiếu niên dong dỏng cao, mình mặc áo trắng, lưng thắt đai ngọc, búi tóc giữ bằng một cái kim quan trạm hình đầu hổ, dắt ngang bằng một cây trâm ngọc trạm trổ giao long bốn vuốt.

Người này mày như kiếm sắc, mắt như đầm sâu, môi như cánh hoa mỏng, dáng vẻ thư sinh tuấn tú, song lại không thiếu sự cương cường của nam tử.

Đáng nói là, trông y có mấy phần giống với Lý Thanh Vân.

“Ra là Linh Vương điện hạ. Tại hạ là Thượng Quan Trường Không. Xin chuyển lời chúc thọ của tại hạ đến Võ Hoàng đại nhân.”

Vừa nhác thấy thiếu niên, Thượng Quan Trường Không đã đứng dậy, chắp tay chào, mặt cười hớn hở.

Trong vòng trăm năm đổ lại đây...

Nếu nói nước Sở hận người nào nhất, vậy thì ắt là sát thần Nghiêm Hàn.

Trái lại, nếu nói chuyện gì khiến trăm họ nước Sở thấy đại khoái nhân tâm nhất, không ngoài Võ Hoàng Lý Huyền Thiên đại bại Huyền Giáp vệ, sát thần Nghiêm Hàn phẫn uất tự vẫn ở Lục Trúc hải.

Lý Thanh Minh là con trai của Võ Hoàng, có câu kẻ địch của kẻ địch chính là đồng minh, thế nên y vừa xuất hiện, Thượng Quan Trường Không đã tiến lên chào hỏi.

“Thái tử điện hạ khách khí. Gia phụ vẫn mạnh khỏe. Lão nhân gia nói mình xưa nay ít gặp địch thủ, duy chỉ có Nghiêm chiến thần tính là một người. Thế nên còn phải cố làm thêm trăm cái giỗ nữa cho vị kình địch này, không dám đi sớm quá.”

Lý Thanh Minh cười, sau đó buông một câu khiến toàn bộ người nước Tề tức sôi cả máu.

“Giỗ” mà hắn nói đến chính là ngày đại Tề làm quốc tang, tưởng nhớ chiến thần Nghiêm Hàn.

Một câu này của Lý Thanh Minh, lập tức khiến khuôn mặt của Tề Hiền vương sa sầm như gan heo, trầm giọng:

“Linh vương điện hạ thiên tư kinh người, địa vị cao quý, song xin hãy nhớ đây vẫn là lãnh thổ nước Tề, mong điện hạ giữ đạo làm khách.”

Lý Thanh Minh cười:

“Không dám. Dù sao các vị cũng là nước lớn, phong hóa lâu đời, lễ nghĩa sâu rộng. Người xứ man di chúng ta học theo còn không kịp, há lại dám thất lễ? Chẳng thế mà gia phụ cứ mỗi năm đều dâng hương cho Nghiêm tướng quân, dám hỏi thất lễ ở đâu, xin thượng quốc vương gia dạy cho một hai.”

“Điện hạ nói quá lời...”

Tề Hiền vương cắn răng, nói.

Xưa nay, sáu nước phía bắc Lục Trúc hải thường nói mình là người có văn hóa, hiểu lễ nghĩa luân thường, chê bôi người nơi khác là man di mọi rợ. Bây giờ Lý Thanh Minh dùng chính cái luận điệu này, xoáy thêm vào chuyện Nghiêm Hàn thua trong tay Lý Huyền Thiên, khiến Tề Hiền vương và bộ hạ vừa thẹn vừa tức, thế nhưng không biết phải phản bác thế nào cho phải cả.

Sau đó, người của Kiếm Trì, núi Long Hổ, Lục Trúc hải, Phần Thiên cốc lục tục tiến đến.

Tề Hiền vương nhác thấy người đi đầu lúc này giống như mở cờ trong bụng, vội vàng lên tiếng:

“Kiều thánh tử, lâu ngày không gặp.”

“Kính chào vương gia. Từ lúc chia tay đến giờ vẫn mạnh giỏi chứ?”

Đáp lời Tề Hiền vương là một thiếu niên độ hai mười mốt, hai mươi hai tuổi, tóc ngắn, da ngăm, vóc người cường tráng thô hào. Tiếng thở của y rất khẽ, nhưng nếu dụng tâm nghe kỹ sẽ thấy khò khè giống như có người đang thụt ống bễ.

“Cũng không có gì, tiểu vương gia hữu danh vô thực thì có thể có chuyện gì được cơ chứ? Nào nào, Kiều thánh tử. Để bản vương giới thiệu cho cậu. Vị này là Việt Linh vương điện hạ, Lý Thanh Minh.”

“Hân hạnh.”

“Không dám.”

Lý Thanh Minh, Kiều Minh Long bề ngoài thì bình thản, thế nhưng nếu ánh mắt là đao kiếm thì hiện giờ cả hai đã giao thủ mấy chục hội hợp rồi.

Ở Huyền Hoàng giới, trong đám thiên kiêu đời nay có người làm thơ rằng:

“Long hành vạn lý.

Hổ khiếu thanh minh.”

Ấy là để chỉ hai thiên kiêu được cho là đứng đầu thiên hạ bây giờ: Kiều Minh Long thánh tử Phần Thiên Cốc, con trai Võ Hoàng Lý Thanh Minh.

Hai người đều là loại người tâm cao khí ngạo, xưa nay chưa từng chịu kém cạnh ai. Bây giờ, lại xuất hiện một thiên kiêu “ngang hàng” với mình, tất nhiên là sinh lòng háo thắng, muốn tỉ đấu một phen.

Nhất thời...

Trong phòng đấu giá, xuất hiện một thế long tranh hổ đấu.

Ba sư huynh muội Lý Thanh Vân từ đầu đến giờ vẫn ngồi im mà nghe.

Nếu như ban đầu, câu chuyện giữa Tề - Sở khiến bọn họ thấy vừa hứng thú vừa mê man, nhất là chuyện Nghiêm Hàn vì ái ngại sông Ngân nên mới không dám đưa quân đánh sâu vào nước Sở càng khiến ba người như lạc trong Vụ hải.

Thành thử, ba người mới mặc kệ cho Tề Hiền vương và Thượng Quan Trường Không đấu võ mồm với nhau.

Song, bọn họ quả thực không ngờ hôm nay lại lục tục gặp nhiều người quen như vậy.

Hơn nữa, kẻ thù của ba sư huynh muội đều xuất hiện một lượt.

Lúc này, bọn Tạ Thiên Hoa mới thấm thía nguyên do Hàn Giáng Tuyết tự mình đến tìm, hơn nữa hỏi ý kiến bọn họ.

Các thế lực lớn bắt đầu đến đông đủ, thì sảnh đường cũng bắt đầu trở nên bát nháo hơn trước. Nếu là thế lực minh hữu thì không thiếu việc chào hỏi, hỏi thăm, để đám trẻ làm quen một phen. Trái lại, nếu là đối địch, hiển nhiên là sẽ có va chạm miệng lưỡi, hệt như Tề Hiền vương và Thượng Quan Trường Không ban nãy.

Song...

Tuy có tranh cãi, có nói móc đá đểu, thậm chí có lăng nhục thóa mạ, song tuyệt nhiên không một ai ra tay đánh nhau, đủ thấy được thế lực Nhất Phẩm ngay cả với những thế lực lớn đứng đầu cả Huyền Hoàng giới này cũng rất có tiếng nói.

Ba sư huynh muội ngồi xếp bằng nửa canh giờ, hóng chuyện thiên hạ chán chê, chợt cả căn phòng tối sầm lại, những bức vách trong suốt thoáng cái trở nên tối xỉn, không để ánh sáng từ dung nham chiếu vào phòng nữa.

Chính giữa đại sảnh, từ từ có một cái bục nhô lên.

Lại nghe có tiếng chân bước bình bịch đều tăm tắp chẳng hiểu từ đâu dồn tới, nhưng chỉ nghe “phụt” một cái, ánh lửa đèn màu xanh dương đầy ma mị bốc lên, chiếu rọi rõ ràng khung cảnh phòng đấu giá lúc này.

Chính giữa phòng, lúc này đã xuất hiện một cái đài cao, nhìn có hơi giống sân khấu. Nguồn gốc của thứ ánh sáng xanh đang chiếu rọi căn phòng cũng đã tỏ tường – chính là đến từ chín mươi chín con mèo tinh.

Lũ miêu yêu này không hóa hình người, vẫn giữ dáng vẻ nguyên thủy. Lúc này chúng ngồi trang nghiêm, mắt nhìn thẳng, trên đầu đội một cây nến sáp đang nhẹ nhàng bốc lên ngọn lửa xanh dương,

Độ cao của các hàng ghế cũng đã thay đổi.

Lấy bình đài làm trung tâm, những hàng ghế ở càng xa thì càng dâng lên cao, đảm bảo cho dù người ở vòng ngoài cùng cũng có thể theo dõi tường tận được buổi đấu giá.

Sau đó, “người chủ trì” cũng xuất hiện.

Đứng trên đài lúc này là một yêu tinh chuột, tuy phần cổ trở xuống đã hóa thành hình người, đứng thẳng đi lại bằng hai chân, thế nhưng cái đầu thì vẫn là của một con chuột to tướng. Lạ một nỗi là... tên chủ trì này tu vi thậm chí còn không bằng bất cứ một con mèo đội nến nào.

Chỉ cần chúng vồ một cái, là tên này từ nay về sau sẽ ăn gà cả con.

Song, những con miêu yêu lại không động đậy một chút nào cả, vẫn cứ im lặng đội nến chiếu sáng cho khách.

Tên chuột tinh chờ khách khứa nhìn khắp phòng một lượt, lúc này mới xoa tay vào nhau, cười:

“Các vị khách quý, hoan nghênh đến tham dự buổi đấu giá của Nhât Phẩm lầu. Không biết cách bài trí ‘mụ Lường đánh bạc’ này của chúng tôi có làm các vị hài lòng hay không?”

Hắn chờ một lát, không thấy có người lên tiếng phàn nàn, lúc này mới tiếp tục:

“Nếu chư vị đã không có ý kiến, cũng đã nắm được luật của buổi đấu giá ngày hôm nay rồi, vậy tại hạ xin mạn phép được bắt đầu.”

oOo

Lại nói chuyện Nguyễn Đông Thanh...

Sau khi ăn uống no nê, hai cậu lính Nguyên Phương, Trần Dũng nằng nặc yêu cầu Bích Mặc tiên sinh nghỉ ngơi trước, bọn họ sẽ thay phiên trực đêm. Mới đầu, Nguyễn Đông Thanh phản đối do không muốn làm kẻ ngồi mát ăn bát vàng. Thế nhưng, hai người nài ghê quá, lại nghĩ một kẻ phàm phu tục tử như mình có thức cũng chẳng giúp gì được.

Cuối cùng, Nguyễn Đông Thanh đành nghe theo hai người, trải chiếu ra nằm trên xe.

Có câu “căng da bụng, trùng da mắt” quả thực rất đúng, chí ít là với Bích Mặc tiên sinh. Bây giờ đã no diều, mí mắt của hắn bắt đầu díp lại, chưa đến vài phút đã bắt đầu thở đều đều, thỉnh thoảng còn ngáy một cái.

Hồng Đô đảo mắt, sau đó cũng chọn một góc xe, tự trải chiếu ngủ.

Cô nàng làm ma đã lâu, cơ hồ sớm đã quên mất cảm giác được ngủ. Bây giờ có một thân thể hoàn toàn mới, Hồng Đô quả thực muốn thử lại cái cảm giác được ngon giấc là thế nào.

Lúc này, chỉ còn lại hai cậu lính.

Rừng khuya vắng vẻ, cây lá um sùm. Dưới ánh trăng, có hai mấy ba mươi bóng đen cao hơn một trượng, lừng lững xé rừng mà đi. Tiếng cành lá cọ vào nhau xào xạc theo từng bước chân, hổ beo lang sói dù có nghe thấy cũng nằm rạp xuống cúi đầu cụp đuôi chứ không dám làm gì...

Đêm nay... chắc chắn sẽ có chuyện xảy ra.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 48: Quỷ Rừng


Đêm khuya tĩnh mịch.

Thậm chí có phần quá tịch mịch. Ngoại trừ tiếng ngáy thỉnh thoảng phát ra từ trong xe bò, thì tuyệt nhiên im lặng như tờ. Không thấy tiếng dã thú, cũng chẳng nghe côn trùng kêu.

Hai người Nguyên Phương, Trần Dũng thay phiên nhau gác đêm, thành ra một người ngồi canh lửa, người còn lại đem một tấm chăn mỏng ra vừa trải vừa đắp nằm gần đó. Mặc dù hai người họ đoán chừng, dựa qua tiếp xúc với vị Bích Mặc tiên sinh kia, nếu họ ngỏ lời, y cũng sẽ chẳng ngại mời họ vào xe ngủ cùng. Xe bò đủ rộng, mà tấm lòng tiên sinh cũng đủ rộng. Thế nhưng họ không làm vậy. Không quen, mà cũng tự thấy họ không xứng được tiên sinh ưu ái đến vậy. Làm người cần biết tôn ti trật tự, không thể được nước lấn tới, cũng chẳng thể đảo khách thành chủ. Lại thêm, họ cũng không muốn khi đổi ca làm ảnh hưởng đến giấc ngủ của tiên sinh.

Lúc này đang là phiên canh của Trần Dũng. Y ngồi nhìn đống lửa, chả rõ suy nghĩ cái gì. Lâu lâu lại thả thêm củi vào đống đang cháy, chốc chốc lại lấy que khều lửa. Thi thoảng, Trần Dũng ngáp một cái, nhìn quanh một lượt, rồi lại bấu một mẩu nhỏ khô gà ra bỏ vào mồm.

Công việc gác đêm, thường chính là chán như vậy. Không có việc gì khác để làm, cũng chẳng có ai để trò chuyện, chỉ chiến đấu với cơn buồn ngủ và mong sao sự buồn chán ấy là kẻ thù duy nhất mình phải đối mặt trong đêm đen.

Trần Dũng lại ngáp dài một cái, toan đứng dậy vươn vai thì thấy Hồng Đô chui từ trong xe bò ra.

Tuy cô nàng là cơ quan nhân, nhưng khuôn mặt biểu cảm lạ thường, lại thêm cử chỉ, bộ dáng hiện tại khiến Trần Dũng khá chắc Hồng Đô đang rất căng thẳng, lo lắng.

Tim y nhảy một nhịp. Mới chứng kiến Hồng Đô dễ dàng chế trụ hai lão Kiếm Tiên, Cái Đế - đều là tu luyện giả đệ tứ cảnh - không lâu trước đây, y đoán chừng cô nàng còn mạnh hơn Vũ tướng quân. Vậy nên, thứ có thể khiến Hồng Đô căng thẳng như thế kia, chắc chắn không phải thứ cậu lính trẻ muốn gặp.

Hồng Đô tiến về phía lửa trại, gật đầu với Trần Dũng, đoạn nhìn về phía sâu trong rừng, nói:

“Phía bên kia có điều bất thường.”

oOo

Hồng Đô cảm nhận quả không sai, ngay trong khu rừng gần chỗ mấy người Đông Thanh hạ trại, ở khoảng cách mà đáng nhẽ ra bọn họ có thể nhìn thấy, nghe thấy, đang có một bữa tiệc hội.

Ở trung tâm hội này là một ngọn lửa trại màu xanh kỳ dị cháy cao tới hơn chục mét. Xung quanh ngọn lửa, hơn hai chục bóng đen to lớn đang hò hét, nhảy múa.

Kẻ thì bụng phệ nanh dài, kẻ thì cao dỏng bốn tay, kẻ lại một mắt có sừng, lại cũng có kẻ trán dô môi dẩu. Muôn hình, vạn trạng, đến màu da trên người đám này cũng đủ loại màu sắc. Điểm chung duy nhất, chắc cũng chỉ có thể đúc kết bằng bốn chữ: xấu xí dọa người. Đám quái nhân này hò hét nhảy múa, lại cộng thêm ánh lửa xanh ma mị, trông thật giống một bức vẽ quỷ địa ngục mà các nhà chùa vẫn hay treo.

Lũ quỷ này hú hét nhảy múa trong đêm đen rất chi là vui vẻ, vậy mà đám người Trần Dũng chỉ ở cách chúng chẳng bao xa lại chẳng thể nhìn thấy, cũng chẳng thể nghe thấy chúng, quả thật là vô cùng kỳ dị.

oOo

“Hình như có kết giới…” Hồng Đô cuối cùng đưa ra kết luận.

“Tiền bối, là địch hay là bạn?” Trần Dũng hỏi dò.

Dựa theo tiếp xúc với Hồng Đô, cậu lính trẻ nghi ngờ cơ quan nhân này có linh hồn của một cường giả nào đó ở bên trong, khả năng khi sinh tiền đã tiến nhập Vụ Hải, thành ra có gọi nàng một tiếng tiền bối cũng không tính là sai.

Hồng Đô lắc đầu:

“Địch hay bạn thì ta không dám chắc. Thế nhưng, kết giới này ta tự nhận muốn phá cũng không dễ dàng gì. Nếu đối phương thật sự có địch ý, một mình ta có thể không sao, thế nhưng cả đoàn thì e rằng chúng ta cũng chỉ có nước chạy trốn mới mong giữ được mạng.”

Thấy vẻ mặt như lâm đại địch của cậu lính trẻ, cô nàng lại trấn an:

“Khoan lo lắng, nếu có địch ý, chắc đã sớm tấn công. Kết giới này đã tồn tại được một lúc lâu, chỉ là mãi vừa rồi ta mới nhận ra thôi. Tạm thời bình tĩnh, để ta tiếp tục thám thính.”

Đoạn, cô nàng liền nhắm mắt lại, thả thần thức ra, tiến nhập vào kết giới trong rừng.

Trần Dũng đứng ngồi không yên, cảm giác như kiến bò chảo dầu. Y hết ngó đông lại nhìn tây, hết đi sang trái lại vòng sang phải. Một lúc sau, thấy Hồng Đô cuối cùng mở mắt, cậu lính trẻ vội tiến lại gần, lo lắng hỏi:

“Tiền bối, sao rồi?”

Hồng Đô thờ phào một hơi, vuốt vuốt ngực, đáp:

“Cũng may, không đáng lo lắm. Có chừng gần ba chục con quỷ. Nhưng cao nhất cũng chỉ có tám con đệ ngũ cảnh, năm con đệ tứ cảnh, chưa con nào tiến nhập Vụ Hải.”

Trần Dũng nghe vậy thì trái tim đánh trống trong lồng ngực liên hồi. Hồng Đô có thể thấy không lo lắng, vì nàng ta đã tiến nhập Vụ Hải, thế nhưng đối với hai người Trần, Nguyên thì đệ tứ cảnh và đệ ngũ cảnh đã là cảnh giới mà họ chẳng biết khi nào mới có thể chạm đến. Ngay ở ải Quan Lâm thôi thì chiến lực cao như vậy cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, Vũ tướng quân là một, mà hai lão già Kiếm Tiên, Cái Đế giờ đã bị phế kia cũng từng thuộc số ít đó. Vậy mà, hiện tại, Hồng Đô nói cho cậu chàng biết có một đàn quỷ gần ba chục con, trong đó non nửa có lực chiến mạnh như vậy, làm sao có thể không lo lắng hồi hộp được?

Hồng Đô lúc này cũng liền bảo Trần Dũng gọi cả Nguyên Phương dậy còn tùy thời hành động. Nguyên Phương bị lay dậy, còn chưa hiểu mô tê gì, chỉ thấy nét mặt hai người nghiêm túc thì cũng đoán chừng có việc gì quan trọng.

Sau khi kể lại đại khái tình hình cho cậu lính mới dậy, Hồng Đô quyết định thử tay phá cấm địa, đánh phủ đầu lũ quỷ. Sau khi biết thực lực đối phương không đáng sợ, nàng ta cũng bớt lo ngại. Chỉ là, lũ quỷ này xem chừng cũng có vài phần thực học, chả thế mà lúc đầu phát hiện ra cái kết giới, nàng ta còn tưởng đối phương cũng đã tiến nhập Vụ Hải rồi.

Hồng Đô còn đang định nói gì thêm thì bỗng dưng giật thót mình, kinh sợ nhìn chằm chằm về phía con bò kéo xe.

oOo

Nơi đám quỷ đang nhảy múa không biết tự bao giờ đã có thêm một người đàn ông bận một bộ quần áo màu vàng đất theo lối võ phu nhập hội.

Đám quỷ thấy y, vội vàng quỳ rạp xuống, con đầu đàn tiến lên chỗ y mà hai chân còn run lên lập cập, thiếu điều ngã khuỵu xuống.

“Đại… đại nhân! Không biết ngài đến… đến… đến đây là có gì… sai… sai bảo ạ?”

Người đàn ông áo vàng quắc mắt nhìn đám quỷ một lượt, cả lũ đều không tự chủ run lên. Đoạn, y nói:

“Cũng không có gì. Ta qua đây chỉ để nói với các ngươi mấy câu. Phía ngoài bìa rừng kia có một cái xe bò. Các ngươi làm gì thì làm, cũng đừng đánh chủ ý lên chiếc xe đó. Mạng các ngươi là chuyện nhỏ, thế nhưng nếu ảnh hưởng đến giấc ngủ của chủ nhân thì… Hừ…”

Đám quỷ nghe vậy thì liền vái như vái sao:

“Đại… đại nhân minh… minh giám! Chúng tiểu nhân làm… làm gì có… có cái gan đó? Hà… hà huống, chúng… chúng tiểu… tiểu nhân tuy là quỷ, thế nhưng đời… đời này tuyệt chưa từng… từng hại… hại đến mạng người!”

“Ồ? Vậy sao?” Người đàn ông áo vàng hỏi. Đoạn, y liền nhìn chằm chằm lũ quỷ một lúc, sau khi kiểm chứng thấy chúng không có vẻ gì là nói dối, cũng không thấy có mùi máu người hay sát khí trên người chúng thì mới hài lòng gật đầu, đoạn nói:

“Tốt, như vậy xem như chúng ta là người đồng đạo. Đã như vậy, các ngươi cũng tiếp tục hội đi! Ta cũng lâu lắm rồi không được chủ nhân cho đi chơi xa, đâu được sướng như tên Đá Nhỏ kia? Thực đang buồn đến chết đây!”

Đám quỷ nghe vậy, vừa mừng vừa sợ, nhưng cũng nào dám trái ý người áo vàng? Chúng lại bắt đầu hò hét nhảy múa. Mỗi tội, do hẵng còn sợ ông sát thần này, nên động tác thì gượng gạo, mà giọng thì run run.

Người đàn ông áo vàng thấy vậy thì cau mày:

“Sao lại chán như vậy? Hét to lên chứ, mà cũng nhảy nhiệt lên!”

