Tâm Linh Tiểu Bộ Kinh Tập 1

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
158413194-256-k62209.jpg

Tiểu Bộ Kinh Tập 1
Tác giả: Mei0Yuan
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Mục lục
Tập I
1.1 Kinh Tiểu Tụng
Chương 1.

Tam Quy
Chương 2.

Thập Giới
Chương 3.

Ba Mươi Hai Phần
Chương 4.

Nam Tử Hỏi Ðạo
Chương 5.

Kinh Ðiềm Lành
Chương 6.

Kinh Châu Báu
Chương 7.

Kinh Ngoài Bức Tường
Chương 8.

Kinh Bảo Tàng
Chương 9.

Kinh Lòng Từ
1.2 Kinh Pháp Cú
Chương 1.

Phẩm Song Yếu
Chương 2.

Phẩm Không Phóng Dật
Chương 3.

Phẩm Tâm
Chương 4.

Phẩm Hoa
Chương 5.

Phẩm Kẻ Ngu
Chương 6.

Phẩm Hiền Trí
Chương 7.

Phẩm A-La-Hán
Chương 8.

Phẩm Ngàn
Chương 9.

Phẩm Ác
Chương 10.

Phẩm Hình Phạt
Chương 11.

Phẩm Già
Chương 12.

Phẩm Tự Ngã
Chương 13.

Phẩm Thế Gian
Chương 14.

Phẩm Phật Ða
Chương 15.

Phẩm An Lạc
Chương 16.

Phẩm Hỷ Ái
Chương 17.

Phẩm Phẫn Nộ
Chương 18.

Phẩm Cấu Uế
Chương 19.

Phẩm Pháp Trụ
Chương 20.

Phẩm Ðạo
Chương 21.

Phẩm Tạp Lục
Chương 22.

Phẩm Ðịa Ngục
Chương 23 Phẩm Voi
Chương 24.

Phẩm Tham Ái
Chương 25.

Phẩm Tỷ Kheo
Chương 26.

Phẩm Bà-La-Môn
1.3 Kinh Phật Tự Thuyết
Chương 1: Phẩm Bồ Ðề
Chương 2: Phẩm Muccalinda
Chương 3: Phẩm Nanda
Chương 4: Phẩm Meghiya
Chương 5: Phẩm Trưởng Lão Sona
Chương 6: Phẩm Sanh Ra Ðã Mù
Chương 7: Phẩm Nhỏ
Chương 8: Phẩm Pataligamiya
1.4 Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Chương 1 - Tập Một Pháp
Chương 2 - Tập Hai Pháp
Chương 3 - Tập Ba Pháp
Chương 4 - Tập Bốn Pháp
1.5 Kinh Tập
Chương 1- Phẩm Rắn (Uragavagga)
Chương 2- Tiểu Phẩm
Chương 3- Ðại Phẩm
Chương 4- Phẩm Tám
Chương 5- Trên Ðường Ðến Bờ Bên Kia Tags: kinhphật​
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
1.1 Kinh Tiểu Tụng ( Tiếng Việt)


I.

Tam Quy (Saranattaya)Ðệ tử quy y Phật,

Ðệ tử quy y Pháp,

Ðệ tử quy y Tăng.Lần thứ hai đệ tử quy y Phật,

Lần thứ hai đệ tử quy y Pháp,

Lần thứ hai đệ tử quy y Tăng.Lần thứ ba đệ tử quy y Phật

Lần thứ ba đệ tử quy y Pháp.

Lần thứ ba đệ tử quy y Tăng.II.

Thập Giới (Dasasikkhàpada)1.

Ðệ tử thực hành giới tránh sát sanh.

2.

Ðệ tử thực hành giới tránh lấy của không cho.

3.

Ðệ tử thực hành giới tránh tà hạnh trong các dục.

4.

Ðệ tử thực hành giới tránh nói láo.

5.

Ðệ tử thực hành giới tránh mọi cơ hội buông lung phóng dật do uống rượu hoặc các thứ men say.

6.

Ðệ tử thực hành giới tránh ăn phi thời.

7.

Ðệ tử thực hành giới tránh múa, hát, nhạc, kịch.

8.

Ðệ tử thực hành giới tránh cơ hội đeo vòng hoa và trang điểm với hương liệu, dầu xoa.

9.

Ðệ tử thực hành giới tránh dùng giường cao và rộng.

10.

Ðệ tử thực hành giới tránh nhận vàng bạc.III.

Ba Mươi Hai Phần (Dvattimsàkàra)Trong thân này có: tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, chất nhờn ở khớp, nước tiểu và não trong đầu.IV.

Nam Tử Hỏi Ðạo (Kumàrapanha)Thế nào là một?

- Mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn.

Thế nào là hai?

- Danh và sắc.

Thế nào là ba?

- Ba loại cảm thọ.

Thế nào là bốn?

- Bốn Thánh đế.

Thế nào là năm?

- Năm thủ uẩn.

Thế nào là sáu?

- Sáu nội xứ.

Thế nào là bảy?

- Bảy giác chi.

Thế nào là tám?

- Thánh đạo tám ngành.

Thế nào là chín?

- Chín nơi cư trú của các loài hữu tình.

Thế nào là mười?

- Vị nào có đủ mười đức tánh được gọi là vị A-la-hán.V.

Kinh Ðiềm Lành (Mangala Sutta)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Rồi một Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy bạch Thế Tôn với bài kệ:Thiên tử:1.

Nhiều Thiên tử và người,

Suy nghĩ đến điềm lành,

Mong ước và đợi chờ,

Một nếp sống an toàn,

Xin Ngài hãy nói lên,

Về điềm lành tối thượng.(Ðức Phật giảng🙂2.

Không thân cận kẻ ngu,

Nhưng gần gũi bậc Trí,

Ðảnh lễ người đáng lễ,

Là điềm lành tối thượng.3.

Ở trú xứ thích hợp,

Công đức trước đã làm,

Chân chánh hướng tự tâm,

Là điềm lành tối thượng.4.

Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,

Khéo huấn luyện học tập,

Nói những lời khéo nói,

Là điềm lành tối thượng.5.

Hiếu dưỡng mẹ và cha,

Nuôi nấng vợ và con.

Làm nghề không rắc rối,

Là điềm lành tối thượng.6.

Bố thí, hành, đúng pháp,

Săn sóc các bà con,

Làm nghiệp không lỗi lầm,

Là điềm lành tối thượng.7.

Chấm dứt, từ bỏ ác,

Chế ngự đam mê rượu,

Trong Pháp, không phóng dật,

Là điềm lành tối thượng.8.

Kính lễ và hạ mình,

Biết đủ và biết ơn,

Ðúng thời, nghe Chánh Pháp,

Là điềm lành tối thượng.9.

Nhẫn nhục, lời hòa nhã,

Yết kiến các Sa-môn,

Ðúng thời, đàm luận Pháp,

Là điềm lành tối thượng.10.

Khắc khổ và Phạm hạnh,

Thấy được lý Thánh đế.

Giác ngộ quả: "Niết Bàn"

Là điềm lành tối thượng.11.

Khi xúc chạm việc đời

Tâm không động, không sầu,

Không uế nhiễm, an ổn,

Là điềm lành tối thượng.12.

Làm sự việc như vầy,

Không chỗ nào thất bại,

Khắp nơi được an toàn,

Là điềm lành tối thượng.VI.

Kinh Châu Báu (Ratana Sutta)1.

Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Mong rằng mọi sanh linh,

Ðược đẹp ý vui lòng,

Vậy, hãy nên cẩn thận,

Lắng nghe lời dạy này.2.

Do vậy các sanh linh,

Tất cả hãy chú tâm,

Khởi lên lòng từ mẫn,

Ðối với thảy mọi loài,

Ban ngày và ban đêm,

Họ đem vật cúng dường,

Do vậy không phóng dật,

Hãy giúp hộ trì họ.3.

Phàm có tài sản gì,

Ðời này hay đời sau,

Hay ở tại thiên giới,

Có châu báu thù thắng,

Không gì sánh bằng được,

Với Như Lai Thiện Thệ,

Như vậy, nơi Ðức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.4.

Ðoạn diệt và ly tham,

Bất tử và thù diệu.

Phật Thích-ca Mâu-ni,

Chứng Pháp ấy trong thiền,

Không gì sánh bằng được,

Với Pháp thù diệu ấy.

Như vậy, nơi Chánh Pháp,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.5.

Phật, Thế Tôn thù thắng,

Nói lên lời tán thán,

Pháp thù diệu trong sạch,

Liên tục không gián đoạn,

Không gì sánh bằng được,

Pháp thiền vi diệu ấy.

Như vậy, nơi Chánh Pháp,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.6.

Tám vị bốn đôi này,

Ðược bậc thiện tán thán.

Chúng đệ tử Thiện Thệ,

Xứng đáng được cúng dường.

Bố thí các vị ấy,

Ðược kết quả to lớn.

Như vậy, nơi tăng chúng,

Là châu báu thù diệu

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.7.

Các vị lòng ít dục,

Với ý thật kiên trì,

Khéo liên hệ mật thiết,

Lời dạy Gô-ta-ma!

Họ đạt được quả vị,

Họ thể nhập bất tử,

Họ chứng đắc dễ dàng,

Hưởng thọ sự tịch tịnh,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.8.

Như cây trụ cột đá,

Khéo y tựa lòng đất.

Dầu có gió bốn phương,

Cũng không thể dao động.

Ta nói bậc Chơn nhân,

Giống như thí dụ này,

Vị thể nhập với tuệ,

Thấy được những Thánh đế,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.9.

Những vị khéo giải thích,

Những sự thật Thánh đế,

Những vị khéo thuyết giảng,

Với trí tuệ thâm sâu.

Dầu họ có hết sức,

Phóng dật không chế ngự,

Họ cũng không đến nỗi,

Sanh hữu lần thứ tám,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.10.

Vị ấy nhờ đầy đủ,

Với chánh kiến sáng suốt,

Do vậy có ba pháp,

Ðược hoàn toàn từ bỏ,

Thân kiến và nghi hoặc,

Giới cấm thủ cũng không,

Ðối với bốn đọa xứ,

Hoàn toàn được giải thoát.

Vị ấy không thể làm,

Sáu điều ác căn bản,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu.

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.11.

Dầu vị ấy có làm,

Ðiều gì ác đi nữa,

Với thân hay với lời,

Kể cả với tâm ý,

Vị ấy không có thể,

Che đậy việc làm ấy,

Việc ấy được nói rằng,

Không thể thấy ác đạo.

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu.

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.12.

Ðẹp là những cây rừng,

Có bông hoa đầu ngọn,

Trong tháng hạ nóng bức,

Những ngày hạ đầu tiên,

Pháp thù thắng thuyết giảng,

Ðược ví dụ như vậy.

Pháp đưa đến Niết Bàn,

Pháp hạnh phúc tối thượng,

Như vậy, nơi Ðức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.13.

Cao thượng biết cao thượng,

Cho đem lại cao thượng,

Bậc Vô thượng thuyết giảng,

Pháp cao thượng thù thắng,

Như vậy nơi đức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.14.

Nghiệp cũ đã đoạn tận,

Nghiệp mới không tạo nên,

Với tâm tư từ bỏ,

Trong sanh hữu tương lai,

Các hột giống đoạn tận,

Ước muốn không tăng trưởng

Bậc trí chứng Niết Bàn,

Ví như ngọn đèn này,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu.

Mong với sự thật này,

Ðược sống chơn hạnh phúc.15.

Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ Ðức Phật,

Ðã như thực đến đây,

Ðược loài Trời, loài Người,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng, với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.16.

Phàm ở tại nơi này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ Chánh pháp,

Ðã như thực đến đây,

Ðược loài Trời, loài Người,;

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.17.

Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ chúng Tăng,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.VII.

Kinh Ngoài Bức Tường (Tirokudda Sutta)1.

Ở bên ngoài bức tường,

Bọn họ đứng chờ đợi,

Giao lộ, ngã ba đường,

Trở về mái nhà xưa,

Ðợi chờ bên cạnh cổng.2.

Nhưng khi tiệc thịnh soạn,

Ðược bày biện sẵn sàng,

Ðủ mọi thức uống ăn,

Không một ai nhớ họ.

Sự kiện này phát sinh

Từ nghiệp xưa của họ.3.

Vậy ai có từ tâm,

Nhớ cho các thân nhân,

Thức uống ăn thanh tịnh,

Tốt đẹp và đúng thời.4.

Món này cho bà con,

Mong bà con an lạc,

Ðám ngạ quỷ thân bằng,

Ðã tề tựu chỗ đó.5.

Sẽ mong muốn chúc lành,

Vì thực phẩm đầy đủ,

Mong quyến thuộc sống lâu,

Nhờ người, ta hưởng lợi,.6.

Vì đã kính lễ ta,

Thí chủ không thiếu quả

Tại đó không cấy cày,

Cũng không nuôi súc vật.7.

Cũng không có buôn bán,

Không trao đổi tiền vàng,

Các ngạ quỷ họ hàng,

Chỉ sống nhờ bố thí.8.

Như nước đổ xuống đồi,

Chảy xuống tận vực sâu,

Bố thí tại chỗ này,

Cung cấp loài ngạ quỷ.9.

Như lòng sông tràn đầy,

Ðưa nước đổ xuống biển,

Bố thí tại chỗ này,

Cung cấp loài ngạ quỷ.10.

Người ấy đã cho ta,

Ðã làm việc vì ta,

Người ấy là quyến thuộc,

Người ấy chính thân bằng.

Hãy bố thí ngạ quỷ,

Nhớ việc xưa chúng làm.11.

Không khóc than, sầu muộn,

Không thương tiếc cách gì,

Giúp ích loài ngạ quỷ,

Quyến thuộc làm như vầy,

Không lợi cho ngạ quỷ.12.

Nhưng khi vật cúng dường,

Khéo đặt vào chư Tăng

Ích lợi chúng lâu dài,

Bây giờ, về sau nữa.13 Chánh pháp được giảng bày,

Như vậy cho quyến thuộc,

Kính trọng biết chừng nào,

Ðối với người đã khuất,

Chư Tăng được cúng dường,

Cũng tăng thêm dõng mãnh,

Người tích tụ công đức,

Thật to lớn biết bao.VIII.

Kinh Bảo Tàng (Nidhikanda Sutta)1.

Một người cất kho báu,

Ở tận dưới giếng sâu,

Nghĩ: "Nếu cần giúp đỡ,

Nó ích lợi cho ta".2.

Nếu bị vua kết án,

Hoặc trả các nợ nần,

Hoặc bị cướp giam cầm,

Và đòi tiền chuộc mạng,

Khi mất mùa, tai nạn,

Với mục đích như vầy,

Ở trên cõi đời này,

Sẽ đến giành kho báu.3.

Dẫu nó không bao giờ,

Ðược cất kỹ như vậy,

Ở tận dưới giếng sâu,

Vẫn không đủ hoàn toàn,

Giúp ích người mọi lúc.4.

Kho báu bị dời chỗ,

Hoặc người quên dấu vết,

Hoặc rắn thần lấy đi,

Hoặc thần linh tẩu tán,5.

Hoặc đám người thừa kế,

Kẻ ấy không chấp nhận,

Di chuyển kho báu đi,

Khi kẻ ấy không thấy.

Và khi phước đức tận,

Tất cả đều tiêu tan.6.

Những khi người nam, nữ,

Có bố thí, trì giới

Hoặc thiền định, trí tuệ,

Kho báu khéo để dành.7.

Trong chùa, tháp, Tăng đoàn,

Một cá nhân, lữ khách,

Hoặc người mẹ, người cha,

Hoặc là người anh nữa.8.

Kho này khéo để dành,

Ði theo người, không mất,

Giữa mọi vật phải rời,

Người cùng đi với nó.9.

Không ai khác chia phần,

Không cướp nào lấy được.

Vậy những kẻ tinh cần,

Hãy làm việc phước đức,

Kho báu ấy theo người,

Sẽ không bao giờ mất.10.

Ðây là một kho báu,

Có thể làm thỏa mãn,

Mọi ước vọng thiên, nhân,

Dù họ mong muốn gì,

Ðều đạt được tất cả,

Nhờ công đức phước nghiệp.11.

Vẻ đẹp của màu da,

Vẻ đẹp của âm thanh,

Vẻ đẹp của dáng hình,

Vẻ đẹp của toàn thân,

Ðịa vị thật cao sang,

Cùng với đoàn hầu cận,

Tất cả đều đạt được,

Nhờ phước nghiệp công đức.12.

Ngôi đế vương một cõi,

Cực lạc Chuyển luân vương,

Và ngự trên Thiên đường,

Tất cả đều đạt được,

Nhờ phước nghiệp công đức.13.

Vẻ tối thắng của người,

Mọi hoan lạc cõi trời,

Hay tịch diệt tối thắng,

Tất cả đều đạt được

Nhờ phước nghiệp công đức.14.

Ðạt tối thắng bằng hữu,

Chuyên tu tập chánh chân,

Ðạt minh trí giải thoát,

Tất cả đều đạt được.

Nhờ phước nghiệp công đức.15.

Tứ vô ngại giải đạo,

Tám cấp độ giải thoát,

Viên mãn trí Thanh văn,

Cả hai cách giác ngộ:

Ðộc giác, Chánh Ðẳng giác,

Tất cả đều đạt được,

Nhờ phước nghiệp công đức.16.

Phước báo thật lớn lao,

Do công đức thù thắng,

Vì thế kẻ tinh cần,

Và những người có trí,

Ðã tạo nện kho tàng.

Công đức nhờ phước nghiệp.IX.

Kinh Lòng Từ (Mettà Sutta)1.

Vị thiện xảo mục đích,

Cần phải làm như sau:

Sau khi hiểu thông suốt,

Con đường an tịnh ấy,

Có khả năng trực tánh,

Thật sự, khéo chân trực,

Dễ nói và nhu hòa,

Không có gì cao mạn.2.

Sống cảm thấy vừa đủ,

Nuôi sống thật dễ dàng,

Ít có sự rộn ràng,

Sống đạm bạc, giản dị.

Các căn được tịnh lạc,

Khôn ngoan và thận trọng,

Không xông xáo gia đình,

Không tham ái, tham vọng.3.

Các hành sở của mình,

Không nhỏ nhen, vụn vặt,

Khiến người khác có trí,

Có thể sanh chỉ trích,

Mong mọi loài chúng sanh,

Ðược an lạc, an ổn,

Mong chúng chứng đạt được,

Hạnh phúc và an lạc.4.

Mong tất cả những ai,

Hữu tình có mạng sống,

Kẻ yếu hay kẻ mạnh,

Không bỏ sót một ai,

Kẻ dài hay kẻ lớn,

Trung thấp, loài lớn, nhỏ.5.

Loài được thấy, không thấy,

Loài sống xa, không xa,

Các loài hiện đang sống,

Các loài sẽ được sanh,

Mong mọi loài chúng sanh,

Sống hạnh phúc an lạc.6.

Mong rằng không có ai,

Lường gạt, lừa dối ai,

Không có ai khinh mạn,

Tại bất cứ chỗ nào,

Không vì giận hờn nhau,,

Không vì tưởng chống đối.

Lại có người mong muốn,

Làm đau khổ cho nhau.7.

Như tấm lòng người mẹ,

Ðối với con của mình,

Trọn đời lo che chở,

Con độc nhất mình sanh.

Cũng vậy, đối tất cả

Các hữu tình chúng sanh,

Hãy tu tập tâm ý,

Không hạn lượng, rộng lớn.8.

Hãy tu tập từ tâm,

Trong tất cả thế giới,

Hãy tu tập tâm ý,

Không hạn lượng, rộng lớn,

Phía trên và phía dưới,

Cũng vậy cả bề ngang,

Không hạn chế, trói buộc,

Không hận, không thù địch.9.

Khi đứng hay khi ngồi,

Khi ngồi hay khi nằm,

Lâu cho đến khi nào,

Khi đang còn tỉnh thức,

Hãy an trú niệm này,

Nếp sống này như vậy.

