Tâm Linh Tâm Thơ Lưa Bút

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
312876003-256-k634818.jpg

Tâm Thơ Lưa Bút
Tác giả: DuyNht735
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Nơi lưu giữ kỷ niệm!​
 
Tâm Thơ Lưa Bút
PGHH


HẬU QUẢ CỦA VIỆC LẠM BÀN THIÊN CƠ

{Thiên cơ: bàn trúng có lỗi, bàn trật có tội}

《Đức Thầy》

{Thiên cơ bất khả lậu}_Khoảng vài năm nay, trên các trang mạng xã hội tuyên truyền những vấn đề Thiên Cơ Thời Cuộc, có những phần tử rao giảng những câu sấm tiên tri ngày tận thế và khẳng định ngày, giờ, năm, tháng một cách quả quyết không ngại miệng.

Có nhiều người lại láo khoét rằng được ơn trên mách bảo, phó thác trách nhiệm độ đời, lên đồng lên bóng, lên căn lên cốt, mượn Sấm Giảng Thi Văn của Phật Giáo Hòa Hảo làm bình phong tuyên truyền mê tín dị đoan, huyền bí linh nghiệm, thiên cơ thời cuộc để chiêu dụ, rù quến thiên hạ nghe theo.

Đúng với câu:"Lời Ta dạy có ngằn lắm nhỉ,

Để đây rồi chúng quỷ hiểu lầm".Thật đau lòng thay !

Những việc làm ấy ảnh hưởng đến đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo bấy lâu nay, làm cho đạo bạn, chính quyền nhà nước có cái nhìn không đẹp về Tôn Giáo và Giáo Chủ ta.

Những lời tiên tri của họ về thiên cơ sẽ là hậu quả làm cho Phật Giáo Hòa Hảo mất uy tín trầm trọng, con đường phát triển giáo sẽ bị đình trệ, tức nhiên, ngoại nhân và ngoại đạo xưa nay có thành kiến không tốt với PGHH sẵn dịp này thừa cơ hội nước đục thả câu, châm biếm, công kích, đạp đầu Phật Giáo Hòa Hảo cho thỏa thích.

Họ có nhìn ra hậu quả đó chăng ?Toàn thể tín đồ PGHH nên xét kỹ những hành vi đó có đúng với tôn chỉ của Đức Thầy không.

Đức Thầy chúng ta có bao giờ dạy rằng: các trò hãy đem những câu sấm ngữ thiên cơ của ta tiên tri cho mọi người biết.

Không hề có bao giờ phải không.

Ngài dạy phải chăm chỉ tu theo giáo lý Học Phật Tu Nhân, trao thân sửa tánh, giúp đỡ nhân quần xã hội và đem nền tảng giáo lý tình thương ấy ban bố đến mọi người và làm cho thế giới này, đất nước này, xã hội này trở nên hạnh phúc và an lạc.

Chẳng còn chiến tranh giặc giả, cướp bóc giết người, thiên tai nạn ách.Đức Thầy cầu nguyện cho chúng sinh:"Cầu cho đời sóng lặng gió êm,

Đặng bá tánh an nhàn tu niệm".Và câu nguyện hằng ngày tín đồ thường cầu:

"Nhứt nguyện cầu, thiên hoàn, địa hoàn, nhơn hoàn, liên hoa hải hội thượng Phật từ bi, phật vương độ chúng thế bình an".Thế tại sao ta bây giờ hè nhau cầu mong cho đời mau tận diệt, chiến tranh giặc giả, thiên tai nạn ách cho chết hết.

Ta có đủ phước đức để vượt qua những tai biến đó không.

Ta có đủ công năng tu tập và thành quả khi diện kiến Đức Thầy ở ngày mai không ?

Hay là mới tu ba mớ rồi mong cho đời mau tới đặng chết không kịp thở.

Xét về mặt giáo lý, Đức Thầy chúng ta là một vị cổ Phật thông kim bác cổ, thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quáng nhân sự, đủ cả Tam Thân, Tứ Trí, Lục Thông, Ngủ Nhãn, Tam Minh.

