Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Thâm Cung - Trần Lạc Hoa

Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 30



“Đức phi nói thế thật oan ức cho thần thiếp quá. Khăn tay này Bạch Thường tại luôn để trong
người, thần thiếp làm sao có cơ hội chạm tới?”

Ta cố gắng duy trì vẻ mặt oan khuất.

Triệu Đức phi bĩu môi:

“Mai Quyên cũng đã nói chỉ có hai ngươi ngồi cùng nhau ở sau vườn, không có
ai nhìn thấy. Ngươi muốn thì mở miệng nói một câu, Bạch Diệu Hoa dám
không đưa khăn tay cho ngươi mượn sao?”

Hoàng Hậu cười nhẹ, tiếp lời Đức phi:

“Thật sự chỉ có hai người? Mai Quyên nhìn không sai chứ?”

Hoàng Hậu hỏi đến, liền có thái giám xông ra xách cổ Mai Quyên đang nằm bẹp dưới đất mà dựng dậy.

“Bẩm… nô tỳ… quả… quả thực thấy rõ… nô tỳ… cùng với cung nữ bên người Hòa
phi… ngồi ở trước hiên nhà… suốt buổi chỉ có tiểu chủ và Hòa phi… ở phía sau vườn…”

Hai má Mai Quyên sưng vù, nói mãi mới xong mấy câu
vậy mà Hoàng Hậu vẫn kiên nhẫn nghe. Mai Quyên vừa dứt lời, trên môi
Hoàng Hậu cũng hiện lên nụ cười chói mắt:

“Như vậy thì quá đơn giản rồi. Đức phi, muội muội nói xem khi trước đã ban cho Bạch Thường tại mấy cái khăn tay?”

“Đồ là do hạ nhân chuẩn bị… Thần thiếp không nhớ rõ. Có lẽ là năm, bảy cái… Hoàng Hậu nương nương sao đột nhiên lại hỏi chuyện này?”

Đức phi dè dặt đáp.

Hoàng Hậu nhìn thấy bộ dạng chột dạ của Đức phi, càng trở nên tự tin hơn:

“Ý bản cung chính là muốn biết độc trong khăn là do ai tẩm, chỉ cần kiểm
tra số khăn tay còn lại thì sẽ rõ ràng. Có Mai Quyên làm chứng, Hòa phi
không hề bước vào phòng Bạch Thường tại. Như vậy nếu thực sự Hòa phi hạ
độc cũng chỉ có thể hạ độc vào một chiếc khăn tay bên người Bạch Thường
tại mà thôi. Ngược lại, nếu khăn tay này căn bản đã bị kẻ khác hạ độc
ngay từ đầu thì nhất định toàn bộ số khăn tay còn lại cũng đều có độc
bởi vì kẻ ra tay sẽ không thể biết được Bạch Thường tại sẽ chọn cái khăn nào ra dùng trước. Bản cung nói như vậy Đức phi cảm thấy có đúng
không?”

Triệu Đức phi ngay từ đầu đã lên kế hoạch dùng Hạc Đỉnh
Hồng hạ độc Bạch Diệu Hoa để đổ tội cho ta, nay tự nhiên lại xuất hiện
cổ độc, mà cổ độc này còn tìm thấy trên khăn tay của nàng ta tặng. Mọi
việc đã đi quá xa dự tính ban đầu, sắc mặt Đức phi càng ngày càng xấu.

“Hoàng Hậu thánh minh.” Đức phi đáp gượng gạo.

Tần Khương lần nữa nhận lệnh xem xét kĩ lưỡng một hồi, phát hiện sâu trong
tủ áo của Bạch Thường tại có một chiếc hộp gỗ được cất rất cẩn thận, bèn trịnh trọng mang ra ngoài. Trên nắp hộp gỗ có khắc ấn ký của Triệu Đức
phi, nàng ta muốn chối cũng không được, đành miễn cưỡng gật đầu thừa
nhận.

Bên trong hộp gỗ quả thực còn có bốn chiếc khăn tay nữa,
chất liệu cũng như kỹ thuật thêu thùa so với chiếc khăn bên người Bạch
Thường tại không hề sai lệch, đủ thấy cùng một xuất xứ, không hề bị
người khác tráo đổi. Trần Thái y cẩn thận bọc kỹ hai tay bằng mấy lớp
vải dầu không thấm nước, tỉ mỉ xem xét từng chiếc khăn một, sau đó mới
bắt đầu từng bước thử độc.

Lúc này mọi ánh mắt đều dán ở chỗ Trần Thái y và mấy cái khăn tay. Ngoại trừ Hoàng Đế vẫn thản nhiên nghịch
tóc của Đức phi ra, ai nấy đều treo một bộ mặt căng thẳng. Ngay cả Hoàng Hậu thường ngày vui buồn không lộ bây giờ trên mặt cũng thấp thoáng lo
âu, còn Đức phi thì đã rơi mấy hạt mồ hôi trên trán.

Thời gian
chậm chạp trôi qua, trải qua nhiều công đoạn thử độc, Trần Thái y cuối
cùng cũng xem xét xong. Ông thận trọng quỳ hướng Đế Hậu mà nói:

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu, vi thần đã kiểm độc xong… xác thực tất cả số
khăn trong hộp đều được tẩm cùng một loại độc với chiếc trên người Bạch
tiểu chủ, cũng chính là loại độc mà Bạch tiểu chủ trúng phải.”

“Ăn nói hàm hồ!” Triệu Đức phi mặt mày tái mét, giọng lạc cả đi. “Đây là đồ bản cung tặng cho Bạch Thường tại, sao lại có độc. Nhất định là có kẻ
mới tẩm vào đây thôi! Hòa phi, có phải ngươi đã giở trò không?”

Nói xong liền quắc mắt nhìn ta như muốn ăn tươi nuốt sống. Ta vội vàng quỳ
xuống trước mặt Hoàng Đế và Hoàng Hậu, lén lút cấu vào đùi non cho nước
mắt lã chã tuôn ra:

“Hoàng thượng, Hoàng Hậu, oan uổng quá! Thần
thiếp không hề bước chân vào phòng Bạch Thường tại thì làm sao hạ độc
vào hộp khăn tay này cho được? Vả lại… mấy cái khăn này khi nãy lấy ra
đều khô ráo, không hề giống mới bị tẩm độc… Đức phi nương nương sao lại
luôn nghi ngờ thần thiếp như thế… ”

Hoàng Hậu thở dài, tự mình đứng dậy nâng ta lên:

“Ngay từ đầu bản cung đã biết Hòa phi trong sạch. Nay sự việc đã rõ ràng rồi, muội muội không cần lo lắng.”

“Đa tạ Hoàng Hậu nương nương minh giám.” Ta sụt sùi lau nước mắt, cảm động nhìn Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu nhân từ vỗ về ta mấy câu xong, bèn quay sang Triệu Đức phi:

“Đức phi, tặng phẩm từ chỗ muội sao lại không sạch sẽ như vậy? Muội muội vì sao phải hạ độc thủ với Bạch Thường tại?”

Lửa do mình đốt tự nhiên lại chuyển hướng cháy đến chân mình, Triệu Đức phi làm sao còn dửng dưng được nữa. Vừa nghe Hoàng Hậu trịnh trọng kết tội
mình, Triệu Đức phi bèn quỳ sụp xuống chân Hoàng Đế, rơi lệ còn nhanh
hơn ta:

“Hoàng Thượng, Kiều nhi bị oan! Khăn đó quả là của Kiều
nhi tặng Bạch Thường tại, nhưng Kiều nhi và nàng ấy không thù không oán, cớ gì Kiều nhi lại phải hại nàng ấy? Hoàng Thượng minh xét! Đồ này cũng không phải Kiều nhi tự tay chuẩn bị, có lẽ là đã bị hạ nhân giở trò…”

Triệu Đức phi quả hợp với một chữ “Kiều”. Cho dù đang khóc cũng vẫn kiều mỵ
động lòng người. Nước mắt trong suốt như pha lê cứ rơi theo từng câu
từng chữ tuôn ra trên đôi môi xinh đẹp của nàng. Chẳng mấy chốc ta đã
hiểu, “hoa lê đẫm mưa” mà Tạ Thu Dung vẫn thường hay giảng rốt cuộc
chính là như vậy. Vẻ đẹp này tuy không được rực rỡ chói mắt như Liễu
Thục phi nhưng lại có nét nhu hòa, yếu ớt làm người ta dễ sinh lòng muốn che chở. Ta là nữ nhân mà còn nghĩ vậy, Hoàng Đế làm sao chịu nổi. Chưa đợi Triệu Đức phi nói xong, Hoàng Đế đã vươn tay muốn đỡ nàng ta dậy:

“Nếu vậy mau triệu kẻ nào từng tiếp xúc với số khăn tay đó tới đây hỏi cho rõ. Ái phi mau đứng lên đi, đừng tự làm khổ mình.”

Triệu Đức phi nương theo cánh tay Hoàng Đế mà đứng lên, khi đứng lên lại như
yếu ớt muốn ngã, may có Hoàng Đế kịp thời đỡ lấy, kết quả vừa vặn ôm lấy nàng ta. Cảnh tượng này lọt cả vào mắt Dương Quý cơ đang đứng phía sau
khiến nàng ta khinh bỉ bĩu môi một cái, thế nhưng trong ánh mắt lại
không dấu nổi sự ganh tị.

Hoàng Hậu tất nhiên cũng không vừa mắt. Rõ ràng Hoàng Đế đã cho nàng chủ trì đại cuộc, mà nàng mới mở miệng hỏi Triệu Đức phi một câu, Triệu Đức phi không thèm đáp lời lại còn ngay
lập tức kêu oan với Hoàng Đế, bày trò quyến rũ Hoàng Đế, thực sự không
nể mặt Hoàng Hậu chút nào. Có điều Hoàng Đế đã nói vậy, nàng chỉ có thể
thuận theo mà cho truyền cung nữ phụ trách tặng phẩm của Triệu Đức phi
đến.

Người trực tiếp chuẩn bị cũng như đưa quà đến Vị Tú hiên là
một cung nữ nhị đẳng tên gọi Điểm Cúc. Lúc bị hai thái giám cao to áp
giải đến đây, trên mặt nàng ta còn ngơ ngác không biết chuyện gì đang
xảy ra.

Triệu Đức phi vẫn để nước mắt giàn giụa đầy mặt, một chút cũng không thèm lau đi, nghẹn ngào chỉ vào mặt Điểm Cúc:

“Tiện nhân này, bản cung đối với ngươi không bạc, vì sao ngươi lại hạ độc vào quà bản cung tặng cho Bạch Thường tại, vu hãm bản cung?”

Ban đầu nói là gọi người đến tra hỏi, nhưng Triệu Đức phi vừa mở miệng thì chỉ
trong một câu đã đổ trọn tội lỗi lên đầu Điểm Cúc, không lộ chút sơ hở.
Bản lĩnh ngậm máu phun người của Triệu Đức phi có lẽ đã luyện đến hàng
thượng thừa rồi.

“Chủ nhân nói gì… nô tỳ không hiểu? Nô tỳ không có…”

Điểm Cúc ngơ ngác nhìn Triệu Đức phi, lại bắt gặp ánh mắt lạnh lẽo như băng
của nàng ta, có lẽ cũng linh cảm được nguy hiểm nhưng chưa kịp giãi bày, Triệu Đức phi đã nhanh miệng hơn:

“Còn dám xảo biện? Bản cung
tin tưởng ngươi cho nên mới giao cho ngươi chuẩn bị tặng phẩm đưa đi Vị
Tú hiên. Những thứ này chỉ có mình người động tay vào, bây giờ trong đó
lại có độc, hại Bạch Thường tại nguy đến tính mạng. Ngươi giải thích làm sao?”

Triệu Đức phi định tội quá mức lưu loát khiến cho Điểm Cúc ú ớ không nói được lời nào.

“Đức phi lại nóng vội rồi.” Hoàng Hậu cười nhạt, cúi đầu nhìn Điểm Cúc:
“Điểm Cúc, bản cung cho ngươi một cơ hội. Độc trong khăn tay có phải do
ngươi hạ hay không? Mưu hại phi tử là tội chém đầu, ngươi nên suy nghĩ
cho kỹ.”

Điểm Cúc hoảng hốt dập đầu lia lịa: “Hoàng Hậu nương
nương minh giám! Nô tỳ không có làm chuyện đó! Nô tỳ chỉ nhận lệnh chuẩn bị quà đưa đi mà thôi! Nô tỳ thực sự không biết…”

Từ đầu đến
cuối, ta vẫn luôn quan sát Triệu Đức phi cẩn thận, cố gắng nhìn kỹ tất
cả biểu cảm, động tác của nàng ta. Lúc này, tuy rằng mũi nhọn đã bị xoay về phía mình, nhưng tự nhiên ta lại có cảm giác… sự hốt hoảng trên
gương mặt nàng ta không phải hoàn toàn là thật? Cảm giác ấy làm sống
lưng ta chịu thêm một đợt lạnh buốt. Đúng lúc này, Hồng Diệp, cung nữ
tùy thân của Triệu Đức phi chợt bước lên trước, run rẩy trỏ vào Điểm
Cúc, giọng vô cùng giận dữ:

“Điểm Cúc, ta nhớ ra rồi! Tháng trước ngươi làm việc chểnh mảng, chủ nhân chỉ phạt ngươi mấy trượng, ngươi
lại ôm hận muốn vu hại chủ nhân… Thật sự không bằng cầm thú!”

Điểm Cúc hoảng hốt lắc đầu nguầy nguậy:

“Hồng Diệp tỷ tỷ nói gì vậy? Ta làm sao có thể vì vài trượng mà dám vu hại chủ nhân… Ta thực sự oan uổng…”

Sự đường đột của Hồng Diệp làm Hoàng Hậu hơi chau mày:

“Chỉ là một cung nữ cũng dám xen vào chỗ Hoàng Thượng và bản cung đang tra án sao?”

Hồng Diệp nghe xong, liền quỳ hướng Đế Hậu dập đầu, vẻ mặt vô cùng chính trực:

“Bẩm Hoàng Thượng cùng Hoàng Hậu nương nương, nô tỳ hầu hạ bên người Đức phi nương nương đã lâu. Chủ nhân của nô tỳ lòng dạ hiền lành nhân hậu, nay
lại bị một ả tiện nhân vô ơn vu hại… Nô tỳ nhất thời không nhịn được nên mới lên tiếng. Nô tỳ biết tội!”

Hoàng Đế cười nhếch mép:

“Là như vậy sao?”

Vẻ mặt Hồng Diệp càng trở nên chính trực hơn: “Bẩm, trước long nhan, nô tỳ không dám có lời nào gian dối.”

Hoàng Đế cười cười, nghiêng đầu nhìn Hoàng Hậu:

“Khen cho một nô tài trung thành. Đã vậy Hoàng Hậu cũng đừng trách tội nàng ta vô lễ. Vả miệng ba mươi cái là được rồi.”

Lại thêm một người nữa bị Hoàng Đế phạt vả miệng. Hồng Diệp nhanh chóng
lĩnh phạt, chẳng bao lâu đã có chung một bộ mặt sưng vù như Mai Quyên.
Nhưng Hồng Diệp bản lĩnh hơn Mai Quyên nhiều, nhận xong ba mươi bạt tai, mặc cho máu miệng và máu mũi trào ra, nàng ta vẫn có thể quỳ thẳng lưng mà bái tạ ân điển của Hoàng Đế. Suy cho cùng, với sở thích phẩy tay lấy mạng người của Hoàng Đế thì ba mươi bạt tai thực sự là một ân điển lớn
lao.

Bầu không khí một lần nữa nhiễm mùi máu tươi. Hoàng Hậu khẽ
nâng ly trà lên miệng một chút nhưng lại để xuống mà không uống, có lẽ
chỉ muốn xua bớt thứ mùi không sạch sẽ ấy. Nàng thở dài, nhìn Điểm Cúc:

“Tốt nhất là ngươi hãy nói thật đi.”

Triệu Đức phi thong thả rút khăn tay ra lau lau khóe mắt, làm như vô tình nói:

“Hoàng Hậu nương nương nói phải. Tốt nhất là ngươi ngoan ngoãn nhận tội, đừng
chấp mê bất ngộ như thế. Phụ mẫu ngươi ở nhà nếu biết ngươi làm người vô ơn như vậy hẳn là rất đau lòng.”

Điểm Cúc vốn đang quỳ thẳng
người đột nhiên nghe Triệu Đức phi nói xong, thân thể run lên một chút
rồi đổ sụp xuống đất, sắc mặt trở nên trắng bệch.

Ta nhìn Điểm Cúc, chỉ có thể thay nàng thở dài một tiếng. Triệu Đức phi đúng là đã tìm được đường lui.

Quả nhiên, cuối cùng Điểm Cúc cũng ngẩng đầu, ánh mắt mờ mịt, nói như người vô hồn:

“Hoàng Hậu nương nương, nô tỳ nhận tội… Là nô tỳ hận Đức phi phạt trượng nô
tỳ… cho nên mới bày trò… ám hại Đức phi… Đều do nô tỳ làm…”

Có lời này của Điểm Cúc sự việc đã hoàn toàn thay đổi. Chung quanh đã có người thở dài tiếc nuối.

Hoàng hậu nheo nheo mắt:

“Vậy sao? Đây không phải chuyện đùa. Ngươi đừng nói bừa.”

Điểm Cúc lại dập đầu thêm mấy cái:

“Nô tỳ không dám… Nô tỳ đúng là thủ phạm… Xin Hoàng Hậu nương nương xử tội…”

Hoàng Hậu cười lạnh:

“Nếu ngươi nói ngươi là hung thủ, vậy loại độc ngươi dùng để hại Bạch Thường tại là độc gì?”

“Cái này… nô tỳ…”

“Bản thân ngươi chỉ là một cung nữ nhị đẳng. Bổng lộc mỗi tháng không quá
hai lạng bạc, ngươi lấy đâu ra tiền mua loại độc hiếm như vậy?”

“Là… Đức phi nương nương rộng rãi… luôn thưởng cho chúng nô tỳ rất nhiều bạc…”

“Độc này ngay cả Trần Thái y còn không nhận ra được, ngươi luôn luôn ở trong cung đi đâu mà mua được loại độc này? Sao? Nói thử xem, ngươi đã là thủ phạm thì phải biết chứ?”

“Nô tỳ… nô tỳ…”

Điểm Cúc bị Hoàng Hậu xoay như chong chóng, không còn dám ngẩng đầu lên nữa. Đức phi thấy vậy bèn hắng giọng:

“Ừm, Hoàng Hậu nương nương, tiện nhân này đã nhận tội rồi, những cái khác
cũng không quan trọng nữa. Dù sao ả cũng đã hầu hạ muội một thời gian,
không có công lao cũng có khổ lao. Muội thật sự không muốn truy cứu
nữa.”

Khi Đức phi nói ra những lời này, dáng vẻ vô cùng khổ sở,
trong giọng nói pha đau thương, nhìn vào không khác một vị chủ nhân từ
bi hết lòng vì hạ nhân. Hoàng Hậu không nhìn đến đôi mắt chực ngấn lệ
của Đức phi, chỉ lạnh nhạt nói:

“Chuyện này can hệ trọng đại,
không những khiến Bạch Thường tại suýt mất mạng còn liên lụy Hòa phi và
Đức phi, sao có thể cứ như vậy bỏ qua được? Bản cung cho rằng một cung
nữ nhị đẳng như nàng ta hoàn toàn không có khả năng có được loại cổ độc
này. Nhất định là sau lưng có người sai bảo. Bản cung nói có đúng không, Điểm Cúc?”

Thấy Điểm Cúc ngẩng đầu lên, Hoàng Hậu lại nói:

“Nếu ngươi thành thật khai ra kẻ chủ mưu, bản cung có thể xin Hoàng Thượng
khai ân cho ngươi toàn mạng, thậm chí có thể cho ngươi một số bạc lớn để ngươi sớm xuất cung đoàn tụ với gia đình. Ngược lại nếu cứ chấp mê bất
ngộ sẽ liên lụy đến cả nhà lớn nhỏ. Ngươi phải nghĩ kĩ.”

Cơ hội
ngay trước mắt thoáng chốc tuột khỏi tầm tay, Hoàng Hậu hẳn đã biết gắn
tội danh này lên đầu Đức phi sẽ không dễ dàng nhưng vẫn cố gắng bám trụ, lại còn mạnh tay đưa ra phần thưởng hấp dẫn như vậy, đủ thấy Hoàng Hậu
đã chướng mắt Đức phi đến mức nào.

Chỉ thương cho Điểm Cúc vô tội, bị dồn ép ở giữa, một bên là Đức phi như hồ ly, một bên là Hoàng Hậu như mãnh hổ.

Điểm Cúc ngẩng đầu, nhìn Hoàng Hậu một chút rồi lại nhìn Đức phi, cuối cùng rơi nước mắt, nói: “Tội lỗi đều là ở nô tỳ.”

Lời vừa nói xong, Điểm Cúc liền lao mình về phía cây cột lớn trong góc
phòng. Ta thầm thấy không ổn, thân thể theo bản năng định nhảy ra ngăn
cản Điểm Cúc, cũng may chỉ trong tích tắc đã kịp kiềm lại. Bây giờ không phải là lúc ta nên để lộ võ công. Vả lại dù cứu sống Điểm Cúc bây giờ,
tương lai nàng ta cũng không có gì tốt đẹp. Chết… thực ra không phải
điều tồi tệ nhất.

Chỉ nghe một tiếng “bộp” thật lớn, Điểm Cúc đã
ngã sõng soài ra đất như một bao tải gạo. Cái trán nhỏ xinh rách toạc
một đường lớn như thể muốn xẻ đôi gương mặt tái nhợt kia ra. Máu tươi từ vết thương trào ra như suối, chảy loang lổ trên mặt Điểm Cúc, hoàn toàn tương phản với nước da trắng bệch.

Cảnh tượng hãi hùng làm những phi tử có mặt đều phải ré lên, những người xui xẻo đứng gần đều cố gắng lùi ra thật xa. Trịnh phi nhát gan nhất, nhìn thấy cảnh này thậm chí
còn không kêu nổi một tiếng đã choáng váng ngã ra. May mà có Minh phi
kịp thời đỡ lấy. Hoàng Đế chỉ nhìn qua một chút, liền phẩy tay ra hiệu
cho người dọn dẹp. Ta nghe hắn lẩm bẩm khe khẽ trong cổ họng: “Dơ chết
đi được.”

Hoàng Hậu cũng không nhìn lâu, mặt phượng cụp xuống, khẽ thở dài:

“Điểm Cúc chết rồi, mọi việc coi như ngã ngũ. Hoàng Thượng, chuyện này người định xử lý thế nào?”

Hoàng Đế thản nhiên đáp:

“Trẫm đã nói để Hoàng Hậu toàn quyền xử lý, Hoàng Hậu muốn làm thế nào thì cứ làm thế đó.”

Hoàng Hậu mỉm cười:

“Đa tạ Hoàng thượng tin tưởng.”

Hoàng Đế gật gật đầu, thong thả nhấm nháp trà, dường như chờ đợi quyết định của Hoàng Hậu.

“Sự việc hôm nay xảy ra, thủ phạm là Điểm Cúc đã chết, xem như chấm dứt ở đây. Tuy nhiên…”

Ánh mắt uy nghiêm của Hoàng Hậu dừng trên người Đức phi:

“Việc này Đức phi cũng không tránh khỏi liên lụy. Nếu muội quản giáo hạ nhân
cẩn thận hơn thì đã không có kẻ giở trò mờ ám trong cung.”

Triệu Đức phi cắn răng: “Thần thiếp biết tội. Xin Hoàng Hậu trách phạt.”

Hoàng Hậu không để ý đến thái độ bất mãn của Triệu Đức phi, cứ lạnh nhạt mà nói:

“Không phải là bản cung hà khắc với muội. Nhưng từ vụ việc của Bạch Thường tại khi trước, bản cung đã nói rõ, các vị muội muội phải cẩn thận quản lý
người của mình, đừng để xảy ra thêm chuyện không hay, nếu không sẽ phạt
nặng. Đức phi không phải quên rồi chứ? Nay muội quản giáo hạ nhân bất
lực, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, bản cung quyết định… tạm thời thu lại loan ấn Đức phi của muội, cắt bổng lộc một năm. Ngoài ra muội muội hãy
đóng cửa vài ngày, tập trung chỉnh đốn lại Hạ Lê cung. Đức phi, muội có
phục không?”

Trong lòng ta thầm tán thưởng, Hoàng Hậu lần này ra
tay không chút nương tình. Chẳng những thu lại ấn tín tượng trưng cho
quyền lực của Đức phi, lại còn cắt bổng lộc, bắt cấm túc. Đức phi lần
này đúng là tội chết có thể miễn, tội sống tránh không khỏi.

Nghe xong hình phạt của Hoàng Hậu dành cho mình, Đức phi giật bắn người,
nhìn sang Hoàng Đế, lại thấy hắn không nói lời nào, đành cúi đầu gắng
gượng đáp:

“Thần thiếp tâm phục khẩu phục.”

Hoàng Đế nói
được làm được, đã nói để Hoàng Hậu tự quyết thì thật sự không nhúng tay
vào. Đến đây mấy tháng, ta không thấy Hoàng Đế đối với Hoàng Hậu có bao
nhiêu ân ái, nhiều nhất cũng chỉ là mỗi tháng hai ngày mười lăm và mùng
một đến Triêu Lan cung ngủ lại, thỉnh thoảng cùng Hoàng Hậu dùng ngọ
thiện một lần, nhưng phần kính trọng của hắn đối với nàng chưa bao giờ
thiếu. Lại nghĩ, Hoàng Đế bình thường ngàn lần dung túng Liễu Thục phi,
bất luận nàng ta kiêu căng, quậy phá gì, hắn cũng giả vờ không biết, có
khi sẽ còn hùa theo. Thế nhưng mấy ngày trước, Liễu Thục phi gây họa ở
Thuận Ninh cung, Hoàng Hậu phạt nàng ta cấm túc, Hoàng Đế vậy mà không
hỏi đến một tiếng, cũng không đến Mẫu Đơn cung nửa bước. Bây giờ cũng
không khác, hắn cưng chiều Triệu Đức phi như vậy nhưng dù Hoàng Hậu ra
tay phạt nặng, hắn cũng không có một chút nào bất mãn. Ở điểm này cũng
có thể thấy hắn đối với Hoàng Hậu có bao nhiêu kính trọng. Người ta
thường hay nói, Hoàng Đế là bạo quân không có đầu óc, chỉ thích chém
giết. Chuyện hắn thích chém giết là có thật, ta nghe nhiều thấy nhiều,
nhưng chuyện không có đầu óc ta lại không cho là vậy. Hoàng Đế còn trẻ,
thường ngày cư xử tùy hứng, nhưng chí ít vẫn biết tôn trọng vợ cả, sủng
thiếp nhưng không diệt thê. Đây đã là điều hiếm có. Mặt khác ta lại
nghĩ, nếu không có phần tôn trọng này của Hoàng Đế, chưa biết chừng
Hoàng Hậu đứng vững chốn hậu cung sẽ không dễ dàng như vậy.

Đức phi đã nhận phạt, tuồng hay cũng hạ màn. Hoàng Đế đứng lên, thản nhiên vươn vai một cái:

“Trời không còn sớm, trẫm về Cát Tường điện nghỉ ngơi trước. Các khanh cũng nghỉ sớm đi. Dương Quý cơ theo trẫm trở về.”

Hắn nói xong liền phẩy tay áo bỏ đi. Dương Quý cơ nghe Hoàng Đế gọi mình
vui đến độ quên hết mọi thứ, cáo từ Hoàng Hậu qua loa mấy câu rồi vội
vàng đuổi theo ngự giá đi mất.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 31



Hoàng Đế cùng Dương Quý cơ đi rồi, Đức phi cũng hậm hực xin cáo từ. Trong
phòng chỉ còn lại Hoàng hậu và mấy người phi tử bọn ta. Tuy Hoàng Đế đã
bảo bọn ta về sớm nghỉ ngơi nhưng chung quy trong chúng ta không có ai
gan lớn như Đức phi. Chưa có sự đồng ý của Hoàng Hậu, cuối cùng cũng
chẳng ai dám ra về trước.

“Bản cung đi thăm Bạch Thường tại một chút.”

Hoàng Hậu vịn tay cung nữ Xuân Linh, vén màn tiến đến bên giường Bạch Thường tại. Mấy người bọn ta lục đục theo đuôi.

Nhìn Bạch Thường tại mặt mũi trắng nhợt, mi mắt và môi tái xanh vì độc, yếu ớt nằm trên giường, Hoàng Hậu thở dài:

“Bạch Thường tại mệnh khổ, không dưng lại phải chịu giày vò như vậy. Nơi này
chật hẹp ẩm thấp lại vừa vấy máu tanh, e rằng không hợp dưỡng bệnh.”

Hoàng Hậu muốn một mũi tên trúng hai con nhạn, nhân dịp này liền ra ý tứ muốn chuyển chỗ ở cho Bạch Thường tại. Tĩnh Tần nghe xong, mau miệng nói:

“Hoàng Hậu nương nương nói phải. Chi bằng để Bạch Thường tại dọn về lại Huệ
Đàm cung. Dù sao cũng là nơi ở cũ, tỷ muội sống cùng nhau đã lâu cũng
tiện chăm sóc nhau.”

Ta khẽ cười thầm.

Tĩnh Tần này lòng
dạ cũng đủ độc. Bạch Diệu Hoa khi xưa là chủ Huệ Đàm cung, cả Tĩnh Tần
và Dương Quý cơ đều ở dưới tay nàng. Bây giờ Bạch Diệu Hoa thân bại danh liệt, chủ vị đã đổi, trở về nơi cũ chẳng khác nào phải chịu thêm tủi
nhục. Dù Dương Quý cơ vẫn chưa là cung chủ nhưng bây giờ ở Huệ Đàm cung
nàng ta lớn nhất, mà tính cách nàng ta cũng chẳng tốt đẹp gì. Bạch Diệu
Hoa ở dưới tay nàng ta làm sao sống tốt?

Hoàng Hậu cũng nghĩ như ta, nàng lắc đầu phản đối:

“Huệ Đàm cung tuy rằng tốt nhưng lại đông người quá, e không tiện.”

Ta đã hiểu ý tứ của Hoàng Hậu, bèn thuận theo mà nói:

“Nếu vậy hãy để Bạch Thường tại dọn đến Cẩm Tước cung của muội đi. Chỗ muội
ít người, thuận tiện cho Bạch Thường tại dưỡng bệnh cũng đủ thanh tịnh
cho nàng tiếp tục đóng cửa tu tâm.”

Lời ta rất đúng ý Hoàng Hậu, nàng lập tức tán thành:

“Hòa phi nói rất phải. Sáng sớm ngày mai bản cung sẽ cho người tới Vị Tú
hiên giúp Bạch Thường tại di chuyển. Thôi không còn sớm nữa, các muội
hồi cung đi.”

Chúng phi mệt mỏi mấy canh giờ cuối cùng cũng đợi
được câu này. Mấy vị phi tử đều thở phào nhẹ nhõm rồi lần lượt cáo từ.
Riêng Trịnh phi ban nãy bị dọa đã sợ đến nửa tỉnh nửa mê, Hoàng Hậu phải sai người cáng nàng ra kiệu.

Vị Tú hiên cuối cùng chỉ còn lại ta và Hoàng Hậu. Hai người nhìn nhau một thoáng, ta biết không thể tránh
được bèn nâng váy quỳ xuống chân nàng:

“Muội muội tự ý hành động, thỉnh tỷ tỷ trách phạt.”

Hoàng Hậu đỡ lấy tay ta, chậm rãi nâng dậy:

“Nha đầu ngốc, có cái gì mà phải trách phạt? Muội cũng không làm sai gì cả
chỉ là quá mạo hiểm khiến bản cung có chút lo lắng mà thôi… Về sau nhớ
nói trước với tỷ một tiếng.”

Ta cúi đầu tỏ vẻ hối lỗi:

“Muội không phải cố ý giấu diếm tỷ, chỉ là… lần này muội không đoán được ý đồ của Đức phi… cũng không nắm chắc phần thắng… cho nên chỉ dám một mình
liều mạng, không dám liên lụy tỷ tỷ.”

Hoàng Hậu sửa lại mấy sợi tóc rơi bên mang tai ta, dịu dàng nói:

“Đúng là nha đầu ngốc. Tỷ tỷ chẳng phải đã nói sẽ bảo vệ muội sao? Chỉ tiếc
cơ hội tốt như vậy mà vẫn không hạ được Đức phi… Có điều như vậy cũng hả dạ. Chỉ tiếc Điểm Cúc còn trẻ đã phải oan mạng.”

Ta chợt có ảo giác nàng chính là tỷ tỷ ruột của mình thật, bèn gật đầu: “Tỷ tỷ nói phải.”

Trong hậu cung này, từ phi tử tới cung nữ, ai mà không mang trên vai gánh
nặng người thân? Điểm Cúc dĩ nhiên cũng không ngoại lệ. Kẻ tứ cố vô thân như ta xét ra cũng có chỗ tốt. Không có gia đình nghĩa là không có chỗ
dựa nhưng ngược lại cũng là không có điểm yếu cho người ta nắm thóp.
Kể ra, ở hậu cung đây lại là một thế mạnh.

Lần này tính kế Đức
phi, ta chỉ mong bảo toàn được mạng mình. Từ trước, ta đã biết Đức phi
sẽ không dễ ngã như vậy cho nên không hi vọng gì nhiều. Hoàng hậu vậy mà có thể thừa cơ chém cho Đức phi vài nhát, thực ra đã là có lời rồi.

***

Lúc ta về đến Cẩm Tước cung cũng đã quá nửa đêm, vậy mà cung nhân chưa có
kẻ nào đi ngủ. Vừa thấy ta về đến, Ngọc Thủy đã tái mặt chạy vội ra nắm
lấy cánh tay ta, hết kéo kéo lại xoay xoay người ta như thể muốn kiểm
tra xem có bị mất chút da thịt nào không. Tiểu Phúc Tử vừa khóc vừa cười lải nhải:

“May mắn quá! Chủ nhân bình yên vô sự! Đúng là ăn ở ngay thẳng thì được phúc mà! May mắn quá!”

