Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới

Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 90: Chuyến Xe Đêm (Phần 4)



Những cánh hoa anh đào trong đêm xoay tròn rồi rơi xuống từ cành. Truy Dã ngẩng đầu lên, dường như đang ngắm nhìn chúng.

Sự im lặng của anh khiến Ô Mạn cảm thấy bất an, trong lòng thấp thỏm: Chẳng lẽ lần này cô lật thuyền rồi sao…?

Suy nghĩ kỹ lại, cô đã ba mươi sáu, bước qua nửa chặng đường đến tuổi bốn mươi. Còn Truy Dã chỉ mới hai mươi lăm, đối với một người đàn ông, độ tuổi này còn quá sớm để nói đến sự trưởng thành, càng khó để cam tâm bị hôn nhân ràng buộc.

Huống hồ với thành tựu mà anh đang có, ai mà không muốn nắm giữ thật chặt chứ?

Vậy nên lời cầu hôn do cô đưa ra, có vẻ như làm một người phụ nữ lớn tuổi như cô trông quá vội vàng.

Chỉ đến lúc này, Ô Mạn mới nhận ra sự vi diệu trong vấn đề ấy. Nhưng khi thốt ra năm từ đó, cô chẳng hề cân nhắc đến bất cứ điều gì. Sự dè dặt, lập trường, điều kiện… tất cả đều không quan trọng.

Khoảnh khắc này, cô chỉ là một cô gái nhỏ muốn nắm giữ tình yêu của mình. Muốn dùng một danh phận gần gũi hơn để ở bên anh, cùng nhau đi qua năm tháng dài rộng, mãi mãi không rời xa.

Truy Dã chớp mắt một cái, rồi cúi xuống nhìn Ô Mạn, vẻ mặt không thể hiện quá nhiều cảm xúc.

Anh khẽ cười, giọng nói mang theo chút tinh nghịch:

"Chị, em đóng bao nhiêu bộ phim rồi, mà cách cầu hôn lại quê mùa thế này?"

Ô Mạn có chút bực bội:

"Quê thì quê, anh đồng ý hay không?"

"Nếu anh nói không thì sao?" Anh khẽ lắc đầu, "Sau này già rồi nhớ lại, người ta hỏi anh sao kết hôn, anh nói vợ anh nhét nhẫn vào bánh kem, có khi họ cười rụng cả răng giả mất."

Sắc mặt Ô Mạn trầm xuống, cảm thấy khó xử, liền vươn tay muốn giật lại chiếc nhẫn trong tay anh.

"Anh chưa nói xong mà!" Truy Dã lập tức nắm chặt, "Chẳng lẽ em không muốn biết cách cầu hôn nào mới không quê mùa sao?"

"Không muốn biết."

"..." Anh thở dài, "Thế thì để anh làm mẫu cho em xem, được không?"

Vừa nói, anh vừa lấy từ túi áo khoác ra một chiếc hộp nhung xanh nhỏ, mở ra, bên trong là hai chiếc nhẫn. Mặt trong của vòng nhẫn được khắc chữ cái viết tắt của cả hai.

Kiểu dáng tuy đơn giản nhưng rõ ràng đã được đặt làm từ trước. Không giống như chiếc nhẫn cô tặng anh—dù có tinh xảo đến đâu, cũng là món đồ cô vội vã chọn ngay trong ngày ở khu Ginza.

Cô sững sờ hỏi:

"…Từ bao giờ vậy?"

"Từ lúc em đồng ý ở bên anh, anh đã lén đặt làm nhẫn rồi." Truy Dã có chút xấu hổ, "Nhưng anh sợ em nghĩ anh nóng vội, nên vẫn chưa dám đưa ra, chỉ luôn mang theo bên mình."

Vậy nên, anh mới có thể lấy nó ra ngay lúc này.

Chiếc nhẫn nhỏ trong túi anh chính là trái tim luôn rực cháy của anh.

Lần này, người ngẩng đầu nhìn hoa anh đào thật lâu mà không dám cúi xuống lại chính là cô.

Ô Mạn chớp mắt một cái. Dưới màn sương mỏng, những cánh hoa anh đào đêm giống như một bức tranh in ướt nước. Cô nghe thấy giọng mình giả vờ như không có chuyện gì, chế nhạo anh:

"Nhóc con, rõ ràng cách cầu hôn của anh còn quê mùa hơn của em."

"Vậy chứng tỏ chúng ta sinh ra đã là một đôi rồi."

Chàng trai nở nụ cười rạng rỡ, khóe mắt đỏ hoe. Chú cún con của cô lại biến thành một kẻ mít ướt rồi.

"Nếu em không nói ra trước, anh định khi nào mới đưa em?"

Truy Dã nghe câu hỏi của cô, sững người trong chốc lát, rồi lắc đầu đáp:

"Nói thật thì… anh không biết." Anh ngược lại hỏi cô: "Vậy còn em, sao lại chọn hôm nay để… cầu hôn anh?"

Đến ba chữ cuối cùng, nụ cười không thể kìm nén tràn đầy trong mắt và khóe môi anh.

"Cũng chẳng có gì đặc biệt. Hôm nay em thấy một cặp vợ chồng già trong cửa hàng tiện lợi, cả hai trông đều ngoài bảy mươi, đi đứng không còn vững nữa." Ô Mạn nhớ lại cảnh tượng buổi sáng, "Họ là những người lớn tuổi nhất mua bánh kem hôm nay. Sau đó hai người xách bánh, giống chúng ta, ngồi dưới gốc anh đào vừa ngắm hoa vừa trò chuyện. Tự nhiên em nghĩ, nếu trên thế gian này có một người sẵn lòng cùng em già đi, rồi vẫn giữ sự lãng mạn mà cùng nhau ngắm hoa anh đào một lần nữa, thì người đó chỉ có thể là anh."

Đôi khi, khi yêu một người, ta có thể liệt kê ra vô số lý do đường hoàng để biện hộ. Nhưng khoảnh khắc quyết định muốn đi cùng họ cả đời, thực ra lại rất nhỏ bé.

Mà đến cuối đời, thứ có thể mang theo, cũng chỉ là những khoảnh khắc rực cháy ấy.

Hôm đó, fan của Truy Dã phát hiện thần tượng của họ, người đã lâu không cập nhật gì, cuối cùng cũng "hồi sinh".

Anh đăng tải một bức ảnh hoa anh đào trong đêm, kèm theo dòng trạng thái:

"Cánh hoa anh đào rơi xuống, đáp lên đôi cánh cùn của quạ đen."

Fan lập tức lao vào bình luận.

"Aaaa! Anh trai ơi, cuối cùng anh cũng nhớ ra mật khẩu tài khoản rồi sao?!"

— "Lại đi một mình ngắm hoa anh đào! Lần sau tôi sẽ ngồi chờ dưới gốc cây hoa anh đào để bắt trai đẹp 55555!!"

— "Hoa anh đào nào đẹp bằng cậu! Cậu mới chính là tháng tư nhân gian!"

Người hâm mộ thi nhau khen nức nở, bài đăng trên Weibo của anh ấy một cách khó hiểu lại leo lên hot search.

#TruyDãThưởngHoa

Ngay cả Truy Dã khi nhìn thấy cũng có chút cạn lời, chẳng hiểu vì sao mấy chuyện cỏn con thế này cũng có thể lên hot search.

Đây cũng là lý do tại sao họ vẫn chưa công khai mối quan hệ. Ban đầu là để bảo vệ chị của anh, nhưng về sau, khi danh tiếng ngày càng lớn, nhất cử nhất động của anh ấy đều bị dõi theo, huống hồ Ô Mạn cũng thuộc dạng thể chất “sóng gió bão bùng”. Hai người họ mà dây vào nhau, mạng xã hội chắc chắn sẽ náo loạn.

Hơn nữa, Ô Mạn không thích bị người ta bàn tán về mình, lại càng không muốn tình cảm của họ bị đem ra soi mói. Có khi chỉ một hành động vô tình cũng bị suy diễn thái quá—ví dụ như không tương tác trên Weibo là cãi nhau, bị chụp được đi ăn cùng người khác là chia tay. Họ vốn dĩ đã là một cặp đôi không được ủng hộ, vì khoảng cách tuổi tác thực sự quá lớn.

Nói ra thì cũng thấy bất lực, trong giới giải trí, chuyện chênh lệch tuổi tác giữa các cặp đôi không phải hiếm, nhưng mọi người dường như đã quen với việc đàn ông lớn tuổi yêu phụ nữ trẻ hơn cả chục tuổi, thậm chí hơn nữa cũng chẳng có gì lạ. Ngược lại, nếu là phụ nữ yêu một chàng trai kém nhiều tuổi, thì lại bị coi như một “kỳ tích” phi thường.

Mà cái “phi thường” này, vừa là khen ngợi, vừa là mỉa mai. Rõ ràng chỉ là một chuyện yêu đương bình thường, tại sao lại biến thành một đề tài tranh cãi gay gắt? Điều này chẳng khác nào một dạng phân biệt đối xử, vì tình yêu vốn không nên là điều phải chịu đựng sự chỉ trích. Cái cách mà xã hội khắt khe với phụ nữ thật khiến người ta phải chùn bước, đến mức họ quên mất ý nghĩa của tình yêu là gì.

Quả nhiên, hot search của Truy Dã vừa lên không bao lâu, hot search của Ô Mạn cũng lập tức xuất hiện, nhưng lại không phải một từ khóa hay ho gì.

#ÔMạnMuốnLấyChồngGấp

Nhấn vào xem, không biết ai đã chụp lén hình cô ấy đi chọn nhẫn ở Ginza vào buổi chiều.

Dân mạng lập tức hứng thú, tha hồ tưởng tượng, vì dù gì cô cũng là nữ diễn viên hàng đầu duy nhất vẫn chưa kết hôn. Đương nhiên sẽ có người nhân cơ hội công kích cô.

“Mọi người nhìn đi, dù cô ta có tiền, có danh tiếng, có nhan sắc, nhưng cuối cùng vẫn chẳng ai chịu cưới! Thậm chí tôi còn tốt hơn cô ta.”

Một số cư dân mạng dựa vào kiểu ưu thế kỳ lạ này để châm chọc Ô Mạn, còn mở hẳn chủ đề thảo luận ẩn danh.

Bài viết gốc:

— "Tin vui—Bông hoa còn sót lại cuối cùng cũng chịu gả đi rồi! [hình.jpg]"

Bình luận:

1L: "Trống kèn vang trời, pháo nổ tưng bừng!!"

2L: "Thật sự sắp kết hôn à??"

3L: "Mua nhẫn rồi còn gì? Rõ ràng là chuyện cá nhân. Tôi cược một quả dưa chuột rằng chẳng bao lâu nữa sẽ công bố tin cưới."

4L: "Có gã đàn ông nào có tự trọng lại đi cưới cô ta chứ... Một người phụ nữ từng bị chơi đùa, chẳng khác gì đồ bỏ đi."

5L: "Nên mới phải tự đi mua nhẫn một mình đây này. Bình thường thì phải là hai người cùng đi mua, hoặc là đàn ông mua tặng. Phụ nữ tự đi mua thì chắc chắn là đang bẫy đàn ông để mau chóng kết hôn."

6L: "Tôi xin thắp nến trước cho gã đàn ông xui xẻo đó."

7L: "Đừng nói nhảm nữa, trong giới giải trí có ai trong sạch đâu, mấy cô khác vẫn cưới được đấy thôi."

8L: "Kìa kìa, fan Ô Mạn lại chơi bài ‘kéo người khác xuống nước’. Tôi khuyên các cô đừng nhảy dựng lên, lo mà quan tâm đến ‘ông xã’ của mình đi, đến mua nhẫn còn không chịu đi cùng, chắc chắn là tra nam rồi."

9L: "Tôi hình như biết ông xã là ai rồi."

10L: "!!? Ai cơ!"

11L: "[hình.jpg] Có người trên diễn đàn Eight Trigrams đào ra, Ông Thiệu Viễn cũng có mặt ở Ginza Tokyo cùng ngày hôm đó."

12L: "Hai người họ có quan hệ gì sao??"

13L: "Chủ đề bài hát phim mới của Ô Mạn chính là do Ông Thiệu Viễn hát đấy."

14L: "Còn nữa, ba năm trước họ từng tham gia chương trình ‘Giường Đôi’. Lúc xem tập đầu, tôi còn nghĩ họ có thể thành đôi, nhưng xem xong thì thấy chẳng có phản ứng hóa học gì, gượng gạo cực kỳ, tôi vội vàng bỏ chạy ngay (chỉ cần tôi chạy đủ nhanh, BE* sẽ không đuổi kịp tôi!)"

15L: "Tôi đồng cảm, tôi cũng theo dõi chương trình đó 5555. Xin lỗi trước nhưng có d.a.o kề cổ tôi cũng phải nói, Ô Mạn và Truy Dã trong chương trình đó ăn đứt mọi CP hot hiện tại!!"

16L: "CMN! Tôi chỉ đang hóng chuyện mà cũng bị lôi tên anh đẹp trai vào. Trả anh ấy lại cho tôi đi, anh ấy với con lợn còn có chemistry hơn ấy, cảm ơn!"

17L: "Thế thì chắc là Ông Thiệu Viễn rồi, biết đâu hai người họ đã bên nhau từ ba năm trước… Giấu giếm cũng giỏi phết nhỉ."

18L: "Tôi thấy có khi là chiêu trò quảng bá. Phim của họ sắp tổ chức họp báo ngay ngày kia, đúng lúc này lại bị tung ảnh?"

Chu Yêu Yêu

19L: "Nếu là chiêu trò thì cũng hợp lý. Tôi đã bảo mà, Ô Mạn cũng lớn tuổi thế này rồi, còn ai muốn nữa đâu. 18 tuổi, mỹ nhân trẻ trung chẳng phải tốt hơn sao?"

Các tài khoản marketing đã nhanh chóng chuyển tin tức từ diễn đàn Bát Tổ lên Weibo, chẳng mấy chốc, tên của Ô Mạn và Ông Thiệu Viễn song song lao thẳng lên top tìm kiếm, kèm theo chữ “Bùng nổ”, thể hiện độ chấn động của tin tức này.

Vào ngày diễn ra buổi quảng bá phim mới của Ô Mạn, không ít phóng viên đến đó chẳng phải để hỏi về bộ phim, mà chỉ nhắm vào cặp đôi đang ở trung tâm tin đồn. Hai nhân vật chính của scandal không những không né tránh mà còn cùng nhau xuất hiện tại sự kiện. Thế này chẳng khác nào muốn công khai rồi còn gì?

Các phóng viên tại hội trường đã chuẩn bị sẵn sàng, tin tức giật gân đều đã được viết nháp, chỉ chờ moi được một lời xác nhận chính thức từ họ mà thôi.

Cuối cùng cũng đợi được đến lúc phim kết thúc, bên dưới từng người đều háo hức, chỉ muốn có tám cái miệng để hỏi cho thỏa.

“Xin hỏi, hai người sắp có tin vui rồi phải không?”

“Hai người bắt đầu hẹn hò từ bao giờ vậy?”

“Xin hỏi, ai là người cầu hôn trước? Có phải là Ô Mạn không? Có phải cô ấy lo lắng vì đến giờ vẫn chưa kết hôn không?”

Ngồi trên sân khấu, Ông Thiệu Viễn khổ không nói nên lời. Thực tế, bức ảnh kia là do ekip sản xuất cố tình tung ra để tạo hiệu ứng truyền thông, chứ hai người họ hoàn toàn không xuất hiện cùng thời điểm. Tất cả chuyện này thực chất chỉ là một chiêu trò quảng bá phim mà thôi.

Anh vốn nghĩ rằng Ô Mạn cũng chỉ đang phối hợp theo chiến lược, nên không khỏi có chút cảm thông, thậm chí còn thầm kính nể cô.

Nhưng anh không thể ngờ rằng… người đề xuất kế hoạch này ngay từ đầu, chính là cô ấy.

Bởi vì cô và Truy Dã đã quyết định kết hôn, nên mối quan hệ này không cần phải giấu giếm nữa. Tuy nhiên, bị chụp trộm và tung ảnh ra công khai là điều nằm ngoài dự đoán, khiến kế hoạch của họ bị xáo trộn.

Vậy nên, thay vì lên tiếng phủ nhận ngay lập tức, chẳng bằng cứ thuận theo dòng nước, nhân tiện giúp bộ phim tạo hiệu ứng truyền thông một phen, còn quan hệ của cô và Truy Dã thì cứ để lùi lại thêm chút nữa.

Ô Mạn bình tĩnh cầm micro lên:

“Xem ra các câu hỏi của mọi người đều không liên quan đến bộ phim. Đây là buổi giao lưu sau khi chiếu phim, nên tôi không thể trả lời những câu hỏi đó.”

Cô quét mắt nhìn một vòng dưới khán đài:

“Vậy, có ai muốn đặt câu hỏi về bộ phim không?”

Giữa đám đông đang nhìn nhau khó hiểu, từ hàng ghế cuối cùng, một cánh tay lười nhác giơ lên.

Còn chưa đợi Ô Mạn gọi đến, người thanh niên ấy đã nhét tay vào túi áo rồi đứng dậy.

Anh ta kéo mũ hoodie xuống, tháo khẩu trang, lập tức khiến cả khán phòng xôn xao, tiếng máy ảnh liên tục vang lên chụp về phía thanh niên đó.

Truy Dã khẽ mỉm cười:

“Tôi có một câu hỏi muốn hỏi nữ chính của bộ phim.”

Anh nghiêng đầu, như có như không nhìn Ô Mạn:

“Lúc ở nhà, em đã bàn bạc với anh cách diễn cảnh kết thúc, nhưng lúc quay lại diễn khác đi. Tại sao vậy?”

Khoan đã… ở nhà?!

Đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?!

Truy Dã làm bộ nhíu mày đầy nghiêm túc:

“… Tôi có chiếm mất suất đặt câu hỏi của khán giả không nhỉ? Nếu vậy thì coi như tôi chưa hỏi, nhường lại cho người khác vậy.”

Anh dừng một chút, rồi mỉm cười đầy ẩn ý:

“Còn câu hỏi này… về nhà rồi hãy trả lời với anh nhé, bà xã?”
 
Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 91: Chuyến Xe Đêm (Phần 5)



Sự xuất hiện đột ngột của anh không chỉ làm giới truyền thông và khán giả kinh ngạc, mà ngay cả Ô Mạn cũng bị bất ngờ.

Bọn họ vốn đã bàn bạc rằng đợi lo liệu xong hôn lễ mới công khai chuyện này, chứ không phải ngay lúc này. Hôm nay, anh còn bảo rằng mình có lịch quay quảng cáo, không thể tham gia buổi công chiếu, thậm chí còn gửi cho cô một loạt sticker khóc lóc trên WeChat, diễn rất đạt.

Tốt lắm, dám lừa cô cơ đấy.

Ô Mạn tức đến bật cười, nhưng hiện tại không có thời gian để tính sổ với anh. Mọi người vẫn còn đang bàng hoàng vì câu nói vừa rồi của Truy Dã, sau vài giây sững sờ thì toàn bộ khán phòng như một nồi nước sôi bùng lên, hơi nóng phả ra làm ai nấy đỏ bừng mặt vì kích động.

Vì lý do an toàn, buổi giao lưu sau phim buộc phải tạm dừng. Ô Mạn được đưa vào phòng VIP của rạp chiếu để tránh né, nếu không thì cánh phóng viên có khi l*t s*ch cả lớp da của cô mất.

