Tâm Linh Vùng đất vô hình

Vùng Đất Vô Hình
Nỗi đau


Trên đường trở về, chưởng môn phái Thiên Cầm mới kể chuyện phía dưới cho ba người nghe.

Thì ra sau khi xuống dưới, bọn họ tìm đủ cách để phá hủy chiếc quan tài.

Chỉ có điều chiếc quan tài không biết làm bằng thứ gì, đốt không cháy, chém không đứt, đập phá không hề sứt mẻ lấy một tí gì.

Thế rồi bọn họ bắt đầu tranh chấp thanh kiếm cắm trên ngôi mộ, chém giết lẫn nhau.

Đến lúc phát hiện ra thứ đó đã đến thì chỉ còn bốn người còn sống.

Ba người trong lúc chạy lên bị nó kéo lại, có mỗi ông ta còn sống.

Minh Khánh thở dài.

Tuyệt Tử Tuyệt Tôn Huyết Chú Ma Kiếm không phải là một thanh kiếm thường.

Nó tác động rất mạnh tới linh hồn và ý chí của những người xung quanh, nhất là những người có nhiều dục vọng.

Trong lúc vô tình đánh rơi thanh kiếm, Minh Khánh đãbiến nghĩa địa làng Con thành tử địa.

Hiện tại hắn biết bất cứ ai đi xuống ngôi mộ đá trắng chỉ có con đường chết.Về nhà trọ, Minh Khánh trằn trọc mãi không ngủ được.

Hắn vùng dậy, bước xuống giường.

Hắn chống cửa sổ lên.

Đêm khuya thật yên tĩnh.

Từng cơn gió lùa vào mang theo mùi hương hoa thật dễ chịu.

Minh Khánh bước ra sân.

Ánh trăng rất đẹp nhưng Minh Khanh không có lòng dạ nào mà thưởng thức.

Trong đầu hắn chỉ tồn tại một ý nghĩ duy nhất – "nó" là cái gì.

Bao nhiêu năm đi bắt ma với sư phụ, người được xưng là thiên hạ đệ nhất người trừ tà khiến Minh Khánh học được thói quen suy tư.

Sư phụ từng nói: "Thầy trừ tà giỏi là kẻ thường vận dụng đầu óc mà không phải tu vi để giải quyết vấn đề."

Minh Khánh vẫn lấy câu nó đó làm thước đo cho bản thân.Hắn phát hiện ra từ đêm qua đến đêm nay, bọn hắn đều rất bị động.

Đáng lẽ sau khi được báo mộng, Minh Khánh nên bắt đầu tìm hiểu về nghĩa địa làng Con và ngôi mộ đá trắng mà không phải đi đến đó một cách mù quáng như vậy.

Việc tham gia vào liên minh người tu đạo cũng khiến bọn họ mất đi sự tự do vốn có.

Ngoài ra 'nó' cũng là một thứ hết sức kỳ quái.

Minh Khánh cố lục hết những kiến thức mà hắn tích trữ trong đầu ra cũng không tìm được một thứ gì tương tự như 'nó'.

Một thứ giống như linh hồn mà không có cảm xúc, thích bắt người nhưng không mang theo âm khí oán khí.

Suy nghĩ hồi lâu, Minh Khánh thấy mệt mỏi.

Hắn đi ra giếng múc nước rửa mặt.

Theo gầu nước kéo lên, Minh Khánh đổ nước ra lòng bàn tay rồi hất lên mặt.

Nước mát lạnh khiến mạch máu nơi hai thái dương của hắn giật giật.

Một bàn tay bỗng đặt lên vai hắn.

Minh Khánh quay lại hỏi: "Sư huynh??"

"Đệ cũng không ngủ được à?"

Minh Dũng cười.

Minh Khánh gật đầu.- "Đệ đang suy nghĩ về thứ đó."

- "Thật tiếc ngoài đệ ra chúng ta chẳng ai thấy được nó như thế nào."

- "Sư huynh đã bao giờ nghe nói đến một loại giống như linh hồn mà không có cảm xúc, hơn nữa không có hình dạng, không có oán khí chưa?"

- "Ý đệ là giống như một lời nguyền?"

- "Không hẳn.

Đệ cũng từng trải qua nguyền rủa.

Đặc điểm của một lời nguyền là những người tiếp xúc đến lời nguyền bị suy yếu, bị hành hạ, thậm chí cảm giác được những cảm xúc, những ý nghĩ của người tạo ra nó.

Thứ này lại khác.

Đệ cảm nhận được nó tồn tại, nó còn sống, nhưng đệ không tìm thấy những tình cảm, những ý nghĩ ẩn chứa bên trong nó.

Thậm chí đến sự thèm khát linh hồn người sống cũng không hề xuất hiện.

Nó bắt người chỉ đơn giản là bắt mà không trộn lẫn bất cứ thứ gì khác."

- "Huynh hiểu rồi.

Kiểu như một con dao thái thịt vậy, nó cắt chỉ để cắt mà thôi."

- "Đúng thế.

Thứ đó là một con dao có linh hồn.

Nó không bị ai cầm trên tay cả.

Nó độc lập với hết thảy."

- "Có thể nào là một loại linh hồn cao cấp chăng?"

Minh Dũng suy nghĩ hồi lâu rồi đưa ra kết luận.- "Chẳng hạn như ....?

" Minh Khánh nghi vấn.- "Tử thần."

Minh Dũng nói một cách chắc nịch.

- "Sư huynh, đệ nhớ trong cuốn Trừ tà ký giải có nói Tử thần thường không thể ở dương thế quá lâu."

-- "Đúng vậy.

Nhưng đệ không thể phủ nhận thứ đó giống với một tử thần.

Bắt linh hồn người sống, không cảm xúc, không âm khí, không có hình dạng.

Thêm nữa nó cũng không đi ra khỏi ngôi mộ đá trắng đó."

Minh Dũng càng nói càng hưng phấn, tựa như đã tìm ra lời giải.

"Có thể là có ai đó đã tìm cách giam tử thần vào trong ngôi mộ đó chăng?

"-- "Không thể nào.

Tử thần sẽ không lưu lại dương thế, điều này đã được khẳng đinh.

Trừ phi, trừ phi ..."

Minh Khánh đăm chiêu suy nghĩ.

- "Ngôi mộ đó không thuộc dương thế."

Cả hai người cùng nói một lời.- "Nhưng làm sao ngôi mộ đó cứ đến giờ lại xuất hiện ở dương gian?"

Minh Khánh cau mày.- "Có thể ngôi mộ được xây trùng với một khe nứt giữa dương thế và âm phủ.

Những khe nứt này thường không ổn định.

Thường là vào lúc âm khí mạnh nhất nó mới mở ra.

Nếu điều này là đúng thì tất cả đều có thể giải thích.

Chỉ có điều huynh không nghĩ ra chúng ta làm thế nào để đối phó nổi với một tử thần bây giờ."

- "Chúng ta không thể đánh lại, nhưng chúng ta có thể bắt nó tự rời đi."

Mắt Minh Khánh sáng lên.

Hắn cất cao giọng nói.

"Chúng ta có thể lấp kín khe nứt.

Ngôi mộ trở lại dương thế rồi tử thần sẽ không thể ẩn nấp trong đó nữa."

- "Chỉ tiếc hiện tại chúng ta không đủ sức làm được điều này."

Minh Dũng than thở.

Minh Khánh nắm lấy vai gã: "Chúng ta có thể trở về núi mời sư phụ của đệ và sư bá đến giúp."

Minh Dũng gạt tay hắn ra.

- "Đừng nói nữa.

Nếu đệ không mở thiên nhãn, ba người chúng ta không được phép trở về."

- "Tại sao ạ?

Sư huynh đệ cần một lời giải thích."

- "Huynh không muốn nói chuyện này.

Đệ đi nghỉ đi."

- "Nếu cả đệ cũng muốn nghe thì sao?"

Minh Long bước ra từ trong nhà.

Gã nhìn thẳng vào đôi mắt của Minh Dũng.

"Lúc chúng ta xuống núi, đệ đã cảm thấy sư huynh đang giấu một chuyện gì đó rất lớn.

Sư huynh có nhớ không lúc ở trên thuyền ngươi đã khóc.

Lúc đầu đệ nghĩ sư huynh nhớ sư phụ, nhớ nhà nhưng càng về sau đệ mới nghĩ ra là không đúng.

Sư huynh xuống núi bắt ma như cơm bữa có bao giờ đệ thấy huynh rơi một giọt lệ.

Càng về sau này sư huynh cư xử càng lạ lùng hơn.

Mỗi lần đệ hoặc Khánh nhắc đến chuyện trở về là sư huynh lại gạt đi.

Chẳng lẽ môn phái của chúng ta đã xảy ra chuyện?"

-- "Sư huynh, đệ xin huynh đấy.

Minh Long sư huynh nói có đúng không?

Có phải môn phái của chúng ta xảy ra chuyện gì?"

Minh Khánh vội vàng nắm lấy tay Minh Dũng lắc lắc.- "Bao giờ đệ mở thiên nhãn, huynh sẽ kể cho đệ nghe.

Còn bây giờ hai đứa đi ngủ đi."

Minh Dũng giật cánh tay ra khỏi bàn tay của Minh Khánh, lạnh lùng bước vào trong nhà.

Gã đi thật nhanh để không ai thấy nước đang chảy ra từ khóe mắt.

Có duyên gặp lại Từ đêm đó Minh Khánh không nhắc lại chuyện đó nữa.

Hắn biết tính Minh Dũng, nếu sư huynh đã không muốn nói thì nhất định sẽ không lộ ra một từ.

Cuộc đi săn Quỷ vương vẫn tiếp tục nhưng không có kết quả.

Ngược lại người tu đạo và thợ săn quỷ xảy ra một số xung đột.

Thật may là thương vong không nhiều.Đến cuối tháng, dường như đã chán nản vì không tìm ra quỷ vương, liên minh của người tư đạo quyết định giải tán, ai về nhà nấy.

Minh Khánh chia tay với hai sư huynh để lên đường ra Bắc.

Sau khi đánh mất thanh Huyết Chú Ma Kiếm, trên người của gã không còn lại một cái Tà vật vĩnh cửu nào.

Hắn muốn đi tìm một cái khác.

Tà vật được người tu đạo chia làm hai loại: vĩnh cửu và thông thường.

Loại thông thường là những thứ mà hình thành do oán khí của ma quỷ.

Những linh hồn còn vương vấn nơi trần thế gửi gắm tình cảm, ký ức vào những đồ vật quen thuộc.

Rồi những đồ vật đó biến đổi dần, mang trong mình một loại sức mạnh kỳ lạ có thể nuôi dưỡng chủ nhân của chúng và làm tổn thương những linh hồn khác.

Tà vật thông thường có thể kiếm được thông qua việc bắt quỷ.

Nhưng sau khi chủ nhân của tà vật đó bị siêu độ hoặc tiêu diệt, sức mạnh của tà vật sẽ bị tiêu hao dần mỗi khi tiếp xúc với những linh hồn khác.

Có tà vật chỉ dùng được một lần, cũng có cái được năm ba lần hoặc nhiều hơn.

Sau khi hết sức mạnh, chúng biến trở thành những đồ vật thông thường.Tà vật vĩnh cửu thì khác.

Chúng là những thứ được thiên nhiên hoặc con người tạo ra nhưng mang trong mình một sức mạnh lớn lao.

Việc tiếp xúc với linh hồn không làm chúng mất đi sức mạnh.

Nói một cách khác nguồn năng lượng trong tà vật vĩnh cửu là vô tận.

Ngược lại với loại thông thường, tà vật vĩnh cửu được đánh giá là rất khó tìm.

Chúng ẩn dấu dưới nhiều hình thức khác nhau và khả năng làm hại những ai tìm thấy chúng.

Chẳng hạn như thanh Tuyệt Tử Tuyệt Tôn Huyết Chú Ma Kiếm, nếu không có cuốn nhật ký, có lẽ chẳng có ai tìm thấy nổi.Lần này Minh Khánh đi ra bắc để tham dự một phiên chợ của người tu đạo.

Ở đó hắn hi vọng có thể tìm mua được tà vật vĩnh cửu, hoặc ít nhất có thể nghe được một tí thông tin về chúng.

Minh Dũng không biết kiếm đâu được một con ngựa cho Minh Khánh cưỡi.

Đó là một con ngựa già gầy nhom, có màu lông nâu sẫm.

Minh Long mua hai cái gùi to buộc vào hai bên hông nó, một bên để tất cả đồ đạc, một bên cho bà Mun nằm.

Vốn bà Mun không khoái việc đi xa lắm nhưng sau khi nghe Minh Dũng tăng khẩu phần thêm nửa con cá thì bà đồng ý.

Chỉ khổ con ngựa già chở bà đã mệt thì chớ còn thỉnh thoảng bị bà dọa dẫm.

Ai bảo nó cứ gõ mõng lộp cộp làm bà khó ngủ.****************"Cho hai bát cơm, một đĩa dưa, một đĩa lạc đi ông chủ."

Nghe tiếng gọi của khách, ông Quân vui rạo rực.

Đã lâu lắm rồi, cái quán cơm ven đường của ông mới lại đông như thế.

Từ năm vợ ông mất, hiếm có khi nào quán cơm của ông ngồi kín chỗ như thế này.

Cũng phải thôi ông Quân tự biết tay nghề của mình kém xa vợ.

Ông Quân cao giọng đáp lại: "Đến ngay đây."

Ông bốc dưa muối trong lu ra đĩa.

Dưa hơi chua nhưng có màu vàng rất đẹp mắt.

Rồi ông đổ lạc rang trong lọ ra.

Chỗ lạc này ông bóc và rang đêm qua.

Vì bỏ trong bình kín nên vẫn còn mùi thơm.

Ông nhón một hột, cho vào trong miệng nhai.

Lạc bùi và béo.

Ông vừa gật gù vừa bưng hai đĩa ra cho khách.

Sau đó ông trở vào dùng đôi đũa cả xới hai bát cơm nóng.

Ông chưa kịp bưng cơm ra thì nhà lại có khách.

Đó là một đôi trai gái trẻ tuổi, quần áo trên người đều là loại quí giá.

Cô gái che mắt bằng một tấm vải mỏng.

Mái tóc đen nhánh của cô dài đến đùi, khuôn mặt trắng trẻo.

Cô gái ngồi phịch xuống cái bàn duy nhất còn sót lại rồi kêu lên: "Ông chủ, cho hai bát cơm nóng."

Ông Quân vừa mang cơm ra vừa trả lời: "Có ngay."

Rồi ông chạy đến bên bàn.

Lúc này người thanh niên cũng đã ngồi xuống đối diện với cô gái.

Gã rất đẹp trai, bên hông còn treo một thanh kiếm trông rất bắt mắt.

Lúc này ông Quân nhìn thấy sau lưng cô gái có một chiếc nỏ rất to.

"Chắc là người trong võ lâm."

Ông thầm nghĩ.

Quán của ông mở ven đường phục vụ khách vãng lai, người trong giang hồ đến ăn cơm một năm cũng phải có vài chục.Người thanh niên hỏi ông rất lễ phép: "Ông chủ ơi, nhà có món gì tươi ngon không?"

Ông Quân đáp: "Có chuột đồng, chim sẻ, cá chép, cá tràu, gà.

Tất cả đều còn sống nguyên.

Cô cậu muốn ăn thứ gì?"

"Vậy thì cho chúng tôi một đĩa chuột đồng nướng, một bát canh dưa chua nấu cá tràu.

Ngoài ra nhờ ông xào cho tôi một đĩa rau."

Ông Quân nhớ kĩ lời khách.

Đi vào trong ông bắt đầu làm cá và chuột.

Hai tay ông cứ thoăn thoắt.

Đầu tiên là ông bỏ chuột lên bếp thui.

Sau đó cạo sạch lông, bỏ lòng, đầu và các bộ phận nhỏ.

Cuối cùng ông chặt ra thành từng miếng, cho vào bát ướp với sả ớt, hành tỏi băm nhuyễn rồi thêm một chút mắm muối.

Trong lúc chờ thịt chuột ngấm, tiện tay ông làm luôn con cá.

Sau đó ông chặt khúc cho vào bát.

Ông bỏ dưa vào trong nồi đun lên.

Đến lúc nồi nước sôi ùng ục ông thả cá vào, thêm tí mắm muối cho vừa miệng.

Cuối cùng ông bỏ tí hành, thì là thái nhỏ vào trong nồi rồi bưng ra cho khách.Giải quyết xong món canh cá, ông Quân mới bắt đầu xiên chuột vào que tre rồi bắt đầu nướng.

Dưới sức nóng của than củi, thớ thịt chuột săn lại, chốc chốc mỡ chuột lại lộp độp chảy từng giọt, kêu xèo xèo trên bếp trông cực kỳ hấp dẫn.

Khi nướng ông luôn lưu ý trở luôn tay để những thớ thịt chín đều và nổi màu bắt mắt.

Chỉ một lát, ông đã có một đĩa chuột vàng ruộm, bõng nhẫy khiến mọi người trong quán đều thòm thèm.

Ông Quân tự hào lắm.

Ông bắt chuột, nướng chuột đã mấy chục năm, từ thời còn ở truồng ra đồng.

Món ăn này đã thấm vào từng thớ thịt trên người ông."

Choang!"

Đột nhiên tiếng bát đũa rơi vỡ làm ông Quân sửng sốt.

Ông ngó ra ngoài.

Thì ra khách đang gây chuyện với nhau.

Cô gái xinh đẹp bịt mắt lúc này đã nắm cổ áo một người khách vào trước.

Đó là một chàng trai trẻ ngồi trong góc.

Y cũng không phản ứng gì trước hành động quá khích của cô gái, mặc cho cô kéo lên.

Ông Quân vội chạy ra can.

Tuổi ông đã lớn nên không thể ra đồng làm thuê như trước.

Quán cơm là nguồn sinh nhai duy nhất.

Ông không chấp nhận cho bất cứ ai phá hoại nó.

Ông giằng tay cô gái ra khỏi cổ áo người khách, kêu lên: "Mọi người muốn đánh nhau thì đi ra ngoài.

Ở trong quán của tôi không được làm càn.

"Cô gái kêu lên, giọng cô ẩn chứa sự giận dữ: "Ông biết hắn là ai không?

Hắn sẽ giết ông đó."

Ông Quân bình tĩnh trả lời: "Anh ta giết tôi thì sẽ có quan phủ bắt anh ta.

Còn bây giờ, cô trở về chỗ đi.

Cả anh nữa, đi cùng thì cũng phải khuyên cô ấy một câu chứ."

Nghe ông chủ quán nói vậy, Như Phong cũng đành cười trừ.

Anh xin lỗi ông rồi kéo My trở về chỗ ngồi.

Thợ săn quỷ và thợ nuôi quỷ quả là rất ghét nhâu, thậm chí đến mức chỉ cần ngửi thấy mùi của đối phương cũng khiến cho nàng nổi xung lên.Bên kia Lê Tấn cũng ngồi xuống bàn của mình.

Từ sau đêm gặp Quỷ vương, gã mất hết đám tay chân dưới trướng.

Gã cũng không dám ở lại ngôi nhà cũ vì sợ có người tu đạo đến tìm.

Thế là gã khăn gói quả mướp ra Bắc làm ăn.

Nghe nói ở kinh thành, người tu đạo rất ít.

Cuộc sống của thợ nuôi quỷ ngoài đấy thoải mái hơn ở phủ lộ Bình An rất nhiều.

Lê Tấn thở dài.

Số gã thật không may.

Đi đường thôi mà cũng gặp thợ săn quỷ.

Lê Tấn biết cô nàng kia rất lợi hại.

Ngoài con quỷ rất mạnh bên trong người, cô còn có một cái nỏ thần bảo bối.

Đến quỷ vương thấy cô còn chạy mất dép nói chi là một tên thợ nuôi quỷ tầm thường như gã.

Lê Tấn cố cúi đầu ăn để cô ta không nhìn thấy nhưng hơi thở trên người đã bán đứng gã.

"Lần này khéo mất mạng chứ chẳng chơi."

Gã nghĩ thầm khi thấy My tiến đến bàn của mình.
 
Vùng Đất Vô Hình
Làng ma


- "Mi là thợ nuôi quỷ phải không?"

Nghe câu này của My, Lê Tấn biết mình đã bị lộ.

Gã vẫn cắm cúi ăn, không hề trả lời cô.

My tức quá nắm lấy cổ áo gã kéo lên làm gã đánh rơi bát cơm: "Tên khốn này."

May thay ông chủ quán nghe tiếng bát vỡ chạy ra giải vây.

Lê Tấn thấy My lừ mắt nhìn gã rồi bị người thanh niên đi cùng kéo về bàn.

Thỉnh thoảng cô ta vẫn liếc nhìn gã như sợ gã chạy mất.

Ông chủ lại lấy cho Lê Tấn bát cơm khác.

Ông bảo bát cơm vỡ sẽ tính tiền cho đôi trai gái kia.

Lê Tấn cảm ơn ông , yên tâm ăn cơm.

Sống hay chết thì gã cũng muốn ăn no cái đã.

Nhìn thấy hai người khách trở về chỗ ngồi ăn cơm, ông Quân thở phào.

Người trong võ lâm thường rất ít khi gây sự với người thường bởi hai lí do.

Thứ nhất là bọn họ sợ quan phủ.

Thứ hai chính là bọn họ coi khinh những ai bắt nạt kẻ yếu.

Cho nên theo kinh nghiệm của ông, khi gặp người võ lâm nên đối xử bình đẳng với họ như bao kẻ khác.

Không cần sợ sệt, nịnh bợ, cũng không coi khinh, tránh né.

Lần này ông cảm giác đã xử lý một cách đúng đắn.

Lúc này tiếng vó ngựa đi vào trước cửa cắt đứt dòng suy nghĩ của ông Quân.

"Lại có khách."

Ông lẩm nhẩm rồi chạy ra giúp khách buộc dây ngựa vào cột gỗ trước cửa.

Đó là một đạo sĩ trẻ chỉ khoảng mười sáu mười bảy tuổi.

Khuôn mặt trẻ măng của hắn lấm tấm bụi.

Lúc đỡ hắn xuống ngựa, ông Quân mới nhận ra là hắn bị mù.

Hắn lẽ phép cảm ơn ông rồi bế từ trong giỏ ra một con mèo đen béo ú.

Sau đó ông Quân dẫn hắn vào trong nhà.

Vì không còn bàn nữa nên ông sắp cho hắn ngồi tạm trên một chiếc ghế thấp.

Đạo sĩ xin ông một chậu nước rửa mặt.

Ông Quân đồng ý, chạy ù ra sau bếp múc cho hắn.

Chờ hắn rửa xong ông Quân mới hỏi hắn thích ăn gì để ông đi chuẩn bị.

Hắn cũng gọi một bát canh dưa cá, một đĩa cà muối và một đĩa cá chép rán cho con mèo đen.Ông Quân liếc nhìn con mèo, thầm nghĩ nó là giống gì mà được ăn sang thế.

Người bình thường hầu như mỗi năm số ngày được ăn thịt cá chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Dường như nhận ra suy nghĩ của ông, con mèo hé mắt nhìn một cái làm ông giật thót.

Thế nhưng lúc ông Quân nhìn lại, nó vẫn đang cuộn tròn nằm ngủ trong lòng đạo sĩ.

Mấy cái ria rung rinh ra vẻ khoan khoái lắm.

Ông Quân vội vã nấu canh cho khách.

Đun xong nồi nước dưa, ông liền đi làm cá.

Đang vất vả cạo vảy thì lại có người kêu: "Ông Quân ơi!"

Ông vội vàng nhìn ra.

Thì ra là thằng cu Mề ở trong làng.

Nhà nó ở cạnh nhà ông.

Từ bé nó đã theo ông đi bắt chuột bắt cá khắp đồng.

Sau này ông không đi nữa thì cu cậu chuyển sang đi với con trai ông.

Chuột với chim, cá trong nhà hầu hết đều do tay hai đứa bắt.

Ông Quân lau tay vào chiếc dẻ, hỏi nó: "Cu Mề à?

Có chuyện gì mà vội thế?"

Thấy thằng cu thở hồng hộc nói không ra tiếng, ông Quân múc cho nó một gáo nước, bảo nó uống đi rồi từ từ nói.

Cu Mề tu ừng ực hết cả gáo, xong quệt môi nói: "Ông Quân ơi, anh Ca đi vào trong làng Ma rồi."

Ông Quân sững sờ một lúc lâu mới hỏi: "Nó đi đâu cơ?"

Thằng Ca là con trai duy nhất của ông.

Sau khi vợ ông mất, hai cha con sống với nhau.

Ông cố bán buôn thế này cũng chỉ để gom ít tiền cho nó cưới vợ.

Cu Mễ nhắc lại: "Anh Ca đi vào trong làng Ma rồi.

Cháu ngăn thế nào cũng không được.

Ông đuổi theo mau kẻo không kịp."

Ông Quân nhìn ngoài quán đầy khách, trong lòng hơi do dự.

Lâu lắm rồi mới đông khách thế này, hơn nữa còn có người chịu ăn ngon.

Tiền thu được trong ngày thậm chí có thể đủ cho cha con sống hai tháng.

Ông đẩy tấm liếp bên cửa sổ.

Giữa trưa mà sao trời âm u thế.

"Thôi, còn buôn bán gì nữa.

Con mình nếu có mệnh hệ nào thì tiền có kiếm được nhiều như núi cũng chả để làm gì.

" Ông nghĩ thế rồi bảo cu Mễ: "Mày dẫn đường cho ông."

Nói rồi ông chạy ra xin lỗi khách, kể sơ sơ tình hình.

Khách đều gật đầu thông cảm, có người còn đưa tiền cơm cho ông trước.

Ông Quân cảm động nhét tiền vào túi rồi chạy vội đi.

Đi được một đoạn, ông thấy có người đuổi theo.

Đó là người khách bị đánh lúc nãy.

Anh ta giới thiệu tên là Lê Tấn, chuyên làm nghề bắt quỷ.

Nghe anh ta muốn vào làng Ma, ông liền dẫn anh ta theo.

Dẫu sao ông cũng đang vội tìm con.

Một lúc sau lại có người đuổi đến.

Đó là đôi trai gái mang vũ khí lúc nãy.

Bọn họ cũng giới thiệu là người chuyên bắt quỷ.

Ông Quân cũng không ngần ngại dẫn họ đi.

Chỉ có điều Lê Tấn có vẻ sợ cô gái bịt mắt.

Ông thấy anh ta luôn đi trước một đoạn, ánh mắt lấm lét nhìn như sợ bị ăn thịt.My và Như Phong cũng đang rảnh rỗi.

Sau khi Quỷ vương trốn thoát, bon họ liền trở về trấn Thanh Đô.

Trên đường vào quán cơm, My tìm thấy một gã thợ nuôi quỷ.

Cô chẳng biết gã từng chạm trán với cô và quỷ vương ở làng Con.

My cố tình gây sự để dụ gã ra ngoài nhưng bị ông chủ ngăn cản.

Thế là cô đành trở về chỗ ăn cơm.

Đang ăn thì ông chủ quán xin phép đi tìm con.

Nghe đến tên làng Ma, mắt cô sáng lên.

Cô nhìn Như Phong ý bảo anh đuổi theo ông chủ quán.

Như Phong lắc đầu.

Hôm nay thời tiết âm u, theo lịch cũng là ngày xấu, anh không muốn đi bắt ma vào những ngày như thế.

My năn nỉ mãi Như Phong mới chịu đứng lên.

Hai người đuổi theo ông chủ quán.

Đến nơi thì My thấy gã thợ nuôi quỷ cũng đã ở đấy.Một lát sau lại có người đuổi đến.

Đó là một tay đạo sĩ cưỡi ngựa.

Nhờ con mèo đen béo ị, ông Quân nhận ra đó là người khách vào quán lúc nãy mà ông chưa kịp nấu cơm cho anh ta.

Ông Quân vội hỏi: - "Cậu đi đâu đấy?"

- "Nghe bác bảo đi vào làng có ma quỷ, bần đạo muốn nhờ bác dẫn đường vào đấy có được không?"

- "Nơi đó rất nguy hiểm..."

Ông Quân mặc dù rất kỳ quái vì sao hôm nay mình gặp nhiều người thích ma quỷ đến thế nhưng ông vẫn tận tình khuyên nhủ.-- "Không sao đâu.

Bần đạo bắt quỷ từ bé mà."

Đạo sĩ trẻ cười nói với ông.

Thế là một đoàn năm người vội vàng đi tới làng Ma.

Trên đường đi, chẳng ai nói với nhau câu nào.

Cũng phải thôi, mỗi người trong đầu đều có những suy nghĩ riêng.

Ông Quân thì khỏi phải nói rồi, con trai một, cục cưng của nhà ông đi vào chỗ nguy hiểm khiến lòng ông như có lửa đốt, hận không có cánh để bay ngay tới đó.

Lê Tấn thì đang nghĩ cách tránh cô nàng thợ săn quỷ đang nhìn chằm chằm và kiếm một ít ma quỷ về làm tay chân.

Ngược lại với ông Quân, My đang hưng phấn.

Cô nghe nói ngôi làng này từ khá lâu rồi mà chưa có dịp đến.

Làng Ma dần hiện ra trước mắt.

Từ bên ngoài, nó có vẻ là một ngôi làng bình thường như mọi ngôi làng khác.

Cũng gốc đa, giếng nước, mái đình.

Cũng lũy tre làng xanh mướt bao quanh.

Thế nhưng trong mắt Như Phong và My, ngôi làng này âm u một cách đáng sợ.

Giữa trưa mà gió từ trong làng cứ thốc ra lạnh buốt, mang theo một mùi tanh kỳ lạ.

Con ngựa của đạo sĩ trẻ tuổi cứ hí lên trước cửa, rồi mặc cho chủ nhân thúc dục thế nào nó cũng không chịu đi vào.

Đạo sĩ trẻ đành nhảy xuống đi bộ.

Con mèo đen béo cũng ì ạch theo sau.Đi vào trong làng, mọi người đều cảm thấy nhiệt độ giảm xuống rất nhiều, kiểu như vừa từ trời nắng bước vào bóng râm vậy.

Thấy cu Mễ rùng mình, ông Quân cởi áo ngoài ra khoác cho nó.

Vừa đi ông vừa gọi: "Ca ơi!

Con ở đâu?"

Không có ai đáp lại lời ông.

Tất cả chỉ có tiếng gió lao xao trên đầu những ngọn tre.

Con đường chạy qua làng dường như đã không có người và xe đi lại từ rất lâu rồi.

Đấy là một ngôi làng đã chìm vào quên lãng.

Không ai nhớ những người cuối cùng đi khỏi làng vào lúc nào.

Năm người đi ngang qua những mái nhà tranh lụp xụp.

Bên trong dường như tỏa ra mùi tử khí ngùn ngụt.

Không ai muốn bước chân vào trong những ngôi nhà đó, kể cả My hay Lê Tấn.

Bọn họ đến đây lần đầu tiên.

Không ai hiểu rõ về ngôi làng.

Những gì họ được nghe cũng chỉ là kể lại.

Bắt ma không phải trò chơi mà là một cuộc đua sinh tử.

Kẻ thắng luôn là người biết địch biết ta, luôn chuẩn bị đầy đủ trước giờ ra trận.

Đi được một đoạn, Như Phong cất giọng hỏi: "Mọi người có cảm thấy gì không?"

My nhìn anh, đôi mắt cô trong veo đầy nghi ngờ.

Lê Tấn cũng dừng bước, gã muốn nghe xem Như Phong nói gì.

Như Phong tự trả lời câu hỏi của mình: "Nơi đây hết sức nguy hiểm."

Như để giải thích, anh nói thêm: "Đấy là giác quan của người tu đạo nói cho tôi biết."

Ông Quân tái mặt.

Vầng trán của ông lấm tấm mồ hôi.

Từ hồi mở quán cơm, tiếp xúc với đủ loại người, ông cũng biết tu đạo có ý nghĩa gì.

Đó là truy tìm trường sinh, sức mạnh và chân lý.

Người tu đạo trong mắt người bình thường đó là những kẻ có thể hô phong hoán vũ, tát đậu thành binh, dời non lấp biển.

Không có gì có thể ngăn nổi bước chân bọn họ.Thế mà giờ đây người tu đạo nói nơi này rất nguy hiểm.

Ông càng sốt ruột hơn.

Con trai ông liệu có gặp điều gì bất trắc?

Ông bước nhanh hơn trên con đường, hai mắt đảo lia lịa vào những ngôi nhà xung quanh để xem có dấu vết gì của thằng Ca con mình hay không.

Thằng cu Mề đã tụt lại sau.

Ông Quân cũng không trách nó.

Nó còn bé, sợ hãi là chuyện rất bình thường.

Bỗng thằng cu Mề hô to: "Mọi người ơi, nhìn bầu trời kìa."

Ông Quân ngoảnh lại.

Mặt thằng bé xanh lét như người sắp chết.

Tay nó run run chỉ lên trời.

Bầu trời đỏ thẫm một màu máu chụp xuống ngôi làng.

Cái màu đỏ rợn người như muốn nuốt lấy ngôi làng và những ai còn sót lại trong đó.Trên nền đường bỗng xuất hiện vô số những vệt nẻ chân chim.Một cơn gió thổi qua.

Cát bụi bốc lên mù mịt.

Một lát sau, tất cả những hiện tượng lạ lùng đó biến mất.

Như Phong thở phào, thả kiếm trở lại vỏ.

Lúc nãy anh có cảm giác một mối nguy hiểm cực lớn đang ở rất gần.

Rất may là không ai bị làm sao.

Bỗng nhiên, My kêu lên: "Có ai nghe thấy tiếng gì không?"

Mọi người dỏng tai lắng nghe.

Một lát sau, Như Phong mới hỏi: "My có nhầm không?

Tôi chẳng nghe thấy gì cả."

Lê Tấn cũng nhún vai đồng ý với Như Phong.

"Có mà.

Tôi có nghe thấy có ai đó đang kêu gào."

My cuống quít thanh minh.

- "Tôi cũng nghe thấy."

Đạo sĩ trẻ tuổi bất ngờ chen vào.

Hắn chỉ vào một cái ngõ nhỏ âm u bên trái con đường.

"Tiếng thét từ trong đó vọng ra."

Không đợi ai cả, ông Quân liền chạy ào vào trong căn ngõ.

Thấy thằng cu Mề mặt tài xanh, nửa muốn vào nửa muốn chạy mất, Như Phong vỗ vỗ vào vai thằng bé.

Anh rút kiếm ra, cũng tiến vào trong ngõ.

Rồi My, Lê Tấn và cả đạo sĩ trẻ cũng tiến vào.

Ngõ không nhỏ lắm, chỗ rộng cũng đủ cho hai chiếc xe bò tránh nhau.

Nó tối tăm chỉ vì hàng tre trên đầu dày quá, khiến trong ngõ hầu như không có ánh sáng.Ngõ rất sâu.

Mọi người đi mãi mới đến cuối ngõ.

Đó là một căn nhà mái ngói với hàng rào dâm bụt màu đỏ trải dài từ cổng vào đến tận cửa.

Ông Quân đang đứng trước cửa.

Ông dồn sức đẩy mãi mà cánh cửa gỗ không xê dịch lấy một gang.

Thấy mọi người đến, ông mừng rỡ đứng sang một bên.

Như Phong và My tiến đến.

Hai người dồn sức đẩy.

Cánh cửa vẫn không động đậy.

My thấy Lê Tấn đứng một bên cười khẩy thì trừng mắt với gã.

"Còn không lại đây giúp, cười cái gì mà cười."

Lê Tấn trả lời: "Cánh cửa này bị quỷ chặn rồi.

Cô có đẩy đến sang năm cũng chẳng được."

My và Như Phong lúc này mới thả cánh cửa ra, hỏi gã: "Sao không nói sớm?"

Lê Tấn lúc này mới lôi trong túi ra một lá bùa cũ mèm dán lên cánh cổng.

"Hồi trước, đám quỷ tôi nuôi vẫn thường chơi trò này.

Nhiều lúc bực lắm nhưng không làm gì được.

Dần dần tôi học được cách chúng làm.

Bây giờ nhìn thấy quỷ chặn tường là tôi biết ngay."

Nói xong, gã đắc ý đá vào cửa một cái.

Cả hai cánh bật tung như chưa từng bị khóa.

Lê Tấn đứng sang một bên nhường cho Như Phong và My bước vào.

Ông Quân theo sát hai người.

Cuối cùng là đạo sĩ trẻ và Lê Tấn.

Năm người bước vào trong sân.

My đinh đẩy cửa chính căn nhà bước vào thì bị Như Phong ngăn lại.

"Trong này hết sức nguy hiểm."

Anh nói với cô như vậy.

My nhìn khuôn mặt đầy lo lắng của anh, trong lòng ngọt ngào khó tả.

Cô biết anh vẫn luôn quan tâm đến cô, bất kể thời khắc cô chỉ là một con nhóc mồ côi xấu xí hay là lúc cô trở thành nửa người nửa quỷ.

Nhưng bàn tày My vẫn đẩy ra.

Cô là thợ săn quỷ.

Giống như cha của cô, My không có quyền do dự.

Con quỷ bên trong thợ săn luôn sẵn sàng chiếm đoạt cơ thể và linh hồn của kẻ nuôi nó.

Nó chỉ phục tùng nếu thợ săn mạnh mẽ đến mức nó cảm thấy không thể chống lại.

Hiện tại, My đang kiểm soát con quỷ của mình rất thành công.

Nhưng cô biết nó đang mạnh dần lên.

Cô cần phải có một sức mạnh đủ để đàn áp và khống chế nó.

Vì thế My luôn khao khát chiến đấu - đó là cách để cô trở nên mạnh mẽ hơn."

Dừng lại."

Tay My bị một bàn tay khác nắm chặt lấy.

Cô sững sờ.

Đấy là tay của đạo sĩ trẻ tuổi.

My thấy hắn nói: "Nếu cô mở ra, tất cả chúng ta sẽ chết."

Nghe xong, My cười nhạt.

Cô nhẹ giọng hỏi lại: "Đấy cũng là cảm giác của người tu đạo?"

- "Không phải.

Là báo mộng."

- "Còn chưa kịp hỏi pháp danh của cậu?"

Như Phong cũng chen vào.

- "Minh Khánh của phái Phổ Linh."

Đạo sĩ trẻ trả lời.Không chỉ Như Phong mà cả My lần Lê Tấn đều kinh ngạc.

Khác với giới tu đạo, đối với thợ săn quỷ và thợ nuôi quỷ danh tiếng của phái Phổ Linh hệt sức vang dội.

Đây là môn phái đệ nhất trong số ít truyền thừa bắt quỷ còn sót lại.

Mặc dù phái Phổ Linh rất ít khi lộ diện, nhưng từ Nam chí Bắc, hầu như chẳng có thợ nuôi quỷ lẫn thợ săn quỷ nào không sợ hãi phái Phổ Linh.

Hai mươi năm trước, sư huynh Nguyễn Kiên. pháp danh Quang Cương, sư đệ Lê Văn Sơn , pháp danh Quang Trọng một hơi tiêu diệt hơn hai chục tên thợ nuôi quỷ đến trấn Vọng Giang làm loạn.

Đó là một trận chiến thảm khốc.

Hơn một ngàn người chết, trong đó có cả dân thường và binh lính lẫn người tu đạo.

Trận chiến đó cũng là nền móng cho Lê Văn Sơn leo lên chiếc ghế thiên hạ đệ nhất người trừ tà.

Minh Khánh có nghe sư phụ kể qua trận chiến đó.

Mặc dù nhờ nó mà ông mở ra Thiên Nhãn, nhưng sư phụ cũng không vui vẻ gì.

Ông nói, nếu ông đến sớm một ngày, hẳn là sẽ giảm được một nửa số người thương vong trong trận chiến.

- "Nghe tiếng đã lâu."

Như Phong cười nói, vẻ vui mừng lộ rõ trên khuôn mặt.

Anh biết tính My, càng là nơi nguy hiểm cô càng muốn xông vào.

Nếu có thêm một người chuyên trừ ma như Minh Khánh giúp đỡ, anh cũng đỡ lo phần nào.

- "Báo mộng?

Ý của cậu là gì?

Bên trong căn nhà này có chứa cái gì?"

My hỏi Minh Khánh.

Đôi môi cô mím chặt.

Cô rất muốn biết người đạo sĩ trẻ xuất thân từ đệ nhất môn phái người trừ tà có những bản lĩnh gì.

Minh Khánh chưa kịp trả lời thì ông Quân đã đẩy cửa bước vào.

Hắn không kịp ngăn ông lại.

Việc này nằm ngoài dự kiến của hắn.

Một dự cảm bất thường bỗng chiếm lĩnh cả tâm hồn và thể xác Minh Khánh.

Hắn muốn gọi ông Quân, nhưng cổ họng cứ nghẹn lại như có bàn tay vô hình nào bóp chẹt lấy, không thể lên tiếng được.

Mồ hôi toát ra từ trên trán sao mà lạnh buốt.

Từ sau khi được báo mộng lần đầu tiên ở nghĩa địa làng Con, Minh Khánh thường xuyên gặp được những giấc mơ như thế.

Minh Khánh biết đó là dấu hiệu Thiên nhãn sắp mở ra.

Nhất là từ sau khi thấy thứ đó trong ngôi mộ đá trắng, hắn cảm thấy dường như âm nhãn đã bắt đầu phát sinh biến hóa.

Nó trở nên hòa hợp với hắn như một đôi mắt thật sự.

Hôm nay bước vào trong ngôi làng, con mắt bắt đầu cảnh báo hắn.

Nhất là lúc gió bụi bốc lên, hắn nhìn thấy một hình ảnh kỳ lạ.

Năm người bọn họ sẽ bước lên một con đường sâu thăm thẳm, hun hút.

Rồi cô gái tên My mở ra cánh cửa gỗ.

Bọn họ bước vào.

Bên trong là hai đốm sáng lấp loáng như đôi mắt ai chứa đầy thù hận đang trừng trừng nhìn vào hắn.

Rồi đôi mắt ấy hóa thành từng đóm lửa thiêu cháy từng người một, cho đến khi tất cả chỉ còn lại là một đống than.Lúc hắn từ trong cơn sợ hãi tỉnh lại, ông Quân và ba người kia đã bước vào sau cánh cửa.

Minh Khánh thở dài.

Cũng giống như thợ săn quỷ, sức mạnh của thầy trừ tà phần lớn đến từ những thời điểm sinh tử thế này.

Siêu độ một trăm hồn ma bình thường chẳng thể so nổi chiến đấu và siêu độ một con ác quỷ.

Hắn cũng phải tiếp tục đi tới.

Thấy hắn bước chân vào trong cánh cửa, bà Mun méo lên một tiếng sợ hãi.

Minh Khánh cười.

Hắn nhớ ra là mình vẫn ôm mèo trên tay.

Hắn thả bà Mun xuống, vỗ vỗ cái đầu tròn của bà rồi bước vào .Đằng sau cánh cửa là một tấm vải màn đã cũ.

Lúc Minh Khánh bước qua, hắn ngửi thấy mùi huơng khen khét và cả mùi máu.

Bên trong là một không gian khá rộng rãi.

Qua âm nhãn, Minh Khánh không nhìn thấy quỷ hồn lẫn người sống.

Hắn tiếp tục cất bước.

Đi qua vài tấm vải màn nữa, hắn nghe thấy tiếng gào khóc của ông Quân.

Thế rồi hắn nghe tiếng cô gái tên My hỏi: "Ai kể cho tôi chuyện này là thế nào?"

Rồi có người bắt đầu vừa khóc vừa kể lể.

Thì ra là hai đám trai tráng ở hai làng thách đố nhau.

Mỗi bên bốn người đi vào làng Ma, ở trong đấy cho đến khi trăng lên mới được ra ngoài.

Tuổi trẻ gan lớn, bọn họ chọn lấy một căn sạch đẹp nhất để ở lại.

Nhưng mới đến buổi trưa thì có người phát điên, bắt đầu chửi bới những người khác.

Thế là những người còn lại đánh y một trận.

Đến lúc có người tỉnh ra khuyên can những người khác thì y đã bị đánh chết rồi.Khi ấy bọn họ bắt đầu sợ hãi và chạy trốn.

Chỉ có điều chạy mãi mà không thể thoát ra nổi căn nhà.

Hồi sau bọn họ đành trở lại chỗ cũ.

Lần này lại có người phát điên.

Y bắt đầu chửi bới.

Mọi người mặc kệ.

Không ai muốn sự việc hồi nãy diễn ra.

Thế rồi kẻ đó cuối cùng cũng im lặng.

Mọi người thở phào cùng nghĩ cách thoát khỏi nơi này.

Ai ngờ kẻ đó không biết kiếm đâu được một cái chân nến, liên tiếp đâm chết hai người khác.

Lúc này thì không ai nhẫn nhịn được nữa.

Bốn người còn lại hợp sức đánh chết hung thủ.Chỉ có điều đánh xong, ai nấy đều mệt mỏi rã rời.

Bốn người ngồi bốn góc, chờ thời khắc cuối cùng tới.

Thế nhưng có một người không chịu nổi căng thẳng, tự đâm chân nến vào cổ.

Chỉ còn ba người, trong đó có thằng Ca con ông Quân.

Lúc ông đi vào, cả ba người như sắp ngất xỉu đến nơi.

Người bình thường những lúc mệt nhọc và căng thẳng quá độ rất dễ bị quỷ nhập vào.

Để đề phòng, Như Phong dán cho mỗi người một cái bùa Trấn An.

Xong rồi, anh cõng một người, Lê Tấn cõng một người, ông Quân cõng thằng Ca đi ra ngoài.

Bọn họ sợ chiến đấu lan đến người thường.

Trong phòng chỉ còn My và Minh Khánh đứng song song.My bắt đầu cúi người tìm kiếm những thứ rơi vãi dưới đất xem có tìm được manh mối không.

Minh Khánh đảo mắt lia lịa, hắn muốn xem ác quỷ giấu ở nơi nào trong căn phòng.

Một lát sau, cả hai đều thất vọng thở dài.

Việc không thu hoạch được gì sẽ khiến bọn họ phải tìm kiếm đến lúc trời tối.

Đó cũng là thời điểm sức mạnh của ác quỷ tăng lên rất nhiều.

Minh Khánh quyết định bỏ việc chiến đấu trong ngày hôm nay.

Hắn chưa biết gì về con quỷ cả.

Thêm nữa hôm nay cũng không phải là ngày tốt.

Minh Khánh vừa quay đầu bước ra ngoài thì từ sau tấm vải màn một bàn tay thò ra nắm lấy vai hắn.

Sau bức màn, một bóng người hiện ra, ôm lấy Minh Khánh.

Đó là Lê Tấn.

Một tay gã giữ chặt lấy cổ, máu tươi vẫn đang phun ra tung tóe.

Gã thều thào: "Cứu tôi với."

