Linh Dị Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
24/9/25
499,367
0
36
AP1GczM8U_f3Sxy8ngPykyiH8dSWuldZsIrXApNCbFWQ8qJRHWgRrKLuUOrgSp8JSe8dCs532ghY9Iyp4qT1hZDROYwd_MMLN9GoNQ8gREoV_9WS0mEisv_tauiyGlJEDj73FmEGgxBN5qEpJnIbAKh1Z-gB=w215-h322-s-no-gm

Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Tác giả: Bạch Cơ Quán
Thể loại: Linh Dị, Cổ Đại
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam

Tác giả: Bạch Cơ Quán

Thể loại: Cổ Đại, Linh dị.

Số chương: 38 chương

Dịch: Quá khứ chậm rãi

Giới thiệu

Thịnh Đường, Trường An, trăm quỷ dạ hành, ngàn yêu phục tụ.

Trên phố Tây thị, nơi giao nhau giữa hai giới âm dương, có một tòa Phiêu Miểu Các thần bí hư vô.

Trong Phiêu Miểu Các, buôn bán đủ các món kỳ trân dị bảo, thất tình lục dục.

Là nơi mà người, yêu, quỷ, thần tới lui.

Phiêu Miểu Các ở đâu?

Người vô duyên, đi lướt qua cũng khó thấy.

Người có duyên, ngàn dặm đến tìm.

Vì sao thế gian phải có Phiêu Miểu Các?

Vì chúng sinh có dục vọng, nên thế gian mới có Phiêu Miểu Các.

Nhân vật chính:

Nguyên Diệu, thư sinh nghèo túng tính cách thuần lương, nhát gan nhưng luôn gặp yêu quái.

Nguyên Diệu vì đi thi mà đến chỗ người thân ở Trường An, lần đầu bước vào Phiêu Miểu Các, hắn vô tình làm bể các loại kỳ trân dị bảo, hắn nghèo đến mức chỉ còn lại có hai mươi văn tiền, bị lừa gạt ký khế ước bán thân, trở thành nô bộc của Phiêu Miểu Các, từ đó về sau đi theo Bạch Cơ chứng kiến muôn màu muôn vẻ của chúng sinh.

Bạch Cơ, chủ nhân Phiêu Miểu các, là mỹ nhân nhưng lại không phải người.

Thân phận thần bí, một người không nổi bật như nàng, từ khi chúng sinh có ấn tượng tới nay, đã kinh doanh Phiêu Miểu Các, bán đủ các kỳ trân dị bảo.

Đối với nàng mà nói, ý nghĩa duy nhất ba ngàn năm qua đối với nàng, là chờ chúng sinh tới mua "Dục vọng", tập hợp đủ "Nhân quả" bằng với cát sông Hằng...​
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 1


Tây Thiên, Cực Lạc.

Ngàn hoa rơi xuống, Phạn âm vang vọng.

Đa La Bồ Tát ngồi kiết già, trang nghiêm trên tòa sen nguyệt luân.

Đa La Bồ Tát hiện thân pháp tướng của một thiếu nữ xinh đẹp, đó là dáng vẻ của nàng khi còn là công chúa Bát Nhã Nguyệt của nước Thải Quang, đầu đội mũa Ngũ Phật Bảo, mình mang thất bảo, toàn thân xanh biếc, khuôn mặt lộ ra vẻ từ bi.

Tay trái của Đa La Bồ Tát đưa ra phía trước, đặt trên đầu gối phải, làm dấu thí nguyện ấn. Tay phải đặt trước ngực, cầm đóa hoa Ô Ba La.

Đa La Bồ Tát đang nhập vào cảnh giới thiền định, đây là một thực hành tâm thức mà các vị Phật Bồ Tát đều phải thực hiện định kỳ. Biểu cảm của ngài thật từ bi và an hòa.

Trong cảnh giới thiền định, có tam giới lục đạo, vạn pháp môn. Các Bồ Tát mở ra huệ nhãn của tâm, giao tiếp với các pháp thân và ý thức khác của mình trong ba nghìn thế giới, từ đó càng hiểu sâu rộng hơn về thế giới này và kết nối tinh thần với chúng sinh, nhằm dùng Phật pháp phổ độ họ và đồng thời tu luyện nội tâm của chính mình, củng cố thêm tín niệm.

Đa La Bồ Tát trong thiền định, liên kết tinh thần với chính mình trong ba nghìn thế giới, nàng thấy chúng sinh đang chìm đắm trong ngũ dục, luân hồi lục đạo, chịu đựng vô vàn khổ nạn trong biển sinh tử không bờ bến. Một số thậm chí trong cảnh khổ sở giãy giụa đã biến thành ma.

Đa La Bồ Tát cảm thấy thương xót chúng sinh, và những giọt lệ từ bi rơi xuống trên gương mặt trang nghiêm.

Chúng sinh đang bị hành hạ bởi biển khổ của thất tình lục dục, chịu đựng mọi khổ đau vô lượng, đời đời kiếp kiếp, trầm luân trong khổ ải.

Chúng sinh đau khổ khẩn cầu, cầu cứu thần Phật.

Đa La Bồ Tát thương cảm chúng sinh, bèn phóng Phật quang để cứu độ họ.

Tuy nhiên, ngài đã dùng hết sức lực, cạn kiệt tâm lực, tỏa ra Phật quang nhưng vẫn không thể cứu rỗi toàn bộ chúng sinh khỏi biển khổ.

Ngài không ngừng cứu độ chúng sinh, giống như một ngôi sao rực rỡ, dấn thân vào vũ trụ đen tối.

Ngôi sao ấy muốn dùng ánh sáng của mình để chiếu rọi bóng tối vô tận của vũ trụ.

Ngôi sao hết lần này đến lần khác dấn thân vào bóng tối, dốc hết sức mình, tỏa sáng để soi đường cho những linh hồn lạc lối và bế tắc.

Nhưng do không ngừng lao vào bóng tối, mỗi khi tỏa ra ánh sáng, một phần bóng tối luôn bám lấy ngôi sao như bóng với hình.

Ánh sáng của ngôi sao dần bị bóng tối xâm chiếm, trở nên yếu ớt. Từ một ngôi sao sáng rực rỡ, nó trở thành một đốm lửa nhỏ bé mờ nhạt.

Mỗi khi ngôi sao dấn thân vào bóng tối, ma quỷ lại thì thầm bên tai ngài:

"Ngươi thấy không, ngươi ngày càng yếu đi."

"Ngươi đã cứu rỗi chúng sinh, nhưng ai sẽ cứu rỗi ngươi đây?"

"Ai sẽ cứu rỗi ngươi?"

"Ai... sẽ cứu ngươi..."

Qua từng lần thiền định, Đa La Bồ Tát dần mất đi ánh sáng của Phật tính, ngài bắt đầu không nhìn rõ chính mình.

Ba nghìn thế giới, pháp tướng vạn chúng sinh, khi nàng kết nối tinh thần với bản thân, ngài không còn nhìn rõ hình dạng của chính mình nữa.

Ngài không còn dung mạo, không còn thân thể, chỉ còn là một bóng xám mờ nhạt.

Năng lượng của ngài đã cạn kiệt, Phật quang đã tản mác, lòng ngài trống rỗng.

Ngài hiểu rằng ngày đại kiếp của mình đã đến.

Nếu không vượt qua được kiếp nạn, ngài sẽ diệt vong, từ đó tan biến.

Nếu vượt qua được kiếp nạn, ngài sẽ thành Phật, hóa thành vĩnh hằng.

Làm sao để vượt qua kiếp nạn đây? Là tiếp tục độ hóa thêm nhiều người nữa, cứu rỗi thêm nhiều chúng sinh nữa sao?

Nhưng Phật quang của ngài đã quá yếu, không thể soi sáng chúng sinh nữa, làm sao có thể độ hóa, cứu rỗi họ đây?

Trong cơn bối rối, từ ánh sáng xa xôi và vĩnh cửu, giọng nói của Phật Tổ vang lên:

"Ngươi mệt rồi, nhắm mắt lại và tạm thời nghỉ ngơi đi."

"Dùng pháp thân của ngươi đi đến nhân gian, tìm lại ánh sáng của mình trong tám nạn."

Đa La Bồ Tát nhắm mắt lại, nhưng ngài vẫn từ bi, nước mắt thương xót chúng sinh chưa kịp khô, đọng lại nơi khóe mắt.

Khi Đa La Bồ Tát nhắm mắt, ở nhân gian xuất hiện một thiếu nữ mặc y phục màu xanh.

Thiếu nữ áo xanh đi lại giữa cõi đời, chu du khắp nơi. Nàng bôn ba qua nhiều quốc gia, hòa mình vào dòng người, tìm lại ánh sáng đã mất của mình giữa những khát vọng của lòng người và khổ nạn của chúng sinh.

Dưới ánh trăng, một cô nương áo xanh đang ngủ giữa những nhánh cây Bồ đề.

Cô nương áo xanh có dáng người mảnh mai, dung mạo thanh tú, đôi mắt sáng ngời và tràn đầy lòng từ bi. Mái tóc đen dài buộc gọn một phần, phần còn lại xõa xuống, toàn thân nàng phát ra một ánh sáng trong suốt dịu dàng.

Dưới ánh trăng, cô nương áo xanh thức giấc.

Nàng nhìn lên bầu trời đêm rộng lớn qua những tán lá Bồ đề, ánh mắt ngây ngẩn.

Trăng sao cùng tỏa sáng, ánh trăng trong trẻo rạng ngời.

Đêm nay, gió mát, trăng thanh.

Cô nương áo xanh đưa tay lên, che nửa mắt, qua bàn tay ngọc ngà, nàng nhìn ánh trăng, che đi sự mơ hồ trong ánh mắt mình.

Nàng lại mơ thấy giấc mơ đó.

Trước khi đại kiếp xảy ra, Phật Tổ đã bảo nàng, kẻ đã mệt mỏi và mất đi Phật quang, dùng pháp thân giáng thế nhân gian tìm lại ánh sáng đã mất trong lòng người.

Nàng đã đi qua nhiều nơi, gặp gỡ rất nhiều người, trải qua tám nạn trong ngọn lửa d*c v*ng, nhưng vẫn chưa tìm thấy ánh sáng đã mất.

Trong lòng nàng vô cùng hoang mang, không biết phải đi đâu tiếp theo.

Lúc đó không xa trên con đường trạm dịch, có hai vị hòa thượng đang gấp gáp đi dưới ánh trăng.

Một vị hòa thượng nói: "A Di Đà Phật! Trong thành Lạc Dương có hàng trăm chùa già lam, tháp Phật tráng lệ, chúng ta có thể đến để trao đổi Phật lý."

Vị hòa thượng kia đáp: "Nữ Đế lên ngôi, trọng Phật tôn tăng, dân chúng cũng phần nhiều tín Phật, chúng ta có thể đến để độ hóa họ."

Cô nương áo xanh lặng lẽ nhìn hai vị hòa thượng gấp gáp đi qua con đường trạm dịch.

Có vẻ nàng đã nảy ra một ý tưởng.

"Lạc Dương, già lam, Nữ Đế, tín đồ... Chi bằng ta đến Lạc Dương xem liệu có thể tìm lại ánh sáng đã mất của mình hay không."

Cô nương áo xanh lơ lửng bước xuống từ cây Bồ đề, nhẹ nhàng đứng dưới ánh trăng.

Nàng cúi đầu nhìn lại mình, nghiêng đầu suy nghĩ một chút, tự nhủ: "Pháp thân này không tốt, đổi một cái khác thôi."

Một làn khói mỏng manh bay lên, cô nương áo xanh biến mất, thay vào đó là một ông lão nhỏ bé mặc áo xanh, cười mỉm đứng dưới ánh trăng.

Ông lão áo xanh vuốt râu, bước nhanh theo hai vị hòa thượng.

"Hai vị thánh tăng xin dừng bước! Lão hủ cũng định đến Lạc Dương, sao không kết bạn đồng hành nhỉ?"

Hai vị hòa thượng dừng bước, chờ đợi ông lão áo xanh, ba người cùng đi dưới ánh trăng, đi về phía Lạc Dương.

*

Giữa xuân, Lạc Dương.

Sắc xuân tươi đẹp, vạn vật hồi sinh.

Hai bên bờ sông Lạc cỏ mọc xanh tươi, chim hoàng oanh hót líu lo, hoa đào hồng thắm nở rộ trên cành như những đám mây hồng tươi đẹp rực rỡ.

Dưới cầu nổi, giữa dòng sông Lạc, những cặp chim rẻ quạt và uyên ương đập cánh chơi đùa trên mặt nước. Bên bờ, những đám bèo xanh li ti dập dờn, xen lẫn giữa chúng là những đóa hoa trắng nhỏ xinh.

Nguyên Diệu mặt mày ủ rũ vội vã đi qua cầu nổi, chẳng còn tâm trạng thưởng thức vẻ đẹp tươi sáng của mùa xuân.

Từ đầu xuân đến nay, việc kinh doanh của Phiêu Miểu các đột nhiên trở nên khởi sắc, mỗi ngày đều có vài giao dịch thành công. Một số khách hàng cũ còn gửi thư đặt hàng trước, Nguyên Diệu phải ra ngoài vài lần mỗi ngày, chạy khắp các khu vực trong thành để giao hàng cho khách. Ngoài việc giao hàng, Nguyên Diệu còn phải ghi chép sổ sách, quét dọn, giặt giũ, sắp xếp hàng hóa, và còn phải mua cá giúp Ly Nô.

Xuân đến rồi, liễu bay tơi tả, mưa xuân lấm bùn, việc quét dọn trong Phiêu Miểu các càng nặng nề hơn mùa đông lạnh lẽo. Ngoài ra, Phiêu Miểu các ở Lạc Dương còn lớn hơn Phiêu Miểu các ở Trường An, đồ đạc trong cửa hàng cũng nhiều hơn, việc dọn dẹp tốn thêm rất nhiều thời gian và công sức.

Mùa xuân đã đến, Bạch Cơ ra ngoài tham gia yến tiệc và đi dạo nhiều hơn. Mùa xuân ở Thần Đô luôn là mùa các thiếu nữ mặc trang phục lộng lẫy, thi nhau khoe sắc. Bạch Cơ đam mê trang phục, chú trọng vào việc tô điểm cho vẻ ngoài của mình, đuổi theo các xu hướng trong cung đình và thời trang dân gian. Nàng mua thêm rất nhiều y phục mới. Càng có nhiều y phục, nàng càng thay đồ thường xuyên, những bộ y phục dơ cứ chất đống lại, để Nguyên Diệu phải giặt giũ. Nguyên Diệu không dám phản kháng, đành chịu đựng giúp nàng giặt đống y phục cao như núi, khổ sở vô cùng.

Mùa xuân đến, Ly Nô càng trở nên lười biếng. Ngoài nấu ăn ra thì nó chỉ muốn nằm phơi nắng và ngủ gật, thậm chí không muốn ra ngoài mua đồ, thường xuyên bắt Nguyên Diệu đi thay.

Nguyên Diệu bận rộn như con quay bị quay không ngừng, cả ngày làm việc không ngơi chân, chẳng có chút thời gian rảnh rỗi.

Nguyên Diệu một mình phục vụ một con rồng mê thay đồ và một con mèo lười biếng trong cơn buồn ngủ mùa xuân, mỗi ngày dậy sớm làm việc đến khuya, nhưng vẫn không làm hết việc.

Thấy mình sắp kiệt sức, Nguyên Diệu thực sự không thể chịu nổi nữa, bèn đề nghị Bạch Cơ mua thêm một người hầu.

Con yêu rồng keo kiệt không muốn tiêu tiền, viện lý do rằng "mùa xuân đến, giá nô lệ đắt đỏ, chờ đến mùa hè khi đám nô lệ từ các nơi đổ về Lạc Dương, giá sẽ hạ xuống, lúc đó hãy mua" để trì hoãn mãi.

Nguyên Diệu vội vã bước qua cầu nổi, nghĩ đến đống việc lớn đang chờ mình ở Phiêu Miểu các, bỗng cảm thấy thân thể mệt mỏi và tâm trí kiệt quệ.

Nguyên Diệu thầm mắng Bạch Cơ keo kiệt, rõ ràng gần đây việc buôn bán phát đạt, lợi nhuận thu vào không ít, vậy mà nàng chẳng chịu mua lấy một người hầu. Nàng thì tiêu tiền không tiếc tay mua đủ loại y phục nữ trang theo mốt, nhưng lại không muốn bỏ chút tiền nhỏ mua một người hầu biết làm việc.

