Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Dịch Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ

Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 30: Cành liễu



Lúc này, anh nhận ra tay mình đang đặt trên eo Phù Tô, chân còn vắt lên chân hắn. Nghĩ vài giây, anh chẳng biết nên rút tay hay chân trước.

“Coi tôi như cái chăn hả?” Phù Tô thở dài, giọng điệu mang theo chút bất lực.

“Cuộn chặt lấy tôi vậy luôn.”

“Chắc vậy,” Uông Tễ quyết định rút chân trước, vì vị trí này có phần khó xử. “Sợ anh giành với tôi.”

“Yên tâm đi, với kiểu này thì tôi giành không lại cậu đâu, tay chân kẹp chặt vậy mà.”

Uông Tễ cười xòa, rút tay lại, nằm thẳng ra: “Anh không phải nước không quen, sốt rồi hả? Sao thấy người nóng thế.”

Phù Tô chậm rãi đáp: “Sao không nghĩ là do cậu ôm lâu quá.”

Uông Tễ nhìn lên chiếc đèn chùm mờ ảo trong bóng tối: “Vậy cũng tốt, đang lạnh mà.”

“Ừ, vừa ấm vừa tiện.”

Giấc ngủ hôm đó rất sâu. Khi tỉnh dậy, bên cạnh đã trống không. Uông Tễ xoay người, ôm chăn nằm thêm một lát. Tiếng nước từ phòng tắm vọng ra, giúp anh bình ổn lại chút phản ứng sinh lý bình thường. Sau đó, anh bật dậy, chuẩn bị bắt đầu ngày mới.

Khi Uông Tễ rửa mặt xong và bước ra khỏi phòng tắm, Phù Tô đã thay đồ xong, đang quay lưng lại, chỉnh sửa cổ tay áo.

Áo sơ mi trắng, quần tây tối màu, đường cắt may tinh tế và chất liệu cao cấp, tất cả đều tôn lên bờ vai rộng, eo thon và đôi chân dài của hắn. Vốn dĩ Phù Tô đã có dáng người lý tưởng, nay lại thêm bộ trang phục chỉn chu khiến hắn càng thêm nổi bật.

Uông Tễ vốn là người không quá để ý đến ngoại hình, cũng không nhạy cảm lắm trong chuyện này. Có lẽ do bản thân anh đã sở hữu điều kiện ngoại hình khá tốt nên đối với người khác cũng chẳng mấy quan trọng. Nhưng hôm nay, trước vẻ ngoài của Phù Tô, dù đã nhìn quen mỗi ngày, Uông Tễ vẫn không khỏi cảm thấy ngỡ ngàng.

Con người thường bị cuốn hút bởi cái đẹp, anh cố thuyết phục bản thân. Mãi đến lúc vào nhà hàng ăn sáng, nhịp tim của anh mới dần ổn định trở lại.

“Có lẽ nên đi khám tim xem sao.” Uông Tễ nghĩ thầm, cố gắng biện minh cho cảm giác bất thường.

“Trứng luộc hay trứng chiên?” Phù Tô quay đầu lại hỏi anh.

Nhìn hắn, tim Uông Tễ lại lỡ một nhịp: “Trứng chiên.”

Lúc chọn chỗ ngồi, Phù Tô rời qua khu bánh mì nướng để lấy thêm đồ ăn. Từ phía sau, dáng người cao ráo của hắn càng thêm rõ nét. Uông Tễ liếc nhìn qua cửa sổ, soi bóng mình. Anh nhủ thầm: Thôi, mình tuy gầy nhưng cũng đẹp trai không kém.

Ăn sáng xong vẫn còn sớm, hai người về phòng ngồi một lát rồi rủ nhau ra ngoài đi dạo dọc bờ sông. Đợi đến giờ trung tâm thương mại mở cửa, họ bắt taxi đi mua khuy măng-sét.

Buổi lễ cưới chiều nay được tổ chức ngoài trời. Vì khách sạn không có sân cỏ phù hợp, Uông Duệ đã thuê một đội ngũ tổ chức sự kiện, chọn công viên gần đó làm địa điểm.

Xung quanh là cây xanh tươi mát, những gian đình ven hồ, và một bãi cỏ trải dài bên bờ nước lấp lánh. Trên mặt hồ, chiếc cầu thấp thoáng ẩn hiện sau làn khói mỏng tựa như một bức tranh thủy mặc.

Dự báo trời sẽ mưa vào buổi tối, nên giờ bầu trời đã dần chuyển sang u ám, gió mát từ mặt hồ thổi qua mang theo chút lành lạnh.

Sau màn chào đón khách và tổng duyệt, cô dâu chú rể trở về xe chuẩn bị. Các vị khách thì tản ra khắp công viên chụp ảnh và chuyện trò.

Uông Tễ đứng trên cây cầu đá vòng, nhìn xuống mặt nước phản chiếu bóng cây, thi thoảng có những chú vịt bơi qua. Một cảm giác mát lạnh lướt qua cổ anh, khiến anh giật mình quay lại. Thì ra là Phù Tô, trên tay cầm một nhành liễu nhỏ.

“Bỏ tôi lại một mình mà không thèm đoái hoài hả?”

Uông Tễ nhìn nhánh liễu, đánh trống lảng: “Giỏi nhỉ, phá hoại môi trường công viên, bẻ cành liễu.”

Phù Tô nhếch môi cười, nhét một tay vào túi quần âu, tay kia cầm cành liễu giơ lên một cách thách thức: “Giỏi lắm, thanh thiên đại lão gia, mau gọi bảo vệ tới bắt tôi đi.”

Thực ra nhành liễu này là hắn nhặt dưới đất, Uông Tễ đã thoáng thấy từ góc mắt nhưng không buồn chỉ ra.

Phù Tô tựa vào lan can cầu, nhìn ra xa mặt hồ, chậm rãi nói: “Có tội gì nữa thì cứ phán luôn đi, để tôi còn tranh thủ xin giảm nhẹ hình phạt.”

Nhánh liễu vẫn nằm trong tay Phù Tô. Uông Tễ vươn tay giữ lấy một đầu cành, đầu ngón tay dính chút sắc xanh tươi của lá: “Công viên đẹp quá, giờ tôi chẳng muốn xử án đâu.”

Phù Tô siết nhẹ tay, rút nhành liễu ra khỏi tay Uông Tễ rồi thả xuống mặt nước. Nhánh liễu chạm nước, hai chú vịt nhỏ lập tức rướn cổ bơi tới mổ lá.

“Công viên đẹp thì cứ ở lại đây mà ngắm thêm vài ngày. Nhưng trước hết lo xong chuyện chính đã.”

Cái gì gọi là lo chuyện chính hả?

Uông Tễ buột miệng: “Vậy anh cứ ở lại đây mà ngắm cảnh thêm vài ngày, ở phòng tổng thống mà hưởng thụ.”

Phù Tô lười biếng trả lời: “Không sợ tối nay lại thấy điều hòa lạnh quá sao?”

Câu nói này chẳng khác nào ngầm trách Uông Tễ vì đêm qua ôm hắn tìm hơi ấm. Uông Tễ lập tức im bặt, có chút ngượng ngùng.

Sự ngượng ngùng này thật sự đến rất khó hiểu. Anh cúi đầu nhìn mấy con vịt dưới hồ một lúc rồi thành thật thú nhận: “Haizz, tôi đang ghen tị với người giàu đấy.”

Phù Tô nghiêng đầu liếc anh, khẽ nhướng mày rồi nở một nụ cười.

Buổi sáng đi mua khuy măng-sét, vừa bước vào trung tâm thương mại, Phù Tô lập tức nhắm thẳng tới một cửa hàng sang trọng. Uông Tễ đã dự cảm chẳng lành.

Trong cửa hàng, ngoài bọn họ ra chỉ có hai cặp đôi khác, cả hai đều là các đôi sắp cưới đến thử nhẫn. Nhưng Uông Tễ chẳng buồn để ý xung quanh nữa, vì ngay trước mắt anh, người nào đó vừa lạnh lùng quẹt thẻ, chi ra số tiền tương đương ba đêm phòng tổng thống chỉ để mua… một cặp khuy măng-sét.

Khoảng cách giàu nghèo trong những lúc thế này thật sự làm người ta đau lòng. Uông Tễ trừng mắt nhìn Phù Tô với cảm giác ghen tị đến cay đắng, nhưng rồi lại phải thừa nhận: Được rồi, nhìn thế nào hắn vẫn đẹp trai. Đẹp đến mức khiến người ta chẳng thể ghét nổi.

Thật ra, không phải chỉ vì sự ghen tị ấy. Trong lòng Uông Tễ, anh nghĩ phần nào mình cũng có lỗi khi kéo Phù Tô tới dự đám cưới của em họ. Đặc biệt là Phù Tô đã chuẩn bị một món quà cưới giá trị không nhỏ cho đôi tân nhân.

Nhìn thẳng vào mắt Phù Tô, Uông Tễ cất giọng đầy hối hận: “Biết để phối với cái áo sơ mi đó phải tốn tận sáu mươi nghìn, tôi thật sự hối hận vì đã gọi anh đi.”

Phù Tô bình thản đáp: “Cứ nói như thể khuy măng-sét là đồ dùng một lần không bằng. Thiếu thì vẫn phải mua, không dự đám cưới này thì sau cũng phải mua thôi.”

Hắn nghiêng người, vẻ mặt nghiêm túc hơn: “Chỉ vì chuyện này mà lạnh nhạt với tôi?”

Uông Tễ im lặng, Phù Tô lại tiếp tục: “Cậu thật giỏi giận dỗi. Tôi thì chẳng giỏi gì, tự trách mãi trong lòng, sợ đến mức phải mang roi mây đến nhận lỗi.”

Hắn giơ nhánh liễu trên tay lên. Lá liễu còn ướt nước, khẽ chạm mặt hồ, tạo nên những gợn sóng nhỏ.

“Anh đúng là biết phóng đại mọi thứ,” Uông Tễ lắc đầu, ánh mắt dõi theo những gợn sóng kia. “Tôi không thèm để ý anh? Thế trưa nay anh ngồi ăn cơm rồi nói chuyện một mình với không khí à?”

Nói xong, anh cúi xuống nhìn cặp khuy măng-sét trên cổ tay Phù Tô. Khuy hình vuông, màu đen thuần đính một viên kim cương, nằm trên cổ tay xương xương của hắn, đúng là rất đẹp. Nhưng cũng đẹp đến mức khiến người ta đau lòng vì cái giá của nó.

Anh bĩu môi bất mãn: “Làm tài chính mà ai cũng giàu vậy à?”

Có vài vị khách khác bước lên cầu. Cầu hẹp, không đủ chỗ để tránh. Phù Tô khẽ đặt tay lên eo Uông Tễ, dẫn anh bước sang một bên.

“Cậu cũng từng thuộc nhóm lương cao trước khi nghỉ việc cơ mà. Tiền tiêu hết rồi hay lương trong nước thấp vậy?”

Uông Tễ bị đẩy đi vài bước, lớp áo sơ mi mỏng manh không ngăn nổi hơi ấm từ bàn tay Phù Tô truyền qua. Nghe câu hỏi, anh bật cười: “Tiền để trên người là nóng tay sao mà phải tiêu hết? Tôi không được phép tiết kiệm à?”

Tiền không nóng tay, nhưng bàn tay của Phù Tô lại nóng như muốn thiêu đốt eo anh.

Đang lúc hôn lễ diễn ra, Phù Tô nhìn anh hỏi: “Cậu tiết kiệm để làm gì? Để lấy vợ à?”

Có vài vị khách đi qua, hắn thu tay lại.

Eo vẫn còn chút dư âm của hơi ấm từ lòng bàn tay kia. Uông Tễ định gật đầu đồng ý, nhưng không hiểu vì sao, lời vừa ra đến miệng lại đổi ý.

Anh thành thật nói: “Nếu không biết tiết kiệm, bây giờ tôi làm gì có cơ hội đứng đây đấu khẩu với anh, chắc đang ôm máy tính ngồi đâu đó làm thêm giờ rồi.”

Tiền xây nhà mới cho gia đình, tiền viện phí tìm bác sĩ giỏi nhất để chữa trị cho ông nội… Trong thời đại chủ nghĩa hưởng thụ lên ngôi, thói quen tiêu xài của Uông Tễ vẫn luôn khá tiết kiệm. Nếu không biết dành dụm, anh làm gì có dũng khí để nghỉ việc, chắc giờ vẫn đang làm culi cho mấy công ty lớn.

Trái lại, Phù Tô… Uông Tễ ngẩng đầu lên, cố tình dò xét: “Sáu vạn mà anh tiêu cứ như sáu mươi đồng. Làm sao mà anh thoải mái thế? Tiền hết thì lại về ngân hàng đầu tư, cày vài năm nữa rồi thăng chức thành giám đốc điều hành à?”

Bề ngoài thì Uông Tễ tỏ ra bình thản, nhưng trong lòng anh đã bắt đầu lo lắng. Trong nước còn dễ gặp, chứ nếu hắn sang châu Âu hay Mỹ, đến cả visa du lịch, anh cũng chẳng dám chắc mình xin được.

Lại có một đôi tình nhân trẻ đi lên cầu chụp ảnh. Uông Tễ quay người bước xuống cầu, vừa để nhường chỗ vừa tìm đường lui cho bản thân, vì câu hỏi vừa rồi của anh hơi thiếu cân nhắc.

Phù Tô cũng định bước theo, nhưng cô gái đi qua nhìn thấy nhánh liễu trong tay hắn thì mắt sáng lên, xin mượn để chụp ảnh.

Phù Tô nhìn bóng lưng Uông Tễ, hỏi: “Cậu còn cần không?”

Uông Tễ quay đầu lại, dưới ánh nhìn tò mò của đôi tình nhân trẻ, có phần lúng túng: “Cần cái gì mà cần, đưa cho người ta đi.”

Nhánh liễu được trao cho cô gái, Phù Tô cũng bước xuống cầu.

Đầu bên kia cầu là một khu rừng nhỏ, lá cây vẫn còn xanh vì chưa sang cuối thu. Cây cối um tùm, hơi ẩm từ hồ gần đó khiến không khí trở nên lành lạnh.

Giữa hai người có khoảng cách chừng hai, ba bước chân. Phù Tô đi thong thả phía sau, với vẻ nhàn nhã, lên tiếng: “Tôi còn chưa nghĩ đến chuyện thăng chức giám đốc, cậu đã nghĩ thay tôi rồi.”

Uông Tễ im lặng.

Phù Tô nói tiếp: “Tiền tiêu hết rồi quay lại à? Vậy tôi đoán cả đời này chắc chẳng còn cơ hội quay lại làm ‘công nhân tài chính’ nữa đâu.”

Sao người này lại giàu đến thế cơ chứ?

Uông Tễ quay đầu lại, ánh mắt không giấu được ý cười: “Anh cứ nói khoác đi.”

Tim anh bỗng nhẹ bẫng, như lông vịt chạm nước, cuốn đi hết mọi gánh nặng trong lòng.

Đi hơi xa, đến lúc lễ cưới bắt đầu, cả hai suýt nữa thì trễ giờ. Họ vội vã ngồi vào hàng ghế đầu. Uông Tễ còn chưa kịp thở đều thì máy quay đã lia tới ngay chỗ bọn họ.

Vì muốn mọi khoảnh khắc đều được ghi lại hoàn hảo, Uông Duệ đã mời hẳn một đội quay phim chụp ảnh chuyên nghiệp. Trong đó có một nhiếp ảnh gia chụp bằng máy film khá nổi tiếng tập trung chụp cô dâu, còn các nhiếp ảnh gia khác thì ghi lại hình ảnh của khách mời.

Ống kính dừng ở họ khá lâu trước khi chuyển đi. Uông Tễ khẽ nói với Phù Tô: “Tôi còn đang thở phì phò đây. Lên hình mà xấu, Uông Duệ chắc chắn sẽ trách tôi mất.”

Phù Tô nhìn anh một lúc, rồi nói: “Rất đẹp mà.

Gió mát hiu hiu, nắng nhẹ nhàng. Lễ cưới diễn ra đơn giản với phần tuyên thệ tập thể và nghi thức trao nhẫn của cô dâu chú rể.

Dù đã bước vào hôn nhân hay chưa, từng nếm trải vị ngọt hay vị đắng của nó, thì trong khoảnh khắc nghe lời thề nguyện, ai cũng dễ dàng bị cảm động bởi tình yêu của người khác ngay lúc ấy.

Trong hàng ghế khách mời, đã có người lấy khăn giấy lau nước mắt. Người phụ nữ ngồi ngay sau lưng Uông Tễ và Phù Tô thậm chí còn khóc nấc lên, quay sang bạn mình xúc động nói: “Cảm động quá! Cô dâu đẹp quá! Nhẫn kim cương còn to nữa! Làm mình cũng muốn kết hôn ngay lập tức! Huhu…”

Uông Tễ đứng nhìn Uông Duệ khoác váy cưới trắng, mắt cũng hơi đỏ. Nhưng nghe thấy câu cảm thán của vị khách nữ sau lưng, anh không nhịn được bật cười hai tiếng.

Phù Tô nghiêng đầu nhìn anh, hai người đối diện ánh mắt nhau. Hắn nói: “Quá xúc động, không được bắt chước.”

Uông Tễ lấy tay chạm khóe mắt hơi đỏ, đáp lại: “Nói tôi à? Lo cho bản thân anh trước đi.”

Khi màn tung hoa khép lại, nghi thức cũng chính thức kết thúc. Mọi người tự do tham gia các hoạt động khác nhau, đợi đến buổi tiệc tối.

Dưới bầu trời xanh trong, bãi cỏ được trang trí đầy hoa tươi, không ngừng có khách mời tiến lên chụp ảnh cùng cô dâu chú rể.

Uông Duệ vẫy tay gọi anh: “Anh họ!”

Uông Tễ thuận tay kéo Phù Tô đi cùng: “Đi chứ?”

Phù Tô không từ chối, bước theo anh lên phía trước.

Một người cao ráo, một người thanh thoát. Chồng của Uông Duệ thì thầm vào tai cô: “Hai người anh họ của em đẹp trai quá. Chụp ảnh cùng thế này anh áp lực ghê. Sao mà nổi bật được đây? Sớm biết anh nên trang điểm đậm hơn, nhét thêm miếng độn giày vào!”

Uông Duệ không chút nể nang, phũ phàng đáp: “Đây là vấn đề trang điểm với giày độn à? Muốn nổi bật chắc anh phải đi học lại từ đầu rồi.”

Nhưng dù sao cũng là ngày cưới, mà chồng cô ngũ quan cũng rất ưa nhìn. Giây tiếp theo, cô buông lời an ủi: “Không sao, trong mắt em anh vẫn đẹp trai nhất. Chút nữa em nhờ thợ ảnh chỉnh sửa, chỉ P mỗi anh thôi.”

Sau màn chụp ảnh, Uông Tễ và Uông Duệ ôm nhau một cái trước khi anh định rời đi. Nhưng ngay lúc ấy, có người gọi lại. Đúng hơn là gọi Phù Tô.

Người vừa lên tiếng là nhiếp ảnh gia đứng sau máy quay ban nãy. Anh ta thử dò hỏi: “…Phù tiên sinh?”

Cả hai quay lại. Nhiếp ảnh gia là một người trẻ tuổi, đứng nguyên chỗ, chìa tay về phía Phù Tô: “Có lẽ anh không nhớ rõ tôi. Vài năm trước chúng ta từng tham gia cùng một triển lãm. Tôi vẫn luôn theo dõi tài khoản của anh.”

Hóa ra anh ta cũng đam mê chụp phong cảnh, chỉ vì lý do thực tế mà cuối cùng chọn nghề chụp ảnh cưới.

Phù Tô chìa tay ra bắt.

Ánh mắt nhiếp ảnh gia dừng lại trên người Uông Tễ.

Uông Tễ mỉm cười lịch sự. Nhưng người kia lại nhìn anh từ đầu đến chân, ánh mắt không phải dừng ở gương mặt mà quét qua dáng vóc của anh, rồi đột ngột vỡ lẽ: “Ồ, hóa ra là—”

Phù Tô nhanh chóng chen vào, giới thiệu: “Uông Tễ, hàng xóm của tôi.”
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 31: Tiệc tối



Uông Duệ và chồng phải tranh thủ thay trang phục và chụp ảnh trước khi tiệc tối bắt đầu, nên nhiếp ảnh gia và Phù Tô chỉ kịp trao đổi vài câu trước khi quay lại công việc.

Trên bãi cỏ giờ chỉ còn lại Uông Tễ và Phù Tô. Hai người nhìn nhau một lúc, trong lòng Uông Tễ đầy ắp câu hỏi: Triển lãm gì nhỉ? Mình cứ tưởng anh ta chỉ chụp chơi, hóa ra không đơn giản như vậy. Cái “hóa ra là” kia là ý gì? Sao không để người ta nói hết câu chứ?

Nhưng hỏi quá nhiều thì lại như xâm phạm đời tư người khác. Uông Tễ kiềm chế, chỉ hỏi một câu: “Tài khoản gì thế? Anh ấy theo dõi, tôi cũng muốn theo dõi thử.”

Phù Tô hiếm khi có vẻ lảng tránh. Xung quanh đông người, hắn cất bước đi về phía trước.

Giờ thì Uông Tễ nhàn nhã bước theo sau hắn, vừa đi vừa đoán: “Weibo? Douyin?”

Nhìn xuống chiếc khuy măng sét trên cổ tay Phù Tô, anh đùa: “Đừng nói với tôi là anh khoe đồ hiệu trên Tiểu hồng thư đấy nhé.”

Phù Tô lắc đầu, bất đắc dĩ cười.

“Tài khoản gì thế?”

Nhớ lại câu nói đùa đêm hè hôm đó, hắn trả lời mà không ngoảnh lại: “Tài khoản đăng ảnh khỏa thân của tôi.”

Uông Tễ đi sau sửng sốt vài giây, rồi phá lên cười: “Tôi biết ngay mà. Tôi nói rồi, sao anh trẻ thế mà đã tự do tài chính, hóa ra còn làm thêm nghề tay trái.”

Phù Tô bỗng dưng dừng chân, xoay người lại. Hai người gần như suýt va vào nhau.

Ánh mắt hắn thoáng qua chút bất lực, nhưng lại pha lẫn ý trêu đùa.

“Gì thế?” Uông Tễ nhìn hắn, linh cảm điều gì đó không hay.

Quả nhiên, Phù Tô nhướng mày: “Chỉ nói riêng chuyện tối qua thôi, cậu biết tôi bình thường báo giá bao nhiêu không?”

Buổi tiệc tối diễn ra tại sảnh tiệc của khách sạn. Vì nghi thức đã hoàn tất vào buổi chiều, bữa tối chủ yếu là một bữa ăn thân mật để đôi tân lang tân nương kính rượu các vị khách.

Sau khi bữa tối kết thúc, nhiều bậc trưởng bối về phòng nghỉ sớm. Còn lại trong sảnh tiệc là những người trẻ tuổi, và giờ mới là phần cao trào của buổi tiệc.

Uông Duệ là một blogger nổi tiếng, còn chồng cô sở hữu một studio dựng phim hợp tác với nhiều người trong giới sáng tạo nội dung. Bởi vậy, khách mời hôm nay đều là các influencer có tiếng trên mạng, một “tổ hợp blogger” thực thụ.

Sau màn khiêu vũ mở đầu của cô dâu chú rể dưới ánh sáng lung linh và âm nhạc du dương, không khí trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Nam thanh nữ tú ăn mặc lộng lẫy, người khiêu vũ, kẻ giao lưu, tiếng cười nói rộn ràng. Rượu vang và champagne trên quầy bar phục vụ liên tục nhưng vẫn không kịp hết nhu cầu.

Uông Tễ bị Uông Duệ kéo vào sàn nhảy, cùng cô khiêu vũ một đoạn. Dưới ánh đèn rực rỡ, cô mặc một chiếc váy tua rua lấp lánh hơn cả đèn chùm trên trần nhà. Trong tiếng nhạc ồn ào, cô ghé sát tai anh nói: “Anh, đây là cơ hội tốt, sao không tranh thủ làm quen với mọi người đi!”

Uông Tễ nhấc tay, để cô xoay một vòng. Tua rua trên váy quét qua chiếc quần âu thẳng tắp của anh. Anh cúi người xuống, cười đáp: “Giới của em thời thượng quá. Anh nhìn thôi đã thấy ngợp rồi, chắc không hòa nhập nổi đâu.”

Uông Duệ kéo tay anh, váy xòe bay lên khi cô kiễng chân: “Vậy để anh Phù Tô kết bạn. Chiều nay hai người vừa xuất hiện, bao nhiêu chị em của em đã đến hỏi rồi. Mức độ chú ý còn vượt cả cô dâu như em đấy!”

Trong lúc cô nói, những lọn tóc xoăn lướt qua vai Uông Tễ. Anh hơi sững lại, ánh mắt bất giác tìm kiếm bóng dáng của Phù Tô giữa đám đông.

Người nổi bật thì ở đâu cũng thu hút ánh nhìn. Dưới ánh sáng lấp lánh, Phù Tô cầm ly thủy tinh đứng tựa vào quầy bar một góc, nơi có một bình hoa mạ vàng với những cành mẫu đơn cắm nghiêng. Ánh đèn hắt lên nửa gương mặt hắn, một cảnh tượng đầy chất thơ. Nhưng con người ấy lại tách biệt với không gian, mang theo vẻ lạnh lùng khó tả.

Mày Uông Tễ khẽ nhíu khi nhìn thấy một người phụ nữ đang bước tới, tay vươn về phía cành hoa mẫu đơn.

Âm nhạc quá ồn ào, khi Uông Tễ bị Uông Duệ kéo đi, Phù Tô đã lùi ra tìm một góc yên tĩnh. Tại quầy bar, ngoài đồ uống có cồn, chỉ có nước chanh, nhưng để giải rượu, họ đã cho thêm nhiều mật ong, khiến thức uống ngọt lịm và dính cổ họng khó chịu.

Phù Tô nói vài câu với người phục vụ bên cạnh. Cậu thanh niên dù thoáng ngạc nhiên nhưng vẫn gật đầu: “Vâng, xin anh chờ một chút.”

Nhận ly thủy tinh từ tay người phục vụ, Phù Tô định tìm Uông Tễ giữa đám đông thì bất ngờ ly của hắn bị chạm nhẹ.

Hắn ngoảnh lại, một người phụ nữ tóc uốn sóng lớn đứng trước mặt, mỉm cười: “Chào anh, uống cùng tôi một ly nhé?”

Ly đã chạm, Phù Tô cũng nhấc ly, lịch sự nhấp một ngụm.

Người phụ nữ lại hỏi: “Anh làm gì vậy? Có sống ở Hàng Châu không?”

“Không,” hắn đáp, “tôi sống trên núi, làm nông.”

Người phụ nữ khựng lại, nhưng nhìn vẻ mặt nghiêm túc của hắn, cô suy nghĩ một lúc rồi bật cười: “À, tôi hiểu rồi, dạo này phong cách sống ở núi cũng đang hot mà.”

Cô nói hiểu, nhưng thực ra Phù Tô chẳng hiểu gì cả.

Cô tiếp tục hỏi: “Sao rồi? Ngành của anh dễ kiếm tiền không? Nhìn điều kiện của anh thế này thì làm gì cũng nổi được hết. Tôi cũng có kha khá fan đấy, chúng ta kết bạn nhé? Sau này có thể trao đổi nhiều hơn.”

Vừa nói, cô vừa đưa bàn tay được sơn móng óng ánh nạm đầy đá lên màn hình điện thoại: “Thêm WeChat nhé?”

Phù Tô không nói, cũng không rút điện thoại ra, nhưng ánh mắt vẫn lịch sự nhìn cô.

Người phụ nữ sững lại, đối diện với ánh mắt đó vài giây rồi thở dài: “Tôi đoán giờ anh đang nghĩ làm cách nào từ chối mà không khiến tôi khó xử, đúng không?”

Phù Tô khẽ cười, nâng ly cụng nhẹ với cô.

“Được thôi,” cô lắc đầu cười, “biết ngay mà, đàn ông đẹp trai cấp này không dễ chinh phục.”

