Tâm Linh [TỔNG HỢP] TRUYỆN MA CÓ THẬT - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta

[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Phùng Long Ẩn - II Trùng Tang


Khi cả nhà đang lo chuyện kiếm tìm người thầy về để lập đàn , thì ông Rạng đang ngồi hút thuốc như thường lệ, thì bỗng nhiên ông lên cơn co giật , mắt trợn lên trừng trừng, sủi hết bọt mép, chân tay cứng co lại, anh Sinh lao lại ôm lấy bố, rồi bảo vợ gọi xe cấp cứu , anh Bình cũng lao sang nhưng tất cả đã muộn, ông Rạng đã tắt thở , mọi người khóc oà lên, ai cũng nghĩ là do ông bị đột quỵ .

Rồi ai lấy khóc thương và chuẩn bị đám ma cho ông thật tươm tất.

Đám ma hôm ấy mây đen bao phủ càng làm cho không khí càng não nề, Bà Rạng ngồi bên quan tài của ông Rạng khóc mất cả giọng.

Sau khi làm lễ cúng cơm cho ông, mọi người về cũng gần hết, chỉ còn lại bà Rạng, anh Bình, anh Sinh và 2 cô con dâu bên quan tài ông Rạng để cho ông bớt hiu quạnh.

Riêng Khánh, con trai của anh Bình cứ ra bàn thờ nhìn mặt ông nội không chớp mắt.

Lúc nửa đêm , gió thổi mạnh ù ù bên ngoài sân, vườn chuối xào xạc. tiếng gió đẩy cánh cửa sổ nơi ông Rạng vẫn nằm kêu lên cọt kẹt, không gian yên tĩnh những tiếng động càng làm con người ta rùng rơn.

Rồi bỗng nhiên chiếc quan tài rung thật mạnh, lắc lư như gần đổ xuống khỏi mấy chiếc kệ, 2 vợ chồng anh Sinh và anh Bình há hốc mồm, bà Rạng thì nói: bố .. bố mày chưa chết đâu, mau mở nắp quan tài ra, nhanh lên.

Anh bình chạy xuống bếp cầm búa rồi cầm thêm con dao dầy , anh lậy từng chiếc đinh quan tài lên, tiếng đinh bật lên răc rắc đủ làm người ta thấy ghê người.

Anh Sinh cầm 1 bên nắp cả 2 khênh chiếc nắp quan tài ra, Nhưng ông Rạng vẫn nằm yên trong đó, không có hơi thở , tất cả đều im lặng thì đột nhiên cánh tay ông Rạng giơ lên chĩa ngón tay chỉ thẳng vào mặt anh Bình, rồi lại rơi bịch xuống, bất động, tất cả á khẩu , bà rạng oà lên khóc, nhưng ông Rạng không sống dậy và chẳng có hiện tượng gì thêm 1 lần tương tự.

Sau khi chôn cất cho ông Rạng xong, anh Bình nghĩ nhiều lắm, anh nghĩ không biết tại sao bố anh chết rồi mà vẫn chỉ tay vào mặt anh, ý ông muốn nói điều gì chăng, những giả thiết được anh đặt ra nhưng chẳng bao giờ có câu trả lời thích đáng và hợp lý, anh suy sụp nhanh chóng , gầy nhanh, xanh xao, thỉnh thoảng trong giấc mơ anh mơ thấy ông Rạng, dáng người gầy hơn nhưng khuôn mặt của ông thì anh không thể nhìn thấy.

Rồi hôm 49 ngày ông Rạng. khi mọi người đang ngồi làm lễ dưới bàn thờ của ông Rạng, thì bỗng nhiên anh Bình lên cơn co giật , y như hiện tượng của ông Rạng, mọi người ôm lấy anh lắc mạnh, vợ anh oà lên khóc nhưng anh co giật liên tục và tắt thở , ai cũng bàng hoàng đưa anh lên giường nằm , thằng Khánh con trai anh chạy vào ôm lấy anh mà khóc, mọi người đang hoang mang thì thấy a giơ tay lên chỉ thẳng vào mặt con trai anh rồi bàn tay a rơi xuống giường.

Vợ anh Bình ôm lấy Khánh mà gào lên: Sao anh lại muốn bắt con đi theo anh, hãy để nó bên em, mọi người ai cũng hiểu lờ mờ rằng, cái chết của anh Bình đã được ông Rạng báo trước, lúc này ai cũng hoảng loạn, riêng thằng Khánh vẫn nhìn mặt bố nó không chớp mắt, bà Rạng ngất lịm bên người con cả vừa chết bất đắc kỳ tử trước mặt và cũng hiểu rằng ông Rạng đã bắt chính con trai mình sang bên kia thế giới, rồi bỗng nhiên bà bật dậy ôm lấy thằng Khánh nói: Mau... mau mang thằng Khánh ra khỏi ngôi nhà này, đem nó đi thật xa không bố nó sẽ bắt nó đi mất thôi, bà gọi vợ anh Bình quát lớn: Mang nó sang bên nhà ngoại đừng để nó về đây nữa.

Vợ anh Bình ôm lấy Khánh bế nó lên rồi vừa chạy vừa khóc, Mọi người xúm lại bên anh Bình, anh đã cứng hết cơ thể, miệng sủi đầy bọt mép trắng xoá, dường như anh đã ăn phải độc tố gì vậy, mấy người hàng xóm đứng bên ngoài bàn tán xôn xao, người thì bảo là do bị ngộ độc, người bảo anh bị bệnh di truyền của ông Rạng, đều chết bất thường như thế.

Những lời bàn tán , người này nói cho người khác , làm cái xã nhỏ bé ấy rung động, khiến cả uỷ ban nhân dân xã phải báo cáo lên cấp trên về cái chết bất thường của anh Bình, Pháp y về kiểm tra toàn cơ thể anh bình, nhưng không tìm ra nguyên nhân được cái chết, hết đoàn pháp y cấp huyện rồi cấp tỉnh đều lắc đầu về cái chết của anh Bình, dân làng ai cũng khiếp sợ, đám tang anh Bình dân làng không có mấy người dám đi , ai cũng lo tai vạ vào mình, chỉ có mấy người hàng xóm thân thích chạy qua chạy lại , giúp đỡ nhà bà Rạng lúc bối rối và hoảng loạn này.

Ngày đám ma anh Bình, thằng Khánh cứ đòi về chịu tang bố nó, nhưng bà ngoại nó không cho về, mấy lần nó cứ chạy lao về, bà ngoại phải đuổi theo ôm lấy nó mà khóc rằng: Con mà về là con chết đấy, ở đây với bà.

Nó nhất định không chịu, bà ngoại đành phải khoá nó vào cái buồng chứa thóc , để nó không trốn về nhà, Anh Sinh lúc này cũng hoang mang và lo lắm, thằng Khánh không về được anh phải chống gậy thay nó , người ở đám ma nhưng anh đang suy nghĩ nhiều lắm.

Đêm hôm đó, mọi người hàng xóm đã viếng xong, chuẩn bị làm lễ cúng cơm cho anh Bình thì trời bỗng nổi cơn giông , gió thổi cát bụi bay mù mịt, chiếc cánh cửa đập mạnh vào tường từng tiếng bộp bộp, cái bạt mà người ta phủ bộ rạp bị gió hất tung ra ngoài, còn trơ lại những thanh sắt của bộ rạp, mây đen kéo tới mưa bắt đầu nặng hạt rồi như trút nước, rồi gió càng mạnh khiến người ta buộc phải cắt điện vì sợ dây điện có thể đứt gây nguy hiểm, nhà bà Rạng không có 1 chút ánh sáng, những cây nến thắp trên nắp quan tài anh Bình bị gió thổi tắt . chỉ còn duy nhất ánh sáng của cây đèn dầu trên bàn thờ vẫn sáng và soi rõ khung ảnh của ông Rạng, những tiếng sấm vang trời như giận dữ, những ánh sáng chói loà của tia chớp, như xé toang màn đêm bằng những tiếng xẹt ..... xẹt.

Anh Sinh phải chạy qua nhờ mấy người hàng xóm sang để giúp anh khênh chiếc quan tài đặt lùi vào trong nhà vì mưa đang hất quá mạnh, anh Sinh và vài người đang cúi người chạy vào đến cổng thì 1 tiếng nổ vang trời, 1 ánh sáng chói loà làm tất cả đứng khựng lại ôm lấy đầu vì sợ, Cú sét đánh thẳng vào chiếc quan tài của anh Bình đang được đặt sát chỗ cửa đại, làm chiếc quan tài bật ngửa rồi bùng cháy, chiếc nắp quan tài văng mạnh ra xa, làm hiện rõ khuôn mặt của anh Bình, ai cũng nhìn thấy chiếc quan tài đang bốc cháy , bà Rạng khóc nức lên mà than rằng: Ông ơi, ông đã mang nó đi sao ông không để nó nguyên vẹn mà theo ông, dứt lời 1 cơn gió tạt mạnh mang theo những hạt mưa hất mạnh vào chiếc quan tài làm ngọn lửa tắt ngấm, khói bắt đầu nhiều xung quanh chiếc quan tài hơn, anh Sinh cùng mấy người chạy lại bên quan tài cố khênh anh Bình ra khỏi chiếc quan tài để đặt lên giường, ngày mai phải mua 1 chiếc mới.

Hôm sau đưa anh Bình đi chôn cất , người ta đi bên nhau sát nhau hơn vì sợ hãi, từ khi cái xã nhỏ này được thành lập chưa có cái chết nào mang nhiều bí ẩn và khiếp sợ đến thế, ai cũng bàn tán về chuyện đêm qua, Người thì nói do kiếp trước anh Bình ăn ở thất đức giờ chết cũng không được toàn thây, người thì nói rằng có lẽ anh không hiếu thảo với bố mẹ nên ông Rạng làm thế với anh, nhưng người đang hiểu lờ mờ về mọi chuyện lúc này là anh Sinh, từ khi bắt mời thầy cúng , rồi thầy đã khuyên , và chuyện anh Bình lao ra bổ chết con rắn hổ mang ấy, suốt đám ma vợ anh Bình ngất đi ngất lại, bà Rạng khóc hết nước mắt, chỉ có anh Sinh đăm chiêu , lo lắng lắm, anh không phải lo lắng cái đám ma mà anh đang lo lắng cho anh vì chính anh và anh Bình là người phá cái miếu ấy, Sau khi chôn cất anh Bình xong.

Mọi người đều về hết chẳng ai dám lại nhà bà Rạng cả , chỉ còn vợ chồng anh Sinh, bà Rạng và vợ anh Bình đang mãi miết làm bàn thờ rồi đốt cho anh Bình mấy nén nhang thơm.

Sau khi đám ma của anh Bình được gần 1 tuần, anh Sinh ra chỗ cái miếu mà chính anh và anh Bình đã phá, anh quỳ xuống rồi thắp 3 nén nhang, miệng lẩm bẩm, bất chợp anh giật mình khi thấy cái bóng phía sau, anh hoảng loạn quay lại thì là bà Rạng đang đứng phía sau anh, chỉ là do mặt trời chiếu làm cái bóng hiện ra và dài thêm, nhưng cũng đủ làm anh Sinh đứng người.

Bà Rạng mệt mỏi nói: Nhà mình đang mắc tai hoạ rồi con ạ, từ ngày phá cái miếu là liên tiếp những chuyện mà không ai giải thích nổi, có lẽ mai mẹ với con phải đi mời thầy bên tỉnh bên về lập đàn mà cầu siêu cho bố mày với thằng Bình thôi, Anh Sinh cũng nghĩ tới điều này từ lúc ông Rạng gặp cái bóng ma , nhưng chưa kịp đi thì ông Rạng với anh Bình đột ngột qua đời, 2 hôm sau bà Rạng mời được thầy bên tỉnh về, ông thầy này không phải thầy cúng mà là thầy phù thuỷ, thầy phù thuỷ thì cao tay hơn rất nhiều với thầy cúng , ông thầy này vừa bước vào tới ngõ đã phán: Mảnh đất này âm khí quá nặng, duy chỉ có trong nhà là giữ được cân bằng , các người không thể thấy âm khí nhưng ta thấy rõ, khó mà có thể giải được. chỉ biết lập đàn cầu dương khí, yểm bùa, dời long mạch.

Anh sinh nghe nói long mạch cũng mường tượng ra cái dòng nước ở dưới cái khu miếu mà anh đào rồi nói: Có phải long mạch là dòng nước chảy bên dưới đất mà nước chảy mạnh và trong không ?

Ông thầy nói: Phải, ta đang muốn tìm cái long mạch ấy để chuyển dời, may ra tìm ra được sự cân bằng giữa âm và dương.

Anh Sinh vội chạy tìm cái cuốc vừa đào đất ở chỗ cái miếu nói: Ở đây, lần trước tôi đã thấy nó, anh bổ những nhát cuốc thật mạnh hất tung những mảng đất lên nhưng chẳng thấy long mạch đâu nữa, mà chỉ thấy chỗ đất ấy cứng như gạch, không 1 chút ẩm ướt, như là đất hạn hán vậy, không thế tin chỉ có 1 tháng trước đã có nguồn nước trong chảy mạnh qua đây được, Ông thầy phù thuỷ lắc đầu : Long mạch đã mất, sự thịnh vượng cũng suy tàn, rồi quay sang bảo bà Rạng: chuẩn bị lễ, lập đàn cầu siêu, tôi chỉ giữ cho mảnh đất này an toàn thêm 1 tháng nữa thôi, thu xếp chuyển nhà hay đi thật xa đi, cái hoạ này to lắm, nếu càng cố gắng ở thì chỉ mang cái hoạ chết người mà thôi, bà Rạng và anh Sinh tái mặt: không còn cách nào hả thấy , tôi đã sống ở đấy từ lúc lấy chồng, rồi mồ mả cha ông ở hết đây tôi mà đi lấy ai hương khói cho tổ tiên.

Ông thầy giơ bàn tay bấm : rồi nhìn lên trời mà than: Cái hoạ này là do người cố tình tạo ra, trời đã cố gắng cử người xuống ngăn cản nhưng người lại không nghe mà còn bổ chết thần thánh, Anh Sinh nghe thầy nói mặt tím tái vì anh hiểu " Người" là đang muốn nói tới con rắn ấy, 3 ngày 2 đêm ông thầy phù thuỷ ngồi trên 1 cái đàn nhỏ, ngồi niệm chú , nhiều lúc bà Rạng thấy như ông thấy ấy bay lên khỏi chiếc đàn cầu, miệng há hốc , dịu mắt nhìn cho kỹ, quả thật ông thầy này quá cao siêu, bà hy vọng ông thầy sẽ giải được cái hoạ cho nhà mình, cuối cùng ông thầy cũng xuống khỏi cái đàn ấy rồi lắc đầu: Tất cả những gì tôi có thể làm tôi đã làm rồi, giờ chỉ biết coi vào ý trời mà thôi, Rồi ông thầy lặng lẽ đi về, Bà Rạng nói với anh Sinh: Thôi cái hoạ này để mẹ chịu, vợ chồng con mau thu xếp đi khỏi đây đi, mẹ già rồi, nếu đi khỏi đây mẹ cũng chết vì ân hận mất, đất cát tổ tiên ai hương khói.

Anh Sinh không nói gì , rồi đi vào nhà nằm .

Mọi chuyện bình yên trôi qua khi tới ngày 49 ngày anh Bình, ai cũng đang chờ đợi xem liệu có chuyện gì xảy ra nữa hay không, Thằng Khánh vẫn được gủi bên bà ngoại, không ai dám cho nó về cả, đang sắp lễ cúng cho anh Bình , mọi người đều ngồi quanh lại cầu cho linh hồn anh được siêu thoát, thì bỗng nhiên ở đâu có tiếng khóc của thằng Khánh, nó lao vào bàn thờ bố nó khóc lớn : Con nhớ bố lắm, vợ ạnh Bình ôm lấy con mà giật lại không cho nó lại gần mà khóc: Sao con lại về đây, ai đưa con về đây.

Nó vừa khóc vừa rằng: Bà ngoại khoá con trong buồng không cho con về, lúc nãy con thấy bố đứng ở cửa nói: Đưa tay cho bố, bố cho con về. rồi bố cõng con về đây.

Nghe thằng Khánh nói xong ai cũng hoảng hốt nhìn xung quanh xem có anh Bình đứng đâu đấy quanh đây không, Bà Rạng khóc oà lên: Bình ơi, mày định mang con mày đi thật sao, nó còn bé để đây cho vợ mày nó chăm nom.

Vợ anh Bình cũng khóc: Anh đừng mang con đi, anh mang nó đi em cũng đi theo nó đấy.

Không gian ồn ào hơn, mọi người đang khóc lớn thì cơn gió lạnh ùa tới làm lạnh buốt hết người, mọi người đều im lặng chờ đợi xem có điều gì xảy ra nữa không, tất cả nhìn vào thằng Khánh, xem nó có hiện tượng gì không.....

Nhưng chẳng có điều xảy ra cả, thằng Khánh vẫn nằm trong vòng tay mẹ nó 1 cách yên bình, xong buổi lễ 49 ngày anh Bình, ai cũng thấy hết lo vì không có chuyện gì xảy ra, bà Rạng cũng thấy nhẹ nhõm phần nào và nghĩ mọi chuyện đã qua rồi, ông trời đã tha tội cho gia đình nhà bà, vợ anh Bình từ ngày ấy cũng để thằng Khánh ở nhà không gửi bên bà ngoại nữa, ngày ngày nó vẫn chơi cùng những đứa trẻ hàng xóm vui tươi lắm, Thời gian trôi qua yên bình cho tới hôm 100 ngày ông Rạng, mọi người trong gia đình sắp mâm cơm cúng ông Rạng, Anh Sinh bê mâm cơm cúng đặt lên bàn thờ ông Rạng , rồi lùi ra xa miệng khấn , anh đang khấn thì thằng Khánh đi gần lại chỗ anh đứng , nó cũng chắp tay lại , mồm bật ra âm thanh vang vọng lắm, âm thanh như từ đâu xa xăm chứ không phải do nó nói: "Mày phải đi theo tao" rồi ngước mặt lên nhìn thẳng vào mặt anh Sinh , đôi mắt thằng Khánh đỏ sọc, ứ ra máu đỏ chảy xuống sống mũi, rồi lăn ra đất lên cơn co giật, miệng sùi bọt mép , chân tay co lại, Bà Rạng chạy lại ôm lấy thằng Khánh, vợ anh Bình khóc oà: Đừng mang con của em đi, nhưng chỉ đặt thằng Khánh lên giường là nó tắt thở, mọi người ai cũng kinh hãi .
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Phung Long Ẩn - III Đôi Mắt Máu


Máu trong mắt thằng Khánh vẫn chảy từ trong khóe mắt nó, những giọt máu nhỏ rơi trên chiếu giường chảy thành dòng, ai cũng đứng người khi dòng máu in lên chiếu thành chữ " Tử" .

Mấy bà hàng xóm đứng bấu vai nhau khiếp sợ, cảnh tượng ban ngày mà đã làm kinh sợ đến thế.

Anh Sinh từ lúc này đến giờ như người vô hồn, cứ đứng yên nhìn thằng Khánh, chỉ tới lúc bà Rạng nức nở nói: Thế này tôi sống làm gì nữa, sống nhìn những người thân lần lượt ra đi thế này tôi chết còn hơn.

Vợ anh Bình ngất lịm bên xác thằng Khánh, Anh Sinh lúc này mới hoàn hồn vội bế vợ anh Bình qua giường bên đặt chị nằm ở đấy, rồi chạy ra nói vơi mấy bà hàng xóm: các bác chạy qua mấy nhà thông báo cho cháu để chuẩn bị làm đám ma cho thằng Khánh, mấy bà hàng xóm ú ớ gật đầu rồi bước ra khỏi căn nhà.

Đến chiều tối , tiếng kèn tiếng trống đám ma đã vang lên trong cái làng nhỏ, tiếng đàn cò réo rắt càng làm cho cái không khí thêm u ám, người dân trong làng bàn tán xôn xao, ai cũng phải thấy khiếp sợ đến mức không dám ra khỏi nhà lúc về đêm.

Tiếng gió thổi mạnh làm cây cối xào xác cũng làm cho mọi người thấy rùng mình.

Bên cỗ quan tài, vợ anh Bình cứ ôm chặt chiếc quan tài rồi khóc thảm thiết, chứng kiến cái chết của chồng mình rồi giờ đến con mình, thật sự là quá đau đớn, ai trông thấy cảnh tượng ấy cũng không cầm được nước mắt.

Đã gần về đêm khuya, tất cả lại làm lễ cúng cơm cho thằng Khánh, không gian tĩnh mịch, chỉ còn tiếng mõ kêu lên cốc cốc trong đêm khuya.

Cảnh vật bên ngoài mờ ảo bởi những đám sương mù dầy đặc, trắng xóa.

Đang làm lễ thì anh Sinh bỗng giật mình, anh vừa nhìn thấy có ai vừa chạy qua bên trái nhà, làm đám sương mù chuyển động, anh quan sát để ý kỹ tất cả bên quanh thì lại không thấy gì nữa, rõ ràng là anh vừa nhìn thấy ai đó chạy trong đám sương mù , anh lại định thần lại bằng những suy nghĩ là tại do anh mệt mỏi nhiều hôm nay nên sinh ra ảo giác, anh lại cúi mặt xuống tập trung vào bàn thờ thằng Khánh để tiếp tục làm lễ, nhưng 1 lúc anh lại ngước mắt lên nhìn ra chỗ trái nhà ấy thì anh lại giật bắn người khi thấy trong màn sương mù anh nhìn rõ đôi mắt đỏ sọc, nhìn thẳng về phía anh, anh đứng người dụi mắt rồi nhìn kỹ lại thì lại chẳng có gì cả, anh Sinh kéo vợ anh Bình lên hỏi vu vơ để cho khỏi sợ: À ,uh, .... anh chưa nghĩ anh sẽ hỏi gì, rồi anh nhìn từ nãy đến giờ không thấy bà Rạng đâu, anh Sinh vội hỏi: Mẹ đi đâu từ nãy đến giờ vậy chị, sao mẹ không ra làm lễ cúng cơm cho thằng Khánh, vợ anh Bình mệt mỏi: chắc mẹ mệt , nằm ở trong nhà .

Anh Sinh nói: thế cứ để mẹ nghĩ lúc chị ah, rồi lại đưa mắt lên nhìn ra chỗ trái nhà . chỗ cây trứng gà mọc cạnh cái miếu, lần này rõ mồn một là anh Sinh nhìn thấy đôi mắt đỏ sọc nhìn thẳng vào mặt anh, Anh Kinh hãi lôi tay vợ anh Bình lắp bắp: Chị.... chị có thấy cái gì ở cái cây trứng gà không, vợ anh Bình đưa mắt ra xa: ý chú là thấy cái gì mới được ấy chứ, mà sương dầy thế tôi nhìn thấy gì đâu.

Anh Sinh vẫn run rẩy, từ nãy đến giờ em đứng ở đây thấy cái bóng chạy qua cái cây trứng gà ấy mà, rồi đôi mắt đỏ sọc cứ nhìn em chằm chằm, mà mấy lần rồi, chằng lẽ em hoa mắt nhiều đến thế, đang nói rồi anh chợt thấy đôi mắt ấy hiện ra trước mắt: đấy,,,, đấy . chị nhìn xem em vừa thấy đôi mắt đỏ sọc kìa kìa. mọi người xung quanh đưa ánh mắt ra chỗ cây trứng gà nhưng chẳng thấy gì cả, họ nghĩ anh Sinh bị ảo tưởng, nhưng anh Sinh vẫn kiên quyết là có, khiến vợ anh Bình khó chịu: Tôi với chú đi ra để xem có như lời chú nói không, Anh Sinh đi trước, vợ anh Bình đi sau, ra đến gần cây trứng gà mà sương vẫn dầy đặc , anh Sinh bước gần tới cây trứng gà thì đột nhiên thấy có cái vật gì đập vào đầu anh, anh nghĩ ai đó treo cái gì lên cây trứng gà.

Đột nhiên 1 cơn gió thổi ùa mạnh, anh ngước mắt lên nhìn thì a hét toáng lên: Trên cây trứng gà là Bà Rạng, bà treo cổ tự tử trên đấy, đôi mắt bà trợn ngược toàn lòng trắng, chiếc lưỡi thè hẳn ra, nhưng điều kinh hoàng hơn là đôi mắt bà đỏ rực và chảy đầy máu trên khuôn mặt làm ai thấy cũng kinh hoàng, sợ hãi.

Mọi người nghe thấy tiếng kêu thất thanh của anh Sinh cũng chạy tới, xác bà Rạng treo lơ lửng trên cây, mấy người đàn ông vội trèo lên cây tháo chiếc dây ra khỏi cành cây rồi hạ bà xuống, vợ anh Bình từ lúc nãy đến giờ cũng á khẩu , kinh sợ.

Đưa cái xác của bà Rạng đặt lên giường thì điện bỗng nhiên vụt tắt, chỉ còn mấy cây nến ở trên cỗ quan tài của thằng Khánh tỏa ra thứ ánh sáng yếu ớt , trong bóng đêm người ta càng nhìn thấy đôi mắt đỏ sọc của bà Rạng rõ hơn và kinh dị hơn, gió bắt đầu thổi ù ù làm cây cối xao xạc, bỗng nhiên ở đâu tiếng những con chim lợn kêu éc éc...éc. chúng bay lượn trên ngay ngôi nhà bà Rạng mà kêu, trong đêm tối tĩnh lặng những âm thanh của những con chim lợn làm cho người ta sợ hơn bao giờ trước những cái chết kinh dị của gia đình này.

Những tiếng kêu của lũ chim lợn cứ văng vẳng trong đêm khuya như báo trước sự chết chóc , làm cho không khí càng nặng nề và u ám.

Sáng hôm sau , người ta đã thấy 2 chiếc quan tài nằm cạnh nhau được đặt ở trong nhà, không khí tang lễ u uất, 2 cái chết cùng 1 lúc trong gia đình, và hàng loạt những điều kinh dị xảy ra làm dân làng hoảng loạn, ai cũng sợ nhưng người ta vẫn tới để đưa ma, vì cái tình làng xóm, và cũng là sự hiếu kỳ khi những cái chết của gia đình nhà bà Rạng bí ẩn và đáng sợ.

Tới lúc chiều, gia đình anh Sinh mới bắt đầu đưa tang cho bà Rạng và thằng Khánh, anh Sinh đã thuê người đào 2 chiếc huyệt gần nhau, muốn cho bà Rạng nằm bên thằng Khánh cho đỡ cô quạnh.

Lúc đưa tang trời mưa to lắm, chiếc xe tang vẫn chậm chậm di chuyển từ nhà bà Rạng tới nghĩa trang.

Khi gần ra tới huyệt, mọi người dân xúm lại 2 chiếc quan tài. họ khênh chiếc quan tài của thằng Khánh xuống huyệt trước, đặt ngay ngắn bên dưới cái huyệt, vợ anh Bình khóc òa lên, rồi đòi lao xuống huyệt chết cùng với con trai mình, dân làng phải kéo chị lại không cho chị lại gần, rồi chiếc quan tài của bà Rạng cũng được đặt xuống cái huyệt bên cạnh, hai chiếc quan tài nằm sát nhau, Anh Sinh đứng trước 2 cái quan tài mà rơi nước mắt, mấy người đào huyệt đang chuẩn bị cuốc xẻng hất những xẻng đất xuống thì họ bỗng nhiên dừng khự lại, há hốc mồm, như chết lặng, người ta nhìn thấy hai chiếc quan tài từ từ được nâng lên như có ai đấy đẩy 2 chiếc quan tài nằm sâu bên dưới cái huyệt mà người ta đào khá sâu. lúc 2 chiếc quan tài gần tới sát mặt đất họ mới biết là do nước ở dưới đẩy lên, nhưng chỉ đẩy 2 chiếc quan tài sát gần mặt đất rồi dừng yên ở đấy , ai có mặt ở đám ma cũng kinh sợ nhưng vẫn đứng xem vì sự hiếu kỳ, anh Sinh đứng trước 2 chiếc quan tài há hốc mồm, rồi đột nhiên 2 chiếc quan tài rơi xuống, điều lạ kỳ là nó không rơi cả 2 đầu quan tài cùng 1 lúc mà chỉ rơi 1 đầu xuống trước, 2 chiếc quan tài rơi xuống như rơi ở 1 độ cao xa lắm, tiếng hú như ở sâu trong lòng đất thổi lên , 2 chiếc quan tài dựng đứng lên , nắp quan tài dù đã được đóng bằng những đinh rất chặt nhưng chẳng hiểu lý do gì mà nó bung ra, làm hiện rõ bà Rạng và thằng Khánh như đứng yên trong 2 chiếc quan tài vậy.

Anh Sinh mặt không còn 1 giọt máu, dân làng kinh sợ , nhiều người đàn bà hét lên sợ hãi, anh Sinh chưa biết phải xử lý ra sao thì đột nhiên bà Rạng và thằng Khánh cũng mở mắt , đôi mắt đỏ sọc , máu vẫn chảy xuống khuôn mặt trắng bệch , cả bà Rạng và thằng Khánh cũng giơ tay chỉ thằng vào mặt anh Sinh, rồi đôi mắt khép lại nhưng máu vẫn chảy.

Anh sinh khiếp sợ, kinh hãi. dân làng bỏ chạy gần hết chỉ còn vài người đứng lại chờ xem chuyện gì tiếp theo xảy ra nhưng 2 chiếc quan tài cứ thế thụt sâu xuống lòng đất, cứ thụt sâu mãi rồi biến mất bởi những dòng nước phùn lên mang theo cát và đá lắp đầy 2 cái huyệt mà người ta đào.

Anh Sinh chết lặng , người đờ đẫn cho tới khi vợ anh lại ôm lấy anh mà rằng: Mau trốn khỏi mảnh đất này đi anh, nếu ở lại anh cũng chết thôi, mấy người chứng kiến vụ việc cũng hoàn hồn lại gần bên anh Sinh nói: Phải đấy, cậu mau trốn đi , chứ ở lại cũng gặp tai họa mà thôi.

Anh Sinh bật khóc , ngửa mặt lên trời : Oan nghiệt này là do tôi tạo ra, tại sao ông trời không bắt tôi mà để tôi phải chứng kiến cảnh tượng này, dứt lời thì trời bỗng nổ 1 tiếng sét rẹt rẹt như xé tan bầu trời, như giận dữ đánh thẳng vào bụi cây dại ở nghĩa trang, làm nó bùng cháy ngay trước mặt anh Sinh, Mấy người đứng ôm đầu sợ hãi, vợ anh sinh vẫn khóc nức nở: Thôi đi về đi anh, trời mưa to lắm.

Anh Sinh lầm lũi bước ra về, dáng vẻ mệt mỏi đi dần xa khỏi cái nghĩa trang.

Từ lúc về anh nằm lỳ trên cái giường bên cạnh cửa sổ, anh nằm suy nghĩ nhiều lắm, đôi khi những giọt nước mắt anh rơi vì anh hối hận đã không nghe lời khuyên răn của ông thầy kia, anh lau nước mắt đưa mắt ra xa qua khung cửa sổ, anh nhìn về phía cái miếu anh đã đào lên, bỗng nhiên anh giật mình khi thấy cái bóng đứng lù lù ở gần cái cây trứng gà nơi mà bà Rạng vừa mới treo cổ đêm qua, anh á khẩu, không nói gì được , mắt anh vẫn nhìn đăm đăm vào cái bóng ấy, rồi anh thấy cái bóng ấy phát ra thứ ánh sáng đỏ kỳ lạ, rồi bỗng nhiên cái bóng ấy đỏ rực lên vụt bay vào không trung, biến mất, anh sinh miệng kêu ú ơ, Vợ anh Sinh đang ở dưới bếp thấy chồng kêu vội chạy lên : Anh làm sao thế, sao người cứng hết thế này, anh trúng gió ah.

Đỡ anh Sinh nằm xuống, chị lấy dầu gió thoa vào hai bên thái dương anh Sinh, anh lắp bắp nói : Anh vừa nhìn thấy cái bóng bên cạnh cây trứng gà , thấy nó đứng quay lưng lại , rồi phát ra thứ ánh sáng đỏ rực rồi vụt bay lên trời, vừa nghe dứt câu vợ anh Sinh òa lên khóc, thấy vợ khóc anh Sinh nói: Tôi đã chết đâu mà cô khóc lóc gì chứ, Vợ anh sinh nói: anh biết đấy là gì không, đấy là "tinh lác" của mỗi người đấy, lúc sắp chết ai cũng có , nó báo hiệu cuộc sống trần gian sắp kết thúc , mau trốn khỏi khu đất này đi anh, ở lại thêm 1 ngày là mất mạng đấy, Anh Sinh cười nhẹ nói: tôi cũng xác định là chết thôi, là do tôi gây ra, đáng lẽ tôi phải chết đầu tiên mới đúng, giờ tôi bỏ đi, ai hương khói cho gia tộc, ai làm lễ cho bố mẹ tôi, Vợ anh Sinh khóc nức nở: thế còn em thì sao, anh định bỏ em mà sống 1 mình thế ah, Rồi vợ anh Sinh quỳ xuống mà xin anh sinh mau trốn đi, họa trùng tang không ai trốn khỏi trừ khi phải bán xứ, bán mệnh đi 1 nơi thật xa may ra cái trùng này thoát khỏi.

Anh Sinh nghĩ tới vợ, nghĩ tới tương lai cũng mủi lòng: vậy cô đi thu xếp đồ đặc đi, ngủ qua đêm nay cho tôi lại sức rồi sáng mai sẽ đi, vợ anh Sinh nghe thấy thế cũng mừng rồi đi thu xếp đồ đặc.

Đêm ấy , gió lạnh thổi ù ù, sương muối trắng xóa, anh Sinh dù đã rất mệt nhưng anh không thế chợp mắt, anh lại nhìn ra khung cửa sổ.

Trong sương mù anh lại thấy ông Rạng , anh Bình, thằng Khánh và cả bà Rạng nữa, họ đều đứng nhìn về phía cửa sổ, thằng Khánh đôi mắt vẫn cứ máu chảy đầy khuôn mặt, nó gọi: Đi theo cháu ...

âm thang văng vẳng , xa xăm lắm, rồi ông Rạng và anh Bình giơ tay ra như muốn nắm lấy tay anh Sinh, anh Sinh cũng đưa tay ra, rồi chợt nhiên anh thấy từ đằng sau nơi họ đứng thấy chồi lên đầu của 1 con rắn hổ mang, chính là con rắn mà anh Bình đã bổ chết, nó đứng sau 4 người, nhưng nó đứng cao hơn hẳn, lúc nào cũng thè lưỡi ra, để hiện rõ 2 cái răng nanh dài nhọn, máu đỏ chảy từ 2 cái răng nanh xuống đất, từng tiếng phì phì của nó làm anh Sinh rụt tay vào.

Nhưng chưa kịp rút tay lại thì anh thấy con rắn bổ nhào tới , miệng nó cắn vào cổ anh, thân nhanh chóng quận chặt lấy người anh, rồi xiết thật mạnh, anh dần dần thấy khó thở, đôi mắt anh mờ mờ dần, anh thấy ông bà Rạng và anh Bình, thằng Khánh quay lưng lại đi dần dần ra phía xa, con rắn vẫn kẹp chặt lấy anh rồi đi theo ông bà Rạng.

Sáng sớm dậy, vợ anh Bình thấy anh Sinh không còn nằm bên cạnh, cửa sổ đã mở toang ra mặc cho những đám sương muối bay phảng phất, vợ anh Sinh chạy ra ngoài sân, bước ra ngoài tới cái ao thì chị hoảng hốt cất lên tiếng kêu thất thanh rồi ngất lịm đi.....................
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Phùng Long Ẩn - IV Xác Chết Quay Về


Nghe thấy tiếng kêu thất thanh từ nhà ông Rạng, vợ anh Bình và mấy người hàng xóm chạy qua thì thấy vợ anh Sinh nằm bất động trên sân gạch, mọi người chạy lại gần chỗ vợ anh Sinh thì giật mình đứng khự lại, 1 cảnh tượng hãi hùng , đó là xác anh Sinh đang nổi phềnh dưới ao, mặt anh trắng bệch, môi tím bầm , nhưng đôi mắt vẫn ứ ra nhứng dòng máu đỏ chảy khắp khuân mặt.

Điều kỳ lạ hơn là bên cạnh xác của anh Sinh có 1 con vịt cứ bơi xung quanh cái xác, đôi mắt nó đỏ ngầu, có vẻ hung dữ lắm, như không muốn cho ai động tới các xác.

Vợ anh Bình từ lúc nãy đến giờ kinh sợ mồm run rẩy: Con Vịt kia là con vịt còn sống sót duy nhất trong đàn, tại sao mày lại hại gia đình tao, rồi chị chạy cầm viên gạch ném thật mạnh vào nó, nhưng nó vẫn bơi vòng quanh cái xác của anh Sinh, mấy người hàng xóm cũng chạy cầm lấy mấy viên đất nhỏ , nhưng ném thế nào cũng không trúng, và nó cũng chẳng hề sợ hãi.

Vợ anh Bình chạy qua trái nhà cầm chiếc sào thật dài, chị định cầm cái sào ấy để đuổi con vịt ấy ra, nhưng chỉ cầm đến gần bờ ao thì bỗng nhiên mặt ao sủi đầy bọt khí cứ như là nước trong ao đang sôi lên sục sục vậy, mấy người hàng xóm như đứng người khi thấy dưới mặt nước đang sôi lên kia có những nguồn sáng phóng xẹt xẹt trong cái ao ấy, con Vịt bơi vòng quanh cái xác nhanh hơn , mắt nó vẫn đỏ như 2 viên than vậy, nó cứ bơi vòng vòng làm tạo ra 1 ngọn xoáy nước xung quanh xác anh Sinh, tất cả mọi người trố mắt ra nhìn cái xác của anh Sinh đang bị hút sâu bởi dòng xoáy nước ấy, được 1 lát thì cái xác từ từ chìm sâu trong vòng xoáy, mặt ao lại yên tĩnh không 1 gợn sóng nào, nhưng xác anh Sinh đã chìm sâu xuống đáy ao.

Vợ anh Sinh từ lúc nãy đến giờ ngất lịm đi chị bỗng dậy rồi òa khóc: Chồng em đâu rồi , Vợ anh Bình và mấy người hàng xóm lại gần : Xác chú giờ nằm sâu dưới ao rồi, có lẽ phải mời thầy về cúng rồi cho người vớt lên , chứ có nhiều điều bất ổn lắm em ạ.

Vợ anh Sinh lại sát cái ao mà khóc: Anh ơi, anh có chết thì cũng phải để em nhìn mặt anh chứ, để em làm tang cho anh chu đáo sao anh lại đi như thế.

Dứt lời mặt ao lại sôi lên sục sục , mặt nước rung chuyển mạnh, rồi có 1 tiếng nổ lớn dưới mặt ao, nước dưới mặt ao hất tung lên không trung, những hạt nước bắn vào mặt mấy người hàng xóm làm họ suýt nôn ọe vì mùi tanh của nước ao, nó tanh như mùi máu vậy, chưa hết bàng hoàng thì họ nhìn thấy xác anh Sinh từ từ nổi lên rồi cứ thế trôi vào sát cái cầu ao mà hàng ngày vợ anh Sinh vẫn hay lấy nước ở đó, Mọi người ai cũng kinh sợ, nhưng nhìn thấy vợ anh Sinh đang kêu gào: mấy bác ơi mau vướt chồng cháu lên , không anh ấy lại đi mất, tất cả đều chạy lại, anh Sinh nằm úp mặt xuống ao, hai tay thả thòng lòng xuống, mấy người hàng xóm chạy lại bên bờ ao, họ cầm lấy cái chân của anh kéo lại, mấy người lật ngủa người anh lên thì thấy mặt anh quá kinh sợ, vài người nhảy vọt lên khỏi bờ ao vì kinh sợ nhưng rồi lại định hình được lại , họ khênh cái xác anh Sinh đặt vào giường, vợ anh Sinh cứ ngồi bên cạnh mà khóc, ...

Bên ngoài dân làng càng bàn tán xôn xao hơn, người ta nói anh Sinh bị ma dìm chết chứ cái ao nông đến nủa người thì chết đuối kiểu gì, người thì nói gia đình này gặp họa trùng tang nên cứ thế mà chết hết thôi, cả 1 xã chấn động, khiến cán bộ tỉnh phải về trấn an dân cư, rồi cho pháp y về kiểm định cái chết của anh Sinh thế nào, dù biết là kết quả cũng sẽ là con số 0 như lần trước nhưng vẫn phải làm để trấn an tinh thần của dân, đoàn pháp y về kiểm định thì kết quả lại quá bất ngờ: Anh Sinh chết trước khi ngã xuống ao, anh chết do tắt thở, nhưng không thấy vết bóp hay vết treo ở cổ làm con người ta tắt thở được, đoàn pháp y cũng đành bó tay không lý giải được lại càng làm cho dân hoang mang hơn nữa, ai cũng kinh sợ.

Đến tận chiều tối sau khi đoàn pháp y về gia đình mới được làm ma cho anh Sinh, người ta vẫn đặt anh lên giường vì đã quá giờ làm lễ nhập quan cho anh.

Không gian u ám.

Ít người đến đám tang lại càng làm cho người ta thêm sợ , cứ nhìn vào cái xác anh Sinh đang nằm trên giường là cũng đủ làm cho người ta phải nổi hết da gà lên rồi.

Đêm hôm ấy , vợ anh Sinh, vợ anh Bình và người hàng xóm thân quen phải ngồi bên giường anh Sinh để cho anh bớt cô quạnh nhưng quan trọng hơn là để đuổi những con mèo chạy qua cái xác, vì người ta truyền tai nhau rằng nếu mèo chạy qua cái xác thì xác ấy sẽ biến thành cương thi, nên ai cũng lo sợ điều ấy, Nửa đêm khi mọi người về hết chỉ còn vài người bên cạnh xác anh Sinh, không gian tịch mịch đến lạ kỳ, tiếng kêu của những con côn trùng , tiếng gió thổi ù ù, tiếng vườn cây xào xác, làm ai cũng thấy rùng người, rồi mọi người giật mình khi nghe thấy tiếng trẻ con khóc, tiếng khóc văng vẳng như đâu đấy thôi,cảm giác như rất gần.

Vợ anh Bình vội chạy ra cửa : Khánh ah con, có phải con không, nhưng chẳng có tiếng khóc nữa, chị quay vào thì tiếng khóc lại bật lên văng vẳng đâu đây thôi, mấy người hàng xóm nói: không phải đâu, tiếng khóc này như trẻ con mới đẻ làm sao có thể thằng Khánh được.

Rồi cầm đèn pin , 2 3 người đi sát lại bên nhau soi ra bên trái nhà khu vườn chuối thì họ giật bắn người khi thấy có đôi mắt xanh lè đang nhìn họ, nhưng chỉ là 2 con mèo đang đến gai đoạn dục vọng, tiếng kêu của chúng chẳng khác nào trẻ con, 1 người bực giọng cầm viên gạch ném mạnh rồi chửi: Mẹ kiếp, làm ông mày sợ. bỗng nhiên còn mèo chạy vụt qua cửa sổ rồi lao thẳng qua cái xác của anh Sinh , mọi người hoảng hốt đứng bật dậy , thì bỗng nhiên cái xác của anh Sinh cũng đứng bật dậy , mắt vẫn chảy máu, khuôn mặt trắng bệch làm họ kinh hãi, vợ anh Sinh khóc òa lên: Em xin anh, anh hãy yên nghỉ đi đừng làm thêm điều gì nữa, gia đình mình đã gặp nhiều chuyện lắm rồi.

Chẳng hiểu là vì lý do gì mà anh Sinh bỗng rơi ầm xuống giường nằm yên không cử động thêm nữa, mấy người hàng xóm từ nãy đến giờ mặt cắt không còn giọt máu nào , đứng lặng người chờ xem anh Sinh có đứng dậy thêm lần nào nữa không, lời các cụ nói không sai, mèo chạy qua xác ắt là điềm dữ, nhưng không có chuyện người thành cương thi được.

Gần 2 giờ sáng, ai cũng mệt mỏi bên xác của anh Sinh , dù muốn ngủ nhưng không thể ngủ được vì cái sợ cũng như sự lo âu trong họ, sương bắt đầu xuống dày hơn, mưa bắt đầu rơi tý tách, vợ anh Sinh mệt mỏi ngước mắt ra ngoài trời thì bỗng nhiên chị giật mình khi nhìn thấy ông Rạng đứng ngay trước cầu ao, mình ông đứng đó nhìn thằng vào trong nhà không chớp mắt, dáng vẻ mệt mỏi , rồi ông lủi thủi bước đi, đằng sau ông chị nhĩn rõ con rắn hổ mang đang trườn theo đằng sau, rồi con vịt bước theo sau, mắt nó đỏ sọc nhìn thằng vào trong nhà, chị ngồi thẫn thờ , rồi chị nghe có tiếng bước chân bên trái nhà, tiếng con vịt kêu quang quác trong đêm khuya, chị cố định thần lại, thì bỗng nhiên cái bóng đèn duy nhất trong nhà nổ cháy đen thui để lại căn phòng mờ ảo bởi thứ ánh sáng yếu ớt của những cây nến và chiếc đèn dầu trên bàn thờ ông Rạng, mấy người hàng xóm đang cố trèo lên chỗ cái bong điện để tháo nó ra và thay vào cái bóng điện lắp ở dưới bếp thì đột nhiên có 1 cơn gió ùa thật mạnh mang theo cả hơi lạnh của đám sương mù làm mấy cây nến vụt tắt nốt , làm căn phòng càng thêm tăm tối hơn bao giờ hết.