Ta sờ sờ đầu hắn mấy cái, thầm nghĩ nếu ta thực sự ăn ở ngay thẳng thì đã chẳng còn mạng mà về.

Tạ Thu Dung đợi ta trong phòng, nghe thấy động liền vội bước ra:

“Ngươi không sao chứ?”

Ta thuận tay khoác lấy tay nàng đi trở vào phòng, cười nói:

“Bình an vô sự.”

Ngọc Thủy chuẩn bị cho ta một ít đồ ăn nhẹ lót dạ. Nhân lúc đang ngồi ăn, ta bèn để Ngọc Nga kể vắn tắt lại mọi chuyện.

Tạ Thu Dung nghe xong nhăn mặt nói:

“Đức phi không ngờ lại dám làm ra chuyện như vậy. Cũng may ngươi và Bạch
Thường tại đã sớm có đối sách. Ta chỉ là không hiểu ngươi vừa mới nhập
cung, lại luôn nhẫn nhịn các nàng, Đức phi vì sao phải nhắm vào ngươi?”

Ta thổi nhẹ chén cháo hầm gà ác thơm lừng trước mặt chậm rãi vừa ăn vừa nói:

“Bởi vì ta mới vào cung không có ân oán với ai, cũng chẳng qua lại gì với
Bạch Thường tại… Nếu như nói ta đi hạ độc Bạch Thường tại, ngươi có tin
không?”

“Dĩ nhiên không tin, ngươi không có động cơ.”

“Nhưng nếu có người nói ta là nhận lệnh của Hoàng Hậu đi diệt khẩu Bạch Thường tại, ngươi có tin không?”

“A…”

Ta thân cô thế cô, ở đây chỉ có Hoàng Hậu chống đỡ. Nếu là nàng ra lệnh ta tất phải làm theo, vậy nên nói Hoàng hậu sai ta đi hại Bạch Thường tại
thì vô cùng hợp lý.

Tạ Thu Dung lại hỏi:

“Nhưng người dưới trướng Hoàng Hậu rất nhiều sao không phải kẻ nào đó mà cứ là ngươi?”

Ta cười cười, cảm thấy đầu óc nàng đôi lúc quá đơn giản nhưng vẫn tỉ mỉ giải thích:

“Là bởi vì nếu người độc hại Bạch Thường tại không phải ta mà là một phi tử ở trong cung đã lâu thì Hoàng Hậu sẽ phủi tay rất dễ dàng. Chỉ cần nói
nàng ta có tư thù là được. Đằng này một người không có động cơ như ta
thì lại khác.”

Đây mới là chân tướng toàn bộ kế hoạch của Triệu
Đức phi. Đầu tiên nàng ta cho người hại Tố Linh đứt cổ họng không thể ca hát, lại vu tội này cho Bạch Diệu Hoa, trước mắt một mũi tên hai con
nhạn. Nhưng Triệu Đức phi vẫn còn muốn bắn nhiều nhạn hơn. Nàng ta sắp
đặt, giả vờ để Hàm Nhu mật báo cho ta rằng nàng ta muốn hại Trịnh Vân
Anh, hòng làm ta rối trí. Thời gian qua, nàng vẫn luôn án binh bất động
chính là chờ ta động lòng thương xót đưa đồ qua chỗ Bạch Diệu Hoa. Bất
luận ta đưa đến cái gì, Mai Quyên cũng sẽ bỏ độc vào đó để vu cho ta tội độc hại Bạch Diệu Hoa. Theo lý thường ta chẳng có động cơ gì để hại
Bạch Diệu Hoa, từ đó suy ra nếu ta thật sự hại nàng chỉ có thể là do bị
người sai khiến. Mà ai có thể sai khiến ta? Phải nói ta tuy là một kẻ tứ cố vô thân nhưng phân vị không nhỏ, sau lưng luôn có Hoàng Hậu che chở, kẻ có thể sai khiến ta e rằng không ai khác ngoài Hoàng Hậu. Như vậy,
Triệu Đức phi liền có thể nhẹ nhàng chuyển mũi đao lên đầu Hoàng Hậu.
Lại nói Hoàng Hậu vì lẽ gì mà phải sai ta đi hại Bạch Diệu Hoa – một nữ
nhân đã không còn tương lai gì? Câu trả lời chỉ có một, chính là để bịt
miệng nàng ta. Mà Bạch Diệu Hoa thì có cái gì để Hoàng Hậu phải bịt
miệng? Tra thêm nữa thì chỉ còn một chuyện là vụ án mưu hại Tố Linh khi
trước. Triệu Đức phi tính toán vô cùng kỹ càng. Nếu tới bước này lại có
người hỏi Hoàng Hậu vì sao lại phải hại Tố Linh, ắt hẳn nàng ta sẽ đưa
ra chứng cớ rằng Tố Linh đắc sủng ngang ngược, từng nhiều lần làm chuyện càn quấy trước mặt Hoàng Hậu khiến Hoàng Hậu mất mặt, vì vậy mới muốn
trừ bỏ cái gai này. Trùng hợp là Bạch gia đã từng có ý ngỗ ngược với Hà
gia của Hoàng Hậu. Hoàng Hậu nhân dịp này nhổ cỏ tận gốc triệt để diệt
trừ cả Tố Linh và Bạch Diệu Hoa. Động cơ đầy đủ, bằng chứng có thừa. Bẫy lồng trong bẫy, từng bước từng bước đưa kẻ khác vào tử huyệt.

Lúc trước, ta không đoán được hết âm mưu của Đức phi cho nên mới giở chiêu
không nghe không thấy, giả vờ làm khúc gỗ, kiên quyết không đến Vị Tú
hiên để thử xem tâm tính Đức phi rốt cuộc như thế nào. Đức phi tuổi trẻ, lại tự phụ mình thông minh tất nhiên sẽ có chỗ nóng vội. Nhưng nói đi
cũng phải nói lại, nàng mới mười chín tuổi đã có được bậc này tâm kế,
thật không dám nghĩ đến sau vài năm nữa, tích lũy thêm kinh nghiệm rồi
sẽ tiến bộ đến mức nào.

Mặt Tạ Thu Dung càng nhăn lại:

“Hóa ra Đức phi lại luôn nhắm vào Hậu vị. Nhưng… ta vẫn cảm thấy nàng ta quá nóng vội.”

Ta gật đầu:

“Nàng ta mà không nóng vội ta làm sao còn toàn mạng?”

Kết cục lần này chẳng qua cũng là nhờ Đức phi nóng vội, lại xem thường ta
và Bạch Diệu Hoa vô dụng cho nên mới thuận lợi như vậy. Lần sau sẽ không có chuyện dễ dàng nữa. Có điều lần này Đức phi bị Hoàng hậu chém cho
mấy nhát không hề nhẹ nên “lần sau” tạm thời sẽ còn rất lâu, mấy ngày
này ta tạm có thể kê cao gối ngủ.

“Chủ nhân, như vậy còn Ngọc Hy kia?”

Tiểu Phúc Tử hỏi.

Ta thấy hắn vẫn luôn kiên trì muốn trị tội Ngọc Hy như vậy lại nhìn xuống chén cháo trước mặt vẫn còn hơi đầy, liền nói:

“Mang vào đây.”

Ngọc Hy nhanh chóng bị xách vào. Hai tay nàng ta bị trói quặt ra sau, tóc
tai rũ rượi, y phục bẩn thỉu, bộ dạng đúng là của người bị nhốt vào kho
củi cả một ngày. Ngọc Hy nhìn thấy ta liền nhoài người tới mà khóc:

“Chủ nhân… chủ nhân… Tiểu Phúc Tử hắn vu oan cho nô tỳ… Nô tỳ không có ăn trộm cái gì trong cung hết…”

Hôm nay thật không biết là ngày gì, ta kêu oan mỏi miệng mà nghe người khác kêu oan cũng mỏi tai. Cũng là Tiểu Phúc Tử lanh lợi, lựa thay ta một lý do vô cùng thích hợp.

Cả ngày mệt mỏi, ta chẳng còn tâm trạng chơi mèo vờn chuột nữa, bèn vào thẳng vấn đề:

“Vậy ngươi giải thích cho ta cái thứ này từ đâu mà đến?”

Ngọc Thủy theo lời của ta lấy ra đôi vòng ngọc đưa đến trước mặt Ngọc Hy, nói:

“Thứ này tìm thấy trong phòng ngươi. Ngươi chỉ là cung nữ tam đẳng, lấy đâu
ra đồ quý giá như vậy? Không phải trộm thì là cái gì?”

Ngọc Hy nhìn vòng ngọc xong, tái mặt lắp bắp:

“Cái này… cái này… là… nô tỳ được tặng…”

Ngọc Thủy hừ một tiếng, trào phúng nói:

“Ô, Ngọc Hy cô nương hẳn là có bản lĩnh! Suốt ngày ở trong Cẩm Tước cung mà vẫn có thể khiến cho người ta mang đồ quý giá như vậy đến tặng… Chẳng
hay vòng ngọc này là của quý nhân phương nào tặng cô nương vậy?”

Ngọc Hy khổ sở cắn môi, hiển nhiên là không dám nói ra. Ngọc Nga cũng cười cười phối hợp với Ngọc Thủy:

“Chủ tử trong cung tặng đồ cho hạ nhân đều có ghi chép lại rõ ràng. Vậy mà
hôm nay ta đến Nội thị giám xin tra sổ lại không thấy có tên Ngọc Hy cô
nương của chúng ta.”

Ta chậm rãi ăn cháo, nhường lại sân khấu cho Ngọc Thủy và Ngọc Nga giương nanh múa vuốt. Hôm nay diễn kịch quá nhiều rồi, bây giờ nhìn người khác diễn cũng thấy có điểm thú vị riêng.

Ngọc Hy bị Ngọc Nga và Ngọc Thủy dồn ép một trận, cuống quýt cả lên, không còn giữ được bình tĩnh, bắt đầu nói loạn:

“Bất luận là ai tặng cho ta… cũng không có liên quan tới các người… Chỉ cần
biết đồ đạc của chủ nhân không mất thứ gì… Tức là ta không có ăn trộm…”

Ngọc Nga nghe xong lời này, nghiêm giọng nói:

“Cẩm Tước cung không mất cái gì không có nghĩa là các cung khác cũng may mắn như vậy. Ngươi nếu quả thực được tặng vì sao không nói được tên người
tặng? Đây rõ ràng là hành vi của một tên trộm!”

Liếc thấy cháo
trong chén đã vơi gần hết, ta đặt chén xuống, nhấc tách trà Tiểu Phúc Tử dâng lên uống một ngụm rồi thong thả nói:

“Nếu đã là hành vi của một tên trộm, vậy cứ xét theo tội trộm cắp mà xử lý. Trả người lại cho Thượng Cung cục là được.”

Phàm là cung nhân phạm tội trộm cắp, nhẹ thì đánh gãy hai tay, nặng thì
trượng tễ. Nhưng đối với cung nhân mà nói, bình thường bị bệnh còn không mời được thái y chứ đừng nói là kẻ phạm tội. Hai tay bị đánh gãy dù
không chết ngay nhưng vết thương không được chữa trị tất làm độc, cái
chết từ từ đến mà lại còn phải chịu giày vò đau đớn, còn khổ hơn bị đánh chết ngay. Từ xưa tới nay, những cung nhân bị phạt đánh gãy hai tay
không có bao nhiêu người sống sót. Mà có sống đi chăng nữa, tay gãy cả
rồi thì làm được việc gì? Kẻ vô dụng ở trong cung sớm muộn cũng bị đày
đọa đến chết. Bởi vậy Ngọc Hy nghe ta nói xong, mặt cắt không còn chút
máu, điên cuồng lao đến chỗ ta gào khóc:

“Không… chủ nhân không
thể trả nô tỳ về Thượng Cung cục được!… Nô tỳ không có trộm đồ của
người!… Người không có bằng chứng nô tỳ trộm đồ của người!”

Tiểu Phúc Tử thấy Ngọc Hy phát cuồng, sợ nàng tổn thương ta, lập tức nhảy đến đá nàng ta một cái văng ra xa, chanh chua mắng:

“Thứ người như ngươi mà cũng dám phạm thượng vô lễ với chủ nhân à?! Cái thứ…”

Ta phẩy tay bảo Tiểu Phúc Tử ngừng mắng, tiện tay vịn hắn đứng dậy, đi đến trước mặt Ngọc Hy, cười nói:

“Muốn có bằng chứng sao? Được, bản cung cho ngươi.”

Nói rồi đưa tay gỡ một cây trâm vàng trên tóc ném tới trước mặt Ngọc Hy.

Ngọc Hy ngơ ngác nhìn cây trâm lăn một vòng trước mặt, chợt như hiểu ra ý
ta, hai tay vẫn bị trói, chật vật né qua một bên, ré lên:

“Rõ ràng người ném thứ này tới chỗ ta! Người là chủ nhân của ta! Sao người có thể vu oan giá họa cho ta như vậy!”

Ta bật cười thành tiếng:

“Ngươi vẫn còn nhớ bản cung là chủ nhân của ngươi sao? Ha, nếu trước kia trí
nhớ ngươi cũng tốt như vậy thì bây giờ đã không đi đến bước này… Ngươi
nói bản cung vu oan giá họa cho ngươi? Được, ở đây có ai nhìn thấy bản
cung vu oan giá họa cho Ngọc Hy cô nương không?”

Ngọc Nga phản ứng nhanh nhất:

“Nô tỳ nhìn thấy rõ ràng cây trâm này chính là rơi từ trong người Ngọc Hy ra!”

Tiểu Phúc Tử và Ngọc Thủy cũng nhanh chóng nói:

“Phải, phải, chúng ta cũng thấy như vậy!”

Ngọc Hy trợn mắt, há hốc miệng:

“Ngươi… các ngươi…”

Ta thở dài, ngồi lại chỗ cũ:

“Được rồi. Bằng chứng đã có đủ thì mang nó đi. Sớm mai đưa trả lại Thượng Cung cục.”

Ngọc Hy như vậy liền bị Tiểu Phúc Tử xách cổ lôi ra ngoài, miệng vẫn còn chửi rủa:

“Chu Đan Nguyệt… ngươi ngậm máu phun người… ngươi sẽ không được chết tốt đẹp đâu…”

Tiểu Phúc Tử nghe chướng tai, liền đấm cho Ngọc Hy mấy cái, nhờ vậy mà Cẩm
Tước cung lại được yên lặng. Ngọc Nga và Ngọc Thủy bắt đầu dọn dẹp.

Thấy Tạ Thu Dung vẫn ngồi ngẩn ngơ ở đó, ta cười hỏi nàng:

“Sao? Cảm thấy thủ đoạn của ta rất thấp hèn phải không?”

Tạ Thu Dung là người chính trực, không chừng nhìn cảnh này rồi sẽ ghét bỏ ta. Không ngờ nàng chỉ khẽ lắc đầu:

“Ta đâu phải kẻ vô tri. Là nàng ta bất trung với ngươi, cũng đáng tội. Nếu
để lại e sau này sẽ hại đến ngươi. Chỉ là… ta cảm thấy ở chỗ này mạng
người… thật nhỏ bé.”

Mai Quyên, Điểm Cúc, Ngọc Hy… Hôm nay, có ít nhất ba người vì ta mà vong mạng.

Ta hơi cúi đầu, bất giác nhìn xuống đôi tay mình. Mấy tháng nay ăn sung
mặc sướng, đôi tay này trắng trẻo hơn nhiều, mấy vết chai trên đó cũng
đã mờ đi không ít.

Thở một hơi thật dài, ta bần thần đáp:

“Ngươi nói phải. Đôi tay này của ta… lại nhiễm đầy máu tươi rồi.”

Chợt cảm thấy tay hơi ấm áp, hóa ra là Tạ Thu Dung đã cầm lấy tay ta, trịnh trọng nói:

“Tự bảo vệ mình có gì không đúng? Hay là ngươi thích để máu của mình dính trên tay kẻ khác?”

Ta hiểu được thành ý của Tạ Thu Dung nên cũng không nói thêm lời bi thương khó xử nữa, chỉ đùa thêm vài câu cho vui vẻ rồi để Ngọc Chân đưa nàng
về Tây viện nghỉ ngơi. Bản thân ta cũng lăn lên giường ngủ thẳng cẳng.
Có lẽ nhờ mấy lời an ủi của Tạ Thu Dung mà đêm hôm ấy ta ngủ đặc biệt
ngon, không hề mộng mị gì cả.

***

Mấy ngày này, hậu cung
chuyển biến vô cùng lớn. Chưa đầy một tháng ngắn ngủi, hai vị đệ nhất
sủng phi – Liễu Thục phi cùng Triệu Đức phi lần lượt bị cấm túc. Oai
phong của Hoàng Hậu đã lên đến cực điểm. Phi tần ai nấy vui như xuân về. Không biết Hoàng Hậu dùng biện pháp gì mà thánh sủng đã san đều cho cả
hậu cung, dĩ nhiên là những phi tử dưới trướng Hoàng Hậu vẫn được nhiều
ơn mưa móc nhất. Ngay cả Trịnh phi cũng được sủng hạnh một hai lần, có
điều nàng ta không vui vẻ như người khác. Đến lúc chỉ có hai người nàng
mới lén lút nói với ta, Hoàng Đế coi nàng như cái gối gác chân, cả đêm
đều gác chân lên người nàng mà ngủ làm cho nàng không trở mình được,
suýt chút vẹo cả lưng. Nhìn bộ dạng vừa ấm ức kể tội, vừa nghiêng
nghiêng người tự đấm lưng của Trịnh Vân Anh, ta chỉ biết thở dài ngán
ngẩm, nàng cứ như vậy không biết là tốt hay là xấu.

Ngọc Hy trở
về Thượng Cung cục, nghe đâu đã bị trượng tễ rồi. Thượng Cung cục làm
việc trước nay đều nhìn mặt chủ nhân, đối với người của Hoàng Hậu, bọn
họ đúng là không dám chậm trễ, nhoáng một cái liền đánh chết, lại còn
phái người đến bẩm báo với ta. Chuyện này truyền ra, trong Cẩm Tước cung vô thanh vô tức bỗng xuất hiện một tin đồn nho nhỏ, rằng Ngọc Hy chẳng
phải trộm cắp gì mà thực chất là bất trung với ta cho nên mới phải chết. Vì vậy mà cung nhân trong Cẩm Tước cung đối với ta càng kính cẩn hơn,
cứ như sợ ta cảm thấy bọn họ không đủ trung thành. Hơn nữa, thanh danh
“bồ tát sống” của Đức phi tặng ta khi trước cũng dần dần lắng xuống.
Trước cảnh tượng này ta không thể không khen Ngọc Nga một câu, bản lĩnh
tung tin đồn của nàng thực sự hữu dụng. Chuyện Dương Quý cơ giở trò ở
chỗ ta, ta cũng đã đem báo lại với Hoàng Hậu kèm theo vật chứng là đôi
vòng ngọc gói trong khăn lụa. Hoàng Hậu trầm mặc một hồi, cuối cùng vỗ
vỗ lên lưng bàn tay ta mà nói:

“Để muội muội chịu ấm ức rồi. Bản cung nhất định cho muội câu trả lời thỏa đáng.”

Ta biết gia thế Dương Quý cơ không tệ, hiện giờ thánh sủng vẫn đều đặn,
nàng là một quân cờ tốt, Hoàng Hậu sẽ không vì đòi lại công bằng cho ta
mà bỏ đi quân cờ tốt này. Chỉ là ta cũng biết những người làm việc lớn
như Hoàng Hậu, tâm đa nghi vô cùng lớn, không cần biết hành động của
Dương Quý cơ là vì đố kị ta hay là bất trung với Hoàng Hậu thì cũng đã
gieo vào lòng Hoàng Hậu một hạt giống nghi ngờ. Theo thời gian, hạt
giống này sẽ càng ngày càng lớn, đến một ngày nào đó, nó sẽ lớn đến mức
đủ sức nghiền chết Dương Quý cơ. Dẫu vậy, đó còn là việc của ngày sau.
Hiện tại, ta cứ vui vẻ tiếp nhận đống quà cáp cao ngất từ Triêu Lan cung đưa đến, xem như Hoàng Hậu bù đắp cho mình.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 32



Sức khỏe của Bạch Diệu Hoa dần dần bình phục.

Tuy nàng vẫn đang phải chịu phạt cấm túc nhưng đã dời đến ở trong cung của
ta, ta lại là cung chủ nên vẫn có thể lui tới chăm sóc nàng. Theo quy
chế thì Thường tại vị có thể có hai cung nữ, hai thái giám theo hầu. Chỉ vì khi trước Bạch Diệu Hoa thất thế, là một chủ tử không còn hy vọng
nên không ai muốn cùng nàng chịu khổ, chỉ có một cung nữ hỗn xược do
Triệu Đức phi đưa đến mà thôi. Hoàng Hậu tỏ ý muốn để những người trước
kia từng hầu hạ nàng quay lại nhưng Bạch Diệu Hoa từ chối. Ta cũng hiểu
những kẻ này trước kia đã rũ bỏ nàng thì nàng cũng chẳng cầu bọn họ quay lại. Về điểm này, ta đồng ý với nàng ấy, những kẻ như thế không có gì
tốt đẹp.

Hôm nay, nhân lúc Bạch Diệu Hoa gần như hoàn toàn
hồi phục, Thượng Cung cục tuân lệnh Hoàng Hậu đưa đến mấy tiểu thái
giám, cung nữ mới cho Bạch Diệu Hoa lựa chọn.

Bạch Diệu Hoa ngồi
ngay ngắn trên sạp gỗ ngoài hiên Đông viện phơi nắng, ánh mắt lười nhác
lướt qua những cung nhân đang xếp hàng ngay ngắn trước mặt, nói:

“Lâu nay ta gặp nhiều chuyện không may, bây giờ lựa chọn người cũng muốn lựa người nhiều phúc khí chút, coi như giảm bớt vận xui. Các ngươi ai còn
đủ thân sinh phụ mẫu thì bước qua bên phải, ai phụ mẫu mất sớm chỉ còn
huynh đệ tỷ muội thì bước sang bên trái.”

Đám cung nhân trước mặt nàng nghe xong liền khẩn trương bước qua bước lại một hồi, làm thành
hai hàng riêng biệt, chỉ còn lại hai cung nữ tầm mười lăm mười sáu tuổi
vẫn đứng trơ trơ chỗ cũ. Bạch Diệu Hoa thấy vậy liền hỏi:

“Hai người các ngươi cứ đứng đấy là thế nào?”

Hai cung nữ nọ cúi đầu, một trong hai người lí nhí đáp:

“Bẩm tiểu chủ, nô tỳ là cô nhi, từ nhỏ lưu lạc, không biết phụ mẫu là ai.”

Người còn lại cũng khẽ nói theo:

“Quê nô tỳ hai năm trước có ôn dịch, nô tỳ phúc mỏng, cả nhà đều chết sạch, chỉ còn lại mình nô tỳ.”

Bạch Diệu Hoa gật đầu, lại nhìn qua đám người này một chút rồi xua tay nói:

“Các ngươi đều về Thượng Cung cục trước đi. Ta đã chọn xong rồi. Lát nữa sẽ báo với Thượng Cung đại nhân lấy người sau”

Chờ đến khi bọn họ đi khuất, Bạch Diệu Hoa mới nghiêng đầu nhìn ta đang ngồi bên cạnh, hỏi:

“Tỷ tỷ thấy thế nào?”

Bạch Diệu Hoa từ khi tỉnh lại, không biết vì sao lại sửa cách xưng hô, gọi
ta là tỷ tỷ, ta cũng tùy ý kêu nàng muội muội. Nãy giờ để nàng tự chọn
lựa, ta chỉ ngồi yên một bên đóng vai vật trang trí, nghe nàng hỏi như
thế, ta biết nàng đã chọn xong, chỉ cười:

“Nô tài tùy thân, đúng là nên chọn những người có phúc khí một chút.”

Bạch Diệu Hoa cũng tán thưởng:

“Tỷ tỷ cũng cho là thế? Như vậy… cứ chọn hai cung nữ ban nãy đi. Chỗ muội chẳng có việc gì, hai người đủ rồi.”

Ta lật lật danh sách trên tay, lơ đãng nói:

“Hai người ban nãy… là Tư Dao và Tư An, đều là cô nhi. Quả đúng là hai đứa trẻ nhiều phúc khí.”

Ở trong hậu cung này, những kẻ côi cút như vậy so ra lại có nhiều phúc khí hơn kẻ khác.

Bạch Diệu Hoa khẽ cười:

“Cũng là nhờ Hoàng Hậu nương nương.”

Ta đặt danh sách xuống, vỗ nhẹ lên vai Bạch Diệu Hoa:

“Hoàng Hậu nương nương luôn chiếu cố muội. Muội đừng cứ cố chấp như vậy.”

Cố chấp muốn ăn thua đủ với Hoàng Hậu chẳng phải điều gì tốt. Ngay cả Thục phi và Đức phi còn bị Hoàng Hậu làm cho điêu đứng, một phi tần thất
sủng lấy cái gì để đối đầu với Hoàng Hậu?

Bạch Diệu Hoa vẫn cười cười:

“Muội dĩ nhiên biết. Trước nay muội luôn hưởng phúc của Hoàng Hậu nương
nương… Có điều phần phúc này… nếu không có tỷ tỷ, muội đã chẳng còn được ngồi đây mà hưởng nữa.”

“Diệu Hoa…”

Ta ái ngại nhìn Bạch Diệu Hoa. Nét cười trên mặt nàng chợt trầm xuống.

“Không phải sao? Nếu hôm đó không có tỷ tỷ dẫn đường bây giờ đã chẳng còn Diệu Hoa nữa, lấy đâu ra người ngồi đây hưởng phúc của Hoàng Hậu nương nương ban xuống.”

Từ lúc Bạch Diệu Hoa tỉnh lại đến nay đã mấy hôm thì đây là lần đầu tiên nàng trực tiếp đề cập đến chuyện này.

Bạch Diệu Hoa thấy ta yên lặng lắng nghe, bèn cúi đầu nói tiếp:

“Ngày đó sau khi tỷ tỷ trở về, Mai Quyên liền mang cho muội một chén canh gà. Muội thường ngày cháo loãng còn khó có, nói chi tới canh gà, liền biết
Mai Quyên có vấn đề. Muội vui vẻ bưng lên vờ uống nhưng không hề chạm
môi vào. Mai Quyên thấy muội đã chịu uống canh bèn bỏ đi. Thời gian nàng ta ở Vị Tú hiên mỗi ngày không bao nhiêu, rảnh ra liền trốn đi chơi.
Đợi nàng ta đi rồi muội mới lấy trâm bạc ra thử, quả nhiên trâm bạc hóa
đen. Muội bèn đổ chén canh ấy đi.”

Nghe Bạch Thường tại nói, ta cảm thấy chuyện cũng gần như ta dự tính, bèn đáp:

“Bởi vì ta tay không đến chỗ muội, cho nên nếu họ muốn đổ tội cho ta thì
nhất định phải hạ độc thủ với muội ngay. Như vậy mới có thể vu oan ta tự tay hạ độc muội.”

Nếu ta thực sự mang đồ đến tặng, Mai Quyên có
thể phải một thời gian sau mới ra tay vì Bạch Diệu Hoa sẽ không dùng đến đồ của ta ngay. So với việc không biết khi nào bọn họ mới ra tay, chi
bằng ta cứ mặt dày tay không đi đến, ép bọn họ phải ra tay ngay vậy mới
dễ đề phòng.

Bạch Diệu Hoa cười, gật đầu:

“Sau đó, muội
đem độc dược tỷ đưa tẩm vào khăn tay của Triệu Đức phi đang cất kỹ vào
tủ, rồi mới tẩm lên chiếc khăn thường mang bên người. Cuối cùng uống
trước hai viên thuốc giải độc rồi mới tự bôi độc lên mặt mũi mình, tự
mình trúng độc.”

Mai Quyên trở về, nhìn thấy Bạch Diệu Hoa không
khỏe liền cho rằng Hạc Đỉnh Hồng phát tác. Để chắc chắn đoạt được mạng
Bạch Diệu Hoa, Mai Quyên vờ tưởng nàng bệnh cũ tái phát, chỉ đỡ đi nghỉ, rất lâu sau mới báo thái y và Hoàng Hậu. Nếu không phải nhờ hai viên
thuốc kia kiềm bớt độc chất lại, bảo vệ phủ tạng, Bạch Diệu Hoa khó mà
toàn mạng.

Tuy ta đã cho Bạch Diệu Hoa thuốc kiềm độc trước,
nhưng lòng vẫn luôn bất an. Cổ độc này vốn là của Y Tiên để lại, ắt
chẳng phải thứ tầm thường. Ta vẫn luôn lo sợ thuốc kiềm độc không phát
huy được tác dụng, hoặc thái y không đủ năng lực, cũng sợ thể lực Bạch
Diệu Hoa yếu ớt không cầm cự nổi. Thẳng thắn mà nói, cho dù Bạch Diệu
Hoa chết, kế hoạch của ta vẫn thành công, ta vẫn sẽ an toàn thoát thân,
vốn không cần lo lắng.

Lý trí ta tự nhủ như vậy, nhưng lòng cứ
hỗn loạn không yên. Sợi dây thòng lọng này do chính tay ta quàng vào cổ
Bạch Diệu Hoa, nếu nàng vì vậy mà vong mạng, ta thật sự không biết sẽ
phải đối diện với bản thân thế nào. Mùi máu tanh trên tay ta chưa bao
giờ phai nhạt, nỗi ám ảnh tanh tưởi ấy chưa bao giờ rời khỏi tâm hồn ta, luôn chực chờ muốn nuốt chửng ta. Sống trong hậu cung đen tối quá lâu,
ta luôn biết sẽ không có giải pháp nào trọn vẹn đôi đường, cũng như sẽ
không có âm mưu nào tất cả mọi người đều có thể toàn mạng mà thoát ra.
Ngươi sống ta chết – đây chính là nguyên tắc cơ bản nhất trong hậu cung. Một khi phải đứng trước lựa chọn giữa bản thân và người khác, cuối cùng ta vẫn sẽ ích kỷ mà chọn bảo toàn mình.

Có những lời an ủi của
Tạ Thu Dung, lòng ta nhẹ nhõm hơn nhưng vẫn không cách nào hoàn toàn
quên đi được hình ảnh Điểm Cúc nằm dưới đất như một con rối đứt dây,
vầng trán nứt toác như có thể nhìn thấy tận xương, máu tươi từ nơi đó
trào ra, chảy loang lổ. Ta vẫn nhớ đôi mắt ấy, đến phút cuối vẫn mở to,
ầng ậng nước.

Điểm Cúc chết không nhắm mắt.

Ta nén tiếng
thở dài, nhìn lại Bạch Diệu Hoa đang mỉm cười dịu dàng ngồi bên cạnh,
gánh nặng trong lòng dường như nhẹ đi. Chí ít, Bạch Diệu Hoa vẫn khỏe
mạnh ngồi ở đây.

Chí ít, ta vẫn có thể bảo toàn được một người.

Đến tận lúc này, ta mới hiểu vì sao mình lại tha thiết muốn cứu Bạch Diệu Hoa như thế.

Ta… chẳng qua chỉ là muốn cứu lấy lương tâm đang dần dần bị bóp nát của mình.

Bạch Diệu Hoa thấy ta im lặng hồi lâu, liền cười hỏi:

“Tỷ tỷ sao lại ngẩn ra như thế?”

Ta hơi giật mình, khẽ lắc đầu, lại chợt nghĩ đến một điểm còn băn khoăn trong lòng, liền hỏi nàng:

“Lúc đó muội làm sao có thể tẩm độc vào số khăn tay trong hộp mà vẫn giữ cho chúng khô ráo như vậy?”

Bạch Diệu Hoa bật cười:

“Thì ra tỷ đang nghĩ chuyện này sao? Cũng chẳng có gì lợi hại cả. Trước đó
muội bất cẩn té ngã trật chân nhưng không mời được thái y, Mai Quyên đi
một hồi mang về cho muội một vò rượu trắng, bảo xoa bóp một lúc sẽ khỏi. Muội dùng không bao nhiêu cho nên đến hôm đó vẫn còn.”

Cuối cùng ta đã hiểu, thì ra lại đơn giản như vậy. Rượu bay hơi rất nhanh, pha
chút rượu vào trong độc sẽ đẩy nhanh thời gian bay hơi của độc lên nhiều lần. Dùng cách này để tẩm độc, chỉ cần hong khăn trước gió một chút
khăn sẽ khô ráo không còn dấu vết. Hộp đựng khăn tay làm bằng gỗ trầm
thơm, bỏ vào trong hộp đó, mùi rượu còn sót lại sẽ bị át đi.

Sự lạnh bạc của người đời, trớ trêu thay, cuối cùng lại cứu chúng ta một mạng.

Ta thở dài, siết tay Bạch Diệu Hoa:

“Muội chịu khổ rồi.”

Bạch Diệu Hoa cười chua chát:

“Đã liều như vậy mà vẫn không làm gì được Đức phi.”

Ta an ủi nàng:

“Lần này Đức phi cũng đã được một bài học. Chí ít là đưa được muội về đây,
từ nay chúng ta tỷ muội chiếu cố lẫn nhau, cũng là việc tốt. Hoàng Hậu…
tỷ ấy đã nói, đợi muội chịu phạt đủ một năm, tỷ ấy sẽ giúp muội thăng
lên vài vị, lúc đó sẽ tốt hơn nhiều…”

Bạch Diệu Hoa mỉm cười, lơ đãng nắm lấy tay ta, nói một câu không mấy liên quan:

“Muội chỉ có một người tỷ tỷ mà thôi.”

***

Không có Thục phi và Đức phi diễu võ dương oai, Thái Hậu cũng không xuất
hiện, chuỗi ngày này ở hậu cung có thể coi là bình yên hiếm thấy. Tâm
tình của Hoàng Đế không tệ, từ đó đến nay vẫn chưa hạ lệnh giết thêm
người nào, lại còn ban thưởng xuống không ít. Cẩm Tước cung của ta không làm gì mà cũng được thưởng một hộp trang sức. Ta nhìn chiếc hộp chứa
đầy trang sức lấp lánh, cảm thấy quá chói mắt, tiện tay lựa ra một chiếc nhẫn bạc. Chiếc nhẫn mỏng mảnh giản dị, điểm đáng chú ý duy nhất là mặt nhẫn làm bằng hồng ngọc trong suốt, khắc hình một đóa hoa hồng nở rộ.
Cánh hoa ngọc tinh xảo đến mức làm cho người ta có cảm giác nó đang thực sự lay động. Chiếc nhẫn đeo vừa vặn vào ngón áp út của ta, trông không
quá xa xỉ mà lại đủ trang nhã.