Ðược đời đề cập đến,

Là nếp sống tối thượng.10.

Ai từ bỏ tà kiến,

Giữ giới, đủ chánh kiến,

Nhiếp phục được tham ái,

Ðối với các dục vọng,

Không còn phải tái sanh,

Ði đến thai tạng nữa.
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
1.2 Kinh Pháp Cú ( Phẩm 1-10 )


Phẩm 1-10 I.

Phẩm Song Yếu

II.

Phẩm Không Phóng Dật

III.

Phẩm Tâm

IV.

Phẩm Hoa

V.

Phẩm Kẻ NguVI.

Phẩm Hiền Trí

VII.

Phẩm A-La-Hán

VIII.

Phẩm Ngàn

IX.

Phẩm Ác

X.

Phẩm Hình PhạtI - Phẩm Song Yếu1.

"Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,

Khổ não bước theo sau,

Như xe, chân vật kéo ".2.

"Ý dẫn đầu các pháp,

Ý làm chủ, ý tạo,

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng, không rời hình ".3.

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi "

Ai ôm hiềm hận ấy,

Hận thù không thể nguôi.4.

"Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi, "

Không ôm hiềm hận ấy,

Hận thù được tự nguôi.5.

"Với hận diệt hận thù,

Ðời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

Là định luật ngàn thu ".6.

"Người khác không hiểu biết,

Chúng ta đây bị hại.

Chỗ ấy, ai biết được

Tranh luận được lắng êm."

7.

"Ai sống nhìn tịnh tướng,

không hộ trì các căn,

ăn uống thiếu tiết độ,

biếng nhác, chẳng tinh cần.

Ma uy hiếp kẻ ấy,

như cây yếu trước gió ".8.

"Ai sống quán bất tịnh,

Khéo hộ trì các căn,

ăn uống có tiết độ,

có lòng tin, tinh cần,

Ma không uy hiếp được,

Như núi đá, trước gió"9.

"Ai mặc áo cà sa,

tâm chưa rời uế trược,

không tự chế, không thực,

không xứng áo cà sa ".10.

"Ai rời bỏ uế trược,

giới luật khéo nghiêm trì,

tự chế, sống chơn thực,

thật xứng áo cà sa."

11.

"Không chân, tưởng chân thật,

Chân thật, thấy không chân

Họ không đạt chân thật

Do tà tư tà hạnh12 "Chân thật, biết chân thật,

Không chân, biết không chân.

Chúng đạt được chân thật,

do chánh tư, chánh hạnh."

13 "Như ngôi nhà vụng lợp,

Mưa liền xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm không tu,

Tham dục liền xâm nhập."

14 "Như ngôi nhà khéo lợp,

Mưa không xâm nhập vào.

Cũng vậy tâm khéo tu,

Tham dục không xâm nhập."

15 "Nay sầu, đời sau sầu,

Kẻ ác, hai đời sầu;

Nó sầu, nó ưu não,

Thấy nghiệp uế mình làm."

16 "Nay vui, đời sau vui,

Làm phước, hai đời vui.

Người ấý vui, an vui,

Thấy nghiệp tịnh mình làm."

17 "Nay than, đời sau than,

Kẻ ác, hai đời than,

than rằng: "Ta làm ác "

Ðọa cõi dữ, than hơn."

18.

"Nay sướng, đời sau sướng,

Làm phước, hai đời sướng.

Mừng rằng: "Ta làm thiện ",

Sanh cõi lành, sướng hơn."

19- "Nếu người nói nhiều kinh,

Không hành trì, phóng dật;

Như kẻ chăn bò người,

Không phần Sa môn hạnh."

20- "Dầu nói ít kinh điển,

Nhưng hành pháp, tùy pháp,

Từ bỏ tham, sân, si,

Tỉnh giác, tâm giải thoát,

Không chấp thủ hai đời,

Dự phần Sa môn hạnh."

II.

Phẩm Không Phóng Dật21.

"Không phóng dật, đường sống,

Phóng dật là đường chết.

Không phóng dật, không chết,

Phóng dật như chết rồi."

22.

"Biết rõ sai biệt ấy,

Người trí không phóng dật,

Hoan hỷ, không phóng dật,

An vui hạnh bậc Thánh."

23.

"Người hằng tu thiền định,

Thường kiên trì tinh tấn.

Bậc trí hưởng Niết Bàn,

Ách an tịnh vô thượng."

24.

"Nỗ lực, giữ chánh niệm,

Tịnh hạnh, hành thận trọng

Tự điều, sống theo pháp,

Ai sống không phóng dật,

Tiếng lành ngày tăng trưởng."

25.

"Nỗ lực, không phóng dật,

Tự điều, khéo chế ngự.

Bậc trí xây hòn đảo,

Nước lụt khó ngập tràn."

26.

"Họ ngu si thiếu trí,

Chuyên sống đời phóng dật.

Người trí, không phóng dật,

Như giữ tài sản quý."

27.

"Chớ sống đời phóng dật,

Chớ mê say dục lạc.

Không phóng dật, thiền định,

Ðạt được an lạc lớn."

28.

"Người trí dẹp phóng dật,

Với hạnh không phóng dật,

Leo lầu cao trí tuệ,

Không sầu, nhìn khổ sầu,

Bậc trí đứng núi cao,

Nhìn kẻ ngu, đất bằng."

29.

"Tinh cần giữa phóng dật,

Tỉnh thức giữa quần mê.

Người trí như ngựa phi,

Bỏ sau con ngựa hèn."

30.

"Ðế Thích không phóng dật,

Ðạt ngôi vị Thiên chủ.

Không phóng dật, được khen;

Phóng dật, thường bị trách."

31.

"Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Bước tới như lửa hừng,

Thiêu kiết sử lớn nhỏ."

32.

"Vui thích không phóng dật,

Tỷ kheo sợ phóng dật,

Không thể bị thối đọa,

Nhất định gần Niết Bàn."

III.

Phẩm Tâm33.

"Tâm hoảng hốt giao động,

Khó hộ trì, khó nhiếp,

Người trí làm tâm thẳng,

Như thợ tên, làm tên."

34.

"Như cá quăng trên bờ,

Vất ra ngoài thủy giới;

Tâm này vũng vẫy mạnh,

Hãy đoạn thế lực Ma."

35.

"Khó nắm giữ, khinh động,

Theo các dục quay cuồng.

Lành thay, điều phục tâm;

Tâm điều, an lạc đến."

36.

"Tâm khó thấy, tế nhị,

Theo các dục quay cuồng.

Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ, an lạc đến."

37.

"Chạy xa, sống một mình,

Không thân, ẩn hang sâu

Ai điều phục được tâm,

Thoát khỏi Ma trói buộc"38.

"Ai tâm không an trú,

Không biết chân diệu pháp,

Tịnh tín bị rúng động,

Trí tuệ không viên thành."

39.

"Tâm không đầy tràn dục,

Tâm không (hận) công phá,

Ðoạn tuyệt mọi thiện ác,

Kẻ tỉnh không sợ hãi,"40.

"Biết thân như đồ gốm,

Trú tâm như thành trì,

Chống ma với gươm trí;

Giữ chiến thắng không tham"41 "Không bao lâu thân này,

Sẽ nằm dài trên đất,

Bị vất bỏ, vô thức,

Như khúc cây vô dụng."

42.

"Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia,

Không bằng tâm hướng tà,

Gây ác cho tự thân."

43.

"Ðiều mẹ cha bà con,

Không có thể làm được

Tâm hướng chánh làm được

Làm được tốt đẹp hơn."

IV.

Phẩm Hoa44.

"Ai chinh phục đất này

Dạ ma, Thiên giới này?

Ai khéo giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa?"

45.

"Hữu học chinh phục đất,

Dạ ma, Thiên giới này.

Hữu học giảng Pháp cú,

Như người khéo hái hoa."

46.

"Biết thân như bọt nước,

Ngộ thân là như huyễn,

Bẻ tên hoa của ma,

Vượt tầm mắt thần chết."

47.

"Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say, tham nhiễm,

Bị thần chết mang đi,

Như lụt trôi làng ngủ."

48.Người nhặt các loại hoa,

Ý đắm say tham nhiễm,

Các dục chưa thỏa mãn,

Ðã bị chết chinh phục."

49.

"Như ong đến với hoa,

Không hại sắc và hương,

Che chở hoa, lấy nhụy.

Bậc Thánh đi vào làng ".50.

"Không nên nhìn lỗi người,

Người làm hay không làm.

Nên nhìn tự chính mình.

Có làm hay không làm."

51.

"Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc nhưng không hương.

Cũng vậy, lời khéo nói,

Không làm, không kết quả."

52.

"Như bông hoa tươi đẹp,

Có sắc lại thêm hương;

Cũng vậy, lời khéo nói,

Có làm, có kết quả."

53.

"Như từ một đống hoa,

Nhiều tràng hoa được làm.

Cũng vậy, thân sanh tử,

Phải làm nhiều việc lành."

54.

"Hương các loại hoa thơm

Không ngược bay chiều gió

Nhưng hương người đức hạnh

Ngược gió khắp tung bay

Chỉ có bậc chân nhân

Tỏa khắp mọi phương trời."

55.

"Hoa chiên đàn, già la,

Hoa sen, hoa vũ quý,

Giữa những hương hoa ấy,

Giới hương là vô thượng."

56.

"Ít giá trị hương này,

Hương già la, chiên đàn;

Chỉ hương người đức hạnh,

Tối thượng tỏa Thiên giới."

57.

"Nhưng ai có giới hạnh,

An trú không phóng dật,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Ác ma không thấy đường."

58.

"Như giữa đống rác nhớp,

Quăng bỏ trên đường lớn,

Chỗ ấy hoa sen nở,

Thơm sạch, đẹp ý người."

59.

"Cũng vậy giữa quần sanh,

Uế nhiễm, mù, phàm tục,

Ðệ tử bậc Chánh Giác,

Sáng ngời với Tuệ Trí."

V.

Phẩm Ngu60.

"Ðêm dài cho kẻ thức,

Ðường dài cho kẻ mệt,

Luân hồi dài, kẻ ngu,

Không biết chơn diệu pháp."

61.

"Tìm không được bạn đường,

Hơn mình hay bằng mình,

Thà quyết sống một mình,

Không bè bạn kẻ ngu."

62.

"Con tôi, tài sản tôi,

Người ngu sanh ưu não,

Tự ta, ta không có,

Con đâu, tài sản đâu."

63.

"Người ngu nghĩ mình ngu,

Nhờ vậy thành có trí.

Người ngu tưởng có trí,

Thật xứng gọi chí ngu."

64.

"Người ngu, dầu trọn đời,

Thân cận người có trí,

Không biết được Chánh pháp,

Như muỗng với vị canh."

65.

"Người trí, dầu một khắc,

Thân cận người có trí,

Biết ngay chân diệu pháp,

Như lưỡi với vị canh."

66.

"Người ngu si thiếu trí,

Tự ngã thành kẻ thù.

Làm các nghiệp không thiện,

Phải chịu quả đắng cay."

67.

"Nghiệp làm không chánh thiện,

Làm rồi sanh ăn năn,

Mặt nhuốm lệ, khóc than,

Lãnh chịu quả dị thục."

68.

"Và nghiệp làm chánh thiện,

Làm rồi không ăn năn,

Hoan hỷ, ý đẹp lòng,

Hưởng thọ quả dị thục."

69.

"Người ngu nghĩ là ngọt,

Khi ác chưa chín muồi;

Ác nghiệp chín muồi rồi,

Người ngu chịu khổ đau."

70.

"Tháng tháng với ngọn cỏ,

Người ngu có ăn uống

Không bằng phần mười sáu

Người hiểu pháp hữu vi."

71.

"Nghiệp ác đã được làm,

Như sữa, không đông ngay,

Cháy ngầm theo kẻ ngu,

Như lửa tro che đậy."

72.

"Tự nó chịu bất hạnh,

Khi danh đến kẻ ngu.

Vận may bị tổn hại,

Ðầu nó bị nát tan."

73.

"Ưa danh không tương xứng,

Muốn ngồi trước tỷ kheo,

Ưa quyền tại tịnh xá,

Muốn mọi người lễ kính."

74.

"Mong cả hai tăng, tục,

Nghĩ rằng (chính ta làm).

Trong mọi việc lớn nhỏ,

Phải theo mệnh lệnh ta "

Người ngu nghĩ như vậy

Dục và mạn tăng trưởng.75.

"Khác thay duyên thế lợi,

Khác thay đường Niết Bàn.

Tỷ kheo, đệ tử Phật,

Hãy như vậy thắng tri.

Chớ ưa thích cung kính,

Hãy tu hạnh viễn ly."

VI.

Phẩm Hiền Trí76.

"Nếu thấy bậc hiền trí,

Chỉ lỗi và khiển trách,

Như chỉ chỗ chôn vàng

Hãy thân cận người trí!

Thân cận người như vậy,

Chỉ tốt hơn, không xấu."

77.

"Những người hay khuyên dạy,

Ngăn người khác làm ác,

Ðược người hiền kính yêu,

Bị người ác không thích."

78.

"Chớ thân với bạn ác,

Chớ thân kẻ tiểu nhân.

Hãy thân người bạn lành,

Hãy thân bậc thượng nhân."

79.

"Pháp hỷ đem an lạc,

Với tâm tư thuần tịnh;

Người trí thường hoan hỷ,

Với pháp bậc Thánh thuyết."

80.

"Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn gỗ,

Bậc trí nhiếp tự thân."

81.

"Như đá tảng kiên cố,

Không gió nào giao động,

Cũng vậy, giữa khen chê,

Người trí không giao động."

82.

"Như hồ nước sâu thẳm,

Trong sáng, không khuấy đục,

Cũng vậy, nghe chánh pháp,

Người trí hưởng tịnh lạc."

83.

"Người hiền bỏ tất cả,

Người lành không bàn dục,

Dầu cảm thọ lạc khổ,

Bậc trí không vui buồn."

84.

"Không vì mình, vì người.

Không cầu được con cái,

Không tài sản quốc độ,

Không cầu mình thành tựu,

Với việc làm phi pháp.

Vị ấy thật trì giới,

Có trí tuệ, đúng pháp."

85.

"Ít người giữa nhân loại,

Ðến được bờ bên kia

Còn số người còn lại,

Xuôi ngược chạy bờ này."

86.

"Những ai hành trì pháp,

Theo chánh pháp khéo dạy,

Sẽ đến bờ bên kia,

Vượt ma lực khó thoát."

87.Kẻ trí bỏ pháp đen,

Tu tập theo pháp trắng.

Bỏ nhà, sống không nhà,

Sống viễn ly khổ lạc."

88.

"Hãy cầu vui Niết Bàn,

Bỏ dục, không sở hữu,

Kẻ trí tự rửa sạch,

Cấu uế từ nội tâm."

89.

"Những ai với chánh tâm,

Khéo tu tập giác chi,

Từ bỏ mọi ái nhiễm,

Hoan hỷ không chấp thủ.

Không lậu hoặc, sáng chói,

Sống tịch tịnh ở đời."

VII.

Phẩm A-La-Hán90.

"Ðích đã đến, không sầu,

Giải thoát ngoài tất cả,

Ðoạn trừ mọi buộc ràng,

Vị ấy không nhiệt não."

91.

"Tự sách tấn, chánh niệm,

Không thích cư xá nào,

Như ngỗng trời rời ao,

Bỏ sau mọi trú ẩn."

92.

"Tài sản không chất chứa,

Ăn uống biết liễu tri,

Tự tại trong hành xứ,

"Không vô tướng, giải thoát, "

Như chim giữa hư không,

Hướng chúng đi khó tìm."

93.

"Ai lậu hoặc đoạn sạch,

Ăn uống không tham đắm,

Tự tại trong hành xứ,

"Không, vô tướng giải thoát.

"

Như chim giữa hư không,

Dấu chân thật khó tìm.

"94.

"Ai nhiếp phục các căn,

Như đánh xe điều ngự,

Mạn trừ, lậu hoặc dứt,

Người vậy, Chư Thiên mến."

95.

"Như đất, không hiềm hận,

Như cột trụ, kiên trì,

Như hồ, không bùn nhơ,

Không luân hồi, vị ấy."

96.

"Người tâm ý an tịnh,

Lời an, nghiệp cũng an,

Chánh trí, chơn giải thoát,

Tịnh lạc là vị ấy."

97.

"Không tin, hiểu vô vi.

Người cắt mọi hệ lụy

Cơ hội tận, xả ly

Vị ấy thật tối thượng."

98.

"Làng mạc hay rừng núi

Thung lũng hay đồi cao,

La Hán trú chỗ nào,

Ðất ấy thật khả ái ".99.

"Khả ái thay núi rừng,

Chỗ người phàm không ưa,

Vị ly tham ưa thích,

Vì không tìm dục lạc."

VIII.

Phẩm Ngàn100.

"Dầu nói ngàn ngàn lời,

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu nghĩa,

Nghe xong, được tịnh lạc."

101.

"Dầu nói ngàn câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn nói một câu,

Nghe xong, được tịnh lạc."

102 "Dầu nói trăm câu kệ

Nhưng không gì lợi ích,

Tốt hơn một câu pháp,

Nghe xong, được tịnh lạc."

103.

"Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch,

Tự thắng mình tốt hơn,

Thật chiến thắng tối thượng."

104.

"Tự thắng, tốt đẹp hơn,

Hơn chiến thắng người khác.

Người khéo điều phục mình,

Thường sống tự chế ngự."

105.

"Dầu Thiên Thần, Thát Bà,

Dầu Ma vương, Phạm Thiên

Không ai chiến thắng nổi,

Người tự thắng như vậy."

106.

"Tháng tháng bỏ ngàn vàng,

Tế tự cả trăm năm,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cùng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự."

107.

"Dầu trải một trăm năm,

Thờ lửa tại rừng sâu,

Chẳng bằng trong giây lát,

Cúng dường bậc tự tu.

Cúng dường vậy tốt hơn,

Hơn trăm năm tế tự."

108.

"Suốt năm cúng tế vật,

Ðể cầu phước ở đời.

Không bằng một phần tư

Kính lễ bậc chánh trực."

109.

"Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc kỳ lão trưởng thượng,

Bốn pháp được tăng trưởng:

Thọ, sắc, lạc, sức mạnh."

110.Dầu sống một trăm năm

Ác giới, không thiền định,

Tốt hơn sống một ngày,

Trì giới, tu thiền định."

111.

"Ai sống một trăm năm,

Ác tuệ, không thiền định.

Tốt hơn sống một ngày,

Có tuệ, tu thiền định."

112 "Ai sống một trăm năm,

Lười nhác không tinh tấn,

Tốt hơn sống một ngày

Tinh tấn tận sức mình."

113.

"Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sinh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sinh diệt."

114.

"Ai sống một trăm năm,

Không thấy câu bất tử,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được câu bất tử."

115.

"Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp tối thượng,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp tối thượng."

IX.

Phẩm Ác116.

"Hãy gấp làm điều lành,

Ngăn tâm làm điều ác.

Ai chậm làm việc lành,

Ý ưa thích việc ác."

117.

"Nếu người làm điều ác,

Chớ tiếp tục làm thêm.

Chớ ước muốn điều ác,

Chứa ác, tất chịu khổ."

118.

"Nếu người làm điều thiện,

Nên tiếp tục làm thêm.

Hãy ước muốn điều thiện,

Chứa thiện, được an lạc."

119.

"Người ác thấy là hiền.

Khi ác chưa chín muồi,

Khi ác nghiệp chín muồi,

Người ác mới thấy ác."

120.

"Người hiền thấy là ác,

Khi thiện chưa chín muồi.

Khi thiện được chín muồi,

Người hiền thấy là thiện."

121.

"Chớ chê khinh điều ác,

Cho rằng "chưa đến mình ",

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người ngu chứa đầy ác

Do chất chứa dần dần."

122.