Nói đoạn, y cũng liền làm mẫu.

Thấy vị đại nhân này không có vẻ gì là giả vờ để thử chúng, lũ quỷ cuối cùng cũng bình tĩnh lại không ít. Rồi, cũng chẳng biết là con nào bắt đầu trước, chả mấy chốc bữa tiệc của lũ quỷ lại khôi phục như lúc ban đầu, khác chăng là lúc này có thêm một thành viên…

oOo

Mà ở phía bãi đất trống ngoài bìa rừng nơi đám người Đông Thanh hạ trại, Hồng Đô, lúc này chưng một bộ mặt dở khóc dở cười, chặc lưỡi:

“Không nghĩ ra, ta thế mà không mạnh bằng một con bò.”

“Tiền bối???” Trần Dũng một mặt ngơ ngác. Nguyên Phương cũng chớp chớp mắt không hiểu gì.

“Con bò kéo xe của chúng ta là đại yêu, còn mạnh hơn cả ta.” Nàng ta vừa nói vừa thầm cảm thán trong lòng, “Té ra vị Đại Bạch tiền bối kia cũng không phải đại yêu duy nhất đi theo tiên sinh. Bích Mặc tiên sinh quả là không đơn giản!”

Nghe Hồng Đô nói mà trái tim của hai người Trần, Nguyên muốn vọt lên đến tận cổ.

“Ta thế mà nguyên ngày nay dám dùng roi đánh cả đại yêu…” Hai cậu lính trẻ gần như chung một suy nghĩ, “Mà khoan, chẳng phải bảo đại yêu đều sẽ hóa hình, sinh hoạt như nhân loại sao? Ngài ta đã mạnh thế rồi còn đi đóng vai bò kéo xe lừa chúng tôi làm gì??? Đây là làm bò vì đam mê sao?”

Trong lúc ba người còn đang đứng cảm thán thói đời khó đoán, thì bỗng con bò rống lên một tiếng rõ to. Đoán chừng thân ngoại hóa thân của y quẩy với lũ quỷ quá hăng, khiến bản thể cũng bị ảnh hưởng mà hú theo.

Nguyễn Đông Thanh đang ngon giấc thì bị tiếng bò kêu đánh thức. Hắn vừa bực mình, vừa ngái ngủ, liền ngồi nhổm dậy, vớ đại lấy chiếc giày ở dưới chân, đoạn phi thẳng vào đầu con bò, chửi đổng:

“Nửa đêm nửa hôm ngươi rống cái gì??? Cái con bò ngu như chó này! Có để yên cho ta ngủ hay không? Ngươi tin nếu ngươi không im đi ngay và luôn thì khi đến Mỹ Vị sơn trang, ta liền hóa kiếp cho ngươi thành bò sốt vang không?”

Mắng xong xuôi, hắn lại lăn ra, kéo chăn lên ngủ không biết trời đất.

Ba người đám Hồng Đô chứng kiến một màn này thì đều há hốc mồm, mắt tròn mắt dẹt nhìn về phía chiếc xe bò, rồi lại nhìn về phía vị đại yêu kéo xe, vừa kịp bắt gặp y đang nhìn vào trong xe với ánh mắt cực kỳ trân trối, ủy khuất.

Thấy cái nhìn của mấy người, con bò liền trợn mắt lườm họ một cái, đoạn truyền âm:

“Các ngươi nhìn cái gì? Còn không mau nhặt giày cho chủ nhân?”

Ba người giật mình, ho khan.

Hồng Đô thì vội vàng chạy lon ton đến nhặt chiếc giày Nguyễn Đông Thanh ném ra ngoài, sau đó một mạch lui thẳng tọt vào trong xe, không ngoái đầu nhìn lại.

Còn hai cậu lính thì gãi gãi gáy, đoạn ngồi thụp xuống cạnh đống lửa. Một người bận bịu khều khều đảo đảo, người còn lại thì nhìn rất chăm chú vào đống củi chưa đốt, như thể đang nghiên cứu thiên địa kỳ bí gì đó vậy. Mãi mà hai cậu lính cũng vẫn không dám ngẩng đầu lên.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 49: Gà Con


Phòng đấu giá Nhất Phẩm lầu...

Tên mặt chuột vẫn cười tít mắt, chỉ thấy hắn búng tay “chóc” một cái, tức thì trên bình đài xuất hiện một luồng sáng bạc, lấn át ánh nến ma mị. Ba người Lý Thanh Vân đã được Tam Nương phổ cập qua, song tận mắt chứng kiến thì vẫn khiến hai người Đỗ, Lý hơi giật mình.

“Thực sự dùng truyền tống trận để đưa vật phẩm đến.”

Đỗ Thải Hà thấp giọng cảm thán.

Cô nàng ở Long Hổ sơn một thời gian, ngoại trừ phù đạo ra còn học thêm cả trận đạo. Thế nên, không giống sư huynh sư tỷ, Đỗ Thải Hà hiểu trong số các loại trận pháp, thứ có thể can thiệp, thậm chí xuyên toa không gian như truyền tống trận là khó bố trí hơn cả.

Cho dù tìm được trận sư có thể bày trận, số tiền phải bỏ ra cũng chắc chắn không phải một con số nhỏ.

Nhất Phẩm lầu... quả thực coi truyền tống trận làm rau muống ngoài chợ.

Lúc này, ánh sáng bạc trên bình đài đã dịu đi, để lộ ra một cái bục phủ vải đỏ. Tên mặt chuột xoa tay, cười:

“Các vị, mạn phép cho tại hạ dông dài một chút. Thứ này được một vị tên Lý Đại Lực tìm thấy trong Đào Hoa Mật Cảnh, ủy thác cho chúng ta bán ra.

Các vị hẳn cùng đã biết Đào Hoa Mật Cảnh này cửu tử vô sinh, mười người đi chín người không về, kẻ còn lại không tàn phế cũng hóa điên. Lý huynh đệ may mắn nhặt lại nửa cái mạng, hi vọng có thể bán được cái giá tốt, an hưởng tuổi già. Nhất Phẩm lầu xin định giá hai ngàn đao.”

Đao là đơn vị tiền tệ của nước Tề.

Sở dĩ có tên như vậy, là bởi trong thời thượng cổ, người Tề thường trao đổi đồ đạc lấy những con dao nhỏ dùng để phòng thân, từ đó mà xuất hiện loại tiền đao này, truyền đến bây giờ. Tiền đao bấy giờ được làm phỏng theo hình một thanh đao nhỏ, bằng bạc nguyên chất, nặng cỡ một lượng, không có mài sắc. Một đồng tiền đao chính vì thế cũng tương đương với một lượng bạc.

Ba người Lý Thanh Vân không khỏi hiếu kỳ nhìn lên bình đài, xem xem rốt cuộc là thứ gì mà đáng giá đến hai ngàn lượng bạc.

Chỉ thấy...

Trên đài cao, xuất hiện một cái hộp kính, bên trong chứa một cái ổ rơm, trong ổ bốn năm con gà còn tơ, lông vàng óng, hơn nữa rõ ràng là vẫn còn sống. Tấm vải vừa được nhấc lên, đám gà con đã hiếu kỳ mở to đôi mắt nhìn khắp phòng một lượt.

Tên mặt chuột cười, nói:

“Các vị, mời thẩm hàng.”

Gã vừa dứt lời, tức thì bốn bề xuất hiện cơ man không biết bao nhiêu đạo thần niệm, nhất tề phóng về phía cái hộp kính. Thế nhưng, rất nhanh sau đó, liên tục có những tiếc thở dài thất vọng cất lên. Không ít người lắc đầu, khoanh tay, hoặc tỏ vẻ thất vọng, hoặc không có hứng thú nữa. Bên cạnh ba sư huynh muội, Thượng Quan Trường Không khịt mũi một cái, lên tiếng chất vấn:

“Này, mặt chuột. Các người không phải bắt đại ở đâu đó mấy con gà, đem ra lừa bịp đấy chứ?”

Tên mặt chuột cười, nói:

“Thái tử Trường Không nghi ngờ cũng là phải, thực ra ban đầu Lý Đại Lực đưa thứ này đến, Nhất Phẩm lầu bọn ta cũng không tin cho lắm. Song người này trong quân ngũ đại Tề cũng có tiếng là hào sảng, hơn nữa giám bảo sư của bản lầu kiểm tra cẩn thận ba canh giờ, xác thực khí tức huyền bí trong bí cảnh không phải là giả, chỉ có điều hơi yếu một chút.”

Tề Hiền Vương Hải Thiên Luân tranh thủ thời cơ, cười:

“Thái tử Trường Không, Nhất Phẩm lầu nổi tiếng dĩ hòa vi quý không muốn nói thẳng, nhưng bản vương không thích nói chuyện khách sáo như bọn họ. Chẳng nhẽ ngươi không biết động não mà nghĩ, trên đời trừ sinh vật trong bí cảnh ra, làm gì có con gì mang hơi thở đặc thù như thế?”

“Hải tạp chủng, nói cái gì?”

“Nói ngươi ngu xuẩn. Chẳng nhẽ ngươi không thấy nơi này không ai lên tiếng chất vấn hay sao?”

Hải Thiên Luân cười lạnh, lại nhìn sang chỗ nhân mã nước Việt đang đứng, chắp tay:

“Không biết Linh vương điện hạ thấy sao?”

Lý Thanh Minh lườm Thượng Quan Trường Không một cái, sau đó thản nhiên nói:

“Bản vương tin Nhất Phẩm lầu sẽ không vì chút tiền còm này mà đánh đổi danh tiếng nhiều năm.”

Lý Thanh Minh cũng hơi khó chịu. Nếu không phải đối phương là thái tử nước Sở, có lẽ hắn đã đứng dậy chửi cho một trận rồi.

Nhất Phẩm lầu nào có phải hàng tôm hàng cá ngoài chợ?

Huống hồ, còn là vật phẩm mở màn.

“Linh vương anh minh.”

Tên đầu chuột cười, cúi đầu.

Lý Thanh Minh ngừng một chốc, lại nói:

“Thế nhưng, không phải sinh vật bí cảnh nào cũng có hiếm lạ ở đời. Bản vương thấy mấy con gà con này chẳng có gì đặc biệt, không đáng hai ngàn đao. Vật này, bản vương sẽ không tranh giành.”

Bấy giờ, Thượng Quan Trường Không mới bật cười, nói:

“Xem ra là cô cô văn quả lậu. Ban nãy nói lời ngông cuồng, vẫn mong đại sư bỏ quá cho.”

“Không dám. Không dám.”

Tên đầu chuột cũng không vì thế mà tỏ ra đắc ý, chỉ tiếp tục chờ người ra giá.

oOo

Quả đúng như Lý Thanh Minh nói.

Ban đầu, cảm giác được đám gà con có chút hơi thở thần bí, khó tả thành lời, rất nhiều thế lực cũng có hứng thú. Song, sau khi sử dụng thần thức kiểm tra cẩn thận, bọn họ dần dần chẳng còn để tâm đến chúng nữa.

Sinh vật bí cảnh không phải loài nào cũng có tác dụng.

Có những loài một khi lớn lên, lập tức thực lực ngập trời, có thể tọa trấn một phương.

Lại có những loài không tài nào thích ứng được với Huyền Hoàng giới, đưa ra khỏi bí cảnh chưa đầy một năm đã chết toi.

Mua mấy con gà nhỏ này quả thực không khác nào đang một xới bạc mười phần thua chín. Hai ngàn đao tuy không phải một số tiền lớn trong mắt các thế lực nơi này, song nếu vì mấy con gà vô dụng mà không tranh giành được bảo vật áp trục, thì quả thực là mất nhiều hơn được.

Lúc này, Thượng Quan Trường Không cười ha hả, nói:

“Hai ngàn mà thôi, nếu như may mắn biết đâu lại được một thần thú trấn quốc. Cô không thiếu chút tiền này.”

Sau đó phất tay một cái, thể hiện là đã ra giá.

“Thái tử nói lời này quả thực chí phải. Nếu thế bọn ta cũng muốn tham gia vào một phen.”

Lên tiếng là một nhóm người đeo mặt nạ.

Đấu giá hội của Nhất Phẩm lầu có quy định, mỗi lần tham dự không thể tăng ít hơn nửa thành giá trị của vật phẩm. Nhóm người này nhảy vào, không nói giá, gã mặt chuột đang cầm trịch buổi đấu giá sẽ mặc nhiên coi như bọn họ tăng giá tối thiểu, sau đó tiếp tục.

“Ba ngàn.”

Tạ Thiên Hoa cười, lên tiếng.

“Tiện dân, ngươi đang muốn chọc tức bản thái tử hay sao?”

Thượng Quan Trường Không nghiến răng, quay sang lườm ba sư huynh muội một cái.

Hắn nghe ra được, ngữ khí của cô nàng không phải là đang thử vận may giống như kẻ ban nãy, mà là thực sự muốn tranh đám gà con này. Trong mắt Thượng Quan Trường Không, ba người này chắc chắn là cố tình đối đầu với gã vì mấy câu nói miệt thị ban nãy.

Dù sao, Thượng Quan Trường Không không tin nơi này ngoại trừ hắn còn có người nhìn ra mấy con gà con này bất phàm ở chỗ nào.

“Bốn ngàn. Hôm nay cô nhất định phải ném tiền mù mắt chó của đám tiện dân các người.”

Thượng Quan Trường Không ưỡn ngực, hét lên, một tay thì thọc vào ngoáy mũi, dáng vẻ mười phần lưu manh đê tiện.

Tạ Thiên Hoa nhún vai:

“Một vạn.”

“Ngươi... được lắm. Thích so tiền thì cô chiều đến cùng. Một vạn hai.”

“Hai vạn!”

...

Tạ Thiên Hoa tiếp tục tăng giá, mặc kệ tên thái tử Trường Không đang nhảy nhót.

“Diễn? Diễn nữa đi. Xem ngươi còn dám diễn đến lúc nào.”

Dưới lớp mặt nạ, cô nàng âm thầm cười trộm.

Mới đầu, Tạ Thiên Hoa cũng tưởng Thượng Quan Trường Không chẳng qua chỉ là một tên thái tử giàu có nhưng ngu dốt, làm chuyện khi nam bá nữ đã quen. Thế nhưng, ngay cái lúc hắn lên tiếng chất vấn đấu giá hội, cô nàng đã nổi lòng ngờ vực.

Chiếu lý mà nói, chuyện ngu xuẩn mất mặt thế này, đám tùy tùng ắt hẳn sẽ truyền âm nhắc nhở một hai. Thế nhưng, đám người này vẫn bình chân như vại, giống như muốn thái tử nước mình bêu xấu trước mặt bàn dân thiên hạ.

Chuyện này ắt có trá...

Tạ Thiên Hoa ngẫm lại, mới giật mình phát hiện từ đầu đến giờ đều là chiến lược của tên thái tử Trường Không.

Đầu tiên là tạo ấn tượng cho tất cả mọi người trong phòng hắn là một tên ngu xuẩn vô hại, chỉ biết tùy hứng mà không nghĩ trước sau. Kể từ đó về sau, cho dù hắn có ra giá mua thứ gì đó, người ta cũng chỉ nghĩ là một tên ngốc đang ném tiền qua cửa sổ mà thôi.

Điều này chứng tỏ hai việc:

Thứ nhất, Thượng Quan Trường Không chẳng những không phải tay mơ trong cái môn đấu giá này, hơn nữa còn cực kỳ tự tin vào khả năng giám bảo và nhãn lực của bản thân. Nếu hắn không tự tin mình có thể tìm thấy ngọc quý trong than, phát hiện của báu mà toàn bộ người ở đây đều không tài nào nhìn ra, thì đã chẳng cần phải làm những chuyện rách việc này làm gì.

Thứ hai...

Kẻ ngốc thực sự té ra lại là Hải Thiên Luân – Tề Hiền vương.

Chẳng những bị Thượng Quan Trường Không lôi ra làm bạn diễn, hơn nữa bị hắn bán đứng còn đi giúp hắn đếm tiền.

Tề Hiền vương quả thực bi ai...

Song, Thượng Quan Trường Không trăm tính ngàn tính, lại không tính đến ba sư huynh muội Tạ Thiên Hoa, cũng không tài nào đoán nổi trên đời lại có một người như Nguyễn Đông Thanh.

Cô nàng hiện giờ tinh tu “chọn lọc nhân tạo”, chính đang sầu não không tìm thấy con gà mái nào ra hồn, không tài nào chịu được sự dày vò của con gà trống thành tinh kia.

Lần này đến buổi đấu giá, cũng là để thử vận may.

Vừa thấy món đồ khai màn là một đám gà con, Tạ Thiên Hoa đã đoán ngay được đây chính là một trong những vật khiến Hàn Giáng Tuyết đưa thẻ thân phận cho ba người bọn họ.

Hà huống, người khác chỉ mong sau kiếm được của hời, nuôi ra được một sinh vật bí cảnh đáng sợ với giá bèo bọt. Thế nên, sau khi giá tăng đến một mức nào đó, bọn họ chắc chắn sẽ từ bỏ. Dù sao, chẳng lấy gì đảm bảo đám gà này sống nổi quá một năm cả.

Tạ Thiên Hoa thì hoàn toàn không quan tâm đến chuyện này.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 50: Sự Hoài Nghi Của Thượng Quan Trường Không


Hai bên đấu nhau, chẳng mấy chốc giá của đám gà con đã được thổi lên hơn tám vạn.

Thượng Quan Trường Không lúc này đã không còn là diễn nữa, mà là thực sự nổi giận. Hắn không ngờ ba người này lại diên cuồng đến thế, chỉ vì một câu xúc phạm mà đấu với hắn đến tận bây giờ.

Hắn muốn khóc.

Thượng Quan Trường Không hắn chỉ là giả vờ làm một kẻ tùy hứng, ngu ngốc. Không ngờ, vừa mới tranh món hàng đầu tiên đã gặp ngay phải ba đứa “tùy hứng, ngu ngốc” thật.

Quả thực là kẻ cắp gặp bà già, Lý Quỷ gặp Lý Quỳ.

“Tạo nghiệp. Chẳng nhẽ do hôm nay ra ngoài không xem hoàng lịch?”

Thượng Quan Trường Không thầm nhủ bụng,

Lúc này, hắn đã không dám tăng giá thêm nữa.

Một mặt, hắn còn cần phải tranh đoạt các bảo vật khác, bao gồm cả món hàng áp trục, không thể vung tay mất mười vạn vào mua mấy con gà này được.

Mặt khác, càng quan trọng hơn, Thượng Quan Trường Không không muốn tấm mặt nạ hắn dày công dựng lên bị lật tẩy ngay từ món hàng đầu tiên.

Cho dù có là người ngu ngốc tùy hứng đến đâu, bỏ mười vạn ra mua một đám gà con cũng là một chuyện sẽ khiến người khác cảm thấy nghi ngờ.

Cuối cùng...

Thượng Quan Trường Không hậm hực ngồi xuống, từ bỏ đấu giá.

Sau khi hắn chịu thua, cũng không còn ai đủ điên để lấy chín vạn ra mua một lần đánh cược cả. Tên mặt chuột cười hớn hở, phán định mấy con gà con thuộc về ba người Lý Thanh Vân. Lời vừa dứt, lập tức mấy con gà con được truyền tống ra khỏi phòng đấu giá.

“Ba vị an tâm, chờ cho buổi đấu giá két thúc, Nhất Phẩm lầu nhất định đưa hàng đến tận tay các vị.”

Gã thấy ba người này đeo mặt nạ, dường như không muốn lộ thân phận thật, nên mới tự chủ trương chuyện này.

Ba người Tạ Thiên Hoa biết đây cũng là một cách để đảm bảo an toàn cho người mua của Nhất Phẩm lầu, nên không có ý kiến gì. Dù sao, nếu không có đồ trên người, có giết người thì cũng chẳng được ích lợi gì cả.

Sau đó, rất nhanh, món đồ thứ hai đã được truyền tống đến:

Một thanh trường kiếm toàn thân đỏ rực như lửa, mũi kiếm chia làm ba, gần giống như một thanh tam tiêm kích.

Nghe gã đầu chuột giới thiệu, thì thứ này là một thanh thần binh do Luyện Khí tông sư nổi danh đại lục Hoắc Trường Ca chế tạo, xưng là Hỏa Ảnh kiếm. Không được may mắn như tu hành đã khôi phục được năm cảnh giới đầu, phân cấp của thần binh bảo khí trên Huyền Hoàng giới đã hoàn toàn bị đánh nát không sót lại chút nào kể từ sau Phản Thiên chi chiến, đến giờ vẫn còn chưa khôi phục lại. Người ta đành phải dựa vào tên tuổi của Luyện Khí sư để sắp xếp thứ hạng.

Hoắc Trường Ca có thể xưng làm tông sư, ấy là bởi thần binh ông ta tạo ra có thể đánh chết được cường giả đã nhập Vụ Hải.

Tên đầu chuột cười, nói:

“Hoắc tông sư chắc ở đây không ai mà không biết, tại hạ xin phép không nói nhiều nữa. Về phần thử kiếm... không biết Linh vương điện hạ hoặc Kiều thánh tử có hứng thú hay không?”

“Kiếm tên Hỏa Ảnh, Phần Thiên cốc bọn ta cũng nổi danh hỏa đạo thông thần, há chẳng phải là duyên phận hay sao? Linh vương điện hạ, có thể nhường cho Kiều mỗ cơ hội này hay không?”

Kiều Minh Long đứng lên, chắp tay, nhìn về phía Lý Thanh Minh.

Cái sau vung tay, thản nhiên nói:

“Bản vương xưa nay ít dùng binh khí, nếu Kiều huynh đây đã có ý muốn thử, vậy bản vương cũng đỡ phải múa rìu qua mắt thợ.”

Kiều Minh Long nhảy lên đài, đưa tay nắm Hỏa Ảnh kiếm, sau đó bỗng nhiên thân kiếm cháy bùng lên một ngọn lửa đỏ hồng. Chợt, lưỡi lửa đang hừng hực cuốn lên trần nhà chợt bẻ ngoặt hướng, rơi xuống đứng bên cạnh Kiều Minh Long.

Hỏa diễm từ từ thu liễm, ánh lửa nhạt dần, lúc này trên đài cao đã xuất hiện ba Kiều Minh Long giống nhau y sì, tay cầm Hỏa Ảnh kiếm. Hơn nữa, những người ngồi dưới đài đều có thể cảm giác được, hai phân thân do Hỏa Ảnh kiếm tạo ra hoàn toàn không phải ảo giác hư huyễn chỉ dùng để che mắt như thuật phân thân thông thường, mà là thực thể có sức chiến đấu.

“Kiếm tốt.”

Kiều Minh Long cười vang, rung tay lắc kiếm một cái, cả hai phân thân bỗng nhiên nhập lại vào người hắn. Trên người gã lúc này, có hỏa quang gia trì, giống như vận một bộ chiến giáp rực lửa. Khí thế của hắn sớm đã tiến vào Vụ hải, lúc này cũng theo đó mà dâng cao, thoáng cái đã mạnh thêm ba phần.