Cho nên tất cả những hiện tượng xoay chuyển của vũ trụ tuần quờn Ngài đã thấu đáo một cách rất rành mạch.

Ngài cho biết:"Thân bần Tăng Mặc bô sòng nâu,

Cuộc thiên lý một bầu đều hãn".Hay là:"Cặp mắt thấy dòm xem tứ hải,

Thương hồng trần mượn xác tái sanh".Thế cho nên khi lâm phàm, với phương tiện truyền giáo là "Tam Độ Nhất Như" vừa trị bệnh, thuyết pháp, viết giảng độ đời, khuyến gọi chúng sanh quy y tu hành và tìm cho mình con đường giải thoát, Ngài đã thố lộ Thiên Cơ, tiên tri những hiện tượng thời tiết, thiên nhiên, chiến tranh, thời đại, xả hội, tôn giáo, chính trị...

đã và đang xảy ra rất chính xác.

Song song vào đó, Ngài cho biết trước buổi hạ ngươn sẽ tận diệt và tái lập lại đời thượng ngươn thánh đức tân dân ở ngày mai, lấy đất nước Việt Nam làm trung ương.

Ngài khuyên bá tánh lo thức tỉnh quay đầu, cải tà quy chánh theo tông chỉ của Tam Giáo mà chính Ngài đã đúc kết trong quyển Tôn Chỉ Hành Đạo, tức Quyển sáu trước khi vắng mặt một năm.Tuy nhiên, những lời tiên tri của Đức Thầy không chổ nào Ngài dám khẳng định một cách quả quyết ngày, giờ, năm, tháng (...) như những hạng phàm phu tục tử tuyên truyền ngày nay.

Ngài chỉ hé lộ rằng: à ! ngày mai này, ở tương lai đất nước Việt Nam sẽ thay đổi vận mệnh và tạo lập đời tân, chính Ngài là người chịu trách nhiệm định ngôi phân thứ gây sự hòa bình cho vạn quốc chư ban.

Tại sao ?

Vì Đức Thầy là người trong cuộc, biết rõ ràng những gì diễn biến sắp tới.

Vì thế Ngài mượn đó làm phương tiện nhắc nhở chúng sanh thức tỉnh tu hành để hưởng sự thái bình an lạc.

Chứ kỳ thực việc tu hành không dín dán gì tới thiên cơ cả, bởi vì tu là để giải thoát sinh tử luân hồi, tu là để chuyển hóa thân tâm cho được thuần khiết thanh tịnh, trở nên một con người có nhân phẩm đạo đức cao thượng, tốt đẹp.

Còn thiên cơ ư !

điều đó đã có ơn trên sắp xếp, máy trời đã an bài, hạng ngu phu chúng ta làm sao có khả năng thấu hiểu được máy huyền vi tạo hóa, lý thiên đình định đoạt được.

Nên nhớ cho kỹ:"Thiên cơ được lịnh nên Ta nói".Và chúng ta, hạng phàm phu ngu dốt thì sao:"Thiên cơ đạo lý để lòng tu thân".Đức Thầy đã răn dạy rõ ràng trong quyển Sấm Giảng đó, nào có ai nghe.

Chỉ học lốm vài ba câu sấm ngữ, nói chổ này đắp vô chỗ kia, bắt hườn qua chỗ nọ, vá lấp giảng của vị này vị kia sai bét.

Chứ nào học cho tới nơi tới chốn bao giờ.

Lại trong quyển sáu, tức Quyển Tôn Chỉ, Đức Thầy dạy trong mục Sự Học chánh Văn Như sau:"Sự học hành không làm trở ngại cho sự đạo đức.

Trái lại, nhờ nó mình được biết rõ ràng giáo lý cao siêu của tôn giáo.

Nó tránh cho mình những sự lạc lầm, bỏ các điều dị đoan mê tín.