Nói là ban cho Cẩm Tước cung, như
vậy Bạch Diệu Hoa cũng nên có phần. Ta chỉ lấy một chiếc nhẫn này đeo
lên tay, còn cả hộp đều đưa cho Ngọc Nga mang tới Đông viện cho Bạch
Diệu Hoa.

“Bạch tiểu chủ ngoài việc tạ thánh ân và đa tạ chủ nhân ra thì một chút cũng không nhìn đến hộp trang sức, giao cho Tư Dao đem
đi cất. Vẻ mặt bình thường, không có biểu cảm gì.”

Ngọc Nga cẩn thận bẩm báo lại.

Ta gật đầu, thầm nghĩ Bạch Diệu Hoa là đích nữ nhà quyền quý, mấy thứ vàng bạc này e rằng nhìn đã quen mắt rồi, sao có thể vì một hộp trang sức mà vui vẻ.

Ngọc Nga thấy ta không ý kiến gì, bèn cười cười chuyển đề tài:

“Mấy hôm nay Hạ Lê cung thật nhộn nhịp. Đức phi quả vâng lời Hoàng Hậu nương nương, tận lực chỉnh đốn cung nhân, tất cả những người có liên quan đến Điểm Cúc đều bị trừ bỏ. Thậm chí, có mấy cung nữ xui xẻo chỉ là từng
trò chuyện với Điểm Cúc mấy câu cũng không thoát được. Tất cả đều bị đưa trả về Thượng Cung cục, e rằng kết cục sau này cũng không có gì tốt
đẹp.”

Ta ngáp dài một cái:

“Đức phi làm gì cũng tận lực cả.”

Ngọc Nga bước đến xoa bóp vai cho ta, vừa nói:

“Nghe Ngọc Thủy nói, Đức phi giận đến mức muốn phát điên… Đêm hôm đó trở về
liền giống như Thục phi, đập phá làm loạn. Ngay cả Quỳnh Thục nghi
thường ngày thân cận cũng phải sợ hãi đóng chặt cửa, tối ngày ở trong
phòng không dám ló mặt ra ngoài, sợ chọc trúng Đức phi.”

Hai vai được xoa bóp thoải mái, ta hài lòng thả lỏng thân thể, cười đáp:

“Đức phi làm thế nào giống Thục phi được? Thục phi đập toàn cống phẩm Tùy
Khâu, Đức phi lại chỉ đập một đống đồ sứ thông thường.”

Ngọc Nga ngẩn ra:

“Ý chủ nhân là…?”

“Làm hỏng cống phẩm là tội mất đầu, trong khi chỗ đồ sứ kia cung nào cũng
có, hỏng rồi thì bảo Thượng Cung cục mang đến cái khác là được, giống
nhau thế nào được?”

Bây giờ các nàng đắc sủng, muốn đập cái gì
thì đập cái đó, Hoàng Đế sẽ chẳng so đo. Nhưng ngày tháng qua đi, khi
sủng ái chẳng còn như trước thì những việc dung túng khi xưa sẽ trở
thành vết nhơ không thể nào gột rửa.

“Đức phi… ngay cả lúc nổi giận cũng suy nghĩ chu toàn như vậy.” Ngọc Nga cười khổ.

Ta cũng thở dài:

“Cũng là trái đào ăn dở, nhưng khi thì là tận trung, khi thì là bất kính. Đức phi tất hiểu rõ đạo lý này.” (1)

Ngọc Nga cúi đầu suy nghĩ. Đương lúc ta còn đang thắc mắc nàng có hiểu hay không, thì Ngọc Nga lại nói sang chuyện khác:

“Hôm nay là sinh thần Tĩnh Tần, chủ nhân có biết Hoàng Thượng ban thưởng nàng ấy cái gì không?”

Ta bật cười, búng vào trán Ngọc Nga một cái:

“Còn đánh đố ta? Dĩ nhiên là thăng vị rồi.”

Ngọc Nga xoa trán, ngạc nhiên hỏi:

“Sao chủ nhân biết?”

Ta nhếch khóe miệng, lười biếng ngả người nằm ra sạp:

“Lần trước Tĩnh Tâm Lan có công ngăn cản Lão Phật gia ăn đồ mặn, thêm nữa là Hoàng Thượng gần đây luôn ưa thích nàng ấy.”

Ngọc Nga nhanh nhẹn lấy gối mềm kê cho ta nằm, nói liến thoắng:

“Chủ nhân nói phải. Sáng sớm hôm nay, Hoàng Thượng đã khẩu dụ gia phong Tĩnh Tần lên hàng Tu dung, cuối năm nay sẽ chính thức làm lễ sắc phong.
Hoàng Hậu cũng ban thưởng xuống rất nhiều.”

“Ồ, nếu vậy ngươi cũng nên sửa cách xưng hô đi thôi. Hoàng Thượng đã mở kim khẩu, trước sau gì nàng ấy cũng là Tĩnh Tu dung.”

“Vâng ạ.”

Không ngoài dự đoán, Tĩnh Tâm Lan đã thăng đến hàng chính tam phẩm. Có điều
bây giờ mới là hạ chí (2), nàng ta có thể chờ đến đại điển sắc phong vào cuối năm hay không, còn phải chờ xem phúc khí của nàng ta đến đâu.

“Nô tỳ thật không hiểu, Hoàng Hậu nương nương sao lại để Tĩnh Tu dung thăng vị thuận lợi như thế? Sau này chẳng phải sẽ gây phiền phức cho chúng ta sao?”

Ngọc Nga phe phẩy quạt giấy xua bớt cái nóng mùa hạ cho ta dễ ngủ, trầm ngâm nói.

Ta vùi đầu vào gối bông mềm mại, sau lưng lại có Ngọc Nga quạt mát, mi mắt nặng dần, chỉ kịp mơ màng nói một câu “Cây cao gió cả” liền chìm vào
mộng đẹp.

Được ngủ ngày là một trong những lợi ích nhỏ của việc làm phi tử.

Thế nhưng, có lẽ số ta rất xui xẻo, ngay cả một lợi ích nhỏ như vậy cũng
không thể hưởng cho trọn vẹn. Vừa mới mơ màng ngủ được một lát đã thấy
vai mình bị lay mạnh, ta nhăn mày, lồm cồm bò dậy, liền thấy Ngọc Nga
hớt hải gọi:

“Chủ nhân, Lý công công truyền tin, Hoàng Thượng triệu kiến người.”

Ngọc Nga vừa dứt lời liền nghe thấy tiếng Lý Thọ từ ngoài cửa the thé vọng vào:

“Nương nương, xin chuẩn bị nhanh một chút, Hoàng Thượng đang đợi.”

Ta dụi dụi mắt, khẽ hỏi Ngọc Nga:

“Bây giờ là giờ nào? Sao Hoàng Thượng lại triệu kiến gấp như vậy…”

Ngọc Nga nhìn đồng hồ cát, lại nhìn ra ngoài trời, lo lắng đáp:

“Vẫn đang là giờ Thìn ạ.”

Nói xong nàng ta lại hạ giọng thật thấp, như sợ Lý Thọ nghe được:

“Chủ nhân, giờ này hằng ngày là lúc Hoàng Thượng nghị luận cùng các vị đại
nhân ở ngự thư phòng. Theo lý mà nói… Hoàng Thượng không thể triệu kiến
người vào lúc này được.”

Hiểu được lo lắng trong lòng Ngọc Nga, ta hướng ra phía cửa phòng, thử thăm dò:

“Lý công công, xin hỏi Hoàng Thượng vì lẽ gì mà triệu kiến bản cung gấp gáp như thế?”

Lý Thọ ở bên ngoài, không những không trả lời mà còn hối thúc thêm:

“Nô tài nào dám trộm đoán thánh ý… Xin nương nương nhanh chóng chuẩn bị, để chậm trễ… Hoàng Thượng trách tội xuống, nô tài gánh không nổi đâu ạ…”

Giọng Lý Thọ vô cùng gấp gáp, có vài phần giống với lần Hoàng Đế triệu ta đến Noãn các ba ngày. Nhưng lần này… giờ giấc không đúng. Nhất định có điều khuất tất.

Ngọc Nga hoảng hốt cầm chặt tay ta:

“Chủ nhân, chuyện này… thật sự kì quái! Phải làm sao đây?”

Ta thở hắt ra:

“Còn làm sao được? Lý Thọ đã tự mình đến mời, ta không thể không đi. Thôi,
mau giúp ta thay y phục. Nếu thực sự là Hoàng Thượng triệu kiến thì
không thể chậm trễ được.”

***

Trưa tháng sáu nắng chói chang.

Ta và Lý Thọ đi vội đến mức không kịp mang ô. Đoạn đường từ Cẩm Tước cung
đến Cát Tường điện ngồi kiệu thì còn không sao, khi tới cổng Cát Tường
điện rồi, phải đi bộ vào mới thấy thế nào là nắng cháy da cháy thịt.
Cũng vì Hoàng Đế tính cách thất thường, chỉ có cung nữ và thái giám ngự
tiền mới được ra vào nên ta đành để Ngọc Nga đứng đợi trước cổng Cát
Tường điện, còn mình đi theo Lý Thọ. Giờ nhìn thấy trời nắng như thế,
lại nghĩ đến Ngọc Nga phải đứng giang nắng chờ đợi, lòng không khỏi xót
xa.

Bước thấp bước cao theo sau Lý Thọ trên con đường nhỏ nối
liền từ cửa hông, nhìn ánh nắng phản chiếu rực rỡ trên toàn cung điện
mái ngói lưu ly phía trước, lòng ta càng thêm bất an.

Lúc này ta lại chẳng thể đoán được điều gì.

Lý Thọ là tâm phúc của Hoàng Đế, về độ tín nhiệm thì chỉ sau lão tổng quản Tô Trường Tín mà thôi. Ta không dám nghĩ hắn giả truyền thánh ý. Nhưng
mà đột ngột triệu kiến gấp rút vào lúc này quả thực rất đáng nghi.

Nỗi bất an trong lòng càng lúc càng dâng cao, cao đến nỗi ta không thể nhịn nổi nữa. Mắt nhìn thấy Lý Thọ đang đi phăng phăng về hướng ngự thư
phòng, ta liền dừng bước:

“Lý công công, có phải bản cung nên đến Noãn các đợi Hoàng Thượng không?”

“Hoàng Thượng truyền nương nương đến Ngự Thư phòng, nương nương vẫn nên đến đó thì hơn.”

Lý Thọ chỉ quay đầu nói với ta một câu như vậy, rồi lại hớt hải đi như
bay. Hắn đã nói thế, ta đành cắn răng dợm bước đuổi theo, lòng nghĩ nơi
đây dù sao cũng là Cát Tường điện, Lý Thọ sẽ không giả truyền thánh chỉ, cũng không làm gì ta được.

Mãi đến khi tới trước cửa Ngự Thư phòng, ta mới biết mình đã lầm to.

Lầm to rồi!

Ngự Thư phòng có đến hơn mười người mặc quan phục khác nhau, kẻ đứng người
quỳ nhấp nhô, còn Hoàng Đế thì đang đứng trước thư án, một tay chống
hông, một tay trỏ vào mặt một vị lão thần râu tóc bạc trắng đang quỳ bên dưới. Nhìn bộ dạng mắng người đến nỗi đỏ mặt tía tai, sát khí đằng đằng của Hoàng Đế, có lẽ vị lão thần kia sẽ không giữ nổi đầu.

Tuy ta không biết chuyện tày trời gì đang diễn ra ở trong đó, nhưng có một
điều hoàn toàn chắc chắn: Hoàng Đế không thể triệu kiến ta trong tình
cảnh như vậy!

Lý Thọ thực sự dám giả truyền thánh ý!

Ta cắn răng, quay đầu nhìn trừng trừng Lý Thọ, thấp giọng nói:

“Lý công công, giả truyền thánh ý là tội chém đầu!”

Mặt Lý Thọ hiện lên vẻ khó xử. Ta không dư thời gian để nghe hắn biện giải, lập tức xoay người bỏ đi. Trong đầu ta lúc này chỉ có một ý nghĩ là
phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt. Mặc kệ đầu của Lý Thọ, ta cứ phải chạy để giữ đầu của mình cái đã.

Không ngờ Lý Thọ lại dám túm lấy tay áo ta:

“Nương nương… xin nghe nô tài giải thích…”

Ta giật mình, rút tay áo ra khỏi tay Lý Thọ, trừng mắt nhìn hắn:

“Lý công công! Ta với công công không thù không oán, công công vì sao lại muốn lấy mạng ta?”

Lý Thọ lắc đầu, hốt hoảng nói:

“Nô tài nào có ý đó! Hôm nay nô tài to gan giả truyền thánh ý cũng là việc
bất đắc dĩ… chỉ là để mời nương nương di giá, không thể làm khác…”

Lý Thọ càng nói càng hoảng, vòng vo mãi vẫn chưa nói ra chuyện gì. Ta đã
sợ đến run người, không chịu được nữa, đang định túm váy bỏ chạy thì
nghe một giọng nói từ sau lưng truyền đến:

“Hòa phi nương nương, xin nghe lão nô nói một lời!”

________________

(1) Lấy ý từ điển tích về Di Tử Hà và vua nước Vệ:

Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà. Cái phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua,
thì phải tội chặt chân. Mẹ Di Tử Hà đau nặng. Đêm khuya có người đến
gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi. Vua nghe thấy, khen rằng: “Có
hiếu thật! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân.”

Lại một hôm, Di Tử Hà, theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa, đưa cho Vua ăn. Vua nói:” Yêu ta thật! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta.”

Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà
như trước nữa. Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: “Di Tử Hà trước dám
thiện tiện lấy xe của ta đi. Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa.
Thực mang tội với ta đã lâu ngày.”

Nói xong bắt đem trị tội.

(2) Hạ chí: 21 – 22/6
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 33



Nhìn lại phía sau, ta không khỏi giật mình, Tô Trường Tín đang quỳ ngay ngắn dưới đất, dập đầu lạy ta đúng ba cái.

Quá bất ngờ, ta vội vàng tiến đến nâng Tô Trường Tín dậy.

Tô Trường Tín là người Hoàng Đế tín nhiệm nhất. Ở cạnh một kẻ tính khí thất thường như Hoàng Đế bao năm nay mà vẫn sống tốt đủ chứng tỏ trong lòng Hoàng Đế, ông ta có một vị trí nhất định, hơn nữa thủ đoạn cũng không thua kém một ai. Người như thế ta không dám đắc tội. Dù trong lòng thấp thỏm không yên vẫn phải cố gượng lại mà nghe ông ta nói.

Tô Trường Tín rõ ràng là quỳ để ép ta. Ta nâng thế nào ông ta cũng chẳng chịu đứng dậy, kiên quyết quỳ nói chuyện:

“Nương nương nhìn thấy người đang quỳ dưới đất nghe Hoàng Thượng trách tội không? Ngài ấy là một trong ba vị nguyên lão tam triều còn lại của Bách Phượng, tên gọi Đới Thụy.”

Qua lời Tô Trường Tín, ta được biết thành Thanh Ba mùa màng thất thu đã mấy năm nay, dân chúng đói khổ không sao kể xiết, tiếng oán thán lên tới tận trời xanh. Lưu quốc sư hiến kế xin Hoàng Đế cho xây đài tế trời dùng biện pháp thành tâm cúng tế để lay động thần tiên, phù hộ cho Thanh Ba được mùa no ấm. Hoàng Đế cho rằng lời của Lưu quốc sư vô cùng có lý, liền mở kim khẩu ban cho Lưu quốc sư một trăm vạn lượng hoàng kim để đi xây đài làm lễ. Các quan viên chính trực đều phản đối mà trong đó người phản đối dữ dội nhất là Đới Thụy. Ông ta dùng thân phận nguyên lão tam triều, tháo mũ ô sa can gián. Hoàng Đế vì vậy mà nổi trận lôi đình, đang đòi lôi Đới Thụy ra chém.

Ta vừa nghe xong, đầu đã đổ đầy mồ hôi.

Tô Trường Tín quỳ dưới đất, sắc mặt tăm tối:

“Đới đại nhân là nguyên lão tam triều, cả đời tận trung tận lực vì nước vì dân. Chẳng những năm xưa có công phò tá Tiên Đế lên ngôi mà còn từng không ít lần liều mạng cứu giá… Người như ngài ấy không thể bị chém đầu được! Năm trước… năm trước Hoàng Thượng đã chém đầu hai vị ngôn quan khiến cho triều đình nổi cơn sóng gió… Nếu như hôm nay thật sự chém đầu Đới đại nhân… e rằng sẽ khiến trung thần bất mãn, triều chính tắc loạn, không thể cứu vãn…”

Lời Tô Trường Tín nói không sai. Hôm nay Đới Thụy mà chết chính giọt nước làm tràn ly, chỉ sợ ngai vàng của Hoàng Đế cũng lung lay theo.

Hai tay ta run lên.

“Hậu cung không thể can chính, Tô tổng quản, ngài phải biết điều này chứ?… Hơn nữa… ta chỉ là một phi tử bình thường, cho dù ta liều cái mạng này đi khuyên giải, Hoàng Thượng cũng sẽ không nghe…Nếu ngài muốn tìm người can gián Hoàng Thượng thì nên tìm Hoàng Hậu… hoặc là Liễu Thục phi chứ? Cứ cho là ta không cần mạng nữa, nhưng nếu Hoàng Thượng nổi giận chém luôn cả ta vậy thì Bách Phượng và Tùy Khâu biết phải làm thế nào?”

Ta đã nói đến mức này vậy mà Tô Trường Tín vẫn cứ cố chấp lắc đầu:

“Không đâu… Hoàng Thượng rất coi trọng mối liên hôn với Tùy Khâu cho nên tuyệt đối sẽ không chém đầu nương nương… Lão nô không phải là không nghĩ đến Hoàng Hậu và Thục phi nương nương, nhưng chuyện này chỉ có người làm được mà thôi!”

“Ngài… thật khiến ta tức chết! Ngài dựa vào đâu mà nói ta làm được?!”

“Hoàng Thượng… tính cách của Hoàng Thượng trước nay có phần nóng nảy, thế nhưng người chưa bao giờ nổi giận với nương nương… Tuy ân sủng của Hoàng Thượng dành cho nương nương không thể tính là nhiều, nhưng có thể khiến Hoàng Thượng trở nên hiền hòa vui vẻ như thế… trước nay chỉ có mình nương nương mà thôi. Lần trước lão nô đã tận mắt nhìn thấy Hoàng Thượng vốn đang giận dữ như vậy, nhưng chỉ cần gặp nương nương liền nguôi giận, lại còn chịu uống thuốc… Thường ngày, tuy không gặp nương nương nhưng Hoàng Thượng luôn hỏi thăm sinh hoạt của người… Hoàng Thượng luôn để tâm đến nương nương. Cho nên người có thể cản Hoàng Thượng chỉ có thể là nương nương mà thôi! Nương nương, xin người hãy nghĩ cho đại nghiệp thiên thu của Hoàng Thượng!”

Tô Trường Tín nói hết lời, cúi lạy thêm ba cái thật mạnh, đầu đập xuống nền đá phát ra tiếng binh binh đáng sợ. Ta làm sao không hiểu những điều Tô Trường Tín nói. Chém đầu trọng thần sẽ khiến lòng người đại loạn, bây giờ căn cơ của Hoàng Đế chưa vững, trong triều không còn bao nhiêu thần tử hắn có thể dựa vào. Triệu tướng, Liễu thái phó, Hà thái sư – ba người này lúc nào cũng tận lực bành trướng, vốn không hề xem Hoàng Đế ra gì mà bản thân Hoàng Đế còn phải nể nang bọn họ. Bên ngoài, tứ đại thần quốc nay chỉ có quân vương Bách Phượng này trẻ tuổi non nớt, cả ba nước còn lại đều như hổ đói rình mồi. Chẳng qua vì Tiên Đế anh minh thần võ, hơn ba mươi năm trị vì đã xây dựng Bách Phượng giàu mạnh hùng cường, sau khi Tiên Đế băng hà, Huệ Từ Thái Hậu nhiếp chính ba năm đã ổn định cục diện, về quân sự lại có Triệu tướng gia trấn thủ vững vàng nên mới giữ được sự thái bình tạm bợ hiện giờ, cũng nhờ vậy mới có công chúa hòa thân là ta. Nếu ngày hôm nay đầu lão thần Đới Thụy kia thật sự rơi xuống sẽ khiến trung thần nguội lòng, triều chính rối ren tất kéo theo ngoại xâm, nội loạn, hậu quả khôn lường. Ngôi cửu ngũ kia e rằng Hoàng Đế ngồi không nổi nữa.

Không còn Quang Nhật Đế, lấy đâu ra Hòa phi?

Một giọt mồ hôi lạnh lẽo chảy dọc từ thái dương của ta, lăn dài xuống cằm.

Ta ngoảnh đầu nhìn vào bên trong ngự thư phòng, đã có thêm vài vị quan quỳ xuống khuyên ngăn. Lão thần Đới Thụy tuy đang quỳ nhưng vai lưng thẳng tắp, đầu ngẩng cao, khí thế ngời ngời, không hề có chút sợ hãi. Bên cạnh, một nam tử mặc đạo bào màu xám khói, tuổi tầm ba mươi thản nhiên mỉm cười. Ta đoán người này chính là Lưu quốc sư, Lưu Thiên, kẻ đã đề ra cái biện pháp cứu tế quái gở kia. Hoàng Đế lúc này đã giận đến cực điểm, hắn đập bàn, gầm lên:

“Đới Thụy! Ngươi cho rằng ngươi là nguyên lão tam triều thì trẫm không dám giết ngươi thật sao?”

Đới Thụy nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, không hề e dè đáp:

“Vi thần chỉ là nghĩ cho Bách Phượng. Con dân Bách Phượng ở Thanh Ba còn đang chết đói, Hoàng Thượng lại muốn đem một trăm vạn lượng hoàng kim đó cho tên đạo sĩ này đi xây đài tế thần sao? Số vàng đó có thể cứu sống bao nhiêu người, Hoàng Thượng có biết không? Nếu ngày hôm nay không thể ngăn cản Hoàng Thượng, để người nghe lời nịnh thần, làm điều càn quấy… xem như phụ lòng Tiên Đế giao phó, Đới Thụy chết không hối tiếc.”

Tuy tuổi tác đã cao nhưng giọng nói âm vang, quyết liệt, khiến Hoàng Đế tức nghẹn:

“Lão già chết tiệt! Ngươi đang đem phụ hoàng ra uy h**p trẫm?”

“Hoàng Thượng bớt giận, Đới đại nhân làm sao lại có ý bất kính như thế được?”

Lưu Thiên cười cười, phẩy nhẹ cây phất trần trên tay, bộ dạng bỡn cợt ấy càng làm cho ta tin lời Đới Thụy. Lưu Thiên nhìn giống hệt một tên nịnh thần khoác tấm áo đạo sĩ dở hơi, không sai một li.

Liền sau đó, một vị quan trẻ tuổi dáng người cao lớn quỳ sau lưng Đới Thụy cũng dập đầu mà nói:

“Khởi bẩm Hoàng Thượng, ngoại tổ phụ của thần tuổi tác đã cao, lại tính khí cương trực, nói thực lời trong tâm, cho nên lời lẽ không được hoa mỹ… Nhưng tấm lòng trung quân ái quốc của ông là thật, thỉnh Hoàng Thượng tam tư!” (1)

Người này vừa dứt lời, lập tức mấy vị đang quỳ khác cũng dập đầu ầm ầm:

“Hoàng Thượng, thỉnh tam tư!”

Tình thế lúc này căng như dây đàn. Cả ta lẫn Lý Thọ, Tô Trường Tín đều sợ đến mặt cắt không còn giọt máu.

Tô Trường Tín run run nói:

“Nương nương, nếu lúc này người không ngăn Hoàng Thượng lại thì sẽ không còn kịp nữa… Tương lai…”

Tô Trường Tín chỉ khẽ nói hai chữ “tương lại” rồi im bặt, nhưng ta biết ý ông chính là nếu bây giờ không ngăn Hoàng Đế lại, tất cả chúng ta chẳng ai còn có tương lai.

Nhưng, tương lai… chẳng phải vẫn còn chưa đến hay sao?

Cho dù hôm nay Đới Thụy bị lôi ra chém đầu thật thì đại loạn kia cũng chẳng giáng xuống ngay. Nhưng nếu ta bước chân vào ngự thư phòng lúc này, ngay trước mặt đám đại thần đó… Mạng của ta coi như xong, không chừng còn có thể về Tây Thiên trước cả Đới Thụy.

Ta cắn môi, trong chớp mắt đưa ra quyết định: Thiên thu đại nghiệp là của Hoàng Đế thì hắn tự đi mà lo. Ta chỉ là một nữ tử nhát gan, ta vẫn nên lo cho cái mạng của mình thì hơn.

Trớ trêu thay, khi ta đã quyết định xách váy bỏ chạy thì cảm thấy sau lưng bị đẩy mạnh một cái, thân thể theo quán tính lao thẳng vào bên trong ngự thư phòng, ngã chúi nhủi.

Đám quân thần đang tranh cãi kịch liệt kia, quả nhiên bị cú ngã hiên ngang của ta làm kinh hãi. Tất thảy đồng loạt im bặt. Mọi ánh mắt đều dồn lên trên người ta. Lúc này, sau lưng ta vang lên giọng nói eo éo, hơi run rẩy của Lý Thọ:

“Khởi bẩm Hoàng Thượng, Hòa phi nương nương cầu kiến!”

Ta quay đầu, quắc mắt nhìn Lý Thọ, chỉ hận không thể hét lên: Hôm nay nếu ta bỏ mạng ở đây thì cho dù có làm ma cũng sẽ theo ám ngươi cả đời!

Lý Thọ giật mình, cụp mắt xuống, giả vờ không thấy.

Chợt nghe giọng Hoàng Đế hậm hực cất lên:

“Hòa phi tìm trẫm chẳng hay có việc gì?”

Vừa nghe liền biết hắn đang kiềm chế cơn giận trong lòng, cố gắng nói năng bình thường với ta.

Hoàng Đế đang giận nhưng vẫn nhớ kiên nhẫn với ta. Đây là một dấu hiệu tốt. Ta tự nhủ phải thật bình tĩnh, mọi chuyện vẫn còn có thể cứu vãn.

Nghĩ vậy, ta lồm cồm bò dậy, chỉnh trang váy áo cẩn thận rồi lại nghiêm chỉnh quỳ xuống dập đầu thỉnh an:

“Thần thiếp bái kiến Hoàng Thượng, Hoàng Thượng vạn tuế vạn vạn tuế!”

Hoàng Đế phẩy tay:

“Được rồi, miễn lễ đi. Có chuyện gì mau nói, đừng cản trở trẫm nghị luận cùng các vị đại thần.”

Phần kiên nhẫn trong giọng Hoàng Đế đã nhạt đi một ít.

Toàn thân ta phát lạnh, chỉ có thể vâng lời, chật vật đứng lên. Hai bàn tay giấu dưới tay áo đã run bần bật. Ta biết nói cái gì đây?

Chẳng lẽ lại nói ta đến để can gián? Bảo hắn đừng giết Đới Thụy?

Không ổn.

Không ổn chút nào.

Hậu cung không thể can chính, nói như vậy chẳng khác nào tự tìm cái chết.

Nhưng không nói vậy thì nói cái gì đây?

Ông trời ơi! Vì sao lúc nào số mệnh ta lại đen đủi như vậy!

Trong lúc cái đầu nhỏ bé của ta đang đau nhức thì Đới Thụy lại hừ lạnh một cái:

“Ngự thư phòng là nơi phi tử muốn đi vào là đi vào sao? Thật chẳng ra thể thống gì!”

Đầu ta như muốn nổ bùm một tiếng.

Lão già chết tiệt!

Tại vì lão mà ta bị Lý Thọ ném vào đây, tính mạng như chỉ mành treo chuông. Vậy mà lão còn có thể móc mỉa ta được! Thời khắc này ta thật sự muốn để Hoàng Đế chém quách cái đầu chết tiệt của lão đi cho rồi.

“Phi tử của trẫm như thế nào, không cần Đới đại nhân phải nhọc lòng.”

Hoàng Đế cười khẩy, mỉa mai Đới Thụy.

Bây giờ Hoàng Đế đang tức giận Đới Thụy, mà còn mở miệng bênh vực ta, khiến cho những quan viên còn lại chỉ dám nhìn ta bất mãn.

“Rốt cuộc nàng đến đây có việc gì?” Hoàng Đế lại nhìn ta.

“Thần thiếp…”

Tuy Hoàng Đế đã bênh vực ta, nhưng nhìn sắc mặt hắn, ta hiểu sự kiên nhẫn hiếm hoi của hắn dành cho ta đang dần vơi đi. Nếu ta không nói gì đó ngay… e rằng không kịp nữa.

Nhưng nói gì đây?

Ánh mắt Đới Thụy và những vị quan khác nhìn ta vừa khinh bỉ vừa bất mãn như nhìn một yêu phi. Lưu Thiên ngược lại có phần cao hứng khi nhìn người khác gặp họa.

Trái tim ta đập càng lúc càng mạnh. Ta tưởng như nó đang muốn nhảy ra khỏi lồng ngực mình.

Ngực…

Phải, nhắc đến ngực, ta mới chợt nhận ra, ngực áo ta hình như hơi cộm. Hôm nay bởi vì đi quá vội nên ta chỉ kịp thay áo ngoài, còn trung y vẫn là đồ cũ. Như vậy, vật trong áo ta chính là…

Tim ta thắt lại một cái, không nghĩ đến phép tắc nổi nữa, bàn tay cứ thể lần vào trong ngực áo, lấy ra một cái túi thơm.

Cái túi thơm này vốn là thứ Tiểu Phúc Tử xin ta khi trước. Ta vốn định mang theo để mùi thảo dược trên người ngấm qua đó rồi mới đưa cho hắn. Nhưng sau vụ việc Đức phi, ai nấy đều hoảng loạn sợ hãi, có lẽ Tiểu Phúc Tử cũng đã quên béng đi việc này. Chỉ có ta vẫn thuận tay mang theo bên người.

Hai tay ta run bần bật không khống chế nổi. Túi thơm trên tay bỗng nặng như chì. Một suy nghĩ điên rồ lướt qua đầu khiến ta rùng mình một cái.

Ta mím chặt môi, cố rặn ra một nụ cười méo xệch, cầm chặt túi thơm trong tay đi từng bước lại gần Hoàng Đế.

Cuối cùng khi chỉ còn cách hắn ba bước, ta lại quỳ xuống, hai tay run run đưa cái túi thơm lên, đầu cúi thấp:

“Thần thiếp luôn tưởng nhớ Hoàng Thượng… cho nên đã tự tay làm cái túi thơm cát tường này… hi vọng Hoàng Thượng mang bên người sẽ được đại cát đại lợi…”

Không gian yên lặng như tờ.

Ta cúi đầu rất thấp, không nhìn thấy biểu cảm của Hoàng Đế. Nỗi sợ hãi lớn dần trong lòng, đến nỗi máu trong người như đông lại, ngay cả hô hấp cũng trở nên khó khăn.

Cảm nhận được túi thơm trong tay bị Hoàng Đế nhấc lên, ta bèn lén lút ngẩng đầu nhìn.

Hoàng Đế cầm túi thơm của ta bằng hai ngón tay, mắt dán chặt trên đó săm soi. Sắc mặt hắn chuyển từ giận dữ sang kinh ngạc, rồi sang kiềm nén, sau đó như không nhịn nổi nữa, ôm bụng cười phá lên.

Không sai, Quang Nhật Đế nổi tiếng tính khí thất thường, tàn bạo vô lối đang cúi gập người, cười đến vặn vẹo:

“Nàng… tự tay làm cái này sao?”

Hoàng Đế cười khàn cả giọng, kẹp cái túi thơm bằng hai ngón tay đưa đến trước mặt ta.

“Dạ phải.”

“Tại sao trên túi thơm lại thêu một con sâu róm?”

“Đó… là một chiếc lá!”

“Ha ha ha ha…”

Hoàng Đế lại cười ngặt nghẽo. Quan viên chung quanh, ai nấy mặt mũi đều nửa đỏ nửa xám, rõ ràng là đều buồn cười nhưng lại không dám. Riêng lão thần Đới Thụy mặt đã đen như đít nồi.

“Lưu Thiên, ngươi nói xem, đây là cái lá sao? Rõ ràng là một con sâu róm xanh rì, mập ú!”

Hoàng Đế quay sang phía Lưu Thiên, huơ huơ cái túi thơm trước mặt hắn.

Lưu Thiên mỉm cười, cung kính chắp tay đáp:

“Thẩm mỹ của Hòa phi nương nương đặc biệt hơn người. Lưu Thiên bái phục.”

Hai má ta nóng lên. Không cần nhìn cũng biết sắc mặt ta khó coi đến mức nào.

Thể trạng Hoàng Đế vốn không tốt, nay cười một lúc lâu như thế, xem chừng đã hụt hơi. Hắn vỗ vỗ ngực, hít sâu một hơi:

“Ha… Ái phi có lòng như vậy, trẫm không thể bạc đãi. Trưa nay, trẫm cùng nàng dùng ngọ thiện. Bây giờ qua đó đợi một chút đi, trẫm viết thánh chỉ chém lão già này xong sẽ đến chơi với nàng.”

Hoàng Đế nhét túi thơm vào tay áo rồi phẩy phẩy tay ra hiệu bảo ta đi vào trong góc đứng. Ta lấm lét nhìn Hoàng Đế, thấy nét mặt hắn đã trở nên bình thản như không có chuyện gì cả, trong lòng càng lo lắng hơn. Lúc hắn ra lệnh trượng tễ Mai Quyên, nét mặt cũng y hệt bây giờ. Mở miệng đòi chém nguyên lão tam triều mà có thể thản nhiên như thế, e rằng trên đời này chỉ có mỗi mình hắn làm được mà thôi.