Vợ anh Bình cảm thấy sợ nên gồi sát lại bên vợ anh Sinh hơn, rồi chị giật bắn người , tay run lên bần bật, chị vừa ngước mắt lên bàn thờ , nơi mà ngọn đèn dầu tỏa ánh sáng yếu ớt, trong ánh sáng ấy chị nhìn rõ trên bàn thờ mặt người trên đó, đôi mắt sáng quắc nhìn về phía chị, chị cố gắng trấn an dụi mắt, rồi đưa mắt nhìn kỹ lại về phái bàn thờ, vẫn khuân mặt ấy, vẫn đôi mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào mặt chị, chị run rẩy lắp bắp: Có .... có người trên bàn thờ em ơi. mấy người đang sửa bóng điện cũng quay ngoắt lại , cầm chiếc đèn pin đi lại gần bàn thờ , ánh sáng yếu ớt soi thẳng vào bàn thờ , ánh sáng vừa tới thì bỗng nhiên tiếng kêu quác quác, gió thổi mạnh vào mặt mấy người hàng xóm, trong ánh sáng của đèn họ nhận ra chỉ là 1 con cú mèo. chẳng biết từ lúc nào mà nó chui vào ban thờ ngồi ở đó đưa đôi mắt kỳ quái nhìn về phía mọi người khiến ai cũng kinh sợ.

Mọi người chưa hết sợ vì đôi mắt kì quặc của con cú mèo kia thì họ lại lặng người khi nghe thấy những âm thanh ở cái giường nơi anh Sinh đang nằm rung lên bần bật, tiếng lạch giường kêu lên rắc rắc , bỗng nhiên từ phía bên cuối giường 1 ngọn lửa bùng cháy, rồi cháy lan quanh chiếc giường khiến ai cũng hoang sợ, mấy người hàng xóm lao vào cố khênh chiếc xác anh Sinh ra nhưng không tài nào khênh nổi anh ra khỏi cái giường đang bốc cháy nữa, chẳng ai hiểu vì sao xác anh Sinh lại đột nhiên cứng và nặng đến thế , ai cũng đang gồng mình cố gắng khênh ra nhưng đều không được, trong sự hỗn loạn và không biết xoay sở thế nào thì có 1 người hàng xóm thấy ồn ào chạy qua nói: cắm 4 nén nhang xung quanh giường, 2 nén cắm trên đỉnh đầu anh Sinh nhanh không kịp nữa rồi, vợ anh Bình chạy đến bàn thờ cầm nắm hương đốt hết rồi đưa cho ông hàng xóm, ông cắm 4 cây vào xung quanh giường thì người anh Sinh giật đùng đùng , rồi ông cắm thêm 2 nén nhanh lên đỉnh đầu thì người anh Sinh lại mềm ra như lúc ban đầu.

Ông hàng xóm nói: Mau vào khênh anh Sinh ra khỏi cái giường này mau.

Mọi người xúm lại khênh anh Sinh qua bên giường kia thì cơn gió lạnh ùa vào thổi càng làm ngọn lửa cháy rực lên , ngôi nhà bùng sáng mạnh mẽ , chỉ trong chốc lát chiếc giường bị thiêu rụi bởi ngọn lửa ma quái.

Đến chiều hôm sau mây đen bao phủ, trời u ám , cơn mưa sẽ có thể ập tới ngay bất cứ lúc nào, người người đến dự đám tang của anh Sinh, họ sợ nhưng vẫn muốn đi xem vì muốn tận mắt trông thấy những hiện tượng bất thường xảy ra thêm 1 lần để họ có thể nhìn tận mắt mà không qua lời kể của bất kỳ người nào, mấy người hàng xóm đứng nép vào 2 bên ngõ để cho mấy thanh niên to khỏe khênh chiếc quan tài của anh Sinh ra ngoài đặt vào chiếc xe tang đang đứng ở đầu ngõ, bọn trẻ con thường ngày thi tranh giành cờ đám ma để cầm nhưng hôm nay chẳng có 1 đứa trẻ con nào dám tới cái đám ma này cả.

Xe tang vẫn chậm chậm đi dần ra phía nghĩa trang , cái nơi mà ông bà Rạng và anh Bình và cả thằng Khánh đang chờ anh.

Quanh cảnh u ám, trời u tối bởi những đám mây đen, vợ anh Sinh đứng sau chiếc xe tang bám víu và khóc không lên tiếng, vợ anh Bình cũng khóc rồi cố cầm lấy tay cô em mình vì chị sợ, chị sợ vì từ lúc đưa cỗ quan tài lên xe tang thỉnh thoảng chị lại để ý thấy chiếc quan tài rung lên, chị mường tượng rằng điều kinh khủng lắm đang chuẩn bị xảy ra nên cố víu lấy tay cô em để trấn an tinh thần.

Đoàn xe tang đi được gần nửa đường thì người ta phát hiện ra phía sau tầm khoảng 100m , cái con vịt mắt đỏ ngầu cứ ì ạch bước theo đám tang kể từ lúc đưa anh Sinh lên xe tang, ngay cả khi có ngã rẽ nó cũng rẽ theo , cứ theo đằng sau không lại gần hơn nữa.

Đến gần nghĩa trang, mọi người dừng xe để chuẩn bị khênh chiếc quan tài của anh Sinh xuống huyệt, đặt chiếc quan tài nằm ngay ngắn nằm sâu ở dưới đáy huyệt , mấy người hàng xóm dùng những xẻng đất hết lên nắp quan tài , hất được vài xẻng họ dừng khự người lại vì thấy bống nhiên quan tài hơi rung rồi lắc lư, ai cũng nhìn chiếc quan tài thật kỹ nhưng lại không thấy điều gì xảy ra tương tự, họ lại cầm xẻng hất tiếp những mảng đất xuống thì bỗng nhiên cái con vịt lao tới nó bay vào mổ những người đang xúc cát rất hung dữ rồi nó đứng ở phía miệng cái huyệt đôi mắt đỏ rực và miệng lúc nào cũng kêu lên quang quác, mọi người chưa hết bàng hoàng thì nó bỗng chợt bay lên và bay vòng tròn xung quanh cái huyệt, gió bắt đầu thổi ào ào, mưa kéo tới và sấm chớp nổi loạn trời, làm ai cũng sợ nhưng vẫn đứng xem chuyện gì xảy ra, con vịt cứ bay vòng tròn quanh cái huyệt miệng nó giờ phát ra âm thanh văng vọng khắp nghĩa trang 1 cách kì lạ: "Tang trùng tang, oan này phải trả bằng mạng người".

Mọi người hoảng sợ , nhiều người bám chặt lấy nhau, rồi trong nháy mắt họ thấy chiếc quan tài cũng đang xoay quanh cái huyệt, nó quay nhanh lắm, rồi tụt sâu xuống dưới để in hằn lên mặt huyệt cái vòng âm dương với 2 chấm ở giữa là 2 cục máu đỏ lòe, ai cũng đứng người sợ sệt không dám nhìn nữa thì chiếc quan tài lại nổi lên nằm yên bất động như không có chuyện gì xảy ra, con vịt cũng biến mất 1 cách bí ẩn mà chẳng ai nhìn thấy.

Vợ anh Sinh òa lên khóc: Xin anh yên nghỉ để em chôn cất anh cho mồ yên mả đẹp, anh đừng làm em sợ.

Mọi người đứng yên bất động nhìn vào chiếc quan tài, nước đang tràn lên đến gần nắp, mấy người hàng xóm dùng hết cam đảm, tay run run cầm chiếc xẻng hất những nắm đất xuống cho đến khi đầy cái huyệt, vợ anh Sinh đứng trước mộ chồng thắp 3 nén nhang rồi miệng lẩm bẩm khẩn, đắp cho anh những ụ cỏ để anh có thể yên nghỉ , rồi mọi người dìu cô về trong lúc trời vẫn đổ cơn mưa nặng hạt, sấm chớp vẫn vang khắp cả bầu trời u ám.

Khi về nhà vợ anh Sinh mệt mỏi rồi nằm vật ra giường thiếp đi lúc nào cũng không hay, cơn mưa vẫn rả rích bên ngoài cửa sổ, ánh đèn mờ mờ , sương mù bắt đầu tràn vào căn phòng nơi chị ngủ, trong giấc mơ chị lại mơ thấy anh Sinh , anh nằm yên trong quan tài nhưng anh chưa chết, anh vẫn mở mắt nhìn trừng trừng vào cô.

Rồi anh vùng dậy bật tung chiếc nắp quan tài và phá luôn cả nấm mộ mới đắp rồi cứ thể nhảy từng bước , từng bước đi ra khỏi khu nghĩa trang 1 cách kỳ quặc.........
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Phùng Long Ẩn - V Bí Ẩn Mãi Là Bí Ẩn (Hết)


Sáng hôm sau vợ anh Sinh mệt mỏi bước ra khỏi nhà, điều hôm qua chị mơ thấy làm chị thấy lo lắng và bất an lắm, chị quyết định cầm bó hương rồi lầm lũi đi ra phía nghĩa trang, nơi mà anh Sinh đang yên nghĩ ở đó, chị ra thắp cho anh nén hương để bớt cô quạnh cũng muốn liệu trong giấc mơ có xảy ra thật sự hay không.

Trên con đương đất hướng ra phía nghĩa trang, chị đứng yên ở mộ của anh Sinh cắm cho anh nén nhang.

Ngôi mộ vẫn xanh cỏ, không có hiện tượng gì lạ lùng, chỉ có 1 điều làm chị thấy lo lắng đó là xung quanh ngôi mộ có nhiều vết chân, như ai đó đi quanh khu mộ, những vết chân vẫn còn in hằn trên khu đất , những nốt chân kỳ quặc, nhìn thì ngón chân in lên dài hơn hẳn so với người bình thường, vết bàn chân cũng to hẳn, khác biệt và kỳ quặc.

Chị đứng khóc 1 mình trước mộ anh Sinh rồi quay lưng lặng lẽ rời khỏi khu nghĩa trang .

Về đến ngõ nhà mình chị bỗng giật mình, chị thấy những vết chân kỳ lạ vừa thấy ở nghĩa trang xuất hiện trên lối đi vào nhà mình, chị nhớ như in, cái bàn chân to phản, cái đốt ngón chân dài thườn ra , cái nốt chân kỳ quái sao lại xuất hiện ở đây mà kỳ là hơn nó lại cứ trải dài vào tận sân nhà chị, Chị đang đăm chiêu nhìn vào những bàn chân kỳ quặc ấy mà chị đã thấy ở khu mộ anh Sinh bỗng chị giật mình khi thấy có cái bóng người đang tiến về phía chị, chị quay ngoắt lại thì chỉ là cái bóng của vợ anh Bình mà thôi, Vợ anh Bình mệt mỏi : Từ ngày gia đình xảy ra chuyện tôi nghĩ nhiều lắm, thấy nhiều điều kỳ quái và tôi nhận ra rằng hình như có liên quan tới con vịt ngoài bờ dậu kia kìa. em cứ để ý mà xem: Từ đâu lúc cả đàn vịt lăn ra chết hết, con vịt ấy cũng chết rồi lại ngóc đầu sống lại và đẻ trứng bên cái bờ dậu kia mà không về chuồng đẻ trứng.

Rồi hôm đám ma chú Sinh cũng thế, lạ kỳ quá em à.

Vợ anh sinh cũng gật đầu nói: Vâng , em cũng thấy thế, chị với em ra bờ dậu bên cạnh ao xem nó có ở đấy không, mình giết chết nó đi thì hơn.

Nói xong 2 chị em tay cầm con dao dài tiến ra khu dậu bên bờ ao, đến gần khu bờ dậu thì chẳng thấy con vịt ở đó nữa, mà chị thấy cái ổ của nó, trong ổ có 5 quả trứng to lắm, không hiểu sao mà trứng vịt mà to đến thế, vợ anh Bình nói, cứ đập hết những quả trứng này ra tránh hậu họa thì hơn, rồi cầm dao lao tới chém thật mạnh vào 5 quả trứng, mấy quả trứng vỡ ra bên trong toàn máu đỏ chảy ra , mùi tanh bốc lên suýt chút nữa làm 2 chị em nôn ọe, máu bên trong quả trứng chảy ra rồi chảy xuống ao, làm nước ao đang trong cũng bắt đầu chuyển sang màu đỏ, làm 2 chị em kinh sợ.

Vợ anh Sinh lùi về phía sau vì thấy rùng người, chị nhìn thấy máu là đã xanh mặt rồi, thì bỗng nhiên con vịt ở đâu bay tới , đôi mắt đỏ lừ như đang giận giữ lao vào tấn công chị, chị bị bất ngờ , loạng choạng rồi rơi ngay xuống cái ao đỏ như máu.

Vợ anh Bình thấy thế chạy lại lấy cái gậy để lôi cô em dâu lên, nhưng vừa đưa cái gậy xuống thì như có 1 thứ gì đó lôi vợ anh Sinh ra giữa cái ao, rồi dìm vợ anh Sinh xuống, vợ anh Bình trên bờ thấy thế vội tri hô: Có ai không, cứu người với.

Mấy người hàng xóm nghe tiếng kêu cứu vội chạy sang, nước trong ao đỏ lừ và sôi lên ục ục , những bọt khí từ đáy ao vẫn đang sủi lên, làm mấy người hàng xóm khiếp sợ. chẳng ai dám nhảy xuống ao mà vớt chị lên cả.

Vợ anh Sinh vẫn bị 1 cái gì đó dìm sâu xuống đáy ao, cánh tay cố thò lên, nhưng lại bị giật mạnh xuống biến mất khỏi cái ao đỏ rực , ai cũng á khẩu chết lặng người, mặt ao bắt đầu tĩnh lặng trở lại , màu nước lại trở lại trạng thái trong vắt của nó như ban đầu, rồi từ giữa ao, xác của vợ anh Sinh nổi từ từ dưới đáy ao lên trong sự kinh sợ cuả mọi người.

Vợ anh Bình lúc này mới hoàn hồn mới hô lớn: Mau giúp tôi cho vợ anh Sinh vào với, chồng nó cũng chết ở cái ao này, giờ đến cả vợ nó nữa, thật là oan nghiệt mà, Sinh ơi, sao mày bắt vợ mày đi .

Mấy người hàng xóm cầm lấy cái gậy kéo xác vợ anh Sinh vào gần cái cầu ao, ai cũng sợ mặt tái xanh không còn giọt máu khi thấy mặt vợ anh Sinh trắng bệch, tóc xõa dài , và kinh nhất là đôi mắt trợn lên toàn lòng trắng, Mấy người hàng xóm khênh xác của vợ anh Sinh vào trong giường, lấy tờ giấy che khuân mặt của chị lại, nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà tờ giấy trắng cứ dần dần chuyển sang màu đỏ khiến người ta kinh hãi, Đến cuối chiều hôm ấy, sau khi làm lễ nhập quan cho vợ anh Sinh, chỉ có vợ anh Bình là người thân duy nhất ngồi bên chiếc quan tài mà khóc thảm thiết, xung quanh chỉ có vài người hàng xóm chạy qua chạy lại, trời bắt đầu chuyển dần sang đêm, những cơn gió bắt đầu rít mạnh từng tiếng ù ù, sương muối bắt đầu bao phủ mọi cảnh vật, chiếc quan tài đặt trước cửa đại, bên trên là bàn thờ vợ anh Sinh, chiếc di ảnh của chị để trên đó thắp 2 cây nến chiếu sáng khuân mặt chị hơn bao giờ hết.

Rồi bỗng nhiên vợ anh Bình thấy mặt đất rung chuyển, những tiếng kêu của những viên ngói trên mái nhà kêu lật bật, gió thổi mạnh như cuồng phong, cuốn theo cát bụi bay mù mịt, chiếc quan tài lắc lư như gần đổ, mấy người hàng xóm chạy nhanh vào trong nhà cố gắng khênh chiếc quan tài đặt xuống đất cho khỏi đổ xuống, họ chạy ra bê cái bàn thờ lui vào trong nhà, bỗng mấy người hàng xóm giật bắn người , đứng lặng người khi nhìn thấy trên cái di ảnh của vợ anh Sinh đôi mắt chị đỏ sọc rồi ứ máu chảy xuống di ảnh, gió càng thổi mạnh hơn, mặt đất rung mạnh hơn nữa, trong đêm tối người ta nhìn thấy những đám sương mù đang bị hút sâu xuống chỗ cái miếu mà anh Sinh và anh Bình đã đào lên, như có 1 nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp, hút tất cả những thứ xung quanh xuống cái hố đó. những trận cuồng phong càng mạnh hơn và khủng khiếp hơn.

Mấy người hàng xóm cố ôm lấy cái cây bên nhà, vợ anh Bình ôm lấy cái cột nhà, chiếc quan tài rung chuyển rồi hất tung lên không trung và cuốn theo những cơn gió rơi vào sâu trong cái miếu đó, trong cơn cuồng phong ấy vợ anh Bình nghe những âm thanh kỳ lạ, vang vọng từ đâu đó xa xôi, những tiếng gào khóc , đất đá , những thứ xung quanh bị hút vào lắp đầy cái hố ở chỗ cái miếu ngày xưa, rồi gió bắt đầu yếu dần, mấy người hàng xóm đứng dậy , chạy lao vào nhà thì thấy vợ anh Bình vẫn đang bên cây cột nhà , tay run rẩy ôm chặt cái cột đó, căn nhà sau cơn cuồng phong chẳng còn lại thứ gì, mái nhà bị tróc hết ngói. chiếc quan tài của vợ anh Sinh giờ đã nằm sâu dưới cái miếu trong sự kinh sợ của mấy người hàng xóm, Riêng vợ anh Bình ngay hôm sau đó đã trốn biệt tăm vào trong Nam không dám quay về mảnh đất đó nữa.

Và những điều bí ẩn sẽ mãi là bí ẩn, như một điều mà khoa học không thể giải thích, đâu phải kết thúc câu chuyện nào cũng có hậu và cái ác luôn bị tiêu diệt đâu.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Xác sống - Chuyện ma bộ đội


Truyện này viết theo lời kể của một vị sỹ quan thuộc sư đoàn 21 BB, Quân Lực VNCH.

Sự việc này xảy ra tại xã Phú Hữu, quận Phong Thuận , tỉnh Cần Thơ vào một đêm cuối mùa Thu năm 1974.

Tôi xin ghi chú một vài danh từ được dùng trong bài viết, vì có thể một số bạn không hiểu nghĩa của các từ này.

_ Ông thày: lính và hạ sỹ quan dùng danh từ này để gọi cấp chỉ huy của họ (thường là hàng Sỹ Quan).

_ Ngọn: nơi phát xuất con sông.

_ Vàm: nơi con sông đổ vào con sông khác lớn hơn, hay chổ con sông đổ ra biển.

_ Lều poncho: lều căng bằng áo mưa của lính (gọi theo tiếng Mỹ)

_Ta lọt: người lính được cắt đặt để lo việc cơm nước và chổ ngủ cho cấp chỉ huy của anh ta.

_ Quán cóc: Quán nhỏ bên đường hay cạnh các bờ sông , thường bán cà fê hay đồ nhậu.

_Cát Tê: là một loại bài mà con lớn hơn thì thắng con nhỏ hơn nếu trong cùng một nước bài ( thí dụ con già Bích thì ăn con bồi Bích ).

_ Đi tiền đồn: đi kích ở một vị trí trong vùng địch , thường là do một tiểu đội hay một trung đội đảm trách.

Thường được coi là nhiệm vụ nguy hiểm.

Lúc đó tôi là một sỹ quan trẻ, giữ chức vụ đại đội phó cho một đại đội tác chiến của sư đoàn 21 bộ binh!

Vào một ngày cuối mùa Thu năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh tấn công vào một vị trí cố thủ của một tiểu đoàn địch trong "ngọn" Rạch Muỗi !

Sau một ngày ác chiến kịch liệt, chúng tôi vẫn chưa chiếm được mục tiêu!

Đơn vị chúng tôi được lệnh rút ra ngoài "vàm" để nghỉ qua đêm, đồng thời tảI thương và đợi nhận thêm tiếp tế để sửa soạn cho cuộc tấn côngmới vào ngày hôm sau.

Trực thăng xuống tải thương nhưng không còn chổ nên xác của một binh sỹ tử trận đành phải bỏ lại để chờ được di chuyển bằng tàu tiếp tế vào ngày mai!

Thế là ngoài việc canh gác bên ngoài, chúng tôi phải cắt thêm người trông chừng cái xác chết được đặt trên bộ ván ngựa trong căn nhà lá bỏ hoang gần đó!

Dưới ngọn đèn dầu mù mờ trên chiếc bàn vuông giữa nhà, bốn chúng tôi ngồi đánh bài Cát Tê để giết thì giờ!

Tôi ngồi quay lưng lại bộ ván ngựa còn ba người kia ở vị thế có thể nhìn thấy cái tử thi !

Đến quá nửa đêm, người ngồi đối diện tôi bổng đứng dậy nói buồn đi cầu rồi bước ra không thấy trở lại.

Chừng mười lăm phút sau, người bên trái tôi cũng đứng lên nói là đi tiểu rồi mất tăm luôn.

!

Năm phút sau, người bên phải tôi cũng rời bàn nói là ra ngoài hit' thở chút không khí trong mát ngoài trời và cũng chẳng thấy tăm hơi đâu !

Tôi ngồi chờ bọn họ trở lại, nhưng mắt tôi díu lại vì buồn ngủ !

Tôi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài, rồi tiện tay kéo đóng cánh cửa lại.

Ngay lúc đó tôi nghe một tiếng "BỊCH" phía trong nhà !

Hơi ngạc nhiên vì tôi là người cuối cùng ra khỏi nhà , nhưng tôi nghĩ có lẽ chiếc ba lô treo trên vách rớt xuống đất nên cứ một mạch đến cái "lều poncho" mà người "tà lọt" đã căng sẵn cho tôi.

Quá buồn ngủ tôi làm một giấc tới sáng, tôi chỉ tỉnh dậy khi tiếng ồn ào của các người lính khiêng đồ tiếp tế lên từ tàu....

Tôi đợi khi tất cả đồ tiếp liệu được khuân lên hết rồi mới gọi mấy anh lính theo tôi lên chiếc nhà lá để khiêng cái xác xuống tàu.

Tôi đẩy cửa vào nhưng có vật gì cản phía trong !

Một anh lính phụ tôi đẩy mạnh cánh cửa.

Tôi nhảy bật ra ngoài vì cái vật cản cái cánh cửa lại chính là cái xác chết mà chúng tôi đã đặt trên bộ ván !!

Lấy lại bình tỉnh tôi la lớn:

_ (DM) Thằng nào chơi trò này !

Tao mà biết tao đá cho lọi giò luôn ! (DM) tới người chết mà tụi mày chẳng tha nữa hả !!!

Không một ai lên tiếng!

Cuoíi cùng rồi thì cái xác cũng được mang xuống tàu chở về bệnh viện tỉnh Cần Thơ để chờ thân nhân đến lãnh về mai táng !!

Suốt mấy tháng trời tôi vẫn để tâm theo dõi xem tên nào chơi trò nghịch ngợm đó, nhưng không sao tìm ra manh mối !

Cho đến một ngày kia, tình cờ tôi và ba người canh xác bữa đó ngồi nhậu cùng nhau trong một "quán cóc" bên đường.

Sau vài xị tôi mới nhắc lại sự việc xảy ra đêm hôm đó.

Lúc này người bỏ đi đầu tiên mới rụt rè lên tiếng:

_ Tui nói thiệt với "ông thày" chứ bữa đó tui sợ muốn té đái ra quần luôn vậy đó !!

_ Sao vậy?!

Tôi hỏi với giọng nhạc nhiên!

_ Không biết bữa đó tui có bị hoa mắt hông!

Chứ thiệt tình thì tui thấy cái xác chết dơ tay lên để tay xuống mấy lần ở trên bộ ngựa!

Tui sợ quá phải nói dóc là đi cầu để trốn ra ngoài!

Tui sợ bị cười là nhát nên không dám nói cho ai biết về chuyện này hết !!

Đến đây người bỏ ra thứ nhì đằng hắng rồi lên tiếng:

_ Tui cũng thấy y chang như vậy đó !

Lúc đầu tui nghĩ là do buồn ngủ quá nên mờ mắt.

Tui thấy nó dơ tay lên bỏ tay xuống tới mấy lần lận !

Trong bụng tui niệm Phật liên hồi !

Nhưng vẫn còn run , tui phải viện cớ để chuồn ra ngoài rồi không dám trở vô nữa !

Thiệt ra tui đâu có dám ngủ đâu!

Chỉ sợ nó bò ra chổ tui thì chắc chết luôn quá !

Lúc này người thứ ba cũng phụ họa:

_ Tui thề với Trời Phật là bữa đó tui cũng thấy rỏ ràng là nó ngồi lên rồi nằm xuống hai lần !

Tui sợ muốn đứng tim luôn!

Nhưng mang tiếng là lính mà chạy ra kêu là bị ma nhát thì thiên hạ cười chết!

Tui đành lủi lẹ ra ngoài luôn!

Sở dĩ tui không nói cho "ông thày" biết là vì tui nghĩ ông có đạo (Thiên Chúa) nên nó không nhát ông.

Nó chỉ nhát tụi tui thôi!

Lúc đó tui nghĩ là nó chỉ nhát một mình tui thôi, ai dè nó nhát luôn cả hai người này nữa !!

Bây giờ nghĩ lại tui vẫn thấy nổi da gà !!

Tởn tới già luôn!

Tui không bao giờ dám lãnh cái việc coi xác chết nữa đâu!

Lần sau ông có đày tui đi "tiền đồn" một tháng thì cũng đành chịu thôi !

Xin "ông thày" tha cho cái việc đó đi !

Qua lời họ tôi suy ra cái tiếng động mà tôi nghe đêm hôm đó không phải là do cái ba lô rớt xuống mà là do cái xác chết ngã xuống (khi đuổi theo tôi) vì va vào cái cánh cửa do tôi vô tình kéo đóng lại khi bước ra !

Tôi cũng rởn tóc gáy khi nghĩ việc gì đã xảy ra nếu như tôi không đóng cái cửa lại!!

Có lẽ cái tử thi đó đã chụp được tôi từ phía sau lưng rồi !!

Thật là hú hồn !!!
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Bà hàng xóm kỳ dị


Hôm nay tôi vừa biết được một câu chuyện kỳ dị mà chính gia đình nhà tôi đã trải qua.

Câu chuyện tôi kể để mọi người biết rằng ở đâu đó có những chuyện tâm linh mà khoa học chưa có lời giải thích là hoàn toàn có thật.

Tôi sẽ thuật lại đầu đuôi câu chuyện mà không thêm thắt bất kỳ một chi tiết nào.

Tôi vào truyện ngay đây.

Gia đình tôi sống ở Đà Lạt, ba mẹ đều là giảng viên của trường đh.Đà Lạt. năm 2005 ba tôi chuyển công tác về SG và sống ở đây cùng chị gái đã xuống trước để học Đại Học.

Cấp 3 tôi học ở DL, sau đó cũng chuyển về SG học từ năm 2009.

Tuy 3 bố con sống dưới sg, để mẹ lại 1 mình ở DL nhưng gđình vẫn rất vui vẻ.

2 tuần ba tôi lại lên dl thăm mẹ, hay có khi rảnh rỗi mẹ vẫn xuống sg chăm sóc 3 bố con.

Mẹ 1 mình ở Đà Lạt đôi lúc cũng buồn, vậy nên ngoài thời gian làm việc ra mẹ chơi thể thao khá nhiều và có được sức khỏe rất tốt.

Tết năm nhất tôi về DL ăn tết cùng mẹ, ba thì về quê thăm bà, khi đó chị gái đã đi làm và phải 29 âm mới được về.

Tối đó về nằm cùng mẹ nói chuyện, mẹ tâm sự, trên này một mình buồn và nhớ 3 bố con nhưng may cũng có công việc, chơi thể thao và hàng xóm thăm hỏi nên đỡ nhiều.

Mẹ kể ngày tôi chuyển đồ về sg để học, thì ở phía đầu xóm có 1 bà chuyển về ở.

Bà này tên Hiếu, tuổi tầm 40 nhưng trông rất già so với mẹ tôi.

Vóc dáng bà Hiếu mập mạp và hơi lùn, mẹ bảo bà sống cùng anh chị gái nhưng họ đã sang Úc định cư, bà ở lại VN để trông nhà, không có công việc và người nhà bên kia gửi tiền về hàng tháng để chi tiêu vậy nên bà Hiếu rất rảnh rỗi.

Bà Hiếu không được hàng xóm chào đón vì mẹ bảo bà hơi có vấn đề về tâm lý, cũng dễ hiểu ở tuổi này mà không lập gia đình thì ai chả thế.

Bà Hiếu tính tình tọc mạch, thấy xóm giềng có gì mới bà đều hỏi nguồn gốc, giá cả, v...v.... làm hàng xóm rất khó chịu.

Người ta không thích bà Hiếu, bà hỏi chỉ trả lời xã giao chứ chẳng ai thèm bắt chuyện.

Riêng có mẹ tôi, mẹ vẫn thường hay muối dưa, muối cà gọi bà Hiếu sang lấy 1 hũ về ăn.

Bà Hiếu thấy vậy cũng hay sang nhà chơi hơn.

Những ngày cuối năm bà Hiếu đến và lấy làm lạ khi thấy tôi trong nhà, bà hỏi han nhưng tôi nhận ra, đúng là cách nói chuyện không bình thường, có vẻ như ngày trước bà không được học nhiều.

Hôm đó 2 mẹ con tôi nấu cơm trưa dưới bếp, bà Hiếu đến gọi cửa, mẹ bảo cứ xuống vì cửa chẳng khóa rồi 2 mẹ con lại lúi cúi nấu nướng.

RẦM... mẹ hớt hải chạy ra thấy bà Hiếu đang ngồi bệt dưới chân cầu thang dẫn xuống bếp, mặt bà nhợt nhạt tay chân run lên, tóc tai bù xù, con mắt như người mất hồn.

Mẹ lay bà Hiếu rồi hỏi đi đứng thế nào mà để trượt té.

Bà Hiếu ngồi thần ra 1 lúc mới giật mình ấp úng bảo, cái bậc thang nhà này trơn quá, đi không cẩn thận nên ngã.

Rồi mẹ dìu bà H vào bếp ngồi xuống ghế.

Vẻ mặt bà Hiếu vẫn thất thần nhưng thôi tôi chẳng để ý nữa lại cặm cụi sắt rau.

Mẹ tôi mở lời có định sẽ mời bà Hiếu bát cơm, bà Hiếu vui vẻ nhận lời nhưng miệng vẫn không ngừng than phiền về cái bậc thang.

Trong bếp nhà tôi đặt cái gương tròn nhỏ có chân đứng, bất chợt tôi nhìn vào cái gương đang dựng ở gần chạn bát, tôi thấy gương mặt bà Hiếu, trong gương trông bà ta già đi nhiều và khuôn mặt rất tức tối, tuy nhiên khi thấy tôi bắt gặp trong gương bà Hiếu nhéch mép cười, vẻ mặt thất thần lúc nãy biến mất thay vào đó là cái nhìn với vẻ thách thức.

Giật mình làm con dao gọt rau cắt vào tay.

Cảnh tượng lúc rồi rất kinh hãi, làm sao mà người trong gương lại khác với vẻ bên ngoài đến vậy...

Tôi chạy vội lên nhà băng ngón tay chảy máu lại rồi xuống dưới với mẹ.

Bà Hiếu đã về, mẹ bảo bà té đau nên bỏ về bôi thuốc và đổi ý từ chối bữa cơm.

Cái gương lúc nãy đã bị ai đó đặt nằm úp xuống.

Đó là chuyện kỳ lạ đầu tiên mà tôi thấy trong đời, nó ám ảnh tôi đến suốt mấy buổi tối và gần như lần nào đánh răng soi vào gương tôi cũng nghĩ đến gương mặt ma quái của bà Hiếu.

Tết năm đó ngày mùng 3 bà Hiếu có sang chơi nhưng không hiểu vì lý do gì bà không chịu vào nhà, chỉ đừng ngoài ngõ gọi tôi ra, bà bảo chị bà gửi quà tết về, có socola Úc cho tôi.

Tôi vui vẻ nhận nhưng tiền lì xì thì không lấy vì mẹ bảo bà ko có công việc, bên kia người thân gửi tiền về cũng không nhiều nên đừng nhận của ngta làm gì.

Tôi lấy kẹo nhưng cũng cho thằng cu hàng xóm chứ chẳng ăn.

Và không biết có phải trùng hợp không vì thằng T hàng xóm sau hôm ăn socola thì sốt mê man 5 ngày cho tới tận hôm tôi lên xe về SG mới thấy nó khoác áo trùm khăn, mặt mày hốc hác ra chào a về SG đi học.

Từ sau lần tết về Đà Lạt, sức khỏe của mẹ tôi có phần đi xuống, mẹ hay bị đau lưng đau khớp, ba bảo để về đưa mẹ đi khám, rồi chị cũng nói gửi người mua thuốc ở nc ngoài về mẹ uống nhưng mẹ khăng khăng không chịu.

Mẹ bảo bà Hiếu có người gửi thuốc bên Úc về mẹ bôi thấy đỡ hẳn.

Gọi đt về lúc nào mẹ cũng bảo đỡ nhưng dạo gần đây mẹ ít đi thể thao với các cô trong trường hơn vì đau khớp, hôm nào bôi thuốc bà Hiếu thì đỡ, ngưng bôi thì lại đau nằm ở nhà.

Lúc hè tôi lại về Đà Lạt thăm mẹ và lấy làm lạ vì bà Hiếu sang nhà chơi thường xuyên hơn, mẹ hay nổi cáu hơn và ăn rất ít.

Tôi lo cho sức khỏe của mẹ nên vẫn hay dặn dò nay mai con xuống SG mẹ phải ăn uống đàng hoàng chứ cứ như thế này làm sao mà khỏe được.

Mẹ ậm ừ rồi lại nhắc đến bà Hiếu, mẹ bảo hôm nào bận đi dạy cả sáng cả chiều, mẹ gửi chìa khóa bếp bà Hiếu nấu rồi về ăn trưa để chiều đi làm cho tiện.

Tối đến mẹ thường đóng cửa phòng ngủ xem ti vi, có hôm tôi vào thấy mẹ lấy cái hũ kem chống nắng ra bôi, mẹ bảo lọ này hết kem rồi, đưa bà Hiếu bỏ thuốc đau khớp vào rồi mẹ lấy bôi, đỡ đau nhiều.

Bà Hiếu chẳng bao giờ đưa thuốc nguyên tuýp cho mẹ mà chỉ toàn lấy hộp rỗng rồi đổ vào nên tôi cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều, vì thấy thuốc có kiểu mùi dầu và khá nóng, có lẽ cũng tốt cho khớp thật.

Thỉnh thoảng tôi nghĩ thôi thì có hàng xóm hay sang thăm hỏi, mẹ ở 1 mình thì như vậy cũng vui nên cũng chẳng can ngăn, mặc dù tôi thấy sự can thiệp của bà Hiếu dạo gần đây nhiều một cách bất thường.

Ngoài chuyện khớp gối hay đau thì sức khỏe của mẹ nếu so với người ở tuổi đó tôi lại thấy mẹ không yếu cho đến cách đây hơn 1 năm, mẹ bị đau ở bụng, đau lắm phải gọi cấp cứu đến đưa vào bệnh viện.

Tôi đang học nhưng phải bỏ dở về nhà chăm mẹ, bác sĩ bảo mẹ bị viêm túi mật cấp, phải điều trị 1 tuần tại viện và có khả năng cần phẫu thuật.

Nhưng sau 3 ngày thuốc mẹ đỡ hẳn và bác sĩ bảo ko cần mổ nữa vì tình trạng sức khỏe thế này đã rất khả quan rồi.

Thời gian mẹ nằm viện có các cô chú đồng nghiệp đến thăm, mẹ cũng vui vẻ lạc quan nên sức khỏe hồi phục rất nhanh chóng, tuy nhiên không 1 lần bà Hiếu đến bệnh viện để hỏi han sức khỏe của mẹ mặc dù hàng ngày bà ta rất hay quan tâm.

Mẹ nằm viện nên tôi phải nấu ăn nhà rồi đem lên để mẹ ăn uống thuốc.

Hôm đầu vào bếp nấu bữa trưa mang cho mẹ tôi thấy cầu thang xuống bếp có tấm thảm đen, lạ ở chỗ tấm thảm không đặt trên đầu hay cuối cầu thang, mà lại đặt ngay ở khoảng giữa, chỗ bậc thang, nghĩ chắc nhà cũ dột bẩn nên mẹ để đó thấm nước.

Nhưng khi hỏi thì mẹ bảo bà Hiếu cho tấm thảm đó bảo nên đặt ở bậc thang này vì nó trơn đi lại nguy hiểm lắm.

Những hôm đầu khi mà mẹ còn đau nhiều, tôi ngủ trên bv chăm mẹ, khi ba xong công việc ở sg về thì thay tôi ở bv trực.

Khi ngủ ở nhà một mình, 3 đêm liên tiếp tôi mơ cùng 1 giấc mơ.

Cũng đã lâu rồi nên tôi không nhớ chính xác chi tiết nhưng đại loại, có 1 cô gái, còn trẻ và nói giọng ở vùng Khánh Hòa, cô gái này tôi không thể nhìn rõ mặt nhưng hình như rất quen thuộc.

Cô bảo: "Đừng cho nó vào, đừng cho nó vào", vừa nói cô vừa đứng trên đầu cầu thang dẫn xuống bếp trừng mắt nhìn vào tấm thảm đen mà chỉ".

Tôi thường giật mình tỉnh dậy sau giấc mơ đó, mỗi đêm nó lặp lại 2-3 lần như thế và tôi bắt đầu có linh cảm xấu về bà Hiếu.

Ngày mẹ tôi xuất viện về nhà bà Hiếu lại niềm nở chạy sang hỏi han bệnh tình.

Bà ta ngồi cạnh mẹ xoa tay thân mật làm tôi cảm thấy vô cùng khó chịu.

Bỗng có tiếng xe hơi trước nhà mẹ bảo chạy ra xem ai gọi cửa.

Bước ra khỏi nhà tôi nhận ra chiếc xe hơi biển số 78 đậu trước cửa, 2 ông bà già cùng 1 đôi vợ chồng trẻ ngồi ghế trước.

Ông bà già bước xuống xe cười chào tôi, tôi chưa nhận ra thì họ đã xoa đầu bảo, cu C dạo này lớn quá, ngày nào còn bé xíu bác bế trên tay.

Chắc là họ hàng về thăm, nhưng nhà tôi chẳng có ai thân thuộc ở miền trung cả...

đôi vợ chồng trẻ bước xuống sau, anh chồng trông có vẻ thành đạt, còn cô vợ trông khá xinh xắn, lanh lẹ.

Mời họ vào nhà uống nước, mẹ tôi đon đả chạy xuống, 2 bên tay bắt mặt mừng, mẹ bảo đây là vợ chồng bác Sách, ngày xưa cu còn nhỏ 2 bác vẫn hay chăm đấy.

Đôi vợ chồng trẻ cúi chào mẹ tôi, cô gái là con của bác Sách, còn kia là anh chồng mới cưới, cả gia đình đi du lịch rồi ghé thăm nhà tôi.

Tôi không có ấn tượng gì về họ ngoại trừ cái giọng của cô con gái, thậm chí tôi có phần hơi sợ vì nó đúng là giọng của người mà tôi mơ thấy.

Không thể nhầm lẫn được, là giọng nói của 1 người nhưng chị này trông cao ráo mảnh khảnh hơn người tôi trông thấy trong mơ.

Sau câu chuyện giữa mẹ và những người kia tôi được biết.

Chị này tên Trâm, gia đình chị Trâm ở Phú Yên, chị là em gái chị Đào, người mà ngày xưa thời sinh viên từng ở trọ nhà tôi.

Quay sang câu chuyện về chị Đào.

Gia đình chị Đào ngày xưa còn khó khăn, khi chị đỗ đại học bác Sách dẫn chị đi chung quanh khu ĐH Đà Lạt tìm nhà trọ và được mẹ tôi giúp đỡ.

Chị Đào rất ngoan và siêng năng, ngoài thời gian học ra, chị còn phụ giúp mẹ tôi làm việc nhà lúc rảnh rỗi.

Cả nhà tôi quý chị Đào lắm nên vẫn thường hay nấu cơm mời chị ăn và còn chẳng lấy tiền ở trọ.

Năm 94 nhà tôi xây nhà lên thêm 2 tầng nữa, khi đó tôi đã đủ lớn để nhận thức được mọi chuyện xung quanh.

Trong ấn tượng của tôi chị Đào rất tốt, có lần chị dẫn 2 chị em tôi đi học khi ba mẹ có công việc bận.

Chị thường đùa nghịch và rất chiều chuộng tôi.

Khi nhà tôi hoàn thành, cả nhà chuyển lên tầng trên ở, còn phía dưới định sẽ cho thêm sv ở trọ.

Khi ấy chị Đào ở 1 mình lầu dưới.

Đêm đó Đà Lạt rét, mưa gió rất lớn, và chuyện không hay đã xảy ra.

Chị Đào đi làm thêm về trễ, chị trượt té cầu thang.

Đến sáng cả nhà tôi mới phát hiện ra thì chị đã đi, có lẽ vì mất nhiều máu mà không ai kịp phát hiện.

Nhà tôi thương chị lắm, như mất mát trong gia đình vậy, lúc nhà còn bé, quây quần như 3 chị em vậy, khi nhà xây lên lại tách chị Đào ra ở tầng dưới, lúc chuyện vừa xảy ra tôi còn hay dỗi ba mẹ vì xây nhà cao lên gây ra cái chết cho chị Đào.

Nhưng thời gian cũng trôi qua, mọi chuyện cũng ổn.

Nay ba mẹ chị Đào đến nhà chơi và dẫn chị Trâm cùng chồng mới cưới ra mắt.

Chuyện qua lâu nên chẳng ai nhắc đến chị Đào cả, chỉ còn tôi suy nghĩ... thẫn thờ 1 lúc rồi lại giật mình, bà Hiếu nãy giờ ngồi trò chuyện với mẹ đã về từ khi nào rồi, trong khi nãy giờ cửa ngõ chỉ đón người vào chứ đâu có ai đi ra.

3 ngày nay gia đình bác Sách và vợ chồng chị Trâm ở nhà tôi chứ ko ở khách sạn vì nhà cũng lớn mà lại mùa du lịch rất khó tìm chỗ ở.

Nhà có khách bà Hiếu cũng chẳng sang.

Còn tôi bắt đầu mơ hồ về người con gái trong giấc mơ mấy hôm trước, có lẽ đó là chị Đào.

Chị đang cố gắng nói với tôi điều gì đó!

Hôm đó tôi quyết định xuống bếp đem tấm thảm bà Hiếu cho quẳng vào sọt rác, rùng rợn thay, bậc cầu thang bên dưới tấm thảm đầy những vết đen, nó chi chít như vảy cá trông rất kinh tởm.

Tôi lấy xà phòng chà đi chà lại nhưng những vết đấy chẳng hề biến mất, tôi phải lấy nùi dẻ khác để che lên.

Bởi vì trông vào cái vết loang lổ kỳ lạ đó, hẳn ai cũng phải rùng mình!

Ngày cuối cùng mà bác Sách ở nhà tôi, mẹ bảo cả nhà làm bữa ăn đễ tiễn mai các bác về Tuy Hòa.

3 ngày du lịch DL chắc cũng mệt, các bác ở nhà cùng chị Trâm và gđinh tôi nấu bữa cơm chia tay.

Mẹ và bác gái cặm cụi dưới bếp.

Bác trai, ba tôi và a chồng chị Trâm ở trên lầu xem tv nói chuyện.

Nấu nướng xong mẹ gọi tôi xuống bê cơm lên, khi xuống tôi thấy chị Trâm đang lau cầu thang, chị bảo thấy vết bẩn sẵn tay chùi luôn, và lạ lùng thay chị Trâm đã lau sạch vết đen mà hôm nọ tôi cố gắng đến mấy cũng chẳng thể chà sạch.

Xuống bếp thấy vợ bác Sách đang rươm rướm, bác bảo cái gương trong bếp là của chị Đào ngày xưa dùng, nó làm bác nhớ cô con gái quá cố.

Đêm hôm bác Sách về tôi lại nằm mơ, tôi thấy người con gái hôm nọ dắt tay ra vườn và lấy tấm thảm đen của bà Hiếu đem ném vào đống lửa đang cháy.

Sau đó cô đi vào bếp và dựng chiếc gương lên.

Xong việc cô gái xoa đầu tôi đi vào nhà, bước đến chân cầu thang rồi nằm xuống.

Tôi tỉnh giấc và biết chắc người con gái trong mơ là chị Đào, chị đang cố mách bảo tôi.

Thay vì cảm giác sợ hãi như những lần trước, đêm đó tôi háo hức đợi đến sáng và sẽ làm theo những gì tôi nhìn thấy trong mơ.

Sớm tinh mơ tôi đã xuống bếp dựng cái gương đang nằm úp lên.

Rồi ra vườn dọn lá cây rụng.

Gom vào 1 góc rồi đốt sau đó tôi không quên quay vào sọt rác lấy cái thảm của bà Hiếu cho ném luôn vào lửa.