Còn Truy Dã thì sau khi đặt câu hỏi xong đã rời khỏi khán phòng bằng lối thoát hiểm. Ô Mạn lập tức nhắn tin:

"Anh đâu rồi? Em đang ở phòng VIP, vòng qua đây đi."

Không có hồi âm. Chắc lại bị đám phóng viên chặn mất rồi. Cô vội vàng bảo trợ lý ra ngoài tìm người, đồng thời mở mạng xem tình hình, nhưng phát hiện Weibo đã sập hoàn toàn.

Lượng truy cập khổng lồ làm máy chủ bị quá tải, trực tiếp "đóng băng". Chỉ có những diễn đàn nhỏ ẩn danh là còn truy cập được, nhưng cũng bị spam kín mít.

Bài đăng chủ đề: "M* nó m* nó m* nó m* nó, M* NÓ!"

1L: "Tôi cũng hóa đá rồi!"

2L: "Tôi bị lag luôn, chuyện gì vậy, sao Weibo không load được?"

3L: "Là tôi điên hay thế giới này điên?! Bà nội ơi, CP bà ship năm xưa chính thức thành đôi rồi! Thật sự là thật rồi!!!"

4L: "Tôi biết ngay mà! Anh ta không thể nào đi ngắm hoa anh đào một mình! Lúc Truy Dã đăng bài ở sông Meguro, tôi đã thấy Ô Mạn cũng có mặt ở Tokyo, lúc đó đã thấy có gì đó sai sai rồi. Truy Dã, anh đ.â.m thẳng vào tim fan thế này à?!"

5L: "Khoan... vậy ba năm trước, người ở bên Ô Mạn không phải Ông Thiệu Viễn, mà là Truy Dã sao?"

6L: "Sợ rằng không chỉ ba năm trước đâu. Nếu lần theo những manh mối trên Weibo thì bài thơ Hải Tử đầu tiên anh ấy đăng, có vẻ cũng là để gửi cho Ô Mạn."

7L: "Bất ngờ quá, hẹn hò bí mật lâu như vậy mà bây giờ còn cưới luôn à?! Ai là người đã nhồi sọ tôi rằng anh ấy đào hoa lắm hả?"

8L: "Đây chắc chắn là chiêu trò PR!! Đừng có đụng vào nam thần của tôi!!!"

9L: "Ủa, fan ảnh đế có vấn đề à? Chính miệng anh nhà gọi người ta là vợ đấy nhé! Còn chuyện gọi người ta là 'bà thím', mấy người có tự soi gương không? Chắc không sống qua nổi 36 tuổi đâu."

10L: "Tôi 30+ bị xúc phạm rồi đây, nhưng mà tôi hoàn toàn ủng hộ! Chúng tôi thích mấy cậu em như vậy đó! Ô Mạn, đứng thẳng lên nào!"

11L: "Cười xỉu, mấy người này trước còn dè bỉu bảo người ta là 'hàng cũ', nói kiểu ai cũng có bồ, ngầu lắm cơ. Mà đúng là ngầu thật đấy, đi làm về chỉ biết đổ uỵch xuống sofa chơi game rồi buông lời c.h.é.m gió, trong khi người ta thì đang bận nấu cơm quét nhà. Chà, chắc công dụng duy nhất của mấy người chỉ là để làm... ừm, mà chắc còn không bằng cái máy massage nữa."

12L: "Chị gái ở trên đanh đá quá trời, haha! Nhưng mà thôi, ai cũng có niềm vui riêng, chúc tất cả các cặp đôi trên thế gian này hạnh phúc nhé!"

Trợ lý sau một hồi tìm kiếm cũng trở về, ảo não báo cáo rằng không thấy Truy Dã đâu cả, có lẽ anh đã rời rạp rồi.

Lần này, Ô Mạn thật sự giận rồi. Mới giây trước còn công khai tỏ tình, giây sau đã mất hút luôn?

Trợ lý nhỏ giọng đoán: "Chắc... điện thoại anh ấy hết pin rồi?"

Ô Mạn hừ lạnh, nhét điện thoại vào túi, lạnh lùng nói với những người còn lại:

"Tôi đi trước đây."

Ông Thiệu Viễn kéo tay cô lại: "Chờ thêm chút đi, bên ngoài giờ đang kín đặc truyền thông và fan hâm mộ, không những cửa chính mà ngay cả cửa sau cũng có người chặn rồi."

"Không sao, tôi cứ ngồi đây mãi cũng làm mọi người khó rời đi." Ô Mạn khoác áo gió mỏng, phất tay mà không ngoảnh đầu lại: "Cánh phóng viên bọn họ, tôi đâu phải lần đầu đối mặt. Chưa c.h.ế.t được đâu."

Cô cứ thế một thân một mình đi thẳng về phía cửa chính.

Vừa bước ra ngoài, đám phóng viên như bầy ruồi ngửi thấy mùi m.á.u lao đến, bao vây kín mít, chặn hết mọi đường thoát. Trợ lý vốn định giúp cô mở đường, nhưng cô gái nhỏ bé nhanh chóng bị chen lấn đến mức suýt ngã, cuối cùng còn phải để Ô Mạn đỡ lấy.

"Xin hỏi, quan hệ giữa cô và Truy Dã là gì?"

"Anh ấy gọi cô là 'bà xã', là đùa hay hai người đã đăng ký kết hôn rồi?"

"Vậy Truy Dã đâu rồi, sao chỉ có một mình cô xuất hiện?"

Ô Mạn bực mình trợn mắt, thậm chí còn muốn nói với phóng viên vừa hỏi câu cuối cùng:

"Tôi cũng đang rất muốn biết anh ta chạy đi đâu rồi đây. Hay anh gọi thử giúp tôi đi?"

“Mọi người bình tĩnh một chút, tôi sẽ tổ chức họp báo để thông báo cụ thể sau. Tối nay, xin mời mọi người về nghỉ ngơi trước.”

Cô hắng giọng rồi lớn tiếng nói, nhưng đám phóng viên đói tin tức như ma đói đâu dễ dàng buông tha cô – miếng thịt kho tàu béo bở. Tiếng hỏi dồn dập lập tức ập đến như sóng lớn nhấn chìm cô.

“Không thể nói rõ hơn một chút sao?”

“Nói vậy có phải là gián tiếp thừa nhận không?”

“Sao lại đột ngột công bố như vậy? Có phải vì cô mang thai rồi không?”

Trong đám đông, có phóng viên cố tình liếc nhìn xuống vùng bụng vốn được áo khoác che kín của cô với ánh mắt đầy ẩn ý.

Sắc mặt Ô Mạn lạnh hẳn đi, bầu không khí xung quanh càng thêm hỗn loạn, tình hình dần mất kiểm soát.

Ngay trước rạp chiếu phim náo loạn, đột nhiên có tiếng ầm ĩ còn dữ dội hơn vang lên—tiếng động cơ phân khối lớn gầm rú, rung chuyển đến mức tưởng chừng có thể làm vỡ màng nhĩ. Một chiếc mô-tô lao thẳng vào giữa đám đông, ngang ngược xé toạc dòng người, mở ra một lối đi rồi dừng lại ngay trước mặt Ô Mạn.

Cô kinh ngạc nhìn người vừa biến mất bỗng dưng xuất hiện đầy phô trương như thể từ trên trời rơi xuống.

Ngồi trên xe, Truy Dã đã thay một bộ vest đen, hai cúc áo trên cổ mở tung, mái tóc vì lao vút trong gió mà rối bù như một chú sư tử con. Trông anh ta chẳng khác nào một tay mafia đến thu phí bảo kê.

Ô Mạn không cần phải hỏi anh ta vừa đi đâu nữa, cảnh tượng trước mắt đã nói lên tất cả.

Chu Yêu Yêu

Không biết bằng cách nào, anh ta tìm được một chiếc mô-tô phân khối lớn. Dáng vẻ hoang dã của nó lại được tô điểm một cách lạ lùng bởi hai bó hoa nhài trắng tinh, làm chiếc xe vốn mang phong thái bất cần nay lại có chút dịu dàng.

Truy Dã cầm lấy một bó hoa, không chớp mắt mà ném thẳng vào đám đông, đồng thời giơ loa phóng thanh lên.

Không chỉ các phóng viên và fan tụ tập trước rạp chiếu phim, mà cả những người đi đường gần đó đều nghe thấy giọng điệu lười nhác nhưng lại vô cùng áp đảo của chàng trai trẻ vang vọng trong màn đêm.

“Rất tiếc vì đến lúc đó không thể mời từng người một đến dự đám cưới của chúng tôi, vậy nên gửi tặng mọi người hoa cưới trước. Coi như trao đổi nhé, cô dâu của tôi, trả lại tôi được không?”

Fan hâm mộ hò hét giành hoa cưới, kéo theo đám phóng viên cũng bị cuốn vào vòng hỗn loạn. Cánh cổng vốn bị vây chặt đến mức không thể nhích nổi nay bỗng chốc trở nên thông thoáng.

Ô Mạn suýt nữa tức đến mức muốn túm cổ kẻ đầu têu này treo lên rồi đánh cho một trận. Nhưng khi cô vừa lao đến trước mặt anh ta, Truy Dã liền nghiêng người, nhón chân kiễng lên, ngửa đầu hôn nhẹ lên má cô.

“Chị, lên xe đi, nhân lúc này trốn thôi.”

Chỉ một câu hờ hững của anh ta, cơn giận của cô lập tức tan biến không chút dấu vết.

Còn có thể làm gì được với đứa trẻ này đây?

Thôi vậy, đành thuận theo số phận. Cô thở dài, nhắm mắt nhảy lên yên sau.

Truy Dã lập tức khởi động động cơ, tiếng máy gầm rú, cuốn theo mọi ồn ào náo nhiệt, để lại sau lưng một màn kịch hỗn loạn. Khi đám đông kịp phản ứng lại, chỉ còn kịp trông thấy vệt khói trắng lờ mờ tan biến và hai bóng người hòa vào dòng xe cộ dưới ánh đèn vàng vọt.

Ô Mạn ngoái đầu nhìn lại đám người đen kịt phía sau, thở hắt ra một hơi dài:

“Cuối cùng cũng thoát được rồi.”

“Thần có tội, đã cứu Công chúa quá muộn.”

Cô giả vờ tức giận nói: “Còn không phải tại anh hay sao.”

Ngay lập tức, trong lòng Truy Dã như có chuông báo động vang lên, anh liếc nhanh vào gương chiếu hậu. Bóng dáng người phụ nữ phản chiếu trong đó—mái tóc bay rối, cổ áo khoác kẻ bị gió đêm hất lên, khẽ lướt qua làn da mịn màng, lướt qua cả khóe môi đang cong lên của cô.

Anh thở phào, rồi cũng vô thức bật cười theo cô.

“Vậy thì đơn giản thôi, anh lấy nửa đời sau đền cho em.”

Ô Mạn đặt tay lên vai anh, vẫn còn chút hờn giận: “Ồn quá, em nghe không rõ.”

Cô tinh quái cầm lấy chiếc loa phóng thanh trên xe, vòng tay qua eo anh, đưa đến trước mặt anh.

Truy Dã hít sâu một hơi, nghiêng đầu một chút, đối diện với chiếc loa, từng chữ từng chữ lớn tiếng hô lên:

“Anh—yêu—em—”

Những lời tỏ tình từng phải vòng vo ẩn giấu trong câu chữ, những năm tháng phải lén lút che giấu dưới ánh mắt của công chúng—cuối cùng cũng có một ngày, có thể không chút kiêng dè mà hét to lên, dốc hết sức để tất cả mọi người đều nghe thấy.

Quan trọng nhất là, để người anh yêu nghe thấy.

Hôm đó, trong thành phố đầy ánh đèn và bóng ảnh lướt qua, người ta sẽ thấy một chiếc mô tô lao đi trên cầu vượt. Trên xe là một chàng trai khoác vest đen và một người phụ nữ trong chiếc áo khoác kẻ. Họ ngông nghênh lao đi, chẳng chút che giấu, như muốn khuấy động cả thế giới. Những đóa nhài trắng gắn trên xe vì tốc độ quá nhanh mà bị gió xé rơi từng cánh. Một vài cánh rơi xuống trên tóc họ, còn nhiều hơn nữa, rào rạt rơi xuống, từ Kim Đài Tịch Chiếu đến tận sâu trong trăm hoa.
 
Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 92: Chuyến Xe Đêm (Phần 6)



Vài ngày sau, Ô Mạn tổ chức buổi họp báo chính thức với sự có mặt của Truy Dã. Hai người chỉ nói vài câu ngắn gọn để công bố tin kết hôn, nhưng khi phóng viên hỏi về hôn lễ, họ lại ăn ý mà giữ im lặng.

Không phải cố tình giữ bí mật, mà bởi vì họ vốn không định tổ chức hôn lễ công khai.

Khi đó, họ vẫn còn ở Tokyo. Ngay trong ngày cầu hôn, cả hai đều hưng phấn đến mức quay về căn hộ vẫn chưa nguôi say, cùng ngồi ngoài ban công tiếp tục uống rượu, bàn bạc về hôn lễ.

“Chị, em muốn một đám cưới hoành tráng hay đơn giản?”

Nghe Truy Dã hỏi, Ô Mạn cúi đầu, vân vê lon bia trong tay, phát ra tiếng rắc rắc, một lúc lâu vẫn không biết phải trả lời thế nào.

Trên phim, cô đã làm cô dâu rất nhiều lần, đã mặc vô số chiếc váy cưới lộng lẫy, thậm chí hôn lễ cũng được tổ chức tại những nơi độc đáo: du thuyền xa hoa, nhà thờ trang nghiêm, cung điện cổ kính tráng lệ…

Lâu dần, cô trở nên tê dại với nghi thức này, đến mức không thể nói rõ bản thân muốn một đám cưới như thế nào.

Nghĩ một lúc, cô lúng túng đáp: “Gì cũng được. Có lẽ giống như Hà Tuệ Ngữ và chồng cô ấy, bao trọn một địa điểm rồi tổ chức một đám cưới trên bãi biển?”

Truy Dã trầm ngâm một hồi: “Nếu theo ý của anh, có lẽ càng đơn giản càng tốt. Thậm chí chỉ có hai ta cũng được.”

Ô Mạn bật cười: “Vậy còn gọi là hôn lễ sao?”

“Hôn lễ là một nghi thức đánh dấu hôn ước, nhưng kết hôn chẳng phải chỉ là chuyện giữa anh và em thôi sao? Đây là một nghi thức thuộc về riêng chúng ta.”

Ô Mạn ngạc nhiên. Cô từng nghĩ với tính cách của Truy Dã, anh nhất định sẽ muốn một đám cưới độc nhất vô nhị, oanh động thế giới.

“Nhưng như vậy chẳng phải quá sơ sài sao?”

“Không đâu.” Truy Dã ngửa cổ uống một ngụm bia, chống tay lên lan can, cánh tay dài đung đưa, còn vương chút nét nghịch ngợm của tuổi trẻ. “Mấy bộ phim vì muốn kịch tính nên mới phải vắt óc tạo ra những đám cưới hoàn mỹ. Em đã trải qua hết rồi. Thế nên anh muốn tạo cho em một đám cưới mà ngay cả biên kịch cũng chẳng buồn viết vào kịch bản. Đây là cuộc đời của chúng ta.”

Nghe vậy, cô cầm lon bia ấn vào mặt anh: “Đây không phải là đám cưới của riêng em. Em không muốn chỉ anh cho em, em cũng muốn tặng anh những ký ức đẹp nhất.”

Truy Dã đột ngột ghé sát lại, hôn lên vệt bia còn đọng nơi khóe môi cô, ánh mắt sâu thẳm áp chặt lấy cô.

“Chị… em đã cho anh điều tuyệt vời nhất rồi.”

Càng giữ bí mật, truyền thông lại càng muốn tìm mọi cách để moi ra địa điểm tổ chức hôn lễ của họ. Đây không phải là đám cưới của một minh tinh tuyến mười tám. Đùa sao, hai siêu sao hot nhất nhì giới giải trí mà kết hôn, chỉ cần tin tức vừa công bố, lưu lượng đã đủ bùng nổ. Nếu chụp được ảnh hiện trường hôn lễ, tiền thưởng cuối năm chắc chắn không thành vấn đề.

Cánh paparazzi dốc hết sức, tận dụng mọi mối quan hệ để điều tra các khách sạn năm sao xem có ai đặt tiệc cưới không. Những tay săn ảnh kỳ cựu còn bay ra nước ngoài, kiên nhẫn phục kích ở những địa điểm mà giới minh tinh hay chọn làm nơi tổ chức đám cưới, mong chờ vận may rơi trúng đầu.

Nhưng kết quả lại hoàn toàn vô ích.

Không ai có thể ngờ rằng, hai người họ chẳng màng đến cảnh đẹp hay những địa điểm xa hoa, mà lặng lẽ trở về một thị trấn cũ kỹ và nghèo nàn—Thanh Linh.

Đây là lần đầu tiên Ô Mạn quay lại Thanh Linh kể từ khi cô và Truy Dã chính thức bên nhau. Trước đó, cô đã muốn về nhiều lần, nhưng công việc cứ cuốn lấy khiến kế hoạch liên tục bị hoãn. Lần gần nhất cô đặt chân đến đây, là khi cô mới mười chín tuổi.

Tính ra, đã mười bảy năm xa cách.

Quá khứ nhạt nhòa, thị trấn nhỏ cũng thay đổi nhiều. Dù vậy, so với những nơi khác, nơi này vẫn còn lạc hậu. Đến mức ngay cả sân bay cũng không có, muốn đến Thanh Linh, phải bay đến thủ phủ rồi thuê xe chạy thêm một quãng đường dài.

Vậy là họ cứ thế lái chiếc xe cắm trại mới tinh, vừa đi vừa trò chuyện, nghe nhạc suốt quãng đường, khiến đám paparazzi hoàn toàn không thể dò ra thông tin chuyến bay của họ.

Phần lớn quãng đường là do Truy Dã cầm lái, lúc mệt thì đổi ca cho cô.

Họ lái suốt hai ngày hai đêm, xe rẽ từ quốc lộ vào hầm, chạy thêm khoảng một cây số thì dần nhìn thấy cảnh vật quen thuộc.

Con đường hẹp hai bên là những cửa cuốn cũ kỹ, có người kê bàn ăn ra ngoài, mấy gã đàn ông c** tr*n quây quần uống rượu đánh bài. Họ đi dép lê, trên tay kẹp điếu thuốc dài đến mức tàn thuốc rớt xuống nền đất ướt – chỗ đó vừa bị hắt nước giặt đồ.

Ô Mạn thu hồi ánh mắt, trong lòng nghĩ: Đây chính là Thanh Linh. Nơi này vẫn giữ lại một số thói quen nguyên sơ, không quá câu nệ tiểu tiết.

Rõ ràng trong ký ức, nơi đây chỉ là một vùng quê lạc hậu và mục ruỗng. Không biết là do ký ức của cô có vấn đề, hay tâm trạng khi trở về lần này đã khác, mà cô lại cảm thấy, dù những điều thô ráp ấy khiến nơi đây trông chẳng có chút quy củ nào, nhưng đổi lại, nó mang theo một sự tự do đầy phóng khoáng.

"Nhất phương thủy thổ dưỡng nhất phương nhân"—một vùng đất sẽ nuôi dưỡng con người theo cách riêng của nó. Đây chính là nơi đã sinh ra Truy Dã. Và vì yêu thương cả con người này, cô cũng cảm thấy nơi đây thân thuộc hơn.

Xe chạy qua vùng đất bằng phẳng, chuẩn bị lên núi, hướng về căn nhà cũ của gia đình Truy Dã.

