Tâm Linh Sứ Điệp Fatima

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
180336047-256-k559191.jpg

Sứ Điệp Fatima
Tác giả: Avemariasaobien
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Hoàn thành


Giới thiệu truyện:

Sứ Điệp Đức Mẹ hiển linh tại Fatime kêu gọi chúng ta:
1.

Cải thiện - phục thiện - tu chỉnh đời sống
2.

Nguyện Kinh Mân Côi hằng ngày
3.

Tôn Sùng Mẫu Tâm
4.

Rước Lễ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng, để đền tạ Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Mẹ.

5.

Mỗi lần làm xong việc lành nào thì nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con xin dâng lên Chúa việc hy sinh này, để cầu xin cho kẻ có tội được ơn ăn năn trở lại, và để đền vì tội lỗi xúc phạm đến Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria."

Đức Bà Maria tiết lộ cho Thánh nữ tý hon Jacinta biết: "Rất nhiều người xa hỏa ngục là phạm tội thân xác dâm ô..."​
 
Sứ Điệp Fatima
Thông Điệp của Thiên Thần Hòa Bình


Thông Điệp của Thiên Thần Hòa Bình Ban ở Fatima trước khi Mẹ Maria hiển Linh bị Quên Lãng

Đa số người Công Giáo đều biết đến Đức Mẹ Maria hiển linh với ba trẻ chăn chiên nghèo khó ở Fatima, Portugual (Bồđàonha) vào năm 1917.

Nhưng quý vị có biết đến thiên thần xuất hiện với ba trẻ trước khi Đức Mẹ Maria hiện ra không?Năm 1915-1916, là hai năm trước lúc Đức Mẹ Maria hiện ra với các em, ba trẻ chăn chiên nghèo khổ Lucia, Jacinta, và Francisco đang lúc lùa đàn chiên của gia đình các em đến đồng cỏ, thì bỗng có một thiên thần hiển linh với các em.Chị Lucia đã tiết lộ điềm tiên báo huyền bí vào năm 1915 trong như sau: "...con mời các bạn con lần chuỗi, chúng con vừa mới bắt đầu, thì thấy trước mắt chúng con là một hình người lơ lửng trong không trung bên trên mấy tàng cây; trông giống như một ông phỗng tuyết gần như trong suốt vì ánh nắng mặt trời."

Chị Lucia kể tiếp (năm 1916), "...Nguyện Kinh Kính Mừng xong, chúng con chơi trò đá sỏi mới có một chút thì có một trận gió lớn rung chuyển cây cối.

Chúng con nhìn lên sợ hãi không biết chuyện gì sẽ xảy ra, vì ngày hôm đó bầu trời rất yên tĩnh.

Rồi chúng con nhìn thấy trên mấy cây ô-liu, hình tượng như con đã diễn tả (trong "điềm tiên báo huyền bí vào năm 1915"), đang tiến đến gần chúng con.

Jacinta và Phanxicô chưa bao giờ được thấy hoặc nghe con nói về hiện tượng này.

Khi hình ảnh này đến gần, chúng con đã có thể nhận rõ hình dạng hơn.

Đó là một thiếu niên chừng mười bốn hoặc mười lăm tuổi, trắng hơn tuyết, trong suốt như pha lê khi ánh mặt trời chiếu qua, và rất đẹp đẽ.

Khi tới gần chúng con, vị thần ấy liền nói:"Đừng sợ!

Ta là Thiên Thần Hòa Bình đây.

Các em hãy cầu nguyện với ta."

Quỳ gối xuống (đoạn thiên thần hòa bình và các em cùng quỳ gối xuống), vị thần cúi đầu cho đến khi trán chạm mặt đất, và bảo chúng con hãy lập lại những lời này ba lần:"Lạy Chúa con, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa!

Con xin Chúa tha thứ cho những người không tin kính, không thờ lạy, không trông cậy, và không yêu mến Chúa."

Nguyện xong, thiên thần đứng lên nhắn nhủ trước khi biến mất: "Hãy cầu nguyện như vậy.

Trái tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đều luôn lắng nghe lời các em xin."

Lần khác, vào lúc chớm hè, các em đang chơi trên nắp đá giếng nước ở sau vườn, nơi các em gọi là Arneiro, thì vị thiên thần giống như lần trước xuất hiện lần thứ hai.

Thiên thần hỏi han và hối thúc các em cầu nguyện,

"Các em đang làm gì đấy?

Các em phải cầu nguyện!

Hãy cầu nguyện đi!

Trái Tim Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria sẵn có dự kiến thương xót vì các em.

Các em phải dâng các lời cầu nguyện và những hy sinh lên Thiên Chúa Cao Cả."

Lúc các em hỏi là phải dâng các hy sinh như thế nào, thì được thiên thần giải thích:"Các em hãy hy sinh tất cả những gì các em có thể làm được, đặng dâng lên Thiên Chúa để đền vì những tội lỗi đã xúc phạm đến Người, và van xin cho kẻ có tội được ơn ăn năn trở lại.

Làm như thế, các em sẽ đem hòa bình đến cho quốc gia các em, vì Ta chính là thiên thần hộ mạng của Nước Portugal.

Trên hết mọi sự, các em hãy vâng chịu cùng kiên nhẫn đón nhận mọi hy sinh đau khổ Chúa sẽ gởi tới cho các em."

Lần Thứ ba, đang lúc các em gập đầu xuống đất, nguyện đi nguyện lại không biết bao nhiêu lần câu kinh thiên thần dạy lần trước, "Lạy Chúa con, con tin kính, con thờ lạy, con trông cậy và con yêu mến Chúa...", thì bỗng nhiên thấy một luồng sáng kỳ diệu chiếu vào người các em, các em bật ngẩn người coi chuyện gì, thì thấy Thiên Thần đã xuất hiện ngay trước mắt- lần này, tay trái ngài cầm một chén thánh với Mình Thánh bên trên tay phải đang rỉ máu xuống chén thánh.

Thiên Thần để Chén cùng Bánh Thánh lơ lửng trên không, rồi cùng các em quỳ xuống xướng kinh nguyện mới:"Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con hết lòng thờ lạy Chúa!

Con xin dâng lên Chúa Mình và Máu Châu Báu, Linh Hồn và Thiên Tính Chúa Giêsu Kitô, hiện diện trong các nhà Nhà Tạm trên thế giới, để đền tạ vì những lăng nhục, phạm thánh, và sự thờ ơ mà thiên hạ hằng xúc phạm đến Chúa.

Và vì công nghiệp vô cùng của Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu và Trái Tim Vô Nhiễm Mẫu Maria, con xin Chúa hoán cải kẻ có tội."

Sau đó Thiên Thần đứng lên đỡ lấy Chén Thánh và Mình Thánh.

Thiên Thần cho Lucia rước Mình Thánh và cho Jacinta và Phanxicô rước Máu Thánh từ trong Chén Thánh rồi bảo, "Hãy rước Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu Kitô, đang bị các kẻ vong ân bội nghĩa xúc phạm ghê gớm.

Hãy đền tạ vì tội lỗi của họ để an ủi Chúa."

Thế rồi ngài biến mất, chẳng hề thấy xuất hiện nữa.Các trẻ nhỏ đều biết, vị thiên thần này chỉ xuất hiện như màn dạo đầu chuẩn bị cho những lần hiện thân nổi tiếng của Đức Maria mà các em được diễm phúc diện kiến vào năm sau.Có phải thông Điệp của Thiên Thần Hòa Bình muốn nhắn nhủ chúng ta phải cung kính và chú trọng đến Phép Thánh Thể chính là nguồn suối tình yêu, và là trung tâm của sự hoán cải và đổi đời:1.

Cung Kính nguyện lời kinh Thiên Thần dạy trước khi rước lễ, sau khi rước lễ, và trước Phép Thánh Thể.

Vì Thiên cùng các em sấp mình thờ lạy Thánh Thể trước, sau đó Thiên Thần mới cho các em rước Mình và Máu Thánh, rồi lại sấp mình thờ lạy.

2.

Năng Rước Lễ để đền tạ Hai Thánh Tâm Chúa Giêsu và Đức Mẹ bị xúc phạm.3.

Năng Rước Lễ để xin Chúa hoán cải kẻ có tội.

4.

"Trên hết, hãy đón nhận những hy sinh đau khổ Chúa sẽ gởi đến."

Thứ Sáu Đầu ThángNgày 5/5/2017Sóng Biển Phỏng DịchSource: https://churchpop.com/2017/05/04/the-forgotten-message-of-the-fatima-angel-that-came-before-mary/
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Nhất Ngày 13 Tháng 5, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Nhất Ngày 13 Tháng 5, 1917 Chị Lucia đã tiết lộ Thông Điệp Đức Mẹ ban vào ngày 13 Tháng 5, 1917 trong Hồi Ký Thứ Hai và Thứ Tư như sau:Con nhớ lại lời Thiên Thần đã nói, "Trên hết, hãy đón nhận những hy sinh Chúa sẽ gởi đến."

Những lúc như thế, con thường trốn vào một chỗ vắng, để khỏi làm cho mẹ con phải đau khổ thêm, khi thấy con phải khổ.

Chỗ này, như thường lệ, là giếng nước nhà con.

ở đó con quỳ gối, gục đầu trên nắp giếng, nước mắt tuôn trào hòa cùng nước giếng và con dâng những đau khổ này lên Chúa.

Đôi khi, Jacinta và Phanxicô đến tìm con và thấy con đang đau khổ như thế.

Giọng con nức nở trong tiếng khóc nói không ra lời, các em cũng chia sẻ đau khổ với con rồi cũng khóc theo.

Rồi Jacinta lớn tiếng dâng lên Chúa như sau: "Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa tất cả những đau khổ và hy sinh này như một hành vi đền tạ, và xin Chúa ban cho kẻ có tội được ơn hoán cải."

Công thức cầu nguyện không luôn luôn giống như vậy, nhưng ý nghĩa thì lúc nào cũng giống nhau.Con sẽ không chậm trễ để diễn tả lại việc Hiện Ra trong ngày 13 tháng Năm.

Đức Cha cũng đã biết việc mẹ con đã nghe được những chuyện xảy ra, và mẹ đã tìm đủ mọi cách để con thú nhận là đã bịa chuyện.

Chúng con cũng đã cam kết với nhau là sẽ không bao giờ nói cho ai nghe những gì Đức Mẹ đã nói với chúng con hôm đó.

Hôm đó, tình cờ - nếu sự tình cờ thì cũng chính là ý của Đấng Quan Phòng đã sắp đặt một ngày sáng sủa và đẹp trời ... chúng con đã chọn đồng cỏ Cova da Iria là đất của bố mẹ con.

Chúng con chọn đến đây khi gặp nhau ở Barreiro giống như mọi ngày.

Chọn chỗ này, có nghĩa là chúng con phải đi băng qua một thung lũng dài khô cằn, hoang vắng, khiến cho cuộc hành trình của chúng con dài hơn gấp đôi.

Chúng con phải đi chậm lại để mấy con cừu được dịp gặm cỏ dọc đường.

Vì thế khi đến nơi, trời đã gần trưa rồi.

Cao tận trên đồi Cova da Iria, con đang cùng với Jacinta và Phanxicô chơi nhặt đá để xây một bức tường chung quanh bụi hoa dại.

Đột nhiên chúng con thấy giống như có ánh chớp sáng.Lucia: "Chúng ta phải về nhà thôi."

Con đã nói cùng hai em, " có ánh chớp rồi kìa; coi chừng có bão."

Jacinta và Phanxicô: "Đúng rồi đó!" hai em đáp lại.

Chúng con bắt đầu đi xuống sườn đồi, nhanh chóng lùa đàn chiên trên đường đi.

Khi chúng con đi được khoảng nửa sườn đồi, và hầu như ngang với cây sồi lớn mọc ở đó thì chúng con thấy thêm một ánh chớp sáng loé lên nữa.

Chúng con mới đi thêm được chỉ có mấy bước, thì trước mặt chúng con, trên một cây sồi nhỏ, hiện ra một Bà mặc áo trắng như tuyết.

Bà rực sáng hơn mặt trời, có ánh sáng tỏa ra trong sáng hơn một ly thủy tinh chứa nước lóng lánh khi tia sáng mặt trời chiếu xuyên qua.

Chúng con ngừng lại và bỡ ngỡ trước sự Xuất Hiện này.

Chúng con đứng rất gần, cách Bà chỉ chừng vài mươi tấc, và chúng con được bao phủ trong ánh sáng bao quanh thân mình Bà, hoặc nói đúng hơn, ánh sáng chói tỏa từ Bà mà ra.

Bà đã nói với chúng con: Đức Bà: "Các con đừng sợ, Mẹ sẽ không làm hại các con đâu."

Lucia: "Bà từ đâu đến đây?"

Đức Bà: "Mẹ đến từ thiên đàng."

Lucia: "Bà muốn chúng con làm gì?"

Đức Bà: "Mẹ đến để xin các con hãy đến đây vào ngày 13 trong sáu tháng liên tiếp cũng vào giờ này, bấy giờ Mẹ sẽ nói cho các con biết Mẹ là ai và Mẹ muốn gì.

Rồi sau đó Mẹ sẽ trở lại đây thêm một lần thứ bẩy nữa." ("Lần thứ bẩy" này xảy ra vào ngày 16 tháng Sáu, 1921, vào buổi chiều trước ngày chị Lucia đi Vilar de Oporto.

Trong lần Hiện Ra này, Đức Mẹ đã ban cho chị Lucia một sứ điệp riêng tư mà chị đã thấy không cần thiết để kể ra ở đây.)Lucia: "Con có được lên thiên đàng không?"

Đức Bà: "Có, con sẽ được lên thiên đàng."

Lucia: "Còn em Jacinta?"

Đức Bà: "Em cũng sẽ được lên nữa."

Lucia: "Còn Phanxicô thì sao?"

Đức Bà: " Phanxicô cũng sẽ được lên, nhưng em phải nguyện thật nhiều kinh Môi Khôi."

Con cũng nhớ là đã hỏi Bà về hai thiếu nữ mới vừa qua đời.

Họ là bạn của con và thường hay tới nhà con để học dệt cùng với chị cả của con.

Lucia: "Thưa Bà, Maria das Neves có ở trên thiên đàng không?"

Đức Bà: "Có." (Con nghĩ chị ấy chừng 16 tuổi) Lucia: "Thế còn Amélia?"

Đức Bà: "Amélia sẽ phải ở lửa luyện ngục cho tới ngày tận thế."

(Đối với con hình như chị này khoảng từ 18 đến 20 tuổi).

Đức Bà: "Các con có sẵn sàng dâng mình lên Thiên Chúa để chịu đựng tất cả mọi đau khổ Chúa sẽ gởi tới cho các con để đền bù vì vô số tội đã xúc phạm đến Người và để cầu xin cho kẻ có tội được ơn hối cải không?"

Lucia: "Dạ thưa chúng con sẵn sàng," chúng con trả lời như vậy.

Đức Bà: "Thế thì các con sẽ chịu rất nhiều đau khổ, nhưng ân sủng Chúa sẽ là nguồn an ủi cho các con."

Khi Đức Mẹ nói những lời cuối này "...

ơn của Thiên Chúa sẽ là nguồn an ủi cho các con", thì Đức Mẹ dang hai tay ra lần đầu tiên, chiếu cho chúng con một luồng ánh sáng mạnh mẽ từ hai tay của Mẹ.

Các tia sáng chiếu thẳng vào trái tim và vào tận đáy thẳm tâm hồn chúng con, làm cho chúng con thấy mình ở trong Thiên Chúa, chính Ngài là ánh sáng đó, thật rõ ràng hơn chúng con nhìn thấy chính mình trong tấm gương tốt nhất.

Rồi được thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong đang được thông đạt tới chúng con, chúng con quỳ gối xuống, lập lại lời cầu nguyện trong trái tim chúng con: Cả ba em: "Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, con thờ lạy Chúa.

Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, con yêu mến Chúa trong Phép Thánh Thể."

Sau một lúc, Đức Mẹ mới nói thêm: "Các con hãy lần chuồi Mân Côi mỗi ngày để cầu xin hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh."

Rồi Mẹ bắt đâu bay lên nhẹ nhàng, thẳng về hướng đông cho tới lúc Mẹ biến mất trong không trung.

Ánh sáng bao trùm Mẹ giống như mở một lối đi cho Mẹ trên bầu trời, và vì lý do này đôi khi chúng con nói rằng chúng con thấy thiên đàng đã mở ra.

Con nghĩ rằng con đã giải thích trong chuyện Jacinta hoặc là trong một lá thơ rằng sự sợ hãi mà chúng con cảm thấy đã thực sự không phải là sợ hãi Đức Mẹ, nhưng chỉ là sợ cơn bão mà chúng con nghĩ là sắp tới, và vì thế chúng con tìm cánh tránh né.

Việc Đức Mẹ hiện ra không làm cho chúng con sợ hãi hoặc khiếp đảm, nhưng chúng con chỉ ngạc nhiên thôi.

Khi được hỏi là con có cảm thấy sợ hãi không, thì con đã trả lời là có, nhưng đó là con có ý nói về việc chúng con sợ khi thấy ánh chớp và nghĩ là cơn bão sắp đến.

Vì lý do đó chúng con muốn chạy trốn khi nhìn thấy chớp rồi nghe đến tiếng sấm.

Ngoài ra những ánh sáng đó thật ra đó không phải ánh chớp, nhưng là những tia phản chiếu của một ánh sáng đang tiến gần.

Chính vì chúng con thấy ánh sáng nên đôi khi chúng con nói nhìn thấy Đức Mẹ đang đến; nhưng đúng ra phải nói là chúng con chỉ nhìn thấy Đức Mẹ trong ánh sáng ấy khi Mẹ đã đứng trên cây sồi rồi.

Sự kiện chúng con không biết giải thích hiện tượng này như thế nào, và vì chúng con muốn tránh khỏi bị vặn hỏi, nên lúc thì chúng con nói chúng con nhìn thấy Bà ấy đang đến, lúc thì nói không thấy.

Khi chúng con nói rằng chúng con thấy Đức Mẹ đang đến thì chúng con muốn nói rằng chúng con thấy ánh sáng đang tiến đến.

Và khi chúng con nói rằng chúng con không thấy Đức Mẹ đang đến, thì có nghĩa là chúng con chỉ thật sự thấy được Đức Mẹ khi Mẹ đã ở trên cây sồi rồi.

Có mấy điều chúng ta nên lưu ý trong thông điệp ngày 13/5: 1.

Trong lần hiện ra ngày 13 tháng 5, Chị Lucia có hỏi Đức Mẹ về phần rỗi của hai thiếu nữ tên là Maria das Neves và Amélia vừa mới qua đời, sở dĩ chị Lucia quan tâm tới họ, vì hai thiếu nữ này thường hay tới nhà Lucia để học dệt với các chị của chị.

Đức Mẹ đã cho biết là Maria das Neves, khoảng 16 tuổi, đã được lên thiên đàng, còn người kia Amélia, khoảng chừng 18-20 tuổi, sẽ phải ở Luyện Ngục cho tới tận thế.

Mà Thiếu nữ Amélia chỉ mới có 18-20 tuổi thôi, còn rất non trẻ, đã phải chịu ở luyện ngục cho tới tận thế đấy, chúng ta nên suy về vấn đề này.

2.

Đức Mẹ nói, Phanxicô phải nguyện thêm thực nhiều Kinh Môi Khôi mới được lên thiên đàng.

Lúc mới đầu diện kiến Đức Mẹ, thì chỉ có Lucia và Jacinta được thấy Đức Mẹ và được nghe tiếng Đức Mẹ nói, nhưng Phanxicô thì không, em phàn nàn sao không được nghe hay thấy gì hết vậy, thì Đức Mẹ nói em phải nguyện thêm nhiều Kinh Môi Khôi nữa thì sẽ được.

Quả nhiên, sau này em siêng năng liên tục nguyện Kinh Môi Khôi rất sốt sắng, nên đã được thấy và được nghe tiếng Đức Mẹ nói.

Kể cả lúc Thiên Thần Hòa bình hiện ra năm 1916, để chuẩn bị cho những lần hiện ra sau này của Đức Mẹ, thì Phanxicô cũng không ghe được tiếng của Thiên Thần nói gì, cho nên cứ phải đuổi theo gặng hỏi Lucia và Jacinta coi Thiên Thần hay Đức Mẹ đã nói gì.

Các đấng nam nhi và ai chưa chịu khó nguyện Kinh Môi Khôi chú ý nhá.

Phải nguyện thêm Kinh Môi Khôi nữa mới được lên thiên đàng.

Nếu không cứ phải ở luyện ngục cho tới tận thế, không phải hay sao?

3.

Đức Mẹ nói, hãy sẵn sàng hy sinh chịu đựng mọi đau khổ và dâng mình cho chúa để đền bù vì vô số tội người ta xúc phạm đến Chúa và để cầu xin cho kẻ có tội ăn năn cải thiện.

4.

Cuối cùng Mẹ dặn, "Ân Sủng Chúa sẽ là nguồn an ủi của các con."

"Hãy lần chuỗi Môi Khôi mỗi ngày để cầu xin hòa bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh."

"Ân Sủng Chúa sẽ là nguồn an ủi...", tôi chợt nghĩ tới "Ân Sủng" và các nhiệm tích được ban qua Hội Thánh Công Giáo.

Vậy chúng ta đừng chán nản nhụt chí, nhưng hãy cố gắng đứng dậy sau khi vấp ngã để lãnh các ơn xá và các Bí tích được Chúa thương ban qua Giáo Hội Công Giáo, để cho chúng ta thêm có cơ hội được Chúa khoan dung tha thứ mà làm lại từ đầu.

Đây là Lòng Thương Xót, là nguồn "ân sủng" vô giá Chúa để lại cho Hội Thánh Công Giáo và Tông Truyền.

Ai vấp ngã, chúng ta đã có Bí tích giải tội ví như nguồn nước cho linh hồn chúng ta lui tới tắm giặt cho tới ngày về quê trời diện kiến Chúa.

Kỷ Niệm 100 Năm Mẹ Maria hiện ra tại Fatima

13/5/1917 - 13/5/2017

Sóng Biển
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Hai vào Ngày 13 Tháng Sáu, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Hai vào Ngày 13 Tháng Sáu, 1917Sau lần hiện ra thứ nhất tại Fatima với Lucia, Francisco và Jancinta, vào ngày 13 tháng Năm, 1917, tin tức bắt đầu được lan truyền đi khắp vùng nhanh chóng.

Vào ngày 13 tháng Sáu, là ngày mừng kính Thánh Anthony, hai trẻ chăn chiên Francisco và Jancinta dậy thật sớm, lùa chiên ra đồng cho tới giữa trưa và rồi định đi Lễ Missa vào lúc 10 giờ sáng.Lucia cũng lùa đàn chiên ra đồng từ sáng sớm và định lùa chu'ng về chuồng lúc chín giờ, dự Thánh Lễ lúc mười giờ và sau đó sẽ đi Cova da Iria.

Nhưng khi mặt trời vừa mọc, đã bị ông anh ra gọi về, vì có một số người muốn nói chuyện với em.

Anh của em ở lại với đàn chiên, còn em thì đi về nhà để xem họ muốn gì.

Lucia thấy có một số người cả đàn bà lẫn đàn ông, có người đến từ những nơi xa như Minde, Tomar, Carrascos, Boleiros, v. v....

Họ muốn được cùng đi với em tới Cova da Iria.

Em nói với họ là hãy còn sớm và mời họ đi dự Thánh Lễ lúc 8 giờ sáng.

Lucia cũng gặp rắc rối với gia đình ở nhà, bởi vì mẹ và các chị của em nghi ngờ sự hiện hữu của Đức Bà, nên đã trách mắng khi em định đi Cova.Đám Đông Khoảng Chừng 50 NgườiKhoảng 11 giờ trưa, Lucia gặp hai người em họ, nhưng thay vì đến Nhà Thờ để mừng lễ hội kính Thánh Anthony theo tục lệ, thì cả 3 em đi Cova da Iria, nơi Mẹ xuất hiện.

Nhóm người theo sau các em vừa đi vừa đặt biết bao nhiêu câu hỏi.

Khi đến đồi Cova, thì thấy có thêm một số người khác đang đợi sẵn rồi.

Đám đông khoảng chừng 50 người.Các em niệm Kinh Mai Khôi và đám đông cùng niệm kinh với các em.

Ngay sau khi Jacinta, Phanxicô và Lucia cùng với một số người đang có mặt tại đó vừa niệm kinh xong, liền trông thấy một ánh chớp.

Chỉ giây phút sau, đã thấy Đức Bà đang ở trên cây sồi, cùng một vị thế như trong tháng Năm, nhưng chỉ có ba trẻ được trông thấy Đức BàLucia Hỏi Đức Bà, "Bà Muốn Chúng Con Làm Gì?"

Đức Bà đáp, "Ta muốn các con đến đây ngày 13 tháng tới, niệm Kinh Mai Khôi hằng ngày, và hãy học đọc.

Sau này, Ta sẽ cho các con biết Ta muốn gì."

"Con muốn xin Bà đem chúng con về thiên đàng."

Đức Bà đáp, "Ừ, chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ đem Jacinta và Phanxicô về trước, nhưng còn con sẽ phải ở lại thêm một thời gian nữa.

Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho mọi người được biết đến và yêu mến Ta.

Ngài muốn thiết lập trên thế giới việc tôn sùng Mẫu Tâm Vô Nhiễm Ta.

"Con sẽ phải ở lại đây một mình sao?"

Lucia hỏi buồn bã.

"Không đâu, con ơi.

Con chịu nhiều đau khổ lắm phải không?

Đừng nản lòng.

Ta sẽ không bao giờ bỏ rơi con đâu.

Mẫu Tâm Vô Nhiễm Ta sẽ là nơi con trú ẩn và là đường dẫn con đến với Thiên Chúa."

Chúng Con Nhìn Thấy Mình Trong Luồng Chớp Sáng NàyLucia mô tả chuyện gi xảy ra ngay lúc đó, "Đức Bà nói những lời cuối này, Đức Bà liền mở hai cánh tay ra và đây là lần thứ hai, Đức Bà cảm thông với chúng con trong cùng những tia phản chiếu của ánh sáng bao la đó.

Chúng con nhìn thấy mình trong luồng ánh sáng này như được phát ra từ chính Thiên Chúa.

Jacinta và Phanxicô hình như ở trong phần ánh sáng chiếu thẳng lên trời, còn con thì ở trong phần ánh sáng chiếu xuống đất.

Trong lòng bàn tay phải của Đức Bà có một trái tim bị vòng gai nhọn đâm thấu quấn chung quanh.

Chúng con hiểu ngay rằng đây là Trái Tim Vô Nhiễm của Đức Bà Maria, đang bị tội lỗi nhân loại xúc phạm và đang tìm kiếm việc đền tạ."

Lần hiện ra thứ hai kết thúc.Lucia nói với đám đông, Đức Bà yêu cầu nguyện Kinh Mai Khôi hằng ngày.

Nhưng cả 3 em đều không tỏ cho đám đông biết sự mạc khải của Đức Bà.

Đức Bà không dặn các em phải giữ bí mật, nhưng họ đã được cảm nhận từ Chúa phải làm như thế.13/6/2013

Sóng biển
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Ba Ngày 13 Tháng 7, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Ba Ngày 13 Tháng 7, 1917Lần hiện ra thứ ba ngày 13 tháng 7, 1917 đã cung cấp hầu hết những thông điệp quan trọng của Đức Bà.

Ba thông điệp được tiết lộ mà các em (Lucía, Jacinta và Francicô) bảo là phải giữ bí mật, đó là: các em được Đức Bà cho thấy hỏa ngục.

Đức Bà cảnh báo chiến tranh thế giới lần thứ II như là một sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội của nhân loại; Đức Bà cho các em biết trước lần hiện ra vào tháng mười sẽ xảy ra phép lạ mặt trời để mọi người tin và yêu cầu tận hiến Nước Nga cho Mẫu Tâm Vô Nhiễm và thực hiện việc đền tạ năm ngày Thứ Bảy Đầu Tháng.

Phần Bí Mật Thứ Ba được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin tiết lộ cho toàn thể dân Chúa vào ngày 26 tháng 6 năm 2000, cho biết Đức Thánh Cha bị ám sát chết, sự mất đức tin và nền tảng gia đình rung chuyển

Ngày 13 tháng Bảy sắp tới rồi mà Lucia còn nghi ngờ không biết có nên đi tới chỗ thường gặp Đức Bà hay không, em đang bị khủng hoảng trầm trọng vì gặp khó khăn từ trong gia đình, em bị mẹ nghi ngờ ép cung bắt phải khai với cha xứ là em đang bịa đặt chuyện Đức Bà hiện ra, và vì bị cha xứ chất vấn và bảo là do ma quỷ lừa bịp, cho nên em đã bị ám ảnh và có những giấc mơ khủng khiếp khiến cho tâm hồn em càng thêm tăm tối...nhưng đến chiều ngày 12 thì thiên hạ ùn ùn kéo đến để chờ sự kiện sẽ xảy ra vào hôm sau, vì thế Lucia bèn gọi Jacinta và Francicô để cho biết quyết định của em.

Jacinta và Francisco bảo là các em quyết định sẽ đi, vì Đức Bà bảo các em phải tới.

Nhưng hai em thấy bứt rứt khó chịu và bắt đầu khóc nếu như ngày mai Lucia không chịu đi.

Nhưng Lucia vẫn nhất quyết nói là sẽ không đi, và nhắn với hai em là nếu Đức Bà có hỏi thì bảo là em không tới vì sợ đó là do ma quỷ lừa gạt.

Thế rồi, Lucia bỏ mặc hai em đi tìm chỗ trốn sau mấy đống đá trong khu đất của nhà hàng xóm sát với Arneiro, hơi xéo về phía đông gần cái giếng nhà em ...cho đến tối mới về.

Lúc em mới vừa ló mặt vào nhà thì bị mẹ em mắng cho một trận, "con tôi ở đâu mà không ai kiếm ra vậy, kể từ khi không phải chăn chiên và không phải làm việc gì nữa ngoài việc đi chơi, rõ thật là một pho tượng thạch cao tuyệt đẹp!"

Lần thứ ba hiện ra ngày 13 tháng Bảy, khi gần tới giờ Đức Bà hiện ra, tự nhiên Lucia thấy có một động lực lạ lùng thúc đẩy khiến em khó lòng cưỡng lại...em liền tìm đến nhà dì dượng của em để coi Jacinta có còn ở nhà không... thì thấy Jacinta và Francico đang quỳ gối khóc bên giường ngủ, vì Lucia không chịu đi thì hai em cũng không dám đi.

Lucia liền cho hai em biết quyết định sẽ đi khiến mặt hai em sáng lên mừng rỡ, và cả ba cùng ra đi.

Đám đông dân chúng thì đã chờ sẵn các em dọc đường rồi, và khó khăn lắm các em mới tới nơi...

đám đông dân chúng có khoảng 5.000 ngàn người kéo tới tập trung sẵn tại đồi Cova da Iria nguyện Kinh Mai Khôi.

Lucia xướng nguyện Môi Khôi Kinh và đám đông đáp lại.

Vào giữa trưa, sau khi các em đến gần chỗ cây sồi (holm-oak) ở trên đồi được một lúc lâu thì trông thấy một ánh chớp lóe sáng, và Lucia bỗng bật đứng lên nhìn về hướng đông thấy Đức Bà xuất hiện trên cây sồi, liền la lên, "gấp dù lại! gấp dù lại! (vì đám đông đang che dù để tránh khỏi ánh nắng gay gắt giữa trưa)...Đức bà tới!"

Jacinta bảo Lucia, "chị thưa chuyện đi.

Đức Bà đang nói với chị đấy."

Lucia đáp, "Ừ?", rồi hạ mình khiêm tốn, xin lỗi Đức Bà vì mọi hành vi cử chỉ nghi ngờ của em, và thưa với Đức Bà:

Lucía hỏi, "Đức Bà, muốn con làm gì?"

Đức Bà nói, "Ta muốn con tới đây vào ngày 13 tháng tới, tiếp tục nguyện kinh Mai Khôi hằng ngày để tôn vinh Đức Bà Mai Khôi, để cầu xin cho thế giới được hòa bình và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ có Bà mới có thể cứu giúp các con...các con cứ tiếp tục tới đây mỗi tháng.

Đến tháng Mười, Ta sẽ cho các con biết Ta là ai và muốn gì, và Ta sẽ tỏ cho các con thấy một phép lạ để mọi người tin...các con hãy dâng mình làm của lễ hy sinh cho kẻ có tội, và nhất là mỗi khi các con làm được một việc hy sinh đền tội nào, thì hãy năng nhắc lại lời nguyện sau: 'Lạy Chúa Giêsu, (con làm việc hy sinh này) vì yêu mến Chúa, và để cầu xin cho kẻ có tội được ăn năn trở lại, và để đền tạ vì tội lỗi xúc phạm đến Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria.'Phần bí mật thứ nhấtĐức Bà Cho Các Em Thấy Hỏa NgụcLucía kể tiếp: "Khi Đức Bà vừa nói dứt xong câu cuối cùng này, thì ĐứcBà mở đôi bàn tay ra như đã làm trong hai tháng trước.

Những tia sáng phát ra (từtay Đức Bà) dường như xuyên qua lòng đất, và chúng con thấy nó giống như một biểnlửa.

"Lao vào đám lửa này là ma quỷ và các linh hồn có hình dạng người ta, giống như những thanh củi đang cháy, toàn thân đen thui hoặc giống như những tượng đồng được đánh bóng.

Họ đang ngụp lặn trong một đám cháy lớn, bị những ngọn lửa từ chính thân mình họ phát ra tung lên trên không cùng với những đám khói lớn, và rồi bị rớt xuống tản mát như những tàn lửa của một ngọn lửa lớn, không có trọng lượng hoặc thăng bằng gì cả, giữa những tiếng gào thét, than khóc vì đau đớn và thất vọng, làm cho chúng con khiếp đảm và run sợ. (chắc hẳn đây là lý do làm con phải hét lên, mà dân chúng bảo là họ đã nghe thấy tiếng con hét).

Bọn quỷ sứ được phân biệt rõ ràng bởi hình thù khủng khiếp và dữ tợn của chúng trông giống như những con dã thú ghê rợn mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ, toàn thân chúng đen đủi và trong suốt. (thị kiến này tuy được cho biết sau cùng nhưng lại khẩn cấp) .

"Hoảng hồn và như để cầu cứu, chúng con ngước mắt nhìn lên Đức Bà, lúc đó đang nói với chúng con với một giọng êm ái nhưng buồn bã: "Các con vừa được cho xem thấy hỏa ngục, nơi các linh hồn tội nhân khốn nạn rơi xuống.

Để cứu vớt họ..."

"Thị kiến này chỉ kéo dài trong giây lát.

Làm sao chúng con có thể cám ơn lòng thương yêu nhân từ của Đức Bà cho đủ, song vì Đức Bà đã chuẩn bị tinh thần cho chúng con bằng lời hứa trong lần hiện ra thứ nhất là sẽ đem chúng con về thiên đàng.

Nếu không, có lẽ chúng con đã chết vì sợ hãi và khiếp đảm." (kết thúc phần Bí Mật thứ nhất)Phần bí mật thứ hai

Đức Bà truyền thiết lập Việc Tôn Sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria

"...Để cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Mẫu Tâm Vô Nhiễm Ta ở trần gian.

Nếu điều Ta nói với các con được thực hiện, thì nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình.

Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu loài người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, thì sẽ bùng nổ một cuộc chiến tàn khốc hơn (Thế Chiến Thứ II) vào thời Đức Piô XI.

Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm (xảy ra vào ngày 25 tháng Giêng, 1938), thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt vì tội thế gian, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng với Đức Thánh Cha..."

Đức Bà Tiết Lộ Cho Các Em Biết Mẫu Tâm Vô Nhiễm Sẽ Thắng Nếu yêu cầu của Ta được thihành và lưu ý, Nước Nga sẽ hoán cải trở lại và sẽ có hòa bình; nếu không, NướcNga sẽ truyền bá lầm lạc đi khắp thế giới, gây ra chiến tranh và bách hại GiáoHội.

Người lành sẽ tử vì đạo; Đức Thánh Cha sẽ phải hứng chịu nhiều đau khổ; nhiềunước sẽ bị tiêu diệt.

Cuối cùng Mẫu TâmVô Nhiễm Ta sẽ thắng.

Đức Thánh Cha sẽ tận hiến Nước Nga cho Ta, và NướcNga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình.

Tại Bồ-đào-nha, tín điều thuộc Đức Tin sẽ mãimãi được bảo toàn; v.v...

Đừng nói điềunày với ai cả...

Phanxicô, hả, ừ, con có thể nói cho em con nghe." (lúc ấy,phanxico không được nghe tiếng Đức Bà nói, và Đức bà nhắn Lucia bảo Phanxico phảinguyện thêm thiệt nhiều Kinh Mai Khôi, thì mới được nghe.) "Mỗi khi các con nguyện kinh Mai Khôi, cứ sau mỗi một màu nhiệm thì nguyện: 'Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục.

Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.'"Phần Bí Mật Thứ Ba

được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin tiết lộ vào ngày 26/6/2000.Cho biết: Đức Thánh Cha bị Ám Sát Chết, sự mất đức tin và nền tảng gia đình rung chuyển.

"Sau hai phần con đã diễn tả, thì ởbên trái của Đức Mẹ và cao hơn một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thầncầm một lưỡi gươm bốc cháy lửa nơi tay trái; thanh gươm chớp chớp bùng tóe lửa như muốn thiêu đốt thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đã bị tắtmất trước ánh quang sáng ngời từ bàn tay phải của Đức Mẹ phát ra chiếu về phíavị Thiên Thần, bởi thế, lấy bàn tay phải của mình mà chỉ xuống trái đất, vịThiên Thần đã kêu lớn tiếng rằng: 'Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãyăn năn đền tội!'.

Rồi chúng con thấy một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, 'mà chúngcon có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha', trong một vùng sáng mênh mông là ThiênChúa, 'giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi'.

Cácvị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng,trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân cây nứt nẻ như loạithân cây điên điển còn vỏ; trước khi tiến lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đãbăng qua một thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi [mất đức tin?], còn một nửa kia thì đang runrẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ [nền tảng gia đình rung chuyển?], Ngài cầu nguyện chocác linh hồn của những thi thể Ngài gặp thấy trên quãng đường đi; tiến tới đỉnhnúi rồi thì khi đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài đã bị một nhóm línhbắn các đầu đạn và mũi tên đến hạ sát, cũng lần lượt bị sát hại như thế có cảcác vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầnglớp và vai trò khác nhau.

Dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầmtrong tay mình một bình nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị TửĐạo và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang tìm đường đến cùng ThiênChúa".Sau khi nói xong, quãng một chút yên lặng, rồi Lucia hỏi Đức Bà,

"Bà có còn muốn con làm điều gì nữa không?"

Đức Bà đáp, "Không, hôm nay Ta không muốn con làm thêm điều gì nữa."

Rồi cũng như lần trước Đức Bà cất mình lên cao về hướng Đông cho đến khi khuất dạng biến mất.Lần hiện ra thứ ba kết thúc.Ảnh Hưởng Của Lần Hiện Ra Thứ Ba Trong lần Hiện Ra thứ ba,Phanxicô có vẻ như ít bị ảnh hưởng nhất về mặc khải địa ngục, mặc dầu hậu quảtrong tâm hồn em quả thật lớn lao.

Điều làm cho em có một ấn tượng mạnh nhất vàhoàn toàn thu hút em là Thiên Chúa, Chúa Ba Ngôi Cực Thánh mà em được thấytrong ánh sáng xuyên thấu tận đáy lòng chúng con.

Sau đó em nói:"Chúng ta bốc cháy trong luồng ánh sáng của Thiên Chúa nhưng lại không bị thiêu đốt!

Thiên Chúa là gì?...

Ta không thể nào diễn tả bằng từ ngữ thế gian được.

Nhưng tội nghiệp Chúa quá vì em thấy Ngài thật buồn.

Phải chi em có thể an ủi được Chúa!..."

Một hôm, người ta hỏi con rằng Đức Bà có bảo chúng con cầu nguyện cho những người có tội không, thì con trả lời là không.

Nhân lúc mọi người đang hỏi chuyện Jacinta, em liền kêu con ra một góc và nói rằng:"Chị mới vừa nói dối đấy!

