Tâm Linh Tiểu Bộ Kinh Tập 4

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
158435884-256-k71976.jpg

Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Tác giả: Mei0Yuan
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Tags: kinhphật​
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM APANNAKA


CHƯƠNG MỘTPHẨM APANNAKA1.

CHUYỆN PHÁP TỐI THƯỢNG (Tiền thân Apannaka)Có những người nói lên...Ðức Thế Tôn, khi ở Tinh xá Kỳ Viên, gần Xá-vệ, đã thuyết pháp thoại này.

Vì ai, pháp thoại này được đề cập?

Vì năm trăm người bạn của vị triệu phú Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika) đều là đệ tử ngoại đạo.Một ngày kia, vị triệu phú Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn của mình đều là đệ tử ngoại đạo, cho mang theo nhiều vòng hoa, hương thơm, dầu hương cùng dầu thắp, mật ong, mật mía, vải và áo choàng, đi đến Kỳ Viên đảnh lễ Thế Tôn, cúng dường Ngài các vật liệu như vòng hoa v.v... và phân phát cho chư Tăng dược phẩm trị bịnh và vải mặc.

Làm xong việc ấy, ông ngồi xuống một bên và tránh sáu tật xấu trong lúc ngồi.Cũng vậy, các đệ tử ngoại đạo đảnh lễ Thế Tôn, và ngồi xuống một bên gần ông Cấp Cô Ðộc, nhìn lên gương mặt đức Bổn Sư chói sáng như trăng rằm, vẹn toàn các tướng tốt chính và phụ, nhìn lên Phạm thân tỏa ánh sáng rộng một tầm và nhìn lên hào quang rực rỡ của đức Phật, những hào quang phóng ra như thể từng đôi vòng, từng cặp một.Rồi giống con sư tử trẻ rống như sấm động ở thung lũng Ðỏ, như mây bão tố trong mùa mưa, như sông Hằng thiên giới (dải Thiên Hà) ào ào đổ xuống, và như đan dệt một chuỗi châu báu, tuy vậy, với một Phạm âm đầy đủ tám phần tuyệt hảo, kỳ diệu làm tai thích thú, Ngài thuyết pháp cho họ, một pháp thoại dịu ngọt và chói sáng với nhiều vẻ đẹp khác nhau.Họ nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm được tịnh tín, liền đứng dậy đảnh lễ bậc Ðạo Sư, phá vỡ pháp quy y ngoại đạo, rồi quy y Phật.

Từ đấy, họ luôn luôn đi đến tinh xá với ông Cấp Cô Ðộc, tay cầm hương thơm, vòng hoa v.v... nghe pháp, bố thí, trì giới và thọ Bát quan trai giới.Rồi Thế Tôn từ Xá-vệ lại đi đến Vương Xá.

Trong thời gian Như Lai đi vắng, họ phá vỡ pháp quy y Phật.

Rồi họ lại quy y ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.Sau bảy tám tháng, Thế Tôn về lại Kỳ Viên.

Ông Cấp Cô Ðộc đem năm trăm người bạn đồng tu điđến yết kiến bậc Ðạo Sư, cúng dường Ngài với hương thơm v.v...

đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên.

Ông Cấp Cô Ðộc báo cáo cho Thế Tôn biết sau khi Ngài ra đi, họ phá vỡ pháp quy y đã thọ, chấp nhận lại quy y pháp ngoại đạo, trở lui nguyên trạng của họ.Mở miệng hoa sen của Ngài, như mở hộp châu báu, đầy những hương thơm sai biệt, thơm với hương thơm chư Thiên, do uy lực nói lời chơn thực, trải vô lượng ức kiếp không gián đoạn, Thế Tôn phát ra âm thanh dịu ngọt và hỏi:- Này các nam cư sĩ, có thật chăng các ông đã phá vỡ Tam quy y, và đi theo quy y ngoại đạo?Và khi không thể che giấu, họ thú nhận:- Thật vậy, bạch Thế Tôn.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các cư sĩ, không có một chỗ nào dưới từ đáy địa ngục, trên cho đến chư Thiên, không có một chỗ nào trong các thế giới vô lượng trải rộng bề ngang, không có ai bằng, chớ đừng nói cao hơn đức Phật về những công đức như giữ giới v.v...Rồi Ngài trình bày cho họ những công đức của Ba ngôi báu, như đã được nói đến trong kinh điển:- Này các Tỳ-kheo, giữa các chúng sanh không chân, hai chân, hay bốn chân, Như Lai được gọi là tối thượng.

Nếu có những tài sản nào ở đời này hay đời sau...

Và thật vậy, tối thượng giữa những tín đồ...Rồi Ngài nói tiếp:- Không có một cư sĩ nào, nam hay nữ đã quy y Ba ngôi báu, những ngôi báu đầy đủ công đức tối thượng như vậy, phải tái sanh trong các địa ngục v.v... nhưng họ được thoát khỏi sanh vào đọa xứ, họ được sanh vào thế giới chư Thiên và đắc Thiền chứng lớn.

Do đó, khi các ông phá vỡ quy y như vậy, và đi đến quy y ngoại đạo, các ông đã làm một việc sai lạc.Và ở đây, để nêu rõ rằng không có ai đã quy y Ba ngôi báu với sự giải thoát tối thượng, lại phải sanh vào đọa xứ, những đoạn kinh này phải được nói lên:Những ai quy y Phật

Sẽ không đi đọa xứ,

Từ bỏ thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên giới.Những ai quy y Pháp

Sẽ không đi đọa xứ,

Từ bỏ thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên giới.Những ai quy y Tăng

Sẽ không đi đọa xứ,

Từ bỏ thân làm người

Sẽ tràn đầy thiên giới.Loài Người sợ hoảng hốt,

Tìm nhiều chỗ quy y,

Hoặc rừng rậm, núi non,

Hoặc vườn cây, đền tháp,

Quy y ấy không ổn,

Không quy y tối thượng,

Quy y các chỗ ấy

Không thoát mọi khổ đau.Ai quy y đức Phật,

Chánh Pháp và chư Tăng,

Ai dùng chánh tri kiến

Thấy được Bốn sự thật,

Thấy Khổ và Khổ tập,

Thấy sự khổ vượt qua,

Thấy đường Thánh tám ngành

Ðưa đến khổ não tận.

Thật quy y an ổn,

Thật quy y tối thượng,

Có quy y như vậy

Mới thoát mọi khổ đau.Bậc Ðạo Sư không chỉ thuyết pháp cho họ như vậy, Ngài còn nói tiếp:- Này các nam cư sĩ, pháp hành niệm Phật, pháp hành niệm Pháp, pháp hành niệm Tăng đem lại Dự lưu đạo, Dự lưu quả, Nhất lai đạo, Nhất lai quả, Bất lai đạo, Bất lai quả, A-la-hán đạo, A-la-hán quả.Và sau khi Ngài thuyết pháp cho họ với nhiều phương thức, Ngài nói:- Với sự phá vỡ quy y như vậy, các ông đã làm một việc sai lạc.Và ở đây, sự đem lại các Dự lưu đạo, Dự lưu quả v.v... cho những ai hành trì niệm Phật v.v... cần phải được nêu rõ với những đoạn kinh như sau:- Này các Tỷ-kheo, có một pháp, nếu được tu tập, và được làm cho viên mãn, đưa đến hoàn toàn yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, Giác ngộ, Niết-bàn.

Thế nào là một Pháp?

Chính là niệm Phật v.v...

Như vậy, Thế Tôn với các phương tiện khác nhau, thuyết giảng cho các nam cư sĩ:- Này các nam cư sĩ, cũng vậy, trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, chấp chặt điênđảo luận, nghĩ rằng cái gì không phải là chỗ quy y, lại xem là chỗ quy y chân thật, những người ấy sẽ bị quỷ Dạ-xoa ăn thịt trong cảnh sa mạc, chỗ trú của phi nhân, và bị lâm vào đại nạn.

Còn những ai chấp chặt sự thật vô hý luận, chấp chặt pháp tối thượng, chấp chặt pháp không điênđảo, thì trong cảnh sa mạc ấy, họ đạt được yên ổn, an toàn.Khi nói đến đây, Ngài im lặng.

Rồi gia chủ Cấp Cô Ðộc từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, tán thán Ngài với hai tay đặt trên đầu và thưa như sau:- Bạch Thế Tôn, nay thật rõ ràng cho chúng con thấy trong thời hiện tại, những người nam cư sĩ ấy, sau khi phá vỡ pháp quy y tối thượng, đã rơi vào rừng rậm tà luận.

Nhưng trong quá khứ, đại nạn của những ai chấp chặt tà luận tại sa mạc, chỗ trú của phi nhân, và sự yên ổn an toàn của những người chấp chặt pháp vô hý luận, đối với chúng con đang bị che lấp, chỉ rõ ràng đối với Ngài.

Lành thay, nếu Thế Tôn, như thể khiến mặt trăng tròn mọc lên, làm sáng tỏ sự kiện này cho chúng con.Rồi Thế Tôn nói:- Này gia chủ, chính vì mục đích loại bỏ các nghi nan ở đời, nhờ sự thực hành trọn vẹn mười hành Ba-la-mật trải vô lượng kiếp mà Ta chứng đắc Nhất thiết trí.

Hãy cẩn thận lắng tai nghe, như thể các ông đang đổ tủy của sư tử vào một cái ống bằng vàng!Sau khi khích lệ sự chú ý của người trieäu phú, Ngài nói lên câu chuyện đã bị tái sanh che lấp, như mặt trăng tròn được giải tỏa, sau khi phá tan đám mây tuyết.*Thuở xưa, trong nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, có vị vua tên là Brahmadatta.

Khi ấy, Bồ-tát được sanh trong gia đình thương gia làm chủ đoàn lữ hành, và tiếp tục lớn lên, đi chỗ này chỗ kia buôn bán với năm trăm cỗ xe, khi thì đi từ đông qua tây, khi thì đi từ tây qua đông.

Tại thành Ba-la-nại, có một người chủ đoàn lữ hành khác còn trẻ và ngu si, không giỏi tùy cơ ứng biến.Lúc bấy giờ, sau khi chất đầy năm trăm cỗ xe với hàng hóa có giá trị lớn, Bồ-tát sẵn sàng lên đường.

Người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu kia cũng chất đầy hàng hóa tương tự trên năm trăm cỗ xe khác, sẵn sàng lên đường.

Bồ-tát suy nghĩ: "Nếu người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ này đi với Ta, với một ngàn cỗ xe, cùng đi một lần trên con đường, thì con đường sẽ không thể chịu nổi; thật sẽ khó tìm được củi, nước cho đoàn người, và cỏ cho các con bò.

Hoặc là nó, hoặc là ta phải đi trước".Ngài nhắn tin mời người ấy đến, trình bày sự việc và nói:- Hai chúng ta không thể đi cùng một lần được.

Vậy bạn sẽ đi trước hay đi sau?Kẻ ấy suy nghĩ: "Nếu ta đi trước, sẽ có nhiều lợi ích.

Ta sẽ đi con đường chưa bị hư phá, các con bò sẽ ăn cỏ chưa bị động chạm; còn các người nhà ta sẽ hái được các ngọn lá nấu cà-ri chưa bịđộng chạm, nước được trong lặng; và sau cùng định giá bán theo sở thích, ta sẽ bán các hàng hóa".Nghĩ vậy, kẻ ấy nói:- Này bạn, tôi sẽ đi trước.Còn Bồ-tát thấy đi sau có nhiều lợi ích vì ngài lý luận như vầy: "Những người đi trước sẽ san bằng con đường chưa được san bằng.

Ta sẽ đi con đường đã được họ đi qua.

Các con bò của ta sẽăn cỏ mới mọc và ngọt; người của ta sẽ tìm được các lá ngọt nấu cà-ri mới mọc tại chỗ các lá đãđược hái đi.

Tại chỗ không có nước, họ phải đào để lấy nước, chúng ta sẽ uống nước trong các giếng được người khác đào lên.

Việc định giá giống như sát hại mạng sống con người, ta đi sau sẽ bán hàng hóa theo giá thông thường đã quy định".

Khi thấy những lợi ích như vậy, Bồ-tát nói:- Này bạn, bạn hãy đi trước.- Lành thay, này bạn.Người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si nói vậy rồi cho thắng các cỗ xe, ra đi, thứ lớp vượt qua các thôn xóm, và bắt đầu đến biên giới sa mạc.

Thuở bấy giờ, các sa mạc có năm loại: sa mạc trộm cướp, sa mạc thú dữ, sa mạc không có nước, sa mạc phi nhân và sa mạc không có đồ ăn.Trước tiên, con đường nào có trộm cướp trú ẩn, chỗ ấy được gọi là sa mạc trộm cướp; thứ hai, con đường nào có sư tử v.v... trú ẩn, được gọi là sa mạc thú dữ; thứ ba, chỗ nào không có nước để tắm hay uống, được gọi là sa mạc không có nước; thứ tư, con đường nào có các loài phi nhân (quỷ thần) trú ẩn, được gọi là sa mạc phi nhân; thứ năm, con đường nào không tìm thấy các loài rễ có thể ăn được v.v...

được gọi là sa mạc không có đồ ăn.Trong năm loại sa mạc này, có hai loại sa mạc nguy hiểm là sa mạc không có nước và sa mạc phi nhân.

Do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si ấy cho đặt lên xe những ghè rất lớn, đổ đầy nước, và bắt đầu di chuyển vào bãi sa mạc dài sáu mươi dặm này.Khi họ đã đi được nửa đường, con quỷ Dạ-xoa trú ở sa mạc nghĩ: "Ta sẽ làm cho những người này quăng nước cất giữ, làm cho họ yếu sức, rồi ta sẽ ăn thịt tất cả bọn họ".

Rồi nó hóa hiện một cỗ xe đẹp đẽ với những con bò mộng trắng trẻo.

Ðược hộ vệ với mười mười hai phi nhân, tay cầm cung, tên, khiêng và binh khí, nó trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng trắng trên đầu, với tóc ướt và áo ướt, ngồi trên cỗ xe ấy như một vị chúa tể, nó dấn bước trên đường với các bánh xe dính bùn.

Còn đoàn tùy tùng đi trước và đi sau, với tóc ướt, áo ướt, trang sức với vòng hoa sen xanh và hoa súng, với những bó sen trắng, sen đỏ cầm tay, nhai những cọng sen, củ sen, nhỏ giọt nước và bùn.Bấy giờ, khi gió thổi trước mặt, những người chủ đoàn lữ hành, theo lệ thường ngồi trong cỗ xe đi trước với những người hầu hạ bao vây để tránh bụi.

Khi gió thổi đàng sau, họ đi xe phía sau.

Nay gió thổi phía trước, do vậy, người chủ đoàn lữ hành trẻ đi xe ở phía trước.

Con quỷ Dạ-xoa thấy người ấy đến gần, liền cho đậu xe ở một bên đường, chào đón một cách thân tình và hỏi đi đâu.

Người chủ đoàn lữ hành cũng cho đậu xe của mình một bên đường và nói với quỷ Dạ-xoa:- Thưa ông bạn, chúng tôi đi từ Ba-na-lại tới.

Các ông trang sức với hoa sen xanh và hoa súng, tay cầm hoa sen trắng và đỏ, đang nhai những cọng sen và củ sen, lấm bùn vừa đi vừa chảy những giọt nước.

Vậy phải trên đường các ông đi có mưa, có những hồ ao phủ đầy với hoa sen xanh chăng? v.v..Quỷ Dạ-xoa, nghe hỏi, liền nói lớn:- Này bạn, bạn nói gì vậy?

Ðàng kia đã hiện rõ đường lằn sẩm của rừng xanh.

Từ đó trở đi, toàn là rừng không có gì ngoài nước.

Luôn luôn trời mưa, ở đó các hồ đều ngập; khắp nơi đều có những ao nước đầy hoa sen.Sau khi nói như vậy và đoàn xe đã đi ngang qua, nó hỏi:- Những cỗ xe này đi đâu vậy?Và họ trả lời:- Ði tới chỗ này, chỗ kia.- Trong mỗi cỗ xe này, có hàng hóa gì vậy?- Nhiều loại hàng hóa.Rồi khi cỗ xe cuối cùng đi qua, chở rất nặng nề, nó hỏi:- Trong cỗ xe này chơû gì vậy?- Chở nước trong ấy.- Từ chỗ khởi hành cho đến chỗ này, bạn đã mang nước là tốt.

Nhưng từ chỗ này trở đi, không cần phải mang nước nữa.

Từ phía trước mặt có nhiều nước.

Hãy đập vỡ các ghè nước, để đi cho thoải mái.Và nó nói thêm:- Các ông hãy đi.

Chúng tôi lên đường kẻo chậm trễ rồi!Rồi nó đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền trở về thành Dạ-xoa.

Người chủ lữ hành ngu si ấy, do sự ngu si của mình, nghe theo lời quỷ Dạ-xoa, cho đập vỡ các ghè, không để dành lại dù chỉ một bụm nước, cứ đổ tất cả và ra lệnh các xe đi.

Càng đi về phía trước, một giọt nước cũng không có.

Bọn họ không được nước uống trở thành mệt mỏi.

Họ vẫn tiếp tục đi cho đến khi mặt trời lặn.Khi ấy, họ tháo dây buộc xe ra, xếp thành một vòng tròn, và buộc các con bò vào bánh xe.

Nhưng chúng cũng không có nước uống.

Còn bọn họ không có cháo, không có cơm, nên yếu sức, nằm xuống khắp nơi rồi ngủ.

Khi đêm vừa xuống, quỷ Dạ-xoa từ thành Dạ-xoa đi đến, diệt tất cả mạng sống bò và người, ăn thịt chúng, chỉ để lại xương rồi bỏ đi.

Như vậy, chỉ vì một người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si, tất cả đã mắc vào đại nạn, xương cốt của người và vật rải khắp nơi, chỉ năm trăm cỗ xe còn đứng yên với đầy đủ hàng hóa.Phần Bồ-tát, đợi từ ngày người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si ra đi, độ một tháng rưỡi trôi qua, với năm trăm cỗ xe từ thành phố ra đi, dần dần đi đến biên giới sa mạc.

Vị ấy cho đỗ đầy nước vào các ghè nước, cho lấy thêm nhiều nước dự trữ rồi đánh trống hội họp đoàn người lại và nói như sau:- Nếu không hỏi ta, thì một bụm nước cũng không được dùng.

Có nhiếu cây độc trong bãi sa mạc, không một ai trong các chú được ăn lá, hoa, hay quả chưa ăn từ trước, mà không hỏi ta.Sau khi chỉ dạy cho họ như vậy, Bồ-tát mới bắt đầu đi vào bãi sa mạc với năm trăm cỗ xe.

Khi điđến giữa sa mạc, quỷ Dạ-xoa ấy hiện hình ra trên con đường cửa Bồ-tát, như cách thức trước.

Bồ-tát thấy nó liền nhận ra ngày và suy nghĩ: "Nơi này không có nước và được gọi là sa mạc không có nước.

Người này có con mắt đỏ, bộ dạng không sợ hãi, lại không có bóng chiếu.

Không nghi ngờ gì nữa, người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước bị nó xúi giục, đã đổ tất cả nước, nên kiệt sức, và bị nó ăn thịt cùng cả đoàn tùy tùng.

Nhưng nó không biết ta có tài trí và khéo dùng phương tiện".Vì vậy, Bồ-tát nói to với con quỷ:- Ông hãy đi đi, chúng tôi là người lái buôn.

Chưa thấy được nước khác, chúng tôi không đổ nước đã được dự trữ.

Chỗ nào thấy nước, chúng tôi mới yên lòng đổ nước đi, làm cho nhẹ các cỗ xe.Quỷ Dạ-xoa đi một lát, đến chỗ khuất dạng, liền về thành Dạ-xoa.

Khi Dạ-xoa đã đi, đoàn người hỏi Bồ-tát:- Thưa ông chủ, những người này chỉ cho thấy đằng kia là dãy rừng xanh.

Phía ngoài xa khu rừng ấy, trời luôn luôn mưa.

Họ đội trên đầu những vòng hoa sen xanh và hoa súng; họ cầm những bó hoa sen đỏ và trắng; họ hái các củ sen và cọng sen; áo bị ướt, đầu bị ướt; họ đi với những giọt nước rơi chảy.

Vậy chúng ta hãy đỗ nước đi, khiến cho các cỗ xe được nhẹ, chúng ta đi mau hơn.Bồ-tát nghe họ nói như vậy, liền cho dừng các cỗ xe, họp tất cả bọn người lại và hỏi:- Trong các chú, có ai trước đây nghe nói rằng bãi sa mạc này có ao hay hồ không?- Thưa ông chủ, không có ai nghe cả.

Vì thế nơi này được gọi là bãi sa mạc không có nước.- Nay có một số người nói rằng xa hơn dãy rừng xanh đàng kia, trời có mưa.

Gió mưa có thể thổi xa được bao nhiêu?- Thưa ông chủ, khoảng độ một dặm (do-tuần).- Gió mưa có thể thổi đến chạm thân của một ai trong các chú không?- Thưa ông chủ, không.- Cách xa bao nhiêu, đầu mây có thể thấy được?- Khoảng độ một dặm, thưa ông chủ.- Có ai trong các chú được thấy một đầu mây không?- Thưa ông chủ, không có ai.- Xa bao nhiêu, ánh sáng chớp có thể thấy được?- Thưa ông chủ, khoảng bốn năm dặm.- Có ai trong các chú thấy được ánh sáng chớp?- Thưa ông chủ, không có ai!- Tiếng sấm xa bao nhiêu có thể nghe được?- Thưa ông chủ, khoảng hai ba dặm.- Có ai trong các chú nghe được tiếng sấm?- Thưa ông chủ, không có ai.- Chúng không phải là người.

Chúng là quỷ Dạ-xoa.

Dạ-xoa đến và nghĩ: "Chúng ta xúi đoàn người đổ nước, và khi đoàn người yếu sức, chúng ta sẽ ăn thịt họ!

Vì người chủ đoàn lữ hành ngu si và trẻ tuổi đi trước không có thiện xảo phương tiện, chắc chắn bị chúng xui đổ nước đi và khi mệt nhọc, họ đã bị quỷ Dạ-xoa ăn.

Còn năm trăm cỗ xe được để lại đựng đầy hàng hóa như trước.

Hôm nay, chúng ta sẽ thấy chúng nó.

Ðừng đổ đi, ngay cả một bụm nước cũng phải gìn giữ.

Hãy đi tới, càng mau càng tốt.Ðốc thúc đoàn người của mình đi tới, Bồ-tát tiếp tục đi cho đến khi thấy được năm trăm cỗ xe đầy hành hóa, xương cốt của các con bò và đoàn người bất hạnh trước rải rác khắp mọi nơi.

Ngài cho tháo dây buộc các xe, đặt các xe thành vòng tròn, họp lại thành trại, cho đoàn người và bò ăn chiều sớm, rồi sắp các con bò nằm nghỉ giữa bọn họ.Rồi ngài tuyển một số người lãnh đạo mạnh mẽ, tự mình đứng canh gác với gươm cầm tay, suốt ba canh ban đêm cho đến khi rạng đông.

Sáng sớm ngày kế tiếp, ngài cho làm xong các công việc cần thiết, cho các con bò ăn, quăng bỏ các cỗ xe yếu ớt, lấy các cỗ xe vững mạnh, quăng bỏ loại hàng hóa ít có giá trị, chất lên hàng hóa có giá trị, đi đến chỗ đã định trước, và bán các hàng hóa với giá tiền bằng hai ba giá vốn.

Sau đó, ngài cùng với đoàn tùy tùng trở về thành phố của mình.

*

Câu chuyện chấm dứt, bậc Ðạo Sư nói:- Này cư sĩ, như vậy trong thời quá khứ, những ai chấp chặt tà luận, phải gặp đại nạn.

Còn những ai chấp nhận sự thật vô lý luận đã thoát khỏi tay các phi nhân, và đến chỗ mình muốn một cách an toàn.Và sau khi kết hợp hai câu chuyện với nhau, vì mục đích giới thiệu lời dạy về sự thật vô hý luận này, bậc Chánh Giác bài kệ:Có những người nói lên

Sự thật vô hý luận,

Nhưng các hạng người khác

Tuyên bố về tà luận.

Kẻ trí biết điều này,

Giữ chặt pháp tối thượng.Như vậy Thế Tôn dạy về pháp chân thật vô hý luận này, rồi Ngài nói thêm:- Con đường chân chánh này không những đem lại ba thiện sự thành tựu, sáu cõi Trời ở dục giới, sự thành tựu Phạm Thiên giới, mà cuối cùng đem quả A-la-hán.

Còn con đường gọi là tà luậnđem đến tái sanh trong bốn đọa xứ và trong năm gia đình thấp kém.Tiếp đó Ngài giảng thêm về Bốn Sự thật với mười sáu hành tướng.

Cuối bài giảng ấy, tất cả năm trăm nam cư sĩ chứng quả Dự lưu.Sau khi thuyết pháp, bậc Ðạo Sư nêu rõ những bài học và kể hai câu chuyện rồi kết hợp chúng với nhau, Ngài nhận diện Tiền thân như sau:- Trong thời ấy, người chủ đoàn lữ hành trẻ và ngu si là Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta), tùy tùng của kẻ ấy là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, tùy tùng của người chủ đoàn lữ hành hiền trí là tùy tùng của đức Phật, còn người chủ đoàn lữ hành Hiền trí là Ta vậy.

-ooOoo-

2.

CHUYỆN BÃI SA MẠC (Tiền thân Vannupatha)"Không quản mệt, họ đào...,"Pháp thoại này được Thế Tôn nói lên khi Ngài ở Xá-vệ.

Vì ai mà Ngài nói?

Vì một Tỳ-kheo đã từ bỏ tinh tấn.

Khi Thế Tôn ở tại Xá-vệ, có một thiện gia nam tử trú ở Xá-vệ đi đến Kỳ Viên, nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp, tâm sanh tịnh tín, thấy nguy hiểm trong các dục, nên xin xuất gia.

Sống năm năm chờ thọ Cụ túc giới, người ấy học thuộc lòng hai bài tóm tắt, tu tập pháp môn Thiền quán, nhận lấy từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán mà mình ưa thích, rồi đi vào một khu rừng.Trải qua một kỳ an cư mùa mưa, sau ba tháng, vị ấy không thể khởi lên một tia sáng hay một quán tưởng gì.

Rồi vị ấy suy nghĩ: "Bậc Ðạo Sư dạy có bốn hạng người.

Trong họ, ta có phải là hạnh thấp kém nhất không?

Ta nghĩ rằng không thể có Ðạo và Quả cho tự thân ta, vậy ta sống trong rừng làm gì?

Hãy đi về bậc Ðạo Sư, sống để chiêm ngưỡng thân Phật với dung sắc tối thượng, để nghe thuyết pháp dịu ngọt còn hơn.Nghĩ vậy, vị ấy trở về Kỳ Viên.

Các bạn thân tín nói với vị ấy:- Này Hiền giả, bạn đã nhận được từ bậc Ðạo Sư một đề tài Thiền quán, đã đi với quyết tâm thực hiện pháp Sa-môn.

Nay bạn lại trở về, sống vui thích với hội chúng.

Hay là bạn đã đạt được mục đích tối thượng của bổn phận người xuất gia, và đã chấm dứt tái sanh?- Này các Hiền giả, tôi không chứng được cả Ðạo lẫn Quả, tự nghĩ mình là người không có khả năng, nên tôi từ bỏ tinh tấn và về đây.- Này Hiền giả, bạn đã làm một việc không phải, khi đã xuất gia trong Giáo pháp của bậc Ðạo Sư kiên trì tinh tấn, bạn lại từ bỏ tinh tấn.

Hãy đi đến yết kiến Như Lai.

Chúng ta sẽ trình bày đểNgài rõ chuyện này.Họ đưa vị này đến gần bậc Ðạo Sư.

Khi Ngài thấy vị ấy, liền nói:- Này các Tỷ-kheo, các ông đem Tỷ-kheo này đến đây ngoài ý muốn của vị ấy.

Người này đã làm gì?- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này, sau khi xuất gia trong Giáo pháp chân chánh giải thoát như vậy, sau khi thực hành Sa-môn pháp, lại từ bỏ tinh tấn và trở về đây.Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:- Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông đã từ bỏ tinh tấn?- Thưa thật vậy, bạch Thế Tôn.- Này Tỷ-kheo, vì sao sau khi xuất gia trong Giáo pháp như vậy, ông lại không biết sống ít dục, tri túc, viễn ly hay tinh tấn, nhưng lại là người từ bỏ tinh tấn?

Do sự tinh tấn của một mình ông, mà trong bãi sa mạc toàn cát, đoàn người và đàn bò của năm trăm cỗ xe đã được nước uống, đã sống an lạc.

Nay vì sao ông lại từ bỏ tinh tấn?Với những lời như vậy, vị Tỷ-kheo ấy cảm thấy được khích lệ sách tấn.

Nghe nói như vậy, các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, chúng con đã rõ sự từ bỏ tinh tấn hiện này của vị Tỷ-kheo này.

Nhưng thuở trước, do sự tinh tấn của một mình người này, trong bãi sa mạc toàn cát, các đàn bò và đoàn người đã uống nước và sống an lạc.

Câu chuyện ấy đang còn bị che đậy đối với chúng con, chỉ được rõ ràng với Thế Tôn là bậc Nhất thiết trí.

Hãy nói cho chúng con câu chuyện này.- Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe.Sau khi gợi sự chú ý của các Tỷ-kheo, Thế Tôn nêu lên rõ ràng sự việc đã xảy ra trong quá khứ.

*

Thuở trước, trong khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại nước Kàsi, Bồ-tát sanh ra trong gia đình chủ đoàn lữ hành thương gia, lớn lên và thường đi buôn bán với năm trăm cỗ xe.

Một thời Bồ-tát đi vào bãi sa mạc toàn cát dài sáu mươi dặm, với năm trăm cỗ xe.

Trong sa mạc ấy, cát rất mịn, khi được vốc trong nắm tay, thì nó sẽ chảy xuống hết.

Khi mặt trời mọc lên, cát trở thành nóng như đống than hừng, không thể nào đi lên trên được.

Do vậy, những ai đi qua bãi sa mạc ấy, đem theo củi, nước, dầu, gạo... trên các cỗ xe, chỉ đi ban đêm; khi mặt trời mọc, họ xếp các cỗ xe thành hình vòng tròn, làm một cái tàn che trên đầu, sau khi ăn xong thật sớm, họ thường ngồi trong bóng mát trọn ngày.Khi mặt trời lặn, họ ăn chiều sớm, cát đã nguội, họ cho thắng các cỗ xe lại và ra đi.

Ði qua bãi sa mạc này giống như đi biển vậy.

Người hướng dẫn, được gọi là "địa lý trưởng" hướng dẫn đoàn lữ hành đi qua nhờ sự hiểu biết các ngôi sao.

Người chủ đoàn lữ hành này thời bấy giờ đi qua bãi sa mạc với phương tiện như vậy.Sau khi đi hết năm mươi dặm, vị ấy nghĩ: "Hôm nay, còn một đêm nữa, ta sẽ ra khỏi sa mạc này".

Sau khi ăn chiều, vị ấy ra lệnh vứt bỏ củi và nước, thắng các xe và ra đi.

Người lữ hành trưởng cho trải tấm vải trong cỗ xe đi đầu để ngồi nhìn các ngôi sao và từ đó nói lên con đường sẽ đi, rồi nằm xuống.

Vị ấy đã có một thời gian dài không ngủ, nên mệt mỏi, ngủ say, không biết rằng các con bò đã đi vòng quanh và trở lại con đường cũ.

Các con bò suốt đêm đi như vậy.Khi trời rạng đông, vị lãnh đạo thức dậy, nhìn các ngôi sao và bảo:- Hãy cho quay các cỗ xe trở lại gấp!Nhưng khi các cỗ xe đã quay trở lại, và xếp thành hàng thì trời đã sáng.

Các người trong đoàn nói:- Hôm qua, chúng ta đã cho các cỗ xe cắm trại ở đây.

Củi và nước chúng ta đã vứt bỏ hết.

Nay chúng ta bị nguy khốn rồi.Họ tháo dây buộc các xe, xếp thành vòng tròn, dăng một màn che trên đầu, mỗi người nằm xuống dưới cỗ xe của mình, sầu muộn tuyệt vọng.

Bồ-tát suy nghĩ: "Nếu ta từ bỏ tinh tấn, tất cả sẽ bị nguy hại".

Vào buổi sáng, khi trời đang mát, vị ấy đi qua đi lại, thấy một đám cỏ dabbha, tự nghĩ: "Dưới đám cỏ này, chắc thế nào cũng có nước mạch, cỏ mới mọc được", bèn cho lấy cuốc và đào chỗ ấy.

Họ đào đến sáu mươi khuỷu tay; đến đây, cuốc chạm vào hòn đá ở dưới.

Khi ấy, tất cả đều thất vọng, không cố gắng nữa.

Bồ-tát nghĩ rằng thế nào cũng có nước dưới hòn đá.

Ngài đi xuống,đứng trên hòn đá.

Cúi xuống, Ngài lắng tai nghe.

Nghe được tiếng nước chảy dưới hòn đá, ngài leo lên lại, nói với người thị giả hầu cận:- Này bạn thân, nếu bạn từ bỏ tinh tấn, thì tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại.

Bạn chớ từ bỏ tinh tấn.

Hãy cầm cái búa lớn, đi xuống và đập trên hòn đá ấy!Vâng theo lời chủ, trong khi tất cả mọi người đều đứng chán nản, người này không từ bỏ tinh tấn, leo xuống và đập hòn đá.

Hòn đá bị vỡ ở giữa, rơi xuống và dòng nước phun đứng lên, cao ngang thân cây thốt nốt.

Tất cả mọi người đều uống nước và tắm, rồi chặt phát các bánh xe, trục xe dư thừa, nấu cháo và cơm.

Khi ăn xong, họ cho bò ăn.Ðến khi trời lặn, họ buộc một cây cờ cắm gần dòng nước, rồi đi đến chỗ đã định.

Tại đấy, họ bán hành hóa lấy được tiền lòi gấp hai, gấp bốn lần tiền vốn, rồi trở về nhà.

Họ sống hết tuổi thọ, và khi mệnh chung đi theo nghiệp của mình.

Còn Bồ-tát, trọn đời bố thí và làm các công đức, cũng đi theo nghiệp của mình.

*

Khi nói xong pháp thoại này, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:Không mệt mỏi, họ đào,

Họ đào con đường cát

Ðến khi có dòng nước

Tại đấy, họ được nước!

Cũng vậy, bậc ẩn sĩ

Với sức mạnh tinh tấn,

Không thối chí mệt mỏi,

Tìm được tâm an tịnh.Rồi Ngài giảng về Bốn Sự thật.

Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn ấy chứng thánh quả A-la-hán.Sau khi bậc Ðạo Sư kể xong hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, Ngài kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, người thị giả không từ bỏ tinh tấn, đập vỡ hòn đá và đem lại nước cho đoàn người tức là vị Tỷ-kheo đã từ bỏ tinh tấn này.

Tùy tùng của vị chủ đoàn lữ hành là tùy tùng của đức Phật, còn vị chủ đoàn lữ hành là Ta vậy.

-ooOoo-

3.

CHUYỆN NGƯỜI BUÔN CHÈ (Tiền thân Serivànija)"Nếu đây ông thối thất..."

Thế Tôn thuyết pháp thoại này khi ở Xá-vệ, cũng liên hệ đến một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn.

Khi vị ấy được các Tỷ-kheo đưa đến bậc Ðạo Sư, trong trường hợp giống như câu chuyện trươùc, bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, ông xuất gia trong Giáo pháp đem lại Ðạo và Quả như vậy, lại từ bỏ tinh tấn, ông sẽ sầu muộn lâu dài, như người lái buôn Seriva đã mất một cái bát bằng vàng trị giá trăm ngàn đồng tiền vàng.Các Tỷ-kheo xin Thế Tôn khai thị cho họ .

Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa qua câu chuyện quá khứ sau đây:

*

Thuở xưa năm kiếp về trước, Bồ-tát ở trong nước Seri, làm nghề đi buôn ghè bát và được gọi là Serivan.

Serivan cùng với một người lái buôn bán ghè bát tham lam khác, vượt qua con sông Talavaha đi vào thành Andhapura, phân chia những con đường trong thành, bán hàng hóa của mình tại con đường đã được phân chia.

Còn người kia nhận con đường phần mình.

Trong thành ấy, có một gia đình triệu phú bị sa sút.

Tất cả con trai, anh, em và tài sản đều bị mất sạch.

Những người sống sót là một người con gái và một bà nội, cả hai bà cháu sống bằng nghề làm thuê cho các người khác.

Nhưng trong nhà có một cái bát bằng vàng, xưa kia người đại triệu phú dùng đểăn cơm.

Bát ấy lâu ngày bị quăng vào giữa các chén bát khác không được dùng đến và bụi nhớp dính đầy.

Họ không biết cái bát ấy bằng vàng.

Lúc bấy giờ, người lái buôn tham lam kia, đang vừa đi vừa rao:- Hãy lấy ghè nước, hãy lấy ghè nước.Và đến cửa ngôi nhà.

Người con gái thấy kẻ ấy liền nói với bà nội:- Thưa bà, hãy lấy cho con một đồ trang sức.- Này con thân, chúng ta rất nghèo, đem đổi cái gì để lấy ghè nước?- Có một cái bát không giúp ích gì cho chúng ta.

Hãy đem cái này đổi lấy ghè.Bà cho gọi người lái buôn, lấy ghế mời ngồi, đưa cái bát cho kẻ ấy và nói:- Này ông, hãy lấy vật này và đổi cho chị một chút gì.Người lái buôn cầm bát suy nghĩ: "Bát này có thể bằng vàng", xoay bát trên tay, cạo một đường với một cây kim sau lưng bát, biết được bát bằng vàng, kẻ ấy nghĩ: "Không cần cho những người này một cái gì cả, ta sẽ lấy cái bát", bèn nói:- Vật này mà giá bao nhiêu?

Giá của nó không đáng nửa đồng xu.Kẻ ấy quăng bát xuống đất, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bỏ đi.

Bấy giờ, giữa hai người lái buôn có sự thỏa thuận rằng khi một người đã vào con đường rồi bỏ đi, người kia có thể vào con đường ấy được.

Vì thế Bồ-tát đi vào con đường ấy, rao hàng:- Ai lấy ghè nước không?Và đi đến cửa ngôi nhà ấy.

Cô con gái nói với bà nội như trước.

Bà nội nói với cô:- Này con thân, người lái buôn đến trước đã quăng bát xuống đất và bỏ đi, nay chúng ta có thể cho cái gì để lấy được?- Thưa bà, người lái buôn kia ăn nói thô ác.

Còn người này có dáng mặt dễ thương, ăn nói dịu dàng.

Rất có thể người này nhận lấy.- Vậy hãy gọi họ lại.Cô gái gọi người này lại.Khi vị này vào nhà và ngồi, họ đưa cái bát cho xem.

Vị này biết cái bát là bằng vàng liền nói:- Thưa mẹ, cái bát này đáng giá trăm ngàn đồng tiền vàng.

Tôi không có trong tay tôi hàng hóa giá trị bằng cái bát này.- Này ông, người lái buôn đi đến trước nói rằng cái này không đáng giá nửa đồng xu, đã quăng bát xuống đất bỏ đi.

Nay bát này nhờ công đức của ông, trở thành bằng vàng.

Vậy chúng tôi cho ông cái bát này.

Hãy cho chúng tôi một chút ít thứ gì, lấy cái bát và ra đi.Lúc đó Bồ-tát có trong tay tám trăm đồng tiền vàng và hàng hoá trị giá năm trăm đồng tiền vàng, liền đem cho tất cả và nói:- Hãy cho tôi giữ lại cái cân, cái giỏ và tám đồng tiền vàng.Sau khi xin như vậy rồi, ngài cầm lấy cái bát và ra đi.

Ngài đi mau đến bờ sông, cho người chủ thuyền tám đồng tiền và leo lên thuyền.

Khi ấy, người lái buôn tham lam trở lại và nói:- Hãy đem cái bát ra đây, ta sẽ cho các người một ít thứ gì.Nhưng bà già mắng lại kẻ ấy:- Chú cho rằng cái bát bằng vàng của chúng ta trị giá một trăm ngàn đồng lại không đáng giá nửađồng xu!

Nhưng một người lái buôn chân chánh, giống như thầy của chú, đã cho chúng ta một ngàn đồng vàng, lấy cái bát và ra đi rồi.Nghe nói như vậy, kẻ ấy than:- Ta đã mất đi cái bát bằng vàng trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng rồi.

Nó thật là tên ăn cướp đã hại ta.Người lái buôn tham lam ấy sanh khởi ưu tư sầu muộn, không thể tập trung tâm trí, trở thành điên loạn, tự tay vung vãi đồng tiền vàng và hàng hóa trước cửa nhà ấy, quăng bỏ áo mặc, áo choàng, và tay cầm cán cân như cái gậy đi theo con đường của Bồ-tát, đến bờ sông.

Thấy Bồ-tát đã đi qua sông, kẻ ấy liều kêu:- Hỡi bạn lái đò, hãy quay lại.Nhưng Bồ-tát ngăn chận và nói:- Ðừng quay lại.Thấy Bồ-tát dần dần đi xa, sầu muộn ưu tư của kẻ ấy khởi lên, quả tim nóng ran, máu nóng trào ra miệng và quả tim ấy bị nứt ra như bùn dưới đáy của một bể nước.

Do hận tâm chống Bồ-tát, kẻ ấy mệnh chung ngay tại chỗ.

Ðây là lần đầu tiên Ðề-bà-đạt-đa có hận tâm chống Bồ-tát.

Còn Bồ-tát, trọn đời làm các công đức như bố thí... rồi đi theo nghiệp của mình.*Sau khi thuyết pháp thoại này xong, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:Nếu đây ông thối thất

Không hướng đích diệu pháp,

Ông sẽ khổ lâu dài

Như người buôn Se-ri.Như vậy, sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này đưa đến tột đỉnh A-la-hán, Ngài giảng Bốn Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng quả tối cao A-la-hán.Sau khi kể hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, người lái buôn ngu si là Ðề-bà-đạt-đa, còn người lái buôn hiền trí là Ta vậy.-ooOoo-4.

CHUYỆN TIỂU TRIỆU PHÚ (Tiền thân Cullakasetthì)Bậc trí với ít vốn...Pháp thoại này được Thế Tôn thuyết khi Ngài ở Rừng xoài Jivaka, gần Vương Xá (Rajagaha), về Trưởng lão Cullapanthaka.

Ở đây, cuộc đời của Cullapanthaka cần được nói đến.

Ở Rajagaha, con gái của một triệu phú giàu có thông gian với người nô lệ của mình.

Sợ việc làm này bị người khác biết, cô gái nói với người nô lệ:- Chúng ta không thể sống ở chỗ này.

Nếu cha mẹ ta biết được tội lỗi này, sẽ xé xác chúng ta.

Chúng ta nên đi sống một chỗ khác.Với đồ đạc tư trang cầm tay, cả hai cùng trốn ra khỏi cửa ít khi được mở, thỏa thuận với nhau tìm chỗ nào không ai biết đến họ và sẽ sống tại đấy.

Sau một thời gian sống với nhau, cô gái thụ thai.

Ðến khi sinh nở, người vợ nói với chồng:- Nay em đã gần tới kỳ sinh nở, ở chỗ này lại không có bà con.

Ðến khi em sinh nở, hai chúng ta sẽ gặp khổ sở.

Vậy chúng ta hãy đi về nhà.Người chồng cứ hẹn lần hết ngày này qua ngày khác, và để ngày tháng trôi qua.

Người vợ suy nghĩ: "Người ngu này, ý thức tội lỗi quá lớn của mình, nên không dám đi.

Cha mẹ là bạn tốt nhất của mình.

Chồng ta đi hay ở lại, ta cũng phải đi".Ðợi người chồng đi ra khỏi nhà, người vợ sắp đồ đạc trong nhà, và tin cho những người sống kế cận biết là nàng trở về nhà cha mẹ,, rồi nàng lên đường.Khi người chồng về, không thấy nàng, hỏi người láng giềng, biết nàng đã trở về gia đình, liền vội vã đi theo và bắt gặp nàng giữa đường.

Tại đấy, nàng sinh con.

Người chồng hỏi:- Này em thân, việc gì vậy?- Này chàng, em đã sinh đứa con trai.- Vậy chúng ta sẽ làm gì?Cả hai đồng ý rằng mục đích đi về nhà là để sinh đẻ, nhưng giữa đường việc ấy đã giải quyết xong nay còn đi về làm gì nữa.

Họ liền trở về chỗ trọ cũ.Vì đứa con sinh ra giữa đường, nên được đặt tên là Panthaka (Lữ khách).

Không bao lâu, người vợ lại có thai.

Tất cả sự việc như lần trước đã diễn tiến lại.

Vì đứa con thứ hai này cũng được sinh giữa đường, họ đặt tên đứa đầu là Mahàpanthaka (Ðại Lữ Khách) và đứa sau là Cullapanthaka (Tiểu Lữ Khách).

Rồi họ đem cả hai đứa con trở về nhà của họ.

Trong khi họ sống tại chỗ ấy, đứa trẻ Panthaka nghe các đứa trẻ khác gọi các cậu, các ông nội, bà nội, nó về hỏi mẹ:- Thưa mẹ, các đứa trẻ khác gọi các cậu, các ông nội, bà nội.

Vậy chúng ta không có bà con sao?- Chúng ta cũng có.

Bà mẹ đáp.

Nhưng bà con của con không ở đây.

Ông của con là một triệu phú ở Vương Xá.

Tại đấy, con có rất nhiều bà con.- Thưa mẹ, vì sao chúng ta không đi đến đấy?Nàng nói cho con biết lý do vì sao không đi về nhà của mình, và khi các con hỏi nữa, nàng nói với chồng:- Những đứa trẻ con này làm cho em rất mệt.

Không lẽ cha mẹ thấy chúng ta, lại ăn thịt chúng ta?

Hãy đi về để cho mấy đứa trẻ biết nhà ông chúng nó.- Ta không thể đứng giáp mặt với cha mẹ em được, nhưng ta sẽ đưa chúng đến đấy.Nàng nói:- Như vậy cũng được, làm cách nào cho mấy đứa trẻ thấy nhà ông của chúng là được.Hai vợ chồng đem hai đứa trẻ về đến Vương Xá, tạm trú tại một quán trọ gần cửa thành Vương Xá.

Rồi người vợ đem hai con nhờ người đưa tin cho cha mẹ nàng biết là họ đã đến.

Khi nghe được tin này, cha mẹ nàng nói:- Sống ở đời mà không có con trai, con gái là một việc không thể có được.

Nhưng chúng đã có tội quá lớn đối với chúng ta.

Chúng ta không thể giáp mặt được.

Ðây là số tiền cho chúng.

Chúng hãy lấy số tiền ấy mà sống thoải mái tại một chỗ nào đó.

Nhưng phải giao hai đứa trẻ ở lại đây.Người con gái vị triệu phú lấy số tiền cha mẹ cho, và giao hai đứa trẻ tận tay người đưa tin.

Haiđứa trẻ lớn lên trong gia đình ông ngoại chúng.

Cullapanthaka còn nhỏ, nên Mahàpanthaka thường đi với ông ngoại đến nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp.

Thường nghe thuyết pháp, và thấy bậc Ðạo Sư, tâm của Mahàpanthaka thiên về xuất gia.

Nó nói với ông ngoại nó:- Nếu ông chấp thuận, cháu sẽ xuất gia.-Này cháu thân, cháu nói gì vậy?

Ôi !

Ta sẽ vô cùng vui sướng được thấy cháu xuất gia, còn hơn là thấy toàn thế giới xuất gia!

Này cháu thân, nếu có thể được, hãy xuất gia.Ông ngoại chấp nhận và đưa cháu đi gặp bậc Ðạo Sư.

Bậc Ðạo Sư hỏi:- Này triệu phú, ông mang theo đứa trẻ nào vậy?- Bạch Thế Tôn!

Ðứa trẻ này là cháu của con, nó muốn xuất gia với Thế Tôn.Bậc Ðạo Sư bảo một vị Khất sĩ cho đứa trẻ xuất gia.

Vị Trưởng lão, đọc đề tài Thiền quán gồm năm phần, từ da trở đi ... và làm phép xuất gia cho đứa trẻ.

Ðứa trẻ học nhiều lời dạy của đức Phật, và khi cậu đến tuổi, cậu được thọ Ðại giới.

Nhờ chuyên tâm tinh cần, làm đủ các bổn phận tu tập, Mahapanthaka chứng quả A-la-hán.

Trong khi thọ hưởng an lạc Thiền định và an lạc Thánh đạo, người anh nghĩ nên cho em là Culla-panthaka cũng hưởng được an lạc ấy.

Rồi người anh đi đến gọi ông ngoại triệu phú và nói:- Nếu ông ngoại chấp thuận, con sẽ làm lễ xuất gia cho Cullpanthaka.- Thưa Tôn giả, hãy làm lễ xuất gia cho nó.Vị Trưởng lão làm lễ xuất gia cho Cullapanthaka và cho thọ Mười giới.

Nhưng Sa-di Cullapanthaka, sau khi xuất gia, tỏ ra rất ám độn.

Người em trong bốn tháng không thể học thuộc lòng bài kệ này:Như bông sen thơm dịu,

Vào rạng đông buổi sáng,

Hoa được nở toàn diện

Với mùi hương bát ngát.

Nhìn đức Phật chói sáng

Với hào quang chiếu diện,

Như mặt trời rực sáng

Trên bầu trời quang đãng.Chúng ta được kể rằng, trong thời đức Phật Kassapa, Cullapanthaka xuất gia, có trí tuệ, đã cười khinh bỉ một Tỷ-kheo ám độn đang học thuộc lòng một đoạn kinh.

Tỷ-kheo ấy hổ thẹn vì bị khinh bỉ đến nổi không thể nhớ và đọc lên đoạn kinh ấy.

Do kết quả nghiệp ấy, Cullapanthaka trở thành ám độn, những câu vị ấy mới học làm vị ấy quên đi những câu đã học trước; và bốn tháng đã trôi qua, trong khi vị ấy đang cố gắng học một câu kệ, Mahàpanthaka nói với em:- Này Panthaka, em không có khả năng trong Giáo pháp này.

Bốn tháng trôi qua, em không thể học thuộc lòng một câu kệ, làm sao em có thể đạt được sự nghiệp tối thượng của người xuất gia?

Hãy đi ra khỏi tinh xá.Như vậy người anh đuổi người em.

Nhưng Cullapanthaka đã gắn bó đặc biệt với giáo pháp củađức Phật, nên không muốn trở thành một người tại gia.Trong thời ấy, Mahapanthaka đang làm người phân phối bữa ăn.

Một hôm Jivaka Komàrabhacca đem theo nhiều hương thơm và vòng hoa, đến vườn xoài của mình, để cúng dường Thế Tôn.

Sau khi nghe pháp, Jivaha từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bậc Mười Lực (Dasabala), rồi đi đến gần Mahapanthaka và hỏi:- Thưa Tôn giả, có bao nhiêu Tỷ-kheo ở gần bậc Ðạo Sư?- Khoảng năm trăm.- Vậy ngày mai, xin Tôn giả hãy mời năm trăm Tỷ-kheo, với đức Phật là người dẫn đầu, dùng bữaăn tại nhà tôi.- Này cư sĩ, Cullapanthaka là kẻ ám độn, không thể lớn mạnh trong Giáo pháp.

Tôi chấp nhận lời mời tất cả, trừ nó ra.Nghe vậy, Cullapanthaka suy nghĩ: "Vị Trưởng lão nhận lời mời tất cả Tỷ-kheo và loại ta ra ngoài.

Không nghi ngờ gì nữa, tình cảm của anh ta đối với ta đã bị đỗ vỡ.

Nay ta còn ở trong Giáo pháp này làm gì nữa?

Vậy ta sẽ làm người cư sĩ, sống làm các công đức như bố thí, ...Rạng ngày hôm sua Cullapanthaka ra đi với ý nghĩ: "Ta trở lại đời sống gia chủ".

Bậc Ðạo Sư, vào sáng sớm, khi nhìn khắp thế giới, thấy sự kiện này, nên ra đi sớm hơn Cullapanthaka.

Ngài đi qua đi lại trước cửa ngõ, trên con đường của Cullapanthaka và đứng lại.

Cullapanthaka, từ nhà đi ra, thấy bậc Ðạo Sư, đến gần Ngài và đảnh lễ.

Thấy Cullapanthaka, Thế Tôn hỏi:- Này Cullapanthaka, con đi đâu vào giờ này?- Bạch Thế Tôn, anh con đuổi con, cho nên con đi lang thang.- Này Cullapanthaka, con xuất gia với Ta.

Khi anh con đuổi, sao con không đến gặp Ta?

Con sống tại gia để làm gì?

Hãy đến sống gần Ta.Rồi Thế Tôn đem Cullapanthaka đi, bảo ngồi trước Hương phòng.

Ngài đưa Cullpanthaka một miếng vải sạch mà Ngài đã tạo bằng thần thông, rồi nói:- Này Cullapanthaka, hãy hướng mặt về phía đông, dùng miếng vải này lau qua lau lại và nói: Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi.Ðúng giờ đã định, đức Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo vây quanh, đi đến nhà Javaka và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.

Còn Cullapanthaka, với mặt hướng phía mặt trời, ngồi cầm miếng vải lau qua lau lại và nói: Ðồ vật lau bụi, đồ vật lau bụi, cho đến khi miếng vải trở thành dơ bẩn.

Rồi Cullapanthaka suy nghĩ: "Vừa rồi, tấm vải này rất là sạch sẽ.

Nhưng này vì bản thân ta, nó đã bỏ nguyên trạng của nó, và trở thành dơ bẩn.

Thật sự các hành là vô thường".

Ngay khi Cullapanthaka thông hiểu tính đoạn diệt, Thiền quán được tăng trưởng.

Bậc Ðạo Sư biết tâm thiền quán của Cullapanthaka đã đạt viên mãn, bèn nói với Cullapanthaka:- Chớ để ý đến miếng vải này đã bị bụi làm bẩn.

Nhưng trong con có bụi tham ... hãy tẩy trừ chúng.Rồi Thế Tôn phóng hào quang, hóa hiện một danh sắc do trí tuệ tạo thành, ngồi trước mặt vị ấy, và đọc các bài kệ này:Tham mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này;

Tham mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng;

Hỡi này các Tỷ-kheo,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo pháp

Của vị không bụi bẩn.Sân mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này,

Sân mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng.

Hỡi này các Tỷ-kheo,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo pháp

Của vị không bụi bẩn.Si mới gọi là bụi,

Chớ không phải bụi này;

Si mới thật đồng nghĩa

Với chữ bụi thường dùng.

Hỡi này các Tỷ-kheo,

Hãy từ bỏ bụi này,

Hãy sống trong Giáo Pháp

Của vị không bụi bẩn.Cuối câu kệ, Cullapanthaka chứng quả A-la-hán với Bốn Vô ngại giải, vị ấy thấu hiểu tất cả Tạng kinh điển.

Tương truyền rằng, trong thời quá khứ, vị ấy làm vua, và khi đang đi bộ xung quanh thành phố, mồ hôi chảy từ trán, vị ấy lấy một miếng vải sạch lau trán.

Miếng vải trở thành bẩn.

Vị ấy suy nghĩ: "Do thân này của ta, miếng vải đã bỏ nguyên trạng trong trắng và trở thành dơ bẩn.

Thật sự các hành là vô thường".

Vị ấy nắm được tướng vô thường.

Như vậy chính nhờ sự đoạn trừ bụi bẩn này tạo thành nhân duyên giải thoát cho vị ấy.

Trong khi ấy, Jivaka Komàrabhacca dâng nước bố thí lên đấng Ðại Giác.

Bậc Ðạo Sư lấy tay che bình bát và nói:- Này Jivaka, trong tinh xá còn có Tỷ-kheo nào hay không?Mahapanthaka thưa:- Bạch Thế Tôn, trong tinh xá không còn Tỷ-kheo nào.Nhưng bậc Ðạo Sư nói:- Này Javaka, còn có Tỷ-kheo.Javaka liền sai một người đi xem thử trong tinh xá có Tỷ-kheo hay không.

Trong lúc ấy, Cullapathaka biết người anh của mình nói không có Tỷ-kheo ở trong tinh xá và muốn tỏ cho người anh thấy rằng còn có nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh xá, liền làm cho toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo.

Một số Tỷ-kheo đang làm y, một số đang nhuộm, một số đang học kinh điển.

Cullapanthaka tạo ra một ngàn Tỷ-kheo, không ai giống ai.