Nó làm cho mình dẹp bỏ những điều huyễn hoặc, không bàn những chuyện xa vời (Như tiên đoán thiên cơ chẳng hạn...)".Đấy là một đoạn chánh văn mà Đức Thầy đã nhắc nhở tín đồ phải nhìn rõ chân lý bằng sự học tập để tránh đi những tình trạng mê tín dị đoan, âm thinh sắc tướng và tiên đoán thiên cơ thời cuộc.

Ấy vậy mà, tín đồ PGHH lại cải Thầy, cố tình lạm bàn thiên cơ một cách tự do vô phép tắc, vô kỷ cương, vô luật lệ trong hệ thống giáo lý Phật Giáo Hòa Hảo.

Với lại trong phần Thi Văn, những bài sáng tác năm Giáp Thân 1944 Đức Thầy viết bài Lời Tâm Huyết.

Trong bài này, có 8 lời tâm huyết mà Đức Thầy ân cần dạy bảo.

Và lời Tâm huyết thứ 3 Ngài cấm bàn thời cuộc.

Người hay bàn thiên cơ thì phải nói đến thời cuộc, mà thời cuộc là một phần của thiên cơ.

Như vậy thiên cơ thời cuộc đức Thầy cấm bàn.

Nhưng tại sao bây giờ rộ mé, ai cũng tự cho mình là tín đồ PGHH rồi hiên ngang khua môi múa mỏ, tiên tri những chuyện xa vời với thực tế và nền tảng tu học của Phật Giáo Hòa Hảo.Vả lại, cuộc biến chuyển đất trời ngày qua ngày có khác, nó không nhất định là phải vậy, y như vậy.

Nay thay đổi như vầy, mai thay đổi như khác."

Máy thiên cơ mỗi phút mỗi thay".Đương nhiên dựa trên giáo lý PGHH và lời giáo huấn của Đức Thầy cho cụ Vương Kim, tức Phan Bá Cầm là thiên cơ nó còn tùy thuộc vào nghiệp lực của chúng sanh mà đến mau hay đến chậm, thì làm sao ta đón đó là chính xác 100%.Có một lần cụ Vương Kim hỏi Đức Thầy: vừa qua những gì Ngài đã tiên tri về đệ nhị thế chiến bùng nổ và chấm dứt ngày, tháng, năm rất chính xác.

Như vậy xin Đức Thầy cho biết đệ tam thế chiến ở tương lai bao giờ bùng nổ, ngày nào, năm nào, tháng nào và ở đâu ?Đức Thầy ôn tồn nhìn cụ Vương Kim nói:"Tức nhiên đệ tam thế chiến sẽ bùng nổ.

Khi nó bùng nổ rồi thì thế giới này không còn gì hết và tạo lập lên cõi đời Thượng Ngươn Thánh Đức.

Tam Thế chiến ngòi chiến ở tại trung đông, còn ngày nào, tháng nào, năm nào thì còn tùy thuộc vào nghiệp lực của chúng sanh nữa.

Nếu chúng sanh thiện nhiều thì lâu một chút, ác nhiều thì mau một chút.

Nhưng lâu mau gì thì bắt buộc nó cũng phải tới".Rõ ràng là cuộc định lý của cơ trời đã sắp bày, chỉ chờ ngày và tùy thuộc vào hoàn cảnh cũng như tác nghiệp của chúng sanh mà diễn biến mau hay chậm.

Ta, những con người phàm phu, mê si không cầu cũng tới, có cản cũng không được.

Vì ý trời đã định.

Cho nên, bổn phận của hàng tín đồ PGHH lúc này là lo học, nghiên cứu giáo lý của đạo mà chuyên tâm tu hành.

Còn chuyện của trời đất không tới lược chúng ta xía vào làm ảnh hưởng đến uy nghiêm của tạo hóa và giáo lý cao siêu của Thầy Tổ.Huống chi Đức Huỳnh Giáo Chủ nói: "Thiên cơ bàn trúng có lỗi, bàn trật có tội".

Và tức nhiên đa phần là bàn trật lất, trớt quớt.