Việc trong ngoài ở Phiêu Miểu các chẳng ai gánh vác, tất cả đè lên vai Nguyên Diệu. Cậu thư sinh nhỏ bé hận không thể mọc thêm bốn đầu tám tay để làm việc, nhưng vẫn không thể làm hết mọi việc.

Nguyên Diệu vừa thầm mắng Bạch Cơ, vừa nhìn thấy bên đường có người nông dân bán măng tươi còn dính bùn vừa mới đào lên.

Nhớ lại buổi sáng hôm nay, Bạch Cơ nói muốn ăn món cơm điêu hồ với măng tươi, Nguyên Diệu vội chạy đi mua một ít măng tươi về.

Khi Nguyên Diệu ôm đống măng tươi trở về Phiêu Miểu các, Ly Nô đang ngồi trên quầy, hé mắt, lười biếng ăn cá khô.

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, sáng nay Bạch Cơ nói muốn ăn cơm điêu hồ với măng tươi, tiểu sinh đã mua một ít măng về đây rồi.”

Con mèo đen lười biếng đáp: “Mọt sách, cứ để măng tươi vào bếp đi.”

Nguyên Diệu mang măng tươi vào bếp.

Xong xuôi, Nguyên Diệu đến bên giếng cổ múc nước, rửa sạch bùn đất trên tay. Hắn nhớ ra Bạch Cơ lại vừa vứt thêm một đống y phục vào gian trong, phải lập tức ngâm với xà phòng mới có thể kịp giặt sạch trước bữa tối.

Nguyên Diệu bước vào gian trong, vừa với tay lấy y phục trên bàn ngọc bích thì Bạch Cơ từ lầu hai bước xuống.

Bạch Cơ mặc bộ y phục hẹp tay màu trắng tuyết, cài trâm ngọc vấn tóc, trông như một nam tử quý tộc.

Y phục của Bạch Cơ là kiểu dáng thịnh hành nhất ở Thần Đô, eo thắt và cổ lật, chất liệu vải là loại lụa cao cấp từ Việt Châu, áo ngoài là gấm dệt hoa văn, trên cổ áo và tay áo thêu chỉ bạc hình mây tinh xảo, thắt lưng dùng đai ngọc Cửu Hoàn, còn giày gót được khảm đá quý.

Bạch Cơ vừa bước xuống vừa nhìn tấm thiệp dát vàng trong tay, có vẻ đang suy nghĩ điều gì đó.

Nhìn Bạch Cơ phong thái như ngọc, dung mạo kiêu sa.

Nhưng Nguyên Diệu chẳng có tâm trạng nào để ngắm hay khen ngợi nàng, hắn chỉ cảm thấy lo lắng.

Vì bộ y phục này vừa nhìn là biết rất khó giặt, lụa Việt Châu và gấm dệt hoa văn đều là loại vải quý, không thể dùng xà phòng, không thể dùng nước nóng, cũng không thể dùng chày đập, chỉ có thể nhẹ nhàng giặt tay với nước lạnh. Ngày hôm qua, bộ áo choàng lụa chín tầng và váy dệt hoa từ đất Thục đã khiến Nguyên Diệu mất rất nhiều công sức để giặt.

Bạch Cơ ngẩng đầu, thấy Nguyên Diệu thì cười nói: “Hiên Chi đã về rồi à.”

Nguyên Diệu đáp: “Đã về rồi. Bạch Cơ sắp ra ngoài à?”

Bạch Cơ khẽ lắc tấm thiệp vàng trong tay, cười nói: “Đúng vậy. Ta vừa nhận được một vụ trừ yêu diệt ma, bây giờ phải đến chùa Thập Tự một chuyến.”

Nguyên Diệu bỗng ngẩn ra.

Chùa Thập Tự là chùa của Cảnh giáo*, còn gọi là Đại Tần Tự. Ở Trường An có một ngôi chùa nằm ở phường Nghĩa Ninh, còn ở Lạc Dương thì nằm ở phường Tu Thiện.

* Cảnh giáo: Cảnh giáo là giáo phái Kitô giáo Nestorius du nhập vào Trung Quốc thời Đường, tức là Giáo hội Assyria Đông phương. Cảnh giáo có nguồn gốc từ Syria ngày nay, tách ra từ Chính thống giáo Hy Lạp (Chính thống giáo Đông phương). Giáo phái này do giáo sĩ Syria Nestorius, Thượng phụ Constantinople, sáng lập vào khoảng năm 428-431 và đã thiết lập giáo hội tại Ba Tư. Cảnh giáo được xem là giáo phái Kitô giáo sớm nhất vào Trung Quốc.

Dù là ở Trường An hay Lạc Dương, đôi khi Nguyên Diệu cũng đi ngang qua chùa Thập Tự, nhưng đối với tôn giáo ngoại lai như Cảnh giáo, hắn cảm thấy rất xa lạ và không muốn tìm hiểu, chỉ luôn giữ một thái độ kính trọng khi đi ngang qua mà chưa bao giờ bước vào hay có ý định tìm hiểu.

Kiến thức của Nguyên Diệu về Cảnh giáo và chùa Thập Tự hầu như bằng không, hắn chỉ nhớ phía ngoài chùa Thập Tự có một cây thập giá khổng lồ. Các hòa thượng trong chùa phần lớn là người Hồ mũi cao mắt sâu, tín đồ gọi họ là chủ giáo và truyền giáo sĩ. Họ mặc áo đen, trước ngực đeo thập giá, tay cầm cây gậy thập tự giống như gậy thiền.

Một lần, Nguyên Diệu đi ngang qua chùa Thập Tự, thoáng thấy các giáo sĩ đang di chuyển một tượng thần hình thập giá ra ngoài. Cậu dừng bước với lòng kính sợ, nhìn kỹ một chút thì vô cùng ngạc nhiên và sợ hãi.

Bởi vì trên cây thập giá đó trói chặt một nam nhân gầy trơ xương, trông người đó rất đói khát, gầy đến nỗi lộ cả xương sườn, trên người còn quấn đầy gai nhọn, ngực và bụng bị thương, dường như đã chết.

Nguyên Diệu nhìn thấy các tín đồ Cảnh giáo quỳ bái nam nhân bị trói bằng gai nhọn trên thập giá đó, chỉ nghe được vài lời lướt qua tai, có vẻ như người đó là thần của Cảnh giáo.

Phật tổ và Bồ Tát của Phật giáo có tướng mạo trang nghiêm, Tam Thanh của Đạo giáo có dáng vẻ thần tiên cốt cách, thánh hiền của Nho giáo thì phong độ nhã nhặn, quân tử như lan. Nguyên Diệu chưa từng thấy thần thánh nào có dáng vẻ giống như vậy, chợt thấy rất sốc, khó có thể chấp nhận.

Khi trở về Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu hỏi Bạch Cơ về giáo lý của Cảnh giáo mới biết rằng vị thần của Cảnh giáo có dáng vẻ như vậy là bởi vì ngài thương yêu tất cả chúng sinh trong thế gian, nên đã chịu khổ thay cho loài người, gánh vác mọi tội lỗi của thế giới. Ngài là vị thần đội vương miện gai.

Nguyên Diệu cảm thấy kính trọng đối với thần của Cảnh giáo nhưng vì không hiểu rõ nên giữ khoảng cách.

Nguyên Diệu thắc mắc hỏi: "Bạch Cơ, tại sao ngươi phải đi chùa Thập Tự để diệt yêu trừ ma?"

Bạch Cơ mỉm cười đáp: "Là do Tô Lượng nhờ vả ta. Chỉ cần có bạc kiếm, không chỉ chùa Thập Tự, mà dù là địa ngục ta cũng đi."

Tô Lượng là hoàng tử Ba Tư đang lưu vong tại Đại Đường. Trong sự kiện "Mèo Ngọc Diện", hắn quen biết với Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô, thậm chí còn ở lại trong Phiêu Miểu các một thời gian. Tiểu Tô là bạn thời thơ ấu của Ly Nô, là bạn thân của Tô Lượng, luôn ở bên cạnh hắn.

Cảnh giáo là một nhánh của Ki-tô giáo Nestorian, ban đầu tách ra từ La Mã ở Constantinople. Giáo chúng chạy trốn đến Ba Tư và được vua Ba Tư bảo hộ, lập nên giáo phái.

Cảnh giáo và triều đại Ba Tư có mối quan hệ sâu sắc. Tô Lượng, là hậu duệ hoàng tộc Ba Tư lưu vong, có qua lại với Cảnh giáo ở Đại Đường cũng là chuyện bình thường.

Nguyên Diệu hỏi: "Ở chùa Thập Tự đã xảy ra chuyện ma quái sao?"

Bạch Cơ gật đầu: "Đúng vậy, có xảy ra vài chuyện kỳ lạ."

Nguyên Diệu tiếp tục: "Chuyện kỳ lạ gì vậy?"

Bạch Cơ chỉ vào một cuốn sách trên bàn ngọc xanh, hỏi lại: "Ngươi không đọc những cuốn sách phố phường gần đây sao?"

Nguyên Diệu nhăn nhó: "Bạch Cơ, dạo gần đây ta bận rộn từ sáng đến tối, đến cả một ngụm nước còn không có thời gian uống, nói gì đến việc đọc sách phố phường? Ngay cả sách thánh hiền ta cũng phải xao nhãng."

Bạch Cơ cười nói: "Vậy để ta kể cho ngươi nghe. Là thế này, có vài dân chúng sau khi đến chùa Thập Tự thì mất tích không rõ lý do. Dân gian đồn rằng do các giáo sĩ giết người, nhưng những người mất tích này sống không thấy mặt, chết không thấy xác. Bất lương nhân đã điều tra kỹ trong chùa Thập Tự nhưng không tìm thấy xác chết. Sau khi thẩm tra giáo sĩ, cũng không phát hiện dấu hiệu giết người. Sự việc cứ lơ lửng như vậy. Mọi người bắt đầu bàn tán, nói rằng Cảnh giáo là tà giáo ăn thịt người. Giáo chúng của Cảnh giáo vốn đã ít, không thể chịu nổi tin đồn này. Họ cho rằng do yêu quái từ Trung Thổ gây ra, khiến cho ánh sáng thần thánh bị lu mờ nên đã nhờ Tô Lượng tìm người diệt yêu trừ ma. Tô Lượng đã đề xuất ta. Ta thấy tiền thưởng khá hậu hĩnh nên nhận lời."

Nguyên Diệu gãi đầu hỏi: "Bạch Cơ, Cảnh giáo có thần của riêng họ. Thông thường, thần đều có pháp lực vô biên, sao lại không thể đàn áp yêu ma mà còn phải bỏ bạc thuê ngươi đi diệt trừ?"

Bạch Cơ cười bí ẩn: "Đông Đô và Tây Kinh là những nơi cấm thần linh lai vãng, nhưng lại là nơi yêu ma quỷ quái hoành hành. Nơi mà thần không thể bước đến thì những chuyện kỳ quái dĩ nhiên là ta phải xử lý thôi."

Nguyên Diệu nghe vậy, khóe miệng giật giật.

Bạch Cơ nghiêng đầu hỏi: "Ngươi không muốn đi cùng ta sao?"

Nguyên Diệu than thở: "Ta cũng muốn đi cùng ngươi, nhưng không thể. Vào đầu xuân, Phiêu Miểu các bận rộn hơn hẳn, có quá nhiều việc lặt vặt. Ta còn phải ghi sổ, lau dọn, giặt giũ quần áo, tưới cây bồ đề và những loài hoa cỏ trong hậu viện, còn phải chạy việc mua cá cho Ly Nô... Hôm nay còn bao nhiêu việc chưa làm xong, không có thời gian để đi cùng ngươi."

Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi nói: "Ừ, mấy việc lặt vặt đó đúng là cần ngươi làm. Nhưng việc tưới cây bồ đề và hoa cỏ không cần ngươi lo nữa, ao sen bảy báu sẽ lo việc này. Sau khi nó có linh thức, thấm nhuần tín ngưỡng Phật môn ban phát mưa móc nuôi dưỡng chúng sinh, nó đã nhận trách nhiệm cung cấp nước cho cây cối và hoa cỏ trong hậu viện. Thậm chí toàn bộ cây cỏ trong chợ Nam cũng được nó chăm sóc. Không giống như ở Trường An, tại Phiêu Miểu các ở Lạc Dương này, chỉ cần trong ao sen bảy báu còn nước, dù không tưới thì hoa cỏ trong hậu viện cũng không khô héo. Còn phía bên Trường An ngươi cũng không cần lo, có A Phỉ và Thẩm Lâu ở cạnh giếng cổ sẽ thay phiên nhau lo tưới nước."

Nguyên Diệu ngạc nhiên. Hắn vội nhìn qua cửa sổ, ngắm nhìn ao sen bảy báu trong hậu viện. Hôm nay, tâm trạng của hồ sen khá tốt, hoa sen đủ bảy màu tươi tắn nở rộ trong gió.

Dường như nghe thấy lời của Bạch Cơ, những đóa sen bảy màu cùng nhau xoay cánh hoa về phía Nguyên Diệu và khẽ cúi đầu, như muốn nói với thư sinh rằng việc tưới cây sau này đã có nó đảm nhiệm.

Nguyên Diệu lập tức cúi đầu cảm tạ ao sen bảy báu.

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ xem, bây giờ đã gần đến mùa hè, nô lệ cũng bán rẻ rồi, ngươi có thể mua một người không? Trong Phiêu Miểu các nhiều việc quá, một mình ta không thể làm hết, cần thêm người giúp. Không cần phải mua nô lệ đắt tiền như nô lệ Côn Lôn hay tì nữ Tân La, chỉ cần mua một người biết giặt giũ là được."

Bạch Cơ nghĩ ngợi rồi nói: "Ừ, đúng là có nhiều việc ở Phiêu Miểu các khiến ngươi bận rộn, không có thời gian đi cùng ta, mất đi sự thú vị. Vậy thì mua một người giúp việc đi."

Nghe vậy mắt Nguyên Diệu sáng rực, lo sợ Bạch Cơ đổi ý hoặc chần chừ không mua, hắn vội nói: "Bạch Cơ, việc này không thể chậm trễ, nên đi mua ngay."

Bạch Cơ nói: "Ta còn phải đến chùa Thập Tự, không có thời gian rảnh. Nếu ngươi cần người gấp thì cùng Ly Nô ra chợ nô lệ mua một người về."

Nguyên Diệu nói: "Ta và Ly Nô đi chọn người sao? Mắt ta không tinh tường, mà Ly Nô cũng không có vẻ là người biết mua người. Nếu ta và Ly Nô chọn người không vừa ý ngươi, ngươi không hài lòng thì sao?"

Bạch Cơ thản nhiên đáp: "Không sao, không hợp ý ta thì bán đi, chẳng có gì to tát."

Nguyên Diệu hỏi: "Mua nô lệ nam hay nữ?"

Bạch Cơ nói: "Gì cũng được. Nhưng không được quá một lượng bạc."

Nguyên Diệu suy nghĩ, với giá hiện tại ở chợ nô lệ, dù không thể mua được nô lệ Côn Lôn hay tì nữ Tân La, nhưng mua một nô lệ bình thường thì vẫn có thể.

Nguyên Diệu đồng ý.

Bạch Cơ vội vàng rời đi.

Nguyên Diệu đem đống quần áo bẩn mà Bạch Cơ thay ra đến giếng cổ ở hậu viện, ngâm vào chậu giặt, sau đó lau sạch tay, đi đến sảnh lớn tìm Ly Nô.

“Ly Nô lão đệ, hãy cùng tiểu sinh đi mua người hầu đi.”

Con mèo đen đang cuộn tròn ngủ trên quầy, nghe vậy lập tức hé mắt nhìn rồi nói: “Mọt sách, gia không muốn động đậy đâu, chợ người cũng không xa lắm, ngươi tự đi mua đi.”

Nguyên Diệu biết Ly Nô đang mắc bệnh lười biếng mùa xuân, không muốn di chuyển, nên cũng không thể gọi nó dậy.

“Tiểu sinh tự đi cũng được. Vậy Ly Nô lão đệ, ngươi có yêu cầu gì đối với người hầu không? Là nam hay nữ? Mua người khỏe mạnh hay thân hình nhỏ bé?”

Con mèo đen nghĩ một lúc rồi nói: “Nam hay nữ cũng không sao cả. Mọt sách, gia chỉ có một yêu cầu, mua người thân hình nhỏ bé thôi.”

Nguyên Diệu không hiểu, hỏi: “Tại sao?”