Người kia thấy rất nhiều Tỷ-kheo ở trong tinh xá, trở về báo cho Javaka biết:- Thưa ông chủ, toàn rừng xoài đầy những Tỷ-kheo!

Có bậc trưởng lão ở tại đấy!.Trưởng lão Pan-tha-ca

Hóa mình thành ngàn lần,

Ngồi rừng xoài xinh đẹp,

Chờ thời được gọi đến.Bậc Ðạo Sư nói với người ấy:- Hãy đi đến tinh xá, nói Thế Tôn cho gọi Cullapanthaka.Người ấy đi và khi nói như vậy, thì ngàn miệng nói lên:- Tôi là Cullapanthaka!

Tôi là Cullapanthaka!Người ấy về thưa:- Bạch Thế Tôn, tất cả đều nói: "Tôi là Cullapanthaka".- Vậy ông hãy đi đến và nếu ai nói đầu tiên: Tôi là Pathaka, hãy nắm tay người ấy, tất cả người còn lại sẽ biến mất.Người ấy làm đúng như vậy.

Ngay lúc ấy, cả ngàn Tỷ-kheo đều biến mất.

Vị trưởng lão đi với người ấy đến bậc Ðạo Sư.

Sau khi dùng bữa ăn xong, bậc Ðạo Sư nói với Jivaka:- Này Javaka, hãy lấy cái bát của Cullapanthaka.

Vị này sẽ nói lời cám ơn ông.Jivaka làm như lời bậc Ðạo Sư đã nói.

Vị trưởng lão rống tiếng rống của sư tử, làm cho sốngđộng tất cả các Tạnh Kinh điển trong lời nói cám ơn của mình.Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, với chúng Tỷ-kheo vây quanh, đi trở về tinh xá.

Sau khi các Tỷ-kheo phân boá công việc xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đứng trước Hương phòng, thuyết lời khuyến cáo của bậc Thiên Thệ cho chúng Tỷ-kheo, cho họ đề tài Thiền quán, giải tán chúng Tỷ-kheo, rồi đi vào Hương phòng sực nức mùi thơm và nằm xuống phía hông bên mặt như dáng nằm con sư tử.Vào buổi chiều, các Tỷ-kheo đắp y vàng từ nhiều nơi quy tụ lại trong Pháp đường, ngồi xuống như thể trải một tấm màn vàng rực chung quanh bậc Ðạo Sư, và bắt đầu tán thán công đức của Ngài:- Này các Hiền giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đã đuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh xá, cho là ngu si ám độn, trong bốn tháng học không thuộc một câu kệ.

Nhưng bậc Chánh Ðẳng Giác, với đức tánh vô thượng Pháp Vương, chỉ trong một bữa ăn, đã đem lại cho Cullapanthaka quả A-la-hán với các Vô ngại giải.

Với các Vô ngại giải ấy, Cullapanthaka nắm được toàn bộ các Tạng kinh điển.

Ôi, Phật lực thật lớn vậy thay!Thế Tôn biết được diễn tiến câu chuyện trong Pháp đường, nghĩ rằng nay cần phải đi đến chỗ ấy, liền đứng dậy từ chỗ nằm của đức Phật, mặc hai tấm áo màu đỏ chói, thắt cái nịt thân như chớp nhoáng, và đắp lại y.

Bậc Thiện Thệ như tấm mền đỏ thắm, từ Hương phòng đi ra, đi đến Pháp đường với uy nghi vô tận của một đức Phật, di động với dáng điệu oai hùng đẹp đẽ của con voi, con sư tử trong thời sung sức.

Bước lên Phật tọa được trình bày lộng lẫy ở giữa Pháp đường trang nghiêm.

Ngài ngồi trên Phật tọa phóng ra những hào quang.

Phật có sáu màu như mặt trời mới mọc từ trên đỉnh núi Yugandahara, ngài chói sáng đến tận đáy biển.Ngay khi bậc Chánh Giác đến, chúng Tỷ-kheo chấm dứt câu chuyện và giữ im lặng.

Bậc Ðạo Sư, với tâm tư bi hòa nhã, nhìn hội chúng và suy nghĩ: "Hội chúng này thật rực sáng, không có mộtđộng tay, một động chân, không một tiếng đằng hắng, không một tiếng ho.

Tất cả vì tôn kính Ta, nếu Ta ngồi không nói cho đến suốt đời, đại chúng đều không dám nói trước khi Ta nói.

Ta biết Ta cần phải nói trước.

Ta sẽ nói trước".

Với Phạm âm ngọt dịu, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây nói đề tài gì và câu chuyện gì chưa được nói xong?- Bạch Thế Tôn, chúng con ngồi đây không nói chuyện nhảm.

Chúng con ngồi tán thán công đức của Ngài như sau: Này các Hiền Giả, Mahapanthaka không biết khả năng của Cullapanthaka, đãđuổi Cullapanthaka ra khỏi tinh xá...

Ôi, Phật lực thật lớn vậy thay!Thế Tôn, nghe các Tỷ-kheo nói vậy, bèn nói:- Này các Tỷ-kheo, Cullapanthaka nay do nhờ Ta, đã đạt được sự vĩ đại trong Chánh Pháp.

Còn thời quá khứ cũng do nhờ Ta, vị ấy đã đạt được tài sản vĩ đại trong các tài sản.Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích ý nghĩa này và Thế Tôn liền trình bày rõ sự việc tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây.*Thuở xưa, tại nước Kàsi, trong thành Ba-la-nại, khi vua Brahamadatta đang trị vì, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình triệu phú và được gọi là Tiểu Triệu phú.

Ngài có trí thông minh, biết tất cả loại tướng.

Một hôm, trong khi đi đến hầu vua, giữa đường thấy một con chuột chết, ngay lúc ấy ngài tính toán các vì sao và nói:- Một thiện nam tử nào có mắt, chỉ cần lượm con chuột này lên có thể xây dựng cơ nghiệp và nuôi một người vợ.Bấy giờ có một thiện nam tử đang bị túng thiếu, nghe triệu phú nói vậy, suy nghĩ: "Người này biết cái gì mới nói", bèn lượm con chuột lên, bán được một xu ở một tiệm hàng mua cho mèo ăn.

Với đồng xu ấy, chàng mua đường mật và lấy nước uống với một cái bình.

Gặp những người làm vòng hoa từ rừng về, chàng cho mỗi người một ít đường, mật và nước uống với một ít cái gáo.

Mỗi người làm vòng hoa, cho chàng một nắm hoa.Ngày mai, với số tiền bán hoa ấy, chàng lấy đường, mật, một ghè nước rồi đi đến vườn hoa.

Ngày ấy, các người làm vòng hoa cho chàng những cành hoa đã hái còn sót lại rồi bỏ đi.

Không bao lâu với phương tiện này, chàng có được tám đồng tiền vàng.Rồi vào một ngày mưa gió, trong vườn của vua có rất nhiều cành cây khô và lá bị gió làm rụng xuống, người giữ vườn không biết cách nào để quét chúng cho sạch.

Chàng đi đến, nói với người giữ vườn:- Tôi sẽ quét sạch với điều kiện là củi và lá này thuộc về của tôi.Người giữ vườn chấp thuận.

Người đệ tử này của vị Tiểu triệu phú đi đến sân chơi của bọn trẻ, cho chúng đường mật, và nhờ chúng dọn sạch củi, lá chất thành một đống trước vườn hoa trong một thời gian ngắn.

Khi ấy, người làm đồ gốm cho vua đang đi tìm củi để đốt nung các chén bát cho nhà vua, thấy đống củi ấy tại cửa vườn hoa, ông ta mua ngay và tự tay mang nó đi.Ngày ấy, đệ tử vị Tiểu triệu phú bán củi có được mười sáu đồng tiền, ghè bình và năm cái bát.

Sau khi có được hai mươi bốn đồng tiền, chàng nghĩ đến một kế hoạch, đặt một ghè nước không xa cửa thành và đem nước cho năm trăm người cắt cỏ uống.

Họ nói:- Bạn giúp ích cho chúng tôi rất nhiều.

Bạn muốn chúng tôi làm gì cho bạn?Chàng trả lời:- Khi nào tôi có việc, tôi sẽ nói cho các anh biết.Trong khi đi qua lại, chàng làm thân với một người buôn bán trên bộ và một người buôn bán trên biển.

Người buôn bán trên bộ báo tin cho chàng biết ngày mai sẽ có người buôn ngựa đến tại thành này với năm trăm con ngựa.

Nghe vậy, chàng nói với những người cắt cỏ:- Hôm nay, mỗi người hãy cho tôi một bó cỏ, và không bán cỏ của các anh cho đến khi tôi bán xong cỏ của tôi.Họ bằng lòng và đem đến nhà chàng năm trăm bó cỏ.

Người lái buôn ngựa không tìm được cỏ trong toàn thành phố, liền cho chàng một ngàn đồng tiền và lấy cỏ của chàng.

Sau một vài ngày, người buôn bán trên biển báo tin cho chàng biết sẽ có một chiếc tàu lớn cập bến.

Chàng nghĩ đến một kế hoạch khác.

Với tám đồng tiền chàng thuê một cỗ xe trang bị đầy đủ, được thuê theo giờ, và đi đến bến cảng với vẻ rất uy nghi bệ vệ.Sau khi đưa chiếc nhẫn làm bảo chứng cho chiếc tàu, chàng bảo dựng một cái lều không xa bao nhiêu, ngồi ở trong lều và dặn chúng người làm công như sau:- Khi có các người lái buôn từ ngoài đến, hãy báo cho ta biết qua ba người giới thiệu.Khi nghe tin có tàu đến, khoảng một trăm người lái buôn từ Ba-la-nại đến để mua hàng.

Họ được cho biết là hàng không thể lấy được vì phải để dành cho người lái buôn ở tại chỗ ấy đã có bảo chứng.

Họ nghe vậy liền đi đến gặp chàng.

Những người hầu, như đã được dặn trước, báo tin họđến qua ba người giới thiệu.Một trăm người lái buôn ấy, mỗi người cho chàng một ngàn đồng để làm người hùn vốn trên tàu và cho một ngàn đồng nữa để trả tiền lấy hàng hóa phần của mình.

Như vậy người đệ tử vị Tiểu triệu phú lấy được hai trăm ngàn đồng tiền và đi về Ba-la-nại.Ðể bày tỏ sự biết ơn đối với vị Tiểu triệu phú, chàng đem theo một trăm ngàn đồng tiền và đi đến thăm vị Tiểu triệu phú.

Vị Tiểu triệu phú hỏi chàng đã làm gì để được số tiền này, chàng tường thuật tất cả câu chuyện, từ khi theo lời vị Tiểu triệu phú trải qua bốn tháng bắt đầu với việc chàng lượm con chuột chết.

Vị Tiểu triệu phú nghe chàng nói như vậy, nghĩ rằng không thể để một chàng trai trẻ như vậy rơi vào tay người khác, liền gả con gái mới lớn lên của mình cho chàng, và cho chàng làm chủ toàn bộ gia sản.

Khi người triệu phú qua đời, chàng đã trở thành vị triệu phú của thành ấy.

Và khi mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.*Sau khi nói lên pháp thoại này, bậc Chánh Giác đọc bài kệ:Bậc trí với ít vốn,

Bậc có mắt, ít hàng,

Tự xây dựng cho mình

Tài sản lớn như vậy,

Như dùng hơi thở mình

Thổi lớn đám lửa nhỏ.Thế Tôn nói:- Này các Tỷ-kheo, chính dựa vào Ta, Cullapanthaka ngày nay đạt được pháp tối thượng trong các pháp, cũng như ngày xưa đã đạt được tài sản tối thượng trong các tài sản.Sau khi nói xong Pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, và kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:- Trong thời ấy, đệ tử của Tiểu Triệu phú là Cullapanthaka, còn Cullakasetthi, Tiểu triệu phú, là Ta vậy.-ooOoo-5.

CHUYỆN ÐẤU GẠO. (Tiền thân Tandulanàli)

Giá đấu gạo bao nhiêu?...Câu chuyện này được Thế Tôn, khi ở tại Kỳ Viên, đã kể về Trưởng lão Laludayi.

Trong thời ấy, Tôn giả Dabba, con bộ tộc Malla, làm người phân phối cơm ăn cho chúng Tăng.

Thời ấy, vào buổi sáng, trong khi phân phối thẻ cơm, Trưởng lão Udàyi khi thì được gạo tốt, khi thì được gạo xấu.

Vào ngày được gạo xấu Udàyi thường làm rộn lên trong phòng phát thẻ và nói:- Sao chỉ có Dabba biết phát thẻ, chớ chúng tôi không biết hay sao?Một hôm, khi Udayi làm rộn lên trong phòng phát thẻ, người ta đưa sổ phát thẻ cho Udayi và nói:- Hôm nay, Hiền giả hãy phát thẻ.Bắt đầu từ hôm ấy, Udàyi phát thẻ cho chúng Tăng.

Nhưng trong khi phát thẻ, Udàyi không biết gạo nào là gạo tốt, gạo nào là gạo xấu, Udàyi cũng không biết số hạ lạp như thế nào được phát gạo tốt, số hạ lạp như thế nào được phát gạo xấu.

Khi làm sổ thứ tự để chia phần, Udàyi không nghĩ đến thứ tự hạ lạp.

Do vậy, khi các Tôn giả đứng vào vị trí của mình, Udàyi ghi một cái dấu trên sàn hoặc trên tường để chỉ rõ hàng này đứng chỗ này, hàng kia đứng chỗ kia.Ðến ngày sau, trong phòng phân phối thẻ có ít Tỷ-kheo hơn trong hàng này, và có nhiều Tỷ-kheo hơn trong hàng kia.

Hàng nào ít tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá thấp, hàng nào nhiều Tỷ-kheo hơn, thì các dấu ghi quá cao.

Nhưng Udàyi không biết gì về hàng sắp, đã phân phối các thẻ theo những dấu của mình.

Do vậy, các Tỷ-kheo nói với Udàyi:- Các dấu hoặc là quá thấp, hoặc là quá cao.

Gạo tốt dành cho những vị có hàng lạp như thế kia còn gạo xấu lại dành cho những vị có hàng lạp như thế này.Nhưng Udàyi gạt họ ra một bên và nói:- Nếu dấu này là như vậy, sao các Hiền giả không đứng như vậy?

Sao tôi lại tin các Hiền giả?

Tôi tin các dấu của tôi hơn.Các vị trẻ tuổi và các Sa-di kéo Udàyi ra khỏi phòng phân phối và nói:- Này Hiền giả Udàyi ám độn, khi Hiền giả phân phối thẻ, các Tỷ-kheo nhận thiếu phần họ được nhận.

Hiền giả không xứng đáng để phân phối.

Hãy đi ra đi.Trong khi ấy, tại phòng phân phối thẻ, có tiếng ồn ào lớn.

Nghe vậy, bậc Ðạo sư gọi hỏi trưởng lão Ànanda:- Này Ànanda, không phải hiện nay, Udàyi với sự ngu si của mình, mới làm cho người khác bị thiệt hại khi nhận phần của họ.

Thuở trước, Udàyi cũng đã làm như vậy.Trưởng lão Ànanda yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này.

Thế Tôn trình bày rõ sự việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, ở nước Kàsi, tại thành Ba-la-nại, vua Brahmadatta đang trị vì.

Lúc ấy, Bồ-tát của chúng ta làm người đánh giá cho vua.

Ngài đánh giá voi ngựa v.v...

đánh giá châu báu, vàng v.v... và ngài thường trả cho những người chủ các hàng hóa đúng giá tiền như ngài đã quy định.

Nhưng vua là người tham lam và bản tánh tham của vua khiến vua suy nghĩ: "Người đánh giá này với cách đánh giá như vậy, không bao lâu sẽ làm cho tài sản trong nhà của ta khánh kiệt.

Ta phải tìm một người đánh giá khác."

Mở cửa sổ, nhìn xuống sân, vua thấy một người quê mùa tham và ngu đang đi qua sân, nghĩ rằng kẻ ấy có thể làm người đánh giá cho mình, bèn cho gọi kẻ ấy lên, và hỏi anh ta có thể làm người đánh giá cho vua được không.

Kẻ ấy trả lời:- Thưa Ðại Vương, tôi có thể làm được.Vua liền đặt người ngu ấy vào chức vụ người đánh giá, với mục đích bảo vệ tài sản của mình.

Từ khi ấy trở đi, người ngu ấy đánh giá voi, ngựa v.v...

Không đếm xỉa gì đến giá trị, nói giá tùy theo sở thích.

Và vì giữ chức vụ ấy, kẻ ấy nói gì, thì giá tiền là phải như vậy, không thể khác.Lúc bấy giờ, từ nước phương Bắc, một người buôn ngựa đi đến với năm trăm con ngựa.

Vua cho gọi kẻ ấy lên và bảo anh ta đánh giá ngựa.

Kẻ ấy đánh giá năm trăm con ngựa bằng giá đấu gạo, bảo trả cho người buôn ngựa giá tiền một đấu gạo, và bảo dắt ngựa vào chuồng.

Người buôn ngựa đi đến gặp người đánh giá cũ, thuật lại sự việc này và hỏi phải làm thế nào.

Bồ tát nói:- Hãy cho người ấy một số tiền hối lộ và hỏi nó: Biết rằng giá tiền các con ngựa chúng tôi đáng giá một đấu gạo, thì ông có thể cho chúng tôi biết, theo ông ta tiền một đấu gạo là bao nhiêu, ông có thể tuyên bố giá ấy trước mặt vua được không?

Nếu nó trả lời có thể được, thì đưa nó đến ngay trước mặt vua và tôi cũng sẽ có mặt ở đấy.Người lái buôn nghe theo lời Bồ-tát, cho người đánh giá một số tiền hối lộ, và đặt vấn đề với kẻ ấy.

Khi kẻ ấy nhận hối lộ và nói có thể đánh giá đấu gạo được, người buôn ngựa đưa ngay anh tađến trước mặt vua.

Bồ-tát cùng nhiều đại thần khác cũng đi đến.

Người buôn ngựa, sau khi đảnh lễ vua, liền thưa:- Thưa Ðại Vương, con đã biết giá tiền năm trăm con ngựa bằng giá tiền một đấu gạo.- Nhưng giá tiền một đấu gạo là bao nhiêu?- Ðại Vương hãy hỏi người đánh giá này.Không biết sự việc đã xảy ra, vua nói:- Này người đánh giá, khanh nói cho chúng ta biết giá tiền năm trăm con ngựa.- Thưa Ðại Vương, là giá tiền một đấu gạo.- Hãy là vậy, này khanh.

Năm trăm con ngựa này trị giá một đấu gạo.

Vậy giá trị một đấu gạo là bao nhiêu?Người ngu si ấy trả lời:- Một đấu gạo trị giá bằng tất cả thành Ba-la-nại với nhiều ngoại ô!Như vậy, chúng ta được biết rằng, để làm vui lòng ông vua, kẻ ấy trị giá các con ngựa bằng một đấu gạo; nhưng sau khi lấy tiền hối lộ từ tay người lái buôn, anh ta đánh giá một đấu gạo bằng toàn bộ nội ngoại thành Ba-la-nại.

Lúc bấy giờ, toàn thành bao bọc Ba-la-nại dài đến mười hai dặm, còn nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn ba trăm dặm!

Tuy vậy, kẻ ngu ấy trị giá nội thành và ngoại thành Ba-la-nại rộng lớn này chỉ bằng một đấu gạo!

Nghe kẻ ấy nói vậy, các đại thần vỗ tay cười và nói:- Trước kia chúng ta thường nghĩ rằng quả đất và quốc độ là vô giá.

Nhưng nay chúng ta được biết rằng thành phố lớn Ba-la-nại này cùng với vị vua trị giá chỉ có một đấu gạo mà thôi.

Ôi, keû đánh giá thật đầy đủ trí tuệ!

Sao nó có thể giữ địa vị của nó lâu như vậy!

Nhưng thật sự kẻ đánh giá này phù hợp với vua chúng ta một cách tuyệt diệu!Các đại nhân vỗ tay, cười đùa và mỉa mai như vậy.Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:Giá đấu gạo bao nhiêu?

- Bằng cả nội ngoại thành,

Thành phố Ba-la-nại

Cả năm trăm con ngựa

Cũng chỉ bằng giá tiền

Một đấu gạo mà thôi.Lúc bấy giờ, vua xấu hổ đuổi kẻ ngu ấy đi và đặt Bồ-tát vào chức vụ đánh giá như cũ.

Rồi đến khi mệnh chung, Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.*Sau khi trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và kết luận bằng sự nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, kẻ đánh giá quê mùa ngu si là Udàyi, còn vị đánh giá có trí là Ta vậy.-ooOoo-6.

CHUYỆN THIÊN PHÁP (Tiền thân Devadhamma)

Ðầy đủ tàm và quý...Khi ở Kỳ Viên, Thế Tôn kể câu chuyện này về một Tỷ-kheo có nhiều đồ vật.

Ở Xá-vệ, có một vị trưởng giả giàu có, sau khi vợ chết, mới xuất gia.

Trước khi xuất gia, vị ấy có làm một phòng đểở, một phòng để lửa, và một kho chứa đồ, cho chất đầy kho chứa đồ với bơ sữa, gạo v.v... rồi mới xuất gia.

Sau khi xuất gia, vị ấy cho gọi những người đầy tớ của mình, bảo nấu các đồ ăn theo sở thích và thọ dụng các món ăn ấy.

Vị ấy có rất nhiều vật dụng, ban đêm có bộ đồ lót, có áo choàng riêng; ban ngày có bộ đồ lót, có áo choàng riêng, và sống cách biệt sau biên địa ngôi tinh xá.Một hôm, trong khi vị ấy lấy các y và đồ tắm, trải chúng trong phòng để phơi cho khô, một số đông Tỷ-kheo ở các tỉnh, đi từ trú xứ này đến trú xứ khác, đến phòng kia, thấy các y áo v.v... liền hỏi chúng thuộc về ai.

Vị ấy trả lời:- Của tôi, thưa các Hiền giả.- Thưa Hiền giả, y này, áo lót này, đồ nệm này, tất cả của Hiền giả phải không?- Vâng, của tôi.Họ nói:- Này Hiền giả, Thế Tôn chỉ cho phép ba y.

Hiền giả xuất gia trong Giáo pháp đức Phật ít dục như vậy, lại chất đầy cả kho vật dụng như vậy.

Chúng tôi sẽ đưa Hiền giả đến bậc Ðạo Sư.Rồi các Tỷ-kheo này đem vị ấy đi đến bậc Ðạo Sư.

Thấy vậy, bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, phải chăng các ông đem đến đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có nhiều đồ vật, và có cả kho vật dụng.- Này Tỷ-kheo, có phải ông có nhiều vật dụng?- Thật vậy, bạch Thế Tôn.- Này Tỷ-kheo, sao ông lại có nhiều vật dụng như vậy?

Có phải ta nói lời tán thán hạnh ít dục, biết đủ... viễn ly, tinh tấn không?Nghe bậc Ðạo Sư nói vậy, vị ấy sanh phẫn nộ và nói:- Nay tôi sẽ cởi đồ và đi như thế này.Vị ấy quăng y choàng ngoài, chỉ mặc một y trong và đứng giữa hội chúng.Bậc Ðạo Sư muốn khích lệ, liền nói:- Này Tỷ-kheo, thuở trước, ông là con quỷ nước Dạ-xoa đi tìm tàm quý, sống trong mười hai nămđi tìm tàm quý.

Sao nay ông đã xuất gia trong Giáo pháp Phật được tôn kính này, lại quăng y choàng ngoài giữa bốn chúng, từ bỏ tàm quý và đứng như vậy?Khi nghe lời bậc Ðạo Sư, tàm quý khởi lên, vị ấy đắp y, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, rồi ngồi xuống một bên.

Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích rõ ràng ý nghĩa này.

Thế Tôn trình bày ý nghĩa sự việc bị tái sanh che lấp qua câu chuyện sau đây:*Vào thời, vua Brahmadatta đang trị vì ở nước Kàsi tại Ba-la-nại, Bồ-tát tái sanh làm con bà hoàng hậu của vua, và trong ngày đặt tên, được đặt tên là hoàng tử Mahimsàsa (Ngưu Vương).

Khi Bồ-tát bắt đầu đi được, chạy được, một con trai thứ hai ra đời và được đặt tên là Candakumara (Mặt Trăng).

Khi đứa trẻ này bắt đầu đi được, chạy được, mẹ Bồ-tát mệnh chung.

Vua đặt một người khác lên làm hoàng hậu rất được vua sủng ái.

Bà hoàng hậu này, trong tình thương yêu ấy, sanhđược một con trai đặt tên là hoàng tử Suriya (Mặt trời).

Vua cha thấy con, tâm tư hết sức hoan hỷ, hứa cho bà hoàng hậu một lời yêu cầu nhân danh con bà.

Bà hoàng hậu giữ lời hứa lại, mongđược thực hiện ý muốn mai sau.

Khi con bà lớn lên, bà tâu với vua:- Khi sanh con của thiếp, Ðại Vương có hứa cho một điều yêu cầu.

Vậy hãy cho con thiếp làm vua.Vua từ chối, và nói:- Ta có hai con trai, sáng chói như đám lửa.

Ta không thể giao vương quốc cho con hoàng hậuđược.Nhưng sau, thấy hoàng hậu cứ tiếp tục yêu cầu mãi, vua ngại bà có âm mưu ác hại các con của mình, nên cho gọi họ lại và bảo:- Này các con thân, khi sinh hoàng tử Suriya, ta có cho một điều yêu cầu.

Nay mẹ có yêu cầu vương quốc, ta không muốn cho nó.

Nhưng đàn bà hay có tánh ác, có thể âm mưu ác hại các con.

Vậy hai con hãy đi vào rừng, và khi nào ta mệnh chung hãy trở về trị vì thành này là gia sản của nhà.Nói vậy, với nước mắt và lời than, vua hôn hai con trên đầu và đưa họ ra đi.

Sau khi đảnh lễ vua cha, hai hoàng tử từ giã lâu đài ra đi.

Hoàng tử Suriya đang chơi trong sân, thấy vậy, biết được sự việc, liền quyết định cùng ra đi với hai anh, và ra đi với họ.Họ đi vào núi Tuyết.

Bồ-tát bước xuống đường, ngồi trên một gốc cây và bảo hoàng tử Suriya:- Này Suriya thân, hãy đi đến hồ nước này.

Sau khi tắm và uống, hãy đem cho chúng ta nước uống trong các lá sen.Cái hồ ấy do Thiên Vương Tỳ-sa-môn (Vessavana) cho một con quỷ nước Dạ-xoa với lời dặn: Trừ những người biết được thiên pháp, còn tất cả những ai xuống hồ nước này, ngươi có quyền bắt ăn thịt.

Những ai không xuống nước, thì người không có quyền.Từ đó về sau, quỷ Dạ-xoa hỏi thiên pháp những ai xuống hồ nước ấy, ai không biết thì nó ăn thịt.

Hoàng tử Suriya đi đến hồ nước ấy, không quan sát gì, cứ bước xuống hồ.

Quỷ Dạ-xoa bắt được và hỏi:- Ngươi có biết thiên pháp không?Hoàng tử đáp:- Ta biết.

Ðó là mặt trời, mặt trăng.Quỷ Dạ-xoa nói:- Ngươi không biết thiên pháp.Rồi bắt chàng xuống nước, và giam chàng tại thủy cung của mình.

Bồ-tát thấy em mình đi quá lâu, liền sai hoàng tử Canda đi.

Quỷ Dạ-xoa cũng bắt chàng, hỏi về thiên pháp là bốn phương.

Quỷ Dạ-xoa nói chàng không biết thiên pháp, bắt chàng và cũng giam tại chỗ ấy.Bồ-tát thấy Canda đi quá lâu, nghĩ rằng chắc có trở ngại gì xảy ra cho mỗi người, liền tự mình đi đến chỗ ấy.

Thấy được dấu chân của hai người đi xuống, nghĩ rằng hồ ấy có thể là chỗ trú ẩn của quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát liền rút kiếm ra, cầm cung và đứng sẵn sàng.

Con quỷ nước Dạ-xoa biết Bồ-tát không chịu xuống nước, hóa hiện một người đi làm rừng, nói với Bồ-tát:- Này bạn, bạn đi đường mệt, sao bạn không xuống hồ này tắm, uống nước, ăn củ sen, trang điểm với hoa sen, rồi đi chỗ nào bạn ưa thích.Bồ-tát thấy vậy, biết nó là quỷ Dạ-xoa, liền hỏi nó:- Có phải ngươi bắt các người em của ta?- Phải, ta bắt.- Vì sao?- Vì ai xuống hồ này đều thuộc về ta.- Có phải tất cả đều thuộc về người?- Trừ những ai biết được thiên pháp, còn lại đều thuộc về ta.- Ngươi có muốn biết thiên pháp không?- Có, ta muốn biết.- Nếu như vậy, ta sẽ nói cho ngươi về thiên pháp.- Vậy bạn hãy nói đi, ta sẽ nghe thiên pháp.Bồ-tát nói:- Ta có thể nói thiên pháp, nhưng tay chân đều lấm bụi.Quỷ Dạ-xoa tắm cho Bồ-tát, cho ngài ăn, cho uống nước, cho trang sức với bông hoa, cho thoa với hương thơm và trải một tọa sàng giữa một cái rạp được trang hoàng lộng lẫy.

Bồ-tát ngồi trên tọa sàng, bắt quỷ Dạ-xoa ngồi dưới chân, và nói:- Hãy lắng tai, cẩn thận nghe thiên pháp.Ngài nói lên bài kệ này:Ðầy đủ tàm và quý,

Chuyên tâm về bạch pháp,

An tịnh bậc chân nhân,

Ở đời gọi thiên pháp.Dạ-xoa nghe pháp thoại này, tâm sanh tịnh tín, thưa với Bồ-tát:- Thưa bậc Hiền trí, tôi cảm thấy tịnh tín đối với ngài và muốn cho ngài một người em.

Vậy tôi đem đến người nào?- Hãy đem đến đứa trẻ nhất.- Thưa bậc Hiền trí, dầu ngài biết hoàn toàn thiên pháp, ngài lại không xử sự theo thiên pháp.- Sao vậy?- Sao ngài lại chọn người em, bỏ người anh?

Ngài không kính trọng tuổi lớn hơn của nó.- Này Dạ-xoa, ta không những biết thiên pháp, mà còn xử sự đúng thiên pháp.

Chính vì đứa em ấy mà chúng ta đi vào rừng này.

Chính vì hạnh phúc cho đứa em ấy mà meï nó xin vua cha quốc độ.

Và phụ vương chúng ta từ chối, không chấp nhận lời yêu cầu, bằng lòng cho chúng ta sống ở trong rừng với mục đích bảo vệ chúng ta.

Ðứa trẻ ấy không nghĩ đến trở về, đã đi theo chúng ta.

Nếu như ai nghe được rằng trong rừng, một Dạ-xoa đã ăn nó rồi thì không ai có thể tin được.

Chính vì sợ bị quở trách mà ta bảo ngươi đem nó cho ta.- Lành thay, lành thay, bậc Hiền trí.

Ngài không những biết thiên pháp, mà ngài còn thực hành thiên pháp.Quỷ Dạ-xoa nói lên sự đồng tình của mình, và đem trả cả hai người em.

Rồi Bồ-tát nói với nó:- Này bạn, do kết quả việc ác ngươi làm từ trước, nên nay ngươi sanh làm Dạ-xoa, ăn thịt và máu của những người khác.

Nay ngươi lại làm điều ác nữa.

Việc ác này không thể làm ngươi thoát khỏi địa ngục v.v...

Do vậy, từ nay trở đi, hãy bỏ việc ác, làm việc lành...Và Bồ-tát nhiếp phục quỷ Dạ-xoa.Khi nhiếp phục quỷ Daï-xoa, Bồ-tát sống ở đấy với sự bảo vệ của quỷ Dạ-xoa.

Một ngày kia, nhìn lên các vì sao, biết được phụ vương đã mệnh chung, Bồ-tát đem theo quỷ Dạ-xoa về Ba-la-nại, lấy lại vương quốc, phong hoàng tử Canda làm phó vương, đặt hoàng tử Suriya làm tổng tư lệnh quân đội.

Còn đối với quỷ Dạ-xoa, Bồ-tát cho làm trú xứ tại một địa điểm tốt đẹp, cho nó nhận được vòng hoa tốt nhất, các hoa tốt nhất, các đồ ăn tốt nhất.

Riêng Bồ-tát trị vì theo Chánh Pháp và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư liền thuyết giảng các Sự thật.

Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu.

Bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác kể xong hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:Thời ấy, Quỷ Dạ-xoa là Tỷ-kheo có nhiều đồ vật, hoàng tử Suriya là Ànanda, hoàng tử Canda là Sàriputta (Xá-lợi-phất), và hoàng tử Mahimsàsa là Ta vậy.-ooOoo-7.

CHUYỆN NÀNG LƯỢM CỦI (Tiền thân Katthahàri)Kính thưa bậc Ðại Vương...Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên về nàng Vàsabhakhattiyà.

Câu chuyện sẽđược tìm thấy trong Chương mười hai, Tiền thân Bhaddasala (số 465).

Truyền thuyết kể rằng nàng là con gái của vị Thích-ca tên Mahànàma với một nữ tỳ lên là Nàgamundà, và về sau trở thành hoàng hậu vua nước Kosala.

Nàng sanh một con trai cho vua.

Về sau vua biết được dòng họ nữ tỳ của nàng, liền truất phế địa vị của nàng, và truất phế luôn người con trai là Vidudabha.

Cả hai chỉ sống ở trong nội cung.

Thế Tôn biết được sự việc này, vào buổi sáng, với năm trăm Tỷ-kheo vây quanh, đi đến sự trú xứ của vua, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn, và nói:- Thưa Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà ở đâu?Vua kể lại câu chuyện ấy.- Thưa Ðại Vương, Vàsabhakhattiyà là con gái của ai?- Bạch Thế Tôn, của Mahànàma.- Khi nàng đến, nàng là vợ của ai?- Bạch Thế Tôn, của tôi.- Thưa Ðại Vương, nàng là con gái của vua.

Nàng đến làm vợ vua.

Nàng sanh đứa con trai cho vua.

Ðứa con trai ấy, do lý do gì lại không làm chủ vương quốc thuộc sở hữu của người cha?

Thuở xưa, một vị vua có đứa con trai từ một người con gái đi lượm củi, và một cuộc gặp gỡ tình cờ đã cho người con trai ấy vương quốc.Vua yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa câu chuyện.

Thế Tôn liền kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, ở Ba-la-nại, vua Brahmadatta đi vào ngự uyển với uy nghi lớn của nhà vua.

Ðang đi qua lại để tìm trái cây và bông hoa, vua gặp một thiếu phụ đang lượm củi, vừa lượm vừa hát.

Vua đắm say nàng và ăn ở với nàng.

Bồ-tát được thụ thai trong bụng nàng.

Nàng cảm thấy bụng nàng nặng nề như mang lưỡi tầm sét (lưỡi búa) của Ðế Thích.

Biết rằng mình đã có thai, nàng tâu nhà vua việc ấy.

Vua đưa cho nàng một chiếc nhẫn và nói:- Nếu sanh con gái, hãy giữ chiếc nhẫn này để lấy tiền nuôi dưỡng nó.

Nếu sanh con trai, hãy đem nó đến ta với chiếc nhẫn này.Nói xong vua ra đi.

Khi bào thai đúng thời, nàng sanh Bồ-tát.

Ðến tuổi Bồ-tát đi được, chạy được, trong khi chơi ở sân chơi, có tiếng la:- Ta bị đứa không có cha đánh.Nghe vậy, Bồ-tát đi đến mẹ và hỏi:- Ai là cha con?- Này con thân, con là con vua Ba-la-nại.- Thưa mẹ, có cái gì làm chứng?- Này con thân, vua có cho chiếc nhẫn này và nói: "Nếu sanh con gái, thì giữ chiếc nhẫn này để nuôi dưỡng nó.

Nếu sanh con trai, hãy đem nó đến cho ta với chiếc nhẫn này."

Nói xong, nhà vua ra đi.- Thưa mẹ, sự tình là như vậy, sao mẹ không đưa con đến gặp cha?Nàng biết ý định của con, nên đem con đến cửa cung điện và xin ý kiến vua.

Khi được gọi vào, nàng đảnh lễ vua và tâu:- Thưa Ðại Vương, đây là con của Ðại Vương.Vua biết vậy, nhưng cảm thấy xấu hổ trước đông đảo quần chúng nên nói:- Nó không phải con của ta.- Tâu Ðại Vương, đây là chiếc nhẫn của ngài.

Chắc ngài nhận ra được chiếc nhẫn này?- Ðây không phải là chiếc nhẫn của ta!- Tâu Ðại Vương, tôi không có vật gì khác để bảo chứng cho sự thật.

Nếu đứa trẻ này là con ngài, nó sẽ đứng trên hư không.

Nếu không phải, nó sẽ rơi xuống đất và chết!Rồi nàng cầm chân Bồ-tát quăng lên hư không.

Bồ-tát ngồi kiết-già trên hư không và với âm thanh dịu ngọt, tuyên bố pháp cho phụ vương, đọc bài kệ này:Kính thưa bậc Ðại Vương.

Tôi là con trai ngài,

Kính thưa bậc nhân chủ,

Hãy nuôi dưỡng con lớn!

Vua nuôi dưỡng người khác,

Không nuôi con mình sao?Nghe Bồ-tát ngồi trên hư không thuyết pháp như vậy, vua bèn nói:- Hãy đến, này con thân, ta sẽ nuôi con!

Ta sẽ nuôi con!Và vua đưa hai tay lên.

Một ngàn bàn tay đưa lên để đón Bồ tát, nhưng Bồ-tát không xuống bàn tay nào khác, chỉ xuống vào bàn tay nhà vua, và ngồi trên bắp vế vua.

Vua phong cho con làm phó vương, phong cho mẹ làm hoàng hậu.

Sau khi vua mệnh chung, Bồ-tát lên làm vua có tên là Katthavàhanaraja (vua của người lượm củi), trị vì quốc với Chánh pháp, và khi mệnh chung ngàiđi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể pháp thoại này cho vua nước Kosala, trình bày hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, người mẹ là Mahàmaya, người cha là Tịnh Phạn vương, và vua Katthavàhana là Ta vậy.-ooOoo-

8.

CHUYỆN VUA GÀMANI (Tiền thân Gàmani)

Không vội vã vượt qua...,Câu chuyện được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn.

Trong Tiền thân này, câu chuyện về hiện tại và quá khứ sẽ được trình bày ở Chương mười một, liên hệ đến Tiền thân Samvara.

Câu chuyện ấy và câu chuyện này giống nhau, nhưng các bài kệ khác nhau.*Hoàng tử Gàmani an trú trong lời dạy của Bồ-tát, là em út của một trăm anh em, được vây quanh với một trăm anh em, ngồi dưới lọng trắng, trên chỗ ngồi huy hoàng rực rỡ, nhìn sự quang vinh của mình, và nghĩ: "Tất cả sự quang vinh này ta có được là do vị Ðạo Sư của chúng ta", rồi cảm thấy bằng lòng thoải mái, nói lên lời cảm hứng này:Không vội vã vượt qua,

Thành tựu quả mong đợi,

Gà-ma-ni hãy biết

Phạm hạnh ta thành phục.Bảy hay tám ngày sau khi vị ấy lên ngôi vua, tất cả những người anh đều đi về trú xứ của mình.

Vua Gàmani vì theo Chánh Pháp, và khi mệnh chung, đi theo nghiệp của mình.

Bồ-tát làm các công đức, và khi mệnh chung cũng đi theo nghiệp của mình.*Sau khi trình bày pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng về các Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn chứng A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư, kể hai câu chuyện và kết hợp chúng với nhau, rồi kết luận với sự nhận diện Tiền thân.-ooOoo-9.

CHUYỆN VUA MAKHÀDEVA (Tiền thân Makhàdeva)

Những tóc bạc đầu ta...,Câu chuyện này được bậc Ðạo Sư kể khi ở Kỳ Viên, về sự kiện xuất gia lớn đã được kể trong tập Nidana-kahthà.

Khi ấy, các Tỷ-kheo đang ngồi tán thán sự ra đi của đấng Ðại Giác, thì Thế Tôn đi đến Pháp đường, ngồi trên Phật tọa, hỏi các Tỷ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi nói chuyện gì?- Bạch Thế Tôn, không có chuyện gì khác.

Chúng con ngồi tán thán hạnh ra đi của Thế Tôn!- Này các Tỷ-kheo, không phải nay Như Lai mới ra đi, trước đây, Ta cũng ra đi rồi.Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích câu chuyện ấy.

Thế Tôn trình bày câu chuyện quá khứ sau đây.*Thuở ấy, tại nước Vidaha, có vị vua tên là Makha-deva ở Mithilà, hành trì đúng pháp của một vị Pháp Vương.

Trải qua tám mươi bốn ngàn năm, ngài đã vui chơi trong địa vị Ðại Vương.

Sau một thời gian dài, vua sống như vậy.

Một hôm, ngài gọi người cắt tóc và nói:- Này khanh, khi nào khanh thấy tóc bạc trên đầu ta, hãy báo cho ta biết.Người cắt tóc, sau một thời gian dài, thấy giữa đám tóc đen nhánh của vua, có một sợi tóc bạc, liền báo cho vua biết.

Vua bảo:- Hãy nhổ sợi tóc bạc ấy và đặt nó trên tay ta.Nghe nói vậy, người cắt tóc lấy cái nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc và đặt lên bàn tay vua.

Lúc ấy, nhà vua đang có tám mươi bốn ngàn năm còn lại để sống.

Tuy vậy, thấy sợi tóc bạc, ngài cảm thấy xúc động mạnh, như thần chết đã đến đứng gần đó, như bị nhốt vào trong ngôi nhà lá đang bốc cháy.

Nhà vua suy nghĩ: "Này Makhàdeva ngu si ơi, tóc bạc đã mọc lên, nhưng ngươi chưa có thể loại trừ những phiền não này".Và khi nghĩ đến xuất hiện của sợi tóc bạc, nhà vua cảm thấy bị nung đốt nội tâm, từ thân mồ hôi toát ra, áo quần như đè nén nhà vua và trở thành không thể chịu nổi.

Nhà vua nghĩ: "Hôm nay, ta phải ra đi xuất gia".Sau khi cho người cắt tóc hưởng lợi tức một làng trị giá một trăm ngàn đồng, vua cho gọi người con đầu và nói:-Này con thân, trên đầu ta, tóc bạc đã hiện ra.

Ta nay đã già rồi.

Các dục vọng liên hệ đến con người, ta đã hưởng thụ đầy đủ.

Nay ta muốn tìm cầu các dục lạc ở thiên giới.

Nay là thời ta phải ra đi.

Con hãy trị vì vương quốc này.

Sau khi xuất gia, ta sẽ ở trong Rừng xoài của Makhàdeva và sống theo pháp Sa-môn.Các đại thần nghe tin vua muốn xuất gia, liền đến hỏi vua vì sao lại muốn xuất gia, vua cầm sợi tóc bạc trong tay và nói bài kệ với cái đại thần:Những tóc bạc đầu ta,

Xuất hiện, cướp tuổi xanh,

Các Thiên sứ đã đến,

Là thời ta xuất gia.Sau khi nói vậy, ngay trong ngày ấy, nhà vua từ bỏ vương quốc, xuất gia làm ẩn sĩ trong Rừng xoài Makhàdeva.

Trải qua tám mươi bốn ngàn năm tu tập bốn Phạm trú, an trú thiền không có gián đoạn, ngài mệnh chung, và sanh lên Phạm thiên giới; từ đấy lại sanh ở Mithilà và làm vua tên Nimi.

Sau khi quy tụ gia đình ly tán, ngài xuất gia tại Rừng Xoài ấy, tu tập Bốn Phạm trú, và tái sanh Phạm Thiên giới.*Bậc Ðạo Sư nói rằng Như Lai không phải chỉ nay mới ra đi với sự xuất gia ấy, mà thuở trước cũng đã ra đi như vậy rồi.

Trình bày pháp thoại này xong, Ngài thuyết về Bốn Sự thật.

Một số chứng được quả Dự lưu.

Một số chứng được quả Nhất Lai.

Một số chứng được quả Bất lai.Sau khi kể xong hai câu chuyện này và kết hợp chúng với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, người cắt tóc là Ànanda, người con trai là La-hầu-la (Ràhula), và vua Makhàdeva là Ta vậy.-ooOoo-10.

CHUYỆN TRƯỞNG LÃO SUKHAVIHÀRI (Tiền thân Sukhavihàri)

Người không được bảo vệ...,Câu chuyện này, khi ở tại rừng xoài Anupiya, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Bhaddiya Sukhavihàri.

Trưởng lão Bhaddiya Sukhavihàri đã xuất gia cùng với sáu vị trong hoàng tộc, cùng Upali là người thứ bảy.

Trưởng lão Bhaddiya, trưởng lão Kimbila, Trưởng lão Bhagu và Trưởng lão Upàli chứng quả A-la-hán, Trưởng lão Ànanda chứng quả Dự Lưu, Trưởng lão Anuruddha chứng được thiên nhãn, Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa chứng được thiền định.

Câu chuyện của sáu vị trong hoàng tộc này dẫn đến sự kiện ở Anupiya, sẽ được trình bày trong Tiền thân Khandahàla (số 534).Trong thời kỳ làm vua, Tôn giả Bhaddiya tự bảo vệ mình như một vị Thiên sắp đặt sự bảo vệ, nay nghĩ đến tâm trạng sợ hãi mà vị ấy đã sống, dầu được bảo vệ với nhiều sự bảo vệ, vẫn nằm lăn qua trở lại trên đại sàng tọa đặt trên lầu cao.

Vị ấy so sánh sự sợ hãi ấy với trạng thái không sợ hãi, vì nay vị ấy đã chứng quả A-la-hán, khi vị ấy đi lang thang đây đó trong các khu rừng v.v...

Khi nghĩ vậy, vị ấy nói lên lời cảm hứng:- Ôi hạnh phúc thay!

Ôi hạnh phúc thay!Các Tỷ-kheo nghĩ rằng Tôn giả Bhaddiya nói lên chánh trí của mình, nên trình lên Thế Tôn.

Thế Tôn nói:- Này các Tỷ-kheo, Bhaddiya không phải chỉ nay mới sống hạnh phúc, mà thuở trước vị ấy cũng đã sống hạnh phúc!Các Tỷ-kheo thỉnh thoảng cầu Thế Tôn trình bày rõ ý nghĩa này.

Thế Tôn làm sáng tỏ ý nghĩa qua câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, ở Ba-la-nại, trong khi vua Brahmadatta đang trị vì vương quốc, Bồ-tát sinh làm một vị Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc.

Thấy nguy hiểm trong các dục, lợi ích trong xuất ly, ngài từ bỏ các dục, vào núi Tuyết xuất gia làm ẩn sĩ, đạt được tám Thiền chứng.

Số tùy tùng của ngài lên đến năm trăm vị khổ hạnh.Khi mùa mưa đến, ngài rời núi Tuyết với chúng khổ hạnh vây quanh đi bộ qua làng, qua thị trấn, đến Ba-la-nại, ngài trú ở ngôi vườn của vua, nương tựa nhà vua.

Tại đấy, sau khi sống bốn tháng trong mùa mưa, ngài đến từ biệt nhà vua.

Nhà vua nói:- Thưa Tôn giả, Tôn giả đã lớn tuổi, Tôn giả sống ở núi Tuyết làm gì?

Hãy để các đệ tử đến núi Tuyết, còn Tôn giả ở lại đây.Bồ-tát giao năm trăm người khổ hạnh cho đệ tử trưởng và nói:- Con hãy đi, sống ở núi Tuyết với những người này.

Còn ta sẽ sống ở đây.Vị đệ tử trưởng ấy, trước kia làm vua, sau tử bỏ vương quốc lớn, xuất gia, lấy đề tài làm Thiền quán, chứng được tám Thiền chứng.

Vị ấy sống ở núi Tuyết với các vị khổ hạnh.Một hôm, muốn yết kiến bổn sư, vị ấy gọi các vị khổ hạnh kia và bảo:- Hãy sống thoải mái ở đây, ta đi đảnh lễ bổn sư rồi lại về.Vị ấy đi đến bổn sư, đảnh lễ ngài, chào mừng ngài rất chân tình, rồi trải tấm thảm, nằm xuống bên cạnh bổn sư.

Lúc bấy giờ, nhà vua đi đến ngôi vườn để yết kiến vị khổ hạnh, đảnh lễ ngài rồi ngồi xuống một bên.

Vị đệ tử khổ hạnh thấy vua đến, nhưng không đứng dậy, vẫn nằm dài và nói lời cảm hứng:- Ôi hạnh phúc thay!

Ôi hạnh phúc thay!Nhà vua không hoan hỷ với vị khổ hạnh thấy vua mà không đứng dậy, nên nói với Bồ-tát.- Thưa Tôn giả, người khổ hạnh này có lẽ đã ăn quá đầy đủ nên nằm sung sướng, nói lên lời cảm hứng.- Thưa Ðại Vương, người khổ hạnh này trước cũng làm vua như ngài.

Vị ấy suy nghĩ: "Trước kia còn là cư sĩ, đầy đủ uy quyền nhà vua, được bảo vệ bởi nhiều người có binh khí cầm tay, nhưng không được hạnh phúc như thế này.

Nay do tự mình được hạnh phúc xuất gia, được hạnh phúc thiền định, nên nói lên lời cảm hứng như vậy".Ðể giảng pháp thoại cho nhà vua, Bồ-tát đọc bài kệ này:Người không được bảo vệ,

Không bảo vệ người khác,

Thưa Ðại Vương, người ấy.

Thật sự được an lạc.

Vì không chờ đợi gì,

Ðối với các dục vọng.Nhà vua nghe pháp thoại xong, cảm thấy thoải mái, đảnh lễ, rồi đi về cung.

Vị đệ tử đảnh lễ bổn sư, rồi đi về núi Tuyết.

Bồ-tát tiếp tục sống tại đấy, thiền định không gián đoạn và khi mạng chung, sanh lên Phạm thiên giới.*Bậc Ðạo sư, kể lại hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau rồi nhận diện Tiền thân:- Lúc ấy, vị đệ tử là Tôn giả Bhaddiya, còn vị bổn sư chính là Ta đây.
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM GIỚI


PHẨM GIỚI.11.

CHUYỆN CON NAI ÐIỀM LÀNH (Tiền thân Lakkhana)Con người có giới hạnh...,Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, gần thành Vương Xá, đức Phật kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Câu chuyện về Ðề-bà-đạt-đa sẽ được kể cho đến khi làm tướng cướp trong Tiền thân Khandahala (số 533), cho đến khi bị đuổi đi khỏi chức vụ người giữ kho bạc trong Tiền thân Cullapanthaka (số 533), cho đến khi bị quả đất nuốt sống trong Chương thứ mười sáu ở Tiền thân Samud-davanija (số 466).Một thời, Ðề-bà-đạt-đa yêu cầu năm điều kiện, nhưng không được, bèn phá hòa hợp Tăng, đem theo năm trăm Tỷ-kheo đến ở tại Gayàsisa.

Rồi khi trí của những Tỷ-kheo ấy được thuần thục, biết vậy, bậc Ðạo Sư bảo hai đệ tử đầu tay:- Này Xá-lợi-phất, năm trăm Tỷ-kheo đệ tử của ông, thích thú sở đắc của Ðề-bà-đạt-đa, đã đi với kẻ ấy.

Nay trí của họ đã được thuần phục.

Ông hãy đi đến đấy với nhiều Tỷ-kheo, thuyết pháp cho họ làm họ giác ngộ về Ðạo và Quả, và đưa họ về.- Theo lời Thế Tôn, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến đó, thuyết pháp cho họ làm họ giác ngộ về Ðạo và Quả; đến ngày hôm sau, khi trời mới rạng đông, Tôn giả đem các Tỷ-kheo ấy về Trúc Lâm.

Sau khi về, Trưởng lão Xá-lợi-phất đảnh lễ Thế Tôn.

Khi đang đứng tại đây, các Tỷ-kheo tán thán vị Trưởng lão với Thế Tôn như sau:- Bạch Thế Tôn, sáng chói huy hoàng là Pháp huynh niên trưởng của chúng con, bậc Tướng quân Chánh pháp, với năm trăm Tỷ-kheo vây quanh đã đi trở về.

Còn Ðề-bà-đạt-đa mất hết những người theo kẻ ấy.- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Xá-lợi-phất mới sáng chói huy hoàng khi về với bà con hội chúng vây quanh, nhưng trong thời quá khứ, cũng sáng chói huy hoàng như vậy!Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này.

Thế Tôn trình bày rõ ràng câu chuyện quá khứ sau đây.*Thuở sau, tại nước Ma-kiệt-đà, trong thành Vương Xá, một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì.

Lúc ấy, Bồ-tát ra đời làm con nai, lớn lên và ở trong rừng với đàn nai một ngàn con.

Bồ-tát sanh được hai con nai, tên là Lakkhana (Ðiềm lành) và Kala (Ðen).

Khi đã già, Bồ-tát nói với hai con:- Này con thân, ta nay đã già, các con hãy coi sóc đàn nai.Rồi Bồ-tát giao năm trăm nai cho mỗi con.

Từ đấy về sau, hai con nai ấy chăm sóc đàn nai.Trong nước Ma-kiệt-đà, vào mùa lúa chín, khi lúa trổ đầy, có nhiều nguy hiểm cho đàn nai.

Với mục đích giết hại những con thú ăn lúa, dân làng đào hầm hố, cắm chông, bày bẫy đá, đặt bẫy sộp và các loại cạm bẫy khác.

Nhiều con nai bị nạn phải chết.Bồ-tát biết là thời lúa chín trổ đầy, cho gọi hai con lại và nói:- Này con thân, nay là thời lúa chín trổ đầy, nhiều con nai đã gặn nạn.

Ta nay đã già sẽ dùng bất cứ phương tiện nào để ở lại một chỗ.

Còn các con hãy đem đàn nai của các con, ẩn vào những con đường núi đá trong rừng, đợi khi lúa gặt hái xong, sẽ trở về lại!Chúng vâng theo lời dạy của cha, ra đi với đàn nai tùy tùng.

Dân làng biết được con đường của chúng đi.

Trong thời này, các con nai leo núi; trong thời này, chúng xuống núi nên họ ẩn núp tại các chỗ kín, đây đó dọc đường, để bắn và giết chúng vô số.Con nai Kala, với sự ngu si của mình, không biết thời nào nên đi, thời nào không nên đi, cứ đem đàn nai đi sáng, chiều, khi chạng vạng, khi rạng đông, ngang qua cửa làng.

Và các nông dân hoặc lộ liễu hoặc ẩn núp chỗ này chỗ kia giết chúng, khiến nhiều con nai gặp nạn.

Như vậy, với sự ngu si của mình, nai Kala làm cho nhiều con nai gặp nạn, số còn lại đi vào rừng với nó rất ít.Còn nai Lakkhana nhờ có trí, thông minh, thiện xảo, biết thời nào nên đi, thời nào không nên đi, nó không đi ngang qua cửa làng, không đi ban ngày, không đi lúc hoàng hôn, khi rạng đông, mà chỉ đem đàn nai đi vào lúc nửa đêm.

Do vậy, không một nai nào gặp nạn, và chúng cùng nó đi vào rừng.

Chúng sống bốn tháng tại đây khi lúa đã được gặt hái, mới xuống núi.Kala, trên đường về, lặp lại hành động ngu si trước, khiến những con nai còn lại gặp nạn, một lần nữa, chỉ có một mình nó trở về.

Con nai Lakkhana không làm một nai nào bị nạn, cùng với năm trăm nai vây quanh, đi về với cha mẹ.

Khi Bồ-tát thấy hai con đi về, nghĩ về đàn nai, liền nói lên bài kệ này:Con người có giới hạnh

Ðược phần thưởng đón mừng,

Xem Lak-kha-na về,

Cầm đầu chúng bà con,

Hãy xem Ca-la này

Với bà con hủy diệt.Như vậy, Bồ-tát đón mừng nai con, sống tại đấy cho hết tuổi thọ rồi đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Xá-lợi-phất không phải chỉ hôm nay mới được chói sáng với bà con vây quanh, mà trước kia cũng đã chói sáng như vậy.

Còn Ðề-bà-đạt-đa không phải chỉ hôm nay mới làm cho quyến thuộc bị hủy diệt, mà trước kia cũng như vậy.Sau khi thuyết pháp thoại này xong, so sánh hai câu chuyện, và kết hợp chúng với nhau, Ngài kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, con nai Kala là Ðề-bà-đạt-đa, đoàn tùy tùng của nó là đàn tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa; con nai Lakkhana là Xá-lợi-phất; nai mẹ là mẹ của Ràhula (La-hầu-la) và nai cha là Ta vậy.-ooOoo-12.

