Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Convert Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美

Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 31 : Chương 31: Tây Tiến cùng Quặng Sắt (1)


Tại bến tàu Phương Đông Cảng, Bộ Tài chính và Bộ Vật tư liên hợp kiểm kê chiến lợi phẩm, không khí sôi nổi. Tổng cộng 16 vạn nguyên (Venice Ducat, Florin, Escudo vàng, Doubloon vàng, peso bạc), châu báu, hơn 7.000 tấm da lông, 60 tấn bông, hơn 100 cây gỗ đỏ Brazil, thuốc nhuộm, hàng dệt, tổng giá trị vượt 25 vạn nguyên. Chưa kể hai chiến hạm cướp được: Tiểu Chó Săn (350 tấn), Nhà Văn Học Trên Biển (320 tấn), và hơn 400 tù binh hải tặc.

Thành quả này khiến Chấp Ủy Hội kinh ngạc. Một chuyến tư lược mang về ngân sách nửa năm! Theo thỏa thuận với Bộ Hải quân, hải quân nhận hơn 75.000 nguyên. Sau khi bù khoản thiếu 30.000 nguyên cho chiến hạm Ngày 10 Tháng 8, chi phí xây Trấn Hải Tạo Thuyền Hán và định cư thợ, Bộ Hải quân còn khoảng 40.000 nguyên dư dả. Vương Khải Niên lập tức lôi từ ngăn kéo đơn xin xây chiến hạm thứ hai cấp Ngày 10 Tháng 8 – Thị Trường Chung, từng bị Chấp Ủy Hội bác bỏ. Đơn được thông qua toàn phiếu tại hội nghị thường vụ, chuẩn bị khởi công ngay sau khi Trấn Hải Tạo Thuyền Hán hoàn thành.

60 tấn bông được Chấp Ủy Hội bán cho xưởng dệt Đông Ngạn Công ty giá 150 nguyên/tấn, thu 9.000 nguyên. Hơn 100 cây gỗ đỏ chuyển thẳng cho Trấn Hải Tạo Thuyền Hán, làm tài chính khởi đầu cho Thị Trường Chung.

Nói về Trấn Hải Tạo Thuyền Hán, phải nhắc Trấn Hải Bảo, nay sơ bộ thành hình. Lâu đài quân sự này có gần 600 dân thường trú, được Chấp Ủy Hội ưu tiên cung ứng vật tư do vị trí chiến lược. Đến giữa tháng 5, tường thành Trấn Hải Bảo hoàn thành hơn nửa, hai pháo đài ở góc đỉnh đảo Ba Sắt và bán đảo cơ bản xây xong, lắp 24 pháo phòng ngạn, thêm khóa an toàn cho Áp Tử Hồ.

Mấy tháng qua, mậu dịch ổn định. Mỗi tháng xuất khẩu sang La Plata 200 thất len dạ, 1.000 thất vải bông, ngũ kim, vật liệu xây dựng, than tinh, cộng với thuế Colonia và xuất khẩu súng đạn dần phục hồi, Bộ Tài chính thu 12.500-13.000 nguyên/tháng, chi khoảng 14.000 nguyên, thâm hụt thu hẹp đến mức chấp nhận được.

Từ tháng 3, tàu châu Âu đến Phương Đông Cảng giao dịch tăng, đặc biệt “bằng hữu cũ” từ biển Baltic trở lại. Họ giúp xưởng vũ khí Đại Ngư Hà tăng xuất khẩu, mang theo hàng trăm di dân.

Mới tới, di dân bổ sung lao động cần thiết cho Nước Cộng hòa Đông Ngạn. Tháng 4, Chấp Ủy Hội phê duyệt Quốc Vụ Viện lập mục trường cách Phương Đông Cảng tây bắc, đông bắc Định Viễn Hương 5 km, chuyển 200 di dân làm người chăn nuôi và cắt lông. Mục trường chăn cừu, cung cấp lông dê chất lượng cho ngành dệt phát triển nhanh.

Dự án lớn nhất mấy tháng qua là quặng sắt Trường Sơn, thực thi hơn một tháng. Mỏ ferit tại giao giới bốn tỉnh (Florida, Durasno, Tacuarembó, Treinta y Tres) được Bộ Công Thương xác nhận trữ lượng phong phú. Khu mỏ nằm trong đồi núi, gần lưu vực sông Yí. Quặng khai thác đi thuyền xuôi Yí, Río Grande, Tacuarembó, vào Mễ Lâm Hồ, qua Sông Thánh Công Tát Lạc, đến Áp Tử Hồ, rồi tới xưởng thép Bình An Bảo. Hành trình 670 km, điều kiện thông thuyền tạm ổn, vài đoạn cần mở rộng, khơi thông, nhưng phần lớn đủ sâu, lưu lượng ổn, quanh năm thông thoáng. Thuyền nội hà 60 tấn đi không áp lực, vận quặng từ Trường Sơn đến Bình An Bảo mất 14-16 ngày, giao thông lý tưởng.

Tháng 5, Bộ Công Thương quyết định triển khai thực chất dự án Trường Sơn. Mỏ nằm ở vùng núi phức tạp, xa trung tâm Xuyên Qua Chúng, cần người dày dạn dẫn dắt. Quốc Vụ Viện đề cử Thiệu Thụ Đức, cựu tổ trưởng Than Đá Công Tác Tổ. Với kinh nghiệm khai mỏ than và hiệu quả tại mỏ Bình An, Thiệu Thụ Đức được Chấp Ủy Hội đa số ủng hộ.

Thiệu Thụ Đức không từ chối. Khai quặng sắt khó hơn mỏ than, nhưng mỏ Trường Sơn là nền tảng phát triển Xuyên Qua Chúng. Từ đầu tháng 5, hắn chọn nhân sự, lập kế hoạch, thúc vật tư. Đến ngày 20 tháng 5, Chấp Ủy Hội chuyển 600 di dân làm thợ mỏ kiêm cư dân đầu tiên, nhân sự và vật tư gần hoàn tất.

