Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Thâm Cung - Trần Lạc Hoa

Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 50



Ấy, ta cứ luôn nghĩ mình giỏi trốn tránh mà lại quên mất một điều: Bách Phượng này là của Hoàng Đế, Hậu cung này cũng là của Hoàng Đế, cho dù ta có thể trốn tất thảy mọi người trong thiên hạ thì cũng không trốn được hắn.

Chính vì lẽ đó nên thay vì tận hưởng một buổi tối bình yên ở tẩm cung của mình như những người khác, ta lại phải ngồi đối diện với Hoàng Đế trong Noãn các này, lòng nơm nớp lo sợ mà mặt vẫn phải ngoan ngoãn mỉm cười thật dịu dàng.

Lúc này, Hoàng Đế mặc thường phục màu xanh nhạt, không có long bào oai nghiêm xa cách khiến cho trông hắn cũng có mấy phần giống với một thiếu niên bình thường.

Chỉ là ánh mắt của một thiếu niên bình thường không thể sâu không thấy đáy như vậy.

Có lẽ Hoàng Đế cũng nhận thấy sự căng thẳng của ta, hắn chợt cười, nhấc bình rượu trên bàn rót vào cái chén nhỏ trước mặt ta, nói:

“Sợ cái gì? Uống một chén đi.”

Được Hoàng Đế rót rượu cho là một vinh hạnh lớn nhưng ta mà uống rượu vào thì vinh hạnh này không khéo lại hóa thành đại họa. Ta ái ngại nhìn chén rượu sóng sánh trước mặt, không biết phải nói thế nào:

“Hoàng Thượng, thiếp… Không biết uống rượu…”

Hoàng Đế liếc nhìn ta, khinh khỉnh nói:

“Không biết uống rượu? Rõ ràng hôm qua còn uống tới say mèm, trẫm còn tưởng nàng thích rượu lắm chứ?!”

Nhóc con đáng ghét. Hôm qua không nổi giận thì thôi, giờ lại muốn kiếm cớ phạt chuyện hôm qua à? Đâu có dễ như thế.

Ta lập tức nhe răng cười nịnh bợ, không để hắn có cơ hội khép tội ta bất tuân thánh ý:

“Thần thiếp đúng là không biết uống rượu, nhưng rượu Hoàng Thượng ban thì thần thiếp đương nhiên là thích rồi.”

Nói xong liền cầm chén rượu lên uống một hơi cạn sạch. Rượu này còn mạnh hơn Hồng Mai tửu kia, ta chỉ vừa uống một chén nhỏ mà hơi rượu đã bốc lên cay mờ cả mắt, phải cố lắm mới không ho sặc sụa.

Hoàng Đế nhìn ta cay ch** n**c mắt thì càng tỏ ra thích thú. Một kẻ thích nhất là hành hạ người khác như hắn đương nhiên sẽ không dễ dàng buông tha cho ta.

Hắn gật gù:

“Một hơi cạn sạch. Rất có khí phách. Nào, trẫm mời nàng một chén nữa.”

Ta bất lực nhìn hắn châm đầy chén rượu thứ hai, linh cảm chẳng lành ùa đến, sống lưng bất giác rét run. Một hai chén rượu đối với ta không thành vấn đề, nhưng nếu ta uống chén này rồi hắn có chịu tha cho ta hay không? Hoàng Đế biết ta không uống được nhiều rượu nhưng lại ép ta uống… Chẳng lẽ là muốn chuốc say ta? Hắn làm vậy có mục đích gì?

Ta e dè cầm chén rượu trong tay, rõ ràng biết không thể tiếp tục uống vào nhưng lại không nghĩ ra cách từ chối. Bất giác, ta nảy ra một ý tưởng, bèn chớp mắt nhìn Hoàng Đế:

“Hoàng Thượng, thần thiếp cũng muốn kính rượu người.”

Chẳng biết Hoàng Đế có đoán ra ý của ta không, chỉ thấy hắn cười xòa một tiếng rồi cũng tự rót rượu cho mình.

Hai người chúng ta cứ thế uống cạn hết chén này đến chén khác, chỉ lẳng lặng ngồi uống cùng nhau như thế. Hoàng Đế không nói, ta càng chẳng dám mở miệng hỏi nhiều. Dù sao một bình rượu hai người cùng uống vẫn hơn một mình ta uống. Chỉ hi vọng ta đừng quá say, chí ít là đừng say đến mức bóp cổ Hoàng Đế là được.

Ấy thế mà ta chẳng giữ suy nghĩ ấy được lâu, qua thêm vài chén nữa thì trong đầu ta đã chẳng còn gì ngoài hơi rượu cay nóng bừng bừng. Ta ho khan mấy tiếng, lại đưa tay dụi mắt một hồi mới nhận ra Hoàng Đế đang ngồi nhìn ta cười ngặt nghẽo. Tửu lượng của Hoàng Đế đương nhiên cao hơn ta, dù đã cùng ta chia nửa bình rượu nhưng trông hắn vẫn còn khá tỉnh táo, chỉ có hai gò má xương xương là khẽ đỏ lên. Bộ dạng cười nhạo người khác của hắn làm ta bực mình, không nhịn được lườm hắn:

“Hoàng Thượng cười thiếp à?”

Hoàng Đế cười càng lớn, một tay chống cằm, một tay vươn qua nghịch lấy tóc ta:

“Nàng cũng biết bản thân trông rất buồn cười à?”

Bấy giờ thì ta bực thật rồi.

Ta bĩu môi, chẳng buồn đôi co với tên nhóc đáng ghét này nữa, dứt khoát đứng dậy:

“Không thèm nói chuyện với Hoàng Thượng nữa, thiếp về nhà ngủ đây…”

Ta chẳng ngờ Hoàng Đế lại bất ngờ chụp lấy tay ta kéo lại, mà ta đang say, đứng một mình còn không vững nên lúc bỗng nhiên bị kéo liền mất đà ngã chỏng vó về phía Hoàng Đế.

Còn Hoàng Đế hẳn cũng chẳng ngờ ta lại nặng như vậy, thân thể yếu ớt của hắn tất không đỡ nổi. Thế là ầm một tiếng thật lớn, ta đã ngang nhiên đè ngã Quang Nhật đế khét tiếng hung bạo xuống đất.

Những người hầu hạ ở Ngự tiền đều rất kính sợ Hoàng Đế, ban nãy Hoàng Đế đã dặn không có lệnh của hắn thì không được bước vào. Chính vì vậy, dù có nghe bên trong ồn ào, Lý Thọ và đám cung nữ của chỉ dám sốt ruột đứng từ ngoài xa hỏi vọng vào:

“Hoàng Thượng… Người không sao chứ ạ…”

Hoàng Đế bị ta đè bẹp dưới đất, nãy giờ vẫn còn nhăn nhó vì đau, gắng gượng lớn tiếng đáp lại Lý Thọ:

“Trẫm không sao…”

Nói đoạn, không quên nạt ta một trận: “Nàng còn chưa chịu ngồi dậy à? Nặng chết đi được… Trẫm nuôi nàng béo tốt quá rồi. Từ nay mỗi bữa bớt một nửa khẩu phần nghe chưa…”

Ta vốn đang cố sức bò dậy, nghe Hoàng Đế nói thế thì lại nổi xung. Đã dám chê ta béo lại còn đòi cắt cơm của ta. Thật sự không thể quá đáng hơn. Động đến lòng tự tôn của nữ nhân là một việc hết sức nghiêm trọng. Ta bực bội khịt mũi, bỏ luôn ý định ngồi dậy, cứ yên vị trên người Hoàng Đế.

Thấy ta đột nhiên nằm ì ra, Hoàng Đế bèn giãy nảy, cố sức đẩy ta xuống:

“Này… Muốn đè chết trẫm hay sao?! Mau leo xuống…”

“Không xuống…”

“Nàng muốn tạo phản à? Leo xuống ngay! Đừng để trẫm phải gọi hộ vệ…”

“Thiếp cứ không xuống đấy…”

“Nàng to gan lắm!”

“Ai bảo Hoàng Thượng dám chê thiếp béo…”

Chắc hẳn thời khắc này, Hoàng Đế đã nhận ra chuốc ta say là một sai lầm cực kì nghiêm trọng. Ta đã say rồi thì trời không sợ, đất không sợ, đương nhiên càng không sợ Hoàng Đế. Hắn càng giãy giụa thì ta càng cứng đầu bám chặt lấy cổ hắn.

Một đêm trăng tròn cảnh đẹp ý vui, quân tử và thục nữ vỗn dĩ đang đối tửu thưởng nguyệt, cảnh sắc ấy đáng ra phải đẹp đẽ biết bao nhiêu, không biết vì lẽ gì tự nhiên lại hóa thành tình cảnh đôi bên đấu vật dưới nền đất như thế này.

May mắn cho Hoàng Đế, ta say quá hóa thành vụng về, để cho hắn chớp được sơ hở, cuối cùng cũng đẩy được ta lăn qua một bên. Ầm ĩ một hồi, cả ta và hắn đều thấm mệt. Sau một hồi th* d*c, Hoàng Đế nghiêng đầu nhìn ta, nhăn mặt:

“Nàng định đè chết trẫm thật sao?”

Ta cũng nghiêng đầu nhìn lại hắn, trề môi:

“Hoàng Thượng định bỏ đói thiếp thật sao?”

Hoàng Đế nheo nheo mắt:

“Đúng là uống rượu vào nàng to gan thật.”

Ta đang định cãi thì men rượu lại bốc lên, khiến ta ho một tràng muốn đứt hơi. Hoàng Đế thấy thế mà còn cười được, lại dám thản nhiên xoa ngực ta. Ta vùng vằng hất tay hắn ra:

“Thiếp đã nói là không uống được… Ai bảo Hoàng Thượng cứ ép… đau đầu chết đi được…”

Hoàng Đế chợt thôi không cười nữa, sự đùa cợt trong ánh mắt cũng tan biến, hắn đáp lại bằng một chất giọng phẳng lặng:

“Nếu không say, nàng làm sao chịu nói thật lòng?”

Sự thay đổi của hắn làm ta hơi giật mình, nhưng ta đã quá say, không còn đoán nổi thánh ý nữa, chỉ có thể cau mày mù mờ hỏi:

“Thiếp nói dối Hoàng Thượng bao giờ?”

Hoàng Đế khẽ cười, đưa hai ngón tay sang day day hàng lông mày đang nhăn nhó của ta:

“Còn chối? Nếu là ngày thường, nàng nhất định sẽ sợ hãi quỳ xuống mà nói: Thần thiếp không dám. Làm gì có gan nằm đây nhăn mặt như vậy?”

Ta ngẫm nghĩ một hồi, cảm thấy hắn nói cũng không sai. Đó là vì ngày thường ta luôn luôn sợ hãi. Mà sống lâu trong cung, kinh nghiệm sinh tồn tốt nhất của ta chính là không trốn được thì cứ quỳ gối tạ tội. Nhưng bây giờ, cảm giác sợ hãi đó tự nhiên chẳng còn nữa.

Ta chớp mắt nhìn Hoàng Đế, thật thà nói:

“Hoàng Thượng cũng không giống ngày thường.”

Hoàng Đế nghe ta nói xong cũng không phải đối. Hắn gác tay lên trán, thở dài nhè nhẹ:

“Đúng là hôm nay không giống ngày thường.”

Dáng vẻ ấy cô độc đến mức tận đáy lòng ta cảm thấy xót xa thay cho hắn. Người thiếu niên đang nằm cạnh ta đây ngày thường đều xuất hiện với dáng vẻ quân vương cao ngạo. Một lời nói của hắn có thể dễ dàng lấy đi sinh mạng của kẻ khác. Hắn lúc nào cũng mặc long bào chói mắt, cười cợt buông thả như thể trên đời này chẳng có thứ gì quan trọng… nhưng trong lòng có thực sự vui vẻ không?

Con đường đế vương hiểm nguy ấy hắn đã phải đơn độc dấn thân từ khi là một đứa trẻ mới mười một tuổi.

Một đứa trẻ mười một tuổi đáng lẽ ra phải được sống vô ưu vô lo bên phụ mẫu của mình. Còn hắn, mười một tuổi đã phải gánh lên vai giang sơn xã tắc, không có phụ mẫu, không có huynh đệ tỷ muội.

Mười một tuổi, hắn bước lên ngôi cao cửu ngũ.

Mười một tuổi, ta rơi xuống tận cùng khổ nhục.

Hai người bọn ta sinh ra ở cách xa nhau vạn dặm, con đường mà bọn ta đi cũng khác nhau một trời một vực. Thế nhưng nghĩ lại, có lẽ bọn ta có một điểm tương đồng: mười một tuổi thì mất đi người thân duy nhất, cuộc đời chuyển sang trang mới, vĩnh viễn không còn được bình yên.

Ta vẫn cứ nghĩ mãi mà không hiểu nổi vì sao mấy ngày sau Thọ Yến tâm trạng Hoàng Đế luôn không tốt. Khi tỉnh táo, ta nghĩ không ra, nhưng lúc này men say chếnh choáng thì ta lại bất ngờ thông tỏ.

Thân mẫu của Hoàng Đế sau khi sinh hạ hắn thì băng huyết qua đời. Ngày Hoàng Đế sinh ra cũng là ngày mẫu thân hắn lìa đời. Thọ Yến của hắn linh đình trang trọng là thế mà người mẫu thân đã dùng cả sinh mạng để đưa hắn đến thế gian này cuối cùng vẫn mãi mãi là một Vũ Tiệp dư bị lãng quên, thậm chí cả một nén hương cũng không thể thắp. Nếu đổi lại là ta, ở trong hoàn cảnh đó, e rằng một cái nhếch môi cười ta cũng không làm nổi. Để có được gương mặt tươi cười phấn chấn ngày hôm qua, không biết hắn đã phải nuốt vào trong bao nhiêu thương tâm?

Chuyện nghĩ không thông giờ đã nghĩ thông rồi, nhưng dường như hơi rượu làm cho đầu óc ta mê muội đi, ngay cả một lời dễ nghe để an ủi hắn cũng không thể nghĩ ra nổi. Ta chỉ biết lặng lẽ nắm lấy bàn tay hắn, hi vọng có thể truyền cho hắn một chút mê muội của ta, để hắn quên bớt đi những ưu thương trong tâm trí.

Hoàng Đế siết lấy tay ta, mắt vẫn nhìn thẳng lên trần nhà, nói thầm qua hơi thở:

“Tâm trạng trẫm không tốt. Nàng hãy kể cho trẫm nghe một chuyện vui đi.”

Ta ngượng ngùng đáp:

“Thiếp không đọc sách, không biết kể chuyện đâu.”

“Chuyện gì cũng được, không cần phải ở trong sách. Chuyện của nàng cũng được.”

Ta cắn cắn môi, người như ta thì làm sao có chuyện gì vui? Bình thường lúc không say ta còn chưa chắc nghĩ ra được.

Thời gian chậm chạp trôi qua, ta mò mẫm trong kí ức nặng nề của mình, cố gắng tìm một chuyện có thể coi là vui vẻ để nói. Hoàng Đế không hối thúc thêm. Ta cứ nằm nghĩ mãi, chợt kí ức mịt mờ đau thương như có tia sáng ấm áp hiện lên. Ta thế mà cũng nhớ ra được một chuyện vui vẻ.

“Lúc còn nhỏ thiếp rất béo… cho nên mẫu thân mới đặt nhũ danh cho thiếp là Bánh Bao. Phụ hoàng cũng thích tên này, cứ gặp thiếp là lại gọi: Bánh Bao nhỏ, mau lại đây với phụ hoàng… Khi đó, phụ hoàng hay đưa thiếp và mẫu thân đi thả diều. Hai người bọn họ cùng nhau vẽ một con diều lớn hình bánh bao… Mẫu thân thích thả diều lắm… Cho nên phụ hoàng luôn nhường mẫu thân chơi, còn mình thì cõng thiếp chạy theo…”

Chuyện cũ cứ thế vô thức trôi ra từ miệng ta, đáng lẽ là một câu chuyện vui vẻ, nhưng không hiểu sao kể đến đây, tim ta lại như bị ai đó bóp chặt, chặt đến mức ta không thở nổi, phải ngồi bật dậy. Những cơn nức nở cũng theo đà tuôn trào ồ ạt, khiến ta không sao kiềm được nghẹn ngào.

“Nguyệt nhi sao thế?”

Hoàng Đế lo lắng ngồi dậy, vỗ vỗ lên lưng ta. Nhờ có mấy cái vỗ lưng của hắn, ta ho khan được mấy tiếng, thở cũng dễ hơn.

“Thiếp… thiếp luôn thấy rất khó hiểu. Người đó… là phụ hoàng của thiếp… Người đó cũng từng yêu thương thiếp… từng cõng thiếp đi thả diều cơ mà… Vì sao đột nhiên lại có thể trở nên nhẫn tâm với thiếp như vậy… Là vì thiếp không tốt sao? Hay vì thiếp là nữ nhân? Nếu như thiếp là nam nhân, có phải phụ hoàng sẽ không…”

Lời còn chưa nói xong, mắt đã muốn ướt nhòe. Nghe nói không thể tùy tiện khóc trước long nhan, nhưng ta càng lau thì nước mắt lại càng chảy nhiều hơn, không còn cách nào khác, ta đành dùng hai bàn tay che kín mặt lại. Ta che mặt lại rồi thì không tính là rơi lệ trước long nhan nữa, phải không?

“Đúng là đồ ngốc…”

Hoàng Đế thở dài, khẽ khàng gỡ hai bàn tay ta xuống. Hắn kéo ta lại gần, lẳng lặng lau khô từng giọt nước mắt trên mặt ta, bao nhiêu giọt rơi ra, hắn đều kiên nhẫn dùng ngón tay gạt đi bấy nhiêu.

“Bánh Bao ngoan, đừng khóc… Sao có thể là lỗi của nàng? Nữ nhân thì có gì không tốt? Nữ nhân mới có thể gả cho ta…”

Không biết đã bao nhiêu năm rồi, ta mới được nghe lại ba chữ “Bánh Bao ngoan” này. Trái tim không khỏi run rẩy. Ta hít sâu một hơi, lẩm bẩm:

“Phải rồi, nếu là nam nhân thì không gả đi được rồi…”

Hoàng Đế phì cười, xoa đầu ta:

“Này Bánh Bao, nàng biết không, thực ra ta cùng có nhũ danh đấy.”

Ta dụi mắt nhìn hắn:

“Thật sao?”

Nụ cười trên môi Hoàng Đế chợt nhuốm nét buồn:

“Ừ. Ban đầu ta cũng không biết đâu, vì ai cũng gọi ta là Thái tử gia. Cả mẫu hậu cũng gọi như thế. Mãi đến một ngày nọ, phụ hoàng bỗng nhiên gọi ta đến dặn dò rất nhiều chuyện… Có lẽ người thuận miệng nên kể cho ta nghe cả chuyện lúc ta mới chào đời. Nghe nói vị đó muốn cho ta lúc nào cũng tươi cười, cả đời vui vẻ bèn đặt nhũ danh cho ta là A Tiếu. Nhưng mà vị đó qua đời rồi, phụ hoàng không nhắc đến, cũng không có ai biết đến cái tên đó. Phụ hoàng nói chuyện này với ta xong, ít lâu sau thì băng hà… Cho nên cái tên A Tiếu này ta chưa được nghe ai gọi bao giờ…”

Ta thoáng kinh ngạc, nãy giờ Hoàng Đế xưng “ta”.

Nói về thân mẫu của mình mà hắn chỉ có thể dùng hai tiếng “vị đó”… Nỗi đau này ai có thể tỏ tường?

Đôi mắt trong trẻo của hắn chẳng biết tự bao giờ như bị phủ một màn sương mờ tăm tối. Ta bất giác vươn tay chạm vào gương mặt hắn, ngón tay run run lướt theo gò má xương xương, ngập ngừng dừng lại nơi khóe mắt:

“A Tiếu, đừng khóc…”

Hai tiếng A Tiếu thốt ra, ta mới giật mình hoảng hốt rụt tay lại. Cái tên này ta đâu được phép gọi. Ta say rồi, say đến mất trí rồi.

Ánh mắt Hoàng Đế khẽ lay động, hắn không trách ta vô lễ, chỉ dịu dàng mỉm cười, cầm lấy bàn tay ta vừa rút lại:

“Ta đâu có khóc.”

Như để chứng minh điều đó, hắn cầm tay ta, áp trở lại lên mặt mình, nói tiếp:

“Nàng thấy không, đâu có nước mắt.”

Hành động ấy của hắn càng khiến ta xót xa hơn. Ta lần nữa rút tay khỏi bàn tay lạnh lẽo của hắn, nhưng lần này, ta dùng cả hai bàn tay của mình áp lên đôi mắt hắn, khẽ đáp:

“Ai nói với người nước mắt nhất định sẽ chảy ra ngoài?”

Rất chậm, rất chậm, lòng bàn tay ta nóng lên rồi lại trở nên ẩm ướt, từng giọt nước nóng hổi long lanh chảy tràn xuống cổ tay ta, làm ta khẽ rùng mình.

Ta và Hoàng Đế ngồi yên trong tư thế kì lạ đó không biết bao lâu, đến tận khi không còn nhìn thấy giọt nước nào lăn xuống nữa, ta mới buông tay.

Không dám đối diện với đôi mắt đỏ hoe, bi thương và hoảng hốt đó, ta vội cúi đầu, nhìn hai bàn tay ướt đẫm của mình, cười gượng:

“Tay của thiếp ướt, làm ướt cả mắt của Hoàng Thượng rồi…”

Hoàng Đế bật cười, nhưng lại không nói gì, khiến cho ta càng thêm khó xử. Rượu uống vào ban nãy bây giờ đã bắt đầu hoành hành, đầu ta đau nhức, quả thực không nghĩ nổi biện pháp giải vây nữa.

Đương lúc ta đang bối rối vò tay áo, chịu đựng sự yên lặng đáng sợ này thì Hoàng Đế hỏi:

“Lần trước bảo nàng làm túi thơm cho ta, đã làm xong chưa?”

Ta như vớ được vàng, sực nhớ ra chiếc túi thơm ở trong tay áo, vội nói ngay:

“Có ạ…”

Hoàng Đế nhận túi thơm từ tay ta, hai hàng lông mày lặp tức nhăn nhúm lại:

“Ta nhớ rõ là bảo nàng thêu hình phiến vỹ tước cơ mà, sao lại thành hai cục mỡ biết bay thế này?”

Nếu đầu người có thể bốc khói thật thì có lẽ trên đầu ta đã đầy khói đen rồi.

Hoàng Đế lại quay về bộ dạng đáng ghét ngày thường rồi. Ta bực mình, vểnh mặt đáp:

“Rõ ràng là một đôi phiến vỹ tước xinh xắn.”

Hoàng Đế hừ một tiếng:

“Trên đời có loại phiến vỹ tước nào béo tròn như cục mỡ vậy sao?”

Ta chẳng chịu thua:

“Phiến vỹ tước ở chỗ thiếp ăn no ngủ đủ nên đều như thế. Hoàng Thượng không thích thì trả lại cho thiếp…”

Nói đoạn giơ tay toan giật lại. Hoàng Đế tránh kịp, nhét vội chiếc túi thơm vào tay áo, đổi giọng cười hì hì:

“Sinh thần của ta nàng còn chưa tặng lễ vật gì đâu đấy. Ta tạm lấy cái này đền vào.”

Ta bĩu môi, bày ra vẻ mặt không thèm chấp nhất trẻ con. Hoàng Đế thấy ta không cãi nữa liền tỏ ra đắc ý. Hắn mệt mỏi ngáp dài một tiếng, ngả người nằm kềnh ra đất, lại còn vẫy tay gọi ta:

“Này Bánh Bao, lại đây.”

Dáng vẻ phởn phơ ấy trông thực đáng ghét, nhưng ta ngồi lâu cũng mỏi lưng, lại thêm đầu đang nhức cho nên không buồn tranh cãi, ngoan ngoãn nằm xuống, gối đầu lên vai hắn.

Hoàng Đế mắc hàn chứng, thường hay sợ lạnh, vậy nên chỗ ở của hắn được trải thảm dày, có cả lò sưởi ấm áp, nằm dưới đất cũng khá thoải mái.

Chỗ bọn ta nằm nhìn thẳng ra cửa sổ, thấy rất rõ một vầng trăng tròn vành vạnh. Mặt trăng đêm nay dường như còn tròn hơn hôm trước rất nhiều.

Hoàng Đế vòng tay ôm lấy ta, nhẹ giọng hỏi:

“Sinh thần của nàng cũng là đêm rằm phải không?”

Ta đã hơi buồn ngủ, khẽ gật đầu:

“Là đêm rằm tháng giêng… Tết Nguyên Tiêu…”

Hoàng Đế ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

“Được, vậy đến lúc đó ta đưa nàng đi xem hoa đăng bên ngoài.”

Muốn dỗ ngọt người khác cũng phải nói cho thực tế một chút chứ?! Ta tuy say nhưng vẫn chưa bị điên, đương nhiên không tin lời này của hắn, không khỏi cười thành tiếng:

“Hoàng Thượng đừng gạt thiếp…”

Hoàng Đế nghiêm mặt:

“Nàng ăn nói càng lúc càng to gan. Quân vô hí ngôn, ta mà lại đi gạt nàng sao?

Ta bĩu môi, nói thẳng:

“Hoàng Thượng là Hoàng Thượng kia mà, có thể vì thiếp mà xuất cung sao?”

Hoàng Đế cười gian xảo:

“Thật ra thì cũng không phải vì nàng… Lúc đó ta có việc phải ra ngoài, dắt nàng theo cũng không có gì khó khăn.”

Ta thiếu chút nữa là tự cắn trúng lưỡi mình:

“Hoàng Thượng, cho dù không phải vì thiếp thì người cũng không cần nói thẳng như thế chứ?”

Hoàng Đế ôm ta chặt thêm một chút. Giọng nói của hắn nhẹ như gió thoảng bên tai ta:

“Ta không muốn nói dối nàng. Bánh Bao này, gọi A Tiếu một lần nữa đi.”

Mắt ta đã díp cả lại, ta dụi đầu vào ngực hắn, lơ mơ đáp:

“A Tiếu…”

“Đúng là dễ nghe. Gọi thêm một lần nữa xem nào.”

“A Tiếu…”

“Một lần nữa.”

“Thiếp buồn ngủ lắm…”

“Không được lười biếng. Mau gọi đi.”

“A Tiếu… A Tiếu… A Tiếu…”

Ta lải nhải gọi một hồi, chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng, ta cảm thấy dường như Hoàng Đế v**t v* tóc ta rất lâu. Hắn vén gọn tóc mái của ta vào hai bên mang tai, rồi chầm chậm đặt lên trán ta một nụ hôn phớt nhẹ. Nụ hôn mang theo hơi thở lành lạnh quen thuộc của Hoàng Đế rơi trên mi mắt còn hơi ướt của ta, trượt qua sống mũi, sau đó dừng lại bên khóe môi ta.

Ta thiếp đi với một nụ hôn vụng về như thế.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 51



Khi nhìn Phong Thể Minh, ta bất giác liên tưởng đến hình ảnh cánh chim ưng mạnh mẽ, tự do chao lượn trên bầu trời thảo nguyên rộng lớn bạt ngàn. Một cánh chim ưng đẹp đẽ như thế đáng tiếc thay lại sa vào chốn lồng son thiếp vàng tù túng, cả đời phải tranh tiếng hót cùng một bầy oanh yến lòng dạ xấu xa…

Những ngày sau này, ta cứ nghĩ mãi về buổi tối ở Noãn các với Hoàng Đế. Nghe nói buổi sáng hôm sau, Lý Thọ đưa ta về Cẩm Tước cung, sau đó tuyên khẩu dụ rằng ta đã làm gì đó chọc giận thánh nhan, phạt cấm túc mười ngày. Ta dùng từ “nghe nói” là bởi vì mấy chuyện này ta đều nghe Ngọc Thủy và Ngọc Nga kể lại, chứ lúc được khiêng về ta vẫn còn say mèm chẳng biết trời đất chi cả. Ban đầu nghe mấy chữ “chọc giận thánh nhan”, ta sợ dựng cả tóc gáy, cứ tưởng lúc say đã lỡ làm gì khiến Hoàng Đế nổi giận, cho là mình sắp thăng thiên đến nơi rồi. Mãi tận ba ngày sau, khi đầu óc đã tỉnh táo hẳn, ta mới dần dần nhớ lại đầy đủ những chuyện xảy ra đêm hôm ấy, nỗi sợ hãi cũng dần dần vơi đi.