Hoàng Đế thấy ta đứng ngây một chỗ, liền phẩy tay thêm mấy cái, cười cười nói:

“Này, nàng còn đứng ở đó làm gì? Nhớ trẫm đến nỗi không muốn dời đi sao?”

Nếu bây giờ ta ngoan ngoãn nghe lời Hoàng Đế, coi như việc can gián gì đó không liên quan tới mình, liệu có thể bình an vô sự thoát khỏi nạn này hay không?

Câu hỏi vừa hiện ra trong đầu, ngay lập tức ta đã tự có lời đáp.

Không có khả năng.

Ta đã bước vào ngự thư phòng này, ngay lúc Hoàng Đế đang cùng đại thần nghị luận, về bản chất đã có thể bị khép vào tội hậu cung can chính rồi.

Dù Hoàng Đế không nổi giận với ta, Thái Hậu sẽ không bỏ qua cho ta, Hoàng Hậu càng không dung túng ta. Đó là còn chưa kể đến Liễu Thục phi, Triệu Đức phi.

Chém đầu rường cột triều đình là sai lầm vô cùng nghiêm trọng. Nếu lần này có thể ngăn cản Hoàng Đế giết Đới Thụy, ta còn có thể viện cớ vì tận trung suy nghĩ cho thiên hạ Bách Phượng, cộng thêm với thân phận công chúa hòa thân, có lẽ còn có đường sống. Còn nếu bây giờ nhắm mắt làm ngơ… e rằng tương lai của ta coi như xong rồi.

Bởi vì tên Lý Thọ chết tiệt kia, vận mệnh của ta tự dưng lại bị cột chặt vào cái đầu của lão thần Đới Thụy.

Đã leo lên lưng cọp, không còn nghĩ được đường lui.

Ngay cả chuyện mất thể diện như việc lấy cái túi thơm xấu xí như vậy ra tặng Hoàng Đế ngay trước mặt triều thần ta cũng làm rồi, bây giờ còn chuyện gì phải ngại?

Ngước mắt nhìn Hoàng Đế, chạm phải ánh mắt trong trẻo của hắn đang tò mò nhìn ta, ta thầm nhủ, tiến cũng chết mà lùi cũng chết, chi bằng cứ liều mạng một phen.

Nghĩ xong liền bước đến níu tay áo Hoàng Đế, cố gắng ép cho giọng nói thành mềm mỏng nhất:

“Hoàng Thượng, giết ông ấy làm gì? Tốn thời gian quá… Thần thiếp thật sự nhớ người đến nỗi không muốn xa người một khắc nào cả!”

Khi Hoàng Đế hỏi câu kia, hiển nhiên là đang đùa chứ không hề nghĩ ta thực sự chạy lại níu áo hắn làm nũng như vậy. Thế nên, hành động quái dị của ta không những làm cho quan viên trong điện choáng váng nín thở mà còn khiến Hoàng Đế sững sờ, thậm chí còn có phần sợ hãi.

“Nàng… nàng…” Hoàng Đế trợn mắt nhìn ta trân trối, nói mãi không nên lời.

“Đi mà…” Ta cắn cắn môi, giương mắt long lanh nhìn hắn, kiên quyết mặt dày bám lấy tay áo hắn không buông.

Sau một khắc kinh ngạc, cuối cùng Hoàng Đế bật cười, vươn tay xoa xoa đầu ta, dỗ dành:

“Nguyệt nhi vậy mà cũng biết nhõng nhẽo nhỉ? Ngoan, đi qua bên kia đợi trẫm một lát, trẫm viết thánh chỉ luôn rất nhanh, không để nàng đợi lâu đâu. Giết Đới Thụy xong, chúng ta lập tức đi chơi, được không?”

Lúc này, bản thân ta cũng kinh ngạc, không thể tin Hoàng Đế lại có thể kiên nhẫn với ta như thế. Nhưng… Phóng lao đành phải theo lao.

“Thần thiếp không thích. Giết người có cái gì vui đâu? Hoàng Thượng đừng giết ông ấy, chán lắm! Mau cùng thiếp đi chơi thôi!”

Hoàng Đế không cao hơn ta, nhưng bây giờ hắn đang đứng trên bậc thềm, vậy nên ta lại thành ra thấp hơn hắn một cái đầu. Ta ngẩng đầu, dùng ánh mắt mong chờ nhìn thẳng vào đôi mắt trong trẻo dịu dàng của Hoàng Đế. Trước đây, mỗi lần ta và hắn nhìn nhau, ta luôn là người dời mắt đi trước. Nhưng hôm nay, ta cố hết sức kiềm chế nỗi sợ hãi trong lòng để nhìn sâu vào mắt hắn.

Từ nãy đến giờ ta cứ nghĩ hắn thực sự sẽ giết Đới Thụy, và điều đó khiến ta như ngồi trên đống lửa.

Nhưng trong lúc này, khi đối diện với Hoàng Đế, trực tiếp, không né tránh, ta mới cảm thấy có lẽ mình đã lầm rồi.

Hoàng Đế không phải kẻ ngốc.

Dẫu cho quyền lực của hắn không trọn vẹn, dẫu cho Triệu Tướng, Liễu Thái phó, Hà Thái sư luôn lăm le tranh quyền đoạt vị, thì thế cục ba chân này vẫn ổn định như vậy, không bên nào giành được nhiều lợi thế hơn bên nào. Duy trì một cục diện quyền lực phân chia cân đối, vững vàng không phải là việc đơn giản như vẻ bề ngoài. Chỉ cần một chút sơ hở cũng có thể khiến quyền lực lệch về một bên, dẫn đến chính loạn. Cứ cho là ba năm trước có Huệ Từ Thái Hậu thay hắn ổn định triều chính, vậy ba năm nay thì sao? Chẳng phải đến bây giờ thế kiềng ba chân của ba nhà Triệu – Liễu – Hà vẫn vững vàng như vậy? Nếu Hoàng Đế thực sự là một tên tiểu tử vô dụng, có lẽ đã sớm bị mấy lão già kia ăn thịt mất rồi.

Dựa vào điểm này, ta chợt nghĩ, có lẽ Hoàng Đế không thực sự định giết Đới Thụy.

Có lẽ hắn nổi giận lôi đình như vậy là vì lí do khác.

Có lẽ… là đang diễn trò cho kẻ khác xem chăng?

Lâu nay ta đã quên một việc: Hoàng Đế cũng giống như ta. Hắn cũng là một đứa trẻ sinh ra trong Hoàng tộc, lớn lên trong hậu cung hiểm ác. Thuở nhỏ hắn cũng từng bị người ta ném xuống hồ, để lại di chứng đeo đẳng hắn cả đời. Ngọt, bùi, cay, đắng… đã nếm đủ những mùi vị này, liệu còn có thể đầu óc đơn giản sao?

Bởi vậy, chuyện ngày hôm nay… chúng ta có lẽ đều lầm cả rồi.

_________________

Nguyên câu là “Tam tư hậu hành” (三思後行), nghĩa là “suy nghĩ ba lần rồi hãy làm”. Khi quan viên khuyên can vua, thường dùng chữ “tam tư”, ý bảo vua hãy suy nghĩ lại thật cẩn thận trước khi quyết định.
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 34



“Được.”

Hoàng Đế mỉm cười sáng lạn, như mặt trời rẽ mây mù soi sáng nhân gian, cũng là soi sáng tương lai mờ mịt của ta. Một tiếng “được” nhẹ bẫng của hắn khiến cho không biết có bao nhiêu trái tim đang treo cao cuối cùng cũng có thể hạ xuống. Máu trong người ta vốn đang đông cứng vì sợ hãi cũng dần dần tan ra, lưu thông trở lại.

“Đã như vậy, chúng ta đi thôi. Trẫm nhìn mặt mấy lão già này phát ngấy rồi.”

Hoàng Đế cười cười bước xuống, thản nhiên bế xốc ta lên rồi rời khỏi ngự thư phòng, đi thẳng về phía Noãn các. Ta bị bất ngờ, chỉ biết ôm chặt lấy cổ Hoàng Đế, một tiếng cũng không dám kêu lên.

Nhìn lại phía sau, mọi người hầu hết đều há hốc miệng kinh hãi không nói nên lời. Có lẽ Hoàng Đế làm việc rất tùy hứng nhưng hành động sỗ sàng như vậy ngay tại ngự thư phòng, trước mặt đại thần như thế thì đây là lần đầu.

Lão thần Đới Thụy giận đen cả mặt, đầu như bốc khói, gằn giọng mắng:

“Công chúa hòa thân sao? Rõ ràng là hồng nhan họa thủy của Tùy Khâu đưa đến mê hoặc Hoàng Thượng thì có!”

Lưu Thiên cười nhạt, sự khách sáo nửa vời ban nãy đã chẳng còn:

“Về thân phận, Hòa phi nương nương là đại công chúa Tùy Khâu. Về địa vị, nàng ấy là nhất phẩm hoàng phi của Hoàng Thượng. Đới đại nhân là thần tử, lại đi nói những lời như vậy thật quá phận rồi.”

Đới Thụy nghe xong càng giận:

“Ngươi…”

Lưu Thiên giữ nguyên vẻ mặt cười cợt, nói tiếp:

“Lại nói, như thế nào là “hồng nhan họa thủy”? Đát Kỷ phá Trụ, Tây Thi diệt Ngô. Hai người ấy xưa nay nổi danh hồng nhan họa thủy chẳng sai. Nay Hoàng Thượng sủng ái Hòa phi nương nương, Đới đại nhân lại gọi nàng ấy bốn chữ hồng nhan họa thủy, chẳng khác nào ví Hoàng Thượng với bọn hôn quân Trụ Vương, Phù Sai cả!”

Mồm mép Lưu Thiên còn trơn tru hơn Triệu Đức phi. Đới Thụy lăn lộn quan trường mấy mươi năm, nhưng chung quy là người trung nghĩa, cương trực thẳng thắn, về khoản đấu võ mồm thật không sánh bằng Lưu Thiên, bị Lưu Thiên nói cho mấy câu đã giận đến cơ mặt co giật. Đới Thụy không bị Hoàng Đế chém chết nhưng chưa biết chừng sẽ bị Lưu Thiên chọc tức chết.

Vị gọi Đới Thụy là ngoại tổ phụ nhìn cảnh này, vội vàng chen vào giữa, đỡ lấy Đới Thụy:

“Ngoại tổ phụ, đừng đôi co với hạng đạo sỹ thối tha này làm gì!”

Cảnh tượng hỗn loạn sau lưng làm ta sợ run, càng cố sức bám chặt lấy cổ Hoàng Đế, chỉ sợ hắn nghe những lời kia sẽ nổi giận mà quay lại chém sạch mấy người bọn họ. Hành động này của ta hình như lại khiến Hoàng Đế hiểu lầm. Hắn nghiêng đầu, khẽ áp vào má ta, thì thầm:

“Đừng để tâm đến mấy lão già đó.”

Thì ra hắn nghĩ ta vì mấy lời này mà đau lòng.

Ta cắn môi, khẽ lắc đầu.

Hoàng Đế mang ta đi xa dần. Khung cảnh hỗn loạn kia cũng dần thu nhỏ lại. Xa xa, ta thấy Lý Thọ và Tô Trường Tín chạy vào, có vẻ như khuyên giải Đới Thụy gì đó. Khoảng cách quá xa, ta không còn nghe được bọn họ nói gì.

***

Điều khiến ta bất ngờ là sau khi mang ta vào trong Noãn các, Hoàng Đế lại để ta ngồi lên bệ cửa sổ. Chỗ này không cao lại làm bằng gỗ nguyên khối vững chắc, không có gì đáng sợ, nhưng ngược lại, thái độ của Hoàng Đế mới là thứ khiến ta chẳng thể yên lòng.

Hắn đứng sát trước mặt, hai tay vẫn còn ôm ngang thắt lưng ta. Chỉ đứng như vậy mà không nói gì cả, hẳn là đang nhìn ngắm khung cảnh bên ngoài. Ta lại không thể nhìn thấy biểu cảm trên mặt hắn, không biết hắn nghĩ gì, cảm thấy thế nào, chỉ có thể đoán già đoán non.

Noãn các yên lặng như tờ, thoang thoảng mùi hương dạ lan ấm áp. Cửa sổ này của Noãn các hướng ra một hoa viên nhỏ, nổi bật nhất là thảm cỏ xanh mướt tầm mắt, chỉ điểm xuyết vài chậu hoa cúc nhỏ đủ màu sắc, đơn giản hơn bất cứ hoa viên của bất cứ cung điện nào. Thứ âm thanh duy nhất tồn tại là tiếng gió lùa cây cỏ sau lưng ta từ bên ngoài cửa sổ truyền vào và tiếng nhịp tim của ta và Hoàng Đế.

Sự tĩnh lặng này làm đầu óc vốn đang căng như dây đàn của ta thư thái trở lại. Những chuyện vừa qua như những hạt châu rơi vãi tung tóe trong đầu ta, giờ đây dần dần xâu kết lại. Nghĩ qua một lượt, ta mới nhận ra ban đầu mình đã nhận định sai cả rồi.

Tô Trường Tín và Lý Thọ nói cho cùng vẫn chỉ là hai thái giám. Dù Hoàng Đế có trọng dụng hai người bọn hắn đến đâu cũng sẽ không chấp nhận bọn hắn làm ra chuyện như vậy. Bọn hắn có thể là những tên nô tài trung thành nhưng không phải là kẻ ngốc đâm đầu tìm cái chết. Hành vi của Lý Thọ và Tô Trường Tín nhất định có liên quan đến Hoàng Đế. Có lẽ là Hoàng Đế chỉ thị hoặc là ngầm tỏ ý như vậy.

Hoàng Đế không muốn giết Đới Thụy cho nên muốn tìm người đến phá rối, để hắn có cớ tha cho Đới Thụy. Nhưng nếu từ đầu hắn đã không muốn giết Đới Thụy vậy cần gì phải làm ra như vậy? Vở kịch này hắn muốn diễn cho ai xem? Là Triệu Tướng, Liễu Thái phó hay Hà Thái sư? Hắn rốt cuộc đang mưu tính cái gì?

Đây đều là những câu hỏi không có lời giải. Ta không phải quân vương một nước, đã không biết chính trị lại không thật sự hiểu thời thế, cho nên không cách nào lý giải được. Ta chỉ biết Hoàng Đế muốn diễn vở kịch hôn quân vô đạo, lại muốn có người hợp tác cản trở, ta đã giúp hắn hoàn thành tâm nguyện ấy. Vở kịch này ta đã phối hợp với hắn vô cùng tốt. Bấy nhiêu đã là đủ rồi.

Ở nơi này, nếu nói đến chỗ dựa, ta hẳn chỉ có mình Hoàng Đế mà thôi. Vinh sủng đều do hắn mà có, vậy chỉ cần dựa vào hắn, thuận theo ý hắn là được. Nghĩ nhiều mà làm gì?

“Này, nàng rủ trẫm đi chơi cơ mà? Sao lại ngẩn ra đấy?”

Hoàng Đế đột ngột lên tiếng.

Ta hơi giật mình, thầm nghĩ không phải là do hắn đứng ngẩn ra trước hay sao?

“Thần thiếp bêu xấu rồi.”

Ta cúi đầu, lợi dụng khoảng cách gần mà tì trán vào ngực Hoàng Đế, cố tỏ ra thân mật một chút.

Thật ra đây cũng là một câu thật lòng. Dựa và tuổi tác và dung mạo của ta, làm nũng như vậy chẳng khác nào tự diễu cợt mình. Cho dù là vì tự cứu mạng mình thì hành động này cũng quá mức khó coi. Mai này truyền ra ngoài, ta sẽ còn nhiều ngày tháng không dễ chịu.

Hoàng Đế bật cười, đưa tay xoa xoa đầu ta:

“Có cái gì mà bêu xấu? Trẫm thích là được, phải không?”

“Dạ.”

Hoàng Đế v**t v* tóc ta, nói tiếp:

“Sao hả? Nếu không có thứ gì vui, trẫm sẽ đi đọc tấu chương đấy.”

Ta nghĩ nghĩ một lát rồi đáp:

“Hoàng Thượng thích làm gì, thần thiếp bồi Hoàng Thượng.”

Hoàng Đế buông tay, xoay người ngồi lên bậc cửa sổ cạnh bên ta, ra chiều ngẫm nghĩ:

“Trẫm xưa nay, ngoại trừ mỹ nhân ra… thì thích nhất là ngâm thơ, hoặc là chơi cờ. Nàng biết cái nào?”

Trên trán của ta, một giọt mồ hôi lạnh không biết từ khi nào đã xuất hiện một cách thần bí. Ta không phải mỹ nhân, không biết ngâm thơ, càng không biết chơi cờ. Hoàng Đế sao không biết chuyện này, hắn nói như thế rõ ràng là làm khó ta.

“Thần thiếp… không biết cái nào cả.”

Ta ngượng ngùng đáp.

Hoàng Đế trêu ghẹo người khác thành công, cười đắc ý:

“Như vậy nàng biết cái gì?”

Ta lại cúi đầu, lục lọi trí nhớ. Ta biết đá cầu, chọi dế, đánh bạc, bắn chim… và vô số trò thú vị hơn ngâm thơ, chơi cờ nhiều. Nhưng những trò này ta lại không có gan rủ Hoàng Đế chơi cùng.

“Sao lại ngẩn ra nữa rồi?”

Hoàng Đế thấy làm khó được ta, càng thích ý, đưa tay nhéo mũi ta một cái. Ta giật mình, buột miệng đáp:

“Thần thiếp biết đánh đàn.”

Ngay lập tức, vẻ đắc ý trên mặt Hoàng Đế biến mất không còn dấu vết. Ta cười thầm trong lòng. Nhóc con, muốn khó dễ ta sao?

“Hôm trước Tạ tiểu thư vừa dạy thần thiếp khúc nhạc gì đó… ừm, cái gì mà Trường Tương Tư đó… Thần thiếp cảm thấy khúc nhạc này rất ý nghĩa nên ngày đêm luyện tập, vẫn mong có cơ hội đàn cho Hoàng Thượng nghe…”

Lời vừa dứt, sắc mặt Hoàng Đế chuyển thành cứng đơ. Quả nhiên hắn vẫn chưa quên ngón đàn kinh thiên động địa của ta hôm đó.

“Thôi, thôi…” Hoàng Đế phẩy tay. “Hôm nay trẫm không có hứng nghe đàn…”

“Không nghe đàn, vậy làm gì bây giờ?” Ta tròn xoe mắt nhìn Hoàng Đế.

“Thật ra… trẫm đang định rủ nàng đi xem một chỗ…”

Hoàng Đế cười cười lấp l**m cho qua chuyện. Không đợi ta phản ứng, hắn đã nhảy xuống đất, đồng thời kéo ta đi một mạch khỏi Noãn các.

“Hoàng Thượng, chúng ta đang đi đâu vậy?”

“Đến đó nàng tự sẽ biết.”

***

Nơi thần bí mà Hoàng Đế nói đến ấy thực chất là một gian phòng khuất phía sau Noãn các. Vẻ ngoài của nó hoàn toàn bình thường hệt như mọi gian phòng khác. Điểm đặc biệt duy nhất có lẽ là chiếc biển gỗ sơn son treo trên cửa chẳng có lấy một nét chữ nào. Gian phòng này không có tên, như vậy nghĩa là nó cũng không tồn tại trong sự quản lý của Nội Thị giám.

Nơi này có lẽ là thế giới riêng của Hoàng Đế chăng?

“Tự vào đi!”

Hoàng Đế đẩy ta đến trước hai cánh cửa đóng kín bằng một bộ dạng vô cùng khoái chí, thậm chí còn đôi phần háo hức của một đứa trẻ đang khoe khoang món đồ chơi yêu thích.

Ta lấm lét đặt tay lên cửa, khẽ đẩy một cái, thầm cầu mong cho trong này đừng xuất hiện một con hổ hay một con mãnh thú gì đó. Tính cách Hoàng Đế cổ quái như vậy, ai biết được thứ đồ chơi yêu thích của hắn sẽ là cái gì.

Cánh cửa gỗ nặng nề hé mở.

Trái với lo sợ của ta, bên trong cũng chỉ là một căn phòng thông thường, tạm thời chưa có gì cái nguy hiểm nhảy ra cả.

Ta đưa mắt nhìn Hoàng Đế, thấy hắn vui vẻ gật đầu mới dám chậm chạp tiến vào.

Gian phòng rộng rãi thoáng đãng, ngay chính giữa bày một lò hương lớn, khói từ lò hương lan tỏa trong không khí mang mùi hoa dạ lan. Bởi vì căn phòng được đóng kín cho nên mùi dạ lan vốn nồng ấm càng thêm đậm lại. Ta không hiểu sao Hoàng Đế lại thích loại hương nồng như vậy. Có hai chiếc bàn hình chữ nhật bày dọc theo chiều dài gian phòng, bên trên bàn ngổn ngang đủ loại đồ gỗ, cỡ lớn có tượng quan âm, la hán; cỡ nhỏ có tượng thỏ, mèo, gà…; thậm chí có cả những món như trâm, lược… Cùng với đó là vô số dao, cưa, đục đủ mọi kích thước, trong góc phòng còn chất mấy khối gỗ chưa xẻ, trông hệt như một xưởng mộc đích thực.

Cảnh tượng này làm ta vô cùng kinh ngạc. Con người nóng nảy như Hoàng Đế mà lại có sở thích khắc gỗ, lại còn làm ra được những thứ tỉ mỉ như vậy. Bước đến bên cạnh bàn, ta thấy có đến hơn mười cây trâm gỗ kích thước, kiểu dáng giống như đúc, đều khắc một đóa sen nở rộ. Nhưng đến khi cầm lên nhìn kĩ lại mới rõ, những cây trâm này hẳn đều là bản khắc bị lỗi, bởi độ dài ngắn của những cánh hoa không tương đồng. Chỉ hơi sai lệch một chút, dù cho không xấu cũng vẫn bỏ đi làm lại từ đầu.

Hoàng Đế thì ra là người cầu toàn như vậy.

“Thấy thế nào?”

Hoàng Đế không biết đã đến cạnh ta tự lúc nào.

“Thần thiếp thực bất ngờ.”

Ta mỉm cười, dời mắt nhìn bao quát những phần còn lại của gian phòng. Phía bên trong còn có một giá sách lớn và một thư án ngay ngắn gọn gàng. Cạnh đó là một chiếc sạp gỗ nhỏ và một bàn trà xinh xắn. Ở phần vách tường giữa thư án và sạp gỗ treo một bức tranh lớn.

Từ thời khắc ta nhìn thấy bức tranh kia, ánh mắt ta dường như bị nó hút lấy không sao dứt ra được. Từng bước tiến đến gần, đường nét trên bức tranh dần trở nên sắc sảo. Trái tim ta trong phút chốc lỗi một nhịp.

Mỹ nhân trong tranh đứng giữa bạt ngàn phù dung như mây hồng. Nàng không đứng nhìn chính diện về phía trước mà hơi nghiêng người, đầu hơi ngoảnh lại, nụ cười trên môi như ẩn như hiện, khiến người ta không rượu cũng phải say. Nhìn nàng, ta bất giác nghĩ tới Liên Nhạc. Lại nhớ lời Ngọc Thủy nói, Liên Nhạc vì có vài phần giống Lê Hiền phi cho nên mới được sủng ái. Lòng ta chấn động, nói như vậy mỹ nhân trong tranh này có lẽ chính là vị Lê Hiền phi, Lê Khiết đó.

Nhìn kỹ, quả thật Liên Nhạc cũng chỉ giống Lê Khiết được vài phần mà thôi. Ở hai người có một điểm tương đồng lớn chính là khí chất thanh tao, đường nét ưu nhã hiếm thấy. Nhưng Liên Nhạc lại quá mức rụt rè, quá mức mong manh. Ánh mắt của Liên Nhạc không có được thần thái ung dung tự tại như Lê Khiết. Dáng vẻ của Liên Nhạc cũng không có sự phóng khoáng mà tự nhiên của Lê Khiết. Trước khi nhìn thấy dung mạo Lê Khiết, ta từng cho rằng Liên Nhạc là tuyệt đại mỹ nhân. Nhưng hôm nay tận mắt nhìn thấy Lê Khiết, dù chỉ còn là một bức tranh bất động, thì ta cuối cùng cũng ngộ ra Liên Nhạc rốt cuộc vẫn chỉ như hoa đăng buổi đêm, có đẹp, có sáng, có động lòng người nhưng vĩnh viễn không thể so sánh được với mặt trời chói lọi ban ngày.

Chuyện này cũng không thể trách Liên Nhạc. Nàng xuất thân không cao, chỉ là một ca cơ phiêu dạt chân trời góc bể. Còn Lê Khiết sinh ra trong nhung lụa, xuất thân và giáo dưỡng đã bồi đắp nên một ngạo khí hơn người. Vẻ đẹp của nàng thanh thoát như tiên, rực rỡ như mặt trời. Một cái ngoảnh đầu, một nụ cười hư ảo cũng đủ in sâu vào lòng người, khiến người ta choáng ngợp, giống như người mù lâu năm được phép tiên chữa lành đôi mắt, lần đầu nhìn thấy ánh sáng mặt trời vậy.

Bên góc dưới bức tranh, ở phần đề từ là hai câu thơ:

Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh

Lục cung phấn đại vô nhan sắc. (1)

Nét chữ đầy nội lực, ta vừa nhìn đã nhận ra của Hoàng Đế tự tay viết.

Bất giác, ta nhớ tới một ngày xa xưa khi ta còn rất nhỏ, mẫu thân vẫn chưa bị phụ hoàng ruồng rẫy. Hôm ấy, phụ hoàng xuất cung, mẫu thân và ta không đi theo được. Ta quanh quẩn chơi bên cạnh mẫu thân, thấy người chăm chú vẽ tranh bèn nhấc cái ghế nhỏ đến bên án thư để trèo lên nhìn trộm. Mẫu thân vẽ một người nam tử vô cùng anh tuấn, khí phách hơn người, ta nhìn một lần liền nhớ mãi không quên. Ta nghĩ mẫu thân vẽ phụ hoàng để thỏa lòng mong nhớ, nhưng phụ hoàng của ta bụng to, trán hói, thân mình rất béo, không hề anh tuấn thần võ như người trong tranh. Ta đem thắc mắc này hỏi mẫu thân, người bèn cười nói:

“Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi.”

Nhìn nụ cười ngọt ngào, ánh mắt say đắm của mẫu thân khi ấy, ta cho rằng đây là dáng vẻ của phụ hoàng khi người mới gặp mẫu thân. Đó là phụ hoàng ngày xưa khiến mẫu thân rung động. Hóa ra phụ hoàng của ta từng có lúc tuấn tú như vậy.

Ta rất thích tranh mẫu thân vẽ, nhưng đáng tiếc là mẫu thân vẽ xong chỉ nhìn một lát rồi châm lửa đốt ngay. Ta hỏi, mẫu thân chỉ đáp khẽ:

“Người trong lòng, để trong lòng là được.”

Thực lòng, ta cảm thấy mẫu thân nói gì cũng đúng cả. Ví như câu “Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi” kia chẳng hạn.

Bức tranh Hoàng Đế tự tay vẽ Lê Khiết này, chỉ cần nhìn vào liền biết người vẽ nó có lòng như thế nào mới có thể vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ sống động đến nhường này. Nếu hắn không thật lòng yêu thích Lê Khiết thì cho dù Lê Khiết có mỹ mạo đến dường nào thì cũng không thể vẽ nên một bức tranh đẹp được.

Nghĩ đến đây, lòng ta bất giác thấy chua xót.

Ta cho rằng bất cứ nữ nhân nào đứng trước người con gái này sẽ đều cảm thấy chua xót như vậy. Bởi vì nàng ấy sinh ra đã cao quý hơn người, dung mạo tựa thiên tiên, lại có được trái tim Hoàng Đế, ai sẽ không ganh tị với một người như vậy?

Hoàng Đế lấy hiệu là Quang Nhật, quả thực chỉ có nữ tử rực rỡ như ánh mặt trời này mới xứng được sánh vai cùng hắn mà đứng trên thiên hạ.

Chỉ đáng tiếc, hồng nhan bạc mệnh. Ai mà ngờ được số phận của người con gái ấy lại thảm thương như vậy, cả nhà bị chém đầu, bản thân lâm bệnh, cuối cùng mệnh đoản. Thật khiến người ta nghĩ đến mà đau xót.

Nữ tử như vậy nếu khi xưa đừng nhập cung, liệu bây giờ sẽ có cuộc sống như thế nào?

Hậu cung này không biết đã từng chôn bao nhiêu đóa hồng nhan?

Vì đâu nên nỗi này?

Những nữ tử tốt đẹp như thế vì sao không thể có cuộc sống tốt đẹp?

Nghĩ phận người lại nhớ phận mình, cuộc sống của ta sau này liệu sẽ ra sao?

Ý nghĩ ấy làm mắt ta nóng lên. Ta không dám nhìn thêm nữa, bần thần quay đầu lại thì đã thấy Hoàng Đế đứng cạnh từ khi nào.

“Nàng ấy rất đẹp, đúng không?”

Hoàng Đế chắp tay sau lưng, hỏi bằng chất giọng nhẹ tênh, như thể đó đã là một câu khẳng định, không cần ai trả lời. Dù vậy, ta vẫn gật gật đầu:

“Dạ phải.”

“Nàng biết không, trẫm nghĩ hậu cung này thật sự là một nơi ăn thịt người đấy.”

Hoàng Đế vẫn giữ nguyên tư thế đứng, ánh mắt cũng chẳng rời bức tranh trên tường. Ta không biết hắn đột ngột nói vậy là có ý gì nên tạm thời im lặng chưa đáp. Hắn dường như cũng chẳng đợi ta đáp, thản nhiên nói tiếp:

“Nếu không một nha đầu vốn khỏe mạnh, hoạt bát như thế… vì sao vừa đến đây hơn một năm liền hóa thành đau bệnh liên miên, ốm yếu đoản mệnh như vậy?”

Hoàng Đế gọi Lê Khiết là “nha đầu” một cách hết sức bình dị, như thể một nam tử bình thường gọi yêu thanh mai trúc mã. Trong lòng Hoàng Đế… Lê Khiết quan trọng như vậy sao?

Ta ngẩn người, không biết nói gì:

“Hoàng thượng…”

Hoàng Đế vẫn chẳng để tâm đến ta, cứ chầm chậm nói:

“Mỗi ngày trẫm đều đứng ở đây để nhìn nàng ấy… Trẫm luôn luôn lo sợ, đến một ngày nào đó, trẫm sẽ quên mất nàng ấy… quên mất dáng vẻ của nàng ấy… nụ cười của nàng ấy… Như vậy nàng ấy nhất định sẽ rất giận trẫm… Nên mỗi ngày trẫm đều phải nhìn nàng ấy thật kĩ…”

Giọng nói của Hoàng Đế vẫn vậy, nhẹ nhàng, bình thản, thậm chí còn có phần thành thực cùng day dứt…

Thường ngày, bộ dạng của hắn nếu không phải là nổi giận đùng đùng thì là cười cợt buông thả. Ta chưa từng nhìn thấy hắn thành thực như thế cho nên bất giác hoảng hốt.

Hoàng Đế đứng ngay bên cạnh ta, chỉ cần ta hơi nghiêng người qua là có thể chạm vào vai hắn. Thế nhưng không hiểu sao lại có cảm giác xa cách ngàn trùng. Cứ như thể người đang đứng ở đây là một người hoàn toàn xa lạ. Người này rất yếu đuối, rất chân thật, không hề ra vẻ, cũng không diễn trò. Ta muốn nói gì đó với hắn, nhưng lại không biết phải nói gì.

Có lẽ ta đã dao động.

Nhưng dao động ấy chỉ là một khắc ngắn ngủi, lí trí đã kéo ta về lại thực tại. Hắn lạ lùng như vậy, càng khiến ta lo lắng không yên.

Vì sao hắn lại nói với ta những lời này?

Hắn với ta đâu phải tri kỷ, tâm sự này lẽ ra hắn không nên để lộ trước mặt ta. Là một phút yếu mềm buột miệng hay là còn dụng ý gì khác?

Ta vẫn luôn nghĩ Hoàng Đế thực lòng yêu thương Lê Khiết, nhưng những lời tình cờ ban nãy đã làm niềm tin ấy lung lay.

Người ở trong lòng, để trong lòng là đủ.

Giọng mẫu thân lại vang lên bên tai ta.

Phải, người ở trong lòng thì lúc nào cũng sẽ ở trong lòng, làm thế nào có thể quên đi cho được? Nếu trong lòng Hoàng Đế thật có Lê Khiết làm sao phải lo sợ một ngày sẽ quên mất nàng ta?

Lại nói đến bức tranh kia, quả thật từng đường nét đều được vẽ tỉ mỉ bằng cả tấm lòng.

Nhưng… phù dung sớm nở tối tàn.

Ai sẽ lại vẽ loài hoa đẹp mà bạc mệnh ấy lên bức tranh người mình yêu mến?

Cả hai câu thơ đề từ bên dưới…

Hồi đầu nhất tiếu bách mị sinh

Lục cung phấn đại vô nhan sắc.

Đây đúng là hai câu thơ đẹp, nhưng nguồn gốc của nó lại chẳng đẹp chút nào. Tranh vẽ người mình yêu, sao có thể dùng “Trường Hận Ca” làm đề từ?

Hoàng Đế đối với Lê Khiết như vậy… Thực có thể gọi là yêu sao?

______________

(1) Dịch thơ:

Một cười trăm vẻ thiên nhiên

Sáu cung nhan sắc thua hờn phấn son

(Trích Trường Hận Ca – Bạch Cư Dị)
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 35



Thành thực mà nói thì ta là một kẻ xui xẻo: mẫu thân mất sớm, phụ hoàng không yêu thương, mặt mũi tầm thường, học tài tệ hại. Tiếng là đại công chúa một nước lớn nhưng ta lại sống chẳng khác gì một đứa trẻ đầu đường xó chợ, bị mẫu hậu ghét bỏ cho nên mãi không gả đi được, đến lúc gả được thì lại gả ngay cho một tên Hoàng Đế nhóc con ốm yếu tính cách chẳng ra làm sao.