Làm sao mà chị có thể nói rằng Đức Bà đã không nói với chúng ta là hãy cầu nguyện cho những người có tội? chẳng phải Đức Bà đã yêu cầu chúng ta cầu nguyện cho người có tội sao?"

"Cầu cho người có tội ư, Đức Bà đâu có nói.

Đức Bà chỉ nói là chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình, cho chiến tranh chấm dứt.

Còn đối với kẻ tội lỗi thì Đức Bà nói chúng ta phải làm việc hy sinh cho họ."

"Ừ nhỉ, đúng đấy!

Em lại nghĩ là chị nói dối!"

Việc các em vâng lời Đức Bà giữ kín các Bí Mật quả là một sự thử thách rất lớn cho cả ba.

Gia đình, và hàng xóm của các em, kể cả các kẻ săn đuổi các cuộc hiện ra của Đức Bà, thậm chí cả giới giáo sĩ cũng bất lực không thể dụ dỗ các em tiết lộ các bí mật ấy được. cuối cùng, gần cận ngày hiện ra lần thứ bốn vào tháng 8, chính quyền dân sự cũng nhập cuộc do có sự tiếp tay của giới giáo sĩ thế tục, đám đông dân chúng cũng như những ai chú ý đến các sự kiện hiện ra ở Fatima đều chấn động lo lắng, và cố tìm cách giành giựt các em ra khỏi gọng kìm tra tấn của giới chức cầm quyền, trong thời gian ấy họ cũng đã phát hiện ra có một người nằm vùng rất gian trá giả vờ làm việc cho Nhà Thờ.

Lần lượt theo các cuộc hiện ra, thì cuộc hiện ra ngày 13 tháng Bẩy nhất định là ngày quan trọng nhất.

Vì chính trong lần hiện ra thứ ba này, mà Đức Bà đã ban Các Bí Mật quan trọng cho các em thụ khải.

Đồng thời hứa ban phép lạ đầu tiên vào tháng 10, để cho mọi người tin Đức Bà thực sự hiện ra với các em.

Đức Bà còn cho biết rõ ngày giờ và địa điểm làm phép lạ đầu tiên ấy, cũng như nhắc lại các phép lạ trong lần hiện ra vào tháng Tám và tháng Chín sắp tới.

Kỷ niệm lần thứ ba Đức Bà hiện ra tại Fatima 13/7/1917

Cập nhật lần cuối

13/7/2017Sóngbiển
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Bốn Ngày 19 Tháng 8, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Bốn Ngày 19 Tháng 8, 1917Chuyện gì đã xảy ra sáng hôm ngày 13 tháng 8, 1917, chị Lucia mô tả lại như sau: "...ông Thị Trưởng ra trát lệnh, đòi con phải tới nhà cô của con, nơi ông đang đợi con ở đó...

Khi con tới nơi, thì thấy ông ta đang ở trong phòng hai em họ của con rồi.

Ông thẩm vấn chúng con ngay tại đó và luôn có những mánh khóe tra khảo mới để buộc chúng con phải khai bí mật ra và bắt chúng con phải hứa sẽ không trở lại đồi Cova da Iria nữa.

Khi không được như ý, ông liền ra lệnh cho bố và dượng của con đem chúng con tới nhà Cha xứ."

Các em bị thẩm vấn trước mặt ông Thị Trưởng, linh mục Ferreira và ông Arturo Santos (người này không có quan hệ bà con gì với chị Lucia hết).

Lucia nói là Đức Bà ở đồi Cova đã tỏ cho các em biết một bí mật và dặn các em là không được tiết lộ cho ai hết.

Ông Santos liền nổi giận điên tiết ra lệnh cho các em trở vào trong xe ngựa đang đợi, cha mẹ của các em cứ tưởng chắc ông chở các em đến Cova.

Nào ngờ thay vì đi Cova, ông cho đánh xe chạy một mạch tới Ourém.Trong khi đó tại đồi Cova, đám đông khoảng trên 15 ngàn người đang có mặt nóng lòng chờ đợi, và hết sức ngạc nhiên tự hỏi sao các em lại tới trễ.

Đến khi họ biết được là các em đã bị bắt cóc đi mất rồi, họ mới làm ầm beng lên, thậm chí có một số người còn đổ tội cho cha Ferreira.Bắt Đầu Nguyện Kinh Môi KhôiCác em bị bắt nhốt vào trong nhà giam thành phố ở Ourém để tiếp tục chờ bị thẩm vấn.

Họ đe dọa sẽ đem các em đi chiên sống.

Thay vì vậy, họ quăng các em vào nhà giam nhốt chung với các tù nhân.

Trông thấy các em thực là khiếp sợ, nên những người tù ráng an ủi các em.

Các em liền quỳ xuống bắt đầu nguyện Kinh Môi Khôi.

"Những tù nhân nào biết cầu nguyện, thì họ nguyện kinh với các em, hoặc ít ra họ cũng chịu quỳ gối xuống.

Trong lúc các em nguyện chuỗi Môi Khôi trong nhà tù, Phanxicô thấy có một tù nhân đang quỳ gối mà vẫn còn đội mũ trên đầu.

Em bước lại gần ông và nhắc rằng: "Nếu ông muốn cầu nguyện thì ông nên bỏ mũ ra." người đàn ông tội nghiệp ấy liền bỏ mũ ra đưa cho em ngay, rồi em mang úp chồng lên mũ của em ở trên chiếc ghế dài."

Các em được thả ra vào ngày 15 tháng Tám.Chị Lucia không nhớ rõ đích xác cái ngày Đức Bà hiện ra vào Tháng Tám là ngày nào.

Vì Chị chưa được học biết cách tính ngày trong tháng.

Chị chỉ nhớ là thấy người ta lui tới Thánh Đường tấp nập vào ngày Đức Bà hiện ra thôi.

Chị nghĩ chắc lúc đó là ngày 15 tháng Tám, là ngày mừng kính Lễ Đức Bà Hồn Xác Lên Trời, hoặc cũng có thể đó là một ngày Lễ Nghỉ, hay là ngày 19 tháng Tám, là ngày Chúa Nhật ai nấy đều phải đi Lễ.

Nói chung lần hiện ra này kể như là đã được công nhận vào ngày 19 tháng Tám vậy.Chúng Con Linh Cảm Thấy có Sự Siêu Nhiên gì đó Sắp Xảy ĐếnChị Lucia kể lại chuyện xảy ra ngày hôm ấy như sau: "Vào khoảng xế trưa, Phanxicô và anh trai Gioan của em cùng đi với con.

Chúng con đang dẫn cừu tới một nơi gọi là Valinhos thì linh cảm thấy có một sự gì đó siêu nhiên tiến đến gần và bao phủ lấy chúng con.

Vì nghĩ rằng Đức Mẹ sẽ hiện ra với chúng con và chúng con đều cảm thấy tiếc cho Jacinta có lẽ không được gặp Mẹ, nên chúng con mới nhờ anh của em chạy về gọi em ra.

Trong khi anh còn đang lưỡng lự không muốn đi, thì con liền biếu anh hai xu tiền, thế là anh chạy đi ngay."

Liền lúc đó, Phanxicô và con trông thấy có tia chớp lóe sáng, mà chúng con gọi là lằn chớp.

Jacinta cũng vừa lúc tới nơi, rồi một lát sau, chúng con nhìn thấy Đức Bà đã đang ở trên cây sồi rồi.

Lucia thưa với Đức Bà: "Thưa Đức Bà muốn con làm gì?"

"Ta muốn các con tiếp tục đến Cova da Iria vào ngày 13, và tiếp tục nguyện kinh Môi Khôi hằng ngày.

Đến tháng cuối cùng, Ta sẽ làm một phép lạ để mọi người tin."

"Thưa Đức Bà muốn làm gì với số tiền mà người ta để lại ở Cova da Iria?"

"Các con hãy làm hai cái kiệu.

Con và Jacinta cùng hai bé gái khác mặc đồ trắng sẽ khiêng một cái; còn cái kia thì Phanxicô và ba bé trai khác sẽ khiêng.

Tiền ở trên hai cái kiệu sẽ chi phí cho ngày "lễ hội" Đức Bà Môi Khôi, và số tiền còn lại sẽ hỗ trợ việc xây cất một nguyện đường tại đây."

"...Thế rồi, trông Đức Bà rấtbuồn bã,phán bảo: "Các con hãy cầu nguyện, cầu nguyện thậtnhiều, và làm việc hy sinh cho kẻ cótội;có rất nhiều linh hồn sa hỏa ngục, bởi không có ai chịu hy sinh và cầu nguyện cho họ."

Đức Bà nói thế xong rồi thì thăng về hướng Đông như mấy lần trước.13/8/2015Ghi niệm FatimaSóng BiểnSource: Fatima in Lucia's Own Words (Hồi Ký của Chị Lucia ở Fatima)
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Năm Ngày 13 Tháng 9, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Năm Ngày 13 Tháng 9, 1917Chị Lucia kể lại trong Hồi Ký Thứ Hai và Thứ Tư như sau: Ngày 13 tháng Chín đã cận kề.

Khi gần đến giờ, con cùng với Jacinta và Phanxicô ra đi, nhưng vì đám người quá đông nên chúng con di chuyển rất khó khăn.

Các nẻo đường đông nghẹt người, và ai cũng muốn nhìn thấy và nói chuyện với chúng con.

Không còn một chút gì là thể diện và tự trọng nữa.

Những người dân lành đơn sơ cũng như các ông bà sang trọng xô đẩy nhau, chen lấn vào đám đông chung quanh chúng con.

Khi vừa lại gần được chúng con, họ liền qùy gối trước mặt chúng con và nhờ chúng con đem những ý nguyện của họ đến xin trước tôn nhan Đức Bà.

Những ai không lại gần chúng con được thì la hét to từ đàng xa: "Vì lòng mến Chúa, các em nhớ nói với Đức Bà chữa lành cho con tôi bị bại liệt nhá!"

Một người khác lại tiếp: "Và chữa cho con tôi bị mù!..

Chữa cho con tôi bị điếc!...

Cho chồng và con tôi ngoài mặt trận được trở về!...

Cho một người tội lỗi được ăn năn trở lại!..

Cho tôi được khỏe mạnh trở lại vì tôi mắc bệnh lao!" vân vân.

Tất cả những đau thương của nhân loại đều tập trung tại đó.

Một số người trèo lên ngọn cây và bờ tường để nhìn chúng con đi qua và la to xuống cho chúng con nghe lời họ yêu cầu.

Chúng con nói "vâng" với người này, nắm tay giúp người nọ đứng lên khỏi mặt đất đầy bụi bặm, và nhờ có một vài ông đi trước mở đường cho chúng con tìm cách tiến lên giữa đám đông.

Cuối cùng rồi chúng con cũng đến được đồi Cova da Iria.

Khi tới cây sồi chúng con bắt đầu nguyện kinh Mân Côi với dân chúng.

Ít lâu sau đó chúng con nhìn thấy tia sáng rồi Đức Mẹ hiện ra trên cây sồi.

Bất chấp sự nhạo báng và chế diễu của giới thế tục và giới báo chí vô thần, hơn 30,000 ngàn người tụ họp trên đồi Cova vào ngày 13 tháng 9 hôm ấy để chờ Đức Mẹ xuất hiện.

Cho dù người ta kéo đến để sùng kính hay tò mò, họ cùng nguyện chuỗi Kinh Môi Khôi trong khi chờ đợi các em khải tượng và sự mơ tưởng của họ.

Khi thời gian đã đến, họ được nghe thấy Lucia nói,Lucia: "Thưa Bà muốn con làm gì?"

Đức Bà: "Các con ơi, hãy tiếp tục nguyện kinh Mân Côi.

Hãy nguyện hằng ngày để cầu xin chấm dứt chiến tranh.

Đến tháng Mười, Chúa chúng ta sẽ đến cùng với Đức Mẹ Sầu Bi và Đức Bà núi Các-men (Carmel).

Thánh Giuse sẽ cùng đến với Chúa Giêsu Hài Đồng để chúc ban phép lành cho thế giới.

Thiên Chúa rất hài lòng vì những hy sinh của các con.

Nhưng Ngài không muốn các con mang thắt giây thừng khi đi ngủ; các con chỉ nên thắt ban ngày thôi."

Lucia: "Con được người ta nhờ xin Mẹ nhiều điều lắm, xin Mẹ chữa lành cho một em bé gái bị điếc và bị ngốc được không? ..."

Đức Bà: "Em ấy sẽ khá hơn trong năm nay."

Lucia: "và có một số người nhờ xin Mẹ cho được ơn hoán cải? cho được khỏi bệnh?"

Đức Bà: "Mẹ sẽ chữa cho một số người, nhưng không chữa cho một số người khác.

Vào tháng Mười, Mẹ sẽ làm một phép lạ để cho mọi người tin."

Những lời cuối cùng còn đang vang vọng bên tai, thì Đức Bà môi khôi thăng thiên biến mất, trong khi Lucia ơi ới bảo đám đông, "Nếu quý vị muốn trông thấy Đức Bà --- nhìn! nhìn kia kìa!"

Chị Lucia cho biết, các em tức khắc vâng lời Chúa và Đức Bà dạy hôm ấy, "không muốn các em mặc giây thừng khi ngủ, mà chỉ nên mặc ban ngày thôi."

Lucia tưởng Chúa sẽ ban một dấu lạ như tháng trước, cho nên mẹ của chị rất mong, nhưng Lucia bảo là có lẽ Chúa nhân lành muốn cho các em có thêm cơ hội dâng hy sinh lên Ngài, nên đã không cho một tia sáng vinh quang nào của Ngài xuất hiện hôm ấy cả.

Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi - cầu cho chúng con.

Amen.

Kỷ Niệm 100 Đức Bà Hiện ra tại Fatima 1917-2017Mừng Lễ Kính Thánh Danh Đức Maria Ngày 12/9/2017Sóng Biển
 
Sứ Điệp Fatima
Lần Hiện Ra Thứ Sáu Ngày 13 Tháng 10, 1917


Fatima: Lần Hiện Ra Thứ Sáu Ngày 13 Tháng 10, 1917

Ba em Lucia, Francisco và Jacinta ra đi khá sớm vì đoán trước rằng thế nào cũng sẽ bị chậm trễ dọc đường do từng đoàn người đông nghẹt đổ về chen lấn.

Trời vẫn mưa to như thác đổ, mẹ của Lucia thì bị dằn vặt vì nghi ngờ những gì sẽ xảy ra, và sợ hôm nay sẽ là ngày cuối cùng của đời em, cho nên cũng muốn đi cùng.

Vì người ta đồn là, chính quyền sẽ cho nổ một quả bom gần chỗ các em tụ họp để cầu nguyện ngay trong lúc Đức Mẹ hiện ra.

Điều này không làm Lucia sợ hãi chút nào.

Lucia đã nói cho hai em Jacinta và Francisco nghe.

Các em đều sung sướng kêu lên: "Thật là tuyệt diệu!

Nếu các em được ban ơn lên thiên đàng cùng với Đức Mẹ ngay tại chỗ đó!"

Bố mẹ Lucia, tuy vậy rất sợ hãi, và cũng là lần đầu tiên hai ông bà muốn cùng đi với em.

Bố mẹ em nói rằng, nếu con gái của họ sẽ phải chết, họ cũng muốn được chết theo.

Bố Lucia liền nắm tay em và đi tới chỗ Hiện Ra.

Nhưng khi Đức Mẹ bắt đầu Hiện Ra, Lucia không để ý gì tới bố em nữa cho tới khi trở về với gia đình tối hôm đó.Dọc đường các em đi đến Cova lại tái diễn những màn như tháng trước: cầu xin, nịnh hót, ca tụng và hoài nghi các em kể từ hồi tháng Năm... nhiều hơn và thảm thương hơn.

Lúc các em vừa tới được nơi cây sồi tại đồi Cova da Iria lại đụng phải các kẻ chỉ trích và chất vấn các em về giờ chính xác như Mẹ đã hứa là sẽ đến vào buổi trưa.

Nhưng buổi trưa đã trôi qua theo múi giờ chính thức của quốc gia rồi.

Tuy nhiên, khi mặt trời vừa đứng bóng, do một sự thúc đẩy nội tâm, Lucia yêu cầu mọi người gấp dù lại và nguyện kinh Mai Khôi.

Một lát sau, các em thấy tia sáng và thấy Đức Mẹ đã hiện ra đang ngự ở trên cây sồi rồi như Mẹ đã hứa.Đức Bà: "Ta muốn xây một nhà nguyện ở đây để tôn kính Ta.

Ta muốn các con tiếp tục nguyện Kinh Mai Khôi hằng ngày.

Chiến tranh sẽ sớm chấm dứt, và các binh lính sẽ được trở về nhà của họ."

Lucia: Dạ.

Vâng.Lucia: Xin cho con biết tên Đức Bà được không?Đức Bà: "Ta là Đức Bà Mai Khôi"Lucia: Có nhiều người muốn xin Đức Bà chữa cho một số người lành bệnh, kẻ có tội được hoán cải và những sự khác nữa.Đức Bà với vẻ mặt rất buồn: "Ta sẽ chữa cho một số người, còn số khác sẽ không.

Họ phải ăn năn cải thiện đời sống và xin tha tội của họ.

Đừng xúc phạm đến Chúa chúng ta nữa vì Ngài đã đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!"

Lucia: Đức Bà hỏi tất cả chỉ có vậy thôi á?Đức Bà: "Không còn gì thêm nữa."

Khi Đức Bà Mai Khôi ngước về hướng đông xòe lòng bàn tay hướng phía trời âm u.

Trời liền tạnh mưa ngay, đám mây đen đang che khuất mặt trời, bỗng tỏa bùng ra xuyên thấu qua chúng trông như một cái dĩa bạc đang khẽ quay, lòng bàn tay Đức Bà phản chiến lên ánh sáng mặt trời.

Khi Đức Bà lên cao, ánh sáng xuất phát từ đôi tay vẫn tiếp tục chiếu vào mặt trời.Lucia kêu mọi người: "Hãy nhìn lên mặt trời!"

Sau khi Đức Bà biến mất vào khoảng không vô tận của bầu trời, thì chúng con thấy Thánh Cả Giuse cùng với Chúa Giêsu Hài Đồng và Đức Bà mặc áo chùng dài màu trắng với áo khoác màu xanh lam, đứng bên cạnh mặt trời.

Thánh Giuse cùng Chúa Giêsu dường như đang chúc ban phép lành cho thế giới, vì tay của các ngài đang vạch Dấu Thánh Giá.

Một lát sau đó, sự xuất hiện này biến mất, con trông thấy Chúa và Đức Bà; theo con tưởng như đấy là Đức Bà Sầu Bi.

Chúa xuất hiện để ban phép lành cho thế giới y như cách Thánh Giuse đã chúc ban.

Sự xuất hiện này cũng biến mất, và con được thấy Đức Bà một lần nữa, lần này trông như Đức Bà núi Các-men (Carmel). [Chỉ có về sau Lucia mới cho biết như thế, sau mấy năm gia nhập Dòng kín Carmêlô.]

Lucia kể thêm trong :

Chiều hôm đó con đã ở cùng với hai em.

Chúng con giống như những vật lạ mà quần chúng đang muốn gặp và quan sát.

Tối đến, con đã mệt nhừ sau khi phải trả lời nhiều câu hỏi và nhiều lần chất vấn.

Điều này cứ tiếp diễn không ngừng ngay cả khi trời đã khuya.

Một số người vì không thể hỏi chuyện con ngày hôm đó, đã ở lại đến ngày hôm sau để chờ đến phiên họ.

Một số người cũng cố gắng hỏi con vào buổi tối, nhưng vì quá mệt mỏi, con đã thiếp ngủ ngay trên nền nhà.

Cám ơn Chúa, con chẳng có chút hiểu gì về vấn đề tự trọng hoặc tự ái, nên con đã rất thoải mái đối xử với mọi người cũng như đối với bố mẹ con vậy.

Có một câu của Mẹ Thiên Quốc đã in sâu vào tâm hồn con đó là: "Đừng xúc phạm đến Chúa chúng ta nữa, vì Ngài đã đã bị xúc phạm quá nhiều rồi!"

Thật là một lời phàn nàn đáng yêu, một lời yêu cầu dịu dàng!

Ai sẽ cho con quyền làm cho những lời này vang dội khắp thế giới, để cho tất cả con cái của Mẹ thiên quốc chúng ta đều nghe được tiếng nói của Mẹ?

Đối với Jacinta và Francisco thì đây có thể là sự hiển linh lần cuối ở Fatima.

Tuy nhiên, đối với Lucia, thì Đức Bà còn trở lại với chị thêm một lần thứ bẩy nữa, vào năm 1920, như Đức Bà đã hứa trước tháng Năm.

Lúc đó, Lucia có lẽ đang cầu nguyện tại đồi Cova trước khi rời Fatima đi vào học ở trong một trường nội trú nữ.

Có thể Đức Bà đến để thúc Lucia tận hiến trọn đời chị cho Chúa.

Nữ Vương Rất Thánh, cầu cho chúng con.

Amen.

Kỷ Niệm 100 Đức Bà Hiện ra tại Fatima

13/10/1917- 13/10/2017Sóng Biển Source: the Documents of Fatima & Fatima in Lucia's Own Words
 
Sứ Điệp Fatima
"Ta Từ Trời Xuống"


Đức Bà hiển linh sáu lần tại Fatima vào năm 1917 với ba trẻ chăn chiên, Lucía, Francisco và Jacinta.

Mỗi lần hiển linh là mỗi lần Mẹ ban cho một thông điệp rất rõ ràng.

Có Ba phần thông điệp được giữ bí mật.

Phần thứ nhất và thứ hai đã được chị Lucia tiết lộ vào năm 1941.

Phần thứ ba được tòa thánh Vatican tiết lộ vào năm 2000.Những lời nhắn nhủ của Đức Bà trong sáu lần hiện ra như sau:

Lần Hiển Linh Thứ Nhất - Ngày 13 tháng Sáu, 1917

"Ta từ Trời xuống ...các con có sẵn sàng dâng hiến chính mình lên Thiên Chúa để gánh chịu hết mọi đau khổ mà Chúa sẽ gởi tới cho các con, để đền tạ vì những tội lỗi đã xúc phạm đến Người và để cầu xin cho kẻ có tội được ơn hoán cải không?"

Lucia thưa, "Dạ Có, chúng con sẵn sàng""Thế thì các con sẽ phải chịu đựng rất nhiều đau khổ, nhưng ơn sủng của Chúa sẽ làm nguồn an ủi cho các con... các con hãy nguyện Kinh Môi Khôi hằng ngày để cầu xin cho thế giới hòa bình và chấm dứt chiến tranh (thế chiến thứ I)."

Lần Thứ Hai Hiển Linh - Ngày 13 tháng Sáu, 1917 "Các con hãy nguyện Kinh Môi Khôi hằng ngày ..."

"Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho mọi người được nhận biết và yêu mến Ta.

Chúa muốn thiết lập trên thế gian việc tôn sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Ta ...

đừng nản lòng.

Ta sẽ không bao giờ bỏ rơi con đâu.

Khiết Tâm Vô Nhiễm Ta sẽ là nơi con trú ẩn và là đường dẫn con đến với Chúa."

Việc tôn sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria đã được chị Lucia minh xác trong phần thứ hai của Bí Mật Fatima.

Lần Thứ Ba Hiển Linh - Ngày 13 tháng Bảy, 1917 "...

Ta muốn con tiếp tục Nguyện Kinh Môi Khôi hằng ngày để tôn vinh Đức Bà Môi Khôi, để cầu xin cho thế giới hòa bình và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ có Bà mới có thể cứu giúp các con.

Hãy tiếp tục tới đây hàng tháng.

Đến Tháng Mười, Ta sẽ cho các con biết Ta là ai và Ta muốn gì, rồi Ta sẽ tỏ một phép lạ cho mọi người thấy đặng tin."

"Hãy hiến mình làm của lễ hy sinh cho kẻ có tội, và nhất là mỗi khi các con làm việc hy sinh đền tội, năng nhắc lại lời nguyện sau: 'Lạy Chúa Giêsu, (con làm việc hy sinh này) vì yêu mến Chúa, và cầu xin cho kẻ có tội được ăn năn trở lại, và để đền tạ vì tội lỗi xúc phạm đến Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria.'"Các em được cho thấy hỏa ngục.

Đây là phần bí mật thứ nhất.

"Các con đã được cho xem thấy hỏa ngục, nơi các linh hồn tội nhân khốn nạn rơi xuống.

Để cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập việc tôn sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Ta ở trần gian.

Nếu điều Ta phán với các con được thi hành, thì nhiều linh hồn sẽ được cứu vớt và sẽ có hòa bình.

Chiến tranh sẽ chấm dứt; nhưng nếu loài người không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, sẽ có một cuộc chiến tàn khốc bùng nổ." (Thế Chiến Thứ II)Các em được tiết lộ việc Tôn Sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Đức Maria.

Đây là phần bí mật thứ hai.

"Để ngăn chặn điều này, Ta sẽ đến yêu cầu tận hiến nước Nga cho Khiết Tâm Vô Nhiễm Ta, và .

Nếu yêu cầu của Ta được lưu ý thi hành, nước Nga sẽ hoán cải trở lại, và sẽ có hòa bình.

Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc lầm lạc đi khắp thế giới, gây ra chiến tranh và bách hại Giáo Hội.

Người thiện lành sẽ tử vì đạo, Đức Thánh Cha sẽ phải hứng chịu nhiều đau khổ, nhiều nước sẽ bị tiêu diệt.

Cuối cùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Ta sẽ thắng.

Đức Thánh Cha sẽ tận hiến nước Nga cho Ta, và nước Nga sẽ hoán cải, và một thời gian hòa bình sẽ được ban cho thế giới."

"Mỗi khi các con nguyện kinh Môi Khôi, cứ sau mỗi một màu nhiệm thì nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục.

Xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn.'"Lần Thứ Bốn Hiển Linh - Ngày 19 tháng Tám, 1917 "Các con hãy tiếp tục Nguyện chuỗi Kinh Môi Khôi hằng ngày.

Đến tháng cuối cùng (Tháng Mười), Ta sẽ tỏ một phép lạ để mọi người tin."

"Hãy cầu nguyện, các con hãy cầu nguyện thật nhiều, và hy sinh cho kẻ có tội; nhiều linh hồn sa hỏa ngục, vì không ai chịu hy sinh và đền tội cho họ."

Lần Thứ Năm Hiển Linh - Ngày 13 tháng Chín, 1917"Các con hãy tiếp tục nguyện Kinh Môi Khôi để cầu xin chấm dứt chiến tranh.

Đến tháng Mười, Thiên Chúa Chúng Ta sẽ đến cùng với Đức Bà Sầu Bi và Đức Bà Carmêlô.

Thánh cả Giuse sẽ xuất hiện cùng với Chúa Hài Nhi Giêsu để chúc ban phúc lành cho thế giới.

Thiên Chúa rất hài lòng vì những hy sinh của các con.

Vào tháng Mười, Mẹ sẽ tỏ một phép lạ để mọi người tin."

Lần Thứ Sáu Hiển Linh - Ngày 13 tháng Mười, 1917 "Ta là Đức Bà Môi Khôi.

Hãy tiếp tục siêng năng nguyện Kinh Môi Khôi hằng ngày.

Đừng xúc phạm đến Thiên Chúa chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm quá nhiều rồi."

Khi đám đông thấy cảnh mặt trời bắt đầu quay, thay đổi màu sắc, và nhào xuống đất, thì các em trông thấy Thánh Cả Giuse cùng với Chúa Hài Đồng Giêsu và Đức Bà.

Thánh Cả Giuse cùng Chúa Hài Đồng Giêsu xuất hiện chúc ban phúc lành cho thế giới.

Sau đó các em trông thấy Thiên Chúa chúng ta và Đức Bà Sầu Bi.

Thiên Chúa chúc phúc lành cho thế giới.

Sau khi cảnh sắc mặt trời mờ tan dần các em trông thấy Đức Bà Carmêlô.Ba Phần Bí Mật Fatima Bí Mật Phần Thứ Nhất - Trông Thấy Cảnh Hỏa Ngục"Đức Mẹ đã cho chúng con thấy một biển lửa vĩ đại có vẻ như nằm ở dưới lòng đất.

Lao vào đám lửa này là ma quỷ và các linh hồn có hình dạng người ta, giống như những thanh củi đang cháy, toàn thân đen thui hoặc giống như những tượng đồng được đánh bóng.

Họ đang ngụp lặn trong một đám cháy lớn, bị những ngọn lửa từ chính thân mình họ phát ra tung lên trên không cùng với những đám khói lớn, và rồi bị rớt xuống tản mát như những tàn lửa của một ngọn lửa lớn, không có trọng lượng hoặc thăng bằng gì cả, giữa những tiếng gào thét, than khóc vì đau đớn và thất vọng, làm cho chúng con khiếp đảm và run sợ.

Ta có thể phân biệt rõ ràng bọn quỷ sứ vì hình dáng khủng khiếp và dữ tợn của chúng trông như những con dã thú ghê rợn mà chúng ta chưa hề thấy bao giờ, toàn thân chúng đen đủi và trong suốt.

Thị kiến này chỉ kéo dài trong giây lát.

Làm sao chúng con có thể cám ơn lòng thương yêu nhân từ của Đức Mẹ cho đủ, vì Mẹ đã chuẩn bị tinh thần cho chúng con bằng lời hứa trong lần hiện ra thứ nhất là sẽ đem chúng con về thiên đàng.

Nếu không, có lẽ chúng con đã chết vì sợ hãi và khiếp đảm."

"Bấy giờ chúng con nhìn lên Đức Mẹ, Đấng hết sức nhân từ và buồn bã nói với chúng con rằng:

"Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi tội nhân khốn nạn rơi xuống.

Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới.

Nếu những điều Mẹ nói với các con được thực hiện thì nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình.

Chiến tranh sắp chấm dứt, nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI.

Khi các con thấy ánh sáng lạ lùng chiếu giữa ban đêm, thì các con hãy biết rằng đó là điềm lạ vĩ đại Thiên Chúa muốn cho các con hay Ngài sắp sửa trừng phạt thế giới tội lỗi, bằng chiến tranh, đói khát và việc bắt bớ Giáo Hội cùng Đức Thánh Cha.

Để ngăn ngừa điều này, Mẹ sẽ đến để xin dâng hiến Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ và xin rước lễ đền tạ các ngày Thứ Bảy Đầu Tháng.

Nếu người ta nghe lời Mẹ yêu cầu, Nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hòa bình; bằng không, Nước Nga sẽ truyền bá lầm lạc khắp thế giới, gây chiến tranh và bách hại Giáo Hội.

Người lành sẽ chịu tử vì đạo; Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ; các nước khác nhau sẽ bị hủy diệt.

Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng.

Đức Thánh Cha sẽ dâng hiến Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ được ban cho một thời gian hòa bình."

"Sau hai phần con đã diễn tả, thì ở bên trái của Đức Mẹ và cao hơn một chút, chúng con thấy có một vị Thiên Thần cầm một lưỡi gươm cháy lửa nơi tay trái; thanh gươm chớp chớp phát ra những ngọn lửa như muốn thiêu đốt thế giới; tuy nhiên, những ngọn lửa ấy đã bị tắt mất trước ánh quang sáng ngời từ bàn tay phải của Đức Mẹ phát ra chiếu về phía vị Thiên Thần, bởi thế, lấy bàn tay phải của mình mà chỉ xuống trái đất, vị Thiên Thần đã kêu lớn tiếng rằng: 'Hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội, hãy ăn năn đền tội!'.

Rồi chúng con thấy một vị Giám Mục mặc Áo Trắng, 'mà chúng con có cảm nhận đó là Đức Thánh Cha', trong một vùng sáng mênh mông là Thiên Chúa, 'giống như người ta thấy mình đi ngang qua trước một tấm gương soi'.

Các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ khác đang tiến lên một ngọn núi dốc đứng, trên đỉnh có một cây Thập Giá lớn, được làm bằng những thân cây nứt nẻ như loại thân cây điên điển còn vỏ; trước khi tiến lên tới đỉnh núi, Đức Thánh Cha đã băng qua một thành phố lớn, một nửa đã bị tàn rụi, còn một nửa kia thì đang run rẩy loạng quạng lê bước với đầy những đớn đau và buồn khổ, Ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thi thể Ngài gặp thấy trên quãng đường đi; tiến tới đỉnh núi rồi thì khi đang quì ở dưới chân cây Thập Giá lớn, Ngài đã bị một nhóm lính bắn các đầu đạn và mũi tên đến hạ sát, cũng lần lượt bị sát hại như thế có cả các vị Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ cùng với thành phần giáo dân ở các tầng lớp và vai trò khác nhau.

Dưới hai cánh Thập Giá có hai Thiên Thần, mỗi vị cầm trong tay mình một bình nước thánh bằng pha lê để chứa đựng máu của các vị Tử Đạo và hai vị dùng máu ấy vẩy trên những linh hồn đang tìm đường đến cùng Thiên Chúa".Trong cả sáu lần hiển linh, lần nào Mẹ cũng nhấn mạnh đến việc nguyện Kinh Môi Khôi để cầu cho các linh hồn, cho Đức Thánh Cha.

Cải Thiện tu chỉnh đời sống và làm việc hy sinh cho kẻ có tội được hoán cải.

Riêng hai trong Ba Phần Bí Mật Fatima, Mẹ nhấn mạnh đến việc Tôn Sùng Khiết Tâm Vô Nhiễm Mẹ, nguyện Kinh Môi Khôi để chấm dứt chiến tranh, để cầu cho hòa bình thế giới và để ngăn chặn cộng sản.Để tôn vinh Đức Bà đã hiện ra và ban Kinh Nguyện Môi Khôi tại Fatima, chúng ta cùng cố gắng học hỏi thêm về thông của Mẹ, quyết tâm sống và truyền bá thông điệp bằng chính hành động và gương sáng của mình.

Amen

Ngày 13 Tháng Năm 2014Sóng Biển
 
Sứ Điệp Fatima
Thánh Tượng Đức Bà Fatima Ở Capelinha


Ba trẻ chăn chiên, Lucía, Francisco và Jacinta đã được diễm phúc diện kiến Đức Bà, và duy nhất chỉ có các em mới có thể mô tả hình dáng Đức Trinh Nữ khi xuất hiện tại Fatima ra sao.

Trong lần thẩm vấn đầu tiên với vị linh mục tiến sĩ uyên bác tên Manuel Nunes Formigão, vào ngày 27 tháng 9, 1917, Phanxico đã phúc trình tỉ mỉ về vấn đề này như sau: Tiến sĩ Formigão tra hỏi Phanxico:"Con đã thấy những gì trên đồi Cova da Iria trong mấy tháng qua?"

Phanxico:"Con thấy Đức Bà."

"Đức Bà có ý tìm gặp ai; chỉ có con và Jacinta không thôi, hay là chỉ tìm gặp Lucía?"

Phanxico: "Đức Bà tìm gặp cả ba chúng con, nhưng hầu hết thời gian diện kiến, Đức Bà chỉ để ý đến Lucia."

"Đức Bà có bao giờ khóc, hoặc cười không?"

Phanxico: "không khóc cũng không cười.

Đức Bà lúc nào cũng nghiêm trang."

"Đức Bà mặc đồ gì, trang phục như thế nào?"

Phanxico: "Đức Bà mặc áo chùng thâm với khăn đội đầu phủ trùm xuống theo cùng với áo dài."

"Khăn đội đầu và áo chùng thâm màu gì?"

Phanxico: "trắng bạch hết.

Áo có viền vàng."

"Hình dáng Đức Bà thế nào?"

Phanxico:"Đức Bà như ai đó đang chấp tay trước ngực cầu nguyện."

"Đức Bà có cầm cái gì ở tay không?"

Phanxico: "Tay phải Đức Bà đang lần mấy chuỗi hột đeo dính với áo dài."

"chuỗi hột màu gì?"

Phanxico: "cũng màu trắng luôn."

"Đức Bà có đẹp không?"

Phanxico: "Dạ, đẹp."

Sau khi thẩmvấn Phanxico xong, thì đến phiên Jacinta và em cũng trả lời giống y chang như vậy.

Còn Lucia thì mô tả trang phục của ĐứcBà chi tiết hơn, em nói, cổ Đức Bà có đeo hai sợi giây chuyền vàng dài tới thắtlưng có đính kèm quả cầu vàng hay quả tua vàng.

Đức Bà không có mang giây thắt lưng hay dảiruy băng (như Đức Mẹ Lộ Đức).Dựa theo sự mô tả này, mà điêu khắc gia trẻ tuổi Jose Thedim đã tạc ra tượng Đức Bà Fatima đầu tiên, Thánh Tượng được lưu giữ và tôn kính tại Nguyện Đường Hiện Ra "The Chapel of Apparitions" (ở Capelinha) kể từ ngày 13 tháng 5, 1920.

Và được ĐGH Pius XII đặt vương miện vào năm 1946 (tại Roma.)Vào ngày 13tháng Mười, 1925, Tiến sĩ Formigão đã tuyên bố: "chính tại nơi đây, dướichân Đức Bà Môi Khôi, ai nấy đều có thể lượng giá và cảm nghiệm thấy sức mạnh đứctin của người dân tốt lành Bồ Đào Nha.

Hếtthảy dân chúng thuộc mọi giai cấp trong xã hội, đã được linh hứng bởi căn tínhKitô hữu sống động bình đẳng và huynh đệ, mỗi khoảnh khắc quy tụ về đó, xin hãyhướng mắt nhìn lên và giơ tay ra khẩn cầu cùng với Đức Bà, khẩn cầu cùng với chính đấng được gọi là "BàuChữa kẻ có tội" và "Cứu Kẻ Liệt Kẻ Khốn"[Xin ghi chú thêm: Lần hiện ra thứ ba ngày 13/7/1917, Đức Bà cho biết sẽ bảo toàn cho "Dân chúng Bồ Đào Nha không bị mất đức tin".]

Sau này: "Nhờ Hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, mà sản sinh ra vô số tượng mô phỏng theo, tựa như ôm trọn hết moi ánh nhìn chăm sóc trìu mến của Mẹ vậy."

Và cho đến nay Đức Trinh Nữ Maria vẫn hiện thân qua thánh tượng ở Cova da Iria này, thu hút dân chúng khắp nơi trên thế giới hành hương về bên Mẹ như khi xưa Mẹ nhắn nhủ và biểu lộ tình thương, là sẽ đem các linh hồn "lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn."

Nguyện Đường Hiện Ra (Capelinha) tọa ở phía bắc Fatima, ngay tại nơi Đức Bà hiện ra.

Thánh Tượng nguyên thủy bằng gỗ đầu tiên mà điêu khắc gia Jose Thedim đã khắc này, được gìn giữ bên trong lớp tủ kiếng bằng nhựa an toàn và được đặt trang trọng trên một bệ đá cẩm thạch.

Cây sồi nhỏ mà Đức Bà hiển ngự đã bị khách hành hương chặt phá trụi lủi hết.

Chỉ còn lại gốc cây ở dưới bệ chân thánh tượng.Có một tượngĐức Bà Fatima được sao đúc y hệt như thánh tượng gốc ở Capelinha, hiện đang ngựtại Đền Thánh Mẫu Quốc Gia Đạo Binh Xanh Đức Bà Fatima ở Washington, N.J. (The Blue Army Shrine of Our Lady of Fatima), trên đường Marian Way, gần đền Thánh NữTheresa.Thứ Bảy ngày mùng 5 đầu tháng Bảy 2014Sóng BiểnSource: the Documents of Fatima
 
Sứ Điệp Fatima
Bài 1: HIỆN TƯỢNG FATIMA, CỘNG SẢN, VÀ HỒI GIÁO


Số báo Time, phát hành ngày 30/12/1991, Richard N.

Ostling – một ký giả kỳ cựu chuyên về mục tôn giáo – đăng tải một bài viết nhan đề, "Hand-maid or Feminist?".

Trong bài viết này, ông nhận định: "Trong số những phụ nữ đã từng sống ở trần gian, Mẹ của Đức Giêsu là người được mừng lễ nhiều nhất, được kính trọng nhất, được miêu tả nhất, được vinh dự nhất trong việc đặt tên cho các bé sơ sinh và cho những ngôi thánh đường.

Ngay cả bộ kinh Koran của đạo Hồi cũng ca ngợi lòng khiết tịnh và đức tin của bà.