Thông thường, mấy ngày sau Thọ Yến tâm trạng Hoàng Đế đều không tốt, ai gặp phải hắn xem như xui xẻo tận mạng, nếu như ta được triệu đến chỗ hắn mà bình yên trở về thì mới là kì quái. Hắn vô duyên vô cớ cấm túc ta xem ra lại là làm một chuyện tốt cho ta. Mặc dù đám phi tử bên ngoài được dịp hả hê cười người gặp họa nhưng đổi lại ta lại được một khoảng thời gian yên tĩnh. Dù sao ta cũng không thích đi ra ngoài, chỉ cần không bị cắt cơm thì không thành vấn đề.

Chỉ là rảnh rỗi quá ta đâm ra lại nghĩ ngợi linh tinh. Những lời nói của Hoàng Đế cứ chờn vờn trong tâm trí ta, khiến ta không khỏi băn khoăn. Lúc đó ta không tỉnh táo nên chẳng tính toán gì, cứ nghĩ thế nào thì nói thế ấy. Bây giờ suy xét lại càng thấy mình như đã mắc vào một đống tơ rối mịt mù.

Những lời Hoàng Đế nói khi đó rất chân thật, chân thật đến nỗi đến tận lúc này, ta như vẫn cảm nhận được nỗi đau thương trong từng câu chữ ấy siết chặt lấy trái tim mình. Thậm chí lòng bàn tay này vẫn còn nguyên vẹn cảm giác nóng bỏng của những giọt lệ rơi từng xuống ngày hôm ấy. Ta tự hỏi vì sao Hoàng Đế lại nói với ta những lời này, chẳng lẽ hắn cũng say đến hồ đồ rồi sao?

Hoặc cũng có thể là do hắn thích ta.

Ta hít sâu một hơi, quyết định không ngủ nướng nữa, vừa ngồi dậy lộc cộc xỏ guốc đã thấy Ngọc Nga nhanh chóng đi vào, cẩn thận đỡ ta đến ngồi bên cửa sổ phơi nắng sớm.

Ta ngáp dài:

“Ngọc Nga, mang cho ta một chén canh giải rượu nhé.”

Ngọc Nga cau mày, nghi ngại:

“Lại canh giải rượu nữa à? Chủ nhân ơi, bốn, năm hôm nay người đã uống phải đến cả thùng canh giải rượu rồi đấy.”

Ta day day trán, khổ sở đáp:

“Ta biết chứ, nhưng ta cảm thấy mình vẫn còn say lắm.”

Có thể nghĩ ra việc Hoàng Đế thích mình… có lẽ kẻ say đến hồ đồ phải là ta mới đúng. Hắn là Hoàng Đế, hằng ngày có biết bao nhiêu nữ nhân tài mạo song toàn chạy theo lấy lòng hắn, hắn làm sao lại đi thích một kẻ tầm thường vô dụng như ta được.

Ngọc Nga rất nhạy cảm, vừa nhìn liền hiểu trong lòng ta có tâm sự. Nàng tặc lưỡi, nhẹ nhàng xoa bóp huyệt thái dương cho ta, vừa làm vừa nói:

“Chủ nhân đừng nghĩ nữa. Hiện giờ Hoàng Thượng đối với chủ nhân rất tốt mà. Chủ nhân nghĩ nhiều quá là tự làm khổ mình thôi.”

Ta nghiêng đầu, dựa vào lòng nàng:

“Ta biết, nhưng mà ta rất sợ… Ta sợ Hoàng Thượng mà cứ đối tốt với ta, ta sẽ lầm tưởng Hoàng Thượng thích ta, mà nếu ta lầm tưởng như thế… ta sợ chính ta cũng sẽ thích Hoàng Thượng mất…”

Nỗi lo lắng lớn nhất trong lòng, ta cuối cùng cũng nói ra. Ngọc Nga ngỡ ngàng trong chốc lát rồi thở dài, nói:

“Chủ nhân đến đây cũng được một thời gian rồi, Hoàng Thượng lại đối tốt với người, khó tránh trong lòng người nảy sinh tình cảm. Nhưng có lời này, cho dù chủ nhân có giáng tội thì nô tỳ cũng nhất định phải nói…”

Ta lắc đầu, cười: “Ta từ lâu đã xem ngươi như muội muội của mình, còn trách tội cái gì nữa.”

Ngọc Nga cũng mỉm cười, chẳng ngần ngại cầm lấy tay ta:

“Nếu đã như thế thì nô tỳ xin nói thẳng. Nam nữ gần gũi nhau lâu ngày tất nhiên sẽ sinh ra cảm giác quyến luyến… Nữ nhân vốn mềm yếu cho nên cảm giác đó sẽ càng sâu đậm hơn nam nhân. Nô tỳ cho rằng người có thích Hoàng Thượng một chút thì cũng chẳng hề gì, chỉ cần người nhớ được giới hạn của mình…”

“Giới hạn?”

“Phải, ví như chiếc vòng ngọc này… Chủ nhân có thích nó hay không?”

Ngọc Nga khéo léo tháo chiếc vòng đeo trên cổ tay ta xuống.

Ta gật đầu. Nếu không thích, ta đã chẳng đeo nó làm gì.

Ngọc Nga thản nhiên nói tiếp:

“Nếu nó bị rơi xuống đất, chủ nhân có nhặt nó lên không?”

Ta lại gật đầu. Vòng ngọc đắt tiền như thế, bị rơi đương nhiên là phải nhặt.

“Thế nhưng nếu nó không phải rơi dưới đất mà là rơi ở miệng vực sâu thăm thẳm. Vậy chủ nhân có mạo hiểm tính mạng đến miệng vực nhặt nó hay không?”

Lần này thì ta lắc đầu. Vòng ngọc có đắt đến đâu cũng chỉ là một thứ đồ vật ngoài thân, ta sao có thể liều mạng vì nó được.

“Nếu chủ nhân không nhặt, nó sẽ rơi xuống vực nát vụn. Chủ nhân có buồn không? Có vì nó mà buồn cả đời này không?”

“Mất món đồ mình yêu thích dĩ nhiên là buồn, nhưng không thể buồn cả đời được.”

Ngọc Nga hài lòng mỉm cười, đeo vòng ngọc trở lại vào tay ta.

“Chính là như thế. Thích một vật không có gì là xấu. Chỉ cần chủ nhân hiểu được không có thứ gì quan trọng hơn bản thân mình, không có thứ gì đáng giá để mình phải đau buồn cả đời. Như vậy là được.”

Những lời Ngọc Nga vừa nói ra, thoạt nghe thì rất bình thường, nhưng ngẫm lại, không có lời nào là không mang hàm ý khi quân phạm thượng. Thế nhưng, nàng có thể vì ta mà không ngại nói ra những lời tày đình như thế, đủ thấy nàng đối với ta có bao nhiêu tâm ý.

Ta vỗ vỗ lên lưng bàn tay nàng, không hề che giấu sự cảm kích của mình:

“Ta đã hiểu rồi. Muội muội tốt, đa tạ…”

Ngọc Nga mỉm cười rạng rỡ:

“Chủ nhân hiểu là tốt rồi. Nô tỳ đã chuẩn bị canh gà ác cho người, mau ăn cho nóng thôi.”

Canh gà được mang lên, ta ăn vơi độ nửa chén, bỗng nhiên nghĩ đến một vấn đề khác, lòng lại trầm xuống.

“Ngọc Nga, buổi sáng hôm ta từ Noãn các trở về… Thái Y viện có mang canh đến không?”

Ta đặt chén canh gà xuống bàn, nghiêm túc nhìn Ngọc Nga.

Ngọc Nga lắc đầu:

“Không có ạ…”

“Đã bao lâu rồi?”

“A… có lẽ… hơn ba tháng rồi…”

Sắc mặt của ta lẫn Ngọc Nga đồng loạt xấu đi.

Phải, đã hơn ba tháng nay Hoàng Đế không sủng hạnh ta. Hắn vẫn tới lui đều đặn, nhưng khi thì ghé vào uống trà ăn bánh trêu ghẹo ta vài câu, khi thì tới chơi đùa với bầy phiến vỹ tước ngoài sân, nếu có ăn cơm tối nghỉ lại thì cũng chỉ nằm cạnh nhau, nắm tay mà ngủ. Cũng vì như thế cho nên dù không phải uống Vong thai dẫn, cái bụng của ta mãi vẫn chẳng thể có động tĩnh gì.

Ta bất giác đưa tay xoa bụng, hoang mang nhìn Ngọc Nga:

“Có phải Hoàng Thượng ghét ta không…”

Ta đúng là ngu ngốc. Ban nãy còn nghĩ Hoàng Đế thích mình, lại chẳng nhớ tới bao lâu nay hắn đâu hề động đến ta.

Ngọc Nga lắc đầu lia lịa, hoảng hốt chặn một ngón tay ngang môi ta:

“Chủ nhân đừng nói thế… Nô tỳ đã nói rồi mà, Hoàng Thượng đối với chủ nhân rất tốt, sao có thể ghét chủ nhân được chứ?!”

Dù nàng đang trấn an ta, nhưng nét hoang mang trên mặt nàng càng khiến ta hoảng thêm. Ta cúi đầu, giở ngực áo mình nhìn vào:

“Hay là ta có cái gì đó khác thường?”

Ngọc Nga đỏ mặt, vội chặn tay ngang ngực áo ta, không cho ta nhìn nữa:

“Chủ nhân rất bình thường… Người đừng có làm như thế…”

Ta vẫn chưa cảm thấy hài lòng với câu trả lời này, bèn đề nghị:

“Hay là chúng ta đi nhìn trộm Thục phi một chuyến, xem nàng ta như thế nào mà Hoàng Thượng thích nàng ta như thế…”

Ta chưa kịp nói xong, Ngọc Nga đã nhảy dựng lên:

“Không thể được!!!”

Ta gật gù, lại nói:

“Cũng phải, tường Mẫu Đơn cung rất cao, xem chừng khó leo vào lắm đấy. Hay chúng ta đi xem Liên Nhạc đi…”

Ngọc Nga phát khiếp, nắm lấy vai ta lay lấy lay để:

“Chủ nhân đúng là vẫn còn say… Mau tỉnh lại…”

Ta bị nàng lay đến hoa cả mặt, không thể không đầu hàng:

“Được rồi, được rồi… không đi nhìn trộm nữa… ngươi đừng lay ta nữa…”

Ngọc Nga lay một hồi, áng chừng như ý tưởng điên rồ kia đã văng ra khỏi đầu ta rồi nàng mới ngừng tay, thở hắt ra một cách mệt nhọc:

“Chủ nhân đừng nghĩ lung tung, nếu Hoàng Thượng ghét người thì sẽ không gặp người đâu.”

Ta nghi ngờ nhìn nàng:

“Thật sao?”

Ngọc Nga cười khổ:

“Những chuyện này… nô tỳ biết rất rõ. Nam nhân ấy, nếu không thích một nữ nhân thì cho dù nữ nhân đó có quỳ trước mặt hắn, tự cầm dao cứa vào cổ mình… thì hắn cũng sẽ không buồn nhìn đến…”

Chẳng hiểu từ lúc nào, giọng nàng đã đượm nỗi chua chát nghẹn ngào. Ta lặng nhìn vết sẹo mảnh dẻ kéo dài ngang chiếc cổ thanh thoát của nàng, lòng đau đớn như bị ngàn mũi kim đâm. Trước nay, ta chỉ biết Ngọc Nga xuất thân từ thanh lâu. Ta không biết nàng đã trải qua những chuyện gì, nhưng ta nghĩ quá khứ đó nhất định là vô cùng đau xót, vì vậy ta không bao giờ dám hỏi đến chuyện cũ của nàng. Bây giờ không ngờ ta lại hồ đồ chạm vào vết thương trong lòng nàng. Quá khứ của nàng có lẽ còn đau xót hơn tưởng tượng của ta rất nhiều.

Ta nắm lấy tay Ngọc Nga, bao nhiêu lời an ủi cứ nghẹn ứ nơi cổ họng, không cách nào thốt lên được.

Nam nhân có lẽ chỉ nên thích, không nên yêu.

Lúc đó, ta đã nghĩ như thế mà chẳng hề nhận ra mình chỉ đang cố tự huyễn hoặc mà thôi.

***

Mấy ngày cấm túc tiếp theo, nhờ có mấy lời khuyên nhủ của Ngọc Nga, tâm trạng ta nhẹ nhõm hẳn.

Ngọc Nga nói rất đúng, nếu Hoàng Đế ghét ta thì đâu cần miễn cưỡng ở cạnh ta làm gì. Ta nào có nhà ngoại chống lưng, dù Hoàng Đế có quẳng ta vào xó xỉnh nào đó thì phụ hoàng cũng chẳng đến đây ăn vạ với hắn đâu.

Còn chuyện Hoàng Đế có thích ta hay không, có đoán cũng chẳng đoán ra nổi. Ta thôi chẳng buồn đoán nữa, chỉ chuyên tâm nghĩ việc Hoàng Đế trúng độc. Ai hạ độc hắn, ta không tra được, càng không dám tra, lại không thể cứ thể nói thẳng ra, ta đành cố hết sức nghĩ ra một cách chu toàn để đánh động cho hắn biết. Một kế hoạch mơ hồ dần dần thành hình trong đầu ta.

Nhưng tâm trạng nhẹ nhõm ấy chẳng kéo dài được bao lâu, ta vừa mới hết bị cấm túc mấy ngày thì cơn sóng gió mới đã ập đến hậu cung, mà Cẩm Tước cung của ta chẳng hiểu sao lại hứng trọn tâm bão.

Tháng chín năm Quang Nhật thứ sáu, thánh chỉ sắc phong Quận chúa Phong Thể Minh làm chính tứ phẩm Tiệp dư được ban bố. Nơi ở của Phong Tiệp dư cũng được chỉ định là Cẩm Tước cung.

Hoàng Hậu dịu dàng nói: “Phong Tiệp dư từ nơi xa xôi đến nên còn chưa quen phong tục lễ nghi, muội là cung chủ, cố gắng chỉ bảo nàng ấy một chút.”

Triệu Lam Kiều đắc ý nói: “Hòa tỷ tỷ nhớ dạy dỗ nàng ta cho cẩn thận, nếu nàng ta gây ra tội lỗi gì, tỷ thân là cung chủ khó tránh liên lụy.”

Dương Quý cơ mỉa mai nói: “Cẩm Tước cung đã có một công chúa, nay lại thêm một quận chúa, đúng là đất lành mà.”

Trịnh Vân Anh thật thà nói: “Tỷ tỷ, bảo trọng.”

Còn Liễu Yến Yến ấy à, vừa nghe tin này đã hỏa khí công tâm, ngất xỉu mất rồi, nói gì nổi nữa. Ta thì không được may mắn như thế, không ngất xỉu được nên đành phải trưng lên một nụ cười xã giao cứng đờ mà chống đỡ đám phi tần chỉ thích cười người gặp họa kia.

Cẩm Tước cung chỉ có ta và Bạch Diệu Hoa ở, ta biết chắc sang năm khi tuyển tú nhất định sẽ phải mở cửa chào đón thêm một, hai vị mĩ nhân nữa. Thêm người cũng chẳng hề gì, nhưng thêm đúng vị quận chúa không biết trời cao đất dày này… Ta thực sự bị sao quả tạ chiếu trúng rồi.

Cũng may thường ngày Bắc viện vẫn luôn được quét dọn gọn gàng cho nên cũng không tốn quá nhiều thời gian sắp xếp. Thượng Cung cục đưa đến một ít vật dụng theo quy chế tứ phẩm Tiệp dư. Lần này, ta phải đích thân kiểm tra từng thứ một. Triệu Lam Kiều nói không sai, nếu Phong Thể Minh gặp chuyện gì ta cũng sẽ bị vạ lây, cứ cẩn thận một chút thì hơn.

Hoàng Đế rõ ràng ưu ái Phong Thể Minh, ngay cả lễ thỉnh an mỗi buổi sáng cũng viện cớ này nọ miễn cho nàng ta. Hoàng Hậu chẳng tỏ thái độ gì, chỉ dặn dò ta thêm một lần nữa: phải dạy bảo Phong Tiệp dư cho tốt. Ta nghe mà mồ hôi lạnh đổ ròng ròng như suối. Phong Thể Minh này đến võ trạng nguyên còn bị nàng ta đánh bất tỉnh, ngay cả Hoàng Đế cũng không sợ, một kẻ bất tài vô dụng như ta lấy cái gì ra dạy dỗ nàng ta đây?

Ngày đầu tiên dọn đến nơi ở mới, theo cung quy thì phi tử phải làm lễ bái kiến cung chủ. Thân là cung chủ, được người ta bái kiến mà ta lo lắng đến mức đứng ngồi không yên. Khi Phong Thể Minh bước vào khách phòng, ta phải cố gắng lắm mới giữ được dáng vẻ đức độ mẫu mực mà một cung chủ cần phải có.

Mọi chuyện diễn ra khá trôi chảy, sau khi nhận của Phong Thể Minh ba lạy theo đúng lệ, ta liền cho nàng bình thân, cũng không quên ban trà, dặn dò một số việc:

“Cẩm Tước cung không có quy định gì đặc biệt cả. Mọi việc ở Bắc viện do Tiệp dư tự quản lý, hai nô tỳ đi theo Tiệp dư từ nay thăng làm đại cung nữ. Ngoài hai người này, Tiệp dư có thể đến Thượng cung cục chọn thêm năm cung nữ và năm thái giám nữa. Chỗ này có phòng bếp riêng, mỗi ngày sẽ có người mang thức ăn đến cho Tiệp dư, ngoài ra Tiệp dư muốn ăn thêm gì thì cứ căn dặn, chỉ cần không vượt quá quy chế tứ phẩm là được. Hậu cung này Tiệp dư tùy ý đi lại, trước khi ra ngoài chỉ cần báo với Ngọc Thủy một tiếng. Ngọc Thủy là Chưởng sự ở đây, có việc gì Tiệp dư cứ sai bảo nàng ấy.”

Ta chậm rãi nói xong, khẽ nhấp một ngụm trà thấm giọng. Thân phận Phong Thể Minh đặc biệt, Hoàng Đế còn phải lễ phép gọi nàng là biểu tỷ, vậy nên dù phân vị và tuổi tác nàng đều nhỏ hơn ta, ta vẫn chỉ dám gọi nàng bằng phân vị mà thôi.

Phong Thể Minh không hung hăng như trong tưởng tượng của ta. Nàng nghe ta nói xong, bèn ngẩng đầu cười đáp:

“Thể Minh đã hiểu. Đa tạ Hòa phi nương nương chỉ giáo.”

Bấy giờ ta mới có dịp nhìn rõ dung mạo của nàng.

Cũng chính lúc này, ta mới biết Trịnh Vân Anh chẳng hề khoác lác. Hậu cung luôn không thiếu mĩ nhân, trước nay ta nhìn mĩ nhân đều đã quen mắt, thế mà đối diện với Phong Thể Minh, ta vẫn không khỏi sững sờ.

Ta đọc ít sách vở, không giỏi văn chương, đối với vẻ đẹp kinh hãi thế tục này ta chẳng biết dùng lời nào để tán tụng. Vẻ đẹp của Phong Thể Minh không chỉ nằm ở những đường nét thanh tú đến độ hoàn mĩ trên khuôn mặt nàng mà còn ẩn hiện ở nụ cười phóng khoáng, tràn đầy sức sống của nàng. Khi nhìn Phong Thể Minh, ta bất giác liên tưởng đến hình ảnh cánh chim ưng mạnh mẽ, tự do chao lượn trên bầu trời thảo nguyên rộng lớn bạt ngàn. Một cánh chim ưng đẹp đẽ như thế đáng tiếc thay lại sa vào chốn lồng son thiếp vàng tù túng, cả đời phải tranh tiếng hót cùng một bầy oanh yến lòng dạ xấu xa…

Ta nén tiếng thở dài, chẳng muốn nghĩ sâu xa thêm nữa. Đặt chén trà xuống, ta ân cần nói:

“Tiệp dư còn điều gì muốn hỏi bản cung không?”

Phong Thể Minh chớp chớp mắt, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi:

“Ở đây chỉ có nương nương và Thể Minh thôi à?”

Ta lắc đầu, đáp:

“Còn có Bạch Thường tại ở Đông viện nữa.”

Phong Thể Minh nhíu mày, hồn nhiên hỏi tiếp:

“Sao Thể Minh không thấy nàng ấy? Thể Minh có cần đi bái kiến nàng ấy không?”

Ta vội vàng xua tay:

“Không cần, không cần… Phân vị của Bạch Thường tại thấp hơn Tiệp dư nhiều, đáng lẽ nàng ấy phải đến bái kiến Tiệp dư mới phải. Chỉ là Bạch Thường tại đang bị cấm túc, sau này sẽ hành lễ với Tiệp dư sau…”

“Ra là vậy…”

Nhìn bộ dạng ngớ ngẩn như bò đội nón tơi của Phong Thể Minh, ta mới giật mình:

“Tiệp dư vẫn chưa biết cấp bậc Hậu cung sao?”

Phong Thể Minh chẳng ngại ngùng, cười hì hì:

“Lý công công có đưa cho ta xem qua rồi, chỉ là dài dòng quá… Thể Minh nhất thời không thể nhớ nổi…”

Trong lòng ta đã muốn than khóc. Cấp bậc là thứ cơ bản sống còn. Không nhớ rõ cấp bậc thì làm sao biết mà hành lễ? Lễ nghi thiếu sót chính là trọng tội.

Ta rút khăn tay thấm mồ hôi lạnh trên trán, nghiêm giọng nói:

“Cấp bậc nhất định phải nhớ kĩ. Cách hành lễ cũng phải học thuộc. Tiệp dư phải học ngay từ bây giờ cho ta, ta sẽ đích thân kiểm tra. Chừng nào còn chưa thuộc ta không thể để Tiệp dư ra ngoài được.”

Phong Thể Minh thấy sắc mặt ta đột ngột chuyển thành nghiêm trọng thì hơi ngẩn ra. Trái với sự lo lắng của ta, nàng ta không hề tranh cãi, chỉ ủ rũ gật đầu:

“Thể Minh hiểu rồi.”

Ta nhìn dáng vẻ nàng mất tự nhiên như vậy, cũng sợ nàng để bụng chuyện này thì càng thêm phiền phức, bèn nhẹ nhàng giải thích:

“Ta cũng không muốn làm khó Tiệp dư, nhưng lễ nghi là chuyện cực kì quan trọng. Nếu làm sai, không chỉ mình Tiệp dư phải chịu khổ mà cả những người xung quanh cũng bị liên lụy.”

Phong Thể Minh ngước mắt nhìn ta rồi lại nhìn đến hai cung nữ thân cận đứng cạnh bên nàng, trong ánh mắt đen long lanh chợt dâng lên một thứ cảm xúc khó hiểu.

“Đa tạ thiện ý của nương nương. Thể Minh sẽ cố gắng.”

Ta nhìn thấy Phong Thể Minh hiểu chuyện như thế, lòng cũng mừng thầm. Có lẽ cũng chỉ là một thiếu nữ thẳng thắn, chưa trải sự đời mà thôi.

Nói xong những điều cần nói rồi, ta liền tiễn Phong Thể Minh trở về Bắc viện. Bởi vì chưa thể để Phong Thể Minh đi lại bên ngoài nên ta quyết định để Ngọc Thủy dẫn hai nô tỳ thân cận của Phong Thể Minh là Lương Vũ và Lương Sa đi Thượng Cung cục chọn người. Cung nhân hầu hạ trong Cẩm Tước cung vốn không nhiều, sau một loạt biến cố lớn nhỏ lại càng ít hơn, mấy người mới cũng đến từ Ngự tiền cho nên ta không quá lo lắng. Tiếc là chưa hài lòng được mấy ngày thì lại phải mở cửa đón người mới. Đám phi tần ngoài kia không cài được nội gián vào chỗ ta, tin là bây giờ sẽ không bỏ qua thời cơ tốt đẹp này. Thêm mười người lạ đến, không biết lại phải hứng thêm bao nhiêu chuyện đa đoan. Tuy rằng ta e ngại, nhưng cũng không tiện nhúng tay vào, chỉ dặn dò một câu bâng quơ: “Những người mới đến làm việc thường chăm chỉ hơn.” Lương Vũ và Lương Sa trông đều thông minh lanh lợi, hi vọng bọn họ có thể hiểu ý ta, tránh những người từng hầu hạ các vị chủ nhân khác.

Phong Thể Minh ngoan ngoãn ở một chỗ học bài, ta bớt được biết bao nhiêu phiền phức. Đông viện và Bắc viện giáp nhau một cái hoa viên nhỏ. Mỗi ngày khi ta đi thăm Bạch Diệu Hoa, đều nhìn thấy Phong Thể Minh ngồi vắt vẻo trên nhánh cây cao, chăm chú lật từng trang Cung quy, Nữ huấn. Cảnh tượng này có mấy phần giống với ta lúc mới đến đây. Chỉ là ta khi ấy có thêm một Tạ Thu Dung khó tính kè kè một bên, không được tự do thoải mái như Phong Thể Minh. Ngọc Thủy lại chẳng lạc quan như ta, lần đầu nhìn thấy Phong Thể Minh treo ngược người, đong đưa trên cây, Ngọc Thủy tái cả mặt, suýt chút lên cơn đau tim. Nàng túm lấy tay áo ta, lắp bắp:

“Chủ nhân, không thể… không thể…”

Ta chỉ cười xòa:

“Có muốn uốn nắn cũng phải từ từ, quá nghiêm khắc sẽ phản tác dụng. Tốt nhất cứ giải quyết từng việc một. Để nàng ta thuộc hết mấy quyển sách đó rồi hãy tính tới những thứ khác.”

Lại nói đến những cung nữ, thái giám mà bọn Lương Sa, Lương Vũ chọn về. Mấy người này, ta đều cho Ngọc Thủy đi tra lại thân thế thật kĩ lưỡng, quả nhiên đã lọt vào một vài kẻ ám muội. Người là của Phong Thể Minh, như đã nói, ta chẳng thể can thiệp quá nhiều, chỉ dặn dò Ngọc Nga, Ngọc Thủy và Tiểu Phúc Tử để mắt đám người đó một chút. Dù sao là phúc hay là họa cũng còn phải xem Phong Thể Minh nhìn người và đối nhân xử thế ra sao.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 52



Phong Thể Minh tiến cung đã gần nửa tháng. Ta nhìn thấy nàng ta ngoan ngoãn biết điều, trong lòng cũng thấy nhẹ nhõm một chút. Ta nghĩ đợi nàng học thuộc mấy thứ cấp bậc, lễ nghi căn bản rồi, rèn luyện thêm một chút cách đi đứng, nói năng thì không ai làm khó được nữa. Thế nhưng, trên đời này hiếm có chuyện như ý. Vào một ngày đẹp trời mà ta không ngờ tới, Hoàng Đế lại triệu kiến Phong Thể Minh. Bao nhiêu tai họa cũng là từ đây mà ra cả.

Ngày hôm ấy, khi Phong Thể Minh từ điện Cát Tường trở về thì đụng phải Quỳnh Thục nghi và Chung Quý nhân đương cùng ngồi trên một cái liễn lớn đi dạo chơi hóng gió. Cung nữ của Quỳnh Thục nghi nhìn thấy Phong Thể Minh liền cao ngạo hô lớn:

“Gặp Thục nghi nương nương sao còn chưa quỳ xuống hành lễ?!”

Về lý mà nói, gặp tình cảnh này, Chung Quý nhân phân vị thấp nhất phải bước xuống, để Phong Thể Minh hành lễ với Quỳnh Thục nghi trước, sau đó đến lượt nàng ta phải hành lễ với Phong Thể Minh. Chuyện chỉ có như vậy là xong, nhưng tính cách của ba người này đều không bình thường. Phong Thể Minh hỏi rõ người ngồi cùng Quỳnh Thục nghi là ai rồi thì cương quyết không hành lễ. Chung Quý nhân không chịu bước xuống, Quỳnh Thục nghi thì chẳng những không khuyên bảo Chung Quý nhân, lại còn một mực bắt Phong Thể Minh hành đại lễ. Phong Thể Minh là người như thế nào? Nàng dĩ nhiên không dễ đổi ý. Ba người chẳng ai nhường ai, Quỳnh Thục nghi nhất thời nổi nóng, muốn ra tay dằn mặt Phong Thể Minh, bèn sai nô tài động thủ ép Phong Thể Minh phải quỳ xuống đất. Nhưng nàng ta lại quên mất Phong Thể Minh chẳng phải nữ tử bình thường. Đám nô tài khốn khổ kia chưa đến gần được Phong Thể Minh đã bị hai tỳ nữ của nàng đánh cho một trận tả tơi. Nghe nói Quỳnh Thục nghi cả giận, ỷ mình phân vị cao lại có chỗ dựa vững chắc, sai Chung Quý nhân vả miệng Phong Thể Minh. Kết cục người bị vả miệng đương nhiên là Chung Quý nhân. Quỳnh Thục nghi không ngờ Phong Thể Minh dám đánh cả Chung Quý nhân, giận đến run người, bèn đích thân “giáo huấn” Phong Thể Minh. Phong Thể Minh không đánh Quỳnh Thục nghi, nhưng cũng không để bản thân bị đánh. Lúc ta nghe tin, kinh hãi chạy tới nơi thì Quỳnh Thục nghi và Phong Thể Minh vẫn còn đang giằng co quyết liệt.