Càng lên cao, khung cảnh càng trở nên hoang vu. Ô Mạn kinh ngạc trước độ dốc của ngọn đồi – sống ở đây, đi lại chắc hẳn rất bất tiện.

Cô thắc mắc:

“Trước đây ngày nào anh cũng đi học bằng con đường này à?”

Truy Dã lái xe, thản nhiên đáp: “Ừ.”

Ô Mạn chặc lưỡi:

“Người ta cùng lắm chỉ phải leo năm, sáu tầng lầu mỗi ngày, còn anh thì leo hẳn một ngọn núi.”

“Vì khu này hẻo lánh nên nhà cửa rẻ lắm.” Truy Dã nhắc trước cho cô một chút: “Anh đã nhờ người trông nom căn nhà suốt mấy năm qua, nhưng không sửa sang gì cả. Nó vẫn y như cũ… rất đơn sơ.”

“Thì sao nào?”

“Anh sợ em ở không quen.”

“Giờ em không còn kén chọn giường ngủ nữa đâu.” Ô Mạn chống tay lên cửa kính xe, nghiêng đầu nhìn chàng trai đang lái xe, giọng điệu đầy trêu chọc. “Ai bảo em có một vòng tay vô cùng vững chãi chứ.”

Người ngồi ghế lái hưng phấn đến mức nhịp chân theo một cái, nhấn ga vọt lên một đoạn.

Khoảng vài phút sau, xe dừng trước một căn nhà cũ kỹ, chẳng hề nổi bật.

Đây chính là nơi Truy Dã đã sống suốt hơn mười năm.

Ô Mạn không thể chờ được mà theo sau anh, bước vào trong nhà. Đập vào mắt đầu tiên là bức ảnh gia đình treo trên tường.

Trong ảnh, khung nền có vẻ là thủy cung trong sở thú. Một Truy Dã bé xíu đang được cha giơ cao trên đầu, hai tay tạo dáng như nhánh cây nhỏ. Mẹ anh cầm trên tay một con cá heo bông mua trong công viên, giơ lên như kiểu búp bê Matryoshka, ngay trên đầu cậu bé. Còn cậu nhóc cũng tinh nghịch giơ tay bắt chước dáng điệu của món đồ chơi.

Bức ảnh đã ngả vàng, nhưng vẫn phảng phất hơi thở của hoài niệm.

Truy Dã đứng lặng hồi lâu nơi ngưỡng cửa, rồi mới hoàn hồn, chỉ vào bức ảnh:

“Lúc đó chắc anh tầm sáu tuổi nhỉ, có đáng yêu không?”

Ô Mạn đưa tay nhéo má anh: “Quả thực là đáng yêu, nhưng giờ thì hết phúng phính rồi.”

Anh phối hợp bĩu môi: “Chị, không thích nữa à?”

“Không thích nữa.”

Sắc mặt Truy Dã lập tức thay đổi: “Không được đùa kiểu đó.”

Ô Mạn ôm lấy eo anh, giọng điệu đầy cưng chiều:

“Không phải đùa đâu. Vì bây giờ không còn là thích nữa, mà là yêu.”

Lúc này, Truy Dã mới hừ một tiếng, vòng tay ôm chặt cô vào lòng.

Hai người lặng lẽ ôm nhau trong căn phòng khách trống trải. Ánh sáng cũ kỹ len qua khe cửa sổ, lẫn vào những hạt bụi lơ lửng trong không khí, phủ lên họ một sắc màu dịu dàng như một bức tranh sơn dầu.

Ô Mạn vỗ nhẹ lưng anh: “Đừng đứng ngốc ra nữa, tiếp tục dẫn em đi xem nào.”

Truy Dã lúc này mới lưu luyến buông tay, kéo cô lên tầng hai.

Họ bước trên những bậc thang xi măng, tầm nhìn không hề bị che chắn. Tầng này có hai căn phòng, cùng một sân hiên nhỏ. Tuy rằng bây giờ nơi đây trông hoang vắng, chỉ có một chiếc bàn tròn trống trơn và hai chiếc ghế mây cũ kỹ, nhưng Ô Mạn có thể mường tượng ra—khi mẹ Truy Dã còn sống, nơi này nhất định tràn ngập hoa tươi.

Quả nhiên, Truy Dã lên tiếng:

“Mẹ anh hồi đó rất thích trồng hoa. Bà chưa từng dùng nước hoa, nhưng lúc nào trên người cũng có mùi thơm, vì suốt ngày ngâm mình ở đây.”

Anh ngồi xuống ghế, mô phỏng lại tư thế của mẹ mình:

“Bà hay ngồi như thế này, có khi đan áo len, có khi thả hồn suy nghĩ, cũng có lúc ngồi đây trò chuyện với cha anh.”

“Vậy còn anh thì sao?”

“Anh làm sao mà rảnh rỗi được, toàn chạy ra ngoài chơi bời thôi.” Truy Dã ngượng ngùng gãi mũi. “Có lúc mải chơi quá quên cả giờ ăn, bà ấy sẽ đứng đây nhìn xuống con dốc, chờ xem khi nào anh về. Chỉ cần anh xuất hiện, bà ấy sẽ bật dậy ngay lập tức, mặt cau có, khoanh tay hét tên anh. Còn anh thì ngoan ngoãn cúi đầu xuống.” Anh thoáng cười, “Nhưng thực ra, sau lưng bà ấy toàn là những bó hoa rực rỡ, chẳng có chút uy h.i.ế.p nào cả. Anh chỉ giả vờ thôi.”

“Đúng là đứa trẻ khiến người ta không thể yên lòng.”

“Anh vốn không phải đứa ngoan.” Anh cười nhẹ, giọng điệu bình thản, “Thế nên sau tám tuổi, anh không còn ham chơi nữa.”

Khoảnh khắc này, Ô Mạn cảm giác như đang ngồi trên một chiếc bập bênh, vốn dĩ đang chơi rất vui vẻ, bỗng dưng một tảng đá khổng lồ từ trên trời rơi xuống, đè nặng một bên, còn cô bị hất tung lên cao, tim thắt lại.

“Chị, xem này, anh đã giành được rất nhiều giấy khen.” Truy Dã đẩy cửa phòng mình, trên tường dán đầy giấy khen màu vàng rực rỡ. “Nhưng dù có nhiều đến vậy, cũng chẳng thể khiến cha anh vui lên.”

Giọng điệu anh càng nhẹ nhàng như thể đang bông đùa, cô lại càng thấy chua xót.

Cô nhanh chóng điều chỉnh cảm xúc, ngẩng đầu bước đến trước bức tường, cẩn thận xem từng tấm một.

“Giải nhất chạy cự ly ngắn, gương mẫu văn nghệ, học sinh ba tốt…”

Cô chăm chú nhìn kỹ một lượt rồi quay đầu nói: “Đứa nhỏ của chị giỏi quá.”

Chu Yêu Yêu

Truy Dã lúng túng tựa vào khung cửa, quay mặt đi chỗ khác.

Những lời khen ngợi mà năm đó anh không có, dường như thần linh đã dùng một cách khác để bù đắp cho anh —bù đắp cho cậu bé ngày ấy, luôn nghiến răng nỗ lực hết sức, chỉ mong có thể nhìn thấy nụ cười hiếm hoi trên gương mặt cha mình.

Nhìn anh lúc này, Ô Mạn càng cảm thấy xót xa hơn. Cô chợt nhớ đến năm anh hai mươi tuổi, một mình đứng trên sân khấu Cannes, nhận lấy vinh quang cao nhất.

Thế gian đều ghen tị với anh, vì thế lại càng dễ dàng bỏ qua nỗi cô đơn có thể tồn tại trong anh. Một thiên tài như anh, nào có đáng để người ta thương hại? Nhưng thực ra, người anh muốn chia sẻ vinh quang này nhất, đã không còn nữa.

Năm sáu tuổi, anh từng chạy băng băng trên sườn đồi, biết rằng có một người đang đợi anh ở nhà, đã chuẩn bị sẵn bữa tối nóng hổi. Anh cũng biết, người đó dù tức giận nhưng sẽ không thực sự trách phạt anh, chỉ làm bộ đứng trên ban công đầy hoa, chờ anh trở về.

Khi còn bé, ta chẳng hay mộng đẹp.

Tỉnh dậy ngoảnh đầu, ban công đã trống không.

Ô Mạn kìm nén suy nghĩ trong lòng, giả vờ thoải mái lao đến xoa rối tóc anh: “Lại còn xấu hổ nữa?”

Anh nhân cơ hội ôm chầm lấy cô, vùi đầu vào cổ cô, vừa làm nũng vừa cứng miệng: “Không có!”

Ô Mạn bật cười, vuốt dọc theo đuôi tóc anh, cảm giác mềm mượt đến thích tay, cô không ngừng vuốt qua vuốt lại: “Đói quá, có phải chúng ta nên ăn tối rồi không? Đi dạo phố chút đi?”

“Anh dẫn em đi ăn quán anh thích nhất nhé!”

Anh lập tức hưng phấn, mà cái bụng cũng đúng lúc kêu rột rột.

“Là quán gì?”

“Một quán bán viên thịt nhỏ, cống hoàn và cá viên đều ngon lắm.” Truy Dã l.i.ế.m môi đầy thèm thuồng, “Lúc nãy anh lái xe qua còn thấy quán vẫn mở.”

Hai người nghỉ ngơi một lát trong nhà, đợi đến khi màn đêm buông xuống, đeo khẩu trang rồi ra ngoài. Dù nơi này không phải thành phố lớn, nhưng vẫn có khả năng bị nhận ra, cẩn thận vẫn hơn.

Họ không lái xe, sợ gây chú ý, mà chỉ nắm tay nhau bước xuống sườn đồi, đi đến con phố nhỏ. Quán viên thịt mà Truy Dã nhắc đến nằm ngay đầu phố. Cửa hàng dường như đã mở rộng gấp đôi, giờ cơm đã qua nên không còn đông khách, trông rộng rãi hẳn.

Truy Dã dẫn Ô Mạn vào trong, rất thành thạo gọi món: “Hai phần toàn gia phúc, không cay, một phần cho thêm nhiều cần tây.”

“Được ngay!”

Ông chủ quán đeo tạp dề, lớn tiếng đáp lại, tiếng chảo va chạm leng keng.

“Muốn ngồi ngoài không?”

“Được.”

Hai người kéo ghế ngồi bên bàn kê ngoài hiên, từ đây có thể nhìn thấy cả con phố nhỏ dưới ánh đèn đêm. Cũng giống như thành phố lớn, nơi này cũng có đèn neon lấp lánh, chỉ là ánh sáng thô kệch hơn, màu sắc chói mắt và có phần quê mùa, cách vài căn nhà lại thấy một biển quảng cáo nhấp nháy.

Bên cạnh là một tiệm quần áo xuất khẩu, đồ trong tủ kính dường như sắp bị mạng nhện phủ kín. Để thu hút khách, chủ quán bất chấp phát loa quảng cáo ầm ĩ: “Thanh lý! Đại hạ giá! Chỉ 99 tệ, mua ngay áo lông chồn thật!”

Ô Mạn chống cằm, bất đắc dĩ cười: “Ồn quá.” Nhưng giọng điệu lại không hề phàn nàn, ngược lại còn có chút thích thú. Không khí này khiến cô cảm nhận được hương vị của cuộc sống, thật thú vị.

Truy Dã chỉ sang bên cạnh: “Hồi trước còn ồn hơn, lúc nhỏ tiệm này là tiệm cắt tóc. Mỗi lần anh ngồi đây ăn viên thịt là lại nghe nhạc đùng chát đùng chát, ăn đến đổ mồ hôi đầy đầu.”

“Viên thịt ngon đến mức nào chứ? Ồn như vậy mà anh vẫn kiên trì đến ăn sao?”

“Ngon lắm, quan trọng là còn rẻ nữa, chỉ mấy đồng đã được một bát to.” Truy Dã chống cằm hồi tưởng, “Có lúc lười nấu ăn, anh sẽ kéo cha anh đến đây ăn chung. Ông ấy thích bò viên, nên anh đều nhường hết bò viên cho ông ấy.”

Ô Mạn hơi suy nghĩ một chút: “Vậy vừa nãy anh bảo em là cá viên với cống viên đều ngon lắm, có phải vì trong bát anh chỉ còn lại hai loại này không?”

“…” Truy Dã lại chạm mũi, “Ngay cả chuyện này cũng bị em phát hiện rồi.”

Giữa những lúc trò chuyện rời rạc, ông chủ bê lên hai bát “Toàn Gia Phúc” bốc khói nghi ngút, bên trong có tổng cộng ba loại viên: cá viên, bò viên và cống viên. Rắc thêm hành lá, mè và chút cần tây băm nhỏ, mùi hương ngào ngạt lan tỏa.

Truy Dã đẩy bát có nhiều cần tây hơn về phía Ô Mạn, lại thêm vào bát cô một chút giấm, bảo rằng như vậy sẽ đậm vị hơn.

Ô Mạn không nói gì, chỉ im lặng gắp hết bò viên ra khỏi bát mình, bỏ vào bát của Truy Dã.

Truy Dã sững sờ, dùng đũa chọc chọc viên bò rồi hỏi: “Chị, sao lại đưa cho anh? Trong bát anh cũng có rồi mà.”

“Đó là cho Tiểu Truy Dã. Em bù lại số bò viên mà trước đây anh chưa từng được ăn.”

Nghe cô nói vậy, Truy Dã “ồ” một tiếng, cúi đầu, gắp viên bò lên rồi nhét vào miệng cắn một miếng lớn. Sương trắng bốc lên từ bát canh viên bao trùm cả khuôn mặt anh, anh quẹt mắt một cái, buột miệng nói: “Xông mắt ghê.”

Hai người nhanh chóng giải quyết xong bát canh viên ở quầy hàng, phần vì món ngon, phần vì tiếng quảng cáo bên cạnh thực sự quá ám ảnh. Ban đầu nghe vài lần còn thấy thú vị, nhưng nghe đi nghe lại đến mấy chục lần thì đúng là tra tấn tinh thần.

Ô Mạn lau miệng rồi nói: “Em muốn qua tiệm đĩa nhạc kia xem thử.”

Truy Dã hồi tưởng: “Lúc anh mới đến đây mấy năm trước vẫn còn, giờ không chắc còn mở không.”

“Nhất định vẫn còn!”

Dù nói vậy, nhưng trong lòng Ô Mạn lại hơi thấp thỏm. Bây giờ là thời đại kỹ thuật số, rất ít người còn mua đĩa CD hay băng cassette, chúng đã trở thành dấu tích của thời đại xưa.

Quả nhiên, khi họ tìm đến địa chỉ trong trí nhớ, tiệm đĩa nhạc năm nào đã không còn nữa, thay vào đó là một hiệu sách. Nhưng ở thời buổi này, hiệu sách cũng chẳng khá khẩm hơn, buôn bán ế ẩm.

Đã tới rồi, hai người quyết định vào xem thử. Bên trong vắng lặng, chỉ có hai ba phụ huynh đang vò đầu bứt tai lựa sách tham khảo cho con cái. Truy Dã không chút do dự đi thẳng đến khu thơ ca, còn Ô Mạn thì đi loanh quanh tầng một, sau đó bước lên tầng hai.

Vừa đặt chân lên tầng hai, cô liền sững sờ.

Nơi này không phải sách, mà vẫn giữ nguyên diện mạo như năm đó—từng dãy băng cassette và đĩa CD xếp ngay ngắn. Trên mỗi giá còn treo sẵn tai nghe cỡ lớn để khách hàng nghe thử.

Cô nhìn về quầy thu ngân, người ngồi gục xuống ngủ gật đã không còn là ông chú năm nào mà cô phải năn nỉ ỉ ôi mới cho vào, mà là một người đàn ông trung niên gầy gò.

“Xin hỏi… đây có phải là tiệm đĩa nhạc trước kia không?”

Cô thăm dò hỏi thử. Chủ tiệm bị đánh thức từ giấc ngủ ngắn, vừa ngáp vừa lười biếng đáp: “Đúng vậy, cô là khách quen à? Dạo này buôn bán khó khăn, nên hợp tác với hiệu sách dưới tầng. Cô muốn mua gì thì tự chọn đi.”

Nói xong, ông ta lại ngả người ra ghế nằm tiếp.

Nghe câu trả lời chắc chắn của ông chủ, một niềm vui như mất đi rồi lại tìm thấy dâng trào trong lòng Ô Mạn. Thời gian có thể xoay vần, nhưng những dấu vết cũ đã chứng kiến quá khứ của họ vẫn còn tồn tại, không gì khiến cô vui hơn thế.

Cô đi sâu vào trong các kệ, nơi chứa toàn những băng cassette cũ kỹ, có cả mấy đĩa lậu nước ngoài ngày xưa, đều chẳng bán được nên bị chất đống phủ bụi.

Cô đang mải mê nhìn ngắm, trong không gian yên tĩnh bỗng vang lên tiếng saxophone dạo đầu.

Một chiếc tai nghe cỡ lớn từ trên không trung chụp xuống, úp lên tai cô.

Ô Mạn giật mình, theo phản xạ bước lùi một bước, ngã vào một vòng tay rắn chắc.

Truy Dã từ phía sau ôm lấy cô, cười trộm vì trò đùa của mình thành công.

Ô Mạn gỡ tai nghe xuống, quay lại trừng mắt: “Anh lại bày trò à?!”

“Chị, nghe kỹ bài anh bật đi.” Truy Dã lại đội lên cho cô lần nữa, còn tự mình khe khẽ ngâm nga:

Metyoubysurprise. I didn’t realize. That my life would change forever.

Lần đầu gặp người ở đây, anh chưa từng nhận ra rằng, cuộc đời anh từ đó sẽ rẽ sang một hướng khác.

“Đây là… ‘Reality’?” Ô Mạn hiểu ra, “Anh đang bắt chước Initial D sao?”

Đó là bộ phim Pháp cũ họ từng xem cùng nhau trên tầng áp mái. Có một cảnh cô gái lần đầu tham dự tiệc tùng, đứng buồn chán một mình, chàng trai mặc sơ mi cũng như thế, lén cầm tai nghe áp lên tai cô từ phía sau.

Bất ngờ xuất hiện, tim đập loạn nhịp.

Nhưng trong phim là một cô gái mười ba tuổi mới chớm nở tình cảm, còn cô thì đã ba mươi sáu rồi, nếu còn rung động vì trò này thì quá mất mặt.

Cô đè nén cơn xao động trong ngực, tháo tai nghe xuống, làm bộ ghét bỏ cau mày: “Chỉ cô gái nhỏ mới rung động thôi.”

Anh đột nhiên quỳ xuống, ghé đầu vào n.g.ự.c cô, cất giọng quái dị: “Vậy sao? Ai mà tim đập còn to hơn cả tiếng nhạc trong tai nghe thế này?”

Ô Mạn trợn mắt, Truy Dã bật cười đứng lên, liếc sang quầy thu ngân thấy ông chủ vẫn đang ngủ gà ngủ gật, bèn bất ngờ kéo cô vào góc khuất giữa hai kệ đĩa.

Không ai có thể nhìn thấy họ.

Cũng chẳng ai biết hai người này đã lén lút làm gì.

Chỉ có đôi chân quấn lấy nhau chặt chẽ, cùng tiếng đĩa rơi xuống kệ khi tấm lưng vô tình đụng phải, mơ hồ tiết lộ chút gì đó không yên phận.

Tai nghe trong tay chàng trai bị lãng quên, nhạc đã gần đến đoạn cuối, tiếng saxophone quyến rũ vẫn chậm rãi vang vọng trong tiệm đĩa vắng lặng bị thế gian lãng quên.