Theo tín điều của giáo hội Công giáo Rôma, Đức Mẹ được nhìn nhận không chỉ là Mẹ Thiên Chúa mà còn, theo những Giáo Hoàng đương thời, là Nữ Vương Vũ trụ, Nữ Vương Thiên Đàng, Hạt Giống Khôn Ngoan và thậm chí là Hôn Thê của Chúa Thánh Linh."

Phụ nữ nào mà mang nhiều tước hiệu đến thế?

Bà là ai?

Thưa là Đức Maria, và câu chuyện bắt đầu từ hơn 2000 năm trước.Năm 6 trước Công nguyên, tại làng Nadarét thuộc xứ Galilê có cô gái tên là Maria, con ông Gioakim và bà Anna.

Cô là người nết na, đạo hạnh.

Theo tục lệ Do-thái, năm 14 tuổi, cô đính hôn với chàng trai tên Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít.

Theo thánh sử Luca, ngài thuật lại câu chuyện như sau:Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ".

Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa.

Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu.

Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao.

Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người.

Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà.

Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa.

Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".

Và thiên thần cáo biệt Bà. (Lc 1,26-38)Trong bản văn Hi-lạp, sự kiện truyền tin được miêu tả thật ra không có từ "xin vâng", nhưng chỉ có câu trả lời của Đức Mẹ: "Tôi đây là nữ từ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói", hay dịch sát hơn: "Tôi đây là nữ tì của Chúa, hãy xảy ra cho tôi theo như lời Sứ Thần".

Ngoài ra, "Xin Vâng" còn được đọc theo tiếng La-tinh là "Fiat" ; nhưng thực ra, "Fiat" có nghĩa là "ước gì xẩy ra", hoặc "hãy xẩy ra", cho tôi theo như lời của ngài.

Vì thế, chúng ta vẫn cứ tiếp tục nói Đức Mẹ thưa "Xin Vâng", nhưng phải hiểu tiếng "Xin Vâng" của Mẹ là cả một câu trả lời khá dài và đầy ý nghĩa.Sự kiện này được mừng vào ngày 25 tháng 3 hằng năm.

Đó là lễ Truyền tin, đúng 9 tháng trước khi bé Giêsu ra đời.

Không có sự kiện Truyền tin thì cũng chẳng có Chúa Hài đồng Giêsu.

Không có sự đồng ý của cô thôn nữ Maria thì cũng chẳng có ơn cứu chuộc.

Nhưng mọi việc đã xảy ra đúng theo ý muốn của Thiên Chúa.

Ngay khi Đức Maria xin vâng, Đức Giêsu nhập thể và thực hiện sứ mệnh cứu chuộc nhân loại.

Hơn 33 năm sau, sau khi hoàn thành sứ mạng cứu chuộc mà Đức Chúa Cha giao phó, Đức Giêsu sống lại, về trời và giao Đức Mẹ lại cho người môn đệ mà Ngài yêu thương nhất là thánh Gioan.

Mẹ Maria sống thêm một thời gian nữa rồi từ trần.

Hồn và xác của Người cũng được Thiên Chúa đưa về trời.

Đây là một trong 4 tín điều mà người công giáo phải tin về Mẹ Maria: (1) Mẹ Thiên Chúa, (2) Mẹ Vô Nhiễm Thai, (3) Mẹ Đồng Trinh trọn đời, và (4) Mẹ Hồn Xác Lên Trời.Từ đó trên thế giới có hiện tượng Đức Mẹ hiện ra.

Hiện ra với các Thánh, và hiện ra với những kẻ dân dã, nghèo hèn và thấp kém trong xã hội.Thật ra, không đợi Đức Mẹ chết, về trời rồi Người mới hiện ra với nhân loại.

Hiện tượng Mẹ hiện ra đầu tiên được ghi nhận vào năm 40 Công Nguyên bên bờ sông Ebro vùng Saragossa (nay thuộc thành phố Zaragoza) của Tây-ban-nha.

Theo tương truyền, thánh Giacôbê (con ông Zêbêđê) rao giảng cho dân ngoại nhưng họ cứng lòng tin làm ông nản lòng.

Đức Mẹ hiện ra (đứng trên một cột trụ bằng ngọc thạch) nâng đỡ và khuyến khích ông tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Điều đáng nói là vào năm đó Đức Mẹ vẫn còn sống tại Giêrusalem.

Hiện tượng "phân thân" đầu tiên được ghi nhận trong giáo hội.

Hiện nay, một ngôi thánh đường nguy nga đứng sừng sững tại nơi Đức Mẹ hiện ra và mang tên Đức Mẹ Cột Trụ (Our Lady of the Pillar, Nuestra Señora del Pilar).

Cần nói thêm là Đức Mẹ hiện ra tại Lavang, Quảng Trị – giống như trường hợp Đức Mẹ Cột Trụ – cũng được Giáo hội thừa nhận vì phù hợp với truyền thống của đức tin.Hiện ra, hiểu theo đức tin của một giáo hữu, là một hiện tượng hiếm hoi.

Người được thị kiến hiện tượng Mẹ hiện ra phải là một người mộ đạo, có lòng sùng kính Đức Mẹ đặc biệt.

Họ là những người được tuyển chọn để làm chứng cho một sự kiện bất thường, nhằm rao truyền một sứ điệp nào đó.

Linh mục René Laurentin, một nhà thần học chuyên về Maria học, soạn cuốn "Mary in Faith and Life in the New Age of the Church", trong đó có một định nghĩa rất đúng đắn về sự hiện ra.

Theo ngài, "Sự biểu hiện, được cảm nhận qua một chủ thể, của một bản thể, sự thị kiến của bản thể ở nơi này và trong thời điểm này là điều không thể giải thích theo quá trình bình thường của các sự kiện."

Chủ thể là người được thị kiến.

Bản thể có thể là Đức Mẹ hoặc Đức Giêsu, hay một vị Thánh nào đó; nghĩa là một người mà chủ thể đã biết trong trí.

Theo định nghĩa trên, sự hiện ra bao gồm xúc giác (cảm nhận) và thị giác (thấy) và điều quan trọng nhất là 'bất thường và không thể giải thích theo định luật tự nhiên' (unusual and inexplicable); và chính đặc tính này đã gây một tác động về tâm linh nơi chủ thể.

Như thế, sự hiện ra (apparition) hoàn toàn khác với sự xuất hiện (appearance), mặc dù vẫn 'sự xuất hiện' vẫn bao gồm thị giác và có thể cả xúc giác nhưng lại không gây ra một sự tác động nào về tâm linh.Công đồng Lateran (1512-17) xác quyết việc nói tiên tri và những mạc khải phải được sự chấp thuận của Đức Giáo hoàng.

Tuy nhiên, công đồng Trentô (1545‐63) lại cho phép giám mục địa phương tự mở cuộc điều tra và quyết định có nên chấp thuận hiện tượng hiện ra hay không trước khi giáo dân được tôn kính công khai.

Như thế, có bốn trường hợp cho những hiện tượng Đức Mẹ hiện ra:không được giáo hội công nhậnđược thừa nhận bởi truyền thống đức tinđược Tòa thánh Vatican công nhận, vàđược giám mục địa phương nhìn nhậnTheo công trình nghiên cứu của Michael O'Neill và thuờng xuyên được cập nhật trên trang "The Miracle Hunter," trong 19 thế kỷ – từ năm 40 Công Nguyên đến đầu thế kỷ 20 – người ta ghi nhận khoảng 230 lần Đức Mẹ hiện ra.

Nhưng chỉ riêng trong thế kỷ 20 (1900-1999), số lần Đức Mẹ hiện ra tăng vọt lên khoảng 470 lần, nghĩa là gấp đôi.

Theo thiển ý, sở dĩ sự kiện hiện ra được báo chí ghi nhận tăng vọt vì phương tiện truyền thông trong thế kỷ 20 cải tiến vượt bậc nên tin tức loan truyền hiệu quả hơn, và vì tình hình chính trị phức tạp và hỗn loạn hơn; bao gồm 2 Thế chiến, và nhiều cuộc cách mạng nổ bùng do sự xung đột giữa khối cộng sản và khối các nước tư bản (sẽ giải thích ở phần sau).

Tuy có hàng trăm sự kiện xảy ra nhưng Giáo hội Công giáo hết sức nghiêm nhặt khi thừa nhận một hiện tượng Đức Mẹ hiện ra.

Đó là kết quả sau một thời gian dài điều tra, trước hết phải được giám mục sở tại thừa nhận, rồi một tiểu ban do Giáo hoàng chỉ định đặc trách công việc điều tra, cuối cùng Tòa Thánh mới lên tiếng thừa nhận hay phủ nhận hiện tượng đó.

Như hiện tượng Đức Mẹ hiện ra tại Medjugorje (Nam Tư, nay là Bosnia-Herzegovina) với 6 trẻ vào tháng 6/1981 và mãi đến nay vẫn còn nằm trong vòng điều tra.

Từ 2010, Đức Giáo hoàng Bênêđictô chính thức bổ nhiệm một ủy ban điều tra.

Theo National Catholic Register, vào đầu năm 2017, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ủy nhiệm cho Đức Tổng Giám mục Henryk Hoser thuộc địa phận Warsaw-Prague, Ba Lan, đúc kết cuộc điều tra, và Tòa thánh sẽ có phán quyết về hiện tượng này vào cuối năm nay.Tính đến năm 2017, Tòa thánh Vatican chỉ mới công nhận 16 hiện tượng Đức Mẹ hiện ra, bao gồm: (1) Mexicô, năm 1531 với tước hiệu Đức Mẹ Guadalupe; (2) Lejask, Ba Lan, năm 1578; (3) Siluva, Lithuania, năm 1608 với tước hiệu Đức Mẹ Siluva; (4) Laus, Pháp, năm 1664, với tước hiệu Đức Mẹ Laus; (5) Rue du Bac, Paris, Pháp, năm 1830 với tước hiệu Đức Mẹ Mề Đay Huyền Nhiệm (hay là Đức Mẹ Ban Ơn); (6) Rôma, Ý, năm 1842 với tước hiệu Đức Mẹ Zion; (7) La Salette, France, năm 1846 với tước hiệu Đức Mẹ Salette; (8) Lộ-Đức, Pháp, năm 1858 với tước hiệu Đức Mẹ Lộ-Đức; (9) Filippsdorf, Tiệp khắc, năm1866 với tước hiệu Đức Mẹ Phù hộ Các Giáo hữu; (10) Pontmain, Pháp, năm 1871 với tước hiệu Đức Mẹ Hy Vọng; (11) Gietrzwald, Ba Lan, năm 1877 với tước hiệu Đức Mẹ Gietrzwald; (12) Knock, Ái-nhĩ-lan, năm 1879 với tước hiệu Đức Mẹ Knock; (13) Fatima, Bồ-đào-nha, năm 1917 với tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi; (14) Beauraing, Bỉ, năm 1932 với tước hiệu Đức Mẹ Trái Tim Vàng; (15) Banneux, Bỉ, năm 1933 với tước hiệu Trinh Nữ của Người Nghèo; (16) Kibeho, Rwanda, năm 1981 với tước hiệu Mẹ Thế Giới.Cần nói thêm là hiện tượng Đức Mẹ hiện ra với cô Adele Brise (sau là nữ tu dòng Phanxicô) năm 1859 – một năm sau Đức Mẹ Lộ-đức – tại Champion, Wisconsin, USA với tước hiệu Đức Mẹ Hảo Hựu (Good Help) đã được giám mục địa phương thừa nhận vào ngày 8 tháng 12, 2010.

Tính đến năm 2017, đây là hiện tượng Đức Mẹ hiện ra duy nhất được giáo quyền thừa nhận tại Hoa kỳ.Bất cứ lần nào hiện ra, Đức Mẹ đều nhắn nhủ những điểm chung nhất như: (1) ăn năn, cầu nguyện, hãm mình và (2) siêng năng lần hạt để đền tội.

Thật ra, lời khuyên của Đức Mẹ không hề vượt quá những điều giáo dân đã hiểu biết từ lúc học bổn vỡ lòng.

Đời sống đạo cũng giống như sự học, chèo thuyền trên dòng nước ngược.

Nếu không chuyên cần, lơ là việc đạo, là lúc con thuyền đời sống tâm linh của chúng ta bị dòng nước kéo ngược xuống hạ nguồn.

Những việc ăn năn, cầu nguyện, hãm mình, đền tội, lần hạt là những phương cách hữu hiệu giúp giáo hữu đủ sức chèo ngược dòng để tiến lên thượng nguồn.Một điểm đáng chú ý là một vài lần hiện ra của Đức Mẹ đều liên quan đến một biến cố chính trị sửa soạn sắp xảy đến.

Lời Mẹ nhắn nhủ trong những lần hiện ra này đều nhắc nhở cho thế giới biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã gần kề và chính biến cố chính trị này có tác dụng như một lời răn đe, tai họa sẽ giáng xuống trên nhân loại nếu thế giới không biết cải thiện đời sống.

Như:– Lần hiện ra tại Mexico năm 1531 liên quan đến đế quốc Tây-ban-nha vừa xâm chiếm lãnh thổ Aztec nhằm ngăn ngừa chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đối với các thổ dân,– Lần hiện ra tại La Salette năm 1846 liên quan đến cuộc cách mạng vũ bão (1848) nhằm lật đổ chế độ quân chủ lập hiến tại Âu châu,– Lần hiện ra tại Fatima năm 1917 liên quan đến thể chế cộng sản sắp được thành hình đầu tiên tại Nga, và cũng là đầu tiên trên thế giới,– Lần hiện ra tại Medjugorje năm 1981 liên quan đến cuộc chiến (1992-1995) giữa các sắc tộc Serbs, Croats, và Slovenes thuộc Nam-tư cũ gây ra sự diệt chủng tàn khốc tại Bosnia,– Lần hiện ra tại Kibeho năm 1981 liên quan đến đến cuộc nội chiến (1990-1994) giữa hai sắc tộc Hutu và Tutsi gây ra sự diệt chủng tàn bạo không kém tại Rwanda.Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima (1917-2017), và vì sứ điệp của Mẹ có liên quan đến chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa vô thần hoành hành và gieo rắc lầm lạc trong suốt thế kỷ 20, chúng ta tìm hiểu hiện tượng này để thấy bàn tay của Mẹ đã nâng đỡ và cứu giúp nhân loại kỳ diệu thế nào.1.

HIỆN TƯỢNG FATIMA – ĐỨC MẸ MÂN CÔIHãy điểm sơ lược lịch sử của nước Bồ-đào-nha (xin gọi tắt là Bồ) để hiểu tại sao Mẹ Maria lại chọn quốc gia này để nhắn nhủ với nhân loại.

Gần 2000 năm trước, thánh Giacôbê Tông đồ băng ngang Bồ để đến truyền giáo tại Tây-ban-nha.

Đó là thời điểm đầu tiên dân Bồ biết Tin Mừng.

Vào thế kỷ thứ 8, quân Hồi (Moors) xâm chiếm lãnh thổ và dân Bồ chống trả mãnh liệt.

Cuộc chiến kéo dài, dai dẳng và Bồ thắng vẻ vang quân Hồi vào năm 1100 và tuyên bố độc lập vào năm 1143.

Vua đầu tiên của Bồ, Afonso I, dâng lễ tạ ơn Trinh nữ Maria và để đánh dấu ngày lễ trọng đại này, vua cho xây một tu viện mang tên Santa Maria de Alcobaça.Khi Tây-ban-nha xâm chiếm Bồ, giáo dân cậy nhờ vào Đức Trinh nữ Maria để chống trả.

Năm 1385, Bồ đẩy lui quân Tây-ban-nha, giữ gìn nguyên vẹn bờ cõi.

Đễ tạ ơn, vua Gioan I xây một ngôi thánh đường nguy nga tại Batalha, mang tên Thánh Maria Chiến Thắng.

Qua bao nhiêu thăng trầm suốt lịch sử giữ nước, lúc nào dân Bồ cũng tin tưởng vào sự che chở và bảo vệ của Đức Mẹ.

Vì thế, Bồ còn mang tên Đất của Thánh Nữ Maria.Riêng vùng đất Fatima lại mang một sắc thái đặc biệt hơn, vì liên quan đến Hồi giáo (sẽ đề cập ở phần sau).

Chúng ta có thể nói, sự chọn lựa của Mẹ Maria khi hiện ra tại Fatima (Hồi) trên mảnh đất Bồ (yêu mến Mẹ không kém giáo dân Việt) mang một ý nghĩa đặc biệt cho tương lai của nhân loại.Làng Fatima, nằm lọt giữa lòng nước Bồ, cách thủ đô Lisbon khoảng 128km về phía bắc.

Fatima là một họ đạo nhỏ thuộc địa phận Leiria.

Người dân ở đây đa số mù chữ, chỉ khoảng 10% biết đọc và viết.

Nghề chính của dân chúng là trồng trọt ngũ cốc, ôliu, chăn cừu... nên hầu hết gia đình nào cũng nghèo.

Cũng vì nghèo nên ngay từ nhỏ, trẻ em làng Fatima phải phụ giúp cha mẹ chăn nuôi gia súc hoặc dẫn đàn cừu đến các đồng cỏ quanh vùng.

Khi Thế chiến I xảy ra, khá nhiều dân làng tìm cách di dân sang Hoa kỳ, Ba tây và các nước châu Mỹ nhưng hai gia đình dos Santos và Marto vẫn ở lại xóm Aljustrel bám ruộng vườn để nuôi con cái.

Hai gia đình này có liên hệ họ hàng: ông dos Santos lập gia đình với bà Maria Rosa, và người em gái của ông – Olimpia Jesus dos Santos – kết hôn với ông Manuel Marto.Điều đặc biệt là bà Maria Rosa lại biết đọc, một điều hiếm có vào thời đấy.

Nhờ biết đọc, bà dạy giáo lý cho đứa con gái là Lucia dos Santos và cả con cái hàng xóm.

Mỗi chiều, bà còn đọc Thánh kinh cho các con, và nhiều sách đạo khác.

Nhờ đó mà Lucia được rước lễ lần đầu lúc 6 tuổi, sớm hơn các trẻ em khác trong xóm.

Bà còn đặc biệt khuyên các con năng lần hạt kính Đức Mẹ.

Vì thế, người ta không lạ gì khi Lucia dos Santos (sinh 1907), Francisco Marto (sinh 1908), và Jacinta Marto (sinh 1910) đều có thói quen lần hạt hằng ngày.

Trong người ba em đều có xâu chuỗi nhất là khi lùa đàn cừu đến những cánh đồng trong thung lũng vào mỗi sáng và khi rảnh rỗi là ba em quỳ gối lần hạt.Cần nhắc đến tình hình chính trị tại Bồ vào thời điểm này.

Thế chiến I (1914-1918) đã kéo dài 3 năm, và Bồ lâm vào tình trạng bi đát như những nước khác.

Năm đó, cả Âu-châu lâm vào tình trạng khan hiếm hàng hóa, thất nghiệp nặng nề, phong trào chống đối giáo hội bùng nổ, và giặc giã, chiến tranh, chết chóc là tai ương con người phải đối diện hàng ngày.

Bồ-đào-nha không những rơi vào tình trạng hỗn mang chung mà còn bị sự chống đối của dân chúng vì tham gia Thế Chiến I.

Chính phủ Bồ bắt tay với Pháp chống Đức một phần ảnh hưởng luồng gió dân chủ từ cuộc cách mạng Pháp 1789, cũng như trào lưu dân chủ hóa lan rộng khắp Âu-châu; nhưng quan trọng nhất là chống chủ nghĩa bành trướng Đức để bảo vệ những nước thuộc địa của Bồ ở Phi-châu.Vũ khí thô sơ và quân đội thiếu huấn luyện dẫn đến sự thảm bại tại La Lys vì không sao đương đầu với đội quân Đức được trang bị với vũ khí tân tiến và thuần thục.

Trận chiến La Lys, còn gọi là Chiến dịch Georgette, quân đội Bồ bị 4 sư đoàn Đức đánh bại; kết quả là 7425 lính Bồ bị thảm sát.

Những người lính sống sót lếch thếch trở về quê hương với những câu chuyện thương tâm đầy kinh hoàng của cuộc chiến khiến lòng dân càng thêm lo âu và tuyệt vọng.Sự hỗn loạn nội bộ bắt đầu từ đầu thế kỷ 20.

Những thế lực bảo vệ Bồ từ trước như hoàng gia, quân đội, cựu quý tộc, và ngay cả Giáo hội La-mã... tất cả đều bị chống đối và bị kết án.

Lòng dân sôi sục và âm ỉ mãi đến năm 1910 thì vua Manuel bị lật đổ, mở đường cho sự thành lập nền cộng hòa đầu tiên của Bồ.

Ngay sau khi nắm quyền lực, chính quyền cộng hòa (First Republic) bắt đầu mở chiến dịch chống đối Giáo hội Công giáo một cách công khai.

Việc đầu tiên Thủ tướng Afonso Costa ra lệnh là tách rời giáo hội ra khỏi chính phủ, và đặt giáo hội dưới quyền kiểm soát của chính phủ.

Chương trình thần học tại Đại học Coimbra phải chấm dứt, các chủng viện bị đóng cửa, những ngày lễ quốc gia trùng với lễ lớn của giáo hội trước đây cũng bị bãi bỏ.

Afonso Costa dấy lên một phong trào chống giáo hội, cổ võ chủ nghĩa vô thần.

Một nhân vật trong chính quyền Costa tự hào khoe, "chỉ cần 2 thế hệ, đạo Công giáo sẽ bị tiêu diệt trên đất Bồ."

Bồ rơi vào một tình trạng tuột dốc về kinh tế và sa sút nghiêm trọng về tâm linh.Trong giai đoạn hỗn mang đó, Đức Mẹ đã chọn Fatima, và chọn 3 em Lucia, Phanxicô, và Jacinta để rao truyền sứ điệp của Mẹ.Đó là ngày 13/5/1917, Đức Mẹ hiện ra lần đầu với 3 trẻ trên ngọn đồi gần Cova de Iria, và liên tiếp hiện ra 5 lần nữa, kéo dài mãi đến ngày 13/10/1917 mới chấm dứt bằng phép lạ "mặt trời nhảy múa."

Sứ điệp Mẹ luôn nhắc nhở là "ăn năn, cầu nguyện, và năng lần hạt Mân Côi" để đền tội cho chính mình và những người khác.

Đó là sứ điệp chung mà bất cứ lần hiện ra nào Đức Mẹ đều khuyên răn.

Nhưng tại Fatima, vào ngày 13 tháng 7 năm 1917, Đức Mẹ tiết lộ thêm ba bí mật và những bí mật này đã ảnh hưởng đến sự sống còn của nhân loại, đặc biệt trong thế kỷ 20.Bí Mật thứ nhất là giải thích về những hậu quả về tội lỗi con người phạm.

Đức Mẹ cho 3 trẻ thị kiến Hỏa Ngục, mà sau này chị Lucia mô tả là, "Ðức Mẹ cho chúng con thấy một biển lửa lớn dường như ở dưới mặt đất.

Nhào lặn trong biển lửa này là các quỉ dữ và các linh hồn mang hình dạng con người, giống như những cục than hồng đang cháy trong suốt, tất cả đều đen đủi hay mầu đồng đánh bóng, đang vật vờ trôi nổi giữa vùng hỏa hoạn, lúc thì bị tung lên không trung do những ngọn lửa hồng phát ra tự chính bản thân họ cùng với những đám khói khổng lồ, lúc thì té xuống tứ phía như những đốm lửa trong một biển lửa vĩ đại, không trọng lượng cũng chẳng thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên siết của đau đớn và tuyệt vọng làm chúng con kinh hoàng và khiến chúng con run rẩy vì sợ hãi.

Quỉ dữ có thể phân biệt ra được vì hình thù chúng gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiếp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen thui và trong suốt."

Ðức Mẹ cũng loan báo trước là Thế Chiến II sẽ xảy ra, "...chiến tranh sắp chấm dứt (ý nói Thế Chiến I), nhưng nếu người ta không thôi xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến khốc liệt hơn sẽ bùng nổ trong đời Đức Piô XI."

Biến cố nầy được loan báo trước bởi dấu hiệu "một đêm tối có chiếu tỏa một ánh sáng lạ", mà sau nầy được hiểu như ám chỉ đêm 24 sáng 25 tháng giêng năm 1938, khoảng 1 tháng trước khi Áo Quốc bị Quân Ðội Ðức Quốc Xã xâm chiếm.Bí Mật thứ hai là điều mà Ðức Mẹ Fatima yêu cầu phải làm để tránh những sự dữ nầy.

Nữ Tu Lucia giải thích là Ðức Mẹ muốn dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, và những người công giáo rước lễ mỗi ngày thứ bảy.

"Nếu người ta vâng nghe những yêu cầu của Ta, thì nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình.

Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc những lầm lạc của mình khắp nơi, khơi dậy chiến tranh và bách hại chống Giáo Hội... và Ðức Thánh Cha sẽ phải chịu nhiều đau khổ và nhiều quốc gia sẽ bị hủy diệt.

Nhưng cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ thắng."

Bí mật thứ ba liên quan đến Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mà chúng ta không đề cập trong khuôn khổ của bài viết này.

Trọng tâm của bài viết này là BÍ MẬT THỨ HAI mà Mẹ Maria tiết lộ với chị Lucia như trên, và chị thuật lại trong cuốn hồi ký sau này.

Tháng 7 năm 2017, khi Đức Mẹ nói với chị về bí mật thứ hai, Lucia mới 10 tuổi đầu, và với đầu óc non nớt, Lucia cứ ngỡ "Russia" là tên một phụ nữ xấu xa nào đó mà Đức Mẹ nhờ chị cầu nguyện.Đức Mẹ báo trước cuộc cách mạng vô thần sắp bùng nổ tại Nga.Lần hiện ra cuối cùng vào ngày 13/10/1917 với phép lạ cả thể khiến mặt trời nhảy múa với sự chứng kiến của hơn 70 ngàn người, và không ai ngờ sau đó vài tuần, đảng cộng sản Bolshevik gồm 7 đảng viên đầu não – Lênin, Zinoviev, Kamenev, Trotsky, Stalin, Sokolnikov, và Bubnov – lật đổ chế độ Sa-hoàng dễ dàng.

Sự lầm lạc của nước Nga mà Đức Mẹ hé lộ cho 3 trẻ chính là chủ nghĩa cộng sản vô thần được thiết lập tại Nga và nó bắt đầu gieo rắc thuyết vô thần trên toàn thế giới.2.

FATIMA VÀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢNMỗi khi nghĩ đến bí mật thứ hai Đức Mẹ tiết lộ, tôi không khỏi bàng hoàng, nhất là sau ngày 30/4, khi cả miền Nam bị nhuộm đỏ bằng chủ nghĩa vô thần.

Cả một lời khuyến cáo rõ ràng đến thế mà hầu như nhân loại quay lưng lại lời khẩn cầu dâng hiến nước Nga cho Trái Tim Mẹ.

Không riêng gì tôi, mà rất nhiều người công giáo khác, chẳng quan tâm gì đến một sự thật kinh hoàng về một chủ nghĩa lầm lạc của nước Nga.

Mãi sau này, khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ toàn diện – từ tư tưởng đến vật chất – tôi mới thật sự thấm thía lời nói của Đức Trinh Nữ Maria.Vào tháng 7/2017, Nga vẫn còn theo chế độ quân chủ như bao quốc gia khác tại Âu châu.

Thế giới chưa hề biết đến chủ nghĩa cộng sản vì lẽ chưa một nước nào áp dụng thể chế này cả.

Đúng ra, Marx (ông tổ chủ nghĩa vô thần) đã viết Tuyên ngôn Cộng sản (Communist Manifesto) vào năm 1848, với khẩu hiệu, "Vô sản các nước, đoàn kết lại."

Riêng chương II (Vô sản & Cộng sản), Marx nhấn mạnh, "Chủ nghĩa cộng sản bãi bỏ các chân lý vĩnh cửu, bãi bỏ mọi tôn giáo, và tất cả đạo đức."

Bản tuyên ngôn nhấn mạnh vào sự phủ nhận tôn giáo, chân lý, và đạo đức.

Trong luận án tiến sĩ triết học (1841), Marx hết lòng ca ngợi Prometheus, một nhân vật trong thần thoại Hy-lạp với câu nói bất hủ: "Tôi ghét tất cả thần thánh."

Mark muốn đảo lộn trật tự xã hội vốn lấy niềm tin tôn giáo làm gốc.Ta có thể nói thẳng rằng, lõi cốt của chủ nghĩa cộng sản là cổ võ bạo lực đấu tranh và triệt bỏ tôn giáo; một trong ba chủ trương tam vô của cộng sản: vô gia đình, vô tổ quốc, và vô tôn giáo.

Marx xem tôn giáo như một loại thuốc phiện, có tác dụng ru ngủ quần chúng, làm bạc nhược tâm trí và thể xác, mất nhuệ khí đấu tranh.

Theo Marx, xã hội luôn có mâu thuẫn nội tại và chính mâu thuẫn này tạo ra sự đấu tranh để tiến đến một xã hội khác hoàn thiện hơn.

Tôn giáo tin vào đời sau, và xem cuộc sống tại trần gian này chỉ là tạm bợ.

Với niềm tin vào đời sau, quần chúng sẽ ù lì, không chịu đấu tranh, chỉ vì không ai muốn xả thân cho một xã hội tạm bợ ở trần gian.

Marx cho rằng phải xây dựng một xã hội không còn giai cấp, trong đó mọi người làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu.

Một thiên đường hạ giới (utopia), và xã hội cộng sản chính là đích điểm, là một xã hội mẫu mực và hoàn thiện của nhân loại.

Với Marx, thiên đàng không phải ở đời sau, thiên đàng ở ngay chính cuộc đời này.Nhưng nội dung bản Tuyên ngôn Cộng sản, gồm 4 chương và gần 12 nghìn chữ, chính thức tuyên chiến với chủ nghĩa tư bản với những lời lẽ kích động đấu tranh, đầy dẫy hận thù cũng chỉ là một mớ lý thuyết, ít người biết đến.

Giới trí thức truyền miệng nhau về một tư tưởng duy vật, còn giới trung lưu, và đám dân đen thì hoàn toàn mù tịt.

Thế mà mấy mươi năm sau chủ nghĩa vô thần này lại được giới lao động ở các nước nghèo nhiệt tình ủng hộ.Đó là nhờ công của Lênin, một triết gia Nga, một người ghét Thiên chúa giáo cùng cực mặc dù cha mẹ ông là người sùng đạo.

Lênin có lần khoe trước các đồng chí của ông rằng thời niên thiếu, ông đã bứt đứt cây thánh giá treo ở cổ và ném vào đống rác.

Lá thư Lênin gửi cho Maxim Gorki vào tháng 11/1913 càng thấy rõ sự thù ghét tôn giáo (đến khó hiểu) của ông, "Bất kỳ ý tưởng tôn giáo nào, bất kỳ ý tưởng liên quan đến bất cứ Thượng đế nào, ngay cả chỉ cần một ý tưởng thoáng qua dính líu đến Thiên Chúa thôi đã là sự ô nhục khủng khiếp nhất... một ô nhục nguy hiểm nhất, một loại nhiễm trùng đáng xấu hổ nhất."

Theo học giả James Thrower, nhiễm trùng vào thời đó được hiểu là bệnh phong tình.Lênin lấy duy vật biện chứng của Marx-Engel làm bàn đạp, trộn thêm sức mạnh của bạo lực, và đem áp dụng chủ nghĩa vô thần tại nước Nga sau ngày cách mạng 24/10/1917 (lịch Julian) thành công.

Đảng Bolshevik của Lênin nắm toàn quyền vận mệnh của gần 185 triệu dân.

Nga là quốc gia đầu tiên theo chủ thuyết vô thần và Lênin bắt đầu kế hoạch tiêu diệt tôn giáo một cách có hệ thống, tinh vi và dã man nhất trong lịch sử nhân loại.Vừa nắm chính quyền, đảng vô thần Bolshevik trưng thu tất cả tài sản của Giáo hội Chính thống Nga bao gồm đất đai, nhà cửa, văn phòng, tu viện, trường học... tài sản mà Giáo hội giữ gìn qua nhiều thế kỷ.

Nhà thờ Tổng lãnh Thiên thần Micae, ngôi nhà thờ cổ đẹp nguy nga lộng lẫy nằm chếch phía tây nam Moscow, bị tịch thu làm vựa chứa nông phẩm.

Khoảng 657 ngôi nhà thờ tại Moscow duy trì việc phụng tự ngay trước cuộc cách mạng 1917, theo thống kê của nhà nước cộng sản, chỉ còn 100 đến 150 nhà thờ mở cửa vào năm 1976 (trong số đó chỉ còn 46 nhà thờ có giáo dân), số còn lại bị nhà nước phá hủy, san bằng, hoặc bị tịch thu.

Giáo hội Chính thống Nga bị bách hại nặng nề; với hơn 40 nghìn nhà thờ và 150 nghìn linh mục, giám mục, thầy dòng, viện phụ... thế mà trong vài năm đầu tiên, Lênin ra lệnh bắn chết khoảng 14 đến 20 nghìn vị tư tế, và những tu sĩ nào tỏ thái độ chống đối đều bị gửi đi trại trừng giới Siberia với án lao động khổ sai và chết dần chết mòn ở đó; riêng các nữ tu đều bị nhốt chung với thành phần đĩ điếm một cách cố ý.

Mục sư Richard Wurmbrand – người bị giam giữ nhiều năm trong nhà tù Romania – điều trần trước Thượng viện Hoa kỳ năm 1966, "Kinh thánh nói đến hỏa ngục, những vần thơ của Dante cũng miêu tả sự đau đớn của tội nhân trong hỏa ngục... xem ra chẳng thấm thía gì so với sự tra tấn và hành hạ dã man trong nhà tù cộng sản đối với các tù nhân tôn giáo."

Lênin ban hành nhiều điều luật khác, như cấm học kinh, học bổn đối với thanh thiếu niên, và trẻ em được dạy phải tố cáo cha mẹ nếu nghe nói bất cứ điều gì liên quan đến tôn giáo; cấm rửa tội, cấm làm lễ cưới, cấm cử hành tang lễ.

Riêng Giáo hội Công giáo thì hoàn toàn bị tiêu diệt.

Theo học giả Gerhard Simon, tính đến thập niên 70, đạo Công giáo tại Nga không còn một tu viện, nhà dòng, trường học, hoặc cơ sở từ thiện nào.Chủ nghĩa cộng sản bắt bớ, trấn áp, tù đày, và giết chết các chức sắc trong mọi giáo hội, bất kể tôn giáo nào: Tin lành, Thệ phản, Công giáo, Do-thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo.

Bất cứ lãnh tụ cộng sản nào – Joseph Stalin, Fidel Castro, Mao Tse-tung, Hồ chí Minh, Pol Pot – đều đặt chính sách triệt tiêu tôn giáo lên hàng đầu, như Mao có lần nói với Đức Lạtma, "Tôn giáo là thuốc độc."

Nhà nước cộng sản luôn xem tôn giáo là kẻ thù hàng đầu và tìm mọi cách để tiêu diệt.Tính đến năm 1980, chủ nghĩa cộng sản vô thần lan rộng khắp bốn châu (trừ Úc châu) như trận cuồng phong thổi bật tận gốc rễ mọi giá trị tôn giáo.

Khối cộng sản vô thần chiếm 1.5 tỉ dân, hơn 1/3 dân số trên thế giới vào thời điểm đó, gồm các nước thuộc khối Sô-viết ở Âu châu; các nước Đông dương (Việt nam, Cambodia, Lào), Afgannistan, Bắc Hàn, Mongolia, và Trung cộng thuộc Á châu; các nước Cuba, El Salvador, Nicaragua, Honduras, Guatemala, Grenada, Yemen thuộc Trung, Nam Mỹ châu; và các nước Ethiopia, Angola, Benin, Mozambique, Somalia, Congo thuộc Phi châu.

Nga sản xuất chủ nghĩa vô thần sang các nước chậm tiến dưới nhãn hiệu tranh đấu quyền lợi cho người nghèo là một hấp lực khó cưỡng đối với những chính quyền thiển cận, loay hoay không biết đi hướng nào để xây dựng đất nước.

Sau khi miền Nam Việt nam lọt vào tay cộng sản, như một phản ứng dây chuyền, các nước ở châu Phi, và châu Mỹ lần lượt bị nhuộm đỏ.

Thế giới tự do hầu như co rúm lại trước sức mạnh của con rồng đỏ của chủ nghĩa vô thần, và hình như không một thế lực hoặc thần lực nào đủ sức ngăn chặn sức mạnh khủng khiếp của Satan.Thế mà không ai ngờ vào một ngày cuối năm 1991, cả một hệ thống tư tưởng, cả một hệ thống triết học, cả một hệ thống ý thức hệ, cả một cấu trúc xã hội từ hạ tầng đến thượng tầng... lại sụp đổ hoàn toàn.

Chủ nghĩa cộng sản vô thần bị phá sản toàn bộ.

Nếu Lênin lật đổ Sa-hoàng để áp đặt chủ nghĩa vô thần lên nước Nga không tốn một giọt máu thì cuộc cách mạng giải thể toàn bộ chế độ vô thần này cũng chẳng đổ một giọt máu nào, ngoại trừ Rumani.

Nó chết tức tưởi như chưa từng hiện hữu.

Nó tan thành bụi, chẳng gây một âm vang nào.

Nó sụp đổ âm thầm, lặng lẽ, không một tiếng kèn ai oán tiễn đưa đến mộ huyệt, cũng chẳng có một giọt nước mắt tiếc thương nào.

Nếu có, đó là những giọt nước mắt hạnh phúc vì thoát được cơn đại họa, và được hít thở bầu khí tự do, trong đó quyền tự do tôn giáo và các quyền làm người khác được tôn trọng.Tất cả đều nhờ vào sự dâng hiến nước Nga cho Đức Mẹ, theo đúng yêu cầu của Mẹ vào tháng 7 năm 1917.3.

DÂNG HIẾN NƯỚC NGA CHO TRÁI TIM MẸThử điểm lại diễn tiến việc dâng hiến nước Nga cho Mẹ theo đúng lời yêu cầu của Mẹ Maria vào năm 1917, trước khi Nga áp dụng chủ nghĩa cộng sản vô thần.– 13/7/1917: Đức Mẹ yêu cầu yêu cầu phải dâng hiến nước Nga cho Mẹ,– 13/6/1929: chị Lucia chuyển đến một nhà dòng kín khác tại thành phố Tuy, Tây-ban-nha (1926).

Chị mặc áo dòng và khấn lần đầu vào tháng 10, 1928.

Tại đây, Đức Mẹ lại hiện ra với sơ và lập lại lời yêu cầu, "Thời điểm đã đến, Thiên Chúa yêu cầu Đức Thánh Cha hiệp nhất với tất cả các giám mục trên thế giới, thánh hiến nước Nga cho Trái tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ, và Mẹ hứa sẽ cứu vớt nước Nga bằng phương cách này."

Năm 1917, Đức Mẹ chỉ nói chung chung, nhưng tại Tuy, Mẹ nói rõ Thiên Chúa yêu cầu Đức Thánh cha và các Giám mục...

đặt trách nhiệm mưu cầu hòa bình thế giới lên vai Đức Thánh Cha,– 1922-1939: yêu cầu của Mẹ được chuyển lên Đức Piô XI– 1938: hàng Giám mục Bồ xin Đức Thánh cha Piô XI dâng hiến Thế giới cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ,– tháng 6/1940: yêu cầu được chuyển đến Đức Thánh cha Piô XII từ Giám mục Macau, qua linh mục Gonzaga de Fonseca.

Lần yêu cầu này nói rõ dâng hiến nước Nga (không phải Thế giới) cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ,– tháng 12/1940: Chị Lucia viết thư cho Đức Thánh cha Piô XII, trong thư nói Thiên Chúa mong mỏi Ngài "dâng hiến Thế giới cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria, đặc biệt dâng hiến nước Nga, với chỉ thị tất cả giám mục trên toàn thế giới cùng hiệp dâng thánh hiến với Ngài"– 31/10/1942: Đức Thánh cha Piô XII dâng hiến Thế giới cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ,– 7/7/1952: Đức Thánh cha Piô XII dâng hiến nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ, cao điểm của chiến tranh Triều Tiên, nhưng lại không có sự tham gia của các Giám mục,– 21/11/1964: Đức Thánh cha Phaolô VI lập lại lời Thánh hiến, với sự hiện diện của các Nghị phụ nhưng các ngài không tham gia việc thánh hiến, dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ,– 13/5/1982: Đức Thánh cha Gioan Phaolô II mời tất cả các Giám mục trên khắp năm châu hiệp nhất với Ngài dâng hiến thế giới và nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ.

