Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Dịch Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
631,998
Điểm cảm xúc
0
Điểm
36
AP1GczNMmcaHQR-WjaKI1NFKFK1e3U7BOVVmkc3aq-n659Ehi-3KdfA9PPkDIrZY4KLUyQjJ7QtRlx9HVhFObWpKtO3veTCTMJ-6zLAm11IK2p9tBjpg7-0TWXeHCTNg5SrGIvC7uGG-JZJdPHkpfr_Xzx3p=w215-h322-s-no-gm

Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Tác giả: Phi 10
Thể loại: Ngôn Tình, Xuyên Không, Cổ Đại
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Thể loại: Nguyên sang, Ngôn tình, Cổ đại , HE , Tình cảm , Xuyên việt , Cung đình hầu tước , Thị giác nữ chủ

Giới thiệu:

Một chú mèo thời hiện đại vô tình xuyên không về năm Càn Long thứ 34 triều Đại Thanh, từ đó bắt đầu ghi chép lại hành trình quan sát một cô gái tên Vương Trinh Nghi.​
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 1: Dẫn Nhập


Ngày lập xuân, trời quang mây tạnh.

Bên trong viện bảo tàng Cố Cung, có hai nhân viên—một nam một nữ—đang đi quanh sân để chụp ảnh tư liệu.

Người đàn ông trẻ tuổi đeo một chiếc máy ảnh trên cổ, lúc này đang hướng ống kính về phía một bụi hoa nghênh xuân vàng nhạt mọc bên góc tường.

Sau khi chụp liên tiếp vài bức, anh ta mở máy ảnh xem lại ảnh gốc rồi đưa cho nữ đồng nghiệp xem.

Nữ nhân viên lớn tuổi hơn, chăm chú nhìn một lúc, sau đó mỉm cười khen ngợi:

“Tiểu Lý chụp ảnh có nghề đấy!

Giới trẻ các cậu giỏi hơn chúng tôi nhiều!”

“Đó là nhờ viện mình bảo trì tốt thôi, chụp đại cũng thành tác phẩm nghệ thuật!”

Hai người vừa trò chuyện vừa tiếp tục đi về phía trước tìm cảnh đẹp.

Nữ nhân viên chỉ vào một gốc mai sáp mới đâm chồi dưới bức tường son, cười bảo:

“Chụp luôn cây mai này đi… Đến mỗi tiết khí, chúng ta chụp một lần trong viện, để ghi lại cảnh sắc suốt cả năm.”

“Hay đấy!

Đến cuối năm còn có thể làm hẳn một bộ ‘Nhị thập tứ tiết khí đồ giám’ của Cố Cung!”

“Ý này được đấy!”

Nữ nhân viên tán thành, rồi lại đưa tay chỉ về phía khác: “Tiểu Lý, chụp cho Quýt một tấm nữa nào!”

Chàng trai trẻ cầm máy ảnh bước lại gần.

“Quýt” chính là một con mèo nổi tiếng trong viện bảo tàng Cố Cung.

Như cái tên của nó, đó là một con mèo vàng cam to béo.

Nó có bộ lông vàng xen trắng, chỉ riêng bụng và bốn chân là tuyết trắng, kiểu hoa văn này còn được gọi là “Kim bị ngân sàng” (chăn vàng giường bạc).

Quýt năm nay đã tám tuổi, từ khi có ký ức, nó đã sống ở Cố Cung.

Nhờ tài bắt chuột xuất sắc, cộng thêm lượng thức ăn tiêu thụ khủng khiếp và thân hình nặng ký, nó luôn giữ vững vị trí không thể lay chuyển trong đội ngũ mèo của bảo tàng suốt bao năm qua.

Lại nhờ vẻ ngoài đáng yêu, Quýt ngoài công việc bắt chuột còn kiêm thêm một nghề phụ: tiếp đón du khách, cho phép họ v**t v* bộ lông mềm mại của mình.

Thế nên, Quýt luôn xem mình là một chú mèo biên chế chính quy, nếu nói cho oai hơn, thì phải là Hộ vệ móng vuốt của Cố Cung, hơn nữa còn là hộ vệ nhất đẳng!

Là một hộ vệ dày dạn kinh nghiệm, khi thấy ống kính chĩa vào mình, Quýt lập tức duỗi hai chân trước trắng muốt, hạ thấp thân trước, làm một động tác vươn mình tiêu chuẩn, tao nhã vô cùng.

Sau khi hai nhân viên rời đi, Quýt thu chân lại, cuộn mình trên lan can đá, lim dim mắt hưởng thụ ánh nắng ấm áp.

“Lập xuân rồi, trời bắt đầu ấm dần lên… Mọi người xem, cây cối cũng đâm chồi rồi kìa!”

“Nhắc đến lập xuân, các cậu có biết Giang Huệ không?”

Nghe tiếng trò chuyện của nhóm du khách, Quýt vẫn híp mắt đầy thư thái.

Nhóm này có bảy, tám người, nam nữ đều có, nhìn cách ăn mặc thì trông giống sinh viên đại học.

“Giang Huệ?

Khoa nào thế?”

“Gì mà khoa nào!

Mình nói đến một nữ khoa học gia thời Đạo Quang nhà Thanh kia kìa…”

Một cô gái mặc áo phao xanh bơ hào hứng kể: “Bà ấy nghiên cứu thiên văn tinh tượng, dựa theo Nhị thập tứ tiết khí mà vẽ ra hai mươi bốn bức tinh đồ, rồi khắc in thành sách ‘Tâm Hương Các Khảo Định Nhị Thập Tứ Tiết Khí Trung Tinh Đồ’, lợi hại lắm đấy.”

“Wow, nữ khoa học gia thời Thanh à…”

Một cô gái khác tiếp lời: “Thế thì mình cũng biết một người, còn sớm hơn nữa, cũng nghiên cứu thiên văn toán học, tên là Vương Trinh Nghi!

Các cậu đã nghe bao giờ chưa?”

“À, cái tên này thì từng nghe qua…”

Một chàng trai cao ráo đội mũ len đen vừa lướt điện thoại vừa nói: “Nhưng trên mạng có người bảo Vương Trinh Nghi có thể chỉ là nhân vật hư cấu thôi, ai mà biết thật giả thế nào.”

Vài người vì vấn đề này mà tranh luận rôm rả.

Quýt ngáp một cái, mắt vẫn khép hờ.

Phải rồi, ai mà biết thật giả thế nào chứ.

Lịch sử Trung Hoa dài như vậy, chứa đựng bao nhiêu con người, e rằng còn nhiều hơn số lông mèo mà nó rụng trong suốt cuộc đời nữa.

Nhóm sinh viên nói chuyện rôm rả rồi dần đi xa.

Quýt vừa định đổi tư thế ngủ tiếp thì bỗng nhiên vểnh tai lên, quay đầu lại.

Chỉ thấy một con mèo lớn vằn xám đang đi tới.

Quýt lập tức bật dậy, cong lưng, ép tai xuống, cất giọng rít gào đầy đe dọa với con mèo vằn kia.

Mèo vằn nhún người, nhảy phốc lên lan can đá, đáp xuống nhẹ như không, từng bước tiến về phía Quýt, miệng cũng chẳng nói lời gì dễ nghe.

Con mèo này mới đến hồi tháng trước, lai lịch không rõ ràng nhưng tác phong lại ngang ngược vô cùng.

Từ lúc nó xuất hiện trong viện bảo tàng, Quýt đã đấu với nó hơn chục trận.

Ngoài vấn đề tranh giành địa bàn, điều khiến Quýt tức nhất chính là từ khi con vằn xám này đến, mấy cô tam thể trong hậu điện không còn bám lấy nó nữa!

Đúng là oan gia ngõ hẹp, gặp nhau liền đỏ mắt.

Hai con mèo vươn cổ, đối chọi kịch liệt bằng đủ kiểu tiếng mèo gầm gừ chửi bới.

Lửa giận trong lòng Quýt càng lúc càng bốc cao.

Con mèo vằn ngoại lai này đúng là thứ mồm miệng nhanh nhảu, chửi mèo thì từ ngữ phong phú lại vô cùng mất dạy!

Cuối cùng, Quýt không nhịn nổi nữa—vung “mèo quyền” ra trước!

Vừa thấy Quýt ra đòn, hai con mèo lập tức như hai cục nam châm hút chặt vào nhau, tốc độ nhanh đến mức chỉ thấy một bóng vàng một bóng xám cuộn lại, cắn cổ, đạp bụng, tất cả các chiêu đều tung ra.

Hai con mèo kêu gào ầm ĩ, từng nhúm lông bay tứ tung khắp không trung.

Trong lúc quần chiến, Quýt bất ngờ trượt chân, ngã ngửa về phía sau.

Nó hoảng hốt đạp chân giữa không trung, cố gắng xoay người để thực hiện một cú tiếp đất hoàn mỹ, cứu vãn chút thể diện.

Nhưng lạ lùng thay…

Bờ lan can này không cao, theo lẽ thường thì chỉ chớp mắt là đã chạm đất, vậy mà Quýt lại cảm giác mình đang rơi rất lâu.

“Bốp—!”

Cuối cùng, nó chạm đất.

Quýt thử lật người lại, nhưng… không lật nổi.

Nó cố gắng thêm một lần nữa, cuối cùng cũng lăn được một vòng, nhưng động tác lại vụng về một cách chưa từng thấy.

【——Meo?】

Quýt nghi hoặc kêu một tiếng, rồi bỗng giật thót mình, vội vàng giơ hai chân trước che cổ họng—đây là giọng mèo con nhà ai?!

Ngay sau đó, nó duỗi hai chân trước ra, xòe to móng vuốt, trợn tròn mắt—đôi chân bé tí teo này là sao?

Còn nắm đấm to như trái măng cụt của nó đâu?!

Quýt hoảng hốt nhìn quanh.

Tường trắng, hành lang nhỏ, mái ngói xanh, sân vườn lát gạch xanh rợp bóng tùng… Đây là một nơi hoàn toàn xa lạ.

Quýt còn đang hoang mang, bỗng nghe thấy từng tiếng gào thét thảm thiết vọng ra từ căn phòng chính trong viện.

Tiếng động ấy lập tức thu hút sự chú ý của nó.

Quýt nhấc chân chạy về phía đó, nhưng thân thể hiện tại quá nhỏ, chỉ bằng một chú mèo con mới đầy tháng, nên dù gọi là chạy thì cũng chỉ là từng bước nhỏ chậm chạp.

Khi tới ngoài căn phòng ấy, Quýt trông thấy một người đàn ông trẻ tuổi mặc áo dài vải thô màu nâu sẫm, phía sau tết một bím tóc dài, đang đi đi lại lại với vẻ mặt đầy lo lắng, miệng không ngừng lẩm bẩm:

“Quan Âm Bồ Tát phù hộ… Chư Thánh trên cao, xin hãy độ trì…”

Quýt nhìn chằm chằm vào bím tóc của người đàn ông.

Đúng lúc này, một tiếng khóc trẻ sơ sinh vang lên lanh lảnh từ trong phòng.

Chẳng bao lâu sau, một bà mụ tóc búi gọn gàng bước ra, mặt mày rạng rỡ:

“Sinh rồi, sinh rồi!”

Người đàn ông vội vàng tiến lên: “Sinh rồi?

Là con trai hay con gái?”

“Chúc mừng nhị gia, là một minh châu đấy!”

Vẻ mong chờ trên mặt người đàn ông lập tức biến mất, vai cũng vô thức chùng xuống, khẽ thở dài: “Là nữ nhi…”

Thời ấy, sinh con trai gọi là “nâng ngọc khuê” (nâng ngọc), sinh con gái gọi là “nâng viên gạch” (nâng ngói).

Bà mụ thấy thế thì cười an ủi: “Nhị gia à, ngài và nhị phu nhân còn trẻ, đây chỉ là con đầu lòng thôi, trai gái gì cũng là chuyện vui cả!

Hơn nữa hôm nay lại đúng ngày lập xuân, ‘lập xuân, lập xuân, ngày ngày đổi mới’, con cháu sau này chắc chắn còn có phúc lộc!”

Người đàn ông nghe vậy mới miễn cưỡng nặn ra một nụ cười, chắp tay nói: “Mong là thế, đa tạ bà mụ đã vất vả rồi.”

Lúc này, một phụ nữ hầu từ trong phòng đi ra, khẽ cúi người với người đàn ông.

Người đàn ông vội hỏi: “Vú Triệu, phu nhân có khỏe không?”

Bà vú gật đầu, mặt mày vui vẻ: “Nhị phu nhân nhờ nhị gia đặt tên cho tiểu thư.”

Người đàn ông trầm ngâm giây lát.

Hắn rất coi trọng đứa con đầu lòng này, từ lâu đã chuẩn bị sẵn nhiều cái tên, nhưng phần lớn đều dành cho con trai.

Khi thê tử mang thai, ai gặp cũng nói chắc chắn là thai nam…

Hắn lặng lẽ thở dài, cuối cùng thu lại sự thất vọng, nói:

“Gọi là Trinh Nghi đi.”

Đây là cái tên duy nhất mà hắn từng chuẩn bị cho nữ nhi.

Quýt động động ria mép, đang định chạy vào xem đứa trẻ tên Trinh Nghi kia rốt cuộc trông như thế nào, bỗng cảm thấy cổ bị siết chặt, bốn chân lập tức rời khỏi mặt đất.

Một con mèo vàng to bự ngoạm nó lên, nhanh chóng rời khỏi nơi ấy.

Quýt vùng vẫy chân giữa không trung, cho đến khi bị con mèo lớn thả xuống đất.

Vừa định mở miệng, nó liền bị con mèo lớn ôm chặt, mạnh mẽ l**m láp một trận.

Quýt cố gắng vùng ra, nhưng bị con mèo lớn quát một tiếng.

Cảm nhận sự áp chế của huyết thống mẫu tử, Quýt đành bất đắc dĩ chấp nhận bị chỉnh đốn ngoại hình.

Mèo lớn ra sức l**m đầu Quýt, khiến nó có cảm giác cả cái thiên linh cái sắp bị lột ra, ngay cả mí mắt cũng bị kéo căng.

Nó không nhịn được mà kêu lên:

【Mẹ, nhẹ chút!】

Mèo lớn không thèm để ý, mãi đến khi l**m sạch sẽ từng sợi lông trên người Quýt mới hài lòng dừng lại.

Quýt, giờ đã sạch sẽ như mới, ngồi trước mặt mèo lớn, ngẩng đầu hỏi:

【Đây là đâu?】

Mèo lớn nằm xuống, lười biếng phe phẩy đuôi, ngáp một cái:

【Đây chính là đây thôi.】

Quýt lại hỏi: 【Vậy năm nay là năm nào?】

Mèo lớn hờ hững: 【Năm nay chính là năm nay.】

Quýt buồn rầu im lặng.

Nó đã biết mà, không phải con mèo nào cũng có học thức như nó.

Mèo lớn chậm rãi đung đưa đuôi: 【Mèo con hỏi nhiều quá.】

Quýt ưỡn ngực, nghiêm túc nói: 【Gọi ta là Quýt!】

Mèo lớn ngoảnh đầu nhìn ra sau, có chút khó xử: 【Ngươi gọi là Quýt, vậy mấy đứa kia biết gọi là gì đây?】

Quýt quay đầu lại, chỉ thấy ba con mèo con vàng nhỏ xíu đang lẫm chẫm chạy tới, miệng kêu “meo meo” đòi ăn.

Mèo lớn vốn chẳng định đặt tên cho con, nghĩ cứ nuôi đại là được, nhưng nghe Quýt nhắc đến, nó cũng nổi hứng.

Thế là, Quýt trở thành Đại Quýt, đồng thời có thêm ba đứa em: Nhị Quýt, Tam Quýt và Tiểu Mâm.

Quýt ngơ ngác—Tiểu Mâm là cái thứ gì?

Mèo lớn híp mắt giải thích: 【Dùng để đựng mấy đứa đấy, nơi này là nhà quan văn, mèo con sinh ra cũng phải có chút ý tứ chứ!】

Một cái mâm, đựng ba trái quýt, thật là có ý nghĩa.

Quýt cạn lời.

Nó bị ba con mèo con không ngừng kêu meo meo làm phiền đến phát bực, vừa định lẻn đi thì bị mèo lớn chặn lại, mạnh mẽ kéo vào lòng, bắt phải bú sữa.

Dựa vào khả năng của mình, sau mười ngày lăn lộn, Quýt cuối cùng cũng hiểu rõ hai vấn đề kia—

Đây là Kim Lăng.

Năm nay là năm Càn Long thứ 34, Đại Thanh.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 2: Lập Xuân (Phần 1)


Sau lập xuân, sông băng dần tan chảy, những mầm liễu non nhú lên nơi góc tường, cành liễu mảnh mai trở nên mềm mại, uyển chuyển hơn.

Quýt nằm trên đống củi ở góc tường, lim dim mắt hưởng thụ ánh nắng.

Nó khẽ hít hít mũi, đã có thể ngửi thấy trong không khí hương vị vạn vật hồi sinh.

Bộ lông mèo con vẫn còn hơi xù của Quýt khẽ rung lên trong làn gió xuân, đồng thời cũng ngấm lấy hơi ấm của ánh mặt trời.

Nó thoải mái rút chân vào lòng, nhưng cũng hơi có chút tiếc nuối.

Trời đẹp như thế này mà chẳng có lấy một miếng cá khô.

Quýt bắt đầu nhớ đến mấy món ăn thời hiện đại, từ pate trộn đủ thứ phụ gia công nghệ, đến các loại gà đông lạnh và trứng cút sấy khô.

Bên dưới đống củi, mèo mẹ co chân sau gãi ngứa, cả một nhúm lông rụng sau suốt mùa đông theo gió bay lên, vừa vặn bị một con chim én lướt ngang qua ngoạm lấy, tha đi lót tổ.

Quýt híp mắt, cảm thấy thi hứng dạt dào—

“Lông mèo nào phải vật vô tình, hóa thành tổ ấm lại chở che chim!”

Hôm sau, con én ấy lại đến, lần này cắp đi hai nhúm lông nữa.

Đến ngày thứ ba, nó chẳng đến một mình mà còn dẫn theo mấy con nữa.

Quýt nhìn đám chim én chao lượn trên tường viện, rồi lại nhìn mèo mẹ đã trụi lông gần hết, cảm thấy áp lực của bà có hơi lớn.

Thế nên mèo mẹ chỉ còn cách vờ cúi đầu l**m lông, giả bộ bận rộn.

May mà đám én kia cũng biết mèo giỏi săn chim, nên không dám lại quá gần, bằng không chúng có khi đã trở thành đám đạo tặc chuyên cướp lông mèo rồi.