Con mèo đen nói: “Người khỏe mạnh chắc chắn ăn nhiều lắm. Người nhỏ thì ăn ít hơn. Gia mỗi ngày nấu ăn đã rất vất vả rồi, không muốn tăng thêm công việc nữa. Hơn nữa, trong Phiêu Miểu các đã có một thùng cơm như ngươi là đủ rồi, đâu thể chịu nổi thêm một thùng cơm nữa?”

Nguyên Diệu giận dỗi, nói: “Ly Nô lão đệ, tiểu sinh không phải là thùng cơm!”

Nói xong, Nguyên Diệu lấy một lạng bạc từ trong hũ gốm trên quầy, rồi đi ra chợ người.

Tác giả Quán nào đó: Cảm ơn tất cả các bạn. Trong thời hiện đại, buôn bán con người là sai và phạm pháp. Nhưng trong bối cảnh thời Đường (triều đại phong kiến), việc buôn bán nô lệ là hợp pháp và hợp lý, triều đình còn thiết lập các chợ nhân sự để cung cấp nô lệ cho mọi người mua bán. Tác phẩm văn học chắc chắn phải mang theo bối cảnh lịch sử và kiến thức thông thường. Nếu bối cảnh thời Đường mà không có nô lệ và người hầu, mọi người đều là người tự do bình đẳng thì lại không hợp lý, không tôn trọng lịch sử. Quán viết về việc mua nô lệ thời Đường và việc Phiêu Miểu các mua người hầu, không có nghĩa là ủng hộ việc buôn bán con người nhé...
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 2


Chợ người cách chợ Nam không xa, nằm trong phường Phúc Thiện.

Trong chợ người có rất nhiều người, đông đúc tấp nập. Vì phần lớn những người này là nô lệ, được coi là hàng hóa, họ thường im lặng không nói nên nơi này khá yên tĩnh.

Người bán nô lệ có một số là công nhân của triều đình. Họ bán nô lệ là gia nhân, gia đình của những quý tộc phạm tội và tài sản bị tịch thu. Một số người không bị đưa ra thị trường mà bị ghi vào sổ nô lệ của triều đình. Một số khác được đưa ra chợ để bán cho công chúng.

Ngoài ra còn có những người buôn nô lệ dân gian, họ làm nghề buôn bán người.

Người xưa khi gặp khó khăn không thể sống nổi, có thể tự nguyện ký hợp đồng bán thân, hoặc bán vợ con, nô lệ của mình một cách hợp pháp. Thiếp cũng được coi là tài sản, kể cả thiếp của cha mình, có thể bán bất cứ lúc nào. Miễn là cha đã qua đời, con cái có thể bán thiếp của cha.

Nhưng vợ không thể bán chồng, điều đó là phạm pháp. Con cái cũng không thể bán cha nương, điều này vi phạm đạo đức.*

* Lễ Ký: Trong tác phẩm “Lễ Ký”, mẹ của Tử Liễu qua đời, nhà quá nghèo không có khả năng lo hậu sự. Em trai của Tử Liễu là Tử Thạc đã đề nghị bán mẹ của người em khác mẹ(thiếp của cha họ) để lấy tiền làm tang lễ cho mẹ của họ. Tử Liễu không đồng ý, nói rằng không thể bán mẹ của người khác để an táng mẹ mình. Đoạn này từ “Lễ Ký” cho thấy rằng việc bán thiếp của cha vào thời điểm đó là hợp pháp. Tuy nhiên, Tử Liễu có phẩm đức cao quý và nghĩ đến cảm xúc của người em khác mẹ, nên đã không làm điều đó. Nhưng người bình thường có phẩm đức thấp hơn thì có thể sẽ làm.

Nô lệ có người bị buộc dây quanh eo, có người bị buộc dây quanh cổ, có người bị buộc dây quanh chân. Họ lặng lẽ đứng hoặc quỳ xuống, giống như gia súc bị đem ra cho người khác chọn lựa vậy.

Nếu gặp một chủ nhà giàu lòng nhân từ mua về, chỉ cần chăm chỉ làm việc thì có thể no đủ và mặc ấm.

Nhưng nếu gặp chủ nhà tàn ác và khắc nghiệt thì sẽ gặp phải cảnh khổ sở.

Nô lệ chỉ mong gặp được chủ tốt, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng xã hội và quy tắc này đã sai lầm, thực ra họ không cần phải làm nô lệ.

Nguyên Diệu dạo khắp nơi, phát hiện ra rất ít nô lệ người Côn Lôn hay Tân La, cũng như những nô lệ trẻ khỏe mạnh, trong lòng không khỏi cảm thấy kỳ lạ.

Vì thời điểm này trong năm là mùa mà các thương thuyền từ khắp nơi trên thế giới và khắp nơi trong nước đến Lạc Dương bán hàng. Họ sẽ mang theo nô lệ từ những vùng đất khác nhau để bổ sung vào chợ người Lạc Dương.

Qua trò chuyện với các người buôn bán nô lệ, Nguyên Diệu mới biết rằng năm nay thời tiết bất thường, vùng biển nhiều bão tố, một số thuyền buôn gặp nạn trên biển, và một số khác thì khởi hành trễ. Vì vậy chợ người ít nô lệ hơn các năm trước. Những nô lệ tốt đã bị quan lại mua hết, chỉ còn lại những người như thế này.

Nguyên Diệu tiếp tục dạo quanh, thấy rằng những nô lệ trẻ khỏe, hay những nữ nô xinh đẹp đều đắt đến mức không thể tin nổi. Với ngân sách chỉ một lạng bạc, hắn chẳng thể mua được gì.

Nguyên Diệu đành đi đến chỗ mà một lạng bạc có thể mua được nô lệ, và nhìn thấy toàn là những đứa trẻ còn nhỏ, những người ốm yếu bệnh tật, hay những người tàn tật, thiếu chân cụt tay, hoặc là những ông bà già.

Người buôn nô lệ mặc áo đen nói: “Công tử, một lạng bạc của ngài chỉ đủ để mua những người này thôi. Ngài cứ chọn đi.”

Nguyên Diệu nhìn những người già yếu bệnh tật, lòng đầy lo lắng. Dù có mua ai trong số họ về, hắn cảm thấy họ chẳng thể làm việc được, mà hắn còn phải chăm sóc ngược lại họ.

Cuộc sống của hắn sẽ càng mệt mỏi và khổ cực hơn.

Tuy vậy, Nguyên Diệu nhìn thấy dáng vẻ gầy gò ốm yếu của họ, lại không khỏi cảm thấy thương hại.

Nguyên Diệu rời khỏi chợ người, đến một tiệm ăn, mua một túi lớn bánh bao và bánh vừng, rồi mang trở lại chợ người.

Nguyên Diệu đến trước những nô lệ ốm yếu và đói khát, phân phát bánh bao và bánh vừng cho họ.

Những nô lệ đói khát nhận lấy bánh bao và bánh Hồ từ Nguyên Diệu, rồi ăn ngấu nghiến để lấp đầy dạ dày của mình.

Các nha nhân* nhìn thấy cũng không ngăn cản Nguyên Diệu, vì họ chỉ cung cấp lượng thực phẩm tối thiểu cho nô lệ mỗi ngày, thường là thức ăn thừa đã ôi thiu, chỉ để đảm bảo họ không chết đói trước khi được bán đi. Với những nô lệ không bán được, nha nhân thậm chí không cung cấp cả thức ăn thừa.

* Nha nhân (牙人): là người môi giới buôn bán nô lệ. Nam giới gọi là "nha lang", nữ giới gọi là "bà bà". Trong các triều đại từ thời Đường trở về trước, những người buôn bán nô lệ không gọi là "nha nhân", nhưng tác giả không tìm thấy ghi chép, nên đã sử dụng cách gọi thời Tống. Sau thời Tống, công việc của nhà môi giới đa dạng hơn, không chỉ dừng lại ở việc mua bán nô lệ, mà còn làm trung gian giữa người mua và người bán hàng hóa, và họ sẽ lấy phần trăm hoa hồng.

Có người bỏ tiền ra mua thức ăn cho nô lệ, nha nhân không có lý do gì để ngăn cản. Tuy nhiên, họ vẫn cảm thấy rằng cho những nô lệ không bán được ăn bánh bao và bánh hồ lô mới như vậy là quá xa xỉ.

Ở phía bên kia, nhóm nô lệ giá cao hơn, có một ông lão mặc áo màu xanh lá.

Ông lão mặc áo màu xanh lá ngẩng đầu lên, nhìn Nguyên Diệu đang chia bánh bao và bánh hồ lô cho mọi người, ánh mắt có hơi ngạc nhiên.

Ông lão mặc áo xanh lá nhìn thấy từ Nguyên Diệu một loại ánh sáng, một thứ ánh sáng thuần khiết. Ánh sáng này vô cùng quen thuộc, vô cùng ấm áp, vô cùng rực rỡ, là thứ ánh sáng mà ông đã mất đi do tâm trí bị che lấp bởi bụi trần và mê hoặc.

Khoé miệng của ông lão mặc áo xanh lá hiện lên một nụ cười nhẹ.

Ông lão nhìn về phía nha nhân mặc áo chẽn. Một tia sáng xanh lá từ ngón tay ông lão bay lên, đi về phía nha nhân và thâm nhập vào tâm hồn của nha nhân.

Sau khi cùng hai vị hòa thượng đến Lạc Dương, ông lão bắt đầu tìm kiếm câu trả lời mà ông đang mong đợi. Ông đã ở chợ người một thời gian, quan sát nỗi khổ của chúng sinh, trải nghiệm nhiều cảm xúc để giúp mình tìm lại ánh sáng. Tuy nhiên, điều này dường như cũng không có tác dụng, ông đã chán ngán với chợ người và dự định sẽ chuyển sang một nơi khác.

Nha nhân mặc áo chẽn tiến tới gần Nguyên Diệu, nói: "Công tử, thấy công tử có lòng nhân ái, ta rất cảm động. Ta có một nô lệ ở đây, còn khá mạnh khỏe, có thể làm việc được. Ban đầu ta định bán hắn với giá năm lượng bạc, nhưng nay chỉ cần một lượng là ta bán cho công tử."

Nguyên Diệu vừa mới phân phát hết bánh bao và bánh hồ lô cho những nô lệ đói khát, hắn đứng dậy, hỏi: "Là ai?"

Nha nhân mặc áo chẽn dẫn Nguyên Diệu đến một nhóm nô lệ khác, chỉ vào ông lão mặc áo xanh lá và nói: "Là hắn."

Nhóm nô lệ này trông có vẻ khá hơn nhóm nô lệ Nguyên Diệu vừa chia thức ăn. Họ có cả nam và nữ, già và trẻ, sắc mặt bình thường không có dấu hiệu của đói khát. Thậm chí, một số người còn có vẻ ngoài thanh tao và phong nhã.

Ông lão mặc áo xanh lá cười, nói: "Lão phu là nhạc sư của nước Thiên Trúc, tên gọi là Bối Đa La, thông thạo các loại nhạc cụ của Tây Vực. Sau khi đến Trung Thổ, cuộc sống gian nan nên lão đành bán thân, mong tìm được chút an nhàn."

Nha nhân mặc áo chẽn nói: "Những nô lệ ở đây đều có một kỹ năng đặc biệt, có người biết hát, có người biết múa, có người múa kiếm, có người làm vườn, có người nuôi ngựa, có người còn biết ngâm thơ làm văn... Họ thường được bán với giá năm lượng bạc, đôi khi nếu quan lại hay người giàu cần mua những nô lệ giỏi về một kỹ năng nào đó, họ thậm chí có thể trả giá lên tới ba mươi hoặc năm mươi lượng bạc. Nhưng vì công tử có lòng tốt, ta sẽ bán nhạc sư này cho công tử với giá một lượng bạc."

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói: "Họ có thể bán được với giá năm lượng, thậm chí năm mươi lượng bạc, mà ngươi chỉ bán cho ta với giá một lượng, ngươi không sợ lỗ sao?"

Nhóm nô lệ cũng tỏ ra ngạc nhiên.

Các nha nhân khác cũng rất ngạc nhiên, nhưng vì mỗi người đều chịu trách nhiệm với nhóm nô lệ của mình, nên họ không can thiệp vào việc này.

Nha nhân mặc áo chẽn nói: "Không lỗ, không lỗ, ta thậm chí còn muốn tặng miễn phí nhạc sư này cho công tử nữa là."

Nguyên Diệu càng thêm ngạc nhiên.

Bối Đa La chỉ mỉm cười mà không nói gì.

Nguyên Diệu nhìn kỹ Bối Đa La, thấy ông có thân hình gầy nhỏ, chắc là không ăn nhiều, phù hợp với yêu cầu của Ly Nô. Bạch Cơ thì không có yêu cầu về nô lệ, còn yêu cầu của bản thân là người nô lệ phải biết giặt đồ.

Nguyên Diệu hỏi: "Bối Đa La, ngươi biết giặt đồ không?"

Bối Đa La sững sờ một chút, sau đó cười nói: "Biết. Dù có không biết thì cũng có thể học."

Nguyên Diệu gật đầu, quyết định mua Bối Đa La.

Mặc dù nha nhân nói sẽ tặng miễn phí Bối Đa La cho Nguyên Diệu, nhưng hắn cảm thấy điều đó không phải phép. Hắn tính toán lại, vừa nãy mua bánh bao và bánh hồ lô đã tốn hơn một trăm văn tiền, số tiền một lượng bạc của hắn chỉ còn lại hơn tám trăm văn.

Nguyên Diệu nói: "Ta chỉ còn tám trăm văn tiền thôi..."

Nha nhân nói: "Không cần tiền, không cần tiền, ta tặng Bối Đa La cho công tử..."

Các nha nhân xung quanh đều sững sờ.

Bởi vì nha nhân mặc áo chẽn nổi tiếng là người keo kiệt và tàn nhẫn, ngày thường chỉ biết lao vào kiếm tiền, không có lòng tốt hay từ bi. Hắn chỉ cho nô lệ có thể bán được với giá cao ăn uống tử tế, còn với nô lệ già yếu, bệnh tật không bán được thì cắt xén khẩu phần ăn, chỉ cho họ ăn đồ thừa đã ôi thiu.

Hôm nay không hiểu tại sao hắn lại thay đổi tính nết, giống như bị trúng tà vậy.

Nguyên Diệu suy nghĩ một chút, nói: "Nếu ngươi đã sẵn lòng tặng Bối Đa La cho ta, thì ta xin nhận. Nhưng số tiền tám trăm văn này, ta sẽ đưa cho ngươi để mua thức ăn cho những nô lệ đang đói. Xin ngươi đừng vì không bán được mà hành hạ họ, họ cũng là con người."

Nha nhân đồng ý.

Thế là Nguyên Diệu cùng nha nhân ký kết khế ước mua bán, tháo dây trói quanh thắt lưng của Bối Đa La rồi đưa ông rời đi.

Khi rời khỏi chợ người, những nô lệ đói khát đều nhìn Nguyên Diệu với ánh mắt đầy cảm kích, lưu luyến không muốn rời xa.

Trong lòng Nguyên Diệu cảm thấy vô cùng đau buồn, nhưng cũng bất lực vì không thể giúp nhiều hơn cho những con người mất tự do này do những quy tắc xã hội ràng buộc. Nguyên Diệu nhận thấy sự tồn tại của chợ người (chợ nô lệ) dường như không đúng đắn, nhưng nó lại hiện diện một cách hợp lý và bền vững.

Trên đường rời khỏi phường Phúc Thiện, tâm trạng của Nguyên Diệu rất u ám. Bối Đa La nhìn thấy vậy, cười và hỏi: "Công tử, ngài đang cảm thấy buồn vì nỗi khổ của chúng sinh phải không?"

Nguyên Diệu đáp: "Nhân thế như cái lò nung, chúng sinh đều chịu khổ. Tiểu sinh không phải là thần Phật, không thể đưa tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ và đạt được hạnh phúc. Nhưng đã nhìn thấy rồi tiểu sinh cũng sẽ cố gắng giúp đỡ những người đang chịu khổ. Dù rằng sức lực của tiểu sinh chỉ là hạt nước đổ vào biển cả, không thể đối chọi với nỗi đau khổ to lớn của nhân thế, nhưng làm gì đó vẫn hơn là không làm gì."

Bối Đa La nhìn Nguyên Diệu, trong ánh mắt hiện lên một tia sáng tán thưởng. Ông cảm thấy sự bối rối và lạc lối của mình dường như có thể tìm thấy lời giải đáp nơi chàng thư sinh trẻ trước mắt.

"Công tử họ gì, tên gì, sống ở đâu? Trong nhà có ai không?" Bối Đa La hỏi.