"Chớ chê khinh điều thiện

Cho rằng "Chưa đến mình, "

Như nước nhỏ từng giọt,

Rồi bình cũng đầy tràn.

Người trí chứa đầy thiện,

Do chất chứa dần dần."

123.

"Ít bạn đường, nhiều tiền,

Người buôn tránh đường hiểm.

Muốn sống, tránh thuốc độc,

Hãy tránh ác như vậy."

124.

"Bàn tay không thương tích,

Có thể cầm thuốc độc.

Không thương tích, tránh độc,

Không làm, không có ác."

125.

"Hại người không ác tâm,

Người thanh tịnh, không uế,

Tội ác đến kẻ ngu,

Như ngược gió tung bụi."

126.

"Một số sinh bào thai,

Kẻ ác sinh địa ngục,

Người thiện lên cõi trời,

Vô lậu chứng Niết Bàn."

127.

"Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp."

128.

"Không trên trời, giữa biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn khỏi tay thần chết."

X.

Phẩm Hình Phạt

129.

"Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người sợ tử vong.

Lấy mình làm ví dụ

Không giết, không bảo giết."

130.

"Mọi người sợ hình phạt,

Mọi người thích sống còn;

Lấy mình làm ví dụ,

Không giết, không bảo giết."

131.

"Chúng sanh cầu an lạc,

Ai dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau không được lạc."

132.

"Chúng sanh cầu an lạc,

Không dùng trượng hại người,

Ðể tìm lạc cho mình,

Ðời sau được hưởng lạc."

133.

"Chớ nói lời ác độc,

Nói ác, bị nói lại,

Khổ thay lời phẩn nộ,

Ðao trượng phản chạm mình."

134.

"Nếu tự mình yên lặng,

Như chiếc chuông bị bể.

Ngươi đã chứng Niết Bàn

Ngươi không còn phẩn nộ."

135.

"Với gậy người chăn bò,

Lùa bò ra bãi cỏ;

Cũng vậy, già và chết,

Lùa người đến mạng chung."

136.

"Người ngu làm điều ác,

Không ý thức việc làm.

Do tự nghiệp, người ngu

Bị nung nấu, như lửa."

137.

"Dùng trượng phạt không trượng,

Làm ác người không ác.

Trong mười loại khổ đau,

Chịu gấp một loại khổ."

138.

"Hoặc khổ thọ khốc liệt,

Thân thể bị thương vong,

Hoặc thọ bệnh kịch liệt,

Hay loạn ý tán tâm."

139.

"Hoặc tai họa từ vua,

Hay bị vu trọng tội;

Bà con phải ly tán,

Tài sản bị nát tan."

140.

"Hoặc phòng ốc nhà cửa

Bị hỏa tai thiêu đốt.

Khi thân hoại mạng chung,

Ác tuệ sanh địa ngục."

141.

"Không phải sống lõa thể

Bện tóc, tro trét mình,

Tuyệt thực, lăn trên đất,

Sống nhớp, siêng ngồi xổm,

Làm con người được sạch,

Nếu không trừ nghi hoặc."

142 "Ai sống tự trang sức,

Nhưng an tịnh, nhiếp phục,

Sống kiên trì, phạm hạnh,

Không hại mọi sinh linh,

Vị ấy là phạm chí,

Hay sa môn, khất sĩ."

143.

"Thật khó tìm ở đời,

Người biết thẹn, tự chế,

Biết tránh né chỉ trích

Như ngựa hiền tránh roi."

144.

"Như ngựa hiền chạm roi,

Hãy nhiệt tâm, hăng hái,

Với tín, giới, tinh tấn,

Thiền định cùng trạch pháp.

Minh hạnh đủ, chánh niệm,

Ðoạn khổ này vô lượng."

145.

"Người trị thủy dẫn nước,

Kẻ làm tên nắn tên,

Người thợ mộc uốn ván,

Bậc tự điều, điều thân."
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
1.2 Kinh Pháp Cú (Phẩm 11-20 )


Phẩm 11-20XI.

Phẩm Già

XII.

Phẩm Tự Ngã

XIII.

Phẩm Thế Gian

XIV.

Phẩm Phật Ða

XV.

Phẩm An LạcXVI.

Phẩm Hỷ Ái

XVII.

Phẩm Phẫn Nộ

XVIII.

Phẩm Cấu Uế

XIX.

Phẩm Pháp Trụ

XX.

Phẩm ÐạoXI.

Phẩm Già

146.

"Cười gì, hân hoan gì,

Khi đời mãi bị thiêu?

Bị tối tăm bao trùm,

Sao không tìm ngọn đèn?"

147.

"Hãy xem bong bóng đẹp,

Chỗ chất chứa vết thương,

Bệnh hoạn nhiều suy tư,

Thật không gì trường cửu."

148.

"Sắc này bị suy già,

Ổ tật bệnh, mỏng manh,

Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ,

Chết chấm dứt mạng sống."

149.

"Như trái bầu mùa thu,

Bị vất bỏ quăng đi,

Nhóm xương trắng bồ câu,

Thấy chúng còn vui gì?"

150.

"Thành này làm bằng xương,

Quét tô bằng thịt máu,

Ở đây già và chết,

Mạn, lừa đảo chất chứa."

151.

"Xe vua đẹp cũng già.

Thân này rồi sẽ già,

Pháp bậc thiện, không già.

Như vậy bậc chí thiện

Nói lên cho bậc thiện."

152.

"Người ít nghe kém học,

Lớn già như trâu đực.

Thịt nó tuy lớn lên,

Nhưng tuệ không tăng trưởng."

153.

"Lang thang bao kiếp sống

Ta tìm nhưng chẳng gặp,

Người xây dựng nhà này,

Khổ thay, phải tái sanh."

154.

"Ôi!

Người làm nhà kia

Nay ta đã thấy ngươi!

Ngươi không làm nhà nữa.

Ðòn tay ngươi bị gẫy,

Kèo cột ngươi bị tan

Tâm ta đạt tịch diệt,

Tham ái thảy tiêu vong."

155.

"Lúc trẻ, không phạm hạnh,

Không tìm kiếm bạc tiền.

Như cò già bên ao,

Ủ rũ, không tôm cá."

156.

"Lúc trẻ không phạm hạnh,

Không tìm kiếm bạc tiền;

Như cây cung bị gẫy,

Thở than những ngày qua."

XII.

Phẩm Tự Ngã157.

"Nếu biết yêu tự ngã,

Phải khéo bảo vệ mình,

Người trí trong ba canh,

Phải luôn luôn tỉnh thức."

158.

"Trước hết tự đặt mình,

Vào những gì thích đáng.

Sau mới giáo hóa người,

Người trí khỏi bị nhiễm."

159.

"Hãy tự làm cho mình,

Như điều mình dạy người.

Khéo tự điều, điều người,

Khó thay, tự điều phục!"

160.

"Tự mình y chỉ mình,

Nào có y chỉ khác.

Nhờ khéo điều phục mình,

Ðược y chỉ khó được."

161.

"Ðiều ác tự mình làm,

Tự mình sanh, mình tạo.

Nghiền nát kẻ ngu si,

Như kim cương, ngọc báu."

162.

"Phá giới quá trầm trọng,

Như dây leo bám cây

Gieo hại cho tự thân,

Như kẻ thù mong ước."

163.

"Dễ làm các điều ác,

Dễ làm tự hại mình.

Còn việc lành, việc tốt,

Thật tối thượng khó làm."

164.

"Kẻ ngu si miệt thị,

Giáo pháp bậc La Hán,

Bậc Thánh, bậc chánh mạng.

Chính do ác kiến này,

Như quả loại cây lau

Mang quả tự hoại diệt."

165.

"Tự mình, làm điều ác,

Tự mình làm nhiễm ô,

Tự mình không làm ác,

Tự mình làm thanh tịnh.

Tịnh, không tịnh tự mình,

Không ai thanh tịnh ai!"

166.

"Chớ theo pháp hạ liệt.

Chớ sống mặc, buông lung;

Chớ tin theo tà kiến,

Chớ tăng trưởng tục trần."

XIII.

Phẩm Thế Gian167.

"Dầu lợi người bao nhiêu,

Chớ quên phần tư lợi,

Nhờ thắng trí tư lợi.

Hãy chuyên tâm lợi mình."

168.

"Nỗ lực, chớ phóng dật!

Hãy sống theo chánh hạnh;

Người chánh hạnh hưởng lạc,

Cả đời này, đời sau."

169.

"Hãy khéo sống chánh hạnh,

Chớ sống theo tà hạnh!

Người chánh hạnh hưởng lạc,

Cả đời này, đời sau."

170.

"Hãy nhìn như bọt nước,

Hãy nhìn như cảnh huyễn!

Quán nhìn đời như vậy,

Thần chết không bắt gặp."

171.

"Hãy đến nhìn đời này,

Như xe vua lộng lẫy,

Người ngu mới tham đắm,

Kẻ trí nào đắm say."

172.

"Ai sống trước buông lung,

Sau sống không phóng dật,

Chói sáng rực đời này.

Như trăng thoát mây che."

173.

"Ai dùng các hạnh lành,

Làm xóa mờ nghiệp ác,

Chói sáng rực đời này,

Như trăng thoát mây che."

174.

"Ðời này thật mù quáng,

Ít kẻ thấy rõ ràng.

Như chim thoát khỏi lưới,

Rất ít đi thiên giới."

175.

"Như chim thiên nga bay,

Thần thông liệng giữa trời;

Chiến thắng ma, ma quân,

Kẻ trí thoát đời này."

176.

"Ai vi phạm một pháp,

Ai nói lời vọng ngữ,

Ai bác bỏ đời sau,

Không ác nào không làm."

177.

"Keo kiết không sanh thiên,

Kẻ ngu ghét bố thí,

Người trí thích bố thí,

Ðời sau, được hưởng lạc."

178.

"Hơn thống lãnh cõi đất,

Hơn được sanh cõi trời,

Hơn chủ trì vũ trụ,

Quả Dự Lưu tối thắng."

XIV.

Phẩm Phật Ðà

179.

"Vị chiến thắng không bại,

Vị bước đi trên đời,

Không dấu tích chiến thắng,

Phật giới rộng mênh mông,

Ai dùng chân theo dõi

Bậc không để dấu tích?"

180.

"Ai giải tỏa lưới tham,

Ái phược hết dắt dẫn,

Phật giới rộng mênh mông,

Ai dùng chân theo dõi,

Bậc không để dấu tích?"

181.

"Người trí chuyên thiền định,

Thích an tịnh viễn ly,

Chư thiên đều ái kính,

Bậc chánh giác, chánh niệm."

182.

"Khó thay, được làm người,

Khó thay, được sống còn,

Khó thay, nghe diệu pháp,

Khó thay, Phật ra đời!"

183.

"Không làm mọi điều ác.

Thành tựu các hạnh lành,

Tâm ý giữ trong sạch,

Chính lời chư Phật dạy."

184.

"Chư Phật thường giảng dạy;

Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,

Niết bàn, quả tối thượng;

Xuất gia không phá người;

Sa môn không hại người."

185.

"Không phỉ báng, phá hoại,

Hộ trì giới căn bản,

Ăn uống có tiết độ,

Sàng tọa chỗ nhàn tịnh

Chuyên chú tăng thượng tâm,

Chính lời chư Phật dạy."

186.

"Dầu mưa bằng tiền vàng,

Các dục khó thỏa mãn.

Dục đắng nhiều ngọt ít,

Biết vậy là bậc trí."

187.

"Ðệ tử bậc chánh giác,

Không tìm cầu dục lạc,

Dầu là dục chư thiên,

Chỉ ưa thích ái diệt."

188.

"Loài người sợ hoảng hốt,

Tìm nhiều chỗ quy y,

Hoặc rừng rậm, núi non,

Hoặc vườn cây, đền tháp."

189.

"Quy y ấy không ổn,

Không quy y tối thượng.

Quy y các chỗ ấy,

Không thoát mọi khổ đau?"

190.

"Ai quy y Ðức Phật,

Chánh pháp và chư tăng,

Ai dùng chánh tri kiến,

Thấy được bốn Thánh đế."

191.

"Thấy khổ và khổ tập,

Thấy sự khổ vượt qua,

Thấy đường Thánh tám ngành,

Ðưa đến khổ não tận."

192.

"Thật quy y an ổn,

Thật quy y tối thượng,

Có quy y như vậy,

Mới thoát mọi khổ đau."

193.

"Khó gặp bậc thánh nhơn,

Không phải đâu cũng có.

Chỗ nào bậc trí sanh,

Gia đình tất an lạc."

194.

"Vui thay, Phật ra đời!

Vui thay, Pháp được giảng!

Vui thay, Tăng hòa hợp!

Hòa hợp tu, vui thay!"

195.

"Cúng dường bậc đáng cúng,

Chư Phật hoặc đệ tử,

Các bậc vượt hý luận,

Ðoạn diệt mọi sầu bi."

196.

"Cúng dường bậc như vậy,

Tịch tịnh, không sợ hãi,

Các công đức như vậy,

Không ai ước lường được."

XV.

Phẩm An Lạc

197.

"Vui thay, chúng ta sống,

Không hận, giữa hận thù!

Giữa những người thù hận,

Ta sống, không hận thù!"

198.

"Vui thay, chúng ta sống,

Không bệnh, giữa ốm đau!

Giữa những người bệnh hoạn,

Ta sống, không ốm đau."

199.

"Vui thay, chúng ta sống,

Không rộn giữa rộn ràng;

Giữa những người rộn ràng,

Ta sống, không rộn ràng."

200.

"Vui thay chúng ta sống,

Không gì, gọi của ta.

Ta sẽ hưởng hỷ lạc,

Như chư thiên Quang Âm."

201.

"Chiến thắng sinh thù oán,

Thất bại chịu khổ đau,

Sống tịch tịnh an lạc.

Bỏ sau mọi thắng bại."

202.

"Lửa nào sánh lửa tham?

Ác nào bằng sân hận?

Khổ nào sánh khổ uẩn,

Lạc nào bằng tịnh lạc."

203.

"Ðói ăn, bệnh tối thượng,

Các hành, khổ tối thượng,

Hiểu như thực là vậy,

Niết Bàn, lạc tối thượng."

204 "Không bệnh, lợi tối thượng,

Biết đủ, tiền tối thượng,

Thành tín đối với nhau,

Là bà con tối thượng.

Niết Bàn, lạc tối thượng."

205.

"Ðã nếm vị độc cư,

Ðược hưởng vị nhàn tịnh,

Không sợ hải, không ác,

Nếm được vị pháp hỷ."

206.

"Lành thay, thấy thánh nhân,

Sống chung thường hưởng lạc.

Không thấy những người ngu,

Thường thường được an lạc."

207.

"Sống chung với người ngu,

Lâu dài bị lo buồn.

Khổ thay gần người ngu,

Như thường sống kẻ thù.

Vui thay, gần người trí,

Như chung sống bà con."

208.

"Bậc hiền sĩ, trí tuệ

Bậc nghe nhiều, trì giới,

Bậc tự chế, Thánh nhân;

Hãy gần gũi, thân cận

Thiện nhân, trí giả ấy,

Như trăng theo đường sao."

XVI.

Phẩm Hỷ Ái

209.

"Tự chuyên, không đáng chuyên

Không chuyên, việc đáng chuyên.

Bỏ đích, theo hỷ ái,

Ganh tị bậc tự chuyên."

210.

"Chớ gần gũi người yêu,

Trọn đời xa kẻ ghét.

Yêu không gặp là khổ,

Oán phải gặp cũng đau."

211.

"Do vậy chớ yêu ai,

Ái biệt ly là ác;

Những ai không yêu ghét,

Không thể có buộc ràng."

212.

"Do ái sinh sầu ưu,

Do ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi tham ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?"

213.

"Ái luyến sinh sầu ưu,

Ái luyến sinh sợ hải.

Ai giải thoát ái luyến

Không sầu, đâu sợ hải?"

214.

"Hỷ ái sinh sầu ưu,

Hỷ ái sinh sợ hãi.

Ai giải thoát hỷ ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?215.

"Dục ái sinh sầu ưu,

Dục ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi dục ái,

Không sầu, đâu sợ hãi?"

216.

"Tham ái sinh sầu ưu,

Tham ái sinh sợ hãi.

Ai thoát khỏi tham ái,

Không sầu, đâu sợ hãi."

217.

"Ðủ giới đức, chánh kiến;

Trú pháp, chứng chân lý,

Tự làm công việc mình,

Ðược quần chúng ái kính."

218.

"Ước vọng pháp ly ngôn

Ý cảm xúc thượng quả

Tâm thoát ly ác dục,

Xứng gọi bậc Thượng Lưu."

219.

"Khách lâu ngày ly hương,

An toàn từ xa về,

Bà con cùng thân hữu,

Hân hoan đón chào mừng."

220.

"Cũng vậy các phước nghiệp,

Ðón chào người làm lành,

Ðời này đến đời kia.

Như thân nhân, đón chào."

XVII.

Phẩm Phẫn Nộ

221.

"Bỏ phẫn nộ, ly mạn,

Vượt qua mọi kiết sử,

Không chấp trước danh sắc.

Khổ không theo vô sản."

222.

"Ai chận được phẫn nộ,

Như dừng xe đang lăn,

Ta gọi người đánh xe,

Kẻ khác, cầm cương hờ."

223.

"Lấy không giận thắng giận,

Lấy thiện thắng không thiện,

Lấy thí thắng xan tham,

Lấy chơn thắng hư ngụy."

224.

"Nói thật, không phẫn nộ,

Của ít, thí người xin,

Nhờ ba việc lành này,

Người đến gần thiên giới."

225.

"Bậc hiền không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Ðạt được cảnh bất tử,

Ðến đây, không ưu sầu."

226.

"Những người thường giác tỉnh,

Ngày đêm siêng tu học,

Chuyên tâm hướng Niết Bàn,

Mọi lậu hoặc được tiêu."

227.

"A-tu-la, nên biết,

Xưa vậy, nay cũng vậy,

Ngồi im, bị người chê,

Nói nhiều bị người chê.

Nói vừa phải, bị chê.

Làm người không bị chê,

Thật khó tìm ở đời."

228.

"Xưa, vị lai, và nay,

Ðâu có sự kiện này,

Người hoàn toàn bị chê,

Người trọn vẹn được khen."

229.

"Sáng sáng, thẩm xét kỹ.

Bậc có trí tán thán.

Bậc trí không tỳ vết,

Ðầy đủ giới định tuệ."

230.

"Hạnh sáng như vàng ròng,

Ai dám chê vị ấy?

Chư thiên phải khen thưởng,

Phạm Thiên cũng tán dương ".231.

"Giữ thân đừng phẫn nộ,

Phòng thân khéo bảo vệ,

Từ bỏ thân làm ác,

Với thân làm hạnh lành."

232 "Giữ lời đừng phẫn nộ,

Phòng lời, khéo bảo vệ,

Từ bỏ lời thô ác,

Với lời, nói điều lành."

233.

"Giữ ý đừng phẫn nộ,

Phòng ý, khéo bảo vệ,

Từ bỏ ý nghĩ ác,

Với ý, nghĩ hạnh lành.'234.

"Bậc trí bảo vệ thân,

Bảo vệ luôn lời nói

Bảo vệ cả tâm tư,

Ba nghiệp khéo bảo vệ."

XVIII.

Phẩm Cấu Uế

235.

"Ngươi nay giống lá héo,

Diêm sứ đang chờ ngươi,

Ngươi đứng trước cửa chết,

Ðường trường thiếu tư lương."

236.

"Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần gấp, sáng suốt.

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Ðến Thánh địa chư Thiên."

237.

"Ðời ngươi nay sắp tàn,

Tiến gần đến Diêm Vương.

Giữa đường không nơi nghỉ,

Ðường trường thiếu tư lương."

238.

"Hãy tự làm hòn đảo,

Tinh cần gấp sáng suốt.

Trừ cấu uế, thanh tịnh,

Chẳng trở lại sanh già."

