Tâm Linh Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
366872262-256-k828327.jpg

Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam
Tác giả: Bch9635
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

 
Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam
Lời tựa


" Ngày lành mở tiệc ung dung

Thỉnh chư tiến Thánh công đồng đàn duyên "

" - Văn thỉnh tam toà thánh mẫu - "

Đạo Mẫu Tam Tứ phủ là một tín ngưỡng tôn giáo cổ của người Việt.

Nó mang đậm bản sắc của con người Việt Nam đó là " uống nước nhớ nguồn ".

Sở dĩ nói " Đạo Mẫu Tam Tứ Phủ " là tôn giáo mang đầy sự tri ân nhu vậy đó là việc thờ những vị " anh hùng " có công với đất nước, Tổ Quốc.

Chúng ta có thể kể đến như " Chầu Tám Bát Nàn " vốn là một vị nữ tướng dưới thời Trưng nữ vương:

" Đùng đùng tiếng trống Mê Linh

Phất cờ khởi nghĩa uy danh hàng đầu

Binh thư đọc suốt đêm thâu

Ngày ngày luyện tập dãi dầu ba quân

Gươm thiêng sáng tỏ trung thần

Cờ hồng ran trận lẫy lừng một phen

Quân Tô Định lạc phách kinh hồn

Giặc nhà Đông Hán không còn một tên

Nước non độc lập vẹn toàn

Trưng Vương xưng chiếu gia ban "

" - Bản văn Chầu Tám Bát Nàn - "

Chúng ta không thể nói rằng Đạo Mẫu trước khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh giáng sinh là không tồn tại, vì khi ấy Đạo Mẫu được tồn tại ở một hình thức khác nhưng không thể nói rằng việc thực hiện " shaman " - " lên đồng " không được thực hiện.

Mà vào thời điểm đó việc hầu đồng được diễn ra rất khác đó là việc thay vì cung văn hát các bản văn, thì khi ấy người hát văn chính là đồng nhân:

" Bà cốt đánh trống long bong

Nhảy lên nhảy xuống cái ong đốt l,..."

" - Thượng Kinh sử ký - Lê Hữu Trác - "

Việc các bà đồng vừa nhảy múa vừa gõ chống, chiêng là một hình thức không hề hiếm có trong các tôn giáo Shaman trên thế giới.

Ít nhất đến thời Lê Chiêu Thống hiện tượng bà đồng vừa nhảy múa vừa chơi nhạc vẫn phổ biến ở người Việt

" - Trích GS,TS Ngô Đức Thịnh - "

Đạo mẫu mang đậm việc tôn thờ người mẹ tôn thờ mẫu thần.

Sự tôn thờ này chúng ta có thể thấy được bởi vì trước đây Việt Nam vốn là theo chế độ mẫu hệ, những người phụ nữ là người có sức mạnh cai quản và dẫn đầu.

Theo dòng thời gian của lịch sử việc chế độ mẫu hệ yếu đi, thay thế bằng các tư tưởng là phụ hệ và Nho giáo.

Lúc này việc chèn ép phụ nữ được đẩy lên một cách mạnh mẽ và có lẽ đạo Mẫu được sinh ra trong hoàn cảnh này, hoàn cảnh mà những người phụ nữ đứng lên chống lại các tư tưởng chèn ép phụ nữ của Nho giáo và chế độ phụ hệ.

Những ai là tín đồ của Đạo Mẫu có lẽ trong lòng đều có lòng yêu nước dạt dào bởi đạo Mẫu là một tôn giáo mang đậm hình ảnh đất nước trong từng câu hát, trong từng lời thơ, và đặc biệt là việc anh dũng chống giặc ngoại xâm của nước ta:

" Trên ngàn gió cuốn rung cây

Dưới khe cá lặn chim bay về ngàn

Cảnh khuya nguyệt lặn sao tàn

Chiếc thoi bán nguyệt khoan khoan chèo vào

Gập ghềnh quán thấp lầu cao

Khi ra núi đỏ khi vào ngàn xanh "

" - Bản văn Chầu Đệ Nhị Thượng Ngàn - "

Đạo Mẫu việc Đạo Mẫu đang ngày một phát triển là một việc vô cùng đáng mừng đó là việc chúng ta biết đến nhiều các vị thánh hơn chẳng hạn như " Chúa Thái Nàng Han ", " Chúa Bà Cà Phê "," Chúa Bà Cột Cờ ",....