Ngày 21 tháng 5, trong lúc Chấp Ủy Hội và Liên Hợp Tham Mưu Bộ tổ chức tiệc mừng đội tư lược trở về, Thiệu Thụ Đức dẫn đội công trình, tìm mỏ, quản lý, 72 kỵ binh, 200 di dân, 100 tù binh hải tặc, trên 4 thuyền nội hà 60 tấn, chở thực phẩm, vật liệu, công cụ, vũ khí, từ cửa Yí vào Mễ Lâm Hồ, ngược Yí, hướng khu quặng Trường Sơn.

Mễ Lâm Hồ, giao giới Brazil và Uruguay sau này, phần lớn thuộc Brazil, một ít thuộc Uruguay. Hồ sâu, trung bình 12 mét, tối đa 30 mét, ngăn cách với Đại Tây Dương bởi đất bồi và đầm lầy, là hồ nước lợ điển hình. Cảnh sắc tuyệt đẹp, ngư nghiệp phong phú, nhiều sông nước ngọt đổ vào, đất đai phì nhiêu. Vài năm trước, bộ lạc Tra Lỗ Á sinh sống, nhưng bị lục quân Nước Cộng hòa Đông Ngạn bắt hoặc đuổi vào núi, giờ mai danh ẩn tích. Đây là mối đe dọa tiềm tàng cho Quặng Sắt Công Tác Tổ.

Qua Mễ Lâm Hồ, đội tàu ngược Yí (gộp Yí, Río Grande, Tacuarembó). Cửa sông nước chậm, nhánh sông chằng chịt, đầm lầy và rừng thủy sinh phủ đảo giữa sông, thiên đường cho chim và lũ lụt. Lũ lụt ngây thơ bơi lội, không sợ người lạ. Di dân châu Âu mắt sáng rực, tính săn lũ lụt lấy da lông giá trị.

Bốn thuyền nội hà hạ buồm, do nô lệ hải tặc chèo, tiến chậm, thủy thủ đo độ sâu tuyến. 72 kỵ binh, mỗi người hai ngựa, chia hai trạm canh, phi nước đại trên cỏ bờ sông, bảo vệ đội tàu.

Bốn ngày sau, đội mắc cạn ở đoạn nước nông. Di dân xuống thuyền, dưới chỉ huy Quặng Sắt Công Tác Tổ, dựng doanh trại giản dị. Kỵ binh lấy dây thép từ thuyền, sản xuất tại xưởng Đại Ngư Hà, lý tưởng cho doanh trại dã ngoại.

200 di dân và 100 nô lệ đóng cọc, dựng lều vải dầu. Kỵ binh kéo lưới thép quanh trại, cố định bằng cọc gỗ, treo gai ngược và chuông làm cảnh giới. Lối ra duy nhất nối bờ sông nơi thuyền neo. Di dân và nô lệ từ đó đi khơi thông sông.

Chuẩn bị xong, nam đinh và nô lệ đào cát, khơi sông, phụ nữ nấu ăn trong trại. Họ dùng nhiên liệu than đá, than bùn, đun nồi lớn, nấu cơm. Thực đơn chuẩn: thịt muối, cá mặn, đậu, rau dễ bảo quản, mỗi người một thìa đường và chút rượu.

Bữa ăn dã ngoại đơn giản nhưng ngon, giàu dinh dưỡng, khiến di dân châu Âu quen bánh mì đen và hải tặc gặm bánh quy dòi rơi lệ. Ở Cựu Đại Lục, ngay thân sĩ khó có bữa ngon thế. Tân Đại Lục, đời sống quả cao!

Với kỳ vọng sống tốt, mọi người làm việc hăng hái. Ngày 2 tháng 6, sau vài ngày lao động, đoạn sông tắc nghẽn được khơi thông, độ sâu đạt 2,5-3 mét.

¹ Yí: Tên thống nhất cho hệ sông Yí, Río Grande, Tacuarembó
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 32 : Đại khai phá: Đông Ngạn hiểu biết lục (phần 1) (10 tháng 6 năm 1632)


Chương 32: Đại khai phá: Đông Ngạn hiểu biết lục (phần 1) (10 tháng 6 năm 1632)

Khu khai khẩn Định Viễn Bảo, đội sản xuất số 1 thu hoạch hơn 900 tấn khoai tây từ 1.000 mẫu ruộng – vụ mùa đại thắng. Lượng khoai tây này đủ cho mọi người ăn thả ga nửa năm, xua tan khủng hoảng lương thực treo lơ lửng trên đầu.

Ủy ban tổ chức lễ mừng hoành tráng, định ngày 10 tháng 6 hàng năm là Lễ Được Mùa.

Blanco de Almeida, quý tộc đường mía Brazil, cùng ba tùy tùng len lỏi qua đám đông náo nhiệt ở TartarPort. Phố phường rộn ràng, người dân cuồng hoan. Mấy người Đức ngồi bên bàn gỗ ven đường, say khướt, chè chén rượu mạnh từ thùng gỗ, cười nói ầm ĩ.

Góc phố phát đồ ăn miễn phí, đám đông chen chúc. Cảnh sát mặc đồng phục đen duy trì trật tự, cổ đeo còi đồng, hông đeo dùi cui ngắn. Dù là dân Ireland hung hãn nhất, thấy họ cũng phải ngoan ngoãn.

Là học giả uyên bác ở Bahia, Blanco nhận ra nhiều điều thú vị. Người đi đường đến từ nhiều quốc gia: Đức đông nhất, rồi Tiệp Khắc, Na Uy, Phần Lan, Ireland – nghe qua ngôn ngữ họ nói. Nhưng giao tiếp giữa các nhóm dùng một thứ tiếng lạ. Blanco không nhận ra, đoán là tiếng Tartar.