Cái thảm cháy mùi hôi thối kinh khủng, như mùi chuột chết vậy.

Từ sau hôm đó, tinh thần của cả gia đình phấn chấn lên hẳn, lọ thuốc khớp bà Hiếu cho cũng đã hết thay vào đó mẹ uống thuốc trị khớp chị tôi mua.

Mẹ tôi không còn đau gối nữa và đi tập thể dục sáng sớm đều đặn.

Bà Hiếu cũng chẳng bao giờ sang thăm nữa, mẹ nói hôm bác Sách tới bà Hiếu lên là để chào mẹ, dọn đồ chuẩn bị qua Úc định cư.

Những chuyện kỳ lạ hay bệnh tật không còn xuất hiện trong nhà tôi nữa.

Ba tôi về Đà Lạt nghỉ lễ cách đây 4 ngày và vừa gọi đt cho tôi để kể chuyện.

Hôm rồi căn nhà bà Hiếu ở có 2 thanh niên đến, đó là con của chị gái bà Hiếu, nó đem hoa quả đến thắp nhang, thấy thế mẹ tôi cũng sang hỏi chuyện vì lâu ngày chẳng thấy tin tức bà Hiếu.

2 đứa nó kể hồi trước vẫn hay về VN để thăm cô nhưng sau khi cô nó nạn mất, đây là lần đầu tiên tụi nó về VN hương khói.

Bà Hiếu bị tai nạn và mất từ năm 2007, vậy mà trong 3 năm gần đây hàng xóm vẫn thấy đèn nhà sáng, bà Hiếu đi lanh quoanh trong xóm hỏi han.

Vong hồn bà Hiếu chẳng được ai chào đón, trừ mẹ tôi nên bà hay lui tới nhà, có lẽ không phải vong tốt nên bà gây ra nhiều chuyện kỳ dị và bệnh tất trong nhà tôi, cũng may có chị Đào giúp đỡ.

Nếu không chưa biết còn tai họa nào nữa sẽ xảy ra.

Vì câu chuyện là hoàn toàn có thật vậy nên xin các bạn đã đọc, nếu không tin cũng đừng nên báng bổ những người đã khuất.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Con chó ma


Theo lời các cụ truyền lại, trong nhà không nên nuôi lọai chó trắng mũi đỏ, lọai chó này là yêu ma đội lốt chó, có thể gây hại cho chủ nuôi.

Nuôi nó, lúc thường thì là chó; nhưng có khi nó biến được thành hình người để gây hại cho lòai người.Tôi đã từng được nghe nhiều câu chuyện chó trắng thành tinh, và những chủ nhân nuôi chó đã là nạn nhân của nó.Chuyện kể có một phú ông nuôi một con chó trắng mũi đỏ, chỉ khi nào chó có mũi đỏ mới đáng đề phòng, còn nếu chó trắng mũi trắng hoặc mũi đen hoặc màu khác, thì con chó chỉ là con chó đã gặp nhiều tai họa.

Khi con chó cái nhà ông sinh được một đàn chó năm con, trong đó có con chó trắng mũi đỏ, nhiều người khuyên ông nên đập chết nó đi, hoặc nuôi nó choai choai thì đem mà rựa mận, ông không nghe và bảo:

- Chó thì con nào chẳng là chó, chó trắng, chó đen, chó khoang, chó vàng, chó vẫn là chó dù mũi nó đen, nâu vàng hay trắng đã sao.

Ông cứ nuôi đàn chó.

Có bạn bè lân bang thấy nhà ông có lứa chó, họ xin ông cho, và người xin không ai lựa con chó trắng mũi đỏ.Con chó này, sau thời kỳ bú mẹ, bắt đầu biết ăn cơm rất mau lớn, lúc nó choai choai trông thật đẹp mã, nó lại là một con chó dữ, giữ nhà rất đắc lực, và cuộc sống của nó cũng như những con chó khác, cũng dọn phân trẻ em và cũng thích ăn dơ!Người ta khuyên ông nên đề phòng, kẻo nó có thể thành tinh được, ông không tin, ông cho đó là một chuyện huyền hoặc, tin theo chỉ là mê tín dị đoan.Nhà ông nhà ngói, mái dốc, có máng xối để hứng nước mưa vào những bể cạn, mái dốc khó leo, mỗi khi nhà dột muốn thay một hòn ngói leo lên cũng khó khăn.

Vậy mà một đêm kia, ông nghe như có tiếng người chống gậy đi trên nóc nhà.

Ông cho đó là kẻ trộm, ông bèn giả bộ ho để kẻ trộm thấy nhà có người còn thức thì đi ra.

Với tiếng ho của ông, quả nhiên tiếng động trên nóc nhà nhè nhẹ dần đi, khi tới mé đầu hồi thì mất hẳn.

Đêm hôm sau ông lại nghe tiếng động tương tự, ông ngồi dậy thắp đèn lên, tiếng động lại dần dần mất.

Rồi đêm thứ ba, đêm thứ tư, sự kiện này lại tái diễn.

Tên trộm này thật gan lì, lối đuổi trộm của ông chỉ có hiệu nghiệm qua từng đêm, không khiến cho kẻ trộm sợ hẳn.

Ông phải rình và cho tên trộm này một trận để từ sau nó không dám tới tìm cách kiếm chác tại nhà ông nữa.

Ông lấy chiếc nỏ, xưa nay vẫn gác ở mái nhà, với bó tên xuống, rồi đêm hôm thứ năm, ông lắp sẳn tên vào nỏ ngồi chờ, cửa mở ra sân, không đóng chỉ khép hờ.Vào khỏang quá nửa đêm, ông lại nghe thấy tiếng động như bốn đêm trước, ông rón rén, khi đẩy cửa bước ra sân, tay lăm lăm cầm chiếc nỏ.Đêm hôm ấy tối trời, không trăng, tuy nhiều sao, nhưng ánh sao không đủ chiếu sáng để người ta nhìn rõ vật muốn nhìn.

Bước ra tới sân, phú ông ngẩng lên nhìn nóc nhà.

Phòng ông ngủ ở gần một đầu hồi, khi ra sân ông đứng trước gian phòng này, do đó nhìn lên nóc nhà, ông chỉ nhìn rõ phía ông đứng, còn về đầu kia ông nhìn không thấy rõ.

Phía nhìn rõ ấy, ông thấy lờ mờ một bóng người, đầu đội nón, tay chống gậy đang đi bước một.

Ông ngạc nhiên, trộm gì mà lạ lùng vậy, đi ăn trộm lại đội nón và chống gậy.

Ông định thần nhìn kỹ, xuyên qua bóng tối, ông thấy một người không cao lắm, hình vóc như trẻ con bảy tám tuổi, hai tay ngắn và hai chân cũng ngắn!

Con nhà nào mà nghịch ngợm ma quỷ thế này?

Bóng đen ấy có lúc như ngước đầu nhìn về phía xa xa, có vẻ như chờ đợi hoặc trông ngóng cái gì!Mặc kệ, muốn gì thì gì, dù là kẻ trộm hay trẻ con nghịch ngợm, ông cũng giương nỏ bắn một mũi tên về hướng bóng đen, cố ý bắn hơi xa đích cốt để dọa dẫm, ông không định tâm bắn trúng, e chết con trẻ lại ân hận.

Mũi tên vút buông ra, cách bóng đen khỏang một thước.

Bóng đen giật mình, rồi chỉ đánh vút một cái, nó lao mình vào đêm tối biến mất!Ông quay trở vào, không khỏi băn khoăn về những điều vừa xảy ra, ông nằm suy nghĩ vẩn vơ mãi mới ngủ được.

Sáng hôm sau, ông vừa dậy, chưa kịp pha trà uống nước, vợ ông đã hỏi:

- Thầy nó này, chiếc nón chiều qua tôi để ở nhà bếp, thầy nó có làm gì đến không?

- Chiều tối rồi, tôi làm gì đến nón, u mày để đâu rồi quên đấy chứ

Vợ ông không quên, lúc ở ngòai đồng về, chính tay bà móc chiếc nón lên tai cối xay lúa, sáng nay định ra đồng tìm không thấy nữa.

Phú ông pha trà, rót đưa mời vợ chén nước.

Lúc ấy thằng con ông ở ngòai vườn đi vào, tay cầm chiếc nón của mẹ và nói:

- Nón của mẹ, ai mang vứt ra hàng rào vườn, con tìm thấy.

Bên cạnh chiếc nón có chiếc gậy này.

Phú ông nói:

- Chắc đứa nào nó nghịch chứ gì.

Bà vợ không nói gì, uống xong chén trà, cầm chiếc nón đội lên đầu rồi đi ra đồng trông nom thợ cày thợ cấy làm việc.

Phú ông tiếp tục băn khoăn về chiếc nón và chiếc gậy.

Sau đó có ông hàng xóm sang chơi, phú ông thuật lại cho ông này nghe những điều đã xảy ra đêm qua, nói rõ cả sự kiện chiếc nón của bà vợ bị vứt ngòai hàng rào.

Ông hàng xóm không nói gì, uống nước, ăn trầu hút thuốc rồi ra về.

Ra tới cổng, ông mời phú ông sang chơi nhà ông vì ông có câu chuyện cần nói.Trong lúc phú ông nói chuyện với vợ con, cũng như lúc nói chuyện với ông hàng xóm, con chó trắng mũi đỏ cứ loanh quanh dưới gầm giường hoặc đi ra sân rồi lại trở vào.

Giá đó là một con người, ắt đã bị nghi là có ý rình nghe trộm.Một lúc lâu sau, phú ông sang chơi nhà ông hàng xóm.

Mời khách vào nhà ăn trầu uống nước xong, ông hàng xóm nói:

- Tôi sở dĩ phải mời ông sang vì câu chuyện nói với ông, tôi không muốn con chó trắng mũi đỏ nghe được.

Tôi để ý nó cứ quanh quẩn để nghe trộm những điều ông nói với tôi, và lẽ tất nhiên những điều tôi sẽ nói với ông.

Phú ông ngạc nhiên hỏi:

- Con chó trắng biết nghe trộm?

- Đúng!

Con chó trắng này không phải là chó, nó là yêu ma, và bóng đen ông trông thấy trên nóc nhà chính là nó.

Phú ông nói:

- Tôi không tin, chó làm sao biết đội nón lại biết đi hai chân.

Ông hàng xóm bảo:

- Trời ơi!

Ông chất phát quá!

Là yêu ma, nó đi một chân còn được nữa là đi hai chân.

Ông không nghe thấy các cụ nói gì về chó trắng mũi đỏ hay sao?

Phú ông lắc đầu.

Ông hàng xóm nói tiếp:

- Các cụ bảo rằng chó trắng mũi đỏ là yêu ma mang hình chó.

Nó thường đội nón chống gậy đi trên nóc nhà.

- Nó làm thế để làm gì?

- Vậy ông cho cái bóng đen đi trên nóc nhà ông là một đứa nhỏ hay sao?

Con nhà nào lúc đêm hôm lại nghịch ngợm như vậy!

Vả lại, một đứa nhỏ làm sao dám lao mình đi khi ông buông ra phát tên!

Có mà ngã giập xác!

Còn có leo lên nóc nhà để làm gì thì tôi nghĩ rằng, nó leo lên để ngóng chờ đồng bọn yêu ma của nó.

Có thể nó đã hẹn hò một cuộc họp với nhiều yêu ma khác đội lốt chó trắng mũi đỏ hoặc ở nhà ông hoặc ở nơi khác.

Nó ngước nhìn về phía xa để ngóng nhìn bạn hữu của nó đấy.

Phú ông hơi suy nghĩ, nhưng ông bảo:

- Ở làng ta, ngoài tôi có ai nuôi chó trắng mũi đỏ nữa đâu!

Ông hàng xóm cười nói:

- Ông khờ khạo quá!

Đâu có phải nó chờ đợi những con chó ở làng ta!

Là giống yêu ma, chúng nó có thể hẹn hò dù cách xa nhau cả ngàn dặm.

Chó nhà ông, chắc nó hẹn với đồng bọn nó, lũ đồng bọn này ở nơi không gần nhau.

Phú ông không nói năng gì, vẻ mặt nghi hoặc, ông với chiếc điếu hút mồi thuốc lào, nhặt miếng trầu nhai, rồi ông bảo ông hàng xóm:

- Ông nói vậy thì tôi biết vậy, nhưng không tin chó trắng mũi đỏ lại là yêu ma.

Chó là chó, yêu ma là yêu ma, sao chó lại có thể là yêu ma được.

- Tin hay không là quyền của ông, nhưng dù tin hay không tin, ông cũng nên hoá kiếp cho con chó trắng nhà ông đi.

Phú ông cám ơn ông hàng xóm về những điều ông đã nói.

Ông ra về trong lòng nghi hoặc.

Ông thấy lời ông hàng xóm nói cũng có đôi điều hợp lý: con nhà ai lại đi nghịch ngợm dại dột như vậy lúc đêm hôm. và nếu là con người thì làm sao lại vút lao mình đi được khi ông bắn ra một mũi tên.Đi về đến sân nhà, con chó trắng vẫy đuôi mừng.

Nhìn nó ông không thấy có vẻ gì là yêu ma.

Ông không nghe lời ông hàng xóm hóa kiếp cho nó, ông vẫn thương nó là một con chó biết vẫy đuôi mừng chủ.

Vả lại khuyển mã chí tình cũng thắm thiết lắm!Ông vẫn nuôi con chó cho đến khi ở nhà ông xảy ra một chuyện không hay.

Ông có đứa con gái đầu tên là Vách năm đó 18 tuổi.

Cô Vách trông rất mặn mà duyên dáng.

Trai làng đã nhiều cậu muốn lăm le làm giai tế phú ông.

Cô Vách tự nhiên mang bệnh, thuốc thang chữa trị thế nào cũng không khỏi, nhiều khi lại mê sảng.

Trong lúc tỉnh, cô đã nói cho cha mẹ hay là đêm đêm cô cứ mơ thấy một chàng thanh niên đẹp trai, vượt qua lối cửa sổ vào nài cô ân ái, cô chống cự không nổi, và kể từ khi cô bị vào tay thanh niên này, cô bắt đầu mang bệnh.

Cô lại cho cha mẹ biết thanh niên rất kỳ lạ, không bao giờ nói năng câu gì, hắn đến, nài ép cô, mây mưa xong là hắn đi.

Cô hỏi không bao giờ hắn trả lời, cô chống cự lại không nổi, muốn kêu lên chỉ ú ớ kêu không ra tiếng.Ông bà phú ông lo lắng, chắc con gái mình bị tà ma ám ảnh.

Một mặt ông lo canh gác, ông mời thầy tự xin bùa dán nơi phòng cô Vách, và cúng trừ tà.

Ông muốn làm gì thì làm, đêm đêm cô Vách vẫn thấy chàng thanh niên đẹp trai không nói lẳng lặng tới cưỡng hiếp cô, người cô ngày một gầy guộc, xanh xao.Phú ông mượn lực điền canh cửa phòng và cửa sổ, và chính ông đêm hôm cũng đôi khi thức giấc đi tới buồng ngủ của con gái.

Song, với sự việc cô Vách bị tà ma quấy nhiểu, nhà phú ông lại xảy ra một sự lạ nữa.

Thỉnh thoảng đêm khuya, ông nghe có người rửa bát ở ngoài vại nước, một lần ông và một người thợ cày chạy ra xem thì có bóng người vụt chạy đi, để lại tại vại nước một rổ bát đĩa dơ.

Và cứ đêm nào như thế, y như gạo nhà ông thấy vơi nhiều, có người đã múc gạo lúc đêm hôm.

Ai vậy, ông lo lắng lắm.

Ông bày tỏ sự lo lắng của mình với ông hàng xóm.

Ông này nói:

- Trước tôi đã bảo ông chẳng nghe!

Tất cả mọi việc xảy ra ngày nay đều do con chó trắng mũi đỏ nhà ông cả.

Nó là yêu ma, chính nó đã hóa ra thằng con trai câm cưỡng hiếp con ông, chính nó đã mời đồng loại yêu ma tới nhà ông ăn uống rồi rửa bát!

Coi chừng rồi có ngày bọn chúng nó sẽ giết hết gia đình ông!

Các cụ bảo rằng ngày trước có nhà nuôi chó trắng thành yêu, gặp lúc vận nhà suy, người trong nhà lần lượt chết, người nọ chưa chôn người kia đã chết theo, phải có thầy tự cao tay lắm mới trị được!Lời ông hàng xóm làm cho phú ông càng lo lắng thêm.

Ông hỏi bây giờ nên làm thế nào, ông hàng xóm đáp:

- Chỉ có cách mời thầy bùa.

Và cần nhất phải làm sao hóa kiếp được chó trắng mũi đỏ đi.

Nhưng nó đã thành tinh rồi, ông coi chừng, ý định gì của ông nó có thể biết được.

Nó mà biết ông định hóa kiếp nó, ông phải cẩn thận kẻo nó lại hóa kiếp ông trước.

Ông đừng nói năng ý định của ông cho ai biết, kể cả bà ấy và các con ông, rồi lúc nào thuận tiện và bất thình ***h, ông cho một nhát dao hoặc một búa may ra mới trừ được nó.

Phú ông buồn rầu ra về.

Ông hối hận đã không biết nghe ông hàng xóm từ trước hóa kiếp con chó trắng mũi đỏ đi!

Giờ đây ông đã rắp tâm rồi, ông sẽ giết con chó trắng để trừ giống yêu ma!

Ông rắp tâm trừ chó trắng mũi đỏ, nhưng việc đó ông không sao làm nổi.

Có lẽ chó biết rõ ý định của ông, nên tuy vẫn ở nhà ông, nhưng không ai gần được nó, và có lúc ông và một người lực điền săn bắt thì không hiểu nó có phép mầu nhiệm gì, nó luôn luôn tránh thoát, kể cả lần người lực điền đã choàng được nó vào thòng lọng xích ống.

Người hàng xóm hỏi thăm ông về tình trạng cô Vách và hỏi cả về con chó trắng nhưng ông này không bao giờ đem những câu chuyện ấy nói ngay tại nhà phú ông, chuyện chỉ được nói khi ông gặp phú ông ở ngoài đường, hoặc khi phú ông sang chơi nhà ông, hút thuốc ăn trầu uống nước.

Ông khuyên phú ông phải hết sức cẩn thận, đừng để con chó biết rõ ý định ông muốn giết nó, nó biết, nó sẽ tìm cách giết ông trước.Lời nói của ông hàng xóm khiến ông càng lo lắng thêm, thôi thì bùa bèn đủ mọi nơi nghe tiếng thầy pháp nào cao tay ông cũng mời tới nhà để trừ yêu ma, chữa bệnh cho cô Vách.

Thật là tốn kém mà kết quả không đi tới đâu!

Rồi một đêm khuya, thức giấc, ông tới buồng cô Vách thăm con và xem chừng sự canh phòng của người lực điền.

Người lực điền gục đầu ngay cửa sổ ngủ, còn trong màn cô Vách như có bóng người lục **c.

Ông lên tiếng đánh thức lực điền thì vụt từ trong màn cô Vách lao ra một bóng trắng, nhào theo lối cửa sổ, vượt qua đầu người lực điền biến mất.

Bóng trắng không ra hình người, không phải hình vật trông tương tự như chếc bóng chống gậy đội nón trước đây ông đã trông thấy trên nóc nhà.

Đích hai bóng là một, và chắc chỉ là con chó trắng mũi đỏ!

Sự lo lắng của ông tăng gấp bội.

Ông ngồi nói chuyện với người lực điền một lúc để canh chừng con gái, rối lại trở về phòng ngủ của mình.

Khi ông đi về phía đầu hồi nhà ngủ, ông nghe phía sau nhà, nơi vườn cây có tiếng lào xào.

Nghi là kẻ trộm đang bàn tính để vào ăn trộm, ông rón rén tới bờ tường, nhìn qua khe tường.

Không phải kẻ trộm, những điều nhìn thấy đã làm ông kinh sợ toát mồ hôi hột!

Ông thấy một đám vừa người vừa chó đang ngồi quây tròn ăn uống với nhau, có hai người, còn lại toàn chó hết, hai người đều chỉ bằng tầm vóc đứa trẻ lên bảy lên tám.

Có con chó, thân chó nhưng đầu người, có con chó nguyên hình chó.

Chúng đang ăn uống và bàn tán với nhau.

Nhìn chiếc mâm đặt giữa bọn người và chó này, thì chính là chiếc mâm nhà ông vẫn dùng để dọn cơm.

Bát đũa cũng chính những bát đũa vẫn dùng hàng ngày.Nhìn thấy bọn người và chó ăn uống hội họp, tóc gáy ông dựng ngược, nhưng khi nghe bọn chúng bàn tán với nhau, ông không còn hồn vía nào nữa.

Chúng nó bàn nhau, sau khi bắt xong hồn con gái ông, một con chó cái sẽ bắt hồn thằng con trai ông, cậu Tường, em cô Vách, năm nay mới mười sáu tuổi.

Một con chó đầu người bảo một con chó khác:

- Chị muốn bắt thằng Tường, chị phải bắt ngay!

Coi chừng bố nó biết, bố nó gửi nó đi chỗ khác thì hỏng việc đấy!

Con chó kia cũng đầu người, đáp:

- Bố nó biết làm sao được.

Chuyện mình nói ở đây, ai lọt vào mà nghe.

Một trong hai ngừơi, chó mang hình người, nói:

- Rồi bố con anh em nhà nó, bọn mình sẽ bắt hết.

Chúng nó sẽ chết không kịp chôn!

Sợ quá, phú ông lẳng lẳng rón rén về buồng ngủ, đi rất nhẹ nhàng, sợ kinh động đến bọn chó yêu ma sẽ có hậu quả không hay.

Sáng hôm sau, ông nhìn trước nhìn sau không thấy con chó trắng mũi đỏ, ông mới khẽ thuật lại những điều ông trông thấy đêm trước cho vợ nghe, và ngay sáng hôm đó, vợ ông đã mang thằng Tường đi gửi ở nhà ông ngoại, ở cách xa nhà ông tại một thôn khác.Ông cũng lại sang nhà ông hàng xóm thuật lại những điều đã xảy ra đêm trước tại nhà ông, và vấn kế ông này về cách đối phó với lũ chó yêu ma, Ông hàng xóm nói:

- Bây giờ chỉ còn cách tìm thầy Tự cao tay và xin bùa về yểm khắp nhà, may ra có trừ được lũ chúng chăng!

Ông nói ông đã mời mấy thầy Tự cao tay và đã xin bùa yểm khắp nhà nhưng không ăn thua gì.

Ông hàng xóm bàn bây giờ chỉ có một cách cầu Trời và lễ Phật.

Ông khuyên cả hai ông bà đêm đêm nên thắp hương khấn Trời, và chia nhau đi lễ các chùa để cầu xin Phât tế độ.

Ông cũng khuyên phú ông nên năng ra lễ tại đình làng để cầu với đức Thành Hoàng để ngài dùng uy quyền trừ khử lũ yêu ma.

Không có cách gì khác, hai vợ chồng phú ông đành chia nhau đi lễ chùa lễ đình để xin Phật, Thần phù hộ giúp đở cho gia đình ông tai qua nạn khỏi.

Đêm đêm hai vợ chồng ông đều thắp nhang ra giữa trời khấn vái.

Ông bà đi lễ cứ đi lễ, cầu Trời cứ cầu Trời, những việc bất thường vẫn cứ xảy ra ở nhà ông như thường.

Cô Vách vẫn đêm đêm trong giấc mơ, có kẻ tới nài hoa ép liễu, và vẫn luôn luôn ông nghe trong đêm có tiếng rửa bát đủa ngoài vại nước.

May mắn, ông đã nghe trộm được những lời bàn tán của lũ chó, gửi cậu Tường đi nên đã tránh được tai nạn cho con!

Hai ông bà lo lắng, sợ hãi, cả hai gầy rộc đi, người trông hốc hác như mất hết tinh thần.

Trong khi gia đình ông đang ở trong tình trạng ấy, thì một hôm có một bà sư già tới nhà ông khuyến giáo.

Ông mang tiền gạo ra cúng.

Lẽ ra, nhận tiền gạo xong, nhà sư ra đi để tới những nhà khác, nhưng thay vì ra đi, nhà sư đã xin với ông cho nghĩ tạm trong nhà mấy ngày.

Bà sư nói:

- Bần ni từ xa xôi tới đây, mêt mỏi, không tiếp tực đi quyên giáo được, xin thí chủ, nhà có rộng cho bần ni ở nhờ ít bữa, khi nào lại sức bần ni sẽ ra đi.

Cả hai ông bà phú ông đều trịnh trọng đón tiếp và mời nhà sư lên nghĩ ở ngôi nhà trên, nghĩa là ngôi nhà chính của gia đình.

Sư già lại ngõ ý với hai ông bà muốn có chỗ để tựng kinh niệm Phật.

Sư già nói:

- Bần ni là kẻ tu hành, hàng ngày phải tụng kinh niệm Phật. dám phiền thí chủ cho bần ni mượn một chiếc hương án để thiết lập bàn thờ Phật, có bàn thờ, việc tụng niệm sẽ được nghiêm túc.

Hai vợ chồng phú ông mời sư già đặt ngay bàn thờ Phật trên bàn thờ gia tiên nhà mình, như vậy tổ tiên của phú ông cũng sẽ được nghe kinh.

Sư già lấy ở trong đãy ra một pho tượng Phật, đặt lên hương án, cao hơn đỉnh trầm.

Ngay sau đó đèn hương được thắp lên và sư già bắt đầu niệm Phật.

Phú ông không hiểu sư già đã tụng những kinh gì, chỉ biết sư già chăm chú đến việc kinh kệ, không chú ý gì đến mọi sự bên ngoài, một ngày người chỉ ăn một bữa vào lúc ngọ, cơm chay do vợ chồng phú ông cung cấp, và đêm đêm sư già tụng kinh rất khuya.

Sư già tụng kinh như vậy, luôn ba ngày liền, chỉ nghĩ vào lúc thụ trai, và vào quá nữa đêm tới sáng

Vợ chồng phú ông hầu hạ sư già cơm nước, tự thấy trong lòng như nhẹ nhỏm, và mọi sự lo lắng như tiêu tán.

Điều đáng kể là trong suốt ba đêm liền, từ hôm sư già bắt đầu tụng kinh, những sự kiện ma quái không xảy ra như về trước.

Cô Vách đêm đêm không thấy yêu ma tới quấy nhiểu cưỡng hiếp và đàn chó thành tinh dường như cũng không thấy tới hội họp ở nhà phú ông.Sáng ngày thứ tư, sư già từ giả vợ chồng phú ông để tiếp tục đi khuyến giáo.

Hai ông bà cố giữ cũng không được, đưa tặng gạo tiền sư già đều từ chối lấy cớ trong mấy ngày ở lại, sư già đã quấy quẻ ông bà nhiều rồi.

Hai ông bà tiễn chân nhà sư ra đến đầu xóm mới quay trở về.

Về tới nhà, phú ông được người lực điền cho biết, con chó trắng mũi đỏ không hiểu tại sao nằm chết rục ở bụi tre.

Bây giờ phú ông mới hiểu sư già là một vị cao tăng đã vì gia đình mình tụng kinh niệm Phật trừ yêu quái.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - I Đứa chắt út


Cậu chuyện mà tôi sắp kể cho các bạn nghe dưới đây cũng chỉ là một chuyện mà tôi nghe được từ một người bạn mà có thể được coi là người trong lãnh vực tâm linh.

Câu chuyện này nguyên bản có tên là "chó đội nón chống gậy", và tôi tin chắc rằng bạn đọc có thể đã nghe qua hay biết rõ về câu chuyện này vì theo như tôi được biết thì câu chuyện này có thật và đã xảy ra tại một vùng giáp ranh Hà Nội (Cái này là người kể nói là có thật chứ không phải tôi nhé).

Sau khi nghe câu chuyện "chó đội nón chống gậy" này xong thì tôi thấy nó vô cùng hấp dẫn và xin mạn phép được viết lại một phiên bản khác của câu chuyện trên với một cái tên mới đó là "nghiệp chướng".

Mong bạn đọc hiểu cho rằng đây là một phiên bản khác nên có nhiều tình tiết thay đổi, tôi cố ý làm vậy để câu chuyện trở nên hợp lý và hay hơn theo suy nghĩ của tôi mà thôi chứ tuyệt đối không có ý đạo văn hay gì cả.

Mong bạn đọc sẽ thích câu chuyện này, và xin lưu ý rằng, truyện ma dù sao cũng là truyện ma, đọc để cho biết thôi chứ đừng tranh cãi nhau là thật hay giả nhé, xin cám ơn.

Phần 1: Đứa Chắt út.

Giáp ranh thành phố Hà Nội có một ngôi làng nhỏ mang tên Vọng Nguyệt, sở dĩ cái làng này có cái tên kì lạ như vậy là vì vào những đêm trời trong vắt, ánh trăng soi sáng khắp cả làng và in bóng xuống cái hồ nước ngay giữa làng tạo nên một hình ảnh đẹp đẽ nên thơ những cũng mang lại cho con người ta một cái cảm giác gì đó rờn rợn, ớn lảnh đến nỗi nổi da gà.

Dòng họ lớn nhất ngồi Làng này phải kể đến dòng họ Ngô, nghe đâu ông cố tổ của dòng họ Ngô là một ông thợ làm vải có tiếng.

Vải được ông ta tạo ra đẹp đến mức mà người ta có thể dành hàng giờ chỉ để ngắm những mảnh vải đó.

Mầu sắc của vải thì phải nói là thực sứ sống động, và nhiều người tin rằng những mảnh vải đó dường như có sức mạnh làm mê hoặc lòng người vậy.

Chỉ là vải không mà đã đẹp như vậy, thì cần gì phải bàn đến việc vải được may thành những bộ quần áo đẹp tuyệt trần, nhất là áo dài.

Đã có rất nhiều người lặn lội đường xá xa xôi tìm đến đây chỉ để may được một bộ quần áo làm từ vải của nhà dòng họ Ngô nổi tiếng này.

Trong làng cũng có một số hộ gia đình làm vải theo khi thấy dòng họ Ngô ăn nên làm ra từ vải, thế nhưng không hiểu sao vải họ làm ra cũng y như cách làm vải của họ Ngô vậy mà không sao cạnh tranh được với dòng họ này.

Ngoài việc dòng họ Ngô nổi tiếng về cái nghê làm vải, dòng họ này còn là một trong những người đầu tiên thành lập nên ngôi làng Vọng Nguyệt này, thế nên bàn thờ tổ của họ được đặt ngay trong đình làng coi như là để ghi công đức của một trong những giòng họ đã có công với làng.

Vào đợt đầu thu năm đó, trưởng họ hiện nay là ông Ngô Đình Tú năm nay đã hơn tám mươi tuổi, vẫn khỏe mạnh bình thường đang đứng trước sân đình để ngắm nhìn cảnh vật.

Lớn lên từ ngôi lang này, ông ta có thể nhận rõ thấy nhiều sự thay đổi theo dòng thời gian và lịch sử.

Ông Tú đang đứng nhìn ngắm thì chợt từ xa có một người coi bói mù đang cầm gậy tiến lại.

Ông Tú quay đầu nhìn người coi bói mù này, người coi bói tựa như có thể cảm nhận được ông Tú, ông ta nói:

- Chào ông, tôi làm nghề coi bói dạo để kiếm chút cơm canh qua ngày, ông có muốn coi không?

Ông Tú mỉm cười, nghĩ thầm cũng thấy thương người coi bói dạo bị mù này liền đồng ý và cùng với ông ta ngồi xuống trước thềm của đình để làm mấy quẻ coi thử.

Khi hai người đã ngồi xuống, ông Tú nhìn người coi bói dạo này rất là lâu, anh ta chắc cũng chỉ tầm có ba mươi tuổi là cùng.

Ông Tú vừa nhìn người thầy bói này vửa mỉm cười, ông ta nghĩ chắc lại là một trò bịp bợm nhưng ông Tú cũng không nói gì vì bản thân ông ta cũng tò mò muốn coi thử cho vui, chứ sống đến nhường này tuổi rồi thì mấy ai mà quan tâm tới vẫn mệnh nữa cơ chứ.

Người thầy bói mù mở cái tráp ra sợ xoạn một lúc, thế rồi ông ta lấy ra ba đồng tiền cổ, một cái bát và một cái đĩa.

Người thấy bói này cho tiền lên đĩa, úp bát lại và ngồi thu chân ngay ngắn.

Người thầy bói mở lời:

- Thế ông muốn coi cái gì?

Ông Tú nhìn người thầy bói mù mà mỉm cười:

- Thầy muốn coi gì cũng được à.

Người thầy bói này ra vẻ ngạc nhiên và thú vị lắm, thế rồi người thầy bói bảo ông Tú đưa tay ra.

Người thầy bói này sờ nắn tay của ông Tu một lúc thế rồi ông ta nói:

- Tay ông rất là mềm mại, tôi nói ông làm nghề vải, thêm vào đó bàn tay không hề bị trai, chắc chắn gia đình ông thuộc vào loại giầu có.

Ông Tú gật gù đáp:

- Đúng lắm ... nói tiếp đi.

Thế rồi người thầy bói ngửa bàn tay của ông Tú ra mà bắt mạch, ông ta nói:

- Tôi nói ông cũng già rồi, ít nhất cũng phải tám mươi tuổi có đùng không?

Ông Tú nghe thấy người thầy bói này nói vậy thì vô cùng ngạc nhiên, quả thực không ngờ là người coi bói mù này cũng có chút tài cán.

Chợt ông Tú như nhận ra một điều là biết đâu người này chỉ giả mù.

Nghĩ đến đây ông Tú chỉ mỉm cười và đoán là như vậy.

Sau khi coi xong tay của ông Tú, người thầy bói này bắt đầu cầm cái bát lên và xóc những đồng tiền.

Đủ bẩy nhịp thì ông ta mở đĩa ra và đưa tay sờ lên mặt của từng đồng tiền một.

Ông Tú nhìn những đồng tiền đó thì cũng chả hiểu gì, người thầy bói này lần lần, ông ta nói:

- Coi bộ gia đình nhà ông với nghề làm vải này khá là phát đạt, con cháu đứa nào cũng có ăn học đàng hoàng...

Chợt khi sờ đến đồng tiền cuối cùng thì măt người thầy bói này biến sắc, ông ta mần kĩ lại đồng tiền đó như không thể nào tin được, ông Tú thấy sắc mặc của ông ta thay đổi thì cũng ngạc nhiên lắm.

Sau khi đã kiểm tra kĩ thì người coi bói này mới thở hắt ra và nói với ông Tú:

- Chỉ tiếc thay là ... vận hạn của ông đã đến, phúc dức dòng họ nhà ông gây dựng bao lâu nay thì đến ngày hôm nay sẽ bị phá bỏ mà thôi...

Ông Tú nghe thấy vậy thì cười lớn vì cứ nghĩ là người thầy coi bói này chắc lại giở trò để đòi tiền làm lễ.

Ông Tú giả vờ giọng lo lắng hỏi mà mặt vẫn cười:

- Chết thật, vậy thì nguy quá, tại sao lại ra đến cơ sự này hả thầy?

Người coi bói nói:

- Trước đây dòng họ nhà ông có quý nhân phù trợ, tuy nhiên thời gian trôi qua.

Những người thuộc dòng họ nhà ông không tạo phúc tạo đức để giữ lại cái vận may đó, nay thời gian đã hết, quý nhân phù trợ đã về lại với cõi trời, thì vận hạn sẽ sớm đổ xuống đầu dòng họ ông mà thôi.

Ông Tú càng nghe thì càng thấy nực cười, phái cố lắm ông ta mới không nhin được cười, thế rồi ông Tú cố cãi:

- Thầy nói lạ, không chỉ bản thân tôi, mà rất nhiều con cháu ngày ngày lên chùa cầu khấn, bố thí, rồi làm bao nhiêu việc tốt, như vậy chẳng lẽ không phải là hành thiện tích đức hay sao?

Người coi bói lúc này mới quay đầu về phía mặt ông Tú như thể có thị lực, ông ta nói:

- Những việc đó gia đình ông làm là để tích đức hay chỉ là để tạo danh tiếng.

Đồng ý là con cái ông làm nhiều việc thiện, ít ra là hơn ông, nhưng như vậy vẫn là chưa đủ để giúp ông giải được cái vận hạn đâng đổ lên đầu ông, hay như đổ lên dòng họ nhà ông đâu ông Tú ạ.

Ông Tú lúc này thì đờ cả mặt ra, ông Tú thấy lạ lắm là tại sao chỉ mới gặp nhau mà người coi bói này đã biết được tên mình.

Người coi bói lúc này mở một nù cười gian trá trên khuôn mặt, thế rồi ông ta nói:

- Hay tôi nên nói rõ hơn là tôi lội của ông ngày trước là quá nẳng để rồi đến ngày hôm nay nó giáng xuống đầu không chỉ riêng mình ông mà còn cả dòng họ nhà ông nữa.

Ông Tú nghe những lời nói đó của người coi bói thì tựa như có một thứ gì đó đánh thức con người ông ta vậy.

Ông Tú bắt đầu có hơi bực tức, thế rồi ông ta lẳng lặng đứng lên bỏ đi.

Thế nhưng ngay khi ông Tú mới bước được từ thềm xuống tới sân thì người coi bói này đã nói vọng ra:

- Ông Tú, không lẽ ông đã quên vợ ông chết như thế nào rồi hay sao?

Không lẽ ông không còn nhớ tới những gì vợ ông nói trước khi chết hay sao?

Ông Tú quay ngang đầu nhìn ông thầy bói mặt hằm hằm, người thầy bói chỉ khẽ mỉm cười thế rồi ông ta nói:

- Thất đáng buồn thay cho dòng họ ông sẽ bị bại tàn bởi tội lỗi của một mình ông.

Ông đã có cơ hội để thay đổi vận mệnh nhưng ông đã không chịu, thật là đáng tiếc ông Tú ạ.

Ông Tú đứng đó nóng giận lắm, thế nhưng cũng may mà ông ta kìm chế lại được.

Ông Tú móc túi lấy ra một ít tiền lẻ mà ném thẳng vào mặt người thầy bói mà nói:

- Mầy cầm lấy tiền và xéo đi!

Nhóc con nói bậy bạ không à!

Ông Tú quay người đi thẳng thì chỉ nghe sau lưng là tiếng cười khanh khách của người coi bói và giọng nói:

- Ông Tú à ...

ông cầm tiền đi coi như là tiền tôi phúng điếu cho ông đó...

Ông Tú không thèm quay đầu chỉ đi thẳng về cái tòa nhà ba gian rộng lớn của mình.

Đợi khi ông Tú đã đi khỏi, người thầy bói này mới cởi cái kính đen để lộ ra hai con mắt thầm quần đen xì, đôi môi của người coi bói này cũng đen thẫm lại. hắn ta đứng lên và lấy từ trong cạp quần ra một cái mũ vãi xếp mầu đen có hình thái cực. người này đội xong thì quay người nhìn vào trong đình nơi để bàn thờ tổ dòng họ Ngô mà lặc đầu, thế rồi người thầy bói này tan thành một lài khói đen mà biến mất không để lại một dấu vết.

Không ít lâu sau, ông Tú đã đổ bệnh nặng tựa như những lời nói hôm nào của gã thầy bói mù trước đình làng đã khiến cho ông ta suy sụp vậy.

Cảm thấy rằng ông Tú chắc sắp qua đời, họ hàng tại Làng đã liên lạc cho con cháu sinh sống làm ăn ở xa để kịp về để được ở bên cạnh ông ta những giây phút cuối đời.

Ông Tú nằm trên giường thoi thóp, có vẻ như ông ta đã nhớ ra và thấm thía những lời nói hôm nào của tên thầy bói mù.

Thế nhưng có lẽ đúng như lời hắn ta nói, đã quá muộn mà thôi, bây giờ thì bản thân ông ta cũng chẳng làm được gì ngoài việc tuổn rơi hai hàng nước mắt.

Nhưng có lẽ ông Tú cũng được an ủi phần nào khi mà đứa cháu gái mà ông ta thương yêu nhất đang ở bên cạnh ông, đứa cháu này của ông ta năm nay đã hai mươi bẩy tuổi và đang mang bầu đứa thứ hai, được tầm gần tám tháng rồi.

Ông Tú có thể nói là quý đứa cháu gái này nhất trong nhà vì từ dáng vẻ đến tính nết của nó đều giống hệt như vợ ông, bà Hà đã mất cách đây năm năm.

Hoa ở bênh cạnh ông chăm nom ông Tú thật ân cần và chu đáo, riêng chỉ có một điều khiến ông Tú uất ức nhất về Hoa đó là lấy thằng Lương, con cháu của dòng họ Hoàng, là dòng họ mà có xích mích với dòng họ Ngô từ lâu lắm rồi.

Thế nhưng cho dù có ghét thằng Lương và dòng họ nhà nó tơi đâu đi chăng nữa, thì ông Tú vẫn thương mến đứa cháu này của mình bấy nhiêu.

Thật may mắn cho ông Tú là trước khi chết thì con cháu cũng đã tập chung về gần đủ, và cuối cùng thì ông ta cũng đã trút hơi thở cuối cùng.

Có lẽ ông trời đã ban cho ông ta được một cái ơn huệ cuối cùng là cho ông ta được thấy mặt mũi con cháu trước khi chết vậy.

Quan tài của ông Tú được đặt ngay ngắn tại gian nhà giữa với hai cây nến, bát cơm với quả trứng và ảnh ông Tú đặt trên quan tài.

Hai gian nhà hai bên đã chất cứng con cháu ngủ tạm để làm tang lễ và mang ông ra đồng trồn vào sáng ngày mai.

Gian nhà chính này bên tay trái là bộ bàn ghế gỗ, bên tay phải thì là một cái sập.

Nằm trên sập là gia đình của một người cháu mới ở trên Hà Nội về gồm có hai vợ chồng và một thằng con trai mới lên bẩy tuổi.

Cả ba người đã ngủ say như chết bên cạnh cái quan tài lặng lẽ ngự ngay trước bàn thờ họ kia.

Thằng nhóc này đang ngủ say thì bất chợt nó giật mình tỉnh giấc khi mà nhiệt độ trong nhà có vẻ như đang lạnh dần.

Thằng nhóc cố chùm chăn lên ngang mặt và ngủ tiếp.

Bất ngờ nó giật thót tim khi nghe thấy tiếng gió rít qua khe cửa sổ.

Thằng nhóc nằm trên giường lúc này mới run lên cầm cập, da gà trên người nó dựng đứng hết cả lên.

Chả là thằng nhỏ này nhát gan lắm mà lại hay coi phim kinh dị, thế nên trí tưởng tượng của nó thì phải gọi là vô biên.

Tiếng gió rít qua khe cửa cứ vang vọng, lúc lên lúc xuống.

Thằng nhóc dần dần nghe cũng quen, và từ từ thiu thiu rơi lại vào giấc ngủ.

Tuy nhiên, thằng nhóc lần này phải thót tim mà toát mồ hôi hột khi mà nó nghe thấy tiếng hai con chó, một con mực, một con vàng cùng nhau tru lên những tiếng ai oán mà nghe rợn hết cả người.

Thằng nhóc nằm co ro run rẩy trên giường mà liên tưởng ngay tới người sói.

Thằng nhỏ giúc vào người mẹ nó mà ôm chặt lấy run rẩy.

Và rồi không biết từ khi nào, thằng nhóc này mới để mắt tới cái quan tài ở giữa gian nhà.

Thằng nhỏ dường như có thể nhìn thấy cái quan tài đó đang nhúc nhích, cứ như thể người ở bên trong đang cố đẩy nắp quan tài chui ra vậy.

Thằng nhỏ quá sợ hãi, nó giúc mặt vào người mẹ nó như thể không muốn nhìn vào cái quan tài đó nữa vậy.

Chỉ trong giây lát, bốn bề đã lại yên tĩnh đến đáng sợ, gió đã ngừng thổi và hai con chó đã thôi không còn tru lên nữa.

Nhưng ngay lúc này đây, một tiếng "ken két" vang lên xé tan cái màn đêm im lặng đó.

Thằng nhóc nằm trên giường lại một lần nữa giật bắn mình lền, thế rồi nó mở he hé mắt cố liếc về phía cửa ra vào.

Thằng nhóc như muốn hét lên khi mà nó nhìn thấy hai cái bóng trắng từ bên ngoài lướt qua cửa tiến tới gần phía quan tài của cụ nó.

Gió từ bên ngoài lúc này lại ùa vào, khiến cho thằng nhóc dù có lạnh đến run cầm cập nhưng vẫn phải cố nằm im.

Thằng nhóc nằm im hé mắt ra nhìn thì thấy đây là một người đàn bà còn trẻ tuổi lắm mới ngoài hai mươi với mái tóc dài đen mượt, trên người là một bộ áo dài trắng tinh.

Người đàn bà này còn dắt theo một con nhỏ nữa cũng tóc dài ngang vai và trên người cũng lại là một bộ áo dài mầu trắng.

Hai cái bóng trắng này tiến tới bên quan tài và đứng lặng thinh ở đó một hồi lâu.

Thằng nhóc cứ he hé mắt ra mà nhìn, toàn thân nó sởn gai ốc y như một con nhím vậy.

Thế rồi chợt cái bóng người đàn bà mặc áo trắng đó cười lên một tiếng khanh khách, cái tiếng cười thỏa mãn rùng rợn khiến cho thằng nhỏ co rúm lấy.