CHUYỆN CON NAI CÂY ÐA (Tiền thân Nigrodhamiga)Sống với Nigrodha...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về mẹ của Trưởng lão Cumarakassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp).

Tục truyền rằng thuở còn là con gái một triệu phú giàu có ở thành Vương Xá, nàng đầy thiện căn để chấm dứt các hành, sống đời cuối cùng như cây đèn trong ghè, nội tâm nàng sáng chói niềm hy vọng chứng quả A-la-hán.

Từ khi hiểu biết về mình, nàng không vui trong đời sống gia đình, và muốn xuất gia.

Nàng thưa với cha mẹ:- Thưa cha mẹ thân, tâm con không vui với đời sống gia đình, con muốn xuất gia trong Giáo pháp giải thoát của đức Phật.

Hãy cho phép con xuất gia.- Này con, con nói gì vậy?

Gia đình này rất giàu có.

Con là con gái độc nhất của chúng ta.

Con không được xuất gia!Nàng tiếp tục xin, không được cha mẹ cho xuất gia, nàng nghĩ: "Thôi, hãy chấp nhận là vậy.

Khi nào về nhà chồng, được chồng bằng lòng, ta sẽ xuất gia!"

Nàng lớn lên, đi về nhà chồng, trở thành người vợ trung thành, sống trong gia đình có giới hạnh và theo thiện pháp.

Khi nàng sống trong gia đình, nàng thụ thai, nhưng không biết mình đã thụ thai.Một ngày hội lớn được tuyên bố trong thành ấy và mọi người trong thành phố vui chơi hội lớn.

Thành phố được trang hoàng như thành phố Chư Thiên.

Nhưng trong khi lễ hội lớn đạt đến cao độ, nàng vẫn không thoa phấn son, không đeo đồ trang sức, ăn mặc như ngày thường.

Chồng nàng nói với nàng:- Này hiền thê, toàn thành phố vui chơi hội lớn.

Còn em thì không săn sóc gì cho thân mình.- Thưa hiền phu, thân này của em đầy ba mươi hai bộ phận của thân xác, trang điểm thân này làm gì?

Thân này không do chư Thiên hóa sanh, không do Phạm thiên hóa sanh, không làm bằng vàng, không làm bằng châu báu, không làm bằng gỗ chiên-đàn vàng, không sanh từ đài sen trắng, sen hồng hay sen xanh, không đựng đầy thuốc trường sanh.

Thân này uế nhiễm do cha mẹ sanh, bị vô thường hủy diệt, băng hoại tan nát, làm nghĩa trang tăng trưởng, bị ai chấp thủ, là nhân của sầu ưu, là căn cứ của than khóc, là kho tàng của mọi bệnh tật, là chỗ dung nạp của nghiệp lực, nội bộ ô uế, ngoại bộ thường bài tiết.

Thật vậy, như toàn thế giới có thể thấy cứu cánh của nó là chết, đi đến nghĩa địa, là chỗ tự hội các côn trùng.

Và nàng nói lên lời cảm thán:Ràng buộc bởi gân xương,

Dính lại với da thịt,

Thân bị da bao trùm,

Không thấy được như thật.- Kính thưa hiền phu, em trang điểm thân này làm gì?

Có phải chăng trang điểm thân này chẳng khác gì trang điểm bề ngoài một cái bình đựng đầy phân?Người triệu phú nghe nàng nói như vậy bèn hỏi:- Nếu hiền thê thấy thân này tội lỗi như vậy, sao hiền thê không xuất gia?- Thưa hiền phu, nếu em được phép xuất gia, em sẽ xuất gia ngay hôm nay!Nói xong, sau khi tổ chức bố thí lớn và tỏ lòng hết sức kính trọng Giáo hội, người triệu phú cùng với một số tùy tùng lớn đưa nàng xuất gia, và nàng được xuất gia với chúng Tỷ-kheo-ni thuộc phái Ðề-bà-đạt-đa.

Sau khi xuất gia, nàng sống hoan hỷ với tâm tư viên mãn.Khi cái thai của nàng đã thuần thục, các Tỷ-kheo-ni nhận thấy các căn của nàng đổi khác, tay chân và lưng lớn lên, màn da bụng to lên, hỏi nàng:- Này hiền muội, hình như hiền muội có thai.

Sự việc này thế nào?- Thưa các hiền tỷ, tôi không biết sự việc này.

Giới hạnh tôi đầy đủ!Rồi các Tỷ-kheo-ni đưa nàng đến Ðề-bà-đạt-đa và hỏi Ðề-bà-đạt-đa:- Thưa Tôn giả, thiện nữ nhân này, với sự chấp nhận khó khăn của người chồng, đã được xuất gia.

Nay nàng có thai, chúng tôi không biết nàng thọ thai nhi khi còn là cư sĩ, hay khi đã xuất gia.

Nay chúng tôi phải làm gì?Ðề-bà-đạt-đa tự mình chưa phải là bậc Giác ngộ, nên không có lòng kham nhẫn, từ bi, từ mẫn và suy nghĩ: "Một Tỷ-kheo-ni thuộc phái Ðề-bà-đạt-đa nay đã có thai, và Ðề-bà-đạt-đa lại hỷ xả.

Ta sẽ bị chỉ trích như vậy.

Ta phải đuổi người này."

Rồi không điều tra, như xô đẩy một tảng đá, Ðề-bà-đạt-đa lập tức khẳng định và nói:- Hãy đi ngay và tẩn xuất người này!Chúng Tỷ-kheo-ni ấy nghe nói vậy, đứng dậy đảnh lễ rồi đi về trú xứ.

Nàng thiếu phụ thưa với các Tỷ-kheo-ni ấy:- Thưa các Nữ Tôn giả, Trưởng lão Ðề-bà-đạt-đa không phải đức Phật!

Con xuất gia không phải với Ðề-bà-đạt-đa, nhưng con xuất gia với bậc Chánh Ðẳng Giác, bậc tối thượng ở đời.

Chớ làm mất nơi con điều con đã được một cách khó khăn!

Hãy đưa con đi đến Kỳ Viên, gặp bậc Ðạo Sư!Chúng Tỷ-kheo-ni ấy đưa nàng đi, vừa qua con đường dài bốn mươi lăm dặm, từ Vương Xá dần dần đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư và tường trình sự việc.

Bậc Ðạo Sư suy nghĩ: "Dầu thai của nàng ấy được tượng hình khi còn là gia chủ, đây cũng là một dịp để ngoại đạo nói rằng Sa-môn Gotama đã nhận lấy một Tỷ-kheo-ni bị Ðề-bà-đạt-đa loại bỏ.

Ðể chấm dứt câu chuyện, vấn đề này còn được giải quyết trước mặt vua và tùy tùng của vua".Ngày hôm sau, Thế Tôn cho mời vua Pasenadi, (Ba-tư-nặc) nước Kosala, ông Cấp Cô Ðộc lớn, Cấp Cô độc nhỏ, nữ cư sĩ Visàkhà, và các nhân vật có tiếng khác.

Rồi vào buổi chiều, giữa bốn chúng đã đều tụ họp, Thế Tôn bảo trưởng lão Upàli.- Hãy đi làm cho sáng tỏ sự việc của Tỷ-kheo-ni trẻ này giữa bốn chúng!- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Vị trưởng lão đi đến giữa hội chúng, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn cho mình, cho gọi nữ cư sĩ Visàkhà trước mặt nhà vua, và giao việc điều tra này:- Hãy đi, này Visàkhà, trước hết, hãy xác định ngày xuất gia, tháng xuất gia của người thiếu phụ này.

Sau khi biết rõ rồi, hãy tìm hiểu nàng thụ thai trước đây hay sau thời gian ấy.Nữ cư sĩ chấp nhận lời dạy, cho treo một cái màn.

Sau cái màn ấy, nữ cư sĩ quan sát tay, chân, lỗ rún, bụng, các phần thân khác của Tỷ-kheo-ni trẻ.

Sau khi tính ngày tháng, biết được nàng thụ thai trong thời kỳ còn là gia chủ, nữ cư sĩ đi đến vị Trưởng lão và báo cáo kết quả.Vị trưởng lão, giữa bốn chúng, tuyên bố Tỷ-kheo-ni ấy là thanh tịnh.

Bấy giờ nàng được xác nhận là thanh tịnh, liền đến đảnh lễ chúng Tỷ-kheo và bậc Ðạo Sư, rồi đi về trú xứ với các Tỷ-kheo-ni.

Khi bào thai đã thuần phục, nàng sanh được một bé trai có uy lực lớn, do nàng cầu nguyện dưới chân Ðức Phật Padumuttara cách đây nhiều kiếp.Nhà vua, một hôm đi đến gần trú xứ của Tỷ-kheo-ni, nghe tiếng của đứa trẻ, và hỏi các đình thần.

Các đình thần biết câu chuyện, thưa lại với vua:- Tâu Ðại Vương, vị Tỷ-kheo-ni trẻ ấy sanh được một đứa con trai.

Ðây là tiếng khóc của đứa trẻ.- Này các khanh, nuôi con là một chướng ngại cho các Tỷ-kheo-ni.

Chúng ta sẽ nuôi dưỡng nó.Vua giao đứa trẻ cho các thiếu phụ bà con và bảo nuôi dưỡng nó lớn như một hoàng tử.

Ðến ngày đặt tên, nó được tên là Kassapa, nhưng được biệt danh là hoàng tử Kassapa, vì được nuôi dưỡng như một hoàng tử.

Khi lên bảy tuổi, Kassapa xuất gia với bậc Ðạo Sư, và khi đầy đủ tuổi, được thọ Ðại Giới.

Thời gian đi qua, vị ấy trở thành một nhà thuyết pháp tài giỏi giữa các nhà thuyết pháp.

Rồi bậc Ðạo Sư ấn chứng cho vị ấy:- Này các Tỷ-kheo, vị này là đệ nhất trong các đệ tử thuyết pháp của Ta, tức là Hoàng tử Kassapa.

Hoàng tử Kassapa, nhờ kinh Vammika (Kinh Trung Bộ, số 23) chứng quả A-la-hán.

Tỷ-kheo-ni, mẹ vị ấy, nhờ phát triển Thiền quán, chứng quả cao nhất.

Trưởng lão Cumarakassapa, giữa giáo pháp đức Phật, sáng chói như mặt trăng rằm giữa hư không.Một hôm, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đức Như Lai khuyến giáo các Tỷ-kheo xong, đi vào Hương Phòng.

Sau khi được lời khuyến giáo, Tăng chúng sinh hoạt trong các gian phòng ban ngày, hay gian phòng ban đêm của họ.

Vào buổi chiều, họ hội họp tại Pháp đường, và tán thán đức hạnh của đức Phật:- Này các Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa tự mình không phải là Phật, lại không có kham nhẫn, lòng từ bi, lòng từ mẫn, đã khiến cho Trưởng lão Cumarakassapa và Trưởng lão ni gần bị hại.

Nhưng bậc Chánh Ðẳng giác tự mình là bậc Pháp Vương, lại thành tựu kham nhẫn, lòng từ bi, lòng từ mẫn, đã trở thành chỗ nương tựa cho hai vị ấy.Bậc Ðạo sư, với uy nghi của Ðức phật, đi vào Pháp đường, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi luận bàn chuyện gì?Các Tỷ-kheo thưa:- Bạch Thế Tôn, chúng con bàn đến công đức của Thế Tôn.- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới trở thành chỗ nương tựa cho hai người ấy, nhưng trong quá khứ cũng vậy.Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề này.

Thế Tôn trình bày rõ câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm một con nai.

Khi từ bụng mẹ sanh ra, con nai có màu sắc vàng, mắt của nó giống như hòn châu báu, sừng màu trắng bạc, miệng đỏ như tấm màn nhung, móng chân láng trơn như màu sơn mài, đuôi giống như đuôi con trâu rừng (Yak), thân to lớn bằng con nghé.

Nó sống trong rừng, được vây quanh với năm trăm con nai và được gọi là nai chúa Nigrodla (Cây Ða).

Không xa bao nhiêu, có một con nai khác, với năm trăm con nai tùy tùng và được gọi là nai Sakha (Nhành), nai này cũng màu sắc vàng.Lúc bấy giờ vua Ba-la-nại thường hay săn bắn nai, không có thịt nai thì không ăn cơm.

Hằng ngày vua triệu tập dân thành dân tỉnh lại, đình chỉ công việc của mọi người và vua thích đi săn bắn.

Mọi người suy nghĩ: "Vua này đình chỉ công việc của chúng ta; chúng ta hãy gieo bẫy mồi và đặt nước uống cho các con nai trong vườn, đuổi nhiều nai vào trong ấy, đóng cửa lại và bắt dẫn chúng đến vua".Như vậy, họ gieo cỏ làm bẫy mồi, đặt nước uống khắp vườn, cho sắp đặt cửa, đem theo những người trong thành, tay cầm côn, gậy và các loại binh khí khác đi vào rừng tìm nai, họ bao một vòng vây khoảng độ một dặm để bắt đàn nai bị vây ở giữa, và như vậy họ vây quanh chỗ ở của đàn nai Nigrodha và đàn nai Sakha.Khi thấy đàn nai, họ bắt đầu lấy gậy đập cây, đập bụi, đập đất, đuổi đàn nai ra khỏi chỗ ở của chúng, khua động các loại vũ khí như gươm, giáo, cung, la hét và đuổi đàn nai vào rừng.

Rồi họ đóng cửa lại, đi đến gặp vua và thưa:- Thưa Ðại Vương, vì luôn luôn đi săn nai, Ðại Vương phá hoại công việc của chúng con.

Nay chúng con đã dẫn đàn nai rừng vào đầy cả vườn của Ðại Vương.

Từ nay trở đi, Ðại Vương có thể ăn thịt chúng.Sau khi thưa như vậy, dân chúng bỏ đi.

Nhà vua nghe họ nói, đi đến khu vườn, nhìn các con nai, thấy hai con nai vàng, liền tha chết cho chúng.

Từ đấy về sau, có khi nhà vua tự đi bắn một con nai rồi đem về.

Có khi người đầu bếp đi đến, bắn nai rồi đem về.

Các con nai, thấy cây cung, liền run rẩy vì sợ chết nên bỏ chạy.

Nhưng khi bị hai hay ba vết thương, chúng mệt mỏi, bị bệnh, và bị giết.

Ðàn nai báo cáo sự việc như vậy lên Bồ-tát.

Bồ-tát cho gọi Sakha và nói:- Này bạn, nhiều con nai bị hại, dầu thế nào chúng cũng phải chết.

Nhưng bắt đầu từ nay trở đi, chớ để các con nai bị tên bắn một cách vô ích.

Hãy để các con nai thay phiên nhau đi đến chỗ phải chết.

Một ngày là phiên đàn nai của tôi, một ngày là phiên nai của bạn.

Con nai nào đến phiên của mình cứ đi đến, nằm xuống đặt đầu vào chỗ phải chết.

Làm vậy, các con nai khác khỏi bị thương.Con nai Sakha chấp thuận.

Từ đấy trở đi, theo phiên mình, một con nai đi đến, nằm xuống, đặt cổ vào chỗ bị giết.

Người đầu bếp đến, bắt con nai nằm đấy rồi đem đi.Một hôm đến phiên một con nai cái có mang ở trong đàn nai Sakha.

Con nai cái đến gặp Sakha và thưa:- Thưa chúa tể, tôi có thai, sắp sanh con, như vậy đàn có hai mạng sống đến phiên.

Hãy cho qua phiên của tôi.Nai Sakha nói:- Không thể bảo những con nai khác thế phiên cho ngươi được.

Ngươi hãy chịu những gì sẽ đến với ngươi, hãy đi đi.Con nai cái ấy không được nai Sakha chấp thuận, liền đi đến Bồ-tát và trình bày sự việc.

Bồ-tát nghe xong liền nói:- Ðược, hãy đi đi!

Ta sẽ bỏ qua phiên của người!Rồi nai chúa tự mình đi đến, đặt đầu vào chỗ chết nằm chờ.

Người đầu bếp thấy vậy liền nói:- Con nai chúa đã được tha khỏi chết, nay lại nằm ở chỗ chết này.

Sự việc này là cớ sao?Rồi kẻ ấy đi báo cáo cho vua hay.

Nhà vua lập tức ngự lên xe, đi đến với đoàn tùy tùng đông đảo, thấy Bồ-tát, liền nói:- Này bạn nai chúa, ta đã tha khỏi chết cho người.

Sao nay ngươi nằm ở đây?- Thưa Ðại Vương, một con nai cái đến gặp tôi, yêu cầu một con khác thay phiên cho nó.

Tôi không có thể bắt một con nào khác chịu đau đớn vì bị chết được.

Tôi quyết định cho con nai cái ấy mạng sống của tôi, nhận lấy cái chết thay cho con nai cái, nên nằm ở đây, Ðại Vương chớ có nghi ngờ gì khác!Vua nói:- Hỡi nai chúa sắc vàng, từ trước, ta chưa bao giờ thấy giữa loài người, có ai đầy đủ khảm nhẫn, hòa ái, từ bi như ngươi.

Do vậy, ta thật bằng lòng với ngươi.

Hãy đứng dậy, ta sẽ cho ngươi và con nai cái ấy thoát khỏi sợ hãi!- Thưa bậc nhân chủ, có hai con nai được thoát khỏi sợ hãi, đàn nai còn lại thì thế nào?- Này nai chúa, ta sẽ cho đàn nai còn lại thoát khỏi sợ hãi.- Thưa Ðại vương, các con nai được thoát khỏi sự sợ hãi, nhưng các con sinh vật bốn chân khác thì sao?- Này nai chúa, ta cũng cho chúng thoát khỏi sợ hãi!- Thưa Ðại Vương, các loài bốn chân được thoát khỏi sợ hãi, nhưng các đàn chim thì thế nào?- Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khỏi sợ hãi!- Thưa Ðại Vương, các loại chim như vậy được thoát khỏi sợ hãi, nhưng còn đàn cá sống ở trong nước thì thế nào?- Này nai chúa, ta cũng sẽ cho chúng thoát khỏi sợ hãi!Như vậy con nai chúa đã xin vua được thoát khỏi sợ hãi cho tất cả chúng sanh, đứng dậy, khuyên nhà vua thọ năm giới, và nói:- Thưa Ðại Vương, hãy sống theo Chánh pháp!

Hãy xử sự đúng Chánh pháp đối với cha mẹ, đối với con trai, con gái, đối với Bà-la-môn, gia chủ, đối với dân ở thành phố, dân ở các tỉnh.

Hãy tự mình sống đúng Chánh pháp, khi nhân loại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này!Sau khi thuyết pháp cho vua với uy lực kỳ diệu của Ðức phật, Bồ-tát sống tại khu vườn trong một vài ngày để khuyến giáo vua, rồi cùng với đàn nai vây quanh, lên núi đi theo chúng vào rừng.

Con nai cái đẻ ra một con nai đực đẹp như một nụ hoa.

Nai con này đi chơi với đàn nai Sakha.

Thấy nai mình đi chơi với đàn nai Sakha, nai mẹ khuyên con mình, bắt đầu từ nay chớ đi tới Sakha, nên đi tới Nigrodha và nói lên bài kệ:Sống với Ni-gro-dha,

Chớ sống với Sa-kha!

Chết với Ni-gro-dha,

Hơn sống với Sa-kha.Từ đấy trở đi, các con nai thoát khỏi sợ hãi khi ăn lúa của dân chúng.

Và dân chúng nhớ rằng các con nai được thoát khỏi sợ hãi, nên không dám đánh đập hay đuổi chúng đi.

Họ tụ họp tại sân vua và báo cáo lên vua biết.

Vua nói:- Do ta bằng lòng, ta đã cho nai Nigrodha một đặc ân.

Ta thà mất nước chớ không bỏ lời đã hứa.

Hãy đi đi, trong quốc độ của ta, không con nai nào bị đánh cả!Nai Nigrodha, nghe tin này, liền hợp đàn nai lại và bảo:- Bắt đầu từ nay, chớ ăn lúa của người khác!Sau khi bảo chúng hứa như vậy, nai Nigrodha báo tin cho dân chúng biết:- Bắt đầu từ nay, những người trồng lúa chớ rào ruộng lại để bảo vệ lúa, chỉ làm dấu bằng cách cột lá lúa lại.Bắt đầu từ đấy, theo tin đồn, khởi lên tục lệ cột lá lúa lại giữa các đồng ruộng.

Bắt đầu từ đấy, các con nai không vượt qua đồng ruộng có lá lúa cột lại.

Ðây là nhờ Bồ-tát khuyến giáo chúng như vậy.

Sau khi khuyến giáo đàn nai, Bồ-tát sống ở đấy cho hết tuổi thọ, rồi cùng với đàn nai đi theo nghiệp của mình.

Còn nhà vua nghe lời khuyến giáo của Bồ-tát, suốt đời làm các công đức rồi sau đó đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói sau khi kể pháp thoại:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới bảo vệ Trưởng lão ni và Kumarkassapa, mà thuở trước Ta cũng bảo vệ như vậy.Rồi Ngài thuyết giảng Bốn Sự thật, nêu sự liên hệ giữa hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận bằng cách nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, con nai Sakha là Ðề-bà-đạt-đa, đàn nai là tùy tùng của Ðề-bà-đạt-đa, nai cái là Trưởng lão ni, nai con là Kumarakassapa, vua là Ànanda, con nai chúa Nigrodha là Ta vậy.-ooOoo-13.

CHUYỆN MŨI TÊN (Tiền thân Kandina)Ðáng nguyền rủa mũi tên...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể lại sự cám dỗ của những người vợ trước đối với các Tỷ-kheo.

Câu chuyện này sẽ được kể trong Tiền thân Indriya số 248, Chương tám.

Thế Tôn nói với Tỷ-kheo- Này Tỷ-kheo, do người đàn bà này, trước kia mạng ông bị hoại diệt và bị thiêu sống trong lửa hừng.Các Tỷ-kheo yêu cầu Thế Tôn giải thích rõ câu chuyện ấy, và Thế Tôn trình bày rõ câu chuyện bị tái sanh che lấp.[Bắt đầu từ nay, chúng tôi sẽ không nói đến lời yêu cầu giải thích của các Tỷ-kheo, sự trình bày rõ câu chuyện bị tái sanh che lấp, mà chúng tôi chỉ nói: Kể câu chuyện quá khứ.

Tất cả các phần còn lại đều được hiểu như ở các chuyện trước.]*Thuở xưa, tại nước Ma-kiệt-đà, vua nước ấy đang trị vì ở thành Vương Xá.

Ðến mùa lúa, các con nai trú ở Ma-kiệt-đà gặp nguy hiểm, vì vậy chúng đi vào con đường núi trong rừng.

Tại đấy, một con nai rừng lại luyến ái một con nai cái sống ở một làng biên địa.

Khi các con nai từ đường núi về trong thời đi xuống biên địa của làng, vì tâm luyến ái con nai cái ấy, con nai núi đi theo nó.

Con nai cái nói:- Chàng là một con nai núi ngu si.

Tại biên địa của làng, có nguy hiểm và có chuyện đáng sợ hãi.

Chớ đi xuống với chúng tôi.Vì con nai núi có tâm luyến ái, không chịu trở lui, vẫn đi với con nai cái.

Người dân ở Ma-kiệt-đà biết thời kỳ các con nai từ đường núi đi xuống, và ẩn núp tại chỗ kín bên đường.Trên đường hai con nai ấy trở về, một người thợ săn ẩn núp tại một chỗ kín.

Con nai cái đánh được hơi người, biết có người thợ săn ẩn núp, nên bảo con nai ngu si đi trước, còn mình đi sau.

Người thợ săn chỉ với một phát tên, bắn ngã con nai tại chỗ.Con nai cái biết con nai rừng bị bắn trúng, liền nhảy lên, chạy như gió.

Người thợ săn ra khỏi chỗ ẩn núp, lột da con nai núi, nhen lửa, và nướng thịt nai ngon ngọt trên đống than cháy không ngọn.

Sau khi ăn thịt, uống nước xong, với đòn gánh anh ta mang về phần thịt dư thừa còn máu nhỏ giọt để làm vui lòng mấy đứa trẻ, và đi về nhà.Lúc ấy, Bồ-tát được sanh làm một vị thần ở khu rừng ấy.

Thấy sự việc đã xảy ra, ngài suy nghĩ như sau: "Con nai ngu dại này chết không phải do mẹ, không phải do cha, chỉ do lòng dục.

Chúng sanh hưởng lạc thú khi dục mới tượng hình, nhưng rồi sẽ gặp nạn khổ đau, bị chặt tay, bị năm loại khổ đau, bị trói, bị đánh.

Làm cho những người khác khổ và chết là điều đáng bị chỉ trích ở trong đời này!

Quốc độ nào có nữ nhân hoành thành, ra mệnh lệnh, quốc độ ấy bị nữ nhân lãnh đạo là điều đáng chỉ trích!

Những chúng sanh nào chịu để cho nữ nhân chi phối thật đáng bị chỉ trích".Trong khi các vị thần khác nói lời tán thán và cúng dường hương, hoa v.v..., Bồ-tát tóm thâu ba lời chỉ trích trong một bài kệ, khiến toàn khu rừng ấy vang lên âm thanh dịu ngọt.

Ngài thuyết pháp với bài kệ này:Ðáng nguyền rủa mũi tên

Bắn người gây thống khổ,

Ðáng nguyền rủa quốc độ

Do nữ thần lãnh đạo!

Ðáng nguyền rủa chúng sanh

Chịu thần phục đàn bà!Như vậy, với một câu kệ, cả ba lời chỉ trích được Bồ-tát tóm thâu, và toàn khu rừng vang dậy lời thuyết pháp khi Bồ-tát thuyết giảng uy lực của đức Phật.*Bậc Ðạo Sư, thuyết pháp thoại này xong, liền giảng về Bốn Sự thật.

Cuối bài thuyết giảng, vị Tỷ-kheo ái luyến chứng quả Dự Lưu.

Bậc Ðạo sư kể hai câu chuyện, kết hợp chúng với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, con nai rừng là vị Tỷ-kheo luyến ái, con nai cái là vợ trước của Tỷ-kheo, còn vị thần thuyết pháp nêu rõ tội lỗi dục tham là Ta vậy.-ooOoo-14.

CHUYỆN CON NAI GIÓ (Tiền thân Vàtamiga)Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng Lão Cullapindapatika Tissa.

Theo truyền thống, khi bậc Ðạo Sư ở tại Trúc Lâm, gần Vương Xá, con trai của một gia đình triệu phú giàu có, tên là Tissakumara, một hôm đi đến Trúc Lâm, nghe bậc đạo sư thuyết pháp.

Tissa về nhà, xin phép xuất gia, nhưng cha mẹ không bằng lòng.

Tissakumara bèn nhịn đói trong bảy ngày như Ratthapàla (Kinh Trung Bộ số 83) và được cha mẹ chấp thuận xuất gia với bậc Ðạo Sư.Ðộ nửa tháng, sau khi truyền giới xuất gia cho Tissakumara, bậc Ðạo Sư, từ Trúc Lâm đi đến Kỳ Viên.

Tại đấy, vị thiện nam này theo người ba hạnh đầu đà, dùng thời gian khất thực từng nhà ở Xá-vệ.

Với danh xưng Trưởng lão Cullapindapatika, vị ấy trở thành sáng chói trong Giáo pháp bậc Ðạo sư như mặt trăng giữa bầu trời.Trong khi ấy, tại Vương Xá, nhân một ngày hội lớn được tổ chức, cha mẹ của Trưởng lão lấy đồ trang sức, mà con thường dùng trong khi còn ở nhà, bỏ vào trong một cái hộp bạc đặt lên trên ngực, vừa khóc vừa nói như sau:- Trong các ngày hội vui khác, con chúng ta thường mang những đồ trang sức này.

Sa-môn Cồ-đàm đem đứa con một của chúng ta đi đến thành Xá-vệ.

Nay con chúng ta ngồi ở đâu?

đứng ở đâu?Một kỹ nữ có nhan sắc đi đến gia đình ấy, thấy vợ nhà triệu phú khóc, liền hỏi vì sao bà khóc.

Bà kể lại câu chuyện.

Người Kỹ nữ thưa:- Thưa bà, con trai bà ưa thích gì?- Nó ưa thích thứ này, thứ này!- Nếu bà cho con chủ quyền hoàn toàn trong gia đình này, con sẽ đem con trai bà về.Bà vợ triệu phú chấp thuận lời đề nghị, cho tiền phí tổn, tiễn kỹ nữ đi với tùy tùng đông đảo:- Hãy đi và dùng sức mạnh của mình đem con ta về.Người kỹ nữ ấy ngồi trong xe có màn che đi đến Xá-vệ, tạm trú tại con đường Trưởng Lão thường đi khất thực.

Nàng được vây quanh với đoàn tùy tùng của mình, và không cho Trưởng lão thấy những người tùy tùng cùng đến từ gia đình triệu phú.

Khi Trưởng lão bắt đầu đi vào đường này khất thực, nàng dùng thìa, dùng bát cúng dường đồ ăn, trói buộc Trưởng lão với lòng tham vị, lần lượt mời Trưởng lão vào ngồi trong nhà và cúng dường đồ ăn.Khi biết Trưởng lão đã bị mình chinh phục, nàng giả đau, nằm ở phòng trong.

Trưởng lão, trong khi đi khất thực từng nhà , đến tại cửa nhà nàng.

Người hầu cầm lấy bình bát của vị ấy và mời vào ngồi trong nhà.

Sau khi ngồi, Trưởng lão hỏi:- Nữ cư sĩ ở đâu?- Thưa Tôn giả, nữ cư sĩ bị đau, và mong muốn được thấy Tôn giả.Bị trói buộc bởi lòng tham vị ngon, phá hoại giới cấm mình đã chấp nhận, Trưởng lão đi vào phòng ngủ của nàng.

Sau đó nàng kể lại nguyên do nàng đến đây cám dỗ vị ấy, trói buộc vị ấy với lòng tham vị, khiến vị ấy từ bỏ sự xuất gia, đặt vị ấy vào trong thế lực của mình, và đưa vị ấy ngồi trong xe với đoàn tùy tùng đông đảo, đi về Vương Xá.

Sự việc này được lan truyền rộng rãi.

Các Tỷ-kheo ngồi trong Pháp đường nói chuyện này:- Này chư Hiền giả, một Kỹ nữ có nhan sắc đã trói buộc Trưởng lão Cullapindaptika Tissa với lòng tham vị ngon và đã đem Trưởng lão đi!Bậc Ðạo Sư đi đến Pháp đường ngồi xuống trên bảo tọa được soạn sẵn, và hỏi chuyện gì đang được các Tỷ-kheo bàn.

Các Tỷ-kheo ấy thuật lại chuyện ấy.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ Tỷ-kheo này bị trói buộc bởi lòng tham vị, đã rơi vào thế lực của nàng, mà thuở trước kẻ ấy cũng đã rơi vào thế lực của nàng.Rồi Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadattha trị vì ở Ba-la-nại, có một người giữ vườn tên là Sanjaya.

Một con nai gió đi đến khu vườn ấy, thấy Sanjaya liền bỏ chạy.

Sanjaya không làm cho nó sợ hãi, cho nó thoát đi.

Con nai ấy tiếp tục đến và thường đi qua lại trong khu vườn.

Người giữ vườn thường hái các loại hoa quả trong vườn, và hàng ngày dâng vua.

Một ngày kia, vua hỏi:- Này khanh, khanh có thấy sự việc gì lạ ở trong khu vườn không?- Tâu Ðại Vương, con không thấy gì khác, con chỉ thấy một con nai gió đi đến, đi qua đi lại trong khu vườn.- Khanh có bắt nó được không?- Nếu được một chút mật ong, con có thể dẫn nó đến ngay trong nội cung.Vua bảo cho kẻ ấy mật ong.Người giữ vườn lấy mật, đi đến khu vườn tại chỗ con nai gió thường đi, kẻ ấy bôi cỏ với mật và ẩn núp.

Con nai đi đến ăn cỏ có dính mật, bị trói buộc bởi lòng tham vị, không đi chỗ khác, chỉ đến khu vườn.

Người giữ vườn biết được con nai đã tham đắm cỏ dính mật, liền dần dần xuất đầu lộ diện.

Những ngày đấu thấy người giữ vườn, con nai ấy liền bỏ chạy, nhưng rồi thấy luôn, nói khởi lòng tin, dần dần đến ăn cỏ đặt trong tay người giữ vườn.Người giữ vườn biết đã lấy được lòng tin của con thú ấy, bèn rải đến đường những cành lá non dày như tấm thảm cho đến nội cung, quàng bên nách một hũ đựng mật, giắt một nắm cỏ và thắt lưng, rải cỏ có dính mật trước mặt con nai, và đưa nó đến tận nội cung.Khi con nai đã vào tận nội cung, họ đóng cửa lại.

Con nai thấy người, hoảng hốt, sợ phải chết, cứ chạy qua chạy lại trong nội cung.

Nhà vua từ lâu đài đi xuống, thấy con nai hoảng sợ, liền nói:- Con nai gió này, cả một tuần không đi đến chỗ nó thấy người, trọn đời không đi đến chỗ nó sợ hãi, con vật sống nơi rừng rậm ấy bị trói buộc bởi lòng tham vị, nay đã đi đến cảnh ngộ như thế này!

Thật vậy, không có gì ác độc hơn là lòng tham vị ở đời.Rồi với bài kệ, vua thuyết pháp:Không gì ác hại hơn

Truyền thuyết nói là vậy,

Ở nhà hay với bạn,

San-gia-da với vị

Chinh phục con nai gió

Chỉ nương tựa núi rừng.Sau khi nói vậy, vua liền thả con nai ấy về rừng.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, người kỹ nữ có nhan sắc ấy không phải chỉ nay mới trói buộc vị ấy với lòng tham vị, và chinh phục vị ấy, nhưng trong thời quá khứ cũng đã làm như vậy.Sau khi thuyết pháp thoại này, Thế Tôn kết hợp hai câu chuyện với nhau, rồi kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, Sanjaya là người kỹ nữ có nhan sắc, con nai gió là Cullapindapatika, còn vua Ba-la-nại là Ta vậy.-ooOoo-15.

CHUYỆN CON NAI KHARÀDIYA (Tiền thân Kharàdiya)Khi con nai có tám móng...,Câu chuyện này, Khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo.

Theo truyền thuyết, vị Tỷ-kheo khó bảo không chấp nhận lời khuyến giáo.

Vì thế, bậc Ðạo Sư hỏi:- Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông khó bảo, không chấp nhận lời khuyến giáo?- Thưa thật vậy, Bạch Thế Tôn!Thế Tôn nói:- Thuở xưa, vì khó bảo ông không chấp nhận lời khuyến giáo của bậc Hiền trí nên bị bắt trong bẫy sập, và mạng sống bị diệt vong!Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamadattta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con nai, với đàn nai vây quanh sống ở trong rừng.

Một con nai chị đưa đến một nai con và nói:- Này em, đây là cháu của em.

Hãy dạy nó học những sự khôn ngoan của loài nai.Bồ-tát nói với con nai cháu:- Vào giờ ấy, hãy đến học.Nhưng con nai cháu không đến vào giờ hẹn.

Một ngày như vậy, bảy ngày cũng như vậy, bỏ qua bảy lời khuyến giáo, nó không đến học sự khôn ngoan của loài nai, và cuối cùng, khi đi lang thang đây đó, nó bị bắt trong một cái bẫy.Mẹ nó đến hỏi Bồ-tát:- Này em, em có dạy cho cháu những khôn ngoan của loài nai không?Bồ-tát nói:- Ðừng nghĩ đến con nai không chấp nhận khuyến giáo ấy nữa.

Con của chị không học những sự khôn ngoan của loài nai.

Nay em không còn muốn khuyến giáo nó nữa.Bồ-tát đọc bài kệ này:Khi nai có tám móng

Với sừng chĩa nhiều nhánh,

Lại có bảy mưu chước

Ðể tự cứu lấy mình,

Ta không dạy nó nữa,

Hỡi Kha-ra-di-ya.Rồi người thợ săn giết con nai bị bắt trong bẫy ấy, và mang thịt về.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo, thuở trước ông cũng khó bảo như vậy.Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và kết luận với sự hiện diện Tiền thân:- Thời ấy, con nai cháu là Tỷ-kheo khó bảo, con nai chị là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), còn con nai khuyến giáo là Ta vậy.-ooOoo-16.

CHUYỆN CON NAI CÓ BA CỬ CHỈ. (Tiền thân Tipallatthamiga)Nai với ba cử chỉ...,Câu chuyện này, khi ở tại tinh xá Badarika ở Kosambi, bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Ràhula (La-hầu-la) ham học các học giới.

Một thời, bậc Ðạo Sư trú ở điện Aggàlava, gần thành Àlavi, nhiều nữ cư sĩ và Tỷ-kheo-ni thường đến tinh xá để nghe pháp.

Thuyết pháp được tổ chức ban ngày.

Nhưng sau một thời gian, các cư sĩ và các Tỷ-kheo-ni không đi nữa, chỉ có Tỷ-kheo và nam cư sĩ.

Từ đấy, thuyết pháp được tổ chức ban đêm.Sau buổi thuyết pháp, các Tỷ-kheo trưởng lão đi về chỗ ở của mình, còn các tu sĩ trẻ nằm tại phòng giảng với các nam giới.

Khi họ ngủ, một số nằm ngáy khò khò và nghiến răng.

Một số chỉ nằm một lát rồi dậy, nhìn thấy sự kiện không thích đáng ấy, và báo cáo lên Thế Tôn.

Thế Tôn chế ra học giới như sau:- Tỷ-kheo nào nằm ngủ với người chưa thọ Ðại giới là phạm tội Pàcittiya (Ba-dật-đề: tội phải thú nhận trước Tăng chúng)Rồi Ngài đi đến Kosambi.

Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo nói với Tôn giả La-hầu-la:- Hiền giả La-hầu-la, Thế Tôn đã đặt ra học giới.

Hiền giả nay hãy tìm chỗ ở của mình.Lúc trước, vì kính trọng Thế Tôn, vì Tôn giả tha thiết học hỏi các học giới, các Tỷ-kheo ấy đã tiếp đón La-hầu-la như vào nhà của mình, đã soạn một chiếc giường nhỏ và cho Tôn giả một cái y lam gối.

Nhưng hôm ấy, các Tỷ-kheo vì sợ vi phạm học giới, nên không cho La-hầu-la chỗ ở.Hiền giả La-hầu-la không đi đến Thế Tôn là phụ thân của mình, cũng không đi đến Xá-lợi-phất là vị Tướng quân Chánh pháp và là giáo thọ sư của mình, cũng không đi đến Ðại-mục-kiền-liên là bậc sư trưởng của mình, lại đi vào phòng vệ sinh của Thế Tôn, như thể đi vào cung điện Phạm thiên và trú ở đấy.Trong phòng vệ sinh của đức Phật, cửa luôn luôn khéo đóng, nền làm bằng đất thơm.

Hoa và vòng hoa kết thành vòng dọc theo những bức tường.

Suốt đêm có cây đèn thắp sáng.

Hiền giả La-hầu-la không vì cảnh sang trọng này mà trú ở đấy, chỉ vì các Tỷ-kheo bảo tìm lấy chỗ ở, chỉ vì tôn trọng lời khuyên bảo, vì muốn học tập nên trú chỗ ấy.Thỉnh thoảng, các Tỷ-kheo thấy Tôn giả từ xa đi đến, vì mục đích thử thách, thường quăng bên ngoài cái cán chổi hay một ít rác, chờ khi La-hầu-la đi đến, liền hỏi:- Hiền giả, ai quăng đồ rác này?Khi được nghe: Chính La-hầu-la đi qua đường này, La-hầu-la không nói: - Thưa Tôn giả, tôi không biết việc này.Trái lại, La-hầu-la thường dọn rác ấy đi, khiêm tốn xin lỗi, và sau khi được tha lỗi mới đi.

Vì mong muốn học tập như vậy, nên La-hầu-la mới trú tại chỗ ấy.Rồi trước khi rạng đông, bậc Ðạo Sư đứng trước cửa phòng vệ sinh và đằng hắng.

Tôn giả đằng hắng lại.- Ai đó?- Con là La-hầu-la.Rồi Tôn giả đi ra đảnh lễ.- Này La-hầu-la, sao con nằm ở đây?- Vì không có chỗ ở, bạch Thế Tôn, trước đây các Tỷ-kheo cho con ở chung, nay vì sợ phạm tội, không cho con chỗ ở.

Nghĩ rằng, đây là một chỗ không va chạm một ai, nên con nằm ở đây!Thế Tôn xúc động mạnh vì Chánh pháp, suy nghĩ: "Với La-hầu-la, các Tỷ-kheo còn vất bỏ như vậy, thì đối với các lớp chúng trẻ mới xuất gia, có gì họ không làm được".Buổi sáng sớm, Thế Tôn cho họp các Tỷ-kheo và hỏi Tướng quân Chánh pháp:- Này Xá-lợi-phất, ông có biết nay La-hầu-la trú tại chỗ nào không?- Bạch Thế Tôn, con không biết.- Này Xá-lợi-phất, La-hầu-la đang ở trong nhà vệ sinh!

Này Xá-lợi-phất, nếu các ông vứt bỏ La-hầu-la như vậy, thì đối với các lớp trẻ mới xuất gia, có gì các ông không làm được?

Nếu sự việc là vậy, những ai xuất gia trong Giáo pháp này sẽ không ở lại.

Bắt đầu từ hôm nay, các ông được phép cho người chưa thọ Ðại giới ở chung một hay hai ngày.

Ðến ngày thứ ba, cho họ ở ngoài, sau khi biết chỗ ở của họ.Sau khi thêm điều khoản phụ này, Thế Tôn chế định học giới.

Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ngồi trong pháp đường tán thán đức hạnh của La-hầu-la:- Thưa các Hiền giả, hãy xem La-hầu-la tha thiết học tập như thế nào.

Khi được hỏi chỗ ở của mình, La-hầu-la không nói: Ta là con đức Thế Tôn.

La-hầu-la không chống đối một Tỷ-kheo nào, nhưng đã đến ở phòng vệ sinh!Khi các Tỷ-kheo đang nói như vậy, bậc Ðạo Sư đến tại pháp đường, ngồi xuống bảo toạ có trang hoàng và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi ở đây đang nói chuyện gì?- Bạch Thế Tôn, chúng con nói đến lòng tha thiết học tập của La-hầu-la, không nói chuyện gì khác.Bậc Ðạo Sư nói:- Không phải chỉ nay La-hầu-la mới tha thiết học tập, mà trước kia khi làm bàng sanh, cũng đã tha thiết học tập rồi.Và Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, một vị vua Ma-kiệt-đà đang trị vì tại Vương Xá.

Lúc ấy Bồ Tát sanh làm một con nai, với đàn nai vây quanh sống ở trong rừng.

Con nai chị đem con mình đến và nói:- Này em, hãy dạy cho cháu em sự khôn ngoan của loài nai.- Tốt lắm.Bồ-tát đáp lại và nói:- Này cháu thân, hãy đi, và vào giờ ấy, hãy đến học.Con nai cháu không quên giờ cậu nói, đúng giờ nó đến và học sự khôn ngoan của loài nai.

Một ngày kia, khi đi qua lại trong rừng, nó bị mắc vào bẫy sập và thốt tiếng kêu của con thú bị bắt.

Ðàn nai bỏ chạy, về báo cho nai mẹ biết con bị mắc bẫy.

Nó đi đến nai em và hỏi:- Này em, cháu đã học sự khôn ngoan của loài nai chưa?Bồ-tát nói:- Ðừng sợ những điềm dữ đến với cháu.

Nó đã khéo học được sự khôn ngoan của loài nai.

Nay sẽ đến lượt chị cười rồi đó!Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:Nai với ba cử chỉ,

Với nhiều sự khôn ngoan,

Biết dùng chân tám móng,

Biết nửa đêm uống nước;

Chỉ với một lỗ tai,

Thở theo nhịp độ đất;

Với sáu sự khôn ngoan,

Cháu tôi thắng người thù.Như vậy, Bồ-tát nêu rõ cháu mình đã học tốt đẹp sự khôn ngoan của loài nai, và an ủi nai chị.

Còn nai con bị bắt trong bẫy sập, không vùng vẫy, nằm duỗi chân hết sức thoải mái theo một bên hông, móng chân cào đất tại chỗ gần chân, hất lên bụi và cỏ, đi tiểu và đại tiện, đầu gục xuống, le lưỡi, làm thân đẫm ướt mồ hôi, rồi nó nín thở khiến bụng trướng lên, trợn mắt, chỉ thở với một lỗ mũi ở dưới, nín thở vói lỗ mũi ở trên, khiến toàn thân cứng đờ như con vật đã chết.

Vì thế cho nên các loài ruồi xanh đến bu quanh nó.

Chỗ này, chỗ kia, các con quạ đã đậu xuống.

Người thợ săn đi đến, lấy tay vỗ bụng nó, suy nghĩ: "Con này bị bắt hồi sáng, nay đã bắt đầu thối rồi", kẻ ấy cởi dây trói cho nai, và nói:- Nay ta làm thịt nó ở đây và sẽ mang thịt về.Không ngờ vực gì cả, người thợ săn bắt đầu lượm cành cây và lá.

Con nai con liền trỗi dậy, đứng lên bốn chân, vùng vẫy cái thân, vươn cổ, và như đám mây bị gió lớn tan, nó chạy rất nhanh về với mẹ nó.*Bậc Ðạo Sư nói:- La-hầu-la không phải nay mới ham học, thuở trước cũng đã ham học như vậy.Thuyết pháp thoại này xong, sau khi kết hợp hai câu chuyện, Ngài kết luận với sự nhận diện Tiền thân như sau:- Khi ấy, con nai cháu là La-hầu-la, con nai mẹ là Upplavannà và con nai cậu là Ta vậy.-ooOoo-17.

CHUYỆN GIÓ THỔI (Tiền thân Màluta)Nếu là tối hay sáng...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về hai Tỷ-kheo xuất gia đã lớn tuổi.

Truyền thuyết kể rằng, tại quốc độ Kosala, họ sống tại một khu rừng, một trưởng lão tên Tối, và một trưởng lão tên là Sáng.

Một hôm, Tối hỏi Sáng:- Thưa Tôn giả, thời nào gọi là lạnh?Sáng nói:- Trong thời tối trăng.Một hôm, Sáng hỏi Tối:- Thưa Tôn giả, thời nào gọi là lạnh?Tối nói:- Trong thời sáng trăng.Cả hai không thể tự giải quyết sự phân vân, bèn đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ Ngài rồi hỏi:- Bạch Thế Tôn, thời nào gọi là lạnh?Bậc Ðạo Sư, lắng nghe câu chuyện của họ xong, liền nói:- Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, Ta đã trả lời câu hỏi này cho các ông.

Do nhiều đời sống chất chứa, nên các ông nhận định không rõ ràng nữa.Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Một thời dưới chân núi, một con sư tử và một con hổ làm bạn với nhau, cùng ở trong một cái hang.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát xuất gia làm một ẩn sĩ, cũng ở dưới chân núi ấy.

Một hôm, một cuộc tranh cãi khởi lên giữa hai con vật ấy về vấn đề lạnh.

Con cọp nói trời lạnh trong thời mặt trăng tối.

Con suu tử lại nói trời lạnh trong thời mặt trăng sáng.

Chúng không thể tự giải quyết sự phân vân, bèn đến hỏi Bồ-tát.

Ngài nói lên bài kệ:Nếu là tối hay sáng

Khi nào có gió thổi,

Có gió thổi, trời lạnh

Cả hai, không ai thua.Như vậy, Bồ-tát giải hòa đôi bạn.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, thuở trước, Ta đã trả lời cho các ông câu hỏi này.Thuyết pháp thoại này xong, Ngài thuyết giảng Bốn Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, hai vị Trưởng lão chứng quả Dự lưu.

Sau khi kết hợp hai chuyện, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân:- Lúc ấy, con cọp là Sáng, con sư tử là Tối, còn Ta là người khổ hạnh đã trả lời câu hỏi.-ooOoo-18.

CHUYỆN ÐỒ ĂN CÚNG NGƯỜI CHẾT (Tiền thân Matakabhatta)Nếu chúng sanh biết được...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về đồ ăn cúng người chết.

Trong thời ấy, nhiều người giết hại nhiều dê cừu...

để cúng đồ ăn cho người thân đã mệnh chung.

Các Tỷ-kheo thấy họ làm như vậy, hỏi bậc Ðạo Sư:- Bạch Thế Tôn, nay nhiều người giết hại sinh mạng nhiều loài hữu tình để cúng đồ ăn cho người chết, Bạch Thế Tôn, ở đây có hạnh phúc, lợi ích nào không?Thế Tôn nói:- Cúng đồ ăn như vậy cho người chết không có lợi ích gì.

Khi đã sát sanh, làm sao có lợi ích được?

Thuở xưa, các bậc Hiền trí ngồi giữa hư không thuyết pháp, nói rõ nguy hại của tập tục này, khiến toàn thể dân chúng ở cõi Diêm-phù-đề bỏ hành động ấy.

Nhưng nay, bị sanh hữu tích lũy, nên hành động ấy lại khởi lên.Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, một Bà-la-môn thông hiểu ba tập Vệ-đà, một danh sư nổi tiếng bốn phương, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, cho bắt một con dê và bảo các đệ tử.- Này các con thân, hãy dẫn con dê này đến sông, tắm cho nó, đeo vòng hoa ở cổ nó, cho nó ăn lúa độ nửa đấu, chải chuốt cho nó rồi đem nó lại đây.Các đệ tử vâng lời, dắt dê đến sông, tắm cho nó, chải chuốt cho nó, rồi để nó đứng trên bờ sông.

Con dê ấy thấy được việc của mình đã làm từ đời trước, suy nghĩ: "Hôm nay, ta sẽ được thoát đau khổ", vì vậy nó cảm thấy sung sướng, cười lớn tiếng như đập bể cái ghè, lại nghĩ: "Bà-la-môn này, khi giết ta, sẽ chịu nỗi đau khổ của ta thuở trước", nó khởi lòng thương hại người Ba-la-môn và khóc lớn tiếng.

Các thanh niên ấy hỏi nó:- Này bạn, bạn cười lớn tiếng rồi khóc lớn tiếng.

Vì nhân gì bạn cười, vì nhân gì bạn khóc?- Hãy hỏi câu hỏi này trước mặt thầy các ông!Họ đem con dê ấy đi, và báo cáo cho thầy biết.

Vị thầy nghe câu chuyện, hỏi con dê:- Này dê, sao ngươi lại cười và sao ngươi lại khóc?Con dê nhờ trí biết được đời trước, nhớ đến việc đã làm của mình, và nói với Bà-la-môn:- Này Bà-la-môn, thuở trước, giống như ông, ta là một Bà-la-môn học giỏi các chú thuật, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, đã giết một con dê để cúng dường.

Vì giết chỉ một con dê, ta bị chém đầu trong bốn trăm chín mươi chín lần sống chết.

Nay là lần thứ năm trăm sống chết cuối cùng của ta.

Hôm nay, ta sẽ thoát khỏi sự đau khổ ấy.

Nghĩ vậy, ta cảm thấy sung sướng, do nhân duyên này ta cười.

Còn ta khóc, vì ta nghĩ rằng chỉ vì giết một con dê, ta phải chịu khổ hình chặt đầu đến năm trăm lần.

Hôm nay ta sẽ thoát cái khổ ấy.

Nhưng Bà-la-môn này, vì giết ta, sẽ như ta chịu khổ hình chặt đầu trải năm trăm đời sống.

Vì thương xót ông, nên ta khóc.- Này dê, chớ sợ, ta sẽ không giết ngươi!- Này Bà-la-môn, ông nói gì thế?

Dầu ông có giết ta hay không, hôm nay ta cũng không thể thoát chết!- Này dê, chớ sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi, sẽ cùng đi với ngươi!- Này Bà-la-môn, nhỏ nhoi thay là sự bảo vệ của ông và mạnh bạo thay là nghiệp ác ta làm!Vị Bà-la-môn thả con dê ra, nói với các đệ tử:Và cùng với các đệ tử, vị Bà-la-môn đi theo con vật.

Con dê vừa được thả, vươn cổ lên, đến bụi cỏ mọc sau lưng tảng đá ấy, và bắt đầu ăn lá cỏ.

Liền khi ấy, sét đánh trên lưng tảng đá ấy, một mảng đá bị đánh vỡ, rơi trên cổ con dê đang vươn ra và chặt đứt đầu.

Nhiều người qui tụ lại xem.Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm vị thần cây tại chỗ ấy.

Với uy lực của vị thần, Bồ-tát ngồi kiết-già trên hư không, trên đại chúng đang đứng nhìn, và suy nghĩ: "Những chúng sanh này, nếu biết được kết quả của việc ác như vậy, sẽ không làm ác nữa!"

Rồi với âm thanh dịu ngọt, Ngài thuyết pháp qua bài kệ:Nếu chúng sanh biết được

Sự này sanh đau khổ,

Hữu tình sẽ không còn

Giết hại hữu tình nữa,

Vì ai giết hũu tình,

Sẽ phải sầu, phải khổ.Như vậy, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp khiến cho mọi người sợ hãi địa ngục.

Và nhiều người nghe bài thuyết pháp ấy, biết sợ hãi điạ ngục, nên từ bỏ sát sanh.

Bồ-tát thuyết pháp xong, an trú quần chúng vào Ngũ giới, rồi về sau đi theo nghiệp của mình.

Còn quần chúng, an trú trong lời khuyên của Bồ-tát, sau khi làm các phước đức như bố thí v.v...

được sanh lên thiên giới, làm tràn đầy thành phố chư Thiên.*Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, Ta là vị thần cây.-ooOoo-19.

CHUYỆN LỄ CÚNG DO CÓ LỢI (Tiền thân Àyàcitabhatta)Nếu muốn thoát hiện tại...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về lễ cúng dường do cầu nguyện các thần linh.

Lúc bấy giờ, theo truyền thuyết, quần chúng trong khi đi buôn, thường hay giết các loài hữu tình, để làm lễ cúng dường cho các thần với lời cầu nguyện: "Nếu chúng tôi về được an toàn, có được tiền lời, chúng tôi sẽ làm lễ cúng dường cho các ngài!".

Cầu nguyện như vậy rồi họ ra đi.

Khi trở về được an toàn, có được tiền lời, họ nghĩ được vậy là nhờ uy lực các vị thần, nên giết hại nhiều loài hữu tình, làm lễ cúng dường để giải toả lời cầu nguyện của mình.Thấy vậy, các Tỷ-kheo hỏi Thế Tôn việc này có lợi ích gì không, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.-ooOoo-Thuở xưa, tại nước Kàsi, một vị gia chủ tại một ngôi làng nhỏ có hứa làm đồ ăn cúng dường cho thần cây bàng mọc gần cổng làng.

Khi đi về được an toàn, vị ấy giết nhiều loài hữu tình, và đến gốc cây để xin giải toả lời hứa.

Nhưng vị thần cây đứng giữa hai cành cây nói lên bài kệ này:Nếu muốn thoát hiện tại,

Hãy nghĩ thoát đời sau,

Thoát hiện tại như vậy,

Là trói buộc thật chặt,

Bậc trí không thoát vậy,

Thoát vậy, buộc kẻ ngu.Từ đấy về sau, dân chúng từ bỏ sát sinh, sống theo chánh pháp, sau khi mạng chung được sanh lên Thiên giới làm tràn đầy thành phố chư Thiên.*Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Lúc bấy giờ, Ta là vị Thần cây.-ooOoo-20.

CHUYỆN HỒ NALAKAPÀNA (Tiền thân Nalakapàna)Thấy dấu chân đi xuống...,Trong khi du hành ở Kosala, đi đến làng Nalakàpàna, sống ở rừng Ketaka, gần hồ Nalakapàna, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện này về cọng lau.

Lúc bấy giờ các Tỷ-kheo, sau khi tắm tại hồ Nalakapàna, bảo các Sa-di đi lấy những cọng lau để làm ống kim, họ thấy các cọng lau đều trống rỗng hoàn toàn, liền đến hỏi Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, chúng con cho lấy các cọng lau để làm ống kim.

Nhưng từ gốc cho đến ngọn, các cọng lau ấy đều trống rỗng hoàn toàn.

Vì sao lại như vậy?Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, đây là do đại nguyện xưa của Ta vậy.Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, theo truyền thuyết, tại đây có cái hồ trong khu rừng rậm.

Trong hồ ấy, có một con quỷ La-sát ăn thịt những ai xuống nước.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát sanh làm khỉ chúa, to lớn như một con nai màu đỏ, được vây quanh với độ tám mươi ngàn con khỉ, Bồ-tát che chở đàn khỉ sống ở trong rừng.

