Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân

Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 90: Tâm nguyện ban đầu của ông ta luôn là quyền lực


Sau khi Hoắc Giác xuống xe ngựa, Triệu Bảo Anh lặng lẽ nhắm mắt, phất trần trong tay mềm mại rủ xuống, khuôn mặt thường ngày tươi cười giờ đây đã không còn nụ cười, thay vào đó là vài tia buồn bã.

Ông ấy không ngờ rằng, Như Nương lại phải sống khổ sở đến vậy.

“Như Nương bảo, khi còn nhỏ vì bệnh ở miệng, mỗi khi ra ngoài đều bị người ta ném đá. Đại ca nhà bên của thím ấy bèn bảo thím ấy ở nhà chờ, còn nói dù thế nào cũng sẽ quay lại đón. Có lẽ vì câu nói đó mà thím ấy chưa bao giờ nghĩ đến việc tự tử. Sợ rằng khi người huynh ấy quay lại sẽ không tìm thấy thím ấy.”

Lời của Hoắc Giác vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng hiện lên trong tâm trí lại là hình ảnh Như Nương mỉm cười nhìn ông ấy ngày hôm qua. Bà ấy nói bà ấy sống rất tốt, cuộc sống không hề khó khăn, được gặp lại ông ấy là điều may mắn lớn nhất.

Ánh nắng xiên xiên chiếu vào xe, nửa người Triệu Bảo Anh tắm trong nắng, lại không cảm thấy chút ấm áp nào.

Ngồi im lặng một hồi lâu, ông ấy mới chậm rãi mở mắt, khàn giọng ra lệnh: “Cao Tiến Bảo, vào cung.”

***

Hôm nay Thành Thái Đế không ở điện Kim Loan để lo chính sự, liên tiếp mấy ngày gặp ác mộng, tai thậm chí còn có ảo giác, phần lớn thời gian ông ta đều nghỉ ngơi ở điện Thừa Loan của Vương Quý phi, thỉnh thoảng mới đến điện Dưỡng Tâm để nghe chính sự.

Lúc này trong điện Dưỡng Tâm, sau khi nghe hai người Triệu Bảo Anh trình bày, Thành Thái Đế không khỏi nổi giận đùng đùng, chỉ về phía cửa điện Dưỡng Tâm quát: “Bảo Lăng Duệ lập tức qua đây gặp Trẫm!”

Lăng Duệ vội vã chạy từ Lại Bộ đến, vừa bước vào cửa, một con tỳ hưu khảm chỉ tráng men (*) từ trên cao đã ném xuống, bay thẳng về phía mặt.

(*)Nguyên văn là “Kháp ti pháp lang”: nghệ thuật áp tráng men thủy tinh lên các phôi vàng, bạc hoặc đồng để ngăn không cho màu men hòa lẫn với nhau.

Lăng Duệ nghiến răng dừng bước, không né tránh, để chặn giấy đập vào trán, tạo thành một vết thương chảy máu.

Máu tươi “tí tách” rơi xuống, Lăng Duệ cũng không đưa tay lau vết máu trên mặt, chỉ cung kính quỳ xuống, trầm giọng nói: “Xin Hoàng thượng bớt giận!”

Thành Thái Đế đứng dậy, chỉ vào ông ta quát mắng: “Ngươi xem ngươi đã làm ra chuyện tốt gì! Nói rằng tất cả đều vì thanh danh của Trẫm, vì phân ưu cho Trẫm! Trẫm thấy ngươi rõ ràng đang kéo bè kéo cánh, chuyện gì đến tay Lăng Duệ ngươi cũng có thể dùng để tiêu diệt phe đối lập! Có phải ngươi nghĩ rằng chùa Đại Tướng Quốc là công cụ để ngươi thao túng triều chính không?!”

“Ngươi tưởng Trẫm không biết là ngươi phái người gửi mật thư đến Đô sát viện sao? Sao thế? Năm xưa chùa Đại Tướng Quốc từ chối đặt linh bài tổ tiên ngươi vào lầu Đại Bi, cho nên ngươi tức giận đến tận bây giờ? Lăng Duệ! Ngươi phải biết, chức Thủ phụ của ngươi là do Trẫm ban cho! Thứ Trẫm cho ngươi, bất cứ lúc nào Trẫm cũng có thể thu lại!”

Lăng Duệ bị mắng, mặt lúc trắng lúc xanh, ông ta cụp mắt, che đi ánh mắt u ám.

Nếu không có Lăng Duệ ông ta, làm sao Chu Nguyên Canh có thể lên ngôi vị Hoàng Đế được? Ngày xưa làm Khang Vương đâu dám nói chuyện với ông ta như thế?

Trước kia luôn cung kính gọi một tiếng “Lăng Thủ phụ”, ngay cả hai năm đầu mới lên ngôi cũng ôn hòa gọi một tiếng “Lăng ái khanh”.

Nhưng về sau có lẽ do làm Hoàng Đế lâu rồi, càng ngày càng quá trớn, dần dần không còn coi Lăng Duệ ông ta ra gì nữa, thậm chí còn để người khác cướp đoạt quyền lực trong tay ông ta!

Trong lòng Lăng Duệ vừa kinh vừa sợ, nhưng ông ta không dám cãi lại.

Tâm trạng của Thành Thái Đế càng ngày càng nóng nảy, trước kia còn giữ được vẻ ngoài của một người quân tử khiêm nhường, bây giờ thì giả vờ cũng không giả vờ được nữa, chuyện nhỏ như hạt vừng cũng khiến ông ta nổi trận lôi đình, giống như người điên vậy!

Lăng Duệ đợi Thành Thái Đế mắng xong mới bò bằng cả tay cả chân từng bước về phía trước, hạ mình nói: “Oan uổng quá, Hoàng thượng! Thần làm tất cả đều vì Hoàng thượng!”

Khi Lăng Duệ vào điện, Tiết Vô Vấn và Triệu Bảo Anh vừa hay đi ra từ nội điện, đương nhiên hai người cũng nghe thấy tiếng “bịch” của Thành Thái Đế ném chặn giấy trong đó.

Nhưng vẻ mặt của hai người ai nấy cũng đều vô cùng bình tĩnh, xuống khỏi bậc thềm ngọc trắng, Triệu Bảo Anh nói với Tiết Vô Vấn: “Bổn quan còn có việc quan trọng, không tiễn Tiết đại nhân ra cung được.”

Nói xong, bèn gọi một tiểu thái giám canh điện đưa Tiết Vô Vấn ra cổng cung.

Tiết Vô Vấn khẽ mỉm cười, chắp tay từ biệt rồi nhanh chóng ra khỏi cổng cung, đi thẳng về Cẩm Y Vệ. Vừa đến trước cửa lớn nha môn Cẩm Y Vệ, Chỉ huy đồng tri Đường Kiện đã tiến lên một bước, nói: “Chỉ huy sứ, vị Lâm Phó thống lĩnh của cấm quân lại đến.”

Tiết Vô Vấn day day trán, nói: “Ngươi đi mời Lâm Phó thống lĩnh ra đây, nói ta phải đến Ngọc Kinh lâu điều tra án, đợi hắn ở Văn Oanh các.”

Đường Kiện vội vàng chắp tay vâng dạ, vào truyền lời.

Tiết Vô Vấn lên ngựa, kẹp hai chân vào bụng ngựa rồi đi thẳng đến Ngọc Kinh lâu.

Lúc này mới là giờ Ngọ ba khắc, các cô nương trong lầu đều đang nghỉ trưa.

Chốn vung tiền thường ngày luôn râm ran tiếng cười nói giờ lại im ắng, Tô Ngọc Nương nghe nha hoàn nói Tiết Thế tử đến, vội vàng ngồi dậy khỏi giường thấp, ra cửa đón.

“Sao Thế tử lại đến? Ngọc Nương còn tưởng gần đây ngài không rảnh chứ?” Tô Ngọc Nương vừa nói vừa phe phẩy chiếc quạt trong tay, nheo mắt liếc nhìn Tiết Vô Vấn.

Người khác không biết, nhưng là người dưới trướng của Tiết Vô Vấn, làm sao không biết vị công tử ph*ng đ*ng nổi tiếng ở Kinh thành này ngày nào cũng phải bận rộn về nhà hầu hạ tổ tông chứ.

Nói thật, Tô Ngọc Nương cũng thật sự bội phục cái vị ở Vô Song viện kia.

Người như Tiết Vô Vấn, trông có vẻ đa tình, thực ra lòng dạ lạnh lùng cứng rắn, đối với những cô nương phải lòng hắn ta thì càng tuyệt tình càng tốt.

Vì vậy Tô Ngọc Nương mới bội phục Vệ Xuân, cũng không biết vị Đại nương tử của Vệ gia này đã thuần phục vị Thế tử này như thế nào.

Tiết Vô Vấn đương nhiên nghe ra ý trêu chọc của Tô Ngọc Nương, cười một tiếng rất tùy tiện, nói: “Việc công, lát nữa nếu vị Phó thống lĩnh cấm quân kia đến, bảo hắn đến Văn Oanh các tìm ta.”

Lâm Quy đến rất nhanh, Tiết Vô Vấn còn chưa uống xong một chén trà, hắn ta đã đến.

“Lâm đại nhân, mời ngồi.” Tiết Vô Vấn chỉ vào vị trí đối diện, nói: “Tiết mỗ biết đại nhân đến vì việc gì, ngồi xuống từ từ nói chuyện.”

Ban đầu Lâm Quy nghe Đường Kiện nói Tiết Vô Vấn ở Ngọc Kinh lâu, còn tưởng tên ph*ng đ*ng này lấy công làm tư, lén lút chạy đến Ngọc Kinh lâu tìm người tình cũ.

Nhưng nhìn bây giờ dường như không phải vậy, có vẻ như cố ý đến Ngọc Kinh lâu đợi hắn ta.

Lâm Quy từ nhỏ đã là người tuân thủ kỷ cương, chưa từng đến Ngọc Kinh lâu, cũng không có cảm tình gì tốt. May mà Văn Oanh các này trông sáng sủa gọn gàng, thanh nhã độc đáo, không khiến người ta thấy ghét bỏ.

Lâm Quy thẳng thắn ngồi xuống, nói rất nhanh: “Tiết đại nhân đã biết ta đến vì việc gì, vậy chắc cũng nghe nói Thuận Thiên phủ doãn Tông đại nhân đã xếp vụ án đó vào án treo, tạm thời niêm phong hồ sơ rồi?”

Vì công việc nên Tiết Vô Vấn đã tiếp xúc với Lâm Quy không ít, hiểu rất rõ tính cách của người này.

Rót cho hắn ta một chén trà rồi gật đầu nói: “Việc này quả thật Tiết mỗ đã nghe Tông đại nhân nhắc đến, hai mươi mấy thi thể kia phần lớn đều thối rữa không còn hình dạng, ngay cả thân phận cụ thể cũng khó tra ra, huống chi là những bằng chứng khác. Phủ Thuận Thiên một ngày phải tiếp nhận mấy chục đến cả trăm vụ án, từ án mạng lớn đến chuyện hàng xóm cãi nhau, đều phải do người của phủ Thuận Thiên quản lý. Chắc là Tông đại nhân không rảnh điều tra vụ án này nên mới tạm thời xếp vào án treo.”

“Những thi thể khác thì không tra ra được thân phận, nhưng không phải trong đó có hai thi thể đã xác định được thân phận rồi sao? Một người là thứ muội của ta, một người là nữ nhi của tên đồ tể đã gây ra nhiều vụ giết người, bị giam trong nhà lao Trấn Phủ Ty.” Lâm Quy nắm chặt chén trà trong tay, ngẩng cổ nói: “Như vậy vẫn chưa đủ để Tông đại nhân cử thêm người điều tra vụ án này sao?”

Tiết Vô Vấn chậm rãi xoay chiếc nhẫn ngọc trên tay, ánh mắt dừng lại trên khuôn mặt trung hậu của Lâm Quy.

Lâm gia ở Thịnh Kinh không phải là gia tộc lớn, nếu không phải Lâm Quy được vị Thống lĩnh cấm quân tiền nhiệm coi trọng, đề bạt lên vị trí Phó thống lĩnh, thì Lâm gia ở Thịnh Kinh cũng chỉ là một tiểu môn hộ.

Còn về người thứ muội mà Lâm Quy nhắc đến là nữ nhi của phụ thân hắn ta với ngoại thất lén nuôi bên ngoài sinh ra, thậm chí tiểu nương tử đó còn chưa được ghi vào gia phả Lâm gia, khi mất tích mới mười ba mười bốn tuổi.

Ban đầu nếu không phải Hoắc Giác nhắc đến chuyện này, hắn ta còn không biết tình cảm giữa Lâm Quy và người thứ muội này lại tốt đến vậy. Mất tích mười năm rồi mà vẫn cố gắng tìm kiếm, chưa từng từ bỏ.

Tiết Vô Vấn vốn là con cháu danh môn, những năm này làm việc trong Cẩm Y Vệ, không biết đã chứng kiến bao nhiêu chuyện đen tối trong hậu trạch của các đại viện.

Địa vị của ngoại thất vốn luôn rất thấp, con cái do ngoại thất sinh ra lại càng không có địa vị. Chỉ cần chủ mẫu không gật đầu, hoàn toàn không thể nhận tổ quy tông.

Lâm cô nương này của Lâm gia cũng vậy, thậm chí… việc nàng ấy mất tích có lẽ cũng là do người khác cố tình làm ra.

Tiết Vô Vấn khẽ nuốt khan, nhìn Lâm Quy nói: “Ở Kinh thành này, người có khả năng bắt cóc nhiều thiếu niên thiếu nữ như vậy, giết người vứt xác mà không để lại một chút dấu vết, Lâm đại nhân có nghĩ, thân phận của kẻ đứng sau chắc chắn không tầm thường. Như vậy, Lâm đại nhân vẫn kiên trì muốn điều tra vụ án này đến cùng sao?”

Lâm Quy khẽ giật mình.

Những điều Tiết Vô Vấn nói, không phải hắn ta chưa từng nghĩ đến.

Thậm chí hắn ta còn nghĩ, có phải Thuận Thiên phủ doãn Tông đại nhân đã điều tra ra điều gì đó, sợ đắc tội người ta nên mới đè vụ án này xuống không.

Tuy Lâm gia là gia đình đọc sách làm ruộng, nhưng tổ tiên chưa từng có ai làm quan to. Hiện tại Lâm gia có thể đứng vững ở Thịnh Kinh cũng chỉ là dựa vào hắn ta, vị Phó thống lĩnh cấm quân này mà thôi.

Lâm Quy là trưởng tử trong nhà, gánh vác trách nhiệm phát triển gia tộc. Vì trách nhiệm này, hắn ta sống ở Thịnh Kinh rất thận trọng và cẩn thận.

Không kết thù với ai, cũng không để lại bất kỳ nhược điểm nào cho người khác công kích, ngay cả việc hôm nay lên lầu xanh cũng là lần đầu tiên trong đời.

Tuy nhiên, hắn ta có trách nhiệm làm con cháu, đồng thời cũng có trách nhiệm làm huynh trưởng.

Muội muội mất tích chết thảm, không thể bắt được hung thủ.

Làm sao hắn ta có thể giả vờ như chưa từng có chuyện gì xảy ra? Ít nhất… ít nhất cũng phải tìm ra kẻ đó, thay cho muội muội đã khuất của hắn ta, hỏi một câu tại sao chứ?

Lâm Quy buông chén trà gần như bị bóp vỡ trong tay, trầm giọng nói: “Muội muội mất tích đã mười năm, ta chưa từng từ bỏ việc tìm kiếm. Giờ biết được muội ấy bị sát hại, càng không thể từ bỏ việc tìm ra hung thủ. Ta không biết kẻ đó là ai, nhưng chỉ biết, dù là Thiên tử phạm tội, cũng phải chịu tội như thứ dân.”

Tiết Vô Vấn liếc nhìn Lâm Quy đầy ý tứ sâu xa, trở tay gõ nhẹ lên bàn, nói: “Đại nhân cứ yên tâm, tuy Tông đại nhân đã xếp vụ án này vào loại án treo, nhưng theo hiểu biết của ta về Tông đại nhân, chỉ cần có một chút manh mối, ông ấy sẽ điều tra đến cùng.”

Tiết Vô Vấn và Tông Úc chỉ là mối quan hệ quen biết hời hợt, thực ra hắn ta không hiểu rõ Tông Úc lắm. Sở dĩ hắn ta tin chắc Tông Úc sẽ điều tra vụ án này đến cùng, cũng chỉ vì một câu nói của tiểu tử kia.

“Tông đại nhân quả thực là một vị quan tốt, chắc chắn ông ấy sẽ dốc hết sức để đưa ra một câu trả lời thỏa đáng cho những người đã chết thảm.”

Nghĩ đến đây, Tiết Vô Vấn hơi nheo mắt lại, người đang nắm quyền trong Tông gia hiện nay là Đại lý tự Khanh Tông Già.

Tông Già là người đa mưu túc trí, tâm tư sâu như biển, lần này Tông Úc đưa vụ án này vào danh sách án treo, có lẽ là vì Tông Già đã nhận ra điều gì đó, ép Tông Úc phải áp chế vụ án này.

Từ khi Hoắc Giác gọi hắn ta đến phủ Thuận Thiên tìm Tông Úc, Tiết Vô Vấn đã đoán được ai là thủ phạm của vụ án.

Em vợ của hắn ta chưa bao giờ làm chuyện vô ích, khi xưa ở thành Lâm An đã tốn nhiều công sức để đưa những thi thể này ra ánh sáng, giao cho Tông Úc, hắn ta đoán được hành động của Hoắc Giác chắc chắn có ý nghĩa sâu xa của hắn.

Cho đến ngày đích thân đến phủ Thuận Thiên, gặp được Tông Úc và Lâm Quy, lúc này hắn ta mới hiểu rõ mọi nguyên nhân, đoán ra ai là hung thủ.

Ngay cả Tiết Vô Vấn hắn ta còn đoán được, làm sao Tông Già quản lý Đại lý tự bao nhiêu năm lại không đoán ra?

***

Khi Tiết Vô Vấn rời khỏi Ngọc Kinh lâu, Lăng Duệ cũng vừa bước ra khỏi cửa cung.

Dư Vạn Chuyết đứng đợi bên ngoài cửa cung, thấy vết thương trên trán ông ta, không khỏi kinh hãi, khom người chạy lại nói: “Đại nhân có cần nô tài bôi thuốc không?”

Lăng Duệ liếc nhìn ông ta, đáy mắt u ám, lạnh lùng nói: “Không cần, ngươi chuyển lời đến Vương Quý phi, nói rằng đầu tháng sau, ta sẽ đợi người ở am Tịnh Nguyệt.”

Dư Vạn Chuyết vội vàng đáp “Vâng”, cung kính nhìn theo Lăng Duệ lên xe ngựa của Lăng phủ, trong lòng không hiểu sao lại dâng lên chút bất an, mi mắt không ngừng run rẩy.

Người ta vẫn nói, thỏ chết chó bị làm thịt, chim hết cung bị cất đi.

Hoàng thượng đã chán ngấy ông ta, giờ cũng chán ngấy Lăng đại nhân.

Công lao theo phò của họ năm xưa, liệu có ngày nào đó sẽ trở thành họa sát thân không?

***

Sau khi xe ngựa đi vào phố lớn Chu Tước, Lăng Duệ vén rèm lên, nhìn con phố mà chỉ những gia tộc danh gia vọng tộc mới được phép cư ngụ này.

Nhớ lại nhiều năm trước, ông ta từng đứng ở cổng vào con phố này với khí thế hăng hái, thầm thề rằng một ngày nào đó ông ta sẽ được sống ở đây. Con cháu của ông ta sẽ không phải như ông ta, cắn răng leo lên từng bước một dưới ánh mắt lạnh lùng của vô số người.

Ông ta đã làm được.

Không chỉ đưa Chu Nguyên Canh lên ngôi Hoàng Đế, mà còn khiến dòng họ Vệ được vô số học sĩ yêu mến, hương hỏa liên miên không biết bao nhiêu đời kia phải tận diệt.

Nhiều năm trước, cảnh tượng Vệ Hạng rời khỏi phố Trường An, Lăng Duệ đã nhớ rất rất lâu.

Một người như vậy, một gia tộc như vậy, là mục tiêu theo đuổi của vô số văn thần.

Lăng Duệ cũng từng cúi đầu kính phục Vệ Hạng. Hai mươi năm trước, không một ai trong số các sĩ tử thi đỗ Tiến sĩ có thể quên được Vệ Thái phó, quên được câu nói của ông ấy trong yến tiệc Ân vinh.

“Người làm quan phải tự kiểm điểm ba lần mỗi ngày, đừng quên tâm nguyện ban đầu.”

Sau này ông ta trở thành Thủ phụ Nội Các, cứ ngỡ cuối cùng mình cũng đã trở thành người như Vệ Thái phó.

Nhưng hoàn toàn không phải.

Khi người khác nhắc đến Thủ phụ, tất cả mọi người đều nghĩ đến Vệ Thái phó, chỉ có Vệ Thái phó mà thôi.

Về sau, Đại công tử Vệ Triệt của họ Vệ ở Thanh Châu đột ngột xuất hiện, tuy không có nửa mảnh công danh, nhưng lại trở thành người đứng đầu trong mắt các học sĩ Thanh Châu, không ai có thể thay thế.

Từng có người ở Thịnh Kinh ngưỡng mộ mà đến thăm, khi trở về, ai cũng nói với ông ta rằng, người đó có phong thái của ông nội mình, sau này chắc chắn sẽ trở thành Vệ Thái phó thứ hai.

Những lời khen ngợi đó, như kim châm đâm vào tim ông ta.

Vệ Triệt sẽ là Vệ Thái phó thứ hai, vậy Lăng Duệ ông ta là gì?

Nhi tử mà ông ta dốc lòng bồi dưỡng thì sao?

Khi Vệ Triệt vào làm quan, có phải tất cả mọi người sẽ quên rằng Lăng Duệ mới là Thủ phụ của triều Đại Chu này? Mà nhi tử Lăng Nhược Phàm của ông ta, có phải sẽ suốt đời làm đom đóm, cả đời không thể sánh với vầng trăng sáng Vệ Triệt không?

Tại sao chứ?

Ông ta đã phải khom lưng uốn gối bao nhiêu năm trước họ Vương ở Doanh Châu, cuối cùng mới được họ Vương giúp đỡ, từng bước một vươn lên ở Thịnh Kinh.

Một đứa con cái thế gia, chỉ vì có một người ông tốt, một gia tộc tốt mà muốn cướp đi tất cả những gì trong tay ông ta sao?

Vệ Thái phó nói, đừng quên đi tâm nguyện ban đầu.

Tâm nguyện ban đầu của ông ta luôn luôn là quyền lực.

Quyền lực đứng dưới một người, trên vạn người, quyền lực khiến con cháu đời sau được vô số người ngưỡng mộ, quyền lực biến họ Lăng trở thành gia tộc trăm năm.

Khi xưa chẳng phải Tề Xương Lâm và Hồ Đề cũng vì tham vọng này của ông ta mà trung thành với ông ta sao?

Người càng từng lăn lộn trong bùn lầy thấp kém, càng khát khao quyền lực.

Ông ta là vậy, Tề Xương Lâm là vậy, ngay cả Thành Thái Đế trong cung càng ngày càng điên cuồng cũng là vậy.

Lăng Duệ lộ ra ánh mắt lạnh lùng bước xuống xe ngựa.

Đang định bước qua cổng, bỗng thấy một cỗ xe ngựa quen thuộc đi vào đầu phố. Xe ngựa từ từ dừng lại, một tiểu nương tử có dung mạo xinh đẹp bước xuống.

Tiểu nương tử đó vừa thấy Lăng Duệ thì mừng rỡ, nhưng ngay lập tức vẻ vui mừng trên mặt tan biến, thay vào đó là sự hoảng hốt.

“Cha, sao trán người lại bị thương vậy?”

Lăng Nhược Mẫn nhanh chóng bước về phía Lăng Duệ, đáy mắt nhanh chóng phủ một lớp sương mờ.

Ánh mắt lạnh lùng của Lăng Duệ dần dịu lại, dịu giọng nói: “Chỉ là vết thương nhỏ thôi, Mẫn nhi không cần lo lắng. Vừa rồi có phải con mới đi tìm Ngọc Nhã ở phủ Thượng thư không?”

Lăng Nhược Mẫn ngượng ngùng lắc đầu, nói: “Con không đi tìm Nhã nhi, chỉ là ghé qua phủ Định Quốc Công thôi. Tiết Oánh thích ăn bánh, chiều nay con vừa làm một ít bánh hoa sen, nên mang đến phủ Định Quốc Công cho nàng ấy.”

Lăng Duệ khẽ nhướn mày, nhìn Lăng Nhược Mẫn đầy ẩn ý, cười nói: “Là đưa cho Tiết Oánh, hay là đưa cho Tiết Vô Vấn?”

Khuôn mặt xinh đẹp của Lăng Nhược Mẫn lập tức đỏ bừng, vội nói: “Cha đừng đùa con nữa, mau vào nhà đi, con sẽ bôi thuốc cho người.”

Làm sao Lăng Duệ không biết tâm tư của nữ nhi mình.

Hai năm trước, xe ngựa của Lăng gia chạy loạn trên phố Trường An, lúc đó chính Tiết Vô Vấn đã khống chế được con ngựa điên, cứu được Lăng Nhược Mẫn đang ngồi trong xe.

Anh hùng cứu mỹ nhân dễ khiến người ta động lòng nhất, huống chi Tiết Vô Vấn dung mạo tuấn mỹ, tuổi còn trẻ đã giữ chức vụ quan trọng.

Mẫn nhi có tình cảm với hắn ta cũng không có gì là không phải.

Tiết Vô Vấn quả thực là một ứng cử viên không tồi cho vị trí phò mã, không chỉ là ông ta, ngay cả Hồ Đề cũng từng nhắm đến vị Thế tử Định Quốc Công này. Chỉ là sau khi bị ông ta nhắc nhở vài lần, mới chuyển hướng sang Thế tử phủ Định Viễn Hầu Tuyên Nghị.

Nếu nữ nhi nhà mình có thể thành thân với Tiết Vô Vấn, thì đương nhiên là không còn gì tốt hơn.

Phủ Định Quốc Công địa vị cực cao, lại thật sự nắm binh quyền trong tay. Từ khi bị trúng độc bảy năm trước, thân thể Định Quốc Công Tiết Tấn đã không còn như xưa.

Nói không chừng qua vài năm nữa, Tiết Vô Vấn sẽ là Định Quốc Công.

Nếu sau lưng ông ta có sự ủng hộ của phủ Định Quốc Công…

Không biết nghĩ đến điều gì, ánh mắt Lăng Duệ nhìn Lăng Nhược Mẫn càng thêm dịu dàng: “Tiết Oánh ra ngoài du ngoạn nửa năm mới về Kinh, nếu con rảnh thì thường xuyên đến phủ Định Quốc Công tìm nó chơi, liên lạc tình cảm cho tốt.”

Lăng Nhược Mẫn nghe vậy, mím môi cười nói: “Con xin vâng lệnh.”

***

Bên kia Tiết Vô Vấn vừa về phủ đã nghe thấy vài tiếng chim kêu “chiêm chiếp”.

Thái dương hắn ta giật giật, bước chân dừng lại, nhìn về phía cửa nguyệt. Đã thấy Ám Nhất đang cầm một hộp thức ăn tinh xảo, nheo mắt làm khẩu hình với hắn ta, không phát ra tiếng nói: “Đào hoa của Thế tử!”

Thật là… đào hoa cái quỷ gì!

Tiết Vô Vấn không thể chịu nổi nữa, sải bước đến, nói: “Ngươi lại xem được tuồng gì vậy?”