239.

"Bậc trí theo tuần tự.

Từng sát na trừ dần.

Như thợ vàng lọc bụi

Trừ cấu uế nơi mình."

240.

"Như sét từ sắt sanh,

Sắt sanh lại ăn sắt,

Cũng vậy, quá lợi dưỡng

Tự nghiệp dẫn cõi ác."

241.

"Không tụng làm nhớp kinh,

Không đứng dậy, bẩn nhà,

Biếng nhác làm nhơ sắc,

Phóng dật uế người canh"242.

"Tà hạnh nhơ đàn bà,

Xan tham nhớp kẻ thí,

Ác pháp là vết nhơ,

Ðời này và đời sau."

243.

"Trong hàng cấu uế ấy,

Vô minh, nhơ tối thượng,

Ðoạn nhơ ấy, tỷ kheo,

Thành bậc không uế nhiễm."

244.

"Dễ thay, sống không hổ

Sống lỗ mãng như quạ,

Sống công kích huênh hoang,

Sống liều lĩnh, nhiễm ô."

245.

"Khó thay, sống xấu hổ,

Thường thường cầu thanh tịnh.

Sống vô tư, khiêm tốn,

Trong sạch và sáng suốt."

246.

"Ai ở đời sát sinh,

Nói láo không chân thật,

Ở đời lấy không cho,

Qua lại với vợ người."

247.

"Uống rượu men, rượu nấu,

Người sống đam mê vậy,

Chính ngay tại đời này,

Tự đào bới gốc mình."

248.

"Vậy người, hãy nên biết,

Không chế ngự là ác.

Chớ để tham phi pháp,

Làm người đau khổ dài."

249.

"Do tín tâm, hỷ tâm

Loài người mới bố thí.

Ở đây ai bất mãn

Người khác được ăn uống,

Người ấy ngày hoặc đêm,

Không đạt được tâm định?"

250.

"Ai cắt được, phá được,

Tận gốc nhổ tâm ấy.

Người ấy ngày hoặc đêm,

Ðạt được tâm thiền định."

251.

"Lửa nào bằng lửa tham!

Chấp nào bằng sân hận!

Lưới nào bằng lưới si!

Sông nào bằng sông ái!

"252.

"Dễ thay thấy lỗi người,

Lỗi mình thấy mới khó.

Lỗi người ta phanh tìm,

Như sàng trấu trong gạo,

Còn lỗi mình, che đậy,

Như kẻ gian dấu bài."

253.

"Ai thấy lỗi của người,

Thường sanh lòng chỉ trích,

Người ấy lậu hoặc tăng,

Rất xa lậu hoặc diệt."

254.

"Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn,

Chúng sanh thích hý luận,

Như lai, hý luận trừ."

255.

"Hư không, không dấu chân,

Ngoài đây, không sa môn.

Các hành không thường trú,

Chư Phật không giao động."

XIX.

Phẩm Pháp Trụ

256.

"Ngươi đâu phải pháp trụ,

Xử sự quá chuyên chế,

Bậc trí cần phân biệt

Cả hai chánh và tà!"

257.

"Không chuyên chế, đúng pháp,

Công bằng, dắt dẫn người,

Bậc trí sống đúng pháp,

Thật xứng danh pháp trụ."

258.

"Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh bậc trí.

An ổn, không oán sợ.

Thật đáng gọi bậc trí."

259.

Không phải vì nói nhiều,

Mới xứng danh trì pháp,

Những ai tuy nghe ít,

Nhưng thân hành đúng pháp,

Không phóng túng chánh pháp,

Mới xứng danh trì pháp."

260.

Không phải là trưởng lão,

Dầu cho có bạc đầu.

Người chỉ tuổi tác cao,

Ðược gọi là: "Lão ngu."

261.

"Ai chân thật, đúng pháp,

Không hại, biết chế phục,

Bậc trí không cấu uế,

Mới xứng danh Trưởng Lão."

262.

"Không phải nói lưu loát,

Không phải sắc mặt đẹp,

Thành được người lương thiện,

Nếu ganh, tham, dối trá."

263.

"Ai cắt được, phá được

Tận gốc nhổ tâm ấy

Người trí ấy diệt sân,

Ðược gọi người hiền thiện."

264.

"Ðầu trọc, không sa môn

Nếu phóng túng, nói láo.

Ai còn đầy dục tham,

Sao được gọi sa môn?"

265.

"Ai lắng dịu hoàn toàn,

Các điều ác lớn nhỏ,

Vì lắng dịu ác pháp,

Ðược gọi là Sa môn."

266.

" Chỉ khất thực nhờ người,

Ðâu phải là tỷ kheo!

Phải theo pháp toàn diện,

Khất sĩ không, không đủ."

267.

" Ai vượt qua thiện ác,

Chuyên sống đời Phạm Hạnh,

Sống thẩm sát ở đời,

Mới xứng danh tỷ kheo."

268.

"Im lặng nhưng ngu si,

Ðâu được gọi ẩn sĩ?

Như người cầm cán cân,

Bậc trí chọn điều lành."

269.

" Từ bỏ các ác pháp,

Mới thật là ẩn sĩ.

Ai thật hiểu hai đời

Mới được gọi ẩn sĩ."

270.

" Còn sát hại sinh linh,

Ðâu được gọi Hiền thánh.

Không hại mọi hữu tình,

Mới được gọi Hiền Thánh."

271.

"Chẳng phải chỉ giới cấm

Cũng không phải học nhiều,

Chẳng phải chứng thiền định,

Sống thanh vắng một mình."

272.

"Ta hưởng an ổn lạc,

Phàm phu chưa hưởng được.

Tỷ kheo, chớ tự tin

Khi lậu hoặc chưa diệt."

XX.

Phẩm Ðạo

273.

"Tám chánh, đường thù thắng,

Bốn câu, lý thù thắng.

Ly tham, pháp thù thắng,

Giữa các loài hai chân,

Pháp nhãn, người thù thắng."

274.

"Ðường này, không đường khác

Ðưa đến kiến thanh tịnh.

Nếu ngươi theo đường này,

Ma quân sẽ mê loạn."

275.

"Nếu người theo đường này,

Ðau khổ được đoạn tận.

Ta dạy người con đường.

Với trí, gai chướng diệt."

276.

"Người hãy nhiệt tình làm,

Như Lai chỉ thuyết dạy.

Người hành trì thiền định

Thoát trói buộc Ác ma."

277.

"Tất cả hành vô thường "

Với Tuệ, quán thấy vậy

Ðau khổ được nhàm chán;

Chính con đường thanh tịnh."

278.

"Tất cả hành khổ đau

Với Tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán;

Chính con đường thanh tịnh."

279.

"Tất cả pháp vô ngã,

Với Tuệ quán thấy vậy,

Ðau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh."

280.

"Khi cần, không nỗ lực,

Tuy trẻ mạnh, nhưng lười

Chí nhu nhược, biếng nhác.

Với trí tuệ thụ động,

Sao tìm được chánh đạo?"

281.

"Lời nói được thận trọng,

Tâm tư khéo hộ phòng,

Thân chớ làm điều ác,

Hãy giữ ba nghiệp tịnh,

Chứng đạo thánh nhân dạy."

282.

"Tu thiền, trí tuệ sanh,

Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.

Biết con đường hai ngả

Ðưa đến hữu, phi hữu,

Hãy tự mình nỗ lực,

Khiến trí tuệ tăng trưởng."

283.

"Ðốn rừng không đốn cây

Từ rừng, sinh sợ hãi;

Ðốn rừng và ái dục,

Tỷ kheo, hãy tịch tịnh."

284.

"Khi nào chưa cắt tiệt,

Ái dục giữa gái trai,

Tâm ý vẫn buộc ràng,

Như bò con vú mẹ."

285.

"Tự cắt giây ái dục,

Như tay bẻ sen thu,

Hãy tu đạo tịch tịnh,

Niết-Bàn, Thiện Thệ dạy."

286.

"Mùa mưa ta ở đây

Ðông, hạ cũng ở đây,

Người ngu tâm tưởng vậy,

Không tự giác hiểm nguy."

287.

"Người tâm ý đắm say

Con cái và súc vật,

Tử thần bắt người ấy,

Như lụt trôi làng ngủ.

"288.

"Một khi tử thần đến,

Không có con che chở,

Không cha, không bà con,

Không thân thích che chở."

289.

"Biết rõ ý nghĩa này,

Bậc trí lo trì giới,

Mau lẹ làm thanh tịnh,

Con đường đến Niết-Bàn."
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
1.2 Kinh Pháp Cú (Phẩm 21-26)


XXI.

Phẩm Tạp Lục290.

"Nhờ từ bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn,

Bậc trí bỏ lạc nhỏ,

Thấy được lạc lớn hơn."

291.

"Gieo khổ đau cho người,

Mong cầu lạc cho mình,

Bị hận thù buộc ràng

Không sao thoát hận thù."

292.

"Việc đáng làm, không làm,

Không đáng làm, lại làm,

Người ngạo mạn, phóng dật,

Lậu hoặc ắt tăng trưởng."

293.

"Người siêng năng cần mẫn,

Thường thường quán thân niệm,

Không làm việc không đáng,

Gắng làm việc đáng làm,

Người tư niệm giác tỉnh,

Lậu hoặc được tiêu trừ."

294.

"Sau khi giết mẹ cha,

Giết hai Vua Sát lỵ,

Giết vương quốc, quần thần

Vô ưu, phạm chí sống."

295.

"Sau khi giết mẹ cha,

Hai vua Bà-la-môn,

Giết hổ tướng thứ năm

Vô ưu, phạm chí sống."

296.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Phật Ðà thường niệm."

297.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Chánh Pháp thường niệm"298.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng Tăng Già thường niệm."

299.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Tưởng sắc thân thường niệm."

300.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui niềm bất hại."

301.

"Ðệ tử Gotama,

Luôn luôn tự tỉnh giác,

Vô luận ngày hay đêm,

Ý vui tu thiền quán."

302.

"Vui hạnh xuất gia khó,

Tại gia sinh hoạt khó,

Sống bạn không đồng, khổ,

Trôi lăn luân hồi, khổ,

Vậy chớ sống luân hồi,

Chớ chạy theo đau khổ."

303.

"Tín tâm, sống giới hạnh

Ðủ danh xưng tài sản,

Chỗ nào người ấy đến,

Chỗ ấy được cung kính."

304.

"Người lành dầu ở xa

Sáng tỏ như núi tuyết,

Người ác dầu ở gần

Như tên bắn đêm đen."

305.

"Ai ngồi nằm một mình.

Ðộc hành không buồn chán,

Tự điều phục một mình

Sống thoải mái rừng sâu."

XXII.

Phẩm Ðịa Ngục306.

"Nói láo đọa địa ngục

Có làm nói không làm,

Cả hai chết đồng đẳng,

Làm người, nghiệp hạ liệt."

307.

"Nhiều người khoác cà sa,

Ác hạnh không nhiếp phục.

Người ác, do ác hạnh,

Phải sanh cõi Ðịa ngục."

308.

"Tốt hơn nuốt hòn sắt

Cháy đỏ như lửa hừng,

Hơn ác giới, buông lung

Ăn đồ ăn quốc độ."

309.

"Bốn nạn chờ đợi người,

Phóng dật theo vợ người;

Mắc họa, ngủ không yên,

Bị chê là thứ ba,

Ðọa địa ngục, thứ bốn."

310 "Mắc họa, đọa ác thú,

Bị hoảng sợ, ít vui.

Quốc vương phạt trọng hình.

Vậy chớ theo vợ người."

311.

"Như cỏ sa vụng nắm,

Tất bị họa đứt tay

Hạnh Sa môn tà vạy,

Tất bị đọa địa ngục."

312.

"Sống phóng đãng buông lung,

Theo giới cấm ô nhiễm,

Sống Phạm hạnh đáng nghi

Sao chứng được quả lớn?313.

"Cần phải làm, nên làm

Làm cùng tận khả năng

Xuất gia sống phóng đãng,

Chỉ tăng loạn bụi đời."

314.

"Ác hạnh không nên làm,

Làm xong, chịu khổ lụy,

Thiện hạnh, ắt nên làm,

Làm xong, không ăn năn."

315.

"Như thành ở biên thùy,

Trong ngoài đều phòng hộ

Cũng vậy, phòng hộ mình,

Sát na chớ buông lung.

Giây phút qua, sầu muộn.

Khi rơi vào địa ngục."

316.

"Không đáng hổ, lại hổ.

Việc đáng hổ, lại không.

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú."

317.

"Không đáng sợ, lại sợ,

Ðáng sợ, lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến.

Chúng sanh đi ác thú."

318.

"Không lỗi, lại thấy lỗi,

Có lỗi, lại thấy không,

Do chấp nhận tà kiến,

Chúng sanh đi ác thú."

319.

"Có lỗi, biết có lỗi,

Không lỗi, biết là không,

Do chấp nhận chánh kiến,

Chúng sanh đi cõi lành."

XXIII.

Phẩm Voi320.

"Ta như voi giữa trận,

Hứng chịu cung tên rơi,

Chịu đựng mọi phỉ báng.

Ác giới rất nhiều người."

321.

"Voi luyện, đưa dự hội,

Ngựa luyện, được vua cưỡi,

Người luyện, bậc tối thượng

Chịu đựng mọi phỉ báng."

322.

"Tốt thay, con la thuần,

Thuần chủng loài ngựa Sin.

Ðại tượng, voi có ngà.

Tự điều mới tối thượng."

323 "Chẳng phải loài cưỡi ấy,

Ðưa người đến Niết-Bàn,

Chỉ có người tự điều,

Ðến đích, nhờ điều phục."

324.

"Con voi tên Tài Hộ,

Phát dục, khó điều phục,

Trói buộc, không ăn uống.

Voi nhớ đến rừng voi."

325.

"Người ưa ngủ, ăn lớn

Nằm lăn lóc qua lại,

Chẳng khác heo no bụng,

Kẻ ngu nhập thai mãi."

326.

"Trước tâm này buông lung,

Chạy theo ái, dục, lạc.

Nay Ta chánh chế ngự,

Như cầm móc điều voi."

327.

"Hãy vui không phóng dật,

Khéo phòng hộ tâm ý.

Kéo mình khỏi ác đạo,

Như voi bị sa lầy."

328.

"Nếu được bạn hiền trí

Ðáng sống chung, hạnh lành,

Nhiếp phục mọi hiểm nguy

Hoan hỷ sống chánh niệm."

329.

"Không gặp bạn hiền trí.

Ðáng sống chung, hạnh lành

Như vua bỏ nước bại,

Hãy sống riêng cô độc,

Như voi sống rừng voi."

330.

"Tốt Hơn sống một mình,

Không kết bạn người ngu.

Ðộc thân, không ác hạnh

Sống vô tư vô lự,

Như voi sống rừng voi."

331.

"Vui thay, bạn lúc cần!

Vui thay, sống biết đủ,

Vui thay, chết có đức!

Vui thay, mọi khổ đoạn."

332.

"Vui thay, hiếu kính mẹ,

Vui thay, hiếu kính cha,

Vui thay, kính Sa môn,

Vui thay, kính Hiền Thánh."

333.

"Vui thay, già có giới!

Vui thay, tín an trú!

Vui thay, được trí tuệ,

Vui thay, ác không làm."

XXIV.

Phẩm Tham Ái334.

"Người sống đời phóng dật,

Ái tăng như giây leo.

Nhảy đời này đời khác,

Như vượn tham quả rừng."

335.

"Ai sống trong đời này,

Bị ái dục buộc ràng

Sầu khổ sẽ tăng trưởng,

Như cỏ Bi gặp mưa."

336.

"Ai sống trong đời này

Ái dục được hàng phục

Sầu rơi khỏi người ấy

Như giọt nước lá sen."

337.

"Ðây điều lành Ta dạy,

Các người tụ họp đây.

Hãy nhổ tận gốc ái

Như nhổ gốc cỏ Bi.

Chớ để ma phá hoại,

Như giòng nước cỏ lau."

338.

"Như cây bị chặt đốn,

Gốc chưa hại vẫn bền

Ái tùy miên chưa nhổ,

Khổ này vẫn sanh hoài."

339.

"Ba mươi sáu dòng Ái,

Trôi người đốn khả ái.

Các tư tưởng tham ái.

Cuốn trôi người tà kiến."

340.

"Dòng ái dục chảy khắp,

Như giây leo mọc tràn,

Thấy giây leo vừa sanh,

Với tuệ, hãy đoạn gốc."

341.

"Người đời nhớ ái dục,

Ưa thích các hỷ lạc.

Tuy mong cầu an lạc,

Họ vẫn phải sanh già."

342 "Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới.

Họ sanh ái trói buộc,

Chịu khổ đau dài dài."

343.

"Người bị ái buộc ràng,

Vùng vẫy và hoảng sợ,

Như thỏ bị sa lưới.

Do vậy vị tỷ kheo,

Mong cầu mình ly tham

Nên nhiếp phục ái dục."

344.

"Lìa rừng lại hướng rừng

Thoát rừng chạy theo rừng.

Nên xem người như vậy,

Ðược thoát khỏi buộc ràng.

Lại chạy theo ràng buộc."

345.

"Sắt, cây, gai trói buộc

Người trí xem chưa bền.

Tham châu báu, trang sức

Tham vọng vợ và con."

346.

"Người có trí nói rằng:

"Trói buộc này thật bền.

Rì kéo xuống, lún xuống,

Nhưng thật sự khó thoát.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ dục lạc, không màng."

347.

"Người đắm say ái dục

Tự lao mình xuống dòng

Như nhện sa lưới dệt.

Người trí cắt trừ nó,

Bỏ mọi khổ, không màng."

348.

"Bỏ quá, hiện, vị lai,

Ðến bờ kia cuộc đời,

Ý giải thoát tất cả,

Chớ vướng lại sanh già."

349.

"Người tà ý nhiếp phục,

Tham sắc bén nhìn tịnh,

Người ấy ái tăng trưởng,

Làm giây trói mình chặt."

350.

"Ai vui, an tịnh ý,

Quán bất tịnh, thường niệm,

Người ấy sẽ diệt ái,

Cắt đứt Ma trói buộc."

351.

"Ai tới đích, không sợ,

Ly ái, không nhiễm ô

Nhổ mũi tên sanh tử,

Thân này thân cuối cùng."

352.

"Ái lìa, không chấp thủ.

Cú pháp khéo biện tài

Thấu suốt từ vô ngại,

Hiểu thứ lớp trước sau.

Thân này thân cuối cùng

Vị như vậy được gọi,

Bậc Ðại trí, đại nhân."

353.

"Ta hàng phục tất cả,

Ta rõ biết tất cả,

Không bị nhiễm pháp nào.

Ta từ bỏ tất cả

Ái diệt, tự giải thoát.

Ðã tự mình thắng trí,

Ta gọi ai thầy ta?"

354.

"Pháp thí, thắng mọi thí!

Pháp vị, thắng mọi vị!

Pháp hỷ, thắng mọi hỷ!

Ái diệt, dứt mọi khổ!"

355.

"Tài sản hại người ngu.

Không người tìm bờ kia

Kẻ ngu vì tham giàu,

Hại mình và hại người."

356.

"Cỏ làm hại ruộng vườn,

Tham làm hại người đời.

Bố thí người ly tham,

Do vậy được quả lớn."

357.

"Cỏ làm hại ruộng vườn,

Sân làm hại người đời.

Bố thí người ly sân,

Do vậy được quả lớn."

358.

"Cỏ làm hại ruộng vườn,

Si làm hại người đời,

Bố thí người ly si,

Do vậy được quả lớn."

359.

"Cỏ làm hại ruộng vườn,

Dục làm hại người đời.

Bố thí người ly dục,

Do vậy được quả lớn."

XXV.

Phẩm Tỷ Kheo360.

"Lành thay, phòng hộ mắt!

Lành thay, phòng hộ tai.

