Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美

Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 64 : Quyết chiến: Chủ đề ( 2 )


Lâm Hữu Đức đứng trên tường Định Viễn Bảo, nhìn trận địa Tây Ban Nha. Mưa tuyết liên miên mấy ngày, Tây Ban Nha án binh bất động, thong thả xây doanh trại ngoài tường đông. Trong không khí nặng nề, sáng nay, tuần tra định kỳ, Lâm phát hiện Tây Ban Nha lén dựng hai công sự pháo binh đêm qua.

“Thảo! Lén giở trò!” Lâm đập tường, tức tối. “Lão Ngưu, oanh được hai chỗ đó không? Phá sạch! Tây Ban Nha chắc có âm mưu. Chỉ với mấy khẩu Pháo M33 4, 6 pound, chúng không dám dựng trận địa gần đây. Chúng có trọng pháo rồi!”

Ngưu Đức, chỉ huy pháo binh, trạm trưởng trạm canh gác 2, đo khoảng cách và phương vị, gật đầu: “Thử xem, chắc đánh được.”

Đông tường Định Viễn Bảo có hai lầu xông ra, mỗi lầu một khẩu Pháo M33 18 pound và hai khẩu 12 pound, đặt trên xe pháo bốn bánh, cơ động. Dưới lệnh Ngưu Đức, ba khẩu pháo được đẩy ra chính diện lầu xông ra. Ông lấy kính viễn vọng đo khoảng cách, bắt đầu bắn thử.

“Số 1, số 2, số 3, thống nhất nạp 3 pound thuốc phóng, góc pháo hạ -1 độ. Nạp đạn!” Ngưu Đức bình tĩnh ra lệnh.

Pháo thủ lấy gói thuốc 3 pound từ rương đạn sau xe pháo, nạp vào nòng, nhét đạn sắt, nén chặt. “Bắn!” Ngưu Đức cắm thanh sắt đỏ vào cửa châm pháo.

“Oanh! Oanh! Oanh!” Ba khẩu pháo giật lùi, đuôi lửa phun ra, ba viên đạn sắt xuyên mưa tuyết, rơi quanh mục tiêu theo hình chữ phẩm.

“Số 3, 18 pound, tăng thuốc lên 4.5 pound, góc không đổi; số 1, số 2, nạp 4 pound, góc điều chỉnh 0 độ,” Ngưu Đức chỉnh tham số. Trong tuyết lớn, quan sát điểm rơi khó khăn, phải căng mắt kẻo bỏ sót.

“Oanh! Oanh! Oanh!” Pháo gầm, đạn lại gào thét bay. Lần này chuẩn hơn: viên 18 pound sượt qua công sự, cắm vào tuyết phía sau; hai viên 12 pound rơi gần.

“Số 3, giữ thuốc, hạ góc -2 độ; số 1, số 2, nạp 4.5 pound, không đổi khác. Sẵn sàng… Bắn!” Ngưu Đức giơ kính viễn vọng, chậm rãi ra lệnh.

Ba viên đạn bay ra. Lần này trúng đích: viên 18 pound đập công sự phía trước, gạch đỏ văng tung; viên 12 pound xuyên mái công sự, rơi xuống tuyết phía sau.

“Haha! Đánh tốt!” Lâm Hữu Đức vỗ tường, cười lớn. “Tiếp tục! Đập nát hai khẩu pháo đó!”

Pháo Tarta bắn rát, Tây Ban Nha không ngồi yên. Pháo binh họ vào vị trí, nạp đạn phản kích. Hai khẩu pháo trong công sự bắn liên tiếp: viên đầu rơi cách tường vài mét, viên thứ hai trúng hào, phá băng, bắn cột nước.

“Pháo M33 18 pound hải quân!” Ngưu Đức nhíu mày. “Tây Ban Nha lão rích rắc, tháo pháo từ tàu, kéo đến đây, mệt chết người ngựa!”

Pháo Tây Ban Nha bắn nhanh, thể hiện chuyên nghiệp. Đợt hai, hai viên 18 pound trúng tường lầu xông ra, làm rơi lớp xi măng vôi. Tổn hại tường chưa rõ.

Ngưu Đức chuyển sang lầu phía bắc, chỉ đạo ba khẩu pháo còn lại tham chiến. Sáng 12 tháng 7, pháo chiến bùng nổ. Tarta có sáu khẩu (Pháo M33: hai 18 pound, bốn 12 pound); Tây Ban Nha chỉ có hai 18 pound hải quân.

Thực lực chênh lệch rõ. Pháo Tarta như mưa dội quanh hai khẩu Tây Ban Nha. Đến 8 giờ sáng, một công sự Tây Ban Nha sụp hoàn toàn, pháo thủ bị gạch đè, thương vong nặng. Pháo Tarta trên lầu chưa bị thiệt hại, đạn Tây Ban Nha chủ yếu trúng tường, chuẩn nhất chỉ làm vỡ một viên gạch trên cột lầu.

Giữa trưa, khẩu pháo Tây Ban Nha còn lại tiêu tùng. Viên 12 pound xuyên cửa sổ công sự, trúng xe pháo, phá tan, không sửa được.

Pháo thủ Tây Ban Nha sống sót rút về doanh trại. Chiều, hai bên ngừng bắn, tiếp tục giằng co.

Gió tuyết mạnh lên, kỵ binh Tarta dẫn ngựa, khó nhọc di chuyển trên đồi nam Đại Ngư Hà. Bắc ngạn yên ắng, nhưng nam ngạn, giao tranh kỵ binh ngày càng ác liệt.

Tây Ban Nha điều 200 kỵ binh từ Peru và 200+ người Cao Kiều về nam ngạn, vừa săn kỵ binh Cô dắc, vừa hộ tống hậu cần. Vụ tập kích ngày 10 (Chương 63) khiến họ mất 80+ người, nhiều ngựa, hỏa dược, đạn, lương thực, và đồ chống lạnh.

Tiền tuyến Tây Ban Nha cắt giảm 1/3 lương thực, nhiều lính bệnh vì lạnh, sĩ khí sa sút, lan truyền lời chế nhạo chỉ huy. Torres thành mục tiêu châm biếm số một. Một chuyện cười phổ biến: Antonio Carlos hỏi Torres: “Nếu tuần tra đêm, bị Tarta ôm chặt tay từ sau, anh làm gì?” Torres đáp: “Thân ái, thả tôi ra.” Đủ loại chuyện như thế.

Để xoay chuyển, Antonio Carlos ra lệnh Torres dẫn đa số kỵ binh qua nam Đại Ngư Hà, truy lùng Tarta, tiêu diệt họ.

Tarta cũng tăng cường kỵ binh. Họ bổ sung tổn thất cho kỵ binh doanh, thêm 82 bộ binh biết cưỡi ngựa, lấy ngựa kéo và ngựa tạp, lập trạm canh gác bộ binh cưỡi ngựa, trang bị Súng trường Toại Phát M32-B, sĩ quan đao tam hai năm thức, kỵ thương 2.7 mét, do Từ Vũ, trung úy, đại lý doanh trưởng, chỉ huy.

Hai bên dồn lực về nam Đại Ngư Hà. Hàng trăm kỵ binh qua lại hơn 100 km từ La Higuera đến Định Viễn Bảo, rình cơ hội hạ đòn chí mạng.

Từ Vũ lấy kính viễn vọng nhìn xa. Uruguay tiểu băng hà lạnh giá, tuyết lớn phủ trắng. Đường đầy vết bánh xe – dấu đoàn xe Tây Ban Nha. “Đoàn xe họ đến đâu? Bao nhiêu lính hộ tống?” ông nghĩ, hỏi Leonid Fedorovych Kovalenko: “Anh điều tra đoàn xe Tây Ban Nha khi nào?”

“Sáng 10 giờ. 25 xe lớn, bốn khẩu pháo, xa phu và lính hộ tống khoảng 120. Chủ yếu trường mâu binh, Hỏa Thằng Thương binh chỉ 1/4,” Leonid, dẫn ngựa đi bộ, đáp.

“10 giờ sáng… Ba giờ trước, họ chưa đi xa. Nhanh chân lên, đuổi kịp!” Từ Vũ ra lệnh. Đội 189 kỵ binh tăng tốc, dẫn ngựa qua đồi, xuống đồng bằng. 20+ kỵ binh Cô dắc lên ngựa, tỏa ra làm thám báo.

3 giờ chiều, tuyết ngớt. Đội kéo thành ba hàng thưa dài, đuổi đoàn xe Tây Ban Nha. Bỗng, vài Kazaki phi về, hét: “Kỵ binh Tây Ban Nha! Phía sau! Họ phát hiện ta!”

“Phần phật!” Kazaki lên ngựa, rút dao bầu, nạp đạn Súng lục Toại Phát M33. 82 bộ binh cưỡi ngựa tụ ngựa, xếp trận trước ngựa, để kỵ thương bên, nạp đạn Súng trường Toại Phát M32-B.

Chiến đấu sắp bùng nổ.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 64 : Gian Nan Công Nghiệp Tiến Bộ (2)


“Vì sao?” Thiệu Thụ Đức ngơ ngác hỏi Mã Giáp trong văn phòng Quốc Vụ Viện, tay vẫn cầm ly pha lê đục ngầu. “Tiền để đấy không kiếm?”

“Nghe ‘tiểu nhi phố xá sầm uất cầm kim’ bao giờ chưa?” Mã Giáp, nhấp cà phê Tân Granada, cười khẩy. “Kiếm lắm tiền làm gì? Năm nay ta cân bằng thu chi, còn lãi chút. Sang năm, thị trường vải Đông Ngạn mở rộng, tài chính bùng nổ. Ngươi muốn bao nhiêu tiền nữa? Đùa chút, 13.000 dân ta tạo ra GDP bình quân, tính sức mua, chắc hơn vạn đôla—đời sau cũng gọi là nước phát đạt! Người ít, lực yếu, kiếm tiền để gây lạm phát hay mời cướp biển, châu Âu tới c·ướp b·óc?”

“Hắc hắc,” Thiệu Thụ Đức gật gù, nhưng thở dài. Dân số đúng là nút thắt. Mở rộng di dân thì nguy: cả châu Âu lẫn Minh quốc, mỗi năm chỉ nhận được định mức. Vượt ngưỡng, với số cán bộ và tuyên giáo hiện tại, Đông Ngạn sẽ “nuốt không trôi”, căng đến ch·ết. Gã lẩm bẩm: “Đau đầu thật, tả hữu khó xử!”