Có lẽ việc này phần lớn là do việc di chuyển đã dễ dàng hơn thuận lợi hơn mà các con nhang đệ tử như chúng ta được quay về với cửa của Mẫu mẹ

****

Hoan Hỉ

Mong mọi người đưa ra lời nhận xét mình vì là lần đầu mình viết nên có thể có nhiều điểm khuyết thiếu hoặc sai sót lủng củng thì mong mọi người hoan hỉ bỏ qua và nhận xét để mình sửa lại tốt hơn ạ ;~)
 
Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam
Tổng Quan


I.

Tam Phủ

- Phủ: là nơi làm việc của các vị quan

- Tam: là ba

=>> Tam Phủ: là nơi làm việc của các quan âm, chu vị thần linh của ba miền:

+) Thiên Phủ: Các vị chư thần cai quản bầu trời.

+) Địa Phủ: ( địa phủ trong văn hoá Việt Nam là nơi mà con người sinh sống ) bao gồm các vị thần linh cai quản vùng sông nước.

+) Thuỷ Phủ: bao gồm các chư vị thần linh cai quản vùng sông nước.

- Theo lịch sử phát triển của " Tín ngưỡng thờ mẫu Tam Tứ Phủ " , thì khái niệm về Tam Phủ có trước và Tứ Phủ có sau.

- Vào thời kỳ khởi nguyên của Tam Phủ thì người ta cho rằng Tam Phủ gồm ba miền: Thiên, Địa, Thoải.

Lúc ấy chưa có Nhạc Phủ.

II.

Tứ Phủ

- Từ khi chúa Liễu Hạnh giáng sinh ( khi bắt đầu ra uy quyền phép của mình thì mọi người thường hay gọi người là ngài chúa Liễu ), bắt đầu hình thành đạo Mẫu hay là tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ phủ bà Mẫu Liễu Hạnh là thần chủ.

- Tục thờ Sơn Trang đã có từ xa xưa từ khi Mẫu Liễu Hạnh giáng trần, người ta hay gọi là chúa Sơn Trang hay chúa Thượng Ngàn.

- Bản sắc con người Việt vốn coi trọng vùng núi non và sông nước, họ tôn thờ Thuỷ thần và Sơn thần để mong phù hộ và làm ăn yên ấm, có tài có lộc.

Tại các vùng sông nước và ven biển thì tục thờ các thánh Thoải cũng là có từ lâu đời.

- Sự xuất hiện của Mẫu Liễu Hạnh đã thay đổi tất cả, bởi từ trước đến nay cai quản các vị trí quan trọng như thần chủ thì thường là nam giới

III .

Sự phân chia màu sắc

1 .

Thiên Phủ: màu đỏ: Thiên Tiên Thánh Mẫu, Ngọc Hoàng Thượng Đế

2.

Nhạc Phủ: màu xanh: Thượng Ngàn Thánh Mẫu, Tản Viên Sơn Thánh

3.

Thoải Phủ: màu trắng: Thuỷ Cung Thánh Mẫu, Bát Hải Long Vương

4.

Địa Phủ: màu vàng: Địa Tiên Thánh Mẫu, Phong Đô Đại Đế

- Theo sắp xếp thứ tự ngày xưa là Thiên, Địa, Thoải, Nhạc ( vì Nhạc phủ được thêm vào sau cùng )

- Ngày nay thì trong các khoa cúng và chầu văn thường sắp xếp theo thứ thự cao nhất là tầng trời, sau đó là vùng rừng núi, tiếp đến là vùng sông nước, và cuối cùng là vùng sinh sống của con người ( Địa phủ )

=> sắp xếp như sau: Thiên, Nhạc, Thoải, Địa
 
Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam
Chư Vị Thần Linh Của Tứ Phủ


I.

Thánh Mẫu

- Mẫu đệ Nhất ( Thiên Phủ ): Danh hiệu Thanh Vân công chúa.

- Mẫu đệ Nhị ( Nhạc Phủ ): Danh hiệu Lê Mại đại vương.

- Mẫu đệ Tam ( Thoải Phủ ): Danh hiệu Xích Lân công chúa.II.