Lành thay, phòng hộ mũi,

Lành thay, phòng hộ lưỡi."

361.

"Lành thay,phòng hộ thân!

Lành thay, phòng hộ lời,

Lành thay, phòng hộ ý.

Lành thay, phòng tất cả.

Tỷ kheo phòng tất cả.

Thoát được mọi khổ đau."

362.

"Người chế ngự tay chân,

Chế ngự lời và đầu,

Vui thích nội thiền định.

Ðộc thân, biết vừa đủ,

Thật xứng gọi tỷ kheo."

363.

"Tỷ kheo chế ngự miệng,

Vừa lời, không cống cao,

Khi trình bày pháp nghĩa,

Lời lẽ dịu ngọt ngào."

364.

"Vị tỷ kheo thích pháp,

Mến pháp, suy tư Pháp.

Tâm tư niệm chánh Pháp,

Không rời bỏ chánh Pháp."

365.

"Không khinh điều mình được,

Không ganh người khác được

Tỷ kheo ganh tị người,

Không sao chứng Thiền Ðịnh."

366.

"Tỷ kheo dầu được ít,

Không khinh điều mình được,

Sống thanh tịnh không nhác,

Chư thiên khen vị này."

367.

"Hoàn toàn, đối danh sắc,

Không chấp Ta, của Ta.

Không chấp, không sầu não.

Thật xứng danh Tỷ kheo."

368.

"Tỷ kheo trú từ bi,

Tín thành giáo Pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tỉnh.

Các hạnh an tịnh lạc."

369.

"Tỷkheo, tát thuyền này,

Thuyền không, nhẹ đi mau.

Trừ tham, diệt sân hận,

Tất chứng đạt Niết-Bàn."

370.

"Ðoạn năm, từ bỏ năm

Tụ tập năm tối thượng

Tỷ kheo vượt năm ái

Xứng danh "Vượt bộc lưu"371.

"Tỷ kheo, hãy tu thiền,

Chớ buông lung phóng dật,

Tâm chớ đắm say dục,

Phóng dật, nuốt sắt nóng

Bị đốt, chớ than khổ!"

372.

"Không trí tuệ, không thiền,

Không thiền, không trí tuệ.

Người có thiền có tuệ,

Nhất định gần Niết-Bàn."

373.

"Bước vào ngôi nhà trống,

Tỷ kheo tâm an tịnh,

Thọ hưởng vui siêu nhân

Tịnh quán theo chánh pháp."

374.

"Người luôn luôn chánh niệm,

Sự sanh diệt các uẩn,

Ðược hoan hỷ, hân hoan,

Chỉ bậc bất tử biết."

375.

"Ðây Tỷ kheo có trí,

Tụ tập pháp căn bản

Hộ căn, biết vừa đủ,

Giữ gìn căn bản giới,

Thường gần gũi bạn lành,

Sống thanh tịnh tinh cần."

376.

"Giao thiệp khéo thân thiện,

Cử chỉ mực đoan trang.

Do vậy hưởng vui nhiều,

Sẽ dứt mọi khổ đau."

377.

"Như hoa Vassikà,

Quăng bỏ cánh úa tàn,

Cũng vậy vị Tỷ kheo,

Hãy giải thoát tham sân."

378.

"Thân tịnh, lời an tịnh,

An tịnh, khéo thiền tịnh.

Tỷ kheo bỏ thế vật,

Xứng danh "bậc tịch tịnh ".379.

"Tự mình chỉ trích mình,

Tự mình dò xét mình,

Tỷ kheo tự phòng hộ

Chánh niệm, trú an lạc."

380.

"Tự mình y chỉ mình,

Tự mình đi đến mình,

Vậy hãy tự điều phục,

Như khách buôn ngựa hiền."

381.

"Tỷ kheo nhiều hân hoan,

Tịnh tín giáo pháp Phật,

Chứng cảnh giới tịch tịnh,

Các hạnh an tịnh lạc."

382.

"Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ

Siêng tu giáo pháp Phật,

Soi sáng thế gian này,

Như trăng thoát khỏi mây."

XXVI.

Phẩm Bà-La-Môn383.

"Hỡi này Bà là môn,

Hãy tinh tấn đoạn dòng,

Từ bỏ các dục lạc,

Biết được hành đoạn diệt,

Người là bậc vô vi."

384.

"Nhờ thường trú hai pháp

Ðến được bờ bên kia.

Bà-la-môn có trí,

Mọi kiết sử dứt sạch."

385.

"Không bờ này, bờ kia

Cả hai bờ không có,

Lìa khổ, không trói buộc

Ta gọi Bà-la-môn."

386.

"Tu thiền, trú ly trần

Phận sự xong, vô lậu,

Ðạt được đích tối thượng,

Ta gọi Bà-la-môn."

387.

"Mặt trời sáng ban ngày,

Mặt trăng sáng ban đêm.

Khí giới sáng Sát lỵ,

Thiền định sáng Phạm chí.

Còn hào quang đức Phật,

Chói sáng cả ngày đêm."

388.

"Dứt ác gọi Phạm chí,

Tịnh hạnh gọi Sa môn,

Tự mình xuất cấu uế,

Nên gọi bậc xuất gia."

389.

"Chớ có đập Phạm chí!

Phạm chí chớ đập lại!

Xấu thay đập Phạm chí

Ðập trả lại xấu hơn!"

390.

"Ðối vị Bà-la-môn,

Ðây không lợi ích nhỏ.

Khi ý không ái luyến,

Tâm hại được chận đứng,

Chỉ khi ấy khổ diệt,"391.

"Với người thân miệng ý,

Không làm các ác hạnh

Ba nghiệp được phòng hộ,

Ta gọi Bà-la-môn."

392.

"Từ ai, biết chánh pháp

Bậc Chánh Giác thuyết giảng,

Hãy kính lễ vị ấy,

Như phạm chí chờ lửa."

393.

"Ðược gọi Bà-la-môn,

Không vì đầu bện tóc,

Không chủng tộc, thọ sanh,

Ai thật chân, chánh, tịnh,

Mới gọi Bà-la-môn."

394.

"Kẻ ngu, có ích gì

Bện tóc với da dê,

Nội tâm toàn phiền não,

Ngoài mặt đánh bóng suông."

395.

"Người mặc áo đống rác,

Gầy ốm, lộ mạch gân,

Ðộc thân thiền trong rừng.

Ta gọi Bà-la-môn."

396 "Ta không gọi Phạm Chí,

Vì chỗ sanh, mẹ sanh.

Chỉ được gọi tên suông

Nếu tâm còn phiền não.

Không phiền não, chấp trước

Ta gọi Bà-la-môn."

397.

"Ðoạn hết các kiết sử,

Không còn gì lo sợ

Không đắm trước buộc ràng

Ta gọi Bà-la-môn398.

"Bỏ đai da, bỏ cương

Bỏ dây, đồ sở thuộc,

Bỏ then chốt, sáng suốt,

Ta gọi Bà-la-môn."

399.

"Không ác ý, nhẫn chịu,

Phỉ báng, đánh, phạt hình,

Lấy nhẫn làm quân lực,

Ta gọi Bà-la-môn."

400.

"Không hận, hết bổn phận,

Trì giới, không tham ái,

Nhiếp phục, thân cuối cùng,

Ta gọi Bà-la-môn."

401.

"Như nước trên lá sen,

Như hột cải đầu kim,

Người không nhiễm ái dục,

Ta gọi Bà-la-môn."

402.

"Ai tự trên đời này,

Giác khổ, diệt trừ khổ,

Bỏ gánh nặng, giải thoát,

Ta gọi Bà-la-môn."

403.

"Người trí tuệ sâu xa,

Khéo biết đạo, phi đạo

Chứng đạt đích vô thượng,

Ta gọi Bà-la-môn."

404.

"Không liên hệ cả hai,

Xuất gia và thế tục,

Sống độc thân, ít dục,

Ta gọi Bà-la-môn."

405.

"Bỏ trượng, đối chúng sanh,

Yếu kém hay kiên cường,

Không giết, không bảo giết,

Ta gọi Bà-la-môn."

406.

"Thân thiện giữa thù địch

Ôn hòa giữa hung hăng.

Không nhiễm, giữa nhiễm trước,

Ta gọi Bà-la-môn."

407.

"Người bỏ rơi tham sân,

Không mạn không ganh tị,

Như hột cải đầu kim,

Ta gọi Bà-la-môn."

408.

"Nói lên lời ôn hòa,

Lợi ích và chân thật,

Không mất lòng một ai,

Ta gọi Bà-la-môn."

409.

"Ở đời, vật dài, ngắn,

Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu

Phàm không cho không lấy,

Ta gọi Bà-la-môn."

410.

"Người không có hy cầu,

Ðời này và đời sau,

Không hy cầu, giải thoát,

Ta gọi Bà-la-môn."

411.

"Người không còn tham ái,

Có trí, không nghi hoặc,

Thể nhập vào bất tử,

Ta gọi Bà-la-môn."

412.

"Người sống ở đời này

Không nhiễm cả thiện ác,

Không sầu, sạch không bụi

Ta gọi Bà-la-môn."

413 "Như trăng, sạch không uế

Sáng trong và tịnh lặng,

Hữu ái, được đoạn tận,

Ta gọi Bà là môn."

414.

"Vượt đường nguy hiểm này,

Nhiếp phục luân hồi, si,

Ðến bờ kia thiền định

Không dục ái, không nghi,

Không chấp trước, tịch tịnh,

Ta gọi Bà-la-môn."

415.

"Ai ở đời, đoạn dục,

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Dục hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà-la-môn."

416.

"Ai ở đời đoạn ái

Bỏ nhà, sống xuất gia,

Ái hữu được đoạn tận,

Ta gọi Bà-la-môn."

417.

"Bỏ trói buộc loài người,

Vượt trói buộc cõi trời.

Giải thoát mọi buộc ràng,

Ta gọi Bà-la-môn."

418.

"Bỏ điều ưa, điều ghét,

Mát lạnh, diệt sanh y

Bậc anh hùng chiến thắng,

Nhiếp phục mọi thế giới,

Ta gọi Bà-la-môn."

419.

"Ai hiểu rõ hoàn toàn

Sanh tử các chúng sanh,

Không nhiễm, khéo vượt qua,

Sáng suốt chân giác ngộ,

Ta gọi Bà-la-môn."

420.

"Với ai, loài trời, người

Cùng với Càn thát bà,

Không biết chỗ thọ sanh

Lậu tận bậc La hán.

Ta gọi Bà-la-môn."

421 "Ai quá, hiện, vị lai

Không một sở hữu gì,

Không sở hữu không nắm,

Ta gọi Bà-la-môn."

422.

"Bậc trâu chúa, thù thắng

Bậc anh hùng, đại sĩ,

Bậc chiến thắng, không nhiễm,

Bậc tẩy sạch, giác ngộ,

Ta gọi Bà-la-môn."

423.

"Ai biết được đời trước,

Thấy thiên giới, đọa xứ,

Ðạt được sanh diệt tận

Thắng trí, tự viên thành

Bậc mâu ni đạo sĩ.

Viên mãn mọi thành tựu

Ta gọi Bà-la-môn."
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
Kinh Phật Tự Thuyết - Udàna


Chương 1: Phẩm Bồ Ðề

Chương 2: Phẩm Muccalinda

Chương 3: Phẩm Nanda Chương Một(I) (Ud 1)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát.

Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh thứ nhứt, khéo thuận chiều tác ý lý Duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu.

Do cái này sanh, cái kia sanh.

Tức là duyên vô minh, có các hành; duyên các hành, có thức; duyên thức, có danh sắc; duyên danh sắc, có sáu xứ; duyên sáu xứ, có xúc; duyên xúc, có thọ; duyên thọ, có ái; duyên ái, có thủ; duyên thủ, có hữu; duyên hữu, có sanh; duyên sanh, có già, chết, sầu bi khổ ưu não.

Như vậy là sự tập khởi của khổ uẩn này".Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:1.

Thật sự, khi các pháp,

Có mặt, hiện khởi lên,

Ðối vị Bà-la-môn,

Nhiệt tâm hành thiền định,

Khi ấy, với vị ấy,

Các nghi hoặc tiêu trừ,

Vì quản tri hoàn toàn,

Pháp cùng với các nhân.(II) (Ud 2)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở tại Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác.

Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi kiết-già thọ hưởng lạc giải thoát.

Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy, trong đêm canh giữa, khéo nghịch chiều tác ý lý Duyên khởi: "Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu.

Do cái này diệt, cái kia diệt.

Tức là, do vô minh diệt nên hành diệt; do hành diệt, nên thức diêt; do thức diệt, nên danh sắc diệt; do danh sắc diệt nên sáu xứ diệt; do sáu xứ diệt nên xúc diệt, do xúc diệt nên thọ diệt, do thọ diệt, nên ái diệt; do ái diệt, nên thủ diệt; do thủ diệt, nên hữu diệt; do hữu diệt, nên sanh diệt; do sanh diệt, nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt.

Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này".Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.2.

Thật sự khi các pháp,

Có mặt, hiện khởi lên,

Ðối với vị Bà-la-môn,

Nhiệt tâm, hành thiền định,

Khi ấy, với vị ấy,

Các nghi hoặc tiêu trừ,

Vì đã biết hoàn toàn,

Sự tiêu diệt các duyên.(III) (Ud 2)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác.

Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày, ngồi trong một thế ngồi Kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát.

Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày, ra khỏi định ấy, trong đêm canh cuối cùng, khéo thuận chiều và nghịch chiều tác ý lý duyên khởi: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu.

Do cái này sanh, cái kia sanh.

Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu.

Do cái này diệt, cái kia diệt".

Tức là duyên vô minh có các hành.

Duyên các hành có thức...

Duyên sanh, có già chết, sầu bi khổ ưu não.

Như vậy là tập khởi của khổ uẩn này.

Do đoạn diệt, ly tham, vô minh không có dư tàn, nên các hành diệt.

Do các hành diệt, nên thức diệt...

Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này".Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:3.

Thật sự khi các pháp

Có mặt, hiện khởi lên,

Ðối với vị Bà-la-môn,

Nhiệt tâm hành thiền định,

Quét sạch các ma quân,

Vị ấy đứng, an trú,

Như ánh sáng mặt trời,

Chói sáng khắp hư không.(IV) (Ud 3)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây bàng ajapala, khi mới chứng Chánh Ðẳng Giác.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn trong bảy ngày ngồi trong một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát.

Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy ra khỏi định.

Có một Bà-la-môn thuộc dòng họ Huhunka, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên lời chào hỏi, sau khi nói lời chào hỏi thân hữu, rồi đứng một bên.

Ðứng một bên, Bà-la-môn ấy nói với Thế Tôn:- Tôn giả Gotama, cho đến như thế nào là Bà-la-môn, và những pháp nào tác thành Bà-la-môn?Thế Tôn sau khi biết được ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:4.

Vị Bà-la-môn nào,

Loại trừ các ác pháp,

Không kiêu, không uế nhiễm,

Tự ngã khéo chế ngự,

Vệ-đà được thông đạt,

Phạm hạnh được viên thành,

Vị Bà-la-môn ấy,

Có thể nói lên được,

Lời Phạm ngữ đúng pháp,

Vị ấy ở đời này,

Không hề có mạn tâm

Bất cứ ở nơi nào.(V) (Ud 3)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), khu vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất), Tôn giả Mahàmoggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) Tôn giả Mahàkassapa (Ðại Ca-diếp), Tôn giả Mahàkaccayàna (Ðại Ca-chiên-diên), Tôn giả Mahàkotthita (Ðại Câu-thi-la), Tôn giả Mahàkappina (Ðại kiếp-tân-na), Tôn giả Mahàcunda (Ðại-Thuần-đà), Tôn giả Anuruddha (A-na-luật-đà), Tôn giả Revata (Ly-bà-đà), Tôn giả Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), Tôn giả Ananda (A-nan) đi đến Thế Tôn.

Thế Tôn thấy các Tôn giả ấy từ xa đi đến, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:- Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn này đang đi đến.

Này các Tỳ-kheo, các Bà-la-môn này đang đi đến.Khi được nói vậy, một Tỳ-kheo, thọ sanh là Bà-la-môn, bạch Thế Tôn:- Cho đến như thế nào, bạch Thế Tôn, là Bà-la-môn, và có bao nhiêu pháp, tác thành Bà-la-môn?Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:5.

Sau khi loại ác pháp,

Ai thường hành chánh niệm,

Kiết sử đoạn, giác ngộ,

Những vị ấy ở đời,

Thật là Bà-la-môn.(VI) (Ud 4)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Lúc bấy giờ Tôn giả Mahakassapa trú ở hang Pipphali, đang bị bệnh rất khổ đau, bệnh trầm trọng.

Rồi Tôn giả Mahàkassapa sau một thời gian, thoát khỏi bệnh ấy.

Rồi Tôn giả Mahàkassapa thoát khỏi bệnh ấy, suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi vào Vương Xá để khất thực ".

Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên nhân, đang cố gắng sửa soạn để Tôn giả Mahàkassapa nhận đựoc đồ ăn khất thực.

Nhưng Tôn giả Mahàkassapa gạt bỏ năm trăm Thiên nhân ấy, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực, đi ngang những con đường những con người nghèo, con đường những người ăn xin, con đường những người thợ dệt.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:6.

Ai sống không nhờ người,

Không được người biết đến,

Sống tự mình chế ngự,

An trú trên lõi cây,

Các lậu hoặc đã đoạn,

Sân hận được trừ diệt,

Vị ấy được Ta gọi,

Là vị Bà-la-môn.(VII) (Ud 4)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Pàtali tại Ajakalàpaka, chỗ ở của Dạ-xoa Ajakalàpa.

Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi ngoài trời, trong đêm tối đen, và trời mưa từng hột xuống.

Rồi Dạ-xoa Ajakalàpaka muốn làm cho Thế Tôn sợ hãi, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, ba lần nói lên gần Thế Tôn tiếng gào thét của mình là Akkulopakkulo: "Này Sa môn, có con quỷ cho Ông ".

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:7.

Khi nào Bà-la-môn

Ðối với pháp của mình,

Ðã đạt được bờ kia,

Vị ấy vượt qua được,

Ác quỷ yêu ma này.(VIII) (Ud 5)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ Tôn giả Sangamàji đã đi đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.

Người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nghe được tin Tôn giả Sangamàji đã đến Sàvattthi.

Nàng liền dắt người con đi đến Jetavana.

Lúc bấy giờ Tôn giả Sangamàji đang ngồi dưới gốc cây đề nghỉ ban ngày.

Rồi người vợ trước đây của Tôn giả Sangamàji, đi đến Tông Giả Sangamàji, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sangamàji:- Này Sa môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sangamàji, giữ im lặng.

Lần thứ hai, người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nói với Tôn giả Sangamàji:- Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!Lần thứ hai, Tôn giả Sangamàji giữ im lặng.

Lần thứ ba người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji nói với Tôn giả Sangamàji:- Này Sa-môn, hãy nuôi dưỡng tôi và đứa con nhỏ!Lần thứ ba, Tôn giả Sangamàji vẫn giữ im lặng.

Rồi người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji đặt đứa nhỏ trước mặt Tôn giả Sangamàji rồi bỏ đi, nói rằng:- Này Sa-môn, đây là đứa con trai của Sa-môn.

Hãy nuôi dưỡng nó!Tôn giả Sangamàji không có ngó đến đứa nhỏ ấy, cũng không nói gì.

Rồi người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji sau khi đi không xa, ngó lui lại thấy Tôn giả Sangamàji không ngó đứa con nhỏ ấy, cũng không nói; thấy vậy liền suy nghĩ: "Sa môn này không muốn ngó đến người con ".

Nàng liền trở lui lại, bồng lấy đứa con rồi ra đi.

Thế Tôn với Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, thấy cử chỉ thô bạo như vậy của người vợ trước kia của Tôn giả Sangamàji.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết được ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:8.