Tại sao ?

Vì ai cũng là chúng sanh, đang quay lộn trong luân hồi sinh tử, nào là vô minh, phiền não che đậy chân tâm thì làm sao biết được cơ trời xoay chuyển.

Họ còn không biết ngày mai ra sao, chừng nào mình chết, huống chi là tiên đoán những chuyện xa vời.

Chỉ học lốm vài ba câu thánh kệ, nói bân quơ phỏng đoán như thiệt, không căn cứ vào đâu.

Thật là tội nghiệp thay !

Không phải mới rộ mé vụ thiên cơ thời cuộc mới đây, mà đã có mấy chục năm về trước rồi.

Và chính những con người đó (người bàn thiên cơ) đã dám khẳng định năm 2000 đời tới, đời không tới họ sẽ chặt đầu bỏ.

Qua năm 2000 có thấy ai chặt đầu bỏ đâu.

Tới năm 2012 bắt đầu rộ mé đời tới nữa, và cũng lên đĩa, lên mạng tuyên bố năm 2012 đời không tới sẽ chặt đầu, rồi mỗ bụng đủ thứ.

Và hôm nay 2022 chả thấy tên nào chặt đầu coi thử.

Mà còn tệ hại hơn nữa..Họ để lại biết bao nhiêu hậu quả cho mọi người hoang mang, sợ hãi, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ bỏ chồng, hoan phế gia sản để cuối cùng không thấy đời tới, mà chỉ toàn những sự thất vọng, mất lòng tin, thối chí nản lòng, và câm phẩn những tên lừa bịp.

Họ phản đòn chưởi bới Phật Giáo Hòa Hảo và Đức Thầy một cách thậm tệ.

Lúc mới nghe ai cũng sợ lo tu ráo riết, tới chừng không xảy ra chuyện gì thì phế đạo thôi tu, bôi chay phá giới, khinh thường người tu đạo (tín đồ PGHH).

Cái tội đó bao lớn ?

Trước năm 1975, khi giáo hội còn phục hoạt, và còn những bậc cao niên cao đồ của Tổ Thầy còn sống.

Những vị chức trách ấy đã đưa ra bản nội lệ khi thuyết trình truyền bá đạo của Thầy.

Trong bản nội lệ ấy có cấm bàn thiên cơ khi lên diễn đàn thuyết trình hoặc nghi vấn.

Nếu vấn chủ có hỏi về những câu giảng nói về thiên cơ thì ông giảng viên chỉ đơn gọn, đại lược từ ngữ và nhắc lại câu giảng nào có liên quan thôi.

Kỳ thực không ai dám tuyên bố mạnh dạng, quả quyết như bây giờ.

Bởi vì các bậc cao niên cao đồ gần gũi Đức Thầy đã hiểu biết về tác hại của việc bàn thiên cơ thời cuộc và biết rõ khả năng, trình độ mình với không tới, nên án binh bất động, chẳng dám lạm bàn mà mang tội.Chắc có lẽ, thời buổi ngày nay vấn đề mạng xã hội thạnh hành, làm ăn được, nên sẵn nhân cơ hội này tạo danh, kiếm lợi, nói những chuyện tâm linh huyễn hoặc có tính cách giật gân, câu like, kiếm chút đỉnh nuôi sống bản thân.

Dựa vào tôn giáo để thủ lợi, kiếm tiền, tạo mớ danh vọng chứ không gì khác.Âu cũng là định số, đời sắp hết nên rộ mé, trổ ra không thiếu thứ gì.

Con ai nấy dẫn thật không sai.

Ai là tín đồ PGHH thuần thành, nên đọc bài này đặng xa tránh những hệ lụy tín ngưỡng mù mờ, phi lý ấy để bảo toàn tuệ mạng đời sống tu hành, giữ gìn danh thể cho đạo và đoàn thể tôn giáo cũng như Đức Thầy.

Ngày mai này, khi Thầy trở gót, những kẻ làm cho nền đạo bị lụn bại, không nghe lời chỉ sẽ chịu trách nhiệm việc làm sai quấy của họ.