Phụ vương đại thánh ( phối thờ )

- Ngọc Hoàng thượng đế ( Thiên Phủ ).

- Bát Hải long vương ( Thoải Phủ ).

- Tản Viên sơn thánh ( Nhạc Phủ ).

- Phong Đô đại đế ( Địa Phủ ).III.

Hội đồng chúa ( phối thờ )

- Chúa đệ nhất Tây Thiên: áo đỏ, khăn đỏ.

- Chúa đệ nhị Nguyệt Hồ: áo xanh, khăn xanh.

- Chúa đệ tam Lâm Thao: áo trắng, khăn trắng.

- Chúa Cà Phê: áo đen, khăn đen.

- Chúa Then: áo đen, khăn đen.

- Chúa Giao Long: áo xanh lam, khăn xanh.

- Chúa Ngũ Phương: áo trắng, khăn trắng.

- Chúa Thác Bờ: áo trăng, khăn búi hoa.

- Chúa Bắc Hà: áo xanh, chít khăn chàm.

- Chúa Vực.

- Chúa Lộc.

- Bà lớn Tuần Quán.

- Bà chúa Kho.

- Chúa Bà tộc Mọi: áo đen - áo chàm.

- Chúa Ba Nàng: áo đen, khăn đen.

- Chúa bà Thừa Thiên công chúa.VI.

Ngũ Vị Tôn Quan

- Quan lớn đệ nhất Thượng Thiên: quyền cai Thiên Phủ, Kiêm Chi Tam Giới, ngự đồng áo đỏ khăn đỏ đai lưng.

- Quan lớn đệ Nhị Thượng Ngàn: quyền cai Nhạc Phủ, quyền Thanh Tra Giám Sát cả tứ phủ, kiêm chi tam giới, ngự đồng áo xanh, khăn vấn đầu xanh đeo đai lưng, múa một kiếm.

- Quan lớn đệ tam Thoải Phủ: quản cai Thoải Phủ, kiêm chi tam giới, ngự đồng áo trắng, khăn vấn trắng, múa hai kiếm.

- Quan lớn đệ tứ Khâm Sai: quản cai Địa Phủ, áo vàng, khăn vấn vàng.

- Quan lớn đệ ngũ Tuần Tranh: dòng Thoải Phủ, kiêm chi tam giới, là quan võ, quyền cai các thiên binh thiên tướng nhà Trời, quyền cai Ngũ Hổ, Thanh Xà - Bạch Xà, ngự đồng vấn khăn xanh, cầm thanh long đao.

V.

Tứ phủ chầu bà:

- Chầu đệ nhất Thượng Thiên.

- Chầu đệ nhị Thượng Ngàn.

- Chầu đệ tam Thoải Phủ.

- Chầu đệ tứ Khâm Sai.

- Chầu năm Suối Lân.

- Chầu lục Cung Nương.

- Chầu bảy Kim Giao.

- Chầu tám Bát Nàn.

- Chầu chín Cửu Tỉnh.

- Chầu mười Đồng Mỏ.

- Chầu bé Bắc Lệ.VI.

Thập vị ông hoàng ( thuỷ tế )

- Ông hoàng cả Thượng Thiên.

- Ông hoàng đôi Triệu Tường.

- Ông hoàng bơ Thoải Cung.

- Ông hoàng tư Thuỷ Phủ.

- Ông hoàng năm Mán Tộc.

- Ông hoàng lục An Biên.

- Ông hoàng Bát Quốc.

- Ông hoàng chín Cờn Môn.

- Ông hoàng mười Nghệ An.VII.

Tứ phủ thánh cô

- Cô cả Thượng Thiên.

- Cô đôi Thượng Ngàn.

- Cô bơ Thoải Cung.

- Cô tư Ỷ La.

- Cô năm Suối Lân.

- Cô sáu Lục Cung.

- Cô bảy Kim Giao.

- Cô tám Đồi Chè.

- Cô chín Sòng Sơn.

- Cô mười Đồng Mỏ.

- Cô bé: cô bé có rất nhiều hoá thân có thể kể đến như:

+) Cô bé Đông Cuông ( Hũu Lũng ).

+) Cô bé Suối Ngang ( Hũu Lũng ).

+) Cô bé Đèo Kẻng ( Thất Khê ).