Khá nhiều Giám mục không nhận được lời yêu cầu hiệp nhất khi Ngài viếng Fatima thực hiện việc dâng hiến.

Sau đó sơ Lucia cho biết việc dâng hiến không thành vì không làm đúng theo yêu cầu của Mẹ Maria,– 10/1983: Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, tại Hội nghị Giám mục, lập lại lời Thánh hiến,– 25/3/1984: tại công trường Thánh Phêrô, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II, "hiệp nhất với tất cả các giáo xứ trong Giáo hội với sự liên kết đặc thù trong một thân thể và một đoàn thể," dâng hiến "toàn thế giới, đặc biệt những kẻ đang ở trong tình trạng khiến Mẹ động lòng thương xót."

Cả Đức Thánh cha và sơ Lucia không chắc chắn việc thánh hiến được làm đúng theo yêu cầu không, nhưng chẳng bao lâu sau đó sơ báo cho tòa Khâm sứ tại Bồ biết rằng việc Thánh hiến đã hoàn thành đúng theo đúng yêu cầu,– 13/5/1984: một trong những dịp khách hành hương đổ về Fatima đông đảo nhất để cầu nguyện cho hòa bình,– 13/5/1984: cùng một ngày, kho đạn tại vùng ngoại ô Severomorsk thuộc căn cứ Hải quân Nga, đột ngột bốc cháy và phát nổ, tiêu hủy 900 hỏa tiễn và thủy lôi, khoảng 2/3 đạn dược dự trữ của hạm đội Northern.

Vụ nổ tiêu hủy các cơ sở bảo trì hỏa tiễn, đồng thời giết chết hàng trăm khoa học gia và nhân viên,– tháng 12/1984: Bộ trưởng Quốc phòng Sôviết, Thống chế Dmitri F.

Ustinov, bộ não của kế hoạch tấn công miền Tây Âu, đột ngột chết.

Cái chết của ông chứa nhiều bí ẩn,– 10/3/1985: Tổng bí thư (TBT) Konstantin Chernenko chết,– 11/3/1985: Mikhail Gorbachev nhậm chức Tổng bí thư,– 26/4/1986: lò nguyên tử Chernobyl phát nổ,– 12/5/1988: vụ nổ phá hủy cơ sở duy nhất chế tạo động cơ vận chuyển hỏa tiễn hủy diệt tầm xa SS-20 (Nga là nước vô thần nhưng lại đặt tên cho hỏa tiễn này là Satan); một hỏa tiễn có thể mang theo 10 đầu đạn nguyên tử,– 29/8/1989: sơ Lucia xác quyết qua thư từ rằng việc dâng hiến đã hoàn tất, và "Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa,"– 9/11/1989: bức tường Bá linh sụp đổ,– tháng 11 và 12/1989: cuộc cách mạng ôn hòa – bãi bỏ chủ nghĩa cộng sản vô thần – xảy ra tại Czechoslovakia, Romania, Bulgaria, và Albania,– 1990: Đông và Tây Đức thống nhất– 25/12/1991: giải thể Cộng hòa Liên bang Sô-viết, sau gần ba phần tư thế kỷ gieo rắc sự lầm lạc.Nhìn lại diễn tiến của việc Thánh hiến nước Nga – nơi phát xuất chủ nghĩa vô thần – ai cũng ngạc nhiên tại sao một yêu cầu của Mẹ Maria phải đợi đến gần 70 năm sau mới thực thiện một cách đúng đắn.

Theo thiển ý, đó là vì (1) tầm vóc rộng lớn của sự hiệp thông, cần tất cả các giám mục trên toàn thế giới một lòng hiệp ý cầu nguyện; (2) sự lẫn lộn giữa việc dâng hiến Thế Giới và dâng hiến nước Nga; (3) một vài cản trở tế nhị khi dâng hiến nước Nga.Nhưng câu hỏi quan trọng nhất vẫn là, "tại sao chị Lucia phải đợi đến năm 1941 mới tiết lộ hai bí mật qua cuốn hồi ký do chính tay chị viết?"; trong đó bí mật thứ hai nói rõ yêu cầu của Mẹ Maria dâng hiến nước Nga cho Trái tim Mẹ.Đúng ra – sau khi Đức Mẹ và Chúa Giêsu hiện ra với riêng chị (theo hồi ký của chị) trong tu viện năm 1925, với trái tim Mẹ rướm máu vì hai vòng gai quấn quanh và than thở về sự đau khổ của Mẹ phải gánh chịu vì sự vô ơn bạc nghĩa của loài người – chị bắt đầu thôi thúc mọi người làm việc đền tạ bằng cách xưng tội, rước lễ, lần chuỗi, tham dự thánh lễ, và suy niệm 15 phút trong 5 thứ Bảy liên tiếp.

Ngay sau khi nghe Mẹ than thở, chị thổ lộ ngay cha linh hướng Lino và Mẹ Bề trên Maria das Dores Magalhaes.

Lần đó, chị chẳng nói gì đến việc dâng hiến nước Nga cho Đức Trinh nữ và phải đợi đến năm 1929, lúc ở dòng kín tại Tuy, chị mới thật sự nhắc đến sự dâng hiến.Những bí mật này chị Lucia đã biết từ năm 10 tuổi, vào ngày 13/7/1917 nhưng lại giữ kín cho đến năm 1929 mới thổ lộ lần đầu.

Một sự thật là Lucia mù chữ, mặc dù bà mẹ Maria Rosa biết đọc nhưng lại không dạy chữ cho con cái, nên chị phải mất thời gian để học đọc và viết.

Hơn nữa, hiện tượng Fatima vẫn còn xôn xao, chưa được Giáo hội thừa nhận.

Chị Lucia chỉ là một nữ tu bình thường, chẳng là gì để Vatican chú ý đến.

Mãi đến năm 1930, sau khi Giáo hội nhìn nhận hiện tượng Fatima, yêu cầu của Mẹ Maria (qua chị) mới được các chức sắc trong Tòa thánh lắng nghe.

Theo linh mục Luigi Bianchi, người may mắn được tiếp xúc với chị Lucia năm 2001, chữ "thánh hiến, consecration" bị hiểu lầm như lúc linh mục đọc lời nguyện hóa bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh Chúa trong thánh lễ, và điều này chỉ dành riêng cho Đức Giêsu dâng hiến lên Đức Chúa Cha mà thôi.

Theo tín lý, Giáo hội kính Đức Mẹ chứ không thể thánh hiến lên Mẹ một điều gì.

Cũng theo linh mục Bianchi, mãi đến năm 1931 này khi chị Lucia thêm lời khuyến cáo của Đức Giêsu, "...nếu không hoàn thành việc thánh hiến, nhân loại sẽ hối tiếc như trường hợp của Vua nước Pháp."

Lời khuyến cáo nghiêm trọng làm Vatican nghĩ đến vua Louis XVI, thất bại trong việc dâng hiến nước Pháp cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, bị cuộc Cách mạng Pháp lật đổ và bị xử trảm năm 1793.Lần hiện ra trong tu viện tại Tuy năm 1929, Đức Mẹ gọi đích danh Đức Thánh cha và tất cả các Giám mục trên thế giới cho việc thánh hiến.

Ngay sau khi nhận được mệnh lệnh này, sơ Lucia báo tin ngay cho cha linh hướng Bernardo Goncalves.

Linh mục Goncalves báo lên Giám mục địa phận Leiria, và ngài tìm cách chuyển lên Vatican.

Năm tháng trôi qua, lời yêu cầu của Mẹ Maria chẳng một ai đoái hoài.

Đến năm 1935, chị Lucia lại yêu cầu linh mục Goncalves chuyển lời của Mẹ một lần nữa, nhưng cũng chìm vào quên lãng.

Một phần do hệ thống hành chánh Vatican rườm rà, phần nữa do các chức sắc tại Tòa thánh xem việc dâng hiến không bức thiết lắm vì nước Nga vào những năm đó vẫn còn ẩn mình trong bóng tối, các tội ác chưa được phơi bày, và chủ nghĩa vô thần hầu như nằm yên tại nước Nga, chưa lan truyền sang các nước lân cận.

Cả một thời gian dài trong thời Đức Piô XI (1922-1939), việc dâng hiến chưa bao giờ được lưu ý đến.

Mãi đến năm 1940 khi chị Lucia viết thư gửi thẳng cho Đức Piô XII (1939-1958) nói rõ yêu cầu của Đức Trinh nữ Maria, Vatican thực sự mới chú ý đến việc dâng hiến.Cuối cùng, ngày 31/10/1942 – giữa lúc cao điểm của Thế Chiến II – việc dâng hiến nước Nga mới được thực hiện lần đầu tiên.Sau hơn 25 năm (1917-1942) kể từ khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Vatican mới cảm nhận được sự bức thiết của việc dâng hiến.

Có lẽ vì vậy mà Đức Piô XII lại dâng hiến thế giới thêm một lần nữa vào ngày lễ kính Mẹ Vô Nhiễm Thai, 8 tháng 12, cùng năm.

Hai lần dâng hiến chỉ cách nhau hơn tháng.Nhưng điểm trớ trêu là cả hai lần dâng hiến, Đức Thánh cha lại dâng hiến thế giới chứ không dâng hiến nước Nga.

Một phần cũng vì Nga đang là đồng minh chống Phát-xít mà Vatican không muốn gọi đích danh, gần như sợ mích lòng.

Một điểm đáng ghi nhận là vì Đức Thánh cha dâng hiến thế giới nên Đức Mẹ báo cho chị Lucia biết là Thiên Chúa sẽ rút ngắn thời gian chiến tranh.

Trong hồi ký chiến tranh gồm 6 tập (Memoirs of the Second World War, đoạt giải Nobel 1953) của Thủ tướng Winston Churchill, ông kể lại ngay từ đầu năm 1943 (gần như ngay sau khi Đức Thánh cha dâng hiến), trận chiến nghiêng hẳn về quân đội đồng minh, thắng Phát-xít hầu hết các trận đánh; trong khi từ 1940-1942, phe đồng minh lại thua hầu hết các trận chiến trên khắp các chiến trường.Tháng 7 năm 1946, giáo sư William Thomas Walsh, nhà sử học kiêm học giả, xuất bản cuốn Our Lady of Fatima, trong đó ông thuật lại cuộc phỏng vấn với chị Lucia.

Ông viết, "chị Lucia khẳng định thêm một lần nữa là Mẹ Maria yêu cầu Đức Thánh cha và các Giám mục trên toàn thế giới dâng hiến nước Nga cho Mẹ."

Nhưng việc thánh hiến lại gặp một trở ngại khác, nặng nề hơn.Đó là cuộc triệu họp của Công đồng Vatican II.Khi Đức Giáo hoàng Gioan XXIII kế vị, ngài mong muốn cải cách nên kêu gọi họp Công đồng Vatican II.

Để mời cho được 2 quan sát viên thuộc Giáo hội Chính thống Nga, Vatican chính thức đồng ý không được kết án Sôviết Nga hoặc chủ nghĩa cộng sản trong suốt thời gian họp Công đồng.

Từ đó Vatican (cụ thể là GH Gioan XXII và Phaolô VI) đề ra chính sách "Ostpolitik; chính sách Đông phương," nghĩa là không được gọi đích danh nước Nga để chỉ trích, phản đối chế độ vô thần bách hại giáo dân.

Vì thế, việc dâng hiến nước Nga, kêu đích danh nước Nga, lại càng tế nhị hơn.

Một kiểu "political correctness" thời bấy giờ.

Hậu quả là suốt 2 thập niên (1960-1980), việc dâng hiến nước Nga trở nên thứ yếu, không đáng quan tâm.

Mãi đến khi Hồng y Karol Józef Wojtyła, đến từ nước cộng sản Ba Lan, nhậm chức Giáo hoàng với danh hiệu Gioan Phaolô II, việc thánh hiến nước Nga mới được khơi mào sống dậy.Đức Thánh cha Gioan Phaolô II bị ám sát vào ngày 13/5/1981, trùng với ngày Mẹ Maria hiện ra tại Fatima 64 năm trước.

Đúng một năm sau, 13/5/1982, Đức Thánh cha viếng thánh địa Fatima, tạ ơn Đức Mẹ đã cứu sống Ngài, đồng thời dâng hiến nước Nga cho Trái tim Mẹ Maria nhưng lại không có sự tham gia của tất cả các Giám mục.

Cho đến ngày 25/3/1984, Đức Thánh cha Gioan Phaolô II mới thực hiện việc thánh hiến nước Nga, cùng với các Giám mục trên toàn thế giới một cách đúng đắn.

Tuy vậy, trong lời nguyện Ngài cũng chẳng dám gọi đích danh Sôviết Nga, mà chỉ nói khéo "đặc biệt những kẻ đang ở trong tình trạng khiến Mẹ động lòng thương xót," chính vì ảnh hưởng của chính sách Đông phương của Vatican.Dù sao đi nữa, lời cầu nguyện của Đức Thánh cha và các Giám mục đã được Mẹ nhậm lời và khối cộng sản vô thần Nga bị giải thể vào năm 1991, sau gần ¾ thế kỷ hoành hành và gieo rắc sự lầm lạc trên toàn thế giới.

Đây là niềm tin vào lời hứa của Mẹ Maria, nhưng Thiên Chúa vẫn dùng bàn tay con người để đi đến mục đích tối hậu.

Bàn tay con người góp sức vào việc giải thể chế độ cộng sản thế nào, chúng ta đi vào chi tiết sau.Tác giả SƠN NGHỊTài liệu tham khảo😀avid McLellan, Maxism and Religion: A Description and Assessment of theMarxist Critique of Christianity (London, The MacMillan Press LTD, 1987)John de Marchi, I.M.C., The True Story of Fatima (Imprimatur 1947 and 2009)Matthew J.

Ouimet, The Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet Foreign Policy (Chaped Hill and London, The University of North Carolina Press, 2003)George Weigel, Witness To Hope (New York, PerfectBound of HarperCollins Publishers, Inc., 2005)Archie Brown, The Gorbachev Factor (New York, Oxford University Press Inc., 1996)Arcbishop Fulton Sheen, The World's First Love (New York, McGraw-Hill Book Company Inc., 1952)Time Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,974548,00.htmlTime Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,159069,00.htmlSource: https://tuongtri.com/2017/10/08/hien-tuong-fatima-cong-san-va-hoi-giao
 
Sứ Điệp Fatima
Bài 2: HIỆN TƯỢNG FATIMA, CỘNG SẢN, VÀ HỒI GIÁO


LIÊN MINH THÁNH (HOLY ALLIANCE) Trước hết tôi xin nói rõ một điều rằng cám ơn quý vị đã theo dõi bài viết này cho đến hàng chữ này.

Nội dung của mục trên, phần lớn đều liên quan đến đạo Công giáo, và nếu không phải là giáo dân Công giáo, có lẽ quý vị cũng thấy lạ lẫm và tò mò đọc, và có lẽ vẫn bán tín bán nghi.

Riêng phần (b) này lại hoàn toàn mang tính chất lịch sử.

Nếu quý vị nghi ngờ ở phần trên, xin quý vị kiên nhẫn ở phần này để hiểu rõ thêm một sự kiện vĩ đại xảy ra vào đầu thế kỷ 20 – hiện tượng Đức Mẹ hiện ra tại Fatima.

Và một sự kiện khác, xảy ra vào gần cuối thế kỷ 20, là kết quả của lời tiên báo của Đức Mẹ tại Fatima.

Tôi xin giới thiệu 2 cuốn sách để quý vị tham khảo thêm:A Pope and The President, John Paul II, Ronald Reagan, and the Extraordinary Untold Story of the 20th Century, xuất bản 2017 của Giáo sư Tiến sĩ Paul Kengor.Revolution 1989, xuất bản 2009 của nhà báo và nhà sử học Victor Sebestyen.Bây giờ mời quý vị theo dõi hiện tượng Fatima kết thúc ngoạn mục thế nào.Triết gia Thomas Carlyle nói, "Không có người đàn ông vĩ đại nào sống vô ích.

Lịch sử của thế giới chỉ là tiểu sử của những người đàn ông vĩ đại."

Thế kỷ thứ 19, thời đại ông sống, đã sản sinh nhiều nhân vật vĩ đại, và bước sang thế kỷ 20 câu nói này lại rơi đúng trường hợp của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, vị Giáo hòang thứ 264 của Giáo hội La mã và Tổng thống thứ 40 của Hợp chủng quốc Hoa kỳ, Ronald Reagan.Tiến trình phong thánh cho Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II kéo dài chưa đến 10 năm (2005-2014) nhờ 2 phép lạ nhãn tiền – sơ Marie Simon Pierre và giáo dân Floribeth Mora Diaz được khỏi bệnh nan y bất ngờ – nhưng hai phép lạ này không thể so sánh với một phép lạ vĩ đại khác khi ngài còn sinh tiền: chiến thắng "đế quốc ma quỷ" và phục hồi tự do cho hàng triệu người bị cầm tù dã man sau Bức Màn Sắt, kể cả những tù nhân lương tâm trên quê hương Ba Lan của Ngài.Ronald Reagan và Giáo hoàng Gioan Phaolô II là những người cùng thời.

Reagan sinh năm 1911, và Giáo hoàng Gioan Phaolô II sinh năm 1920.

Cả hai đều lớn lên trong nghèo khổ, không biết nhau, nhưng cuối cùng lại là hai người đàn ông vĩ đại nhất của thế kỷ 20.

Cả hai đều có nụ cười thu phục nhân tâm và nhân cách bất khuất.

Cả hai đều ghê tởm chiến tranh hạt nhân.

Cả hai đều khinh ghét chủ nghĩa cộng sản và Liên bang Sôviết.

Cả hai đều bị ám sát nhưng vẫn sống sót và cả hai đều tha thứ cho kẻ chủ mưu giết họ.

Họ cũng là những vận động viên trung học, và cả hai đều là diễn viên trước khi trở thành những nhân vật quan trọng nhất trên diễn đàn thế giới.Bài giảng trong thánh lễ nhậm chức giáo hoàng ngày 22/10/1978, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói rõ cái nhìn dứt khoát của ngài đối với thế giới cộng sản, đặc biệt Liên bang Sôviết: "Đừng sợ!

Hãy mở cửa cho Đức Giêsu, hãy mở toang cửa ra!

Mở rộng biên giới các quốc gia, hệ thống kinh tế và chính trị, lãnh vực bao la của văn hoá, văn minh và phát triển – hãy mở ra cho sức mạnh cứu độ của Ngài." (tất cả các nước cộng sản dùng chính sách đóng cửa, "bế môn tỏa cảng," bưng bít người dân; chú thích của người viết.) Hai chữ "Đừng sợ!" như một thôi thúc, khuyến khích, cổ võ và sau này trở thành một khẩu hiệu nổi tiếng của ngài.

Còn Ronald Reagan thì tất nhiên, ông chống chủ nghĩa cộng sản từ lúc chưa làm nên sự nghiệp.

Đầu thập niên 60, Reagan từ bỏ điện ảnh, nhảy vào lãnh vực chính trị vì ông không thể ngồi nhìn chủ nghĩa cộng sản bành trướng khắp năm châu.

Reagan thẳng thắn chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa kỳ dưới thời TT Richard Nixon and Gerald Ford.

Theo ông, chính sách mềm dẻo này chỉ làm lợi cho cộng sản, giúp Sôviết càng siết chặt vòng kim cô quanh cổ những người dân thuộc khối Đông Âu.

Tháng 3/1975, trước khi mãn nhiệm kỳ hai của thống đốc tiểu bang California, ông nói với các cử tri, "Chế độ cộng sản toàn trị là kẻ thù tuyệt đối của tự do con người."

Hai tháng sau, ông gọi cộng sản là "ma quỷ," "tồi bại," "một căn bệnh."

Ông nói thêm, "Nhân loại đã thoát được nhiều căn bệnh quái dị và những cơn dịch kinh hoàng, liệu có thoát được nạn dịch cộng sản hay không?"

Reagan kết luận, "Chủ nghĩa cộng sản không phải là một hệ thống kinh tế hay chính trị – đó chỉ là một loại điên rồ thời đại."

Lập trường vững chắc và quan niệm đối kháng với chủ nghĩa cộng sản của Reagan một lần nữa được thể hiện trong cuộc vận động bầu cử 1980.

Trên chuyến bay từ Los Angeles đến Detroit, nơi đảng Cộng hòa sẽ đề cử Reagan đại diện đảng ứng cử chức vụ tổng thống, Stuart Spencer – giám đốc ban vận động bầu cử – thắc mắc, "Ông ra tranh cử làm gì?

Ron, tại sao ông muốn làm tổng thống?"

Reagan trả lời ngay, không do dự, "Để chấm dứt Chiến tranh Lạnh."

Spencer ngạc nhiên hỏi gặng, "Ông làm cách nào?"

Reagan điềm tĩnh, "Tôi chưa biết, nhưng chắc chắn phải có cách.

Thời điểm đã chín mùi."

Nhậm chức cách nhau hơn 2 năm, nhưng ngay từ đầu cả hai đồng ý rằng chủ nghĩa cộng sản là một mối đe dọa nhân quyền và sự ổn định toàn cầu, và cần phải đối diện dứt khoát một lần.

Gioan Phaolô II và Reagan rõ ràng ghê tởm chế độ vô thần và liên kết để loại trừ chủ nghĩa cộng sản, nhưng mục tiêu chính của họ có đôi chút khác nhau; Đức Giáo hoàng mong muốn thổi luồng gió dân chủ vào quê hương Ba Lan, còn Reagan biết rõ sự rã rệu từ bên trong của Liên sô và ông sẽ tung cú đấm nốc-ao, hạ đo ván con gấu Siberia.

Cùng nhau, Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Tổng thống Reagan đã đánh bại kẻ thù khủng khiếp nhất đối với tự do và phẩm giá con người.Reagan nhậm chức tổng thống vào ngày 20/1/1981.

Tiền nhiệm của ông, Tổng thống (TT) Jimmy Carter, một người hiền lành và đạo đức.

Với mục đích hòa hoãn với các nước Đông Âu nằm trong quỹ đạo Sôviết, ông giao du và ca tụng những lãnh tụ độc tài như János Kádár của Hungary, Edward Gierek của Ba Lan, và Marshal Tito của Nam tư, Nicolae Ceaucescu của Romania.

Thật ra TT Carter không đủ bản lãnh để đối thoại với những lãnh tụ cộng sản vô thần, chỉ vì ông quá hiền lành, luôn nghĩ bụng người cũng giống bụng mình.

Ông cổ võ hòa bình thế giới nên sẵn lòng bắt tay với Fidel Castro, Ferdinand Marcos, tướng Pakistan Zia ul-Haq, Kim Il Sung, là những kẻ độc tài khác.

Trong 4 năm ông ở Nhà Trắng, cộng sản và hồi giáo lộng hành, thao túng trường quốc tế, lung lạc và lôi kéo Hoa kỳ dễ dàng như người làm xiếc.

Tất cả chỉ vì chính sách quá mềm yếu của TT Carter.

Ngay cả chuyện Liên sô đánh chiếm Afghanistan vào ngày lễ Noel 1979 đã làm TT Carter sững sờ, vì trước đó không lâu, tại cuộc họp thượng đỉnh Geneva ông và Brezhnev gần như ôm nhau hôn thắm thiết.

Brezhnev, hay nói đúng hơn, Liên sô biết khai thác điểm yếu của TT Carter và nội các của ông.

Mẫu người như TT Carter nên ở trong một dòng tu thì đúng hơn.

Chính trị không phải là sở trường của ông.

Steven F.

Hayward – một học giả – nhận định rằng Carter là tổng thống tệ nhất (worst ex-president) trong lịch sử của Hoa kỳ.Hoa kỳ hoàn toàn bị lép vế trong suốt nhiệm kỳ của TT Carter từ 1976-1980.

Trong thời gian này, vào cuối năm 1978, bên trời Âu, Vatican buồn bã một màu tang chế.

Giáo hội Công giáo để tang hai vị Giáo hoàng cách nhau vỏn vẹn chỉ có 33 ngày: Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô I.

Hồng y Albino Luciani được chọn kế vị Giáo hoàng Phaolô VI với danh hiệu Gioan Phaolô.

Hầu như vị giáo hoàng này biết trước số phận của mình.

Trong thời gian tại chức Giáo hoàng, ngài nói với Hồng y Jean Villot, "Phaolô (vị Giáo hoàng tiền nhiệm) đã chọn người kế vị rồi.

Đó là người ngồi ngay trước mặt tôi trong nhà nguyện Sistine."

Hồng y Villot nhớ lại lúc ngồi trong nhà nguyện Sistine để bầu ngôi Giáo hoàng và biết ngay đó là Hồng y Wojtyła, gốc Slavic Ba Lan.

Ngài nói tiếp, "Wojtyła sẽ là Giáo hoàng vì tôi sẽ ra đi."

Đúng như lời tiên đoán, ngài ra đi trong giấc ngủ vì cơn động tim.

Và lời tiên đoán nữa cũng trở thành sự thật, Karol Wojtyła được bầu làm giáo hoàng vào ngày 16/10/1978 với danh hiệu Gioan Phaolô II, và khẩu hiệu "Totus Tuus", nghĩa là "Tất cả cho Mẹ".

Vị Giáo hoàng mới 58 tuổi, gốc Slavic đầu tiên được bầu làm giáo hoàng, trẻ nhất trong hơn một thế kỷ của Vatican.Brezhnev, Tổng bí thư (TBT) Sôviết, khó chịu khi nghe tin này.

Ngay sau khi áp đặt chủ nghĩa vô thần trên đất Ba Lan, Liên sô luôn tìm cách triệt hạ Giáo hội Công giáo bằng mọi cách.

Theo thống kê của KGB (cơ quan mật vụ Nga) năm 1982, 90% dân số Ba Lan là tín đồ công giáo với 26 nghìn linh mục, và hàng năm thanh niên thanh nữ trí thức gia nhập dòng tu để trở thành linh mục ngày càng đông.

Trải qua 3 đời TBT – Stalin, Khrushchev, và Brezhnev – Ba Lan là mục tiêu hàng đầu tiêu diệt tôn giáo của Liên sô.

Hình như sức mạnh tôn giáo giúp giáo dân Ba Lan vượt thoát được nỗi sợ hãi của đe dọa, trấn áp, bắt bớ, và tù đày, thậm chí cái chết.

Riêng Hồng y Wojtyła, mật vụ Ba Lan – con cờ của KGB – suýt truy tố ngài vì 3 bài giảng "phản động", đặc biệt vào những ngày 5/5/1973, 12/5/1973, và 24/11/1974 vi phạm Khoản 194 Bộ luật Hình sự của nhà nước cộng sản.

Bởi vậy, khi nghe tin Hồng y Wojtyła nhậm chức Giáo hoàng, cả hai cơ quan mật vụ của Ba Lan và KGB đều cảm thấy bất an như tảng đá nghìn cân đè nặng lên vai.Giáo hoàng Gioan Phaolô II là người thực hiện nhiều chuyến thăm viếng nhất trong các triều đại giáo hoàng, gồm 129 nước với hơn 1.1 triệu km trong gần 27 năm.

Vào tháng 6/1979, Giáo hoàng Gioan Phaolô II quyết định trở về Ba Lan.

Từ lúc ra đi vào tháng 10/1978 đến Vatican để bầu ngôi giáo hoàng, sau gần 8 tháng, lần đầu tiên ngài trở về quê hương.Báo chí phương Tây trấn an về chuyến đi của Giáo hoàng Gioan Phaolô II rằng một mình vị giáo hoàng không đủ gây ảnh hưởng trên một đất nước vốn nằm trong quỹ đạo của Sôviết lâu năm.

Tờ New York Times, phát hành ngày 5 tháng 6, 1979 nhận định rằng, "chuyến trở về quê hương của Giáo hoàng sẽ làm hồi sinh và khích lệ Giáo hội Công giáo Rôma tại Ba Lan rất nhiều nhưng lại không đe dọa trật tự chính trị của quốc gia này, kể cả khối Đông Âu, (The Polish Pope in Poland)."

Các ký giả tầm cỡ của các tờ báo lớn trên thế giới tin chắc rằng giáo hoàng không thể về nước ngang nhiên kêu gọi lật đổ chính quyền, cho dù đó là chính quyền cộng sản vô thần đối nghịch với Vatican đi chăng nữa.

Đúng, một tu sĩ không thể làm chính trị.

Chiếc áo chùng thâm không thể vấy bạo lực.

Nhưng George Weigel, một học giả về chính trị và xã hội, lại có một nhận định sắc bén khác hẳn, "...chuyến trở về của Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã châm ngòi một cuộc cách mạng lương tâm ở Đông-Trung Âu và giúp khai sinh phong trào Đoàn kết chỉ 14 tháng sau đó, đồng thời ngầm thúc đẩy những cuộc đối kháng dân sự tương tự bùng nổ trong khối Đông-Âu."

Khoảng 13 triệu con dân Ba Lan nườm nượp kéo ra đường để đón tiếp người con trở về.

Trong 9 ngày công du, Đức Gioan Phaolô II gửi ra nhiều thông điệp về phẩm giá con người, về nhân bản, về văn minh nhân loại... tất cả đều dựa trên Thánh kinh, "chìa khóa để hiểu được thực tế lớn lao và căn bản đó chính là con người.

Vì con người không thể hiểu đầy đủ nếu không có Đức Kitô.

Hay đúng hơn, con người không có khả năng tự hiểu mình một cách trọn vẹn nếu không có Đức Kitô.

Con người không thể hiểu mình là ai, cũng chẳng hiểu phẩm giá thực sự của mình là gì, cũng không hiểu ơn gọi của chính mình thế nào, và cũng chẳng hiểu chung cuộc của cuộc đời ra sao.

Con người không hiểu những điều đó nếu không có Đức Kitô."

Ngày Chủ nhật cuối cùng, Đức Gioan Phaolô II cử hành thánh lễ tại Krakow, thu hút 2-3 triệu người tham dự thánh lễ.

Lần đầu tiên ở Ba Lan, một thánh lễ ngoài trời có nhiều giáo dân tham dự đến thế.

Ngài lớn tiếng kêu gọi tự do cho giáo dân Công giáo trên quê hương, và giáo hội phải giữ một vai trò vững chắc để xây dựng tương lai cho Ba Lan.

Giới trẻ – một biển người – cầm thánh giá gỗ đưa lên cao và đồng thanh la lớn, "Chúng tôi cần Thiên Chúa!

Chúng tôi cần Thiên Chúa!"

Nhà cầm quyền Sôviết theo dõi cuộc hành trình 9 ngày của Đức Gioan Phaolô II và cảm thấy lo ngại thật sự.

Bao nhiêu năm nhồi sọ và tẩy não về chủ thuyết vô thần, thế mà chỉ trong một vài ngày, giới trẻ Ba Lan bỗng dưng đổi chiều đặt hết niềm tin vào Thiên Chúa.

Bộ trưởng Ngoại giao Andrei Gromyko lo lắng với nhận xét, "ông giáo hoàng này có ảnh hưởng trên quần chúng giống như đạo trưởng Ayatollah Khomeini với tín đồ Hồi tại Iran."

TBT đảng cộng sản Ukraine, Vladimir Shcherbitsky khẳng định, "phải đẩy mạnh tuyên truyền với phong cách mới lạ và mạnh mẽ nhằm cổ võ chủ nghĩa vô thần tại Liên Xô và các nước xã hội xã hội chủ nghĩa anh em."

Việc đẩy mạnh tuyên truyền chỉ là thứ yếu.

Đảng cộng sản vô thần Liên sô tính toán một nước cờ khác táo bạo hơn, hiểm độc hơn, và có thể làm thay đổi cục diện của cuộc chiến sống mái giữa cái Thiện và cái Ác, giữa hữu thần và vô thần, giữa duy tâm và duy vật.Người ta bảo, trong cái rủi lại có cái may.

Sư may mắn lớn lao liên quan đến vận mệnh của thế giới bắt đầu từ cái rủi.

Sự rủi ro nghiêm trọng bắt đầu vào ngày 30 tháng 3, 1981, TT Reagan vừa đọc diễn văn xong, và ra khỏi Trung tâm Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ (AFL-CIO) thì bị bắn.

Sự kiện xảy ra ngay trước khách sạn Washington Hilton, chỉ cách Nhà Trắng chừng một dặm rưỡi.

Viên đạn .22 (5.6mm) bình thường đã nguy hiểm, nhưng loại đạn này được nhồi thêm chất độc hại, chì và thuốc nổ, mang tên .22 Devastator vì khi va chạm viên đạn sẽ nổ tung thành từng mảnh.

Sáu viên bắn đi với khoảng cách 3 mét nên dễ trúng mục tiêu, và thực tế 4 viên đã bắn trúng vào 4 người là Phát ngôn viên Nhà Trắng James Brady, nhân viên mật vụ Timothy McCarthy, viên cảnh sát Thomas Delahanty, và TT Reagan.

May mắn chỉ một viên đạn Devastator nổ tung trong đầu của Brady, còn 3 viên kia thì không.

May mắn nữa là viên đạn bắn vào cánh cửa rồi mới đâm qua nách (khi TT đưa tay vẫy) xuyên thủng lá phổi của TT Reagan, chỉ cách quả tim vài centimét, và nằm kẹt trong lồng ngực.

Theo nhận xét của bác sĩ giải phẫu Benjamin Aaron, nếu viên đạn đi lệch một chút trúng tim thì không cách gì cứu chữa được, và TT Reagan có thể chết trên đường chở đến bệnh viện.

Sinh và tử chỉ cách nhau vài centimét là thế.John Hinckley Jr., tên sát nhân mắc bệnh tâm thần, si mê và ám ảnh cô đào Jodie Foster, nảy ra ý tưởng điên rồ bắn vị tổng thống thứ 40 của Hoa kỳ để được cô để mắt đến.Một ý tưởng điên rồ khác, xảy ra hơn 6 tuần sau đó, vào buổi chiều ngày thứ Ba 13 tháng 5, 1981, (đúng ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima 64 năm trước, 1917) khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II đứng trên xe chạy quanh Quảng trường Thánh Phêrô để gặp gỡ dân chúng.

Và Ngài cũng bị bắn.







Con chim bồ câu ngậm cành ôliu ngã gục trong tay linh mục thư ký Stanislaw Dziwisz, nét mặt đau đớn.

Ngài chỉ thều thào, "Maria, Mẹ của con!

Maria, Mẹ của con!" rồi ngất lịm.

Máu loang áo chùng trắng.

Bốn viên đạn bắn ra từ nòng súng 9-mm Browning ở một khoảng cách khá gần do tay sát thủ người Thổ, Mehmet Ali Agca, 2 trúng vào bụng, 1 vào cánh tay phải, và 1 vào ngón tay trỏ trái.

Lúc đó vào khoảng 5:19 chiều.Francesco Crucitti, bác sĩ giải phẫu trưởng bệnh viện Gemilli nằm cách Vatican 7km, tiến hành cuộc giải phẩu gần 6 tiếng để gắp viên đạn ra.

Theo ông, viên đạn suýt cắt đứt động mạch ở bụng vị giáo hoàng, chỉ cách 3mm.

Nếu động mạch bị đứt, vị giáo hoàng chắc chắn sẽ chết trên đường chở đến bệnh viện, vì mất máu.

Giáo hoàng Gioan Phaolô II thoát chết trong đường tơ kẽ tóc.Cuộc điều tra của chính quyền Ý tiết lộ, đầu tháng 2/1979 Mehmet Ali Agca đã thụ án sát nhân tại Thổ-nhĩ-kỳ vì bắn chết Abdi Ipekci, chủ bút tờ báo cấp tiến Milliyet.

Vì lời khai nhùng nhằng nên mãi đến tháng 10/1979 tòa án Thổ mới quyết định mở phiên tòa để tuyên án.

Vụ án đang kéo dài thì Agca trốn thoát vào tháng 11/1979.

Hắn cải trang là lính giữ tù nên qua mặt hệ thống an ninh tối đa của nhà tù Kartal-Maltepe.

Trong hơn 1 năm, Ali rong chơi nhiều nơi như Iran, Bulgaria (một nước cộng sản Đông Âu, thuộc khối Sôviết), Thụy sĩ, Đức, và Tunisia.

Gia đình Agca nghèo, thế ai cung cấp tiền để Agca du lịch như một công tử nhà giàu?

Agca đến Rôma vào đầu tháng 5/1981 gặp đồng bọn gồm 3 người, Oral Çelik, người Thổ, và 2 người Bulgaria để tiến hành kế hoạch mưu sát.

Oral Çelik có nhiệm vụ bắn cản đường và cho nổ bom gây rối loạn để Ali tẩu thoát đến tòa đại sứ Bulgaria.

Khi cuộc mưu sát không thành (ngay cả bom cũng không nổ), Oral đào thoát khỏi hiện trường và biến mất không để lại một dấu vết.

Kế hoạch mưu sát nằm dưới sự điều động của Trung tá Zilo Vassilev, một tùy viên quân sự tại Ý.

Agca khai Bekir Celenk, tay mafia người Thổ, ra giá 1.2 triệu Mark để ám sát Giáo hoàng Gioan Phaolô II.

Bekir có liên hệ chặt chẽ với cơ quan mật vụ Bulgaria, cơ quan này lại là bản sao của cơ quan mật vụ Sô viết KGB.

Vì lời khai của Ali bất nhất nên khi ra tòa, 4 công dân Thổ và 3 Bulgaria đều được tha bổng vì không đủ bằng cớ, riêng Oral Çelik thì bị xử khiếm diện.Nhưng William J.

Casey, giám đốc CIA dưới thời TT Reagan lại có đủ bằng cớ để nối các mắt xích lại với nhau, từ Ali đến cơ quan mật vụ Bulgaria, và cuối cùng là Sôviết.

The Time of the Assassins, là công trình điều tra tỉ mỉ trong nhiều năm của nữ ký giả Claire Sterling xuất bản năm 1984, và bà thẳng thắn kết luận, "Mehmet Ali Agca không hành động một mình."

Casey xem xét những sự kiện trông có vẻ rời rạc nhưng dưới lăng kính điệp báo ông cảm thấy chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau.

Vì thế, ngay sau khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát, Casey âm thầm mở cuộc điều tra.

Vì đang lúc cao điểm của Chiến tranh Lạnh, công cuộc điều tra được giữ kín, và chỉ vài nhân vật cao cấp CIA được biết.

Tháng 5/1985, bốn năm sau ngày Giáo hoàng Gioan Phaolô II bị bắn, Casey đã xác nhận riêng với TT Reagan rằng chính cục tình báo trung ương Liên sô (GRU), một cơ quan tương tự như CIA, đã đạo diễn cuộc mưu sát.GRU tức giận nên sắp xếp cuộc mưu sát là điều dễ hiểu.

Ngay từ khi Hồng y Karol Wojtyła nhậm chức giáo hoàng, Liên sô đã không ngủ yên.

Lần trở về quê hương vào tháng 6/1979, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bơm thêm sức mạnh cho dân Ba Lan, đặc biệt đám công nhân tại xưởng đóng tàu Lenin Shipyard, tại Gdansk do Lech Walesa cầm đầu.

Ngày 16/8/1980, 14 tháng sau chuyến viếng thăm lần đầu của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Walesa kêu gọi đình công để đòi hỏi quyền lợi và toàn thể công nhân hưởng ứng.

Sau nhiều ngày thương thuyết, đảng cộng sản Ba Lan cuối cùng phải đáp ứng yêu cầu của công nhân và cho phép lập một công đoàn lấy tên Đoàn kết nhằm bảo vệ quyền lợi của các công nhân.

Một điều không thể nào xảy ra trong đế quốc Sôviết.Đây không phải là cuộc đình công đầu tiên của giới lao động xảy ra trong thế giới cộng sản.

Năm 1953 xảy ra cuộc đình công bãi thị tại Đông Đức, và Liên Sô gửi 16 sư đoàn đàn áp và đè bẹp cuộc nổi dậy của đám công nhân.