Hai người trò chuyện thêm, nhưng Thiệu Thụ Đức thấy chẳng xin thêm được gì, đành chạy ra bến cảng Phương Đông Cảng, đi tàu về Trấn Hải Bảo. Từ đó, gã nhảy lên tàu chở than về Bình An Trấn sau ba tuần xa cách. Trước gã, năm tàu nước cạn của tổ công tác quặng sắt đã cập bến Bình An Trấn, chuẩn bị chở 400 di dân và tiếp tế phẩm.

Thiệu Thụ Đức không gặp Tiền Hạo, nghe bảo gã này chạy tới Đại Ngư Hà Công Binh Xưởng thúc máy dệt. Gần bến, công nhân tất bật xây gì đó bên xưởng thép Bình An Trấn. Đông Ngạn giờ là cường quốc dệt: đến tháng 11 năm 1635, bán 82.000 thất vải bông trắng, 4.000 thất len dạ, lãi khủng. Thêm Tư Khoa Niết (Pháp Tây Nam) mua 65.000 thất, chảy vào thị trường Pháp qua Conseil Gia Tộc. Tây Ban Nha, qua Thêm Tư Khoa Niết tới La Plata, Thượng Peru, mua 12.000 thất vải bông, 4.000 thất len dạ. Brazil, Pháp thuộc Thánh Đa Minh Các, Đông Florida tiêu thụ 5.000 thất. Tình hình vượt mong đợi.

Nhờ Chấp Ủy Hội và Quốc Vụ Viện ủng hộ, báo cáo của Đào Minh Huy, cục trưởng Công nghiệp Dệt Tổng cục, về mở rộng và cải tiến xưởng dệt máy Bình An Trấn được phê ngay. Trung ương cấp tiền, thiết bị, công nhân, mở “đèn xanh” toàn diện. Xưởng dệt Bình An nổi như cồn.

Báo cáo của Đào Minh Huy có ba điểm:

Mở rộng thị trường năm 1636, cần thêm máy cán bông, dệt lụa, dệt vải; tuyển công nhân, đẩy sản lượng vải bông lên 200.000 thất.

Sản phẩm đơn điệu (chỉ vải bông trắng), cần máy dệt vớ dài, khăn quàng, khăn lông, thảm bông, đa dạng hàng hóa, c·ướp l·ợi nhuận (dù khiến thợ thủ công phá sản).

Đánh thị trường vải nhuộm, in hoa (hiện Ấn Độ thống trị), cần Bộ Hóa chất nghiên cứu thuốc nhuộm nhân tạo rực rỡ.

Báo cáo gây náo loạn. Máy móc thì dễ, Đại Ngư Hà Công Binh Xưởng và Đệ Nhất Xưởng Máy Móc tăng ca sản xuất. Công nhân cũng ổn: 800 thợ dệt Pháp và gia đình được chuyển tới Bình An Trấn mới, huấn luyện thành công nhân dệt công nghiệp Đông Ngạn. Nhưng máy dệt vớ, khăn, thảm cần nghiên cứu nguyên lý, sản xuất linh kiện, mất cả năm. May là châu Âu có máy dệt vớ, lần sau có thể mua về “mổ xẻ”.

Thuốc nhuộm là đau đầu nhất. Châu Âu dùng thuốc tự nhiên: lam từ chàm, tùng lam; đỏ từ rệp son, hồng thảo, gỗ đỏ Brazil, khoáng vật; tím từ địa y, ốc bối. Nguyên liệu hiếm, chiết xuất phức tạp, giá ngang vàng, chỉ quý tộc, vương thất dùng. Thuốc tự nhiên phai màu nhanh khi giặt xà phòng hoặc phơi nắng. Nếu Đông Ngạn tạo được thuốc nhuộm hóa học, sẽ “hạ gục” thuốc tự nhiên về độ rực, bền. Nhưng Chấp Ủy Hội và Quốc Vụ Viện thận trọng: thuốc nhuộm “đắt như vàng” dễ mời họa, thu hút kẻ tham. Họ cho phép nghiên cứu phòng thí nghiệm, nhưng sản xuất công nghiệp thì “tính sau”. Với vài giáo viên hóa học và công nhân nhà máy, khả năng thành công bị nghi ngờ.

Bộ Hóa chất không chịu thua. Một cựu công nhân lò than đề xuất: dùng aniline từ dầu hắc, kết hợp axit thành muối axit, thêm chất oxy hóa như potassium dichromate, tạo thuốc nhuộm aniline tím—như hãng Bách Cầm từng làm. Từ aniline, có thể tạo thuốc vàng, xanh, đỏ. Dầu hắc, phụ phẩm luyện than cốc, trước đây chỉ làm sơn, nay là “kho báu” với benzen, aniline, nhựa đường, dầu châm.

Gần xưởng thép Bình An Trấn, lò luyện than cốc mọc lên, chưng khô than đá phấn tạo than cốc cho luyện thép. Ban đầu, khí than, dầu hắc thải thẳng ra môi trường. Sau khi Quốc Vụ Viện yêu cầu thu dầu hắc, Bộ Hóa chất đề xuất thêm thiết bị làm lạnh khí, tách dầu hắc. Lò vừa xây, lại cải tạo. Kỹ sư “gà mờ” mò mẫm, Bộ Hóa chất dùng thiết bị từ Hà Nam Pha Lê Xưởng để thí nghiệm: chưng khô than đá phấn trong thùng thép nhỏ, làm lạnh khí lấy dầu hắc. Nhưng họ chỉ biết vài thành phần, điểm sôi đại khái, phải thử nghiệm nhiều để xác định, chuẩn bị tách dầu hắc sau này.

Tại Bình An Trấn, Thiệu Thụ Đức thấy công nhân tháo ống khói lò than cốc, xây ống làm lạnh khí dài ngoằng, mò mẫm thiết kế. Gã cười khẩy: “Luyện than cốc thôi, giờ thêm trò thu dầu hắc! Lần đầu cả, từ từ mò, đi vòng cũng là tài sản.”

Năm tàu nước cạn của tổ than đá neo tại bến Bình An Trấn, chờ 400 di dân cho Trường Sơn Bảo, tối mới đến. Công nhân dỡ tiếp tế: rau, thịt muối, sữa, rượu, khoai tây, và gạo—hàng xa xỉ. Nhờ khí hậu ấm và nước dồi dào, di dân Minh quốc ở Bình An Trấn trồng lúa nước, thu hoạch một vụ năm ngoái. Gạo quá quý, họ không ăn, chở hết về Phương Đông Cảng bán cho giới tiêu dùng lớn nhất nước.

Chiều, di dân tới. Thiệu Thụ Đức tổ chức thủy thủ đưa họ lên tàu. Xong, năm tàu giương buồm xuôi nam, hướng Trường Sơn Bảo, nơi đang ngóng chờ.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 65 : Quyết chiến: Chủ đề ( 3 )


Chương 65: Xuyên qua 1630 chi quật khởi Nam Mỹ (Phần 3: Chủ đề, 13 tháng 7 năm 1633)

Sáng sớm, Lâm Hữu Đức tỉnh giấc, sững sờ thấy ngoài tường đông Định Viễn Bảo mọc thêm bốn công sự pháo binh Tây Ban Nha. Hai công sự bị phá hôm qua (Chương 64) cũng được sửa chữa. Sáu khẩu Pháo M33 xếp hàng, nòng đen ngòm chĩa vào tường.

“Thật mẹ nó bám riết không tha!” Lâm thở dài. “Đêm khuya không ngủ, lén đào công sự. Tưởng sáu khẩu pháo oanh sập tường lão tử sao?” Ông chợt nhớ một tiểu thuyết quân sự từng đọc, về trận công-phòng Sevastopol giữa Nga và liên quân Anh-Pháp-Thổ Nhĩ Kỳ. Liên quân dùng hàng trăm pháo oanh sập tường Nga, nhưng đây chỉ có sáu khẩu, “đỉnh cái trứng dùng!” Lâm tự trấn an.

7 giờ sáng, pháo chiến bùng nổ. Hai bên ngang sức: Tarta sáu khẩu (Pháo M33: hai 18 pound, bốn 12 pound), Tây Ban Nha sáu khẩu (đường kính nòng lớn hơn). Đến trưa, trận địa cả hai hỗn loạn.

Tây Ban Nha mất ba công sự: hai sụp, một khẩu pháo hỏng hoàn toàn. Định Viễn Bảo cũng thê thảm: hai lầu xông ra tường đông vỡ nát, một khẩu 12 pound trúng đạn, hỏng, bốn pháo thủ thương vong.

Đến 12 giờ trưa, hai bên ngầm hiểu, ngừng bắn.

Sau buổi sáng ác liệt, Lâm Hữu Đức và Ngưu Đức mất vẻ thoải mái. Tây Ban Nha liên tục bắn trúng lầu xông ra, dù thương vong nhẹ, làm pháo binh trạm 2 xám mặt, tường nhiều chỗ hư hại. “Ngày trước đè hai khẩu pháo Tây Ban Nha, sướng như đánh golf. Giờ sáu khẩu, áp lực đè đầu!” Lâm than. Nếu mai họ thêm pháo, Lâm và Ngưu đau đầu. “Chấp Ủy Hội và lục quân đâu? Cắt đứt đường vận chuyển Tây Ban Nha đi, giảm áp lực cho lão tử! Đánh thế này, không xong đâu!”

Tiếng vó ngựa trầm như sấm vang trên đồng. Xa xa, đường chân trời hiện một vệt đen – kỵ binh Tây Ban Nha.

Ngựa hí bất an, Từ Vũ biết mình trúng số độc đắc: truy đoàn xe Tây Ban Nha, lại đụng kỵ binh chủ lực. Từ thợ săn thành con mồi, ông hơi rối. Chấp Ủy Hội và lục quân tăng lực nam Đại Ngư Hà, va chạm với Tây Ban Nha là tất yếu. Trong khu vực hẹp, hai bên cơ động mạnh, tránh mặt mới lạ.