Rồi ngất xỉu.

Minh Khánh giơ tay ra đỡ lấy gã.

Hắn vội vàng để gã nằm lên sàn.

My móc đâu ra một chiếc khăn, buộc vào vết thương.

Như chợt nhớ ra điều gì, My bật dậy chạy ra ngoài.

Đi qua mấy bức màn trắng cũ, cô vẫn không thấy Như Phong đâu.My tái mặt.

Chẳng lẽ có chuyện gì xảy ra với anh rồi.

Cô tiếp tục chạy ra cửa.

Đi xuyên qua năm sáu bức màn nữa, My bắt đầu bình tĩnh lại.

Nơi đây không phải là một căn phòng.

Một gian phòng không có khả năng rộng đến mức như thế.

Có thể khi bước vào nơi này, bọn họ hẳn đã lạc vào một khoảnh không gian khác.

My tiếp tục suy nghĩ.

Một thợ săn giỏi luôn là kẻ biết vẫn dụng đầu óc nhiều hơn tay chân.

Cô nhận ra cách tốt nhất là quay trở lại cùng với Minh Khánh để tìm hiểu nơi này.

Còn về Như Phong My tin tưởng anh vẫn còn sống.

Con quỷ không thể giết chết một người tu đạo tài giỏi dễ dàng như thế được.My đi ngược trở lại.

Cô đếm số tấm màn cô đi qua, sáu, bảy , tám, chín , mười .

Kỳ lạ thay cô đi mãi mà vẫn không thấy chỗ hồi nãy đâu.

Đi qua mấy bức màn nữa, My thấy có bóng người ẩn sau tấm màn trắng cũ.

My bước tới, vén màn lên.

Vẫn chẳng có ai.

Chợt My thấy rùng mình.

Cô cúi đầu xuống.

Có cái gì đó lành lạnh lướt qua vành tai và mái tóc cô.

My liếc thấy đó là một bàn tay dính đầy máu.

Cô lộn về phía trước, mũi tên từ chiếc nỏ trên tay cô bắn ra.

Vù.

Mũi tên bay ra đính vào bức màn.

Vẫn không có ai cả.

My không hề do dự hô lên: "Nhập quỷ."

Con quỷ từ trong người cô bắn ra, hóa thành con mắt thứ ba trên trán.

My tháo cây nỏ thần huyền thoại sau lưng xuống.

Con mắt thứ ba bắt đầu chiếu ra một thứ ánh sáng màu tím lên hai bức màn trước vào sau.

My giữ chặt chiếc nó, từ từ tiến qua từng bức màn.

Không có bất cứ một âm thanh gì thoát khỏi đôi tai của My.

Chỉ có điều con quỷ như biết được khả năng của cô, nó trốn chạy.

Ngoài tiếng bước chân và hơi thở của chính mình, My không nghe được tiếng gì khác.

Mãi tới khi tiến qua ba bức màn, My mới dừng lại thở hồng hộc.

Mồ hôi xõa ra như tắm làm chiếc áo trên người cô dính sát vào người, để lộ ra thân hình hấp dẫn của con gái tuổi mười tám.

Việc để con quỷ nhập vào người khiến My tiêu hao rất nhiều thể lực và tinh thần.

Cô thậm chí còn không nhận ra có một bóng đen đang từ từ tiến đến phía sau lưng.**************Minh Khánh ngồi dựa lưng vào tường.

Lê Tấn chết rồi, chết ngay trên tay hắn.

Gã mất máu nhiều quá.

Minh Khánh thậm chí còn chưa kịp hỏi gã tại sao lại bị thương.Có đôi khi mạng sống của con người rẻ mạt như vậy đấy.

Minh Khánh không buồn mà chỉ tiếc rẻ cho một chàng trai trẻ mới tuổi đôi mươi.

Hắn dường như quên đi rằng mình còn chưa tròn mười bảy.Minh Khánh không cố tìm con quỷ.

Ngược lại hắn chờ đợi con quỷ tìm đến mình.

Nơi đây chính là điểm cuối của căn phòng.

Minh Khánh cảm giác được căn nguyên và sức mạnh của con quỷ ở tại đây, thậm chí gần hắn trong gang tấc.

Trời đã càng lúc càng tối.

Ánh nến leo lét lúc mờ lúc tỏ.

Đôi lúc có một ngọn gió nhẹ lướt qua, vén bức màn lên, để lộ ra một đôi bàn chân ướt đẫm máu.***************My quay người lại.

Một khuôn mặt đầy máu dừng sát trên mặt cô.

Ngón tay cô đã để trên cò của chiếc nó nhưng không bấm.

Bởi đôi mắt người đó thật quen thuộc.

Một đôi mắt trong trẻo tò mò nhìn cô lúc tấm bé mới vào nhà.

Một đôi mắt dịu dàng chia sẽ lúc cô ngồi khóc một mình sau bếp.

Một đôi mắt lo lắng đau buồn sau khi cha cô mất, và cô trở vê sống một mình.

Đó là đôi mắt biết nói của Như Phong.

Anh ngã vào lòng cô.

My hoảng hốt sờ khắp người xem vết thương của anh ở đâu.

Như Phong lắc đầu.

Hơi thở của anh yếu ớt.

My không nhận ra nước mắt mình đã dàn dụa trên khuôn mặt.

Đôi môi cô hơi mở.

Cô tháo chiếc băng bịt mắt màu đỏ đã ướt đẫm xuống, để lộ ra hai con ngươi vàng như nghệ.

Hai cánh tay cô ôm chặt lấy Như Phong, để đầu anh gối lên ngực mình.

Cô nhẹ giọng hỏi: "Anh lạnh lắm không?"

Như Phong gật đầu.

My càng ôm chặt anh hơn.

"Như vậy còn lạnh không?"

Như Phong trả lời : "Vẫn lạnh."

My liền đổi tư thế, để anh dựa vào vai mình.

Cô ôm lấy bờ vai anh, siết chặt vào trong ngực.

Gò má của cô áp lên gò má anh.

Trái tim cô đau nhói.

Trong bóng tối, giọng hát của cô khe khẻ như để ru anh ngủ."...Ta không mong được đời đời kiếp kiếpKhông mong được sớm tối bên nhauChỉ mong được bình thản nắm tay chàng đi giữa nhân gian ..."

Giờ phút này, mặc kệ ma quỷ, hiểm nguy đang rình rập,, cô chỉ muốn ở bên anh.

Nhân gian vô thường, có đôi khi chúng ta sắp mất đi, chúng ta mới biết quý trọng.

Có những giờ khắc cái chết nhẹ như không.**************Minh Khánh nhìn thẳng về phía trước.

Qua âm nhãn, cậu có thể thấy được hình dạng của nó.

Một đôi mắt trắng nhờ nhờ, một khuôn mặt sứt sẹo , chiếc mũi chỉ còn lại hai hố xương như đã bị ai xẻo mất.

Mái tóc dài luộm thuộm dính bết vào sau gáy.

Tay chân xiêu xiêu vẹo vẹo như bị bẻ gãy từng đốt xương một.

Nếu như hình dạng của con quỷ là trước lúc y chết, vậy thì cái chết của y hẳn là khủng khiếp lắm.Minh Khánh đứng dậy.

Thanh kiếm gỗ đã cầm sẵn trong tay.

Cậu thò tay vào túi áo móc ra một lá bùa Trấn Hồn, lẩm nhẩm đọc chú thuật.

Lá bùa tựa như bị một bàn tay vô hình cầm lấy, bay ra khỏi tay Minh Khắn, bắn về phía con quỷ.

Con quỷ cũng không trốn tránh, từ đôi mắt trắng nhờ nhờ đó, hai tia lửa bắn ra khiến lá bùa bị thiêu rụi.Minh Khánh lại lấy ra một lá bùa khác.

Lần này là bùa Diệt hồn.

Hắn tiến tới vung tay dán lên mình con quỷ.

Nhưng một tia sáng từ mắt con quỷ chiếu ra khiến lá bùa trên tay bốc cháy rừng rực.

Lưỡi lửa như chưa hết thòm thèm bắt đầu thiêu đốt luôn bàn tay của hắn.

Minh Khánh mặc kệ cánh tay đang rừng rực như một ngọn đuốc, vung kiếm gỗ chém vào đầu con quỷ.

Hắn cảm thấy lưỡi kiếm đụng phải thứ gì mềm mềm giống như tấm vải.

Con quỷ đã biến đâu mất.

Trên thanh kiếm chỉ có một tấm vải màn rách bươm.Rồi như cảm giác được điều gì, Minh Khánh vung tay đâm về phía sau.

Không có ai.

Nhưng trên đầu mũi kiếm lại có thêm một miếng vải rách.

Con quỷ cứ như muốn chơi đùa với hắn, lúc ẩn lúc hiện.

Minh Khánh gào lên: "Mi chỉ biết chạy trốn thôi sao?"

"Ai nói thế?

Ta ở trên đầu mi nãy giờ."

Minh Khánh ngửa mặt lên.

Cái mặt đẫm máu của con quỷ kề sát mặt hắn.

Hai tia lửa chiếu thẳng vào trong mắt hắn khiến đôi mắt hắn bốc cháy rừng rực.

Minh Khánh gào lên như lợn bị chọc tiết.

Hắn lăn lộn trên mặt đất, hai tay bưng kín đôi mắt.

Cơn đau đớn khủng khiếp nhấn chìm hắn, xóa đi mọi sự tỉnh táo và lý trí của hắn.

Hai mắt của hắn như bị muôn vàn cây kim châm vào, cho đến khi nó thủng lỗ chỗ như tổ ong.Cơn đau thậm chí khiến Minh Khánh không thể thở nổi.

Cái miệng hắn há ra, cố hớp hớp từng ngụm không khí cho dễ chịu hơn."

Cảm giác lửa âm ty thiêu vào trong da thịt thế nào?"

Con ma hỏi bằng một cái giọng bỡn cợt.

Minh Khánh không thể trả lời.

Tiếng của hắn như bị mắc nghẹn trong cổ họng.

Hắn lồm cồm bò dậy, thân hình lảo đảo như người say.

Đôi mắt hắn mù thật rồi.

Đến âm nhãn cũng chẳng thấy bất cứ thứ gì nữa.

Hắn gào lên : "A A A!"

Từ trong mắt hắn, máu đen chảy ra, theo hai khỏe mắt, qua má rồi xuống cổ, tạo thành hai vệt dài thật khủng bố.

Minh Khánh quát lên : "Trấn !

Trấn !

Trấn!"

Hắn dùng liền ba lần Trấn Tà Chân Ngôn.

Tiêu hao công đức khiến hắn phun ra máu.

Minh Khánh ngã khuỵu xuống, hai tay ôm lấy ngực ho khan.

Ruột gan hắn như cuộn lại, đau nhói.Con ma lúc này mới từ trong vòng ảnh hưởng của Trấn Tà Chân Ngôn tỉnh lại, thở ra nói; "Mi cũng ghê gớm đấy."

Một nửa thân hình của nó đã bị Phật môn tuyệt học thổi bay đi đâu mất.

Nó thò tay ra nắm lấy cổ Minh Khánh, há miệng cắn một ngụm.
 
Vùng Đất Vô Hình
Đừng Nhắm Mắt, Đừng Ngủ Say.... Tôi Xin Nàng Đấy


"Trên trời cao có mây trôi lặng lẽ.Và để cho những ngày dài trở nên bất tận.Cánh hoa có nở, ngọn cỏ có dài?Để cho cánh gió thơm ngọt ngào hương đồng xanh."

Tiếng ca của ai văng vẳng đánh thức người đàn ông đang ngủ bên lề đường.

Ông đội chiếc mũ tre đã te tua như bã mía mà người ta nhổ ra.

Bộ quần áo trên người đã rách rưới, thủng từ đầu gối đến tận trên đùi.

Ông vểnh tai lắng nghe tiếng hát, tháo chiếc dép gỗ ra vỗ xuống đất theo nhịp.

Miệng ông say sưa hát theo.Mãi cho đến khi tiếng hát ngừng người đàn ông mới tỉnh giấc mộng.

Ông ta như một người say, lảo đảo bước vào trong làng.

Miệng của ông vẫn lẩm nhẩm."

Để cho cánh gió thơm ngọt ngào hương đồng xanh.Đừng nhắm mắt, đừng ngủ say...

Tôi xin nàng đấy.

Để tôi hát lời thì thầm..."

Trong bóng hoàng hôn chập choạng, người đàn ông ngồi phịch xuống dưới một bụi tre.

Tay ông tháo chiếc đàn bầu sau lưng ra, bắt đầu kéo.

Tiếng đàn bầu réo rắt mang theo những âm điệu buồn thăm thẳm.

Người đàn ông cứ kéo mãi, kéo mãi cho đến lúc trăng lên... cho đến khi ông nhận ra có người đang khóc.

Người đàn ông dừng tay, bước tới góc khuất.

Sau gốc cây, có một cô gái xinh đẹp đang ôm mặt.

Nước mắt cô ướt nhòe gò má và những sợi tóc vương trên mi.

Chờ cô gái khóc xong, người đàn ông mới móc trong người ra một chiếc khăn tay đưa cho cô.

Cô gái lau nước mắt bằng chiếc khăn tay trắng muốt đó, miệng líu ríu cảm ơn.

Người đàn ông cười thật hiền.

Chòm râu rậm và vẻ ngoài xấu xí không che lấp được ánh sáng trong đôi mắt nâu tuyệt đẹp của ông.

Đó cũng là lần đầu gặp mặt của ông và nàng.Nàng mới mười bảy tuổi, xinh đẹp tựa như một bông hoa.

Không, một bông hoa thì tầm thường quá.

Trong mắt ông nàng là một cô tiên trên trời.

Nàng có giọng hát trong trẻo và một trái tim nhiều xúc cảm.

Ở bên nàng, ông quên hết những đau thương và nhọc nhằn trong quá khứ.

Nàng như một thứ men khiến người ta say quên hết cả trời đất.

Mỗi khi nàng hát, ông đánh đàn, tiếng ca điệu nhạc cứ miên man như nước chảy, cao vút tới tận trời, chạm đến tận cùng của sự hoàn mỹ trên thế gian.Tiếng ca và giọng hát đưa nàng đến cạnh ông.

Ông yêu nàng và nàng cũng yêu ông.

Thậm chí chẳng có lời nguyện thề hay một câu nói ái ân nào cả.

Tình yêu của hai người chỉ như một thanh kẹo đường ngọt lịm, thấm sâu vào trong lòng những ai đang nhấm nháp nó.

Bởi vì nó chân thật, hệt như tiếng đàn và lời ca của hai người.

Tình yêu có lẽ nào hệt như một đóa phù dung xinh đẹp, sớm nở tối tàn.

Tình yêu có lẽ nào hệt như một ngọn đèn đòm đóm, biến mất lúc bình mình.

Nàng được hứa gả cho con của một vị quan ở làng bên.

Đó là một chàng trai trẻ tuổi, đẹp trai, học hành giỏi giang và đỗ đạt.

Không như ông, vừa xấu xí, vừa phiêu bạt chân trời góc bể.

Hơn nữa ông cũng đã hơn trăm tuổi, tính mạng dần đi tới hồi cuối.

Cho dù là người tu đạo, ông cũng chẳng thể chống lại mệnh trời.Bởi vì thế, ông không ngăn cản nàng đi lấy chồng.

Nàng cần một tương lai tốt đẹp hơn là ở bên cạnh ông.

Cái đêm trước ngày đi lấy chồng, nàng nắm tay ông rất chặt.

Dường như nàng muốn gửi tất cả sự yêu thương và ước hẹn theo cái nắm tay ấy.

Đó cũng là giây phút cuối cùng mà ông được chạm vào nàng.

Cái nắm tay ấy quá mong manh, hệt như sinh mạng của người thiếu nữ.Nàng uống thuốc độc vào ngay trong đêm ấy.

Lúc ra đi bàn tay nàng vẫn nắm chặt chiếc khăn tay ông tặng lần đầu gặp mặt.

Hệt như lúc nàng nắm lấy tay ông.

Mãi tới trưa hôm sau, ông mới biết tin dữ.

Đồng thời, ông cũng mới biết nàng đã đấu tranh với gia đình mạnh mẽ đến chừng nào để được gặp ông, nói chuyện và hát cùng ông hàng ngày.

Thậm chí nàng đã nói với cha rằng muốn cưới ông.

Vậy mà ông không biết.

Ông chỉ biết chìm trong sự tự ty, ích kỷ và mỏi mệt của chính mình.

Ông không khóc.

Theo mấy chục năm trôi dạt, ăn hết đắng cay khổ sở của cuộc đời, nước mắt của ông đã cạn.

Ông chỉ biết đàn.

Tiếng đàn của ông gào thét cho sự ngắn ngủi của sự lãng mạn, của yêu thương và hẹn ước.

Ông cứ đàn, đàn mãi mà không nhận ra xung quanh mình đã bị vây quanh bởi cha mẹ họ hàng của cô gái và người chồng chưa cưới của cô.

Bọn họ đấm đá, chửi rủa , nhổ nước bọt vào mặt ông nhưng người đàn ông vẫn ôm chặt cây đàn, vẫn đánh khúc nhạc tiễn đưa người mình yêu.

Tiếng đàn vẫn chẳng ngừng lại cho đến khi cả ông và cây đàn bị thiêu trong ngọn lửa.

Ông không chết.

Hoặc nói đúng hơn là linh hồn của ông không chết.

Một linh hồn chỉ còn lại những đau thương, oán trách.

Ông thù hận người khác và cả chính mình.

Từ đó, trong ngôi làng xuất hiện một con ác quỷ.

Số người chết cứ tăng dần theo thời gian.

Cho đến khi làng hiểu ra chuyện, mời được thầy trừ tà về thì con ác quỷ đó đã mạnh tới mức không ai có thể ngăn nó lại.

Cả thầy trừ tà và những người muốn tiêu diệt nó đều bị giết chết một cách thảm khốc.

Những người còn lại chạy trốn khỏi ngôi làng, bỏ lại sau lưng một quá khứ đau đớn.

Làng Ma được người đời gọi tên từ đó.Con ác quỷ cũng ngày càng trở nên cô độc và tàn ác hơn.

Nó thích chơi trò mèo vờn chuột với những kẻ bất hạnh vô tình đi lạc vào trong làng.

Cho đến một ngày con ác quỷ gặp phải một thầy trừ tà trẻ tuổi, bị mù nhưng rất giỏi.

Khi nó cắn vào cổ thầy trừ tà đó, những ký ức tưởng chừng đã bị chôn vùi dưới tầng tầng lớp lớp đau thương và thù hận lại trỗi dậy.

Con quỷ gào lên đau đớn: "Á á á."

Một mảnh linh hồn của thầy trừ tà trẻ tuổi thuần khiết đến nỗi khiến ruột gan nó như cháy bỏng.Mảnh linh hồn đó khiến oán niệm ẩn sâu trong người con quỷ bị rã ra thành từng mảnh, giống hệt như băng tuyết gặp ánh mặt trời mùa xuân.

Trong phút chốc sức mạnh của con ác quỷ suy giảm một cách chóng mặt.

Càng yếu đuối thì những xúc cảm chôn giấu càng tràn về và làm suy yếu nó thêm.

Con quỷ nhận ra rằng phải giết chết thầy trừ tà ngay lập tức bằng bất kỳ giá nào.

Mặc kệ đau đớn, nó chồm lên vươn tay ra giữ chặt lấy đối thủ.

Đôi mắt trắng nhờ của nó mở to, hai tia lửa đen sẫm phun ra thiêu cháy thầy trừ tà.

Trong bóng tối ngọn lửa đen sẫm từ đôi mắt của con quỷ phun ra ào ạt.

Những tia lửa chồm lên như sóng xô bờ, muốn ăn tươi nuốt sống Minh Khánh.

Chỉ có điều ngọn lửa cứ thiêu đốt và vùng vẫy điên cuồng cũng không thể nào qua được một cái vỏ bọc màu vàng trước người hắn.

Đôi mắt của Minh Khánh đã mở ra, chói lòa như ánh mặt trời.

Từ trong đôi đồng tử rực sáng đấy, muôn vàn những tia sáng chiếu ra tạo thành một tấm màn chắn chống lại lửa âm ty của con quỷ.

Có lẽ bởi vì cảm thấy sự tuyệt vọng của người chủ, có lẽ bị lửa âm ty thiêu đốt âm nhãn khiến nó xúc động, Thiên nhãn đã mở ra vào giờ phút Minh Khánh cần nó nhất.

Cũng giống như đứa trẻ nào muốn sinh ra đều phải chịu đựng quãng thời gian chín tháng mười ngày trong bụng mẹ, Thiên nhãn đã được dưng dục suốt gần một năm bỏi linh hồn thuần khiết và số công đức lớn lao của Minh Khánh.

Và khi nó được sinh ra, Thiên nhãn ẩn chứa một sức mạnh lớn lao mà lửa âm ty không cách nào xâm phạm nổi.

Không chỉ có vậy, ngọn lửa âm ty còn bị đẩy ngược dần về phía con ác quỷ.Nhìn ngọn lửa của chính mình bắt đầu dính vào linh hồn, con quỷ không hề phản ứng gì cả.

Nó chỉ đứng im nhìn linh hồn cháy rừng rực như một ngọn đuốc.

Khuôn mặt con quỷ hiện lên sự vui vẻ dường như nỗi đau đớn ở trên thân của người khác chứ không phải chính nó.

Rồi giữa ngon lửa, con quỷ cất lên tiếng ca khàn khàn sâu lắng.

"Trên trời cao có mây trôi lặng lẽ.Và để cho những ngày dài trở nên bất tận.Cánh hoa có nở, ngọn cỏ có dài?Để cho cánh gió thơm ngọt ngào hương đồng xanhĐừng nhắm mắt, đừng ngủ say...

Tôi xin nàng đấy.

Để tôi hát lời thì thầm muôn thủa.Tôi không mong được đời đời kiếp kiếpKhông mong được sớm tối bên nhauChỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian...."

Tiếng hát cứ vang vọng mãi khắp làng Ma.

Dường như chưa thỏa mãn, ngọn lửa bắt đầu thiêu cháy cả ngôi nhà.

Những tấm màn trắng, những chiếc cột, hay thậm chí cả chiếc chân nến bằng đồng cũng không thể thoát khỏi lưỡi lửa đen sẫm đó.

Minh Khánh lê tấm thân mỏi mệt ra cửa.

Nơi đó My vẫn đang ôm chặt lấy Như Phong.

Cả ba người cùng ngắm nhìn ngôi nhà cháy rừng rực tạo nên một cột khói khổng lồ.

Không ai để ý thấy bên trong ngọn lửa có một chiếc khăn tay trắng muốt đang rỏ máu. *******************Trên đường trở về, Như Phong đã tỉnh táo hơn.

Anh kể cho hai người câu chuyện lúc bọn họ cõng người đi ra ngoài.

Mặc dù đã dán cho ba người thanh niên mỗi người một lá bùa, nhưng không hiểu bằng cách nào con quỷ vẫn điều khiển được bọn họ.

Đầu tiên là chàng trai trên lưng Lê Tấn nổi điên cắn vào cổ gã.

Như Phong và ông Quân giằng mãi mới ra được.

Thế rồi ngay trước mặt bọn họ, chàng trai nổi điên tự động bốc cháy.

Thằng Ca con ông Quân và người bạn còn sót lại của nó sợ quá chạy ra ngoài.

Như Phong và ông Ca vội đuổi theo.

Thế nhưng không những không tìm thấy cửa ra, bọn họ còn lạc luôn cả Lê Tấn.Rồi Như Phong bị con quỷ tấn công.

Anh bị thương và kiệt sức nhưng không hiểu tại sao con quỷ không giết chết anh.

Một lúc sau thì My đến.

Như Phong thấy con quỷ đã vẫn rình rập bên cạnh hai người.

Lúc My ôm lấy anh, Như Phong thấy thân hình nó đã tiến đến sát sau lưng của My.

Lúc đó My dường như đang chìm sâu vào tâm trạng, còn anh chẳng còn tí sức lực nào để mở miệng nhắc nhở My cả.

Trong thời khắc hiểm nguy đó, My bỗng hát lên một bài quen thuộc mà cô rất thích.

Tiếng hát của cô khiến con quỷ dừng lại trong phút chốc.

Bài hát tựa như có một thứ ma lực kỳ lạ ru anh vào giấc ngủ.

Đến khi anh tỉnh lại thì hai người vẫn bình an, thậm chí My còn đưa anh ra được bên ngoài.

Minh Khánh hỏi anh đó là bài hát gì.

Như Phong định trả lời thì bị My bịt miệng.

Cô xấu hổ không chịu chia sẻ bí mật nhỏ bé của cô với người lạ.

Ba người đi dưới bóng tối của hàng tre rậm rạp.

Có một cánh đom đóm nhỏ bỗng xuất hiện trước mặt ba người.

My cố chụp lấy nhưng bị hụt.

Cánh đom đóm vội vã thoát khỏi bàn tay cô bay qua ngọn tre lên trời.
 
Vùng Đất Vô Hình
Phiên chợ của người tu đạo


Đi ra khỏi làng, Minh Khánh thấy được ông Quân, thằng Ca con ông và bà Mun.

Thì ra trong lúc ông Quân chạy ra ngoài, vô tình ông gặp được bà Mun đang đi vào.

Thế là chỉ với giá ba con cá chép nướng thật to, ông liền được bà Mun dẫn khỏi căn nhà đến tận bên ngoài ngôi làng.

Thấy bà Mun cụp đuôi ôm mặt xấu hổ, Minh Khánh cười phì bế bà lên.

Năm người bọn họ trở lại quán cơm của ông Quân đánh chén một bữa no nê.

Sáng hôm sau, Minh Khánh tiếp tục hành trình ra Bắc của mình.

My và Như Phong thì còn ở lại chữa thương mấy hôm rồi mới trở về trấn Thanh Đô.Phiên chợ của người tu đạo mà Minh Khánh muốn tham gia nằm ở bên đầm Nhất Dạ thuộc phủ lộ Thiên Trường.

Tương truyền ngày xửa ngày xưa vua Hùng Vương thứ ba có một người con gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung.

Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước.Thuở ấy, ở làng Chử Xá có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử.

Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố.

Hai cha con phải thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài.

Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất, dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần.

Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn.

Từ đó Chử Đồng Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn.

Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên Dung đến vùng đó.

Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình xuống đó rồi phủ cát lên che người.

Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp.

Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ.

Nghĩ nhân duyên do là trời xui khiến, nàng công chúa cưới anh chàng trần như nhộng ngay trên sông.Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận dữ lắm.

Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian.

Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh.

Chử Đồng Tử một lần cùng khách buôn đị đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật Quang.

Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo.

Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo về đất liền.

Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón và bảo: "Đây là vật thần thông".

Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ.

Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thày học đạo.

Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ.

Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì.

Lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng.

Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôị Họ vào thành thấy các quan văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng.

Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm loạn, vội phái quân đi đánh.

Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng: "Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không phải tự ta.

Ta đâu dám cự lại phụ vương.

Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận".

Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn.

Đến nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng Vương rối loạn.

Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng Tiên Dung đều bay cả lên trờị Sáng hôm sau, người ta kinh dị thấy chỗ đó đã hóa thành một cái đầm lớn.

Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ.Dân gian đồn đại rằng trong đầm Nhất Dạ còn rơi rớt lại rất nhiều bảo vật của tiên.

Người tu đạo cũng nhiều lần tiến vào tìm kiếm và thu hoạch được các loại dược thảo trên trăm năm tuổi cùng với một số vật thần thông.

Thấy người tu đạo ra vào rất nhiều, những môn phái xung quanh đầm Nhất Dạ quyết định tập hợp nhau lại lập nên một phiên chợ để trao đổi các loại hàng hóa cũng như để thu thuế.

Trải qua mấy trăm năm phát triển, phiên chợ đầm Nhất Dạ đã trở thành một trong những phiên chợ nổi tiếng nhất của giới tu đạo.

Thiên nhãn mở ra rồi, con đường Minh Khánh đi thuận lợi bình an đến không ngờ.

Ngày đi đêm nghỉ, hắn tới đầm Nhất Dạ sớm hơn dự kiến gần một ngày.

Minh Khánh đứng bên bờ nước nhìn ra.

Đó là cả một vùng nước mênh mông, lau lách um tùm.

Mặc dù trong đầm cũng có một số loại động vật nguy hiểm như cá sấu hay trăn, rắn và các loại côn trùng có độc nhưng Minh Khánh biết thứ đáng sợ nhất trong đầm không phải là chúng.

Người ta sợ hãi đầm Nhất Dạ bởi vô số những cái bẫy chết chóc nhất của tự nhiên ẩn trong lòng nó.

Đó chính là các vũng lầy.

Dù là người tu đạo hay người bình thường, một khi rơi xuống những cái vũng đó thì hầu như đều phải mất mạng.Minh Khánh có đọc qua cuốn sách Nhập hồn của Kim Thiền chân nhân , một trong những thầy trừ tà nổi tiếng nhất suốt chiều dài lịch sử.

Trong đó ông có kể về việc đi tìm thần xác của kẻ xấu số thông qua việc để linh hồn người chết nhập vào người.

Ông cảm nhận được những cái chết thông qua ký ức của người xấu số.

Một trong những cái chết khiến ông khiếp đảm nhất là cái chết gây ra bởi đầm lầy.

Khi nạn nhân rơi xuống vùng sình lầy, dù là đứng yên hay cố gắng vùng vẫy thì cái chết cũng sẽ mau chóng đến với bạn.

Chân không có điểm tựa, mọi nỗ lực "bơi" hay di chuyển đều là vô vọng.

Chẳng mấy chốc kẻ xấu số bị đầm lầy nuốt chửng.

Khi không còn có thể nín thở được nữa thì bùn và cát sẽ tràn đầy phổi, dạ dày.

Chúng sẽ đúc tượng nạn nhân từ trong ra ngoài trước khi nhấn chìm người đó xuống phần lỏng hơn phía đáy của đầm lầy.

Sau đó kẻ xấu số sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới đó mà không một ai biết.

Bởi thế trong đầm Nhất Dạ, tất cả mọi người đều phải đi thuyền.

Minh Khánh đi dọc bờ khoảng năm dặm thì tìm thấy bến.

Ở đó có rất nhiều người chờ đò tụ tập chỉ để kiếm ít đông bạc sống qua ngày.

Minh Khánh chọn con thuyền nhỏ của một ông già tóc bắt đầu điểm bạc.

Minh Khánh ngồi lên phía mũi thuyền, bắt đầu ngắm cảnh xung quanh.

Ông lão dường như rất thuộc đường, chỉ trong chốc lát đã đưa con thuyền đi vào trong đám lau sậy.

Qua lớp sương mù dày đặc, Minh Khánh phát hiện ra con thuyền đang đi trên một dòng nước rộng chỉ tầm chưa đến hai trượng, hai bên bờ là một rừng lau sậy um tùm.

Thỉnh thoảng Minh Khánh lại thấy những con chim bay lên từ trong bụi khi nghe tiếng chèo khua nước.

Hầu hết trong số chúng là cuốc hoặc một loại cò trắng nhỏ.

Đôi khi là bói cá hoặc những loài chim lạ mà Minh Khánh không biết tên.Ông lái đò dường như đã thuộc lòng con đường.

Mỗi lần gặp ngã ba hay khúc quanh ông đều điều chỉnh thuyền đi ở giữa dòng, tay chèo thậm chí không hề lắc lư.

Đi qua một đoạn, Minh Khánh nhìn thấy một dãy những ngôi mả đắp cao nằm gọn gàng bên bờ nước.

Chúng dường như đẫ có từ rất lâu rồi.

Những hàng chữ trên tấm bia đá đã mờ đến nỗi đôi mắt tinh của Minh Khánh cũng không nhận ra.

Hắn cất giọng hỏi ông chèo thuyền: -"Ông ơi, những ngôi mộ này là của ai mà nằm tận trong này hả ông?"

Ông lái đò cười khà khà hỏi lại: "Cậu mới đến đây lần đầu đúng không?"

- "Vâng"Ông ta lại hỏi: "Thế cậu đã nghe về vua Lí Nam Đế bao giờ chưa?"

Thấy Minh Khánh gật đầu, ông bèn cao giọng ngâm: ""Bốn phương phẳng lặng can qua,Theo nền nếp cũ lại ra Long Thành"."

"Khi đế quốc hùng mạnh ở phương Bắc tung binh xâm lược, , Lý Nam Đế gặp thất bại ở trận hồ Điển Triệt.

Ông bèn trao hết binh quyền cho Tả tướng Triệu Quang Phục.

Nhưng lúc này số binh lực dưới tay ông ba phần chỉ còn lại hai.

Triệu Quang Phục quyết định lui về ẩn náu ở đầm Nhất Dạ ở Khoái Châu.

Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được.

Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết, bị vũng lầy nuốt chửng.

""Triệu Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm,Ông dùng chiến thuật du kích, ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân xâm lược, cướp hết lương thực vũ khí, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài.

Giặc phương Bắc thua tan tác.

Triệu Quang Phục được dân chúng tôn xưng làm Dạ Trạch Vương.

Từ đó đầm Nhất Dạ còn có một cái tên nữa là đầm Dạ Trạch.

"Rôì ánh mắt ông lão trở nên đầy tự hào.

"Trong những ngày khó khăn nhất bị giặc ngoại xâm truy lùng càn quét, phải ăn gạo rang, thịt sống, thậm chí là rễ cây để sinh tồn, thế nhưng có rất nhiều binh lính đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để ngăn cản bước chân quân thù tiến vào vũng đất trung tâm của đầm.

Nhờ đó đội quân của Dạ Trạch Vương mới có thế đứng vững trước sự càn quét của giặc phương Bắc.

Sau khi đuổi giặc ngoại xâm đi rồi, những binh lính đó đều được đồng đội và dân trong vùng mai táng cẩn thận.

Những ngôi mộ này chính là có từ thời điểm đó."

- "Thật khó mà tưởng tưởng những ngôi mộ này đã tồn tại gần một ngàn năm."

Ông lão cười: "Đó là bởi vì dân chúng quanh đầm Dạ Trạch tin tưởng rằng những chiến sĩ đó vẫn còn lẩn khuất quanh đây, bảo vệ vùng đất này được an bình.

Thế nên cứ đến tết Thanh minh, họ lại dắt nhau tới đây dọn dẹp sửa sang lại những ngôi mộ cũ."

Minh Khánh gật đầu.

Thuyền bắt đầu đi vào lớp sương mù.

Hơi nước mờ đặc làm khuôn mặt ông lão gần hắn trong gang tấc cũng chẳng thấy.

Đi qua làn sương, Minh Khánh nhìn thấy một bến nước rộng.

Bên trên là một dãy phố được dựng lên bởi gỗ, tre trúc và lau sậy.

Minh Khánh trả tiền cho ông lão rồi lên bến.

Hắn mãi mê ngắm nhìn những khối kiến trúc kỳ lạ do người tu đạo tạo nên không để ý thây có một người đang tiến lại.

Mãi cho đến khi người đó "E hèm" mấy tiếng, Minh Khánh mới quay mặt lại.Đó là một người trung niên đứng tuổi.

Khuôn mặt và cả thân hình hơi béo.

Cái bụng đã bắt đầu phình ra chật căng vạt áo phía trước khiến dáng đi của y trông rất buồn cười.

Đôi mắt ti hí cũng khiến cho y thoạt nhìn có vẻ vô hại Thế nhưng Minh Khánh không hề cười.

Hắn ngửi được mùi nguy hiểm từ trên thân của người nọ.

Người trung niên cúi đầu rất lễ phép: "Xin chào mừng khách quan đến với phiên chợ đầm Nhất Dạ"Minh Khánh nhìn y hỏi: "Ông là ai?"

Người trung niên cười.-"Tôi là Văn Quýnh, người quản lí của phiên chợ.

Không biết tôi đang được tiếp đón ai đây?

"_"Minh Khánh của phái Phổ Linh."

Minh Khánh cũng lễ phép giới thiệu."

Rất vui được gặp ngài."

Người đàn ông nắm lấy ống áo của hắn; "Nghe danh đã lấu.

Vậy xin phép cho tôi đưa ngài đi dạo phiên chợ một lần?"

- "Ai mới đến cũng có vinh hạnh này ư?"

Minh Khánh kỳ quái lắm.- "Không phải, chuyện này hoàn toàn do tôi phụ trách.

Nếu tôi thấy ai đó thuận mắt, người đó liền do tôi đưa đi.

Nếu tôi ghét ai, kẻ đó sẽ theo gặp một số tên khá phiến toái và ngược lại."

Minh Khánh bước đi dưới phố.

Hắn ngó qua những ngôi nhà với dáng vẻ kỳ quái, những tấm biển bên ngoài với đủ các loại hình thù, kiểu dáng và màu sắc.

Người đàn ông tự xưng là Văn Quýnh giới thiệu: "Khu phố này hầu hết là những người buôn bán lâu năm.

Bọn họ có nguồn hàng từ những kẻ thám hiểm trong đầm hoặc là từ các nơi chuyên chở đến."

Minh Khánh hỏi: "Bọn họ bán cái gì?"

- "Đủ các loại mặt hàng.

Từ các loại thuốc quý, đến bùa chú, vũ khí, các loại bảo vật..."

Ông ta nháy mắt với Minh Khánh.

"Cậu cũng đến đây để mua bán phải không?"

- "Tôi muốn đổi một ít tà vật lấy một số thứ cần thiết."

Minh Khánh ngượng ngùng nói.

"Trên người tôi không có nhiều bạc cho lắm."

Văn Quýnh cười phá lên.

"Cậu đùa với tôi sao?

Trên người có một đống tà vật mà lại nói không có bạc?

Cậu biết giá một cái tà vật thông thường nhất là bao nhiêu không?

Một vạn lượng đấy.

Thậm chí còn không có người bán.

Từ đầu năm đến giờ tự nhiên số lượng ma quỷ tăng lên rất nhiều.

Tà vật cung không đủ cầu, cứ tăng giá vùn vụt."

Minh Khánh cũng ngạc nhiên.

"Làm sao ông biết tôi có rất nhiều tà vật?"

Đôi mắt của Văn Quýnh hiện lên ý cười.

"Tôi đoán.

Hiện giờ ma quỷ rất nhiều.

Với thực lực của cậu, chả lẽ không thể bắt quỷ để kiếm tà vật hay sao?"

Rồi ông ta vỗ vai Minh Khánh.

"Đi thôi, để tôi đãi cậu một bữa.

Cậu mới đến lần đầu chắc chả biết chỗ nào ăn ngon đâu nhỉ?"

Minh Khánh nhìn theo dáng đi của ông ta.

Cái tấm lưng bệ vệ ấy bỗng gợi cho cậu một cảm giác thâm sâu khó tả.

Hai người dừng ở một quán cơm bé nhỏ ven đường.

Ông chủ quán lúc này đang bận túi bụi nhưng thấy Văn Quýnh vẫn ngửng đầu vồn vã chào: "Úi trời hôm nay rồng đến nhà tôm."

Văn Quýnh cười mắng: "Tuần nào chả đến nhà lão ăn mà rồng với chả tôm.

Còn bàn không?"

Ông chủ quán cười: "Còn mỗi một cái.

Ông may mắn lắm đấy."

Nói rồi dẫn hai người vào trong một chiếc bàn gỗ trong góc tối om.

Ông chủ quán hỏi: "Lâu lắm mới thấy ông dẫn người đến ăn cùng nhỉ?

Cậu này là...?"

Minh Khánh vội đứng lên.

"Minh Khánh của phái Phổ Linh.

Đây là lần đầu tôi đến đây."

Ông chủ quán liền ấn vai cậu xuống.

"Không cần đứng lên.

Hoan nghênh cậu đến đầm Nhất Dạ."

Rồi hỏi cậu: "Cậu thích ăn món gì?"

Minh Khánh đáp:"Tôi rất dễ tính.

Món gì cũng được cả."

Ông chủ quán cười.

"Thế sao được.

Cậu đã đến đây thì tôi phải để cậu ăn một bữa mà nhớ mãi nơi này mới được.

Thôi được rồi, tôi sẽ mời cậu ăn những món đặc trưng nhất của vùng này.

Xem nào, cá mòi rán, chim nướng muối ớt, bánh cuốn, tương bần, còn gì nữa nhỉ?

À cậu uống rượu không?"

Minh Khánh từ chối.

Ông chủ quán xắn tay áo đi vào bếp.

"Hai người chờ tôi một tí."

Văn Quýnh giới thiệu với Minh Khánh: "Nhìn lão có vẻ thường thường thế thôi chứ đã từng nấu ăn cho cả mấy môn phái lớn đấy.

Ở cả phố này ai cũng biết tiếng lão cả."

- "Sao ông ấy không tiếp tục nấu cho các môn phái.

Tôi nghĩ tiền họ trả chắc còn bằng mấy lần mở quán ấy chứ."

- "Hà.

Ai biết được.

Nghe lão bảo lão thích nấu nướng tự do.

Nấu cho nhiều người thì khó mà làm công phu lắm."

Văn Quýnh nhấp một ngụm rượu trong cái hồ lô mà ông ta đeo theo người.

Cái hồ lô trơn bóng rất đẹp làm Minh Khánh lúc đầu còn tưởng là bảo bối.Chỉ một lát sau ông chủ quán đã bê lên một đĩa cá rán và một đĩa chim nướng.

Ông chủ quán báo: "Cá và chim vừa mới bắt hôm qua, cậu nếm thử xem tay nghề chế biến của tôi thế nào?"

Minh Khánh cầm một miếng thịt chim trên tay.

Miếng đùi vàng sẫm, mỡ dính đầy ngón tay hắn.

Mùi thịt béo hòa cùng mùi thơm của sả ớt khiến hắn chảy nước dãi.

Hắn nhúng miếng thịt vào bát nước chấm, sau đó đưa lên miệng.

"Trời ạ sao mà ngon thế?"

Da chim giòn rộm, thịt chim béo, ăn ngọt và mềm.

Từng miếng thịt hơi xém cạnh, lại ngấm đều gia vị chua cay mặn, ăn vào sướng từ đầu đến chân, khiến hắn xuýt xoa không thôi.

Ông chủ quán cười: "Thế nào?

Ngon chứ?"

Minh Khánh nhồm ngoàm trả lời: "Quá ngon."

Ông chủ quán vui vẻ cười lên ha hả, gắp cho hắn một con cá rán.

"Ăn thử cá đi kẻo lão tham ăn kia ăn hết bây giờ.

Tôi đi chuẩn bị những món khác."

Minh Khánh cầm con cá trên tay, hít hà.

Cá sao mà thơm thế.

Văn Quýnh lại chén xong một con cá, vừa hớp một hớp rượu, vừa giới thiệu.

"Rất thơm đúng không?

Đừng nhìn món cá rán này dễ làm, nhưng làm cho ngon thì rất khó.

" Ông ta lại hớp một ngụm rượu.

"Để tôi nói cho cậu, có lần thấy ông ta làm lâu quá, tôi lẻn vào nhìn trộm.

Cậu biết ông ta chế biến thế nào không?"

"Ông ta không mổ dọc bụng như các loại cá khác, sau khi đánh sạch vảy cá chỉ cần cắt ngang một lát vừa tầm ở phía dưới mang rồi moi mật, ruột ra, dùng tay móc mang cá, và tiện dao khía những đường nhỏ quanh sườn cá.

Rồi ông ta cho cá vào ướp, tôi cũng chẳng rõ với gia vị gì.

Sau ông ta xâu cá lên nướng trên than.

Sau khi cá dậy mùi thơm, ông ta cho ngay vào chảo mỡ lợn nóng rán nổi trên mỡ.

"Minh Khánh gỡ một bụi trứng vàng ruộm trong bụng cá cho vào miệng.

Rồi gã gỡ từng miếng thịt cá trắng cho đến khi chỉ còn xương.

Mùi cá thơm ngọt, hương vị của gừng tỏi trong nước chấm khiến hắn mê say.

Đang chén một cách hăng hái thì Minh Khánh thấy có thứ gì đó nằng nặng nhảy lên đùi mình.

Hắn nhìn xuống.

Bà Mun đã tỉnh ngủ từ bao giờ, đang tròn mắt nhìn con cá trên tay hắn.

Hai hàng ria của bà rung rinh, nước dãi trong miệng chảy ra trông khá buồn cười.

Nhìn vào cái đĩa trống không, Minh Khánh hơi do dự.

Hắn hỏi bà Mun: "Chia đôi nhé?"

Bà liền lắc đầu.

Minh Khánh lại thương lượng: "Vậy thì chia ba, bà hai phần có được không?"

Bà lại lắc đầu, nước dãi chảy ra càng nhiều.

Minh Khánh chưa kịp mặc cả tiếp thì 'Méo', con cá đã bay vào miệng bà rồi.

Hắn bất đắc dĩ vỗ vỗ cái bụng béo của bà Mun: "Được rồi, bà xuống đi.

Rơi cả vào quần áo của tôi bây giờ."

Bà Mun vẫn nằm nguyên trên đùi hắn.Văn Quýnh nhìn chằm chằm vào bà Mun hỏi: "Một con linh miêu thành tinh?"

Minh Khánh gật đầu.

- "Nó có thể hồi sinh xác chết không?"

Văn Quýnh tò mò hỏi.- "Ông cũng tin mấy chuyện như thế sao?"

Minh Khánh phì cười.- "Tại sao không?

Bản thân người tu đạo đã là một thứ gì đó nằm ngoài sự giải thích rồi.

Linh miêu nếu hồi sinh xác chết cũng chẳng có gì lạ cả.

" - "Ông nói cũng đúng."

Minh Khánh ngẫm nghĩ một lát rồi nói.- "Thôi ăn uống no say rồi, để tôi dẫn cậu đi đến chỗ làm ăn."

Ông ta lảo đảo đứng lên trả tiền rồi xiêu xiêu vẹo vẹo dẫn Minh Khánh đi đến cuối con phố.

Ở đó có một tòa nhà bốn lầu rất to.

- "Đây là khu chợ cho những người ở xa đến, không muốn mua cửa hàng.

Vào trong đấy cậu chỉ cần tìm người phụ trách đóng tiền là có ngay một gian."

Thế rồi ông ta tiếp tục xiêu xiêu vẹo vẹo bước đi, miệng còn hừ một câu ca gì khá lạ mà Minh Khánh chưa từng nghe.
 
Vùng Đất Vô Hình
Lỗ hay lãi


Thỏa thuận xong và đóng tiền cho quản lý khu chợ, Minh Khánh ung dung ngồi viết lên tấm biển trước gian hàng của mình.

"Cần đổi tà vật thông thường lấy tà vật vĩnh cửu."

Xong xuôi, hắn ngồi trên tấm chiếu hoa đẹp đẽ bắt đầu niệm Tịnh Tâm Chú.

Bà Mun ăn no rồi cũng lăn ra ngủ.

Mãi đến tối cũng chả có ai vào xem hàng, người và mèo gọi một suất cơm cá xong mắc màn ngủ một giấc.Ngày hôm sau khu chợ bắt đầu đông đúc hẳn.