Tên đầu chuột lúc này bỗng nhiên đưa tay, lập tức có một người xuất hiện trên bình đài. Ấy là một kẻ thân cao nửa trượng, toàn thân xanh bóng màu đồng cổ, trước ngực có một cơ quan gồm tám bánh xe đồng tâm đang không ngừng xoay tròn.

“Kiều thánh tử, đây là khôi lỗi do Thiên Cơ Môn chế tạo, tu vi là sơ nhập Vụ Hải. Công tử có thể thử kiếm với hắn.”

Gã vừa dứt lời, khôi lỗi đã xuống tấn, sử dụng phòng ngự mạnh nhất, quanh thân tạo thành một tường khí ba tấc. Thân thể vốn là điểm mạnh của khôi lỗi, càng huống chi đây là loại khôi lỗi thử khí chuyên dụng, năng lượng trên ngoài có thể toàn bộ dùng vào việc phòng ngự, không phải cường giả bình thường có thể so sánh được.

Chỉ thấy, Kiều Minh Long vung Hỏa Ảnh kiếm lên, chém về phía khôi lỗi.

Chỉ nghe két một cái, tường khí bị chém rách, cánh tay của khôi lỗi cũng bị phạt đứt lìa. Kiếm thế hãy còn chưa yếu bớt, lại cắm ngập vào phần thân khôi lỗi thêm bảy tám phân mới chịu ngừng lại. Hai mắt khôi lỗi từ từ trở nên ảm đạm, sau đó cả người suy sụp, không còn động đậy nữa.

Kiều Minh Long đưa lại kiếm lên bục, cười:

“Kiếm này quả thực rất được.”

Sau đó, hắn nhảy xuống đài, trở về chỗ ngồi của Phần Thiên cốc.

Có Kiều Minh Long lên đài thử kiếm, tận mắt chứng kiến uy lực của Hỏa Ảnh kiếm, các phe các phái bắt đầu tranh giành điên cuồng. Cuối cùng, Tề Hiền vương bỏ ra hai mươi vạn mua được.

oOo

Cuộc đấu giá tiếp tục diễn ra thêm một canh giờ.

Liên tiếp có tám món đồ được người ta dùng cái giá trên trời mua về. Trong đó, “bại gia” nhất không ai khác ngoài ba sư huynh muội Lý Thanh Vân.

Tạ Thiên Hoa dùng tám vạn đao mua một đám gà con về.

Sau đó, Đỗ Thải Hà và Lý Thanh Vân hợp sức bỏ mười lăm vạn ra mua hai chai rượu thủy tinh.

Quả thực là đốt tiền.

Đám gà con thì không nói, rượu trong chai người chủ trì cũng đã cho Lý Thanh Minh uống thử. Vị Linh vương điện hạ này sau khi uống, bèn khẳng định rượu tuy ngon, song lại không có bất cứ tác dụng gì đối với tu vi.

Các nhà nhất loại từ bỏ.

Duy chỉ có Thượng Quan Trường Không là nằng nặc muốn đấu giá, nói là muốn thử xem rốt cuộc rượu ngon đến mức nào mà không tăng tiến được tu vi cũng có thể được Nhất Phẩm lầu mang ra đấu giá.

Thế nhưng...

Cuối cùng, sau khi nâng giá một hồi với ba sư huynh muội Lý Thanh Vân, hắn lại phải cắn răng bỏ cuộc.

Thượng Quan Trường Không nghiến răng, thầm nghĩ phải tìm cách điều tra ba sư huynh muội này.

“Nếu như ba người này chỉ muốn đối đầu với ta vì mấy lời xúc phạm thì cũng thôi. Nhược bằng bọn chúng thực sự nhìn ra điều gì, thì không thể để chúng sống được...”

Sở dĩ Thượng Quan Trường Không có thể nhìn ra sự bất phàm của đám gà con và hai chai rượu là bởi hắn vô tình lấy được một con mắt phải trong bí cảnh. Từ sau khi cấy con mắt này vào hốc mắt phải của mình, Thượng Quan Trường Không có thể nhìn thấy được độ quý giá của một bảo vật bất kỳ, cụ hiện trong mắt hắn dưới dạng một vầng huỳnh quang nhàn nhạt bao quanh bảo vật.

Màu sắc của hào quang quyết định độ quý hiếm của nó, giảm dần từ đỏ cam vàng lục lam chàm tím.

Gã gọi con mắt này là Giám Bảo Thần Mục.

Thượng Quan Trường Không có thể đạp hết đám anh em xuống, leo lên ngồi vào vị trí thái tử, có công không nhỏ của con mắt này. Thế nên, ba năm nay hắn lăn lộn không biết bao nhiêu đấu giá hội, cũng nghe ngóng khắp các bí cảnh trên Huyền Hoàng giới hòng tìm nốt con mắt bên trái của Giám Bảo Thần Mục, đáng tiếc là bặt vô âm tín.

Thượng Quan Trường Không vừa nhìn một cái, đã thấy đám gà con và hai cái chai bao quanh bởi một hào quang màu vàng, lập tức biết đó là bảo bối, thậm chí độ quý giá không thua kém gì Hỏa Ảnh kiếm.

Các môn các phái khác không tranh với hắn, hiển nhiên là không phát hiện ra hai món này quý báu nhường nào.

Song... ba người thần bí kia lại giống như phát rồ, đấu với hắn long trời lở đất, giành luôn hai món hời Thượng Quan Trường Không để ý vào tay.

Lúc này, Thượng Quan thái tử lại nghĩ:

“Biết đâu ba người này lại có con mắt trái Giám Bảo Thần Mục mình tìm kiếm biết bao lâu nay... Không được. Nhất định phải cho người điều tra tường tận.”

Hắn thậm chí còn hơi mong chờ ba người này thực sự không phải đang cố tình ngáng đường hắn.

Nếu quả thực ba tên “không có bối cảnh” này nắm trong tay con mắt trái trong Giám Bảo Thần Mục, vậy thì thái tử Trường Không hắn bắt người cướp mắt há còn không phải chuyện đơn giản?

Thượng Quan thái tử nghĩ đến viễn cảnh mắt trái đã là vật trong túi, càng lúc càng thấy ba sư huynh muội kia trông rất hợp nhãn.

Đương nhiên, sau khi cho người điều tra và nhận ra thân phận của ba kẻ trước mắt, Thượng Quan Trường Không liền dứt khoát vứt quách cái ý định giết người đoạt bảo này vào xọt rác. Thế nhưng đó là chuyện của mấy hôm sau.

Còn ngay lúc này, ba sư huynh muội tất nhiên không thể biết hắn đang nghĩ gì, chỉ cảm thấy cái nhìn của tên thái tử này bỗng nhiên trở nên quái quái lạ lạ, không khỏi nổi hết da gà da vịt lên.

Đỗ Thải Hà thấp giọng:

“Sư huynh, sư tỷ, hai người nói xem tên thái tử này có phải là bị bệnh khổ dâm hay không? Chúng ta tranh đồ của hắn trắng trợn như thế, hắn còn nhìn chúng ta bằng ánh mắt này...”

“Có lẽ là không đâu. Cùng lắm là đầu óc không được bình thường thôi.”

Lý Thanh Vân quay sang, hạ giọng an ủi.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 51: Âm Dương Cải Mệnh Đan


Chẳng cần nói cũng biết, lý do ba sư huynh muội Lý Thanh Vân tranh giành hai chai rượu với họ Thượng Quan nào có phức tạp như y nghĩ? Họ đơn giản chỉ muốn kiếm rượu ngon về hiếu kính Hồng Vân.

Tuy cả Nguyễn Đông Thanh và Hồng Vân đều đã lên tiếng phủ nhận quan hệ nam nữ giữa họ, thế nhưng đám đệ tử của Bích Mặc tiên sinh lại nghĩ khác. Cô nam quả nữ, sống ngay sát vách nhau, lại còn cùng nuôi chung một đôi chó mèo. Sư phụ thì diễn quá sâu, dường như thật sự đã quên mình là cao nhân, nghĩ bản thân chỉ là người phàm. Nhưng Hồng Vân tiên tử thì lại khác, tuy cũng phối hợp diễn kịch trước mặt sư phụ, nhưng sau lưng người thì cũng chẳng hề giấu giếm mà công nhiên ban cho ba người họ không thiếu chỗ tốt.

Lại thêm lời dặn của Tiểu Thạch trước khi ba người khởi hành lần này… “Không được cho ai biết Hồng Vân tiên tử tồn tại”. Rõ ràng là có điều mờ ám! Liệu có phải sư phụ đang ở trong một trạng thái vi diệu nào đó, còn Hồng Vân tiên tử đang ở cạnh để hộ đạo cho người? Ba người Lý Thanh Vân không biết, nhưng không dám loại bỏ khả năng này. Không những thế, họ càng nghĩ lại càng thấy hợp lý. Mà nếu là thế thật, thì mai này khi sư phụ “nhớ lại mọi chuyện”, “cô hàng xóm” nhà tây liệu có bỗng dưng biến thành sư nương của ba người họ hay không?

Nghĩ xuôi nghĩ ngược, việc hiếu kính Hồng Vân đối với ba người Lý Thanh Vân đều là điều nên làm, vừa hợp tình, vừa hợp lí. Dù gì, kể cả cho dù cuối cùng giữa sư phụ và Hồng Vân tiên tử thật sự không có tầng quan hệ kia đi chăng nữa, thì cũng vẫn tính là bằng hữu, lại thêm người ta cũng từng giúp họ không ít. Làm người không thể vô ơn được!

Thế nhưng, biết lấy gì mà báo ơn Hồng Vân? Kỳ trân dị bảo trên đời chỉ sợ nàng ta cũng nhìn không vừa mắt. Điều duy nhất ba sư huynh muội chắc chắn, là Hồng Vân thích pha chế rượu. Thành thử khi hai chai rượu này được đem ra đấu giá thì nào có khác gì than ấm sưởi đông lạnh, nước mát giữa hè nóng, buồn ngủ vớ được chiếu manh?

Không tăng được tu vi? Không quan trọng, không đáng quan tâm! Ngon là được rồi! Quan trọng ở tấm lòng.

Giữ tiền để tranh món khác? Kỳ thực nếu ba người họ theo một tông môn bình thường nào đó, thì họ có lẽ còn nghĩ theo hướng này… Ấy nhưng, kể từ khi đi theo Nguyễn Đông Thanh, thì những thứ mà ba sư huynh muội truy cầu đã sớm không còn giống với tu luyện giả khác.

Nhìn theo một hướng khác, rác rưởi đối với người này, vào tay kẻ khác có khi lại thành báu vật. Những thứ mà ba người họ sẵn sàng dốc tiền ra mua, có tặng không thì người khác cũng chẳng biết dùng làm gì. Sẽ chẳng có ai bỏ ra một đống tiền để mua một thứ đồ mà họ chẳng thấy nổi tác dụng trước mắt cũng chả nhìn ra được cái lợi lâu dài của nó, trừ khi là phá gia chi tử hay quá thừa tiền không biết làm gì. Dù sao, có là bảo vật mà không cách nào sử dụng thì cũng chỉ có thể để bám bụi trong kho. Điện thoại thông minh mà Kiếm Trì tìm được trong bí cảnh – nay đã được Lâm Phương Dung biếu cho Bích Mặc tiên sinh của chúng ta – chính là ví dụ rõ ràng nhất (1).

(1: lúc biên tập chú thích cho ai quên, đọc lại chương 24: . "Cổ vật thần bí" màu đen mà Lâm Phương Dung đưa chính là nó!)

Mà hiển nhiên, ba người Lý Thanh Vân cũng không phải ngoại lệ, họ thực có sẵn ý định cho những đồ mình bỏ tiền ra đấu giá. Ngoại lệ thật sự ở đây là Thượng Quan Trường Không. Tuy y biết đám gà con và hai chai rượu là đồ quý, nhưng quý ở đâu và dùng như thế nào thì còn chưa rõ.

Sau khi tranh giành thành công mấy con gà và đôi chai rượu, cũng chẳng còn gì trong buổi đấu giá gây được hứng thú với ba sư huynh muội Lý, Tạ, Đỗ. Thành thử, ba người ngồi lại chủ yếu là để xem náo nhiệt.

Nhất Phẩm lầu quả nhiên danh bất hư truyền, đồ mang ra đấu giá đủ các chủng loại kỳ trân dị bảo. Từ đan dược, vũ khí, đến phù chú, điển tịch, phải nói là mở rộng tầm mắt cho hai người Lý, Đỗ.

Sau một hồi đấu giá, lại thêm nhiều nhà rước được vật báu về, cuối cùng cũng đến vật đặt đáy hòm của buổi đấu giá hôm nay.

Chỉ thấy ánh đèn sân khấu vụt tắt, rồi bật lại lên, chiếu tập trung vào giữa đài, nơi đang đặt một cái khay ngọc được trạm trổ tinh vi, phía trên lại khắc đồ án âm dương, ở hai khoanh tròn đặt hai viên đan dược, một viên xanh như ngọc, một viên đỏ như máu.

Tên mặt chuột lúc này liền lên tiếng:

“Chân bảo cuối cùng của buổi đấu giá hôm nay là hai viên Âm Dương Cải Mệnh Đan, do Luyện đan tông sư Tiêu Đan Tử nhờ Nhất Phẩm lầu rao bán hộ. Theo như lời Tiêu lão tiền bối, viên màu đỏ là phó đan, có tác dụng cố bản bồi nguyên, đánh vững căn cơ tu luyện. Viên màu xanh là chủ đan, phục dụng có thể đề thăng tư chất, nghịch thiên cải mệnh.”

Nghe đến đây, khán đài bắt đầu có tiếng xì xào bàn tán.

Củng cố căn cơ, vừa giúp sau này chẳng những có thêm khả năng đột phá đến cảnh giới càng cao, hơn nữa chiến lực còn hơn xa đồng cảnh giới bình thường. Đan dược thần kỳ như thế, cho dù có bán riêng lẻ, các nhà các phái cũng sẽ cân nhắc mua về bồi dưỡng hậu bối.

Mà thứ này lại chỉ là thuốc dẫn cho chủ đan.

Nghịch thiên cải mệnh, cải thiện tư chất, cho dù là một số lão quái vật bế quan nhiều năm nghe mấy từ này cũng phải động lòng, hà huống nơi này chủ yếu là thiên kiêu các đại thế lực đến tham dự Võ Bảng hội.

Một người tu hành, tư chất tuy không phải tất cả, thế nhưng chắc chắn là một trong những yếu tố quan trọng nhất.

Cả Huyền Hoàng giới này, bất luận là Vu, Đạo, Phật, Nho, Võ, người đặt chân lên con đường tu hành nào chỉ có con số trăm vạn? Thế nhưng, có biết bao nhiêu người cả đời không cách nào đặt chân vào Vụ Hải, bị vây chết ở cánh cửa đệ ngũ cảnh tột cùng.

Chênh lệch về tư chất, có đôi khi dựa vào cố gắng, dựa vào kỳ ngộ có thể san bằng. Lại có đôi khi, cũng chỉ chênh lệch một chút tư chất như vậy, lại là khác biệt giữa trời và vực.

Tất cả các thế lực há lại có thể không kích động?

Ai mà không muốn nhà mình xuất hiện một tên hậu bối ưu tú như Kiều Minh Long của Phần Thiên Cốc, hay Việt Linh vương Lý Thanh Minh?

Lý Thanh Vân cũng quay qua hỏi hai cô sư muội:

“Sư muội, liệu có biết vị Tiêu Đan Tử này là ai chăng?”

“Sư huynh, Tiêu Đan Tử nổi tiếng khắp Huyền Hoàng giới, là một trong ngũ đại tông sư của giới luyện đan. Đến trong tộc Thanh Tước còn từng nghe danh y, anh không biết thật sao?”

Tạ Thiên Hoa ngờ vực hỏi.

Lý Thanh Vân lắc đầu:

“Trước khi vào kinh, vi huynh chỉ là thằng nhóc nghèo, biết đọc biết viết đều nhờ phu tử thương tình dạy miễn phí cho. Sau khi nhận tổ quy tông, lại gặp nhiều chuyện như thế, lang bạt kỳ hồ mãi đến khi gặp sư phụ. Những nhân vật phong vân của Huyền Hoàng giới người ở tầng dưới chót như ta quả thực không biết rõ lắm.”

Đỗ Thải Hà thì tiếp lời sư tỷ:

“Khi xưa ở núi Long Hổ, em cũng từng nghe danh y, Tiêu Đan Tử Tiêu Thiên Hóa là một kỳ tài trong giới luyện đan và người sáng lập ra Huyền Tiêu cung. Núi Long Hổ muốn mua đan dược cho chân nhân, thiên sư tu luyện đều phải đến gặp ông ta. Có điều... Nghe đồn người này tính tình cổ quái, đan dược luyện ra tuy có thể gọi là thần đan diệu dụng nhưng thường nếu không có tác dụng phụ thì cũng đi kèm một điều kiện nào đó...”

Y như rằng, nàng vừa dứt lời thì tên mặt chuột lại nói:

“Tiêu lão tiền bối còn dặn thêm, để điều chế được viên chủ đan này, Tiêu lão tiền bối cần dùng hai loại chất kịch độc. Tuy rằng xảo đoạt thiên công, lấy độc trị độc, song cũng không phải vạn vô nhất thất. Thành thử, cần phục dụng thêm cả viên phó đan này làm thuốc dẫn mới được.”

Vốn dĩ, có mấy nhà trộm nghĩ mình không có đủ tiền tranh giành viên chủ đan, định bụng cuối buổi sẽ hỏi Nhất Phẩm lầu hoặc Huyền Tiêu cung mua riêng viên phó đan.

Cho dù không thể kinh người như cải thiện tư chất, cố bản bồi nguyên, củng cố căn cơ cũng không hề tệ. Chí ít có thể bồi dưỡng ra một vị thiên kiêu ngàn năm một thuở, dù không cách nào so sánh với “long đằng vạn lý, hổ khiếu thanh minh”, thì vẫn có thể trấn áp đồng lứa.

Cũng có thể kế thừa gia nghiệp.

Thế nhưng, sau khi tên mặt chuột nói rõ tác dụng của viên phó đan, bọn họ liền chết tâm, quăng cái ý nghĩ đó ra chín tầng mây. Mấy nhà này trộm nghĩ, đổi lại bản thân là Tiêu Đan Tử Tiêu Thiên Hóa, cho dù có luyện được phó đan thì cũng để lại, chờ luyện được chủ đan thì bán ra ngoài, vậy mới được lợi lớn nhất.

Dù sao đi nữa...

Hôm nay, không ai muốn từ bỏ Âm Dương Cải Mệnh đan. Hai viên đan dược, vừa giúp thiên kiêu nhà mình tiến thêm một bước, nói không chừng còn tạo ra thêm một Lý Thanh Minh, Kiều Minh Long.

Tên đầu chuột chờ mọi người bình tĩnh lại, sau đó mới cười:

“Tiêu đại sư nói ngoại trừ tiền bạc, ông còn có một điều kiện, đó chính là người nào phục thuốc này thì coi như thế lực sau lưng người đó phải thiếu nợ ông ta một cái nhân tình. Thế nên, lần này ra giá chỉ hạn chế với những ai không che giấu thân phận mà thôi.”

Ba người Tạ Thiên Hoa tuy có cảm thấy điều kiện này hơi kỳ quặc bất công, song do không có hứng thú gì với Âm Dương Cải Mệnh đan này, nên cũng chẳng buồn lên tiếng làm gì.

Tư chất tu luyện ở chỗ Nguyễn Đông Thanh... dường như không có bao nhiêu công dụng.

Thế nhưng...

Trong lúc ba người đang ngồi xem kịch, thì các thế lực khác đã tranh giành hai viên thuốc đến đỏ cả mắt. Nếu như Đông Thanh ở chỗ này, chắc chắn lúc này đã đế thêm một câu mang tính “ném đá hội nghị” như, “Rốt cuộc là đan dược hay m* t** đá?”

Chẳng mấy chốc...

Âm Dương Cải Mệnh đan đã được đẩy lên cái giá sáu mươi vạn đao.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 52: Nói Móc Và Hạ Nhục


Ngoảnh đi ngoảnh lại, nhờ thiên kiêu các phe thế lực điên cuồng tranh giành hai viên đan dược mà lúc này giá đã được đội lên tới 250 vạn đao.

Với cái giá này, không ít các môn phái nhỏ và vừa đến tham dự đã phải bỏ cuộc. Ở thời điểm hiện tại, có lẽ cũng chỉ còn thành viên của các tông môn, thế lực cự đầu một phương là còn mang đủ tài lực trong người để tranh thuốc quý.

Tranh giành Âm Dương Cải Mệnh Đan lúc này, ngoại trừ hai người Kiều Minh Long, Lý Thanh Minh, thì cũng chỉ còn vài ba người khác.

“Ba trăm vạn!” Lý Thanh Minh vừa nâng giá liền nâng luôn năm mươi vạn, còn nhiều hơn tổng số tiền ba người Tạ Thiên Hoa còn dư. Đỗ Thải Hà nghe vậy cũng phải buột miệng cảm thán:

“Quả không hổ là con trai Võ Hoàng, giàu có thật!”

Nói đến đây mới chợt nhớ ra ông đại sư huynh nhà mình cũng là con trai của Lý Huyền Thiên, nhưng số phận khác với Lý Thanh Minh kia một trời một vực, vội quay sang xin lỗi. Chỉ thấy Lý Thanh Vân lắc đầu, cười:

“Sư muội chớ lo! Ta biết muội không có ác ý. Huống chi, từ khi ông ta đày ta ra biên ải, ta đã sớm không còn quan hệ gì với ông ta nữa rồi!”

Lại nghe thấy Kiều Minh Long thét giá:

“Năm trăm vạn!”

Cái giá trên trời này vừa ra, thì các phe thế lực khác còn sót lại lúc này cũng phải lắc đầu lè lưỡi, miễn cưỡng chấp nhận bỏ cuộc.

Lý Thanh Minh cắn răng:

“Năm trăm năm mươi vạn!”

“Bảy trăm vạn!” Kiều Minh Long không lỡ đến một nhịp.

Cuối cùng đan về tay Kiều Minh Long. Tên mặt chuột tuyên bố đấu giá hội kết thúc, mọi người bắt đầu lục tục chuẩn bị đi về.

oOo

Lý Thanh Minh tức đến lộn ruột sôi máu, nhưng y vẫn phải cố tỏ ra bình thường, đoạn chắp tay hướng Kiều Minh Long, cười nói:

“Chúc mừng Kiều huynh thu được đan tốt! Bản Vương vốn còn đang lo thiên kiêu chiến ba năm sau sẽ không công bằng cũng chẳng đặc sắc, giờ thì tốt rồi!”