Định Viễn Bảo giằng co, pháo chiến “không đau không ngứa”. Tây Ban Nha, kẻ tấn công, phải nhổ “cái đinh” này mới dám tiến. Tarta áp dụng chiến thuật “ngươi đánh ngươi, ta đánh ta” từ quân sự Trung Quốc cổ, tập trung quấy rối đường vận chuyển nam Đại Ngư Hà, suy yếu sĩ khí và năng lực Tây Ban Nha. Nếu cần, tăng quân nam ngạn để đạt kết quả lớn.

Kỵ binh Tarta, lực cơ động mạnh, dẫn đầu quấy rối. Tây Ban Nha, để bảo vệ hậu cần, tung đa số kỵ binh. Xung đột là không tránh khỏi.

Từ Vũ giơ kính viễn vọng, thấy kỵ binh Tây Ban Nha đông như hội. Với 100+ kỵ binh chính quy và chưa tới 100 bộ binh cưỡi ngựa, đánh trực diện không khôn. Ông quyết định rút lên đồi dốc bên phải, địa hình bất lợi cho kỵ binh Tây Ban Nha, dựa vào hỏa lực (Súng lục Toại Phát M33, Súng trường Toại Phát M32-B) để cầm cự, bảo toàn lực lượng.

Kỵ binh Cô-dắc dưới tiếng quát quan quân, rút nhanh lên dốc. Bộ binh cưỡi ngựa theo sau, giữ khoảng cách. Tây Ban Nha tăng tốc, thu hẹp khoảng cách. Người Cao Kiều, áo giáp da đơn sơ, vung dao bầu, dẫn đầu xông tới.

Kỵ binh Cô-dắc lên lưng chừng dốc, nơi chiến mã mất tốc độ, bất lợi cho Tây Ban Nha. Bộ binh cưỡi ngựa, đảm nhiệm cản hậu, vừa tới mép dốc, cách Người Cô-dắc một đoạn.

Vài người Cao Kiều liều lĩnh vào tầm Súng trường Toại Phát M32-B, tung hoành quanh đội hình mỏng của bộ binh cưỡi ngựa, kiêu ngạo.

“Phi! Mọi rợ! Ngốc bức năm nào cũng có, năm nay đặc biệt nhiều!” Ngụy Ivan, trạm trưởng bộ binh cưỡi ngựa, lão binh từng trải (Chương 63), quát. “Cho chúng một bất ngờ! Một loạt, nửa mặt trái, giơ súng… Sẵn sàng, bắn! Nhì bài, quỳ, ba hàng thẳng, nhì bài tề bắn… Sẵn sàng, bắn! Bốn bài, phải cong, giơ súng… Sẵn sàng, bắn!”

Các bài thay phiên bắn, hạ vài người Cao Kiều nhảy nhót. Không phải quân chính quy, thấy súng Tarta tầm xa, họ chửi Tây Ban Nha, tản ra, chạy khỏi tầm bắn.

Bộ binh cưỡi ngựa quay sau, chạy chậm, giữ đội hình thưa, rút lên dốc trước khi kỵ binh Tây Ban Nha chủ lực tới, xếp trận chặt chẽ.

Torres, thượng úy Tây Ban Nha, dẫn 400 kỵ binh, dừng cách dốc 100 mét. Qua kính viễn vọng, ông thấy Tarta khoảng 200 người: hơn nửa cưỡi ngựa, đội hình thưa; còn lại xuống ngựa, vác sĩ quan đao tam hai năm thức, cầm Súng trường Toại Phát M32-B, kiểu bộ binh cưỡi ngựa Châu Âu.

Tarta ít quân, tránh chiến, hợp lý. Torres muốn tấn công, nhưng dốc bất lợi. Cơ hội hiếm hoi bắt được kỵ binh Tarta, mà không thể diệt, ông chán nản. Tarta có Súng lục Toại Phát M33 và Súng trường Toại Phát M32-B, hỏa lực mạnh. Nếu không dùng số đông, dao bầu, kỵ thương trên đồng bằng, Tây Ban Nha không có cơ hội, vì hỏa lực Tarta dễ dàng đè bẹp kỵ binh vũ khí lạnh.

Hai bên giằng co, phản ánh chiến lược: Tây Ban Nha chiếm thượng phong, nhưng ưu thế mong manh, có thể đảo ngược bất ngờ.

Nửa giờ trước hoàng hôn, như ngầm thỏa thuận, hai bên rút quân trong gió lạnh, lần chạm mặt đầu tiên kết thúc qua loa.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 65 : Chương 65: Gian Nan Công Nghiệp Tiến Bộ (3)


Tháng 12, thảo nguyên Đông Ngạn bước vào đầu hạ, nhưng ở Trường Sơn Bảo, nhiệt độ chỉ 18 độ C. Gió lạnh mang mùi tanh từ Y Hà thổi tới, khiến Thiệu Thụ Đức khoan khoái. Năm tàu nước cạn, chở 400 di dân, rời Y Hà, rẽ bắc vào kênh đào nhân tạo nối quặng sắt Trường Sơn Bảo với Y Hà. Trước đây, Thiệu Thụ Đức dẫn đội khơi thông Y Hà, rồi xin Chấp Ủy Hội triệu nhân lực mùa đông, đào kênh, dẫn nước vào đập chứa nhân tạo giữa đầm lầy. Sau một mùa đông, kênh đào hoàn thành, nối toàn tuyến.

Với trình độ hậu cần Đông Ngạn, khu nội địa rời xa sông ngòi là “ác mộng”. Thời đại này, vận tải kém, chưa có xe lửa hơi nước, chi phí đường bộ cao ngất, đặc biệt ở vùng hoang vu như Đông Ngạn. Các cứ điểm từ La Hiệp Cảng (phía nam) đến Bình An Trấn (phía bắc), từ Phương Đông Cảng (đông) đến Trường Sơn Bảo (tây), đều dựa vào vận tải đường thủy—rẻ và hiệu quả.

Quốc Vụ Viện có “Đại Vận Hà Kế Hoạch” tham vọng: từ nam Mễ Lâm Hồ, kéo dài Khâu Y Hà, xây đập, đào kênh qua vùng đầm lầy giữa Mễ Lâm Hồ và Áp Tử Hồ, nối tới Đại Ngư Hà. Kênh này sẽ liên kết toàn bộ hệ thống thủy: Y Hà, Mễ Lâm Hồ, Lưỡng Hồ Kênh Đào, Áp Tử Hồ, Vịt Hà, Than Đá Hà, Bình An Hà, Khâu Y Hà, Đại Vận Hà, Nội Cách La Hồ, Đại Ngư Hà, giảm lệ thuộc hải vận ven biển, cải thiện giao thông nội địa, đảm bảo an toàn thời ch·iến.

Tại giao điểm kênh đào và Y Hà, một phong hỏa đài nhỏ mới xây, đóng 11 dân binh, kiên cố, chứa lương thực, nhiên liệu, đủ thủ vài tuần. Gần đây, mã phỉ hoành hành hai bờ Y Hà, quấy nhiễu Trường Sơn Bảo và Hạ Y Hà Bảo. Chúng cưỡi ngựa, nhiều kẻ hai ngựa, trang bị dao bầu, súng kíp, thậm chí súng lục Toại Phát đắt đỏ, tung hoành qua Tây Lĩnh, tập kích cứ điểm Đông Ngạn.

Chấp Ủy Hội và Quốc Vụ Viện điều ba trạm canh gác từ doanh kỵ binh, mở rộng lực lượng, đối đầu mã phỉ. Nhưng thảo nguyên mênh mông, kỵ binh ít, hiếm khi chạm mặt, khiến mã phỉ vẫn lộng hành. Thiệu Thụ Đức vắt óc: xây phong hỏa đài, giăng lưới sắt, “quét sạch” bộ lạc Tra Lỗ Á gần đó để cắt tiếp tế, đào hào, dựng lũy. Gã còn yêu cầu Chấp Ủy Hội gây áp lực ngoại giao, buộc Tây Ban Nha ở La Plata kiềm chế dân chăn nuôi Cao Kiều, cấm vượt biên.

Nhưng kháng nghị vô ích. Tây Ban Nha ở Buenos Aires còn phái đặc phái viên tới Phương Đông Cảng, cáo buộc Đông Ngạn dung túng phiến quân Araucanía (Peru tổng đốc khu), bí mật cung cấp v·ũ kh·í. Mâu thuẫn và bất tín giữa hai bên đã sâu sắc.

Trên đầu tàu, Thiệu Thụ Đức thấy quốc kỳ bay trên phong hỏa đài, dân binh vẫy tay chào, gã thở phào: “Còn nguyên, chắc không có biến lớn.” Thủy thủ dưới khoang hô hiệu, chèo mái, đẩy tàu vượt dòng. Gặp nghịch lưu hay lặng gió, họ phải chèo tay, chậm chạp, tốn sức. Thiệu Thụ Đức thầm mơ một con tàu hơi nước, dù không phải máy dầu ma dút, ít ra cũng động lực hơi nước. Nhưng gã thở dài: xuyên qua chúng thiếu nhân tài, nồi hơi nhỏ còn nổ, trông mong gì!

Tàu dừng tại bến quặng sắt Trường Sơn Bảo, đồn trú một tiểu đội sáu lính, doanh trại, vọng tháp kiên cố. Di dân run rẩy bước lên bờ, Thiệu Thụ Đức cho họ nghỉ, ăn uống, chiều lên khu mỏ. Gã chẳng kịp ăn, cầm hai bánh nhân thịt từ bếp bến cảng, dẫn tùy tùng, cưỡi ngựa phi tới khu mỏ, lo lắng sau hơn một tháng vắng mặt.

Khu mỏ không khả quan: mưa liên miên, thợ không làm việc được, hầm ngập nước, khai thác khó khăn. May mắn, Đệ Nhất Xưởng Máy Móc đã gửi bơm nước hai tháng trước, đa phần dùng súc vật kéo, trừ một máy hơi nước “thảm không nỡ nhìn”. Máy này, từ Đệ Nhất Xưởng, thường xuyên “bò ổ”: gia công kém, vật liệu yếu, kín không chặt. Thiết kế cũng lạc hậu, chưa thoát mức nồi hơi nút mở cửa thời Watt, dù có cải tiến nhờ lý thuyết nhiệt lực học đời sau. Nhà thiết kế Lý Hồng Tinh, cựu giáo viên vật lý, chọn khí lu đôi, đẩy pít-tông hai chiều bằng hơi nước, hiệu quả hơn nút mở cửa dựa áp suất khí quyển, áp lực trên 1 atm. Nhưng thiếu cán cong, chỉ vận động thẳng, dùng bơm nước, không làm động lực.

