Siêu Nhiên the coven

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
103571877-256-k749818.jpg

The Coven
Tác giả: albertshadou
Thể loại: Siêu nhiên
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Phù thủy không có áo choàng, mũ trùm hay đũa phép.

Họ chỉ cần miệng và những cái tay.​
 
The Coven
mở đầu


phù thủy không có áo choàng, mũ trùm hay đũa phép.

họ chỉ cần miệng và những bàn tay.

-

tên cũ: phù thủy - witchez.

coven: hội phù thủy.

tất cả các địa danh trong truyện đều là hư cấu, nếu có, chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
 
The Coven
chương một


Dì Patricia đặt cái vạc đồng lên trên bếp rồi vốc một nhúm bột lấp lánh trong cái túi da, hất thẳng vào bó củi.

Bất thình lình, ngọn lửa dưới chân vạc cháy phừng phừng."

Chậc, quá tay rồi."

Dì tặc lưỡi, lấy tay trần nhấc cái vạc xuống đất.

Hơi nóng làm tay dì hửng đỏ.

Dì đưa mấy ngón tay kẹp chặt vào hai tai, xuýt xoa vài câu và khẽ nhăn mặt.

Martha từ trong phòng ngủ bước ra.

Nó ngồi xuống, yên vị trên chiếc ghế gỗ xoan thân yêu của mình, đưa mắt chăm chú nhìn dì.

Dì không còn trẻ nữa.

Khuôn mặt dì lấm tấm vết đồi mồi, tóc dì đã ngả màu hoa râm, và khi dì cười, hai bên mắt dì hằn rõ những vết chân chim.

Martha thường hay gọi chúng là bước đi của thời gian, thế là dì lại cốc đầu nó một cái rồi cười sằng sặc.

Martha cảm thấy điều đó chẳng có gì buồn cười cả.

Nhưng nó lại rất vui, bởi dì ít khi cười lắm; có cảm tưởng như việc chọc cười dì còn khó hơn cả việc thử chạy ra Đường Mòn.

"Martha Frauenfeld, tôi trịnh trọng mời cô trở về phòng ngủ ngay lập tức!"

Martha nhại lại thứ giọng hài hước tới khó tả của dì rồi bật cười khanh khách, tất nhiên là có che miệng và cười thật duyên.

Bởi theo lời của dì, nó là một quý nương, với lại nó cũng chả muốn bị dì mắng khi nhại lại giọng người khác đâu!

Dì Patricia lại nhấc cái vạc đồng lên.

Lần này, cẩn thận hơn, dì có dùng cái khăn mặt cũ của Martha, giờ đã thành một đống bùi nhùi nham nhở sau một (vài) lần con bé nghịch dại.

Lửa càng ngày càng đỏ.

Và cái vạc bắt đầu rung lên rồi bật nắp.

Martha có thể nhìn thấy thứ chất lỏng xanh ngoét, sền sệt như nước mũi trong vạc bắt đầu sôi lên sùng sục.

Nó không chắc chắn thứ trong vạc là cái gì nữa hết, có thể là dì buồn tay nghịch chơi, hoặc thê thảm hơn - là một thứ thuốc quái đản nào đấy mà dì vừa mới chế ra tức thì.

Mà thôi, dẫu sao đó cũng chả phải thứ gì đáng bận tâm lắm.

Điều trước mắt mà nó cần làm đó là chuồn khỏi đây ngay, trước khi thứ mùi tanh hôi như chuột chết của cái vạc khiến nó ngất xỉu.

Thấy điệu bộ lấm la lấm lét của đứa cháu, Patricia nghiêm mặt, rồi - trái ngược hoàn toàn với nét mặt đáng sợ của dì - dì ném ngay cho nó một cái bánh mì phết phô mát dê béo ngậy.

Nó không thích mùi phô mát cho lắm, nhưng chí ít thì vẫn đỡ hơn thứ mùi kinh dị vẫn còn đang phảng phất quanh đây.

Martha nắm chặt cái bánh mì trong tay, chuẩn bị tư thế biến thẳng vào rừng.

"Nhớ trở về trước bữa tối nhé, quý cô!"

Patricia nói vọng ra, tay vẫn không ngừng khuấy đều thứ chất lỏng màu xanh nhầy nhụa.

"Và chớ có ra khỏi Đường Mòn nhé."

Martha đẩy cửa, dạ ran rồi tung tăng bước ra ngoài.

Mùi đã đỡ hơn một xíu, nhưng e là vẫn còn có thể khiến con bé phải choáng váng.

Nó hít một hơi thật sâu, rồi chạy thẳng tới suối - nơi chốn yêu thích của nó.

Bảo là suối, nhưng đúng ra, phải gọi nó là một con lạch thì chính xác hơn.

Nơi đây chỉ có một dòng nước nhỏ, chảy qua những phiến đá cuội to cộ, và dừng lại trên những đám rêu xanh thâm thẫm.

Martha từng nghĩ rằng cái con lạch bé tí tì ti này sẽ cạn khô chỉ sau vài ngày nắng gắt.

Nhưng không, đã hơn vài năm ròng nó cùng dì tới cư ngụ ở Rừng, con lạch ấy vẫn cứ chảy mãi.

Nước luôn trong, mát rượi như chính tâm hồn Martha.

Và nó xứng đáng được coi là một con suối.

Martha thích nhất là được ngồi trên một phiến đá lớn, nhấm nháp chiếc bánh mì to tổ chảng của dì, rồi buông thõng đôi chân trần xuống dòng nước mát, để cảm nhận cái sảng khoái đến tuyệt vời.

Những lúc như thế, nó sẽ ngồi yên, mặc cho dòng nước luồn vào những kẽ ngón chân, cho vài chiếc lá con con đậu lại trên đôi chân nhỏ, và bắt đầu ngẫm nghĩ.

Giống như hôm nay, nó nhớ tới dì.

Somnusson Defey Patricia.

Chuyện dì nó là phù thủy.

Nó biết.

Chuyện dì nó từng suýt bị treo cổ, hay thiêu sống, nó cũng biết luôn.

Chắc những sự kiện quá đỗi kinh khủng ấy đã bóp chết trái tim của dì, làm tắt ngấm luôn cả những nụ cười rạng rỡ như ánh bình minh, và nhào nặn lên một người phụ nữ cộc cằn và rất hiếm khi cười.

Martha không hiểu là "phù thủy" thì có gì là đáng trách cả.

Nó chỉ biết là hai từ ấy.

Đúng, chỉ hai từ, mà đều bị mọi người trong thị trấn kinh tởm - từ trẻ em cho đến người lớn.

Mẹ nó cũng là một phù thủy, và bị chính người chồng của mình ruồng rẫy cho tới khi phải bỏ đi biệt xứ.

Dì nó, may mắn hơn, một phụ nữ độc thân, nhưng cũng bị chính những định kiến cổ hủ kia bóp nghẹt.

Còn nó, ngay từ nhỏ đã chẳng có dấu hiệu gì của một phù thủy, nhưng vẫn bị người ta xa lánh.

Martha vẫn nhớ như in cái mùa hè kinh hoàng năm nó sáu tuổi - cái độ tuổi ngây ngô như ánh trăng non.

Năm đó, "ngài" thị trưởng David Bụng Phệ đã có chỉ thị lùng soát tất cả những phù thủy cư ngụ trong thị trấn, và tàn sát tất cả.

Nó hiểu là từ trước đến nay, phù thủy bị người ta kì thị, nhưng cũng chưa đến mức thảm khốc thế này.

Nó chẳng hiểu nổi tại sao cái chỉ thị tàn ác và thối tha ấy lại có thể được người ta hoan hỉ thực thi chỉ trong chưa đầy một tháng.

Chẳng phải xưa nay, người ta vẫn mua thuốc của phù thủy, vẫn bán thịt cho phù thủy (dù với giá cắt cổ), và - bằng cách nào đó - vẫn cho phép phù thủy được trở thành hàng xóm của mình hay sao?

Nó không biết và thực sự không cần biết.

Mà điều nó nhớ nhất chính là bác Laura đáng mến của nó - đã bị dìm xuống hồ nước lạnh băng trong một cái rọ heo; và dì Patricia, cũng suýt bị thiêu sống trong lửa đỏ.