Ý rất rõ ràng: “Ngươi phải có đan dược phụ giúp mới có cơ đánh ngang tay với ta!”

Kiều Minh Long nghe vậy thì cũng chắp tay tạ lễ:

“Đa tạ mỹ ý của Lý huynh. Tại hạ cũng đã sớm nghe nhi tử của Võ Hoàng Lý Huyền Thiên tình như thủ túc. Mới đây lại biết tin em trai Lý huynh không tiếc nhường cả Võ Thánh chi hồn cho huynh đài, quả là anh em tốt, danh bất hư truyền!”

Ý cũng rất rõ ràng: “Ta dùng đan dược để tăng thực lực dù gì vẫn còn hơn ngươi đến anh em trong nhà còn hãm hại chỉ vì huyết mạch truyền thừa.”

Lý Thanh Minh nghe vậy thì tím mặt, nhưng cũng không hề kém cạnh, liền nói:

“Tình anh em của tại hạ sao có thể so sánh với tấm lòng chung thủy của Kiều huynh? Chuyện Kiều huynh chịu ngàn khổ trăm đắng, luyện nên kỳ công chỉ để được Tạ tiểu thư của Thanh Tước tộc chú ý, quả thật đáng ngưỡng mộ!”

Khi nói hai chữ “kỳ công,” y còn cố tình nhấn mạnh, hiển nhiên là ám chỉ Kiều Minh Long tu luyện tà công, chả qua cũng chỉ là thứ bàng môn tả đạo, nào có tốt đẹp gì? Sau lại bới móc việc Kiều Minh Long dùng sức mạnh ép con gái nhà người ta cưới hắn cũng chẳng phải chuyện hay ho gì để mà nói kháy chuyện y tước đoạt Võ Thánh chi hồn từ Lý Thanh Vân.

Người của các thế lực chưa kịp truyền tống đi ra thấy một màn đấu khẩu này thì cũng liền nán lại thêm chút thời gian, hiển nhiên không muốn bỏ lỡ kịch hay. Mà lúc này, hai người Lý Thanh Vân và Tạ Thiên Hoa là khổ chủ bị nhắc tên trong lời cà khịa nhau của hai kẻ kia thì đang chưng một bộ mặt dở khóc dở cười sau tấm mặt nạ.

“Đùa nhau à? Các ngươi kết oán với nhau bởi một hai viên thuốc thì cũng thôi đi, tại sao còn phải lôi chúng ta xuống nước theo?”

Lại nghe Kiều Minh Long nói:

“Được rồi, người ngay thẳng không nói lời vòng vo. Tại hạ cũng không muốn thiên kiêu chiến ba năm sau thiên hạ có lời ra tiếng vào nói tại hạ phải nhờ Âm Dương Cải Mệnh Đan này mới thắng hiểm được Linh Vương điện hạ. Vậy hay là thế này, chúng ta liền chọn ngày, tỷ thí với nhau một trận, lấy luôn hai viên đan này làm tiền cược. Nếu Lý huynh thắng, đan này liền về tay huynh đài, mà nhân tình cho Tiêu lão tiền bối vẫn tính trên đầu Phần Thiên Cốc. Nhưng nhược bằng tại hạ thắng, thì Võ Hoàng thiếu Phần Thiên Cốc của tại hạ một cái nhân tình, thế nào?”

“Kiều thánh tử đã có nhã hứng như vậy, bản Vương từ chối thì thật không phải phép. Vậy đợi đến ba ngày sau, khi Võ bảng lần này được công bố xong thì chúng ta cũng liền gặp nhau trên võ đài đi!”

“Được! Quyết như vậy đi!”

Nghe lời ước chiến giữa hai thiên kiêu đang nổi nhất Huyền Hoàng giới này thì tất cả mọi người đều vô cùng hào hứng. Không ít người đến Võ Bảng hội lần này với hy vọng được chứng kiến Kiều Minh Long và Lý Thanh Minh tranh hùng. Thế nên, quyết định này của hai kẻ họ quả là điều cầu được ước thấy của bao người. Mà kể cả những người vốn không ôm mộng này đến đây hôm nay thì được xem trận tỷ thí giữa hai kẻ mạnh nhất trong thế hệ trẻ cũng vẫn là một việc hết sức đáng mong chờ!

oOo

Ước chiến xong xuôi, Lý Thanh Minh liền chuyển sự chú ý sang ba sư huynh muội đeo mặt nạ.

Từ lúc bước vào phòng đấu giá, hắn đã cảm nhận được Võ Thánh chi hồn run lên, nên sớm đã biết Lý Thanh Vân có mặt tại đây, chả qua là không thể hiện ra mà thôi.

Kiều Minh Long cũng bị ánh nhìn của Lý Thanh Minh làm cho tò mò, bèn nhìn theo y.

Không chú ý thì thôi, một khi để ý, hắn cũng chẳng mất mấy thời gian để nhận ra thân phận ba người này. Trong mắt liền lóe lên vẻ tàn độc.

Kỳ thực, ba năm trước khi lần đầu nhìn thấy Tạ Thiên Hoa, có thể rung động trong trái tim cậu thiếu niên mới lớn Kiều Minh Long là thực lòng. Thế nhưng sau khi bị từ hôn, trong suốt ba năm nay, Tạ Thiên Hoa đã sớm chỉ còn là một nỗi ám ảnh trong lòng Kiều Minh Long. Hắn không từ thủ đoạn, ngậm đắng nuốt cay, tu luyện đến trình độ hiện tại, cũng chỉ vì muốn kéo Tạ Thiên Hoa xuống đất rồi hành hạ, chà đạp nàng. Để nàng ta biết hậu quả của việc dám giẫm lên cái tôi của hắn ba năm trước. Nói hắn ép cưới, không bằng nói hắn muốn bắt nàng về làm nô lệ. Chả thế mà cha mẹ cô nàng dù mang ơn phụ mẫu hắn cũng liều sống chết phản đối hôn phối này, lại tạo cơ hội để nàng chạy trốn.

Thành thử, nếu không phải hắn nãy giờ không để ý, lại có thêm cái mặt nạ của Nhất Phẩm lầu giúp Tạ Thiên Hoa che giấu thân phận, thì với nỗi ám ảnh của Kiều Minh Long với nàng, dù nàng có hóa tro bụi, hắn cũng sẽ nhận ra. Nay hắn đã chú ý, thì hiển nhiên chiếc mặt nạ cũng không còn mấy tác dụng.

Về phần Lý Thanh Minh, trước giờ hắn chưa bao giờ để mấy thằng con hoang của cha mình vào mắt, Lý Thanh Vân ban đầu cũng chẳng phải ngoại lệ. Vốn dĩ, sau khi đánh bại Thanh Vân, tước đoạt được Võ Thánh chi hồn, hắn cũng định mặc y tự sinh tự diệt.

Thế nhưng, Võ Thánh chi hồn nhất quyết không chịu nghe lệnh hắn, dù hắn có làm thế nào cũng không cách nào dung hợp hay sử dụng được huyết mạch truyền thừa này. Ấy cũng là lý do thật hắn nổi sát tâm đối với Lý Thanh Vân.

Một kẻ vô dụng, đã mất hết tu vi, tại sao vẫn được Võ Thánh chi hồn hướng về? Cảm giác thật giống như vợ đã cưới về nhà vẫn đang ngày nhớ đêm mong tình nhân cũ vậy. Lý Thanh Minh vừa thấy bực tức, vừa thấy có chút ghen tị, nhưng nhiều hơn cả là hắn thấy nhục! Mà nỗi nhục này, hắn bắt buộc phải rửa bằng máu của Lý Thanh Vân!

Lý Thanh Minh liền thả ra chừng ba thành tu vi, cỡ khoảng tứ cảnh, đè lên ba người Lý Thanh Vân. Theo như hắn nghĩ, chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để Tạ Thiên Hoa phải ra mặt chống đỡ hộ Lý Thanh Vân rồi, mà như vậy, thằng con hoang của cha hắn sẽ liền trở thành kẻ bám váy đàn bà trước mọi người.

Thế nhưng, ba sư huynh muội họ dường như còn chưa nhận ra chuyện gì, vẫn đang cười cười nói nói với nhau.

Lý Thanh Minh liền tăng sự đè ép lên ngang với tu luyện giả đệ ngũ cảnh. Thế nhưng, vẫn như cũ, chẳng có chuyện gì xảy ra.

Hắn đẩy tiếp áp lực lên đệ ngũ cảnh đỉnh phong. Mãi đến lúc này ba người Lý Thanh Vân mới có phản ứng, nhưng lại chỉ là cau mày nhìn xung quanh.

Cuối cùng, Tạ Thiên Hoa nhận ra vấn đề đầu tiên, bèn truyền âm cho Lý Thanh Vân trêu chọc:

“Sư huynh, anh trai anh tìm đến chúng ta gây sự rồi!”

Lý Thanh Vân lắc đầu cười khổ, đoạn nói:

“Chúng ta chắc cũng nên đi thôi, ở lại đây tai bay vạ gió...”

Thấy ba người Tạ Thiên Hoa vẫn còn nhởn nhơ như vậy, Lý Thanh Minh giận tím mặt, hắn liền thả toàn bộ tu vi ra, quyết chí ép họ ngã xuống mới thôi...

Sức ép này được thả ra, thì cuối cùng ba sư huynh muội cũng giật mình:

“Lý Thanh Minh đã tiến nhập vụ hải sâu như vậy???”

Cũng khó trách họ bất ngờ chuyện này, dù gì khi Lý Thanh Vân bị đoạt Võ Thánh chi hồn, Lý Thanh Minh mới chỉ là ngũ cảnh đỉnh mà thôi. Tương tự, khi Kiều Minh Long đả bại Tạ Thiên Hoa, gã cũng mới chỉ mới sơ nhập Vụ Hải. Đó đều là những chuyện mới xảy ra không lâu trước đây. Vậy mà hôm nay, Kiều Minh Long thử kiếm hiển thần uy, Lý Thanh Minh cũng thả ra được uy áp vượt xa những kẻ mới sơ nhập Vụ Hải, quả không hổ danh là hai thiên kiêu đứng đầu thế hệ trẻ! Thế nhưng… ngay lập tức có một suy nghĩ chung xuất hiện trong đầu ba người họ, thay thế cho sự ngạc nhiên mới rồi:

“Uy áp của ngươi... chỉ có thế này thôi sao???”

Kỳ thực, nếu là trước kia, thì bao nhiêu đó áp lực có khi cũng đã đủ để ba sư huynh muội Tạ Thiên Hoa tay chân bủn rủn, ngã ngồi ra đất cả rồi. Thế nhưng, từ khi chuyển vào Lão Thụ cổ viện sống, một ngày phải có đến năm, bảy lần khi không tự dưng bị bộ đôi Cải Thảo và Đá Nhỏ lôi tu vi ra “đè chơi”, thì ba người họ đã sớm “tập nhiều thành quen”. Thế nên giờ đây bấy nhiêu áp lực của Lý Thanh Minh ngoại trừ làm họ có chút chút khó thở ra thì chả có bao nhiêu tác dụng.

Mà ba người họ bất ngờ một thì Lý Thanh Minh và Kiều Minh Long còn ngạc nhiên mười. Thu thập thông tin tình báo đối với thế lực chống lưng cho họ không phải khó khăn gì. Lại thêm việc về Lão Thụ cổ viện đặc biệt được các thế lực của Huyền Hoàng giới chú ý. Thành ra, việc hai người Tạ Thiên Hoa, Lý Thanh Vân bái vào môn hộ của vị đại năng mới chuyển vào sống ở cổ viện là chuyện cả Kiều Minh Long lẫn Lý Thanh Minh đều đã sớm biết.

Chỉ trong thời gian ngắn ngủi như vậy, đã khiến hai người này chịu được uy áp của cường giả đã nhập vụ hải mà mặt không biến sắc? Xem chừng lời đồn không sai, vị ở Lão Thụ cổ viện quả nhiên không tầm thường!

Thế nhưng, điều này chỉ khiến Lý Thanh Minh điên tiết hơn. Y mới đấu giá thua Kiều Minh Long, không có chỗ phát tiết, nên mới đánh chủ ý lên đám Lý Thanh Vân, vốn chỉ định hạ nhục họ trước bàn dân thiên hạ một phen, để lại một lời dọa nạt rồi thôi. Dù gì ba người họ chưa ai vào vụ hải, đối với hắn chỉ là sâu kiến. Nhưng thế rồi, y thất bại. Đối với Lý Thanh Minh mà nói, đây là một sự nhục nhã!

Nếu là đang ở nơi khác, hẳn là hắn sẽ ra tay “dạy dỗ” họ một phen. May thay, Lý Thanh Minh vẫn nhớ hắn đang ở địa bàn của Nhất Phẩm Lâu. Hắn lấy tu vi ra đè ép ba người Lý Thanh Vân, người ta còn có thể nể danh Võ Hoàng mà nhắm mắt làm ngơ, thế nhưng nếu hắn còn dám thượng cẳng tay, hạ cẳng chân ở đây, thì người của Nhất Phẩm Lâu hẳn sẽ không ngồi yên. Nên... hắn đành phải nhịn.

“Đợi khi ta đánh bại Kiều Minh Long, liền sẽ dạy dỗ ngươi một phen!” Lý Thanh Minh hừ lạnh một tiếng, đoạn gằn giọng truyền âm với Lý Thanh Vân, rồi phủi áo bỏ đi.

Kiều Minh Long cũng nhìn Tạ Thiên Hoa với ánh mắt đầy ý vị, chả rõ là nghĩ gì, trước khi quay người rời khỏi.

Bắt đầu có tiếng xì xào bàn tán. Hiển nhiên, tất cả những kẻ còn nán lại chưa đi đều đang thắc mắc không hiểu ba kẻ thần bí đeo mặt nạ kia là ai, sao lại đắc tội Việt Linh Vương Lý Thanh Minh...

Về phần ba người Tạ Thiên Hoa, họ giờ cũng chẳng còn chút tâm trạng nào ở lại hóng chuyện. Thậm chí, còn có chút hối hận ban nãy khi đấu giá xong đồ đã không rút lui quách đi cho rảnh nợ. Thành ra bây giờ ba người liền cũng bỏ ngoài tai những lời này mà lập tức rời đi.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 53: Thủy Thượng Ải Quan/hoàng Liên Sơn Man


Lại nói đến Nguyễn Đông Thanh lên đường đi Mỹ Vị sơn trang.

Sau khi đám quỷ rừng đi khỏi, đêm đó cũng không còn gặp phải sự lạ gì nữa. Sáng hôm sau, Trần Dũng, Nguyên Phương không dám ở lại đây lâu, vội vội vàng vàng dập lửa lên đường.

Bấy giờ, đã biết con bò đang kéo xe là một đại yêu tu vi đã vào Vụ Hải, hai người đứng cạnh chỉ thấy bủn rủn chân tay, ngay cả ho he thở mạnh cũng chẳng dám, nào có thể như trước đây ra roi thúc giục nữa?

Con bò còn phải bực mình, truyền âm:

“Các người nghe cho kỹ đây, bản tọa bây giờ chỉ là một con bò già mà thôi. Cấm có được phản ứng khác lạ. Nếu như chỉ vì hai người các ngươi mà để lộ sơ hở gì, khiến chủ nhân biết được, lúc đó bản tọa ắt khiến các ngươi hình thần câu diệt.”

Hai người lắp bắp, ghé tai bò, nói nhỏ:

“Tiền... tiền bối. Chúng ta... chúng ta sao dám bất kính với ngài?”

Con bò truyền âm lại, ngữ khí đã hơi có phần nổi nóng:

“Lằng nhằng cái gì? Các ngươi đối xử với bản tọa như một con bò thì bản tọa chính là một con bò bình thường. Trái lại, các ngươi mà đối xử với bản tọa như một cường giả tuyệt thế, thì bản tọa cũng không ngại cho các ngươi xem thử bản tọa hành xử như cường giả nó là thế nào. Miễn các ngươi tội bất kính.”

“Vậy xin đắc tội.”

Trần Dũng, Nguyên Phương không dám trái lời, ra roi không ngừng.

Chẳng mấy chốc, ba người đã đến được một tòa thành trì phồn hoa nằm phía nam ải Quan Lâm – Thủy Thượng quan. Trần Dũng thấy Nguyễn Đông Thanh tròn mắt kinh ngạc nhìn về phía tòa thành với đại bộ phận kiến trúc nổi trên sông, bèn nhiệt tình nhìn sang:

“Tiên sinh, có gì cần dạy bảo?”

“Không dám. Chẳng qua... hà cớ gì nơi này lại xây thành trôi nổi trên sông như thế?”

Nguyễn Đông Thanh vừa hỏi, vừa cảm khái Huyền Hoàng giới này quả nhiên là không giống với địa cầu. Thời phong kiến đổ về trước, con người trái đất cơ hồ phải vật lộn với nước lũ. Thậm chí người Việt còn hiện thực hóa ra câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, thể hiện ước mong chiến thắng thiên tai.

Người ở đây thì bố đời hơn, xây hẳn tòa thành nổi chình ình trên dòng sông lớn.

Nguyên Phương cười, nói:

“Tiên sinh chắc ít rời khỏi ải Quan Lâm nên có điều không biết, thành này còn có tên là Tế Kỳ thành. Ở đây vốn là có một đường núi nhỏ dẫn từ núi Hoàng Liên xuống. Năm xưa người man trên núi thường theo sơn đạo đến đây, cướp phá giết người, dân chúng không tài nào an cư lạc nghiệp. Khi đó Thánh Tông hoàng đế dựng cờ phát binh, đến đánh người sơn man. Hoàng đế lấy đại chiến thuyền kéo đến đây, trong một đêm dựng lên một tòa thành, lấy máu tế cờ, nên có tên Tế Kỳ.”

Trần Dũng cũng đế thêm:

“Sau này dân chúng lấy xác chiến thuyền, xây lên phủ thành chủ, lại dùng thuyền bè, thủy tạ, cầu ao làm kiến trúc chính, lấy thuyền đi lại làm chợ, từ đó tạo nên Thủy Thượng quan.”

“Người sơn man mà trong câu chuyện là ai? Có thể chung sống được chăng?”

Nguyễn Đông Thanh ngồi nhỏm dậy trên xe, hỏi. Có lẽ do giáo dục hiện đại, đã quen với khái niệm “năm mươi tư dân tộc anh em”, nên thực chất gã không ưa cái cách gọi “man di” của người xưa cho lắm.

Nguyên Phương, Trần Dũng nghe xong, xua tay lè lưỡi:

“Tiên sinh nhân hậu hơn người, hai ta bội phục. Thế nhưng người man nào phải hạng thiện lương gì? Hơn nữa kỳ hình quái trạng, có kẻ khoeo tay mọc ra lưỡi đao như bọ ngựa, sắc như dao cạo. Có loài cần cổ xoay ngược, hàm răng sắc bén, hay ăn thịt người. Nói là man nhân, chẳng bằng kêu bằng yêu quái.”

Nguyễn Đông Thanh lắc đầu, thầm nghĩ người ở Huyền Hoàng giới cũng rất tốt, thế nhưng không có nghĩa là họ có tư duy của người hiện đại như gã. Có những thứ đối với họ là chuyện hiển nhiên, nhưng trong mắt gã lại thấy là chưa ổn. Mà chiều ngược lại kỳ thực cũng không phải là không có.

Ba người nói chuyện man nhân, chuyện sơn đạo một hồi, thế mà đã đến cửa thành.

Nguyên Phương, Trần Dũng cho lính canh cổng xem giấy thông hành của Vũ Tùng Lâm, rất nhanh đã được dẫn vào thành, đi đến một cái đài cao bằng đá. Nguyễn Đông Thanh thấy nơi này là do đá tảng xanh xếp chồng lên nhau, lại không rõ dùng vật gì liên kết kết dính lại thành một khối. Tuy vẫn có thể nhận ra rõ ràng từng tảng đá, nhưng cả kết cấu vững chãi không thua gì nhà cửa bình thường. Trên từng phiến đá đẽo gọt những phù văn mà Nguyễn Đông Thanh chẳng nhận ra được cái nào cả, chỉ thấy như một mớ giun đang bò hay nòng nọc đang bơi vậy thôi. Tên lính phụ trách trấn giữ nói:

“Một ngày từ đây có hai lần truyền tống đến kinh đô nước Đại Hoàng – Quảng Lăng. Bây giờ còn nửa canh giờ nữa mới đến giờ, các người đợi ở đây cũng được, mà đi vào thành một lát cũng được. Nhưng nhớ phải về đúng giờ, chỗ này không chờ ai đâu.”

“Cảm ơn huynh đài.”

Nguyễn Đông Thanh cười, chắp tay với y, sau đó lại nghĩ bụng:

“Lần này mình đi tìm đầu bếp mà trên răng dưới dế không có thứ gì khiến người ta thấy hứng thú e là không ổn. Nghe nói Mỹ Vị sơn trang chuyên tu trù đạo, chẳng bằng ta vào trong chợ kiếm cái gì đó, làm một món lạ, có thế người ta mới chú ý đến mình.”

Nghĩ là làm ngay, anh chàng bèn dắt Hồng Đô tiến vào trong chợ.

Trước khi vào thành, để tránh chuyện bị kẻ khác chặn đường cướp bóc như lần trước, Nguyễn Đông Thanh để Hồng Đô mặc áo trùm kín mít, chỉ chừa mỗi đôi mắt ra. Ngay cả đôi tay tròn vo cũng bị bắt đeo bao tay cho đủ năm ngón, ngoại trừ cái đầu quá khổ ra thì chẳng khác nào một người lùn bình thường.

Bọn họ cũng đã bàn trước với nhau, nếu có ai hỏi, Hồng Đô sẽ nói mình luyện một môn thần thông tương tự Thiết Đầu công, tác dụng phụ khiến đầu sưng lên.

Tuy biết Hồng Đô có thực lực không tệ, giặc cướp bình thường mà nảy ý đồ đạo tặc với bọn họ chẳng khác nào tự tìm cái chết. Song Nguyễn Đông Thanh xưa nay làm người khiêm tốn, không muốn khi không lại rước phiền phức vào người.

Đi cùng còn có Nguyên Phương, Trần Dũng thì phụ trách ở lại trông cái xe bò.

Nguyên Phương nói trước khi tòng quân thì nhà anh chàng cũng ở một xóm trong Thủy Thượng quan này, cũng có thể coi như là thổ địa nơi này. Đông Thanh nghe anh chàng nói vậy, mới nghĩ đời lính xưa nay phải xa nhà lâu ngày, bèn hỏi:

“Cậu có muốn về thăm nhà hay không?”

Nào ngờ, Nguyên Phương nghe hắn nói câu này, phản ứng lại giống như tử tù bị tuyên án. Cậu lính mặt trắng bệch, nhìn đông ngó tây láo liên một hồi, sau đó vội vàng xua tay:

“Không! Không! Tiên sinh đừng lo. Năm ngoái tại hạ vừa về phép. Hà huống...”