Hôm nay, Thiệu Thụ Đức may mắn thấy “Dã Man Nhân -1” (tên đầy ác ý) hoạt động, bơm nước đục từ hầm ra mương. Gã lo lắng nhìn nồi hơi bốc khói, nhớ lời Từ Văn Tuyển: “Máy này, lộng không khéo là nổ tung!” Lý Hồng Tinh, mặt đen nhẻm than, cười khoe răng trắng: “Đệ Nhất Xưởng gửi linh kiện mới, ta với anh em mày mò, khởi động lại được. Mưa thế này, vừa hay dùng!”

Thiệu Thụ Đức gật đầu, thấy nhà thiết kế chẳng sợ, gã làm lãnh đạo mà né thì quê. “Máy này mạnh hơn bơm súc vật, tiếc là hay hỏng, dùng chẳng bền. Cải tiến tiếp đi!”

“Đương nhiên mạnh!” Lý Hồng Tinh hét át tiếng nồi hơi. “Thử với ngựa Andalucía, mạnh bằng tám con—tám mã lực! Không ăn uống, chạy 24 giờ, chỉ cần nhiên liệu. Nhưng linh kiện kém, thiết kế lỗi, cải tiến khó. Thiếu máy móc chính xác, nhiều thứ làm tay, sai lệch lớn. Khuôn đúc cũng không chuẩn. Chỉ từ từ cải thiện. Nhưng ‘Dã Man Nhân’ này ăn đứt máy Watt, haha!”

“Ừ, tăng hiệu suất nhiệt, giảm thể tích, tiết kiệm than, nâng công suất—mục tiêu vĩnh cửu của các ngươi,” Thiệu Thụ Đức đùa. “Chưa sản xuất đại trà được, ta tự làm dùng trước. Cải tiến thiết kế, chờ công nghiệp khác tiến bộ, từ từ, không vội. Ta đâu định bán máy hơi nước cho châu Âu!”

Hơn tháng qua, Thiệu Thụ Đức chạy khắp Phương Đông Cảng, Trấn Hải Bảo, Bình An Trấn, chứng kiến Đông Ngạn gian nan tiến bộ công nghiệp. Kỹ thuật không chỉ cần nguyên lý, mà cả hệ thống công nghiệp phức tạp. Mọi bước tiến đều quý giá, như chính quốc gia này—gian khó nhưng kiên trì.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 66 : Quyết chiến: Chủ đề ( 4 )


Ngày 16 tháng 7, trời quang, nhiệt độ -2°C.

Trong khi Lâm Hữu Đức tại Định Viễn Bảo đau đầu vì Tây Ban Nha thêm hai khẩu Pháo M33 trong đêm (Chương 65), cách đó 10 km, Bành Chí Thành tiễn một đội quân chuẩn bị xuất phát.

Đội này gồm lõi là 82 lính trạm canh gác 5 bộ binh, thêm pháo binh trạm 1 và Taluá, tù binh Châu Âu làm trường mâu binh, tổng cộng hơn 250 người. Chỉ huy là Liêu Mãnh, thượng úy, phó doanh trưởng doanh 1 bộ binh; phó chỉ huy là Chu Lượng, thượng úy, huấn quan doanh 1. Nhiệm vụ: cắt đường tiếp viện Tây Ban Nha nam Đại Ngư Hà.

Liêu Mãnh chào Bành Chí Thành lần cuối, lên ngựa, tiến về tây nam. Tây Ban Nha tập trung chủ lực tại Định Viễn Bảo, chỉ để 100+ Hỏa Thằng Thương binh phòng thủ hậu phương. Chấp Ủy Hội không bỏ lỡ cơ hội, sau khi lập trạm bộ binh cưỡi ngựa từ trạm 6 (Chương 64), nay điều đội Liêu Mãnh với lõi là trạm 5.

Đội Liêu Mãnh có 82 Súng trường Toại Phát M32-B binh, 100 trường mâu binh (trang bị ít Hỏa Thằng Thương và Súng trường Toại Phát M32-A), 45 pháo binh (8 Pháo M33), và hậu cần, tổng cộng 256 người, cùng 40 xe lớn, 150 ngựa kéo, 30+ ngựa tạp. Theo lệnh Chấp Ủy Hội, Liêu Mãnh chỉ huy toàn bộ lực lượng, gồm kỵ binh doanh, trạm bộ binh cưỡi ngựa, và trạm 5. Sau nửa ngày hành quân tây nam, đội hội quân với kỵ binh doanh (107 lính) và trạm bộ binh cưỡi ngựa (82 lính), lực lượng tăng mạnh. Gặp lại kỵ binh Torres, Liêu Mãnh tự tin đánh một trận.

Ngày 17 tháng 7, đội hợp lưu tiến vào khu vực đoàn xe Tây Ban Nha thường qua, sẵn sàng cắt đường tiếp viện. 8 giờ sáng, kỵ binh Cô-dắc báo phát hiện quân Tây Ban Nha. Không bất ngờ: 400 kỵ binh Torres hoạt động ở đây, không thể không thấy đội Liêu Mãnh đông đảo.

Giữa trưa, hai bên gặp nhau trên đồng bằng. Bất ngờ, Tây Ban Nha có thêm 300+ bộ binh, có vẻ từ bắc Đại Ngư Hà tăng viện. “Họ coi trọng đường tiếp viện thật!” Liêu Mãnh nghĩ.

“Xếp trận, nghênh chiến!” Liêu Mãnh ra lệnh. Hậu cần đỗ 40 xe bên trái, lấy Súng trường Toại Phát M32-A, Hỏa Thằng Thương, phòng cánh trái. Trung lộ, 100 trường mâu binh xếp trận 20x5, mỗi hàng 20 người, cách 1.5 mét, phía sau là 164 Súng trường Toại Phát M32-B binh (trạm 5, trạm 6). Kỵ binh doanh (107 lính) trấn cánh phải. Giữa các cánh, mỗi bên 4 Pháo M33, pháo thủ nạp đạn.

Quan quân quát tháo, binh lính xếp trận. Kỵ binh Cô-dắc và Súng trường binh quen việc, nhiều lão binh khí định thần nhàn, trấn an tân binh. Trường mâu binh (hải tặc, dân bản xứ) lóng ngóng, bị quan quân quất Đao sĩ quan M32 mới miễn cưỡng xếp trận. Để khích lệ, quan quân hứa đặc xá tội, cấp tự do và 10 nguyên cho ai trụ đến cuối trận. Sĩ khí trường mâu binh khá hơn chút.

Tây Ban Nha có 300+ bộ binh, hơn nửa là Hỏa Thằng Thương binh, xếp trận thưa, kèm vài khẩu Pháo M33 nhỏ. Nhưng họ trông vào 400 kỵ binh để thắng.

Quả nhiên, kỵ binh Tây Ban Nha tăng tốc, nhắm cánh phải kỵ binh Cô-dắc. Đánh bại kỵ binh doanh, họ sẽ chiếm chủ động, muốn đánh thì đánh, muốn đi thì đi. Bộ binh Tây Ban Nha cũng tiến lên. Chiến đấu bùng nổ!

“Oanh! Oanh!” 8 Pháo M33 trạm 1 khai hỏa, tập kích kỵ binh Tây Ban Nha. Đợt đầu, 4 viên đạn trúng, gây hỗn loạn, hạ 10+ kỵ binh, dù đất mềm do mưa tuyết, đạn không nổ lựu.

Sốc trước tầm bắn Tarta, kỵ binh Tây Ban Nha lao nhanh, vó ngựa rung đất. Từ Vũ, xuất thân bảo vệ hộp đêm, nghiến răng rút Đao sĩ quan M32: “Mẹ nó, xuyên qua rồi còn vào sinh ra tử! Lão tử mệt chết! Người chết thì kệ, sợ cái gì! Các huynh đệ, ta chết, báo thù cho ta! Quét Mexico, đạp Madrid, đốt giấy cho ta! Vạn Thắng, xông!”

“Ô lạp!” 107 kỵ binh Cô-dắc quất ngựa, nghênh chiến.

Pháo M33 bắn đợt hai, hạ 10+ kỵ binh Tây Ban Nha. Hai bên kỵ binh áp sát, Kỵ binh Cô-dắc nã Súng lục Toại Phát M33, hạ 50+ kỵ binh, rút Đao sĩ quan M32, kỵ thương, tăng tốc, va chạm ác liệt.

“Trạm 5, trạm 6, tiến!” Liêu Mãnh thổi còi, 164 Súng trường Toại Phát M32-B binh xuyên rừng trường mâu, xếp trận chặt, chạy đến khu giao tranh. Pháo M33 chuyển sang đạn nổ, bắn bộ binh Tây Ban Nha.

“Trạm 5, trạm 6, bước nhanh, bình thượng, sẵn sàng… Bắn!” Chiến đấu vào thời khắc then chốt. Liêu Mãnh tự chỉ huy, dẫn bộ binh chi viện kỵ binh. Cách khu giao tranh vài trăm mét, hai trạm chạy tới nhanh chóng.

Kỵ binh Cô-dắc tổn thất nặng, rút về giữa chiến trường, Tây Ban Nha đuổi sát. Thấy cơ hội, Liêu Mãnh ra lệnh 164 Súng trường binh bắn tề, hạ 40+ kỵ binh Tây Ban Nha, gây hỗn loạn.

“Nạp đạn… Tự do bắn!” Liêu Mãnh hét, dù tiếng chiến trường át lệnh. Súng trường binh tự do bắn, khói đen bốc lên, hạ thêm 30+ kỵ binh Tây Ban Nha. Cả hai bên kỵ binh rối trận, Kỵ binh Cô-dắc còn 60+ kỵ, vòng qua cánh trái, về sau bộ binh. Tây Ban Nha đuổi theo, bị hậu cần bắn Hỏa Thằng Thương, Súng trường Toại Phát M32-A, ngã thêm 10+ kỵ.

Chính diện, bộ binh Tây Ban Nha chịu 8 Pháo M33 nã đạn nổ, đặc biệt Hỏa Thằng Thương binh hai sườn, mất 1/4 sức chiến đấu.