Simón Pérez de Silva, linh mục Dòng Tên từng ở Macao, đưa ý khác. Ông cho rằng thứ tiếng này giống ngôn ngữ Minh quốc. Tinh thông chữ Hán và tiếng Phúc Kiến, ông khá chắc chắn, và nhanh chóng tìm bằng chứng. Trước ngã tư có dãy nhà gạch đỏ, ngói đen kiểu phương Đông, dưới hiên treo bảng gỗ với ba chữ mực đen.

“Viết gì?” Blanco hỏi.

“Hợp… Tác… Xã,” Simón Pérez đọc, hơi bối rối. Ông nhận ra từng chữ, nhưng ghép lại thì mù tịt.

“Cửa hàng chăng?” Simón Pérez ngẫm một lúc, không chắc chắn.

“Đi, vào xem,” Blanco quay sang hai tùy tùng. “Cardoso, Carlos, cùng đi, biết đâu có phát hiện mới.”

Bốn người băng qua ngã tư, bước vào Hợp Tác Xã. Nữ nhân viên, Alesia Bastien, thấy bốn gã áo mũ chỉnh tề, hơi ngạc nhiên, nhưng chỉ thoáng qua. Bến tàu đầy tàu từ khắp nơi, đủ loại người – thủy thủ bẩn thỉu, thân sĩ lịch lãm, quý cô kiêu sa – cô thấy hết. Bộ tứ quý tộc, linh mục, sĩ quan, thương nhân này lạ, nhưng chẳng khiến cô tò mò quá.

Cửa hàng nhỏ, quầy gỗ dài đối diện cửa, sau quầy là kệ hàng. Hàng hóa không đa dạng: vải bông, cây đay, rượu, đường, muối, dầu ô liu – đa số nhập từ châu Âu, trừ muối do Tartar sản xuất, Blanco phán đoán.

“Săng!” Một tiếng vang từ bên trái. Cardoso rút thanh Gươm M32 trên kệ. Động tĩnh thu hút hai cảnh vệ trong cửa, lưng đeo súng kíp, hông đeo Gươm M32 giống hệt. Alesia tiến đến, ngập ngừng, không biết dùng ngôn ngữ nào.

“Chào buổi sáng, thưa ngài. Cần giúp gì?” Alesia hỏi bằng tiếng Pháp, hy vọng nhóm Tây Ban Nha hiểu.

“Chào, cô gái xinh đẹp,” Cardoso đáp. “Tôi chỉ thử thanh gươm sắc bén này. Xin lỗi vì làm phiền.”

“Thưa ngài, Gươm M32 được rèn từ thép chất lượng, vượt xa các loại đao khác, rất hợp với ngài,” Alesia nói lưu loát. “Trên chiến trường hay đấu tay đôi, nó là bạn đồng hành đáng tin. Chúng tôi bán hơn 1.000 thanh, nổi tiếng ở Thụy Điển, Nga, Brandenburg – đồng nghĩa với chất lượng.”

Cardoso trầm ngâm, vuốt hoa văn trên lưỡi gươm. “Giá bao nhiêu?”

“2 nguyên 5 giác, thưa ngài,” Alesia đáp ngay. “Ngài cần chứ?”

“Đúng vậy,” Cardoso trả tiền, đeo gươm vào hông. Ở bến tàu, anh đổi được ít tiền Tartar, biết 2 nguyên 5 giác bằng 20 reales Tây Ban Nha – giá không rẻ, nhưng nam nhân luôn cần món đồ chơi đặc biệt.

“Thưa ngài, xem thêm gì không?” Alesia, vừa chốt đơn, tiếp tục chào hàng. “Công cụ và nông cụ của Đông Ngạn rất tốt. Xẻng, lưỡi hái, cuốc, nĩa, rìu, đinh sắt, búa, dao mổ – đều thép chất lượng, giá rẻ!”

Cardoso im lặng, nhưng Blanco chú ý. Ai cũng biết mẫu quốc Tây Ban Nha hạn chế công nghiệp thuộc địa. Họ nhập vật tư giá cao từ Bồ Đào Nha, xuất bông, đường, ca cao, cà phê về mẫu quốc, kiếm lời khủng. Brazil xuất gỗ đỏ, đường mía, thuốc lá, bông, màu chàm, da thú, lông chim, rượu ngọt; nhập dấm, sắt, vải bông, tơ lụa, dược liệu, dầu, mũ, thịt khô, máy móc – chủ yếu từ Bồ Đào Nha.

Là con trai quý tộc đường mía ở Bahia, Blanco hiểu rõ. Thấy Hợp Tác Xã đầy nông cụ, ngũ kim thép chất lượng, anh động lòng. Nếu Đông Ngạn sản xuất đủ, anh có thể buôn lậu về Brazil, tự dùng hoặc bán lại – chắc chắn có lời. Hơn nữa, Tartar thiếu đường mía, thuốc lá, bông, màu chàm – Brazil lại dư thừa. Hai bên bổ sung kinh tế hoàn hảo. Blanco giữ vẻ ngoài bình thản, nhưng đã có tính toán.

Bốn người xem thêm lát, không thấy gì mới, rời cửa hàng. Họ hỏi đường xong, đi thẳng đến mục tiêu.

Đi dọc phố chữ thập về bắc vài phút, qua hai đám đông cuồng hoan, họ đến trước tòa nhà gạch đỏ ba tầng có tường bao – kiến trúc cao nhất TartarPort, làm từ gạch đỏ và bê tông cốt thép của xưởng xi măng. Đây là hành chính đại lâu mới của ủy ban, thay thế nhà gỗ cũ, chứa toàn bộ cơ quan xuyên không.

Cổng tường bao có 8 cảnh sát nội vụ bộ, bên trong thêm 24 người, canh gác nghiêm ngặt. Phòng khách có Lý Nhạc, người xuyên không, và một phiên dịch người Pháp.

Phiên dịch nghe Blanco giới thiệu, dịch sang tiếng Anh cho Lý Nhạc. “Ngươi nói ngươi từ Brazil, đến mua vũ khí?”

“Chúng tôi cần Giáp M31, pháo 4 pound uy lực mạnh nhưng nhẹ, và Gươm M32 sắc bén,” Blanco nói. “Tôi được tổng đốc Bahia ủy quyền, có thể hợp tác lâu dài.”