Và cũng để tránh cho ta thành những kẻ ngông cuồng vô ý thức, phá hoại đạo đức."

Rán nghe lời dạy của Thầy,

Để chừng đến việc kiếm Thầy khó ra".

(ĐT)."

Dầu không có cuộc biến thiên,

Cũng tu cho khỏi nghiệp duyên luân hồi".

(TS)
 
Tâm Thơ Lưa Bút
PGHH 2


Thân thế và sự nghiệp Quản Cơ Trần Văn Thành (Đức Cố Quản)Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873) là một cuộc kháng Pháp do Quản cơ Trần Văn Thành làm thủ lĩnh, đã xảy ra trên địa bàn của tỉnh An Giang, Việt Nam.Trần Văn Thành (?

- 1873) còn được gọi là Quản cơ Thành (theo triều Nguyễn) Đức Cố Quản (tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương gọi tôn).

Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa (1867-1873) trong lịch sử Việt Nam.

Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông ở ấp Bình Phú (Cồn Nhỏ), làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, huyện Đông Xuyên, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc ấp Bình Thành, xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang)

Ông trưởng thành và hoạt động dưới triều đại Thiệu Trị và Tự Đức, từ khoảng năm 1841 đến 1873.

Năm 1840, Trần Văn Thành gia nhập quân đội nhà Nguyễn giữa lúc Nặc Ông Đôn, em vua Cao Miên, nhờ có Xiêm La giúp sức, đã khởi quân chống lại cuộc bảo hộ của Việt Nam

Nhờ có sức khỏe, giỏi võ nghệ, khá thông thạo chữ nghĩa, nên ông được cử làm suất đội (chỉ huy khoảng 50 lính), từng đóng quân ở Chân Lạp (Campuchia).Dưới thời Thiệu Trị, ông từng đem quân đánh dẹp phe nổi dậy ở Láng Cháy (Tri Tôn).

Năm 1845, sau khi lập được nhiều công lao, ông được thăng làm Chánh Quản Cơ, coi 500 quân, đóng quân ở Châu Đốc để giữ gìn biên giới phía Tây Nam.

Năm 1846, Nặc Ông Đôn qui phục nhà Nguyễn.

Cuối năm Đinh Mùi (1847), xét thấy tình hình biên giới Tây Nam đã ổn định, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", triều đình cho giải ngũ một số binh sĩ, trong đó có cơ biền của Trần Văn Thành.

Trước khi về lại quê nhà, ông được ban thưởng nhiều phẩm vật cùng một tờ chiếu khen là "Quản cơ tinh binh"

Giải ngũ, Trần Văn Thành cùng gia đình đến cư ngụ tại khu vực chùa Huê Viên (còn gọi là chùa Vườn Bông, nay thuộc xã Phú Bình, huyện Phú Tân) Năm 1849, Trần Văn Thành gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương do Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) sáng lập năm 1849.

Từ 1851, khi Đoàn Minh Huyên bị bắt buộc phải đến tu tại chùa Tây An (Châu Đốc), nghe lời thầy, ông mang vợ con rời Cồn Nhỏ (Bình Thạnh Đông) đến vùng Nhà Bàng sau này, rồi đến Láng Linh (Châu Phú) lập trại ruộng để lo việc khẩn hoang

Tháng 2 năm 1861, Đại đồn Chí Hòa thất thủ, sau đó quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.

Vua Tự Đức liền ra lời kêu gọi các sĩ dân nơi đây cùng hợp tác chống ngăn quân xâm lược.

Hưởng ứng lệnh vua, Trần Văn Thành trở lại đội ngũ.

Sau khi đi Pháp chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thất bại, năm 1865, Phan Thanh Giản được cử làm Kinh lược sứ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.

Do sức ép của Pháp, triều đình lệnh cho ông Giản phải lùng bắt Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên hộ Dương), và ông Giản đã phái Trần Văn Thành thực hiện nhiệm vụ này, nhưng ông chỉ làm cho lấy có.Ngày 20 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long.