Có một điều rất lạ là tại sao chỉ có một mình nó là nghe thấy được còn bố mẹ nó vẫn ngủ ngon lành.

Thằng nhóc còn chưa hết hãi hùng thì hai cái bóng chắng này liên tiếp vỗ mạnh tay lên cái quan tài đó khiến cho ảnh của ông Tú đổ ụp xuống.

Thằng nhóc nghe tiếng khung ảnh đổ thì la toáng lên:

- Mẹ ơi con sợ quá!

Lúc này bố mẹ nó mới choàng tỉnh giấc.

Bố mẹ nó nhìn nó và cố hỏi chuyện gì thì thằng nhóc nhìn về phía quan tài thì bóng hai người kia đã biến mất.

Thấy thằng nhóc đó không nói năng gì mà mặt tái xanh, nghĩ là con minh mơ mị nhiều vì lạ giường nên mẹ nó cũng ôm nó vào lòng mà dỗ nó ngủ.

Bố thằng nhóc thì chạy ra khép lại cánh cửa nhà lúc nãy đã đóng để cho đỡ lạnh.

Thằng nhóc nằm đó mà nó không tài nào ngủ được, hình ảnh hai cái bóng trắng đó vẫn ám ảnh trong đầu nó.

Nó tự hỏi rằng không lẽ nó vừa nhìn thấy ma?
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - II Nước mắt của bà giúp việc


Sáng hôm sau, mấy người em của ông Tú hết sức bực tức khi mà họ phát hiện ra cái ảnh để trên nóc quan tài bị đổ vỡ tan kính, theo như những gì dân làng vùng này tin thì việc ảnh thờ bị đổ là một điềm sui sẻo lắm.

Khi mấy người này hỏi thăm đôi vợ chồng coi coi tối qua có biết vì sao mà ảnh đổ thì hai vợ chồng nói rằng họ ngủ say như chết nên không biết chuyện gì đã xảy ra.

Nhưng lúc này đứa con trai bẩy tuổi của họ lại nói rằng đêm qua nó nhìn thấy có hai bóng người mặc áo dài trắng tới bên cạnh quan tài của cụ cố cười lớn và vỗ vào quan tài làm cho ảnh của cụ cố đổ xuống.

Mấy người lớn có mặt ở đó nghe thấy vậy thì rợn hết cả tóc gáy, bố mẹ của thằng nhóc nghe thấy vậy thì cũng sợ lắm, thế nhưng họ nói chen vào rằng chắc thằng nhóc nó nằm mơ mộng linh tinh, chứ làm gì có chuyện bàn thờ tổ để ngay giữa nhà mà ma quỷ dám bước vào được.

Ngay lúc này có một bà giúp việc đã ở với gia đình này mấy chục năm, bà ta tên là Thoa.

Bà Thoa chẳng là hồi xưa có đi dạt tới làng này từ lúc mười mấy tuổi, nhưng may là vợ ông Tú tức là bà Hà thương xót nên đã nhận nuôi vào làm người giúp việc.

Bà Hà rất quý mến bà Thoa và coi bà ta như con vậy, không hiểu sao đến ngày hôm nay khi bà Thoa đứng đây nghe thấy những lời này thì bà ta chợt tuôn rơi những giọt nước mắt.

Bà Thoa tiến tới phía thằng nhóc và nói:

- Cháu ơi ... những lời cháu nói là có thật không?

Thằng nhóc này gật đầu, bà Thòa lúc này nhìn nó mà hai hàng nước mắt tuôn rơi nhiều hơn nữa.

Mẹ thằng nhóc có vẻ không thích bà Thoa liền kéo tay thằng nhóc lại mà nói:

- Cháu nó còn bé, nói linh tính ý mà bà.

Thế rồi một người em khác của ông Tú lớn tiếng nói:

- Thôi bà mau lo đi chuẩn bị công việc đi.

Bà Thoa nghe thấy vậy cũng chỉ biết đứng lên mà xuống bếp.

Chẳng là con cháu hay như anh em của ông Tú không hề thích bà Thoa từ ngày bà Hà nhận bà Thoa về nuôi.

Chưa kể đến việc tuy bà Thoa là người giúp việc nhưng bà Hà luôn đối xử và quý mến bà Thoa như con mình vậy.

Chính điều đó đã khiến cho người trong dòng họ ghanh ghét bà Thoa và luôn luôn coi bà ta là kẻ ngoại tộc.

Ngày trước còn bà Hà nên mọi người không giám tỏ thái độ gì, nhưng ngay từ cái ngày bà Hoa mất đi rồi đến lượt ông Tú, thì người nhà này trở mặt hẳn và luôn tỏ ra vể rằng họ muốn bà Thoa quấn gói đi khỏi cái nhà này càng sớm càng tốt.

Đúng chín giờ sáng, cái giờ mà người nhà ông Tú coi là giờ đẹp.

Mọi người bắt đầu đưa quan tài ông ra ruộng, nơi mà họ đã chuân bị đắp sẵn một nền si măng rộng, và sau khi đưa quan tài xuống họ sẽ xây lên một ngôi mộ thật đẹp và hoành tráng nhất cai làng này.

Cả đoàn người đưa tiễn ông Tú về nới an nghỉ cuối cùng, tiếng con cháu, anh chị em, họ hàng của ông khóc lóc pha vào với tiếng kèn trống nghe thật não nề.

Từng đồng tiền giấy được giải ra đường, cuốn theo chiều gió, một cảnh tượng thật tang thương.

Thế nhưng ngay khi người ta vừa đưa quan tài của ông Tú ra khỏi nhà thì trời tự nhiên đang trong vắt bỗng mây đen ở đâu kéo tới che kín cả mặt trời.

Từng cơn gió lạnh đầu mùa thổi về khiến cho những người đi đưa đám ma phải run lên cầm cập.

Chiếc xe tải để quan tài của ông Tú dừng lại ngay trước thửa ruộng rộng mênh mông, nơi mà họ muốn trôn cất ông ta.

Lúc này tất thẩy sau người thanh niên trong đoàn người được chọn ra tiến tới bê quan tài của ông Tú xuống và khênh ra ruộng.

Ngay khi họ vừa đặt chân xuống ruộng thì trời sấm chớp vang lên, một chận mưa to kéo tới.

Mấy người khiêng quan tài do không kịp chuẩn bị nên họ đành phải tắm mưa mà đưa quan tài của ông ta ra giữa ruộng.

Khiêng quan tai của ông Tú được tầm nửa quãng đường, bỗng nhiên sáu người thanh niên trai trẻ này có cảm giác như cái quan tài của ông ta bỗng như nặng dần, thế rồi chẳng mấy chốc mà chân họ đã lún sâu xuống ruộng như thể có một thế lực nào đó đè nặng xuống vậy.

Người nhà ông Tú theo sau thấy mấy người khênh quan tài cứ loay hoay đứng một chố mà không thể bước tiếp thì họ bắt đầu láo nháo và tiến tới hỏi.

Trong đám người đó là thằng cháu hôm nào, nó nhìn về phía quan tài thì sởn gai ốc kinh hãi khi thấy ngồi chễm chệ trên quan tài của cụ cố nó là hai bóng người mặc áo dài trắng hôm nào đang đung đưa chân.

Thằng nhỏ túm chặt lấy mẹ nó mà hét toáng lên:

- Mẹ ơi con sợ quá!

Hai người mặc áo trắng đang ngồi trên quan tài của cụ cố kìa!

Bố mẹ nó và mấy người đứng xung quanh nghe thấy vậy thì hoảng hốt và có phần lạnh gáy.

Mấy người đàn ông lúc này thì đã chạy tới phía quan tài, họ kinh hãi khi thấy sáu người con trai khênh quan tài đang bị lún xâu từ từ xuống đất ruộng mà không tài nào nhúc nhích được.

Ngay lập tức mấy người này liền giúp một tay nâng quan tài lên thế nhưng cho dù có thêm gần cả chục người mà cái quan tài vẫn có vẻ như càng ngày càng nặng dần.

Người nhà ông Tú bây giờ thì bỗng chốc nháo nhào lên không hiểu có chuyện gì đang xảy ra.

Bỗng trong tiếng gió vù vù, tiếng mưa rào rào đó, một số người nghe thấy có cái tiếng cười khanh khách của một người đàn bà và một đứa nhóc khiến họ phải rùng mình sợ hãi.

Thế rồi mấy đứa nhóc bắt đầu thi nhau gào khóc lên như thể chúng nó đang sợ hãi một cái gì đó lắm.

Trước cái cảnh tượng đo, người nhà họ Ngô còn nháo nhác hơn nữa, nhưng riêng chỉ có bà Thoa là vẫn bình tĩnh, dường như bà ta biết được có chuyện gì đang thực sự xảy ra.

Bà liên lấy trong túi đồ lễ ra mấy tờ tiền vàng, một chai rượu nếp nhỏ để cúng.

Thế rồi bà tiến tới phía người đang cầm bát cơm quả trứng.

Bà Thoa giựt lấy cái bát đó mà đổ hết cả cơm với trứng đi.

Bà Liên ngồi xuống đất, bà đổ rượu vào bát, đồng thời bà lấy cái nón đội trên đầu xuống che lấy cái đồng tiền vàng mà bà đang châm lửa.

Sau khi đồng tiền vàng cháy gần hết, bà bỏ tro vào bát rượu quấy đều.

Xong xuôi, bà quên cả đội nón mà cầm bát rượu tro đó lao về phía quan tài. khi chỉ còn cách vài bước chân, bà Thoa tạt mạnh cái bát nước đó lên nóc quan tài.

Ngay khi bà Thoa tạt bát rượu tro lên quan tài, mấy người đỡ quan tài cuối cùng cũng nâng được nó lên, mấy đứa con nít cũng đã thôi khóc.

Bà Thoa còn đang đứng dưới mưa đờ người ra nhìn người ta nâng cái quan tài của ông Tú lên đi tiếp thì lúc này con trai thứ của ông Tú tiến tới tát mạnh vào mặt bà Thoa một cái mà nói:

- Bà làm cái trò gì thế hả?!

Sao lại đổ cơm cúng với trứng xuống ruộng?!

Bà Thoa chỉ đứng đó lặng lẽ tuôn rơi nước mắt hòa vào với nước mưa, cũng may vợ thằng con thứ lại can ngăn nên bà Thoa mới không bị ăn cái tát nữa.

Khi quan tài của ông Tú được đưa tới cái hố thì cuối cùng mưa cũng tạnh nhưng mây đen vẫn kéo tới trên đầu họ. người nhà họ Ngô túm tụm lại xung quanh cái huyệt mà khóc lóc, sáu người thanh niên vừa nãy khênh quan tài thì bây giờ họ dùng dòng dọc từ từ hạ quan tài của ông Tú xuống.

Hạ được quan tài xuống đến nửa đường thì bất chợt sáu người kéo dây bỗng giật thót tim thế rồi họ đồng loạt buông tay khiến cho cái quan tài của ông Tú rơi tự do xuống đáy nghe cái rầm.

Người nhà đứng đó thì thất kinh, họ hỏi tại làm sao mà buông tay.

Mấy người thanh niên này mặt mới tái mét mà nói rằng họ nghe tiếng ông Tú la hét kêu cứu.

Do hoảng sợ quá mà họ buông tay, nghe thấy những lời đó thì tất thẩy mọi người ai ai cũng lạnh gáy và tin rằng có chuyện gì đó không hay đang thực sự xảy ra.

Mọi người còn đang đứng đó im lặng suy ngẫm, bất chợt tiếng bà Thoa khóc lóc mới vang vọng:

- Ông chủ ơi ... vậy là hết rồi ... nghiệp chướng rồi ông ơi ... huhuhu

Mấy người nghe thấy vậy thì thấy lạ lắm, mấy người con thì bắt đầu nóng mặt định tiến tới chửi cho bà ta một trận thì may thay có con nhỏ cháu của ông Tú, con Minh nó chạy lại đỡ bà Thoa và đưa bà ta về nhà trước.

Người nhà ông Tú liếc mắt nhìn theo bà Thoa được đưa đi, bà ta vừa đi vừa khóc lóc:

- Bà chủ ơi ... bà về mà coi này ... nhà này gặp nghiệp chướng rồi ... huhuhuhu ... bà chủ ơi ....

Khi đã trôn cất ông Tú xong, mọi người tập chung ở nhà.

Mấy người con trai ông bây giờ mới bắt đầu bàn bạc về việc chia gia tài, đồng thời họ cố tìm hiểu coi coi có chuyện gì đã xảy ra.

Người con trai thứ của ông Tú như nhớ tới bà Thoa, thế là hắn ta đề cử việc cho bà Thoa tiền và tống cổ bà ta đi.

Những người con trai khác đều tán thành ý kiến, và họ đồng ý rằng sau khi dỗ một trăm ngày ông Tú xong sẽ tống cổ bà Thoa đi.

Nhỏ Minh nghe lén được điều đó, nó chạy xuống bếp nơi bà Thoa đang ngồi khóc, nhỏ nói trong nước mắt:

- Bà ơi... mấy bác sắp đuổi bà đi rồi...

Bà Thoa ôm lấy nó vào lòng, bà ta nói trong nước mắt:

- Điều đó bà không lo ... bà chỉ lo cho vận hạn của dòng họ Ngô mà thôi cháu ạ...

Chẳng là ba mẹ nhỏ Minh này sống ở đây làm nghề ruộng, nhỏ được bà Thoa chăm nom từ bé nên Minh quý bà Thoa và bà Thoa cũng quý nhỏ lắm.

Tuy nhiên nhỏ Minh đã mắc phải số phận y như cô Hoa của nó, đó là phải lòng một tràng trai bên dòng họ Hoàng.

Cũng chính vì cái tình yêu bị cho là ngang trái này mà Minh thường xuyên bị bố mẹ, hay như người nhà la mắng, và gây khó khăn mỗi khi cô lén lút đi gặp Tiến.

Nói về Tiến thì cậu ta là một tràng trai ngoan ngoãn, có học, và đương nhiên cậu ta cũng bị gia đình mình ngăn cấm không cho qua lại với cả Minh.

Thế nhưng dù có bị cản trở hay ngăn cấm đến bao nhiêu đi chăng nữa, thì đôi trai gái này vẫn yêu nhau say đắm và tìm đủ mọi cách để được ở bên nhau.

Mấy người con trai của ông Tú đang ngồi bàn bạc nhau coi coi sẽ tổ chức cúng tuần, cúng 49, và cúng 100 ngày ra sao thì vợ của thằng con trai thứ hai hớt hải chạy vô hỏi:

- Có ai nhìn thấy con Hiền nhà tôi đâu không?

Mấy người ngồi đó lúc này mới ngơ ngác mà quay ra hỏi nhau coi coi có thấy con nhỏ đó đâu không.

Người con trai thứ hai lúc này vẫn ngồi điềm tĩnh mà nói vọng ra:

- Em thử đi hỏi xung quanh coi, biết đâu nó chơi đâu đó loanh quanh với mấy đứa bạn nó thì sao?

Lúc nãy anh vẫn thấy nó đi theo ra đến ruộng cơ mà?

Trên mặt người vợ lúc này mới toát lên một vẻ lo lắng, thế rồi bà ta quay đầu đi xuống gian nhà khác để hỏi, vừa đi bà vừa nói:

- Anh chả bao giờ quan tâm gì tới con cái cả.

Người vợ hoảng loạng chạy đi tìm con, hết từ đầu làng cho tới cuối làng.

Chẳng bao lâu sau, toàn bọ người nhà dòng họ Ngô cũng đã đổ xo đi tìm vì có lẽ như con Hiền thực sự đã bốc khói biến mất.

Cả ngày hôm đó mọi người nháo nhác đi tìm con nhóc khắp cả làng, cho đến lúc trời gần tối mà vẫn không thấy nó đâu, một số người lúc này đã liên lạc với cơ quan chức năng để tìm kiếm và điều trà.

Thế nhưng chỉ sau hai ngày giời lùng sục khắp làng và những vùng lân cận mà vẫn không thấy Hiền đâu, mọi người dường như đã mất dần đi hy vọng và họ tin rằng có lẽ con nhỏ này chơi ở bên cạnh cái hồ nước và không chừng nó đã xảy trân và ngã xuống hồ rồi.

Thế nhưng cái giả thiết đó thì không thể, vì đã có mấy thanh niên trong làng ngụp lặn xuống để mò xác con Hiền mà không thấy, tuy rằng cái hồ này cũng khá là sâu nhưng những thanh niên lặn xuống dưới cam đoan rằng không có cái xác nào ở dưới đó cả.

Có một số người khác thì đặt ra giả thiết rằng con nhỏ này bị bắt cóc, thế nhưng ngôi làng này từ trước đến nay chưa hề có trường hợp nào như vậy.

Thêm vào đó là còn đang tang ông Tú nên rất đồng người trong dòng họ có mặt ở làng, thử hỏi làm sao mà bắt cóc được.

Tối hôm đó mọi người buồn bã quay về nhà của ông Tú, lúc này người con trai thứ hai mới để ý tới bà Thoa.

Hắn ta để ý rằng bà Thoa khóc suốt từ lúc về tới giờ, và bà ta cũng đi tìm kiếm con gái mình kinh lắm.

Thế nhưng hắn ta cứ nghe thấy bà Thoa lẩm bẩm cái gì mà "vậy là xong rồi...

đã bắt đầu rồi".

Nghĩ đến đây, người con trai thứ hai vội tiến lại túm cổ áo bà Thoa trước sự trứng kiến của bao nhiêu người mà nói:

- Bà nói đi!

Con tôi đâu?!

Chắc chắn bà biết con tôi ở đâu mà?

Bà Thoa vẫn khóc lóc sụt sùi mà nói:

- Cháu nó ... cháu nó chắc chắn đã chết rồi...

Người con trai thứ hai này như điên tiết tính đánh bà Thoa thì may thay có mấy người khác vào can ngăn và gỡ ra kịp thời.

Bà Thoa ngồi đó khóc lóc, bà nói:

- Tôi nghĩ cháu nó ... cháu nó đã chết đuối rồi...

Lúc này mọi người mới bàn tán sôn sao, mẹ của Hiền hỏi giọng nghẹn ngào:

- Không lẽ ... không lẽ bà nhìn thấy con tôi ngã xuống hồ ...

Bà Thoa lắc đầu nhìn bà ta mà nói:

- Không phải vậy ... mà chỉ là ... tôi tin như vậy...

Một người khác trong họ lên tiếng:

- Nhưng mà có mấy người đã lặn xuống tìm xác rồi cơ mà?

Nếu cháu nó bị chết đuối thì phải tìm thấy xác chứ?

Bà Thoa chỉ ngước mắt nhìn người đó, thế rồi bà lắc đầu miệng lẩm bẩm "Chắc chắn là cháu nó chết đuối mà".

Một người khác lại nói thêm vào:

- Nếu đúng là chết đuối thì tầm ba bốn ngày sau là xác phải nổi lên rồi, nếu đúng vậy chúng ta cứ đợi đến cuối tuần coi sao.

Bà Thoa nghe người này nói chỉ khẽ đứng lên, đi về phía căn nhà nhỏ gần bếp nơi bà sống vừa đi bà vừa nói:

- Cháu nó chết đuối ở hồ ... nhưng mà xác của nó sẽ không nổi lên đâu mà ... sẽ không nổi lên đâu.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - III Cúng 100 ngày


Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua, 3 ngày rồi một tuần.

Người nhà của con Hiền vẫn ra sức tìm kiếm nó, thế nhưng mà hy vọng của họ cũng càng ngày càng tắt lịm dần.

Khi ngày thứ ba trôi qua, tính kể từ ngày con nhỏ mất tích, người nhà nó đã lóe lên một tia hy vọng sáng lòa khi mà họ không thấy xác con nhỏ nổi lên.

Mọi người đã ra sức tìm kiếm, thế nhưng vẫn không thấy kết quả gì.

Sang đến tuần thứ hai thì mọi người đã thưc sự chán nản và không còn một chút hy vọng gì rằng Hiền còn sống sót cả.

Hai vợ chồng người con thứ hai thực sự buồn bã, bà mẹ thì đã khóc hết nước mắt, còn người bố thì ngay sau ngày thứ năm cứ im ỉm không nói năng gì.

Còn về phần bà Thoa thì sao?

Người nhà tuy là bận bịu đi tìm kiếm con nhóc như vậy nhưng chỉ đến ngày thứ ba, khi mà họ không thấy xác của con nhỏ nổi lên, họ bắt đầu để ý tới bà Thoa.

Người nhà họ Ngô thấy lạ là tại sao bà Thoa không hề đi tìm kiếm con Hiền mà cứ lủi thủi ở só bếp mà khóc lóc.

Có đêm mấy người trong họ này đi tìm con Hiền về muộn, họ nghe thấy tiếng bà Thoa khóc thút thít như thương tiếc cho con nhỏ đó lắm.

Thế rồi chiều tối hôm đó, cả hai vợ chồng người con thứ hai mới tiến xuống bếp, nơi mà bà Thoa vẫn ở.

Họ quỳ xuống trước mặt bà Thoa mà khóc lóc, người vợ nói:

- Bà ơi ... bà có biết con Hiền ở đâu không?

Bà làm ơn cho chúng cháu biết với bà ơi ... huhuhuhuhu

Bà Thoa lúc này hai hàng nước mắt cũng tuôn trào, bà ta đáp:

- Con Hiền vẫn ở dưới hồ chứ nó có đi đâu đâu...

Người chồng lúc này mới lên tiếng:

- Những đã quá ba ngày rồi mà bà ...

đã hơn một tuần rồi ... nếu con Hiền bị chết đuối thì xác của nó phải nổi lên chứ?

Nhưng đằng này ...

Bà Thoa cắt lời người chồng:

- Nó bị vong quỷ bắt đi thì làm sao mà xác nó nổi lên được chứ?

Hai vợ chồng nghe đến đây thì ngơ ngác lắm không hiểu chuyện gì cả, còn mấy người nhà có mặt ở đó nghe thấy hai chữ "vong quỷ" thì họ dựng đứng hết cả tóc gáy lên.

Người chồng lúc này lắp bắp mà nói trong nước mắt:

- Bà ... bà nói sao cơ ... vong... vong quỷ nào?

Bà Thoa lúc này nói:

- Bây giờ tôi chỉ có thể mang xác của con Hiền về thôi, hai người có đồng ý không?

Người chồng vẫn nằng nặc hỏi:

- Nhưng bà phải nói rõ cho chúng cháu nghe, vong quỷ mà bà nhắc tới là sao?

Người vợ ngồi bên lúc này mới kéo tay người chồng ra hiệu cho anh ta im đi, thế rồi cô ta nói trong nghẹn ngào:

- Xin bà giúp gia đình chúng con ... chúng con chỉ muốn an táng cháu cho đàng hoàng thôi.

Bà Thoa nghe thấy vậy thì bà đứng lên bảo người vợ lấy một bộ quần áo của con Hiền đưa cho bà, thế rồi bà bảo ba nó mau mau đi thuê một cái thúng to nhất trong làng, còn bà thì vòng ra gian bếp với tay lấy cái lưỡi liềm đã rỉ treo ở tường.

Ngay tối hôm đó, khi đã có đầy đủ mọi đồ vật, cả dòng họ Ngô kéo nhau ra cái hồ dữa làng vì theo như bà Thoa nói phải mang được xác con nhỏ về càng sớm càng tốt, chứ để lâu thì nó sẽ khó lòng mà yên nghỉ.

Cả dòng họ Ngô tập chung quanh hồ vào tầm 11 giờ đêm, nhiều người dân trong làng thấy tò mò cũng kéo nhau ra coi coi người nhà họ Ngô đang lằm gì.

Sau khi đã có đầy đủ mọi thứ, bà Thoa lúc này mới đẩy cái thúng to xuống nước, bà ta trèo lên đó mang theo bộ quần áo của con nhỏ, cái lưỡi liềm, và từ từ trèo ra giữa hồ.

Mọi người đứng trên bờ nhìn theo bà Thoa hồi hộp không biết bà ta sẽ làm gì.

Bà Thoa ra đến giữa cái hồ thì ngừng tay trèo, cố đứng im để cái thúng dừng hẳn lại.

Khi đã đứng tại vị trí mà mình muốn, bà Thoa chắp tay nhắm mắt mồm lẩm nhậm niệm phật.

Niệm xong xuôi, bà Thoa lấy cái lưỡi liềm trong thúng sau đó rướn người ra cầm cái lưỡi liềm mà quấy xuống mặt hồ tầm mấy phút.

Bất chợt, ngay khi bà ngừng tay thì mặt hồ bắt đầu tạo nên những đợt sóng nhẹ khiến cho cái thúng của bà Thoa chênh vênh lảo đảo.

Nhanh như chớp, bà Thoa cầm cái lưỡi liềm lên, bà lấy quần áo của con nhóc cột vào cán của cái lưỡi liềm.

Mặc cho cái thúng vẫn chênh vênh, bà Thoa đứng ở trên thúng từ từ thả cái lưỡi liềm xuống hồ, cho đến khi cái lưỡi liềm đã chìm trong nước, bà ta buông tay thả luôn cả cái lưỡi liềm và bộ quần áo xuống hồ.

Ngay khi bà Thoa buông tay, lập tức mặt hồ bỗng yên ắng trở lại, xong xuôi đâu đó, bà Thoa ngồi xuống dưới thúng và bắt đầu chờ đợi.

Mọi người ngồi trên bờ thấy vậy thì cũng bắt đầu xì xào, nhưng có lẽ họ cũng không biết phải làm gì hơn nên cũng chỉ còn biết chờ đợi mà nhìn chằm chằm về phía bà Thoa.

Đêm nay trời quang mây tạnh, ánh trăng soi sáng khắp cả làng và nó soi xuống mặt hồ tạo nên một cái quang cảnh lạnh lẽo.

Gió lạnh cũng thổi vi vu, nhiều người ngồi đợi lâu đã ngủ gà ngủ gật, một số người dân làng cảm thấy chán nản cũng đã ra về.

Ngồi đó đợi được gần một tiếng, bất chợt một người nhà họ Ngô như nhìn thấy một vật gì đó mới nổi lên trôi gần bên cạnh cái thúng bà Thoa, người này đứng đậy chỉ tay hét lớn:

- Có vật gì mới nổi lên kìa!

Mọi người ở trên bờ lúc này mới nhôn nhao đứng lên mà trên trúc nhau như để cố coi coi đó là vật gì, hai vợ chồng người con thứ hai khi nhìn thấy vật đó có hình dáng như xác một đứa nhóc thì cả hai đã khụy xuống.

Bà Thoa ngồi trên thấy người dân láo nháo thì mới đứng lên nhìn xuống dưới thành thúng, bà Thoa như chết lặng người đi khi nhìn thấy xác con nhỏ đang nổi úp mặt xuống ngay bên cạnh thúng.

Hai hàng nước mắt của bà tuôn rơi, bà nhẹ nhàng khom người nhấc cái xác của con nhỏ lên.

Mọi người đứng ở trên bờ thấy bà Thoa nhấc cái xác của con nhỏ lên thì họ chết điếng người mà nổi da gà ớn lạnh, mẹ của con nhỏ nhìn thấy đó chính là xác của con mình thì mới gào khóc lên thảm thiết.

Người mẹ này tính lao xuống hồ bơi ra chỗ thúng thì may thay có mấy người nhà kéo lại ngăn cản, cha của con Hiền thì ngồi bệt xuống cạnh hồ hai mắt không chớp mà nhìn vào xác của đứa con mình ướt xũng.

Bà Thoa nhẹ nhàng đặt cái xác của con nhỏ vào thúng rồi chèo vào bờ.

Vào gần đến bờ, bà Thoa đặt cái cây chèo xuống rồi bế xác con nhỏ ướt xũng lên mà ôm vào lòng, mấy người trong họ lúc này mới chạy lại mà giữ cái thúng.

Bà Thoa bước ra khỏi thúng ôm xác con nhỏ đi nhanh về nhà, vừa đi bà vừa ôm cái xác con nhỏ, vỗ về như thể nó còn sống mà nói trong nghẹn ngào:

- Con đừng khóc nữa... con về nhà rồi ...

Mấy người dòng họ Ngô cũng vội vã theo sau, người mẹ của đứa nhóc thì đã ngất lịm đi, còn người cha thì như người vô hồn.

Cả dòng họ Ngô như chết lặng đi trong đau đớn khi mà chưa đến lúc cúng 100 ngày ông Tú thì lại có thêm một thành viên nữa ra đi.

Một số con cháu trong dòng họ Ngô sau khi thấy cái cảnh tượng con Hiền này chết đuối mà xác không hề co quắp cứ mềm nhũn ra thì họ bắt đầu cảm thấy lạnh gáy mà thu dọn đồ đạc về lại trên thành phố.

Bố mẹ của con nhóc mang được xác đứa con về thì cũng đau lòng lắm, hai người họ đã khóc khô cả nước mắt cho đứa con sấu số này.

Nhiều người trong họ bắt đầu linh tính có chuyện gì đó không hay, họ nghi rằng còn có điều gì đó nghi vấn và uẩn khúc sau cái chết của ông Tú và và con Hiền.

Một số người bắt đầu bàn tán và nghi ngờ rằng chính bà Thoa đã bỏ bùa và hãm hại cả cái dòng họ này vì bà Thoa là người ngoại tộc duy nhất.

Thế nhưng có một số người lại bênh vực cho bà Thoa vì họ biết bà Thoa đã sống với gia đình nhà ông Tú hơn chục năm, trái lại ông Tú và bà Hà đối sử rất tốt với bà Thoa nên không thể nào có chuyện bà Thoa hãm hại cả dòng họ được.

Thế nhưng mọi chuyện có lẽ là phải đợi sau khi cúng 100 ngày của ông Tú xong.

Bên cạnh đó, còn có một tin vui khác là đứa cháu mà ông Tú quý mến nhất, con Hoa đã hạ sinh ra được một đứa bé gái kháu khỉnh.

Hai vợ chồng nhà Hoa rất vui mừng ôm lấy nó vào lòng và hy vọng đứa nhóc này sẽ không chết yểu như đứa con gái đầu tiên của họ.

Tuy nhiên, đứa bé gái này khi mới đẻ ra cũng không hề khóc lóc một tí nào, họa chăng đó cũng chính là cái điềm dữ báo cho hai vợ chồng Hoa biết rằng đứa con gái này sẽ y như đứa con gái đầu của họ.

Cuối cùng cúng 100 ngày ông Tú cũng đã tới, thế nhưng mà con cháu của ông ta cũng đã bỏ đi một ít, chính vì cái lí do đó mà cúng 100 ngày ông Tũ không còn được đông đủ nữa.

Mọi người cố ăn cho xong, sau khi cơm nước xong xuôi, mấy người đàn bà trong họ nhanh nhanh dọn dẹp đồ xuống bếp, còn lại mấy người con trai bắt đầu họp lại và tìm ra nguyên nhân của mọi việc.

Lúc này mấy người đàn bà họ Ngô ngồi dưới bếp sau khi rửa bát đũa xong cũng bắt đầu bàn tán.

Đứa cháu gái hôm nọ đỡ bà Thoa từ ngoài ruộng vào mới quay ra nhìn bà ta và hỏi:

- Bà ơi, bà có biết chuyện gì đang xảy ra không ạ?

Bà Thoa nhìn đứa cháu, vẻ mặt buồn rầu, bà chỉ khẽ lắc đầu.

Đứa cháu gài này lại cất lời:

- Bà nói cho cháu nghe đi, cháu tin là bà biết có chuyện gì đang xảy ra mà...

Bà Thoa chỉ khẽ thở dài, đứa cháu gái này nắm chặt lấy tay bà Thoa, thế rồi bà nhìn nó mà hỏi:

- Cháu lớn lên từ bé ở đây, cháu thấy ông Tú là người như thế nào?

Đứa cháu gái trả lời:

- Cháu thấy ông Tú là người tốt bà ạ, cả bà Hà cũng vậy.

Tuy có điều là ông Tú còn hơi cổ hủ và cố chấp về việc dòng họ Hoàng mà thôi.

Bà Thoa gượng gạo cười, thế rồi bà ta nói:

- Cháu nói không sai, thế nhưng nếu bà nói rằng ông Tú trước đây đã gây tội nặng thì cháu có tin không?

Đứa cháu gái này nghe thấy bà Thoa nói thế thì chố mắt ra nhìn, nó tỏ thái độ không tin những gì bà Thoa nói.

Thấy vậy, bà Thoa nháy mắt đưa con Huệ ra ngoài và bắt đầu kể cho nó nghe đầu đuôi câu chuyện.

Huệ sau nghi nghe chuyện thì cũng chỉ còn biết im lặng, dường như bây giờ sau khi biết được rõ nguyên nhân thì Huệ sợ hơn là buồn.

Bà Thoa nắm chặt tay nó mà nói:

- Cháu phải hứa với bà rằng, không được kể chuyện này cho ai, cháu hiểu chứ?

Huệ nhìn bà Thoa, cô ta nhìn vào cái ánh mắt van xin đó, thế rồi Huệ cúi đầu khẽ đáp:

- Dạ vâng ạ.

Mấy người con trai trong họ sau một hồi ngồi họp bàn, cuối cùng họ quyết định rằng sẽ chung tiền lại và đi kiếm một người lên đồng về để gọi hồn của ông Tú và con nhỏ Hiền để hỏi cho ra lẽ.

Tối đêm hôm đó, người con trải cả vào phòng của ông Tú ngủ một mình, trong phòng của ông Tú là bừa bộn những quận vải đủ mầu đẹp được sắp xếp đầy phòng.

Chả là lúc ông Tú còn sống, ông ta thường đích thân mình kiểm tra những mẫu vải mới, thêm vào đó, với những quận vải chất lượng cao, mầu nhuộm đẹp, ông thường để lại một số ít để khi nào có dịp sẽ mang đi tặng những người thân thiết, hay như những người ông cần nhờ vả.

Người con trái đứng giữa phòng nhìn những quận vải xếp thành trồng trong nhà, thật là đẹp quá, chỉ tiếc là cậu ta đã không nối nghiệp ông mà đi theo con đường sây dựng kiến trúc.

Người con trai cả này đứng nhìn một lúc thì cậu ta để ý tới một quận vải mầu trắng để trên cùng, quận vải này có vẻ cũ kĩ lắm rồi.

Như có một cơn gió lạnh thổi qua, người con trai này bỗng cảm thấy da gà nổi lên đến rợn người, bây giờ thì cậu mới để ý là cái mầu trắng của quận vải này mang lại một cái cảm giác gì đó rờn rờn lắm.

Nghĩ đến đây, người con trái tiến tới với cái quận vải này xuống, quẩn vải phủ đầy bụi.

Người con trai mở hẳn quận vải ra thì thấy rằng vải đã được cắt đi khá là nhiều.

Người con trai như kinh hãi hơn nữa khi mà cậu nhận ra là tại sao chất liệu vải này lại khác hẳn với chất liệu vải mà nhà cậu hay làm.

Để chắc chắn hơn nữa, người con trai cả sờ tay qua những quận vải khác thì quả nhiên là nó khác hoàn toàn so với những quận vải còn lại.

Nghĩ rằng có thể đây là quận vải của mấy gia đình khác làm để cạnh tranh nên cha mình mang về thử nên người con trai này tiện tay vứt luôn vào cái sọt rác bên bàn làm việc của ông Tú.

Sau đó cậu ta tắt đèn và trèo lên giường ngủ ngon lành.

Đến độ mười hai giờ đêm, khi mọi người còn đang ngủ ngon lành.

Bỗng hai con chó của ông Tú nằm ngoài sân bỗng dựng tai lên như thể nghe ngóng một cái gì đó.

Bất chợt cả hai con cùng ngửng đầu lên nhìn ra ngoài cửa vào sân.

Thế rồi chúng đồng thanh ngồi xuống hai chi sau, lưng thẳng đứng, đầu nghếch lên và tru lên những tiếng tru ghê rợn mà không kém phần ai oán.

Cũng kì lạ thay là tại sao hai con chó nhà ông Tú tru rống lên như thế mà không có một ai nghe thấy gì.

Người con trai cả nằm trên giường của ông ta vẫn ngủ ngon lành, một cơn gió lạnh thổi luồn qua khe cửa sổ khẽ đẩy cái cửa ra vào buồng tạo nên một tiếng "ken két" dài như rít lên trong đêm.

Người con trai như tỉnh ngủ, cậu ta kéo cái trăn lên cao hơn và trở mình quay mặt vào tường.

Đám mây trên trời như bị gió thổi mạnh bay đi làm lộ ra mặt trăng soi sáng khắp cả khuôn viên nhà của ông Tú.

Dưới cái ánh trăng lạnh lẽo đó là một con nhóc với bộ áo dài trắng, mái tóc đen mượt đang đứng lấp ló đầu ở ngoài nhìn người con trai cả qua khe cửa sổ.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - IV Lên Đồng


Bên ngoài từng con gió lạnh khẽ thổi len qua khe cửa sổ gỗ tạo nên những tiếng "hu hú" bé bé mà vô cùng rợn người.

Người con trai cả có lẽ lúc này đã ngủ say tít nên không thể nào biết được có chuyện gì đang thực sự xảy ra với cậu ta.

Không biết từ lúc nào, bên ngoài khung cửa sổ gỗ đã thấp thoáng hình bóng một con nhóc mặc bộ áo dài trắng với mái tóc đen mượt cứ đứng ở đó mà nhìn người con trai cả qua khe cửa.

Con nhóc đó cứ đứng nhìn người con trai cả này lặng im.

Bất chợt ngay lúc này đây, cái cánh cửa phòng của ông Tú lại khẽ rung lên nhè nhẹ và phát ra những tiếng "ket két" luồn lách vào trong màn đêm yên tĩnh.

Bóng một người phụ nữ tầm ngoài hai mươi hiện ra đứng lặng lẽ nhìn người con trai cả trên giường.

Người phụ nữ trên mình mặc một bộ áo dài trắng long lanh với mái tóc dài đen mượt phủ xuống bên vai.

Người phụ nữ này không bước mà từ từ lướt tới bên cạnh giường của người con trai cả.

Không khí trong căn phòng bỗng trở nên nặng nề và lạnh lẽo hẳn lên.

Bất ngờ người con trai cả hắt xì hơi một cái, bóng hai người kia lập tức biến mất.

Người con trai cả lấy tay quệt mũi thế rồi ông ta xoay người ngóc đầu lên nhìn ra cửa như một thói quen, không có một ai cả.

Thế rồi ông ta lại nhìn ra cửa sổ, không biết hai cái cánh cửa gỗ đã bị gió thổi mở bung ra từ lúc nào, người con trai cả nhìn ra cái mảnh vườn bẻn hông nhà trống trải yên tính dưới ánh trắng vằng vặc.

Như cảm thấy rờn rợn, người con trai cả ngồi dậy kéo hai cánh cửa gỗ đóng lại.

Ngay lúc này, vang vọng bên tai ông ta thoang thoảng có tiếng cười rúc rích của một đứa con nít có vẻ như là từ bên ngoài vườn vọng lại.

Người con trai cả hai tay nắm chặt trên song sắt cửa sổ, ông ta đưa mắt dí sát vào khe cửa như thể liếc coi coi cái tiếng cười rúc rích đó phát ra từ đâu.

Đang liếc ngang liếc dọc, bất ngờ khuôn một đứa bé gái trắng bệch hiện ra ngay bên ngoài khung cửa sổ khiến cho người con trai cả rợn gáy giật thót tim mà ngã ngửa người ra đằng sau.

Thế rồi bất chợt cánh cửa phòng lúc nãy còn đang hé mở bất ngờ đóng cái "rầm" như thể có ai kéo cái cửa từ bên ngoài vậy.

Người con trai cả hốt goảng, nhịp tim đập loạn xạ, ông ta từ từ đứng lên giữa phòng vẻ mặt tái mét mà nhìn quanh.

Lúc này một loạt những tiếng cười ghê rợn bắt đầu phát ra từ tứ phía khiến cho người con trai phải bịt tai mà quỳ khựu xuống đất.

Người con trai cả liếc nhìn lên bức tượng phật di lặc nhỏ bằng đồng để trên bàn làm việc của ông Tú thì còn muôn phần kinh hãi hơn nữa khi thấy bức tượng đó đang rạn nứt dần dần.

Người con trai cả này như nhận biết được chuyện gì đang xảy ra, ông ta vội chắp tay lại miệng lắp bắp cầu khấn thần phật.

Cầu khấn được một lúc thì bốn bề lại im lẳng trở lại, người con trai cả mồ hôi mồ kê đầm đìa từ từ run rẩy đứng dậy.

Nhưng ông ta đâu thể nào ngờ được rằng người đán bà lúc nãy đứng ở cửa bây giờ đang đứng ngay sau lưng ông ta.

Người con trai cả từ từ tiến lại về phía cửa buồng, ngay khi ông ta đưa tay lên như để cố mở cửa thì từ đằng sau người đàn bà kia đã vòng tay bóp cổ ông ta khiến cho ông ta không kịp kêu lên.

Bà Thoa đang nằm ngủ say dưới bếp bất chợt bà ta tỉnh giấc, trong người bà ta cảm thấy rạo rực và khó chịu vô cùng.

Bà Thoa ngồi dậy trên giường nghĩ ngợi không biết là có chuyện gì đang xảy ra với mình.

Chợt bà Thoa như cảm nhận được một cơn gió lạnh nhè nhẹ ở đâu thổi về khiến bà ta phải khẽ rùng mình.

Bà Thoa ngồi đó nhìn quanh như thể cố cảm nhận coi gió thổi từ hướng nào tới, còn đang nhìn ngang ngó dọc, bên tai bà lúc này bỗng văng vẳng tiếng ai đang trật vật như thể vật lộn vậy.

Nghĩ rằng có chuyện chẳng lành, bà Thoa đứng dậy rời khỏi giường và lần theo cái hướng gió lành lạnh và tiếng người trật vật đó.

Bà Thoa từ từ tiến lại phía buồng của ông Tú, lúc này có lẽ là bà ta thực sự dựng tóc gáy khi mà đứng trước cửa buồng ông Tú mà bà Thoa có cảm giác như đang đứng trước một căn phòng nước đá vậy.

Bà Thoa đưa tay thử mở cửa thì cánh cửa lạnh toát này đã đóng chặt không hề nhúc nhích.

Bà Thoa thấy cửa không mở được bèn tiến lại gần và áp tai vào cửa để nghe ngóng coi bên trong có chuyện gì đang xảy ra.

Ngay khi bà Thoa ghé tai vào cái cánh cửa lạnh buốt đó thì bà ta nghe thấy tiếng rên rỉ khe khẽ của người con trai cả "cứu ... cứu tôi ...".

Bà Thoa giật thót mình lùi lại thì cũng là lúc một tiếng "rầm" trong phòng vang lên, cứ thể như có vật gì đổ gục xuống nền nhà vậy.

Bà Thoa lấy tay che miệng, hai hàng nước mắt rơm rớm, không lẽ bà ta đã biết được có chuyện gì xảy ra?

Ngay tức thì bà Thoa tiến tới lấy tay đập mạnh vào cửa phòng ông Tú mà hét lớn:

- Ai ở trong đó!

Mau mau mở cửa ra ...

Chính nhờ cái tiếng đập cửa rầm rầm đó mà mấy người trong nhà đã nghe thấy, chẳng bao lâu sau họ đã bu đầy trước phòng ông Tú.

Mấy người con trai trong họ thì ra sức đập cửa, người thì gọi tên người con trai cả như thể bắt ông ta ra mở cửa.

Một số người khác thì nhìn bà Thoa chằm chằm và gặng hỏi có chuyện gì, bà Thoa không nói một lời nào chỉ ngồi ở góc tường mà khóc.

Thấy không thể nào mở được cửa và người con trai cả không trả lời, nghi là có chuyện gì đó không hay xảy ra, cuối cùng người nhà họ Ngô đã phải phá cửa vào.

Cánh cửa phòng ông Tú bị phá mở tung ra, họ không nhìn thấy người con trai cả đâu cả, chỉ có một vật gì to lớn lắm được gói bằng cuộn vải trắng cũ kì nằm trên mặt đất.

Mọi người vội bước vào nhìn quanh thì họ cảm thấy căn phòng này lạnh lẽo vô cùng, cứ như thể là không độ c vậy.

Bà Thoa đang ngồi ở ngoài khẽ nhìn vào trong thấy cái bọc bị quấn vải trắng thì bà bỗng chống hai tay xuống đất mà gào khóc lên thảm thiết.

Người nhà họ Ngô đi tìm kiếm quanh một hồi thì không thấy người con trai cả đâu, thế nhưng khi họ nhìn vào cái vật bị bọc bởi vải trắng có hình hài như một con người thì ai nấy cũng rùng mình.

Một số người vội tiến tới cố tìm cách tháo lớp vải ra, thế nhưng lớp vải này không có đầu thừa, cứ như thể nó được may lại vậy.

Một người con gái vội nhanh tay với cái kéo đưa cho một người con trai, người con trai này cầm kéo cố chọc thủng và xé lớp vải ở cái đầu bé ra.

Kéo vừa chọc vào lớp vải thì một mùi hôi thối nồng nặc bốc ra, khi người này xé được một mảnh vải ra thì cậu ta bật ngửa người hét lớn kinh hãi, đằng sau vết xé để lộ ra khuôn mặt của người con trai cả với con mắt trợn trừng, một mùi hôi thối bốc ra.

Bây giờ thì người nhà họ Ngô khinh hãi khi phát hiện ra đây chính là xác của người con trai cả.