+) Cô bé Cây Xanh ( Bắc Giang ).

+) Cô bé Tân An ( Lào Cai ).

+) Cô bé còn nhiều hoá thân khác tại nơi, bản đền bản cảnh,...

VIII.

Tứ Phủ Thánh Cậu

- Cậu cả Thượng Thiên.

- Cậu đôi Thượng Ngàn.

- Cậu bơ Thoải Phủ.

- Cậu Quận Phủ Dầy.

- Cậu hoàng Đồi Ngang Phố Cát.

+) Các cậu bé có thể không xác định có bao nhiêu vì sẽ tuỳ thuộc vào bản đền, bản cảnh,..

IV.

Ngũ hổ - ông lốt

- Ngũ hổ

+) Hắc hổ: trấn phương Bắc.

+) Bạch hổ: trấn phương Tây.

+) Hoàng hổ: trấn Trung Tâm.

+) Thanh hổ: trấn phương Đông.

+) Xích hổ: trấn phương Nam.

- Ông lốt

+) Thanh xà đại tướng quân.

+) Bạch xà đại tướng quân.
 
Tín Ngưỡng Thờ Mẫu Việt Nam
Ngọc hoàng Thượng Đế


I.

Thần trụ Trời

1.

Giới thiệu

- Thần trụ trời (Hán-Nôm: 神柱𡗶) là vị thần khai thiên lập địa, sáng tạo ra thế giới trong thần thoại Việt Nam (Thần sáng thế).

Thần thoại về ông giải đáp được sự tò mò, khám phá thế giới và sự sáng tạo, giải thích những điều mà loài người chưa biết.

2.

Thần tích

- Thuở ấy, chưa có thế gian, chưa có muôn vật.

Trời đất chỉ là một vùng hỗn độn, tối tăm.

Bỗng một vị thần khổng lồ xuất hiện.

Thần dùng đầu đội trời lên cao.

Rồi thần đắp đất đá thành một cái cột để chống trời.

Cột càng được đắp lên cao bao nhiêu thì bầu trời càng cao rộng ra bấy nhiêu.

Thần hì hục đào đắp để nâng vòm trời lên mãi lên mãi...Có nét tương tự như tích Bàn Cổ Khai Thiên Lập Địa thuở Hồng Hoang mờ mịt chưa phân rõ Trời và Đất theo thần thoại Trung Quốc cổ xưa.

- Từ đó, trời đất mới phân đôi.

Đất phẳng như cái mâm vuông, trời tròn như chiếc bát úp.

Nơi trời đất giáp nhau gọi là chân trời.

Khi trời đất đã ổn định, rạch ròi, thần phá đi cái cột, hất tung đất đá khắp nơi.

Vì thế, cột trụ trời bây giờ không còn nữa, nhưng vết tích của cột vẫn còn ở núi Yên Phụ (Kim Môn, Hải Dương).[2] Còn những nơi đất đá văng đến, thì thành núi đồi, gò đống; những chỗ bị đào thì thành biển sâu hồ rộng.

- Rồi những thần khác xuất hiện nối tiếp công việc xây dựng nên cõi thế gian này.

Các vị thần đó rất nhiều, như thần Sao, thần Sông, thần Núi, thần Biển...

- Dân gian đã ghi công của các vị thần này trong câu hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác:

+) Ông đếm cát

+) Ông tát bể

+) Ông kể sao

+) Ông đào sông

+) Ông trồng cây

+) Ông xây rú

+) Ông trụ trời

- Có nơi còn kể tiếp:

+) Ông cời cua

+) Ông lùa chim

+) Ông tìm sâu

+) Ông xâu cá.

II.

Ngọc Hoàng

1.

Giới Thiệu

- Ngọc Hoàng Thượng đế (chữ Hán: 玉皇上帝), cũng gọi Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), gọi tắt là Ngọc Hoàng (玉皇) hay Ngọc Đế (玉帝) hoặc Ông Trời (Chữ Nôm: 翁𡗶) là những danh hiệu nói đến vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của vạn vật trong quan niệm tín ngưỡng của Đạo giáo tại Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên.

2.

