Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao

Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 40: Người nhà.



“Có lẽ là ta, người làm mẹ như ta, đã làm không tốt, khiến con chẳng còn lòng tin vào ta.”

“Không phải…”

“Về sau không cần như vậy nữa. Giữa mẹ con mà còn không thể thẳng thắn với nhau, thì trên đời này còn có thể tin ai được đây?” Cù thị nhìn Từ Linh Phủ, tiếp lời, “Hôm nay ta cũng đã gặp Khuất huyện lệnh, ngài ấy là người chính trực, ta cũng không nói thêm gì nữa.”

“Về sau nếu có chuyện gì con không muốn bàn bạc với ta, thì cứ nói thẳng, đừng vòng vo hay dối gạt ta.”

Linh Phủ càng thêm hổ thẹn, chỉ cúi đầu đáp:

“Vâng.”

Nàng lại rút ra chiếc hộp gấm:

“Mẫu thân…”

Cù thị thấy dáng vẻ cẩn trọng mà vụng về của nàng, cảm thấy cũng vừa đủ rồi, bèn nói:

“Đưa đây để ta xem nào.”

Linh Phủ nghe vậy, vội vàng đem cây trâm bạc trình lên cho Cù thị xem.

Cù thị cầm lấy, ngắm nghía cẩn thận một hồi, đột nhiên buột miệng:

“Ồ!”

Linh Phủ vội hỏi:

“Mẫu thân, sao vậy?”

Cù thị không trả lời, đứng dậy đi vào phòng lấy từ trong hộp trang sức ra một cây trâm bạc. Linh Phủ nhìn mà ngây người, hai cây trâm bạc giống nhau như đúc về hình dáng lẫn kích thước.

Không thể nào! Linh Phủ giật thót trong lòng, chẳng dễ gì mới mua được món quà, lại trùng mẫu sao?

Không, không chỉ là trùng mẫu đơn giản thế đâu. Nhỡ đâu Cù thị nói: “Con quên là ta đã có cây trâm này rồi sao?”

Thế thì lộ tẩy mất!

Linh Phủ trợn to mắt, ánh nhìn đảo qua lại giữa hai cây trâm.

“Cái này…”

Chỉ thấy Cù thị mặt mày vui vẻ, đưa cây trâm cũ cho Linh Phủ:

“Con nhìn xem, hai cây trâm này là một đôi đấy!”

Linh Phủ sững sờ, lập tức đưa cả hai cây trâm ra chỗ sáng, tỉ mỉ quan sát họa tiết khắc bên trong.

Cây trâm bạc mà Cù thị vốn có bên trong khắc hình một đứa trẻ đang chơi với con gà trĩ, dáng vẻ ngây thơ đáng yêu.

Hai cây trâm đặt cạnh nhau lại càng rõ ràng hơn, ngay cả vị trí của đứa trẻ cũng đối xứng nhau.

Cù thị thì thầm:

“Thật là chuyện kỳ diệu… Con chưa từng thấy cây trâm này nên không biết, nó là vật mà năm đó khi con đi núi Lộc Môn, phụ thân con vì nhớ con đến thắt ruột, đã đi mua sau giờ học để tặng ta.”

Cù thị cầm mỗi tay một cây trâm, trên gương mặt lộ ra vẻ hoài niệm pha lẫn hạnh phúc.

“Không ngờ con vừa trở về đã tặng ta cây trâm còn lại. Đây chính là thiên ý phải không…” Cù thị quay đầu, nở nụ cười với Linh Phủ, “Ánh mắt của con và phụ thân con thật giống nhau, đúng là người một nhà thì vẫn là người một nhà!”

Linh Phủ cũng kinh ngạc trước sự trùng hợp bất ngờ này. Chẳng lẽ nàng thực sự có duyên phận sâu nặng với gia đình này?

Nàng chăm chú nhìn đôi trâm bạc, trong lòng dâng lên một nỗi kính sợ đối với những điều thần bí mà không ai giải thích được.

Chẳng lẽ thật sự là thiên ý?

Nàng vốn là một cô nhi, Cù thị là một quả phụ, hai kẻ cô độc bị số phận an bài ở bên nhau, chẳng phải là để sưởi ấm cho nhau sao?

Cù thị trân trọng cất kỹ đôi trâm bạc, ánh mắt nhìn Linh Phủ đã không còn chút hờn giận nào.

Nhân lúc này, Linh Phủ lại nhắc đến sáu quan tiền còn lại. Cù thị thở dài:

“Khuất huyện lệnh cho con không ít thật, nhưng con cũng đã là đại cô nương rồi, số tiền này con cứ giữ mà dùng.”

Linh Phủ lắc đầu, nói:

“Mẫu thân, con biết những năm qua ruộng đất trong nhà bị đại bá chiếm giữ, mẫu thân phải gồng gánh rất vất vả. Nếu không, người cũng đâu có ý định đem cầm những sách quý của phụ thân. Con ra ngoài kiếm tiền cũng chỉ muốn đỡ đần gia đình một chút. Con ở nha môn cũng không tiêu xài gì, nhưng người với Điền bà tử lại còn phải sinh hoạt.”

Thế nhưng Cù thị vẫn không đồng ý. Cuối cùng, hai người thỏa thuận chia đôi số tiền.

Giải quyết xong khúc mắc tình cảm giữa mẫu thân và nữ nhi, cùng với vấn đề tài chính, Từ Linh Phủ bỗng nhiên nảy sinh hứng thú lớn với Điền bà tử. Nàng liền chạy thẳng tới nhà bếp, kéo Điền bà tử ngồi xuống, bắt đầu hàn huyên bâng quơ.

Không ngờ, trong câu chuyện tản mạn ấy lại có điều đáng suy ngẫm.

Khác với Cù thị, Điền bà tử là người nhiệt tình, gặp ai cũng có thể nói đôi câu.

Việc nhà hàng xóm thế nào, trong thôn xảy ra chuyện gì, Điền bà tử đều tỏ tường. Giữa đám gia nhân còn hình thành một mạng lưới tin tức đặc biệt.

Chuyện đông chuyện tây, những tin tức vụn vặt thoạt nghe rời rạc, tưởng như vô dụng, nhưng nếu tinh ý, có thể từ đó tìm ra những đầu mối quan trọng.

“Phải nói, ở phường Đôn Nghĩa này, trước kia vốn có mấy nhà giàu có, nhưng nổi danh nhất vẫn là nhà họ Cố. Đáng tiếc, Cố lão gia không thông tuệ như Triệu lão gia, lại còn cứng nhắc trong lời nói. Thành thử lâu dần bị chú ý, rốt cuộc tan nhà nát cửa, đến cả gia trạch cũng bán cho Triệu gia.”

“Còn gia đình họ Thái ở nhà thứ năm bên phố ta cũng thực thê thảm. Hai người con trai đều bị bắt làm khổ dịch, đi đào đê. Năm ngoái, sông Nhữ Đan vỡ đê, cả hai đều mất mạng, đến t.h.i t.h.ể cũng không tìm được. Thái nương tử khóc đến mù cả hai mắt.”

“Cách đây không lâu, đứa con bất hiếu nhà họ Vu ở cuối phố vừa ra khỏi ngục. Trong ba người bị phạt chung, hai kẻ khác bị đánh đến gãy cả xương, còn hắn, ba mươi gậy nhận hết mà tối đó vẫn đi lại như thường, hôm sau còn ra ngoài uống rượu. Thật là kỳ lạ!”

“Tiểu thư hỏi vì sao hắn bị vào ngục à? Hắn ngày ngày cùng bọn lưu manh côn đồ gây chuyện khắp nơi, đến hàng xóm cũng không tha, Cố gia, Thái gia, hắn đều từng gây rối.”

Từ Linh Phủ nghe Điền bà tử kể một tràng chuyện phiếm, mà Điền bà tử cũng thực thoải mái. Cù thị vốn thanh tâm quả dục, không cho phép Điền bà tử bàn tán chuyện người, khiến bà luôn cảm thấy bức bối.

Hôm nay hiếm có dịp Từ Linh Phủ chịu lắng nghe, Điền bà tử như được dịp nói không ngừng, hỏi gì đáp nấy.

Từ Linh Phủ nhờ đó mà mở mang không ít kiến thức. Đến khi mặt trời ngả về Tây, ngoài cửa vang lên tiếng gõ. Điền bà tử cười nói: “Hẳn là Khuất huyện lệnh đã đến tìm tiểu thư.”

Quả nhiên, mở cửa ra là Khuất Nguyên Đình.

Từ Linh Phủ cáo biệt với Cù thị, lại dặn Điền bà tử trưa mai ra ngoài nha môn chờ nàng để nhận tiền, rồi mới cùng Khuất Nguyên Đình rời Từ gia.

Vừa ra khỏi cửa, Từ Linh Phủ đã nhịn không được mà hỏi: “Nguyên Đình huynh, chuyến này có thu hoạch gì chăng?”

Khuất Nguyên Đình nhìn vẻ nôn nóng của nàng, không khỏi bật cười: “Thu hoạch thực không ít. Ta cũng không ngờ các phú hộ huyện Sở Ấp vì muốn trốn tránh lao dịch lại nghĩ ra nhiều mưu mẹo đến vậy.”

Rồi hắn thuật lại quá trình vừa rồi làm cách nào thăm dò được Triệu gia.

Nguyên lai, Khuất Nguyên Đình giả làm ngoại tôn của phu nhân quá cố nhà họ Triệu, đến tìm nơi nương tựa. Triệu lão gia đã mất vợ nhiều năm, đối với thân thích bên vợ không muốn bỏ tiền, cũng chẳng muốn quá vất vả, nhưng nghĩ đến chút tình nghĩa cũ, liền ra sức khuyên Khuất Nguyên Đình mua một tờ độ điệp trắng, lại kể ra nhiều lợi ích.

Từ Linh Phủ nghe mà trợn mắt: “Xuất gia mà độ điệp cũng có thể mua, lại là độ điệp trắng? Đây chẳng phải trở thành một ngành nghề buôn bán sao?”

Khuất Nguyên Đình nở nụ cười đầy giễu cợt: “Đúng vậy. Ngươi có biết Triệu lão gia bảo ta tìm ai để mua độ điệp không?”

Từ Linh Phủ mở to mắt, chờ nghe tiếp.

“Chính là Đại bá Từ tư hộ tá của ngươi.”

Từ Linh Phủ kinh ngạc: “Đại bá ta còn có khả năng này sao?”

Khuất Nguyên Đình lắc đầu: “Ta đoán y chỉ là người đứng ra làm mặt ngoài, kẻ thực sự hưởng lợi hẳn là kẻ khác.”

Từ Linh Phủ gật đầu, trong lòng bắt đầu đoán xem phía sau Từ Bách Hưng là ai.

Đi được vài bước, nàng đột nhiên quay đầu nhìn Khuất Nguyên Đình: “Nguyên Đình huynh thật lợi hại! Hôm nay chỉ thoáng nhìn qua danh sách, đã nhớ kỹ hết thông tin về nhà họ Triệu cùng những người khác, lại còn đặc biệt đi tra xét. Chẳng lẽ huynh có trí nhớ kinh người?”

Khuất Nguyên Đình mỉm cười: “Quá khen. Trí nhớ kinh người thì không dám, nhưng thoáng nhìn mà nhớ được bảy tám phần thì không khó.”
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 41: Bị quản thúc.



Từ Linh Phủ khẽ mím môi, trong lòng thầm nghĩ: học bá quả nhiên vẫn là học bá, không trách được người ta tuổi còn trẻ đã đỗ tiến sĩ.

Theo lời Cù thị, trong triều Đại Tuyên, việc đỗ tiến sĩ là vô cùng khó khăn. Nhiều người khổ công dùi mài kinh sử hàng chục năm vẫn chưa chắc đạt được tư cách tham gia khoa cử.

Thống kê cho thấy, đa phần những người đỗ tiến sĩ đều ở độ tuổi bốn mươi, năm mươi. Còn những ai dưới ba mươi đã đỗ, đều là nhân tài kiệt xuất. Do đó mới có câu: “Ba mươi già tú tài, năm mươi trẻ tiến sĩ.”

Khuất Nguyên Đình hơn hai mươi tuổi đã đỗ tiến sĩ, có thể gọi là kỳ tài trời ban cũng không ngoa.

Từ Linh Phủ chăm chú nhìn vào gương mặt nghiêng của Khuất Nguyên Đình, trong lòng không khỏi thầm cảm thán.

Khuất Nguyên Đình dừng bước, bật cười hỏi: “Vì sao ngươi cứ nhìn ta mãi thế?”

Từ Linh Phủ lúng túng đáp: “Chỉ là muốn chiêm ngưỡng học bá sống trông ra làm sao.”

Khuất Nguyên Đình hỏi: “Học bá là gì?”

“Chính là kiểu người như ngài, học giỏi đến mức khiến người khác dù có chạy hết sức cũng chẳng thể đuổi kịp, chỉ còn biết đứng từ xa ngước nhìn.” Từ Linh Phủ nói một hơi dài.

Ánh nắng chiều tà màu vàng rực rỡ chiếu lên hàng mi của nàng, lấp lánh như phủ ánh sáng vàng. Đôi mắt nàng như chứa dòng nước trong trẻo, linh động.

Khuất Nguyên Đình như bị ma xui quỷ khiến, bất giác đưa tay định chạm vào hàng mi cong cong quyến rũ ấy.

Ngay khi đầu ngón tay sắp chạm đến, hắn bừng tỉnh, nhìn thiếu nữ đối diện đang ngây người vì hành động của mình. Hắn khẽ điều chỉnh tay, đưa lên xoa nhẹ đầu nàng.

Từ Linh Phủ: “???”

Là ý gì đây?

Vì cớ gì lại xoa đầu nàng đầy vẻ thương hại như vậy?

Đây là cách học bá thể hiện sự đồng cảm hay sao?

Trong đầu Từ Linh Phủ thoáng hiện hình ảnh các sai dịch v**t v* chú c.h.ó vàng to lớn, hiền lành và chăm chỉ làm việc.

Nàng nheo mắt, đầy vẻ cảnh cáo.

Ta khen ngài, ngài lại xoa đầu ta?!