Lấp tức vợ và con của người con trai cả nhào tới ôm lấy xác ông ta mà gào khóc, những người khác lúc này mới hướng mắt nhìn về phía bà Thoa, một ánh mắt đầy nghi ngờ và có phần căm hận.

Thấy rằng trong có mấy tháng mà liên tiếp nhiều chuyện kì cục xảy ra với dòng họ, và việc này nếu để lộ ra ngoài sẽ gây thêm nhiều tai tiếng hơn nữa.

Người trong họ đã quyết định mang xác của người con trai cả ra sau vườn và trôn cất tạm, đợi tìm hiểu ra rõ nguyên nhân sẽ làm một đám tang tử tế sau.

Ngoài ra, người nhà họ Ngô dường như linh cảm được một điều rằng mọi chuyện kì quái xảy ra đều có liên quan tới bà Thoa, họ đinh ninh rằng bà Thoa biết rõ chuyện gì nhưng không chịu nói.

Thấy vậy, người nhà họ Ngô đã đồng ý tạm nhốt bà Thoa vào một căn buồng nhỏ và khóa lại, đợi tìm hiểu rõ đầu đuôi ngọn ngành sự việc thì sẽ thả bà Thoa ra.

Tuy nhiên, bà Thoa sẽ được thả ra nếu bà nói cho họ nghe đầu đuôi mọi việc, thễ nhưng bà Thoa vẫn nhất quyết không nói, bà chỉ rưng rưng nước mắt mà lặng lẽ đi về căn buồng mà bà sẽ bị giam giữ ở đó.

Cọn nhỏ Huệ cũng có mặt, nó là người thứ hai biết rõ có chuyện gì, lúc con nhỏ Huệ định nói ra để người nhà không nghi oan cho bà Thoa thì bà Thoa đã khẽ nhìn nó lắc đầu, bây giờ con nhỏ Huệ chẳng biết làm gì khác ngoài việc buôn bã nhìn theo bà Thoa đi về căn phòng tạm giam.

Sau khi mọi việc đã đâu vào đó, một số người trong họ đã chạy đi mời một bà thầy chuyên lên đồng về, số còn lại thì ngồi đợi ở gian nhà chính trong sợ hãi và lo lắng.

Họ ngồi đây bàn bạc về cái chết kì quặc của người con trai cả.

Lúc đầu, có một số người trong họ nghi ngờ rằng bà Thoa chính là người đã sát hãi người con trai cả này, vì bà ta là người có mặt đầu tiên tại hiện trường.

Thế nhưng mà cái ý kiến đó đã bị bác bỏ khi mà nhìn qua xác của người con trai cả thì họ thấy rằng không thể nào một người yếu đuối như bà Thoa có thể giết người con trai cả được.

Lý do đầu tiên là vì không hề có một vết tích nào khác trên thi thể người con trai cả cho thấy ông ta bị đâm hay chém, cứ cho là chết do tắc thở thì không thể nào một mình bà Thoa làm được cả.

Chưa kể đến việc người con trai cả không thể chết do ngộ độc vì không hề có vết tích nào trên thi thể chứng minh điều đó cả.

Lý do thứ hai, người con trai cả này trước khi chết rất khỏe mạnh nên không dễ gì mà giết được ông ta cả.

Lý do thứ ba là chi tiết cánh cửa buồng bị khóa chặt và lớp vải trắng bọc kín lấy xác người con trai cả, điều này càng loại bỏ việc bà Thoa là hung thủ.

Lý do cuối cùng khiến cho mọi người phải rùng mình là thi thể của người con trai cả tuy mới chết nhưng mùi hôi thối và da thịt cứ như thể là cậu ta đã chết được mấy ngày rồi, thi thể không những bị bốc mùi, mà nó còn trương phềnh lên như thể bị chết đuối vậy, y như là thi thể của con bé Hiền.

Chính vì cái lý do cuối cùng đó mà người nhà họ Ngô tin rằng có một chuyện gì đó rất khung khiếp đang xảy ra tại ngôi nhà này, vì không một người bình thường nào có thể gây ra những chuyện kì quái và ghê rợn như thế này cả.

Ngồi chán chê mê mỏi mãi đến gần trưa thì mấy người đi gọi bà thầy lên đồng mới trở về.

Người nhà họ Ngô thấy mấy người này mồ hôi mồ kê nhễ nhại, dáng vẻ mệt nhọc thì vội rót miếng nước cho họ và hỏi tại sao đi về muộn thế thì một người đi mời bà thầy về mới nói rằng hễ cứ đến nhà bà thầy nào thì người đó đều đuổi về và hô rằng không lên đồng giúp cho người sắp chết.

Lúc đầu mấy người này nghe không hiểu, thế nhưng khi hỏi kĩ ra thì mấy bà thấy đều nói rằng họ thấy tử khí của mấy người nhà họ Ngô này quá lớn, e rằng sẽ không sống lâu được nữa.

Chính vì thế mà họ sợ vạ lây nên không chịu giúp.

Nghe đến đây, mấy người nhà họ Ngô mới dựng tóc gáy mà sợ hãi, thế nhưng mấy người đi mời thầy về nói rằng còn một bà thầy nữa ở cuối làng, thằng con thứ tư đã chạy đi mời rồi.

Người nhà họ Ngô nghe vậy thì cũng chỉ còn biết thở dài và chờ đợi.

Tầm một tiếng sau, người con trai thứ tư đã về, cậu ta nói rằng bà thầy này đã chấp nhận và nói rằng tối nay sẽ qua để giúp gia đình.

Mọi người trong nhà nghe thấy vậy thì mừng rỡ lắm, con Huệ nghe tin bèn chạy về phía phòng bà Thoa bị tạm giam và kể cho bà Thoa nghe.

Bà Thoa nghe con nhỏ Huệ kể thì cũng chỉ biết thờ dài lắc đầu mà nói:

- Sẽ không gọi được hồn cụ ông lên được đâu... tất cả chỉ là vô dụng mà thôi ...

Tầm tám giờ tối hôm đó, bà thầy cùng mấy người phụ giúp nữa đã đến nhà của ông Tú.

Bà thầy này khi vừa bước vào cửa đã khẽ rùng mình, một cái cảm giác lạnh buốt đến rợn người bao trùm lấy toàn bộ cơ thể của bà ta.

Sau khi đã dặn dò người nhà những việc cần làm, bà thầy này nhìn mặt tất cả người nhà họ Ngô, thế rồi bà chọn ra một số người có thể ngồi lại tại gian chính, số còn lại thì bà ta đuổi hết ra ngoài.

Những người được chọn lại ngồi ngay ngắn trước bàn thờ tổ, những người còn lại thì đi ra ngoài và đóng cửa lại.

Bà thầy đợi khi cánh cửa đã đóng lại, bà ngồi xuống quay lưng về phía bàn thờ, bà ta nhìn người nhà họ Ngô mà nói:

- Trước khi tôi lên đồng để vong ông Tú nhập vào người tôi, tôi muốn nói trước với các người rằng vận mệnh nhà các người đang nguy kịch lắm đó.

Mọi người nhà họ Ngô nghe thấy vậy thì hoang mang vô cùng, người con trai thứ của ông Tú lúc này mới hỏi:

- Dạ , cho con hỏi ý cô nói thế là sao ạ?

Bà Thầy nhìn ông ta nói:

- Oán khi ở căn nhà này rất nặng... ta e rằng ngay đến cả gọi hồn cụ ông lên cũng khó mà được.

Người nhà họ Ngô nghe thấy vậy thì cũng chỉ biết cui mặt buồn bã.

Bà thầy này bảo người nhà ngồi ngay ngắn xếp chân vòng tròn lại, đâu vào đó bà ta cầm tấm vải đỏ tự phủ lên đầu mình.

Mấy người đi theo giúp việc lúc này bắt đầu gõ chiêng rồi gõ chống và hát lên inh ỏi.

Mọi con mắt của người nhà họ Ngô lúc này dồn tập chung vào bà thầy đang ngồi đó xếp chân vòng tròn, trên tay cầm ba nén nhang, đầu đội khăn vải ngồi thẳng lưng.

Tiếng chiêng trống, tiếng ca hát cứ vang lên inh ỏi gần hai mươi phút mà không có chuyện gì xảy ra.

Bất ngờ bà thầy này lấy tay kéo tấm vải đỏ xuống khỏi đầu, thấy vậy thì mấy người kia mới ngừng ca hát.

Bà thầy thơ hắt ra nói giọng buồn bã:

- Ta rất xin lỗi ... nhưng ta không thể nào gọi được hồn của cụ ông về cả...

Người trong nhà nghe thấy vậy thì ngỡ ngàng lắm, một người trong họ nhà Ngô lên tiếng:

- Sao cô lại nói vậy ạ?

Bà thầy nhìn người này nói giọng nghiêm nghị:

- Vong hồn của cụ ông đang bị vong quỷ giam giữ, chúng nhất quyết không để cho ta gọi hồn cụ ông về...

Người nhà họ Ngô nghe đến hai chữ "vong quỷ" thì dựng hết cả tóc gáy.

Thấy vậy hai vợ chồng người con thứ hai mới nói:

- Vậy phiền cô có thể gọi hồn đứa con gái nhỏ của chúng con lên được không?

Bà thầy nghe thấy vậy thì nhắm mắt miệng lẩm bẩm một thứ gì đó, thế rồi hai tay bà cầm ba nén nhang múa lên những vòng quanh người mình tạo nên những tròm khói vòng tròn bay.

Được gần một phút, bà thầy lại hạ hai tay xuống trước người mà nói:

- Vong con nhỏ đó vẫn ở ngoài hồ, không thể về đây để nhập vào tôi được.

Mọi người càng nghe thấy bà thầy này nói thì họ càng muôn phần sợ hãi hơn.

Con chưa kịp hỏi gì thêm thì bà thầy đã lên tiếng:

- Nhà này có một người mới chết, lại được trôn ngay sau vườn. các người có muốn gọi vong người đó lên không?

Người nhà họ ngô nghe thấy vậy thì rùng mình sợ hãi, quả là bà thầy này cao tay thật.

Người nhà họ Ngô nghĩ ngợi một lúc bèn gật đầu đồng ý.

Lập tức bà thầy ra hiệu cho mấy người giúp nổi chiêng chống và hát lên còn bà ta thì lấy tấm vải đỏ chùm lại lên đâu.

Chỉ sau chưa có đầy năm phút, toàn thân bà thầy rung lên bần bật, mấy người giúp việc thấy vậy thì đồng thanh dừng ca hát và gõ chống chiêng, người nhà họ Ngô thì chố mắt ra mà nhìn.

Toàn thân bà thầy cứ rung lên như thể bị co giật, thế rồi bất ngờ bà ta ngã ngửa ra đằng sau.

Người nhà họ Ngô hoảng hốt định đứng lên đỡ bà ta thì bà ta đã bật dậy ngồi ngay ngắn trở lại.

Từ sau lớp vải đó là tiếng người con trai cả:

- Tại sao ... tại sao mọi người ... mọi người không ai cứu tôi ...

Vợ và con của người con trai cả nghe thấy đúng là giọng của ông ta mới vội ôm lấy mặt mà khóc nức nở, lúc này người nhà họ Ngô mới nháo nhào vào hỏi có chuyện gì xảy ra với ông ta.

Vong người con trai cả lúc này mới nói rằng dòng họ Ngô mắc nợ hai con vong quỷ, nên bây giờ chũng đang tìm cách giết từng người một.

Ông Tú là người đầu tiên, sau đó đến con nhỏ Hiền, và rồi ông ta.

Người nhà họ Ngô hỏi rằng thế người tiếp theo là ai thì vong người con trai cả nói rằng không biết.

Thế rồi họ hỏi vong người con trai cả có biết hai con vong quỷ đó là ai không thì vong người con trai cả chỉ còn biết lắc đầu.

Đang định hỏi thêm thì bất chợt vong người con trai cả ho lên mấy tiếng sặc sụa, thế rồi ông ta đưa hai tay lên cào cấu cổ như thể bị cái gì đó mắc vào cổ.

Vong người con trai cả ngã vật ra đất, giọng rên rỉ:

- Bà Thoa ... bà thoa ...

Mọi người nghe thấy vong người con trai cả nhắc tên bà Thoa thì nháo nhào lại và hỏi.

Chỉ nghe thấy người con trai cả nói:

- Bà ta ... chỉ có bà ta...

Nói đến đây thì toàn thân bà thầy lại giật lên đùng đùng khiến cho người nhà họ Ngô khiếp đảm.

Chỉ một lúc sau bà thầy đã ngồi thẳng người và lấy cái khăn đỏ chùm đầu ra.

Bà Thầy nói:

- Vong người con trai cả đã thăng rồi...

Người nhà họ Ngô nghe thấy thì ngậm ngùi tiếc nuối, chỉ có hai mẹ con nhà ông cả là vẫn ôm nhau khóc lóc sướt mướt.

Bà thầy sau khi làm xong lễ thì cũng với đám người giúp việc thu dọn đồ lấy tiền và cuống cuồng đi khỏi căn nhà này như thể có một cái gì đó lạ lắm.

Người con trai thứ hai thấy vậy bèn kéo bà ta lại mà nói:

- Cô ơi ... liệu cô có thể giúp chúng con tìm ra được chân tướng của hai con vong quỷ kia không?

Bà thầy chỉ quay mặt lại và nói:

- Nếu các người muốn biết rõ chuyện, hay tìm đến nhà lão thầy bói mù ở cạnh gốc đa gần chợ lớn ý, lão ta sẽ giúp được các người.

Nói rồi bà thầy giứt áo ra đi vội vã với đám người giúp việc mà không thèm nói lời từ biệt.

Người nhà họ Ngô chỉ biết đứng đó và nhìn theo, trong đầu họ tự nghĩ thầm rằng không hiểu thầy bói thì giúp gì được họ trong chuyện này cơ chứ?
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - V Ma Xó


Theo như lời bà thầy kia nói, thì người nhà họ Ngô sẽ phải đi tìm đến ông thầy bói mù ở gần gốc đa nơi chợ lớn.

Ngoài ra, sau những lời nói của vong linh người con trai cả, người nhà họ Ngô bây giờ thì còn bán tin bán ngờ bà Thoa hơn cả.

Chính ví vong linh người con trai cả chưa nói hết câu mà đã thăng và dựa vào những gì mà bà Thoa đã làm, họ nữa tin rằng bà Thoa có thể là người duy nhất có thể giúp dòng họ Ngô thoát khỏi cái tai ương hay như những chuyện kì quặc đang diễn ra, nhưng họ lại bán ngờ rằng có thể bà Thoa là người trực tiếp gây ra mọi chuyện vì không ai khác ngoài bà ta biết được đang có chuyện gì thực sự xảy ra mà thôi.

Nhưng nói cho cùng thì người họ Ngô cũng đã thả bà Thoa ra và để cho bà ta cùng mọi người tìm hiểu xem có chuyện gì đang thực sự xảy ra với dòng họ này.

Sáng sớm hôm đó, người nhà họ Ngô có cử hai người đàn bà và bà Thoa ra chợ lớn để đi kiếm người thầy bói mù bên cạnh gốc đa, sở dĩ lần này người trong họ quyết định cho bà Thoa đi cùng vì họ tin rằng bà Thoa chắc cũng có biết chút ít về tâm linh nên biết đâu bà có thể giúp được một phần nào đó.

Cái chợ lớn này cũng khá xa, gần như là nằm ngoài phạm vi làng Vọng Nguyệt vì chợ này rất lớn và gần như loại mặt hàng gì ở đây cũng có.

Ba người nhà họ Ngô phải thuê hẳn một chiếc xe đò để đi lên tới chợ lớn.

Khi đã tới nơi, họ nói người lái xe đò đợi họ một lúc, thế rồi ba người bắt đầu đi về phía gốc cây đa.

Thế nhưng mà nhìn nghiêng ngó dọc một hồi mà cả ba người không một ai nhìn thấy một ông thầy bói mù nào cả.

Bà Thoa là người tinh ý nhất, bà để ý thấy ngay kế bên gốc đa có một cái tròi lá để không cùng với một tấm vải có in hình bát quái to đùng.

Tuy nhiên cái tròi này chống trơn không có một ông thầy bói hay như bất kể một thứ đồ đạc gì khác ngoài tấm vải đó ra cả.

Nghi chắc chắn có điều gì đó uẩn khúc, bà Thoa tiến tới phía hàng nước ngay gần đó và hỏi:

- Cô cho tôi hỏi thăm, có phải có một ông thầy bói mù chuyên hành nghề ngay kế cái gốc đa kia không?

Cô bán hàng nước này nghe bà Thoa nhắc đến ông thầy bói thì mừng rỡ hớn hở nói:

- Đúng rồi cụ Lộc mù có coi boi ở đây, bà đến để đưa lễ cám ơn cụ hả?

Bà Thoa nhìn cô hàng nước ngơ ngác hỏi:

- Ý cô là sao?

Cô bán hàng nước rót ra ba ly trà mời bà Thoa và hai người nhà họ Ngô và nói:

- Bà cứ hỏi cả cái chợ này ai mà không biết tiếng cụ Lộc chứ, cụ tốt lắm, nên khắp cả cái chợ này ai ai cũng quý mến cụ hết à.

Mà con tưởng bà đến để cám ơn cụ Lộc chứ?

Bà Thoa với hai người này kéo cái ghế gỗ dài ra ngồi xuống làm ngụm trà, thế rồi bà Thoa hỏi:

- À không, chẳng là chúng tôi được người chỉ tìm đến cụ Lộc nhờ có chút việc ý mà.

Cô bán hàng nước hớn hở đáp:

- Vậy là bà tìm đến đúng người rồi đó, cụ Lộc tài giỏi lắm, cái gì cụ cũng biết, từ coi bói, reo quẻ, trấn nhà, yểm bùa... cái gì cũng cũng biết hết à.

Bà Thoa nghe thấy cô bán hàng nước này nói vậy thì thấy lạ lẫm rắm, thế rồi bà ta hỏi:

- Tôi tưởng cụ Lộc bị mù cơ mà?

Vậy làm sao cụ có thể trấn nhà với cả yểm bùa được cơ chứ?

Cô hàng nước lúc này mới nói:

- Ấy chết, bà đừng nói thế.

Tuy là cụ Lộc bị mù thật, nhưng nghe đâu cụ Lộc luyện được thuật gọi là con mắt âm dương, có thể nhìn thấy cõi âm và cõi dương, còn tốt hơn là cả đôi mắt bình thường à.

Hai người nhà họ Ngô nghe thấy vậy thì tức cười lắm, nhưng họ chỉ dám cúi mặt mà cố nhịn không cười lớn.

Bà Thoa ngồi chăm chú lắng nghe, thế rồi bà hỏi:

- Vậy hôm nay cụ Lộc không ra đây coi bói hả cô?

Cô hàng nước nghe bà Thoa nói vậy thì xua tay nói:

- ấy ... không, thế bà không biết là cụ Lộc chỉ bắt đầu coi bói từ lúc năm giờ chiều thôi hay sao?

Nghe đến đây thì hai người nhà họ Ngô uống nước trà tí thì sặc, bà Thoa thì ngơ ngác hỏi:

- Cô nói cái gì cơ?

Coi bói mà tận năm giờ chiều mới ra coi?

Không lẽ cụ Lộc coi bói cho ma à?

Bà Thoa vừa nói dứt câu, thì một loạt người ngồi xung quanh đều quay ra nhìn bà với ánh mắt gườm gườm.

Hai người nhà họ Ngô thấy vậy thì cũng co rúm người lại, cô bán hàng nước thấy vậy bèn lắc đầu nhìn bà Thoa như thể ra hiệu đừng nói linh tinh nữa.

Đợi cho những con mắt gườm gườm nhìn bà Thoa đã giảm bớt đi, cô hàng nước mới nói nhỏ:

- Bà ơi, bà đừng nói linh tinh, ở đây ai cũng quý trọng cụ Lộc lắm đó.

Con nói cho bà nghe thế này nhé, sở dĩ cụ Lộc coi buổi tối là vì chợ đêm rất đông... thêm vào đó con nghe đâu cụ Lộc không xài âm binh để coi bói mà là ma xó đó bà ạ.

Nghe đến đây thì cả ba người nhà họ Ngô nhìn cô hàng nước trừng trừng ớn lạnh nuốt nước bọt, bà Thoa nói:

- Ý cô là không dùng âm binh, mà là dùng ma xó để bói á?

Cô hàng nước lúc này mới đứng lên ngồi cạnh ba người này mà nói nhỏ:

- Đây nhé, để con kể cho bà và mấy bác nghe.

Nghe vậy, cả ba người liền chung đầu hết về phía cô bán hàng nước để nghe cô ta kể về ông thầy bói mù được mọi người kính trọng có tên là Lộc này.

Nghe kể đâu cụ Lộc này mới tới chợ này hành nghề coi bói được có mấy năm nay thôi.

Trước đây cụ Lộc vốn làm nghề tu hành, thế nhưng trước cảnh cuộc đời ngang trái và đầy nghiệt ngã này, cụ đã không thể kìm lòng được.

Nghe đâu cụ từng đi tu hành, thường xuyên giúp người không công và làm nhiều việc thiện, thế nhưng vì nhận ra rằng những việc công đức mình đang làm là không thể nào bù đắp lại được với những oan nghiệt trái ngang đang xảy ra.

Quá thất vọng với cuộc đời ở trần thế này, cụ Lộc đã quyết tâm từ rã cõi đời này.

Cụ đã một mình đi lên một ngọn núi cao, sau đó cụ Lộc tự tay móc mắt mình ra trước như thể không muốn phải nhìn thấy cái cảnh đời oan nghiệt trước khi chết, sau đó mới cứa cổ tự tử.

Thế nhưng ngay khi cụ Lộc tự tay móc hai con mắt mình ra, do quá đau đớn và mất nhiều máu nên cụ đã ngất lịm đi.

Cụ Lộc đã tỉnh dậy lúc đầu cứ ngỡ là mình đã chết và xuống đến Âm Tào Địa Phủ, thế nhưng cái cảm giác đau đơn ở hai hốc mắt đã khiến cụ nhận ra rằng mình vẫn còn sống.

Cụ Lộc Ngồi dậy đưa hai tay sờ lên mặt thì thấy mình đã được băng bó, kế theo đó là tiếng một người đàn ông mà cụ Lộc tin là người đã cứu mạng mình.

Lúc đầu cụ Lộc nằng nặc đòi ân nhân cho phép mình được chết để rời xa khỏi cái thế giới đầy tội lỗi này.

Thế nhưng sau nhiều lần khuyên bảo và giảng dạy đạo lý của cuộc sống, ân nhân này đã giúp cho cụ Lộc thoát khỏi cái ý định tự tử.

Thêm vào đó, nhận ra rằng cụ Lộc là người có trai tim nhân hậu, ân nhân này đã truyền cho cụ Lộc một thứ phép thuật được gọi là "con mắt âm dương" nói là con mất âm dương vậy thôi chứ trên thực tế thì cụ Lộc có thể kêu gọi ma xó hay như người âm và nhờ họ nói cho mình biết chuyện gì sắp xảy ra hay như tai kiếp của một người để cụ có thể giúp người ta chánh được.

Nói là vậy chứ cụ Lộc không bao giờ nói rõ hoàn toàn chuyện gì sẽ xảy ra, cụ chỉ bày cho những người đến coi bói cách ứng phó đồng thời khuyên bảo người ta nên ăn ở ra làm sao.

Nhiều người gặp hoàn cảnh nghèo khó đến gặp cụ xin chỉ bảo thì cụ nhất mực không lấy tiền, còn với những kẻ giầu sang phú quý hay ác bá thì cụ lấy nhiều tiền lắm.

Thế nhưng những đồng tiền mà cụ Lộc lấy của những kẻ ác bá giầu có đều dùng để từ thiện hay như cúng bái để tạ ơn các vong linh đã giúp mình.

Chẳng trách mà nhiều người rất yêu mến cụ Lộc và họ thường lui tới dâng hương giúp cụ cúng bãi những vong hồn lạc long còn luẩn quẩn tại trần thế này.

Nghe xong cái câu chuyện về cuộc đời của cụ Lộc thì cả ba người họ Ngô đều phải ớn lạnh mà rợn tóc gáy.

Xong câu chuyện thì bà Thoa hỏi:

- Vậy cô cho tôi hỏi tại sao cụ Lộc chỉ coi bói vào buổi chiều tối thôi?

Cô bán nước đáp:

- Nghe đâu cụ bảo rằng chỉ có coi vào giờ đó thì người cõi âm mới hoạt động mạnh và nhanh nhẹn mà thôi.

Bà Thoa hỏi:

- Nếu vậy thì cụ ra đây làm từ năm giờ chiểu hả cô?

Cô hàng nước vui vẻ đáp:

- Dạ vâng bà ạ.

Bà Thoa gật đầu, thế rồi cả ba người đứng lên giả tiến nước rồi ra về để báo tin cho mọi người còn đang đợi ở nhà.

Tối hôm đố, bà Thoa và hai người đàn bà kia đã quay trở lại chợ đêm.

Quả nhiên là chợ đêm đông vui và náo nhiệt hơn hẳn.

Chiếc xe đò dừng ở cửa chợ, bà Thoa và hai người kia nhanh nhanh tiến lại về phía cây đa.

Từ xa xa, bà Thoa đã nhìn thấy một ông cụ đầu gần bạc hết đeo một cặp kính đen, trên người mặc bộ áo dài đen với cái quần dài trắng đang ngồi ngăy ngắn.

Cô gái bán nước đang cầm ly trà nóng sang đưa cho ông ta.

Càng lại gần, bà Thoa càng cảm thấy lạ là tại sao cụ Lộc không bầy biện đồ đạc hành nghề ra mà chỉ ngồi đó bên cạnh cái rương gỗ mun đen nhỏ như thể đang đợi một ai đó.

Cả ba người bước đến trước mặt cụ Lộc, bà Thoa cất tiếng:

- Chào ông, tôi đến đây là ...

Chưa nói dứt câu thì cụ Lộc lên tiếng:

- Bà có phải là bà Thoa đến tìm tôi hồi sáng đúng không?

Nghe hỏi vậy thì hai người nhà họ Ngô kinh hãi há hốc mồm, bà Thoa thì còn muôn phần ngạc nhiên hơn nữa, bà lắp bắp:

- Sao ... sao ông biết tên tôi?

Cụ Lộc Vớ lấy cái gậy, ông ta đeo cái rương bé ngang vai đứng lên mà nói:

- Có người báo cho tôi, chúng ta đi thôi, không có cũng trễ rồi.

Cả ba người vô cùng ngạc nhiên hơn nữa, thế nhưng họ cũng chỉ biết dắt cụ Lộc ra chiếc xe đò mà trở về ngôi nhà của ông Tú.

Về đến nơi, người nhà họ Ngô nhìn thấy cụ Lộc thì nghi ngờ lắm vì họ không tin là ông ta có thể giúp được gia đình họ.

Cụ Lộc được đưa đến gian nhà trính nơi để bàn thờ tổ dòng họ Ngô, vào đến nơi, cụ Lộc để cái rương xuống và xin phép người nhà cho mình được thắp hương trước.

Xong xuôi đâu đó, cụ ngồi xuống đất ngay trước bàn thờ tổ, con cháu họ Ngô thì bu đầy xung quanh.

Cụ Lộc bắt đầu nói:

- Tôi biết hôm nay mọi người mời tôi đến là để giúpviệc gì.

Người nhà Ngô nghe thấy vậy thì hết sức ngạc nhiên và bắt đầu khâm phục cụ Lộc, cụ nói tiếp:

- Gia đình muốn biết đang có chuyện gì xảy ra với gia đình và nguồn gốc của hai con vong quỷ kia đúng không?

Người nhà họ Ngô nghe đến hai chữ "vong quỷ" thì lạnh gáy, thế rồi người con trai thứ nói:

- Dạ vâng, mong cụ giúp cho ạ.

Cụ Lộc gật đầu, thế rồi cụ Lộc bầy ra ba cái chén nhỏ cũ kĩ bảo người nhà đổ đầy vào ba bát đó ba thứ muối, gạo, và đất ngoài vườn.

Cụ Lộc để ba bát ngang nhau trước mặt và bát đất để giữa.

Sau đó cụ lấy ra hai cây nến để hai bên cạnh ba cái bát.

Xong xuôi đâu đó, cụ Lộc bảo tất cả trẻ con và những ai dưới ba mươi tuổi ra ngoài đóng cửa lại.

Sau khi trong phòng chỉ còn lại toàn những người trên ba mươi tuổi, cụ Lộc nhờ họ thắp hai cây nến lên, thế rồi cụ lấy trong cái rương ra ba cây nhang và đốt lên.

Thứ nhang này của cụ Lộc lạ lắm, nó không hề có mùi gì mà chỉ tạo ra một thứ khói đặc trắng lắm.

Tiếp theo, cụ Lộc nhờ người nhà tắt hết đèn đi.

Sau đó cụ nói:

- Bây giờ tôi muốn gia đình mình ngồi thu chân lại, cằm tựa lên hai đầu gối, tay thì vòng ra ôm lấy hai chân.

Bây giờ tôi sẽ gọi ma xó lên trước và nhờ nó kể lại coi có chuyện gì đã xảy ra, mong mọi người giữ nguyên trạng thái, tuyệt đối không la hét, nói chuyện, hay là làm bất cứ một thứ gì.

Người nhà họ Ngô nghe thấy vậy thì lạnh xương sống mà im bặt, chỉ có bà Thoa ngồi đầu nói:

- Vâng thưa cụ.

Đợi mấy giây, thế rồi cụ Lộc hỏi:

- Mọi người đã chuẩn bị xong chưa?

Người nhà họ Ngô đáp:

- Rồi ạ.

Cụ Lộc nói:

- Tôi xin phép được bắt đầu.

Nói xong, cụ Lộc bắt đầu mò mẫm trong rương và lôi ra một quả bầu bé khô đã được khoét ruột.

Không biết bên trong quả bầu chứa gì mà cụ Lộc cứ cầm quả bầu lắc tạo nên những tiếng "lách cách", miệng cụ thì đọc to một thứ tiếng gì đó không ai hiểu.

Cụ Lộc vừa đọc, tay cầm quả bầu lắc hết đưa lên trên rồi lại sang hai bên.

Chưa đầy một phút, ở một góc nhà bỗng xuất hiện một bóng người mặc quần áo vải đẹp lắm hiện ra.

Người này đứng lên đi lướt qua người nhà họ Ngô đang ngồi mà đến trước mặt cụ Lộc.

Người nhà họ Ngô bị con ma xó này đi lướt qua thì có cảm giác giật giật ở gáy như có điện, khi họ nhìn thấy cái bóng mờ ảo của con ma xó mặc bộ đồ vải này thì kinh hãi mà run lên bần bật.

Con ma xó quỳ trước mặt cụ Lộc nói:

- Cụ cho gọi con ạ?

Cụ Lộc lúc này mới dừng tay lắc, quay qua nhìn nó mà nói:

- Thật là phiền con quá, con có thể cho ta biết có chuyện gì đang xảy ra tại căn nhà thở tổ của dòng họ Ngô được không?

Con ma xó vẫn quỳ ở trước mặt cụ Lộc, nó im lặng một lúc, thế rồi nó chống hai tay xuống đất cúi đầu mà nói:

- Mong cụ thứ lỗi cho, chuyện này con không thể nói ra.

Cụ Lộc lúc này vô cùng ngạc nhiên, vì đây là lần đầu tiên có con ma xó mà cụ gọi lên mà nó không giám kể về chuyện của người nhà.

Người nhà Ngô nghe thấy con ma xó nói vậy thì họ cũng hơi thất vọng.

Cụ Lộc hỏi:

- Tại sao con lại không thể nói được chứ?

Con là ma xó của gia đình nhà ông Tú, tất cả những chuyện gì đã và đang xảy ra con phải là người biết rõ nhất chứ?

Con ma xó này vẫn cúi đầu, giọng nó run rẩy:

- Mong cụ thứ lỗi, con không thể nói ra.

Thấy con ma xó này nhất quyết không nói, cụ Lộc cũng không ép, cụ nói:

- Con không thể nói ra chắc cũng có lý do của riêng con.

Thôi ta không ép con nữa, con đi đi, ta cám ơn con.

Con ma xó lúc này mới đưa hai tay lên chắp lại cúi đầu mà nói:

- Cám ơn cụ đã hiểu cho con, con xin được cao lui.

Nói rồi con ma xó này đứng lên đi lại về góc nhà ngồi xuống mà từ từ biến mất.

Người nhà họ Ngô lúc này thì ngồi đờ người ra cứng lưỡi mà nhìn cụ Lộc như không tin vào mắt mình.

Cụ Lộc đợi con ma xó kia biến mất hẳn mới nói:

- Ma xó của gia đình không chịu nói ra chắc có nguyên nhân gì đó, vậy bây giờ tôi sẽ mời một vong linh lưu lạc về hỏi họ cho ra lẽ vậy.

Nói xong, cụ Lộc để lại quả bầu nhỏ vô trong rương, lần này cụ lấy ra ba đồng xu và hai cái bát con con.

Cụ Lộc bỏ ba đồng tiền vào, sau đó cụ úp hai cái bát vừa khít vào nhau mà xóc nhanh miệng lẩm rẩm tiếp một thứ tiếng gì đó nhưng bé hơn.

Lần này phải mất độ năm phút, từ cánh cửa ra vào gian nhà trính bỗng có một vong nữ ăn mặc rách rưới đi xuyên qua bước lại trước mặt cụ Lộc mà quỳ xuống.

Người nhà họ Ngô nhìn thấy vong nữ này thì càng muôn phần khiếp đản hơn nữa.

Đầu tóc cô ta rũ rượi, trên người mặc một bộ quần áo cũ kĩ nhầu nát.

Vong nữ quỳ xuống nói:

- Cụ gọi con có gì chỉ bảo ạ?

Cụ Lộc lúc này mới ngừng xóc bát, cụ ân cần đáp:

- Ta có chuyện muốn nhờ con.

Vong nữ nói:

- Xin cụ cứ nói ạ.

Cụ Lộc nói:

- Trước tiên cho ta hỏi con từ đâu tới?

Vong nữ đáp:

- Dạ con ở cái hổ ngay giữa làng ạ.

Nghe thấy vậy thì vợ chồng người con trai thứ hai lại tuôn rơi nước mắt khi nghĩ tới đứa con gái của mình.

Cụ Lộc gật đầu, thế rồi cụ nói:

- Con có thể kể cho ta nghe coi có chuyện gì đang xảy ra với gia đình nhà họ Ngô không?

Vong nữ này nhìn cụ Lộc có vẻ lưỡng lự như không muốn nói.

Cụ Lốc nói tiếp:

- Người nhà họ Ngô thực sự đang rất bế tắc, ta mong con hãy kể cho ta nghe để ta có thể giúp họ thoát khỏi cái tai ương này.

Như vậy cũng là một công đức đó.

Ta hứa sau khi con kể ra, ta sẽ bảo họ cúng bái con đầy đủ để con không phải chịu đói khát giá lạnh bên hồ nữa.

Vong nữ nghe vậy vỗi cúi người mà nói:

- Thưa cụ ý con không phải vậy, con không đòi hỏi gì đâu ạ ... chỉ là ...

Cụ Lộc nhìn vong nữ này hỏi ân cần:

- Chỉ là vì cái gì?

Con có thể nói ra không?

Vong nữ cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc, thế rồi cô ta thẳng lưng nói:

- Nếu con nói ra cái này sẽ có kẻ đến hại con.

Nếu con nói ra, con chỉ xin cụ bảo người nhà họ Ngô xây cho con một ngôi nhà nhỏ bằng đá ven hồ để con có thể ẩn náu mà không sợ bị kẻ khác hãm hại.

Cụ Lộc gật đầu nói:

- Được ta hứa với con.

Vong nữ cúi đầu:

- Cám ơn cụ, nếu cụ đã hứa, vậy con xin được kể.

Người nhà họ Ngô ngồi đó chăm chú lắng nghe vong nữ này kể lại đầu đuôn ngọn ngành.

Bà Thoa không biết từ lúc nào đã tuôn rơi lệ, ngồi đây nghe vong nữ kể lại mọi chuyện thì trước mắt bà lại hiện ra cái hình ảnh ngày nào.

Sau khi kể xong câu chuyện, cụ Lộc cho vong nữ lui và cớm ơn cô ta.

Ngay khi vong nữ này biến mất.

Cụ Lộc nói:

- Vậy là mọi chuyện đã rõ, gia đình có thể cho tôi tá túc lại một đêm được không?

Sáng mai tôi sẽ có cách giúp gia đình.

Người nhà họ Ngô nghe xong thì không ai nói câu gì, họ chỉ thất thểu đứng lên bật đèn và tản mát đi ra ngoài, có lẽ bây giờ sau khi biết rõ mọi chuyện, họ cũng chả còn bận tâm gì nữa rồi.

Bà Thoa lúc này mới quệt nước mắt nói:

- Cụ cứ ở lại đây, ngủ trên sập này.

Sáng mai tôi sẽ chuẩn bị tiền công và gọi xe đò đưa cụ về nhà.

Cụ Lộc cúi đầu cảm tạ, người nhà họ ngô ai về phòng người đó không ai nói với ai một câu gì, phải chăng họ vẫn còn quá thất kinh trước câu chuyện mà vong nữ kia kể lại.

Đêm nay trăng sáng vành vạch, cụ Lộc không ngủ được mà mò mẫm đi ra ngoài sân ngồi.

Hai con chó nhà ông Tú lúc này mới chạy lại mà ngôi bên cụ ta.

Cụ Lộc vuốt ve cả hai con chó, thế rồi như nhận ra điều gì đó, cụ Lộc nói:

- Thất đáng buồn thay là ta và các người cùng chung một số phận...

đúng là ý trời mà...

Bà Thoa nằm dưới bếp cố ngủ mà không sao ngủ được.

Nằm trên giường, tay vắt lên trán mà hai hàng nước mắt bà lại tuôn rơi.

Bà nằm đây mà nhớ bà chủ lắm, thế rồi những hình ảnh hôm nào lại hiện về.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - VI Ả Đào


...

Lúc ông Tú còn Trẻ ...

Nghề làm vải của dòng họ Ngô này xuất phát từ thời ông của ông Tú, nghe đâu thời đó do công nghệ pha mầu và nhuộm vải chưa được cải tiến, nên những thước vải do nhà họ Ngô làm ra bán cũng chỉ tàm tạm mà thôi chứ không hẳn là đến mức nổi tiếng và được nhiều người biết đến.

Đến đời cha đẻ của ông Tú thì công nghệ nhuộm vải có được củng cố một ít, thế nhưng mà cái điểm máu chốt để nổi tiếng vẫn nằm ở việc pha chế mầu.

Điều này cũng khiến cho gia đình ông Tú phải đâu đầu khi mà nghề làm vải này càng ngày càng xa xút vì người dân thời đó vẫn coi vải đẹp để may quần áo là một thứ hàng xa xỉ mà không mấy ai có thể mua được.

Nói về cha đẻ của ông Tú, là một người rất tốt bụng, thương yêu con cái và cũng có nhiều mối quan hệ, chỉ có điều ông ta là người gia giáo và rất cổ hủ.

Nhớ cái hồi đó ông Tú còn đang ở độ tuổi hăm mấy, cũng được cho ăn học đàng hoàng.

Có một điều mà không ai có thể nhìn nhận ra ở ông Tú mà chỉ có mỗi cha ông ta nhận ra đó là ông Tú rất đa tình và tuy còn nhỏ tuổi, ông Tú thường đi coi đàn hát và chết mê chết mệt với mấy cô ả đào tươi rói.

Đã nhiều lần cha của ông Tú lên lớp và mắng chửi ông Tú rằng sắc là một con dao nhọn hai lưỡi, làm thằng đàn ông nên chuyên tâm vào việc gây dựng cơ nghiệp tiền đồ.

Và chỉ có khi nào tiền đồ rộng mở, cơ nghiệp thành công thì lúc đó muốn làm gì thì làm.

Ông Tú nhiều lần cũng có cãi lại cha mình lắm, thế nhưng vẫn không được kết quả gì và ông Tú luôn bị cha mình chi phối, mắng chửi và quản lý rất chặt.

Để rồi cuối cùng, cha ông Tú khi không còn lời nào nói với ông Tú nữa, ông ta đã bảo rằng sau này ông Tú sẽ nối nghiệp nghề làm vải, cho nên nếu ông Tú có thể đưa cái nghề vài của gia đình lên đến mức nổi tiếng gần xa thì lúc đó ông Tú muốn làm gì thì làm.

Ông Tú nghe thấy vậy thì chấp nhận lời đề nghị đó của cha mình và bắt đầu lao đầu vào việc tìm hiểu để cải tiến công nghệ pha mầu nhuộm vải.

Thế nhưng thời gian thấm thoát trôi qua, cha ông Tú ngày một già đi và ngay cả ông Tú cũng đã gần ba mươi mà vẫn chưa tìm được cách cải tiến công nghệ pha mầu.

Quá chán nản, ông Tú quyết định đi chơi xa một chuyến để cho khuây khỏa đầu óc.

Thế nhưng có lẽ số phận an bài, trong một lần lên đến một phố huyện gần làng, ông Tú tình cở để mắt đến một gian hàng nhỏ của một người đàn bà bán mầu nhuộm.

Ông Tú tiến tới cầm từng bịch mầu bột lên coi thì như không tin vào mắt mình, mầu sắc của những túi phẩm mầu này phải nói là đẹp vô cùng, rất sống động và chúng dường như có sức làm mê hoặc lòng người vậy.

Ông Tú cứ đứng đó mà ngắm nhìn những túi phẩm mầu một cách mê mẩn, thấy vậy, bà bán hàng mới hỏi:

- Cậu thích mấy túi phẩm mầu này chứ?

Chúng đẹp lắm có phải không?

Ông Tú lúc này thì như người tỉnh cơn mê, ông ta quay qua nhìn bà bán hàng mỉm cười gật đầu, thế rồi lại chăm chú ngắm nhìn những mầu sắc sống động này.

Ngắm nhìn thêm một lúc, ông Tú quay ra hỏi:

- Bà cho tôi hỏi, làm sao bà có thể pha chế ra được những mầu sắc sống động làm mê hoặc lòng người như vậy?

Bà bán hàng mỉm cười nói:

- Cậu quả là người có đôi mắt tinh đời, không lẽ cậu cũng làm nghề gì mà có liên quan tới pha chế mầu?

Ông Tú mỉm cười, thế rồi ông đáp:

- Chả giấu gì bà, gia đình tôi vốn làm nghề buôn bán vải.

Thế nhưng mà chúng tôi đang hết sức đau đầu về việc pha chế thuốc nhuộm.

Nghe đến đây, bà bán hàng cười lớn bà ta nói:

- Quả là duyên trời, duyên trời đã đưa cậu tới cửa hàng này...

Thế rồi bà bán hàng tiến tới gần ông Tú nói nhỏ:

- Cậu thích những mầu sắc này chứ?

Ông Tú có hơi ngạc nhiên, ông ta nói:

- Tôi thấy chúng quả thức rất là đẹp...

Bà bán hàng hỏi tiếp:

- Cậu có ý định mua phẩm mầu của tôi chứ?

Ông Tú lưỡng lự một chút, thế rồi ông ta nói:

- Tôi có ý định mua nhiều lắm, liệu bà có làm kịp với số lượng lớn không?

Bà bán hàng cười lên hanh hách, bà ta lắc đầu nói:

- Ý tôi không phải là thế... mà là nếu cậu muốn, tôi sẽ bán cho cậu công thức pha chế mầu ... cậu thấy sao?

Ông Tú lưỡng lự một lúc, thế rồi ông ta nói:

- Nếu vậy thì bà muốn bao nhiêu tiền ?

Bà bán hàng ghé vào tai ông Tú nói nhỏ giá cả mà bà ta đưa ra.

Ông Tú nghe xong thì giật thót người, ông ta nói:

- Sao giá cao quá vậy?

Hơn thế nữa làm sao mà tôi biết chắc được công thức này sẽ giúp cho nghề vải nhà tôi trở nên nổi tiếng chứ?

Bà bán hàng mỉm cười nói:

- Cậu đợi tôi một chút.

Nói rồi bà bán hàng này chạy vào trong nhà.

Một lúc sau bà cầm một mảnh giấy đưa ra cho ông Tú.

Ông Tú mở ra coi thì thấy bên trong là công thức pha chế một thứ nước gì đó, ông Tú nhìn bà bán hàng nói:

- Cái này đâu phải là công thức pha mầu đâu?

Bà bán hàng nhìn ông Tú mỉm cười một nụ cười gian trá, bà ta nói:

- Ông nói đúng, đấy không phải là công thức pha chế mầu, nhưng chỉ cần thêm vài giọt vào mỗi thùng phẩm mầu trước khi nhuộm vải, ông sẽ có được mấu sắc như mình mong muốn.

Ông Tú nghe xong thì mừng rỡ lắm, thế nhưng như nhớ ra điều gì đó, ông Tú nhìn bà bán hàng nghi ngờ:

- Vậy bà muốn giá cả bao nhiêu?

Bà bán hàng đáp:

- Vẫn là giá đó.

Ông Tú mặt thất vọng gập từ giấy lại đưa về phía bà ta nói:

- Bà thông cảm, giá quá cao... tôi không thể ...

Chưa kịp nói hết câu thì bà bán hàng đã chặn tay ông Tú lại, bà ta mỉm cười nói:

- Vậy đi, hãy cầm tờ giấy này về và làm theo lời tôi.