Nguyên Diệu đáp: "Tiểu sinh họ Nguyên, tên Diệu, tự là Hiên Chi. Người mua ngươi không phải là tiểu sinh, tiểu sinh chỉ là người chạy việc thay. Thật ra, tiểu sinh cũng là một nô lệ, khế ước bán thân của tiểu sinh vẫn còn nằm trong tay Bạch Cơ! Bạch Cơ mới là chủ nhân của ngươi, nàng là… nàng là…"

Nguyên Diệu đột nhiên không biết phải nói tiếp thế nào. Sống lâu trong Phiêu Miểu các, thường xuyên ở cạnh Bạch Cơ và Ly Nô, Nguyên Diệu hay quên rằng Bạch Cơ và Ly Nô không phải là con người. Khi đề nghị mua nô lệ và định mua nô lệ, Nguyên Diệu cũng quên rằng theo quan niệm phổ quát, con người và những thực thể không phải là người không thể sống chung.

Con người thường sợ hãi những thực thể không phải là người.

Nguyên Diệu không biết liệu có nên nói sự thật cho Bối Đa La rằng, chính một con rồng đã mua ông, và từ giờ ông phải sống cùng với những thực thể không phải là con người. Liệu Bối Đa La có cảm thấy sợ hãi không?

Nguyên Diệu đắn đo không biết có nên nói thật hay không. Nếu nói sự thật, liệu ông lão này có bị sốc không? Hay tốt nhất là cứ tạm thời giấu kín, chờ đến khi Bối Đa La tự phát hiện ra sự bất thường trong Phiêu Miểu các thì mới nói rõ ràng?

Bối Đa La tiếp tục hỏi: "Nguyên công tử, nàng là người thế nào?"

Nguyên Diệu do dự một lúc, cuối cùng quyết định tạm thời giấu kín sự thật để tránh làm Bối Đa La sợ hãi.

"Bạch Cơ là một cô nương, nàng là chủ nhân của Phiêu Miểu các. Phiêu Miểu các là một cửa tiệm nằm ở chợ Nam, bán những món đồ cổ và hương liệu."

Bối Đa La sờ cằm, tự lẩm bẩm: "Phiêu Miểu các… Sao nghe có vẻ quen thuộc… Nhưng không nhớ đã nghe ở đâu..."

Nguyên Diệu không nghe thấy tiếng lẩm bẩm của Bối Đa La, tiếp tục nói: "Trong Phiêu Miểu các chỉ có Bạch Cơ, Ly Nô và tiểu sinh. Ly Nô là một cậu bé chịu trách nhiệm đi chợ và nấu ăn. Tiểu sinh phụ trách việc ghi chép sổ sách, quản lý hàng hóa và giao hàng. Ngươi sẽ chịu trách nhiệm giặt giũ và quét dọn. Chỗ ở thì tiểu sinh có một căn phòng, ngươi có thể ở chung với tiểu sinh. Về tiền công, vì ngươi mới đến nên Bạch Cơ chắc sẽ trả cho ngươi mỗi tháng một quan tiền. Nếu ngươi làm việc chăm chỉ khiến Bạch Cơ hài lòng, có thể tiền công sẽ tăng lên hai quan. Tiểu sinh và Ly Nô mỗi tháng cũng nhận được hai quan."

Bối Đa La nói: "Lão hủ là một nhạc sĩ từ Thiên Trúc, sở trường của ta là các loại nhạc cụ..."

Nguyên Diệu cười nói: "Có nhiều tài năng là rất tốt. Bạch Cơ cũng là một người thích nghệ thuật, nàng cũng khá giỏi về âm nhạc và múa, còn Ly Nô thì biết thổi sáo. Phiêu Miểu các buổi tối thường có những buổi uống rượu ngắm trăng, chơi nhạc và ca múa là điều thường xuyên. Khi đó ngươi có thể biểu diễn tài nghệ của mình."

Bối Đa La im lặng một lúc rồi hỏi: "Nghe Phiêu Miểu các có vẻ không giống như những gia đình bình thường... Dám hỏi, chủ nhân Bạch Cơ bao nhiêu tuổi rồi? Nàng là nữ nhân, đã có chồng chưa? Nguyên công tử và Ly Nô cũng chưa thành gia thất sao?"

Nguyên Diệu hơi bất ngờ, lúng túng một lúc rồi trả lời: "Bạch Cơ là một cô nương trẻ, tuổi của nàng... sau này ngươi sẽ biết. Bạch Cơ, Ly Nô và tiểu sinh đều chưa kết hôn, không ai có gia đình, ba người chúng ta đều là độc thân."

Bối Đa La cảm thấy có hơi kỳ lạ.

Trong khi đang trò chuyện, Nguyên Diệu đã dẫn Bối Đa La đến bên ngoài một con hẻm cụt ở chợ Nam.

Nguyên Diệu cười nói: "Phiêu Miểu các nằm ở cuối con hẻm này. Bối Đa La, chúng ta đi thôi."

Nguyên Diệu bước vào con hẻm.

Bối Đa La đứng lại bên ngoài hẻm cụt, nhìn vào làn sương trắng mờ mịt đang bao phủ con hẻm.

Từ đôi mắt của Bối Đa La nhìn vào, trong làn sương trắng, có một sức mạnh mạnh mẽ chẻ đôi thời gian và không gian, tạo thành một vết nứt giữa thời không.

Trong vết nứt đó, sức mạnh mạnh mẽ ấy cô đọng thành một kết giới phức tạp. Kết giới có linh lực vô cùng mạnh, đủ sức duy trì vết nứt thời không, lại còn liên tục sinh sôi, dồi dào đến mức có thể chống lại sự xoay chuyển của không gian và dòng chảy của thời gian.

Ở cuối con hẻm cụt, chính là tâm điểm của sức mạnh khổng lồ ấy.

Tại tâm điểm đó có một lực sóng tỏa sáng rực rỡ khiến cho thần thánh không thể tới gần, yêu ma phải tránh xa.

Thần ma đều khó lòng tiếp cận.

Tuy nhiên, những văn tự huyền bí trên lớp kết giới bên ngoài đã mở ra một "cánh cửa" cho vết nứt thời không này.

"Cánh cửa" đó mở ra ba cõi sáu đường, với toàn thể chúng sinh trong vũ trụ.

Người có duyên có thể bước vào.

Người vô duyên, dù lướt qua cũng khó mà tìm thấy.

Bối Đa La chăm chú nhìn vào những chú văn thần bí trên kết giới, nhưng với trí tuệ của mình, ông vẫn khó có thể giải mã được.

Những chú văn phức tạp đó như là số phận của chúng sinh.

Số phận của chúng sinh luân chuyển, tự có quy luật hỗn loạn nhưng lại trật tự, như một câu đố kỳ lạ khó giải.

Người thường không thể vượt qua kết giới, bước vào khe nứt thời gian không gian, nhưng Nguyên Diệu lại dễ dàng bước vào đó và tự do qua lại.

Bối Đa La mỉm cười.

"Xem ra, ta đã bán mình vào một nơi không phải tầm thường rồi... số phận quả là thú vị, đến thần phật cũng khó có thể dự đoán toàn bộ diễn biến..."

Nguyên Diệu quay lại nhìn thấy Bối Đa La vẫn đang đứng ngẩn ngơ ngoài ngõ cụt, bèn vẫy tay: "Bối Đa La, mau đến đây."

"Tôi tới đây."

Bối Đa La mỉm cười, nhấc chân bước vào ngõ cụt.

Nơi Bối Đa La bước qua, những đóa hoa sen kỳ diệu hư ảo nở rộ.

Đó là dấu ấn tự nhiên để lại khi ánh sáng của Phật chảy qua khe nứt thời gian không gian.

*

Chợ Nam, Phiêu Miểu các.

Khi Nguyên Diệu dẫn Bối Đa La bước vào Phiêu Miểu các, chú mèo đen nhỏ đang ngủ trên quầy chợt tỉnh giấc.

Chú mèo đen mở mắt, không chớp mắt mà nhìn chằm chằm vào Bối Đa La.

Nguyên Diệu cười nói: “Ly Nô lão đệ, ta đã mua một người hầu về. Ngươi xem, ngươi có hài lòng không?”

Từ góc nhìn của mèo đen, nó không thể nhìn thấy hình dáng của Bối Đa La, chỉ có thể thấy vô số pháp thân bao quanh ông. Mỗi pháp thân phát ra ánh sáng Phật vàng rực khiến yêu quái không thể nhìn thẳng, tràn ngập năng lượng sinh mệnh không thuộc về phàm nhân.

Chú mèo đen ngạc nhiên, nói: “Mọt sách... Ngươi đã mua về thứ gì thế?”

Nguyên Diệu cười nói: “Ông ấy tên Bối Đa La, không phải là thứ gì cả. Ông ấy từng là nhạc công của nước Thiên Trúc, giờ là người hầu của Phiêu Miểu các.”

Chú mèo đen lười biếng không quan tâm đến Nguyên Diệu.

Nó đứng dậy, chân trước xếp lại, cúi đầu chào Bối Đa La: “Không biết ngài đến Phiêu Miểu các có việc gì? Chủ nhân chưa trở về, ta chỉ là một con mèo đen, không thể quyết định được. Xin mời ngài vào trong chờ chủ nhân.”

Bối Đa La mỉm cười, ông quan sát kiến trúc và cách bày trí của Phiêu Miểu các, không trả lời câu hỏi của Ly Nô.

Nguyên Diệu vì quá mệt mỏi nên không nhận ra sự bất thường trong lời nói của Ly Nô.

“Bối Đa La, Bạch Cơ chưa về, ông đến bên giếng cổ giặt quần áo trước đi.”

Chàng thư sinh bắt đầu sắp xếp công việc cho Bối Đa La.

Bối Đa La chưa kịp trả lời thì Ly Nô vội nói: “Để ta giặt cho. Bối Đa La, ngài vào phòng trong ngồi nghỉ đi.”

Nguyên Diệu có hơi ngạc nhiên, hắn suy nghĩ lại và nhận ra mình quả thực làm không đúng. Mặc dù Bối Đa La là người hầu vừa được mua về và nên làm việc, nhưng ông ấy mới tới Phiêu Miểu các, tuổi lại đã cao, dù sao cũng là trưởng bối. Nên để ông ấy nghỉ ngơi một chút, làm quen với môi trường của Phiêu Miểu các, chứ không nên bắt ông làm việc ngay lập tức.

Sự kính trọng với người già và sự chu đáo với người mới đến, Ly Nô đã làm tốt hơn mình nhiều.

Nguyên Diệu nói: “Để ta giặt quần áo. Bối Đa La, ông cứ nghỉ ngơi một chút, làm quen với Phiêu Miểu các, không cần vội vàng làm việc.”

Chú mèo đen nhảy xuống khỏi quầy, cung kính dẫn Bối Đa La vào trong phòng.

Nhìn theo bóng chú mèo đen dẫn Bối Đa La vào phòng trong, chàng thư sinh ngờ nghệch lúc này mới nhận ra có điều gì đó không đúng.

Ban nãy Ly Nô vẫn giữ hình dáng chú mèo đen và lại có thể nói tiếng người, thậm chí còn trò chuyện với Bối Đa La.

Thế mà Bối Đa La không tỏ ra chút ngạc nhiên hay sợ hãi, lại còn rất tự nhiên trò chuyện với con mèo.

Điều này thật không ổn chút nào!

Nguyên Diệu vội vàng đi theo mèo đen và Bối Đa La vào phòng trong.

Bối Đa La nhìn quanh một lượt, ánh mắt bị thu hút bởi bức bình phong họa đồ Hà Đồ Lạc Thư. Ông đứng phía trước bức bình phong một lúc, rồi ngồi xuống bên án thư ngọc xanh.

Chú mèo đen luôn cung kính đứng bên cạnh Bối Đa La, không dám thúc giục.

Bối Đa La mỉm cười nói: “Lão đây có hơi đói rồi.”

Mèo đen đáp: “Vậy để ta đi chuẩn bị cơm. Ngài muốn ăn gì?”

Bối Đa La điềm nhiên nói: “Gì cũng được.”

Mèo đen hỏi: “Ngài có ăn thịt không?”

Bối Đa La cười và nói: “Ta xuống trần gian để tu luyện, theo tục lệ địa phương, không quá khắt khe những chuyện nhỏ nhặt này. Ta không kiêng khem gì trong chuyện ăn uống cả. Tuy nhiên, lão thích ăn chay hơn. Ngoài ra, ta không ăn những thứ nặng mùi như hành, tỏi, gừng, hãy nấu nướng thanh đạm một chút.”

Mèo đen gật đầu.

Nguyên Diệu vô cùng sửng sốt.

Mèo đen lặng lẽ lui ra, đi vào bếp chuẩn bị cơm.

Nguyên Diệu đứng trong phòng, ngạc nhiên nhìn Bối Đa La mà không biết phải nói gì.

Bối Đa La liếc nhìn Nguyên Diệu, mỉm cười nói: “Nguyên công tử, chẳng phải ngươi đi giặt đồ sao? Còn đứng đó làm gì?”

“À!” Nguyên Diệu sực tỉnh, rồi vội đi đến bên giếng cổ giặt quần áo.

Nguyên Diệu vừa giặt đồ vừa cảm thấy điều gì đó không ổn. Mua Bối Đa La về Phiêu Miểu các là để ông ấy làm việc, nhưng tại sao Bối Đa La lại sai bảo cả hắn và Ly Nô làm việc? Và cả hắn lẫn Ly Nô lại tự nhiên tuân theo mệnh lệnh của Bối Đa La như thế.

Nguyên Diệu lén nhìn về hướng cửa sổ.

Qua khung cửa sổ mở toang, hắn thấy Bối Đa La đã cởi giày, đang thực hiện những động tác kỳ lạ để giãn cơ thể. Lúc thì ngồi thiền với đôi tay đan vào nhau giơ cao quá đầu, kéo căng các đường nét của cổ. Khi thì nằm sấp, chống hai tay lên, một chân nâng cao qua vai. Lúc khác, ông lại đổi sang tư thế trồng chuối, hai chân duỗi thẳng tạo thành một đường thẳng.

Nguyên Diệu ngạc nhiên, chẳng lẽ Bối Đa La đang tập xiếc? ông ta không phải là nhạc công từ Thiên Trúc sao? Nhạc công mà cũng biết làm xiếc ư?!

Không đúng! Giờ không phải lúc để thắc mắc về việc nhạc công có biết làm xiếc hay không. Vấn đề là mọi thứ đều có vẻ không đúng lắm.

Bối Đa La và mèo đen trò chuyện với nhau rất tự nhiên, còn Ly Nô thì luôn kiêu ngạo nay lại vô cùng kính trọng Bối Đa La, điều này thật sự không ổn. Cả hắn và Ly Nô đang làm việc, trong khi Bối Đa La thì vừa biểu diễn xiếc vừa đợi cơm, điều này lại càng không ổn.

Nguyên Diệu lau khô tay, bước đến bên cửa sổ và hỏi: “Bối Đa La, ông đang tập xiếc sao?”

Bối Đa La nằm sấp trên sàn, hai chân co lên, hai tay kéo chân từ sau lưng, cả người như một vầng trăng non.

Bối Đa La mỉm cười nói: “Nguyên công tử, đây không phải là xiếc, đây gọi là yoga (1). Yoga là một phương pháp rèn luyện thân thể, tu dưỡng tâm hồn của người Thiên Trúc chúng ta. Nó tương tự với ngũ cầm hí của Trung Thổ các ngươi. Tuy nhiên, yoga phức tạp hơn một chút, có nhiều nhánh và trường phái hơn. Lão thích yoga, mỗi sáng luyện tập một chút sẽ giúp tinh thần sung mãn, tràn đầy năng lượng cả ngày. Trước khi đi ngủ, luyện thêm một chút sẽ giúp thư giãn cơ thể và tâm hồn, giúp ngủ sâu và yên bình hơn. Trước khi ăn cơm, luyện tập một chút sẽ giúp tăng cường sức khỏe dạ dày, hấp thụ năng lượng từ thức ăn tốt hơn.”

Nguyên Diệu nghe như nghe sách trời vậy.

Bối Đa La mỉm cười nói: “Nguyên công tử không hiểu cũng không sao. Ở Trung Thổ Đại Đường, ngoài Mật Tông thì hình như không ai luyện yoga cả. Sau này lão sẽ dạy các ngươi luyện yoga.”

Nguyên Diệu vẫn đang bối rối, đầu óc quay cuồng với những điều về yoga đến nỗi quên mất mình định hỏi điều gì.