Năm 1956 tại Hung-gia-lợi, đảng viên cộng sản cấp tiến Imre Nagy chủ trương bãi bỏ độc đảng và hầu như được cả nước ủng hộ, Sôviết điều động quân đội và xe tăng nghiền nát ý muốn cải tổ.

Năm 1968 tại Tiệp khắc, dân chúng cũng nổi dậy đòi hỏi cải cách.

Hơn 200 nghìn quân đội Sôviết và các nước Đông Âu, với 5000 xe tăng đàn áp và nhanh chóng tiêu diệt cuộc nổi dậy.

Đây là cuộc đàn áp dã man nhất trong thời Chiến tranh Lạnh.

Cũng năm 1956 tại Ba Lan, hơn 100 nghìn công nhân diễu hành đòi hỏi cải tiến môi trường làm việc.

Lập tức, Liên sô gửi 400 xe tăng và 10 nghìn binh lính tràn sang biên giới, dập tắt ngay cuộc biểu tình.

Bàn tay nham nhúa của Liên sô vung ra tua tủa, xen sâu vào nội bộ của từng nước Đông Âu, và nhất là không chấp nhận bất cứ một phản kháng nào.

Chủ thuyết Brezhnev bắt buộc các lãnh đạo phải báo cáo từng chi tiết về Moscow, nhất là diễn tiến của mỗi biến động xảy ra, và vai trò của ban cố vấn Liên sô – đại diện cho Brezhnev ngay tại địa phương – rất quan yếu và ảnh hưởng đến mọi quyết định liên quan đến chính trị, kinh tế, và ngay cả văn hóa.

Thế mà họ để vuột mất Công đoàn Đoàn kết.Là nhờ Walesa kêu gọi đình công bãi thị đúng thời điểm thuận lợi do tình hình trong nước và do ảnh hưởng quốc tế, và nó thành công.

Chủ thuyết Brezhnev bắt đầu có dấu hiệu rạn nứt.

Đây là một thắng lợi quá lớn lao và tuyệt vời của giới công nhân tại Ba Lan, vì lập công đoàn riêng là một điều không thể nào chấp nhận trong thế giới cộng sản, là điểm tối kỵ của học thuyết Mác-Lênin, như gót chân của Archilles.

Đó là một "dị giáo" ly khai trong "giáo hội" Lênin.Giáo hoàng Vatican, thủ lãnh một tôn giáo với gần 800 triệu tín đồ (1980), lại thêm Walesa thành lập Công đoàn Đoàn kết... tất cả như đổ dầu vào lửa đối với bộ chính trị Sôviết.

Đối với Liên sô, chính Giáo hoàng với uy thế tại Vatican đã làm cho Ba Lan ngày càng loạn, vượt ra khỏi quỹ đạo của khối Sôviết.

Vì thế, kế hoạch loại trừ Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Lech Walesa cần phải được thi hành càng sớm càng tốt.Vào ngày 19/1/1981, một ngày trước khi TT Reagan tuyên thệ nhậm chức, Walesa có mặt tại Rôma để gặp Giáo hoàng Gioan Phaolô.

Cơ quan mật vụ Bulgaria hứa trả cho một tay sát thủ số tiền 300 nghìn để thủ tiêu Walesa.

Theo kế hoạch, tay sát thủ sẽ đặt chiếc xách tay chứa bom, được điều khiển bằng vô tuyến, ngay bãi đậu xe của khách sạn nơi Walesa đang trú.

Hắn đợi thời cơ, chờ Walesa ra bãi đậu xe là bấm nút cho bom nổ.

Walesa hoàn toàn không hay biết gì nguy hiểm đang theo sát một bên.

Ông may mắn thoát chết vì phút cuối kế hoạch bị bãi bỏ do có người ngầm báo cho cảnh sát Ý biết để bảo vệ và đề phòng.

Tay sát thủ đó không ai khác chính là Mehmet Ali Agca.

Cuộc điều tra của nhà chức trách Ý và ngay chính Ali sau khi bị bắt đã xác nhận cuộc ám sát hụt này.Hụt lần đó, nhưng 4 tháng sau Ali lại thành công vào buổi chiều ngày 13/5/1981 tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Thế nhưng, như Walesa thoát chết vì kế hoạch thủ tiêu bị bãi bỏ, vị Giáo hoàng lại sống sót vì viên đạn đi lệch động mạch vài ly.

Đó là điều Liên sô không thể ngờ.Và người ta cũng không ngờ là hai vị thủ lãnh – một lãnh đạo tinh thần, một lãnh đạo khối tự do – đều sống sót trong đường tơ kẽ tóc qua cuộc mưu sát và ám sát.

Cả hai đều tin tưởng có một cái gì đó huyền bí linh thiêng, nâng đỡ để họ sống sót nếu không nói là phép lạ.

Sứ thần Tòa thánh tại Washington, Hồng y Pio Laghi thổ lộ, "một người bạn thân của TT Reagan nói với tôi là tổng thống có lần thốt lên, 'Hãy nhìn quyền lực ma qủy cản đường chúng tôi và xem Chúa Quan Phòng đã can thiệp thế nào.'" Riêng Giáo hoàng Gioan Phaolô sau khi bình phục cũng phải nhìn nhận, "Bàn tay bắn viên đạn nhưng một bàn tay khác đẩy lệch sang bên."

Cả hai nhận ra một quyền lực thiêng liêng đã gìn giữ họ thoát chết trong gang tấc.Chính tai nạn này đã khiến họ xích lại gần với nhau, và cùng nhau thực hiện một việc gần như đội đá vá trời: lật đổ thế giới vô thần cộng sản, đứng đầu là Liên bang Sôviết.Carl Bernstein – một nhà báo chuyên điều tra – đăng một bài báo trên tạp chí Time ngày 24/2/1992, với nhan đề: "Holy Alliance: How Reagan and the Pope conspired?

Liên Minh Thánh: Reagan và Giáo hoàng hợp lực thế nào?"

Bernstein điểm lại diễn tiến của sự kiện lạ lùng của hai nhân vật đặc biệt nhất trong hậu bán thế kỷ 20.

Cái bắt tay thân thiện giữa TT Reagan và Giáo hoàng Gioan Phaolô II là khởi sự cho một kết thúc của chế độ vô thần.Sự khởi sự bắt đầu bằng cuộc họp riêng tại thư viện Vatican giữa hai thủ lãnh vào ngày 7 tháng 6 năm 1982, kéo dài 50 phút.

Sau bao nhiêu thơ từ qua lại, sau nhiều lần chuyện trò qua điện thoại, cuối cùng Reagan và Giáo hoàng Gioan Phaolô II mặt đối mặt nhân chuyến công du Âu châu dài 11 ngày của Tổng thống Hoa kỳ.

Không thông dịch, không thư ký, không trợ lý, chỉ mỗi 2 người trong thư viện vắng tanh.

Trong một phòng khác, Bộ trưởng Ngoại giao Alexander Haig và Cố vấn An ninh William Clark chuyện trò với Hồng y Agostino Casaroli, Bộ trưởng Ngoại giao Vatican, và Tổng giám mục Achille Silvestrini.

Cả hai bàn qua việc Do-thái xâm chiếm Lebanon rồi chú trọng vào vấn đề Ba Lan và sự thống trị Đông Âu của Sôviết.

Cả hai thủ lãnh đều tin tưởng rằng nếu Ba Lan được tự do, trở thành một nước không cộng sản, theo Bernstein, "là con dao đâm thẳng vào tim đế quốc Sôviết."

Và không riêng Ba Lan, các nước Đông Âu sẽ đi theo con đường dân chủ.

Chính Công đoàn Đoàn kết là hạt giống của tự do, sẽ là một nhân tố cho các nước trong khối Đông Âu vùng dậy.

Rời cuộc họp, cả hai đồng ý phải nuôi dưỡng Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan bằng mọi giá.Công đoàn Đoàn kết từ ngày thành lập (16/8/1980) phải trải qua nhiều cam go thử thách khủng khiếp để đứng vững.

Công đoàn đã có hơn 8 triệu đoàn viên, đông gấp đôi số đảng viên cộng sản Ba Lan.

Bộ chính trị Sôviết truất phế Kania vì cho rằng ông quá mềm yếu đối với Công đoàn Đoàn kết và đưa tướng Wojciech Jaruzelski lên cai trị với bàn tay sắt.

Ngày 13/12/1981, Jaruzelski ban hành thiết quân luật và bắt giữ 6 nghìn công nhân, riêng những người lãnh đạo công đoàn bị giam giữ đặc biệt; Walesa bị bắt ngay từ sáng sớm.

Hơn 2 nghìn cảnh sát (ZOMO) được huấn luyện để tiến hành công tác đặc biệt này.

Báo Time nhận định, "Ba Lan hưởng tự do mới hơn một năm thì bị chấm dứt bi đát bằng bạo lực, đổ máu và đàn áp dã man."

Nhà cầm quyền Ba Lan cấm đình công, và đàn áp thẳng tay bất cứ một sự phản kháng nào.

Mọi liên lạc với thế giới bên ngoài bị cắt đứt.

Ba Lan tự cô lập hoàn toàn.

Lập tức, chính quyền Reagan áp đặt lệnh cấm vận, đẩy nền kinh tế Ba Lan vốn kiệt quệ đi vào ngõ cụt.

Lệnh trừng phạt kéo dài mãi đến năm 1987, khi đảng cộng sản Ba Lan cam kết mở cuộc đối thoại với Giáo hội.

Nhưng trong 8 năm, 1981-1989, Công đoàn Đoàn kết vất vả chịu đựng những đòn thép của đảng cộng sản Ba Lan.

Quyết không lùi bước trước bạo lực, Công đoàn Đoàn kết vẫn cố gắng tiến bước trên con đường tranh đấu cho tự do bằng cách co rút vào hoạt động ngầm, và điều quan trọng nhất Công đoàn vẫn là chỗ dựa tinh thần cho giới công nhân.Chính quyết định giữ vững Công đoàn của TT Reagan là nguồn trợ lực dồi dào và giúp cho tổ chức này đứng thẳng, và tiến lên mạnh mẽ trở lại.

Máy in, máy đánh chữ, máy truyền tin, giấy bút, sách vở trộn lẫn với hàng hóa trợ giúp nhân đạo như thực phẩm, thuốc men vận chuyển khéo léo vào Ba Lan từ những công ty ma tại Bahamas và Panama, qua ngã Thụy điển với danh nghĩa của Giáo hội Công giáo.

Ban đêm, từ các căn hầm, máy in hoạt động không ngừng để in những tin tức quan trọng, những tờ truyền đơn để phân phát cho công nhân vào ngày hôm sau.

Những tin tức về thế giới bên ngoài, đặc biệt giới công nhân biết được sự hổ trợ mạnh mẽ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã giúp Công đoàn Đoàn kết giữ vững tinh thần trên con đường tranh đấu cho tự do.Song song với việc truyền sinh khí cho Công đoàn Đoàn kết, TT Reagan đề ra 5 điểm làm suy kiệt nền kinh tế Sôviết nhằm tạo ra một sự cải cách bắt buộc từ bên trong đế quốc Sôviết.Gia tăng ngân sách quốc phòng, với chủ tâm lôi kéo Sôviết vào cuộc chạy đua võ trang, nhất là hệ thống lá chắn phòng thủ chiến lược SDI (Strategic Defense Initiative) của TT Reagan, gọi tắt là Star Wars (Chiến tranh Các Vì Sao).

Đây là chiến thuật vô cùng lợi hại và sắc bén của TT Reagan,Hổ trợ bí mật các phong trào tranh đấu tại các nước Đông Âu,Tài trợ cho các quốc gia thuộc Minh ước Warsaw tùy theo mức độ xiển dương nhân quyền và cải cách chính trị cũng như thị trường tự do,Cô lập kinh tế Liên bang Sôviết bằng cách từ chối đường ống dẫn khí đốt dài 3600 dặm từ Siberia sang các nước Tây Âu, ngăn chặn những kỹ thuật cao không cho vào Moscow.Gia tăng việc dùng đài Phát Thanh Tự Do, đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, đài Âu Châu Tự Do để loan tải các thông điệp của chính quyền Hoa Kỳ đến dân chúng thuộc khối Đông Âu.Ngay trong 4 năm đầu tiên tại Nhà Trắng, TT Reagan đã cho phép chế tạo và trải dàn 700 đầu đạn nguyên tử mới.

Theo David Stockman, giám đốc điều hành ngân sách, quốc phòng đã chi tiêu 1,46 ngàn tỉ vào các phát minh vũ khí hiện đại.

Chi phí này bằng ngân sách quốc phòng chi tiêu trong các thời tổng thống Nixon, Ford, và Carter cọng lại, kể cả hai cuộc chiến tranh Triều tiên và Việt nam.

Đây là cái bẫy dụ Sôviết vào cuộc chạy đua vũ trang.

Tình hình kinh tế của Sôviết vốn đã èo uột vì phải cung cấp tiền bạc và vũ khí cho các nước nằm trong quỹ đạo của khối cộng sản để phát động đấu tranh, nay phải dồn tiền vào ngân sách quốc phòng để theo kịp Hoa kỳ.

Điều này làm nền kinh tế của Sôviết ngày càng kiệt quệ hơn.Nhưng điều làm bộ chính trị Sôviết nhức đầu là hệ thống phòng thủ không gian, một sáng kiến của TT Reagan mà các nhà khoa học Mỹ đồng ý phát triển.

Lý thuyết của hệ thống phòng thủ rất đơn giản, một khi hoả tiễn của đối phương bắn đi, lập tức hệ thống phòng thủ phát hiện, xác định tọa độ, đường bay, và dùng tia la-de bắn hạ ngay lúc vừa bay ra khỏi hạ tầng khí quyền.

TT Reagan muốn các nhà khoa học tại California nghiên cứu, tìm tòi, và phát minh cho bằng được hệ thống lá chắn SDI.

TT Reagan tin chắc rằng, một khi Hoa kỳ thành công SDI, ông có thể đàm phán với Liên sô để tiêu hủy toàn bộ số hỏa tiễn hủy diệt tầm xa, nhất là loại hỏa tiễn SS-20, để nhân loại thoát khỏi nỗi sợ hãi về hậu quả tàn khốc của cuộc chiến hạt nhân.

Đó là cách mưu tìm hòa bình trong sức mạnh.Một điểm đặc thù của nội các TT Reagan gồm toàn giáo dân Công giáo đạo đức như Giám đốc Cơ Quan Tình Báo William Casey, Cố vấn An ninh Richard Allen và William Clark, Bộ trưởng Ngoại giao Alexander Haig, Đại sứ lưu động Vernon Walters và William Wilson.

Ông William Wilson là đại sứ đầu tiên của TT Reagan bên cạnh Tòa Thánh Vatican.

Tất cả những người này xem mối liên hệ ngoại giao giữa Washington-Vatican là một Liên Minh Thánh: gồm sức mạnh tinh thần của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và những giáo huấn của giáo hội kết hợp với tính cương quyết chống chủ nghĩa cộng sản và xiển dương khái niệm dân chủ của Hoa Kỳ.

Bởi vậy, Sứ thần Tòa thánh tại Washington, Hồng y Laghi dễ dàng tiếp xúc với nội các của TT Reagan, và họ cùng bàn luận thật tương đắc về tình hình Ba Lan, về hiện tình của khối Đông Âu.Sứ thần Laghi làm nhiệm vụ con thoi, trao đổi tin tức giữa Vatican và Washington.

Ngài gặp gỡ TT Reagan ít nhất 6 lần.

Mỗi khi vào Tòa Bạch Ốc để gặp Tổng thống hay ông Clark, Khâm Sứ Laghi đều đi vào cổng ở phía Tây Nam để tránh sự dòm ngó của các ký giả.

Hồng y Laghi nói: "Tuy giữ được mối liên hệ mật thiết như vậy, nhưng tôi không hề vượt qua giới hạn.

Vai trò chính của tôi là dàn xếp các cuộc gặp gỡ giữa ông đại sứ Walters và Đức Thánh Cha.

Đức Thánh Cha biết rõ dân tộc của Ngài.

Phải nói là tình hình rất phức tạp – làm sao vẫn đòi hỏi nhân quyền, đòi hỏi tự do tôn giáo và vẫn giữ cho Công đoàn Đoàn kết sống còn mà không khích động nhà cầm quyền cộng sản hơn nữa.

Tôi nói với ông Walters rằng, 'Hãy nghe Đức Thánh Cha, chúng tôi đã có 2000 năm kinh nghiệm về những chuyện như vậy.'" Liên minh tuyệt hảo giữa đời và đạo, với đầu óc nhạy bén về tình báo của ông Casey, cùng với TT Reagan soạn thảo "Divine Plan, Kế hoạch Tuyệt diệu," và kế hoạch này dẫn đến sự diệt vong của chủ nghĩa vô thần.Tuy Công đoàn Đoàn kết bị khống chế hoạt động nhưng các linh mục, người chạy thư, các nhà tổ chức lao động và các điệp viên tình báo lén lút ra vào Ba Lan với yêu cầu trợ giúp và cung cấp những chi tiết hữu ích về tình hình của chính phủ và những hoạt động ngầm của Công đoàn.

Chính quyền Reagan chuyển thực phẩm, quần áo và tiền bạc để trả tiền phạt cho các nhà lãnh đạo Công đoàn Đoàn Kết bị tòa án Ba Lan tuyên phạt.

Bên trong Ba Lan, một mạng lưới các linh mục mang tin và chuyển tin qua lại giữa các nhà thờ, nơi ẩn náu của nhiều nhà lãnh đạo Đoàn Kết.Chuyến thăm viếng lần thứ 2 của Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào tháng 6/1983 trong giai đoạn gay cấn của thiết quân luật.

Ngài trở về và mang đến hy vọng cho đất nước đã suy kiệt, đặc biệt cấy thêm sinh khí cho Công đoàn Đoàn kết.

Trong thánh lễ với cả triệu người tham dự tại Krakow, ngài nói về "những bất công khủng khiếp của lịch sử" và khi ngài khẳng định dân Ba Lan được "mời gọi để chiến thắng" thì giáo dân hiểu ý ngài muốn nói gì.Trong hơn 4 năm, từ 1981-1985, Liên minh Thánh hoạt động không ngừng, Công đoàn Đoàn kết vẫn là cái gai gây nhức nhối cho Sôviết, và kết quả của "Divine Plan" hiện dần dần rõ nét như nội các của TT Reagan mong đợi.

Nhưng mục đích tối hậu là lật đổ chủ nghĩa cộng sản sẽ phải kéo dài lâu hơn nếu không có một nhân vật quan trọng khác xuất hiện trên diễn đàn quốc tế đúng vào thời điểm đế quốc ma quỷ kiệt quệ đến mức tận cùng.Đó là Mikhail Gorbachev, Tân Tổng bí thư của Liên bang Sôviết.Trong suốt 5 năm tại Nhà Trắng của TT Reagan, Liên Sô bị khủng-hoảng nội-bộ: Thủ tướng Kosygin lủng củng với Tổng bí thư (TBT) Brezhnev từ lâu, và phải từ-chức vào năm 1980 vì lý do sức khỏe và chết sau đó 2 tháng.

Đến lượt Brezhnev bệnh nặng rồi chết vào tháng 11/1982.

Đây là cái chết đầu tiên, bắt đầu một loạt chết liên tiếp không ai ngờ.

Andropov lên thay rồi chết vào tháng 2/1984.

Chernencho, một ông già lắm bệnh tật – đến nỗi một trợ lý đối ngoại so sánh như một "xác ướp biết đi" – nắm quyền được 13 tháng rồi cũng chết vào tháng 3/1985.

Các Tổng bí thư Sôviết thay phiên nhau chết khiến TT Reagan phải than, "Họ cứ tiếp tục chết vì tôi; They keep dying on me."

Thật sự Gorbachev không thể nắm quyền nếu không có sự hổ trợ đặc biệt của Andrei Gromyko, Bộ trưởng Ngoại giao kỳ cựu Sôviết.

Gorbachev lọt vào bộ chính trị ở tuổi 50 là nhờ tài ăn nói, lý luận, và đặc biệt được Andropov, trùm mật vụ KGB, đỡ đầu.

Lúc Andropov nắm chức TBT, con đường hoạn lộ của Gorbachev lại càng thăng tiến nhanh hơn bao giờ và tên tuổi của ông ngày càng sáng giá.

Khi Chernencho gần chết, ban tham mưu gồm 18 người (toàn là giới bảo thủ lớn lên từ thời cách mạng tháng 10, tuổi đã trên 70), bàn bạc chọn người thay.

Gorbachev trẻ nhất, chỉ mới 54 tuổi, cũng tham gia việc tuyển chọn.Trước khi chết, Chernencho gửi gắm và chọn người kế vị là Viktor Grishin, 71 tuổi.

Nhưng trùm KGB Chebrikov lại khinh ghét chỉ vì Grishin dính dáng đến Lavrenti Beria, một trùm mật vụ nổi tiếng khác giết hàng triệu người như ngóe theo lệnh của Stalin qua các cuộc thanh trừng đẫm máu.

Sự dính dáng đó là hai gia đình Grishin và Beria có liên hệ sui gia.

Phần lớn các ông già nắm quyền hành ở bộ chính trị bây giờ đều sống sót sau nhiều đợt thanh trừng dã man của Stalin.

Bạn bè, đồng chí kém may mắn đều bị Beria thủ tiêu không thương xót.

Bởi thế, những gì dính dáng đến Beria hầu như ai cũng tránh né chỉ vì tên trùm mật vụ này tượng trưng cho cơn ác mộng kinh hoàng nhất trong lịch sử Sôviết.

Lúc Chernencho còn sống không ai dám đụng đến Grishin, nhưng bây giờ thời cơ đã chuyển hướng, nhiều đảng viên bảo thủ thẳng thắn chống Grishin.Chỉ còn lại Andrei Gromyko, bộ trưởng ngoại giao kỳ cựu Sôviết, là người sáng giá nhất đối với dân trong nước và trên trường quốc tế nhưng ông hoàn toàn không muốn chức Tổng bí thư.

Tuy vậy, ông lại đề cử một đảng viên trẻ tuổi nhất, "Gorbachev có nụ cười tươi, nhưng này các đồng chí, Mikhail lại có hàm răng sắt."

Thủ tướng Nikolai Tikhonov không đồng ý chọn Gorbachev nhưng Nikolai Ryzhkov – Thủ tướng tương lai dưới thời Gorbachev – giải thích, "Nếu chọn các đồng chí lớn tuổi, chừng vài ba năm chúng ta lại họp để chọn người kế vị."

Đúng ra đa số các đảng viên thuộc Trung ương đảng đều mến mộ Gorbachev và muốn ông thay đổi bộ mặt của Bộ chính trị, kể cả guồng máy cồng kềnh chậm chạp của nhà nước Sôviết.

Anatoli Chernyaev – đảng viên cộng sản cấp tiến – một trong nhiều đảng viên muốn một cuộc cải cách lớn lao trong hệ thống chính trị nặng nề Sôviết, ghi lại trong hồi ký, "Ai ai cũng mong đợi Gorbachev lên nắm quyền từ sau ngày Andropov chết.

Thời Brezhnev, nhà nước đã không ra gì.

Còn thời Chernenko thì đúng là một trò hề."

Ngày hôm sau (11/3/1985), trước sự hiện diện của khoảng nghìn đảng viên, Gromyko trân trọng giới thiệu Tân Tổng bí thư Mikhail Gorbachev.

Hầu hết các đảng viên dưới 70 tuổi đều thở phào với nụ cười hớn hở.

Mọi người đứng dậy chúc mừng và tiếng vỗ tay hầu như không ngớt nổ dòn cả đại sảnh.Thật là điều kỳ diệu khi Mikhail Gorbachev ngoi lên và nắm giữ quyền lực cao nhất của Liên bang Sôviết ở lứa tuổi mới ngoài 50, và chung quanh ông gồm đa số đảng viên bảo thủ, già nua, cáu kỉnh, dối trá, ưa nịnh cấp trên và thích được nịnh.

Họ có miệng trên khuôn mặt đăm đăm nhưng dùng để nịnh hót cấp trên chứ chưa hề vén môi nở một nụ cười.

Chỉ riêng Gorbachev là thường nở nụ cười với các đồng chí.

Có lẽ Gorbachev là cán bộ duy nhất tại điện Cẩm Linh có nét mặt vui và nụ cười tươi.

Thật ra, những người tri thức và có khả năng sáng tạo không hề được hoan nghênh kết nạp vào tầng lớp của quyền lực tuyệt đối; họ bị loại trừ khỏi guồng máy vốn chỉ ưu đãi những kẻ chuyên a dua nịnh hót với khả năng tầm thường.

Mikhail Gorbachev may mắn hơn, được trùm mật vụ KGB Andropov đỡ đầu và kéo ra từ vùng Stravropol xa xôi hẻo lánh, nơi ông làm bí thư đảng bộ với 3 triệu dân.

Yuri Andropov khoe với các đồng chí trong bộ chính trị là Gorbachev như viên ngọc quý trong đống bùn.

Và một điều mỉa mai là sự nghiệp cách mạng của viên ngọc quý Gorbachev cũng khởi sự bằng sự nịnh hót.

Thưa đúng, Gorbachev khởi nghiệp bằng sự bợ đỡ đến xấu hổ nhưng theo ông, "Những năm ấy, ai mà không 'nâng bi' Breznhev thì đừng hòng tiến thân."

Mikhail Gorbachev sinh ngày 2/3/1931 trong một gia đình trộn lẫn niềm tin.

Ông ngoại Gopkolo đặt hết niềm tin vào đảng cộng sản, và là chủ tịch hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên tại vùng thảo nguyên trù phú Kuban.

Cùng năm đó, Stalin ra lệnh tịch thu ruộng và bắt buộc nông dân vào hợp tác xã.

Chính nó đã gây ra nạn đói và giết hại cả triệu người quanh vùng nhưng vẫn không lay chuyển được lòng tin vào đảng của Gopkolo.

Tuy hết lòng tận tụy với đảng, trong cuộc Đại Thanh trừng (1937) của Stalin, ông ngoại Gopkolo bị mật vụ bắt đi trong đêm vì tội "phản động xét lại."

Ông bị cầm tù và bị hành hạ dã man suốt 14 tháng.

Mãi đến năm 1941, khi quân Đức tấn công Nga, ông mới được tha về.

Ông nội Andrei lại hoàn toàn khác hẳn.

Andrei là người mộ đạo, không ưa cộng sản, vì chống đối chính sách hợp tác xã và bị đày đến Siberia lao động khổ sai (một trại cải tạo không cần hàng rào vì là sa mạc tuyết mênh mông, nhiệt độ hầu như dưới zero quanh năm, tù ở đây thường chết đói và chết lạnh, khó sống sót trở về; chú thích của người viết).

Riêng bà nội và bà ngoại, cũng như bà mẹ, lại là tín hữu Chính thống giáo thuần thành.

Chính người mẹ, Maria, theo lời yêu cầu của hai người bà đã lén lút bồng Gorbachev đến nhờ một linh mục rửa tội cho con.

Theo Archie Brown – giáo sư ĐH Oxford, người chuyên nghiên cứu về Gorbachev – đây là hành động hết sức liều lĩnh, có thể mất mạng vì Stalin đã cấm ngặt tất cả mọi nghi thức tôn giáo.

Một nhà báo Nga, nghiên cứu và viết tiểu sử Gorbachev, kể lại chính vị linh mục rửa tội đã đặt tên cho thằng bé là Mikhail.

Và Mikhail chính là Mi-ca-e, một trong 4 vị Tổng lãnh Thiên thần theo tín lý của Công giáo và Chính thống giáo.

Đồng thời, Thánh Mi-ca-e cũng là quan thầy của nước Nga từ thế kỷ 14.

Ngôi thánh đường Thánh Mi-ca-e nguy nga đã bị Lênin tịch thu làm kho chứa nông phẩm ngay từ thuở đầu cuộc cách mạng.

Sau bao nhiêu năm, không ai muốn nhớ đến tên vị thánh bổn mạng nữa.

Có lẽ vị linh mục đã linh cảm được một cái gì đó nên mới chọn tên Mikhail cho đứa bé.Tuy đại gia đình trộn lẫn niềm tin, ông ngoại Gopkolo không hề phản đối hoặc chê bai đức tin của người vợ.

Gorbachev sau này thú nhận, "Ông ngoại tôi tôn trọng đạo của bà tôi.

Cho dù vào thời điểm đó, nhà nước đàn áp tôn giáo dữ dội nhưng ông ngoại chưa hề tỏ thái độ khinh dể đức tin của bà tôi."

Ông thêm, "Một phần nhờ cách đối xử của ông ngoại, tôi tin và nhìn nhận phẩm giá của mỗi người, cho dù có sự khác biệt về màu da, niềm tin, và trình độ."

Có lẽ vì thế mà lúc giữ quyền lực cao nhất của 145 triệu dân, Gorbachev muốn thay đổi cái nhìn về nhân phẩm, và vận mệnh của nước Nga do đó cũng thay đổi theo.Ngay từ nhỏ, Gorbachev học hành sáng dạ và có tài lý luận.

Ông được đảng bộ địa phương gửi đến Moscow để học luật.

Đây là trường luật nổi tiếng và là ước mơ được theo học của bao nhiêu thanh niên thanh nữ trong khối cộng sản để trở thành nhà lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác-Lê.

Sau khi tốt nghiệp, Gorbachev quay trở về quê quán vùng Stravropol hẻo lánh bắt đầu sự nghiệp chính trị.

Trước sau, Gorbachev là một nhà mácxít chân chính, hoàn toàn đặt hết niềm tin vào học thuyết cộng sản, mặc dù hai người ông đều là nạn nhân của chế độ.

Tháng 2/1956, niềm tin của ông bị lung lay sau khi nghe bài "diễn văn bí mật" của Nikita Khrushchev, tố cáo tội ác tầy trời của Stalin đối với các đồng chí và dân chúng Nga.

Đối với ông, thần tượng Stalin chỉ đứng sau thượng đế.

Lần đầu tiên, ông mường tượng một áng mây đen trong bầu trời chủ nghĩa cộng sản.Ngoài sức trai trẻ năng động, và đầy năng lực, Gorbachev còn nổi tiếng là một cán bộ trong sạch trong guồng máy nhà nước vốn đầy dẫy ăn bẩn và hối lộ.

Cứ thế, con thuyền sự nghiệp của Gorbachev thuận buồm xuôi gió và ông leo dần lên chức bí thư năm 1967.

Ở chức vụ này, Gorbachev biết chiều chuộng và tìm mọi cách chiêu đãi làm vui lòng các cán bộ từ trung ương về vùng thảo nguyên Kuban nghỉ mát.

Đặc biệt 2 người, Yuri Andropov (trùm mật vụ KGB) and Mikhail Suslov (Đệ nhị Bí thư đảng Cộng sản Sôviết) rất mến mộ tài năng của ông và tìm cách đưa Gorbachev về làm việc tại trung ương.Như trong bất cứ một chế độ độc tài nào, nịnh bợ là một nhân tố quan trọng trong hệ thống nhà nước cộng sản.

Nịnh bợ như một đòn bẩy dùng để tiến thân.

Thời phong kiến, triều đình không thiếu nịnh thần, và đặc biệt trong những nước cộng sản cũng không hề thiếu những văn nô, văn thi chuyên sáng tác những bài viết và thơ phú để ca tụng lãnh tụ.

Và bước ngoặt cuộc đời chính trị của Gorbachev chính là bài viết nịnh bợ (đến ngượng đỏ cả mặt) cuốn sách "Đất Nhỏ, Little Land" do các văn nô viết theo lệnh của Brezhnev.

Một cuốn sách nghèo nàn về nội dung, toàn sáo ngữ của Brezhnev tạo ra để tự ca ngợi chính mình, cổ võ sùng bái cá nhân, thế mà Gorbachev lại múa bút một cách tài tình, "Khối lượng công việc hàng ngày của ông nhằm củng cố sức mạnh của đất nước, nâng cao phúc lợi cho đời sống công nhân, tăng cường hòa bình và an ninh giữa các nước... trên các trang giấy trong cuốn 'Đất Nhỏ' tuyệt vời của đồng chí Brezhnev... những anh hùng huyền thoại của cuộc chiến ở vùng Bắc Caucasus được miêu tả bằng những dòng chữ mạ vàng...

Số trang của 'Đất Nhỏ' không nhiều, nhưng với chiều sâu thăm thẳm của nội dung ý thức hệ, và theo chiều rộng mênh mang của quan điểm tác giả, nó đã trở thành một sự kiện lớn trong đời sống quần chúng.

Nó đã tạo được tiếng vang nồng ấm trong trái tim nhân dân Sôviết...

Những người cộng sản và tất cả mọi công nhân tại Stavropol đều vô cùng biết ơn Leonid Ilyich Brezhnev qua tác phẩm văn học mang nặng tinh thần Đảng này..."

Andropov giới thiệu bài viết "nâng bi" cho TBT Brezhnev, và chỉ cần 6 tháng sau, Gorbachev được triệu về Moscow để giữ những công việc quan trọng của điện Cẩm Linh.

Chẳng biết sau này khi Gorbachev đọc lại bài viết mang nặng tính văn nô có ngượng với chính mình không?

Nhưng vào thời điểm đó, bài viết như đôi hia bảy dặm giúp ông chỉ cần một bước từ vùng Stravropol hẻo lánh cách xa Moscow hàng nghìn cây số thênh thang đặt chân vào chốn cung đình của quyền lực tuyệt đối.Lúc đó là cuối năm 1978.

Chẳng bao lâu, Gorbachev được thăng chức Bộ trưởng Nông nghiệp Sôviết, sau cái chết đột ngột của Fyodor Kulakov, một thủ lãnh cung đình nhiều quyền lực và cũng là người đỡ đầu của Gorbachev.

Và chỉ cần 7 năm sau, Gorbachev đứng sừng sững ở ngôi vị cao nhất của điện Cẩm Linh, của thế giới cộng sản gồm Liên bang Sôviết và các nước chư hầu chiếm 1.5 tỷ người (hơn 1/3 dân số) trên hành tinh mang tên trái đất.Nắm chức Tổng bí thư Sôviết với số tuổi chưa đến 60 là một điều hy hữu, và để chuẩn bị cho con đường sự nghiệp, Gorbachev đã bắt tay được một số đồng chí cùng chí hướng như: Anatoli Gromyko (con của Andrei Gromyko), Alexander Yakovlev, cựu đại sứ Liên sô tại Canada, và bổ nhiệm Eduard Shevardnadze làm Bộ trưởng Ngoại giao.

Tất cả đều muốn thay đổi bộ máy cồng kềnh lạc hậu của nhà nước, luôn cả cung cách làm việc của đám cán bộ quan liêu lười biếng, ăn bám, thiếu sáng tạo và nhất là thay đổi bộ mặt của đảng để các nước thuộc khối tự do nhìn thấy một Liên bang Sôviết hòa hoãn hơn, biết yêu chuộng hòa bình.Gorbachev lên nắm quyền với quá nhiều lỗi lầm của những kẻ tiền nhiệm.

Tệ nạn xã hội cũng là một gánh nặng.

Chiến dịch đầu tiên, ông quyết tâm bài trừ là bệnh ghiền rượu.

Thật sự rượu là một tệ nạn xã hội đã có từ thế kỷ trước như Pushin, Dostoyevsky và Tolstoy thường nói đến trong các tác phẩm nổi tiếng của họ và đến cuối thế kỷ thì ghiền rượu trở thành một căn bệnh hầu như không còn thuốc chữa.

Trước khi khối Sôviết tan rã, thống kê cho thấy có khoảng 40 triệu người ghiền volka trên 270 triệu dân.

Bệnh ghiền rượu chiếm 15%, gần gấp đôi so với các nước Tây phương.

Gorbachev tăng giá vodka gấp 3 lần và chỉ thị giảm sức sản xuất bia và rượu vang xuống gần ¾.

Khi Vladimir Dementsev, Bộ trưởng Tài chánh, lên tiếng cảnh báo ngân sách sẽ thiếu hụt 15 tỉ rúp trong vòng 5 năm tới vì mức tiêu thụ rượu giảm, ông nói, "...không lẽ ông muốn tôi xây dựng chủ nghĩa cộng sản bằng vodka?"

Một điểm quan trọng nữa, Gorbachev nhận thấy là chi phí quốc phòng của Sôviết chiếm 40% ngân sách quốc gia.

Một khi nền kinh tế đang đâm đầu xuống dốc không phanh thì đây là sự phí phạm khủng khiếp tài nguyên quốc gia.

Trong khi đó, Hoa kỳ lại giương bẫy chạy đua vũ trang nên Liên bang Sôviết ngày thêm kiệt quệ.

Đầu thập niên 1980, Thống chế Nikolai Ogarkov, người đứng đầu Bộ Tổng Tham mưu Sôviết, đã lên tiếng rằng chi phí quốc phòng có quá nhiều phí phạm, hiệu quả yếu kém, chỉ biết chạy theo số lượng trong khi phẩm chất tồi tệ và quá nhiều dự án gây lãng phí trầm trọng.

Ông nói rằng cứ mù quáng đuổi theo Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang chính là "tự sát."

Đã túng lại càng mau khánh kiệt vì Liên sô còn phải tài trợ cho các nước chư hầu, nhất là các nước Đông Âu nên nền kinh tế như lửa gặp rơm càng mau cháy rụi.

Chỉ riêng chi phí vào cuộc chiến và duy trì thể chế xã hội chủ nghĩa tại Afghan đã ngốn một khoản tiền khá lớn trong ngân sách quốc gia.Lập tức, Gorbachev báo cho các nước chư hầu Liên sô sẽ cắt giảm các khoản tiền viện trợ.

Các lãnh tụ Honecker (Đông Đức), Zhivkov (Bulgaria), Husák (Tiệp), Ceauescu (Romania), Kádár (Hung) và Jaruzelski (Ba Lan) được triệu về Moscow gặp TBT Gorbachev.

Ông nói thẳng, "...các ông phải nhận lấy trách nhiệm lo cho dân nước các ông."

Gorbachev nói thêm Sôviết sắp có những thay đổi lớn lao về kinh tế và sự trao đổi hàng hóa giữa các nước trong khối Sôviết phải cân bằng, hai bên phải có lợi đồng đều.

Điều đó có nghĩa là Nga sẽ không chịu thiệt thòi như trước đây, vì sự sai biệt thường biếu không cho các nước chư hầu.

Nếu ngưng viện trợ, các nhà kinh tế điện Cẩm Linh phỏng đoán Liên sô sẽ tiết kiệm được khoảng 30 tỉ đô la hàng năm.

Một con số chi tiêu không nhỏ so với một nền kinh tế đang trì trệ, với chi phí quốc phòng đã chiếm 40% tổng sản lượng quốc gia.

Thời Brezhnev, bộ chính trị Liên sô siết gọng kềm với các nước chư hầu.

Nhất cử nhất động đều phải báo cho mẫu quốc để xin chỉ thị.

Nếu không nghe lời, Brezhnev sẵn sàng gửi quân đội và xe tăng đến tận nơi để dạy dỗ, và dẹp loạn.

Nhưng nếu ngoan ngoãn, Liên sô sẽ viện trợ hàng năm.

Chính Gorbachev là người khai tử chủ thuyết Brezhnev.

Móng vuốt con gấu vùng Siberia đã nới lỏng, để các nước chư hầu tự do lo lấy bản thân.

Hậu quả là khi không còn nhận viện trợ, các nước chư hầu dần dần thoát khỏi quỹ đạo của Sôviết.

Ba Lan lợi dụng tình huống thả lỏng của Gorbachev, không còn lệ thuộc vào Liên sô, đã tổ chức bầu cử và tuyên bố thiết lập nền dân chủ tự do.Một cục xương mắc nơi yết hầu của Liên sô từ năm 1980 là cuộc chiến tại Afghanistan.

Sôviết xua quân chiếm Afghan vào cuối năm 1979, và tiếp tục đổ tiền vào để xây dựng nền móng xã hội chủ nghĩa.

Đã có lúc 100 nghìn lính Nga tràn ngập Afghan để giữ an ninh cho làng mạc và thành phố, nhất là thủ đô Kabul.

Gần 8 nghìn nhân mạng đã chết trong cuộc chiến chỉ mới 5 năm.

Theo thống kê của hai Tiến sĩ Anton Minkov và Gregory Smolynec thuộc Học viện Quốc phòng Canada thì lúc Gorbachev nắm quyền (1985) Sôviết đã chi một khoản tiền 1.88 tỉ rúp.