Vạn vật trên đời luôn tương sinh tương khắc như thế.

Chẳng hạn, Quýt không thích trẻ con, nhưng lại luôn bị tiếng khóc của chúng thu hút.

Một buổi trưa, Trinh Nghi lại khóc.

Nhân lúc mèo mẹ ra ngoài kiếm ăn, Quýt lén lút chạy đi xem.

Hiện tại, Quýt đã là một chú mèo hai tháng tuổi, còn Trinh Nghi cũng vừa tròn một tháng.

Nhưng mẹ của nàng, Dương Cẩn Nương, vẫn rất ít khi xuống giường.

Dương Cẩn Nương vốn sức khỏe không tốt, lần sinh nở này tổn hại nguyên khí, suốt cả tháng ở cữ đều phải tĩnh dưỡng.

Thầy thuốc còn nói riêng với gia đình rằng, ngoài bệnh trong người, nàng còn có tâm bệnh.

Quýt không hiểu chuyện của con người, nó chỉ thấy loài này quá yếu đuối—mỗi lứa chỉ sinh có một con đã đành, đứa trẻ ấy lại còn lớn lên quá chậm.

Nó thường xuyên đến xem Trinh Nghi, nhưng lúc nào cũng cảm thấy nàng chẳng lớn lên bao nhiêu.

Thậm chí, có hôm nửa đêm nó còn lẻn vào phòng, lăn ra nằm trên giường Trinh Nghi, duỗi hết tứ chi để so xem ai dài hơn.

Kết quả là, Trinh Nghi hầu như không thay đổi, còn Quýt thì ngày càng lớn nhanh như thổi, bây giờ đã có thể chạy nhảy khắp nơi.

Quýt nhón chân lên ghế, trèo qua cửa sổ, đứng trên bậu cửa, thò đầu vào phòng nhìn.

Trinh Nghi vẫn đang khóc, nàng vừa bú sữa xong, một bà vú đang bế dọc nàng vỗ nhẹ sau lưng, sợ nàng bị trớ sữa.

Bên cạnh, một nha hoàn chừng mười tuổi giơ chiếc trống bỏi, ra sức dỗ dành:

“Tiểu thư ngoan, đừng khóc, đừng khóc nhé!”

Giữa những tiếng khóc nấc, Trinh Nghi dường như trông thấy con mèo cam nằm trên bậu cửa sổ.

Bốn mắt nhìn nhau, đây là lần đầu tiên hai tiểu sinh linh này đối diện nhau.

Quýt chăm chú nhìn Trinh Nghi, chỉ thấy nàng có một đôi mắt to tròn, lúc này đang ngân ngấn nước, trông lại càng long lanh hơn.

Một lát sau, Quýt nhấc hai chân trước lên, ưỡn thẳng người, làm động tác mèo yêu thuật.

Trinh Nghi ngừng khóc, cái miệng nhỏ tròn xoe, phát ra mấy tiếng “o… o…” đầy tò mò.

Nha hoàn cầm trống bỏi thấy vậy, bèn quay lại nhìn, lập tức chỉ tay kêu lên:

“Bà ơi, cô ơi!

Mau nhìn xem, có một con tiểu ly nô màu cam kìa!”

Quýt vội cụp chân trước xuống, phóng người chạy mất.

Sau đó, Quýt còn đến thêm vài lần nữa.

Hễ Trinh Nghi khóc, nó lại ghé qua nhìn.

Mà kỳ lạ thay, chỉ cần nhìn thấy nó, nàng lại ngừng khóc.

Dương Cẩn Nương thấy con mèo nhỏ này có linh tính, dần dần cũng cho phép nó vào phòng.

Tiểu nha hoàn Xuân Nhi thỉnh thoảng còn mang thịt khô hoặc một bát cá hầm nhừ đặt trước ổ mèo ở góc tường.

Mèo mẹ mỗi lần ra ngoài đều khoe với đồng loại rằng, đàn con của nó đứa cả giỏi giang nhất, được chủ nhân yêu thích, một con mèo thành danh thì cả họ hàng đều được thơm lây, thật là vẻ vang tổ tông!

Nhị Quýt và Tam Quýt cũng lần lượt tìm được chủ, được hàng xóm mang cá chép đến chuộc về làm ly nô trong nhà.

Còn Tiểu Mâm, do bẩm sinh yếu ớt, chưa qua được tháng Hai đã mất.

Quýt cảm thấy, có lẽ là do cái tên không hay.

Một cái mâm mà phải gánh ba trái quýt, quá sức chịu đựng.

Dạo gần đây, Quýt có chút buồn rầu—nó bị phạt cấm vào phòng Trinh Nghi năm ngày.

Mà nó có làm gì xấu đâu chứ?

Chẳng qua là nhân lúc Xuân Nhi ngủ gật, nó nhảy lên giường, l**m tóc giúp Trinh Nghi mà thôi.

Bị Xuân Nhi đuổi về, Quýt vừa kêu vừa khoa chân múa tay kể khổ với mèo mẹ:

【Mẹ không thấy đấy thôi, tóc nó rối đến mức không chịu nổi!】

Quýt chỉ muốn làm tốt công việc chăm sóc trẻ con, nào ngờ con người lại không hiểu nỗi khổ tâm của nó.

Khi Trinh Nghi được hai tháng rưỡi, Dương Cẩn Nương cũng đã khỏe hơn, cuối cùng có thể ra ngoài đi lại.

Hôm ấy, nàng cùng phu quân là Vương Tích Thâm, bế Trinh Nghi đến thỉnh an lão phu nhân.

Trên đường đi, Dương Cẩn Nương có vẻ thấp thỏm không yên, Vương Tích Thâm cũng cúi đầu im lặng.

Cảnh tượng này rơi vào mắt Quýt, trông thế nào cũng thấy giống như họ vừa làm chuyện khuất tất, đứa bé này như thể không phải con ruột của họ, đến gặp người lớn mà có chút chột dạ.

Vương gia ở Kim Lăng cũng xem như một danh môn có tiếng.

Gia chủ Vương Giả Phụ từng là lẫm sinh, lăn lộn quan trường mấy chục năm, hiện đang làm Tri phủ Gia Ứng Châu ở Quảng Đông, chức quan từ tứ phẩm.

Vương Giả Phụ vốn là người Thiên Trường, An Huy, hơn mười năm trước mới chuyển cả nhà đến Kim Lăng.

Ông có ba người con trai, Vương Tích Thâm là con thứ hai, cùng với trưởng tử đều do chính thất, tức Đổng lão phu nhân sinh ra.

Còn con út thì là con vợ lẽ, nhưng mẹ ruột của hắn ta đã mất vì bệnh từ lâu.

Vương gia tuy không quá xem trọng chính – thứ, nhưng dù sao không phải cùng mẹ sinh ra, trong lòng cũng khó mà thân thiết như nhau.

Đổng lão phu nhân vốn là người mạnh mẽ, vậy mà trong ba người con trai, chỉ có con út Vương Tích Phổ là xuất sắc nhất.

Tam gia Vương Tích Phổ là người duy nhất trong ba huynh đệ bước chân vào quan trường, hiện tại đang làm huyện lệnh ở địa phương khác.

Vợ con ông ở lại Kim Lăng, con gái Vương Thục Nghi năm nay bảy tuổi, đã rất có phong thái của một tiểu thư khuê các.

Còn con trai Vương Giới dù mới bốn tuổi, nhưng người ta nói ba tuổi đã nhìn ra tương lai, mà Vương Giới xem chừng chính là một mầm non đỗ đạt công danh.

Ngoại trừ tam phòng có con cái đuề huề, hai người con ruột của Đổng lão phu nhân thì hậu duệ lại ít ỏi vô cùng.

Đại gia Vương Tích Thụy chỉ có một con trai, chính là trưởng tôn của Vương gia—Vương Nguyên, năm nay vừa tròn mười tuổi.

Đứa trẻ này tính tình hiếu động, nhưng cứ hễ thấy bút mực là lập tức im thin thít như chim cút, ngây người như khúc gỗ.

Thành tích nổi bật nhất của cậu bé cho đến nay chính là… năm ngoái đánh nhau với con trai út của Tri phủ Kim Lăng—và thua.

Thua cũng tốt.

Chỉ là, mỗi lần nghĩ đến chuyện này, Vương Tích Thụy lại thấy tim mình nhói đau.

Mà hắn đã nhiều năm không sinh thêm con cái, nên đành dồn hết kỳ vọng “khai chi tán diệp” vào vợ chồng Vương Tích Thâm.

Áp lực của Vương Tích Thâm, có thể tưởng tượng được.

Thế nhưng hắn không tranh nổi cái hơi ấy, cuối cùng lại chỉ sinh ra một đứa con gái.

Lúc này, hắn cùng thê tử bế con đến gặp mẫu thân, trong lòng không khỏi lo lắng bất an.

Quýt ngồi xổm ngoài sảnh, cũng tận mắt nhìn thấy Đổng lão phu nhân.

Lão phu nhân búi tóc gọn gàng, tóc đã bạc hoa râm, dáng người hơi thấp, thân hình đẫy đà, khuôn mặt dài, đuôi mắt rũ xuống, dường như không hay cười, nên mang lại cảm giác uy nghiêm.

Vương Tích Thâm và thê tử hành lễ xong, một bà vú bước lên, nhẹ nhàng đón lấy đứa trẻ từ tay Dương Cẩn Nương, bế đến trước mặt lão phu nhân:

“Lão phu nhân, mời người xem Nhị tiểu thư…”

Vợ chồng Vương Tích Thâm lặng lẽ cúi đầu, trông chẳng khác nào hai phạm nhân đang đợi tuyên án.

Chỉ chốc lát sau, trên cao lại truyền đến một tiếng cười khẽ.

Hai vợ chồng liền ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy Đổng lão phu nhân tự tay bế lấy cháu gái, sắc mặt giãn ra, ánh mắt tràn đầy yêu thương:

“Lông mày mọc đủ cả, là đứa trẻ có phúc.

Mắt sáng như thế này, hẳn là thông minh lắm đây…”

Bà lại quay sang nói với vợ chồng Vương Tích Thâm:

“Phụ thân các con đã gửi thư từ Quảng Đông về, đặt cho đứa bé này một cái tự.”

Vương Tích Thâm kinh ngạc ngẩng đầu, phụ thân lại còn đặt tự cho con gái hắn sao?

Lão phu nhân đưa tay chạm nhẹ vào khuôn mặt nhỏ nhắn của cháu gái, cười gọi:

“Đức Khánh… Tiểu Đức Khánh à.”

Vương Tích Thâm nghe vậy liền thở phào nhẹ nhõm, trong mắt cũng ánh lên nụ cười.

Dương Cẩn Nương đỏ hoe mắt, bao nhiêu lo âu cuối cùng cũng tan biến quá nửa.

Năm sau, vào một ngày lập xuân, Dương Cẩn Nương lần đầu tiên cảm thấy niềm vui khi làm mẹ—Trinh Nghi đã có thể chập chững bước đi vài bước.

Khi trời ấm hơn, áo bông dày cộm được cởi ra, bé con cột hai chỏm tóc nhỏ, bắt đầu chạy càng lúc càng nhanh.

Ở độ tuổi này, trẻ con hễ thấy thứ gì mới lạ liền muốn vươn tay chộp lấy, sau đó nghiễm nhiên bỏ ngay vào miệng.

Chuyện này khiến Quýt lo lắng vô cùng.

Mỗi lần thấy Trinh Nghi quơ tay lung tung, Quýt liền ra đòn bằng “mèo quyền”, vỗ nhẹ vào tay nàng, ngăn không cho nàng đưa bậy vào miệng.

Nhưng điều đó cũng không cản được Quýt mỗi khi thấy Trinh Nghi té ngã, nó liền nhân cơ hội vươn móng cào vài phát lên hai chỏm tóc trên đầu nàng—không còn cách nào khác, chúng thực sự quá giống đồ chơi trêu mèo.

Thêm một năm lập xuân nữa, Trinh Nghi đã lên ba tuổi.

Trước ngày sinh nhật của nàng, Quýt dày công chuẩn bị một món quà đầy chân thành—nửa đêm đặt một con chuột chết ngay trên gối Trinh Nghi.

Sáng hôm sau, tiếng thét chói tai của Xuân Nhi vang khắp cả Vương gia.

Xuân Nhi vung con chuột to béo kia ra xa, vừa gào vừa khiếp sợ, sau đó lập tức hạ lệnh nghiêm khắc nhất—cấm Quýt vào phòng nửa tháng.

Quýt ỉu xìu tha con chuột về ổ.

Mèo mẹ nghe chuyện, chậm rãi gật gù, ra vẻ từng trải:

【Chuyện này là con sai rồi, nhưng lỗi là do con chưa hiểu thói quen của con người—họ ăn đồ nấu chín.】

Thế là đến sinh nhật bốn tuổi của Trinh Nghi, Quýt lại dốc hết tâm huyết, chuẩn bị cho nàng một con chuột nướng tái.

Chuột được Quýt bắt từ hai hôm trước, sau đó lén giấu dưới bếp lò.

Hai chân trước trắng muốt của nó bị ám đầy tro đen, cái mũi nhỏ cũng lấm lem, nhưng dáng đi vẫn thanh nhã như một vị mèo quyền quý, hiên ngang tha con chuột nướng ấy đến dâng cho Trinh Nghi.

Kết quả, Xuân Nhi—lúc này đã bốn tuổi—lại một lần nữa gào thét.

Lần này, Quýt bị cấm cửa cả tháng.

Khi lệnh cấm được dỡ bỏ, hoa hạnh trong thành Kim Lăng đã nở rộ.

Đến mùa thu, hoa quế khoe sắc, Quýt lại bắt đầu đau đầu suy nghĩ món quà sinh nhật năm năm tuổi cho Trinh Nghi.

Nhưng đúng lúc đó, Vương Tích Thâm từ bên ngoài trở về, vai rũ xuống, vẻ mặt nặng nề, chẳng nói một lời.

Quýt trông thấy, liền lặng lẽ đi theo sau hắn.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 3: Lập Xuân (Phần 2)


Vương Tích Thâm lê từng bước nặng nề trên đường, tình cờ gặp huynh trưởng Vương Tích Thụy—mà mỗi lần nghe cái tên này, Quýt đều có cảm giác muốn sai bảo đối phương làm gì đó, chẳng hạn như gọi điện thoại hay phát một bản nhạc nào đó.

Với dáng đi ung dung tao nhã, Quýt chậm rãi bám theo sau hai huynh đệ nhà họ Vương.

Chẳng bao lâu sau, nó đã có thể tổng kết bằng tám chữ:

“Khoa cử gian nan, Tích Thâm thở dài.”

Đây là lần thứ hai Vương Tích Thâm tham gia kỳ thi mùa thu kể từ khi đỗ tú tài—và lần thứ hai thi trượt.

Vương Tích Thụy vỗ vai đệ đệ, nhẹ giọng an ủi.

Vương Tích Thâm vẫn cúi đầu, hai vai rũ xuống như gánh hàng ngàn cân.

Năm đó, hai huynh đệ lần lượt thi đỗ tú tài, cả vùng không ai không ngưỡng mộ Vương gia, đều nói nhà họ phong thủy tốt, người người thành đạt…

Vương Tích Thâm cũng từng nghĩ mình sẽ cùng huynh trưởng và tam đệ vinh hiển môn đình, nhưng nào ngờ vận may xoay tới xoay lui, đột nhiên như nhận ra xoay nhầm nhà, liền vội vã chạy mất—

Trước tiên là đại ca trong một chuyến du ngoạn bất ngờ ngã gãy chân, để lại di chứng khó hồi phục, không thể tiếp tục thi cử, ngay cả con cái cũng khó có thêm.

Sau đó, phụ thân bị giáng chức điều đi Gia Ứng Châu, nơi hoang vu hẻo lánh của Lĩnh Nam.

Còn bản thân hắn, càng thi lại càng trượt thảm hại.

Áp lực đè lên Vương Tích Thâm nặng đến mức, dạo gần đây, khi đang ôn thi, hắn thậm chí còn nảy sinh ý nghĩ hiểm ác—rằng có khi nào huynh trưởng vì chịu quá nhiều khổ sở từ khoa cử, nên mới cố tình té gãy chân hay không…

Dù sao thì trước đó, huynh trưởng cũng đã trượt hai lần, tinh thần rất sa sút…

Mà chỉ riêng việc hắn có suy nghĩ này cũng đủ cho thấy trạng thái tinh thần của hắn đang tệ đến mức nào.

Kể từ khi không còn phải dùi mài khoa cử, Vương Tích Thụy trông có vẻ thoải mái hơn hẳn.

Hiện tại, hắn làm tiên sinh ở một tư thục trong thành Kim Lăng, dựa vào học vấn của mình và chiếc chân khập khiễng để sống—ở nhà thì được cha mẹ huynh đệ thương yêu, ra ngoài thì được học trò và giới văn nhân tôn trọng.

Điều càng khiến Vương Tích Thâm ghen tị là, mỗi khi có ai nhắc đến vết thương của đại ca, người người đều cảm thán đầy chân thành rằng—nếu không phải vì chuyện này, chắc chắn Vương Tích Thụy đã thi đỗ tiến sĩ từ lâu!

Mỗi lần như vậy, Vương Tích Thụy chỉ biết lắc đầu thở dài, khiến người ta càng thêm khẳng định và ngưỡng mộ.

Hiện tại, hắn cũng đang an ủi đệ đệ:

“Lát nữa vào gặp mẫu thân, ta sẽ nói giúp đệ…”

Vương Tích Thâm nặng nề gật đầu.

Sau khi trượt kỳ thi này, người mà hắn không dám đối mặt nhất chính là người mẹ kỳ vọng lớn lao vào mình.

Nhưng không ngờ, khi nghe hắn báo tin, mẫu thân lại chỉ phất tay một cách thờ ơ.

Đổng lão phu nhân nói với hắn, chuyện này chẳng có gì to tát cả.

Mà bí quyết để một tin xấu trở nên vô nghĩa chính là—một tin xấu hơn nữa.

Nhìn thấy lá thư bên cạnh mẫu thân được gửi từ Quảng Đông, Vương Tích Thâm lo lắng hỏi:

“Phụ thân lại bị giáng chức sao?”

“Không.”

Đổng lão phu nhân chỉnh lại lời hắn.

“Lần này là bị bãi quan.”

“……”

Vương Tích Thâm và Vương Tích Thụy đều sửng sốt.