Bối Đa La buông tay, chống tay xuống đất, ngồi thẳng dậy và nói: “Nguyên công tử thử vào bếp xem mèo đen làm đồ ăn thế nào rồi? Lão luyện xong rồi, bụng đói lắm.”

“Được.”

Nguyên Diệu gật đầu, mơ màng bước vào bếp để giục mèo đen chuẩn bị cơm.

Nguyên Diệu đến bếp.

Ly Nô đang bận rộn nấu món canh hoành thánh măng xuân, còn hấp một bát trứng chưng mềm mịn thanh đạm.

Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, cơm đã xong chưa? Bối Đa La nói ông ấy đói không chịu nổi nữa rồi.”

Ly Nô vừa bận rộn, vừa nói: “Sắp xong rồi! “Mọt sách mang chút điểm tâm lên cho ông ấy trước đi.”

Nguyên Diệu gật đầu, rồi cầm lấy một đĩa ngọc trắng, đi tới bên tủ đựng điểm tâm để bày biện.

Nguyên Diệu vô cùng bối rối, bèn hỏi: “Ly Nô lão đệ, ta thấy có điều gì đó không đúng. Tại sao ngươi lại kính cẩn nghe theo lời Bối Đa La như vậy?”

Ly Nô buồn bã đáp: “Mọt sách từ trước tới nay đã chẳng bao giờ làm gì đúng cả. Để ta hỏi ngươi, ngươi đã mua Bối Đa La bằng cách nào?”

Nguyên Diệu trả lời: “Tất nhiên là mua bằng bạc. Nhưng ta cũng không hiểu vì sao, nha nhân lại không lấy bạc mà nhất quyết tặng Bối Đa La cho ta. Tuy nhiên, ta vẫn đã chi ra một lượng bạc, điều đó đã được ghi rõ trong khế ước bán thân. Giá của Bối Đa La là một lượng bạc.”

Ly Nô im lặng một lúc, rồi nói: “Mọt sách, những thứ không tốn tiền thường lại là những thứ đắt nhất.”

Nguyên Diệu không hiểu lời của Ly Nô, vừa bày điểm tâm vừa nói: “Không đâu, không đâu, ở chợ người vẫn còn nhiều nô lệ đắt hơn Bối Đa La nhiều.”

Ly Nô chỉ đành nói: “Mọt sách, Bối Đa La không phải là người.”

Nguyên Diệu giật mình, nói: “Bối Đa La không phải là người? Sao có thể như vậy? Thường thì ta cũng phân biệt được người với phi nhân. Yêu ma quỷ quái, ta chỉ cần nhìn qua là có thể nhận ra ngay. Bối Đa La không phải là yêu ma quỷ quái.”

Ly Nô đáp: “Bối Đa La thực sự không phải là yêu ma quỷ quái, nhưng ông ấy cũng không phải là người. Ông ấy là gì thì ta cũng không thể nói rõ, chỉ biết rằng ông ấy là một tồn tại còn mạnh hơn cả chủ nhân. Ngươi có thấy được pháp thân trùng điệp phía sau ông ấy, hào quang kim sắc chói lòa và dòng năng lượng sinh mệnh không ngừng phát ra từ ông ấy không?”

Nguyên Diệu lắc đầu nói: “Không, ta không thấy gì cả.”

Ly Nô thở dài nói: “Thôi, không thấy cũng đành chịu. dù sao mọt sách cũng chỉ là người phàm, có thể nhìn thấy yêu ma quỷ quái đã là tốt lắm rồi. Tóm lại, trước hết chúng ta cứ tiếp đãi ông ấy tử tế, đợi chủ nhân về rồi tính tiếp. Đừng có bảo ông ấy đi giặt đồ nữa.”

Nguyên Diệu vô cùng bàng hoàng, đầu óc rối bời, vội vàng bày vài món điểm tâm rồi lập tức mang ra ngoài.

Khi bước ra khỏi bếp, Nguyên Diệu nhìn thấy Bối Đa La đã đến hậu viện.

Bối Đa La đứng bên cạnh ao sen bảy báu, khuôn mặt nở nụ cười.

Trong khoảnh khắc, Nguyên Diệu thấy Bối Đa La hiện thân là một vị Bồ Tát từ bi trang nghiêm, thân thể ông ấy phát ra Phật quang vàng rực, nhưng hào quang trên đỉnh đầu lại vô cùng mờ nhạt.

Một dòng năng lượng màu xanh lục từ cơ thể Bối Đa La tuôn chảy xuống, tràn vào ao sen bảy báu.

Trong bể sen, những bông sen lay động uyển chuyển, bảy màu sặc sỡ, nở rộ đến cực điểm.

Ao sen bảy báu là bảo vật mà Bạch Cơ mang từ Tây Thiên Cực Lạc về nhân gian, sau nhiều năm tu luyện, nó đã có linh thức riêng, cũng biết vui buồn.

Ao sen bảy báu mỗi ngày thay đổi tâm trạng. Khi hoa sen bảy màu nở rộ hết mức, điều đó có nghĩa là tâm trạng của nó vô cùng vui vẻ, thậm chí hân hoan phấn khởi.

Trong một khoảnh khắc khác, Nguyên Diệu không còn nhìn thấy pháp thân trang nghiêm từ bi của Bối Đa La nữa, chỉ thấy một lão già mặc áo xanh đứng bên ao sen bảy báu.

Bối Đa La mỉm cười nói: “Nhìn thấy ao sen bảy báu quen thuộc này, lão chợt nhớ lại. Nguyên công tử, có phải chủ nhân của Phiêu Miểu các này là con rồng trắng từng gây ra trận đại chiến trời đất, bị Phật Tổ trừng phạt không cho vào biển không?”

Nguyên Diệu quá đỗi ngạc nhiên, không nói nên lời, chỉ có thể gật đầu lia lịa.

Bối Đa La cười nói: “Nguyên công tử đừng sợ, lão không phải người xấu, chỉ là một Bồ Tát mà thôi.”

Nghe vậy, Nguyên Diệu vội vàng quỳ xuống, đặt đĩa ngọc chứa điểm tâm xuống, chắp tay trước ngực, cúi đầu sát đất.

“Bồ… Bồ… Bồ Tát đại nhân… tiểu sinh xin được bái kiến.”

Nguyên Diệu vô cùng xúc động, cả đời chưa bao giờ gặp được một vị Bồ Tát sống.

Bối Đa La bước đến bên cạnh Nguyên Diệu đang quỳ, cúi người nhặt lấy đĩa ngọc, rồi bắt đầu ăn điểm tâm.

“Nguyên công tử, nếu muốn bái thì hãy đến chùa bái tượng đá, không cần phải bái lão đâu. Lão bây giờ chỉ là Bối Đa La mà thôi.”

Nguyên Diệu ngẩng đầu lên, lấy hết can đảm hỏi: “Dám hỏi Bồ Tát đại nhân, vì sao ngài lại hạ mình đến Phiêu Miểu các này thế?”

Bối Đa La vừa ăn viên ngọc lộ vừa mỉm cười nói: “Nguyên công tử đúng là hay quên, chẳng phải ngươi đã mua lão về đây sao?”

Nguyên Diệu vội vàng lấy khế ước bán thân từ trong ngực ra, hai tay dâng lên.

“Tiểu sinh mắt kém, lỡ mua phải Bồ Tát đại nhân. Xin ngài hãy nhận lại khế ước bán thân đi.”

Bối Đa La không thèm nhìn khế ước bán thân, cười nói: “Đã mua về rồi thì lão từ giờ sẽ là nô bộc của Phiêu Miểu các.”

Nguyên Diệu không biết phải làm gì.

Bối Đa La đi về phía bếp lớn tiếng gọi: “Mèo đen, cơm nước xong chưa?”

Ly Nô từ trong bếp đã nghe rõ toàn bộ cuộc trò chuyện bên ngoài. Nó vội vàng bưng khay ra, trên khay có một bát canh hoành thánh măng xuân và một bát trứng chưng thanh đạm.

“Xin dâng cúng Bồ Tát dùng cơm.” Mèo đen khiêm tốn nói.

“Ừ. Vào trong ăn đi.”

Bối Đa La mỉm cười, xoay người bước vào phòng trong.

Trong phòng trong, Bối Đa La đang ăn một mình.

Ở đại sảnh, Nguyên Diệu và Ly Nô đứng bên quầy, vừa trông tiệm, vừa lo lắng trong lòng.

Ly Nô thì thầm: “Mọt sách, trong Phiêu Miểu các có một vị Bồ Tát ngồi đó, ta cảm thấy không yên trong lòng. Hay ngươi đến chùa Thập Tự một chuyến, gọi chủ nhân về đi?”

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, không phải ta lười không muốn đi mà là Bạch Cơ làm xong việc sẽ quay về. Giờ mà đi gọi nàng cũng chỉ làm nàng phân tâm. Vị Bồ Tát này nhìn không có ác ý, chưa đến mức cần khẩn cấp gọi Bạch Cơ về.”

Ly Nô nói: “Cũng được. Biết đâu chủ nhân đã trên đường về rồi.”

Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, Bối Đa La là Bồ Tát nào thế? Ta chỉ biết Quan Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Ngươi thấy Bối Đa La giống Bồ Tát nào?”

Ly Nô lắc đầu, nói: “Mọt sách, ta không có tín ngưỡng tôn giáo, cũng biết rất ít về Phật giáo, chỉ biết có nhiều Bồ Tát. Ta chỉ gọi được tên của Như Lai Phật Tổ, Quan Âm Bồ Tát. Những Bồ Tát ngươi nói ta chưa từng nghe thấy. Bối Đa La là Bồ Tát gì, ta cũng không rõ.”

Giọng Bối Bối Đa La từ trong phòng vang lên.

“Lão là Bối Đa La, mọi người gọi là Lục Độ Mẫu. Quan Âm Bồ Tát là bản tôn sinh ra lão, lão là một trong những hóa thân của lòng từ bi của bà ấy.”

Nguyên Diệu và Ly Nô vô cùng ngạc nhiên.

Ly Nô có phần bối rối, hỏi: “Lục Độ Mẫu nghe có vẻ là một nữ Bồ Tát, sao ngươi lại là một ông già?”

Bối Đa La nói: “Hình nam, hình nữ đều không phải là bản chất thực sự. Các Bồ Tát có nhiều hình tướng khác nhau, không câu nệ nam hay nữ, già hay trẻ. Dạo này, lão thích hình tướng này cho nên dùng nó. Các ngươi không cần quá chú trọng vào danh xưng của lão, cứ gọi lão là Đa La là được rồi.”

Ly Nô hỏi: “Đa La, ngài có hình tướng của một con mèo không?”

Bối Đa La lắc đầu, nói: “Không có hình tướng đó.”

Nguyên Diệu mạnh dạn hỏi: “Đa La, chẳng phải các Bồ Tát đều ở Tây Thiên Cực Lạc sao? Xin hỏi tại sao ngài lại đến nhân gian?”

Bối Đa La im lặng một lúc, rồi mỉm cười nói: “Chuyện này, không thể nói, không thể nói.”

Nguyên Diệu và Ly Nô nhìn nhau, không nói thêm lời nào.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 3


Bối Đa La ăn xong thì muốn ra giếng cổ giặt đồ.

Nguyên Diệu vội ngăn ngài lại, không dám để Bồ Tát làm việc nặng.

Bối Đa La ăn no uống đủ, nhàn rỗi không có việc gì làm, bèn đi dạo khắp Phiêu Miểu các, cuối cùng ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề ở sân sau.

Khi mặt trời đã xế chiều, Bạch Cơ mới từ chùa Thập Tự trở về.

Bạch Cơ vừa bước vào Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu và Ly Nô vẫn ở đại sảnh. Có lẽ vì kính sợ sự hiện diện thiêng liêng của Bồ Tát, cả người lẫn mèo đều không dám ở chung một không gian với Đa La, cũng không dám vào sân sau, chỉ dám ở lại đại sảnh.

Bạch Cơ vừa bước vào Phiêu Miểu các đã hỏi ngay: “Hiên Chi, Ly Nô, Phiêu Miểu các có phải vừa đón một vị khách quý không? Từ ngoài ta đã thấy trong khe nứt thời gian nở ra những đóa sen diệu kỳ, trong kết giới còn có ánh sáng Phật pháp rực rỡ.”

Ly Nô gật đầu, nói: “Chủ nhân, có một vị Bồ Tát đến đây.”

Nguyên Diệu bổ sung: “Là Lục Độ Mẫu.”

“Bối Đa La? Tại sao ngài ấy lại đến nhân gian? Lại còn bước vào Phiêu Miểu các?” Bạch Cơ thắc mắc. Nàng suy nghĩ một lúc rồi như chợt hiểu ra điều gì, cười nói: “Ồ! Có phải là Phật Tổ đột nhiên nghĩ thông thu hồi lệnh trừng phạt ta, nên phái Bối Đa La đến báo tin này không? Tuyệt quá, ta có thể trở về biển rồi!”

Nguyên Diệu và Ly Nô nghe vậy, vội cùng nhau lắc đầu.

“Không, không phải đâu, Bạch Cơ nghĩ nhiều rồi, chuyện này không liên quan gì đến quá khứ của ngươi cả.”

“Không, không phải, thưa chủ nhân, vị Bồ Tát này là do mọt sách mua về.”

Nguyên Diệu vội lấy ra một tờ giấy, nói: “Đây là giấy bán thân của Đa La.”

Bạch Cơ có hơi thất vọng.

Nguyên Diệu tóm tắt lại toàn bộ sự việc.

Bạch Cơ đi về phía hậu viện, đến gốc cây bồ đề để gặp Đa La.

Cây bồ đề tán lá sum suê, xanh biếc như cái ô, ánh sáng rực rỡ xuyên qua những kẽ lá như sương mù rơi xuống.

Ánh nắng màu hổ phách hòa với ánh xanh phản chiếu từ lá bồ đề, tựa như một tấm áo cà sa vàng xanh đầy Phật tính, bao phủ lên cơ thể đang ngồi kiết già thiền định của Đa La.

Bạch Cơ chắp tay nói: “Long Tự Nhân bái kiến Bối Đa La.”

Đa La mở mắt, liếc nhìn Bạch Cơ một cái rồi cười nói: “Không tệ, ngươi đã có Phật tính hơn, cũng có nhân tính hơn so với lần gặp trước rồi.”

Bạch Cơ cười đáp: “Ta luôn luôn có Phật tính, cũng có nhân tính, chỉ là các ngươi không nhận ra mà thôi, lại còn nhốt ta trong hồ sen bảy báu, dùng xích trói ta, rồi hằng ngày tụng kinh trước mặt ta.”

Đa La nói: “Khi đó tâm ngươi trống rỗng. Hơn nữa, tính khí ngươi nóng nảy, hung hãn cuồng bạo, có lần trong cơn thịnh nộ ngươi đã thoát khỏi xiềng xích, làm bị thương không ít vị Bồ Tát Kim Cang đang cố gắng khuyên ngươi hướng thiện. Người bị ngươi làm bị thương nặng nhất chính là lão phu.”

Bạch Cơ lảng tránh, nói: “Ôi chao mới đầu xuân mà thời tiết ở Thần Đô đã nóng nực rồi. Bối Đa La, ngài có muốn uống chút nước mận lạnh để hạ nhiệt không?”

Đa La cười nói: “Chuyện đã qua lâu rồi, lão phu không giận nữa. Hơn nữa, độ hóa chúng sinh vốn là việc rất nguy hiểm.”

Bạch Cơ cười đáp: “Bối Đa La, ngài đúng là độ lượng. Thực ra lúc đó ta không nhắm vào ngài, chỉ là trong cơn thịnh nộ mất lý trí, ta đã làm bị thương cả một nhóm Bồ Tát Kim Cang, ngài chỉ là vô tình bị vạ lây mà thôi.”

Đa La nói: “Khi đó ngươi hung bạo thành tính, cố chấp không nghe lời, nhưng bây giờ trông ngươi đã khá hơn nhiều rồi.”

Bạch Cơ mắt đảo một vòng, cười nói: “Hiện tại ta một lòng hướng thiện, tâm niệm Phật pháp, từ bi hỉ xả, khắp Đông Đô Tây Kinh, ngài cũng không thể tìm ra ai thiện lương và kính Phật hơn ta đâu. Vì vậy, Bối Đa La, ngài có thể giúp ta nói vài lời tốt trước Phật Tổ, xin ngài ấy hủy bỏ hình phạt không cho ta trở về biển, để ta được quay về chốn cũ. Ở nhân gian thu thập nhân quả thực sự quá vất vả, ta cũng không biết khi nào mới viên mãn công đức.”