Nguyên Phương rụt cổ, nhỏ giọng:

“Hà huống bây giờ về nhà, thể nào bà già cũng càm ràm chưa có cháu bế, lại bắt tại hạ đi xem mắt cho mà xem.”

Nguyễn Đông Thanh nghe xong, cười:

“Cũng là tấm lòng cha mẹ. Có thể cậu thấy rất phiền toái, cũng thấy họ nhiều chuyện. Không thích cũng được, không nghe cũng không sao, nhưng nên hiểu đấy là họ quan tâm cậu.”

Gã ngẫm lại, trước khi vô tình lạc đến Huyền Hoàng giới, gã cũng thường hay bị cha mẹ bảo đàn ông ba mươi tuổi đầu rồi, cũng nên tính chuyện gia đình con cái đi. Chẳng nhẽ lại cứ để bạn gái nó chờ mãi.

Tết năm nào cũng bài ca dẫn bạn gái về nhà, làm cái giấy kết hôn, dọn mấy mâm cỗ mời bà con chòm xóm.

Gã nghe đến nỗi tai muốn mọc mốc, ong cả thủ, chỉ biết cười trừ cho qua chuyện.

Đến giờ, không cách nào về được nữa, Nguyễn Đông Thanh bất giác thấy rầu vô cớ.

Nguyên Phương thấp giọng, hỏi:

“Tiên sinh... có phải tại hạ làm gì khiến tiên sinh có tâm sự hay không?”

“Không phải lỗi của cậu. Tức cảnh sinh tình thôi.”

oOo

Thủy Thượng quan được xây theo lối không giống ai, cách đi chợ cũng tương đối khác người. Dọc theo đoạn sông trong thành, có tám cái cầu gỗ vươn ra giữa dòng được một nửa thì ngừng lại, gọi là Đoạn Kiều. Kết nối đoạn kiều, chính là cái xác thuyền rồng ngày xưa Thánh Tông hoàng đế dùng làm bản doanh.

Hiện tại...

Lầu trên được dùng làm phủ thành chủ, có trọng binh đứng gác, người thường không thể tùy ý qua lại.

Dưới khoang thuyền, lúc này đã trở thành “phố chính”.

Hai bên đường có không ít người qua lại, ngồi bên mạn thuyền trải sạp bày bán. Mạn thuyền đục các lỗ lớn làm cửa sổ, thông khí, lấy ánh dương ban ngày. Ba người vừa đi giữa dòng người, vừa nghe dưới sông vẳng đến tiếng rao bán.

Té ra, dân nghèo không đủ tiền thuê sạp trong bụng thuyền, bèn dùng con thuyền của mình chèo dưới sông, chở hàng để bán. Hễ có người muốn mua, thì dùng chính cái sào đẩy thuyền móc đồ đưa lên, sau đó người mua xỏ tiền thành xâu treo vào đầu sào, hoặc buộc bạc vụn trong túi, người bán cứ thế thu tiền lại.

Hai bên bán mua qua cái ô cửa cũ để thò mái chèo ra, một trên một dưới cách nhau đến hai trượng, thậm chí lắm khi chỉ nghe thấy giọng mà chẳng thấy mặt mũi nhau đâu. Hơn nữa, cũng không ai giở trò tráo trở, hay táy máy vào đồ đạc tiền bạc của kẻ khác cả.

Nguyễn Đông Thanh nhìn quanh, thấy trên bến dưới thuyền treo đầy những con cá còn tươi rói, dường như là cá biển, mắt trong veo. Gã hỏi mấy người bán, thì được biết cá này đánh ở ngoài biển Phong Bạo, sau đó ngư dân trèo thuyền ngược dòng sông, chưa đến nửa ngày là có thể đến được đây.

Gã không khỏi quay sang chỗ Nguyên Phương, hỏi:

“Cậu đã ăn cá sống bao giờ chưa?”

“Tiên sinh nói đùa. Ăn sống nuốt tươi là hành vi của sơn man, há lại có người nào đi làm chuyện đó?”

Câu trả lời của cậu lính khiến gã đưa tay lên, vê vê cằm.

Trầm tư một hồi, Nguyễn Đông Thanh bèn gật đầu, giống như đã đưa ra quyết định. Gã nhìn sang Nguyên Phương, nói:

“Cậu mua giúp tôi một con cá biển tươi, sau đó quay lại chỗ Trần Dũng thôi.”
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 54: Tiểu Thực Thần – Trương Mặc Sênh


Sau khi mua được cá, Nguyễn Đông Thanh bèn bảo Hồng Đô đóng băng nó lại thật nhanh. Chỉ thấy cô nàng đưa tay ra, lướt qua thân cá một cái, lập tức cả con cá đã cứng ngắc như đá.

Nguyên Phương chẳng rõ vị Bích Mặc tiên sinh này vì sao lại phải đóng băng con cá lại, song cũng không hỏi nhiều, chỉ nghĩ:

“Tiên sinh làm việc ắt có thâm ý. Mình chớ nên nhiều lời là hơn.”

Ba người quay lại hội họp với Trần Dũng, vừa lúc thấy truyền tống trận hoạt động. Nguyễn Đông Thanh chỉ thấy từng đạo phù văn tối nghĩa khắc lên những phiến đá chầm chậm sáng lên, giữa chúng dường như có một loại liên hệ huyền diệu kỳ bí nào đó hắn không hiểu nổi. Chỉ nghe “xoẹt” một cái, không trung trên tế đàn bị xé ra một vết rách, kích thước cũng có một trượng ngang, một trượng cao, đủ cho cỗ xe bò đi qua một cách thoải mái.

“Bước qua đi. Thời gian có hạn, chớ có chậm chễ.”

Lính trấn thủ thấp giọng, giục.

Nhóm Đông Thanh có giấy thông hành do Vũ Tùng Lâm cấp, nên được ưu tiên đi trước. Gã chỉ thấy phía sau vết rách là cả một thành phố phồn hoa đô hội trải ra ngút tầm mắt, lại thấy Hồng Đô đang lon ton bước bên cạnh, chẹp miệng một cái:

“Hóa ra truyền tống trận của thế giới này hoạt động giống như cửa thần kỳ. Thú vị.”

Nguyễn Đông Thanh nhớ tiểu thuyết mạng từng đọc, các truyền tống trận hoạt động gần giống siêu không gian – hyper space – trong phim khoa học viễn tưởng. Muốn đi từ nơi này qua nơi khác, vẫn phải di chuyển một thời gian trong đường hầm, hơn nữa còn phải lo tránh bão không gian đánh tới. Còn truyền tống trận của Huyền Hoàng giới, hay ít nhất là của Thủy Thượng quan thì cực kỳ an toàn, không cần phải di chuyển qua siêu không gian, giống như điểm đến và điểm đi sát vào nhau vậy.

Ba người Hồng Đô, Nguyên Phương, Trần Dũng không rõ ‘cửa thần kỳ’ là ý gì. Chỉ có con bò là đã quá quen với cái kiểu thỉnh thoảng lại không cẩn thận “phọt” ra một câu không đầu không đuôi, chẳng hiểu nổi của Bích Mặc tiên sinh, nên cũng không buồn phản ứng nữa.

Bước qua cánh cổng, ba người đã đến được Quảng Lăng.

Trần Dũng nói:

“Tiên sinh, muốn dùng truyền tống trận ở đây thì cần trả phí, xếp hàng. Bây giờ tại hạ đi trước một chuyến.”

Sau đó nhanh nhẹn lẫn vào dòng người, chẳng mấy đã không thấy tung tích.

Nguyễn Đông Thanh chính đang rảnh rỗi, bèn bảo Nguyên Phương dẫn mình đến chỗ truyền tống trận đi Mỹ Vị sơn trang chờ Trần Dũng.

Quảng Lăng thành là một tòa sơn thành, xây theo thế núi Trường Kiều. Một tòa thành phân làm năm quận Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ, chia theo độ cao. Giữa các quận, người ta kè đá làm đường núi, dùng gỗ làm lan can, chuyên dùng để đi lại.

Nguyễn Đông Thanh thấy đường núi gập ghềnh, không tiện để xe bò di chuyển, bèn nói:

“Hai người ai có nhẫn chứa đồ thì cảm phiền cất giúp cái xe.”

Hồng Đô dùng một tay nâng cái xe bò, sau đó đút thẳng vào cái túi trước ngực. Nguyễn Đông Thanh nhìn trố mắt, giơ bàn tay, nói:

“Hồng Đô. Lấy chong chóng tre ra cho dùng một chút.”

“Chong chóng tre là gì vậy tiên sinh?”

“Nói đùa thôi.”

oOo

Nguyễn Đông Thanh đặt Hồng Đô lên cưỡi bò, sau đó hắn đi bộ, Nguyên Phương dắt dây, theo đường núi mà đi. Dọc đường, tiếng chim rừng hót hòa lẫn vào tiếng lá cây xào xạc, hương thịt mới nướng xen lẫn mùi ớt tê tê cay cay truyền tới, khiến người ta khó mà không cảm thấy thư thái. Nguyễn Đông Thanh đưa tay tì lên lan can, nhìn xa, cười:

“Giả tỉ ở đây có cái đình nghỉ mát. Ngồi ăn thịt nướng, uống chén trà nóng thì chill phải biết.”

“Chiu?”

“Là thư giãn. Người trẻ tuổi ở quê nhà tôi hay nói như vậy.”

Hai người một bò cũng không để ý đến mấy lời kỳ quái mà Đông Thanh nói nữa, tiếp tục cùng hắn lên đường. Chẳng mấy chốc, ba người đã từ quận Hỏa nằm ở lưng chừng núi đi tới quận Thủy nằm cao hơn một bậc.

Bấy giờ, trên một quảng trường lớn nằm ngay trung tâm quận, không ngừng có truyền tống môn được mở ra. Kẻ tới, người đi không ngớt, tụ tập đông nghẹt đến gần một vạn người, choán đầy một khoảng không cỡ mười dặm vuông. Nguyễn Đông Thanh cũng phải chặc lưỡi cảm thán, rằng tuy mật độ người còn chưa bằng những đô thị ở địa cầu, song đặt ở một thế giới tu hành phong kiến như Huyền Hoàng giới đã là rất kinh người.

Có người, thì tất có mua bán.

Trên quảng trường lúc này cũng đứng đầy các quầy hàng, cửa tiệm. Có hàng quán đồ ăn, có sơn đông mãi võ, có bói toán, quả thực là tam giáo cửu lưu, mỗi nhà mỗi vẻ.

Ba người ngó đông nhìn tây một lượt, lại phát hiện chỗ tụ tập đông người nhất lúc này không phải đoán mệnh, không phải tạp kỹ, mà là một thiếu niên treo bảng hiệu: Tiểu Thực Thần.

Người này không cao, thấp hơn Lý Thanh Vân cơ hồ đến hai cái đầu. Mái tóc rễ tre ngả ngả màu hung đỏ, đuôi mày có một vết sẹo giống như là dao làm bếp cắt qua. Y mặc một bộ áo vải đơn sơ, đeo tạp dề làm bếp, quanh cổ cuộn một cái khăn quàng.

Nguyễn Đông Thanh bước lại gần, kéo một người cũng đang hóng hớt lại, hỏi:

“Huynh đài đây cho hỏi, vị Tiểu Thực Thần này đang làm gì mà đông người xem đến thế?”

“Trên đời chỉ có Thực Thần ở Mỹ Vị sơn trang, làm gì có Tiểu Thực Thần? Nhưng ta nói cho huynh đài nghe, thằng nhóc này cũng không phải cái loại thùng rỗng kêu to, vỗ ngực nói phét đâu. Nó có chân tài thực học cả đấy.”

“Xin huynh đài cho biết thêm.”

Nguyễn Đông Thanh càng nghe, càng thấy hiếu kỳ.

Cậu nhóc này dám đối đầu với Mỹ Vị sơn trang, tự xưng là Tiểu Thực Thần, quả thực khiến hắn thấy rất thú vị.

“Thì nó dựng lôi đài thách đấu. Vô luận là đan dược, đồ ăn, trà rượu gì đều có thể đưa lên. Nếu như nó không phân biệt được là độc hay bổ, nếm thử mà chết thì coi như thua. Nếu nó nếm xong, không nói được nguyên liệu dược vật thì coi như thua. Chỉ cần thắng được nó, nó mất mạng không cần đền, hơn nữa còn được nhận một vạn lượng.”

Người nọ kể đến đoạn này, chẹp miệng một cái, lại nói thêm:

“Nó bày lôi đài ở đây đã nửa tháng bất bại.”

“Lợi hại như vậy? Tiểu đệ cũng muốn được thử sức xem sao. Cảm tạ huynh đài đã cho biết.”

Nguyễn Đông Thanh chắp tay, vừa lúc lại nghe thằng nhóc lên tiếng:

“Các vị, vạn lượng bạc trắng đang để ở đây, lẽ nào cả thành Quảng Lăng ai cũng chê tiền của Trương Mặc Sênh này hay sao?”

“Tiểu tử chớ có trương cuồng!”

Gã vừa chỉ dẫn cho Nguyễn Đông Thanh chợt quát lên một tiếng, sau đó nhảy chéo lên một bước.

Trương Mặc Sênh cười, lấy một cái khăn thít quanh eo, hỏi:

“Huynh đài muốn thử?”

“Đương nhiên... là vị huynh đài này sẽ cho tiểu tử ngươi biết thế nào là nhân ngoại hữu nhân, thiên ngoại hữu thiên!”

Gã vừa nói, hai tay vừa đưa về phía Đông Thanh.

“Ồ. Không biết vị bằng hữu này của huynh đài tên họ là gì?”

Trương Mặc Sênh chuyển ánh nhìn về phía Bích Mặc tiên sinh, trong mắt đầy vẻ hiếu kỳ.

Tên kia bấy giờ mới á khẩu, quay sang chỗ Đông Thanh, cười gượng gạo:

“Mới nãy quên hỏi, không biết huynh đài đây xưng hô thế nào.”

Nguyễn Đông Thanh cạn lời.

Mọi người:

“...”

Trương Mặc Sênh:

“...”

Nguyễn Đông Thanh ho khan một cái, nói:

“Tại hạ họ Nguyễn, tên Đông Thanh, hôm nay đến đây quả thực có ý muốn thử xem cái lưỡi của vị Tiểu Thực Thần này có lợi hại đến thế hay không.”

oOo

Trương Mặc Sênh hơi tỏ vẻ ngờ vực.

Hơn hai năm qua cậu chàng mai danh ẩn tích, che giấu thân phận thật, lang bạt kỳ hồ, lên rừng xuống biển, đông tây nam bắc đều đã đi hết, sáu nước cũng đều đã có đấu chân. Đến đâu, Trương Mặc Sênh cũng mở lôi đài đấu phẩm vị, song mặc kệ là cao nhân ẩn sĩ hay hồ mị tà ma cũng chưa thắng được cậu ta.

Cái người tự xưng là Nguyễn Đông Thanh này nhìn bề ngoài không khác gì anh đồ nghèo ở quê, tuổi cao thi mãi không đỗ, thì có thể lấy ra được thứ gì quý giá hiếm gặp?

Chính vào lúc Trương Mặc Sênh còn đang suy nghĩ, thì đã nghe “đối thủ” của mình lên tiếng:

“Thứ lỗi, lần này đến bất ngờ chưa kịp chuẩn bị. Mong cậu chờ cho giây lát.”

“Cứ việc...”

Trương Mặc Sênh đáp gọn lỏn, song sự thất vọng trong lòng đã lại tăng thêm mấy phần. Lúc này, cậu ta đã dám chắc Nguyễn Đông Thanh đích thị là một anh đồ nghèo dưới quê, thấy vạn lạng bạc mới nổi lòng tham, muốn thử thời vận một phen.

Loại người này... Trương Mặc Sênh đã gặp nhiều, cũng chẳng hiếm lạ gì. Cả sáu nước Tề, Sở, Hoàng, Yến, Hàn, Thục không nơi nào mà không có loại người ôm tâm lý cầu may này.

Thế nhưng... Trương Mặc Sênh là ai?

Có thể ăn may được sao?

Một lát sau, cái vị tên Nguyễn Đông Thanh này đã bước lên, trên tay cầm một cái đĩa sứ. Trương Mặc Sênh thấy trên đĩa chỉ có vài lát thịt trắng trắng, mới cười:

“Huynh đài đây, nên biết muốn tham gia cũng phải đóng lệ phí đấy.”

“Chuyện đương nhiên. Chuyện đương nhiên. Không có lệ phí, chẳng phải khiến Tiểu Thực Thần đây nếm gãy lưỡi hay sao?”

Nguyễn Đông Thanh cười, đồng tình.

Trương Mặc Sênh thấy y dường như không hiểu ám chỉ của mình, càng trầm giọng:

“Huynh đài đã biết cần phải giao phí, thế mà vẫn mang một món đơn giản thế này đến đây. Dám hỏi có phải huynh đài thừa tiền tiêu không hết, hay đang nghi ngờ tại hạ lừa người lấy tiếng?”

Mấy năm qua, Trương Mặc Sênh thử không ít món.

Thế nhưng, phàm là người tham gia, nếu không đưa đan hoàn, canh thuốc, món hầm thập cẩm thì cũng là một món thịt băm nát, trộn bảy tám loại vào với nhau. Song... như vậy cũng không thể làm khó được Trương Mặc Sênh, đều bị cậu ta đoán trúng không sai không lệch một nguyên liệu nào.

Thế nhưng, Nguyễn Đông Thanh lại chơi bài quái dị.

Thái mấy lát thịt, đặt lên đĩa, sau đó...

Không có sau đó.

Trương Mặc Sênh bình thường làm người cũng dễ gần, thế nhưng cũng phải tự hỏi không biết đối phương là đang coi thường mình, hay là muốn ném tiền qua cửa sổ.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 55: Không Nhận Vạn Lượng Bạc


Thậm chí, đến cả cái người đứng ra giới thiệu Nguyễn Đông Thanh cũng phải lên tiếng khuyên:

“Huynh đài, ta thấy hay là chọn món khác, hoặc ngày khác lại tham gia đi.”

Trương Mặc Sênh nghe xong, cũng gật đầu:

“Vị nhân huynh đây nói rất đúng. Các hạ vẫn là nên đổi một món khác khó hơn đến, vậy mới có tính khiêu chiến. Bằng không Trương mỗ đây có thắng cũng không võ, cái danh Tiểu Thực Thần này của ta há chẳng phải trở nên ngang hàng với bọn mua danh chuộc tiếng, lợi dụng kiếm lời hay sao?”

Người xung quanh cũng hết lời khuyên can.

“Phải đó.”

“Vị huynh đài đây có lẽ không biết, Tiểu Thực Thần này quả thực có cái lưỡi linh nghiệm lắm.”

“Vẫn là nên giữ lại tiền mà tiêu, đừng có vì khinh thường mà trộm gà chẳng được còn mất nắm thóc.”

“Mất tiền oan uổng. Mất tiền oan uổng.”

...

Trương Mặc Sênh thấy mình đã nhường hết nước hết cái, những người xung quanh khuyên can như vậy cũng đã là chí nghĩa chí tình. Nếu là người còn có tí liêm sỉ, ắt hẳn sẽ biết khó mà lui.

Nào ngờ...

Nguyễn Đông Thanh lại cười ha hả, nói:

“Cảm ơn chư vị đã quan tâm. Tấm lòng này, tại hạ xin tâm lĩnh. Thế nhưng tại hạ đã dám đưa món này cho vị Tiểu Thực Thần đây nếm thử thì ắt có nguyên do của mình.”

Đoạn, thản nhiên bước đến, đưa đĩa thức ăn về phía Trương Mặc Sênh.

Tiểu Thực Thần cười lạnh, nói:

“Huynh đài đây đã khăng khăng quả quyết như thế, Mặc Sênh nếu còn từ chối thì lại thành bất kính.”

Trương Mặc Sênh tự thấy mình đã nói đủ đằng, thế mà cái gã Nguyễn Đông Thanh này vẫn không nghe. Đã vậy, thì cũng không thể trách cậu ta được.

Nguyễn Đông Thanh giao lệ phí rồi, cậu ta mới động đũa.

Trương Mặc Sênh nhìn lát thịt, chỉ thấy hơi bóng, thái mỏng, có thể nhìn rõ cả từng thớ thịt, không có mùi gia vị nào cả. Đao công của người thái không tốt lắm, lát cắt cũng nham nhở, không thể nào vào được mắt của cậu.

Nói thẳng ra, tài nấu nướng của Nguyễn Đông Thanh cùng lắm là biết cầm dao.

Đao công tầm thường.

Miếng thịt này không nêm nếm gì, thành thử cậu ta không đoán được khả năng tẩm ướp của Đông Thanh có cao hay không. Thế nhưng nhìn thứ đao công mèo ba cẳng kia, dám chắc cũng chẳng cao vào đâu được.

Thất vọng càng thêm thất vọng...

Trương Mặc Sênh thở dài, sau đó bỏ miếng thịt vào miệng, cũng chẳng mong chờ gì cả.

Sau đó...

Cậu ta hoàn toàn chết lặng, điếng người. Trương Mặc Sênh nhìn về phía cái đĩa, hơi tỏ vẻ ngờ vực. Ban nãy, đầu lưỡi của cậu ta đón lấy vô vàn hương vị, một tổ hợp kỳ quái mà trước đây Trương Mặc Sênh chưa từng cảm thấy.

Hơi lành lạnh, quện lấy vị tươi non, hơi dai dai, hơi ngọt ngọt, lại có gì đó hơi tanh tanh.

Hơn nữa chỉ lưu lại một thoáng, vừa mới nuốt xuống, tức thì biến mất.

Giống như là cá, nhưng cá nấu lên đủ độ chắc chắn phải bông như là bông tuyết, dùng lưỡi khẽ đẩy, cũng có thể tách ra.

“Này... đây là... món gì? Nấu như thế nào?”

Trương Mặc Sênh nghĩ mãi, cũng không tìm được món nào giống như thứ mình vừa ăn cả. Cậu ta vung đũa, nháy mắt đã ăn hết vài miếng còn sót trong đĩa.

Cuối cùng...

Cũng không thể đoán được.

Khiếp sợ qua đi, Trương Mặc Sênh gác đũa, chắp tay:

“Tiên sinh thắng rồi, tiểu tử chịu thua.”

oOo

Nguyễn Đông Thanh cười, nói:

“Tiểu Thực Thần khách sáo rồi.”

Kỳ thực, lần này chính gã cũng biết, có lẽ thắng được là do may mắn. May mắn là người ở Huyền Hoàng giới này không có văn hóa ăn đồ sống, bằng không có lẽ chút trò vặt này của gã đã bị Trương Mặc Sênh nhìn thấu triệt.