Phong Hiệu

- (玉皇上帝): tên gọi của vị vua tối cao của bầu trời, là chủ của Thiên Đình, với nhiều tôn xưng khác nhau như Hạo Thiên Thượng Đế (昊天上帝), Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝), Ngọc Đế (玉帝), Ngọc Hoàng (玉皇), Hạo Thiên Kim Khuyết Chí Tôn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕至尊玉皇大帝), Huyền Khung Cao Thượng Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (玄穹高上玉皇大天帝), Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế (玉皇大天尊玄靈高上帝), hay dân gian thường gọi là Thiên Công (天公, Ông Trời).

- Dưới thời nhà Tống, vua Chân Tông (眞宗, tại vị 997-1022) cũng như Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1126) đều có ban Thánh hiệu cho Ngọc Hoàng Đại Đế.

Vua Chân Tông ban cho Thánh hiệu là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Ngọc Hoàng Đại Thiên Đế (太上開天執符御歷含眞體道玉皇大天帝).

Vua Huy Tông là Thái Thượng Thiên Chấp Phù Ngự Lịch Hàm Chơn Thể Đạo Hạo Thiên Ngọc Hoàng Thượng Đế (太上開天執符御歷含眞體道昊天玉皇上帝).

- Trong các kinh điển của Đạo giáo tôn xưng là Hạo Thiên Kim Khuyết Vô Thượng Chí Tôn Tự Nhiên Diệu Hữu Di La Chí Chơn Ngọc Hoàng Đại Đế (昊天金闕無上至尊自然妙有彌羅至眞玉皇大帝).

Ngài được xem như là một vị thần linh tối cao của Đạo giáo, địa vị chỉ dưới Tam Thanh Tôn Thần (三清尊神) mà thôi.

Dưới con mắt thế tục, Ngài được kính ngưỡng như vị thần tối vĩ đại, là vua trong các vị thần.

- Theo truyền thuyết dân gian, Ngọc Hoàng Thượng Đế không những thọ mạng Thiên Tử thống trị con người, mà còn cai quản cả Tam giáo Nho, Lão, Thích, cùng với chư vị thần tiên của ba đạo này, cũng như các thiên thần, địa kỳ, người, quỷ đều thuộc quyền thống quản của Ngài.

Ngoài việc quản lý ba cõi Thiên, Địa, Nhân, Ngọc Hoàng Đại Đế còn trông coi về sự hưng long, suy bại, tốt xấu, phước họa của vũ trụ vạn vật.

Thuộc hạ quản lý về học vụ có Văn Xương đế quân (文昌帝君); về thương vụ có Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君); về công vụ có Công Thánh Tiên Sư (巧聖先師); về nông vụ có Thần Nông Tiên Đế (神農先帝); về việc địa phương có Đông Nhạc Đại Đế (東岳大帝), Thanh Sơn Vương (青山王), Thành Hoàng Da (城隍爺), Cảnh Chủ Công (境主公), Thổ Địa Công (土地公), Địa Cơ Chủ (地基主); về cõi âm có Phong Đô Đại Đế (酆都大帝) và Thập Điện Diêm vương (十殿閻王).

- Theo lý luận của Đạo giáo, Trời có 13 tầng, mỗi tầng có 3 vạn dặm, địa phương ngoài Trời ra được gọi là Vô Cực (無極), cõi trong Trời là Thái Cực (太極).

Ngọc Hoàng Đại Đế là thần linh tối cao vô thượng trong vũ trụ, hết thảy chư thần linh đều phải vâng lệnh Ngài.

Cõi Trời Thái Cực chia thành 5 cõi Trời khác nhau:

+) Trung Thiên (中天) có Ngọc Hoàng Đại Đế an ngự, trên chưởng quản 36 cõi trời, ba ngàn thế giới, dưới trông coi 72 cõi, hết thảy sinh linh.

+) Đông Thiên (東天) có Tam quan đại đế (三官大帝), chủ quản ban phước, kéo dài tuổi thọ, giải trừ tai ách, xá tội, tiêu nạn.

Nam Thiên (南天) có Văn Hành Thánh Đế (文衡聖帝), chủ quản việc ủy nhiệm chư thần linh, lên xuống, khảo sát, xem xét công tội của các thần.

+) Tây Thiên (西天) có Thích-ca Mâu-ni (釋迦牟尼), chủ quản việc tín ngưỡng, quy y của con người.