Ám Nhất giơ hộp thức ăn lên, liếc nhìn về phía Vô Song viện, hạ giọng nói: “Thế tử, đây là điểm tâm Lăng cô nương nhà Thủ phụ mang đến, nàng ta đặc biệt dặn thuộc hạ phải trao tận tay ngài. Thuộc hạ biết trong lòng ngài chỉ có Ngụy di nương, nhưng Lăng cô nương này thân phận đặc biệt, thuộc hạ nghĩ nên nói với ngài một tiếng, biết đâu ngài có sắp xếp khác.”

Tiết Vô Vấn cười khẩy: “Sắp xếp khác?”

Ám Nhất nghiêm chỉnh nói: “Hôm qua thuộc hạ nghe được một câu chuyện, kể về một nữ mật thám trung thành, vì hoàn thành mệnh lệnh của chủ tử, đã khẳng khái đại nghĩa, vì nước quên thân, một mình đột nhập vào phủ Hoàng tử của địch quốc, giả vờ yêu Hoàng tử đó, đánh cắp tình báo của địch quốc. Ai ngờ giả vờ thành thật—”

Tiết Vô Vấn giơ tay lên: “Dừng lại. Ngươi muốn ta học theo nữ mật thám đó, đi khẳng khái đại nghĩa, vì nước quên thân?”

“Thế tử anh minh thần võ, không cần phải thực sự vì nước quên thân. Ngài chỉ cần giả vờ chiều chuộng một chút, biết đâu có thể dò la được bí mật của Lăng Thủ phụ từ miệng Lăng cô nương. Ngài thấy ý này thế nào?”

Tiết Vô Vấn đối diện với đôi mắt sáng long lanh đầy mấy chuyện tào lao của Ám Nhất, lắc đầu “ Chậc” một tiếng: “Ám Nhất, ngươi bị làm hư rồi!”

Nói xong lại vỗ vỗ hộp thức ăn, nói: “Ai nhận thì người đó phải chịu trách nhiệm ăn, sau này ngươi có nhận thêm đồ gì của Lăng Nhược Mẫn, dù là bánh, khăn tay hay túi thơm, ngươi đều phải chịu trách nhiệm ăn hết.”

Ám Nhất nhìn theo bóng lưng vô tình của Tiết Vô Vấn, ấm ức ngẩng đầu nhìn bầu trời.

Thế tử thật là người nhẫn tâm, hắn ta đã tận tâm tận lực mưu tính cho ngài ấy như vậy, ngài ấy lại không khen ngợi, còn bắt hắn ta ăn cả khăn tay, túi thơm nữa chứ.

Ôi, hơi nhớ Ám Nhị rồi…

Tiết Vô Vấn lười để ý đến vẻ ấm ức của Ám Nhất, vào Vô Song viện, đẩy cửa phòng ngủ bước vào.

Thấy Vệ Xuân đang chăm chú sửa chữa linh bài của Vệ Giới, cũng không đến quấy rầy nàng ấy, tháo thanh Tú Xuân đao bên hông ra rồi kéo một chiếc ghế ngồi xuống, chăm chú nhìn góc mặt nghiêng của Vệ Xuân.
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 91: (Tuyến cặp phụ)


Bài vị của Vệ Giới được làm từ gỗ trầm hương thượng hạng, thân gỗ đen nhánh, chữ màu vàng kim, giờ đã vỡ thành nhiều mảnh, rất khó để ghép lại.

Nhưng Vệ Xuân vẫn hết sức tập trung, chất lỏng màu đỏ chảy ra từ vết nứt đã được lau sạch, khe nứt được dán lại bằng nhựa cây sồi, tạm thời ghép được linh bài lại.

Vệ Xuân khẽ thở phào, đang định mở miệng nói thì người bên cạnh đột nhiên nắm lấy tay nàng ấy, dùng khăn ướt lau từng ngón tay thật sạch cho nàng ấy.

Tiết Vô Vấn biết cô nương này thích sạch sẽ, đã chuẩn bị sẵn khăn ướt cho nàng ấy, giúp nàng ấy lau chùi: “Bài vị hư hỏng thì đục cái mới là được, sao phải tự mình sửa chữa?”

“Tổ tiên Vệ gia chỉ còn mỗi linh bài này.” Vệ Xuân cúi mắt xuống, thấy nhựa cây dính trên đầu ngón tay đã được lau sạch, mới tiếp tục nói: “Hơn nữa, ta cũng muốn giữ lại linh bài này để con cháu Vệ gia luôn ghi nhớ và cảnh giác.”

Khi xưa, linh bài này được đưa vào lầu Đại Bi là vinh dự tối cao của Vệ gia, nhưng phúc họa luôn đi đôi với nhau, khi một gia tộc sụp đổ, mọi vinh quang trong quá khứ đều trở thành mây khói, ngay cả việc để lại một linh bài nguyên vẹn cho tổ tiên cũng trở nên khó khăn.

Trận hỏa hoạn bảy năm trước, tổ miếu truyền thừa nhiều năm của Vệ gia đã biến thành tro chỉ sau một đêm, bao nhiêu linh bài tổ tiên trong đó đều hóa thành tro bụi.

Bài học đau thương như vậy, không thể quên được.

Thực ra, tộc họ Vệ được coi là đệ nhất thế gia, đời đời đều tuân theo lời dạy của người xưa, không kiêu ngạo không nóng vội, luôn khiêm tốn lễ độ.

Gia huấn Vệ gia quy định, khi qua tuổi lục tuần phải từ quan, chỉ có rút lui khi đang ở thời kỳ huy hoàng nhất mới có thể duy trì lâu dài, truyền thừa hương hỏa.

Nhưng dù vậy, một gia tộc vẫn có thể diệt vong trong chớp mắt. Mạng người mong manh nhất, lòng người cũng khó lường nhất.

Ai mà biết được, những ngày tháng huy hoàng gấm hoa trước mắt liệu có thể biến thành ngọn lửa diệt tộc ngập trời ngay trong nháy mắt không.

Không cần Vệ Xuân nói nhiều, Tiết Vô Vấn lập tức hiểu được suy nghĩ trong lòng nàng ấy.

Hắn ta mỉm cười bóp nhẹ đầu ngón tay thon dài của Vệ Xuân, nói: “Khi đệ đệ nhờ ta đến Dược Cốc lấy di vật cũ này về, ta còn thắc mắc đệ ấy định dùng linh bài này làm gì? Giờ nghĩ lại, có lẽ cũng giống như nàng, muốn dùng nó để cảnh tỉnh con cháu Vệ gia sau này.”

Vệ Xuân ngước mắt nhìn hắn ta, hỏi: “Việc hôm nay có suôn sẻ không?”

“Sao mà không suôn sẻ được?” Tiết Vô Vấn cười nói: “Với tình nghĩa giữa Viên Thanh đại sư và Hoắc lão tướng quân, làm sao có thể không giúp chúng ta? Hôm nay ở điện Dưỡng Tâm, dù Lăng Duệ không bị thương thì cũng sẽ bị Chu Nguyên Canh mắng cho một trận. Hiện giờ Chu Nguyên Canh đặt hết hi vọng độ kiếp vào chùa Đại Tướng Quốc, khi ta và Triệu Bảo Anh xuất phát còn không quên nhắc nhở chúng ta, dù thế nào cũng không được đắc tội với các cao tăng trong chùa. Không ngờ lời quở trách của Viên Thanh đại sư lại tạo nên cảnh chó cắn chó thế này.”

Nghe Tiết Vô Vấn nhắc đến Hoắc Diễm và Viên Thanh đại sư, Vệ Xuân khẽ cong môi, nói: “Ngày xưa ông ngoại đã từng nói, đừng nhìn Viên Thanh đại sư là người xuất gia, thực ra khi mắng người khác, còn ghê gớm hơn cả ông và Phương thần y.”

Tiết Vô Vấn thấy Vệ Xuân cười, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm, ban đầu còn lo linh bài sẽ gợi lên những chuyện nàng ấy không muốn nhớ lại, nhưng cô nương này mạnh mẽ hơn hắn ta tưởng.

Cũng không biết có phải vì sợ hắn ta lo lắng mà cố tỏ ra mạnh mẽ không.

Dù sao khi xưa, lúc biết tổ miếu Vệ gia bị thiêu rụi, nàng ấy đã âm thầm khóc nửa ngày.

“Vệ Xuân.” Tiết Vô Vấn cúi đầu tìm ánh mắt nàng ấy, nghiêm túc nói: “Thanh Châu đã có động tĩnh, Thẩm Thính và Chử Tướng quân đều đang chờ thời cơ. Chỉ cần Nam Chiếu thật sự có động tĩnh, dù là thực sự muốn đánh nhau với quân Thanh Châu hay chỉ ra vẻ, Chử Tướng quân cũng sẽ nhân cơ hội này gài bẫy Tần Vưu và Lăng Nhược Phàm. Đến lúc đó, ngày rửa sạch oan khuất cho Vệ gia và Hoắc gia đã không còn xa nữa.”

Những việc hắn ta và Hoắc Giác làm, thực ra chỉ cần Vệ Xuân hỏi, hắn ta đều sẽ nói thật. Chỉ là nếu nàng ấy không hỏi, hắn ta cũng không chủ động nói, sợ nàng ấy lo lắng tổn thương.

Hôm nay chủ động nói về chuyện Thanh Châu, chẳng qua là sợ nàng ấy buồn về chuyện cũ, nên mới chọn những chuyện khiến nàng ấy vui để nói cho nàng ấy nghe.

Vệ Xuân nhìn thẳng vào mắt hắn ta một thoáng, lập tức hiểu được tâm ý của hắn ta, buồn cười nói: “Đừng lo cho ta, chuyện đã qua bảy năm, sao ta có thể vì một linh bài vỡ của tổ tiên mà buồn thương được? So với điều đó, ta lo lắng cho chàng hơn. Hôm qua ta nghe lão phu nhân nói, sang xuân năm sau Tiết thế thúc sẽ về Kinh báo cáo công tác. Nhỡ như thế thúc biết chuyện chàng và A Giác làm, chàng đã nghĩ cách đối phó chưa?”

Định Quốc Công hiện ở xa tại Túc Châu, tin tức khó tránh khỏi chậm trễ, thêm vào đó Tiết Vô Vấn cố ý giấu giếm, nên đến giờ vẫn không hay biết gì. Nhưng chỉ cần về đến Thịnh Kinh, sẽ không còn giấu được chuyện gì nữa.

Tuy có lão phu nhân ở đây, Vệ Xuân không sợ Định Quốc Công sẽ thực sự làm gì Tiết Vô Vấn. Nàng ấy chỉ sợ Tiết Vô Vấn lại như trước kia, phải chịu bốn mươi chín roi gia pháp.

Tiết Vô Vấn biết nàng ấy đang lo cho hắn ta, tuy trong lòng rất hưởng thụ, nhưng ngoài miệng lại khẽ “chậc” một tiếng, cố ý tỏ vẻ không để tâm: “Sợ gì? Ta nhanh chóng để nàng mang thai đứa con cho Tiết gia chúng ta, đến lúc đó, phụ thân nhìn mặt A Thiền, có lẽ sẽ tha cho ta một mạng. Nhiều lắm cũng chỉ là một trận gia pháp nữa thôi, dù sao cũng không chết được.”

Vệ Xuân vội đưa tay che miệng hắn ta, nói: “Đừng nói bậy.”

Bảy năm trước nàng ấy không thể đỡ cho hắn ta bốn mươi chín roi đó, lần này, nếu Định Quốc Công thật sự muốn phạt hắn ta, thì dù thế nào nàng ấy cũng sẽ cùng hắn ta đối mặt.

Hắn ta là nam nhân của nàng ấy, dù nàng ấy có yếu đuối vô dụng đến đâu, cũng phải dốc hết sức bảo vệ hắn ta.

Tiết Vô Vấn nhìn vẻ mặt che chở của Vệ Xuân, khẽ mỉm cười, thuận thế hôn vào lòng bàn tay nàng ấy, không nói thêm gì nữa.

Mùa xuân năm sau, khi phụ thân về Kinh, nhiều chuyện hẳn đã ngã ngũ. Chỉ cần ván đã đóng thuyền, hắn ta tự nhiên có cách khiến phụ thân chấp nhận.

***

Chuyện Lăng Duệ bị Thánh nhân nổi giận quở trách trong cung chẳng bao lâu đã truyền đến tai Hoắc Giác.

Khi nói với hắn, vẻ mặt Hà Chu vui vẻ thấy rõ: “Chủ tử, nếu Hoàng thượng chán ghét Lăng Thủ phụ, có khi không cần chúng ta ra tay, Lăng Thủ phụ cũng sẽ tự chuốc lấy hậu quả.”

Hoắc Giác đặt cây bút lông sói xuống, trên mặt không có chút vui vẻ nào, chỉ nhẹ giọng hỏi: “Khi Lăng Duệ ra cung có phải là Dư Vạn Chuyết đã đưa tiễn không?”

Hà Chu đáp: “Không phải, nghe nói là Triệu Đốc công tự mình đưa tiễn. Nhưng vừa mới đến cửa điện, đã bị Hoàng thượng gọi về điện Dưỡng Tâm. Còn Dư công công, trong cung không gặp mặt Lăng Thủ phụ. Chỉ có điều—”

“Chỉ có điều gì?”

“Nghe người của chúng ta trong cung nói, Lăng Thủ phụ vừa mới rời cung, Dư công công đã lén lút đến điện Thừa Loan một chuyến.” Hà Chu nói đến đây, vô thức liếc nhìn sắc mặt Hoắc Giác, thấy hắn vẫn bình tĩnh như thường, có vẻ như hoàn toàn không ngạc nhiên, mới tiếp tục nói: “Nhưng Dư công công đến điện Thừa Loan vì chuyện gì, thì không rõ nữa. Trong điện Thừa Loan có quá nhiều người hầu hạ, lại canh gác nghiêm ngặt, người của chúng ta không thể trà trộn vào được.”

Hoắc Giác khẽ đóng tập công văn trên bàn lại, nói: “Gửi tin vào trong, bảo họ không cần trà trộn vào điện Thừa Loan, chỉ cần theo dõi Vương Quý phi, xem khi nào bà ta xuất cung là được.”

Những gì Dư Vạn Chuyết nói với Vương Quý phi, không ngoài những lời Lăng Duệ nhờ truyền đạt.

Lăng Duệ là người có lòng tự trọng cực cao, làm Thủ phụ Nội Các và Lại bộ Thượng thư nhiều năm, càng khiến nội tâm ông ta kiêu ngạo đến cùng cực.

Hôm nay bị Thành Thái Đế quở trách không chút khách sáo, đối với vị Lăng Thủ phụ đã ngồi ở vị trí cao nhiều năm này mà nói, có thể coi là nỗi nhục nhã lớn.

Nỗi nhục nhã như vậy, Lăng Duệ hai mươi năm trước có thể nhẫn nhịn, nhưng Lăng Thủ phụ ngày nay thì không thể nhẫn nhịn được nữa.

Quyền lực đã khiến ông ta đánh mất sự nhẫn nại và kiên trì của ngày xưa.

Hoắc Giác nói với Hà Chu xong, đứng dậy ra khỏi thư phòng, nói: “Chuẩn bị xe ngựa, ta tới quán rượu một chuyến.”

***

Phố Thuận Lạc, quán rượu Trạng Nguyên lâu.

Do biết hôm nay Hoắc Giác phải đến chùa Đại Tướng Quốc có việc, Khương Lê đã đến quán rượu nấu rượu từ sớm.

Quán rượu hiện đã ký hợp đồng với nhiều thương hộ lớn ở Thịnh Kinh, hẹn đầu mỗi tháng sẽ định kỳ giao rượu theo số lượng nhất định, một tháng cần không ít rượu.

Thấy đầu tháng bảy sắp đến, nàng tất nhiên phải đến quán rượu để đối chiếu các đơn hàng gửi đến mấy thương hộ lớn, bận rộn đến tận giờ Ngọ mới xong.

Từ sân trong trở về quán rượu, Khương Lê phát hiện trong đại sảnh có một gương mặt xa lạ.

Nói đến thì Trạng Nguyên lâu giờ cũng được xem là quán rượu có tiếng ở phố Thuận Lạc, mỗi ngày người đến uống rượu không ít, đến nhiều lần tự nhiên cũng thành khách quen.

Nhưng gương mặt lạ hôm nay có lẽ là lần đầu đến quán, đến rồi tuy gọi rượu, nhưng một ngụm cũng không uống, xem ra hoàn toàn không giống như đến để uống rượu.

Khương Lê theo bản năng để ý nhiều hơn, chẳng bao lâu lại thấy người đó cầm thực đơn hỏi tiểu nhị trong quán: “Vị đầu bếp nữ trong bếp quán các ngươi, có biết làm cơm Bát trân không?”

“Cơm Bát trân?” Tiểu nhị nghe xong, vội lắc đầu nói: “Các món ăn của Trạng Nguyên lâu chúng ta đều có trong thực đơn này, có thì có, không thì không. Món ‘cơm Bát trân’ khách quan nói đã không có trong thực đơn, thì tất nhiên là không có rồi.”

Nam tử kia nghe vậy gật đầu, nhưng vẫn lịch sự hỏi: “Ta biết trong thực đơn không có, nên mới muốn nhờ ngươi đến bếp hỏi xem, biết đâu vị đầu bếp nữ của các ngươi vừa hay biết làm.”

“Cái này…” Tiểu nhị khó xử nhíu mày, quay đầu nhìn Khương Lê, thấy Khương Lê gật đầu, mới nói: “Được rồi, tiểu nhân phá lệ một lần, thay khách quan đi hỏi xem sao.”

Khương Lê đứng sau quầy, tay cầm bàn tính, nhưng khóe mắt vẫn luôn để ý đến người nọ.

Người nọ mặc một bộ y phục vải xanh bình thường, dáng người cao lớn, diện mạo bình thường, đầu đội khăn xếp có góc, tuổi nhìn không đến ba mươi.

Tuy nàng chưa từng cảm nhận được ác ý từ người nọ, nhưng vẫn nên biết phòng người. Hắn ta đến quán rượu, không uống rượu cũng không dùng cơm, chỉ liên tục hỏi đầu bếp nữ trong quán có biết làm “cơm Bát trân” không.

Nhìn là biết có ý đồ khác.

“Cơm Bát trân” này rõ ràng không phải món ăn có ở Thịnh Kinh, đại đa số người thậm chí chưa từng nghe nói đến món cơm này.

Nhưng nói cũng trùng hợp, không lâu trước đây Khương Lê vừa hay đã nghe nói qua món “cơm Bát trân” này.

Khi Tú nương tử mới đến quán, có một ngày hai người họ đang ủ rượu ở sân trong, nói đến những món ăn vặt không có ở Thịnh Kinh, bà ấy đã nhắc đến món cơm đó.

“Đây còn là món cơm ta nghĩ ra lúc trước khi kinh doanh quán rượu, dùng bảy loại đậu xay nhuyễn trộn với thịt băm làm nhân, bên ngoài bọc một lớp gạo nếp cho vào xửng trúc hấp chín, ăn vào có mùi thơm của đậu, thịt và trúc, rất ngon.”

Dư Tú Nương giỏi làm món ăn, Khương Lê nghe bà ấy nói qua không ít món ăn độc đáo, “cơm Bát trân” này chính là do bà ấy sáng tạo ra.

Vừa rồi nam tử kia hỏi đến món cơm này, Khương Lê đã đoán được, có lẽ là người này đến tìm Tú nương tử, nên mới bảo tiểu nhị vào nói với bà ấy.

Nếu Tú nương tử muốn gặp hắn ta thì tự nhiên sẽ ra, nếu không muốn, thì bà ấy sẽ bảo Hà Ninh đuổi người đó ra ngoài.

Khương Lê không biết người này rốt cuộc là gì của Tú nương tử, nếu không phải vì tuổi hắn ta nhìn còn trẻ hơn Tú nương tử không ít, nàng suýt nữa còn tưởng người này là vị phu quân trước kia của bà ấy.

Bên này nàng đang nghĩ, bên kia Dư Tú Nương đã vội vã đi ra từ nhà bếp, vừa nhìn thấy người đến quán, ngạc nhiên nhướn mày, nói: “Tề An? Sao ngươi tìm đến được đây?”
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 92: Không phụ lòng


Cuối tháng sáu ở Thịnh Kinh, hơi nóng như muốn bức người đến ngạt thở, tiếng ve kêu râm ran trong bụi cây, đua nhau hát vang.

Dư Tú Nương đứng dưới cây hòe lớn cuối phố, khẽ nhíu mày, nói: “Nói đi, làm sao ngươi tìm được ta? Tiểu Nguyệt nói cho ngươi biết à?”

Nói xong, lại thấy không thể nào, Tiểu Nguyệt không thể phản bội bà ấy.

Quả nhiên, vừa dứt lời, Tề An đã vội vàng xua tay: “Không phải Tiểu Nguyệt nói cho ta, từ khi phu nhân và đại nhân hòa ly, Tiểu Nguyệt không chịu gặp ta lần nào nữa. Hai ngày trước là sinh nhật của Tiểu Nguyệt, ta lén đến chỗ nàng ấy ở nhìn một chút, tình cờ gặp phu nhân trở về.”

Tính cách của Tề An, Dư Tú Nương cũng biết, sẽ không nói dối với bà ấy.

Bà ấy gật đầu, nói: “Ngươi đã nói với Tề Xương Lâm là ta ở đây rồi?”

“Đã nói. Đại nhân bảo ta đến đây gọi một bát ‘cơm Bát trân’, nói nếu sau khi phu nhân ra mà không muốn nhận ta, thì không cho phép ta xuất hiện trước mặt phu nhân… và Tiểu Nguyệt nữa, nói không được quấy rầy cuộc sống yên tĩnh của phu nhân.”

Tề An nói gấp gáp, như sợ Dư Tú Nương sẽ hiểu lầm đại nhân nhà mình.

Nhưng Dư Tú Nương nghe xong những lời này, ngực lập tức bốc hỏa.

Người khác không hiểu Tề Xương Lâm, còn tưởng những lời ông ta nói rất thông tình đạt lý. Nhưng Dư Tú Nương làm phu thê với ông ta bao nhiêu năm, làm sao không biết cái tâm tư nhỏ nhen của ông ta.

Tiểu Nguyệt là nha hoàn trước kia của bà ấy, Tề An là tùy tùng thân cận của Tề Xương Lâm, hai người họ khi xưa cũng coi như là tình chàng ý thiếp, nếu không phải Dư Tú Nương và Tề Xương Lâm hòa ly, Tiểu Nguyệt và Tề An đã sớm thành thân, có lẽ con cái đã chạy ra ngoài nắm đuôi chó rồi.

Cũng là lần này về Thịnh Kinh, Dư Tú Nương mới biết, sau khi bà ấy rời đi, Tiểu Nguyệt cũng nhẫn tâm rời khỏi phủ Thị lang, cắt đứt với Tề An.

Giờ đây rõ ràng Tề An vẫn nhớ nhung Tiểu Nguyệt, mà Tiểu Nguyệt đến giờ cũng chưa gả đi, hẳn là cũng không buông được Tề An.

Nếu bà ấy không muốn gặp họ, Tề Xương Lâm không cho Tề An đến gặp bà ấy cũng được, nhưng dựa vào đâu mà không cho Tề An gặp Tiểu Nguyệt?

Chẳng phải là tính toán trúng chút áy náy trong lòng bà ấy, ép bà ấy phải nhận Tề An sao?

Tên khốn kiếp này, chín năm không gặp, vẫn như trước, một bụng toàn ý nghĩ xấu xa!

“Ngươi về nói với Tề Xương Lâm, giữa ta và các ngươi từ lâu đã không còn chuyện nhận hay không nhận nữa. Ta bây giờ không phải phu nhân phủ Thị lang, đã chia tay đường ai nấy đi với Tề Xương Lâm hắn từ sớm, ngươi cũng đừng gọi ta là phu nhân nữa. Còn về chuyện của ngươi và Tiểu Nguyệt, ta không can thiệp, nhưng nếu ngươi vì một câu nói của Tề Xương Lâm hắn mà sợ hãi rụt rè, ngay cả gặp Tiểu Nguyệt cũng không dám, chắc chắn ta sẽ khuyên Tiểu Nguyệt cả đời này đừng nhớ đến ngươi nữa.”

Tề An mồm miệng khô khốc, cười khổ nói: “Phu nhân…”

Dư Tú Nương vẫy tay với Tề An, ý bảo hắn ta đừng nói nữa. Bà ấy còn phải về bếp giúp việc, thật sự không muốn lãng phí thời gian ở đây.

Tề Xương Lâm biết bà ấy ở đây thì đã sao? Tên khốn kiếp đó, đừng tưởng ông ta làm Hình bộ Thượng thư rồi thì bà ấy không dám mắng. Ông ta dám đến, bà ấy sẽ dám mắng!

Còn phải hỏi ông ta cho rõ, rốt cuộc hai bức thư và tờ ngân phiếu mười ngàn lượng đó là chuyện gì!

“Đừng cứ gọi ‘phu nhân’ ‘phu nhân’ nữa, sau này gọi ta là Tú nương tử. Ngươi đã đến quán rượu, gọi rượu rồi, thì uống cho hết đi. Rượu do mấy bà chủ nương tử nhà ta ủ ra, đều là rượu ngon, ở Thịnh Kinh này ngươi chắc chắn không tìm được quán thứ hai, đừng phí phạm.”

Dư Tú Nương nói xong, lập tức quay vào quán không ngoái đầu lại.

Tề An nhìn bóng dáng gầy gò của Dư Tú Nương, câu “Đại nhân rất nhớ người” nghẹn chặt trong cổ họng, không sao nói ra được. Hắn ta cũng chẳng có tâm trạng uống rượu, chỉ muốn nhanh chóng về nha môn Hình Bộ, báo với đại nhân về chuyện phu nhân.

Trong lòng gấp gáp, bước chân cũng không khỏi rối loạn, vừa đi đến đầu phố định rẽ, đã đụng phải một người.

Tề An vội lùi một bước, chắp tay nói một câu “Xin lỗi”.

Hoắc Giác tay xách túi hạt dẻ rang đường, hạ mắt nhìn Tề An đang đầy vẻ vội vã, nói: “Không sao.”

Tề An chỉ thấy người trước mắt này có vẻ quen quen, nhưng không nghĩ ra đã gặp ở đâu, không nghĩ ra thì cũng không nghĩ nữa, chỉ gật đầu, rồi bước nhanh rời đi.

Hoắc Giác nhìn bóng dáng Tề An rời đi, đáy mắt hơi trầm xuống, hắn nhận ra người này, là đầy tớ trung thành của Tề Xương Lâm.

Kiếp trước sau khi Tề Xương Lâm chết, chính hắn ta đã đến ngục thu nhặt thi cốt cho Tề Xương Lâm.

Lúc đó Tề An quỳ trước mặt hắn, nghiêm túc dập đầu với hắn, nói: “Đại nhân nói ngài ấy tội nghiệt sâu nặng, vốn không xứng có mồ yên mả đẹp. Đa tạ Hoắc đại nhân cho phép tiểu nhân liệm thi cốt cho đại nhân nhà ta, tiểu nhân dập đầu với ngài!”

Tiếng dập đầu “bịch bịch” càng lúc càng nặng, cho đến khi đầu vỡ máu chảy, mới vác thi cốt của Tề Xương Lâm, ra khỏi nhà ngục.

Hoắc Giác từ từ thu hồi ánh mắt, kiếp trước hắn có thể một lưới bắt gọn đảng phái của Lăng Duệ, khẩu cung của Tề Xương Lâm và hai cuốn sổ sách kia đã có tác dụng không nhỏ.

Lúc đó ông ta chịu mở miệng, chịu giao ra hai cuốn sổ sách đó, chẳng qua cũng là vì một câu nói của Hoắc Giác: “Chính thê của ngài đã chạy đến từ Trung Châu, giao hai bức mật thư đến Đại lý tự. Tề Thượng thư, nếu Lăng Duệ không chết, theo như hiểu biết của ngài về Lăng Thủ phụ, ngài ấy sẽ đối phó với chính thê của ngài thế nào?”