Ngay cả Quýt, lúc này đã nằm rạp ngoài cửa, cũng nghe hiểu—ồ, trước đây chỉ là bị giáng chức, lần này thì bị đuổi thẳng luôn.

Đổng lão phu nhân bình tĩnh kể lại sự tình.

Bà vốn là người mạnh mẽ, không bộc lộ quá nhiều cảm xúc, nhưng dải trán buộc trên đầu dường như được siết chặt hơn mọi khi—dùng cách áp chế vật lý để giữ cho mạch máu trên trán không dâng trào vì tức giận.

Theo lời bà, trượng phu của mình cái gì cũng tốt, chỉ là quá bướng.

Vương Giả Phụ xuất thân nghèo khó, nhờ dùi mài kinh sử mà thi đậu tú tài, hơn nữa còn xếp hạng cao, trở thành một trong những lẫm sinh xuất sắc nhất.

Sau đó, nhờ thời vua Ung Chính mới lên ngôi, có chính sách tuyển chọn nhân tài đặc biệt, cộng thêm sự tiến cử của thầy dạy, ông được bổ nhiệm làm huyện lệnh Hải Phong, chính thức bước vào quan trường.

Đáng nói là, khi còn làm huyện lệnh Hải Phong, Vương Giả Phụ từng vì thẳng thắn tố cáo cấp trên mà bị cách chức ngay lập tức—cái chức huyện lệnh này làm chưa được bao lâu đã thành quá khứ.

Về sau, ông phải làm mưu sĩ cho người khác, chìm nổi nhiều năm, mới lại được quay về quan trường.

Từng có thời gian nhậm chức Tri phủ Tuyên Hóa—một nơi khá tốt—thế nhưng lại bất hòa với đồng liêu về đường lối chính trị, cuối cùng bị vu cáo, thậm chí còn bị giam vào lao ngục.

Sau này khi vụ án sáng tỏ, những kẻ có tội bị trừng trị, Vương Giả Phụ mới lấy lại trong sạch.

Nhưng triều đình vẫn cho rằng cách ông xử lý công việc quá cứng nhắc, bảo thủ, nên điều ông đến vùng xa xôi—Gia Ứng Châu, Lĩnh Nam.

Lúc này, Đổng lão phu nhân vốn nghĩ, phu quân của mình tuổi tác cũng không còn nhỏ, có lẽ đã học được cách “thu liễm”, nào ngờ ông lại chẳng hề dừng lại.

Ban đầu, Vương Giả Phụ chủ trương xây dựng thư viện—điều này vốn không có gì sai, nhưng vị trí xây thư viện bị cho là phá hủy phong thủy địa phương, gây ra nhiều tranh cãi.

Mà đây mới chỉ là khởi đầu của những mâu thuẫn.

Ở Gia Ứng Châu, lòng dân tôn sùng thần linh một cách cực đoan.

Quan viên địa phương mỗi năm đều dốc rất nhiều nhân lực, vật lực để xây dựng và tu sửa các miếu thờ.

Nhưng Vương Giả Phụ lại cho rằng vùng đất nghèo khó này không nên lãng phí tiền của vào những thứ ấy, mà thay vào đó, ông muốn xây thêm thư viện, cải tạo thủy lợi.

Chính sự đối lập gay gắt này đã khiến ông không chỉ đắc tội với quan lại bản địa, mà còn bị dân chúng địa phương quay lưng.

Mà trùng hợp là, không lâu trước đây, một môn sinh của Vương Giả Phụ làm quan trong kinh thành bị liên lụy bởi đảng tranh.

Các quan viên ở Gia Ứng Châu lập tức nhân cơ hội này tố cáo rằng Vương Giả Phụ có quan hệ mật thiết với kẻ ấy, thậm chí còn phóng đại lỗi lầm mà ông từng mắc phải trong một vụ án cũ, lại kích động dân chúng lên án ông, thế nên triều đình đã quyết định bãi chức của ông.

Đổng lão phu nhân không kể tường tận về nguồn cơn của trận đảng tranh ấy, nhưng huynh đệ Vương gia đều từng nghe qua—trận thanh trừng đẫm máu ở kinh sư năm đó khiến ai nấy đều kinh hãi khiếp đảm.

Chốn triều đình mà có tranh đấu, bất kể bên nào thắng hay thua, chỉ cần bị dính líu dù chỉ một chút, nếu có người muốn vin vào đó để gây chuyện, thì hậu quả ắt hẳn sẽ trở thành một đại họa ngập trời.

Hai huynh đệ nhà họ Vương hiểu rõ tính nghiêm trọng của việc này—lần này không giống như trước, không thể dựa vào quan hệ hay nhân mạch mà tìm cách xoay chuyển tình thế được.

“Giữ được mạng đã là may mắn rồi…”

Đổng lão phu nhân thở dài, nói: “Còn những chuyện khác, để sau rồi tính.”

Bà dặn hai con trai viết thư cho phụ thân, nói ngắn gọn chỉ một câu:

“Nếu không muốn nhà tan cửa nát, thì ngoan ngoãn cụp đuôi lại, rụt cổ vào, an phận còn quan trọng hơn tất cả.”

Vì chuyện này, một bóng mây u ám bao trùm lên Vương gia, khiến cho mùa đông năm nay dường như cũng đến sớm hơn.

Nhưng trẻ con bốn tuổi không hiểu những chuyện đó, mà mèo cũng chẳng quan tâm—thế nên ngày tháng của Trinh Nghi và Quýt vẫn trôi qua như thường.

Trinh Nghi ngày càng tò mò về thế giới xung quanh, đặc biệt là những thứ chưa biết, chẳng hạn như hang động tối om trên núi giả trong vườn.

Mấy đứa trẻ khác đều nói trong đó có quỷ, còn nàng thì vẫn lén lút chui vào thám hiểm.

Quýt cảm thấy, kiếp trước Trinh Nghi chắc chắn cũng là một con mèo.

Dĩ nhiên, cũng có một khả năng khác—ai nuôi lớn thì giống người đó.

Mà con bé này là do Quýt chăm từ nhỏ, nên tất nhiên là giống mèo rồi!

Nhưng rồi cái hang trống rỗng không có ma quỷ nào nhanh chóng mất đi sức hấp dẫn.

Trinh Nghi chuyển sang thích nhìn trời.

So với hang động tối tăm, bầu trời bao la rộng lớn còn bí ẩn hơn nhiều.

Mùa đông năm ấy, Trinh Nghi bốn tuổi, thường xuyên đặt ra những câu hỏi về bầu trời—

“Tại sao trời lại tối?

Có ai trên trời thổi tắt đèn sao?”

“Tại sao có mưa?

Ai là người đổ nước xuống vậy?”

“Sao trên trời từ đâu đến?

Vì sao không rơi xuống?

Khi trời sáng, ai đã nhặt từng ngôi sao cất đi?

Có phải bỏ vào hộp không?”

“……”

Nhìn vào đôi mắt long lanh đầy tò mò của nàng, Xuân Nhi đau đầu suy nghĩ nát óc.

May mà Dương Cẩn Nương có cách đối phó.

Nàng xoa đầu con gái, dịu dàng đáp:

“Chuyện trên trời ấy à, đều có thần tiên cai quản.”

Trinh Nghi chớp chớp mắt, nửa hiểu nửa không.

Sau khi mẹ rời đi, nàng ngồi xổm xuống, hai tay đặt trên đầu gối, nghiêm túc hỏi:

“Quýt, có thần tiên thật không?”

Quýt kêu một tiếng “Meo~”, Trinh Nghi trầm ngâm suy nghĩ.

Mùa đông năm ấy, ở một thôn nhỏ ngoài thành Kim Lăng, nhiều người mắc một căn bệnh lạ, chết hơn chục mạng.

Trinh Nghi nghe chuyện này từ phu nhân nhà họ Tiền.

Bà rất thương cảm, lẩm bẩm một câu “A Di Đà Phật”, sau đó chép miệng nói:

“Haiz, cũng không biết rốt cuộc là đã phạm phải thiên khiển gì…”

Thiên khiển…

Lại là thần tiên quyết định số phận con người sao?

Trinh Nghi không thích cách nói này, nhưng nàng cũng không biết tại sao.

Đêm ấy, Trinh Nghi mơ một giấc mộng kỳ lạ.

Trong mơ, nàng định bước về phía trước, nhưng bất ngờ bị một bức tường chắn ngang đường.

Nàng xoay người bỏ chạy, nhưng lại có thêm một bức tường khác xuất hiện.

Rồi bốn phương tám hướng, từng bức tường cao lớn không ngừng dựng lên, nhốt nàng vào giữa.

Nàng dồn sức dùng hai bàn tay bé nhỏ đẩy mạnh, cố gắng đến mức hai má đỏ bừng, nhưng bất kể nàng cố gắng thế nào cũng không thể đẩy nổi.

Nàng nghĩ đến chuyện trèo ra ngoài, nhưng khi ngẩng đầu nhìn lên, liền phát hiện—

Những bức tường kia cao vút đến tận trời.

Mà bầu trời bị chúng bao vây lại chỉ là một khoảng đen kịt vô tận—không có trăng, không có sao.

Nỗi sợ hãi dâng lên cuồn cuộn, Trinh Nghi run rẩy, đứng ngây người ra, không thể ngăn được sự lạnh lẽo và bức bách từ những bức tường đang không ngừng thu hẹp lại, ép sát nàng.

Đúng lúc này, một thứ gì đó mềm mại, lông xù xì, rơi nhẹ lên trán nàng.

Trinh Nghi giật mình mở bừng mắt, thoát khỏi cơn ác mộng.

Trong ánh sáng lờ mờ, nàng nhìn thấy một bàn chân mèo nhỏ đang đặt trên trán mình, sau đó là một tiếng “Meo~” đầy nghi hoặc.

“Quýt…”

Trinh Nghi lờ đờ trở mình, ôm chặt con mèo lớn vào lòng, dụi hết nước mắt và mồ hôi lạnh lên bộ lông mềm mại của nó.

Lắng nghe tiếng “grừ grừ” đầy an ủi phát ra từ lồng ngực của Quýt, nàng cuối cùng cũng lại chìm vào giấc ngủ.

Lần này, nàng lại có một giấc mơ khác—

Không còn đáng sợ nữa.

Nàng mơ thấy gia gia—nhưng không thể nhìn rõ gương mặt ông.

Nàng chưa từng gặp gia gia, nhưng mẹ nói, không bao lâu nữa, gia gia sẽ trở về nhà.

Giống như những đứa trẻ khác trong nhà, Trinh Nghi mong chờ ngày đó.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 4: Lập Xuân (Phần 3)


Trước ngày sinh nhật tròn năm tuổi của Trinh Nghi, Đổng lão phu nhân đích thân làm chủ, chính thức mở lớp khai tâm cho nàng.

Trong vòng hai tháng ngắn ngủi, Trinh Nghi đã có thể đứng ngay ngắn, hai tay nhỏ nhắn ngoan ngoãn đặt sau lưng, ngẩng cao đầu, dùng giọng non nớt mềm mại đọc thuộc Tam Tự Kinh và Thiên Tự Văn.

Ngoài ra, nàng còn nhớ được hơn mười bài thơ Đường.

Ngay từ khi bắt đầu đọc thơ, nàng đã bộc lộ sở thích riêng, đặc biệt yêu thích hai vị tiên sinh Trường Lê và Thái Bạch.

Đại tiểu thư nhà họ Vương, Vương Thục Nghi, khi ấy đã mười một tuổi, mang phong thái thư hương, dịu dàng nhắc nhở Trinh Nghi rằng nữ tử nên đọc nhiều sách của nữ giới, học làm thơ khuê các.

Thế nhưng, Đổng lão phu nhân lại nói:

“Không cần vội, cứ để con bé dưỡng thêm chút linh khí hiếm có này…”

Vương Thục Nghi liền mỉm cười đáp: “Dạ.”

Trinh Nghi rất thích vị đại tỷ tỷ này.

Tỷ tỷ không chỉ xinh đẹp, giọng nói dịu dàng mà khi bước đi luôn chậm rãi, trên người vương mùi hoa thoang thoảng.

Tỷ tỷ thường ôm nàng vào lòng, kiên nhẫn dạy nàng nhận chữ.

Mỗi khi được tỷ tỷ ôm, Trinh Nghi áp vào vạt áo mềm mại, lòng cảm thấy vô cùng yên tâm và vui vẻ.

Không biết tự lúc nào, nàng đã thiếp đi trong lòng tỷ tỷ.

Thục Nghi khẽ cười: “Tiểu miêu lười…”

Chú mèo mướp bên cạnh vốn đang lim dim cũng giật mình, lập tức ngồi ngay ngắn, “meo” một tiếng để biện hộ—mèo không hề lười biếng!

Cũng chính vào ngày hôm đó, sau khi tỉnh dậy, Trinh Nghi không còn gặp lại Thục Nghi trong suốt mười mấy ngày tiếp theo.

Nàng hỏi tổ mẫu, nhưng Đổng lão phu nhân chỉ nói:

“Phải nghỉ ngơi trong phòng một thời gian…”

Trinh Nghi thầm nghĩ, chắc là bị bệnh rồi?

Hôm sau, nàng liền lấy mấy miếng điểm tâm mà Xuân Nhi mang đến, bọc trong khăn tay, ôm trong lòng rồi lén dẫn theo Quýt đi thăm đại tỷ tỷ.

Vừa đến dưới cửa sổ, nàng liền nghe thấy tiếng khóc khe khẽ.

Nàng kiễng chân nhìn vào qua ô cửa sổ đang hé mở.

Quýt cũng bắt chước nàng kiễng chân, nhưng vẫn không thấy gì, bèn dứt khoát nhảy lên bậu cửa.

Bên trong phòng, Thục Nghi ngồi trên tháp, hai chân đặt trên một chiếc ghế.

Mẫu thân nàng, Tam phu nhân, cũng có mặt, bên cạnh còn có một bà vú đang tháo từng lớp vải trắng quấn trên chân Thục Nghi.

Nàng đau đến mức hít sâu, nước mắt chảy dài, hai tay bám chặt vào trụ giường, cơ thể khẽ run.

Trinh Nghi chăm chú nhìn chân đại tỷ tỷ, cảm thấy vô cùng khó hiểu.

Chân của tỷ tỷ lại nhỏ gần bằng chân nàng, năm ngón co quắp hướng vào trong, mu bàn chân nhô cao, lòng bàn chân như bị gập lại, ở giữa còn ép thành một đường lõm sâu.

Tam phu nhân thoáng thấy cái đầu nhỏ lấp ló ngoài cửa sổ, liền gọi Trinh Nghi vào phòng.

Nàng ôm chặt mấy miếng điểm tâm bước đến, hỏi đại tỷ tỷ có phải bị thương hay không.

Tam phu nhân mỉm cười sửa lại lời nàng:

“Không phải bị thương đâu.”

Không phải bị thương?

Vậy sao chân lại nhỏ như vậy?

Thục Nghi cũng nở một nụ cười nhợt nhạt:

“Nhỏ mới đẹp.”

Bà vú Lư đứng bên cạnh cũng cười tiếp lời:

“Đại tiểu thư nhà ta bắt đầu bó chân từ năm năm tuổi.

Hai năm nay xương dài thêm một chút, nên phải bó lại một lần nữa…”

Bà Lư nhìn xuống đôi chân nhỏ nhắn của Thục Nghi, ánh mắt tràn đầy thỏa mãn, lại tiếp tục cười nói với Trinh Nghi:

“Chân của Tam phu nhân cũng do lão nô bó đấy.

Đợi Nhị tiểu thư đến tuổi, cứ yên tâm giao cho lão nô!

Lão nô nhất định sẽ bó cho Nhị tiểu thư một đôi chân đẹp như hoa sen, ai nhìn cũng phải khen ngợi!

Nữ nhi nhà họ Vương chúng ta, ai cũng phải là thục nữ Kim Lăng!”

Bắt gặp nụ cười hiền từ mà nhiệt tình của bà vú Lư, Trinh Nghi vô thức lùi về sau một bước.

Bà vú Lư cười hỏi:

“Nhị tiểu thư cũng sắp năm tuổi rồi nhỉ?”

Trinh Nghi có chút sợ hãi, nhưng vẫn thành thật gật đầu.

Sau hôm đó, nàng bắt đầu lén lút quan sát chân của từng người trong nhà.

Một ngày nọ, nàng phát hiện chân của tổ mẫu không hề nhỏ, liền chạy đến báo với mẫu thân:

“A nương, tổ mẫu không bó chân!”

Dương Cẩn Nương khẽ thở dài:

“Khi tổ mẫu con còn nhỏ, Hoàng thượng lúc bấy giờ không biết nghĩ gì, từng nghiêm lệnh cấm người Hán bó chân… Bà ấy lỡ mất tuổi bó chân, sau này muốn bó cũng không được nữa.”

Trinh Nghi lại hỏi:

“Nhưng A nương cũng đâu có bó chân?”

Dương Cẩn Nương thoáng ngượng ngùng, khẽ thu chân vào trong váy:

“Nhà ngoại con nghèo khó, nếu bó chân thì không thể làm việc được.”

Bà thở dài tiếc nuối, rồi lại nói thêm:

“Tam thẩm con xuất thân tốt hơn nhiều, nhà mẫu thân nàng ấy biết cách giữ thể diện…”

Tuy có chút hâm mộ em dâu, nhưng khi cúi đầu nhìn nữ nhi, Dương Cẩn Nương lại khẽ xoa đầu nàng, trong mắt tràn đầy yêu thương:

“May mắn thay, sau này Trinh Nghi của chúng ta cũng sẽ là một thục nữ đoan trang.”

Nhưng Trinh Nghi vẫn băn khoăn:

“Thế nhưng… A cha và đại bá cũng không bó chân!”

Dương Cẩn Nương bật cười:

“Đồ ngốc, nam nhân mà cũng bó chân thì làm sao đi lại bên ngoài được?”

Trinh Nghi mơ hồ hiểu ra điều gì đó—phải chăng đây chính là lý do đại tỷ tỷ luôn bước đi chậm rãi?

Nàng chưa bao giờ thấy tỷ tỷ chạy cả, có phải bó chân rồi thì không thể chạy nữa không?

Buổi tối, sau khi tắm xong, Trinh Nghi co gối ngồi trên giường, quấn chăn quanh người, cúi đầu nhìn đôi chân nhỏ nhắn của mình.

Nghĩ đến những ngón chân co quắp biến dạng của đại tỷ tỷ, nàng không nhịn được mà cố gắng xòe rộng mười ngón chân tròn vo, cảm giác chỉ có như vậy mới thấy dễ chịu hơn một chút.