Giữa không khí ám muội, bỗng nhiên có người lên tầng hai, tiếng bước chân không nặng không nhẹ ngày một gần, phát ra âm thanh kẽo kẹt trên bậc thang gỗ, cũng truyền vào tai Truy Dã và Ô Mạn.

Thế là ngay khi đối phương vừa đặt chân lên tầng, liền thấy hai kẻ đeo khẩu trang vội vã chạy xuống, lướt qua người mình.

Anh ta không thấy rõ mặt họ, nhưng có thể cảm nhận được sự hân hoan mãnh liệt tỏa ra từ họ.

Hai kẻ to gan làm chuyện mờ ám vọt ra khỏi tiệm đĩa, lại chạy thêm một đoạn rồi mới dừng lại, thở hổn hển nhìn nhau, bật cười đầy ăn ý.

Giọng Truy Dã khàn khàn, lòng vẫn còn xao động: “Chị, mau về nhà thôi.”
 
Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 93: Chuyến Xe Đêm (Hoàn)



Trước đây, Truy Dã chưa từng cảm thấy con dốc dẫn về nhà lại dài đến vậy.

Thậm chí, anh bắt đầu hối hận vì đã quyết định không lái xe. Nếu có xe, có lẽ anh sẽ không phải nóng lòng như lửa đốt thế này.

… Nhưng nếu có xe, có lẽ họ cũng chẳng kịp về đến nhà.

Vừa suy nghĩ lung tung, anh vừa kiên nhẫn chịu đựng, cảm giác như đã trôi qua cả thế kỷ. Cuối cùng, căn nhà quen thuộc cũng hiện ra trước mắt. Anh vội lấy chìa khóa, thò tay vào túi quần mò mẫm. Bên trong toàn là giấy ăn, kẹo, tai nghe… nhưng lại không thấy thứ quan trọng nhất – chiếc chìa khóa nhỏ bé kia.

Anh thực sự muốn lộn ngược túi quần để trút hết mọi thứ ra ngoài, nhưng làm vậy thì chẳng khác gì tuyên bố với cả thế giới rằng anh đang vội vàng đến mức nào.

Thế nên, anh cố gắng kìm nén, giả vờ bình tĩnh, chậm rãi lục lọi.

Nhưng người bên cạnh lại chẳng kiên nhẫn được như vậy. Cô trực tiếp thò tay vào túi anh, đầu ngón tay quấn lấy tay anh, móc ra chùm chìa khóa.

Ô Mạn liếc anh một cái, không phát ra tiếng nhưng rõ ràng đang trách: "Chậm c.h.ế.t đi được."

"Phụp" một tiếng, lời trách móc không lời này như một tia lửa, thiêu rụi hết mọi lý trí của Truy Dã.

Cửa vừa mở ra, anh lập tức kéo cô lên lầu, vừa đi vừa luống cuống cởi chiếc áo len mỏng của Ô Mạn. Lớp len ma sát tạo ra tĩnh điện, khi anh lột áo khỏi cánh tay cô, những tia điện nhỏ lóe lên tách tách, như một cơn bão sấm chớp len lỏi giữa ánh mắt hai người.

Trong mắt họ dường như chỉ còn đối phương, Ô Mạn vì thế mà lơ đãng, bước hụt bậc thang, suýt chút nữa trẹo cả mắt cá chân. Truy Dã dứt khoát ôm lấy cô, hai tay chống dưới đùi cô, ngửa đầu nhìn cô, cứ thế bước vào phòng.

Vừa vào đến nơi, ở vị trí cao hơn, Ô Mạn lập tức nhìn thấy chiếc giường đơn nhỏ nhắn nổi bật trong căn phòng.

Cả người cô khẽ run lên, hình ảnh Truy Dã thời niên thiếu nằm trên chiếc giường đó bất chợt hiện lên trong đầu, khiến cô cảm thấy vừa xấu hổ vô cớ, vừa phấn khích khó nói thành lời.

Ở đây sao? Cô vòng tay ra sau gáy anh, áp môi bên tai anh hỏi khẽ.

Truy Dã không trả lời. Anh cũng nhìn thấy cảnh tượng tương tự – thời thiếu niên, anh nằm trên chiếc giường này, trong một mùa hè tương tự. Nhưng điều anh nghĩ đến lại hoàn toàn khác.

Anh nhớ lại chính mình từng chui đầu vào chăn, khi ấy vẫn chưa đến mùa hè nhưng tấm chăn mỏng đã nóng hầm hập như một ngọn núi lửa rực cháy. Anh nhớ về Ô Mạn trong những bộ phim, má cô như viên mochi vị anh đào vừa lấy ra khỏi tủ lạnh, lớp vỏ hồng nhạt còn vương hơi sương lạnh giá. Tầm mắt anh chậm rãi trượt xuống, theo vạt sườn xám thấp thoáng, lộ ra đôi chân trắng muốt như dòng nước tuyết vừa tan chảy từ đỉnh núi.

Càng hồi tưởng đến những hình ảnh lạnh lẽo, cổ họng anh lại càng bỏng rát. Khi đó, hơi thở anh dồn dập không thể kiểm soát.

Mà hiện tại, "nước tuyết" đã chảy vào lòng anh, khiến anh ướt đẫm.

Ô Mạn giúp anh cởi chiếc áo sơ mi đẫm mồ hôi. Dưới ánh trăng hắt qua cửa sổ, làn da tr*n tr** của anh tỏa ra thứ ánh sáng đẹp mắt, khiến cô không khỏi liên tưởng đến một con báo săn trên thảo nguyên – căng tràn sức mạnh, nguy hiểm, nhưng cũng vô cùng mê hoặc.

Cô tiện tay ném chiếc áo sơ mi về phía chiếc giường hẹp, nhưng vì góc độ không chuẩn, một nửa rơi lên giường, một nửa lại tủi thân kéo lê trên sàn.

Chuyện này vốn chẳng đáng gì, nhưng Truy Dã đột nhiên trở nên so đo. Anh nhẹ nhàng bóp cằm cô, giọng nói tựa như có ý trách phạt, hơi thở nóng bỏng phả lên vành tai cô:

"Chị, em làm bẩn áo của anh rồi."

"Muốn đền thế nào đây?"

Cuối cùng, anh cũng thả cô xuống, nhưng cố ý đặt cô lên phần áo bị rơi xuống giường. Dưới thân cô là quần áo của anh, còn trên người cô lại là chính anh.

Giống như một con thú nhỏ bị sa vào bẫy do báo săn đào sẵn, không cách nào trốn thoát.

Đây là khoảnh khắc hiếm hoi kể từ khi ở bên nhau, Truy Dã bộc lộ rõ sự chiếm đoạt của anh. Mà hôm nay, cảm giác này còn mãnh liệt hơn gấp bội.

… Hẳn là vì căn phòng này.

Nhưng cô cũng chẳng phải dạng hiền lành gì. Cố ý muốn trêu chọc anh, cô chậm rãi lấy từ trong túi ra một điếu thuốc, nhẹ nhàng đặt lên môi anh.

"Vậy đền cái này nhé?"

Anh ngậm điếu thuốc, bật cười khàn khàn:

"Không đủ."

Hai người lặng lẽ nhìn nhau vài giây, ngoài cửa sổ, tiếng côn trùng giữa đêm núi vọng lại râm ran, có chút ồn ào.

Bất chợt, cô ngoảnh đầu nhìn về phía cửa sổ gần giường, hỏi:

"Cửa sổ… có phải chưa đóng chặt không?"

Truy Dã không nhịn được nữa, ép mặt cô quay lại, rồi đè cô xuống.

"Vẫn chưa kiểm tra cửa sổ..."

Nửa câu nói của cô bị nuốt trọn trong nụ hôn dữ dội. Nhưng về sau, thế công của anh dần dịu lại, chỉ nhẹ nhàng h*n l*n ch*p m** cô, khẽ nói: "Sau cửa sổ chỉ có núi, ngoài sơn thần ra, chẳng ai nhìn thấy chúng ta đâu."

Chu Yêu Yêu

Ô Mạn liếc nhìn ra ngoài cửa sổ trong từng khe hở giữa những nhịp giao hòa. Đất trời tĩnh lặng, bóng cây đen kịt trải dài thành núi, tựa hồ ẩn giấu vô số đôi mắt dõi theo.

Nếu thần linh đã có thể thấu suốt mọi sự, vậy dù đóng cửa cũng chẳng ích gì. Chi bằng cô cứ nhắm mắt lại, coi như không thấy đi.

Mãi đến khi cả hai kiệt sức, họ mới nhớ đến điếu thuốc đã bị bỏ quên.

Cả hai lười biếng rúc vào nhau trên chiếc giường đơn, không muốn động đậy. Không gian chật hẹp khiến họ không thể duỗi thẳng chân, bắp chân cứ thế áp sát vào nhau. Ô Mạn gối đầu lên vai Truy Dã, nhìn anh như làm ảo thuật, lại ngậm điếu thuốc vừa thất lạc vào miệng.

Anh nửa ngồi dậy một cách miễn cưỡng, vươn tay với lấy chiếc quần đã bị vứt xuống nền xi măng từ sớm, tay còn lại thì lười biếng nhào nặn phần da thịt trên eo cô, nơi suýt bị anh cắn đến bầm tím.

Ô Mạn lập tức đập nhẹ tay anh, khẽ hừ một tiếng: "Nhột."

Truy Dã bật cười, lòng bàn tay vẫn không chịu rời đi, trong khi tay kia cuối cùng cũng lần được vào túi quần, lấy ra chiếc bật lửa, châm lên điếu thuốc nhàu nát.

"Hút một hơi không?"

Anh nhả ra một vòng khói, quay sang nhìn cô.

Ô Mạn hơi ngẩng cằm, khẽ hé môi, ý bảo anh truyền khói qua.

Truy Dã kẹp điếu thuốc giữa ngón tay, nhưng thay vì đưa qua, anh lại nghiêng đầu tới gần, đem làn khói chưa kịp nhả ra trực tiếp truyền vào miệng cô. Một ít khói không được giữ lại kịp, tràn ra ngoài, bay qua khung cửa sổ.

Ánh mắt cô cũng theo làn khói bay ra ngoài, nhìn thấy phía núi sau lưng cũng bắt đầu phủ lên một lớp sương trắng. Tiếng côn trùng dần lắng xuống, bình minh sắp đến rồi.

Sau khi thay ga giường và tắm rửa xong, trời đã sáng hẳn, nhưng Truy Dã vẫn mơ màng ngủ thêm vài giờ dưới ánh nắng ban mai.

Giường đơn cho hai người lẽ ra phải rất chật chội, nhưng suốt cả quá trình, anh chẳng hề cảm thấy bí bách chút nào. Bàn tay vô thức s* s**ng trên giường, mới phát hiện bên cạnh không có ai.

Điều này lập tức khiến anh bừng tỉnh.

Chưa kịp mặc áo, anh đã vội vã chạy chân trần ra khỏi phòng, liền bị biển hoa trên sân thượng làm cho sững sờ.

Ô Mạn đang cúi người, từng chậu từng chậu hoa bị cô lần lượt đặt lên giá trống. Cô làm việc rất chăm chú, bắp chân và cánh tay lấm tấm những hạt đất nhỏ.

Truy Dã nuốt nước bọt, cất giọng gọi: "Chị."

Ô Mạn dừng động tác, ngoảnh lại nhìn anh: "Dậy rồi à?"

"Em không ngủ sao?"

"Không ngủ được, nên dậy làm mấy thứ này. Trống trơn nhìn khó chịu lắm." Cô cau mày, rồi nhìn anh, dặn dò: "Mau vào mặc áo đi, kẻo cảm lạnh đấy."

Anh ngoan ngoãn gật đầu, quay vào phòng. Vừa mặc áo, anh vừa đứng bên cửa sổ, không nỡ dời mắt khỏi sân thượng.

Khung cửa sổ có hoa văn chạm khắc kiểu cũ, lồi lõm không bằng phẳng, khiến bóng dáng người ngoài kia và những chậu hoa đều trở nên mơ hồ, phảng phất một nét đẹp huyền ảo. Nhưng tất cả đều chân thực đến lạ.

Cảnh tượng này nói với anh rằng, dù có tỉnh dậy từ cơn mộng, cũng không cần lo sợ. Vì sân thượng đã được trồng đầy những loài hoa bốn mùa. Chúng sẽ tiếp tục nở rộ, mãi mãi không tàn.

Sau bữa trưa, vào một buổi chiều ngập nắng, họ cùng nhau lên núi.

Trên núi có rất nhiều phần mộ tư nhân, trong đó có một ngôi mộ chôn cất song thân của Truy Dã.

Anh dẫn cô đến trước phần mộ. Tuy không thể thường xuyên ghé thăm, nhưng anh luôn nhờ người chăm nom, nên nơi đây lúc nào cũng đầy ắp hoa tươi, sạch sẽ tinh tươm. Phía sau mộ là một cây cổ thụ trăm năm, tán lá rậm rạp che chắn cho họ khỏi ánh nắng gay gắt hay những cơn gió lạnh.

Họ dâng lên bó hoa mới mua, chuẩn bị cử hành một nghi thức cưới đơn giản tại đây.

Có lẽ, nếu nói ra, người ngoài sẽ thấy kinh ngạc—một hôn lễ được cử hành trước mộ phần, nhưng đây không phải minh hôn. Chỉ là dường như, giữa khoảnh khắc này và lần đầu họ gặp nhau, có một sợi dây định mệnh vô hình đang nối kết.

Có lẽ, trên thế gian này, thật sự tồn tại thứ gọi là số phận chăng?

Họ quỳ xuống bên nhau, đầu gối chạm vào nền đất cứng rắn, cùng thực hiện nghi lễ cổ xưa: nhất bái trời đất, nhị bái cao đường, tam bái phu thê.

Họ mong muốn mọi thứ trên thế gian này, những gì có thể vươn gần đến sự vĩnh hằng, sẽ chứng giám cho họ: những chồi non vừa nhú trên cành, những ngọn cỏ dại vẫn kiên cường mọc lên dù bị giẫm đạp, những phiến đá góc cạnh chưa bị gió mài nhẵn, làn gió nhẹ, bầu trời xanh, mây trắng, và những người thân đã khuất nhưng tình yêu vẫn còn mãi.

“Cha, mẹ, con xin trịnh trọng giới thiệu với hai người. Đây là con dâu của cha mẹ.”

Truy Dã nắm lấy tay cô, đầy tự hào giới thiệu trước bia mộ.

“Cuối cùng con cũng gặp được cô gái mà dù có khiến con buồn nôn, con vẫn muốn làm cô ấy vui. Cô ấy không phải một người hoàn hảo, có rất nhiều khuyết điểm, cụ thể là…” Anh liếc nhìn sắc mặt người bên cạnh, rồi nuốt lại câu nói dang dở, “Nhưng mà, con cũng đâu có hoàn hảo, con cũng có rất nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, khi con ở bên cô ấy, cả hai chúng con đều đang từng chút một trở nên tốt hơn.”

Ô Mạn cúi đầu thật sâu trước bia mộ.

“Cảm ơn hai người, con sẽ giúp chăm sóc tốt cho đứa trẻ phiền phức này.”

Truy Dã hơi nhăn mũi, lẩm bẩm: “Vậy thì làm phiền bà xã rồi.”

Gió lay động tán cây, bóng cây phản chiếu trên bia mộ cũng lay theo, tựa như người trong ảnh đang khẽ đáp lại họ.

Họ rời khỏi sườn núi, chuẩn bị lái xe xuyên đêm trở về Bắc Kinh.

Còn hai ba tiếng nữa mặt trời mới lặn, họ quyết định ghé qua trung tâm trấn dạo một vòng. Vòng vèo thế nào lại đi đến sở thú mà ngày trước Truy Dã thích nhất.

Anh nhìn thấy tấm bảng từ xa, lớp sơn đỏ tươi năm nào giờ đã bong tróc, chỉ còn lại màu cam nhạt, những chữ cái trên đó cũng vương đầy dấu vết của gió mưa. Bước chân chậm lại, vừa là hoài niệm, vừa không dám tiến đến gần.

Vì vào ngày sinh nhật năm đó, lẽ ra anh đã đến đây với cha mẹ sau bữa tối.

Nơi này cũng sẽ gợi lại nỗi sợ ngày ấy, khiến cơn ác mộng cũ tái diễn.

Ô Mạn hiểu ý, định kéo anh rời đi, nhưng anh đứng yên một lát rồi nói:

“Muốn vào dạo một vòng không?”

“Anh có chắc chứ?”

“Đương nhiên, bây giờ anh không còn sợ vòng xoay ngựa gỗ nữa, cũng giống như em đã không còn sợ đi xe. Chỉ cần có em bên cạnh, anh có thể đi đến bất cứ đâu.”

Nói xong, anh thẳng bước đến quầy vé không một bóng người, bình thản mua hai vé người lớn.

Sở thú Thanh Linh từng rất nổi tiếng hơn mười năm trước, nhưng những năm gần đây lượng khách giảm mạnh. Mọi người đều đã chán nhìn những con vật cũ, khuôn viên cũng không còn kinh phí để nhập thêm động vật mới. Những con vật già nua thì bệnh tật, hoặc đã c.h.ế.t vì tuổi tác. Giờ đây, thứ đáng xem nhất có lẽ chỉ còn thủy cung, vốn là điểm thu hút hàng đầu từ những ngày đầu tiên mở cửa.

Họ đi ngang qua những khu triển lãm vắng tanh, rồi thẳng đến thủy cung.

Bên trong vẫn có vài đứa trẻ và người lớn, chạy nhảy trong hành lang xanh biếc, miệng không ngừng hét lên vì phấn khích. Truy Dã lơ đễnh buông một câu:

“Trẻ con thật là ồn ào, cả ngày chắc đau đầu lắm nhỉ. May mà chúng ta sẽ không có con.”

Nhìn anh như thể muốn tránh xa bọn trẻ vài mét.

Ô Mạn trêu anh: “Biết đâu hồi nhỏ anh còn ồn hơn bọn nhóc ấy.”

“Nhưng ít ra anh cũng dễ thương hơn chúng!”

Ô Mạn nhớ đến cậu bé nhỏ xíu, trắng trẻo trong tấm ảnh gia đình, chân thành gật đầu:

“Ừ, đúng là thế thật.”

Truy Dã bật cười, khóe môi cong lên thành một nụ cười ngốc nghếch, trong mắt cô chẳng khác gì bọn trẻ con kia.

Dọc hai bên tường thủy cung là những bể nước lớn, bên trong có đủ loại sứa rực rỡ sắc màu. Chúng co lại rồi giãn ra giữa làn nước xanh thẫm, Ô Mạn ghé sát vào tấm kính, quan sát tỉ mỉ đường di chuyển của chúng, mũi gần như chạm vào bề mặt.

Truy Dã vươn đầu ra từ phía sau cô, cằm tựa lên vai cô.

Trong phản chiếu của tấm kính, cô thấy hình ảnh mờ ảo của cả hai, bất giác ngẩn ngơ.

Anh chớp mắt: “Có thấy quen không?”

Ô Mạn khẽ cười: “Xem ra Trần Nam của chúng ta đã trưởng thành rồi.”

Đây chính là ngày đầu tiên họ quay ngoại cảnh ở Quảng Châu năm đó.

Và trước bể nước này, là nơi họ đã có nụ hôn đầu tiên.

“Bây giờ em đến tìm chị, có muộn không?”

Cả hai đột nhiên rất ăn ý, diễn một màn trước bể nước.