Bắc Thiên (北天) có Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), chủ quản việc ban phước, tiêu tai, ban bố tài lộc.

3.

Huyền tích

a.

Huyền tích chính

- Về huyền tích của Ngài, theo Cao Thượng Ngọc Hoàng Bản Hạnh Tập Kinh (高上玉皇本行集經) của Đạo giáo cho rằng vào thời xa xưa có một trú xứ tên Quang Nghiêm Diệu Lạc Quốc (光嚴妙樂國); Quốc Vương xứ này là Tịnh Đức Vương (淨德王), Hoàng Hậu là Bảo Nguyệt Quang (寶月光).

Cả hai đều lớn tuổi nhưng không có con nối dõi.

Bỗng một đêm nọ, bà mộng thấy Thái Thượng Lão Quân (太上老君) ẵm một đứa hài nhi đưa vào trong bào thai của Hoàng Hậu.

Bà cung kính đón nhận, đến khi tỉnh dậy mới hay rằng mình đã có thai.

Mang thai tròn 12 tháng, rồi đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ thì hạ sinh Thái tử.

Ngay từ lúc nhỏ, Thái Tử đã thông tuệ, đến khi lớn lên phụ tá cho Quốc Vương rất đắc lực, thương dân, làm việc thiện, cứu người nghèo khổ.

Sau khi vua cha băng hà, Thái Tử từ bỏ ngôi vị, vào trong Phổ Minh Hương Nham Sơn (普明香岩山) tu đạo, trải qua 3.200 kiếp, mới chứng được Kim Tiên, hiệu là Tự Nhiên Giác Hoàng.

Sau đó, lại trải qua cả ức kiếp mới chứng thành Ngọc Đế, hy sinh thân mạng để cứu độ chúng sanh.

Từ đó, mồng 9 tháng giêng hằng năm được xem như là ngày khánh đản của Ngọc Hoàng Đại Đế.

Tại các Đạo Quán đều có thiết lễ dâng cúng, gọi là Ngọc Hoàng Hội (玉皇會) để cầu nguyện phước quả, sống lâu.

Tại tỉnh Phúc Kiến của Trung Quốc cũng như Đài Loan, ngày này được gọi là ngày Bái Thiên Công (拜天公, Lạy Ông Trời); cho nên cả gia đình lớn nhỏ, già trẻ đều giữ gìn trai giới, tắm rửa sạch sẽ, dâng hương hành lễ, vái lạy, tụng kinh.

Thời xưa, ở phương Bắc của Trung Quốc có tục lệ tế lễ Ngọc Hoàng, rước tượng Ngài đi cùng khắp thôn xóm.

Tương truyền 25 tháng 12 là ngày Ngọc Hoàng Đại Đế hạ phàm tuần tra nhân gian, cho nên các Đạo Quán cũng như trong dân gian đều có thắp hương, tụng kinh để nghênh đón Ngài. b) huyền tích dị bản

- Truyền thuyết dân gian của Trung Quốc kể về Ngọc Hoàng Thượng Đế là một thường dân có tên Trương Hữu Nhân.

Ông được biết đến với đức tính cẩn trọng, khiêm tốn và kiên nhẫn, nên người ta thường gọi ông là Trương Bách Nhẫn.

Ông luôn giúp đỡ mọi người xung quanh và tu luyện thành tiên và được gọi là Đại Quý Nhân.

- Trương Hữu Nhân có một người vợ họ Vương và họ có bảy cô con gái.

Theo một truyền thuyết khác, vợ của Ngọc Hoàng được biết đến với tên Thiên Hậu và cả hai có chín người con.

Ngọc Hoàng và vợ sẽ cùng nhau ở trong cung điện trên trời, được gọi tắt là điện Linh Tiêu.

4.

Ngọc Hoàng Thượng Đế trong các tôn giáo

a.

Nho giáo

- Hình ảnh của Ngọc Hoàng Thượng Đế có ảnh hưởng mạnh mẽ từ Nho giáo, đặc biệt là quan niệm về Thiên tử, có thể bắt đầu từ thời kỳ Chu ở Trung Quốc cổ đại.

Điều này thể hiện quan điểm về một vị đế vương tối cao, cai trị toàn bộ thế giới.