Quýt bên cạnh cũng duỗi hai chân trước ra, thoải mái kéo căng người, móng vuốt xòe ra như một bông hoa nở rộ.

Thấy vậy, Trinh Nghi bật cười, bắt chước Quýt nằm sấp xuống, chui vào trong chăn.

Quýt liền vươn móng ra cào vào chăn, Trinh Nghi vừa ngạc nhiên vừa vui vẻ lăn lộn, Quýt lập tức vồ tới, hai chủ tớ càng chơi càng hăng, tiếng cười vang khắp phòng.

Sau một hồi đùa nghịch, sắp đến giờ đi ngủ, Trinh Nghi khẽ thì thầm với Quýt :

“Quýt tử, ta quyết định rồi, ta sẽ không đón sinh nhật năm tuổi nữa…”

Nàng không muốn bó chân, nàng muốn giống như Quýt, chạy nhanh, đứng vững, nhảy cao, nhảy xa.

Chỉ cần nàng chưa tròn năm tuổi, thì vẫn có thể không bị bó chân!

Quýt “meo” một tiếng, cảm thấy đây quả là một ý hay—như vậy nó cũng đỡ phải lo lắng chuẩn bị quà sinh nhật rồi, vì nó cũng chẳng biết nên tặng gì cả.

Những ngày sau đó, hễ gặp ai, Trinh Nghi cũng nói rằng mình không muốn tổ chức sinh nhật.

Nàng còn thường xuyên níu lấy tay áo tổ mẫu mà năn nỉ.

Người lớn lúc nào cũng bận rộn, gần đây trong nhà lại có nhiều việc, đối mặt với lời nài nỉ bất chợt của trẻ con, ai cũng thuận miệng đáp ứng.

Vậy là sinh nhật của Trinh Nghi cứ thế bị gác lại.

Nhưng dù không đón sinh nhật, ngày Lập Xuân vẫn đến đúng hẹn.

Sáng sớm ngày lập xuân, Quýt từ bên ngoài chạy về, nhảy lên giường, cắn nhẹ vào chân Trinh Nghi qua lớp chăn.

Nàng giật mình tỉnh dậy, trong mơ, nàng còn đang bị bà vú Lư cầm dải vải bó chân đuổi theo!

Quýt hối thúc nàng dậy, muốn dẫn nàng ra ngoài xem náo nhiệt.

Trinh Nghi thông minh hơn hẳn những đứa trẻ cùng tuổi, Quýt cũng lanh lợi hơn những con mèo khác, hai chủ tớ lớn lên bên nhau, từ lâu đã có thể hiểu ý nhau mà chẳng cần lời nói.

Xuân Nhi đang đi lấy nước rửa mặt, trong phòng không có ai khác, Trinh Nghi vội vàng khoác lên người một chiếc áo kép cổ tròn màu vàng nhạt viền lông, đi giày thêu rồi chạy theo Quýt ra ngoài.

Nàng chưa búi tóc, mái tóc mềm mại rối tung xõa trên vai, chạy nhảy trong ánh sáng ban mai, từng sợi tóc tựa như được phủ một tầng ánh sáng óng ánh.

Đôi mắt to tròn đen láy, hàng mi dài buông nhẹ nơi khóe mắt, gương mặt trắng trẻo bầu bĩnh bị gió thổi hồng lên, hơi thở ấm áp phả ra từng làn khói mỏng.

Quýt ngoảnh đầu nhìn nàng, chỉ cảm thấy nàng lúc này chẳng khác gì một tinh linh nhỏ của ngày xuân, nơi nàng đi qua, cảnh sắc xung quanh dường như cũng trở nên sinh động hơn.

Trinh Nghi theo Quýt chạy đến cửa sau, đúng lúc bắt gặp đoàn rước lễ Đả Xuân đi ngang qua.

Lập Xuân còn được gọi là Xuân Triều, mỗi năm vào ngày này, Tri phủ Kim Lăng sẽ dẫn theo quan lại trong thành thực hiện nghi thức Đả Xuân, diễu hành qua từng con phố lớn.

Đoàn rước rất dài, đi đầu là những nha dịch thắt dây lụa màu bên hông, vừa đi vừa đánh chiêng gõ trống.

Phía sau là một chiếc xe bò kéo, trên xe đặt một pho tượng Xuân Ngưu bằng đất sét, trên mình Xuân Ngưu quấn đầy dải lụa màu, treo thêm cầu xuân.

Tri phủ đại nhân cầm Đả Xuân Tiên, từng roi, từng roi quất lên tượng Xuân Ngưu.

Bùn đất trên tượng Xuân Ngưu bị đánh văng ra, rơi xuống đất, mang ý nghĩa rơi xuống liền bén rễ, báo hiệu một năm mùa màng bội thu.

Dọc đường, dân chúng nô nức vây xem, ai nấy đều tranh nhau ném hạt vừng, đậu, gạo nếp lên tượng Xuân Ngưu, cầu mong một năm phong điều vũ thuận.

Một hạt đậu vàng lăn lông lốc đến gần, Quýt lập tức nhào tới, dùng một chân đè lên, rồi lại dùng miệng cắn lên quăng đi, chơi đùa vô cùng thích thú.

Mỗi khi đến ngày này, nó đều cảm thấy đáng tiếc vì mèo không thể tham gia đá cầu.

Trinh Nghi vừa định chạy theo đoàn rước xem náo nhiệt, nhưng lại bị Xuân Nhi tìm tới kéo về.

Lập Xuân là tiết khí đầu tiên của năm, luôn được xem trọng, cả nhà họ Vương ai cũng bận rộn.

Dương Cẩn Nương vo bột nặn bánh tròn, mang đi cúng thần linh.

Đại phu nhân và Tam phu nhân làm rất nhiều Xuân Bính—đây cũng là phần mà lũ trẻ thích nhất.

Khi bánh vừa ra lò, bọn trẻ sẽ thi nhau mỗi đứa cắn một miếng, lấy lộc đầu xuân.

Sau ngày lập xuân không lâu, một buổi sáng sớm, Xuân Nhi đánh thức Trinh Nghi dậy, giúp nàng mặc y phục, chải tóc, rồi còn cẩn thận buộc hai dây hồng tuyến lên búi tóc nhỏ của nàng.

Hôm nay là ngày lão gia nhà họ Vương—Vương Giả Phụ trở về Kim Lăng, cả nhà đều phải ra bến tàu nghênh đón.

Dọc đường, Trinh Nghi vô cùng háo hức.

Một là vì nàng rất ít khi được ra ngoài, nay được thấy phố phường náo nhiệt, cái gì cũng mới mẻ.

Hai là, nàng đã mong chờ gia gia về nhà từ lâu lắm rồi!

Người nhà họ Vương đến bến thuyền nơi sông Tần Hoài và Thanh Khê giao nhau, chờ đợi hồi lâu, cuối cùng cũng thấy Vương Giả Phụ bước xuống từ trên thuyền.

Lão nhân tóc hoa râm, khoác trên người một chiếc trường bào xanh đậm đã cũ, bên hông đeo một túi bọc nho nhỏ.

Vừa đặt chân lên bờ, ông liền dang rộng hai tay, mặt mày rạng rỡ như một đóa cúc nở rộ khi nhìn thấy đám tôn nhi nhà mình chạy tới.

Quýt ngồi chồm hỗm không xa, nheo mắt lại, lười biếng cảm thán—không phải đi làm quả nhiên là sung sướng nhất!

Vương Giả Phụ ôm lần lượt hai đứa cháu trai lớn nhỏ vào lòng, sau đó hiền từ gật đầu với cháu gái trưởng Vương Thục Nghi đang đứng yểu điệu hành lễ, rồi cười hỏi:

“Đứa nhỏ nhất đâu rồi?”
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 5: Vũ Thủy (Phần 1)


Vương Nguyên, mười lăm tuổi, tràn đầy khí chất sáng sủa của một thiếu niên, ngoảnh đầu vẫy tay:

“Nhị muội, mau lại đây!”

Vương Thục Nghi và Vương Giới chín tuổi cũng quay đầu tìm kiếm bóng dáng muội muội.

Núp sau lưng tổ mẫu, nắm chặt vạt áo bà, Vương Trinh Nghi rụt rè thò cái đầu nhỏ buộc dây đỏ ra ngoài, lần đầu tiên nhìn thấy tổ phụ của mình.

Mấy ngày trước, nàng vô tình nghe được một số lời đồn về tổ phụ—mọi người đều nói ông là người nóng tính, rất thích tranh cãi, từ huyện lệnh Hải Phong cãi đến mức bị giáng chức, từ phủ Tuyên Hóa cãi đến Gia Ứng Châu, rồi lại từ Gia Ứng Châu cãi về tận nhà ở Kim Lăng…

Bởi vậy, người ta đặt cho ông một biệt danh: “Quái Ấn”.

Thế nhưng, Vương Trinh Nghi cảm thấy lời đồn không đúng.

Tổ phụ không hề quái gở, cũng chẳng phải người thích tranh cãi.

Sau khi trở về nhà, mỗi ngày ông chỉ làm hai việc.

Một là đọc sách.

Mỗi sáng sớm, Vương Giả Phụ đều dẫn đám trẻ trong nhà đọc sách.

Địa điểm đọc sách là thư phòng—nơi cất giữ sách vở của nhà họ Vương.

Trước khi tổ phụ trở về, thư phòng luôn khóa kín, chỉ có Vương Tích Thụy và Vương Tích Thâm mới được vào lấy sách.

Vương Trinh Nghi trước đây chưa từng có cơ hội tiếp xúc với nơi cấm địa này, nhưng kể từ khi tổ phụ trở về, cửa thư phòng đã rộng mở với tất cả hài tử trong nhà.

Lần đầu tiên bước vào thư phòng, nàng theo sát bên cạnh tổ phụ, Quýt lại theo sát bên nàng.

Một người một mèo cùng ngẩng đầu, dõi theo hướng ngón tay của lão nhân, chăm chú nhìn lên phía trên.

Chỉ nghe thấy tổ phụ cất giọng đọc bốn chữ lớn trên tấm hoành phi:

“Ký Phưởng Thư Trai”.

Trước thư phòng có một ao nhỏ, bên bờ ao có một đình nghỉ, gọi là Đức Phong Đình.

Vương Giả Phụ bảo với bọn trẻ rằng, đợi đến khi thời tiết ấm hơn, sẽ đưa chúng ra đình đọc sách.

Mỗi ngày, Vương Giới luôn là người đến sớm nhất.

Khi Vương Trinh Nghi và Quýt đến nơi, hắn đã đọc xong một bài Sư Thuyết.

Vương Thục Nghi không phải ngày nào cũng đến.

Nghe nói, dạo gần đây đại tỷ tỷ đang dốc lòng học nữ công, tam thẩm bảo đó là bài tập quan trọng hơn cả đọc sách của nữ nhi.

Tất nhiên, sách vẫn phải đọc.

Danh hiệu tài nữ là một điểm cộng rất lớn, những năm gần đây, phong trào nữ tử đọc sách làm thơ đang rất thịnh hành.

Nếu có chút danh tiếng, đôi khi còn được nhà chồng coi trọng hơn.

Nhưng tam phu nhân lại mong nữ nhi đọc thư viện nữ giới hơn là theo lão gia tử nghiên cứu học vấn.

Học vấn là chuyện hệ trọng của con trai nàng—Vương Giới.

Cứ cách ba ngày, Vương Thục Nghi sẽ đến một thư viện dành cho nữ tử trong thành Kim Lăng. Ở đó, có một vị phu nhân từng được triều đình ban biển “Trinh Tiết” đảm nhận việc giảng dạy.

Đại tỷ tỷ ở đó đọc Nữ Tắc, học làm những bài thơ khuê các đang thịnh hành hiện nay.

Dương Cẩn Nương luôn coi tam đệ muội là hình mẫu lý tưởng trong việc nuôi dạy con cái, thường xuyên tìm nàng để bàn bạc kế hoạch giáo dục nữ nhi, chỉ sợ Vương Trinh Nghi bị tụt lại phía sau, không thể trở thành một thục nữ đoan trang.

Tam phu nhân cười bảo nàng đừng quá lo lắng:

“Trinh Nghi mới năm tuổi, tám tuổi vào thư viện là độ tuổi thích hợp nhất.”

Dương Cẩn Nương liền âm thầm đếm ngày—vậy là còn ba năm nữa.

Mỗi buổi đọc sách, Vương Nguyên thường không thấy bóng dáng đâu.

Nhưng khác với Vương Thục Nghi, những ngày không đến thư phòng, hắn đều bận rộn rủ bạn bè đi vui chơi khắp nơi.

Nhưng khi Vương Giả Phụ làm chuyện thứ hai, Vương Nguyên lại vô cùng hứng thú đi theo.

Hai là câu cá.

Phía sau nhà họ Vương không xa có một con sông nhỏ.

Mỗi buổi trưa trời trong nắng ấm, Vương Giả Phụ sẽ mang theo một chiếc ghế gấp, đi trước dẫn đầu.

Theo sau ông là Vương Nguyên xách cần câu.

Sau nữa là Vương Trinh Nghi, hai tay ôm một chiếc giỏ đựng cá to bằng nửa người nàng.

Kế tiếp là Xuân Nhi, một tay kẹp chiếu trúc cuộn lại, một tay cầm hộp đựng thức ăn.

Sau cùng, là Quýt—ánh mắt dán chặt vào hộp thức ăn, bên trong có món cá con chiên giòn vàng ruộm.

Vương Nguyên thường có bạn bè đến tìm, nên câu được một nửa là biến mất, phần lớn thời gian chỉ có Vương Trinh Nghi ở lại bầu bạn với tổ phụ.

Đây cũng là lúc tổ phụ mở “lớp học riêng” cho nàng.

Lão gia tử hay nhặt một nhánh cây, viết xuống đất mấy chữ lớn ngay ngắn, rồi dạy cho Vương Trinh Nghi.

Chỉ cần vài chữ thôi, cũng đủ để nàng mải mê cả buổi trưa.

Suốt bốn mùa xuân hạ thu đông, bên bờ sông nhỏ luôn có một bé gái khi thì ngồi xếp bằng, khi thì ngồi xổm trên chiếu trúc, đôi tay nhỏ xíu cầm nhánh cây, cặm cụi viết hết lần này đến lần khác.

So với những đứa trẻ khác, nàng tĩnh lặng và chuyên chú hơn hẳn.

“Cạch!”

Mỗi khi nhánh cây trong tay nàng bị gãy, Quýt sẽ lập tức ngậm một nhánh mới mang tới.

Quýt đảm nhiệm nhiều vai trò, ngoài việc trông nom Vương Trinh Nghi học chữ, nó còn phụ trách canh chừng lưỡi câu cho Vương Giả Phụ.

Những buổi chiều mát mẻ, lão gia tử thỉnh thoảng ngủ gật, lúc này Quýt sẽ dùng đôi mắt tròn xoe dọc ngang một vạch sắc nhọn của mình mà dõi theo phao câu.

Chỉ cần có cá mắc câu, nó liền vung hai chân trước vỗ bồm bộp vào lão gia tử đánh thức ông dậy.

Lão gia tử giật mình tỉnh dậy, vội vàng thu dây câu.

Nếu là cá lớn, thì thả vào giỏ.

Nếu là cá nhỏ, thì thuộc về Quýt—đây là quy củ, cũng là tiền công của nó.

Dựa vào công việc của mình, Quýt đã nuôi sống không ít mèo hoang trong vòng năm dặm quanh đây.

Số mèo đến xem lão gia tử câu cá ban đầu chỉ có một hai con, sau tăng lên ba bốn con, rồi dần dần trở thành cả một bầy hơn chục con.

Mà trong số đó, kẻ mà Quýt chướng mắt nhất chính là một con mèo đen trắng.

Quýt vốn có lòng tốt rủ cả bầy mèo đến lấy cá, nào ngờ có một lần, khi nó đang ăn, con mèo đen trắng nọ bỗng dưng quăng luôn miếng cá trong miệng, rồi không nói không rằng, rượt đuổi nó suốt ba dặm đường…

Mèo nào mà chẳng có lúc kỳ quái, nhưng quái đến mức này thì đúng là hiếm thấy!

Số mèo đến nhận cá ngày càng đông, Vương Giả Phụ cũng bắt đầu cảm thấy áp lực.

Nếu hôm nào bận rộn không đi câu cá, trong lòng ông lại thấy áy náy, cứ như thể mình phạm phải tội ác tày trời vậy—sau này có người gọi trạng thái này là “hội chứng xấu hổ vì nghỉ ngơi”.

Một thú vui tiêu khiển nhàn nhã lại vô tình mang theo không khí bận rộn của công việc.

May mắn là đám mèo cũng không quá tham lam, mỗi con chỉ nhận đúng một con cá, ngậm trong miệng rồi nhanh chóng nhảy vào bụi rậm rời đi, tuyệt đối không lấy thêm.

Sau này, Quýt mới phát hiện, thì ra mèo đen trắng kia đang duy trì trật tự!

Hóa ra nó tự xem mình là quan sai của giới mèo, quy định mỗi con chỉ được lấy một con cá.

Chợt nhớ lại lần mình bị con mèo đen trắng đó đuổi chạy bán sống bán chết, Quýt bừng tỉnh—hôm đó, nó đang chuẩn bị ăn đến con cá thứ hai… Chắc hẳn trong mắt đối phương, nó đã vi phạm luật pháp giới mèo!

Nhưng nó là chủ nhà cơ mà!

Sao ngay cả nó mà cũng bị quản chứ?

Đúng là thần kinh quá mức!

Quýt còn đang âm thầm mắng chửi con mèo đen trắng, thì bỗng nghe Vương Trinh Nghi tò mò hỏi:

“Quýt, có phải ngươi lén nói cho bọn chúng biết nơi này có cá miễn phí không?”

Vương Nguyên đang gối đầu lên tay, miệng ngậm một cọng rau thơm, nằm dài trên chiếu trúc, gác chân lên nhau, nheo mắt cười:

“Nhị muội, muội đúng là chưa hiểu rõ Quýt rồi.

Ta dám chắc, nó phải nói thế này cơ—”

Nói rồi, hắn làm bộ sửa lại cổ áo, tay đặt ngang trước ngực, hắng giọng một cái, ra vẻ một vị quan lớn trên sân khấu hí kịch, chậm rãi gật gù, rồi ngạo nghễ cất giọng:

“Bản đại thiện mèo Quýt viên ngoại, thuê một gã gia đinh làm ngư dân tại đây, đặc biệt mở yến tiệc cá tươi, khoản đãi đồng hương!”