“Muộn rồi.” Ô Mạn làm mặt tiếc nuối, “Chỉ trễ một chút thôi, cách đây một tiếng, chị vừa mới kết hôn với người khác.”

Sắc mặt Truy Dã trầm xuống, vẫn có thể thấy dáng vẻ nóng nảy năm nào của Trần Nam.

“Người đàn ông đó là ai?! Anh ta có tốt hơn em không!”

Cô trầm ngâm một lúc rồi nói:

"Ừm... Anh ấy tầm tuổi cậu, chỉ lớn hơn hai tuổi. Nhìn cũng khá giống cậu nữa."

Nói được nửa câu, cô không nhịn nổi bật cười, vội giơ tay đầu hàng:

"Thôi thôi, nói tiếp nữa là Đặng Lệ Chi sẽ bóp c.h.ế.t em mất. Dám bỏ rơi bảo bối Trần Nam của cô ấy để đi kết hôn với một ‘dã nam nhân'!"

Cô cố ý nhấn mạnh chữ "dã", nhưng Truy Dã đột nhiên lại hỏi một câu chẳng liên quan:

"Em nói xem, bốn năm sau Trần Nam có quay về tìm Đặng Lệ Chi không? Hồi đó anh từng hỏi đạo diễn Uông, ông ấy bảo, anh chính là Trần Nam, vậy anh nghĩ sao? Anh đã trả lời là anh không biết."

Ô Mạn tò mò hỏi:

"Vậy bây giờ anh nghĩ thế nào?"

Anh ngẩn người trong chốc lát, rồi bất chợt lắc đầu.

"Không còn quan trọng nữa. Anh hy vọng anh ấy sẽ quay về tìm cô ấy. Anh ấy nhất định sẽ quay về."

Ô Mạn khẽ nhắm mắt, nhẹ nhàng tựa vào vai anh, trong lòng thầm nghĩ—đây đúng là một câu trả lời rất Truy Dã. Giống như cách anh băng qua mười năm thời gian chỉ để tìm cô. Thế gian dẫu đổi thay, vật đổi sao dời, nhưng đối với anh cũng chỉ như muối bỏ bể. Bởi vì anh mãi mãi chân thành, mãi mãi nhiệt huyết, mãi mãi như chàng trai năm ấy.

Cô đáp:

"Em cũng nghĩ không quan trọng nữa. Chỉ cần cô ấy đã gặp được Trần Nam, đó đã là điều may mắn nhất trong đời rồi. Dù Trần Nam có quay về hay không, Đặng Lệ Chi cũng đã thoát khỏi vực thẳm cô đơn rồi."

Họ bước đến nơi sâu nhất của thủy cung, trước mặt là một bể nước khổng lồ, bên trong một chú cá heo tung tăng bơi lội. Bên cạnh có một gian hàng nhỏ bán thú nhồi bông hình cá heo, giống hệt mười năm trước, chẳng thay đổi gì.

Ô Mạn lại chạy đến quầy, ôm một con cá heo bông quay về.

"Chúng ta chụp một bức giống tư thế chụp ảnh gia đình đi!"

Truy Dã "à" một tiếng, nói:

"Được thôi."

Anh vừa nói vừa đặt tay lên cổ cô như muốn nhảy lên. Ô Mạn trợn mắt:

"Anh làm gì đấy?"

"Hồi đó anh ngồi trên vai cha anh mà."

"...Ý em là đặt con bông này lên đầu anh, giả làm nhánh cây!"

Truy Dã bĩu môi, giả vờ bừng tỉnh ngộ:

"Ồ! Anh bảo mà!"

Cô gái xinh đẹp cạn lời.

Cuối cùng, dưới sự giúp đỡ của nhân viên, họ chụp được một bức ảnh.

Khung cảnh phía sau vẫn là đại dương cũ kỹ của thủy cung, nhưng người trong ảnh thì đã khác. Cậu bé ngày nào đã trưởng thành, đầu đội một con thú bông mới tinh. Còn người đặt con bông lên đầu anh—một người phụ nữ trong ánh mắt tràn đầy yêu thương. Cô không nhìn vào ống kính, mà đang nhìn anh. Khoảnh khắc ấy, máy ảnh chỉ kịp bắt được góc nghiêng của cô.

Đây không phải ý định ban đầu của Ô Mạn. Cô vốn định nhìn thẳng vào ống kính, nhưng vào khoảnh khắc ấy, cô lại bất giác quay sang nhìn Truy Dã. Chỉ một cái liếc trộm, nhưng máy ảnh đã vô tình ghi lại.

Cô ồn ào đòi chụp lại, nhưng Truy Dã lại cực kỳ hài lòng với bức ảnh chụp ngẫu nhiên này, yêu thích không rời.

Sau khi trở về Bắc Kinh, anh lấy bức ảnh đó làm ảnh cưới của họ, đóng khung treo ngay đầu giường, còn in thêm một tấm nhỏ dán lên xe du lịch.

Năm năm sau, Ô Mạn lấy bức ảnh ra cho Tiểu Hàn xem, nói:

"Đây là nơi cha mẹ từng đến chụp ảnh. Con thích thủy cung không? Nếu thích, cha mẹ sẽ đưa con đi nữa."

Tiểu Hàn chạm tay lên bức ảnh, tò mò hỏi:

"Thủy cung là nơi có rất nhiều cá đúng không ạ?"
 
Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 94: Ngày Xưa Chậm Rãi (Phần Thượng)



Năm ấy, khi rời khỏi trấn Thanh Linh, Truy Dã vừa tròn mười sáu tuổi chưa được bao lâu.

Theo pháp luật, một người nếu đã có nguồn thu nhập độc lập để tự lo cho cuộc sống thì không còn bị xem là trẻ con nữa, mà là một cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Vậy nên, cậu cũng tính là người lớn đi. Dù gì thì giờ cậu cũng chẳng còn ai để dựa vào, phải tự mình kiếm sống.

Nhà cậu vốn đã nghèo, suốt bốn năm cha cậu trầm cảm, gần như không chạy xe giao hàng được bao nhiêu. Cậu lo lắng với tình trạng tinh thần của cha, chưa kịp kiếm được tiền thì có khi đã bỏ mạng trên đường, nên thường khuyên ông đừng chạy nhiều. Một năm nửa năm, cũng chỉ chạy được vài chuyến, cuộc sống vô cùng túng quẫn nhưng vẫn có thể miễn cưỡng cầm cự.

Sau khi cha mất, cậu về sống cùng ông bà nội. Người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh, tinh thần của ông bà so với khi cha cậu còn sống sa sút đi không ít. Nhưng vì muốn nuôi nấng đứa cháu trai này, ông vẫn gắng gượng cầm cuốc ra đồng trồng trọt. Cả đời họ vốn là nông dân, ngoài bán sức lao động ra thì chẳng còn cách nào khác. Lúc còn trẻ không sao, nhưng về già, lưng eo chẳng còn được như trước, cột sống của ông nội cậu cong vẹo như vòm cầu, đi đường phải chắp tay ra sau lưng, nếu không thì người sẽ chúi về phía trước, chẳng thể nào đi nổi.

Thế nhưng với thân thể như vậy, vì muốn giúp Truy Dã có cái ăn, ông vẫn lén lút vác nông cụ lên núi, mà cậu lại hoàn toàn không hề hay biết.

Mãi cho đến một lần tình cờ, cậu bị người ta kéo ra chợ, trông thấy ở góc chợ có một bóng lưng quen thuộc. Một ông lão gầy gò, còng lưng ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ, trước mặt là một giỏ rau xanh tươi mới hái.

Truy Dã sững người từ xa, chứng kiến một bà thím đến mua rau, cò kè bớt một thêm hai từng đồng bạc lẻ. Trên tay bà ta vừa lựa cá xong, rút từ trong túi ra một nắm tiền lẻ, còn vương mùi tanh khó chịu. Thế nhưng ông nội cậu vẫn cẩn thận nhặt từng tờ tiền nhét vào chiếc hộp sắt, chẳng dám sơ suất dù chỉ một đồng.

Sau hôm ấy, cậu lặng lẽ theo ông lên núi, biết được vị trí của thửa ruộng. Rồi mỗi sáng dậy sớm hơn cả ông, cướp lấy nông cụ, một mình học theo từng động tác, bắt chước cách ông làm ruộng.

Cứ thế, cậu đã trồng rau suốt một năm. Cho đến khi cả ông lẫn bà nội đều qua đời. Số tiền họ dành dụm, cậu dùng để lo tang sự, còn lại vừa đủ để đóng học phí năm cuối cấp hai.

Nhờ số tiền ấy, cậu không phải dừng việc học ở bậc tiểu học, thuận lợi hoàn thành cấp hai.

Chiều hôm diễn ra lễ tốt nghiệp cấp hai, đám bạn cùng lớp bá vai bá cổ nhau bàn bạc về kỳ nghỉ hè, tính rủ nhau đi cắm trại bên bờ biển. Mấy thằng nhóc mới lớn chẳng có khả năng đi xa, bãi biển không mấy đẹp ở Thanh Linh đã được xem như địa điểm tốt nhất cho chuyến du lịch tốt nghiệp của họ. Một người khởi xướng, cả đám hưởng ứng, khi đến lượt hỏi Truy Dã, cậu lơ đễnh vắt chiếc ba lô cũ rích đã giặt đến bạc màu lên vai, không chút do dự lắc đầu:

“Không đi được, bận lắm.”

Lời còn chưa dứt, cậu đã sải bước rời đi, chẳng có chút lưu luyến hay buồn bã nào dù hôm ấy là ngày cuối cùng.

Người khởi xướng bối rối, lẩm bẩm: “Ra vẻ cái gì chứ!”

Truy Dã chẳng buồn bận tâm, phóng xe đạp vút đi như gió, thẳng đến một nhà hàng.

Cậu không nói dối. Thật sự rất bận, bận đi làm.

Cậu tìm được một quán ăn đang tuyển phụ bếp, lương theo giờ khá cao, vì quán không chỉ phục vụ bữa tối mà còn mở đến khuya để bán đồ ăn đêm. Người lớn tuổi không chịu nổi cường độ làm việc khuya như vậy, nên cậu có lợi thế nhờ tuổi trẻ. Hơn nữa, cậu còn biết nấu ăn, nên ông chủ đã nhận cậu vào làm.

Cậu đến quán từ sớm, xắn tay áo chuẩn bị trước tất cả nguyên liệu cho đầu bếp chính. Đến giờ cơm tối bận rộn nhất, căn bếp chật chội tràn ngập mùi thơm, khiến bụng cậu réo ầm ĩ, nhưng nào có thời gian để ăn? Đơn gọi món từ bên ngoài liên tục dồn vào. Có lúc bát đĩa không đủ dùng, phải vừa rửa vừa dùng ngay, tốc độ phải cực kỳ nhanh.

Lúc mới làm, chưa quen tay, cậu luống cuống làm vỡ mấy cái đĩa, bị trừ mất hai ngày lương, lòng đau như cắt. Nhưng giờ thì cậu đã thành thạo, vừa rửa bát vừa tranh thủ dùng một tay gắp chút thức ăn bỏ vào miệng. Dù vất vả cũng không thể để bản thân chịu thiệt quá, phải biết tìm chút niềm vui trong cái khổ.

Ví như mỗi tối khi quán đóng cửa, khoảng một giờ sáng, mọi người đã về hết, chỉ còn mình cậu dọn dẹp bãi chiến trường. Cậu coi căn bếp bẩn thỉu, đầy dầu mỡ này như sân chơi riêng của mình, lấy chiếc radio luôn mang theo trong balo ra, bật cuộn băng mà chị đã tặng, rồi vừa lẩm nhẩm hát theo Tiểu Mạc Lị vừa nhún nhảy. Chẳng mấy chốc, bát đĩa đã sạch bong.

Mùa hè oi bức năm ấy, ký ức của Truy Dã gần như chỉ gắn liền với mùi dầu mỡ, bọt xà phòng, chất tẩy rửa và đôi bàn tay phồng rộp vì ngâm nước quá lâu. Những mảnh ghép rời rạc ấy đã tạo nên một mùa hè của cậu.

Khi quán quá bận, cậu còn bị điều ra ngoài nhận đơn, bưng bê. Công việc này vốn chẳng khó khăn gì, nhưng trớ trêu thay—cậu lại gặp cô giáo chủ nhiệm cũ của mình.

Cô dẫn chồng và con đến ăn, không ngờ lại bắt gặp học trò cũ đang làm thêm ở đây.

“Truy Dã?”

Cậu lập tức quay đầu muốn đi, nhưng bị cô gọi lại, đành bất đắc dĩ quay lại, miễn cưỡng chào một tiếng: “Chào cô.”

Cô giáo nhìn cậu đầy lo lắng: “Cô đã gọi đến nhà em mấy lần mà không ai bắt máy. Cô cứ nghĩ em không muốn nghe, hóa ra là do bận làm thêm ở đây sao?”

Cậu khẽ gật đầu: “Cô tìm em có chuyện gì ạ?”

“Cô nghe nói... em vẫn chưa quyết định học cấp ba ở đâu? Nếu gặp khó khăn về tài chính, em có thể tìm đến cô. Ngoài ra, còn có học bổng hỗ trợ học sinh nghèo của nhà nước, những khoản này có thể giúp được em.”

Cậu còn chưa kịp trả lời thì bên trong bếp đã có người sốt ruột gọi tên cậu ầm lên.

“Cảm ơn cô.” Cậu chỉ tay về phía bếp, “Em hơi bận, em vào trước đây.”

“Khoan đã!”

Cô giáo kéo tay áo cậu lại, vội vàng lấy tờ giấy ăn trên bàn, nhanh chóng viết một dãy số rồi nhét vào túi áo cậu.

“Lúc nào cũng có thể gọi cho cô.”

Cậu chạm vào mảnh giấy trong túi, rồi sải bước đi xa, vén rèm bước vào bếp.

Cậu chưa từng gọi cuộc điện thoại đó.

Quán ăn mở cửa quanh năm, nhưng khi gặp mưa giông vào mùa hè, hiếm hoi lắm mới có một ngày nghỉ. Trên núi, mưa càng lớn, thậm chí còn bị dột. Cậu nằm ngay đơ trên giường, nhìn những vệt nước thấm qua trần nhà, lan ra tạo thành đủ hình thù kỳ quái.

Căn nhà hai tầng nhỏ hẹp vang vọng tiếng gió mưa, nhưng lại tĩnh mịch đến đáng sợ.

Cậu bật dậy khỏi giường, chộp lấy cây dù, vừa mở cửa thì cơn gió dữ dội đã giật phăng phần mái dù.

Thấy vậy, cậu dứt khoát quăng chiếc dù ra cửa, nhét tay vào túi áo rồi lao thẳng vào màn mưa như chuỗi hạt đang đổ xuống.

Khi đến quán net, toàn thân cậu đã ướt sũng, giũ đầu một cái cũng có thể khiến nước văng khắp nơi. Cậu nghênh ngang bước đến quầy, thuê một máy rồi chui vào góc khuất nhất, đeo tai nghe lên. Tiếng mưa ào ạt bên ngoài lập tức biến mất.

Thay vào đó, một giọng nữ khàn nhẹ vang lên ngay bên tai: “Chuyện này sao có thể gọi là viển vông được?”

Người đang nói là Ô Mạn trong màn hình. Cô mở to mắt, nhưng đôi đồng tử xinh đẹp lại phủ một lớp xám xịt. Cô nhìn về phía ống kính, nhưng dường như chẳng nhìn thấy gì cả.

"Với bộ dạng mù lòa này, cô còn muốn hát cho khán giả nghe ư?"

"Tôi chỉ là mù, chứ đâu có câm, tại sao không thể?"

"Cô tưởng hát chỉ cần có giọng sao? Sai! Kinh kịch là thứ phải truyền tải qua đôi mắt." Người đàn ông cười khẩy. "Ngay cả điểm này cũng không hiểu, dù cô có đôi mắt lành lặn cũng chẳng hát nổi đâu!"

Gương mặt Ô Mạn đỏ bừng, im lặng hồi lâu rồi kéo nhẹ tư thế, vận khí xuống đan điền, cất giọng hát:

"Tiểu ni cô vừa tròn mười sáu tuổi,

Tuổi xuân phơi phới, bị sư phụ cạo trọc mái đầu.

Mỗi ngày trong Phật điện, dâng hương thay nước,

Thấy các công tử chơi đùa dưới cổng chùa."

Người đàn ông sững sờ: "Đang yên đang lành… cô làm gì vậy…"

Ô Mạn không đáp, chỉ tự mình xoay người tại chỗ, tiếp tục ngâm nga lời thoại:

"Từ nay rời xa tháp chuông, Phật điện,

Xuống núi tìm một chàng thiếu niên.

Mặc chàng đánh, mặc chàng mắng, mặc chàng cười ta, chế giễu ta,

Một lòng không muốn thành Phật, chẳng niệm Di Đà Bát Nhã Ba La!"

Cuối cùng, cô lại nhìn thẳng vào ống kính, đôi mắt sáng rực, dường như chưa từng bị mù.

"Thật là sung sướng biết bao!"

Bộ phim này ra mắt năm ngoái, kể về cuộc đời một đào kép nổi danh, nhưng cuối cùng lại không được đánh giá cao. Khán giả chê bai rằng Ô Mạn diễn quá giống một người mù, đôi mắt trống rỗng chẳng qua là diễn xuất theo bản năng, những đoạn cần bộc lộ cảm xúc lại không thấy một tia cảm xúc nào, hoàn toàn thiếu đi sự linh động.

Truy Dã cảm thấy, kẻ mù không phải là người trong phim, mà chính là những khán giả ngoài kia. Cậu cho rằng Ô Mạn diễn rất hay. Đoạn phim này, cậu đã xem đi xem lại không dưới mười lần. Bài Tư Phiền cô hát và câu kết thúc "Thật là sung sướng biết bao!" đã khiến cậu chấn động sâu sắc.

Cậu không hiểu cái gọi là diễn xuất rốt cuộc là gì, nhưng ít nhất, cậu đã cảm nhận được. Cảm xúc của cô ở khoảnh khắc đó đã truyền đến cậu, khiến cậu bừng lên quyết tâm, không chút do dự gõ lên thanh tìm kiếm—Làm thế nào để trở thành một diễn viên?

Thực ra, suy nghĩ này không phải lần đầu xuất hiện trong đầu cậu.

Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy chị trên màn ảnh rộng—vẫn là thiếu nữ năm nào—lại dùng tư thế cao cao tại thượng ấy để "tái ngộ" với cậu, cậu đã nghĩ: Nếu chị ấy không thể bước ra khỏi màn ảnh, vậy có lẽ… mình có thể bước vào trong.

Lúc đó, cậu thậm chí còn viết suy nghĩ này vào bài văn, nhưng đổi lại, là cô chủ nhiệm đọc to bài của cậu ngay giữa lớp, lấy làm ví dụ tiêu cực.

Cô nói: "Các em, có ước mơ là tốt, nhưng ước mơ không phải để các em mơ giữa ban ngày, càng không phải để các em chạy theo thần tượng!"

Truy Dã ngồi phía dưới, mặt không biểu lộ cảm xúc, lặng lẽ nghe cô chủ nhiệm nói, lười tranh luận rằng cậu không hề theo đuổi thần tượng.

Cậu là Tư Phiền.

Hôm đó, Truy Dã lướt mạng thật lâu, tình cờ tìm thấy một tin tuyển chọn diễn viên công khai. Cậu do dự không đến hai giây, dốc hết can đảm gửi đi thông tin cá nhân và ảnh chụp của mình.