Bắt đầu có người vào hỏi thăm mua tà vật.

Đáng tiếc bọn họ chỉ có thể trả bằng bạc nên Minh Khánh không đồng ý.

Đến chiều, vừa ăn cơm xong thì có một đám thanh niên nam nữ đi qua.

Nhìn bộ quần áo tơ lụa quý giá trên người bọn họ, Minh Khánh đoán đây hẳn là đám con ông cháu các cụ ở môn phái nào đấy.

Đám nam thanh nữ tú đi vào gian hàng bên cạnh của Minh Khánh.

Đó là nơi bán các loại răng và xương yêu quái.

Thậm chí Minh Khánh còn nhìn thấy một đôi cánh tay của Mộc Tinh hay cái răng bằng bắp tay của Ngư Tinh.Mặc cả một lúc lâu, Minh Khánh thấy một chàng trai hí hửng gọi người hầu bê nguyên cái vây to của loại cá thành tinh nào đó.

Rồi đám thanh niên nam nữ bất ngờ rẽ vào trong gian hàng của Minh Khánh.

Người đi đầu là một thanh niên tầm hai mươi tuổi, có đôi mày rậm và chiếc cằm bạnh.

Đôi mắt anh ta sắc lẹm như mắt diều hâu.

Anh ta hỏi Minh Khánh: "Nơi này có bán tà vật sao?"

Minh Khánh lắc đầu: "Tôi không bán mà chỉ đổi những thứ hữu dụng thôi."

Chàng trai gật đầu lấy trong tay áo ra một cuốn đạo pháp, hỏi: "Thứ này có thể đổi bao nhiêu tà vật?"

Minh Khánh nhìn hàng chữ vàng: "Hô Phong Hoán Vũ" uốn lượn trên bìa xanh của cuốn sách, lắc đầu.

Chàng trai cười nhạt: "Chẳng lẽ cậu cho rằng thứ này là giả?"

Minh Khánh lắc đầu nói: "Không thứ này là thật.

Rất khó để làm giả hàng chữ bá đạo như thế này.

Tôi có thể cảm nhận thấy mưa gió sấm chớp ẩn sâu bên trong con chữ.

Quyển sách này không chỉ là thật mà còn do chính tay người thừa kế môn thần thông này chép ra."

Nghe Minh Khánh nói thế, chàng trai gật đầu.

Có cô gái đứng bên cạnh xen vào: "Vậy tại sao tiên sinh không đổi?

Môn thần thông này cho dù đi khắp cả giới tu đạo cũng có thể xếp vào mười thứ hạng đầu."

Minh Khánh cười: "Trên đời này không có loại thần thông mạnh nhất, chỉ có người sử dụng mạnh nhất mà thôi.

Hô Phong Hoán Vũ trong tay Cường Bạo chân nhân có thể xếp vào mười thứ hạng đầu, nhưng trong tay người khác thì lại khác.

Hơn nữa, tôi đã nói rồi, chỉ dùng tà vật để đổi lấy thứ thích hợp với tôi thôi."

Lúc này một chàng trai khác tiến đến để xuống chiếu một cái lọ sự chỉ to bằng mấy ngón tay: "Đây là một viên Long Ngư Hoàn, có thể rút ngắn thời gian ứng kiếp.

Tiên sinh xem có thể đổi bao nhiêu tà vật?"

Minh Khánh vẫn chỉ lắc đầu.

Nếu như trước lúc mở Thiên nhãn, hắn sẽ trả giá cực cao để lấy viên thuốc này nhưng bây giờ nó không quá cần thiết với hắn nữa.

Chàng trai vội vàng kêu lên: "Tiên sinh viên thuốc này là thật."

Minh Khánh đáp: "Chỉ cần ngửi mùi hương thôi cũng biết là thật.

Bất quá nó không cần thiết đối với tôi.

Mong cậu thông cảm."

Cô gái lúc nãy dường như thấy thú vị, rút trong người ra một cây trâm sáng ngời, đặt xuống chiếu.

"Vậy còn thứ này thì sao?"

Minh Khánh cầm cây trâm lên ngắm nghía một lúc lâu, mới thở dài nói: "Đây hẳn là đồ trang sức của tiên.

Tiếc là nó chỉ phát huy đầy đủ sức mạnh nếu ở trong tay phái nữ."

Nói xong cậu đặt cây trâm xuống, lắc đầu.Chàng trai đi đầu lúc này mới hỏi một cách lạnh lùng: "Thứ này cũng không được, thứ kia cũng không được.

Vậy tiên sinh muốn gì?

Hay là ngài không đủ tà vật để đổi.

Ngài có thể nói, bọn tôi rất dễ thương lượng."

Minh Khánh chưa kịp trả lời thì có người đã xen vào: "Mời tiên sinh xem thứ này của lão có vào được pháp nhãn của ngài không?

"Minh Khánh ngẩng đầu lên.

Không biết từư bao giờ, gian hàng của hắn đã trở nên khá tấp nập.

Có lẽ do tà vật đang là thứ có giá trị. hoặc là đám nam thanh nữ tú kia thu hút ánh mắt mọi người, đã có mấy chục người vây quanh hắn.

Người vừa mới nói là một ông lão râu tóc bạc phơ, cố chen vào từ phía sau.

Ông lão lấy khăn lau mồ hôi trên trán, rồi đưa cho Minh Khánh một vật gì.

Minh Khánh cầm trong tay mới biết đấy là một hòn đá.

Nó có màu xanh nước biển, nhạt dần từ ngoài vào trong.

Mặt viên đá có những đường vân vuông vắn.

Đặc biệt nhất là viên đá mát lạnh như băng tuyết, cầm vào khiến tâm hồn người ta trở nên vô cùng thư thái.Minh Khánh thốt lên: "Đá trừ tà!"

"Vật trừ tà là những thứ đồ vật có khả năng làm thanh tịnh tâm hồn người cầm, bảo vệ họ khỏi những thứ ô uế dơ bẩn từ bên ngoài.

Trái ngược với tà vật có thể ảnh hưởng đến những linh hồn khác, vật trừ tà chỉ có thể ảnh hưởng đến người sở hữu nó.

Vật trừ tà hầu hết có thể tồn tại qua hàng thế kỷ nếu như nó không bị làm ô uế hoặc bị phá hủy."

Trích Trừ tà ký giải của Hoàng Thập chân nhân.Ông lão nghe vậy cười; "Tiên sinh, thứ này có thể đổi được tà vật của ngài không?"

Minh Khánh cười : "Có thể.

Ông lão muốn đổi mấy cái tà vật?

Muốn loại bình thường hay loại mạnh?"

Ông lão lau mồ hôi nói; "Loại mạnh khác loại bình thường ở chỗ nào?"

Minh Khánh giải thích: "Loại bình thường sẽ chỉ sử dụng được một đến hai lần.

Loại mạnh là từ bốn lần trở lên."

Ông lão ngẫm nghĩ một lát rồi nói: "Mười chiếc loại bình thường được không tiên sinh?"

Ông lão vừa nói xong thì chàng trai hồi nãy cười to: "Viên đá của lão chỉ khoảng bảy tám vạn lượng bạc.

Vậy mà muốn những mười cái tà vật cơ à?"

Minh Khánh nhìn vẻ mặt xấu hổ của ông lão, phì cười.

Hắn lấy trong chiếc gùi to ra một bọc vải to, đổ xuống.

Khoảng hơn hai mươi chiếc hôm sơn đỏ đủ các kích thước rơi ra thành một đống.Minh Khánh nói với ông lão: "Ông lão cứ chọn đi.

Tất cả ở đây đều là loại bình thường."

Tất cả mọi người há hốc miệng.

Cô gái đổi cây trâm hồi nãy sửng sốt kêu lên: "Sao mà nhiều thế này!"

Đột nhiên có người hô lên: "Cho tôi vào, cho tôi vào nào."

Minh Khánh nhìn thấy một người đàn ông béo ị chen qua đám người vào chỗ hắn.

Mọi người cau mày nhìn nhưng thấy dấu vết trên ngực áo của y liền giãn ra.

Người đàn ông béo tự giới thiệu; "Tôi là Hoàng Sơn của phái Linh Quảng.

Tôi muốn mua hết chỗ còn lại."

Minh Khánh lắc đầu đáp: "Tôi không bán, chỉ đổi những thứ cần thiết thôi."

Hoàng Sơn liền lôi từ trong ngực áo ra một xấp bùa chú, đưa cho Minh Khánh.

"Loại bùa Cấm Hồn Thú này hẳn là vừa ý tiến sinh chứ?"

Thấy Minh Khánh cầm xấp bùa lên xem xét, y liền rung đùi có vẻ đắc ý lắm.

Minh Khánh xem rất kỹ.

Hắn nghe danh loại bùa bí truyền của phái Linh Quảng này từ lâu lắm rồi.

Mỗi lá bùa có phong ấn linh hồn của một con yêu thú.

Khi sử dụng, linh hồn yêu thú sẽ thoát ra, và tấn công địch nhân.

Nhược điểm của loại bùa này là thời gian sử dụng quá ngắn, yêu thú trong lá bùa chỉ có thể tồn tại khoảng một nén hương sau khi bóc mở phong ấn.Minh Khánh lắc đầu trả lại cho Hoàng Sơn.

Gã béo sửng sốt hỏi: "Tiên sinh, thứ này không vừa ý ngài sao?"

Minh Khánh trả lời: "Loại bùa này tôi rất muốn có, nhưng những lá bùa ở đây chế tạo quá kém.

Sử dụng chỉ hao tổn pháp lực mà không có nhiều ý nghĩa lắm."

Mọi người xung quanh cười phá lên.

Lúc này lại có người chen vào.

Đó là một người đàn ông to cao , mặc một chiếc áo ngắn tay để lộ cơ bắp cuồn cuộn.

Y cúi đầu chào chàng trai đến đầu tiên: "Bình công tử."

Chàng trai sửng sốt rồi vội cúi đầu chào lại: "Lê hộ pháp."

Rồi vui vẻ hỏi thăm: "Sao ông lại tới đây?"

Người đàn ông cười thật tươi, vết sẹo trên má của y giãn ra.

"Nơi này có hàng độc như thế, làm sao tôi lại không tới chứ."

Bình công tử hưng phấn lắm: "Ông mang hàng độc đến à?

Vị tiên sinh này khó tính lắm, đến Hô Phong Hoán Vũ thần thông của cha ta cũng không thèm đổi."

Lê hộ pháp gật đầu, lấy trong người ra một con hình nhân bằng vải đỏ, trịnh trọng đưa cho Minh Khánh; "Tôi muốn toàn bộ số tà vật mà cậu có."

Minh Khánh cầm con búp bê lên, đôi mắt hắn mở to, rùng mình ướm hỏi Lê hộ pháp; "Hình nhân thế mạng?"

Lê hộ pháp cười: "Cậu cũng biết hàng đấy chứ."

Minh Khánh ngẫm nghĩ một lát.

Hình nhân thế mạng là một loại tà vật, cũng là một lời nguyền cực kỳ lợi hại.

Người sử dụng chỉ cần gieo vào trong đó một hạt linh hồn nhỏ và nuôi dưỡng nó bằng máu hàng ngày.

Đến khi người sử dụng vô tình bị chết, chỉ cần cơ thể không bị làm hư hỏng, có thể dùng hình nhân thế mạng đến để lấy lại linh hồn và sống tiếp.

Nhược điểm là chỉ có thể dùng được một lần, hơn nữa người sử dụng sẽ mất đi ký ức từ thời điểm gieo trồng ban đầu đến lúc sống lại.

"Cực kỳ đáng giá"Minh Khánh nghĩ vậy.

Hắn bèn lôi trong chiếc gùi ra sáu bảy chiếc hộp gỗ sơn đỏ khác để vào trước mặt.

"Đây là tất cả số tà vật mà tôi có được."

Lê hộ pháp hài lòng bắt đầu vơ vét mười mấy cái tà vật vào một chỗ, gói gém cẩn thận.

Rồi ông ta hỏi Minh Khánh: "Số tà vật này không phải cậu lấy trộm từ sư môn hoặc nơi nào đấy chứ?"

Minh Khánh cười; "Yên tâm.

Toàn bộ đều là do tôi bắt ma kiếm được."

Lê hộ pháp nắm lấy vai cậu vui vẻ nói: "Thật sao.

Vậy sau này nếu có hàng cứ đến Đồ Long Sơn tìm tôi.

Hỏi Lê hộ pháp của phái Đồ Long mọi người sẽ chỉ đường cho cậu.

À quên tôi vẫn chưa biết pháp danh của cậu?"

Minh Khánh cũng gật đầu: "Minh Khánh của phái Phổ Linh."

Lê hộ pháp cười to: "Thảo nào cậu có nhiều tà vật đến thế.

Hóa ra là xuất thân từ phái trừ tà chính tông."

Thấy Minh Khánh hết hàng mọi người cũng giãn dần.

Minh Khánh liền mang theo bà Mun đi ăn cơm.

Ngồi từ trưa đến giờ hắn cũng đói meo rồi.
 
Vùng Đất Vô Hình
kẻ đòi mạng trong bóng tối


Bữa cơm chiều diễn ra thật nhanh gọn.

Cả Minh Khánh và bà Mun mồm mép đều dính đấy mỡ vẫn thòm thèm nhìn mấy cái đĩa sạch trơn.

Bà Mun đưa mắt nhìn Minh Khánh, đôi mắt bà đầy nước trông thật đáng thương.

Minh Khánh há miệng định gọi thêm một đĩa nhưng cuối cùng lại ngừng.

"Không được, bà béo quá rồi."

Thế rồi hắn vội thanh toán tiền và đi ra khỏi quán.

Bà Mun tức quá chui luôn vào trong chiếc gùi, không thèm nhìn mặt hắn.

Minh Khánh quay trở lại gian hàng cũ.

Dù sao hắn cũng trả tiền thuê đến hai ngày, không ngủ thì phí bạc.Đột nhiên có một người chặn đường hắn.

Đó là một người đàn ông mặc áo quan màu đỏ, đội chiếc mũ rộng vành, tay mang kiếm.

Minh Khánh sửng sốt hỏi: "Xin hỏi ngài có việc gì thế?"

Người đàn ông đưa ra một tấm lệnh bài.

Bên trên có khắc ấn triện của Thẩm hình viện.

Trong lệnh bài có ghi mấy hàng chũ: tên tuổi Đinh Quý, chức vụ Bộ đầu, Trực thuôc: phủ Bình doãn.

Minh Khánh ngạc nhiên lắm.

Phủ Bình Doãn là cơ quan chuyên trách việc xét xử án của triều đình.

Không hiểu tại sao lại đến tìm mình.Đinh Quý bộ đầu nói: "Tiên sinh, chúng ta tìm chỗ nào nói chuyện được không?"

Minh Khánh gật đầu.

Hai người vào một quán nước ven đường.

Minh Khánh nhâm nhi bát nước vối nóng hổi mà người chủ quán đưa cho hắn chờ Đinh Quý mở miệng.

Nước có vị đăng đắng, thơm thơm nhưng uống vào lại thấy ngòn ngọt nơi cổ họng.

- "Tiên sinh, hồi nãy tôi có xem ngài bán tà vật..."

Nghe vậy Minh Khánh hơi cau mày.

Hắn không hiểu việc bán tà vật thì liên quan gì ở đây.

Đinh Quý xua tay nói: "Xin tiên sinh đừng hiểu lầm.

Không có việc gì xấu cả.

Tại hạ chỉ muốn nhờ tiên sinh giúp một việc."

Minh Khánh hỏi: "Tại sao lại muốn nhờ tôi?"

- "Bởi vì tôi nghe ngài nói số tà vật kia là do ngài kiếm.

Hơn nữa lúc nãy tại hạ đi hỏi, mọi người đều nói phái Phổ Linh là phái trừ tà thiên ha đệ nhất."

- "Vậy thì sao?"

- "Chuyện thế này..."

Đinh Quý bộ đầu bắt đầu kể.

Thì ra ở Thiên Trường có một ngôi chùa lớn.

Bên trong toàn là các cao tăng đắc đạo.

Bởi thế hoàng hậu rất thích đến đây cúng lễ.

Nhưng từ mấy tháng trước, bắt đầu có người chết.

Đầu tiên là vị chủ trì của chùa có pháp hiệu là Huyền Thanh.

Ban đầu mọi người cũng tưởng là chủ trì chết già, nhưng sau đám tang lại có một loạt sư thầy bị mất mạng.

Lúc này, quan phủ Thiên Trường mới đến điều tra, nhưng không ra manh mối gì.

Vụ việc đến tai triều đình, nhà vua sợ hoàng hậu không vui liền sai phủ Bình doãn đến điều tra.

Điều tra chả được gì, còn có thêm mấy người mất mạng.

Lúc này quan đứng đầu phủ Bình Doãn là thị lang bộ Hình kiêm giáo sư Quốc sử viện Vương Đinh Hải mới bắt đầu nghĩ đến ma quái.

Ông ta không dám tuyên dương mà chỉ bí mật mời người tu đạo các nơi đến giúp, nhất là những phái có truyền thống trừ ma bắt quỷ.

Nghe đến đây, Minh Khánh mới vỡ lẽ.

Không cần suy nghĩ, hắn đồng ý ngay.Đinh Quý bộ đầu đưa cho hắn một tờ giấy thông hành.

"Hiện tại ngôi chùa vẫn đang được đóng cửa.

Đến ngày mùng năm tháng này, khi tập hợp đủ các thầy trừ tà giỏi nhất, phủ Bình Doãn mới cho mọi người vào để điều tra tiếp.

Mong tiên sinh có mặt đúng ngày."

Minh Khánh gật đầu.

Hai người chia tay nhau.

Mấy hôm sau Minh Khánh yên tâm đi dạo chợ phiên.

Lúc này vì chẳng có gì để mua bán trao đổi nữa nên hắn cũng chẳng vội vàng gì.

Chợ phiên quả là một nơi rất tốt để mở rộng sự hiểu biết.

Minh Khánh thậm chí còn thấy người ta bán cả những thứ ngoài sức tưởng tượng như kiểu lông Phượng hoàng, đuôi Giao long.

Đến ngày mùng bốn Minh Khánh mới chịu vác gùi đến ngôi chùa bị ma ám.

Nhờ tờ giấy thông hành mà Đinh Quý bộ đầu cấp, hắn được quan phủ thu xếp vào ở trọ tại nhà dân xung quanh.

Sáng ngày mùng năm, lúc Minh Khánh đến trước chùa đã thấy một đám các hòa thượng, đạo sĩ.

Ai nấy đều có huôn mặt đều hồng hào trẻ trung của người đắc đạo.Đến giờ Minh Khánh thấy thị lang bộ Hình Vương Đình Hải dẫn theo khoảng ba mươi người bắt đầu tiến vào trong chùa.

Đám hòa thượng đạo sĩ cũng láo nháo theo sau.

Ngôi chùa Khánh Lương nằm lưng chừng núi, hay nó đúng hơn là dựa lưng vào sát vách núi.

Từ mặt đất, những người muốn lên chùa chỉ việc leo khoảng một trăm bậc thang là đến nơi.

Bước qua cái cổng đá, Minh Khánh cảm nhận được sự độc đáo và khác biệt so với những ngôi chùa mà hắn đã đi qua.

Kiểu kiến trúc "nội thông, ngoại bế" tạo nên vẻ u tịch, thanh vắng cho ngôi chùa được núi đồi bao bọc.Bởi vì ngôi chùa được mang nhãn phục vụ hoàng gia, cho nên rất được quan phủ ưu ái.

Kiến trúc của chùa là một trăm gian liên hoàn được xây bằng các loại vật liệu của dân trong vùng: gạch nung, ngói, tiểu sành, Minh Khánh sờ tay lên bức tường đất bao bên ngoài, cảm thấy nó còn rất mới.

Đi qua con đường được lát bằng đá muối rất đẹp, Minh Khánh tiến vào khu nội tự.

Lúc này, quan thị lang Vương Đình Hải đã được thủ hạ kiếm cho cái ghế ngồi ung dung uống trà dưới bóng râm, mặc cho đoàn người hòa thượng đạo sĩ tự do tìm kiếm.

Ông ta hiểu rõ việc nên giao cho những người chuyên nghiệp, kẻ ngoài nghề đụng vào khéo không được gì mà còn mất mạng.Minh Khánh lang thang trong vườn tháp.

Hàng trăm ngôi tháp được xếp theo hàng lớp cẩn thận, lưu giữ xá lị, tro cốt nhục thân của các vị tăng ni.

Chỉ những tăng nhân suốt đời tu thiền trong chùa mới được an táng tại trong vườn tháp.

Tháp của cao tăng được thêm bình cam lộ trên đỉnh, tháp của cao ni thì gắn hình hoa sen.

Minh Khánh rảo bước qua vường tháp tiến vào cánh rừng một bên chùa, đứng dưới những hàng tre cao và xanh ngắt.

Từ đây hắn có thể thấy được mái nhọn cổ kính của điện thờ.Mãi một lúc lâu sau, Minh Khánh , mới hít một hơi thật sâu để trở về với thực tại.

Không gian yên tĩnh và trầm lắng, thanh tịnh của ngôi chùa làm hắn quên đi hết những lo âu phiền toái, những nhọc nhằn nguy hiểm, chỉ muốn cầm một cuốn kinh, ngồi dưới gốc cây mà đọc.

Đúng là thánh địa của tu thiền có khác.

Minh Khánh lắc lắc đầu đi qua cánh rừng vào bên hông ngôi chùa.

Hắn tìm thấy đám người hòa thượng đạo sĩ đang đứng bàn luận trong sân.

Xem ra bọn họ cũng giống hắn không tìm thấy manh mối gì.

Ngôi chùa quá sạch sẽ, đến một tia âm khí cũng không có.Bữa cơm chay buổi trưa diễn ra ngay trong sân.

Lúc này Minh Khánh mới được gặp những tăng nhân còn sót lại của ngôi chùa.

Nghe đâu trước khi Huyền Thanh đại sư viên tịch, trong chùa có khoảng năm mươi tăng ni phật tử tu thiền.

Sau đó, những cái chết bất ngờ xảy ra, cộng thêm những người sợ hãi bỏ trốn, cuối cùng chỉ còn khoảng hai mươi vị còn ở lại.

Bọn họ được quan phủ dời đến khu nhà cũ ở phía sau ngôi chùa để tránh xảy ra án mạng.Ăn xong, Minh Khánh tiếp tục du ngoạn cho đến tận lúc trời tối mịt.

Bên trong ngôi chùa, có chứa rất nhiều bản khắc gỗ của những thứ kinh văn cổ.

Mỗi lần đọc hết một bức, dù không hiểu lắm nhưng Minh Khánh cảm thấy rất có ích .

Đến cảnh giới hiện tại của hắn, tốc độ tu hành đã trở nên chậm chạp.

Việc tìm hiểu thêm cách thức tu hành của người khác có thể giúp hắn tiến bộ nhanh hơn.

Lúc Minh Khánh trở lại chỗ tập trung thì dân trong vùng đã dựng xong một dãy lều.

Ngoài ra cơm canh cũng đã sẵn sàng phục vụ những cao nhân đắc đạo đến giải cứu ngôi chùa.

Quan thị lang cho đốt một đống lửa to ngay giữa sân.

Những tăng nhân trong chùa mặc dù không vui nhưng không thể trái lệnh.

Đêm tối đến rất nhanh.

Mảnh trăng mỏng manh đầu tháng cứ lẩn khuất vào đám mây khiến đống lửa càng trở nên chói mắt.

Trời vào thu bắt đầu trở lạnh.

Minh Khánh vừa mặc thêm áo thì thấy bà Mun rúc vào bên cạnh.

Hắn đang vuốt vuốt cái đầu tròn của bà thì có tiếng người kêu khóc: "Á á á."

Minh Khánh bật dậy chui ra khỏi lều.

Hắn túm lấy tay một người lính gần đó hỏi: "Có chuyện gì thế?"

Người lính sửng sốt một lúc lâu mới lắp bắp: "Có người tự nhảy vào lửa."

Minh Khánh tiến vào trong đám đông.

Lúc này, quan thị lang Vương Đình Hải đã sai người dùng que khều trong đống lửa, lôi ra một cái xác cháy đen.

Minh Khánh tiến lại gần.

Hắn nhìn thấy khuôn mặt của Thị lang bộ Hình Vương Đình Hải.

Không hiểu là do sợ hãi hay tức giận, khuôn mặt của ông ta xám xịt.

Ông ta đang quát thủ hạ tiến hành khám nghiệm.

Qua xem xét sơ bộ, nạn nhân là một trong số các cao nhân đắc đạo tiến vào chùa hồi sáng.

Trên người bị hại không có một vết thương khác lạ nào.

Đồ ăn và cả trong máu cũng không kiểm tra thấy chất độc.

Thấy quan sai lắc đầu ngán ngẩm tránh ra một bên, các đaọ sĩ và hòa thượng bắt đầu vào xem xét.

Kết luận cuối cùng là ông ta bị quỷ ám, mất hết thần trí.

Các cao nhân cũng khuyến cáo mọi người không nên đi lại vào ban đêm bởi ngôi chùa đang có một lời nguyền, hoặc một con quỷ cực kỳ lợi hại.Đêm đó Minh Khánh không ngủ được.

Một phần vì cái chết của người nọ, một phần vì bà Mun cứ leo lên người hắn cho ấm.

Trong bóng đêm tĩnh mịch, tiếng gió thổi xào xạc qua những tán cây càng khiến người ta liên tưởng đến những thứ vô hình, thậm chí những thứ người ta chưa từng thấy.

Minh Khánh gạt cục thịt béo ú nặng nề trên bụng xuống, ngồi dậy.

Hắn xếp bằng, hai tay để lên trên đùi, nhắm mắt niệm Tịnh Tâm Chú.Tâm hồn thanh thản, Minh Khánh bắt đầu suy nghĩ về bí ẩn của ngôi chùa.

Tại sao một một môn phái tu Thiền hùng mạnh suốt mấy trăm năm lại đột nhiên bị quỷ ám.

Điều này thực sự quá vô lý.

Phải chăng ngôi chùa cất dấu một bí mật nào đó, có thể nó đang trấn áp một lời nguyền hay một con quỷ nào đó mà các tăng nhân vô tình bóc mở?

Và sau khi thoát ra, lời nguyền hay con quỷ đó giấu căn nguyên ở nơi nào?

Hắn phải đi hỏi thăm những tăng nhân còn sống sót, muốn đọc kỹ lại lịch sử mấy trăm năm tồn tại của ngôi chùa, xem có phát hiện được gì không.

Vừa bước chân xuống đất, Minh Khánh mới nhớ ra trời vẫn chưa sáng.

Hắn đè nén sự rạo rực trong lòng, thấp thỏm chờ bình minh lên.

Thời gian cứ trôi chầm chậm.

Bóng tối vẫn trùm lên khu lều vừa dựng.Đột nhiên Minh Khánh nghe được bước chân rất nhẹ bên ngoài.

Thật kỳ lạ, giờ này ngoại trừ đám lính gác ngủ gà ngủ gật bên đống lửa, còn có ai thức và đi đi lại lại như thế.

Minh Khánh vớ vội lấy cái áo khoác lên người.

Hắn từ từ tụt xuống khỏi võng, rút thanh kiếm gỗ treo bên đầu xuống.

Tiếng bước chân càng lúc càng xa.

Minh Khánh cũng không vội vã, từ từ bước ra khỏi lều.

Trời thu se se lạnh khiến hắn thấy rùng mình.

Minh Khánh bước từng bước qua màn sương mỏng manh như áo lụa, tiến về phía trước.Từ trong bóng đêm, có một bóng người màu trắng hiện ra trước mắt hắn.

Y có dáng người dong dỏng cao, mái tóc xõa dài đến lưng, đôi chân để trần.

Kẻ đó bước rất chậm về phía trước, dường như vẫn không biết Minh Khánh đứng cách đó không xa.

Minh Khánh bước tới, hắn không hỏi, cũng không gọi người khác.

Những thầy trừ tà không có sự can đảm hầu hết đã chết từ ngay khi mới vào nghề.

Sự hoảng sợ đôi khi có thể giết chết thầy trừ tà một cách nhanh chóng và dễ dàng hơn cả ma quỷ.Đêm tối và bóng trắng là thứ dễ dàng khiến người ta liên tưởng đến một sự vô hình, về những điều mà người ta không thể hiểu nổi, Người ta sợ hãi nhưng họ cũng muốn bóc mở những thứ huyền bí đó.

Những người bình thường khám phá qua trí tưởng tượng của bọn họ.

Còn những thầy trừ tà, họ phải đi tới, đối diện, đôi khi chiến đấu, bọn họ tìm hiểu những thứ huyền bí bằng cả sáu giác quan, đôi khi bằng nỗi đau thể xác và tinh thần.

Khi khoảng cách giữa hai người chỉ còn một thước rưỡi, mùi máu sộc vào mũi Minh Khánh.

Không gian xung quanh càng lúc càng đặc quánh một vẻ kỳ bí.

Minh Khánh vẫn chẳng hề do dự.

Hắn hít một hơi thật sâu rồi đâm mạnh kiếm vào lưng kẻ đó.***********************Một tiếng thét thảm thiết vang vọng trong trời đêm.

Quan thị lang bộ hình giật mình tỉnh giấc.

Thấy hai tên lính gác vẫn chưa tỉnh ngủ, đang mù mờ tìm vũ khí, ông quát: "Chúng bay đâu?"

Hai tên lính gác vội vã cúi đầu chắp tay: "Dạ."

- "Mau mặc quần áo cho bản quan."

Hai tên lính vội vã lấy áo khoác treo bên tường mặc vào cho quan.

Quan lớn cũng không vội vã, sai một tên mang giày, một tên đốt đuốc.

Cuối cùng quan đủng đỉnh ra ngoài.

Bên ngoài đèn đuốc đã sáng trưng.

Quan thị lang dễ dàng tìm thấy chỗ đông người.

Lúc quan tiến đến, hai tên lính hô to: "Quan lớn đến."

Mọi người vội vàng đứng dịch sang hai bên, nhường đường cho quan.

Vương Đình Hải vuốt chòm râu ngắn cũn của mình, hài lòng đi vào giữa vòng người.

Bên trong đám lính lệ đang dùng giáo chỉ vào một người đang ngồi trên đất.

Đó là một người thanh niên trẻ tuổi, tay vẫn cầm theo một thanh kiếm gỗ dính máu.

Hắn ngồi bệt trên đất, khuôn mặt bình thản đón ánh mắt của quan Thị lang.

Đôi mắt sáng một cách kỳ lạ khiến quan thị lang không khỏi rùng mình.Quan thị lang không vội thẩm vấn thủ phạm mà tiến tới bên cạnh xác chết.

Mấy tên thủ hạ của quan đang khám nghiệm tử thi.

Quan nhìn qua, tử thi nằm sấp trên mặt đất, vết thương sau lưng vẫn không ngừng chảy máu.

Quan ho lên một cái.

Mấy tên thủ hạ mới nhận ra quan lớn đã đến.

Viên đội trưởng vội vàng đứng dậy, ghé vào tai quan nói nhỏ.

Quan gật đầu bảo bọn chúng tiếp tục khám nghiệm, quay đầu gọi bọn lính đưa người thanh niên vào trong phòng thẩm vấn.Vào trong phòng, quan thị lang không vội thẩm vấn ngay mà ung dung uống trà.

Quan đang chờ kết quả cuối cùng của việc khám nghiệm tử thi, mặt khác quan cũng muốn quan sát kẻ bị tình nghi.

Lúc này hắn đã bị đám lính bắt quỳ trên sàn nhà.

Thanh kiếm gỗ cũng được đưa đi khám nghiệm.

Mãi tới khi mặt trời lên cao, quan thị lang mới bắt đầu thẩm vấn.

Vương Đình Hải trải qua nhiều phiên xử án bắt đầu hình thành nên khí thế, mỗi lần vỗ bàn, khuôn mặt uy nghiêm, không giận mà khiến kẻ khác run sợ._ "Kẻ dưới công đường mau báo tính danh?"

- "Bẩm quan lớn, tôi là Minh Khánh, xuất thân ở phủ lộ Bình An."

- "Lần này bản quan muốn tìm cao nhân đắc đạo đến để trừ tà, mày làm sao có thể lẫn vào?"

- "Bẩm quan lớn, tôi đang buôn bán ở khu chợ tu đạo ở đầm Nhất Dạ, thì có một người bộ đầu tên là Đinh Quý tới tìm.

Sau đó gã nhờ tôi lên đây trợ giúp quan phủ trừ tà."

Nghe đến tên của Đinh Quý, quan thị lang hơi nhíu mày.

Đây là một trong những trợ thủ đắc lực của quan.

Vương Đình Hải liền gọi tên lính hầu bên cạnh lại, nói nhỏ gì đó.

Tên lính hầu gật đầu vâng vâng dạ dạ chạy đi.

Quan tiếp tục vỗ bàn truy hỏi tình huống đêm qua.

Kẻ bị tình nghi cũng từ tốn kể lại sự việc.

Vương Đình Hải điềm tĩnh lắng nghe.

Hai ngón tay trỏ và giữa của quan cứ theo thói quen gõ lên bàn lộp cộp.

Mãi đến khi tên lính hầu hồi nãy chạy vào trong phòng, quan mới ngẩng đầu, gọi gã tiến đến.

Gã lính hầu nói nhỏ vào tai quan.

Nghe xong quan gật gù, sai tên lính pha cho quan một cốc nước trà khác.

Lúc này đội trưởng đội khám nghiệm cũng tiến vào.

Vương Đình Hải đưa tay nhận lấy bản báo cáo mà thủ hạ cung kính đưa lên.

Xem xong quan nhíu mày hỏi:- "Người chết do não bị chảy máu sao?

"- "Vâng."

Đội trưởng đội khám nghiệm trả lời một cách chắc nịch.- "Có phải do bị ngã xuống đầu đập xuống đất không?"

- "Cái này thuộc hạ cũng không rõ ràng lắm.

Lúc nạn nhân ngã xuống chỉ có vùng trán bị xây xước. rất khó phán đoán là nạn nhân đã bị thương vùng nào trước đó hay chưa?"

Quan thị lang bộ Hình lại tiếp tục gõ ngón tay trên bàn.

Cuối cùng quan nói: "Người đâu, giam nghi can lại, canh giữ cẩn thận.

Chờ bản quan tra kỹ sẽ xét xử tiếp."

Hai tên lính vội đỡ kẻ tình nghi lên, dẫn ra sau nhà.

Mãi đến khi hai cánh cửa gỗ đóng kín lại, Minh Khánh mới nở nụ cười bất đắc dĩ.

Hắn không ngờ mình lại gặp phải tình huống oái oăm như thế.

Đêm qua khi đâm vào cái bóng trắng, hắn cảm giác như đâm vào một khối thịt mềm nhũn.

Thế rồi cái bóng ấy hét lên thảm thiết, ngã sấp xuống đất.

Minh Khánh bị tiếng hét kỳ dị ấy làm choáng váng mất một lúc.

Khi tỉnh dậy, hắn đã bị đám lính vây quanh tự bao giờ.
 
Vùng Đất Vô Hình
Bóng đêm kinh hoàng


Nếu như nói việc đâm kiếm gỗ cũng thành giết người là việc ngoài ý muốn thì tiếng thét của nạn nhân khiến Minh Khánh cực kỳ tò mò.

Tại sao một kẻ bị quỷ ám lại có thể hét lên một tiếng đầy ma lực như vậy.

Phải biết trải qua hàng trăm lần vào sinh ra tử, hàng vạn lần niệm Tịnh Tâm Chú, linh hồn của Minh Khánh đã trở nên cực kỳ bền vững.

Nếu hình dung linh hồn của người bình thường giống như một bức tường đất mỏng manh, thì của Minh Khánh là một bức tường thành bằng đá to lớn, cực kỳ cứng rắn.

Ngoại trừ những tà vật cực kỳ lợi hại như Tuyệt Tử Tuyệt Tôn Huyết Chú Ma Kiếm, những thứ tầm thường rất khó ảnh hưởng đến hắn.Minh Khánh xoa xoa đầu, cố gắng nhớ lại đêm hôm qua.

Thế nhưng càng cố gắng khơi lên những ký ức về tiếng thét kỳ lạ, hắn càng quên đi nhiều hơn.

Mãi đến khi mặt trời tắt nắng, ánh sáng không còn rọi qua cửa sổ khiến căn phòng tối o m om, Minh Khánh mới bừng tỉnh.

Hắn thở dài với tay bê bát cơm trưa nguội ngắt lên nhai nuốt.

Ăn được ba miếng, Minh Khánh mới nhớ đến bà Mun hôm nay còn chưa có cơm.

Không biết bà đi kiếm ăn ở đâu?Buồn chán hắn thả bát cơm xuống, nhìn ra bên ngoài trời.

Qua ô cửa hẹp, hắn nhìn thấy những tán cây rì rào và một bầu trời nhiều mây.

Minh Khánh thầm nghĩ: "Đêm nay chắc có mưa."

Đột nhiên hai đôi mắt sáng quắc hiện lên trên cửa sổ, ngay trước mặt Minh Khánh.**********************Quan thị lang Vương Đình Hải ngồi đọc sách trên tấm phản.

Ánh nến leo lắt khiến hàng chữ lúc mờ lúc tỏ rất khó chịu.

Thế nhưng ở cái chùa trên núi này, buổi tối ngoài đọc sách quan còn biết làm gì hơn?

Đi dạo?

Thôi, quan còn yêu cái mạng của mình lắm.

Trời oi bức quá.

Mặc dù tên lính hầu ra sức quạt lấy quạt để, áo quan vẫn dính dính mồ hôi.

Quan với tay lấy chén trà hớp một ngụm.

Trà nguội ngắt.

Bên tai tiếng muỗi vo ve khiến quan càng bực mình hơn.

Quan thầm nghĩ; "Mưa thì mưa nhanh đi cho mát.

Thế này bức bối khó chịu quá."

Dường như ông trời nghe được ý quan, gió bắt đầu thổi vù vù.

Lá cây lẫn bụi bắt đầu bay vèo vèo qua trước cửa căn lều.

Quan cảm nhận được từng tia nước lẫn vào trong gió, Quan thị lang hài lòng sai tên lính đóng cửa sổ lại kẻo mưa tạt.

Khi từng giọt nước bắt đầu rơi lộp bộp xuống mái lều, quan thị lang khoác thêm tấm áo, bước ra trước cửa.

Quan đưa tay hứng lấy những giọt nước mưa, cảm nhận cái lạnh tê tê đầy sảng khoái.Chơi đùa chán, quan quay lại đọc sách.

Cơn mưa khiến tâm tình của quan trở nên tốt đẹp, thậm chí uống phải chén trà đã nguội quan cũng không trách mắng lính hầu.

Thế nhưng niềm vui của quan chẳng được bao lâu thì bị quét sạch, bởi một tiếng hét thảm thiết xuyên qua màn mưa."

Á Á Á."

Cái chén trên tay quan thị lang rơi xuống đất vỡ tan.

Sững sờ mất một hồi, quan mới bảo lính hầu đi kiếm cái ô che mưa.

Hai tên lính chạy đi một lúc lâu mới trở về với hai cái ô rách.

Quan thị lang cũng không để ý, bảo bọn chúng đưa quan ra ngoài.

Trong đêm mưa, đống lửa trước sân đã tắt ngúm tự bao giờ.

Đám lính canh gác cũng lẫn khuất vào đám lều để trú mưa.

Quan thị lang đi dọc theo dãy lều, cuối cùng thấy được một đám đông đang đứng bu lại.

Quan đẩy đám người đi vào căn phòng đã được đốt đuốc sáng trưng.

Bên dười có hai cái xác đang nằm đè lên nhau.

Ngoài ra trên võng còn một nạn nhân khác đã bị chết, máu tươi nhỏ tí tách xuống sàn.

Quan thị lang cau mày hỏi đội trưởng đội khám nghiệm: "Chuyện gì xảy ra?"

Đội trưởng đội khám nghiệm vuốt nước mưa trên mặt đáp: "Hai cái xác bên dưới vừa chết chưa được bao lâu, một người là lính canh gác tối nay, một người là hòa thượng chùa Hồng Ân ở phủ lộ Kiến Xương.

Phán đoán ban đầu của hạ quan là hai người giết lẫn nhau.

Lính bị hòa thượng cắn đứt cổ, hòa thượng bị lính đâm thủng bụng, đều mất máu mà chết,Nạn nhân nằm trên võng cũng thuộc chùa Hồng Ân, cũng bị một loại động vật cắn đứt cổ, mất máu nhiều mà chết."

Quan thị lang cau mày hỏi những người xung quanh: "Có những ai ở cạnh bên căn lều này?"

Có một vị đạo sĩ thấp bé bước ra: "Bẩm quan lớn, có bần đạo."

Vương Đình Hải hỏi: "Trước lúc xảy ra án mạng, ông có thấy điều gì lạ không?"

Vị đạo sĩ đáp: "Bẩm quan lớn.

Hai người ở chùa Hồng Ân bần đạo đều biết.

Người nằm trên võng là Dưỡng Thần đại sư, người chết bên dưới là Dưỡng Hối đại sư đều là hòa thượng có pháp lực cao thâm ở phủ lộ Kiến Xương.

Hôm nay cả ngày bọn họ lang thang trong chùa tìm manh mối, đến chiều tối mới trở về.

Dưỡng Thần đại sư còn vui vẻ tán gẫu với tại hạ một lúc mới đi ngủ, trông không có gì khác thường cả.

"Quan thị lang nghe vậy cau mày, vẫy vẫy thủ hạ: "Thế còn tên lính bị mất mạng có ai biết không?"

Một vị bộ đầu ướt sũng mưa cúi đầu trả lời: "Bẩm quan lớn, y là người của hạ quan.

Trước lúc ý chết, hạ quan có giao cho y đi tuần ở khu vực này.

Lúc nghe tiếng thét của y, hạ quan chạy vội đến nhưng cũng không cứu kịp."

Vương Đình Hải lại hỏi: "Thế trước lúc chết, trông y có điều gì bất thường không?"

Vị bộ đầu trả lời: "Bẩm quan, y rất bình thường.

Trước khi đi tuần y còn cố chén hết ba bát cháo đồ ăn đêm, cười đùa với bọn hạ quan rồi mới ra ngoài."

Quan thị lang cau mày.

Những cái chết bất thường từ lúc quan nhận điều tra vụ án đã nhiều lắm.

Quan vẫy vẫy tay, ra hiệu cho đám người tản đi rồi ngồi chờ cho đám bộ đầu khám nghiệm hiện trường cẩn thận.

Thế nhưng cũng chẳng có gì khác lạ, hệt như mọi cái chết trước đây.

Thủ phạm giết hòa thượng Dưỡng Thần chính là sư đệ Dưỡng Hối của ông ta.

Người lính canh có lẽ phát hiện ra điều gì khác lạ tiến vào cũng bị Dưỡng Hối giết chết.

Trong cơn hoảng loạn y đâm kiếm vào người Dưỡng Hối khiến thủ phạm chết theo mình.

Nghe xong báo cáo, quan nhu nhu trán một lúc rồi ra lệnh cho thủ hạ khiêng xác chết đi chôn.Bước ra khỏi phòng thì trời đã khuya rồi.

Trong làn sương mờ mờ ảo ảo, quan như thấy được con ác quỷ đang núp sau màn đêm, cứ ra tay giết dần từng người từng người một.

Lần đầu tiên trong cuộc đời phá án, quan cảm thấy sợ hãi và muốn lùi bước.

Đêm đó Vương Đình Hải trằn trọc cho đến khi trời sáng.

Sáng hôm sau, quan thị lang bộ hình Vương Đỉnh Hải quyết định rút quân khỏi ngôi chùa cổ.

Mặc dù rất không cam lòng nhưng quan phải thừa nhận rằng con quỷ trong chùa lợi hại vượt quá sức tưởng tưởng của quan.

Nó có thể đàng hoàng giết người ngay giữa vòng vây siết chặt.

Thậm chí đến cả các hòa thượng, đạo sĩ pháp lực cao thâm cũng bị nó làm hại một cách dễ dàng.Mới tờ mờ sáng, quan đã tập hợp mọi người lại, nói cho bọn họ hôm nay là ngày tìm kiếm cuối cùng.

Đến trước lúc mặt trời xuống núi, tất cả phải rời khỏi ngôi chùa.

Đám binh lính và hòa thượng hăng hái lùng sục từng mét đất một - quan thị lang đã hạ lệnh thưởng một trăm lượng vàng cho người tìm ra con quỷ.

Thế nhưng mãi đến khi mặt trời bắt đầu xuống núi, vẫn không một ai có thể nhìn thấy được bóng ma vô hình đã và đang bao phủ lấy ngôi chùa.Quan thị lang thở dài ra lệnh đánh chiêng thu binh.

Cả đoàn người vội vã đốt đuốc xuống núi, có kẻ thờ phào, có người tiếc nuối.

Thế nhưng vẫn có sáu người ở lại.

Bọn họ là những hòa thượng, đạo sĩ có pháp lực cao cường nhất.

Con quỷ tàn ác không những không thế dọa dẫm nổi sáu người,ngược lại còn khơi dậy thêm sự háo hức và ý chí chiến đấu mãnh liệt của bọn họ.

Trong sáu người, Cư Phiền đạo trưởng là lớn tuổi nhất.

Ông năm nay đã bảy mươi tuổi, đi tu ở am Tai Voi thuộc phủ Long Hưng.

Cư Phiền đạo trưởng bắt đầu tu đạo từ năm mười tuổi.

đến khi hai mươi ông đã nổi tiếng khắp huyện về khả năng đoán phong thủy của mình.

Năm ba mươi tuổi, ông chính thức kế thừa chức chủ trì của am Tai Voi.

Với tư cách là một trong những chủ trì trẻ nhất ở đất Bắc, bốn mươi năm qua, danh tiếng của Cư Phiền đạo trưởng vang dội từ đàng ngoài vào tận đàng trong.Ngoài Cư Phiền đạo trưởng, còn có Chúc Phương hòa thượng, lĩnh ấn hộ pháp của chùa Đông Phương đất Quốc Oai, Dư Nhất đạo sĩ ở phái Thanh Sơn đất Quảng Oai, Văn Minh hòa thượng chủ trì chùa Vọng Phu ở trấn Thái Nguyên, Đồng Minh sư thái thuộc chùa Tam Thanh, trấn Lạng Sơn.

Người cuối cùng là đạo sĩ Vạn Thiện của phái Linh A ở phủ lộ Hoàng Giang.Bởi vì sáu người đều khá nổi tiếng trong giới tu đạo, quan phủ cũng không dám cưỡng ép bọn họ xuống núi.

Ngược lại quan thị lang còn ra lệnh để lại củi gạo muối, những thứ cần thiết cho bọn họ.