Khi đó hắn cũng chỉ muốn đánh cược một phen, đánh cược Tề Xương Lâm sẽ áy náy với vị chính thê của ông ta, để lộ chút tin tức. Nhưng nói thật, lúc đó hắn cũng không nắm chắc lắm, không nghĩ rằng Tú nương tử có thể phát huy tác dụng lớn đến vậy.

Không ngờ lời của hắn vừa nói ra, sắc mặt vị Tề Thượng thư miệng kín như bưng, dù uy h**p hay dụ dỗ thế nào cũng không chịu mở miệng kia đã cứng đờ, kinh hoàng lẩm bẩm một câu: “Nàng ấy thật sự đã đến ư?”

Qua vài hơi thở, lại cười nhạt nói: “Xong rồi, lần này e là nàng ấy sẽ không tha thứ cho ta nữa.”

Im lặng hồi lâu sau, Tề Xương Lâm thở dài một tiếng: “Hoắc công công, lấy bút đến đi, Tề mỗ nhận tội!”



Hoắc Giác cụp mắt xuống, nhìn túi hạt dẻ đường tỏa hương thơm ngọt mới ra khỏi lò trên tay, nhớ đến vẻ mặt của Khương Lê khi nhắc đến Tú nương tử, khóe môi khẽ mím lại.

Kiếp trước, Tề Xương Lâm không thể không chết.

Nhưng kiếp này, có lẽ có thể tha cho ông ta một mạng.

***

Dư Tú Nương trở về quán rượu, đã thấy Khương Lê, Dương Huệ Nương và Như Nương đều đang đợi bà ấy trong quán, bèn kể qua loa mấy câu, chỉ nói người vừa rồi là đồng hương của bà ấy, cũng là người hầu của phu quân trước kia của bà ấy.

Khương Lê cũng không phải người thích nghe ngóng chuyện riêng tư của người khác, khẽ gật đầu, nói với Dư Tú Nương: “Nếu lần sau Tú nương tử không muốn gặp hắn, ta sẽ không sai người vào bếp báo cho dì nữa.”

Dư Tú Nương nhìn Khương Lê, lại nhìn Dương Huệ Nương và Như Nương đang tỏ vẻ quan tâm bên cạnh, cười cười nói: “Không sao đâu, cũng không phải kẻ thù, hắn đến, ta mời hắn uống chén rượu là được.”

Trong quán rượu này ai cũng có câu chuyện của riêng mình.

Suy cho cùng, người đến thế gian này một lần, ai mà không có chuyện chứ? Tốt có xấu có, ngọt có đắng có, chớp mắt mở mắt, đã đi hết một đoạn đường đời thật dài.

Nhưng dù là Như Nương cũng được, Dư Tú Nương cũng được, thậm chí là Dương Huệ Nương goá bụa mười năm, một mình nuôi hai đứa con khôn lớn cũng thế, họ đều là những nữ tử có tính cách kiên cường, hiếm khi có lúc đa sầu đa cảm.

Dương Huệ Nương sang sảng tươi cười với Dư Tú Nương, nói: “Dù sao bây giờ cũng không có khách, chúng ta ra sân trong hóng mát đi.”

Khi Hoắc Giác bước vào cửa, đã thấy mấy nương tử ngồi dưới gốc cây ở sân trong nói chuyện, tất cả mọi người đều cười rất thoải mái.

Tất nhiên tiểu nương tử nhà mình là cười ngọt ngào nhất, nàng không nói nhiều lắm, chỉ im lặng ngồi bên cạnh Dương Huệ Nương, nghiêm túc lắng nghe ba người họ nói chuyện.

Cũng không biết đã nghe được chuyện gì vui, cười đến nỗi hai lúm đồng tiền lún sâu vào khóe miệng, đôi mắt tròn xoe cong lên thành hai vầng trăng.

Hoắc Giác dừng bước.

Trong khoảnh khắc này, tất cả mọi gánh nặng đè trên vai, mọi mưu mô quỷ kế trong triều đường cùng tất cả những tăm tối đã trải qua trong hai kiếp làm người, dường như đều dần dần trôi xa.

Chỉ có túi hạt dẻ nóng hổi trong tay và nụ cười của tiểu nương tử trước mắt là chân thật.

Khi Hoắc Giác vừa bước vào, Khương Lê đã nhìn thấy hắn. Nàng thực sự không ngờ hắn sẽ đến, vội vàng mừng rỡ gọi tên hắn: “Chàng không đến chùa Đại Tướng Quốc sao?”

Sáng nay khi nàng còn đang ngái ngủ, hắn còn nói với nàng rằng có lẽ phải bận đến tối hoặc sáng sớm hôm sau mới có thể về, không ngờ mới qua giờ Ngọ mà đã về rồi.

Hoắc Giác gật đầu chào hỏi mấy người Dương Huệ Nương, sau đó mới cười đáp lời Khương Lê: “Việc ở chùa Đại Tướng Quốc xử lý xong sớm, ta thấy trời còn sớm nên ghé quán rượu tìm nàng.”

Tiểu phu thê toát lên vẻ ngọt ngào tình tứ từ xa đã ngửi thấy khiến mấy người Dương Huệ Nương không nhịn được cười.

Họ đều là người từng trải, đương nhiên rất tinh ý nhường sân trong mát mẻ này cho hai người, cười tủm tỉm quay về chính đường của quán rượu.

Khương Lê rót cho Hoắc Giác một chén trà, dịu dàng nói: “Chàng đến thật đúng lúc, lát nữa A Lệnh tan học, chàng khuyên nhủ đệ ấy một chút, đừng để đệ ấy áp lực quá, ta thấy gần đây đệ ấy gầy đi nhiều.”

Từ ngày Hoắc Giác được Ngự Nhai Khoa Quan, A Lệnh càng chăm chỉ học hành hơn.

Sau khi biết Khương Lê suýt nữa gặp chuyện trong cung, cậu càng quyết tâm thi lấy một chức quan tốt. Nói rằng vì tỷ phu xuất thân nhà bình dân, e là không có nhiều quan hệ trong triều đình, nếu cậu có thể làm quan, sẽ có thể giúp đỡ tỷ phu một tay.

Hoắc Giác đang lấy nước từ giếng bên cạnh để rửa tay, nghe Khương Lê nói vậy, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Vừa hay ngày mai nghỉ, ta mời Tông Khuê đến quán rượu uống rượu, tiện thể nhờ hắn hướng dẫn bài vở cho A Lệnh.”

Khương Lê mở to mắt, hỏi: “Tông đại nhân sẽ đồng ý sao?”

Khương Lê có ấn tượng khá sâu sắc về Tông Khuê.

Ấn tượng sâu sắc này không phải vì diện mạo hay gia cảnh của Tông Khuê, mà là vì khí chất kiêu ngạo che giấu thế nào cũng không hết của hắn ta.

Chắc là từ nhỏ đã sống cuộc sống được nâng như nâng trứng, vị Tông đại nhân đó có sự kiêu ngạo thấm vào tận xương tủy, một người kiêu ngạo như vậy, thật sự sẽ chịu dạy A Lệnh sao?

“Đã ăn của chùa phải quét lá đa, hắn sẽ không từ chối đâu.” Hoắc Giác thản nhiên đáp, cầm túi giấy dầu bên cạnh, bóc một hạt dẻ đưa vào miệng Khương Lê: “Trước đây Sơn trưởng thư viện Lộc Sơn từng dạy Tông Khuê, hắn rất hiểu vị Sơn trưởng này thích loại văn chương nào. Có hắn hướng dẫn A Lệnh, chắc sẽ giúp A Lệnh đỡ phải đi đường vòng nhiều.”

Khương Lê há miệng ăn hạt dẻ rang vàng óng, nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói: “Vậy ngày mai ta và mẹ sẽ làm nhiều món ngon cho các chàng, Tông đại nhân có kiêng ăn món gì không?”

Hoắc Giác nhớ đến dáng vẻ kén cá chọn canh của Tông Khuê khi ăn cơm ở công sở, nhưng vẫn lừa mình dối người mà lắc đầu: “Không có, các nàng không cần tự mình làm, hắn chỉ cần có đồ ăn là được, đến lúc đó bảo người trong phủ làm vài món điểm tâm gửi qua là tốt rồi.”

Khương Lê chớp mắt, liếc nhìn Hoắc Giác.

Nàng biết Hoắc Giác không muốn nàng tự tay nấu nướng vì sợ nàng mệt, nhưng nếu muốn mời vị Tông đại nhân đó dạy kèm cho A Lệnh, đương nhiên phải thể hiện thành ý của Khương gia.

Khương Lê từ tốn ung dung nhai nhân hạt dẻ thơm ngọt, trong lòng âm thầm quyết định, ngày mai nhất định phải cùng mẹ chuẩn bị một bàn tiệc thịnh soạn. Đã nói ăn của chùa phải quét lá đa, món ăn càng thịnh soạn, Tông đại nhân ăn càng vui vẻ, biết đâu sẽ càng dễ nói chuyện.

Tuy A Lệnh có vẻ ngờ nghệch, nhưng cũng có lòng tự trọng, hy vọng vị Tông đại nhân này đừng quá độc miệng là tốt rồi.

Hoắc Giác thấy đôi mắt đen láy của tiểu nương tử đang đảo qua đảo lại, nhẹ nhàng véo má nàng, hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

Khương Lê nuốt hạt dẻ trong miệng, uống một ngụm trà, không nói kế hoạch trong lòng ra, chỉ chọn chuyện khác để nói: “Hôm nay Tú nương tử gặp một người hầu cũ, người đó có vẻ đã dò la được tung tích của Tú nương tử nên mới đặc biệt tìm đến. Thật đúng như chàng nói, phu quân trước của Tú nương tử đang làm quan ở ngay Thịnh Kinh này, không biết ông ta có tìm đến không?”

Hoắc Giác khẽ cười: “Tú nương tử là người có chủ kiến, dù phu quân trước dì ấy có tìm đến cũng không sao.”

Khương Lê nghĩ cũng phải, Tú nương tử giống như mẹ mình, đều là người nóng nảy dứt khoát, làm việc không bao giờ nửa vời dây dưa.

“Vừa rồi nghe Tú nương tử nói, phu quân trước của dì ấy được thăng quan, cưới rất nhiều thiếp, cuộc sống sung sướng vô cùng.” Giọng tiểu nương tử trầm trầm, nói đến đây còn cố ý dừng lại, mở to đôi mắt trong vắt nhìn hắn.

Hoắc Giác bị nàng nhìn như vậy, làm sao không biết nàng đang nghĩ gì?

Đôi mắt đen láy không nhịn được ý cười, nhưng không nói gì, chỉ im lặng chờ nàng nói một câu kiểu như “Chàng nói nam tử sao có thể vô tình như vậy” hoặc “Có phải nam nhân khi phát tài đều vứt bỏ thê tử thuở bần hàn, tìm cô nương trẻ đẹp khác không”.

Nào ngờ tiểu nương tử nhìn chàng hồi lâu, cũng không nói gì thêm, chỉ dịu dàng nói: “May mà chàng không phải người như vậy.”

Nói xong, nàng cúi đầu xuống, cẩn thận chọn một hạt dẻ to tròn từ túi giấy dầu, bóc vỏ ngoài, nhét vào miệng Hoắc Giác: “Phần thưởng cho chàng.”

Hoắc Giác thoạt đầu hơi ngạc nhiên, rồi yết hầu khẽ chuyển động, cười một tiếng, cắn hạt dẻ, “Ừm” một tiếng, nói: “Vi phu nhất định sẽ không phụ lòng tin của A Lê.”

***

Đêm xuống, khi Hoắc Giác và Khương Lê về phủ, thấy Hà Chu đang lo lắng đứng chờ ngoài cửa nguyệt của chính viện, tay cầm một con chim bồ câu đưa thư.

Khương Lê tò mò nhìn con chim bồ câu, nhưng không hỏi nhiều, nói với Hoắc Giác: “Ta về phòng trước.” rồi cùng Đào Chu, Vân Chu đi qua cửa nguyệt, về phòng ngủ.

Hoắc Giác khẽ gật đầu, đợi đến khi bóng Khương Lê biến mất ở cuối hành lang mới nói với Hà Chu: “Vào thư phòng đi.”

Hai người vào thư phòng, Hà Chu vội vàng nói: “Chủ tử, đây là chim bồ câu từ Thanh Châu bay đến, điểm đến là phủ đệ của Lăng Thủ phụ ở đại phố Chu Tước. Sau khi Ám Nhất đại nhân chặn được chim bồ câu này, theo lệnh của Tiết Thế tử, đã gửi chim bồ câu này đến đây.”

Hà Chu vừa nói vừa rút từ chân chim bồ câu một mảnh giấy cuộn nhỏ, đưa cho Hoắc Giác: “Xin chủ tử xem qua.”

Hoắc Giác từ từ mở tờ giấy ra, thấy trên đó không có chữ nào, chỉ vẽ sơ sài ba con vật: gà lôi, lợn rừng, hổ núi.

Hà Chu nhìn những con vật trên đó, lông mày gần như nhíu thành một sợi dây thừng.

Rốt cuộc những con gà lôi, lợn rừng, hổ núi này là có ý gì? Hắn ta hoàn toàn không hiểu được.

Hà Chu nhìn nửa ngày vẫn không hiểu ra làm sao, đành phải ngước mắt nhìn Hoắc Giác.

Đang định lên tiếng hỏi, lại thấy chủ tử mình cười đầy ẩn ý, nói: “Cất mảnh giấy này lại, nhất định phải đảm bảo chim bồ câu này đến được chỗ Lăng Thủ phụ an toàn.”

Hà Chu ngạc nhiên: “Gửi chim bồ câu này lại cho Lăng Thủ phụ?”

Hà Chu thực sự không hiểu, vất vả lắm mới chặn được chim bồ câu, chẳng phải là để ngăn chặn liên lạc giữa Thanh Châu và Lăng Thủ phụ sao?

Lại gửi chim bồ câu này về, chẳng phải những việc làm trước đây đều vô ích à?

Hoắc Giác thản nhiên gật đầu: “Đi đi, tin tức chim bồ câu này mang đến là chuyện tốt với chúng ta, không cần lo lắng nhiều.”

Hà Chu giật mình, cười nhạo mình thật sự là quá vội vã đến mức mụ mị, từ khi chủ tử vào Kinh thành đến nay, từng bước đều được tính toán, không có sơ hở, những lời nói ra đều thành sự thật, nếu hắn đã nói là chuyện tốt, thì chắc chắn là chuyện tốt.

Hà Chu cung kính nói một tiếng “Vâng”, mới an tâm lui khỏi thư phòng.

***

Đêm dần vào khuya.

Gió mát thổi nhẹ, trên trời một vầng trăng trắng như chiếc thuyền nhỏ, từ từ trôi trong bầu trời trong vắt.

Tề An đợi bên ngoài công đường Hình Bộ, cuối cùng cũng thấy bóng dáng Tề Xương Lâm đi ra từ cánh cửa trang nghiêm kia, đang định đến đón người, bên cạnh bỗng có một người đi đến, vội vàng nói nhỏ gì đó bên tai Tề Xương Lâm.

Người nọ đối với Tề Xương Lâm cũng là người quen.

Chỉ thấy ông ta mỉm cười đáp lại câu gì đó, sau đó quay đầu nói với Tề An: “Ta còn có việc phải xử lý, ngươi về phủ trước, không cần đợi ta.”

Nói xong bèn theo người đó lên một cỗ xe ngựa không có gì nổi bật.

Tiếng vó ngựa “lộc cộc lộc cộc”, chẳng mấy chốc đã kéo xe ngựa biến mất trong đêm tối mênh mông.

Tề An nhìn chằm chằm cỗ xe ngựa đó, có lẽ người khác sẽ không nhận ra xe ngựa này, nhưng hắn ta nhận ra ngay, đây là xe ngựa từ biệt viện ngoại ô của Lăng Thủ phụ.

Chín năm trước, cỗ xe ngựa này thường xuyên dừng lại bên ngoài phủ Thị lang vào đêm khuya, đón đại nhân đi ra ngoài bàn việc.

Lúc đó đại nhân thường về nhà trong tình trạng mệt mỏi, về rồi cũng không ngủ, cứ ngồi trong sân như vậy đến tận sáng.

Sau đó, đại nhân bắt đầu lui tới những kỹ viện nổi tiếng ở Thịnh Kinh, không lâu sau thì hòa ly với phu nhân.

Nghĩ đến ngày phu nhân rời khỏi phủ Thị lang, vẻ mặt phức tạp và đau buồn của đại nhân, Tề An siết chặt nắm tay, trong lòng không hiểu sao lại dâng lên một chút bất an.

Thịnh Kinh này, có phải lại sắp loạn rồi không?
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 93: Người luôn sống không tốt, chính là kẻ ngồi trên cao đường kia


Đêm đó, tại Lăng phủ.

Lăng Duệ đặt mảnh giấy trong tay lên đèn nến bên cạnh để đốt, ném vào lư hương đồng, ngọn lửa cuốn lấy tờ giấy mỏng, chỉ trong nháy mắt đã cháy thành tro bụi.

Ông ta quay người ngồi xuống ghế thái sư, đôi mắt đen sâu thẳm nhìn chằm chằm vào Tề Xương Lâm và Hồ Đề, nói: “Quân Nam Thiệu sẽ tấn công Thanh Châu vào giờ Dần ngày mười hai tháng mười. Phàm nhi và Tần Vưu sẽ cùng bọn họ nội ứng ngoại hợp, nhân cơ hội g**t ch*t tên họ Chử kia. Đến lúc đó, toàn bộ quân Thanh Châu sẽ nghe lệnh Tần Vưu.”

Hồ Đề nghe xong, khuôn mặt thô kệch không thể che giấu sự kinh ngạc, thốt lên: “Quân Nam Thiệu lại muốn xâm chiếm Thanh Châu sao? Tại, tại sao vậy?”

Lăng Duệ liếc nhìn Hồ Đề một cách không kiên nhẫn, tên em rể này tuy trung thành nhưng đầu óc thật ngu đần.

Nếu không có ông ta đề bạt, có Tề Xương Lâm thỉnh thoảng giúp đỡ sau lưng, với cái đầu như thế làm sao có thể yên ổn ngồi ở vị trí Binh bộ Thượng thư?

“Hiện giờ Hoàng thượng ngày càng mê muội, lại càng lúc càng dung túng Chu Dục Thành và đám điên của Đô sát viện làm suy yếu thế lực của chúng ta, cứ tiếp tục như vậy, e rằng ngay cả vị trí Thủ phụ của ta cũng không giữ được nữa. Nếu ta không giữ được vị trí, các ông sẽ ra sao?”

Lăng Duệ nói xong, nhìn vào Tề Xương Lâm và Hồ Đề một cái thật sâu, tiếp tục: “Đại Hoàng tử sắp tròn mười tuổi rồi.”

Câu nói vừa dứt, không chỉ Hồ Đề không giấu được sắc mặt, mà ngay cả Tề Xương Lâm từ lúc bước vào vốn luôn bình tĩnh cũng khẽ run lên, giương mắt nhìn Lăng Duệ.

Hôm nay việc vị Thủ phụ này bị Hoàng thượng quở trách, tất nhiên ông ta cũng biết.

Vết thương trên trán Lăng Duệ giờ đã được băng bó và bôi thuốc, nhưng dù vậy, với một miếng da thịt lớn như thế đã mất đi, nhìn vẫn hết sức khủng khiếp.

Tề Xương Lâm từ từ thở ra một hơi, chỉ trong chốc lát đã hiểu được kế hoạch của Lăng Duệ, nói: “Thủ phụ cần hạ quan và Hồ đại nhân làm gì?”

Thực sự khi nghe những lời Lăng Duệ vừa nói, ông ta đã sốc. Nhưng cơn sốc đó cũng chỉ kéo dài trong giây lát, chẳng mấy chốc đã bình tĩnh lại.

Ông ta đã sớm đoán được sẽ có ngày hôm nay.

Từ ngày ông ta đi theo Lăng Duệ, từ khi ông ta biết vị Vương Quý phi trong cung là do người này đưa vào phủ Khang Vương, ông ta đã biết, thứ Lăng Duệ muốn không chỉ đơn thuần là một vị trí Thủ phụ.

Lăng Duệ hài lòng gật đầu, việc đúng đắn nhất ông ta làm năm đó chính là kéo Tề Xương Lâm lên con thuyền này.

Lúc đó mọi người đều cười nhạo người đỗ hạng hai này là kẻ không có xương sống, chỉ biết xu nịnh và a dua.

Chỉ có Lăng Duệ sớm nhìn ra sự không cam tâm và tham vọng trong đáy mắt ông ta, cũng như tài hoa dưới miệng lưỡi trơn tru của ông ta.

Từ một tiểu tử quê mùa lớn lên nhờ ăn cơm của nhà người khác, từng bước leo lên Thịnh Kinh, cùng ông ta đứng ngoài điện Kim Loan chờ đợi xướng danh đỗ đạt, rồi đạt được vị trí hạng hai, làm sao có thể là kẻ vô dụng?

Trong mắt Lăng Duệ, người này còn khiến ông ta thán phục hơn tên sĩ tử nhà Nho Chu Dục Thành kia.

Chu Dục Thành gặp được một người thầy tốt, sau khi bị đày khỏi Kinh thành, vẫn còn có người chạy ngược chạy xuôi cho ông ấy, mới khiến ông ấy trở lại Thịnh Kinh, ngồi vào vị trí Thứ phụ ngày nay.

Còn Lăng Duệ có họ Vương làm hậu thuẫn, hai mươi năm qua, có thể nói đường quan lộ thông suốt, thăng tiến nhanh chóng.

Chỉ riêng Tề Xương Lâm, không gặp được Bá Nhạc nào thưởng thức mình, cũng không có thế gia quý tộc nào cung cấp tiền bạc quan hệ, giúp đỡ một tay, ngay cả thê tử thành thân cũng chỉ là nữ nhân một thương hộ không thể bước vào chốn cao sang, bị mọi người coi thường.

Một kẻ như vậy, chỉ cần cho ông ta một cơ hội, dù có đánh gãy răng chảy máu cũng sẽ gắng gượng nuốt vào, dùng hết sức nắm lấy cơ hội đó.

Một kẻ từ tầng lớp dưới leo lên, thường sẽ liều lĩnh hơn những kẻ khác.

Và sự thật cũng đúng là như vậy, bảy năm trước, có thể trong thời gian ngắn chưa đầy nửa năm, tiêu diệt được phủ Thái tử, Vệ gia, Hoắc gia trong cùng một lúc, không thể không kể đến công lao của Tề Xương Lâm.

Lăng Duệ khẽ mỉm cười, nói: “Hoài Doãn, ông từng là đồng liêu với Chu Dục Thành, cũng hiểu rõ con người ông ta. Ta cần ông theo dõi chặt chẽ mọi hành động của ông ta, nếu có thể, không ngại liệt kê vài tội danh cho mấy kẻ theo ông ta ở Hộ Bộ, để phân tán sự chú ý của ông ta. Còn về Hồ đại nhân—”

Lăng Duệ nhìn Hồ Đề, cười đầy ẩn ý, nói: “Ông hãy phái một người đáng tin, tự mình đến Túc Châu một chuyến, gửi tin cho Nhị Hoàng tử Bắc Địch, nếu lần này hắn sẵn lòng hợp tác với ta, sau này trong cuộc tranh đoạt ngôi vị với vị huynh trưởng kia của hắn, Đại Chu chúng ta nhất định sẽ đáp lễ, giúp hắn đoạt được ngôi vị.”

Tim Hồ Đề đập mạnh, vị Nhị Hoàng tử Bắc Địch kia là kẻ tàn nhẫn, nghe nói thích nhất là lột da người và ăn thịt người sống.

Trước đây vị Nhị Hoàng tử này từng giao chiến với Tiết Thế tử của phủ Định Quốc Công trên chiến trường, bị Tiết Vô Vấn chém đứt một ngón tay, từ đó, có thể nói vị Nhị Hoàng tử đó đã căm thù cả họ Định Quốc Công.

Đầu ngón tay Hồ Đề run rẩy, cảm giác thấp thỏm lo âu, không dám ngủ bảy năm trước lại ùa về.

Nhưng ông ta không dám tỏ ra chút do dự nào, sau khi hít sâu một hơi, bèn lớn tiếng đáp: “Vâng! Ngày mai ta sẽ phái người đến Túc Châu!”

***

Khi Tề Xương Lâm trở về phủ Thượng thư, đã là giờ Sửu.

Đêm khuya sương xuống, Tề An cầm đèn lồng giấy đứng trong cửa thùy hoa chờ đợi, thấy đại nhân của mình về, cũng không vội nói chuyện, chỉ lặng lẽ gọi một tiếng “Đại nhân”, rồi cầm đèn đi trước soi sáng đường cho ông ta.

Đợi đến khi vào phòng, mới vắt một chiếc khăn, đưa cho Tề Xương Lâm, đồng thời nói: “Đại nhân, hôm nay tiểu nhân đã gặp phu nhân ở ‘Trạng Nguyên lâu’.”

Tề Xương Lâm nhận lấy khăn, chậm rãi lau mặt rồi hỏi: “Nàng có bằng lòng nói chuyện với ngươi không?”

“Đương nhiên là bằng lòng, khi tiểu nhân đến quán rượu tìm phu nhân, tuy phu nhân có chút bất ngờ, nhưng không hề tức giận.” Tề An vừa nói, vừa khẽ nghiêng mặt, nhìn khuôn mặt Tề Xương Lâm, sau đó mới tiếp tục: “Phu nhân hiện đang làm đầu bếp trong quán rượu đó, tiểu nhân thấy phu nhân sống… rất tốt.”

Tề Xương Lâm đặt khăn xuống, cúi đầu mỉm cười.

A Tú vốn là người biết cách sống. Trước đây ở hẻm Ngân Nguyệt, cha bà ấy là một người bán hàng rong, tuy kiếm được vài đồng, nhưng những đồng tiền đó đều dùng để uống rượu, không đưa một xu nào cho gia đình.

Say rượu về nhà còn đánh vợ mắng con.

A Tú từ nhỏ đã nhiều lần bị đánh, mỗi lần bị đánh, đều không quên che chở cho đệ đệ nhỏ và mẫu thân yếu đuối phía sau.

Sau khi lớn lên, có thể kiếm tiền, có lần cha bà ấy say rượu muốn cướp mấy đồng tiền bà ấy vất vả kiếm được, bà ấy nổi giận, vào bếp lấy con dao thái, hỏi cha mình, muốn tiền hay muốn mạng?

Lúc đó bà ấy mới vừa đến tuổi cài trâm, nhưng lá gan thật sự không nhỏ.

Sau đó người ở hẻm Ngân Nguyệt biết chuyện này, đều mắng bà ấy bất hiếu, chỉ có Tề Xương Lâm cho rằng bà ấy làm đúng.

Nói đến, hai người họ cùng lớn lên ở hẻm Ngân Nguyệt, tuy gặp mặt thường xuyên nhưng chưa từng nói chuyện được mấy câu.

Ấn tượng của Tề Xương Lâm về bà ấy vốn rất nhạt nhòa, cho đến khi nghe nói bà ấy cầm dao thái, đuổi người cha nghiện rượu ra khỏi nhà, mới thực sự chú ý đến vị Đại nương tử Ngu gia này.

Ngày hôm sau sau khi chuyện đó xảy ra, cô nương này đối mặt với ánh mắt chỉ trỏ của mọi người, cõng đệ đệ, đẩy một chiếc xe gỗ cũ kỹ, vẫn đến trước cổng thư viện bán đồ ăn như thường.

Một ngày đông giá rét như vậy, bà ấy lạnh đến nỗi khuôn mặt đỏ ửng, nhưng ánh mắt nhìn người khác rất sáng, vừa cứng đầu vừa rực rỡ, như một con thú nhỏ bị thương nhưng vẫn không quên nhe răng với xung quanh.