Hai bên không oán không thù, Tiểu Thực Thần cũng không vì ở vào thế “chắc thắng” mà muốn lấn thêm một bước, thậm chí còn có lòng tốt khuyên Nguyễn Đông Thanh biết khó mà lui. Cái câu “quay về chọn một thứ khác” cũng chẳng qua là đưa thang cho hắn xuống. Dù sao hai bên cũng là bèo nước gặp nhau, gió mây tương hội, sau này chia tay giời mới biết có bao giờ gặp lại nữa hay không. Thành thử, có là thằng ngu mới tin rằng Nguyễn Đông Thanh sẽ thực sự quay về lấy một món khác đến thi thố.

Không thể không nói, Trương Mặc Sênh này so với mấy nhân vật trong tiểu thuyết mạng thì Đông Thanh thấy cậu ta biết đối nhân xử thế hơn nhiều. Không kiêu ngạo, không xiểm nịnh, không uốn gối cong lưng, lại không cần phải cố tình hạ nhục đối phương đặng đề cao bản thân.

Quả thực rất khiến người ta có thiện cảm...

Chính vì thế, Nguyễn Đông Thanh cũng không muốn nhận một vạn lượng bạc của cậu ta. Trương Mặc Sênh tự nhận thắng hắn không võ thì không đáng, gã cũng thấy mình dùng đồ ăn sống lừa cậu ta như vậy cũng chẳng vẻ vang gì cho lắm.

Không thắng bằng chân tài thực học.

“Tiên sinh. Thắng thua phải sòng phẳng, dám chơi dám chịu, sao có thể không giữ chữ tín được?”

“Vậy xem như tại hạ dùng một vạn lượng này kết giao với thiếu hiệp đi.”

Nguyễn Đông Thanh nhún vai, cười.

Gã quả thực không giàu có gì, thế nhưng cũng không phải hạng người vì tiền mà cái gì cũng làm. Đây cũng là ranh giới làm người của Đông Thanh.

Nhớ hồi còn ở địa cầu, đồng nghiệp bè bạn ai cũng chê là gàn. Đến bạn gái cũng đùa là tính Đông Thanh như thế không giàu nổi.

Gã thấy sắc trời cũng không còn sớm sủa gì, bèn gọi Hồng Đô và Nguyên Phương cùng dắt bò đi tìm Trần Dũng xem xem làm gì mà lâu đến thế.

Trương Mặc Sênh thu lại gian hàng, láu táu chạy theo sau, xoa tay:

“Tiên sinh. Có thể bật mí món ban nãy rốt cuộc là thịt gì không? Chế biến thế nào?”

“Chuyện này à? Không tiện nói...”

“Tiên sinh không có vẻ là người ở Quảng Lăng, không biết định đi đến đâu?”

...

Ba người một con bò, bây giờ có thêm một cậu Tiểu Thực Thần làm cái đuôi, nhìn ngang ngó dọc mãi rốt cuộc cũng thấy Trần Dũng. Cậu lính bị bốn năm tên chặn lại, mặt mũi đã sưng tấy, máu chảy đầm đìa.

Một tên thanh niên trông có vẻ như là kẻ cầm đầu nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống, nói:

“Một tên lính quèn cũng dám chống lại bản thiếu gia? Người đâu. Đánh gãy hai tay hai chân của hắn cho ta.”

“Tiểu tử. Lần sau gặp Diệp công tử nhớ biết điều nghe không?”

Trong số bốn năm tên hầu cận, một gã cường tráng đô con bẻ ngón tay, lắc cổ lên kêu “cạch cạch”, nói.

Lại có một tên cao người, đầu hói, vẻ mặt bỉ ổi hèn mọn lên tiếng:

“Công tử, tay gãy sẽ liền, nhưng nếu chỗ đó bị đánh vỡ, chắc chắn nhớ mãi không quên.”

Diệp công tử cười phá lên, nói:

“Bạch yêm nhân, không ngờ ngươi âm độc đến thế. Nhưng... bản thiếu thích. Các ngươi cho hắn nếm Đoạn Tử Tuyệt Tôn cước, tránh để sau này hắn không mở mắt chó ra nhìn cho rõ bản thiếu gia là ai.”

“Trần Dũng!”

Nguyên Phương hét lên một tiếng.

“Có đồng bọn? Vậy chỉ trách các ngươi xui xẻo. Người đâu, đánh cả bọn chúng luôn.”

Diệp công tử nhìn thấy nhóm Đông Thanh, lập tức giống như thấy được con mồi, cười phá lên.

Nguyễn Đông Thanh nhìn mấy tên vô lại đằng trước, lắc đầu:

“Giữa ban ngày ban mặt lại làm cái chuyện vô lại đến thế, nơi này chẳng lẽ không có luật pháp hay sao?”

Đám vô lại của Diệp công tử nghe xong, càng cười tợn hơn, tiếng cười vừa the thé vừa khả ố. Mấy tên này đều chê Đông Thanh là cái loại đồ gàn, thư si, đọc sách đến váng đầu không hiểu sự đời. Nhất là tên Diệp công tử càng được thể hống hách, nói:

“Bạch yêm nhân, nói cho tên ngu xuẩn này biết bản thiếu gia là ai.”

Kẻ gọi là Bạch “yêm nhân” này cười khành khạch, nói:

“Nghe cho kỹ đây, vị Diệp công tử này chính là con trai của Diệp Lan Diệp tướng quân, trong tay thống lĩnh ba ngàn thành vệ quân. Trị an thành Quảng Lăng này đều do một câu của Diệp đại nhân, luật với chả pháp là cái thá gì?”

Trương Mặc Sênh cười nhạt, nói:

“Đại Hoàng này từ lúc nào đổi từ họ Liễu thành họ Diệp, sao ta lại không biết?”

Cậu ta vừa nói dứt câu, tên họ Diệp lập tức tái mặt, lại nói:

“Mấy tên tiện dân các ngươi chẳng nhẽ còn nghĩ cáo trạng bản công tử? Trời cao hoàng đế xa, để ta xem các ngươi ngồi trong thiên lao thì gào cách nào mới tới tai hoàng thượng!”

Gã vừa dứt lời, thì đám thuộc hạ đã lừ lừ sấn tới muốn đánh bốn người. Trông vẻ nanh ác trên mặt thì rõ ràng, chúng đã làm chuyện này nhiều lần, đến nỗi vừa nghe hiệu lệnh là thực hiện ngay, phân công đứa bao vây đứa chặn đầu đâu vào đấy không cần nhìn nhau lấy một cái.

Trương Mặc Sênh cười, nói:

“Tiên sinh, tiểu tử ta giải quyết cái đám này thay ngài, ngài tiết lộ nguyên liệu của món ban nãy cho ta được không?”

“Chuyện này...”

“Được! Cứ như vậy đi. Một lời đã định. Đừng có thất hứa!”

Trương Mặc Sênh xổ luôn một tràng, sau đó thản nhiên bước tới một bước, nói:

“Bình thường đám vô lại các ngươi hẳn là khi nam bá nữ đã quen, để hôm nay bản công tử cho các người biết thế nào lá vị đắng cuộc đời.”

“Nhãi ranh không tự lượng sức, xem một quyền của đại gia!”

Tên to con ban nãy là kẻ l* m*ng, không nói đến câu thứ hai đã xồ tới, tung nắm đấm về phía Trương Mặc Sênh. Nắm tay hắn hiện lên một hình đầu hổ đang há miệng, tiếng xé gió ẩn ẩn hóa thành tiếng hổ gầm, dường như là một loại thần thông cấp thấp nào đó.

Boong!

Sau đó...

Tên đô con ôm bàn tay đã gãy xiên gãy vẹo cả năm ngón, hổ khẩu sưng tấy như đít khỉ của mình mà nước mắt lã chã rơi xuống. Đối diện với hắn, Trương Mặc Sênh từ từ xoay cái chảo đen thui to bằng nửa người cậu ta trong tay, cười:

“Một tên tam cảnh cỏn con cũng hống hách ta đây?”

Nguyễn Đông Thanh thấy cái chảo trên tay cậu ta mỏng dính, đen trùi trũi như than, thế nhưng dường như nặng nề rắn chắc vô cùng. Trương Mặc Sênh chỉ giộng chảo xuống đất một cái, mà mép chảo đã đánh ra một cái rãnh sâu độ nửa đốt tay.

Diệp công tử giơ tay, quát:

“Các ngươi cùng lên, chớ có nương tay, cái chảo của thằng nhãi đó có vấn đề!”
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 56: Chảo Gang Phang Vô Lại, Nồi Chõ Gõ Lưu Manh


Đám vô lại dưới trướng Diệp công tử hô hoán kêu lên một tiếng, sau đó đồng thời lấy ra khí giới, lăm le xồ tới muốn đánh Trương Mặc Sênh.

Những tên này dù sao cũng là gia thần của tướng quân thống lĩnh thành vệ quân, tu vi đều là đệ nhị cảnh, đệ tam cảnh. Khí giới trong tay cũng không phải vật bình thường, mà là loại Xích Thiết đao chuyên trang bị cho quân đội.

Thân đao dài ba thước, đúc từ một loại sắt đỏ quý hiếm gọi là Xích Thiết, cũng gọi là Huyết Thiết. Loại kỳ kim này chẳng những dẻo dai cứng chắc, khó gỉ lâu mòn, quan trọng nhất là có công dụng phá khí.

Vũ khí đúc từ Xích Thiết có thể ngó lơ phòng ngự chân khí của bất kỳ kẻ nào dưới đệ ngũ cảnh. Cho dù là cường giả đã tiến vào Vụ Hải, bị Xích Thiết đao chém trúng thì chân khí cũng phải hỗn loạn. Từ đó, tạo thành công dụng lấy yếu thắng mạnh của vũ khí đúc từ Xích Thiết.

Từ đó, hoàng thất các nước cũng hiệp đồng ban lệnh cấm, biến vũ khí làm từ loại sắt quý này trở thành trang bị đặc hữu của quân chính quy.

Mà cái đám thủ hạ của Diệp công tử chính là cậy vào mấy thanh Xích Thiết đao này mà hoành hành bá đạo ở Quảng Lăng, không có bao nhiêu người dám quản.

Trương Mặc Sênh thấy binh khí của chúng, lại không hề nao núng, giống như đã sớm liệu trước đối thủ sẽ có vũ khí Xích Thiết.

Bạch yêm nhân hét lên, vung đao quá đầu xông tới, nhè đỉnh đầu Trương Mặc Sênh mà bổ một nhát. Tiểu Thực Thần bình tĩnh lui lại nửa bước, nghiêng người né đi nhát đao của gã. Nói đoạn, sử dụng cái chảo gang như một tấm thuẫn, cậu ta bèn lấy lực vai tông cả cái đáy chảo về phía đối thủ.

Bành.

Bạch yêm nhân váng đầu nổ đom đóm mắt, lui về sau liên tiếp mười mấy bước, cánh tay hứng một đòn của Trương Mặc Sênh buông thõng, xem ra không trật khớp cũng rạn xương.

Lại có một tên từ đằng sau nhảy vào, muốn thừa cơ đánh lén Tiểu Thực Thần. Lúc này, cậu ta quay ngoắt mình, lẳng cái chảo đi như người ta phi một cái đĩa. Cái chảo nặng nề bây giờ quay tròn tít mù, tiếng rít gió nghe rợn cả người.

Tên kia không dám đối cứng, vội vàng làm một chiêu cá quả săn mồi, ì ạch lăn một vòng, tránh khỏi một chiêu. Cái chảo gang vẫn chưa hết thế đi, nhẹ nhàng phạt gãy bảy tám cái cây to mới chịu dừng lại.

“Mẹ nó! Đội trưởng Hoa Kỳ bản dị giới à?”

Nguyễn Đông Thanh đang đứng một bên xem, trông thấy chiêu này của Trương Mặc Sênh, không né nổi văng một câu.

Bấy giờ, có vẻ đám vô lại cũng thấy Tiểu Thực Thần lợi hại, bèn quay sang nhắm vào mấy người Nguyễn Đông Thanh. Chỉ thấy tên duy nhất còn chưa ăn đòn lắc mình chạy về phía mấy người Bích Mặc tiên sinh, quát:

“Thằng nhóc kia đứng yên đó, không ta giết bọn hắn!”

Trương Mặc Sênh bĩu môi, chỉ thấy cậu ta hụp người một cái đã đến trước mặt tên định đánh lén. Tên này thấy Tiểu Thực Thần tay không cầm chảo, lòng can đảm tăng mạnh, nghiến răng bổ một đao về phía Trương Mặc Sênh:

“Chết đi!”

Bấy giờ, Tiểu Thực Thần từ nhẫn chứa đồ lấy ra một cái nồi, một cái xẻng xào.

Cả hai đều làm bằng gang đen, chất liệu không khác gì cái chảo rán ban nãy. Đứng cách một quãng cũng có thể cảm thấy được độ nặng của mấy thứ vật dụng trong nhà bếp này. Chỉ thấy Trương Mặc Sênh rờ chôn nồi, kéo ra một cái nắp, đoạn cắm chuôi cái xẻng xào cơm vào vặn ngang nửa vòng.

Lập tức, hai vật liền lại thành một.

Xẻng xào cơm làm chuôi, nồi làm thân, vậy mà trở thành một cái chùy gang to cỡ quả mít. Trương Mặc Sênh vung chùy, giáng mạnh một cái vào chính giữa ngực tên đánh lén.

Mọi chuyện nói ra thì chậm, song diễn ra rất nhanh. Tên kia còn chưa kịp hiểu mô với tê gì thì đã thấy Tiểu Thực Thần tay cầm nguyên quả chùy táng thẳng một phát vào giữa ngực mình. Lập tức, lồng ngực hắn lõm xuống hẳn một đoạn, xương sườn gãy nghe từng tiếng răng rắc cất lên rợn cả người. Cả bảy lỗ trên mặt người này trào ra máu tươi, thân mình bắn vọt về phía sau như một viên đạn pháo, sau đó nằm bất động.

Trương Mặc Sênh nâng cái chùy nồi quái lạ gác lên vai, vừa mới quay sang, thì đã thấy tên Diệp công tử rút một thanh kiếm dài ra kề ngay cổ Trần Dũng, quát:

“Không muốn hắn chết thì các ngươi đứng yên đó!”

Mắt hắn trợn lên long sòng sọc, cố ưỡn ngực ngẩng đầu lên cho bản thân trông có vẻ cao lớn, song đôi chân đang run như cầy sấy đã bán đứng hắn. Trương Mặc Sênh nhíu mày, hạ quả chùy xuống.

Diệp công tử trông thấy cậu ta thỏa hiệp, thoáng cái lòng can đảm càng tăng, nói:

“Các ngươi phế tu vi, bằng không chỉ có thể nhặt xác của hắn.”

“Phế tu vi? Ngươi tưởng bọn ta ngu lắm chắc? Phế tu vi còn không phải tất cả bọn ta đều thành mấy cái xác sao?”

Trương Mặc Sênh nghiến răng.

Diệp công tử cười lạnh:

“Các ngươi có lựa chọn sao? Nếu không biết điều... A!!!”

Câu đe dọa mới nói được một nửa, Diệp công tử đã rú lên đau đớn. Đường đường là công tử đích tôn nhà thành vệ tướng quân, hắn xưa nay cơ hồ ăn có người hầu, mặc có kẻ hạ, cho dù là trưởng bối trong nhà cũng chẳng lớn tiếng với hắn bao giờ.

Lúc này...

Một cánh tay cầm kiếm của hắn đứt lìa.

Không một tiếng động, cũng không một có lấy một giọt máu nào vẩy ra. Chỉ đến khi thanh kiếm Xích Thiết rơi xuống đất kêu đánh “keng” một cái, sự đau đớn như thủy triều mới dồn thẳng vào đầu Diệp công tử. Bấy giờ, trên mặt hắn lã chã không biết bao nhiêu nước mắt nước mũi, ngũ quan nhăn nhó éo từng giọt lệ lẫn với mồ hôi văng tứ tung, nào còn có cái vẻ hống hách ban nãy nữa?

Hồng Đô lừ lừ quay sang chỗ gã, nói:

“Không phải muốn đánh gãy hai tay hai chân chúng ta sao? Vẫn còn một tay hai chân nữa.”

“Không! Đừng qua đây!”

Diệp công tử vốn là sợ hãi đến phát khóc, lúc này trong đầu lại chợt hiện lên một tia linh quang. Hắn hấp tấp lấy trong áo ra một tấm ngọc bài, vội vàng bóp nát.

Bấy giờ, Hồng Đô đã đến trước mặt hắn, tay đưa tới, chuẩn bị tháo rời chân tay của Diệp công tử.

Diệp công tử nghiến răng:

“Các ngươi chết chắc rồi. Cha ta chính là cường giả đã vào Vụ Hải. Bây giờ đến đây, ắt sẽ giết hết các người.”

Hồng Đô cười lạnh, thả tu vi ra.

Nụ cười ác độc trên mặt Diệp công tử cũng theo đó lập tức cứng đờ.

“Ngươi... ngươi cũng đã vào Vụ Hải?”

Khí tức áp bách tột độ, lại không cách nào nhìn ra cảnh giới chân thực, trên đời này chỉ có một loại người: Vụ Hải cường giả.

Diệp công tử sợ tè ra quần.

Hắn là con trai của người đã vào Vụ Hải, đương nhiên là biết chênh lệch giữa đệ ngũ cảnh và Vụ Hải lớn đến mức nào.

Chưa vào Vụ Hải... không tính cường giả.

Cho dù là hai thiên kiêu được thiên hạ công nhận là đứng đầu đương thời: Kiều Minh Long, Lý Thanh Minh, thì cho dù dùng tu vi ngũ cảnh đỉnh cao cũng không thể thắng được cường giả mới vào Vụ Hải. Cùng lắm... là có thể đánh ngang tay.

Hai người này đã từng dùng tu vi đệ tam cảnh vượt hai cấp đánh chết cường giả đệ ngũ cảnh, thiên phú vạn năm không có một.

Hồng Đô đã là người tiến vào Vụ Hải, chỉ di một ngón tay cũng có thể g**t ch*t Diệp công tử. Cho dù cha hắn có dùng hết toàn lực đuổi tới, sợ rằng cũng chỉ có thể nhặt xác cho hắn.

Thế nhưng... Hồng Đô cứ thản nhiên đứng chờ. Cô nàng chẳng buồn ra tay, cũng không thèm ngó ngàng gì đến Diệp công tử.

Gã biết... đối phương đang cố tình chờ cha hắn đến.

Diệp công tử mừng như mở cờ trong bụng.

Không cần biết rốt cuộc đối phương có ý đồ gì, chỉ cần cha hắn đến là được. Cha hắn đến, Diệp công tử mới có một cửa sống. Nếu như không, chỉ có con đường chết mà thôi.

Hắn cũng không ngờ mình ra ngoài chỉ nhắm vào một tên lính quèn tu vi nhất cảnh, còn chẳng bằng sâu kiến, thế mà lại đá phải cái miếng sắt to tổ bố thế này.

Diệp công tử nghĩ đến đây, trên trời đã có tiếng quát:

“Dừng tay!”

“Cha! Cha! Mau cứu ta!”

Diệp công tử nghe tiếng quát quen thuộc, giống như gặp được cứu tinh, nghển cổ gào khóc.

Thủ thành tướng quân Diệp Tiến Đạt (1) vội vàng hạ xuống, che chắn Diệp công tử sau lưng mình. Hắn nhướn đôi mày sâu róm, hai cái ria mép cong cớn theo khóe môi hắn bĩu lên mà giật giật mấy cái.

(1: Cho ai không hiểu thì Diệp Lan là tên húy, Tiến Đạt là tên chữ)

“Đám tiện dân các ngươi giữa thanh thiên bạch nhật lại dám hành hung ẩu đả, đánh chết một người, quả thực là phát rồ. Biết điều thì tự lăn vào đại lao, đừng để bản tướng quân phải động thủ.”

Nói đoạn, lại nhìn thằng con và đám hồ bằng cẩu hữu của nó, mặt không đổi sắc nói:

“Thành vệ quân thiếu chủ Diệp Hồng Trần liều mạnh ngăn trở, bị chém một tay, cũng là phòng vệ chính đáng, thiên kinh địa nghĩa. Chư vị thiếu hiệp trợ giúp có công, chiếu lý nên thưởng.”

Nguyễn Đông Thanh cũng đã được Nguyên Phương nói cho biết tên trung niên trước mặt chính là tướng quân thống lĩnh quân thủ thành. Bây giờ nghe lão trợn mắt lên nói dối, giữa ban ngày ban mặt đổi trắng thay đen như vậy, không khỏi lắc đầu cười khổ.

“Có cẩu quan như vậy, khó trách người của Huyền Hoàng giới thích làm quan tòa như thế.”

Không phải gã chưa nghe câu “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”, thế nhưng dù sao cũng là đọc ở trong sách, một người lớn lên ở xã hội pháp trị từ bé đến lớn như gã khó mà tưởng tượng ra được những chuyện oan khuất tày đình này.

Không dám nói là không còn án oan, không có mặt tối, nhưng so với những gì đang lù lù hiện lên trước mặt Nguyễn Đông Thanh thì đã tốt hơn nhiều.

Gã thầm thấy may mắn thời gian qua sống ở ải Quan Lâm, gặp được vị quan tốt hiếm thấy như Vũ Tùng Lâm.

Hồng Đô cười:

“Hay cho một chiêu ngậm máu phun người. Có lẽ Diệp tướng quân đây tự cho mình là hoàng đế Đại Hoàng rồi cũng nên.”

“Bản tướng quân đương nhiên không thể dùng một lời nói quyết định thiên hạ thương sinh như bệ hạ. Thế nhưng ban cái chết cho một đám sâu kiến như các ngươi thì dư xài.”

Diệp Tiến Đạt vừa nói, lại cong bàn tay, ngưng tụ chân khí.

Gã nhìn về phía Hồng Đô, đôi mắt hiện lên vẻ tàn độc, nhẹ giọng hỏi:

“Xem ra các người rượu mời không muốn, nhất quyét phải uống rượu phạt rồi.”

Hồng Đô cười:

“Rượu mời hay phạt thì ngươi cũng chả có tư cách bắt bọn ta uống.”

“Phải không?”

Diệp Tiến Đạt tung đòn, tu vi thả ra, chân khí thổi quét cơ hồ đã hóa thành một cơn gió lốc. Một chưởng này đánh ra, kình phong cuồn cuộn thổi quét, một góc quảng trường lát đá cơ hồ cũng bị dư âm đánh cho phải sập xuống một đoạn cỡ mấy phân.

Hồng Đô vung bàn tay, tống một đòn vào chưởng tâm của đối thủ.

Ầm!

Diệp Tiến Đạt chỉ kêu “oái” một cái, loạng choạng lui về sau liên tiếp mười mấy bước. Mỗi bước chân của hắn lại dẫm ra một vết dài sâu độ non nửa đốt tay. Đối diện với gã, Hồng Đô thì vẫn đứng sừng sững như một bức tượng đá.