“Hai người đang làm cái gì thế?”

Ta vừa bước xuống kiệu đã bị quang cảnh giương cung bạt kiếm trước mặt dọa cho thót tim. Một đám cung nữ, thái giám mặt mũi bầm tím, quần áo tả tơi nằm bẹp dưới đất. Bên cạnh là Lương Vũ và Lương Sa khoanh tay vểnh mặt hả hê. Chung Quý nhân hai má sưng vù, ngồi xổm khóc thút thít. Quỳnh Thục nghi đang trong tư thế giang tay muốn tát Phong Thể Minh nhưng lại bị Phong Thể Minh cầm chặt cánh tay, muốn tiến không được, muốn lùi không xong, luôn miệng mắng chửi.

Phong Thể Minh nhìn thấy ta đi đến, bèn buông tay Quỳnh Thục nghi, cúi chào ta:

“Bái kiến Hòa phi nương nương.”

Quỳnh Thục nghi vội vàng chớp lấy thời cơ, chạy tới trước mặt ta khóc ầm lên:

“Hòa phi nương nương phải đòi lại công bằng cho thần thiếp…”

Đến ta cũng không ngờ thanh quản của Quỳnh Thục nghi lại tốt như thế. Nàng ta vừa kể lể vừa khóc sướt mướt, ấy thế mà lời lẽ rành mạch, bao nhiêu tội vô lễ, làm càn, dĩ hạ phạm thượng, coi thường cung quy đều đổ cả lên đầu Phong Thể Minh. Bên cạnh lại có thêm Chung Quý nhân thút thít phụ họa cho nên cảnh tượng càng thêm mấy phần lâm li bi đát.

Đòi lại công bằng gì chứ? Đây chẳng phải cố tình ép ta trị tội Phong Thể Minh, rồi nhân tiện quàng luôn cho ta tội dạy bảo không nghiêm sao?

Biết là như thế, nhưng chuyện đã thành thế này, ta có muốn thiên vị cũng không được. Ta bất đắc dĩ đưa mắt nhìn sang Phong Thể Minh:

“Phong Tiệp dư, Quỳnh Thục nghi nói có đúng không?”

Chuyện đã đến nước này mà Phong Thể Minh vẫn bình chân như vại, thản nhiên đáp:

“Có chỗ đúng, cũng có chỗ sai.”

Ta hít sâu một hơi, cố tỏ ra bình tĩnh, hỏi lại:

“Đúng sai thế nào?”

Phong Thể Minh nhún vai:

“Đúng là Thể Minh đã không hành lễ với Quỳnh Thục nghi và đánh Chung Quý nhân, điểm này Thể Minh sai, nhưng Quỳnh Thục nghi và Chung Quý nhân càng sai nhiều hơn.”

Quỳnh Thục nghi trợn mắt:

“Ngươi nói cái gì? Nương nương, nàng ta rõ ràng…”

Ta lạnh lùng liếc Quỳnh Thục nghi:

“Bản cung đã nghe Thục nghi muội muội nói rồi, bây giờ muốn nghe cả Phong Tiệp dư nói nữa. Thục nghi muội muội chẳng phải muốn công bằng sao? Bản cung đang công bằng đây.”

Hừ, đã kề dao vào cổ ta mà lại còn muốn ta thiên vị các ngươi sao?

Quỳnh Thục nghi bị hai tiếng “công bằng” chặn cứng họng. Phong Thể Minh bèn nói tiếp:

“Thứ nhất, Chung Quý nhân phân vị thấp hơn Thể Minh mà gặp Thể Minh không hành lễ, đây là Chung Quý nhân sai.

Thứ hai, Quỳnh Thục nghi biết Chung Quý nhân làm sai mà không nhắc nhở, lại còn muốn Thể Minh hành lễ cả với Chung Quý nhân, như vậy đã sai lại càng sai.

Thứ ba, Quỳnh Thục nghi thuộc hàng nhị phẩm, Thể Minh thuộc hàng tứ phẩm. Như vậy, Quỳnh Thục nghi chỉ hơn Thể Minh hai bậc. Cung quy có chép rõ, phàm là phi tần thông thường chỉ có quyền dụng hình đối với phi tần thấp hơn mình ba bậc. Quỳnh Thục nghi sai người đánh Thể Minh là đã làm trái cung quy. Chung Quý nhân thuộc hàng thất phẩm, lại dám ra tay đánh Thể Minh, như thế mới là dĩ hạ phạm thượng. Ngược lại, phân vị của Thể Minh hơn Chung Quý nhân đúng ba bậc, Thể Minh có quyền trị tội dĩ hạ phạm thượng của Chung Quý nhân. Cung quy rõ ràng là viết như thế, Thể Minh nói có sai điểm nào không?”

Phong Thể Minh giải thích rành rọt, khiến cho mọi người nhất thời đều ngẩn ra. Ai cũng nghĩ nàng ta là một nữ tử hoang dã, l* m*ng, tất không ngờ đến nàng ta lại có thể nói chuyện lý lẽ phân minh như thế. Tạ Thu Dung mà có mặt lúc này đây thì nhất định sẽ vỗ đùi tán thưởng: Đấy, đã bảo mà, chăm chỉ học hành sẽ mang lại kết quả tốt đẹp!

Quỳnh Thục nghi đuối lý, túng quá bèn kéo tay áo lên, đưa phần cổ tay bị Phong Thể Minh nắm chặt đến mức hằn vết đỏ bầm ra, ăn vạ:

“Dù thế nào thì nàng ta cũng đã vô lễ với thần thiếp! Cung quy nào nói Tiệp dư có thể ra tay với Thục nghi như thế này?! Thần thiếp muốn gặp Hoàng Hậu nương nương!”

Nói đoạn bèn kéo Chung Quý nhân đi thẳng hướng Triêu Lan cung định rời đi.

Ài, đây là muốn làm to chuyện cho Đức phi nhà nàng ta thừa cơ nhảy vào một mũi tên xiên chết cả ta và Phong Thể Minh đây mà. Chuyện này đau đầu rồi đây. Quỳnh Thục nghi muốn ăn vạ, dựa vào phân vị nhất phẩm hữu danh vô thực của ta vốn không thể kiềm chế được nàng. Hai chữ “Hòa phi” này ngoài việc đảm bảo cho ta ăn no mặc ấm thì đúng là chẳng được tích sự gì.

Đương lúc ta còn đang thầm than thân trách phận, thì từ phía sau bất ngờ vang lên một giọng nói kiêu ngạo quen thuộc:

“Lại có chuyện gì ồn ào thế này?”

“Bái kiến Thục phi nương nương! Thục phi nương nương vạn phúc kim an!”

Mọi người chẳng cần nhắc nhở, ai nấy đều vội vàng quỳ xuống hành lễ thật chỉnh chu.

Liễu Yến Yến vịn tay Minh phi, đủng đỉnh bước đến, cũng chẳng cho ai bình thân. Nàng ta khinh khỉnh nhìn lướt qua đám người quỳ rạp dưới đất, khẽ bĩu môi:

“Thân là phi tử lại ở chỗ này ầm ĩ như bọn dân đen. Thật chẳng ra thể thống gì…”

Quỳnh Thục nghi thấy Liễu Yến Yến xuất hiện, bèn vui mừng kể tội Phong Thể Minh, trong lời nói còn hàm ý tố cáo ta dung túng kẻ dưới làm càn. Nàng cho rằng Liễu Yến Yến không ưa ta, muốn mượn dao giết người, đẩy ta cho Liễu Yến Yến làm thịt.

Trán ta đã vã mồ hôi lạnh. Nếu chỉ là mình ta thôi thì không thành vấn đề. Liễu Yến Yến không ưa ta nhưng càng căm ghét Triệu Lam Kiều hơn. Nếu phải lựa chọn, nàng ta chắc chắn sẽ bỏ qua ta mà trực tiếp tấn công Triệu Lam Kiều. Nhưng chuyện này căn nguyên lại liên quan đến Phong Thể Minh. Nhan sắc của Phong Thể Minh cả Liễu Yến Yến cũng không bì kịp, nàng ta lại vừa được Hoàng Đế triệu kiến, dựa vào tính đố kị ghen tuông của Liễu Yến Yến, phen này xem ra lành ít dữ nhiều.

Liễu Yến Yến nghe Quỳnh Thục nghi kể lể xong xuôi, liền cười lạnh:

“Đúng là càn quấy.”

Trái tim ta như muốn rơi ra khỏi lồng ngực.

Ngay khi ta nghĩ Liễu Yến Yến sẽ giáng tội cả ta và Phong Thể Minh một lượt thì nàng ta lại nói tiếp:

“Quỳnh Tử Yên, ngươi ở trong cung bao lâu rồi mà vẫn vô phép như thế?”

Một câu này chẳng những khiến Quỳnh Thục nghi ngớ người mà tất thảy những kẻ xung quanh đều sững sờ như sét đánh ngang tai.

Quỳnh Thục nghi kinh hãi lắp bắp:

“Nương nương… thần thiếp không… là… là nàng ta…”

Lúc này, Minh phi mới dịu dàng cười nói:

“Thực ra, ban nãy ta và Thục phi nương nương đi dạo ở gần đây, tình cờ nghe được cả rồi. Phong Tiệp dư nói không sai. Quỳnh Thục nghi muốn Phong Tiệp dư hành lễ với Chung Quý nhân là sai, còn muốn động thủ với Tiệp dư là trái với cung quy. Chung Quý nhân cũng vô lễ với Phong Tiệp dư, bị đánh không oan uổng, còn phải phạt thêm mới đúng.”

Nói đoạn, quay sang Liễu Yến Yến, lễ phép hỏi:

“Nương nương, chuyện này ý người thế nào ạ?”

Liễu Yến Yến cười lạnh:

“Quỳnh Thục nghi làm trái cung quy, không có đức làm Thục nghi, nay giáng xuống Quý tần, phạt đóng cửa sám hối một tháng. Chung Quý nhân dĩ hạ phạm thượng, ỷ thế h**p người, giáng làm Tuyển thị, phạt ba mươi trượng.”

Chẳng ai ngờ sự việc lại biến chuyển thành thế này. Quỳnh thị sợ đến tái mét mặt mày, không nói được lời nào đã ngã lăn ra bất tỉnh, chẳng biết có phải lên cơn đau tim rồi hay không.

Chung thị cũng chẳng khá hơn, thân hình mảnh mai của nàng ta mà chịu xong ba mươi trượng, e rằng sang năm sau cũng không ngồi dậy nổi. Nàng ta khóc đến lả người, luôn miệng van xin “Thục phi nương nương tha mạng!”, nhưng đổi lại chỉ là một cái cười khẩy của Liễu Yến Yến.

Hai người Quỳnh, Chung nhanh chóng bị lôi đi. Nơi này chỉ còn lại ta và Phong Thể Minh cùng đám cung nhân vẫn quỳ suốt từ ban nãy.

Liễu Yến Yến liếc mắt phượng, nhìn lướt qua đám cung nhân bị Lương Vũ và Lương Sa đánh bầm dập:

“Nô tài chó chết, giữ cũng chẳng để làm gì. Đem trượng tễ hết cho bản cung.”

Lại thêm một tràng khóc than thấu trời xanh vang lên.

Liễu Yến Yến dừng bước trước Phong Thể Minh, nét mặt lộ rõ sự khinh bỉ lẫn đố kị. Lưng ta ướt đẫm mồ hôi, chỉ cầu mong Liễu Yến Yến đừng tiện tay giết luôn cả Lương Sa và Lương Vũ. Hai người này lớn lên cùng Phong Thể Minh, tình thân như ruột thịt. Họ mà xảy ra chuyện gì, còn sợ Phong Thể Minh không trực tiếp bẻ cổ Liễu Yến Yến hay sao?

Cũng may, ta đã quá lo xa. Liễu Yến Yến dùng ánh mắt sắc như dao săm soi Phong Thể Minh một hồi, chỉ lạnh nhạt buông một câu:

“Phong Tiệp dư náo loạn Hậu cung, phạt chép mười lần Nữ huấn. Tỳ nữ thân cận không biết can gián chủ nhân, phạt quỳ gối ba canh giờ.”

Nói xong, liền phẩy tay áo, hậm hực bỏ đi.

Ta nhìn theo bóng lưng kiều diễm của Liễu Yến Yến càng lúc càng xa, cuối cùng cũng trút tiếng thở phào nhẹ nhõm. Không ngờ lại có ngày Liễu Yến Yến cứu ta một mạng.

“Để nương nương chịu khổ rồi, mau đứng lên thôi.”

Minh phi nhẹ nhàng đỡ ta, mỉm cười đầy thâm ý.

Ta nương theo nàng mà đứng lên, cảm kích nói:

“Đa tạ Minh phi tương trợ.”

Minh phi khẽ cười, lắc đầu:

“Đây là chuyện thần thiếp nên làm. Nương nương không cần phải cảm kích thần thiếp.”

Nàng nhìn sang phía Phong Thể Minh vẫn đang quỳ gối, cúi đầu lơ đễnh bên cạnh, thở dài nói tiếp:

“Nương nương vẫn nên cẩn thận hơn. Chuyện ngày hôm nay, không nên xảy ra lần thứ hai.”

Minh phi nói xong lời này rồi từ biệt.

Ta hít sâu một hơi, chán nản chẳng buồn nói đến Phong Thể Minh, cứ thế đi thẳng về Cẩm Tước cung.

***

Cuộc đụng độ nảy lửa giữa Phong Thể Minh và Quỳnh Thục nghi – giờ đã là Quỳnh Quý tần nhanh chóng lan ra khắp Hậu cung. Nhưng sự can thiệp của Liễu Yến Yến mới là điều làm người ta kinh ngạc hơn cả. Có người còn bảo Thục phi nương nương trúng phải tà mới buông tha cho Phong Thể Minh dễ dàng như thế.

Chẳng qua, những người hiểu chuyện đều biết rõ, chuyện này mười phần là do Minh phi tính toán thay cho Liễu Yến Yến.

Thời gian gần đây, Triệu Lam Kiều đã mất đi không ít vây cánh. Quỳnh thị là người hữu dụng nhất còn lại. Minh phi có thể nhân cơ hội này, biến Chung thị thành kẻ vô dụng, lại còn chèn ép được Quỳnh thị, đúng là đã đâm Triệu Lam Kiều một nhát trí mạng. Liễu Yến Yến hiện thời là người có địa vị cao nhất trong đám phi tần, dựa vào vị trí Tứ phi của nàng ta, giáng Quỳnh thị và Chung thị một bậc vẫn là hợp với cung quy, Hoàng Hậu muốn bắt bẻ cũng không được. Lại nói, Liễu Yến Yến ra mặt bảo vệ ta và Phong Thể Minh vừa tỏ rõ đức độ của mình, vừa lấy được lòng Hoàng Đế. Hình phạt đưa ra cho Phong Thể Minh tuy nhẹ, nhưng lại mang ý nghĩa cảnh cáo rõ ràng. Minh phi làm như vậy, một mặt là trả ta ân tình lần trước ta nói đỡ cho Liễu Yến Yến, một mặt là củng cố lợi ích phe mình. Một đòn xuất ra, trăm lợi không hại. Đứng trước tình huống bất ngờ mà có thể kịp thời tính toán chu toàn đến mức này, tài trí của Minh phi càng lúc càng khiến ta khâm phục. Tính ra, trong cả Hậu cung rộng lớn này, người ngang tài ngang sức với Triệu Lam Kiều chỉ có mình nàng.

Còn kẻ đầu têu gây họa Phong Thể Minh lại rất thản nhiên. Mỗi ngày nàng ta dành ra mấy canh giờ chép phạt, còn lại vẫn vui vẻ nhảy nhót leo trèo khắp nơi. Tính tình như vậy, không biết là đáng yêu hay đáng giận.

Chuyện lần này may mà có Liễu Yến Yến bất đắc dĩ giúp đỡ cho nên mới trôi qua êm đẹp. Ta cũng không bị liên lụy gì nhiều. Nhưng như Minh phi đã ngầm cảnh báo, may mắn này sẽ không xuất hiện lần thứ hai. Ta càng phải vạn lần thận trọng. Mà thứ cần phải cẩn thận nhất lúc này đây không gì khác ngoài mấy bản Nữ Huấn mà Liễu Yến Yến bắt Phong Thể Minh chép phạt. Chỉ cần một sai sót nhỏ thôi cũng đủ phiền phức rồi.

Cuộc sống vừa mới yên bình của ta thoáng chốc bị Phong Thể Minh đảo lộn cả. Ta không thể để nàng ta gây thêm rắc rối, bèn quyết định tự mình đến Bắc viện kiểm tra.

Khi ta và Tiểu Phúc Tử tới nơi, Phong Thể Minh đang cùng bọn Lương Sa, Lương Vũ đùa giỡn giữa sân. Ba người bọn họ ngồi trên sạp gỗ cùng một đống giấy viết ngổn ngang, mặt mày người nào cũng dính mực ngang dọc.

Phong Thể Minh thấy ta đến, vội lấy tay áo lau mặt, nhưng càng lau thì mặt càng lem ra nhiều hơn. Nàng ta cười hì hì:

“Nương nương cát tường.”

Ta thở dài ngán ngẩm, tự kéo ghế ngồi xuống, phẩy tay ý bảo nàng “rửa mặt rồi nói.”

Phong Thể Minh vui vẻ đáp tuân lệnh rồi nhảy chân sáo vào trong phòng. Ta đến đây vốn muốn trách nàng ta vài câu nhưng thấy bộ dạng hồn nhiên này lại không nỡ. Một cô nương trẻ tuổi đã quen với cuộc sống tự do phóng khoáng, nay bỗng nhiên bị tách khỏi người thân, phải đến sống ở chốn Hoàng cung tù túng này… Cứ nghĩ đến đó, ta lại mềm lòng.

Trong lúc ngồi đợi, ta tiện tay lật xem mấy quyển Nữ Huấn Phong Thể Minh chép xong để ở một bên, vừa giở trang đầu tiên, lòng đã lạnh buốt. Ta vội lật tất cả những quyển còn lại ra, quả nhiên tất cả đều có vấn đề, vấn đề trầm trọng.

Phong Thể Minh rửa mặt xong, tung tăng chạy ra ngoài, bắt gặp nét mặt sa sầm của ta thì hơi ngẩn ra. Nàng nhìn ta, rồi lại nhìn mấy quyển Nữ Huấn ta đang cầm, rón rén hỏi:

“Nương nương cảm thấy Thể Minh chép có chỗ nào không ổn à?”

Ta mím môi nén giận, ném mấy quyển Nữ Huấn kia qua cho nàng:

“Tiệp dư xem đi rồi nói cho ta, có chỗ nào ổn sao?”

Phong Thể Minh chụp lấy một quyển, ngơ ngác lật ra, sắc mặt từ bối rối chuyển sang trắng bệch:

“Cái này… cái này… sao có thể…”

Quyển Nữ Huấn rơi từ tay Phong Thể Minh xuống đất, bị gió thổi mở tung, lộ ra những trang giấy trắng tinh tươm. Phong Thể Minh không tin nổi vào mắt mình, cuống quýt giở hết những quyển còn lại ra. Tám quyển Nữ Huấn mà Phong Thể Minh chép xong đều chỉ toàn là giấy trắng.

Phong Thể Minh ngước mắt nhìn ta, giọng nói cũng trở nên run rẩy:

“Nương nương, Thể Minh rõ ràng đã chép xong rồi… Tại sao lại hóa thành giấy trắng thế này…”

Những chuyện âm hiểm, độc địa chốn Hậu cung, nàng tất nhiên là không hiểu nổi, càng không ngờ đến, có giận dữ với nàng cũng chẳng ích gì. Phong Thể Minh rất thông minh, cung quy chỉ học qua là nhớ rành rẽ. Nhưng tâm kế không giống với cung quy, không có sách nào dạy cả. Phong Thể Minh cho dù có muốn học cũng chẳng thể học được.

Ta hít một hơi thật sâu, áp chế cơn giận trong lòng, nói:

“Tiệp dư chép xong không xem lại sao?”

Phong Thể Minh ngượng ngùng lắc đầu, cắn môi hỏi:

“Nương nương, chữ viết sao có thể biến mất như vậy?”

Ta thở hắt ra:

“Trên đời có một loại cỏ tên gọi Ngụy Thảo, khi nghiền nát ra cho vào nước pha mực thì sẽ khiến cho mực bị bay hơi. Tùy theo liều lượng thuốc mà thời gian bay hơi khác nhau, nhưng tựu chung là sẽ không để lại bất kì dấu vết nào cả. Trong giới thương buôn vẫn thường có kẻ dùng cách này để gian lận.”

Phong Thể Minh nghe xong, toàn thân cứng đờ, quyển Nữ Huấn đương cầm trong tay cũng bị vò nát. Nụ cười trên môi nàng méo xệch đi:

“Nương nương, bây giờ phải làm thế nào đây?”

Ta nhìn nàng, nghiêm túc hỏi:

“Ngoài Lương Vũ và Lương Sa, Tiệp dư còn thân cận với ai không? Ai có khả năng pha thuốc vào mực của Tiệp dư?”

Phong Thể Minh đáp ngay:

“Không có ai cả.”

Ta cau mày:

“Vậy mực này ai mài? Nước pha mực do ai lấy?”

Lương Vũ nghe ta hỏi, vội quỳ xuống khổ sở đáp:

“Đều do nô tỳ làm… Là nô tỳ sơ sót, làm hại đến tiểu chủ…”

Phong Thể Minh như sợ ta trách phạt Lương Vũ, vội nói:

“Nhất định không phải Lương Vũ…”

Ta khoát tay, ngăn không cho nàng nói nữa, chỉ hỏi Lương Vũ:

“Ngươi lấy nước ở đâu? Nghiên mực đó đâu rồi?”

Lương Vũ thành thật đáp:

“Nô tỳ lấy ở lu chứa nước phía sau viện…”

Nói đoạn, vội vã chạy đi lấy nghiên mực bưng đến trước mặt ta. Ta cầm nghiên mực còn đầy sóng sánh, đột nhiên hiểu ra tất cả, không nén được nụ cười mỉa mai.

Ta lớn lên nơi Hậu cung hiểm ác, cứ ngỡ mình đã hiểu sự đời lắm rồi, vậy mà xem ra vẫn còn quá non tay.

Minh phi giỏi lắm!

Không phạt Phong Thể Minh quỳ mà lại phạt chép kinh thư, hóa ra là vì lý do này.

Liễu Yến Yến ghét Phong Thể Minh như vậy, ngày đó đáng lẽ có thể phạt nàng quỳ vài ba canh giờ cho hả dạ, thế mà lại chỉ bắt chép Nữ Huấn. Chép kinh thư cũng có chỗ vất vả, nhưng vẫn dễ chịu hơn là bị phạt quỳ. Ta còn cứ nghĩ là do Minh phi nể tình nên nương tay. Nào ngờ nàng ta đã tính đến tận bước này. Nàng ta biết tính Phong Thể Minh ngay thẳng đơn thuần, không có lòng đề phòng, chắc chắn sẽ rơi vào bẫy. Nếu ta vì tức giận Phong Thể Minh mà không tận tình lưu tâm, để Phong Thể Minh mang mấy quyển sách trắng tinh này đi nộp cho Liễu Yến Yến thì tội này chẳng ai gánh nổi cho nàng nữa.

Lòng người quả là đáng sợ.

Thân thể ta chợt lạnh đi, không rõ vì giận hay vì sợ. Sự biến chuyển ấy cả Phong Thể Minh cũng nhận ra. Nàng rón rén lại gần ta, gọi khẽ:

“Nương nương…”

Ta chớp mắt định thần, mỉm cười với nàng:

“Không sao. Con chuột nhắt ở chỗ Tiệp dư, ta sẽ bắt nó cho Tiệp dư.”

Nói rồi, ta bảo Lương Vũ và Lương Sa:

“Hai người các ngươi, một người đi pha cho ta một chén mực mang đến đây. Nhớ dùng loại nước an toàn. Người còn lại đi gọi hết cung nhân trong viện đến đây, mang theo mười cái chén nữa.”

Phong Thể Minh nhìn theo Lương Sa và Lương Vũ hối hả chạy đi, ngập ngừng hỏi:

“Nương nương muốn làm gì?”

Tính toán là một loại công việc tốn nhiều sức lực. Ta thoáng chốc lại cảm thấy mệt, bèn dựa vào Tiểu Phúc Tử vẫn luôn đứng hầu sát bên, đáp gọn lỏn:

“Ngụy Thảo là kịch độc, nhưng thời gian phát tác lại rất chậm, dùng bẫy chuột rất phù hợp.”

Phong Thể Minh mở miệng, muốn nói lại thôi. Ta thấy nàng đứng đã lâu, bèn vẫy tay ra hiệu cho nàng đến ngồi cạnh mình. Phong Thể Minh lặng lẽ làm theo, nhưng bộ dạng chẳng còn được tự nhiên như trước.

Một lát sau, Lương Vũ mang về một chén mực đầy, mười người hầu hạ trong viện cũng được Lương Sa gọi đến đủ mặt.

Đám người này thấy sắc mặt ta và Phong Thể Minh đều xấu, hẳn cũng tự đánh hơi được có chuyện không hay xảy ra. Mặt mày kẻ nào cũng tự động tái đi.

Ta mỉm cười, chậm rãi nói:

“Thực ra cũng không có việc gì quan trọng, các ngươi không cần sợ hãi. Chẳng qua là bản cung và tiểu chủ của các ngươi trong lúc tán gẫu đã cao hứng đặt cược với nhau xem mực viết này có uống được hay không. Bản cung cho rằng mực này chế từ muội than tre mà thành, chẳng có gì mà không uống được. Nhưng tiểu chủ nhà các ngươi cứ không tin. Thôi thì thế này, mỗi người các ngươi hãy uống một ngụm cho tiểu chủ các ngươi xem. Ai uống được, bản cung sẽ thưởng một nén bạc.”

Lương Sa theo lời dặn của ta đã chuẩn bị sẵn mười cái chén nhỏ cho Lương Vũ rót mực vào, đưa đến trước mặt đám cung nhân kia. Mực cơ bản không độc, uống một chén nhỏ này vào cùng lắm là đau bụng một hôm thôi mà lại được một nén bạc. Yêu cầu của ta tuy quái gở nhưng lại rất hấp dẫn. Bọn họ dè dặt nhìn nhau, cuối cùng cũng có người bạo gan bưng lên uống thật. Một người, rồi hai người, ba người, chớp mắt một cái hầu như cả đám đều đã uống cạn chén mực của mình, miệng người nào người nấy đen ngòm trông rõ buồn cười. Chỉ duy nhất một tên thái giám vẫn quỳ ngay đơ, mồ hôi đổ ròng ròng như suối, chén mực trước mặt hắn còn đầy nguyên. Ta hài lòng, quay sang cười với Phong Thể Minh:

“Đấy, bản cung đã bảo mà. Uống mực không chết đâu.”

Bảo Tiểu Phúc Tử dẫn chín kẻ miệng đen kia đi lĩnh bạc rồi, ta mới nhìn đến tên thái giám còn lại:

“Xem ra ngươi cũng giống tiểu chủ của ngươi, cứ nghĩ rằng uống mực sẽ chết nhỉ?”

Tên thái giám nọ càng run bần bật, đầu hắn cúi thấp gần như chạm đất, chẳng dám hé môi lấy một câu.

Ta chầm chậm nói tiếp:

“Yên tâm, mực nếu không bị bỏ thứ gì đó vào thì không có độc đâu.”

Lương Sa và Lương Vũ đều đã giận run. Lương Vũ có vẻ nóng tính hơn, nàng ta hầm hầm chạy tới đá đổ chén mực trước mặt tên thái giám, tóm lấy cổ hắn:

“Khốn kiếp! Tiểu chủ đâu có làm hại gì ngươi, ngươi lại muốn hại chết tiểu chủ… Lương Sa, đưa nghiên mực đó cho ta, hôm nay ta nhất định phải bắt hắn uống hết để đền tội…”

Thấy Lương Vũ manh động như thế, Lương Sa hoảng hốt nhìn ta rồi lại nhìn Phong Thể Minh, thấy ta chẳng có ý ngăn cản mà Phong Thể Minh vẫn giữ nguyên vẻ mặt tăm tối, bèn thẳng thắn đưa nghiên mực bị pha độc cho Lương Vũ.