Nhìn thiếu nữ nheo mắt, đôi môi nhỏ hơi chu ra, vừa đáng yêu vừa như đang tức giận, trái tim Khuất Nguyên Đình bỗng đập loạn nhịp.

Hắn cảm thấy nếu còn nhìn thêm chút nữa, bản thân nhất định sẽ làm ra hành động thất lễ hơn. Vì vậy, vội vàng dời mắt đi, ho nhẹ hai tiếng: “Trời không còn sớm, chúng ta phải về huyện nha trước khi tiếng trống giới nghiêm vang lên.”

Từ Linh Phủ nhún vai, hai người băng qua các con phố, hướng về huyện nha.

Trở về huyện nha, vào đến nội nha, sau khi từ biệt Khuất Nguyên Đình, Từ Linh Phủ liền quay về phòng mình.

Không lâu sau, Anh Nữ và A Vân mang nước rửa mặt cùng đồ dùng khác vào hầu hạ.

Từ Linh Phủ rửa sạch tay, nhận lấy khăn tay từ Anh Nữ rồi lau khô, sau đó Anh Nữ đặt khăn xuống và rót trà cho nàng.

Từ Linh Phủ nhận thấy, khác với sự bận rộn của Anh Nữ, A Vân hầu như chỉ đứng đó, chẳng làm gì, đôi môi rũ xuống, chỉ lặng lẽ nhìn họ.

Có chút kỳ lạ nhỉ.

Từ Linh Phủ quyết tâm thử một chút, hỏi nàng ta: “Ngươi là A Vân phải không?”

A Vân nghe Linh Phủ bất ngờ gọi đến mình, thoáng ngẩn người, sau đó chỉ “Ừm” một tiếng.

Thái độ này thật là lạnh nhạt.

Linh Phủ nói: “Mang giúp ta giấy bút, thêm vài cây nến nữa.”

A Vân hơi nhíu mày: “Tiểu thư cần những thứ này làm gì?”

Anh Nữ quay đầu, đưa cho A Vân một ánh mắt cảnh cáo, nhưng A Vân giả vờ như không thấy, vẫn cứ nhìn thẳng vào Linh Phủ.

Linh Phủ bình thản đáp: “Cần dùng.”

A Vân vừa mở miệng định nói, thì Anh Nữ nhanh chóng xen vào: “Tiểu thư yên tâm, một lát nữa ta sẽ mang đến.”

Linh Phủ không đáp lại, nhưng cũng nhận ra A Vân không thân thiện với mình.

Sau khi xong việc, Anh Nữ kéo A Vân đi. Nửa tuần trà sau, Anh Nữ mang cơm canh lên. Chờ Linh Phủ dùng xong bữa tối, nàng lại đến thu dọn, rồi mang giấy bút và nến vào.

Linh Phủ cười, nói: “Ngươi đi đi lại lại vài chuyến, vất vả rồi, cảm ơn.”

Anh Nữ vội cúi đầu hành lễ: “Tiểu thư khách khí rồi, hầu hạ tiểu thư là bổn phận của nô tỳ, không dám nhận lời cảm ơn.”

Linh Phủ hỏi: “Sao không thấy A Vân?”

Anh Nữ đáp: “Nàng ta… thân thể có chút bất ổn, hôm nay đã nghỉ ngơi rồi. Tiểu thư có việc gì, cứ sai bảo Anh Nữ cũng được.”

Linh Phủ gật đầu, chỉ vào chiếc ghế trăng khuyết bên cạnh, nói với Anh Nữ: “Ngồi xuống nói chuyện.”

Anh Nữ vội từ chối: “Không dám, tiểu thư có gì cứ sai bảo.”

Linh Phủ: “Ngồi xuống, chúng ta nói chuyện.”

Anh Nữ thấy vậy, không tiện từ chối, đành ngồi xuống ghế.

Linh Phủ hỏi: “Ngươi và A Vân vào làm việc ở nội nha từ khi nào?”

Anh Nữ cúi đầu đáp: “Nô tỳ vào nội nha hai năm trước, còn A Vân vào trước nô tỳ vài năm, đã được bốn, năm năm rồi.”

Linh Phủ hỏi tiếp: “Các ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?”

Anh Nữ đáp: “Nô tỳ năm nay mười bảy, A Vân nhỏ hơn nô tỳ một tuổi, hiện giờ cũng mười sáu rồi.”

Vậy ra, A Vân đã vào nội nha từ khi mới mười một, mười hai tuổi?

Linh Phủ mỉm cười: “Các ngươi ở nội nha lâu như vậy, ta mới đến, chẳng biết gì cả, mong các ngươi chỉ giáo thêm.”

Anh Nữ vội nói: “Tiểu thư quá lời rồi, sao tiểu thư lại khách khí với chúng nô tỳ như vậy? Nô tỳ chỉ là kẻ bán thân vào đây, đâu dám so bì với tiểu thư.”

Linh Phủ hỏi: “Những người làm việc trong nội nha đều là nô lệ bán thân sao?”

Anh Nữ đáp: “Không hẳn, có vài tạp dịch là dân thường, một số tuy là thuộc hộ quan, nhưng đã được quan trên thả tự do. Như Tiết quản sự là trường hợp như vậy.”

Linh Phủ nhớ tới nữ quản sự có khí chất mạnh mẽ và cẩn trọng kia.

Anh Nữ nói tiếp: “Còn lại hoặc như nô tỳ là nô bộc được mua vào, hoặc như A Vân là quan bộc.”

Linh Phủ không rõ lắm về các cấp bậc trong Đại Tuyên triều, chẳng hạn sự khác biệt giữa nô bộc và quan bộc là gì. Những khái niệm như bộ khúc và khách hộ mà Tưởng huyện thừa hay Lý Nghiệp từng nhắc đến, nàng cũng chưa hiểu.

Xem ra vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu.

Linh Phủ nghĩ ngợi rồi hỏi: “Vậy sao Anh Nữ lại bị bán làm nô tỳ?”

Anh Nữ thoáng buồn, trong giọng nói lộ ra chút cay đắng không tránh được: “Còn chẳng phải do loạn lạc sao. Quê của nô tỳ ở huyện Đằng, vốn chỉ là nhà nông bình thường. Nhưng năm ấy, phản quân Bác Thôi tràn xuống phía nam, cướp bóc g.i.ế.t chóc khắp nơi. Nhà nô tỳ bị chúng đốt, cha mẹ nô tỳ phải dẫn nô tỳ và muội muội chạy nạn.”

“Khó khăn lắm mới trốn đến địa phận Tống Châu, nhưng chẳng còn chút gì đáng giá, cả nhà hai ngày liền không có lấy giọt nước hạt cơm nào. Cha mẹ nô tỳ bất đắc dĩ phải bán nô tỳ cho nhà buôn người, sau đó được quản sự chọn mua vào nội nha làm nô tỳ.”

Linh Phủ bất giác thở dài, lại hỏi: “Vậy cha mẹ ngươi sau này có tin tức gì không?”

Anh Nữ lắc đầu: “Sau đó Tống Châu cũng loạn. May mắn nô tỳ được nương nhờ nội nha, dù vất vả nhưng không phải chịu cảnh long đong. Nhưng cha mẹ và muội muội nô tỳ có được may mắn như vậy hay không, nô tỳ không rõ.”

Linh Phủ gật đầu: “Loạn thế ly tán… Ngươi chưa từng nghĩ đến việc ra ngoài tìm tin tức của họ sao?”

Anh Nữ cười khổ: “Tiểu thư chớ nói đùa, nô tỳ đã là thân phận nô bộc, nội nha này xưa nay không cho phép nô tỳ ra ngoài. Đừng nói tìm tin tức, ngay cả cửa nội nha, nô tỳ cũng không thể bước qua.”

Linh Phủ nhíu mày, cảm thấy điều này thật bất công.

Nàng luôn nghĩ mình đã mệt mỏi vì cuộc sống công sở, nhưng so với những nô tỳ như Anh Nữ, cuộc sống của nàng vẫn còn dễ chịu chán.

Dù nội nha rộng rãi, cảnh trí đẹp đẽ, nhưng bị nhốt trong đó liên tiếp mấy năm, chẳng khác gì nhà tù.

Huống hồ A Vân đã ở đây bốn, năm năm, nếu đổi lại là nàng, có lẽ đã phát điên vì cuộc sống giam cầm ấy.
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 42: Huyết thư.



Nghĩ như vậy, nàng liền bỏ qua những biểu hiện không thân thiện của A Vân, thay vào đó là một sự cảm thông sâu sắc.

Sau khi Anh Nữ thu dọn đồ đạc rời đi, Từ Linh Phủ ngồi cả đêm đọc văn thư.

Nhưng dù đọc nhiều đến mấy, chỉ nhìn vào bề ngoài cũng không thể phát hiện ra vấn đề gì.

Sáng hôm sau, trên đường đến nha môn cùng Khuất Nguyên Đình, Từ Linh Phủ hỏi hắn về một số vấn đề liên quan đến thuế khóa và dân số. Khuất Nguyên Đình nói rõ những điểm trọng yếu, thấy nàng vẫn chưa thỏa mãn, liền cười nói:

“Ở phòng giá các có lưu trữ các mệnh lệnh qua các triều đại, tình hình cụ thể của huyện ta, hộ phòng chắc chắn có hồ sơ lưu trữ liên quan, ngươi cứ tìm xem. Nếu có điều gì không rõ thì cứ nói với ta.”

Từ Linh Phủ nhận lệnh, liền chui vào hộ phòng suốt nửa ngày, tập trung tìm kiếm những tài liệu liên quan đến vài chuyện mà Điền bà tử từng đề cập. Càng xem, trong lòng nàng càng sinh nghi.

Chẳng hạn như chuyện hai người con của Thái nương tử tử vong khi đi lao dịch thật kỳ lạ.

Thuế khóa của Đại Tuyên triều được cấu thành bởi ba phần: “tô,” “dung,” và “điệu.” Trong đó, “tô” có thể hiểu đơn giản là thuế ruộng, còn “dung” là lao dịch không công mà mỗi nam đinh trưởng thành phải thực hiện cho triều đình, gọi là “thượng phiên.” Lao dịch này có nặng có nhẹ, có loại không quá khổ, cũng có loại vô cùng cực nhọc.

Theo chế độ lao dịch của triều đình, bất kỳ công việc nào đều ưu tiên chọn những gia đình giàu có và đông đinh trước, sau đó mới đến nhà nghèo và ít đinh. Nói đơn giản là triều đình sẽ cố gắng chọn gia đình khá giả và đông nhân khẩu để cử người đi lao dịch.

Thế nhưng, Từ Linh Phủ tra thấy gia đình Thái nương tử thuộc loại trung đẳng trong nhóm hộ hạ đẳng, chỉ có hai người con trai, không thể xem là đông đinh. Vậy mà cả hai lại bị cử đi làm việc khổ sai tu sửa đê điều, điều này rõ ràng vi phạm nguyên tắc phân bổ lao dịch.

Rốt cuộc là ai đã thực hiện sự sắp xếp bất hợp lý này?

Buổi trưa, nhân dịp mang tiền đến cho Điền bà tử, Từ Linh Phủ hỏi thăm vị trí và một vài thông tin về nhà Thái nương tử, rồi chủ động đề nghị Khuất Nguyên Đình kiểm tra lại danh sách.

Vốn dĩ Khuất Nguyên Đình đã định làm chuyện này, giờ thấy Từ Linh Phủ và hắn suy nghĩ giống nhau, liền đồng ý ngay.

Hắn định phái hai sai dịch đi cùng nàng, nhưng Từ Linh Phủ cho rằng một mình đi sẽ linh hoạt hơn, lại ít gây chú ý.

Ngôi nhà thứ năm trên con đường thứ ba của phường Đôn Nghĩa chính là nhà của Thái nương tử mà Điền bà tử đã nói.

Từ Linh Phủ đứng trước cánh cửa gỗ cũ kỹ, gõ cửa một hồi lâu nhưng không ai ra mở. Đang định xoay người rời đi, bỗng nghe thấy bên trong vang lên tiếng trẻ con khóc thét.

Từ Linh Phủ lập tức cảm thấy không ổn, liền dùng sức đập cửa mạnh hơn, nhưng vẫn không có ai trả lời.

Nàng lùi lại một chút, rồi lao nhanh về phía trước, dùng vai đ.â.m mạnh vào cánh cửa. “Rầm!” Một tiếng lớn vang lên, cửa không mở, nhưng vai nàng thì suýt gãy.

Từ Linh Phủ nghiến răng xoa xoa vai, cảm thán công việc không thể gượng ép, nếu không đ.â.m được cửa, vậy thì trèo tường thôi.

Vì vậy, tuyệt kỹ “Bát Bộ Cảm Thiền” của nàng lại được phát huy, nhẹ nhàng nhảy qua tường vào trong sân. Lần theo tiếng khóc, nàng bước vào trong nhà, chỉ thấy một đứa trẻ đang ngồi trong chiếc chum nước trống, tay đưa ra ngoài khóc không ngừng.

Từ Linh Phủ nhíu mày. Lẽ nào trong nhà chỉ có mỗi đứa trẻ này thôi sao?

Nàng vội đi tìm người lớn trong nhà, nhưng những gì lọt vào mắt chỉ là một cảnh tượng hỗn độn, giống như đã bị người ta lục tung và đập phá không thương tiếc.

Từ Linh Phủ thầm nghĩ không hay, đến khi bước vào bếp, nàng giật mình khi nhìn thấy một một nữ nhân treo mình trên xà nhà!

Nàng lập tức hoảng loạn, vội vàng gỡ nữ nhân xuống, đưa tay chạm vào ngực, phát hiện vẫn còn hơi thở. Từ Linh Phủ liền nhanh chóng tiến hành hô hấp nhân tạo và ép tim ngoài lồng ngực. Hồi lâu sau, khi mồ hôi đã lấm tấm trên trán, nữ nhân cuối cùng khẽ rên một tiếng, rồi ho sặc sụa.

Từ Linh Phủ lau mồ hôi trên mặt, thở dài nói:

“Vị nương tử này, vì sao lại nghĩ quẩn mà định tuyệt đường sống?”

Nữ nhân nhìn chằm chằm Từ Linh Phủ hồi lâu, hai mắt hơi trừng lên, rồi bất ngờ bật khóc nức nở:

“Ngươi vì sao lại cứu ta? Sao không để ta yên ổn mà c.h.ế.t đi?”