Bồ-tát thường khuyên đàn khỉ:- Này các con thân, trong rừng này có những cây độc và có những hồ chết, tại đấy các loài phi nhân đang sống.

Khi các con ăn những trái cây trước kia chưa ăn và uống nước trước kia chưa uống, hãy hỏi ta đã.Ðàn khỉ vâng lời.

Một hôm, đi đến một chỗ trước kia chưa từng đến, sau nhiều ngày, chúng tìm nước uống, và thấy một cái hồ.

Nhưng chúng không uống nước, cứ ngồi chờ Bồ-tát.

Ngài đến và nói:- Các con thân, sao các con không uống nước?- Chúng con chờ ngài đến.- Tốt lắm, các con thân!Bồ-tát đi vòng hồ thấy có dấu chân đi xuống, không có đi lên, và suy nghĩ:" Không gì nghi ngờ nữa, hồ này có phi nhân ẩn trú".

Bồ-tát nói với đàn khỉ:- Này các con thân, việc các con làm tốt lắm, vì đã không uống nước.

Hồ này có phi nhân ẩn trú.Con quỷ La-sát dưới nước biết được chúng không uống nước, liền hiện ra hình thù ghê rợn với bụng xanh, mặt trắng vàng, tay chân màu đỏ, rẽ nước đi lên và nói:- Sao lại ngồi đây, hãy xuống uống nước!Bồ-tát hỏi:- Có phải ngươi là La-sát sanh ra ở trong nước không?- Phải.- Có phải ngươi bắt những ai xuống uống nước ở đây?- Phải.

Ta bắt từ con chim nhỏ xuống nước trở lên, ở tại đây, ta không tha một ai!

Ta sẽ ăn tất cả các ngươi.- Chúng ta sẽ không để ngươi ăn chúng ta.- Nhưng hãy uống nước đi.- Ðược, chúng ta sẽ uống nước.

Nhưng chúng ta sẽ không rơi vào quyền lực của ngươi.- Làm sao các ngươi uống nước được?- Sao, ngươi nghĩ rằng chúng ta sẽ đi xuống, rồi uống nước à?

Không đi xuống nước, tám mươi ngàn chúng ta mỗi ngày lấy một cành lau, như uống nước ngang qua một cành sen xanh, chúng ta sẽ uống nước hồ của ngươi.

Như vậy, ngươi sẽ không thể ăn thịt chúng ta được!Biết được ý nghĩa này, bậc Ðạo Sư đọc câu kệ:Thấy dấu chân đi xuống,

Không thấy dấu chân lên,

Uống nước với cọng lau,

Ngươi không giết ta được!Nói vậy xong, Bồ-tát cho đem lại một cọng lau, hồi tưởng lại những hạnh Ba-la-mật, phát lời chân ngôn, lấy miệng thổi cọng lau.

Cọng lau trở thành trống rỗng hoàn toàn, không một khúc mắt nào còn lại ở trong.

Với cách thức này, Bồ-tát cho đem lại ống lau khác, rồi ống lau khác và thổi.

Nhưng nếu làm vậy, Bồ-tát không thể thoåi hết được.

Do đó, Bồ-tát không làm như vậy nữa.

Rồi Bồ-tát đi vòng quanh hồ và ra lệnh:- Tất cả cọng lau đều trống rỗng hết!Do lợi hành rộng lớn của các vị Bồ-tát, mệnh lệnh ấy được thành tựu.

Từ đấy trở đi, tất cả cọng lau ở xung quanh hồ trở thành trống rỗng.Trong kiếp này, có bốn thần thông tồn tại suốt kiếp.

Thế nào là bốn?1.

Tướng con thỏ trong mặt trăng, sẽ tồn tại trong suốt kiếp này (Tiền thân số 316).2.

Ðiạ điểm mà lửa được dập tắt, như đã được kể ở Tiền thân Vattaka (số 35), địa điểm ấy sẽ không bị lửa chạm đến trong suốt kiếp này.3.

Tại chỗ có ngôi nhà của người làm đồ gốm Ghatikara không bao giờ mưa rơi xuống trong suốt kiếp này (Kinh Trung Bộ số 81).4.

Các cây lau mọc xung quanh hồ này sẽ hoàn toàn trống rỗng trong suốt kiếp này.Ðây là bốn thần thông sẽ tồn tại trong suốt kiếp này.Bồ-tát ra lệnh như vậy, và lấy một cọng lau rồi ngồi xuống.

Tám vạn con khỉ ấy, mỗi con cầm lấy một cọng lau, đều ngồi xuống vòng quanh hồ.

Và trong khi Bồ-tát hút nước vào qua ống lau, tất cả chúng đều ngồi trên bờ uống nước.

Chúng uống nước như vậy, và con quỷ La-sát dưới nước không bắt được một ai nên không hoan hỷ, bỏ đi về trú xứ của nó.

Còn Bồ-tát với tuỳ tùng vây quanh, trở về sống ở trong rừng.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, những cây lau này hoàn toàn trống rỗng chính do lời phát nguyện xưa của ta.Sau khi thuyết pháp thoại này xong, Ngài kết hợp hai câu chuyện, và kết luận với sự nhận diện tiền thân:- Thời ấy con quỷ La-sát nước là Ðề-bà-đạt-đa, tám vạn con khỉ là hội chúng của đức Phật, còn khỉ chúa khéo dùng phương tiện là Ta vậy.
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM KURUNGA


PHẨM KURUNGA21.

CHUYỆN CON NAI SƠN DƯƠNG (Tiền thân Kurunga)Con nai biết rõ được...,Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, được bậc Ðạo Sư kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Một thời, tại Pháp đường, các Tỷ-kheo ngồi tụ họp, nói lời chỉ trích Ðề-bà-đạt-đa:- Thưa các Hiền giả, với mục đích sát hại Như Lai, Ðề-bà-đạt-đa đã mướn những người bắn cung, xô tảng đá xuống, thả rông con voi Danapalaka (Tài Hộ) dùng mọi cách thức để giết hại Thế Tôn.Rồi bậc Ðạo Sư đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, các ông hãy ngồi đây nói câu chuyện gì?- Bạch Thế Tôn, chúng con ngồi ở đây nói chuyện về những điều thất đức mà Ðề-bà-đạt-đa đã làm để sát hại Thế Tôn!- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới tìm cách sát hại Ta.

Xưa kia, Ðề-bà cũng đã làm như vậy, nhưng không thể sát hại Ta được.Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở thành Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm con nai sơn dương, ăn trái cây, và sống trong rừng.

Một thời, Bồ-tát ăn các trái Sepanni từ những cây Sepanni sai quả.

Có người thợ săn ở làng, một hôm tìm thấy những dấu chân nai dưới gốc cây sai quả ấy, liền dựng một cái dàn trên cây, ngồi ở đấy, phóng cây giáo xuống các con nai đi đến ăn trái cây.

Kẻ ấy sống với nghề săn và bán thịt nai như vậy.Một hôm, thấy dấu chân Bồ-tát dưới một gốc cây, kẻ ấy ăn thật sớm, cầm cây giáo, vào khu rừng, leo lên cây và ngồi trên dàn.

Bồ-tát, vào buổi sáng, từ chỗ ẩn nấp trong rừng đi ra, với ý định ăn trái cây Sepanni.

Bồ-tát không vội đến gốc cây, mà đi vòng quanh đứng vòng ngoài suy nghĩ: "Có khi những thợ săn đặt dàn, dựng dàn trên cây.

Có thể có nguy hiểm như vậy ở đây".Người thợ săn biết Bồ-tát không đi đến, vẫn ngồi trên dàn quăng những trái sepanni xuống, rơi trước mặt Bồ-tát.

Ngài suy nghĩ: "Những trái cây này rơi trước mặt ta, có thể có người thợ săn ở trên".

Bồ-tát quan sát chung quanh, thấy người thợ săn, làm vẻ như không thấy, nói to:- Này bạn cây quý hoá ơi, trước kia, bạn làm những trái cây rơi thẳng xuống, như dây leo lòng thòng xuống, nhưng nay bạn từ bỏ đặc tánh cây.

Vì bạn từ bỏ đặc tánh cây, ta sẽ đi đến gốc cây khác để tìm đồ ăn cho ta vậy.

Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:Con nai biết rõ được

Trái cây ngươi làm rơi,

Ta đi đến cây khác,

Ta không thích trái ngươi.Người thợ săn ngồi trên dàn, quăng cây giáo xuống và nói:- Hãy đi đi!

Nay ta đã bắt hụt ngươi rồi!Bồ-tát nhảy vòng tròn, đứng lại và nói:- Này người kia, chú tuy giết hụt ta, nhưng chú không bắt hụt kết quả hành động chú làm, tức là tám địa ngục lớn, mười sáu địa ngục phụ và năm hình thức trói buộc và hành tội...Nói vậy xong, Bồ-tát liền chạy xa để tìm đồ ăn.

Còn người thợ săn leo xuống, đi đến chỗ kẻ ấy muốn.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới tìm cách sát hại ta.

Xưa kia, Ðề-bà cũng làm như vậy, nhưng không có thể làm được.Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện tiền thân.- Lúc bấy giờ, người thợ săn dựng cái dàn là Ðề-bà-đạt-đa, còn con nai sơn dương là Ta vậy.-ooOoo-22.

CHUYỆN CON CHÓ (Tiền thân Kukkura)Những con chó lớn lên...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể về việc làm lợi ích cho bà con.

Câu chuyện sẽ được trình bày trong Chương mười hai, Tiền thân Bhaddasàla (số 465).

Ðể xác chứng lời dạy này, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamadatta đang trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát do duyên hành động lợi ích cho bà con như vậy, được sanh làm con chó đầu đàn rất thông minh, sống trong một nghĩa địa lớn với đàn chó hàng trăm con vây quanh.Một hôm, vua ngự lên xe được trang hoàng đẹp đẽ, được kéo bởi những con ngựa Sindh giống quý, đi đến khu vườn, trọn ngày vui chơi tại đấy, và khi mặt trời lặn, vua mới trở về thành.

Yên cương của xe vẫn mắc vào xe, và quân hầu để xe trong sân hoàng cung trọn đêm.

Ban đêm, trời mưa, yên cương bị ướt.

Các con chó nhà vua thuộc nòi giống tốt, từ trên lầu đi xuống, nhai ăn da và dây cương chiếc xe ấy.

Hôm sau, họ báo cáo với vua:- Thưa Thiên tử, từ những miệng cống chui vào, các con chó đã nhai ăn da và dây cương chiếc xe.Vua nổi giận, ra lệnh giết tất cả chó mà họ thấy được.

Từ đấy trở đi, khởi lên tai nạn lớn cho loài chó.

Chúng chạy trốn vào nghĩa địa và đến bên cạnh Bồ-tát.

Bồ-tát hỏi:- Các con tụ họp đông ở đây vì duyên cớ gì?Chúng đáp:- Trong nội thành, da và dây cương của chiếc xe vua bị chó nhai ăn.

Vua tức giận ra lệnh tàn sát chúng con.

Nhiều anh em con bị giết hại.

Cuộc khủng bố lớn đã khởi lên.Bồ-tát suy nghĩ: "Tại một chỗ được bảo vệ như vậy, các con chó ở ngoài không có cơ hội để vào.

Ðây là việc làm của đàn chó giống tốt trong nội cung.

Nay những con có tội không gặp việc gì, còn những con vô tội lại bị giết.

Ta hãy cho vua thấy những con chó có tội kia và cứu mạng sống cho bà con vô tội của ta.Bồ-tát an ủi:- Các con chớ sợ, Ta sẽ làm cho các con hết sợ hãi.

Hãy chờ ở đây cho đến khi Ta yết kiến nhà vua.Rồi ngài hướng tâm đến các Ba-la-mật, đặt hạnh từ bi lên hàng đầu, ngài nguyện: "Không một ai dám quăng đá hay gậy để hại ta".

Rồi Bồ-tát một mình đi vào thành.Sau khi ra lệnh sát hại các con chó, vua ngồi một mình trong pháp đình.

Bồ-tát đi đến đây, nhảy thẳng đến dưới chỗ ngồi của vua.

Các người hầu cận của vua cố gắng hết sức đuổi ra, nhưng vua ngăn lại.

Bồ-tát nghỉ một lát, từ dưới ghế đi ra, đảnh lễ vua rồi hỏi:- Có phải Ðại vương sai giết hại các loài chó?- Phải, chính ta.- Lỗi của chúng là gì, thưa bậc nhơn chủ?- Chúng nhai ăn đồ da phụ tùng và dây cương ở xe của ta!- Ngài có biết những con nào đã ăn đồ da không?- Ta không biết.- Không biết những con chó nào đã ăn đồ da, lại ra lệnh giết, như vậy không phải lẽ, thưa Ðại Vương.- Vì các con chó đã ăn đồ da ở xe ta, nên ta ra lệnh tàn sát tất cả con chó thấy được.- Các người của ngài giết tất cả chó hay có tha chết một số chó?- Những con chó nòi giống tốt trong cung của ta được khỏi chết!- Tâu Ðại vương, vừa rồi ngài nói ra lệnh giết tất cả con chó mà họ thấy được vì chúng đã ăn dồ da ở xe của ngài.

Nhưng nay ngài lại nói những con chó giống tốt trong cung của ngài được khỏi chết!

Sự việc là vậy, ngài đã thực hành theo bốn sở hành vô lý: thiên vị, ghét bỏ, ngu si và sợ hãi.

Hành động vô lý như vậy là không chính đáng, không phải là phép vua.

Vì vua, trong khi xử kiện, cần phải giống như cán cân.

Nay các con chó nòi giống tốt được khỏi chết, còn các con chó yếu đuối lại bị giết.

Sự việc như vậy, thì đây không phải sự giết hại không thiên vị tất cả loài chó mà chỉ là sự giết hại các loài chó yếu đuối thôi!Nói xong, bậc Ðại Sĩ, với âm thanh dịu ngọt bảo vua:- Tân Ðại vương, sở hành của ngài không phải là công lý.Rồi thuyết pháp cho vua, Bồ-tát đọc bài kệ này:Những con chó lớn lên

Trong cung điện nhà vua,

Thuộc loài nòi giống tốt,

Có dung sắc, sức mạnh,

Chúng khỏi bị giết hại.

Chỉ chúng tôi bị giết.

Ðây không giết tất cả;

Chỉ giết kẻ yếu hèn.Nghe Bồ-tát nói, vua bèn hỏi:- Này chó hiền trí, ngươi có biết ai đã ăn da ở xe ta không?- Vâng, tôi có biết- Ai đã ăn?- Chính những con chó nòi giống tốt trong cung của ngài!- Làm thế nào biết được chúng đã ăn?- Tôi sẽ nêu rõ chính chúng đã ăn.- Này chó hiền trí, hãy nói rõ đi.- Hãy cho gọi các con chó nòi giống tốt trong cung của ngài, cho đem một ít nước sữa và cỏ dabba đến đây.Vua làm theo lời yêu cầu.

Rồi bậc Ðại Sĩ nói:- Hãy cho nghiền nát cỏ này trong nước sữa và cho những con chó ấy uống.Vua làm theo như vậy.

Khi đang uống, các con chó liền nôn ra những miếng da.- Ôi!

Thật giống như đức Phật toàn tri xử kiện!Vua reo mừng, liền tỏ lòng tôn kính Bồ-tát bằng cách dâng cúng cái lọng trắng.

Nhưng Bồ-tát thuyết pháp cho vua với mười câu kệ về pháp hành trong Tiền thân Tesakuna (số 521), mở đầu với câu:- Hãy hành Chánh pháp!

Thưa bậc Ðại vương thuộc dòng Sát-đế-lỵ, từ nay trở đi, Ðại vương chớ phóng dật!Sau khi khuyên nhà vua giữ Năm giới, Bồ-tát trả lại vua cái lọng trắng.Nghe lời bậc Ðại Sĩ thuyết pháp, vua tha chết cho mọi loài chúng sanh, rồi ra lệnh cung cấp cho tất cả loài chó, bắt đầu từ Bồ-tát, cơm ăn thường xuyên giống như thức ăn của vua.

Tuân theo lời Bồ-tát khuyến giáo cho đến trọn đời, vua làm các phước đức như bố thí v.v..., vì vậy sau khi mạng chung, vua sanh lên cõi trời.

Lời "Khuyến giáo của con Chó" tồn tại đến mười ngàn năm.

Còn Bồ-tát sống đến hết thọ mạng, rồi đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai mới hành động lợi ích cho bà con, trong quá khứ cũng đã làm như vậy.Thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, bậc Ðạo Sư kết luận với sự nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, nhà vua là Ànanda, hội chúng của đức Phật là bầy chó hiền lành, còn con chó hiền trí là Ta vậy.-ooOoo-23.

CHUYỆN CON NGỰA THUẦN CHỦNG (Tiền thân Bhojanìya)Nay tuy nằm một bên...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo từ bỏ tinh tấn.

Thời ấy, bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy và nói:- Này các Tỷ-kheo, thuở trước các bậc Hiền trí, trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương vẫn không thối thất.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ:*Thuở xưa, khi vua Brahamadatta đang trị vì ở thành Bà-la-nại, Bồ-tát được sanh làm con ngựa Sindh nòi giống tốt, con ngựa báu của vua, được trang sức lộng lẫy.

Nó ăn cơm nấu với gạo cũ ba năm, đầy đủ hương vị đặc biệt, đựng trong một cái dĩa bằng vàng, trị giá một trăm ngàn đồng tiền vàng.Chuồng ngựa được dựng trên đất ướp thơm với bốn loại hương.

Xung quanh chuồng có treo những màn đỏ, trên trần treo cái tán bằng vải, được trang hoàng với các vì sao bằng vàng.

Trên tường thả xuống những chuỗi hoa thơm, vòng hoa và một ngọn đèn dầu thơm luôn luôn cháy đỏ.

Không có vị vua nào không thèm muốn vương quốc Ba-la-nại.Một thời, bảy vị vua bao vây thành Ba-la-nại, gửi tối hậu thư cho vua Ba-la-nại, nói:- Hãy trao vương quốc cho chúng ta, hãy là giao chiến.Vua mời các đại thần họp, báo tin ấy và hỏi:- Này các khanh, nay phải làm gì?- Tâu Thiên tử, ngài không nên tự mình giao chiến trước.

Hãy sai một vị cưỡi ngựa, đi giao chiến trước.

Nếu vị ấy thất bại, chúng ta sẽ tính sau.Rồi vua cho mời vị ấy đến và hỏi:- Khanh có thể giao chiến với bảy vị vua không?- Thưa Thiên tử, nếu thần được con ngựa Sindh nòi giống tốt, kể gì bảy vị vua, thần có thể giao chiến với các vua ở toàn cõi Diêm-phù-đề (Ấn Ðộ).- Này khanh, con ngựa Sindh giống tốt, hay con nào khác, tùy ý khanh muốn, hãy lấy con ngựa ấy và đi giao chiến.- Lành thay, thưa Thiên tử!Vị ấy đảnh lễ vua, từ trên lầu bước xuống, cho đem lại con ngựa Sindh tốt giống, khéo mặc áo giáp cho nó, tự mình vũ trang toàn diện, đeo gươm, rồi leo lên lưng ngựa Sindh, đi ra khỏi thành và nhanh như chớp, đánh tan đội quân thứ nhất, bắt sống một vua, cho dẫn vua ấy về giam ở đội quân trong thành.

Rồi vị ấy đi nữa, đánh tan đội quân thứ hai, cũng vậy, đội quân thứ ba, thứ tư, thứ năm và bắt sống được năm ông vua.Nhưng khi vị ấy đánh tan đội quân thứ sáu, và bắt vua thứ sáu, thì con ngựa Sindh giống tốt bị thương, chảy máu và cảm thấy đau đớn rất nhiều.

Biết con ngựa đã bị thương, người kỵ mã cho nó nằm xuống trước cửa cung vua, cởi áo giáp cho nó, và sai lính nai nịt một con ngựa khác.Bồ-tát nằm một bên hông rất thoải mái, mở mắt thấy người kỵ mã, tự nghĩ: "Người kỵ mã đang nai nịt một con ngựa khác, sẽ không thể nào đánh tan đội quân thứ bảy, không thể nào bắt được ông vua thứ bảy.

Như vậy nó làm tiêu tan công lao ta đã làm, còn người kỵ mã không ai sánh kịp này sẽ bị giết, và nhà vua sẽ rơi vào tay quân thù!

Ngoài ta ra, không một con ngựa nào khác đánh tan được đội quân thứ bảy, và có thể bắt được vị vua thứ bảy!"

Ðang nằm như vậy, Bồ-tát gọi người kỵ mã và nói:- Này bạn, ngoài tôi ra, không có con ngựa nào khác có thể đánh tan đội quân thứ bảy, bắt được ông vua thứ bảy.

Tôi sẽ không để ai hủy hoại thành quả tôi đã làm.

Hãy đỡ tôi dậy và nai nịt cho tôi!Sau khi nói vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này:Nay tuy nằm một bên,

Bị bắn bởi mũi tên,

Con ngựa nòi giống tốt,

Thắng hơn con ngựa khác

Hỡi này người kỵ mã

Hãy nai nịt cho tôiNgười kỵ mã đỡ con ngựa dậy, băng bó vết thương, khéo nai nịt áo giáp cho nó, rồi nhảy lên lưng ngựa ra trận đánh tan đội quân thứ bảy, bắt sống ông vua thứ bảy và dẫn vị ấy về đội quân của vua mình.

Người kỵ mã dắt Bồ-tát đến cửa thành và vua đi ra để xem Bồ-tát.

Bậc Ðại Sĩ nói với vua:- Tâu Ðại Vương, chớ giết bảy ông vua ấy.

Hãy bắt họ thề sẽ trung thành với ngài rồi thả họ ra.

Hãy cho người kỵ mã thọ hưởng danh vọng xứng đáng với công lao.

Thật không phải đạo nếu để một chiến sĩ đã bắt được bảy vị phải chịu thiệt thòi!

Ðại vương hãy bố thí, hãy giữ giới, hãy trị vì quốc độ với Chánh pháp công bằng.Khi Bồ-tát khuyến giáo vua như vậy xong, người ta cởi áo giáp cho Bồ-tát.

Nhưng khi được cởi tung mảnh giáp, Bồ-tát mệnh chung.

Vua lo việc hoả táng con ngựa rất trọng thể, cho người kỵ mã hưởng danh vọng lớn, và đòi bảy ông vua kia phải tự mình thề không còn phản bội gây chiến nữa, rồi đưa họ về nhà của họ.

Vua trị vì quốc độ với chánh pháp và công lý, sau khi mạng chung, đi theo nghiệp của mình.*Bậc đạo sư nói:- Này các Tỷ-kheo, như vậy thuở trước, các bậc Hiền trí trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương vẫn không thối thất.

Còn ông được sống trong giáo pháp giải thoát như vậy, vì sao lại thối thất tinh tấn?Sau khi nói xong, Thế Tôn thuyết giảng Bốn Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo thối thất tinh tấn chứng quả A-la-hán.

Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và kết luận với sự nhận diện Tiền Thân:- Thời ấy, vua là Ànanda, người cưỡi ngựa là Xá-lợi-phất, và con ngựa Sindh nòi giống tốt là Ta vậy.-ooOoo-24.

CHUYỆN ÐÔI NGỰA NÒI TỐT (Tiền thân Àjanna)Dẫu thời nào, chỗ nào...Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc đạo sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Bậc Ðạo Sư gọi Tỷ-kheo ấy và nói:- Này Tỷ-kheo, thuở trước các bậc Hiền trí trong những hoàn cảnh khó khăn, vẫn kiên trì tinh tấn, dầu có bị thương, vẫn không thối thất.Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì thành Ba-la-nại, có bảy vị vua bao vây thành.

Một chiến sĩ cưỡi xe, thắng hai con ngựa Sindh anh em vào xe, đi ra khỏi thành, đánh tan sáu đội quân và bắt sống sáu ông vua.

Trong giờ phút ấy, con ngựa anh bị thương.

Người cưỡi xe, đánh xe đến cửa thành của vua mình, mở con ngựa anh ra khỏi xe, cởi áo giáp của nó, đặt con ngựa nằm một bên hông, và bắt đầu cho nai nịt một con ngựa khác.

Bồ-tát thấy vậy, suy nghĩ như đã suy nghĩ trong câu chuyện trước, rồi cho gọi người cưỡi xe, vừa nằm vừa nói lên bài kệ này😀ẫu thời nào, chỗ nào,

Dẫu khi nào ở đâu,

Con ngựa nòi giống tốt

Vẫn hăng hái chiến đấu

Còn con ngựa yếu hèn

Tại đấy, chịu đầu hàng.Người đánh xe đỡ Bồ-tát dậy, thắng ngựa vào xe, đánh tan đội quân thứ bảy, bắt sống ông vua thứ bảy, rồi đánh xe đến cửa nhà vua, và mở con ngựa ra khỏi xe.

Bồ-tát nằm thoải mái một bên hông, nói lời khuyến giáo vua như trong câu chuyện trước, rồi mạng chung.

Vua làm lễ hoả táng con ngựa rấ trọng thể, ban thưởng nhiều danh vọng cho người đánh xe và sau khi trị vì nước đúng theo Chánh pháp, vua đi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể câu chuyện, bậc Ðạo Sư trình bày bốn Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị tỷ-kheo thối thất tinh tấn chứng được quả A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, vua là trưởng lão Ànanda, con ngựa anh là bậc Chánh Ðẳng Giác.-ooOoo-25.

CHUYỆN BẾN TẮM (Tiền thân Tittha)Hãy thay bến nước khác...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo, đệ tử của bậc tướng quân Chánh pháp, trước kia làm thợ vàng.

Chỉ các đức Phật mới có trí biết được tâm hướng của chúng sanh, chớ không ai khác.

Do vậy, bậc Tướng quân Chánh pháp tự mình không biết tâm hướng của người đệ tử, đã cho một đề tài thiền quán về bất tịnh.

Ðề tài ấy không thích hợp với người đệ tử.

Vì sao?Theo truyền thuyết, người đệ tử ấy trải năm trăm năm liên tục sanh ra trong gia đình thợ vàng, tích lũy lâu ngày chỉ thấy vàng thanh tịnh.

Trải qua bốn tháng, người đệ tử không thể làm khởi lên một tư tưởng nào của Thiền quán.

Bậc Tướng quân chánh pháp không thể đem lại quả A-la-hán cho đệ tử của mình, tự nghĩ: "Người này chỉ có đức Phật mới nhiếp phục được, ta sẽ đưa vị ấy đến gặp Như Lai".Vào buổi sáng sớm, bậc Tướng quân chánh pháp đem người đệ tử đi đến gặp bậc Ðạo Sư.

Ngài hỏi:- Này Xá-lợi-phất, vì sao ông đến đây lại đem theo một Tỷ-kheo?- Bạch Thế Tôn, con cho đệ tử con một đề tài Thiền quán, nhưng sau bốn tháng, vị ấy không phát khởi lên một chút tư tưởng nào của Thiền quán.

Nghĩ rằng người này chỉ có đức Phật mới giáo hoá được, nên con đưa đến gặp Thế Tôn.- Này Xá-lợi-phất, ông dạy đề tài Thiền quán nào cho đệ tử?- Bạch Thế Tôn, con dạy đề tài Thiền quán về bất tịnh.- Này Xá-lợi-phất, ông không hiểu biết tâm hướng của đệ tử.

Hãy về đi, và để đệ tử ở lại đây, chiều trở lại và đem đệ tử của ông về.Sau khi bảo Trưởng lão đi về, bậc Ðạo Sư cho Tỷ-kheo ấy mặc hạ y và thượng y tốt đẹp, đem Tỷ-kheo ấy đi theo ngài vào làng khất thực, khiến Tỷ-kheo ấy nhận được đồ ăn tuyệt hảo, đủ loại cứng và loại mềm.

Ði về tinh xá một lần nữa với các Tỷ-kheo vây quanh, ban ngày bậc Ðạo Sư vào nghỉ trong Hương phòng, và buổi chiều đem Tỷ-kheo ấy đi theo.

Ngài đi dạo trong tinh xá, hoá hiện một hồ nước trong vườn xoài, có nhiều hoa sen và một hoa sen lớn hiện ra.

Thế Tôn bảo Tỷ-kheo ấy ngồi nhìn hoa sen, rồi Ngài đi vào Hương phòng.Tỷ-kheo ấy liên tục nhìn hoa sen.

Thế Tôn khiến cho bông hoa ấy héo tàn.

Trong khi Tỷ-kheo ấy đang nhìn, hoa sen ấy tàn dần, héo dần và mất màu sắc.

Bắt đầu từ vòng ngoài cùng, các cánh hoa rơi xuống, và trong một thời gian ngắn, tất cả cánh hoa đều rơi hết.

Rồi đến các nhụy hoa rơi, rơi dần, chỉ còn lại gương sen.

Tỷ-kheo ấy thấy vậy, liền suy nghĩ: "Hoa sen này xinh đẹp như vậy, nhưng chẳng mấy chốc màu sắc hoa tàn phai, các cánh hoa, nhụy hoa rụng xuống, chỉ còn lại gương sen.

Hoa sen như vậy đã đi đến héo tàn.

Thân ta rồi cũng đi đến cảnh như vậy.

Các hành là vô thường!"

Với tư tưởng ấy, Tỷ-kheo đạt được Thiền quán.

Bậc Ðạo Sư biết tâm Tỷ-kheo ấy đã đạt Thiền quán, vẫn ngồi trong Hương phòng, phóng hào quang từ kim thân và nói lên bài kệ này:Tự cắt dây ái dục,

Như tay bẻ sen thu,

Hãy tu đạo tịch tịnh,

Niết bàn, Thiện Thệ dạy.Cuối bài kệ này, Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán.

Với ý nghĩ: "Ta đã thoát mọi sanh hữu", vị ấy nói lên lời cảm hứng với mấy bài kệ:Ai đã sống cuộc đời,

Tâm tư được viên mãn,

Các lậu hoặc đã đoạn,

Mang nhục thân cuối cùng;

Giới hạnh thật thanh tịnh,

Các căn khéo định tĩnh,

Như mặt trăng được thoát

Khỏi miệng thần Rà-hu.

Ngu si hắc ám lớn

Bao phủ trùm khắp ta,

Ta gột sạch, trừ sạch,

Mọi cấu uế không còn.

Ta rực sáng, chói sáng,

Sáng chói ánh quang minh,

Như mặt trời trên không

Chiếu ngàn tia ánh sáng.Sau khi nói lời cảm hứng, Tỷ-kheo ấy đi đến đảnh lễ Thế Tôn.

Vị trưởng lão cũng đến đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và đem đệ tử của mình về.

Khi tin tức này lan truyền giữa các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo ngồi họp tại Pháp đường, tán thán những đức tính của bậc Pháp vương:- Này các Hiền giả, Trưởng lão Xá-lợi-phất vì không hiểu biết tâm hướng của chúng sanh nên không hiểu biết tâm hướng đệ tử mình.

Còn bậc Ðạo Sư biết được, nên chỉ trong một ngày, đã đem lại quả A-la-hán với những vô ngại biện tài.

Ôi, lớn lao thay uy đức của đức Phật!Rồi bậc Ðạo Sư đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi ở đây bàn chuyện gì?- Không có gì khác, bạch Thế Tôn, ngoài câu chuyện chỉ Thế Tôn mới có trí hiểu biết tâm hướng đệ tử của bậc Tướng quân Chánh pháp.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, đây không phải là kỳ diệu gì.

Không phải nay Ta là Phật mới biết tâm hướng của Tỷ-kheo ấy.

Thuở trước, Ta cũng đã biết tâm hướng của vị ấy rồi.Nói xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại.

Bồ-tát làm người chỉ đạo cho vua về thế sự và thánh sự.

Lúc bấy giờ, tại bến nước, chỗ tắm thường ngày của con ngựa báu, người ta đang tắm một con ngựa tầm thường yếu hèn.

Khi người giữ dẫn con ngựa báu đến bến tắm, nó ghê tởm con ngựa tầm thường, nên không chịu đi xuống.

Người giữ ngựa trình lên vua:- Tâu Thiên Tử, con ngựa báu không chịu xuống bến nước.Vua cho gọi Bồ-tát:- Này bậc Hiền trí, hãy đi ra tìm hiểu lý do gì khi con ngựa đi đến bến nước lại không chịu xuống.Vâng lệnh Thiên tử, Bồ-tát đi đến bờ sông, nhìn con ngựa, biết con ngựa không bị bệnh, ngài cố gắng tìm hiểu lý do gì con ngựa này không đi xuống bến nước.

Bồ-tát suy nghĩ: "có lẽ một con ngựa khác được tắm trước ở đây, vì ghê tởm con ngựa ấy, nên nó không đi xuống bến nước".

Nghĩ vậy, Bồ-tát liền hỏi người giữ ngựa:- Có con ngựa nào khác được tắm trước ở bến nước này không?- Thưa ngài, có một con ngựa tầm thường khác.

Bồ-tát nghĩ: "Con ngựa này vì lòng tự ái thương tổn, không muốn tắm tại đây.

Vậy đem nó đến tắm tại một bến nước khác".

Biết tâm hướng của nó, Bồ-tát nói:- Này bạn giữ ngựa, một người ăn đi ăn lại các món ngon như cơm, sữa, bơ, mật, đường v.v... lâu ngày rồi cũng phát ngán!

Con ngựa này đã tắm nhiều lần tại bến nước ở đây.

Hãy đưa nó xuống một bến nước khác, cho nó tắm và uống nước.Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:Hãy thay bến nước khác,

Hỡi này người đánh xe,

Hãy cho ngựa uống nước

Khi bến này, bến khác.

Người quá gần cơm sữa,

Cũng chán món ăn ấy!Sau khi nghe lời Bồ-tát, họ dắt ngựa xuống một bến nước khác, cho nó uống nước và tắm.

Trong khi ấy Bồ-tát liền đi đến yết kiến vua.

Vua hỏi:- Này khanh, con ngựa được tắm và được uống nước rồi phải không?- Thưa rồi, tâu Thiên tử.- Vì lý do gì, trước nó không muốn làm như vậy?- Do lý do này...Bồ-tát báo cáo sự việc lên vua, và vua nói:- Ôi, thật là sáng suốt, vị ấy biết được tâm hướng của cả con vật này.Vua thưởng cho Bồ-tát danh vọng lớn.

Và khi mạng chung, Bồ-tát và vua đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta mới biết tâm hướng của vị ấy, quá khứ ta cũng biết rồi.Sau khi thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai câu chuyện với nhau, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, con ngựa báu là vị Tỷ-kheo này, vua là Ànanda, và vị đại thần hiền trí chính là Ta vậy.-ooOoo-26.

CHUYỆN CON VOI MAHILÀMUKHA (Tiền thân Mahilàmukha)Trước nghe lời ăn trộm...,Câu chuyện này khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về Ðề-bà-đạt-đa.

Ðề-bà-đạt-đa chiếm được lòng tin của hoàng tử Ajàtasattu (A-xà-thế) nên đã được lợi dưỡng và danh vọng.

Hoàng tử A-xà-thế xây dựng một tinh xá ở Gayàsisa cho Ðề-bà-đạt-đa và mỗi ngày đem đến cho vị ấy năm trăm cơm nấu bằng gạo thơm ba năm với hương vị hảo hạng.

Dựa trên lợi dưỡng và danh vọng, hội chúng của Ðề-bà-đạt-đa trở thành đông đúc.

Ðề-bà-đạt-đa chỉ sống ở tinh xá với hội chúng, không hề ra khỏi tinh xá.Lúc bấy giờ, có hai người bạn trú ở Vương xá.

Một người xuất gia với bậc Ðạo Sư, một người xuất gia với Ðề-bà-đạt-đa.

Họ đến thăm nhau, tại chỗ này chỗ kia, hay tại tinh xá.

Một hôm, người bạn y chỉ với Ðề-bà-đạt-đa nói với người kia:- Này Hiền giả, sao hàng ngày bạn phải đi khất thực, với mồ hôi tuôn chảy mệt nhọc như vậy?

Còn Ðề-bà-đạt-đa chỉ ngồi ở tinh xá tại Gayàsisa, được ăn món ngon với hương vị đặc biệt.

Không có phương tiện nào khác sao?

Sao bạn lại chịu khổ?

Sao vào buổi sáng, bạn lại không đến tại Gayàsisa, uống cháo với hương vị, rồi ăn mười tám món đặc, và các món mềm tuyệt hảo với những hương vị đặc biệt?Người kia nghe nói đi nói lại mãi nên muốn đi và bắt đầu từ đấy, thường đến Gayàsisa, ăn và uống rồi trở về Trúc Lâm đúng giờ giấc.Tuy thế, không phải lúc nào vị ấy cũng giấu giếm được.

Không bao lâu, người ta biết người ấy đi đến Gayàsisa ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa sắp đặt cho.

Các người bạn hỏi vị ấy:- Này Hiền giả, có đúng sự thật chăng.

Hiền giả ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa sắp đặt cho?- Ai nói vậy?- Người này, người này!- Này Hiền giả, đúng sự thật là tôi có đi Gayàsisa để ăn.

Nhưng không phải Ðề-bà-đạt-đa cho tôi ăn.

Chính những người khác cho tôi ăn.- Này Hiền giả, Ðề-bà-đạt-đa là kẻ thù của đức Phật.

Ðề-bà-đạt-đa theo ác giới, lấy được lòng tin của A-xà-thế, thâu hoạch cho mình lợi dưỡng và danh vọng một cách phi pháp.

Hiền giả xuất gia trong Giáo pháp giải thoát như vậy, lại ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp.

Hãy đi, chúng tôi sẽ đưa Hiền giả đến gặp bậc Ðạo Sư.Rồi họ đưa Tỷ-kheo ấy đến Pháp đường.

Bậc Ðạo Sư thấy vậy, hỏi:- Này các Tỷ-kheo, sao các ông đem lại đây một Tỷ-kheo ngoài ý muốn của vị ấy?- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này đã xuất gia với Thế Tôn, lại ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp!- Này Tỷ-kheo, có thật chăng, ông đã ăn các món do Ðề-bà-đạt-đa nhận được một cách phi pháp?- Bạch Thế Tôn, không phải Ðề-bà-đạt-đa cho con.

Chính những người khác cho con ăn món ăn ấy!- Này Tỷ-kheo, chớ dối quanh ở đây!

Ðề-bà-đạt-đa không có chánh hạnh, theo ác giới.

Sao ông xuất gia ở đây, tuân theo lời dạy của ta, lại ăn các món của Ðề-bà-đạt-đa.

Ông thường hay bị lôi kéo, hễ gặp ai thì đi theo người ấy!Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm đại thần cho vua ấy.

Lúc ấy, vua có một con voi báu tên là Mahilamukha (Mỹ nhân diện), có giới đức chánh hạnh, không làm hại một ai.

Một hôm, bọn ăn trộm, giữa đêm, đi đến gần chuồng voi, ngồi không xa con voi bao nhiêu, và bàn tính như sau:- Ðây là con đường hầm phải đào.

Ðây là lỗ tường cần phải đục.

Ðường hầm và lỗ tường cần phải đục thông và mở rộng như con đường hay như bến nước, rồi mới mang đồ đạc đi.

Hãy giết người để mang đồ đi, nếu cần.

Như vậy, không ai có thể chống lại.Bọn ăm trộm không có giới đức chánh hạnh, rất tàn nhẫn, độc ác, bạo hành.

Sau khi bàn luận, dạy bảo lẫn nhau như vậy, bọn chúng bỏ đi.

Với phương tiện như vậy, ngày hôm sau và nhiều ngày nữa, chúng cũng đến tại chỗ ấy và cũng bàn luận với nhau.

Con voi nghe lời của chúng, tưởng chúng dạy cho mình cần phải trở thành tàn nhẫn, độc ác, bạo hành.

Rồi con voi thực hành như vậy.Vào buổi sáng, khi người nài đến, nó dùng vòi bắt lấy, quật xuống đất và giết chết người nài.

Cũng vậy, nó giết một người nữa, rồi một người nữa.

Con voi giết những ai đi đến gần nó.

Người ta trình lên vua:- Con voi Mahilamukha đã trở thành điên.

Nó giết những ai mà nó thấy!Vua cho gọi Bồ-tát và nói:- Hãy đi, bậc Hiền trí, và tìm hiểu vì lý do gì nó trở thành độc ác.Bồ-tát đi đến, biết con voi khỏe mạnh, rồi tìm hiểu lý do khiến con voi trở thành độc ác, và kết luận: Chắc hẳn con voi nghe những người nói chuyện gần nó, tưởng họ dạy nó học nên trở thành độc ác.

Bồ-tát hỏi người giữ voi:- Ban đêm, có ai đến gần chuồng voi để nói chuyện không?- Thưa Ngài có!

Những người ăn trộm đến và nói chuyện.Bồ-tát đi đến vua và báo cáo:- Thưa Thiên tử, thân con voi không có gì biến đổi khác.

Vì nghe các người ăn trộm nói chuyện, nó trơû thành độc ác.- Vậy nay cần phải làm gì?- Hãy cho những sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh đến ngồi gần chuồng voi, và chỉ cần nói những chuyện giới đức chánh hạnh.Này khanh thân, hãy làm như vậy.Bồ-tát đưa những Sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh ngồi gần chuồng voi và nói những câu chuyện giới hạnh.

Họ ngồi không xa con voi và nói những câu chuyện tốt lành:- Chớ hành hạ một ai!

Chớ giết hại một ai!

Hãy trở thành người có giới hạnh, nhẫn nhục, thân ái và từ mẫn!Con voi nghe vậy, tự nghĩ: "Những người này muốn dạy bảo ta.

Bắt đầu từ nay, ta cần phải có giới hạnh!".

Và con voi trở thành hiền từ.Vua hỏi Bồ-tát:- Này khanh, sao con vật đã trở thành tốt chưa?Bồ-tát trả lời:- Thưa Thiên tử, nó đã trở thành tốt rồi!

Con voi độc ác như vậy, nhờ các bậc hiền trí, đã an trú trên Chánh pháp như xưa.Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:Trước nghe lời ăn trộm,

Voi báu này giết hại,

Sau nghe lời bậc trí,

An trú trên thiện tánh,

Làm công đức tốt đẹp.Vua nói:- Vị này biết tâm hướng của loài thú vật.Vua liền ban cho Bồ-tát danh vọng lớn.

Sau khi sống tròn thọ mang, vua cùng với Bồ-tát đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, trong quá khứ, hễ ông gặp ai thì theo người ấy.

Nghe lời các người ăn trộm, ông đi theo những người ăn trộm.

Nghe lời những người tu hành Chánh pháp, ông hành đúng Chánh pháp.Sau khi kể lại pháp thoại này và kết hợp hai mẩu chuyện với nhau, bậc đạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thuở ấy, Mahilàmukha là vị Tỷ-kheo phản bội, vua là Ànanda, còn vị đại thần là Ta vậy.-ooOoo-27.

CHUYỆN ÐÔI BẠN THÂN THIẾT (Tiền thân Abhinha)Một miếng, nó không ăn...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về một nam cư sĩ và một trưởng lão lớn tuổi.

Theo truyền thuyết, ở xá-vệ có hai người bạn.

Một người xuất gia, hằng ngày đi đến nhà người kia.

Người kia bố thí món ăn, tự mình cũng ăn, sau đó theo người bạn đi về tinh xá, và đến khi mặt trời lặn, họ ngồi nói chuyện với nhau rối mới đi vào thành.

Vị Tỷ-kheo thường đi tiễn bạn tận cửa thành rồi trở về.

Sự thân thiết giữa hai người ấy được các tỷ-kheo biết rõ.

Một hôm, các tỷ-kheo đang ngồi trong pháp đường, nói về sự thân thiết giữa hai người ấy.

Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận chuyện gì?Các Tỷ-kheo nói:- Bạch Thế Tôn, chúng con nói chuyện này.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải những người này nay mới thân thiết với nhau.

Trong quá khứ, họ đã thân thiết với nhau rồi.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm vị đại thần.

Lúc ấy, một con chó đi đến chuồng con voi báu và ăn những vắt cơm rơi tại chỗ con voi báu ăn.

Con chó đi đến vì miếng ăn, đã trở thành thân thiết với con voi báu, và ăn gần con voi.

Cả hai không có nhau không thể sống được.

Con chó thường nắm lấy vòi con voi, và chơi đùa bằng cách đưa qua đưa lại.Một hôm, một người ở làng cho tiền người nài, và đem con chó ấy về làng của mình.

Từ đó về sau, không thấy con chó, con voi bỏ ăn, bỏ tắm.

Người nài báo việc ấy lên vua rõ.

Vua cho gọi Bồ-tát đến:- Này bậc Hiền trí, hãy đi tìm hiểu lý do gì con voi làm như vậy.Bồ-tát đi đến chuồng voi, biết được con voi rất buồn nản, tự nghĩ: "Thân thể con vật này không tỏ lộ bệnh gì.

Có thể nó có tình bạn thân thiết với ai đó, và vì không thấy bạn, nó trở nên sầu muộn.Bồ-tát hỏi người nài:- Con voi này có thân thiết với ai không?- Thưa ngài, có.

Nó có tình bạn thân thiết với con chó.- Con chó ấy nay đâu rồi?- Có một người dắt nó đi rồi.- Chú có biết chỗ ở của người ấy không?- Thưa Ngài, tôi không biết.Bồ-tát đi tâu với vua:- Thưa Thiên tử, con voi không có bệnh gì.

Nhưng nó có tình bạn thân thiết sâu đậm với con chó.

Nay không thấy bạn, nên nó không ăn.

Tôi nghĩ là như vậy.Nói xong, Bồ-tát đọc bài kệ:Một miếng, nó không ăn,

Không nuốt cơm và cỏ,

Tôi nghĩ vì con voi

Thường thấy bạn, con chó,

Cho nên nó luyến ái

Con chó ấy, bạn mình.Vua nghe lời Bồ-tát nói liến hỏi:- Thưa bậc Hiền trí, nay phải làm gì?- Thưa Thiên tử, hãy cho người đánh trống và tuyên bố như sau: Con chó, bạn con voi báu của nhà vua, bị người bắt lấy đem đi.

Nhà nào có con chó ấy, nhà đó sẽ bị trừng phạt!Vua làm theo lời khuyên này.

Nghe được tin, người ấy liền thả con chó ra.

Con chó lập tức chạy thật mau đến gần con voi.

Con voi vừa lấy vòi đặt con chó lên trên đầu trán mình vừa mừng rỡ khóc lớn và đặt nó từ đầu trán xuống, để con chó ăn trước, rồi mình ăn sau.- Ngay cả tâm hướng của loài vật, vị ấy cũng biết!Vua nói vậy và tặng cho Bồ-tát danh vọng lớn.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải những người này nay mới thân thiết với nhau.

Trong quá khứ, họ đã thân thiết với nhau rồi.Sau khi kể lại pháp thoại này, và thuyết giảng Bốn Sự thật, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau rồi nhận diện Tiền thân:- Lúc ấy, con chó là người cư sĩ, con voi là vị Trưởng lão lớn tuổi, còn vị đại thần Hiền trí là Ta vậy.-ooOoo-28.

CHUYỆN CON BÒ ÐẠI HỶ (Tiền thân Nandivisàla)Chỉ nói lời từ hoà...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về những lời nhiếc mắng của nhóm Sáu Tỷ-kheo.

Lúc bấy giờ, nhóm Tỷ-kheo, khi cãi nhau với các hiền thiện Tỷ-kheo, thường khiêu khích, mắng nhiếc, châm biếm và nhục mạ họ.

Các Tỷ-kheo báo lên Thế Tôn.

Ngài cho gọi nhóm Sáu Tỷ-kheo, hỏi có phải thật như vậy không, và khi được trả lời là thật vậy, Ngài chê trách họ:- Này các Tỷ-kheo, lời nói ác độc làm cho ngay cả loài thú vật cũng hiềm hận.

Thuở trước, một thú vật đã làm cho một người nói lời ác phải mất một ngàn đồng tiền vàng.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Trong thời quá khứ, tại nước Gandhara, có vị vua trị vì ở Takkasila, và Bồ-tát sanh ra làm con bò được đặt tên là Nandivisàla (Ðại Hỷ).

Một Bà-la-môn đi đến những người thường hay cúng dường bò, xin được con Nandivisala khi còn là con nghé.

Người Bà-la-môn đối xử với nó như con ruột, thương mến cho nó aên ròng cơm cháo và nuôi dưỡng nó rất chu đáo.

Khi lớn lên, Bồ-tát suy nghĩ: "Ta được người Bà-la-môn này nuôi dưỡng một cách khó nhọc.

Trong toàn cõi Diêm-phủ-đề (Ấn Ðộ), không có một con bò nào khác có thể mang nặng như ta.

Vậy ta hãy biểu lộ sức mạnh của ta và cho người Bà-la-môn tiền nuôi dưỡng".Một hôm, Bồ-tát nói với vị Bà-la-môn:- Này Bà-la-môn, hãy đi đến một triệu phú giàu về đàn bò và nói: Con bò của tôi, nếu được cột chặt vào một trăm cỗ xe, cũng có thể kéo đi!

Và đánh cá với người ấy một ngàn đồng tiền vàng.Vị Bà-la-môn đi đến một triệu phú và gợi chuyện:- Trong thành này, con bò của ai có được sức mạnh?Người triệu phú trả lời:- Chính nhà này, nhà của ta!Và ông còn nói tiếp:- Trong toàn thành này, không một ai có con bò giống như con bò của chúng tôi.Người Bà-la-môn nói:- Một con bò của tôi có thể kéo được một trăm cỗ xe cột chặt lại!Người gia triệu phú hỏi:- Con bò như vậy ở đâu?Vị Bà-la-môn nói:- Ở nhà tôi.- Vậy chúng ta hãy đánh cá đi.- Tốt lắm, tôi bằng lòng.Và vị Bà-la-môn đánh cá một ngàn đồng tiền vàng.

Rồi vị Bà-la-môn chất đầy một trăm cỗ xe với cát, sạn và đá, đặt chúng nối tiếp nhau, cột tất cả làm một, cáng xe với trục xe, cho tắm Nandivisala, cho nó ăn một đấu gạo thơm, trang sức vòng hoa vào cỗ xe đầu.

Người Bà-la-môn, tự mình ngồi trên cán xe, đưa cao gậy thúc bò và nói:- Hi, hi, hi đi, đồ ranh con!

Hãy kéo, đồ ranh con!Bồ-tát nghĩ: "Ta không phải ranh con, nhưng người này gọi ta với danh từ ranh con"! và Bồ-tát đứng thẳng chân như những cột trụ, không hề di động.Ngay lúc ấy, người triệu phú bắt người Bà-la-môn đem lại một ngàn đồng.

Vị Bà-la-môn thua một ngàn đồng, mở con bò ra, rồi về nhà nằm dài, với tâm tư sầu muộn.Nandivisala vào nhà, thấy vị Bà-la-môn sầu muộn, liền hỏi:- Này Bà-la-môn, có phải ông nằm ngủ?- Làm sao ta có thể ngủ được khi ta thua mất một ngàn đồng!- Này Bà-la-môn, trong suốt thời gian ta sống ở nhà ông, có bao giờ ta làm bể chén bát gì, hay chà đạp một ai, hay đi đại tiểu tiện không phải chỗ?- Này con thân, không bao giờ có.Vậy sao ông gọi ta là đồ ranh con?

Ðây là lỗi của ông, không phải lỗi của ta.

Hãy đi và cá với người kia hai ngàn đồng tiền vàng.

Nhưng ta không phải ranh con, không được gọi là đồ ranh con!Vị Bà-la-môn nghe Bồ-tát nói, liền đi đến nhà triệu phú và cá hai ngàn đồng.

Vị ấy buộc một trăm cỗ xe như cách trước làm, cho Nandivisala trang điểm, và buộc nó vào cái cáng gỗ xe thứ nhất.

Ông buộc như thế nào?

Buộc chặt cái ách vào cáng xe, rồi thắng con bò Nandivisala vào một phía ách, và buộc chặt phía bên kia bằng một miếng gỗ trơn từ ách vào trục xe, như vậy, ách được cứng thẳng, không nghiêng một bên.

Như vậy, chỉ một con bò có thể kéo một cỗ xe được làm cho cả hai con kéo.

Rồi người Bà-la-môn ngồi trên cáng xe, vừa xoa lưng Nandivisal vừa nói:- Hi, hi, chú bạn hiền thiện!

Hãy kéo, chú bạn hiền thiện!Bồ-tát được buộc chặt vào một trăm cỗ xe, với một cái kéo mạnh cả một trăm cỗ xe, khiến cỗ xe cuối đứng vào chỗ mà cỗ xe đầu đã di động.

Người triệu phú giàu đàn bò thua cuộc, phải trả hai ngàn đồng.

Những người khác cũng cho Bồ-tát nhiều tiền.

Tất cả đều thuộc về vị Bà-la-môn.

Như vậy, nhờ Bồ-tát, người Bà-la-môn được nhiều tiền của.Bậc đạo sư nói, sau khi khiển trách Sáu Tỷ-kheo ấy.- Này các Tỷ-Kheo, lời nói độc ác không làm ai vừa ý.Và ngài chế thành học pháp.

Rồi bậc Chánh Ðẳng Giác liền nói kệ:Chỉ nói lời từ hòa,

Không từ hòa, không nói.

Ai nói lời từ hòa,

Kéo đi được gánh nặng,

Khiến nó được tài sản.

Do vậy, nó ưa thích*Sau khi bậc Ðạo sư kể pháp thoại này, Ngài nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc ấy Bà-la-môn là Ànanda, còn Nandivisala là Ta vậy!-ooOoo-29.

CHUYỆN CON BÒ ÐEN (Tiền thân Kanha)Với gánh nặng phải mang ...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về thần thông song hành.

Câu chuyện này và câu chuyên từ thiên giới xuống sẽ được trình bày trong Chương mười ba, Tiền thân Sarabhamiga (số 483).Sau khi thị hiện thần thông song hành, từ thiện giới, bậc Chánh Ðẳng Giác đi xuống thành Sankassa.

Trong ngày đại lễ Tự tứ, với một đoàn tùy tùng đông đảo, Ngài đi vào Kỳ viên.

Các Tỷ-kheo đang ngồi họp ở Pháp đường, tán thán đức hạnh bậc Ðạo Sư, nói:- Này các Hiền giả, Như Lai không có ai sánh bằng.

Không một ai khác có thể mang được gánh nặng như đức Như Lai.

Sáu ngoại đạo sư nói: Chúng ta sẽ thị hiện thần thông, chúng ta sẽ thi thố thần thông!

Tuy nói vậy, họ không thị hiện được thần thông nào.

Ôi, bậc Ðạo Sư thật không ai sánh bằng!Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp ở đây bàn chuyện gì?- Bạch Thế Tôn, không có gì khác ngoài chuyện tán thán đức hạnh Thế Tôn.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, nay ai sẽ mang gánh nặng do Ta mang?

Trong thời quá khứ, khi Ta sanh làm thú vật, cũng không một ai so sánh với ta được.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở Bà-la-nại, Bồ-tát sanh làm một con bò.

Khi bò còn là nghé, những người chủ sống trong nhà một bà già, đem Bồ-tát cho bà để giải quyết tiền ở trọ.

Bà nuôi dưỡng Bồ-tát như con ruột, cho Bồ-tát ăn cháo và cơm.

Bồ-tát được gọi là Con bò đen của bà già.

Lớn lên, Bồ-tát có sắc lông đen láng, thường đi với các con bò hiền thiện trong làng.

Trẻ con ở làng thường nắm sừng, nắm tai, đeo cổ, nắm đuôi bò chơi đùa và ngồi trên lưng bò.Một hôm, Bồ-tát nghĩ: "Mẹ ta sống khổ cực, xem ta như con đẻ, nuôi dưỡng ta rất khó khăn.

Vậy ta hãy làm ra tiền để giải thoát bà cụ khỏi đời khổ cực này".Từ đó trở đi, Bồ-tát cố gắng tìm cho ra tiền.

Một hôm người chủ trẻ của một đoàn lữ hành với năm trăm cỗ xe đi đến một khúc sông cạn rất gồ ghề.

Các con bò của người ấy không thể kéo các cỗ xe qua được.

Những con bò của năm trăm cỗ xe được cột vào cáng xe liên tục với nhau cũng không thể kéo một cỗ xe qua được.Lúc ấy Bồ-tát đang đi với các con bò làng, đến gần khúc sông cạn.

Người chủ trẻ của đoàn lữ hành biết đánh giá loài bò, đang tìm trong những con bò này xem con nào giống tốt có thể kéo những cỗ xe của mình qua được.

Thấy Bồ-tát, biết con bò giống tốt này sẽ có thể kéo được những cỗ xe, người ấy liền hỏi những người chăn bò:- Này bạn, ai là chủ con bò này?