Tên thái giám lúc này đã sợ đến mất mật, chẳng biết lấy đâu ra sức lực, giằng thoát khỏi Lương Sa, lao đến chỗ ta dập đầu lia lịa:

“Hòa phi nương nương cứu mạng! Nô tài sai rồi! Nô tài ngu dốt…”

Ta không nhìn hắn, nói bằng chất giọng lạnh tanh:

“Tự đi đến Thượng cung cục, nói ngươi vô dụng không hầu hạ được Tiệp dư, xin đến phòng giặt giũ làm việc.”

Lựa chọn giữa việc phải uống một nghiên mực độc và việc đến phòng giặt giũ không phải một quyết định quá khó khăn. Tên thái giám kia chẳng tốn chút thời gian suy nghĩ nào đã nhanh chóng chạy biến khỏi Bắc viện.

Lương Như và Lương Sa muốn đuổi theo, nhưng bắt gặp ánh mắt của Phong Thể Minh, đành cắn răng nuốt giận lui ra ngoài. Bấy giờ, chỉ còn lại mình ta và Phong Thể Minh, nàng mới cất tiếng hỏi:

“Nương nương đã bắt được thủ phạm, sao lại tha cho hắn? Sao không bắt hắn khai ra chủ mưu?”

Ta khẽ lắc đầu:

“Mọi chuyện không đơn giản như Tiệp dư nghĩ đâu…”

Ta đem những tính toán của Minh phi kể lại vắn tắt cho Phong Thể Minh dễ hiểu, xong xuôi mới nói tiếp:

“Thục phi và Minh phi vừa mới ra mặt cho Tiệp dư, giờ Tiệp dư lại tố cáo bọn họ muốn hại Tiệp dư thì ai sẽ tin? Người ta sẽ nghĩ Tiệp dư như thế nào?”

Phong Thể Minh ngẩn người, bờ vai nàng rũ xuống, sinh lực như bị rút đi phân nửa, nụ cười phóng khoáng thường trực trên môi hóa thành chua chát:

“Mặc dù biết rõ kẻ nào hại mình nhưng cũng không thể nói ra sao?”

“Ở đây có rất nhiều việc không thể nói ra.”

Phong Thể Minh hờ hững gật đầu. Nàng ngước nhìn ta:

“Nương nương sao lại biết nhiều như thế?”

Ta thành thật trả lời:

“Nhìn thấy nhiều, tự nhiên sẽ biết nhiều. Từ từ vài năm nữa Tiệp dư cũng sẽ biết thôi.”

À, dĩ nhiên là với điều kiện ngươi vẫn còn sống đến lúc đó.

Đó là lần đầu tiên ta nhìn thấy Phong Thể Minh thở dài. Nàng nói:

“Đa tạ nương nương.”

Ta phe phẩy tay áo, khẽ cười:

“Chín nén bạc kia sẽ tính vào bổng lộc của Tiệp dư.”
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 53



Mối hôn sự này không chỉ là sự sắp xếp của bậc tiền bối mà đôi bên cũng lưỡng tình tương duyệt. Đây vốn đã có thể là một mối lương duyên đẹp đẽ. Nào ngờ Tiên đế đột ngột băng hà, tân đế lên ngôi, hậu vị bỏ trống. Trưởng nữ họ Hà một bước hóa phượng hoàng, cẩm tú lương duyên năm xưa chớp mắt đã không còn.

Mùa đông lặng lẽ trải xuống hoàng thành Bách Phượng một màu trắng tinh khôi. Thời tiết ở đây không giống với Tùy Khâu, vừa mới lập đông tuyết đã rơi khá dày. Đàn phiến vỹ tước ở Cẩm Tước cung đã bay đi tránh rét từ lâu, không gian thiếu vắng đi tiếng chim chóc ríu rít chuyền cành càng thêm phần tịch mịch. Trời mùa đông âm u, thậm chí cả vào buổi trưa cũng chẳng thấy nổi mặt trời.

Ta vốn rất sợ lạnh. Nhớ ngày còn bé, ở cùng mẫu thân tại Viên Linh các rách nát, cứ mỗi khi đông đến là mẫu tử ta lại co ro ngồi ôm nhau cả ngày trong góc giường ọp ẹp. Bọn ta không có áo ấm, càng không có than sưởi, cứ phải trân mình chịu đựng cái lạnh thấu xương ấy. Những ngày tuyết lớn, cơm thừa canh cặn cũng không ai đưa đến cho ăn. Mỗi ngày, mẫu thân luôn đợi đến giờ ngọ, khi trời ít lạnh nhất để đi nhặt cành khô về sưởi tạm. Mùa đông cây cối đều trơ trọi, cành khô nhặt về chẳng được bao nhiêu, phải để dành đến đêm khuya khi cái rét trở nên dữ dội nhất mới dám lấy ra đốt mà chống chọi. Ta không nhớ nổi mình đã trải qua bao nhiêu ngày đông chỉ ngậm tuyết trắng cầm hơi. Như thế mà vẫn không chết, ta cứ nghĩ mình sẽ sống dai lắm. Ta đã luôn tin như vậy, chí ít là cho đến khi ta gặp Phong Thể Minh.

Ta ủ rũ ngước nhìn bầu trời ảm đạm trên cao rồi nhìn xuống nữ tử đang quỳ ngay ngắn trước thềm nhà, không khỏi thở dài.

Những ngày này, ân sủng của Hoàng Đế dành cho Phong Thể Minh có thể nói là vô hạn. Kéo theo đó cũng là phiền phức vô hạn rơi xuống đầu ta.

Hoàng Đế biết tính Phong Thể Minh cứng rắn không chịu nhún nhường bao giờ nên mỗi lần triệu kiến nàng, hắn luôn phái Lý Thọ đi theo. Có Lý Thọ hộ tống, Phong Thể Minh yên ổn đi lại trong Hậu cung được một thời gian, đến hôm nay chẳng hiểu sao lại đụng trúng Liễu Yến Yến.

Phải rồi, thực sự “đụng trúng”, ta chẳng hề nói năng hoa mĩ gì. Nghe đâu kiệu của hai người tình cờ đi chung một đường, mà con đường này lại hẹp, thế là kiệu của Phong Thể Minh tình cờ đụng phải kiệu của Liễu Yến Yến. Liễu Yến Yến tình cờ ngã ra khỏi kiệu, sau đó lại tình cờ trật một cái chân.

Sự việc “hoàn toàn tình cờ” này diễn ra quá mức chóng vánh, chỉ nghe ầm một tiếng lớn đã thấy Liễu Yến Yến từ trong kiệu văng xuống đất, ôm chân kêu la thảm thiết. Phong Thể Minh một mực nói là do Liễu Yến Yến từ trong ngõ nhỏ xông ra, tự đụng phải nàng. Còn Liễu Yến Yến lại phủ nhận, cho rằng Phong Thể Minh cố tình đụng ngã mình. Hai vị sủng phi này đều không phải dạng vừa. Liễu thị quyền khuynh thiên hạ, nhưng Phong tộc cũng không thể khi dễ được. Lý Thọ tái mặt, chẳng biết giải quyết thế nào bèn đưa ra quyết định khiêng hết cả hai vị này đến Triêu Lan cung gần đó, ngoài mặt là để trị thương cho Liễu Yến Yến nhưng thực chất không ngoài mục đích ném củ khoai nóng bỏng này sang cho Hoàng Hậu.

Nói về Hoàng Hậu, sau vụ việc Phong Thể Minh đụng độ Quỳnh Quý tần, nàng đã bị Thái Hậu gọi đến trách phạt một trận nên thân. Không chỉ vậy, Thái Hậu còn nói bóng gió với Hoàng Đế rằng Hoàng Hậu không quản nổi Hậu cung, muốn hắn lập thêm Quý phi để san sẻ cùng Hoàng Hậu. Hoàng Đế chỉ cười cười cho qua chuyện, nhưng Hoàng Hậu lại luôn để trong lòng. Nàng không ngừng căn dặn ta phải quản Phong Thể Minh thật chặt. Nghĩ lại, từ sau lần đó, ta trông coi Phong Thể Minh sát sao đến độ chỉ còn thiếu mỗi việc dọn đến ngủ cùng với nàng ta thôi, còn muốn chặt như thế nào nữa? Phong Thể Minh chỉ ra ngoài khi được Hoàng Đế triệu kiến, chẳng lẽ những lúc đó ta cũng phải đi theo? Gặp phải Phong Thể Minh coi như là vận hạn của ta và Hoàng Hậu vậy.

Trở lại chuyện ban nãy, Lý Thọ là người khôn ngoan, tất sẽ không dính líu đến việc đấu đá hậu cung này. Hắn vờ nói mình mắt kém không nhìn rõ sự tình rồi viện cớ Vạn tuế gia còn đợi hắn về hầu hạ rồi nhanh chóng chạy biến khỏi Triêu Lan cung, để lại một đống rắc rối cho Hoàng Hậu. Phong Thể Minh và Liễu Yến Yến ai cũng nằng nặc cho là mình đúng. Liễu Yến Yến dựa vào cái chân bị thương, không ngừng khóc lóc ăn vạ, đòi phạt trượng Phong Thể Minh. Hoàng Hậu đau đầu hòa giải một hồi không thành, đành phải phạt Phong Thể Minh quỳ hai canh giờ cho có lệ. Liễu Yến Yến vì gây chuyện với Phong Thể Minh mà không ngại tự làm mình bị thương, đương nhiên sẽ không dễ dàng cho qua. Nàng ta kiên quyết đòi Phong Thể Minh phải quỳ ở hiên nhà, có cung chủ là ta ngồi giám sát, lại còn phải cho người của nàng ta canh chừng nữa thì mới chịu.

Liễu Yến Yến như trẻ con khóc quấy, ầm ĩ cả Triêu Lan cung. Hoàng Hậu e dè thế lực nhà nàng ta, không dám mạnh tay trấn áp, nhưng lại sợ đánh động tới Thái Hậu nên đành phải chấp thuận.

Liễu Yến Yến đạt được mục đích, đắc ý đến mức quên mất Hoàng Hậu là ai. Bỗng nhiên gây phiền phức như thế cho Hoàng Hậu mà còn vọng tưởng được yên ổn trở về hay sao? Hoàng Hậu thuận nước đẩy thuyền, dựa vào việc Liễu Yến Yến bị trật cổ chân, liền tỏ vẻ đau lòng bảo nàng ta phải ở yên trong cung tĩnh dưỡng, không được đi ra ngoài kẻo ảnh hưởng đến vết thương, cũng không cần lo việc hầu hạ Hoàng Đế. Liễu Yến Yến tự nhiên bị giam lỏng, ngay cả thẻ bài cũng bị rút mất, chẳng biết là được nhiều hay mất nhiều hơn.

Nói tóm lại, đó chính là nguyên nhân khiến ta phải ngồi bên cửa phòng ngắm tuyết rơi vào lúc trời rét buốt thế này. Bất giác ta nghĩ, có lẽ gặp Phong Thể Minh rồi, ta sẽ chẳng còn sống dai nổi nữa đâu.

Phong Thể Minh quỳ ở hiên nhà được nửa canh giờ, thân thể đã bắt đầu phát run. Dù cho nàng võ công cao cường đến đâu, thân thể khỏe mạnh như thế nào thì cũng vẫn chỉ là một nữ nhân, làm sao chống chọi nổi với loại thời tiết này. Lương Sa và Lương Vũ không bị phạt nhưng vẫn tình nguyện quỳ cạnh Phong Thể Minh, cố gắng dùng thân thể che bớt cho nàng những cơn gió lạnh liên tục thổi tới từ bốn phía. Thềm nhà đã phủ một lớp băng mỏng. Ta ngồi trên ghế nệm, người trùm hai tấm chăn bông dày, còn có Tiểu Phúc Tử anh dũng đứng trước mặt chắn gió, thế mà vẫn cảm thấy lạnh điếng người. Thử hỏi ba người kia phải quỳ thế này hai canh giờ thì làm sao chịu nổi? Liễu Yến Yến quả là muốn ép chết người.

Ta không muốn đối đầu với Liễu Yến Yến nhưng càng không thể để mở mắt nhìn Phong Thể Minh rét chết.

Cân nhắc một chút, ta nghiêng đầu bảo với Ngọc Nga đang đứng co ro bên cạnh:

“Ngươi đi vào trong bảo bọn Tiểu Minh Tử khiêng mấy tấm bình phong lớn trong phòng ta ra đây.”

Ngọc Nga hiểu ngay ý ta, lập tức chạy vào trong. Chỉ lát sau đã thấy bốn tấm bình phong thêu hình mai lan cúc trúc được khệ nệ khiêng ra.

Ta hài lòng gật đầu:

“Tốt lắm. Tiểu Minh Tử, các ngươi đem mấy cái này ra chắn chung quanh Phong Tiệp dư.”

Những người ở chỗ ta làm việc lúc nào cũng nhanh nhẹn, thoáng chốc Phong Thể Minh và Lương Sa, Lương Vũ đã được bốn tấm bình phong che kín. Ngọc Nga còn chu đáo mang đến một tấm màn lớn phủ lên phía trên. Như thế này tuy vẫn không thể che hết gió nhưng cũng phải cản được tám chín phần.

Cung nữ của Liễu Yến Yến phái đến trông chừng đang ngồi cuộn tròn trong góc tránh gió, nhìn thấy cảnh này vội chạy ra la lớn:

“Nương nương, như vậy là sao? Hoàng Hậu nương nương đã nói Phong tiểu chủ phải chịu phạt ở ngoài hiên…”

Ta nhướn mày liếc nàng ta:

“Bản cung có khiêng Phong Tiệp dư vào trong nhà sao?”

Cung nữ kia vẫn hùng hổ cãi:

“Nhưng nương nương làm như thế này…”

Trời lạnh làm tâm tình ta không được tốt. Ta chẳng muốn nghe nàng ta lắm lời, bèn cao giọng đe dọa:

“Đây là tẩm cung của ta, mấy tấm bình phong này cũng là đồ của ta. Chẳng lẽ bản cung bày biện đồ đạc trong nhà thế nào, cô nương cũng muốn quản à? Hoàng Hậu lệnh cho Phong Tiệp dư quỳ ở ngoài hiên, bây giờ chẳng phải Phong Tiệp dư vẫn đang quỳ ngoài hiên đó sao?”

Cũng đâu có ai nói ta không được mang đồ đạc đến bày chung quanh Phong Thể Minh đâu?

Tiểu Phúc Tử đứng bên cạnh cũng cố chen vào một câu chua ngoa:

“Muốn quản cả chủ nhân nhà ta à? To gan!”

Cung nữ nọ nghẹn lời:

“Người như thế này là muốn chống đối Thục phi nương nương sao?…”

Ta làm bộ giật mình, thảng thốt:

“Bản cung đối với Thục phi nương nương xưa nay một lòng kính trọng, có trời cao minh chứng. Ngươi như thế này là muốn vu oan cho bản cung, làm vấy bẩn tấm lòng của bản cung đối với Thục phi nương nương sao?”

Đến nước này thì cung nữ nọ chẳng nói gì được nữa. Nàng ta dù sao cũng chỉ là một cung nữ bình thường, nếu lỡ xui xẻo bị khép tội linh tinh gì đó thì cũng chẳng có ai đứng ra giúp đỡ đâu. Đã biết như vậy, tốt nhất là ngậm miệng cho qua chuyện.

Bầu không khí đã yên tĩnh trở lại, rất vừa ý ta.

Qua khe hở giữa những tấm bình phong, ánh mắt Phong Thể Minh và ta bất chợt chạm phải nhau. Dù nàng mau chóng quay đi, nhưng ta vẫn kịp nhìn thấy trong đó sự kinh ngạc cùng bối rối.

Ta thở dài trong lòng. Có cái gì mà phải ngạc nhiên? Ta cũng không tốt đến mức đó. Nếu là kẻ khác, ta đã chẳng thừa hơi nhúng tay vào. Chính bởi vì nàng là Quận chúa Phong tộc, lại còn là người ở trong cung của ta, mối liên hệ này ta tránh không được.

Người ta đồn đại Hoàng Đế say mê nhan sắc của Phong Thể Minh, nào là “nhất kiến chung tình”, nào là “yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu”, còn vô số thứ văn thơ mĩ miều gì đó mà ta nghe không hiểu. Nhưng có một điều ta hiểu rất rõ, Phong Thể Minh tuy rất xinh đẹp nhưng bản thân nàng ta lại là một mối phiền phức vô cùng lớn. Hậu cung yên ổn là điều cực kì quan trọng đối với bất cứ vị đế vương nào. Thiên hạ có rất nhiều nữ nhân xinh đẹp, Hoàng Đế mạo hiểm đem một con ngựa hoang bất kham như Phong Thể Minh vào Hậu cung, khiến cho nơi này loạn hết cả lên, e rằng không phải chỉ vì nàng ta có một gương mặt khả ái. Cái gọi là “nhất kiến chung tình” kia, nói cho cùng cũng chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị khác mà thôi.

***

Tuyết rơi càng lúc càng dày. Những phi tần được Hoàng Đế triệu kiến đều phải chống chọi với gió tuyết mà đến điện Cát Tường. Đường đi lối lại đều bị đóng băng trơn trợt, dù vẫn có người thường xuyên cào băng thì vẫn có không ít phi tần bị ngã kiệu. Thời tiết như vậy, không được triệu kiến cũng là một loại may mắn.

Liễu Yến Yến phải đóng cửa dưỡng bệnh, Triệu Lam Kiều thì im hơi lặng tiếng, ngay đến Phong Thể Minh cũng bị sưng đầu gối không nhảy nhót phá phách được, thiên hạ đúng là không thể thái bình hơn.

Mỗi dịp tết đến, Hoàng Hậu đều theo lệ tổ tiên để lại xuất cung đi Hoàng Lương tự lễ Phật. Nơi này nằm ở trong địa phận kinh thành, đi về thong thả cũng chỉ hết một ngày. Hoàng Hậu thương Trịnh Vân Anh còn nhỏ mà đã phải xa phụ mẫu nên năm nào cũng dẫn muội ấy theo, cho muội ấy tranh thủ về thăm nhà ngoại. Trịnh Vân Anh lại thấy ta mới gả đến đây, chưa được nhìn thấy cuộc sống bên ngoài bao giờ, bèn xin Hoàng Hậu dẫn cả ta theo. Cứ trời lạnh là ta sinh tật lười vận động, chỉ muốn trùm chăn ngủ cả ngày nhưng thấy Trịnh Vân Anh nhiệt tình như thế mà Hoàng Hậu cũng mở lời rồi, đành phải bấm bụng đi theo.

Sớm tinh mơ một ngày đại cát đầu tháng chạp, ta ngáp ngắn ngáp dài đi theo Trịnh Vân Anh và Hoàng Hậu đến Hoàng Lương tự bái tế. Để tránh gây sự chú ý, mọi người theo lệnh Hoàng Hậu đều mặc y phục bình thường, thị vệ đi theo cũng ăn vận như thường dân lẩn vào đám đông. Nhìn vào chúng ta cũng không khác những phu nhân nhà trung lưu cùng lên chùa lễ Phật là bao.

Chuyện bái tế, cầu phúc đã có Hoàng Hậu lo. Ta và Trịnh Vân Anh lạy Phật xong thì chỉ đi dạo quanh quẩn trong sân chùa, nói chuyện phiếm giết thời gian.

Hoàng Lương tự có từ trước thời Tiên đế. Chuyện kể rằng, khi xưa Tiên đế mặc thường phục di hành từng có lần bị phản tặc truy sát, may mà kịp chạy đến cửa Hoàng Lương tự, được trụ trì Hoàng Lương tự cứu mạng. Tiên đế nhớ ơn này, sau khi hồi cung liền ban chiếu chỉ phong Hoàng Lương tự thành quốc tự, đồng thời cũng đặt ra lệ hoàng tộc mỗi năm phải đến Hoàng Lương tự cúng dường cầu phúc. Thể theo nguyện vọng của trụ trì đại sư, Hoàng Lương tự vẫn mở cửa tiếp đón chúng sinh tứ phương, không có quy định chỉ tiếp hoàng tộc như quốc tự bình thường cho nên nơi này lúc nào cũng đông đúc người đến cúng bái. Đa phần những thị vệ đi theo đều tập trung ở khu chính điện bảo vệ Hoàng Hậu, chỗ ta và Trịnh Vân Anh chỉ còn lại đôi ba người. Nhưng ta cũng không quá lo lắng vì dáng vẻ của ta và muội ấy đều rất bình thường, chẳng có ai thực sự chú ý đến bọn ta.

Trong sân Hoàng Lương tự có một vị cao nhân tháng chạp năm nào cũng đến ngồi xem tướng, bói quẻ cho khách hành hương. Trịnh Vân Anh rất muốn đến xem nhưng ta thấy chỗ này quá đông người chen lấn, sợ có chuyện xảy ra nên không đồng ý. Vừa hay, phía đối diện cũng có một vị treo bảng xem tướng mà lại vắng khách, ta liền kéo Trịnh Vân Anh đi sang phía đó. Dù sao ta cũng không tin chuyện bói toán, xem chỗ nào cũng vậy, miễn Trịnh Vân Anh vui vẻ là được rồi.

Cùng là xem tướng số, thế mà một bên khách đông nườm nượp, một bên lại chẳng có lấy một bóng người. Vị thầy tướng số kia vốn đang chống cằm ngáp lên ngáp xuống, nhìn thấy ta và Trịnh Vân Anh bước đến bèn ngồi thẳng lưng lên, còn vuốt vuốt chòm râu dài bạc trắng một cách thần bí. Ta nhìn dáng vẻ cố tỏ ra đạo mạo của ông ta mà suýt chút bật cười. Trịnh Vân Anh lại rất nghiêm túc, muội ấy kéo ta ngồi xuống trước mặt vị thầy tướng số kia, lễ phép nói:

“Tiên sinh, xin người xem giúp tỷ muội ta một quẻ.”

Thầy tướng số kia hắng giọng, lại vuốt râu thêm mấy cái:

“Nhị vị cô nương muốn xem điều chi?”

Trịnh Vân Anh hào hứng đáp ngay:

“Chúng ta muốn xem hậu vận.”

Thầy tướng số nghe xong, nhìn ta và Trịnh Vân Anh một lượt từ đầu đến chân rồi bí hiểm cúi đầu bấm bấm đốt ngón tay. Mãi một lúc lâu sau, ông ta mới ngước nhìn ta, nói:

“Vị cô nương này tuổi nhỏ không được may mắn, lớn lên lại phải lưu lạc nơi đất khách quê người, số phận có thể nói là rất truân chuyên. Cuộc đời cô nương sẽ còn phải trải qua nhiều sóng gió, chung quy là phúc hay là họa cũng còn tùy thuộc vào bản thân cô nương nữa.”

Tùy Khâu và Bách Phượng tuy dùng chung một thứ tiếng nhưng ngữ điệu vẫn có điểm khác biệt. Khi đi về phía vị thầy tướng số này, ta và Trịnh Vân Anh vẫn luôn miệng trò chuyện, chỉ cần để ý một chút sẽ nhận ra giọng ta không phải người Bách Phượng. Một nữ nhân có tuổi thơ may mắn, tất không phải lưu lạc xa xôi như thế này, mà đã sống nơi đất khách số phận sao có thể không truân chuyên? Tương lai ai cũng vậy, không là phúc thì là họa thôi. Xem tướng như thế, ta cũng xem được.

Trịnh Vân Anh nghe thầy tướng số phán xong, liền lo lắng hỏi:

“Vậy phải làm sao mới tốt?”

Thầy tướng số gãi cằm, cười thần bí:

“Chậc chậc, cô nương không cần lo lắng, tỷ tỷ của cô nhân trung sâu dài, trán cao bằng phẳng, hoa dung tròn đầy, bảy phần là có phúc về sau. Cô nương nên tự lo cho bản thân thì hơn. Cô nương sinh ra dưới chòm sao xấu, bẩm sinh số mệnh đã gắn với hai chữ ly biệt…”

Ta vốn dĩ chỉ coi đây là chuyện đùa, nhưng Trịnh Vân Anh ngây thơ lại rất tin tưởng. Ta thấy sắc mặt muội ấy xấu đi rõ rệt, vừa định lên tiếng thì đã có một giọng nói cắt ngang:

“Tiên sinh chắc hẳn có chút nhầm lẫn rồi.”

Nhìn lại, thì ra là Hoàng Hậu cúng bái xong đi tìm bọn ta, vừa khéo nghe được lời phán của lão thầy tướng số. Nàng thong thả bước đến, đặt tay lên vai Trịnh Vân Anh, ung dung mỉm cười:

“Tiểu muội nhà ta sinh ra trong nhung lụa, là viên ngọc trong tay phụ mẫu, lớn lên gả cho nhà quyền quý, cuộc sống trước nay đều an nhàn. Nếu nói muội ấy sinh ra dưới chòm sao xấu thì e rằng trên đời này ai cũng sẽ mong được sinh dưới một chòm sao xấu như vậy.”

Thầy tướng số nọ bỗng nhiên bị mỉa mai nhưng mặt vẫn không đổi sắc. Ông ta cười lớn một tiếng, bàn tay nhăn nheo lướt qua mấy tấm thẻ gỗ cũ kĩ trước mặt:

“Bản tọa nói đúng hay không, vị cô nương đây tự mình biết rõ.”

Nói đoạn, ông ta bất ngờ lật một thẻ gỗ lên rồi nhìn trời thở dài.

Ta tò mò không biết ông ta còn có chiêu trò gì, bèn hỏi:

“Tiên sinh chẳng hay còn có lời gì dạy bảo?”

Thầy tướng số lắc lắc mái đầu bạc trắng, ánh mắt thất thần lướt qua cả ba người bọn ta:

“Trong ba vị, có một người có mệnh phượng hoàng.”

Bấy giờ, cả ta và Hoàng Hậu đều giật mình.

Là vì mùa xuân năm sau sẽ có đợt tuyển tú cho nên mới nhắc đến việc này, muốn kiếm chút lợi ích từ các cô nương ôm mộng trèo cao… Hay là còn lí do gì khác?

Ta và Hoàng Hậu khẽ trao đổi một ánh mắt. Nàng cười khẩy:

“Tiên sinh lại nhầm lẫn rồi. Đừng nói ta và nhị muội đã quá tuổi dự tuyển tú, cả tiểu muội đây tuy chưa quá tuổi nhưng cũng đã gả đi rồi, ba người chúng ta ai có thể mang mệnh phượng hoàng được chứ?”

“Thiên cơ bất khả lộ.” Thầy tướng số nọ thản nhiên nhún vai. “Bản tọa chỉ có thể khuyên các vị một câu: Cái gì thuộc về mình, không cần tranh giành vẫn sẽ thuộc về mình. Cái gì không thuộc về mình, uổng phí cả đời cũng tranh không được, cố cưỡng cầu chỉ khiến bản thân sa vào địa ngục mà thôi…”

“Đa tạ tiên sinh chỉ dạy.”

Thầy tướng số chưa nói hết câu, ta và Hoàng Hậu đã đồng loại lôi Trịnh Vân Anh đứng dậy. Hoàng Hậu lạnh lùng đặt lên bàn một nén bạc. Chúng ta nhanh chóng rời đi trong sự ngỡ ngàng của Trịnh Vân Anh và tiếng cười khàn văng vẳng của lão thầy tướng số nọ.

“Đại tỷ, sao vậy…”

Đến lúc ngồi vào kiệu rời khỏi Hoàng Lương tự rồi, Trịnh Vân Anh vẫn còn ngơ ngác.

Ta vỗ vai muội ấy, khẽ giải thích:

“Lần này chúng ta ra ngoài chỉ có người trong cung và trụ trì Hoàng Lương tự biết. Thầy tướng số lúc nãy hành vi rất kì quái, lời ông ta nói không đáng tin. Nhắc đến chuyện mệnh phượng hoàng gì đó, chỉ e rằng đã biết trước thân phận của tỷ tỷ, không biết có mục đích gì.”

Bây giờ, Trịnh Vân Anh mới giật mình:

“Ông ta rốt cuộc là ai? Muốn làm cái gì?”

Hoàng Hậu bấy giờ mới thở dài:

“Ta đã cho người theo dõi ông ta rồi. Các muội không cần lo lắng nữa. Chúng ta về Trịnh phủ nghỉ chân một lát rồi hồi cung.”