Đa La cười nói: “Rồng trắng không nên nóng vội, mọi việc đều có duyên pháp. Khi ngươi thu thập đủ nhân quả, viên mãn công đức, có được một trái tim nhân hậu, thì sẽ tự nhiên quay về biển cả thôi.”

Bạch Cơ tiến lại gần Đa La, cười nói: “Phật Tổ có phải đã quên chuyện này rồi không? Ta không có thần thức, không thể giao tiếp với ngài ấy. Bối Đa La, ngài có thể liên lạc với Phật Tổ bằng thần thức, xin ngài giúp ta nói vài lời trước Phật Tổ. Ta sẽ không quên ơn đức của ngài, chỉ cần ngài giúp ta trở về biển, tất cả báu vật trong Phiêu Miểu các đều sẽ dâng lên cho ngài. Nếu chưa đủ, còn có báu vật của hải tộc. Nếu ngài có thể khiến Phật Tổ đồng ý cho ta cũng trở thành Bồ Tát thì khi ta trở về biển, ta sẽ tìm kiếm mọi kỳ trân dị bảo trong hải vực để dâng lên cho ngài.”

Đa La ngạc nhiên, nói: “Long Vương, ngươi đang hối lộ lão phu sao? Ngươi có phải học nhân tính quá mức rồi không? Những điều tốt không học lại học hết những điều xấu.”

Nguyên Diệu đã đến hậu viện, đang giặt đồ bên giếng cổ. Nghe Đa La nói vậy, hắn vội vàng lên tiếng: “Thưa Bồ Tát, Bạch Cơ cũng học những điều tốt. Nàng bản tính thiện lương, thường xuyên giúp đỡ người khác. Dù đôi lúc có một vài thiếu sót nhỏ, nhưng đều có thể sửa đổi. Tiểu sinh sẽ dùng đạo thánh hiền để khuyên bảo nàng, giúp nàng trở thành một vị quân tử rồng cao thượng, lương thiện và nhân hậu.”

Đa La cười nói: “Nguyên công tử, ánh sáng linh hồn của nàng ta là hỗn độn, khiến người khác không thể nhìn thấu. Còn ngươi thì lại đáng tin. Lão phu chưa từng thấy một linh hồn nào trong sáng và rực rỡ như ngươi ở nhân gian.”

Nguyên Diệu đỏ mặt, nói: “Cảm ơn Bồ Tát đã khen ngợi.”

Đa La nói: “Các ngươi không cần gọi lão phu là Bồ Tát, cũng không cần bận tâm đến thân phận của lão phu. Lão phu là Đa La, cứ gọi lão phu là Đa La. Rồng trắng... không, Bạch Cơ, từ giờ lão phu sẽ gọi ngươi là Bạch Cơ, còn ngươi cứ gọi lão phu là Đa La.”

Bạch Cơ nói: “Đa La, ta nhớ rằng chân thân của ngài là Công chúa Bát Nhã Nguyệt của nước Thải Quang, đó là một công chúa rất xinh đẹp, tại sao ngài lại chọn sử dụng pháp thân này?”

Đa La im lặng một lúc, rồi cười nói: “Lão phu chỉ thích sử dụng pháp thân này thôi.”

Bạch Cơ cười nói: “Vậy thì được. Thông thường, các Bồ Tát không dễ dàng rời khỏi Tây Thiên mà xuống nhân gian. Các thần Phật khi đến nhân gian du hành, thường đều có mục đích, ngài đến nhân gian để làm gì?”

Đa La nói: “Lần này đến nhân gian tu luyện, đối với lão phu là một việc rất quan trọng. Hơn nữa, đây cũng là một việc bí mật, ngoài Phật Tổ ra thì không có Bồ Tát nào khác biết được. Ta không thể nói cho ngươi biết.”

Bạch Cơ cười nói: “Vậy thì ta sẽ không hỏi nữa. Đa La, ngài cứ ở lại Phiêu Miểu các nhé.”

Đa La nghiêm túc nói: “Bạch Cơ, nếu lão phu đã quyết định ở lại Phiêu Miểu các, thì có một số quy tắc chúng ta cần phải nói rõ trước.”

Bạch Cơ ngạc nhiên, hỏi: “Quy tắc gì vậy?”

Đa La hỏi: “Lão phu là tôi tớ của ngươi sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Điều này... sao dám chứ? Không phải, ngài là khách quý của Phiêu Miểu các. Giấy bán thân không còn hiệu lực nữa.”

Bối Đa La nói: "Lão vừa quan sát một vòng, nhận thấy nhân lực ở Phiêu Miểu các không đủ, rất nhiều việc không có ai làm. Các ngươi ra chợ người mua nô bộc, cũng chỉ vì thiếu nhân lực. Lão ở lại đây, chỉ ăn cơm mà không làm việc sẽ khiến các ngươi càng thêm thiếu người."

Bạch Cơ suy nghĩ một lát rồi nói: "Đúng vậy. Thế này đi, ngày mai ta sẽ đích thân đi mua vài nô lệ người Côn Lôn, tỳ nữ Tân La để hầu hạ người."

Khóe miệng của Nguyên Diệu giật giật.

Trước đây, khi hắn khẩn cầu Bạch Cơ mua người hầu, con rồng yêu xảo quyệt này không hề tính đến những nô lệ Côn Lôn và tỳ nữ Tân La đắt đỏ, chỉ đưa cho hắn một lượng bạc để mua những nô lệ rẻ tiền. Bây giờ, để lấy lòng Bồ Tát, nàng lại sẵn sàng bỏ ra nhiều bạc.

Bối Đa La lắc đầu và nói: "Bạch Cơ tự hỏi lòng mình đi, Phiêu Miểu các này có thích hợp cho nô lệ loài người sinh sống không?"

Bạch Cơ cười nói: "Ngài không thích loài người làm nô bộc? Cũng dễ thôi. Ta có một người bạn cũ tên là Thanh Minh, sống ở núi Mang. Hắn luôn muốn tặng ta những nô bộc mà hắn đã huấn luyện kỹ, toàn là xà yêu. Nếu ngài không ngại xà yêu, tối nay ta sẽ đến núi Mang thăm Thanh Minh, chọn vài xà yêu ngoan ngoãn và lanh lợi để hầu hạ người."

Bối Đa La lắc đầu: "Lão đây không thích xà yêu."

Bạch Cơ hỏi: "Vậy, ngài muốn thế nào?"

Bối Đa La cười và nói: "Ở Phiêu Miểu các, một chủ nhân và ba nô bộc là vừa đủ, không cần tăng thêm người. Chỉ cần thay đổi một chút về thân phận chủ nhân và nô bộc là được."

Bạch Cơ suy nghĩ một lúc mới hiểu ra.

"Bối Đa La, ngài muốn làm chủ nhân của Phiêu Miểu các này, còn ta làm nô bộc sao?!"

Bối Đa La cười mỉm và gật đầu.

"Đúng vậy."

Nguyên Diệu ngạc nhiên đến mức quên luôn việc giặt đồ.

Con mèo đen nhỏ từ trước đến giờ luôn lén lút quan sát sân sau qua cửa sổ cũng lộ cái đầu ra, há hốc miệng mèo.

Bạch Cơ rất tức giận, mặt đen lại, nàng vòng quanh cây bồ đề ba vòng, không biết nghĩ gì, nhưng rồi khóe miệng lại nở một nụ cười.

Bạch Cơ cười nói: "Được thôi. Nhưng ta có hai điều kiện."

Bối Đa La cười nói: "Nói thử xem."

Bạch Cơ cười và nói: "Thứ nhất, mỗi ngày ngươi phải kể cho ta nghe một chút về thế giới Cực Lạc ở Tây Thiên, ví dụ như chuyện về Phật Tổ và các vị Bồ Tát, các vị Kim Cang, các vị Tôn Giả. Thứ hai, nếu ngươi đã là chủ nhân của Phiêu Miểu các, thì việc thu thập nhân quả sẽ do ngươi phụ trách. Trong thời gian ngươi làm chủ nhân của Phiêu Miểu các, ngươi phải dùng thần lực của mình để giúp ta thu thập nhân quả."

Bối Đa La suy nghĩ một lúc rồi cười nói: "Điều kiện thứ nhất có thể, xem như là kể chuyện sau bữa ăn. Điều kiện thứ hai cũng được, việc thu thập nhân quả có thể giúp quan sát gần gũi hơn với chúng sinh, đây cũng là một trong những mục đích của ta khi đến nhân gian."

Bạch Cơ cười nói: "Giao dịch thành công. Vậy ta sẽ làm nô bộc một thời gian."

Và thế là, Bối Đa La tạm thời trở thành chủ nhân của Phiêu Miểu các, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô trở thành nô bộc.

Bối Đa La phân công công việc cho ba nô bộc: Bạch Cơ chịu trách nhiệm giặt đồ và quét dọn, Nguyên Diệu chịu trách nhiệm ghi sổ sách và giao hàng, Ly Nô chịu trách nhiệm mua rau, nấu ăn. Phục vụ trà nước, đón khách và tiễn khách, ba người nô bộc ai rảnh thì làm.

Vì nhiệm vụ của Bạch Cơ là giặt đồ và quét dọn, nên nàng đành tiếp nhận công việc của Nguyên Diệu, ngồi xổm bên giếng cổ để giặt đồ.

Bạch Cơ chưa bao giờ giặt quần áo, Nguyên Diệu phải kiên nhẫn hướng dẫn nàng.

Bạch Cơ thấy việc giặt đồ rất mệt, bèn định lén thi triển pháp thuật để thức thần giặt giúp.

Bối Đa La phát hiện, không đồng ý và nói: "Bạch Cơ, không được lười biếng, quần áo do chính tay mình giặt mới có linh hồn."

Mặt Bạch Cơ lập tức đen lại, nhưng sau khi chạy đến dưới gốc cây bồ đề, đi nhanh vòng quanh cây ba vòng, nàng lại bình tĩnh trở lại.

Bạch Cơ ngồi xổm bên giếng cổ, theo lời hướng dẫn của Nguyên Diệu, cẩn thận giặt từng cái áo một cách kiên nhẫn.

"Hiên Chi, sau này ta sẽ không mua đồ linh tinh nữa. Từ nay mặc đồ giản dị một chút thôi."

Bạch Cơ vừa đau khổ giặt đồ, vừa tự nhủ.

Nguyên Diệu bên cạnh nói: "Bạch Cơ nên làm như vậy từ sớm rồi.”

Ly Nô ra ngoài mua rau, cũng không dám mua cá, chỉ mua vài loại rau xanh, đậu phụ và nấm măng theo sở thích của Bối Đa La.

Vào lúc hoàng hôn, Ly Nô đã chuẩn bị xong cơm điều hồ măng non và vài món ăn thanh đạm không thêm hành tỏi gừng, mọi người chuẩn bị dùng bữa tối.

Bối Đa La lại đưa ra yêu cầu, muốn Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô cùng luyện yoga trước bữa ăn với ông.

Vì Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô đều là lần đầu tiên học yoga, Bối Đa La chỉ dạy ba người một vài động tác đơn giản. Dù vậy, xương cốt của Bạch Cơ cũng phát ra tiếng "kêu rắc" do lệch vị trí, sau đó nàng lại dùng pháp thuật để chỉnh lại.

Nguyên Diệu vô cùng khổ sở, tư thế của hắn không hề chuẩn mực, nhưng Bối Đa La cũng không làm khó hắn.

Ly Nô lại thấy yoga rất thú vị, cơ thể của nó rất mềm dẻo, có thể tự do uốn cong.

Bối Đa La khen ngợi Ly Nô, phê bình Bạch Cơ và đề nghị nàng sau này nên tập yoga dưới hình dạng rồng. Đối với Nguyên Diệu, Bối Đa La không có yêu cầu gì đặc biệt, chỉ cần hắn kiên trì là được.

Sau khi Bối Đa La dẫn Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô hoàn thành buổi tập yoga, bốn người bắt đầu dùng bữa tối.

Vì có Bồ Tát ngồi cùng bàn, Nguyên Diệu cảm thấy rất lo lắng, không chỉ bụng không đói, mà còn ăn không thấy ngon, thậm chí không biết cách cầm đũa ăn ra sao.

Bạch Cơ và Ly Nô cũng không còn như thường ngày.

Bối Đa La cười nói: “Các ngươi cứ coi lão phu như người bình thường, không cần phải quá câu nệ.”

Nguyên Diệu đáp: “Tiểu sinh lần đầu tiên trong đời được dùng bữa cùng Bồ Tát, quá đỗi kích động, đến mức không biết phải ăn thế nào.”

Bối Đa La cười: “Sau này ngươi sẽ quen thôi.”

Ly Nô tò mò hỏi: “Bồ Tát hàng ngày cũng ăn ba bữa sao?”

Bối Đa La cười nói: “Ở Tây phương Cực Lạc thế giới, Bồ Tát không cần ăn uống, chúng ta hấp thụ năng lượng tự nhiên giữa trời đất vũ trụ để bổ sung sinh lực. Tuy nhiên năng lượng mạnh nhất giúp thần Phật hồi sinh đến từ lòng tin của nhân gian. Niềm tin của phàm nhân có thể tụ lại thành nguồn năng lượng to lớn. Điều này các ngươi không thể hiểu, lão phu cũng không cần nói chi tiết. Muốn làm long tượng của Phật pháp, trước hết phải làm trâu ngựa cho chúng sinh. Đến nhân gian, lão phu phải làm cho mình giống con người hơn, vì thế nhập gia tùy tục, sẽ cùng người phàm dùng bữa.”

Ly Nô mơ màng gật đầu.

Bạch Cơ cầm đũa nói: “Những món này nhạt nhẽo quá, không có hương vị gì cả.”

Bối Đa La nói: “Bạch Cơ, ăn uống thanh đạm mới có thể tu dưỡng thân tâm, làm cho tâm hồn trở nên bình tĩnh. Rượu thịt béo ngậy, hương thơm đậm đà, đều sẽ quấy nhiễu sự tĩnh lặng của tâm hồn.”

Bạch Cơ cười đáp: “Rượu thịt đi qua ruột Phật tổ vẫn ở trong lòng. Ta sẽ luôn ghi nhớ Phật tổ trong lòng, dù có ăn cá thịt ta cũng vẫn rất bình tĩnh. Bối Đa La, còn ngài, nếu tâm ngài đã bình tĩnh, thì sẽ không có mặt ở Phiêu Miểu các này.”

Bối Đa La im lặng.

Bốn người mỗi người đều có tâm sự riêng mà ăn xong bữa tối, Ly Nô thu dọn thức ăn thừa rồi đi vào bếp rửa chén.

Trong phòng, Bạch Cơ đã thắp bảy ngọn đèn đồng.

Bối Đa La ngồi bên cạnh bàn ngọc xanh, nhắm mắt thiền định.

Nguyên Diệu vào bếp pha một ấm trà Xuân Lộ rồi bưng vào phòng.

Bạch Cơ rót cho Bối Đa La một chén trà Xuân Lộ, cười nói: “Bối Đa La, ta đã thực hiện nhiệm vụ của kẻ hầu, có phải ngài nên làm công việc của chủ nhân rồi không?”

Bối Đa La mở mắt, nhìn Bạch Cơ đầy ngờ vực.

Bạch Cơ cười nói: “Hôm nay ta đã nhận lời mời đi đến chùa Thập Tự, ở đó xảy ra một số chuyện cần ta giải quyết. Giải quyết khó khăn cho khách hàng tìm đến Phiêu Miểu các là công việc của chủ nhân nơi này. Bối Đa La, vì ngài hiện tại là chủ nhân, nên ta giao phó nhiệm vụ của chùa Thập Tự cho ngài.”

Bối Đa La đáp: “Theo lý thuyết, Giá thập tựo và Phật giáo là hai con đường khác nhau, không liên quan gì cả. Tuy nhiên, vì đây cũng là trải nghiệm và rèn luyện, ngươi hãy kể qua sự việc xảy ra ở Giá thập tựo đi.”

Thế là Bạch Cơ ngồi đối diện Bối Đa La, kể lại sự việc xảy ra ở chùa Thập Tự.

Kể từ khi Cảnh giáo được truyền vào Trung Quốc, nhờ sự ủng hộ của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, giáo phái này đã có những phát triển nhất định. Vào thời Trinh Quán, nhà truyền giáo A La Bản đã vượt qua muôn dặm xa xôi từ Đại Tần quốc* đến Trường An. Đường Thái Tông, theo chính sách “duy trì giáo lý phương khác” của mình, đã cử tể tướng Phòng Huyền Linh đến đón tiếp và đãi ngộ như khách quý.