Những ngày tiếp theo, ngày nào tan ca cậu cũng đến quán net, kiên trì kiểm tra hộp thư đầy ắp quảng cáo của mình, hy vọng nhận được một niềm vui bất ngờ.

Một tuần sau, điều đó đã đến.

Đối phương gửi email trả lời, nói rằng ngoại hình của cậu rất phù hợp, có một vai diễn thích hợp với cậu. Nếu có thể, hy vọng cậu đến gặp mặt trực tiếp. Đính kèm bên dưới là địa chỉ địa điểm chuẩn bị quay phim.

Truy Dã run rẩy mở email, nhưng khi nhìn thấy địa chỉ, linh hồn cậu như thoát khỏi cơ thể.

Đó là một nơi cậu chưa từng nghe đến.

Cậu lên mạng tra cứu hai chữ đó, phát hiện nơi ấy nằm ở vùng Tây Bắc xa xôi. Khoảng cách trên bản đồ vốn đã xa xăm, huống hồ khoảng cách thực tế… Nếu đi tàu hỏa loại cũ, phải mất mấy chục giờ đồng hồ mới đến nơi.

Đó là một thế giới mà cậu chưa từng đặt chân đến.

Cậu nằm dài trên bàn máy tính, chiếc ghế theo đó đung đưa cùng thân hình gầy gò của thiếu niên, như một trái tim đang d.a.o động không ngừng.

Truy Dã nhắm mắt lại, trong đầu hiện ra khung cảnh sân khấu kịch, giọng hát réo rắt của nữ diễn viên len vào tai trái, xuyên qua lồng n.g.ự.c cậu rồi vỡ òa trong tim.

Được thôi, chị.

Tiểu ni cô đã cắt bỏ mái tóc, nhưng vẫn nguyện xuống núi tìm kiếm thiếu niên, dù bị cười chê, dù bị mắng mỏ, cũng chẳng ngại. Vậy thì cậu là một chàng trai đầu đội trời, chân đạp đất, còn gì phải sợ? Đừng nói là Tây Bắc, dù có là núi đao biển lửa, cậu cũng phải thử một lần.

Chị, chờ em, em đến tìm chị đây.

Cậu học theo nhân vật trong kịch, giả bộ làm dáng, cúi người chắp tay hướng về Ô Mạn trên màn hình.

Cậu rời khỏi trấn Thanh Linh theo cách vô cùng thô bạo và đơn giản—mang theo ảnh gia đình, hai ba bộ quần áo thay đổi, số tiền kiếm được khi đi làm, cùng một cuốn sổ tay dán đầy ảnh của Ô Mạn.

Những tấm ảnh này đều do cậu cắt từ báo chí suốt những năm qua. Mỗi khi đi ngang qua sạp báo, cậu đều dừng lại xem mục giải trí. Nếu có tin tức về Ô Mạn, cậu sẽ mua một tờ, chỉ giữ lại phần liên quan đến cô, phần còn lại đem bán cho người thu mua giấy vụn. Tiền bán giấy lại có thể mua thêm một tờ báo khác—cố gắng mỗi đồng đều dành cho chị, nước phù sa không chảy ra ruộng ngoài!

Những thứ đơn giản nhưng thuần khiết này, chính là toàn bộ hành trang của Truy Dã khi bước sang tuổi mười sáu.

Cậu ôm chặt tất cả, bước lên chuyến tàu lửa hướng về Tây Bắc.

Dù chỉ mua được vé ghế cứng rẻ nhất, nhưng nhờ sức trẻ, cậu chẳng hề thấy mệt. Cậu chọn một chỗ cạnh cửa sổ, nhìn cảnh vật bên ngoài không ngừng thay đổi—lúc là những khu rừng rậm rạp, lúc là cánh đồng mênh mông, lúc lại là bầu trời đêm lấp lánh sao.

Tất cả đều mới lạ, đều đẹp đẽ, nhưng vẫn không sánh bằng hoàng hôn năm cậu tám tuổi, khi ngồi sau yên xe máy điện của chị.

Bây giờ, con tàu này đang đưa cậu chạy về phía hoàng hôn ấy.

Sau mấy chục giờ chòng chành trên đường ray, hành khách trên tàu ai nấy đều uể oải, riêng cậu lại phấn chấn bật dậy, nhẹ nhàng nhảy khỏi sân ga.

Truy Dã đối chiếu địa chỉ trong email rồi tìm đến. Nơi đó vô cùng hẻo lánh, cậu ngồi xe suốt bốn mươi phút, chiếc xe buýt rời khỏi khu đô thị còn chút bóng người, chậm rãi chạy vào vùng ngoại ô, bụi vàng bay mịt mù dọc đường, phủ lên cửa kính vốn đã mờ đục, càng làm cảnh vật thêm xa xăm.

Cậu ghé sát cửa kính, cố nhìn qua lớp bụi mờ, lờ mờ thấy một tòa nhà xám xịt bị gió cát vùi lấp.

“Đến trạm rồi.”

Tài xế thấy Truy Dã có vẻ chần chừ, liền nhắc nhở cậu bằng giọng địa phương nặng trịch. Cậu ngập ngừng trong giây lát, rồi vẫn xuống xe.

Cậu từng nghe nói nhiều phim trường được xây dựng ở ngoại ô, văn phòng chuẩn bị đặt ở đây cũng không có gì lạ.

Hít sâu một hơi, cậu cất bước đi về phía tòa nhà.

Người tiếp đón Truy Dã là một người đàn ông tự xưng là phó đạo diễn phụ trách diễn viên, gọi là anh Chương Tử.

Việc đầu tiên ông ta hỏi là cậu có mang theo thiết bị liên lạc không, nếu có thì phải giao nộp ngay, vì giai đoạn chuẩn bị của đoàn phim vẫn đang được giữ bí mật. Truy Dã nhún vai, nói mình chẳng có gì cả.

Chương Tử cho người kiểm tra ba lô của cậu, thấy quả thật không có thiết bị liên lạc mới yên tâm. Sau đó, ông ta tùy tiện hỏi thêm vài câu về kinh nghiệm diễn xuất, rồi ra hiệu cho người dẫn cậu đến phòng ở sau này.

Truy Dã có chút ngơ ngác, thắc mắc: “Phỏng vấn mà cũng bao luôn chỗ ở sao?”

“Nhóc con, cậu tưởng chọn diễn viên dễ lắm à? Chúng tôi cần hiểu các cậu rõ hơn. Hai ba ngày này là cơ hội để đôi bên làm quen, nếu cảm thấy phù hợp thì cứ ở lại, xem như chính thức vào đoàn. Còn nếu không phù hợp, dù cậu có muốn, chúng tôi cũng không giữ lại.”

Nói xong, Chương Tử thô bạo đẩy cậu vào phòng, đóng sầm cửa lại.

Truy Dã luôn cảm thấy nơi này có gì đó kỳ lạ, nhưng nhất thời không nói ra được. Cậu nhìn quanh căn phòng, phát hiện bốn bức tường trống trơn, không có cửa sổ, trông chẳng giống phòng ở mà giống phòng giam hơn.

Trong phòng có bốn giường tầng, ba giường còn lại đã có người ngồi ngay ngắn. Đó là ba thiếu niên trạc tuổi cậu, mỗi người đều cầm một quyển sách, đôi mắt lấp ló sau trang giấy, đồng loạt nhìn chằm chằm vào cậu không chớp mắt.

Truy Dã vừa quay người lại liền đụng phải ánh mắt của cả ba, trông chẳng khác nào Nhị Lang Thần có con mắt thứ ba, khiến cậu giật thót.

Thấy ba người kia không có ý mở lời, cậu cũng lười bắt chuyện. Đảo mắt một vòng, thấy giường tầng trên bên phải còn trống, cậu ném ba lô lên, rồi tự mình trèo lên giường.

Cả ngày nay cậu chưa được ngủ tử tế, lúc lưng chạm vào ván giường, dù cứng chẳng khác gì nền xi măng, cậu vẫn có cảm giác như rơi vào đám mây mềm mại, lập tức thiếp đi.

Không biết đã ngủ bao lâu, cậu bị người khác lay tỉnh khỏi cơn mộng mị.

Ngọn đèn huỳnh quang trên trần vẫn sáng như lúc cậu mới vào, không có cửa sổ nên chẳng thể nhìn trời đoán giờ. Người đánh thức cậu đang leo dở lên thang giường, nửa người thò ra, ánh mắt vô hồn, lạnh nhạt nói: “Tới giờ lên lớp buổi tối rồi.”

“Lên lớp?” Truy Dã chống tay ngồi dậy, hào hứng hỏi: “Lớp diễn xuất à?”

Người kia không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn cậu trèo xuống giường, sau đó dẫn cậu lên tầng thượng.

Vừa bước ra khỏi phòng, Truy Dã ngước nhìn bầu trời, trời đã tối đen.

Tầng thượng có một gian phòng lớn, tường xi măng thô ráp chưa qua trang trí, được cải tạo thành một hội trường đơn sơ. Trên bục giảng cao một chút so với mặt sàn, Chương Tử đứng đó, cúi mắt nhìn xuống đám đông phía dưới.

Có khoảng vài chục người tụ tập lại, đa số đều còn rất trẻ, cả nam lẫn nữ. Một số trông có vẻ lớn tuổi hơn, chừng hai mươi mấy.

Truy Dã nhíu mày, lắng nghe Chương Tử cất giọng vang dội, nghiêm nghị nói:

“Tôi biết mọi người đều muốn vào giới giải trí. Nhưng đôi khi, vai diễn có hạn, mà người tranh đoạt thì nhiều như quân vạn mã chen chúc qua cầu độc mộc. Nếu không thể vượt qua, lẽ nào chỉ có nước ngã chết?”

“Không——!”

Ngoại trừ Truy Dã, tất cả mọi người đều đồng thanh hô to.

Ánh mắt Chương Tử lập tức khóa chặt cậu, quát lớn: “Cậu kia, sao không trả lời?”

Chu Yêu Yêu

Truy Dã nhìn thẳng vào ông ta, bình tĩnh đáp:

“Dù có ngã chết, tôi cũng sẽ bò lên từ địa ngục.” Cậu quét mắt qua đám đông, giọng chắc nịch, từng chữ vang vọng, “Bằng bất cứ giá nào, tôi nhất định phải trở thành một diễn viên.”

Chương Tử và cậu giằng co trong chốc lát, rồi chậm rãi dịu giọng:

“Nhóc con, sao phải cố chấp như vậy? Cậu chỉ thấy vẻ hào nhoáng của giới giải trí, tưởng ai vào đây cũng kiếm được bộn tiền. Ngây thơ! Tôi nói cho cậu biết, cái giới này, ăn thịt người mà không nhả xương.” Ông ta chậc chậc mấy tiếng, làm bộ sợ hãi, “Nếu cậu muốn kiếm nhiều tiền, chi bằng theo tôi, tôi sẽ chỉ cho cậu một con đường sáng…”

Nói đến nước này, dù Truy Dã có non nớt đến đâu cũng nhận ra mình đã bị lừa.

Đây là một tổ chức lừa đảo đa cấp.

Cậu liều lĩnh lao về phía cửa, nhưng mấy gã đàn ông vạm vỡ canh giữ ở đó lập tức ra tay, nhanh chóng vặn chéo hai tay cậu ra sau, ấn mạnh xuống nền đất.

Mặt Truy Dã áp sát vào nền xi măng lạnh lẽo, trong tầm mắt chỉ thấy những đôi chân nghiêng nghiêng. Đôi giày da bóng loáng của Chương Tử chậm rãi bước từ bục giảng xuống, từng bước thong thả tiến đến trước mặt cậu.

“Đừng phản kháng như vậy. Tao chỉ muốn dạy tụi mày cách kiếm tiền, đôi bên cùng có lợi. Nói thẳng cho mày biết, một thằng nhóc không bối cảnh, không tài nguyên như mày mà muốn chen chân vào giới giải trí? Mơ đi!”

Tối hôm đó, Truy Dã bị Chương Tử nhốt vào một căn phòng riêng biệt. Trong phòng chỉ có duy nhất một chiếc đèn đỏ rực đang bật sáng, ngoài ra chẳng có gì khác.

Hầu hết những thiếu niên bị lừa đến đây đều không trụ nổi một đêm trong căn phòng đó, chỉ cần vài tiếng là tinh thần suy sụp, chủ động đầu hàng. Đây là phương pháp biệt giam mà Chương Tử học được từ nơi khác, chuyên dùng để tra tấn những đứa trẻ vẫn đang trong giai đoạn phát triển, ý chí còn yếu ớt.

Thế nhưng, suốt cả đêm, căn phòng vẫn im ắng không một tiếng động.

Sáng sớm hôm sau, Chương Tử tò mò chạy đến xem. Vừa mở cửa ra, hắn liền thấy Truy Dã nằm dang rộng tay chân trên nền đất, ngủ ngon lành như chưa từng có chuyện gì xảy ra.

Hắn tức đến nghiến chặt răng hàm.

Từ ngày hôm đó, cuộc chiến giằng co giữa Truy Dã và Chương Tử kéo dài suốt hai tháng.

Chương Tử nhất định phải thuần phục con báo nhỏ ngang ngạnh này, nếu không, uy nghiêm của hắn trong mắt những kẻ khác sẽ hoàn toàn sụp đổ.

Hắn bỏ đói Truy Dã, chỉ chờ khi cậu sắp kiệt sức, hơi thở mong manh mới cưỡng ép đổ nước cơm thừa vào miệng cậu. Sau khi khống chế thể lực, hắn tiếp tục bào mòn tinh thần—nhốt cậu trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, để những kẻ khác thay phiên đứng ngoài cửa, liên tục phát loa tuyên truyền mớ lý thuyết tẩy não.

Hai tháng sau, thiếu niên gầy yếu ngày nào giờ càng tiều tụy, hốc hác đến đáng sợ. Cậu cũng không còn hùng hổ tuyên bố: “Tôi muốn làm diễn viên” nữa.

Chương Tử đắc ý vô cùng, thầm nghĩ phương pháp của mình vẫn hiệu quả. Một thằng nhóc vắt mũi chưa sạch mà cũng đòi đấu với hắn? Đúng là chưa biết lượng sức!

Để kiểm tra xem Truy Dã đã thật sự nghe lời hay chưa, trong lần tổ chức buổi đi lừa người mới tiếp theo, hắn cố tình đưa cậu đi theo.

Trước khi xuất phát, hắn còn bỏ đói Truy Dã suốt ba ngày, chỉ cho uống chút nước cầm hơi, để cậu không còn đủ sức chạy trốn.

Truy Dã cúi đầu lặng lẽ lên xe, bộ quần áo mặc từ hôm bị bắt giờ rộng thùng thình, lộ rõ dáng vẻ tiều tụy. Hai bên cậu là hai gã đàn ông trưởng thành to gấp đôi cậu, kẹp chặt lấy cậu không rời.

“Mau ngoan ngoãn đi! Bằng không, về rồi mày sẽ biết tay!”

“Đừng bướng bỉnh nữa. Với gương mặt này của mày, chắc chắn sẽ lừa được khối người, đến lúc đó đãi ngộ sẽ khác hẳn. Con người sao phải làm khổ chính mình chứ?”

Một tên đóng vai ác, một tên đóng vai thiện, phối hợp nhịp nhàng. Truy Dã trông có vẻ đã tê liệt, chỉ ừ một tiếng, khiến hai gã trao đổi ánh mắt với nhau, thở phào nhẹ nhõm.

Trên đường đi, cậu không gây chuyện gì.

Mãi đến khi sắp quay về, cậu mới lên tiếng: “Tôi có thể đi vệ sinh một chút không?”

"Mày nhịn về rồi hẵng đi!" Một trong hai gã sốt ruột nói.

Truy Dã không chịu bỏ cuộc: "Thật sự nhịn không nổi nữa. Nếu tôi giải quyết ngay trên xe... các anh muốn cả quãng đường ngập tràn mùi hôi thối à?"

Người kia tưởng tượng ra cảnh tượng đó, sắc mặt tối sầm lại: "Được rồi, bọn tao đưa mày đi."

Chúng áp giải cậu vào một trung tâm thương mại, đứng canh ngay cửa nhà vệ sinh.

Truy Dã làm ra vẻ bình tĩnh đi vào, nhanh chóng quan sát xung quanh, nhắm đến một ô cửa sổ nhỏ.

Cậu vụng về trèo lên bồn rửa tay, hít sâu một hơi, dồn sức bật lên, định bám vào mép cửa sổ. Tay cậu chạm được đến đó, nhưng cổ tay lại nhũn ra, không giữ nổi, cả người rơi thẳng xuống nền gạch ướt đẫm mùi thuốc khử trùng.

Hai gã ngoài cửa mơ hồ nghe thấy tiếng nặng nề rơi xuống. Một tên cảnh giác: "Thằng nhóc này làm gì trong đó? Không phải đang tìm cách nhảy cửa sổ trốn đấy chứ?"

"Tào lao!" Tên còn lại khinh thường. "Tao cố tình chọn chỗ này, tầng ba đấy. Nhảy xuống làm gì, tự sát chắc?"

Hắn ta chắc chắn như đinh đóng cột, nhưng rồi năm phút trôi qua, người bên trong vẫn chưa ra.

Hai gã lập tức biến sắc, dự cảm chẳng lành, đạp cửa xông vào. Chúng mở từng buồng kiểm tra—bên trong trống không.

Ánh mắt cả hai cùng hướng về phía ô cửa sổ vẫn còn mở toang, nhìn nhau một cái rồi vội lao xuống con hẻm phía sau trung tâm thương mại.

"Không thể để nó chạy thoát, nó mà báo cảnh sát thì tiêu!"

"Nó chạy không xa được đâu, chia ra tìm!"

Bóng dáng cao lớn của hai người nhanh chóng khuất dần nơi cuối con phố. Trong con hẻm tĩnh lặng, một chiếc thùng rác lớn khẽ động đậy, rồi lại im lìm như cũ.

Đến nửa đêm, ánh đèn sau hẻm bỗng sáng trưng. Đầu bếp của quán ăn gần đó kéo nắp thùng rác ra, suýt chút nữa đánh rơi hai túi rác to tướng xuống chân mình.

Bên trong thùng rác, một thiếu niên co ro, đầu gối rướm máu.

Cảm nhận được ánh sáng, cậu lờ mờ mở mắt, lẩm bẩm: "Trời tối vậy rồi à..."

"Cậu nhóc... không sao chứ?"

Truy Dã dùng tay chân bám lấy mép thùng rác, chật vật trèo ra ngoài, ngước nhìn người đàn ông trung niên trước mặt: "Bác ơi, đồn cảnh sát ở đâu vậy?"

Sau khi báo án, Truy Dã lặng lẽ rời khỏi đồn cảnh sát.

Cậu bỏ đi ngay khi cảnh sát hỏi: "Người nhà cháu đâu? Chúng tôi sẽ liên hệ để họ đến đón cháu về."

Ra khỏi cổng, bóng đêm mênh mang, cậu chợt nhận ra mình vừa thoát khỏi cơn ác mộng.

Bởi vì cậu không biết nếu mình tiếp tục chịu đựng, liệu có ngày nào đó bị tẩy não, rồi đời cậu sẽ trôi dạt về đâu, hay sẽ vĩnh viễn chấm dứt trong căn phòng đỏ ngột ngạt ấy.

Nghĩ thôi cũng đủ rùng mình. Cậu lấy ra chút tiền lẻ cuối cùng, nhét vào máy công cộng, cầm lấy ống nghe, rất muốn gọi về cho người nhà.

Nhưng đó là một cuộc gọi, vĩnh viễn không thể thực hiện.