Ngay cái phút giây định mệnh đó, dì nó - một phù thủy đã từng thề rằng cả đời này sẽ chỉ dùng bùa phép để cứu người - đã xuyên thủng ba người đàn ông bằng những cột băng khổng lồ.

Martha chưa bao giờ nghĩ khả năng điều khiển nước (nghe có vẻ ngớ ngẩn của dì) lại có thể đáng sợ đến như vậy.

Nó thấy thương dì, thương cho hơn hai mươi phù thủy bị tàn sát, và cả ba con người tội nghiệp kia nữa.

Nó biết là dì nó cũng ân hận lắm, bởi ngay cái đêm mà dì bế nó chạy thẳng vào rừng, dì đã khóc tới sưng cả mắt, gào thét tới khản cả cổ.

Trán dì nóng ran.

Nó biết là dì khó tính, nhưng dì rất hiếm khi to tiếng với nó, kể cả những khi nó "lỡ" làm vỡ cả ba cái hũ thủy tinh quý giá của dì.

Dì với nó, sống nương tựa vào nhau, dì đi săn, lấy nước, kiếm củi.

Còn nó - đơn giản là chỉ cần làm cho dì cười.

Vậy là ổn.

Mải suy nghĩ, Martha còn chẳng để ý trời đã ngả bóng từ lúc nào.

Mặt trời hắt những tia nắng yếu ớt và nóng đỏ xuống những tán cây, rồi lại phả vào mặt suối, làm cho cả con nước như nhuộm lửa.

Đàn chim rừng ríu rít gọi bầy, kéo nhau về tổ, rồi lại nín bặt trong cái câm lặng của bức màn đen huyền bí.

Rừng thật tuyệt, nhưng cũng vô cùng đáng sợ vào ban đêm.

Martha sợ nhất là bóng tối, bởi nó chắng biết cái gì ẩn khuất trong cái màn hũ nút ấy cả.

Tưởng tượng ra cái viễn cảnh sẽ phải mò mẫm trong đêm rừng, lắng nghe tiếng côn trùng và cú vọ kêu rít bên tai, nó khẽ thốt lên một tiếng rồi chạy một mạch về Nhà.

Giẫm đạp trên những tấm thảm cây khô, Nhà đã hiện ra trước mắt Martha.

Nhưng nó lại thấy sợ.

Nhà không còn lấp lánh ánh nến, thơm phức mùi gà rừng quay, hay phảng phất những cột khói bốc lên nghi ngút.

Nó chẳng còn nghe thấy tiếng dì Patricia càu nhàu.

Nó chạy, tai nóng bừng.

Martha đẩy cửa.

Và nó giật sững người.

Dì nó đang co quắp dưới sàn.

Tay dì như bị ai bẻ gãy và khuôn mặt hốc hác của dì chẳng chịt những vết cào.

Máu chảy thành từng vũng, ướt đẫm bộ váy đen tuyền xếp gấp của dì.

"Dì chết chưa?

Dì ơi, dì, đừng...

đừng đi...

Dì..."

Martha chết lặng.

Rồi nó bắt đầu lay người gì, đặt bàn tay run rẩy lên khuôn mặt dì; hôn khắp mặt dì, hai má, mắt, và mái tóc rối tung của dì.

Nó bắt đầu khóc.

Khóc thật to.

Mũi nó nghẹt cứng, cổ họng nó như bị xé tan thành nghìn mảnh.

Người nó rung lên, lẩy bẩy và thảm thương.

Martha áp tai lên khuôn ngực của dì.

Vẫn còn đập.

Thế là nó quýnh lên.

Nó chẳng biết phải làm sao, nó chỉ là một đứa nhóc.

Nó chạy lại bếp, cạy mở tất cả các nắp vạc, hũ, bình.

Mọi thứ.

Không có gì cả.

Trong lúc đó, dì Patricia khẽ mở mắt, rồi dì mấp máy đôi môi.

Dì đang thều thào gọi tên nó.

Martha đang rối bời hết sức.

Nó chẳng dám nhìn vào mắt dì, vào những vết thương hở miệng và ứa máu trên khuôn mặt của dì.

Nó nhắm tịt mắt, nhưng vẫn cảm nhận được bàn tay thô ráp của dì đang khẽ vuốt ve mái tóc nó.

Máu dì chảy chiều.

Martha lấy gấu áo chấm chấm trên đôi mắt đẫm nước của dì.

"Martha..."

Dì gọi tên nó.

"Dạ."

Nó đáp trả, hệt như tiếng mây bay.

Rồi dì yếu ớt đưa mắt nhìn về phía Đường Mòn.

Ngay lúc ấy, nó đã thấy dì cười tươi, mắt sáng lên, rực rỡ tựa ánh Mặt trời.
 
The Coven
chương hai


Patricia vẫn đang nhìn nó – Martha Frauenfeld, bằng một đôi mắt sáng rực, đầy cương quyết.

Xung quanh, bóng tối bắt đầu bủa vây vạn vật, khiến tất cả dường như chìm sâu vào một bức màn đen hư ảo.

Dì đang muốn nó chạy đi, chạy về phía Đường Mòn.

Còn chạy để làm gì, thì nó không hề biết.

Ngày thường, dù chỉ là một lời nói, một ánh nhìn, thậm chí là một tiếng ho của dì, Martha đều răm rắp nghe theo.

Nhưng hôm nay, nó không thể làm vậy được.

Patricia co quắp dưới mặt đất.

Máu dì liên tục rỉ ra từ những vết thương hở miệng.

Patricia không nói gì cả, hoặc là không thể nói.

Dì vẫn chỉ nhìn nó, chỉ nhìn thôi.

Ánh mắt dì ngày một sáng rõ, mặc cho bóng đêm đang rủ xuống thành những vệt sáng – tối lờ mờ.

Martha ngắm dì lần cuối – ngắm mái tóc lấm tấm những sợi bạc, ngắm đuôi mắt hằn kín những vết chân chim, ngắm cả khuôn mặt thẫm đỏ màu máu.

Và nó nhìn về phía cửa.

"Đi...

Trước nửa đêm." –Patricia lại mấp máy đôi môi, tiếng nói dì lẫn trong tiếng thở.

Rồi dì khóc, nước mắt lại càng khiến cho đôi mắt dì ngày một thêm long lanh; không còn cương quyết hay nghiêm nghị.

Mà thuần túy chỉ là một sự van lơn.

Dì đang cầu xin nó.

Tới lúc này, Martha không còn chần chừ được nữa.

Nó khẽ nắm lấy đôi bàn tay xương xương của dì, lấy vạt áo khẽ lau nước mắt, rồi tiến thẳng về phía cánh cửa.

***

Martha bắt đầu chạy, chạy như bay về phía trước.

Lúc này, trăng đã lên.

Ánh trăng khẽ rơi trên những tán lá thẫm màu của đêm, phả bóng xuống mặt đất ẩm ướt và đọng lại bên những vũng nước ven đường.

Trăng càng khiến cho đêm tối vốn đã đáng sợ nay lại càng thêm lạnh lẽo.

Được một quãng xa, đôi chân Martha đã bắt đầu rã rời, gan bàn chân nó rách toạc bởi giẫm phải những bụi gai và nhành cây gãy.

Cơ thể nó nóng bừng, dẫu những cơn gió vẫn đang rít bên tai cùng cái lạnh đang thấm tận sâu vào xương tủy.

Mỗi khi Martha gắng sức để điều tiết nhịp thở, một làn hơi trắng lại phả ra từ khuôn miệng nó, rồi khẽ tan đi trong ánh trăng xanh ảm đạm.

Cái lạnh, sự mệt mỏi, đau đớn và cả nỗi mất mát đang cùng lúc hành hạ tâm hồn lẫn thể xác Martha, khiến cho nó không thể chạy nổi nữa.

Martha cố bước đi một cách khó nhọc.

Nó nhích được từng bước, rồi lại ôm chân đau đớn.

Đôi lúc, nó chỉ muốn dừng lại, ngả lưng bên những gốc cây và nghỉ ngơi chốc lát, nhưng không thể.

Ánh mắt của Patricia vẫn mãi đeo bám nó như một sự ám ảnh – một lời thúc giục khiến nó có động lực để tiếp tục bước đi, tiếp tục cuộc đua với thời gian.

Khuất sâu sau những khóm cây bụi và lờ mờ dưới ánh trăng đêm, cây cọc gỗ mốc xanh đã hiện ra trước mắt Martha, báo hiệu sắp tới khúc rẽ chuyển từ Lối Cũ sang tới Đường Mòn.