Nếu tôi cột nó vào những cỗ xe và nó kéo qua được, tôi sẽ trả tiền thuê!Các người chăn bò ấy nói:- Hãy bắt và cột nó vào!

Tại chỗ này, không có ai là chủ con vật!Người chủ trẻ cột dây vào mũi bò kéo đi, nhưng con bò không di động.

Theo truyền thuyết, Bồ-tát không đi khi chưa được trả giá.

Người chủ trẻ của đoàn lữ hành, biết được ý định của con bò và nói:- Này chủ đàn, ta sẽ trả cho ông một ngàn đồng, tiền thuê kéo năm trăm cỗ xe, mỗi cỗ xe kéo qua được trả hai đồng!Lúc ấy, Bồ-tát mới chịu đi.

Người ta cột bò vào những cỗ xe.

Với một cái kéo mạnh, bò đã kéo bổng chiếc xe đầu tiên và đặt lên bờ kia. với phương cách như vậy, bò kéo tất cả cỗ xe qua.

Người chủ trẻ của đoàn lữ hành chỉ trả một đồng cho mỗi chiếc xe, và cột một gói năm trăm đồng treo ở cổ Bồ-tát.

Bồ-tát suy nghĩ: "Người này không trả cho ta tiền thuê như đã quyết định.

Nay ta không cho nó đi!".

Rồi Bồ-tát đứng chặn đường trước cỗ xe, và dầu đoàn lữ hành cố gắng dắt xe đi, cũng không thể dắt được.

Người chủ trẻ của đoàn lữ hành suy nghĩ: "Hình như nó biết ta trả thiếu tiền thuê!".

Bèn gói một ngàn đồng trong bọc, cột ở cổ Bồ-tát và nói:- Ðây là tiền thuê của người đã kéo qua.Bồ-tát mang gói tiền liền đi đến bà mẹ.

Trẻ con trong làng thấy một vật gì đeo ở cổ bò đem của bà cụ, bèn chạy đến gần Bồ-tát.

Nhưng Bồ-tát đuổi chúng chạy xa, rồi đến gần bà mẹ.

Vì đã kéo qua năm trăm cỗ xe, Bồ-tát hết sức mệt mỏi với đôi mắt đỏ kè.

Bà cụ thấy gói một ngàn đồng ở cổ Bồ-tát, liền kêu lớn:- Này con thân, tiền này con lấy được ở đâu?Rồi hỏi những đứa trẻ chăn bò, và biết được câu chuyện, bà nói to:- Này con thân, ta đâu có muốn sống nhờ tiền công con làm được.

Sao con lại chịu khổ nhọc như vậy?Nói xong, bà lấy nước nóng tắm cho con vật, thoa dầu toàn thân, cho uống nước và cho bò ăn đủ loại đồ ăn thích hợp.

Bà sống với Bồ-tát cho đến khi mạng chung rồi đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai không có ai sánh bằng.

Trong thời quá khứ, cũng không có ai sánh bằng.Sau khi thuyết pháp thoại này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:Với gánh nặng phải mang,

Với khúc sông phải qua,

Chúng cột con bò đen,

Bò đi kéo gánh nặng!Như vậy, Ngài nêu rõ:- Này các Tỷ-kheo, khi ấy, chỉ có con bò đen kéo được gánh nặng.Thế Tôn kết hợp hai câu chuyện với nhau và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc ấy, bà cụ là Uppalavannà (Liên Hoa Sắc), còn con bò đen của bà là Ta vậy.-ooOoo-30.

CHUYỆN CON HEO MUNIKA (Tiền thân Munika)Chớ ham Munika ...,Câu chuyện này, khi trú ở Kỳ Viên, Thế Tôn đã kể về sự cám dỗ của một phụ nữ béo phệ.

Câu chuyện này sẽ được trình bày ở Chương mười ba, trong Tiền thân Cullanarada-Kassapa (số 477).

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy.- Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông đang bị tham dục chi phối?- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.- Vì nhân duyên gì?- Bạch Thế Tôn, vì sự cám dỗ của một phụ nữ béo phệ!Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, thiếu nữ này tạo bất hạnh cho ông.

Thời quá khứ, trong ngày đám cưới của nàng, ông đã bị mạng chung và trở thành món ăn ngon cho số đông người!Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Bà-la-môn, tại một làng nọ, Bồ-tát sanh làm con bò tên Mahàlohita (Ðỏ lớn) trong nhà một người có gia sản.

Bồ-tát có một em trai tên là Cullalohita (Ðỏ nhỏ).

Trong gia đình, hai con bò này làm tất cả công việc chuyên chở.Gia đình đó có một cô con gái.

Cô ta đã đính hôn với người con trai cùng làng.

Với mục đích dọn món ngon đãi khách đến dự đám cưới của con gái mình, cha mẹ cô gái nuôi một con heo tên là Munika, và cho nó ăn toàn cháo cơm.

Thấy vậy, Lohita em nói với con bò anh:- Trong gia đình này, đồ nặng do hai anh em mình chở hết, nhưng họ chỉ cho chúng ta ăn cỏ, lá v.v... còn họ nuôi con heo với cháo và cơm.

Vì lý do gì nó lại được như vậy?Bồ-tát nói:- Này Lohita em thân, chớ có ham đồ ăn ấy!

Con heo này ăn đồ ăn ngon để chờ chết.

Với mục đích dọn món ngon đãi khách đến dự ngày đám cưới của cô gái, nên họ mới nuôi con heo này.

Vài ngày nữa, những người ấy sẽ đến, họ cột chân con heo, kéo nó ra khỏi chuồng, chấm dứt mạng sống của nó và sẽ làm thành món ăn cà-ri đãi khách!Nói xong, Bồ-tát đọc kệ này:Chớ ham Mu-ni-ka,

Nó ăn để chờ chết,

Ít dục, hãy ăn rơm,

Do vậy thọ mạng dài.Rồi không bao lâu, những người ấy đến.

Họ giết Munika và nấu nó thành nhiều món ăn.

Bồ-tát nói với em Lohita em:- Này em thân, hãy xem Munika!- Thưa anh, em đã thấy kết quả món ăn của Munika.

Trăm lần ngàn lần tốt hơn món rơm của chúng ta, món ăn tối thượng, không có tai hại, là tướng của mạng sống lâu dài.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, như vậy, trong thời quá khứ, vì thiếu nữ này, ông đã mạng chung và làm thành món ăn cho nhiều người!Sau khi nói lên pháp thọai này, bậc Ðạo Sư giảng các Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị Tỷ-kheo bị tham dục chi phối chứng quả Dự lưu.

Bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân:- Khi ấy, con heo Munika là Tỷ-kheo bị tham dục chi phối, người thiếu nữ trong hai mẫu chuyện là một.

Lohita em là Ànanda, Lohita anh là Ta vậy.
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM KULAVAKA


PHẨM KULAVAKA31.

CHUYỆN TỔ CHIM CON (Tiền thân Kulàvaka)Hãy để tổ chim con ...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo uống nước không lọc.

Theo truyền thuyết, hai bạn trẻ Tỷ-kheo từ Xá-vệ đi về tỉnh, trú tại một địa điểm thoải mái cho đến thỏa thích, rồi từ đó ra đi, hướng về Kỳ Viên để yết kiến bậc Chánh Ðẳng Giác.Một Tỷ-kheo có trong tay một lọc nước và người kia không có.

Hai người thường lọc nước chung để uống.

Một hôm, họ cãi lộn nhau.

Người chủ cái lọc nước không cho người kia dùng lọc nước, tự mình lọc riêng rồi uống nước.

Người kia không có đồ lọc nước, và không thể nhịn khát, nên uống nước không lọc.

Hai người ấy tuần tự đi đến Kỳ Viên, đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và ngồi xuống.Sau khi chào đón thân tình, bậc Ðạo Sư liền hỏi:- Các ông từ đâu đến?- Bạch Thế Tôn, chúng con ở quốc độ Kossala, sống trong một làng, từ đấy ra đi để yết kiến Ngài.- Nhưng các ông đi đường có hoà thuận không?Người không có lọc nước nói:- Bạch Thế Tôn, người này giữa đường cãi lộn với con, không cho con lọc nước.Người kia nói:- Bạch Thế Tôn, người này không lọc nước, tuy biết, vẫn uống nước có loài hữu tình.- Này Tỷ-kheo có thật chăng, ông tuy biết, vẫn uống nước loài hữu tình?- Thưa có vậy, bạch Thế Tôn, con uống nước không lọc.Bậc Ðạo Sư:- Này Tỷ-kheo, trong thời quá khứ, các bậc Hiền trí trị vì thành phố chư Thiên, trong khi thua trận, chạy trốn trên mặt biển, quyết không vì vương quyền giết hại các hữu tình, nên đã từ bỏ danh vọng lớn để cứu mạng sống cho các loài chim con loài Kim-sí-điểu, và họ đã cho xe quay lui.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, trong nước Ma-kiệt-đà, tại thành Vương Xá, có một vị vua Ma-kiệt-đà trị vì.

Cũng như nay, Ðế Thích (Thiên chủ Sakka) trong một đời sống trước đã sanh ra trong làng Macala ở nước Ma-kiệt-đà.

Thời đó, Bồ-tát được sanh làm con trai một đại gia đình quý tộc cùng ở trong làng Macala ấy.

Vào ngày đặt tên, Bồ-tát được đặt tên là hoàng tử Magha; khi lớn lên có tên là Maghamanava (thanh niên Magha).Cha mẹ, cưới cho Bồ-tát một người vợ từ một gia đình có môn đăng hộ đối.

Bồ-tát cùng với con trai, con gái lớn lên, thường hay bố thí, và giữ gìn Năm giới, trong làng ấy có ba mươi gia đình.

Và những người trong ba mươi gia đình ấy, một hôm, đứng ở giữa làng bạn bạc giải quyết những vấn đề ở trong làng.Bồ-tát, tại chỗ mình đứng, dùng chân quét sạch bụi làm chỗ ấy trở thành tốt đẹp và đứng đó.

Rồi một người khác đến, đứng thế chỗ ấy.

Bồ-tát lại làm một chỗ khác, một chỗ khác, cho đến khi chỗ đứng cho tất cả mọi người trở thành tốt đẹp.Trong một thời khác, Bồ-tát dựng một cái lều, sau đó dẹp lều, rồi dựng một phòng lớn, trong ấy có đặt ghế giường và ghè nước.Trong một thời khác, ba mươi người ấy do Bồ-tát hướng dẫn trở thành dân tốt như mình.

Bồ-tát thường cùng đi với họ làm các công đức như: sáng sớm thức dậy, với rìu nhỏ, búa, chùy cầm tay, đến ngã tư đường, họ đập với cái chùy, làm bật lên những hòn đá, đẩy đá qua một bên, dọn dẹp những cây va chạm vào trục xe, san bằng con đường gồ ghề, xây cầu, đào ao hồ, dựng phòng ốc, bố thí và giữ giới.

Như vậy, phần lớn toàn dân trú trong làng vâng theo lời khuyên dạy của Bồ-tát, giữ gìn các giới.Nguời thôn trưởng suy nghĩ về họ: "Trước đây, khi những người này uống rượu, sát sanh v.v..., ta lấy được nhiều tiền, nào tiền rượu, tiền phạt, tiền cúng.

Nay thanh niên Magha khiến họ giữ giới, nên họ không còn sát sanh nữa, v.v...

Nay ta sẽ làm cho họ từ bỏ Năm giới".Kẻ ấy phẫn nộ đi đến hầu vua và thưa:- Tâu Thiên tử, có một đoàn ăn cướp, đang phá xóm làng và làm nhiều tội ác!Vua nghe kẻ ấy nói như vậy, liền bảo:- Hãy đi và dẫn chúng đến!Người thôn trưởng bắt họ trói lại, dẫn họ đến và báo với vua:- Thưa Thiên tử, những người ăn cướp đã được dẫn đến.Không điều tra việc làm của họ, vua nói:- Hãy đem chúng cho voi chà!Vua bắt tất cả những người ấy nằm xuống trên sân vua và đem voi lại.Bồ-tát khuyên bảo họ:- Các bạn hãy hành trì giới.

Hãy khởi lòng từ đối với kẻ vu cáo, đối với vua, đối với con voi, đối với tự thân đều giống nhau.Họ làm như lời khuyên ấy.Các người của vua đem voi đến để chà họ chết.

Con voi được dắt đến nhưng không lại gần, chỉ rống to rồi bỏ chạy.

Họ lại đem con voi khác nữa.

Tất cả đều bỏ chạy như vậy.

Vua nghĩ: "Chắc trong tay họ có thuốc trường sanh!" và vua ra lệnh soát.

Sau khi soát không thấy gì, họ thưa lên với vua:- Vậy chắc họ có đọc bùa chú.- Hãy hỏi họ.Những người của vua hỏi, Bồ-tát trả lời:- Có.Họ thưa lại với vua..

Vua cho gọi tất cả bọn họ đến và bảo:- Hãy đọc bài chú của các người.Bồ-tát trả lời:- Thưa Thiên tử, chúng tôi không biết bùa chú gì khác.

Nhưng ba mươi người chúng tôi không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh, không nói láo, không uống rượu.

Chúng tôi khởi lòng từ, chúng tôi bố thí, chúng tôi san bằng đường sá, chúng tôi đào ao hồ, chúng tôi xây phòng ốc.

Ðấy là bùa chú của chúng tôi, là sức mạnh của chúng tôi.Vua rất bằng lòng với họ, liền cho họ tất cả gia sản của người vu cáo, bắt người vu cáo làm nô lệ cho họ, rồi cho họ cả đàn voi và ngôi làng.

Từ đấy trở đi, họ làm các công đức theo sở thích của họ, họ gọi thợ mộc để xây dựng một phòng họp lớn tại ngã tư đường.

Vì không còn ham muốn đối với nữ nhân, họ không cho nữ nhân tham gia vào công đức làm phòng họp ấy.Lúc bấy giờ, tại nhà Bồ-tát có bốn nữ nhân tên là Thiện Pháp, Tư Duy, Hoan Hỷ, Thiện Sanh.

Một trong bốn nữ nhân là Thiện Pháp tự mình đi tìm người thợ mộc, hối lộ cho người ấy và nói:- Này anh, hãy cho tôi đóng góp phần chính trong việc làm phòng họp này.Người thợ mộc chấp nhận lời yêu cầu, trước tiên cho phơi khô gỗ làm tháp nhọn, chặt đẽo, đục lỗ, làm xong cái tháp nhọn, rồi lấy vải cuốn lại và cất đi.

Khi người thợ mộc làm xong phòng họp, đến thời đặt tháp nhọn, anh ta lại kêu than:- Ôi, thưa các Tôn giả, có một vật chúng ta chưa làm.- Cái gì vậy?- Cần phải có một cái tháp nhọn.- Ðược, chúng tôi sẽ đem đến.- Nay không thể làm với cây mới chặt được.

Chúng ta cần phải có một cái tháp nhọn với cây đã chặt trước phơi khô một thời gian, rồi cắt đẽo, và đục lỗ để dành.- Vậy nay phải làm gì?- Hãy tìm xem trong nhà của ai có cất một cái tháp nhọn đã làm xong và để bán.Họ tìm kiếm, và thấy trong nhà của Thiện Pháp có cái tháp ấy, nhưng không mua được.- Nếu các ông cho tôi dự phần công đức làm phòng họp, thì tôi sẽ biếu cái tháp nhọn.- Không được, chúng tôi không cho nữ nhân dự phần công đức.Người thợ mộc nói với họ:- Sao các Tôn giả lại nói vậy?

Chỉ trừ Phạm thiên giới, không một chỗ nào khác loại trừ nữ nhân!

Hãy lấy tháp nhọn.

Có như vậy công việc của chúng ta mới hoàn thành.Họ bằng lòng lấy tháp nhọn, và làm xong phòng họp.

Sau đó, họ cho sắp những ghế dài bằng gỗ, đặt những ghè đựng nước, cung cấp cháo và cơm.

Họ xây một bức tường xung quanh phòng họp, gắn cửa ra vào, rải cát giữa những bức thành và ngoài bức thành trồng một dãy cây cọ dừa.Còn nàng Tư Duy xây dựng một công viên tại chỗ ấy.

Tại đó, không có một cây hoa nào, cây trái nào mà không có tên nàng.

Nàng Hoan Hỷ đào một hồ nước đẹp đẽ, tràn đầy hoa sen năm sắc.

Còn nàng Thiện Sanh không làm gì cả.Bồ-tát làm đầy đủ bảy điều thệ nguyện: Hầu mẹ, hầu hạ cha, kính trọng anh cả, nói lời chân thật, không noí lời ác, không nói lời vu váo, nhiếp phục xan tham và tóm tắt trong bài kệ:Người nuôi dưỡng mẹ cha,

Kính bậc trưởng gia đình,

Nói từ hòa, ái ngữ,

Từ bỏ lời vu cáo,

Nhiếp xan tham nói thật,

Phẫn nộ được chế ngự,

Chư Thiên Ba mươi ba

Gọi là bậc Chân nhân.Bồ-tát đạt trạng thái đáng được tán thán nhu vậy, và khi mạng chung, được sanh làm Ðế Thích Thiên Chủ ở cõi Trời ba mươi ba.

Những người bạn của Bồ tát cũng sanh lên đó.

Trong thời ấy, tại cõi trở Ba mươi ba, các Thần Asura (A-tu-la) cũng sống chung.

Thiên Chủ Ðế Thích nói:- Tốt gì cho chúng ta khi một vương quốc phải ở chung với kẻ khác?Rồi ngài cho các A-tu-la uống nước chư Thiên, khi chúng say, Thiên Chủ Ðế Thích cầm chân chúng ném xuống vực núi Sineru (Tu-di).

Chúng rơi vào lâu đài ở cảnh giới A-tu-la.

Lâu đài của A-tu-la nằm ở tầng thấp nhất của núi Tu-di, rộng bằng cõi Trời ba mươi ba.Tại đấy có mọc một cây giống như cây San hô của chư Thiên sống suốt một kiếp và được gọi là Cây bông kèn.

Cây bông kèn nở hoa, cho chúng biết đây không phải là cõi trời của chúng vì cõi trời có nở hoa San hô.

Chúng nói:- Ông già Ðế thích cho chúng ta uống say, rồi quăng chúng ta trên mặt biển lớn và chiếm thành chư Thiên của chúng ta.

Chúng ta hãy tiến đánh lão ấy và lấy lại thành chư Thiên của chúng ta!Rồi chúng leo lên sườn núi Tu-di như những con kiến leo lên cột.

Ðế Thích nghe các Thần A-tu-la đã leo lên, liền xông ra mặt biển giao tranh, bị chúng đánh bại, liền chạy trốn trên chiếc xe Vejeyanta dài một trăm năm mươi dặm, chạy trên những đầu ngọn sóng biển phía nam.

Chiếc xe của Ðế Thích chạy lướt trên mặt biển, đi đến ngôi rừng cây bông lụa.

Trên đường đi của chiếc xe, rừng cây bông lụa bị chặt đứt như những cây cọ dừa và rơi trên mặt biển.

Các con chim Kim-sí-điểu (Garula, thim thần cánh vàng) bay quanh trên mặt biển, kêu gào lớn tiếng.

Ðế Thích hỏi thần lái xe Màtali:- Này bạn Màtali, tiếng kêu gì vậy?

Nó kêu thật bi thương?- Thưa Thiên đế, vì rừng cây bông lụa rơi xuống, do tốc độ cỗ xe ngài nghiền nát, các con chim Kim-sí-điểu sợ chết đồng thanh kêu gào như vậy.Bậc Ðạo Sĩ nói:- Này bạn Màtali, chớ làm chúng mệt mỏi, vì chúng ta.

Chúng ta không vì chủ quyền thiên giới mà sát sanh.

Vì lợi ích của chúng, ta sẽ từ bỏ mạng sống và nộp mình cho loài A-tu-la!

Hãy quay xe lại đi!Nói vậy xong, Ðế Thích đọc bài kệ:Hãy để tổ chim con,

Hỡi này Mà-ta-li!

Trong rừng Sim-ba-li

Tránh miệng ác chủ tể,

Ta sẵn sàng nộp mạng

Cho các A-tu-la,

Chớ để các chim này

Bị xé nát khỏi tổ.Thần đánh xe Màtali nghe lời Ðế Thích, quay xe lại, đi về hướng thiên giới bằng con đường khác.

Các thần A-tu-la thấy Ðế Thích quay xe lại, tự nghĩ: "Chắc chắn các Ðế Thích từ những thế giới khác đến, được sức mạnh tiếp viện, nên mới quay xe lại".

Bị dao động vì sợ chết, chúng liền chạy trốn vào lâu đài A-tu-la.Còn Ðế Thích đi vào thành chư Thiên, đứng ở giữa thành, với Thiên chúng của hai thiên giới vây quanh.

Trong thời khắc ấy, đất nứt ra, và lâu đài Vejayanta (Tối thắng) trồi lên cao một ngàn dặm.

Vì nó trồi lên khi thắng trận, nên được gọi là lâu đài Vejayanta.

Ðể ngăn chận các A-tu-la trở lại, Ðế Thích ra lệnh cho bảo vệ năm chỗ, liên hệ vấn đề này, Ðế Thích nói lên bài kệ:Giữa hai thành bất thắng,

Ðặt năm chỗ bảo vệ,

Bảo vệ bởi Rắn thần,

Bởi chim Kim-sí-điểu,

Kum-bhan-da, Dạ-xoa,

Và bởi bốn thiên vương.Ðược năm chỗ bảo vệ này, Thiên chủ Ðế Thích thọ hưởng những vinh quang thiên giới.

Nàng Thiện Pháp, sau khi mạng chung, được sanh làm vương hậu một lần nữa.

Do kết quả cúng dường cái tháp nhọn, đã khởi lên cho nàng một lâu đài tên là Thiện Pháp đình với thiên báu, cao đến năm trăm dặm.

Tại đấy, dưới một chiếc lọng trắng của chư Thiên, Thiên chủ Ðế Thích ngồi trên một tấm nệm bằng vàng rộng một dặm và làm những công việc cần phải làm cho chư Thiên và loài người. còn Tư Duy, sau khi mạng chung, cũng sanh làm vương hậu của Ðế Thích; do kết quả xây dựng một công viên, đã khởi lên cho nàng một công viên tên là Cittalatavana (Tư Duy Viên).

Hoan Hỷ, khi mạng chung, cũng sanh làm vương hậu của Ðế Thích, do kết quả cúng dường cái hồ, đã khởi lên cho nàng một cái hồ tên là Nanda (Hoan hỷ).

Còn Thiện Sanh, do không làm thiện nghiệp gì, được sanh làm con chim hạc ở một hang động trong rừng.Không thấy bóng dáng Thiện Sanh ở đâu, muốn biết nàng tái sanh chỗ nào, Ðế Thích hướng tâm xem xét và thấy nàng, liền đi đến chỗ ấy thăm nàng rồi đưa nàng lên thiên giới, chỉ cho thấy thành phố chư Thiên đẹp đẽ, lâu đài chư Thiên của Thiện Pháp, rừng cây leo của Tư Duy, cái hồ của Hoan Hỷ, Ðế Thích nói:- Những nàng này, vì có làm việc thiện nên được sanh làm vương hậu của ta.

Còn nàng, không làm việc lành, phải sanh làm chim hạc.

Bắt đầu từ nay, hãy giữ giới!Sau khi khuyến giáo nàng và trao cho nàng Năm giới, Ðế Thích đưa nàng về lại chỗ cũ và thả nàng ra.

Từ đấy trở đi, nàng giữ giới.

Sau một thời gian, muốn tìm hiểu nàng có giữ giới nữa không, Ðế Thích đi đến hiện hình làm con cá nằm trước mặt nàng.

Nghĩ rằng cá đã chết, hạc ngậm lấy đầu cá.

Cá vẫy đuôi, hạc liền thả cá ra, và nói:- Ôi nó còn sống!Ðế Thích nói:- Lành thay, nàng có thể giữ giới được!Rồi ngài ra đi.

Con hạc, sau khi mạng chung, được sanh vào một gia đình làm đồ gốm ở Ba-la-nại.

Ðế Thích không biết nàng tái sanh ở đâu.

Khi biết chỗ tái sanh của nàng, Ðế Thích liền chở đầy một xe dưa chuột bằng vàng, giả dạng một ông già, ngồi giữa làng và la lớn:- Hãy đến lấy dưa chuột!

Hãy đến lấy dưa chuột!Nhiều người tự lại nói:- Này ông bạn thân, hãy cho chúng tôi!- Ta chỉ cho những người nào giữ giới!

Các chú có giữ giới không?- Chúng tôi không biết giới.

Chúng tôi sẽ trả tiền.- Ta không cần tiền!

Ta sẽ cho những ai giữ giới!Các người ấy nói:- Cụ già này thật lẩn thẩn.Rồi họ bỏ đi.Thiện Sanh nghe thấy, nghĩ rằng những trái dưa chuột này được mang đến cho nàng, liền đi đến và nói:- Này ông bạn thân, hãy cho tôi!- Nàng có giữ giới không?- Thưa, tôi có giữ giới!- Những trái dưa chuột này chính ta mang đến cho nàng!Rồi Ðế Thích để xe dưa chuột trước của nhà nàng và ra đi.

Còn nàng giữ giới cho đến trọn đời.

Từ đấy mạng chung, nàng sanh làm con gái của chúa thần A-tu-la là Vepacittiva, nhờ giữ giới nên nàng rất đẹp.Ðến tuổi trưởng thành, cha nàng cho họp các thần A-tu-la lại để cô con gái tự do chọn lựa chồng theo sở thích của nàng.Lúc ấy, Ðế Thích đang tìm xem Thiện sanh ở đâu, và biết được chỗ nàng tái sanh, tự nghĩ: "Nàng đang tìm chồng theo sở thích, chắc chắn nàng sẽ lấy ta!".

Ðế Thích liền hóa hiện ra một thần A-tu-la, và đi đến chỗ ấy.

Nàng được trang sức và được đưa đến chỗ tụ họp để lựa chọn chồng theo ý muốn.

Nàng nhìn Ðế Thích, với tình yêu thưở trước, liền chọn ngay Ðế Thích:- Ðây là chồng của tôi!Ðế Thích đưa nàng về thành chư Thiên, đặt nàng lên địa vị nữ vương cầm đầu hai mươi triệu vũ nữ.

Nàng sống như vậy cho đến mạng chung rồi đi theo nghiệp mình.*Sau khi kể câu chuuyện, bậc Ðạo Sư đã khiển trách vị Tỷ-kheo ấy và nói:- Như vậy, này các Tỷ-kheo, thuở trước trong khi các bậc Hiền trí trị vì thiên quốc, dầu từ bỏ thân mạng của mình, cũng không sát sanh.

Còn ông xuất gia trong Giáo pháp giải thoát như vậy, lại uống nước không lọc, có các loại hữu tình.Sau khi khiển trách Tỷ-kheo ấy và kết hợp hai câu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, thần đánh xe Matali là Ànanda, còn Ðế Thích là Ta vậy.-ooOoo-32.

CHUYỆN MÚA CA (Tiền thân Nacca)Âm thanh ngươi êm dịu... ,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo có nhiều đồ vật.

Giống như câu chuyện đã được nói đến trong Tiền thân Devadhamma (số 6), bậc Ðạo Sư hỏi:- Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông có nhiều đồ vật?- Thưa phải, bạch Thế Tôn.- Vì sao ông có nhiều đồ vật?Nghe đến đây, Tỷ-kheo ấy phẫn nộ, quăng bỏ y trong, y choàng, đứng trần truồng trước mặt bậc Ðạo Sư và nói:- Nay tôi sẽ thoát y như thế này!Mọi người đều nói:- Ôi, xấu hổ thay!Tỷ-kheo ấy bỏ chạy rồi hoàn tục.

Các Tỷ-kheo ngồi tại Pháp đường, nói về thái độ bất nhã của Tỷ-kheo ấy đã làm trước mặt bậc Ðạo Sư.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi:- Này các Tỷ-kheo, nay các ông ngồi họp tại đây bàn câu chuyện gì?- Bạch Thế Tôn, chúng con đang nói về thái độ bất nhã của Tỷ-kheo ấy, trước mặt Thế Tôn và giữa bốn chúng, từ bỏ tàm quý đã đứng trần truồng như một đứa trẻ ở làng, bị quần chúng ghét bỏ, vị ấy đã hoàn tục, từ bỏ Giáo pháp!Bậc Ðại Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải nay Tỷ-kheo ấy mới không có tàm quý, từ bỏ Pháp bảo.

Trong đời quá khứ, kẻ ấy đã từ bỏ vợ báu của mình.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện sau đây.*Thuở xưa, trong kiếp thứ nhất, các loài thú bốn chân tôn Sư Tử làm vua, các loài cá tôn cá thần Ànanda, và các loài chim tôn ngỗng trời Suvanna (Kim nga).

Con gái vua ngỗng trời Suvanna, một ngỗng trời con rất đẹp, được vua ban cho một ước nguyện.

Nàng ước nguyện được một tấm chồng theo sở thích của mình.

Vua ngỗng trời làm theo ước nguyện của con, cho tập hợp tất cả loài chim tại núi Tuyết.

Từng đàn chim đủ loại như ngỗng trời, chim công, v.v... lũ lượt bay tới tấp, tập hợp trên một cao nguyên bằng đá lớn.

Vua ngỗng trời cho gọi con gái đến và nói:- Con hãy lựa chọn chim chồng mà theo con thích ý!Nàng nhìn đàn chim, thấy con chim công có cổ đẹp với màu sắc châu báu, có lông đuôi nhiều màu, liền chọn con chim ấy và nói:- Con chim này sẽ là chồng con!Ðàn chim vậy quanh chim công nói:- Này bạn chim công, công chúa này, giữa những đàn chim, đã chọn bạn làm chồng.

Hãy vui sướng lên bạn!Con chim công quá sung sướng nói lớn:- Cho đến hôm nay, các ngươi chưa thấy sức mạnh của ta!Rồi giữa các đàn chim, bỏ mất tàm quý, chim công xòe cánh ra. bắt đầu múa và khi múa nó không che thân.

Vua ngỗng trời Suvanna xấu hổ nói:- Con chim này không có tàm khởi lên từ nội tâm, không có lòng quý khởi lên từ bên ngoài, ta sẽ không gả con gái ta cho kẻ đã phá hoại tàm quý!Rồi vua ngỗng trời nói lên bài kệ giữa đàn chim:Âm thanh ngươi êm dịu,

Lưng người thật đẹp đẽ,

Cổ ngươi về màu sắc

Chẳng khác ngọc lưu ly,

Lông đuôi người xòe rộng,

Dài rộng đến một tầm,

Nhưng vì ngươi nhảy múa,

Ta không cho con gái.Trước mặt đàn chim ấy, vua ngỗng trời gả công chúa cho ngỗng trời con.

Còn con chim công mất công chúa ngỗng trời, xấu hổ, bay cao, và trốn mất.

Vua ngỗng trời cũng đi về chỗ ở của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo không phải nay Tỷ-kheo ấy mới bỏ mất tàm quý, từ bỏ Pháp bảo.

Trong thời quá khứ, kẻ ấy đã làm mất vợ báu của mình.Khi Ngài kể xong pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc ấy con chim công là người có nhiều đồ vật.

Còn vua ngỗng trời là Ta vậy.-ooOoo-33.

CHUYỆN SỐNG HÒA HỢP (Tiền thân Sammodamàna)Khi chung sống hòa hợp...,Câu chuyện này, khi ở tại Vườn Cây bàng gần Ca-tỳ-la-vệ, bậc Ðạo Sư đã kể về việc tranh cãi nhau vì cái gối.

Câu chuyện sẽ được trình bày trong Tiền thân Kunala (số 536).Lúc bấy giờ, bậc Ðạo Sư bảo các bà con:- Này các Ðại vương, các bà con không nên tranh cãi nhau.

Trong thời quá khứ, các loài thú khi sống hòa hợp.

đã chiến thắng được kẻ thù; còn khi sống bất hòa, đã bị nạn diệt vong lớn.Theo yêu cầu của các hoàng tộc, bà con, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ tát sanh làm con chim cun cút đầu đàn, được vây quanh với hàng ngàn con chim cun cút, sống ở trong rừng.

Lúc bấy giờ, một thợ săn chim đi đến vùng cun cút, nhờ bắt chước tiếng kêu của loài cun cút, kẻ ấy biết được chỗ tụ họp của đàn chim.

Người thợ săn liền quăng lưới lên trên đàn chim, chận lại các đường viền, tóm tất cả đàn chim cút thành một mối, bỏ vào giỏ đi về nhà, đem bán và nuôi sống với số tiền ấy.Một hôm, Bồ-tát nói với các con chim cun cút:- Người thợ săn chim này giết hại nhiều bà con chúng ta; nay ta có một phương kế khiến kẻ ấy không thể bắt chúng ta được.

Từ nay trở đi, khi kẻ ấy vừa quăng lưới trên đầu các ngươi, mỗi một chim cút chui đầu vào một lỗ của lưới, nhấc bổng lưới lên đến chỗ các ngươi muốn, và hạ xuống trên một bụi gai.

Làm như vậy, chúng ta sẽ trốn thoát khỏi nhiều mẻ lưới!Tất cả chúng đều vâng theo.

Vào ngày hôm sau, khi lưới được quăng trên đàn chim, chúng liền nhấc bổng lưới lên như lời Bồ-tát dặn và thả xuống trên một bụi gai, rồi trốn thoát theo ngã dưới.

Người thợ săn chim đang còn gỡ lưới khỏi bụi gai, thì trời đã xế chiều, nên đi về với tay không.Nhiều ngày kế tiếp, các con chim cun cút đều làm như vậy.

Người thợ sănchim cứ loay hoay cho đến khi mặt trời lặn, chỉ lo gỡ lưới, không bắt được gì và đi về nhà tay không.Người vợ tức giận nói:- Ngày lại ngày, ông về hai tay không.

Tôi nghĩ rằng có lẽ ông có một chỗ nuôi dưỡng khác!Thợ săn chim nói:- Này bà, ta không có chỗ nuôi dưỡng nào khác.

Nhưng các con chim cun cút sống hòa hợp với nhau.

Chúng mang đi lưới ta quăng, và thả xuống một bụi gai rồi bỏ đi.

Nhưng chúng sẽ luôn luôn không sống hòa thuận được.

Bà chớ lo.

Khi chúng tranh cãi nhau, lúc ấy, ta sẽ bắt gọn tất cả chúng, nụ cười sẽ trở lại trên môi bà!Rồi kẻ ấy nói lên bài kệ với người vợ:Khi chung sống hòa hợp,

Các chim mang lưới đi,

Khi chúng tranh cãi nhau,

Chúng rơi vào tay ta.Vài ngày trôi qua, khi một con chim cun cút đậu xuống chỗ ăn, vô ý bước trên đầu một con chim khác.

Chim ấy tức giận nói:- Ai bước trên đầu ta?- Chính tôi vô ý bước.

Ðừng giận tôi!Tuy vậy, con chim ấy vẫn giận, tiếp tục nói:- Ngươi nghĩ rằng chỉ một mình ngươi nhấc bổng lưới lên chăng?Khi chúng tranh cãi nhau, Bồ-tát suy nghĩ: "Khi tranh cãi nhau thì không có an toàn.

Nay bọn chim sẽ không nhấc bổng lưới lên nữa.

Do vậy, bọn cun cút sẽ gặp nạn, người thợ săn sẽ nắm được cơ hội.

Ta sẽ không sống ở chỗ này nữa!".

Rồi Bồ-tát đem đàn chim của mình đi đến một chỗ khác.

Người thợ săn chim lại đến, sau một vài ngày, bắt chước giọng chim cun cút, và quăng lưới lên chỗ chúng đang tụ họp.

Một con chim cun cút nói:- Nghe nói, khi ngươi nhấc bổng lưới lên, lông trên đầu rơi xuống.

Vậy nay hãy nhấc bổng lên!Một con chim khác nói:- Nghe nói, khi ngươi nhấc bổng lưới lên, lông hai cánh của ngươi rơi xuống. vậy nay hãy nhấc bổng lên!Như vậy, khi đàn chim cun cút đang tranh cãi nhau, người thợ săn chim nhấc bổng lưới lên, bắt tất cả đàn chim nhét đầy vào một cái giỏ, đem về nhà và hy vọng đem lại thật nhiều nụ cười cho bà vợ.*Bậc Ðạo Sư nói:- Như vậy, thưa Ðại vương, các bà con không nên tranh cãi nhau.

Tranh cãi là nguồn gốc diệt vong.Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẫu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, con chim cun cút vô trí là Ðề-bà-đạt-đa, còn con chim cun cút có trí là Ta vậy.-ooOoo-34.

CHUYỆN CON CÁ (Tiền thân Maccha)Ta không vì nóng lạnh ...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo si mê bà vợ trước thời xuất gia.

Lúc bấy giờ, Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:- Có thật chăng, này Tỷ-kheo, ông bị ái nhiễm?- Thật vậy, bạch Thế Tôn!- Bị ái nhiễm bởi ai?- Bạch Thế Tôn, vợ trước của con rất êm dịu khi xúc chạm.

Con không thể bỏ nàng được!Bậc Ðạo Sư nói với vị Tỷ-kheo ấy:- Này Tỷ-kheo, chính nữ nhân ấy đã tạo nên bất hạnh cho ông.

Trong thời trước, ông gần chết vì nữ nhân ấy.

Nhờ có Ta đi đến, ông được thoát chết.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Trong thời quá khứ, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát làm vị phụ trách về nghi lễ tôn giáo của vua.Lúc bấy giờ, các ngươi đánh cá quăng lưới trên sông.

Một con cá lớn đi theo chơi với con cá mái, vợ của nó một cách rất luyến ái.

Con cá mái ấy đi trước, ngửi mùi hương của lưới, bơi quanh lưới rồi bỏ đi.

Con cá trống bị mù quáng bởi lòng tham luyến, đi thẳng vào trong mắt lưới.

Những người đánh cá biết được cá đã mắc vào lưới bèn kéo lên, bắt con cá nhưng chưa giết nó, lại quăng nó trên bãi cát.

Họ nói:- Chúng ta sẽ nướng con cá này trên than hừng để ăn.Rồi họ chất một đống than và chuốt nhọn cây gậy.

Con cá suy nghĩ: "Ta không than khóc vì bị nướng trên than hồng, hay bị đâm xuyên bởi gậy nhọn, hay sự đau khổ nào khác.

Nhưng chỉ vì con cá mái, vợ ta sẽ buồn rầu, nghĩ rằng ta đã ra đi với con cá mái khác.

Ðó là điều làm ta đau đớn!".Vừa than khóc cá nói lên bài kệ:Ta không vì nóng lạnh,

Không vì bị mắc lưới,

Chỉ sợ vợ ta nghĩ,

Ta say mê nàng khác!Lúc bấy giờ, vị phụ trách nghi lễ tôn giáo, cùng với đám nô tỳ vây quanh, đi đế bờ sông để tắm.

Vị ấy biết tiếng mọi loài.

Nghe con cá than, vị ấy suy nghĩ "Con cá này đang khóc tiếng khóc than ai oán.

Bị chết trong trạng thái tâm bệnh như vậy, nó sẽ sanh xuống địa ngục.

Ta sẽ là người giúp đỡ nó!".

Vị ấy đi đến gần những người đánh cá và nói:- Này các bạn, các bạn không bán cho chúng ta một con cá mỗi ngày để làm món cà ri đó sao?Những người đánh cá nói:- Thưa ngài, sao ngài nói vậy?

Ngài có thể lấy đi mọi thứ cá ngài thích!- Chúng tôi không cần con cá nào khác, trừ con cá này.- Thưa ngài, ngài hãy lấy nó đi.Bồ-tát, với hai tay bắt lấy con cá, ngồi trên bờ sông và khuyên:- Này bạn cá, nếu hôm nay ta không thấy ngươi, thì ngươi đã chết.

Nhưng từ nay trở đi, ngươi chớ nên đế ái tình chi phối!Khuyên răn xong, Bồ-tát thả con cá xuống nước và trở về thành phố.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết các Sự thật.

Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo bị ái nhiễm chứng quả Dư lưu.

Bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẫu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, con cá mái là người vợ thời trước, con cá trống là Tỷ- kheo bị ái nhiễm, còn vị phụ trách lễ nghi tôn giáo là Ta vậy.-ooOoo-35.CHUYỆN CON CHIM CÚT (Tiền thân Vattaka)Có cánh không bay được ...,Câu chuyện này, khi đang du hành ở xứ Ma-kiệt-đà, bậc Ðạo Sư đã kể về lửa rừng bị dập tắt..

Một thời Thế Tôn đang du hành trong xứ Ma-kiệt-đà.

Khi đang đi khất thực trong một làng nhỏ ở Ma-kiệt-đà, sau bữa ăn, trên đường trở về với chúng Tỷ-kheo, Thế Tôn thấy một đám lửa lớn bùng lên.

Phía trước và phía sau ngài có nhiều Tỷ-kheo.

Ngọn lửa tràn đến, lan rộng, tạo thành một màn khói và một màn lửa.

Một số Tỷ-kheo còn là phàm phu, vì sợ chết, liền nói:- Chúng ta hãy tạo nên một đám lửa đối nghịch tại chỗ ngọn lửa đang cháy, ngọn lửa kia sẽ không cháy lan rộng.Rồi với ý định này, họ lấy que làm lửa và đốm lửa được nhen lên.

Một số Tỷ-kheo khác nói:- Này Hiền hỉ, làm gì vậy?

Các Hiền giả như những người không thấy mặt trăng đứng giữa hư không, hay vòng tròn mặt trời với ngàn tia sáng mọc lên từ thế giới phương Ðông, hoặc đại dương mà chúng ta đang đứng trên bờ.

Hoặc các Hiền giả không thấy núi Tu-di khi các Hiền Giả cùng đi với bậc Thượng nhân ở đời này và trên thiên giới.

Các Hiền giả không nhìn đến bậc Chánh Ðẳng Giác mà chỉ la: Chúng ta hãy tạo nên một ngọn lửa đối nghịch!

Các Hiền giả không biết Phật lực.

Chúng ta hãy đi lại gần bậc Ðạo Sư.Tất cả Tỷ-kheo từ phía trước phía sau đều đi đến gần bậc Ðạo Sư, đứng thành một nhóm.

Bậc Ðạo Sư cùng với chúng Tỷ-kheo đứng trên một khoảng đất.

Các ngọn lửa rừng ầm ầm lan đến như muốn nuốt sống tất cả, nhưng khi lan đến chỗ Như Lai đứng, chúng lan xung quanh, không đến gần hơn mười sáu tầm.

Nó không có sức mạnh lan rộng một vùng rộng ba mươi hai tầm (1 tầm = 1,8 m).Các Tỷ-kheo nói lên lời tán thán đức hạnh bậc Ðạo Sư:- Ôi đức hạnh của chư Phật!

Ngọn lửa vô tri này không có thể cháy lan đến chỗ chư Phật đứng, mà bị dập tắt như bó đuốc cỏ trong nước.

Ôi, uy lực của chư Phật thật là kỳ diệu!Bậc Ðạo Sư, nghe câu chuyện của họ, liền nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta có sức mạnh khiến ngọn lửa tắt đi, khi cháy đến chỗ đất này.

Ðây chính là sức mạnh của hạnh chân thật xưa kia Ta đã làm.

Chính tại chỗ này, hoàn toàn trong suốt một kiếp, lửa sẽ không đốt cháy.

Thần thông này tồn tại suốt một kiếp.Rồi Tôn giả Ànanda xếp chiếc áo Tăng-già-lê làm bốn thành tấm nệm cho bậc Ðạo Sư ngồi.

Bậc Ðạo Sư ngồi kiết già.

Chúng Tỷ-kheo đảnh lễ Như Lai, bao vây xung quanh Ngài và ngồi xuống.

Các Tỷ-kheo yêu cầu:- Bạch Thế Tôn, chúng con chỉ biết hiện tại, còn quá khứ bị che kín.

Mong Thế Tôn làm sáng tỏ vấn đề cho chúng con.Theo lời yêu cầu của họ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, ở nước Ma-kiệt-đà, tại chỗ này, Bồ-tát được tái sanh làm con chim cun cút.

Từ cái trứng, con chim con tự mình mổ vỏ và thoát ra, thân hình to bằng trái banh.

Cha mẹ đặt nó nằm trong tổ chim, chim mẹ tha đồ ăn về nuôi nó.

Tự nó không có sức mạnh để xòe cánh bay giữa hư không, cũng không có sức mạnh giơ chân lên để đi trên đất liền.Tại chỗ ấy, năm này qua năm khác, lửa rừng thường phát cháy.

Trong thời gian này, lửa rừng đang đốt cháy với tiếng gầm thét to lớn.

Các đàn chim từ trong tổ bay ra, sợ chết, kêu la, và bay trốn.

Cha mẹ Bồ-tát sợ chết, bay trốn bỏ lại Bồ-tát.

Bồ-tát nằm trong tổ, ngóc cổ vươn ra, thấy lửa đang cháy lan tới, liền suy nghĩ: "Nếu ta có sức mạnh xòe cánh bay lên hư không, và ta có thể đi đến một chỗ khác; hay nếu ta có sức mạnh giơ chân lên, ta có thể đi bằng chân đến một chỗ khác.

Cha mẹ ta, vì sợ chết, đã bỏ ta một mình, đã bỏ chạy để cứu mình.

Nay ta không có chỗ nương tựa nào khác.

Tự mình không nơi nương tựa, ta phải làm gì đây!".Ngài lại suy nghĩ: "Trong thế giới này, có công đức, thật sự có công đức.

Có những vị trong quá khứ viên mãn thành tựu các hạnh Ba-la-mật, ngồi dưới gốc Bồ-đề, chứng Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ giới định tuệ, giải thoát, giải thóat tri kiến, thành tựu chân lý, lân mẫn từ bi, nhẫn nhục tụ tập lòng thân ái, bình đẳng đối với tất cả chúng sanh, những vị Phật Nhất thiết trí.

Có những công đức Pháp mà các vị ấy đã chứng đắc.

Và ta có được một sự thật: Một tự tánh pháp hiện hữu.

Do vậy, ta cần phải niệm các công đức đã được các đức Phật quá khứ chứng đắc, nắm giữ tự tánh pháp về sự thật hiện có nơi ta, làm một hạnh chân đẩy lui ngọn lửa, đem lại an toàn cho ta và cho các con chim còn lại".

Do vậy, bài kệ này được nói lên:Ở đời có giới đức,

Chân thật, tịnh, từ bi,

Chính với chân thật ấy

Ta sẽ làm một hạnh,

Hạnh chân thật vô thượng.

Hay hướng niệm Pháp lực,

Niệm chư Phật quá khứ,

Dựa sức mạnh chân thật,

Ta làm hạnh chân thật.Rồi Bồ-tát niệm công đức chư Phật đã nhập Niết-bàn trong quá khứ, nhân danh tánh chân thật hiện có trên tự thân, làm một hạnh chân thật, và đọc bài kệ:Có cánh không bay được,

Có chân không thể đi,

Cha mẹ đã bỏ ta,

Hỡi lửa, hãy đi lui!Khi Bồ-tát nói sự thật ấy, ngọn lửa đi trở lui khoảng mười sáu tầm (1 tầm = 1,8 m).

Khi trở lui như vậy, lửa không đốt cháy khu rừng nó đi ngang qua và được dập tắt tại chỗ ấy, như bó đuốc nhúng vào nước.

Do vậy, bài kệ được nói như sau:Ta làm hạnh chân thật,

Màn lửa lớn lửa ngọn.

Ði lui mười sáu tầm

Như ngọn đuốc gặp nước.Trong suốt kiếp này, chỗ ấy không bị lửa đốt cháy, được gọi là thần thông tại trong một kiếp.

Như vậy, Bồ-tát đã làm hạnh chân thật, và khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ta có sức mạnh không cho ngọn lửa cháy đến khu rừng này, mà thời xưa, khi làm chim cun cút con, Ta đã có sức mạnh của một hạnh chân thật.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật.

Cuối bài giảng, một số người chứng quả Dự lư, một số người chứng quả Bất Lai, một số người chứng quả A-la-hán.

Bậc Ðạo Sư, kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, cha mẹ của ta hiện tại là cha mẹ ta trong quá khứ, còn vua loài cun cút là Ta vậy.-ooOoo-36.

CHUYỆN CON CHIM (Tiền thân Sakuna)Các chim sống ở đời ... ,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư kể về cái chòi lá bị cháy.

Truyền thuyết nói một Tỷ-kheo lấy đề tài Thiền quán bậc Ðạo Sư.

Từ Kỳ Viên đi đến Kosala, vị ấy sống tại một trú xứ trong khu rừng, gần một làng ở biên địa.

Trong tháng đầu, chòi lá vị ấy bị cháy.

Vị ấy báo cho mọi người biết:- Chòi lá tôi bị cháy.

Tôi sống khó khăn.Và các người được báo nói:- Nay ruộng chúng tôi bị hạn, tát nước cho ruộng xong, chúng tôi sẽ làm.Khi tát nước xong, họ gieo giống, gieo giống xong họ làm hàng rào; làm hàng rào xong, họ nhổ cỏ, họ gặt, họ đập lúa.

Như vậy, họ đề cập việc này sang việc khác, cho đến lúc ba tháng đã trôi qua.

Tỷ-kheo ấy trong ba tháng phải sống khổ sở ngoài trời, đã tăng trưởng đề tài Thiền quán, nhưng không đạt được như ý.

Vì thế, lễ Tự tứ xong, Tỷ-kheo ấy đi đến bậc Ðạo Sư, đảnh lễ và ngồi xuống một bên.

Sau khi chào đón thân tình, bậc Ðạo Sư hỏi:- Này Tỷ-kheo, ông an cư mùa mưa có thoải mái không, đề tài Thiền quán của ông có đạt kết quả không?Tỷ-kheo ấy báo cáo sự việc lên, và nói:- Vì con không được một trú xứ thích hợp, nên đề tài Thiền quán không có kết quả.Bậc Ðạo Sư nói:- Trong thời trước này Tỷ-kheo, ngay các loài thú cũng biết trú xứ thích hợp với mình, làm sao ông không biết?Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Barhmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con chim, với đàm chim vây quanh sống dựa trên một cây lớn, đầy đủ cành cây trong một khu rừng.

Một ngày kia, khi các cành cây cọ xát nhau, bụi cây rơi xuống, khói khởi lên.

Thấy vậy, Bồ-tát suy nghĩ: "Hai nhánh cây này cọ xát như vậy sẽ sanh lửa.

Lửa rơi xuống sẽ đốt các lá cũ.

Từ đấy, cây này sẽ bị cháy.

Chúng ta không thể ở đây được.

Ta phải bỏ đi đến một chỗ khác".Rồi Bồ-tát nói bài kệ này với đàn chimCác chim sống trên đời,

Dựa vào trú xứ nào,

Chỗ ấy sanh ra lửa,

Hỡi loài chim tránh xa,

Hãy đi các phương khác,

Nếu y tựa chỗ ấy,

Sợ hãi sẽ sanh ra.Các con chim có trí nghe theo lời Bồ-tát, lập tức cùng với Bồ-tát bay lên hư không, đi tới chỗ khác.

Các chim không có trí nói:- Vị ấy như ếch ngồi đáy giếng.Nên chúng không nghe theo lời Bồ-tát, vẫn sống ngay tại chỗ ấy.Từ đấy không bao lâu, như Bồ-tát đã nghĩ trước, lửa sanh ra và đốt cháy cây ấy.

Trong khi khói và lửa bốc lên, các con chim bị khói làm mù mắt không thể đi chỗ khác, đã rơi vào biển lửa, hết con này đến con khác và bị tiêu diệt.Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, trong thời trước; các con vật sống trên cây cao cũng biết được chỗ thích hợp cho mình, sao ông lại không biết?*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các Sự thật.

Cuối bài giảng, vị Tỷ-kheo ấy chứng quả Dự lưu.

Bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, các con chim làm theo lời Bồ-tát là hội chúng đức Phật, và con chim có trí là Ta vậy.-ooOoo-37.

CHUYỆN CON CHIM TRĨ (Tiền thân Tittira)Ai kính bậc lớn tuổi ... ,Câu chuyện này, khi đi đến Xá-vệ, bậc Ðạo Sư kể về trưởng lão Xá-lợi-phất đã bị tước đoạt trú xứ như thế nào.

Khi ông Cấp-cô-độc đã làm xong ngôi tinh xá và gửi sứ giả báo tin, bậc Ðạo Sư từ Vương Xá ra đi, đến Tỳ-xá-ly sống tại đấy cho thỏa thích rồi lên đường đi Xá-vệ.

Lúc bấy giờ, các đệ tử của nhóm Sáu Tỷ-kheo đi phía trước; khi các trú xứ chưa được các Trưởng lão ở, họ giành lấy:- Trú xứ này dành cho giáo thọ sư chúng tôi, trú xứ này dành cho sư trưởng chúng tôi, trú xứ này dành cho chúng tôi.Các trưởng lão đến sau không được các trú xứ.

Các đệ tử của Trưởng lão Xá-lợi-phất tìm trú xứ cho Trưởng lão, nhưng không được.

Trưởng lão không được trú xứ, đã ngồi hay kinh hành dưới một gốc cây không xa trú xứ bậc Ðạo Sư bao nhiêu.Sáng sớm, bậc Ðạo Sư đi ra, đằng hắng thành tiếng.

Trưởng lão đằng hắng lại.

Thế Tôn hỏi:- Ai đó?- Bạch Thế Tôn, con là Xá-lợi-phất.- Này Xá-lợi-phất, vào giờ này, ông làm gì ở đây?Trưởng lão kể lại sự việc ấy.

Bậc Ðạo Sư nghe câu chuyện, suy nghĩ: "Nay Ta còn sống, các Tỷ-kheo còn thiếu tôn trọng, kính nể lẫn nhau.

Khi Ta diệt độ rồi, họ sẽ làm như thế nào nữa?".

Nghĩ vậy, bậc Ðạo Sư khởi lên sự lo âu vì Chánh pháp.Khi trời vừa sáng, Ngài bảo tập hợp Ðại chúng, và hỏi các Tỷ-kheo:- Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, các đệ tử nhóm Sáu Tỷ-kheo đi trước giành hết trú xứ của các Tỷ-kheo Trưởng lão?- Thưa thật vậy, bạch Thế Tôn.Thế Tôn liền chỉ trích nhóm Sáu Tỷ-kheo.

Ngài thuyết pháp, bảo các Tỷ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, ai xứng đáng được chỗ ngồi tốt nhất, được nước uống tốt nhất, được đồ ăn khất thực tốt nhất?Có người nói:- Vị xuất gia từ gia đình Sát-đế-lỵ.Có người nói:- Vị xuất gia từ gia đình Bà-la-môn, từ gia đình gia chủ.Những người khác nói:- Những vị trì luật, những vị thuyết pháp, những vị đã chứng Thiền thứ nhất, Thiền thứ hai, Thiền thứ ba, Thiền thứ tư.Những người khác nữa nói:- Những vị Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán, những vị chứng Ba Minh, sáu Thắng trí.Khi các Tỷ-kheo đã nói ý nghĩ của mình, bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, trong Giáo pháp Ta, xứng đáng được chỗ ngồi tốt nhất, không phải vị xuất gia từ gia đình Sát-đế-lỵ, không phải vị xuất gia từ gia đình Bà-la-môn, từ gia đình gia chủ, không phải vị trì luật, không phải vị trì kinh, không phải vị trì luận, không phải những vị đã chứng sơ Thiền v.v... không phải những vị Dự lưu v.v...

Nhưng này các Tỷ-kheo, trong Giáo pháp này, tùy theo tuổi lớn mà quyết định về sự đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ, mà nhận được chỗ ngồi tốt nhất, nước tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất.

Chính ở đây, tuổi lớn là mức đo lường.

Do vậy, Tỷ-kheo tuổi lớn xứng đáng được những sự ấy.

Nhưng nay, này các Tỷ-kheo, Xá-lợi-phất đệ tử cao nhất của Ta, vị chuyển Bánh xe Tùy pháp, xứng đáng được trú xứ tiếp theo trú xứ của Ta, vị ấy lại không được trú xứ, đã trải qua đêm nay sống dưới gốc cây.

Nếu nay các ông không tôn trọng, không kính nể lẫn nhau, thì với thời gian trôi qua, các ông sẽ xử sự như thế nào?Với mục đích khuyến giáo các Tỷ-kheo, bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, trong thời quá khứ, các loài thú cũng nghĩ: "Thật không thích đáng cho chúng tôi, nếu chúng tôi sống không tôn trọng, kính nể lẫn nhau, sống không tùy thuận nhau.