Sau đó, một đoàn tàu chiến do trung tá hải quân GaLey cầm đầu, tiến lên huy hiếp thành Châu Đốc, buộc Tổng đốc Phan Khắc Thận phải đầu hàng, tỉnh An Giang mất ngày 22 tháng 6 năm 1867.

Để cứu nguy nước nhà, Trần Văn Thành tự tổ chức dân binh đắp cản ở quê nhà (Cồn Nhỏ) để ngăn quân Pháp, đồng thời mang quân qua phía Rạch Giá, hỗ trợ cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực.

Tháng 6 năm 1968, thủ lĩnh Trung Trực đánh chiếm được đồn Kiên Giang mấy ngày, thì bị quân Pháp tổ chức phản công.

Lập tức, Trần Văn Thành cho quân (có đông đảo đồng bào Núi Sập tiếp sức) đắp cản ở Ba Bần, Trà Kên (nay đều thuộc huyện Thoại Sơn) để ngăn cản tàu chiến Pháp đi tái chiếm tỉnh lỵ Rạch Giá.

Ngoài ra, ông còn can dự vào việc giết viên Chủ tỉnh Vĩnh Long là Salicetti ở Vũng Liêm.

Cuộc cản phá thất bại, Nguyễn Trung Trực bị đánh thua rút quân ra Hòn Chông (nay thuộc Kiên Lương), còn Trần Văn Thành thì dẫn lực lượng của mình vào Láng Linh dựng trại, khẩn hoang làm ruộng, luyện quân và rèn đúc vũ khí...để chuẩn bị làm cuộc đánh đuổi ngoại xâm

Láng Linh một cánh đồng rộng trũng phèn rộng bao la, thời nhà Nguyễn, đất này thuộc huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang (nay nằm trên địa bàn các xã Thạnh Mỹ Tây, Đào Hữu Cảnh, Bình Phú (nay đều thuộc huyện Châu Phú tỉnh An Giang).

Xưa kia, nơi đây có nhiều đầm lầy, đế sậy và vô số cây thưa (vì thế mà thành tên cuộc khởi nghĩa), lại ít có kênh rạch thông vào...Theo lời kể của nhân dân và tư liệu cũ thì căn cứ chính của khởi nghĩa Bảy Thưa là Hưng Trung doanh (nay thuộc ấp Hưng Trung, xã Đào Hữu Cảnh, huyện Châu Phú).

Xung quanh có các đồn làm tuyến ngăn cản đối phương, như: đồn Cái Môn, đồn Lương (đều thuộc Thạnh Mỹ Tây), đồn Giồng Nghệ (Vĩnh Hanh, (Châu Thành), trạm canh Ông Tà (Tà Đảnh, Tri Tôn), đồn Hờ ở vàm rạch Cái Dầu (Châu Phú), v.v... (xem thêm bản đồ chiến khu Bảy Thưa).

Mỗi đồn đều được trang bị súng thần công, súng điểu thương, hỏa hổ,... với khoảng 150 nghĩa quân phòng thủ.Trần Văn Thành phất cờ chống Pháp vào khoảng tháng 8 năm 1867], và lấy tên Binh Gia Nghị đặt cho đội quân của mình

Theo tờ trình của Pháp năm 1870, thì lúc bấy giờ lực lượng của Trần Văn Thành có khoảng 1.200 nghĩa quân, bao gồm một số quân triều và nghĩa dân (trong đó phần đông là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương).

Để củng cố thêm thế lực, Trần Văn Thành cho người đến liên hệ với Pu Kom Pô, thủ lĩnh kháng Pháp ở Campuchia, nhưng vì ông này cũng đang gặp khó khăn nên việc liên kết không mấy hiệu quả.