“Trường mâu binh, tiến!” Chu Lượng, phó chỉ huy, tung lực lượng cuối. Một viên đạn sắt xuyên ngực lính bên cạnh, máu phun đầy mặt Chu. Tây Ban Nha khai pháo!

“Tiến! Đồ nhu nhược!” Quan quân trường mâu binh rút Súng lục Toại Phát M33 hoặc Đao sĩ quan M32, quát tân binh. Dưới đe dọa, tân binh lê bước, theo tiếng còi, tiến cơ học.

Trạm 5, trạm 6 tụ lại, ít mục tiêu để bắn. Kỵ binh Tây Ban Nha còn dưới 200, chia hai nhóm. Kỵ binh Cô-dắc (60+ kỵ) nạp đạn Súng lục Toại Phát M33, gào thét xông lên. 8 Pháo M33 chia hai: bốn trái bắn bộ binh Tây Ban Nha, bốn phải nã kỵ binh chậm dần, hạ sát khủng khiếp. Người Cao Kiều yếu ý chí, bỏ chạy, để kỵ binh Tây Ban Nha đơn độc đối Kỵ binh Cô-dắc. Xa xa, 4 Pháo M33 Tây Ban Nha bắn, nhưng bộ binh họ ngã thêm vài chục, trận hình sắp sụp.

Tây Ban Nha lộ dấu suy tàn.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 66 : Hải Quân và Hải Tặc (1)


Qua Nguyên Đán, năm 1636 đã đến.

Tại Trấn Hải Bảo, hai bến cảng lớn của Tạo Thuyền Hán rộn ràng. Hai tàu vận tải cỡ lớn, tải trọng 650 tấn, đang được khởi công. Đây là đơn hàng từ Nam Hải Vận chuyển Công ty thuộc Bộ Giao thông, do thợ Flanders cung cấp kỹ thuật, thiết kế kiểu tàu Địch Hình (flute) Hà Lan, chuyên cho viễn dương. Không cần tác chiến, tàu dùng gỗ tùng nội địa thay vì gỗ đỏ Brazil đắt đỏ, vách khoang mỏng hơn chiến hạm, giá mỗi chiếc khoảng 50.000 nguyên.

Mậu dịch Đông Ngạn phồn thịnh, xuất khẩu tăng mạnh, cần đội tàu riêng. Nam Hải Vận chuyển Công ty ra đời, nhưng chỉ tồn trên giấy, thiếu nhân viên, thủy thủ, tàu thuyền, còn trong giai đoạn khởi tạo. Trấn Hải Tạo Thuyền Hán, sau khi tiếp thu kỹ thuật từ Đại Ngư Hà Tạo Thuyền Hán, được Quốc Vụ Viện ưu ái, phát triển hai năm, nay có hàng trăm kỹ sư, thợ, học đồ. Thành tựu lớn là chiến hạm “Thị trường chung” thuộc cấp “Ngày 10 tháng 8”, chứng minh năng lực.

Trấn Hải Bảo sinh ra xưởng phụ trợ: Miêu Liên Xưởng, Thuyền Cụ Xưởng (sản xuất dây thừng, vải bạt), và xưởng tư nhân như thùng gỗ, ủ rượu, đều phục vụ Tạo Thuyền Hán. Cuối năm trước, 600 di dân Minh quốc đến; Quốc Vụ Viện phân nửa tới Trấn Hải Bảo, nửa còn lại tới Bình An Trấn. Dân số Trấn Hải Bảo vượt 1.289, thành cứ điểm thứ tư phá ngưỡng ngàn dân. Cuối tháng 11, tàu “Con Bướm” của Conseil Gia Tộc chở 30 trẻ em và 200 di dân Pháp tới Phương Đông Cảng; trừ trẻ em, toàn bộ di dân được chuyển tới Trấn Hải Bảo, dân số gần đuổi kịp Bình An Trấn.

Hầu hết dân Trấn Hải Bảo làm tại Tạo Thuyền Hán; các xưởng phụ trợ nhỏ, nhiều nữ công nhân. Nếu không có quy định giáo dục bắt buộc cho trẻ, các xưởng chắc đã tuyển trẻ em, vì Đông Ngạn thiếu dân trầm trọng. Để thoát nút thắt, Thuyền Cụ Xưởng dùng “Dã Man Nhân -1” làm động lực, có cán cong, dệt vải bạt tàu. Nhưng như ở Trường Sơn Bảo, máy này hay “bò ổ”, gần như vô dụng.

Trấn Hải Bảo trở thành cảng mẹ của Hải quân Đệ Nhất Hạm đội, gồm “Ngày 10 tháng 8”, “Đông Ngạn Chi Ưng”, “Tiểu Chó Săn”, “Trên Biển Văn Học Gia”, “Hồng Cá Hồi Chấm”, gọi là Phương Bắc Hạm đội. Đệ Nhị Hạm đội, gồm chiến hạm “Thị trường chung” và tàu võ trang “Galicia Phi Ngư”, đóng tại Phương Đông Cảng, tuần tra từ Phương Đông Cảng qua La Hiệp Cảng tới nam Mard Nạp Đa, gọi là Phương Nam Hạm đội.

Sau hai năm tư lược, Bộ Hải quân “giàu sụ”, mở rộng biên chế, đóng tàu liên tục. “Thị trường chung” nhập biên chưa đủ thủy thủ, quan quân, mà Bộ Hải quân đã đề xuất chiến hạm thứ ba “Tự Do Mậu Dịch”, như sợ không tiêu hết tiền. Chấp Ủy Hội bác kế hoạch “viển vông” này. Dưới áp lực Tiêu Bách Lãng (Bộ Giao thông), Chấp Ủy Hội quyết định Bộ Giao thông và Bộ Hải quân góp 100.000 nguyên, đóng hai tàu Địch Hình vận tải. Bộ Hải quân “ôm hận” đồng ý, nhưng Tiêu Bách Lãng hứa: nếu ch·iến tr·anh, Nam Hải Vận chuyển sẽ bị trưng dụng, xoa dịu oán khí.

Ngày 3 tháng 1, tại bến Trấn Hải Bảo, Đệ Nhất Hạm đội và “Con Bướm” của Conseil Gia Tộc hát vang “Đông Ngạn Chi Ưng ở Phía Trước Tiến”, chở 600 tấn khoai tây, 30.000 thất vải bông, súng đạn, rời cảng trong mưa phùn, hướng nam Đại Tây Dương, theo tuyến Thánh Duy Sêm Đặc - Luy Tây Phì - Thêm Kia Lợi Quần Đảo - Bordeaux tới Pháp. Sau giao hàng, họ đi Caribê, thực hiện “Săn Thú Hành động” thường niên, đến tháng 7 quay lại Bordeaux, chở tiền vải và di dân về.

Cùng lúc, tại cảng Portsmouth, Anh quốc, một đội tàu lớn chuẩn bị viễn dương. Sau nhiều vụ tàu “m·ất t·ích” ở Virginia năm trước, bị coi “làm nhục quốc vương”, vua Charlie I tái ban hành luật 1336 của Edward III: tàu thương phải tập hợp tại điểm chỉ định, đủ số lượng mới được đi. Tàu phía tây tụ tại Portsmouth; phía bắc tại Áo Will Hà; gần London tại Thames khẩu. Quan viên kiểm tra vũ trang, tiếp tế, bầu quan chỉ huy tạm thời. Ai tự ý rời đội sẽ bị phạt nặng.

Tại Portsmouth, tàu thương, quân hạm, tư lược tàu neo ngăn nắp, thể hiện sức mạnh hàng hải Anh. Ở góc bến, đám người áo mũ chỉnh tề làm lễ xuất phát. Quan viên béo mũm mĩm đọc tên: “Hán Phổ Đốn, Hill, Tạ Nhĩ Đăng, Morris…” rồi hỏi: “Các ngươi có chấp nhận William Clifford làm quan chỉ huy tạm thời, tuân lệnh, không tự ý đổi tuyến hay rời đội?”

“Vâng, chúng tôi theo William Clifford tới đích, tuân lệnh hợp lý, không tự ý đổi tuyến hay dừng cảng,” đám thuyền trưởng đồng thanh.

“Khi gặp địch, các ngươi có đoàn kết, bảo vệ lẫn nhau, chiến đấu ngoan cường, không chạy trốn?”

“Vâng, chúng tôi hỗ trợ mọi tàu đồng hành, chiến đấu chung.”

“Các ngươi có trả phí cho William Clifford để bù đắp nỗ lực?”

“Vâng, mỗi thùng hàng trả một xu cho ngài ấy.”

Quan viên quay sang William Clifford: “Ngươi có sẵn sàng làm quan chỉ huy, đảm trách hoa tiêu, mậu dịch, chiến đấu?”

“Tôi nguyện dùng sức mạnh, tri thức, kinh nghiệm, che chở mọi tàu Anh, dẫn dắt viễn dương, mậu dịch, chiến đấu, giữ gìn lợi ích và vinh quang Anh quốc,” Clifford đáp.

“Thề ước thành lập!” Quan viên béo chụp tay, cười: “Các thương nhân, Công ty Đông Ấn, hành trình Tân Đại Lục xa xôi, chúc thuận buồm!” Đám đông khách sáo đôi câu, lên tàu, theo Clifford rời Portsmouth, xếp đội, hướng nam.

Tân Đại Lục bất ổn. Nhiều tàu “m·ất t·ích” năm trước ở Virginia, mất thuốc lá, tiền bạc. Ban đầu nghi do bão hay lạc hướng, sau tin là hải tặc hoặc tàu địch tấn công. Anh quốc phẫn nộ, phái quân hạm tuần tra, ra lệnh tàu thương đi đội, tối thiểu tám tàu. Lần này, Công ty Đông Ấn và thương nhân tập hợp mười tàu tại Portsmouth, hướng Virginia.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 67 : Quyết chiến: Chủ đề ( 5 )


Người Cao Kiều bỏ chạy, kéo theo gần 100 kỵ binh người Peru nhường đường cho Kỵ binh Cô-dắc. Hành động này lan tỏa, khiến bộ binh Tây Ban Nha, vốn sắp sụp dưới hỏa lực 8 Pháo M33 trạm 1, lập tức tan rã.

Quân thuộc địa quen sung túc, chưa từng chịu trận đánh kinh hoàng thế này, trụ được đến khi mất 1/4 lực lượng đã là đáng khen so với lương bổng.