Vương Trinh Nghi bật cười khúc khích, “gia đinh”

Vương Giả Phụ cũng lắc đầu cảm thán:

“Cực khổ quá đi mà…”

Quýt ngồi chồm hỗm bên chân lão gia tử, ung dung phe phẩy đuôi, không thèm liếc nhìn Vương Nguyên lấy một cái.

Cảnh tượng nơi bờ sông này vô tình lọt vào mắt tiểu thư nhà họ Tiền, nàng vẽ lại một bức tranh và tặng cho Vương Trinh Nghi vào ngày Trung thu.

Tiểu thư họ Tiền tên Dữ Linh, tự Cửu Anh, lớn hơn Vương Trinh Nghi sáu tuổi, nhỏ hơn Vương Thục Nghi một tuổi.

Nàng và Thục Nghi cùng theo học một nữ sư trong thành Kim Lăng.

Vì hai nhà là hàng xóm, bọn họ thường xuyên lui tới, qua lại thân thiết như tỷ muội.

Tổ mẫu của Tiền Dữ Linh khi còn sống là một nữ họa gia nổi danh, bản thân nàng cũng vô cùng có thiên phú với bút mực.

Mới mười một tuổi, nét vẽ đã có khí tượng bậc danh gia.

Tiền Dữ Linh rất thích Vương Trinh Nghi, mà Trinh Nghi cũng rất quý vị Cửu Anh tỷ tỷ hoạt bát, hay nói hay cười này.

Trung thu năm ấy, Trinh Nghi nhận được bức tranh từ Tiền Dữ Linh.

Gần đây, Dữ Linh và Thục Nghi đang tập làm thơ, nên đùa bảo Trinh Nghi hãy đề một bài thơ cho bức tranh.

Dù sao một đứa bé năm tuổi thì làm sao có thể làm thơ, chỉ là một trò vui mà thôi.

Thế nhưng, Vương Trinh Nghi lại nghiêm túc suy nghĩ một hồi, sau đó quả nhiên đọc lên một bài thơ mang đầy nét trẻ thơ:

“Tổ phụ cầm cần bên bờ suối,
Mèo hoa bảy tám kéo đến xem.
Quýt ngồi chăm chỉ trông nom cá,
Chỉ thấy đại ca ngủ êm đềm.”

Tiền Dữ Linh và Vương Thục Nghi sững sờ, nhìn nhau một lúc, sau đó không nhịn được mà bật cười.

Tiền Dữ Linh thậm chí còn cười đến mức gập cả lưng xuống.

Chẳng mấy chốc, bài thơ lan truyền khắp hai nhà họ Vương và nhà họ Tiền.

Ai cũng khen ngợi tiểu cô nương Vương Trinh Nghi linh động, thông minh, Vương Giả Phụ lại càng không ngớt lời tán thưởng, đích thân cầm tay cháu gái, chép bài thơ lên bức họa.

Dương Cẩn Nương nghe được lời khen ngợi cũng vô cùng vui vẻ, ngay cả Vương Tích Thâm cũng bảo rằng nữ nhi có thiên phú đọc sách làm thơ.

Duy chỉ có Vương Nguyên là vì chuyện này mà bị đánh một trận.

“Tại sao muội muội năm tuổi làm thơ được, còn con lại ngủ?”

Người ra tay là Vương Tích Thụy.

Hắn vừa đánh vừa răn dạy:

“Thật không thể chấp nhận được!

Nhị muội của ngươi mới năm tuổi đã biết làm thơ, vậy mà ngươi còn ngủ đến trời sập!”

Đánh xong, hắn liền đi tìm phụ thân kể tội.

Vương Giả Phụ thở dài an ủi:

“Vốn dĩ nó không có khiếu học hành, thì cũng chẳng cần ép làm gì.

Đầu óc trống rỗng thì cuộc sống mới thoải mái.”

Vương Tích Thụy hừ một tiếng, nói với phụ thân:

“Phụ thân, hôm qua con kiểm tra bài học của nó, chỉ hỏi một câu rất đơn giản—‘Thiếu niên không cố gắng, về già chỉ tiếc hoài’ câu trước đó là gì?

Phụ thân đoán xem nó trả lời ra sao?”

Vương Giả Phụ có chút bất ngờ:

“Ngay cả câu đó mà cũng không thuộc sao?”

Vương Tích Thụy đập bàn đau lòng:

“Nếu chỉ không thuộc, sảng khoái nhận sai thì cũng thôi đi!

Đằng này nó còn cố vắt óc suy nghĩ, sau đó đáp một câu—‘Theo như tục ngữ nói…’”

Vương Giả Phụ im lặng hồi lâu, chậm rãi vuốt râu, dường như đang tự hỏi liệu gia tộc có phải đã xây mộ sai chỗ hay không.

Cuối cùng, ông cũng không buồn an ủi con trai nữa—đầu óc trống rỗng thì không sao, nhưng mà trống rỗng đến mức này, thì đúng là đáng đánh.

Vậy là tối hôm đó, Vương Nguyên lại bị ăn đòn.

Ba ngày sau, khi vết bầm trên mông gần khỏi, hắn đột nhiên nhảy dựng lên, rượt theo Quýt chạy khắp vườn.

Quýt ba chân bốn cẳng leo thẳng lên cây trốn mất.

Vương Nguyên ôm mông, một tay chỉ vào Quýt, lớn tiếng mắng:

“Ngươi dám thả con chim họa mi mà ta thích nhất!”

Quýt cảm thấy cực kỳ oan ức.

Nó đâu có thả!

Rõ ràng là định ăn cơ mà!

Nhân lúc Vương Nguyên không để ý, Quýt nhanh chân phóng về Ký Phưởng Thư Ốc, chui vào lòng Vương Trinh Nghi tìm chỗ che chở.

Mùa thu ồn ào mà bình yên trôi qua, đông sang rồi lại đến xuân.

Năm mới đến, Vương Trinh Nghi tròn sáu tuổi.

Nàng âm thầm vui mừng, may mà năm ngoái không tổ chức sinh nhật, có vẻ như bà vú Lư đã quên mất chuyện muốn bó chân nàng rồi.

Thế nhưng, trong thế giới của trẻ con, “tai họa” luôn đến một cách bất ngờ, không hề báo trước.

Giữa tháng Giêng, tiết Vũ Thủy đến đúng hẹn.

Vương Trinh Nghi còn chưa đến giờ thức dậy, bỗng bị Quýt đánh thức.

Nàng mở mắt ra, chỉ thấy Quýt như lâm đại địch, kêu lên từng tiếng gấp gáp.

Vương Trinh Nghi ngồi dậy, nhìn qua khung cửa sổ hé mở, liền thấy A nương đang đứng giữa sân, nói chuyện với bà Lư.

Mà trong tay bà Lư, lại rõ ràng đang ôm một xấp vải trắng…
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 6: Vũ Thủy (Phần 2)


Vương Trinh Nghi bỏ trốn.

Ý này thực ra là do Quýt bày ra.

Quýt húc mở cánh cửa sổ phía sau gian phòng.

Đó là một khung cửa sổ chạm hoa, phần trên có thể đẩy ra, nhưng ô cửa nhỏ hẹp, ngay cả hài đồng năm, sáu tuổi muốn chui qua cũng có phần khó khăn.

Bị Quýt đẩy một cái, Vương Trinh Nghi liền “bịch” một tiếng, rơi thẳng xuống đất.

Cửa sổ không quá cao, nàng nhanh chóng bò dậy, kéo theo Quýt vừa nhảy ra, lập tức bắt đầu một cuộc “đào tẩu”.

Gần đây, trời Kim Lăng liên miên mưa dầm, lúc này sương mưa vẫn lất phất giăng mờ.

Trinh Nghi chỉ mặc mỗi lớp trung y, chân trần, chẳng mấy chốc mà toàn thân lấm lem bùn đất.

Quýt chạy phía trước dẫn đường — thân là con mèo giữ nhà của Vương gia, nó vốn quen thuộc hết thảy những góc khuất bí mật trong phủ, thậm chí ngay cả ổ chuột cũng biết tường tận.

Quýt định bụng đưa Trinh Nghi giấu vào hang chuột, nhưng khi vừa đến nơi, nó mới giật mình nhận ra —— nàng lớn thế này, e là sẽ phá hỏng mất cái ổ chuột mất thôi!

Cuối cùng, Quýt dẫn Trinh Nghi đến một căn nhà nhỏ khuất sâu trong hậu viện Vương gia.

Nơi này lâu ngày không tu sửa, chỉ dùng để chứa đồ linh tinh.

Cánh cửa vốn chẳng còn nữa, nhưng bụi bặm và mạng nhện thì có thừa.

Bên trong có hai chiếc bàn gãy chân, mấy cái giỏ đan bằng gai đã thủng lỗ chỗ, cùng vài cái chum, vò cũ kỹ.

Quýt và Trinh Nghi lục lọi một hồi, tìm được một tấm chiếu rách đã cuộn tròn trong góc.

Nàng bèn dựng nó lên, quây thành một vòng rồi chui vào trốn.

Bên trong, Trinh Nghi thu người ngồi xổm, hai tay giữ chặt mép chiếu để phòng nó đổ xuống.

Bên ngoài, Quýt đứng cảnh giới.

Chẳng bao lâu sau, Quýt phát hiện tấm chiếu bọc Trinh Nghi đang run lên từng hồi.

Nó vội chạy lại, dùng móng vỗ vỗ vào chiếu ra hiệu, nhưng chiếu lại càng run mạnh hơn.

Hết cách, Quýt đành nhảy vào trong, duỗi một chân trước ra, giúp nàng giữ vững tấm chiếu.

Thấy Quýt cũng chui vào, Trinh Nghi cảm thấy an tâm hơn, nhưng đôi mắt vẫn mở to, đôi tai căng ra lắng nghe động tĩnh bên ngoài, thỉnh thoảng lại ghé mắt nhìn qua những lỗ hổng trên chiếu.

Chuyến chạy trốn này khiến trung y trắng tinh trên người nàng lấm lem bùn đất, mái tóc có phần rối tung, khuôn mặt nhỏ nhắn trắng trẻo dính đầy tro bụi —— cảnh tượng này khiến Quýt liên tưởng đến chiếc bánh “bẩn bẩn” mềm dẻo trong tiệm bánh ngọt.

Cái “bánh bẩn” nhỏ bé này rốt cuộc vẫn còn quá ít tuổi, chạy trốn trong cơn đói, mệt mỏi và buồn ngủ, mí mắt dần trĩu xuống.

Dù vậy, bàn tay nhỏ nhắn vẫn còn nắm chặt lấy mép chiếu.

Trên mái nhà dột nước, thỉnh thoảng một giọt mưa đọng lại rồi rơi xuống.

Quýt sợ mưa rơi trúng Trinh Nghi, bèn dán chặt mắt vào đó, mỗi khi thấy giọt mưa rớt xuống liền nhanh như chớp vung móng “chát” một cái, hất bắn đi.

Không biết bao lâu trôi qua, khi Quýt cũng bắt đầu thấy buồn ngủ, đột nhiên có tiếng gọi từ xa vọng lại, càng lúc càng gần:

“…

Tiểu thư!

Tiểu thư!”

“Xuân Nhi…”

Trinh Nghi mơ màng mở mắt, theo bản năng muốn lên tiếng đáp lại, nhưng lập tức bị một cái móng lông xù chặn miệng lại.

Dẫu vậy, nàng vẫn bị phát hiện.

Quýt hận đến nghiến răng —— trên mái nhà có một con mèo lo chuyện bao đồng, cứ kêu inh ỏi, thế là Xuân Nhi tìm tới.

Lúc rời khỏi căn nhà cũ nát, Quýt trông thấy một bóng mèo trắng đen nhảy phốc lên đầu tường, nhanh chóng biến mất.

Nó hạ quyết tâm, lần sau gặp lại, nhất định phải đánh một trận ra trò, rửa hận ngày hôm nay!

Vương Trinh Nghi bị đưa đến trước mặt Đổng lão phu nhân.

Chuyện nàng “mất tích” đã kinh động toàn bộ trong phủ, lúc này mọi người đều tụ tập cả lại.

Vương Nguyên vừa bước vào, thấy nhị muội bẩn thỉu lấm lem, bèn cười nói:

“Ta còn tưởng nhị muội đi đâu, hóa ra là chui vào ổ chuột!

Thảo nào tìm mãi không thấy bóng dáng.”

Vương Tích Thụy trừng mắt nhìn con trai, đại phu nhân liền kéo hắn về đứng cạnh mình.

Dương Cẩn Nương còn chưa hết bàng hoàng, liên tục lấy khăn lau nước mắt, trong khi Vương Tích Thâm đang định mở miệng trách dạy con gái, thì bà cụ đã ngồi ở ghế trên giơ tay ra hiệu, gọi Trinh Nghi lại gần.

Bà cụ nhận lấy chiếc áo bông màu tím sẫm có thêu hoa văn bảo bình từ tay nha hoàn, khoác lên người nàng, rồi kéo nàng vào lòng, nhẹ giọng hỏi:

“Đức Khánh của ta vẫn luôn ngoan ngoãn hiểu chuyện, hôm nay sao lại như thế?

Nói cho đại mẫu nghe xem nào.”

“Đại mẫu…”

Đôi mắt bé nhỏ long lanh ngấn lệ, bờ môi mím chặt, cố nén không khóc: “Con không muốn bó chân, con sợ lắm!”

Nghe đến đây, Đổng lão phu nhân thở dài một tiếng, chậm rãi phủi đi mảnh mạng nhện vướng trên tóc cháu gái.

Thục Nghi bước lên, ngồi xổm xuống trước mặt muội muội, cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn, dịu dàng khuyên nhủ:

“Nhị muội, đau một chút rồi sẽ qua thôi, ai rồi cũng phải trải qua chuyện này…”

“Đại tỷ, muội không muốn, không muốn chân mình bị bẻ gãy…”

Trinh Nghi rưng rưng lắc đầu, ánh mắt chuyển qua Quýt, lúc này đang bị Xuân Nhi giữ chặt như tòng phạm: “Muội muốn chạy nhanh, chạy xa như Quýt!”

Thục Nghi mỉm cười: “Ngốc quá, sao người và mèo có thể giống nhau?

Chúng ta cao quý hơn nhiều mà.”

Trinh Nghi: “Nếu đã cao quý, vì sao còn phải chịu khổ như thế?”

Thục Nghi hơi khựng lại, sau đó đáp: “Chịu khổ trước thì…”

“Là chịu khổ cả đời.”

Vương Nguyên chen ngang.

“Vương Nguyên!”

Vương Tích Thụy quát lớn, giơ tay muốn đánh.

Vương Nguyên nhanh chân né, vừa chạy ra ngoài vừa nói lớn: “Nhị muội, muội cứ khóc cho bọn họ xem!

Đại ca chờ tin vui của muội!”

Thục Nghi còn định tiếp tục khuyên bảo, nhưng chợt thấy nhị muội không nén được nữa, “oa” một tiếng, òa khóc thật to.

Nàng lập tức lúng túng, chỉ biết nhìn về phía tổ mẫu.

Những chuyện trong hậu trạch đều do tổ mẫu quyết định, huống hồ tổ phụ hôm nay không có ở nhà.

“Chờ thêm một thời gian rồi tính tiếp.”

Bà cụ họ Đổng vỗ lưng Trinh Nghi, nói với nhị phòng: “Đứa nhỏ này sợ đến mức nhập tâm rồi.

Bó chân dĩ nhiên quan trọng, nhưng dọa hỏng đứa trẻ thì không đáng…

Trước hết cứ hoãn lại đã.”

Một khi bà cụ đã lên tiếng, chuyện này chỉ có thể dừng lại.

Trinh Nghi ôm chặt lấy chân tổ mẫu, không chịu quay về.

Bà cụ bèn để nàng ở lại đây hai ngày.

Trên đường trở về, Dương Cẩn Nương lòng đầy hối hận, tự trách: “Là lỗi của ta, đã không dạy dỗ tốt con bé…”

Nói rồi, ánh mắt nàng vô thức rơi vào Thục Nghi, đoan trang nhã nhặn, khiến vành mắt càng thêm đỏ.

Tam phu nhân an ủi: “Trinh Nghi mới bao nhiêu tuổi đâu?

Hơn nữa, mỗi đứa trẻ có một tính cách riêng… Nhị tẩu đừng vội, từ từ dạy bảo là được.”

Tối hôm ấy, Vương Trinh Nghi ngủ lại viện của tổ mẫu, nửa đêm liền lên cơn sốt cao, mãi đến hừng đông mới vã mồ hôi mà lui sốt, trán dần mát lại.

Lúc sốt mê man, nàng vẫn không ngừng mơ màng lẩm bẩm rằng không muốn bó chân.

Nhiều năm sau, khi nhớ lại chuyện này, Trinh Nghi cảm thấy đây hẳn là lần “phản kháng” đầu tiên trong cuộc đời mình.

Nhưng thuở bé, nàng không rõ mình phản kháng vì điều gì, chỉ biết rằng nàng sợ hãi, sợ đến tận cùng.

Khi nỗi sợ chạm trán với một linh hồn bẩm sinh đã bướng bỉnh, liền hóa thành hành động phản kháng mù quáng và bất chấp này.

Vương Giả Phụ trở về vào ngày hôm sau.

Lúc ấy, Trinh Nghi nửa tỉnh nửa mê, nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ, còn tổ phụ và tổ mẫu thì đang trò chuyện trong phòng.

Vương Giả Phụ hỏi rõ sự tình, liền thở dài:

“… Con trẻ khỏe mạnh bình thường, vì sao cứ nhất định phải bó chân?

Ta đã nói từ lâu rồi, trong nhà ta không cần tuân theo những hủ tục cũ rích ấy.”

Đổng lão phu nhân đáp:

“Ông thì lúc nào cũng nói nhẹ nhàng.

Nhưng thử nghĩ xem, ai lại muốn chuốc lấy phiền toái này đâu…”

“Ông làm quan ở ngoài, hành xử khác biệt với người đời, không theo quy tắc chốn quan trường, chẳng đạt được kết quả tốt đẹp gì, nhưng ít nhất vẫn có người khen ngợi ông chính trực không a dua nịnh bợ…

Nhưng nữ tử thì khác.

Một khi nữ tử đi ngược với lễ giáo thế tục, thì nào có chuyện đúng sai?

Dẫu đúng cũng thành sai cả thôi.”

“Ông nói một câu ‘không cần tuân theo’, nghe thì rộng lượng và nhân từ lắm… Nhưng sau này, những lời đàm tiếu chỉ trích giáng xuống, ông và ta đều chẳng thể thay nàng gánh vác.