Không hoan hỷ, nàng đến,

Không sầu muộn, nàng đi,

Giải thoát khỏi ái phược,

Là Sangamàji

Ta gọi người như vậy,

Là vị Bà-la-môn.(IX) (Ud 6)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Gayà, tại Gayasisa.

Lúc bấy giờ, nhiều kẻ bện tóc, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặn xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: "Với hành động này, được thanh tịnh ".Thế Tôn thấy nhiều kẻ bện tóc ấy, trong những đêm gió lạnh mùa đông, giữa những ngày mồng tám, trong thời tuyết rơi, đang lặng xuống và nổi lên trong nước, làm việc lặn xuống nổi lên, tưới nước và tế lửa, nghĩ rằng: "Với hành động này, được thanh tịnh ".Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:9.

Thanh tịnh không có nước,

Ở đây nhiều người tắm,

Trong ai có chân thật,

Lại thêm có Chánh pháp,

Người ấy là Thanh tịnh,

Người ấy là Phạm chí.(X) (Ud 6)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy ".

Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:- Này Bàhiya.

Ông không phải là A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán.

Ông không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này Ông có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường đưa đến A-la-hán.- Nhưng ai là những vị, trong thế giới này, với thế giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán?- Này Bàhiya, có thành phố tên là Sàvatthi trên những quốc lộ phương Bắc.

Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc A-la-hán.

Chánh Ðẳng Giác.

Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.Rồi Bàhiya Dàruciriya, được Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika.

Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang đi kinh hành giữa trời.

Bàhiya Dàruciritya đi đến các Tỳ-kheo ấy, sau khi đến nói như sau:- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác ở đâu?

Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.- Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà để khất thực.Rồi Bàhiya Dàraciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tin, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh.

Thấy vậy, Bàhiya Dàruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya Dàruciriya:- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.Lần thứ hai Bàhiya Dàruciriya Bạch Thế Tôn:- Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con.

Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Màhiya Dàruciriya:- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.Lần thứ ba, Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn:- Thật khó biết... hạnh phúc lâu dài.- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy.

Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe.

Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng.

Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ".

Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập.

Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri.

Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy.

Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa.

Như vậy là đoạn tận khổ đau.Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya Dàruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya Dàruciriya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi.

Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya.

Thế Tôn sau khi khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy Bàhiya Dàruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:- Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya Dàruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên.

Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua đời!- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của Bàhiya Dàruciriya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya Dàruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấy.

Sanh thứ cho vị ấy là gì?

Ðời sau vị ấy là gì?- Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bàhiya Dàruciriya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp.

Này các Tỷ-kheo, Bàhiya Dàruciriya đã nhập Niết Bàn.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:10.

Chỗ nào nước và đất,

Lửa, gió không chấp trước,

Tại đây sao không chói,

Mặt trời không chiếu sáng,

Tại đây trăng không chiếu,

Tại đây u ám không,

Khi ẩn sĩ Phạm chí,

Tự mình với trí tuệ,

Thể nhập vào Chánh pháp,

Vị ấy được giải thoát

Khỏi sắc và vô sắc,

Khỏi an lạc, đau khổ.Lời cảm hứng này được Thế Tôn thuyết giảng và tôi được nghe như vậy.

Chương HaiPhẩm Mucalinda(I) (Ud 10)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Uruvela, trên bờ sông Neranjarà, dưới gốc cây Mucalinda, khi Ngài mới chứng Chánh Ðẳng Giác.

Lúc bấy giờ Thế Tôn, trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết-già, thọ hưởng lạc giải thoát.

Lúc bấy giờ, một cơn giông tố lớn trái mùa khởi lên và trong bảy ngày, trời mưa gió lạnh, bầu trời u ám.

Rồi thần rắn Mucalinda ra khỏi chỗ ở của mình, với thân cuốn vòng quanh bảy vòng thân của Thế Tôn, và đứng thẳng, vươn cao các mang lớn trên đầu (Thế Tôn) với ý nghĩ: "Mong Thế Tôn khỏi lạnh!

Mong Thế Tôn khỏi nóng!

Mong Thế Tôn khỏi xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng, các loài bò sát ".Rồi Thế Tôn sau bảy ngày ấy, ra khỏi định ấy.

Rồi Mucalinda, vua các loài rắn, sau khi biết trời đã sáng tỏ, mây đã được thoát đi, cởi mở thân mình khỏi thân Thế Tôn, biến dạng thân sắc của mình, hóa hiện thân sắc một thanh niên đứng trước mặt Thế Tôn, chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:1.

Viễn ly là an lạc,

Với người biết tri túc,

Với người có nghe pháp,

Với người có chánh kiến

Không sân là an lạc,

Những ai ở trên đời,

Ðối hữu tình chúng sanh

Biết tự chế, ngăn ngừa.

Ly tham là an lạc,

Vượt các dục ở đời,

Ai nhiếp phục ngã mạn,

Ðây an lạc tối thượng.(II) (Ud 10)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỳ-kheo, sau bữa ăn, đi khất thực trở về, ngồi họp tại hội trườong, và câu chuyện này được khởi lên:"Này chư Hiền, giữa hai vị vua này, vua Seniya Bimlisàra ở Magdha, và vua Pasenadiở xứ Kosala, ai giàu có hơn, ai tài sản lớn hơn, ai kho tàng lớn hơn, ai quốc độ lớn hơn, ai xe cộ lớn hơn, ai sức mạnh lớn hơn, ai thần lực lớn hơn, ai uy lực lớn hơn?

".

Rồi câu chuyện này giữa các Tỳ-kheo ấy chưa được chấm dứt.Rồi Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.

Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, ở đây, nay các Thầy ngồi hội họp với câu chuyện gì?

Và câu chuyện gì giữa chừng chưa chấm dứt giữa các Thầy?- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, đi khất thực trở về... câu chuyện này được khơi lên... ai uy lực lớn hơn " Câu chuyện này giữa chúng con, bạch Thế Tôn, chưa được chấm dứt thời Thế Tôn đã đến.- Này các Tỷ-kheo, thật không thích đáng cho các Thầy, những thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại nói câu chuyện như vậy.

Này các Tỳ-kheo, khi các Thầy hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: Ðàm luận về Chánh pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:2.

Dục lạc gì ở đời,

Kể cả thiên lạc này,

Không bằng phần mười sáu,

Lạc do ái đoạn diệt.(III) (Ud 11)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi tại Jetavana khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ một số đông đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy, giữa Sàvatthi và Jetavana.

Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Sàvatthi để khất thực.

Thế Tôn thấy giữa Sàvatthi và Jetavana nhiều đứa trẻ đang hành hạ con rắn với cây gậy.Thế Tôn sau khi hiểu hết ý nghĩa này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:3.

Ai làm hại với trượng,

Kẻ tìm lạc cho mình,

Người ấy sau khi chết,

Không tìm được an lạc.

Ai không hại với trượng,

Kẻ tìm lạc cho mình,

Ðời sau tìm được lạc.(IV) (Ud 13)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

Chúng Tăng cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ cúng dường, tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

Nhưng các du sĩ ngoại đạo không được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

Các du sĩ ấy không kham nhẫn được việc ấy Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo được kính trọng.

Khi nào gặp các Tỷ-kheo ở làng và ở trong rừng, họ dùng những lời nói không tốt lành, thô ác, mắng nhiếc, phỉ báng, công kích não hại các Tỷ-kheo.

Rồi một số đông Tỷ-kheo, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, các Tỳ-kheo ấy bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng... dược phẩm trị bệnh.

Chúng Tỷ-kheo cũng được cung kính tôn trọng... dược phẩm trị bệnh nhưng các du sĩ ngoại đạo không được tôn kính, tôn trọng... dược phẩm trị bệnh.

Rồi bạch Thế Tôn, các ngoại đạo du sĩ ấy không kham nhẫn được sự việc Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo được kính trọng... não hại chúng.Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này.4.

Giữa làng, tại núi rừng,

Cảm thọ khổ và lạc,

Chớ quy về tự mình,

Chớ quy về người khác,

Các xúc được cảm thọ,

Là do duyên sanh y,

Với vị không sanh y,

Do đâu, xúc cảm thọ.(V) (Ud 13)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, một nam cư sĩ tên là Icchànanga-laka đi đến Sàvatthi vì một vài công việc phải làm.

Nam cư sĩ ấy, sau khi làm công việc xong ở Sàvatthi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với nam cư sĩ ấy đang ngồi một bên:- Ðã lâu rồi, này Nam cư sĩ, ông tạo nên cơ hội này, tức là đến đây!- Bạch Thế Tôn, đã lâu rồi, con muốn yết kiến Thế Tôn.

Nhưng con bị bận bịu lợi bởi những công việc phải làm này nên con không thể đi đến yết kiến Thế Tôn được.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:5.

Ai lão luyện Chánh pháp,

Ðược nghe nhiều Chánh pháp,

Không xem bất cứ gì

Là an lạc của mình.

Hãy xem, não hại thay,

Những ai có sở hữu,

Khiến cho con người này,

Bị trói buộc người khác.(VI) (Ud 13)Như vậy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, thanh nữ trẻ Bà-la-môn, vợ của một du sĩ có thai sắp sinh.

Vợ của du sĩ ấy nói với du sĩ:- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về.

Tôi cần dùng khi sanh con!Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo nói với nữ du sĩ:- Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng?Lần thứ hai, nữ du sĩ nói với du sĩ:- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về.

Tôi cần dùng khi sanh con!Lần thứ hai du sĩ nói với nữ du sĩ:- Ở đâu, ta có thể đem dầu về cho nàng?Lần thứ ba, nữ du sĩ nói với du sĩ:- Này Bà-la-môn, hãy đi và đem dầu về.

Tôi cần dùng khi sanh con!Lúc bấy giờ, tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala, một Sa-môn hay Bà-la-môn có thể uống bơ hay dầu cho đến thỏa thích, nhưng không được mang đi.

Người du sĩ ấy suy nghĩ: "Tại một kho của vua Pasenadi nước Kosala... không được mang đi.

Vậy ta hãy đi đến nhà kho của vua Pasnadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về đến nhà, mửa dầu ấy ra và ta cho nữ du sĩ dùng khi sanh con ".

Rồi du sĩ ấy đi đến nhà kho của vua Pasenadi nước Kosala, uống dầu cho đến thỏa thích, sau khi về nhà không có thể mửa lên hay mửa xuống; có cảm thọ khổ đau, nhói đau, đau khốc liệt thống khổ, lăn lộn qua lại.Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sàvatthi để khất thực.

Thế Tôn thấy người du sĩ ấy cảm thọ khổ đau, nhói đau khốc liệt, thống khổ, lăn lộn qua lại.

Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:6.

An lạc thay là người

Không có gì sở hữu,

Người chánh tri hiểu biết,

Không có gì sở hữu.

Hãy xem não hại thay,

Những ai có sở hữu,

Khiến cho con người này,

Bị trói buộc người khác.(VIII) (Ud 14)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthaphindika.

Lúc bấy giờ, con trai độc nhất của một nam cư sĩ, khả ái, đáng yêu bị mệnh chung.

Rồi nhiều nam cư sĩ, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với các cư sĩ ấy đang ngồi một bên.- Này các Cư sĩ, sao các Ông, với áo đẫm ướt, với tóc đẫm ướt, lại đến đây, trong lúc quá sớm như vậy?Khi được nói vậy, người cư sĩ ấy thưa với Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, người con trai độc nhất của con khả ái, khả ý đã mệnh chung.

Do vậy chúng con với áo ướt đẫm, với tóc ướt đẫm đã đến đây trong lúc quá sớm!Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:7.

Bị khả ái, dễ thương

Trói buộc và chi phối,

Rất nhiều chư Thiên chúng,

Và nhiều hạng con người

Ðau khổ và héo mòn,

Bị thần chết nhiếp phục.

Ngày đêm không phóng dật,

Từ bỏ dung sắc đẹp,

Vị ấy đào gốc khổ,

Mồi nhử của ác ma,

Thật khó vượt qua được.(VIII) (Ud 15)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Kundiyàya, trong rừng Kunditthàna.

Lúc bấy giờ, Suppavàsà, con gái của vua xứ Koliya có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy.

Dầu nàng cảm giác những cảm thọ khổ đau, nhức nhối, khốc liệt, thống khổ, nàng vẫn duy trì ba niệm: "Thế Tôn thật là bậc Chánh Ðẳng Giác, Ngài thuyết pháp để đoạn tận đau khổ này.

Chúng đệ tử của bậc Thế Tôn ấy là khéo hành trì.

Chúng hành trì để đoạn tận đau khổ này.

Thật sự an lạc là Niết-bàn, tại đây khổ đau này không có mặt ".

Rồi Suppavàsà, con vua Koliya gọi ngưòi chồng của mình:- Này Phu quân, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú và thưa: "-Bạch Thế Tôn, Suppavàsà con gái vua Koliya cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh ít não, khinh an khỏe mạnh, lạc trú ".

Rồi hãy nói như sau: "Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thứ bảy.

Dầu nàng cảm giác những cảm thọ.... tại đấy khổ đau này không có mặt!

"- Thật là tốt lành.Koliyaputta đáp lại Suppavàsà, con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn,.... lạc trú.... tại đấy khổ đau này không có mặt.- Mong rằng Suppavàsà, con gái vua Koliya được an lạc, không bệnh, sanh đứa con không có bệnh hoạn.

Với lời nói này của Thế Tôn, Suppavàsà, con gái Koliya, được an lạc không bệnh, đẻ đứa con trai không bệnh.- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Koliyaputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi trở về nhà của mình.

Koliyaputta thấy Suppavàsà, con gái vua Koliya, được an lạc, không bệnh, sanh đứa con trai không bệnh, thấy vậy liền suy nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay!

Thật hy hữu thay, thần lực và đại uy lực của Thế Tôn, khiến cho Suppavàsà con gái vua Koliya này, với lời nói của Thế Tôn được an lạc, không bệnh, sanh con trai không bệnh!".

Nghĩ vậy, Koliyaputta hoan hỷ, thích thú, tâm sanh hỷ lạc.

Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, bảo người chồng mình:- Hãy đi, này Phu quân, hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đếnc nhân danh tôi, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: " - Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, có thai đến bảy năm và nay bị đau đẻ đến ngày thú bảy.

Nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh.

Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo dùng cơm trong bảy ngày.

Mong Thế Tôn hãy nhận lời thọ bảy bữa cơm của Suppavàsà với chúng Tỷ-kheo".- Thật là tốt lành.Koliyaputta đáp lại Suppavàsà, con gái vua Koliya, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, Koliyaputta bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Suppavàsà, con gái vua Koliya, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và nói như sau: Suppavàsà, có thai đến bảy năm...

đau đẻ đến ngày thứ bảy.

Nay nàng được an lạc, không bệnh và sanh đứa con trai không bệnh.

Nay nàng muốn mời chúng Tỳ-kheo... với chúng Tỷ-kheo!Lúc bấy giờ một nam cư sĩ khác đã mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là vị cầm đầu, ngày mai dùng cơm người cư sĩ ấy là người hộ trì cho Tôn giả Moggallàna.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Mahà Mogallàna:- Này Moggallàna, hãy đến người cư sĩ, sau khi đến, nói với người cư sĩ ấy như sau: "Này Hiền giả, Suppavàsà con của vua Koliya.. có thai đến bảy năm...

đến ngày thứ bảy.

Nay nàng được an lạc..

Nay nàng muốn mời chúng Tỷ-kheo... với chúng Tỷ-kheo.

Hãy để cho Suppavàsà tổ chức bảy ngày cơm trước.

Sau sẽ đến lượt người hộ trì cho người".- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!.Tôn giả Mahà Moggallàna vâng đáp Thế Tôn rồi đi đến người cư sĩ ấy, sau khi đến nói với người cư sĩ:- Này Hiền giả Suppavàsà...

Hãy để cho Suppavàsà con của Koliya tổ chức bảy ngày cơm trước, sau sẽ đến phiên Ông.- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo đảm cho con ba pháp về tài sản, về thọ mạng, về lòng tin, hãy để cho Suppavàsà, con gái của vua Koliya, tổ chức trước, rồi sau đến phiên con.- Này Hiền giả, về hai pháp ta sẽ bảo đảm cho ông, về tài sản và về thọ mạng.

Còn về lòng tin, thời ông phải tự bảo đảm!.- Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả bảo đảm cho con hai pháp, về tài sản và về thọ mạng, hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya, tổ chức bảy ngày con trước.

Rồi sẽ đến phiên con.Rồi Tôn giả Mahà Moggallàna, sau khi thuyết phục được người cư sĩ ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, cư sĩ ấy đã được con thuyết phục.

Hãy để cho Suppavàsà, con gái vua Koliya, tổ chức bảy ngày cơm trước, sau sẽ đến phiên người cư sĩ ấy.Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, trong bảy ngày mời chúng Tỷ-kheo với Thế Tôn là bậc dẫn đầu, tự tay mời và làm cho thỏa mãn với những món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và khiến cho đứa trẻ đảnh lễ Thế Tôn và toàn thể chúng Tỷ-kheo.

Rồi Tôn giả Sàriputta nói với đứa trẻ:- Này Con, Con có kham nhẫn được không?

Con có nuôi sống được không?

Con có đau khổ gì không?- Thưa Tôn giả, từ đâu con có thể kham nhẫn?

Từ đâu con có thể nuôi sống?

Từ đâu con không có đau khổ?

Con đã sống bảy năm trong các ghè đầy máu!Rồi Suppavàsà, con gái vua Koliya, nghĩ rằng: "Con ta đang nói chuyện với vị tướng quân về Pháp, hoan hỷ, tín thọ, với tâm hỷ lạc."

Rồi Thế Tôn nói với Suppavàsà, con gái vua Koliya:- Này Suppavàsà.

Con có muốn một người con trai khác như vậy không?- Bạch Thế Tôn, con muốn có bảy người con trai như vậy!Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này,ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:8.

Không vui, giả dạng vui,

Không ái, giả dạng ái,

Khổ đau, giả dạng lạc,

Nhiếp phục kẻ phóng dật.(IX) (Ud 18)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ngôi lầu của mẹ Migàra.Mẹ Migàra có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala và vua Pasenadi nước Kosala chưa có quyết định về việc ấy.

Rồi Visàkhà, mẹ của Migàra, vào buổi sáng sớm đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Rồi Thế Tôn nói với Visàkhà, mẹ của Migàra, đang ngồi một bên:- Này Visàkhà, Bà từ đâu đi đến sớm như vậy?- Bạch Thế Tôn con có công việc liên hệ đến vua Pasenadi nước Kosala... về việc ấy.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:9.

Mọi tùng thuộc là khổ,

Mọi chủ quyền là lạc,

Chung dùng làm não hại,

Trói buộc khó vượt qua.(X) (Ud 18)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Anupiya tại rừng xoài.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường hay nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay!

Ôi, an lạc thay!

" Một số đông Tỳ-kheo nghe Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay!

Ôi an lạc thay!

".

Nghe vậy, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Không gì nghi ngờ chư Hiền, Tôn giả Bhaddiya con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì Tôn giả nhớ đến an lạc ấy, nên khi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây... thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay!

Ôi, an lạc thay!

" Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha khi đi đến rừng... nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay!

Ôi, an lạc thay!

"... không có nghi ngờ gì nữa.. sống Phạm hạnh không có hoan hỷ...

"Ôi, an lạc thay!

Ôi, an lạc thay!

".Rồi Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:- Này Tỳ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta nói với Bhaddiya, con của Kàligodha: "Thưa hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả!

".- Thưa vâng bạch Thế Tôn.Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha:- Thưa Hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.- Thưa vâng, Hiền giả.Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đang ngồi một bên:- Có thật chăng, này Bhaddiya, Thầy đi đến khu rừng "...

Ôi, an lạc thay!

Ôi, an lạc thay!

"?- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.- Do thấy mục đích gì đi đến khu rừng "... an lạc?

".- Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt người khéo bảo vệ.

Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ, ngoài nước cũng có đặt người khéo bảo vệ.

Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ.

Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu, nhẹ nhàng, tâm như con thú rừng.

Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến khu rừng... con nói lên lời cảm hứng "... an lạc thay!

".Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:10.

Với ai, trong nội tâm,

Không có lòng phẫn nộ,

Vượt qua hữu, phi hữu,

Vị ấy thoát sợ hãi,

An lạc, không sầu muộn,

Chư Thiên không thấy được.Chương BaPhẩm Nanda(I) (Ud 21)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana trong khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ngồi không xa Thế Tôn, ngồi kiết già, lưng thẳng, chịu đựng sự đau đớn, kết quả của nghiệp về trước, nhói đau, cực khổ, thống khổ, chánh niệm, tỉnh giác, không có sầu não.Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:1.

Tỷ-kheo bỏ mọi nghiệp,

Tẩy sạch bụi làm trước,

An trú, không ngã sở,

Không cần nói với người.(II) (Ud 21)Như vầy tôi nghe:Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàhapindika.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục!"

Một Tỷ-kheo khác đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau: "...

Tôi sẽ hoàn tục ".

Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta bảo Tỷ-kheo Nanda: "Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả ".- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Nanda, sau khi đến nói với Tôn giả Nanda:- Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!- Thưa vâng, Hiền giả.Tôn giả Nanda vâng đáp vị Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda đang ngồi một bên:- Có thật chăng này Nanda, Thầy nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ... tôi sẽ hoàn tục!".- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.- Nhưng này, không hoan hỷ cái gì, Thầy sống Phạm hạnh, khiến Thầy không chịu nổi sống Phạm hạnh, từ bỏ học tập, Thầy sẽ hoàn tục?- Bạch Thế Tôn, khi con từ bỏ gia đình, một Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, với tóc chải mới nửa phần, ngó nhìn con và nói: "Quý tử hãy về gấp!"

Bạch Thế Tôn, vì con không thể quên nàng, nên con sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, con không có thể chịu nổi đời sống Phạm hạnh, sau khi từ bỏ học tập, con sẽ hoàn tục".Rồi Thế Tôn cầm tay Tôn giả Nanda như người lực sĩ duỗi bàn tay dang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, biến mất ở Jetavana, và hiện ra tại cõi trời Ba mươi ba.

Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên nữ đi đến để hầu hạ Thiên chủ Sakka, và họ được gọi là "có chân như chim bồ câu".

Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Nanda:- Này Nanda, Thầy có thấy năm trăm Thiên nữ này, có chân như chim bồ câu không?- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.- Này Nanda, Thầy nghĩ thế nào?

Ai đẹp đẽ hơn, hay ai đáng ưa nhìn hơn, hay ai khả ái hơn, Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước hay năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này?

".- Bạch Thế Tôn, ví như một con khỉ cái bị thương, tai mũi bị chặt đứt; cũng vậy là Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, nếu đem so sánh với năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này, không thể ước lường so sánh, không bằng một phần nhỏ, không thể so sánh với chúng.

Năm trăm Thiên nữ này đẹp hơn, dáng ưa nhìn hơn, khả ái hơn.- Hãy hoan hỷ, này Nanda!

Hãy hoan hỷ, này Nanda!

Ta đền cho Thầy năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu ấy!- Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đền cho con năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu, thời bạch Thế Tôn, con sẽ sống hoan hỷ trong đời sống Phạm hạnh.Rồi Thế Tôn cầm cánh tay của Tôn giả Nanda, như người lực sĩ...

đang duỗi ra, như vậy biến mất ở chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Jetavana.Các Tỷ-kheo được nghe: "Tôn giả Nanda, em Thế Tôn, con của bà dì sống Phạm hạnh vì mục đích Thiên nữ.

Họ nói Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ với chân như chân chim bồ câu".

Rồi các Tỷ-kheo bạn của Tôn giả Nanda, gọi Tôn giả Nanda là người làm thuê, là người buôn bán: "Tôn giả Nanda là người làm thuê, Tôn giả Nanda là người buôn bán.

Vì mục đích Thiên nữ, Tôn giả Nanda sống Phạm hạnh.

Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu!"

Rồi Tôn giả Nanda, bị bực phiền, tủi nhục, chán ngấy, bởi bị gọi là người làm thuê, là người buôn bán, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tự tin, không bao lâu, do mục đích mà thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ấy, ngay trong hiện tại vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú.

Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không trở lui trạng thái này nữa".

Tôn giả Nanda đã trở thành một vị A-la-hán.Rồi một thiên nhân, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda con trai của bà dì, do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng tri chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát.Trí khởi lên nơi Thế Tôn: "Nanda, do đoạn trừ các lậu hoặc... vô lậu tâm giải thoát".

Rồi Tôn giả Nanda, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên Tôn giả Nanda bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có hứa đền cho con năm trăm Thiên nữ với chân như chim bồ câu.

Bạch Thế Tôn, con xin giải tỏa cho Thế Tôn lời hứa đền ấy.- Này Nanda, với tâm cuả Ta, Ta rõ biết tâm của Thầy: "Do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại... tuệ giải thoát".

Lại nữa một Thiên nhân có báo cho Ta tin ấy: "Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda... tuệ giải thoát".

Vì rằng, này Nanda, tâm của Thầy được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ, nên Ta được giải thoát khỏi lời hứa này.Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, chính trong lúc ấy, nó lên lời cảm hứng này:2.

Ai vượt khỏi bùn này,

Ðè bẹp gai của dục,

Ðạt được si đoạn diệt,

Vị Tỷ-kheo như vậy,

Không cảm thọ khổ lạc!(III) (Ud 24)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Tỷ-kheo do Yasoja dẫn đầu, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo mới đến ấy, trong khi chào thăm các Tỷ-kheo sở tại, sắp đặt sàng tọa, sửa soạn y bát, gây tiếng ồn ào to lớn.

Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda:- Này Ananda, tiếng ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giật cá?- Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo này, dẫn đầu là Yasoja, đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo mới đến ấy... gây nên tiếng ồn ào to lớn.- Này Ananda, hãy nhân danh Ta nói với các Tỷ-kheo ấy: "Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả ".- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, đi đến các Tỷ-kheo ấy, sau khi đến nói với các Tỷ-kheo ấy:- Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả!- Thưa vâng, Hiền giả.Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên:- Này các Tỷ-kheo, tiếng ồn ào to lớn này là gì, như các người đánh cá cướp giựt cá?Tôn giả Yasoja bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, có năm trăm Tỷ-kheo này đã đến Sàvatthi để yết kiến Thế Tôn.

Các Tỳ-kheo mới đến này... gây nên tiếng ồn ào to lớn.- Này các Tỷ-kheo, hãy đi đi!

Ta đuổi các Thầy, các Thầy không xứng đáng được sống gần Ta!- Thưa vâng!

Bạch Thế Tôn.Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Ngài, dọn dẹp, sàng tọa, cầm lấy y bát, đi đến dân chúng Vajjì, tiếp tục bộ hành giữa dân chúng Vajjì rồi đi đến con sông Vaggamudà; sau khi đến, dựng lên chòi lá trên sông Vaggamudà, an cư mùa mưa tại chỗ ấy.

Rồi Tôn giả Yasoja, sửa soạn an cư bảo các Tỳ-kheo:- Thưa các Hiền giả, Thế Tôn đuổi chúng ta, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng ta, vì khởi lên lòng từ mẫn đối với chúng ta.

Này chư Hiền, chúng ta hãy sống cho thật đúng pháp, chúng ta sống như thế nào để Thế Tôn có thể hoan hỷ!- Thưa vâng, Hiền giả.Các Tỷ-kheo vâng đáp Tôn giả Yasoja.

Rồi các Tỷ-kheo ấy sống viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, và trong thời gian an cư, tất cả đều giác ngộ ba minh.Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Sàvatthi cho đến khi vừa ý, liền bộ hành đi đến Vesàli, tiếp tục bộ hành đến Vesàli.

Tại đấy, Thế Tôn trú ở Ðại Lâm, tại ngôi nhà có nóc nhọn.

Rồi Thế Tôn với tâm cuả mình tác ý đến tâm các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà, gọi Tôn giả Ananda: "Như có hào quang, này Ananda, là phương này, như có ánh sáng, này Ananda, là phương này.

Tại phương ấy, các Tỷ-kheo đang sống trên bờ sông Vagumudà.

Thật là không nhàm chán cho Ta nếu được đi và tác ý đến phương ấy.

Này Ananda, hãy gửi một sứ giả đến các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà và nói: "Bậc Ðạo sư cho gọi các Tôn giả!

Bậc Ðạo sư muốn gặp các Tôn giả!".- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, đi đến một Tỷ-kheo, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo ấy:- Hãy đi, này Hiền giả, hãy đi đến các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà; sau khi đến, nói với các Tỷ-kheo ấy như sau: "Bậc Ðạo sư cho gọi các Tôn giả!".- Thưa vâng, Hiền giả.Vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ananda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy vị ấy biến mất ở ngôi nhà có nóc nhọn tại Ðại Lâm, và hiện ra trước mắt các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà.

Rồi Tỷ-kheo ấy nói với các Tỷ-kheo ở trên bờ sông Vaggumudà:- Bậc Ðạo Sư gọi các Tôn giả!

Bậc Ðạo sư muốn gặp các Tôn giả.- Thưa vâng, Hiền giả.Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp vị Tỷ-kheo ấy, sau khi dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát, ví như một nhà lực sĩ... co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy các Tỳ-kheo ấy biến mất ở trên bờ sông Vaggumudà, và hiện ra ở Ðại Lâm, tại nhà có nóc nhọn, trước mặt Thế Tôn.

Lúc bấy giờ Thế Tôn đang ngồi trong thiền định bất động.

Các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Nay Thế Tôn đang an trú trong loại an trú nào?".

Rồi các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Thế Tôn nay đang an trú trong loại an trú bất động".Và tất cả các Tỷ-kheo ấy ngồi xuống trong định bất động.Tôn giả Ananda khi đêm đã gần mãn, canh một đã gần qua, từ chỗ ngôi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:- Ðêm đã gần tàn, canh một đã gần qua.

Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến.Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn giữ im lặng.

Lần thứ hai, Tôn giả Ananda, sau khi đêm đã gần mãn, canh giữa đã gần qua, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay hướng đến Thế Tôn và Bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn.

Canh giữa đã gần qua.

Các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến.Lần thứ hai, Thế Tôn giữ im lặng.

Lần thứ ba, Tôn giả Ananda, khi đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên, chắp tay hướng về Thế Tôn, và bạch Thế Tôn:- Bạch Thế Tôn, đêm đã gần mãn, canh cuối đã gần qua, rạng đông đã ló dạng, đêm đã có bộ mặt hoan hỷ, các Tỷ-kheo mới đến ngồi đã lâu...

Thế Tôn hãy chào đón các Tỷ-kheo mới đến!Rồi Thế Tôn xuất khỏi định ấy bảo Tôn giả Ananda:- Nếu Thầy có hiểu biết, này Ananda, Thầy sẽ không nói như vậy.

Này Ananda, Ta và năm trăm Tỷ-kheo này tất cả đang nhập định bất động.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:3.

Ai đã thắng gai dục,

Nắng, gia hại, trói buộc,

Vị ấy đứng bất động,

Như núi vững an trú,

Vị Tỷ-kheo như vầy,

Lạc khổ không dao động.(IV) (Ud 27)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ Tôn giả Sàriputta ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt.

Thế Tôn thấy Tôn giả Sàriputta ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, rồi sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:4.

Như ngọn núi bằng đá,

Không động, khéo an trú,

Cũng vậy vị Tỳ-kheo,

Ðoạn diệt được ngu si,

Như ngọn núi bằng đá,

Không có bị dao động.(V) (Ud 27)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Maha Moggallàna ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nội tâm khéo an trú thân hành niệm.

Thế Tôn thấy Tôn giả Maha Moggallànangồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết-già lưng thẳng nội tâm khéo an trú thân hành niệm.Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:5.

Thân hành niệm an lập,

Sáu xúc xứ chế ngự,

Tỷ-kheo thường thiền định,

Tự chứng tri Niết Bàn.(VI) (Ud 28)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Pilindavaccha, thường hay gọi Tỳ-kheo với danh từ bần tiện.

Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:- Tôn giả Pilindavaccha thường hay gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:- Hãy đi, này Tỷ-kheo, và nhân danh Ta, bảo Tỷ-kheo Pilindavaccha: "Này Hiền giả, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!

".- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn đi đến Tôn giả Pilindavaccha, sau khi đến nói với Pilindavaccha:- Bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!- Thưa vâng, Hiền giả.Tôn giả Pilindavaccha vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với Tôn giả Pilindavaccha đang ngồi một bên:- Có thật chăng, này Vaccha.

Thầy thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện?- Thưa có, bạch Thế Tôn.Rồi Thế Tôn sau khi tác ý đến đời sống trước của Pilindavaccha, liền bảo các Tỷ-kheo:- Này, các Tỷ-kheo, chớ có bực phiền với Tỷ-kheo Pilindavaccha.

Này các Tỷ-kheo, không phải vì trong lòng có sân hận mà Vaccha thường gọi các Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo Vaccha trong năm trăm năm nối tiếp nhau đã sanh trong gia đình Bà-la-môn.

Danh từ bần tiện đã lâu ngay được chứa chấp trong vị ấy.

Do vậy, Vaccha thường gọi Tỷ-kheo với danh từ bần tiện.Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:6.

Trong ai không man trá,

Không mạn, tham đoạn tận,

Không ngã sở, không dục,

Phẫn nộ được trừ diệt,

Tự ngã thành mát lạnh

Vị ấy là Phạm chí,

Là Sa môn Tỷ-kheo.(VII) (Ud 29)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana, tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.

Lúc bấy giờ Tôn giả Mahakassapa, trú ở hang Pipphali, ngồi một thế ngồi kiết-già trong bảy ngày, sau khi nhập vào một loại thiền định.

Rồi Tôn giả Mahakassapa, sau bảy ngày, xuất khỏi định ấy, Tôn giả Mahakassapa, sau khi xuất khỏi định ấy, suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi vào Ràjagaha để khất thực!

".

Lúc bấy giờ năm trăm chư Thiên đang cố gắng lo cho Tôn giả Mahakassapa được đồ ăn khất thực.

Rồi Tôn giả Mahakassapa sau khi khước từ năm trăm Thiên nhân ấy, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, vào Ràjagaha để khất thực.Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka muốn cúng dường đồ ăn khất thực cho Tôn giả Mahakassapa, hóa thân làm người thợ dệt đang dệt chỉ Sujàta, thiếu nữ Asura đang làm cho đầy cái thoi.

Rồi Tôn giả Mahakassapa, sau khi đi từng nhà khất thực ở Ràjagaha,đi đến trú xứ của Thiên chủ Sakka.

Thiên chủ Sakka thấy Tôn giả Mahakassapa từ xa đi đến, sau khi thấy, liền ra khỏi nhà, tiếp đón, lấy bát từ nơi tay cầm đem vào nhà, bới cơm từ nơi nồi, đựng đầy bát và đưa lại cho Tôn giả Mahakassapa.

Ðồ ăn khất thực ấy gồm có nhiều loại canh, nhiều loại món ăn, nhiều loại gia vị, món ăn trộn lẫn với nhau.Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: "Ai là chúng sanh này, lại có thần lực uy lực như vậy?

".

Rồi Tôn giả Mahakassapa suy nghĩ: "Chính là Thiên chủ Sakka", sau khi biết vậy, nói với Thiên chủ Sakka:- "Này Kosiya, chính Ông đã làm sự việc này.

Chớ làm như vậy nữa!".- Thưa Tôn giả Kassapa, mục đích của chúng tôi là được phước.

Ðiều chúng tôi cần làm là được phước.Rồi Thiên chủ Sakka, sau khi đảnh lễ Tôn giả Mahakassaspa, thân phía hữu hướng về Ngài, bay lên trên hư không, và ở giữa hư không nói lên ba lần cảm hứng: "Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!

Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kasapa!

".Thế Tôn với Thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân nghe giữa hư không Thiên chủ Sakka nói lên ba lần lời cảm hứng: "Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!

Ôi, bố thí tối thượng là bố thí khéo an trú vào Kassapa!.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:7.

Vị Tỷ-kheo khất thực,

Tự sống không nhờ người,

Chư Thiên thương vị ấy,

Thường an tịnh chánh niệm.(VIII) (Ud 30)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi hội họp tại rạp tròn có cây kareri và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi được nếm khả ái, thỉnh thoảng thân được cảm giác xúc khả ái.Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo khất thực được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi đi khất thực.

Vậy này chư Hiền, chúng ta hãy là ngưòi đi khất thực, thỉnh thoảng, mắt chúng ta được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai chúng ta được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi chúng ta được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi chúng ta được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng thân chúng ta được cảm giác xúc khả ái.

Chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi chúng ta sẽ đi khất thực".Câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy chưa được nói xong, thì Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền định đứng dậy, đi đến rạp tròn có cây kareri, sau khi đến ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.

Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:- Này các Tỷ-kheo, này các Thày ngồi ở đây nói câu chuyện gì?

Và câu chuyện gì giữa các Thầy chưa được nói xong?- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi hội họp tại rạp tròn có cây kareri, và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa chúng con: "Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái... chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, khi chúng ta sẽ đi khất thực ".

Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện giữa chúng con chưa được nói xong thì Thế Tôn đến.- Này các Tỳ-kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các Thầy, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, khi các Thầy nói lên câu chuyện như vậy.

Khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, này các Tỷ-kheo, có hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh!.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:8.

Vị Tỷ-kheo khất thực,

Tự sống không nhờ người,

Chư Thiên thương vị ấy,

Nhưng nếu Tỷ-kheo ấy,

Y tựa vào danh vọng,

Chư Thiên không có thương.(IX) (Ud 31)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika.

Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo... (như kinh trên)... câu chuyện này khởi lên: "Này chư Hiền, ai biết nghề gì?

Ai học tập nghề gì?

Nghề gì là tối thượng?

"Ở đây, một số người nói như sau: "Huấn luyện voi là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Huấn luyện ngựa là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Làm xe là nghề tối thượng."

Một số người nói như sau: "Nghề bắn cung là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề đao kiếm là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề ấn hiệu là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề tính toán là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề ước lượng là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề viết bài là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề làm thơ là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề phỏng đoán các nguyên nhân tự nhiên là nghề tối thượng".

Một số người nói như sau: "Nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề tối thượng".

Ðây là câu chuyện xảy ra giữa chúng con chưa được nói xong.Rồi Thế Tôn vào buổi chiều... (Xem III,8...) chưa được nói xong...

"Ở đây, bạch Thế Tôn... khởi lên: "Này hiền giả ai biết nghề gì... nghề điều khiển bộ máy quốc gia là nghề tối thượng ".

Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện xảy ra giữa chúng con chưa được nói xong, thì Thế Tôn đã đến".- Này các Tỷ-kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các Thầy... khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, có hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh.Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:9.

Ai sống không nghề nghiệp,

Nhẹ nhàng, muốn lợi ích,

Các căn được chế ngự,

Toàn diện được giải thoát,

Không nhà, không ngã sở,

Không dục, giết ác ma,

Vị Tỷ-kheo như vậy,

Sống cô độc một mình.(X) (Ud 32)Như vầy tôi nghe:Một thời Thế Tôn trú ở Uruvelà, trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây Bồ-đề, khi mới thành Chánh giác.

Lúc bấy giờ Thế Tôn trong bảy ngày ngồi một thế ngồi kiết già, hưởng thọ giải thoát lạc.

Rồi Thế Tôn, sau bảy ngày ấy, từ định ấy xuất khởi, nhìn đời với Phật nhãn, thấy các chúng sanh bị thiêu đốt với nhiều loại thiêu đốt, bị nhiệt não bởi nhiều loại nhiệt não, bởi tham, bởi sân, bởi si.Rồi Thế Tôn, sau khi biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:10.