Cán cân chiến thắng nghiêng hẳn về Tarta. Người Peru mất ý chí, đối mặt Súng trường Toại Phát M32-B bắn tề, ngã 30+ kỵ, thoáng giao chiến với Kỵ binh Cô-dắc rồi quay đầu chạy. Liêu Mãnh, mừng như điên, ra lệnh trạm bộ binh cưỡi ngựa lên ngựa, truy kích, quyết để lại càng nhiều Tây Ban Nha càng tốt.

Trận chiến đã an bài, thuận thế ai cũng đánh được. Trường mâu binh của Chu Lượng, vừa mất 20+ người dưới pháo Tây Ban Nha, sĩ khí tụt, nay thấy địch chạy, khí thế bùng lên, tự giác vác trường mâu, bước nhanh truy kích, không cần quan quân quát.

Mặt đất ngập thi thể Tây Ban Nha, Pháo đồng 4 pound, 8 pound, Hỏa Thằng Thương, ngựa mất chủ. Ngụy Ivan dẫn trạm bộ binh cưỡi ngựa chỉnh tề, truy đuổi. Người Cao Kiều chạy nhanh nhất, mất dạng; 50-60 kỵ binh người Peru bị Kỵ binh Cô-dắc đuổi, không dám ngoảnh lại. 200+ bộ binh Tây Ban Nha thê thảm, vứt trường mâu, Hỏa Thằng Thương nặng nề, cởi ngực giáp, bỏ nhẹ kiếm, chạy tán loạn về La Higuera.

Nhưng hai chân sao địch bốn vó. Trạm bộ binh cưỡi ngựa vượt lên, xuống ngựa, bắn tề một đợt Súng trường Toại Phát M32-B, đa số Tây Ban Nha đầu hàng, số ít ngoan cố bị hạ ngay.

Dọn chiến trường mất nhiều thời gian, vũ khí, ngựa vương vãi khó thu. Đến 15 giờ, Kỵ binh Cô-dắc truy người Peru trở về, đầy máu, hạ thêm 20+ kỵ binh. Kỵ binh doanh từ 107 còn 55, gần như ai cũng bị thương, thảm khốc. Từ Vũ, tưởng chết, thần kỳ vô sự, nhưng thấy nửa quân tổn thất, tâm trạng nặng nề.

Trạm 5, trạm 6 mất 12 Súng trường binh, bị thương 7; trường mâu binh mất 18, bị thương 10; tổng thương vong Tarta 99 người, nặng nhất từ đầu chiến. Thành quả: hạ 240 kỵ binh, 80 bộ binh Tây Ban Nha, bắt 209 bộ binh tù binh, thu 2 Pháo đồng 4 pound, 2 Pháo đồng 8 pound, 150+ Hỏa Thằng Thương, 200+ ngực giáp, nhiều trường mâu, nhẹ kiếm.

Trận này phá tan hào quang Tây Ban Nha, sĩ khí Tarta tăng vọt. Kỵ binh Tây Ban Nha, ưu thế ban đầu, tan tành: 200 kỵ binh người Peru của Torres chỉ còn 40; Người Cao Kiều trốn về 100 kỵ, nhưng mất tín nhiệm vì bỏ chạy.

Đêm 17 tháng 7, tin thảm bại nam Đại Ngư Hà truyền về trại Tây Ban Nha bắc ngạn. Antonio Carlos, binh lính thấy Torres dẫn 40 kỵ đầy máu, chạy về thê thảm. Quân Tây Ban Nha, vốn chán nản vì thiếu ăn, lạnh giá dưới Định Viễn Bảo, xôn xao tin đồn, bất an bao trùm.

“Sao ngươi bại thảm thế?” Antonio Carlos, mặt xanh, quát Torres đầy máu.

“Tarta bắn mạnh, pháo tầm xa, tốc độ nhanh. Bộ binh tan dưới 8 Pháo M33!” Torres, tàn tạ, giải thích. Vốn hào hoa, lưng thẳng, nay như già 10 tuổi, run rẩy, tinh thần sụp đổ.

“Kỵ binh đâu? 385 kỵ, về 145! Ngươi đánh kiểu gì, đồ ngu!” Carlos giận dữ.

“Kỵ binh Cô-dắc cưỡi giỏi, dũng mãnh, có

Súng lục Toại Phát M33, chiếm lợi. Họ phối hợp Súng trường Toại Phát M32-B binh, ta chống cự, nhưng thua nặng. Quan trọng hơn, Người Cao Kiều hèn nhát, bỏ chạy lúc then chốt, làm quân ta sụp đổ! Cần đưa chúng ra tòa quân sự!” Torres nghiến răng, hận Người Cao Kiều.

“Juan Cruz Torres, ngươi vu khống Người Cao Kiều!” Một thủ lĩnh Người Cao Kiều, chăn ngựa lực lưỡng, đứng dậy, đòi quyết đấu.

“Torres, ngươi chắc lời đó thật, hay bịa để trốn trách nhiệm?” Diego Garcia, trung úy hải quân, liên lạc viên, nghi ngờ.

“40 kỵ binh vương quốc về cùng ta làm chứng! Người Cao Kiều chạy, nên thương vong thấp. Họ bán đứng đồng đội, đáng khinh!” Torres khinh bỉ.

“Đủ!” Antonio Carlos ngắt lời. “Ta sẽ yêu cầu Garcia điều tra. Torres, sai lầm chỉ huy của ngươi cũng sẽ bị tra.” Với 150 Người Cao Kiều còn lại, dù có chạy hay không, Carlos phải ổn định họ để đánh tiếp hoặc rút.

“Các vị, chiến tranh đến giai đoạn vi diệu, bất lợi. Trận này mất quyền chủ động, tiếp viện đứt. Thời tiết khắc nghiệt, ta mất 200+ lính vì lạnh, bệnh. Sĩ khí xuống thấp. Tarta mạnh, pháo tốt, súng tiên tiến, chiến thuật mới, thành kiên cố, tiếp viện đầy đủ. Ta không tin khôi phục được đường tiếp viện!” Carlos thở dài.

Im lặng bao trùm. Mười ngày trước, 1.700 quân vương quốc hăng hái qua sông, giờ thảm bại. Coi thường Tarta là sai lầm! Họ quen địa hình, thời tiết, có thành, tiếp viện, ý chí mạnh, pháo vượt trội, súng trường tiên tiến, chiến thuật kỵ binh mới.

“Leo, mai mang thư ta đến La Higuera, báo Diego Garcia khó khăn của ta, xin rút quân. Ta phải đưa lính về La Plata, Paraguay. Chiến tranh… không đánh nổi nữa!” Carlos, mặt ảm đạm.

“Tuân lệnh!” Leo, phó quan trẻ, cúi đầu, cảm khái. Ai ngờ chiến tranh thành thế này? Romero, tổng thị sát quan Peru, ra lệnh khai chiến, chắc nghĩ Tarta không phải đối thủ vương quốc.

Leo thầm chửi Romero.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 67 : Hải Quân và Hải Tặc (2)


Đầu tháng 2 năm 1636, Đệ Nhất Hạm đội Đông Ngạn neo tại cảng Luy Tây Phì, Brazil, do Hà Lan kiểm soát. Bồ Đào Nha, dù được Đông Ngạn cung cấp súng đạn nhiều năm, vẫn không thể giành lại Luy Tây Phì hay San Salvador. Họ lo giữ phần lãnh thổ còn lại, trong khi Hà Lan và Bồ Đào Nha kiệt sức sau ch·iến tranh kéo dài, rơi vào trạng thái nửa ngừng bắn. Bồ Đào Nha còn chút lực lượng, nhưng Hà Lan tổn thất lớn hơn lịch sử, cả hai bên chờ cơ hội quốc tế thay đổi. Hà Lan bắt đầu đưa nông dân tới Đông Bắc Brazil, xây dựng căn cứ.

Dù Đông Ngạn bị Hà Lan coi là “không đứng đắn” vì cung cấp v·ũ kh·í cho Bồ Đào Nha, họ vẫn cho tàu Đông Ngạn tiếp tế tại Luy Tây Phì để tránh gây thù thêm. Đệ Nhất Hạm đội nghỉ một ngày, rồi giương buồm bắc thượng, hướng Thêm Kia Lợi Quần Đảo, sau đó tới Bordeaux.

Cuối tháng 3, sau nhiều tháng trên biển, Đệ Nhất Hạm đội cùng “Con Bướm” của Conseil Gia Tộc đến Bordeaux. Sau khi nộp công văn, họ được neo cảng, nhưng lần này hải quan thu 300 đồng franc thuế—lần đầu tiên với tàu Đông Ngạn. Trước đây, nhờ Loris nam tước và các đại nhân vật, tàu Đông Ngạn miễn thuế. Mạc Mính, đi cùng đội, lo lắng: “Liệu các đại nhân vật ở Bordeaux đổi ý?”

Hứa Tín, vội chạy tới bến, giải thích: “Đơn giản thôi, Pháp và Tây Ban Nha khai ch·iến, Pháp cần quân phí.” Ba mươi năm ch·iến tranh đến năm 1635, liên minh Tân giáo (Đan Mạch, Thụy Điển) thất bại, Áo Habsburg ổn định cục diện. Pháp, Thiên Chúa giáo, nhảy vào tuyên ch·iến Tây Ban Nha và Áo để bảo vệ lợi ích. Hồng y Richelieu áp thuế ch·iến tranh, chia định mức cho 32 tỉnh, với Đảo Pháp, Da Carl Địch, Champagne, Thêm Tư Khoa Niết, Lãng Cách Đa Khắc, Provence gánh phần lớn. Hải quan Bordeaux vì thế “nghiêm túc” hơn.

Nghe xong, mọi người thở phào, bắt đầu dỡ hàng với sự hỗ trợ từ công nhân Conseil Gia Tộc. 30.000 thất vải bông trắng Đông Ngạn vào kho, 600 tấn khoai tây thành “miếng mồi béo bở” cho thương nhân. Áo tấn công từ đông nam, Tây Ban Nha rục rịch ở Lỗ Tây Vinh, khiến Montpelier, Toulouse như lâm đại địch, Bordeaux cũng bị ảnh hưởng. Dân chạy nạn, tá điền, công nhân phá sản ùn ùn vào qu·ân đ·ội Pháp; thương nhân cung ứng quân nhu mua vét lương thực, trong đó khoai tây Đông Ngạn rất được săn.