Dẫn theo Trịnh Vân Anh, mục đích cũng chỉ có vậy. Trịnh Vân Anh nghe đến chuyện về nhà, vui đến mức cười tít cả mắt, nhất thời quên hết mọi chuyện.

Bản thân ta cứ đinh ninh thầy tướng số kia là kẻ gian, những lời ông ta nói ta chẳng hề để trong lòng. Phải trải qua rất nhiều năm nữa, khi tịnh tâm nghĩ lại, ta mới bàng hoàng nhận ra tất cả những lời tiên đoán mập mờ năm nào đều ứng nghiệm lên ba người chúng ta, không hề sai lệch.

Phủ đệ Trịnh gia nằm trong một con ngõ nhỏ gần phía đông Hoàng cung. Nơi này cũng từng là một tướng phủ oai phong lẫm liệt, sớm tối đều có người xếp hàng cầu kiến. Đáng tiếc nhân tâm là thứ dễ đổi thay. Trưởng tử Trịnh thị gặp nạn qua đời khiến cho Trịnh lão tướng quân thương tâm ngã bệnh liệt giường, Trịnh thị cứ thế ngày một suy yếu. Đến bây giờ thì chẳng còn mấy ai lui tới nữa.

Trịnh Vân Anh và mẫu thân cả năm mới được gặp gỡ một lần, ta và Hoàng Hậu đều muốn để hai người trò chuyện riêng tư cho nên chỉ chào hỏi một chút rồi thôi. Hoàng Hậu nói có việc cần làm, ta cũng không phiền nàng, bèn mượn con mèo lông xù của Trịnh Vân Anh ôm ra sân chơi. Con mèo này đúng là rất hư, đùa giỡn với ta được một chút liền cào ta một cái rõ đau rồi phóng đi đâu không biết. Ta bực mình lắm, nhưng nghĩ lại đây là con mèo Trịnh Vân Anh rất yêu quý, Trịnh phủ lại không có nhiều thị vệ, lỡ để nó xổng ra ngoài rồi bị người khác đem đi nấu cao tiểu hổ thì ta còn mặt mũi nào gặp Trịnh Vân Anh. Ta đành bấm bụng đuổi theo nó vậy.

Ta cứ đi theo tiếng kêu meo meo của con mèo hư hỏng kia, cũng chẳng để ý đã đi bao xa, đến lúc bắt được nó nhìn lại đã thấy mình đang đứng ở một dãy hành lang xa lạ. Phòng ốc nơi này đều đóng cửa im ỉm, chỉ có một gian là đang mở cửa, còn thấy thấp thoáng bóng người.

Ta định đến chỗ người đó hỏi đường trở ra, nào ngờ bước đến gần mới phát hiện gian phòng này thực chất là từ đường nhà họ Trịnh, mà người đang quỳ lặng ở đó lại là Hoàng Hậu nương nương.

Ta giật mình kinh ngạc, lòng hiếu kì trỗi dậy, nhưng cuối cùng vẫn quyết định bỏ đi. Chuyện riêng của Hoàng Hậu, ta không nên quan tâm. Chỉ là, vừa mới quay lưng đã thấy Trịnh Vân Anh đang yên lặng đứng ở ngã rẽ hành lang từ bao giờ.

Ta bối rối nhìn muội ấy, chỉ sợ muội ấy lên tiếng thì Hoàng Hậu sẽ biết ta đang ở gần đây. Nếu để nàng nghĩ ta rình rập nàng thì phiền phức to. May là Trịnh Vân Anh chỉ khẽ vẫy gọi ta, đợi đến khi ta ôm con mèo đi đến chỗ mình rồi, muội ấy mới đón lấy con mèo, mỉm cười buồn bã:

“Bao nhiêu năm rồi, đại tỷ vẫn không quên đại ca. Muội không biết nên vui hay nên buồn nữa.”

Ta ngập ngừng không biết nói gì:

“Tiểu Anh à…”

Trịnh Vân Anh v**t v* con mèo trong lòng, ánh mắt nhìn về phía Từ đường chợt trở nên xa xăm:

“Tỷ biết không, đáng lẽ ra muội sẽ được gọi tỷ ấy là đại tẩu đấy…”

Mối liên hệ giữa Trịnh thị và Hà thị ta cũng từng nghe nói loáng thoáng. Trưởng tử và trưởng nữ hai nhà vốn được hứa hôn cho nhau từ rất sớm. Nhưng về sau thế sự đổi dời, trưởng nữ Hà thị trở thành mẫu nghi thiên hạ, mối duyên thanh mai trúc mã từ đó hóa thành đạo quân thần. Chuyện này Ngọc Thủy đã kể cho ta nghe từ lâu, nhưng qua lời kể ngây thơ của Trịnh Vân Anh, ta mới thấy được hết nỗi bi thương trong đó.

Trịnh phủ và Hà phủ tương đối gần nhau, từ nhỏ hai bên đã qua lại thân thiết như người một nhà. Trịnh Vân Anh khi ấy mới vừa biết nói, chẳng hiểu cách xưng hô, nghe người nhà nói vị tỷ tỷ này sau sẽ gả cho đại ca của mình, liền cứ thế gọi luôn là đại tỷ. Ai sửa thế nào cũng không được, đành mặc kệ cho muội ấy gọi thành quen đến tận bây giờ.

Mối hôn sự này không chỉ là sự sắp xếp của bậc tiền bối mà đôi bên cũng lưỡng tình tương duyệt. Đây vốn đã có thể là một mối lương duyên đẹp đẽ. Nào ngờ Tiên đế đột ngột băng hà, tân đế lên ngôi, hậu vị bỏ trống. Trưởng nữ họ Hà một bước hóa phượng hoàng, cẩm tú lương duyên năm xưa chớp mắt đã không còn.

“Lúc đó muội cứ tưởng đại tỷ đã quên mất nhà họ Trịnh rồi… Nhưng mà mấy năm sau, Hà đại nhân ép mẫu thân gả muội cho một người để củng cố quyền lực gì đó… Người đó vừa già vừa xấu, mẫu thân không muốn nhưng không chống lại nổi quyền thế của Thái sư… May mà có đại tỷ cầu xin Hoàng Thượng nạp muội vào Hậu cung. Lúc đó, muội mới biết, đại tỷ không hề quên… tỷ ấy nhớ tất cả mọi điều…”

Từng giọt nước mắt đuổi nhau lăn dài trên gò má bầu bĩnh của Trịnh Vân Anh.

Ta hít sâu một hơi, lẳng lặng ôm lấy muội ấy. Con mèo nhảy xuống đất, nhưng chỉ quẩn quanh bên chân muội ấy chứ không đi đâu xa. Trịnh Vân Anh bám lấy vai ta, khóc rấm rứt.

Thì ra Hà Thái sư đã có ý định dùng Trịnh Vân Anh làm đá lót đường, thảo nào Hoàng Hậu lại phải để muội ấy nhập cung. Vào Hậu cung không có gì tốt đẹp, nhưng chí ít ở đó Hoàng Hậu vẫn có thể bảo vệ muội ấy. Hoàng Hậu vì Trịnh Vân Anh mà tính toán hết lòng như thế, còn không ngại đối đầu với chính phụ thân của mình…

Sự che chở của Hoàng Hậu dành cho Trịnh Vân Anh mà khi trước ta không thể lí giải được, bây giờ bỗng trở nên sáng tỏ.

Mỗi năm, Hoàng Hậu tạo điều kiện cho Trịnh Vân Anh về thăm nhà ba canh giờ. Ba canh giờ Trịnh Vân Anh đoàn tụ với mẫu thân cũng là ba canh giờ Hoàng Hậu lặng lẽ quỳ trước bài vị Trịnh Thừa Minh.

Vị mẫu nghi thiên hạ lạnh lùng tàn nhẫn ấy, hóa ra trong lòng cũng cất giấu một mối thâm tình không thể nói thành lời.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 54



Hậu cung có tiền lệ cứ ba năm thì đại phong một lần. Có nghĩa là phi tần chỉ cần cố giữ mình, đừng phạm lỗi gì thì không cần được sủng ái vẫn có thể từ từ leo lên. Nói đơn giản như thế nhưng đã sống trong Hậu cung thì rất ít ai có thể yên ổn qua ngày mà chờ đến đợt đại phong. Trải qua mấy lần sóng gió, không tính ta là kẻ mới tới thì số người đủ điều kiện đại phong chỉ có Trịnh Vân Anh, Minh Âm, Liên Nhạc và Khán Linh Chương. Trịnh Vân Anh và Minh Âm đã ở hàng Phi, không thể tùy tiện thăng thêm nên chỉ được nhận thưởng. Liên Nhạc và Khán Linh Chương mỗi người được thăng hai bậc, Liên Nhạc từ Thường tại thăng lên Tiểu nghi, Khán Linh Chương từ Tần thăng lên Tu nghi. Đối với những người còn lại, Hoàng Hậu cũng tỏ rõ đức độ của mình mà ban thưởng hết sức rộng rãi, nhất là Triệu Lam Kiều. Hoàng Hậu kiên quyết không trả loan ấn Đức phi cho nàng ta nhưng ngày nào cũng hào phóng mang thứ này thứ nọ đến tặng. Chỉ là, lộ trình của những món quà này có chút đặc biệt, từ Triêu Lan cung phải đi vòng một lượt qua Mẫu Đơn cung rồi mới đến Hạ Lê cung chứ không đi thẳng một đường như trước. Lại nói, Hoàng Hậu tuy không trực tiếp dùng danh nghĩa của Hoàng Đế nhưng lần nào cũng tỏ vẻ như đang làm theo ý của Hoàng Đế, khiến cho Liễu Yến Yến ghen đến mức đứng ngồi không yên. Giữa ba người Hoàng Đế, Hoàng Hậu và Triệu Lam Kiều, nếu muốn tìm một kẻ trút giận đương nhiên phải tìm Triệu Lam Kiều. Chính vì thế, mặc dù tiết xuân vừa đến, Triệu Lam Kiều không lúc nào là được yên thân.

Ta nghĩ, để Liễu Yến Yến quấy phá nàng ta như thế cũng tốt, bận rộn một chút sẽ bớt thời gian rảnh rỗi đi tính kế hại người. Hậu cung những ngày đầu năm này có thể nói là yên ả.

Về phần ta, cả mùa đông rồi ta không nhìn thấy Hoàng Đế. Ban đầu, ta cứ ngỡ mình đã làm gì khiến hắn phật lòng, hoặc là trí nhớ hắn không tốt nên đã quên mất ta rồi. Mãi đến tận ngày tất niên, hắn mới cho Tô Trường Tín mang tới chỗ ta một cái bao méo mó kì cục, bên trên còn vẽ hình một cái mặt cười toe toét, khiến cho ta dở khóc dở cười. Những chuyện ta và hắn từng nói trong đêm trăng hôm ấy, hóa ra hắn vẫn nhớ hết. Ngay cả lời hứa sẽ mang ta ra ngoài chơi vào dịp Nguyên Tiêu, hắn cũng không quên.

Lời hứa ấy ta không cho là thật nên chẳng trông đợi gì. Ấy thế mà, vào đúng ba ngày trước Nguyên Tiêu, Lý Thọ lại đủng đỉnh đến Cẩm Tước cung dõng dạc thông báo:

“Hoàng Thượng khẩu dụ, lệnh cho Hòa phi theo hầu thánh giá, lập tức chuẩn bị giờ Thìn xuất hành, không được chậm trễ.”

Hỏi ra mới biết thì ra mấy hôm trước Hoàng Đế nằm mơ thấy điềm lạ, bèn mời Quốc sư Lưu Thiên vào hỏi ý. Cùng lúc đó, Khâm Thiên Giám cũng báo lại bầu trời phía nam xuất hiện dị tượng. Lưu Thiên nghe xong liền lập đàn nhảy múa một hồi, đoạn phán rằng ở phía nam kinh thành có Hà Quỳnh tiên tử hạ thế phò trợ quân vương. Ấy là đại phúc, Hoàng Đế phải ngự giá đến tìm mà thỉnh tiên tử về hậu đãi, bằng không là làm trái ý trời, tất phải gánh họa. Hoàng Đế xưa nay luôn tin tưởng khả năng trên thông thiên văn, dưới tường địa lý của Quốc sư đại nhân, thế nên mặc cho văn võ bá quan hết lời can ngăn, hắn vẫn khăng khăng đòi xuất cung đi đón Hà Quỳnh tiên tử. Triều thần ngăn cản không được, đành phải thỏa hiệp bằng cách bắt Hoàng Đế mang theo một đoàn mấy trăm người bao gồm những Cẩm Y vệ tinh nhuệ nhất, cả Ngự y, thái giám, cung nữ Ngự tiền, lại phải chọn một phi tử theo hầu, sớm hôm kề cận không rời một bước. Hoàng Đế đồng ý ngay, lần nữa sai Lưu Thiên bói quẻ xem nên mang phi tử nào theo. Lưu Thiên bấm độn hồi lâu mới phán: Hoàng Đế mệnh kim, vậy nên phi tử đi cùng phải chọn người mệnh thủy, mà người này phải sinh vào đêm rằm – thời điểm hội tụ đủ tinh hoa của đất trời mới được. Hậu cung có rất nhiều phi tử, nhưng người mệnh thủy sinh vào đêm rằm thì chỉ có mỗi mình ta.

Ta nghe kể rồi, chỉ có thể nén tiếng thở dài, quỳ xuống nhận thánh ý. Nhìn Ngọc Nga tất bật chuẩn bị hành trang mà lòng ta lo lắng không thôi. Hoàng Đế thật quá tài giỏi rồi. Ngay cả chuyện mấy tháng sau sẽ nằm mơ thấy cái gì hắn cũng biết rõ, đúng là khiến người ta khâm phục. Tiên tử hạ thế? Rõ ràng chỉ là cái cớ Hoàng Đế tạo ra để xuất cung. Mà vì sao hắn nhất định phải mang ta theo? Có chết ta cũng không dám tin hắn chỉ đơn thuần là muốn cùng ta đi du ngoạn.

Nhưng ta tin hay không thì ích gì đâu. Thánh ý đã ban xuống, chuyện ta có thể làm chỉ là trưng lên vẻ mặt hân hoan, lướt qua những ánh nhìn ganh ghét cùng ngưỡng mộ của những phi tần còn lại, ngoan ngoãn theo Hoàng Đế xuất cung.

Mấy tháng nay, Hoàng Đế chẳng hiểu ăn phải cái gì mà cao hẳn lên. Bây giờ, ta chỉ còn cao tới vai hắn thôi. Hoàng Đế vì việc này mà tỏ ra vui vẻ lắm. Hắn liên tục xoa đầu ta, cười nói:

“Ít lâu không gặp, nàng hình như lại lùn đi ấy nhỉ?”

Mái tóc bới cẩn thận của ta bị hắn vò không thương tiếc, chẳng bao lâu đã không khác gì một cái tổ chim.

Ta mà lùn đi à? Do nhóc con ngươi đang tuổi ăn tuổi lớn thì có.

Ta thầm mắng trong lòng, ngoài mặt thì làm bộ hờn dỗi:

“Hoàng Thượng làm hỏng hết tóc thiếp rồi. Đền cho thiếp đi…”

Hoàng Đế phì cười, lại đưa tay cào cào tóc ta:

“Còn bộ dạng nào của nàng mà ta chưa nhìn thấy đâu?”

May mắn cho ta, Hoàng Đế chẳng đắc ý được bao lâu. Ngự giá rộng rãi thoải mái, ngựa đi cũng chậm rì nhưng sức khỏe hắn vốn không tốt, chỉ sau một canh giờ đã mệt đến xanh mặt.

Lúc này, Hoàng Đế chẳng còn chọc phá ta nổi nữa. Hắn nằm bẹp một chỗ, ngay cả thở cũng khó nhọc. Ta nhìn hắn như vậy cũng thấy xót xa. Vừa vắt khăn lau mồ hôi cho hắn, ta buột miệng nói:

“Hoàng Thượng cần gì phải tự làm khổ mình thế này…”

Hoàng Đế nhếch môi cười:

“Có những việc trẫm phải đích thân làm mới được.”

Ta tặc lưỡi, chẳng biết nói gì nữa. Hoàng Đế thấy ta yên lặng bèn hé mắt nhìn:

“Nàng lo cho ta sao?”

Ta nhíu mày:

“Thiếp không lo cho Hoàng Thượng thì lo cho ai?”

Hoàng Đế thở dài, nắm lấy tay ta đặt lên trán mình, giọng như trách móc:

“Lo cho ta, thế mà chẳng thấy nàng đến tìm ta bao giờ. Ngay cả túi thơm này… Ta đòi mãi nàng cũng chỉ làm cho ta có một cái…”

Thực ra ta cũng định làm thêm cho Hoàng Đế vài cái đẹp đẽ một chút, nhưng chợt nhớ ra vẫn còn nợ Tiểu Phúc Tử một cái túi thơm nên đành ưu tiên làm cho Tiểu Phúc Tử trước. Ta cứ nghĩ mấy tháng mùa đông rảnh rỗi, làm vài cái túi thơm không có vấn đề gì. Chỉ là, ta đã đánh giá thấp sự lười nhác của mình. Cuối cùng hết cả một mùa đông, ta cũng chỉ thêu xong mỗi một cái túi thơm chữ Phúc mà thôi.

Nhắc tới chuyện này ta tự thấy mình có lỗi, bèn nhẹ nhàng xoa bóp trán Hoàng Đế, cười lấp l**m:

“Không phải như người nghĩ đâu… Thiếp… Là do thiếp muốn tập luyện thêu thùa một chút, khi nào làm tốt rồi mới dám dâng lên để người khỏi chê cười…”

“Chỉ giỏi chối tội.”

Hoàng Đế hừ một tiếng rồi thôi, cũng chẳng còn sức nói nhiều nữa.

Hắn đã mệt lắm rồi, lại có người xoa bóp bấm huyệt trên đầu dễ chịu, chốc lát liền ngủ thiếp đi.

Hoàng Đế ngủ rồi, ta không còn việc gì làm, bèn nhấm nháp điểm tâm của hắn, vừa ăn vừa đưa mắt ngắm nhìn khung cảnh thanh bình đang lừng lững trôi qua ngoài ô cửa sổ nhỏ.

Nghe nói Hà Quỳnh tiên tử hiện thân ở phía Nam kinh thành, nhưng đến cả Lưu Thiên cũng không bói được chính xác vị trí. Vừa hay cách kinh thành khoảng sáu mươi dặm là hành cung Thanh An. Hoàng Đế đã quyết định sẽ nghỉ lại nơi này trong thời gian tế lễ tìm kiếm vị tiên tử kia.

Hành cung Thanh An cách kinh thành không xa, nếu đi nhanh thì chỉ hơn hai canh giờ là đến nhưng vì phải kiêng dè sức khỏe của Hoàng Đế nên chúng ta đi chậm rề rề. Trời đã quá trưa mà mới đi được nửa đoạn đường, đành phải dừng chân nghỉ trưa dùng cơm rồi mới đi tiếp.

Lần này xuất cung, Hoàng Đế mang theo cả Ngự trù nên dù là ở nơi đồng không mông quạnh thế này, cơm trưa dâng lên vẫn đủ mười hai món tinh xảo, thơm nức cả cỗ xe ngựa lớn. Chỉ tội cho Hoàng Đế ở trên xe ngựa dằn xóc cả ngày, đến lúc dùng cơm cũng chẳng ăn được bao nhiêu, cuối cùng chỉ uống nổi một chén canh hầm gà ác bát bảo. Về phần ta, đâu phải ngày nào cũng có thể ăn thức ăn Ngự trù chuẩn bị, vì vậy ta ăn hết sức nhiệt tình. Hoàng Đế nằm rũ ở một bên, nhìn ta ăn uống ngon lành không nhịn được cũng phải đâm một câu:

“Nàng ăn như thế không sợ thành heo à?”

Ta liếc hắn một cái, tay vẫn không ngừng gắp thức ăn:

“Thiếp phải ăn thật nhiều để khỏe mạnh mà hầu hạ Hoàng Thượng chứ. Vì Hoàng Thượng, thiếp không sợ gì cả.”

Hoàng Đế trề môi, cố trêu chọc thêm vài câu. Ta biết tính hắn như thế nên cũng chẳng buồn đôi co, chỉ chuyên tâm ăn uống. Hoàng Đế thấy ta không phản ứng gì cũng mất hứng chẳng buồn nói nữa. Đến khi ta ăn xong, hắn mới đưa ta sờ sờ bụng ta, còn làm ra vẻ mặt rầu rĩ. Ta bực mình, bèn xoay lưng lại không cho hắn sờ nữa, đương định gọi người vào dọn dẹp thì đã nghe tiếng Lý Thọ đứng bên ngoài nói vọng vào:

“Bẩm Hoàng Thượng, bên ngoài có chút việc… Nô tài muốn thỉnh ý Hoàng Thượng…”

Hoàng Đế chẳng buồn ngồi dậy, lười nhác hỏi:

“Việc gì?”

“Bẩm, bên ngoài có một nữ nhân tự nhận là con gái Tô Ngự sử đại nhân, đang trên đường về thăm nhà ngoại ở thành Từ Trang thì gặp phải sơn tặc. Gia nhân hộ tống nàng ta đã bị sơn tặc giết cả rồi. Nàng ta bị sơn tặc đuổi theo tới đây thì gặp Cẩm Y vệ đi dò đường, được cứu mang về đây. Nô tài muốn thỉnh ý Hoàng Thượng xem nên giải quyết nàng ta thế nào…”

Hoàng Đế nhíu mày, dường như nghĩ ngợi gì đó một lát. Chợt, hắn đẩy nhẹ vai ta:

“Nàng đi ra xem thế nào rồi quyết định đi.”

Ta giật mình, vội lắc đầu:

“Thiếp đâu biết gì…”

“Chỉ sai làm chút việc nhỏ mà đã trốn tránh rồi? Ban nãy ai nói phải ăn nhiều để hầu hạ trẫm cho tốt?”

“Cái đó…”

Suy cho cùng, hắn mới là Thiên Tử. Ta nào dám cự cãi với hắn, đành cắn răng bò ra ngoài, theo Lý Thọ đi gặp vị Tô tiểu thư nọ.

Tô tiểu thư được Lý Thọ sắp xếp cho nghỉ tạm ở chỗ đám cung nữ. Khi ta và Lý Thọ đến, nàng đang ngồi trên tảng đá nhỏ dưới bóng cây, bờ vai mảnh mai vẫn còn hơi run rẩy. Từ xa đã có thể nhận ra, Tô tiểu thư này cũng là một mỹ nhân.

Ta nghiêng đầu, ghé tai Lý Thọ hỏi khẽ:

“Lý công công có biết vị Tô Ngự sử đó không? Ông ta có con gái tầm tuổi này chứ?”

Ly Thọ chẹp lưỡi:

“Cái này nô tài không rõ. Tô đại nhân có nhiều con gái lắm…”

“Thế có kiểm tra thư tịch của nàng ấy chưa? Đi từ thành này sang thành khác thì phải mang theo thư tịch chứ?”

“Tô tiểu thư nói thư tịch để trong tay nải, bị sơn tặc cướp đi rồi.”

“Ban nãy, công công nói gia nhân của nàng ta bị sơn tặc giết hại. Vậy công công có cho người đi kiểm tra lại không?”

“Nô tài đã nhờ mấy Cẩm Y vệ đi tra lại rồi ạ, quả đúng cách đây mấy dặm có vài xác người bị chém chết, nhưng của cải trên người đều bị l*t s*ch, không thể xác minh thân phận…”

Nghe Lý Thọ nói đến đây, ta không thể không đỡ trán thở dài thườn thượt:

“Giữa một nơi cách xa thôn làng, vắng người qua lại như vậy lại đột nhiên xuất hiện một Tô tiểu thư… Công công không cảm thấy quá đáng ngờ sao? Thân phận không rõ ràng, chúng ta không thể giữ nàng ấy lại được.”

Lý Thọ nhăn mặt, khổ sở đáp:

“Nô tài cũng biết vậy. Nhưng Tô Ngự sử là một trong số ít quan viên thật lòng phò tá Hoàng Thượng… Nếu lỡ nàng ta thực sự là con gái Tô Ngự sử, mà chúng ta lại bỏ mặc nàng ấy lại đây… E rằng sẽ khiến Tô Ngự sử…”

Nếu bỏ lại con gái Tô Ngự sử ở chỗ này, sau này làm sao Tô Ngự sử còn có thể một lòng với Hoàng Đế?

Ta cắn môi:

“Nếu vậy, sao chúng ta không cử Cẩm Y vệ đưa nàng ấy về kinh thành?”

Lý Thọ lại lắc đầu, phản đối ngay tức thì:

“Cũng không được đâu ạ. Nếu nàng ấy là thiên kim của Tô Ngự sử, để nàng ấy đi đường một mình cùng nam nhân khác thì mất hết thanh danh rồi…”

“Vậy… cho mượn thêm một xe ngựa cùng hai cung nữ đi theo có được không?”

Lý Thọ lại lắc đầu:

“Không ổn, không ổn. Chúng ta không có dư xe ngựa. Hơn nữa, lần này Hoàng Thượng rất khó khăn mới thuyết phục được các vị đại nhân để người xuất cung, đã giao hẹn phải mang đúng số người hầu cận như vậy. Bây giờ cho người đưa nàng ấy về kinh thành thì chỗ chúng ta sẽ hụt đi vài người. Nếu êm đẹp thì thôi, nhưng nếu xảy ra chuyện bất ngờ gì… Tội này không ai gánh nổi đâu…”

Lý Thọ nói chưa hết câu, mặt đã xanh mét, càng lắc đầu dữ dội. Ta bất lực nhìn hắn:

“Thế này không được, thế kia cũng không được. Công công bảo ta phải làm sao đây?”

Lý Thọ cúi đầu, lí nhí đáp:

“Thế nên nô tài mới phải đi thỉnh ý Hoàng Thượng…”

Nói đến đây, đôi mắt bé xíu như hai hạt đậu của hắn sáng rực lên:

“Chẳng phải Hoàng Thượng đã nói để nương nương giải quyết sao? Nương nương muốn làm thế nào, nô tài liền tuân theo thế ấy.”

Bộ mặt Lý Thọ lúc này, có thể nói là chỉ còn thiếu hai chữ gian ác trên trán mà thôi. Ta nhìn dáng vẻ đùn đẩy trách nhiệm của hắn, không nén được tiếng thở dài.

Hai người vừa đi vừa to nhỏ bàn bạc, chẳng mấy chốc đã tới chỗ Tô tiểu thư đang ngồi. Nàng nhìn thấy bọn ta, liền vội vã đứng dậy, cung kính cúi chào:

“Tô Nhược bái kiến nương nương, bái kiến công công.”

Tô Nhược mặc một bộ váy lụa màu trắng, bên ngoài khoác áo the tím nhạt. Tóc nàng bới kiểu tùy vân kế (1) rất công phu, cố định bởi một bộ thoa bạc tám cái, cùng vô số dây bạc, hoa bạc được chế tác tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ. Chẳng qua là nãy vừa bị đuổi bắt nên tóc tai và trang phục có hơi rối loạn đôi chút. Nhìn ở khoảng cách gần, nhan sắc của Tô Nhược không quá mặn mà, nhưng nàng ta lại trang điểm rất khéo cho nên về tổng thể cũng tính là như hoa như ngọc.

“Tô tiểu thư đừng đa lễ.”

Ta dịu dàng đỡ lấy Tô Nhược, thuận thế lướt tay qua hai cánh tay nàng nhẹ nhàng nắm lấy đôi cổ tay mảnh dẻ kia siết nhẹ, miệng không quên động viên:

“Tiểu thư đừng lo lắng, nơi này rất an toàn, không ai có thể làm hại tiểu thư nữa.”

Tô Nhược giương đôi mắt ươn ướt nhìn ta, cảm kích nói:

“Đa tạ nương nương…”

Ta lật tay lại, cầm tay nàng thân thiết cười:

“Tiểu thư kinh sợ nhiều rồi, nên nghỉ ngơi mới phải. Y phục của tiểu thư không còn sạch sẽ nữa, cũng nên thay đi thôi.”

Nói đoạn, quay sang nhìn Lý Thọ. Hắn hiểu ngay, cao giọng gọi một tiếng liền có mấy cung nữ chạy đến đỡ Tô Nhược vào một chiếc xe ngựa gần đó.

Đợi Tô Nhược đi khuất rồi, Lý Thọ mới dè dặt hỏi ta:

“Như vậy… nương nương định mang Tô tiểu thư theo sao?”