Từ Linh Phủ có chút tức giận, nàng bước đến bên chum nước, bế đứa trẻ đang khóc không ngừng đến trước mặt nữ nhân:

“Có thể thẩm đã trải qua chuyện gì kinh khủng, nhưng dù khó khăn đến đâu, cũng không thể bỏ lại một hài tử vô tội như thế này!”

Nữ nhân vốn luôn cứng đờ, nhưng khi nghe tiếng khóc của đứa trẻ, lòng không kìm được mà vỡ òa, liền ôm lấy đứa trẻ vào lòng, nước mắt tuôn rơi không ngớt.

Đứa nhỏ vừa khóc vừa lấy bàn tay nhỏ bé lau nước mắt trên gương mặt nữ nhân, líu lưỡi nói:

“Tổ mẫu đừng khóc, Tổ mẫu đừng khóc…”

Từ Linh Phủ đứng bên nhìn mà sống mũi cay cay, nàng quỳ xuống, dịu giọng hỏi:

“Dám hỏi, thẩm đây có phải là Thái nương tử?”

Nữ nhân khóc lóc gật đầu.

Từ Linh Phủ tiếp lời:

“Đứa nhỏ trong lòng thẩm, chắc hẳn là cốt nhục mà trưởng tử Thái A Thật của thẩm để lại?”

Nghe đến tên trưởng tử, nước mắt Thái nương tử lại tuôn trào dữ dội hơn, bà chỉ biết gật đầu thật mạnh.

Từ Linh Phủ nghiêm giọng:

“Nếu vậy, Thái nương tử, sao thẩm nỡ lòng nào bỏ mặc cháu ruột của mình? Thẩm có nghĩ đến, nếu thẩm c.h.ế.t đi, đứa nhỏ này sẽ ra sao không?”

Thái nương tử đôi mắt đỏ au, nhìn chăm chăm vào miệng bếp lò:

“Chính vì đứa trẻ này, ta mới phải chết.”

Từ Linh Phủ nhíu mày không hiểu. Thái nương tử hít sâu một hơi, lấy từ trong n.g.ự.c ra một mảnh vải trắng đầy chữ viết bằng máu:

“Ta muốn dùng cái c.h.ế.t của mình, khiến những kẻ ăn xương thịt, uống m.á.u nhi tử ta không thể sống yên ổn!”

Từ Linh Phủ nhận lấy mảnh vải, cẩn thận đọc từng chữ, sắc mặt càng lúc càng trầm trọng. Nàng chậm rãi nói:

“Ai nói với thẩm rằng, chỉ một bức huyết thư này có thể khiến nỗi oan của gia đình thẩm được giải?”

Thái nương tử ngẩn ra, hỏi:

“Ngươi có ý gì?”

Từ Linh Phủ thở dài, đỡ Thái nương tử dậy, dìu bà ngồi xuống ghế dài, lại thấy đứa trẻ khóc khan cả cổ, liền rót bát nước cho uống, rồi mới từ tốn nói:

“Thái nương tử, chuyện nhà thẩm ta đều đã nghe qua. Hai nhi tử thẩm đều gặp nạn, rơi xuống nước trong lúc đi lao dịch.”

Thái nương tử ngẩn ngơ nói:

“Bọn người trong nha môn thật nhẫn tâm. Hai đứa con ta c.h.ế.t rồi, ta tìm đến nha môn đòi công lý, chúng lại đuổi ta ra ngoài, còn mắng nhiếc, dọa bắt giam ta vào nhà lao dành cho nữ phạm.”

Bà nhìn chằm chằm Từ Linh Phủ:

“Lẽ nào hai đứa con ta c.h.ế.t như thế, quan phủ cũng không cho ta một lời công bằng sao?”

Từ Linh Phủ đáp:

“Lẽ ra phải có công lý. Chính vì vậy, ta mới đến đây.”

Thái nương tử ngước mắt nhìn Từ Linh Phủ, kinh ngạc hỏi:

“Ngươi?”

Từ Linh Phủ nói:

“Thái nương tử, thẩm có biết rằng triều đình ta có chế độ cửu đẳng hộ không?”

Thái nương tử đáp:

“Biết chứ. Cả nhà ta cộng lại có gần 180 mẫu ruộng, thuộc loại thượng đẳng trong hạng hạ hộ.”

Từ Linh Phủ lại hỏi:

“Thẩm có biết, theo chế độ hộ tịch đó, một hộ gia đình như nhà thẩm tối đa chỉ phải cử một người đi lao dịch?”

Thái nương tử mở miệng định nói, nhưng rồi ngẩn ra:

“Chỉ cử một người? Nhưng phường chính lại bảo cả A Thật và A Căn đều có tên trong sổ, không đi thì sẽ bị đánh…”

Từ Linh Phủ trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi tiếp:

“Thẩm nói, sau khi nhi tử qua đời, thẩm đã tìm đến nha môn đòi công lý?”

Thái nương tử gật đầu:

“Phải, nhưng bọn sai dịch nghe ta nói ý định, liền không cho ta vào, còn đe dọa nếu ta tiếp tục quấy rối, sẽ giam ta vào nhà lao.”

Từ Linh Phủ lại hỏi:

“Vậy nên thẩm cầu cứu không được, bèn muốn tìm đến cái chết?”

Thái nương tử lắc đầu:

“Con ta mất rồi, trời đất với ta cũng sụp đổ. Nhưng…” Nàng ôm đứa trẻ đang chơi cọng rơm bên cạnh, áp khuôn mặt bé nhỏ của nó vào mặt mình, “…nhìn tiểu Quả Tử còn bé thế này, ta chỉ muốn cố gắng sống để nuôi nó khôn lớn…”

“Nhưng ai ngờ, tên Chu phường chính lại dẫn bọn sai dịch đến, bảo sẽ thu hồi ruộng đất đứng tên hai đứa con ta. Ta dựa vào chút ruộng đó để sống qua ngày cùng tiểu Quả Tử, sao có thể giao ra được?”
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 43: Trang giấy cũ.



Thái nương tử vừa nói vừa xúc động đến rơi lệ:

“Chính là Chu phường chính ép ta giao ra khế ruộng, ta không chịu, hắn liền dẫn người đến đập nát bếp lò, còn tiểu tiện vào trong nồi! Tiểu Quả Tử bị họ dọa đến mức đêm nào cũng gặp ác mộng… Hắn còn uy h**p, nếu ngày mai ta không giao ra khế ruộng, sẽ bán tiểu Quả Tử cho bọn buôn người!”

Từ Linh Phủ càng nghe càng giận, đây quả thực là chèn ép đến tận cùng! Không trách được lúc mới vào đã thấy cảnh nhà cửa tan hoang, hóa ra đều do bọn họ gây ra.

Thái nương tử tiếp tục:

“Ta bị ép đến đường cùng, may mắn có Tôn tú tài nhà bên chịu giúp đỡ. Hắn bảo chỉ cần ta viết một bức huyết thư thể hiện quyết tâm, sau đó hắn sẽ mang xác ta đến nha môn làm loạn, như vậy nhất định sẽ khiến những kẻ ức h.i.ế.p ta bị trừng trị! Đến lúc ấy, quan phủ tất phải đứng ra nuôi dưỡng tiểu Quả Tử…”

Từ Linh Phủ: “...”

Thái nương tử à, sao thẩm lại tin những lời này?

Nhìn nữ nhân khốn khổ bị áp bức đến cùng cực trước mặt, Từ Linh Phủ không nỡ nói những lời trách móc cay nghiệt hơn. Nhưng nàng thực sự muốn khuyên bà rằng: Ngay cả khi sống ngươi còn không đủ sức đối đầu với bọn hung ác, sao có thể mong sau khi chết, một cái xác lại đòi được công bằng cho gia đình?

Cái gã Tôn tú tài kia, tám phần là cùng một giuộc với bọn sói lang, chỉ chờ ăn xác chết. Những hành động của hắn sao giống giúp đỡ thật tâm được, mà chỉ như một thủ đoạn chiếm đoạt của cải mà thôi.

Từ Linh Phủ thu lại dòng suy nghĩ, nghiêm túc nhìn Thái nương tử:

“Thái nương tử, nếu thẩm đã không sợ chết, vậy có dám tin ta một lần hay không?”

Thái nương tử lau nước mắt:

“Cô nương là ai?”

Từ Linh Phủ:

“Ta chính là nữ nhi của Từ gia trên phố này, Từ Linh Phủ.”

Thái nương tử chớp mắt:

“Chẳng phải là thiên kim duy nhất của Từ học sĩ sao?”

Từ Linh Phủ gật đầu:

“Đúng vậy, hiện tại ta đang làm việc bên cạnh huyện lệnh đại nhân. Nếu thẩm tin ta, thì đừng nghĩ đến chuyện tìm cái c.h.ế.t nữa. Ta sẽ nghĩ cách giúp thẩm đòi lại công đạo.”

“Ngài là thiên kim nhà Từ học sĩ à…” Thái nương tử lại quan sát Từ Linh Phủ từ đầu đến chân. “Nữ nhi của Từ học sĩ, làm sao ta lại không tin được? Nghĩ đến Từ Học sĩ chính trực cương nghị, dù đối mặt với loạn quân cũng không hề khuất phục. Nữ nhi của ông ấy, làm sao có thể thua kém?”

Ánh mắt Thái nương tử lóe lên một tia hy vọng:

“Hiện giờ ngài đang làm việc bên cạnh huyện lệnh đại nhân?”

Từ Linh Phủ lại gật đầu.

Thái nương tử thở dài:

“Tân huyện lệnh vừa đến đã mở kho phát lương thực, ta tin rằng đó là một vị quan tốt. Vài ngày trước, phường chính dẫn người đến phá phách, cũng may có Điền bà tử dẫn các láng giềng ra can ngăn, bọn họ mới chịu rút lui…”

Bà cúi đầu nhìn đứa cháu trong lòng, tia hy vọng sống dần lấn át suy nghĩ tìm đến cái chết. Bà ngẩng đầu lên nhìn Từ Linh Phủ:

“Ta tin ngài!”

Thái nương tử mạnh mẽ lau nước mắt:

“Trời không tuyệt đường người, chắc chắn là ông trời thấy không thể nhẫn tâm, nên mới để tiểu thư đến giúp đỡ tổ tôn chúng ta. Linh Phủ tiểu thư, chỉ cần có cách để ta nuôi lớn tiểu Quả Tử, dù khổ cực đến đâu ta cũng muốn sống!”

Từ Linh Phủ thấy vẻ kiên cường dần trở lại trên khuôn mặt bà, trong lòng cuối cùng cũng nhẹ nhõm đôi chút, nói:

“Được, vậy nếu mấy ngày tới phường chính lại đến ép giao khế ruộng, ngươi cứ tạm thời dối gạt hắn. Nếu thực sự không kéo dài được nữa, cũng có thể đồng ý bán ruộng, nhưng nhớ kỹ, nhất định phải đến nha môn lập khế ước và giao dịch.”

Đây là để đảm bảo bà không vì đối đầu quá cứng rắn với đám ác đồ mà gặp nguy hiểm.

Về phần sau đó, nếu đã nhúng tay vào, nàng tuyệt đối không thể để tổ tôn nhà họ Thái, những người đã đến bên bờ vực thẳm, bị đẩy xuống tận cùng tuyệt vọng bởi đám kẻ ác kia!

Từ nhà họ Thái trở về huyện nha, Từ Linh Phủ liền chui vào gian phòng chứa các văn thư công vụ, chìm đắm giữa đủ loại công văn, giấy tờ.

Linh Phủ đã hỏi qua, mâu thuẫn giữa phường chính và Thái nương tử chủ yếu xoay quanh sáu mươi mẫu vĩnh nghiệp điền kia.

Nàng cũng là sau khi tiếp xúc danh sách mới tìm hiểu kỹ pháp lệnh điền thổ của Đại Tuyên triều, từ đó biết được sự khác biệt giữa vĩnh nghiệp điền và khẩu phân điền.

Nói đơn giản, ruộng đất do triều đình cấp cho dân chúng được chia làm hai loại: vĩnh nghiệp điền và khẩu phân điền. Vĩnh nghiệp điền là đất đai mà bách tính thực sự sở hữu quyền tài sản, có thể thừa kế và mua bán.

Khẩu phân điền lại là đất canh tác được triều đình phân cho mỗi nam đinh trưởng thành, tức “thành đinh”. Loại đất này cần nộp thuế theo mẫu, nhưng không thuộc về người được cấp đất. Nếu người đó qua đời, phần đất này phải giao lại cho triều đình để phân phối lại cho tân đinh.

Sáu mươi mẫu vĩnh nghiệp điền của nhà họ Thái là chút gia sản được tích cóp qua hai ba đời. Nay Thái nương tử một mình không thể canh tác số đất này, dù là cho thuê hay bán đi, đều phải dựa vào ruộng đất này để nuôi sống tôn tử.

Do đó, cách giải quyết tình thế khó khăn của Thái nương tử hiệu quả nhất chính là tìm ra ghi chép cấp đất ban đầu.

Nhưng việc tìm kiếm không hề dễ dàng.

Trước hết, nàng phải phàn nàn về cách quản lý văn thư ở huyện nha.

Tài liệu phủ đầy bụi thì thôi, còn bị sắp xếp lộn xộn! Trên thì là số thuế thu hằng năm, dưới lại là danh sách số lượng nhà cửa, đồ đạc tại các thần đàn và miếu tự trong huyện. Tưởng như đã tìm thấy ghi chép cấp đất, lật thêm một chồng thì lại thành số lượng học đồ địa phương qua các năm.

Cách lưu trữ văn thư ở đây có thể gói gọn trong bốn chữ: hoàn toàn hỗn loạn!

Linh Phủ vừa xem vừa sắp xếp, thầm cảm thấy may mắn vì thân thể này không phải dạng dễ dị ứng. Nếu không, chỉ riêng bụi, mốc và đủ loại tàn dư này cũng đủ khiến bất kỳ người bị viêm mũi dị ứng hay hen suyễn phát bệnh ngay tại chỗ.

Nhưng khi nàng nhìn thấy một chồng tài liệu không biết bị ngấm nước từ năm nào tháng nào, loang lổ như tranh thủy mặc ở góc tường, trong lòng vẫn không khỏi nghẹn ngào vài phần.