Lúc đó Tề Xương Lâm là học trò giỏi nhất thư viện, thư viện đã lo cả ăn ở cho ông ấy, mỗi ngày đều có đồ ăn nóng hổi mới mẻ, ba bữa một ngày, không thiếu bữa nào.

Nhưng ngày đó không biết tại sao, ông ấy như bị ma xui quỷ khiến lấy túi tiền, ra khỏi thư viện, đi đến bên kia đường, chỉ vào món ăn xanh mướt trong giỏ trúc trên xe của bà ấy, cười híp mắt nói với bà ấy câu đầu tiên trong đời: “Ngu Đại nương tử, đây là món gì vậy?”

Vì học giỏi, dung mạo lại đẹp mắt, thêm việc từ nhỏ đã phải đi ăn cơm nhà người khác để lớn lên nên luyện được cái miệng khéo nói, ở nơi nhỏ bé của họ, Tề Xương Lâm cũng khá được các cô nương yêu thích.

Vốn tưởng rằng cô nương trước mắt ít nhất cũng sẽ cho ông ấy một nụ cười, nào ngờ bà ấy chỉ lạnh lùng nhìn ông ấy một cái, đỡ lại đệ đệ trên lưng, giọng điệu lạnh nhạt nói với ông ấy câu đầu tiên trong đời: “Cơm Bát trân, một đồng tiền hai phần.”

Tề Xương Lâm đến giờ vẫn nhớ cái nhìn của bà ấy khi đó, dường như đang nói với ông ấy rằng, ngươi dám mắng ta thử xem?

Mãi sau này ông ấy mới biết được, ngay khi ông ấy cầm túi tiền đi ra từ thư viện, A Tú đã bị mấy đứa học trò trong trường chỉ vào mũi mắng là bất hiếu, nếu không phải bà ấy rút con dao ra, bọn họ còn định lật đổ quầy hàng của bà ấy.

Mà cũng chính cái nhìn của bà ấy lúc đó, đã khiến ông ấy nhớ mãi.

Nói ra thì bà ấy cũng không phải là cô nương đẹp nhất ở hẻm Ngân Nguyệt, dung mạo chỉ có thể gọi là thanh tú, tính tình mạnh mẽ, miệng lưỡi lại còn giỏi mắng người hết sức, nhưng chính một người như vậy, đã khiến ông ấy hoàn toàn để ý.

Trong căn phòng sáng sủa, Tề Xương Lâm nắm chiếc khăn ướt, cười cười rồi im lặng.

Ông ấy biết rõ, dù đi đến đâu, A Tú cũng có thể sống tốt. Bà ấy giống như bông hoa mọc nơi hoang dã, trong người luôn có một sức sống quật cường mãnh liệt, chưa từng sợ hãi gió mưa.

Người sống không tốt từ trước đến nay, chính là ông ta – kẻ ngồi trên điện đường cao sang.

Tề An thấy ông ta im lặng, cũng không lên tiếng.

Đêm đen của mùa hè, ngay cả gió cũng ấm áp. Nhưng căn phòng này, lại sinh ra cái lạnh.

Hồi lâu, Tề Xương Lâm khàn giọng hỏi: “Nàng ấy có nói với ngươi vì sao muốn quay về Thịnh Kinh không?”

Tề An lắc đầu, mắt vừa chua vừa cay, nhưng cuối cùng vẫn nhịn được nước mắt, đáp: “Phu nhân vội vã trở về quán rượu đó, không nói nhiều với tiểu nhân.”

Tề Xương Lâm day day trán, thở dài nói: “Thôi vậy, ngươi có hỏi nàng ấy cũng sẽ không nói. Đợi qua một thời gian nữa, ta sẽ tự mình đến gặp nàng ấy.”

“Đại nhân!” Tề An tiến lên một bước, giọng không giấu được xúc động, nói: “Phu nhân trở về Thịnh Kinh, ngoài vì đại nhân ra còn có thể vì cái gì? Ngài, chi bằng, chi bằng đón phu nhân về đi? Dù sao những tiểu thiếp đó, ngài cũng chưa từng đụng đến!”

Tề Xương Lâm tự mình cười nhạt: “Nếu nàng ấy trở về, chắc chắn không phải vì ta.”

Ông ta đã hiểu bà ấy quá rõ, từ khi ông ta nói ra những lời đó, ép bà ấy hòa ly với mình, họ đã không thể nào quay lại được nữa.

Còn chưa nói, Thịnh Kinh hiện tại lại sắp không yên ổn nữa rồi.

Lăng Duệ tham vọng bừng bừng, một vị trí Thủ phụ đã sớm không thỏa mãn được ông ta. Nhưng Vương Quý phi trong cung, đã không còn là vị Vương Quý phi nghe lời Lăng Duệ răm rắp của ngày xưa nữa.

Lăng Duệ đã nếm được vị ngọt của quyền lực, Vương Quý phi cũng vậy.

Nắm giữ phượng ấn nhiều năm, lại sinh được Hoàng tử duy nhất trong cung, làm sao Vương Loan có thể cam tâm làm một quân cờ cả đời?

Thế nhưng đến giờ Lăng Duệ vẫn chưa nhìn rõ, vẫn nghĩ rằng Vương Loan còn yêu mến ông ta như xưa.

Tề Xương Lâm day day trán.

Quyền lực tối thượng kia có thể làm rối loạn tâm trí, che mờ đôi mắt, cũng có thể khiến một nữ nhân bị tình yêu làm cho mê muội thay đổi hoàn toàn.

Giờ đây giữa Lăng Duệ và Vương Loan, thật khó nói rõ ai mới là người đang lợi dụng ai.

“Tề An, qua tháng mười, ngươi và Tiểu Nguyệt hãy đưa phu nhân trở về Trung Châu. Sau đó ở lại Trung Châu, đợi tin của ta. Nếu mùa thu năm sau không nhận được tin của ta, ngươi hãy ở lại Trung Châu vĩnh viễn, bảo vệ phu nhân như đã từng bảo vệ ta.”

“Đại nhân!” Tề An mở to mắt, giọng nói không giấu nổi nỗi buồn, sự bất an đeo đẳng trong lòng cả đêm lập tức nhấn chìm hắn ta.

Tề Xương Lâm mệt mỏi xoa xoa trán, nói: “Nghe ta, ra ngoài đi.”

Bảy năm trước, ông ta may mắn đánh cược đúng, giữ được mạng, còn được thăng quan.

Nhưng lần này, chưa chắc…

Tề Xương Lâm nhìn ngọn nến đỏ rực trên bàn, hơi chau mày.

Tình hình Thịnh Kinh hiện tại, ông ta vẫn luôn cảm thấy có điều gì đó không ổn.

Vị Hoàng Đế trên điện Kim Loan không ổn, Lăng Duệ hành sự ngày càng vội vàng không ổn, ngay cả đồng liêu cũ nay đã là kẻ thù chính trị Chu Dục Thành cũng không ổn lắm.

Nhưng thật kỳ lạ, ông ta không thể tìm ra điểm kỳ quái nằm ở đâu, chỉ đơn thuần là một cảm giác.

Giống như… có một bàn tay đang từ từ khuấy động cục diện triều đình, và ông ta – một người trong cuộc, rõ ràng đã ngửi thấy mùi nguy hiểm, nhưng lại hoàn toàn không tìm ra nguồn gốc của mối nguy hiểm đó.

***

Ngày ba mươi tháng sáu, thích hợp kết giao bạn bè, thích hợp ra ngoài, thích hợp… hừm, làm một tiên sinh dạy học miễn phí.

Từ sáng sớm Tông Khuê đã sai gia nô đưa hắn ta đến trước cổng Hoắc phủ ở phố Vĩnh Phúc, xuống xe, còn không quên chỉnh lại vạt áo, v**t v* tay áo, chỉnh lại mũ ngọc, sau đó mới vung quạt xếp lên, nắm lấy vòng đồng ở cửa gõ mạnh.

Chẳng mấy chốc, Hoắc Giác mặt đen như đít nồi xuất hiện ở cửa thùy hoa, nói: “Không phải đã nói, giờ Ngọ gặp nhau ở quán rượu luôn. Sáng sớm Tông đại nhân đã chạy đến quý phủ Hoắc mỗ làm gì?”

Tông Khuê sờ sờ mũi, cuối cùng không tiện nói với hắn rằng, sau khi nhận được lời mời của hắn tối qua, mình đã phấn khích đến mức cả đêm không ngủ được.

Vì thế mới sớm xuất phát đến đây.

Nói ra, đây là lần đầu tiên hắn ta nhận được lời mời của người khác.

Trước đây hắn ta từng học ở thư viện Lộc Sơn và Quốc Tử Giám, nhưng có lẽ vì hắn ta quá xuất sắc, mà những bạn học đó lại là những kẻ nhát gan và tự ti, nên chưa bao giờ dám mời hắn ta đi uống rượu để thắt chặt tình bạn bè đồng môn.

Tất nhiên, nếu những người đó thật sự mời hắn ta, hắn ta cũng sẽ không đi, dù sao, với những người hắn ta không coi ra gì, hắn ta lười phí thời gian để giao thiệp.

Có thời gian rảnh rỗi đó, chi bằng ở nhà viết thêm vài bài văn.

Hoắc Giác nhìn khuôn mặt Tông Khuê viết đầy ý “Bổn công tử hạ mình đến căn nhà nhỏ của ngươi, sao ngươi còn bày ra cái mặt lạnh thế”, day day trán, nói: “Huynh chưa ăn sáng phải không? Vào đi, lát nữa ta bảo A Lệnh mang ít đồ ăn sáng cho huynh.”

Nói xong, bèn bảo nữ tỳ bên cạnh dẫn người vào chính sảnh.

Trong phủ đột nhiên có khách đến, Khương Lê vội vàng ăn xong bữa sáng rồi lập tức đến nhà bếp sắp xếp cho bà vú đun nước pha trà, tiện thể chuẩn bị một số điểm tâm nhỏ.

Sau đó mới dẫn Đào Chu, Vân Chu cùng đến chính sảnh.

Trước đây Khương Lê đã từng gặp Tông Khuê, ngày Ngự Nhai Khoa Quan gặp một lần, ngày yến tiệc cung đình cũng gặp một lần. Nhưng hai người chưa từng nói chuyện với nhau, thực sự không thể nói là quen biết.

Đến chính sảnh, Dương Huệ Nương và Khương Lệnh đã ngồi ở đó nói chuyện với Tông Khuê.

Nhìn vẻ mặt hớn hở cười đến mở cờ của Dương Huệ Nương, có lẽ vị Tông đại nhân này cũng không độc miệng như lời đồn, ngược lại còn khá dễ gần.

Hoắc Giác ngồi bên cạnh Khương Lệnh, thấy Khương Lê vào, khuôn mặt lạnh lùng cuối cùng cũng dịu đi, đứng dậy nắm lấy tay nàng, giới thiệu đơn giản với Tông Khuê: “Đây là thê tử của ta, Khương Lê.”

Tông Khuê tất nhiên chắp tay làm lễ, quy củ gọi một tiếng: “Hoắc phu nhân.”

Khương Lê và Dương Huệ Nương còn phải đi bận rộn ở quán rượu, chỉ hàn huyên với Tông Khuê vài câu rồi rời khỏi chính sảnh.

Hoắc Giác nhìn bóng dáng tiểu nương tử rời đi, khuôn mặt vốn dịu dàng được một lúc lâu lại dần dần lạnh đi.

Tông Khuê không nhịn được “chậc” một tiếng, phe phẩy quạt giấy mặt dày nói: “Hoắc đại nhân, đến mức đó sao? Giờ Ngọ đã phải tới quán rượu uống rượu rồi, xa phu nhân có một chút đã chịu không nổi? Có phải trong lòng còn đang mắng ta đến sớm quá không?”

Hoắc Giác nhìn hắn ta một cái không có biểu cảm gì, nếu không phải hắn ta đến sớm, giờ này hắn và A Lê vẫn còn đang vừa ăn sáng vừa nói chuyện trong phòng ngủ.

Một buổi sáng đẹp đẽ để quấn quýt với nương tử nhà mình đã bị kẻ độc thân không có chút tầm nhìn này phá hỏng, đặc biệt là hắn ta còn không nhận ra mình đúng là đã phá đám.

Hoắc Giác nhướn mày, còn chưa kịp mở miệng, bỗng nghe thấy Khương Lệnh đối diện nghiêm túc nói: “Sao lại thế? Tông Khuê ca nghĩ nhiều rồi, từ trước đến nay Hoắc Giác ca với tỷ của ta chưa bao giờ quấn quýt như thế đâu. Huynh đến đúng lúc lắm, chắc Hoắc Giác ca cũng rất vui.”

Hoắc Giác từ từ, từ từ, chuyển ánh mắt từ Tông Khuê sang mặt Khương Lệnh.

Người khác có lẽ sẽ nghĩ Khương Lệnh đang nói giúp hắn, nhưng Hoắc Giác biết, Khương Lệnh nói lời thật lòng.

Có lẽ vì hình tượng của hắn trong lòng Khương Lệnh quá cao quý chính trực, lại quá không hiểu phong tình, cậu em vợ này thực sự nghĩ rằng từ trước đến nay hắn và A Lê không bao giờ quấn quýt.

Trong lòng bỗng có cảm xúc phức tạp.

Tông Khuê gập quạt giấy lại, dường như nhìn thấy một tia khó nói thành lời trong vẻ mặt lạnh lùng của Hoắc Giác, lập tức cười, nhìn Khương Lệnh, chỉ quạt giấy về phía trước, nói: “A Lệnh, đệ là nhân tài đấy!”

Khương Lệnh đâu biết ý tứ trong lời nói của Tông Khuê, vội vàng ngượng ngùng xua tay, nói: “Không dám, không dám. Tông Khuê ca quá khen!”

Tông Khuê ha ha cười, lại liên tục khen vài tiếng “nhân tài”, khen đến mức Khương Lệnh càng thêm mờ mịt.

Thấy sắc mặt Hoắc Giác bên cạnh càng lúc càng trầm xuống, Tông Khuê mới biết điều dừng lại, hắng giọng, nói với Hoắc Giác: “Lần này ta đến đây, cũng là tiện thể truyền lời của thúc thúc. Thúc thúc bảo ta hỏi xem, ngày nghỉ đầu tháng sau, huynh có thể sắp xếp bớt chút thời gian đến Tông gia một chuyến không?”
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 94: Từng nét bút hạ xuống, tất cả đều là nàng


Từ ngày Tông Khuê lên phố Vĩnh Phúc rồi ghé quán rượu, từ đó hắn ta đã trở thành khách quen của quán.

Tuy hắn ta tính tình kiêu ngạo, nhưng luôn biết che chở cho người thân.

Từ nhỏ đến giờ, hắn ta chưa từng có người bạn nào cùng trang lứa.

Hoắc Giác là người duy nhất khiến hắn ta tin phục, muốn kết giao sâu sắc.

Cũng vì lý do đó, dù là Khương Lê hay Khương Lệnh và Dương Huệ Nương, đều là người thân của Hoắc Giác, Tông Khuê đã coi Hoắc Giác là bạn thân, tự nhiên cũng xem người thân của hắn như người nhà.

Hơn nữa, tay nghề của Dương Huệ Nương rất hợp khẩu vị của hắn ta.

Mỗi lần đến quán rượu, Dương Huệ Nương đều nấu cho hắn ta ít nhất ba món mặn một canh và hai món chính, chỉ mới đến vài ngày mà hắn ta đã thấy thắt lưng chật đi.

“Này Trạng nguyên lang, ngày nào cũng ăn đồ dì Dương nấu, sao vẫn giữ được vóc dáng thế?”

Tông Khuê thong thả đi trong hành lang viện nhà mình, quay đầu liếc nhìn thắt lưng Hoắc Giác, tò mò hỏi.

Nói ra thì, hai người họ tuổi tác tương đương, đều cao lớn tuấn tú.

Nhưng mỗi khi ra ngoài phá án, những cô nương lén nhìn hắn ta còn ít hơn xa so với những người lén nhìn Hoắc Giác, thật khiến hắn ta không phục.

Giờ nghĩ lại, có lẽ là do vóc dáng của Trạng nguyên lang thon gọn hơn hắn ta!

Ánh mắt tò mò đó của Tông Khuê khiến lông mày Hoắc Giác giật giật.

Nhưng hắn cũng không tiện nói gì, chỉ khẽ mím môi, nhạt nhẽo đáp một câu: “Nếu Tông đại nhân xử lý thêm vài vụ án mỗi ngày, sẽ được như Hoắc mỗ, ăn bao nhiêu cũng không mập.”

Quản gia Tông phủ dẫn đường phía trước nghe hai người đối đáp, bèn cười híp mắt nói: “Nếu tiểu thiếu gia giống như Hoắc công tử, cưới một tiểu phu nhân về, chắc cũng sẽ giữ được vóc dáng không mập.”

Tông Khuê vừa nghe xong, như thể nghe thấy điều gì đáng sợ, vội vẫy quạt giấy trong tay, nói: “Minh thúc, thúc đừng dọa ta bằng chuyện thành thân! Ta thà mập thêm ba cân cũng không muốn cưới vợ!”

Hoắc Giác nhìn vẻ mặt hoảng sợ của Tông Khuê, nhướn mày.

Nói ra thì, gia quy của Tông gia ở Tịnh Châu cũng khá thú vị.

Không biết phong tục ở Tịnh Châu có phải là sợ cưới xin bẩm sinh không, các công tử Tông gia dường như đều không mặn mà với chuyện thành thân.

Vì thế tổ tiên Tông gia đã lập ra gia quy, người chưa đủ mười sáu tuổi đã đỗ Cử nhân, có thể đợi đến khi đội mũ mới cưới; người chưa đến tuổi đội mũ mà đã đỗ Tiến sĩ, có thể đợi đến hai mươi lắm tuổi mới cưới; người đỗ Tam đỉnh nguyên, có thể đợi đến ba mươi tuổi mới lập gia đình.

Gia quy như vậy, có thể nói là hiếm thấy trên đời.

Nhưng điều khiến mọi người kinh ngạc là gia quy này lại có hiệu quả kỳ lạ. Con cháu Tông gia ở Tịnh Châu ai nấy đều miệt mài đèn sách, khổ công học tập, chỉ để được thành thân muộn hơn.

Lúc này vị quản gia được gọi là “Minh thúc” thấy vẻ mặt hoảng sợ của Tông Khuê thì thở dài. Nghĩ đến Tông Úc và Tông Già đang đợi hai vị công tử trong viện, lắc đầu, lại buông tiếng thở dài.

Nhỏ không khiến người ta yên tâm được, lớn càng đáng lo hơn.

Từng người một, đều xem chuyện thành thân như thảm họa đáng sợ lắm. Trớ trêu thay, gia quy lại quy định, chỉ cần ngươi làm quan đủ lớn, việc có thành thân hay không đều do ngươi quyết định!

***

Phủ đệ của Tông gia ở Thịnh Kinh vẫn là nơi được Thừa Bình Đế ban cho Tông gia khi còn tại vị.

Phủ đệ này được nối liền bởi hai tứ hợp viện, hành lang uốn lượn, đình tạ, núi vây quanh nước, có thể nói vừa thanh u vừa tráng lệ.

Đến Tích Cẩm đường, Minh thúc dừng bước ở ngoài cửa viện, cúi mình nói: “Lão gia và Nhị gia đang đợi trong này, mời Hoắc công tử vào.”

Hoắc Giác chắp tay cung kính đáp lễ, rồi mới cùng Tông Khuê vào trong viện.

Trong viện róc rách tiếng nước chảy, uốn lượn quanh co từ hòn núi giả, vang tiếng réo rắt. Hai bên núi giả, cổ thụ cao vút, dưới gốc cây đặt bàn ghế đá.

Tông Già và Tông Úc mặc thường phục màu nhạt, đang ngồi trên ghế ung dung đánh cờ.

Thấy hai người đến, Tông Úc vội đứng dậy, thân thiết vẫy tay với họ, nói: “Mau lại đây, xem hai người các cháu có giải được ván cờ dang dở này không?”

Hoắc Giác cung kính hành lễ với hai người, rồi mới thong thả đi đến dưới cây, nhìn ván cờ chết trên bàn.

“Đây là ván cờ ông bác của cháu bày ra hôm nay, ta mất một canh giờ vẫn chưa giải được.” Tông Úc vỗ vỗ ghế đá bên cạnh, nói với Hoắc Giác: “Nào, Hoắc tiểu lang, cậu thử xem có thể phá giải không?”

Vừa nghe xong, Tông Khuê đã không chịu, vội nói: “Khoan đã, thúc thúc, cháu cũng muốn thử.”

Người này vốn hiếu thắng, làm sao có thể để Hoắc Giác độc chiếm sự chú ý được? Hắn ta bèn vội vàng ngồi xuống vị trí bên cạnh Tông Già, cầm một quân cờ lên, chăm chú suy nghĩ.

Nhưng nhìn suốt thời gian hai chén trà, quân cờ trong tay vẫn không đặt xuống được.

“Này Trạng nguyên lang, huynh có manh mối gì không?” Tông Khuê cầm quân cờ, không nhịn được ngẩng đầu nhìn Hoắc Giác.

Hoắc Giác khẽ gật đầu, nhặt một quân cờ đen, đặt xuống một góc không đáng chú ý.

Đối diện, Tông Già không đổi sắc mặt, đặt một quân cờ trắng vào vị trí vừa rồi, hai người đánh qua lại bảy tám nước, Tông Úc đứng sau Hoắc Giác nhướn mày kinh ngạc, nói: “Ván cờ chết này lại sống lại rồi.”

Còn chẳng phải sao?

Khi Hoắc Giác đặt quân cờ đầu tiên vẫn chưa thấy gì, đến nước thứ tư mới dần dần thấy chút manh mối, đến nước thứ bảy, cả cục diện đã hoàn toàn sống lại.

Mưu trí như vậy, đi một bước tính bảy tám bước thật khiến người ta kinh ngạc.

Tông Già đặt quân cờ trắng trong tay xuống, nhìn Hoắc Giác một cái thật sâu, dịu giọng nói: “Tài đánh cờ của Hoắc tiểu lang thật kinh người.”

Hoắc Giác đối diện với ánh mắt sâu thẳm của Tông Già, mỉm cười nói: “Không phải tài đánh cờ kinh người, thật ra nhiều năm trước, trưởng bối trong nhà từng bày ván cờ dang dở này cho Giác và huynh trưởng, khi đó huynh trưởng đã dùng cách này để phá giải, Giác chỉ là nhớ cách phá giải của huynh trưởng mà thôi.”

Từ khi thấy ván cờ này, Hoắc Giác đã biết Tông Già đang quang minh chính đại dò xét thân phận của mình.

Tất nhiên hắn có thể dùng một số thủ đoạn để qua mặt, dù sao thân phận giả của Hoắc Giác xuất phát từ ông ngoại, lại được Tiết Vô Vấn tô vẽ hoàn thiện một cách cẩn thận chu toàn, có thể nói là không một kẽ hở.

Dù Tông Già nghi ngờ, đi tra cũng không tra ra được gì, nếu không thì lúc này cũng không dùng ván cờ này để thử hắn.

Nhưng cuối cùng hắn cũng không có lý do gì để giấu giếm.

Một mặt là vì mấy vị Tông gia này là bạn không phải thù, mặt khác là vì giấu cũng không giấu được lâu.

Trên đời này, những người có thể liên kết hắn với tiểu công tử Vệ Cẩn của Vệ gia không quá năm người, vị Đại lý tự Khanh thận trọng sắc bén này chính là một trong số đó.

Quả nhiên, sau khi Hoắc Giác nói ra điều đó, Tông Già khẽ mỉm cười, vẫy tay nói với Tông Úc và Tông Khuê: “Hai người các cháu ra ngoài trước đi.”

Tông Khuê đưa mắt nhìn qua lại giữa Hoắc Giác và ông bác mình, dường như đoán được điều gì, vội nói: “Ông bác, cháu và Trạng nguyên lang là bạn bè thân thiết, trước giờ không có gì — ơ, ơ, thúc thúc, người làm gì vậy! Có người ngoài ở đây, quân tử dùng lời không dùng tay chân!”

Tông Úc túm chặt cổ áo Tông Khuê, từ tốn nói: “Cháu còn biết có người ngoài à? Lệnh của trưởng bối mà cũng dám không nghe, thật là làm ô nhục gia phong!”

Dứt lời, không nói thêm câu nào đã lôi Tông Khuê ra ngoài.

Trong viện nhanh chóng yên tĩnh trở lại, chỉ còn tiếng nước chảy róc rách, tiếng chim hót líu lo.

Tông Già rót cho Hoắc Giác một chén trà nóng, chậm rãi nói: “Trà đắng độc nhất vô nhị của Tịnh Châu, vào miệng tuy đắng, nhưng qua được lớp đắng ban đầu, sẽ ngọt vô cùng.”

Tông Già như thể đang nói về trà, lại như thể đang nói về chuyện khác.

Hoắc Giác uống cạn chén trà đắng, bình tĩnh nói: “Trà ngon.”

Tông Già nhìn Hoắc Giác, nói thật, vị công tử trẻ tuổi này vẻ ngoài không hề giống Vệ Thái phó chút nào, nhưng phong thái trên người lại rất giống.

Tại yến tiệc Ân vinh, ông ấy đã cảm thấy vị Trạng nguyên xuất thân bình dân này có vẻ quen thuộc.

Trước đó, tuy đã từng nghe Tông Úc nhắc đến người trẻ tuổi này, nhưng chưa từng liên hệ hắn với Vệ gia.

Cho đến ngày yến tiệc Ân vinh đó, khi gặp mặt người này, mới vì cảm giác quen thuộc mà nảy sinh nghi ngờ trong lòng. Làm Đại lý tự Khanh sáu năm, Tông Già chưa bao giờ xem thường những nghi ngờ gần như bản năng như thế.

Tông Già khẽ thở dài: “Ván cờ dở dang này vốn do ta và ông nội cậu cùng phát hiện ra, khi đó hai chúng ta còn đánh cược xem hậu bối Tông gia hay Vệ gia, nhà nào sẽ phá giải được ván cờ chết này sớm nhất.”

Kết quả đánh cược, đương nhiên là ông ấy thua rồi.

Chỉ trong vòng hai tháng, cháu đích tôn của Vệ Thái phó đã phá giải được ván cờ này.

“Khi đó nhận được thư của Vệ Thái phó, trong lòng thực sự khó chịu. Nhưng điều khiến ta khó chịu hơn là một năm sau, lại nhận được thư của Vệ Thái phó.” Đôi mắt vốn nghiêm túc của Tông Già hiếm khi lộ chút ý cười: “Ông ấy nói đứa cháu nhỏ của ông ấy vô tình xem được ván cờ dở, chỉ cần một nước đã phá giải được thế cờ chết, tuy nhiên nước cờ đó của nó, giết địch một nghìn, cũng tự thương tám trăm, là một nước cờ thần diệu, cũng là một nước cờ độc. Thật sự khiến ông ấy vừa tự hào vừa lo lắng.”

Dù là nước cờ độc, nhưng cũng đã phá giải được ván cờ tưởng chừng bế tắc đó. Một đứa trẻ chưa đầy mười tuổi, đã đi được một nước cờ như vậy, sao có thể không làm cho trưởng bối vui mừng?

Nhưng nước sát chiêu như vậy vừa làm địch bị thương vừa tự tổn thương chính mình.

Người ta thường nói xem nước cờ biết được đạo lý, phong cách đánh cờ của một người có thể thấy được phong cách làm việc của người đó. Một nước cờ lưỡng bại câu thương như vậy, làm sao có thế không khiến Vệ Hạng lo lắng?

Tông Già nói đến đây, khẽ dừng lại, nói: “Ta vừa nghĩ, cậu sẽ dùng nước độc lưỡng bại câu thương để phá giải ván cờ này. Không ngờ, cậu lại dùng cách phá giải của huynh trưởng cậu.”

Hoắc Giác biết Tông Già và ông nội có quan hệ cũ, nhưng không biết họ còn có một đoạn chuyện xưa về ván cờ này.