Cái số của ta lúc nào cũng đen đủi như thế, nhưng hôm nay ta phải nói là một ngày vô cùng, vô cùng đen đủi, rất có thể là một trong những ngày đen đủi nhất trong hai mươi năm cuộc đời ta. Mới buổi sáng đã bị Lý Thọ ném vào trong Ngự Thư phòng làm nền cho Hoàng Đế diễn kịch, ta cứ nghĩ mình may mắn làm tốt rồi thì sự đen đủi của ngày hôm nay sẽ chấm dứt, nhưng thật không ngờ tới vận rủi chẳng chịu rời ta một li.

Vốn đang yên lành cùng Hoàng Đế đứng ngắm tranh mỹ nhân, chẳng hiểu thế nào Hoàng Đế lại nổi hứng muốn vẽ cho ta một bức tranh chân dung. Hắn nhiệt tình như vậy, ta mà từ chối thì chẳng khác nào bảo mình không cần cái đầu này nữa. Huống hồ chi được Hoàng Đế vẽ tranh chính là một loại ân sủng to lớn mà không phải ai muốn cũng được.

Vì vậy, ta phải tận hưởng, tận hưởng, tận hưởng…

Ta cứ tự nhủ như vậy, nhưng ân sủng này quả là dài, ta tận hưởng mãi mà không hết. Đã hai canh giờ trôi qua, thân thể ta vì ngồi yên một chỗ không được cử động nên đã cứng đờ, vậy mà Hoàng Đế vẫn còn một tay chống cằm, một tay cầm bút lông. Cứ hạ một nét rồi dừng lại suy tư gì đó một lúc sau mới hạ thêm nét nữa.

Trước kia, ta cứ tưởng phạt quỳ đã là gian khổ lắm rồi, nhưng nay ngồi yên cho Hoàng Đế vẽ mới biết, quỳ gối chưa đáng là bao. Bị phạt quỳ, ít ra khi mỏi còn có thể nhúc nhích, đung đưa qua lại hoặc rũ người xuống cho đỡ mệt, thậm chí nếu không có người canh gác, ta còn có thể ngủ gà gật. Còn việc ngồi làm mẫu này chẳng những không thể nhúc nhích mà đến chớp mắt còn bị bắt phải hạn chế, ngứa cũng không được gãi, chỉ cần hơi động đậy là Hoàng Đế lại gắt lên, dọa xé tranh đi vẽ lại từ đầu. Ta cứ đờ ra như tượng gỗ suốt mấy canh giờ, toàn thân tê cứng không còn cảm giác giống như sắp hóa thành tượng thật.

“Hoàng thượng… sắp xong chưa?”

Ta mấp máy môi hỏi, giọng khàn cả đi vì khát nước.

Hoàng Đế ngước lên nhìn ta, tủm tỉm cười:

“Sắp rồi.”

Ta đã hỏi câu “sắp xong chưa” đến lần thứ hai mươi thì Hoàng Đế cũng đáp “sắp rồi” bấy nhiêu lần. Sắp rồi, sắp rồi, sắp rồi… Sắp sắp cái đầu nhà ngươi!

Tự nhiên ta có cảm giác Hoàng Đế đang báo thù việc ta đem tiếng đàn ra dọa hắn ban nãy. Nhất định là như vậy.

Hoàng Đế chết tiệt.

Lại thêm không biết bao lâu trôi qua, khi ta tưởng như mình đã hóa đá mất rồi, thì Hoàng Đế hạ bút nghe “cạch” một tiếng xuống thư án, vui vẻ nói:

“Xong rồi.”

Trong lòng ta reo lên một tiếng, tra tấn lâu như vậy cuối cùng cũng xong.

“Này, lại đây xem đi. Không phải nãy giờ nàng nôn nóng lắm sao? Đừng có ngồi ngẩn ra đó chứ!”

Hoàng Đế cười đến sáng lạn, hào hứng vẫy gọi ta.

Cái gì mà ngẩn ra? Là người ta bị tê cứng rồi mới phải. Nhưng lệnh vua không thể cãi, ta chỉ có thể gắng gượng lê thân người tê dại, cứng đờ đi về phía Hoàng Đế như một con rối gỗ. Có lẽ dáng đi của ta lúc này rất quái đản, ta thấy Hoàng Đế hình như đang cố nén cười.

Chật vật đến được bên cạnh Hoàng Đế, ta phải vịn vào thư án mới đứng vững được.

Nữ tử trong tranh vừa quen thuộc, vừa xa lạ. Tóc đen như mực, da trắng như tuyết, dung mạo ôn hòa, tuy không xinh đẹp rực rỡ nhưng lại có nét dịu dàng, điềm đạm đáng yêu. Cũng mắt, cũng mũi, cũng miệng ấy không sai một li, nhưng đi vào trong tranh lại hóa thành mềm mại yểu điệu. Bức tranh này rõ ràng là vẽ ta, nhưng lại chẳng giống với hình ảnh mà ta vẫn thấy mỗi khi soi gương.

Hoàng Đế thay một cây bút khác, chấm mực rồi cẩn thận viết xuống phần đề từ hai dòng chữ:

Tự tòng nhất kiến khanh khanh hậu

Trần thế giai nhân tổng thị vô. (1)

Ta không hiểu hàm nghĩa sâu xa của mấy chữ này, nhưng đại ý thì vẫn nắm được. Ta chẳng phải mỹ nhân cho nên Hoàng Đế không dùng loại thơ ca ngợi mỹ nhân làm đề từ cho ta. Có điều… ta cảm thấy hai câu này dù không tán tụng dung nhan, mỹ mạo gì đó, nhưng so ra lại có tâm ý hơn nhiều. Lòng ta chợt như có dòng suối ấm áp chảy qua. Hắn… thật sự coi trọng ta như vậy sao?

“Hoàng Thượng… thiếp đâu có tốt như vậy?”

Ta bần thần mãi, không biết nên nói gì, cuối cùng lại buột miệng hỏi một câu như vậy.

Hoàng Đế nắm lấy tay ta kéo lại gần hắn, dịu dàng đáp:

“Tình nhân trong mắt hóa Tây Thi.”

Cùng một cảnh tượng, cùng một câu nói, tất cả giống hệt với kí ức của ta thuở bé. Sự trùng hợp đến trớ trêu ấy như một tia sét đánh mạnh vào cái đầu đang ngây ra của ta. Ta chăm chú nhìn Hoàng Đế, bàn tay mát rượi của hắn vẫn đang nắm chặt tay ta, đôi môi hắn vẫn đang mỉm cười hết sức dịu dàng, ánh mắt hắn vẫn trong trẻo, thản nhiên và tĩnh lặng, hoàn toàn không có sự ngọt ngào say đắm như mẫu thân ngày trước.

Dòng suối ấm áp đang chảy qua lòng ta bỗng chốc hóa thành sông băng lạnh lẽo. Ta vươn tay làm như hoảng hốt ôm lấy cổ Hoàng Đế, nghẹn ngào nói:

“Hoàng thượng có thể nói với thiếp như vậy… thiếp vui lắm…”

Hoàng Đế phì cười, vỗ về lưng ta:

“Ngốc thật! Trẫm chỉ nói với nàng một câu, làm gì mà lại cảm động như vậy?!”

Ta yên lặng không đáp, chỉ một mực ôm chặt Hoàng Đế. Bởi vì ta sợ nếu ta không ôm lấy hắn thế này, hắn sẽ nhìn thấy mặt ta, sẽ nhìn thấy sự chán ghét cùng bất mãn trong mắt ta.

Chỉ một khắc trước, ta đã cảm thấy Hoàng Đế thực ra cũng không đến nỗi tệ. Ta đã nghĩ thích hắn một chút thì cũng chẳng sao. Nhưng lúc này ta cuối cùng cũng ngộ ra.

Một câu nói tình ý thắm thiết, vậy mà khi nói ra ánh mắt lại chẳng có lấy một chút si mê. Có lẽ những lời như thế hắn nói đã thành quen miệng rồi. Có lẽ hắn rốt cuộc cũng giống phụ hoàng của ta thôi.

Lời nói của đế vương lúc nào nghe cũng có vẻ đáng tin như thế. Chỉ cần tin rồi là sẽ giống như mẫu thân cả đời trầm mê, vạn kiếp bất phục. Ta không thể đi vào con đường đó. Cho nên Hoàng Đế này… ta không thể thích hắn, một chút cũng không được.

***

Dùng ngọ thiện xong, Hoàng Đế nghỉ trưa còn ta thì ôm bức tranh hắn vẽ lững thững ra về. Người che ô tiễn ta ra cổng là Miên Duệ. Vết bỏng trên tay nàng ta đã đỡ rất nhiều, chỉ còn lại một vài vệt da sậm màu hơn mà thôi. Ta nhớ Ngọc Nga từng nói cám gạo xay có thể dưỡng trắng da, bèn bảo Miên Duệ:

“Bản cung nghe nói cám gạo xay dưỡng da rất tốt. Ngươi tìm một ít về pha với nước sạch, hai ngày thoa tay một lần, tin rằng không bao lâu tay sẽ đẹp như cũ.”

Miên Duệ ngẩn ra, lắp bắp:

“Nương nương… lâu như vậy rồi… chuyện nhỏ như vậy… người vẫn nhớ sao?”

Ta nhíu mày:

“Sao có thể không nhớ? Bản cung cũng chưa đến nỗi lẩn thẩn như vậy.”

Miên Duệ nhìn ta, cảm kích đáp:

“Đa tạ nương nương thương xót…”

Ta gật đầu với nàng, cũng không nói thêm nữa.

Thực ra ở chỗ ta có không ít cao dưỡng da, cho Miên Duệ một hộp cũng không phải chuyện khó. Nhưng lần trước ta đã cho nàng thuốc trị bỏng, nếu bây giờ lại đưa thêm e sẽ khiến người khác nhòm ngó, chẳng may dèm pha đến tai Hoàng Đế khiến hắn nghĩ ta mua chuộc người ở chỗ hắn thì càng phiền phức. Hơn nữa cao dưỡng da ở chỗ ta đều là quà của Hoàng Hậu và Trịnh phi tặng, giá trị không nhỏ. Nếu để ai đó phát hiện Miên Duệ dùng thứ đắt giá như vậy, đối với Miên Duệ không phải là việc tốt. Vậy nên ta chỉ có thể nhắc nàng ta dùng cám gạo. Công dụng không thể so sánh với cao dưỡng da đắt tiền nhưng cám gạo chẳng đáng mấy xu, trong cung cũng dễ kiếm. Một cung nữ dùng thứ như vậy là tốt nhất.

Ra đến cổng ta liền gặp Ngọc Nga đang che ô đứng sẵn.

“Chủ nhân!” Ngọc Nga mừng rỡ chạy đến giương ô che nắng cho ta.

Đợi Miên Duệ đi khuất rồi, ta mới hỏi Ngọc Nga:

“Ô này ngươi lấy ở đâu? Người ở Cát Tường điện cho ngươi sao?”

Ngọc Nga lắc đầu:

“Người ở Cát Tường điện đâu có ai thèm nhìn đến nô tỳ. Cái ô này là do một vị đại nhân cho nô tỳ đấy.”

Ta tò mò hỏi:

“Vị đại nhân nào? Vì sao lại cho ngươi?”

Ngọc Nga lại tiếp tục lắc đầu:

“Nô tỳ cũng không biết. Sau khi chủ nhân vào đó một lúc thì các vị đại nhân cũng ra về. Nô tỳ sợ mình cản đường các vị đại nhân nên đứng nép vào một góc. Lúc đó, có một vị đại nhân trông rất cao lớn tiến tới hỏi nô tỳ có phải là đang đứng đợi Hòa phi nương nương không, sau khi nô tỳ trả lời thì ngài ấy đưa chiếc ô này cho nô tỳ. À phải, suýt chút nô tỳ quên mất, ngài ấy còn bảo nô tỳ chuyển lời đa tạ Hòa phi nương nương.”

Ta kinh ngạc nghĩ, lẽ nào là vị cháu ngoại của Đới Thụy? Vì sao lại đa tạ ta? Hắn nghĩ ta đến cứu ngoại tổ phụ của hắn?

“Chủ nhân, như vậy là sao ạ? Có phải nô tỳ đã làm sai gì không ạ?” Ngọc Nga hoang mang hỏi.

“Không có gì, chúng ta đi thôi.”

Ta thở dài, khoác tay nàng rời đi, vừa đi vừa kể sơ qua sự tình.

Ngọc Nga nghe xong, liếc nhìn bức tranh cuộn tròn trên tay ta, lo lắng hỏi:

“Chủ nhân, vậy bây giờ phải làm sao đây?”

Ta ngẩng đầu nhìn bầu trời đương còn nắng chói chang:

“Đi Triêu Lan cung.”

“Chủ nhân, sao lại đi Triêu Lan cung? Bây giờ là giờ nghỉ trưa, e là Hoàng Hậu đã ngủ rồi.”

“Không đâu, Hoàng Hậu nhất định là đang đợi bản cung.”

Nói đoạn quay sang Ngọc Nga:

“Ngươi vẫn chưa ăn trưa đúng không? Dù sao cũng đứng nắng cả buổi rồi, ngươi hãy về ăn trưa nghỉ ngơi chút đi. Bản cung đi một mình cũng được, nếu có gì cần sẽ nhờ người gọi ngươi sau.”

Ngọc Nga nghe vậy liền giãy nảy, lắc đầu nguầy nguậy:

“Sao có thể thế được? Nô tỳ không đói, không mệt, nô tỳ sẽ đi cùng chủ nhân!”

Ta bật cười, vốn cũng biết nàng sẽ phản ứng như vậy, bèn lần tay áo lấy ra một gói giấy đưa cho nàng:

“Thế thì cho ngươi cái này.”

Ngọc Nga tò mò cầm lấy, nhưng một tay phải cầm ô nên chật vật mãi mà không mở được. Ta đành giúp nàng. Bên trong gói giấy là một cái bánh bao nhân thịt chim trĩ hầm. Lúc dùng thiện, tranh thủ khi Hoàng Đế chăm chú nghe Tô Trường Tín bẩm báo gì đó, ta liền lấy trộm cất đi, để dành cho Ngọc Nga.

Ngọc Nga cầm cái bánh bao trên tay, hai mắt rưng rưng:

“Đã xảy ra nhiều chuyện như vậy… mà chủ nhân vẫn nhớ đến nô tỳ…”

Ta tặc lưỡi, nói cho qua chuyện:

“Mau ăn đi thôi. Đừng để đến Triêu Lan cung mà đói ngất ra đấy thì mất mặt bản cung lắm!”

“Vâng ạ.”

Ngọc Nga sụt sùi đáp, ngoan ngoãn ăn bánh, không nói thêm nữa.

Ài, sao bọn họ đều cho rằng trí nhớ của ta kém như thế nhỉ? Chẳng lẽ ta thật sự rất già rồi sao?

Đến Triêu Lan cung, quả như ta nghĩ, Hoàng Hậu vẫn chưa nghỉ trưa. Nàng như thường lệ truyền ta vào phòng nghỉ.

Trong phòng đặt hai chậu băng lớn mát rượi. Hoàng Hậu mặc một chiếc váy dài mỏng manh, dáng vẻ yêu kiều, nằm nghiêng người trên sạp loan phượng, trông như sắp ngủ vậy. Vừa nhìn thấy ta mặt đầy sợ hãi đi vào, Hoàng Hậu ngồi bật dậy, tỏ vẻ kinh ngạc:

“Nguyệt nhi đấy à? Có việc gì mà lại đến vào lúc này?”

Ta trao lại bức tranh cho Ngọc Nga đứng bên ngoài, còn mình thì chạy nhào đến bên chân Hoàng Hậu, hoảng hốt nói:

“Tỷ tỷ… không xong rồi… muội… muội gây ra họa lớn rồi…”

Đây là lần đầu tiên ta gặp Hoàng Hậu mà không hành lễ. Nàng chưa thấy ta hoảng đến luống cuống như thế bao giờ, càng ngạc nhiên hơn, vội đỡ ta ngồi lên cạnh nàng, vừa sửa sang lại mấy sợi tóc bay tán loạn trước trán ta, vừa hỏi:

“Xem bộ dạng của muội kìa! Chuyện gì mà sợ hãi như vậy? Có gì từ từ nói.”

Ta níu lấy cánh tay Hoàng Hậu như người đuối nước gặp khúc cây trôi, run rẩy kể lại toàn bộ sự tình, dĩ nhiên là cũng có điều chỉnh theo hướng có lợi cho bản thân một chút.

Ban đầu ta có hơi băn khoăn không biết đem chuyện này nói với Hoàng Hậu liệu có làm hỏng chuyện của Hoàng Đế hay không, vì dù sao Hoàng Hậu vẫn là người họ Hà. Nhưng nghĩ lại, nhân mạch của Hoàng Hậu trong cung dầy đặc, Tô Trường Tín và Lý Thọ lại cùng ta tranh cãi trước Ngự Thư phòng lâu như thế thì làm sao không đến tai Hoàng Hậu kia chứ?

Đúng như ta nghĩ, giờ này mà Hoàng Hậu chưa ngủ thì chỉ có thể là chờ ta đến. Nếu lúc này ta mà không hoảng loạn chạy đến cầu cứu Hoàng Hậu, tin rằng ngày mai liền gặp họa. Mặt khác, từ khi đến đây, ta vẫn luôn dựa dẫm Hoàng Hậu, chuyện này không ai là không biết. Có chuyện lớn xảy ra, ta sao có thể không bẩm báo với nàng. Hoàng Đế chắc hẳn phải hiểu rõ ta sẽ không thể giấu giếm Hoàng Hậu. Hắn chẳng phải loại người nông cạn, nếu đã lường trước việc ta không thể kín miệng mà vẫn chọn ta thì chắc chắn hắn đã có tính toán cả rồi. Ta bây giờ chỉ cần lo chỗ Hoàng Hậu cho êm đẹp thôi.

Hoàng Hậu nghe ta kể xong, chau mày nói:

“Lý Thọ không ngờ to gan như vậy.”

Ta dùng ánh mắt hoang mang nhìn nàng:

“Tỷ tỷ, muội cho rằng Lý Thọ không có cái gan đó… chuyện này e là có ẩn tình…”

Hoàng Hậu dịu dàng mỉm cười, siết tay một cái:

“Bất luận là ẩn tình gì, hôm nay muội cũng đã làm được một việc tốt cho Bách Phượng. Đừng suy nghĩ nhiều.”

Ta thăm dò không được gì, đành bỏ ý định, đi thẳng vào vấn đề quan trọng nhất:

“Muội sao dám không suy nghĩ. Hôm nay muội đã làm ra việc vô phép như thế… Lão Phật gia nhất định sẽ không hài lòng…”

Hoàng Hậu đứng dậy rót cho ta một ly trà, bình thản nói:

“Lão Phật gia thường ngày rất ít khi quản chuyện hậu cung. Hơn nữa Hoàng Thượng là thiên tử, người không trách tội muội thì tức là muội không làm sai. Lão Phật gia luôn nể mặt Hoàng Thượng.”

Ta đón lấy ly trà bằng cả hai tay, vẫn tỏ ra bất an:

“Nhưng còn những người khác…”

Hoàng Hậu cười khẽ:

“Có tỷ tỷ ở đây, muội không cần phải sợ. Cùng lắm thì ta phạt muội một chút gì đó cho có là được.”

Ta thở phào nhẹ nhõm:

“Đa tạ tỷ tỷ.”

Đã biết là tội sống khó thoát, nhưng có lời này của Hoàng Hậu, ta có thể yên tâm rồi. Chỉ hi vọng nàng sẽ không phạt bổng lộc thôi.

Tâm trạng thoải mái, ta và Hoàng Hậu bắt đầu tán chuyện linh tinh. Nói đến bức tranh Hoàng Đế vẽ cho ta, Hoàng Hậu vậy mà chẳng mở lời muốn xem, chỉ cười cười trêu ta:

“Muội có phúc lắm đấy. Xưa nay Hoàng Thượng mới chỉ vẽ tranh chân dung cho ba người thôi.”

Ta hiếu kì hỏi:

“Là những ai thế ạ?”

“Lão Phật gia, ta và muội.”

Lòng ta chết điếng.

Như vậy… Hoàng Hậu không hề biết về bức tranh vẽ Lê Hiền phi. Cũng có thể nói là nàng không biết đến hoặc chí ít là chưa từng bước chân vào căn phòng đó. Mà từ đây cũng có thể kết luận rằng không có bao nhiêu người được Hoàng Đế cho phép vào, nếu không chuyện bức tranh Hiền phi sao lại không đến tai Hoàng Hậu? Hay là Hoàng Hậu đang thử ta, xem ta đã vào căn phòng đó chưa nhỉ?

Hôm nay thật sự có quá nhiều chuyện đau đầu rồi. Bất luận Hoàng Hậu thật sự không biết hay giả vờ không biết thì ta vẫn cảm thấy may mắn vì ban nãy chỉ kể qua loa, vẫn chưa nói hớ ra, nếu không lại càng thêm phức tạp. Ta bây giờ mặc dù vui vẻ trò chuyện với Hoàng Hậu, nhưng thật tâm chỉ muốn trở về Cẩm Tước cung êm ấm của mình mà thôi.

***

Thời khắc rời khỏi Triêu Lan cung chính là lúc ta cảm thấy hạnh phúc nhất. Ngọc Nga cũng như ta, đều muốn trở về nhà càng nhanh càng tốt nên luôn miệng hối thúc những thái giám khiêng kiệu.

Kiệu về đến gần Cẩm Tước cung, bỗng nghe Ngọc Nga hoảng sợ nói:

“Chủ nhân… trước cổng cung… có chuyện gì đó…”

Nói năng ấp úng không đầu không đuôi, ta cũng bị nàng dọa cho đứng tim.

“Chuyện gì là chuyện gì?”

Ta vén màn kiệu, thầm nghĩ rốt cuộc đã về đến cửa nhà, còn việc gì có thể khiến Ngọc Nga hoảng lên như thế. Thái giám khiêng kiệu thấy ta có ý muốn bước xuống, lập tức nhanh nhẹn đỡ lấy.

Vừa ra khỏi kiệu, ta liền biết hôm nay mình nhất định đã bị sao quả tạ chiếu trúng. Đúng là về đến cửa rồi vẫn chưa thoát được kiếp nạn.

“Chủ nhân… Lý công công sao lại…”

Ngọc Nga một tay giương ô che nắng cho ta, một tay đỡ lấy ta, nhưng nhìn là thấy nàng còn run rẩy hơn ta nhiều.

Đúng vậy, thứ trước mắt chúng ta chính là tấm lưng vĩ đại của Lý Thọ.

Lý công công quyền lực nhất nhì Nội Thị giám hiện đang nghiêm trang quỳ gối trước Cẩm Tước cung. Lưng áo hắn ướt đẫm mồ hôi, xem chừng đã quỳ ở đấy rất lâu rồi. Đứng bên cạnh Lý Thọ là Ngọc Thủy, Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử.

Ta nghiến răng nghiến lợi, cố đè nén cơn giận mà đi về phía trước, ung dung cất tiếng:

“Lý công công đang làm gì thế này?”

Bọn người Ngọc Thủy vừa nghe tiếng ta liền mừng rỡ chạy ra nghênh đón:

“Chủ nhân về rồi!”

Lý Thọ cũng hơi xoay người lại, chắp tay thỉnh an:

“Nô tài bái kiến Hòa phi nương nương.”

Lúc này ta mới thấy, Lý Thọ không chỉ đơn giản là quỳ trước cửa nhà ta, mà dưới chân hắn còn có một tấm Thiết Hối, khiến cho ta hơi kinh ngạc.

Thứ gọi là Thiết Hối này thực chất là một tấm phản đúc bằng sắt, dày độ năm phân, bề mặt gồ ghề lởm chởm, kích thước vừa đủ cho một người quỳ lên. Khi quỳ lên, những gai sắt đủ hình dạng này sẽ đâm vào đầu gối gây đau đớn gấp mấy lần so với chỉ quỳ dưới đất. Vì Thiết Hối là một khối sắt đặc, cho nên nhiệt độ sẽ tùy theo thời tiết mà biến đổi rất lớn. Quỳ trên Thiết Hối, trời lạnh sẽ lạnh thấu xương như quỳ trên nước đá, trời nóng sẽ cháy da cháy thịt như quỳ trên chảo lửa. Vậy nên mới nó mới được gọi là Thiết Hối – quỳ ở trên nó, không ai là không hối hận.

Ngày trước, ta đã từng nếm qua hương vị của Thiết Hối, đến bây giờ nhìn thấy vẫn còn ớn lạnh. Lý Thọ dám mang cả Thiết Hối đến đây quỳ, thành ý quả là sâu sắc.

“Lý công công sao lại quỳ ở đây?” Ta tỏ vẻ kinh hãi, bước nhanh đến muốn nâng Lý Thọ.

Lý Thọ cúi gầm mặt, dáng vẻ vô cùng khổ sở:

“Bẩm nương nương, nô tài đến thỉnh tội với nương nương.”

“Thỉnh tội gì chứ? Mau mau đứng lên thôi! Trời nắng thế này, lại còn quỳ trên cái thứ đáng sợ đó… chân ngài sẽ hỏng mất thôi!”

Nói đoạn lại quay sang trách Ngọc Thủy:

“Các ngươi cũng thật là! Sao có thể để Lý công công quỳ như thế?”

Ngọc Thủy vội phân trần:

“Chúng nô tỳ đã khuyên can nhiều lần, nhưng Lý công công vẫn khăng khăng quỳ ở đó thỉnh tội với chủ nhân…”

Bởi vì thân phận của Lý Thọ cho nên bọn Ngọc Thủy chỉ dám khuyên can chứ không dám có hành động gì, khuyên không được cũng chỉ đành đứng đó cùng chịu trận. Lý Thọ này đúng là đã diễn quá nhập tâm rồi. Hắn muốn thỉnh tội thì cứ thỉnh tội, có biết bao nhiêu cách, sao nhất thiết phải chọn cách khoa trương như vậy?

“Thôi được rồi…” Ta mệt mỏi tựa vào Ngọc Nga. “Bản cung không trách tội ngài đâu, ngài mau đứng dậy vào trong bôi thuốc…”

“Không thể thế được… Nô tài tội đáng chết…”

Sự thái quá của Lý Thọ đã đẩy sự chịu đựng của ta tới giới hạn. Ta thở hắt ra:

“Bản cung biết ngài cũng có chỗ khó xử, làm sao lại đi trách ngài? Chúng ta đều là người hầu hạ Hoàng Thượng, vốn dĩ không cần làm khó nhau như thế.”

Ý tại ngôn ngoại. Lý Thọ thông minh, một lời như vậy cũng đủ rồi. Nói xong, ta quay sang Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử, ra lệnh:

“Hai người các ngươi còn đứng đó làm gì? Không mau đỡ Lý công công vào trong?”

Có câu này của ta, Tiểu Phúc Tử và Tiểu Minh Tử nhanh như cắt tới cạnh Lý Thọ, mỗi người một bên, dứt khoát xách Lý Thọ lên, tha vào trong cung, không để cho hắn có cơ hội lằng nhằng thêm nữa.

Ngọc Thủy nhìn ta, ngập ngừng hỏi:

“Chủ nhân, nên làm gì với Lý công công đây?”

Ta cười lạnh, nghiến răng nói rõ từ chữ một:

“Ngươi đi vào đắp thuốc cho hắn. Nhớ, xoa bóp vết thương thật cẩn thận vào. Đừng để Hoàng Thượng nghĩ ta bạc đãi Lý công công.”

____________

(1) Dịch: Kể từ lần đầu gặp được nàng thì mọi gian nhân trên đời này coi như không còn nữa.

(Đoàn Dự, Thiên Long Bát Bộ – Kim Dung)
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 36



Việc ta đi náo loạn Ngự Thư phòng chẳng những không bị phạt mà lại còn được ân sủng đặc biệt chẳng mấy chốc đã lan ra khắp hoàng cung. Để yên lòng chúng phi, Hoàng Hậu mở phượng khẩu phạt ta chép hai mươi lần Nữ Huấn. Ta nghe vậy mà lấy làm vui mừng, thật không uổng công lúc đó đội nắng đi tìm Hoàng Hậu khóc lóc. Chuyện lớn như vậy mà chỉ phải chép phạt, ngay cả bổng lộc cũng không trừ chút nào dĩ nhiên có nhiều người không phục, nhưng không phục thì cũng chẳng làm gì được. Ví như Dương Quý cơ, dù trong lòng bức bối thế nào thì cũng chỉ dám lén lút nói ra nói vào sau lưng. Hoặc như Tĩnh Tu dung, mỗi lần nhìn thấy ta, hai mắt đều b*n r* sát khí kinh người, nhưng nàng ta mới được khẩu dụ sắc phong, ấn tín cùng thánh chỉ vẫn chưa cầm được trong tay mà chỗ dựa là Triệu Đức phi vẫn còn bị cấm túc nên chẳng có gan mở miệng nói đúng sai.

Cả Thái Hậu cũng không để ta đợi quá lâu. Ngay sau khi ta vừa lĩnh phạt hai mươi lần Nữ Huấn thì Khâm cô cô liền tới nơi truyền lời của Thái Hậu:

“Khởi bẩm Hòa phi nương nương, Lão Phật gia xem xong kinh Phật của nương nương chép lần trước thì rất hài lòng, muốn nhờ nương nương chép hộ ba mươi bản kinh Hồng Danh này. Thời gian không gấp, nương nương thong thả.”

Phượng ý truyền xong, Khâm cô cô lập tức cáo lui không để cho ta có cơ hội thăm dò chút gì. Ta cầm quyển kinh mẫu mà Khâm cô cô để lại lên xem thử, vừa lật vài trang lòng đã rét run lên. Hồng Danh là kinh sám hối.

Dù Khâm cô cô nói thời gian không gấp nhưng đã thấy ý tứ của Thái Hậu rõ ràng như vậy, ta làm sao còn dám thong thả. Cả Hoàng Hậu lẫn Thái Hậu đều không thể chậm trễ, cuối cùng ta chỉ biết cắm cúi chép phạt cả ngày. Từ sáng sớm tinh mơ, ngoại trừ lúc ăn uống tắm rửa và hai canh giờ ngủ mỗi đêm còn lại đều dành thời gian chép phạt. Ta vốn thuận tay trái nên tay phải yếu hơn nhiều, chữ càng viết càng xấu, còn cổ tay thì mỏi nhừ đến nỗi cầm ly trà cũng run run.

Ngọc Thủy vừa bóp tay cho ta vừa xót xa nói:

“Cứ thế này thì chủ nhân làm sao chịu nổi… hay để nô tỳ đi mời Lâm đại nhân…”

Ta nghe xong vội gạt đi:

“Không thể được. Lão Phật gia vừa có ý để ta chép kinh Phật, ta lại đi mời thái y đến khám cổ tay thì còn ra thể thống gì?”

Tạ Thu Dung có tài giả mạo nét chữ, bèn tỏ ý muốn chép hộ ta một ít, ta cũng từ chối để tránh phiền phức về sau.

Tuy rằng phi tần ai nấy đều sỉ vả ta mặt dày không biết xấu hổ nhưng cũng lại không ít người học tập ta, bắt đầu thêu túi thơm đem tặng Hoàng Đế. Trước kia đã có lệ này, nhưng Hoàng Đế nhận mà không dùng bao giờ. Trên người hắn chỉ đeo túi thơm do chính tay Thượng cung đại nhân làm nên dần dà chúng phi cũng nản lòng. Thế nhưng bây giờ, hắn lại chịu đeo cái túi thơm vụng về của ta mà đi nghênh ngang khắp nơi, mấy ngày vẫn chưa đổi cái khác, khiến cho toàn thể hậu cung ngộ được chân lý: Hoàng Đế của bọn họ chỉ ưng ý những hình thêu kì quái. Thành thử người người đều bận rộn may vá thêu thùa, tính ra cũng vất vả không kém gì ta.

Mấy ngày này, vì chủ nhân Cẩm Tước cung phải sáng tối chép phạt, bên ngoài lại có nhiều lời lẽ không hay nên không khí trong cung khá là u ám. Tin tốt lành duy nhất tới từ lá thư nhà của Tạ Thu Dung.

Nghe nói vị Doãn công tử kia vào một ngày đẹp trời bị người ta bắt gặp đang trêu đùa góa phụ trong một con hẻm phía nam kinh thành. Tin tức này khiến dân chúng hết sức hoang mang, thiên hạ nửa tin nửa ngờ. Bởi vì Doãn công tử kia trong mắt dân chúng luôn là quân tử đường đường chính chính, sao có thể đi trêu ghẹo nữ nhân, lại còn là góa phụ? Nhưng bọn họ chẳng phải nghi ngờ quá lâu bởi vì một ngày đẹp trời khác, thanh lâu nức tiếng kinh thành Cửu Hương lầu bỗng nhiên bị cháy. Giữa thanh thiên bạch nhật, ngọn lửa quái ác không biết từ đâu bốc lên bao trùm toàn bộ tây các – nơi Cửu Hương lầu dành riêng cho khách quý hạng nhất. Giữa lúc dân chúng tụ tập bên ngoài giúp chữa lửa, một nam nhân từ lầu cao tây các, xuyên qua lửa đỏ rừng rực nhảy xuống một cách oai dũng. Dân chúng nhận ra ngay đấy chính là Doãn công tử, chỉ là không hiểu nổi vì sao công tử vốn có tiếng đoan chính lại nhảy ra từ lầu xanh trong tình trạng thân không mảnh vải như thế. Đương lúc Doãn gia còn đang đau đầu tìm cách cứu vớt danh tiếng của công tử nhà bọn họ thì một buổi sáng tinh mơ, trong khắp mọi ngõ ngách kinh thành bỗng nhiên xuất hiện vô số cáo thị kể tội Doãn Hi, tờ nào tờ nấy dài như tấu sớ, dân chúng đọc đến đâu liền như được giác ngộ đến đấy. Hóa ra Doãn công tử lại là người như thế! Hoàng thành yên ắng lâu nay bỗng nhiên bùng lên một phen tiếu thoại, một người nói cho mười người, mười người nói thành trăm người, trăm người nói khắp cho muôn họ. Doãn gia cực chẳng đã phải đi cậy nhờ đến cả Triệu gia, nhưng Triệu gia đang phiền lòng việc Triệu Đức phi gặp họa trong cung nên chẳng có tâm trí giúp đỡ nhiều, thành ra tiếng xấu của Doãn công tử cứ đồn đi mãi, không sao dập tắt được. Tạ Ngự sử nghe tin này lấy làm kinh hãi, vội vàng sai người chở sính lễ đi trả không sót thứ gì. Ngay cả nhà hôn thê tương lai còn bỏ của chạy lấy người như thế, thanh danh của Doãn công tử phút chốc chẳng còn gì.