Quan cũng hi vọng bọn họ có thể khám phá bí mật của ngôi chùa.Khi mặt trời tắt nắng, sáu người đốt một đống lửa to trước sân chùa như mọi hôm, chờ đợi con quỷ đến.

Ánh lửa bập bùng soi rõ khuôn mặt đệp đẽ của sáu vị cao nhân đắc đạo.

Cả sáu người đều lộ vẻ bình thản như đang ngồi trong nhà của mình.

Gió vẫn xào xạc qua những tán cây cổ thụ trước sân.

Cư Phiền đạo trưởng đưa mắt liếc nhìn Vạn Thiện, và được đáp lại bằng một cái gật đầu.Lúc này đôi môi của Vạn Thiện đạo sĩ bắt đầu lẩm nhẩm đọc.

Không ai chú ý đến hai tay ông đã để trước ngực kết ấn tự bao giờ.

Đột nhiên một luồng sức mạnh kỳ dị lấy trung tâm là Vạn Thiện bắt đầu lan rỏa, rồi mở rộng dần cho đến bên ngoài mười thước.

Ngọn lửa to lớn trước mặt sáu người bỗng tắt ngấm.

Cùng lúc đó, vô số những đường lửa ngoằn ngoèo chạy theo các hình thù kỳ dị hiện ra trên sân.

Rồi trong giây lát, lửa từ các đường rãnh bùng lên như có ai vừa tưới thêm dầu vào đó.

Có tiếng kêu gào thảm thiết vang lên từ trong luồng lửa.

Đạo sĩ Vạn Thiện thốt lên: "Không phải là quỷ."

Cư Phiền đạo trưởng nhíu mày bước vào trong lửa.

Đạo bào của ông phấp phới tựa như bị gió thổi qua.

Không một tia lửa nào có thể bén vào trên người ông.

Chỉ trong giây lát, ông kéo ra một người bộ đầu đang kêu như heo bị chọc tiết cùng một đạo sĩ trẻ tuổi.

Cư Phiền đạo trưởng phất tay một cái, lập tức một cơn gió lạnh từ trong ống áo của ông phun ra, dập tắt lửa đang cháy trên người của vị bộ đầu.

Chỉ trong giây lát, mọi người có thể thấy rõ bộ quần áo cháy thủng lỗ chỗ và những vết bỏng dày đặc trên thân thể của y.Đồng Minh sư thái liền tiến đến giúp người bộ đầu chữa thương.

Một lúc sau, y mới đỡ đỡ đôi chút, đôi môi mấp máy đòi uống nước.

Cư Phiền đạo trưởng lúc này mới hỏi chuyện đạo sĩ trẻ tuổi.

Thì ra hắn chính là người bị quan phủ bắt giam vào đêm ngày hôm trước vì tình nghi giết người.

Đạo sĩ trẻ tuổi tự xưng là Minh Khánh, đang tu ở chùa Phổ Linh thuộc phủ lộ Bình An.

Lần này hắn ra Bắc để học tập mở mang tầm mắt.

Ai dè bị cuốn vào việc bắt quỷ lần này.

Một thân bản lĩnh chưa kịp thi triển đã phải ăn cơm nhà lao.Cư Phiên đạo trưởng khuôn mặt hơi giãn ra.

Tài bắt ma của phái Phổ Linh nổi tiếng khắp cả giới tu đạo.

Mặc dù chỉ là một tân binh nhưng chắc là Minh Khánh cũng phải có không ít đòn sát thủ chứ?

Những thứ quyết định chiến cuộc này rõ ràng là sáu người bọn họ đang thiếu.

Phải nhớ rằng bọn họ hầu hết là người tu đạo mà không phải thầy trừ tà.

Bọn họ có thể dùng tu vi cao thâm và đạo pháp thần diệu để chống lại ma quỷ, nhưng chúng không trí mạng.

Bởi vì khác với yêu quái và con người, ma quỷ không hề có thân thể.

Chúng tồn tại dưới dạng linh hồn.Sáu người, thêm Minh Khánh và Đinh Quý bộ đầu nữa là tám, bắt đầu đốt một đống lửa khác.Đinh Quý bộ đầu lúc này đã khá hơn, có thể ăn cháo loãng mà Minh Khánh đút cho.

Y vừa ăn vừa phàn nàn với mọi người về việc y phải ở lại ngôi chùa đáng sợ này qua đêm.

Y cũng căm tức việc Minh Khánh nuông chiều con mèo để nó béo quá.

Đồng Minh sư thái tò mò hỏi mèo của Minh Khánh béo thì liên quan gì đến y?

Đinh Quý bộ đầu lúc này mới cao giọng kể lể, nước miếng bắn tung tóe.Thì ra đêm qua trước lúc mưa bà Mun ăn uống no say thì đến nhà giam tìm Minh Khánh.

Bởi vì cửa chính đóng kín lại có người canh gác nên bà đành leo cửa sổ.

Nào ngờ dạo nầy bà ăn ngon ngủ say, béo lên không biết bao nhiều lần, vừa chui vào đến giữa chừng thì kẹt.

Minh Khánh kéo vào đẩy ra thế nào bà cũng không di chuyển được.

Thế là hắn đành để bà Mun nằm trên cửa sổ suốt một ngày.Đến chiều nay, lúc Đinh Quý bộ đầu được lệnh vào thả Minh Khánh ra, hai người phải mượn đồ đục tường suốt hơn một canh giờ mới lôi được bà Mun xuống dưới.

Cũng bởi vì thế, hai người không theo kịp đoàn người của quan phủ.

Lúc đi qua sân, thấy ánh lửa, Đinh Quý bộ đầu tiến vào hỏi thăm.

Nào ngờ chưa kịp nói gì liền trúng phải pháp thuật "Vòng lửa tịnh thế" mà Vạn Thiện bày sẵn.

Nghe Đinh Quý bộ đầu kể xong, tất cả mọi người đều nhìn y một cách đồng tình.Lúc này trời cũng đã khuya lắm.

Gió thổi mát rượi làm Minh Khánh thấy buồn ngủ.

Không hiểu tại sao Minh Khánh cảm giác đêm nay hắn là một đêm bình an.

Hắn nhắm mắt, co tròn người bên đống lửa, đánh một giấc.

Ngôi chùa trước mặt hắn vẫn đen tối và tĩnh lặng như mọi ngày.
 
Vùng Đất Vô Hình
Sương mù


Tiếng tụng kinh buổi sáng sớm đánh thức Minh Khánh.

Hắn vươn vai ngồi dậy.

Đinh Quý vẫn còn đang ngủ say, miệng còn ngáy o o.

Sáu vị cao nhân đắc đạo vẫn ngồi xếp bằng như đêm qua.

Khuôn mặt bọn họ vẫn bình thản như những bức tượng.

Thế nhưng Minh Khánh vẫn nhận thấy sự mệt mỏi qua những vằn máu trong đôi mắt bọn họ.Minh Khánh đứng dậy đi một vòng.

Mặt trời vẫn còn chưa lên.

Đất trời vẫn còn tăm tối.

Hắn hít một hơi dài.

Thoáng đâu đây là mùi hương thanh tịnh của chốn cửa Phật.

Một mùi hương rất dày nặng, nồng nàn, cứng cỏi lại rất thanh tịnh, tinh khiết.

Mùi hương đó dễ dàng hòa quyện với mùi của đất trời, của cây cối, của hoa cỏ.

Minh Khánh như bước vào chốn thần tiền, thả hồn vào cõi mộng.

Tâm hồn hắn trở nên bình yên, phẳng lặng như mặt nước hồ.Cái cảm giác kỳ diệu đó diễn ra chỉ trong chốc lát.

Chẳng mấy chốc mà Minh Khánh bị kéo về với thực tại.

Một mùi thơm của gạo mới khiến cái bụng đói của hắn kêu ọt ọt.

Minh Khánh quay trở về bên đống lửa.

Đồng Minh sư thái đang bắc nồi nấu cháo buổi sáng.

Tất cả chỉ có gạo trộn với một ít đỗ xanh, thêm chút muối. và vài cọng rau thơm mọc đâu đó trong vườn chùa.Sáu vị cao nhân chỉ ăn hết nửa bát cháo, còn lại chia đều cho Minh Khánh, Đinh Quý và bà Mun.

Ăn xong, trừ Đồng Minh sư thái ở lại trông coi Đinh Quý bị thương, sáu người chia làm ba nhóm bắt đầu vào trong chùa tiếp tục tìm kiếm.

Minh Khánh đi cùng với Cư Phiền đạo trưởng.

Hai người men theo hành lang bên trái, qua khu vườn chùa, theo hành lang tiến vào chính điện.

Cư Phiền đạo trưởng tìm rất kỹ.

Đến từng nhánh cây, ngọn cỏ, từng hòn đá ven đường đều được ông lật lên xem.

Cho mãi đến khi mặt trời lên cao, hai người mới tiến vào chính điện của ngôi chùa.Ngay trước thềm chính điện, Minh Khánh và Cư Phiền đạo trưởng gặp được đạo sĩ Vạn Thiện và hòa thượng Chúc Phượng.

Bốn người cùng nhau tiến vào.

Lúc vào đến cửa Minh Khánh thấy đạo sĩ Dư Nhất và hòa thượng Văn Minh đã ở bên trong rồi.

Hai người đang ngồi chờ ba người phật tử làm lễ buổi sáng.

Thấy Cư Phiền đạo trưởng bước vào, hai người gật đầu chào.

Minh Khánh liếc mắt nhìn quanh.

Cả điện thờ lớn và rộng rãi.

Bên trong ngoài tượng Phật tổ cao gần chạm nóc còn có mười tám vị la hán.

Ba vị phật tử đang quỳ trước bàn thờ chính, miệng đọc kinh sám hối.

Đến hồi kết, ba người bắt đầu quỳ lạy sát đất, người ngồi giữa bắt đầu gõ vào chiếc chuông bên cạnh chín lần.Không biết từ đâu, từng đám sương mù dày đặc tỏa ra xung quanh Minh Khánh.

Hắn giật mình đánh thót một cái.

Cả chính điện bây giờ bị bao phủ bởi một lớp sương bí ẩn.

Càng đáng sợ hơn là sự tĩnh lặng đến kinh ngạc.

Không ai nói, không ai cười, không ai gào thét, không ai kêu cứu.

Tất cả dường như chỉ có mỗi một mình hắn ở nơi đây mà thôi.

Minh Khánh tự nhủ : "Đây nhất định chỉ là ảo giác."

Thế nhưng khi hắn nhéo vào má mình thật mạnh, hắn vẫn cảm thấy sự đau đớn.

Khi hắn cắn lấy đầu ngón tay, máu trào ra mang vị mằn mặn.

Minh Khánh đành ôm lấy ngón tay đau nhức, đi từng bước thật chậm giữa màn sương, miệng gọi to: "Cư Phiền đạo trưởng!"

Tiếng của hắn cứ như đang đứng bên vách núi, vang vọng khắp cả ngôi chùa.

Vậy mà không ai đáp lời hắn.Mọi người dường như bị làn sương mù hút hết vào trong bụng, đến một tiếng nói một hơi thở cũng không để lại.

Minh Khánh sợ hãi bước đi.

Hắn hi vọng có thể thấy một dấu hiệu nào đó trong đại điện để biết vị trí của mình.

Một pho tượng la hán, một cây cột gỗ, hay đơn giản là một tấm đệm trúc để ngồi cũng được.

Hắn dò dẫm từng bàn chân một.

Đột nhiên Minh Khánh thấy dưới chân bỗng hụt hẫng.

Thế là hắn ngã sấp vào trong sương mù.

Xuyên qua lớp sương, hắn rơi vào một vùng không gian nửa sáng nửa tối.

Xung quanh dường như có vô số sợi tơ trói buộc lấy cơ thể làm hắn rất khó chịu.Mình Khánh vùng vẫy thật mạnh nhưng vẫn không thể thoát khỏi.

Hắn thở dốc nhìn xung quanh.

Từ lúc nào sương mù đã tan đi nhiều.

Bốn phương tám hướng đều là một vùng nửa sáng nửa tối.

Có hàng trăm viên đá lớn bằng đầu người treo lơ lửng như những quả mướp trên giàn.

Minh Khánh nheo nheomắt.

Hắn phát hiện ra những viên đá bắt đầu di chuyển về phía hắn, lúc đầu giống hệt một con ốc sên đang bò.

Nhưng càng tới gần thì tốc độ càng nhanh.

Đến lúc cách hắn khoảng mười thước chúng bắt đầu lấy tốc độ của ngựa phi đâm vào hắn.

Minh Khánh giống như một chiếc nam châm, hút lấy vô số vụn sắt, bị va đập, bị trùm kín.

Hắn không còn đường trốn tránh, chỉ biết giơ hai tay ôm chặt lấy đầu.Viên thứ nhất, rồi viên thứ hai, thứ ba... rồi viên thứ mười, viên thứ một trăm, hắn cũng chả đếm nổi nữa.

Người hắn bị đánh thành thịt vụng, thậm chí xương cốt cũng nát nhừ ra.

Cơ thể hắn cứ biến dạng từ từ.

Cái chết đến thật chậm trong đau đớn, dày vò.

Minh Khánh cố vùng vẫy đôi tay không nhìn ra được hình dạng bảo vệ lấy đầu.

Hắn không cam lòng.Thế nhưng một viên đá lao thẳng vào vùng thái dương bên trái chấm dứt những nỗ lực của hắn. ...

Đầu hắn vỡ toang ra như một quả dưa hấu bị người ta dùng gậy đánh trong các lễ hội.******************Cư Phiền đạo trưởng kỳ quái nhìn Minh Khánh.

Người thanh niên trẻ tuổi này không hiểu đang làm cái gì mà cứ đứng yên ngay trước cửa chính điện.

Mặc cho ông lay hay gọi thế nào hắn cũng không tỉnh lại.

Ông đành để đạo sĩ Vạn Thiện và hòa thượng Chúc Phương vào bên trong trước.

Chỉ trong giây lát, ông thấy mồ hôi của hắn tuôn ra như suối, ướt đẫm cả tà áo đạo bào màu trắng.

Chẳng lẽ hắn bị quỷ nhập?Cư Phiền đạo trưởng lập tức phủ định ý nghĩ này.

Cho dù con quỷ có tài ba đến mức nào đi chăng nữa, nó cũng không thể làm hại người ngay trước mặt mà ông không phát hiện ra.

Sáu mươi năm khổ tu đã rèn luyện các giác quan của ông vượt xa người thông thường, thậm chí tiến dần đến các lĩnh vực mà rất nhiều người tu đạo cũng không thể đạt tới được.

Cư Phiền đạo trưởng tin rằng đấy chỉ là một vấn đề gì đó trên cơ thể Minh Khánh.Cư Phiền đạo trưởng sờ tay lên cổ hắn.

Mạch của hắn đập nhanh một cách bất thường.

Cư Phiền đạo trưởng khẽ để tay lên hậu tâm.

Chân khí của ông đi một vòng trong kinh mạch của Minh Khánh.

Hoàn toàn không có gì bất thường.

Ông thở phào nhẹ nhõm.

Cư Phiền đạo trưởng đợi một lúc thì thấy Minh Khánh mở mắt.

Khuôn mặt hắn hiện lên vẻ hoảng sợ tột độ.

Đôi mắt của hắn cứ nhìn chằm chằm vào trong chính điện, tự như trước mặt hắn là cả một con yêu quái khổng lồ.

Cư Phiền đạo trưởng hỏi: "Cậu làm sao thế?"

Minh Khánh giơ ngón tay chỉ vào trong đại điện, giọng của hắn run rẩy, lí nhí thốt ra từng chữ một : "Quỷ ở trong kia."

Cư Phiền đạo trưởng kinh ngạc lắm.

Ông nói: "Làm sao cậu biết" Minh Khánh không trả lời, chân hắn run bắn lên.

Mồ hôi lạnh chảy ròng ròng.

Giấc mơ hồi nãy sao mà chân thật đến thế.

Nỗi đau đớn dường như vẫn còn ăn sâu vào xương tủy và ký ức của hắn.

Hắn cố nắm chặt lấy bàn tay.

Cái cảm giác tê dại cắt da cắt thịt ấy khiến hắn ngạt thở.
 
Vùng Đất Vô Hình
Thần, Phật, Ma


Cư Phiền đạo trưởng đỡ Minh Khánh ngồi xuống.

Thân hình hắn mềm nhũn như bị lấy hết sức mạnh.

Cư Phiền đạo trưởng tháo hồ lô bên hông ra, đưa cho Minh Khánh.

Hắn hớp một ngụm, tiếp tục thở dốc.

Mồ hôi trên trán vẫn không ngừng tuôn chảy.

Minh Khánh bắt đầu kể lại giấc mơ hồi nãy.

Cư Phiền đạo trưởng càng nghe càng nhíu chặt đôi mày.

Đại điện của ngôi chùa này đã bị người tìm tòi qua rất nhiều lần.

Bản thân ông cũng đã dạo qua nơi này vào tối ngày hôm trước.

Cư Phiền đạo trưởng không dám tin quỷ lại ở nơi này.

Đại điện quá sạch sẽ bởi nó tụ tập tín ngưỡng của cả ngôi chùa cũng như những Phật tử trong vùng.

Không một con yêu ma quỷ quái nào có thể tồn tại ở một nơi linh thiêng như thế.

Chỉ cần chạm nhẹ vào tín ngưỡng, những ý niệm của nó lập tức bị đồng hóa và tan biến ngay lập tức.

Thế nhưng ông cũng tin Minh Khánh không lừa ông.

Người thanh niên này mặc dù là thế hệ hậu bối, thua kém ông mấy chục tuổi, nhưng thậm chí đã đạt đến ngưỡng gần với ông.

Ông cảm nhận được số lượng công đức khổng lồ tụ tập ở xung quanh hắn.

Và nếu hắn đã đạt đến mức độ của những người như ông, hiển nhiên lục giác của hắn nhất định đã tiến hóa.

Theo cái cách hắn nhìn thấy tương lai, hẳn đó là đôi mắt của hắn.

Như vậy hiển nhiên trong ngôi chùa tồn tại một thứ tà ác nào đó mà có thể chịu đựng được tín ngưỡng để làm ác.

Rốt cuộc là thứ gì?Mặc dù đều do loài người tạo ra, nhưng nếu như tà niệm, sát ý, pháp lực, công, mang hơi hớm của trần tục thì tín ngưỡng lại là một thứ siêu việt tự nhiên.

Con người cũng như bất cứ một loại sinh vật gì khác có linh hồn đều không thể chạm vào nó, bất kể là ma quỷ, thần thú hay yêu quái .

Sự khác biệt tín ngưỡng có thể tạo nên sinh vật, tạo nên máu thịt hay thậm chí đúc lại linh hồn.

Cư Phiền đạo trưởng thậm chí còn nghe đến một truyền thuyết: Hầu hết các vị thần, ngọc hoàng đại đế, hay là diêm vương phán quan, bồ tát phật tổ đều được sinh ra từ tín ngưỡng của con người.

Ban đầu bọn họ chỉ sống trong trí tưởng tưởng của loài người.

Nhưng trải qua thời gian, trong cuộc sống vô cùng khó khăn gian khổ, loài người phải chiến đấu với cái đói, với bệnh tật, thú dữ, yêu ma quỷ quái, loài người càng cần tinh thần kiên cường để đối mặt với hết thảy.

Vì thế bọn họ bắt đầu tìm kiếm đối tượng để đặt niềm tin.

Thế là những thần nước, thần lửa, thần cây ... trở thành người phù hộ, là cây cột trụ tinh thần giúp bọn họ chiến thắng hết thảy.

Loài người là một giống loài chăm lao động, giỏi học tập.

Bọn họ vượt qua được giai đoạn khó khăn nhất.

Con người càng lúc càng tin vào các vị thần.

Họ thờ cúng, họ cầu xin, họ sám hối, tất cả trở thành tín ngưỡng.

Và đến một ngày nào đó, giống như hạt giống gặp trời đất vào xuân, nảy mầm mọc cây, tín ngưỡng đạt đến một mức nào bắt đầu hình thành nên thần linh.

Thế là thần nước, thần lửa, thần mặt trời ra đời.

Bọn họ có thể không phải là nước, không phải là lửa, không phải là mặt trời.

Thế nhưng với quyền năng được sinh ra từ trí tưởng tượng kết hợp với đức tin của hàng vạn vạn con người, bọn họ có thể điều khiển núi phún lửa, gọi gió hô mưa hay tạo ra cả một mặt trời "giả" trên bầu trời.Trong mấy chục năm ở am Tai Voi, ngoài việc tu luyện, ông còn nghiên cứu về tín ngưỡng rất nhiều.

Càng nghiên cứu ông càng bị lạc sâu trong sức mạnh thần kỳ của nó.

Tín ngưỡng với ông là một thứ siêu nhiên vượt trên hết mọi thứ siêu nhiên khác, là một loại sức mạnh không có việc gì không thể làm được.

Nếu như trong đại điện có một thứ gì đó có thể né tránh được sức mạnh tối thượng của tín ngưỡng, Cư Phiền đạo trường dù chết cũng phải nhìn thấy nó một lần.Thế là Cư Phiền đạo trưởng nói với Minh Khánh: "Bần đạo phải đi vào bên trong."

Minh Khánh giữ chặt lấy ống tay áo của ông; "Ngài đừng đi.

Tất cả bước vào trong đó đều sẽ chết."

Cư Phiền đạo trưởng mỉm cười, chỉ tay vào mấy người trong chùa: "Bọn họ đều đã bước vào, bần đạo chịu trách nhiệm dẫn dắt bọn họ trừ quỷ, có thể nào lại đứng ngoài?"

Ông đặt bàn tay lên vai Minh Khánh, nói: "Nếu bần đạo xảy ra chuyện, xin nhờ đạo hữu mang tro xương của bần đạo về am Tai Voi."

Minh Khánh nhìn thẳng vào đôi mắt của ông, thở dài buông tay.

Cư Phiền đạo trưởng lại vỗ vai hắn: "Đừng lo lắng.

Bọn họ đứng trong đại điện lâu như vậy còn chưa gặp chuyện gì.

Nếu gặp may , tất cả chúng ta có thể sống sót trở về."

Minh Khánh không nói gì.

Hắn và Cư Phiền đạo trưởng đều hiểu tất cả chỉ là lời nói an ủi mà thôi.

Tương lai mà Thiên nhãn nhìn thấy có thể sửa đổi, nhưng không thể khác ban đầu là bao nhiêu.

Cư Phiền đạo trưởng lần này mười phần thì chưa đủ một phần sống sót.

Minh Khánh móc trong bọc ra một tấm phù màu vàng, bên trên các hình vẽ đều đỏ rực màu máu, nhét vào tay Cư Phiền đạo trưởng.Cư Phiền đạo trưởng cầm lấy tấm phù, trong lòng cực kỳ rung động.

Ông than thở; "Thứ này quá quý giá.

Bần đạo không thể nhận.

" Trong tay ông là một tấm Hộ Hồn phù.

Không giống với các loại phù chú khác, nó là một phù chuyên để bảo vệ linh hồn.

Trong thế giới người tu đạo, có rất hang ngàn loại phù chú chuyên mê hoặc, tàn phá hoặc tiêu diệt linh hồn.

Thế nhưng số phù chú chuyên bảo vệ linh hồn chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Hộ Hồn phù là một trong số ít ỏi đó.

Để tạo ra Hộ Hồn phù, người vẽ nó phải tiêu hao không chỉ tinh lực, máu mà cả một phần sinh mạng.

Như Minh Khánh sau khi Thiên nhãn hình thành, cũng chỉ có thể cách ba năm vẽ một tấm.

Nếu không sẽ bị háo mệnh mà chết.Thế nhưng nhìn thấy Minh Khánh kiên quyết nhét vào tay mình, đạo trưởng cười cười; "Nếu có thể sống trở ra, bần đạo nhất định mời đạo hữu tới am Tai Voi cùng đàm đạo, nghiên cứu công đức."

Rồi ông quay lưng bước lên bậc thềm đại điên.

Minh Khánh nhìn thấy bong lưng cao lớn của ông, thở dài.

Tất cả những gì hắn làm được vẫn chỉ có thế, báo trước tương lai, vẽ phù, chống lại những loại ma yêu ma quỷ quái tầm thường.

Hắn vẫn hi vọng sau khi Thiên nhãn xuất hiện, hắn sẽ có đủ sức mạnh để chống lại những thứ ma quỷ mạnh nhất.

Thế nhưng đoạn đường hắn phải đi còn rất dài, rất dài...

Trong đại điện tiếng tụng kinh vẫn đều đều vẳng ra ngoài.

Minh Khánh kiếm một chỗ cách xa đại điện, ngồi xếp bằng giữa trời nắng, miệng lẩm bẩm đọc Tịnh Tâm chú.

Dường như hắn muốn mượn ánh mặt trời ấm áp để xua tan đi những ám ảnh trong lòng.

Thế nhưng nỗi bất an càng lúc càng mạnh.

Mồ hôi trên đầu Minh Khánh vã ra như tắm.

Đặc biệt là khi các vị Phật tử trong chùa gõ chín tiếng chuông kết thúc buổi cầu nguyện ban trưa, Minh Khánh cảm thấy như sắp hôn mê.Mãi cho tới khi có tiếng cười nói từ trước bậc thềm đại điện thì Minh Khánh mới mở mắt ra.

Ngạc nhiên thay, hắn nhìn thấy hòa thượng Văn Minh và hòa thượng Chúc Phương đang vừa bước đi vừa trò chuyện vui vẻ với ba người Phật tử vừa làm lễ xong.

Phía sau, đạo sĩ Vạn Thiện và đạo sĩ Dư Nhất đang lầm bẩm bàn luận một cái gì đấy.

Bọn họ vui vẻ chào Minh Khánh làm hắn há hốc miệng.

Bảy người đi qua trước mặt hắn.

Minh Khánh phải nhéo đùi để biết mình không phải là mơ.

Hắn đứng dậy, vội vã dụi mắt nhìn đám người đi xa.

Minh Khánh cảm thấy có chút quỷ dị."

Chẳng lẽ là mình sai?"

Minh Khánh ngẫm nghĩ trong phút chốc rồi quyết định tiến vào đại điện.

Hắn muốn tìm Cư Phiền đạo trưởng để hỏi cho rõ.

Minh Khánh chậm chạp bước lên từng bậc thềm cao của đại điện.

Hắn thật sự sợ hãi không gian có phần âm u, mờ ảo bên trong.

Vừa bước vào cửa, hắn nhìn thấy Cư Phiền đạo trưởng.

Ông đang tươi cười nhìn hắn.

Minh Khánh cũng cười với ông.

Cư Phiền đạo trưởng đưa cho hắn một vật gì đó đã được gói lại trong vải kín.

Minh Khánh đỡ lấy nó.

Qua lớp vải, hắn cảm thấy được sự mát lạnh và cứng rắn như kim loại.

Minh Khánh hơi nghi ngờ.

Hắn vén lớp vải lên thì thấy đó là viên mõ lớn nhất trong đại điện.

Chẳng lẽ Cư Phiền đạo trưởng muốn ăn trộm đồ trong chùa?

Ý nghĩ buồn cười này lập tức biến mất sau vài giây.

Cư Phiền đạo trưởng là một cao nhân đắc đạo, có lẽ nào lại ham một món đồ nho nhỏ của nhà chùa.

Trừ khi, đây là tà vật mà vẫn hoành hành trong ngôi chùa bấy lâu.

Minh Khánh chưa kịp hỏi thì Cư Phiên đạo trưởng đã ôm chầm lấy hắn.

Minh Khánh hơi ngạc nhiên.Cư Phiền đạo trưởng dùng tay móc trong người ra một lá bùa đưa cho hắn.

Thấy bàn tay ông run run, Minh Khánh vội vàng nhận lấy.

Trong giây lát hắn nhận ra đây là Hộ Hồn phù mà hắn đưa cho ông trước lúc đi vào.

Lá bùa giờ đã đổi sang màu vàng sẫm, nhăn nhúm.

Các nét vẽ đỏ tươi trên lá bùa giờ trở nên thâm xì cái màu nước bã trầu mà các bà ở quê hay nhổ ra.

Lớp giấy trên lá bùa càng lúc càng mỏng và đen lại.Minh Khánh chưa kịp sợ hãi thì phát hiện Hộ Hồn phù đã tan thành vô số mảnh nhỏ, rồi rơi lả tả hệt như một mảnh giấy tiền vàng bị người ta đốt vào những ngày rằm hàng tháng.

Hắn ngẩn ngơ mất một lúc, lúc quay lại nhìn thì thấy bờ vai mình đã ướt đẫm máu.

Minh Khánh vội vã đỡ Cư Phiền đạo trưởng nằm xuống.

Máu tươi trào ra từ mắt, mũi, miệng và cả tai của ông.

Cư Phiền đạo trưởng hé miệng cười, đưa bàn tay yếu ớt lên.

Minh Khánh biết ý, cúi đầu xuống, ghé tai vào bên miệng của ông."

Đừng bao giờ ...

để nó ... lên tiếng nữa..."

Giọng ông ngắt quãng và nghẹn tắc trong cổ họng.

Rồi ông nhắm mắt.

Minh Khánh cứ để ông nằm yên một lúc lâu.

Khuôn mặt hắn đờ đẫn.

Hắn cứ quỳ bên xác ông trong đại điện.

Minh Khánh thấy thương cảm cho số phận của người tu đạo trứ danh đất Bắc.

Vẫn biết ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, chỉ như một sợi chỉ nằm vắt vẻo đâu đó trên con đường chúng ta đi, và lỡ bước qua một cái sẽ chẳng thể quay lại nữa.

Thế nhưng hắn chẳng thể nào khiến trái tim trở nên khô cằn và lì lợm mỗi khi có ai đó mà hắn quen bước qua bên kia lằn ranh.Hắn cố nén những cảm xúc đó xuống tận đáy lòng thì nó càng nóng và bộc phát dữ dội như dung nham tuôn chảy.

Sư phụ nói đúng, hắn quá yếu đuổi, đa sầu đa cảm, không thích hợp cho nghề trừ tà.

Mãi đến xế chiều, Minh Khánh mới bế Cư Phiền đạo trưởng lên, đi ra phía cổng.

Thân hình hắn liêu xiêu trong bóng chiều vàng úa.

Lá khô không ai quét cứ bay vù vù trên sân, dính đầy quần áo hắn.

Một hạt bụi rơi vào mắt khiến Minh Khánh dừng lại, hấp háy mắt.

Trên trời, mây trôi sao mà cô độc thế.

Bỗng nhiên trong buổi hoàng hôn sầu muộn, hắn cảm thấy nhớ nhà. ******************Dường như nỗi đau chẳng bao giờ là có giới hạn cả.

Khi Minh Khánh trở về nơi sân rộng phía trước của chùa.

Bộ đầu Đinh Quý đã chết.

Anh ta nằm ngửa ở giữa sân.

Máu đã khô lại nơi cái cổ rách toạc của anh.

Minh Khánh để Cư Phiền đạo trưởng xuống, bắt đầu đi vòng quanh tìm kiếm Đồng Minh sư thái.

Hắn dễ dàng tìm thấy vết máu và cái xác của đạo sĩ Vạn Thiện.

Cổ của ông bị một vật sắc cắt đứt.

Tiếp tục lần theo vết máu, Minh Khánh tìm thấy xác của hòa thượng Văn Minh, rồi đạo sĩ Dư Nhất.

Vết máu vẫn kéo dài.

Trời bắt đầu tối.

Bóng cây rậm rạp trong khu vườn bắt đầu rì rào che lấp đi những tia sang yếu ớt còn lại.Những ngọn cỏ đã lâu không có người cắt cứ vươn dài và xào xạc than thở cho một ngôi chùa hoang vắng.

Minh Khánh bước chầm chậm trong bóng tối.

Hắn đã thấy được hòa thượng Chúc Phương và Đồng Minh sư thái.

Bọn họ nằm đè lên nhau.

Lưỡi kiếm của sư thái vẫn đang đâm xuyên qua người của hòa thượng.

Hàm răng của hòa thượng vẫn cắn chặt lên cổ của sư thái.

Hai người tự giết lẫn nhau.

Không!

Đúng hơn phải nói là bóng ma của Chúc Phương hòa thượng giết chết Đồng Minh sư thái bởi vì lúc đó có lẽ ông đã chết rồi.

Đến Cư Phiền đạo trưởng còn không chịu nổi thì làm sao Chúc Phương có thể đi ra khỏi chính điện mà vẫn bình an được.Minh Khánh cúi người xuống, lẩm nhẩm đọc kinh cầu siêu.

Bọn họ là người tu đạo, hẳn là đã cắt đứt hồng trần.

Linh hồn của họ sẽ dễ dàng siêu thoát trần gian thôi.Đêm hôm ấy, trên sân ngôi chùa chỉ còn lại Minh Khánh.

Lúc hắn tìm đến đám Phật tử sau nhà, người thì chết người thì bỏ trốn cả rồi.

Minh Khánh đành phải tự thu thập tất cả xác chết lại rồi hỏa thiêu.

Sau khi thu tro cốt Cư Phiền đạo trưởng vào một chiếc lọ nhỏ, Minh Khánh khăn gói xuống núi.

Hắn đi ngay trong đêm.

Minh Khánh không sợ ma quỷ nhưng hắn sợ sự cô độc, sự tĩnh lặng đến buồn bã của ngôi chùa.

Hắn bước mò mẫm qua những bậc thang đá, giờ đã hơi ẩm ướt bởi sương lạnh, chiếc gùi trên lưng lại nặng thêm những bí ẩn chưa được khám phá của một ngôi chùa bị quỷ ám
 
Vùng Đất Vô Hình
Làng Me thở ấy


Trở về phủ lộ Bình An khiến Minh Khánh cực kỳ vui sướng.

Với những người đa cảm như hắn, chỉ cần ngửi thấy mùi gió, mùi nắng của đất mẹ thôi cũng cảm thấy hạnh phúc rồi.

Minh Khánh che mũ đứng chờ đò bên bãi sông vắng.

Trời mùa hè như đổ lửa, thỉnh thoảng còn có những cơn hừng hực mang theo cả cát thổi rát mặt.Con sông mùa này cũng cạn nước, lộ ra bãi sông thoai thoải đầy cát mịn.

Ông lái đò sau khi chở một chuyến khách qua sông vẫn vui vẻ quay lại đón một mình Minh Khánh.

Cái giọng đặc sệt của ông lái đò làm Minh Khánh thấy thân thuộc thế.

Lên đò rồi, hắn vừa vui vẻ trò chuyện với ông lái vừa nhìn ngắm con sông.

So với những mùa khác, nước sông đục hơn, thẫm màu hơn.

Minh Khánh khẽ khoát tay.

Nước sông vẫn lành lạnh.

Làn nước cố gắng tràn qua các bãi cạn lộ rõ bên dưới, chầm chậm chảy về phía biển, cuốn trôi theo đám lá tre già khô úa.

Con sông làm hắn nhớ tới chuyến đi bắt ma ở làng Me thưở nào.*************************Làng Me là một ngôi làng nằm bên sông Lục Bình.

Gọi là thế vì mặt sông lúc nào cũng có đôi khóm lục bình, một loài bèo có hoa tím lớn trôi trên sông mà người ta hay vớt về băm nuôi lợn.

Chả hiểu sao cái ngôi làng yên bình ấy lại gặp ma.

Mà cũng không phải ma trong làng, mà là ma trên cái sông bên cạnh làng.

Lạ nữa là con ma dưới nước đó không trừ bất cứ ai.

Già trẻ lớn bé những ai qua sông vào ban đêm đều một đi không trở lại.

Sau khi chết hơn chục người, làng Me cũng cố đi khắp vùng để mời những thầy trừ ma cứng cựa nhất đến bắt.

Thế nhưng đến khi ba bốn ông thầy cũng ra đi nốt, làng Me mới phát hoảng lên rằng con ma còn cao tay hơn rất nhiều "thầy".

Lúc này bọn họ mới bắt đầu tìm hiểu về nghề trừ tà và biết rằng trong tất cả những kẻ mang danh thầy trừ tà ấy, chỉ có ba phái là mang nghề trừ tà chính tông.

Đó là phái Phổ Linh trên Hoàng Lĩnh Sơn, gia tộc họ Phạm ở đất Nam Lan và Quang Minh đạo tràng trên núi Bình Tử.

Quang Minh đạo tràng thì ở tận ngoài Bắc quá xa, nên các cụ trong làng Me chỉ đồng ý đi mời phái Phổ Linh hoặc gia tộc họ Phạm đến .

Cuối cùng, sau những tranh luận nảy lửa xem bên nào hơn thì mấy nhà giàu sợ chết trong làng góp thêm tiền cho làng đi mời cả hai nơi.

Có lẽ vì đất Nam Lan gần hơn mà người nhà họ Phạm đến trước.

Khi đến làng Me ông ta một mình xuống sông điều tra suốt cả ngày.

Rồi ngay trong đêm hôm sau, ông ta tổ chức bắt ma.

Cả làng đèn đuốc sáng trưng theo dõi ông thầy leo lên con thuyền dán đầy bùa chú và đồ cúng, ung dung chèo ra giữa dòng.

Mùa nóng nên nước sông cũng cạn, chỉ một lát con thuyền đã chui ra đến giữa giòng.

Ông thầy lúc này bỏ chèo chui vào trong khoang.

Kỳ lạ thay, chỉ trong chốc lát con thuyền bỗng xoay tròn trên sông.

Rồi mọi người mới nhận ra dưới chân con thuyền đã hiện ra một xoáy nước khổng lồ tự bao giờ.

Càng đáng kinh ngạc khi con thuyền vẫn chỉ xoay tròn bên trên xoáy nước to như cái ao đó mà không chìm.

Rồi những bùa chú trên thuyền bắt đầu bóc ra và rơi lả tả.

Có người làng Me còn khẳng định họ thậm chí nghe thấy tiếng hò hét và gươm đao chạm nhau trên thuyền.

Cứ thế suốt nửa canh giờ, cái xoáy nước bắt đầu bé lại, vòng xoáy cũng yếu dần, rồi biến mất.

Con thuyền cũng dừng xoay.

Mọi người thấy ông thầy họ Phạm chui ra khỏi khoang thuyền liền hoan hô.

"Thầy cứu cả làng rồi" Nào ngờ, vừa hoan hô chưa được bao lâu thì cả con thuyền đột nhiên lật úp, hất luôn ông thầy xuống nước.

Vì giữa đêm nên chả ai dám bơi ra cứu thầy.

Mãi tới khi mặt trời lên vào sáng hôm sau, mọi người mới dám chèo thuyền ra sông đi mò.

Đến gần chiều, có người tìm thấy xác thầy mắc vào một cái rễ cây bên sông cách làng khoảng hai dặm.

Mang thầy về, ai cũng bịt mũi vì cái xác đã thối rữa như đã chết từ tháng trước.Minh Khánh và sư phụ đến làng Me vào buổi trưa, lúc đấy dân làng đang tập trung ma chay cho thầy họ Phạm.

Dẫu gì thì thầy cũng đã chiến đấu hết mình cho làng nên mọi người đều biết ơn.

Minh Khánh và sư phụ được mọi người trong làng dẫn vào ăn cơm, nghỉ ngơi.

Đến đầu giờ chiều thì một cụ già mới gặp hai người, bắt đầu kể đầu đuôi câu chuyện.

Nghe xong, sư phụ Lê Văn Sơn bắt đầu suy nghĩ rồi xin cụ già gặp ông Tư Thồn, người đầu tiên và cũng là người duy nhất đã thấy con ma mà còn sống trong làng.Ông cụ đồng ý, sai cháu dẫn hai người ra đầu làng.

Nhà ông Tư Thồn nằm gần bến sông.

Vừa bước tới cửa, Minh Khánh đã ngửi thấy mùi hương.

Ấn tượng đầu tiên của hắn là nhà ông Tư Thồn cũng không giàu có gì nhưng thắp rất nhiều hương.

Trong nhà ông phải có đến năm sáu lọ hương, lúc nào cũng khói nghi ngút.

Lúc này mọi người đi làm đồng hoặc ra chỗ đám ma thầy họ Phạm hết, chỉ có mỗi ông Tư Thồn đang ngồi tụng kinh trên giường.

Gọi là đọc thì đúng hơn là tụng vì ông vừa nhìn sách vừa tụng, giọng còn ngắc ngứ chưa thuộc.

Chắc ông vừa mới học đoạn kinh này không lâu.

Thằng bé dẫn đường có vẻ vội, định lên gọi ông Tư Thồn báo có thầy đến nhưng bị sư phụ Lê Văn Sơn nắm tay kéo lại, ra hiệu không nên làm phiền.

Ba người chờ đến lúc ông Tư Thồn đọc hết đoạn kinh thì mới tiến lên.

Sư phụ Lê Văn Sơn chào ông: "Chào bác, bần đạo là thầy trừ tà trên chùa Phổ Linh.

Hôm nay đến nghe chuyện làng, thấy mọi người bảo bác là người duy nhất gặp con ma, bần đạo mới xin gặp bác để hỏi chuyện."

Ông Tư Thồn cúi lạy: "Dạ chào đạo trưởng, xin mời ngài ngồi để tôi đi rót nước."

Sư phụ cười, nắm lấy tay ông, nói một cách rất thân thiết: "Không cần đâu, cơm nước bần đạo đã ăn uống no nê cả rồi.

Giờ chỉ xin ông hãy thuật lại việc gặp ma đêm đó thật kỹ càng cho bần đạo có được không?"

Ông Tư Thồn đồng ý, bắt đầu ngồi nhớ lại.

Giọng ông kể cứ như là từ một cõi xa xăm nào đó khiến Minh Khánh thấy rùng mình.

Đêm hôm ấy chiếc đồ ngang của ông lão Tư Thồn vẫn cố gắng chở khách qua sông.

Ông đang gom tiền mua một mảnh ruộng, cho con có đất cắm dùi, không phải lận đận trên sông nước như ông.

Tối nay, chỉ có bốn vị khách nhỡ đường, muốn đến làng Me trước giờ Hợi.

Ông Tư Thồn năm nay đã gần năm mươi nhưng mắt mũi còn tinh lắm.

Ông nhìn rõ khuôn mặt từng người khách dù chỉ bằng ánh đèn leo lét treo trên hông thuyền.

Một bà đi chùa tuổi sồn sồn, bôi son trát phấn khá dày.

Một cậu trai trẻ cắp tráp đi theo giống người hầu.

Một người đàn ông có vẻ là sai dịch, mặc quần áo của nha môn, cái cằm lúc nào cũng hất lên, đầy vẻ khệnh khạng.

Cuối cùng là một chàng thanh niên trẻ tuổi mặc đạo bào màu xám, lưng còn đeo kiếm gỗ.

Cả bốn người đều có vẻ mệt mỏi, dựa lưng vào thuyền ngủ thiếp đi.Lúc thuyền ra đến giữa sông thì ông Tư Thồn bỗng ngửi thấy một mùi ngai ngái hơi khó chịu, lại quen thuộc với ông.

Ông Tư nghĩ mãi không ra đó là gì.

Ông cố vươn cổ ra giữa trời hít một hơi, hi vọng không khí trong lành buổi đêm xua đi mùi khó chịu.

Chỉ có điều khắp nơi tràn ngập cái mùi ngai ngái đó.

Ông Tư nhìn vào trong khoang thuyền, nhìn xem có vị khách nào mang theo đồ vật thối rữa không?Ông Tư bước vào khoang thuyền.

Năm người vẫn ngủ say như chết.

Cái mùi ngai ngái đó càng đậm đặc.

Ông Tư định đánh thức bọn họ dậy để hỏi xem.

Từ từ đã nào, từ lúc nào mà lại có thêm một người.

Ông Tư nhớ lúc lên thuyền chỉ có bốn người khách thôi.Ông Tư nhìn vào vị khách thứ năm.

Không rõ y lên thuyền lúc nào.

Người y ướt sũng như bị rơi vào nước, bụng phềnh như cái trống.

Da thịt y bong tróc ra từng mảng lớn.Y bỗng mở mắt nhìn ông Tư một cái, nhe một hàm răng chỉ còn răng và xương cười với ông.

Ông Tư ớn lạnh trong người, sợ hãi kêu lên một tiếng.

Y liền biến mất.Tiếng kêu của ông Tư làm ba người khách tỉnh dậy, nhốn nháo hỏi ông chuyện gì.

Ông Tư kể lại, bọn họ cũng đều sợ hãi mong ông mau chèo thuyền khỏi đây.

Nhưng ông vừa cầm lấy mái chèo thì bà sồn sồn hét lên sợ hãi, ôm chầm lấy cậu trai trẻ.

Ông Tư bước vào, thấy đạo sĩ mang kiếm đã chết tự bao giờ, cả người y ướt sũng nước như vừa ở dưới sông lên.

Ông Tư sợ quá, vội vã chèo thuyền vào bến.

Nhưng còn cách bến ba mươi thước thì cậu trai trẻ lại kêu lên.

Ông Tư nhìn thấy cậu đẩy bà sồn sồn ra, bà ta cũng ướt sũng nước, có vẻ không còn thở nữa.Cậu trai trẻ và gã sai dịch vừa bò ra khoang thuyền vừa hoảng hốt kêu cứu mạng.

Ông Tư chèo càng nhanh, thuyền cập bến, hai người khách nhảy vội lên.

Nhưng hai cánh tay trắng hếu từ dưới sông vươn ra, túm lấy chân bọn họ kéo ngược trở lại trong sông.

Ông Tư mặc kệ tiếng kêu la của bọn họ, cắm đầu chạy thục mạng.

Ngày hôm sau lúc ông trở ra thì con thuyền vẫn còn nguyên.

Ông liền kéo thuyền về nhà, rồi đi thông báo với lý trưởng.

Lúc đầu lý trưởng không tin ông, thậm chí biết ông không chèo đò nữa còn mua rẻ lại chiếc đò cũ.

Bán chiếc đò rồi, ông Tư về nhà ốm một trận nặng tưởng chết.

Thế nhưng mấy ngày hôm sau, khi tỉnh dậy ông nghe đồn lại có người bị ma bắt.

Lần này đến người chèo đò là cháu họ xa nhà lý trưởng cũng không may mắn được như ông.

Hồi đó Minh Khánh còn bé lắm, mới học bắt ma được hơn một năm thôi.

Nghe chuyện của ông Tư Thồn, Minh Khánh đâm ra sợ.

Hắn nép hẳn vào bên người sư phụ.

Bên cạnh Minh Khánh, mặt thằng bé dẫn đường đã xanh mét như tàu lá chuối, xem chừng sắp tè ra quần đến nơi.

Thấy cu cậu sợ run lên, sư phụ Văn Sơn cho thằng bé một đồng tiền, bảo nó đi về.

Rồi ông mở tay nải, lấy giấy bút ra.

Minh Khánh liền xung phong mài mực.Mực là một trong bốn bảo bối của văn phòng, gọi là "văn phòng tứ bảo" bao gồm mực giấy, bút, nghiên.