Ly cụng xong, cô ngửa cổ uống một ngụm rượu. Ánh mắt lướt qua ly của hắn, cô tò mò hỏi: “Tôi không rành lắm về rượu, cái này… nhìn màu giống rượu vang, mà bọt lại như champagne. Đây là cocktail đặc biệt à?”

Quầy bar chỉ bày champagne và rượu vang, không thấy phục vụ cocktail.

Phù Tô vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, khẽ lắc ly trong tay. Thực ra, hắn không thể uống rượu vì lý do sức khỏe, thứ trong ly chỉ là cola không đường.

Uông Tễ vừa kết thúc một điệu nhảy với Uông Duệ, thoáng thấy Phù Tô đang trò chuyện với ai đó. Anh chưa vội bước qua, cố len qua đám đông đang khiêu vũ để tìm đường. Đúng lúc đó, một chiếc ly trong tầm mắt anh lảo đảo sắp đổ. Anh nhanh chóng giữ lại và ngay lập tức nhận ra một người thanh niên say khướt đang ngả vào lòng mình.

Uông Duệ nửa lời cũng chưa kịp nói rõ, rằng hội bạn cô không chỉ toàn “chị em”.

Ánh đèn mờ ảo, tiếng nhạc sôi động. Người thanh niên trong lòng anh đang nhảy tưng bừng, mùi rượu phảng phất. Đám đông chen lấn, Uông Tễ đành đỡ đối phương lùi ra ngoài, dìu anh ta ngồi xuống một chiếc ghế gần đó.

“Cậu ổn chứ?” Anh hỏi, thấy người kia có vẻ còn trẻ, liền nói thêm: “Cậu đi với bạn à? Đừng uống nữa, nhờ bạn đưa cậu về đi.”

Trong lòng Uông Tễ không khỏi lo lắng. Tiệc vui là một chuyện, nhưng nếu có ai uống quá chén rồi xảy ra sự cố thì không ổn chút nào. Anh định gọi phục vụ đến trông chừng thanh niên này để mình đi tìm Uông Duệ dặn dò.

Không ngờ người kia lại túm lấy tay áo anh, miệng lẩm bẩm: “Sao phải về? Tôi đã đặt phòng trên tầng rồi.”

“Vậy để tôi nhờ phục vụ đưa cậu về phòng.”

Người thanh niên vẫn nắm chặt tay anh, ngẩng đầu lên nhìn. Ánh mắt say xỉn bỗng chốc sáng bừng: “Wow, anh đẹp trai đấy!”

“…” Uông Tễ thoáng chững lại trước câu cảm thán bất ngờ, nhưng vẫn đáp: “Cảm ơn.”

“Nhưng mà nhìn anh có vẻ cũng không thẳng nhỉ?”

Câu nói khiến Uông Tễ cứng người.

Người thanh niên vốn là thử thăm dò, nhưng giờ đây lại chắc chắn: “Thật sự không thẳng!”

“Không phải…” Uông Tễ không biết nên trả lời thế nào. Rõ ràng anh đang đứng, còn đối phương ngồi, nhưng ánh mắt kia như áp bức anh. Anh không lạ gì chuyện đồng tính, cũng từng giao tiếp với những người như vậy. Nhưng nghe nói giữa họ có “gaydar” nhận diện.

Anh không dám chắc “ra-đa” của người này chuẩn không, chỉ biết bối rối nghĩ: Chẳng lẽ mình là cong? Nhưng từ trước đến giờ mình vẫn luôn thẳng cơ mà… phải không?

Câu hỏi bất ngờ của người thanh niên khiến Uông Tễ sững sờ: “Anh là trên hay dưới? Để tôi xem chúng ta có hợp nhau không.”

Thật sự quá đáng sợ.

Uông Tễ vừa sốc vừa bất lực, cổ tay bị kéo đến tê rần. Anh cố gắng giữ bình tĩnh, khuyên nhủ: “Cậu say rồi, thế này thật sự không an toàn. Để phục vụ đưa cậu về phòng nghỉ đi.”

Anh hy vọng người trẻ tuổi biết tự bảo vệ bản thân. Nhưng đối phương lại ngoan cố hỏi tiếp: “Chẳng lẽ là 0.5?”

Uông Tễ, người đã sống 33 năm cuộc đời thẳng tắp, hoàn toàn không hiểu nổi thuật ngữ chuyên môn của cộng đồng gay. May thay, bạn đi cùng người thanh niên cuối cùng cũng để ý đến tình hình. Đó là một cô gái, nhìn qua còn tỉnh táo, vội vàng cảm ơn Uông Tễ rồi kéo cậu thanh niên lại, giữ cằm cậu và ép cậu uống một cốc nước chanh giải rượu.

Uông Tễ dặn dò họ vài câu về việc giữ an toàn rồi định rời đi, nhưng áo vẫn bị túm chặt. Người say không biết lý trí là gì, tiếp tục cứng đầu đòi anh đưa ra câu trả lời.

Trong tình huống gấp gáp, coi như dỗ trẻ con, Uông Tễ cúi xuống, ghé sát tai cậu ta, thốt ra sự thật: “Xin lỗi, trên hay dưới tôi đều không được.”

Khi đối phương mở to mắt, biểu cảm như muốn hét lên “Ôi trời, hóa ra anh bất lực à?!”, Uông Tễ nhanh chóng bước đi. Tấm lưng cao gầy của anh như đè nặng ngàn cân, hai má nóng rực như bị lửa thiêu.

Ra khỏi đại sảnh, cánh cửa dày đóng lại, ngăn cách hoàn toàn sự ồn ào bên trong. Uông Tễ dựa vào hành lang, thở phào nhẹ nhõm.

Rẽ phải, anh đi về phía nhà vệ sinh, đầu óc rối bời. Đứng bên bồn rửa tay, anh xả nước, thấm ướt tay rồi vốc nước lên mặt.

Nhìn những giọt nước trong suốt chảy trên mu bàn tay, anh chợt nhận ra: có những chuyện không phải cứ không nghĩ đến là sẽ biến mất, không phải cứ trì hoãn là có thể trốn tránh. Những gì cần đối mặt, sớm muộn cũng phải đối mặt.

Ai cũng là nhà lý luận trong đầu mình, nhưng giữa lý thuyết và thực tế là cả một khoảng cách xa xôi. Khoảng cách đó cần rất nhiều dũng khí, cần quyết tâm lớn lao, cần vượt qua nỗi sợ hãi về những điều chưa biết, và cần cả sự chấp nhận khả năng thất bại.

Ngừng dòng suy nghĩ, anh tắt nước, tay khẽ xòe dưới máy sấy.

Sắc đỏ trên mặt đã tan, anh quay người chuẩn bị rời đi thì cánh cửa nhà vệ sinh bị đẩy ra, một người bước vào.

Anh ngẩng đầu, dừng bước lại. Người đến chính là nhiếp ảnh gia đã gọi Phù Tô vào chiều nay.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 32: Đậu nành hấp đậu hũ thối



Khi trở lại sảnh lớn, Phù Tô vẫn tựa vào góc phòng. Người phụ nữ bên cạnh hắn đã rời đi. Uông Tễ tiến lại gần, hỏi: “Về phòng trước ha?”

Phù Tô nhấp ngụm cuối trong ly Coca, hỏi lại: “Vậy có ổn không?”

“Không sao đâu,” Uông Tễ nói, “Giờ cũng tám giờ rồi, chờ ở đây đến lúc xong chắc phải thức trắng.”

Mấy người lớn đã rời đi từ lâu, đừng nói đến bà cô và mấy chị em họ của anh, ngay cả cậu em họ cũng biến mất tăm. Nếu không phải bị Uông Duệ kéo nhảy một điệu, chắc một tiếng trước anh đã lôi Phù Tô về phòng rồi. Anh sợ ban nhạc chơi ồn quá, làm tai của Phù Tô khó chịu.

Hai người quay lại phòng trên lầu. Lúc nãy trong sảnh đèn quá sáng, cái gì cũng khó nhìn rõ. Giờ thì, ánh mắt của Phù Tô dừng lại ở vết bẩn mờ mờ trên cổ áo sơ mi của Uông Tễ: “Cậu đi tắm trước đi?”

Uông Tễ cúi xuống nhìn theo ánh mắt hắn, nhận ra một vết bẩn nhỏ giống như phấn trang điểm. Với vị trí này, chắc là từ chàng thanh niên say rượu lúc nãy cứ níu kéo anh không buông.

Anh cười nhẹ: “Chắc lúc nhảy với Uông Duệ thì bị dính thôi.”

Thật ra không có gì phải giấu, nhưng gần đây anh rất nhạy cảm. Nghĩ đến chàng trai say rượu đó, anh lại thấy không thoải mái. Chỉ vài câu đối thoại ngắn ngủi cũng đủ khiến anh bứt rứt không yên.

Cầm bộ đồ ngủ và khăn tắm, Uông Tễ bước vào phòng tắm. Dưới dòng nước ấm áp, anh đứng xả mãi, cơ thể dần dần nóng lên, đến cả trái tim cũng như bị nung đến mức tê dại.

Trong làn hơi nước mờ ảo, lần đầu tiên anh dám đối diện với cảm xúc của chính mình. Nhưng anh không đủ can đảm để nghĩ đến người kia. Trước giờ anh luôn né tránh chuyện tình cảm, giờ đây lại bắt đầu cẩn trọng cân nhắc. Trong mối quan hệ này, liệu những gì anh cảm nhận được có phải chỉ là ngộ nhận của bản thân?

Cánh cửa phòng tắm vang lên hai tiếng gõ nhẹ. Uông Tễ tắt vòi sen, quay đầu lại. Nước còn đang nhỏ giọt trên cơ thể, anh lên tiếng: “Sao vậy?”

Phù Tô nghĩ Uông Tễ tối nay chỉ nhấp nửa ly rượu vang, nhưng tiếng nước trong phòng tắm quá lâu khiến hắn lo lắng.

“Cậu ở trong đó lâu quá, tôi sợ cậu bị ngất rồi.”

Nghe thấy tiếng đáp, hắn mới yên tâm, quay lại ngồi trên sofa.

Một lát sau, cửa phòng tắm mở ra. Uông Tễ bước ra trong bộ đồ ngủ. Vì tắm quá lâu dưới nước nóng, da anh đỏ lên.

Anh ngồi xuống mép giường lau tóc. Phù Tô ngồi trên sofa, quay lưng lại với anh. Uông Tễ hỏi: “Ở chơi hai ngày nữa rồi về hả?”

Phù Tô ngoảnh lại nhìn anh: “Hả? Chứ không phải đi công viên à?”

“Còn đi công viên thiệt hả,” Uông Tễ bật cười, “Đã đến đây rồi thì ít ra cũng đi ngắm cảnh. Chẳng phải hôm tới tài xế nói đi Tây Hồ ngắm cảnh, rồi ghé chùa Linh Ẩn thắp nhang sao?”

Còn chuyện đi mua sắm ở Yintai thì khỏi nhắc tới, bọn họ đã tiêu sớm ở chỗ khác rồi, anh tự động bỏ qua khoản này.

“Được thôi,” Phù Tô hoàn toàn nghe theo sắp xếp, đứng dậy cầm lấy quần áo chuẩn bị thay, “Tạm tính vậy đi. Giờ tôi đi tắm trước nha?”

“Đi đi.”

Phù Tô bước vào phòng tắm. Uông Tễ nhìn cánh cửa đóng chặt một lát, rồi đặt khăn lau tóc sang bên, ngả lưng lên đầu giường, cầm điện thoại lên.

Tim anh đập nhanh hơn.

Hơn một tiếng trước.

“Chuyện đó…” Anh siết chặt ngón tay, cẩn thận lựa lời với người thợ chụp ảnh trước mặt, “Chiều nay ở bãi cỏ, anh nói tài khoản gì ấy nhỉ?”

Là một trang web nước ngoài. Uông Tễ không quen sử dụng VPN nên phải mò mẫm để truy cập, lập tài khoản mới. Trong lúc đó, anh ngẩng đầu nhìn cánh cửa phòng tắm. Tiếng nước bên trong vang đều đều, giống như dòng nước đang rơi thẳng xuống lòng anh.

Anh gần như nôn nóng muốn làm rõ, “hóa ra” đó là gì? Là cái gì?

“Chính là tài khoản của Phù tiên sinh trên INS đó. Hả… anh không biết sao?”

Đúng là anh không biết.

Nhiếp ảnh gia hiển nhiên cũng bất ngờ: “Tôi tưởng… anh với Phù tiên sinh là bạn bè.”

Uông Tễ không hiểu ẩn ý trong câu nói đó, đáp qua loa: “Bạn thì có, nhưng chắc là không thân lắm.”

Đăng nhập thành công, anh nhập theo hướng dẫn của nhiếp ảnh gia, tìm kiếm tài khoản của Phù Tô — FuSu. Khi tài khoản hiện ra, anh nghĩ đây chỉ là một trang cá nhân ghi lại cuộc sống thường nhật của Phù Tô. Nhưng con số người theo dõi hiển thị trên màn hình lại vượt xa dự đoán của anh.

Ánh mắt Uông Tễ lướt xuống, xem những bài đăng. Bài mới nhất là một khung cảnh nhộn nhịp tại ga tàu cao tốc. Kem trong ảnh hơi tan chảy, nhưng cả đám đông lẫn cây kem đều được làm mờ đi, còn điểm lấy nét lại là một góc mặt nghiêng trắng trẻo nằm ở góc dưới bên phải khung hình.

Ngoài anh ra thì còn có thể là ai nữa?

Uông Tễ nhìn chằm chằm bức ảnh một lúc, không xem bình luận phía dưới, chỉ dùng ngón tay vuốt màn hình xuống để xem bài đăng tiếp theo.

Bài thứ hai chụp một vườn hoa Tử La. Thời điểm đó là cuối thu, hoa đang vào mùa nở rộ, những bông hoa tím kết thành từng mảng lớn, nhìn xa xa trông như mây mù đang dâng lên trên thảm cỏ. Ở giữa “đám mây” đó, một bóng dáng quay lưng về phía máy ảnh, chính là anh.

Kế tiếp là ảnh chụp hoàng hôn trên ngọn đồi sau nhà. Sau bữa tối, họ cùng nhau tản bộ lên núi. Đúng lúc mặt trời lặn, ánh chiều tà đỏ rực phủ lên núi non, cây cối, con đường nhỏ, và cả đôi vai anh trong khung hình.

Có những bức anh từng thấy qua, từng cùng Phù Tô ngồi ở hiên nhà chọn ra và in lên giấy. Nhưng cũng có bức chưa từng được nhìn thấy.

Ví dụ như bức ảnh chụp trong một đêm hè nào đó, khi Phù Tô bị bệnh. Vì người chụp tay run, tấm hình bị mất nét, ánh sáng mờ ảo xoay về phía giường. Trong ảnh, anh đang ngủ thiếp bên cạnh, tay còn cầm chiếc khăn ướt dùng để hạ sốt. Tấm lưng gầy guộc nằm im lặng dưới ánh đèn vàng nhạt.

Cảm giác như quay lại đêm hè năm ấy, khi Phù Tô đưa những tấm hình đã được Uông Dịch Dương rửa ra cho anh xem.

Nhưng lúc này, cảm giác khi nhìn những tấm ảnh trên màn hình hoàn toàn khác với lúc lật từng tấm ảnh ngày trước. Cũng như vậy, không có tấm nào chụp chính diện khuôn mặt anh. Có tấm là bóng lưng, có tấm bị mái tóc hay ánh nắng che khuất.

Nhưng những tấm ảnh này không còn là bí mật giữa hai người họ nữa. Phù Tô đã đăng chúng lên tài khoản cá nhân, mỗi bức đều đơn giản ghi lại cuộc sống thường nhật của hắn, nhưng lại để lại bóng dáng anh trong đó.

Hành động này khiến Uông Tễ không thể không nghĩ nhiều hơn.

Tim anh đập dồn dập, lòng rối như tơ vò. Từng dòng suy nghĩ chồng chéo trong đầu, tìm không ra lối thoát.

Anh bất ngờ, sự bất ngờ lẫn lộn với một niềm vui mơ hồ khi những nghi ngờ trong lòng được chứng thực. Nhưng sau niềm vui là cảm giác hoang mang, xen lẫn một chút e ngại không tên.

Anh không còn sợ hãi tình cảm của chính mình, cũng đủ can đảm để không nghĩ rằng tất cả chỉ là những ngộ nhận. Anh muốn thử đặt kỳ vọng, nhưng thói quen cẩn thận và dè dặt vẫn trói buộc anh. Tình cảm vốn không bao giờ đơn giản, nhất là thứ tình cảm không được thế gian chấp nhận, nó quá phức tạp, kéo theo quá nhiều thứ — không chỉ là chuyện của “tôi và anh”.

Trong đêm mà như vừa khám phá ra một bí mật này, anh nhìn về phía trước, lại sợ hãi tất cả sẽ hóa thành hư không.

Uông Tễ đưa tay đặt lên ngực, cảm nhận nhịp tim đang đập loạn, rồi tiếp tục lướt xuống.

Từ mùa thu đến mùa hạ, không một dòng chú thích, chỉ những bức ảnh ghi lại thiên nhiên luân chuyển: tầng mây đỏ rực cuối trời, miếng dưa hấu trên bàn đá, ánh bình minh sớm mai, giàn nho ướt đẫm trong cơn mưa…

Cho đến khi ngón tay anh khựng lại, hơi thở cũng trở nên nặng nề hơn.

Một bức ảnh anh không thể quen thuộc hơn — những dây leo chảy dài như thác nước, hoa hồng nở rộ khắp nơi. Ở giữa khung hình, người kia bị làm mờ khuôn mặt, chỉ lộ ra làn da trắng nhạt và chiếc áo thun mỏng manh.

Ánh mắt Uông Tễ trượt xuống khu vực bình luận. Dòng bình luận đứng đầu với lượt thích cao ngất lập tức đập vào mắt anh:

“Su, không ngờ cậu cũng biết chụp ảnh người.”

Dưới bình luận đó là câu trả lời ngắn gọn của Phù Tô: “It’s my first time.”

Ngay lúc ấy, tiếng cửa phòng tắm khẽ vang lên. Tay nắm cửa xoay tròn, Uông Tễ ngẩng đầu nhìn.

Phù Tô bước ra, tay đưa lên lau khô tóc ướt. Lưng hắn hướng về phía ánh sáng, bóng dáng đổ dài lên giường.

Ngón tay Uông Tễ thả lỏng, điện thoại rơi xuống lớp chăn. Tim anh như bốc cháy, không thể kiểm soát được nữa.



Họ ở lại Hàng Châu thêm hai ngày, đúng như lời bác tài xế từng khuyên.

Sáng sớm, họ đến Tây Hồ. Hôm ấy trời mưa nhẹ, nên khu vực tham quan không đông đúc.

Sương mờ bao phủ, Tây Hồ vào cuối tháng 9 mang một sắc xanh ẩm ướt. Mặt hồ phản chiếu bóng cây ven bờ, khiến người ta cảm giác như đang lạc bước trong một bức tranh xanh biếc.

Họ ngồi lên một chiếc thuyền nhỏ. Thuyền chèo tay lướt nhẹ trên mặt nước, những hạt mưa rơi lộp độp làm gợn sóng. Xa xa, những dãy núi mờ ảo như bức tranh thủy mặc, liễu xanh như khói. Trong màn sương giăng ngang hồ, ngọn Lôi Phong Tháp thấp thoáng hiện ra.

Khi thuyền đến đoạn hồ Rùa, người lái thuyền cười vui vẻ: “Tây Hồ ngày nắng không đẹp bằng ngày mưa. Mấy cậu tới đúng lúc lắm, chả phải đại thi nhân đã nói rồi sao? Nước biếc lung linh trời nắng đẹp. Núi mờ sương phủ cảnh mưa hay.”

Trời mưa, cả hai bị ướt gấu quần. Phù Tô đặt chân lên thanh ngang dưới bàn gỗ, rồi bảo Uông Tễ đặt chân lên cổ chân hắn để giữ ấm.

Trong tiếng mưa rả rích, hắn ghé lại hỏi Uông Tễ: “Sao tôi nghe mà không hiểu gì hết vậy?”

Lớn lên ở nước ngoài, hắn không cảm được ý vị trong văn hóa thơ cổ. Uông Tễ bật cười khẽ: “Xong rồi, coi bộ anh với Tô Đông Pha không cùng tần số đâu.”

Phù Tô biết Tô Đông Pha là ai. Trong khung cảnh sơn thủy hữu tình, mắt hắn thoáng lấp lánh: “Không sao, miễn tôi với cậu cùng tần số là được.”

Mưa nhẹ rơi xuống trán Uông Tễ. Anh đưa tay lau đi.

Nhắm mắt lại, trong buổi sáng mưa rơi nhè nhẹ này, họ cùng nhịp đập, cùng bước song hành. Cả hai đã cùng nhau nhìn ngắm hai bên đê Tô, qua những chiếc cầu đá uốn cong, và ngắm nhìn một mùa thu tuyệt đẹp của Tây Hồ.



Ngày tiếp theo, họ đến chùa Linh Ẩn, ngôi chùa ẩn mình trong núi. Cánh cổng cổ màu vàng sậm dẫn lối vào một không gian linh thiêng, nơi những cây cổ thụ cao vút tỏa bóng râm mát.

Thấy dòng người xếp hàng dài, Uông Tễ tò mò bước lại gần hỏi. Một cô trung niên quàng khăn lụa rực rỡ nhiệt tình giải thích: “Xếp hàng để lên cáp treo đó! Cáp treo lên đến đỉnh là chùa thần tài số một thiên hạ!”

Uông Tễ cảm ơn rồi rời đi, chẳng có nhu cầu cầu xin thần tài. Còn người bên cạnh anh — vốn dĩ chính là thần tài rồi, còn cầu xin gì nữa?

Ngày mưa, chùa cổ càng toát lên vẻ thanh tịnh. Khách thập phương dù đông đúc nhưng không làm mất đi sự trang nghiêm vốn có. Bước chân vào, mọi thứ vẫn uy nghi, tĩnh lặng.

Cùng dòng người, Uông Tễ thắp ba nén nhang. Anh ngước nhìn ngôi đại điện uy nghi phía trước, những pho tượng Phật từ bi, làn khói hương nghi ngút. Anh cúi mình ba lần, khấn cầu ông bà nội nơi bên kia thế giới được an yên, cầu cho người bên cạnh mình khỏe mạnh, bình an.

Anh để lại một điều ước cho riêng mình. Bất kể là thành hiện thực hay chỉ là ảo vọng, anh cũng muốn khắc ghi tất cả những ngày từ xuân đến thu này.

Sau khi thắp nhang, họ đến nhà chùa ăn bát mì chay. Trong mưa, cây cỏ núi rừng giãn ra, tươi tốt hơn. Từ mái hiên, những giọt nước mưa rơi xuống tí tách. Dòng nước chảy nhanh, xa xa trông như tấm rèm trong suốt.

Trên con đường đá, những phiến đá xanh sẫm đẫm nước mưa. Phía trước, một bà cụ bước trượt chân. Phù Tô nhanh nhẹn tiến lên đỡ lấy bà, giữ bà đứng vững.

Dưới những phiến đá là bậc thang dựng đứng. Bà cụ vỗ ngực, không ngừng cảm ơn Phù Tô, rồi đặt chuỗi tràng hạt trong tay mình lên lòng bàn tay hắn. Ánh mắt bà tràn đầy yêu thương, giọng nói hiền hậu: “A Di Đà Phật, hy vọng Bồ Tát phù hộ cháu mọi điều như ý.”

Chờ bà cụ đi xa, Phù Tô quay lại nhìn Uông Tễ. Qua màn mưa, hắn hỏi: “Cậu ước điều gì vậy?”

Uông Tễ mỉm cười: “Cái này nói ra là không linh đâu.”

Phù Tô không hỏi nữa, chỉ nói: “Bà cụ vừa rồi bảo hy vọng tôi như ý nguyện.”

Uông Tễ bước qua một phiến đá: “Tôi nghe rồi.”

Anh bước lên phía trước, nhưng Phù Tô dừng lại, rút ngắn khoảng cách giữa cả hai. Đột nhiên, hắn nắm lấy tay Uông Tễ, áp bàn tay lạnh của mình vào lòng bàn tay anh.

“Tôi chẳng có điều ước nào cả, vậy thì để cậu như ý đi.”

Uông Tễ hơi sững người: “Anh biết tôi ước gì đâu mà chúc tôi như ý.”

“Không biết mà, không phải không được nói ra sao?” Phù Tô rút tay về, cười nhẹ. “Dù là gì, tôi vẫn mong cậu đạt được.”



Buổi chiều, trời đổ mưa lớn, không tiện ra ngoài. Cả hai tìm một quán trà để ngồi lại.

Quán trà tĩnh lặng, cửa sổ hướng ra một đồi chè xanh ngắt. Ngồi trên chiếc ghế gỗ, nghe mưa gió mùa thu rì rào, phóng tầm mắt ngắm trọn cảnh núi đồi phủ đầy trà xanh.

Họ chọn trà Long Tĩnh của năm nay. Cô gái pha trà nhẹ giọng giới thiệu: “Nếu đến vào mùa thu hoạch trà, ngồi ở đây còn có thể nhìn thấy những người nông dân đang hái chè trên đồi.”

Uông Tễ bật cười: “Tụi tôi cũng là nông dân hái chè đây, nhưng đâu ngồi nhìn được, phải lên đồi mà hái.”

Phù Tô nghiêng đầu nhìn anh. Cả hai cùng nhớ lại ngày trước thanh minh, khi họ hái và sao trà. Ánh mắt giao nhau, đều ánh lên nét cười.

Nhấp ngụm trà thơm, nghe giọng hát bình thản của nghệ nhân đàn tỳ bà. Cũng như những vị khách khác trong quán, họ trò chuyện khe khẽ, tựa như quay về mái hiên nhà, nơi hai người từng cùng nhau trải qua những ngày nhàn nhã.



Sau cơn mưa, trời trong xanh trở lại. Tối đó, họ tìm đến một quán ăn được bác tài xế taxi giới thiệu — quán mà dân địa phương rất yêu thích.

Quán không lớn, nằm khuất trong một góc phố cổ. Hai người xuống taxi, đi bộ quanh co qua những con hẻm nhỏ suốt mười phút mới đến nơi.

Đúng giờ cơm tối, mấy bàn trong quán đã kín chỗ, có hai bàn khách mặc đồ ở nhà, mang dép lê, trông như những người dân sống gần đó.

Uông Tễ lấy số thứ tự ở quầy, tấm số trông rất mộc mạc, là cháu gái của bà chủ dùng bút màu viết lên miếng bìa cứng. Quán chật không đứng nổi, anh và Phù Tô đành ra ngoài chờ.

Ngôi nhà cổ mái ngói trắng, tường gạch xanh, trong con hẻm nhỏ có ông bà già đứng phơi quần áo trên dây. Bên cạnh là một cây long não lớn, dưới tán cây có một ván cờ tướng đang hồi căng thẳng.

Hai người đang đấu cờ, nhưng phía sau mỗi người là cả “đội quân sư” đứng bàn chiến thuật.

“Chiếu tướng!”

Tiếng reo hò vang lên hòa cùng không khí nhộn nhịp của buổi chiều tà rực rỡ ánh nắng vàng cam.

Bà chủ trong quán gọi đến số của họ, hai người quay vào trong. Thực đơn được dán kín cả một bức tường. Phục vụ là một cô gái trẻ, lén nhai kẹo cao su của cháu gái bà chủ. Nhìn hai vị khách ngoại tỉnh đang hoa mắt trước danh sách dài món ăn, cô nhiệt tình gợi ý: “Để em giới thiệu vài món ạ, đây là mấy món em thích nhất…”

Món ăn hoàn toàn không phải loại làm sẵn, tất cả đều do bà chủ và một đầu bếp khác xào nấu ngay trong bếp. Mỗi món khi mang ra bàn vẫn còn giữ nguyên hơi nóng bốc lên từ chảo.

Họ gọi tôm sông xào tỏi, cật xào lửa lớn, sườn xào chua ngọt, đậu hũ cua, rau xào theo mùa, và cuối cùng là đậu nành hấp đậu hũ thối.

Cô phục vụ giới thiệu rằng món đậu nành hấp đậu hũ thối này là món “must-try” của quán. Một năm bán chạy còn hơn cả… sữa trân châu nổi tiếng.