“Thật không ngờ dì ta lại lợi hại như vậy!”

Tạ Thu Dung cầm lá thư của Lữ phu nhân đọc đi đọc lại mấy lần, lần nào cũng cười đến nắc nẻ.

Hành sự không chút kiêng dè, lại gọn gàng sạch sẽ thật khiến người ta tâm phục khẩu phục.

Ta nói: “Kể ra thì Lữ phu nhân cũng hơi mạnh tay, may mà Doãn Hi biết chút võ công nếu không thì đã cháy đen trong Cửu Hương lầu rồi.”

“Chắc hẳn dì đã tính toán cả rồi. Đáng đời tên khốn kiếp đó! Để xem sau này còn có tiểu thư nhà nào dám gả vào Doãn gia.”

Tạ Thu Dung đắc ý mắng một hơi, lưu luyến đọc lại thư thêm một lần nữa rồi mới châm lửa đốt.

Nhìn lá thư báo tin thắng lợi nằm trong chậu đồng đang từ từ cháy thành tro, ta bần thần nghĩ đến một điểm khác:

“Dung nhi, Doãn Hi coi như xong rồi. Sau này ngươi có dự tính gì chưa?”

Tạ Chính Minh vốn chỉ muốn tìm một mối hôn sự có lợi cho ông ta, cho dù không phải là Doãn Hi thì cũng sẽ có người khác, chưa biết chừng còn tệ hại hơn. Lữ phu nhân xử lý được một Doãn Hi, nhưng cũng không thể giúp Tạ Thu Dung cả đời.

Tạ Thu Dung không hề ngạc nhiên khi nghe ta hỏi, nàng bình thản mỉm cười:

“Chuyện này ta cũng đã nghĩ qua… Ta chẳng thể ở Cẩm Tước cung này mãi mãi, cũng không thể cứ dựa dẫm vào dì. Cho nên ta đã quyết định sẽ vào Thượng Cung cục. Trở thành nữ quan rồi, ngoại trừ Hoàng Thượng ra, không ai có thể quyết định hôn sự của ta nữa.”

Lời này của nàng ngược lại khiến cho ta kinh ngạc:

“Muốn vào Thượng Cung cục phải trải qua một quá trình rèn luyện rất dài, cung nữ nhập cung làm việc ít nhất ba năm mới được tuyển vào. Ngươi làm thế nào vào được?”

Tạ Thu Dung thong thả đáp:

“Thượng nghi của Ti Chế phòng vừa qua đời tháng trước, một số nữ quan hầu hạ Thượng nghi không cẩn thận cũng bị giáng tội. Lại thêm qua chuyện vừa rồi của Đức phi, rất nhiều cung nữ bị trả lại Ti Thiết phòng, những nữ quan từng dạy dỗ bọn họ đều bị liên lụy. Cả Ti Chế phòng và Ti Thiết phòng đều bị thiếu thốn nhân lực trầm trọng. Thượng Cung đại nhân đã thỉnh ý Hoàng Thượng, xin được mở một kì thi đặc biệt để tuyển chọn người tài, bù đắp cho Ti Chế phòng và Ti Thiết phòng. Tất cả nữ tử đều có quyền tham dự, chỉ cần vượt qua tuyển chọn thì sẽ được thu vào làm việc. Hôm qua ta đã đến Thượng Cung cục ghi danh rồi.”

Tạ Chính Minh vốn muốn đào tạo Tạ Thu Dung trở thành một nữ tử thập toàn thập mỹ để lấy lòng đế vương, vậy nên nàng không chỉ có kiến thức uyên thâm mà ngay cả thêu thùa, may vá, nấu ăn đều tinh thông. Kì thi này đúng là cơ hội trời cho, tin rằng Tạ Thu Dung sẽ lọt qua vòng tuyển chọn mà không gặp khó khăn gì. Chỉ là… làm nữ quan ở cục Thượng Cung không giống cung nữ bình thường, phải đến hơn ba mươi tuổi mới được xuất cung. Nếu như làm việc tốt, vừa ý các vị chủ nhân thì không biết còn bị giữ lại đến khi nào. Như vậy tuổi xuân còn gì nữa?

Ta cầm tay Tạ Thu Dung, nghiêm túc nói:

“Ngươi đã nghĩ kĩ chưa? Lẽ nào không muốn gả đi nữa sao?”

Tạ Thu Dung cũng khẽ nắm lấy tay ta đáp lại. Nụ cười trên khóe môi nàng chợt trở nên buồn bã:

“Ta đã hết cách rồi, Nguyệt nhi à. Dựa vào thân phận của ta và dã tâm của phụ thân ta… Ta thật sự không thể có một mối hôn sự tốt. Ngày trước, còn có mẫu thân, ta còn phải cố gắng làm phụ thân vui lòng. Bây giờ, mẫu thân đi rồi, ta hà tất lại để phụ thân lợi dụng nữa? Phụ thân luôn cho rằng thứ nữ như ta chỉ đáng làm đá lót đường cho ông, vậy thì ta sẽ cho ông thấy Thu Dung này cũng có thể một mình làm nên đại sự. Nguyệt nhi, ngươi là bằng hữu duy nhất của ta, ta không ngại nói cho ngươi biết, ta sẽ không làm nữ quan cả đời. Mười năm, hai mươi năm, thậm chí nhiều hơn nữa, một ngày nào đó, ta sẽ trở thành Thượng Cung đại nhân.”

Đôi mắt huyền của Tạ Thu Dung sáng rực quyết tâm. Ta biết nàng không nói đùa.

Ta thở dài, lẳng lặng nhìn Tạ Thu Dung một hồi mới cất lời:

“Dung nhi, con đường đó sẽ rất gian nan. Thượng Cung cục chẳng phải nơi yên bình. Chỉ một sai sót nhỏ cũng có thể khiến ngươi mất mạng.”

Tạ Thu Dung nhoẻn cười, vô tư đáp:

“Ta không sợ. Ở trong cung, thỉnh thoảng ta có thể gặp ngươi, hơn nữa biết đâu còn có thể giúp đỡ ngươi. Nếu có một ngày ta trở thành Thượng Cung đại nhân rồi, ta sẽ che chở cho ngươi.”

Lời lẽ của Tạ Thu Dung quá mức chân thành, chân thành đến độ ngây thơ, mà lại khiến ta rơi lệ.

Ta đưa tay gạt đi mấy giọt nước mắt đang lăn dài trên má, nửa đùa nửa thật nói:

“Đến lúc ngươi thành Thượng Cung đại nhân rồi, chẳng biết ta có còn sống hay không.”

Tạ Thu Dung lấy khăn tay đưa cho ta, trịnh trọng đáp:

“Nhất định là còn. Cả ta và ngươi, chúng ta nhất định sẽ sống thọ trăm năm. Chúng ta hãy cùng nhau cố gắng. Hậu cung này một ngày nào đó sẽ là thiên hạ của chúng ta.”

***

Vất vả suốt ba ngày liền đã chép xong cả Nữ Huấn lẫn kinh Hồng Danh, ta thật sự cảm thấy mình rất phi thường. Phía Hoàng Hậu, ta giao Nữ Huấn cho Ngọc Thủy mang nộp, còn bản thân thì cùng Ngọc Nga đưa kinh Hồng Danh đi Thuận Ninh cung.

Lần thứ hai bước chân vào Thuận Ninh cung vẫn là một loại tâm trạng lo lắng bất an quấn lấy ta. Trong đầu ta không ngừng tưởng tượng ra đủ loại tình huống có thể xảy ra, đồng thời trù tính biện pháp đối phó.

Người đón chúng ta vào là Khâm cô cô. Nàng lúc nào cũng mang một vẻ mặt bình thản, không nóng không lạnh, đủ cung kính nhưng chẳng có chút bợ đỡ hèn mọn nào khiến người ta chẳng thể nào đoán được gì. Nữ tử này ngày xưa cũng từng có lúc là một tiểu cung nữ. Bao năm thăng trầm chìm nổi, rốt cuộc đã trải qua những chuyện như thế nào mới có thể tôi luyện được khí chất như vậy? Ta thầm nghĩ, nếu bên cạnh mình mà có một người như thế thì tốt biết bao nhiêu.

Mải nghĩ ngợi, ta không nhận ra mình đã dừng chân trước Phật đường của Thuận Ninh cung từ lúc nào.

“Lão Phật gia đang tụng kinh, nếu nương nương không ngại thì có thể cùng ngồi nghe kinh.”

Khâm cô cô lễ phép làm động tác mời. Ta gật đầu đáp lại nàng một tiếng rồi nâng váy chậm rãi bước vào trong.

Phật đường không rộng lắm, khi ta vén màn đi sâu vào bên trong liền phát hiện nơi gọi là Phật đường này vốn chỉ là một căn phòng nho nhỏ, chính giữa bày một bàn thờ có hai tầng, tầng cao đặt tượng Quan Âm ngồi trên đài sen, bên dưới là vài cái bài vị không tên, chẳng biết thuộc về ai.

Thái Hậu ngự giữa Phật đường phía trước bàn thờ. Bà không quỳ mà ngồi duỗi chân trên một tấm bồ đoàn rất dày. Nghe nói bà có bệnh khớp kinh niên, đầu gối từ lâu đã không thể co lại được nữa. Từng làn khói xám mỏng manh tỏa ra từ chiếc lư hương trên bàn thờ như quấn lấy bóng lưng Thái Hậu, làm ta bất giác cảm thấy bà mới cô độc làm sao.

“Bởi vì không sở đắc, mới là Bồ Tát, gọi đủ là Bồ Đề Tát Đõa, nương nơi trí Bát Nhã để xét soi, mới đạt qua bên ngàn giác kia. Vì nương nơi Bát Nhã để quán chiếu, nên tâm không quái ngại; bởi tâm chẳng ngần ngại, nên chẳng có e sợ, xa lìa các điều điên đảo mộng tưởng, rốt ráo quả Niết Bàn…”

Giọng Thái Hậu hơi khàn, đều đều vang lên, mang theo phong vị xa xăm hư ảo. Ta nhận ra bà đang tụng kinh Hồng Danh sám hối.

Đảo mắt nhìn quanh, ta nhận ra ngoại trừ tấm bồ đoàn mà Thái Hậu đang ngồi thì mặt đất hoàn toàn trống trải, Khâm cô cô cũng đã rời đi tự bao giờ. Ta chợt hiểu ra ý tứ của Thái Hậu, bèn tiến lại phía sau bà, lặng lẽ điều chỉnh váy áo rồi quỳ xuống.

Ta từng nghe nói Thuận Ninh cung ngày xưa vốn là nơi ở của Phượng Triều Hoàng Hậu thời Thái Tổ. Phượng Triều tính rất sợ nóng, Tống Thái Tổ đã vì bà mà xây nên Thuận Ninh cung này, bốn bề đều làm từ loại cẩm thạch đặc biệt, chống nóng vô cùng tốt. Ngay cả sàn nhà cũng được làm từ một khối cẩm thạch hoàn chỉnh, cho nên dù đang là mùa hạ ta vẫn có thể cảm nhận được từng cơn lạnh buốt xuyên qua da thịt, truyền thẳng vào khớp gối của mình. Ban nãy khi quỳ xuống, ta đã cố tình lựa thế xếp váy thành mấy lớp ngay chỗ đầu gối tiếp xúc với sàn nhà để ngăn bớt cái lạnh, thế nhưng y phục mùa hè khá mỏng thành ra cũng chẳng chống đỡ được bao nhiêu.

Phía trước mặt ta, Thái Hậu vẫn tụng kinh đều đều, một lần, hai lần, lại ba lần kinh… Đến lúc đầu óc ta trở nên mông lung, không nhớ nổi đã đọc đến lần kinh thứ mấy thì Thái Hậu đột nhiên đứng dậy, như hơi ngạc nhiên:

“Hòa phi đấy à?”

Ta giật mình, vội vàng cúi lạy:

“Thần thiếp Hòa phi bái kiến Lão Phật gia!”

Thái Hậu ừm một tiếng, vẫy tay bảo ta đứng dậy. Khâm cô cô nghe tiếng Thái Hậu nói, liền vội vàng đi vào đỡ lấy bà, cùng trở về Uyển các nghỉ ngơi. Ta thấy vậy cũng phải nhịn đau, tập tễnh đi theo.

Uyển các là nơi nghỉ của Thái Hậu, ta chẳng dám nhìn ngó lung tung, chỉ có cảm giác nơi này bày biện hết sức giản dị. Khâm cô cô đỡ Thái Hậu ngồi lên chiếc ghế quý phi bên cửa sổ, sau đó lui xuống pha trà. Trong phòng chỉ còn lại mình ta và Thái Hậu. Ta không biết nên nói gì, cũng không biết bà sẽ nói gì với mình, nên chỉ biết cúi đầu đứng một bên.

Thái Hậu chợt nói:

“Ai gia nhờ Hòa phi chép hộ mấy bản kinh Hồng Danh, không ngờ Hòa phi lại chép nhanh như thế.”

Ta vội đáp:

“Bẩm, Lão Phật gia không chê thần thiếp chữ nghĩa tệ hại đã là phước phần của thần thiếp, thần thiếp chỉ biết cố gắng hết mình.”

Thái Hậu nhẹ nhàng trở mình, nở nụ cười:

“Vậy Hòa phi có biết vì sao ai gia lại bảo ngươi chép kinh Hồng Danh không?”

Hai bên thái dương đã bắt đầu đổ mồ hôi lạnh, ta hít sâu một hơi, lễ phép đáp:

“Thần thiếp ngu muội, mong Lão Phật gia chỉ dạy.”

Thái Hậu điềm đạm mỉm cười, nhưng trong ánh mắt chẳng có lấy một tia vui vẻ, bà cất giọng:

“Ngày Tiên Đế còn tại thế, trong hậu cung có một vị Chiêu nghi họ An. Nàng ta rất được Tiên Đế sủng ái, từng có lúc quấn quýt bên cạnh Tiên Đế như hình với bóng. Tiên Đế đi đâu cũng mang nàng ta theo, thậm chí cả khi vào Ngự Thư phòng duyệt tấu chương cũng để nàng ta ở bên châm trà mài mực.”

Nói đến đây, Thái Hậu dừng lại, ngẩng đầu nhìn ta. Mồ hôi bên thái dương của ta vã ra càng lúc càng nhiều, nhưng ta nào dám đưa tay lau, chỉ cúi đầu ra vẻ lắng nghe. Thái Hậu thấy vậy, bèn nói tiếp:

“Ngày ấy An thị còn trẻ, có rất nhiều hành động nông nổi. Tiên Đế nhân từ chẳng trách tội nàng ta. Nhưng An thị ỷ sủng sinh kiêu, càng ngày càng trở nên quá đáng, đến cả chuyện triều chính cũng dám xen vào làm liên lụy nhiều người, cuối cùng chọc giận Tiên Đế. Ai gia nhớ ngày An thị bị lôi đi xử trảm cũng là một ngày cuối hạ như thế này… Thực đáng tiếc, An thị đó cũng là một nữ nhân thông minh, chỉ là quá mức kiêu ngạo mà quên đi bổn phận, cuối cùng rước họa diệt thân. Cứ mỗi năm đến độ này, ai gia lại nhớ đến An thị cho nên mới thay nàng ta tụng mấy lần kinh sám hối, hi vọng có thể giúp nàng ta giảm bớt tội lỗi, sớm phần siêu độ.”

Ánh mắt Thái Hậu đột ngột trở nên sắc bén, hoàn toàn trái ngược với vẻ ngoài hiền hậu thường ngày. Tấm áo xám mộc mạc trên người bà cũng vì vậy mà trở nên lạc lõng. Giây phút ấy ta lập tức hiểu được, “Lão Phật gia” thật ra cũng chỉ là một danh xưng mà thôi.

“Tấm lòng của Lão Phật gia thật hiếm có, thần thiếp vạn phần kính phục.”

Ta mở miệng đáp một câu khách sáo.

Thái Hậu vẫn chăm chú nhìn, ánh mắt bà như một lưỡi dao sắc lẻm phe phẩy trên da mặt ta, như thể chỉ cần ta sơ sẩy một chút lập tức sẽ bị lưỡi dao kia đâm ngập vào da thịt. Thuận Ninh cung mát rượi thế mà thân thể ta không ngừng đổ mồ hôi, đến cả lưng áo cũng ướt đẫm, dính chặt vào da thịt, mang đến một cảm giác lạnh lẽo nhớp nháp.

“Ài… có đáng gì đâu. Ai gia già rồi, người già thường muốn làm việc gì đó có ý nghĩa một chút. Đáng tiếc… thân thể không còn khỏe mạnh, nên lực bất tòng tâm, chẳng làm được gì nhiều.”

Thái Hậu thở dài một tiếng, đưa tay tự bóp đầu gối mình một cái. Ta thấy vậy, nhanh chóng quỳ xuống chân bà, nói:

“Nếu Lão Phật gia không chê thần thiếp tay chân vụng về, xin để thần thiếp giúp người xoa bóp một chút…”

Thái Hậu ừ khẽ một tiếng. Ta liền ngoan ngoãn xắn tay áo xoa bóp cho bà. Đầu gối bà gầy guộc một cách kì quái. Dựa vào độ biến dạng của các khớp xương, ta biết bệnh khớp của bà thật sự không nhẹ.

Vừa mới quỳ xong lại phải tiếp tục quỳ, nếu đầu gối ta mà biết nói thì hẳn nó sẽ đang kêu gào thảm thiết. Trong ba ngày liên tục chép mấy mươi bản kinh văn, cổ tay ta đã mỏi nhừ, bây giờ lại phải dùng lực xoa bóp nên cơn đau càng thêm thê thảm. Thế nhưng lúc này, ta làm gì có quyền than thở, việc ta nên làm chính là cố nhịn đau mà xoa bóp cho Thái Hậu thật cẩn thận.

Bầu không khí tĩnh lặng đến nặng nề ấy chỉ kết thúc khi Khâm cô cô mang trà vào. Thái Hậu nhận trà Khâm cô cô dâng nên, nhẹ nhàng nhấp một ngụm rồi mỉm cười với ta:

“Đây là trà Long Tỉnh mới tiến cung năm nay. Ai gia thấy mùi vị rất vừa miệng, Hòa phi cũng thử xem sao.”

“Tạ ơn Lão Phật gia.”

Khâm cô cô kéo một chiếc ghế nhỏ đến đặt ở bên chân Thái Hậu. Ta nhận trà xong, bèn tạ ơn thêm lần nữa rồi mới ngồi xuống. Cổ tay ta đau đến mức cầm ly trà cũng run rẩy, thành ra chỉ có một ly trà nhỏ mà ta phải kính cẩn cầm bằng cả hai tay.

Suốt từ lúc đó cho đến lúc ta ra về, Thái Hậu không hề đả động gì đến việc ta náo loạn Ngự Thư phòng, cũng không nhắc tới vị Chiêu nghi An thị kia nữa. Toàn bộ thời gian bà chỉ hỏi han những chuyện sinh hoạt thông thường trong Cẩm Tước cung, giống như quan tâm con cháu trong nhà.

Ta nhìn Khâm cô cô ở một bên bóp chân cho Thái Hậu, lại nhớ tới cơn đau ở đầu gối của mình, chợt hiểu ra nữ nhân trong hậu cung rất nhiều người bị bệnh khớp có lẽ vì quỳ gối là một trong những hình phạt phổ biến nhất.

Huệ Từ Thái Hậu có được một ngày phượng lâm thiên hạ như thế này, chắc chắn cũng đã nếm đủ đau thương tủi nhục. Đến bây giờ, dù cho vinh quang vô hạn nhưng một thân bệnh tật, quanh năm bị đau đớn dằn vặt, chuyện cũ như bóng ma ám ảnh, như vậy thực sự vui vẻ sao?
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 37



Mùa mưa ở Bách Phượng bắt đầu muộn hơn ở Tùy Khâu.

Khi ta và Ngọc Nga rời khỏi Thuận Ninh cung cũng là lúc những hạt mưa đầu mùa bắt đầu rơi xuống hoàng cung Bách Phượng. Mưa đầu mùa khá dịu, chỉ lất phất như mưa phùn mùa xuân, vậy nên khi Khâm cô cô mời ta ở lại đợi kiệu đến đón ta vẫn quyết định cùng Ngọc Nga che ô tự trở về. Ra khỏi Uyển các đã xa mà lưng ta vẫn còn mướt mồ hôi lạnh thì làm sao còn có gan lưu lại đấy thêm.

May mắn là Thuận Ninh cung và Cẩm Tước cung không xa nhau lắm, nếu đi tắt qua Ngự hoa viên thì chỉ hết hơn một khắc. Ngự hoa viên là nơi phi tần đi lại nhiều, thường ngày để tránh thị phi, ta rất ít khi lui tới. Có điều lúc này chân ta đang đau, ngại đi đường xa mà trời thì mưa nên tin rằng cũng chẳng có vị mĩ nhân nào lại đi dạo lúc này nên mới phá lệ đi ngang Ngự hoa viên.

Cũng nhờ như vậy ta mới biết câu “oan gia ngõ hẹp” thật sự chẳng sai.

“Mưa gió thế này, Tĩnh Tu dung sao lại ở đây?” Ngọc Nga cau mày, ghé vào tai ta nói khẽ.

Quả thật dưới màn mưa bụi lất phất, Tĩnh Tâm Lan đương đi đi lại lại quanh mấy bụi hoa hải đường, dáng người hơi cúi, ánh mắt tập trung dưới mặt đất như đang tìm kiếm thứ gì đó. Dù trời mưa rất nhẹ nhưng áo nàng ta đã ướt mấy mảng, đủ thấy nàng ta quanh quẩn ở chỗ này đã lâu rồi. Cung nữ thân cận của nàng ta đi theo sát phía sau luôn miệng nói:

“Chủ nhân, chúng ta về thôi, trời mưa càng lúc càng nặng hạt, chủ nhân sẽ bị nhiễm lạnh mất.”

Tĩnh Tâm Lan quắc mắt, quát cung nữ kia:

“Đông Tú, đừng lải nhải nữa! Mau tìm kĩ cho ta! Nhất định là chỉ rơi ở quanh đây thôi!”

Giọng Tĩnh Tâm Lan chua the thé, cung nữ tên Đông Tú sợ rúm người cả người, lí nhí đáp:

“Chưa chắc đã rơi ở đây đâu ạ… Có khi chủ nhân để quên trong phòng hoặc là rơi ở Huệ Đàm cung cũng nên. Hay chúng ta về Huệ Đàm cung tìm kĩ lại một lượt, nếu vẫn không thấy thì tạnh mưa lại đến đây tìm tiếp?”

Tĩnh Tâm Lan đã mất kiên nhẫn, giọng càng lúc càng chua ngoa:

“Ta bảo tìm thì ngươi cứ tìm đi, nhiều lời như vậy để làm gì? Nói cho ngươi biết, hôm nay mà không tìm ra thì ngươi cũng không yên với ta đâu!”

Ta chợt nổi lòng hiếu kì, thực muốn biết Tĩnh Tu dung rốt cuộc đã làm mất thứ gì mà cho dù phải dầm mưa cũng nhất quyết tìm cho bằng được.

Đông Tú bị mắng đến tối mày tối mặt, bèn cắm cúi rẽ bụi hoa tìm kiếm, không dám nhiều lời nữa. Bất chợt, như linh cảm được có người đang quan sát mình, Đông Tú ngẩng đầu lên, tầm mắt phóng thẳng đến chỗ ta và Ngọc Nga đang đứng rồi rất nhanh lại dời trở về bụi hoa dưới chân giống như chưa từng nhìn thấy gì.

Ngọc Nga nắm hờ lấy tay áo ta, nghi hoặc nói:

“Nàng ta rõ ràng đã nhìn thấy chủ nhân, sao dám vờ không thấy? Chẳng lẽ chỉ là một cung nữ mà cũng dám khinh thường chúng ta như vậy?”

Người trong hậu cung dù không coi ta ra gì nhưng cũng còn phải nể mặt Hoàng Hậu, làm gì có chuyện nhìn thấy mà không chào. Hành động của Đông Tú hoàn toàn không đơn giản là khinh thường. Khoảnh khắc ánh mắt ta và Đông Tú chạm nhau chỉ kéo dài trong tích tắc, nhưng ta đã kịp nhìn thấy sự hoảng hốt và lo âu. Đông Tú sợ không dám gặp bọn ta. Như vậy thứ Tĩnh Tu dung làm mất hẳn là vô cùng quan trọng. Rất quan trọng nhưng lại không thể lộ cho người khác biết? Thế thì nhất định là chuyện xấu rồi.

“Đi xem náo nhiệt thôi.”

Ta vịn vào tay Ngọc Nga vui vẻ đi về phía Tĩnh Tâm Lan. Chuyện xấu của Tĩnh Tâm Lan ta không thể không xem cho kĩ.

“Kia chẳng phải là Tĩnh Tu dung sao?”

“A… Hòa phi nương nương…”

Tĩnh Tâm Lan đang lúi húi tìm kiếm đột nhiên nghe tiếng ta thì giật bắn cả người, luống cuống nhún gối hành lễ:

“Nương nương vạn phúc kim an!”

“Nô tỳ bái kiến Hòa phi nương nương!”

Cung nữ Đông Tú còn thảm hơn, nàng ta sợ đến nỗi hai chân khuỵu hẳn xuống, nói là bái kiến, thực chất là nằm rạp cả ra mặt đất, chẳng mấy chốc mà cả người đã dính đầy bùn đất.

Sự hiếu kì trong lòng ta càng trỗi dậy mãnh liệt. Đông Tú sợ đến mức này thì hẳn chuyện xấu của Tĩnh Tu dung cũng không nhỏ chút nào.

“Ấy, không cần đa lễ như thế.” Ta mỉm cười tiến đến nâng Tĩnh Tâm Lan đồng thời cũng ra hiệu cho Đông Tú đứng dậy.

“Đa tạ nương nương. Mưa gió thế này mà nương nương lại có hứng đi dạo ư? Xem kìa, sắc mặt người nhợt nhạt quá, cẩn thận kẻo nhiễm phong hàn đấy!”

Chỉ một chút bối rối thoáng qua, Tĩnh Tâm Lan đã lấy lại phong thái, bình tĩnh cười nói giả lả.

Đã mấy ngày không ngủ đủ, mặt mũi ta tất nhiên là không dễ coi. Ban nãy đi đến Thuận Ninh cung lại càng chẳng dám trang điểm quá nhiều nên lời này của Tĩnh Tâm Lan tuy rằng mỉa mai nhưng cũng là sự thật.

“Đi dạo gì chứ… Bản cung vừa đi thỉnh an Lão Phật gia trở về, trên đường nhìn thấy Tu dung nên ghé lại thôi. Tu dung vì lẽ gì mà lại dầm mưa như thế? Ướt hết cả rồi…”

Ta cười cười, làm như định đưa tay phủi nước mưa trên áo Tĩnh Tâm Lan.

Ngay lập tức, Tĩnh Tâm Lan bất giác lùi lại một bước, vừa khéo tránh tay ta. Bàn tay ta dừng lại trên không trung một chút rồi mới buông xuống, hai mắt mở to nhìn Tĩnh Tâm Lan đầy khó hiểu. Tĩnh Tâm Lan lúc này mới nhận ra mình thất lễ, vội mỉm cười niềm nở:

“Những ngày này nương nương chép nhiều kinh văn, e rằng cổ tay không được thoải mái, nếu lại gặp thêm mưa gió lạnh lẽo, chỉ sợ thành bệnh. Thần thiếp cho rằng nương nương nên sớm hồi cung thôi.”

Ta làm động tác xoa xoa cổ tay, miệng đáp:

“Tu dung có lòng, bản cung vô cùng cảm kích. Có điều… chỉ là một cơn mưa nhỏ không khiến bản cung sinh bệnh được đâu. Ngược lại… bản cung thấy hình như Tu dung đang có điều gì khó xử…”

Thần thái Tĩnh Tâm Lan hơi động nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên:

“Nương nương nghĩ nhiều rồi. Thần thiếp nào có điều gì khó xử.”

Ta tiến lại gần Tĩnh Tâm Lan thêm một bước:

“Vậy sao? Bản cung từ đằng xa đã trông thấy Tu dung hình như đang tìm kiếm vật gì chăng?”

Tĩnh Tâm Lan giật mình, vô thức lùi lại một bước:

“Đâu có… Nương nương có phải đã nhìn lầm rồi không…”

“Ý Tu dung là mắt bản cung có vấn đề sao?”

“Thần thiếp không dám…”

Nhìn Tĩnh Tâm Lan càng lúc càng bối rối, ta khẽ cười trong lòng. Nghe Ngọc Thủy nói, Tĩnh Tâm Lan có tật ghét người khác chạm vào thân thể mình. Ngoại trừ Hoàng Đế ra, ngay cả cung nữ thân cận nếu không phải lúc cần thiết cũng không được phép chạm vào nàng ta. Nếu bị người khác chạm vào, dù là vô tình hay cố ý, nàng ta cũng sẽ nổi giận. Vì sợ Thái Hậu trách tội hách dịch nên Tĩnh Tâm Lan luôn giấu chuyện này, chỉ những người gần gũi bên cạnh mới biết. Thường ngày tính khí nàng ta luôn khó ưa nên phi tử khác cũng chẳng ai gần gũi nhiều, thế nên tật xấu này vẫn chưa lộ hẳn ra ngoài. Ban nãy vừa thấy ta đưa tay đến, nàng ta liền theo bản năng mà tránh đi, sau đó thái độ liền thay đổi, vẻ bình thản trên mặt cũng thành gượng gạo, rõ ràng là giận mà không dám phát tác. Điều này làm ta rất hài lòng, bởi lẽ khi nổi giận người ta càng dễ để lộ sơ hở.

“Tu dung quá lời rồi. Bản cung đâu có ý trách Tu dung. Nếu Tu dung thật sự đánh rơi thứ gì thì cứ nói ra. Bản cung có thể giúp Tu dung một tay. Bốn người cùng tìm sẽ nhanh hơn hai người tìm, có phải không?”

Ta nở nụ cười thân thiện, vô tư vỗ vai Tĩnh Tâm Lan mấy cái. Tĩnh Tâm Lan không tránh kịp, vừa bị vỗ mấy cái người đã run bắn. Nàng ta cắn môi, cố kiềm giọng đáp:

“Tạ nương nương quan tâm, nhưng thần thiếp đúng là không làm mất gì cả. Cũng đã muộn rồi, thần thiếp còn có chút việc cần làm, xin phép cáo từ trước.”

Tĩnh Tâm Lan nói xong bèn nhún người một cái cho có lệ rồi đi thẳng, không hề chờ xem phản ứng của ta như thế nào. Đông Tú thấy thế cũng luống cuống cúi chào rồi chạy theo sau.

Nhìn bóng dáng hai người bọn họ vội vội vàng vàng đi như ma đuổi, Ngọc Nga che miệng cười khẽ:

“Không ngờ cái tật sợ bị người khác chạm vào của Tĩnh Tu dung là thật. Trên đời này hóa ra lại có chứng bệnh như vậy! Nô tỳ vốn còn nghĩ Ngọc Thủy chỉ nói đùa.”

Ta cũng cười đáp: “Trên đời luôn có những chuyện kì quái như thế. Mà xem ra hành vi của bọn họ còn kì quái hơn nhiều.”

Ngọc Nga nghe xong, như sực nhớ ra điều gì, bèn kéo tay ta đi tới chỗ mấy bụi hoa mà Tĩnh Tâm Lan vừa đứng, nói:

“Thứ Tĩnh Tu dung đánh rơi nhất định rất quan trọng. Để nô tỳ tìm thử xem, biết đâu có thể cho bọn họ một bài học…”

Ta đưa mắt nhìn mấy bụi hoa hải đường bị Tĩnh Tâm Lan và Đông Tú giày vò đến tơi tả, lại nhìn xuống thì chỉ thấy mặt đất ướt át toàn là dấu chân ngang dọc. Nơi này tương đối trống trải, Tĩnh Tâm Lan quanh quẩn ở đây đã lâu, nếu vẫn không tìm thấy tức là đồ không có ở đây. Chỉ là nàng ta quá hoảng loạn nên cứ tìm mãi chỗ này không dám rời đi. Nếu không có ta tới phá đám thì e rằng bọn họ sẽ còn tìm tới tận khuya cũng không chừng.

“Đi thôi. Ở đây chẳng có gì đâu.”

“Nhưng mà…”

“Ngày tháng còn dài, có gì mà phải vội?”

***

Thượng Cung cục là nơi chăm lo cho cuộc sống hằng ngày của người trong hậu cung.

So với Thượng Cung cục ở Tùy Khâu, nơi này cũng không mấy khác biệt, đều chia làm bốn phân cục, gồm có Ti Lễ phòng chuyên dạy dỗ cung nữ, thái giám mới nhập cung; Ti Chế phòng lo việc chế tạo phục sức; Ti Thiết phòng đảm nhận đồ dùng và bày biện; Ti Thiện phòng lãnh trách nhiệm chuẩn bị thức ăn. Đứng đầu Thượng Cung cục là Thượng Cung đại nhân. Người nắm giữ chức vị này cả đời gắn bó với Thượng Cung cục, vì vậy danh xưng cũng lấy hai chữ “Thượng Cung” mà gọi. Mỗi phân cục lại có một người lãnh đạo, gọi là Ti trưởng; dưới mỗi Ti trưởng có ba Thượng nghi giúp việc quản lý; bên dưới nữa thì tùy vào tình hình công việc ở mỗi Ti mà có thể có từ hai đến năm Chưởng sự. Việc thăng tiến ở Thượng Cung cục chủ yếu dựa vào cống hiến, càng hữu dụng thì càng có địa vị cao. Nữ quan thông thường cũng như cung nữ có năm bậc từ ngũ phẩm đến cửu phẩm, những thứ bậc này trước tiên dựa vào kết quả khi thi tuyển vào Thượng Cung cục để xếp, mười người có kết quả tốt nhất được xếp hàng lục phẩm, còn lại đều là cửu phẩm.