Từ trước tới giờ, chưa lúc nào nó dám bén mảng tới đây cả.

Patricia có thể chấp nhận mọi yêu cầu của đứa cháu gái nhỏ, nhưng một lần viếng thăm Đường Mòn là điều dì chưa bao giờ cho phép nó.

Có gì ở ngoài Đường Mòn nhỉ?

Martha vẫn luôn suy nghĩ và háo hức khám phá với một niềm say mê cực độ; nhưng hôm nay, sao niềm mong mỏi ấy lại lụi tàn sớm đến vậy cơ chứ?

Martha vừa lết đi, vừa ngoái lại đằng sau.

Mỗi gốc cây, chiếc lá, mỗi bông hoa hay là từng ngọn gió trong Rừng đều gắn bó với tuổi thơ nó như những người anh em trong gia đình.

Nó không muốn rời xa bất cứ thứ gì cả, không hề.

Đặc biệt là suối, con suối nhỏ ngày ngày nó vẫn tới chơi, thậm chí còn chưa được nó từ biệt lần cuối.

Mắt Martha lại một lần nữa ầng ậng nước.

Nó khóc bởi một phần là vì đau, và nhiều hơn nữa là vì nỗi mất mát khôn nguôi.

Từ phía xa, tiếng cú vọ đột nhiên im bặt, gió ngừng thổi và ánh trăng cũng như tắt đi chốc lát, chỉ còn lại một màn đêm câm lặng và tăm tối.

Trong bức màn đen đặc ấy, dường như Martha đã trông thấy thứ gì đó, thứ gì đó giống như hai cặp mắt, sáng quắc và ghê rợn, đang sục sạo kiếm tìm trong những bụi cỏ ven đường, dưới những hốc cây và cả cạnh bên những dòng nước chảy.

Chúng khè khè thở ra những làn hơi hôi tới nghẹt thở, có thể ngửi thấy từ hàng dặm xa.

Rồi chúng đột ngột chuyển hướng, tiến về phía nó theo một đường thẳng hoàn hảo – từ từ mà chắc chắn.

Tiếng cây cối đổ rạp, tiếng kêu rít đầy sợ hãi của bầy côn trùng và đám thú nhỏ, đồng loạt hòa cùng những tiếng gầm rú đầy ghê rợn.

Chúng di chuyển ngày một nhanh hơn.

Martha sợ hãi đến phát khóc, nhưng nó không thể chạy nổi nữa rồi.

Nó chỉ còn nước lết bước trong nỗi kinh hoàng đeo bám.

Trong thời khắc mà hàng chục đốm sáng chỉ còn cách nó vài bước chân, thì một tiếng nổ kinh hồn đã vang lên, ánh sáng chói lòa cả một vùng trời.

Tất cả nhòe đi trước mắt Martha, choáng váng và sầm tối.

Trước khi đổ rập xuống nền đất lạnh, nó đã ngửi thấy – hoặc cảm nhận được, thứ mùi kinh khủng như chuột chết bốc lên từ cái vạc đồng.

***

Thời tiết hôm nay không được dễ chịu cho lắm.

Bầu trời nhuốm màu mây đen xám xịt, gió lạnh thổi ù ù trên những mái ngói bạc màu, đập bồm bộp vào những cách cửa gỗ mục nát và tưởng chừng như có thể phá tan cả một căn nhà bất cứ lúc nào.

Ancovet đã sớm tỉnh giấc từ lúc bình minh còn chưa tỏ.

Chị khoác vội tấm áo rồi lật đật chạy vào bếp, chị phải chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà, trước khi chồng chị – anh Franklin và đứa con trai – Wlaket thức dậy, bắt đầu cho một ngày đi săn mới.

Mấy ngày nay, thời tiết cứ luôn khó chịu như vậy, quá hiếm những khoảng nắng và mưa thì cứ thế trút xuống như than khóc.

Nhưng cũng thật là kì lạ khi suốt cả một ngày dài, không có lấy một đợt mây quang, ấy vậy mà vào đêm, trăng lại lên cho và soi tỏ hơn bao giờ hết.

Điều này mới khiến chị bực mình kinh khủng, quần áo chẳng kịp hong khô và đám củ cải sấy nắng cũng đã mốc lên phân nửa.

"Đồ khỉ gió!"

Chị vừa lui cui nhóm lửa, vừa rủa thầm trong miệng.

Sáng nay, như mọi ngày, Ancovet sẽ bắc một nồi nước thật lớn cho cả nhà lau rửa.

Kế đó, chị sẽ chuẩn bị một hũ mứt cà rốt và vài ba ổ bánh mì đặt lên bàn gỗ để bắt đầu bữa sáng.

Sau khi hai thành viên còn lại của gia đình tỉnh giấc, cả nhà sẽ cùng ăn.

Tiếp theo, Franklin cùng Wlaket vẫy tay tạm biệt chị rồi biến tuốt vào rừng.

Còn chị, sẽ ở nhà một mình cho tới tận trưa với những công việc nhà nhàm chán.

"Ước gì có ai đó phụ mình một tay nhỉ?"

Chị lơ đễnh nhìn nồi nước đang sôi lên ùng ục và thầm ước ao.

Rồi chị lại suy nghĩ về cuộc đời của mình, cưới Franklin đã hơn mười hai mươi năm, nay con trai cũng đã mười tám tuổi đầu.

Kết hôn được tầm một năm, theo quyết định của Franklin, chị phải theo anh ở tít tận bìa rừng, để tiện cho việc săn bắn của chồng.

Chị không còn trẻ và cũng chẳng còn thiết tha chốn đô hội, nhưng ở nơi hoang vu lạnh lẽo này, kể cũng tủi thân, nhất là những khi căn nhà vắng bóng.

Cô đơn là một phần, song cái mà chị chán ghét hơn gấp bội, đó chính là những lời đồn quỷ dị của những bà cô lắm điều xung quanh chị khi chị còn sống trong thị trấn.

Nghe bảo, nơi đây là mồ chôn của hơn mười hai phù thủy trong sự kiện hành quyết ba năm về trước.

Và cũng từ đó, chị đã được nghe kể không biết bao nhiêu câu chuyện tâm linh kì bí chốn này.

Nào là những thân cây chuyển động trong đêm tối, những con quỷ trò chuyện dưới lòng suối hay là cả những cơn mưa máu diễn ra vào những ngày âm u.

Những câu chuyện ấy, chị không tin và cũng chưa bao giờ chứng kiến.

Nhưng hôm nay, đúng là chị đã bắt đầu e ngại.

Tối hôm qua, trong lúc đang say ngủ, chị đã nghe thấy nhiều, rất nhiều những âm thanh khó chịu dai dẳng, kế đó là một tiếng nổ lớn như thuốc súng, mùi hôi và rất nhiều cột sáng được phóng lên từ tít sâu trong rừng.

Chồng chị nằm ngủ cạnh bên, nhưng chị cũng chẳng muốn gọi tên anh chút nào.

Nếu tất cả những điều đó chỉ là mộng mị trong cơn mê, thì quả là xấu hổ.

Biết là vậy, nhưng suốt từ đêm qua, chị vẫn không lúc nào ngưng suy nghĩ về chúng – suy nghĩ về cái nơi tẻ nhạt nhưng cũng đầy bí ẩn này.

Bất chợt, một tiếng "xì" lớn kéo chị trở về với biết bao hoài nghi.

Mắt trái Ancovet giật giật liên hồi.

Chị mặc kệ nồi nước đang đun đã trở nên cháy sém, rồi hối hả chạy vào phòng.

Linh tính chị mách bảo chuyện chẳng lành.
 
The Coven
chương ba


Ancovet đẩy cửa ngay khi Franklin và Wlaket vừa bước chân xuống khỏi giường.

Cái lạnh sớm mai làm Wlaket phải run lẩy bẩy.

Cậu hà hơi vào hai bàn tay tê cóng, liên tục xoa chúng vào nhau.

Khuôn mặt cậu ửng lên vì lạnh.

"À...

ờ... chào mẹ!"

Wlaket bất ngờ lên tiếng.

Dáng vẻ hốt hoảng và xộc xệch của Ancovet khiến cậu phải bật cười.

"Trời ạ, lại gì nữa vậy em?"