Qua vài câu của Tông Già, Hoắc Giác nhớ lại dáng vẻ ông nội nở nụ cười, thậm chí đoán được ông đã dùng ngôn từ như thế nào để viết hai bức thư đó.

Hóa ra nước cờ khi ấy hắn thuận tay đánh ra đã khiến ông nội vừa tự hào vừa lo lắng như vậy.

Sống lại một đời, Hoắc Giác đương nhiên hiểu được nỗi lo của ông nội, kiếp trước hắn đã dùng phương pháp lưỡng bại câu thương để báo thù.

Tuy đã báo được đại thù, nhưng những gì phải mất còn nhiều hơn những gì đạt được.

Tông Già từ từ cầm ấm trà lên, nước trà màu đỏ sẫm chảy ra từ vòi ấm, bốc lên những làn khói trắng mờ ảo, sương mù che khuất đôi mắt tối tăm mờ mịt của ông ấy.

“Hoắc tiểu lang, lần này cậu vào Kinh, là vì chuyện gì?”

Hoắc Giác ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt Tông Già, không che giấu, đường đường chính chính nói: “Rửa oan.”

Tông Già khẽ gật đầu, muốn rửa oan cho Vệ gia và Hoắc gia, không phải chuyện dễ dàng, nhưng cũng không phải không có khả năng.

Hai ngày trước, Lỗ Đô Ngự sử của Đô sát viện mang một quyển sổ sách đến tìm ông ấy, nói rằng sổ sách đó xuất phát từ tay Binh bộ Thượng thư. Men theo sổ sách đó mà điều tra, có thể lật lại vụ án mưu phản bảy năm trước.

Binh bộ Thượng thư Hồ Đề là người của Lăng Duệ.

Hồ Đề không khó đối phó, khó đối phó là Lăng Duệ, Tề Xương Lâm và Vương Quý Phi trong cung, còn Thành Thái Đế với tâm tư khó dò cũng là một ẩn số không thể đoán trước.

Thành Thái Đế có thể lên ngôi Hoàng Đế, là nhờ vào sự mưu tính nhiều năm của Lăng Duệ.

Hiện tại Thành Thái Đế rõ ràng không tin tưởng Lăng Duệ như lúc mới lên ngôi, thậm chí còn có xu hướng ngầm dùng Đô sát viện, Đại lý tự và Cẩm Y Vệ để đối kháng với phe phái của Lăng Duệ.

Nhưng chuyện triều đình, biến số thường xảy ra chỉ trong một đêm. Không ai biết được, vị Thành Thái Đế dường như ngày càng không thích Lăng Duệ này sẽ lựa chọn thế nào trong giây phút cuối cùng.

Bởi vì với tính cách của Thành Thái Đế, vụ án bảy năm trước, ông ta còn không dám để người khác nhắc đến, huống chi là lật lại án cũ.

Vì vậy, làm thế nào để Thành Thái Đế quyết tâm trừ khử Lăng Duệ và cho phép Tam pháp ti lật án cho Tiên Thái tử, đây mới là điều khó nhất.

“Tông Khuê nói quyển sổ đó là cậu tìm thấy được trong nha môn Binh Bộ, Hoắc công tử, ta chỉ hỏi một câu.” Tông Già đặt chén trà xuống, đôi mắt từng trải nhiều năm trên triều đường như có thể nhìn thấu lòng người nhìn chằm chằm Hoắc Giác.

“Quyển sổ đó, thật hay giả?”

***

Sau khi bị Tông Úc dẫn ra khỏi Tích Cẩm đường, Tông Khuê chỉnh lại vạt áo hơi xộc xệch, không hài lòng nói: “Thúc thúc, ông bác đang thẩm vấn hay sao? Ngay cả nghe cũng không cho chúng ta nghe.”

“Chuyện của bá phụ làm gì đến lượt tiểu bối như cháu can thiệp?” Tông Úc liếc nhìn Tông Khuê: “Chỉ với cái tính chuyện gì cũng tò mò đến cùng của cháu, không sửa đổi, sớm muộn sẽ gây họa lớn.”

Tông Khuê “bộp” một tiếng mở quạt giấy, chỉnh lại sắc mặt, nói: “Trạng nguyên lang đã là do cháu dẫn vào, thì dù thế nào cháu cũng phải bảo vệ chu toàn cho hắn.”

Tông Úc nghe xong, ngực lập tức nghẹn lại: “Cháu nói gì vậy? Còn tưởng ta và ông bác cháu sẽ hại Hoắc tiểu lang sao?”

Nói xong, lại túm lấy vạt áo Tông Khuê, nói: “Đi đánh cờ với ta, ngay cả một ván cờ cũng không phá được, còn tự xưng mình là người thông minh bậc nhất thiên hạ.”

Thế là, vạt áo Tông Khuê vừa chỉnh lại đã bị làm xộc xệch lần nữa, còn bị ép phải đánh cờ cả buổi chiều. Đến khi quay lại Tích Cẩm đường, Hoắc Giác đã rời đi từ lâu.

Tông Già nhìn Tông Khuê, chỉ vào ván cờ trên bàn đá, nói: “Hoắc tiểu lang đã nghĩ ra hai cách phá giải, cháu về nghĩ kỹ xem, còn có cách nào khác không? Cháu là người xuất sắc nhất thế hệ này của Tông gia, đừng nói với ta là ngay cả một cách mà cháu cũng không nghĩ ra.”

Gừng càng già càng cay.

Tông Già vừa nói xong, cái tính không chịu thua trong xương tủy của Tông Khuê lại trỗi dậy, hắn ta khẽ cắn răng, xoay người đi về thư phòng của mình.

Tông Khuê vừa đi, Tông Úc đã ngồi về vị trí ban đầu, hỏi: “Bá phụ, quyển sổ đó…”

“Quyển sổ đó là thật, nhưng không phải do Hồ Đề viết.” Tông Già từ từ nhặt những quân cờ trên bàn, bỏ vào hộp cờ, vừa nhặt vừa nói: “Chuyện này ta sẽ tự xử lý, cháu không cần can thiệp.”

“Cháu hiểu rồi.” Tông Úc gật đầu đáp, suy nghĩ một lúc, lại nói: “Vậy… vụ án thi thể kia cháu có thể tiếp tục điều tra không?”

Tông Già không đáp, đợi đến khi tất cả quân cờ đều được bỏ vào hộp, mới từ tốn khuyên bảo: “A Úc, nếu phía trước có sương mù, chúng ta không thể tiếp tục đi tới. Bởi vì cháu không bao giờ biết được, ẩn sau màn sương mù đó, là lối thoát hay vực sâu. Ta biết cháu nóng lòng phá án, nhưng hiện tại chỉ có thể tạm gác vụ án đó lại, Tông gia chúng ta từ trước đến nay không bao giờ hành động thiếu suy nghĩ khi tình thế chưa rõ ràng, cháu hiểu chưa?”



Sau khi rời khỏi Tích Cẩm đường, Hoắc Giác được quản gia Minh thúc đích thân tiễn ra khỏi cổng Tông phủ.

“Sao Hoắc công tử không ở lại dùng bữa tối?” Ông lão nhìn đầy từ bi thiện lương cười híp mắt hỏi.

Hoắc Giác nhàn nhạt cười đáp: “Hôm nay là ngày Thất tịch, ta phải về ăn lễ cùng phu nhân.”

Minh thúc nghe xong thì ngạc nhiên, ở Tông phủ dương thịnh âm suy, ông ấy suýt thì quên hôm nay là ngày Thất tịch.

“Vậy thì không nên giữ Hoắc công tử nữa.” Minh thúc cười nói, nhìn Hoắc Giác với ánh mắt như nhìn một món bảo bối.

Tuổi còn trẻ đã đỗ Trạng nguyên, lại còn yêu thương nương tử như vậy, thật là chàng trai tốt hiếm có, thắp đèn đi tìm cũng không thấy! Thật hy vọng công tử chim công nhà mình có thể học hỏi nhiều hơn! Không cầu hắn ta yêu thương nương tử như Hoắc công tử, chỉ cầu hắn ta sớm đính hôn, để ông ấy có chút hy vọng!

Trong lúc Hoắc Giác đang đánh cờ với Tông Già ở Tông gia, Khương Lê cũng đang tất bật chiêng trống chỉ huy mấy tỳ nữ phơi quần áo phơi sách.

Đây cũng là truyền thống đón lễ Thất tịch của Đại Chu.

Như câu “Ngày Tí gội đầu, làm người yêu mến, ngày Mão phơi nắng, làm người bạc đầu”(*), tương truyền ánh nắng ngày mùng bảy tháng bảy là như ý nhất trong năm, phơi sách phơi quần áo vào ngày này, phơi hết hơi ẩm còn sót lại từ xuân thu, hai mùa thu đông sắp tới sẽ được mọi việc như ý.

(*)Nguyên văn là “Tử viết mộc, lệnh nhân ái chi. Mão nhật sái, lệnh nhân bạch đầu”

Khương Lê không chỉ mang sách trong thư phòng của Hoắc Giác ra phơi, còn sai Hà Ninh đến phòng Tô Thế Thanh khiêng hai rương sách y thuật cũ ra.

Những cuốn sách đó đã có tuổi, vừa mở rương ra, một mùi ẩm mốc cũ kỹ lập tức lan tỏa.

Hà Ninh vội vàng bưng sách ra ngoài, số sách này chất đống từng chồng, còn lẫn không ít hồ sơ khám bệnh, thật sự khá nhiều.

Mấy tỳ nữ cũng tiến lên giúp Hà Ninh, lần lượt mở sách ra, đặt dưới ánh nắng phơi. Đang lật thì bỗng Vân Chu “Ơ” lên một tiếng, nói: “Đây, đây không phải là phu nhân sao?”

Khương Lê đang chăm chú phơi quyển《Trung Dung》của Hoắc Giác, nghe tiếng Vân Chu, bèn nhìn sang theo hướng âm thanh.

Lập tức trông thấy trong một quyển sách y thuật cũ kẹp một xấp tranh nhỏ, gió thổi qua, xấp tranh “xào xạc” rơi xuống đất.

Hơn mười bức tranh, đều là vẽ trên giấy Tuyên Thành thông thường nhất, trông như thuận tay vẽ xuống. Có những bức tranh chân dung nhỏ giấy còn mới, có những bức đã ngả vàng, như dấu vết thời gian đọng lại.

Theo lý mà nói, Hoắc Giác văn thơ bay bổng, thư họa song toàn, bình thường không ít lần cầm bút vẽ tranh, trong cuốn sách kẹp một xấp tranh như vậy cũng không phải chuyện đáng ngạc nhiên.

Nhưng vấn đề là, những bức tranh chân dung nhỏ này, mỗi bức, đều vẽ nàng.

A Lê chín tuổi, A Lê mười tuổi, A Lê mười một tuổi… từng nét bút hạ xuống, đều là nàng.

Tim Khương Lê đập “thình thịch”, không biết nghĩ đến điều gì, khuôn mặt trắng mịn đỏ bừng lên như bị lửa đốt.
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 95: Chương 95


Tết Đoan Ngọ năm ngoái, khi Khương Lê và Trương Oanh Oanh đi hội chùa xem bắn liễu, Oanh Oanh còn cười hỏi nàng: “A Lê này, cô nói xem, có khi nào Hoắc Giác đã thích cô từ rất lâu rồi không?”

Lúc đó Khương Lê làm sao có thể tin lời Oanh Oanh, chỉ nghĩ là nàng ấy thuận miệng nói.

Nhưng giờ nhìn đống tranh nhỏ nửa cũ nửa mới trên mặt đất, trong lòng Khương Lê dâng lên một cảm xúc khó tả.

Vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, còn có chút khó tin.

Một người như Hoắc Giác, nếu không để ai đó vào tận đáy lòng, làm sao lại lén vẽ tranh chân dung người đó?

Những người hầu trong viện này, dù là Hà Ninh hay Đào Chu, Tố Tùng, đều là người tinh ý. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Khương Lê, họ cũng đoán ra những bức họa chân dung nhỏ này chắc chắn là Hoắc công tử lén vẽ.

Chỉ có Vân Chu là mãi chưa hiểu, nhặt từng bức tranh lên, tò mò hỏi: “Đây đều là do công tử vẽ sao? Sao lại giấu trong sách y thuật, không đóng khung cho đẹp nhỉ? Vẽ đẹp quá! Hóa ra phu nhân từ nhỏ đã xinh đẹp thế này!”

Khương Lê nghe nàng ấy nói vậy, mặt càng đỏ bừng.

Vẽ tranh chân dung là việc rất riêng tư.

Trước mặt bao nhiêu người, phu quân lén vẽ tranh mình, giờ lại bị nhiều người biết, quả thật rất ngượng ngùng và xấu hổ.

May mà Đào Chu biết phu nhân của mình dễ ngại đến mức nào, vội gõ đầu Vân Chu, làm như không có gì nói: “Những bức tranh này không cần phơi đâu, đưa nhanh cho ta, ta mang đến thư phòng.”

Đương nhiên là không thể phơi, bị mấy người họ thấy đã đủ ngượng rồi.

Nếu phơi trên chiếu trúc, chẳng phải toàn bộ tỳ nữ, bà vú trong viện đều sẽ thấy sao?

Nghĩ đến đây, Khương Lê vội tiến lên một bước, nói: “Đưa cho ta đi! Ta mang về phòng ngủ, các em cứ kiểm tra kỹ xem, nếu có sách y thuật nào khác cũng có… tranh nhỏ như vậy, thì cũng không cần phơi, cứ mang đến phòng ngủ cho ta là được.”

Khi Hoắc Giác trở về chính viện, sách trong sân đã phơi xong.

Hà Ninh đứng canh ngoài cửa nguyệt, thấy hắn về thì vội vàng hành lễ, cung kính nói: “Phu nhân đang ở trong phòng ngủ.”

Hoắc Giác nghe vậy khẽ gật đầu, bước về phía phòng ngủ.

Tất nhiên cũng không phát hiện ra đôi mắt liên tục đảo quanh của Hà Ninh sau khi hắn đi khỏi, lén lút nhìn theo bóng lưng hắn, khẽ thì thầm: “Hóa ra công tử cũng từng có lúc thầm thương trộm nhớ tiểu cô nương mà không dám nói ra…”

Trong phòng ánh đèn lung linh, ánh sáng vàng nhạt tràn ngập căn phòng, Khương Lê ngồi trước bàn trang điểm, lặng lẽ để Đào Chu vấn tóc cho nàng.

Dưới ánh đèn dịu dàng, tiểu cô nương mặc chiếc váy yếm gấm Thụy cổ màu son bạc ngang ngực, thắt lưng rộng bằng bàn tay, làm nổi bật vòng eo nhỏ nhắn.

Mái tóc đen được vấn kiểu đọa mã, chỉ để một lọn tóc dài buông trước ngực.

Khi Hoắc Giác bước vào, Khương Lê nhẹ nhàng quay đầu nhìn hắn, đôi mắt long lanh như chứa đựng muôn vàn tình ý, lại như có ngàn lời muốn nói.

Hoắc Giác cụp mắt nhìn một lúc, rồi mới tiến lên tiếp lấy việc từ tay Đào Chu, cẩn thận cài chiếc trâm mã não đỏ vào búi tóc của nàng.

Khương Lê nhìn hắn qua gương đồng, khẽ nói: “Chàng có muốn thay bộ quần áo khác không?”

Hôm nay là lễ Thất tịch, từ sớm hai người họ đã hẹn nhau đi thuyền ngắm đèn ở sông thành hào. Thất tịch cũng là một ngày lễ lớn, đặc biệt được các nam nữ chưa thành thân và các cặp phu thê mới cưới yêu thích.

Hôm nay chắc chắn sông thành hào sẽ rất náo nhiệt, Khương Lê đã mong được đi thuyền ở đó từ lâu.

Nghe tiểu nương tử hỏi, Hoắc Giác nhẹ nhàng đáp: “Thay áo ngoài là được.”

Sau khi cả hai chuẩn bị xong, bèn lên xe ngựa đi đến sông thành hào.

Hoắc Giác thấy Khương Lê ôm một hộp gỗ nhỏ lên xe, đưa tay muốn cầm giúp nàng. Nào ngờ tiểu nương tử như thể sợ hắn cướp báu vật của mình, vội vàng giấu cái hộp ra sau lưng, giọng trong trẻo nói: “Đợi lên thuyền hoa mới được xem.”

Hoắc Giác nhướn mày, nhìn Khương Lê chăm chú một lúc rồi mới rút tay về, nói: “Món đồ gì mà A Lê quý trọng thế?”

Khương Lê ngước mắt nhìn hắn, úp úp mở mở: “Chàng sẽ biết ngay thôi.”

Vừa nói, nàng thầm quyết tâm, một lúc nữa lên thuyền hoa, nhất định phải “thẩm vấn” hắn cho ra nhẽ.

***

Thịnh Kinh không chỉ có sông thành hào ở ngoại thành là có nước và phong cảnh đẹp, mà bến Đông Phong ở phía Đông thành, hồ Chu Gia ở phía Tây thành, và cả khe suối ở ngoại ô đều là những nơi người dân Kinh thành yêu thích.

Nhưng nếu nói đến việc đi thuyền vào những dịp lễ Tết ở đâu thì đương nhiên sông thành hào là lựa chọn hàng đầu.

Sông thành hào ở Thịnh Kinh còn có khí phách hơn sông thành hào ở thành Đồng An nhiều.

Vừa đến đêm, vô số thuyền hoa tinh xảo tuyệt đẹp đã lênh đênh trôi trên mặt nước lung linh, thế giới rực rỡ ánh đèn, tiếng đàn sáo không ngớt bên tai, thật có cảm giác khiến người ta mơ màng đắm say.

Khương Lê đặt tay mình vào tay Hoắc Giác, bước một bước lên thuyền hoa.

Thuyền hoa không lớn lắm, chỉ cỡ trung bình, nhưng bài trí bên trong thật là tao nhã dễ chịu. Ghế quý phi, ghế mỹ nhân, lư hương tỏa khói nhẹ nhàng, trên bàn dài tinh xảo còn bày rượu ngon và cao lương mỹ vị.

Vào Thất tịch mà có được một chiếc thuyền hoa như thế này thật không dễ dàng, không chỉ tốn bạc mà còn phải có quan hệ.

Khương Lê cũng từng hỏi Hoắc Giác kiếm đâu ra chiếc thuyền hoa này, ban đầu nàng còn tưởng là do Tiết Thế tử của phủ Định Quốc Công sắp xếp.

Nào ngờ Hoắc Giác lại cười véo véo mũi nàng, nói: “Bách Đô Ngự sử của Đô sát viện sắp xếp cho ta, bảo ta ngày Thất tịch này đến sông thành hào xem có quan viên nào xa xỉ hoang phí trắng trợn không, tiện thể dẫn nàng đến ngắm cảnh dọc đường.”

Lời nói nghe thì rất êm tai, thực ra là mượn việc công để làm chuyện riêng, để Hoắc Giác dẫn gia quyến đến tình tứ yêu đương.

Nghe nói mỗi vị Ngự sử vào Đô sát viện, chỉ cần đã thành gia thất, năm đầu tiên đều có phúc lợi này.

Trước đây khi Khương Lê nghe người khác nói về các Ngự sử Đô Sát viện, còn tưởng họ là một đám quan viên không biết đùa giỡn, động một tí là nổi giận đùng đùng cãi nhau với người khác, nào ngờ lại là một nhóm người chu đáo và quan tâm đến thuộc hạ.

Vào thuyền hoa, Hoắc Giác gắp một miếng bánh xảo quả từ đĩa sứ vẽ vàng, đút vào miệng Khương Lê.

Bánh xảo quả này bọc một lớp đường trắng bên trong, ăn vào ngọt lịm. Khương Lê ăn liền mấy miếng, lại uống vài ngụm rượu trái cây.

Nàng từ nhỏ lớn lên trong quán rượu, tất nhiên tửu lượng cũng không tệ.

Nhưng khuôn mặt trắng trẻo của nàng lại không chịu được hơi rượu, mới uống vài chén đã ửng hồng.

Có lẽ rượu có thể tiếp thêm can đảm cho người ta.

Sau khi uống vài ngụm rượu trái cây, Khương Lê bèn lấy chiếc hộp gỗ từ sau lưng ra trước mặt, ánh mắt sáng rỡ nhìn Hoắc Giác, nói: “Hoắc Giác, chàng, khai thật cho ta, có phải chàng đã thích ta rất lâu rồi phải không?”

Vừa nói, ngón tay “tách” một tiếng mở khóa đồng trên hộp gỗ, cho Hoắc Giác xem “tang chứng” hắn để lại.

Đôi mắt tiểu nương tử nhìn hắn trong vắt thuần khiết, lại sáng như sao trên trời, quả thực không giấu được điều gì.

Không cần nàng nói ra miệng, dường như Hoắc Giác cũng có thể nghe thấy nàng đang hỏi: Này, bằng chứng chàng để lại từ trước đều ở chỗ ta cả rồi, chàng đừng hòng chối.

Vị lang quân có đôi mắt sâu thẳm nuốt khan một cái, bật ra tiếng cười trầm thấp.

Hoắc Giác vươn tay dài, từ từ rút xấp giấy trong hộp gỗ ra, chậm rãi lật xem.

Càng xem, đôi mắt ban đầu còn mang nụ cười dần dần trầm xuống.

Đây là những bức họa chân dung nhỏ của A Lê do hắn vẽ, nhưng đã vẽ từ nhiều năm trước. Thời gian xa xôi đến mức, hắn gần như quên mất còn có một xấp tranh như vậy.

Kiếp trước khi lên Kinh thành đi thi, hắn đã giấu những bức họa chân dung nhỏ này trong một cuốn sách y thuật, mang theo đến Thịnh Kinh. Nhưng trước khi vào cung, cuốn sách y thuật cùng những bức họa đó đều đã bị hắn đốt cháy trong một ngọn lửa.

Dường như ngọn lửa ấy không chỉ thiêu rụi những bức họa, mà còn đốt cháy từng chút một những hy vọng hão huyền còn sót lại trong lòng hắn.

Khi rời khỏi thành Đồng An năm mười sáu tuổi, hắn cũng từng nghĩ, đến ngày đại thù được báo, có lẽ nàng vẫn còn ở phố Chu Phúc, vẫn đang kinh doanh quán rượu Dương Ký, giống như nhiều nữ chưởng quỹ ở phố Chu Phúc, hoặc là suốt đời không gả đi, hoặc là lấy phải người không như ý rồi hòa ly tự lập.

Như vậy, cuối cùng hắn cũng sẽ kịp hỏi nàng một câu: Giờ ta đã tự do rồi, A Lê, muội còn muốn nhận ta không?

***

Sóng gợn lấp loáng mặt sông, làm dòng bạc nóng chảy rơi xuống từ bầu trời vỡ vụn ra.

Ở nơi dòng nước chảy xiết, thuyền hoa khẽ rung lên, những tờ giấy vẽ trượt khỏi lòng bàn tay Hoắc Giác, rơi xuống như những bông tuyết bay lả tả trên góc tấm thảm nhung thêu kim tuyến.

Hoắc Giác cúi người chậm rãi nhặt lên, gạt bỏ mọi suy nghĩ phức tạp, ngước đôi mắt đen như mực, cười nói với Khương Lê: “Hóa ra nàng đã phát hiện rồi.”

Dừng lại một chút, hắn lại chậm rãi “Ừm” một tiếng: “Nàng nói không sai, ta đã thích nàng từ rất lâu rồi.”

Hắn đã hứa, sau này những điều nàng muốn nghe, hắn đều sẽ nói cho nàng nghe.

Giờ đây “người và tang vật đều bị bắt quả tang”, không thể chối cãi được nữa.

Khương Lê vốn còn hơi căng thẳng, sợ rằng mình đã hiểu lầm tình cảm.

Lúc này nghe hắn nói vậy, trái tim đang treo cao cuối cùng đã hạ xuống, nhưng ngay sau đó, nhịp đập trở nên không thể kiểm soát được, vang lên “thình thình thình” như tiếng trống đánh.

Khương Lê nghiêng người về phía trước, ngón tay thon dài chỉ vào bức họa chân dung nhỏ trên cùng, nói: “Đây là bức chàng vẽ lần đầu tiên gặp ta sau khi tỉnh lại à?”

Hoắc Giác nhìn theo ngón tay mảnh mai của nàng về phía tờ giấy đã ngả vàng, chỉ thấy trên giấy vẽ một tiểu cô nương tết tóc hai bên, lúc đó vóc dáng tiểu nương tử còn chưa cao lớn, dáng vẻ còn rất trẻ con, trong lòng ôm một quả dưa hấu vỏ xanh to và nặng.

Nét bút của hắn lúc đó tuy hơi non nớt, nhưng lại rất tỉ mỉ, từ bức họa có thể thấy được A Lê nhỏ ôm quả dưa hấu vất vả như thế nào.

Còn có cả khoảnh khắc nàng ngoái đầu nhìn hắn, ánh mắt đầy kinh ngạc và bối rối gần như sống động trên giấy.

Vừa linh động vừa sinh động.

“Phải. Ngày thứ năm sau khi ta tỉnh lại ở phố Chu Phúc, ngày đó, nàng đứng ngoài sân gọi A Lệnh mở cửa.”

Khương Lê cắn môi, bản thân nàng đã quên mất ngày đó nàng đã nói gì, không ngờ hắn lại nhớ rõ từng chi tiết.

“Hoắc Giác, chàng nhớ ngày đó rõ như vậy. Có phải là, ngay từ lần đầu tiên gặp ta, chàng đã thích ta rồi không? Nếu chàng thật sự thích ta, sao, sao không nói sớm với ta? Còn mỗi lần gặp ta, sắc mặt đều lạnh lùng.”

Khương Lê kìm nén sự ngượng ngùng, hỏi hết những điều muốn biết trong lòng.

Nàng đã nghĩ rồi, sau này khi nàng già đi, con cháu đầy đàn, nàng sẽ kể cho các cháu nghe về việc ông của chúng đã từng thích bà như thế nào.

Tốt nhất là ngồi trên chiếc ghế xích đu gỗ, phe phẩy chiếc quạt hương bồ, đắc ý chậm rãi nói: “Ông của các cháu ấy, ngay từ cái nhìn đầu tiên đã lén lút thích bà, thích đến không thể tả.”

Hoắc Giác nhìn ánh mắt long lanh trên gương mặt tiểu nương tử, lại nhớ đến những lời A Lê đã thì thầm bên tai hắn khi hắn hôn mê, đôi mắt sâu thẳm cuối cùng cũng không kìm được hiện lên một ý cười.

Hoắc Giác mười tuổi chỉ trong một đêm đã mất đi tất cả người thân, lại bị nỗi đau giày vò suốt nhiều tháng mài mòn ý chí, thực ra đã nảy sinh ý định muốn chết. Nhưng đúng lúc đó lại gặp được A Lê, lần lượt đánh thức hắn khỏi bóng tối tĩnh mịch chết chóc ấy.

Nếu thực sự phải nói, có lẽ là từ câu nói đầu tiên của nàng với hắn, đã khiến hắn nhớ đến nàng rồi.

Từ đó không thể quên được nữa.

Hoắc Giác nhìn nàng, đưa tay vén một lọn tóc bên má nàng ra sau tai, nghiêm túc nói: “A Lê, lúc đó ta còn chưa hiểu cách yêu một người như thế nào, có nhiều lời đều giấu trong lòng, không nói ra. Bây giờ ta cũng không dám nói là hiểu nhiều, nhưng ta đang từ từ học.”

Học cách yêu nàng theo cách nàng thích nhất, cũng học cách trở thành một Hoắc Giác mà Khương Lê yêu.

“Ta sẽ yêu nàng nhiều hơn từng ngày, đối xử với nàng tốt hơn từng ngày.” Hắn nói như vậy.

Khương Lê không khỏi cảm thấy cay cay nơi sống mũi.