Suốt cuộc chiến kéo dài 10 năm, tổn phí lên đến 9 tỉ rúp.

Trong khi cả nước đói meo vì khan hiếm thực phẩm, tiền đổ vào để duy trì chủ nghĩa cộng sản tại vùng rừng núi và sa mạc thì quả thật lãng phí.Các nhà quân sự ví cuộc chiến Afghan của Liên sô như cuộc chiến Việt nam của Hoa kỳ.

Thánh chiến quân (Mujahideen) dùng đồi núi hiểm trở để chiến đấu chống lại quân Liên sô như chiến thuật du kích của cộng sản bắc việt dùng trong chiến tranh Việt nam.

Nếu Hoa kỳ nhường Việt nam lại cho Tàu sau khi bắt tay được với Mao (VN như món quà cho cuộc 'lương duyên' giữa Tàu & Mỹ; chú thích của người viết) để chống Liên sô thì Nga lại không thể nào thắng được tại mặt trận Afghan.

Gorbachev giao cho tướng Anatoli Zaitsev, một trong những vị tướng tài ba nhất Bộ Tư lệnh Liên sô, một trọng trách tuyệt mật là phái ông đến Kabul để tìm ra đáp số trung thực nhất cho bài toán: Liệu Liên Xô có thể thắng cuộc chiến Afghanistan không?

Tướng Zaitsev trở về với câu trả lời, "Không thể thắng."

Cuộc chiến dai dẳng như cục gân gà của Tào Tháo thuở nào.

Nhả thì tiếc nhưng nuốt không trôi.

Cuối cùng, Gorbachev quyết định nhả (1985).Moscow bổ nhiệm bác sĩ Najibullah Ahmadzai làm Tổng thống Afghan năm 1986, thay thế Babrak Karmal là một ông già nát rượu, suốt ngày say xỉn.

Gorbachev ký hiệp ước Genève đồng ý rút hết quân vào ngày 15/2/1989.

Vào những tháng cuối cùng, TT Najibullah chạy chọt riêng đến Bộ trưởng Ngoại giao Shevardnadze và trùm mật vụ KGB Kryuchkov xin hoãn việc rút quân.

Najibullah nói thêm, nếu rút quân thì xin tiếp tục oanh tạc vùng đồi núi để cầm chân quân Mujahideen.

Najibullah biết rất rõ thực lực của quân đội Afghan, nếu không có lính Nga hậu thuẫn, thánh chiến quân sẽ chiếm trọn thủ đô trong vài ngày.

Gorbachev nổi giận khi nghe Shevardnadze và Kryuchkov khuyên giúp TT Najibullah thả bom để cầm chân thánh chiến quân.

Ông kiên quyết phải rút toàn bộ quân đội về nước để cứu lấy nền kinh tế Sôviết trước, còn Afghan chỉ là lỗi lầm của những vị tiền nhiệm.Tưởng nhớ vài tháng trước ngày 30/4/1975, TT Thiệu cũng xin Hoa kỳ viện trợ súng đạn để giữ miền Nam.

Hoa kỳ nhẫn tâm quay lưng, và chỉ cần vài tháng sau đó, quân bắc việt tràn ngập thủ đô Sàigòn.

Âu cũng là một bài học cho các nước nhược tiểu, nếu chỉ biết cậy nhờ vào các nước lớn, một ngày nào đó vì quyền lợi riêng tư, họ sẽ bỏ rơi không thương tiếc.

Số phận của Najibullah lại không may mắn, ông bị thánh chiến quân Taliban treo cổ và bêu xác giữa phố xá, ngay tại thủ đô Kabul.Hai tháng sau khi nhậm chức, Gorbachev đưa ra 2 biện pháp để cứu nguy nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Sôviết.

Đó là Perestroika (tái cấu trúc) và Glasnost (cởi mở).Cần nói rõ mục đích của Perestroika và Glasnost.

Khi xiển dương chính sách "Tái cấu trúc" và "Cởi mở", TBT Gorbachev không hề có ý định xóa bỏ đảng cộng sản, nhưng trái lại, ông muốn cứu Sôviết bằng cách làm cho nó tinh tuyền theo đúng nghĩa nguyên thủy của chủ thuyết cộng sản.

Gorbachev vẫn tin tưởng vào đường lối cộng sản đề ra của Lênin, và chê trách Stalin đã áp dụng sai, đi lệch đường.

Đây cũng là ảo tưởng mãnh liệt của rất nhiều người cộng sản chân chính.

Họ tin rằng họ sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản nếu áp dụng chính sách và đường lối theo đúng kinh điển.Với "Tái cấu trúc," ông áp dụng một loạt các biện pháp năng động, khuyến khích các xí nghiệp đưa thêm sáng kiến, và đưa ra một số thay đổi nhỏ về kinh tế về cách phân phối hàng hóa trong nước cho hiệu quả hơn.

Nhưng điều ông làm mất lòng một số quan chức cung đình là sa thải hàng loạt những cán bộ thân cận được Brezhnev che chở qua nhiều năm nhưng thực tế cho thấy họ chỉ biết ngồi tiêu xài và chẳng làm lợi gì cho nền kinh tế đất nước.

Ông cho phép mật vụ KGB tấn công vào hệ thống quyền thế của những đám lãnh đạo tham nhũng tại các nước cộng hòa Trung Á.

Gorbachev chỉ trích tệ nạn quan liêu cửa quyền trong hàng ngũ Đảng ở Ukraine và các vùng khác.

Ông vẫn chủ trương trung ương tập quyền, duy trì độc đảng, nhưng lại cho phép người dân được chọn cán bộ vào một số chức vụ nhất định.Với "Cởi mở," đồng nghĩa với "công khai hóa."

Gorbachev kêu gọi sự minh bạch trong guồng máy nhà nước.

Ông muốn dân chúng biết những hoạt động của nhà nước, càng biết rõ càng tốt.

Thực tế là ông giảm thiểu vai trò kiểm duyệt truyền thông của nhà nước, đồng nghĩa với vai trò của báo chí tăng triển, cho phép tự do ngôn luận, cải thiện nhân quyền.

Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Alexander Solzhenitsyn – nhà văn Nga bị lưu đày vì chống Stalin – được in và phát hành với số lượng khổng lồ vì quá nhiều dân Nga thèm khát đọc.

Tác phẩm Bác sĩ Zhivago của Boris Pasternak được in lại và cũng được dân chúng nồng nhiệt đón nhận.

Glasnost còn phép báo chí có quyền theo dõi và chỉ trích việc làm của chính quyền Sôviết.

Gorbachev nói thẳng với giới báo chí rằng họ tự do viết, nhưng phải viết đúng sự thật.

Ông khuyên nên tự do phơi bày nạn tham nhũng ở cấp cao, kể cả những thất bại của guồng máy nhà nước, và nên tìm hiểu về một số sai lầm kinh hoàng trong lịch sử Sôviết.

Nhờ đó mà hồ sơ tội ác tày trời của Stalin gồm những trại gulags giam giữ tù nhân rùng rợn, những cuộc thanh trừng giết hàng triệu người...

được bạch hóa và người dân thấy được mặt trái của một chế độ dã man được che dấu và bưng bít qua nhiều thập niên.

Báo chí tiếp tục phanh phui những chung cư chật hẹp chen chúc đông người, điều kiện vệ sinh thiếu thốn, chứng nghiện rượu, hút sách, ô nhiễm không khí, những xí nghiệp quá lỗi thời, kể cả guồng máy nhà nước quan liêu, chậm chạp.

Dân chúng càng sững sờ khi biết mức sống ở Hoa kỳ và các nước Tây Âu cao thế nào, và người dân tại những nước này hưởng thụ một cuộc sống đầy đủ tiện nghi ra sao, cao gấp mấy lần mức sống tại Liên sô.

Dân chúng giờ đây thấy cả một quá trình dài gần 70 năm xây dựng chủ nghĩa thất bại, và rất nhiều người dân thất vọng, mất niềm tin vào chủ thuyết cộng sản, và dần dần vỡ mộng về một hệ thống cồng kềnh và hủ lậu của nhà nước Sôviết.Ngày 26/4/1986, lò nguyên tử Chernobyl tại Ukraine phát nổ vào lúc 1 giờ 30 sáng.

Nguyên nhân do hệ thống bơm nước làm nguội lõi của lò phản ứng xây từ năm 1950 hư hỏng.

Thêm một nguyên nhân nữa là nhân viên bảo trì lò hạt nhân không được huấn luyện kỹ càng.

Hơn 300 gram chất đốt hạt nhân trong 1.661 thỏi thép nén đã bị nung nóng quá độ.

Áp suất tăng cao độ khiến lò phát nổ và phóng ra ít nhất 5% lõi hạt nhân vào bầu khí quyển.

Lượng phóng xạ thải vào không khí ước đoán mạnh gấp 10 lần quả bom nguyên tử nổ ở Hiroshima.

Khoảng 4 giây sau, thêm lò phản ứng số 4 phát nổ gây ra một cột lửa khổng lồ cao 1200m chứa đầy các hạt than chì phóng xạ.

Máy đo phóng xạ Geiger lại nằm trong kho, không có sẵn tại hiện trường nên mức độ phóng xạ tác hại bao nhiêu cũng chỉ phỏng đoán.

Đội cứu hỏa địa phương ập đến lại không có dụng cụ thích ứng để dập tắt lửa và khống chế chất phóng xạ.

Nhìn chung, qua tai nạn chết người này mới thấy hệ thống điều hành và cách giải quyết của nhà nước Sôviết tệ hại đến chừng nào.Với bản chất dối trá cố hữu, bộ chính trị Sôviết muốn ém nhẹm vụ nổ vì sợ mất mặt đối với quốc tế.

Sự dối trá bắt đầu từ ban giám đốc điều hành lò hạt nhân Chernobyl.

Họ báo về trung ương là vụ nổ đã được khống chế với một vài thiệt hại nhỏ.

Viktor Bryukhanov, được bổ nhiệm chức giám đốc nhà máy điện hạt nhân lúc mới 35 tuổi, là kỹ sư nhưng không phải là kỹ sư điện hạt nhân.

Ông ra lệnh cắt đứt mọi đường dây điện thoại quanh vùng Chernobyl, quyết không cho tin tức vụ nổ lọt ra ngoài.

Quyết định của Nguyên soái Sergei Akhromeyev, Tham mưu trưởng quân đội, cấm không cho dân chúng di tản sợ gây hoang mang.

Bụi phóng xạ bay đầy trời thế mà nhà nước vẫn cứ tìm cách che dấu một tai nạn chết người khủng khiếp.

Dân chúng ở thị trấn Pripyat gồm 45.000 người, nằm cách Chernobyl chỉ 3 cây số, vẫn sống thản nhiên, vẫn sinh hoạt bình thường, ngay cả hôm đó vẫn có 16 cặp làm đám cưới.TBT Gorbachev gửi ngay một ủy ban do Thủ tướng Ryzkhov dẫn đầu đến tận nơi để điều tra và gửi báo cáo về điện Cẩm Linh.

Họ đến nơi vào chiều thứ bảy.

Mãi đến gần trưa ngày hôm sau, tức là gần 1 ngày rưỡi từ khi chất phóng xạ bắn vào không khí, chính quyền địa phương mới quyết định di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi thị trấn Pripyat.

Đến lúc đó thì đã quá trễ.

Gần một ngày rưỡi bụi phóng xạ thấm vào da.

Hơn một ngày hít thở chất phóng xạ.

Một ngày mùa xuân kinh hoàng đó đeo đuổi dân chúng vùng Chernobyl mãi mấy mươi năm sau với các chứng bệnh ung thư, hoại huyết, và chứng tuyến giáp trạng do nhiễm độc phóng xạ.

Một nguyên tắc bất di bất dịch mà những người chưa hề sống dưới chế độ cộng sản cần phải biết là: sinh mạng con người dưới chế độ cộng sản chẳng là gì, miễn giữ cho bộ mặt của đảng và nhà nước đầy son phấn là được.Khi bụi phóng xạ bay đầy trời Ba Lan, vùng Baltic và Scandinavia nhà nước Sôviết vẫn bình thản.

Ngay cả lúc phòng thí nghiệm năng lượng Studsvik trên bờ biển Baltic thuộc Thụy Điển, và nhà máy điện nguyên tử Forsmark lên tiếng báo động mức độ phóng xạ cao hơn 150 lần bình thường nhà nước cộng sản vẫn giữ im lặng.

Họ không thông báo cho chính phủ các nước đang bị nhiễm xạ, cũng chẳng nói gì với dân chúng tại Ukraine, Nga và Belarus.

Họ cũng chẳng thông báo cho các đồng chí trong "khối thịnh vượng chung xã hội chủ nghĩa".

Sự thật là, 4 ngày sau vụ nổ, một báo cáo mật gửi về Kremlin cho biết 1.882 người đang được điều trị tại bệnh viện, và 204 người (trong số có 64 trẻ em) đang nguy kịch vì nhiễm độc phóng xạ nồng độ cao.

Mãi đến khi Thụy Điển xác định chất phóng xạ phải xuất phát từ Liên sô, nhà nước mới lên tiếng thừa nhận một cách yếu ớt.Phản ứng của bất cứ nhà nước cộng sản nào từ năm 1917 đến nay đều giống nhau: trước phớt lờ, sau là chối.

Truyền thống dối trá này chẳng lạ gì, nhưng lại là một dịp thử lửa chính sách glasnost (cởi mở) của Gorbachev.

Chính khẩu hiệu của glasnost là chính quyền trong sạch, nhà nước minh bạch.

Bộ chính trị phải công khai hóa vụ nổ, phải nhận lỗi lầm quản lý và điều hành, phải nhận trách nhiệm đã gây tai họa nghiêm trọng.

Quy định của chính sách glasnost đã nói rõ như thế.Nhưng Gorbachev thua đậm trên mặt trận glasnost.Gorbachev thua vì các quan chức bảo thủ trong quân đội.

Từ thống chế đến đại tướng, từ tham mưu trưởng đến đề đốc, tất cả đồng ý phải dứt khoát giữ im lặng, và nếu cần chỉ loan tin vắn tắt, tuyệt đối không "vạch áo cho người xem lưng" thảm họa Chernobyl.

Họ nói, đây là bí mật quốc gia (sic), không được tiết lộ ra ngoài.

Phần lớn đám quan chức này lớn lên trong thời kỳ cách mạng, đầu óc họ đông cứng toàn một mớ giáo điều, não trạng của họ hầu như không thể nào thay đổi.

Hóa ra chính sách "glasnost" không thể nào cởi mở chính vì những quan chức thủ cựu trong quân đội.Qua thảm họa lò hạt nhân, Gorbachev nhận ra được 2 bài học. (1) hệ thống nhà nước Sôviết đã quá lỗi thời, lối làm việc hoàn toàn máy móc, không một chút năng động, thiếu hẳn sáng tạo. (2) có quá nhiều cán bộ chỉ biết nghĩ đến nồi cơm, sẵn sàng dối trá để giữ ghế ngồi, bất chấp nguy hại đến sinh mạng người dân; (giám đốc nhà máy Bryukhanov, phó giám đốc Dyatlov, và kỹ sư trưởng Nikolai Fomin bị kết án 10 năm tù).

Và cũng từ 2 bài học này, ông quyết tâm phải thực hiện cho bằng được 2 điều. (1) Đẩy mạnh cải tổ nhanh hơn nữa. (2) Hạn chế vũ khí hủy diệt.

Thảm họa Chernobyl khiến ông ghê tởm vũ khí hạt nhân, dẫn đến ngày lịch sử 8/12/1987.

Hoa kỳ và Liên bang Sôviết ký hiệp ước hạn chế vũ khí hủy diệt tầm ngắn, và tầm trung.

Văn bản thống nhất rằng trong 3 năm, 1752 hỏa tiễn Sôviết và 859 hỏa tiễn Hoa kỳ có tầm xa từ 300 đến 3400 dặm sẽ được gỡ bỏ, kể cả các đầu đạn nguyên tử đi kèm.Từ ngày nắm chức Tổng bí thư, Gorbachev thay thế dần những cán bộ ngồi ù lì ôm chặt chức từ thời Brezhnev bằng những người đồng chí hướng.

Tuy vậy, số đồng chí bảo thủ vẫn còn khá nhiều trong điện Cẩm Linh.

Một lý do phũ phàng là Gorbachev vẫn không dám đẩy mạnh cải cách sợ phật lòng các quan chức thủ cựu vì họ đang giữ các chức vụ then chốt trong quân đội.

Những đồng chí già nua này vẫn muốn chạy đua sản xuất vũ khí với Hoa kỳ bất kể nền kinh tế trì trệ, vẫn muốn đóng quân ở Afghan, vẫn muốn giữ các nước Đông Âu trong gọng kềm Liên sô.

Vụ nổ Chernobyl là một ví dụ điển hình, họ vẫn sẵn sàng dối trá để trốn tránh trách nhiệm.

Sự dối trá đã ăn sâu vào từng thớ thịt, chạy trong máu, hầu như không thể nào tẩy rửa được.

Cuộc cách mạng tháng 10 đã tạo nên những kẻ giáo điều, đầu óc sơ cứng, luôn đặt tự ái và sĩ diện lên trên cả lợi ích đất nước.

Nếu không thay đổi được não trạng, thì chỉ còn cách thay đổi con người; nghĩa là cách chức hay sa thải.

Gorbachev chờ đợi thời cơ để ra tay.Và thời cơ đưa đến như một phép mầu.

Sự kiện xảy ra vào ngày 28/5/1987 đã làm đảo lộn cán cân cải cách và bảo thủ trong điện Cẩm Linh.

Đó là sự mạo hiểm chết người của Matthias Rust.Rust, một thanh niên Tây Đức 19 tuổi, thuê chiếc máy bay dân dụng Cessna 172-B tại Hamburg và bắt đầu chuyến phi hành đến các nước Bắc Âu.

Khởi hành đúng vào ngày 13/5/1987, Rust bay đến Na Uy, Phần Lan, Băng đảo, rồi Helsinki.

Mỗi nơi Rust rong chơi đôi ngày.

Chặng đường cuối, Rust cất cánh lúc 12:21 giờ trưa ngày 28/5 từ Helsinki và bay thẳng đến Moscow.

Đúng ra, Rust báo cho đài kiểm không sẽ bay đến Stockholm, nhưng mới bay khoảng 20 phút, Rust quay ngược chiều bay về hướng Moscow.

Vừa vượt qua không phận Estonia ở độ cao 1800 bộ, hệ thống radar của quân đội Liên sô phát hiện ngay và cho chiếc phản lực MIG-23 phóng lên theo dõi.

Phi công MIG-23 báo cho biết là chỉ máy bay dân sự hạng nhẹ, rồi để vuột (sic).

Một luồng radar khác cũng bắt được tín hiệu chiếc Cessna, nhưng lại tưởng là khinh khí cầu dùng để thăm dò thời tiết.

Khi một hệ thống phòng không khác phát hiện, các sĩ quan trực lại nghĩ dấu hiệu của một đàn chim, không chừng là bầy ngỗng.

Khi cách thủ đô Moscow 20 phút đường bay, hàng rào phòng thủ cuối cùng bảo vệ thủ đô lại tắt ngóm, chỉ vì máy móc phải tắt để bảo trì.

Cuối cùng, Rust hạ cánh an toàn xuống Công trường Đỏ nằm ngoài bức tường của điện Cẩm Linh.

Chỗ Rust hạ cánh chỉ cách văn phòng làm việc của TBT Gorbachev chừng 300m.Đang thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cuộc chiến một mất một còn giữa độc tài và tự do, giữa cộng sản và tư bản, với một cường quốc về quân sự như Sôviết, thế mà một chiếc máy bay lạ, xâm nhập không phận Liên sô, bay suốt hai tiếng rưỡi với quãng đường dài 600 cây số và hạ cánh an toàn ngay giữa Công trường Đỏ, sát điện Cẩm Linh, nơi tập trung tất cả quyền lực tuyệt đối của Liên bang Sôviết, mà không một ai hay, không một lời cảnh cáo, không còi báo động, và cũng không có một biện pháp an ninh thích ứng.

Nghe cứ tưởng như chuyện đùa.

Thế mà nó lại xảy ra mới thật lạ.

Đúng ra chiếc Cessa phải bị bắn hạ hoặc bị ép hạ cánh lúc tiến vào không phận Estonia, 20 phút đầu tiên của chặng bay cuối cùng của Matthias.So với vụ nổ nhà máy hạt nhân Chernobyl đã mất mặt với thế giới, vụ chiếc Cessna ngang nhiên đậu ngay giữa Công trường Đỏ là một điều sỉ nhục không thể nào chấp nhận được.

Ở vị thế quân sự với máy móc tối tân, với vũ khí hiện đại, với hỏa tiển hủy diệt tầm xa, thế mà hệ thống phòng thủ không thể cản nổi một chiếc máy bay dân dụng Cessna.

Thống chế Sergei Akhromeyev, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Liên Xô, kinh hãi khi nghe tin dữ và tưởng tượng đến cơn thịnh nộ của Gorbachev khi biết chuyện.Đúng như Akhromeyev tiên đoán, Gorbachev đang dự hội nghị thượng đỉnh tại Bá Linh với các lãnh tụ Đông Âu, vội vã cắt ngắn thời gian, quay về Moscow để hạch tội.

"Đây là quốc nhục, nhục quốc thể... nhục... nhục không thua vụ Chernobyl," Gorbachev phẫn nộ nói với các tùy viên, và cho rằng các tướng lãnh vì không đồng ý với ông về hạn chế vũ khí và cắt giảm ngân sách quốc phòng nên cố tình để chiếc Cessna đáp xuống Công trường Đỏ để làm ông mất mặt với thế giới.

Hôm sau, Gorbachev triệu tập các tướng lãnh chịu trách nhiệm phòng thủ, và hơn một tiếng đồng hồ, ông "lên lớp" về an ninh, hạch sách đủ điều kèm theo lời mỉa mai cay độc.

Tướng Pyotr Lushev, vị tư lệnh quân đội chịu trách nhiệm phòng thủ Moscow, và Thống chế Sergei Akhromeyev may mắn thoạt nạn.

Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng, Thống chế Sergei Sokolov, vị tướng tư lệnh chiến trường Afghan, từ chức ngay trước mặt Gorbachev.

Riêng tướng Alexander Koldunov, một phi công xuất sắc trong Thế chiến II, tư lệnh lực lượng phòng không Liên sô, bị sa thải ngay tại chỗ.Gorbachev đã lợi dụng vụ chiếc máy bay Cessna để thanh trừng quân đội tận gốc, loại trừ những kẻ cản đường cải cách.

Hơn 150 sĩ quan, những kẻ tỏ ý phản kháng chính sách "tái cấu trúc" và "cởi mở," bị sa thải; một số khác phải ra toà án quân sự và lãnh án.

Trong vòng 1 năm kể từ sự kiện Rust, toàn bộ giới lãnh đạo chóp bu tại Bộ Quốc phòng, tại Bộ Tổng tham mưu, trong hàng ngũ tư lệnh khối Warsaw và tư lệnh các quân khu đều bị thay đổi.

Vào thời điểm này, Gorbachev đã có lợi thế.

Những người cản đường "cởi mở," những kẻ bất bình "tái cấu trúc," đã bị loại trừ.

Từ 1988 trở đi, Gorbachev trả tự do nhiều hơn cho báo chí, và các phương tiện truyền thông, kể cả thả lỏng các nước Đông Âu.Điểm trớ trêu là các lãnh tụ Đông Âu phải mất một thời gian mới hiểu được ý nghĩa cải cách của Gorbachev.

Họ là những kẻ được Liên sô dựng lên, bất chấp ý nguyện của người dân.

Vì thế, họ luôn cậy nhờ vào sức mạnh quân đội, xe tăng, và tiền viện trợ của Liên sô để cai trị dân chúng.

Sau mỗi biến động xảy ra và cuộc trấn áp thành công, Liên sô lại đổ tiền vào để giữ an ninh, gọi là thưởng công.

Trợ lý Andrei Grachev cho biết, "Liên sô mua chuộc lòng trung thành và sự lệ thuộc chính trị của các lãnh tụ Đông Âu bằng tiền viện trợ.

Số tiền bao cấp này ngày càng cao, vượt hơn chi phí bao cấp cho chính người dân Liên sô."

Đối với Gorbachev, đó là điều phi lý và phải chấm dứt.

Làm sao lại lấy tiền của dân Nga để lo cho dân Đông Âu?

Sự phi lý này kéo dài mấy chục năm, và thất thoát biết bao nhiêu tiền của.

Sự can thiệp vào nội bộ của các nước Đông Âu giảm dần, các cố vấn Nga vẫn còn có mặt nhưng họ được lệnh không đóng góp ý kiến gì, để tự những lãnh tụ này quyết định mọi công việc điều hành quốc gia.

Các lãnh tụ Đông Âu dần dần hiểu được ý nghĩa của "cởi mở" và "tái cấu trúc", bao gồm việc họ phải tự lo cho người dân trong nước, và đừng trông chờ vào sự viện trợ của Liên sô nữa, lúc đó họ ngơ ngác không biết xoay xở thế nào để sinh tồn.Đất nước Ba Lan ngày càng lâm vào cảnh bi đát vì lệnh cấm vận của Hoa kỳ từ năm 1981.

TBT Jaruzelski không biết xoay xở để cứu nguy nền kinh tế.

Bang giao với Liên sô vẫn còn, nhưng mối liên hệ tài chánh ngày càng nhạt dần.

Cuối cùng đảng cộng sản Ba Lan đành chịu nhượng bộ trước áp lực luân lý, kinh tế và chính trị do Giáo hoàng Gioan Phaolô và TT Reagan áp đặt.

Các nhà tù trở nên trống rỗng, phiên tòa xử ông Walesa về tội vu khống giới chức chính quyền nhà nước bị huỷ bỏ.Sự nhượng bộ đầu tiên là Jaruzelski cam kết mở cuộc đối thoại với Giáo Hội vào ngày 19 tháng 2 năm 1987 qua hội nghị Bàn Tròn.

Trong cuộc hội nghị này, hai bên đàm phán gay cấn về quyền lợi của Công đoàn, và vai trò của Giáo hội trong việc xây dựng đất nước Ba Lan.

Đây là bước khai phá then chốt trong tiến trình dân chủ.

Lập tức, TT Reagan bãi bỏ toàn bộ lệnh trừng phạt, kèm theo lời khuyến cáo Hoa kỳ sẽ giám sát trong thời gian tới bảo đảm sự hòa hợp giữa Công đoàn và nhà nước, nhất là các thỏa thuận hai bên từ trước đến nay vẫn phải được tôn trọng.

Vào thời điểm này, nền kinh tế Ba Lan đã tổn thất khoảng 15 tỷ, gồm 2 tỷ nợ tín dụng của Hoa kỳ.

Bốn tháng sau, tháng 6/1987, vị Giáo Hoàng 67 tuổi trở về quê hương lần thứ ba trong chuyến công du 7 ngày.

Hàng triệu dân chúng nô nức nghênh đón ngài.

Giáo hoàng Gioan Phaolô đi khắp Ba Lan lên tiếng đòi hỏi nhân quyền và khen ngợi những thành quả của Công Đoàn Đoàn Kết.

Trong buổi cầu nguyện cùng với 1 triệu rưỡi dân chúng tại Gdansk, Giáo hoàng Gioan Phaolô an ủi các giáo dân, "...cuộc hành trình cam go của lịch sử Ba Lan có thể ví như cuộc khổ nạn của Đức Kitô... chịu đau đớn và vỡ nát, nhưng sẽ chỗi dậy."

Cùng một thời điểm, ở cách xa Ba Lan chừng vài trăm dặm, TT Reagan ghé thăm Bá linh và đọc một bài diễn văn hùng hồn tại cổng Brandenburg của Bức tường Ô nhục trước cử tọa chừng 10 nghìn người.

Tổng thống chỉ thẳng vào bức tường và dõng dạc, "Ông Gorbachev, hãy mở cổng ra!

Ông Gorbachev, hãy phá sập bức tường này!"

Bức tường ngăn chia Đông và Tây Đức, biểu tượng quyền lực của Sôviết tại Âu châu, và cũng là biểu tượng của cuộc Chiến tranh Lạnh giữa cộng sản và tự do, được xây cấp tốc trong 2 ngày vào tháng 6/1961 theo lệnh của Khrushchev.Đến tháng 7 năm 1988, TBT Gorbachev thăm viếng Warsaw.

Ông chính thức lên tiếng thừa nhận Công đoàn Đoàn kết và khuyên TBT Jaruzelski nên hợp tác với Giáo hội Công giáo Ba Lan.

Vào ngày 5 tháng 4/1989 hai bên (Cộng sản và Giáo hội Công giáo Ba Lan) ký thỏa ước hợp thức hóa – một lần nữa – Công đoàn Đoàn kết, và vào tháng 6 mở cuộc tuyển cử vào lưỡng viện quốc hội, sau gần nửa thế kỷ người dân chỉ biết bầu cho những đảng viên của điện Cẩm Linh.Ba Lan là nước Đông Âu đầu tiên trong thời Chiến tranh Lạnh tổ chức bầu cử tự do.

Và kết quả cuộc bầu cử như một cái tát vào mặt đảng cộng sản Ba Lan.

Công đoàn Đoàn kết chiếm 33 trên 35 ghế Hạ viện, và 99 trên 100 ghế Thượng viện.

Trước ngày bầu cử, Jaruzelski và những kẻ thân cận vẫn tin rằng đảng cộng sản sẽ nắm đa số ghế tại lưỡng viện.

Bộ chính trị Ba Lan ngây thơ như một đứa trẻ mới lớn.

Họ không biết rằng quyền lực họ đang nắm trong tay là nhờ vào hậu thuẫn của Moscow.

Dân chúng chưa hề ủng hộ họ trong từng ấy năm.

Một khi dân Ba Lan biết Liên sô sẽ không đưa quân đội và xe tăng tràn sang biên giới để đàn áp nữa thì họ sẽ không còn gì phải sợ.

Họ dồn uất ức trong 40 năm vào lá phiếu và chỉ bầu cho các ứng cử viên thuộc Công đoàn Đoàn kết.

Sự thật như Alexander Kwasniewski, người trẻ nhất và khôn ngoan nhất trong hàng ngũ lãnh đạo Ba Lan, nói: "Rất nhiều đảng viên cộng sản gạch bỏ tên của cả những ứng cử viên cộng sản!"

Khi chính người cộng sản chán ghét cộng sản thì không còn gì để nói nữa.Tuy Công đoàn thắng lớn nhưng Walesa thận trọng.

Ông nghĩ một khi bộ Nội vụ và bộ Quốc phòng còn nằm trong tay đảng cộng sản thì không nên dồn Jaruzelski vào chân tường.

Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với ban lãnh đạo, ông đề nghị Tadeusz Mazowiecki, một trong những người thành lập Công đoàn, đứng ra nhận chức vụ Thủ tướng vào tháng 8/1989.

Riêng Jaruzelski đắc cử "vẻ vang" – được đúng 1 phiếu – vào chức vụ tổng thống của nước Cộng hòa Ba Lan (không còn hai chữ Nhân dân nữa).

Ông đắc cử vì lẽ chỉ mỗi mình ông tranh cử.

Ở ghế tổng thống, ông chỉ có danh nhưng không có quyền.

Mọi việc điều hành quốc gia Ba Lan đều nằm trong tay Thủ tướng Mazowiecki.

Mãi đến tháng 12/1990, Jaruzelski từ chức, và Lech Walesa đắc cử thật vẻ vang vào chức vụ Tổng thống Ba Lan.

Walesa thắng vinh dự vì cả nước dồn phiếu cho ông.

Lần đầu tiên trong lịch sử Ba Lan sau Thế chiến II, toàn bộ nội các của chính phủ không còn một đảng viên cộng sản nào.Đúng như TT Reagan và Giáo hoàng Gioan Phaolô tiên đoán, cuộc bầu cử tự do tại Ba Lan"là con dao đâm thẳng vào tim đế quốc Sôviết," mở đầu cho một luồng gió dân chủ thổi vào các nước Đông Âu.

Chịu ảnh hưởng làn gió mát dân chủ từ Ba Lan là Hungary (gọi tắt là Hung) và Đông Đức.

Từ năm 1988, sau khi lên nắm quyền, Miklós Németh, Thủ tướng Hung, hoan nghênh cải cách và nồng nhiệt ủng hộ sự bầu cử tự do.

Đảng cộng sản Hungary cho phép dân chúng đi lại tự do, kể cả du lịch sang các nước láng giềng.

Tháng 5/1989, với áp lực của dân chúng và "đèn xanh" của Sôviết, Hungary chính thức mở cửa biên giới thông thương sang Áo.

Dân Đông Đức nhìn thấy con đường dẫn đến tự do ngắn quá, dễ dàng quá.

Họ chỉ cần băng qua Tiệp, đổ vào Áo, rồi quay ngược trở lại Tây Đức để đoàn tụ với gia đình sau gần nửa thế kỷ chia ly.

Khoảng tháng 11/1989, Tòa Đại sứ Tây Đức tại Prague (Tiệp), Vienna (Áo), Warsaw (Ba Lan), và Budapest (Hung) tràn ngập dân Đông Đức xin tỵ nạn.

Bộ trưởng Ngoại giao Hung, Gyula Horn, cũng cho phép 8 nghìn dân tỵ nạn Đông Đức định cư tại Tây Đức qua ngả Áo.

Erich Honecker, TBT Đông Đức, tức giận và lập tức ra lệnh đóng cửa biên giới thông sang Tiệp.

Nhưng Honecker đã tính sai nước cờ.

Dân chúng nổi dậy biểu tình khắp Đông Đức.

Cả nước hỗn loạn.

Áp lực trong nước bỗng tăng cao vùn vụt như nồi súp-de.

Ngày 18/10/1989, Honecker từ chức Tổng bí thư.Bức tường Bá linh, còn mang tên là Bức tường Ô nhục, cao hơn 4m, dày hơn 1m, và dài gần 160 km, ngăn chia Đông và Tây Bá linh, đồng thời cô lập thành phố ngay giữa lòng Đông Đức.

Đêm mùng 9/11/1989, hơn 20 nghìn người tụ họp hai bên bước tường tại nút chặn Bornholmer ca hát, nhảy múa, uống bia và rượu sâm-banh trước sự bình thản của quân đội.

Đám lính canh và mật vụ vẫn chờ lệnh của thượng cấp dẹp loạn và bắn bỏ những ai vượt tường.

Khoảng 10:30 khuya, dân chúng leo lên cả bờ tường la to, "Tor auf!

Tor auf!; Mở cổng!

Mở cổng!"

Cả một biển người tràn ngập nút chặn, vượt tường qua lại tự nhiên không gặp một sự kháng cự nào.

Lúc đó, hình như không một quyền lực nào có thể cản trở niềm khao khát tự do của dân chúng 2 miền.

Chờ mãi không thấy lệnh thượng cấp, đám lính canh đành mở cổng để hai bên thông thương tự do.

Khoảnh khắc sau, dân 2 miền Đông và Tây cùng nhau dùng xẻng, búa tạ, búa chèn, đập mẻ từng góc tường.

Bức tường bị đẽo gọt dần và khi họ dùng xe ủi đất đâm thẳng vào bức tường đúc bằng xi măng kiên cố thì nó hoàn toàn bị khuất phục.

Ngã quỵ và đổ nát thành từng mảnh.Bức tường Bá linh.

Bức tường Ô nhục.

Biểu tượng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu, đứng sững sững trong 18 năm, đã sụp đổ tan tành.Giáng sinh 1989.

Khán giả trong phòng hòa nhạc Schauspielhaus tại Đông Đức đang háo hức chào đón nhạc trưởng Leonard Bernstein; người điều khiển dàn đại hòa tấu trình diễn bản giao hưởng số 9 của Beethoven.

Các nhạc công tài danh được tuyển chọn từ Đông và Tây Đức, Pháp, Sôviết, và Hoa kỳ cùng nhau hợp tấu với đôi bàn tay điêu luyện của Bernstein.

Giàn giao hưởng tổng hợp trăm ca viên trong bộ đồng phục nghiêm trang chờ lệnh của vị nhạc trưởng thiên tài.

Cảm hứng về luồng gió dân chủ thổi khắp Đông Âu, và mới hơn tháng trước, bức tường ô nhục sụp đổ, ông đổi một chữ trong bài thơ nổi tiếng của Friedrich Schiller, "Ode to Joy," thành "Ode to Freedom," và các ca viên hùng hồn hát vang bản giao hưởng số 9 của Beethoven vinh danh tự do.Tự do.

Ôi! tự do.

Niềm vui dào dạt tràn ngập phòng hòa nhạc, từ nhạc sĩ đến nhạc công, từ ca viên đến khán giả.

Ode to Freedom vang lừng, nỗi cảm xúc thấm sâu tận đáy tâm hồn mỗi cử tọa khiến bầu khí phòng hòa nhạc trầm lắng, chỉ còn nghe hai chữ tự do vang vọng bên tai.

Gần một năm sau, ngày 3/10/1990, Đông và Tây thống nhất.

Ngày lịch sử đánh dấu, một lần nữa, một nước Đức hùng cường mang tên Cộng hòa Liên bang Đức.Ngày 1/12/1989, TBT Gorbachev cùng phu nhân chính thức viếng thăm Vatican.

Cả hai, vị Giáo hoàng và ông Gorbachev, nói chuyện riêng hơn tiếng đồng hồ.

Báo New York Times mô tả, "Lần đầu tiên, lãnh tụ của nước Sôviết cộng sản vô thần gặp gỡ vị đại diện của Thiên Chúa."

Học giả Weigel ví von lần gặp gỡ đó xem như một sự đầu hàng của chủ nghĩa vô thần.

Cuộc chiến giữa chủ nghĩa cộng sản và Karol Wojtyla cùng toàn thể dân Ba Lan, kéo dài qua bao nhiêu thập niên, đã kết thúc.Cuộc bầu cử tự do tại Ba Lan, và bức tường Bá linh sụp đổ là khởi sự cho một kết thúc của chủ nghĩa cộng sản vô thần.

Tất cả tiếp theo đó chỉ là thời gian.

Tiệp với cuộc Cách mạng Nhung chấm dứt 4 thập niên cai trị của đảng cộng sản; lãnh tụ Todor Zhivkov của Bulgaria bị hạ bệ và kéo theo đảng cộng sản; dân Romania lật đổ Nicolae Ceausescu và lập tòa án xử tử cả hai vợ chồng; đảng cộng sản Nam Tư cũng bị giải thể.Ngoài các nước Đông Âu là chư hầu, Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Sôviết bao gồm 15 nước cộng hòa khác; trong đó nước Nga là một.

Đứng đầu Liên bang Sôviết là Chủ tịch Gorbachev, và Boris Yeltsin là Chủ tịch nước Nga – một người nhiệt tình ủng hộ chính sách tái cấu trúc.

Tháng 8/1991, các đảng viên cộng sản bảo thủ bất ngờ làm một cuộc đảo chánh lật đổ Gorbachev; khi gia đình ông đang nghỉ mát tại Crimea.

Họ muốn bãi bỏ ngay perestroika và glasnost, tái lập trật tự cũ, và tập trung tất cả quyền hành vào tay đế quốc Sôviết.

Đó là Bè Lũ Tám Tên (Bát Nhân Bang, Gang of Eights): Gennady Yanayev – Phó Chủ tịch Sôviết; Vladimir Kryuchkov – Trùm mật vụ KGB; Dimitri Yazov – Bộ trưởng Quốc phòng Sôviết; Valentin Pavlov – Thủ tướng Sôviết; Oleg Baklanov – Thành viên Hội đồng Quốc phòng; Vasily Starodubtsev – thành viên Quốc hội Sôviết; và Alexander Tizyakov – Chủ tịch Doanh nghiệp Nhà nước.Cuộc đảo chánh thất bại nhờ sự can đảm và kiên quyết của Boris Yeltsin (1931-2007), Chủ tịch Cộng hòa Nga, cứu nguy Gorbachev.

Yeltsin nổi bật như một biểu tượng chính trị cải cách của Nga.

Cuối năm đó, Yeltsin đảo ngược trật tự của Sôviết kể từ sau Thế chiến II.

Liên bang Sôviết tan rã và 15 nước chư hầu tuyên bố độc lập.

Ngày 25/12/1991, đúng ngày lễ Giáng sinh, Gorbachev từ chức, chính thức chấm dứt Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Sôviết.