Franklin vừa với tay lấy chiếc áo bông trên móc treo, vừa ngoái đầu nhìn vợ.

Ancovet không đáp lời chồng.

Chị đứng sững vài giây rồi bất chợt lùi về phía sau.

Chị đóng cửa, mặc kệ những cái nhìn đầy khó hiểu của hai bố con nhà chị.

***

"Franklin à, mấy nay trời lạnh quá, nghỉ săn một vài bữa cũng được, anh nhé!"

Ancovet nhìn chăm chăm vào những cái bánh mì vừa được phết bơ thơm phức, thì thầm.

Hai tay chị đang cấu xé điên cuồng lẫn nhau.

"Hả?"

Franklin ngạc nhiên, anh lặng im suy nghĩ.

"Như vậy có là gì đâu em, có những hôm, cha con anh còn sải tay bơi trong trong tuyết kia mà."

Franklin cười lớn, tỏ rõ thái độ hài lòng với trò đùa nhạt nhẽo của mình, nhưng Ancovet chẳng tài nào cười nổi.

Những nếp nhăn trên trán chị dần rúm lại và mắt trái chị vẫn chưa thể thôi giần giật.

"Ừ, chắc là em nghĩ có hơi nhiều."

Giọng chị nhỏ dần rồi im hẳn, cả gian phòng giờ chỉ độc tiếng dao nĩa, tiếng củi cháy và những cái tặc lưỡi đầy khó xử của cả ba người.

Khi Franklin và Ancovet chuẩn bị lên đường thì trời cũng vừa sáng hẳn.

Những tia nắng mùa đông nhợt nhạt phủ lên vạn vật một màu trầm buồn và ảm đạm.

Tuyết phủ trắng những con đường đất, rơi xuống thành từng tảng trên những tán lá và chất thành từng đống dưới những gốc thông xù xì, xấu xí.

"Đi nào, con trai."

Franklin gọi với.

Sau lưng anh, Ancovet đang dúi vào tay cậu con trai một túi bánh mì và một hũ mứt dâu phòng khi đói bụng.

Chị quay đi, cứ tưởng như đây chính là lần cuối cùng chị được gặp con trai vậy.

***

Hai cha con bước đi lặng lẽ trên con đường phủ đầy tuyết trắng.

Lúc này, tuyết đã ngừng rơi, nhưng không khí vẫn lạnh giá khôn tả.

Một khoảng thời gian khá dài trôi qua, cả hai vẫn chìm trong im lặng.

Quá buồn chán trước vẻ trầm tư của cha, Wlaket định bụng kể một câu chuyện cười, nhưng ngay khi cậu vừa mở miệng, thì Franklin cũng chợt bắt đầu.

"Wlaket, dừng lại chút đi, ta có chuyện muốn nói."

Giọng anh đều đều, đầu cúi gập chăm chú nhìn khoảng trắng dưới chân.

"Vâng, thưa cha."

Cậu trả lời, trong lòng không khỏi thắc mắc.

Wlaket tiến thêm một vài bước rồi ngồi thụp xuống một vệ đá ven đường, Franklin cũng bước tới rồi ngồi sát bên cạnh cậu.

Anh thở gấp.

"Wlaket..."

Anh gọi tên cậu, rồi chững lại một vài giây.

"Về chuyện mẹ con nói hồi sáng, con nghĩ thế nào?"

"Chuyện gì là chuyện gì ạ?"

"Chuyện nghỉ săn...

Ừm, một vài hôm."

"Ơ làm sao được ạ.

Cả nhà ta sẽ chết đói mất."

Thật vậy, từ khi chuyển nhà tới gần bìa rừng, gia đình Franklin sống chủ yếu dựa vào nguồn thịt, rau củ, quả dại được hai cha con đem về, rồi đổi lấy bánh mỳ, pho mát cùng các vật dụng sinh hoạt thiết yếu ở khu chợ nhỏ trong thị trấn.

Tuy nhiên, do quãng đường di chuyển khá xa và khó khăn nên cả ba quyết định sẽ chỉ tới đó vài ba ngày một lần.

Việc nghỉ săn một bữa, chứ chưa nói tới một vài hôm vì thế mà trở nên bất khả."

Không sao, việc này ta có thể lo liệu được.

Đợi cho mọi sự lắng xuống, ta sẽ tính tiếp."

"Lắng xuống?

Cái gì lắng xuống ạ?"

Wlaket nóng lòng.

Cậu là tuýp người không bao giờ chịu nổi trước những điều úp mở khó đoán.Franklin khẽ thở dài.

"Nói ra thì nghe có vẻ khó tin, nhưng con phải tin ta, được chứ?"

"Vâng."

"Con có nhớ ngày hành quyết tầm ba về trước hay không?"

"Vâng, con có nhớ.

Làm sao quên được cái sự kiện động trời ấy được chứ hả cha?"

Wlaket cười khẩy.

Vốn là một thiếu niên lương thiện và tốt bụng, cậu chưa bao giờ cảm thấy hành vi định đoạt số mệnh của kẻ khác chỉ thông qua gốc gác và xuất thân của họ là một điều gì đáng để tự hào cả.

Đây cũng chính là một trong những lý do khiến cậu gật đầu cái rụp ngay khi cha đưa ra đề xuất chuyển nhà.

Wlaket ghét cái thị trấn đáng ghê tởm ấy."

Thực ra..."

Franklin ngập ngừng.

"Anh trai cha chính là... một trong ba đao phủ tham gia sự kiện kinh hoàng nọ.

Và, con biết không, Chúa thường không bỏ sót ai, anh đã phải đón nhận một cái chết trong thể man rợ hơn: chết, lúc đang cố tước đoạt mạng sống của kẻ khác."

Wlaket đưa tay lên bịt miệng.

Nỗi kinh hoảng hiện lên mồn một trong đôi mắt cậu."

Người ta kể, cả ba người đàn ông to lớn đều bị xuyên thủng bằng những cột băng khổng lồ rồi chết bất đắc kì tử.

Còn phù thủy kia sau khi thoát thân đã lui vào nương náu chốn rừng sâu.

Mụ ta còn thề sẽ phanh thây bất cứ kẻ nào dám bén mảng vào khu rừng này, và ngày nào đó sẽ quay lại và trả thù tất cả chúng ta.

Tất cả."

Wlaket tím tái mặt mày.

Vào thời điểm xảy ra "ngày hành quyết", cậu đang ốm liệt giường nhưng cũng có loáng thoáng nghe qua về cái chết của ba đao phủ, nhưng không tài nào tưởng tượng nổi nó lại ghê rợn đến thế.

Vậy là suốt những năm qua, những lời đàm tiếu, mỉa mai giành cho người bác mà cậu tưởng là đã "bỏ đi biệt xứ" chính xác là sự thật hay sao?Wlaket sững sờ buông thõng hai tay.

Chưa bao giờ cậu cảm thấy sợ hãi và trống rỗng đến vậy.

Và rồi, thay cho sự kinh hoàng khôn nguôi, nỗi phẫn uất bắt đầu dấy lên trong tâm trí cậu."

Cha..."

"Đúng, cả nhà đã quyết định nói dối.

Con biết đấy, không ai trong số chúng ta lại được phép tha thứ cho một tên sát nhân cả, cho dù đó là máu mủ của ta.

Và Wlaket à, con còn quá bé để có thể bình tĩnh tiếp nhận được tất cả những điều kinh khủng ấy."

Franklin ngừng một chút.

Anh lấy lại nhịp thở rồi chầm chậm kể cho con trai nghe tất cả mọi điều.

Anh kể về những ngày đen tối khi David Collins bắt đầu ra chỉ thị, về những cái máy chém, dàn thiêu, dây treo cổ...

được dựng nên ở khắp nơi trong thị trấn.

Anh cũng kể về những tiếng khóc đau đớn, những tiếng thét đầy uất hận, ám ảnh; về lời kêu gọi của những gia đình phản đối đạo luật, về cả những lời khinh miệt, dè bỉu của láng giềng khi cha con anh và nhiều người khác nữa khăn gói ra đi.

Hóa ra, Wlaket thầm nghĩ, gia đình mình tới đây không hẳn là vì mưu sinh.

Franklin kết thúc câu chuyện bằng một tiếng thở dài.

Mặt anh đỏ gay và đôi mắt anh ươn ướt.