Phù Tô chưa biết nên không sợ, còn Uông Tễ thì chủ quan, nghĩ bụng đậu hũ thối chắc cũng chỉ như loại chiên giòn bán ở ven đường thôi. “Cùng lắm thì nặng mùi một chút, có hơn được cật không?”

Nhưng khi món được bưng lên, hai người đều ngớ ra. Đậu hũ không phải loại chiên giòn mà mềm mịn, gần như sền sệt. Chưa bàn đến kết cấu, chỉ riêng mùi thôi cũng đã khiến họ nhíu mày.

“Thối thiệt vậy luôn hả?” Uông Tễ trợn mắt nhìn đĩa đồ ăn.

Nhìn thấy vẻ ngần ngại của Phù Tô, anh quyết định làm gương, múc thử một muỗng, ăn rồi cẩn thận nếm vị. Sau khi nuốt xuống, anh nhận xét: “Ngửi đã thối, ăn vào cũng thối thiệt.”

Quay sang nhìn Phù Tô, anh cười: “Anh thử đi, mùi vị thật ra cũng… được.”

Phù Tô, người hiếm khi từ chối thức ăn, lần này lắc đầu, cau mày: “Không ăn đâu, thối quá, tôi chịu không nổi mùi này.”

“Có gì mà không chịu nổi, anh thử đi,” Uông Tễ dỗ dành. “Ở quê tôi có một chỗ đậu phụ thối còn kinh hơn, ăn được cái này, bữa nào tôi dắt anh qua đó nếm thử.”

“Ở đâu vậy?” Phù Tô tò mò.

“Hoàng Sơn, linh hồn của ẩm thực An Huy. Lúc tôi với Uông Dịch Dương tốt nghiệp cấp ba, hai đứa leo núi rồi ăn một đĩa ở quán dưới chân núi. Cái mùi đó, trời ơi, cuối cùng vì không muốn bỏ phí mà hai đứa phải oẳn tù tì, thua là phải ăn. Suýt chút nữa ăn tới ói.”

Ký ức từ hơn mười năm trước ùa về, giọng Uông Tễ chậm rãi, ánh mắt lấp lánh chút hoài niệm.

Bất ngờ, một chiếc muỗng chìa ra trước mặt anh. Phù Tô đã múc một muỗng đậu hũ thối, cho vào miệng, nuốt xuống.

Uông Tễ sững sờ, Phù Tô điềm nhiên nói: “Cậu nói đó, Hoàng Sơn, tôi nhớ rồi.”



Tối đó, họ vẫn ở khách sạn cũ. Hôm nay đã là ngày làm việc, hẳn là phòng khách sạn đã trống. Thế nhưng, khi gia hạn phòng, cả hai chẳng ai hỏi, cũng chẳng ai đề cập. Cứ xem như đã quen với căn phòng sang trọng, nhìn ra cảnh sông này vậy.

Một trận mưa thu mang theo hơi lạnh đầu mùa. Sáng hôm sau, trời trở lạnh hơn hẳn. Phù Tô may mắn mang theo áo khoác chống gió, còn chiếc áo mỏng của Uông Tễ thì không đủ ấm. Cả hai cũng đã đi dạo hết những nơi cần đi, vậy nên sau khi thức dậy, họ đặt vé tàu cao tốc để về nhà.

Trước khi đi, họ nhờ tài xế taxi chở đi mua quà đặc sản cho chú thím Uông. Dưới sự tư vấn của bà chủ một cửa hàng, họ chọn cho thím Uông một chiếc khăn choàng lụa, còn chú Uông một chai rượu trắng đặc sản. Họ còn ghé qua tiệm mua thêm bánh kẹo trước khi lên đường.

Các loại bánh ngọt và bánh dẻo nổi tiếng trăm năm, dù là sáng ngày làm việc, trước cửa tiệm vẫn có hàng dài người đứng đợi. Nhiệt độ ngoài trời thấp, chỉ vừa hạ cửa kính xe xuống, Uông Tễ đã khẽ rùng mình. Phù Tô liền bảo tài xế đỗ xe vào bãi gần đó để đợi, trả phí đậu xe, rồi giữ tay Uông Tễ lại khi thấy anh định xuống xe. Hắn nhanh chóng mở cửa, bước ra và băng qua đường đến tiệm bánh.

Tài xế vẫn ngồi trên ghế lái, tấm tắc khen: “Bạn cậu thật chu đáo.”

Con phố đông người qua lại, nằm gần khu du lịch, một vài chiếc xe ba bánh chở đầy hoa chạy chầm chậm trên đường. Hai bên đường là hàng cây rợp bóng, gió thu thổi qua, lá rơi rải rác đầy mặt đất.

Uông Tễ qua lớp người đông đúc và những chiếc lá xoay tít trong gió, dõi theo bóng dáng Phù Tô. Trời âm u, những đám mây xám đục phủ kín, các cửa tiệm bên đường đã đồng loạt bật đèn.

Trong đám đông chờ đợi, Phù Tô nổi bật với chiếc áo khoác đen và quần cargo đen, vóc dáng cao ráo, thẳng tắp. Gương mặt nghiêng sắc nét của hắn, trong khung cảnh mờ tối, như ánh lên chút ánh sáng.

Mua xong, hắn trở lại xe. Tài xế khởi động xe, chở họ về hướng ga tàu cao tốc. Phù Tô để những hộp quà mua cho chú thím Uông sang một bên, rồi đưa một hộp khác đến trước mặt Uông Tễ: “Thử đi.”

Trong hộp có nhiều loại bánh, Uông Tễ chọn một cái, lớp vỏ ngoài làm từ bột nếp trắng phủ hạt mè trắng, bên trong là nhân đậu đỏ mịn màng. Anh cắn một miếng, lớp vỏ mềm dẻo dính vào miệng, ngọt ngào lan tỏa.

Tài xế hé mở cửa kính ghế lái, một làn gió mát thổi từ cửa sổ vào hàng ghế sau. Mái tóc trước trán Uông Tễ khẽ lay động, hương vị đậu đỏ thơm ngọt vấn vương giữa đôi môi và đầu lưỡi anh.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 33: Tào phớ



Một trận mưa thu, một lần se lạnh.
Từ lúc trở về từ Hàng Châu đã hơn nửa tháng. Nếu nói khi đó không khí vẫn còn chút hơi nóng sót lại của mùa hè, thì sau vài trận mưa, ngọn núi đã thực sự bước vào mùa thu.

Sau khi chạy bộ buổi sáng, Uông Tễ chuẩn bị bữa sáng. Nguyên liệu đơn giản, chỉ có bí đỏ.

Nhà chú thím Uông năm nay bí đỏ được mùa lớn, suốt mấy tuần qua, bốn người lớn, thêm cả đàn gà, vịt, và chó trong hai nhà, ngày nào cũng ăn món liên quan đến bí đỏ.

Uông Tễ và Phù Tô quen ăn các món tinh bột, thỉnh thoảng đổi qua ăn thô một thời gian cũng không cảm thấy ngán, coi như đổi khẩu vị. Nhưng với thế hệ trước, những năm tháng thiếu thốn gạo trắng, bột mì, họ đã ăn ngán ngẩm các loại ngũ cốc thô. Hai ngày trước, chú Uông cuối cùng cũng không chịu nổi nữa, gọi một cuộc điện thoại bảo Uông Dịch Dương lái xe về nhà, chất đầy bí đỏ lên xe, mang tất cả đến quán rượu của cậu ta.

Bí đỏ ở quê là bí già, khi còn non thì bở, đến lúc già thì bùi.

Bí đỏ gọt vỏ, chia làm hai phần. Một nửa đem xay nhuyễn cùng gạo, đậu xanh, và bách hợp khô, tất cả cho vào máy xay sinh tố. Nửa còn lại để lên xửng hấp.

Bí hấp chín để nguội, dùng muỗng nghiền nát, trộn với bột nếp. Sau đó, Uông Tễ dùng tay nhào thành khối bột mịn, chia ra từng phần nhỏ. Anh làm rất tùy hứng, lấy muỗng xúc một viên, ép dẹp xuống rồi cho vào chảo chiên.

Lúc chiên bánh bí đỏ, Phù Tô vừa tắm xong bước ra. Buổi sáng trên núi trời lạnh, hai người chạy vài vòng quanh phía sau núi cũng chẳng đổ mồ hôi, nhưng hắn đã quen thói sáng tối đều tắm, vừa về là vào phòng tắm ngay.

Lúc này, hắn đi đến bếp, trước tiên mở cửa sổ bên tường.

Cửa sổ hướng về phía núi, cơn gió ùa vào mang theo chút mùi hương thoang thoảng của hoa quế, mát rượi và dễ chịu.

“Thơm ghê.” Uông Tễ nói.

Phù Tô nghe vậy, liền đưa tay kéo cổ áo lên ngửi thử: “Tôi đâu có xài sữa tắm nhiều đâu ta.”

“Không phải nói anh, tôi nói hương hoa quế ngoài cửa sổ kìa.”

Phù Tô thả tay ra, mỉm cười.

Những chiếc bánh nhỏ hai mặt đã vàng óng, Uông Tễ gật đầu ra hiệu, Phù Tô lấy một cái dĩa tròn trong tủ đưa qua.

Máy xay sinh tố bên cạnh cũng vừa xong việc, anh lấy hai cái tô, đến rót ra phần bột đã nhuyễn.

Thêm một dĩa rau trộn dầu ô liu, bữa sáng đã được bày ra bàn. Nhìn tô súp bí đỏ và bánh bí trước mặt, Phù Tô kéo nhẹ cổ áo mình xuống: “Nói thật, tôi thấy hình như dạo này tôi ăn tới mức người mình ngả màu vàng luôn rồi.”

Uông Tễ nhìn hắn hai lần, bật cười: “Thiệt á.”

Phù Tô có nước da trắng ngần, kiểu trắng không bắt nắng. Suốt cả mùa hè, tay chân Uông Tễ phơi nắng đến nỗi lộ rõ ranh giới, vậy mà da Phù Tô vẫn mịn như ngọc. Nhưng đúng là mấy hôm nay, nhìn kỹ có vẻ hơi ám chút sắc vàng bí đỏ.

Uông Tễ cúi đầu nhìn tay mình, ừm, cũng không khá hơn là bao.

Sau khi ăn sáng, anh phải ra vườn rau. Trước lúc ra ngoài, từ ban công tầng hai, Phù Tô thò đầu ra gọi: “Mền gối trong phòng cậu tôi gom giặt hết rồi, sấy khô luôn rồi nha!”

Uông Tễ đội nón lá, ngước lên trả lời: “Ừa.”

Sau nhà có một cây bã đậu cổ thụ. Từ khi căn nhà này còn là những bức tường gạch và mái ngói xám cũ kỹ, bên trong bên ngoài đã thay đổi đủ thứ, chỉ riêng cây này vẫn còn đó.

Lá bã đậu vàng úa cả cây, vươn cành che bóng lên phía sau lưng Phù Tô.

Uông Tễ quay người bước ra khỏi sân.

Từ hôm trở về từ Hàng Châu, anh đã tính chuyển về nhà ở. Khi nói ra, Phù Tô cũng không ngăn cản.

Đợi đến khi anh vào phòng thu dọn đồ đạc, Phù Tô khoanh tay dựa vào khung cửa, bất chợt thở dài, âm thanh nghe như tiếng than thở.

Uông Tễ đang gấp áo, nghe tiếng thì sững lại: “…Anh làm cái gì đó?”

“Thở dài chứ làm gì.” Phù Tô đáp.

Áo sơ mi gấp bị nhăn một nếp, Uông Tễ hỏi lại: “Tôi không nghe anh thở dài chắc? Tôi hỏi là anh thở dài làm cái gì?”

“Không biết,” giọng Phù Tô nhẹ như gió thoảng, “Chắc tại quen rồi, hai người ở chung mà.” Rồi hắn thêm một câu: “Tôi thì quen rồi đó.”

Nói xong, hắn quay người đi về phòng khách, bỏ lại Uông Tễ đứng ngây ra bên mép giường.

Ý gì đây chứ?

“Ê không,” anh nhấc chân đi theo, “Ý anh là gì vậy, nói rõ coi.”

“Còn ý gì nữa,” Phù Tô vừa nói vừa quay lưng bước lên ban công, “Cậu muốn về thì tôi đâu có cản.”

Cản cái gì chứ? Uông Tễ bất đắc dĩ: “Anh giữ người kiểu gì vậy đó hả?”

Phù Tô quay lại nhìn anh: “Nghe ra rồi ha?”

“Nghe cái gì chứ?”

“Giữ cậu ở lại.”

“Vậy thôi đó hả?” Uông Tễ không biết nên khóc hay cười.

“Quá kín đáo hả?” Phù Tô khẽ cười.

“Anh nghĩ sao?” Uông Tễ nhìn anh, hỏi lại.

“Vậy tôi đổi cách khác nha?” Phù Tô vừa nói vừa bước đến trước mặt Uông Tễ.

Hắn thoáng do dự, nhưng chỉ vài giây sau, hắn giơ cánh tay lên, khẽ vòng qua vai Uông Tễ.

Giọng hắn thấp nhẹ, như làn gió thoảng qua tai Uông Tễ: “Có chút không nỡ, đừng đi nha.”

Nghĩ lại khoảnh khắc đó, Uông Tễ đưa tay chạm vào tai mình. Ừm, may quá, bây giờ tai vẫn còn mát.

Thật ra, từ lúc về từ Hàng Châu đến nay, anh đã nhiều lần muốn hỏi. Nếu trước đây, anh không dám đối diện với chính mình, mơ hồ trước cảm xúc của bản thân, thì bây giờ, điều anh không dám đối diện là Phù Tô.

Anh đã từng muốn hỏi Phù Tô: Sao anh lại giữ tôi lại? Hay: Vì cái gì mà anh không nỡ tôi?

Nhưng mỗi lần đến lúc muốn nói, mấy chữ đơn giản nhẹ tênh lại nghẹn ở cuống họng, chẳng thể nào thốt ra. Dường như chỉ thiếu một chút dũng khí, vừa sợ không nhận được câu trả lời mình mong, vừa ngại ngùng.

Một vài điều, không nói ra thì vẫn còn đường lùi. Nói ra rồi, tiến không xong, lùi cũng chẳng được.

Đợi thêm chút nữa vậy. Anh tự nhủ với lòng mình hết lần này đến lần khác. Anh đã quen nhẫn nhịn, cũng quen chờ đợi.

Xuân qua, hè tới, giờ là mùa thu hoạch trên đồng.

Mấy cây ớt được nhổ từ vụ gieo trồng đầu thu, giàn mướp vẫn còn vài quả già. Ở quê thường vậy, người ta giữ lại vài trái mướp già để làm miếng rửa nồi rửa chén. Hạt giống rau gieo sau Quốc Khánh giờ cũng đã nảy mầm, đến đông thì khỏi lo thiếu rau xanh.

Xới đất, trồng lại cây… Thật ra, Uông Tễ không giỏi làm vườn. Mùa nào trồng cây gì, cách gieo hạt, bón phân, làm sao diệt sâu, tưới nước, ban đầu đều phải xem từ mấy kênh nông nghiệp trên mạng hoặc học lỏm từ thím Uông. Nhưng giờ đây, anh cũng dần nắm được chút kinh nghiệm, cảm nhận được niềm vui trong đó.

Anh chưa bao giờ thấy mình đang phí hoài cuộc đời trong đất cát. Làm nông cũng là một môn học, đủ để người ta dành cả đời mà nghiên cứu. Tiếp xúc với đất, với cây, tận mắt thấy hạt giống mình gieo mọc lên mầm nhỏ, nở hoa đầu mùa, kết trái lứa đầu, cảm giác ấy thật kỳ diệu.

Uông Tễ đưa tay hái một nhánh đọt đậu non mơn mởn, trong lòng chợt nghĩ: Thơ của Đào Uyên Minh nói quả thật không sao.

Buổi trưa, ăn cơm ở nhà thím Uông. Nếu so với bốn thửa đất nhỏ của Uông Tễ, thì mảnh vườn của chú thím Uông mới đúng là một vườn rau chính hiệu, quanh năm rau trái ăn không xuể.

Bữa trưa hôm nay có cơm nấu thập cẩm. Gà cắt hạt lựu, lạp xưởng thái nhỏ và đậu nành tươi cùng nấu, dậy mùi thơm lừng, béo ngậy.

Thím Uông còn làm thêm một đĩa gỏi nấm. Các loại nấm rừng luộc chín, xé sợi. Măng núi mùa xuân còn dư, phơi khô cất tủ, nay mang ra luộc chung với nấm, để ráo nước rồi trộn cùng dầu mè, muối, giấm lâu năm và chút xì dầu.

Nấm rừng tươi cắn vào ngọt nước, thơm lừng. Bốn người ngồi ăn cơm, ba người cúi đầu cắm cúi xúc cơm, chỉ có thím Uông là ăn uống từ tốn.

Trên bàn còn có một chén nhỏ đựng ớt sa tế, do chú thím tự làm. Ớt xanh đỏ ngoài vườn trộn chung với tỏi, cho vào máy xay nhuyễn. Cố tình chọn loại máy xay bằng tay, xay ra không quá mịn, vẫn giữ lại chút hạt ớt lốm đốm, nhìn thôi đã thấy thèm.

Nấu ăn bằng bếp củi thì luôn có lớp cơm cháy dưới đáy nồi, thành một miếng tròn đều. Nửa miếng để lại nấu thành canh cơm cháy, nửa còn lại lấy ra ăn không.

Uông Tễ bẻ một miếng, dùng muỗng múc chút tương ớt rồi phết lên. Vừa mới cắn một miếng, anh đã bị cay đến mức phải quay đầu hắt xì một cái:

“Chờn ơi, cay dữ vậy!”

“Ấy,” thím Uông nói, “thím quên dặn, năm nay làm tương ớt trễ, ớt ngoài đồng già hết rồi, nên cay hơn bình thường.”

Uông Tễ ở Thượng Hải lâu, khả năng ăn cay giảm sút rõ rệt. Lúc này, anh quay lưng lại hắt xì không ngừng. Phù Tô đặt đũa xuống, vỗ nhẹ lưng anh. Nhìn thấy bát canh trước mặt Uông Tễ đã trống không, hắn liền đẩy chén của mình qua:

“Cậu uống tạm đi.”

Cay đến mức đầu óc mơ màng, Uông Tễ mượn tay Phù Tô để uống hai ngụm canh.

Đợi đến khi bình tĩnh lại, anh mới phát hiện chú Uông và thím Uông đều đã dừng đũa, nhìn chằm chằm về phía mình. Uông Tễ thấy hơi ngại, ngập ngừng hai giây rồi nói với Phù Tô: “Cảm ơn nha. Để tôi đi múc lại cho anh một chén khác.”

Thái độ lúng túng, nghiêm túc đến mức có chút thừa thãi. Phù Tô thấy buồn cười trong lòng nhưng mặt vẫn giữ vẻ đứng đắn: “Không sao đâu, tôi không có khó tính gì.”

Chú Uông khá vô tư, cười ha hả: “Có gì đâu, uống chút canh thôi mà. Hồi nhỏ, bây với Uông Dịch Dương còn ăn chung một bát mì, cắn chung một viên kẹo nữa kìa.”

Thím Uông cũng không nhạy cảm mấy chuyện này, cười tiếp lời: “Con gái thì phải chú ý, chứ hai thằng con trai thì không sao đâu.”

“Dạ đúng.” Uông Tễ gật đầu, cười khô khốc.

Sau bữa cơm, chú Uông đi rửa bát, Phù Tô giúp dọn dẹp bàn ăn, còn thím Uông dẫn Uông Tễ ra chuồng gà, chuồng vịt, dạy anh cách trộn thức ăn, cho chúng ăn.

Mùa thu trời mát mẻ, là thời gian thoải mái nhất trong năm. Hai hôm trước, Uông Dịch Dương về đây khiêng bí đỏ, tiện thể nói rằng muốn tranh thủ mấy ngày này đưa chú Uông và thím Uông lên Bắc Kinh chơi.

Nói đi chỗ khác thì hai người chắc chắn không chịu, vì sợ tốn tiền và làm lỡ thời gian của cậu ta. Nhưng nhắc đến Bắc Kinh, họ suy nghĩ cả một buổi tối, sáng hôm sau gọi điện cho Uông Dịch Dương, cuối cùng cũng đồng ý. Người lớn hai thế hệ trước lúc nào cũng có cảm xúc đặc biệt khi nhắc đến Bắc Kinh và những vĩ nhân.

Bí đỏ được cắt thành miếng, rau xanh băm nhỏ. Thím Uông nói: “Cho ít bí đỏ với rau là được, nếu có cơm thừa thì trộn thêm chút nước vô, không thì mặn quá.”

“Dạ.” Uông Tễ gật đầu nhận hết.

Khi anh và Phù Tô chuẩn bị rời đi, thím Uông đứng trong sân dặn với theo: “Rau ngoài vườn nhiều lắm, ngọn cải, măng tây, củ cải nhỏ, đậu nành non đều ăn được hết. Lúc nào nấu ăn thì ra vườn nhổ. Rau nhà mình, nhổ nhiều chút không sao.”Vài ngày sau.

Trời vào thu, núi rừng bắt đầu vắng vẻ. Chú Uông và thím Uông đã lên Bắc Kinh, vắng đi những cuộc trò chuyện thường ngày, không gian càng thêm yên ắng, cứ như đang lánh đời.

Tiết trời se lạnh, sáng sớm đi xe đạp ra chợ quê mua đồ, gió núi thổi khiến cả người lẫn quần áo run bần bật.

Phù Tô ngồi ghế sau, đưa tay che một nửa khuôn mặt dưới mắt Uông Tễ. Vừa há miệng, gió lập tức tràn vào như muốn giành quyền làm chủ.

“Hầy,” hắn thở dài sau vài lần thử, “Lần sau chạy xe hơi đi, cái gió này… ừm…”

Vừa nói, hắn vừa nuốt thêm một ngụm khí lạnh. Uông Tễ nghe vậy thấy buồn cười, khóe môi không nhịn được cong lên. Hơi thở rung động phả nhẹ vào lòng bàn tay Phù Tô, đầu mũi còn khẽ lướt qua da hắn.

Ngón tay Phù Tô khựng lại, giây sau Uông Tễ ngẩng cằm lên, đẩy tay hắn ra.

Phía trước, một con ngỗng to béo vừa vượt ngục từ đâu chạy ra, “bụp” một cái đậu chình ình giữa đường.

Uông Tễ xoay tay lái, né sang một bên tránh con ngỗng, rồi hướng về phía sân nhà bên cạnh lớn giọng: “Ngỗng chạy ra ngoài rồi ——”

Trong sân lập tức vang lên tiếng người vội vàng chạy ra bắt ngỗng.

Buổi sáng sớm có sương mù, hơi nước bao phủ khắp nơi, cỏ cây ven đường và hoa quế tỏa ra mùi thơm thoang thoảng. Giọng nói của Uông Tễ như còn văng vẳng trong không gian núi rừng rộng lớn. Phù Tô cúi người, áp trán lên tấm lưng gầy của anh.

“Lạnh hả?” Uông Tễ hỏi.

Phù Tô vòng tay qua, nhẹ nhàng ôm lấy anh qua lớp áo khoác, còn tiện tay kéo cao cổ áo của anh để chắn gió. Giọng nói thoáng chút vui vẻ: “Ừ, lạnh.”

Lần này xuống chợ quê là để mua thịt. Dừng lại trước quầy bán thịt, Uông Tễ chọn vài ký sườn và mỡ lợn.

Sườn để trưa nay kho tàu, còn mỡ lợn thì đem về thắng lấy mỡ nước.

Mới đầu, Uông Tễ ăn dầu ăn mua từ siêu thị, nhưng ở quê lâu ngày, bị chú Uông và thím Uông ảnh hưởng, thói quen ăn uống của anh cũng thay đổi.

Ngày thường nấu ăn dùng dầu trà. Dầu trà giá đắt, nhưng ở vùng núi Vân Lĩnh có rất nhiều cây trà. Tới tháng Mười, người ta leo núi hái hạt trà, phơi vài ngày rồi mang đến xưởng ép dầu. Anh và Phù Tô ăn không nhiều, một hũ dầu trà có thể dùng rất lâu.

Đôi khi xào rau đơn giản, họ dùng mỡ lợn. Nhất là vào mùa đông, khi ruộng đầy cải thảo, chỉ cần rửa sạch, thái miếng, bỏ vào chảo với chút mỡ lợn và muối. Không cần thêm gì khác mà món cải xào đã ngọt thanh tự nhiên.

Còn nấu mì hay trộn mì thì cho chút dầu mè. Dầu mè cũng được ép tại xưởng dầu trong làng. Tuy là một xưởng nhỏ, điều kiện bảo quản không thể quá tốt, nhưng chỗ này mở lâu năm, con gái của ông bà chủ sau khi tốt nghiệp đã trở về nâng cấp thiết bị. Uông Tễ thấy xưởng vận hành khá bài bản, sạch sẽ, nên rất yên tâm.

Loại dầu duy nhất họ mua từ ngoài vào là dầu oliu và dầu óc chó, vì Phù Tô khăng khăng rằng trộn salad chỉ có hai loại dầu này mới đúng vị. Đây chính là “linh hồn” giúp hắn ăn hết cả một tô đầy rau xanh.

Mua xong thịt, lúc này người trên chợ đã đông. Người bán, kẻ mua tấp nập vì ở quê ai cũng tranh thủ sớm sủa để còn làm việc nhà.

Hai hàng nhà ven đường, phía sau là núi và ruộng vườn. Không khí mờ sương nhẹ, hai người chưa vội về ngay. Treo túi thịt lên móc trước xe đạp, họ rảo bộ dọc theo con phố, vừa đi vừa ngắm nghía.

Đi được một đoạn, họ gặp một cô bán đậu hũ. Phía sau là xưởng làm đậu nhỏ của gia đình cô. Vì không gian hẹp, cha mẹ chồng và chồng cô làm trong nhà, còn cô bày hàng ra ngoài bán.

Trên sạp là một mẻ đậu hũ mới bưng ra, còn bốc hơi nghi ngút. Từng miếng đậu dày dặn, mịn màng trông cực kỳ bắt mắt.

Ngửi thấy mùi đặc trưng của đậu nành, Uông Tễ thấy thèm. Hồi nhỏ đồ ăn không nhiều, đậu hũ nóng hổi mới ra lò vừa ăn vừa thổi là món “quà vặt” yêu thích của anh.

Thấy họ dừng lại, cô bán hàng niềm nở chào mời: “Mua miếng đậu hũ ăn thử không mấy chú? Chị chỉ làm bốn khuôn, đây là khuôn cuối rồi đó.”

Người trong làng không đông, thêm vào đó bếp ăn của xã đặt hàng hai khuôn mỗi ngày, nên gia đình cô chỉ làm bốn khuôn đậu hũ và hai khuôn đậu khô. Bán hết thì dọn hàng.

Uông Tễ quay sang hỏi Phù Tô: “Có mua không?”

Phù Tô nhìn anh, rồi hỏi: “Một miếng này bao nhiêu vậy nhỉ?”

“Không biết nữa,” Uông Tễ trả lời, “chắc ba, bốn tệ gì đó.”

“Gì cơ,” Phù Tô không nhịn được bật cười, “tưởng cậu sắp thêm mấy con số không phía sau rồi chứ.”

Lúc này Uông Tễ mới hiểu ra, cũng bật cười theo: “Ờ ha, hỏi theo thói quen mà.”

Anh bước tới, cô bán hàng mở tấm vải che đậu hũ ra, rồi hỏi: “Nhà mấy người ăn?”

“Hai người.”

“Là hai người các chú hả?” cô hỏi thêm.

Uông Tễ gật đầu: “Dạ, hai đứa tụi em.”

Cô bán hàng nói: “Vậy mua một miếng là được rồi. Đậu nhà chị làm to lắm, một miếng ăn cũng đủ hai bữa. Mà đậu hũ để lâu không tốt đâu.”

Uông Tễ đáp: “Vậy lấy một miếng đi. Thèm ăn thì tụi em quay lại mua thêm.”