Yeltsin được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga, và lần đầu tiên trong gần ¾ thế kỷ, nội các nước Nga không có một bóng đảng viên cộng sản.

Lá cờ búa liềm màu đỏ thấm máu của 100 triệu nạn nhân được thay thế bằng lá cờ 3 màu (trắng, xanh, đỏ,) và trở thành biểu tượng của Liên bang Nga.Sự tan rã của Liên bang Sôviết nằm ngoài dự liệu của Gorbachev.

Ông đưa ra chính sách "tái cấu trúc" và "cởi mở" để cứu nguy chủ nghĩa cộng sản.

Gorbachev chỉ muốn làm cho chủ nghĩa cộng sản tinh tuyền như theo kinh điển của Lênin.

Ông muốn xây dựng một đất nước Nga hùng mạnh về kinh tế, thâm tâm ông chẳng hề muốn xóa bỏ chủ nghĩa cộng sản trên đất mẹ.

Điều ông không ngờ là chính "cởi mở" đã cởi xiềng xích và bẻ gãy gông cùm của sự thống trị độc tài.

Bánh xe lịch sử lăn và xoay về hướng tự do, dân chủ, trả lại nhân phẩm cho hàng trăm triệu con người và ông không thể nào cưỡng lại được.

Nỗi khao khát tự do của dân chúng bị kềm kẹp trong gần nửa thế kỷ bùng nổ như một thùng thuốc súng, vũ bão như một cơn lốc, thô bạo như nước lũ, hung dữ như nguyên tử, và không gì có thể kềm hãm được.Nếu đế quốc La mã tan rã dần, từ lụn bại đến tan rã kéo dài cả trăm năm thì đế quốc vô thần Sôviết lại chết tức tưởi.

Nó chết như chưa từng bao giờ được sống.

Lịch sử cần 3 người, một Công giáo – Giáo hoàng Gioan Phaolô II, một Tin lành – TT Ronal Reagan, và một Chính thống giáo – TBT Mikhail Gorbachev để khai tử chủ nghĩa cộng sản.

Thế mới biết chủ nghĩa vô thần, sức mạnh của Satan khủng khiếp đến chừng nào.

Âm thầm, lặng lẽ, vô thần rút vào bóng tối chờ một cơ hội khác sau gần ¾ thế kỷ gieo rắc sự lầm lạc.Tác giả SƠN NGHỊTài liệu tham khảo😀avid McLellan, Maxism and Religion: A Description and Assessment of theMarxist ritique of Christianity (London, The MacMillan Press LTD, 1987)John de Marchi, I.M.C., The True Story of Fatima (Imprimatur 1947 and 2009)Matthew J.

Ouimet, The Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet Foreign Policy (Chaped Hill and London, The University of North Carolina Press, 2003)George Weigel, Witness To Hope (New York, PerfectBound of HarperCollins Publishers, Inc., 2005)Archie Brown, The Gorbachev Factor (New York, Oxford University Press Inc., 1996)Arcbishop Fulton Sheen, The World's First Love (New York, McGraw-Hill Book Company Inc., 1952)Paul Kengor, The Crusader: Ronal Reagan and the Fall of Communism (New York, HarperCollins Publishers Inc., 2006)Time Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,974548,00.htmlTime Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,159069,00.htmlSource: https://tuongtri.com/category/son-nghi
 
Sứ Điệp Fatima
Bài 3: HIỆN TƯỢNG FATIMA, CỘNG SẢN, VÀ HỒI GIÁO


FATIMA VÀ HỒI GIÁO

Chủ nghĩa cộng sản cổ võ đấu tranh để tiến tới một thế giới đại đồng không còn biên giới giữa các nước, xã hội không còn giai cấp, không cần ông bà cha mẹ, không cần tôn giáo.

Đó là một thế giới không tưởng.

Học thuyết Hồi giáo (Muhammadism) trộn lẫn cả Do-thái giáo và Thiên Chúa giáo và giới thiệu cho thế giới ra một tôn giáo mới.

Nhìn bề ngoài, đạo Hồi trông yêu chuộng hòa bình, nhưng cốt lõi là cả một đe dọa ngấm ngầm với bổn phận "thánh chiến, jihad," dùng vũ lực và sẵn sàng hy sinh mạng sống.

Một học giả Hồi nổi tiếng Ibn Khaldun (1332-1406) khẳng định, "thánh chiến" không còn là một cuộc chiến tự vệ, nhưng phải là một bổn phận thiêng liêng của tất cả các tín đồ Hồi để đạt được mục đích là Hồi hóa toàn thể nhân loại – mọi người phải quy phục Allah – qua sự thuyết phục hoặc bằng vũ lực.

Nếu chủ nghĩa cộng sản phủ nhận tôn giáo thì chủ nghĩa Hồi nhìn nhận chỉ một tôn giáo Hồi duy nhất trên toàn thế giới.

Vào thế kỷ trước, chủ nghĩa Phát-xít gieo đau thương cho nhân loại vì tin rằng chỉ có dòng giống Aryan duy nhất thuần chủng là đáng sống, còn những chủng tộc khác đã nhiễm bẩn, và theo luật đào thải, cần phải loại trừ.

Chủ nghĩa Hồi cũng thế, các tôn giáo khác với đạo Hồi cũng cần phải bị tiêu diệt, và đó là một trong những bổn phận của tín đồ Hồi.

Một khi không còn tín hữu, thì tôn giáo đó tự nhiên sẽ biến mất.

Vì thế, cần tiêu diệt càng nhiều tín hữu của các tôn giáo càng tốt.

Muhammad, giáo chủ Hồi, dạy bảo tín đồ, "Ta đã được lệnh Thượng đế tạo chiến tranh chống lại toàn thể nhân loại cho đến khi họ nhìn nhận rằng không có thần nào khác ngoài Allah và Muhammad là sứ giả của Thượng đế; và họ phải học thuộc kinh nguyện, và trả thuế theo luật pháp Hồi (tức là đã trở thành tín đồ Hồi).

Nếu họ làm như vậy, sinh mạng và tài sản của họ sẽ được bảo vệ." (Sahih Muslim 1:33).Hồi giáo giống cộng sản và phát-xít ở chỗ tận dụng vũ lực để đạt được mục đích.

Ở một góc nhìn nào đó, Hồi giáo nguy hiểm hơn cộng sản, vì tiềm ẩn trong chính trị là một niềm tin cực đoan của tôn giáo, dẫn đến bạo lực và xem giết người là một cách tử đạo.

Bạo lực là nhân tố đặc thù của đạo Hồi cực đoan và đến đầu thế kỷ 21, cuộc "thánh chiến" của quân khủng bố gieo chết chóc gây đau thương đến tột đỉnh, và thách thức sự chịu đựng của nhân loại.Hilaire Belloc, nhà văn kiêm sử học nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20, nêu ra 5 dị giáo có ảnh hưởng trầm trọng và gây nguy cơ hủy diệt nền văn minh Thiên Chúa giáo.

Đó là Arianism, Mohammedanism (Islam), Albigensianism, The Reformation (Thệ phản), and "The Modern Phase."

Belloc chứng minh học thuyết của Hồi giáo chỉ dựa vào Thiên Chúa giáo chính thống và biến dạng đi cho có vẻ mới lạ.

Ông kết luận, Hồi giáo chỉ là dị giáo từ Thiên Chúa giáo, giống như Tin lành, Thệ phản, và Luther.

Đạo Hồi bành trướng nhanh bằng chiến tranh quân sự, với tham lam chính trị của một số giáo sĩ cực đoan, và khôn khéo lợi dụng những biến động xã hội để tạo mâu thuẫn.

Nếu hiểu theo đúng khảo cứu này thì chủ nghĩa Hồi giáo và chủ nghĩa cộng sản rất giống nhau ở chiến thuật, sự khích động, và bạo lực.Sau Thế chiến I, vương quốc Ottoman ở Thổ-nhĩ-kỳ sụp đổ, vương quốc cuối cùng của đế quốc Ả-rập cáo chung, đánh dấu gần 13 thế kỷ nắm quyền lực bành trướng đạo Hồi.

Trong hậu bán thế kỷ 20, thế giới bận rộn đương đầu với chủ nghĩa cộng sản và người ta nghĩ một thời quyền lực vàng son của khối Ả-rập đã qua rồi, nhưng Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen (1895-1979) lại khuyến cáo rằng Hồi giáo sẽ trổi dậy và bành trướng trở lại rất mạnh.

Tổng Giám mục Sheen là một nhà thông thái, chuyên nghiên cứu về Cộng sản và Hồi giáo.

Ngài để lại một gia tài tinh thần đồ sộ cho Giáo hội gồm 66 cuốn sách biên khảo, và "The World's First Love," xuất bản năm 1952 rất được nhiều người biết đến; trong đó Ngài viết, "Các dị giáo khác có một khoảng thời gian phát triển mạnh mẽ, rồi rơi vào sự phân rã học thuyết khi vị giáo chủ chết, và cuối cùng tan biến như một phong trào xã hội mơ hồ.

Hồi giáo, trái lại, chỉ mới là bước đầu tiên.

Chưa hề có một giai đoạn nào đạo Hồi suy giảm số lượng tín đồ, hoặc tín đồ thiếu thốn lòng mộ đạo."

Lời tiên tri của Ngài vào giữa thế kỷ 20 nay đã trở thành sự thật.

Đạo Hồi, đặc biệt nhóm khủng bố cực đoan, bùng nổ mạnh mẽ vào đầu thế kỷ 21.Nếu nhân loại khốn khổ với chủ nghĩa cộng sản trong suốt thế kỷ 20 thì Hồi giáo là cơn ác mộng của nhân loại trong thế kỷ 21.

Tại sao thế?

Thưa vì sự tàn bạo, độc ác và dã man của nhóm người Hồi cực đoan này.

Đôi khi sự dã man và tàn bạo còn rùng rợn hơn chủ nghĩa cộng sản.

Trước hết, nên tìm hiểu gốc gác đạo Hồi để hiểu rõ bản chất của tôn giáo này.LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN ĐẠO HỒIHồi giáo do Muhammad khai sinh vào thế kỷ VII tại bán đảo Ả-rập.

Trước khi đạo Hồi được thành lập, dân chúng thờ cúng đa thần nhưng từ lúc Muhammad nổi lên như một vị tiên tri, họ chỉ còn thờ độc thần là Allah.

Hiện nay bán đảo Ả-rập gồm Ả-Rập Saudi, Yemen, Bahrain, Qatar, Oman, Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Kuwait với khoảng 85% dân số của những nước này theo đạo Hồi.Muhammad sinh ngày 26/4/570 Công nguyên.

Do cha mẹ mất sớm nên Muhammad được ông bác Abu Talib đem về nuôi nấng và dạy dỗ.

Thuở thiếu thời, Muhammad chịu ảnh hưởng Do-thái giáo và Kitô giáo nhờ theo ông bác giao tiếp buôn bán với các tín hữu của hai đạo này tại các vùng Ethiopia, Yemen, Syria, và Palestine.

Muhammad nhận ra Do-thái giáo chỉ tôn thờ Yahweh (Giavê) và Kitô giáo chỉ mỗi Thiên Chúa.

Ông cũng nhận thấy tục thờ đa thần của dân Ả-rập trông hỗn tạp, nên nảy ra ước muốn đem đến cho dân Ả-rập một Thượng đế duy nhất.Theo lịch sử của đạo Hồi, năm 40 tuổi ông được thiên sứ Ga-bri-en dưới hình chim lửa truyền lệnh làm sứ giả cho Allah (Thượng đế) để rao truyền đạo Hồi.

Cũng theo truyền thuyết, thiên sứ đọc cho Muhammad nghe đến thuộc lòng những lời kinh vì ông mù chữ.

Ông đọc lại cho những người thân cận và cũng bắt họ học thuộc lòng.

Sau khi ông chết (8/6/632), tín đồ nhớ lại và ghi chép thành quyển kinh Koran, giáo lý căn bản của đạo Hồi.Đạo Hồi theo tiếng Ả-rập là Islam; và những người theo đạo Hồi gọi là Muslim.

Các đạo sĩ hay giáo sĩ gọi là Imam.

Nghĩa nguyên thủy của chữ "Islam" là "quy phục, thần phục," (Koran 51:56).

Islam được rút ra từ chữ gốc "salam" nên còn thêm một nghĩa nữa là "kiến tạo hòa bình."

Hồi giáo chấp nhận Tân Ước của Kitô hữu và Cựu Ước của người Do Thái là công trình của Thiên Chúa.

Những người theo Hồi giáo được biết đến như những người Moors, Turks và Mamluk và chỉ tin vào một Allah.

Tuy vậy, Allah của đạo Hồi khác hẳn Thiên Chúa của Kitô giáo và Giavê của Do-thái giáo.

Hồi giáo phủ nhận Chúa Ba Ngôi, thậm chí cho rằng tin vào Chúa Ba Ngôi là phạm thánh (Koran 4:171).

"Những kẻ nào tuyên bố, 'Allah chính là Messia, con trai của Maria' là kẻ tà đạo." (Koran 5:18).

Đây là một Thượng đế riêng biệt của Hồi giáo, hoàn toàn khác hẳn với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, và học thuyết Allah trở thành trung tâm của triết lý Hồi giáo.

Có lẽ vì thế mà dân Hồi luôn xem Kitô hữu, và người Do-thái là tà đạo.

Qua nhiều thế kỷ, người Hồi giáo đã tham gia vào nhiều cuộc chiến tranh khốc liệt với Kitô giáo và Do Thái giáo.

Kinh Koran gọi Kitô hữu và tín hữu Do Thái là Nhóm Dân của Kinh Thánh (People of the Book).Biểu tượng của Hồi giáo là hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao, và trở thành lá cờ Hồi phổ biến bắt đầu từ thời đế quốc Ottoman.

Trăng khuyết (hay gọi là trăng thượng tuần) tượng trưng cho vầng trăng mới (Koran 2:189, 10:5, 17:12), bắt đầu một tháng âm lịch của đạo Hồi.

Và ngôi sao là sự trang điểm cho thiên đàng, để xua đuổi ma quỷ, và để dẫn đường cho con người về chốn cùng đích (Koran 6:97, 67:5).Hồi giáo, như Do thái giáo và Thiên Chúa giáo, nhìn nhận tổ phụ Áp-ra-ham, Gia-cóp, Isaắc.

Tín đồ Hồi tin các tiên tri Isaiah, Gioan Tiền hô, và đặc biệt tin Đức Giêsu chỉ là tiên tri – khác với Thiên Chúa giáo tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa – ngang hàng với Mohammed, là sứ giả cuối cùng của nhân loại.

Tập tục của Hồi giáo gần giống Do-thái giáo trong thời cựu ước (trước khi Đức Giêsu sinh ra) gồm trả thù với châm ngôn mắt đổi mắt và răng đền răng, giết bé gái sơ sinh, tục cắt da quy đầu và cắt âm vật, giết gái chửa hoang, tục ném đá tử hình công khai... các nước Hồi giáo cực đoan vẫn giữ các hủ tục này mãi đến tận bây giờ.Năm 25 tuổi, Muhammad lấy góa phụ Khadijah đã 40 tuổi.

Trong 10 năm, bà sinh cho Mohamét 6 người con, trong đó có hai người con trai: Qasim, Tayed nhưng cả hai đều chết khi còn thơ ấu, và 4 con gái: Roqayya, Um-Kulsum, Zainab, Fatima.

Sau khi bà Khadija chết, Mohamét lấy thêm 11 người vợ khác, riêng Aisha chỉ mới 6 tuổi, không kể các nô tỳ chiếm được trong các cuộc giao tranh.

Tuy vậy, không một ai sinh cho ông thêm một đứa con nào.

Chỉ riêng bà Maryam (630-632) là tín đồ Thiên Chúa Giáo do Thống đốc Ai-cập tặng cho Mohamét làm vợ, sinh được một con trai tên là Abdullah, nhưng đứa bé chết năm 2 tuổi.Sau khi quy tụ được một số tín đồ, Muhammad bành trướng đạo Hồi bằng cách gây chiến tranh với các bộ tộc Ả-rập chung quanh.

Đây là một trong những sự kiện quan trọng nhất của lịch sử xảy ra vào đầu thế kỷ thứ bảy tại bán đảo Ả-rập.

Trong vòng 200 năm, những kẻ kế vị Mohammed tiếp nối công việc bành trướng đạo Hồi, đã đánh bại và thâu tóm Iraq, Syria, Palestine, Egypt và Persia (Iran ngày nay) về một mối, tạo thành một đạo quân hùng hậu với niềm tin vào Allah mãnh liệt.

Với lòng nhiệt huyết, quân Ả-rập dũng mãnh dần dần khuất phục các nước quanh vùng và bành trướng đạo Hồi đến tận Ấn độ, Mã-lai, Nam-dương, và Trung-hoa; xâm nhập Âu châu qua ngả Bắc Phi, tiến đến cửa ngõ Vienna của Áo, và cai trị bán đảo Iberia gồm Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha trong gần 800 năm (711-1492), dẫn đến việc thành lập một trong những đế chế lớn nhất trong lịch sử nhân loại: Đế quốc Ả-rập.Đế quốc Ả-rập bao gồm các giống dân Hồi như Moors từ Bắc Phi, Turks từ Thổ-nhĩ-kỳ, Mamluks từ Ai-cập.

Trong suốt 13 thế kỷ (632-1923), Đế quốc Ả-rập thiết lập nhiều Vương quốc Hồi (Caliphate) tại những vùng đất xâm lăng và chiếm đoạt, bắt đầu từ năm 632 (năm Muhammad chết) và kéo dài mãi đến năm 1923 với đế chế Ottoman tại Thổ-nhĩ-kỳ.

Có 6 triều đại lớn: Rashidun (632–661), Umayyad (661–750); Abbasid (750–1258), Fatimid (909–1171), Almohad (1121–1269), và Ottoman (1362–1923).Đế quốc Ả-rập san bằng và chiếm giữ Giêrusalem trong 3 thế kỷ.

Mãi đến năm 1099, Thập tự quân (Crusaders) mới đoạt lại từ tay quân Hồi, và chẳng bao lâu sau lại bị mất vào tay vị tướng Hồi lừng danh Saladin.

Trong suốt nhiều thế kỷ bành trướng đạo Hồi, đạo quân Hồi gần như vô địch, chỉ khựng lại một thời gian ngắn khi đụng độ với đạo quân viễn chinh Mông cổ.

Vào đầu thế kỷ 13, Thành Cát Tư Hãn thống lãnh đội quân Mông cổ xâm chiếm Vương quốc Abbasid (Iraq ngày nay).

Cuộc viễn chinh kéo dài mấy mươi năm, và cuối cùng người cháu của Thành Cát Tư Hãn, Hulagu Khan đánh bại đạo quân Hồi (1258), phá hủy Baghdad (Iraq), và triều đại Abbasid sụp đổ hoàn toàn.

Quân Mông tiến sâu vào Syria, vây hãm và khuất phục Damascus, tiêu diệt triều đại Ayyubid rồi thọc xuống phía nam, vó ngựa ào ạt tiến về Giêrusalem, làm cỏ Trung đông như chỗ không người.

Nhưng chỉ cần 2 năm sau (1260), đạo quân Hồi (Mamluk) xuất phát từ Ai-cập phản công giết sạch 20 nghìn quân Mông cổ tại Ain Jalut (thuộc Do-thái ngày nay).

Vó ngựa quân Mông cổ tung hoành từ Đông sang Tây và bách chiến bách thắng trong suốt 43 năm (1217-1260).

Đây là lần thứ hai trong lịch sử giao tranh, quân Mông thảm bại.

Tưởng cũng nên nhắc lại là đế quốc Nguyên-Mông nếm thất bại lần đầu tiên khi xâm chiếm lãnh thổ Đại Việt vào năm 1258 dưới thời vua Trần Thái Tông; và sau đó bị đại bại thêm 2 lần nữa dưới thời vua Trần Thánh Tông (1285) và Trần Nhân Tông (1287), dưới sự chỉ huy của vị tướng Đại Việt lừng danh Trần Hưng Đạo.

Riêng lần thứ 3, hơn 500 nghìn quân Nguyên bị thảm bại nặng nề với và hơn 400 chiến thuyền bị đánh chìm trên sông Bạch Đằng.PHÂN HÓA NỘI BỘ VÀ HỒI GIÁO CỰC ĐOANMặc dù đế quốc Ả-rập hùng mạnh nhưng nội bộ của Hồi giáo rạn nứt vì tranh giành quyền lực và tạo ra sự phân hóa sau khi Muhammad chết.

Nhiều tín đồ Hồi Giáo ở Mecca đề cử ông Abu Bakr là một trong những cha vợ của Muhammad kế vị, nhưng một số người khác lại ủng hộ Ali là anh họ cũng là con rể của Mohammed.

Kết qủa sự tranh cãi đã khiến Hồi Giáo chia làm hai phe: Sunni và Shia, và hai phe này lại còn đẻ ra nhiều nhánh khác nhau nữa.

Tình trạng phân hóa trầm trọng dẫn đến sự thù hận kéo dài qua nhiều thế kỷ, và gây ra cảnh tương tàn giết hại lẫn nhau giữa các giáo phái.Giáo hội Công giáo La mã cũng rơi vào sự phân hóa vào những thế kỷ trước.

Năm 1054 đánh dấu sự phân ly giữa Giáo hội Công giáo và Chính thống giáo.

Vài thế kỷ sau, chỉ vì không được phép ly dị, năm 1534 vua Henry VIII tách rời khỏi Rôma và lập ra Anh giáo.

Tuy vậy, từ thế kỷ 16 đến nay, Kinh thánh và tín lý Công giáo được giải thích tường tận và rành mạch qua một hệ thống vững chắc và chặt chẽ từ trung ương là Vatican do Giáo hoàng đứng đầu nên hầu như không có các dị giáo (cult) ly khai nữa.

Tin lành cũng tách ra từ Công giáo từ thế kỷ 16 nhưng lại không có người lãnh đạo từ trung ương nên mỗi người giải thích Kinh thánh theo ý của mình.

Kết quả là qua hơn 4 thế kỷ, Tin lành có hơn 5000 giáo phái khác nhau, ().Và kinh Koran của Hồi giáo cũng rơi vào trường hợp như Tin-lành, nghĩa là không có hệ thống chặt chẽ bắt nguồn từ trung ương nên tín lý được giải thích một cách tùy tiện, nhằm phục vụ lợi ích riêng tư của các giáo sĩ bảo thủ, ngay cả lợi ích cho một thể chế chính trị cực đoan.

Hai vấn đề bàn cãi nhiều nhất là "thánh chiến, jihad" và "tà đạo, bất tín, infidel".Chiến tranh (al-harbu,) và được lập lại 36 lần trong kinh Koran, và "jihad" được lập lại 41 lần.

Jihad thật sự không hẳn là "thánh chiến, holy war," nhưng có nghĩa là "đấu tranh, dấn thân."

Chữ "jihad" đôi khi được hiểu là một sự chiến đấu nội tâm để vượt qua một cơn cám dỗ nào đó.

Nghĩa mạnh hơn, "jihad" là đấu tranh để đạt được một mục đích nào đó.

Nhưng phương tiện không nhất thiết phải là gây chiến tranh nhưng dùng bất cứ phương cách nào khả dĩ để đạt được mục đích.

Nhưng các đạo sĩ Hồi cực đoan lại giải thích "jihad" là phải dùng bạo lực, khích động tín đồ gây chiến tranh bằng cách dùng gươm dáo, gài bom tự sát để giết hết những kẻ tà đạo.Kẻ tà đạo (kuffar,) chỉ những người không chấp nhận đạo Hồi.

Kinh Koran nói rất nhiều về kẻ tà đạo với lời lẽ khích động, đầy bạo lực.

Đó là những kẻ thù địch với Allah, và các thiên sứ Ga-bri-en, và Mi-ca-e (Koran 2:98); những kẻ từ chối sứ điệp của Muhammad và phải đối diện với Allah (Koran 6:31); những kẻ không tin vào đời sau (Koran 16:60); kể cả những kẻ đem Muhammad và đạo Hồi ra diễu cợt (Koran 5:58).

Tín đồ Hồi giáo có nhiệm vụ phải chống lại những kẻ tà đạo này, đặc biệt "nhóm dân của Kinh thánh" chỉ Do thái giáo và Thiên Chúa giáo (Koran 4:89, 2:191, 9:5).Không soi mói, cứ dễ dãi mà đếm thì có hơn 100 câu kinh Koran kêu gọi tín đồ Hồi phải lấy danh nghĩa của Allah, dùng vũ khí để chống lại những kẻ tà đạo.

Xin đan cử vài câu chất chứa đầy bạo lực sau đây:– Hãy giết chúng bất cứ nơi nào các ngươi bắt được chúng... và tiếp tục chiến đấu cho đến khi không còn một kẻ bất tin nào và chúng chỉ tôn thờ Allah mà thôi, (Koran 2:191-193)– Nếu chúng quay lưng đi, bất cứ nơi nào tìm ra chúng, hãy bắt chúng lại và giết phứt đi, (Koran 4:89)– Đập vào đầu và từng đầu ngón tay của chúng, (Koran 8:12)– ...hãy giết phứt các tín đồ đa thần giáo ở bất cứ nơi nào các ngươi gặp chúng, (Koran 9:5)– Tín đồ đạo Do-thái nói Erza là Con Thiên Chúa, còn tín đồ Thiên Chúa giáo lại nói Messia là Con Thiên Chúa.

Đây chỉ là lời lẽ đầu môi chót lưỡi mà bắt chước từ những lời lẽ của bọn tà đạo.

Chớ gì Allah tiêu diệt chúng, (Koran 9:30)– Allah đã chuộc lại mạng sống và tài sản của các tín đồ; bằng cách đổi lại cho họ Thiên đàng.

Họ đã chiến đấu cho Allah, bởi thế họ đã giết (địch) và bị (địch) giết, (Koran 9:111)– Allah yêu thương những kẻ chiến đấu cho chính nghĩa của Ngài... (Koran 61:4)Các đạo sĩ Hồi cực đoan (fundamentalist, extremist, radical, bigot, fanatic) dùng những câu này để kêu gọi thánh chiến và giết chết bất cứ ai không theo đạo Hồi.

Họ xâm nhập bộ máy nhà nước, nắm quyền lãnh đạo toàn dân và nhập nhằng trộn lẫn giữa thần quyền và thế quyền để phục vụ lợi ích cho chính họ, hoặc cho một nhóm thiểu số nào đó.

Thần quyền đứng trên hẳn thế quyền.

Nhóm đạo sĩ này dùng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị, duy trì một chế độ toàn trị, độc tài, và sắt máu.

Nhìn chung, chính quyền Hồi cực đoan và nhà nước cộng sản rất giống nhau ở thể chế chính trị và cách sử dụng phương tiện để duy trì quyền lực.

Những kẻ cộng sản nhân danh "một thế giới đại đồng tương lai" để giải thích cho sự tàn bạo trong công cuộc đấu tranh giai cấp (class struggle), còn những giáo sĩ Hồi lại dùng kinh Koran để biện minh cho sự cực đoan, cuồng tín, và độc ác.

Cả hai cũng giống nhau ở điểm tận dụng bạo lực để giết hại dân lành.

Chính vì nhà nước Hồi dùng tôn giáo để khuynh loát và lấn át chính trị nên hầu như nền kinh tế của những nước này èo uột, chậm phát triển, gây ra tình trạng nghèo đói và dốt nát.

Và đây là vòng lẩn quẩn, chính mảnh đất phì nhiêu của nghèo đói và dốt nát lại giúp cho hạt giống Hồi cực đoạn và chủ nghĩa cộng sản nẩy mầm và phát triển.

Kết quả là rất nhiều thanh niên thiếu nữ ít học bị tẩy não dễ dàng và sẵn sàng hy sinh cho Allah bằng cách dùng bom tự sát.Từ đó nhân loại hứng chịu cảnh đau thương chết chóc do nạn khủng bố lan tràn khắp nơi.Bắt đầu từ năm 1980, các vụ khủng bố leo thang dưới hình thức tự sát.

Các cuộc khủng bố tự sát được khởi đầu từ năm 1982 với nhóm khủng bố Hamas và Herbollah ở Palestine và Lebanon nhằm chống lại Do-thái.

Các phần tử tự sát thường được tuyển mộ trong số các thanh niên trẻ tuổi và nghèo khổ sống vất vưởng trong các trại tỵ nạn.

Các thiếu nữ khủng bố tự sát đầu tiên, được tuyển mộ trong số các người Kurk ở Thổ nhĩ kỳ, trong những năm từ 1996-1999 và tại Palestine vào năm 2002.

Theo thống kê mới nhất, tính từ ngày bọn khủng bố phóng máy bay làm sập Tháp Đôi 9/11, các tổ chức Hồi giáo cực đoan đã gây ra hơn 32 nghìn vụ khủng bố trên toàn thế giới.Có nhiều tổ chức khủng bố, Hamas tại Palestine, Taliban tại Afghan, Al Shabaab tại Somali, Boko Haram tại Nigeria, Jabhat al-Nusra tại Syria... nhưng nổi bật nhất là Al-Qaeda của Osama bin Laden từ Trung đông, và nguy hiểm nhất hiện nay là ISIS (Islamic State of Iraq and Syria) tại Syria và Iraq do Abu al-Baghdadi cầm đầu.

Baghdadi từng tốt nghiệp đại học Baghdad, từng là một giáo sĩ hô hào thánh chiến từ thời Saddam Hussein.

Nhóm khủng bố ISIS chủ trương lấy sự tàn bạo làm gốc, và mức độ phải khốc liệt, rùng rợn, kinh hoàng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.

Sau khi bin Laden bị giết, ISIS nổi bật do sự tàn bạo và phương cách khủng bố tinh vi gây chết chóc thảm khốc nên dễ dàng thu hút giới trẻ Hồi vốn bị tẩy não và chuộng bạo lực đầu quân ngày càng đông.

ISIS rất nguy hiểm vì ngoài việc gieo rắc chết chóc rùng rợn khắp thế giới như Al Qaeda, các lãnh tụ ISIS thiết lập nhà nước Hồi giáo sau khi đánh chiếm được đất đai.

Họ muốn khôi phục lại đế quốc Ả-rập, gồm đất đai rộng lớn và đông đảo tín đồ Hồi, một thời bá chủ miền Trung đông, khiến các sắc dân quanh vùng phải khiếp sợ.

Hiện nay, ISIS giành quyền kiểm soát tại Iraq và Syria trên một diện tích rộng bằng nước Anh với dân số trên 10 triệu người.Tính đến năm 2015, với con số 1,7 tỷ tín đồ Hồi giáo, chỉ đứng sau Thiên Chúa giáo với 2,3 tỷ, số dân Hồi nhiễm tư tưởng cực đoan ngày càng nhiều, gây không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân loại.

Bà Brigette Gabriel – nhà báo bảo thủ gốc Lebanon, nhà hoạt động chống Hồi – đưa ra một hình ảnh khủng khiếp thật xác đáng như sau.Năm 2014, trong một cuộc họp báo, bà Gabriel trả lời câu hỏi của Saba Ahmed, một nữ sinh viên luật thuộc American University, cho rằng "đại đa số người Hồi giáo yêu chuộng hòa bình, nhưng thế giới ngày nay lại xem đạo Hồi là biểu tượng của xấu xa, của khủng bố..."

Bà Gabriel nhận định, "hiện nay có 1,2 tỷ (con số này không đúng, ít nhất là 1,7 tỷ, chú thích của người viết) người Hồi giáo trên thế giới.

Tất nhiên không phải tất cả 1,2 tỷ người đều là cực đoan mà ngược lại, đa số họ là những người yêu chuộng hòa bình, giống như nhận xét của cô.

Theo tin tình báo của các nước lớn thì những người Hồi giáo cực đoan chỉ chiếm khoảng 15-25%.

Điều đó có nghĩa khoảng 75% là những người ôn hòa.

Nhưng nếu lấy tỷ lệ 15-25% của dân số Hồi giáo thì chúng ta thấy ngay có khoảng 180 đến 300 triệu kẻ cực đoan đang muốn hủy diệt nền văn minh phương Tây.

Tại sao chúng ta phải lo lắng về sự cực đoan của 15-25%này?

Thưa, tại vì họ giết người rất dã man.

Họ chặt đầu và thảm sát thường dân vô tội hàng loạt.

Bà nói thêm, "Lịch sử cho ta thấy những kẻ cực đoan nguy hiểm đến thế nào.

Và chỉ cần một tỷ lệ nhỏ thôi, đủ để gây thảm họa.

Hầu hết dân Đức đều chuộng hòa bình.

Nhưng chỉ cần một nhóm Đức quốc xã nắm quyền là đủ đưa nước Đức và thế giới trở nên hoang tàn.

Kết quả là 60 triệu người chết, gần 14 triệu người trong các trại tập trung, gồm 6 triệu người Do Thái.

Như thế, hầu hết dân Đức yêu chuộng hòa bình chẳng là gì cả.

Nhìn vào nước Nga, đa số dân Nga cũng chất phác, hiền hòa.

Tuy nhiên, một nhóm cộng sản Nga lại giết chết 20 triệu người.

Riêng Trung hoa thì thương tâm hơn.

Hầu hết dân Trung hoa chỉ muốn sống hòa bình.

Tuy vậy, cộng sản Trung hoa đã giết 70 triệu người.

Hầu hết người Nhật trước Thế chiến II cũng hiếu hòa.

Thế mà đám quân phiệt Nhật hoành hành khắp Đông Nam Á, giết chết 12 triệu người, chỉ bằng lưỡi lê và xẻng.

Trên đất Hoa kỳ, vào thời điểm ngày 11 tháng 9, có 2,3 triệu người Hồi giáo Ả-rập yêu chuộng hòa bình.

Nhưng chỉ cần 19 tên không tặc đủ gây thảm họa – phá hủy Tháp Đôi, tấn công Ngũ Giác Đài và giết chết gần 3.000 người Mỹ ngày hôm đó.

Trong 2,3 triệu người yêu chuộng hòa bình, chỉ cần 19 người cực đoan đủ gây kinh hoàng cho cả nước Hoa kỳ.

Tỷ lệ là bao nhiêu?

Thưa chưa đến 2 phần trăm nghìn, chứ đừng nói 15 đến 25 phần trăm."

Không ai quên được cảnh nhà báo James Foley bị xử trảm dã man được thâu hình trọn vẹn và đưa lên Youtube.

Một cảnh kinh hoàng khác, bọn ISIS dẫn 30 người Iraq gồm đàn ông, phụ nữ, và trẻ con ra một cánh đồng gần ngôi làng bỏ hoang.

Họ là những tín hữu không chịu bỏ Kitô giáo theo đạo Hồi.

Một phụ nữ, không quá 40 tuổi, bị kéo đến trước ống kính.

Gương mặt thất thần và đôi mắt tuyệt vọng nhìn bọn ISIS đang hò hét, "Allahu Akhbar!

Allah vĩ đại!" như một bản đồng ca.

Và chúng cắt đứt đầu phụ nữ này.

Chúng không dùng gươm sắc, hoặc mã tấu, nhưng lại dùng một lưỡi dao ngắn cầm tay.

Dĩ nhiên chúng phải cứa đi cứa lại nhiều lần đầu mới lìa khỏi cổ.

Máu phun ra xối xả vì cắt phải động mạch.

Một cái chết tệ hơn cái chết của con vật.

Người phụ nữ chết trong đau đớn cùng cực vì không chịu cải đạo.

Bọn ISIS giết "kẻ tà đạo" theo đúng lời kinh Koran, và sự khích động của đám đạo sĩ Hồi cực đoan.

Nhưng dã man nhất vẫn là cảnh thiêu sống viên phi công người Jordan, Muath al-Kasasbeh.

Trong một phi vụ bỏ bom tiêu diệt quân ISIS trên không phận Syria vào cuối năm 2014, al-Kasasbeh phải nhảy dù khỏi máy bay vì động cơ bị trục trặc.

Muath bị bắt.

Hơn tháng sau, bọn ISIS nhốt al-Kasasbeh trong cũi, tẩm xăng và thiêu sống.

Dĩ nhiên, luôn luôn có tiếng hét, "Allah vĩ đại!" mỗi khi kết thúc cảnh giết người rùng rợn.Bọn khủng bố ISIS tìm đủ mọi cách để giết hại dân lành, những kẻ chúng xem là "tà đạo."

Cách mới nhất là thuê xe tải rồi đâm vào đám đông.– Tháng 7/2016, tại thành phố Nice, nước Pháp, Mohamed Bouhlel đâm chiếc xe vận tải nặng 19 tấn vào đám đông, giết chết 86 người,– Tháng 12/2016, tại trung tâm thành phố Bá-linh, Anis Amri cũng đâm xe tải giết chết 12 người,– Tháng 3/2017, tại Luân-đôn, trên cầu Westminster, Khalid Masood ủi xe vận tải hiệu Hyundai i40 giết 5 người,– Tháng 4/2017, một tên Hồi giáo vô danh đâm xe vận tải vào tiệm Ahlens tại trung tâm thành phố Stockholm, giết ít nhất 3 người,– Tháng 6/2017, trên cầu Luân-đôn, 3 tên khủng bố Hồi đâm xe tải vào đám đông, và dùng dao đâm khách bộ hành quanh khu chợ Borough, giết chết 8 người,– Tháng 8/2017, tại Barcelona, Tây-ban-nha, bọn khủng bố Hồi đâm xe van vào khu chợ đêm, giết chết ít nhất 15 người,– Và mới nhất, ngày 31/10/2017, tại khu vực Manhattan, Hoa kỳ, Sayfullo Saipov, thanh niên Uzbekistan 29 tuổi, thuê xe tải đâm vào làn xe dành cho người chạy xe đạp, giết chết 8 người.Tại sao quân khủng bố Hồi lại xem thường cái chết, liều mình tử đạo dễ dàng đến thế?

Câu trả lời đích xác là nhờ đức tin.

Niềm tin luôn tăng thêm sức mạnh cho tín đồ, vượt qua những đau đớn về thân xác hoặc đau khổ về tinh thần.

Khi hun đúc được một niềm tin mãnh liệt, họ sẵn sàng chết vì đạo.

Nhưng không có một tôn giáo nào dạy tín đồ khi tử đạo phải giết theo thật nhiều người khác như Hồi giáo.

Đã có hàng triệu tín đồ Thiên Chúa giáo đã chết vì đạo vì họ chỉ muốn giữ đức tin, chứ chưa hề mang gậy gộc hoặc gươm giáo giết người chỉ vì đức tin của người ta khác của họ.

Họ đồng ý nhận cái chết để giữ trọn niềm tin, nhưng không hề giết người và xem đó là tử đạo.

Nhưng niềm tin cũng chỉ là lý do phụ.

Lý do chính đáng khiến quân khủng bố giết người không gớm tay chính là phần thưởng thiên đàng.

Theo lời xúi dục của đám đạo sĩ cực đoan về một thiên đàng đầy vật chất hưởng thụ, quân khủng bố sẵn sàng chết và giết thật nhiều bọn "tà đạo" để về với Allah.

Và đây là thiên đàng của Hồi giáo.Hầu hết chương 55 của kinh Koran – từ câu 47 đến 79 – dùng để mô tả một thiên đàng của Hồi giáo cực kỳ nóng bỏng và quyến rũ, nơi có những vườn cây trái xum xuê ngon ngọt, tàn cây tỏa rộng, hai dòng sông nước trong vắt, đầy sữa và rượu nho.

Đặc biệt thiên đàng của Hồi Giáo "...có những tiên nữ trinh trắng với đôi mắt thẹn thùng, chưa ai chạm đến thân thể, đẹp tựa hồng ngọc hay ngọc trai, nằm cấm cung trong các căn lều..." (Koran 55:47-59).

Một khu vườn khác cũng đầy lạc thú: "...vườn rợp bóng cây xanh, và con suối chảy róc rách, cây kè và cây lựu nặng trĩu trái, nơi đó sẽ có những trinh nữ xinh đẹp và hiền hậu, những mỹ nhân với đôi mắt to lóng lánh, ẩn hiện bên trong lâu đài mà trước nay nhân gian chưa hề ai đụng đến, ngồi dựa lưng vào những chiếc gối mầu xanh trên những tấm thảm mỹ lệ." (Koran 55:63-77).

Không có một tôn giáo nào mô tả thiên đàng trần tục và hấp dẫn như Hồi Giáo.