“Chuyện này tôi không quyết được,” Lý Nhạc viết vài dòng lên giấy. “Giáp M31, pháo 4 pound cần lục quân, hải quân, vật tư ủy viên phê duyệt. Hôm nay họ đi dự lễ mừng ở phía tây. Cầm giấy này đến cục cảng thượng lưu đập nước, họ sẽ sắp xếp tàu đưa các vị đến nơi. Mau đi!”

Bốn người bất đắc dĩ, cầm giấy đến cục cảng trong thành. Một quan viên Tartar kiểm tra giấy, ghi thêm vài dòng, bảo giao cho quan viên tiếp theo. Sau khi thu phí vé tàu, họ được sắp xếp lên thuyền gỗ nội sông chở vật tư, đi đến đội sản xuất số 1 Định Viễn Bảo.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 32 : Chương 32: Tây Tiến cùng Quặng Sắt (2)


Từ ngày 2 tháng 6, sau khi khơi thông đoạn sông đầu tiên, trong một tháng tiếp theo, đội tàu của Thiệu Thụ Đức xử lý hai đoạn sông tắc nghẽn, ba chỗ nước nông, mở rộng một đoạn mặt sông, thành tích đáng nể. Đến cuối tháng, họ tiến đến gần khu vực Treinta y Tres (đời sau) trên Y Hà.

Tại đây, Thiệu Thụ Đức cho 200 di dân và 100 nô lệ hải tặc xuống thuyền, bắt đầu xây một thành phố và cảng mới làm nơi cư trú lâu dài. Từ mỏ Trường Sơn đến hạ lưu Mễ Lâm Hồ, tuyến thủy đạo dài gần 200 km. Dù xuôi dòng, thuyền nội hà nước nông mất khoảng một tuần (không đi đêm) để tới Mễ Lâm Hồ. Vì vậy, lập cảng và điểm tiếp viện dọc tuyến là cần thiết.

Bắc ngạn sông Yí, gần Treinta y Tres, nằm ở đất bồi giao nhau của vài nhánh sông Yí, nước dồi dào, đất phì nhiêu, giao thông thuận tiện, dưới chân đông dãy Grande Cuchilla. Xây thành phố tại đây là hợp lý và cần thiết. Tương lai, hạ lưu Yí nhập Mễ Lâm Hồ cũng sẽ có một cảng nội hà. Những cảng ven đường này sẽ giúp tuyến hàng hải thông suốt hơn.

Bốn thuyền nội hà được Thiệu Thụ Đức cử về chở tiếp viện và vật liệu xây dựng, đón thêm hai đợt di dân. Những người ở lại, kể cả Thiệu Thụ Đức, bắt đầu dọn cỏ dại, bụi cây, san đất, đào móng cho lâu đài mới. Nam giới san đất, đào móng, xây nhà; phụ nữ dùng công cụ thô sơ xử lý da lông săn được gần đây.

Kỵ binh doanh dùng lưới, câu cá, săn hơn 200 con lũ lụt, nô lệ Tra Lỗ Á dùng đầu đá bắt hơn 100 con đà điểu Nam Mỹ, bổ sung thịt tươi và 300 tấm da lông chất lượng.

Hành vi săn bắt khiến nhà sinh vật học tùy đội Mông Hổ nhíu mày. Hắn lo nếu không cấm, đám này sẽ săn sạch động vật thủy sinh hai bờ Yí, chỉ vì da lông giá trị cao. Mông Hổ, từ Bộ Nông nghiệp, cùng hai trợ thủ trẻ, theo đội quặng sắt ngược Yí, khảo sát sinh thái Mễ Lâm Hồ và Yí. Lần trước khai mỏ than Áp Tử Hồ, hắn tham gia đội thám hiểm, khảo sát sinh thái lưu vực. Báo cáo đăng trên tạp chí tự làm Địa Lý Quốc Gia, miêu tả sống động động thực vật và lối sống dân bản địa, được giới Xuyên Qua Chúng và một ít di dân cấp cao ở Phương Đông Cảng ưa chuộng.

Lần này, hắn nhận ủy thác khảo sát ngư nghiệp, lâm nghiệp, độ phì đất Mễ Lâm Hồ và Yí, đồng thời làm việc riêng: ghi chép lũ lụt, bầy cá, đà điểu Nam Mỹ, hồ lang ở đầm lầy và bãi cỏ hai bờ Yí.

“Ta tiếc nuối chỉ ra, hành vi săn lũ lụt vì lợi kinh tế ngắn hạn là thiển cận và ngu xuẩn, gây thu hẹp quần thể lũ lụt, rối loạn sinh thái, đe dọa môi trường sống của ta. Một quan quân kỵ binh cấp cao dung túng, chỉ thấy lợi kinh tế. Đất ngập nước trù phú mọc lên thành phố nhân loại, hàng ngàn đà điểu, hồ lang, lũ lụt bị săn bắt, di dời, do lệnh của một quan chức chính phủ cấp cao…”

Mông Hổ, “phẫn thanh” từ thế kỷ 21 xuyên về thế kỷ 17, viết thảo trên giấy, ngấm ngầm chỉ trích “lãnh đạo nào đó”.

“Lão sư!” Một trợ thủ hét, giọng run rẩy.

“Đừng ồn, ta chưa viết xong, mất cảm hứng bây giờ!” Mông Hổ không ngẩng đầu, ngồi trên cỏ viết tiếp.

“Không phải! Lão sư, có tình huống!” Trợ thủ còn lại gào, kéo Mông Hổ chạy về.

“Ai, làm gì?!” Mông Hổ bất mãn, nhưng im bặt, xoay người chạy theo. Phía sau, đám Tra Lỗ Á mặc da thú, bố đay, cầm trường mâu và… súng hỏa mai lao tới!