Cô bán hàng nghe vậy thì vui ra mặt, cười bảo: “Được đó! Nhà chị chỉ nghỉ mấy ngày lẻ sáu mỗi tháng, còn lại ngày nào cũng bán. Đừng có tới lỡ lại hụt nha.” Rồi hỏi tiếp, “Muốn miếng giữa hay miếng rìa?”

Uông Tễ không hiểu rõ sự khác biệt, cô giải thích: “Miếng giữa thì mềm hơn, còn miếng rìa thì chắc hơn. Nếu mua về trộn ăn hoặc hầm thì lấy miếng giữa, còn chiên xào thì miếng rìa là ngon nhất.”

Uông Tễ chọn một miếng giữa.

Đậu hũ ở đây bán theo miếng, mỗi miếng ba tệ. Cô gói xong thì có người khác bưng chậu tới mua tào phớ.

Cô bán hàng trao đậu cho Uông Tễ, rồi mở nắp thùng giữ nhiệt kế bên. Trong đó có hai ngăn, một để tào phớ, một để sữa đậu nành nóng.

Kế bên còn đặt sẵn cái vá inox lớn. Cô múc ba vá tào phớ, bảo người kia: “Đường ở đây nè, tự thêm nha.”

“Tào phớ”, lần đầu tiên Phù Tô nghe người ta gọi như vậy, thấy có chút ngồ ngộ. Hắn tò mò nhìn qua, vừa hay cô bán hàng đang múc thêm nên nhìn kỹ được một chút.

Khác với đậu hũ nước thường thấy, tào phớ của cô có màu xám nhạt, hơi vỡ và không được mịn lắm, trông thô hơn.

Uông Tễ thấy ánh mắt của Phù Tô thì mỉm cười, gọi cô bán hàng: “Cho em hai phần nhỏ.” Sau đó quay sang hắn, giải thích: “Đây là tào phớ làm bằng nước đậu ép, ngon lắm. Lúc nhỏ ngày nào tôi cũng ăn.”

Hồi đó, anh còn bé, mỗi sáng ông nội chở anh đi học mẫu giáo trên thị trấn. Người dân ở đây thường ăn sáng tại nhà, chỉ có cháo, mì hoặc bánh chiên đơn giản. Vì vậy, trên chợ gần như không ai bán đồ ăn sáng, chỉ có mỗi tào phớ và sữa đậu nành. Một bát tào phớ lớn là đủ no căng bụng, trong khi bọn trẻ khác lớn lên với mùi sữa, anh thì lớn lên cùng mùi đậu.

Phù Tô tưởng tượng cảnh đó, cảm thấy vô cùng thú vị. Hắn hình dung Uông Tễ lúc nhỏ chắc trông như một miếng đậu hũ.

Trắng trẻo, mềm mại, lại mịn màng.

Mà chắc chạy nhảy cũng “nảy tưng tưng” như đậu nữa.

Hắn liếc qua nhìn người bên cạnh mình.

Ừm, bây giờ cũng vẫn còn giống.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 34: Trà bưởi mật ong



Trên đường từ xã về nhà, hai người ghé qua vườn rau của thím Uông hái ít đồ. Uông Tễ bứt vài nhánh cải bó xôi và cải cúc non đem về xào, còn đậu nành trong vườn đã già, không ngon để xào nữa. Anh hái một ít mang về hầm chung với đậu hũ nấu canh.

Đậu nành già nếu phơi khô có thể đập ra lấy hạt làm đậu vàng. Đến mùa đông, đem hầm với giò heo thì mềm thơm khó cưỡng.

Ở góc vườn thím Uông còn có một cây su su. Loại này chẳng cần chăm sóc, đến mùa là tự ra quả, nhưng ăn không ngon, gà vịt cũng ít khi thèm. Những quả su su xanh mướt, căng mọng bám trên dây leo, phần lớn chỉ để ngắm.

Về đến nhà, hai người không vội vào trong. Chú chó trong sân đã thức, tự mình ăn xong bữa rồi tung tăng chạy nhảy. Có Phù Tô đứng gần, nó không dám lao vào phá hoa, chỉ vẫy đuôi nghịch ngợm dưới giàn nho.

Giàn nho ở sân trước là hai người cùng dựng hồi mùa hè. Vì trồng trễ nên nho chưa kịp ra trái, giờ đây những cành lá đung đưa trong làn gió thu.

Cả hai ngồi xuống ghế mây. Đậu hũ non mua về vẫn còn ấm. Mở nắp, đường trắng rắc lên trên đã tan một nửa. Dùng muỗng khuấy đều, múc một thìa, vị ngọt dịu và hương thơm của đậu hũ tươi lập tức tan trên đầu lưỡi.

Nhưng trời mát, gió thổi vài cái là đậu hũ nguội ngay. Lúc đầu, Phù Tô còn kiên nhẫn xúc từng muỗng, sau đó thì cầm luôn chén nhỏ chỉ bằng bàn tay, ngửa đầu uống ực như uống sữa đậu nành.

Phần còn lại trong chén của Uông Tễ, anh đẩy qua cho hắn uống nốt.

Phù Tô vốn chẳng kén chọn chuyện này. Hai người quen rồi, chút nước miếng không đáng để phải bỏ phí đồ ăn.

Lên lầu hai, việc đầu tiên là mở cửa sổ. Gió từ núi vào cuối thu mang theo cảm giác dễ chịu mà không hệ thống máy lạnh nào có được.

Không chỉ mát, gió còn mang theo mùi vị riêng, một mùi khô ráo, hoang vắng, đặc trưng của mùa thu trên núi.

Ăn xong đậu hũ, Uông Tễ bắt đầu rán mỡ heo. Đứa trẻ lớn lên ở quê như anh thì chuyện này chẳng có gì xa lạ. Hồi nhỏ, mỗi lần nhà rán mỡ, đứa nào cũng háo hức đợi phần tóp mỡ giòn tan còn lại trong nồi.

Trước đây, mỡ heo trong nhà đều do thím Uông cho. Mỗi lần thím nấu một mẻ, hai nhà ăn cũng được cả tháng.

Đây là lần đầu anh tự làm. Uông Tễ đứng trước bếp, lấy điện thoại lướt qua vài công thức trên mạng. Nhưng các công thức khác nhau quá, nào là chần nước sôi trước, nào là thêm hành tỏi, hồi quế hay rượu để khử mùi…

Xem đến hoa cả mắt, anh quyết định tắt điện thoại, làm theo cách dân dã ngày xưa.

Mỡ heo mua về được rửa sạch, thái miếng. Không cần bước nào cầu kỳ, anh cứ thế đổ thẳng vào chảo.

Để rán mỡ, hôm qua anh còn về nhà tìm lại một chiếc chảo gang cũ, loại không có nhãn mác, được rèn thủ công bởi những người thợ trước đây.

Không thêm nước, mỡ được đảo đều trên lửa nhỏ để ép nước ra từ từ, tránh dính chảo.

Quá trình này khá lâu, và trong lúc đảo không được ngừng tay. Uông Tễ chợt có cảm giác như đang quay về tiết Thanh Minh, khi anh không ngừng tay để sao một mẻ trà.

Nhưng lần này, Phù Tô không giúp được gì.

Thật ra, từ lúc anh thái mỡ heo trên thớt, nhìn những miếng mỡ trắng nhễ nhại, Phù Tô đã nhíu mày.

Đến khi mỡ bắt đầu tan chảy, mùi đặc trưng của nó không thể tránh khỏi lan ra, hắn đứng trước bếp liền buột miệng phát ra tiếng “ọe” đầu tiên.

Tiếng nôn khan của Phù Tô vang lên, khiến cả hắn lẫn Uông Tễ đều sững người.

“Không phải, lúc ăn sao không thấy anh nôn?” Uông Tễ trố mắt, vẻ mặt ngơ ngác.

Nhưng Phù Tô lại đưa tay lên bịt miệng, lần nữa phát ra âm thanh khó chịu, dáng vẻ quý phái kỳ lạ khiến anh không khỏi sửng sốt.

Chẳng còn cách nào khác, nhìn miếng mỡ heo trắng toát trên thớt, hắn lập tức nghĩ đến chén đậu hũ lúc nãy. Liên tưởng ấy, cộng thêm mùi dầu mỡ trong không khí, khiến dạ dày như bị nhồi đầy thứ chất béo ấy.

Phù Tô gắng nén cảm giác buồn nôn, thậm chí còn muốn giúp một tay. Nhưng Uông Tễ liền xua tay: “Thôi, thôi, mỡ heo giờ cũng mười tệ một cân đấy! Đừng để tới lúc tôi đang đảo thì anh nôn thẳng vào nồi.”

Vậy nên, khi cánh tay của Uông Tễ bắt đầu mỏi nhừ, Phù Tô chỉ ngồi cách xa hai mét ở bàn ăn, lặng lẽ nhìn anh, đóng vai trò như nguồn cổ vũ tinh thần.

Mỡ heo khi ráo nước bắt đầu tiết ra dầu, trong vắt và óng ánh. Lúc này, Uông Tễ hạ lửa xuống mức nhỏ, để dầu từ từ chảy ra, hòa vào làn gió mát từ cửa sổ.

Khi tóp mỡ trong chảo chuyển sang màu vàng sậm, mọi thứ coi như hoàn tất. Uông Tễ cẩn thận vớt ra.

Ở quê, người ta thường đựng mỡ heo trong những chiếc thố tráng men, đáy vàng hoa văn giản dị. Uông Tễ đổ đầy hai thố rưỡi, một phần để nhà mình dùng, phần còn lại mang biếu thím Uông.

Mỡ đã đổ xong, giờ còn lại một chảo tóp mỡ vàng rộm.

Hồi nhỏ, Uông Tễ lúc nào cũng háo hức chờ phần tóp mỡ sau mỗi lần ông rán mỡ. Anh nhặt một miếng, thổi nguội rồi cho vào miệng. Vị giòn tan, beo béo, chẳng khác gì ký ức xưa.

“Ngon không?” Lúc này, với sự hỗ trợ của máy hút mùi và gió trời, mùi dầu trong bếp đã dịu đi nhiều. Phù Tô bước tới, tò mò hỏi.

Uông Tễ gắp một miếng đưa qua. Tóp mỡ khá dầu, Phù Tô không muốn cầm tay, hắn cúi đầu ăn luôn, vẻ mặt hài lòng: “Thơm lắm.”

“Anh thì việc chẳng làm được bao nhiêu, ăn thì không chừa thứ gì.”

Phù Tô đưa tay xoa vai phải của anh, từ vai xuống cánh tay, lực vừa phải, hắn cười nhạt: “Tôi cũng giúp rồi còn gì.”

Sau khi rán mỡ xong, buổi sáng coi như rảnh rỗi. Hai người ngồi thư giãn trên sân thượng.

Phù Tô pha hai cốc cà phê. Cốc của Uông Tễ có thêm lớp bọt sữa, hắn còn tỉ mỉ vẽ hoa trên đó. Lượng sữa nhiều, uống xong để lại viền sữa trên môi. Phù Tô nhanh tay chụp lại khoảnh khắc ấy.

Mùa này, cảnh vật trên núi không còn xanh ngát nữa. Nhiều cây bắt đầu ngả vàng, lá rụng rải rác. Nhìn ra xa, một phần những ngọn núi đã nhuốm sắc đỏ.

Cây hồng trên núi cũng ra trái. Ở Vân Lĩnh, hồng nhiều vô số, không chỉ trên núi mà cả sân nhà dân cũng có ít nhất một cây. Vì vậy, hồng chẳng mấy ai để tâm. Ở nơi khác, người ta đã hái hồng phơi khô làm bánh, còn ở đây, trái vẫn lủng lẳng trên cành, như những chiếc đèn lồng nhỏ xinh.

Khi đông đến, lá cây sẽ rụng hết, áo khoác dày thêm, hơi lạnh trong không khí rõ ràng hơn, và gió lạnh táp vào mặt gây tê buốt, hồng trên cây lúc ấy đã chín mọng.

Dưới gốc cây, chỉ cần cầm cây gậy nhẹ nhàng đập vào cành, hồng rụng xuống mềm mịn, bóc vỏ ra là ăn được ngay. Thịt quả bên trong ngọt lịm, sánh như mật ong, chẳng cần cắn mà chỉ đưa đến miệng hút, hương vị tràn ngập.

Những trái hồng này cũng là nguồn lương thực giúp chim chóc trên núi vượt qua mùa đông.

Buổi trưa ăn xong, họ không vội ngủ mà ra ngoài đi dạo.

Khi đi ngang nhà, Uông Tễ vào trong lấy một gói thuốc, rồi chậm rãi bước xuống con đường rợp lá rơi.

Chú chó ban đầu còn ngoan ngoãn đi theo, nghe tiếng lá khô kêu xào xạc dưới chân. Nhưng chẳng bao lâu, nó thấy chán, tự chạy vào ruộng nằm ngủ.

Qua một gốc đào bên đường, Phù Tô giơ tay chạm vào cành cây.

Uông Tễ nhìn thấy, bất giác nhớ về chiều hè nọ, hoàng hôn nhuộm đỏ cả bầu trời, hương đào ngọt dịu phảng phất, anh khẽ cười: “Sang năm lại có nữa.”

Đi thêm khoảng mười phút, cả hai đến trước một cổng sân rộng mở. Trong bếp, có người đang rửa bát. Ngoài sân, một người đàn ông trung niên ngồi tách ngô khô. Những hạt ngô được bóc ra dùng để nuôi gà vịt hoặc xay thành bột ngô. Đến mùa lạnh, ngô còn được dùng làm bánh áp chảo ăn kèm món hầm.

“Chú ơi.” Uông Tễ đứng ngoài cổng gọi.

Người đàn ông nghe tiếng bèn đứng lên: “Định hái bưởi à?”

“Dạ đúng rồi.” Uông Tễ gật đầu.

Ở Vân Lĩnh cây bưởi rất hiếm, hầu như chỉ có một cây duy nhất do chú này trồng. Vì cháu gái chú thích ăn bưởi nên chú đã cất công mang giống từ nơi khác về trồng.

Nhờ khí hậu và thổ nhưỡng phù hợp, cây bưởi lớn nhanh, lại rất “trách nhiệm”. Chỉ sau ba năm trồng, nó đã ra hoa kết trái. Nhưng cũng vì quá “trách nhiệm”, trái ra nhiều đến mức không ai ăn xuể. Thành thử, mỗi mùa bưởi chín, cả làng ai cũng có phần, có thể đến hái vài quả mang về.

Chú Uông trước khi đi Bắc Kinh mấy hôm đã dặn Uông Tễ: “Đừng ngại. Ai trong làng cũng hái cả, về để trong nhà còn thơm. Mà tranh thủ đi hái giờ ăn cơm đi, lúc này ít việc đồng áng, vợ chồng họ thường sang xã đánh bài, không ở nhà đâu.”

Quả nhiên, người đàn ông trung niên cũng nói thêm: “Các cháu đến đúng lúc đó. Vợ chú rửa bát xong, vợ chồng chú cũng phải đi thôi, bên kia đang thiếu người kìa, hai bên đều ba thiếu một cả rồi.”

Cuộc sống ở quê là vậy. Đến mùa thu đông, việc đồng áng giảm bớt, người đi làm xa cũng lần lượt quay về. Trong túi có tiền, lại rảnh rỗi, mà các hoạt động giải trí chẳng phong phú như ở thành phố, thế là mọi người tụ tập đánh bài, chơi mạt chược để giết thời gian.

Cây bưởi nằm sau nhà, cao vừa phải, chỉ vượt nhẹ qua mái ngói. Trái sai oằn cây, đến mức nhánh nào nhánh nấy cũng như sắp gãy, chỉ cần nhìn thoáng qua đã thấy đếm không xuể.

“Nhiều quá, thật sự nhiều quá,” người đàn ông nhìn cây, lắc đầu than thở. “Hồi trước chú còn hay bày ghế nằm dưới gốc, phơi nắng nghe sách nói. Giờ thì đâu dám, sợ nó rụng xuống đập trúng đầu.”

Bắt đầu hái bưởi, dưới gốc có sẵn một cái ghế nhỏ để đứng lên với tới trái cao. Nhưng Phù Tô cao ráo, chỉ cần kiễng chân là hái được những trái gần tầm. Uông Tễ đứng cạnh đó, làm nhiệm vụ nhận trái.

Người đàn ông bên cạnh thì không ngừng giục: “Hái nhiều vào, hái thêm đi, trái tròn này nè, hái trái đó luôn, ừ, trái kia cũng tròn, hái cả đi…”

Ban đầu, Uông Tễ chỉ định hái vài quả, thậm chí còn không mang giỏ, nghĩ cầm tay vài trái là đủ về nhà. Ai ngờ, cuối cùng người đàn ông ép buộc, nhét cho nguyên một bao đầy ụ.

Không phải túi nilon, mà là một cái bao gai to đùng.

Trước khi rời đi, Uông Tễ móc gói thuốc trong túi áo ra đưa cho người đàn ông. Hai bên kẻ nhường người đẩy, giằng co mãi cuối cùng chú mới chịu nhận. Nhưng trong lúc họ không chú ý, chú lại lén nhét thêm hai quả bưởi vào bao.

Hai người mỗi người xách một bên bao gai, khệ nệ khiêng bưởi về nhà. Phù Tô vừa đi vừa nghĩ đến cảnh tượng lúc nãy: “Đúng là rất biết giằng co.”

Một gói thuốc nhỏ, mà qua tay Uông Tễ với chú tới lui đến mấy lần, nhìn chẳng khác gì hai người đang luyện khinh công.

Uông Tễ cũng ngán ngẩm mà nói: “Ở quê ai cũng vậy. Đến Tết lì xì cho con nít còn kéo co hơn, mà kéo đến mức trở thành thói quen luôn rồi.”

Bao nhiêu trái bưởi vàng ươm, tròn trịa, giữ lại một trái để trong sân cho chó chơi, mấy trái còn lại dùng để nấu trà.

Thật ra, mùa này đúng ra phải nấu cao lê mùa thu. Sau núi có một cây lê, nhưng từ lúc trở về từ Hàng Châu, bận bịu nên quên mất. Nghe chú Uông bảo trong làng có bưởi, Uông Tễ nghĩ nấu trà bưởi mật ong cũng hay.

Bưởi được đổ từ bao gai ra, chưa kịp gọt vỏ mà mùi thơm nhẹ, thanh thanh đã thoang thoảng trong không khí.

Hai người xếp bưởi ngay ngắn. Vì trưa không ngủ, giờ mà ngủ nữa sợ tối lại trằn trọc. Trong phòng khách có cả ghế sô-pha lẫn ghế nằm, mỗi người chọn một chỗ để chợp mắt.

Nấu trà không vội, mùa thu đông ở núi chậm rãi và dài dằng dặc, thời gian còn nhiều, không nhất thiết phải làm ngay hôm nay.

Uông Tễ nằm nghiêng trên ghế sô-pha, ôm gối che bụng, khẽ ngáp dài.

Ngoài trời, mây trắng bồng bềnh, lá rụng báo thu.

Anh nghiêng đầu nhìn Phù Tô đang nhắm mắt, thả lỏng người trong chiếc ghế nằm khẽ đong đưa. Lông mi rủ xuống như đôi cánh mỏng của loài bướm dại.

Uông Tễ nhắm mắt lại.

Phút chốc, những phiền muộn tan biến, nhường chỗ cho sự an yên, thư thái.

Không lo buồn vô cớ.

Mặt trời vào cuối thu ở Vân Lĩnh chỉ rực rỡ từ sáng đến trưa, tầm bốn, năm giờ chiều trời đã xám xịt, gió thổi lá rụng, mây đen phủ lơ lửng cuối trời, gợi cảm giác cô quạnh, tiêu điều.

Nhưng trong ngôi nhà nhỏ, ánh đèn ấm áp rực sáng, xua tan mọi giá lạnh.

Hai người đang bận rộn nấu trà bưởi mật ong. Số bưởi chất ở góc bếp đã để đấy ba, bốn ngày, hôm nay mới nhớ ra mà bắt tay vào làm.

Họ chia nhau công việc: rửa bưởi, gọt vỏ, tách múi, lột lớp cùi trắng, thái nhỏ vỏ bưởi rồi cho vào nồi luộc…

Khâu chuẩn bị thật sự tỉ mỉ, bận bịu cả buổi chiều mà còn chưa đến giai đoạn nấu. Hai người ngồi trước quầy bếp, vẫn đang cẩn thận tách từng sợi xơ trắng và hạt khỏi múi bưởi.

Uông Tễ nghiêm túc làm việc, còn Phù Tô thì cứ làm một nửa, ăn một nửa. Không khí thoang thoảng vị chua nhẹ của múi bưởi tươi vừa cắn.

“Bảo sao chú kia nói cháu gái chú không thích ăn bưởi nhà trồng. Chua thế này, trẻ con ăn nhiều chắc rụng răng mất.”

Loại bưởi này là bưởi đỏ truyền thống, nhiều nước nhưng không ngọt.

“Vậy mà anh ăn nhiều thế?”

“Răng tôi khỏe.” Phù Tô lại bẻ thêm một miếng bỏ vào miệng.

Chuông báo thức trên điện thoại reo. Uông Tễ đứng dậy, vận động tại chỗ vài động tác. Phù Tô vừa nhai nốt miếng bưởi vừa đứng lên đi theo anh.

“Mai chạy xe xuống bệnh viện khám đi.” Hắn nói.

“Không sao.” Uông Tễ xoa xoa chỗ thắt lưng, “Chắc mấy ngày nay ngồi lâu trên ghế sofa, ít vận động quá.”

Đau lưng do ngồi làm việc nhiều, không chú ý là tái phát, nhưng không nghiêm trọng. Dân văn phòng giờ ai cũng đau cột sống, đau cổ vai gáy, đến bệnh viện khám mà bác sĩ đôi khi chỉ dặn dò vài câu rồi cho về.

Trong tủ thuốc có miếng dán giảm đau, hôm qua đi trạm y tế xã anh đã mua sẵn. Phù Tô đi tới lấy ra một miếng.

“Cởi áo ra.” Hắn xé bao bì, ngón tay gõ nhẹ lên áo len của Uông Tễ.

Dưới lớp áo len còn một cái áo khác, vạt áo nhét trong quần. Uông Tễ dùng một tay kéo áo ra.

Mặc nhiều lớp quá. Phù Tô ấn nhẹ ngón tay lên lưng anh, không dán ngay mà rà qua một lượt, lòng bàn tay lướt qua, hỏi: “Chỗ này phải không?”

Trong nhà ấm áp, tay hắn cũng không lạnh, nhưng khi chạm vào, Uông Tễ vẫn thấy hơi ngại ngùng: “…Ừm.”

Phù Tô rút tay lại, dán miếng thuốc lên, ngón tay miết nhẹ để thuốc bám chắc hơn.

“Xong rồi.” Hắn nói.

Uông Tễ thả áo len xuống, chỉnh lại lớp áo trong, cẩn thận nhét vạt áo vào quần.

Mùi thuốc bốc lên, Phù Tô rút khăn ướt lau tay, rồi trở lại ngồi ở quầy bếp:

“Thiệt chứ, trẻ vậy mà lưng đã yếu rồi…”

“Nè,” Uông Tễ ngẩng đầu, tay giữ cạp quần, “tôi cảnh cáo nha, nói năng cho cẩn thận, đừng có mà bừa bãi.”

Phù Tô tựa vào quầy, chống tay lên thái dương, khẽ cười nhìn anh.

“Được rồi, tôi sai.” Ánh mắt hắn lướt qua đoạn eo lộ ra của Uông Tễ, cười mỉm: “Lưng cậu cũng đâu đến nỗi tệ.”

Không nói lưng có tốt không, chỉ biết dáng người thì rất ổn.

Đến khi cả bàn đầy múi bưởi đã được bóc sạch, trời bên ngoài cũng tối hẳn.

“Ăn cơm xong rồi nấu trà sau.” Uông Tễ đề nghị.

Bữa tối rất đơn giản. Hôm trước anh nấu mỡ lợn, còn thừa một nồi tóp mỡ. Uông Tễ băm cà rốt, thái khoai lang và bắp cải nhỏ, trộn làm nhân, gói thành bánh bao và há cảo, nhét đầy ngăn đông tủ lạnh.

“Tối nay ăn bánh bao hay ăn há cảo?”

“Bánh bao đi, há cảo ăn mệt lắm.” Phù Tô chống tay lên bếp, lười biếng trả lời.

Miệng thì không ngừng ăn, nhưng tay thì mỏi.

“Một lần anh ăn đến bốn chục cái, không mệt mới lạ.” Uông Tễ vừa nói vừa đổ nước vào nồi hấp.

Phù Tô mở tủ lạnh, lấy bánh bao ra. Ngăn đông toàn túi bảo quản, bánh bao hay há cảo đều được chia phần sẵn đủ cho hai người ăn một bữa.

“Đổi qua nhân chay thì chỉ ăn được hai chục cái.”

“Anh thật nên ra ngoài Bắc,” Uông Tễ vừa thao tác trên điện thoại vừa nói, “Nghe nói ở đó há cảo cân ký bán, nhân thì đầy ú ụ, anh ăn chắc vừa một mâm.”

“Mâm gì?” Phù Tô đặt bánh bao vào nồi hấp.

Uông Tễ tìm hình trên mạng, đưa điện thoại cho hắn xem: “Mâm này đây. Há cảo luộc xong có vân của mâm in lên, nhìn cũng đẹp mắt.”

Há cảo bên này thường gói dài, dẹt, không tròn trịa, mũm mĩm như vậy.

Phù Tô xem hình, tỏ vẻ hứng thú. Ở trong núi lâu quá, hắn nói: “Vậy khi nào rảnh mình làm chuyến đi thử xem.”

Đối diện với cách nói như thể “chúng ta” của Phù Tô, Uông Tễ thoáng dừng lại một chút, sau đó lựa chọn im lặng.

“Chẳng lẽ cậu để tôi đi một mình sao?” Phù Tô liếc nhìn anh.

Là một người trưởng thành, hơn nữa còn là một người trưởng thành rủng rỉnh tiền bạc, Uông Tễ bình thản nhìn lại hắn: “Chẳng lẽ anh không đi một mình được, còn cần người hộ tống à?”

“À,” Phù Tô thật sự gật đầu, “nhỡ tôi phát bệnh thì sao? Một mình ở chỗ xa lạ không ai quen biết cả.”

Uông Tễ không vui khi nghe kiểu nói này: “Nói chuyện đừng xui xẻo vậy được không?”

Phù Tô cười nhạt: “Nên tôi mới nói là ‘nhỡ đâu’ mà.”

Bánh bao được xếp gọn gàng trong xửng hấp. Uông Tễ bật bếp, vừa quay núm lửa vừa nói: “Trước đây anh đi xa một mình bao lần rồi, có lần nào xảy ra chuyện gì đâu. Nói những lời đó chỉ tổ gở miệng thôi. Anh là dân ABC, chắc chẳng hiểu.”

Phù Tô khựng lại vài giây, sau đó nhướn mày, vẻ mặt đầy hứng thú: “Vậy hả? Trước đây tôi đã đi xa một mình như thế nào?”

Uông Tễ chậm rãi quay đầu nhìn hắn.

Hai người nhìn nhau, không ai nói gì.

Một lúc sau, Uông Tễ mới cất tiếng: “Không phải anh từ Canada chạy về đây à?”

Từ lúc trở về từ Hàng Châu, Uông Tễ đã lén xem toàn bộ tài khoản Instagram của Phù Tô, từ những bài đăng đầu tiên đến giờ. Tài khoản được lập cách đây vài năm, bức ảnh đầu tiên chụp tại sân bay. Sau đó, hắn đã đi qua châu Âu và Bắc Mỹ, thậm chí trở về Trung Quốc, từng tham dự một triển lãm giống như nhiếp ảnh gia mà họ quen biết từng nhắc đến. Cũng vào mùa thu đó, Phù Tô đã đứng ở công viên Cảnh Sơn chụp bức ảnh mặt trời lặn sau Tử Cấm Thành.

Trong lòng Uông Tễ vừa hồi hộp vừa dè chừng, sợ rằng việc mình biết tài khoản của hắn sẽ bị phát hiện.

Nhưng Phù Tô dường như bị câu nói của anh qua loa ứng phó khiến phân tâm, chỉ gật đầu: “Cũng đúng.”