Nàng vừa mới chê hắn trước đây lạnh lùng, không biết nói chuyện. Nhưng những lời hắn nói lúc này, thật sự còn ngọt ngào hơn cả những món bánh xảo quả kia.

Viền mắt tiểu nương tử nóng lên, nàng cúi đầu xuống, chậm rãi lật những bức họa chân dung nhỏ, mũi rõ ràng đang cay, nhưng nụ cười trên môi càng lúc càng rạng rỡ.

Trong xấp tranh đó, bức cuối cùng vẽ Khương Lê đứng dưới cây hạnh vào đầu đông năm ngoái.

Lúc đó nàng đã cao hơn một chút, đã là một thiếu nữ duyên dáng yêu kiều. Mặc áo váy màu trắng, đứng dưới gốc cây cười nói chuyện với người khác, gió thổi qua khiến vô số bông tuyết rơi trên gương mặt nàng.

Tranh chân dung này được vẽ tỉ mỉ hơn các bức khác, ngay cả những bông tuyết dính trên vạt áo của nàng cũng được vẽ rất chi tiết.

Ngày hôm đó Khương Lê còn nhớ, Trương Oanh Oanh đến tìm nàng, nói muốn cùng nàng nặn những chú mèo chú chó bằng tuyết dưới gốc cây. Nhưng hai người không nặn được mèo chó, lại chuyển sang ném tuyết.

Những quả cầu tuyết rơi vào cổ Khương Lê, lạnh đến nỗi khiến nàng run lên, vô số bông tuyết dính vào cổ áo như vậy.

Chính là lúc đó, Hoắc Giác tan học từ thư viện trở về, hắn thấy họ trong hẻm cũng không ngạc nhiên, chỉ yên lặng không đổi sắc mặt nhìn nàng một cái, sau đó lạnh lùng đẩy cửa vào tiệm thuốc.

Nghĩ lại bây giờ, lúc đó hắn thật giỏi giả vờ!

Nếu không phải thích nàng đến mức không thể kìm nén, làm sao chỉ với một cái nhìn, lại có thể vẽ nàng một cách chi tiết như vậy? Ngay cả hoa văn như ý trên áo váy của nàng cũng vẽ rõ ràng như thế.

Khương Lê ngước đôi mắt hơi ửng đỏ lên, cười nói với Hoắc Giác: “Sau này chàng muốn vẽ bức họa chân dung nhỏ của ta, nhớ nói với ta trước một tiếng, ta phải thay bộ quần áo đẹp hơn, rồi búi một kiểu tóc đẹp.”

Nhìn những bức họa chân dung nhỏ hắn vẽ này, ngoại trừ bức cuối cùng hơi đẹp hơn một chút, cũng chỉ là cổ áo dính chút bụi tuyết, còn coi như là một cô nương xinh đẹp dịu dàng.

Còn những bức họa khác, không phải ôm quả dưa hấu to với vẻ mặt hoảng hốt, thì là sau khi bị lợn rừng đuổi xuống núi, toàn thân nhếch nhác cúi đầu ỉu xìu với khuôn mặt buồn rười rượi.

Thật sự toàn là những cảnh nàng không muốn nhớ lại, vậy mà lại bị hắn vẽ ra.

Sau này những bức tranh này nàng đều phải giữ lại cho cháu chắt xem, nếu không vẽ nàng đẹp đẽ tao nhã một chút, làm sao những đứa nhỏ đó tin rằng, ông nội Trạng nguyên tài hoa tuyệt đỉnh của chúng lại làm chuyện lén lút vẽ chân dung của bà mình như vậy.

Hoắc Giác nghe xong những lời trẻ con đó của nàng, cũng không cười nhạo, chỉ nghiêm túc “Ừm” một tiếng, nhận lời.

Khương Lê nhìn hắn một lúc, cuối cùng không kìm được, khẽ nhổm người lên, cúi đầu, đặt một nụ hôn lên đôi môi mỏng ấm áp của hắn.

Nụ hôn này, là dành cho tiểu lang quân đã lén lút thích nàng, vẽ chân dung của nàng trong những ngày đầu nàng biết đến tình yêu.

Cảm tạ hắn, đã cho nàng biết rằng, hóa ra A Lê chín tuổi, A Lê mười tuổi cho đến A Lê mười bốn tuổi, trong chuyện thích Hoắc Giác này, chưa từng là một người độc diễn một vở kịch.
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 96: Chương 96


Ánh trăng lung linh, nước sông lấp lánh.

Trên dòng sông dài, thuyền lắc lư, ngay khi Khương Lê chạm môi Hoắc Giác, một chiếc thuyền hai tầng sang trọng và lộng lẫy lướt qua một bên.

Hồ Ngọc Nhã rót một ly rượu cho vị lang quân lạnh lùng trước mặt, dịu dàng nói: “Cha nói những người trong Binh Bộ các huynh ai cũng như cái thùng rượu, rượu này là ta đặc biệt sai người nấu đấy, huynh nếm thử xem có ngon không?”

Tuyên Nghị hạ mắt nhìn chén rượu trên bàn, đôi mắt u ám thoáng chút giãy giụa.

Mấy ngày trước, phụ thân đột nhiên rời khỏi Thịnh Kinh, đến Túc Châu.

Trước khi đi, phụ thân gọi hắn ta vào thư phòng, nhìn hắn ta một hồi lâu không nói gì, lúc lâu sau mới thở dài, nói: “Nghị nhi, hiện tại phủ Định Viễn Hầu và phủ Binh bộ Thượng thư đã định hôn ước, tháng năm năm sau con và Hồ Đại nương tử sẽ thành hôn. Hồ Thượng thư được Lăng Thủ phụ coi trọng, làm con rể của ngài ấy, tương lai con ắt sẽ vươn xa vô hạn.”

“Ngày mai phụ thân sẽ khởi hành đi Túc Châu, chuyến đi này là một nước cờ phá thế, nếu thành công, ngày phủ Định Viễn Hầu khôi phục vinh quang ngày xưa sẽ chỉ nằm trong tầm tay.”

Tuyên Nghị không biết phụ thân đến Túc Châu để làm gì, chỉ mơ hồ cảm thấy, chắc chắn chuyện đó là không thể nói ra.

Tuyên Nghị nhắm mắt lại, trước mắt hiện lên cảnh phụ thân cố chống đỡ chân bệnh, thừa dịp đêm tối rời khỏi Thịnh Kinh.

Hắn ta nghiến chặt răng, khi mở mắt ra, vẻ u uất trong đáy mắt đã tan biến.

Nhận chén rượu Hồ Ngọc Nhã đưa tới, khẽ mỉm cười nói: “Đa tạ Hồ cô nương.”

Rượu mạnh trượt qua cổ họng, hương rượu thơm nồng, nhưng không phải ly rượu mà hắn ta muốn uống từ đầu đến cuối.

Hồ Ngọc Nhã hiếm khi thấy hắn ta cười, má hơi nóng, vội vàng dịu dàng rót đầy rượu cho hắn ta, nói: “Nếu huynh thích, lát nữa dạo thuyền xong, ta sẽ sai người đưa hai vò đến Hầu phủ.”

Nàng ấy vừa dứt lời, có một người từ từ bước xuống cầu thang gỗ dẫn lên tầng hai của thuyền, cười nói: “Muội muội ta tự tìm người nấu rượu, chỉ có Tuyên Thế tử được uống, ta và Chu công tử muốn xin một ly cũng không được.”

Người đến chính là biểu tỷ của Hồ Ngọc Nhã – Lăng Nhược Mẫn, theo sau Lăng Nhược Mẫn là Nhị công tử Hồng lư tự Khanh – Chu Diệp.

Hồ Ngọc Nhã quả thật đã dò hỏi được Tuyên Nghị thích uống rượu nên mới đặc biệt sai người nấu. Nhưng lúc này bị Lăng Nhược Mẫn trêu chọc, ít nhiều cũng ngượng ngùng, bèn liếc mắt nhìn nàng ta, “cộp” một tiếng đặt bình rượu sang một bên, nói: “Các tỷ thích uống bao nhiêu thì uống bấy nhiêu! Đừng nói là xin không được!”

Lăng Nhược Mẫn cầm quạt che miệng cười, nói: “Được rồi, không trêu Nhã nhi nữa.”

Nói xong, bèn ngồi xuống bên cạnh Hồ Ngọc Nhã, cầm bình rượu lên, nhìn Chu Diệp đằng sau, nói: “Chu công tử có muốn nếm một ly không?”

Chu Diệp nhướn mày cười, nhanh chóng bước tới, cà lơ phất phơ nói: “Lăng cô nương tự tay rót rượu, Diệp sao dám từ chối?”

Người ta đồn Đại nương tử nhà Lăng Thủ phụ là đệ nhất tài nữ ở Thịnh Kinh, nếu bảo Chu Diệp nói, tài hay không tài hắn ta không biết, cũng chẳng quan tâm lắm. Nhưng khuôn mặt như hoa như ngọc của Lăng Nhược Mẫn và tính cách khiến người ta như được tắm trong gió xuân của nàng ta rất hợp ý hắn ta.

Một tiểu thư khuê các và chủ mẫu đạt chuẩn chính là như vậy.

Đáng tiếc thay, Lăng Thủ phụ rất khó tính trong việc chọn con rể tương lai, Chu Diệp hắn ta không có phúc ôm được mỹ nhân về. Còn chưa nói, trên người hắn ta còn có một hôn ước tồi tệ, làm sao còn dám nghĩ đến người khác?

Nghĩ đến vị hôn thê lại bị đưa về trang viên kia, Chu Diệp cảm thấy ngay cả rượu ngon vừa vào miệng cũng không còn ngon nữa.

Phủ Trấn Bình Hầu bị những kẻ điên trong Đô sát viện công kích không biết bao nhiêu lần, hiện tại không giữ được tước vị, còn tư cách gì để kết thân với Chu gia chứ?

Vốn định nhân cơ hội nói với bà nội, hủy bỏ hôn sự này.

Ai ngờ không biết vì sao tỷ tỷ ruột trong cung lại xảy ra chút chuyện, nghe nói việc hai năm trước tỷ ấy đầu độc chết một tiểu Đáp ứng bị người ta phanh phui ra.

Vốn dĩ Đáp ứng đó chỉ là nữ nhi của một tiểu quan, không có gì làm nền, chết thì chết. Nhưng trùng hợp là khi tiểu Đáp ứng đó chết, trong bụng đang mang long chủng.

Mưu hại Hoàng tự là tội danh lớn, đặc biệt là Thành Thái Đế vốn ít con nối dõi, luôn xem trọng Hoàng tự, một khi không xử lý tốt, e rằng cả Chu gia đều sẽ phải đền mạng.

Bà nội liên tục vào cung mấy lần, khom lưng đi dập đầu trước Vương Quý phi. Phụ thân cũng chạy đến nhà Lăng Thủ phụ mấy lần, còn nhờ cậu xin Hồ Thượng thư nói giúp.

Mới miễn cưỡng áp chế được chuyện này, chỉ là Lý ma ma hầu hạ a tỷ nhiều năm mất mạng, a tỷ cũng vì quản giáo không nghiêm mà bị giáng vị phận.

Chuyện hậu cung từ xưa đến nay luôn có liên quan chặt chẽ với triều đường, mấy ngày nay cho dù là phụ thân hay bản thân hắn ta, đều bị Đô sát viện tấu lên liền mấy tờ tấu chương.

Đến nỗi hiện tại chỉ có thể cụp đuôi mà làm người, ngay cả hủy hôn cũng không được.

Chu Diệp thở dài trong lòng, cầm bình rượu rót đầy một ly, uống một hơi cạn sạch.

Lúc này đang là ngày tốt cảnh đẹp, thật sự không nên nghĩ đến những chuyện phiền lòng đó, bèn chuyển hướng câu chuyện, nói: “Nghe nói hôm nay còn mời Tiết Thế tử và Tiết cô nương, sao đến giờ họ vẫn chưa đến?”

Hắn ta vừa hỏi xong, Lăng Nhược Mẫn lại tỏ ra rất bình thường, không có chút thất vọng nào. Ngược lại Hồ Ngọc Nhã mặt đầy bất mãn, giận dữ nói: “Tất nhiên biểu tỷ đã sai người đi mời, nhưng Tiết Vô Vấn kia nói có hẹn với mỹ nhân nên từ chối, không biết chạy đến kỹ viện nào chơi bời phong lưu.”

Chu Diệp nghe xong, cũng không ngạc nhiên.

Vị Thế tử của phủ Định Quốc Công đúng là nổi tiếng ăn chơi ở Thịnh Kinh, nghe nói các hoa khôi trong Thịnh Kinh đều là hồng nhan tri kỷ của hắn ta.

Đều là nam nhân, trong ngày lễ Thất tịch tốt đẹp như thế này, vị Tiết Thế tử kia chạy đến chốn phấn hồng qua đêm xuân, Chu Diệp hiểu, rất hiểu.

Hồ Ngọc Nhã vốn là bất bình thay cho biểu tỷ, nhưng thoáng thấy nụ cười phong lưu trên mặt Chu Diệp, tức không đâu cho hết.

Ngay cả danh tiếng của Chu Diệp ở Thịnh Kinh cũng không tốt hơn Tiết Vô Vấn là bao. Hắn ta tự mình xấu thì xấu, đừng có làm xấu cả Tuyên Nghị.

Nghe nói trước đây Tuyên Nghị thường bị Chu Diệp lôi kéo đến kỹ viện, may mà từ năm ngoái, hắn ta đã tỉnh ngộ, biết giữ mình, không còn chịu ra ngoài trêu hoa ghẹo nguyệt nữa.

Nếu không phải vậy, nàng ấy sẽ không muốn kết hôn với người này!

Hồ Ngọc Nhã nghĩ đến đây, lại nhìn sang Tuyên Nghị, thấy vị lang quân lạnh lùng kia sau khi nghe đến tên Tiết Vô Vấn thì sắc mặt đột nhiên trầm xuống, giống như nhớ đến chuyện gì đó rất không vui.

Hồ Ngọc Nhã cứ nghĩ hắn ta có cùng chung mối thù với mình, cười đẩy đĩa bánh xảo quả tinh xảo trên bàn qua, nói: “Bánh xảo quả này là do biểu tỷ tự tay làm đấy, tay nghề của biểu tỷ vốn rất khéo, huynh nếm thử đi.”

***

Bánh xảo quả do Lăng Nhược Mẫn làm, phủ Định Quốc Công cũng nhận được một hộp.

Tiết Oánh lúc này đang cầm một miếng bánh xảo quả cho vào miệng, vừa ăn vừa xem Vệ Xuân điều hương, nói: “Xuân tỷ tỷ, ta muốn một cái túi thơm có mùi trái cây ngọt ngọt, ừm, giống như của A Lê ấy, mùi hạnh là được. Như vậy khi đói bụng, lấy túi thơm ra ngửi ngửi, cũng tạm đỡ đói được một lúc.”

Tiết Vô Vấn khoanh tay dựa vào cửa sổ bên cạnh, nghe lời Tiết Oánh nói, thực sự không nhịn được nữa, nói: “A Oánh, muội ở Vô Song viện đã ăn uống cả canh giờ rồi, không về ngay, e rằng lát nữa mặt trời sẽ mọc mất.”

Tiết Oánh nhìn vầng trăng sáng treo ngoài trời, không nhịn được thầm oán trách ca ca mình vài câu.

Chuyến này nàng ấy và cha đã đi gần nửa năm, cuối cùng mới về được Thịnh Kinh, Xuân tỷ tỷ lại luôn bận rộn tới Phật đường với bà nội.

Xem này, đã bao lâu rồi nàng ấy chưa được nói chuyện tử tế với Xuân tỷ tỷ, ca ca keo kiệt này, suốt ngày chỉ muốn độc chiếm Xuân tỷ tỷ!

Nàng ấy cũng không giận dỗi với Tiết Vô Vấn, chỉ nhìn Vệ Xuân đầy vẻ tội nghiệp.

Nhìn đến nỗi Vệ Xuân phải bật cười, nói: “Túi thơm muội muốn, hai ngày nữa ta bảo Đồng ma ma đưa đến Thanh Hành viện cho muội.”

Tiết Oánh vội vàng cười híp mắt cảm ơn, lại cầm hai miếng bánh xảo quả nhét vào miệng, nói: “Vậy ta về Thanh Hành viện đây, ăn nhiều bánh xảo quả thế này, phải đi tập vài bộ quyền pháp mới được, không thì chiếc váy xếp mới may sẽ không mặc vừa mất!”

Chậc, không đi ngay, e rằng ca ca nàng ấy sẽ đích thân đuổi nàng ấy đi mất.

Sau khi Tiết Oánh đi rồi, Vệ Xuân đặt chày giã hương xuống, liếc nhìn Tiết Vô Vấn một cái, nói: “Chàng không ăn bánh xảo quả này sao?”

Tiết Vô Vấn nhướn mày quan sát gương mặt Vệ Xuân, thấy vẻ mặt nàng ấy vẫn bình thản, mới khẽ cười một tiếng, nói: “Đây là Tiết Oánh nhận, lát nữa ta sẽ bảo Ám Nhất đem trả lại viện Thanh Hành cho muội ấy.”

Bánh xảo quả này là do Lăng Nhược Mẫn gửi đến, nói là cho Tiết Oánh, thực ra có ý đồ khác. Tiết Oánh tham ăn kia làm sao biết được thủ đoạn của Lăng Đại nương tử, thấy ngon thì hớn hở mang đến Vô Song viện.

Tiết Vô Vấn thực sự không muốn ngày lễ tốt đẹp này bị phá hỏng vì một hộp bánh xảo quả, vội tiến lên ôm lấy eo Vệ Xuân, đôi mắt đào hoa hơi cụp xuống, hạ giọng nói: “Vệ Xuân, hôm nay là lễ Thất tịch, nàng không biết ta muốn ăn gì sao?”

Tên này thật là không biết xấu hổ đến cực điểm.

Vệ Xuân cảm thấy eo bị hắn ta v**t v* đến ngứa ngáy, vội trách móc hắn ta, giữ chặt bàn tay đang làm càn của hắn ta, nói: “Ta còn có chuyện muốn hỏi chàng, thư của Thẩm Thính hôm qua là có ý gì? Ngày Vệ gia xảy ra chuyện, tại sao lại có hai đội người đi tìm ta?”

Tiết Vô Vấn dừng tay lại, nhớ đến bức thư Hoắc Giác đưa đến hôm qua, ánh mắt lập tức lạnh lẽo.

Bảy năm trước, Tiên Đế bệnh nguy kịch, Khang Vương giám quốc.

Chu Nguyên Canh mới nắm quyền được vài ngày, đã vội vàng hạ mật lệnh, giết sạch hàng trăm người của hai nhà Vệ Hoắc, không để sót một ai.

Người của Chu Nguyên Canh và người theo Tần Vưu nội ứng ngoại hợp, nhân lúc Nam Thiệu nổi loạn, đốt rụi Vệ gia và Hoắc gia thành tro.

Ngày hôm đó hỗn loạn vô cùng, khi Tiết Vô Vấn dẫn người đi cứu Vệ Xuân, đã đụng độ với nhiều nhóm người.

Lúc đó hắn ta cũng không nghĩ nhiều, tưởng đều là người của Chu Nguyên Canh.

Cho đến hôm qua Thẩm Thính truyền tin đến, nói trong đó có hai nhóm người đều nhắm vào Vệ Xuân.

Một nhóm muốn giết nàng ấy, nhóm kia muốn cứu nàng ấy.

Nếu thời gian lùi lại vài tháng, có lẽ Tiết Vô Vấn còn không đoán ra được chủ tử đứng sau hai nhóm người này là ai.

Nhưng từ khi biết được động tĩnh gần đây của Lăng Duệ, cùng với dã tâm che giấu nhiều năm của ông ta, Tiết Vô Vấn vừa nhận được thư đã lập tức hiểu ra, ngoài hắn ra, rốt cuộc còn ai muốn cứu Vệ Xuân.

Và ai, nhất định muốn đưa Vệ Xuân vào chỗ chết.

Tiết Vô Vấn nói: “Hai đội người mà nàng nói, một đội muốn nàng chết, một đội muốn nàng sống. Ngoài Vương Loan và Lăng Duệ, còn có thể là ai?”

Mi mắt Vệ Xuân khẽ run, tất nhiên nàng ấy cũng đoán là hai người này, nhưng khi Tiết Vô Vấn thực sự nói ra, trong lòng vẫn bị giật mình.

“Thật sự là bọn họ.” Ngón tay thon dài của Vệ Xuân bấu chặt lòng bàn tay, lồng ngực tràn ngập cơn giận không thể kìm nén: “Lăng Duệ cũng tin vào lời đồn hoang đường về mệnh phượng hoàng đó.”

Tiết Vô Vấn tiến lên ôm lấy nàng ấy, giam chặt nàng ấy trong vòng tay mình, khẽ nói: “Vệ Xuân, nàng có biết việc này nói lên điều gì không? Việc này cho thấy Vương Loan và Lăng Duệ đã rạn nứt từ bảy năm trước, đây là chuyện tốt với chúng ta.”

Dĩ nhiên Vệ Xuân cũng hiểu đạo lý này, nhưng nàng ấy không thể kiềm chế được. Chỉ cần nghĩ đến chuyện bảy năm trước, nàng ấy đã muốn giết sạch tất cả bọn họ.

Vệ Xuân khẽ nhắm mắt lại: “Nếu ngày đó chàng không đến—”

“Không thể nào.” Dường như đoán được nàng ấy muốn nói gì, Tiết Vô Vấn xoa xoa vành tai nàng ấy, cười nói: “Chỉ cần ta còn một hơi thở, dù phải bò ta cũng sẽ bò đến Thanh Châu cứu nàng.”

Theo lời nói của hắn ta vừa dứt, bên ngoài đột nhiên có mưa phùn rơi.

Giọt mưa tí tách rơi xuống những viên ngói men xanh trên mái nhà, bắn lên từng đợt hơi nước.

Tiết Vô Vấn bế Vệ Xuân lên, ngồi xuống ghế quý phi bên cạnh, nâng cằm nàng ấy, cười nói: “Vệ Xuân, Ngưu Lang Chức Nữ trên trời còn đánh nhau rồi, chúng ta đừng lãng phí thời gian nữa, được không?”

Hắn ta mỉm cười nhìn nàng ấy, âm cuối hơi cao lên, vừa đa tình vừa chung tình.

Mỗi khi nàng ấy giận dữ hoặc buồn bã, hắn ta đều thích dùng giọng điệu này để trêu đùa, dỗ dành nàng ấy, làm tan biến nỗi ưu phiền trong lòng nàng ấy.

Chẳng hạn như bây giờ, một cơn mưa đang yên đang lành, đến miệng hắn ta lại biến thành một câu nói k*ch t*nh.

Vệ Xuân ngước mắt nhìn hắn ta, hôm qua sau khi nhận được thư từ Thanh Châu, người này đã thức trắng cả đêm bận rộn trong thư phòng. Sáng sớm nay lại đi đến quán mì của Chu Thứ phụ, cho đến khi trời gần tối mới vội vàng trở về phủ Quốc Công, muốn đón lễ Thất tịch cùng nàng ấy.

Nhìn thấy quầng thâm dưới mắt Tiết Vô Vấn, đáy lòng Vệ Xuân mềm nhũn, vòng tay ôm cổ hắn ta, chủ động hôn hắn ta, không còn nghĩ đến những chuyện phiền lòng trên triều đình nữa.

Dù là Lăng Duệ hay Thành Thái Đế, những người đó, sẽ không vui vẻ được bao lâu nữa.

***

Đúng là những ngày này, Lăng đại nhân, Thừa tướng của triều Đại Chu thực sự không được vui vẻ.

Trước tiên là bị Hoàng Đế không nể mặt đập vỡ đầu, sau đó lại vì nhúng tay vào chuyện của Chu Quý tần mà suýt chuốc họa vào thân. Quan trọng nhất là, Vương Quý phi trước kia muốn gặp là gặp được, lần này gửi tin đến điện Thừa Loan hai lần đều không gặp được người.

Có thể nói là việc gì cũng không như ý.

Cho đến ngày mười lăm tháng bảy, Vương Loan mượn cớ cầu phúc cho mẹ ruột, cuối cùng cũng ra khỏi cung, gặp ông ta ở am Tịnh Nguyệt một lần.

Mẫu thân của Vương Loan là một từ mẫu, nhưng đã qua đời khi bà ấy mới bảy tuổi.

Am Tịnh Nguyệt là do Thành Thái Đế ra lệnh xây dựng cho mẫu thân của Vương Loan năm ông ta lên ngôi. Người ngoài chỉ nghĩ rằng vì Vương Quý phi có công sinh Hoàng tử, Thành Thái Đế mới mở miệng phê chuẩn, toại nguyện tấm lòng hiếu thảo của Vương Quý phi.

Nào ai biết, am Tịnh Nguyệt này là sau khi Vương Loan cho Thành Thái Đế uống thuốc, thừa lúc ông ta không tỉnh táo, dụ dỗ ông ta viết thánh chỉ, mới có được.

Nói đi nói lại, tuy am này không thể gọi là trang nghiêm tôn quý, nhưng dùng để tích góp công đức hương hỏa cho mẫu thân của Vương Loan thì là quá đủ.

Các ni cô trong am Tịnh Nguyệt đều là người của Vương Loan, bà ấy vừa mới bước vào, một ni cô hơn năm mươi tuổi đã vội vã đến gần, ghé tai bà ấy nói nhỏ: “Lăng đại nhân đang đợi nương nương trong tịnh thất, hôm qua bần ni đã nhận được lời của Dư Chưởng ấn, nương nương yên tâm, hôm nay am này rất thanh tịnh.”

Vương Loan nghe xong những lời này, lại nhớ đến dáng vẻ nóng lòng như lửa đốt của Dư Vạn Chuyết mấy hôm trước, thầm cười lạnh một tiếng trong bụng. Gả cho Thành Thái Đế nhiều năm, bà ấy đã luyện được bản lĩnh không để lộ cảm xúc.

Lúc này dù trong lòng có khinh thường đến mấy, trên mặt cũng không để lộ ra chút nào, chỉ khẽ gật đầu, cười dịu dàng nói: “Bổn cung tự đi được, ma ma cứ đợi ở đây.”

Nói xong bèn bước đến tịnh thất.

Trong tịnh thất ánh sáng mờ ảo, hương trầm ngào ngạt.

Vương Loan đẩy cửa vào, vừa mới khép cửa lại. Phía sau đã có người nhanh chóng tiến lên, nắm lấy cổ tay bà ấy, kéo bà ấy vào lòng, trầm giọng nói: “A Loan, muội đến muộn rồi!
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 97: Chương 97


Ngươi đã từng thực sự yêu một người chân thành chưa?

Cái kiểu yêu mà trong lòng, trong mắt đều chỉ có người đó, chỉ cần nơi nào có họ, dù e thẹn đến mấy cũng phải lén nhìn trộm một cái.

Vương Loan đã từng như vậy.

Người ta nói nam tử có lúc tuổi trẻ nông nổi cuồng loạn, nhưng chẳng phải nữ nhi cũng vậy sao?

Vương Loan cũng đã từng ngây thơ, cũng từng ngày đêm mong ngóng một ngày có thể gặp được người tốt, sinh con đẻ cái cho người ấy, đêm khuya thắp đèn cho người ấy, trời lạnh may thêm áo cho người ấy, làm một đương gia chủ mẫu thật sự.

Ai cũng nói bà ấy là nữ nhân may mắn nhất họ Vương ở Doanh Châu.

Khi Khang Vương còn tầm thường đã làm thị thiếp của ông ta, lại được sủng ái, vào phủ Khang Vương chưa đầy ba năm đã từ thị thiếp được phong làm Trắc phi.

Sau này còn sinh được Đại Hoàng tử, thuận lợi theo Khang Vương vào cung, nắm giữ ấn phượng, trở thành Vương Quý phi khiến người người ngưỡng mộ, ngay cả Hoàng hậu cũng phải nể mặt kiêng dè.