Ngoài ra, ông còn cho người sang Xiêm La và Cao Miên để mua súng đạn, nhưng không thành công, vì hai nước ấy không muốn nhúng tay vào việc Nam Kỳ e mất lòng PhápCuối năm 1868, các phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đã bị tan rã gần hết, lực lượng Trần Văn Thành lâm vào thế cô, và ông trở thành nhân vật bị Pháp truy nã, treo giải thưởng cao.

Năm 1871, một cộng sự của Pháp là Trần Bá Lộc thử hành quân vào Bảy Thưa, nhưng chẳng thâu được kết quả do sình lầy, bốn phía lau sậy mù mịt, thỉnh thoảng bị phục kích.

Sang năm 1872, nhờ lời khai của nghĩa quân ra hàng và mật thám thăm dò được, thực dân quyết định mở cuộc càn quét lớn vào Bảy Thưa.

Tuy nhiên mãi cho đến năm sau, họ mới phát lệnh hành quân.Bắt đầu từ tháng 3 năm 1873, thực dân Pháp cho quân đánh phá đồn Hờ ở rạch Cái Dầu (thuộc Châu Phú), và uy hiếp đồn Nghệ (thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, An Giang) rồi kéo dần vào rừng.

Họ nã đại bác vào phía trước và cho dân dọn đường phía sau.

Qua 5 ngày chiến đấu, quân Bảy Thưa lui dần.

Quân Pháp không tiến mau được vì ngột nắng và sợ đĩa.

Ngày 19 tháng 3, hải quân Pháp từ Châu Đốc tiến vào đánh đồn Cái Môn (nay thuộc xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú).

Tuy có hào sâu nhưng vì súng của nghĩa quân bắn không được xa, phát nổ phát không, nên chẳng bao lâu quân Pháp tràn vào được trong đồn.

Cùng ngày ấy, tàu chiến Pháp đâu tại vàm rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang), ngoài sông Hậu, rồi cho quân dùng xuồng nhỏ vào ngọn rạch Mặc Cần Dưng (nay thuộc Châu Thành, An Giang) để tiến tới ngọn Hang Tra là nơi Trần Văn Thành đang chỉ huy chiến cuộc.Biết mình đang bị bao vây, và người Pháp có vũ khí hữu hiệu, nhưng Trần Văn Thành và nghĩa quân vẫn cương quyết đối phó.

Theo Sơn Nam, khoảng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 3 năm 1873 (21 tháng 2 năm Quý Dậu), quân Pháp bắt đầu xung phong đánh chiếm Hưng Trung doanh.

Báo Le Courrier de Saigon ra ngày 5 tháng 4 năm 1873 tường thuật:Tại Hưng Trung, Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đứng sau chiến lũy làm bằng những tấm ván và những bao gạo chồng lên nhau, để đốc thúc nghĩa binh chiến đấu.

Nghĩa quân trong các chiến lũy thổi tù và, đánh trống và reo hò để tăng uy thế.

Bên cạnh ông còn có con trai ông hỗ trợ cho ông bắn"...Nhà văn Sơn Nam kể:

Ông Trần Văn Thành vẫn bình tĩnh đối phó, tuy đang bị vây.

Ông đứng sau phòng tuyến làm bằng ván với những bao gạo chồng chất.

Ông thách thức bọn Pháp, dùng ống loa mà chửi rủa thậm tệ.

Đồng thời ông day về phía quân sĩ của mình mà khích động tinh thần; quân sĩ hò reo vang rân, chửi rủa bọn Pháp, trống đánh liên hồi.

Ông Trần Văn Thành cắt từng lọn tóc nhỏ của mình mà phân phát cho các tín đồ...Bọn Pháp được lịnh đánh tràn vào.

Ông Thành mặc áo màu đo sậm, đốc thúc chiến sĩ, ra hiệu lịnh, bên ạnh ông là đứa con ruột đang tiếp tay và đích thân ông bắn súng...

Trước hỏa lực mạnh mẽ của đối phương, dù cố gắng chống trả nhưng chỉ vài giờ sau thì quân Bảy Thưa cũng bị đánh tan.

Cũng theo Sơn Nam thì sau trận này, bên nghĩa quân có 10 người chết, 5 người bị thương, 15 người bị bắt sống.