Uông Tễ vừa thở phào nhẹ nhõm, Phù Tô lại nói thêm: “Thôi bỏ qua chuyện Đông Bắc trước đã. Nhưng còn vụ Hoàng Sơn, cậu hứa với tôi rồi, không định quỵt đâu nhỉ?”

Hoàng Sơn?

Trong cơn căng thẳng, Uông Tễ cố nhớ lại. Hình như lúc đi Hàng Châu anh từng nói với hắn, sẽ dẫn hắn đi thử món đậu phụ mốc nổi tiếng của vùng đó.

“Được, có dịp sẽ đưa anh đi.” Anh gật đầu nhận lời, chỉ cần qua được tình huống này thì đi núi nào cũng không thành vấn đề.

Hơi nước bốc lên từ xửng bánh bao. Phù Tô rửa rau sạch sẽ, bắt đầu trộn salad.

Hắn ăn uống không kiêng cữ gì, có chi thì ăn nấy. Từ lúc dùng bữa cùng Uông Tễ, món dầu mỡ, cay, mặn, chiên xào đều không hề kén chọn. Chỉ duy nhất giữ thói quen là mỗi ngày phải ăn một tô đầy rau xanh. Uông Tễ sống chung lâu ngày, dần dà cũng quen với cách ăn này.

Bánh bao mềm xốp, cắn một miếng là ngập tràn hương vị. Nhân bên trong, cải bắp và cà rốt hòa quyện, làm giảm bớt vị ngậy của tóp mỡ. Miến khoai lang thái nhỏ thêm vào lại khiến nhân có chút dẻo bùi.

Uông Tễ thưởng thức tài nghệ nấu ăn của mình, không kìm được mà khen: “Nghỉ ngơi vài năm nữa, tôi mở cái tiệm nhỏ dưới thị trấn. Biết đâu làm được một sự nghiệp mới cũng nên!”

Phù Tô nuốt xong miếng bánh bao, mặt mũi đầy kích động, đáp lại: “Nhân là tôi trộn mà. Lỡ đâu sau này cậu thuê tôi làm phụ bếp, người nhà, làm thì yên tâm!”

Uông Tễ chỉ mải nhai bánh, chẳng buồn trả lời. Anh không thích nói về “chuyện sau này” với Phù Tô. Hễ nghe đến hai chữ đó, anh hoặc là đổi chủ đề, hoặc là im lặng.

Cuộc đời giống như một dòng sông dài, nhưng ký ức thì không.

Thời gian quả thật kỳ diệu. Nó nhẹ nhàng xóa nhòa những ngày tháng bình lặng, chỉ chừa lại vài khoảnh khắc đáng nhớ – hoặc là sáng ngời, hoặc là đau đớn. Vì vậy, ký ức chỉ là những mảnh ghép vụn vặt.

Từ khi Uông Tễ quay về đây, ngay khoảnh khắc anh bước chân lên ngọn núi này, qua làn sương mờ ảo của mùa xuân mà nhìn thấy căn nhà nhỏ đằng xa, thì Phù Tô đã là một phần trong đoạn ký ức này của anh.

Nhưng cũng chỉ là “đoạn” này mà thôi.

Với Uông Tễ, đoạn đời này rất quan trọng. Nhưng lý trí mách bảo rằng với Phù Tô, đây có thể chỉ là một đoạn ngắn ngủi, nhẹ nhàng. Nhẹ đến mức giống như những bức ảnh hắn chụp – dù có yêu thích hay tán dương thế nào, thì khoảnh khắc máy ảnh bấm nút, hình ảnh đã hóa thành vĩnh hằng. Sau khi đóng ống kính, hắn sẽ buông máy xuống mà rời đi.

Nghĩ đến đây, miếng bánh bao trong miệng suýt làm Uông Tễ nghẹn. Nhưng thôi, bánh vẫn ngon mà.

Nhìn vào ánh mắt của Phù Tô, Uông Tễ đáp qua loa: “Để sau nói đi.”

Phù Tô không vội, ngón tay vô thức gõ nhịp lên bàn, chậm rãi. Đến khi Uông Tễ chú ý, ngước mắt nhìn qua, hắn mới dừng lại. Sau đó, chẳng nói chẳng rằng, hắn xiên miếng salad đưa vào miệng.

Bữa tối xong, cả hai bắt tay nấu trà bưởi.

Nồi đất đổ đầy nước lọc, cho vào phần múi bưởi đã tách nhỏ, ít vỏ bưởi thái sợi và hai viên đường phèn. Đầu tiên đun lửa lớn đến sôi, rồi hạ nhỏ lửa, nấu liu riu đến khi nước sệt lại.

Nấu một nồi trà bưởi đòi hỏi sự kiên nhẫn vô cùng.

Ban đầu, nước trong nồi còn nhiều, không lo bị khê. Uông Tễ bỏ chiếc muôi sang một bên, tựa vào bàn đảo bếp nghỉ ngơi.

Phù Tô đi xuống sân cho chó ăn. Khi con chó quay về, vừa ăn hạt vừa phấn khích sủa vài tiếng. Trời lạnh, đôi khi Phù Tô mở thêm một hộp đồ ăn cho nó. Con chó thích lắm, vừa ăn vừa nũng nịu, một bữa cho ăn kéo dài cả chục phút.

Uông Tễ cảm thấy mệt mỏi, nằm úp mặt lên bàn đảo, nhắm mắt.

Không rõ mệt ở đâu, chỉ biết là lòng anh nặng nề.

Mặt bàn đá khá cứng, xương sườn anh chạm mép, đau ê ẩm.

Biết dịch qua chút sẽ bớt đau, nhưng Uông Tễ không muốn nhúc nhích. Mệt mỏi làm anh thấy lười, mặc kệ, dù đau vẫn chẳng buồn cử động.

Nằm như thế một lát, anh cảm giác mình như đã ngủ. Nhưng thật ra không ngủ, vì ý thức vẫn biết mình tỉnh, chỉ là đầu óc trống rỗng, hồn như bay bổng ở ngoài thân thể – một cảm giác kỳ lạ khó diễn tả.

Bình thường, anh kiểm soát rất tốt khoảng thời gian này. Nhưng hôm nay, mọi thứ như trật nhịp, không rõ đã qua năm phút, hay mười phút?

Nghĩ bụng, chắc Phù Tô sắp lên rồi. Xương sườn bắt đầu đau hơn, Uông Tễ chống tay ngồi dậy, nhưng lập tức sững sờ.

Dưới ánh đèn, Phù Tô nghiêng người dựa vào khung cửa, không biết đã đứng đó từ khi nào.

“…Gặp người yếu tim chắc bị anh dọa chết khiếp luôn rồi đó.” Uông Tễ lẩm bẩm.

Có vẻ hôm nay không chỉ lệch thời gian. Anh thả hồn quá xa. Đến cả bước chân của Phù Tô khi lên cầu thang, anh cũng chẳng hề nghe thấy.

“Cứ nghĩ cậu ngủ rồi.” Phù Tô lên tiếng.

“Không có.”

“Vậy nằm bò ra làm gì?” Phù Tô bước lại gần quầy bếp.

Vừa thấy hắn đến, Uông Tễ đứng bật dậy, hoàn toàn là phản xạ vô thức.

“Có phải chơi bập bênh đâu.” Phù Tô thở dài.

Uông Tễ nói: “Tôi đứng lên xem nồi trà bưởi có bị cháy không.”

Còn lâu mới cháy, nước trong nồi vẫn chưa cạn, nhưng Uông Tễ vẫn cầm lấy muỗng gỗ khuấy vài cái, trông bận rộn ra trò.

“Uông Tễ.” Phù Tô nhẹ nhàng gõ đầu ngón tay lên bàn.

Rất ít khi hắn gọi tên đầy đủ của Uông Tễ như vậy.

Uông Tễ quay đầu lại.

Phù Tô nói: “Mình nói chuyện một chút đi.”

“Nói chuyện một chút” và “nói chuyện phiếm” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

Trong mắt Uông Tễ, khi ai đó muốn “nói chuyện phiếm” với bạn, đó là một kiểu tự nhiên, không có mục đích cụ thể, có thể bắt đầu từ chuyện hôm nay trời đẹp đến kế hoạch ăn chân giò vào tối mai.

Nhưng khi một người đề nghị “nói chuyện một chút”, thì chắc chắn là họ nhắm đến một chủ đề nhất định.

Khoảnh khắc đó, Uông Tễ gần như hiểu ra Phù Tô muốn nhắm đến điều gì.

Anh nắm chặt tay, không thể kiểm soát được cảm giác hồi hộp.

Gió thổi, cây ngoài cửa sổ bếp xào xạc rung động. Trong nồi trà bưởi đang sôi lăn tăn, tỏa ra một mùi thơm thanh dịu pha lẫn chút vị đắng chát.

Trên quầy bếp đặt một chiếc cốc sứ, ngón tay Uông Tễ khẽ lướt qua quai cốc: “Nói gì đây?”

“Nói về những nơi tôi đã đi qua một mình.”

Phù Tô đi thẳng vào vấn đề, ánh mắt hắn chân thành: “Cậu đã thấy tài khoản của tôi đúng không?”

Uông Tễ siết chặt chiếc cốc trong tay: “…Ừm.”

“Tôi không cố ý…” Anh lúng túng tìm cách giải thích, nhưng chỉ vừa nói được nửa câu đã bị Phù Tô nhẹ nhàng ngắt lời.

“Không cần giải thích chuyện đó.” Phù Tô nhìn anh, giọng điềm tĩnh: “Cậu đã xem rồi, vậy có gì muốn hỏi tôi không?”

Không hiểu sao, ngay khi Phù Tô nói ra câu đó, cảm giác căng thẳng trong lòng Uông Tễ bỗng chùng xuống một nửa. Như một tấm kính vỡ nứt, thoạt đầu khiến người ta hoang mang, nhưng khi nó hoàn toàn tan tành, lại mang đến một sự nhẹ nhõm kỳ lạ.

Uông Tễ buông tay khỏi chiếc cốc, ngẩng đầu lên. Anh là một người trưởng thành, giữa những người trưởng thành, khi nhắc đến tình cảm, dù là chủ động hay bị động, đều cần có sự cân bằng.

Anh nói: “Tôi nên hỏi, hay nên chất vấn?”

Phù Tô bật cười, hắn hơi nghiêng người về phía trước, bàn tay đặt hờ trên mặt bàn cũng khẽ dịch chuyển, chỉ còn cách ngón tay Uông Tễ một chút: “Cái nào cũng được, nhưng tôi mong không phải vế sau.”

Hai người đều biết rõ câu hỏi cần đặt ra là gì, nhưng Uông Tễ bất ngờ chuyển hướng: “Tôi quay về đây, lý do thì anh biết rồi.”

Phù Tô gật đầu.

Họ ít khi nhắc về quá khứ, nhưng những lời nói vụn vặt trong các cuộc trò chuyện đủ để hắn hiểu về quãng đời đơn giản của Uông Tễ.

“Còn anh thì sao?” Uông Tễ hỏi, “Muốn công bằng, thì anh không được làm người bí ẩn mãi.”

Phù Tô mỉm cười: “Không có gì bí ẩn đâu.”

Có những chuyện không nói ra không phải vì không thể, mà chỉ là chưa tìm được cơ hội thích hợp.

Bài đăng thứ hai trên tài khoản của Phù Tô xuất hiện vào mùa đông bốn năm trước, cách bài đăng đầu tiên chỉ hai ngày.

Khung cảnh tĩnh lặng của một hồ băng trên núi tuyết, Mộng Liên Hồ phủ kín băng giá, thế giới trong ống kính như chìm vào giấc ngủ đông vĩnh cửu.

Phù Tô hồi tưởng: “Năm đó đầu năm tôi bị bệnh, sau đó phải điều trị liên tục. Tài khoản này được lập khi bệnh tình đã có dấu hiệu cải thiện.”

Bốn năm trước, sau một chuyến công tác dài ngày, Phù Tô bắt đầu sốt nhẹ.

Dự án trong tay đã gần hoàn thành, mà những năm ấy hắn tập trung toàn lực vào công việc, tuyệt đối không để chuyện cá nhân làm trễ tiến độ. Vì vậy, hắn uống thuốc hạ sốt, cố gắng cầm cự. Đợi dự án kết thúc, thậm chí chưa kịp tham gia tiệc mừng, hắn đã được trợ lý chở thẳng đến bệnh viện.

Sốt nhẹ chuyển thành sốt cao, Phù Tô phải nằm viện nửa tuần. Công việc ùn ứ không ngừng, hắn bỏ qua lời khuyên của bác sĩ, quyết định xuất viện sớm.

Mọi người khi đó đều nghĩ rằng cơn bệnh bất ngờ này chỉ là một điểm dừng nhỏ trên con đường bằng phẳng của hắn. Xét cho cùng, Phù Tô chăm tập thể dục, ăn uống điều độ, báo cáo sức khỏe hàng năm luôn thuộc hàng lý tưởng.

Thế nhưng, vài ngày sau, vào một buổi sáng, sau khi chịu đựng cơn đau ở thái dương suốt cả đêm, hắn bắt đầu bị ù tai ở cả hai bên.

Ban đầu, hắn vẫn cố gắng đến công ty. Nhưng trong một cuộc họp định kỳ hàng tháng, giữa những tòa nhà chọc trời, Phù Tô ngồi trên ghế, dáng vẻ chỉnh tề trong bộ vest may đo vừa vặn. Hắn trẻ tuổi như vậy, đã vươn lên đến trung tâm tài chính thế giới. Thế nhưng, khi cố gắng chịu đựng cơn ù tai quen thuộc, hắn chợt nhận ra thế giới xung quanh mình bỗng chốc như bị tắt âm.

Có những căn bệnh khó lòng lý giải, như thể định mệnh muốn can thiệp. Sau hơn hai mươi năm sống một cuộc đời thuận buồm xuôi gió, cuối cùng định mệnh cũng trao cho Phù Tô một phép thử đầy khắc nghiệt để nhấn mạnh sự công bằng.

Bị chẩn đoán mắc chứng điếc thần kinh đột ngột, chỉ trong hai tuần ngắn ngủi, tình trạng của hắn diễn biến từ ù tai, ảo thính, đến mất thính lực nhanh chóng, buộc phải dùng máy trợ thính.

“Rồi tôi nghỉ việc, quay về Canada.” Phù Tô kể lại bằng giọng điềm tĩnh.

Bệnh tình không thể giấu được nữa, ba mẹ hắn vội vàng bay sang Mỹ khuyên hắn từ bỏ công việc để về nhà. Sau khi trở lại Toronto, họ gần như tìm đến tất cả các bác sĩ tư ở đó, thậm chí cả những thầy thuốc Đông y trong cộng đồng người Hoa.

Hỏi về nguyên nhân, bác sĩ nói có thể là do áp lực công việc, thiếu nghỉ ngơi, hoặc trạng thái tâm lý. Nhưng chẳng ai có thể đưa ra lời giải thích thỏa đáng. Hỏi về khả năng hồi phục, họ chỉ ngập ngừng đáp rằng cơ hội là rất mong manh.

Từ đỉnh cao rơi xuống vực sâu, đó là khoảng thời gian đen tối nhất trong cuộc đời Phù Tô. Cách hắn lớn lên và được giáo dục đã khiến hắn quen với việc kiểm soát mọi thứ. Lần đầu tiên, hắn chẳng thể làm được gì ngoài phối hợp với bác sĩ, bám víu vào tia hy vọng mong manh rằng căn bệnh này sẽ chữa được.

“Nhưng tôi vẫn còn may mắn.” Nói đến đây, Phù Tô khẽ mỉm cười với Uông Tễ.

Sau một thời gian dài điều trị, trước khi mùa đông đến, bệnh tình vốn nghiêm trọng của hắn đã có những tiến triển tốt không ngờ.

Nhưng Uông Tễ biết mọi chuyện chưa phải đã kết thúc. Tài khoản của Phù Tô đăng bài đều đặn suốt hai năm, nhưng bất ngờ ngừng lại vào năm ngoái. Anh cũng nhớ rõ lúc mới quen, Phù Tô từng giải thích về vấn đề thính lực: “Sau khi điều trị, bệnh tình có cải thiện, nhưng năm ngoái lại trở nặng.”

Năm ngoái bệnh trở nặng, và nửa cuối năm hắn xuất hiện ở Vân Lĩnh.

“Giữa chừng đã xảy ra chuyện gì sao?”

Phù Tô nói: “Chắc tôi chưa kể, ba tôi có một công ty ở Canada, tôi còn có một người em trai.”

Chỉ với hai câu nói ngắn gọn, trong đầu Uông Tễ lập tức hiện lên vô số tình tiết ly kỳ thường thấy trong phim truyền hình.

Thấy Phù Tô không có vẻ gì nặng nề, anh đùa: “Anh tranh gia sản thất bại, bị đày đến đây hả?”

Phù Tô cười nhạt: “Cũng gần như vậy.”

Ba của Phù Tô, Phù Lãng, trước đây làm trong lĩnh vực đầu tư vốn tư nhân, sau đó thành lập công ty riêng, mở rộng sang lĩnh vực hạ tầng và bất động sản.

Em trai hắn, Phù Minh, kém hắn bốn tuổi. Ba hắn dành phần lớn thời gian cho công việc, mẹ sau khi sinh Phù Minh được nửa năm đã quay lại trường cũ để giảng dạy. Bận rộn là vậy, người lớn ít khi ở nhà, nên Phù Minh lớn lên dưới sự đồng hành của anh trai.

“Thế sao lại…” Uông Tễ ngập ngừng.

Phù Tô đáp: “Có lẽ chính vì thế mà tôi quá khắt khe với nó.” Sau khi ngẫm nghĩ rất lâu, hắn mới chọn từ “khắt khe” để miêu tả.

Ngày ấy, sau khi tốt nghiệp, Phù Tô quyết định ở lại Mỹ, vào làm tại một ngân hàng đầu tư. Vài năm sau, Phù Minh ra trường, trở về Canada, làm trong công ty gia đình. Những năm đó, Phù Tô bận rộn với công việc, chỉ thỉnh thoảng về Canada để đoàn tụ gia đình. Trong những lần ấy, Phù Lãng thường kể hắn nghe về tình hình của Phù Minh trong công ty, tốt hay xấu, hắn đều thẳng thắn nói rõ ngay trước mặt em trai.

Điều này khiến mẹ thường kín đáo nhắc hắn rằng, dường như Phù Minh sợ anh trai mình còn hơn sợ ba mẹ.

Lúc đó, Phù Tô chỉ coi lời mẹ là câu đùa. Anh cả như cha, hắn đã đồng hành cùng Phù Minh từ những ngày thơ bé. Hắn là người chứng kiến những bước đi đầu tiên, lần đầu chạy, cũng là người dạy em cưỡi ngựa, leo núi.

Hắn đã dồn không biết bao nhiêu thời gian, tâm sức và tình cảm cho người em trai này. Nếu nói có một phần sợ hãi, thì hắn tin rằng chín phần còn lại là sự tin cậy và phụ thuộc.

Sau khi bệnh tình thuyên giảm, sức khỏe Phù Tô không còn phù hợp để quay lại ngân hàng đầu tư. Hai năm đó, hắn chủ yếu dưỡng bệnh, đồng thời đi du lịch một mình để thư giãn.

Phù Lãng lúc này cũng đã có tuổi, nên sau vài lần được ba thuyết phục, Phù Tô bắt đầu tiếp xúc với công việc của công ty.

Mâu thuẫn bùng nổ vào đầu năm ngoái, khi Phù Minh do sai lầm trong phán đoán và quyết định đã khiến dự án bị đình trệ, chi nhánh rơi vào khủng hoảng, kéo theo cả tổng công ty gặp khó khăn trong việc xoay vòng vốn.

“Chạy theo lợi ích trước mắt.” Lúc đó, gương mặt Phù Tô lạnh lùng, chỉ buông ra bốn chữ ngắn gọn trong buổi họp.

Trong mắt hắn, sai lầm trong phán đoán là điều có thể thông cảm, nhưng vấn đề lớn nhất lại nằm ở tâm lý của Phù Minh.

Không ai ngờ rằng, chính bốn chữ này lại khiến Phù Minh phản ứng dữ dội đến vậy.

Không ai trong số họ biết rằng, trong thế giới của Phù Minh, anh trai cậu là mặt trời chói chang luôn treo trên đỉnh đầu. Suốt hơn hai mươi năm, cậu sống dưới ánh sáng rực rỡ ấy, cảm giác bức bối, bất an, như thể bất cứ lúc nào mình cũng sẽ bị thiêu cháy.

Khi bị quở trách, cậu nhìn ánh mắt lạnh lẽo, sắc bén mà anh trai hướng về phía mình — ánh mắt đó, hàng chục năm qua chưa từng thay đổi, luôn đứng trên cao mà nhìn xuống.

Và chính khoảnh khắc ấy, những cảm xúc phức tạp bị đè nén trong lòng Phù Minh suốt hàng chục năm qua đã khiến cậu mất kiểm soát, không màng gì nữa mà xé toang lớp mặt nạ anh em hòa thuận.

Khung cảnh khi đó, Phù Tô đã hồi tưởng lại vô số lần. Điều khiến hắn ấn tượng nhất là khoảnh khắc cuối cùng của ngày hôm ấy, khi trong mắt Phù Minh ánh lên một vẻ tối tăm, nửa như cười nửa như không, cậu nói: “Dạo gần đây, em cứ nghĩ mãi, thậm chí mơ cũng nghĩ… Nếu bệnh của anh không khỏi thì tốt biết mấy…”

Câu nói đó chưa kịp kết thúc thì bị Phù Tô cắt ngang: “Phù Minh, anh cho em cơ hội, rút lại lời này.”

Sau hơn một năm rơi xuống đáy vực, câu nói như vậy tuyệt đối không nên, cũng không thể xuất phát từ miệng người thân nhất của cậu.

Phù Tô dùng ánh mắt lạnh đến tận xương để ép Phù Minh im lặng. Nhưng câu nói dang dở ấy của em trai, ý tứ cũng đã quá rõ ràng.

Chấn động, giận dữ, đau lòng — những cảm xúc dồn dập khiến bệnh tình vốn chưa hoàn toàn ổn định của Phù Tô tái phát ngay tại chỗ.

Ngoài cửa sổ, gió thổi cuốn lá khô. Đêm cuối thu lạnh lẽo, trong căn phòng, bầu không khí rơi vào im lặng ngột ngạt.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 35: Làm một người nhàn hạ



Vào lần chứng kiến Phù Tô phát bệnh, Uông Tễ đã thấy hắn mất đi thính lực, sốt cao liên tục nhiều ngày, không kiểm soát được mà nôn mửa. Ngay cả khi nhắm mắt, gân xanh nơi thái dương cũng nổi rõ. Cuộc đời của Phù Tô trước khi bệnh tật có lẽ chưa từng có lúc nào thê thảm đến thế.

Khi trong lòng anh vẫn chưa nảy sinh tình cảm gì đặc biệt với hắn, chỉ xem hắn như một người bạn bình thường, chứng kiến bộ dạng này cũng đủ khiến anh thấy xót xa. Ngay cả thím Uông sau khi hắn mắc bệnh cũng thường xuyên đến tặng vịt, tặng gà, khuôn mặt đầy vẻ thương tiếc.

Anh không thể hình dung nổi, một người được Phù Tô đồng hành lớn lên như Phù Minh, làm sao lại có thể thốt ra những lời nói như vậy. Cũng không thể tưởng tượng nổi tâm trạng của Phù Tô khi nghe thấy chúng.

Uông Tễ cúi mắt, chớp nhanh để kiềm lại dòng suy nghĩ.

Một lúc lâu sau, Phù Tô mới lên tiếng: “Chuyện đó xảy ra từ đầu năm ngoái. Sau khi xuất viện lần nữa, tôi không biết phải đối mặt với ba mẹ thế nào, càng không biết phải đối mặt với Phù Minh ra sao, nên đành chọn cách trốn tránh.”

Đúng sai thì dễ nhận định, nhưng đối mặt với máu mủ ruột thịt, ai có thể nói rõ ràng được chứ?

Không muốn nhìn thấy ánh mắt đầy giằng xé và đau lòng của cha mẹ thêm nữa, cộng với việc bác sĩ nhiều lần khuyên hắn nên nghỉ ngơi và giữ tâm trạng ổn định, Phù Tô quyết định rời Canada không lâu sau khi xuất viện.

Không còn giống những lần trước, xách máy quay đi khắp nơi để tìm sự thư thái. Sau hàng loạt chuyện xảy ra trong mấy năm nay, hắn rối bời và kiệt quệ cả về thể xác lẫn tinh thần, chỉ muốn buông bỏ mọi thứ để nghỉ ngơi thực sự.

Khi Phù Lang hỏi hắn muốn đi đâu, ánh mắt hắn lướt qua bàn làm việc của ba mình. Trên đó là một bức ảnh cũ đã được cất giữ bao nhiêu năm. Trong ảnh là núi rừng quê nhà mà Phù Lang đã nhiều lần nhắc đến với ánh mắt đầy lưu luyến.

Vì vậy, một câu trả lời bất chợt, đã đưa hắn về chốn quen thuộc của tuổi thơ.

Trong nồi đất, nước từ quả bưởi dần cạn lại.

Uông Tễ đứng dậy, ánh mắt Phù Tô cũng theo sát từng động tác của anh.

Hắn nhìn chiếc áo len mềm mại của anh vì xắn tay áo mà tạo thành những nếp gấp trên cánh tay. Nhìn anh cầm lấy chiếc muôi gỗ, khuấy đều phần thịt quả đã sệt lại trong nồi.

Uông Tễ cầm muôi, hỏi: “Bây giờ anh còn giận không?”

Phù Tô không do dự mà lắc đầu, cả người hắn ngập trong ánh sáng dịu dàng của ngọn đèn: “Cảm giác hơi phức tạp, nhưng không giận nhiều nữa.”

Sau chuyện đó, hắn đã suy nghĩ rất nhiều. Có lẽ, đôi khi sự quan tâm cũng đồng nghĩa với sự kiểm soát. Sự gần gũi mà hắn tự cho là đúng, lại được thể hiện bằng sự nghiêm khắc không đúng lúc.

Hắn tự trách: “Trước đây, đúng là tôi quá lạnh lùng, không biết nghĩ cho người khác.”

Uông Tễ nhìn hắn qua làn hơi nóng còn sót lại từ chiếc nồi, ánh mắt bình thản nhưng sâu lắng.

Phù Tô nói: “Đồng nghiệp hay bạn bè xung quanh, ai cũng từng nhắc nhở tôi, hồi đó tôi không để ý, nhưng giờ thì đã sửa đổi rồi.”

Uông Tễ bật cười nhè nhẹ.

Dẫu một người có thay đổi đến đâu, bản chất tính cách cũng khó lòng đổi thay.

Vậy nên, cho dù Phù Tô bây giờ trông thật bình thản, dễ gần, anh vẫn cảm nhận được ngay từ lần đầu trò chuyện rằng dưới vẻ ngoài ôn hòa ấy là một bản chất mạnh mẽ, đầy kiên định.

Chỉ là không biết có lạnh lùng quá không… Uông Tễ khẽ nhếch môi: “Vậy hồi trước anh khó chịu đến mức nào mà ai cũng nhắc?”

Phù Tô gật đầu, thẳng thắn: “Ừm, thiệt ra cũng…” Hắn ngừng vài giây, rồi bật cười, giọng nhẹ nhàng pha chút bông đùa: “Cũng khó chịu lắm. May mà cậu không gặp tôi lúc đó, không thôi chắc ghét tôi muốn chết luôn rồi.”

Uông Tễ nhìn lại nồi thịt bưởi đang sôi trong bếp: “Vậy hả?”

Anh chợt nhớ đến lần mình vô tình lướt qua tài khoản mạng xã hội của Phù Tô, vào xem trang cá nhân của một đồng nghiệp cũ của hắn. Ở đó, anh thấy một bức ảnh chụp tập thể tại buổi họp cuối năm.

Khung cảnh tràn ngập mùi hương nước hoa, những bộ vest được là phẳng phiu. Giữa chốn tài chính hoa lệ ấy, dù không kém phần hào nhoáng, vẫn toát lên vẻ nghiêm túc bề ngoài.