Bộ Mậu dịch phái người hỗ trợ Hứa Tín, người đã mua nhà gần Thương Trạm để cải tạo thành kho cỡ trung, lưu trữ hàng. 600 tấn khoai tây được nhập kho, chờ Hứa Tín tìm người mua tốt. Mạc Mính, dẫn đội viên Tổng Cục Tình Báo mới, hỏi Tôn Hắc Bảy, thăm trưởng: “Ch·iến tranh lan đến đây không?”

“Không đâu,” Tôn Hắc Bảy đáp gọn. “Pháp xây dày đặc lâu đài ở phía nam từ thời chống Hồi giáo Iberia. Tây Ban Nha khó đột phá.”

“Ngươi tự tin thế?” Mạc Mính nhướn mày.

“Có lý do,” Tôn Hắc Bảy điềm tĩnh, rõ đã nghiên cứu kỹ. “Thứ nhất, Tây Ban Nha cạn tiền sau bao năm ch·iến, vàng bạc Tân Đại Lục vét sạch, gần phá sản. Thứ hai, quân đoàn Flanders tinh nhuệ của họ bận ở nam Hà Lan và bắc Pháp, lực lượng còn lại yếu, dù liên minh với Áo cũng khó thắng ở nam Pháp. Thứ ba, lâu đài nam Pháp dày đặc, địa hình bình nguyên lợi cho kỵ binh Pháp xung phong. Tây Ban Nha tới là ‘đi dễ khó về’.”

“Vậy buôn bán tiếp tục được?” Mạc Mính ngạc nhiên. Gã lính Tôn Hắc Bảy, thô bỉ, học vấn thấp, lại phân tích logic rõ ràng.

“Chắc chắn được,” Tôn Hắc Bảy khẳng định. “Ludwig im hơi lâu rồi, bận ở Lyon và Marseille, hình như gặp rắc rối lớn.”

“Hừ, cho hắn nhớ đời,” Mạc Mính cười khẩy. “Trướng với hắn chưa xong, sẽ tính sau.”

“Gần đây giáo hội đẩy mạnh di dân tới Khôi Bắc Khắc, hơn nửa năm chuyển hơn 1.500 người, quy mô lớn. Nếu Pháp có cơ sở tốt hơn, họ còn đưa nhiều hơn. Ch·iến tranh Pháp - Tây Ban Nha vô tình hóa giải vấn đề công nhân thất nghiệp của ta, coi như bất ngờ,” Tôn Hắc Bảy báo cáo.

“Không tệ,” Mạc Mính khen. “Nắm tin tức là tố chất cơ bản của tình báo. Tôn thăm trưởng, ngươi làm tốt.”

“Trưởng ga quá khen,” Tôn Hắc Bảy cười mỉa. “Tiểu nhân còn phải cố.”

“Ngươi được hay không, ta quyết,” Mạc Mính đứng dậy. “Có mấy tân binh Tổng Cục, ngươi sắp xếp. Vài ngày tới, chuẩn bị, cùng ta đi Càng Thêm Luân, Lãng Cách Đa Khắc, có cơ hội thì qua Provence. Ta gọi là ‘tham mưu lữ hành’.”

“Lệnh tuân,” Tôn Hắc Bảy gật đầu.

Ngày 30 tháng 3, Đệ Nhất Hạm đội, nghỉ vài ngày ở Bordeaux, giương buồm dưới nắng, năm chiến hạm vẽ sóng trắng ngoài cửa sông Cát Luân Đặc, rẽ tây, hướng Tân Đại Lục. Thiếu tá Lục Minh chỉ huy, đội không mục tiêu rõ ràng, định thử vận may ở Massachusetts. Nếu không được, họ xuôi nam tới vịnh Thiết Tát Da Khắc, “dạy” người Anh “nhớ đời”. Năm trước, tư lược đội c·ướp vài tàu Anh chở thuốc lá, da lông ở đây, kiếm bộn. Năm nay, Anh chắc đã đề phòng, nên nếu thất bại, họ sẽ xuống Caribê, qu·ấy r·ối Tây Ban Nha.

Kế hoạch “lang thang” này đúng kiểu Bộ Hải quân, mơ c·ướp Caribê giàu có, nhưng Chấp Ủy Hội và Liên Hợp Tham Mưu Bản Bộ ép quấy nhiễu thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ. Bất đắc dĩ, họ bỏ “thịt mỡ” Caribê, gặm “xương” Anh quốc.

Cùng lúc, đội tàu Anh do William Clifford chỉ huy rời Cartagena sau giao dịch, hướng bắc tới Virginia Jamestown. Họ có thể ghé Đông Florida Thánh Augustine, buôn da lông, bông với b·uôn l·ậu Tây Ban Nha. Giao dịch ở Cartagena thuận lợi, len dạ, vải bông bán giá tốt, nông cụ, kim loại cũng đắt hàng. Sau khi bán nốt hàng ở Thánh Augustine, họ sẽ thu mua thuốc lá, da lông ở Virginia, rồi về Portsmouth.
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 68 : Quyết chiến: Nhạc dạo


Từ năm 1518, khi Cortés dẫn 600 Tây Ban Nha, 200 người Indians, và nhiều người da đen chinh phục Mexico, Veracruz trở thành điểm thực dân đầu tiên. Sau trăm năm, Veracruz giờ là thành phố lớn Tân Tây Ban Nha. Mỗi xuân, Hạm đội Flota từ Sevilla đến Veracruz, mang phồn vinh.

Đại thuyền buồm chở gỗ Campeche, hồ tiêu Tabasco, thuốc lá Córdoba, son Oaxaca, tơ Manila, bạc Guatemala, hương lan, màu chàm Honduras, đường, thịt muối, da thuộc, giao dịch với máy móc, ngói, thủy ngân, sắt thép, vũ khí, hỏa dược, quần áo, rượu, sáp từ Hạm đội Flota. Một tháng chợ, hải quan Veracruz thu tiền mỏi tay.

Cuối tháng 7, Veracruz ẩm nóng. Alfonso Romero, tổng thị sát quan, dự tiệc tối với giới thượng lưu Tân Tây Ban Nha. Gonzalo, tổng đốc, dẫn quan viên, gia quyến đến dự: tổng đốc Tân Tây Ban Nha, viện trưởng kiểm thẩm Mexico, Guatemala, Goa-tê-ma-la, tướng quân Panama, New Mexico, Texas, giáo chủ Mexico, tư lệnh Hạm đội Flota, thương nhân, đốc thúc, thị trưởng, nghệ sĩ.

Alfonso Romero, con thứ hầu tước Romero, không thừa tước, học lễ nghi cung đình, được Quốc Vương Philippe IV sủng ái. Năm trước, ông nhận nhiệm vụ tuần tra Tân Thế Giới, đảm bảo lợi ích vương thất. Sau tranh đấu, ông giành được “mỹ sai” này.

Từ Sevilla, qua Santo Domingo, ông đi nam: Cartagena, Rio A Tra, San Salvador, Rio De Janeiro, Buenos Aires, Asunción, Chiloé, Mendoza, Santiago, Concepción, Lima, Quito, Panama, Acapulco, Mexico, đến Veracruz. Gần một năm, ông đi khắp Brazil, Peru, Tân Granada, Tân Tây Ban Nha, tài sản cá nhân tăng gấp bội. Đêm nay, tiệc tiễn ông ở Veracruz. Mai, ông đi La Habana, chờ Hạm đội Flota, Hạm đội Galeones, về Sevilla tháng 3 năm sau.

Tiệc tiễn long trọng, do Gonzalo tổ chức. Ông đọc diễn văn: “Alfonso Bianca de Santis Romero, thân sĩ ưu nhã, bác học, nhạy bén, từ gia tộc kỵ sĩ cổ, trung thành với Chúa, nhân từ, tuân chuẩn mực, được Quốc Vương Philippe IV tán thưởng…”

Sau diễn văn dài, Alfonso Romero cười, nâng ly: “Quốc Vương Philippe IV phái ta thị sát Tân Thế Giới. Một năm qua, các vị ở Tân Tây Ban Nha quản lý xuất sắc khu mỏ, công trường, vườn, cảng, tạo tài phú lớn cho Quốc Vương. Ta sẽ báo cáo trung thực, Quốc Vương sẽ hài lòng. Nào, vì Quốc Vương!”

“Vì Quốc Vương!” Đám đông cụng ly.

Tiệc tự do, quan viên ôn chuyện, giới thiệu con cháu vào giới thượng lưu. Quý bà, tiểu thư tụ tập, bàn tin đồn, cười vang, thu hút ánh mắt quý ông, đặc biệt quý tộc trẻ lần đầu dự tiệc, mắt dán vào các tiểu thư.

Juana, con gái Gonzalo, xinh đẹp, yểu điệu, dẫn đầu nhóm tiểu thư. Nàng nghe Diana, quý tộc Panama, kể tin đồn phương nam.

“Mấy tháng trước, ở nhà cô tại Santiago, ta nghe Tarta hải tặc tấn công nam Chile. Họ có chục thuyền, đêm đổ bộ, cướp sạch làng, thị trấn, cả tài sản giáo hội, tu viện. Chúa ơi, thật hung tàn!” Diana, đầy tàn nhang, kể khoa trương, làm dấu thánh giá.

Tin đồn khiến các tiểu thư kinh hô, Diana đắc ý.

“Tarta ở Peru? Họ sống gần Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, sao vượt đại dương đến đây?” Juana, học thức tốt nhờ cha sủng, hỏi vặn.

“Ta không rõ…” Diana đỏ mặt, vội giải thích: “Thật đấy! Santiago xôn xao tin Tarta đánh úp. Nhiều nam nhân bị mộ binh. Anh ta ở hạm đội Chiloé, được Gutierrez, tổng đốc Peru, lệnh diệt Tarta hải tặc, vì họ đe dọa đường bạc Valdivia.”

Juana trầm ngâm, đổi chủ đề: “Diana, chuyến đi thú vị nhỉ. Thôi, nói chuyện vui đi.” Họ bàn cacao Tân Granada.

Giới thượng lưu Tân Tây Ban Nha thì thào. Một lục quân trung niên cầm ly rượu:

“Gutierrez thua nặng ở La Plata. Fernandes tử tước chết ngoài Estrecho de Magallanes, cùng hai chiến hạm Peru, 150 Hỏa Thằng Thương binh. Có lẽ do hạm đội Tarta ven Chile.”