Thiếu niên mười sáu tuổi đứng lặng, cầm chặt ống nghe bên tai, lắng nghe tiếng tút tút kéo dài, bờ vai khẽ run lên.

Đêm đó, cậu không có nơi nào để đi.

Cậu ngồi co ro trong bốt điện thoại, ôm gối chờ trời sáng.

Bình minh vừa ló rạng, cậu mơ màng lê bước trên con đường vắng tanh chưa có hàng quán nào mở cửa.

Mỗi bước đi đều nặng nề, cậu vô thức quay về hướng ga tàu lúc trước.

Rõ ràng khi còn trong tổ chức, cậu kiên cường như thép, một lòng bám chặt giấc mơ làm diễn viên, không chút lung lay.

Vậy mà giờ đây, khi đã trốn thoát, cậu lại thấy mất phương hướng, như thể chấp nhận số phận đầy bất lực.

Rõ ràng cậu mới chỉ mười sáu tuổi, thế nhưng cuộc đời khốn kiếp này lại muốn vùi dập cậu như thể đã sáu mươi. Nó tặng cậu cái c.h.ế.t cận kề, nỗi đau cùng những cuộc chia ly sớm hơn bất kỳ ai. Dù là người thân hay chị gái trong mộng, tất cả dường như đều xa vời ngoài tầm với.

Mặt trời dần lên cao, dòng xe cộ ngày một đông. Nhưng không một chiếc nào dừng lại vì Truy Dã.

Dẫu sao, bộ dạng của cậu bây giờ trông chẳng khác nào một kẻ ăn xin nhỏ bé.

Cuối cùng, chỉ có một chiếc Jeep phanh lại trước mặt cậu.

Chủ xe là một người đàn ông đầy râu ria xồm xoàm, trông vô cùng lôi thôi, chẳng có vẻ gì đáng tin cậy.

Hắn nói: "Tôi có thể cho cậu đi nhờ ra ga tàu, nhưng trước tiên cậu phải theo tôi vào sa mạc một chuyến."

"Tại sao?"

Truy Dã đã có kinh nghiệm đau thương, nên lập tức cảnh giác hỏi lại.

"Bởi vì tôi muốn vào sa mạc uống rượu." Hắn lười biếng đáp, "Nhưng một mình thì cô đơn quá."

Truy Dã trầm mặc hai giây, rồi quyết định nhảy lên xe.

Chiếc Jeep phóng băng băng vào sa mạc, gió cuốn theo từng hạt cát nóng rát táp vào mặt, len lỏi vào từng sợi tóc, bỏng rát đến khó chịu.

Chủ xe vặn nắp bình rượu, ngửa đầu tu một hơi dài, sau đó ném sang cho Truy Dã: "Thử đi."

Hắn chờ cậu uống vào, lúc này mới lười biếng đặt xuống cảnh giác, tò mò nhìn cậu nhấp một ngụm.

Ngay sau đó, cổ họng cậu như bị thiêu đốt, đau rát không khác gì làn da đang bị cát quất vào.

Nhìn bộ dạng chật vật ho sặc sụa của cậu, chủ xe bật cười sảng khoái: "Nhóc con, cậu yếu quá rồi đấy!"

Truy Dã nhíu mày, hậm hực ngửa đầu uống thêm một ngụm lớn.

"Đừng có coi thường người khác!"

Ngụm rượu này trôi xuống cổ họng, ngay lập tức khiến toàn thân cậu nhẹ bẫng, những cơn đau do cú nhảy lầu trước đó cũng tan biến không còn dấu vết.

Truy Dã nghiêng đầu, nhìn về phía ghế lái.

Thật kỳ lạ.

Người cầm lái đã biến thành chị của cậu từ lúc nào.

Cô vẫn mặc chiếc váy hai dây màu vàng nhạt hôm ấy, không còn vẻ xa vời cao ngạo trên màn ảnh, mà gần gũi đến mức có thể chạm vào.

Cô nhướng mày, nở nụ cười phóng khoáng: "Nhóc con, lại gặp nhau rồi."

Truy Dã lập tức bò lên, ôm chặt lấy cô, òa khóc nức nở.

Chủ xe bị dọa đến mức luống cuống.

Vừa nãy còn là một thằng nhóc bướng bỉnh, thế mà bây giờ lại nhào vào lòng hắn khóc hu hu, miệng còn lẩm bẩm một bài hát chẳng ra giai điệu gì—Tiểu Mạt Lị, đừng quên tôi.

Một trận giằng co, cuối cùng rượu cũng hết tác dụng, Truy Dã tỉnh lại, lê chiếc chân tàn tạ, nằm vật trên nắp capo xe Jeep.

Cậu nhìn về phía sa mạc mênh m.ô.n.g không thấy điểm tận cùng, bỗng cất giọng kiên định nói với chủ xe:

"Tôi không đi ga tàu nữa."

"Vậy cậu muốn đi đâu?"

"Dù sao cũng không phải về đó."

Dù sao cũng không về Thanh Linh nữa.

Mặc kệ rằng đó là con đường dễ dàng nhất, có thể quay lại trường học, nộp đơn xin trợ cấp, rồi miễn cưỡng mà sống tiếp. Chờ đến một ngày trời quang mây tạnh, lại làm một bát rượu trắng, gặp chị trong ảo ảnh sa mạc.

Nhưng khi men rượu tan đi, cũng như lúc này, tất cả đều biến mất.

Cậu cam tâm sao? Không thể nào.

Cậu không cam lòng.

Dù rằng con đường phía trước là một cuộc di cư đầy gian khổ, là một cuộc trường chinh chống lại thế giới tàn nhẫn này.

Cậu cũng phải giành lấy lá cờ, hiên ngang cắm thẳng lên n.g.ự.c chị.
 
Sa Vào Đêm Xuân - Nghiêm Tuyết Giới
Chương 95: Ngày Xưa Chậm Rãi (Phần Hạ) (Hoàn toàn văn)



Năm Truy Dã đặt chân đến Thành phố Điện ảnh phương Nam, cậu vừa tròn mười tám tuổi, cuối cùng cũng đã trưởng thành.

Cậu lang bạt khắp nơi, vừa làm việc vừa tìm đường tiến vào ngành giải trí. Sau một thời gian lăn lộn, cậu cũng dần hiểu được vài quy tắc ngầm trong giới này. Năm đó, mặc dù Chương Tử đã lừa cậu vào đường dây lừa đảo, nhưng có một câu hắn nói không sai—không có quan hệ, không có tài nguyên, muốn vào nghề khó như lên trời.

Không phải là không có công ty săn tìm tài năng để mắt đến cậu. Nhưng hoặc là những công ty vô danh, ký hợp đồng xong chẳng khác nào tự hủy hoại tương lai, hoặc là họ muốn đào tạo cậu thành một idol, bắt cậu đi hát nhảy gì đó.

Cậu từ chối ngay lập tức: "Xin lỗi, tôi chỉ muốn làm diễn viên."

Người tuyển chọn nghe câu trả lời cứng nhắc ấy, bực bội trợn trắng mắt:

"Cậu cứng nhắc quá đấy! Idol nổi tiếng rồi cũng có thể chuyển sang làm diễn viên mà. Cậu nghĩ ở thị trường trong nước, idol có đất để phát triển à? Chẳng qua là công cụ vắt tiền từ fan thôi. Nhưng nếu có danh tiếng, sau này cậu muốn đóng phim cũng dễ hơn bây giờ nhiều!"

Truy Dã im lặng một lát, nhưng vẫn kiên quyết lắc đầu.

Cậu cố chấp tin rằng mình nhất định phải ra mắt với tư cách một diễn viên. Chỉ có như vậy, cậu mới có thể đi chung con đường với chị.

Vậy làm sao để ra mắt với tư cách diễn viên đây? Những vai diễn có tên tuổi tất nhiên không đến lượt cậu, nhưng diễn viên quần chúng thì chắc chắn có thể tranh được một suất, đúng không?

Vai lớn hay nhỏ không quan trọng, chỉ cần được diễn là đủ.

Chu Yêu Yêu

Mang theo suy nghĩ này, cậu một mình đến Thành phố Điện ảnh, nghĩ rằng mình có thể bắt đầu đóng phim từ đây. Với kinh nghiệm từng được săn đón bởi các công ty giải trí, cậu cho rằng được nhận làm diễn viên quần chúng không phải chuyện gì khó.

Nhưng cậu đã quá ngây thơ rồi.

Ngay cả diễn viên quần chúng cũng có quy tắc ngầm của họ.

Mỗi ngày, số lượng diễn viên quần chúng cần cho các đoàn phim đều do những "đầu gấu" trong nghề kiểm soát và phân phối. Những người như Truy Dã, không có quan hệ, cứ thế xông vào, nếu không chịu gia nhập thế lực của họ thì đừng hòng giành được bất cứ vai diễn nào, dù chỉ là vai nhỏ nhất.

Lúc đầu, cậu không biết điều đó.

Mỗi ngày cậu đều lang thang khắp Thành phố Điện ảnh, nhưng không thể vào trong các phim trường để tiếp cận đạo diễn, cuối cùng chỉ có thể bị vài nhân viên trường quay đuổi đi với vẻ mặt chán ghét.

"Cút ngay! Đừng cản trở chúng tôi quay phim!"

Họ chẳng thèm quan tâm cậu trông thế nào, có diễn xuất hay không. Chỉ cần làm gián đoạn cảnh quay, chính họ sẽ bị trừ lương.

Truy Dã đã lang thang nhiều ngày mà chẳng kiếm được gì. Lần này, cậu quyết không bỏ cuộc dễ dàng nữa, cắn răng nói:

"Các anh thực sự không thiếu người sao? Tôi có thể đóng mọi loại vai."

Tên nhân viên trừng mắt: "Vậy cậu đóng một con ch.ó rồi biến đi cho khuất mắt tôi!"

Căng thẳng giữa hai bên ngày càng gay gắt.

Đúng lúc đó, một cô gái mặc trang phục cổ trang bước ra từ phim trường, tò mò hỏi:

"Có chuyện gì vậy? Sao căng thẳng thế?"

Cô có đôi mắt cong cong như trăng lưỡi liềm, chỉ nói dăm ba câu mà đã khiến gã nhân viên mất kiên nhẫn kia dịu đi đôi chút.

"Không có gì, chỉ là một thằng rảnh rỗi gây chuyện."

Ánh mắt cô gái dừng lại trên người Truy Dã, thoáng sững sờ.

Chưa kịp mở miệng, cậu đã lên tiếng trước: "Cô là diễn viên à?"

"Tôi là Tề Duyệt." Cô cười nhạt, có chút chua chát, "Diễn viên ư? Nếu đứng làm nền cũng được tính là diễn viên, vậy thì chắc là thế."

Truy Dã nghe vậy, lập tức hỏi:

"Vậy đoàn phim của cô có cần người làm nền không?"

Bộ phim mà Tề Duyệt đang quay không thiếu diễn viên quần chúng, nhưng cô vẫn giới thiệu Truy Dã cho anh Long.

Anh Long là "đầu gấu" nổi tiếng nhất trong giới diễn viên quần chúng ở khu vực này. Ngoại trừ việc ăn chia quá tay khiến nhiều người bất mãn, thì tài nguyên trong tay hắn không ai có thể chê được.

“Đi theo anh ta, ít nhất cậu sẽ không lo chuyện làm nền.”

“Cảm ơn nhé, tôi mời cô ăn một bữa.” Truy Dã lục lọi khắp túi, móc ra mấy đồng tiền lẻ, ngượng ngùng nói, “…Mì gói được không?”

Tề Duyệt bật cười, cảm thấy cậu trai này thực sự quá đáng yêu.

“Cậu bao nhiêu tuổi rồi?”

“Mười tám.”

“Còn trẻ quá.” Cô tặc lưỡi, “Mới từng này tuổi đã ra ngoài lăn lộn rồi sao?”

“Vì tôi phải trở thành diễn viên.”

Cậu nói "phải" chứ không phải "muốn". Chỉ khác một chữ, nhưng lại khiến Tề Duyệt cảm nhận được sự ngông cuồng của cậu nhóc này. Nhưng sự ngông cuồng ấy không làm người ta khó chịu, mà dường như nó sinh ra là để cậu nói ra như vậy.

“Tôi cũng từng nghĩ như cậu. Nhưng giờ đã hai năm rồi…” Tề Duyệt khẽ thở dài, trong lòng rất ngưỡng mộ sự nhiệt huyết của Truy Dã, “Vai tốt nhất tôi từng có chính là vai này—một nha hoàn trong phòng của nam chính, may mắn có vài câu thoại.”

Truy Dã không biết phải an ủi cô thế nào, chỉ đẩy cốc mì đã pha vào tay cô. Sau đó, cậu lặng lẽ nhặt mấy mẩu thịt bò ít ỏi trong phần mì của mình, bỏ vào bát cô.

Tề Duyệt nhìn cậu, chắc nịch nói: “Nhưng cậu không giống tôi. Tôi cảm thấy cậu sẽ nổi tiếng. Cậu là cậu trai đẹp nhất tôi từng gặp ở thành phố điện ảnh này.”

Anh Long có nhiều tài nguyên, đồng nghĩa với việc danh tiếng cũng lớn, vì thế người tìm đến nhờ cậy hắn cũng đông vô kể. Là một kẻ mới đến, Truy Dã chẳng có cửa mà tranh chấp. Cậu chờ mấy ngày liền mới có một đoàn phim quy mô lớn cần nhiều diễn viên quần chúng, vậy nên cuối cùng cậu cũng có cơ hội.

Cuối cùng cũng có vai diễn đầu tiên rồi!

Tối trước ngày quay, Truy Dã chuyển đến nhà trọ do anh Long sắp xếp. Trong căn phòng chật chội, cậu nghe tiếng ngáy inh ỏi từ giường trên, còn bên phòng kế bên thì cách âm kém đến mức tiếng r*n r* hoan lạc truyền ra rõ mồn một.

Tất cả âm thanh hỗn loạn ấy đều khiến dây thần kinh của cậu căng như dây đàn, nhưng cậu chẳng buồn để ý. Cậu bật đèn ngủ, chăm chú nhìn chằm chằm vào kịch bản mà anh Long đưa cho.

Nói chính xác thì đó chỉ là một tờ giấy nhỏ với vỏn vẹn vài chữ: "Chỉ cần hoan hô là được."

Cậu và những diễn viên quần chúng khác sẽ vào vai khán giả xem một trận đấu thể thao. Cảnh quay diễn ra trong một sân vận động hàng ngàn người, không cần biểu cảm, cũng chẳng có thoại, chỉ việc hò hét là xong.

Cảnh nền của cảnh nền.

Nếu là cảnh ít người, ít ra còn có cơ hội được lọt vào ống kính. Nhưng trong một cảnh quay đông đúc như vậy, mỗi người chẳng khác nào một con kiến bé nhỏ dưới kính lúp, trông ai cũng y hệt nhau.

Truy Dã lật qua lật lại tờ giấy mấy lần, rồi cẩn thận gấp lại, đặt ngay ngắn vào n.g.ự.c áo, như thể lo lắng nó sẽ biến mất. Tay cậu vô thức chạm vào đó nhiều lần, nhưng làm thế nào cũng không thể ngủ được.

Cậu lặng lẽ bước xuống giường, ra ngoài hành lang. Ở đây yên tĩnh hơn trong phòng rất nhiều.

Nhờ vậy, tiếng nói chuyện và âm thanh giằng co trên cầu thang trở nên vô cùng rõ ràng.

Truy Dã lập tức đi đến xem xét.

Cậu thấy Tề Duyệt đang bị anh Long lôi kéo, hắn đang cố kéo cô vào phòng.

“Anh à, em đến tháng rồi, thật sự không được đâu…!”

Tề Duyệt mặt mày tái nhợt, cố ghim chân xuống đất không chịu đi theo.

Anh Long nhíu mày, mất kiên nhẫn: “Miệng cô chắc không đến tháng đấy chứ?”

Hắn tiếp tục siết chặt cổ tay cô, kéo mạnh hơn. Dấu vết đỏ bầm hằn sâu trên da thịt mỏng manh.

Ngay lúc giằng co, từ khe cầu thang, anh Long phát hiện ra Truy Dã đang đứng phía dưới nhìn chằm chằm.

Hắn gầm lên: “Nhìn cái gì mà nhìn? Cút ngay!”

Truy Dã chẳng tỏ vẻ gì căng thẳng, chỉ khẽ xoay xoay cổ tay, rồi không lùi mà tiến, từng bước từng bước đi lên cầu thang.

"Này, đừng làm chuyện ngu ngốc!"

Tề Duyệt linh cảm có chuyện chẳng lành, hét lên một tiếng, nhưng đã muộn.

Truy Dã siết chặt nắm đấm, không chút do dự tung một cú đ.ấ.m thẳng vào mặt anh Long.

Từ khi bị lừa vào đường dây lừa đảo lúc mười sáu tuổi, cậu đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc tự vệ. Hai năm qua, cậu chưa từng lơ là rèn luyện. Cậu còn thường xuyên bị những tên lưu manh nhắm đến vì trông như một đứa trẻ đơn độc dễ bị bắt nạt, thế nên cậu trở nên rất giỏi đánh nhau.

Cú đ.ấ.m tung ra sắc bén như một con d.a.o nhỏ.

Anh Long lãnh trọn một cú đấm, tức giận đến mức bật cười, quay sang nhìn Tề Duyệt: "Được lắm! Tao nói tại sao mày lại giới thiệu thằng nhóc này cho tao, hóa ra là tình mới của mày hả? Giỏi, giỏi lắm!"

Hắn nhặt một viên gạch ở góc tường, ném thẳng về phía Truy Dã: "Cút mẹ mày đi! Hai đứa chúng mày biến khỏi chỗ này ngay! Tao còn ở đây ngày nào, tụi mày đừng mong sống yên ở thành phố điện ảnh này, hiểu chưa? Mẹ kiếp!"

Mắng chửi xong, anh Long dập mạnh cửa lại.

Tề Duyệt chứng kiến toàn bộ cảnh tượng, lưng đã ướt đẫm mồ hôi. Khi cửa đóng sập xuống, cô trượt người ngồi xuống góc tường, đưa tay vò loạn mái tóc.

Cô lôi ra một bao thuốc từ trong túi, rút một điếu, rồi tiện tay ném một điếu khác cho Truy Dã.

"Biết hút không?"

Truy Dã lắc đầu, tiện tay nhét điếu thuốc vào túi áo, sau đó nhìn cô bằng ánh mắt quan tâm:

"Cô ổn chứ?"

Cô châm điếu thuốc, thành thạo nhả ra một vòng khói: “Không sao đâu, tối nay cảm ơn cậu.”

“Cô báo cảnh sát đi, tôi có thể làm chứng, nếu không lần sau hắn ta sẽ lại như vậy.”

“…Cậu nhóc, thật sự không cần thiết. Tôi và anh Long không phải lần đầu.”

Truy Dã nghi hoặc nghiêng đầu: “Hai người… là người yêu?”

“Đương nhiên không phải!” Tề Duyệt dựa lưng vào tường, cười khúc khích, “Tôi với hắn chỉ là quan hệ đôi bên cùng có lợi thôi, nếu không cậu nghĩ tôi lấy được vai nha hoàn trong phòng nam chính như thế nào? Dưới trướng hắn có bao nhiêu nữ diễn viên quần chúng, xét theo thâm niên thì cũng không đến lượt tôi.”

Nghe vậy, Truy Dã sững sờ.