Ta thở hắt ra:

“Còn cách nào khác chứ? Dù sao cũng là một cô nương…”

Để một cô nương xinh đẹp như thế lại nơi đồng không mông quạnh, lại có cả sơn tặc như vậy chẳng khác nào đẩy nàng ta vào chỗ chết.

Lý Thọ gật đầu:

“Nói cũng phải, bất luận có phải Tô tiểu thư thật hay không, nếu bọn sơn tặc kia tìm được nàng ta thì chết chắc.”

Nhắc tới sơn tặc, trong đầu ta chợt nảy ra một nghi vấn mơ hồ. Ta kéo tay áo Lý Thọ, hỏi:

“Ban nãy công công bảo Cẩm Y vệ giết sơn tặc mới cứu được Tô tiểu thư phải không? Thi thể bọn sơn tặc ấy đâu rồi?”

Lý Thọ tròn mắt:

“Nương nương hỏi mấy thứ dơ bẩn đó làm gì?”

“Bản cung muốn kiểm tra lại một chút…”

“Để bọn chúng nằm đó cũng không ổn, mà thiêu thì sợ làm ô uế không gian nên nô tài đã bảo đám thuộc hạ kéo ra xa chôn tạm rồi.”

“Mau, dẫn ta đi xem!”

Lý Thọ nghe ta muốn xem thi thể đám sơn tặc kia thì lấy làm kinh hãi, nhưng thấy ta kiên quyết quá nên cũng không dám ngăn cản, bèn gọi thêm mấy Cẩm Y vệ nữa cùng đi.

Chỗ chôn bọn sơn tặc kia cách nơi chúng ta nghỉ chân chừng ba dặm. Khi ta đến thì mấy thái giám nhận lệnh đã đào xong một cái hố lớn, đương chuẩn bị đẩy thi thể xuống.

Lý Thọ vội hô to:

“Ngừng tay!”

Bọn họ nhìn thấy người đến, cuống quýt chạy ra hành lễ. Ta lướt qua bọn họ, nhanh chân bước tới cạnh ba cái thi thể nằm xếp hàng bất động bên miệng hố, vừa định kéo áo chúng lên thì Lý Thọ đã hét thất thanh:

“Nương nương, người không thể đụng vào thứ này được! Tổ tiên ơi, Hoàng Thượng sẽ giết nô tài mất!”

Ta biết hắn nói cũng có lý, bèn rút tay lại, ngẩng đầu nhìn tên thái giám đứng gần nhất:

“Được rồi, vị tiểu công công này, giúp bản cung kéo áo đám người này lên xem.”

“Tuân lệnh nương nương.”

Thái giám kia nghe lời, nhanh nhẹn lật hết áo mấy cái xác lên.

Lý Thọ thấy thế càng hoảng, chạy tới che trước mặt ta la toáng lên:

“Ôi! Sao ngươi dám để nương nương nhìn thứ như thế này!”

Lý Thọ ồn ào tới mức làm ta bực mình, bèn hất mặt về phía mấy cái xác, nói cụt lủn:

“Ta không nhìn, công công tự đến mà nhìn xem.”

Lý Thọ quay đầu lại, nheo nheo mắt:

“Bọn khốn kiếp này thì có cái gì để mà nhìn…”

Thế nhưng nói được nửa câu thì hắn lại im bặt, ắt hẳn cũng đã nhận ra điểm không đúng.

“Không thể nào…” Lý Thọ lẩm bẩm.

Mấy cái xác này tuy là cao lớn bặm trợn, trông cực kì hung dữ nhưng da thịt lại trắng trẻo, hơn nữa còn chẳng có lấy một vết sẹo. Sơn tặc như thế quả là hiếm thấy.

Lúc này, Lý Thọ mới hoang mang nhìn ta:

“Tô tiểu thư kia… có thể nào là thích khách không? Chết rồi…”

Ta lắc đầu:

“Có lẽ không phải. Ban nãy khi bản cung đỡ nàng ta đã kiểm tra tay áo nàng ta, không thấy có giấu gì. Vả lại cơ xương đều mảnh dẻ, không giống người biết võ công. Nếu trong người có thứ gì mờ ám thì khi thay y phục nhất định sẽ bị cung nữ phát hiện.”

Lý Thọ thở phào nhẹ nhõm:

“Nếu vậy nô tài sẽ sai người trông coi nàng ta cẩn thận, đợi đến hành cung Thanh An rồi tính tiếp.”

Bây giờ xem ra cũng chỉ có thể làm như vậy thôi.

Sự xuất hiện của Tô Nhược làm Lý Thọ chột dạ, quyết định khởi hành sớm hơn. Khi ta quay về xe ngựa thì Hoàng Đế vừa mới uống thuốc xong, còn đang nhăn nhó. Ta rót trà cho hắn, tranh thủ kể lại chuyện ban nãy. Hoàng Đế chẳng biết có chú tâm nghe hay không, đợi ta kể xong, hắn chỉ gãi gãi cằm hỏi bâng quơ:

“Tô thị có xinh đẹp không?”

Ta suýt chút nữa là cắn trúng lưỡi:

“Xinh đẹp hay không thì liên quan gì?”

Hoàng Đế cười cười:

“Nếu xinh đẹp thì có thể là nàng ta cố tình xuất hiện trước thánh giá để lôi kéo trẫm thôi. Chậc, lần nào trẫm xuất cung trở về cũng dư ra một người. Hoàng Hậu e là lại có dịp càm ràm…”

Chuyện đào hoa của hắn ta đã nghe đến mòn tai. Năm trước hắn vi hành thăm thú dân tình thế nào không biết, khi về lại mang theo Liên Nhạc; năm trước nữa thì là Tiệp Tuyết. Lần này không khéo Hậu cung lại có thêm một Tô Nhược. Làm Hoàng Đế đúng là tốt, trong khi ta vì thân phận Tô tiểu thư này mà lo sốt vó, hắn lại rảnh rỗi nghĩ chuyện phong tình như thế.

“Này, sao tự nhiên lại xị mặt ra? Ghen à?”

Hoàng Đế phì cười, đưa tay nhéo má ta.

“Hoàng Thượng anh tuấn bất phàm, đương nhiên là có nhiều mỹ nhân đem lòng ngưỡng mộ. Thiếp nào dám đố kị…”

Ta bực mình nghiêng đầu tránh qua một bên. Hoàng Đế thấy thế càng cười rộ lên:

“Nói chuyện không thật lòng chút nào. Thôi được rồi, không trêu nàng nữa. Lại đây…”

Hoàng Đế kéo ta tới ngồi sát bên hắn, hỏi:

“Ban nãy nàng nói tay Tô thị có vết chai kì lạ như thế nào?”

Ta gật đầu, dùng ngón tay vẽ vẽ lên bàn tay hắn:

“Ở tay phải có một vết chai ở gần đầu ngón tay trỏ, còn một vết nhỏ nữa ở lòng bàn tay, chỗ này…”

Hoàng Đế nhìn theo ngón tay ta, lẩm bẩm:

“Đúng là kì lạ, vết chai như vậy làm sao mà có nhỉ? Không phải chai do làm việc nặng, cũng không phải do tập luyện cung kiếm…”

Ta gõ nhẹ ngón tay vào tay hắn, nói tiếp:

“Còn một chuyện nữa… Đám sơn tặc đuổi giết Tô tiểu thư ấy… Lý công công phát hiện ra bọn chúng cũng có chỗ khả nghi. Dù là sơn tặc nhưng kẻ nào kẻ nấy da thịt đều trắng trẻo, không hề có sẹo đao kiếm trên người.”

Nghĩ tới nghĩ lui một hồi, ta thấy vẫn nên đẩy chuyện này cho Lý Thọ. Bất luận thế nào, một phi tử mà lại đi lật áo sơn tặc lên xem thì cũng không hay ho gì.

Hoàng Đế nhếch môi cười nhạt:

“Xem ra trẫm trị vì mấy năm nay cũng chẳng đến nỗi nào, cả sơn tặc cũng được sung sướng thế này.”

Sắc mặt Hoàng Đế đột nhiên hóa thành lạnh lẽo, vừa nhìn qua là biết hắn đã nổi giận rồi. Ta sợ hắn nổi cơn lên thì mình sẽ là người lãnh đủ, vội vàng vuốt ngực hắn:

“Hoàng Thượng đừng giận, tổn hại long thể…”

Hoàng Đế thấy ta lo lắng, bèn giang tay ôm lấy ta vào lòng, khẽ nói:

“Đừng sợ… Những chuyện như vậy không phải trẫm mới gặp lần đầu. Tô thị đó, tạm thời cứ giữ lại đi. Trẫm cũng muốn xem nàng ta định giở trò gì.”

Phiên ngoại : Bánh bao

Tô Trường Tín năm nay tròn năm mươi tuổi. Ông theo hầu Vạn tuế gia từ khi người mới lọt lòng, đến giờ cũng hơn mười tám năm rồi. Ông đã từng tự hào rằng mình là người hiểu Vạn tuế gia nhất. Thế mà hôm nay, khi tuổi già đã đuổi đến sát sau lưng, niềm tin bao năm ấy của ông lại bị lung lay. Tô Trường Tín chợt cảm thấy ông chẳng còn hiểu nổi Vạn Tuế gia nữa.

Hôm nay là ngày cuối cùng của tháng chạp, Vạn tuế gia không phải thiết triều. Thường thì những ngày rảnh rỗi như vậy, Vạn tuế gia đều ngủ nướng đến tận trưa ở tẩm cung của Thục phi hoặc một vị sủng phi nào đó. Sức khỏe của Vạn tuế gia từ nhỏ đã không tốt, dạo gần đây có lẽ vì chính sự căng thẳng nên càng tệ đi. Vì lẽ đó, Tô Trường Tín cảm thấy Vạn tuế gia có lười biếng một chút, ngủ nhiều một chút cũng là phải đạo. Thế mà hôm nay, người lại thức dậy rất sớm, còn điều động đám người Lý Thọ đi tìm bếp lò, xửng hấp, nồi niêu chén bát các thứ linh tinh mang đến gian phòng phía sau Noãn các. Gian phòng ấy là thế giới riêng của Vạn tuế gia. Bình thường, Vạn tuế gia thích ở trong đó một mình, đọc sách hoặc khắc gỗ, Tô Trường Tín biết cả. Nhưng nấu ăn ư? Ông chưa thấy bao giờ.

Cái ý nghĩ Vạn tuế gia nấu nướng bên bếp lò làm cho Tô Trường Tín rùng mình. Hình ảnh ấy còn đáng sợ hơn cả khi Vạn tuế gia nổi giận đùng đùng đòi chém người này người nọ. Tô Trường Tín lo lắm, nhưng Vạn tuế gia có đủ đồ nghề nấu bếp và nguyên liệu rồi thì đóng chặt cửa, chẳng cho ai vào cả. Tô Trường Tín không nhìn ngó được gì thì lại càng lo hơn. Đêm nay vẫn còn yến tiệc giao thừa, nếu Vạn tuế gia lại nghịch dại gì đó, hay tự làm mình bị thương thì ông biết phải làm sao đây?

Có lẽ ông trời cũng nghe được tiếng lòng thành tâm của Tô Trường Tín, sau hai canh giờ tỏ vẻ thần bí, Vạn tuế gia cuối cùng cũng chịu he hé cửa phòng:

“Lão Tô, vào đây…”

Tô Trường Tín mừng rỡ, nhưng vừa đặt chân vào phòng thì suýt chút lên cơn đau tim. Vạn tuế gia… người thực sự nấu ăn!

Nhìn gương mặt non nớt lem nhem vệt trắng vệt đen của Vạn tuế gia, Tô Trường Tín thở dài. Thì ra là Vạn tuế gia không biết nhóm bếp.

Trên đời có một số điều không thể học qua sách vở. Nhóm bếp chính là một trong số đó. Cũng may, mười năm làm Tổng quản Nội thị giám chưa đủ làm Tô Trường Tín quên đi cách nhóm bếp. Chỉ sau vài động tác đơn giản, ngọn lửa trong bếp lò liền cháy bùng lên. Vạn tuế gia hài lòng, vỗ vai ông mấy cái:

“Lão Tô, vẫn là ông lợi hại nhất.”

Nói đoạn, lại vui vẻ tiếp tục công việc còn dang dở.

Tô Trường Tín lén lút nhìn quanh, không chỗ nào là không có bột mì vương vãi. Vạn tuế gia của ông đang làm bánh bao.

Liếc mắt nhìn qua mấy cái bánh bao to tướng, méo mó đang được Vạn tuế gia cẩn thận xếp vào xửng hấp, Tô Trường Tín không khỏi đổ mồ hôi lạnh, chỉ mong người nấu xong đừng bắt ông ăn thử là phúc đức ba đời nhà ông rồi.

May mắn cho Tô Trường Tín, chẳng biết Vạn tuế gia nhà ông đọc những sách gì, làm bánh ra sao mà cuối cùng cái thì nứt bung cả nhân ra ngoài, cái thì teo tóp chẳng ra làm sao. Thành quả mấy canh giờ nghiêm túc nấu nướng của Vạn tuế gia cuối cùng chỉ còn lại một cái bánh bao duy nhất là nguyên vẹn.

Ấy thế mà Vạn tuế gia có vẻ vui lắm. Tô Trường Tín thấy người rón rén nhấc nó ra đĩa như sợ làm nó bị thương, sau lại chăm chú dùng màu gấc vẽ lên trên một cái mặt cười toe toét rồi mới cho vào hộp gỗ.

Giao cái hộp đựng bánh cho Tô Trường Tín, Vạn tuế gia ra lệnh:

“Đem tới cho Hòa phi. Nhớ không được nhiều lời đấy.”

Gương mặt Vạn tuế gia mỗi khi ra lệnh cho kẻ khác đều rất lạnh lùng đáng sợ, nhưng giờ đây mặt người dính đầy bột mì và muội than lem luốc… Tô Trường Tín cắn chặt răng, vội vàng nhận lấy hộp bánh đi thẳng một mạch, chỉ sợ chậm chân một khắc sẽ không nhịn cười nổi nữa. Cái gì mà nhiều lời với không nhiều lời? Trong Hoàng thành này, ngoài Vạn tuế gia người ra, còn có kẻ thứ hai làm ra được cái bánh bao xấu xí thế này sao?

Đã lâu lắm rồi, Tô Trường Tín không nhìn thấy dáng vẻ hào hứng của Vạn tuế gia. Mỗi ngày người đều cười cợt trêu đùa với các phi tần, nhưng Tô Trường Tín hiểu, trong những nụ cười đó chẳng có bao nhiêu phần vui vẻ. Từ sau khi Hiền phi qua đời, Lê thị sụp đổ, Trịnh thị suy tàn, suốt mấy năm nay, đây là lần đầu tiên Tô Trường Tín lại được nhìn thấy nụ cười đơn thuần cùng với ánh mắt lấp lánh niềm vui của Vạn tuế gia.

Tô Trường Tín bất giác hoảng sợ. Hộp bánh trên tay chợt hóa thành gánh nặng ngàn cân.

Vạn tuế gia của ông lại có thể đích thân làm bánh cho một nữ tử?

Mà nữ tử này lại là vị Hòa phi nương nương dung mạo tầm thường ấy?

Tô Trường Tín nghĩ thế nào cũng không hiểu nổi. Hòa phi thực ra có điểm nào tốt mà Vạn tuế gia lại để tâm như vậy? Nàng ta không có dung nhan động lòng người, cũng không có tài nghệ gì nổi trội, ngay cả thân phận công chúa cao quý cũng là hữu danh vô thực mà thôi. Người như vậy vốn không thể mang lại bất kì lợi ích nào cho Vạn tuế gia. Vạn tuế gia xưa nay ghét nhất là những kẻ vô dụng, vì sao lại có lòng với Hòa phi đến thế?

Tô Trường Tín ôm nỗi băn khoăn ấy trong lòng, khi ông đến Cẩm Tước cung thì vị Hòa phi nương nương kia vẫn còn đang ngủ nướng. Giờ này, e rằng phi tần nào cũng đang tất bật lựa chọn phấn son, trang sức sao cho nổi bật nhất vào dạ yến giao thừa… Vậy mà Hòa phi lại thản nhiên nằm ngủ. Nghĩ lại, Hòa phi cũng chưa từng cầu kiến Vạn tuế gia bao giờ. Ngoại trừ lần duy nhất bị Lý Thọ lừa đến Ngự thư phòng lúc trước, Hòa phi chưa bao giờ chủ động tìm Vạn tuế gia. Món quà duy nhất nàng dâng lên Vạn tuế gia cũng là do tình thế cấp bách, không thể làm khác. Về sau, Vạn tuế gia muốn nàng làm tặng túi thơm khác thì mỗi ngày đều phải cho Lý Thọ đi đốc thúc mới được. Phi tử như thế, Tô Trường Tín chưa thấy người thứ hai.

Tô Trường Tín tự hỏi, phải chăng tính cách an nhiên tự tại, không tranh không đoạt ấy là điều Vạn tuế gia yêu thích?

Tô Trường Tín trao lại hộp bánh cho vị Hòa phi vẫn còn đang ngái ngủ kia mà lòng cứ chùng xuống. Nữ tử lạnh nhạt vô tâm thế này, liệu có hiểu được tấm lòng của Vạn tuế gia hay không?

Về phần vị Hòa phi kia, khi nhận hộp bánh từ tay Tô Trường Tín, nàng vẫn còn buồn ngủ lắm. Thế nhưng, khi nắp hộp mở ra, ánh mắt đương đờ đẫn vì ngái ngủ của nàng lập tức trở nên linh động. Tô Trường Tín thấy thế vội vàng nói ngay:

“Hoàng Thượng chỉ sai lão nô mang cái này đến cho nương nương, những chuyện còn lại lão nô không biết gì cả.”

Hòa phi ngơ ngẩn nhìn cái bánh bao méo mó có hình mặt cười toe toét kia một lúc, chợt nở nụ cười:

“Đa tạ Tô Tổng quản. Bản cung hiểu rồi.”

Thời khắc ấy, Tô Trường Tín bỗng nhận ra vị Hòa phi dung mạo bình thường này hóa ra lại có một nụ cười ngọt ngào đến thế.

Lăn lộn nơi Hậu cung đã mấy mươi năm, Tô Trường Tín luôn rất đa nghi, nhưng không hiểu sao ông lại cảm thấy mình có thể tin tưởng vào lời nói của nàng. Ông tin rằng nàng hiểu.

Nàng nhất định hiểu.

***

Thực ra, Vạn tuế gia rất ghét yến tiệc. Mỗi khi tiệc tan trở về, lúc mà chỉ còn Tô Trường Tín bên cạnh, sắc mặt người sẽ trở nên tối tăm, chuyện nhỏ nhặt gì cũng có thể khiến người cáu gắt. Vậy mà hôm nay, chỉ vì một nụ cười cùng mấy tiếng “bản cung hiểu rồi” nghe từ miệng Tô Trường Tín thuật lại, Vạn tuế gia chẳng còn cáu gắt chút nào.

Theo lệ thì sau dạ yến giao thưà, Vạn tuế gia phải nghỉ lại ở Triêu Lan cung. Nhưng dạo gần đây, Hoàng Hậu quản lý Hậu cung thực sự không được tốt. Tô Trường Tín trộm đoán, có lẽ Vạn tuế gia muốn cảnh cáo Hoàng Hậu, cho nên đêm nay người không đến Triêu Lan cung mà trở về Noãn các một mình.

Tô Trường Tín có vô số điều thắc mắc, nhưng cuối cùng lại không dám mở lời. Chỉ là ông quên mất, bản thân ông hiểu Vạn tuế gia bao nhiêu thì người cũng hiểu ông ngần ấy. Sự băn khoăn được che giấu kĩ lưỡng của Tô Trường Tín không qua được mắt Vạn tuế gia. Người vỗ vai ông, cười hỏi:

“Lão Tô, muốn nói gì thì cứ nói đi. Trẫm không phải đã ban kim bài miễn tử cho ông rồi sao? Không chết được đâu.”

Đã không giấu nổi, chi bằng cứ nói thẳng ra vậy. Tô Trường Tín cười khổ, cố lựa lời sao cho khỏi chọc giận Vạn tuế gia của ông:

“Bẩm Hoàng Thượng… Lão nô vừa nhớ ra là… Từ khi lập đông đến nay, Hoàng Thượng chưa lật thẻ bài của Hòa phi nương nương lần nào…”

Tô Trường Tín biết Vạn tuế gia của ông ghét nhất là người khác xen vào chuyện Hậu cung. Khi nói ra lời này, ông cũng đã chuẩn bị nhận phạt, chẳng ngờ Vạn tuế gia không hề nổi giận. Người bình thản đáp:

“Trẫm sợ lạnh, ông cũng biết mà.”

Vạn tuế gia sợ lạnh, cho nên vào mùa đông người luôn triệu phi tần đến Noãn các chứ không tự mình đến tẩm cung của ai cả. Nhưng như vậy thì gọi Hòa phi đến tiếp kiến như những phi tần kia cũng được mà?

Tô Trường Tín chẹp lưỡi, chưa biết nói tiếp thế nào thì Vạn tuế gia đã như đọc được suy nghĩ của ông. Người khẽ nhún vai:

“Đường xá trơn trợt.”

Bởi vì trời lạnh đường trơn, cho nên không muốn gọi Hòa phi đến ư?

Vạn tuế gia từ lúc nào lại lo nghĩ cho người khác nhiều đến thế?

Tô Trường Tín khẽ lắc đầu. Ông cảm thấy mình đã già rồi. Tâm tình của Vạn tuế gia, ông không hiểu nổi nữa.

Sủng ái cũng Vạn tuế gia đối với Hòa phi thực sự rất mập mờ.

Nói người sủng Hòa phi cũng không đúng lắm. Người đối đãi với nàng không tệ, nhưng cũng không có điểm nào hơn những phi tần khác. Bổng lộc, ban thưởng đều đúng với cung quy, không thiếu nhưng cũng không thừa. Thậm chí thẻ bài của Hòa phi, người cũng chỉ thỉnh thoảng mới lật một lần. Biết Thục phi và Đức phi chèn ép nàng, người để mắt nhưng chẳng can thiệp.

Nhưng nói người không sủng Hòa phi thì lại càng không phải. Kẻ khác có thể không biết, nhưng Tô Trường Tín là người thân cận nhất của Vạn tuế gia. Từng hành vi cử chỉ của người ông đều nhìn rõ. Còn nhớ đêm hôm nào, Hòa phi vì bảo vệ một Thái y vô danh mà ngất xỉu trước Thái Y viện, Vạn tuế gia chẳng ngại trời mưa tầm tã, đích thân đến tận nơi đưa nàng về Noãn các chăm sóc. Lại nhớ một đêm khác, Vạn tuế gia đọc tấu chương đến nhức buốt cả đầu nhưng vừa nghe tin Hòa phi bị Đức phi tố tội, người liền đi một mạch đến Vị Tú hiên khỉ ho cò gáy. Làm như thế không phải vì muốn che chở cho nàng ư? Còn cái lần Hòa phi bị kẻ khác mưu hại thả rắn vào chăn, Vạn tuế gia biết tin nhưng vì sớm hôm sau còn phải thiết triều nên không đi thăm nàng được. Đêm đó không biết Vạn tuế gia đã trở mình biết bao nhiêu lần. Buổi sáng ngày hôm sau, Vạn tuế gia vừa bãi triều liền đi thẳng đến Cẩm Tước cung. Khi ấy Hòa phi còn mê man bất tỉnh, người đã cầm tay nàng, yên lặng ngồi bên cạnh hơn một canh giờ. Nếu không phải có đại thần cầu kiến, có lẽ người sẽ ngồi đó đến khi Hòa phi tỉnh lại mới thôi.

Đã rất lâu rồi, Vạn tuế gia không sủng hạnh Hòa phi. Những kẻ không hiểu chuyện ở Kính sự phòng đã bắt đầu phao tin Vạn tuế gia không còn yêu thích Hòa phi nữa. Tô Trường Tín chỉ biết, chính nhờ không được sủng hạnh mà Hòa phi không phải uống chén canh “an thai” kia, mà món canh ấy đối với nữ nhân chẳng phải thứ tốt đẹp gì.

Tô Trường Tín là kẻ lão luyện. Từ lâu ông đã lờ mờ nhận ra Vạn tuế gia vẫn luôn âm thầm che chở Hòa phi. Thứ tình cảm của người dành cho Hòa phi chẳng rõ tự bao giờ đã không còn giống với loại sủng ái thông thường.

Thứ tình cảm ấy, Tô Trường Tín không dám gọi tên, càng không dám tin nó là sự thật.

Chỉ là hôm nay, tận mắt nhìn thấy Vạn tuế gia vui vẻ làm bánh bao tặng Hòa phi, Tô Trường Tín có muốn không tin cũng không được nữa.

Phía bên kia, Vạn tuế gia sau một ngày mệt mỏi đã ngủ thiếp đi. Hôm nay, tâm trạng của người tốt cho nên nét mặt khi ngủ cũng rất thanh bình.

Tô Trường Tín thở dài thườn thượt, bao nhiêu nỗi lo lắng mới lại ập đến. Biết rằng lời này nói ra sẽ là phạm nghịch, nhưng ông thực lòng quan tâm Vạn tuế gia như người thân ruột thịt của mình. Biết được trên đời này có một nữ tử có thể khiến Vạn tuế gia nở nụ cười hạnh phúc đơn thuần, ông vui mừng lắm chứ. Nhưng cạnh bên niềm vui ấy vẫn tồn tại vô số nỗi lo sợ. Nữ tử ấy liệu có thật lòng đối với Vạn tuế gia hay không? Nàng thân cô thế cô, yếu đuối như thế, liệu có thể tồn tại bao lâu trong chốn Hậu cung hiểm ác này?

Vạn tuế gia quan tâm nàng như vậy, nếu chẳng may nàng không còn nữa, vậy thì người chắc chắn sẽ đau lòng lắm.

Tô Trường Tín ông biết phải làm sao?

Người già thường hay thích thở dài.

Tô Trường Tín cũng thế. Ông thở dài thêm mấy cái nữa, rồi quyết định ngả lưng ở chiếc sạp gỗ nơi gian ngoài, canh giấc cho Vạn tuế gia.

***

Hoàng thành sau thời điểm giao thừa náo nhiệt cũng dần dần chìm vào giấc ngủ.

Chỉ còn một gian phòng nơi chính điện Cẩm Tước cung là vẫn sáng ánh đèn.

Ngọc Nga ngáp dài một tiếng, nhẹ nhàng phủ thêm lên vai nữ tử đương ngồi chống cằm bên chiếc bàn trà nhỏ.

“Chủ nhân, mau ngủ đi thôi. Trời sáng sắp sáng mất rồi. Người cứ hắt xì suốt, không khéo bệnh rồi cũng nên…”

Chu Đan Nguyệt sau khi hắt xì đến lần thứ hai mươi thì mũi đã đỏ như quả cà chua. Nàng nhăn mặt, vừa lau mũi vừa lẩm bẩm:

“Tên chết tiệt nào nói xấu ta mãi thế không biết…”

Nói đoạn, vươn vai một cái nhưng rõ ràng là không hề có ý định đi ngủ.

Ngọc Nga nhíu mày, kéo kéo tay nàng:

“Chủ nhân, đừng thức nữa… Người còn muốn ngồi nhìn cái bánh bao kì cục này đến bao giờ”

Chu Đan Nguyệt phì cười, nhìn lại cái bánh bao này đúng là kì cục thật. Vừa to đùng, vừa méo mó, lại còn có một cái hình mặt cười vẽ nguệch ngoạc bên trên, chắc chắn là không ăn được. Bánh như vậy mà cũng dám mang cho người khác, còn tỏ ra thần bí, chẳng biết trong đầu hắn nghĩ cái gì.

Nếu Ngọc Nga mà biết được suy nghĩ của nàng thì nhất định sẽ bĩu môi nói: “Cái bánh kì cục như vậy mà người ngồi nhìn suốt cả ngày, nô tì mới không biết trong đầu người nghĩ cái gì.”

Đáng tiếc, Ngọc Nga không đọc được suy nghĩ của người khác, chỉ có thể dai dẳng bám lấy nàng, kêu réo không ngừng:

“Chủ nhân, đừng nhìn nữa, ngủ thôi…”

“Ta chưa buồn ngủ.”