Wlaket có thể thấy rõ nỗi sầu muộn đã dâng lên từng cơn trong đôi mắt xám tro của anh.

Cậu rất muốn nói gì đó để thỏa cơn căm tức, nhưng rồi lại quyết định sẽ không nói gì cả.

Làm sao cậu nỡ trách móc ông sau những dằn vặt kinh khủng mà ông đã phải một mình chịu đựng suốt chừng ấy năm, sau những mất mát đau thương mà ông đã phải gồng mình gánh chịu?

Wlaket bỗng thấy thương cha lạ lùng.

"À, còn một chuyện nữa."

Franklin nốc một ngụm rượu đựng trong cái túi da mà Ancovet đã chuẩn bị từ sớm.

"Có lẽ hôm nay phù thủy nọ sẽ trở lại đấy.

Ta đã nhìn thấy những dấu hiệu, con trai ạ."

Rồi ông cố nặn ra một nụ cười.*** Khi Mặt trời vừa lên tới đỉnh đầu thì cũng là lúc Ancovet nghe thấy những tiếng chuyện trò quen thuộc vọng lại từ bên trong khu rừng.

Thông thường thì khi hoàng hôn ngả bóng, Franklin mới trở về nhà cơ.

Thấy có sự lạ, Ancovet vội vã bỏ ngang món cá hấp đang nấu dở, hớt hải chạy ra phía cổng chính để đón hai cha con trở về.

Vừa giáp mặt chồng, sự tò mò và vui mừng trên khuôn mặt chị ngay lập tức tan biến, thay vào đó là sự kinh ngạc đến sững người.

Trên lưng Franklin là một bé gái nhỏ.

Mái tóc em phủ kín tấm lưng anh.

Đôi bàn tay em buông thõng để lộ những ngón tay mảnh khảnh và làn da tím tái vì hơi lạnh.

"Mẹ ơi, mẹ còn đứng đấy làm gì vậy?

Em gái này cần hơi ấm và một bát xúp nóng.

Con và cha trông thấy em trong rừng."

Wlaket dừng lại để lấy hơi.

"Vẫn còn thở."
 
The Coven
chương bốn


Martha nhìn thấy máu, rất nhiều máu.

Máu loang lổ trên nền tuyết trắng, máu nhuộm đỏ bức tường vách nâu trong căn bếp nhỏ.

Máu ướt đẫm khuôn mặt Patricia, tứa ra từ những vết thương hở miệng và chảy thành vũng dưới sàn nhà.Đôi mắt người dì đang hấp hối xoáy vào tim nó như ngàn mũi kim châm, lời cầu khẩn tha thiết của dì khiến Martha nghẹn ứ.

Thoắt một cái, nó lại thấy mình đang chạy thục mạng giữa rừng đêm.

Ánh trăng xanh trùm lên vạn vật một gam màu lạnh lẽo.

Phía sau lưng, ánh trăng nhạt dần rồi mờ hẳn.

Chỉ chờ có vậy, màn đêm chợt ập ngay tới, vồ lầy nó như loài thú hoang.

Martha nghe thấy tiếng gầm, nhìn thấy những tia mắt sáng quắc ghê rợn.

Nó chạy, chạy nhanh hơn, chạy tới khi những đốm mắt ghê rợn ngày một gần, chạy tới khi đôi chân tướt máu và cơ thể đổ gục xuống nền đất lạnh; tới khi cả khu rừng tối tăm bừng sáng, tới khi một thứ mùi đáng tởm xộc vào cánh mũi và một bàn tay khẽ lay đôi vai nó.Martha choàng tỉnh trong nỗi kinh hoàng.

Trán nó đẫm mồ hôi và toàn thân nóng rực.

Bên cạnh, một người phụ nữ đứng tuổi đang cúi xuống nhìn nó đầy lo lắng.

Vết chân chim bên đuôi mắt cô làm nó nhớ tới dì."

Nhìn cháu tệ quá, bé con."

Ancovet quay người, vắt khô tấm khăn rồi nhẹ nhàng đặt lên trán Martha.

Nước lạnh làm nó dễ chịu và bớt kinh hoảng đôi phần.

"Cháu có muốn dùng chút sữa không?

Một ly sữa dê thơm béo nhé."

Nghe tới đây, Martha không kìm nổi nữa.

Nó chợt rưng rưng, vùi mặt vào gối rồi òa lên lên nức nở.

Chiếc gối trắng đẫm ướt mồ hôi và nước mắt.

Ancovet bối rối nhìn nó, rồi ra sức vỗ vỗ vào tấm lưng gầy an ủi, thôi, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.

Kiên nhẫn đợi tới lúc tiếng khóc váng tai chỉ còn lại những tiếng nấc nghẹn ngào, chị trở con bé nằm ngửa dậy, vén mái tóc lòa xòa để lộ khuôn mặt sáng sủa đang ướt nhẹp nước mắt.

Chị lấy cái khăn rơi trên gối, thả vào chậu rửa rồi nhẹ nhàng lấy mu bàn tay chấm chấm đôi mắt nó.

Chị tặc lưỡi cảm thông.

"Bé con tội nghiệp, lạc cả đêm trong rừng thế này, chắc cháu sợ hãi và rét buốt kinh khủng lắm.

Nào, thôi đừng khóc nữa, sáng mai cô sẽ tìm người thân cho cháu nhé.

Lạ thật, đêm tuyết giá buốt đến thế kia sao con bé có thể cầm cự được chỉ với tấm áo mỏng manh như thế nhỉ?"

Câu cuối cùng, chị chỉ thầm nghĩ nhưng không thốt lên thành tiếng.

"Bây giờ cô đi lấy chút cháo nóng cho cháu nhé, bé con."

Ancovet vừa nói, vừa nhẹ nhàng kéo tấm chăn bông che kín ngực Martha.

Chị quay người, dợm bước thì bỗng có đôi bàn tay khẽ giật giật ống tay áo chị.

Con bé nhìn chị đầy sợ hãi.

Nó đang khẩn khoản xin chị đừng đi.

Ancovet cười hiền, chỉ một lát thôi mà, nhé.

Rồi con bé khẽ buông tay áo chị. .Ancovet múc xúp gà từ chiếc nồi gang lớn, cẩn thận bỏ vào bát tô.

Chị hớt lấy một thìa, nếm thử.

Xúp không mặn mà cũng không ngọt quá, tuy nhiên hơi nóng một tẹo.

Chắc chị sẽ lưu ý con bé cẩn thận khi ăn.

Dạo gần đây, Ancovet thường hay suy nghĩ linh tinh, bởi thế nên chị chẳng có thể tập trung làm gì cho nên hồn cả.

Mới sáng sớm, chị còn suýt làm cháy đen đáy chiếc nồi đun nước.

Hồi còn trẻ, chị cũng từng nghe đồn về quyền năng của phù thủy, song chỉ đơn thuần nghĩ đến những mánh lới như bói toán, xem chỉ tay hay bào chế dược liệu, không hơn.

Những thứ quái dị liên quan thuần túy chị chỉ cho là mê tín.

Ấy vậy mà ba năm trước, chị đã mắt thấy tai nghe tường tận mọi điều.

Ba người đàn ông chết thảm là có thật, mụ phù thủy độc ác biến vào rừng kia cũng là thật nốt.

Tối hôm qua, chị còn nhìn thấy cả những điều không tưởng.

Và trưa nay, chồng và con chị còn mang về một cô bé ngất lịm trong rừng, giữa tiết trời mùa đông giá lạnh.

Chị không biết đứa bé đó có liên quan gì tới những lời đồn đoán về sự tái xuất của mụ phù thủy kia không.

Ancovet hi vọng là không, bởi khi nhìn vào đôi mắt xanh thẳm, ngắm nhìn làn da tái đi vì rét, khi băng bó cho đôi bàn chân tướt máu của nó, lòng chị đau đớn thắt lại.

Con bé đã trải qua một đêm thật dài.

"Mẹ, em ấy tỉnh chưa?"

Wlaket hớt hải chạy vào bếp lúc Ancovet còn đang mải nghĩ, khiến chị giật nảy mình, suýt rơi khay thức ăn trên tay.

"Úi, con xin lỗi."

Ancovet không nói không rằng, chỉ khẽ nhăn mặt một cái.

Chị bước nhanh về phía cánh cửa.