Trong doanh trại, lính gác phát hiện dị thường. Tiếng chuông đồng và còi sắc nhọn vang lên. Thiệu Thụ Đức tổ chức phát vũ khí: hơn 100 công trình, kỹ thuật, quản lý nhân viên nhận súng hỏa mai. Nhiều người từng chiến đấu, chỉnh đốn thành đội không thua quân chính quy. Di dân nhận trường mâu, được lệnh xếp đội hình chặt khi Tra Lỗ Á xông vào lưới thép, đâm thọc, cản địch, tạo cơ hội cho súng hỏa mai bắn.

72 kỵ binh và hơn 100 công trình viên thành lính súng hỏa mai, xen trong đội trường mâu, nạp đạn, chờ sau lưới thép. Mọi người thầm cảm ơn mang nhiều lưới thép, luôn kéo lưới, treo gai, chuông cảnh giới. Thói quen tốt đôi khi cứu mạng.

Từ Vũ, quan quân cao nhất, mặt nghiêm trọng nhìn Tra Lỗ Á cách 200 mét lao tới. Quyền chỉ huy thuộc về hắn. Bình thường, lục quân khó bắt Tra Lỗ Á bổ sung dân số, giờ họ lại ùa ra hàng trăm, còn cầm súng hỏa mai! “Mẹ nó, chắc Tây Ban Nha cấp! Lũ truyền giáo Jesus dạy làm ruộng, chăn nuôi, tín ngưỡng là đủ, sao còn cho súng hỏa mai? Ngột ngạt à!” Từ Vũ buồn bực, đếm được vài chục khẩu hỏa thằng thương.

Không còn thời gian cảm thán. Tra Lỗ Á tới cách 100 mét, Từ Vũ, đứng bên phải đội, thổi còi.

“Pằng! Pằng! Pằng!” Bài súng hỏa mai đầu bắn đồng loạt trước lưới thép, lui về đội trường mâu, nạp đạn.

Mông Hổ thở hổn hển, quen tay nạp thuốc, đạn vào súng trường Toại Phát, dùng que cời nén đạn, lẩm bẩm: “Bồ Tát, Thái Thượng Lão Quân phù hộ! Lâu rồi ta không đánh giặc, đao thương không mắt, xin phù hộ ta bình an!”

Bài súng thứ hai bắn xong, lui về. Tra Lỗ Á tiến gần hơn. Mông Hổ nghe bên trái tiếng thở nặng nề của một lính trường mâu tóc vàng, trẻ, căng thẳng, chân run.

Bài súng thứ ba bắn, lui về. Mông Hổ vỗ vai anh ta: “Đừng lo, ngươi không chết đâu!” rồi tiến lên, giơ súng, ngắm, nhắm mắt, bóp cò khi còi vang.

Đá lửa nện hỏa mành, tia lửa rơi vào chảo thuốc, dẫn đốt, súng bắn. Mông Hổ không nhìn kết quả, lui về đội trường mâu, nạp đạn.

Bốn đợt bắn, Tra Lỗ Á ngã khoảng 70-80 người. Lính trường mâu Tra Lỗ Á vẫn xông lên không sợ chết, lính hỏa thằng thương của họ xếp hàng chuẩn bị bắn. Mang ngòi dài và lọ mồi, lúc chạy, ngòi rơi hoặc tắt, giờ họ luống cuống chuẩn bị.

Nhưng lãng phí thời gian trên chiến trường là chí mạng. Xuyên Qua Chúng bắn thêm hai đợt, nhắm lính súng Tra Lỗ Á. Đội hình dày đặc dễ bắn, nhưng cũng dễ bị bắn. Chì đạn dày đặc hạ gục cả bài lính súng Tra Lỗ Á đầu tiên.

Tổn thất khiến bài súng thứ hai Tra Lỗ Á hoảng loạn, huấn luyện kém lộ rõ. Kẻ bắn lẻ tẻ, kẻ lúng túng nạp đạn, kẻ để que cời trong nòng bắn ra. Bắn linh tinh chỉ gây ít thương vong cho Xuyên Qua Chúng, nhưng đáp trả là hỏa lực đồng loạt mãnh liệt hơn.

Chất lượng chiến đấu quyết định số phận. Cán cân chiến thắng nghiêng về Xuyên Qua Chúng.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 33 : Đại khai phá: Đông Ngạn hiểu biết lục (phần 2) (10 tháng 6 năm 1632)


Chương 33: Đại khai phá: Đông Ngạn hiểu biết lục (phần 2) (10 tháng 6 năm 1632)

Con thuyền gỗ chở vật liệu xây dựng, khoang đầy gạch đỏ. Blanco de Almeida cùng ba tùy tùng ngồi ở mũi thuyền, ngắm cảnh hai bờ Đại Ngư Hà.

Cuối thu, đầu đông Nam Mỹ, càng xa TartarPort, hai bờ sông càng hoang vắng. Gần tường thành, còn thấy nhà gỗ tạm bợ ven sông. Blanco, mắt sắc, nhận ra đa số dân là Taluá, xen lẫn vài người Bắc Âu. Họ khai khẩn đất hoang, dùng kênh dẫn nước hoặc ao mưa để trồng rau.

“Họ là nô lệ phục vụ quý tộc Tartar trong thành,” Carlos, thương nhân ít nói, bất ngờ lên tiếng. “Người Taluá có lẽ do họ bắt. Ta có thể mua nô lệ từ họ. Vườn trồng Brazil luôn thiếu lao động, nhất là khi người da đen trốn ngày càng nhiều.”

“Người Taluá không hợp làm nô lệ,” Cardoso xen vào. “Họ yêu tự do, hiếu chiến, thể chất yếu hơn người da đen nhiều.”

Blanco không hứng thú với đề tài này. “Cái gì kia?” Anh chỉ vào một công trình lạ, xung quanh đông người – Taluá lẫn da trắng – như đang cử hành nghi thức.

“Thượng đế! Dị giáo!” Simón Pérez, linh mục Dòng Tên, giật mình, liên tục làm dấu thánh giá trước ngực. Từng ở Minh quốc nhiều năm, ông nhận ra ngay công trình: một đạo quán.