Không phải trùng hợp đến vậy chứ? Ghi chép của nhà họ Thái liệu có nằm ngay trong đống này không?

Linh Phủ khó nhọc tách những trang giấy cũ kỹ dính c.h.ặ.t vào nhau, mang theo dấu vết gợn sóng của nước khô, cẩn thận phân biệt chữ viết bên trên.

Chỉ thấy bìa ngoài chỉ còn nhận ra vài chữ như “thập”, “niên”, “huyện”, “canh”. Bên trong, từng hàng chữ lờ mờ có thể nhận ra các từ như “ngục”, “vũ”, “thiên”, “tuần canh”, “đức”, “nhập ngục”, “giản tù”, “y chú cáo tri”.

Lật tiếp thì thấy các từ như “nhị canh”, “điển ngục”, “nhập ngục”. Xem chừng đây là một sổ trực ca ghi chép việc tuần tra ban đêm và quản tù.

Hừ, không phải điền bạ mà nàng cần tìm.

Các loại văn thư dọc khiến Linh Phủ hoa mắt chóng mặt, hơn nữa bút tích ghi chép thì tốt xấu lẫn lộn, do nhiều người viết, không chỉ khó hiểu mà thậm chí nhận dạng cũng là một vấn đề lớn.

Linh Phủ cắn răng kiên nhẫn đọc hết những văn thư khô khan, nhàm chán này. Chỗ nào không hiểu, nàng chép lại vào giấy trắng, chuẩn bị hỏi Lý Nghiệp hoặc Khuất Nguyên Đình.

Than ôi, kiếp trước đi học còn chưa từng "chăm chỉ" thế này…

Bây giờ muốn sống được ở huyện nha, coi như đây là phẩm chất cần có của một trợ lý thư ký đi.

Chẳng mấy chốc trời đã tối, gian phòng chứa tài liệu chìm vào bóng đêm. Linh Phủ mò mẫm định châm dầu cho đèn trên bàn, thì cửa phòng mở ra, Khuất Nguyên Đình cầm nến bước vào.

“Huyện lệnh đại nhân?” Linh Phủ nhìn văn thư mấy canh giờ liền, ánh mắt cũng đã ngây ngây dại dại.

Khuất Nguyên Đình dùng nến châm đèn dầu, rồi giơ nến lên chiếu vào mặt Linh Phủ, suýt nữa bật cười.

Linh Phủ hoàn toàn không để ý, chỉ tự nhiên nói: “Ta vẫn chưa tìm được, hay là ngài cứ về nội nha trước đi, không cần đợi ta…”

Lời còn chưa dứt, đã thấy Khuất Nguyên Đình cúi người tới, vươn tay nhẹ nhàng lau đi thứ gì đó trên mặt nàng.
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 44: Ma quái.



Từ Linh Phủ giật mình lùi một bước, vội vàng sờ lên mặt mình:

“Trên mặt ta có gì sao?”

Nàng đảo mắt nhìn quanh, nhưng không thấy thứ gì có thể soi bóng, đành dùng tay áo lau lung tung lên mặt hai lượt.

Khuất Nguyên Đình nhìn động tác rửa mặt giống mèo con của nàng, đầu ngón tay vẫn còn vương cảm giác mềm mịn từ da nàng. Trong lòng hắn bỗng như mọc lên một tầng cỏ mềm mại, nhè nhẹ rung rinh, ngưa ngứa.

“Đừng lau nữa, càng lau càng bẩn.” Hắn nhịn cười, nhắc nhở nàng.

Từ Linh Phủ nhìn xuống tay áo mình, chẳng biết từ lúc nào đã dính đầy bụi bẩn xám xịt.

Khụ...

Vậy thì hiện giờ hình tượng của nàng...

Có phải đang toát ra vẻ “cần mẫn tận tụy, không ngại khổ cực” từ từng lỗ chân lông không?

Hít sâu... không được chột dạ. Tăng ca vì quên mình, nếu bị cấp trên phát hiện thì có gì phải ngại chứ? Lỗi chỉ tại giá sách phòng kho lâu ngày không được lau dọn thôi, bụi đã dày đến nửa tấc rồi kia mà.

Khuất Nguyên Đình dường như không bận tâm đến khuôn mặt lấm lem như mèo bẩn của nàng, chỉ ôn tồn nói:

“Đã hết giờ làm việc rồi. Ngoài các sai dịch trực ban, tiền nha chẳng còn ai. Ta lo ngươi ở đây một mình lâu sẽ sợ, nên đến tìm ngươi.”

Từ Linh Phủ bĩu môi, vẻ không phục:

“Ở trong nha môn, có gì phải sợ chứ?”

Khuất Nguyên Đình đặt cây nến xuống, tiện tay cầm một tập hồ sơ lật xem, ngữ điệu tự nhiên đến mức khiến người khác không thể nghi ngờ:

“Ngươi không biết rằng nha môn chính là nơi ma quái hoành hành nhất sao?”

Từ Linh Phủ bật cười:

“Mọi người đều nói nha môn là nơi chính khí tụ hội, quỷ thần không dám lại gần, sao lại có thể có ma quái?”

Khuất Nguyên Đình hừ nhẹ một tiếng:

“Cũng phải xem người cầm quyền có thật sự chính trực hay không. Như cái huyện nha này của ta, lòng người chẳng khác nào quỷ vực, ngày đêm như nơi quỷ dữ dạo chơi.”

Từ Linh Phủ hơi nghiêng đầu nhìn hắn:

“Bây giờ chẳng phải ngài đã đến đây rồi sao? Khuất đại nhân đủ chính trực liêm minh, có ngài ở đây, tất nhiên nơi này quỷ thần không dám xâm phạm.”

Muốn hù dọa nàng sao? Vậy thì đừng trách nàng tranh thủ cơ hội tâng bốc!

Nhìn xem, lời khen này vừa tự nhiên vừa thấm thía...

Trong lòng Từ Linh Phủ âm thầm tự thưởng cho mình một trăm cái like.

Khuất Nguyên Đình lại nghiêm mặt nói:

“Chẳng lẽ ngươi chưa từng thấy bài vị phía sau đại môn sao?”

Từ Linh Phủ suy nghĩ một chút, hình như đúng là có một bài vị không mấy nổi bật ở đó. Khi đó nàng còn tự hỏi thứ đó để làm gì, bèn gật đầu, nghiêm túc chờ Khuất Nguyên Đình nói tiếp.

Ai ngờ hắn không giải thích mà lại hỏi:

“Ngươi đã từng đến khoảng sân hẹp giữa khố phòng và lễ phòng chưa? Ở đó cũng có một bài vị.”

Từ Linh Phủ rốt cuộc không nhịn được nữa:

“Đó là gì?”

Khuất Nguyên Đình nhịn cười:

“Ngươi không phải nói mình không sợ sao?”

Từ Linh Phủ cắn môi, phản bác:

“Ta chỉ là tò mò thôi, nếu bây giờ không muốn nói thì đừng nói nữa.”

Giọng nàng pha chút hờn dỗi, nhưng Khuất Nguyên Đình lại thích vẻ e ấp này của nàng, cố tình chọc tức:

“Nếu ngươi không sợ, lát nữa kiểm tra xong, ta sẽ dẫn ngươi đi xem, cầm đèn kể lại từng chuyện cho ngươi nghe, thế nào?”

Từ Linh Phủ ngẩng cao đầu:

“Đi thì đi! Ta muốn xem Khuất đại nhân kể chuyện ma có dọa người không.”

Nói xong liền quay người chui vào giữa các giá sách, Khuất Nguyên Đình không đùa nàng nữa, mà theo sau cầm đèn soi sáng cho nàng.

Sự hiện diện của hắn khiến không gian bỗng trở nên nhỏ hẹp, đến nỗi Từ Linh Phủ cảm giác như có thể cảm nhận được hơi thở của hắn, nhiệt độ cơ thể nàng dường như cũng tăng lên.

Ánh đèn vàng vọt hắt lên tường, bóng hai người tựa vào nhau, trông thật gần gũi…

Một ngọn nến tàn. Khuất Nguyên Đình thay một cây nến mới, hai người bắt đầu tìm kiếm từ hai phía.

Đột nhiên, Từ Linh Phủ khẽ kêu lên: “Tìm thấy rồi!”

Khuất Nguyên Đình bước tới, chỉ thấy Từ Linh Phủ cầm một cuốn sổ chép sai dịch năm Đức Nguyên thứ hai của huyện Sở Ấp, ngón tay chỉ vào một trang: “Ở đây!”

Sợ Khuất Nguyên Đình không hiểu, nàng giải thích: “Hôm nay ta đi xác minh danh sách. Trong phần danh sách mà Phí huyện úy gửi lên, có một hộ là hàng xóm nhà ta. Ta nghe Điền bà tử kể về tình hình nhà họ nên chiều nay đã đi tìm để kiểm chứng. Không ngờ lại phát hiện ra điều này!”

Khuất Nguyên Đình nhận lấy cuốn sổ từ tay Từ Linh Phủ.

Đây là cuốn sổ được quan phủ lập ra để thu thập thông tin phục vụ việc trưng thu lao dịch. Thông thường, sổ này do huyện lệnh đại nhân đích thân ghi chú, thống kê dân số và các tình trạng cụ thể trong huyện theo từng thôn, như tên tuổi, thân phận, tình trạng thực hiện nghĩa vụ, có đóng phí lao dịch hay không, có đang chịu tang hoặc bệnh tật không. Sổ cũng ghi rõ tài sản và sản vật của từng hộ, là cơ sở quan trọng để quan phủ phân bổ thuế và lao dịch.

Trên cuốn sổ lưu trữ của huyện từ năm Đức Nguyên thứ hai, tức ba năm trước, ghi rõ rằng nhà họ Thái sở hữu ruộng vĩnh nghiệp sáu mươi mẫu, ruộng khẩu phần một trăm hai mươi mẫu.

Khuất Nguyên Đình lật xem kỹ, khẽ nhắm mắt, trầm giọng nói: “Trong danh sách Phí huyện úy gửi lên, nhà họ Thái thuộc hộ trung hạ, gồm bốn nhân khẩu, hai người trưởng thành, một nữ nhân, và một đứa trẻ chưa đến tuổi lao động. Nhà họ Thái được ghi nhận có ruộng vĩnh nghiệp mười mẫu, ruộng khẩu phần một trăm bảy mươi mẫu.”

Chênh lệch đến năm mươi mẫu, mà năm mươi mẫu này gần như là toàn bộ cơ nghiệp của nhà họ Thái.

Từ Linh Phủ không khỏi cảm thán: “Huyện lệnh đại nhân quả là người nhớ lâu.”

“Huyện Sở Ấp có 6.531 hộ, tổng cộng 23.719 người. Họ đều là bách tính của ta. Ta đương nhiên phải nhớ rõ tình hình từng nhà từng hộ.” Giọng nói của Khuất Nguyên Đình chậm rãi, nhưng đầy nghiêm túc.

Hắn mở mắt ra, ánh nhìn sáng như trăng: “Hãy kể ta nghe thêm về tình trạng nhà họ Thái.”

Từ Linh Phủ kể lại từng chuyện đã xảy ra với hai người con nhà họ Thái.

Cuối cùng, nàng nói: “Sau đó, phường chính mang người đến thu hồi ruộng khẩu phần của nhà họ Thái. Lúc đầu, Thái nương tử cũng thuận theo, nhưng khi nghe phường chính nói muốn thu hồi ruộng khẩu phần là một trăm bảy mươi mẫu, bà mới không chịu. Bà khẳng định nhà mình có sáu mươi mẫu ruộng vĩnh nghiệp, con số này khớp với sổ sai dịch ba năm trước.”

Nghĩ một lúc, nàng bổ sung: “Ta cũng đã hỏi bà, bà khẳng định trong ba năm qua, gia đình không có giao dịch ruộng đất nào.”

Khuất Nguyên Đình đóng cuốn sổ lại, giọng trầm xuống: “Có lẽ trong danh sách Phí huyện úy gửi lên còn nhiều điều bất thực nữa.”

Từ Linh Phủ lặng lẽ nhìn gương mặt của Khuất Nguyên Đình, dù dưới ánh nến vẫn giữ vẻ trầm tĩnh và anh tuấn, chờ đợi quyết định của hắn.

“Ta biết bọn họ sẽ giở trò trên đất đai và tiền thuế, nhưng không ngờ lương tâm lại bại hoại đến mức này, ép một gia đình đến bước đường cùng. Những kẻ như quỷ dữ thế này…” Khuất Nguyên Đình quay sang nhìn Từ Linh Phủ, “E rằng đêm nay, chúng ta không thể đàm đạo bên ánh nến rồi.”

Ánh mắt Từ Linh Phủ lóe lên: “Vậy mong huyện lệnh đại nhân trước tiên hãy trừ khử những quỷ dữ ngang tàng này!”

Ngày hôm sau, vào giờ Ngọ, Phí huyện úy vừa chịu đựng được thời gian Khuất Nguyên Đình nghỉ trưa rời công đường, không kịp ăn cơm, liền mượn một con ngựa, vội vã rời đi.

Phía tây nam thành huyện, tại khu Thủy Dương Phường, nơi tầng lớp bần hàn nhất sinh sống, có một căn tứ hợp viện lớn nhưng tàn tạ. Trong viện, Tưởng huyện thừa đã cởi mũ, mặc áo ngắn màu xám đậm, đang xắn tay áo mài một trục gỗ.

Vừa mài, hắn vừa chỉ cho người thợ mộc đứng bên: “Ngươi xem, cạnh này phải mài như thế, độ dày và kích thước nhất định phải đều nhau.”

Thợ mộc gật đầu, chưa kịp nói gì, ngoài cửa vang lên tiếng ngựa hí, tiếp theo là ba tiếng dài, một tiếng ngắn gõ cửa.

Người gác cổng Lôi Tam nhận ra ám hiệu, lập tức mở cửa.

Phí huyện úy lau mồ hôi trên trán, bước nhanh vào, tiện tay ném dây cương cho Lôi Tam.

Lôi Tam nhanh chóng dắt ngựa buộc lại.