Bốn thứ này khá đắt giá vì nó là công cụ để học tập, truyền đạt và thi cử của tầng lớp "có học", từ những ông đồ đến quan tể tướng.

Mực có hai loại, mực thỏi và mực nước.

Thường thì ở nhà, sư phụ thường dùng mực nước sau đó mới mài một ít mực thỏi để tăng độ sánh thôi.

Thế nhưng đi xa thì ông thường mang nguyên cả thỏi.

Viên mực này hẳn là vị quan nào biếu ông, lúc Minh Khánh mài còn ngửi thấy hương thơm.

Giống như các nhà Nho, bút mực giấy cũng là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thầy trừ tà.

Đơn giản bởi vì đó là một công cụ tiện lợi để luyện vẽ bùa.

Không ai mới bắt đầu học vẽ bùa đã dùng kim sa và giấy vàng cả.Như Minh Khánh , để vẽ được cái bùa đầu tiên đã phải học viết chữ, vẽ tranh ròng rã ba năm.

Đó là khoảng thời gian khổ cực nhất trong cuộc đời đi bắt ma của hắn.

Sau này sư phụ mới giải thích rằng đó là để rèn luyện tâm tính và khiếu thẩm mỹ cho thầy trừ tà trước khi vẽ bùa.

So với những người tu đạo khác, việc vẽ bùa chưa bao giờ là chuyện đơn giản với thầy trừ tà.

Đơn giản bởi lẽ đó là vũ khí của thầy trừ tà để chiến đấu và bảo vệ mạng sống.

Với người khác, vẽ bùa có thể lỡ vẽ xiên xẹo một nét, uy lực giảm đi một hai thành vẫn không sao.

Còn với thầy trừ tà, một hai thành uy lực thiếu đi đó có thể biến lá bùa đó thành lá bùa đòi mạng .

Giống như binh sĩ lên chiến trường, gươm đao phải sắc bén, lá bùa của thầy trừ ta luôn phải phát huy đầy đủ một trăm phần công lực.

Đó là do kinh nghiệm của xương và máu trong suốt cuộc chiến đấu dai dẳng hàng trăm năm trước truyền lại và hun đúc thành.Thế nhưng hôm đó, Minh Khánh biết sư phụ Lê Văn Sơn chắc là không định vẽ bùa.

Bởi vì hắn thấy ông dùng giấy Tuyên "thục chỉ".

Giấy Tuyên có hai loại.

Loại "sinh chỉ" là giấy sống, chưa nhúng phèn, chuyên dùng trong thư pháp.

Loại "thục chỉ" là giấy đã nhúng phèn, dùng trong hội họa.

Sư phụ bắt đầu yêu cầu ông Tư Thồn nhớ lại con ma, cố gắng miêu tả hình dạng của nó để sư phụ vẽ lên giấy.

Từ ánh mắt, đến cái miệng cười của nó, tất cả đều được sư phụ vẽ thật sống động.

Sau hơn chục tờ giấy vứt đi vì ông Tư Thồn bảo không giống, cuối cùng sư phụ cũng vẽ được một bức mà được ông Tư gật đầu.Trong khi sư vụ yên lặng ngắm bức tranh, Minh Khánh cũng giả đò nhìn theo, mặc dù hắn cũng không hiểu sư phụ làm thế có mục đích gì.

Sau nửa canh giờ, hai thầy trò chào từ biệt ông Tư để đi bắt ma.

Trước khi đi, sư phụ Lê Văn Sơn có nói với ông Tư rằng trong chuyến đò hôm ấy, ông Tư đã lây dính khí âm của con ma nên có thể mở ra Âm nhãn.

Hiện tại nếu ông muốn làm thầy trừ tà thì có thể đi lên núi Hoàng Lĩnh hoặc sang đất Nam Lan để học cách bắt ma.

Rồi sư phụ cho ông Tư Thồn một lá bùa để phòng thân vì những người có dính khí âm như ông hay bị ma làm hại.

Ông Tư cảm ơn sư phụ rối rít, lễ phép tiễn thầy trò ra khỏi nhà.Sau khi gặp ông Tư rồi, Minh Khánh tưởng sư phụ Lê Văn Sơn sẽ dẫn hắn ra bờ sông xem con ma, thế nhưng ông lại đi ngược vào trong làng.

Minh Khánh thấy sư phụ hỏi nhà lý trưởng.

Lý trưởng chắc mới ở đám tang thầy họ Phạm về, hơi thở vẫn còn mùi rượu nồng nặc.

Sư phụ đưa bức vẽ con ma cho lý trưởng, nhờ hắn lên huyện xã xem trong vùng có ai mất tích mà mặt mũi giống thế này không.

Lý trưởng thấy hình vẽ con ma thì sợ lắm, không dám cầm, chỉ sai một đứa cháu cầm rồi cùng đi lên huyện.

Hai thầy trò ở nhà lý trưởng.

Nhà y rộng và thoáng mát lắm.

Từ nhà ra sân đều lát gạch đỏ sạch sẽ.

Mới chiều tối, bà lý đã vội mổ gà làm cơm chiêu đãi hai thầy trò.

Minh Khánh được nguyên cái đùi gà to thơm phưc phức.

Thịt gà săn, càng nhai càng thấy thơm chấm với muối tiêu lá chanh thì ngon quên trời đất.

Ngoài ra Minh Khánh còn nhớ món đậu xào lòng mề.

Chắc là xào bằng mỡ gà hay sao mà thơm thế.

Đậu đũa giòn giòn, mề gà sật sật, gan gà béo béo làm hắn say mê.

Hôm đấy mình Minh Khánh chén hết bốn bát cơm, bằng hai bữa bình thường.Ăn xong hai thầy trò ngồi uống nước trên cái chõng trong vườn.

Gió từ vườn thổi mát quá, lại còn mùi hoa bưởi dịu dịu làm Minh Khánh ngủ thiếp đi.

Đến gần đêm thì sư phụ Lê Văn Sơn đánh thức Minh Khánh dậy.

Hóa ra là lý trưởng đã về.

Lý trưởng cầm cái quạt mo quạt lấy quạt để vừa kể chuyện lên huyện.

Mặc dù rất dong dài, nhưng Minh Khánh cũng hiểu được rằng huyện nha cho rằng không có ai phù hợp với hình ảnh mà sư phụ đã vẽ.

Sư phụ Lê Văn Sơn cười, khách khách khí khí cảm tạ lý trưởng đã giúp đỡ.

Lý trưởng có vẻ hài lòng, vui vẻ sai người dọn cơm ra rồi mời hai thầy trò cùng ngồi mâm.

Thì ra từ chiều đến giờ y vẫn chưa ăn.

Minh Khánh đến lúc này cũng hơi đoi đói rồi, lại muốn ngồi xuống nhưng sư phụ từ chối lời mời của lý trưởng.

Ông bảo phải ra sông xem.

Thế là lý trưởng sai người cho hai thầy trò mỗi người một cái đuốc to, đủ cháy cả hai đêm rồi tiễn hai thầy trò.

Minh Khánh và sư phụ đi dọc con đường làng ra sông.

Đêm cuối tháng tối lắm.

Mặc dù có đuốc nhưng Minh Khánh vấp liên tục.

Gió cứ thổi liên tục làm cây đuốc của Minh Khánh cứ bập bùng bập bùng.

Ra đến bên sông, Minh Khánh vừa đi vừa nhìn xung quanh, lúc đấy hắn vẫn chưa có âm nhãn nên cảm thấy con ma có thể ở bất kỳ đâu.

Đột nhiên hắn húc đầu vào lưng sư phụ.

Thì ra ông dừng lại mà hắn chẳng biết.

Cơn đau ở sống mũi khiến hắn chực khóc.

Sư phụ vội lấy tay xoa xoa cho Minh Khánh rồi đỡ hắn ngồi xuống bãi cỏ.

Một mình ông bước xuống gần mép sông.

Minh Khánh thấy ông bắt đầu mở ra âm nhãn.

Trên mặt sông âm khí bắt đầu tụ lại nhưng con ma vẫn không hiện hình.

Gió bắt đầu thổi ào ạt.

Sương lạnh bắt đầu lan tràn làm Minh Khánh thấy lạnh.

Hắn rùng mình nhìn xung quanh.

Gió thổi cỏ lay đều khiến hắn giật mình thon thót.

Đột nhiên một cái gì đó chạy qua phía sau làm Minh Khánh ngoảnh lại.

Đó là cả một khoảng không thênh thang cùng với con đường vào làng vừa tối vừa sâu hun hút.

Nhìn kỹ một lúc Minh Khánh thở phào tiếp tục quan sát sư phụ.

Hắn cảm thấy lúc này âm khí trên sông đã mở rộng ra, tạo thành một cái vòng xoáy ngay trên mặt sông.

Lúc này trong lòng Minh Khánh chia làm hai nửa, một bên vừa hi vọng con ma hiện ra cho sư phụ bắt, một bên lại mong nó đừng chui ra.

Phía sau Minh Khánh lại có cái gì đó chạy qua làm hắn giật thót.

Lần này Minh Khánh cảm thấy mình không nghe lầm.

Hắn đứng dậy giơ cao cây đuốc lên, thò b àn tay nhỏ mũm mĩm móc một lá bùa mà sư phụ cho từ trong ngực ra, run run tiến về phía có tiếng động hồi nãy.

Lúc này hắn vẫn chưa thuộc nổi Tịnh Tâm chú chả biết đọc gì, chỉ lẩm bẩm: "Đừng bắt ta, đừng bắt ta" cho đỡ sợ.

Sương càng lúc càng dày đặc.

Chỉ vài bước chân thôi mà sao Minh Khánh thấy vừa mệt mỏi vừa lạnh run đến thế.

Lại có tiếng sột soạt, lần này không phải ở chỗ cũ mà bên trái hắn tầm ba thước.

Minh Khánh lập tức quay người về phía đó, giơ đuốc lên soi.

Vẫn không có cái gì cả.

Minh Khánh thở phào nhẹ nhõm.

Hắn không muốn đối mặt với con ma bây giờ đâu.

"Hẹn mày hôm nào tao học xong phép bắt mày đã nhé ma!"

Hắn tự nhủ trong lòng như thế.

Đột nhiên từ phía sau có một bàn tay nắm lấy vai hắn.

Minh Khánh sợ quá thét lên "Á...Á ...Á..."

Minh Khánh cố giẫy dụa, vùng vẫy bằng tất cả sức lực mà mình có.

Hắn vung cả hai tay, cố nắm chặt lấy lấy bàn tay trên vai, rồi giằng ra thật mạnh.

Bàn tay đó sao mà thô ráp, lại cứng cáp như rễ cây cổ thụ.

Vì dùng lực quá mạnh, Minh Khánh ngã ngửa ra đất.

Đột nhiên, ánh mặt trời chói chang hiện lên làm tất cả như tan biến.

Minh Khánh vừa thở hồng hộc, vừa che đôi mắt khỏi bị ánh nắng rọi vào.

Mồ hôi trên người hắn vã ra như tắm, từng giọt từng giọt từ trên trán chảy vào mắt cay xè, làm bóng người trước mặt cứ mờ mờ ảo ảo.

Người đó xoa xoa tay trước mặt hắn làm hắn càng không thể nhận ra là ai.Mãi đến khi người đó đỡ Minh Khánh vào dưới một gốc cây, Minh Khánh mới nhận ra là ông lái đò.

Ông lái đò vừa lấy cái khăn vừa tẩm nước sông lên còn lành lạnh trùm lên trán cho Minh Khánh vừa than thở: "Tôi đã bảo rồi.

Cậu đừng ngồi một chỗ dưới trời nắng như thế dễ bị cảm lắm.

Thế mà cậu lại cứ ngồi ỳ ra, lại còn hò hét như đang mơ ngủ nữa."

Minh Khánh khẽ nhếch đôi môi khô nẻ, mỉm cười nhận lỗi với ông.

Đầu hắn bắt đầu lên cơn sốt.

Mắt hắn vẫn còn hoa, hơi thở cứ như được hơ qua lửa, nóng hừng hực.

Ông lái đò bảo Minh Khánh ngồi nghỉ một lúc rồi chạy đi đâu đó.

Minh Khánh ngồi dưới gốc cây, nhắm mắt lại.

Cơn đau đớn bắt đầu bùng lên hai bên thái dương khiến Minh Khánh biết hắn bị bệnh thật rồi.

Theo kinh nghiệm từ ngày xưa, bình thường người tu đạo rất ít khi bị bệnh tật.

Bởi vì người tu đạo, bất kể là thầy trừ tà, thầy phong thủy, hay luyện trường sinh ...

đều phải rèn luyện cơ thể.

Tùy theo từng môn phái, từng hệ thống truyền thừa mà bọn họ có thể có cách tập luyện khác nhau, Sau một thời gian rèn đúc cơ thể, những thứ bệnh tật ốm đau thông thường rất khó xâm nhập.

Ngoài ra, việc thường xuyên tiếp xúc với các lực lượng siêu nhiên khiến cơ thể người tu đạo trở nên có sức kháng cự rất mạnh với dị vật từ bên ngoài.

Người tu đạo chỉ bị bệnh khi bọn họ tiêu hao quá nhiều sinh mệnh, hoặc khi có một thứ gì đó "bẩn thỉu" xâm nhập khiến cơ thể bọn họ bị suy yếu khả năng tự bảo vệ.

Minh Khánh nghĩ ngay đến khả năng hắn đã "bị" từ lúc ở trong chùa Khánh Lương.

Vì thế trên đường trở về, hắn đã cảm thấy sự khó chịu nơi cơ thể và đến đây thì đổ bệnh.

Minh Khánh cũng không hoảng hốt.

Hắn cũng đã có khá nhiều kinh nghiệm với trường hợp như thế.

Chỉ cần người bệnh an dưỡng một thời gian, không đánh đấm, không tiêu hao sinh mệnh thì sẽ tự khỏi.

Minh Khánh duỗi người, dựa lưng vào cái cây.Có tiếng bước chân vọng lại.

Ông lái đò đã trở về, trên tay cầm một cái gáo dừa.

Nhận lấy gáo nước mát từ tay người lái đò tốt bụng, Minh Khánh lễ phép cảm ơn ông, đưa gáo nước lên uống từng ngụm nhỏ.

Hắn cảm thấy đỡ đỡ hơn nhiều.

Hắn gửi ông lái đò một khoản tiền nhưng ông cứ từ chối, chỉ nhận bằng đúng giá tiền chở khách hàng ngày.

Minh Khánh đành cảm ơn người lái đò tốt bụng, rồi lảo đảo đi vào làng.

Minh Khánh kiếm được một nhà cho ở trọ.

Giá cũng rẻ.

Trong nhà chỉ có hai ông bà lớn tuổi ở với vợ chồng đứa con trai út mới cưới.

Ông bà đưa Minh Khánh vào một căn nhà đang xây dở phía sau hồi, dưới gốc cây mít.

Chắc là xây cho đứa con ra ở riêng.

Nơi này chỉ còn thiếu mỗi gian bếp, cửa chính cửa sổ đều đã lắp cẩn thận.

Minh Khánh gửi tiền cọc cho chủ nhà xong liền nằm vật ra giường.

Sự mệt mỏi và cơn sốt làm mắt hắn cứ ríu lại.

Mãi đến gần nửa đêm Minh Khánh mới tỉnh dậy.

Bát cháo hành tía tô nhờ nhà chủ nấu giờ đã nguội ngắt.

Hắn vẫn cố gắng với tay lấy bát, húp mấy miếng.

Cổ họng hắn trở nên đau và sưng, khiến hắn cứ phải rướn cổ lên mỗi khi nuốt xuống.

Húp hết bát cháo, uống ngụm nước trong ống tre mà chủ nhà treo bên vách tường, Minh Khánh lại nằm xuống, bắt đầu lịm đi.

Bóng tối, tiếng lá xào xạc bên cửa sổ và những cơn gió nóng hừng hực lại đưa hắn về những ký ức năm nào.********************* Bờ sông làng Me vẫn tối mịt.

Minh Khánh lẽo đẽo theo sư phụ đi về.

Lúc nãy, sư phụ nắm vào vai làm hắn sợ đến đứng tim.

Con đường vào làng vẫn sâu hun hút.

Thỉnh thoảng lại có tiếng chó nhà ai sủa gâu gâu khi Minh Khánh và sư phụ đi qua.

Hai người quay trở lại nhà lý trưởng để ngủ đêm.

Sáng hôm sau, sư phụ đánh thức Minh Khánh dậy sớm lắm.

Hai người ăn tạm ít xôi rồi lên đường.

Lần này, sư phụ dẫn hắn đi ngược con sông về phía thượng nguồn.Hai người đầu tiên là đi xe ngựa, sau đó đổi sang đi thuyền, cuối cùng là đi bộ hai ngày, mới tới được đầu nguồn của con sông.

Đó là một cái hồ nước rộng mênh mông tên là hồ Kinh Dạ.

Mặt hồ phẳng lặng, nước trong veo.

Thế nhưng lạ lùng nhất là quanh hồ không hề có lấy một cái làng nào.

Sư phụ dường như cũng biết rõ vùng này, dẫn hắn đi ngược khỏi hồ về phía Tây mười dặm.

Nơi đó có một cái thôn nho nhỏ.Hai người vào ở tạm trong nhà một người thợ săn trẻ tuổi tên Miên.

Chú Miên có vẻ quen với sư phụ.

Đêm đó chú đãi hai người món thịt gà rừng nướng mà chú săn vừa được.

Con gà được chú làm long rồi mổ cẩn thận.

Chú moi hết bên trong ra rồi bắt đầu nhét một đống rau thơm vào.

Sau đó chú trộn một ít bột hạt mắc khén, ớt nướng, củ sả băm nhỏ, hạt dổi nướng giã ra thành một đống, rồi bắt đầu bôi bôi trét trét lên con gà.

Sau đó chú xiên con gà qua một khúc giang non còn tươi.

Sau đó chú gác con gà trên bếp lửa, rồi xoay đều cho gà chín.

Trong lúc chờ đồ ăn, sư phụ và chú Miên chuyện trò rất rôm rả.

Minh Khánh chỉ chăm chăm vào con gà thơm phưc phức trên bếp lửa.

Mỗi khi nhìn mỡ béo trong con gà xèo xèo, nước dãi lại trều ra bên mép.

Gà chín rồi, chú Miên bắt đầu trút ra lá chuối.

Thấy Minh Khánh nhỏ cả nước dãi vì thèm, chú bật cười, cầm con dao chặt luôn một miếng đùi to.

đưa cho hắn.

Gà vừa mới trên bếp xuống nên còn nóng, Minh Khánh vừa cầm xuýt xoa, vừa đổi tay liên tục.

Khi gà hơi nguội, hắn đưa lên miệng, cắn một miếng.

Trời ơi, sao mà ngon thế.

Da gà săn lại, nhai giòn giòn.

Thịt gà vàng rộm ở bên ngoài và ngọt mềm ở bên trong, thơm ngậy mùi của hạt mắc khén, của sả.

Thịt gà rất chắc, từng thớ thịt trắng phau, ăn đến đâu biết đến đấy.Chú Miên và sư phụ không vội vàng ăn như Minh Khánh.

Chú Miên thì lấy trong chiếc gùi đi rừng ra một lá ghém.

Thứ lá này hơi chát, ăn vào lại có vị ngòn ngọt thơm thơm nơi cổ họng.

Sư phụ thì lôi đâu ra một bầu rượu gạo.

Hai người bắt đầu chén tạc chén thù đến tận khuya.

Đêm trong thôn tĩnh lặng vô cùng.

Minh Khánh chén đẫy bụng liền leo lên giường đánh một giấc tới tận sáng.Sáng hôm sau, hai người lớn dậy rất sớm, bắt đầu chuẩn bị đồ đạc.

Chú Miên không biết mượn đâu được một chiếc xe trâu to.

Sau đó chú bắt đầu chất đồ lên xe, bao gồm một con thuyền cùng với đó là ít gạo rang, thịt gác bếp, một ít hương để đuổi muỗi.

Sư phụ cũng mua đâu trong làng được một tấm chăn, một cái màn vải, và một số đồ cúng.

Sau đó ba người đánh xe ra hồ.

Minh Khánh lại một lần nữa gặp lại làn nước mênh mang của hồ Kinh Dạ.

Chú Miên và sư phụ bắt đầu vác thuyền xuống nước, chất đồ lên.

Rồi không biết chú kiếm đâu được hai khúc tre dài, một cái chú cầm, một cái sư phụ cầm, hai người bắt đầu chèo ra giữa hồ.

Trên đường đi, chú Miên giải thích cho Minh Khánh tại sao hồ này lại mang cái tên Kinh Dạ.Đó là từ thời rất lâu rồi khi con người mới về đây làm ăn khai phá.

Cuộc sống ban đầu khá vất vả nhưng vì trong hồ có nhiều cá, xung quanh lại có nhiều sản vật, đất đai cũng phì nhiêu nên chỉ vài chục năm, xung quanh hồ bắt đầu trở nên nhộn nhịp.

Thời đỉnh cao ven hồ có không dưới mười làng, thậm chí còn có một bến tàu bằng đá.

Cuộc sống sung túc trong vùng đưa tới không ít người từ phương xa, có thương nhân, có quan phủ, có người chạy nạn và cả người tu đạo.

Cuộc sống trong vùng trở nên ồn ào náo nhiệt hơn.

Đáng lẽ cuộc sống ở hồ Kinh Dạ sẽ tiếp tục giàu có và yên bình nếu như không có thêm một đám người xa lạ.

Đó là một đám tù vượt ngục từ phủ Thanh Đô trốn vào.

Người cầm đầu là một tên cướp có biệt hiệu Thủy Quỷ.

Y là một tên cướp cực kỳ tàn độc và gian ác.

Y từng cùng đàn em tổ chức hơn một trăm vụ cướp, không vụ nào không có người chết.

Sở thích của y là bỏ người sống vào trong lồng rồi dìm nước.

Chờ người sống dở chết dở y lại lôi lên, rồi lại dìm.

Nghe đồn khi còn bé y từng bị mẹ kế dìm nước sống đi chết lại, nhưng vì trên người không có một vết thương nên chả ai tin y bị hành hạ.

Lớn lên y học được một thân võ nghệ quay về trả thù thì mẹ kế đã chết từ lúc nào rồi.

Thế là y mang cái tâm trạng thù đời, thù người ấy đi trả cho thiên hạ.Thủy Quỷ từng tung hoành khắp một vùng trấn Thanh Đô.

Quan phủ từng nhiều lần lùng bắt y nhưng không thành bởi y bơi lội quá giỏi.

Y thường chọn chỗ ngủ là ở trên thuyền hoặc nơi nào đó bên cạnh song hồ.

Có động là y nhảy ngay xuống nước.

Sự táo tợn và xảo quyệt của y chỉ kết thúc khi y vô tình nhúng nước "em gái" của một cao thủ luyện võ trên núi Tiều.

Đau lòng trước cái chết của em gái, người này đã hợp tác với quan phủ truy lùng y và đồng bọn suốt một năm, thêm nữa không tiếc tiền thu mua tin tức của y trên giang hồ.

Vì có chỉ điểm rõ ràng, có thêm cao thủ hợp tác, quan phủ lại huy động mấy ngàn lính thủy bộ vây quét, Thủy Quỷ và đồng bọn đành phải sa lưới.

Riêng Thủy Quỷ mặc dù nấp dưới hồ mấy ngày trời, nhưng vừa bò lên bờ kiếm ăn đã bị một đám cao thủ vây lại.

Bụng đói, lại mệt mỏi, y đành đầu hàng.Thế nhưng có vẻ như được ông trời ưu ái, Thủy Quỷ và đồng bọn không bị bêu đầu ngay ở Thanh Đô do thượng thư bộ Hình muốn mang hắn về kinh thành xét xử.

Trên đường ra kinh thành, đoàn áp giải Thủy Quỷ gặp phải lốc xoáy giữa đêm.

Mười thuyền có đến bảy cái bị đắm trên sông.

Nhờ khả năng của mình, y không những phá được cửa trốn thoát mà còn giải cứu không ít đàn em.

Thế rồi y mang tám tên còn sống sót trốn đi.

Trở về quê cũ, chán cuộc sống trộm cướp, y đào hết tiền của phi nghĩa chôn dưới đất rồi bỏ xứ mà đi.

Lần này y rời trấn Thanh Đô tiến vào phủ lộ Bình An.Vào đến nơi này, Thủy Quỷ và bọn đàn em dựa vào tiền bạc dư dả liền thay tên đổi họ, mua đất mua ruộng, cưới vợ sinh con.

Vì không để ai phát hiện, bọn họ tạo thành một cái làng nho nhỏ ven hồ.

Người dân trong vùng cũng nhiệt tình đối đãi những người mới tới trông có vẻ hung dữ, thực ra lại tốt bụng và hào phóng này.

Thời gian cứ thế âm thầm trôi, cho đến một ngày Thủy Quỷ phát hiện ra hòn đảo nhỏ giữa hồ trong một lần đi đánh cá.

Đó là một cái hòn đảo lạnh thấu xương, xung quanh mờ mịt sương mù.

Trở về từ hòn đảo đó, Thủy Quỷ như người mất hồn.

Hôm sau khi hắn tỉnh lại thì hắn đã dìm chêt vợ và đứa con trai của hắn.

Một phần vì không hiểu, một phần vì đau đớn và sợ hãi người phát hiện.

Thủy Quỷ gói xác vợ con vào trong một cái túi lớn rồi mang lên đảo.

Chôn vợ con rồi y khóc mãi tới tận trời tối mới trở về.

Đêm hôm đó Thủy Quỷ lại như người mất hồn.

Hôm sau khi hắn tỉnh dậy mới phát hiện mình đã ở trong nhà hàng xóm.

Cả nhà đàn em hắn đều bị hắn lôi ra lu nước dìm chết.

Thủy Quỷ sợ hãi vô cùng.

Hắn vội trốn về nhà.

Thế nhưng trong cái xóm nhỏ này, trừ khi làm việc gì mà giấu kín trong nhà, còn không làm sao có thể không bị phát hiện.

Có người nhìn thấy hắn đi ra, có người phát hiện án mạng, thế là cả xóm vác dao tới nhà tìm hắn.

Trong cơn cùng quẫn, Thủy Quỷ lại nhảy xuống hồ bỏ trốn.

Y cướp được một chiếc thuyền rồi bơi ra hòn đảo giữa hồ.

Thế nhưng có người nhìn thấy y.

Thế là cả xóm lại cùng bơi thuyền ra đảo tìm tên sát nhân.

Một cuộc chiến đẫm máu xảy ra giữa những người từng là huynh đệ.

Thủy Quỷ bị bắt được và bị đàn em phanh thây.

Nhưng trước đó, y cũng kịp phá hết thuyền bè trên đảo.

Đám đàn em của y đành ở lại trên đảo qua đêm.

Nhưng sáng hôm sau, khi mọi người tìm tới nơi thì tất cả đều chết hết.
 
Vùng Đất Vô Hình
Câu chuyện bên lề


Câu chuyện đáng sợ của chú Miên bị cắt đứt bởi một làn sương mù dày đặc.

Sương ở đây không hề giống bất cứ một nơi nào khác mà Minh Khánh từng nhìn thấy.

Nó cứ quánh lại, thậm chí cảm thấy có thể cầm nắm, vo viên và ném vào người khác như lũ trẻ vẫn thường chơi ném bùn.

Ngoài ra, sương mù nơi đây còn lạnh lẽo một cách kỳ quái.

Hơi lạnh như xông qua da qua thịt, thấm vào tận trong máu khiến chân tay tê dại đi.

Minh Khánh hơi vẩy vẩy cánh tay cho nó bớt lạnh, rồi đưa lên miệng thổi phù phù.

Đột nhiên thuyền bỗng ngừng lại như va phải một cái gì đó.

Chú Miên hô:"Đến nơi rồi."

Lúc này Minh Khánh mới phát hiện ra con thuyền đã đi vào bên cạnh một bãi cát thoai thoải.

Chú Miên nhảy xuống kéo thuyền vào.

Sư phụ thì buộc dây neo thuyền vào một cái cọc trên bãi cát.

Sau đó ba người bắt đầu dỡ đồ trên thuyền lên một bờ đá cao.

Dỡ xong hết hàng, chú Miên và sư phụ bắt đầu đi sâu vào trong đảo.

Hòn đảo này cũng không phải quá rộng, chỉ tầm cỡ vài chục mẫu đất.

Bên trong hòn đảo là một rừng cây rậm rạp.

Sương mù và tán cây khiến cho Minh Khánh không thể thấy đường mặc dù lúc này đang là giữa trưa.

Chú Miên đốt một cây đuốc lên, soi rõ xung quanh.

Đất trong khu rừng cảm giác mềm nhũn như đi giữa vũng lầy mặc dù hoàn toàn khô ráo.

Nền đất ghồ ghề nhiều đá khiến người ta rất khó đi.

Cây cối ở đây có vẻ khẳng khiu lạ thường, với vô số rễ cây xấu xí đâm ngang đâm dọc lung tung.

Đặc biệt bên trong rừng cực kỳ tĩnh lặng và kín gió.

Ở nơi đây tiếng thở phì phò của Minh Khánh là tiếng động to lớn duy nhất.Chú Miêu có vẻ thạo đường, băng qua rất nhiều tảng đá hay rễ cây mọc ngang một cách dễ dàng.

Cuối cùng ba người có vẻ đã tìm đến nơi cần đến.

Đó là một ngôi miếu nhỏ giữa một khoảng rừng trống trải, nằm quay lưng về hướng Bắc.

Minh Khánh đi vòng ra phía trước ngôi miếu.

Tường ngoài của nó được đắp bằng đát, mái lợp ngói.

Bên trong ngôi miếu chỉ có một cái bàn thờ.

Trên đó ngoài một cái lư hương lớn bằng đất sét thì Minh Khánh chẳng thấy tượng thần phật hay cái gì khác cả.

Cái lư hương cũng mốc mốc cũ cũ như bị bỏ quên từ rất lâu rồi.

Minh Khánh thấy sư phụ đốt một bó hương to, khấn vái rồi chia cho chú Miên và hắn một ít.

Xong rồi, sư phụ thắp hương lên lư và đi vòng quanh cắm vào gốc mấy cái cây mọc xung quanh miếu thờ.

Chờ chú Miêu khấn và thắp hương xong, Minh Khánh cũng tiến lại sát để thắp hương.

Hắn giật mình đánh thót khi thấy bên trong căn miếu bé nhỏ là hàng ngàn lá phù các loại dán đầy trên tường.

Mặc dù tối không thấy chữ nhưng Minh Khánh dựa vào kích cỡ và kiểu giấy vẫn đoán được trong ngôi miếu có trấn hồn phù, trấn tà phù, quang minh hộ thần phù và vô số những loại phù chú chuyên đuổi tà ma khác.Ngôi miếu này tại sao lại có nhiều phù chú đến thế?

Minh Khánh tự hỏi.

Lúc này sư phụ và chú Miêu đang đứng dưới gốc một cái cây to.

Hai người đang nói chuyện gì mà mặt rất căng thẳng.

Thấy Minh Khánh tiến lại gần, sư phụ và chú Miên đã nói xong.

Ba người bắt đầu trở về trên bãi đá nấu cơm.

Cơm nước xong xuôi, chú Miên và sư phụ ngồi uống nước chè còn Minh Khánh lăn quay ra ngủ.

Vì cũng mệt hắn ngủ một giấc đến lúc tối mịt.

Khi tỉnh giấc, Minh Khánh thấy mình đang nằm trong chiếc lán nhỏ mà chú Miên và sư phụ đã dựng xong lán tự bao giờ.

Xung quanh trời tối om om.

Đống lửa cháy leo lắt khiến cho Minh Khánh cảm giác vẫn lạnh.

Hắn cuộn tấm chăn trấn thủ xung quanh người, vừa đẩy củi vào trong đống lửa, vừa thổi phù phù.

Ngọn lửa lập tức bùng lên, tàn lửa cháy tí tách đỏ rực.Minh Khánh trút cái chăn quanh người xuống, bắt đầu nhìn quanh xem có thấy chú Miên và sư phụ không.

Sương mù vẫn dày đặc như lúc sáng mới đến.

Minh Khánh bước xuống khỏi tảng đá, lò dò ra bãi cát.

Bãi cát phẳng và trắng bóc.

Minh Khánh lò dò đến tận bên hồ, vốc một vốc nước rửa mặt.

Nước hồ lạnh ngắt, lai có một mùi vị hơi tanh tanh như mùi cá chết.

Minh Khánh nhăn mũi dùng hai ống tay áo thấm hết nước trên mặt rồi trở về lán.

Bỗng nhiên, hắn nghe thấy tiếng bõm bõm như có ai đang lội nước.

Một cơn rợn người bắt đầu chạy dọc sống lưng Minh Khánh.

Câu chuyện chú Miên kể công thêm việc đi bắt ma khiến hắn có cảm giác chẳng lành.

Bàn tay hắn sờ vào túi.

Nơi đó có lá bùa mà sư phụ viết sẵn chuyên dùng để bảo vệ tính mạng.

Minh Khánh quay người bước tiếp về nơi có tiếng lội lõm bõm ấy, miệng hô lên: "Sư phụ à?

Chú Miên à?"

Hắn cứ hô lên mấy lần mà không có ai đáp lại cả.

Đã đến gần mép nước.

Từng cơn sóng cuộn lên chân Minh Khánh, mang theo hơi lạnh kỳ quái như trong nhà mồ của quan lại mà hắn từng đi qua.

Sương mù vẫn đặc quánh lại như muốn che đi hết những bí ẩn trên mặt hồ.

Đột nhiên, một bóng trắng lao thẳng vào mặt Minh Khánh khiến hắn giật nảy.******************* Đêm đã khuya lắm.

Ông cụ Trầm bước ra bên ngoài sân để đi giải.

Gió thổi mát rười rượi.

Gốc hoa lài ban đêm thơm thoang thoảng làm ông cụ thấy thoải mái.

Đột nhiên ông cụ nghe thấy tiếng rên ú ớ trong căn nhà mới xây ở góc vườn.

Ngôi nhà này cụ xây cho đứa con trai út mới lấy vợ để vợ chồng nó ở riêng.

Thương con, ông cụ cũng cố lo cho ngôi nhà tường gạch mái ngói như nhà của mọi người khác trong làng.

Nhưng đứa con út vừa cưới xong thì vợ thằng con trai cả sinh cháu, hàng quán không ai trông nom.

Sợ mất khách, vợ chồng đứa con trai cả đành nhờ vợ chồng em vào trong thành giúp đỡ.

Thế là ngôi nhà mới vẫn chưa có ai ở.

Hôm nay có người khách lạ vào hỏi nhà trọ.

ông bà phân vân một lúc rồi cũng đồng ý.

Người khách là một chàng thanh niên trẻ tuổi, thậm chí có khi còn ít tuổi hơn đứa con út nhà ông.

Lúc vào nhà, ông cụ Trầm mới nhận ra người thanh niên đang bị ốm.

Khuôn mặt đổ hồng hồng, hơi thở nỏng bỏng, đôi môi khô nứt nẻ.

Thấy thương chàng trai,nghĩ cũng như con cháu mình cả, khi chàng trai nhờ nấu cháo và xin nước uống, ông cụ đồng ý ngay.

Trong bát cháo tía tô ông cụ còn đập vào cả quả trứng gà mới đẻ và ít hành tăm xin được bên hàng xóm.

Ngoài ra ông cụ cho nước đun sôi để nguội vào trong cái ống nứa mà ông cụ hay dùng để mang ra đồng rồi treo trên tường nhà, phong khi đêm hôm người bệnh khát nước.

Lúc ông cụ treo nước xong thì người thanh niên đã mê man.

Ông cụ sờ trán, sờ mũi người thanh niên thì thấy hơi thở tuy nóng, nhưng vẫn đều đặn, yêm tâm về nhà ăn cơm.

Bây giờ nghe tiếng rên của người thanh niên, ông cụ tự nhiên lại thấy lo.

Thế là cụ Trầm lấy cái khăn nhúng nước giếng đi vào đắp lên đầu người thanh niên cho giảm sốt.

Lúc này cơn buồn ngủ cũng vừa trôi đi đâu mất.

Ông cụ Trầm vớ lấy cái ống điếu, định ra thềm rít một bi thì nghe thấy có tiếng thét rất to ở trong làng.

Sau đó chó bắt đầu sủa râm ran.

Rồi tiếng hò hét kêu khóc bắt đầu ầm ĩ khắp đầu đường cuối xóm.

Cụ Trầm treo tạm cái ống điều lên tường, bắt đầu đi ra cổng.

Lúc này hàng xóm trong làng cũng bắt đầu đổ ra.

Thì ra đứa con trai bị bệnh của bà Cung lại gây chuyện.

Nữa đêm, nó đá tung chăn trong nhà rồi trèo lên ngọn cây cao đầu làng.

Cả nhà bà Cung ra dỗ nó xuống mà không được.

Ông cụ Trầm chép miệng.

Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh.

Nhà ông mặc dù thằng con trai lớn chả coi bố mẹ ra gì, nhưng ít ra nó còn bình thường, biết làm ăn, lấy vợ sinh con, thỉnh thoảng còn đem tiền về.

Chứ nó cũng như thằng con bà Cung thì chắc ông chết.Thằng con bà Cung tên là Huỳnh, tuổi cũng bằng con trai đầu của ông cụ Trầm.

Ngày xưa hai đứa thân nhau lắm.

Nhưng rồi đùng một cái, thằng bé Huỳnh đổ bệnh, rồi trở nên ngớ ngẩn.

Từ đó, thằng con trai lớn của ông cụ cũng xa lánh bạn dần.

Mỗi lần thấy thằng bé Huỳnh đến là con trai ông liền đóng cửa cài then.

Từ đấy ông cũng ít gặp thằng Huỳnh hơn.

Nghe đồn vì gia đình bà Cung nghi thằng bé Huỳnh bị ma ám, bà Cung đã năm lần bảy lượt mời thầy trừ tà các nơi về làm phép cho cọ.

Thế nhưng không hiểu do con ma quá mạnh hay thầy trừ tà không linh, bệnh tình của thằng bé càng ngày càng nặng.

Dần dần, gia đình bà Cung cũng chấp nhận số phận.

Đứa con lớn lên bị bố mẹ nuôi ở nhà, không cho đi đâu.

Thế nhưng thi thoảng nó cũng làm cho ông bà Cung sợ hết hồn bởi những trò nghịch dại.Ông cụ Trầm đứng sau lưng mấy nhà thân với nhà bà Cung.

"Ôi trời ơi" Lúc này ông mới phát hiện ra thằng Huỳnh đang leo trên một ngọn tre cao chót vót.

Cái thân tre không chịu được sức nặng của người lớn đang oằn ra, không biết lúc nào sẽ gãy và ném thằng Huỳnh xuống đất như một quả mít rụng.

Thậm chí ông cũng chả biết thằng Huỳnh leo trèo thế nào mà lên được đến ngọn tre cao như thế.

Đêm càng lúc càng về khuya.

Bà Cung đã hô khản cả giọng nhưng thằng Huỳnh vẫn ngồi vắt vẻo trên ngọn cây, Chồng bà và mấy người hàng xóng đã đi lấy tấm lưới để căng đề phòng con trai rơi xuống.

Mấy người hàng xóm cũng đã về hết , chỉ còn ông cụ Trầm đứng lặng im như một khúc gỗ.

Cụ sợ quá.

Dưới gốc tre mà thằng cu Huỳnh đang đứng có cái bóng trắng đứng đó tự bao giờ.

Nó nheo mắt với cụ.

Đôi mắt của nó như có phép thôi miên khiến chân cụ cứng như chì.

Cái bóng trắng đó đứng yên nhìn cụ một lúc rồi biến mất.

Ông cụ Trầm lúc này mới nhấc chân lên được để về nhà.

Bóng đêm âm u bao phủ con ngõ nhỏ nhà cụ.

Hàng tre vẫn thổi rì rào như mọi ngày.

Thế mà chả hiểu sao chỉ một đoạn ngắn trên cái ngõ quen thuộc mà ông cụ Trầm cảm thấy xa lạ và dài dằng dặc.

Dường như đâu đấy trong cái đám tre kia có một con mắt xếch màu xanh vẫn đang nhìn cụ.

Cụ cố bước vội để về đến nhà, vừa đi vừa ngoái đầu lại xem có cái gì sau lưng không.

May quá, cuối cùng cụ cũng bước qua được cái cổng nhà mình.

Cụ vội vàng khép nó lại cài then cẩn thận và thở phào nhẹ nhõm.

Xuyên qua những cái then gỗ, cụ Trầm vẫn thấy được con ngõ sâu hun hút trong màn đêm.

Lạ thay, cụ bỗng cảm thấy như có ai đó đang đứng sau lưng mình.

Chân tay cụ lại cứng đờ.

Trong đầu cụ lại đầy ắp những câu chuyện ma ngày xưa người trong làng kể.

Cụ không dám quay người lại vì sợ đó là một cái bóng trắng có con mắt xếch màu xanh.*******************Cụ Trầm hoàn toàn không biết rằng bên ngoài cánh đồng làng, chỗ gần con sông, trong túp lều dưới gốc một cây cổ thụ lớn, có một đám ma quỷ đang chén tạc chén thù với nhau.

Con ma lớn nhất ngồi trên một tảng đá, đang giơ bát rượu sứt lên cụng với đám đàn em.

Nó ngửa mặt rót hết vào trong miệng khiến cái nón xanh trên đầu rơi xuống, lộ ra một cặp sừng khá dài.

Chờ rượu trong chén đổ xuyên qua cơ thể trong suốt của mình, con ma mới thoải mái khà một tiếng rõ to, vẻ hí hửng lộ rõ trên khuôn mặt đẹp và tuấn tú hơn bất kỳ người đàn ông nào trên đời.

Nó giơ cánh tay vỗ vai con ma bên cạnh, ngâm hai câu thơ: "Sống, vò không dốc say bầu cạn.Chết, mộ ai còn tưới rượu đây." (Đối tửu , Nguyễn Du)Ngâm xong thơ, con ma có sừng bắt đầu cố nói chuyện với con ma bên cạnh bằng cái giọng lè nhè: "Khanh có biết trước khi gặp khanh trẫm cô đơn biết chừng nào không?"

Con ma bên cạnh sợ hãi thưa: "Bệ hạ, ngài say rồi."

Con ma có sừng vùng vằng: "Không trẫm làm sao lại say!

Trẫm đang rất tỉnh."

Rồi nó nhìn đám ma ngồi quanh, nói như quát: "Cái bọn này thì biết cái đếch gì.

Thằng này chết vì đói, thằng kia thì bị người chém, rồi cái thằng ngồi trong xó kia thì tưởng nhầm nấm độc thành nấm thường.

Đâu có ai chết vì lụy tình như hai người chúng ta."

Con ma ngồi cạnh lộ rõ khuôn mặt buồn khổ.

"Nhưng thưa quỷ vương bệ hạ, thần không chết vì lụy tình."

Con ma có sừng lúc này gật đầu thông cảm.

"Trong trăm ngàn cái chết, có cái chết nào đáng buồn và đau đớn hơn cái chết vì tình.

Đó đều là những vết thương tâm hồn không cách nào chữa khỏi. chỉ muốn giấu kín trong lòng."

Con ma ngồi bên cạnh càng khổ sở hơn.

"Nhưng mà thưa bệ hạ, thần quả thật không hề chết vì lụy tình, cũng không che giấu vết thương tâm hồn nào cả."

Con ma có sừng vẫn tiếp tục gật đầu ra vẻ hiểu rõ.

"Trẫm biết khanh rất đau đớn, nhưng mà trẫm thấy khanh nên chia sẻ với mọi người thì tốt hơn là cứ che giấu trong lòng như vậy."

Con ma bên cạnh dường như sắp khóc.

"Nhưng mà bệ hạ, ngài đã nghe cả chuyện của thần cả chục lần rồi."

Con ma có sừng giả nheo mày suy nghĩ.

"Thật vậy sao?

Tai sao trẫm không nhớ gì cả."

Rồi nó quay sang hỏi đám đàn em bên dưới.

"Chúng bây đã nghe chuyện của Cao tướng quân chưa?"

Đám bộ hạ ngơ ngác, chả hiểu từ lúc gặp nhau lần đầu vào trưa ngày hôm qua cho đến bây giờ thì quỷ vương bệ hạ đã phong cho tên kia làm tướng quân lúc nào.

Thế nhưng cả đám vẫn đồng thanh: "Bẩm bệ hạ, chưa ạ."

Con ma có sừng thấy đám đàn em hiểu ý, gật gật đầu vui vẻ lắm.

Rồi nó nhìn sang con ma bên cạnh, lộ ra khuôn mặt háo hức.

Con ma bên cạnh lau lau nước mắt dàn dụa trên khuôn mặt, nó cũng không hiểu sao quỷ vương bệ hạ thích nghe chuyện cũ của nó đến thế.

Nó bắt đầu vừa hồi ức, vừa kể lại bằng một cái giọng đều đều như ru ngủ.

"Thần sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng trên núi.

Thuở bé vì ham mê võ nghệ nên cũng theo thầy học võ được mấy năm.

Lớn lên, thần trẻ khỏe , lại đẹp trai nhất vùng nên có nhiều cô gái thích.

Vốn bản tính không sợ trời không sợ đất, thần từng vượt rào, leo tường, đánh bả chó để đêm đêm được làm bạn với các thiếu nữ xinh đẹp.

Có vô số thiếu nữ đã ngã lòng, nguyện thề theo thần đến cùng trời cuối đất .

Thế nhưng vì bệnh nhát gái, nên đến năm hai mươi tuổi, thần... thần vẫn chưa được biết mùi ân ái."

"Bị bạn bè trêu ghẹo nhiều lần, đêm đó thần quyết tâm trở thành một người đàn ông thật sự.

Đó là một ngày rằm, trăng tròn vành vạnh, gió thổi lồng lộng.

Thần nốc hết ba hũ rượu một lúc rồi vượt tường leo vào nhà một nàng góa phụ xinh đẹp.

Đó là một căn nhà nhỏ nằm bên sườn núi, trước sân có cây hoa hải đường rất đẹp.

Thế nhưng hoa hải đường chẳng thế nào sánh được với người phụ nữ sống bên trong.

Nàng có một đôi mắt phượng quyến rũ, với gò má cao và đôi môi đầy đặn.

Mái tóc được búi gọn lộ ra cái cổ trắng muốt.

Đặc biệt nàng thường mặc áo yếm mỏng..."

"Đêm đó, thần leo tường vào rất thuận lợi.

Vì suốt mấy năm sau khi chồng chết, nàng vẫn thường mắt đi mày lại với thần, nên khi thần liều lĩnh ôm nàng, nàng cũng không hề chống cự.

Thế rồi, tờ mờ sáng, khi tỉnh dậy, thần thấy nàng đang ngồi khóc rấm rức bên giường.