“Ngươi... vị đạo hữu này té ra cũng là người đã vào Vụ Hải. Khục. Chuyện hôm nay xem ra là một hiểu nhầm, bản tướng thay khuyển tử bồi tội với chư vị. Sau này nhất định sẽ về quản giáo nó thật nghiêm.”

“Không phải nói chúng ta là hung phạm, cần phải bắt vào đại lao, nghiêm trị hay sao?”

Hồng Đô cười, hỏi vặn.

Diệp Tiến Đạt ngẩng đầu, huýt sáo:

“Có sao? Ài. Xem ra là bản tướng quân già. Trí nhớ không được tốt lắm. Có câu chuyện vui thì nhớ chuyện buồn quên đi là vậy đó mà.”

Hồng Đô được thế không chịu bỏ qua, bước lên thêm một bước, nói:

“Thằng ranh kia nói bắt buộc phải phế bỏ hai tay hai chân của bọn ta. Cường giả đã vào Vụ Hải không thể nhục, không cho tên khốn kia một bài học há lại có chuyện bỏ qua dễ dàng như vậy?”

“Hừ! Bản tướng quân kính các hạ cũng là cường giả Vụ Hải mới muốn lui một bước, chẳng nhẽ ngươi lại nghĩ bản tướng sợ ngươi không bằng? Con của Diệp Tiến Đạt ta còn chưa đến lượt kẻ khác chỉ chỏ!”

Nói đoạn, chỉ thấy gã móc từ trong nhẫn chứa đồ ra một tấm hổ phù, dường như chuẩn bị điều động thành vệ quân.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 57: Mời Hoàng Đế Đi Vi Hành


Chưa đến nửa khắc, thành vệ quân của Đại Hoàng đã bao vây đám người Nguyễn Đông Thanh. Toàn quân ai nấy đều mặc trọng giáp, trong tay lăm le khí giới.

Nguyễn Đông Thanh chứng kiến một màn này thì trợn tròn mắt, miệng lẩm bẩm:

“Khiếp thật! Tốc độ phản ứng này nhanh bằng cảnh sát cơ động chứ chẳng đùa!”

Diệp Tiến Đạt thấy thành vệ quân đã đến đông đủ thì lập tức lui về trốn phía sau quân lính, đoạn quát lớn:

“Mau bắt đám này lại cho bản tướng!”

Ngay lúc thành về quân chuẩn bị tiến lên, con bò của Nguyễn Đông Thanh chớp chớp mắt như tỉnh lại sau cơn mê, đoạn lại truyền âm cho Hồng Đô gì đó.

Chỉ thấy Hồng Đô gật nhẹ đầu, đoạn phất tay một cái, cả đội quân gần trăm người đang vây quanh Nguyễn Đông Thanh liền đồng loạt phun máu, rồi ngã ngồi ra đất, không đứng lên nổi.

Nguyễn Đông Thanh thì chả biết tí gì về tu luyện mà cũng chẳng thèm bỏ công sức đi tìm hiểu. Cái gì mà Vụ Hải với không Vụ Hải, đối với một tên người phàm như hắn, tu luyện giả cấp nào thì chả giết hắn dễ như trở bàn tay? Hắn lúc này chỉ trầm trồ thầm khen Hồng Vân trong lòng. Quả nhiên con mèo máy được cô hàng xóm tặng này làm hộ vệ rất được! Có Hồng Đô bảo kê rồi, gã thỉnh thoảng cũng có thể ra ngoài du sơn ngoạn thủy, chứ không cần ru rú ở nhà quanh năm suốt tháng không dám đi đâu nữa.

Diệp Tiến Đạt thì không khá hơn đám binh lính là bao, lão ta lúc này đang bị một áp lực nặng đến không tưởng đè lên mình. Tuy không đến nỗi phun máu như đám lính nhưng cũng khuỵu một gối xuống, không nhúc nhích nổi. từ ngày bước chân vào Vụ Hải, phải nói đây là lần đầu tiên lão gặp phải địch mạnh đến mức này.

Lão ta tuy là hạng vô lại, nhưng tuyệt không phải kẻ ngu ngốc. Hiển nhiên, lão đã nhận ra nếu Hồng Đô thực có bản lĩnh này thì ban nãy cũng chẳng cần ngạnh kháng thế công của mình. Chiêu trò mới rồi là để che mắt thiên hạ, cho kẻ khác ngấm ngầm ra tay mà thôi.

Sau khi đảo mắt một lượt hiện trường, Diệp Lan cuối cùng cũng nhận ra vị đại yêu đang quắc mắt lườm lão.

Thế nhưng lão ta còn chưa kịp ú ớ gì thì năm cái bóng đã hạ xuống đất giữa lão và mấy người Nguyễn Đông Thanh.

Năm người này nom đều là trung niên, người đứng giữa bận một bộ long bào, có thêu hình rồng bằng chỉ đỏ, bốn người còn lại lần lượt mặc áo bào các màu trắng, lam, tím, cam, có thêu hình mãng bằng chỉ vàng. Ở Huyền Hoàng giới, thường thì chỉ vàng được dành riêng để thêu trên long bào của hoàng đế các nước. Duy chỉ có tại Đại Hoàng, do có quặng Xích Thiết lớn mà màu đỏ được coi là quý phái hơn màu vàng, cũng là màu dành riêng để thêu trên long bào của vua nước Hoàng.

Nhác thấy năm người này, Diệp Tiến Đạt vội quỳ xuống:

“Mạt tướng tham kiến Bệ hạ, tham kiến bốn vị vương gia!”

Đoạn lại nhìn về phía đám người Nguyễn Đông Thanh:

“Bẩm Bệ hạ cùng các vị vương gia, mấy kẻ này đến đây gây rối,…”

Gã còn chưa nói hết câu thì liền đã bị nam tử áo lam cho một cái bạt tai:

“Câm mồm!”

oOo

Trở về thời điểm gần hai khắc thời gian trước đó…

Lúc bấy giờ Diệp Tiến Đạt mới chỉ vừa nhận được tin con trai lão gặp nạn, còn đang trên đường chạy ra, thì tại Quảng Lăng cung của nước Hoàng, hoàng đế và bốn vị vương gia đang hội bàn chính sự.

Thành Quảng Lăng xây trên núi cao, chia thành năm quận lớn nhỏ. Thể chế chính trị nơi đây gồm bốn vương gia và một hoàng đế, mỗi vương gia có đất phong riêng, được trực tiếp quản hạt một quận trong kinh thành, hoàng đế vừa quản lý quận của mình, vừa quản lý bốn vị vương gia.

Sở dĩ tiên tổ nước Hoàng đặt ra quy định này, cơ hồ biến bốn vị thân vương trở thành con tin ở đế đô, là để dễ bề quản lý, không cho sinh lòng phản loạn. Cho dù thế lực dưới quyền bọn họ ở đất phong có dấy binh, thì cùng phải bó tay bó chân, ném chuột sợ vỡ bình.

Huyền Hoàng giới lấy thực lực vi tôn, nên cả năm vị ngồi đây đều là cường giả đã tiến nhập Vụ Hải. Bốn vị vương gia khi đó còn đang tranh cãi gì đó thì bỗng dưng cứng người, lão hoàng đế cũng chợt giật nảy mình. Cả năm người lúc này phát hiện, trong phòng không biết từ bao giờ đã có thêm người thứ sáu.

Kẻ mới tới là một người đàn ông bận một bộ quần áo màu vàng, phong cách con nhà võ, hai cổ tay có đeo hộ thủ. Chỉ nguyên việc y có thể tới đây mà thần không biết, quỷ không hay đã đủ khiến lông tóc trên người năm kẻ bọn họ dựng hết lên rồi.

Người đàn ông áo vàng quắc mắt nhìn hoàng đế nước Hoàng cùng bốn vị vương gia một lượt, rồi thả tu vi ra.

Nếu mới rồi năm người họ chỉ cảnh giác y, thì bây giờ đã có phần sợ sệt. Áp lực họ cảm nhận được nói cho họ biết, cho dù năm người họ có liên thủ, cũng chưa chắc đã là đối thủ của người trước mặt.

Thế nhưng họ còn chưa kịp phản ứng gì thêm thì y liền thu tu vi lại. Lực ép trên năm người biến mất, họ thở phào một hơi, mới phát hiện lưng áo đã ướt sũng.

Lão hoàng đế là người khôi phục nhanh nhất, liền lên tiếng:

“Không biết tiền bối hôm nay đến Hoàng quốc ta có gì chỉ bảo?”

Người đàn ông áo vàng mở miệng, không nhanh không chậm nói:

“Bản tọa chỉ là muốn mời năm người các ngươi đi vi hành một chuyến, quan sát tình hình trị an của chính đất nước các người thôi.”

Lời thì nói là “mời”, nhưng giọng y lại nói rõ cho năm người biết, nếu dám trái ý y, thì hậu quả họ phải gánh sẽ không nhỏ. Rồi, cũng chẳng đợi năm người họ suy nghĩ, y phất tay một cái, cả sáu người đã xuất hiện ở ngoài cung, lại đang đằng vân về hướng Quận Thủy.

Chớp mắt một cái, sáu người xuất hiện ở chỗ Nguyễn Đông Thanh từ lúc Diệp Tiến Đạt còn chưa chạy ra tới nơi. Thế nhưng người đàn ông áo vàng chỉ đứng đó không nói năng gì nên lão hoàng đế cùng bốn vị vương gia cũng chỉ biết lặng im đứng cạnh.

Sáu người họ mắt thấy tai nghe toàn bộ chuyện xảy ra phía dưới, thẳng đến khi Diệp Tiến Đạt chuẩn bị điều động binh mã, người đàn ông áo vàng mới mở miệng nói:

“Nhớ cho kỹ, chủ nhân của ta chỉ là một phàm nhân. Mà ta cũng chỉ là một con bò già, không làm được gì ngoài kéo xe. Các ngươi tự xử lý cho tốt, nếu chủ nhân ta chỉ cần có một chút phật ý, thì bản tọa cũng không ngại cho toàn bộ trên dưới Quảng Lăng thành các người biết thế nào là ‘quân lâm thiên hạ’!”

Dứt lời thì lắc mình một cái biến mất. Lão hoàng đế nước Hoàng cùng bốn vị vương gia định thần nhìn xuống dưới, vừa kịp nhìn thấy một màn quắc mắt khiến toàn quân phun máu ngã nhoài, lại dùng thần thức cảm nhận thử thì quả nhiên con bò vàng nhìn như vô hại dưới kia chính là vị tiền bối ban nãy không sai đi đâu được.

Lưng áo năm người họ lúc này mồ hôi đã tuôn ra như tắm. Tên thống lĩnh thành vệ quân họ chọn rốt cuộc hôm nay đã chọc ra cái họa gì thế này?!

Kỳ thực, cũng do thể chế chính trị nước Hoàng mà thống lĩnh thành vệ binh có binh quyền rất lớn, là kẻ duy nhất ngoại trừ hoàng đế có thể tự do đi lại giữa năm quận ở Quảng Lăng.

Cũng chính vì lý do này mà năm kẻ cầm đầu quốc gia cố tình chọn một tên không có đầu óc chính trị, chỉ biết “chỉ đâu đánh đó”. Có như vậy y mới không làm phản, cũng không nghiêng hẳn về phe vương gia nào trong bốn người.

Bình thường cũng không phải họ không biết các hành động đàn dân áp chúng của Diệp Tiến Đạt và con trai lão, nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng trách móc vài câu, còn vẫn mắt nhắm mắt mở cho qua. Thế nhưng, giờ thì tốt rồi, y chọc ai không chọc, đi chọc ngay một đại yêu có khả năng diệt Hoàng quốc!

Năm người cũng không dám chậm trễ thêm, sợ tên đần này gây thêm họa, vội vàng đáp xuống mặt đất.

oOo

Diệp Tiến Đạt bị Thủy Vương tát đến nổ đom đóm mắt, chưa hiểu mô tê gì lại nghe y quát:

“Tên súc sinh này! Lâu nay Bệ hạ cùng bản Vương tin tưởng ngươi nên mới giao cho người quyền trị an thành. Nhưng đây là cách ngươi trị an sao? Đàn dân áp chúng, hãm hại người lành, còn coi vương pháp ra gì hay không?”

Nói xong, liền cũng không thèm để ý hình tượng, bồi cho Diệp Tiến Đạt một đã vào bụng, hiển nhiên là muốn lão ta đau mà không lên tiếng được.

Lão hoàng đế cũng rất phối hợp, quát:

“Bay đâu? Mau phế tu vi, bắt trói cha con Diệp Lan lại, tống vào ngục chờ xét xử!”

Diệp công tử ban nãy bị khí thế của còn bò vàng dọa cho nằm xụi lơ, bất tỉnh, giờ hơi tỉnh lại, nghe thấy lời này, lại ngất lịm đi. Về phần cha hắn, Diệp Tiến Đạt, khi lão nghe mệnh lệnh của hoàng đế Đại Hoàng, cuối cùng não cũng bắt kịp tình hình.

Vốn khi con bò vàng của Nguyễn Đông Thanh hiển lộ tu vi, lão ta cũng đã nhận ra mình đá phải cục sắt rồi. Thế nhưng, khi vua nước Hoàng cùng bốn vị vương gia hạ xuống, lão vẫn ôm hy vọng họ có thể cứu lão một mạng. Và rồi, phản ứng dứt khoát của lão hoàng đế cũng như Thủy Vương, cùng ánh mắt của ba vị vương gia còn lại như muốn nói, “tự làm tự chịu” cho lão biết, đại yêu kia là một tồn tại chính năm người bọn họ cũng không dám chọc vào… Thế mà Diệp Lan lão ta lại làm vậy.

Như thấy được viễn cảnh máu chảy đầu rơi của bản thân không còn xa, lão ta liền rơi vào tuyệt vọng, vội rối rít:

“Bệ ha, mạt tướng… không, tội thần sai rồi, mong bệ hạ tha mạng!”

Thế nhưng mặc cho lão ta gào thét thế nào thì lão hoàng đế cùng bốn vương gia cũng không ngoái đầu lại, mà lão ta cũng bị binh lính kéo đi xa dần.

oOo

Lão hoàng đế nước Hoàng cùng bốn vị vương gia nhìn Nguyễn Đông Thanh bằng ánh mắt trân trối, thực sự không biết hành xử ra sao cho phải. Họ vốn định dùng lễ mà kính y, nhưng lại nghe được vị đại yêu kia truyền âm:

“Nhắc lại một lần nữa, phải đối xử với chủ nhân ta như một người phàm bình thường, nếu không cũng đừng trách bản tọa không giữ đạo làm khách!”

Đùa à? Nãy giờ là ngài đang giữ đạo làm khách??? Mà khoan, đây không phải là trọng điểm! Trọng điểm ở đây là, nếu như người trước mặt là một người phàm bình thường, liệu có thể gọi được năm người họ từ trong cung ra tận đây không? Nếu là một người phàm bình thường, liệu bọn họ có không tiếc mất đi một tên tướng quân đã vào vụ hải chỉ để lấy lòng không? Ngài đưa ra yêu cầu như thế này là muốn chúng tôi phải làm sao???

“Ngưu đại gia!” Lão hoàng đế truyền âm lại.

“Bản tọa gọi Lý Trầm Châu.”

“…”

“Lý tiền bối, xin ngài đừng làm khó chúng tôi!”
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 58: Trà Dư Tửu Hậu, Xuân Tuyết Nhu Nhu


Nguyễn Đông Thanh thấy năm người trước ăn mặc quý phái, không vua cũng chúa, bèn cúi đầu, chắp tay hành lễ:

“Thảo dân Đông Thanh xin cảm tạ thánh thượng và các vị vương gia đã chủ trì chính nghĩa, trả lại trong sạch cho chúng ta.”

“Chuyện nên làm, nên làm. Các hạ đến nước ta lại gặp phải loại chuyện này là do bọn ta tắc trách, bọn ta không bồi tội với các hạ đã là quá trọng mặt mũi rồi. Xin đừng đa lễ.”

Một vị hoàng thượng, bốn vị vương gia lúc này vội vàng lên tiếng, cũng ngăn không dám để vị “cao nhân” này quỳ xuống.

Nguyễn Đông Thanh tuy EQ thấp lè tè, song cũng nhìn ra được ngay năm người này hành xử cực kỳ khiên cưỡng. Trong ánh mắt kia là vẻ ái ngại dè chừng chứ chẳng phải sự áy náy. Gã nhìn sang Hồng Đô, lắc đầu.

Xem ra, năm người này hẳn là sợ hãi trước thực lực của cô nàng nên mới tỏ ra khách sáo như thế, cũng dứt khoát lấy Diệp tướng quân kia làm con dê tế thần.

Nếu như Nguyễn Đông Thanh đi một mình...

Chỉ sợ người đang bị lôi đi tống vào đại lao chính là hắn.

Nguyễn Đông Thanh lắc đầu, thầm nhủ năm người này đã sợ Hồng Đô đến thế, hắn ở lại cũng chẳng được hoan nghênh. Thế là, gã bèn lên tiếng:

“Dù sao cũng may mà có thánh thượng, các vị vương gia đã ra mặt. Tại hạ còn có chút chuyện công trên người, không tiện quấy rầy thêm nữa, xin mạn phép đi trước.”

“Vậy được. Bay đâu. Chữa trị cho người này một phen, sau đó tiễn bọn họ đến truyền tống môn.”

Quả đúng như Đông Thanh đoán, năm người này vừa nghe thấy hắn muốn bỏ đi tức thì mừng húm như tiễn được vong, vội vội vàng vàng cho người tiễn hắn ra tới tận cổng truyền tống. Phiên truyền tống mà Đông Thanh bỏ lỡ do vô tình gặp phải hai cha con họ Diệp cũng nhanh chóng được giải quyết ổn thỏa đâu vào đấy cả.

Trần Dũng đã được băng bó chạy chữa cẩn thận, chỉ có điều không đứng được. Nguyễn Đông Thanh nhường chỗ phía sau xe cho cậu ta, chính mình thì trèo ra đằng trước ngồi sóng vai với Nguyên Phương.

“Tiên sinh. Tiên sinh. Chờ một chút đã. Ngài muốn đến Mỹ Vị sơn trang sao?”

Ngoài ra, bám theo còn có Trương Mặc Sênh.

Cái cậu Tiểu Thực Thần này quả thực dính còn chắc hơn cả sam, mặt lại dày, có đuổi cũng không chịu đi. Lúc này sau khi thấy điểm đến của bọn họ thì lại càng nhiệt tình hơn.

“Trùng hợp quá. Tiểu tử lớn lên ở đây, xem như là thổ địa. Tiên sinh để ta đi cùng đi, chắc chắn sẽ có ích.”

Nguyễn Đông Thanh nghe cũng thấy động tâm, bèn hỏi:

“Cậu không có chuyện gì cần làm sao?”

“Nói khó nghe một câu, chứ tiểu tử trừ chết ra thì làm quái gì có cái gì gọi là đại sự? Xem như tiên sinh đồng ý rồi nhé.”

Trương Mặc Sênh leo lên xe, đoạn lại bảo Nguyên Phương ra phía sau chăm sóc cho Trần Dũng. Đoàn người chuẩn bị xong xuôi đâu đấy, người phụ trách mới khởi động trận pháp, mở ra một cánh cửa không gian đủ cho cái xe bò đi qua.

Chớp mắt...

Nhóm của Đông Thanh đã được dịch chuyển đến một thành trấn không lớn không nhỏ. Bấy giờ trời cũng đã không còn sớm, cổng thành cũng đã đóng lại, phố xá đều đã chăng đèn kết hoa sáng rực lộng lẫy. Người trấn giữ trận pháp thấy nhóm Đông Thanh đến vào giờ này thì cũng lấy làm lạ, gọi lại tra hỏi một phen. Thế nhưng sau khi nhận ra Trương Mặc Sênh thì cũng không còn nghi ngờ gì, nói bọn họ có thể đi đâu tùy thích.

Thậm chí, y còn nhiệt tình chỉ đường đi nhà trọ cho nhóm Đông Thanh.

Trương Mặc Sênh đến đây tức thì như cá gặp nước, liến thoắng giới thiệu một phen.

“Tiên sinh, nơi này gọi là Tửu Hậu Trấn. Bây giờ tối trời nhìn không rõ,, nhưng phía nam thành có một tòa núi lớn, cách đây chừng vài dặm, chia làm năm đỉnh, gọi là Ngũ Vị sơn. Mỹ Vị sơn trang chính là nằm ở đó.”

Cậu chàng nói xong, lại chép miệng vẻ thòm thèm:

“Tiên sinh đến đây, Trương Mặc Sênh này cũng xem như là chủ nhà, để ta mời tiên sinh đi uống rượu một phen.”

“Thành tên là Tửu Hậu, chẳng nhẽ rượu mạnh lắm sao?”

Nguyễn Đông Thanh nhìn sang, hỏi. Kỳ thực hắn không ưa rượu, không thích say xỉn, nên cũng không chuộng những loại quá mạnh. Tên thành đã là “tửu hậu”, thì theo gã rượu ở đây chắc hẳn phải kinh khủng lắm.

Tiểu Thực Thần nghe thế, bèn cười xua tay:

“Tiên sinh hiểu nhầm, chữ hậu của thành này là không phải chữ hậu đó (1). Tên thành này thực ra lấy ý từ ‘trà dư tửu hậu’, lại dựng phía sau Ngũ Vị sơn, nên mới đặt như vậy.”

(1: ở đây là chữ đồng âm, một chữ “hậu” là dày, đặc; chữ “hậu” sau là phái sau.)

Nguyễn Đông Thanh cười:

“Trước tiên tìm chỗ trọ đã, đang có người bị thương thế kia mà.”

oOo

Trương Mặc Sênh quả nhiên rất thạo đường đi lối lại trong thành Tửu Hậu, chẳng mấy chốc đã dẫn cả đoàn đến một quán trọ trang nhã nằm cạnh một cái hồ lớn, ven hồ trồng đầy những cây trà. Sau khi có phòng nghỉ ngơi, bò già đã vào chuồng, hai người Nguyên Phương Trần Dũng nói muốn ở trong phòng nghỉ ngơi.

Về phần Hồng Đô, cô nàng được giao nhiệm vụ bảo vệ Bích Mặc tiên sinh. Bây giờ Nguyễn Đông Thanh đi theo Trương Mặc Sênh ra ngoài hóng gió, cô nàng đương nhiên cũng sẽ phải đi cùng.

Tiểu Thực Thần chỉ cái hồ, nói:

“Đã có ‘tửu hậu’, cái hồ này chính là Trà Dư đây. Tương truyền sau khi Cô Sơn Lẫm Lẫm thắng trận, đã mang một ít trà đến Ngũ Vị sơn. Có một số hạt giống sốt lại, rơi xuống bên hồ, không ngờ ở cái nơi thấp lè tè thế này trà cũng đâm chồi được, cuối cùng thành thế này.”