Tưởng huyện thừa thấy người đến là Phí huyện úy, không khỏi cau mày nói: “Ngươi bị làm sao thế? Không biết cưỡi ngựa ở đây là quá gây chú ý à?”
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 45: Giả tạo.



Phí huyện úy vừa bước vào đã bị quát mắng, mặt mày khó coi hơn hẳn:

“Ôi trời ơi, Tưởng gia! Ngài vẫn còn ở đây sao! Ta phi ngựa tới đây vì tình thế cấp bách đấy! Ngài mà không về nha môn ngay, nơi ấy e là trời sắp đổi rồi!”

Lôi Tam, đang buộc ngựa, nghe thấy thế bèn tiến lại gần.

Vốn dĩ, Lôi Tam từng là một sai dịch quyền uy trong huyện nha. Nhưng từ ngày Khuất Nguyên Đình đến, hắn đã bị đánh mấy hèo rồi đuổi khỏi nha môn. Giờ đây, hắn sa sút đến mức chỉ còn mỗi việc trông cửa mà làm.

Dĩ nhiên, công việc này cũng chỉ vì hắn là “tay chân” trung thành của Tưởng huyện thừa nên mới xin được.

Chính vì ra đi trong ấm ức, nên từng chút động tĩnh trong huyện nha, Lôi Tam đều đặc biệt để ý.

Chỉ thấy Tưởng huyện thừa trao trục gỗ trên tay cho người thợ mộc, vung tay, giọng đầy thiếu kiên nhẫn:

“Làm ồn cái gì, thay đổi trời đất gì chứ?”

Phí huyện úy đi theo Tưởng huyện thừa vào trong nhà, vừa đi vừa nói:

“Họ Khuất kia vừa thay đổi cả một đám người, không chỉ lấp đầy chỗ trống của nhóm Lôi Tam, mà còn đuổi hai tên thư lại! Ta nghe nói hắn còn định thay thêm người nữa!”

Tưởng huyện thừa buông tay áo xắn cao xuống, ngồi phịch lên chiếc giường êm, giọng điệu nhàn nhạt:

“Thay thì cứ thay thôi.”

Phí huyện úy đứng ngẩn ra, dường như nghi ngờ chính tai mình:

“Thay thì cứ thay? Nhưng đám người kia đều là người làm việc cho chúng ta mà!”

Tưởng huyện thừa hờ hững liếc nhìn Phí huyện úy:

“Người được thay thế chẳng lẽ không thể làm việc cho chúng ta sao?”

Phí huyện úy nghe xong, bối rối đến đờ người.

Tưởng huyện thừa chỉ vào chiếc ghế tròn:

“Ngươi cũng ngồi nghỉ chút đi.”

Phí huyện úy mệt mỏi ngồi xuống.

Tưởng huyện thừa nhìn ra trời xanh ngoài cửa, giọng nói bình thản như mặt hồ không gợn sóng nhưng thoảng chút chán ngán:

“Chỉ là thay vài người thôi, có đáng để ngươi bận tâm thế không?”

Phí huyện úy định phản bác:

“Ta…”

Tưởng huyện thừa phất tay ngắt lời:

“Quan mới nhận chức thường sẽ dùng người của mình, có gì lạ đâu? Dẫu hắn nhậm chức với bàn tay trắng, ngươi chẳng lẽ mong hắn cứ mãi trắng tay mà làm việc? Hắn dù sao cũng là huyện lệnh đại nhân do triều đình bổ nhiệm, từ quan lục phẩm, ngươi có cản nổi chuyện hắn thay vài sai dịch không?”

Phí huyện úy cất cao giọng:

“Ta không cản được, nhưng ngài thì…”

“Ta cũng không cản được.” Tưởng huyện thừa dứt lời hắn ngay.

Phí huyện úy tròn mắt kinh ngạc:

“Tưởng gia, không phải chứ? Chỉ một kẻ trẻ người non dạ đến mà ngài đã nhún nhường thế này sao?”

Râu mép của Tưởng huyện thừa như con hổ rung lên, mắt trừng lớn:

“Ta nhún nhường? Hai vị huyện lệnh trước đây là do ngươi hạ bệ đấy à?”

“Nhưng mà ngài…” Phí huyện úy cảm thấy ấm ức vô cùng.

Tưởng huyện thừa trừng mắt nhìn hắn:

“Ngươi à, tầm mắt phải để cao hơn một chút, cứ chăm chăm vào mấy tên sai dịch thì ích gì? Nếu không phải ngay từ đầu Lôi Tam đã bị đưa vào tay người khác, nếu không phải đám thư lại kia vô dụng, lấy mấy bản văn thư cũ để ngáng chân Khuất Nguyên Đình nhưng lại bị tiểu tùy tùng của hắn dễ dàng nhìn thấu, có lẽ sự thay đổi này đã không xảy ra sớm đến thế.”

“Ngài trách ta?” Phí huyện úy càng thêm tủi thân. Rõ ràng ý tưởng này là cả hai cùng nghĩ ra, sao giờ lại thành lỗi của riêng hắn vì tầm nhìn hạn hẹp?

Tưởng huyện thừa khoát tay:

“Giờ nói những chuyện này chẳng còn ý nghĩa gì. Chỉ cần Khuất Nguyên Đình còn ngồi ở vị trí đó, những chuyện như vậy sớm muộn gì cũng xảy ra. Còn ngươi và ta, ở dưới hắn, có cứng rắn đến đâu cũng chẳng ích gì.”

Phí huyện úy cuối cùng cũng nghe ra được hàm ý trong lời nói:

“Vậy… làm sao mới có thể kéo hắn xuống khỏi vị trí đó đây?”

Tưởng huyện thừa cười hai tiếng:

“Chờ thêm vài ngày, tự hắn sẽ rơi xuống thôi.”

Thấy Phí huyện úy vẫn tỏ ra ngơ ngác, hắn vỗ mạnh vào đùi, nói:

“Ngươi quên rồi sao? Đêm ở Sở Vân Quán hôm đó, Tào Phụng Lâm đã nói gì?”

Phí huyện úy cố gắng hồi tưởng lại đêm vài hôm trước, cuối cùng cũng gỡ được một mối tơ rối trong đầu:

“Ý ngươi là… quân Hồi Hột?”

Tưởng huyện thừa gật đầu:

“Đúng vậy! Ta vẫn luôn theo dõi lộ trình quân Hồi Hột hồi hương. Các châu huyện khác đều sợ bọn họ đến, còn ta thì sợ bọn họ không đến!”

Tưởng huyện thừa nhấc chén trà bên cạnh lên nhấp một ngụm, đoạn nói tiếp:

“May thay, giờ bọn họ đã tiến vào địa phận đạo ta, không lâu nữa sẽ áp sát địa giới Tống Châu. Ta đoán bên Thứ sử hai ngày tới sẽ có động tĩnh.”

Hắn vuốt nhẹ viền chén trà, nở một nụ cười khiến người khác không khỏi rùng mình:

“Chúng ta mất một chút tiền lương thực, một chút binh mã cũng không sao. Điều quan trọng nhất chính là được tận mắt nhìn thấy Khuất Nguyên Đình tự mình bước lên con đường tuyệt lộ ấy, không thể trách ai khác.”

“Chờ hắn rơi xuống, hoặc bị bãi chức, hoặc vào ngục, thì những kẻ do hắn an bài cũng sẽ nhanh chóng trở thành người của chúng ta. Ngươi đừng quên, mục đích làm quan của chúng ta là vì chính mình, không phải để bảo vệ đám tay chân phía dưới.”

“Chỉ cần huyện Sở Ấp vẫn do chúng ta nắm quyền, bất kỳ ai cũng có thể trở thành thuộc hạ của chúng ta. Thế nên, lão Phí, đừng vì vài ba kẻ mà hoảng hốt. Trời chưa sập được đâu.”

Nói xong, Tưởng huyện thừa xắn tay áo đứng dậy.

Một hồi nói chuyện của Tưởng huyện thừa khiến Phí huyện úy trong lòng bớt bối rối. Nhìn bóng dáng Tưởng huyện thừa đi ra sân, Phí huyện úy thầm cảm thán: Quả nhiên lão Tưởng này nhất định sẽ còn thăng tiến cao hơn nữa.

Đều là xuất thân bần hàn, phải khó khăn lắm mới leo được lên vị trí huyện úy, huyện thừa, nhưng cái khí chất điềm nhiên này thì hắn – Phí mỗ – học mãi vẫn không bằng được. Còn Tưởng huyện thừa thì có thể!

Ừm, hơn nữa dáng vẻ thao thao bất tuyệt ban nãy của hắn cũng càng ngày càng giống một Thứ sử!

Chỉ cần mình không theo sai người, chỉ cần Tưởng huyện thừa đã có tính toán, vậy thì mình còn sợ gì nữa?

Nghĩ đến đây, hắn nở nụ cười, tiến lên nịnh nọt, c.h.ế.t lòng c.h.ế.t dạ đi theo bên cạnh Tưởng huyện thừa, nhìn hắn chỉ huy đám thợ dệt, nữ thợ thêu và thợ mộc trong sân làm việc.

Hắn cười hùa, nhiệt tình hỏi:

“Sao vẫn còn làm mấy thứ gấm vóc, trục khảm này? Chẳng phải lô trước chúng ta làm vẫn chưa bán hết sao?”

Tưởng huyện thừa lại nổi giọng thiếu kiên nhẫn:

“Ngươi biết gì chứ? Lô trước chỉ có thể dùng trong huyện, đem ra ngoài lập tức bị nhìn thấu ngay! Còn bây giờ ta muốn làm giống hệt đồ thật. Đợi lô độ điệp này hoàn thành, dù đặt trước mặt mấy quan viên Từ Bộ Lang cũng không thể phân biệt được đâu.”

Sau giờ Ngọ, Từ Linh Phủ ôm một chồng văn thư định mang về nội nha xem xét. Hai sai dịch Tôn Bảo và Triệu Nhị đã đợi sẵn ngoài cửa, liền tranh thủ bước lên theo.

“Tỷ, tỷ, Linh Phủ tiểu thư, để ta cầm giúp cho!”

Tôn Bảo với gương mặt tròn trịa, nở nụ cười đầy thân thiện và vui vẻ.

Từ Linh Phủ ở nha môn đã nhiều ngày, về thân phận, gia cảnh, giới tính của nàng sớm bị Từ tư hộ tá – một kẻ lắm lời – rêu rao khắp nơi, nên đương nhiên không ai còn mù mờ mà nghĩ nàng là nam nhân.

Từ Linh Phủ khựng lại, nhìn thanh niên sai dịch mà nàng chỉ mới gặp vài lần, hơi khẽ tặc lưỡi – Tỷ? Đại ca, đừng nghĩ rằng ngươi có khuôn mặt trẻ con thì có thể gọi ai là tỷ cũng được?

“Ngươi bao nhiêu tuổi?” nàng hỏi.

Tôn Bảo hơi ngượng ngùng gãi đầu:

“Hai mươi mốt.”

Triệu Nhị bên cạnh ngớ ngẩn báo số luôn:

“Ta ba mươi mốt.”

Từ Linh Phủ trong lòng than: Huynh à, thân thể ta mới mười sáu thôi đấy… Nếu tính cả kiếp trước thì thôi được rồi.

Có lẽ người ta chỉ muốn tỏ lòng kính trọng mà thôi.

Từ Linh Phủ không so đo về cách xưng hô nữa. Dù sao chồng văn thư này cũng chưa đến hai cân, thật sự không cần thiết để người khác cầm giúp. Nhưng nàng nhìn ra hai sai dịch này muốn kết thân với mình, cũng không cần thiết lạnh nhạt cự tuyệt.

Thế là nàng thuận tay giao chồng văn thư cho Tôn Bảo.

Tôn Bảo thoáng liếc mắt nhìn Triệu Nhị, rồi nụ cười càng thêm rạng rỡ:

“Linh Phủ tiểu thư thật giỏi giang, một buổi chiều đã phải xem nhiều văn thư như vậy! Ai da, mới nói người ta cần phải đọc sách biết chữ, như ta đây chẳng nhận được mấy chữ, nên chỉ có thể chạy việc lặt vặt thôi. Không biết đến khi nào ta mới có thể học thêm được vài chữ nữa…”

Trên đường về nội nha, Từ Linh Phủ rốt cuộc cũng hiểu thế nào gọi là "tự nhiên mà thân thiết".
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 46: Ngoài cửa sổ.



Tôn Bảo kể chuyện từ khi mười tuổi đã biết chữ, từ gia cảnh của mình, quan hệ láng giềng trong thôn, đến cách thầy dạy chữ trong làng đánh tay học trò…

Lời lẽ sống động, kể chuyện lồng cảm xúc, vừa kể vừa nhận xét… thật khiến người nghe nhẹ nhõm. Nhưng tiếc thay, đoạn đường quá ngắn, chẳng mấy chốc Từ Linh Phủ đã đến cổng nội nha.

Tôn Bảo và Triệu Nhị biết rõ nội nha là giới hạn, không được phép bước qua. Linh Phủ đón lấy xấp văn thư vốn chẳng nặng nhọc gì, quay lại nhìn hai người họ:

“Vậy các ngươi có việc gì cần nói sao?”

Triệu Nhị đã sớm nôn nóng khi nghe Tôn Bảo thao thao bất tuyệt suốt dọc đường, thấy Linh Phủ hỏi thì vội thúc nhẹ Tôn Bảo.

Tôn Bảo khom người ghé qua, cười cầu tài:

“Linh Phủ tiểu thư, huynh đệ chúng ta... chúng ta thực ra muốn nhờ ngài nói giúp một câu.”

Linh Phủ nghiêng đầu, nhìn hắn với vẻ nghi hoặc.

Tôn Bảo mở to đôi mắt tròn, chân thành nói:

“Huynh đệ chúng ta xưa nay chưa từng chống đối Huyện lệnh đại nhân, cũng chưa bao giờ dùng thủ đoạn gì khuất tất, chỉ làm theo những gì thượng quan giao phó…”

Triệu Nhị bên cạnh vội gật đầu lia lịa, ánh mắt đầy tha thiết nhìn Linh Phủ.

Tôn Bảo tiếp lời:

“Huống chi chúng ta đều là người mới tới, chưa từng tham gia vào việc gì khác. Linh Phủ tiểu thư, chỉ có ngài là người nói được trước mặt Huyện lệnh đại nhân. Xin ngài, có thể đừng để Huyện lệnh đại nhân đuổi chúng ta đi được không?”