"Đợi mẹ một lát, gọi cả bố con nữa, cả nhà ta cần nói chuyện."

Ngoài trời, đêm bắt đầu buông.

Tiếng cú vọ vọng lại từ tít sâu trong rừng làm chị có cảm giác hơi rờn rợn. .Lúc Ancovet bước vào phòng thì Martha đã nằm say ngủ.

Chị lấy que cời than vào lò cho phòng thêm ấm, đặt tô xúp lên chiếc bàn nhỏ cạnh giường, nhẹ nhàng rời đi tránh làm cho nó giật mình thức giấc.

Chợt nhớ ra con bé chưa uống ngụm nước nào, chị lại hớt hải ra ngoài rồi rót cho nó một cốc đầy.

Xong xuôi, chị khép cửa, cũng thật nhẹ như cách chị bước vào.

Ngoài bàn ăn, Wlaket đã thay chị múc cho mỗi thành viên trong gia đình một bát xúp nóng.

Franklin ngồi đăm chiêu trên chiếc ghế thường ngày của anh, anh đặt tay lên trán day day hai bên thái dương – điều anh thường làm những lúc cần suy nghĩ.

"Bây giờ, em rất mong muốn được biết tất cả mọi thứ, Franklin."

Ancovet kéo ghế ngồi đối diện chồng.

Khuôn mặt chị đanh lại.

Franklin khum một tay trên bàn, tay kia khuấy đều bát xúp trước mặt.

Anh chợt buông một tiếng thở dài.

"Anh không biết.

Nhưng sớm mai, anh sẽ lên đường vào thị trấn một chuyến.

Anh sẽ cố hỏi han tin tức của cô bé kia xem.

Biết đâu có ai đó lạc con."

"Vậy, chuyện đi săn, anh tính như thế nào?"

"Anh tính... nghỉ săn một vài hôm."

Ancovet bối rối nhìn anh.

Thấy vậy, Franklin ngưng việc khuấy loạn lên trong tô xúp.

Anh nhìn thẳng vào mắt chị, kể cho chị nghe tất cả những điều anh biết.

Về tiếng nổ anh nghe, những cột sáng anh thấy và thứ mùi anh cảm nhận được.

Anh bảo, đó có lẽ là một thứ thuốc nổ ma thuật của phù thủy.

Còn tại sao nổ và nổ để làm gì, anh không biết chắc.

Ancovet lắng nghe chăm chú, dù kinh ngạc, và có phần tức giận nữa, song chị không nói lời nào.

Những điều anh kể và những gì chị chứng kiến trùng khớp một cách hoàn hảo, chắc chắn không phải do chị tưởng tượng ra.

Vậy thì, đứa bé đó...Như đọc được tất cả những gì diễn ra trong đầu vợ.

Franklin rướn người, nắm lấy đôi bàn tay run rẩy của chị.

"Không.

Anh không nghĩ vậy.

Mụ ta đi một mình, không họ hàng thân thích."

Biết vợ mình vẫn chưa thôi băn khoăn.

Anh khẽ nở một nụ cười trấn an.

"Thôi nào.

Chẳng phù thủy nào lại dại dột bước chân vào Ramor khi mọi coven trong vùng đều đã bị giải tán hết cả.

Thế nên nếu em nghĩ cô bé tội nghiệp kia là do mụ ta giả trang, hay bất cứ thứ gì tương tự, thì hãy quên đi nhé."

Frankin nói chắc như đinh đóng cột."

Trời.

Làm sao anh dám chắc được?"

Ancovet nhìn anh đầy nghi hoặc."

Bởi anh là chồng em mà, đúng chứ?

Câu trả lời chắc nịch của chồng khiến chị ngưng việc hỏi, dẫu trong lòng còn nhiều thắc mắc.

Tuy vậy, chị vẫn tin chồng.

Trước giờ, những quyết định của anh hầu như chưa bao giờ là sai.

Bên ngoài, gió vẫn rít từng cơn.

Trên bàn ăn, bát xúp của cậu con trai đã vơi đi một nửa.

Hôm nay giữa tháng, nhưng mặt trăng lại chỉ là một nét rất mảnh rạch ngang bầu trời đêm, tựa như vết thương đã khép miệng nay bắt đầu rỉ máu.

Trăng đỏ. .Sau khi dọn dẹp xong bữa tối và là ấm chăn nệm, chị mang theo vài quả cam vào buồng ngủ cho Martha tráng miệng.

Bát xúp gà con bé đã dùng hết.

Nó ngồi thẫn thờ trên giường, mắt đăm đăm nhìn vào mảnh trăng đỏ treo lơ lửng ngoài cửa sổ.

Mắt con bé ướt nước như vừa mới khóc xong.

Ancovet tiến lại gần rồi rồi cạnh nó.

Ánh nến leo lét khẽ đong đưa khi bóng chị lướt qua.

"Trăng khuyết vào giữa tháng, quả là một hiện tượng thiên văn hiếm thấy nhỉ, bé con?"

Martha lặng yên không đáp, mắt vẫn không rời cửa sổ.

Một nửa khuôn mặt nó chìm trong bóng tối.

"Không phải đâu ạ.

Là Mẹ Salim chuẩn bị ngủ ba ngày, Mẹ đang khép mắt và sẽ ngủ thật say từ bây giờ cho tới tận ngày kia.

Mẹ đi ngủ bỏ quên chúng cháu."

"Câu chuyện đáng yêu quá."

Ancovet cảm thán.

"Hồi còn bé, anh Wlaket cũng thích kể chuyện lắm.

Anh ấy bảo Mặt trời là ngọn đèn của Thần Lùn xứ Merg và Mặt trăng là món nữ trang quý giá của vợ ông ta.

Một ngày nào đó, anh ấy sẽ chu du tới Merg và đem tặng cô Mặt trăng lẫn Mặt trời."

Ancovet hiền từ nhìn Martha.

Bây giờ, nó thôi lơ đãng ngoài cửa sổ và đang quay mặt về phía chị, khuôn mặt nó bừng lên chốc lát.

"Xứ Merg là một nơi đầy những điều kì diệu.

Thần Lùn Ombra và vợ là Quý bà Domala là những người cai quản vương quốc.

Mỗi buổi sáng, Thần Lùn thong dong đi từ miền Đông tới miền Tây trên con vịt khổng lồ trắng toát được thần khéo léo nặn lên từ những đám mây trắng xốp thơm giòn, trên tay là ngọn đèn vàng rực rỡ.

Vào ban đêm, khi con vịt của Thần mỏi chân và không đi nổi nữa, thì Quý bà Domala cùng đoàn tùy nữ mở cửa lâu đài và thay phiên chồng.

Ồ, chẳng giống như chồng, Domala lười biếng và xấu tính ghê gớm lắm.

Bà bước ra nhưng chỉ đứng yên một chỗ, trưng trên cổ món nữ trang quý giá của bà.

Mỗi khi siêng năng một xíu, bà đứng yên, Mặt trăng tỏa sáng.

Đứng lâu thì chán, bà ngáp rõ dài, đưa tay che miệng làm khuyết mất một phần trăng.

Mỗi khi biếng nhác, Domala lại trốn rịt trong nhà, bầu trời đêm chỉ độc một màu đen thẳm.

Chưa hết đâu, những lúc bực bội, bà ta lại tiện chân đạp vào mông một người tùy nữ bất hạnh của mình.

Cô nàng tội nghiệp lúc chới với vẫn kịp túm lấy bụi tiên trên gấu váy bà, và cô sẵn lòng ban cho những đứa trẻ ngoan những điều ước nhiệm màu mỗi khi cô ngã rầm xuống đất."

Martha vẫn chăm chú lắng nghe còn Ancovet thì say sưa kể.

Trong ánh nến, khuôn mặt nó ửng lên thích thú.

"Vậy thì bé con, mỗi khi một tùy nữ rơi xuống, cô sẽ chỉ cho cháu nhé."

Martha khẽ gật đầu.

Mắt con bé díp lại và nó bắt đầu gà gật trước những câu chuyện kì thú của người phụ nữ mới quen.

"Ôi, chắc là cháu buồn ngủ lắm rồi.

Nào, nằm xuống đây.

Hãy ngủ đi, ngủ trong vòng tay cô, để cô hát ru cho cháu."