Nhưng có ai biết được vị Vương Quý phi hào nhoáng kia đã phải chịu bao nhiêu khổ cực, đã rơi bao nhiêu nước mắt?

Đúng, bà ấy là nữ nhân họ Vương.

Nhưng chỉ là nhánh phụ thấp kém nhất của họ Vương, cha vô dụng, mẹ ruột mất sớm, lại gặp phải mẹ kế khẩu Phật tâm xà.

Trong họ Vương bà ấy vốn không có địa vị gì, ngay cả tư cách đi thỉnh an vị lão phong quân của nhánh chính cũng không có.

Các tỷ muội trong họ lại càng chẳng coi bà ấy ra gì, bà ấy phải luồn cúi trước mặt mẹ kế, lại phải cố gắng lấy lòng các tỷ muội trong họ, chỉ mong đến tuổi cập kê có thể được một mối hôn sự tốt.

Từng có lúc bà ấy nghĩ Lăng Duệ sẽ là người tốt đó, sẽ là mối duyên tốt của bà ấy.

Bà cố bên ngoại của Lăng Duệ là bà cố bên nội của Vương Loan, ông ta là biểu ca ruột thịt của bà ấy.

Tổ tiên của người biểu ca này từng là quan Tứ phẩm trấn thủ một phương, nhưng tiếc là vinh quang đó chẳng giữ được mấy đời đã mất. Đến đời Lăng Duệ, đừng nói là vinh quang ngày xưa, ngay cả bạc cũng chẳng còn lại bao nhiêu.

Nếu không phải thấy ông ta thông minh lanh lợi, cha Vương Loan thậm chí còn không muốn đón ông ta về học ở tộc học(*) của nhà mình.

(*)Trường dành riêng cho một gia tộc.

Họ Vương là một gia tộc lớn ở Doanh Châu, tuy giàu có đông đúc, nhưng không phải họ hàng nghèo nào cũng được giúp đỡ.

Lăng Duệ có thể đến Doanh Châu, thực sự là nhờ vào sự chăm chỉ học hành và tài năng của ông ta.

Khi Lăng Duệ mới đến Vương gia, ngay cả một bộ quần áo tươm tất cũng không có.

Nhưng Vương Loan chưa bao giờ chê bai sự nghèo khó của Lăng Duệ, lén thêu túi gấm cho ông ta, may quần áo cho ông ta, còn lấy số bạc tháng ít ỏi của mình mua bút mực cho ông ta.

Lúc đó Lăng Duệ luôn nói với bà ấy: “A Loan, rồi có một ngày, ta sẽ cùng muội ngồi trên vị trí cao nhất.”

Vì câu nói đó của ông ta, Vương Loan đợi chờ, mong ngóng, cuối cùng cũng đợi đến khi ông ta đỗ Giải nguyên Doanh Châu.

Bà ấy tưởng rằng cuối cùng mình đã đợi được mây tạnh trăng sáng, nhưng nào ngờ, năm sau thi Hội, ông ta đỗ Thám hoa, sau khi vinh quang Khoa Quan, đã đính hôn với nữ nhi Thiếu Chiêm sĩ của phủ Chiêm sĩ là Mộ thị.

Vương Loan nhìn vị quyền thần trung niên cao lớn nho nhã trước mặt, khẽ nhếch môi, dịu dàng nói: “Cũng không phải biểu ca không biết, Hoàng thượng dạo này càng thêm thất thường, làm sao A Loan có thể muốn xuất cung là xuất cung được?”

Lăng Duệ cụp mắt xuống, đăm đăm ngắn khuôn mặt dịu dàng xinh đẹp của Vương Loan.

Bà ấy cũng đã ba mươi lăm tuổi rồi, nhưng thời gian thật sự rất nhân từ với bà ấy, trông chẳng khác gì những cô nương hai ba mươi, ngay cả vóc dáng sau khi sinh con vẫn thon thả chưa đầy một nắm tay.

Thậm chí vì nhiều năm được sống trong nhung lụa, ngồi ở địa vị cao, còn có thêm khí chất ngọc ngà tôn quý.

Loại khí chất chỉ có được khi ngâm mình trong quyền lực này khiến người ta say mê nhất.

Phải nói rằng, Vương Quý phi trước mặt còn hấp dẫn hơn cả A Loan Vương thị xinh đẹp hai mươi năm trước.

Lăng Duệ dùng đầu ngón tay thô ráp v**t v* đôi môi kiều diễm của Vương Loan, khẽ nheo mắt, ánh mắt u ám nói: “Trước kia muội vẫn ra cung tế bái mẹ vào mồng một, sao tháng này lại đổi sang ngày rằm? Lời nhắn ta bảo Dư Vạn Chuyết chuyển cho muội, muội có nhận được không?”

Dư Vạn Chuyết có chuyển tin hay không, làm sao Lăng Duệ không biết? Chẳng qua chỉ là cố ý hỏi, dấy binh hỏi tội mà thôi.

Vương Loan thầm cười lạnh, nhưng bên ngoài vẫn dịu dàng nói: “Chuyện gì đã xảy ra vào ngày thọ đản của Hoàng thượng, chẳng lẽ biểu ca không biết?”

Nói rồi bà ấy nhẹ nhàng vén tay áo lên, cho Lăng Duệ thấy cánh tay nhỏ bé chi chít vết thương, bầm tím khắp nơi.

Con ngươi của Lăng Duệ khẽ co lại, tất nhiên ông ta biết Thành Thái Đế sau lưng người khác là bộ mặt nào, cũng biết Vương Loan dựa vào cái gì để duy trì sự sủng ái nhiều năm.

Nhưng khi những vết thương khiến người ta kinh hãi như vậy xuất hiện trên cánh tay trắng nõn yếu ớt của Vương Loan, trong lòng ông ta vẫn không khỏi giật mình.

Trái tim đã bị quyền lực hun đúc ngày càng lạnh lùng cứng rắn cũng không khỏi dấy lên chút thương xót và hối hận.

Thương xót cho những khổ cực bà ấy phải chịu khi hầu hạ hổ dữ, lại hối hận vì mới rồi đã sinh lòng nghi ngờ bà ấy.

Vương Loan nhìn thấy những yêu thương trong mắt Lăng Duệ, khẽ cụp mắt xuống, khi mới vào phủ Khang Vương, vết thương trên người bà ấy còn nặng hơn thế này.

Bà ấy đã từng lén khóc, cũng từng sợ hãi.

Sợ rằng Chu Nguyên Canh một khi không kiềm chế được sẽ g**t ch*t bà ấy, và rồi bà ấy sẽ giống như những cô gái bị ông ta hành hạ đến chết, ngay cả một cỗ quan tài tươm tất cũng không có.

Chỉ là lúc đó dù có sợ đến mấy, bà ấy cũng không dám nói với Lăng Duệ, sợ ông ta thấy mình vô dụng, không xứng đáng được ông ta yêu thương và bồi dưỡng.

Khi mới vào phủ Khang Vương, Lăng Duệ đã từng nói với bà ấy, muốn leo lên vị trí cao nhất, không chịu một chút khổ là không được.

Nếu không thì dựa vào đâu mà bà ấy được vị trí đó, chứ không phải là người khác?

Lăng Duệ dạy bà ấy cách lấy lòng, dạy bà ấy đánh vào tình cảm, dạy bà ấy làm sao dùng một khuôn mặt yếu đuối để có được lòng tin và sự thương yêu của nam nhân, lại làm sao dùng giọng nói dịu dàng để trở thành mỹ nhân độc nhất vô nhị của một nam nhân.

Vương Loan đã dùng đúng hai mươi năm, học được cách làm một nữ tử yếu đuối vô hại và luôn sùng bái nam nhân trong mắt họ.

***

Trong tịnh thất tối tăm, những cơn sóng ngầm đang dâng trào.

Vương Loan nhẹ nhàng buông tay áo xuống, đưa tay v**t v* vết thương đã kết vảy trên trán Lăng Duệ, dịu dàng nói: “Vết thương trên đầu biểu ca còn đau không?”

Lăng Duệ nắm lấy bàn tay mềm mại yếu ớt của bà ấy, đôi mắt thanh tú cuối cùng cũng lộ chút ý cười, nói: “Không đau, chỉ là vết thương nhỏ thôi.”

Vương Loan cụp mi mắt xuống, phải rồi, vết thương này của ông ta so với vết thương của bà ấy thì tính là gì chứ?

Vương Loan lấy một bình ngọc trắng nhỏ xinh từ trong thắt lưng, nói: “Tuy là vết thương nhỏ, nhưng cũng đau. Đây là thuốc ta mang ra từ trong cung, biểu ca về nhớ bôi thuốc nhé.”

Chỉ là một lọ thuốc không có gì đặc biệt, nhưng lại khiến Lăng Duệ rất hài lòng.

Khẽ cúi đầu, ông ta nhìn Vương Loan, dịu dàng nói: “A Loan, muội yên tâm, ta sẽ không để Chu Nguyên Canh làm tổn thương muội nữa. Lần này Thần Tiên Hoàn đó, ta đã tăng liều lượng thuốc, cứ dùng liên tục vài tháng nữa, hắn sẽ ngủ một giấc không tỉnh. Đến lúc đó, ta sẽ liên kết bách quan, thỉnh cầu phong Húc nhi làm Thái tử.”

Sao người ta không gọi ông ta là kẻ nguỵ quân tử được chứ?

Nghe những lời đường hoàng chính đại kia.

Lăng Duệ ông ta không chịu nổi việc Thành Thái Đế cắt giảm quyền lực trong tay mình, muốn hành thích vua, vậy mà lại nói là để bảo vệ bà ấy?

Thật là quá buồn cười, còn tưởng bà ấy vẫn là kẻ ngốc ngày xưa, ông ta nói gì cũng tin sao?

Vương Loan kịp thời lộ vẻ mặt cảm động, dịu dàng nói: “Nhưng còn phía Chu Thứ phụ…”

Thành Thái Đế vừa ngã xuống, muốn phong Húc nhi làm Thái tử, rồi để Thái tử giám quốc, chỉ một mình Lăng Duệ đồng ý thì chưa đủ, còn phải được sự đồng ý của các Các lão trong Nội Các.

Bây giờ Lăng Duệ ông ta đâu còn là Vệ Thái phó ngày xưa, vung tay một cái là có vô số người đi theo.

Nội Các hiện tại, không phải là nơi một mình ông ta quyết định được.

“Muội yên tâm, dù Chu Dục Thành đối địch với ta nhiều năm, nhưng đến lúc đó, hắn cũng sẽ đồng ý thôi. Người này như Hoài Doãn đã nói, trung thành là với Đại Chu, chứ không phải với Chu Nguyên Canh.”

Vương Loan nghe vậy thì thuận theo đáp một tiếng, nhận lấy lọ thuốc từ tay Lăng Duệ, nói: “Biểu ca thấy để Chu Thứ phụ làm Thái phó của Húc nhi thì thế nào?”

Ánh mắt Lăng Duệ trầm xuống, không lộ vẻ gì nói: “Húc nhi là con của ta, đương nhiên phải do ta làm Thái phó cho nó. Sao thế? Chẳng lẽ ta làm Thái phó cho Húc nhi, muội vẫn chưa yên tâm sao?”

Vương Loan khẽ thở dài, nói: “Biểu ca là phụ thân của Húc nhi, sao ta lại không yên tâm được? Chỉ là vì Chu Thứ phụ vẫn luôn đối địch với biểu ca, nếu để hắn ta làm Thái phó cho Húc nhi, đến lúc đó, có khi hắn ta sẽ không còn chống đối biểu ca nữa. Dù sao nếu biểu ca và Chu Thứ phụ đều vì Húc nhi, chắc cũng sẽ không có xung đột lớn.”

Vương Loan nói đến đây thì ngẩng mặt lên, mỉm cười nhìn Lăng Duệ, đôi phượng mâu tràn đầy tin tưởng với ông ta: “Hơn nữa, Húc nhi càng lớn càng giống biểu ca, ta sợ biểu ca và Húc nhi đi gần nhau quá, sẽ gây ra những lời đàm tiếu không cần thiết. Biểu ca yên tâm, biểu ca là phụ thân của Húc nhi, sau này không ai có thể vượt qua biểu ca được.”

Những lời của Vương Loan khiến Lăng Duệ rất thỏa mãn trong lòng, sự nghi ngờ vừa nảy sinh đã nhanh chóng bị dập tắt.

Trong lòng không khỏi cười Vương Loan tóc dài não ngắn.

Vị trí Thái phó không phải tầm thường, đó là ân sư của Hoàng Đế tương lai. Đại Chu từ trước đến nay luôn coi trọng việc tôn sư trọng đạo, ngay cả Hoàng Đế cũng phải tôn trọng ân sư của mình.

Khi xưa Chu Nguyên Canh giao trách nhiệm dạy dỗ Đại Hoàng tử cho một tên nhà nho của Hàn Lâm Viện, chẳng phải là để phòng ông ta sao?

“Việc triều đình ta tự có tính toán, Húc nhi là con của ta, ta sẽ sắp xếp những gì tốt nhất cho nó.” Lăng Duệ cúi đầu ngửi ngửi mùi hương trên người Vương Loan, hiện giờ bà ấy là nữ nhân tôn quý nhất thiên hạ, hương liệu dùng tất nhiên cũng là loại đắt tiền nhất.

Lăng Duệ nhớ lại mười một năm trước, bà ấy mặc lễ phục của Trắc phi trong phủ Vương gia, trong căn mật thất tối tăm ấy, vừa chịu đựng niềm vui sướng vừa gọi hắn “biểu ca” từng tiếng một, bỗng cảm thấy tai nóng mắt đỏ.

Ông ta chạm vào làn da mịn màng trên cổ bà ấy, khàn giọng nói: “A Loan, chỉ cần Chu Nguyên Canh không còn, trên đời này sẽ không ai có thể ngăn cản ta và muội ở bên nhau nữa.”

Vương Loan che giấu vẻ ghê tởm trong mắt, dịu dàng “Ừm” một tiếng: “Lần này ta ra cung không thể ở lại am Tịnh Nguyệt lâu được, biểu ca về trước đi, ta dâng hương cho mẫu thân xong phải về cung rồi.”

Lăng Duệ cũng biết bây giờ không phải lúc háo sắc, khẽ gật đầu, lại nói thêm vài câu ân cần, rồi lén lút rời đi từ cửa sau.

Sau khi ông ta đi, Vương Loan nhịn nỗi khó chịu trong lòng, lấy khăn tay lau lau môi và cổ bị ông ta chạm vào, nắm chặt lọ thuốc trong tay, lẩm bẩm: “Không thể để tên ngụy quân tử này sống được.”

Bà ấy là Quý phi, là nữ nhân được Thành Thái Đế tin tưởng và sủng ái nhất, chỉ cần Thành Thái Đế không chết, vinh sủng của bà ấy sẽ không dứt. Nhưng nếu Thành Thái Đế chết lúc này, Lăng Duệ nắm quyền, ông ta sẽ không giống như Thành Thái Đế, để bà ấy thao túng.

Khi Húc nhi chưa đủ lông đủ cánh, Thành Thái Đế không thể chết.

Nếu không một khi Lăng Duệ khống chế triều đình, không chỉ có bà ấy phải nghe lời Lăng Duệ, ngay cả Húc nhi cũng sẽ trở thành con rối của tên ngụy quân tử này.

Mười một năm trước, bà ấy dụ Lăng Duệ ân ái với mình, chẳng qua cũng chỉ để có một nhi tử mà thôi. Nếu không phải Chu Nguyên Canh không thể sinh con, làm sao bà ấy phải chịu nhục đi tìm Lăng Duệ?

Vương Loan thở ra một hơi thật sâu, trong lòng đã có quyết định.

***

Kiệu khắc họa loan phượng chậm rãi vào điện Thừa Loan, Vương Loan vừa xuống kiệu, đã nghe Mã ma ma tiến lên nói: “Chu Quý tần quỳ ở ngoài chờ nương nương đã hơn nửa ngày rồi, nương nương thấy sao?”

Vương Loan thong thả bước vào nội điện, khóe môi vẫn luôn vương một nụ cười nhạt.

“Cứ để nàng ta tiếp tục quỳ.” Vương Loan dịu dàng nói: “Đúng là kẻ ngốc, đến giờ vẫn chưa biết mình đắc tội ai? Triệu Bảo Anh hiện giờ đã vững vàng áp chế Dư Vạn Chuyết một bậc, lại được Hoàng thượng tin tưởng. Ta làm sao có thể vì nàng ta mà gây hiềm khích với Triệu Bảo Anh?”

Bà ấy và Triệu Bảo Anh có kẻ thù chung, hai người vẫn luôn hợp tác rất tốt.

Chỉ là xuất hiện một Chu Quý tần, nhất định khiến mối quan hệ hợp tác tốt đẹp của họ sinh ra một chút rạn nứt.

Ý cười trên khóe môi của Vương Loan dần trở nên lạnh nhạt.

Để Chu Quý tần quỳ lâu thêm chút nữa, cũng là để nói rõ thái độ của bà ấy với Triệu Bảo Anh. Người đắc tội với Triệu Bảo Anh, Vương Loan bà ấy sẽ không bao che.

Chỉ là Chu Quý tần dù sao cũng là người của bà ấy, việc hạ độc tiểu Đáp ứng kia cũng là do bà ấy chỉ thị. Triệu Bảo Anh làm vậy, rõ ràng là đang đánh vào mặt bà ấy!

Đợi đến khi phe Lăng Duệ bị tiêu diệt hết, Húc nhi thuận lợi đăng cơ, vị trí thái giám Chấp bút của Ti Lễ Giám cũng nên thay người rồi!

***

Khương Lê là sau lễ Thất tịch vài ngày, từ miệng Tiểu Phúc Tử nghe được chuyện của Lý ma ma.

“Lý ma ma kia tự tiện làm chủ, đầu độc chết một vị tiểu Đáp ứng. Sau đó ma ma của vị tiểu Đáp ứng kia trốn ra khỏi cung, mai danh ẩn tích được hai năm, mới cuối cùng trở về Thịnh Kinh vạch trần chuyện này.”

Tiểu Phúc Tử kể chuyện mà mặt mày hớn hở, như đang kể chuyện trong sách vậy. Khương Lê và Như Nương ngồi trong quán rượu, nghe đến ngẩn người.

Thật không ngờ Lý ma ma ngày đó bắt nạt họ, hóa ra lòng dạ lại độc ác như vậy, đó là một sinh mạng bé nhỏ đấy, chưa kịp đến thế gian này một chuyến, đã phải chết từ trong trứng nước rồi.

Như Nương không nhịn được hỏi: “Vậy, ma ma, đền, đền mạng chưa?”

“Đương nhiên phải đền mạng rồi, đó là Hoàng tự đấy, mười cái Lý ma ma cũng không đền được. Chủ tử của Lý ma ma là Chu Quý tần cũng vì thế mà bị giáng phẩm, từ Quý tần xuống thành Tiệp dư.”

Dương Huệ Nương vốn đang sắp xếp hàng hóa với Dư Tú Nương, nghe đến đây, bèn phẫn nộ nói: “Trong hậu cung làm gì có nô tỳ nào dám vượt qua chủ tử mà phạm tội mưu hại Hoàng tự chứ, theo ta thấy, chắc chắn là cái gì mà Tiệp dư kia lén lút ra lệnh! Chỉ giáng phẩm của nàng ta thôi thì quá nhẹ rồi!”

Làm mẹ thì không thể chịu được chuyện con cái bị đầu độc như vậy, còn là một thảm kịch một xác chết cả hai mạng người, nghĩ thôi đã thấy rùng mình.

Vì phẫn nộ, Dương Huệ Nương nói những lời này giọng không nhỏ chút nào. May là lúc này quán rượu không có khách, chỉ có vài người họ ở đây, cũng không sợ người ngoài nghe được.

Tuy Tiểu Phúc Tử biết sự thật, nhưng hắn ta không thể đáp lại lời của Dương Huệ Nương. Chuyện xấu xa ngấm ngầm trong cung, dân chúng đoán thế nào là việc của họ, nhưng những người từ trong cung ra như hắn ta không thể nói bậy, tránh gây phiền phức cho Đốc công.

Chuyện tiểu Đáp ứng đến đây dừng lại, Tiểu Phúc Tử cười híp mắt chuyển đề tài, nhìn Như Nương nói: “Như nương tử, mấy ngày trước Đốc công sai ta mang bánh xảo quả đến, mùi vị có ngon không?”

Điểm tâm trong cung đều do các Ngự trù của Ngự thiện phòng làm, mùi vị đương nhiên là cao cấp bậc nhất.

Huống chi đó là thức ăn do chính Triệu Bảo Anh phái người mang đến, dù là hoàng liên, Như Nương cũng sẽ thấy ngọt.

“Ngon, ngon lắm.” Như Nương cười đáp, lại nói: “Rượu, mang về, Bảo, Bảo Anh ca ca, thích, thích không?”

“Sao có thể không thích được?” Tiểu Phúc Tử khoa trương nhướn mày, nói: “Bây giờ Đốc công chỉ uống rượu Như nương tử nấu thôi, một ngày không uống là không thoải mái.”

Như Nương nghe xong, cong môi cười, tuy biết Tiểu Phúc Tử nói chuyện phóng đại, nhưng vẫn bị lời của hắn ta làm cho vui vẻ.

Ngày đó ngoài bánh xảo quả, Triệu Bảo Anh còn mang đến cho Như Nương nhiều bánh ngọt và trái cây theo mùa.

Khương Lê cũng được chia một hộp bánh như ý và vải thiều nhỏ.

Vải thiều là thứ quý giá, ở Thịnh Kinh mua cũng không được, đều là cống phẩm vào cung.

Cả giỏ vải thiều này là phần thưởng Triệu Bảo Anh được ban cho trong cung ngày Thất tịch. Nội vụ phủ vừa mang đến, trong chớp mắt ông ấy đã sai Tiểu Phúc Tử mang đến cho Như Nương.

Vải thiều vừa mới mang đến chưa lâu, Khương Lê và Hoắc Giác đã từ sông hộ thành trở về.

Không biết vì sao, nhìn thấy đĩa vải thiều nhỏ trên bàn, Hoắc Giác bỗng nhiên nhìn nàng một cái thật sâu, ánh mắt đó giống như biển sâu trong đêm tối, rõ ràng nguy hiểm cực kỳ, nhưng vẫn dụ người ta tiến tới.

Trong thuyền hoa Khương Lê đã uống không ít rượu, những loại rượu đó có tác dụng chậm nhưng rất mạnh, về đến phòng ngủ, nàng đã có chút men say, phản ứng trong đầu chậm mất nửa nhịp.

Thấy ánh mắt đó của hắn, chỉ thấy vị công tử dung mạo thanh tú trước mặt thực sự vô vùng quyến rũ, mới ngốc nghếch lấy ngón tay chọc chọc đuôi mắt hắn, nói: “Hoắc Giác, trong mắt chàng có móc câu.”
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 98: Chương 98


Khi tiểu nương tử nói những lời này, giọng điệu rất nghiêm túc, đôi mắt ướt át cũng đầy vẻ ngạc nhiên, như thể thực sự nhìn thấy móc câu trong mắt Hoắc Giác.

Đôi mắt trong veo vô tội ấy, kết hợp với khuôn mặt phù dung ửng hồng vì men rượu, quả thực vừa thuần khiết vừa quyến rũ, dễ dàng khơi gợi bản năng xấu xa trong lòng nam nhân.

Thật lòng mà nói, với vẻ ngây thơ say xỉn đáng yêu như vậy của tiểu nương tử, ngay cả Liễu Hạ Huệ cũng khó lòng kiềm chế được.

Huống chi là Hoắc Giác vốn chẳng có bao nhiêu tự chủ trước mặt Khương Lê.

Ngón tay thon của Khương Lê vừa chạm vào đuôi mắt hơi đỏ của Hoắc Giác, đã bị hắn nắm lấy, hạ thấp giọng nói: “A Lê, nàng say rồi.”

Một người say rượu, đặc biệt là người vốn có tửu lượng tốt mà lại say, sẽ kiên quyết không thừa nhận mình say.

Khương Lê móc ngón tay, cào nhẹ lòng bàn tay Hoắc Giác, hỏi: “Ta không say, Khương gia chúng ta, ngàn chén không say.”

Nói xong bèn ấn Hoắc Giác ngồi xuống giường, rồi một mạch ngồi lên đùi hắn, ôm lấy mặt hắn, nghiêm túc nhìn vào mắt hắn, tỉ mỉ tìm kiếm một hồi, nói: “Sao móc câu không còn trong mắt chàng nữa? Hoắc Giác, chàng giấu móc câu ở đâu rồi?”

Mãi đến lúc này Hoắc Giác mới thực sự nhận ra, tiểu cô nương của hắn khi say rượu có thể khó chịu đến mức nào.

Hai người đã uống không ít rượu trên thuyền hoa, cũng nói chuyện nhiều, hắn không muốn làm phiền nàng nữa. Ban đầu định về phòng chính, tắm rửa sơ qua rồi đi ngủ.

Ai ngờ cô nương này say rượu rồi, cứ cố tình cọ xát trên đùi hắn, cả người như con bạch tuộc bám chặt vào người hắn, hơi thở nóng ấm mềm mại mang theo hương rượu ngọt ngào phả vào cằm hắn, nghiêm túc tìm kiếm “móc câu” trên mặt hắn.

Thật sự là hành hạ người.

Dù có sức kiềm chế tốt đến đâu, cũng bị nàng làm cho không còn.

Hoắc Giác nuốt nước bọt, không chỉ có ánh mắt trầm xuống, mà ngọn lửa trong cơ thể cũng bị nàng khơi dậy rạo rực.

Khương Lê thấy đôi mắt đen của hắn như được khuấy lên thành một vũng mực, lại nũng nịu nói: “Móc câu lại xuất hiện rồi!”

Hoắc Giác hoàn toàn đầu hàng, một tay giữ lấy gáy nàng, cúi đầu hôn xuống, tay còn lại cũng không nhàn rỗi, thuần thục cởi dây lưng của nàng.

Khương Lê muộn màng nhận ra hắn định làm gì, cũng không kiểu cách nói không, dù sao hôm nay là ngày tốt đẹp như vậy, nàng cũng muốn làm những việc thân mật với hắn.

Nhưng nàng lại không muốn như trước kia, mọi việc đều do hắn chủ động.

Rượu trong bụng lúc này hóa thành từng sợi can đảm, trong đầu nàng chợt lóe lên một ý nghĩ táo bạo. Trong cơn mơ màng, hai bàn tay nhỏ dùng sức ấn tay Hoắc Giác xuống, vừa thở hổn hển vừa nói với vẻ mặt đầy ngang ngược: “Để… để ta, hôm nay ta làm chủ.”

Hoắc Giác nghe vậy thì nhướn mày, thuận theo dừng tay lại, muốn xem cô nhóc sâu rượu ngang ngược này sẽ “làm chủ” như thế nào.

Chỉ thấy tiểu nương tử đột nhiên nhảy khỏi đùi hắn, lục lọi dưới đáy rương tìm ra một cuốn bí hí đồ, nghiêm túc lật xem một hồi lâu, rồi ngón tay thon dài chỉ vào giường, ngang ngược nói với hắn: “Chàng, nằm lên trên đó đi, không được động đậy cũng không được ngồi dậy, để ta làm!”

Hoắc Giác: “…”

Trong chuyện ân ái trên giường, vốn luôn là Hoắc Giác chủ động, hiếm khi Khương Lê nhân lúc say rượu mà làm càn một lần, tự cảm thấy mình đã có đủ gan dạ, bèn ôm cuốn bí hí đồ đó, hùng hổ dõng dạc, rất cứng rắn leo lên giường.

Màn trướng từ từ buông xuống, vài ngọn nến cùng cháy sáng, chiếu rọi cả căn phòng.

Trong giường thỉnh thoảng vang lên tiếng lật trang sách, kèm theo màn trướng màu xanh nhẹ nhàng đung đưa, như những gợn sóng lăn tăn trên biển, không ngừng va đập vào đá ngầm, tạo nên một làn sóng.