“Chủ nhân, ngủ đi mà… Ngày mai nhìn tiếp cũng được mà…”

“Đừng kéo ta…”

“Chủ nhân, ngủ…”

Chính điện Cẩm Tước cung đêm hôm đó, hình như rất lâu sau cũng chưa thấy tắt đèn.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 55



Khi thánh giá lề mề đến được hành cung Thanh An thì trời cũng đã xế chiều. Lý Thọ vì chuyện sắp xếp chỗ ở của đoàn bồi giá mà mệt bở hơi tai. Có lẽ hắn bận rộn quá mức cho nên thay vì sắp xếp cho ta một chỗ riêng, Lý Thọ lại xếp ta ở luôn trong điện Khai Dương của Hoàng Đế. Được ở chung một chỗ với Hoàng Đế là việc vinh hạnh đến mức nào, người khác muốn còn không được. Ta vì vậy chẳng dám phàn nàn gì cả. Về phần vị Tô tiểu thư kia, Lý Thọ đặc biệt chuẩn bị cho nàng ta một gian phòng ở Quỳnh Hoa các – nơi xa xôi cách biệt nhất trong hành cung Thanh An, lại cắt cử mười cung nữ cẩn thận trông coi, chỉ đợi Cẩm y vệ về kinh thành xác nhận với Tô phủ xong thì lập tức tống khứ đi ngay.

Thực ra, Lý Thọ không phải không có lý. Tô Nhược hình như cảm thấy bản thân chưa đủ khả nghi, từ lúc đến hành cung cứ luôn miệng xin được đi gặp Hoàng Đế tạ ơn thế này thế nọ. Lời lẽ của nàng ta thống thiết đến nỗi đám cung nữ không biết làm sao. Bọn họ đều là người hầu hạ ở hành cung bao năm nay, không hiểu thế sự, thấy ta được Hoàng Đế mang theo đến đây, lại còn được Lý Thọ xếp cho ở ngay tại điện Khai Dương liền cho rằng ta là sủng phi quyền thế lắm lắm, chuyện gì cũng kéo ba bốn người đến hỏi ý ta.

“Nương nương, Tô tiểu thư đó nên sắp xếp thế nào ạ?”

“Nương nương, y phục vật dụng của nàng ta thì sao?”

“Nương nương, Tô tiểu thư cứ luôn miệng đòi gặp Hoàng Thượng, phải làm thế nào ạ?”

Cứ tưởng không có Tiểu Phúc Tử bên cạnh thì hai lỗ tai của ta sẽ được yên thân. Những chuyện rắc rối này đáng lẽ ra phải đem đến làm phiền Lý Thọ chứ? Sao lại đổ hết lên đầu ta thế này?

Ở hành cung ít quy tắc hơn, mà vị Huyên Thái phi chưởng quản nơi này nghe nói cũng khá dễ tính nên đám cung nữ cứ nhao nhao kẻ mách chuyện này, người kể chuyện kia ồn ào không thể tả. Ngọc Nga đã khó chịu lắm rồi, nàng hắng giọng:

“Các vị cô nương xin đừng nóng vội, có gì từ từ nói. Chủ nhân đi đường xa cũng mệt mỏi rồi, ồn ào quá thật không hay.”

Đám cung nữ kia không rõ Ngọc Nga là ai nhưng thấy nàng thân cận với ta nên cũng tỏ ra kính nể. Nàng vừa nói dứt câu, ai nấy đều đã yên lặng đứng ngay ngắn một chỗ.

Không có Lý Thọ ở đây, ta biết mình không ra mặt cũng không xong. Để bọn họ ầm ĩ lỡ như kinh động đến Hoàng Đế, hắn lại nổi cơn chém hết cả đám thì khổ. Ta thở dài trong lòng, nhẹ nhàng nói:

“Chỗ Tô tiểu thư, các ngươi chăm lo cho nàng chu đáo cẩn thận là được. Nhưng nhớ không được để nàng ra khỏi Quỳnh Hoa các. Bây giờ Hoàng Thượng đã nghỉ rồi, các ngươi nói với nàng, thành ý của nàng, ta sẽ bẩm báo lại với Hoàng Thượng sau. Nếu Hoàng Thượng muốn gặp tất sẽ triệu kiến.”

Những lời ta nói đều là chí công vô tư. Không để Tô Nhược ra khỏi Quỳnh Hoa các là ý của Lý Thọ. Hoàng Đế ngủ rồi cũng là chuyện thật. Thành ý của Tô Nhược ta đương nhiên cũng sẽ nói lại với Hoàng Đế. Ấy thế mà đám cung nữ kia nghe xong, mặt người nào cũng lộ vẻ ám muội. Một cung nữ trông có vẻ lanh lợi nhất trong đám vội bước đến trước mặt ta, cười đầy ẩn ý:

“Nô tỳ hiểu rồi. Nương nương yên tâm! Chúng nô tỳ nhất định trông chừng Tô tiểu thư cẩn thận, tuyệt đối không để nàng có cơ hội làm phiền đến Thánh nhan…”

Đến đây thì ta biết bọn họ nghĩ cái gì rồi, nhưng chẳng dư hơi sức mà biện giải, chỉ phẩy tay:

“Tốt lắm. Nếu không còn việc gì, các ngươi trở về được rồi.”

Ta đã nói đến vậy mà đám cung nữ này vẫn chẳng mảy may nhận ra điều gì, còn xúm vào nịnh hót thêm một lúc lâu. Mấy năm rồi mới được nịnh bợ “sủng phi” nên khi rời đi ai nấy đều vui vẻ ra mặt. Ngọc Nga nhíu mày nhìn theo bóng bọn họ, lẩm bẩm:

“Làm cung nữ ở hành cung có gì không tốt chứ? Vì sao lại muốn đến Hoàng cung như vậy?”

“Cung nữ ở Hoàng cung lương bổng cao hơn, ban thưởng nhiều hơn mà tiến thân cũng dễ dàng hơn.”

Khó trách bọn họ lại nồng nhiệt với ta như vậy, chẳng qua cũng chỉ là mong muốn làm ta vừa ý, biết đâu sẽ được ta mang về Hoàng cung.

Ngọc Nga khẽ cười:

“Nô tỳ lại thấy ở đây tốt hơn biết bao nhiêu.”

Ta cũng cười theo:

“Nếu ngươi thích nơi này, vậy chúng ta hãy cùng nhau cố gắng. Mấy chục năm nữa, biết đâu chúng ta cũng sẽ được sống ở đây.”

Ngọc Nga gật gù, chợt nói:

“Ngồi xe ngựa cả ngày hẳn cũng mệt rồi, hay để nô tỳ đỡ chủ nhân vào nghỉ một chút?”

Phòng nghỉ phía sau điện Khải Dương có đến hai gian lớn, Hoàng Đế đang ngủ ở gian trong, nếu muốn ta vẫn có thể nghỉ tạm ở gian ngoài, không lo phiền nhiễu đến hắn. Nhưng cả ngày đã ngủ lơ mơ trên xe, bây giờ ta cũng không ngủ nổi nữa, bèn vịn tay Ngọc Nga đứng dậy:

“Ta không buồn ngủ. Ra ngoài hóng gió một chút đã.”

Ngoài điện Khải Dương có một hồ cá phượng hoàng ngũ sắc nho nhỏ. Cạnh bên là một cây dương liễu cao to, cành lá xanh rì buông nghiêng xuống mặt hồ dịu mát. Ở Ngự hoa viên cũng có một hồ cá ngũ sắc, so với hồ này còn lớn và đẹp hơn rất nhiều, nhưng cũng vì cảnh sắc hữu tình mà nơi đó thường có nhiều phi tử lui tới. Ta sợ nhất là đụng chạm người khác nên chẳng bao giờ dám bén mảng tới chơi. Hôm nay nhìn thấy cái hồ cá này, ta đương nhiên không thể bỏ qua cơ hội ngắm nhìn cho thỏa mắt.

Ta và Ngọc Nga vừa đến ngồi bên hồ chưa đến một khắc thì Thái Hương, trưởng cung nữ quản lý điện Khai Dương đã xuất hiện. Nàng bưng một khay gỗ nhỏ, bên trên có một cái chén sứ dâng đến, lễ phép nói:

“Bẩm nương nương, đàn cá này rất háu ăn, mỗi lần được cho ăn đều linh động, đáng yêu hẳn lên. Không biết nương nương có muốn xem thử không ạ?”

“Vậy sao?”

Lòng hiếu kì nổi lên, ta nhẹ nhàng bốc lấy một nhúm hạt thức ăn cho cá trong chén, vung tay thảy xuống hồ. Quả nhiên, Thái Hương nói không sai, hạt thức ăn vừa chạm nước liền có một đám cá bơi đến tranh nhau đớp lấy liên hồi. Mặt nước trong thoáng chốc đã bị cá bơi quẫy sủi tung bọt trắng. Đúng là sinh động hơn trước rất nhiều. Ta thấy Ngọc Nga đương lơ đễnh bèn bốc thêm một nhúm hạt nữa thảy qua phía mé nước chỗ Ngọc Nga đang đứng, đàn cá ngay lập tức đổi hướng, xô đẩy nhau bơi qua bên đó khiến cho bọt nước văng cả lên người nàng. Ngọc Nga giật mình chới với, may mà ta kịp thời túm lấy thắt lưng nàng kéo lại không thì đã rơi cả xuống hồ. Nhìn nàng luống cuống phủi nước lấm tấm dính trên y phục, muốn trách móc mà lại không dám, ta không nhịn được phải cười lên mấy tiếng. Ngọc Nga bị ta trêu, vừa tức vừa buồn cười, làm mặt nghiêm một lát rồi cũng phải cười theo.

Thái Hương thấy bọn ta vui vẻ thì cũng nở nụ cười. Nàng đặt khay gỗ tảng đá cạnh chỗ ta ngồi, bước đến gần bờ hồ, thong thả nói:

“Nô tỳ từng nghe, năm xưa Tiên đế có lần trúng phong hàn mãi không khỏi. Đột nhiên một đêm nọ ngài chiêm bao thấy Quan Thế Âm Bồ Tát hiện thân trên đỉnh Khai Dương điện, tay cầm dương liễu mộc rải nước cam lộ xuống mặt đất. Khi tỉnh dậy thì bệnh đột nhiên khỏi hẳn. Tiên đế cho rằng đấy là điềm lành, bèn cho người đào một cái hồ, dựa theo bình cam lộ của Bồ Tát mà đặt tên là Tịnh hồ, bên cạnh trồng thêm một cây dương liễu. Từ đó đến nay có lẽ cũng hơn hai mươi năm rồi.”

Thái Hương làm cung nữ ở hành cung từ nhỏ, tính tình trầm lặng hơn những người khác. Ban chiều khi mới chuyển vào điện Khai Dương, ta thấy nàng chu đáo mà kiệm lời, cũng sinh thiện cảm. Lúc này, nàng lại chủ động kể chuyện xưa cho ta nghe, ta quyết định nói nhiều với nàng vài câu:

“Thái Hương cô nương ở đây lâu ngày, đúng là hiểu biết nhiều hơn kẻ khác. Thời gian ta lưu lại hành cung… xem ra còn phải nhờ cô nương chiếu cố nhiều.”

Thái Hương nghe vậy, vội vàng lắc đầu, khiêm nhường đáp:

“Nô tỳ không dám. Nương nương có điều gì xin cứ sai bảo, nô tỳ tất sẽ cố hết sức mình.”

Ta mỉm cười, chợt nghĩ đến mấy vị tiền bối ở đây, bèn lựa lời hỏi:

“Nghe nói gia yến tối mai sẽ tổ chức ở Thủy Nguyên đình, chẳng hay theo ý của Thái Hương cô nương, có điều gì ta cần chú ý không?”

Vốn dĩ Hoàng Đế và ta là hậu bối, nếu đến hành cung thì theo lý phải chào hỏi các Thái phi, Thái tần một tiếng mới phải đạo. Chỉ là ai cũng biết sức khỏe Hoàng Đế không tốt, mà tính tình hắn lại càng không tốt hơn. Hắn đi đường đã đủ mệt mỏi rồi, ai to gan dám bắt bẻ hắn chuyện thỉnh an? Gia yến ngày mai chẳng qua cũng là Lý Thọ lo xa bày ra để sau này đám Ngôn quan, Lễ bộ trong triều khỏi tìm cớ dèm pha mà thôi. Nhưng dù nói gì đi nữa, hắn là Hoàng Đế đương nhiên không sợ bị người khác bắt bẻ, còn ta đâu có cái diễm phúc ấy. Các vị Thái phi, Thái tần ở đây tuy không còn tiếng nói trong Hậu cung nhưng dẫu sao cũng vẫn là tiền bối, xuất thân cao quý vẫn còn đó. Ta không thể thất lễ với bọn họ được. Nhân dịp này thăm dò một chút vậy.

Thái Hương cúi đầu nghĩ ngợi một chút rồi đáp:

“Ở đây khi trước vốn dĩ có bốn vị Thái phi và một vị Thái tần. Nhưng Trầm Thái phi tuổi cao đã cưỡi hạc quy tiên hai năm trước cho nên bây giờ chỉ còn có Huyên Thái phi, Cao Thái phi và Lục Thái phi thôi. Các Thái phi nương nương thường ngày chỉ thích làm bạn với hoa cỏ hoặc ngâm thơ, thưởng trà ở Dao Quang các, rất ít khi ra ngoài.”

Thích hoa cỏ, ngâm thơ, thưởng trà? Vậy tức là tính tình cũng không đến nỗi khó khăn lắm nhỉ?

Khi trước Tạ Thu Dung từng có lần mang đến cho ta cả một chồng sách sử nhưng ta lười nhác, chỉ đọc qua loa đôi ba quyển nói về thời đại của Tiên đế để tránh phạm húy mà thôi. Bây giờ vặn óc nhớ lại, ngoại trừ Huyên Thái phi có được nhắc tới vài câu thì mấy vị kia cũng chỉ được ghi tên cho có, hẳn là không có gì nổi bật.

Theo trí nhớ của ta, Huyên Thái phi khuê danh là Hà Tư Huyên. Bà là muội muội ruột của Huệ Từ Thái Hậu nhưng mẫu thân bà xuất thân không tốt nên thân phận bà cũng thua kém Thái Hậu rất nhiều. Nghe nói, bà nhập cung sau Thái Hậu mười năm. Khi ấy, Thái Hậu đã làm đến chức Hiền phi. Vì hai người cùng họ, để tránh phạm đến Hà Hiền phi khi ấy, Tiên đế cho bà lấy tên để dùng chung với phong hiệu, gọi là Huyên Quý nhân.

Tạ Ngự sử từng có ý định đưa Tạ Thu Dung tiến cung nên những việc trong chốn cung cấm đều cố gắng kể lại tường tận với nàng. Ta nhờ vậy mà được nàng kể lại kha khá chuyện thú vị. Ví như vị Huyên Thái phi kia, nghe nói tính bà mềm yếu, rất sợ Thái Hậu, bất luận việc lớn nhỏ gì cũng không dám trái lời. Lại có lời đồn, Thái Hậu e ngại muội muội xinh đẹp trẻ trung sẽ lấn lướt mình nên thường tìm cách ngăn trở sủng ái của Tiên Đế, khiến cho Huyên Quý nhân mười năm ròng rã cũng chẳng thăng nổi một phân, một vị. Người thời đó đều cho rằng Tiên Đế băng hà rồi, số phận Hà Tư Huyên rồi sẽ đi vào ngõ cụt như những phi tần không con cái khác. Ngờ đâu Thái Hậu đột nhiên thăng bà lên làm Thái phi, còn cho đến hành cung Thanh An dưỡng già. Lúc này, những sủng phi năm xưa chẳng còn một ai, mà Huyên Quý nhân nhu nhược năm nào lại ung dung chưởng quản hành cung đẹp đẽ này, ngay cả Đế Hậu gặp bà cũng phải cúi đầu chào một tiếng “Huyên nương nương”.

Nghĩ đến đây, ta không khỏi cảm khái: Bây giờ chúng phi ngày ngày, giờ giờ đều tranh đấu sứt đầu mẻ trán, nhưng rốt cuộc ai mới là kẻ khôn ngoan thực sự, ai mới là kẻ nở nụ cười sau cùng, có lẽ phải đợi mấy chục năm sau nữa mới biết được rõ ràng.

Thái Hương đã nói như vậy, ta nghĩ mình cũng có thể yên tâm rồi.

Ta mỉm cười, gật đầu với Thái Hương:

“Bản cung hiểu rồi. Đa tạ cô nương. À, không phải vẫn còn một vị Thái tần hay sao? Sao không nghe cô nương nhắc tới?”

Ta chỉ thuận miệng hỏi tiếp, không ngờ Thái Hương lại lộ vẻ bối rối. Nàng gượng gạo đáp:

“Hạ Thái tần… Sức khỏe của người không tốt… bình thường không rời phòng nửa bước, gia yến ngày mai chắc cũng không tham gia được. Nương nương không cần bận tâm…”

Thái Hương nói nửa chừng, ta còn chưa kịp đáp lại thì bỗng nhiên từ đằng xa vọng lại tiếng người la hét ồn ào cùng với tiếng bước chân thùm thụp.

“Thái tần nương nương… Thái tần nương nương… đừng có chạy nữa…”

Tâm điểm của trận náo loạn này chẳng ai khác ngoài vị Hạ Thái tần vừa được nhắc đến.

Hạ Thái tần có lẽ đã gần bốn mươi. Bà mặc một bộ váy dài lem luốc bùn đất, tóc tai rũ rượi, một tay túm gấu váy, một tay xách giày, vừa chạy vừa la:

“Ta phải đi gặp Hoàng Thượng! Các ngươi đừng hòng chia cắt ta và Hoàng Thượng!”

Mấy cung nữ đuổi theo ở phía sau dường như đã quen với cảnh đuổi bắt này. Bọn họ nhanh chóng chạy tỏa ra các hướng, vây lấy Hạ Thái tần từ xa rồi dần dần áp sát lại. Hạ Thái tần bị vây kín, càng kích động hơn. Bà vung tay đấm đá tán loạn, trong nháy mắt đã có mấy cung nữ bị bà đấm chảy cả máu mũi. Cung nữ lớn tuổi nhất thuận thế tung ra một tấm lưới lớn, những người còn lại liền túm góc lưới giơ cao lên chụp lấy Hạ Thái tần. Bọn họ hành động nhanh như cắt, chỉ trong nháy mắt, Hạ Thái tần đã bị gói lại như bao tải gạo. Bấy giờ, bọn họ đều thở phào nhẹ nhõm. Người cung nữ lớn tuổi kia lúc này mới nhận ra sự hiện diện của mấy người chúng ta ngay cạnh đó, bèn vội vã chắp tay thưa:

“Bẩm nương nương, chúng nô tỳ sơ xuất để Hạ Thái tần chạy ra ngoài… Xin nương nương thứ tội…”

Cảnh tượng vừa diễn ra quá mức ngoạn mục. Ta nhất thời cứng họng, chẳng nói được gì, chỉ có thể quay sang nhìn Thái Hương. Đáng tiếc, Thái Hương cũng xám mặt, miệng mấp máy mãi mà chẳng thốt lên được một lời giải thích nào. Đương lúc ta và Thái Hương trân trối nhìn nhau, chợt bên phía Hạ Thái tần vang lên một tiếng thét chói tai. Chúng ta hoảng hồn nhìn lại, thì ra là Hạ Thái tần không biết bằng cách nào đã chui được đầu ra khỏi lưới, đang cắn chặt bắp tay của một tiểu cung nữ xui xẻo đứng gần nhất. Cung nữ kia đau quá, dùng hết sức lực hất mạnh, những người còn lại không kịp phản ứng, thế là Hạ Thái tần bị hất văng như một bao gạo, lao như bay về phía ta.

Một tiếng ùm thật lớn vang lên, cả ta lẫn Hạ Thái tần đã hạ cánh thẳng xuống hồ.

“Hòa phi nương nương… Thái tần nương nương…”

“Chết rồi! Người đâu? Các ngươi mau đến giúp một tay…”

“Chủ nhân, chủ nhân không sao chứ? Chủ nhân…”

Tịnh hồ cảnh sắc hữu tình ban nãy trong nháy mắt đã hóa thành cảnh tượng gà bay chó sủa.

Hồ này bản chất không sâu, đứng thẳng người thì nước chỉ tới thắt lưng. May mà trong hồ không có hòn non bộ hay đá ngầm, ta bị xô xuống bất thình lình cũng chỉ sặc nước một chút. Hạ Thái tần vì bị gói kín trong lưới nên không đứng lên được, cứ thế chìm nghỉm. Ta cố kéo bà lên nhưng Hạ Thái tần vùng vẫy quá dữ dội, làm cho ta tuột tay ngã ngửa ra, còn bà thì lại chìm xuống đáy. Ở trên bờ, Ngọc Nga sốt ruột chịu không nổi cũng nhảy xuống đỡ lấy ta:

“Chủ nhân, có sao không? Mau lên bờ kẻo nhiễm lạnh…”

Ta bám vào vai nàng, cố đứng vững:

“Ta không sao. Mau giúp ta cứu Thái tần nương nương trước…”

Đám cung nữ kia bị dọa sợ đến ngây người, giờ mới sực tỉnh, vội vàng nhảy cả xuống cùng nhau vớt Hạ Thái tần.

Hạ Thái tần tuy đã sặc nước mấy lần nhưng vẫn còn chống cự rất dữ dội. Đáy hồ có một lớp bùn dày trơn trợt, cộng thêm lực cản của nước khiến cho việc di chuyển trở nên khó khăn. Đám cung nữ phải cố gắng lắm mới khiêng được bà lên bờ.

Nhìn thấy Hạ Thái tần lên bờ an toàn rồi, ta mới yên tâm cùng Ngọc Nga dìu nhau leo lên.

Miệng ta không ngờ còn xui xẻo hơn miệng của Bạch Diệu Hoa. Vừa nhắc tới Hạ Thái tần thì liền có Hạ Thái tần từ xa bay đến. Thường ngày nhắc ngân lượng mà cũng được như vậy thì tốt biết bao nhiêu.

Hạ Thái tần làm loạn một hồi xem chừng đã mệt, lên bờ chửi mắng thêm vài câu rồi lả đi, khiến cho không gian lập tức yên tĩnh trở lại. Cũng bởi vì yên tĩnh quá mà hóa thành căng thẳng.

Đám cung nữ của Hạ Thái tần chẳng ai bảo ai, đồng loại quỳ rạp xuống dập đầu lia lịa:

“Nương nương tha mạng!”

Cả mặt Thái Hương cũng xám ngoét không còn hạt máu. Nàng sợ hãi chẳng dám nhìn thẳng vào ta, giọng run run:

“Nương nương… Chuyện này… ý của nương nương…”

Ta cắn chặt răng, chỉ hận không thể hét ầm lên: Cái gì mà Thái tần sức khỏe không tốt? Rõ ràng là sức khỏe quá tốt! Nếu biết sức khỏe bà ấy tốt như vậy, ta đã ôm chặt lấy cây dương liễu đằng kia, chí ít thì cũng không bị nhấn nước oan uổng thế này.

Hít sâu một hơi, ta đưa tay lau nước hồ nhiễu đầy trên mặt, cố kềm giọng nói:

“Gần đây có chỗ nào nghỉ ngơi, thay y phục được không?”

Thái Hương chưa hiểu được ý ta, dè dặt đáp:

“Bẩm, có Thiên Hành các…”

Ta phẩy phẩy tay áo đẫm nước:

“Mau đưa Thái tần nương nương tới đó thay y phục, đừng kinh động đến Hoàng Thượng.”

Thái Hương nghe xong gật đầu lia lịa. Nàng chẳng ngần ngại cởi áo ngoài dâng lên cho ta khoác tạm tránh gió, rồi vội vàng đi trước dẫn đường.

Thiên Hành các nằm ngay cạnh Khai Dương điện. Cung nhân trông coi nơi này đột nhiên thấy một đoàn người ướt như chuột lột lũ lượt kéo đến, trong đám lại còn có một Thái tần “sức khỏe không tốt” bị quấn trong lưới khiêng đi và một “sủng phi” mới tới chưa biết tính khí ra sao, thành thử người nào cũng lộ vẻ lo sợ.

Trưởng cung nữ canh giữ Thiên Hành các đang ở phía trong lật đật chạy ra:

“Nô tỳ Thái Tuyết bái kiến Hòa phi nương nương, nương nương cát…”

Nói đoạn, có lẽ nhìn lại thấy bộ dạng mình mẩy ướt nhẹp, trên đầu còn dính cả rong rêu của ta thực sự không cát tường chút nào nên đành phải nuốt vào nửa câu sau.

Ngọc Nga thấy ta đã chịu lạnh hồi lâu, không muốn dông dài thêm bèn nói ngay:

“Thái tần nương nương và chủ nhân của ta không may ngã xuống nước, phiền Thái Tuyết cô nương chuẩn bị gấp nước nóng cùng y phục…”

Thái Tuyết vâng dạ, kéo thêm mấy người cùng nhau xắn tay áo đi làm ngay. Ta và Hạ Thái tần, mỗi người được đưa vào một gian phòng kín. Chẳng mấy chốc đã có người bưng vào bồn tắm, nước nóng cùng y phục sạch sẽ. Ngọc Nga muốn tự mình hầu ta tắm, nhưng ta biết nàng cũng bị ngấm lạnh rồi nên viện cớ có Thái Hương với mấy người ở Thiên Hành các giúp đỡ, kiên quyết đuổi nàng đi tắm rửa trước.

Độ nửa canh giờ sau, tắm gội thay y phục chỉnh tề rồi, ta mới cùng Thái Hương đi thăm Hạ Thái tần. Người này dù thế nào cũng là bậc tiền bối, tốt nhất là bà ấy đừng xảy ra chuyện gì, nếu không ta lại khó tránh phiền phức.

Hạ Thái tần tắm rửa xong đã tỉnh, đang ngồi trên giường càu nhàu gì đó. Nhìn kĩ mới thấy, dung mạo bà trông thực thảm thương. Tuy tuổi tác chưa gọi là quá cao nhưng hai mắt bà đã chằng chịt vết nhăn, quầng mắt thâm đen, hai gò má ngang dọc không biết bao nhiêu vết trầy xước, mái tóc gội sạch sẽ rồi mới thấy lộ rõ từng mảng da đầu trụi tóc trắng hếu. Nhìn bà như vậy, nỗi bực dọc vì bỗng nhiên bị xô xuống hồ trong lòng ta tự nhiên tiêu tan hết.

Thái Hương đứng cạnh ta, dè dặt nói:

“Ngày Tiên đế băng hà, Thái tần nương nương vì quá đau lòng mà phát bệnh điên dại, thần trí lúc nào cũng mơ hồ. Bà luôn cho rằng Tiên đế vẫn còn tại thế, luôn đòi gặp mặt ngài. Thỉnh thoảng, có lúc tỉnh ra thì lại gào khóc rất thương tâm, còn tự mình cào mặt, bứt tóc, muốn đi theo Tiên đế… Hôm nay, chắc Thái tần nương nương nghe nói có đoàn Ngự giá đến hành cung, tưởng rằng Tiên đế đến đón bà nên mới…”

Thái Hương thở dài, lòng ta cũng nặng nề theo. Không ngờ trong Hậu cung lại có nữ tử thâm tình như vậy.

“Để Thái tần nương nương nghỉ ngơi một chút cho ấm người rồi đưa bà về. Lát nữa bản cung sẽ về thỉnh cầu Hoàng Thượng cho Ngự y đến xem mạch giúp bà. Ngâm nước lâu, e là nhiễm lạnh rồi.”

Hạ Thái tần đương lẩm bẩm một mình, đột nhiên quay ngoắt đầu nhìn về phía ta và Thái Hương đứng ngoài ngưỡng cửa, hét lớn:

“A! Ra là ngươi! Con hồ ly tinh họ Trang này! Ngươi vẫn chưa chết sao? Rõ ràng là Hoàng Thượng muốn đến đón ta… Nhất định do ngươi ghen ghét nên mới đến ngăn cản, có phải không? Đám người này cũng do ngươi phái đến để chia rẽ ta và Hoàng Thượng…”

Đoạn, chực lao ra chỗ chúng ta, may mà có một cung nữ nhanh nhẹn ôm ngang người bà giữ lại. Những người khác cũng đồng loạt giữ chặt lấy bà, van xin:

“Thái Tần nương nương, xin đừng làm loạn nữa… Chúng nô tỳ cầu xin người…”

“Mau buông ta ra… Ả dám mê hoặc Hoàng Thượng của ta, ta phải dạy cho ả một bài học…”

Hạ Thái tần uống no một bụng nước hồ rồi mà giọng vẫn sang sảng điếc tai. Sức khỏe của bà đúng là tốt quá mức. Đã như thế, ta không còn gì phải lo lắng nữa.

Ta khẽ thở dài một tiếng, cúi người hướng về phía Hạ Thái tần:

“Thần thiếp Hòa phi Chu thị bái kiến Thái tần nương nương, nương nương vạn phúc.”