Linh Phủ hỏi:

“Huyện lệnh đại nhân nói sẽ đuổi các ngươi sao?”

Tôn Bảo và Triệu Nhị vội lắc đầu.

Linh Phủ đáp:

“Nếu chưa nói sẽ đuổi các ngươi, thì sao lại muốn ta cầu tình?”

Tôn Bảo sốt ruột gãi má:

“Linh Phủ tiểu thư, tiểu thư tốt của chúng ta, đừng nói vòng vo nữa. Hôm nay đã có mấy người bị đuổi rồi, hơn nữa chúng ta còn nghe nói Lý chủ bộ còn có cả một đống người đang chờ sắp xếp, vậy chẳng phải sớm muộn gì sẽ đến lượt chúng ta sao?”

Hắn nhẹ nhàng giậm chân, vẻ mặt như thể “sắp đến lượt chúng ta” vậy.

Linh Phủ lắc đầu:

“Đại nhân hôm nay đuổi người, là những kẻ hoặc đã đòi tiền chạy vặt khi truyền tin, hoặc nhận tiền bôi trơn khi giữ cổng, hoặc ngang ngược bắt nạt dân lành gây bất mãn. Các ngươi đã làm điều nào trong số đó chưa?”

Tôn Bảo và Triệu Nhị giơ tay lên, đáp ngay:

“Chúng ta chưa từng làm việc nào cả…”

Linh Phủ:

“Vậy thì đã rõ rồi, nếu các ngươi không làm những điều bất chính ấy, Huyện lệnh đại nhân sao lại đuổi các ngươi?”

Tôn Bảo nhìn Triệu Nhị, rồi lại nhìn Linh Phủ:

“Nhưng Huyện lệnh đại nhân làm sao phân biệt được chúng ta có làm hay không? Trong mắt ngài ấy, chúng ta đều là người cũ trong nha môn…”

Hắn không nói tiếp, nhưng sắc mặt đầy khó xử.

Linh Phủ nghiêm túc nói:

“Ngươi đã sai rồi. Huyện lệnh đại nhân tự nhiên có cách phân biệt từng người, ai làm việc xấu, ai không làm, đều sẽ nhận được kết quả tương xứng. Ta nghĩ các ngươi nên tin vào con mắt của Huyện lệnh đại nhân, ngài ấy sẽ không oan uổng người vô tội.”

Nói xong, nàng xoay người đi về phía cửa nội nha. Đi được mấy bước, nàng quay lại, nói với hai sai dịch:

“Nếu các ngươi tin lời ta, vậy thì cứ làm tốt việc của mình, đừng hoang mang mà phạm sai lầm.”

Bóng dáng Linh Phủ khuất sau cánh cửa nội nha, Tôn Bảo và Triệu Nhị đứng một lúc, lặng lẽ tiêu hóa lời nàng nói, cúi đầu quay trở lại tiền nha.

Trở về phòng mình, Linh Phủ theo thói quen trải văn thư lên án thư.

Nàng lấy sổ sách về sai dịch ba năm trước và danh sách do Phí huyện úy nộp lên để so sánh, chỗ nào không khớp thì ghi lại, ngày mai sẽ tra xem có bản giao ước điền sản hoặc đơn khởi kiện tương ứng hay không. Nếu không có gì, vậy khả năng cao lại là chỗ Phí huyện úy đã làm điều mờ ám.

So sánh được vài bản, không gian trên bàn không đủ, Linh Phủ dứt khoát trải văn thư theo từng phần ra sàn. Đến khi Anh Nữ bước vào rót trà, nhìn thấy văn thư khắp nơi cùng Linh Phủ đang "nằm bò" trên sàn thì giật mình thảng thốt.

“Linh Phủ tiểu thư, có cần Anh Nữ giúp một tay không?” Anh Nữ nhìn đống văn thư chất đầy mặt đất, ngơ ngác không biết đặt chân vào đâu.

“Để ta, để ta!” Linh Phủ thấy Anh Nữ chần chừ, bèn nhẹ nhàng nhón chân bước qua, đón lấy khay trà trên tay nàng, “Ta không cần giúp gì đâu, ngươi nghỉ ngơi một lát đi.”

Nàng mỉm cười, nháy mắt đầy ý tứ với Anh Nữ.

Anh Nữ ngẩn người nhìn Linh Phủ không chút ngại ngần ngồi bệt xuống đất xem văn thư, ban đầu có chút muốn cười, nhưng không biết vì sao, dần dần lại trở nên trầm lặng.

Nàng không tiếng động thở dài một hơi, xoay người ra ngoài, nhẹ nhàng khép cửa lại.

Trở về phòng chung với A Vân, Anh Nữ thất thần ngồi trên giường gỗ.

A Vân, đang ngồi trước gương chải tóc, thấy vậy liền nhìn qua gương hỏi: “Ngươi làm sao vậy? Không phải nói Linh Phủ tiểu thư dễ hầu hạ lắm sao, chẳng lẽ nàng ta mắng ngươi?”

Anh Nữ ngẩn ra, cúi đầu đáp nhỏ: “Không có.”

A Vân cười khẩy một tiếng, tiếp tục chải tóc: “Vậy sao lại ngơ ngẩn như kẻ mất hồn thế kia.”

Anh Nữ đã quen với kiểu nói của A Vân, cũng không trả lời.

Lúc này, cửa bị đẩy ra, Tiết Tố đứng ở mái hiên, nét mặt nghiêm nghị nhìn hai người.

A Vân và Anh Nữ vội đứng dậy hành lễ: “Tiết quản sự.”

“Các ngươi, chớ thấy Từ tiểu thư tuổi nhỏ dễ tính mà lười biếng, phải nhớ rằng đây là nội nha, không phải nhà thường dân mà các ngươi có thể tán gẫu, lười nhác.”

Hai nha hoàn nghe vậy, vội cúi đầu đáp “vâng” một cách khẽ khàng.

Tiết Tố liếc nhìn hai người: “Nghe nói tiền nha hôm nay đã trách phạt mấy kẻ. Các ngươi đừng tưởng rằng huyện lệnh đại nhân còn trẻ mà nhân từ, liền sinh ra ngông cuồng. A Vân, đã bao lâu ngươi không đến phòng Từ tiểu thư hầu hạ rồi?”

A Vân giật mình, vội đáp: “Bẩm Tiết quản sự, hai hôm trước thân thể nô tỳ không khỏe, nay đã khỏi, sẽ lập tức làm tốt bổn phận.”

Tiết Tố lại trầm giọng dặn dò thêm vài câu rồi mới rời đi.

A Vân vừa quay người lại, liền thấy Anh Nữ vẫn còn nhìn bóng lưng Tiết quản sự thất thần, nàng ngạc nhiên nhướng mày, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Người này, lạ thật, phát ngẩn cũng thành nghiện rồi…”

Linh Phủ xem văn thư khá lâu, chống lưng đứng dậy, chợt thấy bóng dáng Khuất Nguyên Đình đang đứng bên cửa sổ.

Nàng xấu hổ vô cùng. Hiện nay đã giữa tháng tư, buổi trưa thời tiết ấm áp, Anh Nữ liền mở cửa sổ thông gió, để ánh nắng chiếu vào.

Ai ngờ Khuất Nguyên Đình lại đứng ở cửa sổ nhìn nàng?

Linh Phủ nhớ lại, cảm thấy hình ảnh mình vừa rồi bò trên mặt đất xem văn thư quả thật chẳng lấy gì làm thanh nhã.

Khuôn mặt nàng thoáng đỏ lên, giọng trách nhẹ: “Sao ngài lại đứng dưới cửa sổ mà không lên tiếng…”

Khuất Nguyên Đình hơi cúi đầu, khó nhận ra được một tia xấu hổ như kẻ làm điều sai trái bị phát hiện.

Dẫu Đại Tuyên triều có phóng khoáng đến đâu, việc đứng nhìn bên cửa sổ khuê phòng người ta cũng là điều thất lễ, huống hồ hắn còn là kẻ từ nhỏ đọc sách thánh hiền.

Nhưng hắn vẫn không kìm được mà thất lễ. Ban đầu chỉ định tới gọi nàng, ai ngờ lại thấy Linh Phủ cúi mình, chăm chú xem xét đống văn thư kia.

Khi thì tựa tay lên cằm suy nghĩ, khi lại đỡ trán lẩm bẩm, thần thái chuyên chú, toàn thân toát lên một sức mạnh mà hắn chưa từng thấy ở nữ tử nào khác.

Đó là sức sống mãnh liệt, kết hợp với vẻ linh động tự nhiên không tự biết của nàng, khiến nàng trở nên đặc biệt cuốn hút trong một tình cảnh chẳng hề lãng mạn.

Hắn cứ thế bị mê hoặc, ngây người đứng nhìn nàng rất lâu.

Hắn cảm thấy như mình bị một vẻ đẹp nào đó cuốn lấy, không cách nào thoát ra, lại cam tâm tình nguyện chìm đắm trong đó.

Cho đến khi bị chính chủ phát hiện.

Hắn khẽ ho khan hai tiếng, nắm tay che miệng, cố làm vẻ công chính vô tư.

“Ta tìm ngươi.” Hắn nghe thấy giọng mình khàn khàn một cách khả nghi.
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 47: Xuống thôn.



Từ Linh Phủ đi tới cửa, mở cửa mời Khuất Nguyên Đình vào trong.

Khuất Nguyên Đình tự nhiên nhìn thấy đống văn thư trải đầy trên mặt đất, mỉm cười hỏi: “Tra được gì rồi?”

Từ Linh Phủ nhặt lên một xấp văn thư đặt trên án kỷ, nói: “Mấy phần này liên quan đến thôn Thân Nguyên không khớp.”

Khuất Nguyên Đình nhận lấy, lật xem qua loa, rồi gật đầu nói với Từ Linh Phủ: “Chừng này là đủ rồi, những thứ còn lại không cần xem nữa.”

Từ Linh Phủ nghi hoặc: “Nhưng chắc chắn trong đó vẫn còn nhiều thứ có vấn đề mà? Vì sao không xem hết?”

Khuất Nguyên Đình nhìn đôi mắt nàng, trong trẻo như nước thu, lòng dâng lên chút thương xót, nhưng miệng lại nói: “Nhiều như thế này, chẳng lẽ ngươi muốn một mình tìm hết? Mắt không cần dùng nữa sao?”

Từ Linh Phủ vẫn chưa hoàn toàn hiểu: “Nhưng mà…”

Khuất Nguyên Đình nhìn nàng cười, ánh mắt ôn hòa: “Chúng ta chỉ cần lôi kẻ giở trò ra, bắt giữ. Những chuyện vụn vặt còn lại cứ giao cho người khác làm, cũng tiện kiểm tra xem đám tân nha lại này tay chân có sạch sẽ hay không.”

Từ Linh Phủ dường như đã hiểu ra: “Vậy bây giờ ta làm gì đây?”

Khuất Nguyên Đình đáp: “Vì những vấn đề này chủ yếu tập trung ở thôn Thân Nguyên, chúng ta sẽ đích thân đến đó xem xét.”

Hai người rời nội nha, đi đến chuồng ngựa, vừa lúc gặp hai nha hoàn, Thúy Vũ và Thúy Tú, đang xách bàn chải và thùng nước để tắm ngựa.

Thấy Khuất Nguyên Đình và Từ Linh Phủ, hai nha hoàn lặng lẽ cúi đầu hành lễ rồi lui sang một bên.

Từ Linh Phủ suýt quên mất sự tồn tại của hai người này, lúc bất ngờ thấy họ ở đây thì không khỏi nghi hoặc, đưa mắt nhìn Khuất Nguyên Đình.

Khuất Nguyên Đình mặt không đổi sắc, chọn một con ngựa trong chuồng, quay sang hỏi Từ Linh Phủ: “Ngươi có biết cưỡi ngựa không?”

Từ Linh Phủ nhìn con ngựa cao hơn mình một cái đầu, yếu ớt đáp: “Không biết.”

Nhưng ta biết cưỡi cá kình trắng… Nàng âm thầm bổ sung trong lòng.

Khuất Nguyên Đình suy nghĩ một chút, liền sai xa phu chuẩn bị một chiếc xe, rồi nói với Từ Linh Phủ: “Thôn Thân Nguyên đường xa, phải dùng xe ngựa mà đi. Nếu ngươi không biết cưỡi ngựa, thì ngồi xe vậy.”

Từ Linh Phủ gật đầu. Xem ra, cưỡi ngựa cũng là kỹ năng cơ bản cần có, sau này phải tranh thủ học một chút.

Hai người cùng đi về phía viện của đại đường.

Từ Linh Phủ thấy chuồng ngựa đã đi xa, lén lút hỏi Khuất Nguyên Đình: “Hai người Thúy… gì đó, sao lại ở chuồng ngựa?”

Nàng đã quên mất họ tên đầy đủ của hai người kia.

Nhắc đến chuyện này, sắc mặt Khuất Nguyên Đình trầm xuống vài phần: “Là ta sắp xếp.”

Từ Linh Phủ có chút không hiểu. Sau sự việc xảy ra hôm ấy, Khuất Nguyên Đình đã xin hai nha hoàn từ chỗ Phan Ngũ lang. Lúc đó, nàng cũng không rõ dụng ý của hắn là gì.

Hôm nay nhìn thấy hai nha hoàn từng ăn mặc tinh tế, sạch sẽ, nay lại sa sút thành tôi tớ nơi chuồng ngựa đầy bụi bặm, nàng không khỏi có chút thương cảm.

Dù đều là nha hoàn, nhưng từ những nơi cao sang đến chuồng ngựa, đúng là một trời một vực.

Tựa như đoán được suy nghĩ trong lòng nàng, Khuất Nguyên Đình nghiêm túc quay mặt nhìn nàng: “Ngươi cảm thấy họ vô tội đúng không? Nghĩ rằng ta trút giận lên họ sao?”

Bị đôi mắt ấy nhìn chằm chằm, Từ Linh Phủ nhất thời không biết trả lời thế nào.

Từ Linh Phủ bị đôi mắt ấy nhìn chăm chú như vậy, nhất thời không biết phải đáp lại thế nào.