Thần biết đêm qua mình có lỗi lớn với người ta, bèn an ủi: "Đêm qua ta say rượu nên làm nhơ tấm thân trong sạch của nàng , từ này trở đi ..."

Nàng gắt gỏng: "Chàng uống say rồi ngủ như một con lợn chết, có làm gì thiếp đâu...."

Thần lúc đó mới ngớ người, hỏi: "Thế sao nàng lại khóc."

Nàng vừa nấc vừa trả lời: "Thiếp đang săn sóc cho chàng thì chàng hô: "Dâm tặc, xem Phi Long cước của ta đây" rồi đá thiếp xuống giường."

"Thần đau lòng, ôm nàng dỗ dành hồi lâu thì nàng ấy một lúc lâu thì nàng mới ngừng khóc.

Sau đó hai người nằm dựa vào nhau ngủ thiếp đi.

Cũng không biết ngủ bao lâu thì có tiếng gõ cửa vàng lên.

Nàng lúc này mới bật dậy hốt hoảng kêu lên.

"Chàng ơi, chồng thiếp về."

Thần cũng nửa tỉnh nửa mơ liền theo bài cũ phi thân qua cửa sổ chạy trốn.

Ai ngờ được đi đêm lắm có ngày gặp ma, lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt..., cửa sổ nhà nàng nằm sát bên vách núi..."

Kể đến đây giọng con ma trở nên nghẹn ngào.

Con ma có sừng lúc này mới vỗ vai nó an ủi: "Khanh đừng buồn, làm người ai mà chả lụy tình.

Oai phong bốn cõi như trẫm đây cũng từng có thời ngu xuẩn như thế.."

Thế rồi nó hô hào: "Chúng bây đâu, mau rót rượu cho Cao thái phó của trẫm..."

Lúc này bỗng có con ma không đầu đi vào bẩm báo : "Bẩm bệ hạ, thằng Mắt Xếch vừa từ trong làng trở ra nhưng mà nó không kiếm được đồ nhắm...

" Con ma có sừng quát: "Thằng này láo, dám không vâng lời trẫm.

Chúng bây đâu mau kéo nó ra bên ngoài đánh bốn mươi roi cho chừa cái tội hỗn xược đó đi."

Con ma không đầu đáp: "Thần tuân chỉ" rồi hung hổ đi ra ngoài.Bên ngoài túp lều, con ma mắt xếch đang nằm trên đất miệng mếu máo: "Nấm Thường đại ca, Quét Rác đại ca, xin các vị giơ cao đánh khẽ chứ đánh thật bốn mươi roi thì tôi chết mất."

Con ma tên Quét rác giơ cao cái phất trần có dán mấy lá bùa màu vàng thở dài: "Đại vương đã ra lệnh, chúng ta nào dám không tuân theo.

Cũng tại mi không chừa cái tật ham mê dọa dẫm con người, làm việc chẳng có trách nhiệm gì cả, nói bao nhiêu lần rồi cũng không sửa được."

Con ma mắt xếch khóc rưng rức: "Tôi cũng biết mình là con nghiện nặng.

Mỗi ngày, tôi đều tự răn mình hàng trăm lần rằng không được dọa dẫm con người.

Đêm đêm tôi vẫn tránh xa làng xóm để không lên cơn thèm.

Thế nhưng khi gặp người thì tôi quên hết sạch, cứ như dính phải bùa mê thuốc lú vậy..."

Con ma Nấm Thường cười mỉa: "Cũng do mi ăn ở mà thôi.

Có nhớ hôm ở làng Mo không, bệ hạ đang núp bụi thì mi dám xông ra dọa hết đám người đó, vậy làm sao bệ hạ có thể chữa được bệnh sợ người?

Bệ hạ không chữa khỏi bệnh thì mi cũng đừng có mơ chữa khỏi."

Rồi nó cười khanh khách ra vẻ đắc ý lắm.

"Ta để ý thấy từ hôm đó đến nay bệ hạ toàn phái mi vào làng xóm làm việc...

Kết thù với ai chứ kết thù với bệ hạ thì mi xong rồi.

Trên đời này bệ hạ xưng thù dai đệ nhị thì chả có ai dám xưng đệ nhất cả..." ******************* Tiếng ho khẽ sau lưng làm cụ Trầm đỡ sợ.

Cụ quay người lại.

Thì ra là người thanh niên thuê nhà cụ lúc trưa.

Cậu ta cất tiếng hỏi, giọng hơi khàn khàn: "Cụ đi đâu mà ra ngoài cả đêm thế này?"

Cụ Trầm đáp, giọng vẫn run run: "À trong xóm có việc, tôi chạy ra coi xem thế nào."

Người thanh niên lại hỏi: "Có việc gì thế cụ?

Cháu nghe tiếng khóc và gào thét."

Cụ Trầm chép miệng: "Khổ, đứa con nhà bà Cung lại phát bệnh.

Gần ba mươi tuổi đầu rồi mà vẫn cứ làm cha mẹ phải lo lắng."

Người thanh niên ho khẽ rồi lại hỏi: "Huynh ấy bị bệnh gì thế?"

Cụ Trầm bảo: "Cũng chả biết bệnh gì, đang khỏe mạnh bình thường thì tự nhiên đổ bệnh.

Suốt ngày cứ như thằng trẻ con toàn chơi những trò nghịch dại thôi.

Mười năm nay mời bao nhiêu đại phu rồi mà vẫn thế, chẳng khá lên nổi.

Dạo gần đây toàn phát bệnh lúc nửa đêm làm ai cũng sợ.

Mọi người cứ bảo nó bị ma ám.

Hồi nãy nó leo lên ngọn tre cao chót vót làm bà Cung sợ khóc thét.

Nhà có mỗi thằng con trai, đến là khổ."

Nghe đến ma quỷ, người thanh niên hơi do dự một lúc rồi bảo ông cụ Trầm: "Cụ ơi, cụ dắt cháu ra xem huynh ấy được không?"

Thấy ông cụ do dự, chàng thanh niên liền giải thích: "Cháu từ bé có học bắt ma ở trên núi.

Biết đâu nếu huynh ấy bị ma làm hại thật thì cháu sẽ giúp được."

Cụ Trầm đành nói thật: "Không phải tôi không muốn giúp nhưng giờ đêm hôm rồi, tôi sợ lắm."

Chàng thanh niên lại năn nỉ: "Cụ chỉ cần chỉ chỗ cháu ra gần chỗ huynh ấy thôi rồi cháu tự đi cũng được."

Thấy ông cụ do dự, cậu bèn giơ trong áo ra một đống bùa chú các loại.

"Đây, cụ xem.

Toàn hàng chính tông cả.

Ma mà đến cháu liền diệt nó cho cụ xem."

Ông cụ Trầm ngần ngừ mất một lúc rồi cũng gật đầu.

Ông cụ bảo: "Cậu chờ tôi một lúc, tôi lấy cái đèn dầu."

Chàng thanh niên gật đầu đồng ý.

Một lát sau hai người đã đi ra khỏi con ngõ tối.

Ông cụ Trầm vừa dáo dác ngó quanh vừa hỏi: "Cậu tên là gì nhỉ?"

-"Thưa cụ, mọi người vẫn gọi cháu là Minh Khánh."

-"Cậu bắt ma lâu chưa?"

-"Cũng được mấy năm rồi ạ."

-"Nhà cậu ở đâu?"

-"Cháu ở chùa Phổ Minh trên núi Hoàng Lĩnh."

-"Năm nay cậu bao nhiêu tuổi rồi?"

-"Cháu mười bảy ạ."

-"Đi bắt ma có sợ không?"

-"Lúc đầu thì sợ lắm cụ ạ, sau dần dần cũng quen..."

Cứ thế hai người vừa đi vừa nói chuyện, một lúc là ra đến nơi.

Lúc này người nhà bà Cung cuối cùng đã dỗ được cậu con trai nhảy xuống lưới cá.

Mặc dù đau như anh ta vẫn cười khúc khích ra vẻ thích thú lắm.

Bà Cung xót con, vừa sờ nắn khắp nơi vừa luôn miện hỏi có đau không.

Thấy cụ Trầm đến, chồng bà Cung gật đầu chào cụ, rồi than thở: "Khổ quá cụ ơi" Ông nói như khóc.

Cụ Trầm không biết nói gì chỉ nắm chặt lấy tay ông.

Minh Khánh tiến đến gần người thanh niên.

Quanh người anh ta cũng không có âm khí hay thứ gì không sạch sẽ cả.

Minh Khánh tiến gần hơn để nhìn thì bị bà Cung ngăn lại: "Cậu là ai?"

Giọng của bà có vẻ vừa đề phòng vừa dọa dẫm.

Minh Khánh chưa kịp trả lời thì ông cụ Trầm đã trả lời hộ: "Cậu ấy là khách trọ nhà tôi.

Thấy cậu ấy bảo làm nghề bắt ma, nên tôi mời cậu ấy tới xem có giúp được gì không."

Bà Cung liếc xéo Minh Khánh, giọng bà cao vút: "Không phải tôi đã nói với mọi người rồi, bệnh của con trai tôi không liên quan gì ma quỷ hết.

Từ bé nó ngoan ngoãn hiền lành, đến con sâu cái kiến còn chả dám đụng vào..."

Vừa nói bà vừa lấy tay áo chấm nước mắt.

"Mấy năm nay tôi đều mời thầy đến nhà xem.

Toàn những vị cao tăng, đao trưởng đức cao vọng trọng cả, mà ai cũng bảo con tôi bị bệnh tật thông thường thôi, mời đại phu giỏi cứu chữa thì sẽ khỏi.

Cậu làm được mấy năm mà dám đến xem cho con trai tôi?

Tôi nói cho cậu biết, muốn lừa tiền của tôi thì cứ nằm mơ đi".Ông cụ Trầm thấy bà đanh đá như vậy đang muốn giải thích thì Minh Khánh đã trả lời: "Thưa bà, bần đạo trước giờ cứu người chưa bao giờ đòi tiền cả.

Có cụ Trầm và mọi người ở đây chứng giám, nếu chữa xong mà bần đạo đến tìm bà đòi tiền thì trời đánh thánh vật, chết không yên lành."

Bà Cung thấy chàng thanh niên thề độc như vậy cũng không dám nói gì hơn.

"Hơn nữa, để bần đạo xem bệnh một lần, bà cũng chả mất gì.

Nếu bần đạo có năng lực chữa khỏi cho con trai ông bà thì từ nay ông bà cũng thoát cảnh khổ cực đêm hôm khuya khoắt phải chạy đôn chạy đáo như thế này."

Nói đến đây, bà Cung đành nhường chỗ cho chàng thanh niên vào xem bệnh.

Người con trai bà Cung vẫn nằm trong lưới, lăn qua lăn lại, vui đùa có vẻ sung sướng lắm.

Khi chàng thanh niên nắm lấy tay trái của gã, con trai bà Cung liền cười khanh khách.

Chỉ một lát, chàng thanh niên buông tay gã ra.

Chồng bà Cung vội hỏi: "Thưa thầy, con trai tôi bị làm sao?"

Chàng thanh niên cũng lắc đầu: "Con trai của ông bà chắc chắn không bị ma quỷ làm hại.

Trên thân người huynh ấy rất sạch sẽ, không hề có âm khí quỷ khí gì cả..."

Bà Cung liền chen vào: "Thấy chưa, tôi đã bảo mà.

Thôi bây giờ xin phép đạo trưởng cho chúng tôi về."

Bà nhấn mạnh vào hai chữ đạo trưởng, nhưng khuôn mặt không thể hiện một chút tôn trọng nào cả.

Người thanh niên cũng không bực tức, chỉ nói: "Khoan đã, nếu bần đạo đã xem thì xem cho trót.

Xin bà và mọi người lùi ra cho bần đạo làm phép một lúc."

Bà Cung đang định từ chối thì chồng bà đã kéo lại: "Bà nó à, để thầy xem một lúc có mất gì đâu.

Vợ chồng mình cũng không làm ác bao giờ, biết đâu trời lại thương."

Bà Cung vừa ngáp vừa nói với chồng: "Thôi cũng được, vậy thì để thầy xem một lúc."

Thế là người nhà bà tránh xa khỏi tấm lưới.

Đứa con trai ông bà vẫn tiếp tục lăn lộn bên trong, hai tay sờ sờ lưới ra vẻ thích thú.

Bà Cung thấy chồng có vẻ chăm chú thì nhắc nhở: "Ông nó đừng hi vọng quá.

Thầy trẻ thế mới ra đời được mấy năm.

Đừng có chữa lợn lành thành lợn què là tôi mừng lắm rồi."

Rồi dường như ngượng vì so sánh con trai với lợn, bà im bặt.

Lúc này chàng thanh niên đã lẩm nhẩm đọc thần chú.

Ngón tay trỏ và ngón giữa khép lại, tay phải để thẳng đứng từ trước ngực lên trán.

Tay trái nắm chặt để ngang dưới tay phải.

Thế rồi chàng thanh niên dùng hai ngón tay vuốt qua đôi mắt, vừa quát: "Thiên nhãn, khai mở!"

Thế rồi đôi mắt người thanh niên sáng rực lên như chứa hai ngọn lửa trong đó.

Ánh sáng chiếu rọi lên người con trai bà Cung làm gã phải lấy tay che mắt.

Mọi người xung quanh cũng há hốc miệng.

Có lẽ cảnh này trong đời bọn họ chỉ có thể thấy được một lần.

Chàng thanh niên dùng đôi mắt lửa nhìn kỹ con trai bà Cung trong giây lát rồi nhắm lại.

Mồ hôi rịn ra trên trán mặt dù gió mát vẫn thôi liên tục.

Khuôn mặt chàng lộ rõ vẻ mệt mỏi.

Người phá vỡ không gian im lặng là chồng bà Cung.

Dường như không nhịn được, ông vội vã hỏi thầy: "Thưa thầy, con trai tôi bị bệnh gì ạ?"

Chàng thanh niên mở mắt ra, đôi mắt đã trở nên đen láy như bình thường, trả lời: "Con trai ông bà bị người ta nguyền rủa."

Vợ chồng ông bà Cung nghe vậy há hốc miệng, rồi cả hai cùng mếu máo năn nỉ: "Thầy ơi, mong thầy cứu cháu, bao tiền chúng tôi cũng xin chịu."

Thấy Minh Khánh trầm ngâm, hai vợ chồng càng lạy lục năn nỉ khóc lóc thảm thiết.

"Kể cả bán nhà bán trâu thì vợ chồng chúng tôi cũng chấp nhận.

Thầy thương vợ chồng già chúng tôi thì làm ơn làm phước cứu cháu, nhà mỗi mụn con trai, thầy ơi..."

Chàng thanh niên chỉ lắc đầu.

"Không phải bần đạo không muốn cứu mà bần đạo chỉ có thể làm đến vậy.

Bần đạo dùng thiên nhãn quan sát thấy trên người con trai ông bà có dính một lá bùa nguyền rủa.

Nhưng đó chỉ là hình chiếu của lá bùa thật, còn về lá bùa thật thì thứ lỗi cho bần đạo cũng không biết nó ở đâu.

Người có thể tìm thấy lá bùa và cứu con trai ông bà chỉ có thể là ông bà mà thôi."

Nói rồi, chàng thanh niên bắt đầu dùng một đoạn tre nhỏ vẽ hình một lá bùa ra đất.

"Ông bà về nhà, nhớ lại rồi tìm xem những chỗ mà con ông bà từng ăn ngủ hoặc đọc sách... tóm lại là những chỗ con trai ông bà tiếp xúc nhiều rồi xem có một lá bùa màu vàng to cỡ như thế này không?

Đặc biệt trên lá bùa có viết tên, ngày giờ sinh của con trai ông bà bằng máu.

Sau đó gỡ lá bùa ra và đốt đi là con trai ông bà sẽ khỏi bệnh."

Dặn dò ông bà Cung xong, chàng thanh niên có vẻ mệt, liền bảo cụ Trầm đi về.

Lúc Minh Khánh trở về đến phòng trọ thì đã qua đến giữa giờ Sửu.

Hắn lê tấm thân mỏi mệt lên giường rồi đổ vật xuống như một cây chuối.

Việc mở Thiên nhãn khiến cho sinh lực của hắn như bị bào mòn đi nhiều.

Căn bệnh hồi chiều trở nên dữ dội.

Minh Khánh ho sù sụ.

Hắn cố nín lại vì biết càng ho sẽ càng làm con người ta mệt mỏi và mất sức hơn.

Để che đi cơn ngứa khủng khiếp trong cổ họng, hắn với tay lấy ống tre đựng nước trên tường nhấp một ngụm.

Cổ họng hắn dường như đã sưng lên khiến cho lúc hắn nuốt nước rất đau.

Treo lại ống tre lên tường, hắn lại nằm vật xuống giường.

Đôi mắt hắn nhắm lại rồi lại mở ra nhìn vào nóc nhà đen kịt.

Hắn cứ tự nhủ mình cơn đau rồi cũng sẽ qua thôi.

Không hiểu sao Minh Khánh lại tiếp tục hồi ức về bóng tối nơi hồ Kinh Dạ.

Phải chăng giấc mơ nhắc nhở hắn về điều gì phải nhớ trong quá khứ mà hắn đã vô tình chôn vùi trong miền ký ức?*********************** Hồ Kinh Dạ trong đêm tối vẫn mênh mông và ám ảnh.

Sóng vẫn dập dềnh.

Minh Khánh bước dọc theo bãi cát, bỏ quên nỗi sợ lúc nãy.

Nghĩ đến việc mình bị một con cá phóng lên trên người, rồi trong" cơn nguy cấp" dùng bùa hộ thân dán lên người con cá đó nữa, Minh Khánh lại cảm thấy bụng quặn lên vì tức cười.

Đó là một cá trắm nặng gần hai cân mà hắn đang xách theo tay.

Lâu lắm rồi hắn chưa được ăn cá.

Chỉ nghĩ tới mùi cá nướng chấm muối ớt thôi cũng đủ cho hắn thèm nhỏ rãi rồi.

Đi hết một đoạn bờ hồ, Minh Khánh vòng về lán.

Lúc này chú Miên và sư phụ đã trở về.

Hai người không biết kiếm đâu được mấy mấy con cá không to lắm, đang cho vào nồi nấu cùng một ít rau dại có hình thù kỳ quái.

Thấy Minh Khánh xách theo con cá to, hai người sửng sốt hồi lâu.

Chú Miên cười trêu sư phụ: "Sóng Trường Giang lớp sau đè lớp trước.

Đạo pháp thì tôi chả biết chứ tài bắt cá thì chắc chắn Minh Sơn huynh chẳng thể theo kịp đồ đệ của mình rồi.

"Tối hôm đó ngoài món canh cá nấu rau dại thì còn có món cá nướng.

Không hiểu chú Miên nướng kiểu gì mà con cá thơm phưng phức.

Bên ngoài vàng ươm bên trong lại trắng phau và mềm.

Minh Khánh bóc miếng cá, chấm vào bát nước chấm làm từ muối, ớt khô, mắc khén rồi bỏ vào miệng.

Mùi cá, mùi mắc khén thơm lừng xộc vào trong cổ họng.Trong miệng, vị ngọt của cá, vị cay của ớt, vị tê tê của mắc khén hòa cùng độ mặn mà của muối khiến hắn như muốn nuốt chửng đầu lưỡi.

Con cá to chẳng mấy chốc bốc hơi nhanh chóng, còn nồi cơm và canh rau dại thì hầu như chả ai để ý đến.

Minh Khánh cho thêm củi vào trong đống lửa.

Củi hồi chiều chú Miên và sư phụ mang về nhiều lắm.

Hắn hơ hơ tay trên lửa ấm, dựa lưng vào tảng đá lớn bên cạnh, thiu thiu ngủ.

Đến nửa đêm thì sư phụ gọi Minh Khánh dậy.

Ba người bắt đầu phải đi dò xét mấy chỗ gọi là Minh Hà Âm Dương Thất Thi Trấn Tà Mộ.

Ba người đi thuyền quanh hòn đảo.

Cứ đến điểm mà đánh dấu bằng lá cờ bằng vải trắng thì sư phụ lại lặn xuống nước.

Trên thuyền chú Miên bắt đầu kể tiếp cho Minh Khánh nghe câu chuyện dang dở về hồ Kinh Dạ.****************************Bến tàu làng Diên Hạ hôm nay có vẻ tấp nập.

Cũng phải thôi, hôm nay làng có chợ phiên.

Làng Diên Hạ là ngôi làng lớn nhất ven hồ.

Thương nhân vẫn thường đổ về đây để thu mua cá và các đặc sản trong vùng.

Bởi vì vùng này chỉ mới đưa vào diện quản lý của quan phủ, nên cũng chưa có trấn sở gì, tất cả đều do mười hai cái làng trong vùng tự họp và đưa ra quy định với nhau.

Việc đảm bảo an ninh quanh hồ do các làng cử người tạo thành một đội dân tráng chung.

Hôm nay, vì có chợ phiên nên cả đội dân tráng đều bận rộn, cắt cử người canh gác bến tàu, khu chợ đề phòng trộm cướp.

Chỉ có người đứng đầu đội dân tráng là anh Ba Kho ở nhà.

Hôm nay anh phải tiếp một người khách đặc biệt.

Đó là Du bộ đầu nổi tiếng về tài truy bắt tội phạm ở phủ lộ Bình An.Anh Ba Kho với Du bộ đầu tính ra cũng là bà con.

Chú bên họ mẹ của anh Ba Kho lấy chị gái của Du bộ đầu.

Cách đây vài năm, lúc đi đón dâu, anh Ba Kho cũng đã gặp Du bộ đầu mấy lần.

Mấy miếng võ mèo què của anh phân nửa là do Du bộ đầu dạy cho.

Nhờ mấy miếng võ đó, anh được trở thành người đứng đầu của đội dân tráng nên anh Ba Kho rất biết ơn Du bộ đầu.

Anh Ba Kho pha đến ấm trà thứ ba thì Du bộ đầu mới đến.

Anh Ba Kho ôm chầm lấy người họ hàng xa một cách thân thiết rồi dẫn khách vào nhà.

Mấy năm nay Du bộ đầu cũng không khác gì mấy, vẫn mái tóc cắt ngắn, khuôn mặt rắn rỏi với chiếc cằm bạnh và đôi mắt sắc lẻm.

Bộ quần áo võ phục không che giấu nổi thân hình tráng kiện của người chuyên quanh năm đi bắt tội phạm.Uống hết nước, nghỉ ngơi một lát, Du bộ đầu ngỏ lời muốn đi nhà chị gái.

Anh Ba Kho muốn giữ sư phụ lại ăn cơm trưa nhưng bị từ chối, anh đành dẫn Du bộ đầu qua nhà chú.

Trên đường đi, Du bộ đầu vừa nhìn xem xung quanh vừa hỏi anh Ba Kho về tình hình trị an trên này.

Anh Ba Kho cũng thật thà kể lại.

Dăm vụ bắt trộm trâu, mấy vụ cướp vải vóc, hai vụ chia gia sản đánh nhau, cũng chả có chuyện to tát gì để che giấu.

Đột nhiên có một người từ trong ngõ lao ra kêu anh Ba Kho: "Chú Ba ơi, giết người rồi, giết người rồi."

Nghe đến hai chữ giết người, đôi mắt sắc của Du bộ đầu theo phản xạ sáng lên khiến anh Ba Kho hơi sợ hãi.

Người đến là thằng Mía, cháu cụ Mật ở trong làng.

Thằng bé mới mười sáu tuổi, vừa vào đội dân tráng của anh hồi đầu năm.

Anh Ba Kho nhớ hôm nay phân công nó cùng năm người nữa ra bến tàu trông coi.

Thằng Mía lúc này đã chạy đến trước mặt anh Ba Kho.

Nó cúi người chống hai tay xuống đầu gối. thở hồng hộc.

Anh Ba Kho chờ cho nó thở một lát, mới hỏi: "Ai chết?

Chết ở đâu?"

Thằng Mía lúc này vẫn chưa hồi lại, trả lời đứt quãng: "Ở làng Thanh.

Đàn ông chết hết.

Chỉ có mấy người phụ nữ đến báo án."

Anh Ba Kho nhìn Du bộ đầu.

Người kia nói ngay: "Đi hiện trường xem.

Tôi còn ở đây lâu, hôm nào rảnh thăm chị sau cũng được."

Anh Ba Kho gật đầu.

Ba người ra bến tàu.

Lúc này dân trong làng, dân ở nơi khác đến mua bán bắt đầu xúm đông xúm đỏ lại xem.

Anh Ba Kho rẽ đám đông, dẫn hai người vào.

Mọi người ở đây ai cũng biết anh nên tránh ra một lối nhỏ.

Tới nơi anh Ba Kho liền thấy hai người phụ nữ đang khóc sướt mướt.

Anh Ba Kho đang định hỏi chuyện thì Du bộ đầu ngăn lại rồi nói nhỏ vào tai anh.

Vừa nghe anh Ba Kho vừa gât đầu liên tục.

Anh liền ra lệnh cho đám dân tráng đang đứng đợi giải tán đám đông, rồi mang hai người phụ nữ vào một cái chòi trống bên bến tàu hỏi chuyện.

Câu chuyện của hai người phụ nữ còn khủng khiếp hơn rất nhiều lần mà anh Ba Kho đã tưởng tượng.

Nghe xong, anh Ba Kho và Du bộ đầu lập tức huy động hơn mười người dân tráng đến làng Thanh để bắt thủ phạm.

Ngồi trên đầu thuyền, anh Ba Kho hỏi Du bộ đầu: "Sư phụ, ngài nói xem vụ này mình nên bắt thủ phạm thế nào?"

Du bộ đầu lắc đầu, trả lời: "Chúng ta mới chỉ nghe vụ án từ lời mấy người phụ nữ kể.

Mặc dù ánh mắt và hơi thở của bọn họ cho thấy họ không nói dối, nhưng cũng không nên tin hoàn toàn.

Điều đó rất dễ khiến người phá án đi lệch ra khỏi dòng suy nghĩ và hành động của hung thủ.

Chốc nữa chúng ta đến hiện trường xem mới biết lời bọn họ chuẩn xác được mấy phần."

Anh Ba Kho gật đầu đồng ý.

Anh tự nhủ tí nữa phải theo sát sư phụ để học thêm cách điều tra phá án.

Dẫu gì anh cũng là trưởng đội dân tráng, chuyên quản trật tự an ninh trong vùng.

Nói nhiều nói ít cũng phải chuẩn thì người ta mới phục.Làng Thanh cũng nằm sát bên hồ như làng Diên Hạ.

Làng khá bé chỉ có gần chục căn nhà.

Nhà nào cũng mới, cũng lợp ngói đỏ.

Vừa đến nơi, Du bộ đầu liền bắt tay ngay vào công việc.

Đầu tiên ông triệu tập mọi người lại lấy lời khai.

Anh Ba Kho và đám dân tráng lúc này đều trở thành chân chạy.

Lấy mực lấy giấy, phân tách những người khả nghi, những người có tiếp xúc với nghi phạm.

Mãi đến chiều tối, anh Ba Kho và Du bộ đầu mới bắt đầu nghi tay ăn cơm.

Bữa ăn diễn ra trong ngôi làng u ám làm nồi cơm gạo mới cũng mất hẳn hương vị.

Đêm đó, Du bộ đầu và anh Ba Kho ngủ ngay trên thềm nhà hung thủ.

Nghĩ đến kẻ sát nhân đã giết cả chục mạng người, anh Ba Kho cũng hơi rợn.

Anh nằm trằn trọc mãi mà không ngủ được.

Bên cạnh Du bộ đầu vẫn ngáy như sấm.

Trời vẫn tối om om.

Cánh cửa không chốt của ngôi nhà cứ theo gió dập ra dập vào làm anh Ba Kho khó chịu.

Anh liền nhổm dậy chèn cục gạch cho nó nằm im.

Thấy cánh cửa không động đậy được nữa, anh Ba Kho hài lòng nằm xuống nhắm mắt.

Nằm được một lát, anh Ba Kho lại nghe thấy tiếng cửa dập.

Anh bực mình nhỏm dậy.

Cánh cửa lại theo gió đung đưa mạnh hơn, thậm chí còn nghe rõ tiếng kèn kẹt.

Anh Ba Kho bò khỏi chiếu, dùng tay mò mò phía dưới cánh cửa xem viên gạch mình chèn lúc nãy ở đâu.

Quái lạ, rõ ràng lúc nãy anh vừa để viên gạch ở đây mà sao giờ không thấy.Chả lẽ gió thổi cánh cửa đẩy viên gạch đi mất.

Nghĩ đến đây cơn buồn ngủ kéo tới.

Anh Ba Kho cũng không suy nghĩ thêm nữa.

Anh đi ra sân, lấy tạm một viên gạch to hơn hồi nãy , rồi chèn vào cửa.

Thấy cửa không kêu nữa, anh mỉm cười hài lòng, nằm lên chiếu ngủ tiếp.

Lần này anh Ba Kho ngủ rất thơm, cho đến khi một cơn gió mạnh cuốn lá khô rào rào và tiếng cửa kẹt kẹt đánh thức anh.

Anh Ba Kho tức lắm, bật dậy chửi thề một câu, rồi lại mò mò dưới cánh cửa.

Viên gạch như có phép thần thông lại biến mất lần nữa.

Lần này anh Ba Kho hơi sợ, anh đốt đèn lên.

Anh tìm xung quanh cánh cửa, cả trên thềm nữa cũng không thấy hai viên gạch đâu.

Anh hốt hoảng bước ra sân.

Kỳ lạ thay, hai viên gạch mà anh dùng chèn cửa đã trở lại vị trí cũ của bọn nó tự bao giờ.
 
Vùng Đất Vô Hình
Đêm không yên bình


Anh Ba Kho nhéo vào tay mình.

Đau quá.

Anh buột miệng chửi thề một câu.

Biết mình không nằm mơ, anh Ba Kho mới cúi xuống nhìn hai viên gạch.

Vẫn chỉ là hai viên gạch bình thường như bao viên gạch khác.

Anh Ba Kho dùng ngón tay chọc chọc vào.

Viên gạch vẫn cứng và mát mẻ hệt như lần đầu anh cầm nó lên.

Anh Ba Kho để cây đèn xuống đất, rồi nhấc hai cục gạch lên.

Vẫn không có gì kì lạ xảy ra cả.

Xoay xoay ngắm ngắm chán chê, anh trở lại chỗ nằm với một viên gạch khác trong tay.

Lần này để cho chắc, ngoài việc chèn cửa cận thận, anh còn lấy dây buộc viên gạch vào cái cột nhà.

Thế rồi anh thoải mái nằm xuống.

"Có giỏi thì bay nữa đi."

Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh.

Anh Ba Kho mệt mỏi ngáp một cái rồi nhắm mắt lại.

Chả mấy chốc mà anh say giấc nồng.

Trên hiên nhà, gió từ ngoài hồ thổi vào từng cơn mát rượi.

Tiếng ngáy của Du bộ đầu vẫn đều đều.

Gió thổi càng lúc càng lạnh.

Anh Ba Kho quơ tấm chăn chiên bên cạnh khoác lên người, miệng nhép nhép.

Đột nhiên mũi anh Ba Kho cảm thấy ngứa ngứa.

Anh co người đánh một cái hắt hơi.

Trong lúc lấy tay xoa xoa, anh Ba Kho cảm thấy một mùi thối sực vào cổ họng.

Anh bịt mũi, thầm nghĩ: "Mùi cá chết ở đâu ra vậy?"

Một tiếng hét lớn như tiếng trống đồng làm anh Ba Kho ù tai.

"Ai đó?

Mau ra đây."

Anh Ba Kho mở mắt nhỏm dậy.

Lúc này Du bộ đầu đã đứng lên, đôi mắt ưng của ông chăm chú nhìn xung quanh.

Anh Ba Kho cũng vội mò dưới chân lấy căn mác dài hơn một thước.

Du bộ đầu bảo anh Ba Kho: "Đốt đèn lên."

Anh Ba Kho răm rắp làm theo lời ông.

Du bộ đầu bắt đầu cẩn thận đi vòng ra sân, mắt ông chăm chú nhìn từng viên gạch, từng ngọn cỏ.

Có lúc ông quỳ xuống sát đất, ngửi ngửi.

Anh Ba Kho đi theo, cầm đèn rọi, hai mắt dáo dác nhìn xung quanh xem có ai đang nấp không.

Từ trong sân, hai người ra vườn rồi vòng đến sau nhà.

Du bộ đầu vẫn cẩn thận tìm tìm kiếm kiếm, nhưng không thu được kết quả gì.

Mãi đến lúc gà gáy sáng, hai người mới trở về hiên nhà.Anh Ba Kho mệt mỏi vớ lấy ống đựng nước, uống một hớp.

Mồ hôi rịn ra như tắm trên trán anh.

Nãy giờ, mặc dù không hoạt động gì nhiều, nhưng anh rất căng thẳng.

Anh chỉ sợ kẻ thủ ác nấp đâu đấy quanh nhà, bất ngờ xồ ra lấy mạng hai người.

Mãi đến khi quay lại trước nhà, anh mới hết sợ.

Dù gì thì bên anh có những hai người, ai cũng biết võ, chả lẽ hai người lại không đánh được một người.

Mà cho dù đánh không lại, chả lẽ lại không chạy được.

Nghĩ thế, anh Ba Kho bắt đầu thả lỏng cơ thế.

Du bộ đầu vẫn đang ngồi bệt trên bệ cửa miệng lẩm bẩm:"Chả lẽ mình nhầm?

Không có lẽ nào..."

Anh Ba Kho lúc này mới hỏi Du bộ đầu:"Sư phụ, hồi nãy có chuyện gì thế?"

Du bộ đầu hơi trầm ngâm, rồi trả lời: "Anh đã từng nghe đến "lục giác" của người giang hồ chưa?"

Anh Ba kho đáp: "Có từng nghe.

Lục giác là cách gọi của sáu loại giác quan bao gồm hính giác, vị giác, khứu giác, thị giác, xúc giác, trực giác.

Có đúng không sư phụ?

"Du bộ đầu gật đầu: "Đúng vậy, trong sáu loại giác quan, cái thứ sáu là loại huyền bí nhất.

Trực giác chỉ là một cách gọi.

Bình thường người ta hay bảo nó là linh tính hay cảm thấy.

Đó là khi con người cảm nhận được sự thay đổi của bên ngoài, của không gian và thời gian mà không thông qua năm giác quan còn lại.

Thậm chí với những người có giác quan thứ sáu bén nhạy, người ta có thể dùng để tiên đoán những gì sắp xảy ra trong tương lai."

Anh Ba Kho hỏi: "Sư phụ muốn nói đến người tu đạo?"

Du bộ đầu lắc đầu: "Không chỉ người tu đạo, mà cả người luyện võ thậm chí người thường cũng có thể có giác quan thứ sáu rất mạnh mẽ.

Như trạng Trình, mặc dầu chỉ là thư sinh tay trói gà không chặt, ông ấy có thể dự đoán được triều đại sẽ chết như thế nào, có bao nhiêu đời vua tất cả.

Mấy trăm năm sau khi ông chết, ai cũng đều kinh ngạc rằng mọi thứ diễn ra theo đúng y như lời của ông."

Nói rồi Du bộ đầu than thở: "Giác quan thứ sáu đúng là một món quà đặc biệt mà ông trời ban tặng cho con người."

Du bộ đầu dùng tay vuốt ve thanh đao trong tay: "Ta từ nhỏ là một trong những người được ông trời ưu ái.

Giác quan thứ sáu của ta đặc biệt rất nhạy cảm với sự sống và cái chết.

Vì thế nó đã cứu mạng ta vô số lần."

Rồi ông nhìn thẳng vào anh Ba Kho: "Đêm nay nó lại đánh thức ta."

Anh Ba Kho sợ hãi trước cái nhìn dữ tợn của Du bộ đầu.

Anh nói: "Chẳng lẽ sư phụ cho là con muốn làm hại sư phụ?"

Du bộ đầu nghĩ nghĩ rồi lại lắc đầu: "Chúng ta không thù không oán, cũng không có bất kỳ lợi ích nào để tranh giành.

Tại sao anh lại muốn giết ta?"

Nhưng nói xong ông lại khẳng định: "Trực giác của ta chắc chắn không sai được.

Đêm nay đã có người muốn giết ta."

Nghe lời nói đanh thép của ông, anh Ba Kho rùng mình hỏi:"Chả lẽ hung thủ trở về đây?"

Du bộ đầu lắc lắc đầu: "Trừ phi khinh công của y đạt đến mức siêu phàm nhập thánh, nếu không chắc chắn sẽ bị ta nghe thấy.

Hơn nữa bất kể khinh công cao đến đâu, chỉ cần chân chạm đất thì sẽ có dấu vết lưu lại.

Anh không biết trước khi ngủ ta đã sắp đặt một ít cạm bẫy xung quanh."

Nói rồi ông giơ giơ một cái túi vải nhỏ.

"Thứ bột này gọi là "Lưới trời".

Chỉ cần hung thủ đạp lên, nó sẽ gây ra một mùi vị kỳ dị.

Bọn ta khi đi lùng bắt hung phạm thường dùng...."

Anh Ba Kho reo lên, ngắt lời ông: "Có phải nó có mùi thối như mùi cá chết.

Hồi đêm con có ngửi thấy."

Du bộ đầu cau mày: "Không phải rồi.

Mùi của loại bột này rất thanh, chỉ những người quen thuộc mới có thể phát hiện ra."

Rồi ông nghi ngờ nhìn anh Ba Kho: "Có mùi cá chết sao?

Tại sao hồi đêm ta không ngửi thấy."

Anh Ba Kho trả lời: "Có lẽ lúc đấy sư phụ ngủ say..."

Du bộ đầu lắc đầu phủ nhận: "Không thể nào.

Anh không biết đối với bọn người quanh năm đi bắt tội phạm như ta, khứu giác đều cực kỳ nhạy bén.

Bất kỳ mùi lạ nào đều khiến bọn ta cực kỳ cẩn thận bới nó có thể trở thành mối nguy cơ chí mạng."

Anh Ba Kho cũng gật đầu:"Vậy thì lạ quá, rõ ràng đêm qua con ngửi thấy mùi cá chết mà.

À còn nữa, còn chuyện viên gạch.."

Anh Ba Kho nhìn về phía cửa.

Bất chợt anh sửng sốt.

Viên gạch chèn cửa mà anh đã buộc dây vào cột nhà đã không cánh mà bay.

Chỉ còn lại đoạn dây ngắn nằm vắt vẻo trên thềm.

Anh Ba Kho sợ đến giật nảy mình.

"Sư phụ, sư phụ gạch lại biến mất rồi..."

Du bộ đầu quát:"Rốt cuộc có chuyện gì?"

Anh Ba Kho liền kể chuyện chèn gạch vào cửa hồi đêm cho sư phụ nghe.

Du bộ đầu không nói gì, lẳng lặng cầm sợi dây lên quan sát.

Hai người cứ ngồi thế cho đến lúc gà gáy sáng.

Lúc này mặt trời vẫn chưa lên.

Không gian xung quanh vẫn còn tối tăm.

Anh Ba Kho bỗng cảm thấy buồn tè.

Anh đi ra sân, đến bên gốc chuối để xả cơn buồn.

Trong tiếng nước chảy xè xè, anh Ba Kho chợt nghe tiếng cá quẫy trong hồ.

Không biết con cá nào mới rạng sáng đã ló mặt ra kiếm ăn.

Ngáp ngắn ngáp dài, anh Ba Kho quay trở lại trong nhà.

Bỗng anh lại nghe thấy mùi cá chết.

Anh vội gọi Du bộ đầu: "Sư phụ, sư phụ lại có mùi cá chết này."

Du bộ đầu nghe tiếng anh, liền đi vội ra sân.

Ông khịt khịt mũi rồi khẳng định: "Đúng là mùi cá chết.

Hướng gió phát ra từ phía hồ."

Nói xong ông vội vã đi ra sân, rồi xuyên qua khoảnh vườn nhỏ trồng đầy cây.

Anh Ba Kho cũng bám sát theo ông.

Đi khoảng bốn năm mươi bước, hồ nước liền hiện ra trước mặt.

Làn nước tối om om như miệng một con cá khổng lồ mới chết, phun ra từng hơi thở thối đến không ngửi được.

Du bộ đầu và anh Ba Kho bắt đầu đi vòng dọc theo sát mép hồ để xem cái mùi thối phát ra từ đâu.

Mãi đến khi tia nắng đầu tiên ló ra, mặt hồ trở nên sáng sủa, họ mới tìm được nguyên nhân của cái mùi thối đó.

Đó là một cái xác chết trôi nổi trên mặt hồ, cách bờ khoảng hơn mười trượng.

Cái xác nằm úp sấp, chỉ thấy mỗi phần lưng và tóc trên đầu nổi lên trên mặt nước.

Du bộ đầu không ngần ngại liền cởi đồ ra rồi lao xuống.

Một lát sau ông đã kéo được cái xác vào bờ.

Đó là một người đàn ông còn trẻ tuổi, theo như Du bộ đầu nói chỉ khoảng hai lăm đến ba lăm tuổi.

Anh ta bị dìm chết, quần áo trên người cũng bị lấy mất.

Thời gian chết là khoảng hơn một tháng trước.

Vì ngâm nước nhiều nên mặt cái xác đã biến dạng, rất khó để nhận ra.

Thân thể nạn nhân cũng trương phồng lên và trắng hếu như lợn nái có chửa, trông thật tởm lợm."

Thảo nào thối như vậy."

Anh Ba Kho nghĩ thầm rồi đưa cái còi lên miệng thổi một tiếng thật to.

Đó là dấu hiệu yêu cầu tập trung nên chỉ một lát sau, đám dân tráng đã có mặt.

Anh Ba Kho ra lệnh: "Mang mọi người trong làng đến đây xem có ai nhận ra được người này không!"

Đám dân tráng vội vã đi vào trong làng.

Anh Ba Kho chờ khoảng nửa canh giờ thì mọi người đã tập hợp đủ, không thiếu một ai.

Thế nhưng kết quả giống như anh Ba và Du bộ đầu đã đoán.

Chẳng có ai cung cấp được thêm manh mối mới nào.

Anh Ba Kho hơi thất vọng, Thấy trời nắng lên, mọi người đứng cũng vất vả, liền giải tán ai về nhà nấy.

Du bộ đầu vẫn loay hoay quanh cái xác nhưng anh Ba Kho không muốn lại gần.

Gió thổi mạnh khiến cái xác càng lúc càng bốc mùi thối khủng khiếp.

Anh dặn đám dân tráng nấu cơm sáng mặc dù chẳng muốn ăn tí nào.

Bụng anh cồn cào như sẵn sàng phun ra bất kỳ thứ gì trong bụng.Thấy anh khó chịu.

Du bộ đầu đưa cho anh một cái lọ nhỏ, bên trong có một ít dầu thơm, bảo anh quẹt lên mũi.

Anh Ba Kho làm theo.

Bôi xong anh khịt khịt mũi.

Cái mùi thối như biến mất hẳn.

Trên mũi anh chỉ còn lại mùi hương thoang thoảng của hoa nhài.

Anh nhìn cái lọ, thầm nghĩ.

"Có lẽ hôm nào phải nhờ sư phụ đặt mua giùm một lọ mới được."

Như đoán được ý nghĩ của anh, Du bộ đầu giải thích: "Thứ này có tiền cũng chưa chắc đã mua nổi.

Đây là hàng của người tu đạo.

Ta có quen với đệ tử phái Mộc Quyết nên được biếu tặng một lọ."

Anh Ba Kho lè lưỡi, thầm nghĩ cái lọ nhỏ này trên thị trường chắc phải vài trăm lượng bạc là ít.Đang đứng đợi chôn cất cái xác, một người dân tráng ra chỗ anh Ba, miệng ấp úng định nói gì đó mà không nói nên lời.

Anh Ba Kho nhận ra đây là thằng Bò Ba Xị, cháu ông Ba chuyên nuôi bò cái ở xóm trên.

Bò Ba Xị từ bé mồ côi cha mẹ, sống với ông.

Nhà neo người mà cả hai ông cháu lại thích nhậu nên nó nấu ăn khá là ngon.

Thế là anh Ba Kho nhận nó vào đội dân tráng để phục vụ cơm nước cho anh em.

Thấy thằng Bò Ba Xị lúng túng, anh Ba hỏi: "Có chuyện gì đấy cu Bò?"

Mặt thằng Bò Ba Xị nhăn nhó như sắp khóc, lí nhí đáp: "Ông Bành ông ấy cầm bạc mua thức ăn mà trốn đâu mất.

Đệ tìm ổng từ lúc mờ sáng đến giờ mà chả thấy đâu."

Anh Ba Kho nhăn mày.

Ông Bành mà thằng Bò Ba Xị gọi là cháu của lí trưởng làng anh.

Mặc dù đã hơn ba mươi nhưng vẫn chưa lấy nổi vợ.

Tính tình thì lất ba lất bất nên trong đội dân tráng chả ai ưa.

Chỉ có thằng Bò Ba Xị vốn thích nhậu nhẹt nên mới kết bạn nổi với gã.

Anh Ba hỏi lại: "Đã tìm kỹ chưa?"

Thằng Bò Ba Xị mếu máo:"Đệ tìm khắp làng rồi.

Cũng chả ai thấy ổng cả.

Hồi đêm ông đi tè xong biến mất tiêu luôn."

Anh Ba Kho nhíu mày.

Số bạc mất chỉ là tiền ăn của anh em dân tráng trong mấy ngày mà thôi.

Cũng chả đáng để gã Bành làm như thế.

Anh Ba Kho đang suy nghĩ thì Du bộ đầu đã trở lại.

Ông hỏi anh có chuyện gì thế.

Anh Ba Kho kể lại việc gã Bành cầm tiền trốn mất.

Du bộ đầu trầm ngâm một lát rồi hỏi: "Trong đám dân tráng ai quen với hắn nhất?"

Anh Ba liền chỉ thằng Bò.

Du bộ đầu hỏi thằng Bò Ba Xị: "Hắn có đặc điểm gì dễ nhận biết không?"

Thằng Bò Ba Xị nghĩ một lát rồi trả lời: "Sau dái tai của ổng có một cái nốt ruồi đen to như cái cúc áo."

Du bộ đầu suy nghĩ một lát rồi như lên cơn động kinh, chạy ào về phía đám dân tráng đang lấp đất, vừa chạy vừa quát: "Dừng lại, dừng lại!"

Đám dân tráng sợ hãi liền ngừng tay.

Du bộ đầu chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hố, dùng tay bới đất lên.

Cho đến khi toàn bộ đầu cái xác lộ ra, Du bộ đầu mới dùng tay cầm lấy hai cái tai nạn nhân rồi quan sát kỹ càng.

Anh Ba Kho và đám dân tráng cũng xúm lại.