Martha thoải mái gối đầu trên gối mềm, những nỗi buồn, nỗi đau và cả nỗi kinh hoàng đêm qua dường như cũng đang dần thiêm thiếp bởi giọng hát dịu dàng của Ancovet.

Chị đặt lưng xuống nệm, luồn tay dưới cổ Martha và kéo nó vào lòng.

Con bé vùi đầu vào ngực chị.

"Cô nằm với cháu một lát nhé, được không ạ?"

"Ồ, được chứ."

Ancovet khẽ ngập ngừng.

"À mà, tên của cháu là gì nhỉ?"

"Martha.

Martha Frauenfied."

Giọng bé nhỏ dần, nhỏ dần.

Nó đang nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ.

Ngoài kia, mặt trăng vẫn treo lơ lửng.

Là Domala đang uể oải ngáp ngắn ngáp dài, hay là Mẹ Salim đang bắt đầu say giấc, giống như cô bé đang yên bình mơ mộng trong căn phòng ấm áp nằm sát bìa rừng kia?
 
The Coven
chương năm


Martha đã trải qua một đêm yên giấc.

Trong vòng tay của Ancovet, nó như được sống lại những phút giây khi đang ở Rừng, trong căn nhà gỗ ba gian đơn sơ mà ấm cúng, được thoải mái nằm dài như một con mèo già trong khi dì nó đang lúi cúi dưới bếp với một tá nồi vạc và dược liệu.

Trời đã trở trưa, Martha đoán mò bởi ánh nắng đã không còn rọi vào mắt nó chói chang.

Cố nán lại một chút bên trong tấm chăn bông ấm áp, nó hạ quyết tâm phải bước xuống giường và tìm kiếm Ancovet.

Người phụ nữ ấy khiến nó cảm thấy an toàn.

Tiếng loảng xoảng của xoong nồi và tiếng sùng sục sôi của nước nóng đưa chân nó tới với căn bếp nhỏ.

Ancovet đang quay lưng lại với nó, tay chị thoăn thoắt nấu nướng.

Thoáng nghe thấy tiếng đẩy cửa, chị quay lại, trên môi nở một nụ cười.

"Ồ, chào buổi sáng, bé con.

Hay là buổi trưa nhỉ, ta cũng không chắc nữa."

Ancovet xoa tay vào tạp dề rồi tiến lại gần con bé, dang tay bế thốc nó lên.

Đôi má Martha ửng đỏ.

Chị khẽ hôn lên má nó, bước tới gần chiếc bàn nhỏ rồi đặt nó xuống mặt ghế còn hơi lành lạnh.

Xong xuôi, chị lại tiến về phía bếp, không quên nhắn nhủ.

"Đợi chút xíu nữa nhé, bánh mỳ sẵn sàng rồi đây."

Martha lặng im xem chị chuẩn bị.

Khoảng năm phút sau, một đĩa bánh mỳ phết bơ thơm phức đã được bày ra trước mặt nó.

"Nào, ăn đi bé con.

Ăn xong cứ để nguyên bát đĩa ở đấy nhé.

Cô cần phải ra ngoài này giúp chồng cô chút chuyện.

Anh ấy sắp phải đi xa."

Martha đáp "dạ" một tiếng rất khẽ, rồi nó cúi xuống cắm cúi ăn.

Giấc ngủ tới độ ban trưa đã khiến bụng nó đói cồn cào.

Ancovet nán lại nhìn nó dùng bữa rồi lại bước ra phía bên ngoài.

Trước hiên, ngay sát mảnh sân đã phủ đầy tuyết trắng, Franklin đang tay xách nách mang cả tá những túi, hòm lỉnh kỉnh: nào thịt, nào sữa và túi đựng nước đi đường.

Phía sau, cậu con trai cũng không thua kém, mỗi điều ít hơn bố nó khoảng một phần ba.

"Còn thiếu gì nữa không anh?"

Ancovet gài buộc thật chặt chiếc túi dây rút bằng da ở phía sau lưng chồng, không quên lướt tay lên từng thứ một để kiểm kê chắc chắn mọi đồ dùng còn thiếu.

Chị thoăn thoắt như đã từng làm việc này cả ngàn lần.

Wlaket, sau khi đã quá sốt sắng vì trưa muộn nhưng vẫn chưa thể lên đường, liền bước vội qua cánh cổ gỗ trước sân.

Cậu chưa từng thích trở lại thị trấn, ít nhất là cho tới ba tháng trước, song lần này là vì trường hợp đặc biệt.

"Cha, nhanh lên thôi nào.

Đường đi còn xa lắm đó."

Nghe tiếng con trai thúc giục, Franklin ngoảnh mặt rồi bất ngờ hôn lên môi vợ.

Chị thẹn thùng đẩy anh ra xa, đánh yêu vào má anh, ra hiệu cho anh bước đi và không quên vẫy tay chào tạm biệt.

"Em nhớ chăm sóc cô bé cẩn thận nhé.

Khoảng hai ngày nữa anh và con sẽ về."

Franklin bước đi, đôi ủng da ngập trong tuyết trắng, anh gọi với cẩn thận dặn dò, nhanh chóng tiến lại sát bên cạnh con trai.

Acovet cười hiền nhìn hai người cất bước.

Mãi cho tới khi cả hai khuất bóng sau những rặng cây rừng, chị mới quay gót trở vào nhà.

Cảm giác bất an ngày hôm qua đã thôi giày vò chị nên cũng khiến chị dễ thở hơn chút ít.

Hơn thế, mọi lo lắng của chị đang chủ yếu đổ dồn vào đứa bé gái nhỏ.

Không biết con bé đã khỏe lên chưa.

Ancovet khẽ đẩy cửa.

Martha đã dùng bữa xong.

Nó đang cúi mặt day day ngón tay trên những vụn bánh mì.

Nghe tiếng cửa mở, con bé giật mình nhìn quanh quất.

Chỉ khi bắt gặp nụ cười trấn an của chị, khuôn mặt nó mới dịu đi phần nào.

Ancovet tiến đến bên nó, nhấc chiếc đĩa không đặt lên chạn bếp.

Chị nhanh chóng kéo sát chiếc ghế cạnh bên rồi ôm ghì con bé vào lòng.

Chị hôn lên tóc nó, tóc con bé thơm mùi rừng.

Lát sau, chị buông con bé ra.

Chị đặt tay lên đỉnh đầu rồi nhẹ nhàng vỗ đầu con bé.

"Thôi nào.

Có điều gì cô có thể giúp cháu không?"

Martha ngước mắt nhìn chị thật lâu.

Rồi, không giống như những gì chị hình dung, con bé không hề khóc.

Đôi mắt nâu sẫm ươn ướt nước của nó vẫn đang bị trùm kín bởi nỗi sợ, bủa đặc bởi nỗi buồn, nhưng ở những kẻ hở dù nhỏ nhất, Ancovet nhìn thấy được cả ánh nhìn giận dữ.

"Patricia chết rồi.

Ai đó đã giết dì."

Ancovet đứng bật dậy, loạng choạng lùi về phía sau.

"Patriacia... là ai?"

"Dì của cháu.

Trong rừng.

Dì là phù thủy."

Chiếc ghế sau lưng chị đổ rầm xuống nền sàn gỗ. ."

Vậy là chúng ta sẽ hỏi tin của cô bé xung quanh thị trấn ạ?"

Wlaket bước song song cạnh Franklin, vừa đi vừa hỏi.

"Đúng vậy, sau khi đổi chác mọi thứ xong xuôi."

Từ hôm trước cho tới tận bây giờ, những gì Franklin nói vẫn chưa khiến cậu thôi băn khoăn.

Trước tới nay, cậu luôn tin cha răm rắp.

Niềm tin của cậu và cả gia đình đối với ông thì thứ thiêng liêng, vĩnh cửu khó lòng suy chuyển.

Tuy nhiên lần này, cậu đã hoài nghi thực sự.

Đã hơn mười lăm sống cùng cha và gần như giành cả thời niên thiếu sát cạnh bên cha trong những cuộc săn, cậu có thể dễ dàng nhận thấy những biểu hiện lạ lùng ở ông mỗi khi ông không chắc chắn điều gì.

Và đêm qua, khi ông nắm lấy tay mẹ, Wlaket đã nhanh chóng nhận thấy tay còn lại của ông đang gõ liên hồi vào thành bát súp.

Cậu không đủ can đảm để hòi thẳng ông, nên cố tìm cách gợi mở vấn đề.