Khuất Nguyên Đình chậm rãi nói:

"Hôm đó, tất cả mọi thứ quanh ngươi đều không vô tội. Từ rượu ngươi uống, đến hương liệu trong phòng khách ngươi nghỉ, không thứ nào không được chế tác đặc biệt. Trong lúc ta thẩm vấn, nha hoàn tên Thúy Tú kia còn dám nói dối để che đậy. Điều này chứng tỏ họ biết rõ mọi chuyện, hơn nữa còn tham gia vào. Do đó, họ không thể được gọi là vô can."

"Có lẽ họ bị chủ nhân ép buộc, thân bất do kỷ. Nhưng điều đó cũng chẳng khác gì làm ác. Nếu tiếp tục ở lại nhà họ Phan, họ chỉ học được những điều xấu xa hơn."

Từ Linh Phủ giờ mới hiểu hành động và ý định của Khuất Nguyên Đình hôm đó. Xem ra hắn vẫn còn rất tức giận về chuyện ấy, cho nên mới sắp xếp để hai kẻ tình nghi phải chịu lao động cải tạo.

Bên ngoài nha môn, phu xe đã chuẩn bị sẵn xe ngựa. Khuất Nguyên Đình mời Từ Linh Phủ lên xe, không cần ai điều khiển, hắn tự mình ngồi lên ghế ngoài mà cầm dây cương.

Điều này khiến Từ Linh Phủ cảm thấy không tiện.

Huyện lệnh đại nhân lái xe, còn nàng ngồi ghế sau? Chuyện này thế nào cũng không đúng.

Nhưng nàng lại không biết điều khiển xe, đành ngồi yên trong xe, im lặng như gà.

Kỹ thuật điều khiển xe của Khuất Nguyên Đình rất giỏi, xe chạy nhanh nhưng êm ái, thoáng chốc đã rời khỏi thành.

Đây là lần đầu tiên Từ Linh Phủ được ngồi xe ngựa dạo chơi ở thời cổ đại (lần trước đi đến Sở Vân quán là ngồi xe bò chậm rãi). Nàng vén rèm cửa sổ xe, nhìn ngắm cảnh vật bên ngoài.

Đã là giữa tháng tư, khung cảnh hiện ra trước mắt toàn một màu xanh mướt. Con sông Bạch mà nàng từng gặp Khuất Nguyên Đình bên cạnh, nay đã mất đi vẻ huyền bí u tịch của đêm tối, dưới ánh nắng lại tựa một dải lụa bạc quấn quanh ruộng đồng.

Bên bờ sông, nông dân dắt cày chậm rãi đi trên ruộng, trẻ con đuổi theo chim hỉ thước trên bờ, những bông hoa dại không tên nở rộ bên sông, gió thổi qua làm chúng khẽ lay động. Không khí phảng phất mùi thơm mát của cây cỏ.

Tâm trạng Từ Linh Phủ cũng vì vậy mà thả lỏng, rộng mở hơn.

Sau hơn nửa canh giờ, họ đã đến thôn Thân Nguyên.

Tại một gia đình, họ mượn sân để dừng xe ngựa rồi bắt đầu chuyến điều tra nông thôn chính thức.

Khuất Nguyên Đình không tìm hương chính hay lý trưởng của thôn mà tùy ý trò chuyện với những người dân mà họ gặp, khéo léo dò hỏi về tình hình đất đai, đồng thời cũng hỏi thăm về nông sự.

Từ Linh Phủ cũng tò mò không biết người dân huyện Sở Ấp trồng những loại lương thực gì. Đi dạo một vòng, nàng nhận ra cũng chỉ là kê, lúa mì và những loại quen thuộc.

Khuất Nguyên Đình trò chuyện với dân làng rất kỹ, từ việc chọn giống, dùng nông cụ gì, đến cách phòng trừ sâu bệnh, tất cả đều được hắn hỏi han cặn kẽ.

Ban đầu, người dân thấy trang phục hắn giống như một công tử thì cũng chỉ trả lời qua loa vài câu. Nhưng sau đó, thái độ nghiêm túc và lời lẽ khiêm tốn, dễ gần của hắn dần khiến họ bị cuốn vào cuộc trò chuyện. Bầu không khí càng lúc càng thân thiện.

Thế nhưng, đang nói chuyện, một lão nông nhiệt tình nhất bỗng khựng lại, đôi mắt nhìn chăm chăm vào một nhóm người đang đi trên đường làng. Đó là một đôi phu thê trung niên dắt một con lừa xanh nhỏ, trên lưng lừa là một đứa bé trai tóc còn để chỏm.

Lão nông lập tức bỏ dở câu chuyện với Khuất Nguyên Đình, bước nhanh lên đón:

"Sắp đi rồi sao?"

Người nam nhân dắt lừa ngoảnh đầu nhìn sang chỗ khác, còn người nữ nhân đeo bọc hành lý đáp:

“Tần đại ca, chúng tôi đi đây, mọi người bảo trọng!"

Lão Tần nghe vậy, đôi mắt già nua đỏ hoe, dường như muốn rơi nước mắt. Ông quay đầu cố nén lại, rồi vẫy tay nói với họ:

"Chờ một chút, đừng đi vội, ta quay lại ngay!"

Ông xỏ dép cỏ, vội vã bước nhanh vào sân nhà. Một lát sau, ông xách ra một cái giỏ.

Đến trước mặt gia đình kia, ông không nói nhiều, chỉ cúi đầu nhét từng món trong giỏ vào túi treo trên lưng con lừa xanh.

Nào là kê, trứng gà, một bó rau cần nước, một chồng bánh khô, cùng vài trái cây nhà trồng được.

Người nữ nhân từ chối:

"Tần đại ca, đừng cho hết như vậy, trong túi chúng tôi còn có đồ ăn mà…"

Lão Tần chỉ cúi đầu, vừa nói vừa nhét đồ:

"Ở nhà thì trăm sự tốt, ra ngoài một ngày là khó khăn. Mang đi cả, nếu trên đường chẳng may đói còn có cái lót dạ."

Người nam nhân nhìn lão Tần, rồi hai người im lặng nhìn nhau một lúc. Cuối cùng, lão Tần vỗ vai người nam nhân, thở dài, trên mặt đầy vẻ lưu luyến và bất lực.

Lời chia tay ngàn vạn cuối cùng hóa thành một câu:

"Đi đi, đi đi!"

Người nam nhân thu lại ánh mắt, dắt lừa rời xa.

Khuất Nguyên Đình và Từ Linh Phủ yên lặng quan sát cảnh tượng này, cảm thấy trong đó chắc chắn có câu chuyện, nhưng hỏi thế nào lão Tần cũng không trả lời nữa. Ông chỉ khoát tay, trở vào sân, ngồi xuống mài liềm.
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 48: Hộ chạy trốn.



Trên con đường quê vắng lặng, cả gia đình người nam nhân đi đường cùng với chú lừa nhỏ đều im lặng, không ai nói lời nào.

Tiếng vó ngựa "tách tách, tách tách" hòa cùng âm thanh bánh xe lăn trên con đường đất vang lên. Người nam nhân vô thức quay đầu nhìn lại, thấy một vị công tử tuấn tú đang đánh xe ngựa từ phía sau tới gần.

Khi xe ngựa đến gần con lừa nhỏ, vị công tử ấy liền kéo dây cương, làm xe ngựa tức thì dừng lại.

Vị công tử tuấn tú cười hỏi:

"Xin hỏi lão hương, có phải đi Trân Nguyên là theo con đường này chăng?"

Người nam nhân ngây người một thoáng, nhưng không đáp lời.

Người nữ nhân thấy chồng mình như vậy, đành mỉm cười trả lời thay:

"Đúng vậy, công tử định đến Bạc Châu ư?"

Vị "công tử" đáp:

"Đúng vậy, ta cùng tiểu muội đi thăm bằng hữu, sợ rằng lỡ đi sai đường."

Người nữ nhân đáp:

"Không sai đâu, cứ đi dọc theo con đường này về hướng tây nam, đến phía trước gặp quan đạo thì cứ đi thẳng về hướng tây là được. Chỉ là trên đường quê này nhiều ngã rẽ, các vị chớ đi nhầm."

Vị "công tử" che trán nhìn về phía trước, lúc này màn xe được vén lên, một vị "tiểu lang quân" thanh tú bước xuống.

"Ca ca, huynh nhất định phải nhớ lời vị đại nương này, chớ lại đi sai đường, để chúng ta lỡ mất nơi nghỉ chân. Ta không muốn ngủ lại nơi hoang dã đâu!"

"Tiểu lang quân" vừa mở miệng, giọng nói đã dịu dàng, mềm mại như nước, khiến người nữ nhân giật mình nhận ra, vị "tiểu lang quân" này chính là "tiểu muội" mà công tử vừa nhắc đến.

Người nữ nhân lặng lẽ quan sát, trong lòng thầm khen ngợi:

"Nhìn huynh muội nhà người ta mà xem, dung mạo quả thực đẹp đẽ phi thường! Đây chính là nhân trung long phụng chứ chẳng sai!"

Vị "công tử" nghe "muội muội" nói vậy, dường như trở nên lưỡng lự:

"Vậy làm sao bây giờ, ta vốn không rành đường lối mà."

Vị "muội muội" xinh đẹp liền quay sang người nữ nhân, mỉm cười ngọt ngào:

"Đại nương, các vị cũng đến quan đạo phải không? Ca ca ta không rành đường, liệu có thể đi cùng các vị đến quan đạo được không?"

Người nữ nhân nghe hỏi, liếc nhìn chồng, rồi trả lời:

"Ta thấy hai vị nói giọng Quan Thoại, hẳn không phải người ở đây?"

Vị "muội muội" mỉm cười nhìn về phía "ca ca":

"Ca ca ta vừa từ kinh thành đến."

Nghe vậy, người nữ nhân dường như thả lỏng hơn đôi chút:

"Đã vậy, chúng ta cùng đi một đoạn, ta sẽ dẫn đường đến quan đạo phía trước."

Huynh muội hai người nghe vậy liền nhìn nhau cười. Vị "muội muội" nói:

"Hay là đại nương cùng đệ đệ lên xe ngựa của chúng ta, để đại thúc cưỡi lừa đi trước dẫn đường, như vậy mọi người có thể đi nhanh hơn."

Người nữ nhân vừa nghe, trong lòng vui mừng khôn xiết. Vì muốn giữ sức cho chú lừa nhỏ, họ chỉ để con mình ngồi trên lưng lừa, còn hai phu thê phải đi bộ suốt chặng đường. Dù không quá mệt nhọc, nhưng nghĩ tới đoạn đường dài phía trước, nay được đi nhờ xe để tiết kiệm sức lực, nào có lý do mà từ chối?

Ngay sau đó, họ liền lên xe ngựa.

Huynh muội hai người kia thực chất là Khuất Nguyên Đình và Từ Linh Phủ cải trang mà thôi.

Bên trong xe, cậu bé với mái tóc buộc chỏm, đôi mắt đen láy cứ tò mò đảo quanh nhìn Từ Linh Phủ. Từ Linh Phủ liền mỉm cười rạng rỡ.

Người nữ nhân thấy nàng hòa nhã thân thiện, trong xe lại chỉ có mẹ con mình và cô nương xinh đẹp này, nên cũng dần thoải mái hơn.

Hai người trò chuyện dăm ba câu về thời tiết, rồi Từ Linh Phủ cố ý lái câu chuyện về phía đối phương:

"Đại nương, gia đình các vị định đi đâu vậy?"

Người nữ nhân nhìn ra ngoài cửa sổ, thuận miệng đáp:

"Trạch Thành."

“A, Trạch Thành có gì thú vị không?” Từ Linh Phủ với dáng vẻ ngây thơ, ánh mắt lộ vẻ tò mò.

Người nữ nhân nghe vậy liền lắc đầu, trong lòng nghĩ thầm: Bọn tiểu thư con nhà giàu chẳng hiểu nỗi khổ nhân gian, cứ ngỡ ai đi xa cũng là để vui chơi. Ngoài miệng đáp: “Không biết, dù sao cũng không phải đi chơi.”

Linh Phủ thấy giọng điệu bà ta mang vẻ sầu muộn, liền hỏi: “Đại nương sao lại thở dài? Ra ngoài nên vui vẻ mới phải chứ.”

Ánh mắt người nữ nhân từ ngoài cửa sổ thu lại, rơi xuống mũi giày mình: “Làm sao mà vui được, ly hương biệt quán…”

Linh Phủ lập tức nắm lấy trọng điểm: “Ly hương biệt quán? Vì sao lại phải rời xa quê nhà?”

Người nam nhân cưỡi con lừa xanh bên ngoài xe liền “khụ khụ” hai tiếng, như để nhắc nhở điều gì.

Không nhắc thì thôi, nhắc một tiếng lại k*ch th*ch phản ứng ngược của nữ nhân. Bà ta hướng ra ngoài cửa sổ hét lên: “Ngươi ‘khụ khụ’ cái gì? Sắp đi rồi, chẳng lẽ không để ta nói vài câu?!”

Bà ta quay đầu, tức giận nhìn Linh Phủ: “Đừng để ý đến hắn, người nhà ta thì rụt rè, nhút nhát như chuột. Chúng ta đây là đang bỏ trốn, hắn sợ ta nói ra bị người biết.”

Linh Phủ hỏi: “Vì sao phải bỏ trốn? Có phải là bị thù gia truy sát?”

Nữ nhân lắc đầu: “Không phải, là sợ quan phủ truy bắt.”

Linh Phủ nghe xong liền ngẩn người, ánh mắt lộ vẻ nghi hoặc.

Nữ nhân thấy sắc mặt nàng, liền giải thích: “Hài tử, đừng nghĩ sai. Chúng ta không làm chuyện phạm pháp. Chỉ là ngươi còn nhỏ, hẳn được nuông chiều, không hiểu chuyện ngoài kia. Chúng ta đây bị gọi là đào hộ, cũng gọi là lưu dân, quan phủ biết được thì sẽ bắt giữ.”

Linh Phủ dần hiểu ra. Những ngày qua, nhờ được giảng giải sơ lược về các chính sách cơ bản của Đại Tuyên, nàng đã hiểu được phần nào cách xã hội này vận hành.