“Đừng bày ra vẻ mặt ngạc nhiên như vậy.” Cô nhếch môi cười đầy chế giễu, “Giới này chẳng phải đều như vậy sao? Ngay cả những nữ diễn viên hạng A cũng không tránh khỏi. Chỉ là tôi kém may mắn một chút, chỉ có thể dựa vào anh Long. Nếu tôi có thể như Ô Mạn, bám được vào người như Dụ Gia Trạch thì tốt rồi.”

Ngón tay đang buông thõng bên người Truy Dã khẽ giật một cái.

“Cô đang nói ai?”

“Ô Mạn đó, nữ diễn viên đang nổi bây giờ, cậu cũng không biết sao?”

Không báo trước, giọng Truy Dã bỗng trầm xuống, vẻ mặt nghiêm túc: “Tôi không cho phép cô bôi nhọ cô ấy như vậy!”

Cậu vừa vì cô đánh một trận, giờ lại đột nhiên trở mặt. Thanh niên đều thất thường như vậy sao? Tề Duyệt cảm thấy khó hiểu.

“Bôi nhọ…? Đây là chuyện ai cũng biết, không tin cậu cứ hỏi đi. Không phải tôi bịa đặt đâu. Hơn nữa, tôi tận mắt nhìn thấy.” Cô chắc nịch nói, “Trước đây tôi từng đóng quần chúng trong đoàn phim Ô Mạn đóng chính, tận mắt thấy Dụ Gia Trạch đến thăm đoàn, ôm cô ấy lên xe. Khi đó còn tặng mỗi người một cốc trà sữa nữa kìa.”

Truy Dã nghiến chặt răng, hơi thở trở nên nặng nề, liên tục lẩm bẩm: “Không thể nào…”

Tề Duyệt suy nghĩ một chút, bỗng bừng tỉnh: “Cô ấy là thần tượng của cậu đúng không? Mới nghe chút tin tức đã chịu không nổi rồi? Tôi nói cho cậu biết, cái giới này bẩn lắm, không sạch sẽ như cậu nghĩ đâu. Ở lâu rồi cậu sẽ hiểu thôi.”

Truy Dã không đáp, chỉ liên tục hít sâu, gân xanh trên trán nổi lên rồi lại chìm xuống.

Cậu trầm giọng cảnh cáo: “Cô không được tiếp tục tung tin đồn như vậy. Đừng để tôi nghe thấy lần nữa, nếu không tôi sẽ không nể tình cô từng giúp tôi đâu.”

“Buồn cười! Cậu có thể bịt miệng tôi, nhưng có bịt miệng được người khác không?” Tề Duyệt cũng tức giận, buột miệng nói, “Cậu nhóc, đừng tự cho mình là vạn năng. Ít nhất ngay cả anh Long cậu cũng không đánh lại. Sao, bây giờ muốn dạy dỗ tôi à? Lo chuyện bất bình không phải làm như vậy đâu!”

Truy Dã không tranh cãi nữa, quay người chạy xuống cầu thang.

Cậu chạy càng lúc càng nhanh, như một chiếc xe tải cũ mất kiểm soát, cuối cùng kiệt sức dừng lại trước một tiệm tạp hóa, thở hổn hển, chống tay lên đầu gối, lau mồ hôi trên trán và khóe mắt. Điếu thuốc trong túi theo đó rơi ra.

Truy Dã nhặt lên, ngẩn người nhìn nó một lúc.

Xung quanh vẫn còn đoàn phim quay đêm nên tiệm vẫn mở cửa. Cậu do dự một lúc, rồi bước vào mua một hộp diêm.

Không lâu sau, dưới cột điện đen kịt bên ngoài, bỗng lóe lên một đốm lửa, chiếu sáng dáng thiếu niên đang dựa vào cột.

Cậu kẹp điếu thuốc chưa quen, dùng que diêm nhỏ xíu châm lửa. Khói thuốc rẻ tiền xộc lên, khiến người ta buồn nôn.

Cậu vừa ho khan, vừa hút, tay còn lại cầm que diêm, nhìn chằm chằm vào ánh lửa nhỏ bé lay động trong gió, như thể nó có thể tắt bất cứ lúc nào.

Nhưng dù ánh lửa ấy dường như sắp tàn lụi, cuối cùng nó vẫn ngoan cường cháy lên, cháy trong đêm lạnh đến mức hơi thở cũng đông thành băng.

Giống như ngọn lửa trong lòng cậu.

Khi Uông Thành bước ra khỏi lều, cảnh tượng đập vào mắt chính là thế này—

Thiếu niên run rẩy rít từng hơi thuốc, rõ ràng đã buồn nôn đến mức sắp nôn ra, nhưng vẫn cố chấp hút tiếp, vẻ mặt phức tạp mà si mê, như thể t.h.u.ố.c lá là thứ duy nhất trên thế giới này có thể giúp cậu vơi bớt nỗi đau lúc này.

Bước chân vốn định rời đi của Uông Thành khựng lại, tò mò đứng yên quan sát. Ông thích quan sát con người, đây là tố chất bắt buộc của một đạo diễn—quan sát những khía cạnh thú vị của nhân tính, rồi khắc họa chúng.

Ông kiên nhẫn chờ đợi, cho đến khi thiếu niên hút xong điếu thuốc rẻ tiền ấy, ngước mắt lên và chạm phải ánh nhìn của ông trong bóng tối.

Khoảnh khắc đó, Uông Thành chấn động.

Gương mặt vẫn còn rất trẻ, nhưng tại sao ánh mắt lại mang theo nỗi đau đến thế? Ông không nhịn được nghĩ, đây chính là kiểu ánh mắt mà chỉ cần đặt lên màn ảnh rộng, không cần nói gì cũng có thể khiến người ta cảm nhận được một câu chuyện phía sau.

Quan trọng hơn, cảnh tượng này khiến ông lập tức nhớ đến kịch bản sắp hoàn thiện của mình—"Nghiệt Tử". Trong đó có một phân cảnh, nam chính cũng hút thuốc như vậy, nuốt vào là nỗi đau đè nén, thở ra là quyết tâm tàn nhẫn—một sự quyết tuyệt như thể muốn chiến đấu với cả thế giới vô tình này.

Mặc dù trong lòng ông vốn đã có diễn viên phù hợp, nhưng ngay khoảnh khắc này, trực giác sắc bén mách bảo ông—không thể bỏ lỡ.

Và thế là, vào một đêm đen như mực khi Truy Dã một lần nữa rơi vào vực thẳm của đời mình, ngọn lửa nhỏ bé cuối cùng trên que diêm kia đã kiên trì cháy đến phút cuối, mang đến cho cậu một cơ hội đổi đời.

Uông Thành chìa ra nhành ô liu—một suất thử vai. Nhưng ông không đưa cậu kịch bản.

Cho đến khi đến địa điểm thử vai, Truy Dã vẫn không biết mình sẽ đóng vai gì, nhưng cậu đoán chắc chỉ là một nhân vật nền không có lời thoại. Cậu đã lên mạng tra về Uông Thành—một đạo diễn lừng danh, có lẽ vì cẩn trọng với tác phẩm của mình nên ngay cả vai quần chúng cũng phải đích thân chọn lựa.

Cậu chưa từng nghĩ đến việc mình sẽ được nhận bất kỳ vai nào ngoài quần chúng. Cậu chỉ biết, bất kể vai này nhỏ đến đâu, cậu cũng phải giành lấy.

Chưa bao giờ khát vọng bước chân vào giới này lại mãnh liệt đến thế. Cậu phải gặp trực tiếp chị để hỏi cho rõ—những tin đồn kia có phải sự thật hay không?

Nhưng trước tiên, cậu phải có tư cách đứng trước mặt cô ấy, tư cách để được cô ấy chú ý và trả lời.

Cùng cậu tham gia thử vai còn có mấy thiếu niên khác. Bọn họ đều quen biết nhau, vì tất cả đều là những tiểu sinh có sức ảnh hưởng nhất hiện nay.

Sau khi chào hỏi, ánh mắt họ đồng loạt dừng trên Truy Dã, mang theo vẻ nghi hoặc.

“Cậu biết cậu ta không?”

“Không. Chưa từng thấy qua.”

Bọn họ thì thầm trao đổi, sau khi xác định Truy Dã không có bối cảnh gì đặc biệt thì liền yên tâm, chẳng buồn để cậu vào mắt. Dù ngoại hình Truy Dã xuất sắc, nhưng so với nhan sắc, diễn xuất và chỗ dựa phía sau mới là yếu tố quyết định.

Nếu xét về hai điểm đó, những tiểu sinh có danh tiếng mới là đối thủ thực sự của nhau.

Ban đầu, bọn họ đều nghĩ đây chỉ là một buổi thử vai bình thường. Tuy Uông Thành không đưa trước kịch bản, nhưng chắc là muốn kiểm tra khả năng ứng biến của bọn họ thôi.

Mãi đến khi trợ lý đạo diễn xuất hiện và nói rằng họ phải tiếp tục lên xe đến một địa điểm khác, nơi Uông Thành đang chờ sẵn, bọn họ mới nhận ra—buổi thử vai này không hề đơn giản.

Dù không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng tất cả vẫn ngoan ngoãn lên xe. Truy Dã bị đẩy ra ngồi ghế phụ cạnh tài xế, còn phía sau là một đám người bắt đầu khoe khoang—

“Cậu đã nhận được giải gì rồi?”

“Tôi vừa đóng xong một bộ phim, cậu xem chưa?”

Truy Dã lắng nghe bọn họ huyên thuyên, lòng không khỏi thắc mắc—tại sao những người giỏi như vậy lại đến tranh một vai quần chúng với mình?

Cậu không hiểu nổi. Và vì thế, cậu càng thêm căng thẳng.

Chiếc xe chạy mãi, hướng về ngoại ô. Cuối cùng dừng lại ở một đồng cỏ rộng lớn. Đây là một trường đua ngựa, nơi nhiều đoàn phim thường chọn để quay các cảnh cưỡi ngựa ngoại cảnh.

Điểm bất tiện duy nhất là ngay cạnh trường đua có đường ray xe lửa, sau mỗi cảnh quay đều phải tốn nhiều công sức chỉnh sửa hậu kỳ để xóa nó đi.

Uông Thành dắt mấy con ngựa đến trước mặt nhóm thiếu niên vừa xuống xe, rồi thản nhiên tuyên bố:

“Bài kiểm tra thử vai hôm nay chính là—cưỡi ngựa.”

“Cưỡi ngựa?”

Mọi người đưa mắt nhìn nhau.

“Chỉ cần cưỡi ngựa là được sao?”

Chuyện này cũng quá đơn giản rồi.

Bọn họ đều đã từng đóng phim cổ trang hoặc phim dân quốc, cưỡi ngựa chẳng khác nào chuyện dễ như trở bàn tay.

Truy Dã lặng lẽ mím chặt môi.

Cậu không biết cưỡi ngựa. Nhưng cậu sẽ không để mình tỏ ra yếu kém.

Uông Thành khẽ cười, giọng điệu mập mờ:

“Nhân vật các cậu sắp diễn—anh ta kiêu ngạo, hoang dã, là một kẻ đại nghịch bất đạo. Hãy dùng cách của mình, thể hiện nhân vật ấy qua động tác cưỡi ngựa.”

Lúc này, Truy Dã giơ tay lên:

“Tôi có thể là người cuối cùng được không?”

Như vậy, cậu sẽ có đủ thời gian để quan sát và học hỏi.

Uông Thành không để tâm, chỉ tùy ý gật đầu, ánh mắt đã tập trung vào thiếu niên đầu tiên lên ngựa.

Cậu ta hăng hái giục ngựa phi nhanh, điều khiển thuần thục không chút sơ hở.

Uông Thành nhìn một lúc, rồi thất vọng cụp mắt, gọi tiếp người kế tiếp.

Người thứ hai rút kinh nghiệm, tận dụng kỹ thuật cưỡi ngựa xuất sắc, cố ý thực hiện một số động tác phô trương nhưng nguy hiểm.

Uông Thành đứng bên dưới nhìn, nhíu mày thốt ra mấy từ:

“Hời hợt, màu mè, chỉ biết làm trò.”

Những người còn lại nghe vậy thì tê cả da đầu. Vậy rốt cuộc phải cưỡi ngựa thế nào mới khiến vị đại đạo diễn này hài lòng đây?

Hết một lượt, Uông Thành lộ rõ vẻ mệt mỏi. Nhưng khi thấy người cuối cùng là Truy Dã, trong mắt ông lại lóe lên chút mong đợi khác biệt.

Kết quả là…

Uông Thành bất đắc dĩ nhìn Truy Dã hết lần này đến lần khác không thể lên được lưng ngựa, sắc mặt lập tức sa sầm.

“Thôi đi, cậu đừng cưỡi nữa. Hôm nay đến đây thôi.”

Ông vừa dứt lời, mấy thiếu niên đứng cạnh đều nhịn không được mà cười khẩy.

Mặc dù họ không chắc ai sẽ là lựa chọn số một trong lòng Uông Thành, nhưng vị trí đội sổ thì hiển nhiên đã có chủ.

Một kẻ đến cưỡi ngựa còn không biết—sao có thể vượt qua vòng thử vai?

Nhưng đúng lúc đó, trong khi Uông Thành đang nói, Truy Dã lại mặt dày đu bám lên lưng ngựa, ôm chặt lấy cổ nó, hét xuống:

“Tôi làm được mà!”

Uông Thành nhìn mà tim cũng thót lên, động tác này rõ ràng là của một tay mơ, nếu xảy ra chuyện thì sao?

Ông lập tức ra hiệu cho người đến kéo ngựa lại.

Thế nhưng, Truy Dã đã nhanh hơn một bước—học theo người khác, vung roi quất mạnh vào m.ô.n.g ngựa.

Con ngựa đau đớn, lập tức phi nước đại.

Đám người đứng xem vừa buồn cười vừa lo lắng, cũng có người chờ xem trò hề.

Thế này chẳng khác nào thử vai cho một bộ phim hài Tết!

Trên lưng ngựa, Truy Dã bị xóc nảy dữ dội, cậu biết bóng lưng của mình lúc này tuyệt đối không thể gọi là phong độ, mà chính xác là chật vật thảm hại.

Nhưng với cậu, chỉ cần không bị hất xuống, đó đã là một chiến thắng.

Chỉ là, nếu muốn trở nên nổi bật, như thế vẫn chưa đủ.

Ngay lúc đó, một đoàn tàu lao vút qua đường ray cạnh trường đua.

Truy Dã đưa tay vuốt dọc bờm ngựa, tim đập thình thịch.

Cậu chỉ có một cơ hội này.

Làm thế nào để chiến thắng đây?

Ánh mắt cậu lướt qua những toa tàu lạnh lẽo, hơi thở của thép và tốc độ phả vào mặt, giống như một con rồng sắt bám sát phía sau, gào thét đuổi theo cậu.

Một ý tưởng điên rồ lóe lên.

Truy Dã bất ngờ bật cười lớn trên lưng ngựa, hét lên:

“Rồng và ngựa, ai chạy nhanh hơn?”

“Không bằng chúng ta thử xem!”

Dứt lời, cậu dồn sức vung roi—một, hai, ba lần!

Con ngựa lại tăng tốc!

Những người đứng xem đều sững sờ, cậu ta đang liều mạng sao?

Với trình độ cưỡi ngựa thế này mà còn không ngừng thúc ngựa tăng tốc, chẳng phải muốn c.h.ế.t ư?

Nhưng Truy Dã chẳng còn quan tâm nữa.

Cậu chỉ biết—mình phải thắng.

Mạng sống thì có là gì chứ?

Đời người còn ngắn hơn một cái búng tay, lúc cần liều thì cứ liều thôi.

Bởi vì trên đời có thứ còn vĩnh hằng hơn cả sinh mệnh—một thứ có thể vượt qua thời gian.

Khi thân hình nhỏ bé của con ngựa vượt qua con rồng thép khổng lồ, Truy Dã phấn khích giơ tay lên trời hò reo.

Và kết cục là—cả thế giới bỗng đảo lộn.

Cậu bị hất văng khỏi lưng ngựa, xoay tròn giữa không trung rồi rơi xuống đất một cách nặng nề.

Cậu cảm thấy xương trong cơ thể có lẽ đã gãy, xuyên thủng thứ gì đó, để mặc cơn đau bị giam cầm bấy lâu tràn ra ồ ạt.

Nhưng đồng thời, những áp lực, những ngột ngạt bị đè nén trong cậu cũng được giải phóng.

Nằm trên mặt đất, hơi thở mong manh, cậu bật cười.

Cười đến tận cùng, cười đến đau đớn, nhưng lại sảng khoái vô cùng.

Cậu và con ngựa đã chạy xa đến mức không còn bóng dáng, khiến đoàn người của Uông Thành phải lần theo dấu chân ngựa để tìm.

Suốt thời gian đó, Truy Dã vẫn tỉnh táo chịu đựng cơn đau, mãi cho đến một giây trước khi Uông Thành tìm thấy cậu.

Cậu nằm bẹp trên mặt đất, khóe môi còn đọng vệt máu, nhưng ánh mắt lại lóe sáng như sao băng.

“Đạo diễn, ngựa có thể thắng rồng.”

“Vậy kẻ đóng vai quần chúng như tôi… cũng có thể thoát khỏi số phận phải không?”

Uông Thành sững người, cảm giác như bị thứ gì đó đánh mạnh vào lòng ngực.

Cuối cùng, ông khẽ lẩm bẩm:

“Thằng nhóc này… không điên thì sống không nổi.”

Và từ đó, thế gian này xuất hiện một kẻ nghiệt tử độc nhất vô nhị.

Hai năm sau—đêm trước lễ trao giải Kim Tượng.

Truy Dã lật giở danh sách khách mời của buổi lễ, nhìn thấy một cái tên—Ô Mạn.

Tay cậu khựng lại, rồi đặt danh sách xuống.

Bất giác, cậu bắt đầu bước qua bước lại một cách bồn chồn.

Mãi đến khi rút ra một điếu thuốc trong túi áo, châm lửa, cậu mới dần bình tĩnh lại.

Cậu đã học được cách dùng bật lửa, học được cách hút thuốc mà không bị sặc.

Nhưng ngay giây phút hơi thuốc ngấm vào đầu lưỡi, cậu lại trở về thành đứa trẻ trơ trọi, không một tấc sắt trong tay, ngồi trong rạp phim tối mờ, ngước nhìn màn ảnh rộng.

Trên màn ảnh ấy, là con đường cậu đã chạy suốt bao năm qua—từ Thanh Linh, đến đại mạc Tây Bắc, rồi về phương Nam.

Những nỗi đau u ám, vô vọng ngày nào, giờ đã hóa thành làn khói thuốc lượn lờ thoát ra khỏi khóe môi cậu.

Thứ còn sót lại—không thể dùng một lời để diễn tả.

Đó là niềm phấn khích, là sự hoang mang, là nỗi run rẩy khiến người ta muốn bật khóc.

Bởi vì, vở độc thoại không ai lắng nghe này… cuối cùng cũng đến hồi kết.

Một phút trên sân khấu, mười năm rèn luyện sau cánh gà.

Rốt cuộc, ánh đèn sân khấu cũng chiếu xuống cậu.

Rốt cuộc, người khán giả mà cậu muốn mời đến nhất cũng đã ngồi vào ghế.

Vậy thì…

Nên xuất hiện thế nào đây?

Đã là nghiệt tử, thì cứ đại nghịch bất đạo mà bước ra đi.

Không cần sợ những khúc ngoặt trên con đường này.

Bởi vì đến cuối cùng—

Chắc chắn, người sẽ yêu tôi.

—Toàn văn hoàn.
 
Back
Top Bottom