Nếu vì thế mà bị soi xét, không tìm được mối hôn sự tốt, vậy thì nàng phải tự gánh lấy cả đời.”

Vương Giả Phụ cuối cùng cũng thở dài:

“Nhưng ép buộc không phải là cách… Đức Khánh hiểu chuyện sớm hơn bọn trẻ cùng tuổi, đã vậy thì tất nhiên cũng có chủ kiến của riêng mình.

Ép quá mức, chưa chắc đã là điều hay.”

Đổng lão phu nhân khẽ gật đầu:

“Vậy cứ chờ thêm một thời gian… Để nó lớn thêm chút nữa, nói rõ lợi hại cho nó hiểu… Khi ấy rồi hẵng quyết định.”

Trinh Nghi mê man thiếp đi.

Đến khi tỉnh lại, nàng thấy tổ phụ đang ngồi bên giường.

Ông cười, chỉ ra ngoài cửa sổ, nói rằng đợi nàng khỏi bệnh, ông sẽ dạy nàng một bài thơ về mưa, là thơ của Hàn Trường Lê tiên sinh mà nàng thích nhất.

Trinh Nghi đưa tay nắm lấy vạt áo ông, giọng còn khàn khàn:

“Tổ phụ, tổ phụ, con muốn học ngay bây giờ…”

Quýt đang cuộn tròn trên ghế, nghe tiếng nàng chăm chú đọc thơ, liền duỗi người một cái, vươn móng thật dài.

Thiên nhai tiểu vũ nhuận như tô,

Thảo sắc dao khán cận khước vô.

Tối thị nhất niên xuân hảo xứ,

Tuyệt thắng yên liễu mãn hoàng đô.

(Bài thơ của Hàn Dũ miêu tả cảnh sắc mùa xuân trong tiết khí “Vũ Thủy”)

Trinh Nghi đọc theo hơn hai mươi lần, đến khi thuộc lòng rồi liền tò mò hỏi tổ phụ:

“Tổ phụ, tiết khí là gì?

Vì sao tiết Vũ Thủy đến thì trời lại mưa?

Có phải là do thần tiên cai quản tiết khí không?”

Vương Giả Phụ bật cười lắc đầu:

“Không phải vậy.

Tiết khí là điều mà tổ tiên chúng ta đã quan sát và tìm tòi qua bao năm tháng mới có được.”

Nghe nói không phải thần tiên cai quản, mắt Trinh Nghi càng sáng lên:

“Vậy phải quan sát thế nào?”

“Tổ tiên ta quan sát nhật nguyệt tinh tú, rồi quan sát sự sinh trưởng của vạn vật trên đất, kết hợp với quy luật tuần hoàn của bốn mùa, từ đó tìm ra và tính toán ra những biến đổi tương ứng.

Như vậy, mới có hệ thống tiết khí.”

Vương Giả Phụ mỉm cười vuốt râu: “Sự sinh trưởng của vạn vật, đều nằm trong hai mươi bốn tiết khí, tổng cộng bốn mươi tám chữ này.”

Lòng Trinh Nghi bỗng dâng lên sự kính phục khó tả, nàng vô thức ngồi thẳng dậy:

“Tổ phụ, tổ tiên chúng ta thật lợi hại!”

Ngay sau đó, nàng lại cảm thấy một niềm vui sướng khó hiểu dâng trào.

Nhìn ra ngoài cửa sổ, nàng bỗng thấy từng giọt mưa rơi xuống đều có quy luật, cả cơn gió cũng có hình dáng, phân bố theo một trật tự nhất định.

Loại nhận thức này, một loại trật tự mà có thể lần theo mà truy cứu tận nguồn, khiến vạn vật trở nên rõ ràng mà có trình tự, làm Trinh Nghi say mê hơn bất cứ câu chuyện thần tiên quỷ quái nào.

Năm ấy tiết Vũ Thủy đến, trời Kim Lăng vẫn mưa dầm mịt mờ, nhưng trong làn mưa mù ấy, Trinh Nghi đã nhìn thấy tia sáng đầu tiên trong lòng mình.

Thấy cháu gái hứng thú với tiết khí, Vương Giả Phụ liền tặng nàng một cuốn sách.

Bàn tay nhỏ bé của Trinh Nghi vuốt nhẹ bìa sách, dưới sự chỉ dẫn của tổ phụ, nàng chậm rãi đọc: “Nguyệt Lệnh Thất Thập Nhị Hậu Tập Giải” (月令七十二候集解)

Sau khi khỏi bệnh, Trinh Nghi rời khỏi viện của tổ mẫu.

Trên đường được đón về, nàng nắm tay đại tỷ, nhỏ giọng nói:

“Đại tỷ, muội nghe Xuân Nhi nói, nếu cởi bỏ bó chân sớm thì chân có thể lành lại một chút…”

Thục Nghi cúi đầu nhìn, chỉ thấy đôi mắt muội muội sáng lấp lánh, lại nghe nàng nói tiếp:

“Đại tỷ, tỷ không thích khóc, vậy để muội khóc giúp tỷ nhé!”

Thục Nghi sững sờ một thoáng, rồi bật cười.

Nàng không trả lời, chỉ nhẹ nhàng đưa tay khẽ cạ lên chóp mũi muội muội:

“Ngốc quá, nói gì ngốc thế này.”

Nhìn sang tay còn lại của nhị muội, thấy nàng ôm chặt một vật gì đó được bọc trong vải xanh, Thục Nghi cười hỏi:

“Nhị muội, muội đang ôm bảo bối gì vậy?”

Trinh Nghi ôm chặt cuốn Nguyệt Lệnh Thất Thập Nhị Hậu Tập Giải.

Cuốn sách này giải thích tường tận về hai mươi bốn tiết khí, chia nhỏ mỗi tiết khí thành ba “hậu”, mỗi “hậu” kéo dài năm ngày, tất cả đều có quy luật biến đổi rõ ràng.

Để có thể đọc hiểu nhanh hơn, Trinh Nghi càng chăm chỉ học chữ hơn bao giờ hết.

Năm sau, khi tiết Vũ Thủy đến, bảy tuổi, Trinh Nghi đã giở đến trang thứ hai của cuốn sách, chậm rãi nhưng cẩn thận đọc:

“Chính nguyệt trung, thiên nhất sinh thủy.

x**n th** thuộc mộc, nhiên sinh mộc giả tất thủy dã, cố lập xuân hậu kế chi Vũ Thủy.

Thả đông phong ký giải đông, tắc tán nhi vi vũ hĩ…”

“Vũ Thủy sơ hậu: Thát tế ngư, nhị hậu: Hầu nhạn bắc, tam hậu: Thảo mộc manh động…”

Năm nay, tiết Vũ Thủy lại trùng đúng với ngày Thượng Nguyên.

Vào ngày hội Thượng Nguyên, Trinh Nghi và các huynh tỷ có cơ hội ra ngoài dạo chơi ban đêm.

Vương Giả Phụ nhận được lời mời từ cố nhân Viên Mai, liền dẫn theo cả nhà đến “Tùy Viên” trong thành Kim Lăng, cùng đón Tết Nguyên Tiêu.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 7: Vũ Thủy (Phần 3)


Trên đường đến Tùy Viên, cảnh tượng trước mắt náo nhiệt hơn bất cứ điều gì Trinh Nghi từng thấy.

Đây không phải lần đầu nàng ra ngoài ngắm đèn vào đêm Thượng Nguyên, nhưng những năm trước nàng còn quá nhỏ.

Năm nay, tính cả tuổi mụ, nàng đã tròn bảy tuổi, ngoài sự hiếu kỳ vẫn không suy giảm, nàng cũng dần cảm nhận thế giới này một cách rõ ràng hơn.

Màu sắc, hình dạng, hương vị—tất cả tràn vào giác quan, lấp đầy tâm trí nàng.

Quýt thầm nghĩ, nếu ở hiện đại, độ tuổi này của Trinh Nghi chỉ cần qua kỳ nghỉ hè năm nay là đã có thể đeo khăn đỏ, trở thành một “tiểu học kê”* rồi.

Những đứa trẻ ở độ tuổi ấy lúc nào cũng tràn trề năng lượng, chẳng khác gì loại hoa đăng nhạc xoay cổ điển cắm trên bánh kem, quay mãi không dứt, muốn dừng cũng không được, cắn cũng không xong, có đập mạnh vài cái cũng chẳng ích gì.

Ngay cả khi hết pin, nó vẫn có thể vo ve thêm mấy ngày nữa, ném vào hang chuột còn có thể khiến cả ổ chuột rối loạn nội tiết.

Song, sự hoạt bát của Trinh Nghi lại khác hẳn những đứa trẻ khác.

Nàng giấu kỹ sự tò mò của mình trong ánh mắt.

Quýt vẫn luôn may mắn nghĩ rằng, thật tốt vì đôi mắt con người không biết nói chuyện.

Bằng không, cặp mắt kia của Trinh Nghi chắc chắn sẽ biến thành hai chiếc hoa đăng sinh nhật hạng nhất, sáng rực suốt ngày đêm.

Hôm nay, Trinh Nghi mặc một bộ áo váy lót bông màu xanh non, viền áo có khóa lông mềm mại, khiến Quýt nhìn nàng chẳng khác nào một cây măng xanh tròn trịa mới nhú khỏi mặt đất.

Cái “măng xanh” này còn búi hai búi tóc nhỏ trên đầu, buộc dây đỏ, mỗi bên lại đính hai chùm bông tuyết trắng mềm mại, thoạt nhìn hệt như một bé con bước ra từ tranh Tết.

Cũng chính những chùm bông tuyết trắng ấy mà trên cổ Quýt cũng có một cái y hệt—Trinh Nghi đích thân buộc lên cho nó.

Nàng bảo, tối nay người đông, sợ làm lạc mất Quýt, có cái này thì dễ tìm hơn.

Quýt chẳng hề thấy mình cần thứ đó.

Nó đâu phải mấy con mèo nhà chưa từng thấy thế giới bên ngoài, chỉ biết quanh quẩn trong sân.

Là một con mèo hoàng cung chính hiệu, ước mơ cả đời nó là vung kiếm hành tẩu giang hồ!

Quýt nhảy lên lan can của một cây cầu đá, ngẩng cao đầu, vẫy đuôi, bước đi khoan thai mà duyên dáng, tự cảm thấy chẳng khác nào một vị kiếm khách khinh công siêu quần.

Dây bông tuyết trên cổ nó lúc này cũng chẳng khác nào bảo kiếm oai phong.

Đợi Trinh Nghi lớn hơn chút nữa, nó nhất định sẽ rời khỏi nhà họ Vương, rời khỏi Kim Lăng và mười dặm Tần Hoài, đi đến nơi xa hơn để mở mang kiến thức!

—Ý tưởng này, Quýt đã có ngay từ lần đầu tiên Trinh Nghi đón sinh thần.

Dưới ánh đèn rực rỡ giao thoa, dòng người đông nghịt như nước chảy.

Trinh Nghi nắm tay mẫu thân một bên, tỷ tỷ một bên, tung tăng bước lên từng bậc thang đá của cây cầu.

Nhảy xuống bậc thang cuối cùng, nàng ngẩng lên nói với mẫu thân:

“A nương, cây cầu thứ ba rồi!”

Tục “đi ba cầu” vào đêm Thượng Nguyên là phong tục của quê ngoại Dương Cẩn Nương.

Nghe nói, trong đêm này, nếu phụ nữ đi qua ba cây cầu sẽ có thể xua tà, trừ bệnh.

Dương Cẩn Nương vừa đi vừa khẽ niệm điều gì đó.

Trinh Nghi nghe không rõ, nhưng Quýt tai thính nên nghe được ba chữ “Dương Đình Nương”.

Xuống cầu, ánh mắt Trinh Nghi bị thu hút bởi những khung đèn dựng ngay đầu cầu.

Khung đèn ấy được làm thành hình cột buồm, mỗi tầng đều đặt hoa đăng, thoạt nhìn tựa như một tòa bảo tháp rực rỡ.

“Đây gọi là tạo kiều đăng!”

Vương Nguyên khoanh tay, giải thích cho các đệ muội:

“Là để tế bái Hà Thần đấy!”

Những khung đèn như vậy có thể thấy khắp nơi.

Ban ngày, người ta treo lụa đủ màu và tua rua lên đó; ban đêm, họ thắp đèn, ánh sáng trải dài vạn dặm.

Từ ngày rằm Thượng Nguyên đến mười tám tháng Giêng, mỗi ngày đều như vậy, gọi là “đăng thị” (chợ đèn).

Dọc đường còn có rất nhiều người bán hoa đăng rong.

Bọn họ gánh trên vai đủ loại đèn tinh xảo, chủ yếu là Tô đăng và Ngô đăng—loại hoa đăng đặc trưng của vùng Kim Lăng, được chế tác tinh mỹ, muôn hình muôn vẻ.

Một người bán hàng vừa đặt gánh xuống thì Vương Giả Phụ đã tiến lên vẫy tay gọi bọn trẻ đến chọn đèn.

Thục Nghi chọn một chiếc đèn “Tây Thi hái sen”, Vương Giới chọn đèn “Trạng nguyên”, còn Trinh Nghi, nghe theo lời khuyên của Quýt, chọn đèn “Lưu Hải hí thiềm”.

Quýt vô cùng thích thú với con cóc trên đèn, cứ liên tục cào cào tua rua bên dưới.

Vương Nguyên không chọn đèn mà lén thương lượng với tổ phụ xin quy đổi tiền mua đèn thành tiền mặt, nhưng bị Vương Tích Thụy nghe thấy, liền bị nắm tai mắng một trận:

“Ngoài việc tụ tập với đám kia uống rượu, ngươi còn biết cái gì nữa?!”

Lúc này, một chiếc đèn chỉ lớn bằng bàn tay trẻ con đột nhiên bay đến, rơi thẳng vào đầu Vương Nguyên.

Vương Nguyên ôm đầu kêu “Ái ui!” rồi lớn tiếng quát:

“Tiểu quỷ nào ném đấy?!”

Nhóm trẻ con đang nô đùa lập tức im bặt, đứa này đẩy đứa kia, chẳng ai dám đứng ra nhận lỗi.

Trinh Nghi cúi xuống định nhặt chiếc đèn lên thì Quýt đã nhanh hơn, lấy một chân chạm thử.

Chiếc đèn tròn lăn lông lốc, bên trong vẫn rực sáng.

Quýt thấy thú vị bèn vươn chân đẩy thêm hai cái, đang định chơi tiếp thì một đứa trẻ đã nhanh tay nhặt mất.

Bọn trẻ không chỉ có cầu đăng nhỏ, mà còn có cả loại “cầu đăng lăn đất” lớn hơn cả Quýt.

Những chiếc đèn này, dù có lăn thế nào cũng không tắt lửa, được gọi là “cổn đăng”, có nguồn gốc từ vùng Hải Diêm, Giang Chiết.

Quýt theo Trinh Nghi dạo phố, thi thoảng gặp những đoàn rước rộn ràng.

Những người đó đeo trống nhỏ bên hông, tay cầm chiêng hoặc não bạt, vừa đi vừa gõ, tiếng trống vang như sấm, khắp phố phường tràn ngập hân hoan, lũ trẻ chạy theo nhảy nhót hò reo.

Khi đi ngang một miếu Thổ Địa, Quýt nhìn thấy một chiếc sư tử đăng bằng tre, miệng sư tử còn ngậm một cầu đăng nhỏ.

Quýt nhảy đến, giơ chân móc lấy đèn, nhưng ngay lúc đó, một tiếng “Chíu——” rền vang kèm theo chùm pháo sáng nổ tung!

Quýt sợ đến mức dựng hết lông, vèo một cái phóng thẳng vào lòng Trinh Nghi.

Vương Nguyên cười ha hả:

“Nhìn xem, Quýt phạm thượng Thổ Địa Công, bị trừng phạt rồi!

Vương Giới năm nay mười một tuổi, dáng vẻ đoan chính nho nhã, hoàn toàn không có nét nghịch ngợm như những đứa trẻ cùng trang lứa.

Vì vậy, hắn nhận được không ít lời khen ngợi rằng “Ngày sau tất có tiền đồ rộng mở.”

Một phụ nhân nắm lấy tay Tam phu nhân, giọng đầy ngưỡng mộ:

“Muội muội rốt cuộc dạy dỗ thế nào mà có thể nuôi dạy được một đôi hài tử xuất sắc như vậy?

Khiến người ta vừa khâm phục, lại vừa ghen tị đến chết!”

Tam phu nhân cười nhẹ trách:

“Tẩu tẩu chỉ biết tâng bốc ta.

Ta chẳng qua chỉ là nữ nhân trong khuê phòng, có hiểu biết gì đâu?

Mấy đứa trẻ có thể ra dáng ra hình thế này, hoàn toàn nhờ vào phụ thân và nội tổ phụ mẫu chúng để tâm dạy bảo mà thôi.”

Xung quanh Tam phu nhân càng lúc càng đông người vây quanh.

Dương Cẩn Nương mấy lần muốn lên tiếng nhưng đều bị át mất giọng, nàng không khỏi thấy lúng túng.

Nhìn đôi huynh muội xuất sắc bên cạnh đệ muội mình, trong lòng nàng vừa hâm mộ, lại vừa dâng lên một nỗi chua xót khó nói.

Bỗng, nàng nghe thấy con gái gọi “A nương” từ phía sau, liền vội vàng bước đến.

Nhân cơ hội cúi người chỉnh lại vạt áo cho con, nàng khẽ thở ra một hơi, cố gắng trấn định tâm trạng, nhưng vẫn không kiềm được hốc mắt đỏ hoe.

Trinh Nghi tinh ý nhận ra: “A nương sao thế?”

“Không có gì, chỉ là vướng chút bụi thôi…”

Dương Cẩn Nương gượng cười.

“Để con thổi cho A nương!”

Trinh Nghi chu môi, thổi nhẹ mấy cái.

Dương Cẩn Nương vừa ấm áp vừa cay cay trong lòng, càng trách bản thân không có tiền đồ.

“A nương, ăn bánh rán đi!”

Trinh Nghi đưa miếng bánh rán đã bị nàng cắn một nửa lên miệng mẫu thân.

Dương Cẩn Nương nhẹ nhàng đẩy tay con ra, khẽ thở dài: “Ăn uống nơi đông người như vậy, không hợp lễ nghi đâu.”

Nói rồi, nàng lấy khăn chấm nhẹ những vụn bánh bên khóe môi con gái.

Trinh Nghi chợt nhận ra mẫu thân không vui, bàn tay nhỏ nhắn cầm bánh cũng từ từ hạ xuống.