Nếu quả thật nó có thể giúp nghề vải nhà ông nổi tiếng hơn thì lúc đó ông giả tiền tôi cũng chưa muộn, còn nếu nó không giúp được gì thì coi như ông không nợ tôi gì cả.

Ông Tú nghe thấy bà bán hàng nói vậy thì ngạc nhiên lắm, ông ta hỏi:

- Bà có chắc không? nhỡ tôi không thành công mà quỵt tiền của bà thì sao?

Bà bán hàng lúc này mới nắm chặt lấy tay ông Tú, ông Tú có thể cảm nhận được một luồng điện chạy qua tay mình.

Bà bán hàng nói:

- Tôi tin tưởng ông.

Ông Tú còn quá ngỡ ngàng và sốc với cái nắm tay đó, thế rồi ông Tú gật đầu cầm tờ giấy thu lại tay mà nói:

- Thôi được rồi, tôi hứa với bà.

Nếu thành công tôi sẽ trả tiền đầy đủ cho bà.

Nói xong ông Tú cất tờ giấy chào tạm biệt bà bán hàng quay đi thì bị bà ta gọi lại.

Ông Tú quay đầu nhìn bà ta ngơ ngác, bà bán hàng mắt gườm gườm nhìn ông Tú nói:

- Tôi còn một điều muốn nhắc nhở ông.

Ông Tú quay hẳn người tiến lại nói:

- Bà còn có điều gì muốn nói?

Bà bán hàng nói giọng rờn rợn:

- Tất cả những tấm vải sau khi đã được nhuộm mầu thành công thì tuyệt đối không được mặc cho người sắp chết ông nghe rõ chưa?

Ông Tú nghe xong câu đó thì không hiểu gì hết, thế nhưng rồi ông cũng chỉ đáp:

- Tôi đã hiểu.

Thế rồi ông Tú cáo lui ra về.

Ông Tú sau khi lấy được công thức đó thì liền về ngay nhà, ông ta sai người làm làm theo như những gì tờ giấy ghi và cho vào phẩm mầu trước khi nhuộm vải.

Không bao lâu sau, vải do dòng họ Ngô làm ra đã nổi tiếng khắp vùng, thậm chí có nhiều người từ khắp nơi đều cất công đến làng này mà mua cho kì được một cuộn vải để may quần áo.

Sau khi nghề vài nhà họ Ngô thành danh, cha của ông Tú cũng đã giữ lời hứa và để cho ông lên cầm quyền mọi việc.

Riêng về ông Tú cũng đã khôgn nuốt lời, ông ta đã giả tiền đầy đủ cho bà bán phẩm mầu như đã giao kèo, một số tiền đủ lớn để đến đời con bà ta cho dù có không phải làm ăn gì cũng sống sung túc.

Cũng kể từ đó, mà vải nhà họ Ngô này đã trở nên nổi tiếng, thế nhưng ông Tú lại chưa bao giờ tự hỏi lòng mình rằng thứ dung dịch mà ông pha vào mầu nhuộm là thứ gì.

Chắc có lẽ cũng bởi vì ông ta quá vui mừng khi mà bây giờ ông có thể thỏa ý đi coi đào hát và tha hồ lăng nhăng với mấy ả đào mà không sợ bị cha mình la mắng.

Tuy nhiện, ông trời đã cho ông Tú một dấu hiệu của việc làm sai lầm của ông ta đó là khi mà nghề vải của dòng họ Ngô lên đến mức đỉnh điểm cũng là ngày mà cha của ông Tú qua đời.

Nhưng có lẽ ông Tú cũng chẳng bận tâm mấy khi mà tiền đồ của gia đình ông Ta đang ngày càng thành đạt và phát triển.

Ngoài ba mươi tuổi thì ông Tú được mẹ mình gả cho bà Hà, một người con gái nết na thùy mỵ.

Ông Tú nhìn thấy bà Hà có nét đẹp dịu dàng, lại ngoan hiền thì chết mê chết mệt và yêu bà Hà lắm.

Thế nhưng cũng chẳng được bao lâu, khi mẹ của ông Tú qua đời thì ông ta cũng có phần chán bà Hà và lại vùi đầu vào coi ca hát và ả đào.

Chẳng trách mà tuy đã có mấy mặt con, nhưng sợ vợ phát hiện, ông Tú thường cho vợ con mình đi chơi xa mấy ngày còn ông ta lấy cớ là ở nhà trông coi công việc nhưng thực chất là để gọi đào hát về nhà.

Mấy năm sau thì bà Thoa được bà Hà mang về nhận làm con nuôi nhưng thực chất là dưới danh nghĩa là người giúp việc.

Trong một lần nọ, bà Thoa đã tình cờ phát hiện ra ông Tú đang ngoại tình với một ả đào hát khá trẻ và xing đẹp với thân hình vô cùng gợi cảm có tên là Lan.

Bà Thoa đã nhiều lần mach với bà Hà, thế những bà Hà bao lâu nay sống chung với chồng mình thì đã quá hiểu, nhưng bà vẫn làm ngơ để ấm êm cửa nhà.

Ông Tú hàng ngày cứ lấy cớ là đi công việc nhưng thực chất là hẹn hò với Lan để cùng nhau vui vẻ.

Nhiều Lần ông Tú hứa sẽ cưới Lan làm vợ lẽ, thế nhưng khi ông nghĩ lại mình đã có với bà Hà mấy mặt con và sợ rằng bà sẽ không đồng ý nên mỗi lần Lan hỏi ông đều trì hoãn.

Thế nhưng mọi chuyện chỉ đổ bể khi mà ông biết tin rằng Lan đã có thai với ông.

Kể từ đó ông Tú trốn bặt trong nhà không dám ra ngoài, đồng thời trong lòng ông ta canh cánh lo sợ Lan sẽ tới để hủy hoại thanh danh của ông.

Tuy ông Tú đã cho Lan khá nhiều tiền bạc và khuyên cô nên rời đi chỗ khác nhưng Lan vẫn nhất quyết không chịu, và nằng nặc bắt ông Tú phải thực hiện lời hứa là cưới mình.

Rồi cái thời khắc định mệnh cũng đã đến, không biết đó là điềm may mắn hay điểm gở của ông Tú khi mà cuối cùng Lan cũng mò tới nhà ông ta vào một ngày mưa bão bùng.

Thì ra do Lan có thai nên đoàn hát đã buộc lòng phải cho Lan thôi việc, thêm vào đó cô vốn mồ côi từ nhỏ, may có tí tài nên được một chân ả đào, nay không còn một nơi nương tựa bấu víu, cô buộc lòng phải tìm tới nhà ông Tú.

Hôm đó lại đúng là lúc mà vợ và các con ông về nhà ngoại chơi chỉ còn mỗi ông ở nhà, người làm thì đã ra xưởng vải hết cả.

Lan tới nhà nằng nặc đòi ông Tú phải cưới mình, thế nhưng ông Tú nhất quyết không chịu, hai người to tiếng cãi vã nhau ngay giữa sân nhà dưới cơn mưa ào ạt.

Chỉ không may cho ông Tú đó là bà Thoa lúc đó còn ở nhà, bà đã đứng dưới bếp và chứng kiến hết mọi chuyện.

Lan vừa khóc lóc đứng dưới mưa vừa chỉ tay vào bụng mà nói:

- Đây là con anh mà anh không chịu nhận sao?

Ông Tú tức tối quát:

- Mày câm mồm đi! cái loại xướng ca vô loài như mày ân ái với biết bao nhiêu thằng!

Giờ mày mang nó đên đây và vu khống nó là con của ông à?

Lan vẫn khóc nức nở, cô quỳ xuống ôm lấy chân ông Tú mà nói:

- Em xin anh mà... anh hãy nghĩ lại đi ... không vì em thì cũng vì con anh thôi...

Ông Tú nhất quyết nói không, thế xong ông ta mắng chửi Lan đủ điều.

Cuối cùng ông Tú dùng chân đạp vào người Lan khiến cô phải buông chân ông ta ra mà lăn lộn ngã xõng xoài ra dưới sân.

Ông Tú chỉ tay vào mặt Lan mà quát:

- Đồ đĩ đượi!

Mày cút ngay ra khỏi nhà ông!

Mưa vẫn rơi xối xả, Lan từ từ chống tay đứng dây, cô lau nước mắt ôm cái bụng bầu đã gần năm tháng.

Chợt Lan thay đổi, cô cười lên khanh khách, cái nụ cười ghê rợn đó không chỉ khiến cho ông Tú mà ngay đến cả bà Thoa đáng lấp ló dưới cửa bếp phải rùng mình sợ hãi nổi da gà.

Lan đứng dưới mưa chỉ tay vào mặt ông Tú mà nói:

- Mày... mày không đáng là loài cầm thú!

Rồi ... rồi cả gia đình mày sẽ không yên với hai mẹ con tao đâu!

Thế rối Lan chỉ tay thẳng lên bàn thở tổ mà hét lớn:

- Cả cái dòng họ Ngô này rồi sẽ phải mạt vận!!!

Ngay sau cái tiếng quát đầy giận dữ đó thì trên trời một tiếng sấm vang lên làm rung động cảnh vật.

Ông Tú nghe Lan chửi thì nóng mặt, thêm phần ông lo sợ rằng bọn giúp việc có thể quay về bất cứ lúc nào, ông ta lao mình xuống sân tát mạnh vào mặt Lan một cái khiễn cô ngã xuống đất.

Ông Tú chỉ tay ra cửa và quát lớn:

- Cút!

Mày cút ngay!

Lan từ từ đứng lên, cô mỉm cười nhìn ông Tú với ánh mắt ghê rợn:

- Mày hãy nhớ lấy ngày hôm nay ... hãy nhớ lấy ...

Thế rồi Lan từ từ bước ra khỏi cửa, vừa đi cô vừa cười lên khanh khách như người điên.

Ông Tú lúc này thỉ chỉ còn biết đứng đó mà thở phào nhẹ nhõm, còn bà Thoa đứng trong bếp chứng kiến tất cả mọi việc, không biết kể từ lúc nào mà hai hàng nước mắt của bà đã tuôn rơi.

Ít ngày sau, người dân trong làng tá hỏa lên khi họ phát hiện ra một xác chết giữa hồ nổi lềnh bềnh.

Khi họ vớt lên thì càng muôn phần kinh hãi và đớn đau hơn nữa khi mà cô gái này đang có thai.

Ông Tú cũng là người có mặt ở đó và ông ta dường như là chết lịm đi khi mà ông nhận ra đó chính là Lan, và trên người Lan đang mặc một bộ áo dài do chính ông Tú sai người may tặng, bộ áo dài trắng tinh đầy gợi cảm.

Quá hối hận và sợ hãi tới những gì mà Lan nói trước khi chết, ông Tú đã đứng ra làm ma chay cúng kiến cho Lan và đưa tro cốt của cô lên chùa.

Như nhớ tới lời bà bán hàng căn dặn ngày nào, ông Tú kể từ ngày Lan chết thì làm nhiều việc công đức lắm, đồng thời ông bắt con cháu hàng ngày phải lên chàu cúng kiến và giúp đỡ người nghèo, thế những có lẽ ông ta làm những việc đó cũng là để tránh lấy cái vận hạn sau này mà thôi.

Ông Tú cũng nhiều lần lên phố huyện và tìm tới cửa hàng bà bán phẩm mầu hôm nào để nhờ bà giúp đỡ thế những tuyệt đối không còn nhìn thấy cửa hàng bán phẩm mầu đó đâu nữa.

Thời gian cứ thế thấm thoát chôi qua, ông Tú thấy rằng nghề vải của gia đình ông vẫn phát triển như thường thì ông ta cũng đã dần dần quên đi cái bị kịch ngày nào và sự sợ hãi trong ông có lẽ cũng đã dảm dần đi.

Có điều mà ông Tú mãi mãi không thể ngờ được rằng đó là bà Thoa đã chông thấy hết và nói với bà Hà.

Bà Hà tuy biết vẫn lặng thinh, bà Hà và bà Thoa chỉ chăm chỉ lên chùa nơi để tro cốt của Lan để cúng kiến và cầu mong hai mẹ con cô ta yên nghỉ mà tha tội cho chồng mình mà thôi.

Cuối cùng bà Hà cũng mặc căn bệnh lạ và mất sớm để lại mình ông Tú và đàn con.

Thế những ông Tú vẫn không biết đó là dấu hiệu của quả báo đầu tiên giáng xuống gia đình ông.

Ông Tú chỉ thực sự nhớ lại mọi chuyện và kinh hãi khi mà ông nghe thấy người thầy bói mù đi dạo khơi lại mọi chuyện lúc ông Tú coi bói ở trước đình làng.

...

Hiện tại...

Tiếng người lục đục cùng với tiếng gà gáy khiến cho bà Thoa tỉnh giấc.

Bà Thoa ra đến sân thì thấy mọi người đang dọn dẹp đồ đạc như thể đi đâu đó.

Bà đứng nhìn mọi người thì vô cùng kinh hãi, cụ Lộc cũng đang ngồi ở thềm uống nước trà và đợi bà Thoa từ lúc nào rồi.

Bà Thoa từ từ tiến lại phía cụ Lộc và nhìn quanh, bà Thoa tự hỏi không lẽ điều mà bà Hà lo ngại nếu như chuyện này đổ bể và con cháu trong nhà biết được thì dòng họ Ngô từ nay chấm hết hay sao?
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - VII Chó chống gậy đội nón


Bà Thoa từ từ tiến lại chỗ cụ Lộc, đồng thời bà nhìn quanh với ánh mắt lo ngại.

Còn chưa kịp nói chuyện với cụ Lộc thì con nhỏ Huệ đã chạy tới bên bà Thoa níu tay bà mà nói:

- Bà ơi ... bà coi kia ... người nhà mình đang chuẩn bị đồ đạc bỏ đi hết cả rồi...

Bà Thoa nghe xong thì chết điếng trong lòng, quả nhiên như lời bà Hà đã nói, nếu như con cháu trong nhà này mà biết được chân tướng sự việc thì bọn chúng sẽ bỏ đi khỏi cái làng này ngay và sẽ không bao giờ trở về.

Bà Thoa đứng nhìn mói người kéo vali và đang hối thúc nhau rời khỏi nhà thờ tổ họ Ngô càng sớm càng tốt mà lòng đau như cắt.

Lúc này một cô trong họ đi ngang qua bị bà Thoa kéo tay lại và nói:

- Tại sao mọi người có thể bỏ đi trong lúc nước sôi lửa bỏng như thế này được cơ chứ?

Bà cô này nhìn bà Hoa nói:

- Bà chưa nghe tin gì sao?

Con con Hoa mới chết đêm qua, y như là đứa con đầu tiên của nó.

Con nghĩ bà cũng nên chạy khỏi đây đi là vừa, ông Tú đã giáng họa xuống đầu cả họ này rồi, còn không đi nhanh là tất cả sẽ bị vong quỷ hãm hại đó.

Bà Thoa nghe đến đứa con của Hoa chết thì bà tuôn rơi nước mắt, "không lẽ cả dòng họ Ngô rồi sẽ lụi bại hay sao?" bà Thoa tự hỏi lòng mình.

Lúc này cụ Lộc bảo con nhỏ Huệ đỡ cụ dậy và đưa đến phía bà Thoa.

Cụ Lộc khẽ đặt tay lên vai bà Thoa, bà Thoa quay lại nhìn thì chỉ thấy cụ lắc đầu.

Bà Thoa nói:

- Cụ ... cụ có cách nào giúp dòng họ Ngô không cụ?

Cụ Lộc nghe xong chỉ cúi mặt không nói năng gì, bà Thoa thấy thế thì cũng thất vọng lắm.

Bà ta nói:

- Vậy chi phí hết bao nhiêu để con gửi?

Cụ Lộc lúc này mới ngửng đầu lên nói:

- Không cần tiền nong gì đâu... thực ra thì bản thân tôi không có cách gì giúp gia đình được ... nhưng tôi biết chắc chắn có một người có thể tiêu diệt được hai con vong quỷ này.

Bà Thoa nghe thấy vậy thì trong đầu như lóe lên một tia hy vọng nhỏ nhoi, bà mừng rỡ hỏi:

- Người đó là ai hả cụ?

Cụ Lộc đáp:

- Đó chính là ân nhân cứu mạng của tôi.

Bà Thoa nghe thấy vậy thì ngạc nhiên lắm, thế rồi bà hỏi lại:

- Nhưng ... nhưng cụ có biết giờ người đó ở đâu không?

Cụ Lộc đáp:

- Có chứ, sau khi được ân nhân cứu mạng và dạy thuật "con mắt âm dương", tôi đã hỏi vong linh và tìm ra được nơi ở của ân nhân...

ân nhân tên là Trúc, có một ngôi nhà trên núi cách đây không xa lắm...

Bà Thoa nghe thấy vậy thì vui mừng nói:

- Vậy thì tốt quá rồi, cụ có thể đưa tôi tới đó được không?

Cụ Lộc nói giọng e ngại:

- Bây giờ chưa đi được, vì vong quỷ vẫn còn vảng vất... nếu bây giờ mà đi ngay thì chúng sẽ ngăn bước không cho bà đi được đâu ...

Bà Thoa nghe thấy cụ Lộc nói vậy thì có chút thất vọng, bà hỏi:

- Vậy phải đợi đến bao giờ hả cụ...

Cụ Lộc lúc này nói:

- Hãy đợi đếm đêm mai, khi mà vong quỷ đã giết được hai con chó giữ nhà của gia đình và nhập vào chúng đến giết tôi...

đợi khi nào mà bà nhìn thấy xác hai con chó trước sân nhà thì hãy cùng với cô bé này tìm đến nhà ân nhân của tôi.

Cụ Lộc vừa nói vừa hua tay tìm Huệ, bà Thoa nghe thấy vong quỷ tìm giết cụ Lộc thì trong lòng vô cùng bối rối và sợ hãi, bà nói:

- Cụ nói sao?

Sao hai con vong quỷ đó lại giết hại cụ được?

Cụ Lộc trên mặt nở một nụ cười thư thái, cụ nói:

- Bà đừng lo ... tôi biết rằng tôi sẽ phải chết nếu như tôi đến giúp gia đình lật ra chân tướng của hai con vong quỷ này ... thế nhưng tôi cám chịu số phận đó, vì tôi không nỡ lòng nhìn cảnh "nhân quả tuần hoàn", dù sao thì con cháu dòng họ Ngô cũng không làm gì nên tội mà phải gánh lấy cái vận hạn lớn như vậy ... hay coi như đây là một sự giải thoát cho tôi, vì nói cho cùng thi đáng lẽ tôi phải chết cách đây mười năm rồi...

Nghe đến đây bà Thoa và con nhỏ Huệ đều tuôn rơi dòng lệ mà cảm động trước tấm lòng nhân hậu của cụ Lộc.

Cụ Lộc bảo hai người vào gian nhà trính để củ nói rõ thêm.

Vào trong nhà, cụ Lộc đưa cho bà Thoa một chuỗi tràng hạt bằng gỗ và nói rằng đây là chuỗi tràng hạt của Địa Tạng Vương Bồ Tát, nếu sau này trên đường đi tìm ân nhân Trúc mà có gặp chuyện gì cản trở thì hãy lấy nó ra mà cầu cứu Địa Tang Vương.

Tiếp theo đó, cụ Lộc vẽ và đưa cho bà Thoa tấm bản đồ chỉ đường từ nhà thờ tổ của họ Ngô tới nhà ân nhân trúc trên núi cao.

Cả bà Thoa và con nhỏ Huệ đều hết sức ngỡ ngàng khi mà cụ Lộc bị mù lại có thể vẽ ra một tấm bản đồ chi tiết như vậy, không lẽ cụ Lộc vẽ tấm bản đồ ra từ trong tiềm thức của mình?

Xong xuôi đâu đó, cụ Lộc còn căn dặn rằng chỉ có bà Thoa và con nhỏ Huệ có thể đi gặp ân nhân Trúc mà thôi, tuyết đối không một ai khác được đi cùng.

Ngoài ra, cụ Lộc còn đưa cho bà Thoa bẩy lá bùa vàng có chữ đỏ ở trên và nói bà gián ba lá bùa này lên ba cách cửa vào ba gian nhà, bốn lá còn lại thì gián lên bốn cây cột gỗ trước hiên nhà để tránh bị vong quỷ quậy phá trong khi đợi tới lúc lên đường.

Cuối cùng, cụ Lộc lấy trong rương ra ba đồng xu cổ đặt vào tay bà Thoa và căn dặn bà ra chợ mua ngay một căn miếu nhỏ bằng gỗ để ở ven hồ, cho ba đồng xu này vào giữa để coi như là cám ơn vong nữ ngày nào đã tiết lộ mọi chuyện để cô ta có một nơi nương thân, đợi khi mọi việc êm xuôi, vong quỷ bị tiêu diệt thì nhớ thường xuyên cúng kiến để vong nữ bớt đi cô đơn lạnh giá và sớm ngày được siêu thoát.

Sau khi mọi thứ đã đâu vào đó, cụ Lộc đứng lên tạm biệt bà Thoa và con nhỏ Huệ ra về, thêm vào đó cụ tuyệt đối không lấy một đồng tiền phí nào vì cụ bảo rằng cụ sắp tận số nên tiền bạc cũng chẳng để làm gì.

Bà Thoa sai con Huệ chạy đi gọi xe đò, còn bà thì tiễn cụ Lộc ra cửa.

Ra đến cửa bà Thoa nói:

- Cụ thông cảm, tôi không thể đưa cụ về tận nhà được, thật là nhọc công cụ quá.

Cụ Lộc mỉm cười, lúc này hai con chó nhà ông Tú cũng đã chạy ra mà quấn quýt dưới chân cụ ta.

Cụ Lộc cúi xuống vuốt ve chúng, cụ nói:

- Không có chi, giúp người là nguyện vọng của cả đời tôi...

Nhưng tôi muốn nhắc bà rằng, Huệ là cô bé mang lại may mắn cho gia đình hay như dòng họ Ngô này.

Còn có Huệ là dòng họ Ngô sẽ chưa tàn bại ngay được... nên tôi ước tính vong quỷ sẽ tìm cách hãm hại Huệ trước.

Thế cho nên bà và Huệ hãy vô trong gian nhà chính ngủ ngay cạnh bàn thở tổ để chánh rủi ro.

Bà Thoa nghe thấy vậy thì cũng có hơi sợ hãi, thế nhưng rồi bà cũng nói:

- Cám ơn cụ, tôi sẽ cố hết sức bảo vệ con Huệ.

Cuối cùng chiếc xe đò cũng đã tới, cụ Lộc lên xe ngồi, chiếc xe từ từ lăn bánh, cả Huệ và bà Thoa đứng dưới nhìn theo chiếc xe đầy cảm kích, cụ Lộc lúc này mới nói lớn.

- Bà hãy nhớ lấy bà Thoa, chỉ có bà mới cứu được dòng họ Ngô mà thôi.

Bà Thoa nghe theo lời cụ Lộc, bà cầm bùa dán lên những vị chí mà cụ đã nói.

Bây giờ dòng họ Ngô con cháu đã bỏ đi gần hết, chỉ còn lại hai vợ chồng người con thứ hai và gia đình người con thứ bẩy.

Bà Thoa căn dặn mọi người tối nay chia nhau vào từng gian nhà mà ngủ và đóng chặt cửa lại để chánh bị vong quỷ làm hại, còn bà và nhỏ Huệ sẽ ngủ ở gian chính.

Khi đã sắp xếp xong, bà Thoa cùng Huệ ra chợ mua một ít đồ cúng và một cái miếu nhỏ bằng gỗ mang ra cái hồ ngay giữa làng và làm theo lời cụ Lộc để cảm tạ vong nữ đã quên mình mà giúp đỡ dòng họ Ngô.

Thời gian trôi qua thật mau trong sự hồi hộp của những người còn sót lại tại ngôi nhà thờ tổ họ Ngô, nhất là bà Thoa với nhỏ Huệ.

Cuối cùng cái đêm định mệnh cũng đã tới, mọi người được phân công vị trí, gia đình nào về gian nhà được chỉ định mà đóng cửa lại tắt đèn.

Riêng bà Thoa và nhỏ Huệ vào gian giữa có bàn thờ tổ đóng cửa và nằm trên sập, kim đồng hồ chỉ mười giờ đêm, cả hai nằm hồi hộp trên sập như thể đón đợi coi rồi chuyện gì sẽ xảy ra.

Thời gian cứ thế trôi qua, khi kim đồng hồ chỉ mười hai giờ đêm, thì cả hai người cũng đã ngủ thiếp đi lúc nào không biết.

Bà Thoa nằm ngủ bên cạnh con nhỏ Huệ thì bất chợt bà giật mình bởi vì lạnh.

Bà Thoa mở mắt ngước nhìn đồng hồ thì cũng đã gần một giờ đêm rồi, cái thời khắc mà âm khí sung thiên.

Bà Thoa ngồi dậy trên sập lấy hai tay xoa vào người như thể lạnh lắm, bà quay qua nhìn con nhỏ Huệ thì thấy nó vẫn nằm ngủ ngon lành.

Lúc đầu bà Thoa nghĩ là chắc không có chuyện gì nên định ngả lưng xuống ngủ tiếp thì bất chợt bà như cảm nhận được đang có ai đó đi lại ngoài hành lang kia.

Nghĩ đến đây, bà Thoa ngồi dậy nhìn xuống khe cửa dưới nền đất thì bà thấy có một bóng đen cứ lướt đi lướt lại ở bên ngoài.

Như linh tính rằng vong quỷ đang đến đòi mạng nhỏ Huệ, bà lập tực quay qua kiểm tra nhỏ Huệ.

Bà Thoa khẽ lay gọi Huệ:

- Huệ ...

Huệ ơi ...

Thế nhưng lay gọi mãi mà nhỏ Huệ vẫn không tỉnh dậy, quá sợ hãi, bà Thoa đưa hai ngón tay lên mũi nó, sau đó là để lên mạch ở cổ.

"Không xong rồi!" bà Thoa thoáng chột dạ, tại sao mà mạch của nhỏ Huệ lại đập yếu như thế này chứ.

Còn đang cuống cuồng không hiểu có chuyện gì xảy ra với nhỏ Huệ thì chợt bên tai bà Thoa vang vảng lên tiếng cười rúc rich của một đứa con gái.

Bà Thoa nổi da gà ớn lạnh, thế rồi bà lẩm bẩm "vong quỷ hay mau mau mà cút đi".

Ngay sau cái câu mắng đó, bất chợt cái cửa gian nhà chính rung lên ầm ầm như thể có ai đó từ ngoài cố ý đẩy cửa vào, bà Thoa sợ hãi ngồi trên sập co rúm người lại.

Cánh cửa rung lên một hồi rồi thôi, bà Thoa lúc này mới mon men tiến lại phía cánh cửa, chắc bà ta tính ngó qua khe cửa để coi coi ai đang ở ngoài đó.

Ngay khi bà Thoa bước đến trước cửa, một cơn gió lạnh buốt luồn qua khe thổi vào chân bà Thoa khiến bà phải lùi lại, bà Thoa cúi xuống nhìn thì còn thất kinh hơn nữa khi mà cái lá bùa mà cụ Lộc đưa cho bà để bà dán lên cửa đã bị rụng ra và gió thổi bay cả vào buồng.

Bà Thoa thất kinh lùi lại xa hơn thì bỗng gió nổi lên thổi qua khe cửa và cửa sổ rít lên từng hồi, gió mạnh lùa vào khiến cho một số đồ đạc trên bàn thờ phải đổ vỡ.

Bà Thoa còn đang quá kinh hãi hết nhìn lên bàn thờ rồi nhìn ra cửa thì chợt bà nghe tiếng lục đục trên sập.

Bà Thoa quay qua nhìn thì như đứng tim khi mà con nhỏ Huệ mới lúc nào còn đang nằm ngủ yên bình vậy mà giờ đây toàn thân nó co giật và sùi bọt mép đến rợn người.

Nhanh như chớp, bà Thoa lao ngay lên sập, bà ta tìm mọi cách để giữ cho người của nhỏ Huệ đỡ bị co giật.

Thế nhưng khi bà Thoa chạm vào người của Huệ thì bà còn kinh hãi hơn nữa khi mà toàn thân của nhỏ lạnh giá như một tảng nước đá.

Bà Thoa nghĩ thầm trong đầu rằng biết đâu bùa của cụ Lộc cũng vô dụng trước sức mạnh của vong quỷ, và bây giờ chúng đang đòi mạng nhỏ Huệ.

Trong cái tình huống nước sôi lửa bỏng đó, bà Thoa như nảy ra một ý.

Bà Ta tiến tới quỳ xuống trước mặt bàn thờ tổ mà khấn:

- Con xin các cụ xá tội cho con, chỉ vì tình hình cấp bách lắm rồi.

Khấn vái xong, bà Thoa với cái bát ô tô không để ở ngăn tủ đặt xuống đất, thế rồi bà ta tụt quần và tiểu vào cái bát đó.

Xong xuôi, bà Thoa cầm bát nước tiểu của mình mà vẩy tứ phía khắp nhà, chỗ nước tiểu còn lại bà tạt thẳng vào mặt Huệ.

Chỉ thấy Huệ người rung lên một đợt mạnh xong ngưng hẳn.

Ngay khi Huệ ngừng co giật, bà Thoa nghe thấy tiếng la hét vang vọng đâu đó của một người phụ nữ đến inh tai nhức óc.

Bà Thoa để cái bát xuống mà tiến lại lên sập và lay lay người nhỏ Huệ như cố ý gọi nhỏ dậy.

Nhỏ Huệ lúc này từ từ mở mắt, toàn thân nhỏ cũng ấm dần lên.

Nhỏ Huệ ngồi dậy nhìn bà Thoa thế rồi nhỏ thấy người mình nồng nặc mùi nước tiểu thì mới hỏi:

- Có chuyện gì thế bà?

Bà Thoa lúc này mới thở phào nói:

- Lúc nãy vong quỷ phá bùa, chúng định lấy mạng con.

Ta phải dùng nước tiểu của mình để đuổi chúng đi ... tại vì ma quỷ sợ dơ mà con.

Thế con không biết chuyện gì xảy ra với mình hả?

Huệ ngồi đó nghe bà Thoa nói mà rợn người, thế nhưng cô cũng chỉ lắc đầu vì không nhớ gì cả.

Hai người còn chưa hết bàng hoàng thì chợt bên ngoài vang lên những tiêng tru ông ổng như xé tan cả màn đêm tĩnh lặng.

Nhỏ Huệ sợ hãi như định hỏi bà Thoa thì bà ta đã lấy tay chặn miệng nhỏ lại, thế rồi bà Thoa và nhỏ Huệ nhẹ nhàng rời khỏi sập và tiến ra cửa chính.

Cái tiếng tru ghê rợn của hai con chó nhà ông Tú dần dần biến thành những tiếng ăng ẳng tựa như chúng bị ai hành hạ vậy.

Bà Thoa với nhỏ Huệ đứng nhìn qua khe cửa, hai người sững sờ trước cảnh hai con chó đang vật lộn trong không trung, mõm vẫn kêu lên những tiếng ăng ẳng như thể đau đớn lắm.

Hai con chó cứ vật lộn trong không trung, bất ngờ một loạt tiếng bẻ xương "răng rắc" vang lên, thế rồi hai con cho như thể bị ai kéo đi ra khỏi tầm nhìn của cả hai người.

Bà Thoa và nhỏ Huệ lúc này đứng đó nín thở mà cố nhìn qua hai bên để coi coi hai con chó đó đã biến đi đâu.

Chỉ mấy giây sau, con nhỏ Huệ như muốn hét lên kinh hãi cũng may là bà Thoa đã bịt miệng nhỏ đó lại kịp thời.

Đập vào mắt hai người là cảnh tượng hai con chó đang đi bằng hai chân ra, con mực đi trước đầu đội nón, chân trước chống gậy y như một lão già, con vàng thì đi theo sau nhưng thẳng lưng.

Từ phía chúng phát ra một loạt tiếng "lục cục" như xương bị bẻ khớp, thêm vào đó hai con cứ vừa đi vừa thi nhau rít lên những tiếng ai oán ghê rợn, cứ như thể tiếng ma cười rúc rich vào buổi đêm vậy.

Hai người vẫn đứng đó nín thở nhìn hai con chó từ từ đi ra khỏi nhà, lúc này bà Thoa nghĩ thầm trong đầu "cụ Lộc".

Khi hai con chó đã đi khỏi, cả hai người mới trèo lại lên sập ngồi, thế nhưng không ai nói với ai câu gì.

Tới tầm năm giờ sáng, do là mùa đông nên trời còn tối mịt mù, bà Thoa nghe thấy tiếng "ăng ẳng" rên lên be bé thì bà lao ngay ra cửa nhòm qua khe, bà Thoa không cầm nổi nước mắt khi thấy con vàng đang cắn vào cổ con mực mà lôi nó từng bước về lại vào sân.

Khi tới được giữa sân, con vàng nhả con mực ra thế rồi bản thân nó cũng đổ gục người xuống sân, đầu hướng thẳng về gian nhà chính nơi bà Thoa đang đứng nhòm.

Thấy rằng thời cơ đã đến, bà Thao chạy lại lôi con nhỏ Huệ dậy đồng thời với gói đồ đã có sẵn mấy thứ mà cụ Lộc đưa.

Hai người mở cửa lao về phía chiếc xe máy, con nhỏ Huệ ra đến sân thì nó nhìn thấy xác hai con chó thì nó như khựu xuống.

Xác con mực nhìn qua thì có vẻ như toàn bộ khớp xương của nó đã bị trật ra ngoài, còn con vàng thì máu đỏ cứ ứa ra từ miệng.

Huệ ngồi đó bật khóc, cô run rẩy nói:

- Mực ơi ... vàng ơi ...

Bà Thoa thấy vậy thì vội kéo nó đứng lên và giục:

- Mau đi thôi cháu ơi ... nếu không là không kịp đâu...

Thế rồi bà Thoa lôi con Huệ ra chỗ để xe máy.

Hai người ngồi trên xe và lao đi.

Bà Thoa ngồi trên xe mở bản đồ và chỉ đường cho con Huệ chạy, trên mặt hai người bây giờ vẫn ướt đẫm lệ vì khóc thương cho hai con chó sấu xố và cụ Lộc.
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Nghiệp Chướng - VIII Quỷ Luân Hồi (hết)


Bà Thoa và nhỏ Huệ lại xe mãi, theo như bản đồ chỉ dẫn của cụ Lộc thì phải đến gần đến tám giờ sáng họ mới tới được chân ngọn núi đó. bà Thoa bảo nhỏ Huệ:

- Đường đến đây thì dễ đi rồi, cháu cứ đi thẳng một con đường men lên núi là sẽ gặp được nhà của ông Trúc.

Nhỏ Huệ gật đầu, thế rồi nhỏ rồ ga lên số, cả hai người chạy băng băng mon theo con đường mòn lên núi.

Nếu theo đúng như bản đồ chỉ dẫn, và đúng như ước tính của bà Thoa thì chỉ tầm nửa tiếng sau sẽ tới được trước cửa nhà ông Trúc.

Thế nhưng mà thật là quái lạ làm sao khi mà đi đến còn một phần ba bình xăng vẫn chưa tới được nơi.

Nhỏ Huệ còn cảm thấy mệt mỏi hơn nữa khi mà từ nãy giờ lái xe lòng vòng ước tính cũng phải mất đến hơn một tiếng mà chưa thấy căn nhà nào.

Đi được thêm độ mười lăm phút nữa, nhỏ Huệ dừng xe và bảo bà Thoa:

- Bà cho con nghỉ một tí, con lái xe từ nãy giờ mệt quá rồi.

Bà Thoa thấy nhỏ Huệ cũng mệt mỏi thật thì đồng ý.

Hai người dựng xe ngồi bệt xuống đất cạnh con đường mòn.

Nhỏ Huệ quay qua bảo bà Thoa:

- Bà cho con coi thử cái bản đồ.

Bà Thoa đưa cho nó, thế rồi nhỏ Huệ chăm chú nghiên cứu cái bản đồ.

Nhỏ Huệ tính đoạn đường từ chân nui cho tới nhà của ông Trúc không hề xa vì Huệ nhớ lúc nhỏ ngước lên nhìn thì thấy ngọn núi này chỉ thoai thoải không hề cao một tẹo nào, vậy mà không hiểu tại sao lúc đi từ nãy đến giờ vẫn không tới?

Nhỏ Huệ thì tập chung nghiên cứu cái bản đồ.

Bà Thoa nhìn xung quang thì như nhận ra một điều gì đó không phải, bà hỏi nhỏ Huệ:

- Huệ coi đồng hồ bây giờ mấy giờ rồi?

Huệ nhìn cái đồng hồ tay và đáp:

- Hơn mười một giờ trưa rồi bà ơi.

Bà Thoa không đáp lại, bà ta nghĩ ngợi và nhìn lên trời.

Thật vô lý quá, quả núi này đâu có nhiều cây lắm đâu mà sao đã gần trưa mà trời vẫn âm u quá vậy?

Thế rồi bà Thoa nhìn lại con đường từ hai bên, bà hỏi tiếp nhỏ Huệ:

- Huệ, cháu có thấy đoạn đường này quen thuộc không?

Huệ đặt bản đồ tạm xuống và nhìn quanh:

- Cháu cũng không rõ, tại đoàn đường nào nó cũng như nhau hết à...

Nghe cái câu trả lời đó của Huệ thì bà Thoa còn nghi ngờ hơn nữa.

Thế rồi bà Thoa móc trong tui ra một cái khăn tay đã bạc mầu.

Bà ta đứng dậy rồi cột nó ở trên một thân cây dễ nhìn.

Huệ lúc này mới nhìn theo và hỏi:

- Bà làm gì thế ạ?

Bà Thoa đáp:

- Không có gì đâu.

Xong xuôi đâu đó, bả bảo nhỏ Huệ lên đường đi tiếp không có thì muộn mất.

Hai bà cháu lại tiếp tục lên xe nổ máy và lao đi.

Lần này đi được năm phút, cả hai người không để ý thấy trời mây đen kéo tới giăng kín hết.

Đi được một lúc nữa thì mọi vật xung quanh bắt đồi xám xịt lại khiến cho nhỏ Huệ phải bật đèn pha, bà Thoa ngồi sau thì trong lòng cảm thấy vô cùng lo lắng khi mà đã gần trưa rồi mà trời đất bỗng tối xầm lại y như năm giờ sáng vậy.

Chiếc xe máy cứ lao đi bon bon, đi được độ gần một tiếng thì bất ngờ bà Thoa bảo nhỏ Huệ lên đến đầu kia thì dừng lại.

Nhỏ Huệ dừng lại, trên khuôn mặt có nét gì đó lo lắng lắm nhỏ bảo:

- Con nghi có chuyện gì không hay rồi bà ơi...

Bà Thoa không nói năng gì, bà xuống xe, tiến về một gốc cây phía trước.

Lúc sau bà quay lại trên tay cầm cái khăn tay của mình hồi nãy buộc lên gốc cây.

Huệ nhìn thấy bà Thoa cầm cái khắn tay thì kinh hãi vô cùng, không lẽ từ nãy giờ cả hai người cứ đi vòng tròn hay sao?

Bà Thoa tiến tới nói:

- Từ nãy giờ bà để ý thấy chúng ta đi qua cái cây có khăn tay này đến ba lần rồi...

Nói đến đây bà Thoa thở hắt ra, còn nhỏ Huệ thì thất kinh, trong đầu nhỏ ta bây giờ có lẽ đang có cái suy nghĩ y như của bà Thoa, không lẹ họ đang bị ma quỷ giấu đường mà đưa đi lòng vòng.

Chợt bà Thoa như nhớ ra chuỗi tràng hạt mà cụ Lộc đưa cho và bảo rằng nếu có vấn đề gì thì hãy lấy nó ra mà sử dụng.

Bà Thoa nhanh tay lấy tràng hạt ra, thế rồi bà tiến tới đoạn đường phía trước, bà Thoa quỳ xuống trên mặt đường, bà lồng chuỗi tràng hạt lên hai cổ tay mà chắp tay lại, thế rồi bà nhắm mắt khấn:

- Con kính mong Địa Tạng Vương Bồ Tát rủ lòng thương xót hãy giúp chúng con tìm tới nhà người đàn ông tên Trúc này để cứu lấy dòng họ Ngô, mong ngài hãy dẫn lối chỉ đường cho chúng con.

Bà Thoa cứ lẩm bẩm khấn vái rồi cúi người vái lạy.

Sau cái vái lạy thứ ba thì một trận gió lạnh nổi lên.

Mây đen trên trời như bỉ thổi bay đi để lộ chút anh sáng mặt trời soi rọi xuống mặt đường.

Thấy trời đã sáng hẳn lên, lập tức nhỏ Huệ tắt ngay đèn pha xe máy.

Thế nhưng phép nhiệm mầu chưa dừng lại ở đây, chỉ tầm một phút sau, khi gió đã ngừng thổi, nhỏ Huệ nhìn ra phía xa xa thì thấy có bóng một người mặc bộ đồ vàng với ánh hào quang mở ảo cứ như là phật hiển linh vậy.

Nhỏ Huệ nói lớn:

- Bà ơi nhìn kìa...

Bà Thoa lúc này cũng ngẩng đầu lên thì thấy bóng phật đang đi ở xa xa.

Hiểu rằng Địa Tạng Vương Bồ Tát đang ra tay giúp mình, bà Thoa hai mắt nhạt nhòa nói:

- Cám ơn Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Thế rồi bà cúi lạy lần cuối và leo lên xe bảo nhỏ Huệ cứ đi theo bóng vị phật đó.

Chỉ chưa đây có mười lăm phút sau, hai người đã nhìn thấy bóng một ngôi chùa từ phía xa xa trên núi.

Cuối cùng với sự chỉ đường của phật hiển linh, cả bà Thoa và nhỏ Huệ đã đứng ngay trước cửa ngôi chùa, điều mà khiến cho bà Thoa và nhỏ Huệ không thề ngờ được rằng đây lại là một ngôi chùa chứ không phải là một căn nhà.

Nhỏ Huệ dựng chân chống xe, thế rồi nhỏ tiến tới gõ vào cái cửa chính mà gọi:

- Có ai ở trong không? chúng tôi đang có việc gấp?

Nhỏ Huệ cứ đứng đó gõ cửa mà gọi nhưng tuyệt đối không có ai ra mở cửa cả.

Nhỏ Huệ quay qua hỏi bà Thoa:

- Bà ơi hình như không có ai ở đây cả?

Bà Thoa lắng nghe cho thật kĩ thì bà vẫn nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh vang vọng từ trong chùa ra.

Bà Thoa bảo:

- Con thử gọi lần nữa coi, rõ ràng bà vẫn nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh phát ra từ bên trong mà...

Nhỏ Huệ lắng tai nghe kĩ thì quả thật là có tiếng gõ mõ tụng kinh phát ra từ bên trong thật, thế là nhỏ lại gõ cửa với gọi lớn thêm hai ba lần nữa, nhưng tuyệt đối vẫn không có kết quả gì.

Nhỏ Huệ buồn bã quay qua nhìn bà Thoa nói:

- Bà cháu mình về thôi bà ơi, chứ chắc không có ai đâu?

Bà Thoa như không tin vào điều đó, bà ta rưng rưng nước mắt tiến tới cố gõ cửa, không lẽ cả hai người đã mất bao công sức để đến được đây mà cuối cùng lại ra về tay không hay sao?

Chợt bà Thoa nghi ngờ rằng ma quỷ đang cản trở không cho vào chùa, một lần nữa bà cầm lấy chuỗi tràng hạt lên mà khấn.

Thật kì lạ thay, bà vừa khấn dứt câu thì cái cánh cửa gỗ tự động mở toang ra, nhỏ Huệ đứng cạnh bà thì kinh hãi trố mắt mà nhìn, cái cánh cửa lúc nãy còn khóa chặt mà sao giờ tự động mở ra được?

Ngay sau khi cánh cửa này bật mở, bà Thoa và nhỏ Huệ từ từ đi bộ vào.

Mùi hương trầm thơm ngát bao trùm lấy họ, một cái cảm giác thư thái nhẹ nhõm đến lạ thường.

Khi hai người vào đến bên trong thì không còn nghe thấy tiếng tụng kinh gõ mõ nữa.

Còn đang đứng ở giữa sân ngơ ngác nhìn, thì từ trong gian nhà chính tiến ra là một vị sư vô cùng trẻ tuổi mặc áo vàng.

Vị sư này tiến ra chắp tay lại hỏi:

- Mô phật, sao hai thí chủ lại vào được đây?

Bà Thoa thấy vậy bèn đưa cho vị sư trẻ tuổi này coi chuỗi tràng hạt.

Vị sư trẻ tuổi này mỉm cười, thế rồi cậu ta nói:

- Đúng là duyên số, ông Lộc trước khi chết mà vẫn cứu người, thật đáng khâm phục.

Bà Thoa và nhỏ Huệ thấy vị sư này nhắc đến cụ Lộc thì cái cảm giác thương xót lại dâng trào.

Vị sư trẻ tuổi này đưa tay ra mà nói:

- Phiền thí chủ cho bần tăng xin lại chuỗi tràng hạt đó được không?

Bà Thoa đưa lại chuỗi tràng hạt cho vị sư trẻ tuổi, thế rồi bà hỏi:

- Cậu có phải là ...

Vị sư trẻ tuổi này đáp luôn:

- Bần tăng chính là Trúc đây.