Trong bức hình, Phù Tô ngồi chính giữa, dáng vẻ thẳng tắp trong bộ vest, khuôn mặt không chút biểu cảm. Ánh mắt hắn còn lạnh lùng, sắc bén hơn cả ánh thủy tinh long lanh trong ly rượu đang cầm trên tay. Chiếc đồng hồ sang trọng trên cổ tay nhắc nhở về giá trị thời gian đắt đỏ của hắn. Một người như vậy, hẳn sẽ chẳng bao giờ dành cả ngày để nấu một hũ trà bưởi rẻ tiền.

Ghét sao?

Hơi nóng từ nồi thịt bưởi bốc lên, từ chiều đến giờ chỉ còn một bước cuối cùng – để nguội rồi cho thêm mật ong. Sau đó, hũ trà bưởi tự làm sẽ có màu cam đỏ trong vắt, lấp lánh như pha lê.

Ngày mai, chỉ cần lấy một muỗng hòa vào nước ấm, hương bưởi thơm ngọt, vị mật ong dịu dàng sẽ hòa quyện với làn gió se lạnh bên khung cửa. Đó chính là hương vị của cuối thu.

Ngay lúc này, giọng Uông Tễ thoáng nhẹ vang lên, bình thản như mặt nước: “Không đâu, chắc tôi vẫn sẽ thích anh thôi.”

Chẳng hiểu sao lại nói ra như vậy.

Không gian thoáng chốc trở nên im lặng, cổ họng anh khô khốc vì căng thẳng.

Mình run à? Uông Tễ nhìn cây muỗng gỗ trong tay khẽ rung, rồi buông ra.

Chắc giờ mình nên quay đầu… nhỉ?

Quay đầu nói gì? Không biết.

Nhưng cái người đối diện sao lại không nói gì hết?

Uông Tễ xoay lại, ngẩng đầu nhìn.

Phù Tô vẫn ngồi ở quầy bếp, ánh đèn trong căn bếp khiến bầu không khí mùa thu ngoài kia càng thêm ấm áp. Dưới ánh sáng, đôi chân mày cao của hắn ánh lên đường nét góc cạnh, nhưng vẻ mặt lại mềm mại đến lạ.

Uông Tễ nói: “Đừng giả vờ không biết.”

Phù Tô cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui, thậm chí còn xen chút thỏa mãn, nhưng chẳng có gì bất ngờ.

Uông Tễ lại nói: “Không phải anh luôn ‘nấu ếch trong nước ấm’ hay sao?”

Phù Tô cười càng tươi, như ánh trăng nhẹ nhàng chiếu l*n đ*nh núi, đổ bóng xuống mặt hồ tĩnh lặng.

“Nghe được điều mình muốn nghe rồi, chắc cũng chẳng thấy bất ngờ chút nào ha.” Uông Tễ bước tới, ngồi xuống đối diện hắn. Hai đầu gối gần như chạm nhau.

Vốn dĩ, anh là người cẩn trọng. Việc bỗng nhiên thích một người đàn ông, lại là một người không đơn giản như Phù Tô, khiến anh chẳng dám đối mặt. Cảm giác bối rối này kéo dài suốt một thời gian.

Nhưng Phù Tô lại nhìn anh rõ ràng đến vậy. Trước ranh giới mong manh giữa cả hai, hắn luôn giữ bình tĩnh, kiên nhẫn chờ đợi, như thể dẫn dắt anh tự mình nhận ra, tự mình nói ra lời trong lòng.

Nhìn nồi nước ấm ấy, lại phải thỉnh thoảng thêm củi, nhóm lửa, đúng là… quá đáng thật.

Uông Tễ nhếch môi, nói: “Cải tà quy chính? Người ta bảo ‘giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời’, tôi thấy anh đúng là phiền phức, kể cả bây giờ.”

Phù Tô không biện minh, chỉ gật đầu nhận: “Phiền thì đã sao? Cậu nói cậu vẫn sẽ thích tôi mà.”

Uông Tễ nghe xong im lặng, không đáp lời. Phù Tô vươn tay, siết chặt lấy bàn tay anh.

Bàn tay hắn chai sạn, thô ráp vì những năm tháng tập luyện khắc nghiệt, trong khi tay Uông Tễ, cũng như con người anh, mềm mại đến quá mức dưới lớp da mỏng trên những khớp xương gầy guộc.

Phù Tô thành thật nói: “Tôi thích em, từ lâu rồi.”

Uông Tễ liếc nhìn hắn, ánh mắt mang chút giễu cợt: “Ai mà tin nổi?”

“Em tin.”

Vừa bộc bạch về quá khứ, Phù Tô cảm thấy đây là lúc phải nói rõ lòng mình.

Hắn không giỏi nói lời đường mật, nhưng thời gian tựa như có tiếng, từng khoảnh khắc hiện ra trong tâm trí hắn khi nhìn Uông Tễ trước mặt. Những mảnh ký ức vụt qua nhanh như một cuốn phim tua ngược.

Hôm Thanh Minh, Uông Tễ đưa cho hắn chiếc bánh gạo, mong hắn bình an, khỏe mạnh. Dưới cơn mưa lất phất sáng sớm, mùi gạo thoảng qua hòa quyện cùng dáng vẻ dịu dàng và sự tập trung của anh. Hương vị ấy, đến giờ hắn vẫn không quên.

Lần dự tiệc mừng thọ, khi về nhà lấy máy ảnh, hắn lần đầu tiên chuyển ống kính từ phong cảnh sang con người. Qua tầm nhìn ấy, những bông tường vi trên bức tường nở rộ, còn nhịp tim hắn đập nhanh đến nỗi suýt chẳng nghe rõ tiếng màn trập.

Hắn bị bệnh, Uông Tễ lo hắn giữa đêm bị sốt lại, liền ngồi cạnh giường trông chừng. Trong màn đêm yên tĩnh nơi núi rừng, hắn nhìn gương mặt nghiêng của anh, trong lòng vừa chua xót, vừa cảm thấy may mắn. May mắn vì đã chọn nơi này, và gặp được anh.

Từ xuân sang thu, từng ngày bên nhau đều khiến trái tim Phù Tô dần ấm lên.

“Tôi thích em… Từ lâu đã nghĩ, nếu có thể cứ mãi như thế này bên nhau…” Hắn nghẹn lại, dừng vài giây rồi thở dài: “Chậc, cảm giác như tôi cắn trúng đầu lưỡi luôn rồi.”

Uông Tễ bật cười, không kìm được: “Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ai mà đi nghe mấy câu tán tỉnh sến súa của anh chứ?”

Phù Tô cũng bật cười, ánh mắt nhìn anh không còn vẻ xa cách lịch sự như ngày đầu gặp mặt, mà mang theo hơi ấm, sự chân thành tựa gió xuân tan tuyết.

Ngoài trời đêm tĩnh mịch, dãy núi phía xa đứng yên dưới ánh trăng dịu nhẹ.

Phù Tô chậm rãi tiến lại gần, hơi thở ấm áp của cả hai hòa quyện. Dừng lại trong giây lát để cảm nhận, thấy anh không hề né tránh, hắn ôm lấy Uông Tễ.

Bàn tay hắn chạm lên lưng anh, cảm nhận lớp thuốc dán mà mình đã cẩn thận dán lên đó. Hắn nói: “Không cần những điều khác, tôi sẽ cho em sự chân thành của mình.”

Bầu trời đêm như dòng nước chảy, thoảng trong không khí là hương bưởi phảng phất. Gió khẽ đưa mùi hoa quế từ sau nhà vào căn bếp. Đó là một buổi tối cuối thu, vừa bình thường, vừa đặc biệt.

Nếu ngoài kia gió mưa bão bùng, thì trong mảnh đất nhỏ này, cứ làm một người nhàn tản giữa trời đất, cũng đủ rồi.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 36: Canh sườn hầm măng mùa đông



Mùa đông trên núi lặng lẽ mà trầm mặc. Không khí lạnh lẽo tràn ngập, ngước nhìn lên, cây trẩu phía sau nhà đã trơ trụi lá, chỉ còn những cành khô khẳng khiu. Đôi lúc, vài chú chim ghé qua, tò mò mổ thử những quả trắng nhỏ xíu còn sót lại trên cành.

Câu trẩu

Phù Tô cúi xuống, kéo chú chó đang ngủ say dịch vào sâu hơn trong ổ, vừa làm vừa nói: “Lại lạnh thêm nữa rồi.”

“Ừ, mùa đông tới rồi mà.” Uông Tễ đáp.

Sắc xanh rậm rạp của cỏ cây mùa xuân hè giờ đã nhạt nhòa. Ngay cả tiếng chim trong rừng cũng thưa dần. Dường như nơi này đã chuẩn bị kỹ càng để ngủ đông, gửi gắm lòng biết ơn một năm đã qua và chờ đợi xuân về năm sau.

Gió lạnh phả vào mặt như kim châm, Uông Tễ rụt cằm, cố giấu vào cổ áo để giữ ấm.

Lúc này, cả hai đang ngồi trên bậc thềm trước sân, loay hoay làm sạch một rổ rau vừa hái từ vườn về.

Trong vườn giờ chỉ còn bắp cải, rau xà lách và củ cải. Uông Tễ không định trồng thêm nữa, vì người ta bảo mùa đông năm nay lạnh hơn mọi năm. Ở vùng núi như Vân Lĩnh, tuyết rơi chắc chắn sẽ làm hư hết rau củ trong vườn.

Anh phủi đất còn bám trên từng cây rau, bỗng ngẩng đầu thở ra một hơi. Tưởng sẽ thấy làn khói trắng nhưng không, không khí chưa đủ lạnh đến vậy. Anh quay sang, mỉm cười với Phù Tô: “Còn chưa lạnh thật sự đâu.”

Nụ cười của Uông Tễ luôn khiến đuôi mắt và khóe môi anh cong lên một cách nhẹ nhàng. Nụ cười ấy làm sáng bừng khuôn mặt anh, vừa thuần khiết, vừa dịu dàng.

Giữa cái se lạnh của núi rừng, ánh mắt Phù Tô đặt trên anh trở nên an tĩnh, tựa như có thể dang tay ôm trọn cả làn gió thoảng qua.

Tay dính đầy đất, hắn tiến lại gần, nhẹ nhàng áp trán mình lên má Uông Tễ.

Uông Tễ chẳng mấy ngạc nhiên, cúi đầu tiếp tục lấy thêm một cây cải từ trong rổ.

“Lúc này năm ngoái tôi tới đây,” Phù Tô chợt nói, “khi đó đã nghĩ nơi này thật yên bình.”

Uông Tễ thoáng nhớ lại: “Năm ngoái em còn đang làm việc ở Thượng Hải. Khi ấy cũng thấy ổn, vì sắp nhận được thưởng cuối năm mà.”

“Vậy lúc đó hay bây giờ tốt hơn?” Phù Tô hỏi.

Câu này khác nào hỏi: Thưởng cuối năm hay tôi tốt hơn? Uông Tễ bật cười: “Bây giờ tốt hơn.”

Anh nhún vai hỏi ngược lại: “Còn anh? Năm ngoái hay năm nay tốt hơn?”

“Năm nay tốt hơn.” Phù Tô đáp gọn.

Xa xa, núi rừng đứng lặng, dưới chân núi khói bếp mỏng manh cuộn lên. Trong gió thoảng chút hương vị đặc trưng của mùa đông. Phù Tô thở ra làn hơi ấm áp nơi cổ Uông Tễ. Cảm giác như họ đã sống cùng nhau thế này từ rất lâu rồi.

Khoảnh khắc ấy, Uông Tễ nghĩ về tương lai, hy vọng rằng mỗi mùa đông về, mỗi lần anh hỏi câu ấy, Phù Tô vẫn sẽ trả lời như bây giờ.

Hy vọng năm tháng cứ thế trôi qua, từng năm từng năm một, mỗi ngày đều tốt hơn hôm nay.

Bữa trưa hôm ấy là canh sườn hầm măng.

Chú Uông và thím Uông đã lớn tuổi, lại làm lụng ngoài đồng ruộng suốt năm nên mỗi khi trời lạnh, khớp xương thường hay nhức mỏi. Thỉnh thoảng, Uông Tễ lại xuống chợ huyện mua vài ký xương ống heo để họ hầm canh cho ấm người.

Sáng nay anh vừa đi một chuyến. Vào mùa đông, người đi làm xa quê đều về làng, khiến chợ huyện nhộn nhịp hẳn lên. Chỉ khoảng hơn một tháng nữa, trên đường sẽ xuất hiện những đứa trẻ quấn áo kín mít chạy nhảy. Xe tải lớn sẽ chở cả thùng pháo và hoa giấy về. Dưới ánh nắng, người ta bày bàn đánh bài, đánh mạt chược. Làng quê yên ả ngày thường bỗng chốc ngập tràn tiếng cười đùa – một dấu hiệu rõ ràng rằng tết đã đến gần.

Mùa này trên núi có thể đào được măng mùa đông. Đào măng giống như tìm báu vật, mà Phù Tô và Uông Tễ thì chẳng có mấy kinh nghiệm. Hai người lên rừng tre trên núi tìm cả buổi mới được mấy cây. Lúc đào còn phải khéo tay, giữ sao cho không làm gãy rễ măng.

Đến giờ cơm trưa, khói bếp đã vương nhẹ ở lưng chừng núi. Trong căn bếp nhỏ, nước trong nồi sôi sùng sục, xương heo đã được chần qua, giờ hầm cùng măng non.

Nồi canh sườn lấp lánh váng mỡ, Uông Tễ mở nắp, thấy thịt đã nhừ, liền thả thêm một nhúm kỷ tử vào cho đẹp mắt.

Phù Tô đứng ngoài hiên một lúc, trở vào mang theo hơi lạnh. Hắn xắn tay áo, tiện tay bẻ một cây cải thả vào nồi.

Từ khi vào đông, họ không còn ăn salad nữa. Bắp cải hay xà lách trong vườn chỉ cần xào sơ qua với dầu cũng đã ngon, từng miếng rau mang theo vị ngọt thanh.

Mùa đông ở đây luôn có cảm giác ấm áp kỳ lạ. Những món như rau cải xào nóng hổi, khoai lang nướng cháy cạnh trên bếp than, bánh ngô mềm thơm áp chảo bên bếp lửa… đều thấm đượm hương vị của mùa.

Chiều hôm đó, Uông Tễ nằm dài trên sofa xem phim, còn Phù Tô đứng cạnh quầy pha một ly cà phê nóng.

“Uống coi chừng tối mất ngủ à.” Uông Tễ nhắc.

“Vậy em cũng uống đi.” Phù Tô đáp.

Uông Tễ chưa hiểu ý, thấy hắn rót cà phê ra cốc, khói nóng bốc lên nghi ngút. Hắn khẽ cười: “Cả hai không ngủ được thì làm chút chuyện gì đó.”

“…”

Từ sau khi xác nhận mối quan hệ, cuộc sống của hai người thật ra không có gì thay đổi nhiều. Điểm khác biệt duy nhất là trên giường Phù Tô đã có thêm một cái gối, và phòng khách đối diện chẳng còn ai lui tới ngủ nữa.

Thời tiết trở lạnh, họ thay chăn bông dày hơn. Vải cotton ấm áp, bên trong giường lúc nào cũng dễ chịu.

Phù Tô tắm xong, leo lên giường nằm cạnh. Không đợi Uông Tễ kể chuyện vừa đọc được trên mạng, hắn tựa vào đầu giường, hỏi thẳng: “Làm không?”

Uông Tễ bỏ điện thoại xuống, nhìn hắn: “Anh có cần nói thẳng toẹt ra vậy không?”

Phù Tô suy nghĩ một chút, chỉnh lại lời: “Giúp đỡ nhau chút đi?”

Uông Tễ nhớ lại đêm đầu tiên anh chuyển từ phòng khách sang phòng ngủ chính. Lúc ấy, gần 1 giờ sáng, núi rừng chìm vào giấc ngủ yên bình, còn anh lại nằm sấp trên giường, người run lên từng chập.

Không phải anh làm màu, mà thật sự, suốt hơn ba mươi năm qua, đây là lần đầu tiên có bàn tay của người khác chạm vào cơ thể mình. Đến khi mọi chuyện kết thúc, cơ bụng dưới của anh như đang co thắt dữ dội.

“Em ổn không?” Phù Tô cúi xuống hôn nhẹ lên bả vai anh, giọng nói mang chút lo lắng.

Uông Tễ ngượng không dám thú nhận rằng mình… quá sung sướng.

Phù Tô đưa tay dọc theo sống lưng anh, nhẹ nhàng xoa dịu. Thấy Uông Tễ cứ ôm chặt bụng, hắn hỏi thêm: “Thật sự không ổn à? Hay chúng ta đi bệnh viện nhé?”

Uông Tễ thở dài, giấu mặt vào gối, vừa xấu hổ vừa tức cười: “Bệnh viện cái gì mà bệnh viện. Anh cứ đăng em lên mạng đi, bảo rằng hai thằng đàn ông tự xử cho nhau, rồi một thằng bị hành quá tới phát bệnh.”

Anh vừa dứt lời, còn chưa kịp lấy lại bình tĩnh, đã thấy Phù Tô nhìn mình cười, mắt sáng lên tinh nghịch: “Sao nói nghe khó lọt tai vậy?”

Nhớ lại những chuyện xảy ra, lòng anh bỗng lặng lại, nhưng cơ thể vẫn nằm sấp trên giường, cảm giác tê dại chưa tan hẳn.

Trong sự yên ả ấy, Uông Tễ tự trách thầm: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, trước giờ đâu có nghĩ mình lại trở thành người dễ sa đà như vậy.

Uông Tễ nằm nghiêng, thở chậm lại sau cơn run rẩy, thì cảm nhận được Phù Tô nhẹ nhàng đặt một nụ hôn dài lên sống lưng mình. Anh không thể không nhận ra, Phù Tô dường như có một niềm yêu thích kỳ lạ đối với tấm lưng thẳng tắp của mình.

Quay người lại, Uông Tễ khẽ lắc đầu khi Phù Tô xoa nhẹ bụng dưới của anh.

“Còn co giật không?”

“Không.” Anh đáp, nhưng vẻ mặt lại có chút không phục. Để giữ lại chút thể diện, anh buột miệng: “Anh cũng chỉ có nhiêu đó thôi, làm gì mà lần nào cũng khiến em như vậy được?”

Phù Tô nghe xong, nhướng mày. Tay hắn lần ra sau, lướt nhẹ qua hông Uông Tễ.

“Tôi nên có ‘nhiều hơn’ thế nào nữa đây?”

Ánh mắt hai người giao nhau, Uông Tễ vội vàng quay đi, trả lời nhỏ giọng: “Không… vậy là được rồi, đã rất giỏi rồi.”

Cả hai cùng im lặng, hơi thở hòa quyện dưới lớp chăn ấm. Mồ hôi ẩm ướt trên làn da, nhưng sự gần gũi này mang đến cảm giác ấm áp, không chỉ ở thể xác mà còn trong lòng.

Khi ánh mắt vô tình liếc qua chiếc tủ đầu giường, nơi vài món đồ đặt mua vẫn chưa kịp bóc hộp, Uông Tễ chợt buột miệng: “Em đang chuẩn bị tinh thần…”

Phù Tô chỉ mất vài giây để hiểu ý. Một ánh nhìn thoáng qua, nụ cười nhẹ hiện trên môi, anh cất giọng trêu chọc: “Em chuẩn bị tinh thần cho chuyện đó hả? Mà tôi đâu có ép…”

“Anh không gấp, nhưng em gấp!” Uông Tễ cắt lời, đôi má nóng bừng. “Em không phải không muốn, cũng không ghét… chỉ là… anh có hiểu cảm giác xem phim nhiều quá rồi nhập tâm sai vai không?”

Câu trả lời bất ngờ khiến Phù Tô bật cười, một nụ cười không tiếng, chỉ rung nhẹ nơi lồng ngực.

“Đừng nói là anh đang cười em tự giác quá nha!” Uông Tễ cau mày, kéo chân đá nhẹ vào người Phù Tô. Nhưng chưa kịp rút chân lại, đã bị Phù Tô giữ lấy, bàn tay siết nhẹ nơi khe đầu gối.

“Em còn xem phim nữa à?” Phù Tô hỏi, giọng chậm rãi.

“Anh hỏi thừa nó vừa.” Uông Tễ đáp, cố gắng giấu vẻ xấu hổ. “Chẳng lẽ em xuất gia rồi chắc?”

Phù Tô mỉm cười, bóp nhẹ bắp chân Uông Tễ, đáp tỉnh bơ: “Ừm, vậy gặp tôi thì hoàn tục rồi nhỉ?”

Lặng đi vài giây, Uông Tễ bất ngờ nhổm người, áp sát môi lên cằm Phù Tô. Một nụ hôn ngắn ngủi nhưng đầy ngọt ngào.

“Yêu tinh.” Anh thốt lên, giọng nhẹ nhàng nhưng như rót mật.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 37: Uyên Ương nghịch nước



Buổi sáng mùa đông, trời còn chưa sáng hẳn. Một lớp sương mỏng giăng khắp làng quê, khiến bầu không khí thêm phần tĩnh lặng. Xa xa, những cánh chim thỉnh thoảng vụt qua nền trời mờ nhạt.

Gió bấc thổi, những chiếc lá khô cuốn xoay tròn trước khi nhẹ nhàng rơi xuống đất, im lặng đến mức chẳng phát ra tiếng động.

Thế nhưng, dưới chân núi, không khí lại hoàn toàn trái ngược.

Trên con phố trước ủy ban xã, các cửa hàng đã lần lượt mở cửa. Trong một căn nhà hai tầng, phía sau là sân gà ríu rít, ông chồng đang cho gà ăn. Cô con gái mới nghỉ đông vẫn chưa chịu dậy, nằm lì trên giường đến tận trưa. Ở gian bếp, bà Uông Vân Anh đang khéo léo lật miếng bánh củ cải chiên trong chảo, chợt nghe tiếng gọi ngoài cửa: “Vân Anh ơi, sao chưa mở cửa? Tôi mua đồ chút nè!”

“Ra liền, ra liền đây!” Bà nhanh tay trở nốt chiếc bánh, lớn tiếng gọi chồng ra tiếp việc, rồi tắt bếp, cầm chìa khóa đi ra cửa.

Gia đình bà Uông mở một tiệm tạp hóa nhỏ ven đường, chỉ gồm hai gian liền kề nhau. Phía trước là cửa hàng, phía sau là nhà ở, cách nhau bằng một khoảng sân nhỏ phơi đồ.

Người gọi bà là bác gái bên chồng. Hai người cùng bước ra cửa hàng, gió lạnh ùa vào mặt. Bà Uông Vân Anh mở khóa cửa, mời bà bác vào trong.

“Trời ơi, lạnh quá, trong nhà vẫn ấm hơn.” Bà bác vừa xuýt xoa vừa xoa xoa tai.

Bà Uông nhanh tay lấy vài chục ly giấy dùng một lần đưa cho bà bác. “Ghi sổ chỗ anh hai luôn nhé. Anh bảo mai qua trả.”

“Không vội đâu. Anh hai mấy ngày nay bận rộn lắm.” Bà Vân Anh đáp lời, mở ngăn kéo lấy quyển sổ, ghi nhanh vài dòng.

Hôm nay con trai bà bác cưới vợ, gần đây anh hai bà thường xuyên ghé mua đồ, từ ly giấy đến đồ gia dụng lặt vặt. Trong xã không chỉ có mình bà Vân Anh bán tạp hóa, nhưng anh hai vẫn ưu tiên mua ở đây, một phần là muốn ủng hộ người thân.

“Bác đi sớm quá ha? Không ở nhà nghỉ thêm chút?” Bà Uông vừa ghi chép xong vừa hỏi, tiện tay lấy một nắm hạt dẻ cười mời bà bác.

“Ui, cái này mắc lắm!” Bà bác cười xua tay, bỏ lại hạt dẻ, tự mình bốc vài hạt hạt dưa. “Ăn hạt dưa là được rồi. Tôi mua đậu hũ tiện đường ghé ngang thôi. Nhà anh hai bận lắm, nhóm nấu ăn với trang trí đến từ sớm, nghe họ nói thiếu ly giấy nên tôi qua lấy giúp.”

Bà Vân Anh gật đầu: “Hôm nay khách đông lắm. Sắp Tết, lại cuối tuần, người đi làm, học hành đều về hết.”

“Người đông thì mới vui! Cả năm chỉ mong được Tết gặp gỡ trò chuyện thế này.”

Sau vài câu chuyện, bà bác cầm đồ ra về. Bà Vân Anh khóa cửa tiệm, quay lại bếp cùng chồng và con gái thưởng thức bữa sáng.

Nhà anh hai quả thật đông đúc. Khi gia đình bà Uông Vân Anh tới nơi, sân nhà chật kín người. Tiếng cười nói rộn ràng, ai nấy đều hớn hở.

“Trang trí đẹp ghê. Biết đầu tư thiệt!” Cô con gái Uông Ngọc, vừa bị mẹ kéo dậy cách đây 15 phút, đứng sát mẹ, thì thầm.

“Con biết gì mà nói. Chỉ có vậy mới thể hiện được sự coi trọng!” Bà Uông liếc con gái, nhắc khéo.

Ngôi nhà ba tầng được khoác lên một màu đỏ rực: cổng hoa tươi, thảm đỏ trải từ sân vào tận phòng khách. Dọc lối đi, đèn lồng và bóng bay đỏ giăng đầy trên cây. Không khí Tết và đám cưới hòa quyện, rộn ràng khắp nơi.

Hai mẹ con đi qua sân, Ngọc tò mò vươn tay chạm vào chữ “Song Hỷ” khổng lồ dựng giữa sân.

“Mày coi chừng! Bộ móng quỷ đó mà làm rách thì xấu mặt lắm!” Bà mẹ trách yêu.

“Trời đất! Đây là bộ móng 180 tệ đó mẹ! Khổ sở ngồi hai tiếng làm mà mẹ nói gì nghe ghê vậy!” Ngọc dỗi, giậm chân.

Gửi phong bì ở bàn lễ tân, ông chồng bà Vân Anh nhanh chóng hòa vào nhóm đàn ông đang bàn chuyện ở góc sân. Hai mẹ con thì lên lầu, định gặp cô dâu.

Trên lầu, dù không ồn ào bằng dưới sân, vẫn rất náo nhiệt. Phòng cô dâu đầy người thân, bạn bè hai bên gia đình. Ai cũng muốn chụp ảnh kỷ niệm.

Uông Ngọc lẻn ra ban công, vừa bóc một quả quýt đường vừa đưa mắt nhìn xuống sân. Vô tình, cô bắt gặp bóng dáng hai người đàn ông áo đen xuất hiện bên dưới, ngay dưới tán cây treo đầy đèn lồng đỏ. Cô đưa điện thoại định chụp lại, nhưng khung hình chưa kịp cố định thì bọn họ đã lọt vào ống kính.

Một người có đôi mắt đen sâu hút, gương mặt bị che lấp một phần bởi chiếc khăn quàng cổ mềm mại. Người còn lại lộ diện chỉ sau một thoáng, hai người khẽ trao nhau ánh mắt, mỉm cười với nhau.

Uông Ngọc nhìn đến ngẩn người, lẩm bẩm: “Chờn ơi, đẹp trai dữ vậy…”



Phía dưới, giữa tiếng nhạc rộn ràng và lời chúc tụng, Phù Tô và Uông Tễ bước qua sân, hòa mình vào bầu không khí rộn ràng của ngày vui.

Cả hai đều mặc đồ đen, áo quần cùng một màu tối. Cành cây che khuất gương mặt của người phía sau, nên cô chỉ thấy đôi mày và ánh mắt đen láy của người đi trước, lộ ra từ chiếc khăn quàng mềm mại.

Họ cũng ngẩng đầu nhìn cây trang trí rực rỡ ấy, vừa nhìn vừa nói chuyện. Khi nửa gương mặt lộ ra dưới chiếc khăn, ánh mắt của họ hiện lên trong một khoảnh khắc làm cô sững lại.

Bầu trời tràn ngập màu xám của mây chì, xa xa lớp sương mỏng bao phủ lấy ngọn núi mùa đông tĩnh lặng. Hương trầm thoang thoảng trong không khí, để lại dư vị sâu lắng, dài lâu.