Lúc này, Quýt liền không chút khách khí mà cắn lấy miếng bánh gặm luôn.

Trinh Nghi từ bé đã được nó “dạy dỗ” thành đứa trẻ không hề có thói quen giữ đồ ăn cho riêng mình, điều này khiến Quýt vô cùng hài lòng.

Không xa phía trước, Vương Nguyên hô lớn gọi Vương Giới và Trinh Nghi đến đoán đố đèn.

Những câu đố đều do Viên Mai* chuẩn bị, phần lớn thiên về sự thú vị.

Vương Giới dù đọc sách nhiều nhưng lại không giỏi biến báo, suy nghĩ hồi lâu vẫn không đoán ra được câu nào.

Điều này khiến Vương Nguyên vô cùng sốt ruột—hắn muốn phần thưởng của câu đố, khổ nỗi lại không có bản lĩnh, đành kéo nhị đệ làm viện binh.

Thấy phần thưởng mình muốn bị tiểu công tử nhà Tri phủ Kim Lăng đoạt mất một cái, Vương Nguyên giận đến mức suýt méo mũi.

Bỗng, một giọng nói non nớt vang lên bên cạnh:

“Kim chỉ nam, hỏi là triều đại nào… Hẳn là Nam Bắc triều.”

Vương Nguyên sững người, quay sang nhìn nhị muội, vội vã lặp lại đáp án với quan chủ trì câu đố:

“Nam Bắc triều!”

Vị chủ trì cười, chắp tay:

“Công tử Vương gia đoán đúng rồi!”

Vương Nguyên lập tức đẩy Trinh Nghi lên trước:

“Là nhị muội ta đoán ra đấy!”

Chủ trì câu đố lập tức cho người mang phần thưởng đến.

Đúng lúc này, câu đố tiếp theo được treo lên:

“Dưới núi có loài trùng, giống rồng mà không phải rồng.

Đoán một nhân vật truyền kỳ.”

Trinh Nghi đang bị đại ca đẩy ra trước, lập tức giơ tay cao giọng:

“Là Xi Vưu!”

“Bờ sông gặp gỡ, trước ngồi cũng ngồi, nằm cũng ngồi, đứng cũng ngồi, đi cũng ngồi; sau nằm cũng nằm, ngồi cũng nằm, đứng cũng nằm, đi cũng nằm.”

Trinh Nghi lại đưa tay:

“Là ếch và rắn!”

Bốn phía liền vang lên tiếng trầm trồ khen ngợi.

Vương Nguyên vô cùng kinh ngạc, chẳng mấy chốc, trong tay hắn đã ôm đầy phần thưởng, cảm thấy có muội muội bên cạnh, thiên hạ này liền thuộc về hắn, tối nay muốn đi ngang thế nào cũng được!

Người vây quanh càng lúc càng nhiều, không ngớt lời cảm thán.

Công tử nhà Tri phủ Kim Lăng mãi mới khép được cái miệng đang há hốc, nhìn Vương Nguyên đang theo muội muội mình hưởng hết phong quang, tức tối lẩm bẩm:

“Đúng là quái lạ, Vương Nguyên ở đâu ra một muội muội vừa thông minh vừa linh lợi thế này… Muội muội thế này, lẽ ra phải là của ta mới đúng!”

Viên Mai cũng bị tiếng xôn xao thu hút, đi đến bên cạnh Vương Giả Phụ, liên tục khen ngợi Trinh Nghi trước mặt ông:

“Thiên tư linh tú, không cần chạm trổ mài giũa vẫn sáng ngời, lại có trí tuệ nhìn thấu bản chất, biết giữ lấy cái chân thật.”

Ông còn bàn bạc với Vương Giả Phụ rằng, đợi Trinh Nghi lớn thêm một chút, nhất định muốn nhận nàng làm đồ đệ.

Lời tán dương dồn dập đến mức khiến Vương Tích Thâm có cảm giác như đang trong mộng, chỉ biết cười xua tay liên tục.

Bên phía nữ quyến, cũng có không ít người bắt đầu tò mò dò hỏi: “Tiểu cô nương kia là con nhà ai vậy?”

Tam phu nhân mỉm cười, kéo Dương Cẩn Nương ra phía trước.

Dương Cẩn Nương đỏ mặt đáp lễ mọi người, trong lòng vui mừng xen lẫn bối rối khó tả.

“Thì ra là tôn nữ nhà Vương công!

Ta đã nói sao lại có thể linh tú xuất chúng đến vậy!”

Một nam nhân trung niên mặc trường sam màu lam sẫm chắp tay chào, liên tục hành lễ với Vương Giả Phụ:

“Tại hạ hôm nay mới đến Kim Lăng, vốn định ngày mai đến bái phỏng Vương công.

Trước khi rời nhà, gia phụ còn dặn dò ta nhiều lần, nhất định phải thay người đến chào hỏi.”

Vương Giả Phụ mỉm cười nâng tay người nọ lên, ánh mắt liếc nhìn nam hài bên cạnh hắn ta.

Người nọ vội vàng giới thiệu:

“Đây là khuyển tử Chiêm Mai!

Mau đến bái kiến Vương công!”

Cậu bé trông khoảng mười tuổi, nghiêm chỉnh cúi người hành lễ, giọng nói rõ ràng mà lưu loát:

“Tiểu sinh Chiêm Mai, xin vấn an Vương công.”

(*) “Tiểu học kê” (小学鸡): Cách gọi vui của người Quảng Đông về học sinh tiểu học, chỉ sự hiếu động, nghịch ngợm.

(*) Viên Mai (袁枚): Danh sĩ nổi tiếng đời Thanh, tác giả của Tùy Viên thực đơn.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 8: Kinh Trập (Phần 1)


“Ô, lớn thế này rồi ư!”

Vương Giả Phụ nhìn đứa trẻ trước mặt, thấy cử chỉ nhã nhặn, lễ độ, trong mắt lộ vẻ tán thưởng, mỉm cười vuốt râu:

“Đơn danh cũng là chữ ‘Mai’ sao!”

“Đúng vậy…”

Cha của Chiêm Mai thoáng xấu hổ, nhìn sang Viên Mai cười nói:

“Trước kia không phải tên này.

Năm ba tuổi, nhi tử ta mắc bạo bệnh, mẫu thân ta bèn đưa đến đạo quán uống phù thủy, lại nghe lời tiên sư đổi tên thành ‘Mai’…

Ta vốn cảm thấy không ổn, nhưng mẫu thân kiên trì quá, ta đành mặt dày viết thư đến Viên công, xin được thứ lỗi…”

Hắn khẽ thở dài, rồi lại nói tiếp:

“Lần này đi ngang Kim Lăng, ta đặc biệt dẫn con đến Tùy Viên, đích thân bái tạ!”

Nói rồi, hắn cúi người hành lễ thật sâu, Chiêm Mai cũng cúi mình bái lạy theo.

Viên Mai từ trẻ đã nổi danh, nay đã ngoài sáu mươi, cùng đại học sĩ Kỷ Vấn xưng là “Nam Viên Bắc Kỷ”, rất được giới văn nhân đương thời kính trọng.

Người trong giới đọc sách, nếu đặt tên trùng với chữ của ông, khó tránh khỏi bị xem là vô lễ, thậm chí tự cao tự đại.

Thế nhưng Viên Mai lại chẳng hề bận tâm đến những chuyện này.

Ông bật cười nói:

“Chỉ là một chữ mà thôi.

Nếu thực sự vì một chữ này mà cứu được đứa nhỏ, vậy thì cũng xem như lão phu có chút phúc đức rồi!”

Lại nói:

“Năm đó ta còn nghĩ, nếu có thể nhận đứa nhỏ này làm cháu nuôi thì cũng là một chuyện hay ho.

Nhưng ai mà ngờ—”

Ông nhìn về phía Vương Giả Phụ cùng mọi người xung quanh, cười bảo:

“Đứa trẻ này đã nhận tận mười tám cây làm nghĩa phụ!

Nếu vậy, chẳng phải ta vô duyên vô cớ có thêm mười tám người con sao?

Chuyện này, lão phu thực sự tiêu thụ không nổi đâu!”

Lời vừa dứt, ông liên tục xua tay, khiến mọi người bật cười.

Thấy người lớn nói cười vui vẻ, Vương Giới nghe mà không hiểu, bèn lén hỏi đại ca:

“…

Nhận mười tám cây làm nghĩa phụ là sao?”

Vương Nguyên chẳng hề hạ thấp giọng:

“Tức là nhận cây làm phụ thân đó!”

Hắn chậc chậc cảm thán:

“Nhìn cái tên cũng có chữ ‘Mai’, xem ra số mệnh thiếu Mộc nặng lắm rồi!”

Nói rồi, hắn huých vai cậu bé bên cạnh:

“Chiêm gia tiểu tử, mười tám vị phụ thân của ngươi vẫn khỏe chứ?”

Chiêm Mai gật đầu nghiêm túc:

“Sáu năm nay, ngày ngày tưới nước, dâng lời thăm hỏi, chưa từng lơ là.”

Thấy cậu ta đáp một cách có bài bản như vậy, Vương Nguyên thoáng sửng sốt, sau đó liền cười phá lên:

“Đúng là hiếu tử, đúng là gương mẫu cho bọn ta noi theo!”

Vương Giới, Trinh Nghi và cả Quýt đều đồng loạt nhìn Chiêm Mai bằng ánh mắt kính nể—ngày ngày tưới nước, bái lạy mười tám cây cha, đây quả thật là một chuyện phi phàm.

Chiêm Mai cũng quay sang nhìn hai huynh muội nhà họ Vương, đôi mắt sáng rỡ, vui vẻ khen ngợi Trinh Nghi:

“Muội muội đoán đố đèn thật giỏi!”

Quýt đang ngồi xổm bên chân Trinh Nghi khẽ ngẩng đầu đầy kiêu hãnh—đương nhiên rồi, dù sao cũng là do nó nuôi lớn, tất nhiên phải linh động khác người!

Dưới sự giới thiệu của các trưởng bối, bọn trẻ nhanh chóng làm quen với nhau.

Chiêm Mai bị Quýt thu hút, liền tò mò hỏi:

“Đây là con mèo rừng muội nuôi sao?”

“Ừm!” Trinh Nghi gật đầu, “Nó tên là Quýt.”

Chiêm Mai cũng ngồi xổm xuống bên cạnh, sau khi được Trinh Nghi cho phép, cậu thử duỗi tay xoa đầu Quýt, vừa vuốt vừa hỏi:

“Quýt năm nay bao nhiêu tuổi?

Có giỏi bắt chuột không?”

Quýt chớp mắt—sao nghe câu này lại thấy giống như một vị trưởng bối đang hỏi một vị khác rằng: “Con ngươi bao nhiêu tuổi, đang làm việc ở đâu, công tác thế nào?”

Vốn dĩ, khi nãy dù được bao người tán dương, Trinh Nghi vẫn luôn khiêm tốn.

Nhưng đến khi nói về Quýt, nàng lập tức tỏ ra đầy tự hào, thao thao bất tuyệt kể về những chiến tích lẫy lừng của nó.

Quýt cực kỳ hài lòng với phản ứng của tiểu chủ nhân nhà mình—nó ghét nhất kiểu trưởng bối thích chê bai, dìm hàng con cái, may mà Trinh Nghi chưa từng khiến nó mất hứng.

Nghe nàng kể, ánh mắt Chiêm Mai ngày càng tràn ngập sự kinh ngạc:

“Quýt linh tính đến thế, chắc hẳn là thần tiên phái xuống trần rồi…”

Quýt chợt ngẩng đầu ra sau, miệng há thành hình chữ “O”—ế, tiểu tử này lại nhìn thấu thân phận của nó sao?!

Chiêm Mai thoạt nhìn có vẻ trầm ổn, nhưng thực chất lại là một người hoạt bát, nói chuyện chẳng khác gì một chiếc hộp chứa đầy chuyện vui.

Đương nhiên, có thể gọi cậu là “nói nhiều”, nhưng ít ra lời lẽ của cậu vẫn khiến người ta thích nghe, không giống kiểu của Vương Nguyên—

Vương Nguyên thuộc loại nào ư?

Dùng lời của Vương Tích Thụy mà nói, thì hắn chính là kẻ “mồm mép nhiều, đáng bị đánh”.

Hắn không hợp để làm trụ cột gia đình, nhưng lại rất hợp để bị đánh mắng mỗi ngày—đây chính là suy nghĩ của Quýt lúc này.

Ngay khi Quýt đang âm thầm so sánh hai người, thì Tiền Dữ Linh chạy đến, kéo Trinh Nghi rời đi.

Quýt lập tức tách tách tách chạy theo.

Tiền Dữ Linh kéo Trinh Nghi đến chỗ một nhóm tiểu thư, hãnh diện giới thiệu:

“Chính là vị muội muội linh tú như ngọc, đáng yêu như tuyết mà ta vẫn hay kể đây!

Giờ thì các ngươi tin rồi chứ!”

Có người reo lên:

“Chính là muội đã làm bài thơ vui về đại ca muội ngủ gật sao?!”

“Dữ Linh đâu có nói quá, vị muội muội này quả thật rất có linh khí!”

“Khi nãy đoán đố đèn, các ngươi đều thấy rồi đấy!”

“Muội muội năm nay đã bảy tuổi chưa?

Bình thường đọc sách gì vậy?”

Một đám tiểu thư cùng tuổi với Tiền Dữ Linh và Thục Nghi xúm lại vây quanh Trinh Nghi, cười đùa hỏi han.

Có người còn đưa tay nhéo nhéo đôi má phúng phính, nghịch chùm bông tuyết trắng trên đầu nàng.

Chỉ động vào Trinh Nghi vẫn chưa đủ, ngay cả Quýt cũng không thể thoát thân.

Nó bị Tiền Dữ Linh mạnh mẽ ôm vào lòng, sau đó bị một đám cô nương v**t v* lung tung, bộ lông bị xoa đến rối tung, toàn thân lộ vẻ bất đắc dĩ và tuyệt vọng.

Chưa hết, Tiền Dữ Linh—người vốn có “cơn nghiện mèo” cực nặng—còn nhân cơ hội hít mèo vài hơi thật mạnh.

Mãi đến khi có người trong đám đông kêu lên:

“Ấn Phu nhân về rồi!”

Tiền Dữ Linh mới chịu buông Quýt ra, cùng Thục Nghi một trái một phải kéo Trinh Nghi, nhanh chân chạy về phía trung tâm đám đông.

Trinh Nghi nhìn thấy một vị phu nhân trẻ tuổi gầy yếu, đang được đám nữ quyến vây quanh trò chuyện.

Nàng ấy búi tóc gọn gàng, y phục thanh nhã.

Dù đối diện với bao nhiêu lời chào hỏi, trên mặt nàng ấy vẫn luôn giữ nụ cười nhàn nhạt, chỉ dùng tay ra hiệu đáp lại.

Tiền Dữ Linh khẽ nói với Trinh Nghi:

“Ấn Phu nhân không thể nói chuyện, bẩm sinh đã là người câm. ‘Ấn’ không phải họ của nàng, mà là tên của nàng—A Ấn.”

Mẫu thân của A Ấn là tam muội của Viên Mai, danh gọi Viên Cơ.

Viên Cơ là một tài nữ danh tiếng, thi từ của bà được lưu truyền rộng rãi trong giới nữ tử.

Chỉ tiếc bà mệnh yểu, sự tích về bà khiến người ta không khỏi thở than.

Chúng nữ quyến khi thấy A Ấn, liền bất giác nhớ đến Viên Cơ.

Nghe mọi người rải rác nhắc tới Viên Cơ phu nhân, Trinh Nghi có chút hiếu kỳ.

Dương Cẩn Nương bèn hạ giọng kể cho nữ nhi nghe về cuộc đời của Viên Cơ.

Từ thuở còn nằm tã bọc, Viên Cơ đã được gia tộc định sẵn một mối hôn sự, đối phương mang họ Cao.

Theo năm tháng trưởng thành, công tử nhà họ Cao dần bộc lộ bản tính tàn bạo, thường xuyên đánh đập người trong nhà, lại thêm dung mạo xấu xí, lưng còng mắt lệch.

Cao phụ thấy vậy, tự cảm thấy không xứng với nữ nhi nhà họ Viên, bèn chủ động lui hôn, viện cớ con trai mắc bệnh.

Khi ấy, Viên Cơ tuổi còn niên thiếu, song kiên quyết không đồng ý lui hôn, thẳng thắn bày tỏ: “Phu quân có bệnh, ta phụng dưỡng; phu quân mất, ta thủ tiết.”

Từ đó, bà ôm tín vật của Cao gia khóc than, lấy tuyệt thực để bày tỏ lòng trung trinh.

Nhiều năm sau, Cao gia lại tới cửa, vì tránh hai nhà kết oán, đành phải thẳng thắn nói rõ con trai mình bất tài vô dụng.

Thế nhưng Viên Cơ vẫn kiên trì giữ trọn lời hứa, cho rằng đã đính hôn thì phải nhất mực thủy chung, bất kể ra sao cũng không chịu lui hôn.

Cứ thế dây dưa đến năm hai mươi lăm tuổi, không thể trì hoãn thêm nữa, cuối cùng hôn sự vẫn được thành.

Sau khi thành thân, Viên Cơ giữ nghiêm lễ giáo, tuân theo tam tòng tứ đức.

Đối mặt với sự bạo hành của trượng phu, bà cắn răng nhẫn nhịn.

Phu quân không cho bà làm thơ, bà liền đốt sạch thi tập.

Nhiều năm trôi qua, đến khi nam nhân kia vướng vào cờ bạc, thua sạch gia sản cùng sính lễ của Viên Cơ, lại còn muốn bán mẹ con bà để trả nợ.

Cao mẫu ra sức ngăn cản, song lại bị con trai đánh gãy răng.

Viên Cơ đưa nữ nhi chạy đến nương nhờ am ni cô, phái người về nhà mẹ đẻ cầu cứu.

Sau bao phen vất vả, Viên gia rốt cuộc cũng đưa được hai mẹ con bà trở về.

Năm Càn Long thứ mười bảy, Viên Cơ theo huynh trưởng Viên Mai chuyển đến Tùy Viên ở Kim Lăng, từ đó ở lại nơi này.

Bà mỗi ngày đều vận bạch y, không trang điểm, một lòng thủ tiết, rất hiếm khi gặp gỡ người ngoài.

Dù vậy, bà vẫn lặng lẽ sai người gửi bạc về “nhà chồng”, thường xuyên làm thơ bày tỏ nỗi nhớ thương đối với Cao mẫu.

Trong thơ của bà, những bất hạnh đời mình đều được quy về hai chữ “thiên mệnh”.