Nghe đến câu đó thì cả bà Thoa và nhỏ Hương đứng chết lặng, làm sao mà họ tin vào tai mình được cơ chứ khi mà người cứu mạng cụ Lộc cách đây mười năm lại là một người trẻ tuổi như thế này.

Còn chưa kịp nói gì thêm, thì sư Trúc đã lấy trong ống tay áo ra đủ tám lá bùa đưa cho bà Thoa và nói:

- Bà cầm tám lá bùa này về, ba lá thì gắn vào cửa của ba gian nhà.

Bốn lá sau thì hãy dán vào bốn bức tường trong gian nhà chính, một lá hãy để lên bàn thờ tổ.

Bà Thoa hỏi:

- Thế còn một lá nữa ạ?

Sư Trúc nói:

- Nhà bà có một người con gái tên Hoa, con cô ta mới chết.

Bây giờ cô ta đang sốt nặng, không thầy thuốc nào cứu được đâu.

Hãy đưa cô ta về và đặt nằm lên một cái bàn ngay trước bàn thờ tổ, cái lá bùa cuối đó hãy dán lên bụng cô ta thì cô ta sẽ ổn thỏa cho tới khi tôi tới.

Nhưng nhớ không ai được động vào người cô ta, hãy cứ để cô ta nằm trong đó một mình đợi tôi nghe chưa?

Bà Thoa nghe thấy thế thì thất kinh, "không lẽ nhỏ Hoa đang gặp nạn?", nhỏ Huệ quay qua nước mắt rơm rớm mà nói:

- Bà ơi ... không lẽ chị Hoa...

Bà Thoa lúc này cũng rơm rớm nước mắt, bà ta định nói gì thêm thì đã bị sư Trúc hối:

- Còn không mau đi đi là mọi việc lỡ dở hết đó.

Nghe vậy bà Thoa với nhỏ Huệ liền tức tốc cám ơn và cáo lui lên xe phóng lại về nhà, lần này trên đường về họ tuyệt đối không gặp trở ngại gì, có lẽ cùng nhờ vào tám lá bùa đó.

Về đến nhà, quả nhiên người nhà nói với bà Thòa và nhỏ Huệ rằng Hoa đang được chồng mình đưa đi cấp cứu.

Nghe thấy vậy, bà Thoa bảo nhỏ Huệ cùng với vợ chồng bác thứ lên bảo chồng Hoa đưa cô ta về lại nhà thờ tổ.

Bà Thoa thì mau mau đi dán bùa vào các vị trí.

Phải thuyết phục mãi chồng Hoa mới chịu đưa cô ta về nhà thờ tổ.

Mọi người kê một cái bàn để Hoa nằm lên, sau đó bà Thoa để lá bùa trên bụng Hoa, xong xuôi mọi người ra ngoài đóng cửa lại và đợi.

Thế nhưng mà từ trong gian nhà chính, Hoa cứ nằm van nài và kiếm cớ để bắt người nhà phải vào với cô.

Mấy lần chồng Hoa định lao vào nhưng mọi người ngăn lại, bà Thoa nói:

- Cháu có biết ... nhà này bị vong quỷ quậy phá không? sau bao nhiêu việc mà cháu không nhận ra hả?

Chồng Hoa nhìn bà Thoa nói giọng run run:

- Cháu biết chứ bà ... nhưng giờ vợ cháu đang ốm nặng ... biết đâu ...

Bà Thoa hai hàng lệ tuôn rơi nói:

- Còn biết đâu cái gì nữa... nếu cháu muốn cái Hoa khỏe mạnh, và còn muốn có con thì nghe lời bà ... ngồi đợi đi ...

Người chồng lúc này chỉ còn biết thờ dài, cậu ta đành cắn răng nghe Hoa gọi vọng ra từ trong gian nhà trính mà ngồi ngoài cùng mọi người đợi sư Trúc.

Mọi người nhà họ Ngô đợi trong hồi hộp, đến tầm tối hôm đó, mọi người đang ăn cơm trong bếp thì bỗng chốc một mùi hương trầm thơm ngát phảng phất đâu đây trong không khí.

Nhỏ Huệ là người nhận ra mùi hương quen thuộc đó đầu tiên, nó buông bát cơm chạy ra ngoài sân trước, mọi người thấy vậy cùng ùa ra theo.

Quả nhiên khi họ ra đến sân cũng là lúc mà sư Trúc đi bộ tay cậm gậy tre có khắc chữ phật đang tiến vào trong sân.

Bà Thoa nhìn sư Trúc hỏi:

- Sư thầy đến đây bằng ...

Chưa nói dứt câu sư Trúc đã hỏi:

- Thí chủ có làm theo như lời bần tăng dặn không?

Bà Thoa đáp có.

Thế rồi sư Trúc bảo mọi người cứ ăn cơm xong đi rồi lên cậu ta dặn dò mấy việc.

Mọi người nghe lời vào bếp ăn nốt bữa cơm tối tạm bợ cho xong, sư Trúc thì ngồi lên thềm nhà ngay trước gian nhà chính mà thiền.

Nhỏ Huệ pha tạm ấm trà nóng đặt bên cạnh sự Trúc lặng lẽ.

Sau khi ăn cơm tối xong, mọi người ngồi trước mặt sư Trúc trên thềm.

Lúc này sư Trúc mới mở mắt ra nói:

- Thứ nhất, tôi muốn mọi người biết rõ chuyện gì đang xảy ra với vị nữ thí chủ đang nằm trong kia.

Chồng của Hoa nghe thấy vậy thì toát mồ hôi hột hồi hộp, sư Trúc nói tiếp:

- Sở dĩ hai đứa con đầu lòng của vị nữ thí chủ này khi đẻ ra mà không khóc lóc gì, sau đó cứ vừa tròn hai tháng mà chết chuyện này đều là do vong quỷ gây ra cả.

Mọi người nghe đến đây thì rợn tóc gáy, bà Thoa và nhỏ Huệ còn kinh ngạc hơn nữa khi mà sư Trúc biết hết đầu đuôi ngọn ngành chuyện nhà họ Ngô này.

Sư Trúc tiếp lời:

- Hiện nay gia đình ta bị hai vong quỷ quậy phá, một là vong nữ bị ông Tú phụ bạc, vong thứ hai là của đứa nhóc nằm trong bụng mẹ.

Hai vong này thậm chí chưa thể làm gì được vì gia đình ta còn có quý nhân cao số nên chúng không lộng hành.

Thế nhưng khi mà vận hạn dòng họ Ngô đã tới, chúng bắt đầu tác oai tác quái để rửa hận.

Sở dĩ nữ thí chủ kia đến nay không có con và bây giờ bị ốm vì vong của đứa nhỏ liên tiếp nhập vào thai nhi, hay nói cách khác là nó dùng phép đầu thai để ngăn không cho nữ thí chủ này có con được.

Mọi người nghe đến đây thì nổi da gà, nào ai có thể ngờ được rằng hai con vong quỷ này lại mạnh đến mức có thể dùng phép mà tự đầu thai luân hồi được cơ chứ?

Chồng Hoa lúc này mới nói giọng run rẩy:

- Nhưng ... nhưng tại sao lại là vợ tôi chứ?

Sư Trúc nhìn chồng Hoa nói:

- Đơn giản vì nữ thí chủ kia là người mà ông Tú yêu thương nhất.

Chồng Hoa nghe vậy thì như hiểu ra mọi chuyện, cậu ta chỉ biết cúi mặt buồn bã.

Sư Trúc tiếp lời:

- Ngã phật từ bi, hai nữ thí chủ Thoa và Hà đã tìm mọi cách để tạ lỗi và giúp cho vong quỷ thanh thản mà bước tiếp nhưng tất cả chỉ là vô dụng.

Oán thù của vong quỷ là quá nặng, cho nên dẫn tới việc thí chủ Hà phải đền mạng đầu tiên cũng thật là đáng tiếc lắm.

Bà Thoa nghe thấy sư Trúc nhắc đến bà chủ thì lại rơm rớm nước mắt.

Sư Trúc nói:

- Bây giờ bần tăng muốn đợi đến mười giờ đêm nay, là cái giờ mà vong quỷ hiện hình sẽ đánh cho chúng tan hồn phách.

Bà Thoa nghe thấy vậy bèn hỏi:

- Nhưng ... nhưng như vậy không phải là đi ngược lại với ý nghĩa của đạo Phật hay sao ạ?

Sư Trúc nhìn bà Thoa đáp:

- Mô phật, đức phật từ bi là thế, nhưng không có nghĩa là chúng ta phải quay lưng lại và chịu thua với cái ác.

Bà Thoa như hiểu ra chân lý cũng không nói gì thêm, sư Trúc nói tiếp:

- Bây giờ ngoài hai nữ thí chủ Thoa và Huệ ở lại, những người còn lại của nhà họ Ngô hãy tạm lánh đi đêm nay để bảo toàn tính mạng.

Nói xong sư Trúc lấy trong ống tay áo ra một cuộn chỉ đỏ, thế rồi sư Trúc buộc vào tay mỗi người một đoạn trừ bà Thoa và Huệ ra.

Mọi người được buộc chỉ đỏ xong cũng rủ nhàu lánh tạm đi nơi khác và họ hẹn sáng mai sẽ quay lại.

Lúc moi người đi khỏi, sư Trúc mới nói với bà Thoa:

- Thậm chí bần tăng cần hai người ở lại đây vì nữ thí chủ Huệ đây chính là quý nhân cao số, cần có nữ thí chủ ở lại để trấn áp vong quỷ phụ đường tăng.

Nhỏ Huệ quay qua nhìn bà Thoa như không hiểu, thế rồi sư Trúc nói:

- Còn bà là người có duyên với cửa phật, bần tăng muốn bà ở bên cạnh nữ thí chủ Huệ để bảo vệ cô ta.

Bà hãy ngồi tụng niệm kinh Quan Thế Âm Bồ Tát, để bảo vệ nữ thí chủ Huệ.

Và tuyệt đối nhớ rằng, rù có chuyện gì cũng không được phép mở cửa.

Bà Thoa và nhỏ Huệ nghe thấy vậy thì khẽ gật đầu.

Thế rồi sư Trúc bảo hai người cứ về gian nhà bên phải mà nghỉ ngơi, đợi cho hiệu lệnh của sư Trúc thì hãy đóng cửa lại.

Bà Thoa và nhỏ Huệ tiến về gian nhà bên phải ngồi đợi trước thềm, họ nhìn qua thì thấy sư Trúc vẫn đang ngồi thiền.

Đến gần mười giờ, sư Trúc đứng dậy tay cầm gậy nhìn về phía bà Thoa đang ngồi trước thềm.

Bà Thoa như hiểu ý đã đến giờ, bà đứng lên đi vào nhà và đóng cửa lại cài then chắc chắn.

Lúc này sư Trúc mới vô trong gian nhà chính và đóng cửa.

Hoa nằm trên bàn không nhúc nhích, khi thấy sư Trúc đi vào thi im bặt không còn kêu gọi người nhà nữa.

Cả bà Thoa và nhỏ Huệ ngồi trong nhà mà hồi hộp chờ đợi.

Bỗng nhiên từ gian nhà chính phát ra tiếng Hoa khóc lóc van xin đủ thứ khiến cho bà Thoa và nhỏ Huệ cám thấy bứt rứt vô cùng.

Bà Thoa như nhớ lời sư Trúc, bà Thoa bắt đầu ngồi xếp trân trên giường, chấp hai tay và bắt đầu tụng kinh Quan Thế Âm.

Tiếng khóc van xin của Hoa bống ngưng hẳn, thay vào đó là tiếng chửi bới.

Thế rồi vang lên là những tiếng gậy tre quất nghe "vun vút" và "chan chát" rõ mồn một.

Bà Thoa ngồi nghe tiếng gậy tre nện xuống mà cứ hình dung hình ảnh sư Trúc đánh Hoa khiến bà rối bời, phải khó khăn lắm bà mới trấn tĩnh lại và tụng kinh được.

Độ nửa tiếng thì bốn bề im lặng, nhỏ Huệ ngồi cạnh bà Thoa mặt sợ sệt.

Bỗng nhiên cánh cửa phòng của hai người rung lên ầm ầm, từ bên ngoài là tiếng ông Tú:

- Hai đứa bay mở cửa ra mau, thằng thầy chùa nó đánh đập tao ghê quá!!!

Mau cứu tao với!!!

Nhỏ Huệ nghe thấy người ở ngoài tự xưng là ông Tú thì dựng hết cả tóc gáy ngồi sát vào bà Thoa.

Bà Thoa như biết đó là vong quỷ giả mạo, vẫn thản nhiên ngồi tụng niệm kinh văn.

Tiếng đập cửa và tiếng kêu cứ vang lên tầm gần một phút là biến mất.

Một lát sau, cách cửa lại rung lên, lần này người bên ngoài là Hoa cầu cứu:

- Bà ơi!

Mở cửa cho con!

Nhà sư kia giở trò đồi bại!

Hãy cứu con với! huhuhuhuhu!

Cả bà Thoa và Huệ nghe đến đây thị chột dạ lo lắng vô cùng, bên ngoài là tiếng Hoa khóc thút thít van xin được cho vào.

Bà Thoa cố trấn tĩnh bản thân mà nói:

- Sứ Trúc là người đức cao vọng trọng, tuyệt đối không có chuyện đó đâu.

Hoa cất tiếng gào khóc bên ngoài thảm thiết hơn nữa, cô ta đập cửa ầm ầm mà nói:

- Nhưng vị sư này còn đánh đập con đau quá!

Bà mau mở cửa cho con!

Huệ!

Huệ ơi!... mở cửa cho chị...!

Lúc đầu nhỏ Huệ định lao ra thì bị bà Thoa kéo tay ngắn lại.

Nhỏ Huệ nói nhỏ:

- Nhỡ là chị ý thật thì sao hả bà...

Bà Thoa chừng mắt nhìn nó, lúc này Hoa bên ngoài như nghe thấy câu hỏi đó vội hét lớn:

- Chính là chị đây mà em!

Chị là chị Hoa của em đây!

Bà Thoa nói lớn vọng ra:

- Con hãy chịu khó, để sư Trúc giúp con đánh đuổi hai con vong quỷ kia đi!

Thay cho câu trả lời, là tiếng Hoa gào thét tức giận đến inh tai nhức óc, kèm theo đó là tiếng đập cửa với tiếng cào cửa.

Nhỏ Huệ như nhận ra đây quả đúng không phải là chị mình thì nó run rẩy chèo lại lên giường nấp sau lưng bà Thoa, còn bà Thoa thì vẫn điềm tĩnh tiếp tục tụng niệm kinh văn.

Chỉ một lúc sau là bốn bề lại yên lặng.

Thế rồi tầm bốn giờ sáng, tiếng gõ cửa lại vang lên, nhưng lần này có vẻ như là tiếng gõ của của người sống.

Bà Thoa nói vọng ra:

- Là ai?

Tiếng sư Trúc bên ngoài vọng vào:

- Là bần tăng đây, bần tăng bị cho vong quỷ làm trọng thương, thí .. thí chủ hãy mở cửa cho bần tăng vào với?

Nhỏ Huệ nghe thấy đó là sư Trúc thì nó vội tiến tới định mở cửa nhưng một lần nữa bà Thoa đã ngăn nó lại.

Bên ngoài vẫn là sư Trúc gõ cửa giọng yếu ớt:

- Bần tăng van xin hai vị thí chủ hãy mở cửa cho bần tăng ... không có bần tăng sắp lâm nguy rồi ...

Nhỏ Huệ nhìn bà Thoa vẻ mặt thúc giục, nhưng bà Thoa vẫn nghiêm nghị nhìn nó.

Thế rồi bà Thoa kéo con nhỏ Huệ ngồi lại lên giường.

Mặc cho sư Trúc cứ gõ cửa với cầu cứu bên ngoài.

Được độ mấy phút thì bốn bề lại yên ắng trở lại, nhỏ Huệ và bà Thoa ngồi trên giường có lắng tai nghe coi coi có động tĩnh gì không.

Sáng hôm sau, khi bà Thoa và nhỏ Huệ mở cửa bước ra thì họ đã thấy cửa gian nhà chính mở rộng. hai người hồi hộp bước vào thì thấy chỉ có mỗi mình Hoa đang dọn lại bàn thờ.

Nhỏ Huệ lớn tiếng gọi:

- Chị Hoa!

Hoa giật mình quạy lại nhìn Huệ nói:

- Con nhỏ này, làm chị giật mình.

Thế rồi Huệ chạy lại ôm chầm lấy Hoa mà khóc, Hoa thì không hiểu chuyện gì xảy ra.

Bà Thoa lúc này mới hỏi:

- Sư Trúc đâu rồi con?

Hoa nhìn bà Thoa ngơ ngác hỏi:

- Sư Trúc nào cơ hả bà?

Bà Thoa cảm thây lạ lẫm lắm, thế rồi bà ta hỏi coi Hoa có nhớ gì không thì Hoa kể là cô có cảm giác như mình mới ngủ dậy sau một giấc ngủ dài lắm.

Khi dậy thì cô thấy mình đang nằm ở gian chính nhà thở tổ một mình.

Cô định đi kiếm mọi người nhưng khi nhìn lên bàn thở tổ thì thấy mọi thứ bị xô lệch đổ hết nên cô dọn dẹp luôn.

Bà Thoa nghe thấy vậy thì nghĩ rằng không lẽ sư Trúc sau khi xong việc đã bỏ đi từ sớm.

Nghĩ đến đây bà nhìn lên hai bên góc tường nơi dán bùa thì không thấy lá bùa đó đâu cả.

Còn đang thấy lạ lẵm lắm thì cũng là lúc người nhà họ Ngô quay lại, chồng Hoa thấy Hoa khỏe mạnh thì mừng rỡ mà ôm chặt lấy cô.

Mọi người vô cùng vui mừng và hỏi thăm Hoa.

Thế nhưng tuyệt đối không ai biết sư Trúc đã bỏ đi từ lúc nào, khi bà Thoa họi mọi người còn sợi chỉ đỏ không thì mọi người bảo sáng dậy đã thấy chỉ đỏ biến mất rồi.

Cũng kể từ đó mà dòng họ Ngô lại yên bình trở lại, mọi người quyết định chung tiền và xây cho người con trai cả một nấm mộ ngay tại vườn sau luôn.

Thếm vào đó dòng họ Ngô đã bỏ hẳn nghề vải và chuyển qua làm ruộng.

Bà Thoa thì như nhớ tới công ơn của cụ Lộc, bà bảo nhà họ Ngô hỏi tìm cho ra nơi người ta trôn cụ để được đưa ảnh cụ về để thờ cúng ngay tại bàn thờ tổ.

Thêm vào đó, bà Thoa cũng bảo nhà họ Ngô làm lễ ra cúng kiến ven hồ cho vong nữ ngày nào và lập hẳn một miếu cô ở đó để cho vong nữ có nơi yên nghỉ hẳn hoi và được người ta đến cúng bái cho đàng hoàng.

Người nhà họ Ngô đồng thời cũng đi lại lên ngôi chùa của sư Trúc để dâng lễ tạ ơn nhiều lần nhưng họ tuyệt đối không tìm thấy ngôi chùa đó đâu cả.

Linh tính như có gì đó không phải, bà Thoa quyết định cùng với nhỏ Huệ lên chùa tìm lại sư Trúc một mình.

Thế nhưng cả hai dường như chết điếng người khi họ đã tìm ra được ngôi chùa của sư Trúc ngày nào, thế nhưng đây lại là một ngôi chùa hoang.

Bà Thoa và Huệ bước vào giữa sân chùa, cảnh vật vẫn như vậy chỉ có điều bụi bẵm và cũ kĩ hơn, thế những mùi hương trầm thơm ngát vẫn lan tỏa.

Như được thức tỉnh, bà Thoa quyết định ở lại chùa dọn dẹp và tu luôn ở đây.

Nhỏ Huệ sau khi về nhà báo tin cho người nhà họ Ngô thì họ đã chi tiền giúp bà Thoa sửa sang lại ngôi chùa đó.

Cũng từ đó mà ngôi chùa này được nhiều người biết đến hơn nữa và thường lưu tới cúng bái, đồng thời chùa cũng nhận thêm nhiều tăng ni phật tử khác.

Không lâu sau, trong một lần lên thăm bà Thoa, Hoa đã báo tin vui rằng cô ta đã mang thai và bác sĩ trẩn đoán đây là một đứa bé trai và nó hoàn toàn khỏe mạnh.

Bà Thoa vui mừng cầm chặt tay Hoa mà tuôn rơi nước mắt, cuối cùng thì sự an lành cũng đã quay trở lại với dòng họ Ngô.

Duy chỉ có một điều mà bà Thoa hay như người nhà Ngô không bao giờ hiểu được đó là người đã giúp gia đình họ, sư Trúc, là người hay là thần phật?
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Chó Thành Tinh


Con chó cái nhà phú ông đi hoang một thời gian bỗng quay về.

Ông mừng rỡ, lại càng mừng hơn, khi thấy cái bụng nó có chửa.

Ít lâu sau, con chó cái đẻ được năm con chó con, trong đó có một con chó đực toàn thân đen như mực, mũi trắng, giữa trán có một đốm trắng, bốn bàn chân như mang vớ trắng, chót đuôi cũng trắng phau.

Các bậc trưởng lão đến chơi đều khuyên ông nên đập chết con chó đen đó, hoặc nuôi nó lớn một chút rồi đem nấu vài món cầy tơ nhậu quách cho rồi.

Phú ông gạt phắt đi:

- Chó nào chả là chó?

Hơi đâu mà tin dị đoan.

Thế là phú ông cứ nuôi cả sáu mẹ con chó đen có bộ lông kỳ lạ đó.

Bà con lối xóm thấy nhà ông có nhiều chó con nên đến xin, ông đều cho, nhưng không ai lựa con chó đen đốm trắng.

Con chó còn lại này, sau thời kỳ bú mẹ, biết ăn, rất mau lớn, trông thật đẹp mã.

Riêng cái đốm trắng chính giữa trán, nếu tinh ý nhìn kỹ, càng giống hình cái...

đầu lâu.

Nó là một con chó rất hung hăng, giữ nhà, giữ cửa rất đắc lực.

Nhưng một thời gian sau người ta phát hiện nó thích ăn thịt sống, thường lén chạy sang nhà hàng xóm bắt gà vịt, mèo con hoặc chạy ra đồng hoang bắt rắn và chuột ăn tươi nuốt sống.

Lúc săn mồi, nó chạy nhanh cực kỳ, miệng hả lớn, lưỡi thè dài, răng nhọn hoắt, bốn chân sải vun vút trong gió như không chạm đất, chìa các móng sắc bén ra tứ hướng như thị oai, răn đe.

Nó luôn luôn giành ăn và cắn chó mẹ cho đến chết lần chết mòn.

Thấy vậy, nhiều người khuyên phú ông nên đề phòng kẻo nó thành tinh.

Phú ông cũng cho đó là chuyện huyền hoặc, tin theo chỉ là mê tín dị đoan.Ngôi nhà phú ông lợp ngói, mái dốc rất khó leo.

Mỗi khi nhà dột, muốn leo lên thay một miếng ngói cũng khó.

Vậy mà một đêm kia, phú ông nghe như có người chống gậy đi trên mái nhà.

Ông cho đó là kẻ trộm nên giả bộ ho để kẻ gian nghe thấy trong nhà có người còn thức mà bỏ đi.

Quả nhiên, sau tiếng ho của ông, tiếng động trên mái nhà nhẹ dần rồi mất hẳn.

Đêm hôm sau, ông lại nghe thấy những tiếng động tương tự.

Ông ngồi dậy thắp đèn, tiếng động lại mất dần.

Rồi đêm thứ ba, thứ tư... sự kiện này lại tái diễn.

Thật là một tên trộm gan lì, lối đuổi trộm của ông chỉ hiệu quả qua từng đêm, chẳng làm nó sợ.

Ông phải rình và cho tên trộm này một trận để từ nay về sau nó không dám tới kiếm chác tại nhà ông nữa.

Nghĩ vậy ông lấy cây cung xưa nay vẫn gác trên kèo nhà và bó tên xuống.

Đêm thứ năm, ông lắp sẵn tên vào cung ngồi chờ, cửa chỉ khép hờ.

Quá nửa đêm, vừa nghe tiếng động như bốn đêm trước, ông vội rón rén bước ra sân.

Hôm ấy tối trời, nhiều sao, nhưng ánh sao không đủ chiếu sáng để ông nhìn rõ những vật xung quanh.

Ra tới sân, phú ông nhướng mắt nhìn lên mái nhà.

Ông chỉ thấy lờ mờ một bóng người đầu đội nón lá, đang đi từng bước một.

Ông vô cùng kinh ngạc tự hỏi: Người gì mà lạ lùng vậy, đi ăn trộm sao lại đội nón và chống gậy?

Ông định thần nhìn kỹ.

Trong bóng tối mờ mờ ảo ảo ông thấy người đó không cao lắm, chỉ cỡ một đứa trẻ năm sáu tuổi, hai tay ngắn và hai chân cũng ngắn.

Ông tự hỏi: Con nhà nào mà nghịch ngợm như ma quỷ thế nhỉ?

Bóng đen ấy đang nghểnh đầu nhìn về phía xa xa, có vẻ như chờ đợi hoặc đang trông ngóng điều gì!

Mặc kệ!

Muốn gì thì gì, dù là kẻ trộm hay trẻ con nghịch ngợm, ông cũng bắn một mũi tên về phía bóng đen, nhưng chỉ bắn để dọa dẫm, chứ không định tâm bắn trúng nó.

Mũi tên vút qua mặt, bóng đen giật mình và cũng chỉ đánh vút một cái, nó lao mình vào đêm tối biến mất.

Ông quay trở vào nhà, đặt mình nằm, nhưng băn khoăn về những điều vừa xảy ra, bán tín, bán nghi suy nghĩ vẩn vơ mãi mới ngủ được.

Sáng hôm sau, ông vừa thức dậy chưa kịp pha trà uống nước đã nghe vợ ông hỏi:

- Chiếc nón chiều qua, tôi để ở nhà bếp, ông có lấy làm gì không?

- Chiều tối rồi tôi làm gì đến nón?

Chắc bà để đâu rồi quên đấy thôi!

Vợ ông không quên.

Lúc ở ngoài đồng về, chính tay bà móc chiếc nón lên tay cối xay lúa, sáng nay định đội ra đồng, tìm không thấy nữa.

Phú ông pha trà, rót mời vợ.

Bỗng có anh tá điền từ ngoài vào, tay cầm chiếc nón và một chiếc gậy tre, nói:

- Nón của ai vứt ra hàng rào ngoài vườn, bên cạnh lại có cả chiếc gậy!

Phú ông nói:

- Chắc đứa nào nó nghịch chứ gì!

Tuy nói thế nhưng phú ông rất băn khoăn, khó hiểu về điềm gở này.

Hôm sau, có ông hàng xóm qua chơi, phú ông thuật lại những chuyện đã xảy ra đêm qua, không quên nói thêm về chiếc nón và chiếc gậy ở hàng rào ngoài vườn.

Ông hàng xóm không nói gì, uống nước, ăn trầu, hút thuốc rồi ra về.

Ra tới cổng, ông lên tiếng mời phú ông sang nhà chơi, ông có chút chuyện cần nói...

Gần trưa, phú ông sang nhà ông hàng xóm chơi.

Sau khi mời nước, ông hàng xóm nói:

- Tôi phải mời ông sang đây, vì tôi biết câu chuyện nói với ông sẽ bị con chó lông đen mũi trắng nhà ông nghe hết.

Tôi để ý thấy nó cứ quanh quẩn để nghe trộm những điều chúng ta nói với nhau.

Phú ông ngạc nhiên hỏi:

- Chó mà cũng biết nghe trộm à?

- Đúng!

Con chó này nó là Khuyển tinh, chó yêu ma, chứ không phải chó thường như bao con chó khác.

Bóng đen ông thấy trên nóc nhà chính là nó.

Phú ông lắc đầu nói:

- Tôi không tin!

Chó làm sao biết đội nón, lại biết đi hai chân!

Ông hàng xóm bảo:

- Trời ơi, ông ngây ngô quá!

Là yêu ma, nó có thể đi một chân, hai chân, thậm chí còn bay được nữa là đằng khác ấy chứ.

Ông không nghe các cụ nói gì về chó ma hay sao?

Phú ông lắc đầu.

Ông hàng xóm lại nói tiếp:

- Các cụ bảo rằng nó là yêu ma mang hình chó gọi là Khuyển tinh.

Loại Khuyển tinh này thiên biến vạn hoá, lúc thì hữu hình, lúc thì vô hình.

- Nó làm thế để làm gì?

- Thế ông cho cái bóng đen đi trên nóc nhà là một đứa nhỏ?

Con nhà ai mà lúc đêm hôm lại đi như thế?

Vả lại một đứa nhỏ làm sao có thể vút mình, khi ông buông ra phát tên.

Có mà ngã dập xác.

Còn con chó ma này leo lên nóc nhà là để ngóng đồng bọn yêu ma của nó đó.

Ở cái vùng đất đai nhà cửa bán sơn, bán địa, âm u ám khí như cái vùng chúng ta đang sống này có nhiều ma quái lắm.

Hằng đêm, âm khí vượng nên chúng quy tụ lại.

Chúng sẽ họp tại nhà con chó ông đang nuôi để bàn bạc gieo tai họa trả thù, trả hận con người.

Năm nay lại nhằm vào năm chó.

Dân các nước Âu Mỹ rất thương yêu quý trọng chúng, còn ở xứ ta thì con người bắt chúng đem ra đập đầu cắt cổ hoặc trấn nước làm thịt, chế biến thành bảy, tám, chín món cầy tơ ăn nhậu lu bù khắp làng quê, phố phường.

Con chó nhà ông nó ngước nhìn về phía xa xa là để chờ đợi bộ tham mưu của nó đến đó.

Ông sớm mà trừ nó đi kẻo mang tai hoạ đấy!Phú ông nhíu mày suy nghĩ rồi hỏi:

- Ở làng ta, ngoài tôi ra, có ai nuôi một con chó như vậy đâu?

Ông hàng xóm cười nói:

- Tin hay không là quyền ở ông!

Nhưng dù không tin ông cũng nên hóa kiếp con chó cho yên thân.

Phú ông cảm ơn ông hàng xóm những điều đã nói và ra về.

Ông thấy cũng có đôi điều hợp lý nhưng trong lòng vẫn hơi nghi hoặc.

Về đến sân nhà, ông thấy con chó đen chạy ra vẫy đuôi mừng rối rít.

Nhìn nó vẫn là chó, lòng ông tan biến mọi nghi hoặc và vẫn để nó sống yên trong nhà mình.

Ông vẫn nuôi con chó lông đen mũi trắng đó cho đến khi nhà ông xảy ra một chuyện lạ.

Ông có đứa con gái đầu lòng mới 18 tuổi, trông rất duyên dáng và dễ thương.

Trai làng đã nhiều cậu lăm le muốn làm rể.

Bỗng con gái ông tự nhiên mang bệnh, thuốc thang chữa trị thế nào cũng không khỏi, nhiều khi còn mê sảng.

Trong lúc tỉnh, cô đã nói cho cha mẹ cô biết rằng đêm đêm cô cứ mơ thấy một bóng đen lách qua cửa sổ vào ép cô ân ái.

Cô chống cự không nổi nên đành phải làm theo ý hắn.

Kể từ khi rơi vào vòng tay hắn cô bắt đầu phát bệnh.

Cô cho cha mẹ biết bóng đen ấy rất kỳ lạ, không bao giờ nói năng câu gì.

Hắn đến ép buộc cô mây mưa xong rồi đi ngay cô hỏi nhưng không bao giờ hắn trả lời.

Nhiều lần cô chống cự không được, chỉ ú ớ kêu không thành tiếng.

Ông bà phú hộ lo lắng, tin chắc con gái mình bị tà ma ám ảnh.

Một mặt phú ông cho người đi khắp nơi tìm thầy pháp xin bùa dán nơi buồng con gái để trừ tà.

Một mặt phú ông nhờ một anh lực điền canh gác cửa chính và cửa sổ buồng ngủ cô con gái cưng.

Chính ông, đôi khi đêm hôm thức giấc, cũng đến rình xem trong buồng ngủ con gái có động tĩnh gì không.

Tuy nhiên, ông muốn làm gì thì làm, đêm đêm con gái ông vẫn phải làm theo ý muốn của bóng đen ma quỷ kia nên người cô ngày một xanh xao.

Một đêm kia thức giấc, phú ông tới buồng thăm con gái bỗng phát hiện anh lực điền gục đầu ngay cửa sổ, còn trong mùng cô con gái có người lục cục.

Ông vội đập cửa báo động thì một bóng đen từ trong mùng lao nhanh ra cửa sổ, vượt qua đầu anh lực điền biến mất.

Cái bóng đen ấy không phải hình người, không phải hình vật, trông y hệt cái bóng đen chống gậy và đội nón đi trên nóc nhà trước đây.

Hai bóng đen là một và...

đó là con chó.

Phú ông buồn rầu về buồng mình.

Ông hối hận vì đã không hóa kiếp con chó cho xong.

Bây giờ, ông phải quyết định giết nó để trừ giống yêu tinh đang gieo họa cho con gái mình.

Nhưng một mình làm không nổi, ông phải nhờ một anh lực điền giúp sức.

Có lẽ con chó biết rõ ý định của chủ, nên tuy vẫn ở trong nhà ông, nhưng không để ai gần được nó.

Có lúc bị ông và anh lực điền đuổi bắt không hiểu nó có phép nhiệm màu gì mà tránh thoát một cách dễ dàng, kể cả một lần anh lực điền đã choàng được vào cổ nó sợi dây thòng lọng bằng sắt.

Sau đó, con chó thấy phú ông đuổi anh lực điền đi, không cho ở nữa.

Trong nhà chỉ còn người già và con gái nên nó có vẻ khinh thường và vẫn tác oai tác quái.

Một ngày nọ, nó đang nằm giữa nhà thì thấy một ông già mặc quần áo thụng màu lá khô đến gõ cửa.

Phú ông chạy ra chấp tay bái, mời khách vào tiếp đãi.

Con chó cảnh giác đi loanh quanh nhưng thấy hai người chỉ nói chuyện mùa màng, thời tiết nên yên tâm nằm tự nhiên bên cạnh không cần phải nghe lén, theo dõi.

Bỗng...

Vút!

Xoẹt...

Vút!

Xoẹt...

Khắp nhà ngời lên những tia chớp sáng.

Thì ra ông khách đã bất thần móc ra một sợi dây ngũ sắc dấu kín trong người, quất trúng vào con chó.

Con chó dị hình đã bị thần pháp trói chặt.

Nó ngơ ngác ngước cặp mắt đỏ ngầu nhìn lên mọi người rồi từ từ nhắm kín lại.

Bấy giờ cũng chính là giờ Tuất, ngày Tuất, tháng Tuất.

Trước giây phút bị kết liễu mạng sống, nó còn kịp biết ông già mặc quần áo thụng màu lá khô là một vị pháp sư do anh lực điền rước về.

Anh ta đã vâng lệnh phú ông âm thầm lặn lội lên núi thiêng rừng cao sát tận biên giới tìm pháp sư cao tay.

Vị pháp sư này đã dùng phép của một sợi dây ngũ sắc.

Khi ma quỷ vừa chạm vào sợi dây, tức khắc bị sợi dây thần trói chặt.

Không còn biến hình được nữa.

Nó giống như ánh sáng mặt trời, thuộc dương.

Ma quỷ hay yêu tinh thuộc âm, đều phải chết, hoặc tan rã dưới dương quang, không thể gây tai họa cho con người được nữa...
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Quê Em Đất Độc 1-2


Gần đây có nhiều thớt của anh em về chuyện ma quỷ, tuy nhiên đa phần chỉ là anh em được nghe kể lại, hoặc chứng kiến nhưng mờ ảo hoặc mụ mị.

Em suy nghĩ lung lắm, cuối cùng cũng quyết định viết ra những chuyện em từng gặp.

Em xin khẳng định tất cả đều là người thật việc thật, nhân vật hiện còn sống, là họ hàng thân thiết của em và chỉ xảy ra ở 1 nơi - quê ngoại em, xã Ngọc Thụy - phường Long Biên - Hà Nội.

Chuỗi chuyện em sắp kể ra sau đây có những chuyện em biết từ bé, có những chuyện em trực tiếp chứng kiến,và có cả những chuyện xảy ra khi mẹ em còn nhỏ; tạo thành 1 chuỗi những điều kì lạ, phủ lên trong tuổi thơ của em và người nhà em sự u ám của khu đất đấy.

Các bác có thể tin, có thể không, em kể cũng chỉ để giãi bày, xin đừng ném gạch

Em muốn kể theo trình tự thời gian để các bác cùng hiểu tại sao em đặt tên thớt là Đất độc; nhưng em muốn kể câu chuyện này trước.

Cách đây ít lâu tình cờ đọc được 1 chuyện liêu trai trên f17, em giật mình, vì những gì viết trong truyện là những gì đã xảy ra thực sự ở trong nhà ngoại em, và đó cũng là động lực thôi thúc em lập thớt này.

Câu chuyện thứ 1: CON CHÓ Quê em là làng Bắc Biên, nằm ngay bờ bên kia sông Hồng, dưới chân cầu Long Biên.

Bà ngoại có 4 người con: mẹ em là cả, dưới có cậu D. rồi đến cậu C. và dì T. (em xin phép được viết tắt vì nhiều lí do).

Năm 86 cậu D sinh con đầu lòng, cái Linh, bà em cũng xin được trong làng về 1 đôi chó, đặt tên là Tin và Mic.

Bà em yêu động vật lắm.

Bà bảo coi như con Linh và 2 con này bằng tuổi nhau..

Cứ thế 2 con chó ở với bà em, cho đến khi chuyện xảy ra năm 2001, năm đấy cái Linh tròn 15 tuổi.

15 năm sống với chủ, con Tin đặc biệt rất khôn và hiểu ý người.

Nó hay tha thẩn chơi ngoài sân, hoặc trông đàn gà cho cậu D.

Người ta bảo chó càng già càng thông minh.

Có khi cậu em bảo vào lấy cái rổ trong bếp, nó cũng lững thững đi vào và tha ra cái rổ.

Trái với con Tin, con Mic hay gầm ghè, và chỉ thích thui thủi 1 mình.

Nó ít sủa, chỉ gừ trong cuống họng nhưng trông nhà cực tốt.

Hình như có vía nó, chó mèo hàng xóm không bao giờ sang phá phách trong vườn nhà em.

Bà và cậu D. tự hào về 2 con chó lắm.

Năm đấy nước sông lên cao.

Chiều tối, con Tin không về ăn cơm như mọi khi..

Sáng hôm sau cậu D em ra sông thì thấy nó nằm chết cạnh bờ tre.

Cậu đưa nó về, và chôn ở gốc chuối trong vườn.

Bà em buồn lắm.

Cả buổi sáng chẳng nói năng gì.

Giữa trưa trời nắng to, bà em tranh thủ mang cơm ra phơi.

Bỗng có tiếng gậy gỗ gõ cọc... cọc... xuống đất, đều đặn từng tiếng một ở sân sau.

Nghĩ bụng có khách, bà em vào nhà lấy cái nón định chạy ra thì thấp thoáng sau gốc cây, con Mic đang chống gậy, đi bằng 2 chân sau, đầu đội cái nón lá của bà...

Nó đi từng bước một từ sân sau, hướng ra cổng..

Bà em mồm cứng đơ, chỉ lắp bắp được mấy tiếng "D.

D... ra cứu mẹ".

Cậu mợ em từ nhà dưới chạy lên, nhìn thấy con Mic, đứng khựng lại..

Con Mic đi từ từ, đứng bằng 2 chân sau, 2 chân trước nó kẹp lấy cái đầu gậy, đầu đội nón, lưỡi lè ra đỏ hỏn tiến dần ra cổng.

Từ sân sau ra cổng khoảng hơn 10m, 3 người nhà em đứng như tượng đá, đến khi nó đến gần cổng thì cậu D. vùng ra đuổi theo.

Bóng con Mic khuất sau cái cổng, cũng là lúc cậu em lao ra đến nơi nhưng nó đã biến mất.

Bà em lúc này mới hoảng hồn vào nhà thắp hương...

Cả 3 người mặt cắt không còn giọt máu.

Về kể lại chẳng ai tin.

Lại bảo cả 3 bị hoa mắt.

Đêm đấy mưa to.

Nhà em sát bờ sông, năm 2001 chưa có kè, nước vào sâu đủ nghe cả tiếng vỗ í oạp.

Sáng hôm sau cậu D. ra vườn thì chỗ chôn xác con Tin bị đào be bét, cái xác cũng chẳng còn.

Xung quanh chi chít dấu chân chó.

Đến giờ bà em vẫn bảo, 2 con đấy chưa đi đâu cả, vẫn ở trong vườn, nhưng nhà mình không nhìn thấy mà thôi...

Câu chuyện thứ 2: THẦN HỘ MỆNH

Em kể qua 1 chút về bên ngoại.

Đất bên ngoại em rất rộng.

Năm ông mất, gia đình chia ra cho mỗi con 1 ít để cất nhà ở.

Trừ mẹ em đang ở ngoài HN, cậu D. cậu C.

đều ở riêng, bà em cũng cất 1 căn cấp 4 ở đoạn sân sau nhà cậu C.

để ở và nhang khói cho tổ tiên.

Năm 2005 dì T về xây nhà, thành ra cả gia đình quây quần.

Có 1 điều rất kì quái ở khu đất nhà em, đó là ngoài mẹ em và dì T. sinh con ở HN, được toàn con trai, thì những người nhà em ở khu đó đều sinh con gái.

100% con gái.

Cậu D.

2 con gái; cậu C. hiếm muộn, về sau cũng sinh 2 con gái.

Năm 2006 gia đình em vợ cậu C, và chị chồng dì T. chuyển về, cũng sinh thêm 4 con gái nữa.

Cạnh nhà bà em là nhà chị ruột của bà, trừ bác cả sinh anh họ em trong Thanh Hóa, còn lại là 3 cô con gái.

Mới đây cái Linh lấy chồng, mang thai tháng thứ 2, cả nhà phán chắc chắn là gái, quả nhiên chính xác...

Người ta bảo sinh con phụ thuộc vào khí của đất, và con gái mang phần Âm...Năm 2002 em học lớp 10, 1 lần về quê, ra mộ tổ thắp hương, tình cờ thấy 1 ngôi mộ với bài vị tiếng Trung Quốc, băn khoăn, em hỏi mẹ.

Đấy cũng là 1 bí mật của gia đình em.

Chuyện xảy ra năm mẹ em 12 tuổi.Ông ngoại em làm công nhân nhà máy bút bi Hồng Hà.

Ông thường làm ca muộn, lắm khi đến 1 2h đêm mới về.

Nhà cũ bên ngoại em dạng cổ, 1 gian, bên phải là cái phản 5 mẹ con ôm nhau nằm.

Đêm đấy trời lâm thâm mưa.

Bà với mẹ em đang nằm nói chuyện đợi ông về, thì bỗng nghe rục rịch từ ngoài vườn.

Tiếng động càng lúc càng rõ hơn, rậm rịch, rậm rịch, nghe như tiếng vó ngựa.

Bà em nhỏm dậy định thắp nến lên xem có chuyện gì mà có người đi ngựa vào sân nhà.

Bỗng ùm 1 cái, cái thanh chốt ngang cửa gỗ bên trong tự nhiên rơi ra, 2 cánh cửa gỗ mở toang, gió từ ngoài thổi vào ù ù.

Cậu D, cậu C em lúc này tầm 8 , 9 tuổi choàng dậy ôm áo bà ngoại.

Nước mưa hắt vào lạnh ngắt.

Tiếng vó ngựa vọng to từ nền gạch ngoài sân, rồi 1 bóng người cưỡi ngựa phi thằng vào giữa phòng.

Mẹ em ré lên, đấy là 1 ông tướng tay cầm đao, nhưng cụt đầu...

Con ngựa hí vang rợn cả tóc gáy.

Đúng lúc này thì ông em về.

Nghe tiếng lạch cạch mở chốt cổng, ông tướng quay đầu phi ngựa ra sông Vào đến nhà, nghe vợ con kể lại, ông em điên tiết xắn quần, tay cầm đôi dép và con dao rựa chạy đuổi theo.

Bà em gào lên cản nhưng không được.

Đêm đấy ông em không về.........

Sáng hôm sau ông về, trên tay chỉ còn 1 cái dép.

Ông chẳng kể chuyện gì xảy ra đêm đấy cả.

Ai hỏi cũng không nói, cho đến khi ông mất...

Những chuyện xảy ra đêm đấy mãi mãi không có ai biết...

Quay lại thời điểm đấy, đợi ông về tắm rửa ăn cơm xong, bà em tất tả đi mời thầy cúng và cả sư trong chùa về nhờ tìm tà.

Họ đi ra đến bờ tre gần bãi sông thì dừng lại, bảo đào xuống 1m5.

Nhà em đào theo, tìm được 1 xác ngựa và 1 xác người không đầu, mặc chiến phục....

Bà em nhờ người làm phép và gì đó, từ đấy nhà em thờ ông tướng ấy như 1 thần hộ mệnh.

Sau này có những lúc trắc trở nhưng tự nhiên được hóa giải..

Nhắc đến bà ngoại em là nhắc đến 1 giai thoại sống, 1 con người kì lạ và cực dị...

Em sẽ kể sau...