“Vậy họ không phải người Tartar, mà từ phương Đông,” Blanco, không sùng đạo như linh mục, nói tỉnh bơ, chẳng đại kinh tiểu quái.

Thuyền đi xa, đồng ruộng và đạo quán dần khuất. Cảnh hai bờ thành cỏ hoang bất biến. Ven sông trồng lê, táo, hòe chịu mặn, cây còn nhỏ, mới trồng. Cỏ hoang lác đác vài đàn dê qua lại, ngoài ra giống đất hoang ít dấu chân, đầy sắc thái cô liêu.

Thuyền lững lờ trôi. Gần trưa, hai chèo thuyền người Đức nhóm lửa nấu cơm trên thuyền, mời nhóm Blanco cùng ăn. Đói meo, cả bốn vui vẻ nhận lời.

Món chính vẫn là khoai tây hấp thô kệch, khó nuốt, kèm cá muối mất ngon. Nhưng Blanco ăn hứng khởi nhờ món canh: cải trắng và đậu hũ – theo Simón Pérez, là món truyền thống Minh quốc.

Ăn trưa xong, cả nhóm buồn ngủ. Trong lúc Blanco mơ màng, tiếng hoan hô từ xa vọng đến. Anh giật mình, nhìn ra. Cảnh hoang vắng đã biến mất, thay bằng đồng ruộng san phẳng. Ruộng đã gặt xong, xa xa là hai dãy nhà gạch đỏ, ngói đen, gọn gàng, bao quanh bởi tường gỗ và hai tháp canh.

Ngoài tường, gần bờ sông, đám đông tụ tập trên đất trống, như đang họp hoặc làm nghi thức tôn giáo, thỉnh thoảng reo hò.

Thuyền gỗ dừng ở cầu tàu gỗ đơn sơ ven sông. Hai dân binh, lưng đeo súng kíp, hông đeo Gươm M32, bước tới, nói chuyện với chèo thuyền. Một người rời đi báo cáo cấp trên.

Chẳng mấy chốc, dân binh trở lại, dẫn theo một người phương Đông. Người này xem giấy của Blanco, hỏi bằng tiếng Anh: “Ngài Blanco de Almeida từ Bahia?”

Blanco rụt rè gật đầu. “Vâng, thưa ngài tôn quý, tôi đến từ Bahia.”

“Đi theo tôi,” người phương Đông nói. “Thẳng thắn nhé, tôi không lạc quan về thương vụ này. Giao dịch với các ngài quá nhạy cảm. Mời bên này.”

Tại sân phơi đội sản xuất số 1 Định Viễn Bảo, lễ mừng vụ mùa hoành tráng gần kết thúc. Vì ý nghĩa lớn lao, toàn bộ ủy ban trình diện. Nghi thức theo kiểu hội nghị Minh quốc: cao trào là lễ trao giải. Chủ tịch Mã Càn Tổ thưởng 3 nguyên cho năm hộ sản xuất cao nhất, đồng thời tuyên bố họ được thân phận dân tự do.

Nghe Gilberto, phiên dịch tại chỗ, thông báo, năm hộ vui mừng khôn xiết, khiến người khác đỏ mắt. Hàng xóm sớm tối chung sống giờ lĩnh lương, chuộc đất, làm những người còn lại hối hận vì không chăm chỉ cày cấy. Họ âm thầm hạ quyết tâm, mùa tới phải nỗ lực để sớm được tự do.

Sau lễ, Mã Càn Tổ và ủy ban tiếp nhóm Blanco tại trụ sở đội sản xuất.

“Ngài Blanco, nghe nói tổng đốc Bahia đang đau đầu đối phó người Hà Lan,” Cao Ma, ủy viên ngoại giao, mở đầu. “Hà Lan đã chiếm một phần lớn Bahia. Ai biết bước tới họ nhắm vào Rio de Janeiro hay Maranhão? Ở thời khắc nhạy cảm này, chúng tôi muốn trung lập, cấm vận vũ khí cả hai bên. Tham gia cuộc chiến vô bổ là không khôn ngoan.”

“Chúng tôi có thể bán nô lệ,” Blanco đáp, mặt không đổi sắc, biết giờ là lúc cò kè. “Các ngài cần lao động. Chúng tôi có thể chở người da đen từ Congo, Angola, Mozambique đến TartarPort.”

Cao Ma cười khẩy. “Các ngài còn nô lệ dư để bán? Người da đen trốn ở Palmares lập cả quốc gia, tập kích quân đội và nông trường của các ngài, liên minh với Taluá. Tôi không thấy các ngài có bao nhiêu nô lệ để bán.”

Blanco tái mặt. Sao lũ phương Đông biết rõ về Palmares? Hà Lan nói sao? Hay chỉ là tin đồn từ thủy thủ? Anh cố bình tĩnh, mỉm cười. “Như ngài biết, bọn trốn nô lập liên minh Palmares lỏng lẻo. Nhưng điều đó không ảnh hưởng lời hứa. Thương thuyền Bồ Đào Nha đi khắp thế giới, có thủy thủ dày dạn, cảng trải dài từ phương Đông. Nếu không cần người da đen, muốn di dân từ Minh quốc, tôi nghĩ cũng không phải bất khả thi.”

Lời này làm các ủy viên im bặt.

Dân số Đông Ngạn mới nhất là 2.852 người (không tính nô lệ): 567 xuyên không (20%), Đức (18%), Tiệp Khắc (13%), Na Uy (11%), Phần Lan (9%), Ireland (7%), Ukraine (6%), Pháp (5%), Estonia, Latvia, Satsuma (mỗi nhóm 3%), còn lại 2% rải rác. Nô lệ có 497 người: 305 Taluá, 192 tù binh châu Âu.

Dù nhóm xuyên không cố xóa bỏ bản sắc dân tộc di dân, tăng lực gắn kết, nếu có cơ hội di dân từ Minh quốc, nói không động lòng là dối trá.