Ðời này bị thiêu đốt,

Chi phần bởi cảm xúc,

Tự mình nói rõ lên,

Chứng bệnh của chính mình,

Bởi vì nó nghĩ đến,

Do đó bị đổi khác,

Bị đổi khác vi hữu,

Bị lệ thuộc vì hữu,

Ðời này hữu chi phối,

Lại hoan hỷ với hữu,

Khi nào có hoan hỷ,

Ở đấy có sợ hãi,

Với ai có sợ hãi,

Ðấy tức là đau khổ,

Chính do đoạn diệt hữu,

Phạm hạnh này được sống.Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự giải thoát khỏi hữu là do hữu.

Ta nói rằng tất cả những vị ấy không giải thoát khỏi hữu.Những Sa môn hay những Bà-la-môn nào đã tuyên bố rằng sự xuất ly khỏi hữu là do phi hữu, tất cả những vị ấy, Ta tuyên bố rằng chúng không nương tựa nơi hữu.Do duyên sanh y, khổ này được sanh khởi.

Chính do đoạn diệt tất cả sanh y, khổ không có hiện hữu.11.

Hãy xem đời rộng này,

Bị vô minh chi phối,

Các sanh loại được sanh,

Ưa thích được sanh khởi,

Không thoát được sanh hữu.

Với ai đốt sanh hữu,

Tất cả mọi thời, xứ,

Tất cả sanh hữu này,

Vô thường khổ biến hoại,

Như vậy, thấy như thật,

Với chơn chánh trí tuệ,

Hữu ái được đoạn tận,

Phi hữu ái hoan hỷ

Ðoạn diệt ái hoàn toàn,

Ly tham, diệt, hoàn toàn,

Như vậy là Niết Bàn,

Tỷ-kheo ấy mát lạnh,

Không chấp thủ tái sanh,

Nhiếp phục được ma vương,

Trận chiến đã chiến thắng,

Vị Tỷ-kheo như vậy,

Vượt qua mọi sanh hữu.
 
Tiểu Bộ Kinh Tập 1
Kinh Phật Thuyết Như Vậy (Chương Một)


Chương Một - Một PhápPhẩm I(I) (Ek I, 1) (It.

1)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Tham, này các Tỷ-kheo, là một pháp, các Thầy hãy từ bỏ!

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Với tham bị tham đắm,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí,

Từ bỏ tham ái ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(II) (Ek I, 2) (It.

1)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Sân, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến:Với sân bị sân hận,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ sân hận ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(III) (Ek I, 3) (It.

2)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Si, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với si bị si mê

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ si mê ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(IV) (Ek I, 4) (It.

2)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Phẫn nộ, này các Tỷ-kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với phẫn nộ phẫn uất.

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ phẫn nộ ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ðây là ý nghĩa đã được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(V) (Ek 1,5) (It.

3)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Gièm pha, này các Tỷ kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với gièm pha, gièm người,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ gièm pha ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(VI) (Ek1,6) (It.3)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, hãy từ bỏ một pháp.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.

Thế nào là một pháp?

Mạn, này các Tỷ kheo, là một pháp các Thầy hãy từ bỏ.

Ta bảo đảm cho các Thầy không có tái sanh.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với kiêu mạn kiêu căng,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ kiêu mạn ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(VII) (Ek I, 7) (It.

3)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri, không liễu tri tất cả, ở đây tâm không ly tham, từ bỏ, không thể diệt được khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri, liễu tri tất cả, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Ai hiểu, rõ biết được,

Tất cả là tất cả,

Ðối với tất cả chỗ,

Không có sự tham đắm,

Vị như vậy chắc chắn,

Liễu tri được tất cả,

Và có thể vượt qua,

Tất cả mọi đau khổ.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(VIII) (Ek I, 8) (It.

4)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Mạn, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, thời không có thể diệt được khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Mạn, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Người bị mạn chi phối,

Do bị mạn trói buộc,

Nên hoan hỷ sanh hữu,

Do không liễu tri mạn,

Nên đi đến tái sanh.

Những ai đoạn diệt mạn,

Giải thoát, mạn hoại diệt,

Họ thắng mạn trói buộc,

Họ vượt qua nhiếp phục,

Tất cả mọi đau khổ.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(IX) (Ek I, 9) (It.

5)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Tham, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Tham, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, thời có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Với tham, bị tham đắm,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ tham ái ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(X) (Ek I, 10) (It.

5)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Sân, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng liễu tri Sân, ở đây, tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Với sân bị sân hận,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ sân hận ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.Phẩm II(XI) (Ek II, 1) (It.

6)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri, không liễu tri Si, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Si, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với si, bị si mê,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ si mê ấy,

Từ bỏ không bao giờ,

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XII) Ek II, 2) (It.

7)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Phẫn nộ, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Phẫn nộ, ở đây tâm ly tham, từ bỏ có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với phẫn nộ phẫn uất,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí,

Từ bỏ phẫn nộ ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XIII) (Ek II, 3) (It.

7)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, ai không thắng tri không liễu tri Gièm pha, ở đây tâm không ly tham, không từ bỏ, không có thể diệt trừ khổ đau.

Này các Tỷ-kheo, ai thắng tri liễu tri Gièm pha, ở đây tâm ly tham, từ bỏ, có thể diệt được khổ đau.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Với gièm pha gièm người,

Chúng sanh đi ác thú,

Bậc thiền quán, chánh trí

Từ bỏ, gièm pha ấy,

Từ bỏ, không bao giờ

Trở lại tại đời này.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XIV) (Ek II, 4) (It.

7)Ðiều này được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một triền cái nào khác, do bị bao trùm bởi triền cái ấy, chúng sanh trong một thời gian dài, lưu chuyển.

Này các Tỷ-kheo, tức là Vô minh triền cái.

Này các Tỷ-kheo, bị bao trùm bởi Vô minh triền cái, chúng sanh trong một thời gian dài chạy dài, lưu chuyển.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Không có một pháp khác,

Quần sanh bị bao phủ,

Ngày đêm chạy lưu chuyển,

Như bao phủ bởi si

Và ai đoạn diệt si,

Ðâm thủng khối u ám,

Họ không lưu chuyển nữa,

Trong họ, nhân không còn.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XV) (Ek II, 5) (It.

8)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, Ta không thấy một kiết sử nào khác, do bị cột bởi kiết sử ấy, chúng sanh trong một thời gian dài, chạy dài, lưu chuyển, này các Tỷ-kheo tức là Ái kiết sử.

Này các Tỷ-kheo, bị cột với ái kiết sử, chúng sanh trong một thời gian dài, chạy dài lưu chuyển.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Người có ái làm bạn,

Thời gian dài, lưu chuyển,

Không vượt được lưu chuyển,

Sanh hữu vậy hay khác.

Ai biết nguy hiểm này,

Biết ái tác thành khổ,

Bỏ ái, không chấp trước,

Tỷ-kheo giữ chánh niệm,

Bỏ gia đình xuất gia,

Sống nếp sống như vậy.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XVI) (Ek II.

6) (It.

9)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách, sau khi làm thành nội chi phần, Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỷ-kheo, tức là Như lý tác ý.

Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tác như lý tác ý, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Vị Tỷ kheo hữu học,

Hành như lý tác ý,

Không một pháp nào khác,

Nhiều lợi ích như vậy.

Ðể đạt cho bằng được,

Lợi ích thật tối thượng.

Vị Tỷ kheo như lý,

Tinh tấn và tinh cần,

Có thể thành đạt được,

Sư đoạn diệt khổ đau.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XVII) (Ek II.

7) (It.

10)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách, sau khi làm thành ngoại chi phần, Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỷ-kheo, tức là làm bạn với thiện.

Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo làm bạn với thiện, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Tỷ-kheo làm bạn thiện,

Tôn kính và kính trọng,

Làm theo những lời nói,

Của bạn bè thân hữu,

Tỉnh giấc và chánh niệm,

Vị ấy sẽ tuần tự,

Ðạt được sự hoại diệt,

Tất cả mọi kiết sử.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XVIII) (Ek II, 8) (It.

10)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại bất hạnh cho nhiều người, đem lại bất lợi cho nhiều người, đem lại không lợi ích cho nhiều người, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.Thế nào là một pháp?

Phá hòa hợp Tăng.

Này các Tỷ-kheo, khi chúng Tăng bị phá hoại, thì có những tranh luận với nhau, có những mắng nhiếc lẫn nhau, có những ngăn cách lẫn nhau, có những từ bỏ lẫn nhau.

Ở tại đấy, những người không hòa hợp, không đi đến hòa hợp và những người có hòa hợp, sự nhất trí đi đến nơi khác.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Bị rơi vào đọa xứ,

Bị rơi vào địa ngục,

Trú đến trọn cả kiếp,

Người phá hòa hợp Tăng.

Ưa thích phá hòa hợp,

An trú trên phi pháp,

Rơi rớt, vượt ra khỏi.

An ổn khỏi khổ ách;

Kẻ phá sự hòa hợp,

Của Tăng chúng hòa hợp,

Bị nung nấu trọn kiếp,

Trong cảnh giới địa ngục.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XIX) (Ek II, 9) (It.

11)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo có một pháp khởi lên ở đời, khi khởi lên đem lại hạnh phúc cho nhiều người, đem lại lợi ích cho nhiều người, không đem lại lợi ích cho nhiều người, không đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và loài Người.Thế nào là một pháp?

Sự hòa hợp chúng Tăng.

Này các Tỷ-kheo, khi chư Tăng được hòa hợp, không có những tranh luận với nhau, không có những mắng nhiếc lẫn nhau, không có những ngăn cách lẫn nhau, không có những từ bỏ lẫn nhau.

Ở tại đây, những người không hòa hợp đi đến hòa hợp, và những người hòa hợp lại càng hòa hợp hơn nữa.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Hạnh phúc là chúng Tăng,

Ðược sống trong hòa hợp,

Giúp đỡ, ưa hòa hợp,

Thích hòa hợp, trú pháp

Không rơi rớt, vượt khỏi,

An ổn khỏi khổ ách,

Kẻ tạo được hòa hợp,

Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,

Trọn kiếp được an vui,

Trong cảnh giới chư Thiên.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XX) (Ek II, 11) (It.

12)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Ở đây này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người ác ý như vậy, và nếu trong thời gian này, người này mạng chung, như vậy tương xứng người này bị rơi vào địa ngục.

Vì cớ sao?

Này các Tỷ-kheo, vì tâm người ấy ác ý.

Này các Tỷ-kheo, vì nhân tâm ác ý, như vậy ở đây một số loài hữu tình su khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi ác, ác thú, đọa xứ, địa ngục.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Biết được tâm ác ý,

Của hạng người ở đời,

Ðức Phật giữa Tỷ-kheo,

Ðã nói ý nghĩa này.

Chính trong thời gian này,

Người ấy bị mạng chung,

Sẽ bị sanh địa ngục,

Vì tâm nó ác độc,

Tùy theo lấy những gì,

Tương xứng bị rơi xuống,

Như vậy được tương xứng,

Do nhân tâm ác ý,

Chúng sanh đi ác thú.Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.Phẩm III(XXI) (Ek III, 1) (It.

13)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Ở đây, này các Tỷ-kheo, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người thiện ý như vậy, và nếu trong thời gian này, người này mạng chung, như vậy tương xứng, người này được sanh lên thiên giới.

Vì cớ sao?

Này các Tỷ-kheo, vì tâm người ấy thiện ý.

Này các Tỷ-kheo, vì nhân tâm thiện ý, như vậy ở đây, một số loài hữu tình, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Biết được tâm thiện ý,

Của hạng người ở đời,

Ðức Phật giữa Tỷ-kheo,

Ðã nói ý nghĩa này,

Chính trong thời gian này,

Người ấy bị mạng chung,

Người ấy sẽ được sanh,

Lên thiên giới thiện thú,

Vì tâm có thiện ý,

Tuỳ theo lấy những gì,

Tương xứng được lãnh thọ,

Như vậy được tương xứng.

Do nhân tâm thiện ý,

Chúng sanh đi thiện thú.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XXII) (Ek III, 2) (It.

14)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi các công đức.

Này các Tỷ-kheo, công đức là đồng nghĩa với an lạc, cái gì khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, tức là công đức.

Này các Tỷ-kheo, Ta thắng tri thọ hưởng quả dị thục, khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý trong một thời gian dài của các công đức đã làm trong một thời gian dài.

Sau khi tu tập từ tâm trong bảy năm, Ta đã không trở lui lại đời này trong bảy tăng kiếp và hoại kiếp.

Trong thời kỳ kiếp tăng, Ta là chư Thiên Quang Âm; Trong thời kỳ kiếp giảm, Ta sanh trong lâu đài trống không ở Phạm Thiên.

Tại đấy Ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên bậc chinh phục, bậc không bị ai chinh phục, bậc nhìn thấy tất cả, bậc có quyền lực.

Này các Tỷ-kheo, ba mươi sáu lần Ta đã là Thiên chủ Ðế Thích.

Nhiều trăm lần, Ta đã làm vua, vị vua Chuyển Luân, trị vì đúng pháp, bậc Pháp vương, bậc chiến thắng bốn phương, bậc đã đạt được sự an ổn trong quốc độ, bậc đầy đủ bảy báu.

Còn nói gì khi Ta là vị vua ở địa phương.

Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Quả này là do nghiệp nào Ta đã làm, là quả dị thục của nghiệp nào mà nay, Ta được đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy?".

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Ðây là quả ba nghiệp Ta đã làm, là quả dị thục của ba nghiệp, do vậy Ta nay đựơc đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy.

Tức là bố thí, nhiếp phục, chế ngự".Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Hãy để cho vị ấy,

Học tập về công đức,

Công đức là lạc căn,

Tối thượng trong tương lai,

Hãy tu tập bố thí,

Sống nếp sống an tịnh,

Và tu tập từ tâm.

Sau khi đã tu tập,

Các pháp này như vậy,

Tức là cả ba pháp,

Khiến an lạc sanh khởi,

Bậc Hiền trí được sanh

Trong thế giới an lạc,

Thế giới không sân hận.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XXIII) (Ek III,3) (It.

16)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đem lại hai lợi ích, an trú ngay hiện tại và lợi ích cho tương lai.Thế nào là một pháp?

Không phóng dật trong các thiện pháp.

Này các Tỷ-kheo, đây là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, đem lại được hai lợi ích, an trú ngay trong hiện tại và lợi ích cho tương lai.Thế Tôn đã nói lên lợi ích này.

Ở đây, điều này được nói đến.Bậc Hiền trí tán thán,

Không phóng dật hành thiện,

Bậc Hiền không phóng dật,

Ðem lại hai lợi ích,

Lợi ích ngay đời này,

Và lợi ích tương lai

Bậc trí do thắng trí,

Chứng đắc được lợi ích,

Nên được gọi bậc trí.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XXIV) (Ek III, 4) (It.

17)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Các xương của một người, này các Tỷ-kheo, chạy dài, lưu chuyển có thể lớn như một đồi xương, một chồng xương, một đống xương, như núi Vepulla này, nếu có người thâu người lượm xương lại, gìn giữ chúng không làm chúng hủy hoại.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây điều này được nói đến.Chồng chất như xương người,

Chỉ sống có một kiếp,

Chất đống bằng hòn núi,

Bậc Ðại sĩ nói vậy,

Ðống xương ấy được nói,

Lớn như Vepulla,

Phía Bắc núi Linh Thứu,

Thành núi Magadha,

Người thấy bốn sự thật,

Với chân chánh trí tuệ

Khổ và khổ tập khởi

Sẽ vượt qua đau khổ

Con đường Thánh tám ngành,

Dẫn đến khổ tịnh chỉ,

Người ấy phải luân chuyển,

Tối đa là bảy lần,

Là vị đoạn tận khổ,

Ðoạn diệt mọi kiết sử.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XXV) (Ek III, 5) (It.

18)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe.Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được.

Thế nào là một pháp?

Này các Tỷ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này được nói đến.Người nào đã nói láo,

Là vi phạm một pháp,

Không kể đến đời sau,

Không ác gì không làm.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.(XXVI) (Ek III, 6) (It.

18)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh có thể biết như Ta đã biết, quả dị thục của sự san sẻ bố thí họ sẽ không thụ hưởng nếu họ không bố thí và uế nhiễm xan tham không có ám ảnh tâm của họ và an trú.

Dầu là miếng cuối cùng của họ, dầu là miếng ăn tối hậu, họ sẽ không thọ hưởng nếu họ không san sẻ, khi có người nhận của họ.

Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh không biết như Ta đã biết quả dị thục của san sẻ bố thí họ sẽ thọ hưởng, không có bố thí, và uế nhiễm xan tham ám ảnh tâm của họ và an trú.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đấy, điều này được nói đến.Nếu các hàng chúng sanh,

Có thể biết như vậy,

Như bậc Ðại ẩn sĩ,

Ðã nói, tuyên bố lên,

Qua dị thục lớn thay,

Của san sẻ bố thí!

Nhiếp phục uế xan tham,

Với tâm thật thanh tịnh

Ðúng thời họ bố thí,

Ðối với các thánh nhân,

Tại đây bố thí vậy,

Có quả thật to lớn

Cho nhiều các thức ăn,

Kính lễ người đáng kính,

Từ đãy xả, từ bỏ,

Ðịa vị làm con người,

Các người làm bố thí

Ðược đi đến cõi Trời,

Họ đi đến cõi trời,

Tại đấy chúng hoan hỷ,

Với mọi điều sở thích,

Họ thọ hưởng như ý,

Vị không có xan tham,

Ðược thọ hưởng đầy đủ,

Quả dị thục của chúng,

Nhờ san sẻ bố thí.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.(XXVII) (Ek III, 7) (It.

19)Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:Này các Tỷ-kheo, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát.

Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.Này các Tỷ-kheo, ví như ánh sáng của chùm sao, tất cả ánh sáng ấy không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng.

Ánh sáng của mặt trăng vượt quả ánh sáng của chùm sao chói sáng, bừng sáng, và rực sáng.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát.

Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.Này các Tỷ-kheo, ví như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, trên bầu trời thanh tịnh, các mây được quét sạch, mặt trời mọc lên trên bầu trời, phá tan mọi tối tăm ở hư không, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát.

Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.Ví như này các Tỷ-kheo, vào tháng cuối mùa mưa, vào tiết mùa thu, khi hư không mở rộng không có mây mù, mặt trời vươn thẳng lên trời không, quét sạch mọi tối tăm trên trời, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát.

Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.Ví như này các Tỷ-kheo, khi đêm đã gần tàn, sao mai chói sáng, bừng sáng và rực sáng.

Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát.

Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này.

Ở đây, điều này đã được nói đến.Ai tu tập từ tâm,

Không phóng dật chánh niệm,

Các kiết sử giảm thiểu,

Nhờ thấy sanh y diệt.

Nếu tâm không độc ác,

Ðối với một hữu tình,

Với từ tâm như vậy,

Vị ấy là bậc Thiện,

Với tâm tư từ mẫn,

Ðối tất cả hữu tình,

Bậc Thánh tự tác thành,

Công đức thật vô lượng.

Ai chiến thắng quả đất,

Ðầy dẫy những hữu tình,

Bậc vua chúa chơn chánh,

Như các vị tiên nhân,

Tổ chức khắp mọi nơi,

Ðủ các loại tế đàn,

Lễ tế đàn với ngựa,

Lễ tế đàn với người,

Quăng cọc, rượu chiến thắng,

Lễ chốt cửa dẹp lại,

Họ không tác thành được

Một phần thứ mười sáu,

Với người khéo tu tập,

Tâm ý thật từ mẫn,

Như ánh sáng mặt trăng,

Thắng sáng mọi vì sao,

Ai không có giết hại,

Không khiến người giết hại,

Không có chinh phục người,

Không khiến người chinh phục,

Với tâm tư từ mẫn,

Ðối với mọi chúng sanh,

Vị ấy không hận thù,

Ðối với bất cứ ai.Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
 
Back
Top Bottom