Hơn mười năm trước, Tương Huyền thi vào Thượng Cung cục đạt kết quả cao nhất, trở thành lục phẩm nữ quan. Thế nhưng sau mười năm nàng ta vẫn chẳng thăng tiến chút nào, trong khi đấy có người cùng thời đã thăng đến hàng Thượng nghi, vậy nên nàng ta có chút nôn nóng cũng là hợp lí. Sau khi dâng lên Tứ Tuyệt Hương, Tương Huyền đã được thăng làm Chưởng sự tứ phẩm, tuy chưa có bao nhiêu vinh quang nhưng tính ra đã là bước tiến lớn trong sự nghiệp của nàng ta rồi. Kế đó lại trải qua việc của Đức phi, Thượng Cung cục thiếu người, mà lại có lệ không thể tùy tiện thăng cấp cho người mới nên Thượng Cung đại nhân đành cất nhắc Tương Huyền lên làm Thượng nghi. Lần thăng tiến này, Tương Huyền không đến Cẩm Tước cung tạ ân nữa khiến cho Tiểu Phúc Tử rất tức giận. Nhưng ta lại cho là chuyện tốt bởi vì về lý thì ta và Tương Huyền không có mối quan hệ gì cả, vả lại ta cũng chẳng muốn nhìn mặt loại người vong ân bội nghĩa như thế chút nào.

Lần sơ tuyển này, Tạ Thu Dung vượt qua chẳng chút khó khăn. Để tiếp tục kì tuyển chọn, nàng phải dọn vào Sương Đình ở, Cẩm Tước cung vì vậy mà trống trải thêm một chút.

Công việc ở Ti Lễ phòng tuy tương đối nhẹ nhàng lại phù hợp với Tạ Thu Dung nhưng nữ quan ở đó ít cơ hội thăng tiến, sau một hồi cân nhắc cuối cùng nàng chọn xin vào Ti Chế phòng. Ở Thượng Cung cục, nếu được vị chủ nhân nào đó yêu thích thì cuộc sống sẽ dễ chịu hơn nhiều, chỉ tiếc bây giờ thân ta còn chưa lo xong nên chẳng có cách nào che chở cho Tạ Thu Dung. Chuyện duy nhất ta có thể làm chỉ là vắt óc nhớ lại những chuyện ở Thượng Cung cục mà ta từng nghe hoặc từng thấy lúc nhỏ. Tuy hai nước khác nhau, nhưng lòng người ở đâu cũng đều như vậy, hi vọng những chuyện này có thể giúp Tạ Thu Dung một ít kinh nghiệm, ngoài ra cũng không quên dặn dò nàng đề phòng Tương Huyền.

Nghe đâu Liễu Yến Yến cũng vừa được bỏ lệnh cấm túc. Lúc trước Hoàng Hậu không trực tiếp nói “cấm túc”, chỉ bảo nàng ta đóng cửa tĩnh tâm vài ngày, dựa vào Thái Hậu làm nàng ta hoảng sợ, có lẽ muốn kiềm chân nàng ta lâu một chút. Nhưng sau khi nàng ta bị hạ thẻ bài, biết bao người thừa cơ tấn lên tranh đoạt long ân vốn đã khiến Liễu Yến Yến khó chịu lắm rồi, nay lại thêm chuyện ta mặt dày tranh sủng, được Hoàng Đế đích thân vẽ tranh cho, Liễu Yến Yến cuối cùng chịu không nổi nữa, đã thực sự nổi điên. Ba bước kinh điển: một khóc – hai nháo – ba thắt cổ được Liễu Yến Yến tiến hành trơn tru đâu ra đó, dĩ nhiên là kinh động đến long nhan. Hoàng Đế thương hoa tiếc ngọc như thế làm sao nỡ để Liễu Yến Yến chịu thêm ấm ức. Thế là hôm đó, khắp hậu cung ồn ào đồn đại Thục phi nương nương khóc lóc đến mê hồn người như thế nào, Hoàng Đế đã ôm Thục phi nương nương mà dỗ dành ra làm sao, lại nói tình cảm của hai người nồng nàn đến mức nào, chẳng ai là không ghen tức đỏ cả mắt.

Khi nghe tin ấy, ta chẳng lấy làm ngạc nhiên. Liễu Yến Yến gặp tai vạ chẳng qua là do Hoàng Hậu sắp đặt, người nàng ta chọc phải là Thái Hậu, mà hậu cung này đâu phải của Thái Hậu. Hoàng Đế vốn không giận Liễu Yến Yến, để nàng ta chịu ấm ức là vì nể mặt Hoàng Hậu và Thái Hậu. Sau đó Hoàng Hậu lại tiến cử nhiều phi tử khác, họ tuy không có dung mạo tuyệt thế như Liễu Yến Yến nhưng chung quy đều là mỹ nhân trong thiên hạ, Hoàng Đế trẻ tuổi ham vui thế là quên mất Thục phi nương nương khuynh quốc khuynh thành của hắn còn đang bị nhốt trong Mẫu Đơn cung. Bây giờ, Liễu Yến Yến làm loạn vừa khéo nhắc cho Hoàng Đế nhớ ra, vậy là để bù đắp cho nàng, Hoàng Đế cho người mang đến Mẫu Đơn cung không biết bao nhiêu kì trân dị bảo, hòng dỗ nàng ta vui vẻ. Liễu Thục phi lấy lại sủng ái một cách dễ dàng lại tiếp tục dương dương tự đắc. Người khác có ghen tức thế nào cũng phải cắn răng chịu đựng. Ai bảo nàng ta đẹp? Ai bảo ngươi không đẹp bằng nàng ta?

Đã không đẹp bằng người thì tất phải cam bái hạ phong.

Ta rất hiểu lý lẽ đó. Cho nên sau khi Liễu Yến Yến đắc sủng trở lại, ta liền ở lì trong cung không đi đâu nữa. Ngay cả Trịnh Vân Anh ngây thơ vô tội cũng bị Liễu Yến Yến trút giận lên mấy lần, thành ra cả nàng ấy cũng không dám ra ngoài. Chuyện này khiến Hoàng Hậu rất phật lòng, nhưng lần trước Hoàng Đế đã nể mặt nàng như thế thì lần này nàng không thể không nể mặt hắn. Thành thử mỗi lần Hoàng Hậu muốn gọi Trịnh Vân Anh đến Triêu Lan cung tán chuyện đều phải cho cung nữ thân cận là Xuân Linh hoặc Xuân Hạnh đi theo tháp tùng thì mới được vô sự.

“Chủ nhân, người xem treo ở đây có được không?”

Tiếng gọi của Ngọc Thủy cắt ngang dòng suy nghĩ của ta. Ta hơi giật mình, ngoảnh nhìn lại thì thấy Ngọc Thủy đang kính cẩn nâng bức tranh Hoàng Đế vẽ cho ta ướm lên khoảng tường trống chính giữa phòng. Bức tranh này là đặc ân của Hoàng Đế, không treo lên thì không ổn, mà treo lên thì cứ mỗi khi nhìn thấy là ta lại nhớ đến sự bạc bẽo của hắn, trong lòng lại không thoải mái. Cả buổi sáng hôm nay, Ngọc Thủy đã ướm nó lên mọi chỗ trong phòng rồi nhưng cứ hỏi ta thì ta lại lắc đầu không vừa ý làm cho nàng cũng mệt bở hơi tai.

“Chủ nhân rốt cuộc muốn treo nó ở đâu?” Ngọc Thủy thở hắt ra.

Ta cười cười, nghĩ bụng phải chi có thể trực tiếp vứt bỏ hay xé nó đi thì thoải mái biết mấy nhưng ngoài mặt chỉ thản nhiên đáp:

“Ngươi mệt rồi thì bảo Tiểu Phúc Tử vào đây làm thay là được.”

Ngọc Thủy nghe nói xong vội lắc đầu xua tay:

“Sao được chứ? Tay chân hắn vụng về, lỡ làm hỏng thì cả Cẩm Tước cung này mang họa mất!”

Lời Ngọc Thủy nói không sai. Ta cắn môi nghĩ ngợi một chút, cuối cùng nói:

“Thôi thì ngươi cứ cuộn lại để ở đầu giường của ta vậy.”

Ngọc Thủy gật đầu tán thành:

“Phải đấy! Thế mà nô tỳ không nghĩ ra. Treo lên ngộ nhỡ cung nữ quét dọn hàng ngày mạo phạm đến thì khổ, để ở đầu giường vừa đủ tôn kính cũng vừa đủ gần gũi. Chỉ là chủ nhân không thể ngắm mỗi ngày thôi.”

Ta cau mày:

“Bản cung ngắm tranh của mình mỗi ngày để làm gì?”

Ngọc Thủy cuộn tranh lại bỏ vào một cái hộp dài, lại phủ vải lụa lên trên rồi mới đặt lên đầu giường của ta, vừa làm vừa cười nói:

“Nô tỳ lỡ lời rồi. Ý nô tỳ là nếu treo lên thì mỗi ngày chủ nhân đều có thể nhìn thấy thủ bút của Hoàng Thượng, như vậy cũng gần như được ở bên Hoàng Thượng ấy ạ.”

Lời này của Ngọc Thủy làm ta nhớ đến thời điểm cùng Hoàng Đế đứng trước bức tranh Lê Hiền phi. Khi ấy hắn cũng từng nói mỗi ngày đều đến ngắm chân dung nàng ấy, có phải hắn cũng hi vọng bằng cách đó kề cận bên cạnh Hiền phi mỗi ngày? Dù rằng những đóa phù dung trong tranh và hai câu thơ đề từ của Hoàng Đế hoàn toàn không hợp lí, nhưng sự bi thương trong lời nói của hắn lúc đó lại có cảm giác rất chân thật. Ta tự hỏi, không biết tình cảm của hắn dành cho Lê Khiết là loại tình cảm nào? Là cùng một loại với thứ sủng ái mà hắn rộng rãi ban phát mỗi ngày hay là loại nào khác?

Miên man nghĩ ngợi hồi lâu, trong đầu ta bất giác lập đi lập lại những lời nói đau buồn của Hoàng Đế.

Nàng biết không, trẫm nghĩ hậu cung này thật sự là một nơi ăn thịt người đấy.

Nếu không một nha đầu vốn khỏe mạnh, hoạt bát như thế… vì sao vừa đến đây hơn một năm liền hóa thành đau bệnh liên miên, ốm yếu đoản mệnh như vậy?

Mấy câu này bề ngoài giống như lời thương cảm rất đỗi bình thường. Nhưng nếu suy nghĩ kĩ một chút thì lập tức nhận ra có điểm không ổn.

Một người đang khỏe mạnh hoạt bát cớ sao chỉ sau thời gian một năm lại có thể hóa thành bệnh tật đến mức đoản mệnh? Bản thân đã từng học qua y thuật nên ta hiểu rõ việc này vô lý đến mức nào. Lê Khiết là kim chi ngọc diệp, lẽ dĩ nhiên không phải vận động nhiều. Người khác thường nghĩ lối sống như thế sẽ khiến con người trở nên yếu đuối, nhưng họ lại không nghĩ tới những nhà quyền quý từ nhỏ đã ăn uống đầy đủ, nhân sâm tổ yến là món thường ngày, chưa kể đến bao nhiêu loại thuốc tẩm bổ khác mà người thường cả đời cũng chưa từng nghe tên, bồi bổ nhiều như vậy sức khỏe dù có không vượt trội thì cũng không thể ốm yếu quá mức được. Hoàng Đế cũng phải công nhận Lê Khiết vốn là một nha đầu khỏe mạnh. Nghe nói Lê Khiết vì đau buồn chuyện gia tộc mà qua đời, nhưng một người khỏe mạnh tuyệt đối không thể chết vì đau buồn được. Muốn vì một tin buồn mà chết thì nhất định phải là người tính mạng đã như chỉ mành treo chuông. Nói vậy, sau khi nhập cung đã xảy ra chuyện gì mà khiến nàng ta càng lúc càng đau yếu?

Cẩm Tước cung này là nơi ở khi trước của Lê Khiết, vậy chẳng lẽ ở đây có cái gì ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nàng?

Suy nghĩ ấy như bóp nghẹn ta.

Ta ở Cẩm Tước cung đã mấy tháng mà chẳng thấy có gì kì quái, sức khỏe vẫn tốt như xưa, nhưng nếu quả thực ở đây có thứ gì không sạch sẽ thì như thế sớm muộn gì cũng ảnh hưởng đến ta.

Nhất định phải tìm cho ra thứ đã làm hại Lê Khiết, sau đó dọn dẹp cho sạch sẽ.

Ta không thể đoản mệnh như Lê Khiết được!
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 38



Muốn điều tra lại cái chết của Lê Khiết là một việc vô cùng khó khăn.

Lê Khiết qua đời đã hai năm, những người liên quan đến nàng ta chẳng biếthiện giờ còn sống hay đã chết mà ta lại không thể quang minh chính đạimà đi dò hỏi. Đầu mối duy nhất hiện giờ chỉ có mình Ngọc Thủy mà thôi.

Từ sau khi biết Ngọc Thủy xuất thân từ phủ Hà Thái sư, ta vẫn luôn cẩnthận quan sát nàng. Ngọc Thủy làm việc gì cũng chăm chỉ nghiêm túc,những việc trực tiếp liên quan đến ta thì càng tận tâm hơn. Nàng làngười yêu ghét rõ ràng, nhưng không hề vì sự yêu ghét của mình mà thiênvị hay trù dập ai. Thực lòng, có được một nữ quan Chưởng sự như thế takhông còn dám mong gì hơn. Chỉ tiếc xuất thân của nàng quá đặc biệt,tính ta lại đa nghi, thực sự không có cách nào hoàn toàn buông bỏ khúcmắc trong lòng. Bây giờ nghĩ lại, Ngọc Thủy là do Hoàng Hậu tặng cho LêKhiết làm cung nữ tùy thân, như vậy những chuyện xảy ra với Lê Khiết,Ngọc Thủy ắt phải biết rõ. Những người từng hầu hạ Lê Khiết chỉ còn mỗiNgọc Thủy đến giờ vẫn bình an vô sự ở lại Cẩm Tước cung, điều này cónghĩa gì?

Nếu thật sự có kẻ ra tay với Lê Khiết, vì sao khôngdiệt cỏ tận gốc? Là vì sự việc năm xưa nàng không biết gì cho nên đượctha hay là nàng có một vai trò nào đó cho nên không thể trừ bỏ được?

Càng nghĩ càng mù mờ, ta bất giác thở dài một tiếng.

Ngọc Thủy thấy ta thở dài, bèn hỏi:

“Chủ nhân có tâm sự gì sao?”

Ta cắn môi, nghĩ mình không thể trực tiếp hỏi nàng được, nhưng ngoài nàngta thì càng không còn ai để hỏi. Suy tính một hồi, cuối cùng ta cũng lựa lời mà nói:

“Hôm trước Hoàng Thượng từng nhắc đến Hiền phi với bản cung…”

Ngọc Thủy nghe tên Hiền phi liền dỏng tai hỏi:

“Thật ạ?”

Ta gật đầu, hai mắt cụp xuống, rầu rĩ đáp:

“Phải… Bản cung cảm thấy Hoàng Thượng hình như rất thích Hiền phi nương nương.”

Ngọc Thủy cũng bùi ngùi đáp:

“Đúng thế…”

Ta lại thở dài, đưa tay về phía Ngọc Thủy. Ngọc Thủy thấy vậy vội bước đến nắm lấy tay ta. Cầm chặt tay nàng, ta khẽ nói:

“Bản cung thực hâm mộ nàng ấy. Nếu bản cung giống nàng ấy được một chút biết đâu Hoàng Thượng sẽ thích bản cung một chút…”

Lúc này hai mắt Ngọc Thủy đã đỏ lên. Nàng siết lấy tay ta:

“Chủ nhân đừng nói như vậy… Hoàng Thượng luôn thích chủ nhân mà…”

Ta buồn bã lắc đầu:

“Ngươi không cần nói cho ta vui, ta tự biết mình đang đứng ở đâu. Đừng nói đến Thục phi, Đức phi, Tĩnh Tu dung, ngay cả Quỳnh Thục nghi, Tiệp Chiêunghi cũng được yêu thích hơn ta. Ta chẳng có gì tốt cả. Ta ở nơi là Hiền phi từng ở, dùng những vật dụng mà nàng ấy từng dùng, thế mà lại chẳngđược bằng một phần nhỏ của nàng ấy. Ngươi nói xem, có phải mỗi lần Hoàng Thượng đến nơi này, nhìn những đồ vật này đều sẽ nghĩ đến Hiền phi haykhông? Sau đó nhìn lại, chỉ thấy một nữ nhân tầm thường như ta có phảilà sẽ rất thất vọng không?”

Ngọc Thủy lắc đầu, rơi nước mắt nói:

“Chủ nhân thực sự rất tốt. Cho dù không giống Hiền phi nương nương thì chủnhân vẫn rất tốt mà… Vả lại, vật dụng ở đây sau khi Hiền phi rời xa nhân thế đều đã được thay đổi toàn bộ, đâu còn lại gì. Ngay cả cách bày trícũng khác xưa rất nhiều… Hoàng Thượng sẽ không nhìn cảnh nhớ người đâu.Chủ nhân, xin đừng nói những lời thương tâm như vậy.”

Ta nhìn Ngọc Thủy, run run hỏi:

“Thật sự đều đã thay đổi ư?”

“Thật ạ… Tất cả vật dụng ở Cẩm Tước cung đều do nô tỳ đích thân giám sát Ti Thiết phòng sắp đặt…”

“Đáng tiếc thật… bản cung cứ mong có thể nhìn thấy cuộc sống của nàng ấy trước đây…”

Nói đoạn, ta lại tỏ ra buồn bã.

Nếu vậy những thứ không sạch sẽ đều bị dọn đi rồi sao? Vậy nên ta ở đây một thời gian rồi mà vẫn khỏe mạnh?

Không, ta vẫn cảm thấy có điểm chưa thỏa đáng.

Khi còn nhỏ, ta từng thấy qua những phi tử của phụ hoàng hãm hại lẫn nhaukhông ít lần. Nếu ra tay với vật dụng hàng ngày, thường chỉ có mấy chiêu như tẩm xạ hương hoặc độc hương gì đó vào đồ mộc, cũng có thể là phađộc vào son phấn. Nhưng những biện pháp này quá thô thiển, chỉ hại đượcnhững nữ tử ngu dốt và những kẻ xuất thân dân dã không quen chuyện đấuđá ở hậu cung, còn đối với những thiên kim quyền quý, những chuyện nàyhẳn họ đều được mẫu thân dạy dỗ trước khi nhập cung rồi. Lê Khiết nhìnthế nào cũng không giống kẻ ngốc, nàng ta không thể chết vì một trò vặtnhư vậy.

Để làm một người khỏe mạnh dần dần yếu đi, vậy phải hạđộc vào những thứ người đó tiếp xúc mỗi ngày. Ngoại trừ vật dụng trongphòng nghỉ và son phấn các thứ, chỉ còn thức ăn là đáng nghi nhất. Chỉcó điều hạ độc trong thức ăn một thời gian dài mà không để lại dấu vếtlà điều bất khả thi.

Đầu óc ta như bị một màn mây mù che phủ,càng lúc càng dày đặc, càng nghĩ càng bế tắc, nhưng lại không thể khôngnghĩ. Nguyên nhân chắc chắn không phải là vật dụng nên dù tất cả vậtdụng đều đã được thay đổi thì đối với ta cũng không ích gì. Thứ khôngsạch sẽ đó rất có thể vẫn còn ở đâu đây. Nếu không tìm ra nó, ta thựcchẳng yên lòng.

“Chủ nhân…”

Ngọc Thủy lay nhẹ tay ta, lưỡng lự nói:

“Người đừng buồn nữa. Tuy nơi này đều bị thay đổi cả rồi, chủ nhân không thểnhìn thấy Hiền phi nương nương từng sống như thế nào nữa… Nhưng nô tỳvẫn còn cất giữ một số kỉ vật của Hiền phi nương nương, nô tỳ có thểmang đến cho chủ nhân xem…”

“Thật sao?”

Ta thậm chí có thể cảm thấy hai mắt mình đang sáng ngời lên, phải cố gắng lắm mới kiềm chế được sự kích động trong lòng. Vẫn còn lại vật dụng của Lê Khiết, biếtđâu có thể nhìn ra manh mối gì chăng?

“Vâng, để nô tỳ đi lấy.”

“Được. Nhưng nhớ cẩn thận đừng để ai chú ý nhé, Hoàng Thượng mà biết ta hỏi về Hiền phi như thế, e sẽ không vui.”

“Nô tỳ biết rồi, chủ nhân đợi một chút thôi.”

Ngọc Thủy thấy ta vui vẻ trở lại thì cũng vui lây. Nhìn nàng hào hứng rời đi như thế, ta tự nhiên thấy mình gạt nàng như vậy thực không phải chútnào. Có lẽ thêm một thời gian nữa thôi, ta sẽ cố gắng tin tưởng và thành thật với nàng hơn.

Không lâu sau, Ngọc Thủy trở lại với mộtchiếc rương gỗ nhỏ trên tay. Nàng bưng chiếc rương đặt lên trên sạp gỗ,bên cạnh chỗ ta đang ngồi.

“Không bị ai nhìn thấy chứ?”

“Không đâu ạ. Chỗ chúng ta có lệ cho cung nhân nghỉ trưa, cho nên giờ này bên ngoài chẳng có người nào đâu.”

Ta thở phào nhẹ nhõm, ra hiệu cho Ngọc Thủy cùng ngồi xuống.

Ngọc Thủy lần thắt lưng, lấy ra một xâu chìa khóa lớn, nàng vừa lựa chìa khóa vừa nói:

“Ở đây cũng không có gì nhiều, chỉ là nô tỳ muốn giữ lại để tưởng nhớ Hiền phi nương nương thôi…”

Nắp rương chậm rãi mở ra, bên trong có ba ngăn, trên cùng đựng tầm mười cây trâm, khi mở tầng trên ra thì thấy bên dưới là vài hộp son phấn, caodưỡng da các loại, tầng dưới cùng để một xấp giấy, tất cả đều được sắpxếp rất gọn gàng.

Ta cầm một cây trâm lên xem xét, miệng hỏi:

“Những thứ này đều là của Hiền phi sao?”

Ngọc Thủy rầu rĩ đáp:

“Sau khi Hiền phi nương nương qua đời, tất cả đồ dùng của người đều phải trả về Thượng Cung cục, chỉ có những vật này vì người đã ban cho nô tỳ nênnô tỳ mới được giữ lại.”

Ta thận trọng xem qua từng vật một,những cây trâm này đều rất đắt tiền, cả chỗ son phấn này cũng toàn làhàng thượng phẩm. Lê Khiết đối với Ngọc Thủy thật sự rất rộng rãi.

“Ta cảm thấy Hiền phi nương nương rất yêu thương ngươi.”

Ta mỉm cười, đặt đồ về chỗ cũ.

“Vâng ạ. Hiền phi nương nương thương nô tỳ nhất, cả cung nữ hồi môn cũngkhông bằng, tất cả đồ dùng quan trọng của người đều giao cho nô tỳ cả…”

Ngọc Thủy cúi đầu, nước mắt lã chã rơi đầy mặt.

Ta thở dài, chẳng biết nói gì. Những đồ vật này chẳng có vấn đề gì, bảnthân ta cũng đang mệt mỏi cùng thất vọng, đâu còn tâm trạng an ủi ngườikhác. Chợt nhìn lại, trong rương vẫn còn một xấp giấy ta chưa động tới.Lòng không hi vọng gì nhiều, nhưng đã để Ngọc Thủy tốn công sức mangrương tới, ta vẫn thử đọc qua một chút.

Mấy tờ giấy này thì ra là ghi lại đồ ăn thức uống của của Cẩm Tước cung năm đó, từ điểm tâm đếncác món chính, cả trái cây, trà nước đều không thiếu. Lê Khiết thực sựcoi trọng Ngọc Thủy, cả thứ này cũng cho nàng ta quản.

Ta đọclướt qua một chút liền cảm thấy chóng mặt, lòng thầm khâm phục người của Ti Thiện phòng. Những cái tên trên này vừa văn nhã vừa hoa mỹ, đọc hiểu đã khó, càng không thể biết được những món này có cái gì bên trong cả.

Nhìn lại, Ngọc Thủy vẫn đang ngồi khóc thút thít, ta tặc lưỡi, vỗ vai nàng hỏi:

“Ngọc Thủy này, món Trích tiên du thủy này là cái gì thế?”

Ngọc Thủy chùi mắt, ngập ngừng đáp:

“Có nhiều nguyên liệu lắm, nô tỳ không nhớ rõ…”

Ta chỉ muốn nàng phân tán sự chú ý để bớt thương tâm, cho nên cười đáp:

“Không sao, ta chỉ muốn biết nguyên liệu chính thôi. Những món ăn này tên lạquá, ta chẳng hiểu gì cả. Mai này mà có cung yến, ta nhất định là sẽ bịchê cười.”

Ngọc Thủy đón lấy tờ thực đơn trên tay ta, chau mày nghĩ ngợi:

“Vậy để nô tỳ nghĩ xem, món Trích tiên du thủy hình như là thịt dê nấu với nước trà đó…”

Thịt dê nấu nước trà? (1)

Lòng ta khẽ động.

Có lẽ nào…

“Ngươi chắc không?”

“Nô tỳ nhớ là vậy mà.”

“Vậy còn món này?”

Ta chỉ tay vào món ăn được viết ngay bên dưới.

“Sơn chi mỹ nhân? Ừm, hình như là gà nấu với lá kinh giới.” (2)

“Còn món Quý trân bát bảo này?”

“À, món này thì nô tỳ nhớ rõ. Hiền phi nương nương rất thích món này. Đâylà não của giống heo ở phương nam hầm với trứng gà, đậu nành và đường đỏ và mật ong.” (3)

Cứ thế, Ngọc Thủy dần dần giảng giải cho ta từng món một.

Cua hấp lựu tươi, nho ngâm sữa bò, tôm hầm trái lê và củ cải trắng, gan dêxào măng tre, ngỗng hầm trái lê xanh, thịt đùi lợn hầm củ ấu, lạc ngâmrượu… (4)

Mỗi một cái tên vang lên bên tai là mỗi lúc sống lưngta lại lạnh thêm một chút, lạnh đến nỗi toàn thân ta như đông cứng. Takhông biết Ngọc Thủy đã nói xong từ lúc nào, nhịp tim dồn dập trong lòng ngực khiến hai tai ta lùng bùng cả, mãi đến khi Ngọc Thủy lay gọi, tamới giật mình như tỉnh mộng dài.

“Chủ nhân không sao chứ?”

Ta hít sâu mấy hơi, cố tỏ ra bình thản mà hỏi:

“Những món ăn này do Hiền phi chọn sao?”

Ngọc Thủy lắc đầu, đáp:

“Không ạ. Hiền phi ít khi nào đòi hỏi gì, thức ăn mỗi ngày đều do Ti Thiệnphòng tuyển chọn theo mùa. Chỉ là món nào người thích thì ăn nhiều vàiđũa thôi.”

“Thì ra là vậy…”

Khóe môi ta hơi co lên, bản thân ta cũng chẳng rõ đó là một nụ cười hay vì quá sợ hãi mà cả cơ mặt cũng co giật.

Mấy món ăn này, mỗi món đều dùng hơn mười loại nguyên liệu vô cùng rối rắm, nhưng những nguyên liệu chính, kì lạ làm sao, đều vừa khéo là những thứ cực kì tương khắc nhau. Nếu không phải vì lúc nhỏ ta từng được Y Tiêndạy qua những thứ này thì e rằng có nằm mơ cũng không nghĩ ra nổi. Sửdụng nguyên liệu tương khắc nhau làm thức ăn, cho dù thử độc cũng chẳngphát hiện được gì, người thường nhìn vào càng không thể nhận ra. Quanhnăm suốt tháng ăn những món này, lục phủ ngũ tạng dần dần bị bào mòn, Lê Khiết thân là nữ nhi làm sao chịu nổi. Sức khỏe nàng ta càng ngày càngxuống dốc cũng là hợp lý. Dù không xảy ra gia biến thì nàng ta cũngchẳng cầm cự nổi quá ba năm.

Thời điểm Lê Khiết đắc sủng, LiễuYến Yến và Triệu Lam Kiều chỉ là những phi tần bình thường mờ nhạt. Nhưvậy, hậu cung lúc đó, ai là người có đủ trí tuệ để bày ra bậc này cạmbẫy này, lại đủ bản lĩnh chi phối cả Ti Thiện phòng?

“Ngọc Thủy, ban nãy ngươi nói tất cả đồ dùng quan trọng của Hiền phi nương nương đều do ngươi quản lý có phải không?”

“Vâng, đúng là như thế ạ.”

Thì ra là vậy.

Thì ra tất cả chính là như vậy!

Trong lòng ta vô số cảm xúc mãnh liệt không ngừng dâng trào. Vừa phấn khíchvì nghi vấn đã có lời giải, vừa sợ hãi lòng người quá mức đáng sợ, lạivừa có phần kính phục một âm mưu gọn gàng chặt chẽ không có kẽ hở. Nếuchẳng phải vì Ngọc Thủy thương nhớ Lê Khiết mà giữ lại những thứ này thì chắc chắn ta chẳng đời nào đoán ra nổi.

“Bản cung muốn nghỉ ngơi một chút, ngươi mang những thứ này về đi.”

Không muốn để Ngọc Thủy nhìn thấy sự phức tạp trong mắt mình, ta vội vàng đứng dậy đi thẳng vào phòng trong.

“Chủ nhân cảm thấy mệt ở đâu sao?”

Nghe tiếng Ngọc Thủy lo lắng gọi với theo, ta bèn hắng giọng nói vọng ra:

“Không có gì. Ta chỉ buồn ngủ thôi. Ngươi cũng về nghỉ đi, có việc gì ta sẽ gọi.”

Ngọc Thủy nghe giọng ta kiên quyết, đành phải làm theo. Lúc Ngọc Thủy vừa đi khỏi cũng là lúc ta ngồi bệt xuống sàn, hai chân mềm nhũn chẳng còn sức lực. Ta cứ ngồi như thế, vừa muốn cười lại vừa muốn khóc.

Hoàng Hậu, người quả thực không phải chỉ nhờ tụng kinh niệm Phật mà ngồi vững trên hậu vị!

Ngay từ khi Lê Khiết vừa đắc sủng, Hoàng Hậu đã bắt đầu tính toán cả rồi.

Hoàng Hậu mang Ngọc Thủy tặng cho Lê Khiết hoàn toàn không phải ngẫu nhiên.

Lê Khiết đã sớm có lòng đề phòng Hoàng Hậu, cho nên mới đem toàn bộ đồdùng quan trọng giao cho một cung nữ mới đến bảo quản, ngoài mặt là lấylòng Hoàng Hậu, thực chất là để cho Hoàng Hậu biết nếu đồ dùng của nàngta có vấn đề gì, truy ra người bảo quản từng là cung nữ thân cận củaHoàng Hậu, vậy Hoàng Hậu cũng đừng mong tránh được liên lụy. Không chỉvậy, Lê Khiết còn đối đãi với Ngọc Thủy cực kì tốt, chính là để tránhkhi xảy ra chuyện có kẻ viện cớ tư thù để chối tội. Nàng ta tốt với Ngọc Thủy như thế, Ngọc Thủy chẳng có lý do gì để thù hận nàng ta cả. HoàngHậu đã đi một nước cờ quá cao thâm, khiến cho Lê Khiết không thể khônghao tâm tổn trí. Ngọc Thủy được chọn hẳn cũng vì tính cách quá mức ngaythẳng kia. Lê Khiết làm sao tin được Hoàng Hậu lại tặng mình một cung nữ ngay thẳng thiện lương, hẳn sẽ nghĩ Ngọc Thủy giả vờ, mà giả vờ giỏinhư thế nhất định phải là loại người không thể xem thường. Có lẽ mỗingày nàng ta đều chằm chằm quan sát Ngọc Thủy, tập trung đến nỗi khôngnhìn thấy những điều bất thường khác. Nếu Lê Khiết tỉnh táo hơn một chút thì có thể sẽ nhận ra Hoàng Hậu là người tinh tế đến bậc nào, sao cóthể làm chuyện nông cạn như trực tiếp cài người vào hại nàng ta. Cho dùmuốn thế thì cũng phải đợi lúc thần không biết quỷ không hay mà muachuộc người bên cạnh nàng ta mới phải.

Chỉ tiếc đạo cao mộtthước, ma cao một trượng. Lê Khiết ngày ấy còn quá trẻ, dẫu có thôngminh nhưng so với Hoàng Hậu thì vẫn chỉ là một đứa trẻ dễ dàng bị nắmtrong lòng bàn tay.

Trong năm vị tiểu thư dự tuyển hậu năm xưa,không nói đến Tạ Thu Dung, còn lại Lê Khiết bị Hoàng Hậu trừ bỏ trongthời gian ngắn, Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiều thì luôn bị nàng chiphối. Hoàng Hậu thực sự đã chứng tỏ mình xứng đáng với bốn chữ “mẫu nghi thiên hạ”.

Hậu cung này bất luận có dáng vẻ thế nào, thì trước nay vẫn luôn là thiên hạ của Hoàng Hậu.