Sau khi biết ai lớn tuổi nhất trong chúng tôi, chúng tôi sẽ đảnh lễ vị ấy".Sau khi khéo tìm hiểu, biết được vị cao niên nhất, chúng đảnh lễ vị ấy, vì vậy khi mạng chung, chúng được sanh tràn đầy thiên giới.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, trên sườn Hy-mã-lạp-sơn có ba con vật sống gần một cây bàng lớn: con chim trĩ, con khỉ và con voi.

Chúng sống không tôn trọng, không kính nể, không tùy thuận lẫn nhau.

Rồi chúng suy nghĩ: "Thật không xứng đáng cho chúng ta sống như thế này.

Ai cao niên nhất giữa chúng ta , chúng ta sẽ đảnh lễ vị ấy!".

Trong khi chúng tìm hiểu vị cao niên nhất giữa chúng, thì một hôm, giữa chúng, khởi lên phương tiện này khi cả ba con ngồi dưới gốc cây bàng, chim trĩ và khỉ hỏi con voi:- Này bạn voi, bạn có biết, khi bạn thấy cây bàng này lần đầu tiên, cây ấy to như thế nào?Con voi nói:- Này các bạn, khi tôi còn bé nhỏ, cây bàng chỉ là một bụi cây, tôi đi ngang qua nó đụng bắp vế tôi.

Khi tôi đứng ngang cây ấy, cành cây cao nhất chỉ chạm đến lỗ rốn.

Như vậy tôi biết cây này từ khi còn là một bụi cây.Rồi hai con vật ấy lại hỏi con khỉ như rên.

Con khỉ nói:- Này các bạn, khi tôi còn là khỉ con, tôi ngồi trên đất, chỉ vươn cổ ra, có thể ăn được chồi cao nhất của cây bàng non này.

Như vậy tôi biết cây này từ khi còn nhỏ.Hai con vật kia lại hỏi con chim trĩ như trên.

Con chim trĩ nói:- Này các bạn, thuở trước, tại một chỗ nọ, có một cây bàng lớn.

Tôi ăn trái cây, đi đại tiện ở chỗ này, từ đấy, cây này mọc lên.

Như vậy, tôi biết cây này từ khi cây ấy chưa mọc.

Do vậy, tôi cao niên hơn các bạn.Ðược nghe nói như vậy, con khỉ và con voi nói với chim trĩ có trí:- Này bạn, bạn cao niên hơn chúng tôi.

Từ nay trở đi, chúng tôi sẽ cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường bạn.

Chúng tôi sẽ đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ nạn.

Chúng tôi sẽ vâng theo lời khuyến giáo của bạn.

Bắt đầu từ nay, bạn sẽ chỉ dạy khuyên bảo chúng tôi.Từ hôm ấy trở đi, con chim trĩ khuyên bảo chúng, an trú chúng trong giới luật, và tự mình thọ trì giới luật.

Cả ba con vật kính trọng, kính nể lẫn nhau, tùy thuận nhau, sống như vậy cho đến mạng chung, rồi đi lên thiên giới.Bậc Ðạo Sư nói:- Mục đích của ba con vật này là sống Phạm hạnh nhờ con chim trĩ.

Này các Tỷ-kheo, nếu những thú vật ấy sống tôn trọng, kính nể lẫn nhau, thì vì sao, các ông đã xuất gia trong Pháp Luật khéo giảng này, lại không thể sống tôn trọng, kính nể lẫn nhau?

Này các Tỷ-kheo, Ta khuyến cáo các ông, bắt đầu từ nay trở đi, tùy theo tuổi lớn, các ông hãy đảnh lễ, nghênh tiếp, chắp tay, phục vụ; tùy theo tuổi lớn, hãy dành chỗ ngồi tốt nhất, đồ ăn khất thực tốt nhất; bắt đầu từ nay trở đi, không bao giờ một vị lớn tuổi lại bị một vị trẻ tuổi tranh giành trú xứ.

Ai tranh giành sẽ phạm tội.Sau khi kể pháp thoại này, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:Ai kính bậc lớn tuổi,

Là thiện xảo trong Pháp,

Ðời này được tán thán,

Ðời sau, sanh cõi lành.*Như vậy, bậc Ðạo Sư nói lên lời tán thán hạnh kính lễ bậc lớn tuổi và kết hợp hai câu chuyện với nhau, rồi nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, con voi là Mục-kiền-liên, con khỉ là Xá-lợi-phất và con chim trĩ là Ta vậy.-ooOoo-38.

CHUYỆN CON CÒ (Tiền thân Baka)Kẻ có trí lường gạt ... ,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo làm thợ may y.

Theo truyền thuyết, có một Tỷ-kheo trú ở Kỳ Viên, rất thiện xảo về công việc may y, như cắt, ráp, sắp xếp, và may lại v.v...

Do thiện xảo này, vị ấy thường làm y và có tên là Thợ may y.

Vị ấy làm gì?

Từ những mảnh vải cũ mòn, với bàn tay khéo léo, vị ấy làm thành y mềm dịu vừa ý.

Sau khi may xong, vị ấy nhuộm với nước bột, ủi bằng vỏ ốc, làm cho trơn y láng đẹp đẽ.

Những Tỷ-kheo không biết làm y, đem vải mới đến Tỷ-kheo ấy và nói:- Này Hiền giả, chúng tôi không biết làm y, hãy may giúp cho chúng tôi.Tỷ-kheo ấy nói:- Này Hiền giả, làm xong một y cần nhiều thời gian, nhưng nay có một y tôi mới làm xong.

Hãy để vải này lại, lấy y ấy mà dùng.Vị ấy đem y ra cho họ xem.

Những Tỷ-kheo ấy chỉ thấy màu sắc y tươi đẹp mà không biết bề trong của y, tưởng rằng y ấy chắc chắn nên đưa cho Tỷ-kheo Thợ may xấp vải mới, đổi lấy y và ra đi.

Khi y ấy hơi bị nhớp và được giặt trong nước nóng, thực chất của y hiện rõ.

Ðây đó, những chỗ cũ mòn được phơi bày.

Họ hối tiếc việc trao đổi trước.

Như vậy vị ấy lường gạt những ai đem vải đến may, và khắp mọi nơi đều biết chuyện ấy.Giống như vị Tỷ-kheo lừa gạt ở Kỳ Viên, tại một làng nhỏ nọ, có một Tỷ-kheo khác may y cũng lừa dối thiên hạ.

Những Tỷ-kheo bạn của vị ấy báo cho biết:- Này Tôn giả, ở Kỳ Viên có một thợ may y lừa dối thiên hạ như Tôn giả vậy.Vị ấy tự bảo: "Ta sẽ lường gạt thợ may ở thành thị này".

Vị ấy làm một cái y với nhiều tấm vải cũ rất đẹp, nhuộm với màu vàng đậm và đắp y ấy đi đến Kỳ Viên.

Thợ may kia thấy y ấy, khởi lòng tham và hỏi:- Thưa Tôn giả, y này có phải Tôn giả đã may không?- Này Hiền giả, phải, tôi đã làm.- Này Tôn giả, hãy nhường cho tôi y này, Tôn giả sẽ lấy y khác.- Này Hiền giả, chúng tôi là người ở làng, rất khó được các vật dụng.

Nếu tôi cho Hiền giả y này, tôi sẽ đắp cái gì?- Thưa Tôn giả, tôi có vải mới chưa may.

Tôn giả đã nói như vậy, thì tôi từ chối gì được ?

Thôi, Hiền giả hãy lấy đi.Sau khi đưa cái y gồm nhiều tấm vải cũ, vị ấy lấy vải mới , lừa dối Tỷ-kheo ấy, rồi ra đi.

Vị Tỷ-kheo ở Kỳ Viên, sau vài ngày đắp y ấy, giặt y ấy với nước nóng, thấy những miếng vải cũ mòn, và bị chê cười xấu hổ.

Toàn thể chúng Tăng được biết rõ là người thợ may ở Kỳ Viên đã bị người thợ may ở làng nhỏ lường gạt.Một hôm, tại Pháp đường, các Tỷ-kheo đang ngồi nói về câu chuyện ấy.

Bậc Ðạo Sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi bàn chuyện gì.

Các Tỷ-kheo đang ngồi bàn chuyện gì.

Các Tỷ-kheo trình bày câu chuyện, bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay người thợ may ở Kỳ Viên mới lường gạt những người khác.

Trong thời quá khứ, vị ấy cũng đã lường gạt rồi.

Và người thợ may ở ngôi làng nhỏ, không phải chỉ nay mới lường gạt người thợ may ở Kỳ Viên.

Trong thời quá khứ, vị ấy cũng đã lường gạt rồiNói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, tại một ngôi rừng, Bồ-tát sanh làm thần cây.

Cây ấy mọc gần một hồ sen.

Lúc bấy giờ, trong một hồ khác không lớn lắm, vào mùa hạn hán, nước thấp, nhưng tại đấy có cá rất nhiều.

Một con cò thấy đàn cá, suy nghĩ cách lường gạt và ăn chúng.

Cò đi đến hồ, ngồi bên bờ nước suy tư.

Ðàn cá thấy vậy liền hỏi cò:- Ngài ngồi suy nghĩ gì vậy?- Tôi ngồi suy nghĩ đến các bạn!- Ngài suy nghĩ gì đến chúng tôi?- Trong hồ này, nước cạn, đồ ăn ít, hạn hán lại lớn.

Nay các bạn sẽ làm gì?

Chính ta ngồi đây suy nghĩ như vầy.- Vậy thưa ngài, chúng tôi sẽ phải làm gì?- Này, nếu các bạn làm theo lời ta, ta sẽ ngậm từng bạn trong mỏ ta, đưa các bạn đến một hồ lớn tràn đầy hoa sen năm sắc, và thả các bạn ở đấy.- Thưa ngài, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, không bao giờ loài cò lại nghĩ đến loài cá.

Ngài chỉ muốn ăn chúng tôi từng con một thôi.- Ta sẽ không ăn các bạn khi các bạn có lòng tin ở ta.

Nếu các bạn không tin lời ta là đằng kia có một cái hồ, hãy cử một con cá đi với ta để chính nó thấy cái hồ ấy.Ðàn cá tin con cò ấy, liền cử một con cá lớn, mù một mắt, nghĩ rằng nó có khả năng đối nghịch với cò dưới nước và trên cạn, và bảo con cò mang đi.

Cò ngậm lấy cá ấy, mang đi, thả trong hồ, chỉ cho thấy toàn bộ cái hồ, rồi đưa nó về, thả nó lại với đàn cá trong hồ cũ.

Cá này về tán thán sự quyến rũ của hồ mới cho chúng bạn nghe.

Nghe nó tán thán, đàn cá đều muốn đi và nói với cò:- Lành thay, ngài hãy mang chúng tôi đi.Con cò trước hết mang con cá lớn một mắt ấy, đưa nó đến bờ hồ, chỉ cho nó thấy cái hồ, rồi đậu xuống cây Vanara mọc bên bờ hồ.

Cò ném con cá vào giữa hai cành cây, lấy mỏ mổ con cá, giết chết nó và ăn thịt, thả xương xuống gốc cây, rồi trở về nói:- Con cá ấy đã được ta thả rồi.

Con khác hãy đi.Với phương cách ấy, cò mang đi từng con cá một, ăn hết cả đàn cá, và cuối cùng, không tìm thấy con cá nào nữa.

Tại đấy chỉ có con cua còn ở lại.

Con cò muốn ăn nó nên nói:- Này bạn cua, tất cả đàn cá ấy đã được ta mang đi, thả xuống hồ lớn đầy những bông sen, hãy đến đấy, ta sẽ mang bạn đi!- Làm thế nào ngài mang tôi đi?- Ngậm lấy bạn, ta sẽ mang đi.- Ngậm tôi mang đi như vậy, ngài sẽ làm rơi tôi xuống.

Tôi sẽ không đi với ngài đâu.- Chớ sợ, ta sẽ ngậm bạn thật chặt và mang đi.Con cua suy nghĩ: "Nó mang những con cá mà không thả cá vào trong hồ.

Nếu nó thả ta vào trong hồ thì tốt.

Nếu nó không thả, ta sẽ cắt đứt cổ của nó và giết nó".Rồi cua nói với cò:- Này bạn cò, bạn không thể ngậm tôi chắc chắn được.

Chúng tôi loài cua đã kẹp thì kẹp chặt.

Nếu tôi lấy cái càng kẹp cổ bạn, tôi sẽ kẹp chặt cổ bạn và sẽ đi với bạn.Con cò không biết con cua muốn lường gạt mình bèn bằng lòng.

Như với cái kềm của người thợ rèn, con cua với những cái càng của mình, kẹp rất chặt cổ cò và nói:- Nào, chúng ta hãy đi!Cò đưa cua đi, trước hết chỉ cho nó thấy cái hồ, rồi đi về phía cây Vanara.

Cua nói:- Này bạn, cái hồ ở phía này, sao bạn lại đưa tôi đi phía khác?- Ừ, ta là bạn thân của người, và ngươi là bạn thân của ta.

Ngươi tưởng ta là nô lệ của ngươi, nhấc bổng và đưa ngươi đi không sao?

Hãy nhìn đống xương này dưới gốc cây Vanara!

Và ta đã ăn tất cả con cá ấy, cũng vậy, nay ta sẽ ăn ngươi!- Những con cá ấy vì ngu si nên bị ngươi ăn.

Nhưng ta sẽ không để ngươi ăn ta đâu.

Cua nói.

Ta sẽ giết ngươi!

Ngươi thật là ngu ngốc!

Ngươi bị ta lừa mà không biết.

Nếu chết, cả hai cùng chết!

Ta sẽ cắt đứt đầu ngươi trước khi ta rơi xuống đất!Nói xong, cua kẹp chặt cổ cò lại như gọng kềm.

Với miệng há to, nước mắt từ từ chảy, quá kinh hãi vì sợ chết, cò nói:- Thưa ngài, tôi sẽ không ăn ngài.

Hãy cho tôi sống!- Nếu ngươi hạ xuống và thả ta trong hồ.Cò bay trở lui, hạ xuống hồ, thả cua trên mặt bùn bên bờ hồ.

Nhưng con cua, trước khi đi xuống nước, cắt đứt cổ cò như con dao cắt một cọng sen.Vị thần sống ở trên cây thấy sự lạ lùng này, đã làm cho toàn khu rừng vang dậy lời tán thán khi nói lên bài kệ này với âm thanh dịu ngọt:Kẻ có trí lường gạt

Không may bị kẻ gạt,

Con cò có trí gạt

Ðã bị cua gạt lại.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay người thợ may ở Kỳ Viên mới bị người thợ may ở làng lường gạt.

Trong thời quá khứ, vị ấy cũng bị lường gạt rồi.Sau khi thuyết pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện và nhận diện Tiền thân:- Lúc ấy, người thợ may ở Kỳ Viên là con cò, người thợ may ở làng là con cua, còn Ta là thần cây.-ooOoo-39.

CHUYỆN NGƯỜI NÔ LỆ NANDA (Tiền thân Nanda)Nghĩ rằng là chỗ chôn...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một đệ tử của Trưởng lão Xá-lợi-phất.

Tương truyền Tỷ-kheo ấy là người dễ bảo, kham nhẫn, thường nỗ lực hầu hạ Trưởng lão.

Một thời, sau khi xin phép bậc Ðạo Sư, Trưởng lão đã ra đi, bộ hành đến xứ Dakkhinagiri ở miền Nam Magadha (Ma-kiệt-đà), Tỷ kheo ấy, đến xứ nầy, trở thành kiêu ngạo, cứng đầu, không vâng lời Trưởng lão.

Khi Trưởng lão bảo:- Này Hiền giả, hãy làm điều này.Vị ấy liền gây sự chống lại Trưởng lão.Trưởng lão không biết tâm tánh vị ấy vì sao thay đổi như vậy.

Sau khi bộ hành tại đấy, Trưởng lão lại đi về Kỳ Viên.

Từ khi theo Trưởng lão về đến Kỳ Viên, tánh tình Tỷ-kheo ấy trở lại như cũ.

Trưởng lão thưa với đức Như Lai:- Bạch Thế Tôn, con có một đệ tử, tại một chỗ, xử sự như một nô lệ được mua với giá một trăm đồng tiền, nhưng tại một nơi khác, lại trở thành kiêu mạn, cứng đầu, bảo làm gì cũng gây sự chống đối.Bậc Ðạo sư nói:- Này Xá-lợi-phất, Tỷ-kheo này không phải nay mới có tánh tình như vậy.

Trước kia, khi đến chỗ nầy, kẻ ấy xử sự như một nô lệ được mua với giá một trăm đồng tiền, nhưng khi đi chỗ khác, thì gây sự, đối nghịch.Nói vậy xong, theo lời Trưởng lão yêu cầu, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một địa chủ.

Bạn của Bồ-tát cũng là một điạ chủ lớn tuổi hơn Bồ-tát, nhưng có một người vợ trẻ sanh được một con trai.

Người địa chủ lớn tuổi suy nghĩ: "Vợ ta còn trẻ, khi ta chết đi, không biết sẽ lấy ai và tiêu phí tài sản này, thay vì giao cho con trai của ta?

Vậy tốt hơn ta hãy chôn tài sản dưới đất".Nghĩ vậy, người địa chủ đem theo một người nô lệ trong nhà tên Nanda, đi vào rừng, chôn tài sản ấy vào một chỗ và bảo:- Này Nanda thân, sau khi ta chết, hãy báo cho con ta biết tài sản này.

Chớ quên khu rừng.Sau khi khuyên như vậy, người địa chủ già ấy mạng chung.

Ðứa con trai dần dần lớn lên, đến tuổi thành niên, mẹ nó nói:- Này con thân, cha con đem theo nô lệ Nanda, đã chôn giấu tài sản.

Hãy bảo nó mang về mà cai quản gia sản thừa tự.Một hôm, người thanh niên nói với Nanda:- Này cậu, có phải cha ta đã chôn tài sản?- Thưa ông chủ, có!- Chôn tài sản tại đâu?- Thưa ông chủ, trong rừng.- Vậy chúng ta hãy đi lấy.Sau khi đem cuốc và thúng, đi đến chỗ chôn giấu, người thanh niên hỏi:- Này cậu, tài sản ở đâu?Nanda leo lên, đứng trên chỗ đã chôn tài sản, do vì tài sản ấy, nó khởi lòng kiêu mạn và mắng nhiếc chàng thanh niên chủ nó:- Ði đi!

Ðứa con hư, đứa con nô lệ.

Từ đâu ngươi có được tài sản này?Nghe ác ngữ của nó, chàng thanh niên làm như không nghe gì, chỉ nói:- Thôi chúng ta đi về.Rồi hai người cùng về.

Sau hai ba ngày, cả hai lại đi, nhưng Nanda lại mắng chửi như cũ.

Chàng thanh niên không nói ác ngữ với nó, và suy đi nghĩ lại như sau: "Người nô lệ này, khi đi có ý định báo cho ta biết tài sản.

Nhưng đến đó, lại mắng nhiếc ta, chẳng biết vì lý do gì?

À, cha ta có người bạn địa chủ, hãy đến hỏi vị ấy".Thanh niên ấy đi đến gặp Bồ-tát trình bày tất cả sự việc và hỏi:- Thưa ngài, vì lý do gì mà tại chỗ Nanda đứng mắng nhiếc con là chỗ cha con chôn tài sản thừa tự?- Này con, Khi Nanda mắng chửi con, con chỉ nên nói: Này người nô lệ, người mắng chửi ai vậy?

Rồi kéo nó ra, lấy cuốc đào chỗ ấy, lấy tài sản thừa tự của gia đình, bảo người nô lệ nhấc lên và mang về nhà.Nói vậy xong, Bồ-tát đọc bài kệ này:Nghĩ rằng là chỗ chôn

Ðống vàng và nữ trang,

Chỗ nô tỳ hạ sanh

Tên là Nan-da-ka

Ðang đứng và la to

Những lời lẽ thô bạo.Chàng thanh niên liền đảnh lễ Bồ-tát, về nhà, và đưa Nanda đi đến chỗ chôn giấu tài sản.

Làm đúng theo lời khuyên bảo, Chàng thanh niên cũng vâng theo lời Bồ-tát khuyên, làm các công đức như bố thí...đến khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.Bậc Ðạo Sư nói: - Trong thời quá khứ, tánh tình của kẻ ấy cũng như vậy.*Sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân.- Lúc bấy giờ, Nanda là đệ tử của Xá-lợi-phất, và người địa chủ có trí là Ta vậy.-ooOoo-40.

CHUYỆN HỐ THAN LỬA CÂY KEO (Tiền thân Khadirangara)Ta thà rơi địa ngục...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về ông Cấp Cô Ðộc.

Ông Cấp Cô Ðộc đã tiêu hết cho Giáo pháp đức Phật một số tiền là năm trăm bốn mươi triệu đồng để xây dựng tinh xá, và ông không nghĩ đến châu báu nào khác ngoài ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

Trong khi bậc Ðạo Sư còn ở Kỳ Viên, mỗi ngày vị triệu phú đi đến tinh xá ba lần để cúng dường: một vào buổi sáng, một vào buổi trưa, một vào buổi chiều.

Ngoài ra, còn nhiều sự giúp đỡ khác.Ông Cấp Cô Ðộc không bao giờ đi tay không, ngại các Sa-di hay Tỷ-kheo trẻ xem mình có đem gì trong tay không.

Buổi sáng ông đem theo cháo, sau buổi ăn sáng đem theo bơ chín, bơ tươi, mật ong, đường mật.

Buổi chiều ông đem theo hương liệu, vòng hoa, vải may y.

Ngày này qua ngày khác, vị ấy tiêu dùng như vậy, không hạn chế.Ngoài ra, nhiều người sống bằng nghề buôn bán tự tay trao phiếu nợ, mượn ông tài sản ước lượng một trăm triệu đồng và vị Ðại triệu phú không đòi họ trả.

Còn những tài sản khác trị giá một trăm tám mươi triệu đồng được chôn cất trên bờ sông.

Khi bị gió bão, nước phá vỡ bờ sông, gia sản ấy đã trôi ra biển lớn.

Chìm xuống lòng biển là các ghè chậu bằng đồng còn khoá chặt và đóng dấu nguyên xi.Trong nhà vị triệu phú luôn luôn có phần cơm cho năm trăm Tỷ-kheo, nhà vị đại triệu phú giống như cái giếng trong xanh ở ngã tư đường cho chúng Tỷ-kheo, như ngôi nhà cha mẹ đối với tất cả đại chúng.

Vì vậy, bậc Chánh Ðẳng Giác thường đi đến nhà vị triệu phú.

Tám mươi đại Trưởng lão cũng đi đến.

Các Tỷ-kheo khác cũng đến và đi không thể kể xiết.

Nhà vị đại triệu phú có đến bảy tầng lầu, được trang hoàng với bảy cửa gác.

Tại cửa gác thứ tư của ngôi nhà ấy, một thần nữ có tà kiến thường trú.

Khi bậc Chánh Ðẳng Giác vào nhà, thần nữ ấy không ở được trong lầu của mình, đã đem theo mấy đứa con nhỏ xuống ở tại tầng cuối cùng.

Khi tám mươi đại Trưởng lão và các Trưởng lão khác đến và đi, thần nữ ấy cũng phải làm như vậy.

Nàng suy nghĩ: "Khi Sa-môn Gotama và các đệ tử vào nhà này, ta không được an lạc; ta không thể luôn luôn xuống tầng trệt được.

Ta phải làm thế nào để những người ấy không đến nhà này nữa".Một hôm, khi người tổng quản đã về phòng an nghỉ, thần nữ ấy đi đến, chói sáng hào quang và đứng lại.

Ðược hỏi:- Ai dó?Nàng trả lời:- Ta là thần nữ thường trú ở cửa gác thứ tư.- Vì sao nàng đến đây?- Ông không thấy việc phải làm của vị triệu phú, không nghĩ đến đời sau cho mình, tiêu phí tài sản, làm giàu cho Sa-môn Gotama, không lo buôn bán, không lo làm việc.

Ông hãy khuyên vị triệu phú làm việc của mình, đừng để Sa-môn Gotama và các đệ tử vào nhà này nữa.Người tổng quản ấy nói với thần nữ:- Này thần nữ ngu si, nếu vị triệu phú dùng tài sản, vị ấy chỉ dùng cho Giáo pháp chư Phật đưa đến giải thoát.

Dù vị triệu phú nắm búi tóc ta và bán ta làm nô lệ, ta vẫn sẽ không nói gì.

Nàng hãy đi đi.Hôm khác, thần nữ ấy đi đến người conn trai cả của vị triệu phú và khuyên giáo tương tự.

Người con trai cả cũng mắng nàng như trước.

Nhưng nàng không dám nói việc này với vị triệu phú.Do bố thí không ngừng nghỉ, do không kinh doanh, tiền thâu vào ít dần, tài sản vị ấy đi đến khánh tận.

Dần dần triệu phú rơi vào cảnh nghèo thiếu, gia sản, áo quần, sàng tọa, thực phẩm không còn được như xưa.

Dầu ở trong tình trạng như vậy, ông Cấp Cô Ðộc vẫn cúng dường chúng Tăng, tuy rằng không thể cúng dường các món tốt đẹp.Một hôm, sau khi ông Cấp Cô Ðộc đảnh lễ và ngồi xuống, Thế Tôn hỏi:- Này Gia Chủ, tại nhà ông còn có vật bố thí không?- Bạch Thế Tôn, thưa có vật bố thí.

Ðó là cháo tấm với bột chua để lại từ hôm qua.Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, tâm đừng buồn phiền khi bố thí đồ vật thô xấu, khi tâm tốt đẹp thì đồ vật cúng dường chư Phật, Ðộc Giác Phật, đệ tử chư Phật cũng không trở thành thô xấu.

Vì sao?

Vì quả dị thục to lớn.

Ai có thể làm tâm tốt đẹp, thì vật bố thí không thể thô xấu được.

Như vậy ông cần phải hiểu biết.Và đức Thế Tôn đọc bài kệ:Khi tâm được tịnh tín,

Bố thí không gọi nhỏ,

Cho Như Lai, chư Phật,

Hay cho đệ tử Ngài,

Không có cúng dường nào

Ðược xem là bé nhỏ.Thế Tôn lại nói thêm:- Này Gia chủ, ông cúng dường món ăn thô xấu, nhưng cúng dường tám bậc Thánh nhân.

Trong thời Velàma, Ta làm náo động cả Diêm-phù-đề với việc bố thí bảy thứ báu; trong khi đại bố thí, Ta làm chúng tuôn chảy như làm năm con sông trở thành một dòng thác.

Nhưng Ta không tìm được ai thọ Ba quy y hay giữ Năm giới.

Những người xứng đáng được cúng dường như vậy thật khó kiếm được.

Do vậy, khi bố thí cho ta đồ ăn thô xấu, tâm ông chớ buồn phiền.Sau đó, bậc Ðạo Sư nói Kinh Velàmaka.Bấy giờ thần nữ ấy không dám nói với người triệu phú khi vị ấy đang có uy quyền, lại suy nghĩ: "Nay vị triệu phú này gặp tình cảnh khó khăn, có thể nghe theo lời ta".

Nghĩ vậy, nửa đêm, thần nữ vào phòng vị ấy chiếu sáng hào quang, đứng giữa hư không.

Vị triệu phú thấy nàng, liền hỏi:- Ngươi là ai?- Này đại triệu phú, ta là thần nữ ở cửa gác thứ tư.- Ngươi đến có việc gì?- Ta muốn nói lời khuyên ông.- Vậy hãy nói đi!- Này đại triệu phú, ông không nghĩ đến thời sau, không nhìn đến con trai, con gái.

Ông đã tiêu phí tài sản cho Giáo pháp của Sa-môn Gotama.

Do ông đã phung phí tài sản lâu ngày, do không làm công việc mới, vì Sa-môn Gotama, ông trở thành nghèo thiếu.

Sự việc đã như vậy, ông vẫn không từ bỏ Sa-môn Gotama.

Hôm nay, các Sa-môn ấy vẫn đi vào nhà ông như trước.

Những gì họ đã lấy đi từ ông, không thể đem về nhà được.

Hãy tin chắc là như vậy.

Nhưng bắt đâu từ nay trở đi, ông chớ tự mình đi đến Sa-môn Gotama.

Chớ cho phép những đệ tử của Sa-môn vào nhà này nữa.

Hãy xoay lưng, không nhìn Sa-môn Gotama nữa.

Hãy tự mình kinh doanh buôn bán và xây dựng lại sản nghiệp.Vị triệu phú nói với thần nữ:- Có phải đấy là lời khuyến giáo ngươi cần nói với ta?- Ðúng như vậy.Vị triệu phú nói:- Bậc Ðạo Sư đã làm cho ta không bị dao động bởi trăm, bởi ngàn, bởi trăm ngàn thần nữ như ngươi.

Lòng tin của ta như núi Tu-di không dao động, được khéo an trú.

Tài sản được ta tiêu dùng cho Pháp bảo đưa đến giải thoát.

Lời ngươi nói không thích đáng, là một đòn do ngươi đánh vào Giáo pháp đức Phật, con quỷ đen thiếu lễ độ, theo ác giới, không có vấn đề ngươi sống chung trong nhà của ta.

Hãy ra khỏi nhà ta mau, đi ở chỗ khác.Thần nữ nghe lời nói của vị Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu, không thể ở lại được, bèn về chỗ ở của mình, tay bồng con ra đi, với ý nghĩa: "Nếu ta không tìm được chỗ khác, ta sẽ xin lỗi vị triệu phú và sẽ trú tại đấy".

Nghĩ vậy, nàng đi đến vị Thiên tử hộ trì thành phố, đảnh lễ vị ấy rồi đứng dậy.

Khi được hỏi:- Nàng đến có chuyện gì?Nàng trả lời:- Thưa Thiên Tử, tôi vô ý nói chuyện với ông Cấp Cô Ðộc, nên vị triệu phú giận tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà ở.

Hãy đưa tôi đến vị triệu phú xin lỗi và xin cho tôi được trú tại nhà như cũ.- Nhưng nàng đã nói với vị triệu phú những gì?- Bắt đầu từ nay, chớ hộ trì Phật, chớ hộ trì chúng Tăng, chớ để Sa-môn Gotama vào nhà.

Thưa Thiên tử, tôi đã nói như vậy!- Lời nàng nói không chính đáng, là một đòn đánh vào Giáo pháp.

Ta không thể đưa nàng đến gặp vị triệu phú được.Không nhận được sự ủng hộ từ vị này, thần nữ đi đến bốn Ðại thiên vương, cũng bị bốn vị ấy bác bỏ.

Thần nữ đi đến Thiên chủ Ðế Thích thuật câu chuyện ấy và yêu cầu giúp đỡ khẩn thiết hơn:- Thưa Thiên chủ, con không được chỗ ở, phải bồng con trên tay, con lang thang không nơi trú ẩn.

Với uy lực của ngài, hãy cho con một chỗ ở!Thiên chủ trả lời:- Ngươi làm điều không thích đáng, đã đánh một đòn vào Giáo pháp của bậc Chiến Thắng.

Ta không thể nói với vị triệu phú dùm cho ngươi.

Nhưng ta sẽ nói với ngươi một phương pháp làm vị triệu phú tha thứ ngươi.- Thưa Thiên chủ, lành thay, xin nói lên.- Có nhiều người đã mượn của vị đại triệu phú một số tài sản trị giá một trăm tám mươi triệu đồng...

Ngươi hãy giả dạng người đại diện cho vị triệu phú mà không cho ai biết, cầm giấy mắc nợ ấy, với một số Dạ-xoa trẻ vây quanh, một tay cầm giấy nợ, một tay cầm biên lai, đi đến nhà họ, đứng ở giữa nhà, dọa nạt họ với uy lực Dạ-xoa của mình, và nói: "Ðây là giấy nợ của các ngươi.

Khi bậc triệu phú của chúng ta có uy lực, đã không đòi hỏi gì các ngươi.

Nay ngài gặp cơn nghèo túng, hãy trả lại tiền các ngươi đã mượn".Với uy lực Dạ-xoa của ngươi, ngươi sẽ lấy lại được tất cả một trăm tám mươi triệu đồng vàng ấy, đổ đầy kho bạc trống không của vị triệu phú.

Vị triệu phú còn có tài sản khác chôn giấu ở bờ sông Aciravati, khi bờ sông bị lở, tài sản ấy bị trôi vào biển.

Với uy lực của ngươi, hãy đem số tài sản ấy về, để đầy kho bạc.

Lại còn có một tài sản khác nữa, trị giá một trăm tám mươi triệu đồng nằm chôn không chủ tại một chỗ nào đó, hãy lấy đem về đổ đầy kho bạc trống.

Với năm trăm bốn mươi triệu đồng ấy, ngươi đổ đầy các kho bạc trống không, lấy đó để đền tội, rồi đến xin vị đại triệu phú tha tội cho.Thần nữ đáp:- Tốt lành thay, thưa thiên chủ.Thần nữ chấp nhận lời Thiên chủ, mang lại tất cả tài sản như đã được nói.Nửa đêm, thần nữ đi vào phòng rực rỡ của vị triệu phú, chiếu sáng hào quang, đứng giữa hư không.

Ðược hỏi là ai, nàng đáp:- Thưa bậc đại triệu phú, tôi là thần nữ mù quáng ngu si ở tại cửa gác thứ tư.

Do tôi quá ngu si, không biết công đức đức Phật, đã nói với ngài những lời lỗi lầm trong những ngày trước.

Hãy tha thứ lỗi ấy của tôi!

Theo lời Thiên chủ Ðế Thích, tôi đã đòi lại số tiền nợ một trăm tám mươi triệu đồng cho ngài, đã đem lại số tiền một trăm tám mươi triệu đồng bị trôi ra biển, và chôn giấu vô chủ tại một chỗ nọ.

Như vậy tôi đã mang lại trăm năm bốn mươi triệu đồng đổ đầy các kho bạc trống rỗng của ngài để chuộc lại tội lỗi.

Số tiền ngài đã tiêu dùng cho tinh xá Kỳ Viên, tất cả nay đã được thâu lại.

Tôi vì không có trú xứ nên rất khổ sở.

Chớ nghĩ đến những gì tôi đã làm do sự vô trí của tô.

Hãy tha thứ cho tôi, thưa bậc đại triệu phú.Ông Cấp Cô Ðộc nghe vậy, tự nghĩ: "Thần nữ này đang nói đã lập công chuộc tội và đã nhận tội của mình.

Bậc Ðạo Sư sẽ suy xét việc này, và sẽ cho nó biết những công đức của mình.

Ta sẽ đem thần nữ đến gặp bậc Chánh Ðẳng Giác".

Vị triệu phú nói:- Này thần nữ, nếu người muốn xin lỗi ta, hãy xin lỗi ta trước mặt bậc Ðạo Sư.- Lành thay, tôi sẽ làm như vậy.

Hãy đưa tôi đến bậc Ðạo Sư.Vị triệu phú bằng lòng.

Khi đêm đã tàn, vào buổi sáng, vị triệu phú đem thần nữ đến bậc Ðạo Sư và báo cáo với đức Như Lai tất cả việc làm của thần nữ.

Bậc Ðạo Sư nghe xong liền nói:- Ở đây, này Gia chủ, kẻ làm ác, khi điều ác chưa chín muồi, kẻ ấy thấy là thiện.

Khi điều ác của kẻ ấy chín muồi, chỉ khi ấy kẻ ấy mới thấy là ác.

Kẻ làm thiện, khi điều thiện chưa chín muồi, kẻ ấy thấy là ác, khi điều thiện của kẻ ấy chín muồi, chỉ khi ấy kẻ ấy thấy là thiện.Sau đó, bậc Ðạo Sư nói lên hai bài kệ này trong Pháp cú số 119 và 120Người ác thấy là thiện

Khi ác chưa chín muồi,

Khi ác nghiệp chín muồi,

Người ác mới thấy ác.Người hiền thấy là ác,

Khi thiện chưa chín muồi,

Khi thiện được chín muồi,

Người hiền thấy là thiện".Cuối bài kệ này, thần nữ chứng quả Dự lưu.

Nàng đảnh lễ chân có tô điểm bánh xe của bậc Ðạo Sư và nói:- Bạch Thế Tôn, vì bị nhiễm tham ái, bị sân kích động, bị si mờ ám, bị vô minh bao phủ, con không biết những công đức của Thế Tôn, đã nói những lời ác, xin tha thứ cho con.Rồi nàng được bậc Ðạo Sư tha thứ, và được vị đại triệu phú tha thứ.Lúc bấy giờ ông Cấp Cô Ðộc ở trước mặt bậc Ðạo Sư, nói lên công đức của mình:- Bạch Thế Tôn, thần nữ này đã cố ngăn chận con: Chớ cúng dường đức Phật v.v...!

Nhưng không có thể ngăn chận con được.

Nàng đã cố ngăn chận con: Chớ bố thí!

Nhưng con vẫn bố thí.

Bạch Thế Tôn, đấy là công đức của con.Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, ông là Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu, có lòng tin bất động, có tri kiến thanh tịnh.Thật không có gì kỳ diệu là ông đã không bị ngăn chận bởi thần nữ bất lực này.

Nhưng có điều thật sự kỳ diệu là người Hiền trí thuở quá khứ, khi đức Phật chưa xuất hiện, khi trí tuệ chưa chín muồi, dầu ác ma, chủ cõi dục giới, đứng giữa hư không nói lớn: Nếu ngươi bố thí, ngươi sẽ bị thiêu sống trong địa ngục này, và chỉ rõ một hố đầy than hừng sâu đến tám mươi khuỷu tay, dầu bị ngăn: Chớ bố thí, người Hiền trí vẫn đứng giữa đoá sen bố thí như thường.Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một vị triệu phú ở Ba-la-nại, được nuôi dưỡng trong sự xa hoa như một hoàng tử.

Khi đến tuổi trưởng thành, vừa mới mười sáu tuổi, Bồ-tát đã đạt đến điêu luyện trong tất cả kỹ thuật.

Sau khi cha chết, được đặt lên địa vị triệu phú, Bồ-tát cho xây dựng sáu trường bố thí, bốn nhà tại cửa bốn thành, một nhà tại trung tâm thành, một nhà trước cửa trú xứ của mình, và tổ chức bố thí lớn, giữ giới, tuân giữ những ngày Bố-tát.Một hôm, trong giờ điểm tâm, khi các món ăn hảo hạng được mang vào cho Bồ-tát, một vị Ðộc Giác Phật, sau bảy ngày thiền, vừa xuất định và nhận xét: "Ðã đến giờ đi khuất thực, nay ta phải đến nhà của vị triệu phú Ba-la-nại".

Sau khi chùi răng với que đánh răng bằng cọng trầu leo, rửa mặt tại hồ Anotatta, rồi đứng trên cao nguyên Manosila, vị Ðộc Giác Phật mang y dưới, cột dây lưng, đắp y ngoài lấy bình bát bằng đất do thần thông hóa hiện, đi ngang qua hư không và đứng trước cửa nhà, trong khi bữa điểm tâm được mang vào cho Bồ-tát.

Bồ-tát thấy vị Ðộc Giác Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhìn người đứng hầu, chỉ rõ cần dâng cúng món ăn.

Người hầu nói:- Thưa ông chủ, con phải làm gì?Bồ-tát nói:- Hãy đem bình bát vị ấy lại đây.Ngay trong thời khắc ấy, Ác ma lồng lộn hiện lên, tự nghĩ: "Vị Ðộc Giác Phật này chỉ được đồ ăn từ bảy ngày trước, nếu hôm nay không được ăn, vị ấy sẽ chết.

Ta sẽ làm vị ấy chết và làm vị triệu phú chấm dứt việc bố thí".Ngay lúc ấy, Ác ma đi đến, hóa hiện ở trong nhà một hố than lừng sâu tám mươi khuỷu tay (một khuỷu tay = 45 cm).

Hồ ấy đầy những than rừng bằng cây keo cháy rực, cháy đỏ có ngọn, hiện ra như địa ngục.

Sau khi tạo ra hố than hừng ấy, Ác ma tự mình đứng giữa hư không.

Người hầu đi đến, định mang bình bát lại, thấy vậy, hoảng sợ quay lui.

Bồ-tát hỏi:- Này con thân, sao con trở lui?Người ấy nói:- Thưa ông chủ, trong nhà có một hố than hừng, cháy đỏ rực, cháy có ngọn.Những người khác đi đến cũng hoảng sợ chạy trốn hết.Bồ-tát suy nghĩ: "Hôm nay, Ác ma có uy lực, đang nỗ lực ngăn chận ta bố thí.

Ta cần phải cho nó biết dù trăm Ma, ngàn Ma, trăm ngàn Ma cũng không làm cho ta dao động.

Hôm nay chúng ta sẽ làm cho chúng thấy ai mạnh hơn ai, ai có uy lực hơn ai".Bồ-tát tự mình cầm lấy bát cơm đã sẵn sàng, đi ra khỏi nhà, đứng ngay trên bờ hồ than hừng, nhìn lên trời, thấy Ác ma, liền hỏi:- Ngươi là ai?- Ta là Ác ma.- Có phải ngươi hóa hiện hố than hừng này?- Phải, chính ta hóa hiện.- Vì mục đích gì?- Vì mục đích ngăn chận ngươi bố thí, vì mục đích giết mạng sống của vị Ðộc Giác Phật.Bồ-tát nói:- Ta sẽ không cho ngươi ngăn chận ta bố thí.

Ta cũng không cho ngươi giết mạng sống của vị Ðộc Giác Phật.

Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi biết giữa ta và ngươi, ai có sức mạnh lớn hơn.Vẫn đứng trên bờ hố than hừng, Bồ-tát nói:- Bạch Thế Tôn, Ðộc Giác Phật, dầu con có rơi đầu lộn ngược vào hố than hừng này, con vẫn không trở lui.

Mong Thế Tôn chấp nhận món ăn do con cúng dường.Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:Ta thà rơi địa ngục,

Chân trên, đầu phía dưới,

Ta sẽ làm việc Thánh,

Hãy nhận lấy món ăn.Rồi với quyết tâm vững chắc, Bồ-tát cầm bát cơm bước lên mặt hố than hừng!

Khi Bồ-tát làm như vậy, từ mặt hố than hừng sâu đến tám mươi khuỷu tay, mọc lên một hoa sen tuyệt đẹp đỡ lấy chân Bồ-tát.

Từ hoa sen ấy, nhụy sen khoảng chừng một đấu lớn phun lên, rơi trên đầu bậc Ðại Sĩ, phủ khắp toàn thân như rắc hột vàng.

Bồ-tát đứng trên đóa hoa sen, đặt vào trong bát vị Ðộc Giác Phật những món ăn thượng vị khác nhau.

Vị Ðộc Giác Phật nhận đồ ăn, nói lên lời tùy hỷ, rồi quăng bình bát lên trên hư không, và ngay trước mắt của đại chúng, tự mình bay lên hư không về phía Hy-mã-lạp Sơn, để lại một đường mây gồm nhiều hình thù kỳ diệu đặc biệt.

Còn Ác ma bị thất bại và sầu muộn đi về trú xứ của mình.

Bồ-tát vẫn đứng trên tòa sen, thuyết pháp cho đại chúng, tán thán bố thí, giới đức, và cùng với đại chúng vây quanh, bước vào trú xứ của mình.

Bồ-tát trọn đời làm công đức, rồi khi mạng chung đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này gia chủ, việc này không có gì kỳ diệu khi một người đầy đủ tri kiến như ông không để cho thần nữ làm dao động.

Thật sự kỳ diệu là những gì bậc Hiền trí đã làm trong thời quá khứ.Thuyết pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, vị Ðộc Giác Phật tại chỗ ấy nhập Niết-bàn, còn Ta chính là người triệu phú Ba-la-nại, sau khi đánh bại Ác-ma, đứng trên đóa sen, cúng dường thức ăn khất thực vào bát của vị Ðộc Giác Phật.-ooOoo-
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM LỢI ÁI


PHẨM LỢI ÁI41.

CHUYỆN TRƯỞNG LÃO LOSAKA (Tiền thân Losaka)Với người muốn mình lợi...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên bậc Ðạo Sư đã kể về Trưởng lão Losaka.

Ai là Trưởng lão Losaka?

Một người ở xứ Kosala, con của người đánh cá, một tai ương cho gia đình.

Khi làm Tỷ-kheo, vị ấy không bao giờ nhận được gì cả.Từ chỗ được sanh ở đời trước và khi mạng chung, vị ấy đã đầu thai vào bụng vợ một người đánh cá, trong một làng đánh cá gồm một ngàn gia đình ở Kosala.

Trong ngày vị ấy đầu thai, ngàn gia đình ấy, với lưới cầm tay, đi đánh cá trên sông, trên hồ không bắt được một con cá nhỏ nào.

Từ ngày đó trở đi, những người đánh cá gặp những điều tổn hại.

Khi vị ấy còn ở trong thai, làng của họ bị lửa đốt cháy bảy lần và bị vua xử phạt bảy lần.

Như vậy, dần dần họ rơi vào túng thiếu.

Họ suy nghĩ: "Trước kia, chúng ta không như vậy.

Nay chúng ta gặp nhiều tổn hại.

Giữa chúng ta phải có một người có số đen.

Chúng ta hãy chia thành hai nhóm mỗi nhóm năm trăm gia đình.

Và nhóm nào có người có số đen, nhóm ấy bị tổn hai, nhóm kia được tăng thịnh.Và cứ thế họ chia nhóm ấy làm hai, chia làm hai, chia làm hai nữa.

Như vậy, họ chia cho đến khi chỉ còn lại một gia đình ấy, và khi tìm được kẻ số đen ở trong gia đình ấy, họ liền đánh đuổi đi.

Người mẹ phải tìm sống một cách khó nhọc, với bụng mang thai; khi thai đến kỳ, bà sanh được đứa con trai.

Ðứa bé ấy được sanh trong đời sống cuối cùng, do đó không thể bị giết hại.

Như ngọn đèn trong chiếc ghè, điều kiện để thành A-la-hán cháy đỏ trong tim của nó.Người mẹ nuôi dưỡng nó, tập nó chạy tới, chạy vòng, và khi nó đã đi được, bà đặt trong tay nó một bát đi xin, bảo nó đi vào một nhà kia, rồi bà bỏ trốn.

Từ đó, đứa bé sống một mình, tìm đồ ăn tại chỗ này, nằm ngủ tại chỗ khác, không tắm, không săn sóc thân mình, tìm sống một cách cực khổ chẳng khác con quỷ ăn bùn.

Nó dần dần lớn lên được bảy tuổi, lượm từng miếng cơm một mà ăn như con quạ, tại một cửa nhà nọ có đồ ăn còn lại từ các nồi cơm đưọc rửa.Một hôm, Tướng quân Chánh pháp Xá-lợi-phất đang đi khất thực ở Xá-vệ, thấy đứa bé, suy nghĩ không biết đứa bé đáng thương này ở làng nào, khởi lòng từ bi đối với nó và gọi:- Hãy đến đây!Ðứa bé đến đảnh lễ Trưởng lão và đứng lại.

Trưởng lão hỏi:- Con sống ở làng nào?

Cha mẹ ở đâu?- Thưa Tôn giả, con sống không nơi nương tựa.

Cha mẹ vì con, sống quá mệt mỏi nên bỏ rơi con mà trốn đi!- Con có muốn xuất gia không?- Thưa Tôn giả, con muốn xuất gia.

Nhưng ai sẽ truyền giới xuất gia cho kẻ khốn nạn như con?- Ta sẽ truyền giới xuất gia cho con.- Lành thay, Tôn giả hãy truyền giới xuất gia cho con.Trưởng lão cho nó ăn các món ăn loại cứng và loại mềm, dắt nó đến tinh xá, tự tay tắm rửa nó, truyền giới xuất gia cho nó làm Sa-di, và khi tuổi đầy đủ, liền trao Ðại giới cho nó.

Khi nó trưởng thành, nó được gọi là Trưởng lão Losakatissa.Trưởng lão Losakatissa ít được phước đức, nên ít nhận được đồ cúng dường.

Truyền thuyết nói, dầu có lễ bố thí to lớn không gì sánh được, bụng Trưởng lão cũng không no, mà chỉ được ăn vừa đủ để nuôi mạng sống.

Một muỗng cháo đổ vào bát của Trưởng lão hình như làm tràn đầy nên đem cháo cho người sau.

Khi cháo được đổ vào bình bát Trưởng lão, người ta nói cháo trong đĩa của người cúng như biến mất.

Các đồ ăn cứng khác cũng như vậy.Trưởng lão sau một thời gian, thiền quán được tăng trưởng, chứng quả A-la-hán tối thượng, nhưng vẫn được đồ cúng dường ít oi.

Thọ hành trưởng lão dần dần giảm thiểu, và ngày nhập Niết-bàn đã đến.

Tướng quân Chánh pháp hướng tâm đến, biết ngày trưởng lão đắc Niết-bàn vô dư y, tự nghĩ: "Trưởng lão Losakatissa hôm nay sẽ nhập Niết-bàn.

Ta sẽ khuyên người ta cúng dường Trưởng lão đồ ăn như ý muốn".

Tôn giả Xá-lợi-phất đưa Trưởng lão vào thành Xá-vệ khất thực.

Tôn giả Xá-lợi-phất và Losakatissa, dầu đưa tay cho nhiều người ở Xá-vệ, cũng không nhận được ngay cả một tô cháo, Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Losakatissa về trước, ngồi tại phòng họp, rồi giữ đồ ăn nhận được đem về cho Losakatissa.

Những ai được Xá-lợi-phất giao đồ ăn đem về, đều quên trao cho Losakatissa và tự mình ăn đồ ăn ấy.Khi Trưởng lão Xá-lợi-phất đứng dậy và đi về tinh xá, Losakatissa đi đến đảnh lễ, Trưởng lão dừng bước, quay lại hỏi:- Này Hiền giả, Hiền giả có được đồ ăn không?- Thưa Tôn giả, chúng con sẽ nhận được đúng thời.Trưởng lão Xá-lợi-phất hoảng hốt nhìn giờ.

Thời giờ đã quá rồi.

Trưởng lão nói:- Này Hiền giả, hãy ngồi ở đây.Trưởng lão bảo Losakatissa ngồi xuống trong phòng họp, rồi đi đến trú xứ Kosala.

Nhà vua cho người lấy bát Trưởng lão, bỏ đầy bát với bốn loại bánh ngọt và nói:- Ðây là đồ ăn phi thời.Trưởng lão cầm bát, đi về và nói:- Này Hiền giả Tissa, hãy ăn bốn loại bánh ngọt này.Nói xong, Tôn giả cầm bát và đứng chờ.

Nhưng Losakatissa hổ thẹn vì lòng kính trọng đối với Tôn giả Xá-lợi-phất nên không dám ăn.

Trưởng lão Xá-lợi-phất nói với Losakatissa:- Này Hiền giả, hãy đến.

Ta đứng cầm bình bát này, còn Hiền giả ngồi và ăn.

Nếu tay ta rời bình bát này, thì không còn vật gì nữa.Rồi trong khi bậc Tối thượng Tướng quân Chánh pháp đứng cầm bát, Tôn giả Losakatissa ăn bốn loại bánh ngọt.

Do thần thông lực thuộc bậc Thánh của Tôn giả Xá-lợi-phất, bánh ấy không biến mất.

Khi ấy, Trưởng lão Losakatissa được ăn như ý muốn, đầy đủ, no bụng.

Ngày hôm ấy, Trưởng lão Losakatissa đắc Niết-bàn không có dư y.

Bậc Chánh Ðẳng Giác đứng một bên và chứng kiến thân vị ấy được hoả táng.

Các Xá-lợi được thâu thập và điện tháp được dựng lên trên.Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo đang ngồi họp tại Pháp đường nói:- Này các Hiền giả, Losakatissa ít phước đức, ít nhận đồ cúng dường.

Do ít phước đức, ít được cúng dường như vậy, làm sao lại được Thánh pháp?Bậc Ðạo Sư đến pháp đường hỏi:- Này các Tỷ-kheo, các ông nay ngồi họp tại đây, đang bàn câu chuyện gì?Chúng Tỷ-kheo báo cáo câu chuyện ấy lên Thế Tôn.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy do nghiệp mình làm, nên không được cúng dường và đồng thời chứng được Thánh pháp.

Vị ấy thuở trước do làm chướng ngại người khác cúng dường nên ít được cúng dường; nhưng do chú tâm thiền quán vô thường, vô ngã nên được Thánh quả, chứng được các thắng pháp.Nói vậy xong bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở ấy, trong thời bậc Chánh Ðẳng Giác Ca-diếp, có một Tỷ-kheo sống ở một ngôi làng nhỏ, được một vị điền chủ hộ trì.

Tỷ-kheo ấy tính tình bộc trực, hồn nhiên, giữ giới, chuyên tu tập thiền quán.

Lại cũng có một trưởng lão A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc, sống bình đẳng với các bậc đồng Phạm hạnh.

Vị này trước kia chưa bao giờ đến ngôi làng có người điền chủ đã ủng hộ Tỷ-kheo ấy, nay mới đến lần đầu.

Người điền chủ hoan hỷ với cử chỉ của Trưởng lão, cầm lấy bình bát, mời vào nhà, cung kính mời ăn.

Rồi vị ấy nghe thuyết bài pháp ngắn, đảnh lễ Trưởng lão và thưa:- Thưa Tôn giả, hãy đi đến ngôi tinh xá gần đây của chúng tôi.

Chúng tôi vào buổi chiều sẽ đến yết kiến ngài.Trưởng lão đi đến ngôi tinh xá, đảnh lễ Trưởng lão trụ trì và sau khi xin phép, ngồi xuống một bên.

Vị trụ trì thân mật hỏi thăm Trưởng lão:- Thưa Hiền giả, Hiền giả được đồ ăn chưa?- Thưa được rồi.- Ðược tại đâu?- Tại nhà điền chủ trong làng của Tôn giả gần đây.Sau khi nói vậy, trưởng lão hỏi chỗ sàng tọa của mình, sửa soạn cất đặt y bát, rồi ngồi xuống thọ hưởng lạc về thiên, lạc về quả.

Vào buổi chiều, người điền chủ ấy đem theo hương, vòng hoa, đèn và dầu đi đến tinh xá, đảnh lễ vị trụ trì và hỏi:- Thưa Tôn giả, vị trưởng lão khách đã đến chưa?Sau khi được biết vị ấy đã đến rồi, người điền chủ đi đến vị trưởng lão khách, đảnh lễ, ngồi xuống một bên, và nghe thuyết pháp.

Vào buổi chiều mát, người điền chủ đảnh lễ điện Phật, cây Bồ-đề, thắp đèn, mời hai vị đến nhà rồi ra đi.Trưởng lão trụ trì suy nghĩ: "Ðiền chủ này đã bị phân tâm.

Nếu Tỷ-kheo này trú ở đây, điền chủ ấy không còn đếm xỉa đến ta một chút nào nữa".Trưởng lão trụ trì, với tâm tư không được vui, suy nghĩ: "Ta phải làm thế nào để vị ấy không ở được trong tinh xá này".

Ðến giờ hầu thăm, khi Trưởng lão khách đến, Trưởng lão trụ trì không nói gì.

Vị Trưởng lão khách đoạn tận các lậu hoặc, biết được ý định của trưởng lão trụ trì, tự nghĩ: "Trưởng lão này không biết ta không bao giờ gây trở ngại cho gia đình, cúng dường vị ấy hay đồ chúng vị ấy", liền đi về trú xứ của mình, hưởng thọ lạc về Thiền và lạc về quả.Trưởng lão trụ trì, ngày hôm sau, đánh nhẹ cái chuông phòng vị khách trọ, rồi lấy móng tay gõ nhẹ vào cửa và đi đến nhà người điền chủ.

Người điền chủ cầm lấy bát vị ấy, mời ngồi trên chỗ đã soạn sẵn và hỏi:- Trưởng lão khách ở đâu?- Tôi không biết tin tức của bạn ngài.

Tôi đã đánh chuông gõ cửa, nhưng không thể đánh thức vị ấy dậy.

Tôi chắc là bữa qua, sau khi ăn thượng vị ở nhà của ngài, vị ấy có thể tiêu hoá được, do vậy, nay đang còn ngủ.

Rất có thể, ngài hoan hỷ với những sự kiện như vậy.Trong khi ấy, vị Trưởng lão đã đoạn tận các lậu hoặc nghĩ rằng thời gian đi khất thực của mình đã đến, liền sửa soạn thân mình tử tế, cầm y bát, bay lên hư không và đi đến một chỗ khác.Còn người điền chủ ấy cúng dường vị Trưởng lão trụ trì cơm và sữa với bơ tươi, mật ong và đường.

Rồi ông bảo chùi bát với bột thơm, đổ thức ăn đầy bát lần nữa và thưa:- Thưa Tôn giả, trưởng lão ấy đi đường mệt, hãy đem đồ ăn này về cho vị ấy.Rồi đưa bát cho Trưởng lão trụ trì.