“Từ Macao qua Goa, đến Lourenço Marques, vượt Đại Tây Dương đến TartarPort. Hành trình gian nan, nguy hiểm, tốn kém. Chỉ để mua vũ khí?” Cao Ma nhìn Blanco, ý bảo đừng xem thường.

“Tất nhiên các ngài trả phí, giá cả thương lượng sau,” Blanco nói. “Đây chỉ là ý tôi, tôi sẽ đề xuất lên tổng đốc, nhưng không đảm bảo ông ấy đồng ý.”

“Tổng đốc chẳng đời nào đồng ý cái ý tưởng điên rồ này!” Cao Ma, bình tĩnh phân tích, thấy trừ phi tổng đốc mất trí, không ai mạo hiểm chọc giận Minh quốc, làm mất mậu dịch Macao – thiệt hại quá lớn. Ý tưởng di dân Minh quốc chỉ là giấc mơ, trừ khi có biến cố lớn.

“Tôi có thể thuyết phục tổng đốc mở mậu dịch Brazil,” Blanco đổi hướng. “Các ngài cần thịt, phô mai, bơ, da lông, đường mía, thuốc lá – chúng tôi xuất khẩu thoải mái. Ngược lại, sản phẩm của các ngài bán sang Brazil. Hiện chỉ vài công ty Anh được ưu đãi này.”

Lại ngân phiếu khống! Cao Ma nghi Blanco quấy rối. Dù ý tưởng hấp dẫn, ai biết Brazil có đổi ý? Ủy ban chỉ tin lợi ích thực tế.

“Chúng tôi có thêm điều kiện,” Cao Ma, sau khi ủy ban thì thào, nói. “Xác định biên giới pháp lý giữa Brazil và Đông Ngạn: hồ Patos về tây, dãy Serra Geral về nam, thuộc Đông Ngạn hợp pháp.”

“Xin lỗi, tôi không quyết được vấn đề lãnh thổ,” Blanco đáp ngay.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 33 : Chương 33: Tây Tiến cùng Quặng Sắt (3)


Trận chiến vẫn tiếp diễn.

Những Tra Lỗ Á nhanh nhất lao đến lưới thép, nhưng lập tức bối rối nhận ra họ không làm gì được lớp lưới mỏng manh này. Kẻ trèo lên bị gai nhọn cắt tay chân, quần áo mắc kẹt, thân thể treo lơ lửng, bất động.

Mông Hổ đứng trong đội, lặng lẽ chờ bắn. Gã tóc vàng trẻ tuổi bên cạnh, Marcus, vung trường mâu, đâm những Tra Lỗ Á xui xẻo mắc kẹt trên lưới. Hắn gào những âm tiết vô nghĩa, dồn sức đâm lặp lại vào một xác Tra Lỗ Á đã chết cứng, cho đến khi lính súng hỏa mai kỳ cựu tát một cái mới tỉnh ra.

“Chim non!” Mông Hổ nhếch mép cười. Hắn tự bội phục, giữa trận chiến ác liệt vẫn cười được. “Ta quả là quái nhân!” Hắn nghĩ, tiến lên, thay bài súng vừa bắn xong, xuyên qua khe lưới thép, chẳng thèm nhìn, nã một phát, rồi lui về. Đám Tra Lỗ Á dày đặc trước lưới khiến tay mơ cũng thành thiện xạ. Chỉ cần súng hỏa mai bắn được, gần chắc chắn hạ một kẻ.

Sự thật máu me, nhưng tàn khốc với Tra Lỗ Á. Ba bốn trăm kẻ xông lên, giờ mất một phần ba, vẫn chen chúc trước lưới thép bất lực, chịu tàn sát theo cách khiến người ta rùng mình.

Mông Hổ không đành lòng nhìn. “Lũ Tra Lỗ Á này ngốc à? Đầu bị lừa đá? Làm thuận dân Nước Cộng hòa Đông Ngạn không tốt sao, sao phải lao vào chịu chết?” Không ai trả lời. Sau một vòng bắn nữa, trước lưới thép trống trải, Tra Lỗ Á cuối cùng ngã gục.

Lính súng hỏa mai bắn thêm vài đợt, hạ gần hết lính súng Tra Lỗ Á phía xa. Hơn 100 Tra Lỗ Á còn lại tan rã, quay đầu bỏ chạy. Ý chí chiến đấu bị lưới thép và súng hỏa mai dập tắt, chỉ còn sợ hãi. Họ mất tổ chức, không màng phản kháng, như thể cuộc xung phong quyết tử chưa từng xảy ra.

Lính súng xuất thân kỵ binh, dưới lệnh Từ Vũ, rời đội, chạy đến ngựa buộc ở cọc gỗ hậu phương. Đã đến giờ họ biểu diễn sở trường.

Trận chiến thực chất kết thúc. Trừ kỵ binh truy địch, lính súng và trường mâu được lệnh giải tán tạm thời. Một số di dân, dưới chỉ huy Xuyên Qua Chúng, ra ngoài lưới thép dọn chiến trường, xử lý thi thể.

Mông Hổ thở dài, lẩm bẩm: “Làm gì không được? Một hai phải làm thổ phỉ! Giờ thì chết sạch. Làm thuận dân ta chẳng tốt sao? Tự làm tự chịu!”

Gã tóc vàng Marcus nắm chặt cán trường mâu, môi mím, nhìn xuống đất, thân hình khẽ run.

Mông Hổ lại thở dài, đếm không xuể hôm nay thở bao lần. Hắn vỗ lưng Marcus, đưa một gói lá thuốc: “Căng thẳng thì nhai vài miếng, cảm giác khá lắm. Lần đầu ra trận?”

Marcus theo bản năng đứng nghiêm: “Báo cáo trưởng quan, đúng ạ!”

“Tiếng Hán khá đấy, nhóc.” Mông Hổ nhai lá thuốc, nói: “Đừng nghiêm túc thế, ta không phải lính. Tên gì?”

“Marcus Saarminen.” Marcus vẫn đứng nghiêm, tàn nhang trên mũi ửng hồng vì căng thẳng.