“Đúng, buồn thật,” một hải quân trung niên, Raul, nhấp rượu. “Tarta giảo hoạt, ngoan cường, cướp Chiloé đảo, Drake eo biển, Corral, Río Valdivia. Hạm đội Chiloé truy, nhưng Tarta lẩn trốn. Mọi thứ khó khăn.”

“Đúng, Raul,” lục quân thở dài. “Nam Chile, Araucanía người nổi dậy. Tarta cướp Castro cảng, đưa vũ khí cho Araucanía người, giúp họ giết di dân, tập kích đất liền, ám sát quan viên, kích động thợ mỏ. Tình thế bi quan.”

“Chile thiếu binh. Araucanía người nổi dậy tăng 30%, bạo lực hơn, dùng Hỏa Thằng Thương, gây khó cho quân bình định. Gutierrez lo, La Plata, Chile ngốn binh lực.

Ecuador, thượng Peru bắt đầu mộ dân. Gutierrez muốn dẹp loạn hoặc kết thúc chiến. Chile ổn, nhưng La Plata khó nói.

Antonio Carlos cẩn thận, thiếu tiến thủ, có lẽ không phù hợp chỉ huy La Plata.”
 
Xuyên Qua 1630 Chi Quật Khởi Nam Mĩ (Xuyên Việt 1630 Chi Quật Khởi Nam Mỹ) - 穿越1630之崛起南美
Chương 68 : Hải Quân và Hải Tặc (3)


Ngày 10 tháng 5 năm 1636, Đệ Nhất Hạm đội rời Massachusetts trong mưa phùn. Lục Minh, khoác áo mưa vải dầu, bước đi trên boong dày Ngày 10 tháng 8. Sóng gió làm tàu chao đảo, nhưng gã, lão thủy thủ, vẫn vững như trên đất liền. Gã tuần tra, mắt dõi biển cả.

“Người Anh nghèo quá!” Đức Mayer, thiếu úy hàng hải Hà Lan trên Ngày 10 tháng 8, lẩm bẩm. “Một tuần ở đây, chỉ c·ướp được một tàu cá chở da lông. Nếu ngài cho phép, tôi dẫn đội san bằng đám làng Anh đó luôn!” Gã hậm hực, tóc ướt dính trán dưới mưa.

Lục Minh quay lại, cười nhạt: “Ngươi chỉ thấy họ nghèo? 1620, tàu Mayflower chở đoàn Lai Đăng Lễ Missa và vài ‘người qua đường’ tới Plymouth, Massachusetts. Mùa đông đầu, nửa đoàn ch·ết. Nhờ thổ dân dạy trồng trọt, săn bắn, họ mới sống sót. Mười năm sau, người Anh đã lan khắp Massachusetts. Công ty Vịnh Massachusetts đưa di dân liên tục, giờ họ có chính phủ tự trị. Để họ phát triển, e là đối thủ lớn của Đông Ngạn sau này.” Gã vỗ vai Đức Mayer, lo lắng. “Thôi, hàng hải trưởng, về cương vị, kiểm tra đường đi!”

“Tuân lệnh, thuyền trưởng!” Đức Mayer chào, rồi hỏi: “Thuộc địa này thật sự sẽ thành địch lớn sao?”

“Có lẽ,” Lục Minh đáp lấp lửng.

“Vậy diệt họ! Hàng năm tới ‘cắt lông dê’, xem họ lớn thế nào!” Đức Mayer vung nắm đấm.

Mưa lớn dần, lỗ thoát nước trên Ngày 10 tháng 8 mở hết. Năm chiến hạm vượt sóng, hướng nam tới vịnh Thiết Tát Da Khắc. Massachusetts mất thời gian, chỉ Virginia giàu có mới đáng để Đệ Nhất Hạm đội c·ướp.

Cùng lúc, đội tàu Anh của William Clifford neo công khai tại cảng Thánh Augustine, thủ phủ thuộc địa Florida của Tây Ban Nha. Sau vụ hải tặc tấn công hai năm trước, Tây Ban Nha chi hàng vạn peso gia cố pháo đài Mã Thản Tát Tư và lâu đài cảng. Pháo đài giờ có 16 đại bác, đóng quân lục quân; lâu đài tăng tường, ụ súng gấp đôi, đặt cọc gỗ, xích chặn sông, phòng tàu địch đánh bất ngờ.

Để vận hành, Florida tướng quân xin tăng quân. Năm qua, tổng đốc Tân Tây Ban Nha gửi vài đợt di dân: thổ dân từ Mexico, Tây Ban Nha, Ý từ bản quốc, và tù nhân trung Âu từ Áo. Dân số Thánh Augustine vượt 3.000, thành thành phố lớn hiếm hoi ở Tân Tây Ban Nha. Di dân khai hoang, trồng bắp, mía, thuốc lá, giúp Thánh Augustine lấy lại vẻ phồn thịnh.

Đội tàu Anh đến buôn, nhưng năm nay thị trường lạ. Tây Ban Nha chê vải bông Ấn Độ của họ mỏng, kém bền, giá 4 peso/thất quá đắt. Vải bông trắng Đông Ngạn, giá 2.5 peso/thất, mỏng, thoáng, bền, chất lượng ổn, lấn át thị trường. Họ chỉ mua len dạ, ép giảm giá.

William Clifford và phó thủ Nick trao đổi ánh mắt lo lắng. Là thương nhân Công ty Đông Ấn, Clifford kiếm lời từ vải bông Ấn Độ, bán ở Hà Lan, bắc Pháp. Nhưng Hà Lan tăng đầu tư dệt, vải chất lượng cao, giá rẻ, cạnh tranh khốc liệt, đẩy vải Ấn Độ ra rìa. Clifford dùng quan hệ Tây Ban Nha, mở mậu dịch ở Tân Đại Lục, kiếm bộn vài năm, đến khi gặp “tai họa” ở La Plata hai năm trước. Họ bỏ La Plata, Brazil của Bồ Đào Nha, tập trung Caribê, tránh Đông Ngạn. Nay, Đông Ngạn lại chen vào.

“William, lão bằng hữu, ngươi không thể lừa ta!” Một thương nhân Tây Ban Nha trung niên tức giận. “Vải Ấn Độ mỏng, thoáng, nhưng không bền! Quần áo may từ đó chưa đầy tháng đã rách. Giá 4 peso/thất? Thượng đế ơi, vải Đông Ngạn tốt hơn chỉ 2.5 peso/thất! Mua vải ngươi, ta chẳng bán được. Xem tình bạn, ta lấy len dạ, vải nhuộm, nhưng giảm giá đi. Vải Đông Ngạn đánh mạnh, kể cả vải xa xỉ cũng phải hạ giá!”

“Vải Đông Ngạn?” Clifford nhíu mày, kinh ngạc.

“Đúng,” thương nhân gật đầu. “Thương nhân Thánh Augustine thuê tàu mua vải bông trắng Đông Ngạn, chất lượng tốt, bền, giá rẻ. Vải Ấn Độ không cạnh tranh nổi, nhất là với giá cao ngất.”

Clifford bực bội, lo sợ: “Nuốt La Plata chưa đủ, giờ Đông Ngạn vươn xúc tu tới Caribê!” Vải Đông Ngạn 2.5 peso/thất là giá sàn của gã, không thể cạnh tranh. Gã tính mang vải Ấn Độ tới Guinea hoặc đất Moor bán.

Tạ Nhĩ Đăng, Hán Phổ Đốn, Hill ủ rũ đến. Len dạ bán được, nhưng giá thấp thảm hại. Tây Ban Nha dọa mua len dạ Đông Ngạn nếu không giảm giá. Các thương nhân Công ty Đông Ấn họp khẩn, đành giảm giá, lợi nhuận mỏng như dao cạo.

Trong tiếng than, Clifford, chỉ bán được ít vải nhuộm, nhìn xa xăm: “Phải hạn chế Đông Ngạn phát triển. Công ty Đông Ấn cần tỉnh táo, làm gì đó!”

Ngày 13 tháng 5, đội tàu Anh ảm đạm rời Thánh Augustine, hướng Virginia Jamestown. Hàng ế, len dạ giá thấp khiến họ thiếu tiền mua thuốc lá Virginia, mặt hàng “cung không đủ cầu” ở Anh và châu Âu, đồng nghĩa mất khoản thu lớn.

Mayflower (tiếng Anh có nghĩa là: "bông hoa Tháng Năm") là tên của một con tàu buồm đi vào lịch sử Hoa Kỳ khi một nhóm người Thanh giáo Puritants không chấp nhận Anh giáo của triều đình nên bỏ nước Anh sang lập nghiệp ở Tân Thế giới. Tổng cộng có 102 người cộng thêm 30 thuyền viên. Họ đặt chân đến Mỹ để bắt đầu một đời sống mới vào cuối năm 1620. Câu chuyện này được dùng làm biểu tượng tinh thần phiêu lưu và niềm tin tôn giáo của người dân Mỹ và cũng là cốt truyện của Lễ Tạ ơn. Sử Mỹ gọi họ là "Pilgrims" có nghĩa là "người hành hương", vì họ ra đi tìm miền đất hứa của Thượng Đế.

Tuy không đến nơi mong muốn lại gặp lúc trời trở đông đoàn người đành nán lại ở Cape Cod đợi sang xuân sẽ xuống Virginia. Chỗ ở không may, thiếu vệ sinh nên nhiều người cả già lẫn trẻ ngã bệnh vì scorbut, sưng phổi hay lao và chết. Đoàn người lại thiếu lương, tiết trời giá lạnh tuyết phủ không trồng trọt được gì nên cơn đói hoành hành. May là có mấy bộ lạc thổ dân châu Mỹ đến giúp, cho thức ăn. Sang đầu năm 1621 trong số 102 người rời Anh thì 46 người đã chết; số người sống sót qua được mùa đông ngắc nghiệt đó chỉ còn già nửa. Ngày 31 tháng 3 năm 1621 họ quyết định bỏ Cape Cod mà rời về địa điểm mới mà họ đặt tên là Plymouth để tưởng nhớ hải cảng nguyên thủy khi họ rời Anh. Trong khi đó con tàu Mayflower lại ra biển lại vào ngày 15 tháng 4 năm 1621 trở về Anh. họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,... Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.
 
Back
Top Bottom