Giống như dưới trần có Đế Vương thống trị thì trên trời có Ngọc Hoàng.

Hình ảnh này đặt Ngọc Hoàng như một giá đỡ của quyền thần cho xã hội chuyên chế, tạo điều kiện cho giai cấp thống trị. b.

Phật giáo

- Hình tượng của Ngọc Hoàng mang nhiều yếu tố của Phật Giáo, đặc biệt là trong việc tu luyện để trở thành vị thần cai quản thế gian.

Theo truyền thuyết, Ngọc Hoàng được cho là đã tu hành qua 1750 kiếp, tức khoảng 12960 năm.

Một số giả thuyết khác đề cập đến việc sau hàng triệu kiếp tu, Ngài trở thành Thanh Tịnh Giác Vương Như Lai, còn được biết đến là Như Lai Phật Tổ, có các vị Bồ Tát đồng hành và các La Hán bảo vệ tại một phương trước khi chính thức trở thành Ngọc Hoàng Đại Đế Đại Thiên Tôn. c.

Đạo giáo

- Trong hệ thống phân cấp thần linh của tôn giáo phương Đông, vị trí của Ngọc Hoàng đứng ở mức cao nhất, chỉ sau Tam Thanh.

Trong giáo phái Đạo giáo thờ Tiên, Ngọc Hoàng được coi là vị thần tối cao.

Hình tượng của Ngọc Hoàng trong Đạo giáo được xem như một biểu tượng chuẩn mực có nguồn gốc từ Đạo giáo, sau này đã được các yếu tố văn hóa, tôn giáo khác thêm vào, bổ sung và phát triển.

III.

Ngọc Hoàng thượng đế tại Việt Nam

1.

Vai trò

- Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác.

- Truyện dân gian Việt Nam kể con cóc lên cầu Ngọc Hoàng làm mưa.

Ngọc Hoàng nhận lời rằng mỗi khi cóc gọi làm mưa xuống trần gian.Câu chuyện nổi tiếng khác là "Ngọc Hoàng và người học trò nghèo" thì lại ca ngợi quyền năng và sự công bằng của Ngọc Hoàng.

- Nhà bác học Nguyễn Văn Huyên đã nhận xét: "Ông trời đối với người dân quê Việt Nam là nguồn gốc mọi sự sống và mọi lẽ công bằng.

Đấy không phải là một vị thần trừu tượng và không thể hiểu.

Người ta xem ông như một con người, vua của các vua.

Ông có một triều đình, ông điều khiển tất cả cuộc sống trên trời và dưới đất.

Ông trừng phạt kẻ xấu và ban thưởng người tốt".

- Trong các đền, phủ thuộc đạo Mẫu, tượng Ngọc Hoàng được thờ cúng như một vị thần thanh cao nhất, thường có bàn thờ riêng tại các đền thờ, phủ.

2.

Đền thờ

- Ở Việt Nam, có nhiều đền thờ dành riêng để thờ cúng Ngọc Hoàng Thượng Đế như:

+) Đàn Kính Thiên Tràng An: Tọa lạc tại xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

Đây là nơi tổ chức lễ Tế Thiên hàng năm với sự tham gia của Ngọc Hoàng và các vị thần khác như Nam Tào, Bắc Đẩu, Phạm Thiên, Đế Thích.

+) Đàn Nam Giao: Nằm trong khu di tích cố đô Huế, nơi mà các vị vua nhà Nguyễn thường tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm.

Lễ tế Nam Giao là một trong những nghi lễ quan trọng nhất dưới triều Nguyễn, thể hiện sự thống nhất và uy quyền của Hoàng đế.

Đền Đậu An: Đặt tại xã An Xá, An Viên, Tiên Lữ, Hưng Yên.

Đây là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng với các vị thần khác.

+) Chùa Ngọc Hoàng: Nằm tại thôn Đại Lai, Đại Lai, Gia Bình, Bắc Ninh.

+) Nhà thờ họ Trương Việt Nam: Đặt tại thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình.

Người ta thường gọi Ngọc Hoàng tại đây là Trương Hữu Nhân hoặc Trương Ngọc Hoàng.

+) Chùa Vân An: Tọa lạc ở huyện Bảo Lạc, Cao Bằng.