Dưới ánh mặt trời, anh Ba Kho nhìn thấy rõ ràng trên dái tai bên trái của cái xác có một nốt ruồi đen và to bằng cái cúc áo.

Anh Ba Kho sợ quá.

Chả lẽ cái xác là gã Bành cháu lý trưởng?

Nếu vậy thì tại sao chỉ trong một đêm cái xác lại biến dạng nhiều đến thế?Du bộ đầu xem một lúc rồi đứng dậy, nhảy lên khỏi hố đất.

Ông ra hiệu cho đám dân tráng tiếp tục lấp đất.

Anh Ba Kho hỏi: "Có khả năng là hắn không?"

Du bộ đầu gật gật đầu.

Anh Ba Kho hỏi: "Làm thế nào hắn mới chết đêm qua mà cái xác đã biến dạng nhiều như thế?"

Du bộ đầu trả lời:"Có rất nhiều cách để làm cái xác phân hủy.

Nhiệt độ hay một số chất độc đều dễ dàng làm được.

Thậm chí có những loại khiến cái xác biến thành một vũng nước chỉ trong giây lát."

Anh Ba Kho lại hỏi: "Nhưng làm thế nào sư phụ biết được là hắn?

Lỡ ai đó cũng có một cái nốt ruồi đen như thế thì sao?"

Du bộ đầu suy nghĩ trong giây lát rồi trả lời: "Tỉ lệ trùng lặp như thế rất hiếm.

Không phải vì thế mà những đặc điểm này được miêu tả trong "căn cước" để chứng minh một người nào đó.

Thêm nữa, anh biết hồi nãy ta tìm được gì trong dạ dày nạn nhân không?

Cháo đỗ xanh và thịt vịt."

Nói rồi ông bỏ đi, để mặc anh Ba Kho đứng thẫn thờ.

Anh đang nhớ tới bữa tối ngày hôm qua, thằng Bò Ba Xị mua đâu được con vịt.

Sau khi luộc xong, nó lấy nước ấy nấu cháo đỗ phục vụ mọi người.

Anh Ba Kho ăn xong còn khen thằng Bò nấu ngon nên anh nhớ rõ lắm.Lúc này một cơn gió lạnh thổi qua khiến anh Ba rùng mình.

Trưa nắng nhưng sao ở cái làng này thấy lạnh lẽo thế?

Anh dùng hai tay ôm lấy người, trông lên đám dân tráng đang hì hục đắp mộ.

Bọn họ vẫn chưa biết đang chôn chiến hữu của mình.

Anh Ba Kho lại nghĩ không biết nên nói chuyện với bọn họ như thế nào để anh em khỏi tụt sĩ khí.

Trở lại trong làng, anh Ba và đám dân tráng mới thấy Du bộ đầu đang dẫn theo thằng Bò Ba Xị chuẩn bị thuyền.

Ngoài nồi cơm và gạo, bọn họ còn mang theo không ít ngọn đuốc.

Thì ra Du bộ đầu định đi ra hòn đảo nơi xảy ra vụ án.

Anh Ba đành chọn lấy năm người, thêm anh và thằng Bò nữa để đi cùng Du bộ đầu ra đảo.Tám người ngồi lên hai chiếc thuyền dài nên cũng khá rộng rãi.

Mỗi thuyền có hai người chèo, thay phiên nhau nên bọn họ đi rất nhanh.

Chả mấy chốc mà anh Ba Kho đã nhìn thấy đám sương mù bao quanh hòn đảo.

Trời về trưa, mặt trời đã lên tới tận đỉnh đầu mà sương vẫn không tan hết, nổi trôi từng đám như mây bọc lấy hòn đảo.

Hai chiếc thuyền đi sát trong sương, chỉ sợ lạc mất nhau.

Cuối cùng thì cũng đặt chân lên đảo một cách bình an.

Anh Ba Kho sai người cột thuyền cẩn thận, phái thằng Bò chặt củi nấu cơm xong bắt đầu cùng Du bộ đầu đi dọc theo bờ cát.

Chả mấy chốc mà bọn họ tìm được hiện trường vụ án.

Bảy cái xác chết nằm lung tung trong chiếc lán mới dựng lên.

Không giống với cái xác tìm thấy hồi sáng, bảy người đều trông như mới chết ngày hôm qua.

Du bộ đầu bắt đầu kiểm tra từng cái xác một cách tỉ mỉ và kiên nhẫn.

Sau cùng ông kết luận cả bảy người đều bị dìm chết.Một lúc sau, Du bộ đầu bảo anh Ba Kho chuyển cả bảy cái xác lên thuyền.

Sau đó mọi người bỏ dở cả nồi cơm đang nấu lên thuyền trở về làng.

Anh Ba Kho định hỏi lí do tại sao lại vội vàng như thế nhưng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của Du bộ đầu, anh cũng biết điều ngậm miệng không hỏi.

Về đến làng Du bộ đầu có vẻ như vừa trốn thoát một kiếp, bảo anh Ba:"Tí nữa mang theo mọi người trở về làng Diên Hạ."

Anh Ba Kho cảm thấy kỳ lạ.

Anh cảm thấy Du bộ đầu trước và sau khi lên đảo trông như hai người.

Nhưng vì tin tưởng sư phụ, anh cũng không nói nhiều, mang mọi người cùng đồ đạc lên thuyền.

Lần này, trên thuyền còn có thêm bảy cái xác.

Đến chập chiều thuyền mới cập bến làng Diên Hạ.

Vì tránh cho mọi người hoảng sợ, anh Ba Kho ra lệnh cho đám dân tráng bí mật mang bảy cái xác lên một nhà kho kín đáo nằm cạnh bờ nước, cách bến tàu khoảng hai trăm thước.

Đó là một căn nhà kho cũ được dân làng dựng lên dùng để chứa những thứ hàng hóa không sạch sẽ.

Du bộ đầu dặn anh Ba Kho: "Cho dù như thế nào thì cũng phải bảo vệ kỹ cho bảy cái xác."

Anh Ba Kho hỏi:"Sư phụ, có chuyện lớn rồi phải không ạ?"

Du bộ đầu nhìn anh lúc lâu mới trả lời: "Hòn đảo đó rất nguy hiểm.

Lúc lên đó, trực giác của ta mách bảo phải chạy trốn ngay, đừng quay đầu lại."

Anh Ba Kho cũng run bắn lên.

Chẳng lẽ kẻ giết người nấp trên hòn đảo?

Dường như nhìn thấu suy nghĩ của anh, Du bộ đầu mới nói: "Anh cũng đừng suy nghĩ kẻ giết người nữa.

Đó không phải là vấn đề mà chúng ta có thể giải quyết được."

Anh Ba Kho cảm thấy giọng nói của ông không trầm ổn như thường ngày nữa.

"Anh biết không?

Cả bảy nạn nhân đều bị dìm chết nhưng dường như không ai dám phản kháng.

Không hề có lấy một vết tích của sự chống cự.

Trong mắt bọn họ, ngoại trừ sợ hãi cũng chỉ còn có sợ hãi..."

Du bộ đầu thở dài.

"Nếu ta đoán không nhầm thì mấy người này đều từng là tù phạm, thậm chí là trọng phạm.

Vậy thứ gì khiến cho cả đám người hung ác đều sợ hãi mà buông bỏ chống cự, thậm chí chết rồi mà ánh mắt vẫn còn không thể thoát khỏi nỗi sợ?....

Ta nghĩ ta phải trở về tổng bộ một chuyến.

Nếu may mắn chúng ta có thể tìm được lời giải..."

Anh Ba Kho nghe sự phụ muốn đi, vội vàng trở về nhà chuẩn bị.

Anh cũng có một ít thổ sản để hiếu kính sư mẫu và các tiểu sư đệ.

Anh không nhận ra đôi mắt dần mờ tối của Du bộ đầu.

Đưa Du bộ đầu đi rồi, anh Ba Kho trở về nhà đánh một giấc.

Đêm qua anh không ngủ đủ giấc, cả ngày nay cũng mệt mỏi nên vừa đặt lưng xuống sàn là anh ngáy như sấm.

Thấy anh Ba Kho ngủ say, nhà anh cũng không ai đánh thức anh dậy ăn cơm tối.

Thế là anh ngủ thỏa thích, cho đến khi cơn đói cồn cào trong ruột quấy nhiễu.

Anh Ba Kho trở dậy.

Trong nhà tối om om làm anh cũng chả biết lúc này là mấy giờ rồi, chỉ biết đêm đã khuya lắm.

Anh vớ lấy cái đèn cầy bên giường, châm lửa lên.

Bên cạnh anh, vợ anh vẫn còn đang say giấc nồng.

Anh vén chăn, đắp lên cho vợ, rồi rón rén đi xuống giường.

Mò mãi mới thấy đôi dép, anh xỏ vào rồi cầm cây đèn cầy đi ra phòng ngoài.

Nhà anh cũng không rộng lắm, ngoài phòng khách và phòng ngủ của vợ chồng anh thì chỉ có thêm hai gian.

Một gian làm kho đựng thóc còn một gian là phòng ngủ cho hai đứa con.

Anh Ba Kho tháo then cửa, bước ra sân.

Một mùi hương quen thuộc phả vào mũi khiến anh cảm thấy thoải mái.

Đó là hỗn hợp của mùi rơm rạ, mùi hàng xoan đầu ngõ, mùi hương hoa bưởi trong vườn và vô số những hương vị mà anh chẳng nhớ nổi.

Anh Ba Kho vươn vai, duỗi người khiến từng khớp xương kêu lên răng rắc.

Anh cảm thấy sự hôi thối, bẩn thỉu và mệt mỏi ngày hôm qua như biến đâu mất.

Anh quay người hướng xướng bếp.

Căn bếp nằm vuông góc với nhà chính, ngay bên sân.

Căn bếp mặc dù không cao ráo như trên nhà, nhưng cũng khá sạch sẽ.

Anh Ba Kho dễ dàng tìm thấy nồi cơm nguội, nồi cá tràu kho được úp lồng bàn cẩn thận.

Vì sợ chuột vợ anh còn đè cả cái thớt gỗ lên.

Anh Ba Kho đốt bếp lên rồi hâm lại nồi cá.

Cơm nguội chan nước cá kho nóng hổi thì khỏi chê vào đâu được.Trong lúc chờ nồi cá sôi lên, anh Ba Kho mở tủ chạn, lôi ra chai rượu nếp mà anh đã giấu kỹ trong góc.

Anh mở nút lá chuối, hít hít hà hà, rồi rót ra một bát đầy.

Bình thường chả bao giờ anh uống rượu một mình thế nhưng hôm nay là ngoại lệ.

Cá sôi rồi anh nhấc nồi cái ra mâm.

Cũng chẳng thèm bát đũa gì, anh ăn bằng cái thìa ngay trong nồi luôn.

Cơm nguội ngắt được chan nước kho cá lên bắt đầu tỏa hương thơm.

Hạt gạo bắt đầu mềm ra, vừa khô vừa dẻo, nhai trong miệng thật dính, thật bùi.

Thêm vào đó vị nước cá kho mặn mặn ngọt ngọt khiến anh ăn đến đâu biết đến đấy.

Anh xúc lấy một khoanh cá tràu, đưa lên miệng cắn một miếng.

Cá mềm, thịt dai như thịt gà, đượm vị tiêu và mắm.

Anh nhấp một hớp rượu, khà một tiếng đầy thỏa mãn.

Chả mấy chốc mà nồi cơm hết veo.

Nồi cá kho cũng chỉ còn phân nửa.

Anh Ba Kho ợ một tiếng, đậy nồi cá lại cẩn thận rồi vỗ vỗ bụng bước ra sân.

Anh vác cái chõng tre ra trước sân, tháo cái điếu treo trên cửa sổ xuống, tiện tay vơ lấy ấm trà.

Trời hôm nay lắm mây, chả có trăng sao gì khiến khoảng sân rộng cứ tối om om.

Anh Ba Kho ngồi gác một chân lên chõng, dứt ít thuốc lào trong bao ra rồi ve lại.

Xong anh nạp thuốc vào, châm đóm, rít một hơi thật sâu.

Xong anh bắt đầu nhả khói, đôi mắt lờ đờ có vẻ sáng khoái lắm.

Anh Ba Kho đang run run tay cầm cái chén trà lên thì một cơn gió lạnh làm anh rùng mình.

Chén trà trong tay anh rơi độp xuống chõng, nước trà đổ ra dính cả vào quần.

Anh Ba Kho tức giận chửi thề một câu rồi đứng lên đi vào nhà lấy giẻ lau.

Nhưng vừa bước chân vào cửa thì anh bỗng ngửi thấy cái mùi ngai ngái khó chịu.Vì trong mũi trong miệng con dư vị của thuốc lào nên anh Ba Kho không nhận nổi cái mùi hôi đó là mùi gì.

Anh bước vào trong nhà, tìm mãi mới thấy cái dẻ lau.

Trong nhà tối quá làm anh đá phải cái bô đựng rác, may mà nó không đổ ra.

Anh Ba Kho gạt cái bô xuống dưới ghế, mò mẫm lấy đại cái áo của vợ treo trên tường để ra làm gối.

Vừa ra cửa thì cái mùi thối lúc nãy lại xuất hiện.

Anh Ba Kho khịt khịt mũi, ra sân lấy cái đèn cầy.

Anh bắt đầu dò theo cái mùi đó.

"Chắc lại có con chuột nào chết đây."

Anh Ba Kho nghĩ vậy.

Anh Ba Kho đi một vòng quanh nhà mới phát hiện mùi thối đó bắt nguồn từ chính căn phòng ngủ của vợ chồng anh.

Vào nhà rồi, sợ đánh thức vợ, anh đi rất nhẹ.

Đến bên giường, cái mùi thồi đó nồng nặc khiến anh phải bịt mũi lại.

Quái thối thế mà vợ anh vẫn ngủ được.

Anh Ba Kho nghĩ bụng rồi bắt đầu soi đèn xuồng dưới gầm giường.

Gầm giường rất sạch, chả có mạng nhện hay bụi bặm gì.

Cũng phải thôi, vợ anh vốn tính sạch sẽ nên quét dọn thường xuyên.

Anh Ba Kho kéo chiếc rương gỗ đựng bát đũa ra.

Chiếc rương này là của hồi môn của vợ.

Bát đũa trong này ngoài dịp lễ tết thì chả bao giờ dùng đến.

Anh Ba Kho mở chiếc rương ra.

Bên trong bát đũa xếp một cách gọn ghẽ và cẩn thận, lại sạch sẽ không có lấy một hạt bụi.

Quái, thế mùi thối từ đâu ra?

Anh Ba Kho tò mò.

Trên giường, vợ anh vẫn ngủ ngon.

Nghĩ nghĩ một lúc, anh Ba Kho lay vợ.

"Mẹ nó ơi, mẹ nó."

Vợ anh không trả lời.

Anh Ba Kho lại lay lần nữa.

Vợ anh vẫn không hè động đậy.

"Ngủ gì mà say thế không biết."

Anh Ba Kho hơi bực mình, kéo luôn cái chăn vợ anh đang trùm.

Rồi anh ngã ngửa ra, trên khuôn mặt không còn một giọt máu.

Vợ anh đã biến thành cái một xác từ lúc nào.

Đặc biệt nhất là thân thể nàng như bị ngâm nước nhiều ngày, phình lên, trắng ởn, hôi thối khủng khiếp.*******************Hồ Kinh Dạ vẫn mênh mông sóng vỗ.

Trên thuyền chú Miên đang hăng hái kể chuyện, Minh Khánh thì nghe một cách say sưa.

Tám tuổi là cái tuổi đầy tò mò và khao khát tìm hiểu những điều mới lạ.

Mặc dù câu chuyện của chú Miên hơi ghê rợn, nhưng với Minh Khánh, nó cũng chỉ như những câu chuyện cổ tích thôi, thậm chí có phần gay cấn và hấp dẫn hơn.

Tiếng vẫy nước cắt đứt câu chuyện của chú Miên.

Sư phụ Văn Sơn từ dưới mặt hồ nổi lên, khuôn mặt ông có vẻ vui.

Ông vuốt vuốt nước trên mặt rồi cười với chú Miên: "Tìm thấy rồi.

Trống mất một mộ."

Chú Miên kéo ông lên thuyền, đưa cho ông cái khăn lau, miệng nói: "Thảo nào dạo nầy thấy hồ nhiều âm khí hơn bình thường.

Tôi lại cứ tưởng là do đến mùa."

Sư phụ Văn Sơn lau kỹ đầu tóc, mìm cười nói: "Ngày mai làm lễ cúng mượn hòm thôi.

Hi vọng cái xác vẫn nằm yên ở đoạn sông làng Me chứ không trôi đi đâu xa.

Trôi nữa tìm mệt lắm."

Chú Miên chèo thuyền đưa ba người về lán.

Ba người ngủ một giấc đến sáng rõ mới tỉnh dậy.

Minh Khánh bắt đầu nấu cơm sáng.

Sư phụ và chú Miên thì mang lễ ra chỗ hồi đêm để cúng và mượn hòm.

Minh Khánh nấu xong cơm, chờ một lúc thì thấy hai người trở về, trên thuyền còn chở theo một chiếc hòm bằng gỗ to.Ăn xong, ba người thu dọn đồ đạc bắt đầu trở về.

Lần này thuyền phải đi làm hai chuyến, một chuyến chở hòm, một chuyến chở người và đồ đạc.

Chuyến đầu tiên, Minh Khánh và chú Miên chở cái hòm về bến trước.

Trên thuyền Minh Khánh tiếp tục háo hức nghe tiếp câu chuyện rùng rợn dang dở đêm qua.*******************Tiếng ú a ú ớ của chồng đánh thực chị Ba Kho.

Chị chép miệng, vỗ vỗ lên má chống.

"Thầy nó ơi, thầy nó."

Chị vừa gọi xong thì thấy anh Ba Kho bật dậy.

Trong bóng tối chị không nhìn rõ khuôn mặt chồng nhưng vẫn thấy vẻ hoảng loạn trong đôi mắt anh.

Chị Ba sờ sờ lên người chồng.

Áo anh ướt đẫm mồ hồi.

Chị xót chồng, hỏi nhỏ: "Thấy nó mơ gì mà sợ thế?

Áo ướt hết mồ hồi rồi nãy.

" Rồi chị ngồi dậy.

"Để tôi đi lấy áo khác cho thầy nó thay kẻo cảm lạnh thì khổ."

Chồng chị nghe thấy vội nắm lấy tay chị.

"Đừng đi, đừng đi."

Bàn tay run run của anh Ba Kho nắm chặt lấy tay chị.

Chị Ba sợ chồng có chuyện, an ủi anh.

"Ừ thì không đi.

Nhưng để tôi đốt đèn lên nhé."

Anh Ba Kho gật đầu.Chị Ba châm đèn cầy lên.

Căn buồng ngủ của hai vợ chồng không còn tối om om nữa.

Lúc này chị mới thấy anh Ba Kho ngồi co ro tựa vào thành giường.

Khuôn mặt ánh lúc trắng lúc xanh.

Đôi mắt anh vô hồn.

Từ khi lấy anh đến giờ, chưa bao giờ chị Ba thấy chồng mình sợ hãi đến thế.

Anh Ba vốn nổi tiếng gan lỳ khắp làng, lại biết võ.

Nhớ ngày trước, vì mai phục bắt trộm, chồng chị từng kéo mấy anh em dân tráng ngủ đêm ở bãi tha ma ba bốn ngày liền.

Chị sợ lắm, thế nhưng nói với anh thì anh chỉ cười rồi làm lơ đi.

Chị Ba kéo chăn đắp cho chồng, hỏi: "Thấy nó mơ cái gì mà sợ thế?"

Anh Ba không đáp lời chị, chỉ nói một cách vô thức.

"Nó đến rồi, nó đến rồi."

Chj Ba nghe mà chả hiểu gì cả.

Chị muốn đi ra ngoài thì chồng chị không cho đi nên chỉ ngồi yên.

Cứ thế hai vợ chồng thức đến sáng.

Lúc chị mở cửa cho ánh nắng ban mai rọi vào phòng, anh Ba Kho mới như tỉnh hồn lại.

Anh cũng không ngăn vợ đi ra ngoài nữa nhưng vẫn ngồi ôm gối như một pho tượng.

Mãi đến khi chị Ba nấu xong, bưng lên đút cho anh ăn hết một bát to cháo đỗ hành tăm thì anh mới đỡ đi đôi chút.

Rồi anh nằm xuống ngủ, chắc đêm qua đã mệt lắm.Anh Ba Kho chưa ngủ được bao lâu thì có hai người một cao một thấp chạy vào.

Chị Ba biết hai người này cũng trong đội dân tráng với anh.

Người to cao tên là Bảy Dậu, người thấp béo tên là Xồm Bánh Ú.

Cả hai vừa cùng làng, lại vừa là họ hàng xa với anh Ba Kho nên trong đội dân tráng thuộc vào thân tín của anh.

Chị Ba đưa tay lên xuỵt ra hiệu cho bọn họ yên lặng, rồi nói: "Hai chú vào uống nước.

Anh Ba vừa mới ngủ.

Hôm qua anh bị cảm trằn trọc cả đêm."

Xồm Bánh Ú trả lời chị: "Chị Ba ơi, chuyện gấp lắm.

Bọn đệ cũng khuông muốn làm phiền anh Ba lúc này nhưng mà..."

Chị Ba thấy khuôn mặt Xồm Bánh Ú đầy lo lắng mà bảy Dậu cũng gật đầu lia lịa mới chép miệng.

"Thôi thế để tôi vào kêu anh Ba..."

Anh Ba Kho thấy vợ gọi, cũng không rời giường, chỉ bảo vợ mang hai người kia vào.

Bảy Dậu và Xồm Bánh Ú thấy khuôn mặt tái xanh của anh Ba Kho liền lên tiếng thăm hỏi.

Anh Ba Kho chỉ ậm ờ cho qua, rồi hỏi: "Có chuyện gì mới xảy ra sao?"

Xồm Bánh Ú thưa: "Anh Ba ơi, xóm Thượng đêm qua chết mất mấy người....

Hồi sáng có người qua báo tín."

Anh Ba Kho cũng không hoảng hốt hỏi lại: "Sao mà chết?"

Bảy Dậu đáp: "Thấy bảo là bị dìm chết."

Anh Ba Kho nói: "Hai người lấy thêm mấy anh em dân tráng, phong tỏa chỗ đó lại.

Rồi gọi lão Tư ở nghĩa trang cùng với thầy lang đi coi, xem rõ ràng chết thế nào, chết bao giờ..."

Xồm Bánh Ú lại hỏi: "Anh Ba không đi sao?"

Anh Ba Kho lắc đầu chán nản: "Tôi ốm lắm.

Mà có đi cũng chẳng giải quyết được gì" Nói rồi anh trùm chăn nằm ngủ tiếp khiến hai người đứng nhìn nhau.

Anh Ba Kho nằm một mạch đến tận trưa thì Xồm Bánh Ú đến nhà.

Gã còn xách theo con gà đưa cho chị Ba bảo để tẩm bổ cho anh.

Chị chối mấy lần không được nên cũng đành phải nhận.

Thế rồi gã vào trong nhà nói chuyện với anh Ba.

Không biết hai người nói chuyện gì mà anh Ba Kho sợ đến xanh mặt.

Cho đến khi gã Xồm Bánh Ú nói chuyện xong ra về một lúc lâu anh vẫn ngồi đờ ra như khúc gỗ.

Trưa hôm ấy anh Ba Kho bỏ cơm, chị Ba hỏi gì cũng chỉ ậm à ậm ờ cho qua chuyện.

Thế rồi anh dặn chi Ba xuống ngôi chùa thiêng nhất vùng ở làng dưới mời sư thầy về làm lễ.

Chị Ba cũng chả hiểu gì nhưng vẫn làm theo lời chồng.Hai ngôi làng cách nhau không xa, chỉ mất khoảng một canh giờ là tới.

Sư thầy cũng biết tiếng anh Ba nên cũng không làm khó dễ gì, chờ chị cúng tiền hương đèn xong là theo chị về nhà.

Thấy sư thầy anh Ba Kho mừng đến chảy nước mắt.

Anh bắt đầu kể cho thầy và vợ nghe câu chuyện mấy hôm rồi.

Vợ anh Ba cũng sợ lắm, hướng bốn phương khấn rối rít.

Sư thầy thì yên lặng suy nghĩ.

Một lúc sau, sư thầy yêu cầu vợ anh bar a chợ mua lễ cúng để sư thầy làm lễ giải hạn.

Tối hôm đó, ăn cơm xong, sư thầy bắt đầu bày bàn thờ ra.

Lễ cúng rất dài, vợ chồng anh Ba Kho cũng chả hiểu gì, chỉ biết bò lổm ngổm khấn theo thầy.

Lễ cúng diễn ra từ lúc chập choạng tối đến tận nửa đêm.

Cả sư thầy lẫn vợ chồng anh đều mệt phờ ra.

Vợ anh biết ý liền lấy nồi cháo gà nấu sẵn lúc tối ra mời thầy.

Anh Ba Kho đã đỡ nhiều.

Mặc dù anh không biết cúng giải hạn có được việc không nhưng nó khiến anh cảm thấy yên tâm hơn phần nào.

Anh ăn ba bát cháo xong, đang đinh đi dọn giường cho sư thầy ngủ thì Bảy Dậu tới.

Khuôn mặt gã có phần hốt hoảng: "Anh Ba ơi, bến tàu xảy ra chuyện rồi."

Anh Ba Kho rụng rời cả chân tay nhưng vẫn cố hỏi lại bằng một cái giọng trấn tĩnh: "Có chuyện gì thế?"

Bảy Dậu trả lời: "Đệ không thấy mấy người chuyên canh gã ở cái kho kia đâu."

Anh Ba Kho hỏi lại, giọng anh run run: "Cái kho nào?"

Bảy Dậu dường như không để ý tới khuôn mặt thất thần của anh Ba Kho, gã giải thích: "Là cái kho mà huynh bảo bọn đệ canh giữ bảy cái xác chết đó."

Anh Ba Kho ngồi phịch xuống ghế, lẩm bẩm hỏi lại: "Chuyện xảy ra lúc nào?"

Bảy Dậu trả lời: "Hồi nãy đệ với Xồm Bánh Ú ra đưa cơm cho mấy người gác mà chẳng thấy một ai.

Hai người bọn đệ tìm khắp xung quanh, gào khản cả cổ họng mà vẫn chẳng có ai đáp lời."

Anh Ba Kho trong thâm tâm cảm thấy mấy người kia chỉ sợ lành ít dữ nhiều.

Sau một hồi suy tính, anh cảm thấy không thể bỏ mặc bọn họ.

Một phần do mấy người dân tráng đó cùng anh quen biết đã lâu, việc canh giữ nhà kho là anh ra lệnh cho họ, một phần nhân có sư thầy ở đây, anh cũng muốn biết thứ đó là cái gì?

Thế là anh Ba Kho bảo Bảy Dậu đi tập hợp anh em lại, càng đông càng tốt, nửa canh giờ sau gặp nhau ở gốc đa chỗ miếu thờ giữa làng.

Bảy Dậu nhận lệnh liền đi ngay.

Anh Ba Kho liền nói chuyện với sư thầy.

Sư thầy cũng không phản đối, chỉ bảo anh: "Đến lúc gặp thứ đó, thí chủ và mọi người phải nghe lệnh của bần tăng."

Anh Ba Kho gật đầu rối rít.

Nửa canh giờ sau, ở chỗ ngôi miếu giữa làng, hơn hai mươi người dân tráng tụ lại một chỗ.

Anh Ba Kho phổ biến công việc xong thì đoàn người kéo nhau ra bến tàu.

Bến tàu vào giữa đêm khuya vắng ngắt.

Những kho hàng to lớn nằm hai bên đường khiến con đường dường như càng chật hẹp và âm u.

Trời không có gió.

Không gian yên lặng đến mức có thể nghe được nhịp thở của người bên cạnh.

Cũng chẳng hiểu vì sao mà mọi người không ai nói với nhau một câu nào.

Dường như việc ở xóm Thượng đã đến tai mọi người.

Có lẽ ngoại trừ sư thầy thì mọi người trong đội dân tráng đều sợ hãi.

Anh Ba Kho thấy mấy người đi bên cạnh anh lau mồ hôi liên tục.

Con đường tưởng gần mà hóa ra thật xa.

Mọi người đều đè bước chân thật chậm.

Thế nhưng cuối cùng họ cũng bước lên đến bờ hồ.

Chiếc cầu đá dài vẫn nằm chênh vênh trên mặt nước, hai bên neo đầy các loại thuyền lớn thuyền nhỏ.

Mọi người đi dọc về phía nam hai trăm thước, ở đó có một cái nhà kho cũ nằm cách xa những nhà kho khác.

Mặt hồ đêm nay yên ắng lạ thường.

Dường như lũ cá đã biến mất, thậm chí đến một tiếng búng nước anh Ba Kho cũng không nghe thấy.

Anh Ba Kho liếc nhìn bầu trời.

Mây mặc dù không dày lắm nhưng tụ lại thành những đám lớn mang hình thù kỳ dị.

Anh Ba Kho cũng không nhìn nhiều, anh sợ những đám mây sẽ gợi lên cho mình những suy nghĩ về "thứ kia".

Nhà kho đã gần lắm rồi.

Qua ánh đuốc anh Ba Kho thậm chí còn nhìn thấy cái mái xiên xiên vẹo vẹo của nó.

Ngoài ra anh còn thấy hai cái cửa thông gió nằm trên cao gần sát mái.

Lúc này hai cái lỗ tối đen như mực, trông hệt như hai con mắt đang theo dõi đoàn người.******************** Một cơn ho sù sụ đưa Minh Khánh trở về với thực tại.

Đây không biết là lần thứ mấy trong đêm mà hắn tỉnh giấc.

Cơn nhức nhối trong lồng ngực cùng cảm giác ngứa ngáy nơi cổ họng vẫn làm phiền hắn.

Minh Khánh đưa tay với lấy cái ống nứa đựng nước mà ông chủ nhà treo trên tường.

Cái ống nứa nhẹ bẫng.

Không biết hắn đã uống hết nước tự khi nào.

Minh Khánh tung chăn ra, lọ mọ xuống giường.

Trời hẳn là đã bắt đầu tờ mờ sáng.

Bên ngoài từng cơn gió lùa vào mang theo vị ẩm của lá khô.

Minh Khánh đẩy cửa, hai cánh của gỗ mở toang ra.

Hơi lạnh đập thẳng vào mặt hắn, mang theo sự thoáng đãng của vùng đồng quê.

Mưa vẫn đang rơi rả rích.

Bầu trời cũng âm u mang theo cái màu sắc trắng bệch lạnh lẽo.Minh Khánh đưa cái ống nứa ra hứng nước mưa.

Hắn kiếm một chỗ sạch ngồi bệt xuống chờ đợi.

Trước mắt hắn là một khoảng không mênh mông vô tận. trắng trắng, mờ ảo.

Cơn đau như thấm vào lục phủ ngũ tạng, khiến hắn như muốn bóp nát trái tim của chính mình.

Chỉ cần không cần thở nữa, không cần phải cảm nhận, không cần phải chịu đựng.

Hắn ước gì mình có thể chết để thoát khỏi nỗi đau.

Nhưng thực sự hắn vẫn ngồi đây, dựa lưng vào cây cột, không nhấc nổi mình dậy, và cơn đau vẫn tiếp tục tàn phá ý chí của hắn.

Minh Khánh mò mẫm trong ngực, từ trong áo lấy ra một vật màu xám.

Đó là một chiếc răng nanh hổ cũ kĩ, rạn nứt, sứt mẻ tùm lum.

Chiếc răng nanh này là món quà mà chú Miên tặng cho hắn trước lúc chia tay.

Chú nói rằng con hổ là chúa sơn lâm, trong rừng dẫu vật âm hay dương đều phải sợ nó.

Vì thế những biểu tượng sức mạnh của nó như răng hay móng đều có thể làm vật trừ tà.

Chiếc răng nanh này đã theo Minh Khánh trong suốt chín năm, khiến hắn chả bao giờ bị ốm đau bệnh tật.

Chỉ tiếc trong lúc Minh Khánh đánh nhau với Ngưu Khanh đại vương, nó đã vỡ và bị yêu khí làm bẩn.

Có lẽ hắn nên trở lại hồ Kinh Dạ một lần.

Ở nơi đó dường như có gì đó mà hắn từng quên lãng.

Mải suy nghĩ Minh Khánh lại thiếp đi.Trời vẫn mưa tầm tã.

Thỉnh thoảng trên cái bầu trời xám xịt ấy, lại có những tia sét sáng loáng như dao, rạch ra từng lớp mây âm u, vẽ lên những đường ngoằn ngoèo, khẳng khiu.

Chẳng có ai biết trên bậc thềm ngôi nhà nhỏ sau vườn nhà cụ Trầm , có một chàng trai tuổi mười tám đôi mươi đang dựa lưng vào cây cột nhà ngủ say sưa.

Bất chấp hơi lạnh và tiếng sấm, đôi mi đen đen vẫn khép chặt.

Đôi môi khô nứt nẻ thỉnh thoảng vẫn mở ra như đang nói mớ.

Chàng trai không hề biết rằng cách chàng không xa, trong một bụi cây ngoài vườn, có một cái bóng trắng đang theo dõi chàng.

Đôi mắt y lấp lánh nhìn vào chàng trai, hệt như một con mèo trông thấy một miếng mỡ thơm ngon béo ngậy.

Căn nhà kho mặc dù tối tăm nhưng lại yên bình hơn mọi người tưởng.

Bảy cái xác vẫn nằm nguyên trong bảy cái hòm trên kệ, không thay đổi gì nhiều.

Trong căn nhà kho cũng khá sạch sẽ, ít nhất sư thầy bảo thế.

Anh Ba Kho ra lệnh cho mọi người đốt đuốc sáng trưng cả trong nhà kho lẫn bên ngoài, rồi chia nhóm thử đi vòng ra xung quanh xem mấy người kia có lang thang đâu đó hay không?

Trong căn nhà kho sáng trưng, cuối cùng chỉ còn lại anh Ba Kho và sư thầy.

Tiếng gọi í ới của đám dân tráng bên ngoài càng lúc càng xa.

Vẫn không hề có ai đáp lại.

Anh Ba Kho nóng ruột, bắt đầu đứng lên đi đi lại lại.

Thỉnh thoảng anh lại vén cái mành cửa nhìn ra bên ngoài xem.Sư thầy thì vẫn ngồi yên trên một cái ghế vuông, đôi mắt hơi híp lại, miệng lẩm nhẩm tụng kinh.

Chỉ có điều bài kinh của ông khiến anh Ba Kho không cảm thấy yên bình một chút nào, thay vào đó anh càng lúc càng sốt ruột.

Anh đưa mắt nhìn sư thầy.

Sư thầy cũng không còn trẻ nữa.

Trên khóe mắt cũng đã có nếp nhăn.

Bộ áo nâu sồng của người tu hành trong chùa che lấp cái thân hình gầy gò của ông, chỉ để lộ khuôn mặt và hai bàn tay.

Bàn tay phải khẽ úp lên đùi, bàn tay trái đang nắm lấy chuỗi hạt.

Ngón tay mảnh khảnh có vẻ hơi run run.

Nhìn đến đấy, anh Ba Kho chợt cảm thấy việc đi cùng sư thầy ra đây cũng chưa chắc đã an toàn hơn bao nhiêu.Trời càng lúc càng về khuya.

Anh Ba Kho nhìn mấy ngọn đuốc đã cháy phân nửa, nhíu nhíu mày.

Mấy người kia chắc chắn đã lành ít dữ nhiều.

Nếu như người làm hại bọn họ là hung thủ từng gây án ở xóm Thượng, thậm chí sẽ không có một ai sống sót.

Anh Ba Kho đưa mắt về phía hồ nước.

Mặt hồ vẫn tăm tối và tĩnh lặng như trước.

Chẳng lẽ cái hồ này ẩn chứa một con ác quỷ mà trước giờ không ai biết.

Lúc này có người gõ cửa căn nhà kho.

Ai Ba Kho mở cửa ra thì thấy Bảy Dậu.

Khuôn mặt trứng chim của gã lấm tấm mồ hôi.

Gã bảo với anh Ba Kho: "Anh Ba ơi, bọn đệ tìm thấy một chiếc giày."

Anh Ba Kho nghe có manh mối, hỏi lại: "Ở đâu, biết của ai chưa?"

Bảy Dậu lại đáp: "Không biết của ai cả.

Nhưng chắc chắn là loại giày đã phát cho đội dân tráng."

Anh Ba Kho cũng không nhiều lời, nói: "Đi thôi."

Anh nhìn sư thầy.

Ông cũng nghe được cuộc nói chuyện của hai người, đã đứng lên.

Ba người đi vòng ra sau nhà kho, xuyên qua mấy lùm cây rậm rạp bên hồ.

Ở một bãi cát thoai thoải cạnh hồ nước, anh Ba Kho nhìn thấy mấy người đã đứng chờ sẵn.

Toàn là những khuôn mặt quen thuộc trong đội dân tráng của anh.

Thấy anh Ba Kho, bọn họ tíu tít chào.

Anh Ba gật đầu chào lại.

Mấy người bọn họ đưa cho anh một chiếc giày.

Đó là loại giày vải chuyên đặt làm riêng cho đội dân tráng.

Chiếc giày cũng đã cũ mòn, đặc biệt phía gót chân đã thủng một lỗ be bé.

Anh Ba Kho cảm thấy cái giày này rất quen, nhưng của ai thì anh không nhớ.

Anh chỉ hỏi: "Tìm thấy thế nào?"

Một người trả lời: "Lúc bọn đệ đi qua đây thì thấy nó nằm chỏng chơ trên bãi cát như vậy."

Gã bắt đầu đặt chiếc giày về lại chỗ cũ ban đầu.

Anh Ba Kho nhìn kỹ.

Chiếc giày nằm nghiêng nghiêng trên bờ cát, mũi giày hướng ra mặt hồ.

Anh cảm thấy nó có một ý nghĩa nhất định nào đó.

Chẳng lẽ người nọ đánh rơi trong lúc chạy trốn?

Nhưng y có chạy thì nên chạy về làng chứ chẳng có ai chạy ra hồ cả.

Mà có chạy ra hồ thì dấu chân y để lại ở đâu?

Nếu như vụ án mất tích này giống như những việc đã xảy ra trước đó, chắc hẳn hung thủ sẽ không để lại bất kỳ một dấu vết nào, tại sao nơi đây lại có một chiếc giày sót lại?

Vô số câu hỏi hiện ra trong suy nghĩ khiến tâm trí anh Ba Kho như một đoàn đay rối.

Một điều làm anh bực bội hơn là tất cả những câu hỏi đó lại không hề có đáp án.

Thấy anh Ba Kho yên lặng, Bảy Dậu lại hỏi anh: "Anh Ba ơi, làm sao bây giờ?"

Anh Ba Kho nghĩ lại một lúc rồi nói: "Trở về nhà kho đã rồi nói."

Khi mấy người trở lại nhà kho, trởi bắt đầu nổi gió.

Cơn gió mặc dù không có gì khác thường, nhưng nó khiến anh Ba cảm thấy càng thêm bất an.

Có lẽ nên gọi mọi người trở lại.

Anh Ba Kho dừng trước cửa căn nhà kho, hỏi sư thầy: "Thưa thầy, đến giờ vẫn không tìm thấy gì cả, có lẽ chúng ta nên về thôi."

Sư thầy gật gật đầu.

Anh Ba Kho đưa còi lên miệng.

Anh định thổi thì bỗng có tiếng người kêu rên: "Á."

Anh giật mình quay lại, hỏi bằng cái giọng bình tĩnh nhất mà anh có thể phát ra.

"Có chuyện .. gì thế?"

Một người nói: "Không có gì đâu anh Ba.

Tại cái cột bị mối ăn nên đệ bị dằm đâm vào tay."

Nhìn thấy tay gã chảy máu, anh Ba Kho chợt cảm thấy điềm không lành.

Lúc này có người giơ đuốc lên, soi rõ cây cột đã bị mối ăn một khoảng lớn.

Người đó còn than thở: "Tuần nữa mà không xử lý hết đám mối, chúng nó sẽ sạch cái cột này cho coi."

Anh Ba Kho cũng không lên tiếng, khả năng ăn uống của đám mối chết tiệt anh cũng thấy qua mấy lần rồi.

Chờ đã nào, hình như anh bỏ sót thứ gì đó.

"Mối, ... môi, ... mồi."

Anh Ba Kho lẩm nhẩm, mồ hôi lạnh toát ra như đang tắm.

Nếu cái giày đó là mồi nhử, nếu hung thủ thực sự muốn bọn anh tìm ra cái giày đó, thì tất cả câu trả lời đều đã có.

Vấn đề là tại sao hung thủ lại phải dụ dỗ anh ra chỗ đó?

Với sức mạnh siêu nhiên của nó, làm thịt anh và sư thầy lúc chỉ có hai người trong nhà kho không phải tốt hơn sao?

Anh Ba Kho cảm thấy mình đi vào bế tắc.

Nhưng anh biết chắc chắn một điều rằng hiện tại tình cảnh của mình rất nguy hiểm.

Anh liền thổi ba hồi còi.

Anh không muốn ở lại nơi này thêm một tí nào nữa.

Anh chỉ muốn về nhà, nấp trong phòng và trùm kín chăn.

Mặc kệ hung thủ là ai anh cũng không quan tâm nữa.

Chức trưởng đội dân tráng ai muốn làm thì cho họ làm.

Tiếng còi của anh Ba Kho vang lên một lúc lâu, lại không hề mang người nào trở lại.

Tất cả những người khác dường như đều đã tan biến.

Anh Ba Kho lúc này mới rụng rời chân tay.

Anh nghĩ đến việc mồi nhử không phải chỉ có một chiếc giày.

Nhưng chưa hết hi vọng, anh Ba Kho lại đưa chiếc còi lên định thổi mấy tiếng nữa.

Sư thầy ngăn anh lại, thở dài: "Đừng thổi nữa.

Vô dụng thôi."

Anh Ba Kho nhìn sư thầy, khuôn mặt ông lúc này hiện lên vẻ buồn man mác.

Ông đưa cho anh một lá bùa, dặn: "Tí nữa cho dù có chuyện gì, kể cả bần tăng gọi, cũng đừng ngoái đầu lại.

Cứ nhìn rõ đường mà chạy."

Anh Ba Kho nắm chặt lá bùa cứu mạng, hỏi sư thầy: "Thầy cảm nhận được điều gì à?"

Sư thầy đáp: "Bần tăng cảm thấy kiếp số của bần tăng đến rồi."

Nói rồi ông lại lắc lắc đầu, móc trong ngực ra mấy lá bùa khác, đi phát cho những người còn lại.Thế nhưng ông chưa kịp phát thì có một người đã cướp mấy lá bùa trong tay ông.

Sư thầy hơi sửng sốt, anh Ba Kho cũng giận, anh quát: "Bảy Dậu, đệ làm cái gì vậy?"

Bảy Dậu lúc này đang cầm mấy cái lá bùa, chăm chú nhìn kỹ.

Y không hề trả lời anh Ba Kho.

Anh Ba Kho quát lớn: "Còn không mau trả lại cho sư thầy.

Đó là bùa cứu mạng đấy."

Mấy người còn lại cũng chăm chăm nhìn vào y.

Nếu như y không trả lá bùa cho mọi người, nhất định sẽ bị đánh.

Bảy Dậu không sợ hãi, y ngẩng đầu lên nhìn sư thầy, vẩy vẩy nói: "Thứ này rất tầm thường, nhưng cũng khá hiệu dụng đấy."

Mọi người không hiểu y muốn làm gì, chỉ có sư thầy quát.

"Còn đứng đấy làm gì?

Tất cả chạy mau."

Lúc này đám bùa trong tay Bảy Dậu đã bắt đầu bốc cháy rừng rực.

Không biết ai kêu một tiếng, thế rồi ngoại trừ anh Ba Kho và sư thầy, tất cả đều bỏ chạy.

Khuôn mặt Bảy Dậu mà anh Ba Kho quen thuộc bắt đầu biến hình.

Nó nứt ra, thành vô số mảnh máu thịt.

Đám máu thịt ấy nhảy nhót tùm lum trên chiếc xương sọ rồi bắt đầu gắn liền lại, thành một khuôn mặt kỳ lạ mà anh Ba Kho chưa bao giờ gặp.

Y nhìn anh Ba, cười một cách đầy dọa dẫm, hai hàm răng trắng ởn trông thật đáng sợ.Anh Ba Kho lúc này còn chưa tỉnh hồn lại, thì bị sư thầy đẩy một cái.

"Chạy đi, đừng ngoái nhìn lại."

Thế là anh cũng vắt chân lên cổ chạy.

Đầu óc anh trống rỗng.

Anh Ba Kho cũng không thể hiểu tại sao đàn em thân tín của mình lại trở thành hung thủ.

Anh chỉ biết cắm đầu chạy.

Thỉnh thoảng sau lưng anh lại có tiếng hét thảm thiết.

Nhưng anh không quan tâm.

Anh chỉ biết chạy, chạy để cứu lấy tính mạng của anh.

Về đến đầu làng, anh còn nghe thấy tiếng sư thầy kêu khóc, nhưng anh Ba Kho biết anh không thể ngoảnh đầu lại.

Đôi mắt anh ướt đẫm, răng anh nghiến chặt.

Nếu như có thể, anh thề sẽ băm vằm nó thành tro bụi.

Gió thổi làm tấm áo ướt đẫm mồ hôi của anh Ba Kho lạnh buốt.

Anh run lên cầm cập.

Cái cổng quen thuộc nhà anh đây rồi.

Anh bắt đầu đập cửa.

Có tiếng vợ anh trả lời.

Anh Ba Kho rũ người xuống, khuôn mặt cắt không còn giọt máu.

Có một mùi thối như mùi cá chết bắt đầu theo gió tỏa ra khắp nơi.

Đôi mắt anh Ba nặng trĩu lại.

Sau đó anh không còn biết gì nữa.

Lúc anh Ba Kho tỉnh lại thì đã là ba ngày sau.

Vợ anh ôm cổ anh mừng đến phát khóc.

Chị bảo cứ tưởng anh đi luôn rồi.

Thì ra sau khi về đến nhà, anh Ba Kho bắt đầu sốt li bì.

Suốt một ngày anh chỉ mê sảng, nói mớ và nôn mửa.

Chị Ba nhờ người lên huyện mời thầy lang giỏi nhất về chữa cho anh.

Thế nhưng lúc thầy lang bắt mạch xong thì cũng lắc đầu.

Ngoài việc bị khí lạnh xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, trong lòng anh còn cất giấu một nỗi sợ hãi quá khủng khiếp.

Nỗi đau về thể xác và cả về tinh thần trộn lẫn khiến thầy lang cũng bó tay.

Ông chỉ khuyên gia đình nên chuẩn bị hậu sự sẵn cho anh.