Sau khi bà u uất mà mất, cô nữ nhi được gửi gắm cho vợ chồng Viên Mai chăm sóc.

Viên Mai từng viết “Tế Muội Văn” (Văn tế muội) để than khóc cho số phận bất hạnh của bà, cũng giận bà vì quá mức nhẫn nhịn.

Hậu bối Viên gia khi nhắc đến bà, thường không khỏi thở dài: “Toàn tộc đều cười a dì si ngốc.”

Lúc này, trong đám nữ quyến cũng có người lặp lại lời của Viên gia mà cảm thán:

“Chỉ trách bà quá nghiêm ngặt tuân thủ tam tòng, học vấn đã khiến bà đánh mất cả thanh xuân.”

“Nữ tử vô tài mới là đức…

Không có tài mới không bị trời ghen ghét.”

Có người thở dài than rằng Viên Cơ đã đọc sách đến mê muội, tài hoa quá mức mà phận mệnh lại mỏng manh.

Nhưng dù ai ai cũng than tiếc cho số kiếp của bà, thì đối với đức hạnh kiên trinh của Viên Cơ, tất thảy đều tán thưởng không thôi.

Những khổ đau mà bà từng nếm trải, dưới mắt thế nhân, lại trở thành minh chứng cho lòng trung trinh và dũng khí.

Nữ tử vì giữ gìn đức hạnh mà phải nuốt đắng cay, xưa nay luôn được đồng cảm và ca tụng.

Điều ấy như thể một loại tu hành vô thượng chỉ dành riêng cho nữ nhân.

Tu hành nào chẳng có khổ?

Càng khổ, mới càng tu ra đạo hạnh.

Thục Nghi trong mắt lộ vẻ ngưỡng mộ, xen lẫn một tia tâm tình mà chính nàng cũng không rõ ràng, nàng xuất thần nói với Trinh Nghi:

“Nhị muội, Viên Cơ phu nhân quả thực là tấm gương của nữ tử.”

Vừa nói, nàng không khỏi nhìn về phía A Ấn.

Mẫu thân danh tiếng thanh cao như vậy, dù A Ấn phu nhân là cô nhi lại mắc câm bệnh, vẫn có thể được gả vào một nhà môn đăng hộ đối, đủ thấy thế nhân đối với Viên Cơ phu nhân có bao nhiêu tôn trọng.

Thục Nghi thầm nghĩ, dẫu ngoài miệng có người không tán thành lựa chọn của Viên Cơ phu nhân, nhưng sự công nhận này, kỳ thực đã phản ánh rõ quy luật thế gian.

A Ấn được mẫu thân chỉ dạy, cũng là người tinh thông thi nghệ.

Lúc này, có phu nhân cười nói:

“Ấn phu nhân cũng nên in tập thơ của mình ra mới phải.”

A Ấn mỉm cười lắc đầu, dùng thủ ngữ biểu đạt ý tứ.

Bà lão bên cạnh nàng khẽ cười, thay nàng truyền đạt:

“Lời trong khuê phòng không nên truyền ra ngoài, tránh bị chê cười.”

Chúng nữ quyến đều gật đầu đồng ý, các tiểu thư cũng xem đó như bài học quý giá.

Dương Cẩn Nương cũng ra hiệu bảo Trinh Nghi phải tuân theo mà học hỏi.

Duy chỉ có Tiền Dữ Linh có suy nghĩ khác, nàng nói:

“Tương lai ta nhất định phải xuất bản thi tập.”

Lời này vừa thốt ra, chúng thiếu nữ chẳng khác nào nghe thấy tiếng sấm đầu mùa Kinh Trập, nhất thời đều ngoái đầu nhìn nàng, Trinh Nghi cũng không ngoại lệ.
 
Tuế Thời Lai Nghi - Phi 10
Chương 9: Kinh Trập (Phần 2)


Tiền Dữ Linh năm nay mới mười ba tuổi, dung mạo vẫn còn nét ngây thơ.

Các phu nhân lớn tuổi nhìn nàng, thấy nàng nhỏ dại, chỉ cười mà không bình luận gì.

Chỉ có Thục Nghi là hạ giọng nói:

“Dẫu có khắc in thơ từ của chúng ta, bất luận là được tuyển vào thi tập hay đặt tại thư quán, cũng quyết không thể xếp ngang hàng với văn nhân.

Chúng chỉ có thể bị đặt phía sau thi từ của tăng đạo, thậm chí chung một chỗ với thơ của kỹ nữ.”

“Như thế, chẳng tránh khỏi tổn hại đức hạnh và phúc phần, chỉ là rước lấy trò cười, nếu làm không hay, lại còn bị bọn nam nhân moi móc chê bai… Cần gì khổ như vậy?”

“Ta chẳng thèm để ý đến mấy chuyện đó!” Tiền Dữ Linh cười hì hì, ánh mắt lóe lên tia tinh nghịch: “Ở vùng Huệ Châu mấy năm nay, có không ít nữ tử in thơ.

Ta đã đọc nhiều, thấy rất hay!”

Nàng hạ giọng, mang theo ý trêu ghẹo: “Tương lai ta sẽ in một tập thơ, không chỉ có của ta, mà còn có của tỷ, của Trinh Nghi—”

Nói đoạn, nàng vươn tay túm lấy một người khác, cười giòn tan:

“Còn có của muội nữa!”

“Ta sẽ in thơ của tất cả các tỷ muội vào chung một quyển!”

Thục Nghi đỏ bừng mặt, vừa thẹn vừa giận, bật cười mà gạt tay Tiền Dữ Linh ra:

“Đi đi, ta không cùng muội làm bậy!”

Thiếu nữ bị kéo vào cũng hơi ửng đỏ hai má, trong mắt lóe lên tia sáng không dễ nhận ra, nhưng chỉ thoáng qua rồi bị nàng vội vã đè xuống, lúng túng phụ họa:

“Đúng đó, đúng đó!

Muội đừng hại người nữa!”

“Vẫn là Trinh Nghi muội tốt nhất!” Tiền Dữ Linh cười tủm tỉm, kéo tay Trinh Nghi, làm nũng: “Muội mau lớn lên đi, đến lúc đó giúp ta viết lời tựa!”

Trinh Nghi vẫn còn mơ hồ, nhưng nàng rất thích thú, liền lập tức gật đầu.

“Còn có Quýt nữa!” Tiền Dữ Linh ngồi xổm xuống, xoa đầu Quýt, ngón tay nhẹ chạm vào móng vuốt mềm mại của nó, cười bảo: “Đến lúc đó sẽ nhuộm mực lên chân Quýt, in một đóa mai hoa dưới bài tựa của Trinh Nghi!”

Chúng nữ tử đều bật cười vui vẻ.

Quýt ngạo nghễ thu móng lại—dấu chân của nó chính là phiên bản giới hạn của Tử Cấm Thành, ít nhất cũng phải trả giá bằng mười con cá khô!

Không xa đó, có mấy tiểu thư khuê các nhìn sang, thấp giọng cảm thán:

“Ai bảo nàng ta là tiểu thư của Tiền gia, là hậu nhân của lão phu nhân Trần Thư… Tính cách có chút kiêu ngạo cũng là lẽ thường.”

“Lão phu nhân Trần Thư khi còn sống cũng đâu dám in thơ?

Cũng phải sau khi bà mất, con cháu mới tiến dâng tranh vẽ của bà vào cung, được Hoàng thượng khen ngợi…”

Thời nay, dù nữ tử có tài danh, thi văn của họ cũng chỉ truyền tụng trong khuê phòng.

Những nữ thi nhân nổi tiếng phần lớn đều là sau khi qua đời, thơ văn mới được trượng phu, phụ huynh hoặc huynh trưởng sắp xếp in ấn, lưu truyền.

Viên Cơ cũng như vậy, thơ của bà đều do Viên Mai thu thập chỉnh lý, mới có thể bảo tồn và truyền thế.

Việc Tiền Dữ Linh muốn tự mình in thơ, quả thực là hành động táo bạo hiếm thấy.

Nhưng như vị tiểu thư kia đã nói, sự táo bạo của nàng không phải ngẫu nhiên—cố tổ mẫu Trần Thư của nàng dù mất đi vẫn danh vang thiên hạ, mà bút pháp hội họa của Tiền Dữ Linh lại thừa hưởng phong thái của Trần Thư.

Vì thế, Tiền gia đối với nàng cũng khoan dung hơn so với các tiểu bối khác.

Bao lời tán thưởng nàng nghe từ thuở nhỏ khiến nàng có cảm giác mình xứng đáng với những điều ấy hơn hẳn những nữ tử bình thường.

Sự giải thoát của tâm hồn luôn chậm hơn những ràng buộc vật chất bên ngoài.

Một trái tim dám phá vỡ khuôn khổ không thể tự nhiên sinh ra trong môi trường trói buộc bốn bề.

Cũng giống như một con chim bị nuôi nhốt trong lồng từ lúc mới sinh, rồi bị phủ lên một tấm vải đen.

Nó không thể khao khát bầu trời, bởi nó thậm chí còn chưa từng biết đến sự tồn tại của trời và biển, vậy thì nói gì đến khát vọng tự do?

Tài hoa hay cá tính, rốt cuộc cũng không đủ để xoay chuyển vận mệnh nữ tử.

Môi trường luôn quyết định trước thiên phú, là nuôi dưỡng hay vùi dập, tất cả đều phải nghe theo sự an bài của hoàn cảnh.

Nhưng ngoài lựa chọn được nuôi dưỡng hay bị vùi dập, vẫn còn một kết cục khác—thiên phú bị phát hiện, rồi bị chính hoàn cảnh ấy cắn nuốt.

Trong trường hợp đó, tài hoa không còn là thiên phú, mà sẽ trở thành… thiên khiển.

Kinh Trập, ngày đầu năm, hoa đào bắt đầu nở.

Sáng sớm, Xuân Nhi đứng ngoài sân rải vôi bột—đây là phong tục Kinh Trập, dùng để xua đuổi sâu bọ.

Quýt đi lại bất tiện, nó phải nhảy từng bước qua những vệt vôi, như thể sợ bẩn móng vuốt.

Có lẽ vì nguyên do này, mà suốt nửa ngày, Xuân Nhi đều không thấy bóng dáng Quýt đâu.

Không đúng… Tiểu thư cũng không thấy đâu!

Xuân Nhi đang bận rộn quét dọn, chợt giật mình sững lại, lập tức buông chổi chạy đi tìm, nhưng tìm khắp nơi cũng không thấy Trinh Nghi.

Tình cảnh năm ngoái khi bó chân mà tiểu thư mất tích, nay lại tái diễn trong Vương phủ.

Lần này, Trinh Nghi “trốn” kỹ hơn, đến tận khi trời sắp tối vẫn không tìm ra.

Dương Cẩn Nương tưởng tượng cảnh bọn buôn người bắt mất nữ nhi, chỉ thấy trời đất như sắp sụp xuống.

Việc này kinh động đến cha con nhà họ Chiêm đang tá túc tại Vương phủ.

Chiêm Mai cũng cùng Vương Nguyên và Thục Nghi đi tìm người, cả Vương phủ náo loạn một phen.

Cuối cùng, chính Vương Nguyên và Chiêm Mai tìm thấy Trinh Nghi trong Ký Phưởng thư trai.

Ban ngày bọn họ cũng từng đi ngang qua nơi này, gọi nhưng không ai đáp nên không vào kiểm tra kỹ.

Đến lúc trời tối, nhìn thấy bên trong có ánh nến leo lét, bọn họ mới đẩy cửa bước vào.

Trong thư phòng, dưới ô cửa sổ, có một chiếc thư án.

Trên ghế Thái sư phía sau thư án, một thân ảnh nhỏ bé đang ngồi ngay ngắn.

Gió thổi lay động cửa sổ.

Trên bàn trải sẵn giấy, Trinh Nghi cầm bút viết, còn Quýt thì đang đóng vai trò trấn thạch, vững vàng đè lên một góc giấy.

Vương Nguyên và Chiêm Mai đẩy cửa vào, Trinh Nghi vẫn không hay biết.

Vương Nguyên bước tới, thoáng nhìn qua trang giấy dưới bút của nhị muội, tức thì sửng sốt—nàng đang chép toàn là số học!

Một bên bàn đã chất đầy những tờ giấy đã viết kín chữ.

Hắn đưa tay cầm lên quyển sách muội muội đang sao chép, định thần nhìn kỹ, hóa ra đó là “Lịch Toán” của Mai Văn Đỉnh.

Vương Nguyên ngơ ngác—đây chẳng phải cuốn sách khiến hắn đọc thì buồn ngủ, học thì tẩu hỏa hay sao?!

Nghe thấy bước chân bên ngoài, Vương Nguyên hoảng hốt ôm lấy đống sách cùng giấy chép của Trinh Nghi, vội vàng giục Chiêm Mai:

“Mau!

Mau giấu đi!

Đừng để ai thấy!”

Chiêm Mai đang sững sờ, theo bản năng hỏi lại:

“Trong nhà không cho học toán sao?”

“Nếu để phụ thân ta biết, ông ấy lại đánh ta mất!” Vương Nguyên khổ sở đáp.

Gió lùa qua cửa sổ, những tờ giấy toán học bay tứ tung, Vương Nguyên chưa kịp giấu hết.

Dương Cẩn Nương đôi mắt hoe đỏ, nhìn thấy nữ nhi lảo đảo bước xuống từ ghế, thoáng chốc sững sờ.

Tay áo của Trinh Nghi xắn lên, tóc có chút rối, hai má còn lấm lem vết mực, trông vô cùng lôi thôi, chỉ có đôi mắt là vẫn sáng rực.

Kinh Trập đến, vạn vật bừng sinh, trăm loài côn trùng thức tỉnh.

Gió Nam tràn vào từ khung cửa sổ, mang theo tiếng sấm đầu tiên của mùa xuân.

Tiếng sấm ấy như vang dội ngay trong lòng Dương Cẩn Nương.

Tam phu nhân cùng Thục Nghi cũng vội vàng chạy tới.

Vương Tích Thụy cầm lấy xấp giấy chép tay của Trinh Nghi, không vội trách phạt nhi tử, mà trước tiên gọi nhị đệ lại xem.

Dương Cẩn Nương thấy đại bá kinh ngạc đến vậy, lại nghe loáng thoáng những từ như “lịch toán”, nhìn ánh mắt mọi người đều đổ dồn lên người nữ nhi, nàng bỗng nhiên dâng lên một cỗ bất an khó hiểu.

Không hiểu sao, nàng đột nhiên tiến lên, kéo mạnh nữ nhi lại bên mình.

“Cả nhà trên dưới tìm con suốt một ngày…

Vậy mà con lại trốn ở đây viết viết vẽ vẽ, giả vờ không biết gì!” Dương Cẩn Nương mắt đỏ hoe, giọng trách mắng mang theo run rẩy: “Nói xem, con có đáng bị phạt không?!”

Lần này, gần như là lần đầu tiên nàng thực sự tức giận đến vậy.

Trinh Nghi bị dọa đến sững người, ngẩng đầu nhìn mẫu thân, giọng hơi run rẩy nhưng vẫn thật thà giải thích:

“A nương, con không cố ý, con không biết từ lúc nào trời đã tối mất rồi, con cũng không nghe thấy ai gọi…”

Nói rồi, nàng ngoan ngoãn đưa hai tay ra, nhẹ giọng nhận sai:

“A nương, người đừng giận, người đánh con đi, con sẽ không tái phạm nữa.”

Dương Cẩn Nương nhìn đôi tay nhỏ nhắn vươn ra trước mặt, trên đó cũng dính đầy vết mực, nước mắt nàng bất giác lăn dài.

“Không tái phạm nữa?

Con thực sự biết mình sai ở đâu sao?!

Không chỉ chuyện này!

Hôm qua bảo con bó chân, con không chịu… Mới dặn con học nữ công, hôm nay con đã lén trốn ở đây học cái thứ vớ vẩn này!”

“Nhìn tay chân mặt mũi dính đầy mực kìa!

Có chỗ nào còn giống một nữ nhi?!

Con đã bảy tuổi rồi, sau này phải làm thế nào đây?!”

Dương Cẩn Nương cũng không biết mình đang nói gì nữa, nàng không muốn thất thố đến vậy, nhưng lúc này chỉ cảm thấy vô cùng hoang mang, hổ thẹn.

Nàng nắm lấy một tay nữ nhi, vừa lau nước mắt vừa kéo nàng đi:

“Trở về!

Từ nay không được đến đây nữa!”

Quýt nhận thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng, vội vã chạy theo.

Nó muốn nói rằng mọi thứ đều do nó viết, nếu có giết có chém, cứ nhắm vào nó mà xử lý, không liên quan gì đến Trinh Nghi… Chỉ tiếc, không ai thèm tin lời một con mèo!

Mọi người chưa từng thấy Dương Cẩn Nương giận dữ như vậy, Tam phu nhân cùng Thục Nghi cũng nhanh chóng chạy theo để khuyên nhủ.

Vương Tích Thâm cũng vội vàng bước ra ngoài.

Trong thư phòng, Vương Tích Thụy vẫn cầm xấp giấy dày cộp trong tay, sắc mặt phức tạp, thở dài một hơi, hận sắt không thành thép mà quay sang nhìn nhi tử.

Vừa định mở miệng quở trách, Vương Nguyên đã vô cùng tự giác, dứt khoát cởi áo ngoài, quỳ xuống ngay ngắn, nghiêm chỉnh cúi đầu nhận lỗi:

“Phụ thân không cần nói gì nữa, nhi tử vô dụng, nhi tử bất hiếu, nhi tử tự thấy không còn mặt mũi nào nữa!”

Vương Tích Thụy hừ lạnh, cầm cả xấp giấy ném lên người hắn, chống quải trượng tập tễnh rời đi.

Vương Nguyên thở phào nhẹ nhõm—may mắn hắn đã thuần thục tuyệt kỹ quỳ lướt, ai dám nặng lời với hắn, hắn liền quỳ xuống ngay lập tức!

“Đi thôi!

Xem náo nhiệt!

Nhìn tình hình này, kiểu gì cũng có một màn ‘thăng đường thẩm án’ dành cho nhị muội!”

Vương Nguyên nhảy phắt lên, gọi với về phía Chiêm Mai.

Chiêm Mai đang cúi người nhặt từng tờ giấy rơi, sau khi xếp ngay ngắn trên thư án, hắn cẩn thận đặt quyển “Lịch Toán” lên đè lại, đóng cửa sổ, thổi tắt đèn, rồi mới lặng lẽ bước theo đoàn người Vương gia.
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back