Ngoài ra, họ còn bị đối phương chiếm đoạt 16 súng điểu thương, 70 cây đao, nhiều gạo cùng ghe xuồng, một số giấy tờ cho thấy ông Thành từng ở Rạch Giá với Nguyễn Trung Trực và can dự vào vụ đánh giết Salicetti (chủ tỉnh Vĩnh Long) ở Vũng Liêm.Xong trận, quân Pháp nổi lửa đốt tất cả dinh trại, phá hủy hết các lò đúc vũ khí, rồi mang xác ông Thành và Đội Văn (Pháp ghi là Vang, giữ hậu tập, tử trận trong trận Hưng Trung) về chưng bày tại chợ Cái Dầu (Châu Phú) để thị uy, để ngăn chận những tin đồn cho rằng ông còn sống, chỉ tạm thời đi lánh mặt và sẽ tiếp tục kháng chiến.

Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam thì ông không tử trận.

Sách viết: "sau khi bản doanh Hưng Trung bị tàn phá, thất bại nặng, ông rút lui vào chiến khu và mất ngày 21 tháng 2 âm lịch năm 1873.

Về cái chết của ông, đến nay vẫn chưa được làm rõ.#Theo Wikipedia# Nguyễn Thị Thạnh (1825-1899), còn gọi là Bà Cố Quản vợ Quản Cơ Thành, là người ở rạch Sa Nhiên, thôn Tân Quy Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay là phường Tân Quy Đông, thị xã Sa Đéc).

Bà là người vợ nhân hậu, đảm đang, văn võ đều khá giỏi.

Trong công cuộc kháng Pháp của chồng, ngoài việc lo cơm nước, thuốc men và động viên binh sĩ; bà còn cùng với hai người con gái là Trần Thị Hè và Trần Thị Nên đi vận động mọi người đóng góp tiền của lương thực, tham gia đào kênh (kênh Bờ Dâu), khẩn ruộng, trồng dâu nuôi tằm dệt vải,...tạo nguồn vật dụng và lương thực cho căn cứ.

Đức Cố Quản Và và bà có tất cả sáu người con: ba trai, ba gái, theo thứ tự sau: Trần Văn Nhu, Trần Thị Hè, Trần Văn Chái, Trần Thị Nên, Trần Thị Núi và Trần Văn Trạng.

Trừ trai út mất năm 7 tuổi, hai trai còn lại đều khá danh tiếng:

Trần Văn Nhu (1847-1914), còn gọi là Cậu hai nhà Láng (người miền Nam gọi con đầu lòng là thứ hai), người lập ra Bửu Hương tự (tức chùa Láng) và cũng là người kế truyền mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương sau khi cha mất.

Lúc khởi nghĩa Bảy Thưa bị đánh dẹp (1873), mẹ ông cùng ông và những người thân tín khác, bị Pháp truy nã rất gắt nên phải lẩn trốn nhiều nơi.

Năm 1897, ông Nhu trở về căn cứ cũ lập Bửu Hương tự (nay là Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành), phát "lòng phái" để thu nhận tín đồ.

Ông Nhu mất tại Trà Bang (Rạch Giá) ngày 25 tháng 3 âm lịch năm 1914.

Trần Văn Chái (1855-1873), bị thương ở bắp đùi rồi bị quân Pháp bắt khi cùng chiến đấu với cha tại bản doanh Hưng Trung.

Sợ con không thể chịu nổi sự tra tấn của đối phương sẽ khai báo bí mật của nghĩa quân, bà Thạnh (vợ Quản Cơ Thành) liền nhờ người đưa thư khuyên con nên tự vẫn để tròn khí tiết.

Không rõ Trần Văn Thành và Trần Văn Chái được chôn cất ở đâu.

Trong khu mộ của dòng họ Trần ở gần chùa Bửu Hương tự thuộc xã Thạnh Mỹ Tây (Châu Phú), không có phần mộ của hai người.
 
Back
Top Bottom