* Đại Tần Quốc: Đế quốc La Mã và khu vực Cận Đông. Trong lịch sử, Alopen đến Đại Đường từ Đế quốc Byzantine, tức Đông La Mã.

Đường Thái Tông còn cung cấp kinh phí cho Cảnh giáo, xây dựng một nhà thờ tại phường Nghĩa Ninh ở Trường An, gọi là Đại Tần Tự. Sau đó, Cảnh giáo cũng đã xây dựng một số nhà thờ nhỏ xung quanh Trường An, thu hút tín đồ. Khi đó Cảnh giáo phát triển rực rỡ, phần lớn tín đồ là quan lại quyền quý.

Thời Đường Cao Tông, Cảnh giáo cũng có những phát triển nhất định, nhà truyền giáo người Ba Tư Tần Minh Hạc, nhờ tài y thuật của mình đã trở thành ngự y trong triều đình. Cảnh giáo, Hỏa giáo, và Mani giáo được gọi là “Tam Dị giáo thời Đường”.

Tuy nhiên, kể từ khi Võ Hậu nắm quyền, sự phát triển của Cảnh giáo đã bị đình trệ.

Vì Võ Hậu tin vào Phật giáo và Đạo giáo, chỉ tôn thờ Phật giáo và Đạo giáo. Niềm tin giống như một cơn gió, khi người cầm quyền tôn thờ điều gì thì dân gian sẽ bị cuốn theo cơn gió đó và phần lớn sẽ tin vào điều ấy. Thêm vào đó, sự phát triển của Hỏa giáo và Mani giáo đã làm phân tán lòng tin của dân chúng, Cảnh giáo chỉ còn lại một số tín đồ cũ, không thu hút thêm được tín đồ mới.

Mười mấy năm trước, tổng giáo phái Cảnh giáo đã cử đến một nhà truyền giáo mới.

Nhà truyền giáo này là cháu của nhà truyền giáo A La Bản đã đến Đại Đường vào thời Đường Thái Tông.

Ông ta cũng được gọi là A La Bản.

Mọi người gọi ông ta là A La Bản nhị thế.

A La Bản Nhị Thế không phải là người xấu, chỉ là tính cách khá kỳ lạ, hành động có phần điên cuồng. Ông rất say mê đức tin vào Cảnh giáo, nhiệt tình truyền đạo và thu hút người theo đạo.

Điều tệ hại nhất là A La Bản Nhị Thế khi thấy chùa chiền và đạo quán đông đúc, hương khói thịnh vượng, bèn thích đến đó truyền đạo. Ông thường bị các hòa thượng và đạo sĩ đuổi đánh bằng gậy khi truyền đạo tại các chùa chiền, đạo quán. Hành động này khiến Cảnh giáo liên tục bị tín đồ Phật giáo và Đạo giáo chỉ trích, làm cho danh tiếng của Cảnh giáo ngày càng suy giảm.

Do A La Bản Nhị Thế gây ra nhiều rắc rối cho Cảnh giáo, ông bị đuổi khỏi Đại Tần Tự ở Trường An và chuyển đến chùa Thập Tự ở phường Tu Thiện, Lạc Dương để vừa suy ngẫm lại hành động của mình, vừa quản lý công việc tôn giáo tại đây.

Dù bị lưu đày đến Lạc Dương, A La Bản Nhị Thế vẫn không cho rằng mình đã làm sai và cần phải suy ngẫm. Niềm đam mê đối với đức tin Cảnh giáo của ông không hề giảm sút, thậm chí còn nhiệt tình truyền đạo hơn trước.

Khi Võ Hậu lên ngôi, đặt kinh đô tại Lạc Dương, A La Bản Nhị Thế cho rằng thời cơ phục hưng Cảnh giáo đã đến, ông bắt đầu thực hiện hàng loạt hoạt động. Ngoài việc đi khắp nơi truyền bá giáo lý, ông còn tăng cường phát bánh thánh miễn phí mỗi tuần để thu hút mọi người tham gia thánh lễ và truyền đạo.

Những điều kỳ lạ bắt đầu xảy ra trong các buổi lễ phát bánh thánh.

Vào mỗi kỳ lễ, chùa Thập Tự mở cửa, và một số dân chúng Lạc Dương đến tham dự. Một số người đến vì tò mò, muốn hiểu thêm về tôn giáo mới lạ này; một số khác đến để nhận bánh miễn phí, và có người chỉ đơn giản muốn giết thời gian. Dù vì lý do gì, trong những ngày lễ, chùa Thập Tự luôn đông đúc người tham dự.

Ban đầu, việc mất tích xảy ra như thế này.

Trương Tam và Lý Tứ cùng nhau đến tham dự thánh lễ, giữa buổi, Trương Tam nói muốn đi nhà vệ sinh, và Lý Tứ ở lại đại sảnh chờ. Nhưng Lý Tứ chờ mãi mà Trương Tam không quay lại, nên ông đi khắp chùa Thập Tự tìm kiếm nhưng không thấy Trương Tam đâu.

Lý Tứ cho rằng Trương Tam đã lặng lẽ rời đi, bỏ mặc mình, nên dù giận dỗi ông cũng tự về nhà.

Ngày hôm sau, gia đình Trương Tam đến hỏi Lý Tứ về tung tích của Trương Tam.

Lý Tứ thành thật kể lại sự việc.

Không ai biết Trương Tam đã đi đâu.

Gia đình Trương Tam đi khắp nơi hỏi thăm, tìm kiếm người thân, bạn bè có thể biết tung tích của ông nhưng cũng không có kết quả.

Sau vài ngày, Trương Tam vẫn không xuất hiện.

Mọi người mới hiểu ra rằng Trương Tam đã mất tích.

Theo những gì được biết, Trương Tam lần cuối cùng xuất hiện trước mặt mọi người là khi tham gia thánh lễ tại chùa Thập Tự.

Sau đó, một số người khác cũng mất tích một cách tương tự trong chùa Thập Tự. Họ có thể đi một mình hoặc cùng người thân, bạn bè, hay gia nhân đến tham dự thánh lễ, và rồi biến mất không dấu vết.

Gia đình của những người mất tích đã báo cáo sự việc, và những Bất Lương đã đến chùa Thập Tự để điều tra.

Những Bất Lương lục soát kỹ lưỡng trong chùa Thập Tự nhưng không tìm thấy điều gì bất thường. Họ cũng giam giữ và thẩm vấn các giáo sĩ Cảnh giáo, nhưng sau nhiều lần tra hỏi, họ cũng không phát hiện ra điều gì nghi ngờ và đã trả tự do cho tất cả.

Theo thống kê của những Bất Lương, tổng cộng có mười ba người đã mất tích, trong đó có nam, nữ, già, trẻ, và cả người hầu. Một quý phụ đã mất cả chú chó cưng khi đến tham dự thánh lễ. Tuy nhiên, sau đó con chó đã được những Bất Lương tìm thấy. Nó bị kẻ lười nhác sống gần chùa Thập Tự đánh cắp. Kẻ này thấy chú chó quý giá của quý phụ là loài chó nổi tiếng từ Tây Vực nên lợi dụng lúc đông đúc, trộm lấy con chó để bán lấy tiền.

Dù chú chó đã được tìm thấy, nhưng mười ba người kia vẫn không có bất kỳ dấu vết nào, hoàn toàn biến mất.

Mười ba người biến mất bí ẩn trong chùa Thập Tự, khiến mọi người không khỏi nghi ngờ rằng liệu các giáo sĩ Cảnh giáo có vấn đề hay chính Cảnh giáo có điều gì đáng ngờ.

A La Bản Nhị Thế hoàn toàn không hiểu nổi việc mất tích của các tín đồ trong chùa Thập Tự. Ông rất đau đầu và không biết phải làm sao.

Một giáo sĩ giàu kinh nghiệm đã nói rằng ở vùng đất này, những chuyện kỳ lạ thường được coi là do yêu quái gây ra. Vậy có nên mời người đến để trừ yêu?

Vì không còn cách nào khác, A La Bản Nhị Thế đã chấp nhận đề nghị này.

A La Bản Nhị Thế dự định mời hòa thượng và đạo sĩ đến chùa Thập Tự để trừ yêu, nhưng vì trước đó ông đã gây thù với cả Phật giáo và Đạo giáo khi chạy đến chùa chiền và đạo quán truyền đạo, nên dù trả công hậu hĩnh nhưng không ai trong số họ chịu đến.

Không còn cách nào khác, A La Bản Nhị Thế phải viết thư cầu cứu Đại Tần Tự ở Trường An, và các giáo sĩ ở đó đã tìm đến hoàng tử Ba Tư là Tô Lượng, nhờ hắn tìm một người có khả năng trừ yêu. Tô Lượng sau đó đã nhờ đến Phiêu Miểu các.

Hôm nay, Bạch Cơ đã đến chùa Thập Tự, gặp A La Bản Nhị Thế, lắng nghe câu chuyện, rồi đi dạo một vòng quanh chùa Thập Tự trước khi trở về.

Sau khi nghe hết câu chuyện, Bối Đa La hỏi: "Tôn giáo này xảy ra chuyện kỳ lạ như vậy, rốt cuộc là vì sao?"

Nguyên Diệu cũng rất tò mò, hỏi: "Bạch Cơ đã đến đó, chắc hẳn ngươi đã có manh mối rồi chứ?"

Bạch Cơ cười nói: "Chưa có manh mối gì cả. Hiên Chi, cái ông A La Bản Nhị Thế đó thật lắm lời, ta vừa bước vào chùa Thập Tự, vừa nghe xong câu chuyện thì ông ta đã bắt đầu liên tu bất tận truyền đạo cho ta. Ông ta nói từ nguồn gốc của Cảnh giáo, các vị thần của Cảnh giáo, đến các phép màu của Cảnh giáo, rồi đến tình yêu và sự cứu rỗi của Thượng Đế đối với loài người, sự thanh tẩy tâm hồn của Thượng Đế, và tác động của Thượng Đế đến tương lai nhân loại. Ta nghe đến đau đầu, bèn nói với ông ta rằng ta là một Phật tử sùng đạo, không muốn nghe về các thần khác. Nhưng ông ta chẳng mảy may bận tâm, tiếp tục nói không ngừng, đến nỗi đầu óc ta giờ đây vẫn còn vang lên tiếng truyền đạo của ông ta! Vì bị ông ta làm phiền đến mụ mẫm đầu óc, ta đã đi dạo một vòng quanh chùa Thập Tự mà không phát hiện ra điều gì bất thường. Tuy nhiên, nơi này thực sự có một chút yêu khí mờ ảo. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, Lạc Dương với một trăm lẻ chín phường, yêu quái tụ tập, ma quỷ đi lại ban đêm, rất ít nơi không có yêu khí."

Bối Đa La nói: “Dù là dị giáo, nhưng vẫn là nơi hội tụ của lòng người, ngày mai lão sẽ đến chùa Thập Tự một chuyến, xem thử có chuyện gì xảy ra.”

Bạch Cơ cười nói: “Không còn gì tốt hơn nữa. Bối Đa La, chuyện này giao cho ngài vậy.”

Bối Đa La gật đầu đồng ý.

Đêm xuân yên tĩnh, gió nhẹ êm đềm, thật thích hợp để giảng giải giáo lý.

Bối Đa La đã triệu tập Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô, giảng cho họ một bài pháp về Phật pháp và Thiền lý.

Được Bồ Tát đích thân truyền pháp là cơ hội hiếm có, Bạch Cơ đã đặt ra vài câu hỏi, chẳng hạn như về tám khổ của cuộc đời: Sanh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ, và phải làm thế nào để giải thoát.

Bối Đa La đã trả lời từng câu hỏi một.

Bạch Cơ nghe mà vô cùng hứng thú, trong khi Nguyên Diệu và Ly Nô lại nghe đến độ buồn ngủ.

Trong Phiêu Miểu các, tiếng đàm luận về Phật giáo không ngớt cho đến khi trăng lên giữa trời.

Cuối cùng, đến phần tập yoga trước khi đi ngủ, Ly Nô dựng đứng đôi tai mèo lên, bắt đầu hăng hái, còn Bạch Cơ và Nguyên Diệu lại cúi đầu ủ rũ.

Bối Đa La hướng dẫn Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô tập yoga xong, mọi người lập tức chuẩn bị đi ngủ.

Bối Đa La đã chiếm phòng của Bạch Cơ trên lầu hai, khiến Bạch Cơ không còn nơi ở.

Nguyên Diệu định nhường phòng của mình cho Bạch Cơ, còn mình thì sẽ như ở Phiêu Miểu các tại Trường An, trải chiếu ngoài đại sảnh để ngủ tạm.

Bạch Cơ từ chối lòng tốt của Nguyên Diệu, rồi ngủ dưới gốc cây bồ đề trong sân sau.

Con rồng trắng nhỏ nép mình dưới bầu trời đêm, cùng với bầu trời xuân dịu dàng đầy sao, hòa vào thiên nhiên cùng cây cỏ hoa lá và những tiếng côn trùng, chim đêm, mà chìm vào giấc ngủ.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 4


Thời tiết nắng đẹp, gió xuân dịu dàng.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô, Bối Đa La dậy sớm, tập yoga xong, ăn sáng, rồi mở cửa tiệm Phiêu Miểu các.

Vì Bối Đa La đã làm chủ nhân, hôm nay Bạch Cơ không chỉ dậy sớm mà còn ăn mặc rất giản dị, chỉ khoác một bộ váy trắng đơn giản.

Bạch Cơ thấy Bối Đa La đang ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề, bèn nhắc lại chuyện đi chùa Thập Tự, Bối Đa La đồng ý.

Bối Đa La định dẫn theo Bạch Cơ đi chùa Thập Tự.

Bạch Cơ lại lấy cớ: “Ôi chao, Phiêu Miểu các vẫn chưa được quét dọn, hơn nữa cũng cần có người trông coi, ta phải ở lại làm việc. Bối Đa La, ngài tự mình đi chùa Thập Tự đi. Ta sẽ viết một lá thư, ngài mang đến cho các giáo sĩ xem, họ sẽ biết ngài từ Phiêu Miểu các đến để giúp đỡ giải quyết vấn đề.”

Bối Đa La đáp: “Cũng được.”

Nguyên Diệu không yên tâm, nói: “Bạch Cơ để Bối Đa La một mình đến chùa Thập Tự, e rằng không ổn. Chùa Thập Tự là địa bàn của dị giáo, Bối Đa La là Bồ Tát, không quen thuộc với nhân gian, lại càng không quen thuộc với dị giáo. Nếu ngài ấy đến đó một mình, không có ai hỗ trợ.”

Bạch Cơ cười nói: “Cũng đúng. Vậy thì Hiên Chi đi cùng Bối Đa La để giúp đỡ đi.”

Bối Đa La cười đáp: “Cũng được.”

Nguyên Diệu đành đồng ý.

Bối Đa La nhìn về phía con mèo đen nhỏ đang ăn cá thơm, nói: “Ly Nô, ngươi cũng đi cùng đi.”

Ly Nô dừng việc ăn cá lại, hỏi: “Sao gia cũng phải đi? Gia không thích những nơi tà môn như chùa Thập Tự của dị giáo, bình thường đi qua bắt buộc phải tránh đường mà đi.”

Bối Đa La cười đáp: “Nhìn ngươi nhanh nhẹn, chân chạy cũng nhanh, nếu cần Bạch Cơ giúp đỡ, ngươi có thể chạy về Phiêu Miểu các để báo tin.”

“…Thôi được. Bối Đa La, ai bảo ngài là Bồ Tát chứ.” Ly Nô miễn cưỡng đồng ý.

Bạch Cơ bước tới bên bàn ngọc xanh, nhỏ nước mài mực, cầm bút lập tức viết một lá thư, rồi trao cho Bối Đa La.

Vậy là Bối Đa La dẫn theo Nguyên Diệu và Ly Nô lên đường.

Ly Nô không nỡ rời xa món cá thơm đành dùng giấy dầu bọc một ít để ăn vặt trên đường.

Bạch Cơ đứng trước cổng lớn của Phiêu Miểu các, dõi theo bóng dáng của Bối Đa La, Nguyên Diệu và Ly Nô đang rời đi, mỉm cười nói: “Bồ Tát ra tay, chắc chắn mọi việc sẽ được giải quyết, không cần ta phải lo lắng gì nữa. Vụ này quả là hời, không những có được tin tức mới nhất từ Chư Phật Tây Thiên mà còn có thêm một người hầu hữu dụng miễn phí.”