“Người Phần Lan?” Mông Hổ hỏi bâng quơ. “Phần Lan là nơi tốt.”

“Vâng, tôi từ Oulu, một thành phố đẹp.” Marcus nghe nhắc quê, mắt sáng lên, bớt căng thẳng.

“Chắc vậy, ta chưa đến. Nghe nói đó đang mất mùa?” Mông Hổ nhai lá thuốc, gọi trợ thủ: “Thác Mễ, qua đây!”

Thác Mễ, nhóc 16-17 tuổi, chạy như bay đến trước Mông Hổ, mặt lem khói súng, buồn cười: “Lão sư, gì thế?”

“Chẳng có gì.” Mông Hổ nói. “Đồng hương của ngươi, Marcus Saarminen từ Oulu. Ta nghĩ các ngươi có nhiều chuyện để nói.”

“Ta không rảnh nói chuyện với thằng nhóc!” Thác Mễ lẩm bẩm, liếc Marcus cao lớn: “Người Oulu, ta là Thác Mễ Bội Tác Ninh. Sau này có rắc rối cứ tìm ta, nhưng đừng lúc nào cũng làm phiền, ta bận lắm.”

Marcus ngạc nhiên nhìn Thác Mễ, không hiểu sao bị ghẻ lạnh.

“Thôi, không phải lỗi ngươi. Thác Mễ là thế.” Mông Hổ gượng cười. “Nghỉ đi, ơ, cấp trên gọi ngươi kìa.”

Marcus ngoảnh lại, thấy đội trưởng dân quân gọi di dân dọn chiến trường. Hắn nắm chặt gói lá thuốc, cười ngượng với Mông Hổ: “Tiên sinh, ngài là người tốt, cảm ơn đã quan tâm, tôi rất biết ơn.” Rồi đi.

Sau khi Marcus đi, Mông Hổ vỗ “bốp” vào gáy Thác Mễ, cười mắng: “Nhóc hỗn, đối xử đồng hương thế à, như thể nó nợ ngươi cả đống Doubloon vàng!”

“Gã Oulu từ Cựu Đại Lục ngốc lắm sao?” Thác Mễ bĩu môi. “Ai đồng hương với hắn? Hắn Oulu, ta Helsinki. Giờ ta là người Đông Ngạn! Gã đó cả năm không tắm, hôi như lợn rừng. Hắn không giải phương trình, tính hàm, phân loại động thực vật, đo độ phì đất, quy hoạch nông nghiệp. Ngoài sức trâu, hắn biết gì? Bọn họ sống dưới lừa dối của giáo hội, không hiểu chân lý khoa học, không biết chân lý là tín ngưỡng duy nhất…”

Mông Hổ cứng họng, vừa tức vừa buồn cười: “Ta bảo ngươi chăm sóc nhóc mới, ngươi lôi cả đống lý lẽ ra. Nhóc, tài ăn nói tiến bộ đấy! Thôi, cút về sắp xếp tiêu bản lũ lụt và đà điểu đi.”

“Rõ, lão sư! Việc này ta thích!” Thác Mễ hớn hở, chạy biến về lều.

Mông Hổ ngẩn ngơ nhìn bóng Thác Mễ, không biết nghĩ gì.

“Kỳ lạ à?” Thiệu Thụ Đức bất ngờ xuất hiện sau lưng, nhìn theo Thác Mễ: “Thác Mễ là nhóc tốt, thiên phú khá, chăm chỉ, hiếu học, dễ tiếp thu giá trị quan và lối sống của ta. Là nhân tài ta cần. Tiếp xúc Tân Đại Lục, nó khinh cái vòng nhỏ hẹp ngày trước. Chẳng phải điều ta mong sao? Ta cần nhiều Thác Mễ hơn, lão Mông.”

Mông Hổ gật đầu: “Đúng, ta cần người nhận đồng văn hóa, giá trị quan của ta, ít nhất họ trung thành. Mới xuyên qua, ta không dám mơ có cục diện lớn thế này: gần vạn dân, vạn mẫu ruộng, nhiều lâu đài, chục xưởng, vài chục thuyền, thậm chí đánh bại Tây Ban Nha. Có lúc ta sợ, sợ dân chúng lật đổ ta, xây giáo đường Thiên Chúa, dùng kỹ thuật ta để lại làm cách mạng công nghiệp, di dân, đồng hóa dân bản địa, mở rộng lãnh thổ, như nước Mỹ kiếp trước.”

“Haha,” Thiệu Thụ Đức cười. “Lão Mông, có ý thức nguy cơ là tốt, nhưng đừng lo quá. Giờ là thế kỷ 17, dân bản địa Nam Mỹ hay di dân châu Âu chẳng có ý thức quốc gia, dân tộc. Đổi chủ như cơm bữa. Dân số ta cân bằng, không chủng tộc, tôn giáo nào vượt trội. Nói khó nghe, nếu ai lật đổ ta, họ sẽ đối mặt nội chiến: Cựu Đại Lục đấu Tân Đại Lục, Cựu Đại Lục đấu nhau, thậm chí Tân Đại Lục đấu nhau. Ai cũng biết, dưới ta, họ ăn ngon, sống tốt. Lật ta, họ đánh sống chết. Ai cũng tính được món nợ này. Nên ngắn hạn, ta ngủ yên. Dài hạn, ta giáo dục, tiềm di mặc hóa, đồng hóa họ. Đường khó, nhưng không phải không thể.”

“Đúng vậy,” Mông Hổ nói. “Phải dựa vào mọi người. Đường dài, không êm ả. Như lũ Tra Lỗ Á, ta xâm chiếm không gian sống của họ.”

“Chẳng còn cách nào,” Thiệu Thụ Đức vẫy tay. “Thôi, ta đi làm việc. À, vừa thấy ngươi viết gì đó. Cảnh cáo nhé, đừng hắc ta trên cái tạp chí Địa Lý Quốc Gia vớ vẩn, không thì ta không tha đâu!”
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back