Đây là nơi thờ Ngọc Hoàng cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, hàng năm tổ chức lễ hội Lồng Tồng vào ngày mùng 9 tháng Giêng.

Đền Ô Xuyên: Đặt tại xã Cổ Bì, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.

Tại đây, Ngọc Hoàng Thượng Đế được thờ cúng cùng với năm vị Thành hoàng làng.

Theo truyền thuyết, đây là nơi Ngọc Hoàng đã từng xuống trần để chơi và du ngoạn.

3.

Ngày tiệc - lễ vật cúng

- Theo quan niệm dân gian, ngày 09 tháng 01 là ngày Thánh Đản, Ngọc Hoàng xuống dưới nhân gian cùng với Kim Đồng Ngọc Nữ, 7 vạn thiên binh thiên tướng, các thần khác như Nam Tào Bắc Đẩu, Chú Sinh Nương Nương, Phúc Lộc Thọ,...

Các vị thần này sẽ đánh giá phúc lộc và tội lỗi của mọi người.

- Khi Ngọc Hoàng ra lệnh, các vị thần sẽ ban phúc trên 10 phương, 6 cõi.

Để nhận được phù hộ độ trì của Ngọc Hoàng, người ta cần chuẩn bị đồ thờ tâm linh và cúng vía vào giờ Tý ngày mới bắt đầu với đầy đủ các loại lễ vật như: nhang, đèn, hoa, trà, trái cây và phẩm vật khô.

Các vật phẩm này thường được sử dụng dưới dạng lục lễ, số lượng lẻ như số 3, 5, 7.

- Đối với lễ vật trà, người ta thường sử dụng trà khô và rót vào 9 chiếc chén nhỏ.

Còn lễ vật phẩm thì có thể là các loại đồ khô như: khoai mì, nấm đông cô, tàu hũ, táo tàu sấy khô hoặc các loại bún, miến khô.

Ngoài ra, cũng cần chuẩn bị đường, vàng mã và mía để cúng, đặc biệt là mía vỏ vàng và còn nguyên phần ngọn.

4.

Bản văn

- Bản văn được sử dụng hát thờ nhân ngày đản tiệc Vua Cha Ngọc Hoàng ( mồng chín tháng giêng)

" Thần kim ngưỡng khải tấu thiên tôn

Tọa thượng dương dương nghiễm nhược tồn Nguyện thỉnh pháp âm thi huệ lực

Tùy cơ phó cảm nạp trần ngôn

Tiết xuân thiên tam dương khai thá

Mở vận lành vạn đại hưng long.

Linh Tiêu Kim Khuyết Vân Cung

Tâm hương thấu đến cửu trùng thiên thai Thuở đất trời âm dương hòa hợp

Kiến tạo nên vũ trụ càn khôn

Long ngai chín bệ kim môn

Hoàng Thiên Thượng Đế Chí Tôn cầm quyền Khắp tam thiên đại thiên thế giới

Vua Ngọc Hoàng quyền đại tối linh

Ngôi cao chính ngự thiên đình

Ngai vàng thống chế quần sinh muôn loài Hằng giá ngự đan đài tử phủ

Khúc nghê thường y vũ xướng ca

Đàn cầm thánh thót thánh tha

Tiếng dâng ngọc tửu hoàng hoa đượm mùi Vườn thượng uyển thành thơi thánh giá

Điện Linh Tiêu thong thả giáng lâm

Đào viên mở hội long vân

Bách tiên văn vũ quần thần âu ca

Cửa thiềm cung bách hoa tiên tử

Đứng đôi bên ngọc nữ cung phi

Rồng bay phượng múa nghê quỳ

Trăm hoa đua sắc tức thì tỏa hương

Nhân khánh hạ tam dương cửu nhật

Thiết đàn tràng kính ngưỡng thiên công

Thần đăng ngũ quả tiến dâng

Kính xin soi xét lỗi lầm trần gian

Ban phúc lộc nhân khang vật thịnh

Khắp bốn mùa cát khánh tường quang

Phong điều vũ thuận an khang

Mãn thiên hỷ khí xuân quang lại về

Thiên tăng tuế đề huề trường thọ

Chiếu nhân gian trăm họ giai xuân

Ơn trên bảo quốc hộ dân

Khuông phủ đệ tử thiên xuân thọ trường."
 
Back
Top Bottom