[to be continued]
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Quê Em Đất Độc 3-4


Câu chuyện thứ 3: BÀ NGOẠIEm không nhớ rõ năm sinh của bà, chỉ biết giờ bà em tầm hơn 70 tuổi.

Bố của bà em là quan thư tịch cho chính quyền trước, nên có tranh thủ mua được ít đất đai, mà từ đó trở nên giàu có.

Đời cụ ngoại em cũng rất kì quái, lên vương rồi lại mất hết, rồi tuyệt tự và khuynh gia bại sản.....Hôm Tết về quê, ngồi nói chuyện với bà chị bà ngoại em, em mới biết rõ chuyện đấy..

Cái độc của vùng đất này âu cũng bắt đầu từ đời cụ, sinh gần chục con nhưng toàn con gái.

Xoay quanh đời cụ có nhiều điều sởn gai ốc.

Em sẽ kể sau.

Quay lại chuyện của bà ngoại em.Bà em hồi còn trẻ đẹp nổi tiếng trong vùng.

Bà em lấy chồng rất sớm, sinh mẹ em năm chưa tròn 16 tuổi.

Bà em sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng sớm lâm vào cảnh bần hàn vì cái họa của cụ ngoại.

Bà lấy ông cũng là 1 nông dân.

Ông ngoại em chăm chỉ, sau xin vào nhà máy bút máy Hồng Hà, nên cũng đủ nuôi vợ và 4 người con.

Sau chuyện xảy ra đêm hôm gặp ông tướng, năm mẹ em 14 tuổi bà ngoại đột ngột phát điên.

Bà em điên thật, chứ không phải lúc điên lúc tỉnh.

Mẹ em chăn gà nuôi lợn giúp ông nuôi cả nhà.

Gia đình không trông nổi bà, 2 tháng sau đành phải đưa bà lên Trâu Quỳ, đoạn trên đường 5 bây giờ.

Bà em cứ tha thẩn ở đấy, dở điên dở dại mà không biết nguyên nhân tại sao.

Đêm đấy bà về !

Mẹ em đang ngủ thì bà về.

Nghe tiếng lạch cạch gọi cửa, mẹ em choàng dậy chạy ra cổng thì thấy bà đứng ở đấy.

Lặng yên, áo quần rách tả tơi, chân đi đất.

Hoảng quá mẹ đưa bà vào nhà.

Thắp nến lên, mẹ em lạnh sống lưng...

Mái tóc đen óng ả của người phụ nữ ngoài 30 xinh đẹp nhất vùng mà mẹ em vừa chải chiều hôm trước khi lên thăm, sau 1 đêm đã chuyển thành bạc trắng !"

Tao hết điên rồi, thật đấy"

Sau này mẹ kể lại, giọng bà lúc đấy lạnh lắm, nghe như vọng từ đâu ra chứ không phải từ vòm họng.

Một lúc sau ông em về.

Nhìn thấy bà ông thực sự kinh hãi, không phải vì màu tóc của bà, mà là vì nhẽ khác....

Năm đấy, cầu Long Biên vẫn là huyết mạch của Hà Nội, là tuyến đường sắt ít ỏi dẫn vào thủ đô, nên quân đội đặc biệt phòng bị.

Em không nhớ chính xác lắm, vì lí do gì mà ngoài đường 5 còn có lính gác và có lệnh giới nghiêm của quân đội.

1 đêm tối om, 1 người đàn bà điên, 1 quãng đường từ Trâu Quỳ về Long Biên, với rất nhiều trạm gác và lính tuần...

Vậy mà bà em tự đi bộ về được...Lúc này bà em mới bắt đầu kể, với giọng trở lại như bình thường.

Bà bào đầu giờ tối, đang nằm thì tự nhiên thấy đầu óc tỉnh táo.

Cửa phòng tự mở ra, 1 người mặc áo trắng bước vào hỏi "mày có phải N. không?

Muốn về với chồng con thì đi theo tao"..

Thế là bà đi theo.

Người ấy dặn lúc nào bảo nằm thì phải nằm, lúc nào bảo bò thì bò, bảo chạy thì phải chạy mà không được hỏi..

Bà làm theo y đúc.

Người như trong cõi mộng, đến lúc tỉnh ra thì thấy mẹ em đứng trước mặt...

Từ đó bà hết điên hoàn toàn, nhưng bắt đầu có nhiều biểu hiện kì lạ...

Tóc bà em vẫn bạc trắng từ đó đến nay...

Câu chuyện thứ 4: TUYỆT TỰ

Như em đã nói qua ở trên, cụ ngoại em là người rất giỏi.

Cụ làm thư tịch về đất đai, cũng vì thế mà trở nên giàu có.

Giàu có tiếng trong vùng, và giàu nhất làng.

Cụ em là người tốt, luôn bỏ tiền công đức chùa chiền.

Đời cụ cũng không làm hại ai, cũng không theo phe phái gì, cụ em đơn thuần chỉ là 1 người có chức vụ và có đầu óc kiếm tiền.

Cụ em có 5 bà vợ.

Cái sản nghiệp bên Ngọc Thụy là căn nhà mà cụ cất lên để nghỉ ngơi những ngày cuối tuần, vì thế nó nằm sát bờ sông.

Như em đã kể trên, đất nhà em chỉ có thể đẻ con gái...

Bà cả, bà tư, bà năm đều có toàn con gái, nhưng em không nhớ rõ là bao nhiêu bà.

Bà 3 cũng sinh được 4 người con gái, bà ngoại em là út...

Trong số các bà vợ của cụ, duy có bà hai là sống ở Hà Nội.

Bà hai sinh được 1 người con trai độc nhất, bác T - em phải gọi là ông.Bác T thừa hưởng trí thông minh trời phú của người bố, học đâu biết đấy, giỏi nổi tiếng.

Năm 16 tuổi bác đậu tú tài.

Cụ em mừng lắm, vì có 1 người con tài giỏi thừa kế mình, nên chẳng tiếc bác điều gì.

Bác T ngoài việc học ra chỉ có 1 thú vui là câu cá.

Cuối tuần bác hay về bên Ngọc Thụy ra sông câu.

Cũng vì thế mà bi kịch xảy ra....

Sông Hồng ngày trước còn bãi bồi cực lớn bên mạn Gia Lâm, bây giờ mới bị lở mất, thay thế bằng cái kè đá.

Mỗi lần nước lên, nước ngập vào rồi rút đi, tạo thành những ao trũng nho nhỏ gần bờ.

Bác T em là người miền sông nước, bơi cực giỏi nhưng không bao giờ tắm sông.

Mỗi lần về quê, bác lại ra câu cùng 1 người bạn thân cùng làng ở 1 cái chuông nhỏ, nông toẹt, nước xâm xấp bụng.Ngày định mệnh, đang câu thì lưỡi câu của bác mắc kẹt.

Bác T em bảo ông bạn ngồi đợi rồi lội xuống cái chuông xem dây rợ thế nào.

Bác lội được 1 đoạn thì ngụp biến mất..

Thấy bác em thụt xuống chuông, người bạn không hô hoán, cũng không nhảy xuống cứu, mà lại thu dọn cần câu về nhà đi ngủ

Chiều, cụ không thấy con đâu tá hỏa đi tìm, sang nhà người kia mới biết bác em chết đuối..

Như con thú hoang cụ em lao ra sông mò nhưng không tìm thấy bác.

Cái chuông là chuông tù, nông toẹt, không hiểu tại sao mọi người mò cả ngày không được....Cụ em như chết hẳn, thuê hết trai làng chăng thuyền đi dọc bờ sông mò, nhưng cũng vô vọng.........

Thấm thoát 1 thời gian, bà ba có thai.Lúc này cụ em đã khá già.

Nhưng vì cái dớp đất độc, cụ cũng không hi vọng nhiều..

Bà ba càng lúc càng đẹp ra, bụng căng tròn, gọn gàng...

Cụ em chiều bà nhiều lắm.

4 chị em bà ngoại em cũng vì thế được thơm lây...

Mang thai đến tháng thứ 7 thì bà ba em bị cảm nặng...

Bác sĩ giỏi thế nào cũng không chữa được...

Ngày hôm đấy, bác sĩ nói với cụ em bà ba không qua khỏi, và cái thai trong bụng bà là con trai....

Cụ em như hóa điên.

Quỳ trước sân mà gào khóc.........

Đến cuối đời cụ cũng không có được 1 người chống gậy.

Về sau cụ đâm chán nản, cơ nghiệp cũng từng bước tan tành...

Đến đời ông ngoại em cũng tuyệt tự..

Nhưng xoay quanh 2 người con trai của ông là cậu D. và cậu C. cũng là cực nhiều chuyện kì dị...

Đất độc [to be continued]
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Quê Em Đất Độc 5-6


Cảm ơn các bác đã theo dõi chuyện của em từ hôm qua.

Những chuyện em kể có thể chưa có sự liên quan nhiều lắm, nhưng rồi dần dần em sẽ giải thích.

Chuyện kỳ lạ xảy ra với hầu hết người trong nhà ngoại em, em cũng chưa bao giờ dám khẳng định là ma quỷ hay thần thánh.

Những chuyện đó có thể huyễn hoặc, nhưng đều là sự thật, có rất nhiều người chứng kiến, và đa phần xảy ra ban ngày.

Đêm qua em buồn ngủ quá, lại đang phấn đấu làm người cán bộ trẻ mẫu mực nên mới để sáng nay đến công ty viết tiếp Em muốn kể qua 1 chút về ông ngoại, và cũng để giải thích lý do ông em kinh hãi khi nhìn thấy bà ngoại đêm hôm đấy...

Chuyện hơi dài, có lẽ em chia làm 2 chương..

Câu chuyện thứ 5: BÀ ĂN XIN

Ông ngoại em là người làng Bắc Biên gốc.

Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, cũng như nhiều trai làng khác, ông em không học cao, mà ở nhà làm ruộng.

Ông là người hiền lành, tốt bụng và dễ gần; cực ít nói nhưng không lầm lì.

Là dân sông nước, thú vui từ nhỏ của ông em là bơi sông.

Ông em bơi giỏi lắm, mùa nước lên ông hay bơi ra giữa dòng vớt gỗ, hoặc bơi từ bờ nhà em ra bãi giữa.

Ngày nào ông cũng ra sông, đông hay hè, nắng hay mưa, chỉ trừ những hôm bão to quá.

Chẳng ai biết tại sao ông lại thích ra sông đến thế, và cũng chẳng ai biết ông đi đâu, làm gì ngoài bãi bồi.

Những năm tháng lặn ngụp ngoài sông Hồng làm ông trở nên ngang tàng, rắn rỏi và đặc biệt ít nói đến kì lạ.Năm ông 13 tuổi, có một bà ăn mày lang thang đến Bắc Biên.

Mọi người kể nghe đâu bà ta là người miền ngược, trước sống hủ hóa, làng nghi có thuốc độc, bị phạt vạ và xử chết.

May cao số nên còn sống nhưng thân tàn ma dại.

Lang thang khắp nơi rồi cuối cùng dạt về đây.

Bà ăn mày đi quanh trong làng xin ăn, cứ thấy trẻ con là sà vào vuốt má rồi cười sằng sặc.

Ai cũng tránh như tránh tà.

Chỉ riêng ông em chẳng hiểu sao không sợ mà còn hay cho bà ấy, lúc tấm bánh, lúc quả ổi, bắp ngô..

Cả nhà chẳng ai can được

Ngày trước sông Hồng rất khác bây giờ, có 3 bãi bồi chứ không phải 2.

Ngoài 2 bãi bây giờ vẫn còn là bãi giữa, và bãi phía Nam bên Hà Nội - bây giờ có làng chài sinh sống; còn 1 bãi lớn nhất ở phía chân cầu Long Biên, mạn Ngọc Thụy hắt vào trong.

Bà ăn mày sống ở đấy.Năm đấy nước sông lên cao, lụt lớn.

Thanh niên cả làng bị vắt gần như đến kiệt sức, đưa gia đình sang làng khác, hay gia cố nhà để nước khỏi cuốn trôi.

Nước rút đi, người ta thấy bà điên nằm chết kẹt trong bụi tre rìa sông.

Mặt trắng bệnh, bủng beo, lưỡi nâu sì, người trương phềnh, miệng như đang cười giống hồi còn sống.

Mọi người chôn bà luôn ờ gốc tre đấy.

Cách mạng về làng, ông em cũng tham gia đi nghe tuyên truyền mỗi tối.

Đêm hôm đó, ông em một mình đi bộ về.

Đường vào nhà ông phải đi qua khóm tre năm xưa.

Thanh niên vùng sông nước, quanh năm gặp xác chết dạt vào bờ, lại có cách mạng về, ông em tỏ ra chẳng sợ gì cả.

Sau này, vào một lúc hiếm hoi ông mới kể cho em, có lẽ đêm đó làm thay đổi cuộc đời ôngKhóm tre lòa xòa, ánh trăng hắt vào càng làm nó kì quái hơn.

Ông vừa bước qua, thì ở chỗ nấm mồ bà ăn xin có tiếng cười khe khẽ.

Chẳng quan tâm, ông em đi tiếp.

Bỗng có tiếng gọi giật lại "T. mày còn tấm bánh nào cho tao không?

" Lúc này ông em bắt đầu sợ.

Tiếng cười he hé lại vang lên, to và rõ hơn trước.

Trong bụi tre, tiếng bà ăn xin réo tên ông văng vẳng...

Trán ông đổ mồ hôi lạnh...

Từ đâu 1 con gió sông thổi mạnh, tán tre rạt sang 1 bên, ánh trăng lọt vào chỗ nấm mồ vô chủ, ông em thấy nguyên bó hương nghi ngút.

Ngẩng lên cao, bà ăn mày đang đứng trên ngọn cây nhìn ông em.

Ông kể lại, khoảnh khắc đấy tim ông gần như ngừng đập.

Bà ăn xin cười khe khé rồi nói với ông em "Mày tốt với tao, tao lấy vợ cho mày" rồi biến mất...

Trở về nhà, ông em mặt tái nhợt.

Từ đó ông càng thêm ít nói, và cũng từ đó ông hay ra bãi bồi hơn...

Vẫn chẳng ai biết ông đi đâu, làm gì cả....

Câu chuyện thứ 6: ĐÁM CƯỚI Bà em vốn sinh ra trong gia đình giàu có, nhưng khi lớn lên thì gia cảnh cũng tan nát.

Cụ ngoại mất, tài sản tiêu tán.

Mồ côi cha mẹ, bà em cùng các chị trở về quê trồng ngô ngoài bãi như bao người khác trong làng.

Mọi người to nhỏ, chị em con N. quyền quý chắc gì chịu được, nhưng bà em mặc nhiên chẳn than vãn một lời.

Ông em hơn bà em 6 tuổi.

Từ nhỏ tới lúc lớn ông em chỉ thích bơi lội ngoài sông và chí thú làm ăn.

Nắng gió trui rèn làm da ông nâu bóng, cơ bắp rắn rỏi đúng nghĩa là một lực điền.

Trong kí ức em ông ngoại rất cao, khỏe mạnh và đẹp trai.

Con gái làng hồi đấy hay khúc khích thách đố, trêu nhau đưa được anh T. tách được bãi bồi về làm rể.

Mặc kệ tất cả, ông em phớt hết; cuộc sống chỉ gắn liền với đồng ngô, bãi bồi và con sông Hồng năm nào cũng ném nước vào làng.

Hàng năm đều đều 3 tháng nước sông lại lên, tràn vào ngập nửa cái làng Bắc Biên bé tẹo.

Dân lũ lượt kéo nhau đi sơ tán, hoặc ra thành phố kiếm việc làm.

Lũ ở sông Hồng rất to nhưng cũng rất đều đặn, và nó cũng đều đặn chở vào làng những cái xác...

Của trâu bò, lơn gà chết trôi, và cả của những người xấu số.

Xác họ dạt vào bờ, hoặc vướng vào bụi tre, bãi bồi.

Cứ hết mùa nước, thanh niên làng lại đưa họ ra chôn, để người nhà nếu có đi tìm thì cũng còn đem về được.

Năm 56, nước dâng cao đột ngột, chảy xiết và sâu quá đầu người.

Người làng hầu như di tản hết; chỉ còn lại số ít thanh niên ở lại đi vớt gỗ đóng bè, trong đó có ông em.

Hôm đấy, đang mải vớt khúc cây trôi theo dòng, ông em chợt nghe tiếng kêu cứu thất thanh.

Một người phụ nữ trẻ, bám vào khúc cây đang bị nước cuốn ra giữa dòng.

Nước hút ra phía sông thường rất siết và tạo thành dòng chảy chẳng theo phương hướng gì.

Thanh niên làng nhìn nhau ngao ngán.

Ông em chẳng nói năng gì lao luôn về phía đấy.

Cũng vì ở ngoài bãi từ nhỏ nên ông bơi như rái cá.

Chỗ sâu, nông của dải sông ông thuộc như lòng bàn tay.

Vật lộn một lúc lâu, ông em cũng đưa được người phụ nữ đấy vào bờ, mệt lử.

Lúc này ông mới nhận ra cô gái đấy tên N. người cùng làng.

N.

đi thu dọn đồ, buộc lại 1 chút trước khi di tản thì bị rơi xuống vùng nước xoáy.

Chật vật xoay xở mới bám được vào 1 thân cây trôi qua.

May có ông em kéo lại, không chắc chắn bỏ mạng như những người xấu số vẫn dạt vào làng mỗi năm.

Ông em chẳng coi trọng việc cứu người hay được trả ơn, vẫn chẳng quan tâm đến việc cô N. từ sau đợt đấy ngày nào cũng ra bãi thăm ông.

Cô N. lúc này đã chuẩn bị cưới một người khác, làm công nhân trên huyện nên ông em càng chẳng màng.

Ông em nói thẳng, phũ thẳng, và đuổi thẳng cô N. không cho ra đây nữa vì hàng xóm cũng bắt đầu điều tiếng.

Cô N. chỉ ra gặp ông vào buổi giữa trưa và tầm chạng vạng tối, các buổi khác tuyệt nhiên không lai vãng lại bãi bồi; đôi lúc chỉ là mang cho ông ấm nước, kho cho ông khúc cá hay dọn lại cái lều ngoài bãi của ông..

Một thời gian dài tránh mặt, ông em quyết định xin vào làm công nhân trong nhà máy bút bi Hồng Hà, từ đó cũng ít ra bãi; cái lều cũng bỏ hoang.

Từ hồi bỏ bãi, lên nhà máy làm việc ông em quen một người con gái khác cùng làng, xinh đẹp và mạnh mẽ.

2 người ngày ngày quấn lấy nhau không rời như đôi sam.

Ông em cũng chẳng còn ra bãi mấy nữa.

Cô N. biết ông đi làm công nhân, nhưng vẫn ngày 2 buổi giữa trưa và xẩm tối ra bãi chờ đợi.

Ngày biết tin ông em lấy vợ - cô gái kia, và cũng chính là bà ngoại em, cô N. hẹn ông em ra bãi sông nói chuyện.

Ông em kể, cô N. bảo từ sau hôm được ông cứu, trưa và xẩm tối nào cũng có 1 người đàn bà vào dắt cô ra bãi.

Người đàn bà đó đi tập tễnh, giọng khò khè, bắt cô nấu cơm, dọn dẹp cho ông em.

Cô N. bảo cô vẫn yêu chồng chưa cưới, nhưng ngày nào cũng bị dắt theo chân người kia ra bãi, kể cả sau khi ông đi làm công nhân.

Ông em lạnh toát sống lưng.

Cô N. khóc nhiều lắm, bảo đời em chẳng thuộc về em, và nói rất nhiều câu vô nghĩa khác rồi chạy về nhà.

Sáng hôm sau người làng tìm thấy cô N. treo cổ chết trong cái lều của ông em...

Đêm tân hôn, có con mèo đen ở đâu nhảy lên xà nhà, nhìn ông em rồi bảo "Tao đây, tao đây" 7 lần....Trở lại chuyện năm bà em bị điên trở về nhà.

Đêm hôm bà em về, bước vào nhà, người ông nhìn thấy không phải bà em, mà là cô N.

đứng bên cạnh là bà già ăn xin năm trước, bà già ăn xin nhìn ông, bảo "Tao đây" ...

Khi bà ngoại kể chuyện với mẹ em, ông em lẳng lặng lên ban thờ thắp hương cho ông quan Tàu...

3 nén hương vừa tàn cũng là lúc gió rít rất to ngoài bãi, cửa mở toang rồi đóng sập lại..

Lúc này ông em mới xuống nhà nói chuyện với bà.....

[to be continued]
 
[Tổng Hợp] Truyện Ma Có Thật - Thế Giới Tâm Linh Xung Quanh Chúng Ta
Quê Em Đất Độc 7 - 8


Câu chuyện thứ 7: MA NAM

Trong tất cả những truyện trước, chi tiết em hay nhắc đến nhiều nhất là con sông và dải bãi bồi trải dài đoạn qua Ngọc Thụy.

Sông Hồng dường như lúc nào cũng chứa đựng trong nó những điều kì lạ, và cả những thứ khó giải thích đến phi lý...

Như em đã kể ở trên, ngày xưa mạn Gia Lâm còn 1 cái bãi bồi to lắm.

Bãi này trải dài từ chân cầu Long Biên về phía học viện Hậu cần bây giờ.

Có những năm nước sông rút sâu đến mức cảm tưởng có thể bơi một chút là sang được bãi giữa.

Trên bãi bồi rộng mênh mông đấy, người làng em trồng đủ thứ cây, ngô, khoai, rau rợ.. và cả khai thác cát.

Cái bãi rộng và chắc đến mức mỗi mùa nước rút, dân cho máy xúc ra khoét sâu xuống, rồi đưa cả ô tô ben từng đoàn vào chở cát ra, để lại những cái hố sâu hoắm, rộng hoang hoác.

Sau một mùa nước lên và rút, nước tràn vào gần như tạo thành 1 cái "hồ" trên mặt bãi bồi.

Cứ thế, năm này qua năm khác, cái "hồ" rộng dần ra, thành 1 dải sông thu nhỏ ngay sát bờ, như cái bể bơi của tự nhiên.

Nhà em nằm cách cái hồ đấy gần trăm mHồi nhỏ, ông ngoại hay đưa anh em bọn em ra chỗ đấy tập bơi.

Chỗ nông chỗ sâu, bì bõm, y hệt 1 cái sông con con, nhưng không có sóng.

Bọn trẻ con đứa nào cũng khoái chỗ đấy, vừa được tắm sông, vừa như được đi bể bơi.

Nhưng có một điều cấm kỵ, gần như luật bất thành văn ở làng em, đó là nghiêm cấm tuyệt đối không ai được ra sông tầm giữa trưa và ban đêm.

Nếu tầm đó còn có việc ngoài bãi thì không được mon men ra bờ sông hoặc cái hồ đấy.

Bà em bảo, làng mình có Ma Nam

Ma Nam là linh hồn của những người chết đuối trên sông, chết bất đắc kỳ tử như bị sụp cát hoặc chìm tàu, và những người chết trôi dạt vào làng.

Những người này không thể siêu thoát, họ tụ tập nhau trên triền sông vào mỗi buổi trưa và tối để tìm người.

Họ chỉ có thể đầu thai nếu bắt được người hợp vía chết thay, gọi là "trả mạng cho Hà Bá" Vào những buổi đấy, người làng em vẫn thỉnh thoảng nghe tiếng ủm ủm nhảy xuống nước hay tiếng cười đùa ở bờ sông vào giữa khuya.

Những người câu nhái đêm còn kể, có nhiều lần trên cái hồ đấy vào nửa đêm, từng tốp bóng trắng toát cứ nhảy ùm ùm, rồi lại cười khe khé với nhau.

Làng em tuyệt nhiên không ai ra sông vào những giờ cấm kỵ cả trừ một vài tay cứng đầu cứng cổ tỏ ra coi thường, trong đó có cậu cả nhà em, cậu D.

Ông bà ngoại có 4 người con, mẹ em là cả, thứ 2 là cậu D. rồi đến cậu C. và dì T. là út.

Cậu C. là người thông minh, nhanh nhẹn, học 1 hiểu 10, con đường sự nghiệp sáng lạn; nhưng trái lại, cậu D. lại rất nghịch.

Cậu em nghịch từ bé, lớn lên làm trùm du côn, hở ra là cà khịa, ngứa mắt là đánh nhau..

Cả làng ngán ổng, gọi ổng là D. bẹt.

Đỉnh điểm của sự việc là khi cậu em tham gia đánh người gây thương tích, bị công an bắt đi tù mấy năm.

Lúc trở về cậu lại càng đâm lầm lì, khó tính...

Trong các thứ trên đời,cậu em ghét nhất là mê tin dị đoan và những thứ thuộc về tâm linh như ma quỷ, thánh thần Ai nhắc đến những chuyện đó trước mặt ổng, nếu là bề trên thì cậu tỏ ra coi thường, hoặc nói lại gay gắt; còn nếu là bề dưới thì cậu tát luôn.

Cậu em bảo, tao vào sinh ra tử bao lần rồi, cái đất Gia Lâm này làm gì có ma với chẳng quỷ; cậu em coi tất cả chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng... cho đến một ngày...Cách đây 9 năm, hồi em mới vào lớp 10 cậu em bị dạ dày cấp.

Đi 108 mổ, bác sĩ cắt đi 2/3 dạ dày.

Kể từ đó, gã đàn ông lực lưỡng cứ suy sụp từng ngày.

Đến năm em kết thúc kì 1 lớp 10, cậu em gầy nhẳng, cao 1m6, nặng tầm hơn 40kg, mỗi bữa ăn được lưng bát cơm là chịu.

Thế nhưng tính hổ báo của cậu vẫn còn y nguyên, lại có phần nặng hơn trước.

Cậu em đâm ra bất mãn với đời, càng tỏ rõ thái độ với những chuyện tâm linh.

Trưa hôm đấy, 2 ông cậu rủ nhau ra sông tắm.

Phàm là dân sông nước, ai cũng thích bơi lội, đặc biệt là ở ngoài bãi.

Đến gần giữa trưa, cậu C. em giục cậu D. cùng về ăn cơm, nhưng cậu D gạt đi.

Thuyết phục không được, cậu C về trước...12 rưỡi, chưa thấy cậu em về, cả nhà dáo dác đi tìm..

Vừa chạy ra đầu bãi thì cậu em lững thững đi vào.

Mặt trắng bệch, cứ dấm dúi bước đi từng bước một như người say rượu.

Nghĩ chồng bị trúng gió hoặc cảm nắng, mợ em hoảng quá, vội kéo cậu vào nhà bôi dầu.

Cậu D cứ giãy dụa, mắt đảo như rang lạc.

Vào đến sân, cậu em giật ra, ngồi phịch xuống, mặt như người điên, ngửa mặt lên trời cười ha hả.

Mợ và bà sợ quá, gọi điện cho bố mẹ em về xem cậu thế nào để đưa đi viện.

Cả nhà em tất tả phóng về quê.

Lúc nhà em đến nơi, nắng đã chếch quá đỉnh đầu, cậu em đầu trần ngồi giữa sân, ai đem ô ra che là cầm gạch ném, rồi lại quay ra chỗ cũ ngồi cười.

Lần đầu tiên trong đời em nhìn thấy một người như thế.

Đầu tóc cậu em bù xù, lưỡi lè ra ngoài dài ngoằng, nâu xỉn; cái tròng mắt trắng ởn không còn thấy tròng đen..

Cậu em cứ ngửa mặt lên trời cười ế ế, rồi lại giật cục.....

Cả họ nhà em, bao gồm 6 gia đình trong khu nhà em, gia đình em, và 3 gia đình trong khu nhà bà chị bà em đứng quanh sân, trố mắt nhìn cậu D.

Biết có chuyện chẳng lành đã xảy ra, bà em nhảy ra trước cậu D, trỏ thẳng tay vào mặt quát:- Mày là thằng nào ?

Mày ở đâu về đây

Lúc này cậu em mới nhìn liếc về phía bà em, nói bằng cái thứ giọng mà vĩnh viễn trong đời không bao giờ em quên, nó phảng phất, nghe như cái loa rè, hoặc như khi cắm dây loa lỏng, chỉ nghe tiếng rào rào mà không rõ tiếng...- Quê tao ở Hải Dương

Cả họ nhà em chết lặng...

Rồi "nó" lại cười khé khé như 1 người điên...

Chỉ thấy bà em bảo vọng lại "Ma Nam" rồi đi ra phía cổng... chẳng ai biết bà đi đâu..Lúc này "nó" hiện nguyên hình không phải là ông cậu em...

"nó" bảo nó tên là Nguyên, quê ở Hải Dương, làm ăn buôn bán ở trên này, gặp mùa nước lũ bị chết đuối từ năm 96.

"Nó" lang thang quanh bãi mấy năm, rồi bỗng hôm nay gặp ngày, lại gặp được ông cậu em hợp vía nên nó nhập..

"Nó" nói cứ bằng cái giọng đấy, mặt vẫn ngửa lên trời.... trời vẫn nắng chang chang...

Một lúc sau, "nó" đòi ăn cháo...

Mợ em vào nấu cháo, bưng ra trước mặt "nó" cái xoong đang nghi ngút khói bỗng nhiên nguội hẳn rồi thiu luôn, chứ tuyệt nhiên không vơi đi 1 giọt, hay thấy "nó" thò vào ăn.

Ăn xong bảo vẫn chưa no.

Lúc này bố em cáu quá nhảy ra chửi.

"nó" chẳng nói chẳng rằng lết từng bước vào nhà bếp Nhà em trồng ngô, thế nên hay tích ngô, lèn chặt trong những cái thùng phuy đặt trong bếp.

Một thùng đầy nặng phải hơn tạ..

"Nó" lết vào đến bếp, lừng khừng đứng dậy rồi sốc cả cái phuy đầy ngô đặt lên vai tiến ra vườn...

Cái phuy đấy 2 người ôm còn vất vả, vậy mà ông cậu em gầy nhẳng, vác trên vai, đi nghiêng ngả ra vườn..Đến bờ tường, "nó" bất ngờ hất tung cái thùng văng qua, rơi sang vườn nhà bà trẻ.

Bố em với cậu C nhảy vào giữ, chỉ thấy lắc lắc mấy cái 2 ông bắn về 2 hướng.

Xong xuôi, "nó" lại về chỗ cũ ngồi...

Câu chuyện thứ 7: MA NAM - P.2 - MA ThẮT CỔ

Cả họ nhà em vẫn không rời mắt nửa bước khỏi "Nó".

Con chó nhà cậu C nuôi hằng ngày hay sang vườn nhà cậu D chơi, hôm nay rúc hẳn trong chuồng rên ư ử.

Mọi người dạt hẳn ra, nhưng vẫn cố quây thành vòng tròn kín để đề phòng "nó" dắt cậu em ra sông.

Bà trẻ em lần tràng hạt lầm nhẩm kinh liên tục, nhưng đáp lại, "nó" chỉ cười phe phé...

Trời càng lúc càng nắng gắt, "nó" bắt ông cậu em cứ cởi trần, mặc quần đùi ngồi giữa sân gạch, thế nhưng mặt vẫn trắng bệnh, và nhờ nhờ thiếu sinh khí..Đúng lúc này thì bà em về !

Bà em cầm trên tay là cành dâu vặt ngoài nghĩa địa; rồi không biết kiếm đâu ra nước tiểu trẻ con tẩm vào.

Bà em nhìn thẳng vào "nó" gọi to tên cậu em 3 lần "D. !

D. !

D. !

" , cứ mỗi câu "D." là 1 phát bà quật thẳng cái cành dâu đầy gai đấy vào người cậu em.Lúc này "nó" đã thôi cười, và quay sang nhìn bà em gườm gườm với ánh mắt sắc lẻm không có tròng đen nhưng tuyệt nhiên không làm gì cả.

Bà em vẫn quật..

Đến cái thứ 6 thì "nó" quỳ sụp xuống chắp tay lậy bà.

"Nó" bảo đã biết lỗi, chỉ xin ít tiền đi đường.

Bà em vẫn chẳng nói chẳng rằng vụt tiếp..

Được 9 cái thì người cậu em giật tưng tưng, sùi bọt mép, rồi nằm yên không động cựa.

Mợ em ré lên lao vào ôm cậu khóc, gào ầm lên "Mẹ giết chồng con rồi" Bà em cũng khóc, nhưng bảo cậu em không sao đâu, cứ đưa vào nhà nằm là được, đã trục được con yêu ra ngoài, giờ bà sẽ lo phần còn lại...

Rồi bà em lại bỏ đi...

Đưa cậu vào nằm trong nhà, quả nhiên sáng sau cậu em tỉnh thật, nhưng không nhớ bất cứ chuyện gì.

Điều cuối cùng cậu em nhớ là thấy bị ấn mạnh xuống nước, rồi khi mở mắt ra đang nằm ở nhà.

Kể lại thì cậu khăng khăng không tin, bảo cả nhà bịa chuyện, rồi lại chửi bới ầm mỹ như mọi khi....Chuyện cậu D. chưa qua được ít lâu, thì vài tháng sau đến lượt bác Ng. ...

Bác Ng. là con dâu bà trẻ em - tức chị gái bà ngoại em; nhà bác sát vách nhà em, cách mỗi bức tường phân ranh giới mảnh vườn.

Bác Ng còn trẻ lắm, cách đây 9 năm bác vừa lấy bác H. con bà trẻ em, và dọn về khu này sống.

Đêm trước khi xảy ra chuyện, mấy con chó trong làng cứ sủa nhặng lên.

Nhưng chúng sủa không thành chuỗi, mà cứ Gâu, huuuuu, Gâu....

Bà em bảo chó cắn "1 tiếng là ma, 3 tiếng là người"...

Mắt loài chó có thể nhìn thấy âm khí và tà ma.

Nếu cứ sủa thành chuỗi dài thì chắc chắn nó đang đuổi người, nhưng nếu cứ tiếng 1 cách nhau như thế có nghĩa là đang sủa ma.Đêm đấy là cuối tuần, em ngủ lại bên Gia Lâm như thỉnh thoảng mọi khi.

Tầm quá 1h bỗng bọn chó quanh nhà sủa nhặng lên, tiếng một, con nào cũng gầm gừ sợ sệt..

Một lúc sau phía nhà bà trẻ em rậm rịch tiếng người la hét, tiếng chạy, tiếng kêu khóc.

Biết có biến, em gọi thằng em họ dậy, 2 anh em chạy ra hóng.

Trong ánh đèn tròn vàng vàng, em thấy bác Ng, đang cố bám vào sợi dây treo trên cành hồng bì, đầu cố chúi vào cái nút thắt, còn bà trẻ em cùng 2 bác khác đang cố kéo chân bác Ng. ra, vừa kéo vừa khóc...

Bác Ng. tóc dài, để xõa, cố cắm đầu qua cái dây treo trên cành cây, mồm gầm ghè chứ không nói ra thành tiếng..

Điều kì lạ là 3 người giữ chân bác Ng. kéo ra mà vẫn không lại, bác Ng cứ đung đưa bám vào cái thòng lọng, rít ra những tiếng lạnh cả sống lưng.

Cái chao đèn ngoài sân trước gió cứ rung bần bật, đảo qua đảo lại, ánh sáng chỗ mờ chỗ tỏ, khắp sân là tiếng khóc, chửi bới, và tiếng chó ư ử tạo nên cảnh tượng rất quái dị...Lúc này bà ngoại em cùng các cậu cũng chạy sang.

Buổi đêm gió to, tóc bác Ng.

để xõa che kín mặt, giãy giụa cố chui đầu vào thòng lọng.

Cậu D. trèo lên ngọn cây cắt dây, bác Ng ngã úp đầu xuống sàn gạch, rỉ máu...

Bà ngoại em chậm chậm bước đến chỗ bác Ng nằm sấp, vén tóc ra, bất ngờ cả cái đầu bác Ng quay ngược lại, dù người vẫn nằm trong tư thế sấp.

Cái đèn vàng đung đưa hắt ánh sáng vừa đủ để nhìn rõ.

Mặt bác Ng. căng phềnh, 2 hốc mắt ti hí khép kín, vết máu chảy rỉ xuống từ đỉnh đầu lòa xòa khắp mặt..

Miêng bác Ng nhai rào rạo cái gì đó...

Nhìn thấy bà em, bác Ng nhoẻn miệng cười, để lộ ra cái chân ếch còn giãy giụa...

Tất cả mọi người hét toán loạn, chạy dạt cả ra....

Bác Ng. lại lồm cồm bò dây với tìm cái dây.

Bà em hô hào mọi người trói chặt bác Ng lại, đem nhốt dưới gầm bàn thờ.Bà em bảo bác Ng mới về đất này, chưa cúng bái, thần linh thổ địa chưa quen mặt nên bị ma quỷ bắt dụ.

Con này là ma thắt cổ, trước nó bị treo cổ chết, giờ bắt vía người, rủ ra treo cổ cùng nó.

Nó hay bắt người ta ăn cóc hoặc ếch sống để càng tê dại, hoặc chết vì độc.

Số bác Ng. còn cao nên người nhà phát hiện ra.

Bà em lại dò dẫm tìm đủ 3 nén hương lụi, thêm cái dao sắc gọt trầu và 1 quả trứng luộc.

Bà với bà trẻ cúng bái đến 2h sáng thì bác Ng tỉnh...

Lúc này cả nhà hớt hải đưa bác đi rửa ruột...

Giờ bác Ng. vẫn sống vui vẻ cùng bác H. sát vách nhà em...

Xin lỗi các bác vì đến giờ em mới onl được Cũng vì cái dự án thoát nước của công ty em mãi không bàn giao được cho bên sở Mãi em mới mò được về phòng..

Tranh thủ lúc trưởng phòng đi vắng, em xin kể tiếp chuyện hầu các bác...

Câu chuyện thứ 8: QUÁI VẬT SÔNG HỒNG

Theo lẽ thường tình, con người sống tại nơi nào thì cũng mang trong mình nỗi sợ về một điều mơ hồ ở nơi đấy.

Đối với dân sông nước và vạn chài, nỗi sợ hãi lớn nhất chính là "Hà bá".

Hà bá là gì không ai biết, nhưng theo các cụ xưa kể thì đó là thần, được trời cử làm quan cai quản một khúc sông.

Theo đó dân chài sinh ra tục thờ Hà bá, cầu cho những chuyến câu, mẻ lưới được thuận lợi, cuộc sống trên thuyền nay đây mai đó được yên ổn và không bị yêu ma quấy nhiễu.

Dần dần, họ hình thành những "giao ước" ngầm, bất thành văn để thỏa hiệp với Hà bá.

Người sắp chết đuối, dù có vẫy vùng gào thét, hay là người thân chăng nữa, thì người làm nghề sông nước cũng không bao giờ được cứu.

Nếu cướp người đó khỏi tay Hà bá, cả nhà họ sẽ phải đền mạng...

Dù sao đây cũng chỉ là một hủ tục, trong câu chuyện này em xin phép không đề cập đến, vì đối với người dân làng em, có một thứ còn đáng sợ hơn Hà bá, được biết với cái tên "Thuồng luồng"...

Cách đây chừng một năm, trên báo mạng có viết về một loài rùa khổng lồ sống trên sông Hồng ngày trước.

Chúng cứ mất dần, cho đến khi chỉ còn một con rùa sống trên bãi giữa.

Con rùa này mai to bằng cái phản, đen trũi, hay lên bờ cắp trâu tha xuống sông ăn.

Dân ven làng sợ lắm, tìm cách trừ nó.

Đuổi đánh một thời gian, cho đến khi 1 mũi lao ghim trúng vào người, con rùa mới bơi ngược dòng biến mất.

Người ta nói con rùa đấy sợ, lại bị dân truy đuổi nên trốn mất, nhưng với ông bà và người làng em thì mọi chuyện không đơn giản như vậy....

Cách đây khoảng hơn 10 năm, hồi ông em còn sống.

Hồi đấy ông vẫn ra sông tắm, nhưng không còn khỏe như trước.

Ông em chỉ sông 1 lần vào buổi sáng sớm, nửa tiếng là về Ông là dân bờ bãi từ nhỏ, gan dạ, cường tráng, nhưng cũng tuyệt nhiên kiêng cữ, tránh động chạm đến thần thánh hay loài ma nam ngoài sông.

Đều như đếm, sáng tinh mơ 6h ông em ra bơi, đến tầm 6 rưỡi 7h kém là về ăn sáng.

Mọi thứ cứ thế lặp đi lặp lại cho đến một ngày.

Hôm đấy cả nhà cậu D, cậu C đi vắng; dì T em làm ở đằng Hà Nội, nên nhà chỉ có ông bà.

8h sáng, không thấy ông về, bà em hốt hoảng đi tìm.

Bà em biết chắc ma không bắt ông vì vía ông em rất nặng, chỉ lo ông bị trúng gió mà ngã xuống nước thì không biết thế nào.

Chạy ra bờ sông, bà em thấy ông tắm ở giữa sông, tay chân vẫn kì cọ bình thường.

Bà cất tiếng gọi ông vào, nhưng không thấy trả lời.

Ông em vẫn thản nhiên tắm.

Bà em bước đến gần hơn, sát bờ sông, định bụng gọi to cho ông nghe thấy, lúc này bà mới phát hiện ra một điều kinh hãi...

Chỗ ông em đang tắm cách bờ tầm chục mét, nước sâu quá đầu, nhưng ông em vẫn nhô nửa người lên, 2 tay kì cọ như đứng trên một vật gì đấy...

Sững sờ một lúc, linh cảm chẳng lành bà em cất tiếng hét thất thanh, ông em giật mình quay lại, chúi người ngã bổ ra đằng sau..

Chỗ ông em đứng gợn thành một dài sóng kéo dài, nghe oạp 1 tiếng rất lớn.

Ông em vẫn tỉnh táo hoàn toàn, bơi về bờ...

Bà hỏi, ông em kể bơi ra đến đoạn đấy như mọi khi, đang định ngụp mấy cái rồi về, thì tự nhiên chân ông lần được hòn đá trơn nhẵn, rộng khoảng 1m nhô lên ở đáy.

Rồi chẳng hiểu sao ông em lại đứng lên hòn đá đấy, tắm rửa bình thường, cảm thấy trong người mơ mơ tỉnh tỉnh.

Bà em bảo ông tắm sông được hơn 2h rồi, nhưng ông em không tin, vì ông mới chỉ đứng lên đấy được một lúc, chưa được 10p thì thấy bà gọi...

Bà bảo, lúc ông ngã nghe tiếng oạp rất to, và sông gợn sóng kéo dài kì lạ ở khúc đấy.

Ông bà hoảng quá dắt nhau về thẳng...

Đi hết cầu Chương Dương, qua ngã tư Ngô Gia Tự - đường 5, đoạn Khu đô thị Việt Hưng là làng rắn Lệ Mật.

Ở cái đất này rắn nhiều vô kể, dữ và có mặt ở khắp nơi.

Từ xưa, làng Lệ Mật đã nổi tiếng với đặc sản rắn, dân lũ lượt kéo đến thưởng thức, làm ăn phát đạt vô cùng.

Người ta cất nhà, tậu xe, xây đường lớn cũng từ mạng rắn mà ra.

Cũng từ đó mà sinh ra lắm chuyện kì dị.

Ngoài những con trâu con bò đột nhiên mất tích, hay có những tiếng động rột roạt lúc nửa đêm ngoài làng.

Hồi đấy, bên phía quê em còn nhiều cây cối, dân thưa thớt chứ không náo nhiệt như dải phố Nguyễn Văn Cừ bây giờ.

Dân sợ, mời thầy bên làng em sang xem.

Thầy làng em sang, coi qua một vòng trong làng, biết đã có biến, khu này đã có một cái Tinh lớn.

Thầy bèn lập đàn, lấy máu trâu bò đổ một đường ra sông rồi tế 49 hình nhân ngoài đó.

Tối đấy cả làng nhà cửa đóng kín mít, đến nửa đêm nghe tiếng rột roạt rất nhanh mà mạnh, cả tiếng rít xè xè lẫn trong gió.

Sáng ra, vệt máu trâu bò hôm trước lằn nguyên vết đất bị cày xới ra đến tận ngoài sông.

Ông thầy lĩnh tiền rồi ra về.

10 ngày sau người ta tìm thấy xác ông thầy trên bờ đê làng, gãy hết xương cốt, máu trào từ mũi, miệng, tai tong tỏng, 2 mắt đã bị nổ nát bét...

Từ đấy trở đi, ngoài bờ sông làng em hay nghe tiếng ì oạp lúc nửa đêm...

Hồi còn bé, mẹ em hay xin nước gạo ngoài Hà Nội về nuôi lợn.

Đường xá hồi đấy rất thưa người, mẹ em lại hay đạp xe về muộn.

Có một xẩm tối, đang thong dong đạp xe trên cầu Long Biên, mẹ em thấy 1 cái gợn to dưới mặt sông.

Mẹ em kể, năm đấy nước lên cao, cách mặt cầu chưa đầy 5m, dừng xe nhìn kĩ, mẹ em tá hỏa nhận ra dưới cái gợn đấy, sát mặt là bóng 1 con rắn cực kỳ lớn, đen sì đang bơi từ từ về phía bãi làng em...

Mẹ em bảo chẳng ước lượng được nó dài bao mét, vì lúc đấy còn bé, với lại hoảng quá nên chẳng nghĩ được gì; chỉ nhớ nó dài lắm, lúc trồi lúc lặn, đầu có cái sừng lớn màu đỏ.

Mẹ em đứng trố mắt nhìn được một tẹo thì nó lặn xuống đáy sông [to be continued]
 
Back
Top Bottom