Đến khi người phía sau cũng lộ diện, vẻ sắc sảo của đường nét khuôn mặt khiến thần thái trầm lặng thoáng qua như một làn gió. Hai người trao nhau ánh mắt trong lúc thì thầm, chân mày giãn ra, nụ cười ôn hòa làm sáng bừng không gian.

Dưới bóng cây, Phù Tô hơi ngẩng đầu nói: “Bữa nào tôi cũng treo lên cây nhà mình cho vui.”

Uông Tễ nhìn hắn, bình thản đáp: “Người ta làm vậy để mừng cưới.”

“Thì tôi cũng vậy mà.”

Nghe đến đây, Uông Tễ sửng sốt. Không đợi anh kịp phản ứng, Phù Tô tiếp: “Mừng Tết chứ gì nữa.”

“Cút!” – Anh quay lưng bỏ đi.

Khăn quàng rơi hờ xuống phía sau, Phù Tô bật cười, đưa tay giữ lại. “Tết còn xa mà, giờ mừng trước kỷ niệm 62 ngày tụi mình quen nhau cái đã.”

Lễ cưới chưa bắt đầu, cả hai vào cửa và trao phong bì lì xì. Nhà này thuộc họ hàng xa của Uông Tễ, quan hệ thân thiết hơn bình thường, nên phong bì của anh dày hơn đôi chút. Phù Tô thì không quá quan tâm đến chuyện nhiều ít, cũng chuẩn bị giống như Uông Tễ.

Hai chiếc phong bì khá nặng được gửi đi, chị phụ trách quà cưới nhận phong bì xong, liền trao lại một hộp đỏ, bên trong là thuốc lá và kẹo cưới. Chị cười rạng rỡ: “Hai em còn trẻ, chưa lập gia đình đúng không? Lấy chút hên đi.”

Đây là lần thứ hai Uông Tễ cùng Phù Tô tham dự lễ cưới. Tất cả đều chu đáo và náo nhiệt, nhưng khác với buổi tiệc sân vườn trang trọng của Uông Duệ lần trước, hôn lễ ở nông thôn đầm ấm hơn rất nhiều.

Không có quy định trang phục, mọi người ai mặc gì cũng được: đen, trắng, đỏ, xanh hay áo bông hoa sặc sỡ, chỉ ngồi không cũng cảm nhận được sự ấm cúng, tươi vui. Dù là ai, chỉ cần vài người ngồi lại với nhau, thêm nắm hạt dưa là đủ để tám chuyện. Có người bàn về con gái nhà ai vừa thi đậu công chức, người khác lại phàn nàn thịt năm nay đắt hơn năm ngoái. Mấy đứa nhỏ vừa ngậm kẹo vừa đuổi theo quả bóng đỏ, trong khi nhà bếp dựng tạm ở sân sau thì khói lửa nghi ngút.

Uông Tễ và Phù Tô chọn một bàn ngồi xuống. Tiếng cười nói xung quanh rộn ràng không ngớt. Ngồi vào chỗ, Phù Tô kín đáo nắm lấy đầu ngón tay của Uông Tễ dưới lớp áo khoác.

“Lát nữa người ta thấy đó.” – Uông Tễ khẽ nhắc.

Nhưng Phù Tô không để ý, thần thái vẫn tự nhiên như thường. Ông chủ tiệm thịt họ hay mua cũng có mặt, vừa thấy họ đã vẫy tay chào từ xa. Phù Tô gật đầu đáp lại, thản nhiên nói: “Mối tình đầu ai cũng vậy hết trơn, dính nhau như sam.”

Đến khi trên bàn hết sạch hạt dưa và trái cây khô, lễ cưới cũng chuẩn bị bắt đầu.

Trước khi vào nghi thức, họ phải đốt pháo ở cửa. Tiếng pháo vang lên bất ngờ, Uông Tễ phản xạ nhanh, đưa tay che lấy tai Phù Tô ngay khi âm thanh nổ ra.

Ngoài cổng viện, khói trắng bốc lên, tiếng pháo dù cách bức tường vẫn vang dội. Ở chân núi, âm thanh vui tươi ấy lan tỏa giữa đất trời. Khi khói trắng bị gió cuốn tan, chỉ còn lại những mảnh vụn đỏ rực rải đầy mặt đất.

Pháo vừa dứt, Uông Tễ buông tay. Trong làn khói, không ai chú ý quá nhiều, ngoại trừ cô bé ngồi cùng bàn, đang được ba bế trên tay và che tai. Bé chăm chú nhìn họ, rồi nói giọng trẻ con ngọng nghịu: “Chú Tô sợ pháo hỏ?”

Răng đang thay nên giọng nói hơi ngọng.

Uông Tễ thoáng ngạc nhiên, sau đó bật cười: “Đúng rồi, chú Tô con nhát gan, sợ tiếng lớn.”

“Con cũng nhát gan, nhưng bà nội con nói nhát gan hông sao. Con khỏe lắm nho! Chú Tô có khỏe hông?”

Ba bé cười, xoa đầu búi tóc nhỏ buộc sau gáy con gái: “Con gái ba đúng là không ngại người lạ.”

Hai cha con tiếp tục đùa, dưới bàn, Uông Tễ bất ngờ bị ai đó nhéo nhẹ vào chân. Anh quay lại, ánh mắt thoáng chút nghịch ngợm.

Phù Tô nhìn anh chằm chằm vài giây, rồi bất ngờ ghé sát tai thì thầm: “Không chỉ khỏe mà còn dai nữa.”

“Anh đúng là hết thuốc chữa.” – Uông Tễ trừng mắt, ngỡ ngàng đến không nói được lời nào.

Lễ cưới bắt đầu, vừa nãy ai nấy còn tám chuyện rôm rả, nhưng đến lúc nghi thức diễn ra, tất cả đều nghiêm túc, tập trung nhìn lên sân khấu, nhiệt tình cổ vũ theo từng lời của người dẫn chương trình.

Có vẻ cặp đôi đã bàn bạc trước, buổi lễ không chọn cách sướt mướt như những đám cưới truyền thống. Thay vào đó, mọi nghi thức đều vui vẻ, nhẹ nhàng.

Giữa buổi, khi chú rể đang nói lời bày tỏ cảm xúc đầy chân thành, đứa em họ tuổi teen ngồi dưới không nhịn được bèn buột miệng: “Chờn ơi, ngọt muốn sún răng luôn!” khiến cô dâu bật cười không ngớt.

Phần cuối chương trình là nghi thức ném hoa cưới. Đội tổ chức vốn dày dạn kinh nghiệm, biết rằng thời nay mọi người không quá mặn mà với việc bắt hoa, nên họ sắp xếp trước vài người thân quen của cô dâu chú rể ra đứng chờ.

Bó hoa nhỏ nhắn, xinh xắn, không nặng lắm. Cô dâu mỉm cười, nhắm mắt ném về phía sau. Có lẽ vì sức mạnh hơi quá tay, bó hoa vọt qua những cánh tay vươn cao, rơi thẳng vào lòng Phù Tô đang ngồi ở một góc.

Cả đám đông lập tức dõi theo bó hoa, rồi ánh mắt dừng lại trên người hắn. Người dẫn chương trình thấy một anh chàng cao ráo, bảnh bao thì tỏ ra phấn khởi, nói lớn: “Mời anh chàng vừa nhận được lời chúc phúc từ cô dâu chú rể lên sân khấu nào!”

Khán giả lại rộ lên tràng vỗ tay cổ vũ. Trong số khách mời cũng có khá nhiều thanh niên. Thấy người nhận hoa là một anh chàng đẹp trai phong độ, họ càng nhiệt tình hơn.

Phù Tô cúi nhìn bó hoa trong tay, không nhịn được bật cười. Nhưng giữa bầu không khí sôi động thế này, ngày vui của người ta, hắn không muốn làm tụt hứng. Hắn liếc nhìn Uông Tễ, rồi đứng dậy, bước lên sân khấu cùng bó hoa.

Đứng trên đó, mọi thứ càng rõ ràng hơn. Phù Tô cao lớn, dáng người thẳng tắp, nổi bật giữa ánh đèn.

Ngay lập tức, dưới khán đài có người hỏi lớn: “Chờn ơi, nhìn lịch lãm ghê. Nhà ai đây, không nhận ra luôn! Có vợ chưa vậy?”

MC đứng bên cạnh Phù Tô, cảm giác hơi áp lực trước khí chất của hắn, nhưng vẫn chuyên nghiệp giơ micro: “Vậy xin mời anh giới thiệu đôi chút về mình. Hôm nay anh tham dự hôn lễ này với tư cách gì?”

Phù Tô nhớ lại lời Uông Tễ nói rằng chú rể là họ hàng xa của anh, hắn cúi người trả lời: “Bạn thân của chú rể.”

Cô dâu đứng bên cạnh nghe vậy, nhỏ giọng trêu: “Ghê ha, có máu mặt ghê, sao anh không giới thiệu em quen sớm?”

Chú rể trông hoàn toàn bối rối, đến chính anh ta cũng không biết mình có một người bạn như thế.

MC tiếp tục phần chương trình: “Vậy anh có thể gửi lời chúc phúc nào đến cô dâu chú rể không?”

“Chúc mừng hai bạn,” Phù Tô nghiêng đầu nhìn đôi tân nhân, ánh mắt chân thành, “Trăm năm hòa hợp.”

Lời chúc vừa dứt, từ dưới khán đài, một cô gái bạo dạn lên tiếng: “Anh đẹp trai ơi, anh có người yêu chưa?”

Cả đám đông phá lên cười. Uông Dịch Dương đứng trong góc, không nhịn được giơ ngón tay cái trong lòng khen hay. Nhưng ánh mắt cậu ta lại lướt qua đám đông, dừng lại ở Uông Tễ, người đang mỉm cười nhàn nhạt.

Không khí ngày càng sôi nổi. MC là người rất chuyên nghiệp, tay cầm micro vừa cười vừa nói: “Nhận được bó hoa cưới là nhận được may mắn của cô dâu chú rể. Tôi xin chúc anh, nếu chưa có người yêu thì sớm tìm được, còn nếu có rồi thì mãi mãi hạnh phúc bên nhau, được không mọi người?”

Tiếng vỗ tay vang lên như pháo nổ. Phù Tô cười nhẹ, quay sang nhìn cô gái vừa đặt câu hỏi và đáp: “Có rồi.”

Sau đó, ánh mắt hắn tìm đến Uông Tễ, vừa nhìn vừa nói thêm với MC: “Cảm ơn anh, cũng thay người yêu tôi cảm ơn lời chúc tốt đẹp này.”

Sau nghi thức, mọi người nhập tiệc. Trong sân, tiếng người phục vụ bưng bê thức ăn rộn ràng không ngớt.

Phù Tô quay lại bàn, vừa ngồi xuống đã chạm mắt Uông Tễ, nhưng chưa kịp nói gì thì bà cụ ngồi gần đó đã lên tiếng.

Bà là người quen biết hắn, từng cảm kích khi hắn chụp ảnh miễn phí cho mình. Giọng bà mang theo sự thật thà chất phác: “Thật sự có vợ rồi hả cháu?”

Để thể hiện sự kính trọng, bà còn dùng từ “vợ” rất truyền thống.

Phù Tô gật đầu, giọng nói nhẹ nhàng: “Dạ, thật sự có rồi ạ.”

Bà cụ mỉm cười hài lòng, chúc phúc một câu rồi quay lại ăn uống.

Uông Tễ cúi đầu cầm đũa, tai hơi đỏ. Anh cũng không rõ mình đang ngại ngùng hay là trái tim bỗng trở nên mềm mại trước cách gọi ấy.

Trong tiếng ồn ào náo nhiệt, Phù Tô lặng lẽ đưa bó hoa dưới bàn cho Uông Tễ.

“Cho em?”

“Ừ, cho em.”

Bó hoa chính là một nhánh hoa loa kèn trắng, cánh hoa thuần khiết, nhụy vàng nhẹ nhàng.

Ánh mắt Phù Tô dừng trên khuôn mặt Uông Tễ. Hắn có một khu vườn rộng lớn và cũng vô tình biết rằng ý nghĩa của hoa loa kèn trắng là “lòng chung thủy và tình yêu bất diệt.”

Hắn trao bó hoa ấy, cùng với lời nguyện yêu thương suốt đời.

Hai người đến dự tiệc bằng cách đi bộ cho khỏe. Tan tiệc, họ cũng đi bộ về.

Đường xuống dốc rồi lại lên dốc, lúc đầu còn có vài người đồng hành, nhưng lên đến đỉnh đồi thì chỉ còn lại họ.

Giữa mùa đông, đi qua vùng núi thế này, mọi giác quan bỗng như nhạy bén hơn.

Bó hoa được Uông Tễ để cẩn thận trong mũ áo khoác, vừa tiện vừa kín đáo. Ai nhìn thấy cũng chỉ nghĩ rằng Phù Tô không muốn cầm tay nên đưa cho anh.

Dưới chân núi, dòng suối nhỏ vẫn róc rách chảy, chưa đông cứng. Có vài chú chim sà xuống mặt nước, rồi đậu lên những hòn đá bên bờ.

Uông Tễ đứng lại ngắm dòng suối một lúc, lòng như được lấp đầy bởi niềm vui giản dị, nồng hậu của đám cưới ban nãy. Anh bỗng thấy lòng mình sáng rõ, mãn nguyện hơn bao giờ hết.

Phù Tô nghiêng đầu, giọng nhẹ nhàng vang lên: “Đang nhìn gì thế?”

Uông Tễ dường như không nghe thấy, ánh mắt vẫn chăm chú nhìn dòng suối trong vắt.

Phù Tô lại hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

Lần này, Uông Tễ quay đầu lại, khóe mắt hơi cong lên, ánh nhìn mang theo một vẻ vừa mềm mại vừa khiến tim người khác đập loạn nhịp: “Đang nghĩ đến cảnh cùng anh uyên ương nghịch nước.”

Một chiếc lá khô rơi xuống dòng suối, khiến bầy chim hoảng hốt bay lên, để lại trên mặt nước những gợn sóng lăn tăn.

Phù Tô không đáp, chỉ đứng yên nhìn anh. Vài giây sau, hắn đột nhiên cười khẽ, giọng trầm thấp: “Sai rồi, phải là cùng tôi động phòng hoa chúc.”
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 38: Đậu phụ lông



Khi trận tuyết đầu tiên của năm rơi xuống, Uông Tễ và Phù Tô quyết định cùng nhau đi Hoàng Sơn.

Quyết định này được đưa ra hết sức bất ngờ. Trước đó một ngày, khi lướt mạng thấy hình ảnh tuyết rơi trắng xóa ở Hoàng Sơn, Uông Tễ không kìm được thốt lên: “Đẹp quá!” Chẳng nói chẳng rằng, Phù Tô cầm điện thoại đặt luôn khách sạn và vé tham quan.

“Ủa, vậy là nói đi là đi luôn hả?” Uông Tễ tròn mắt ngạc nhiên.

“Chứ sao nữa?” Phù Tô đáp tỉnh bơ, “Tôi vừa có tiền vừa có thời gian, tại sao không thể nói đi là đi?”

Ngẫm lại, thấy cũng hợp lý, hơn nữa, anh còn có một người yêu sẵn sàng chiều chuộng mọi ý tưởng bất chợt của mình.

Thế là sáng hôm sau, hai người lái xe lên đường.

Từ thành phố của họ đến Hoàng Sơn không có tàu cao tốc trực tiếp, phải đổi chuyến ở một thành phố khác, nên cả hai quyết định tự lái xe.

Quãng đường dài bốn tiếng. Thành phố của họ không có tuyết, nhưng khi xe chạy được nửa đường, trên cao tốc bắt đầu xuất hiện những bông tuyết nhỏ lất phất.

Đi qua một trạm dừng, cả hai xuống xe nghỉ ngơi, tiện thể rót chút nước nóng. Trạm dừng đông nghịt người, xe nối đuôi nhau không ngớt, nhưng ai nấy dù mệt mỏi vẫn hiện rõ nụ cười.

“Chắc ai cũng đang trên đường về nhà,” Uông Tễ nhận xét.

Tuyết mỗi lúc một dày, Phù Tô vặn nắp cốc nước nóng, đưa cho anh uống. Cả hai đứng dưới mái hiên của trạm, nhìn tuyết phủ lên mặt đất tạo thành một lớp mỏng.

Đột nhiên, một mùi thơm nức mũi xộc tới, khiến Phù Tô chau mày: “Không ổn rồi, mau đi thôi.”

Uông Tễ quay đầu nhìn. Cạnh họ là một cửa hàng tiện lợi, vừa lúc một gia đình bước ra, tay xách nào là cơm nắm, bánh gạo, đồ xiên nóng hổi.

Mùi thơm quả là hấp dẫn, nhưng Uông Tễ không hiểu nổi. Anh liếc đồng hồ, ngạc nhiên: “Mới ăn sáng được có hai tiếng, anh lại đói rồi?”

Phù Tô kéo anh về xe: “Không đói, nhưng nhìn người ta ăn là thèm.”

Hắn vốn ăn khỏe, trời đông lạnh càng hay ăn vặt hơn. Có hôm ngồi thu lu trên ghế xem phim, không chỉ uống cà phê hay trà, hắn còn chạy đi nướng thêm mấy củ khoai hoặc vài cái bánh quy nhỏ.

Uông Tễ vừa đi vừa đùa: “Chắc về em phải mua cái cân. Qua mùa đông này mà anh không tăng chục cân thì đúng là thân thể không bằng cái miệng.”

Phù Tô cười hì hì, chui vào xe ngồi: “Không đâu, tôi cũng vận động nhiều lắm mà.”

“Vận động cái gì? Không phải vẫn như cũ, sáng chạy bộ rồi nâng tạ thôi sao?” Uông Tễ thắt dây an toàn, xong liền thò tay vào trong áo hắn, sờ thử vài cái.

Phù Tô để mặc Uông Tễ tùy ý s* s**ng, không những không than lạnh mà còn kéo cao gấu áo len bên trong, nói:

“Còn nhiều vào buổi tối nữa chứ.”

Uông Tễ khựng lại, cạn lời: “…Anh bây giờ ăn nói vô tư vậy hả?”

“Tư cái gì, chẳng phải tối nào tôi cũng chơi với cái giá đỡ xà đơn sau bữa tối sao.” Phù Tô đang bấm điện thoại mở bản đồ, nghe vậy thì liếc anh một cái.

Uông Tễ im lặng, nhận ra vừa rồi hắn nói thật, không hề có ý nghĩ gì khác. Nhưng chỉ vài giây sau, anh lại tựa đầu vào ghế, cười khẽ.

Phù Tô nhìn cái điệu cười của anh là hiểu ngay. Hắn đưa tay ấn nhẹ vào eo anh, giọng mang ý cười: “À, cũng không sai nhỉ, mỗi ngày đều có chỗ để dồn sức cả mà.”

“Đẹp mặt anh quá!” Uông Tễ búng tay hắn ra, cười bất lực.

Phù Tô cười rạng rỡ, khởi động xe, đưa nó trở lại cao tốc, lao vào biển tuyết trắng xóa trải dài về phía chân trời.

Khi họ đến chân Hoàng Sơn, trời đã ngả chiều.

Hai người quyết định ngày mai mới leo núi nên dừng chân ở một khách sạn đã đặt trước. Khách sạn nằm ngay dưới chân núi, là một căn biệt thự phong cách châu Âu tựa lưng vào dãy núi xanh. Họ thuê căn suite trên tầng thượng, từ cửa sổ kính lớn nhìn ra là những rừng tùng tuyết phủ, không một bóng người, chỉ toàn cảnh núi rừng thanh tịnh.

Khu vực chân núi là một thị trấn nhỏ phục vụ du lịch. Ngoài khách sạn và nhà hàng ra thì chẳng có gì để khám phá. Buổi chiều, cả hai chợp mắt một giấc trong phòng. Khi ra ngoài ăn tối, trời đã tối đen như mực.

Quán ăn là do cô lễ tân ở khách sạn giới thiệu. Cô là người địa phương, nhà ở ngay dưới cây cầu cũ trong thị trấn. Khi nghe hai người hỏi về quán ăn địa phương chuẩn vị, cô lập tức gọi điện đặt chỗ giúp họ.

“Tin tôi đi,” cô lễ tân nhiệt tình nói, “Ở đây mười quán thì tám quán chuyên chặt chém khách du lịch, vừa đắt vừa dở, trong đó có cả nhà hàng của khách sạn tụi tôi.” Câu cuối cô nói khẽ lại, ra vẻ bí mật. “Muốn ăn đồ Huệ Châu chính gốc thì phải đến chỗ này. Đây là quán ruột, tôi không chỉ cho khách nào đâu!”

Tuyết vẫn rơi, hai người không lấy xe cũng chẳng mang ô. Quán ăn không có trên bản đồ, họ phải dựa vào bản đồ vẽ tay của cô lễ tân để tìm đường.

Trước mặt là những con phố sáng bừng ánh đèn, biển hiệu nhấp nháy đủ sắc màu. Những dãy nhà vốn trông xám xịt vào ban ngày giờ đây lung linh như một khu phố cổ được phục dựng, với những căn nhà xây theo kiến trúc Huệ Châu. Đường phố chật kín du khách, không khí náo nhiệt, nhưng cũng khiến Uông Tễ cảm thấy lạ lẫm.

“Khác hẳn trong ký ức của em,” anh nói, “Hồi đó tới đây còn là một thị trấn nhỏ xíu, hơi cũ kỹ.”

Thời gian trôi qua, hóa ra đã 16 năm từ lần cuối anh đặt chân đến nơi này, vào mùa hè sau kỳ thi đại học.

“Vậy thì 16 năm nữa ta lại tới.” Phù Tô quay sang nhìn anh.

“Lúc đó cả hai đều 50 rồi đó.”

“50 thì sao? Bạn cùng tuổi còn đi làm mà. Ráng thêm, 80 tuổi mình cũng tới!”

Lần theo những con đường ngoằn ngoèo trên bản đồ, họ băng qua một cây cầu nhỏ. Rời xa khu phố chính đông đúc, ánh đèn và dòng người dần biến mất, chỉ còn lại những con hẻm nhỏ yên tĩnh dưới ánh đèn đường mờ ảo. Trong không gian tĩnh mịch, tiếng ti vi từ những ngôi nhà ven đường vọng ra nghe rõ mồn một.

Cây tùng cao sừng sững hai bên đường, tuyết trắng nhẹ rơi, làm ướt cả vai áo của hai người.

Đi đến cuối con đường, trước mặt họ không phải một nhà hàng mà là một căn nhà bình thường dưới chân núi.

“Làm du lịch sinh thái à?” Uông Tễ gõ nhẹ lên cánh cửa.

Rất nhanh, cửa mở ra. Một thanh niên trẻ nhìn thấy họ liền hỏi: “Là chị Quả Quả đặt chỗ giúp đúng không?”

“Đúng vậy.” Hai người gật đầu.

“Vào đi.” Anh chàng dẫn họ vào trong.

Vừa bước qua ngưỡng cửa, Uông Tễ hơi ngạc nhiên trước khung cảnh bên trong.

Ngoài trời tuyết vẫn rơi, nhưng dưới mái hiên và trong gian chính của ngôi nhà là hàng chục chiếc bàn gỗ, bàn nào cũng đông nghịt khách. Tiếng nói cười rôm rả, những nồi lẩu nghi ngút khói tỏa ra mùi thơm hấp dẫn. Một bầu không khí náo nhiệt hoàn toàn đối lập với vẻ yên tĩnh bên ngoài căn nhà.

Thanh niên kia đưa họ đến một bàn trống sát tường trong gian chính, đưa cho họ một tờ giấy và cây bút, nói: “Đây là thực đơn. Muốn ăn gì thì đánh dấu vào nhé.”

Hai người nhận thực đơn nhưng chỉ lướt qua, phần lớn sự chú ý vẫn đặt vào khung cảnh xung quanh, cảm thấy có chút thú vị.

Cậu thanh niên rót nước trà vào hai chiếc cốc, vừa cười vừa nói: “Không phải quán chợ đen đâu. Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận an toàn thực phẩm và sức khỏe đều treo trên tường kia kìa, bếp cũng có thể vào tham quan, đảm bảo sạch sẽ.”

Uông Tễ cười: “Bọn tôi đâu nghĩ thế. Nhưng đây là nhà làm du lịch sinh thái à? Sao không treo biển hiệu, cũng không định vị được trên bản đồ.”

“Cũng không hẳn là nhà làm du lịch bài bản.” Cậu thanh niên đáp, “Chỉ mở cửa bán buổi tối, từ năm giờ đến tám giờ thôi. Đến sớm hay muộn cũng không tiếp khách, mỗi ngày chỉ nhận đúng tám bàn.”

Cách làm ăn kiểu này thực sự hơi tùy hứng. Uông Tễ cầm cốc trà nhấp một ngụm, cảm thấy vị trà ấm áp tỏa hương giữa tiết trời giá rét.

“Nhà tôi toàn làm khách quen thôi. Phần lớn là dân chơi ngoài trời, mỗi năm leo Hoàng Sơn tám chục lần, mà lần nào cũng ghé nhà tôi ăn.” Nói xong, cậu thanh niên nhìn họ, cười hóm hỉnh. “Hai anh tìm được đến đây cũng hay thật. Chắc chị Quả Quả thấy hai anh đẹp trai quá nên mới phá lệ chỉ đường.”

Cả hai bật cười, sau đó dựa vào thực đơn gọi vài món đặc sản. Phù Tô vẫn nhớ lời Uông Tễ nói lúc trước nên cầm bút đánh dấu món “đậu phụ lông” trên menu.

“Cái món này…” Cậu thanh niên nhướn mày, dặn dò, “Ăn không hết là bọn tôi không nhận trả lại đâu đấy.”

“Không trả,” Phù Tô cười, đưa lại thực đơn, “Thử xem sao.”

Cậu thanh niên nhận thực đơn, đi vào nhà bếp.

Tỉnh của Uông Tễ nổi tiếng với sự đa dạng, ngay cả trong thói quen ăn uống. Từ món mì, cơm gạo, bánh chưng mặn hay ngọt, đến sủi cảo hay chè trôi nước, mỗi thành phố, mỗi huyện đều có nét đặc sắc riêng. Đến Tết, vùng này bận rộn chiên bánh viên, trong khi vùng bên cạnh lại tất bật hầm nồi lẩu lớn.

Ẩm thực Huệ Châu thường chỉ bao gồm các món thuộc vùng cổ Huệ Châu, gồm một phủ sáu huyện. Vì thế, dù là dân bản địa, Uông Tễ cũng chỉ ăn đúng chuẩn vài lần trong đời.

Các món được phục vụ đều là đồ mới nấu. Thực đơn gồm cá chạch chua, thịt kho măng khô, xúc xích Huệ Châu, canh gà hầm nấm đá, và một đĩa rau xào theo mùa.

Ẩm thực Huệ Châu, với địa hình đồi núi đặc trưng, chủ yếu dùng nguyên liệu tự nhiên từ núi rừng. Khí hậu ẩm và lạnh khiến người dân thường phải muối chua các loại thực phẩm. Hương vị của món ăn vì thế thường đậm đà, thiên về mặn và béo.

Không lâu sau, cậu thanh niên mang ra một chiếc bát nhỏ, bên trong chỉ có hai miếng đậu phụ lông. Cậu cười, giải thích: “Món này nhiều người không ăn nổi, mẹ tôi chỉ chiên hai miếng cho hai anh ăn thử. Nếu ăn được thì gọi thêm, không được thì đỡ lãng phí.”

Hai người vội vàng cảm ơn cậu thanh niên, sau đó quay lại với món đậu phụ lông. Đây là loại đậu phụ được lên men trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm nhất định, khiến bề mặt phủ đầy lớp lông trắng mịn. Khi chiên lên, lớp lông này biến mất dưới nhiệt độ cao, để lại miếng đậu phụ vàng giòn bên ngoài, mềm mịn bên trong, tỏa hương ngào ngạt của nước sốt.

Uông Tễ vẫn ám ảnh bởi món này nên không động đũa, nhưng Phù Tô thì nhanh chóng gắp một miếng: “Nhìn cũng được đó.”

Ngoại hình của món ăn chẳng những không khiến người ta e ngại mà còn rất hấp dẫn. Phù Tô cho nửa miếng đậu vào miệng.