Chị Ba năn nỉ mãi thầy lang mới chịu dùng phương thuốc gia truyền để chữa cho anh.

Đó là phương thuốc toàn độc dược, chuyên dùng cho những người bệnh thập tử nhất sinh.

Đó là một phương thuốc lâu đời có nguồn gốc từ giới tu đạo.

Nó rút ngắn tuổi thọ của người sống nhưng lại có thể mang họ về từ cõi chết.Suốt một đêm sau khi uống thuôc sanh Ba chỉ ho ra máu.

Thầy bảo nếu anh không qua được thì sẽ chết ngay trong đêm.

May mắn thay đến lúc sáng, anh Ba Kho mặc dù đuối lắm rồi nhưng vẫn còn thở.

Thầy lang bảo chị Ba nấu cháo sâm đút cho anh.

Thế là anh sống, trốn thoát một cách ngoạn mục khỏi bàn tay của thần chết.

Hôn mê thêm một ngày rồi anh cũng tỉnh lại.

Anh Ba Kho muốn hỏi cái gì nhưng nhìn khuôn mặt lo lắng của vợ và hai đứa con nhỏ anh lại thôi.

Việc của anh hiện nay là phải chữa khỏi bệnh và sống khỏe.

Anh không muốn vợ anh trở thành góa phụ, con anh trở thành trẻ không cha.

Anh ngoan ngoãn húp hết bát cháo mà vợ đưa.

Mùi tía tô, mùi hành mùi trứng, thơm phức chả hiểu sao khi vào miệng lại đắng nghét.

Thế nhưng anh cũng cố nuốt gần hết bát cháo.

Anh Ba đang ăn cháo thì nghe thấy bên ngoài có tiếng kèn, tiếng trống, tiếng than khóc vang lên ầm ĩ.

Anh Ba Kho nhìn vợ.

Vợ anh chép miệng: "Hai mươi mấy người đi cùng lúc thầy nó ạ.

Làng phải thu xếp chia thời gian để đám ma nào cũng có đủ người đưa tiễn."

Hệt như vợ anh nói, đám ma kia vừa đi thì đám ma khác lại tới, cứ nối tiếp nhau, nối tiếp nhau tưởng chừng không dứt.

Chị Ba sợ anh không nghỉ ngơi được, định khép cửa sổ lại thì anh Ba Kho không cho.

Anh bảo: "Cứ để thế đi."

Anh ngước nhìn ra bên ngoài cửa sổ.

Thấp thoáng sau hàng tre xanh là những ngọn phướn đen trắng cứ lầm lũi bước qua.

Anh Ba Kho tưởng chừng như nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc sau hàng tre ấy.

Bọn họ bước qua, chào anh để về với đất mẹ.

Hai mươi mấy người thanh niên trai tráng, hai mươi mấy cái trụ cột gia đình, hai mươi mấy cái sinh mạng, cứ thế bị anh chôn vùi.

Giá như anh mặc kệ bảy cái xác, giá như anh không phái người đi tìm giữa đêm, giá như anh phát hiện sự kỳ lại của Bảy Dậu sớm hơn, thì tất cả có lẽ đã khác.

Chính sự vô tâm của anh mới chính là tội ác.

Anh Ba Kho lẩm nhẩm đếm số đám ma đi qua.

Từ lúc tỉnh lại cho đến hoàng hôn, có trọn vẹn hai mươi bảy cái.

Có lẽ nó còn nhiều hơn số người làng chết trong chục năm qua.

Cứ nghĩ về bọn họ, anh Ba Kho lại tự trách mình.-"Cha ơi, cha làm sao thế?"

Một tiếng gọi đầy non nớt cắt đứt những suy nghĩ của anh Ba.

Anh Ba Kho nhìn ra cửa.

Đứa con gái lớn của anh đang nhìn anh bằng một ánh mắt lo lắng.

Đôi mắt to tròn mở ra nhìn anh chăm chăm.

Hai cánh tay bé xíu đang bưng một bát cháo nóng to.

Khuôn mặt xinh xắn lem nhem đầy vết than.

Khuôn mặt con bé lấm tấm mồ hôi.

Anh Ba Kho vẫy tay.

"Cha không sao.

Vào đây con."

Con bé chậm rãi bưng bát cháo đặt xuống giường.

"Cháo con mới nấu, cha ăn luôn cho nóng" Anh Ba Kho vuốt vuốt mấy vết than đen nhẻm trên khuôn mặt con gái, trong lòng đầy xót xa.

Con gái anh mới bảy tuổi.

Ở cái tuổi của nó anh còn cởi truồng tồng ngồng theo bạn chơi khắp làng.

Mấy ngày qua, hẳn con bé lo cho anh lắm.

Nó đâu có làm nên tội tình gì để sống trong cảnh sợ hãi như vậy.

Anh Ba Kho quyết định anh sẽ rời xa ngôi làng này.

Anh sẽ tìm một mảnh đất nào đó, mang theo gia đình để bắt đầu lại.

Anh sợ hãi việc phải tiếp tục sống trên cái vùng đất bị nguyền rủa này.

Thấy con gái vẫn đứng chờ, anh xoa đầu con bé hỏi: "Mẹ đâu?"

"Mẹ xuống nhà bà Mai lấy thêm trứng gà."

Thấy con bé vẫn đứng nhìn, anh đành bưng bát cháo lên, húp mấy miếng.

Lúc này con bé mới chịu đi nấu cơm.

Ăn xong bát cháo, anh Ba Kho cảm thấy đỡ hơn nhiều.

Anh đặt lưng xuống bắt đầu thiếp đi.Anh Ba Kho ngủ không được bao lâu thì vợ anh về, bàn tay chị sợ lên đầu anh.

Chị kê gối, đắp thêm chăn cho anh rồi mới ra ngoài.

Chắc là ăn cơm với con.

Anh Ba Kho mơ mơ màng màng ngủ tiếp.

Mãi cho đến khi một tiếng khóc rấm rứt trong đêm đánh thức anh.

Anh Ba Kho cảm thấy tiếng khóc sao mà quen thế.

Anh ngồi dậy.

Bên cạnh vợ anh đang ngủ ngon lành, chắc mấy ngày nay chị mệt mỏi lắm rồi.

Anh Ba Kho vén màn lên.

Trong bóng tối, có một bóng trắng đang ngồi trên cái ghế vuông gần cửa khóc rấm rứt.

Trong bóng tối, anh Ba Kho cũng không nhìn rõ đấy là ai.

Anh đành cất tiếng hỏi: "Ai đấy?"

Cái bóng trắng ngừng khóc, ngẩng lên nhìn anh: "Cha ơi, con đây."

"Cái Bống hả?

Sao đang đêm đang hôm lại khóc hả con?

Lai đây nào."

Nghe tiếng con gái, anh Ba Kho thở phào.

Anh gọi con lại.

Trong bóng tối, con bé dò dẫm đến gần bên giường.

Khuôn mặt trắng hồng quen thuộc của nó lem nhem nước mắt.

Anh Ba Kho vén màn lên, ra hiệu cho con bé ngồi xuống giường.Cái Bống ngoan ngoãn ngồi xuống giường, nó quệt quệt nước mắt:"Cha ơi, con sợ lắm."

Anh Ba Kho định an ủi con thì bỗng sững người.

Thế rồi anh vươn tay ra đánh cho con gái một cái tát, gằn giọng hỏi: "Mi là ai?"

Con gái anh liền ngã từ trên giường xuống.

Bất ngờ thay, nó cũng không khóc không kêu mà chỉ ngửa mặt nhìn anh chằm chằm, khóe miệng rớm máu nhếch lên cười trông khá dữ tợn.

"Làm sao người biết là ta?"

Anh Ba Kho đáp: "Con gái ta thích sạch sẽ, nó sẽ không đi chân đất."

Con gái anh Ba Kho cúi đầu nhìn hai bàn chân trần trắng nõn, gật gật đầu: "Đây là do ta sơ ý.

Ta chỉ lấy nguyên bộ dạng của nó lúc nãy trên giường."

Nói rồi con gái anh cười hơ hớ, lộ ra hàm răng trắng ởn: "Còn ta là ai, mi chắc cũng đoán được mà.

Mấy đêm trước ta tìm mi một lần, hẳn có hình dạng như thế này."

Nói rồi, khuôn mặt của nó máu thịt bắt đầu bong ra trông thật khủng khiếp.

Đám máu thịt ấy bắt đầu nhảy nhót, sau đó gắn lại tạo thành một khuôn mặt mới – khuôn mặt của Bảy Dậu.Anh Ba Kho rít trong miệng như sợ những người trong gia đình thức giấc: "Mi còn muốn tìm ta làm gì?

Chừng ấy cái mạng người chưa đủ hay sao?

Mi còn muốn thế nào nữa đây?"

Giọng anh giận dữ, đôi mắt anh tóe lửa tưởng chừng muốn bóp chết con quái vật trước mặt ngay tức khắc.

Con quỷ nheo mắt cười với anh Ba Kho.

"Ồ bây giờ tại sao mi lại không sợ ta nhỉ?

Ta nhớ lần đầu báo mộng mi sợ muốn tè ra quần cơ mà."

Nói rồi con quỷ ung dung đứng dậy.

Trong bóng tối anh Ba Kho chỉ nhìn thấy cái lưng cao to quen thuộc của Bảy Dậu.

Con quỷ lấy cái ghế gỗ đặt vào trong giường, ngay trước mặt anh Ba Kho.

Nó bắt đầu ngồi xuống.

-"Ta muốn làm một cuộc mua bán."

Anh Ba Kho hỏi lại: "Mi muốn thế nào?"

Con quỷ cười to: "Mạng vợ chồng mi, thêm hai đứa con, mỗi người đổi mười mạng thế nào?"

Anh Ba Kho lạnh lùng nhìn nó: "Ta từ chối.

Có chết ta cũng sẽ không bán linh hồn cho quỷ dữ?"

Con quỷ cười khà khà:"Mi không sợ chết, không có nghĩa là vợ mi không sợ chết.

" Nói rồi nó đưa tay lên sờ tóc vợ anh.

Anh Ba Kho gạt tay nó ra.

"Đừng chạm vào người của vợ ta."

Bàn tay nó lạnh buốt như nước hồ vào mùa đông.

Con quỷ chỉ cười, nó lại sờ lên người vợ anh.

"Ta cứ chạm, mi làm gì được ta?

Không chỉ vợ mà cả con mi nữa.

Thế nào, đến đánh ta, cắn ta đi."

Nó đưa ngón tay trỏ lên mặt mình.

Anh Ba Kho đột nhiên yên lặng.

Anh thì thầm với con quỷ.

"Ta không sợ mi đâu.

Sức mạnh của mi phải đến cạnh hồ mới có thế giết người.

Ở nhà ta, mi cái gì cũng không làm được."

Con quỷ nghe anh Ba Kho nói vậy, bật cười.

"Tại sao mi cho là ta phải đến cạnh hồ mới có thế giết người?

Mi không thấy ta đang ở trong nhà mi mặc dù đã khóa cửa kỹ sao?"

Anh Ba Kho nhìn nó.

"Nếu mi có sức mạnh để làm hai người khác ngay ở trong làng, ta tin rằng cái làng này đã trở thành làng chết.

Mi chỉ có thể làm hại người khác nếu dụ bọn họ đến cạnh hồ.

Chiếc giày mà mi để lại hẳn là ẩn giấu một loại phép thuật nào đó, để những người từng tiếp xúc không thể trốn thoát.

Nếu không bọn ta chạy xa hồ nước rồi mi chỉ có thể đứng nhìn mà thôi.

Sư thầy hẳn là đã thấy được kiếp nạn của ông ấy từ lúc tiếp xúc với cái giày đó."

Con quỷ vỗ tay mấy cái rất to, than thở với anh Ba: "Thật không ngờ mi ốm đau mấy ngày qua mà còn rất sáng suốt."

Rồi nó lại nhe răng với anh Ba Kho.

"Mi không nghĩ rằng ta sẽ dụ dỗ vợ con ngươi ra hồ sao?

Ta có rất nhiều cách để làm điều đó.

Sau đó ta sẽ từ từ xé rách linh hồn bọn họ, nhai nuốt và thưởng thức chúng một cách chậm rãi..."

Anh Ba Kho cười nhạt: "Nhà ta đã khóa cửa.

Mi muốn làm gì thì cứ làm đi."

Nói rồi anh kéo màn lại, nằm xuống trùm chăn.

Bàn tay anh run run.

Con quỷ nhếch mép.

"Đừng lo, vợ con mi khi xuống dưới đó sẽ không cô độc đâu.

Ta cam đoan..."
 
Vùng Đất Vô Hình
Tạm kết


Đêm đó có lẽ là đêm dài nhất trong cuộc đời anh Ba Kho.

Anh không thể nào chợp mắt nổi.

Cứ nhắm mắt là anh lại thấy cảnh vợ con bị kéo ra hồ, và biến thành một cái xác chết trôi.

Anh biết con quỷ có nhiều quyền năng, nhưng anh chỉ đành đánh cuộc với số phận.

Anh không muốn bản thân làm hại thêm bất kỳ ai khác.

Hai mươi mấy người là quá đủ với anh rồi.

Mãi đến khi gà gáy le te anh Ba Kho mới thở phào nhẹ nhõm.

Anh nghĩ có lẽ nên chuyển nhà luôn vào ngày mai.

Việc chuyển nhà của anh Ba Kho gặp nhiều khó khăn.

Thứ nhất anh còn ốm quá.

Vợ anh không muốn cho anh ra đường chứ đừng nói đi xa.

Thứ hai, trong làng xảy ra chuyện, nhà nhà có tang, nhà nhà sợ hãi, chẳng ai muốn giúp anh Ba chuyển nhà mà vợ chồng anh thì không thể tự làm nổi.

Khó khăn không ngăn được quyết tâm mang cả nhà đi tránh nạn của anh Ba Kho.

Anh bán nhà bán đất một cách vội vã.Ngay trưa hôm ấy , hai vợ chồng khăn gói quả mướp mang hai đứa con lên một chiếc xe bò rồi đánh xe đi.

Cũng không đi được đâu xa, đến tối mịt hai người mới vào được một ngôi làng, chính là ngôi làng của chú Miên đang ở bấy giờ.

Đêm đó, anh Ba Kho ngủ rất yên bình trong một căn nhà nhỏ thuê của lý trưởng.

Từ đó anh không về lại làng cũ nữa.

Vợ chồng anh mua lại một mảnh đất nhỏ, thuê ruộng cày cấy.

Thế nhưng nỗi sợ vẫn ám ảnh anh hàng đêm mỗi khi lại nghe được chuyện con ma làm hại người.Cái tên Kinh Dạ bắt đầu được người dân trong vùng gọi từ ngày đó.

Người ta cũng từ từ chuyển đi khỏi những ngôi làng ven hồ.

Những bến tàu dần trở nên hiu quạnh.

Cũng không ai dám ra hồ bắt cá nữa.

Hồ Kinh Dạ đông vui tấp nập phảng phất chỉ trong một năm biến thành một cái hồ hoang vắng như bây giờ.Mãi sau này, khi gặp lại Du bộ đầu, anh Ba Kho mới biết, sau khi anh rời khỏi hai ngày thì Du bộ đầu mang theo cao nhân của giới tu đạo trở lại.

Nhưng họ cũng không thể khống chế nổi con ác quỷ đã trở nên vô cùng hùng mạnh đó.

Có khá nhiều người tu đạo cũng bị con quỷ làm hại.

Sau cùng người tu đạo đành phải phong ấn những vùng đất quanh hồ Kinh Dạ, và sơ tán dân chúng đi nơi mới.

Du bộ đầu và Ba Kho cùng nhau uống rượu suốt một đêm.

Sáng hôm sau trước khi rời đi, Du bộ đầu dặn anh nhớ truyền lại chuyện cũ cho con cháu, rồi sẽ có một ngày bọn họ tìm thấy người tiêu diệt con ác quỷ.

Khi đó anh Ba Kho và con cháu anh sẽ trở thành người dẫn đường.

Anh Ba Kho làm đúng như lời Du bộ đầu dặn.

Đến khi chết, anh vẫn không quên nhắc nhở con cháu về nỗi đau trong quá khứ.

Hai mươi năm sau khi anh Ba Kho mất, con cháu của anh đã dẫn đường cho bảy môn phái trừ tà mạnh nhất thời bấy giờ bắt và phong ấn con ác quỷ.

Từ đó con cháu anh Ba Kho trở thành người trông coi phong ấn hồ Kinh Dạ.

Đến thời chú Miên đã truyền được bốn đời.**************************Đó là câu chuyện mà chú Miên kể cho Minh Khánh nghe trong lần đầu gặp gỡ.

Hai người cũng không có cơ hội nói chuyện thêm bởi sư phụ hắn muốn mang chiếc hòm trở lại làng Me ngay hôm đó.

Trên đường về, nói chuyện với sư phụ, Minh Khánh mới biết rằng con ma dưới khúc sông Lục Bình chỉ là một trong bảy cái xác được dùng để phong ấn ác quỷ hồ Kinh Dạ.

Đó là bảy cái xác mà chú Miên đã kể - bảy nạn nhân đầu tiên của nó.

Trải qua thời gian dài phong ấn, do tiếp xúc nhiều, cái xác đó bị con ác quỷ ăn mòn dần.

Cuối cùng con ác quỷ gửi một phần linh hồn nó vào trong cái xác.

Thế là cái xác tự tìm cách phá hoại phong ấn và thoát ra.

Thế nhưng linh hồn trong cái xác không điều khiển nổi cơ thể, đành phải trôi theo dòng nước.

Không hiểu bằng cách nào, cái xác trôi đến khúc sông làng Me và bắt đầu làm hại người sống.Biết được nguồn cơn, lại có chiếc hòm chuyên dùng để phong ấn, việc bắt con ma dễ dàng đến không ngờ.

Sư phụ chỉ việc lặn xuống sông, tóm cái xác bỏ vào hòm, đậy kín.

Sau đó ông dán bùa lên mặt trên cái hòm.

Hai thầy trò lại hì hục ngược dòng mang cái hòm về đúng chỗ của nó trên hòn đảo nhỏ giữa hồ Kinh Dạ.

Thậm chí người làng Me còn không tin tưởng rằng con ma đã không còn trên khúc sông đó nữa.

Chỉ có ông Tư Thồn là cảm nhận được.

Ông lại đưa khách qua sông.

Mấy lần qua sông an toàn, người làng Me mới hiểu con ma đáng sợ đó đã cách xa bọn họ.

Khúc sông làng Me lại yên bình, chẳng ai sợ việc qua sông ban đêm nữa.

Thế nhưng có một người không thể quên được cái ký ức đáng sợ đó.

Đó là ông Tư Thồn người sống sót duy nhất dưới tay con ma.

Một tháng sau khi con ma biến mất, ông Tư cũng biến mất theo.

Hỏi vợ ông mới biết ông rời làng lên vùng đất Nam Lan tìm thầy học nghệ.

Ông đến làng của dòng họ Phạm và được nhận làm đồ đệ.

Mấy năm sau, Minh Khánh và sư phụ mới biết ông đã trở thành người trông coi nhà thờ cho dòng họ Phạm.

Sư phụ Văn Sơn còn bảo đó là cái duyên số của ông với nghề bắt ma.**************************Trời vẫn mưa tầm tã, nước mưa tí tách rơi xuống trước thềm.

Trên hiên nhà, Minh Khánh vẫn dựa vào cây cột ngủ ngon lành.

Hắn không biết có một cái bóng trắng nhảy nhót xung quanh hắn, khi thì đứng, khi thì ngồi, lúc thì cười hì hì, lúc lại đăm chiêu suy nghĩ.

Cuối cùng, cái bóng trắng dường như lấy hết can đảm, thò tay chạm vào chân của Minh Khánh.

Ngón tay trắng trẻo, thon dài của y run run, có vẻ sợ hãi lắm.

Thế nhưng khi ngón tay y cách bàn chân Minh Khánh chỉ nửa phân thôi thì sau lưng y vang lên một tiếng "méo" khá to.

Cái bóng trắng dường như là ăn trộm bị bắt quả tang, nhảy dựng lên.

Thế rồi không đợi Minh Khánh mở mắt ra, nó liền biến mất.

Một lát sau, cái bóng trắng đi vào một túp lều lớn dưới gốc cây cổ thụ cách làng Mía không xa.

Trời âm u khiến cho túp lều tối om om.

Cái bóng trắng chui vào trong lều, nhìn một đống ma quỷ nằm lăn lóc ngủ, đôi mắt của y trợn lên có vẻ tức giận lắm.

Y tiện chân đá luôn một con ma đang ngáy khò khò bên cửa khiến con ma lăn mấy vòng.

Sau đó y túm một con ma khác, vo tròn lại thành gối, rồi đặt lên cái chõng gãy làm chỗ tựa.

Thế rồi y ngồi phịch xuống dựa lưng lên cái "gối", miệng thì quát: "Cái đám vô dụng này suốt ngày chỉ biết ăn rồi ngủ".

Con ma bị đá lúc này đã tỉnh lại, hỏi thăm: "Bệ hạ, ai làm ngài tức giận vậy?

Ngài cứ nói để thần đi chém chết nó cho ngài."

Cái bóng trắng vò đầu bứt tai càu nhàu: "Tức chết đi được, tức chết đi được.

Trẫm sắp thành công lại bị phá."

Rồi nó chỉ trỏ vào đám ma mới tỉnh lại, còn chưa hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao.

"Trẫm đã bảo bọn mày đi hộ giá cho trẫm, vậy mà chỉ biết ngủ với ngủ.

Nghiệp lớn của trẫm quan trọng hơn hay việc ngủ của bọn mày quan trọng hơn, hả?"

Thấy cái bóng trắng tức giận, một con ma thưa: "Bệ hạ, ngài quên trời sáng rồi hay sao?

Bọn thần không có pháp lực cao siêu như bệ hạ, ra ngoài ban ngày là hồn phi phách tán chứ chẳng chơi."

Mấy con ma còn lại cũng gật đầu lia lịa.

Cái bóng trắng nghe vậy cũng không nói thêm gì.

Một lát sau, đám đàn em mới nghe nó than thở: "Trẫm rất ghét mèo, nhất là mấy con mèo béo."
 
Vùng Đất Vô Hình
Lá bùa oan nghiệt


Gặp lại bà Mun Minh Khánh rất vui mừng.

Trưa hôm đó Minh Khánh đãi bà một bữa cơm cá nướng tươm tất.

Bà Mun vừa nhồm nhoàm chén cơm, vừa kể cho Minh Khánh nghe về chuyến phiêu lưu của bà.

Thì ra trên đường từ chùa Khánh Lương trở về, lúc qua trấn Thanh Đô, bà Mun tình cờ gặp được một người bạn cũ.

Đó là một con cáo thành tinh tên là Rau Heo.

Hiện giờ nó đang là sủng vật số một của Vân Thanh Nương Nương trên núi Sầm.

Bà Mun thấy Minh Khánh lộ vẻ nghi hoặc bèn giải thích.

Con cáo có cái tên như vậy bởi vì trước khi thành tinh, nó chỉ là một con cáo tầm thường.

Thời bấy giờ ở vùng mà nó sống, việc trộm gà trộm vịt cực kỳ khó khăn và nguy hiểm.

Người dân tìm mọi cách để săn lùng những vị khách không mời như nó.

Kiếm ăn khó khăn buộc con cáo phải chén rau để sống qua ngày.

Trong một lần vào nhà người ta ăn trộm, bị truy sát gấp quá, con cáo phi thân vào cái máng lợn của nhà chủ.

Cũng nhờ đó, nó phát hiện ra một món ngon thú vị là rau heo trộn cám.

Thế là những khi đói kém, con cáo lại mò vào tranh ăn rau với đám heo.

Sau này trong một lần đang sục mõm trong máng, con cáo vớ được một cây rau khoai lang thành tinh.

Thế là con cáo cũng trở thành cáo tinh.

Mấy chục năm sau, nó lại vớ được một cây rau muống thành tinh.

Lần này con cáo bắt đầu học được phép thuật.

Dần dần nó nổi danh trong đám yêu tinh và được đặt biệt danh “Rau Heo”.

Con cáo cố gắng từ chối cái tên không lấy gì làm đẹp nhưng không may cho nó, chỉ ít lâu sau nó bị Vân Thanh Nương Nương bắt làm sủng vật.

Nàng đưa con cáo về núi Sầm.

Từ đó cái tên Rau Heo được gắn liền với con cáo.Hai người bạn một mèo một cáo sau ba trăm năm mới gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi, nước mắt lã chã.

Thế rồi một mèo một cáo cùng nhau thức suốt một đêm trên mái nhà để kể cho nhau nghe chuyện cũ.

Tình bạn vượt qua biên giới của giống loài càng trở nên thắm thiết và hữu nghị hơn khi Rau Heo rủ bà Mun đi đánh chén.

Như thường lệ bà Mun không bao giờ từ chối những bữa ăn, hơn nữa là những bữa ăn chùa thế này.

Hậu quả là trong cơn chè chén quên trời đất, và bà Mun vô tình chậm mất chuyến xe trở về nhà.

Thế là bà đi theo con cáo ăn ăn uống uống suốt mấy ngày cho đến khi con cáo cạn tiền phải về núi xin nương nương tiếp viện.

Lúc này tứ cố vô thân, không xu dính túi, bà Mun đành lê tấm thân ục ịch nhảy xe ngựa chui để về phủ lộ Bình An tìm Minh Khánh.Trên đường về, nhờ vào mùi Minh Khánh để lại trên gốc cây, bà Mun mới lần theo dấu vào làng tìm hắn.

Ăn no rồi, bà nghiễm nhiên nhảy phốc lên vai Minh Khánh, nằm chiễm chệ.

Một người một mèo lững thững trở về nhà ông cụ Trầm để thu dọn đồ đạc.

Về đến cửa Minh Khánh đã nghe tiếng cười nói râm ran trong nhà.

Bà Mun thì vểnh mũi, “Khịt khịt” mấy tiếng rồi phán: “Chắc chắn có heo quay.”

Minh Khánh phì cười, cảm thấy bà càng ngày càng giống họ gâu.

Bà Mun không thèm để ý cái nhìn chế giễu của hắn, tiếp tục vểnh râu liếm mép.

Bước qua con ngõ nhỏ giữa hàng râm bụt, chưa đến sân thì Minh Khánh đã nghe tiếng cụ Trầm gọi.

Hắn đành bước vào căn nhà chính.

Vợ chồng ông cụ Trầm đang tiếp đãi khách.

Đó là đôi vợ chồng già có đứa con bị bệnh mà Minh Khánh đã gặp trong đêm.

Minh Khánh thấy cụ Trầm gọi bà ta là bà Cung.

Hai vợ chồng già thấy Minh Khánh có vẻ mừng rỡ, đều đứng lên, cúi lạy: “Lạy thầy ạ.

Thầy đã đỡ bệnh chưa ạ?”

Minh Khánh sửng sốt nhưng theo bản năng vẫn cúi thấp đầu đáp lễ lại.

“Cảm ơn ông bà đã quan tâm, bần đạo đã đỡ nhiều rồi.”

Ông cụ Trầm cười, nói hộ: “Hôm trước, hai ông bà được thầy dặn dò, về nhà làm theo.

Hôm nay con trai ông bà đã khỏi bệnh, có thể đi học, đi cày được rồi.

Hai ông bà liền sắm sửa lễ mọn đến tạ thầy.”

Minh Khánh nhìn trên bàn, trong mâm ngoài nải chuối, còn có một con lợn quay vàng, và một đĩa xôi lớn.

Bên cạnh còn có một bao màu đỏ chắc là đựng tiền.Hai ông bà Cung cũng nói: “Nhờ ơn thầy, con trai chúng con cuối cùng cũng được bình an vô sự.

Ơn thầy gia đình chúng con không biết cảm tạ thế nào cho hết.

Hôm nay chúng con sắm sửa lễ mọn, của ít lòng thành đến tạ thầy ạ.”

Minh Khánh xua tay: “Bần đạo cũng không làm gì to tát cả.

Hai ông bà cứ quá lời.

Lễ này xin ông bà mang về đi.”

Bà Cung thưa: “Ấy chết, xin thầy đừng khách khí.

Không có thầy thì đến khi xuống đất vợ chồng chúng con cũng chẳng nhắm mắt nổi vì không biết đời con đời cháu rồi sẽ ra sao.

Với thầy chỉ là việc nhỏ, với gia đình chúng con đó là ơn mấy đời không hết.”

Hai người cùng cụ Trầm nói mãi Minh Khánh cuối cùng mới chịu nhận lễ.Thế nhưng Hắn chỉ nhận lợn quay, xôi chuối, còn túi bạc, hắn nhất quyết bắt ông bà Cung cầm về.

Trong lúc chờ ông cụ Trầm dọn cơm, ông bà Cung vừa uống nước, vừa kể chuyện cho Minh Khánh nghe.

Câu chuyện bắt đầu từ hai mươi năm trước, khi cha mẹ bà Cung mất cùng trong một năm, để lại cho bà Cung căn nhà cùng người em gái ít tuổi.

Bà Cung sống cùng một người em gái trong căn nhà thừa kế của cha mẹ.

Cuộc sống êm đềm cứ trôi đi cho đến lúc bà Cung lấy chồng.

Đó là lúc tình cảm chị em bị rạn nứt.

Căn nhà, ruộng vườn bố mẹ để lại trở thành thứ khiến chị em bà mẫu thuẫn với nhau.

Có những lúc không giải quyết nổi, phải mời họ hàng, láng giềng đến để giải quyết.

Cuối cùng nhờ vào một số tiền lớn hối lộ cho lý trưởng, bà Cung thắng kiện và chiếm được căn nhà cha mẹ để lại.

Cô em gái được bà bồi thường cho một số vàng, nhưng không có nhà phải bỏ làng mà đi.

Bà Cung lúc đầu cũng có lo lắng cho em nhưng sau vì công việc đồng áng, buôn bán lại mang thai đứa con đầu long, bà cũng quên mất.

Mãi cho đến lúc con trai ông bà được ba tuổi, thì bà mới gặp lại em gái.

Đó là một đêm mưa rả rich.

Bà Cung đang ngủ thì có tiếng chó sủa.

Bà dựng chồng dậy, nói với ông: “Mình ơi, hình như có ai đang đập cửa.”

Chồng bà càu nhàu mấy tiếng rồi cũng đốt đèn, khoác áo đi ra ngoài sân.

Bà Cung thì đứng nơi cửa.

Gió lạnh từ ngoài thổi vào làm bà run run.

Một lúc sau bà nghe chồng hô: “Mình ơi, có ai đang nằm ngoài cửa.”

Bà nghe vậy cũng chạy ra ngoài.

Chồng bà vội vàng mở cổng.

Bà Cung rọi đèn lên.

Đó là một người phụ nữ gầy gò với cái bụng to tròn như đang mang thai.

Bộ quần áo nâu sồng rách không đủ để che hết da thịt khiến nhiều chỗ tím tái vì lạnh.

Lúc này, tóc người phụ nữ xõa r ache hết khuôn mặt khiến bà Cung cũng không nhận ra là ai.

Bà Cung giục chồng: “Mình ơi, mau đỡ người ta vào nhà.

Lạnh thế này để người ta nằm đây thì chết mất.”

Chồng bà nghe lời đỡ người phụ nữ vào nhà.

Bà Cung xuống bếp đun ít cháo nóng.

Lúc bà bưng bát cháo lên thì nghe chồng gọi, giọng hoảng hốt “ Mình ơi, mình ơi..”

Bà Cung chạy lên nhà thì thấy máu đang chảy ra từ giữa hai chân người phụ nữ.

Bà Cung vội giục chồng đi tìm thầy lang.

Trong lúc chồng đi tìm thầy, bà Cung định cho người phụ nữ ăn cháo nóng.

Vén tóc người phụ nữ lên, bà Cung mới nhận ra đấy là khuôn mặt quen thuộc của em gái.

Bát cháo tuột khỏi tay rơi cái choang, cháo nóng văng tung tóe.

Bà Cung vừa cảm thấy sợ hãi, vừa cảm thấy đau long, cháo nóng rơi đầy trên chân nhưng bà không để ý, chỉ đưa tay lên vuốt ve khuôn mặt em gái một lúc lâu.

Có vẻ như bị cháo nóng làm tỉnh giấc, người phụ nữ mở mắt ra, nhìn thấy bà: thốt lên hai chữ: “Chị ơi!” rồi lại ngất đi.Đêm đó là một đêm dài với bà Cung.

Hết chăm sóc cho em gái lại phục vụ điếu đóm, xôi chè cho thầy lang.

Hì hục đến sáng thì thầy lang rửa tay, nhìn bà Cung lắc đầu.

Bà Cung quá sợ hãi, mếu máo níu tay thầy: “Thầy ơi, mong thầy cứu lấy em gái tôi.”

Thầy lang nhìn bà đầy thương hại nói: “Tôi đã cố hết sức rồi.

Hoặc mẹ hoặc con bà phải chọn lấy một.”

Bà Cung nghe vậy trong lòng liền có quyết định.

Em gái bà còn trẻ, sau này còn có thể có con.

Bà chẳng thể nào hi sinh đứa em gái ruột thịt để đổi lấy giòng giống của một người đàn ông xa lạ.

Bà nắm lấy tay em gái.

Bàn tay gầy gò, dường như chỉ còn da bộc xương, lạnh ngắt như khối đá mài bên giếng mùa đông.

Bất chợt, trong cơn hôn mê, dường như nghe được lời thầy lang, em gái bà bừng tỉnh, thều thào gọi: “Chị ơi, chị ơi…”

-“Chị đây, chị đây…”

Bà Cung vội vỗ về em, ghé sát tai vào để nghe em nói.

Hơi thở mỏng manh yếu ớt của em gái thoảng qua tai làm bà suýt rơi lệ.

Bà cố gắng nghe từng từ một trong tiếng thở đứt quãng của cô: “Chị ơi, hãy cứu lấy đứa bé.

Em cầu xin chị….”

Cô nói đến đây rồi lại ngất đi.

Bà Cung không thể nhịn được nữa òa lên khóc nức nở.

Nghĩ tới cuộc sống hạnh phúc bên chồng và con những năm qua, bà cảm thấy có lỗi với em gái biết nhường nào.

Trong đầu bà thoáng qua những cảnh tượng về cuộc sống khốn khổ của em sau khi bỏ làng ra đi.

Bà phải bồi thường cho em gái cuộc sống hạnh phúc mà bà đã nỡ cướp đi.

Thế là bà gạt nước mắt nói với thầy lang: “Mong thầy cứu lấy em gái tôi.”

Thầy lang gật đầu.Ba ngày sau em gái bà Cung tỉnh lại.

Câu đầu tiên mà cô hỏi là:”Con của tôi đâu?”

Thấy bà Cung im lặng, dường như đã biết trước kết quả, cô òa khóc.

Bà Cung định vỗ về thì bị cô đẩy ngã xuống giường.

Bà Cung lại đứng dậy, vỗ về em gái.

Cô lại xô ngã bà, rồi trùm kín chăn, vừa khóc vừa gào lên:”Cút đi!

Chị mau cút đi!!!”

Tiếng gào thảm thiết của cô khiến cả làng đều nghe thấy, còn bà Cung thì choáng váng sây sẩm mặt mày và nằm lăn ra đất.

Mãi đến khi chồng bà đến đỡ bà dậy bà mới tỉnh táo đôi chút.

Từ ngày hôm đó, em gái bà không chịu nói chuyện với bà, cũng không để bà chăm sóc.

Mỗi lần vào phòng, bà Cung cũng đành rơi nước mắt đi ra.

Cứ thế suốt một tuần, dường như đã nguôi ngoai, em gái bà mới mở miệng, yêu cầu bà dẫn ra nơi mộ con.

Bà Cung thấy em gái chịu nói chuyện, mừng lắm, liền ra chợ sắm lễ mang về cho em.

Hai chị em dìu nhau ra nghĩa địa đầu làng.

Đến nơi, không cần bà Cung phải chỉ, cô em gái liền sụp xuống ôm lấy nấm mồ bé nhỏ mà khóc:-“Con ơi sao con nỡ bỏ mẹ con ơi.

Cha con đi rồi, con cũng đi nốt giờ mẹ biết sống sao con ơi.

Con ơi là con ơi.”

Hôm đó em gái bà Cung khóc ròng suốt một buổi sáng.

Trong lúc an ủi, bà Cung cũng lờ mờ nghe được câu chuyện cũ.

Em gái bà dường như đã được một môn phái tu đạo nào đó thu nhận.

Đó là một môn phái mà tất cả đệ tử đều là nữ và ở đó tất cả mọi thứ liên quan đến đàn ông đều bị cấm.

Thế rồi một ngày xuống núi mua sắm đồ đạc, em gái bà gặp phải người đàn ông của đời mình.

Tình yêu chớm nở rồi đơm hoa kết trái nhanh chóng.

Lúc mà hai người lên kế hoạch đi trốn thì cũng là lúc chưởng môn phát hiện.

Bà ta liền phái người truy đuổi em gái bà Cung suốt một trăm dặm.

Cho đến lúc sơn cùng thủy tận, em gái bà Cung mới phát hiện ra rằng trên người có dấu ấn của môn phái để lại.

Và nếu không xóa đi dấu ấn đó, cho dù trốn đến chân trời góc bể thì cũng sẽ bị tìm thấy.Để vợ con được sống, người đàn ông cầm theo mảnh da còn đẫm máu vừa cắt ra ấy, đâm đầu xuống dòng thác dữ.

Những người trong môn phái của em gái bà Cung tiếp tục đuổi theo dọc theo dòng thác.

Cô em gái đau đớn chết lặng chẳng biết đi đâu đánh trở về nhà mẹ đẻ.

Đường xá xa xôi, cái bụng mỗi lúc một to khiến cô không thể đi bộ, chả mấy chốc cô hết sạch tiền.

Cô liền bán trang sức, quần áo hay bất cứ thứ gì có thể bán được, cho đên lúc trên người chỉ còn lại một bộ quần áo nâu rách rưới.

Oan nghiệt thay, lúc về được trước cửa nhà, mệt mỏi, đau đớn, kiệt sức quật ngã cô.

Trong cơn mưa lạnh, đứa con, niềm an ủi duy nhất còn lại của cô cũng bị mất.Chiều hôm đó, khó khăn lắm bà Cung mới đưa được em gái về nhà.

Ăn hết chén cháo, em gái bà nói buồn ngủ.

Thấy em gái nhắm mắt, bà Cung cũng tạm an lòng.

Thế nhưng sáng hôm sau em gái bà Cung biến mất.

Chiếc giường lạnh ngắt như chưa từng có ai nằm đó cả.

Bà Cung hốt hoảng tìm kiếm nhưng không thấy.

Bà thậm chị còn chạy ngược chạy xuôi, nhờ cả xóm tìm giúp nhưng cũng chẳng ai thấy em gái bà đâu.

Cho đến khi vợ chồng bà Cung ra ngôi mộ của đứa trẻ bất hạnh, mới phát hiện ra ngôi mộ đã bị ai đó đào mất.

Sau đó, bà Cung thậm chí còn lên huyện bỏ tiền thuê người ta dán cáo thị tìm em gái.

Nhưng cứ như hòn đá rơi xuống sông, cô em gái của bà biến mất mà chẳng hề có lấy một tin tức gì.

Vài năm sau, đứa con trai lớn duy nhất trong nhà bị bệnh.

Bà Cung chạy chữa mãi chẳng khỏi cho đến lúc gặp Minh Khánh.

Nghe lời “thầy” khuyên, bà Cung đi về, lật hết ba thước đất trong nhà lên.

Cuối cùng, sau khi chui vào dưới gầm giường con trai, bà tìm thấy một lá bùa dán ở đó.

Là bùa dính đầy tro bụi nhưng những đường nét đỏ tươicủa nó vẫn tươi mới như vừa mới được viết ngày hôm qua.

Những nét chữ sắc như dao màu máu trên lá bùa cực kỳ quen thuộc.

Bà Cung lập tức nhận ra đó là chữ của cô em gái.

Câu chuyện đau lòng nhiều năm cuối cùng cũng hé mở.

Nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên má bà Cung, Minh Khánh chợt cảm thấy thương cảm cho số phận hai người phụ nữ xấu số.

Số phận đã biến họ thành những người xa lạ.

Và đến khi họ tìm về với nhau, thì lại lập tức bị tách rời, và còn gieo cho nhau những nỗi đau không thể xóa đi nổi.

Câu chuyện của bà Cung khiến Minh Khánh nhớ tới câu chuyện nhiều năm trước.

Một lần hắn theo sư phụ đi thăm bạn - một vị trụ trì trên núi Đại Quyết.

Đó là một nhà sư tốt bụng, nhiệt tình giải đáp bất cứ điều gì mà Minh Khánh hỏi.

Trước khi Minh Khánh rời đi, nhà sư có kể cho hắn nghe một câu chuyện, và mong hắn ghi nhớ.

“Chuyện là một nhà buôn nọ có một con lừa và một con ngựa.

Con ngựa vì không muốn chở nặng nên giả vờ đau, bắt con lừa chở hết đồ đạc.

Rồi con lừa mệt quá, chết đi.

Thế là con ngựa không những phải chở tất cả hàng hóa của con lừa, mà còn cả tấm da lừa nữa.”

Lúc đó Minh Khánh còn bé lắm nên không hiểu.

Nhưng càng trải qua nhiều sóng gió, hắn càng thêm thấm thía những gì ẩn sâu phía sau câu chuyện nhỏ đó.

Với Minh Khánh, con ngựa mà vị trụ trì kể đại diện cho tâm hồn của hắn.

Nếu như nó không ích kỷ, không độc ác, biết tha thứ và yêu thương kẻ khác, thì chẳng bao giờ phải nhận những đau đớn, những mệt mỏi, những gánh nặng mà mình đã gây ra.Phật pháp dạy rằng:”Người khác đối xử với thí chủ như thế nào, đó là nghiệp của họ.

Thí chủ đối xử với người khác như thế nào, đó là nghiệp của thí chủ” Bất kể là ai, vua chúa, quan tướng, công hầu, hay người tu đạo, anh đối xử với kẻ khác như thế nào thì người khác cũng sẽ đối xử với anh như vậy.

Anh có thể có quyền uy, có sức mạnh bắt kẻ khác cúi đầu, nhưng đừng mong họ sẽ thân thiết và chân thành như những người tốt với họ.

Nhưng nếu anh dùng cả trái tim để mà đối đãi người khác, thì chẳng ai lại căm ghét anh.

Có lẽ với bà Cung cũng vậy.

Chỉ cần chạm vào lá bùa, Minh Khánh biết pháp lực và đạo tâm của em gái bà Cung đã đạt đến mức thượng thừa.

Người phụ nữi ấy có thể dễ dàng giết chết gia đình bà Cung với một vài lá bùa đơn giản.

Nhưng có lẽ vì nhìn thấy sự hối hận và tình yêu thương chân thành của bà Cung, cô gái chỉ để lại một lá bùa duy nhất, phức tạp hệt như những tâm tư trong lòng để trừng phạt bà Cung.

Dường như cô em gái đã quên hết những lỗi lầm của bà Cung trong quá khứ.

Cô chỉ câm hận việc bà Cung không hi sinh cô để giữ lấy đứa con.****************************Minh Khánh không biết ngay lúc đó, cách nhà cụ Trầm hai trăm dặm về phía tây Bắc, trên một ngọn núi mờ ảo, trong một căn phòng lớn, có một người phụ nữ đang ôm ngực đau đớn.

Đó là một người phụ nữ xinh đẹp, với đôi mắt sắc sảo.

Cô mặc một chiếc váy màu đen đẹp đẽ quý phái, ngồi trên một chiếc sập gụ khắc hình long phượng to lớn, uy nghi.

Phía sau chiếc sập gụ là một tấm bình phong sơn thủy làm bằng vải lụa cực kỳ quý giá.

Người phụ nữ trên sập gụ dường như rất đau đớn, đôi mày liễu nhíu lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, mồ hôi toát ra như tắm.

Nếu như bà Cung có mặt ở đây, hẳn sẽ nhận ra ngay đó là người em gái mất tích mà bà vẫn hằng mong nhớ.

Người phụ nữ bỗng ngước nhìn lên.

Bên ngoài căn phòng có tiếng bước chân nhè nhe.

Người phụ nữ hơi cau mày, có vẻ không vui, nhưng khi nhìn thấy người đến là một bóng dáng quen thuộc, thì đôi mắt liền trở nên hiền hòa.

Từ ngoài cửa, một cô gái trẻ đi vào.

Cô mặc một bộ váy trắng nhạt, xung quanh sương mờ cứ liên tục tỏa ra, che kín thân hình.

Cô gái mặc váy trắng vừa đi vào, thấy người phụ nữ đang ôm ngực, liền hoảng hốt kêu lên: “Thiết Thụ tỷ, tỷ làm sao vậy?

Tỷ đau ở đâu à?”

Người phụ nữ ngồi trên sập gụ liền vẫy tay ra hiệu cho cô gái lại gần: “Băng Sơn, lại đây, ta không sao.”

Rồi dường như quên hết mọi đau đớn, người phụ nữ chỉ tay cho cô gái trẻ ngồi xuống bên sập gụ, vui vẻ cười nhạo: “Đường đường là Băng Sơn đại vương của quân đoàn Ám Dạ, lại hoảng hoảng hốt hốt, sau này bọn thủ hạ ai còn nghe lời.”

Cô gái trẻ làm mặt quỷ với người phụ nữ, rồi sà vào lòng nàng: “Đứa nào không nghe thì vứt cho Thiết Thụ tỷ xử lý hết là xong.”

Thiết Thụ mỉm cười, vuốt ve tóc của cô gái trẻ như mẹ âu yếm con gái.

Đột nhiên nàng lại cau mày, ôm lấy ngực, ra vẻ đau đớn.

Băng Sơn lập tức ngồi dậy, kêu: “Thiết Thụ tỷ lại đau à?”

Thiết Thụ lắc đầu giải thích: “Chỉ là một cái tâm huyết lá bùa bị người ta phá mất.”

Băng Sơn kêu lên: “Kẻ nào có thể phá Tâm Huyết chú của tỷ? ” Thiết Thụ không trả lời, chỉ nhìn về nơi xa xăm.

Một lúc lâu sau, nàng mới cất giọng, tựa như nói với Băng Sơn, tựa như thủ thỉ với chính mình: “Cũng đã mười mấy năm rồi.

Thôi cứ để nó kết thúc đi.

Hồng trần nhân quả, thực sự khiến người ta quá mệt mỏi.”

Chú thích: Thiết Thụ Địa Ngục: Phàm những người trên dương gian chia rẽ cốt nhục, li gián cha con, anh chị em và vợ chồng, sau khi chết sẽ bị đày xuống “Thiết Thụ Địa Ngục”.

Trên thân cây đều là những lưỡi dao sắc, cắm vào người từ sau lưng rồi treo lên trên cây.
 
Back
Top Bottom