Thiên đàng là khu vườn đầy lạc thú vật chất, và những khoái lạc nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái đẹp tuyệt trần trẻ mãi không già.

Người ta gọi thiên đàng của Hồi Giáo là phần thưởng của hoan lạc.

Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo bị tẩy não và trở nên cuồng tín, đều háo hức lên thiên đàng để được gần gũi với các trinh nữ.

Riêng những đạo sĩ Hồi cực đoan, họ nhân con số lên gấp bội để dụ dỗ đám thanh niên Hồi: 72 trinh nữ.

Những thanh niên nghèo đói và thất học dễ dàng bị tẩy não qua viễn ảnh hưởng thụ ái ân với 72 trinh nữ nên họ sẵn sàng chết, sẵn sàng tử đạo, sẵn sàng "làm việc phải" là phải giết thật nhiều những kẻ "tà đạo."

Con đường ngắn nhất để lên Thiên đàng hưởng lạc thú là sẵn sàng tử đạo qua các cuộc thánh chiến như kinh Koran đã hứa: "...họ được ân thưởng và đang sống bên cạnh Allah." (Koran, 3:169)Với phần thưởng thiên đàng hấp dẫn vượt quá sức tưởng tượng của con người, số thanh niên cực đoan sẵn sàng tử đạo ngày càng đông và nhân loại hầu như ngã quỵ trước mức độ sát nhân khủng khiếp của đám quân Hồi khủng bố.Và hiện tượng Fatima như một phương cách thần thánh được Thiên Chúa xếp đặt từ thế kỷ 12 để cứu nhân loại khỏi ách khủng bố Hồi giáo ở thế kỷ 21.

Đúng ra câu chuyện xảy ra vào ngày 24/6/1158, ngày mừng sinh nhật của Thánh Gioan Tiền hô.

Và câu chuyện bắt đầu bằng một âm mưu bắt cóc và kết thúc bằng một cuộc tình khá lãng mạn.LÒNG SÙNG KÍNH MẸ MARIA TRONG HỒI GIÁONhưng trước hết, hãy tìm hiểu vai trò và địa vị của Mẹ Maria đối với Hồi giáo.

Theo kinh Koran, tên của Đức Trinh Nữ Maria (Maryam) được nhắc đến 38 lần.

Không có tên của người phụ nữ nào khác được đề cập đến, ngay cả tên con gái út được yêu thương nhất của Mohammed là Fatimah.

Trong số những người đàn ông, chỉ có Áp-bra-ham, Môi-sen và No-e mới được nhắc tới nhiều lần hơn Đức Mẹ.

Kinh Koran miêu tả Đức Mẹ Maria là "Đồng Trinh, trọn đời Đồng Trinh."

Koran còn nhắc đến sự kiện Truyền Tin, lần Đức Mẹ đi thăm bà thánh I-sa-ve, và cảnh Đức Mẹ sinh Chúa Hài đồng trong máng cỏ.

Hỡi Maria, Thiên Chúa đã chọn ngươi và rửa tội cho ngươi trở nên tinh tuyền, Ngài đã chọn và đặt ngươi lên trên tất cả các phụ nữ ở thế gian này (Koran 3:43).

Niềm tin Hồi giáo về sự trinh khiết của Đức Maria ngược hẳn với tín lý Tin lành, khi họ phủ nhận sự trinh khiết trọn vẹn của Đức Maria.

Đây là mối liên hệ rất đặc biệt giữa Đức Trinh Nữ Maria và người Hồi giáo.

Và câu chuyện người con gái của Imran là Maria, nàng đã giữ lòng trinh bạch; Ta đã thổi hơi Thánh Linh vào đó, và nàng đã đem thân mình làm trọn lời Chúa phán trong Kinh thánh, nàng là người biết phục tùng, (Koran 66:12).

Người Hồi biết cha của Đức Giêsu là Giuse, nhưng không bao giờ gọi 'Giêsu, con của Giuse,' mà là 'Giêsu, con của Maria.' Điều này trái với truyền thống Hồi, phải gọi là con của người cha, vì phụ nữ chỉ đóng vai trò thứ yếu trong xã hội.

"Ta đã ban cho Giêsu, con trai của Maria, những bằng chứng rõ rệt và luyện Người thêm cứng cỏi bằng Thánh linh." (Koran 2:87).

Điều này chứng tỏ Hồi giáo tin Đức Giêsu đầu thai trong cung lòng Mẹ Maria bởi phép Chúa Thánh thần, chứ không phải bởi thánh Giuse theo lối thường tình.Linh mục dòng Tên Samir Khalil Samir, một học giả uyên bác về Hồi giáo, nhận xét: "tại Ai-cập, dọc theo lộ trình thánh Giuse dẫn Mẹ Maria và Hài đồng Giêsu trốn sang Ai-cập hơn 2000 năm trước người ta lập rất nhiều địa điểm hành hương.

Hằng năm cứ đến lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, ít nhất khoảng 1 triệu người Hồi hành hương khắp các đền kính Đức Mẹ."

Không những tại Ai-cập, mà còn tại Fatima, Harissa, Damascus, Samalut, Assiut, Zeitun và nhiều địa danh khác, hễ có bóng dáng Đức Trinh Nữ Maria xuất hiện là lập tức trở thành địa điểm hành hương liên tục của phụ nữ Hồi xuất phát từ Lebanon, Syria, Ai-cập, và Iran.

Khách hành hương mong mỏi Mẹ Maria chữa lành về vật chất cũng như tinh thần.

Họ cầu nguyện bột phát theo ý riêng mỗi người chứ không ê a đọc thuộc lòng các câu kinh như trong các buổi cầu nguyện theo truyền thống Hồi.

Quân khủng bố Salafist luôn tìm cách tàn phá các địa điểm hành hương nhưng lòng sùng kính Đức Mẹ của dân Hồi vẫn trọn vẹn và ngày càng phát triển.Không những thế, những gì liên quan đến Trinh nữ Maria đều được người Hồi giáo rất mực tôn kính, theo khảo cứu của linh mục Ladis J.

Cizik, Giám đốc Đạo Binh Xanh.

Ngài đan cử một vài trường hợp sau.Đất Thánh Giêrusalem là bãi chiến trường giao tranh giữa Hồi giáo và Kitô giáo qua nhiều thế kỷ.

Bằng chứng về điều này là rất nhiều nhà thờ và nhà nguyện được Giáo hội xây dựng, bị người Hồi giáo phá hủy, được Thập tự quân (Crusaders) xây dựng lại, rồi cũng bị tín đồ Hồi giáo san bằng, cứ liên tiếp như thế trong suốt lịch sử giao tranh giữa 2 tôn giáo.

Tuy nhiên, có một ngoại lệ đáng chú ý: Nhà thờ Thánh Anna nằm ngay cổng Sư tử của đền thánh Giêrusalem.Thập tự quân xây dựng nhà thờ này để tôn vinh người mẹ của Đức Trinh Nữ Maria là bà thánh Anna.

Trong căn hầm của nhà thờ Thánh Anna, một bức tượng bé gái Maria được trang trọng đặt trên một khoảnh đất mà tín hữu cho là đúng căn nhà nơi Đức Mẹ sinh ra.

Năm 1187, Saladin – vị tướng Hồi lừng danh từng đánh bại Thập tự quân, chiếm giữ Giêrusalem và ra lệnh san bằng tất cả các ngôi thánh đường, nhà thờ và nhà nguyện Công giáo nhưng ông chỉ giữ lại ngôi thánh đường này vì nó mang tên Anna, mẹ của Đức Trinh nữ Maria.

Ông biến thành Học viện Thần học Hồi (1192) mà ngày nay vẫn còn thấy hàng chữ Ả-rập khắc trên vòm cửa thánh đường.Ngay cái tên Guadalupe là tước hiệu Đức Mẹ dùng khi hiện ra với Juan Diego, thổ dân Aztec, tại Mễ-tây-cơ năm 1531 có một liên quan kỳ thú giữa đế quốc Tây-ban-nha và Hồi giáo.

Theo truyền thuyết, thánh sử Luca có tài điêu khắc và hội họa.

Ngài đẽo khắc một bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ, một tay bồng Chúa Hài đồng, tay kia cầm vương trượng tượng trưng uy quyền của Mẹ Thiên Chúa.

Cũng theo truyền thuyết, Đức Giáo hoàng Gregory Cả (590-604) làm phép và tặng cho Đức Giám mục Leander địa phận Seville.

Năm 711, quân Hồi Moors từ Bắc Phi băng qua eo biển Gibraltar xâm lăng Tây-ban-nha và các giáo hữu gom góp những vật thánh đem chôn dấu ở dãy núi Estremadura, kể cả bức tượng gỗ Đức Mẹ, luôn cả chứng từ kể rõ gốc gác.

Quân Moors chiếm đóng, lập vương quốc Umayyad và trị vì bán đảo Iberia (Tây-ban-nha & Bồ-đào-nha) suốt 8 thế kỷ.

Thật sự, quân Hồi suy yếu dần bắt đầu từ năm 1130, và kéo dài mãi đến năm 1492 mới hoàn toàn bị đánh bật ra khỏi Tây-ban-nha.

Suốt hơn 7 thế kỷ, chẳng ai biết bức tượng gỗ lưu lạc ở đâu và hầu như rơi vào quên lãng.

Theo truyền thuyết, năm 1326, Gil Cordero – một kẻ chăn chiên – sục sọi vùng núi Estremadura để tìm con bò đi lạc và thị kiến Đức Mẹ hiện ra chỉ địa điểm chôn dấu.

Cordero thuyết phục các chức sắc giáo hội địa phương đào xới và tìm thấy một cửa hang.

Sâu trong hang động người ta tìm thấy một hòm sắt và bức tượng gỗ trong tình trạng còn nguyên vẹn, kể cả giấy tờ nói rõ lai lịch.

Vua Alphonso XI xây một nhà nguyện gần hang và đặt bức tượng làm đền thờ tôn kính Mẹ Maria.

Ngôi nhà nguyện và bức tượng gỗ được gọi là Guadalupe, đặt theo tên một con sông gần đó.

Nghĩa nguyên thủy của Guadalupe bắt nguồn từ nhiều thế kỷ trước, khi quân Moors còn chiếm đóng Tây-ban-nha.

Vua Hồi gọi con sông là Guadalupe kết hợp giữa "guada" biến thể từ chữ Ả-rập "wadi" nghĩa là con sông hoặc thung lũng; và "lupe" biến thể từ gốc La-tinh "lupus" nghĩa là chó sói.

Gộp hai chữ lại, Guadalupe nghĩa là "Con Sông của Chó Sói," mà các nhà nghiên cứu tin rằng thời đó chó sói thường xuất hiện dọc con sông nên vua Hồi mới đặt tên con sông như thế.Cái tên Guadalupe theo các nhà truyền giáo Tây-ban-nha đến Mễ-tây-cơ, thời thổ dân Aztec.

Đức Mẹ hiện ra với thổ dân Juan Diego năm 1531.

Khi được hỏi tên, Mẹ thổ lộ theo thổ ngữ Nahuatl của Aztec, "te coatlaxopeuh" (phát âm: "te quatlasupe") nghĩa là "người đạp lên đầu con rắn."

Thời đó, thổ dân Aztec thờ thần rắn nằm uốn mình trên hình trăng lưỡi liềm, với tập tục giết người bằng cách moi tim để hiến tế thần rắn trong các dịp hội hè, cầu được mùa màng, cầu thoát thiên tai (nên xem 2 cuốn phim nói về thời truyền giáo và tục giết người tế thần, The Mission và Apocalypto.) Khi Diego nói tên "te quatlasupe" cho Giám mục Zumarraga, nghe hao hao như Guadalupe ở quê nhà và ngài đặt làm tước hiệu cho sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Mễ-tây-cơ: Đức Mẹ Guadalupe.

Thật kỳ diệu, "te quatlasupe" như một lầm lẫn được xếp đặt theo thiên ý, vì qua cái tên, Mẹ muốn thổ dân Aztec bỏ thần rắn để thờ phượng Thiên Chúa.

Đồng thời hình trăng lưỡi liềm cũng là biểu tượng của Hồi giáo, nên khi đạp lên đầu con rắn và trăng lưỡi liềm, Mẹ cũng muốn dân Hồi bỏ biểu tượng của dị giáo và nhận biết Thiên Chúa như thổ dân Aztec cách đây gần 5 thế kỷ.

Và cái tên tiền định Guadalupe mang gốc gác Hồi Ả-rập cũng là một điều kỳ diệu nữa qua sự xếp đặt tài tình của Thiên Chúa.Nhưng cái tên Fatima mới là điều lạ lùng nhất.Muhammad có 4 người con gái với bà Khadijah.

Cô gái út, Fatimah (609-632) xinh đẹp nhất và được cha yêu thương nhất.

Sau khi chết, Fatimah trở thành biểu tượng của phụ nữ Hồi với những đức tính như vị tha, rộng lượng, kiên nhẫn, yêu thương chồng con.

Muhammad có lần nói, "Fatimah là người được chúc phúc nhất trong tất cả phụ nữ ở thiên đàng, chỉ sau Maria."

Mộ của Fatimah nay thuộc thành phố Qum, Iran là thánh địa quan trọng của hệ phái Shia.

Và Fatimah là tên được ưa chuộng nhất đặt cho các bé gái trong thế giới Hồi giáo.Và cái tên Fatimah lưu lạc đến Bồ-đào-nha.

Đó là tên của một ngôi làng nhỏ nằm trên thảo nguyên Cova de Iria, nơi Đức Mẹ hiện ra năm 1917 với tước hiệu Đức Mẹ Mân Côi, hay còn gọi là Đức Mẹ Fatima.Giấc mơ của José Saramago – nhà văn Bồ, đoạt giải Nobel Văn chương 1998 – là ngao du khắp đất Bồ để viết lại lịch sử của quê hương dưới một góc cạnh mới lạ như kể chuyện hơn là những bài học từ chương.

Saramago vượt núi, băng rừng, sải bước qua những đồng bằng và góp nhặt những chuyện kể trong dân gian từ lúc đế quốc La mã tiến quân vào vùng bán đảo Iberia cho đến thời cận đại.

Ông bắt đầu khăn gói lên đường năm 1979, rồi bỏ ròng rã hơn 6 tháng viết và xuất bản cuốn, "In Pursuit of Portugal's History and Culture" năm 1981.

Trong đó, ông kể lại một câu chuyện tình rất thú vị.Tariq ibn Ziyad thống lãnh quân Hồi Moors từ Bắc Phi tràn sang bán đảo Iberia và đặt nền móng cai trị vùng đất này suốt 8 thế kỷ (711-1492).

Tuy vậy, người Hồi ở Tây-ban-nha và Bồ-đào-nha chung sống hòa bình với Kitô hữu, và người Do-thái tạo thành một nền văn minh khá đặc sắc, kết hợp hài hòa giữa 3 tôn giáo.

Vương quốc Umayyad cho phép mọi người tự do giữ đạo theo niềm tin miễn đóng thuế đầy đủ cho vua Hồi.

Tuy vậy, sau vài thế kỷ giáo dân Kitô tổ chức thành từng nhóm nhỏ để đánh đuổi quân Moors, bắt đầu thời kỳ Reconquista; nghĩa là "tái chiếm," chiếm lại đất đai đã mất vào tay quân Hồi từ thế kỷ 8.

Kể từ thế kỷ 12, vương quốc Hồi bắt đầu suy yếu và dân Bồ dần dần đẩy lui quân Moors ra khỏi đất nước.Ngày 24/6/1158, đúng vào ngày sinh nhật của thánh Gioan Tiền hô, một nhóm hiệp sĩ Kitô dẫn đầu bởi Don Gonçalo Hermigues – một chàng trai khôi ngô và khỏe mạnh – thình lình tập kích đám quân Hồi tại Alcácer do Sal, một thành phố miền nam, và bắt cóc cô con gái của một hoàng thân Hồi có thế lực.

Trên đường rút lui, nét duyên dáng và sắc đẹp của cô công chúa Hồi khiến chàng hiệp sĩ ngây ngất.

Trong nhiều ngày chèo thuyền rong ruổi trên sông Sado về Santarem diện kiến vua Bồ, cô gái bị tiếng sét ái tình và cũng đem lòng yêu Gonçalo Hermigues.

Trước bệ rồng vua Alphonso Henriques, chàng xin cưới cô công chúa Hồi.

Nhà vua đồng ý với 2 điều kiện, (1) cô gái phải đồng ý lấy Gonçalo, và (2) cô gái chịu rửa tội trở thành Kitô hữu.

Vì yêu, cô gái chấp nhận cả 2 điều kiện.Cô công chúa Hồi tên là Fátima.

Trùng với tên cô gái út xinh đẹp của giáo chủ Muhammad.Quà cưới của nhà vua ban cho đôi trẻ là ngôi làng Abdegas.

Tên rửa tội của nàng là Oureana.

Người ta quên tên nàng là Fatima nhưng gọi là Oureana, vì theo truyền thống tên rửa tội cũng là tên gọi.

Lâu dần ngôi làng Abdegas biến đổi thành Ourém, biến dạng từ Oureana, lấy theo tên rửa tội của cô gái Hồi, và tồn tại mãi đến ngày nay.

Nhưng duyên phận chẳng bền, vì chẳng bao lâu sau Oureana chết yểu.

Chẳng ai nói nàng chết vì bệnh hay bị tai nạn.

Người ta chỉ biết nàng chết rất trẻ, khi tình yêu vợ chồng còn nồng cháy.

Quá đau khổ, Gonçalo xin vào dòng khổ tu Xitô, và dời mộ của nàng đem về chôn ở ngọn đồi gần tu viện, cách Oureana khoảng 11km.

Gonçalo cho xây một nhà nguyện nhỏ để tưởng niệm và đặt tên là Fatima, tên cúng cơm gốc Hồi của nàng.

Lâu dần, dân chúng tụ tập thành làng xóm quanh ngọn đồi sinh sống.

Lịch sử ghi lại, người ta gọi ngôi làng này là Fatima từ năm 1188 và cái tên tồn tại mãi đến bây giờ.

Ourém bắt đầu bằng một chuyện tình diễm lệ, và Fatima kết thúc cuộc tình qua cái chết của cô công chúa Hồi.Nhưng Fatima lại hồi sinh vì Đức Mẹ đã chọn vùng đất Fatima để hiện ra và rao truyền sứ điệp vào năm 1917, sau hơn 7 thế kỷ cái tên nằm yên trong lịch sử.Câu chuyện tình nồng nàn của chàng hiệp sĩ Gonçalo Hermigues và nàng công chúa Fátima được ghi lại qua nhiều khảo cứu văn hóa Bồ.

Một chuyện tình đẹp như cổ tích, nhuốm ngang trái vì sự thù nghịch giữa hai sắc tộc, vì sự khác biệt tôn giáo.

Tình yêu, một lần nữa, thật kỳ diệu.

Nó vượt qua mọi chướng ngại thường tình để Fatima được rửa tội làm con Chúa, để chuyện tình lãng mạn lưu truyền mãi ngàn sau.

Câu chuyện tình được viết thành văn xuôi, được soạn thành vở kịch và lưu truyền rộng rãi trong dân gian.

Chính tình yêu trái ngang làm câu chuyện trở nên sống động, và bất tử.

Thân xác của Gonçalo và Fatima đã tan thành cát bụi từ lâu, nhưng hình như tuổi đời của họ dừng lại ở thời điểm năm 1158, vì người ta chỉ nhớ đến cặp vợ chồng trẻ đang ngụp lặn trong hạnh phúc bỗng chia lìa vì Fatima chết sớm.

Tình yêu của Mẹ Maria đối với nhân loại còn mãnh liệt hơn tình yêu của chàng hiệp sĩ và cô công chúa, nên Mẹ đã chọn Fatima, vùng đất mang tên Hồi.

Sự chọn lựa vùng đất Fatima không phải ngẫu nhiên, nhưng là thiên ý đã được xếp đặt từ nhiều thế kỷ trước, mở cho nhân loại một lối thoát thần thánh.

Khi chọn Fatima để hiện ra, Mẹ muốn nhắn gửi với nhân loại về 2 hiểm họa: Cộng sản và Hồi giáo.

Lời hứa của Mẹ, "cuối cùng Trái Tim Mẹ sẽ thắng," giúp chúng ta tin tưởng một ngày nào đó, qua Mẹ, dân Hồi sẽ cải đạo để trở thành Kitô hữu.Thoạt nhìn, tín đồ Hồi cải đạo gần như là một điều không tưởng vì tín đồ Hồi đặt niềm tin mãnh liệt vào Allah, hầu như không hề suy suyển theo thời gian.

Dưới nhãn quan của một tín đồ Hồi, chối bỏ Allah để cải đạo cũng giống như một giáo dân Công giáo bỏ đạo theo Do-thái giáo.

Nhiều thế kỷ trước, nỗ lực truyền giáo của hai thánh Phanxicô Assisi và Y-nhã Loyola nhằm cảm hóa dân Hồi xem như thất bại.

Riêng Đức Tổng Giám mục Sheen lại có một cái nhìn khác.

Ngài tiên đoán vai trò quan trọng của Mẹ Maria trong việc cảm hóa tín đồ Hồi giáo.

Qua sự tôn kính Mẹ Maria, tín dồ Hồi sẽ nhận biết Thiên Chúa.

Ngài tin chắc rằng một ngày nào đó, Hồi giáo sẽ cải đạo, không phải do lối truyền giáo cố hữu là trực tiếp giới thiệu giáo lý Công giáo nhưng bằng cách mời gọi tín đồ Hồi đến với Mẹ Maria.

Đặc biệt đối với hiện tượng Mẹ Fatima, ngài nói, "...điều này dẫn đến điểm thứ hai, đó là lý do tại sao Mẹ Maria, trong thế kỷ hai mươi này, đã tự mạc khải mình trong một ngôi làng nhỏ bé tại Fatima, để cho tất cả các thế hệ tương lai gọi là "Đức Mẹ Fatima".

Đây phải là một sự sắp xếp khéo léo của thiên ý, vì tôi tin rằng Đức Trinh Nữ chọn tên gọi "Đức Mẹ Fatima" như một lời cam kết và là dấu hiệu hy vọng cho người Hồi giáo, và như một sự bảo đảm rằng họ, những người rất tôn sùng Mẹ, một ngày nào đó sẽ chấp nhận Đức Giêsu, Con của Mẹ Maria."

Cần nói thêm là Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen được Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI phong lên Bậc Đáng kính vào ngày 28/6/2012, và một tiến trình phong thánh đang được tiến hành.

Một cáo thỉnh viên (postulator) của ủy ban phong thánh, linh mục Andrew Apostoli nhận xét, "Đức Tổng Giám mục Sheen ...nhìn thấy ý nghĩa đặc biệt về sự chọn lựa của Đức Mẹ khi hiện ra tại Fatima.

Mẹ từ trời xuống đến với nhân loại tại một vùng quê mang tên Hồi không chỉ giúp nước Nga trở lại mà thôi nhưng sẽ giúp tín đồ đạo Hồi biết đến Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Con Mẹ... trừ phi hàng trăm triệu tín đồ Hồi trở lại, thế giới sẽ chẳng bao giờ có hòa bình."

Với quân khủng bố cực đoan ngày càng đông, sẵn sàng tử đạo để nhận phần thưởng thiên đàng, thế giới sẽ còn khốn đốn và con người sẽ phải chịu nhiều đau khổ như đã từng chịu trong thế kỷ 20 dưới ách cộng sản.

Một lần nữa, lời nhắn nhủ của Đức Trinh Nữ Maria tại Fatima với các Kitô hữu phải luôn cầu nguyện cho hòa bình thế giới càng mang một ý nghĩa bức thiết hơn bao giờ.

Trong thời đại khi bạo lực thường xuyên xảy ra dưới danh nghĩa Allah, chúng ta nên chạy đến với Mẹ Fátima.

Vẫn tiếp tục tìm kiếm và xây dựng hòa bình nhưng nhờ Mẹ làm cây cầu thân thiện nối liền người Hồi giáo và Kitô hữu, và cũng cầu xin Mẹ chấm dứt hận thù – mối hận thù tưởng tượng do bọn Hồi cực đoan tạo ra – đã gây quá nhiều đau thương cho nhân loại.Viễn ảnh tươi sáng của một cuộc đối thoại thiêng liêng – qua Mẹ Maria – giữa Kitô hữu và người Hồi giáo mang lại nhiều hy vọng hơn là một cuộc đối thoại về văn hoá, thần học hoặc chính trị.

Nhờ Mẹ Fatima, và qua Mẹ Fatima chúng ta có quyền hy vọng ngày đó sẽ đến, mang lại một nền hòa bình đích thực cho thế giới, một thế giới hết hận thù, mọi người sống bình đẳng, và được hưởng tự do trong tình yêu thương của Thiên Chúa.NIỀM HY VỌNG QUA HIỆN TƯỢNG FATIMAChủ nghĩa vô thần làm mưa gió suốt thế kỷ 20.

Marx cổ võ một xã hội không cần tôn giáo, một cuộc sống không cần Thiên Chúa.

Chủ nghĩa cộng sản lấy vô thần làm chính sách và áp đặt lên người dân buộc phải chối đạo.

Với chính sách vô thần, cộng sản chủ trương tiêu diệt tất cả mọi tôn giáo, nhưng cộng sản ghét nhất Thiên Chúa giáo, và luôn đặt Thiên Chúa giáo là mục tiêu hủy diệt lên hàng đầu.

Họ bắt bớ, trù dập giáo dân tàn nhẫn.

Hồi giáo cũng thế, tín đồ Hồi ghét nhất Thiên Chúa giáo, với tên gọi "Nhóm Dân của Thánh Kinh."

Suốt thế kỷ 20 và kéo dài mãi đến bây giờ, trong chế độ cộng sản và chế độ cộng sản biến thái, giáo dân Thiên Chúa giáo, đặc biệt Công giáo, bị bách hại nặng nề.

Giáo hội Công giáo đã trở thành giáo hội thầm lặng để sinh tồn, và giữ vững niềm tin qua suốt bao nhiêu năm.

Tại các nước Hồi giáo, giáo dân Công giáo cũng bị hành hạ dã man.

Từ đầu thế kỷ 21, tín đồ Hồi cực đoan giết hại "Nhóm Dân của Thánh Kinh" công khai, bằng mọi cách ghê tởm nhất, rùng rợn nhất, gây nỗi khiếp sợ lan rộng khắp nơi.

Cả hai chủ nghĩa – cộng sản và Hồi giáo – đều xem Thiên Chúa giáo là kẻ thù nguy hiểm nhất và cần phải bị khống chế và tiêu diệt bằng bất cứ giá nà😵pen Doors là một hiệp hội vô vụ lợi được thành lập năm 1955 nhằm lên tiếng bênh vực và bảo vệ giáo dân Thiên Chúa giáo bị bách hại khắp nơi trên thế giới.

Hằng năm, sau khi theo dõi và điều tra, hội đưa ra một danh sách – gọi là World Watch List – gồm các nước đàn áp tôn giáo và bách hại giáo dân.

Năm 2017, 20 nước đứng đầu danh sách đen gồm có: Bắc Hàn, Somalia, Afghan, Pakistan, Sudan, Syria, Iraq, Iran, Yemen, Eritrea, Libya, Nigeria, Maldives, Saudi Arabia, Ấn-độ, Uzbekistan, Vietnam, Kenya, Turkmenistan, Qatar. ( ).

Trừ Bắc Hàn là một nước cộng sản chính thống, Việtnam là một nước cộng sản biến dạng, và Ấn-độ là một nước dân chủ, còn lại 17 nước kia là Hồi giáo.Việc thánh hiến dâng nước Nga lên cho Mẹ Maria được hoàn tất năm 1984 và chủ nghĩa cộng sản chính thức cáo chung năm 1991 nhưng trên thực tế chủ thuyết vô thần vẫn còn hoành hành dưới những hình thức tinh tế hơn, khôn khéo hơn.

Những quốc gia còn duy trì chủ nghĩa cộng sản như Bắc Hàn và Cuba với chính sách tiêu diệt tôn giáo cố hữu là điều dễ hiểu nhưng các nước áp dụng một loại chủ nghĩa cộng sản biến dạng để duy trì chế độ độc tài đảng trị như Trung hoa, Việt Nam, Lào thì sự bách hại các giáo dân vẫn còn, và thường ở mức độ tàn bạo hơn trước đây.

Nhưng điều đáng sợ nhất là giáo dân Thiên Chúa giáo bị bách hại dã man hầu hết tại các nước Hồi giáo.Với con số 2.2 triệu giáo dân Thiên Chúa giáo trên toàn thế giới, trung bình khoảng 200 triệu người bị đàn áp và bách hại, xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau.

Từ mạ lỵ đến thái độ thù địch, dẫn đến hành động bạo lực.

Những giáo dân tại các vùng bị cấm ngặt tự do tôn giáo trong những nước nêu trên phải trả một giá rất đắt cho niềm tin của họ.

Ngoài việc tổn thương tâm lý vì bị sỉ nhục và nguyền rủa, họ bị đánh đập, hành hạ, bắt cóc, bỏ tù, cô lập, hãm hiếp, trừng phạt thể lý nặng nề, nô lệ, kỳ thị giáo dục và viêc làm, ngay cả bị nguy hiểm đến tính mạng, và thậm chí bị giết âm thầm hay công khai.

Đó là những đau khổ họ phải chịu đựng mỗi ngày.

Vì niềm tin.Giáo dân Công giáo bị đối xử ngược đãi nhất, và bị bách hại nặng nề nhất.

Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước...

Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em (Gn 15:18-20).

Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét (Mt 10:22).

Họ là nạn nhân của cả hai chủ nghĩa vô thần cộng sản và Hồi giáo cực đoan.

Theo National Catholic Reporter, con số giáo dân Công giáo tử đạo chỉ trong hai thế kỷ 20 và 21 tính ra cao hơn số giáo dân tử đạo của 19 thế kỷ trước gộp lại.

Chúng ta đang sống trong thời đại tử đạo.Rất nhiều người tin rằng mặc dù chủ nghĩa cộng sản đã chết nhưng chủ thuyết vô thần đã lan rộng khắp thế giới chỉ vì việc dâng hiến nước Nga cho Đức Mẹ xảy ra quá chậm.

Mãi đến năm 1984 mới hoàn tất thì đã quá muộn.

Nước Nga đã gieo rắc chủ thuyết vô thần lầm lạc trong hơn 70 năm, và nó len lỏi vào các nước tiên tiến, kể cả các quốc gia lấy tôn giáo làm nền tảng.

Chủ thuyết vô thần đã ghim vào đầu óc của các nhà trí thức, những học giả, kể cả những Kitô hữu cấp tiến (liberal Christian).

Những Kitô hữu cấp tiến lược bỏ những tín lý, và lề luật mà họ cho là bất tiện trong đời sống, chỉ giữ lại những gì hợp với "lương tâm" của họ.

Những kẻ này không những phủ nhận hầu hết những điểm cốt lõi trong kinh Tin Kính mà còn hết lòng nhìn nhận sự gian dâm, phá thai, và hôn nhân đồng tính.

Họ là Kitô hữu nhưng suy nghĩ và hành động như một kẻ phi Kitô.

Với lối sống theo "lương tâm" cấp tiến, họ sẽ dần dần chối bỏ Thiên Chúa và cổ võ chủ nghĩa vô thần.

Từ "cấp tiến" đến "vô thần" chỉ là một bước ngắn, theo Giáo sư Xã hội & Triết học David Carlin.

Satan sau bao nhiêu năm đánh phá Giáo hội từ ngoài vào trong không mấy thành công, và nó đã đổi chiến lược đánh từ trong ra ngoài nhờ sự trợ lực của những Kitô hữu cấp tiến này.

Giữa "thù trong" và "giặc ngoài", giữa nội thù và ngoại xâm, lịch sử đã chứng minh nội thù nguy hiểm hơn nhiều.

Satan – chủ nghĩa vô thần – hiện là một hấp lực khó cưỡng đối với những kẻ hữu thần cấp tiến.Một số nhân vật quan trọng khác lại cho rằng việc dâng hiến nước Nga chưa thật sự hoàn tất, vì "chính sách Đông phương" của Tòa thánh, không dám gọi đích danh nước Nga.

Ngay cả lần dâng hiến với sự hiệp thông của các Giám mục trên toàn thế giới, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng chỉ nói chung chung, "đặc biệt những kẻ đang ở trong tình trạng khiến Mẹ động lòng thương xót."

Chị Lucia, năm 2001, nói riêng với Đức Tổng giám mục Tarcisio Bertone, bộ trưởng Tín lý và Đức tin, rằng lần Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II dâng hiến năm 1984 "đã được Thiên Chúa chấp nhận."

Tuy được "chấp nhận," rất nhiều người tin rằng chưa thật sự "hoàn tất" theo đúng ý muốn của Mẹ Fatima.

Một trong những người cho rằng việc thánh hiến chưa hoàn tất là linh mục Gabriele Amorth, người được Tòa thánh ban cho quyền trừ quỷ tại Rôma.

Ngài có mặt tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày thánh hiến 25/3/1984, và nhận xét: "Đức Thánh cha rất muốn thánh hiến nước Nga cho Mẹ nhưng các Giám mục lại không muốn, sợ làm phật lòng giáo hội Chính thống."

Tiến sĩ Roberto de Mattei, giáo sư chuyên về lịch sử Công giáo, đi xa hơn khi nhận định, "sự lầm lạc của chủ nghĩa cộng sản không những đã lan rộng khắp thế giới, mà còn xâm nhập vào đền thờ của Thiên Chúa, như luồng hơi độc của Satan đang muốn bóp nghẽn hơi thở Nhiệm thể của Đức Kitô."

Theo ông, chỉ vì việc thánh hiến của Đức Gioan Phaolô II vào tháng 3/1984, và của Đức Bênêdictô XVI vào tháng 5/2010 chưa được thực hiện hoàn hảo.

Mới đây, ngày 13/5/2017, Hồng y Paul Josef Cordes, nguyên Chủ Tịch Hội Đồng 'Cor Unum' của Tòa Thánh, xác nhận việc thánh hiến của Đức Gioan Phaolô II chịu áp lực của Bộ Ngoại giao Vatican không nên kêu đích danh nước Nga, e rằng có thể sẽ dẫn đến một xung đột chính trị.Ngoài ra, nếu hiểu lời hứa của Mẹ, "nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình," theo đúng nghĩa của nó thì nước Nga chưa thật sự trở lại cho dù chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ.

Sự trở lại phải là một sự thay đổi tâm linh nghiêm trọng và phù hợp với đức tin Công giáo.

Thật ra, từ ngày chế độ cộng sản sụp đổ, một nếp sống phi Kitô đang hoành hành tại nước Nga.

Tính đến năm 2000, mười bốn năm sau khi được thánh hiến, tỷ lệ ly dị không kém gì Hoa kỳ, và khoảng 3.5 triệu vụ phá thai được ghi nhận (qua số liệu của chính phủ Nga) mỗi năm.

Số liệu năm 2013 thì càng tệ hại hơn, cứ 10 lần sinh (live births) thì có đến 13 vụ phá thai.

Một tỷ lệ rợn người, cao nhất thế giới.

Riêng tỷ lệ ly dị khiến mọi người vô cùng kinh ngạc.

Chỉ riêng trong 5 tháng đầu năm 2017, cứ 1000 cặp ghi danh kết hôn thì có đến 829 vụ ly dị.

Năm 2016 tệ hơn, 895 vụ ly dị.Và thế giới thật sự chưa hề có hòa bình như lời Mẹ hứa.

Cuộc tàn sát chủng tộc tại Kosovo, Somalia khiến nhân loại rùng mình.

Bọn khủng bố tấn công Tháp Đôi vào tháng 9/2001, dẫn đến cuộc chiến Afghan và Iraq.

Rồi cuộc chiến giữa Nga và Georgia, đến nỗi Tiến sĩ Ivan Eland thuộc Học viện Độc lập (Independent Institution) phải kết luận, "Chiến tranh Lạnh chưa hề chấm dứt."

Sự sáp nhập Crimea vào Nga mới đây (2014) dẫn đến ra sự trừng phạt kinh tế, gây xao động trong vùng.

Bắc Hàn có anh tổng thống trẻ măng, đang hăm dọa thế giới về chiến tranh hạt nhân.

Tổng thống Putin muốn nắm quyền lãnh đạo thêm mấy nhiệm kỳ nữa, lăm le tái lập hệ thống độc tài toàn trị như thời cộng sản.

Bọn cực đoan ISIS điên cuồng hơn bao giờ, giết kẻ "tà đạo" không gớm tay.

Các giáo dân Thiên Chúa giáo vẫn chịu đau khổ mỗi ngày chỉ vì niềm tin.Cả một thế giới biến động, không yên.Và hiện tượng Fatima sau 100 năm vẫn còn là tiếng chuông vang khẩn cấp gửi đến nhân loại.

Sứ điệp của Mẹ xem ra vẫn bức thiết hơn bao giờ.

Sự lầm lạc mà nước Nga gieo rắc trong suốt ¾ thế kỷ đã len lỏi và thấm sâu vào nếp suy nghĩ của rất nhiều người.

Việc đền tạ và tôn kính Mẹ nên chuyên cần mỗi ngày, mỗi tuần.Giám mục Athanasius Schneider, nước Kazakhstan, trong một cuộc phỏng vấn với trang nhà Rorate Caeli, xin mọi giáo dân "cầu nguyện để Đức Giáo hoàng thánh hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria một lần nữa, để Mẹ sẽ thắng, như Giáo hội hằng cầu nguyện từ xưa, 'Hỡi Trinh Nữ Maria, hãy vui mừng lên, vì chỉ một mình Mẹ đã hủy diệt tất cả các dị giáo trên toàn thế giới.' " Tháng 5/2017 vừa qua, Hồng y Raymond Burke khẩn thiết kêu gọi nên thực hiện việc thánh hiến nước Nga cho Mẹ Maria, như lời Mẹ yêu cầu 100 năm trước.

Ngài lập lại những phương cách cố hữu như Mẹ Fatima vẫn hằng kêu gọi: (1) lần hạt Mân Côi mỗi ngày, (2) treo áo Đức Bà, (3) hy sinh, hãm mình đền cho mình và cho các tội nhân, (4) giữ ngày thứ Bảy đầu tháng, (5) tận hiến đời sống nhiều hơn cho Đức Kitô, và (6) yêu cầu Đức Thánh cha, với sự hiệp thông với toàn thể Giám mục, thực hiện việc thánh hiến nước Nga cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ Maria.

Việc yêu cầu của Hồng y Burke lập lại lời yêu cầu của Mẹ Maria khi Mẹ hiện ra tại Fatima đúng 100 năm trước.

Nếu mỗi giáo dân ý thức được sứ điệp của Mẹ Fatima và thực hiện theo như Mẹ yêu cầu thì chắc chắn thế giới sẽ hưởng một nền hòa bình đích thực.

Nhất là lời kết của Mẹ khi hiện ra với ba trẻ tại Fatima vào ngày 13/7/1917.

Đó là:"Nhưng cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ thắng."

Chúng ta vững tin như thế.

Tác giả Sơn Nghị

Tài liệu tham khảo😀avid McLellan, Maxism and Religion: A Description and Assessment of the Marxist Critique of Christianity (London, The MacMillan Press LTD, 1987)John de Marchi, I.M.C., The True Story of Fatima (Imprimatur 1947 and 2009)William Thomas Walsh, Our Lady of Fatima (Doubleday Dell Publishing Group, Inc.

New York, 1946)Matthew J.

Ouimet, The Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet Foreign Policy (Chaped Hill and London, The University of North Carolina Press, 2003)George Weigel, Witness To Hope (New York, PerfectBound of HarperCollins Publishers, Inc., 2005)Archie Brown, The Gorbachev Factor (New York, Oxford University Press Inc., 1996)Arcbishop Fulton Sheen, The World's First Love (New York, McGraw-Hill Book Company Inc., 1952)Paul Kengor, The Crusader: Ronal Reagan and the Fall of Communism (New York, HarperCollins Publishers Inc., 2006)Hilaire Belloc, The Great Herresies (Charlotte, North Carolina, TAN Books, 1938)Loretta Napoleoni, The Islamic Phoenix (New York, Seven Stories Press, 2014)Time Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,974548,00.htmlTime Subscription, http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,159069,00.htmlSource: https://tuongtri.com/category/son-nghi
 
Back
Top Bottom