Nói xong liền quay người rời đi.

Đời này Hạ Thái tần đã đủ vất vả rồi, ta còn ở lại chọc giận bà làm chi?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 56: Ngoại truyện: Bánh Bao



Tô Trường Tín năm nay tròn năm mươi tuổi. Ông theo hầu Vạn tuế gia từ khi người mới lọt lòng, đến giờ cũng hơn mười tám năm rồi. Ông đã từng tự hào rằng mình là người hiểu Vạn tuế gia nhất. Thế mà hôm nay, khi tuổi già đã đuổi đến sát sau lưng, niềm tin bao năm ấy của ông lại bị lung lay. Tô Trường Tín chợt cảm thấy ông chẳng còn hiểu nổi Vạn Tuế gia nữa.

Hôm nay là ngày cuối cùng của tháng chạp, Vạn tuế gia không phải thiết triều. Thường thì những ngày rảnh rỗi như vậy, Vạn tuế gia đều ngủ nướng đến tận trưa ở tẩm cung của Thục phi hoặc một vị sủng phi nào đó. Sức khỏe của Vạn tuế gia từ nhỏ đã không tốt, dạo gần đây có lẽ vì chính sự căng thẳng nên càng tệ đi. Vì lẽ đó, Tô Trường Tín cảm thấy Vạn tuế gia có lười biếng một chút, ngủ nhiều một chút cũng là phải đạo. Thế mà hôm nay, người lại thức dậy rất sớm, còn điều động đám người Lý Thọ đi tìm bếp lò, xửng hấp, nồi niêu chén bát các thứ linh tinh mang đến gian phòng phía sau Noãn các. Gian phòng ấy là thế giới riêng của Vạn tuế gia. Bình thường, Vạn tuế gia thích ở trong đó một mình, đọc sách hoặc khắc gỗ, Tô Trường Tín biết cả. Nhưng nấu ăn ư? Ông chưa thấy bao giờ.

Cái ý nghĩ Vạn tuế gia nấu nướng bên bếp lò làm cho Tô Trường Tín rùng mình. Hình ảnh ấy còn đáng sợ hơn cả khi Vạn tuế gia nổi giận đùng đùng đòi chém người này người nọ. Tô Trường Tín lo lắm, nhưng Vạn tuế gia có đủ đồ nghề nấu bếp và nguyên liệu rồi thì đóng chặt cửa, chẳng cho ai vào cả. Tô Trường Tín không nhìn ngó được gì thì lại càng lo hơn. Đêm nay vẫn còn yến tiệc giao thừa, nếu Vạn tuế gia lại nghịch dại gì đó, hay tự làm mình bị thương thì ông biết phải làm sao đây?

Có lẽ ông trời cũng nghe được tiếng lòng thành tâm của Tô Trường Tín, sau hai canh giờ tỏ vẻ thần bí, Vạn tuế gia cuối cùng cũng chịu he hé cửa phòng:

“Lão Tô, vào đây…”

Tô Trường Tín mừng rỡ, nhưng vừa đặt chân vào phòng thì suýt chút lên cơn đau tim. Vạn tuế gia… người thực sự nấu ăn!

Nhìn gương mặt non nớt lem nhem vệt trắng vệt đen của Vạn tuế gia, Tô Trường Tín thở dài. Thì ra là Vạn tuế gia không biết nhóm bếp.

Trên đời có một số điều không thể học qua sách vở. Nhóm bếp chính là một trong số đó. Cũng may, mười năm làm Tổng quản Nội thị giám chưa đủ làm Tô Trường Tín quên đi cách nhóm bếp. Chỉ sau vài động tác đơn giản, ngọn lửa trong bếp lò liền cháy bùng lên. Vạn tuế gia hài lòng, vỗ vai ông mấy cái:

“Lão Tô, vẫn là ông lợi hại nhất.”

Nói đoạn, lại vui vẻ tiếp tục công việc còn dang dở.

Tô Trường Tín lén lút nhìn quanh, không chỗ nào là không có bột mì vương vãi. Vạn tuế gia của ông đang làm bánh bao.

Liếc mắt nhìn qua mấy cái bánh bao to tướng, méo mó đang được Vạn tuế gia cẩn thận xếp vào xửng hấp, Tô Trường Tín không khỏi đổ mồ hôi lạnh, chỉ mong người nấu xong đừng bắt ông ăn thử là phúc đức ba đời nhà ông rồi.

May mắn cho Tô Trường Tín, chẳng biết Vạn tuế gia nhà ông đọc những sách gì, làm bánh ra sao mà cuối cùng cái thì nứt bung cả nhân ra ngoài, cái thì teo tóp chẳng ra làm sao. Thành quả mấy canh giờ nghiêm túc nấu nướng của Vạn tuế gia cuối cùng chỉ còn lại một cái bánh bao duy nhất là nguyên vẹn.

Ấy thế mà Vạn tuế gia có vẻ vui lắm. Tô Trường Tín thấy người rón rén nhấc nó ra đĩa như sợ làm nó bị thương, sau lại chăm chú dùng màu gấc vẽ lên trên một cái mặt cười toe toét rồi mới cho vào hộp gỗ.

Giao cái hộp đựng bánh cho Tô Trường Tín, Vạn tuế gia ra lệnh:

“Đem tới cho Hòa phi. Nhớ không được nhiều lời đấy.”

Gương mặt Vạn tuế gia mỗi khi ra lệnh cho kẻ khác đều rất lạnh lùng đáng sợ, nhưng giờ đây mặt người dính đầy bột mì và muội than lem luốc… Tô Trường Tín cắn chặt răng, vội vàng nhận lấy hộp bánh đi thẳng một mạch, chỉ sợ chậm chân một khắc sẽ không nhịn cười nổi nữa. Cái gì mà nhiều lời với không nhiều lời? Trong Hoàng thành này, ngoài Vạn tuế gia người ra, còn có kẻ thứ hai làm ra được cái bánh bao xấu xí thế này sao?

Đã lâu lắm rồi, Tô Trường Tín không nhìn thấy dáng vẻ hào hứng của Vạn tuế gia. Mỗi ngày người đều cười cợt trêu đùa với các phi tần, nhưng Tô Trường Tín hiểu, trong những nụ cười đó chẳng có bao nhiêu phần vui vẻ. Từ sau khi Hiền phi qua đời, Lê thị sụp đổ, Trịnh thị suy tàn, suốt mấy năm nay, đây là lần đầu tiên Tô Trường Tín lại được nhìn thấy nụ cười đơn thuần cùng với ánh mắt lấp lánh niềm vui của Vạn tuế gia.

Tô Trường Tín bất giác hoảng sợ. Hộp bánh trên tay chợt hóa thành gánh nặng ngàn cân.

Vạn tuế gia của ông lại có thể đích thân làm bánh cho một nữ tử?

Mà nữ tử này lại là vị Hòa phi nương nương dung mạo tầm thường ấy?

Tô Trường Tín nghĩ thế nào cũng không hiểu nổi. Hòa phi thực ra có điểm nào tốt mà Vạn tuế gia lại để tâm như vậy? Nàng ta không có dung nhan động lòng người, cũng không có tài nghệ gì nổi trội, ngay cả thân phận công chúa cao quý cũng là hữu danh vô thực mà thôi. Người như vậy vốn không thể mang lại bất kì lợi ích nào cho Vạn tuế gia. Vạn tuế gia xưa nay ghét nhất là những kẻ vô dụng, vì sao lại có lòng với Hòa phi đến thế?

Tô Trường Tín ôm nỗi băn khoăn ấy trong lòng, khi ông đến Cẩm Tước cung thì vị Hòa phi nương nương kia vẫn còn đang ngủ nướng. Giờ này, e rằng phi tần nào cũng đang tất bật lựa chọn phấn son, trang sức sao cho nổi bật nhất vào dạ yến giao thừa… Vậy mà Hòa phi lại thản nhiên nằm ngủ. Nghĩ lại, Hòa phi cũng chưa từng cầu kiến Vạn tuế gia bao giờ. Ngoại trừ lần duy nhất bị Lý Thọ lừa đến Ngự thư phòng lúc trước, Hòa phi chưa bao giờ chủ động tìm Vạn tuế gia. Món quà duy nhất nàng dâng lên Vạn tuế gia cũng là do tình thế cấp bách, không thể làm khác. Về sau, Vạn tuế gia muốn nàng làm tặng túi thơm khác thì mỗi ngày đều phải cho Lý Thọ đi đốc thúc mới được. Phi tử như thế, Tô Trường Tín chưa thấy người thứ hai.

Tô Trường Tín tự hỏi, phải chăng tính cách an nhiên tự tại, không tranh không đoạt ấy là điều Vạn tuế gia yêu thích?

Tô Trường Tín trao lại hộp bánh cho vị Hòa phi vẫn còn đang ngái ngủ kia mà lòng cứ chùng xuống. Nữ tử lạnh nhạt vô tâm thế này, liệu có hiểu được tấm lòng của Vạn tuế gia hay không?

Về phần vị Hòa phi kia, khi nhận hộp bánh từ tay Tô Trường Tín, nàng vẫn còn buồn ngủ lắm. Thế nhưng, khi nắp hộp mở ra, ánh mắt đương đờ đẫn vì ngái ngủ của nàng lập tức trở nên linh động. Tô Trường Tín thấy thế vội vàng nói ngay:

“Hoàng Thượng chỉ sai lão nô mang cái này đến cho nương nương, những chuyện còn lại lão nô không biết gì cả.”

Hòa phi ngơ ngẩn nhìn cái bánh bao méo mó có hình mặt cười toe toét kia một lúc, chợt nở nụ cười:

“Đa tạ Tô Tổng quản. Bản cung hiểu rồi.”

Thời khắc ấy, Tô Trường Tín bỗng nhận ra vị Hòa phi dung mạo bình thường này hóa ra lại có một nụ cười ngọt ngào đến thế.

Lăn lộn nơi Hậu cung đã mấy mươi năm, Tô Trường Tín luôn rất đa nghi, nhưng không hiểu sao ông lại cảm thấy mình có thể tin tưởng vào lời nói của nàng. Ông tin rằng nàng hiểu.

Nàng nhất định hiểu.

***

Thực ra, Vạn tuế gia rất ghét yến tiệc. Mỗi khi tiệc tan trở về, lúc mà chỉ còn Tô Trường Tín bên cạnh, sắc mặt người sẽ trở nên tối tăm, chuyện nhỏ nhặt gì cũng có thể khiến người cáu gắt. Vậy mà hôm nay, chỉ vì một nụ cười cùng mấy tiếng “bản cung hiểu rồi” nghe từ miệng Tô Trường Tín thuật lại, Vạn tuế gia chẳng còn cáu gắt chút nào.

Theo lệ thì sau dạ yến giao thưà, Vạn tuế gia phải nghỉ lại ở Triêu Lan cung. Nhưng dạo gần đây, Hoàng Hậu quản lý Hậu cung thực sự không được tốt. Tô Trường Tín trộm đoán, có lẽ Vạn tuế gia muốn cảnh cáo Hoàng Hậu, cho nên đêm nay người không đến Triêu Lan cung mà trở về Noãn các một mình.

Tô Trường Tín có vô số điều thắc mắc, nhưng cuối cùng lại không dám mở lời. Chỉ là ông quên mất, bản thân ông hiểu Vạn tuế gia bao nhiêu thì người cũng hiểu ông ngần ấy. Sự băn khoăn được che giấu kĩ lưỡng của Tô Trường Tín không qua được mắt Vạn tuế gia. Người vỗ vai ông, cười hỏi:

“Lão Tô, muốn nói gì thì cứ nói đi. Trẫm không phải đã ban kim bài miễn tử cho ông rồi sao? Không chết được đâu.”

Đã không giấu nổi, chi bằng cứ nói thẳng ra vậy. Tô Trường Tín cười khổ, cố lựa lời sao cho khỏi chọc giận Vạn tuế gia của ông:

“Bẩm Hoàng Thượng… Lão nô vừa nhớ ra là… Từ khi lập đông đến nay, Hoàng Thượng chưa lật thẻ bài của Hòa phi nương nương lần nào…”

Tô Trường Tín biết Vạn tuế gia của ông ghét nhất là người khác xen vào chuyện Hậu cung. Khi nói ra lời này, ông cũng đã chuẩn bị nhận phạt, chẳng ngờ Vạn tuế gia không hề nổi giận. Người bình thản đáp:

“Trẫm sợ lạnh, ông cũng biết mà.”

Vạn tuế gia sợ lạnh, cho nên vào mùa đông người luôn triệu phi tần đến Noãn các chứ không tự mình đến tẩm cung của ai cả. Nhưng như vậy thì gọi Hòa phi đến tiếp kiến như những phi tần kia cũng được mà?

Tô Trường Tín chẹp lưỡi, chưa biết nói tiếp thế nào thì Vạn tuế gia đã như đọc được suy nghĩ của ông. Người khẽ nhún vai:

“Đường xá trơn trợt.”

Bởi vì trời lạnh đường trơn, cho nên không muốn gọi Hòa phi đến ư?

Vạn tuế gia từ lúc nào lại lo nghĩ cho người khác nhiều đến thế?

Tô Trường Tín khẽ lắc đầu. Ông cảm thấy mình đã già rồi. Tâm tình của Vạn tuế gia, ông không hiểu nổi nữa.

Sủng ái cũng Vạn tuế gia đối với Hòa phi thực sự rất mập mờ.

Nói người sủng Hòa phi cũng không đúng lắm. Người đối đãi với nàng không tệ, nhưng cũng không có điểm nào hơn những phi tần khác. Bổng lộc, ban thưởng đều đúng với cung quy, không thiếu nhưng cũng không thừa. Thậm chí thẻ bài của Hòa phi, người cũng chỉ thỉnh thoảng mới lật một lần. Biết Thục phi và Đức phi chèn ép nàng, người để mắt nhưng chẳng can thiệp.

Nhưng nói người không sủng Hòa phi thì lại càng không phải. Kẻ khác có thể không biết, nhưng Tô Trường Tín là người thân cận nhất của Vạn tuế gia. Từng hành vi cử chỉ của người ông đều nhìn rõ. Còn nhớ đêm hôm nào, Hòa phi vì bảo vệ một Thái y vô danh mà ngất xỉu trước Thái Y viện, Vạn tuế gia chẳng ngại trời mưa tầm tã, đích thân đến tận nơi đưa nàng về Noãn các chăm sóc. Lại nhớ một đêm khác, Vạn tuế gia đọc tấu chương đến nhức buốt cả đầu nhưng vừa nghe tin Hòa phi bị Đức phi tố tội, người liền đi một mạch đến Vị Tú hiên khỉ ho cò gáy. Làm như thế không phải vì muốn che chở cho nàng ư? Còn cái lần Hòa phi bị kẻ khác mưu hại thả rắn vào chăn, Vạn tuế gia biết tin nhưng vì sớm hôm sau còn phải thiết triều nên không đi thăm nàng được. Đêm đó không biết Vạn tuế gia đã trở mình biết bao nhiêu lần. Buổi sáng ngày hôm sau, Vạn tuế gia vừa bãi triều liền đi thẳng đến Cẩm Tước cung. Khi ấy Hòa phi còn mê man bất tỉnh, người đã cầm tay nàng, yên lặng ngồi bên cạnh hơn một canh giờ. Nếu không phải có đại thần cầu kiến, có lẽ người sẽ ngồi đó đến khi Hòa phi tỉnh lại mới thôi.

Đã rất lâu rồi, Vạn tuế gia không sủng hạnh Hòa phi. Những kẻ không hiểu chuyện ở Kính sự phòng đã bắt đầu phao tin Vạn tuế gia không còn yêu thích Hòa phi nữa. Tô Trường Tín chỉ biết, chính nhờ không được sủng hạnh mà Hòa phi không phải uống chén canh “an thai” kia, mà món canh ấy đối với nữ nhân chẳng phải thứ tốt đẹp gì.

Tô Trường Tín là kẻ lão luyện. Từ lâu ông đã lờ mờ nhận ra Vạn tuế gia vẫn luôn âm thầm che chở Hòa phi. Thứ tình cảm của người dành cho Hòa phi chẳng rõ tự bao giờ đã không còn giống với loại sủng ái thông thường.

Thứ tình cảm ấy, Tô Trường Tín không dám gọi tên, càng không dám tin nó là sự thật.

Chỉ là hôm nay, tận mắt nhìn thấy Vạn tuế gia vui vẻ làm bánh bao tặng Hòa phi, Tô Trường Tín có muốn không tin cũng không được nữa.

Phía bên kia, Vạn tuế gia sau một ngày mệt mỏi đã ngủ thiếp đi. Hôm nay, tâm trạng của người tốt cho nên nét mặt khi ngủ cũng rất thanh bình.

Tô Trường Tín thở dài thườn thượt, bao nhiêu nỗi lo lắng mới lại ập đến. Biết rằng lời này nói ra sẽ là phạm nghịch, nhưng ông thực lòng quan tâm Vạn tuế gia như người thân ruột thịt của mình. Biết được trên đời này có một nữ tử có thể khiến Vạn tuế gia nở nụ cười hạnh phúc đơn thuần, ông vui mừng lắm chứ. Nhưng cạnh bên niềm vui ấy vẫn tồn tại vô số nỗi lo sợ. Nữ tử ấy liệu có thật lòng đối với Vạn tuế gia hay không? Nàng thân cô thế cô, yếu đuối như thế, liệu có thể tồn tại bao lâu trong chốn Hậu cung hiểm ác này?

Vạn tuế gia quan tâm nàng như vậy, nếu chẳng may nàng không còn nữa, vậy thì người chắc chắn sẽ đau lòng lắm.

Tô Trường Tín ông biết phải làm sao?

Người già thường hay thích thở dài.

Tô Trường Tín cũng thế. Ông thở dài thêm mấy cái nữa, rồi quyết định ngả lưng ở chiếc sạp gỗ nơi gian ngoài, canh giấc cho Vạn tuế gia.

***

Hoàng thành sau thời điểm giao thừa náo nhiệt cũng dần dần chìm vào giấc ngủ.

Chỉ còn một gian phòng nơi chính điện Cẩm Tước cung là vẫn sáng ánh đèn.

Ngọc Nga ngáp dài một tiếng, nhẹ nhàng phủ thêm lên vai nữ tử đương ngồi chống cằm bên chiếc bàn trà nhỏ.

“Chủ nhân, mau ngủ đi thôi. Trời sáng sắp sáng mất rồi. Người cứ hắt xì suốt, không khéo bệnh rồi cũng nên…”

Chu Đan Nguyệt sau khi hắt xì đến lần thứ hai mươi thì mũi đã đỏ như quả cà chua. Nàng nhăn mặt, vừa lau mũi vừa lẩm bẩm:

“Tên chết tiệt nào nói xấu ta mãi thế không biết…”

Nói đoạn, vươn vai một cái nhưng rõ ràng là không hề có ý định đi ngủ.

Ngọc Nga nhíu mày, kéo kéo tay nàng:

“Chủ nhân, đừng thức nữa… Người còn muốn ngồi nhìn cái bánh bao kì cục này đến bao giờ”

Chu Đan Nguyệt phì cười, nhìn lại cái bánh bao này đúng là kì cục thật. Vừa to đùng, vừa méo mó, lại còn có một cái hình mặt cười vẽ nguệch ngoạc bên trên, chắc chắn là không ăn được. Bánh như vậy mà cũng dám mang cho người khác, còn tỏ ra thần bí, chẳng biết trong đầu hắn nghĩ cái gì.

Nếu Ngọc Nga mà biết được suy nghĩ của nàng thì nhất định sẽ bĩu môi nói: “Cái bánh kì cục như vậy mà người ngồi nhìn suốt cả ngày, nô tì mới không biết trong đầu người nghĩ cái gì.”

Đáng tiếc, Ngọc Nga không đọc được suy nghĩ của người khác, chỉ có thể dai dẳng bám lấy nàng, kêu réo không ngừng:

“Chủ nhân, đừng nhìn nữa, ngủ thôi…”

“Ta chưa buồn ngủ.”

“Chủ nhân, ngủ đi mà… Ngày mai nhìn tiếp cũng được mà…”

“Đừng kéo ta…”

“Chủ nhân, ngủ…”

Chính điện Cẩm Tước cung đêm hôm đó, hình như rất lâu sau cũng chưa thấy tắt đèn.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 57: Ngoại truyện: Lạp cự thành hôi lệ thuỷ can



Khi Lê Khiết nhận ra mình đã yếu như thế nào thì cũng là lúc trời vừa chuyển sang đông.

Nàng khi ấy đang ngồi ở hiên nhà nhìn những thân hoa mới ngày nào còn khoe sắc giờ đã chết đi mấy phần. Nhưng cây cối có mệnh riêng, có chết đi thì sang xuân cũng sẽ đâm chồi. Còn sinh mệnh con người thì mỏng manh, hệt như bông tuyết đầu mùa vừa chạm tay, gặp phải hơi người thì tan biến.

Tuyết bắt đầu rơi xuống ngày một đều hơn, gió theo đó cũng ùa vào mái hiên. Lúc ấy thánh giá cũng vừa đến. Hoàng Đế nhìn thấy nàng ngồi đó, sức lực chẳng còn mà tay lại nâng lấy bông tuyết, gió lạnh thổi bay mấy sợi tóc nàng. Cái dáng vẻ gầy mòn chẳng còn sinh khí làm Hoàng Đế thấy nhói lên. Hắn bước vội đến, đắp lên vai nàng chiếc ao choàng trắng. Nhưng vừa khoác xong, hắn lại thấy màu trắng quá đỗi tang thương, khiến nàng như thể sắp biến mất, vội quát cung tỳ mang đến chiếc áo màu hồng nhạt.

Nhận ra bên cạnh mình có người, Lê Khiết giật mình quay lại, nhìn thấy ánh mắt đượm màu xót xa thì vội vã quỳ xuống, nói:

– Thần thiếp không kịp nghênh đón thánh giá, tội đáng muôn ch…

Không để nàng nói hết câu, hắn vội vã ngồi xuống đỡ lấy nàng.

– Có gì mà đáng chết! – Giọng hắn nghe có mấy phần tức giận. – Nàng đang bệnh, trẫm miễn hết. – Lại quay sang trách đám cung tỳ. – Sao dám để Hiền Phi ngồi ở nơi lạnh như vầy?

– Bệ Hạ. – Lê Khiết nhẹ nhàng gọi. Dường như thanh âm ấy khó khăn lắm mới thoát ra khỏi môi nàng làm hắn giật mình. Hoàng Đế vội vã chăm chú lắng nghe. – Là thần thiếp muốn ngắm tuyết rơi. Đừng trách bọn họ.

Hoàng Đế lập tức đồng ý, nhưng lại sai cung tỳ lấy lò sưởi đến cho nàng.

Mái hiên vốn dĩ chẳng có chỗ ngồi, bây giờ thánh thượng đến liền bày lò sưởi, bày cả ghế ra. Không khi ấm áp lên mấy phần nhưng cũng vì vậy mà chẳng còn bông tuyết nào bay đến bên cạnh nàng. Lê Khiết ngẩn ngơ đưa tay ra như chẳng hề nhớ đến chuyện bên mình còn có đấng uy nghiêm đứng cạnh, nhưng đâu có bông tuyết nào chạm được đến tay nàng nữa.

Ngày hôm đó là ngày đầu tiên tuyết rơi.

Qua ba hôm sau, tuyết rơi dày hơn.

Bây giờ có muốn thì Lê Khiết cũng chẳng thể nào bước chân ra ngoài để ngắm nhìn nữa. Cửa sổ phòng nàng cũng chỉ hé mở vì thái y nói nàng không thể để nhiễm lạnh nữa. Lê Khiết nằm trên giường, dường như chẳng nghe tiếng Thái Y dập đầu với Hoàng Đế:

– Thần…chúng thần quả thật không biết Hiền Phi bị bệnh gì? Mạch tượng tuy có yếu nhưng không loạn, chỉ e… chỉ e là do nương nương bẩm sinh yếu ớt.

– Hoang đường! – Tiếng Hoàng Đế quát lớn. – Hiền Phi bẩm sinh khỏe mạnh hoạt bát, làm sao mà có thể chết yếu ớt hả? – Hắn chuyển sang giọng nghi ngờ hỏi. – Hay là nàng ấy trúng phải độc?

– Bẩm bệ hạ, mạch của Hiền Phi không phải là mạch độc!

– Vậy thì nàng bị làm sao hả?

Lúc này ngoài điện đã im lặng, chỉ nghe tiếng thái y lại dập đầu xin tội. Lê Khiết mới hé môi nói với nô tỳ ra mời Hoàng Đế vào trong.

– Người đừng làm khó họ nữa. Là thần thiếp mệnh yểu.

– Trẫm không cho nàng nói như vậy! Nàng vốn khỏe mạnh hơn cả trẫm, sao lại nói như vậy? Bệnh một chút đã làm nàng mụ mị rồi hay sao?

Thấy hắn kích động như vậy, Lê Khiết dịu giọng nói:

– Là thần thiếp hồ đồ.

Nhìn dáng vẻ cam chịu của nàng, hắn thấy không quen.

Lê Khiết trong kí ức của hắn là một khuê nữ tinh nghịch và ương bướng chứ không phải một người sắc mặt nhợt nhạt đang nằm im, khó khăn lắm mới nói được mấy lời.

Hoàng Đế nhoài người đến ôm chầm lấy nàng, khẽ nói.

– Khi nào nàng khỏe lại ta sẽ dẫn nàng đi xem thao binh, ta sẽ dạy nàng cưỡi ngựa.

– Có phải là ngựa Xích Thố nổi tiếng hung hãn không? – Lê Khiết hỏi lại. Giọng nàng nghe nhỏ lắm rồi.

– Đúng, đúng, là ngựa Xích Thố, có cả ngựa Ô Trung nữa.

Lê Khiết bật cười.

– Ô Trung là tên người gọi chứ có phải giống ngựa đâu.

– Phải… Phải… Khi nào nàng khỏe lại ta sẽ dẫn nàng đi.

Vậy mà Lê Khiết mãi chẳng khỏe lại.

Khi hắn đến Cẩm Tước cung thì tuyết vẫn đang rơi, còn Hiền Phi đang ở giữa sân. Nàng đứng chẳng vững, chỉ có thể tựa vào cây mà hứng lấy những bông tuyết. Nếu là ngày thường Hoàng Đế bệ hạ đã quát tháo đòi chặt đầu mấy kẻ dám để nàng ra ngoài trời. Nhưng lúc này đầu hắn chỉ nghĩ phải làm sao để bảo vệ nàng.

Hắn chạy nhanh đến đỡ lấy Lê Khiết, chỉ thấy nàng mỉm cười mơ hồ:

– Là thần thiếp tự mình ra đây, người đừng phạt họ.

– Không phạt… ta sẽ không phạt họ.

– Bệ hạ?

– Chuyện gì?

– Người đừng đến gặp thần thiếp nữa.

Hoàng Đế nghe như sấm động bên tai, hắn nhìn nàng đầy hoài nghi.

– Sau này thần thiếp sẽ còn tiều tụy hơn rất nhiều, thần thiếp không muốn làm người sợ.

Hắn ôm chầm lấy thân hình yếu ớt của nàng, khẽ lay:

– Nàng thế nào ta cũng chẳng sợ.

– Thần thiếp xin…

Lời còn chưa nói hết, máu đã phun ra ướt đẫm tuyết trắng.

– Khiết nhi!

– Bệ hạ… từ nay về sau, thiếp sẽ không gặp người nữa. Thiếp chỉ mong… chỉ mong ngưới nhớ mãi dáng vẻ hoạt bát cưỡi trên lưng ngựa… trên lưng ngựa của… của thần thiếp… mà thôi. – Nói đến đây, nàng từ từ ngất đi.

Lê Khiết là kẻ cứng đầu. Hoàng Đế sau hôm đó vẫn đến gặp nàng nhưng nàng dùng mạng che kín mặt, lại quay mặt vào tường. Gọi thế nào nàng cũng chẳng nhìn hắn, mà hắn thì lại sợ làm nàng đau.

Hoàng Đế tức giận đến hộc máu, hắn nói:

– Lê Khiết ỷ sủng sinh kiêu, lệnh cho thái y không được sắc thuốc cho nàng nữa.

Nghe đâu ngay sau đó, gia tộc Lê thị hiển hách đột ngột suy tàn, để lại trong cung một Hiền Phi bệnh tật buồn đau.

Rồi ba ngày sau thì Lê Khiết vong mạng.

Và đó là một trong những bí mật mà chẳng một ai dám nhắc lại, còn Cẩm Tước cung cứ thế vắng bóng người.

Thế mới biết, thánh ý thật khó lường.
 
Back
Top Bottom