"Cha chắc về... em ấy chứ?"

Franklin chợt sững lại một vài giây.

Anh đưa tay chỉnh lại quai đeo trên vai rồi bình tĩnh bước tiếp, chẳng nói chẳng rằng.

"Con có nghe cha nói về những cột sáng, mùi và, ừm... phù thủy.

Sáng hôm sau có một đứa bé lạ hoắc bất tỉnh ở bìa rừng...

Con nghĩ..."

Franklin nhắm mắt.

Anh buông một tiếng thở dài.

"Đúng vậy."

Anh khó khăn thừa nhận.

"Nhưng cha không nghĩ con bé lại là phù thủy... nếu như con nghĩ.

Mỗi phù thủy ở Ramor đều thuộc một coven nhất định.

Mỗi coven đều có những hình xăm riêng ngay sau gáy.

Con bé không có.

Hơn nữa, nếu cha nhớ không nhầm thì mụ phù thủy trong rừng chỉ thông thạo thuật nguyên tố.

Ả không biết ma thuật, ả không thể giả trang kẻ khác."

"Chuyện những thương nhân Methilda đi xuyên qua rừng hay những người Ramor bị lạc trông bão tuyết không phải là hiếm.

Nên con đừng lo lắng quá."

Anh tiếp tục.

Wlaket trầm ngâm hồi lâu, rồi cậu chợt hỏi.

"Vậy nếu không tìm ra được người thân cho em ấy?

Cha tính làm gì?"

"Cha cũng không biết nữa."

Rồi anh tiếp tục bước đi.

.

Hai cha con đặt chân đến Elistone sau hơn nửa ngày đi đường.

Bây giờ đã giữa chiều.

Nắng chưa tắt song đã bắt đầu vàng đục.

Thị trấn hôm nay dường như vắng hơn mọi khi.

Dưới mặt đường, tuyết đã được dọn sang hai bên, chừa một lối đi nhớp nháp trong bùn đất.

Hai cha con đi sâu hơn vào trong thị trấn, đến với những quán hàng quên thuộc.

Rose đã thoáng thấy hai người từ xa, liền khoát tay gọi mời đon đả.

Franklin ra hiệu cho con trai đi theo mình, tiến lại gần sạp hàng của mụ.

Anh ném bịch những thớ thịt tươi trên mặt bàn đen bầm máu khô, ra hiệu bảo mụ cân thử.

Rose Targaret dùng tay trần vỗ vỗ vào đống thịt hươu mới được Franklin bày ra trên mặt bàn.

Mụ khẽ "hừm" một tiếng.

"Không còn tươi lắm nhỉ?"

"Đã gần cả tuần rồi, mụ còn muốn thế nào nữa?"

"Ba mươi đồng nhé.

Bolliger cũng chỉ trả từng ấy là cùng thôi."

"Ba hai, không mặc cả.

Tôi thấy mụ có vẻ đang thiếu nguồn cung đấy chứ."

Kỳ kèo bất thành, mụ bĩu môi rồi đẩy cái đống bầy hầy máu thịt sang phía bên kia bàn.

Đoạn, mụ thò tay vào tạp dề, móc ra đúng ba hai đồng xu lẻ, dúi vào tay Franklin.

Franklin cẩn thận đếm, rồi anh thả nắm tiền vào chiếc túi chéo đeo cạnh thắt lưng.

Khi chuẩn bị gật đầu chào mụ rồi quay gót, mụ bỗng túm lấy ống tay áo anh rồi bắt đầu gạ chuyện.

"Ấy từ từ.

Franklin, nhà anh ở sát rừng, đêm hôm trước có nghe thấy gì không?"

Bất ngờ trước câu hỏi của mụ, anh khẽ nhíu mày, song chưa kịp phủ nhận, mụ đã ghé sát tai anh.

"Cả thị trấn này hầu như ai cũng biết chuyện rồi.

Cột sáng vàng rực phóng lên ngay giữa đêm ấy.

Có người còn bảo thoáng ngửi thấy mùi, nhưng tôi không có thấy.

Con mụ điên nhà Hardinge còn khăng khăng bảo mụ phù thùy trong rừng sắp quay trở lại, nên đã hai ngày nay chẳng ai dám ra ngoài.

Anh liệu đấy, đừng hòng mà giấu tôi."

Bị đánh úp bất ngờ, Franklin quả thực không biết làm thế nào để phản ứng, nên anh đành kể hết cho mụ, về cột sáng và cả thứ mùi mà anh nghe thấy, song tuyệt nhiên không đề cập đến đứa bé bí ẩn.

Trong lòng anh cũng đang tồn tại những mối lo riêng.

Rose Targaret thoạt nhìn có vẻ điêu toa, song thực chất mụ là người kín tiếng.

Với cả, mụ là một trong số ít những người phản đối chỉ thị David năm xưa, nên Franklin cũng có kha khá niềm tin ở mụ.

"Tôi nghĩ anh và Wlaket nên về.

Cái thị trấn này còn đang ồn ầm lên anh và thằng con anh đang mang trong người bùa chú dịch bệnh quái quỷ gì đó nữa.

Lời đồn chưa đến tai David đâu, nhưng ai mà biết gã điên ấy có thể làm gì."

Rose chùi tay lên tạp dề, hếch cằm về hướng ngược lại ra hiệu anh quay trở về nhà.

Song vì còn có chuyện cần giải quyết, nên anh khẽ lắc đầu, môi anh nở một nụ cười khinh khỉnh.

"Chúc cha con tôi may mắn đi Rose.

Ai lại nỡ rêu rao mấy lời nhảm nhí đó được nhỉ?

Nói tôi nghe, rồi tôi sẽ vặn đầu kẻ đó bằng tay không."

Nghe bố đùa, Wlaket cười ngặt nghẽo, dù thú thực là trong lòng cậu cũng có chút hoang mang.

Mụ Rose chỉ hừ một tiếng, rồi mụ ngồi thụp xuống cái ghế trước quầy hàng.

Mụ chán nản phẩy tay, ra hiệu hai người đi đi cho khuất mắt.

"Buôn may bán đắt nhé Rose, đang là giữa đông nên chẳng ai dám đi săn đều đặn như nhà tôi đâu nhé."

Franklin chỉnh lại đống hòm xiểng trên lưng, rồi tiến sâu hơn vào trong thị trấn.

Wlaket đi sau anh, tươi cười chào tạm biệt mụ.

Rose chỉ ngồi đó nhìn hai người bước đi, khuôn mặt lộ rõ vẻ bất bình.

Có lẽ mụ lo cho hai cha con anh thật.

Càng bước đi, con đường đất càng đỡ lầy lội, rồi dần nhường chỗ cho cung đường lát gạch sạch sẽ.

Hai cha con đi tới Lều Gỗ, một quán trọ giá rẻ trong thị trấn để tá túc qua đêm.

Như mọi khi, Lều Gỗ không đông khách lắm.

Quầy rượu lác đác những gã thợ mỏ vừa đi làm về, chân tay lấm lem bùn đất, đang vừa nốc rượu vừa hát hò inh ỏi.

Michael – chủ trọ, vừa thấy hai người, đã lập tức đưa tay ra vẫy.

Anh cùng với Rose là một trong số ít những người thị trấn chào đón hai cha con.

"Tầng hai, như mọi khi, Brian đã sửa soạn sẵn rồi.

Hai người có thể lên tắm táp rồi xuống ăn tối cũng được."

"Cảm ơn anh".

Vừa nói, Franklin vừa tiến lại phía Michael, đặt lên bàn ba đồng bạc, gật đầu lịch sự.

Chuyến đi đường mệt mỏi không còn khiến anh có cảm giác muốn trò chuyện nữa.

Wlaket hào hứng chạy lên trước trong khi cha cậu lững thững bước theo sau.

Cậu gặp Brian – con trai Michael đang lúi húi lau chùi tay nắm cửa sao cho bóng loáng.

Wlaket vỗ vai Brian.

Bị bất ngờ, cậu trai giật mình quay lại, rồi Wlaket bất thình lình cúi người và đặt lên môi cậu một nụ hôn.

Cả hai nhanh chóng tách nhau ra trước khi Franklin kịp đặt chân lên lầu.

"Wlaket, chào mừng trở lại."

Brian mỉm cười rạng rỡ.
 
Back
Top Bottom