Khi trước, ta luôn cảm thấy bố cục hậu cung này rất kì lạ. Ví như phe pháicủa Triệu Lam Kiều ít người nhất, nhưng bản thân Triệu Lam Kiều thôngminh tuyệt đỉnh, lại có Tĩnh Tâm Lan sắc sảo nhạy bén cho nên không hềyếu thế. Liễu Yến Yến không có đầu óc nhưng dựa vào gia thế và sủng ái,lại có Minh phi – Minh Âm, điềm đạm trí tuệ giúp đỡ nên cũng không đếnnỗi không chống đỡ nổi. Còn Hoàng Hậu, chẳng những không có sủng ái,người của nàng nhìn lại cũng có kẻ nào đủ tâm cơ để giúp đỡ nàng: TrịnhVân Anh thơ ngây, Bạch Diệu Hoa nhu nhược, Dương Ngọc Huệ nhỏ nhen,Giang Tiểu Ái hữu dũng vô mưu, như thế mà vẫn có thể chèn ép được haingười Liễu, Triệu. Đến bây giờ ta mới hiểu, Hoàng Hậu vốn không cần aitính toán hộ nàng, một mình nàng hoàn toàn thừa sức đối phó tất cả, việc lôi kéo những người kia về phe mình có lẽ chỉ để củng cố thế lực cho Hà thị cũng như phân chia bớt thế lực của Liễu Yến Yến và Triệu Lam Kiềumà thôi.

Như vậy nghĩ lại, chuyện của Tố Linh lúc đó, Hoàng Hậuđánh tiếng nhờ ta phò trợ, có khi chỉ là muốn kiểm tra ta mà thôi. Nếuta không đủ năng lực thì nàng sẽ để ta tự sinh tự diệt, còn nếu ta đủnăng lực, nàng liền thu nhận ta. Ta quy thuận nàng thì không sao, nhượcbằng từ chối, có lẽ nàng sẽ tiện tay dọn dẹp ta luôn để trừ hậu họa.

Nghĩ tới đây, ta vừa mừng thầm vì khi trước đã quyết định đúng đắn mà đitheo Hoàng Hậu, lại vừa lo sợ một ngày nào đó mình không còn giá trị lợi dụng, hoặc vì xung đột lợi ích mà nàng đối phó ta… Thực sự ta không còn dám nghĩ tiếp.

Ta vốn không thông minh bẩm sinh như Hoàng Hậuhay Triệu Lam Kiều, chỉ nhờ sinh ra và lớn lên trong chốn hậu cung, lạirơi vào hoàn cảnh bi thương cho nên có thể nghe thấy, nhìn thấy rấtnhiều chuyện mà người khác không thể tỏ tường, nhờ thế mà có nhiều kinhnghiệm hơn kẻ khác, cũng vì vậy mà sinh ra tính đa nghi, bất cứ chuyệngì cũng phải nghĩ đi nghĩ lại nhiều lần cho nên mới tạm thời sống yênổn. Nhưng ta hiểu rõ chỉ bấy nhiêu thì không đủ để bảo vệ bản thân.

Không có nhan sắc, lại không có gia thế, tâm kế cũng không đủ, muốn sống lâuthì chỉ còn cách cố gắng lấy lòng Hoàng Đế. Qua một thời gian thân cậnvới Hoàng Hậu, ta đã nhận ra Hoàng Hậu chẳng hề để tâm đến việc tranhsủng, Hoàng Đế sủng ái ai nàng cũng không bận lòng, thứ duy nhất nàngtoàn tâm toàn ý giữ gìn chỉ có hậu vị và lợi ích gia tộc mà thôi. Đâycũng là một điểm khiến ta và Hoàng Hậu hợp nhau. Ta là người nước khác,hoàn toàn không có khả năng ngồi lên hậu vị, dù sau này ta sinh đượchoàng tử thì hoàng tử của ta cũng không thể kế vị, ta lại không có giatộc cho nên đối với Hoàng Hậu ta chẳng có chút đe dọa nào. Khi xưa Hoàng Hậu ra tay với Lê Khiết có lẽ vì cảm thấy sự sủng ái của Hoàng Đế dànhcho Lê Khiết đe dọa đến địa vị của mình chăng?

Chỉ là Hoàng Hậuvốn không để tâm đến ân sủng, bản thân Lê Khiết lại không thông minhbằng Hoàng Hậu, không lý nào chỉ vì Hoàng Đế sủng ái Lê Khiết mà diệtnàng ta. Trừ phi, trong triều đã xảy ra chuyện gì đó có ảnh hưởng lớnđến sự phân bố thế lực. Nói cách khác Lê thị mới thực sự là mầm mống tai họa. Cái chết của Lê Khiết chỉ là nhổ cỏ tận gốc mà thôi.

Sau khi bỏ qua ân sủng mà suy nghĩ mọi việc trên góc độ quyền lực, ta chợt hiểu ra rất nhiều chuyện.

Thời điểm Lê Khiết đắc sủng, Lê thị phất lên như diều gặp gió cũng là lúcThái Hậu ngừng nhiếp chính, lùi về hậu cung, Hoàng Đế lần đầu tiên đượcchạm tay vào long bàn ấn.

Ta nghĩ có lẽ ngày ấy Hoàng Đế tuổi nhỏ hiếu thắng, muốn mau chóng thu lại quyền lực cho nên đã nâng đỡ Lê thịvà Trịnh thị, hòng tạo ra đối trọng để chế áp ba nhà Triệu, Liễu, Hà. Sự sủng ái tột bậc của hắn đối với Lê Khiết và sự lạnh lùng đối với LiễuYến Yến và Triệu Lam Kiều lúc đó hẳn cũng là để tạo hậu thuẫn cho Lê thị và kiềm chế Liễu thị cùng Triệu thị. Hắn để trưởng tử Trịnh thị cùngvới Lê thị đi áp tải cống phẩm, một phần để thể hiện sự tín nhiệm củamình một phần để gắn kết hai gia tộc này, tránh việc bọn họ tự tư tự lợi làm hỏng chuyện của hắn.

Đáng tiếc, Hoàng Đế tính không sainhưng lại chọn sai người. Trong cung Lê Khiết đấu không lại HoàngHậu. Ngoài cung, Lê thị cũng không ngoại lệ, chẳng những thất bại màcòn mang ô danh muôn đời. Thiết nghĩ, áp tải cống phẩm năm đó là Cẩm yvệ chính quy của Bách Phượng, lại do Trịnh Thừa Minh vốn nổi danh anhdũng thần võ chỉ huy. Muốn giết sạch bọn họ đâu phải đơn giản, chuyệnnày nhất định có Triệu Tướng gia nhúng tay vào.

Hà thị và Triệuthị từng bắt tay nhau trừ bỏ một mối họa chung. Điều đó có thể giảithích cho sự thân thiện của Thái Hậu đối với Triệu Lam Kiều. Vậy vai trò của Liễu thị khi ấy là gì? Phải chăng vì Liễu thị ngồi không hưởng lợicho nên Thái Hậu mới ác cảm với Liễu Yến Yến như vậy?

Một nước cờ Hoàng Đế đi sai đã dẫn đến sự diệt vong của một gia tộc và sự suy yếucủa một gia tộc khác, cùng với cái chết của vô số người vô tội. Phảichăng đó là lý do khi nhắc đến Lê Khiết, Hoàng Đế lại thương tâm đến mức đó? Lê Khiết không chỉ là nữ tử hắn từng yêu thích mà còn tượng trưngcho sự vấp ngã đầu tiên của Hoàng Đế trong cuộc chiến tranh giành quyềnlực tàn khốc này.

Bao nhiêu người đã chết?

Bao nhiêu người sẽ chết?

Đầu óc ta đã sáng tỏ nhưng lòng lại càng thêm nặng nề.

Hóa ra Hoàng Đế cũng giống như ta, cũng đơn độc giữa bao nhiêu là cạm bẫy.

Hóa ra ngai vàng lại khó ngồi như vậy.

______________
 
Thâm Cung - Trần Lạc Hoa
Chương 39



Bách Phượng đã vào mùa mưa nên càng lúc thời tiết càng thất thường, thoắt mưa như trút nước, thoắt lại tạnh ráo.

Thái Hậu đóng cửa không tiếp khách, Hoàng Hậu thì không coi trọng lễ thỉnhan cho lắm nên dưới thời tiết này, đã lệnh miễn lễ thỉnh an cho đến hếtmùa mưa. Triệu Lam Kiều cũng được Hoàng Hậu bãi lệnh cấm túc, chỉ làHoàng Đế có vẻ vẫn còn phật lòng, mấy lần Triệu Lam Kiều cầu kiến đềukhông chịu gặp mặt. Mưa gió thế này khiến ai ai cũng ngại đi lại, HoàngĐế cũng không ngoại lệ. Vậy nên đã ba bốn hôm rồi, ngoại trừ lúc thượngtriều với vài canh giờ đọc tấu chương ở Ngự Thư phòng, hắn đều ở lìtrong Mẫu Đơn cung làm cho Liễu Yến Yến vô cùng đắc ý.

Mấyngày trước, Phong tộc cống nạp hơn một trăm cuộn tơ lụa đủ loại, HoàngĐế giao thẳng cho Hoàng Hậu. Hoàng Hậu để lại một phần cho Hoàng Đế sửdụng, một phần đưa đến Thuận Ninh cung, một phần giao đi hành cung Thanh An cho các vị Thái phi, Thái tần… Chu toàn đâu đó rồi Hoàng Hậu mới gọi đám phi tử bọn ta đến Triêu Lan cung phân chia phần còn lại.

Phong tộc vốn là dị tộc sinh sống ở gần biên cương phía Bắc Bách Phượng.Người của Phong tộc sống rất phóng khoáng, nam nữ bình đẳng như nhau. Nữ nhi Phong tộc đều biết cưỡi ngựa săn bắn còn nam nhân Phong tộc cũngkhông ngại chuyện dệt vải, nấu nướng. Nữ nhi ở đó còn có thể tự quyếtđịnh hôn sự của mình, thích ai liền đeo đuổi người đó, không kẻ nào cóquyền ngăn cản. Khi ta nghe được chuyện này, trong lòng vô cùng ngưỡngmộ những nữ tử ở Phong tộc, thậm chí còn nảy ra suy nghĩ hoang đường làtrốn khỏi Hoàng cung, tìm đến đó sống một cuộc sống tự do tự tại. Cóđiều sự ngưỡng mộ ấy ta chỉ dám giấu kín trong lòng, bởi người BáchPhượng đều coi thường lối sống Phong tộc là hoang dã, đảo lộn tam cươngngũ thường, thế này thế khác, đủ loại chỉ trích. Có điều, dẫu chê tráchPhong tộc đến thế nào thì người ở Bách Phượng vẫn vô cùng yêu thích thứtơ lụa độc đáo của Phong tộc. Ban đầu ta rất ngạc nhiên, bụng nghĩ đámnữ nhân quyền quý này có thứ châu bảo nào còn chưa nhìn thấy đâu, saochỉ nghe đến mấy khúc vải mà mắt đã sáng rỡ cả lên thế kia. Mãi đến khivâng lệnh tới Triêu Lan cung chọn vải, ta mới ngộ ra: tơ lụa của Phongtộc dệt dù có ngàn vàng cũng không mua được. Chất vải mềm mượt, trơnmát, mỏng như cánh bướm nhưng sợi vải dệt rất khít nên mặc lên không lộda thịt mà vẫn đủ tha thướt phong tình, cầm trên tay thì thấy bồng bềnhnhư mây khói. Cả công đoạn nhuộm cũng hết sức đặc biệt, màu sắc vừaphải, sáng sủa mà không quá chói mắt. Chất lượng mỗi cuộn vải đồng đềunhư từ tay một người làm ra, không có nửa phân sai lệch. Kỹ thuật dệtnày là bí mật của Phong tộc, vải dệt ra chỉ dành cho người trong tộcdùng và để tiến cống, không bao giờ bán ra ngoài. Nếu không phải được gả vào hoàng tộc, cả đời này cũng đừng mơ được chạm vào thứ tơ lụa ấy. Bởi vậy, vừa nhìn thấy chiếc bàn dài chất đầy tơ lụa Phong tộc trong đạiđiện, mắt của chúng phi lập tức sáng như đèn lồng, ai nấy nhanh như cắtlao vào thi nhau chọn lựa. Tiêu chuẩn cơ bản là mỗi người hai cuộn,nhưng nhìn lại thì cung nữ của Liễu Yến Yến vừa vào đã ôm đến cuộn thứnăm, mà Liễu Yến Yến vẫn còn say mê chọn lựa chưa hề có ý định dừng lại, khiến cho đa số lo sợ mất phần mình, bèn chọn vội rồi trốn ra một góc.

Bản thân ta, dù rất ngưỡng mộ kỹ thuật dệt vải của Phong tộc nhưng thựclòng ta cũng chẳng để tâm đến mấy thứ này lắm. Hai cuộn vải chỉ may đủmột bộ y phục, thêm vào một bộ hay ít đi một bộ cũng thế thôi. Nghĩ vậy, ta chỉ chọn lấy cho có. Nhưng lạ một đỗi, cứ hễ ta vừa cầm cuộn nào lên thì Liễu Yến Yến liền lập tức vừa mắt cuộn ấy. Dĩ nhiên ta không có gan tranh chấp với Liễu Yến Yến nên đều cung kính nhường nàng ta. Đến lầnthứ ba, ta chợt hiểu Liễu Yến Yến cố tình gây sự với mình, trong lònglập tức nghĩ ra một trò vui nho nhỏ. Biết Liễu Yến Yến không muốn cho ta lấy được cuộn vải nào, ta cứ vờ như không nhận thấy địch ý của nàng ta, cứ hồn nhiên lựa chọn cuộn khác. Thế là Liễu Yến Yến lại đòi lấy cuộnta vừa chọn, cứ thế lập lại mấy lần nữa. Kết cục của buổi hôm đó, tachẳng có cuộn tơ lụa nào còn Liễu Yến Yến thì ôm một đống cả hơn chụccuộn, đương nhiên đa số đều là cướp từ trên tay ta. Trịnh Vân Anh rấtbất bình muốn nói lời công bằng, nhưng ta chỉ ra hiệu cho muội ấy đừnglên tiếng. Trịnh Vân Anh không hiểu ý định của ta, ấm ức cắn môi mộthồi, sau đó không ngần ngại chia cho ta một cuộn tơ. Ta thật không ngờTrịnh Vân Anh tính tình trẻ con, lại thích hai cuộn tơ này như thế màlại dám thẳng tay tặng ta một cuộn, trong lòng cảm động không thôi. Muội ấy đã có lòng với ta đến mức này, ta làm sao nỡ lấy vật muội ấy yêuthích, chưa kể còn có Liễu Yến Yến lăm le gây sự, ta không muốn liên lụy gì đến Trịnh Vân Anh nên kiên quyết từ chối.

Nhìn thấy ta phảitrở về tay không, Liễu Yến Yến vui vẻ tột bậc, cười không khép môi lạiđược. Mà cũng vì quá đỗi vui vẻ mà nàng ta chẳng mảy may nhận ra chỗ vải vóc ta cố tình lựa chọn cho nàng ta màu sắc mỗi cuộn đều rất tươi đẹp,nhưng khi phối lại chọi nhau chan chát, chẳng có màu nào có thể phối với nhau thành một bộ y phục được. Bên ngoài Liễu Yến Yến hân hoan baonhiêu thì bên trong ta cũng cao hứng bấy nhiêu. Liễu Yến Yến, ngươi cóđược mặc thứ tơ lụa Phong tộc hay không, còn phải xem tài năng phối màucủa nữ quan Ti Chế phòng như thế nào đã.

Trò chơi khăm vặt vãnhcủa ta không lọt nổi mắt Hoàng Hậu. Lúc Liễu Yến Yến hồi cung rồi, Hoàng Hậu liền viện cớ giữ ta và Trịnh Vân Anh lại tán chuyện, nói đến đốngtơ lụa của Liễu Yến Yến, ba người chúng ta cười đến chảy cả nước mắt. Có cả đống đồ tốt mà không cách nào dùng được, không biết bộ mặt xinh đẹpcủa Liễu Yến Yến khi đó sẽ có hình dạng gì.

Hoàng Hậu tất nhiênkhông để ta chịu thiệt, nói chuyện đông tây thỏa thuê rồi bèn sai ngườilấy từ phần của mình ra hai cuộn tơ lụa bù đắp cho ta. Ta cảm tạ tấmlòng của Hoàng Hậu, nhưng sợ phiền phức về sau nên không dám nhận. Hoàng Hậu ép không được, thế là đổi lại cho ta mấy xấp gấm Cẩm Hoan màu tímcũng khá quý giá. Ta không có gan từ chối nữa, đành phải ôm về. Ngày hôm ấy vừa chơi được Liễu Yến Yến một vố lại vừa có mấy bộ y phục mới, tính ra ta cũng không bị lỗ.

Hoàng Đế đã lâu không ghé chỗ ta nhưngnhư thế ta lại càng cảm thấy thoải mái. Dù sao thì bức tranh của HoàngĐế vẽ cho ta đã gây ra quá nhiều sự chú ý rồi, ta chẳng cần thêm phiềnphức nữa. Hắn cứ bám lấy Thục phi nương nương nhà hắn thế mà lại hay,vừa có thể làm dịu bớt cơn giận của Liễu Yến Yến đối với ta, vừa hướngmũi nhọn ganh ghét của kẻ khác về chỗ Liễu Yến Yến. Thêm vào việc phânchia tơ lụa hôm trước, Liễu Yến Yến ôm một đống tơ lụa nghênh ngang trởvề còn ta thì chẳng có nổi một cuộn. Chúng phi được dịp chê cười ta chonên sự ganh ghét cũng giảm thêm mấy phần, mà mấy phần đó đều dồn cả choLiễu Yến Yến. Nhờ phúc của Thục phi nương nương, ta lại được mấy ngàyyên ả.

Kỳ thi tuyển chọn nữ quan ở Thượng Cung cục đã kết thúc.Tạ Thu Dung là người có kết quả cao nhất, xuất thân danh giá, tính nếtlại vừa ý Thượng Cung đại nhân nên được xếp ngay vào hàng nữ quan ngũphẩm. Ta nghe tin này vừa mừng vì nàng có được điểm xuất phát tốt, thăng tiến sẽ dễ dàng hơn nhưng cũng vừa lo sợ nàng quá nổi bật sẽ khiếnngười khác đố kị, ở nơi xa lạ mà tứ phía đều là kẻ thù thì cuộc sốngthực sự rất khó khăn. Tạ Thu Dung là nữ quan mới nhậm chức, ta gặp mặtkhông tiện, chỉ có thể gửi cho nàng vài lời chúc mừng, đồng thời dặn dònàng cẩn thận mọi bề, nếu có sự cố gì phải báo cho ta ngay lập tức.

Tạ Thu Dung đi rồi, Cẩm Tước cung không còn nghe tiếng giảng đạo lý củanàng mỗi ngày, chợt thấy trống vắng biết bao nhiêu. May mà vẫn còn cóBạch Diệu Hoa cùng ta trò chuyện giết thời gian. Làm phi tử chung quychỉ có hai công việc chính, một là hầu hạ Hoàng Đế, hai là ra ngoài xỉaxói lẫn nhau. Bây giờ cả hai việc đó đều không cần làm, ta và Bạch DiệuHoa rảnh rỗi đến phát chán. Ngoại trừ thời gian chăm sóc dung nhan mỗingày mà Ngọc Nga và Ngọc Thủy kiên trì bắt ta tuân thủ, thì những lúcrỗi rãi ta đều đến Đông viện chơi với Bạch Diệu Hoa. Đối với Bạch DiệuHoa mà nói, trong hậu cung rộng lớn này, nàng chỉ còn mỗi ta là chỗ dựa, vì vậy càng lúc càng quấn lấy ta. Nhờ tính cách có mấy phần tương đồngmà chỉ trong thời gian ngắn, hai người chúng ta đã trở nên thân thiếtnhư hình với bóng. Cuộc sống như thế cũng có thể gọi là bình yên.

Hôm nay, đương lúc ta và Bạch Diệu Hoa vừa ăn điểm tâm vừa tán chuyện thìTiểu Phúc Tử đến bẩm báo có Tần công công ở chỗ Hoàng Hậu đến mời ta digiá Triêu Lan cung.

Tần Khương là người Hoàng Hậu cực kì tínnhiệm, nếu không phải việc quan trọng hắn sẽ không đời nào tự mình đilàm. Lần trước Tần Khương đến mời ta là khi Bạch Diệu Hoa trúng độc. Khi đó ta đã chuẩn bị trước. Còn lần này không rõ là chuyện trọng đại gì đã xảy ra. Trong lòng ta tự nhiên dâng lên một nỗi bất an.

Bạch Diệu Hoa dường như cũng nghĩ vậy, nàng hoảng hốt đưa mắt nhìn ta:

“Tỷ tỷ, không biết là chuyện gì…”

Ta ngước nhìn màn mưa âm u ngoài cửa sổ, khẽ thở dài:

“Thời tiết này… nếu chẳng phải đại sự, Hoàng Hậu sẽ không cho gọi đâu.”

Ngọc Nga nhanh nhẹn giúp ta chỉnh trang lại tóc tai, y phục rồi nhanh chóngrời đi. Bạch Diệu Hoa không đi theo được, đành dặn dò:

“Tỷ nhớ cẩn thận.”

“Yên tâm. Cả tháng nay ta đều ở trong cung, sao có thể dính líu tới chuyện gì được.”

Ta mỉm cười trấn an Bạch Diệu Hoa, nhưng lòng càng âu lo gấp bội. Sống ởhậu cung đúng là chẳng khi nào được yên thân. Dẫu không động chạm đến ai thì tai ương cũng tự đến gõ cửa.

Suốt quãng đường ngồi trênkiệu, ta cố gắng lục lọi trí nhớ xem rốt cuộc có thể xảy ra chuyện gì.Thời gian qua tuy ta không ra ngoài, nhưng Ngọc Thủy ở trong cung lâu,quen biết rộng, những chuyện trong cung ít nhiều đều nắm được. Gần đâyrõ ràng không có chuyện gì nghiêm trọng. Thật không hiểu nổi.

“Chủ nhân, tới nơi rồi.”

Màn kiệu vén lên, Tiểu Phúc Tử vội vàng giương ô che, còn Ngọc Nga thì choàng áo lên người ta, miệng liên tục nhắc:

“Chủ nhân, cẩn thận đường trơn.”

Váy áo rườm rà, vừa dài vừa vướng víu, lại thêm đôi hài đế cao khiến taphải vất vả cầm chặt tay Ngọc Nga mới đứng vững được trên nền đá hoacương trơn trợt nước mưa. Nghe đâu đôi hài đế cao này là sáng kiến củamột vị Thượng nghi ở Ti Chế phòng, để cho các chủ tử đi lại vào mùa mưacho khỏi bẩn chân. Ta vừa nghe đã giật bắn người, nghĩ bụng đường đãtrơn lại còn phải đi thứ hài lênh khênh này chẳng khác nào tạo thêm việc làm cho Thái Y viện, bèn bảo bọn họ không cần đổi kiểu mới cho ta, cứgiữ như cũ là được. Có điều người ở Thượng Cung cục lại cho rằng ta cố ý ra vẻ mình tiết kiệm, cho nên cứ theo lệ mà mang hài cao đến, khiến cho ta khóc không thành tiếng.

Vừa lúc đó, kiệu của Trịnh Vân Anhcũng mới ghé đến. Nhìn dáng vẻ chật vật của muội ấy khi xuống kiệu, tacho rằng không phải chỉ có mình ta không vừa ý đôi hài mới này.

“Nguyệt tỷ, tỷ cũng mới đến à?”

Trịnh Vân Anh khổ sở bám chặt lấy cung nữ Thanh Nhi, đi từng bước nhỏ đến chỗ ta.

“Ừ, không biết là có chuyện gì.”

Ta mỉm cười, dừng chân đợi Trịnh Vân Anh cùng đi.

Trịnh Vân Anh bắt kịp ta rồi, thở dài thườn thượt:

“Muội cũng không biết. Thật lo quá đi mất. Chỉ mong đừng như lần trước…”

Hai người vừa trao đổi được mấy câu thì nghe sau lưng vang lên tiếng bướcchân rầm rập. Ngoảnh đầu nhìn lại, thì ra là Triệu Lam Kiều ngồi kiệutám người khiêng đi tới. Ta và Trịnh Vân Anh đưa mắt nhìn nhau, đồngloạt lùi lại mấy bước.

Trời mưa nặng hạt, ta không muốn nhiềungười phải vì ta mà dầm mưa, cho nên chỉ ngồi kiệu nhỏ hai người khiêng. Loại kiệu này đơn giản, thái giám khiêng kiệu có thể mặc áo tơi màkhiêng một cách nhẹ nhàng. Trịnh Vân Anh cũng ngồi kiệu như ta, hẳn làcũng có cùng suy nghĩ.

Triệu Lam Kiều lại chẳng nghĩ vậy.

Dù thời tiết xấu thế này, nàng ta vẫn nghênh ngang ngồi kiệu lớn. Loạikiệu tám người khiêng có cấu trúc rất phức tạp, tuy rằng khi ngồi có vẻthoải mái và oai phong hơn, nhưng bản thân chiếc kiệu thôi đã rất nặngrồi, vậy nên đòn khiêng được thiết kế đặc biệt có chỗ lõm để đặt vaivào, vừa khít với vai người khiêng. Vì thế khi khiêng kiệu thì dù có mưa gió thế nào cũng không thể mặc thêm áo tơi tránh mưa được. Ta thấy cảnh này chợt mỉa mai nghĩ, Triệu Lam Kiều quả thực quá mức lạnh lùng. Chỉlà nàng ta không quan tâm đến sống chết của kẻ khác mà lại quên rằng đikiệu lớn vào lúc trời mưa gió, nếu thái giám khiêng kiệu xui xẻo trượtngã thì nàng ta té từ trên kiệu cao như thế xuống cũng khó tránh gãy vài cái xương.

“Thần thiếp tham kiến Đức phi nương nương.”

Ta và Trịnh Vân Anh đồng loạt khom người hành lễ.

Triệu Lam Kiều duyên dáng bước trên hài cao, chẳng buồn liếc nhìn, cứ thế đilướt qua hai người chúng ta. Đến khi nàng ta đi xa rồi, Trịnh Vân Anhmới nhăn mặt:

“Nàng ta làm sao đi đôi hài đó thoải mái thế nhỉ?”

Ta bật cười, lắc đầu:

“Đức phi luôn luôn giỏi hơn chúng ta mà.”

***

Bầu trời bên ngoài mưa giăng lạnh lẽo u ám, nhưng bên trong đại điện Triêu Lan cung sáng sủa, ấm áp như thể mùa xuân.

Hoàng Đế ngồi trên ghế chủ tọa, vẫn là tư thế chống cằm lười nhác như thườnglệ. Hoàng Hậu mặc phượng bào đỏ tươi, uy nghiêm ngồi ngay ngắn bên phảiHoàng Đế. Phía bên trái, Liễu Yến Yến ngồi hơi nghiêng về hướng HoàngĐế, chăm chú đùa nghịch tay áo hắn. Triệu Lam Kiều tiến vào, ngồi cạnhLiễu Yến Yến như trước. Ta và Trịnh Vân Anh vừa vào trong liền thấy cóbóng lưng nữ tử đang quỳ giữa điện nhưng không dám nhìn ngó lung tung,chỉ chuyên tâm chào hỏi cho thật phải phép. Mãi đến khi ngồi vào vị trírồi, ta mới nhận ra người đang quỳ kia chẳng phải ai xa lạ, chính là Tudung Tĩnh Tâm Lan cùng với cung nữ Đông Tú.

Triệu Lam Kiều sau khi nhấp một ngụm trà thì cất tiếng hỏi:

“Bẩm Hoàng Thượng và Hoàng Hậu nương nương, chẳng hay Tĩnh Tu dung vì lẽ gì mà lại quỳ ở đấy?”

Hoàng Đế lười đến mức không muốn mở miệng, chỉ phẩy phẩy tay về phía Hoàng Hậu.

Hoàng Hậu liền mỉm cười, dịu dàng đáp:

“Bản cung chỉ cho mời Hòa phi và Trịnh phi, thế mà cả Đức phi cũng có mặt rồi. Xem ra Đức phi quả là nhanh nhạy hơn người.”

Triệu Lam Kiều làm như không nhận ra ý tứ của Hoàng Hậu, hồn nhiên cười đáp:

“Hôm trước Tĩnh Tu dung nói với muội rằng ở nhà nàng ấy mới đưa vào một íttrà ngon, muốn mời muội cùng thưởng thức, nay muội đang định đến làmphiền thì mới biết Hoàng Hậu gọi Tĩnh Tu dung đến Triêu Lan cung, muộibèn tiện thể đến xem sao.”

“Thì ra là vậy.” Hoàng Hậu cười tươinhư hoa, đuôi mày hơi nhướn lên, nhìn về phía cung nữ Xuân Linh. “Nếu đã như vậy thì hãy nói lại một lần nữa đi, dù sao cũng nên để các vị muộimuội đến sau được biết rõ ngọn nguồn.”

“Vâng ạ!”

Xuân Linh cung kính bước về phía trước, hay tay cẩn thận nâng một chiếc khăn lụa đưa lên cao cho mọi người cùng nhìn thấy.

Chiếc khăn trong tay Xuân Linh làm bằng lụa màu trắng ngà, bên trên thêu hình một đôi chim ưng sải cánh tung bay giữa những cuộn mây bàng bạc, bêndưới còn có một nhành cây đương ra lộc non, bên cạnh thêu hai dòng thơ:

Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu,

Tại địa nguyện vi liên lý chi. (1)

Cuối cùng là bốn chữ: Tâm Lan niệm quân.

“Bẩm Hoàng Thượng, Hoàng Hậu cùng các vị nương nương, chiếc khăn này đượctìm thấy ở trên người một tên hộ vệ canh giữ cổng hoàng thành phía Bắc.Có người thấy hắn ngày nào cũng lén mang chiếc khăn này ra nhìn ngắm,lại giấu diếm không cho kẻ khác chạm vào nên sinh lòng tò mò, lợi dụngkhi hắn tắm rửa lấy được chiếc khăn này. Người đó thấy chiếc khăn làm từ lụa quý giá, lại từng làm hộ vệ bên cạnh vạn tuế gia nên nhận ra trênkhăn còn có thêu khuê danh của một vị chủ tử, vì vậy sợ hãi nhờ ngườimật báo với Hoàng Hậu nương nương. Hoàng Hậu nương nương sai nô tỳ điđiều tra thì phát hiện chiếc khăn này vốn thuộc về Tĩnh Tu dung.”

Xuân Linh cẩn thận kể lại sự tình, từng câu chữ đều vô cùng sắc sảo, không lộ chút sơ hở.

Ta cười thầm trong lòng.

Hoàng Hậu chuẩn bị lâu như thế, cuối cùng cũng ra tay. Nàng không triệu tậplục cung nhưng lại trực tiếp thỉnh Hoàng Đế đến, xem chừng đã quyết trừbỏ Tĩnh Tâm Lan. Khách xem tuồng trong đại điện ngoại trừ Đế Hậu và Liễu Yến Yến thì chỉ có Dương Quý cơ và Minh phi. Liễu Yến Yến và Minh phithực ra là khách không mời, nghe nói khi Hoàng Hậu đi thỉnh Hoàng Đế thì hai người kia tình cờ có mặt nên mới đi theo. Còn Dương Quý cơ, ta đoán Hoàng Hậu muốn để nàng ta thay mình nói những lời mà một vị mẫu nghithiên hạ không thể nói. Về phần ta và Trịnh Vân Anh vì sao bị gọi đếnthì vẫn còn chưa rõ. Triệu Lam Kiều hẳn là nghe ngóng được tin tức bènvội vã đến đây tương cứu.

“Hoàng Thượng, thần thiếp bị oan! Khăn tay đó là của thiếp, nhưng thiếp không biết tên Cẩm Y vệ đó là ai cả!”

Xuân Linh vừa dứt lời, Tĩnh Tâm Lan lập tức dập đầu bồm bộp xuống sàn.

Hoàng Đế nhếch môi cười:

“Ban nãy chẳng phải Tu dung nói có thể chứng minh bản thân vô tội sao? Trẫm chờ nghe đây.”

Tĩnh Tâm Lan như sực tỉnh, quay ngoắt lại chỉ thẳng về hướng ta và Trịnh Vân Anh đang ngồi, nói lớn:

“Đúng là như thế! Hòa phi và Trịnh phi có thể chứng minh thần thiếp trong sạch.”

Hành động của Tĩnh Tâm Lan làm ta sững người. Thấy Trịnh Vân Anh cũng há miệng ngơ ngác, ta bèn nhẹ giọng thăm dò:

“Tĩnh Tu dung nói gì ta không hiểu? Ta làm sao có thể làm chứng cho Tu dung?”

Tĩnh Tâm Lan đưa tay lau nước mắt, dõng dạc nói:

“Chiếc khăn tay đó đúng là của thần thiếp, nhưng thần thiếp đã làm mất nó từtháng trước. Sau khi đánh rơi, thần thiếp đã đi tìm nó ở ngự hoa viên,Hòa phi cũng nhìn thấy.”

Tim ta bỗng chốc thắt lại.

Trongđầu dần hiện ra cảnh tượng Tĩnh Tâm Lan cùng Đông Tú đi đi lại lại trong Ngự hoa viên lúc trước. Khi ấy, ta cứ tưởng Tĩnh Tâm Lan làm trò xấu gì cho nên mới nhúng mũi vào. Thái độ của Đông Tú lúc đó càng khiến ta tin vào suy đoán của mình. Thật không ngờ, sự hoảng hốt của Đông Tú lạimang hàm ý khác. Đông Tú đúng là không muốn ta gặp Tĩnh Tâm Lan, nhưngkhông phải vì lo cho Tĩnh Tâm Lan. Thiết nghĩ, có thể lấy trộm được đồtrên người một kẻ ghét bị động chạm vào thân thể như Tĩnh Tâm Lan, ngoài cung nữ thân cận Đông Tú thì còn có thể là ai? Đông Tú sợ hãi, chính là sợ ta lắm điều, làm hỏng chuyện lớn của Hoàng Hậu!

“Hòa phi, lời này của Tĩnh Tu dung có đúng không?”

Giọng nói mềm mại của Hoàng Hậu kéo ta về thực tại. Ánh mắt đen láy thâm thúy của nàng nhìn xoáy vào ta, khiến tay chân ta bủn rủn.

Không, ta không thể làm hỏng chuyện của nàng được.

___________

(1) Trên trời nguyện làm chim liền cánh

Dưới đất nguyện làm cây liền cành

(Trường Hận Ca – Bạch Cư Dị)
 
Back
Top Bottom