Không biết đã qua bao lâu, chỉ nghe từ bên trong vọng ra một tiếng kiệt sức, yếu ớt đến không thể yếu hơn “Chàng… chàng làm đi”, cùng với tiếng cười trầm khàn của nam tử.

***

Khương Lê tỉnh dậy ngày hôm sau, đương nhiên không quên mình đêm qua đã “ngang ngược” như thế nào, cuốn bí hí đồ đầu giường không ngừng nhắc nhở nàng đêm qua đã “đọc sách dưới đèn” và “học đi đôi với hành” ra sao.

Thật sự là xấu hổ đến mức cả mười ngón chân trắng nõn cũng ửng hồng.

Giờ đây nghe Tiểu Phúc Tử hỏi về bánh xảo quả và vải thiều được gửi đến đêm qua, ký ức đêm ấy như thủy triều dâng tràn vào não, má đỏ bừng không thôi.

May mà Hoắc Giác không có ở đây, nếu không nghe thấy những lời của Tiểu Phúc Tử, chẳng phải sẽ lại nhớ đến chuyện ban đêm, cười nhạo nàng uống say là “sàm sỡ” hắn sao?

Đêm đó Hoắc Giác tan ca trở về, đã thấy nương tử nhà mình đang sắp xếp người chuẩn bị cơm tối trong phòng.

Nàng bưng một nồi canh tròn trịa, Vân Chu bên cạnh sợ nàng cầm không vững, vội vàng đón lấy nồi canh trong tay nàng, quýnh cả lên, ngay cả tiếng “nô tỳ” cũng quên nói, vội vàng nói: “Phu nhân, để em làm! Người cẩn thận kẻo bỏng tay.”

Canh này đã hầm trong bếp hai canh giờ, lúc này tất nhiên không còn nóng lắm. Khương Lê không bị nồi canh làm bỏng tay, nhưng lại bị câu nói của Vân Chu làm nóng bừng cả tai.

Tự nhiên nghĩ đến đêm Thất tịch đó, nàng đã ngang ngược nói câu “Để ta làm” như thế nào.

Trong đầu Khương Lê lại hiện lên những hình ảnh lung tung.

Cố nén cảm giác xấu hổ trong lòng, mặt không đổi sắc đưa nồi canh cho Vân Chu, lén nhìn Hoắc Giác đang rửa tay.

Vừa nhìn đã chạm phải đôi mắt cười của hắn.

Nhìn nét trêu ghẹo trong mắt hắn, Khương Lê không cần hỏi cũng biết, hắn, Hoắc Giác, cũng giống như nàng, cũng nhớ đến chuyện đêm đó!

Lúc này Khương Lê không chỉ có tai nóng bừng, mà cả má cũng nóng, nhưng dù sao nàng cũng không thể để Hoắc Giác nhìn ra sự bối rối của mình, tránh sau này chỉ cần nghe người khác nói “Để ta làm”, là lại liên tưởng đến những chuyện không nên nhớ.

Vì vậy nàng hắng giọng, làm như không có chuyện gì nói với hắn: “Mau đến dùng cơm đi, không đến nữa, canh sẽ nguội mất.”

Vân Chu sờ vào nồi canh đang vừa đúng nhiệt độ, rất vô tâm không tinh tế nói: “Phu nhân yên tâm, lúc này canh nhiệt độ vừa phải, không nhanh nguội đâu!”

Nói xong lại cẩn thận lấy bát sứ nhỏ, múc cho mỗi người một bát canh.

Phải nói rằng, Vân Chu được Đào Chu tự tay chỉ dạy, hàng ngày hầu hạ Khương Lê càng ngày càng thành thạo. Nhưng dù sao tâm tư đơn giản, hoàn toàn không nhìn ra những gợn sóng ám muội giữa phu nhân và công tử nhà mình.

Đào Chu vừa vén rèm bước vào phòng, đã thấy hôm nay phu nhân đặc biệt im lặng, rõ ràng đang dùng cơm, nhưng tai đỏ ửng, như thể bị ai cắn một miếng vậy.

Lại nhìn công tử nhà mình vốn đoan chính thận trọng, thoạt nhìn không có gì khác thường, nhưng không biết tại sao, Đào Chu luôn cảm thấy trong đuôi mắt khóe miệng hắn dường như ẩn chứa nụ cười, cũng không biết đang cười gì.

Đợi hai vị chủ tử dùng xong cơm, Vân Chu còn muốn ở lại phòng hầu hạ Khương Lê, ai ngờ chưa kịp lên tiếng, đã bị Đào Chu đuổi ra ngoài.

“Vừa rồi trong phòng xảy ra chuyện gì vậy?” Đào Chu hỏi.

Vân Chu nghiêng đầu, nói: “À, không có gì xảy ra cả, chỉ là phu nhân và công tử ngồi đó ăn cơm ngon lành, không khác gì ngày thường. Chỉ là, khi phu nhân muốn gắp thức ăn cho công tử, công tử nói một câu ‘Để ta làm, nàng không cần đứng dậy’, cũng không biết lời này làm sao mà chọc giận phu nhân, phu nhân lườm công tử một cái, rồi không chịu gắp thức ăn cho ngài ấy nữa.”

Vân Chu nói đến đây, gãi gãi đầu, bối rối nói: “Đào Chu tỷ tỷ, tỷ nói xem lời nói của công tử rốt cuộc có gì không phải chứ? Sao phu nhân lại có vẻ giận dữ như vậy? Ta nghe công tử nói vậy không phải rất chu đáo sao? Phu nhân đâu phải người không biết lý lẽ…”

Làm sao Đào Chu biết được lời đó có gì không phải?

Nhưng nàng ấy tinh tế sắc sảo, dù không hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời nói đó, cũng không cản trở nàng ấy nhìn thấu bản chất qua hiện tượng.

Có lẽ là… thú vui khuê phòng mới của phu nhân và công tử thôi. Công tử là người tâm tư sâu như biển, cũng chỉ trước mặt phu nhân, mới có một mặt như vậy.

Đào Chu khẽ chọc trán Vân Chu, cười nói: “Cho dù có gì không phải, chỉ cần phu nhân không thật sự giận, thì không cần để ý. Không những không cần để ý, còn phải rời khỏi phòng ngủ nhanh nhất có thể, hiểu chưa?”

Vân Chu nửa hiểu nửa không gật đầu.

Lúc này trong phòng, tất nhiên Khương Lê không biết những điều bất thường giữa nàng và Hoắc Giác đều đã bị hai nha hoàn của mình nhìn thấy, lúc này đang bịt miệng Hoắc Giác, tức giận nói: “Không được nói ‘Để ta làm’ nữa! Cũng không được nói ‘Được, nàng làm đi’. Chàng, mau quên chuyện đêm đó đi!”

Mấy ngày nay người này đã nói bao nhiêu lần “Để ta làm”, “Nàng làm đi” rồi, người khác không biết, nhưng trong lòng nàng rõ như ban ngày, hắn chính là đang cười nhạo nàng.

Thật đáng ghét!

Hôm đó rõ ràng hắn cũng uống không ít rượu, sao hắn lại nhớ rõ từng chi tiết và từng câu nói của nàng như vậy chứ?

Hoắc Giác đỡ vòng eo mềm mại của Khương Lê, thuận theo ý nàng “Ừm” một tiếng: “Ta nghe lời A Lê.”

Giọng trầm khàn bị bàn tay nhỏ của nàng bịt lại, nghe có vẻ ồm ồm.

Khương Lê nghe câu này, mặt càng đỏ hơn, lại nói: “Cũng không được nói ‘Ta nghe lời A Lê’ hoặc ‘A Lê muốn thế nào thì thế ấy’.”

Hoắc Giác véo véo eo Khương Lê, cuối cùng không trêu chọc tiểu nương tử dễ ngượng của mình nữa, dịu dàng nói: “Ta quên chuyện đêm đó rồi.”

Khương Lê buông tay xuống, ngước mắt nhìn hắn, nghi hoặc nói: “Thật không?”

Hoắc Giác gật đầu, nghiêm túc nói: “Đương nhiên là thật, đêm Thất tịch đó ta và A Lê uống say, về đến phòng là ngủ luôn.”

Khương Lê cuối cùng cũng hài lòng.

Tuy nói tự lừa mình dối người là không đúng, nhưng chỉ cần nhớ đến dáng vẻ không biết xấu hổ của mình sau khi say rượu đêm đó, ngón chân nàng cũng ngượng đến bốc khói.

Vai gầy của tiểu nương tử lập tức thả lỏng, trong lòng thật sự thở phào nhẹ nhõm.

Nào ngờ vị phu quân nhìn thanh cao độ lượng, ôn nhuận như gió mát trăng thanh này, trong lòng đang nghĩ, ngày Trung thu phải chuẩn bị nhiều rượu trong viện mới được.
 
Tiểu Thanh Mai Của Thủ Phụ Đại Nhân
Chương 99: Chương 99


Rằm tháng tám, hiếm khi cung đình không tổ chức yến tiệc.

Vị Thành Thái Đế vốn thích quân thần cùng vui, trong ngày lễ đoàn tụ sum vầy này, lại mơ màng nằm trong điện Thừa Loan, mặt mày tái nhợt, hỏi Vương Quý phi hết lần này đến lần khác: “A Loan, nàng nói trên đời này thật sự có báo ứng không?”

Thân thể ông ta ngày càng yếu đi, mắt mỗi ngày một mờ dần, tai luôn nghe thấy tiếng Phụ hoàng quở trách ngày xưa, còn có câu hỏi của Huệ Dương đứng dưới bậc ngọc trong ngày lễ Càn Minh hôm ấy: “Hoàng huynh, huynh có tin báo ứng không?”

Báo ứng?

Báo ứng gì chứ?

Trước kia ông ta không tin, năm mười hai tuổi đã từng giết người, một tiểu thái giám có dung mạo thanh tú phụ trách quét dọn trong cung của mẫu phi.

Tuy là vô tình giết, nhưng dù sao cũng là một mạng người.

Vốn dĩ ông ta là Hoàng tử tôn quý, giết rồi thì đã sao, dù sao trong cung này, những tiểu thái giám cung nữ chết vô cớ như vậy đâu có ít?

Chỉ là từ nhỏ ông ta không được Phụ hoàng yêu thích, sống trong cung luôn phải thận trọng từng li từng tí. Lần đầu tiên tay dính máu người, ông ta cũng có phần hoang mang, sợ bị Phụ hoàng quở trách, sợ tiểu thái giám đó hóa thành ác quỷ đòi mạng.

Nhưng chẳng có gì xảy ra cả.

Mẫu phi vội vã trở về điện Xuân Hòa, bình tĩnh xử lý thi thể của tiểu thái giám, còn ôm ông ta vào lòng, dịu dàng an ủi: “Đừng sợ, mẫu phi đã xử lý hết rồi, sẽ không ai biết chuyện này đâu. Mẫu phi biết con không cố ý, con không cần để tâm.”

Thành Thái Đế vô cùng biết ơn mẫu phi đã trở về vào ngày hôm đó, chính ngày đó, cuối cùng ông ta cũng cảm nhận được tôn nghiêm của một Hoàng tử.

Đúng vậy, tôn nghiêm.

Là Tứ Hoàng tử của triều Đại Chu, Chu Nguyên Canh chưa từng được Thừa Bình Đế coi trọng, cũng không thể thoát khỏi cái bóng mà Thái tử Chu Nguyên Tuần mang lại, khiến ông ta chưa bao giờ cảm nhận được tôn nghiêm của một Hoàng tử.

Chu Nguyên Tuần được Phụ hoàng coi trọng, lại có Vệ Thái phó tận tâm dạy dỗ, làm việc gì cũng được triều thần khen ngợi.

Ai ai cũng nói Chu Nguyên Tuần sẽ là một minh quân.

Rõ ràng những việc đó, Chu Nguyên Canh ông ta cũng có thể làm được. Nếu ông ta cũng có Vệ Thái phó làm thầy, cũng được Phụ hoàng tận tay dạy dỗ thuật Đế vương, có lẽ ông ta còn làm tốt hơn cả Chu Nguyên Tuần.

Đáng tiếc chưa từng có ai để mắt đến ông ta, Phụ hoàng không, Vệ Thái phó cũng không.

Ngay cả mẫu phi của ông ta cũng thường xuyên bảo ông ta, phải đến phủ Thái tử làm thân với Chu Nguyên Tuần, bởi vì Chu Nguyên Tuần sẽ là vị Hoàng Đế kế tiếp của Đại Chu.

Chu Nguyên Canh nghe lời làm theo.

Phải nói rằng, Chu Nguyên Tuần đối xử với ông ta rất tốt, là một huynh trưởng khoan hồng nhân hậu.

Hậu cung của Thừa Bình Đế không nhiều con thừa tự, không ít Hoàng tử Công chúa sinh ra chưa được đầy tuổi đã yểu mệnh. Trước khi Huệ Dương ra đời, trong cung chỉ có ba vị Hoàng tử.

Lục Hoàng tử Chu Nguyên Quý từ nhỏ đã không thích đọc sách, chỉ thích vẽ tranh, suốt ngày chỉ cầm bút vẽ những bức họa hoa điểu vô vị.

Chu Nguyên Canh vốn không thân thiết với Chu Nguyên Quý, còn với Chu Nguyên Tuần tuy bề ngoài thân thiết, nhưng trong lòng luôn kháng cự, bởi vì Thái tử Chu Nguyên Tuần ngày càng giống Phụ hoàng.

Sớm muộn gì cũng có ngày, huynh ấy cũng sẽ giống Phụ hoàng vậy, luôn không hài lòng với ông ta, luôn quở trách ông ta.

Ông ta sống trong Hoàng cung, mỗi ngày đều phải thận trọng từng li từng tí, như đi trên băng mỏng, trong lòng lúc nào cũng như có một tảng đá đè nặng, không thở nổi.

Cho đến ngày vô tình g**t ch*t một tiểu thái giám, ông ta mới thực sự cảm thấy mình có thể thở được.

Cảm giác thoát khỏi xiềng xích đó khiến ông ta thấm thía được rằng, thân phận Tứ Hoàng tử có thể mang lại cho ông ta những gì.

Không phải là sự quở trách của Phụ hoàng, không phải là phụ thuộc vào Thái tử, mà là cảm giác cao cao tại thượng, có thể tùy ý khống chế sinh tử của người khác và cảm giác ưu việt.

Chu Nguyên Canh đắm chìm trong cảm giác khoái lạc này, những tiểu thái giám và cung nữ mất tích trong điện Xuân Hòa dần dần nhiều lên, lần nào mẫu phi cũng giúp ông ta giải quyết hậu quả, nhưng ánh mắt nhìn ông ta ngày càng kỳ lạ, đối với ông ta cũng không còn dịu dàng nữa, ngược lại ngày càng nghiêm khắc.

Mãi đến khi Huệ Dương ra đời, bà ấy mới cuối cùng lấy lại vẻ dịu dàng ngày xưa.

Chỉ là bà ấy đã dành tất cả sự dịu dàng cho Huệ Dương, thậm chí còn ra lệnh cho các ma ma bên cạnh Huệ Dương, chỉ cần ông ta vào cung, bất kể lúc nào địa điểm nào, đều không được để Công chúa ở một mình với Tứ Hoàng tử.

Chu Nguyên Canh vô tình nghe được lời ma ma nói, trong lòng như bị dao khoét, đau đớn vô cùng.

Mẫu phi xem ông ta là người như thế nào?

Đó là Huệ Dương, là muội muội duy nhất của ông ta, là người duy nhất trong cung chủ động thân thiết với ông ta, nương tựa vào ông ta.

Làm sao ông ta có thể làm tổn thương Huệ Dương được?

Làm sao có thể?

Thành Thái Đế đến giờ vẫn nhớ cảnh tượng Huệ Dương tập nói, lảo đảo lao về phía ông ta cười khúc khích không ngừng.

Không nhịn được lẩm bẩm: “Huệ Dương à…”

Vương Quý phi nhìn gương mặt nhu nhược của Thành Thái Đế, khóe môi nở một nụ cười dịu dàng.

Xem những nam nhân nắm giữ quyền lực này kìa, người này còn vô dụng hơn người kia.

Ngày xưa Vương Loan sợ hãi Khang Vương vô cùng, nhưng giờ nhìn lại ông ta, dù đã làm Hoàng Đế, cũng chỉ là một tên ngốc không thể nâng đỡ.

Có gan giết huynh giết cha, bước l*n đ*nh cao vạn trượng, nhưng lại không có gan đối mặt với một báo ứng hư vô?

Cũng phải thôi, nếu ban đầu ông ta không đủ vô dụng, làm sao Lăng Duệ lại chọn ông ta để ủng hộ?

Nghĩ lại ngày xưa Lăng Duệ vì muốn kết giao với phủ Thái tử, đặc biệt thành thân với nữ nhi của Thiếu Chiêm sĩ phủ Chiêm sĩ là Mộ thị. Quan hệ thì đã kết được, nhưng dù là Thái tử hay Thái tôn đều không coi trọng ông ta lắm.

Triều đường này văn có Vệ Thái phó, võ có Định Quốc Công, còn có những đại thần trụ cột Lỗ Thân, Bách Chúc, Lăng Duệ ông ta muốn quyền khuynh triều dã, không tìm đường khác, đi đường tắt, làm sao có thể chứ?

Đưa bà ấy vào phủ Khang Vương, dụ dỗ Chu Nguyên Canh mê muội Thần Tiên Hoàn, lại giúp ông ta bắt cóc những thiếu niên thiếu nữ không có gốc rễ, giúp ông ta xử lý những thi thể đó, cuối cùng còn gửi chứng cứ giết người của ông ta vào phủ Tiên Thái tử, ép Chu Nguyên Canh phải đoạn tuyệt với Thái tử, không thể không phản.

Chẳng phải chỉ vì có Chu Nguyên Canh ngồi lên ngai vàng, ông ta mới có thể thực sự ngồi vững vị trí Thủ phụ, dưới một người trên vạn người sao?

Nói đi nói lại vị Hoàng Đế vô dụng nhu nhược này cũng đủ ngây thơ, thực sự cho rằng Lăng Duệ theo ông ta là vì nghĩ ông ta có thể làm một đời minh quân ư?

Chẳng qua là vì ông ta là kẻ phế vật, dễ điều khiển nên mới chọn ông ta mà thôi. Giờ ông ta không dễ điều khiển nữa, cho nên muốn thay ông ta xuống.

Vương Quý phi rủ mi dài xuống, ngón tay mảnh mai ch*m r** v**t v* Thành Thái Đế đang gối đầu trên đùi mình, dịu dàng nói: “Hoàng thượng nói gì vậy? Hoàng thượng vì giang sơn xã tắc của Đại Chu và bách tính trăm họ mà ngày đêm lao tâm khổ tứ, ai sẽ báo ứng người chứ? Ngay cả Tiên Đế, thấy được thái bình thịnh thế sóng yên biển lặng ngày nay, chắc hẳn cũng cảm thấy an ủi.”

Thành Thái Đế hoảng hốt mở mắt, nhìn Vương Quý phi, nói: “Nàng nghĩ Phụ hoàng sẽ cảm thấy an ủi sao?”

“Đương nhiên là an ủi.” Vương Quý phi cười xoa trán cho Thành Thái Đế, dịu dàng nói: “Nghe nói ngày xưa Tiên Đế trong cung hầu như đều ngủ ở Càn Thanh cung hoặc điện Dưỡng Tâm, một tháng chỉ đến hậu cung nghỉ hai ba đêm, thời gian còn lại đều dùng để xử lý chính sự. Cần mẫn như vậy, tất nhiên là vì sự an cư lạc nghiệp của bách tính và sự phồn vinh thịnh vượng của Đại Chu.”

Thừa Bình Đế quả thực là một Hoàng Đế cần mẫn, mỗi lần Thành Thái Đế đến gặp, Thừa Bình Đế không phải đang phê duyệt tấu chương thì cũng đang nghe triều thần bẩm báo chính sự.

Thật sự là dốc hết tâm sức vào chính sự.

Vương Quý phi thấy Thành Thái Đế nghe rất chăm chú, đôi mắt nhìn ông ta tràn đầy sự sùng bái không giấu nổi, ngay cả giọng điệu cũng khó che giấu sự kính mến.

“Bảy năm trước, nếu không phải Hoàng thượng lâm nguy giám quốc, chắc hẳn Thịnh Kinh đã loạn như mớ bòng bong rồi. Hoàng thượng có tài trị quốc, trước kia chẳng qua vì không phải trưởng tử không phải dòng chính, nên mới bị chôn vùi. Nếu Tiên Đế còn tại thế, thấy Hoàng thượng trị vì Đại Chu tốt như vậy, chắc chắn sẽ rất an ủi. Để cho thiếp nói, Tiên Thái tử và Tiên Thái tôn đều chưa chắc đã làm được tốt như Hoàng thượng.”

Thành Thái Đế nghe xong những lời này, dù tin hay không tin, sắc mặt quả thật đã tốt hơn nhiều.

Ông ta nhẹ nhàng nắm lấy tay Vương Quý phi, v**t v* làn da trên mu bàn tay bà ấy, vừa định mở miệng, bỗng nghe thấy Triệu Bảo Anh đang canh gác ở ngoại điện gọi: “Hoàng thượng.”

Triệu Bảo Anh vốn biết tiến lùi đúng mực, nếu mở miệng gọi ông ta, chắc chắn là có việc gấp.

Thành Thái Đế ngồi dậy, hơi nhíu mày, nói: “Chuyện gì?”

Triệu Bảo Anh cung kính nói: “Huệ Dương Trưởng Công chúa vừa vào cung, cầu kiến Hoàng thượng. Hoàng thượng xem…”

Triệu Bảo Anh chưa nói hết câu, Thành Thái Đế đã đột ngột đứng dậy, nói: “Huệ Dương đang ở đâu?”

***

Bên ngoài Càn Thanh cung.

Huệ Dương Trưởng Công chúa ngắm vầng trăng tròn như chiếc đĩa trên trời, hơi thất thần.

Người ta thường nói trong cung trăng có tiên nữ Hằng Nga, nàng đã trộm thuốc tiên, bỏ rơi hôn phu yêu dấu dưới trần là Hậu Nghệ, một mình bay lên cung trăng.

Nhưng cung trăng năm tháng cô đơn, người đã từng yêu thương nhau làm sao chịu được những ngày cô độc như vậy?

Huệ Dương không khỏi nghĩ, nếu thực sự có tiên nữ Hằng Nga ở đó, có lẽ nàng đã hối hận rồi? Nếu nàng hối hận, liệu vị hôn phu dưới trần kia có tha thứ cho nàng không?

Đang suy nghĩ, bỗng từ xa có một bóng người mặc Hoàng bào đi tới.

Thành Thái Đế được Triệu Bảo Anh dìu, vội vã bước về phía Huệ Dương Trưởng Công chúa, dịu dàng nói: “Huệ Dương, sao muội lại đến đây?”

Giọng nói không giấu được niềm vui.

Huệ Dương Trưởng Công chúa nhận hộp bánh trung thu từ tay Kim ma ma, nói: “Hôm nay Hoàng huynh không tổ chức yến tiệc, Huệ Dương vào cung đến bầu bạn với Hoàng huynh đón Trung thu. Nếu Hoàng huynh không rảnh…”

“Sao lại không!” Thành Thái Đế vội ngắt lời, nói: “Huệ Dương có thể nhớ đến Hoàng huynh, Hoàng huynh vui còn không kịp!”

Huệ Dương Trưởng Công chúa nhìn chằm chằm vào gương mặt rạng rỡ của Thành Thái Đế, rất muốn nặn ra một nụ cười, nhưng nàng ấy không thể cười nổi, chỉ có thể cứng đờ gật đầu, nói: “Ngày xưa đón Trung thu, Phụ hoàng thường gọi Thái tử ca ca, tứ ca, lục ca và Huệ Dương đến Càn Thanh cung ăn bánh trung thu. Đêm nay Huệ Dương mang theo chén rượu, muốn đến Càn Thanh cung hồi tưởng lại niềm vui sum họp ngày xưa, Hoàng huynh có muốn uống với Huệ Dương một chén không?”

Cung Càn Thanh là nơi Thừa Bình Đế băng hà, bao nhiêu năm nay, trừ khi có Viên Huyền đại sư, nếu không Thành Thái Đế nhất quyết không bước chân vào cung điện này.

Thành Thái Đế nhìn Càn Thanh cung âm u tăm tối, rồi lại nhìn Huệ Dương Trưởng Công chúa đang lặng lẽ chờ đợi, cuối cùng đành dẹp bỏ nỗi sợ hãi trong lòng, ôn hòa cười nói: “Hoàng huynh sẽ đi cùng muội.”

***

Lúc này tại Hoắc phủ ở phố Vĩnh Phúc, Khương Lê cũng đang uống rượu.

Tết Trung thu từ xưa đến nay là một trong những lễ hội được người dân Đại Chu yêu thích nhất. Trời còn chưa tối hẳn, khắp phố phường, nhà nhà đều đã treo lên đèn lồng đỏ thắm.

Nghe nói Phi Tiên lâu còn tổ chức cuộc thi thơ Trung thu, người đoạt giải nhất sẽ được thưởng mấy lá vàng.

Khương Lê không đến Phi Tiên lâu chen chúc, đàng hoàng ở lại phủ, cùng Dương Huệ Nương bày một bữa tiệc Trung thu. Không chỉ mời Tiểu Phúc Tử lén từ cung chạy ra, còn mời cả Dư Tú Nương cùng đến dự tiệc.

Đây là lần đầu tiên họ đón Trung thu sau khi đến Thịnh Kinh, một lễ hội mang ý nghĩa đoàn viên như vậy, đương nhiên phải tổ chức cho thật long trọng tử tế.

Gió đêm khẽ thổi trong sân, hương quế thoang thoảng.

Tiểu Phúc Tử đặc biệt mang đồ ăn từ trong cung ra đặt lên bàn, hớn hở giới thiệu, đó là tám món đồ quý, món thứ nhất là gì, món thứ hai là gì. Đây là bánh tô và bào ngư, bánh tô được làm như thế nào, bào ngư lại khó tìm ra sao. Từng món một, kể tỉ mỉ không sót gì.

Nghe đến mức Khương Lê và Như Nương không nhịn được cười.

Tiếp xúc nhiều với Tiểu Phúc Tử, tất nhiên biết hắn ta sùng bái vị Đốc công nhà mình đến mức nào. Lúc này giới thiệu đồ ăn trong cung, cũng không quên nhắc một câu, đây là do Đốc công đặc biệt chuẩn bị cho các vị nương tử.

Thật là miệng như tẩm mật vậy.

Kiếp trước Hoắc Giác cũng là người quen cũ với Tiểu Phúc Tử, kiếp này tuy không tiếp xúc nhiều nhưng cũng hiểu rõ phong cách hành sự của hắn ta, rất rõ vì sao Triệu Bảo Anh lại cử hắn ta đến đưa đồ.

Thực sự là cái miệng của hắn ta quá giỏi làm các nương tử vui lòng.

Hắn thấy Khương Lê bị những lời nói trầm bổng của Tiểu Phúc Tử chọc cười vui vẻ, cũng mỉm cười, cúi đầu uống một chén rượu.

Rượu vừa trôi qua cổ họng, Hà Chu đứng sau lưng bỗng tiến lên một bước, cúi người thì thầm bên tai: “Công tử, Tiết Thế tử mời ngài đến Văn Anh các một chuyến.”

Hoắc Giác khẽ nhướn mày.

Đêm trăng tròn Trung thu, tên Tiết Vô Vấn kia lại không ở Vô Song viện trông chừng a tỷ, mà lại đến Ngọc Kinh lâu…

Hoắc Giác trầm ngâm một lúc, khẽ dặn dò: “Đi chuẩn bị xe ngựa, ta nói với phu nhân một tiếng rồi sẽ qua.”
 
Back
Top Bottom