Uông Tễ chống cằm, nhìn hắn với ánh mắt đầy thú vị. Một người còn không chịu nổi vị của đậu phụ thối mà dám ăn đậu phụ lông?

Quả nhiên, sau khi cắn một miếng, Phù Tô đơ người, cơ hàm như cứng lại ngay trước mắt Uông Tễ.

“Cái món mà anh ngày nhớ đêm mong, ăn thế nào?” Uông Tễ nhướng mày, không giấu nổi vẻ hả hê.

Không gian phòng ăn không lớn, hai người lại ngồi ở góc khuất sát tường.

Phù Tô liếc nhìn Uông Tễ, sau đó lướt mắt khắp phòng một lượt. Đột nhiên, hắn mỉm cười, cúi người về phía Uông Tễ, tay vòng ra sau ôm lấy gáy anh.

“Anh…” Uông Tễ giật mình, giữa nơi đông người thế này chưa kịp phản ứng thì cảm giác môi Phù Tô lướt nhẹ qua cằm mình.

Một tiếng cạch vang lên, chiếc đũa rơi xuống bàn. Uông Tễ vẫn chưa hoàn hồn, Phù Tô đã ngồi lại chỗ cũ, khóe mắt ánh lên nét cười nghịch ngợm, nhai kỹ và nuốt trôi miếng đậu phụ.

Đúng lúc này, cậu thanh niên từ cửa bước vào, bưng khay đồ ăn lên bàn khác. Nhìn thấy Phù Tô có vẻ vui vẻ, cậu hỏi: “Thế nào? Ăn quen không?”

Phù Tô nở nụ cười sâu xa: “Cũng ngon lắm.”

Bỏ qua món đậu phụ, bữa ăn quả thực rất tuyệt. Cá chạch chua tuy nặng mùi lúc đầu nhưng thịt cá lại dai mềm, quyện với nước sốt đậm đà cay nhẹ, dư vị vô cùng hấp dẫn. Thịt kho măng và xúc xích Huệ Châu thì béo mà không ngấy, còn bất ngờ lớn nhất là nồi canh gà hầm nấm đá. Nấm đá mọc trên vách núi, mang theo hương thơm đặc trưng. Khi hầm cùng gà ta, nồi canh dậy vị thanh ngọt, không cần nêm nếm nhiều gia vị, uống vào mượt mà như trà, để lại chút hậu ngọt nơi cuống họng.

Ăn xong, cả hai cảm thấy ấm áp và hài lòng. Khi rời quán, cậu thanh niên hỏi: “Mai hai anh leo núi à?”

“Đúng rồi.”

Bên ngoài, tuyết vẫn rơi trắng xóa trong sân.

“Ngày mai sẽ là một ngày đẹp trời đấy.” Cậu cười.

Sáng hôm sau, họ chuẩn bị mọi thứ từ sớm. Từ áo nhanh khô, áo lót lông vũ, đai bảo vệ đầu gối, gậy leo núi, đến móc đinh và máy ảnh đều đầy đủ.

Chiếc máy ảnh là do Uông Tễ nhắc mang theo. Anh nói rằng “Hoàng Sơn về chẳng buồn ngắm núi nào nữa”, phong cảnh ở đây đẹp đến mức không ghi lại thì thật đáng tiếc. Phù Tô cũng đồng ý, trong đầu nghĩ rằng muốn chụp thật nhiều ảnh của Uông Tễ.

Trước khi lên núi, họ được trải nghiệm kỹ năng lái xe “thần sầu” của các tài xế xe bus ở Hoàng Sơn. Sáng sớm, cửa sổ xe phủ đầy sương, nhìn ra ngoài như đang lướt giữa những tầng mây. Sau đó, họ chuyển sang đi cáp treo. Khi cáp treo vừa dừng, còn chưa kịp bước ra, họ đã nghe thấy tiếng trầm trồ từ những du khách phía trước.

Quả nhiên, cậu thanh niên không sai, hôm nay là một ngày đẹp trời.

Sau cơn tuyết, trời quang mây tạnh, khung cảnh hiện ra chỉ toàn là sương mù và biển mây. Những ngọn núi hiểm trở đứng sừng sững giữa làn sương trắng bồng bềnh. Các dãy núi ngàn năm như khoác lên mình lớp áo bạc, khiến khung cảnh tựa chốn tiên cảnh ẩn thế.

Họ tiếp tục leo lên, từng bước giẫm trên nền tuyết kêu lạo xạo. Khi leo bậc thang, tuyết đọng trên cành cây rơi xuống, phủ trắng cả hai người.

Phía sau họ là một đôi tình nhân. Cô gái nhìn cảnh tượng ấy, kéo tay bạn trai nói:

“Anh lắc cây đi! Em cũng muốn thử, tuyết rơi xuống thế này chụp hình chắc đẹp lắm!”

“Đẹp gì mà đẹp, em không thấy người ta bị ướt hết cả người à?”

“Anh không hiểu rồi, tuyết ở Hoàng Sơn không phải tuyết thường đâu,” cô gái nói, đôi mắt lấp lánh hứng khởi, “nghe kể, Hoàng Đế Huyền Viên đã phi thăng thành tiên ở đây. Emnghĩ sẵn cả câu caption luôn: ‘Tiên nhân xoa đỉnh đầu, kết tóc nhận trường sinh.’ Trời ơi, thế này thì không viral mới lạ!”

“Thơ với thẩn, dùng lung tung cả. Thôi, đừng mơ trường sinh nữa, để anh vốc nắm tuyết rắc lên đầu em, coi như sống thêm năm trăm năm nha.”

“Cút!”

“Đừng giận mà… Ê, kia có bán xúc xích kìa, anh muốn ăn!”

“Ăn tuyết đi cho rồi!”

Cô gái bị bạn trai kéo đi mua xúc xích, hai người vừa đi vừa trêu đùa, cười đùa giũ tuyết trên mũ của nhau.

Càng lên cao, nhiệt độ càng hạ. Đến một lúc, lông mi hai người đã phủ sương trắng, bước chân chậm dần vì tuyết dày.

“Mệt rồi à?” Phù Tô dừng lại, lấy từ ba lô ra bình giữ nhiệt, mở nắp.

Uông Tễ thở hổn hển, gương mặt đỏ bừng vì lạnh, uống hai ngụm nước nóng từ tay Phù Tô.

Phù Tô cũng uống hai ngụm, sau đó cất bình vào túi, vươn tay về phía Uông Tễ:

“Nắm lấy, tôi kéo em.”

Phù Tô không đeo găng tay, đôi bàn tay với các khớp ngón rõ ràng, mạnh mẽ. Uông Tễ nắm lấy, cảm nhận sự tiếp xúc làn da, như có thể nghe được dòng máu chảy qua mạch máu anh, vừa ấm áp vừa an tâm.

“Làm sao bây giờ? Năm mươi tuổi thì còn tạm, tám mươi chắc em chỉ có thể chờ anh dưới chân núi thôi.”

Phù Tô bật cười, hơi thở trắng xóa tan vào không khí lạnh, tay kéo Uông Tễ đi tiếp: “Có 80 tuổi thì tôi vẫn kéo em được mà.”

Họ vừa th* d*c, vừa kiên trì. Đến khi đặt chân l*n đ*nh núi, Uông Tễ chống tay lên đầu gối, ngẩng đầu nhìn, và trong khoảnh khắc đó, tất cả mệt mỏi trong cơ thể biến mất, chỉ còn trái tim đang đập thình thịch vì xúc động.

Khung cảnh trước mắt khó mà diễn tả bằng lời. Biển mây cuộn trào dưới chân, đứng giữa tầng mây, thế gian như chỉ còn hai màu: tuyết trắng tinh khôi và những dãy núi xanh thẫm tựa mực tàu.

Xa xa, những dãy núi trùng điệp, hùng vĩ nhưng cũng dịu dàng và từ bi như ánh nhìn của kẻ quan sát vạn vật. Cảnh tượng tựa bức tranh thủy mặc. Bao nhiêu gian nan, cuối cùng họ đã bước vào lòng núi rừng.

“Đẹp đến mức tôi muốn khóc.” Không biết ai đó trong đoàn người khẽ thốt lên. Chỉ khi đứng trước sự hùng vĩ của núi non, con người mới hiểu mình nhỏ bé đến nhường nào.

Phù Tô giơ máy ảnh, đưa Uông Tễ và phong cảnh cùng vào khung hình. Họ sẽ còn đến nhiều nơi như thế này, bởi họ còn cả quãng thời gian dài phía trước.



Hôm nay không quá đông người leo núi. Hai người ăn trưa tại nhà hàng trên đỉnh Quang Minh, sau đó tìm một góc trống để ngồi nghỉ.

Uông Tễ cảm thấy bờ vai mình hơi nặng. Anh cúi xuống, nhìn thấy Phù Tô tựa vào vai mình, đôi mắt khép hờ, vẻ mặt hiện rõ sự mệt mỏi.

Tối qua, Phù Tô khó ngủ vì lạ chỗ, sáng nay lại vừa vác ba lô vừa kéo anh suốt cả chặng đường.

“Ngủ một lát đi.” Uông Tễ nhẹ nhàng vỗ lên vai hắn

Chỉ lặng lẽ ngồi bên bờ vực của núi cao, trước mặt là dãy núi xa xăm đã đứng vững qua ngàn năm, bên cạnh là người mình yêu đang nhắm mắt nghỉ ngơi.

Gió thổi, tuyết rơi. Bất chợt, Uông Tễ nhớ tới một câu trong Du Ký của Từ Hà Khách.Ngày mùng 4, ngồi im nghe tuyết tan suốt cả ngày.Hôm ấy, tuyết phủ kín núi non, Từ Hà Khách lặng lẽ ngồi trên đỉnh Hoàng Sơn, nghe tiếng tuyết chảy trọn một ngày.

Khi trước không hiểu, giờ mới thấu.

Thời gian như trôi đi trong khoảnh khắc. Cũng là trên đỉnh Hoàng Sơn, tuyết tan dần, Uông Tễ ngồi yên lặng, nghe trọn buổi trưa tiếng hơi thở nhè nhẹ của người mình thương.
 
Trên Núi Có Chuyện Gì? - Uông Nhạ Nhạ
Chương 39: Bánh nướng Hoàng Sơn



Xung quanh khu vực Hoàng Sơn có rất nhiều ngôi làng cổ. Hôm sau, hai người lái xe đến một ngôi làng để dạo chơi.

Những căn nhà cổ kính yên bình nép mình dưới chân dãy núi phủ tuyết trắng. Bức tường trắng, mái ngói đen xen kẽ nhấp nhô soi bóng xuống mặt nước tĩnh lặng, nơi những cành cây khẳng khiu in dấu bóng mờ ảo. Phong cảnh Hoàng Sơn mang vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa tráng lệ.

Đá xanh lát dưới chân ướt nhẹp vì tuyết tan, trong không khí lạnh giá của mùa đông thoảng qua mùi thơm mát của đất. Họ theo dòng người qua cây cầu cổ. Ở mép cầu, có người dân đang giặt quần áo, tiếng chày đập vải đều đều vang lên, nhịp nhàng mà xa xăm. Những du khách lác đác vào mùa thấp điểm làm làng quê vốn yên tĩnh thêm đôi chút rộn ràng. Dẫu sao đây cũng là thành phố du lịch, nên nét thương mại hóa ở ngôi làng cổ này là điều không tránh khỏi.

Băng qua cầu, con đường dẫn đến một khu phố buôn bán. Những ngôi nhà dân đã được sửa lại thành cửa hàng, bày bán các món ăn và đặc sản địa phương.

Hai người vừa đi vừa được mời ăn thử, mà đúng hơn là được “nhét” đồ ăn vào tay. Một cửa hàng bán bánh nướng Hoàng Sơn, nhân viên cầm khay lớn niềm nở nói:

“Tụi em không cắt đâu, bánh nhỏ mà, mấy anh chị cứ tự lấy. Bên trái là loại cay, bên phải là không cay. Ở giữa là vị mới: muối tiêu, rong biển, và chà bông.”

Uông Tễ nghe mà bật cười: “Không sợ ông chủ la hả?”

Nhân viên cũng cười tươi: “Ông chủ không có ở đây, hổng quản được đâu!”

Những chiếc bánh vừa mới nướng xong, còn nóng hổi. Lớp vỏ ngoài thơm phức, cắn một miếng, bên trong là nhân cải mặn trộn với thịt heo béo ngậy.

Uông Tễ nhớ lần trước đến Hoàng Sơn cách đây hơn mười năm, anh cũng ăn loại bánh này, nhưng bánh khi đó nhỏ, tròn, phồng lên và lớp vỏ ngoài bóng bẩy hơn. Còn bây giờ, chiếc bánh anh cầm trên tay là loại bánh dẹt, vỏ giòn rụm, nhân bên trong được ép mỏng nên nướng lên thơm lừng.

Nhân viên nghe anh hỏi thì giải thích: “Dạ, cái đó là loại truyền thống. Chỗ tụi em là kiểu cải tiến. Nếu anh muốn ăn loại truyền thống thì đi qua con hẻm ở cuối con đường này, có tiệm làm đúng vị xưa luôn. Mùa cao điểm là khách xếp hàng dài cả ngày, ông chủ tụi em nhìn mà ghen tị hoài!”

Nghe xong, ngay cả Phù Tô cũng phải bật cười.

Tuy vậy, hai người vẫn mua vài túi bánh cải tiến để mang về. Vị mặn vừa đủ, thơm ngon mà không ngấy, rất đậm đà. Uông Tễ nghĩ chú Uông và thím Uông hẳn sẽ thích.

Đi hết con đường nhộn nhịp nhất, phía trong làng có nhiều con hẻm sâu. Cả hai cứ bước đi không mục đích, thấy lối nhỏ nào cũng ghé vào.

Trong hẻm có vài hộ dân sinh sống. Những cụ già ngồi trước cửa nhà, vừa chuyện trò bằng phương ngữ địa phương vừa tỉ mẩn vá đế giày. Dưới chân họ là những chú chó vàng lớn lười biếng cuộn tròn, thỉnh thoảng vẫy đuôi xuống đất, trông thấy khách lạ cũng không buồn động đậy.

Cả ngôi làng không lớn, đi dạo chưa đầy hai tiếng đã hết. Cuối cùng, họ dừng chân bên cầu, nhìn ngắm mấy sinh viên mỹ thuật đang ngồi vẽ tranh.

Đến khi gió thổi mạnh hơn, bầu trời xa xăm trở nên âm u, đứng ở cầu cũng thấy lạnh, hai người mới quay về homestay.

Homestay nằm ngay trong làng, nép mình giữa những bức tường cao và con hẻm cổ. Đây vốn là ngôi nhà cũ của chủ nhà, được sửa sang lại thành nơi lưu trú. Phòng không lớn nhưng sạch sẽ, ấm cúng và tiện nghi.

Chủ nhà là một cô gái vui vẻ, tên Uông Bàn, cũng mang họ Uông như Uông Tễ.

Khi làm thủ tục nhận phòng, họ đã trò chuyện đôi chút. Uông Bàn không chỉ cùng họ với Uông Tễ mà còn giống anh ở điểm đều từng từ bỏ công việc ở thành phố lớn để về quê. Chỉ khác ở chỗ Uông Tễ trở về để sống an nhàn, còn Uông Bàn thì mạnh mẽ hơn, cô mở homestay để khởi nghiệp.

Khi hai người bước qua ngưỡng cửa, trong sân nhỏ hình vuông, Uông Bàn đang quấn một chiếc khăn choàng lớn, tóc xoăn xõa tự nhiên, ngồi bên lò than nấu trà.

Thấy họ về, cô ngẩng đầu hỏi: “Dạo xong rồi hả?”

“Dạ xong rồi, phong cảnh đẹp lắm.”

“Khách nào cũng khen vậy hết trơn. Chớ ở lâu rồi, như tụi tôi, thấy nhà cửa chật chội, tối tăm, đâu có sáng sủa gì.” Uông Bàn chỉnh lửa trong lò than, đặt một vỉ nướng lên trên. “Giữa buổi chiều, không làm gì thì thôi, ra đây ăn chút gì uống miếng trà, cho đỡ buồn, thơm lắm nghen.”

Trong ngày đông dài lê thê, về phòng cũng chẳng biết làm gì, Uông Tễ và Phù Tô đành ngồi xuống bên bàn gỗ, nghe theo lời chủ nhà.

Trời thay đổi, gió bắt đầu lùa qua sân, nhưng bên bếp lò than thì vẫn ấm áp. Cái ấm từ than không giống với hơi nóng từ máy điều hòa, mà là một cảm giác khô ráo, giản dị, ấm từ da thịt thấm vào tận trong lòng.

“Bữa trà chiều này hả? Sao làm nhiều vậy?”

Uông Bàn nuôi một chú mèo nhỏ, lông cam, mắt tròn vo, tên là Bánh Nướng. Chú mèo khá thân thiện, vốn đang nằm ngủ trong ổ của mình, nhưng khi Phù Tô ngồi xuống, nó lập tức chạy tới, cọ đầu vào lòng hắn. Vừa v**t v* bộ lông mềm mại của mèo, Phù Tô vừa hỏi.

Bên cạnh hắn là một chiếc giỏ tre được đan tinh xảo, bên trong đầy ắp các loại đồ ăn như hạt dẻ, quýt, bánh gạo nếp, và mấy quả hồng đỏ mọng, có lẽ vừa hái từ cây hồng trong sân.

Uông Bàn nhặt từng món lên đặt lên vỉ nướng trên lò than, sắp xếp một cách khéo léo: “Còn cách nào khác đâu, giờ homestay cạnh tranh dữ lắm, làm ăn khó khăn lắm đó. Hai năm nay cái vụ ngồi quanh lò nấu trà đang hot, tui tính chụp vài tấm ảnh, quay clip rồi ghép nhạc đăng lên mạng để câu khách. Về nhớ giúp tôi quảng cáo nha, trên mạng nhớ để lại bình luận tốt tốt chút.” Nói xong, cô chắp tay làm bộ cảm tạ.

Uông Tễ cười gật đầu: “Nhất định rồi.”

Đồ trên vỉ nướng chưa kịp chín, Uông Tễ đã lấy một túi nylon bên cạnh mở ra đưa cho cô: “Chị ăn thử không?”

Uông Bàn liếc nhìn túi bánh, bất ngờ reo lên: “Bánh tát! Là của bà cụ trong hẻm Đông đúng không?”

Uông Tễ nói: “Hẻm nào thì tôi không nhớ, nhưng đúng là bà cụ bán đó.”

Hai người họ lúc lang thang dạo chơi đã tình cờ thấy cửa tiệm nhỏ trong một con hẻm rất hẹp.

Quán bé xíu, cũ kỹ, trước cửa chỉ có một chiếc chảo lớn đang bốc khói nghi ngút. Trên tấm bảng gỗ tróc sơn treo ở tường ghi các loại nhân bánh tát và giá cả.

Bánh tát nhìn qua tưởng chẳng có gì đặc biệt, thực chất là một loại bánh bột mỏng nhân đủ vị, nhưng cách làm thì rất lạ. Sau khi nhồi nhân vào, bà cụ cán mỏng bánh, rồi thả lên chảo dầu, sau đó còn đặt một cục đá nhỏ lên mặt bánh để ép.

Dù là mùa thấp điểm, quán vẫn đông khách, thậm chí có cả dân địa phương xếp hàng mua. Những người này rất nhiệt tình giới thiệu cho họ, bảo rằng đây là món lương khô mà thương nhân vùng Hoài cổ ngày xưa thường mang theo mỗi khi đi xa làm ăn.

“Đúng là chỗ đó, tiệm ngon nhất vùng. Bà cụ này bán cả mấy chục năm rồi, tôi ăn từ bé tới giờ.” Uông Bàn vừa nói vừa muốn cầm thử, nhưng bánh tát của quán này gói gém rất giản dị, chỉ là mấy lớp bánh đặt trong một túi nhựa. Cầm tay chắc chắn sẽ dính dầu.

Nhìn thấy vậy, Uông Tễ rút một tờ khăn giấy từ bên cạnh, bọc lấy góc miếng bánh rồi đưa cho cô.

Bánh vẫn còn nóng hổi, lớp vỏ dẻo dai bên trong là nhân thịt heo và bột đậu vàng. Hương thơm béo ngậy của bột đậu quyện cùng vị ngọt mềm của thịt mỡ tan ra ngay khi cắn miếng đầu tiên.

Bánh Nướng nghe mùi thơm, ngóc đầu ra khỏi lòng Phù Tô, “meo meo” kêu vài tiếng. Phù Tô vừa xoa đầu nó vừa trêu: “Nghe lời đi nào, đây là đồng loại của mày, không được ăn đâu.”

Uông Bàn vừa cắn một miếng bánh, suýt nữa phì cười: “Đúng vậy, Bánh không thể ăn bánh được.”

Bỗng có tiếng gõ cửa, cả ba người đồng loạt ngẩng lên.

Đứng trước cổng là một cô gái trẻ mặc trang phục Hán phục, tựa như một vệt màu rực rỡ giữa nền tường trắng mái ngói xám. Cô ngó đầu vào hỏi: “Chào chị, em có thể chụp ảnh ở đây được không ạ?”

Ngoài cổng homestay của Uông Bàn vẫn giữ nguyên phong cách cổ kính. Cánh cửa gỗ treo chiếc khóa đồng cũ đã gỉ sét, trên bức tường trắng là những vết nứt trông mộc mạc mà nhuốm màu thời gian. Cành cây hồng từ sân vươn ra ngoài, từng góc nhỏ đều toát lên phong vị cổ kính của vùng đất Hoài.

Uông Bàn thoải mái đáp: “Được chứ, nếu muốn, em có thể vào trong sân mà chụp, trong này còn đẹp hơn. Nhưng nhớ về đăng ảnh thì giúp chị quảng cáo một chút nha.”

Không lâu sau có người gọi điện đặt phòng, Uông Bàn vội ăn nốt miếng bánh cuối rồi vào nhà.

Cô gái trẻ ngoài cổng dường như đã hẹn trước với một nhiếp ảnh gia và một trợ lý cầm tấm hắt sáng. Họ chụp vài bức trước cổng, sau đó vào sân chụp thêm vài góc, cả quá trình đều trao đổi rất khẽ khàng.

Để họ không cảm thấy gò bó, Uông Tễ và Phù Tô cũng không cố tình quan sát. Uông Tễ chăm chú xem điện thoại, còn Phù Tô mải mê đùa Bánh Nướng. Chỉ đến khi cô gái ấy liên tục liếc mắt về phía họ, có vẻ đang ngắm bếp trà, Uông Tễ mới kéo Phù Tô đứng dậy, lịch sự nhường chỗ: “Lại đây mà chụp đi.”

“Cảm ơn anh ạ!” Cô gái cười tươi đáp lời.

“Không có gì.” Uông Tễ đáp, rồi sau vài giây ngẫm nghĩ vì đã nghe cô nói vài câu không mấy tự tin với nhiếp ảnh gia, anh liền bổ sung: “Rất đẹp.”

Câu khen ngợi ấy rất chân thành, không chút khách sáo, khiến cô gái ngẩn ra một thoáng rồi mỉm cười rạng rỡ. Đôi mắt cong cong, nụ cười ấy còn tỏa sáng hơn cả những bông hoa cô cầm trong tay, khiến nhiếp ảnh gia bấm máy liên tục.

Sau khi chụp xong, cô gái vẫn chưa rời đi ngay, có lẽ hơi ngại ngùng, nhưng cũng muốn đáp lễ nên quay sang khen Uông Tễ từ đầu tới chân. Cuối cùng tự mình đỏ mặt, bước đi nhẹ nhàng như cánh bướm.

“Em sao vậy? Thả thính khắp nơi à?” Phù Tô nhướn mày, liếc theo bóng dáng cô gái rồi quay sang nhìn Uông Tễ. Trong lòng, Bánh Nướng cũng kêu meo một tiếng phụ họa.

Uông Tễ cười, xoa đầu mèo: “Chỗ nào thả thính? Với lại, cô ấy cũng khen anh mà.”

Phù Tô nhướng mày, nhớ lại: “Ừ, khen mắt thẩm mỹ của tôi tốt, bạn bè chọn cũng đẹp trai.”

Uông Tễ cười lớn: “Vậy chẳng phải cô ấy khen anh đẹp trai sao? Chú em đây còn đi ghen với cả cô bé này à?”

“Cô bé hả?” Phù Tô nhìn anh, giọng điệu trầm thấp: “Tôi ghen hết, không kể nam nữ, già trẻ lớn bé.”

“Đừng dùng từ bậy bạ.” Uông Tễ bật cười, trong sân yên ắng, Uông Bàn vẫn đang bận trong nhà xác nhận đặt phòng với khách. Anh cúi sát tai Phù Tô, khẽ nói: “Không có thả thính. Tất cả tình cảm đều dành cho anh. Yêu anh nhất.”

Đôi mắt cong cong, tràn đầy ý cười.

Trong lòng Phù Tô, Bánh Nướng đang chăm chú l**m bàn chân nhỏ xinh của mình. Đột nhiên, gương mặt tròn vo của nó bị bóp bẹt lại. Phù Tô quay đầu, giữa khu sân vắng người, hắn nghiêng qua hôn lên môi Uông Tễ.

Nụ hôn chan chứa sự dịu dàng, nhưng ẩn sâu trong đó là chút chiếm hữu không cách nào che giấu được. Khi môi rời nhau, Uông Tễ khẽ chạm lên môi mình, ánh mắt chứa ý cười: “Anh bị con trai mình nhập à? Sao lại cắn người thế này?”

“Lúc hôn tôi mà còn nghĩ đến nó? Về nhà tôi đổ hết thịt khô và đồ hộp của nó đi cho xem.” Phù Tô trầm giọng.

“Anh phát điên gì vậy chứ?” Uông Tễ bật cười.

Lúc này, Uông Bàn đã xử lý xong việc đặt phòng, cô khoác chiếc khăn choàng lớn, hối hả bước ra sân. Hai người đồng loạt nhìn sang. Uông Bàn hớn hở thông báo:

“Tôi đã bảo mà, cứ chăm chỉ quảng bá là được! Vừa nhận được hai lượt đặt phòng, khách ở tận ba đêm lận! Phát tài rồi!”

Cô tranh thủ hào hứng giơ điện thoại lên, quay một đoạn video về góc sân, chiếc bàn gỗ trước mặt và khung cảnh xung quanh.

Hoàng hôn đang dần buông xuống, ánh trời chiều nhuốm màu ấm áp trên nền trời xám lạnh. Gió bắc thổi qua, tuyết đọng trên cành cây hồng rơi xuống lả tả.

Lửa trong lò than vẫn cháy đều, hơi ấm lan tỏa khắp sân. Chiếc ấm gốm trên lò khẽ sôi, từng làn khói mỏng manh vấn vít. Bánh nếp và hạt dẻ đặt trên lò nổ bung lớp vỏ, phát ra tiếng lép bép vui tai.

Video gần như không cần chỉnh sửa, chỉ thêm chút nhạc nền là đã đẹp lung linh. Uông Bàn cầm điện thoại, ngồi nhíu mày, cố nghĩ một câu chú thích thật ấn tượng.

Đột nhiên, Uông Tễ ngước lên, nhìn bầu trời sẫm màu, khẽ nói: “Lại sắp có tuyết nữa rồi.”

Cả Uông Bàn và Phù Tô đều ngẩng lên, mỗi người một cách. Một người nhìn trời, một người nhìn người, ánh mắt cả hai đều dịu dàng, ấm áp.

Một khu sân nhỏ, một chiếc lò than, ba kẻ vô ưu, một chú mèo đang lơ mơ ngủ. Họ cùng nhau chờ đợi một cơn tuyết lớn sắp đến, để tất cả hòa vào khoảnh khắc chậm rãi mà đầy vấn vương của thời gian.

Uông Bàn khẽ thở ra, đôi mày giãn ra đầy thư thái. Ngón tay lướt nhẹ trên màn hình, cô chậm rãi gõ:

Rượu Lục-Nghị mới cất xong,

Chiếc lò đất nhỏ sẵn trong góc này.

Trời e đổ tuyết chiều nay,

Anh sang uống chén rượu này được không?
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back