Vị này không thể từ chối, cầm bát đi và suy nghĩ: "Nếu Tỷ-kheo ấy uống cơm sữa này, có ai nắm cổ đuổi đi, vị ấy cũng không đi.

Nhưng nếu ta cho người khác cơm sữa này, việc ta làm sẽ bị bại lộ.

Nếu ta đổ xuống nước, bơ tươi sẽ nổi lên trên mặt nước và bị lộ.

Nếu ta quăng trên đất, loài qụa sẽ tụ họp lại và sẽ bị thấy.

Nay ta quăng món ăn này ở đâu?"

Ðang phân vân suy tính như vậy, vị ấy thấy một đám ruộng vừa bị đốt.

Tỷ-kheo ấy bới các than đỏ lên, quăng đồ ăn tại đấy, lấy than đỏ che đậy lên trên, rồi đi về tinh xá.

Không thấy Tỷ-kheo khách ở đâu, Tỷ-kheo trụ trì suy nghĩ: "Chắc Tỷ-kheo ấy đã đoạn tận các lậu hoặc, biết được ý định của ta, và đã đi chỗ khác.

Ôi, ta vì nhân duyên cái bụng, đã làm một việc không thích đáng".

Do vậy, sầu ưu khởi lên, và từ đấy, vị Tỷ-kheo trụ trì như một con ma trên đất, không bao lâu mệnh chung, tái sinh vào địa ngục.Trong hàng trăm ngàn năm, nó bị nấu ở địa ngục.

Do ác nghiệp chín muồi, nó bị sanh năm trăm năm liên tục làm quỷ Dạ-xoa, không được ăn đầy bụng, dầu chỉ một ngày.

Chỉ trừ một ngày, nó được ăn no bụng với đồ uế nhiễm của bào thai.

Rồi trong năm trăm đời, nó sanh làm chó.

Khi ấy, chỉ có một ngày nó được ăn no bụng với cơm được nôn ra.

Trong thời gian còn lại, nó không bao giờ được đồ ăn đầy bụng.Từ thai tạng chó mạng chung, nó sanh trong một gia đình nghèo đói, trong một làng ở Kàsi.

Từ khi nó sanh ra, gia đình trở thành nghèo đói cùng cực.

Nó không bao giờ được một nửa tô nước cháo chua vào bụng.

Nó được đặt tên là Mittavindaka.

Cha mẹ nó không thể chịu khổ vì đói, đánh đuổi nó đi.- Hãy đi, con số đen bất hạnh kia.Không nơi nương tựa, nó đi lang thang và đến tại Ba-la-nại.Lúc bấy giờ, Bồ-tát được sanh làm vị giáo sư có tiếng khắp bốn phương và đang dạy nghề cho năm trăm thanh niên Bà-la-môn.

Lúc ấy, dân ở ba-la-nại thường cho tiền những người nghèo đói và cho họ học nghề.

Mittavindaka học nghề không tiền với Bồ-tát.

Nhưng tánh nó độc ác khó dạy, hay đánh lộn và hay đi lang thang.

Ðược Bồ-tát khuyên dạy, nó vẫn không nghe theo.

Vì có nó, tiền dạy của Bồ-tát trở thành ít ỏi.

Nó gây lộn với thanh niên khác, không nghe lời khuyên, cuối cùng trốn đi lang thang đây đó, đến một làng biên địa và làm thuê sinh sống.Tại đấy, nó lấy một người đàn bà nghèo khổ và sinh được hai đứa con.

Người trong làng thuê nó dạy cho họ biết thế nào là thiện, thế nào là ác, và cho nó một cái chòi để sống tại cửa làng.

Do Mittavindaka đến đây sống, dân chúng ở làng biên địa ấy bị vua xử phạt bảy lần, nhà của họ bị cháy bảy lần, và hồ chưùa nước bị cạn bảy lần.

Họ suy nghĩ: "Trước khi Mittavindaka đến đây, chúng ta không có như vậy.

Từ khi nó đến, chúng ta bị tổn hại".

Vì thế họ đánh đuổi nó đi.Nó đem vợ con ra đi, đến một chỗ khác, vào một khu rừng do phi nhân ngự trị.

Tại đấy, các phi nhân giết ăn thịt vợ con nó.

Nó chạy trốn khỏi chỗ ấy, đi lang thang chỗ này chỗ kia, đến một bến tàu tên là Gambhira, đúng vào ngày một chiếc tàu mới được hạ thủy, nó trở thành người làm thuê trên tàu.Khi chiếc tàu đi trên mặt biển được bảy ngày, đến ngày thứ bảy, tàu đứng lại như bị mắc cạn.

Họ rút thăm ai là con số đn bất hạnh.

Bảy lần thẻ rơi vào Mittavindaka.

Họ cho nó một cái bè tre, bắt tay nó quăng xuống biển, rồi tàu lại ra đi.

Mittavindaka leo lên bè tre, và trôi trên mặt biển.Do quả nó đã giữ giới trong thời đức Phật Ca-diếp Chánh Ðẳng Giác, trên mặt biển, nó gặp bốn tiên nữ trong một lâu đài bằng pha lê.

Với chúng, nó sống trong bảy ngày hưởng hạnh phúc.

Bấy giờ, các loài quỷ ở lâu đài ấy hưởng hạnh phúc trong bảy ngày.

Sau bảy ngày, chúng phải ra đi để chịu đau khổ.

Lúc ra đi, chúng bảo nó đợi ở đây cho đến khi chúng trở về.Chúng đi rồi, Mittavindaka lại leo lên bè tre, đi chỗ khác, và gặp được tám tiên nữ ở trong lâu đài bằng ngọc.

Từ đấy, nó đi nữa, và gặp được ba mươi hai tiên nữ ở trong mười sáu lâu đài bằng vàng.

Không nói gì với chúng, nó lại bỏ đi, và thấy một thành Dạ-xoa ở giữa hòn đảo.Tại đấy, có một nữ Dạ-xoa sống dưới hình dạng con dê.

Mittavindaka không biết nó là nữ Dạ-xoa, nắm lấy chân con dê để ăn thịt.

Con Dạ-xoa nữ ấy, với uy lực của mình, nhấc bổng nó lên và quăng nó ra xa.

Nó bị quăng ngang qua biển, rơi xuống một bụi gai, tại một cái hào khô nước, lăn tròn rồi đứng dậy.Lúc bấy giờ, tại cái hào ấy, bọn trộm thường đến giết dê của vua.

Các người chăn dê đứng núp rình bắt ăn trộm.

Mittavindaka, sau khi lăn tròn, đứng dậy trên đất, thấy các con dê liền nghĩ: "Ta đã bắt chân con dê trên hòn đảo ở biển, và bị nó quăng rơi tại đây.

Nếu nay ta lại bắt tay chân một con dê, thì nó sẽ quăng ta đến chỗ các tiên nữ ở trong lâu đài trên mặt biển, tại bờ bên kia."

Khi tác ý bất chánh như vậy, nó liền nắm chân một con dê, lập tức con dê bị nắm kêu lên.

Các người chăn dê từ nhiều chỗ núp chạy đến, bắt nó và nói:- Ðây là đứa ăn trộm đã bắt các con dê của nhà vua từ trước đến nay.Chúng đánh nó, trói nó và dẫn nó đến trước mặt vua.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát với năm trăm thanh niên Bà-la-môn vây quanh, ra khỏi thành để đi tắm.

Thấy Mittavindaka, nhận được nó, Bồ-tát nói với các người ấy:- Này các bạn thân, đây là đệ tử của tôi.

Sao lại bắt nó?Các người ấy nói:- Thưa Tôn giả, đây là đứa ăn trộm dê, nó bắt chân một con dê, nên chúng tôi bắt nó.- Hãy giao nó cho chúng tôi để làm nô lệ.

Nó sẽ dựa vào chúng tôi để sống.- Thưa vâng, Tôn giả.Rồi họ thả nó và ra đi.

Bồ-tát hỏi nó:- Này Mittavindaka, từ trước cho đến nay ngươi sống ở đâu?Nó kể lại tất cả công việc nó làm.

Bồ-tát nói:- Vì không nghe lời những người muốn nó hạnh phúc, nên nó phải chịu mọi sự bất hạnh như vậy.Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:Với người muốn mình tốt,

Với người thương tưởng mình,

Cứng đầu không theo lời,

Sẽ gặp điều sầu muộn.

Chẳng khác Mitaka

Nắm chặt chân con dê.Lúc bấy giờ, khi cả vị giáo sư và Mittavindaka mạng chung, họ đi theo nghiệp của mình.*Bậc Ðạo sư nói:- Này các Tỷ-kheo chính Losaka này đã tự làm cho mình được ít đồ cúng dường và đồng thời được Thánh Pháp.Sau khi nói pháp thoại này xong, bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc bấy giờ, Mittavindaka là Trưởng lão Losakatissa, vị giáo sư được danh bốn phương là Ta vậy.-ooOoo-42.

CHUYỆN CHIM BỒ CÂU (Tiền thân Kopata)Với người muốn mình lợi...,Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỷ-kheo có lòng tham. lòng tham của vị này sẽ được kể trong chương sáu, Tiền thân Kaka (số 395).

Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo báo cho bậc Ðạo Sư biết:- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này có lòng tham.Bậc Ðạo Sư hỏi:- Này Tỷ-kheo, có thật như vậy chăng?- Bạch Thế Tôn, có thật.Bậc Ðạo Sư nói:- Thuở trước, này Tỷ-kheo, ông cũng có lòng tham.

Vì lòng tham, ông đã mất mạng, và các vị Hiền trí cũng vì ông đã mất trú xứ của họ.Nói xong, bậc đạo sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta (Phạm Thọ) trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con chim bồ câu.

Lúc bấy giờ, dân chúng ở Ba-la-nại ưa thích làm công đức, thường treo những ổ rơm chỗ này chỗ kia để các chú chim có nơi ẩn náu thuận tiện an ổn.

Người đầu bếp của vị triệu phú Ba-la-nại cũng treo một ổ rơm tại nhà bếp.

Bồ-tát sống tại đấy, buổi sáng bay đi tìm mồi ăn và chiều lại về.Một hôm, một con quạ bay ngang qua mái nhà bếp, ngửi mùi thơm của cá muối, cá tươi, thịt chua, thịt tươi, tại chỗ ấy, nó khởi lòng tham, tự nghĩ: "Ta phải tìm cách ăn cho được cá thịt này".

Nghĩ vậy nó đậu cách đó không xa, dò xét xung quanh, nó thấy buổi chiều Bồ-tát bay về và đi vào bếp, nghĩ rằng nhờ con chim bồ câu này nó sẽ được ăn cá và thịt.Ngày hôm sau, vào buổi sáng, nó bay lên.

Khi Bồ-tát bay ra đi kiếm đồ ăn, nó bay sát theo sau khắp nơi như cái bóng.

Bồ-tát nói với nó:- Này bạn, vì sao bạn đi theo tôi?- Thưa ngài, cử chỉ của ngài khiến tôi ưa thích.

Bắt đầu từ nay, tôi xin hầu hạ ngài.- Này bạn, món ăn của bạn khác, món ăn của tôi khác.

Bạn hầu hạ tôi cũng gặp khó khăn.- Thưa ngài, khi ngài tìm đồ ăn, tôi cũng tìm đồ ăn và tôi sẽ theo ngài.- Thôi được, nhưng bạn phải hết sức siêng năng.Như vậy, Bồ-tát khuyên con quạ đi tìm đồ ăn, các loại hột cỏ, hột giống.

Trong khi Bồ-tát đi tìm đồ ăn, con quạ cũng đi, lật lên các miếng phấn, ăn các loại trùng, nhét cho đầy bụng, rồi đi đến Bồ-tát và nói:- Thưa ngài, ngài dùng quá nhiều thì giờ cho việc tìm đồ ăn thật không tốt.Khi Bồ-tát tìm đồ ăn xong, buổi chiều bay về, con quạ cũng bay theo vào nhà bếp.

Người nấu bếp nói:- Con bồ câu của chúng ta có đem một con chim khác về.Anh ta liền treo một tổ rơm nữa cho con quạ.

Từ đấy hai con chim câu và quạ sống với nhau.

Một hôm, người ta đem đến nhiều cá và thịt cho người triệu phú.

Người đầu bếp lấy cá và thịt ấy đem treo chỗ này chỗ kia trong bếp.

Con quạ thấy vậy, lòng tham khởi lên: "Ta sẽ không đi tìm đồ ăn ngày mai; ta phải ăn món này!"

Đêm đến, nó nằm ngủ, vừa ngủ, vừa rên.

Ngày hôm sau, Bồ-tát đi tìm mồi nói:- Hãy đi, này bạn quạ!- Thưa ngài, ngài hãy đi một mình.

Tôi bị đau bụng!- Này bạn, từ trước đến nay, chưa bao giờ loài quạ đau bụng.

Ban đêm, trong ba canh, bốn canh, cứ mỗi canh loài quạ có bất tỉnh, nhưng khi chúng nuốt tim đèn, chúng được thỏa mãn ngay lúc ấy.

Có thể bạn muốn ăn thịt và cá.

Hãy đi nào, món ăn của người không thích hợp với các bạn đâu.

Chớ làm như vậy, hãy đi kiếm ăn với ta.- Thưa ngài, tôi không thể đi.- Hành động của bạn sẽ lộ rõ, chớ để lòng tham chi phối, chớ phóng dật.Khuyên nó xong, Bồ-tát đi kiếm ăn.

Người đầu bếp cố gắng làm nhiều món thịt cá khác nhau.

Lúc giở các nắp chảo để hơi nóng thoát ra, người đầu bếp đặt trên mặt chảo một cái rá lọc rồi đi ra ngoài, đứng lau mồ hôi.Trong khi ấy, con quạ từ ổ rơm ló đầu ra, nhìn nhà bếp, biết người đầu bếp đã ra đi, tự nghĩ: "Nay ta sẽ được thỏa mãn tham vọng, sẽ được ăn thịt.

Nhưng ta nên ăn miếng thịt lớn hay miếng thịt nhỏ?

Với miếng thịt nhỏ, khó có thể đầy bụng mau được.

Vậy ta hãy mau chóng mang miếng thịt lớn, bỏ vào ổ rơm rồi nằm ăn!.Quạ bay ra khỏi ổ, đậu trên cái rá lọc.

Rá lọc ấy phát ra tiếng động "kil li".

Người đầu bếp nghe tiếng động, không biết cái gì, đi vào, thấy con quạ, liền nói:- Ðây là con quạ ranh con!

Mày muốn ăn thịt nấu cho vị triệu phú của ta.

Ta sống làm việc vì người chủ triệu phú, chớ không vì đồ ngu như mày.

Ðồ như mày có gì liên hệ với ta?Kẻ ấy đóng cửa, bắt con quạ, nhổ sạch lông, đem củ gừng giã nhỏ với muối và cây thì là trộn với nước sữa chua, thoa lên toàn thân con quạ, rồi ném con quạ vào ổ rơm.

Con quạ chịu đau khổ nằm rên.

Bồ-tát, buổi chiều về, thấy quạ gặp nạn như vậy liền nói:- Ôi con quạ tham lam, vì không làm theo lời ta, vì lòng tham của ngươi, ngươi bị đau đớn lớn.Rồi Bồ-tát đọc bài kệ này:Với người muốn mình lợi,

Với người thương tưởng mình

Có những lời khuyên bảo,

Nhưng không làm theo lời,

Như con quạ tham lam

Không làm theo lời khuyên

Của con chim bồ câu,

Nó bị ngã rơi vào

Như rơi vào tay địch.Bồ-tát nói xong, tự nghĩ: "Nay ta không thể ở nơi này nữa", bèn đi một chỗ khác.

Còn con quạ mạng chung ngay lúc ấy.

Người đầu bếp nhặt nó từ ổ rơm và quăng nó vào đống rác.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo không phải nay ông mới tham, trước kia ông cũng đã tham, do lòng tham của ông, các bậc Hiền trí đã mất trú xứ của họ.Sau khi thuyết pháp thoại, bậc Ðạo Sư thuyết giảng các sự thật.

Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng được quả Nhất lai.

Bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc ấy, con quạ là Tỷ-kheo tham lam, còn con bồ câu là Ta vậy.-ooOoo-43.

CHUYỆN CON RẮN TRE (Tiền thân Veluka)Với người muốn mình lợi...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo.

Thế Tôn hỏi:- Này Tỷ-kheo, có thật chăng ông là người khó bảo.- Bạch Thế Tôn, đúng vậyBậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo.

Thuở trước, ông cũng đã khó bảo rồi.

Vì tánh ông khó bảo, không nghe lời các bậc Hiền trí, ông mạng chung vì miệng con rắn.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong một gia đình giàu có ở nước Kàsi.

Khi lớn lên, thấy nguy hiểm của dục vọng, thấy lợi ích khi xa lìa nó, Bồ-tát từ bỏ các dục, đi vào Tuyết Sơn, xuất gia làm vị ẩn sĩ, chuẩn bị tốt đẹp đề tài thiền quán, đạt được năm Thắng trí, và tám Thiền chứng, sống hưởng thọ thiền lạc.

Sau một thời gian, Bồ-tát có một hội chúng lớn, với năm trăm ẩn sĩ khổ hạnh vây quanh.

Ngài sống làm bậc Ðạo sư của hội chúng.Bấy giờ một con rắn độc con, theo bản tánh của mình, đi đến am thất của một vị tu khổ hạnh.

Vị tư khổ hạnh khởi lòng thương con rắn như con mình, cho nó nằm trong một ống tre, và nuôi dưỡng nó.

Vì nằm ở trong ống tre, nên nó được gọi là Veluka (Rắn tre).

Vì vị tu khổ hạnh nuôi dưỡng con rắn với tình thương như con mình, nên vị ấy được gọi là "Cha của Veluka".Lúc bấy giờ, Bồ-tát nghe có vị tu khổ hạnh nuôi dưỡng con rắn độc, bèn cho gọi vị ấy lên và hỏi:- Có thật chăng ông đã nuôi dưỡng con rắn độc?Khi được biết là có thật, Bồ-tát nói:- Chớ tin con rắn độc.

Chớ nuôi dưỡng nó như vậy.Vị tu khổ hạnh nói:- Con rắn ấy đối với tôi như đệ tử đối với thầy.

Không có nó, tôi không thể sống được.- Vậy ông sẽ bị mệnh chung vì sống gần con rắn độc này.Vị tu khổ hạnh không nghe lời Bồ-tát, không chịu từ bỏ con rắn độc.

Nhiều ngày sau, tất cả vị tu khổ hạnh đi hái quả, đến một chỗ được nhiều trái cây và ở tại đấy hai ba ngày.

Trước đó, Cha của rắn tre cũng đi với họ, đã đặt con rắn độc nằm trong ống tre, đóng cửa lại rồi ra đi.

Sau hai ba ngày, vị ấy cùng về với các vị tu khổ hạnh, định đến cho Veluka ăn, vị ấy mở ống tre, vừa đưa tay vừa nói:- Này con, hãy đến đây.

Chắc con đói lắm.Con rắn độc nổi giận vì hai ba ngày không có đồ ăn, liền mổ vào tay vị tu khổ hạnh, khiến vị này chết ngay tại chỗ, rồi rắn bỏ vào rừng.

Các vị tu khổ hạnh thấy vậy thưa với Bồ-tát.

Ngài bảo hỏa táng người chết.

Rồi ngồi giữa chúng ẩn sĩ, ngài nói lên bài kệ này:Với người muốn mình lợi,

Với người thương tưởng mình,

Nếu cứng đầu không nghe

Không theo lời khuyên dạy,

Sẽ bị hại đến chết,

Như Cha Ve-lu-ka.Như vậy, Bồ-tát khuyến cáo chúng ẩn sĩ.

Rồi ngài tu tập từ, bi, hỷ, xả, và khi mạng chung, ngài sanh lên cõi trời Phạm thiên.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo.

Trước kia do khó bảo, ông đi đến hoại diệt vì miệng con rắn độc.Sau khi thuyết pháp thoại, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện, và nhận diện Tiền thân như sau:- Khi ấy, Cha của Veluka là Tỷ-kheo khó bảo, hội chúng còn lại là hội chúng đức Phật, và bậc Ðạo Sư có hội chúng là Ta vậy.-ooOoo-44.

CHUYỆN CON MUỖI (Tiền thân Makasa)Tốt hơn là kẻ thù...,Câu chuyện này, khi bộ hành ở xứ Ma-kiệt-đà, bậc Ðạo Sư đã kể về những người ngu si trong một ngôi làng.

Theo truyền thuyết, một thời đức Như Lai từ Xá-vệ đi đến xứ Ma-kiệt-đà.

Tại đấy, Ngài đi bộ đến một ngôi làng.

Người trong làng ấy phần lớn là những người ngu.

Một hôm, các người ngu hội họp lại và nói:- Này các bạn, khi chúng ta vào rừng làm việc, các con muỗi cắn chúng ta, do duyên cớ ấy, việc làm của chúng ta bị trở ngại.

Tất cả chúng ta hãy đi, cầm theo cung và các vũ khí, gây chiến với các con muỗi, bắn giết tất cả chúng nó.Nghĩ vậy, họ đi vào rừng với ý định bắn các con muỗi, nhưng họ bắn lẫn nhau, đánh lẫn nhau, làm đau khổ lẫn nhau, rồi đi về, nằm xuống ở cổng làng, giữa làng và cuối làng.Bậc Ðạo Sư, được chúng Tỷ-kheo vây quanh, đi vào làng ấy khất thực.

Các bậc Hiền trí trong làng thấy Thế Tôn, liền dựng một cái rạp tại cổng làng, tổ chức cúng dường trai phạn cho chúng Tỷ-kheo, đứng đầu là đức Phật.

Họ đảnh lễ bậc Ðạo Sư rồi ngồi xuống.

Bậc Ðạo Sư thấy chỗ này chỗ kia có những người bị thương, liền hỏi các nam cư sĩ:- Sao có nhiều người bị bệnh thế?

Họ đã làm gì vậy?- Bạch Thế Tôn, những người này đi đánh các con muỗi, nhưng lại bắn lẫn nhau, nên bị bệnh tình như vậy.Bậc Ðạo Sư nói:- Không phải chỉ nay các người ngu si đi đánh các con muỗi, rồi trở lại đánh mình.

Trước kia, cũng có những người đi đánh các con muỗi, rồi trở lại đánh những người khác.Sau đó, theo lời yêu cầu của những nam cư sĩ ấy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sống làm nghề đi buôn.

Lúc bấy giờ, trong một làng biên địa ở nước Kàsi, nhiều người thợ mộc sống tại đây.

Có một thợ mộc đầu sói đang đẽo một thân cây.

Một con muỗi đậu trên đầu của kẻ ấy, cái đầu sáng chói như một cái bát đồng.

Với cái miệng như mũi tên, muỗi đốt vào đầu như kiếm đâm.

Kẻ ấy gọi đứa con đang ngồi gần và nói:- Này con thân, con muỗi đốt vào đầu ta như bị kiếm đâm.

Hãy đuổi nó đi.- Thưa cha thân, hãy ngồi im.

Với một cái đánh, con sẽ giết nó.Lúc bấy giờ, Bồ-tát đi tìm hàng hoá cho mình, đến tại làng ấy, đang ngồi tại cửa quán người thợ mộc.

Người thợ mộc ấy nói với đứa con:- Này con, hãy đuổi con muỗi này.Ðứa con nói:- Này cha thân, con sẽ đuổi.Nó giơ cao một cái búa lớn sắc bén, đứng một bên lưng người cha nói:- Con sẽ đánh muỗi!Nó lại chém vỡ đôi đầu người cha.

Người thợ mộc chết ngay tại chỗ.

Bồ-tát thấy sự việc đã xảy ra cho người thợ mộc, suy nghĩ: "Một kẻ thù có trí còn tốt hơn, vì nó sợ hình phạt, sẽ không giết người".Rồi ngài nói lên bài kệ này:Tốt hơn là kẻ thù,Nhưng có trí sáng suốt,Còn hơn là người bạn

Thiếu trí tuệ thông minh.

Ðứa con ngu và điếc,

Ðịnh giết chết con muỗi,

Lại chém đầu người cha

Vỡ ra thành hai mảnh.Nói vậy xong, Bồ-tát đứng dậy ra đi, rồi về sau mạng chung theo nghiệp của mình.

Còn bà con của người thợ mộc lo việc thiêu xác của người thợ mộc.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các nam cư sĩ, trong thời quá khứ, cũng có những người muốn đánh con muỗi lại đánh ngã các người khác.Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc ấy, người đi buôn hiền trí nói xong bài kệ rồi đi chính là Ta vậy.-ooOoo-45.

CHUYỆN NỮ TỲ ROHINI (Tiền thân Rohini)Tốt hơn là kẻ thù...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về người nữ tỳ của vị triệu phú Cấp Cô Ðộc.

Theo truyền thuyết, ông Cấp Cô Ðộc có một người nữ tỳ tên là Rohinì.

Người mẹ già của nó đi đến nhà giã gạo và nằm xuống.

Những con ruồi bu quanh cắn bà như đâm với mũi kim.

Bà kêu đứa con gái:- Này con thân, các con ruồi cắn ta.

Hãy đuổi chúng đi.Ðứa con gái nói:- Thưa mẹ, con sẽ đuổi.Nó giơ cái chày lên, với ý định giết các con ruồi trên thân bà mẹ, nó nói:- Con sẽ giết chúng.Rồi nó lấy cái chày đập vào bà mẹ khiến bà chết tại chỗ.Thấy vậy, nó khóc:- Mẹ ôi!Người ta báo cho vị triệu phú biết tin ấy.

Sau khi bảo hoả táng bà mẹ, vị triệu phú đi đến tinh xá, báo cho bậc Ðạo Sư biết toàn thể câu chuyện.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, đây không phải lần đầu tiên với ý định giết các con ruồi trên thân bà mẹ mà nó đập với cái chày và giết bà mẹ.

Thuở trước, nó cũng đã làm như vậy.Sau khi nói như vậy, bậc Ðạo sư theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sinh ra trong gia đình người triệu phú, sau khi cha mất, lên thay địa vị của cha.

Vị triệu phú có người nữ tỳ tên là Rohinì.

Nữ tỳ ấy đi đến chỗ giã gạo, nghe người mẹ đang nằm bảo:- Hãy đuỗi những con ruồi trên thân ta, này con thân.Nó lấy cái chày đánh con ruồi và giết luôn bà mẹ rồi khóc.

Bồ-tát nghe kể chuyện ấy, tự nghĩ: "Trên đời này, một kẻ thù có trí còn tốt hơn".Rồi để tán thán người có trí, Bồ-tát đọc bài kệ này:Tốt hơn là kẻ thù

Có trí tuệ thông minh,

Hơn kẻ thương hại mình,

Nhưng ngu si vô trí,

Hãy xem Rô-hi-ni,

Giết bà mẹ khốn khổ,

Rồi than khóc hoài công.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, đây không phải lần đầu tiên với ý định sẽ giết các con ruồi mà nó giết bà mẹ.

Lúc trước, nó cũng đã làm như vậy.Sau khi kể lại pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp lại hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc bấy giờ, bà mẹ và người con gái là bà mẹ và con gái ngày nay, con vị đại triệu phú là Ta vậy.-ooOoo-46.

CHUYỆN KẺ LÀM HẠI VƯỜN (Tiền thân Àràmadùsaka)Bậc thiện không làm hại...,Câu chuyện này, tại một làng nhỏ ở Kosala, bậc Ðạo Sư đã kể về người làm hại vườn.

Theo truyền thuyết, bậc Ðạo Sư đang bộ hành giữ dân chúng nước Kosala, đến một ngôi làng nhỏ.

Tại đây, một người điền chủ thỉnh đức Như Lai, vào ngồi trong vườn của mình, cúng dường chúng Tăng với đức Phật là vị dẫn đầu, và thưa:- Bạch Thế Tôn, chư vị có thể đi kinh hành ở trong vườn này tùy theo sở thích.Các Tỷ-kheo đứng dậy, cùng với người giữ vườn đi dạo trong vườn, thấy một khoảng đất trống, liền hỏi người giữ vườn:- Này nam cư sĩ, trong vườn này, các chỗ khác có cây cối rậm rạp, nhưng tại chỗ này không có cây, cũng không có bụi cây.

Vì lý do gì vậy?- Thưa các Tôn giả, khi vườn này được trồng cây, một đứa trẻ ở làng tưới cây tại chỗ này, nhổ rễ các cây non lên, rồi tùy theo lượng rễ cây mà tưới nước nhiều hay ít.

Các cây non ấy bị héo và chết.

Vì lý do ấy, chỗ này thành trống không.Các Tỷ-kheo đi đến bậc Ðạo Sư, báo cáo câu chuyện.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ở làng không phải chỉ nay mới là kẻ làm hư vườn.

Thuở trước, nó cũng là kẻ làm hư vườn.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì tại Ba-la-nại, một ngày hội lễ được tổ chức ở Ba-la-nại.

Bắt đầu từ khi nghe tiếng trống lễ hội, toàn thể dân chúng trong thành ào ra tham dự.

Lúc bấy giờ, trong vườn nhà vua có nuôi rất nhiều khỉ.

Người giữ vườn suy nghĩ: "Thành phố vui chơi lễ hội, ta sẽ bảo những con khỉ này tưới nước, còn ta sẽ đi chơi lễ hội".

Anh ta đến con khỉ đầu đàn và hỏi:- Này bạn khỉ chúa, vườn này đã giúp đỡ các bạn nhiều.

Các bạn ở đây ăn hoa, trái và đọt non.

Thành phố hôm nay đang vui chơi lễ hội.

Ta sẽ đi dự hội.

Cho đến khi ta về các bạn có thể tưới nước giúp các cây non trong vườn này không?- Lành thay, chúng tôi sẽ tưới.- Vậy các bạn hãy cẩn thận.Ðể chúng có thể tưới nước, người giữ vườn đưa cho chúng những bao da chứa nước và các thùng gỗ, rồi ra đi.Các con khỉ cầm bao da chứa nước và các thùng gỗ, bắt đầu tưới nước cho các cây non.

Con khỉ chúa nói với chúng:- Này các bạn khỉ, hãy gìn giữ nước.

Khi các bạn tưới nước trên các cây non, trước hết hãy kéo những cây ấy lên, xem rễ của chúng như thế nào.

Những rễ nào đâm sâu thì tưới nhiều nước vào rễ.

Rễ nào không đâm sâu, hãy tưới ít nước.

Nếu tưới nhiều nước, chúng ta thật khó tìm thêm nước.Chúng vâng theo và làm đúng như vậy.

Lúc bấy giờ, một người hiền trí thấy các con khỉ ấy làm như vậy trong vườn của vua, liền hỏi:- Này các bạn khỉ, sao các bạn lại kéo các cây non lên và tưới nước tùy theo lượng của rễ?Chúng trả lời:- Chúa khỉ đầu đàn của chúng tôi khuyên như vậy!Nghe chúng nói, người hiền trí ấy suy nghĩ: "Ôi!

Những kẻ ngu si vô trí, dầu muốn làm điều tốt, lại làm điều có hại!"

Rồi vị ấy đọc bài kệ này:Bậc thiện không làm hại,

Làm lành đem đến lạc;

Người ngu hại điều lành,

Như khỉ giết hại trong vườn.Người hiền trí ấy chỉ trích con khỉ đầu đàn như vậy rồi đem đoàn tùy tùng của mình ra đi.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, đứa trẻ ở làng không phải chỉ nay mới là kẻ làm hại vườn.

Thuở trước nó cũng đã là kẻ làm hại vườn.Sau khi bậc Ðạo Sư kể pháp thoại này, Ngài kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:- Khi ấy, con khỉ đầu đàn là đứa trẻ ở làng làm hại vườn.

Con người hiền trí là Ta vậy!47.

CHUYỆN RƯỢU MẠNH (Tiền thân Vàruni)Bậc thiện không làm hại...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một người phá hư rượu.

Tương truyền bạn của ông Cấp Cô Ðộc là một người bán rượu.

Kẻ ấy dự trữ một số rượu cay mạnh để bán cho quần chúng và họ trả bằng vàng và bạc.

Quần chúng tụ họp đông đảo trong quán rượu.

Kẻ ấy bảo người đệ tử học việc:- Này con thân, hãy lấy tiền trước khi giao rượu.Sau khi ra lệnh như vậy, kẻ ấy đi tắm.

Người đệ tử bán rượu cho quần chúng.

Khách uống bảo nó đem cho họ muối và đường cục để vừa ăn vừa uống rượu.

Thấy vậy, nó liền nghĩ: "Rượu chắc thiếu muối.

Ta sẽ bỏ muối vào rượu".Nó liền bỏ độ một cân muối vào hủ rượu rồi rót rượu cho họ.

Khi họ vừa uống một ngụm đầy miệng, họ liền nhổ ra và hỏi:- Anh đã làm gì vậy?- Các anh uống rượu đòi tôi đem muối lại.

Thấy vậy, tôi bỏ thêm muối vào.- Này kẻ ngu kia, chú mày đã làm hư rượu ngon như vậy rồi.Khách hàng chỉ trích người ấy, rồi lần lượt đứng dậy và bỏ đi.

Người buôn rượu đi về, không thấy một người khách nào, liền hỏi những người uống rượu đã đi đâu rồi.

Nó tường thuật lại sự việc.

Người thầy của nó mắng nó:- Này kẻ ngu kia, mày đã phá hư rượu rồi!Và ông đi báo cáo với ông Cấp Cô Ðộc.

Ông Cấp Cô Ðộc nghĩ: "Ðây là một câu chuyện hay nên nói", liền đi đến Kỳ Viên đảnh lễ bậc Ðạo Sư, và thưa lại câu chuyện.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, không phải nay kẻ học việc ấy mới là người phá hư rượu.

Thuở trước, nó cũng là người phá hư rượu rồi.Nói vậy xong, theo lời yêu cầu của ông Cấp Cô Ðộc, bậc Ðạo Sư kể chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm người triệu phú ở Ba-la-nại.

Nương tựa vào Bồ-tát là một người sống với nghề buôn rượu.

Sau khi tích trữ một số rượu mạnh, kẻ ấy bảo người đệ tử tên là Kondanna bán rượu rồi đi tắm.

Trong khi người buôn rượu đi khỏi, người đệ tử đổ muối vào rượu, và vì vậy, liền đã phá hư rượu.

Thầy của nó về, biết được nguyên nhân, liền báo cho người triệu phú rõ.

Người triệu phú nói:- Người thiện không làm hại, còn người ngu, dầu muốn làm điều tốt, lại làm điều có hại.Và đọc thêm bài kệ này:Bậc thiện không làm hại,

Làm lành đem đến lạc,

Người ngu hại điều lành

Thật giống Kon-dan-na

Ðổ muối vào bình rượu.Bồ-tát thuyết pháp với bài kệ này.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Gia chủ, không phải nay nó mới là người phá rượu.

Thuở trước, nó cũng là người phá hư rượu.Sau khi nói xong, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Thuở ấy, kẻ làm hư rượu là kẻ làm hư rượu bây giờ còn vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy-ooOoo-48.

CHUYỆN BÀ-LA-MÔN VEDABBHA (Tiền thân Vedabbha)Dùng phương tiện không tốt...,Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo.

Bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo.

Thuở trước ông cũng đã khó bảo!

Do lời nói của ông, do không làm theo lời các bậc hiền trí, ông bị gươm chém đứt đôi và bị quăng trên đường.

Chính do nhân duyên độc nhất ấy, khiến một ngàn người mạng chung.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, trong một ngôi làng nhỏ, có một Ba-la-môn biết được bùa chú tên là Vedabbha.

Bấy giờ người ta nói, bùa chú ấy có giá trị rất lớn.

Khi có sự giao hội các hành tinh, nếu ai đọc chú ấy và nhìn lên trời, thì từ trời mưa xuống bảy vật báu (vàng, bạc, san hô, hổ phách, ngọc đỏ và kim cương).Lúc bấy giờ, Bồ-tát đi học nghề với Bà-la-môn ấy.

Một hôm, vị Bà-la-môn đem Bồ-tát đi theo, vì một vài công việc đi ra khỏi làng của mình và đến nước Ceti.

Giữa đường, tại một khu rừng, có năm trăm kẻ cướp, được gọi là kẻ cướp Sứ giả, chúng làm cho con đường không thể đi được, chúng bắt Bồ-tát và Bà-la-môn Vedabbha.Vì sao chúng được gọi là những kẻ cướp sứ giả?

Người ta nói, khi chúng bắt được hai người, chúng cử một người đi lấy tiền chuộc, do vậy, chúng được gọi là những kẻ cướp sứ giả.

Nếu chúng bắt được hai cha con, chúng cử người cha đi, đem tiền chuộc cho chúng để dắt người con về.Với phương tiện này, nếu chúng bắt được mẹ và con gái, chúng cử người mẹ đi, chúng bắt được hai anh em cả và út, chúng cử người anh cả đi; nếu chúng bắt được thầy và trò, chúng cử người học trò đi.

Lúc ấy, chúng giữ lại Bà-la-môn Vedabbha và cử Bồ-tát đi.

Bồ-tát đảnh lễ thầy và nói:- Con sẽ về trong một hai ngày.

Thầy chớ sợ hãi.

Nhưng thầy hãy làm theo lời con.

Hôm nay sẽ có giao hội các hành tinh để mưa châu báu xuống, chớ vì chịu khổ cực không nổi mà đọc thần chú và làm mưa châu báu xuống.

Nếu mưa xuống, thầy sẽ bị diệt vong, cả năm trăm tên cướp này cũng vậy.Sau khi khuyên thầy như vậy, Bồ-tát đi lấy tiền chuộc.

Khi mặt trời lặn, các tên cướp trói vị Bà-là-môn lại bắt nằm xuống.

Ðúng thời khắc ấy, mặt trăng tròn ngày rằm từ chân trời phương đông mọc lên.

Vị Bà-la-môn nhìn các vì sao, biết sự giao hội các hành tinh để mưa châu báu đã thành hình.

Vị ấy tự nghĩ: "Sao ta lại chịu khổ như thế này, ta hãy đọc thần chú, làm mưa châu báu xuống, cho các tên cướp tài sản và sẽ sung sướng ra đi".

Vì vậy vị Bà-la-môn nói với các tên cướp:- Này các bạn, vì mục đích gì các bạn bắt tôi?- Vì mục đích tài sản.- Nếu các bạn muốn có tài sản, lập tức hãy cởi trói cho tôi, rửa đầu cho tôi mang áo mới thoa hương thơm và trang điểm bông hoa.

Rồi để tôi ở một mình.Các tên cướp nghe nói, liền làm theo như vậy.

Vị Bà-la-môn biết được sự giao hội các hành tinh, đọc thần chú và mắt nhìn lên trời.

Từ trên trời, các châu báu rơi xuống.

Các tên cướp thâu lượm tài sản ấy, gói lại thành từng bọc với áo khoác ngoài, rồi ra đi cả đoàn.

Vị Bà-la-môn theo chúng đi sau cùng.

Các tên cướp ấy bị năm trăm tên cướp khác bắt.

Chúng hỏi bọn kia:- Các anh bắt chúng tôi vì mục đích gì?- Vì mục đích tài sản.- Nếu các anh muốn tài sản, hãy bắt Bà-la-môn này.

Nó nhìn lên trời, làm mưa tài sản rơi xuống.

Chính nó cho chúng tôi tài sản này.Các tên cướp sau thả các tên cướp trước, rồi bắt vị Bà-la-môn và nói:- Hãy cho chúng tôi tài sản như vậy.Bà-la-môn nói:- Tôi không thể cho các anh tài sản.

Từ nay cho đến một năm, sự giao hội các hành tinh để mưa tài sản mới thành hình.

Nếu các anh muốn có tài sản, hãy chờ đợi.

Khi ấy, tôi sẽ làm mưa tài sản xuống.Các tên cướp tức giận nói:- Ðồ xảo quyệt Bà-la-môn, ngươi làm mưa tài sản ngay cho bọn kia, lại bắt chúng ta đợi một năm nữa.Chúng nó lấy gươm sắc bén chém vị Bà-la-môn làm hai, vất bỏ trên đường.

Rồi chúng đuổi theo gấp, giao chiến với bọn cướp kia, giết chết bọn chúng, và lấy tài sản.

Rồi chúng chia thành hai nhóm, giao chiến lẫn nhau cho đến khi giết hai trăm năm mươi tên.

Với cách thức ấy, chúng chém giết lẫn nhau cho đến khi chỉ còn lại hai tên.

Như vậy cả ngàn người ấy đi đến diệt vong.Hai tên còn lại mang tài sản ấy chôn giấu tại một khu rừng gần làng, một tên cầm gươm ngồi giữ, một tên lấy gạo đi vào làng để nấu cơm.

Tên ngồi gần tài sản suy nghĩ: "lòng tham là cội gốc của diệt vong.

Nếu tên kia về, tài sản sẽ phải chia làm hai.

Khi tên kia vừa về, ta sẽ lấy gươm chém giết nó."

Nghĩ vậy, nó rút gươm ra, ngồi chờ tên kia về.

Tên kia cũng suy nghĩ: "Tài sản kia phải được chia làm hai.

Ta hãy bỏ thuốc độc vào cơm cho tên kia ăn, khiến nó mạng chung, như vậy, chỉ một mình ta được tài sản".Khi cơm nấu chín, nó ăn phần của nó, rồi bỏ thuốc độc phần còn lại, đem theo đi đến chỗ ấy.

Khi nó đặt cơm ấy xuống, vừa đứng dậy, tên kia lấy kiếm chém nó đứt đôi, ném xác nó vào chỗ kín.

Rồi nó ăn phần cơm ấy và chết ngay tại chỗ.

Như vậy, vì tài sản toàn thể bị diệt vong.Sau hai ba ngày, Bồ-tát mang tiền chuộc đi đến chỗ ấy, không thấy thầy mình, thấy tài sản rơi vãi, tự nghĩ: "Thầy ta không làm theo lời ta, làm mưa tài sản xuống, khiến tất cả phải chịu nạn diệt vong".Rồi Bồ-tát theo con đường lớn đi tới.

Trong khi đang đi, thấy thầy mình bị chặt đứt làm hai ở trên đường lơùn, lại nghĩ: "Vì không theo lời ta, nên thầy đã bị giết".

Bồ-tát chất củi, làm một giàn thiêu đốt xác thầy, và cúng dường với hoa trong rừng.

Ði nữa, Bồ-tát gặp năm trăm người mạng chung, tiếp tục đi tới nữa, thấy hai trăm năm mươi người, tiếp tục đến chỗ các người mạng chung, chỉ thiếu có hai.

Thấy vậy, Bồ-tát suy nghĩ: "Một ngàn người, trừ hai người, đi đến diệt vong.

Thế nào cũng còn lại hai tên cướp nữa.

Chúng không thể không đánh nhau, không biết chúng đã đi đâu?"

Tiếp tục đi nữa, Bồ-tát thấy con đường mà hai người mang tài sản đi vào trong khu rừng; đi nữa, Bồ-tát thấy đống tài sản được gói thành từng bọc và một tên cướp nằm chết với bát cơm bị rơi vãi.

Ðây là việc làm của chúng!

Bồ-tát biết tất cả, tự hỏi: "Người kia ở đâu?"

Tìm thấy nó bị quăng xác tại chỗ đầu kia, Bồ-tát suy nghĩ: "Thầy chúng ta không làm theo lời ta, do tánh khó bảo của thầy, tự mình đã bị diệt vong, còn làm cho một ngàn người khác cũng vì mình bị diệt vong.

Ai dùng phương tiện không chánh đáng, vì lý do sai lạc, đem lại sự giàu sang cho chính mình rồi cũng bị diệt vong như thầy chúng ta vậy".Suy nghĩ vậy, Bồ-tát đọc bài kệ này😀ùng phương tiện không tốt,

Mong lợi sẽ bị hại,

Cướp giết Ve-dab-bha,

Tất cả bị diệt vong.Rồi Bồ-tát nói thêm:- Như thầy ta, do ý nghĩ không tốt đẹp, do cố gắng sai chỗ, làm mưa tài sản xuống, tự mình bị mạng chung, còn làm cho những người khác cũng bị diệt vong.

Cũng vậy, với ai ý nghĩ không chánh đáng, nỗ lực cố gắng muốn lợi cho mình, tự mình diệt vong hoàn toàn, lại còn làm cho những người khác cũng bị diệt vong nữa.Bồ-tát làm vang động cả khu rừng vì tiếng nói của mình khiến chư Thần cây đáp ứng tán đồng.

Với bài kệ này, Bồ-tát thuyết pháp.

Sau đó ngài dùng phương tiện đem tài sản ấy về nhà, làm các công đức như bố thí và nhiều thiện sự khác v.v... rồi sống cho đến hềt tuổi thọ.

Khi mạng chung, Bồ-tát đi lên con đường thiên giới.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông là người khó bảo.

Thuở trước ông cũng đã là người khó bảo.

Vì khó bảo, ông đi đến diệt vong hoàn toàn.Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Vedabbha là Tỷ-kheo khó bảo, còn người đệ tử là Ta vậy.-ooOoo-49.

CHUYỆN CÁC VÌ SAO (Tiền thân Nakkhatta)Chờ đợi các vì sao...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc đạo Sư đã kể về một tà mạng ngoại đạo.

Theo truyền thuyết, một thiện nam nữ ở thôn quê hỏi cưới cho con trai mình cô con gái một gia đình ở Xá vệ, và hẹn ngày cưới.

Khi đến ngày ấy, ông hỏi một kẻ tà mạng ngoại đạo thân tín với gia đình:- Thưa Tôn giả, hôm nay chúng tôi sẽ làm một lễ phù hợp ngày lành, vậy các vì sao có tốt không?Vị này tức giận suy nghĩ: "Người này không hỏi ta trước, đã quyết định ngày, nay mới hỏi ta.

Ta hãy cho nó một bài học".

Vị ấy nói:- Hôm nay, các vì sao không tốt.

Chớ nên làm lễ hôm nay.

Nếu làm lễ, sẽ có nạn diệt vong lớn.Các người trong gia đình ở thôn quê tin vị ấy, và không đi rước dâu trong ngày ấy.

Trong khi ấy, những người thuộc gia đình nhà gái ở thành thị đã sửa soạn tất cả để làm lễ cưới.

Thấy các người kia không đến, họ nói:- Chính họ quyết định ngày hôm nay, và họ không đến, chúng ta đã phí tổn rất nhiều.

Họ là hạng người gì?

Chúng ta sẽ gả con gái chúng ta cho một người khác.Rồi họ gả con gái cho một người khác và làm lễ cưới như đã sửa sọan.

Vào ngày sau, đám người thôn quê đi đến và xin rước dâu.

Những người ở thành Xá vệ nói:- Các ông gia chủ sống ở thôn quê là những người độc ác.

Chính các ông đã quyết định ngày, lại khinh thường chúng tôi không đến.

Các ông hãy về lại theo con đường các ông đã đến.

Chúng tôi đã gả con gái cho người khác rồi.Họ mắng những người kia như vậy.

Những người kia cũng mắng lại, rồi cuối cùng đi về theo con đường họ đã đến.Bấy giờ, các Tỳ-kheo biết được toàn bộ câu chuyện ấy và thầm trách kẻ tà mạng ngoại đạo ấy đã làm trở ngại lễ ngày lành của những người kia.

Các Tỷ-kheo ngồi hội họp trong Pháp đường nói:- Này các hiền giả, kẻ tà mạng ngoại đạo kia đã làm trở ngại ngày lành của gia đình ấy.Bậc Ðạo Sư đi đến và hỏi:- Này các Tỷ-kheo hôm nay, ở đây các ông ngồi hội họp bàn chuyện gì?Khi được biết câu chuyện ấy, bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay kẻ tà mạng ngoại đạo ấy mới làm trở ngại ngày lành của gia đình kia.

Thuở trước, kẻ ấy tức giận họ và cũng làm trở ngại ngày lành.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, những người dân ở thành phố xin cưới cô con gái ở thôn quê, đã định ngày cưới và hỏi một kẻ tà mạng ngoại đạo, bạn của gia đình:- Thưa Tôn giả, hôm nay chúng tôi định làm lễ ngày lành.

Vậy các vì sao có tốt đẹp không?Người tà mạng ngoại đạo tức giận suy nghĩ: "Những người này đã quyết định ngày theo sở thích của mình, nay mới hỏi ta.

Vậy ta sẽ làm trở ngại ngày lành của họ".

Kẻ ấy nói:- Hôm nay các vì sao không tốt.

Nếu các ông làm lễ, các ông sẽ gặp nạn diệt vong lớn.Họ tin kẻ ấy, nên không đi đến.

Những người ở thôn quê biết được họ không đến liền nói với nhau:- Nay họ đã định ngày, nhưng lại không đến.

Họ là hạng người gì đối với chúng ta?Và họ gả con gái cho người khác.

Những người ở thành phố đến vào ngày sau và xin đón con dâu.

Những người ở thôn quê nói:- Các ông, những người ở thành phố, là những gia chủ không có liêm sỉ.

Chính các ông đã định ngày, nhưng không đón con dâu.

Vì các ông không đến, chúng tôi đem gả con cho người khác rồi.- Chúng tôi hỏi một vị đạo sĩ, biết được các vì sao không tốt, nên chúng tôi không đến.

Hãy cho chúng tôi rước dâu.- Vì các ông không đến, chúng tôi đã gả nó cho người khác rồi!

Nay làm sao lại có thể dắt nó về được?Trong khi họ đang cãi nhau như vậy, một người hiền trí ở thành phố đi đến thôn quê vì một công việc gì đó, nghe kể lại câu chuyện ấy, liền nói:- Có nghĩa lý gì là các vì sao?

Ðược người con gái đâu có phải nhờ các vì sao?Rồi người hiền trí đọc bài kệ này:Chờ đợi các vì sao

Kẻ ngu hỏng điều lành,

Ðiều lành chiếu điều lành,

Sao trời làm được gì?Các người ở thành phố cãi lộn xong, không rước dâu được, đành ra về.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay kẻ tà mạng ngoại đạo này mới làm trở ngại ngày lành của gia đình ấy, thuở trước cũng đã làm rồi.Sau khi kể pháp thoại, bậc Ðạo Sư kết hợp hai mẩu chuyện và nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, kẻ tà mạng ngoại đạo là kẻ tà mạng ngoại đạo hôm nay, các gia đình ấy là một.

Nguời hiền trí nói kệ là Ta vậy.-ooOoo-50.

CHUYỆN NHỮNG KẺ VÔ TRÍ (Tiền thân Dummedha)Với ngàn kẻ vô trí...Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về các hành vi đem lại lợi ích cho đời.

Câu chuyện này được kể ở Chương mười hai, Tiền thân Mahakanha số 469.*Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại.

Bồ-tát nhập thai vị hoàng hậu của vua ấy.

Từ bào thai sanh ra, trong ngày đặt tên, Bồ-tát được gọi là hoàng tử Brahmadatta (Phạm thọ).

Khi đến mười sáu tuổi, ngài được khéo giáo dục ở Takkasila, đã học thành thục ba tập Vệ đà, và đã hiểu biết thông suốt mười tám ngành học thuật.

Vua cha phong cho hoàng tử chức Phó Vương.Lúc bấy giờ, các người dân ở Ba-la-nại thường hành lễ ngày lành cúng chư thần, họ đảnh lễ chư thần.

Họ giết hại nhiều dê, cừu, gà... và không chỉ làm lễ vật cúng dường với nhiều loại hương hoa, mà cả với thịt tươi đầy máu nữa.

Bồ-tát suy nghĩ: "Nay quần chúng thường hành lễ ngày lành cúng chư thần và giết hại nhiều sinh vật.

Phần lớn quần chúng theo phi pháp.

Sau khi cha mất, ta sẽ được cả quốc độ, ta sẽ tìm một phương tiện không làm phiền não một ai, và chấm dứt sự giết hại các sinh vật".Một hôm, Bồ-tát lên xe, từ thành đi ra, thấy một số quần chúng lớn tụ họp tại một cây thần lớn, cầu xin vị thần cây ban cho con trai, con gái, danh vọng, tài sản... muốn gì thì phát nguyện như vậy.

Bồ-tát xuống xe, đi đến cây ấy, cúng dường với hương hoa, rưới cây với nước, đi quanh cây ấy về hướng phải, thành kính lễ bái thần cây.

Sau đó Bồ-tát leo lên xe, rồi đi vào thành.Từ đấy trở đi, với phương tiện này, Bồ-tát thỉnh thoảng đi đến cây ấy, đảnh lễ như người tôn thờ thần cây.

Sau một thời gian phụ vương qua đời, Bồ-tát được đặt lên ngôi vua.

Ngài từ bỏ Bốn con đường ác, thực hành Mười đức tính của một vị vua, và trị vì quốc độ đúng pháp.

Ngài suy nghĩ: "Nay ý ta đã đạt được ý định cao tột, và được đặt lên ngôi vua.

Trước kia, sở nguyện của ta như thế nào, nay ta phải thực hành cho kỳ được".Bồ-tát hội họp các đại thần, các Bà-la-môn, qúy tộc, gia chủ và nói:- Các khanh có biết ý muốn của ta trước khi ta đạt được vương vị chăng?- Thưa thiên tử, chúng thần không biết.- Các khanh có thấy trước đây ta đảnh lễ thần cây ấy với hương hoa và chấp tay cúi lạy cây ấy hay không?- Thưa thiên tử, có.- Lúc ấy, ta phát nguyện: "Nếu ta được làm vua, ta sẽ hiến vật cúng cho thần cây ấy.

Ta nhờ uy lực thần cây ấy, nên đã được quốc độ.

Nay ta sẽ hiến cúng cho thần cây, các khanh chớ làm trở ngại.

Hãy mau sửa soạn hiến vật cúng thần.- Chúng thần lấy gì cúng dường thần cây?- Này các khanh, ta có nguyện với thần ấy như sau: Tất cả những ai trong quốc độ của tôi chấp nhận và thực hành năm ác giới như sát sanh... và mười hạnh bất thiện, tôi sẽ giết những người ấy, và với nội tạng, thịt và máu của chúng, tôi sẽ hiến vật cúng thần!

Lời nguyện của ta là vậy.

Các khanh hãy đánh trống bá cáo như sau: Ðại vương của chúng ta, khi còn làm phó vương, có phát nguyện: "Nếu ta đạt được quốc độ, những ai là kẻ theo ác giới trong nước ta, ta sẽ giết tất cả chúng làm vật hiến cúng thần!

Vậy nay ta sẵn sàng bảo giết một ngàn người nào chấp nhận và thực hành năm ác giới và mười ác hạnh, cho lấy tim và thịt của chúng để làm vật hiến cúng thần.

Như vậy, nay ta tuyên bố cho các thị dân được biết."

Vua lại tuyên bố như sau:- Chỉ những ai, bắt đầu từ hôm nay, còn phạm các giới ác hạnh, một ngàn người như vậy sẽ bị giết để làm lễ tế đàn và ta sẽ giải tỏa hạnh nguyện của ta.Ðể ý nghĩa này được rõ ràng, Bồ-tát đọc bài kệ:Với ngàn kẻ vô trí,

Ta nguyện giết tế lễ,

Nay ta sẽ làm lễ,

Giết những kẻ phi pháp.Các bậc đại thần vâng theo lời Bồ-tát, cho đánh trống bá cáo trong thành Ba-la-nại, khắp cả mười hai dặm.

Khi nghe lời bá cáo, không có đến một người dám đứng lên làm ác giới ác hạnh.Suốt thời gian Bồ-tát trị vì quốc độ như vậy, không một ai phạm pháp.

Bồ tát không làm phiền não một ai, khiến toàn thể nhân dân trong nước gìn giữ giới luật, tự mình làm các công đức như bố thí... cho đến khi mạng chung, ngài mang theo hội chúng của mình đi đến và tràn ngập cả thành phố chư Thiên.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Như Lai sống đem lại lợi ích cho đời, thuở trước Như Lai cũng đã làm như vậy.Sau khi thuyết pháp thoại này xong, và kết hợp hai câu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, quần thần là hội chúng đức Phật và vua Ba-la-nại là Ta vậy.-ooOoo-
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 4
Chuyện Tiền Thân Đức Phật PHẨM ÀSIMSA


PHẨM ÀSIMSA51.

CHUYỆN VUA ÐẠI GIỚI ÐỨC (Tiền thân Mahàsìlavà)Người luôn luôn hy vọng...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:- Có thật chăng, này Tỷ-kheo ông thối thất tinh tấn?- Bạch Thế Tôn, thật vậy.- Này Tỷ-kheo, vì sao ở trong Giáo pháp đưa đến giải thoát như vậy, ông lại thối thất tinh tấn?

Thuở trước, các bậc hiền trí sau khi mất quốc độ, vẫn kiên trì tinh tấn, cuối cùng lấy lại danh tiếng đã mất.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì quốc độ ở xứ Ba-la-nại, Bồ-tát đầu thai làm con bà hoàng hậu.