Dân chúng đối với quốc gia giống như bầy cừu. Tình trạng lý tưởng là bầy cừu này gặm cỏ trên mảnh đất cố định, được người chăn (quan địa phương) định kỳ xén lông.

Nhưng bởi nhiều nguyên nhân, như tham quan ô lại, địa chủ ác bá hoặc các loại thiên tai, bầy cừu bị xén quá đau, quá trọc, liền muốn bỏ chạy. Một số con cừu từ đầu đã không chịu bị xén lông, lại càng muốn chạy xa hơn.

Nhưng với quốc gia – người chăn cừu lớn này, cừu chạy hết thì lấy gì ăn? Vì thế tất yếu phải áp dụng một loạt biện pháp để kiểm soát sự lưu tán của bầy cừu. Đại Tuyên, cũng như các triều đại trước, thực hiện quản lý hộ tịch nghiêm ngặt, ra khỏi nhà trên 100 dặm đều phải xin giấy phép từ quan phủ. Nếu không, bị bắt sẽ bị trừng phạt.

Bởi vì, cừu đều chạy hết rồi thì còn ai để xén lông đây?

Những trường hợp như gia đình nữ nhân này, cả nhà bỏ trốn, trên khắp cả nước không phải hiếm. Một trong những nhiệm vụ trọng yếu của quan địa phương chính là “quát hộ” – thông qua kiểm tra hộ khẩu để phát hiện và đưa những người trốn thoát trở về quê cũ hoặc tái nhập hộ khẩu tại chỗ.

Nếu một nơi có số lượng hộ trốn thoát quá mức, quan địa phương sẽ bị xử phạt nặng – dẫu sao được giao chăn cừu mà lại để cừu chạy mất, chẳng phải thất trách sao?

Chỉ nghe nữ nhân than: “Nhà ta vốn có ruộng đất ở đây, nhưng bị hào cường địa phương để ý. Lý chính dẫn người đến, bắt chúng ta bán đất rẻ cho nhà giàu.”

Linh Phủ hỏi: “Nếu là lý chính bức bách, sao không kiện lên quan phủ?”

Nữ nhân cười chua chát: “Lý chính… hắn là họ hàng nhà ta. Ai, hắn cũng là bất đắc dĩ thôi. Ngay cả mấy chục mẫu ruộng nước tốt nhất của nhà hắn cũng không giữ nổi. Lý chính trước không nghe lời, liền c.h.ế.t bất minh trong nhà.”

“Ngươi nói kiện lên quan phủ? Ở đây, quan phủ với nhà giàu là một phe. Muốn kiện sao? Cửa quan còn vào không được, không khéo ngay tại cửa đã bị sai dịch đánh cho sống dở c.h.ế.t dở. Nơi này thật không thể ở nổi nữa.”

Linh Phủ suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Chẳng lẽ quan viên trong huyện này người nào cũng đều tồi tệ như vậy?”

Nữ nhân đáp: “Nói vậy thì cũng không đúng. Ví dụ như vị huyện lệnh mới tới kia, nghe nói là người tốt. Vừa nhậm chức đã cho vay lương thực, nhà ta cũng tới lĩnh.”

Linh Phủ: “…”

Lĩnh xong liền chạy luôn sao, đại nương?

Cho ngươi vay lương thực là để thu lại vào mùa thu! Ai cũng như các ngươi, vậy thì chờ Tưởng huyện thừa mùa thu không thu được lương, chỉ có mà chờ bị hỏi tội thôi!
 
Vũ Lăng Xuân Thiếu - Thuyền Trưởng Thiệu Dao
Chương 49: Bói toán.



Từ Linh Phủ suy nghĩ một lát, mới hỏi:

“Nếu huyện lệnh đại nhân là người tốt, vì cớ gì các ngươi vẫn phải bỏ trốn?”

Người nữ nhân kia thoáng hiện vẻ tinh anh của kẻ từng trải, nhếch mày đáp:

“Vải trắng rơi vào thùng nhuộm, còn có thể tốt sao? Hắn cho dù lúc đến là người tốt, nhưng bước chân vào cái chốn bẩn thỉu như nha môn huyện Sở Ấp này, chẳng mấy ngày cũng sẽ giống như bọn quan lại tham ô kia mà thôi.”

Từ Linh Phủ trầm mặc, lòng tin vào quan phủ huyện Sở Ấp trong mắt những người này đã hoàn toàn sụp đổ. Họ chẳng còn tin rằng có thanh thiên đại lão gia nào sẽ xuất hiện nữa, thà rằng mang cả gia đình lưu lạc.

Thêm một nén hương trôi qua, đoàn người đã đến ngã ba giữa thôn lộ và quan đạo.

Người nam nhân nọ xuống khỏi con lừa nhỏ, Khuất Nguyên Đình cũng ghìm cương dừng xe, để người nữ nhân và đứa bé xuống.

Người nữ nhân hớn hở nói:

“Đi được một quãng thế này, đúng là nhanh hơn tự đi bộ nhiều. Tối nay chắc có thể tìm chỗ nghỉ ngơi sớm hơn rồi.”

Người nam nhân cũng hắng giọng đáp:

“Các vị cứ tiếp tục đi về hướng Tây, chúng ta không cùng đường, đành chia tay ở đây.”

Khuất Nguyên Đình nhìn kỹ gương mặt hắn, đột nhiên nở nụ cười đầy thâm ý:

“Huynh đài, nếu tiểu đệ không nhầm, trong vòng một tháng tới chắc chắn huynh sẽ gặp chuyện tốt.”

Người nam nhân nghe vậy, nhìn Khuất Nguyên Đình đầy kỳ quái, không nói lời nào.

Vẫn là người nữ nhân lên tiếng:

“Kẻ lưu lạc như chúng tôi, làm sao có chuyện tốt được? Công tử đừng trêu ghẹo chúng tôi nữa.”

Khuất Nguyên Đình nghiêm sắc mặt nói:

“Tiểu đệ từ nhỏ đã tinh thông thuật bói toán, về tướng mạo, lập quẻ, nhìn khí đều có chút nghiên cứu. Vì sao tẩu tử lại không tin?”

Nói xong, hắn rút từ trong tay áo ra ba đồng tiền, lập tức gieo xuống đất hai lượt:

“Dưới Ly trên Cấn, quẻ Bĩ, tiểu lợi hữu du vãng, cát dã!”

Người nữ nhân và người nam nhân không hiểu ý nghĩa, nhưng lại nghe rõ một chữ “cát” (tốt lành).

Kẻ lưu lạc bấp bênh như họ, lòng luôn bất định, tương lai đầy mờ mịt. Nông dân sống nhờ vào trời, vốn đã rất mê tín. Giờ thấy Khuất Nguyên Đình nghiêm túc thần bí, ai nấy đều muốn nghe rõ ý nghĩa.

Huống hồ, “cát” ư? Lời tốt lành, ai mà chẳng muốn nghe? Dẫu chỉ là một lời chúc cho tương lai cũng không ngại gì.

Thế là người nữ nhân sốt sắng hỏi:

“Công tử, quẻ này có ý gì? Ngài nói rõ cho chúng tôi nghe đi.”

Người nam nhân cũng không còn vẻ lầm lì như trước, gật đầu liên tục.

Khuất Nguyên Đình liếc nhìn họ một cái, bắt đầu giải thích:

“Tiểu đệ xin nói đơn giản thôi, quẻ Bĩ này ý nghĩa là thông thuận, con đường phía trước của hai vị tất sẽ hanh thông. ‘Tiểu lợi hữu du vãng’ nghĩa là nếu có chỗ để đi, ắt sẽ có chút lợi ích.”

Người nữ nhân và người nam nhân nhìn nhau, mặt lộ vẻ vui mừng, lẽ nào quyết định chạy trốn thật sự là đúng?

Khuất Nguyên Đình thu hết biểu cảm của hai người vào mắt, cất đồng tiền, tiếp lời:

“Tuy nhiên, theo ý ta, cái ‘hành vãng’ này không phải chỉ việc trốn chạy, mà là con đường quay về!”

Hai phu thê nghe vậy, lại sửng sốt lần nữa.

Khuất Nguyên Đình nói:

“Thực không giấu giếm, ta xem qua cung điền trạch của nhị vị, đều là tướng tốt cho phát triển tại chốn này. Tuy nhiên, hiện nay có chút tiểu kiếp, rời đi tránh một thời gian cũng không phải không được. Nhưng kiếp này chỉ kéo dài hơn một tháng, sau đó nguy chuyển thành lành. Khi ấy nhị vị trở về, mọi sự sẽ bình yên vô ngại. Lợi ích nhỏ mà quẻ tượng ám chỉ cũng sẽ đạt được trong thời gian này.”

Phu thê hai người nghe xong, vẻ mặt đầy mơ hồ. Người nữ nhân hỏi:

“Ý của công tử là, chúng ta rời đi rồi vẫn phải quay về? Chỉ khi quay về mới đạt được lợi ích mà quẻ tượng đã nói?”

Khuất Nguyên Đình gật đầu.

Phu thê hai người lúc này bắt đầu do dự, tựa hồ không hoàn toàn đồng tình.

Khuất Nguyên Đình nói:

“Nhị vị không tin thuật bói toán của tại hạ cũng không sao, chúng ta hãy đánh cược một lần. Nhị vị cứ rời đi, nhưng một tháng sau có thể nhờ người gửi thư hỏi thăm phụ lão ở quê nhà xem ruộng đất của nhị vị có được bảo toàn nguyên vẹn hay không, sẽ biết ngay quẻ tượng của tại hạ đúng hay không.”

Người nữ nhân kinh ngạc hỏi:

“Ngài nói rằng ruộng đất của chúng ta sẽ không bị hào cường xâm chiếm, mà còn được trả lại?”

Khuất Nguyên Đình gật đầu đầy quả quyết.

Người nữ nhân lập tức quay sang nhìn nam nhân, cả hai đều lộ vẻ không dám tin.

Ruộng đất chính là chỗ dựa lớn nhất của bọn họ. Nếu thật sự có thể bảo hộ an toàn, ai muốn phải lặn lội gian nan chạy trốn chứ?

Thấy vậy, Khuất Nguyên Đình lấy từ trong n.g.ự.c ra một chuỗi tiền đồng, đưa cho hai người:

“Nếu không đúng, nhị vị không cần quay về, chuỗi tiền này coi như tại hạ tạ lỗi vì lớn lối. Nhưng nếu đúng, nhị vị hãy trả lại chuỗi tiền này cho tại hạ. Dẫu sao ruộng đất đã được bảo toàn, nhị vị chẳng mất gì.”

“Hơn nữa, tại hạ có mười phần chắc chắn rằng nhị vị sẽ trả lại chuỗi tiền này cho ta trong tương lai. Khi qua đây, ta đã ‘vọng khí’, chỉ thấy địa khí nơi đây thăng lên, quấn quanh đỉnh núi và lòng sông, sinh cơ dồi dào. Nơi này ắt sẽ xuất hiện minh chính chi quan vì dân làm chủ. Ta nghĩ rằng ruộng đất của nhị vị cũng nằm tại đây.”

Nghe vậy, phu thê lưu dân trầm mặc, Từ Linh Phủ cũng trầm mặc.

Nàng thật sự không ngờ Khuất Nguyên Đình lại giỏi nói năng đến thế! Giả làm thần toán công tử, ăn nói trôi chảy mạch lạc, ngay cả nàng cũng suýt bị thuyết phục đến “lảo đảo”.

Thì ra, sự nghiêm chỉnh của Khuất huyện lệnh không chỉ thể hiện khi thăng đường xử án, mà còn rất nhập vai khi giả làm người khác!

Đang nghĩ ngợi, nàng phát hiện Khuất Nguyên Đình dường như vô tình mà hữu ý nhìn nàng. Với vai trò “muội muội” trong màn diễn, khuôn mặt nàng thoáng đỏ, hiểu rằng đã đến lượt mình lên tiếng:

“Đại thúc, đại nương, ca ca của ta không giỏi gì khác, nhưng việc bói toán này thì chưa bao giờ sai cả! Nhị vị cầm lấy chuỗi tiền đi, cùng lắm một tháng sau viết thư hỏi thăm hương thân là biết ngay mà!”

Nàng vừa nói vừa giúp đưa chuỗi tiền vào tay phu thê lưu dân. Hai người đã gần như “lảo đảo”, cầm chuỗi tiền, mơ mơ hồ hồ dắt lừa đi về hướng đông, đến cả việc hỏi sau này phải trả tiền ở đâu cũng quên mất.

Nhưng điều này không quan trọng. Khuất Nguyên Đình chỉ muốn khuyên nhủ dân chúng hồi hương, căn bản không để tâm đến số tiền ấy.

Nhìn bóng dáng cả gia đình xa dần, Khuất Nguyên Đình khẽ thở ra một hơi.

Hắn đã đến, nhưng vẫn không thể ngăn cản dân chúng bỏ xứ ra đi.

Nơi này bệnh tật sâu nặng, dù hắn có ngàn lần nhiệt huyết và quyết tâm, cũng phải từng bước gỡ bỏ.

Dẫu đã phát lương cứu đói, không phải ai cũng tin rằng hắn sẽ là vị quan một lòng một dạ vì dân. Hắn không thể tự xưng danh, vỗ n.g.ự.c để dân chúng tin tưởng mà ở lại.

Chỉ có thể dùng hành động thực tế, để họ thấy được thay đổi, thấy được tội ác bị trừng trị, thấy được chính nghĩa được thực thi. Khi đó, họ mới yên tâm ở lại, mới có thể an cư lạc nghiệp trong tương lai.

Đó là hành trình tu thân của một vị huyện lệnh, là trách nhiệm đè nặng trên vai hắn.

Con ngựa hý lên, dùng móng cào nhẹ xuống đất. Khuất Nguyên Đình xoa bờm ngựa, quay sang Từ Linh Phủ:

“Lên xe thôi, chúng ta phải nhanh chóng trở về thành.”

Phải rồi, mặt trời đã ngả về tây, lệnh giới nghiêm tựa như một chiếc đồng hồ sinh học, khắc sâu trong tâm trí mỗi người.

Tiếng “lóc cóc, lóc cóc” vang lên, bụi đất cuộn bay, chiếc xe ngựa chở theo tâm sự nặng nề của hai người dần khuất dạng trên quan đạo.
 
Back
Top Bottom