Dọc theo bờ hồ có không ít thủy tạ, tiểu đình dựng lấp ló trong rừng trà. Trương Mặc Sênh chọn lấy một cái tiểu đình trông trang nhã gọn gàng nhất, kê ghế mời hai người Đông Thanh an tọa. Cậu ta kéo dưới đáy bàn ra một tấm thẻ ngọc, vừa truyền chân khí vào được độ nửa khắc thì đã có một gã tiểu nhị mặc áo bông chạy đến.

“Hoan nghênh quý khách. Không biết quý khách muốn dùng gì?”

Trương Mặc Sênh nói:

“Mà heo nướng, đậu tẩm hành, thêm một con gà ăn mày, một bát canh Xuyên Khung Bạch Chỉ nấu với đầu cá. Lại lấy một bình Nhu Nhu Xuân Tuyết Án Trai Hiên (2) lên đây. Đúng rồi, không biết món đó của tiên sinh...”

(2: tuyết xuân mềm đè lên, nằm trên mái hiên của nhà học)

Nguyễn Đông Thanh bật cười, thầm nhủ xem ra cái tên Tiểu Thực Thần không phải gọi chơi cho vui. Cái cậu Trương Mặc Sênh này quả thực rất đam mê nấu nướng, thậm chí có thể nói là si, là yêu. Nguyễn Đông Thanh kiếm trước đọc truyện, võ si, kiếm si, đao si, tình si thì nhiều, duy chỉ có ham ăn là ít thấy. Ngay lúc này gã cũng chỉ có thể nhớ được hai người: Phạn Vương Trương Thán của Ôn Thụy An và Cửu Chỉ Thần Cái Hồng Thất Công của Kim Dung mà thôi.

Bấy giờ, hắn mới hắng giọng, nói với tiểu nhị cho một bình xì dầu nhỏ là được.

Chờ tên tiểu nhị đi khỏi, Trương Mặc Sênh mới bắt đầu xổ luôn một tràng:

“Tiên sinh... tiên sinh. Rốt cuộc món đó ngài làm bằng cách nào mới có thể có được cái sự phối hợp hương vị đó? Ở quê nhà ngài còn có món nào độc đáo như vậy nữa hay không?”

Nguyễn Đông Thanh đặt đĩa cá sống đã lén chuẩn bị từ nãy lên bàn, sau đó mới nói:

“Cậu cứ bình tĩnh, từ từ tôi sẽ trả lời hết. Đúng rồi, thứ này cho cậu nếm thử, cảm ơn cậu ban nãy đã trượng nghĩa ra tay.”

Dứt lời, gã bèn đẩy một gói khô gà cho Trương Mặc Sênh.

Nguyễn Đông Thanh vẫn chưa quên trước đó cậu Tiểu Thực Thần này đứng ra đánh đám Diệp công tử cho mình. Tuy có Hồng Đô ở đó, mấy người Đông Thanh thực chất cũng chẳng cần đến cậu ta ra tay, nhưng chung quy lại cũng là tấm lòng.

Trương Mặc Sênh ném một sợi khô gà vào miệng, nhai nhóp nhép mấy cái, rồi nói:

“Thịt gà, làm gần giống nhục tông, nhưng chỉ xé mà không làm nát, ẩm mềm mà không khô. Chua cay mặn ngọt đều có đủ. Có tiêu, có mắm, có ớt, lại có thoang thoảng mùi lá chanh.”

Nguyễn Đông Thanh cười, lại đưa tay nhón lấy một nắm đưa cho Hồng Đô, bấy giờ mới quay sang hỏi:

“Không biết Tiểu Thực Thần nghĩ sao?”

“Lối suy nghĩ độc đáo, có thể nói tuy xuất phát từ nhục tông, nhưng lại tự thành một phái. Một bên để lâu, một bên ăn ngon, không phân cao thấp được. Thế nhưng... nếu so với món thịt này của tiên sinh thì hương vị cũng vẫn... nói sao nhỉ... quen thuộc? Ít nhất tiểu tử có thể nếm ra, cũng đoán được sơ sơ cách làm. Duy chỉ có món thịt này là Mặc Sênh quả thực không tài nào nghĩ được cách tái tạo ra một tổ hợp hương vị y hệt cả.”

Nguyễn Đông Thanh sớm đã lường được cậu ta sẽ nói như thế, nên cũng không thấy quá bất ngờ. Câu trả lời của Trương Mặc Sênh càng khiến Đông Thanh chắc chắn nếu không phải bị cái việc Huyền Hoàng giới không ăn thịt sống hạn chế, chắc chắn hồi chiều Tiểu Thực Thần đã đoán được thứ Đông Thanh cho cậu ta ăn là gì.

Chẳng mấy chốc, tiểu nhị đã bưng món ăn lên.

Nguyễn Đông Thanh dạy Trương Mặc Sênh ăn cá sống với xì dầu, khiến cậu chàng thấy hương vị tuyệt diệu hồi chiều bấy giờ giống như càng được thăng thêm một phần. Thế nhưng, mặc cho cậu chàng có hỏi thế nào, Nguyễn Đông Thanh cũng tuyệt nhiên không tiết lộ là thịt gì hay chế biến ra sao, khiến cậu ta ngứa gan ngứa ruột đến mức mặt xưng mày xỉa mãi.

Song Trương Mặc Sênh cũng không vì thế mà thất lễ hay lỗi đạo làm khách. Cậu ta cầm bình, rót rượu mời Đông Thanh. Gã nhấp thử một chút, cảm thấy thứ rượu có cái tên vừa dài vừa văn vở: Nhu Nhu Xuân Tuyết Án Trai Hiên này lúc vào miệng thì lành lạnh, xuống hầu lại ấm áp, hơi có vị phảng phất của hoa mai, lại loáng thoáng chút vị ngọt của quả mơ mới chín.

Tả ra thì nghe thật quái dị, nhưng uống thử vào lại thấy hợp miệng đến lạ.

Nguyễn Đông Thanh cũng động đũa, gắp thử ăn mấy món được tiểu nhị mang lên, chỉ thấy nêm nếm vừa phải, độ chín vừa đúng, quả thực một khi đã ăn thì khó mà dừng đũa được. Thấy trù nghệ của người ta vượt mình hàng mấy con phố, Nguyễn Đông Thanh thầm kêu may mắn là đã đi tìm người nấu thay, chứ không tự mãn đòi đích thân vào bếp.

Rượu được vài tuần, món ăn cũng đã ăn hơn một nửa, hai người cũng đã ngà ngà say. Nguyễn Đông Thanh lại uống một chén nữa, đầu đã thấy hơi ong ong, nói:

“Bây giờ mà có một ít trâu gác bếp hay bò một nắng thì đúng là tuyệt vời. Đáng tiếc...”

Trương Mặc Sênh dốc cạn chén rượu, lầm bầm:

“Hấc. Không biết... hai món tiên sinh nhắc đến còn có huyền cơ gì, phải ăn thế nào mới đúng điệu?”

“Sớm biết cậu... sẽ hỏi...”

Nhu Nhu Xuân Tuyết Án Trai Hiên tuy vị thì nhẹ nhàng, độ cồn lại không yếu. Nguyễn Đông Thanh không cẩn thận bị lừa, bấy giờ đã say quá chén, bắt đầu rượu vào lời ra.
 
Xuyên Qua Làm Nhân Vật Quần Chúng, Vô Tình Dạy Một Đám Đồ Đệ Thành Thánh Nhân
Chương 59: Trương Mặc Sênh: Ta Chưa Chết?


Trương Mặc Sênh nhổm dậy, chỉ thấy đầu đau như búa bổ. Bấy giờ, lời Đông Thanh xổ ra đêm qua chợt hiện lên trong đầu, vang vọng bên tai, khiến cậu ta cơ hồ hồn phách rã rời.

“Thứ mà cậu ăn thực ra là cá sống.”

Trương Mặc Sênh không dám chần chờ, vội vàng dùng chân khí nội thị kiểm tra khắp lục phủ ngũ tạng một lần, lại đánh thức một tàn hồn đang say ngủ trong thức hải của mình.

“Tiên tổ! Tiên tổ!”

“Chuyện gì...?”

Giọng nói già nua mang theo mấy phần mỏi mệt cất lên, đáp lại sự hô hoán của Trương Mặc Sênh.

Vừa dứt lời, ý thức của cậu ta đã được đưa đến một gian nhà tranh, trước cửa có bếp đá, xung quanh đầy những hũ sành đựng toàn gia vị. Một ông lão râu tóc bạc phơ đang đưa tay vuốt lên một con dao làm bếp, vẻ mặt hòa ái hiền từ.

Nếu có cao tầng của Mỹ Vị sơn trang tiến được vào thế giới ý thức này, chắc chắn sẽ kinh ngạc phát hiện ông già này trông giống hệt như bức chân dung tiên tổ mà bọn họ thờ ở từ đường.

Ông già này chính là một tia tàn hồn của người sáng lập ra Mỹ Vị sơn trang – Thiên Thủ Thần Trù – Trương Thất. Trương Mặc Sênh có thể đạt đến tu vi hiện giờ ở cái tuổi này, không thể thiếu được sự hướng dẫn bảo ban của tàn hồn này.

Trương Thất nhìn thiếu niên trước mặt, cười:

“Thằng nhóc, đã bảo nếu không có đại sự gì thì đừng cố tình đánh thức ông rồi mà.”

“Tất nhiên là có. Chẳng những là chuyện lớn, mà còn lớn tày trời nữa là khác. Bằng không sao con dám đánh thức tổ tiên?”

Tàn hồn của Trương Thất đã bị tổn thương trầm trọng, ngày thường cơ hồ chỉ ngủ say để khôi phục, rất ít khi tỉnh lại. Trừ phi Trương Mặc Sênh gặp phải vấn đề không thể tự lý giải trên đường tu hành, hoặc gặp phải nguy hiểm trí mạng, tàn hồn của Thiên Thủ Thần Trù mới ra tay.

Trương Mặc Sênh thấp giọng, hỏi:

“Tiên tổ, chuyện năm xưa người vì thử nếm thịt sống mà bỏ mạng có phải sự thật hay không?”

Huyền Hoàng giới truyền tụng thuở hồng hoang khi trời đất còn non trẻ, con người còn mông muội, có một người đón được địa hỏa nạp vào đan điền của chính mình, khai sinh ra trù đạo, cũng đặt nền móng cho sự hình thành của luyện đan, luyện khí hai đạo. Người này chính là trù đạo chi tổ - Thiên Thủ Thần Trù Trương Thất.

Trương Thất chứng đạo rồi, lại lang bạt khắp hang cùng ngõ hẻm, tinh nghiên cách chế biến xử lý các loại thực phẩm khác nhau, giúp con người ta không còn phải khốn đốn tìm kiếm đồ ăn như trước, công đức vô lượng, người đời tôn sùng.

Thế nhưng, về sau Trương Thất thử xem nếm thịt sống thì sẽ ra sao, bèn chủ động phong bế địa hỏa, ăn thịt sống vào người.

Sau đó, lão ngỏm.

Đường đường là cường giả khai đạo, tu vi khi đó đã một chân bước ra khỏi cửu cảnh, Trương Thất Trương đạo tổ cũng phải cụ đi chân lạnh toát.

Trước lúc lâm chung, Trương Thất viết vào tổ huấn của Mỹ Vị sơn trang, nói cần phải truyền bá khắp thiên hạ rằng “không được ăn thịt sống, bằng không ắt phải chết”.

Về sau, trải qua nhiều đời, lại thêm Phản Thiên Chi Chiến, nửa sau câu nói đã bị chôn vùi trong dòng thời gian. Người ta chỉ biết không thể ăn thịt sống, lại không rõ nguyên do cụ thể.

Trương Thất nói:

“Còn giả được hay sao? Tiên tổ kể cho con nghe, khi đó ăn xong nội trong hai canh giờ tất sẽ đau bụng đi ngoài không ngừng, thải ra cả máu tươi. Lại thêm hai canh giờ, thì sẽ đau đớn như thủng ruột vỡ mật, quằn quại không chịu nổi. Cuối cùng lại thêm hai canh giờ, tức là sáu canh giờ kể từ lúc ăn thịt sống, lập tức chết không nhắm mắt. Cho dù khi đó ta đã là cường giả bán bộ thập cảnh, trong người có địa hỏa, cũng không thể nào chống lại được.”

Trương Mặc Sênh nhận được lời khẳng định này của tàn hồn tổ tiên, mới hít sâu một hơi, dè dặt lên tiếng:

“Bẩm... bẩm tiên tổ. Con ăn thịt cá sống!”

“Cái gì???”

Trương Thất trợn tròn mắt lên, miệng há hốc, ngón tay gầy guộc run lẩy bẩy chỏ vào mặt Trương Mặc Sênh. Chòm râu trắng phau của lão trợn ngược lên, mũi thở phì phì, lắp bắp:

“Ngươi... ngươi... Aaaaghr!!! Tức chết lão phu. Chuyện xảy ra từ bao giờ?”

Trương Mặc Sênh không dám giấu, kể lại đầu đuôi mọi chuyện từ buổi thách đấu chiều qua cho lão nghe.

“Đã... gần chín canh giờ?”

Trương Thất càng nghe, càng thấy kinh động giống như bên tai có tiếng sấm nổ rền vang. Lão là người từ thời thượng cổ, đã trải qua không biết bao nhiêu là chuyện long trời lở đất, mắt thấy tai nghe vô vàn những sự kì quái ở đời.

Thế nhưng hôm nay, quan niệm đúng sai của một khai đạo giả như Trương Thất bỗng chốc bị lật đổ.

Lão cũng đã dùng hồn lực kiểm tra thể nội Trương Mặc Sênh một lượt, quả thực là không có dị trạng gì cả. Chuyện này khiến Trương Thất vừa thấy thất lạc, song lại vừa thấy hứng trí bừng bừng.

“Vị tiên sinh đó có nói cách làm hay không?”

Trương Thất tuy là một tàn hồn từ thời thượng cổ, thế nhưng lão cũng là một người tò mò, ham học hỏi. Bằng không sau khi trở thành đạo tổ, khai tông lập phái, lão đã không chạy khắp Huyền Hoàng giới tìm tòi nghiên cứu cách chế biến các loại nguyên liệu khác nhau, thậm chí còn mất luôn mạng.

“Tiên tổ, ngài cũng một đống tuổi rồi. Vị tiên sinh kia tuy suy nghĩ tinh kỳ, tài năng hơn người thật, song... số tuổi xem chừng còn không đủ số lẻ của ngài nữa.”

Trương Mặc Sênh thấy bề ngoài Nguyễn Đông Thanh xem chừng cùng lắm là ba mươi tuổi, lại tưởng tượng tổ tiên của mình – một lão quái vật đã tồn tại mấy vạn năm – gọi gã là “tiên sinh”, chỉ thấy quái quái.

Hơn nữa, hiện giờ cậu ta tuy có gọi Nguyễn Đông Thanh là “tiên sinh”, song cùng lắm là chênh nhau một bối phận mà thôi.

Nếu Trương Thất cũng gọi “tiên sinh”, vậy chẳng phải Trương Mặc Sênh nháy mắt sẽ bị giáng cấp xuống không biết bao nhiêu vạn bậc mà kể hay sao?

Trương Thất bĩu môi một cái, nói:

“Sự học đạt giả vi tiên. Hà huống nếu như lấy tuổi tác ra luận, chẳng phải tiên tổ nhà ngươi sống phí hoài mấy vạn năm? Người ta chỉ dùng vài năm đã giải quyết được nan đề khiến tiên tổ ngươi bỏ mạng, chẳng có nhẽ ta lại còn mặt dày đến nỗi cậy già lên mặt hay sao?”

Trương Mặc Sênh cùng không biết phải nói gì.

Tổ tiên và đời sau nói chuyện với nhau chán chê, Trương Thất mới quyết định bảo Trương Mặc Sênh bằng giá nào cũng phải mời được vị tiên sinh này lên núi Ngũ Vị, cho dù huy động toàn bộ tài lực nhân lực của sơn trang cũng phải cầu cho kỳ được cách xử lý thịt sống này.

oOo

Nguyễn Đông Thanh nào có biết trong cơ thể Trương Mặc Sênh còn có một tàn hồn thượng cổ, và hai người này chính đang bàn nhau phải làm thế nào mới xin được phương pháp cấp đông từ trong tay gã?

Lúc hắn tỉnh dậy, thì mặt trời đã lên quá con sào.

Nguyễn Đông Thanh lật đật trở dậy, ôm trán rên lên một tiếng. Bấy giờ, đầu hắn vừa nhức như búa bổ, vừa đặc như đổ chì, khiến gã cứ thấy nặng nề váng vất mãi.

“Thất sách. Không ngờ cái cái rượu Nhu Nhu Xuân Tuyết Án Trai Hiên kia vị ngòn ngọt dễ uống mà lại nặng đến vậy, Không biết hôm qua uống say có buột miệng nói cái gì không nên nói không nữa.”

Nguyễn Đông Thanh lắc đầu.

Gã vừa trở dậy, vệ sinh cá nhân đâu vào đấy thì bên ngoài đã có hai người bước vào. Nhìn kỹ, té ra chính là Trần Dũng và Nguyên Phương.

“Chào tiên sinh. Tiên sinh dậy rồi à? Để tôi bảo nhà bếp chuẩn bị một món lót dạ cho tiên sinh,”

Trần Dũng cười, xung phong nhận việc.

Nguyễn Đông Thanh thấy cái người hôm qua vừa bị đánh cho sống dở chết dở mà bây giờ đã khỏe như vâm, nhảy nhót tưng bừng như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Gã thấy chuyện này quả thực quá khó tin, mới nhìn sang hỏi Nguyên Phương:

“Này... Trần Dũng thực sự ổn đấy chứ? Không phải hồi quang phản chiếu đâu nhỉ?”

“Tiên sinh yên tâm. Ngự trù của Hoàng quốc đã chữa qua một lần, lại thêm nhà trọ này phục vụ rất chu đáo, hôm qua cũng có người đưa thuốc đến. Hiện giờ Trần Dũng khỏi hẳn rồi.”

“Phải đó tiên sinh. Chớ nói chi những chuyện cỏn con này, bây giờ ta kéo xe thay con bò kia lên núi cũng được.”

Nguyễn Đông Thanh xác thực mắt thấy tai nghe là Trần Dũng không sao, bấy giờ mới thở phào một cái. Gã thấy dù thế nào đi nữa thì việc Trần Dũng bị hại cũng là do làm việc thay cho mình, thế nên khi nhìn thấy cậu ta bị đánh cho tơi bời thừa sống thiếu chết, Nguyễn Đông Thanh cũng lấy làm áy náy.

“Thôi được rồi. Nếu cậu đã không có việc gì thì chúng ta lên Mỹ Vị sơn trang cho sớm đi.”

“Sao thế được? Hôm qua tiên sinh ngài say đến độ ngất lăn quay ra, không phải Hồng Đô cõng về thì chắc giờ ngài hãy còn ngủ ngoài hồ. Bây giờ không có gì giải rượu, lấp bụng thì sao được?”

Trần Dũng nói.

Nguyễn Đông Thanh chưa quên nhiệm vụ tìm người nhờ nấu giúp món thịt bò Vũ Tùng Lâm đã giao, thì hai người Nguyên, Trần cũng chưa từng dám lơ là nhiệm vụ của bản thân: chiếu cố lo liệu những chuyện ăn uống đi lại trên đường cho Nguyễn Đông Thanh.

Chợt, ngoài cửa có tiếng nói quen thuộc truyền vào:

“Trù sư nơi này trình độ cũng chỉ xem như tạm được, miễn cưỡng lắm thì tính là nhị lưu, tiên sinh hạ mình ăn thử một lần cho biết là được. Có lần thứ hai thì có phúc cho tên đầu bếp kia quá.”

Chỉ thấy, Tiểu Thực Thần Trương Mặc Sênh đẩy cửa bước vào.

Cái tạp dề cậu ta vẫn cuốn quanh eo giờ được mặc nghiêm chỉnh trước người, cái khăn quàng cổ buộc lên đầu, ôm trọn toàn bộ mái tóc. Trên tay Trương Mặc Sênh chính đang nâng một cái khay gỗ, trên còn để một cái âu sứ trắng tráng men xanh, đậy nắp cẩn thận.

Gã thản nhiên bước đến, đặt khay gỗ xuống bàn, cười:

“Tiên sinh đã mời tiểu tử hai bữa, không trả lễ thì thật không phải phép. Lần này xin tiên sinh nếm thử xem tay nghề của ta thế nào.”

Nguyễn Đông Thanh nhìn thấy cái âu sứ trông đúng y chóc cái bát hương bốc từ bàn thờ xuống, mặt nhăn như đít khỉ. Song gã lại ngẫm thấy có qua có lại mới toại lòng nhau, hà huống cũng chưa chắc gì người ở Huyền Hoàng giới cũng dùng cái loại sứ men xanh này làm bát hương như ở quê hắn, nên cũng không tiện chối từ.

Vừa mở nắp, đã thấy mùi hương thoang thoảng bốc lên. Chỉ thấy trong cái âu “bát hương” đựng một ít cháo trắng, nấu loãng. Loáng thoáng thấy màu xanh của cải, màu vàng của trứng, màu đen của tiêu đen và một chút đo đỏ thấp thoáng của dầu ớt lấp ló dưới lớp chăn trắng ngần.

Cháo nấu vừa đúng độ, không quá lỏng không quá đặc. Gia vị nêm nếm đúng độ, hòa quyện hài hòa, không có vị nào bị át đi cả. Cháo vào miệng, thơm ngậy mà không béo ngấy, thanh đạm mà không nhạt nhẽo, lại thoang thoảng mùi thơm ngọt của gạo mới, của trứng gà ngon, của rau cải tươi rói.

Vốn Nguyễn Đông Thanh còn tưởng kỹ thuật của đầu bếp hôm qua nấu cho hai người ăn ở ven hồ đã cao, không ngờ so ra còn kém Trương Mặc Sênh mấy bậc.

“Không hổ danh là Tiểu Thực Thần. Ngon lắm.”

“Đúng rồi, tiên sinh, bây giờ cửa thành đã mở, có thể lên Ngũ Vị sơn bái phỏng Mỹ Vị sơn trang được rồi.”

Trương Mặc Sênh được khen, song chẳng hề tỏ ra kiêu ngạo hay đắc ý. Cạu chàng chỏ về phía cánh cổng thành phía nam, nói.

Nguyễn Đông Thanh thấy thời gian mà Vũ Tùng Lâm cho cũng chỉ có một tháng, hiện giờ đã lãng phí mất ba bốn ngày. Lại thêm chuyện Trần Dũng không việc gì, gã bèn bảo mọi người trả phòng trọ, một đường thẳng tiến lên núi.
 
Back
Top Bottom