Trong ngày đặt tên, ngài được gọi là hoàng tử Silava (Giới Ðức).

Khi đến mười sáu tuổi, ngài thành thục trong tất cả các tài nghệ.

Sau một thời gian, khi vua cha mệnh chung, ngài được đặt lên vương vị với danh hiệu vua Ðại giới hạnh.Vị vua đúng pháp trị vì theo pháp.

Tại bốn cửa thành, vua xây dựng bốn trường bố thí, lại xây dựng thêm giữa thành phố một cái, tại cửa cung điện ngài một cái.

Sáu trường bố thí được xây dựng bố thí cho những kẻ nghèo khổ lữ hành.

Vua trì giới, gìn giữ ngày trai giới (Bồ-tát), đầy đủ lòng nhẫn nại, nhân ái và từ mẫn.

Vị ấy trị vì quốc độ đúng pháp và muốn tất cả chúng sanh được hạnh phúc như muốn đứa con yêu quý ngồi trên bắp vế mình được hạnh phúc.Một đại thần của vua làm tà hạnh trong nội cung, và sau một thời gian bị phát lộ, các đại thần tâu với vua.

Vua điều tra, tự mình rõ biết sự việc, cho gọi đại thần ấy đến, tẩn xuất kẻ ấy ra khỏi nước và nói:- Này kẻ ngu si kia, việc người làm không thích đáng, ngươi không xứng đáng sống trong quốc độ của ta.

Hãy đem tài sản, vợ con và đi chỗ khác!Kẻ ấy đi khỏi nước Kàsi, đến làm việc với vua Kosala, dần dần trở thành người cố vấn tín cẩn thân cận của vua.

Một hôm, kẻ ấy tâu với vua Kosala:- Thưa Thiên tử, nước Kàsi như bánh mật ong không có ruồi bu.

Vua rất nhu nhược, chỉ với một ít đội quân là có thể chiếm lấy thành Kàsi.Nghe kẻ ấy nói vậy, vua liền suy nghĩ: "Nước Ba-la-nại to lớn.

Nó lại nói với một ít đội quân là có thể chiếm lấy thành ấy.

Rất có thể nó là tên cướp được thuê mướn".

Vua nói:- Ta nghĩ khanh là tên cướp được thuê mướn.Thưa Thiên tử, hạ thần không phải là tên cướp được thuê mướn!

Thần chỉ nói sự thật.

Nếu bệ hạ không tin thần, hãy cử người đến tàn phá một làng biên địa, rồi bệ hạ sẽ thấy, khi những người đi tàn phá bị bắt, và được dẫn đến trước vua nước Kàsi, vua ấy sẽ cho tài sản và thả họ về.Vua Kosala nghĩ: "Người này thật rất bạo dạn, khi đã nói như vậy, ta sẽ điều tra xem sao".

Rồi vua cử một số người của vua, đi tàn hại một làng ở biên địa Ba-la-nại.

Họ bị bắt và dẫn đến trước mặt vua Kàsi.

Vua hỏi:- Này các bạn thân, sao lại tàn hại dân làng ta?- Thưa Thiên tử, vì chúng tôi không thể kiếm sống được.- Vậy sao các người không đến ta?

Từ nay trở đi, chớ làm như vậy nữa.Vua cho họ tiền của và thả họ về.

Họ báo cáo lại sự tình lên vua Kosala.

Với kinh nghiệm này, vua chưa dám cử quân đi, bèn sai người tới tàn hại miền giữa quốc độ.

Những kẻ trộm ấy được vua Kàsi cho tiền của như trước rồi thả về.

Vua Kosala với kinh nghiệm này nữa, cũng chưa dám cử quân đi, lại sai người tới cướp phá ngay trong đường phố.

Vua Kàsi cho các tên cướp ấy tiền của rồi cũng thả chúng về.

Lúc bấy giờ, vua Kosala mới biết vua Kàsi là vị vua trị vì hết sức nhân từ, liền quyết định cử đội quân đi chiếm lấy nước Ba-la-nại.Lúc bấy giờ, vua Ba-la-nại có một ngàn đại chiến sĩ, những bậc anh hùng siêu việt, vô úy, những vị này có thể đối mặt không thối chạy bởi sự tấn công của một con voi điên loạn, không sợ hãi khi bị sét đánh trên đầu, một đội quân vô địch có thể chiếm toàn cõi Diêm-phù-đề theo ý muốn của đại vương Silava.

Họ nghe tin vua Kosala đến liền đến báo cáo vua Kàsi:- Thưa Thiên tử, vua Kosala đến với ý định chiếm lấy nước Ba-la-nại.

Chúng tôi sẽ đi đánh và bắt vua ấy, không cho vua ấy bước qua biên giới.- Này các khanh, chớ vì ta mà làm các người khác phiền não.

Những ai muốn quốc độ, hãy để họ lấy quốc độ ta.

Các khanh chớ đi!Vua ngăn chận các chiến sĩ ấy chống trả quân xâm lược.

Sau đó vua Kosala vượt qua biên giới và xâm nhập miền giữa quốc độ.

Các đại thần đến báo cáo với vua như lần trước.

Vua lại ngăn chận như lần trước.

Bấy giờ vua Kosala đến, đứng ngoài thành và đưa tin cho đại vương Silava giao quốc độ hay giao chiến.

Vua Kàsi đưa tin traû lời là vua không giao chiến.- Hãy tới mà lấy quốc độ.Lần thứ bảy, các đại thần lại đến tâu vua:- Thưa Thiên tử, chúng thần không để cho vua Kosala vào thành.

Chúng thần sẽ đánh vua ấy ở ngoài thành và bắt vua ấy.Nhưng vua Kàsi vẫn ngăn chận như lần trước, cho mở các cửa thành, rồi ngồi trên vương tọa lộng lẫy với một ngàn đại thần vây quanh.

Vua Kosala cùng với đội quân lớn vào thành Ba-la-nại.

Không thấy một ai chống cự, vua đi đến cung điện của vua Kàsi, với các cửa mở toang.

Vua Kosala liền ra lệnh bắt vua Mahasilava đang ngồi im lặng trên ngai vàng cùng với ngàn đại thần vây quanh.- Hãy trói vua này với các đại thần, trói thật chặt cánh tay chúng ra sau lưng, dắt chúng đến bãi tha ma, đào những hố sâu đến cổ, khiến mọi người không thể giơ tay, rồi đổ đất xuống đất và chôn sống chúng.

Ban đêm, các con chó rừng sẽ đến và sẽ làm những gì cần phải làm đối với chúng!Các người tùy tùng theo lệnh vua cướp nước, trói vua Kàsi với các đại thần, trói thật chặt cánh tay ra sau lưng, rồi dắt họ đi.

Lúc bấy giờ, đại vương Silava không có tư tưởng sân hận gì với vua cướp nước.

Trong khi các đại thần ấy bị trói như vậy và dắt đi, không một ai có thể trái lời vua Kàsi, hội chúng vua Kàsi được khéo huấn luyện về kỷ luật như vậy.Rồi những người lính của vua cướp nước dắt vua Silava và các đại thần đi đến bãi tha ma, đào những hố sâu ngang cổ, chôn tất cả xuống cái hố, đại vương Silava bị chôn ở giữa, hai bên chôn các đại thần, rải đất lên, lấy chày nện xuống rồi bỏ đi.

Vua Silava không phẫn nộ đối với vua cướp nước và khuyên các đại thần:- Này các khanh, hãy tụ tập hạnh từ bi!Nửa đêm, các con chó rừng đến, định ăn thịt người.

Thấy chúng, vua và các đại thần đồng thanh la to lên, các con chó rừng sợ hãi chạy trốn.

Khi chúng quay trở lại nhìn, biết không có ai đuổi theo, chúng liền trở lui.

Các người ấy lại la lớn hơn trước.

Như vậy, chúng chạy trốn đến lần thứ ba, rồi lại nhìn lui, biết không có ai đuổi theo, chúng nghĩ: "Các người này rồi cũng chết", nên mạnh dạn trở lui, và khi nghe la lớn, chúng không chạy trốn nữa.

Con chó rừng đầu đàn đến gần vua Silava, các con còn lại đến gần những người kia.

Vốn thiện xảo về phương tiện, biết được con vật đến gần mình, vua Kàsi liền vươn cổ lên như để cho con vật cắn, rồi với xương hàm kéo giật cổ con chó rừng, vua cắn thật chặt như kẹp với gọng kềm.

Con chó rừng bị cắn chặt cổ, bị kẹp bởi xương hàm của vị vua có sức mạnh như voi, không thể nào tự mình thoát được, và kinh hãi vì sợ chết, nó bèn hú lên lớn tiếng.Nghe tiếng kêu cầu cứu, nghĩ rằng con chó rừng chúa ấy đã bị một người bắt, các con kia không đi đến gần các đại thần, và kinh hãi vì sợ chết, tất cả đều bỏ chạy.

Bị cắn chặt bởi xương hàm của vua Kàsi, con chó rừng bị bắt hốt hoảng chạy qua chạy lại, làm cho đất mềm rơi ra và vì sợ chết, với cả bốn chân nó cào đất trên chỗ vua kàsi.

Vua biết được đất đã mềm rơi ra, liền thả con chó rừng.

Với sức mạnh như voi, vua di chuyển qua lại, giơ lên được hai tay, rồi vịn lên bờ thành miệng hố, vua thoát khỏi miệng hố như mây bị xé tan trước gió, và đứng dậy.

Rồi an ủi, động viên các đại thần, vua bới đất lên, kéo tất cả mọi người ra khỏi hố.

Với các đại thần vây quanh, vua đứng trong bãi tha ma.Lúc bấy giờ, người ta quăng một xác chết trong bãi tha ma, đúng ở biên giới địa phận của hai con Dạ-xoa.

Hai con Dạ-xoa không thể chia phần người chết ấy, chúng nói:- Chúng ta không thể chia phần xác chết này.

Vua Silava là vị sống đúng pháp, vị ấy sẽ chia phần cho chúng ta.

Chúng ta hãy đi đến vị ấy.Chúng cầm chân xác chết, kéo đi đến vua và thưa:- Thưa Thiên tử, hãy chia người này cho chúng tôi.- Này các vị Dạ-xoa, ta sẽ chia phần xác chết này cho các vị.

Nhưng vì chúng tôi không sạch, hãy tắm cho chúng tôi đã.Các Dạ-xoa, với uy lực của mình, đem lại nước thơm dành cho vua cướp nước để vua Kàsi tắm; sau khi tắm xong, chúng thâu lại áo của vua Kàdi, đem áo dành cho vua cướp nước đến mặc áo cho vua, rồi chúng đem cho vua một hộp đựng bốn loại nước hoa.

Khi vua đã xức nước hoa, chúng lại cho vua những bông hoa đủ loại đính trên quạt bằng ngọc trong một hộp bằng vàng, và trang sức cho vua.Rồi khi vua đang đứng, chúng hỏi vua có cần gì chúng nữa không.

Vua ra dấu cho chúng hiểu là vua đói.

Các Dạ-xoa liền đi lấy cho vua các món ăn thượng vị đã sửa soạn sẵn cho vua cướp nước.

Và sau khi tắm và xức nước hoa, mặc áo và trang điểm, vua Kàsi ăn các món ăn thượng vị.

Các Dạ-xoa đem lại nước thơm dành cho vua cướp nước, với bình bát bằng vàng và chén vàng để vua uống nước, súc miệng.

Và trong khi vua rửa tay, các Dạ-xoa đem đến trầu gia vị với năm loại hương, được têm sẵn cho vua ăn cướp dùng.

Ăn trầu xong, khi vua đang đứng, các Dạ-xoa hỏi vua có cần chúng làm việc gì khác nữa.

Vua bảo:- Ðem các gươm báu đặt trên gối vua cướp nước về cho ta.Và chúng đi lấy đem về.

Rồi vua cầm gươm, đưa thẳng trên xác chết, chặt xuống giữa đỉnh đầu, chia thành hai phần bằng nhau cho hai con Dạ-xoa.

Sau khi chia xong, vua rửa gươm, đeo vào và đứng thẳng.

Các Dạ-xoa ăn uống no nê, tâm tư thỏa mãn, hỏi vua có sai bảo chúng làm việc gì nữa không.

Vua bảo các Dạ-xoa ấy, dùng uy lực của mình đưa vua vào vương phòng của vua cướp nước và đưa các đại thần về nhà.

Chúng chấp thuận, làm theo lời vua.Lúc bấy giờ, vua cướp nước đang nằm ngủ trên long sàng trong vương phòng được trang hoàng.

Vua Kàsi dùng mặt bằng cây gươm đánh trên bụng vua cướp nước đang ngủ say.

Vua ấy hoảng hốt thức dậy, với ánh sáng ngọn đèn, nhận biết là đại vương Silava, liền từ trên giường đứng dậy, lấy hết can đảm, nói với vua Kàsi:- Thưa Ðại vương, đêm tối như vầy, có phòng hộ canh gác, các cửa đều đóng, trong cung điện không chỗ nào là không có người canh gác, làm thế nào làm ngài lại đến được bên giường này, đeo gươm, trang sức, mặc hoàng bào sẵn sàng?Vua Kàsi kể tất cả câu chuyện với các chi tiết về các sự kiện đưa vua đến đây.

Nghe xong, vua cướp nước xúc động mạnh, và thưa:- Thưa Ðại vương, tôi tuy là con người mà không biết công đức của ngài.

Nhưng các công đức của ngài lại được các Dạ-xoa hung bạo, độc ác, uống máu, ăn thịt người kia biết rõ ràng.

Ôi bậc nhân chủ, nay tôi sẽ không còn bày mưu phản bội một bậc giới đức như ngài nữa!Rồi vua Kosala cầm gươm thề nguyền thân hữu, xin lỗi vua Kàsi, và để vua Kàsi nằm ngủ trên long sàng, còn mình nằm ngủ trên chiếc giường nhỏ.Khi đêm tàn, mặt trời đã mọc, vua truyền đánh trống mời tất cả quân lính, đại thần, Bà-la-môn, gia chủ hội họp lại.

Ðứng trước mặt quần thần như đưa mặt trăng rằm lên trên trời cao, vua Kosala tán thán công đức của vua Silava giữa cả hội chúng, xin lỗi vua Silava, lần nữa trả lại quốc độ cho vua ấy, và thưa:- Từ nay trở đi, nếu có nạn trộm cướp khởi lên cho ngài, tôi xin chịu trách nhiệm.

Ngài hãy trị vì quốc độ, còn tôi canh gác hộ trì.Nói xong, vua Kosala trị tội kẻ đã vu cáo, và mang quân đội đi về nước của mình.

Còn vua Mahàsilava trang sức, mặc áo uy nghi, dưới cái lọng trắng, ngồi trên long sàng bằng vàng có chân như con nai, nhìn ngắm thành quả của mình và suy nghĩ: "Thành quả này và sự cứu sống sinh mạng của một ngàn đại thần, nếu ta không tinh tấn, thì không có được chút gì.

Chính do sức mạnh tinh tấn, ta không bị hoại diệt, và phục hồi được danh tiếng đã mất.

Ta đã cứu sinh mạng của một ngàn đại thần.

Thật sự để chí hướng không bị hủy hoại, cần phải hết sức tinh tấn.

Với người luôn luôn tinh tấn, quả vị sẽ được thành tựu viên mãn.Sau khi suy nghĩ như vậy, vua Kàsi đọc bài kệ này như lời cảm hứng:Người luôn luôn hy vọng,

Bậc trí không chán nản,

Ta thấy khổ vượt qua,

Ta muốn gì được vậy!Bồ-tát nói:- Ôi, với những ai đầy đủ giới đức, quả tinh tấn sẽ được thành tựu.Với bài kệ này, Bồ-tát nói lên lời cảm hứng, trọn đời làm các công đức rồi đi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể pháp thoại này bậc Ðạo sư thuyết giảng các Sự thật.

Cuối bài giảng ấy, vị Tỳ-kheo thối thất tinh tấn chứng quả A-la-hán.

Sau khi kết hợp câu chuyện, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, vị đại thần phản bội là Ðề-bà-đạt-đa, một ngàn đại thần là hội chúng đức Phật và Ðại vương Silava là Ta vậy.-ooOoo-52.CHUYỆN TIỂU JANAKA (Tiền thân Cùla Janaka)Hãy tinh tấn, này ngươi!...Câu chuyện này, khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỳ-kheo thối thất tinh tấn.

Ở đây, tất cả các sự việc xảy ra, sẽ được nói đến trong Tiền thân Mahàjanaka (số 539)Vua ngồi dưới chiếc lọng trắng, nói lên bài kệ này:Hãy tinh tấn, này ngươi!

Hiền trí không nhàm chán.

Ta thấy khổ vượt qua,

Từ nước đạt đất liền.Ở đây, vị Tỷ-kheo thối thất tinh tấn đạt được quả A-la-hán, và vua Janaka là bậc Chánh Ðẳng Giác.-ooOoo-53.

CHUYỆN BÌNH RƯỢU ÐẦY (Tiền thân Punnapàti)Bình rượu đầy như vậy...,Câu chuyện này khi ở Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về rượu thuốc độc.

Một thời ở Xá-vệ, một số người nghiện rượu họp nhau lại và bàn với nhau.- Tiền mua rượu của chúng ta đã khô cạn, vậy làm sao bây giờ?Một tay bợm rượu nói:- Chớ lo.

Ðã có cách.- Cách gì vậy?- Cấp Cô Ðộc thường đeo nhẫn, mặc áo đẹp đi chầu vua.

Chúng ta đổ thuốc mê vào trong bình rượu, dựng một quán rượu, ngồi tại đấy.

Khi Cấp Cô Ðộc đi về, hãy mời vị đại triệu phú vào và cho uống rượu ấy.

Khi lão già ấy bị mê say, chúng ta lấy nhẫn, lấy áo và chúng ta sẽ có tiền mua rượu.Chúng chấp thuận đề nghị ấy, làm theo như vậy, và khi vị triệu phú đi về, chúng đến gặp và nói:- Thưa ngài đại triệu phú, chúng tôi có rượu rất ngon. hãy uống một chút rồi đi.Cấp Cô Ðộc nghĩ: "Thánh đệ tử đã chứng quả Dự lưu làm sao uống rượu được.

Dầu không muốn uống, ta cũng sẽ phát hiện âm mưu của bọn nghiện rượu này".

Nghĩ vậy, Cấp Cô Ðộc đi vào quán rượu, nhìn chúng làm, biết rằng rượu ấy đã bị chúng pha thuốc mê vào, Ông quyết định sẽ làm cho chúng bắt đầu từ nay phải trốn biệt.

Ông nói:- Này bọn nghiện rượu ác ý kia, các ngươi để thuốc mê vào trong bình rượu, khiến những người qua lại uống, làm cho họ say mê rồi cướp của.

Các người dựng lên một quán bán rượu, ngồi tại đấy, chỉ tán thán rượu này.

Nhưng không một người nào trong bọn người dám uống.

Nếu rượu này không có pha thuốc mê, thì các ngươi hãy uống trước đi.Cấp Cô Ðộc làm cho bọn nghiện rượu hoảng sợ, khiến chúng chạy trốn rồi đi về nhà.

Nghĩ rằng việc làm của những tên nghiện rượu cần phải trình lên đức Như Lai, Cấp Cô Ðộc đi đến, và thưa rõ sự việc.

Bậc Ðạo Sư nói:- Này gia chủ, lần này, các người nghiện rượu lừa dối gia chủ.

Trong quá khứ, chúng cũng đã lừa dối các bậc hiền trí.Nói vậy xong, với lời yêu cầu của vị gia chủ, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì nước Ba-la-nại.

Bồ-tát sanh làm người triệu phú ở Ba-la-nại.

Lúc bấy giờ, những người nghiện rượu này, sau khi bàn bạc với nhau, đã pha rượu với thuốc mê, chờ người triệu phú Ba-la-nại đi đến, chúng đón ông và nói những lời tương tự.

Người triệu phú, dầu không muốn uống, cũng muốn phát giác chúng, nên đi vào, nhìn chúng làm, biết chúng có mưu mô gì, quyết định làm cho chúng phải trốn chạy, nên nói:- Này các bạn uống rượu, nếu uống rượu xong rồi mà đi đến cung vua, thật không thích đáng.

Ðến chầu vua xong, khi trở về, tôi sẽ tính việc này.

Các ngươi hãy ngồi tại đây.Người triệu phú đi vào chầu vua rồi trở về.

Các người nghiện rượu mời ông vào.

Vị triệu phú đi vào, nhìn những bình rượu bị pha thuốc mê, liền nói như sau:- Này các bạn uống rượu, việc các bạn làm ta không ưa thích.

Các bình rượu của các bạn vẫn còn đầy tràn.

Các bạn chỉ có tán thán rượu, nhưng không uống một giọt.

Nếu như rượu này ngon thiệt, thì các bạn đã uống rồi.

Rượu này đã được các bạn pha thuốc mê vào.Và để đánh tan ý định của chúng, Bồ-tát đọc bài kệ này:Bình rượu đầy như vậy,

Rượu đâu có đổi khác,

Vì lý do ta biết,

Rượu này không phải tốt.Bồ-tát trọn đời làm các công đức như bố thí..., rồi đi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:- Thời ấy những người nghiện rượu kia là những người nghiện rượu ngày nay, và vị triệu phú Ba-la-nại là Ta vậy.-ooOoo-54.

CHUYỆN TRÁI CÂY (Tiền thân Phala)Cây này không khó leo...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một nam cư sĩ giỏi về trái cây.

Truyền thuyết nói rằng, một điền chủ trú ở Xá-vệ mời chúng Tăng với đức Phật là vị dẫn đầu ngồi trong ngôi vườn của mình, cúng dường cháo và bánh xong, điền chủ bảo ngưồi giữ vườn:- Hãy đưa các Tỷ-kheo đi bộ trong vườn và cúng dường các loại trái như xoài...Người làm vườn vâng theo lời dặn, đưa chúng Tỷ-kheo đi bộ trong khu vườn, nhìn lên cây, và biết trái này còn sống, trái này hơi chín, trái này thiệt chín.

Ðiều gì kẻ ấy nói đều đúng như vậy.

Các Tỷ-kheo thưa với đức Như Lai:- Bạch Thế Tôn, người giữ vườn này thật giỏi về các loại trái cây.

Ðứng dưới đất nhìn lên cây, kẻ ấy biết trái này còn sống, trái này hơi chín, trái này thiệt chín.Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ có người giữ vườn này giỏi trái cây.

Trong quá khứ, cũng có những bậc hiền trí giỏi về trái cây.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh vào gia đình một triệu phú, khi lớn lên, làm nghề đi buôn với năm trăm cỗ xe.

Một thời, Bồ-tát đi đến một ngôi rừng rất lớn, đứng ở đầu rừng, họp đoàn người lại và nói:- Trong rừng này có những cây độc.

Phàm gặp những lá gì, bông gì, trái gì mà trước kia các ngươi chưa từng ăn, chớ ăn trước khi hỏi ta.Bọn họ vâng theo lời dặn và đi vào rừng.

Ðầu rừng có một cửa làng, tại đấy có một cây gọi là cây Kimphala.

Thân cây, cành cây, lá cây và trái của cây màu giống như cây xoài.

Không những chỉ về màu sắc, hình dáng, mà cả về mùi thơm và vị ngọt, các trái sống và trái chín đều giống như trái xoài.

Nhưng nếu ai ăn chúng, thì giống như thuốc độc, lập tức bị chết ngay.Một số người tham ăn đi trước, tưởng đó là cây xoài, bèn ăn trái.

Một số khác quyết định hỏi người trưởng đoàn lữ hành rồi mới ăn, họ cầm trái cây trong tay và đứng chờ.

Khi vị trưởng đoàn lữ hành đến, họ hỏi có thể ăn những trái cây ấy không.

Bồ-tát biết rằng cây ấy không phải cây xoài, nên nói:- Cây hình dáng giống cây xoài này là cây độc, chớ ăn!Sau khi ngăn chận họ, Bồ-tát làm cho những người đã ăn phải nôn ra, và cho họ uống bốn loại mật để chữa họ lành bệnh.Lúc trước, dưới gốc cây này, đã có những đoàn lữ hành đến tạm trú, ăn những trái cây độc mà họ tưởng lầm trái xoài và mạng chung.

Ngày sau đó, dân làng đi ra, thấy những người chết, liền cầm chân họ, quăng vào một chỗ kín, lấy tất cả sở hữu của họ với các cỗ xe rồi đem đi.Ngay vào ngày đoàn lữ hành này mới đến, dân làng nghe tin có người trúng độc.

Lúc trời mới rạng đông, họ vội vàng đi đến gốc cây ấy, và nói với nhau:- Các con bò sẽ là của ta, cỗ xe sẽ là của ta, hàng hoá sẽ là của ta!Khi thấy cả đoàn người ấy còn lành mạnh, họ liền hỏi:- Làm sao các ông biết cây này không phải cây xoài?Họ trả lời:- Chúng tôi không biết.

Nhưng trưởng đoàn lữ hành của chúng tôi biết.Dân làng đến hỏi Bồ-tát:- Thưa bậc hiền trí, làm thế nào ngài biết được?- Có hai điều báo cho ta biết, Bồ-tát đáp.Rồi Bồ-tát đọc bài kệ:Cây này không khó leo,

Không xa làng bao nhiêu,

Do vậy nên ta biết:

Cây này quả không tốt!Sau khi thuyết pháp cho đại chúng, Bồ-tát đi đến chỗ an toàn.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, như vậy thuở xưa các bậc hiền trí cũng giỏi về trái cây.Sau khi thuyết pháp thoại này và kết hợp hai mẩu chuyện, bậc Ðạo sư nhận diện Tiền thân như sau:- Thời ấy, đoàn lữ hành là hội chúng đức Phật, còn người trưởng đoàn lữ hành là Ta vậy.-ooOoo-55.

CHUYỆN NĂM VŨ KHÍ (Tiền thân Pãncàyudha)Người với tâm ly tham...,Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo sư đã kể về một Tỷ-kheo thối thất tinh tấn.

Thế Tôn cho gọi Tỷ-kheo ấy và hỏi:- Có thật chăng, này Tỷ-kheo, ông thối thất tinh tấn?- Thưa có thật, bạch Thế Tôn.- Thưở xưa, trong những trường hợp cần phải tinh tấn, bậc hiền trí đã tinh tấn, do vậy, đã đạt được vương vị.Nói vậy xong, bậc Ðạo sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahamdatta trị vì nước Ba-la-nại.

Bồ-tát nhập thai vào làm con hoàng hậu.

Ðến ngày đặt tên, sau khi mời tám trăm vị Bà-la-môn và cúng dường những vị này mọi dục lạc, vua và hoàng hậu hỏi họ về các tướng.

Các Bà-la-môn thiện xảo về tướng, thấy được sự thành tựu các tướng của hoàng tử, đã trả lời:- Thưa Ðại vương, hoàng tử đầy đủ các công đức, sau khi ngài qua đời, sẽ lên ngôi vua, được danh vọng lẫy lừng với tài sử dụng năm loại vũ khí, sẽ trở thành con người tối thượng ở toàn cõi Diêm-phù-đề.Nghe lời nói của các Bà-la-môn, vua và hoàng hậu đặt tên cho hoàng tử là Pãncayudhakumara (hoàng tử có năm vũ khí).

Ðến lúc trưởng thành, vừa mười sáu tuổi, vua cho gọi hoàng tử và bảo:- Này con thân, con hãy đi học nghề!- Thưa Thiên tử, con học với ai?- Hãy đi, con thân, con sẽ học với bậc thầy có danh tiếng mọi phương tại thành Takkasilà, trong nước Gandhàra.

Và đây là tiền con sẽ trả cho thầy.Nói xong, vua giao cho một ngàn đồng tiền vàng và đưa hoàng tử ra đi.

Hoàng tử đến đấy, học nghề xong, được thầy cho năm loại vũ khí.

Sau đó đảnh lễ thầy, hoàng tử ra khỏi thành Takkasilà, đeo theo năm loại vũ khí và lên đường trở về Ba-la-nại.

Giữa đường, hoàng tử vừa đến một khu rừng, tại đấy có một Dạ-xoa tên là Silesaloma (Lông dính) đang ngự trị.

Từ đầu rừng, người đi đường thấy hoàng tử liền ngăn chận chàng lại, bảo rằng trong rừng có Dạ-xoa tên là Silesaloma ngự trị sẽ giết hại mọi người khi nó thấy họ.

Hoàng tử tự tin mình, không chút sợ hãi như con sư tử lông bờm, vẫn đi vào ngôi rừng.Gặp nhau ở giữa khu rừng ấy, con Dạ-xoa hiện ra trước hoàng tử với thân cao như cây Ta-la (cọ dừa), với đầu lớn như ngôi nhà có nóc nhọn, với cặp mắt to như hai cái bát, với hai nanh như hai búp cây củ cải, với mỏ như diều hâu, với bụng có nhiều đốm đỏ tía, với bàn tay bàn chân xanh lè, Dạ-xoa nói:- Ngươi đi đâu đấy?

Hãy đứng lại.

Ngươi là món ăn của ta!Hoàng tử nói:- Này Dạ-xoa ta tin ở ta nên vào đây, ngươi thật là liều mạng.

Nếu ngươi đến gần ta, ta sẽ bắn ngươi với mũi tên có tẩm thuốc độc và hạ ngươi tại chỗ.Sau khi dọa nạt, hoàng tử lắp tên có tẩm thuốc độc và bắn, bắn liên tục cho đến năm mươi mũi tên.

Tất cả đều dính vào lông Dạ-xoa, nó gạt năm mươi mũi tên rơi xuống chân nó, xong liền xông tới hoàng tử.

Hoàng tử lại dọa rút gươm chém.

Cây gươm dài ba mươi hai đốt cũng dính vào lông Dạ-xoa.

Rồi hoàng tử đâm ngọn giáo vào nó.

Ngọn giáo cũng dính chặt vào đó.Biết khả năng bắt dính của Dạ-xoa, hoàng tử lấy quả chùy đập nó.

Quả chùy cũng dính vào lông.

Hoàng tử nói:- Này Dạ-xoa, người chưa nghe ta là hoàng tử có năm loại vũ khí.

Khi ta mạo hiểm đi vào khu rừng này do ngươi ngự trị, ta đặt lòng tin không phải ở cung tên ... mà hoàn toàn đặt lòng tin vào ta.

Nay ta sẽ đánh ngươi, chỉ một cú đánh, khiến ngươi trở thành cát bụi!Sau khi hét lên, hoàng tử dùng bàn tay phải đánh Dạ-xoa, bàn tay dính vào lông, hoàng tử đánh với bàn tay trái, tay trái cũng dính.

Hoàng tử đá với chân phải, chân phải cũng dính, chân trái cũng dính.

Hoàng tử lại la to:- Ta sẽ đập ngươi tan như cát bụi.Và chàng lấy đầu đánh nó; đầu cũng dính vào lông.

Bấy giờ hoàng tử bị mắc dính năm phần vào năm chỗ.

Tuy vậy, hoàng tử vẫn không kinh hãi, không chút run sợ, Dạ-xoa suy nghĩ: "Ðây không phải là một người bình thường, mà là người phi thường, một con sư tử giữa loài người.

Dầu bị một Dạ-xoa như ta bắt, nó vẫn không run sợ.

Trước đây, từ khi ta bắt đầu giết người đi trên đường này, chua bao giờ ta thấy một người như vậy!

Sao nó không sợ hãi?"

Nghĩ vậy, Dạ-xoa không dám ăn thịt hoàng tử và hỏi:- Này thanh niên Bà-la-môn, vì sao chàng không sợ hãi?- Này Dạ-xoa, ta tin ở ta nên ta không sợ hãi.

Ta biết mỗi cá thể thế nào cũng đi đến cái chết.

Nhưng trong bụng ta, ta có vũ khí kim cang.

Nếu ngươi ăn ta, ngươi không thể tiêu hóa vũ khí ấy.

Vũ khí ấy sẽ cắt nội tạng ngươi thành từng miếng nhỏ, và chấm dứt mạng sống của ngươi.

Như vậy, cả hai sẽ bị tiêu diệt.

Vì lý do này, ta không sợ hãi!Theo truyền thuyết, ở đây hoàng tử muốn ám chỉ vũ khí trí tuệ trong nội tạng.

Nghe hoàng tử nói vậy, Dọa-xoa suy nghĩ: "Thanh niên Bà-la-môn này chỉ nói sự thật.

Chỉ một miếng thịt nhỏ bằng hạt đậu từ thân thể của con sư tử giữa loài người này, bụng ta cũng không thê tiêu hóa được.

Ta hãy thả nó ra".

Vì sợ chết, nó thả hoàng tử ra và nói:- Này thanh niên Bà-la-môn, chàng là con sư tử giữa loài người.

Ta sẽ không ăn thịt chàng đâu.

Nay chàng được giải thoát khỏi tay ta như mặt trăng thoát khỏi miệng Ràhu (vua thần A-tu-la).

Hãy ra đi và hãy mang lại hoan hỷ tốt lành cho bà con, bè bạn và đất nước.Bồ-tát nói:- Này Dạ-xoa ta sẽ đi.

Nhưng trước đây, do làm nhiều điều bất thiện, ngươi sanh làm Dạ-xoa độc ác, tay vấy máu, ăn thịt, uống máu người.

Nếu nay, trong thời hiện tại, ngươi vẫn làm điều bất thiện nữa, thì ngươi sẽ đi từ cảnh tối tăm này đến cảnh tối tăm khác.

Nay ngươi đã gặp ta, ngươi không thể làm điều bất thiện nữa.

Hãy biết rằng ai sát sanh sẽ bị đọa vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la.

Nếu được sanh làm người thì tội ác ấy sẽ đưa đến yểu mạng.Với cách này và nhiều cách khác, Bồ-tát thuyết về sự nguy hiểm của năm ác giới và lợi ích của năm thiện giới, làm cho Dạ-xoa sợ hãi bằng nhiều hình thức như thuyết pháp, nhiếp phục... khiến Dạ-xoa trở thành nhu thuận, an trú trong Năm giới.

Rồi biến Dạ-xoa thành vị thần ở khu rừng, với quyền được thâu thuế (được cúng tế), Bồ-tát khuyên nó không được phóng dật.

Sau đó, Bồ-tát đi ra khỏi khu rừng, báo tin cho những người ở tại đầu rừng tỏ tường sự việc, rồi nai nịt với năm loại vũ khí, ngài đi đến Ba-la-nại, gặp lại mẹ cha.Sau một thời gian lên ngôi vua, trị vì quốc độ đúng pháp, ngài làm các công đức như bố thí... rồi đi theo nghiệp của mình.*Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:Người với tâm ly tham,

Với ý cũng ly tham,

Tu tập theo thiện pháp,

Ðạt an ổn khổ ách,

Và tiếp tục chứng đạt,

Ðoạn diệt mọi kiết sử.Như vậy, sau khi bậc Ðạo Sư thuyết pháp đưa đỉnh cao nhất là quả A-la-hán, Ngài giảng Bốn Sự thật.

Cuối bài giảng, Tỷ-kheo ấy chứng quả A-la-hán.

Bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, Dạ-xoa là tướng cướp đeo vòng ngón tay Angulimàla, và hoàng tử với năm vũ khí là Ta vậy.-ooOoo-56.

CHUYỆN KHỐI VÀNG (Tiền thân Kancanakkhandha)Người với tâm hoan hỷ...Câu chuyện này, khi ở tại Xá-vệ, bậc Ðạo sư kể về một Tỷ-kheo.

Theo truyền thuyết, một thiện nam tử ở Xá-vệ, sau khi nghe theo bậc Ðạo Sư thuyết pháp, gởi cả tâm tư vào Ba ngôi báu, và xuất gia.

Hai vị sư trưởng và giáo thọ sư dạy về Giới:- Này Hiền giả, đây là giới, một loại, hai loại, ba loại, bốn loại, năm loại, sáu loại...nhiều loại.

Ðây là tiểu giới, đây là trung giới, đây là Ðại giới.

Ðây là giới hộ trì giới bổn, đây là giới hộ trì các căn, đây là giới thanh tịnh mạng, đâ là Giới sử dụng các đồ vật.Tỷ-kheo trẻ ấy suy nghĩ: "Giới này thật quá nhiều.

Với chừng ấy giới được chấp thuận, ta không thể nào giữ trọn.

Không thể giữ trọn đủ giới, thì xuất gia có lợi ích gì?

Ta hãy trở lại làm gia chủ, làm các công đức như bố thí...và nuôi dưỡng vợ con!"

Nghĩ vậy, Tỷ-kheo thưa:- Thưa các Tôn giả, con không có thể giữ Giới.

Không thể giữ Giới, thì xuất gia có lợi ích gì?

Con sẽ hoàn tục.

Xin các Tôn giả hãy lấy lại y bát.Sư trưởng nói:- Nếu sự việc là như vậy, thì Hiền giả hãy đến đảnh lễ bậc Ðạo sư.Các vị ấy đưa Tỷ-kheo đến Pháp đường, gặp bậc Ðạo Sư.

Thấy vậy, Ngài nói:- Này các Tỷ-kheo, sao các ông đem một Tỷ-kheo đến đây mà vị ấy không muốn?- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo này nói không thể giữ Giới, trả lại y bát, nên chúng con dẫn vị ấy đến đây.- Này các Tỷ-kheo, sao ông lại nói quá nhiều Giới cho Tỷ-kheo này?

Bao nhiêu giới vị ấy có thể giữ được, vị ấy giữ từng ấy giới.

Bắt đầu từ nay, các ông chớ nói nữa.

Ở đây, ta sẽ biết những gì nên nói.Rồi bậc Ðạo Sư nói với Tỷ-kheo ấy:- Hãy đến, này Tỷ-kheo!

Lo gì đến nhiều giới vậy?

Ông có giữ được ba giới không?- Con có thể giữ được bạch Thế Tôn.- Vậy bắt đầu từ nay, ông hãy giữ ba cửa, cửa về thân, cửa về lời, cửa về ý.

Chớ làm điều ác về thân, về lời, về ý.

Hãy tinh tấn lên, chớ hoàn tục!

Chỉ giữ ba giới này thôi.Cho đến như vậy, Tỷ-kheo ấy hết sức hoan hỷ.Sau khi đảnh lễ bậc Ðạo sư, Tỷ-kheo ấy đi về với vị sư trưởng và Giáo thọ sư của mình, giữ gìn đầy đủ ba giới ấy.

Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Giới được vị sư trưởng và Giáo thọ sư nói với ta.

Vì tự mình không phải là Phật, các vị ấy không thể làm cho ta hiểu được từng ấy giới.

Bậc Chánh Ðẳng Giác, vì tự mình khéo giác ngộ Chánh Giác, là vị Pháp vương vô thượng.

Ngài tóm thâu bao nhiêu giới trong ba cửa và bảo ta gìn giữ chúng.

Bậc Ðạo Sư thật sự là một hỗ trợ cho ta vậy".Tỷ-kheo ấy phát triển Thiền quán và không bao lâu chứng quả A-la-hán.

Biết được tin này, các Tỷ-kheo họp tại pháp đường, ngồi nói về công đức của bậc Ðạo Sư:- Này các Hiền giả Tỷ-kheo này không thể giữ Giới, muốn hoàn tục.

Bậc Ðạo Sư tóm thâu tất cả Giới vào ba phần, bảo Tỷ-kheo ấy giữ chúng, và giúp vị ấy đạt được quả A-la-hán.Bậc Ðạo sư đến và hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi nói chuyện gì.

Ðược họ cho biết về đề tài câu chuyện, Ngài nói:- Này các Tỷ-kheo, một vật hết sức nặng, nếu được chia thành từng phần, cũng trở thành nhẹ.

Thuở xưa, các bậc hiền trí được một khối vàng lớn, không thể nhấc lên nổi, đã chia thành từng phần, rồi nhấc lên nổi và đem vàng đi.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người cày ruộng tại một ngôi làng.

Ngày kia, Bồ-tát đang cày trên một thửa ruộng, thửa ruộng nầy trước đây là một ngôi làng bị bỏ hoang, vì trong làng có một vị triệu phú đã chết và chôn tại đó một đống vàng, lớn bằng bắp vế người và cao đến bốn khuỷu tay, lưỡi cày của Bồ-tát mắc phải đống vàng ấy nên đứng khựng lại.

Nghĩ rằng đó là rễ tỏa rộng của cây, Bồ-tát đào đất lên, nhưng lại thấy được khối vàng.

Bồ-tát chùi đất thật sạch và cày tiếp cho xong ngày ấy.Khi mặt trời lặn, để ách và cày một bên, Bồ-tát nghĩ đến phương cách đem khối vàng đi.

Nhưng Bồ-tát không nhấc nó lên được.

Bồ-tát ngồi và nghĩ: "Ðể phần như vậy, ta sẽ nuôi sống bản thân của ta.

Để phần như vậy, ta sẽ chôn giấu.

Ðể phần như vậy, ta sẽ làm các công việc.

Ðể phần như vậy, ta sẽ làm các công đức như bố thí..."

Rồi Bồ-tát chia thành bốn phần.

Khi được Bồ-tát chia như vậy, khối vàng ấy trở thành nhẹ.

Bồ-tát nhấc vàng lên được, đem về nhà, chia thành bốn phần.

Bồ-tát trọn đời làm các công đức như bố thí cùng nhiều thiện sự khác và đi theo nghiệp của mình.*Khi kể câu chuyện này xong, bậc Chánh Ðẳng Giác đọc bài kệ:Người với tâm hoan hỷ,

Với ý cũng hoan hỷ,

Tu tập theo thiện pháp,

Ðạt an ổn khổ ách,

Và tiếp tục chứng đạt

Ðoạn diệt mọi kiết sử.Rồi sau khi hướng lời thuyết pháp lên đỉnh cao là quả A-la-hán, bậc Ðạo sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Thời ấy, người được khối vàng là Ta vậy.-ooOoo-57.

CHUYỆN KHỈ CHÚA (Tiền thân Vànarinda)Ai đủ bốn pháp này...,Câu chuyện này, khi ở tại Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về âm mưu của Ðề-bà-đạt-đa muốn ám hại Ngài.

Lúc bây giờ, khi nghe Ðề-bà-đạt-đa âm mưu ám hại, bậc Ðạo Sư liền nói với các Tỷ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu ám hại Ta.

Thuở trước, kẻ ấy cũng đã âm mưu, nhưng không thể làm được.Sau khi nói vậy, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở trước, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Ba-la-nại, Bồ-tát sanh làm con khỉ.

Nó to lớn như một con ngựa con, có sức mạnh và sống một mình bên bờ sông.

Giữa con sông ấy, có một hòn đảo, trên hòn đảo có nhiều loại cây ăn trái như xoài, mít...

Con khỉ mạnh như voi, đầy đủ sức lực.Mỗi sáng, nó nhảy từ bờ sông bên này đến một hòn đảo ở giữa sông, rồi từ hòn đảo ấy, nó lại nhảy đến hòn đảo.

Tại đấy, nó ăn các loại trái, và đến chiều, với phương tiện cũ, nó trở về chỗ ở của mình.

Ngày qua ngày, con khỉ sống nếp sống như vậy.Lúc bấy giờ, có hai vợ chồng con cá sấu sống trong sông ấy.

Thấy con khỉ đi qua đi lại, vợ con cá sấu đang có thai khởi lên lòng tham muốn ăn thịt quả tim con khỉ, bèn nói với chồng:- Này chàng, em thèm ăn thịt quả tim con khỉ chúa này quá.Sấu đực nói:- Thật lành thay, em sẽ được như ý.Sấu đực suy nghĩ: "Chiều nay, khi con khỉ từ hòn đảo về, ta sẽ bắt nó!".Sấu đực đến nằm chờ trên hòn đá.

Con khỉ cả ngày lang thang trên đảo, vào buổi chiều, nó đứng trên hòn đảo, nhìn hòn đá và nghĩ: "Hòn đá hôm nay có vẻ cao hơn, vì lý do gì?".

Bồ-tát luôn luôn khéo đo lường.

Nhìn tầm cao của hòn đá và tầm cao của nước, Bồ-tát suy nghĩ: "Hôm nay, nước con sông này không giảm cũng không tăng.

Nhưng hòn đá này lại có vẻ to hơn.

Rất có thể, con cá sấu đang nằm với mục đích bắt ta tại chỗ ấy".

Ðể tìm sự việc này, con khỉ vẫn đứng tại chỗ ấy, làm bộ như nói với hòn đá, gọi lớn:- Này bạn hòn đá!Và khỉ không được trả lời.

Khỉ gọi đến ba lần:- Này bạn hòn đá!Hòn đaù vẫn không trả lời.

Con khỉ nói:- Này bạn hòn đá, sao hôm nay bạn không trả lời ta?Con cá sấu suy nghĩ: "Như vậy, trong những ngày trước, hòn đá này đã trả lời con khỉ chúa.

Vậy nay ta sẽ trả lời nó".

Con sấu nói:- Này bạn khỉ chúa, cái gì vậy?- Ngươi là ai?- Ta là cá sấu.- Ngươi nằm đó vì mục đích gì?- Ðể bắt ngươi và ăn quả tim của ngươi.Con khỉ suy nghĩ: "Ta không có đường đi nào khác.

Nay ta phải lừa dối con cá sấu này".

Vì thế khỉ nói:- Này bạn cá sấu, ta sẽ chịu đầu hàng bạn thôi.

Bạn hãy há miệng ra, và khi ta nhảy đến gần, bạn sẽ bắt ta.Khi con cá sấu há miệng, thì tự nhiên mắt nó nhắm lại.

Cá sấu không nghĩ đến mưu kế này, liền há miệng ra, và mắt nó nhắm lại, từ từ nằm xuống.

Con khỉ đã biết tình hình như vậy, từ nơi hòn đảo nhảy qua, đạp trên đầu con cá sấu, rồi từ đầu con cá sấu lại nhanh như chớp nhảy qua đứng ở bờ bên kia.

Con cá sấu thấy sự kỳ diệu này, nghĩ rằng con khỉ chúa này đã làm một việc hết sức phi thường, nó nói:- Này, ngài khỉ chúa, ai đầy đủ bốn pháp ở trong đời, sẽ nhiếp phục được kẻ thù.

Ta nghĩ rằng ngài có đủ tất cả trong nội tâm.Nói vậy xong, cá sấu đọc bài kệ này:Ai đủ bốn pháp này,

Này khỉ chúa, như ngài:

Chân thật và nghĩ xa,

Cương nghị và vô úy,

Ngài có bốn pháp này,

Ðánh bại được quân thù!Như vậy, con cá sấu tán thán khỉ chúa rồi đi về trú xứ của mình.*Bậc Ðạo Sư nói:- Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ nay Ðề-bà-đạt-đa mới âm mưu ám hại Ta, trong quá khứ, kẻ ấy cũng đã làm như vậy.Sau khi thuyết pháp thoại này, và kết hợp hai mẩu chuyện, bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:- Lúc bấy giờ, cá sấu là Ðề bà-đạt-đa, vợ cá sấu là Cincamanavika, còn khỉ chúa là Ta vậy.-ooOoo-58.

CHUYỆN BA PHÁP (Tiền thân Tayodhammà)Ai đầy đủ ba pháp...,Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc Ðạo Sư đã kể về âm mưu ám hại.*Thuở xưa, khi vua Brahnadatta trị vì ở Ba-la-nại, Ðề-bà-đạt-đa sanh ra làm con khỉ, ở gần dãy Hy-mã-lạp Sơn, lãnh đạo một đoàn khỉ toàn do nó sanh ra.

Vì sợ chúng lớn lên sẽ tranh giành quyền lãnh đạo đàn khỉ này, con khỉ đầu đàn liền dùng răng cắn và thiến chúng, khiến hột giống bị hoại diệt.Lúc bấy giờ, Bồ-tát cũng do duyên con khỉ ấy, nhập thai vào bụng một con khỉ cái.

Con khỉ cái biết thai đã thành, muốn bảo vệ thai của mình, bèn đến một ngôi rừng dưới chân núi.

Khi thai đến đúng ngày, nó sinh ra Bồ-tát.

Bồ-tát lớn lên, đến tuổi trưởng thành, đầy đủ sức mạnh phi thường.

Một hôm, Bồ-tát hỏi mẹ:- Thưa mẹ, cha con đâu?- Này con thân, cha con đang sống lãnh đạo đàn khỉ dưới chân núi.- Thưa mẹ, hãy đưa con đến gần cha con.- Này con thân, mẹ không thể đưa con đến gần cha con được.

Cha con, vì sợ các khỉ con sẽ tranh giành lãnh đạo đàn khỉ, nên dùng răng cắn và thiến chúng, khiến hột giống hoại diệt.- Thưa mẹ, hãy đưa con lại đấy.

Con sẽ có cách!Khỉ mẹ liền đem khỉ con đến gần khỉ cha.

Vừa thấy con trai mình, con khỉ cha nghĩ rằng rồi đây con mình sẽ không cho mình lãnh đạo đàn khỉ, nay mình cần phải giết con bằng cách giả ôm hôn, rồi siết con thật chặt cho đến chết.

Nghĩ vậy, nó nói:- Hãy đến, này con thân, lâu nay con ở đâu?Nói vậy, nó ôm hôn và siết khỉ con thật chặt.

Nhưng Bồ-tát, với sức mạnh như voi đã siết chặt trở lại, khiến các xương khỉ cha như gãy nát.

Khỉ cha suy nghĩ: "Con này, khi lớn lên sẽ giết ta.

Với phương tiện nào, ta hãy giết nó trước đã!

À, cách đây không xa, một hồ nước có quỷ là La-sát ở.

Tại đấy, ta sẽ cho quỷ La-sát ăn nó!".

Nghĩ vậy, khỉ cha nói:- Này con thân, ta nay đã già.

Ta sẽ giao cho con lãnh đạo đàn khỉ này.

Hôm nay, ta sẽ phong vương cho con.

Tại chỗ nọ, có một hồ nước, trong hồ có hai loài hoa súng, ba loại hoa sen xanh, năm loại hoa sen trắng.

Hãy đi hái và đem các hoa ấy về.Bồ-tát nói:- Lành thay, cha thân.

Con sẽ mang hoa lại.Nói xong, Bồ-tát ra đi, nhưng không xuống hồ gấp.

Xung quanh hồ, Bồ-tát quan sát có dấu chân, chỉ có dấu chân xuống, không có dấu chân lên, Bồ-tát suy nghĩ: "Cái hồ này phải có quỷ La-sát trú ẩn!

Cha ta không thể tự mình giết ta, muốn quỷ La-sát ăn thịt ta.

Ta sẽ không đi xuống hồ này, vẫn lấy được hoa như thường".Bồ-tát đi đến một chỗ không có nước, lấy đà, nhảy từ bờ bên này, hái hai cái hoa mọc cao trên mặt nước, mà không dính nước, rồi hạ xuống bờ bên kia.

Rối từ bờ bên kia, Bồ-tát nhảy đến bờ bên này, theo phương thức trước, bẻ hai cái hoa.

Cứ như thế, từ cả hai bên bờ, Bồ-tát hái được nhiều hoa, chất thành hai đống, nhưng vẫn không xuống chỗ trú xứ của quỷ La-sát.Ðến khi không thể nhảy qua hồ nưóc hái hoa được nữa, Bồ-tát gom lấy các hoa ấy, chất thành đống, để tại một chỗ.

Con quỷ La-sát kinh ngạc suy nghĩ: "Lâu nay, chưa bao giờ ta thấy một người nào sáng suốt, kỳ diệu như vậy.

Các hoa sen được con khỉ này hái như ý muốn, mà nó vẫn không xuống trú xứ của ta".

Rồi quỷ La-sát rẽ nước đi lên, đến bên Bồ-tát và nói:- Này khỉ chúa, trong hồ này, ai có được ba pháp, vị ấy sẽ chiến thắng kẻ thù.

Ta nghĩ rằng tất cả pháp ấy ngài đếu có đủ.Quỷ La-sát đọc bài kệ:Ai đầy đủ ba pháp,

Này khỉ chúa như ngài,

Thiện xảo và anh hùng,

Ðầy đủ cả trí tuệ,

Ngài đủ ba pháp ấy,

Ðánh bại được kẻ thù.Như vậy, quỷ La-sát trong hồ ấy đã tán thán Bồ-tát với bài kệ này và hỏi:- Ngài lấy các hoa này làm gì?- Cha ta muốn phong vương cho ta, do lý do này, ta lấy hoa.- Một bậc sáng suốt như ngài không nên hái hoa và mang hoa, tôi sẽ hái và mang cho ngài.Rồi nó nhổ hoa lên và mang hoa đi theo sau lưng Bồ-tát.

Con khỉ cha ở đằng xa thấy Bồ-tát, liền nghĩ: "Ta giục nó đi để quỷ La-sát ăn thịt nó.

Nay nó lại an toàn trở về với quỷ La-sát mang hoa cho nó!

Ta bị nguy hại rồi".Nghĩ đến đó, quả tim nó vỡ thành bảy mảnh và nó mạng chung tại chỗ.

Ðàn khỉ còn lại hội họp và tôn Bồ-tát lên làm vua.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Lúc bấy giờ, chúa của đàn khỉ là Ðề-bà-đạt-đa, còn con trai của chúa đàn khỉ là Ta vậy.-ooOoo-59.

CHUYỆN TIẾNG TRỐNG (Tiền thân Bherivàda)Ðánh, đánh, chớ đánh quá!...Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỳ-kheo khó bảo.

Bậc Ðạo Sư hỏi Tỷ-kheo ấy:- Có thật chăng, ông là người khó bảo?- Thưa có thật, bạch Thế Tôn.Bậc Ðạo Sư nói:- Này Tỷ-kheo, không phải chỉ nay ông mới khó bảo.

Trong thời quá khứ, ông cũng đã khó bảo rồi.Nói vậy xong, bậc Ðạo Sư kể câu chuyện quá khứ.*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra làm người đánh trống, và sống ở làng.

Khi nghe có lễ tế các vì sao ở Ba-la-nại, người đánh trống suy nghĩ: "Ta sẽ đánh trống cho quần chúng tụ hội và sẽ được tiền".

Nghĩ vậy, người ấy đem con đi theo, đến Ba-la-nại.

Tại chỗ ấy, hai cha con đánh trống và được nhiều tiền.

Mang theo tiền, trên đường về làng của mình, phải ngang qua một khu rừng có ăn cướp, người cha ngăn chận con trai đang miên man đánh trống liên hồi:- Này con thân, chớ có đánh trống như vậy.

Chỉ đánh từng hồi một thôi, như trống của một chủ tướng vậy mà.Dầu bị cha ngăn, đứa con vẫn nói:- Với tiếng trống, ta sẽ đuổi bọn cướp chạy.Nên nó vẫn đánh trống liên hồi.Bọn cướp ban đầu nghe tiếng trống, nghĩ là tiếng trống của vị chủ tướng, nên chạy trốn.

Nhưng khi nghe tiếng trống một mặt cứ liên hồi, biết không phải là tiếng trống của một chủ tướng, chúng liền trở lại tìm hiểu.

Thấy chỉ có hai người, bọn chúng liền xông ra đánh cướp hết cả.

Người cha than:- Vì con đánh trống liên hồi, nên con làm mất tất cả tiền thâu được một cách khó khăn.Nói xong, người cha đọc bài kệ:Ðánh, đánh, chớ đánh quá!

Ðánh quá thành không tốt,

Do đánh, được của tiền,

Do đánh, tiền mất hết.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện, và nhận diện Tiền thân:- Lúc bấy giờ, đứa con trai là Tỷ-kheo khó bảo này, còn người cha là Ta vậy.-ooOoo-60.

CHUYỆN THỔI TÙ VÀ (Tiền thân Sankhadhama)Thổi, thổi, chớ thổi quá!...Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về một Tỷ-kheo khó bảo (như trước).*Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát sanh ra trong gia đình một người thổi tù và, cùng cha đi đến chỗ tế lễ các vì sao ở Ba-la-nại.

Do thổi tù và, hai cha con được nhiều tiền.

Khi về đến một khu rừng có ăn cướp, người con ngăn cha chớ có thổi tù và liên hồi.

Người cha nói:- Với tiếng tù và, ta sẽ đuổi bọn cướp chạy.Nên ông cứ thổi liên hồi.

Bọn ăn cướp trốn ở đó trước, xông ra cướp của.

Người con nói lên bài kệ:Thổi, thổi, chớ thổi quá!

Thổi quá thành không tốt.

Do thổi, được tài sản,

Do thổi, bay hết tiền.*Sau khi kể pháp thoại này, bậc Ðạo Sư kết hợp hai câu chuyện và nhận diện Tiền thân:- Lúc bấy giờ, người cha là Tỷ-kheo khó bảo này, còn người con là Ta vậy.-ooOoo-
 
Back
Top Bottom