Bạch Cơ vươn vai một cái rồi bước vào trong. Nàng cầm lấy một đĩa điểm tâm trên bàn ngọc xanh, rồi lấy một bình rượu đào từ giá đa bảo xuống.

Bạch Cơ ung dung đi đến sân sau, hóa thành một con rồng trắng nhỏ bằng cỡ cánh tay, cuộn mình trên chiếc tọa cụ dưới ánh nắng.

Con rồng trắng nhỏ vừa phơi nắng, vừa uống rượu đào, vừa ăn bánh kim nhũ, vô cùng thư thái và dễ chịu.

*

Phường Nhân Thiện, chùa Thập Tự.

Chùa Thập Tự nằm ở phía nam của phường Nhân Thiện, diện tích không lớn, chỉ có khoảng mười mấy gian phòng, với ba dãy nhà trước và sau. Kiến trúc của nó khác biệt so với các công trình Trung Thổ, nhưng lại hòa quyện rất tốt với các căn nhà xung quanh.

Điểm dễ nhận biết nhất của chùa Thập Tự là cây thánh giá lớn trên đỉnh cổng chính.

Bên ngoài chùa Thập Tự có một khoảng đất trống, nơi đó có lác đác vài tín đồ đang đứng. Phần lớn những tín đồ này là người ngoại quốc, họ hoặc đang thì thầm với nhau, hoặc chắp tay trước ngực cầu nguyện dưới cây thánh giá.

Một vài giáo sĩ mặc áo choàng đen, trên ngực đeo thánh giá, đang đứng cầu nguyện trước cổng lớn của chùa Thập Tự. Bên cạnh các giáo sĩ có hai thùng gỗ lớn, bên trong đựng đầy bánh hồ.

Hôm nay là ngày tuần nhật*, theo kế hoạch truyền giáo của A La Bản nhị thế, hôm nay chùa Thập Tự sẽ phát thánh bánh cho người dân Thần Đô và tổ chức Thánh Lễ. Tuy nhiên, do sự việc tín đồ chùa Thập Tự mất tích đã gây hoang mang trong phường, nên hôm nay không ai đến dự Thánh Lễ, trên quảng trường chỉ có vài tín đồ trung thành đến làm lễ, và hai thùng bánh hồ hầu như chưa phát được hết.

*mỗi mười ngày

Bối Đa La đứng trên quảng trường, quan sát xung quanh một lượt.

Bối Đa La không hiểu rõ về Cảnh giáo, bèn hỏi: “Mấy người mặc áo đen kia là tăng sĩ ngoại đạo à?”

Nguyên Diệu đáp: “Họ được gọi là giáo sĩ, tương tự như hòa thượng trong Phật giáo.”

Bối Đa La gật đầu.

Một số giáo sĩ vì thấy người đến quá ít, không phát hết thánh bánh nên đang rất buồn phiền. Họ nhìn thấy Bối Đa La, Nguyên Diệu, và Ly Nô là ba khuôn mặt mới, lại đang nhìn chằm chằm vào chùa Thập Tự như có hứng thú, nên một trong số họ vội vã bước tới bắt chuyện.

“Ba vị huynh đệ, hôm nay là ngày Thánh Lễ, nhờ ân đức của Đấng tối cao A La Ha* mà chúng ta mới được tồn tại trên thế gian này. Các vị có muốn tìm hiểu về Cảnh giáo không? Hôm nay vào dự Thánh Lễ, còn có thể nhận được thánh bánh miễn phí.”

* A La Ha: Tên gọi được dùng để phiên âm từ Alaha, nghĩa là Đức Chúa Trời (Jehovha) khi Cảnh Giáo được truyền vào Trung Quốc. Còn gọi là Đấng tối cao A La Ha, hoặc Hoàng Phụ A La Ha.

Bối Đa La sững lại.

Nguyên Diệu vội nói: “Không, không, chúng ta không đến để tin giáo. Chúng ta từ Phiêu Miểu các đến đây để giúp các ngài giải quyết vấn đề. Đây có một bức thư.”

Bối Đa La đưa ra bức thư.

Giáo sĩ thấy nhóm Nguyên Diệu không phải là tín đồ mới mà là khách, nên lập tức gọi hai giáo sĩ đồng nghiệp.

Một giáo sĩ cầm lấy thư và vào trong, hai giáo sĩ còn lại lịch sự mời nhóm Nguyên Diệu chờ đợi một chút.

Bối Đa La nhìn xung quanh, nhìn lên thánh giá trên cổng chùa Thập Tự và trầm ngâm suy nghĩ.

Ly Nô đi tới cạnh thùng gỗ, lấy từ giáo sĩ phát bánh một chiếc bánh hồ, rồi ngồi ăn cùng cá thơm.

Không lâu sau, một giáo sĩ người Hồ với mũi cao mắt sâu, tay trái cầm bức thư, tay phải cầm một cây thánh giá, vội vã bước ra.

Vị giáo sĩ người Hồ này đang ở độ tuổi sung mãn, cao lớn vạm vỡ, có mái tóc vàng xoăn, và đôi mắt xanh lục, nhìn qua đã biết không phải là người Trung Thổ. Áo choàng đen của ông ta khác với các giáo sĩ khác, có viền vàng và lớp lót màu đỏ.

“Ôi! Đấng tối cao A La Ha đầy lòng từ bi! Chào mừng các vị cao nhân đến với ngôi chùa của chúng ta, không biết phải xưng hô như thế nào?”

Giáo sĩ tóc vàng lớn tiếng nói.

Nguyên Diệu vội vã cúi chào, nói: “Tiểu sinh họ Nguyên, tên Diệu, tự là Hiên Chi. Đây là Bối Đa La, và đây là Ly Nô. Chúng ta đến từ Phiêu Miểu các để giúp quý tự giải quyết vấn đề.”

Giáo sĩ tóc vàng nói: “Ta là linh mục của chùa Thập Tự này, tên là A La Bản. Thúc thúc của ta chính là A La Bản, người đã đến Đại Đường trong những năm Trinh Quán và được Đường Thái Tông đích thân tiếp kiến. Bây giờ là thời đại Đại Chu, không tiện nói về chuyện của Đại Đường, nên ta sẽ không kể chi tiết những chiến tích huy hoàng được Thần phù hộ của thúc ta nữa. Mọi người đều gọi ta là A La Bản nhị thế.”

Bối Đa La có hơi không hiểu, hỏi: “Linh mục là gì?”

Nguyên Diệu nói nhỏ: “Có lẽ là tương đương với trụ trì trong Phật giáo, ông ấy là người đứng đầu chùa Thập Tự này...”

A La Bản nhị thế lắc đầu liên tục như cái trống bỏi, nói: “Không, không phải, Cảnh giáo và Phật giáo không giống nhau, Cảnh giáo không chia chùa chiền, chỉ chia khu vực giáo phận. Đông Đô và Tây Kinh là một khu vực giáo phận, chỉ có một người đứng đầu giáo phận, gọi là Giám mục. Giám mục Julian hiện đang ở Đại Tần Tự tại Trường An, ta chỉ là một linh mục.”

Nguyên Diệu hỏi: “Vậy ai là người chịu trách nhiệm ở chùa Thập Tự này?”

Nguyên Diệu nghĩ rằng cần phải tìm người phụ trách để trao đổi, thì mới có thể giải quyết vấn đề tiếp theo.

A La Bản nhị thế nói: “Ôi! Những con chiên non vô tri, Đấng tối cao A La Ha từ bi chăn dắt muôn vật trên thế gian này, chúng sinh đông đúc, chùa Thập Tự này, thậm chí cả Đại Tần Tự tại Trường An, đều do Đức Chúa Trời toàn năng cai quản.”

Nguyên Diệu hơi bối rối, hỏi: "Vậy... vị Đấng tối cao này ở đâu? Có thể mời ngài ra gặp mặt không?"

A La Bản Nhị Thế nghe vậy, tưởng rằng Nguyên Diệu có hứng thú với thần của Cảnh Giáo, bèn vui mừng hẳn lên. Dựa theo kinh nghiệm truyền giáo nhiều năm của ông, chỉ cần đối phương có hứng thú thì đã thành công một nửa. Truyền giáo vốn là việc khó nhất khi đối phương không quan tâm, không có hứng thú.

"Được, được, ta sẽ dẫn các ngươi đi tham bái Đấng tối cao. Vạn vật trên thế gian đều tắm trong ánh sáng thánh của Đấng tối cao A La Ha, ngài là ngọn đèn soi sáng tâm hồn những con chiên lạc lối, chỉ dẫn con người theo con đường thiêng liêng. Ba vị huynh đệ, các ngươi có thể tìm hiểu thêm, tin vào Đấng tối cao, linh hồn sẽ được trường sinh."

Chỉ cần có cơ hội truyền giáo, A La Bản Nhị Thế lập tức quên hết mọi việc khác. Ông dẫn Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La tiến vào chùa Thập Tự, bắt đầu truyền đạo, thao thao bất tuyệt.

Nguyên Diệu hỏi: "A trụ trì, tại sao các ngươi lại gọi chúng ta là huynh đệ? Ta và Ly Nô thì không sao, nhưng Bối Đa La đây đã là một người cao tuổi, gọi ngài ấy là huynh đệ e là không tôn trọng bậc trưởng thượng, rất bất lễ."

A La Bản Nhị Thế đáp: "Ồ, Nguyên huynh đệ, nhìn ngươi là biết ngay ngươi là một Nho sinh, tin vào sự phân biệt trưởng ấu tôn ti. Thế này nhé, Cảnh Giáo chúng ta và Nho giáo không giống nhau. Trong niềm tin của Cảnh Giáo, tất cả đều là huynh đệ tỷ muội, đều là con cái của Đấng tối cao A La Ha nhân từ. Đấng tối cao A La Ha là "Tôn" trên trời. Chúng ta, các giáo sĩ, là người thay mặt thần truyền dạy giáo lý của thần, tất cả đều tuân theo chỉ dẫn của A La Ha. Ngoài ra, ta không phải là trụ trì, ngươi có thể gọi ta là giáo sĩ A La Bản, hoặc chỉ đơn giản là A La Bản cũng được. Sau khi ngươi được rửa tội nhập giáo, ngươi có thể gọi ta là huynh đệ A La Bản."

Nguyên Diệu mở miệng muốn nói gì đó nhưng lại không biết phải nói gì.

Bối Đa La mở miệng muốn nói gì đó, nhưng suy nghĩ một lúc, cuối cùng cũng im lặng.

Ly Nô ngừng ăn cá khô, hỏi: "Này, Nhị Thế, nếu tất cả nhân loại trên thế gian đều là huynh đệ thì chẳng phải sẽ loạn hết sao?!"

A La Bản Nhị Thế đáp: "Ồ! Đấng tối cao A La Ha nhân từ ơi! Hãy nhìn xem con chiên đen đáng yêu nhưng ngây thơ này đang nói gì kìa? Không chỉ có huynh đệ, mà còn có tỷ muội nữa. Hôm qua có một người tên là Bạch Cơ cũng là tỷ muội. Dưới ánh sáng thánh của Đấng tối cao, huynh đệ tỷ muội chỉ là một cách gọi, không có nghĩa là tất cả đều có quan hệ huyết thống thật sự, mà nghĩa là mọi người nên yêu thương nhau, sống hòa thuận, coi nhau như tay chân, giống như Đấng tối cao A La Ha yêu thương nhân loại vậy."

Ly Nô bực mình đáp: "Này, Nhị Thế, gia là mèo, không phải là chiên!"

A La Bản Nhị Thế ngạc nhiên, nhìn chằm chằm vào Ly Nô, hỏi: "Ngươi là mèo?!"

Nguyên Diệu vội nói: "Giáo sĩ A La Bản... không, giáo sĩ A La Bản gì đó, Ly Nô lão đệ chỉ đang đùa thôi, xin đừng coi là thật."

A La Bản Nhị Thế cười nói: "Nguyên huynh đệ, cứ gọi ta là A La Bản đi. Ôi, Đấng tối cao A La Ha nhân từ ơi, huynh đệ Ly Nô này quả là một con chiên đen tinh nghịch đáng yêu! Cái trò đùa này thật buồn cười, ha ha ha ha!"

Ly Nô lườm A La Bản Nhị Thế một cái, không nói gì thêm.

Trong lúc nói chuyện, A La Bản Nhị Thế dẫn Nguyên Diệu, Bối Đa La và Ly Nô đi qua hành lang, tiến vào một đại sảnh rộng lớn. Đại sảnh được trang trí bằng vàng bạc, còn có cả những nhánh gai, hoa tươi, đèn nến và giá thập tự.

Ở phía tây của đại sảnh treo một bức tượng thần.

Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn lên, đó chính là vị thần của Cảnh Giáo mà trước đây hắn đã từng thấy trên đường.

Một người đàn ông gầy guộc, thân hình tr*n tr**, bị gai nhọn trói chặt trên một giá thập tự khổng lồ. Người đàn ông dường như rất đói, gầy đến nỗi có thể nhìn thấy cả xương sườn. Trên thân thể hắn có nhiều vết thương, khuôn mặt mang vẻ từ bi, trông như đã chết.

Trong đại sảnh, vài tín đồ Cảnh Giáo đang quỳ lạy một cách tĩnh lặng trước tượng thần bị gai trói trên giá thập tự.

Bối Đa La nhìn thấy bức tượng đau khổ của vị thần, dường như bị một điều gì đó chạm vào, trong lòng có một cảm giác lạ.

Bối Đa La tiến đến gần bức tượng, đứng dưới chân tượng.

Bối Đa La ngẩng đầu nhìn lên tượng A La Ha.

A La Ha cúi mắt, ánh nhìn trống rỗng xuyên qua bụi bặm bay trong ánh nắng, giao hòa với ánh mắt của Bối Đa La.

Đó là tình yêu thương vô bờ bến dành cho thế gian, lòng từ bi đối với chúng sinh, mong muốn cứu rỗi những linh hồn đau khổ, giúp họ thoát khỏi biển khổ, tìm thấy hạnh phúc. Muốn chiếu rọi mọi bóng tối trên thế gian, để con người biết yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, làm cho thế giới trở nên sáng sủa và tươi đẹp hơn.

Đó là ước nguyện của thần thánh, không phân biệt Cảnh Giáo và Phật giáo.

Bối Đa La nhìn lên tượng chịu nạn của A La Ha, trong lòng ngài như có một tia sáng soi chiếu vào, khiến ngài dường như tìm lại được một chút ý thức ban đầu.

Ngài nhớ lại những kỷ niệm của pháp thân Bối Đa La. Đó là những ký ức mà ngài gần như đã quên đi trong lúc tâm hồn lạc lối, nhưng lại không muốn quên.

Lý do ngìa sử dụng pháp thân Đa La Bồ Tát để đi lại trong nhân gian, tìm kiếm ánh sáng đã mất, chính là vì không muốn quên những ký ức về Đa La Bồ Tất.

Đó là tình yêu thương từ bi nhất mà ngài dành cho chúng sinh từ tận sâu trong tâm hồn.

"Ôi! Nhân từ thay, Đấng tối cao A La Ha! Xem ra, con chiên lạc lối này đã tìm thấy hướng đi trong cuộc đời dưới ánh sáng thánh khiết của Ngài. Bối Đa La huynh, huynh có muốn gia nhập Cảnh giáo không?"

Bối Đa La không để ý đến A La Bổn Nhị Thế, vẫn chìm sâu trong suy tư.

Nguyên Diệu nghe thấy vậy, vội nói: "Không không không, Bối Đa La không thể tin vào Cảnh giáo được. A La Bổn... trụ trì, ngài vẫn nên nói về những chuyện kỳ quái xảy ra trong chùa này. Chúng ta đến đây để giải quyết những chuyện kỳ quái đó."

Nguyên Diệu cảm thấy việc trực tiếp gọi tên A La Bổn là một hành động không lịch sự, nhưng hắn lại không nhớ nổi cách gọi chính xác đối với chức vụ trong Cảnh giáo, nên hắn quyết định gọi A La Bổn là trụ trì. Như vậy vừa thể hiện sự tôn trọng vừa giữ đúng lễ nghi.

A La Bổn Nhị Thế gãi đầu, nói: "Ôi! Nhân từ thay, Đấng tối cao A La Ha! Nguyên huynh đệ, không phải là ta không muốn nói với huynh về chuyện này. Nhưng thật ra, ngay cả ta cũng mù mờ không rõ, không thể giải thích được. Chi tiết cụ thể thì hôm qua ta đã nói với Bạch Cơ tỷ tỷ rồi. Mọi người đều nói rằng người thân hoặc bạn bè của họ đã đến tham dự lễ cầu nguyện tại chùa nà, rồi sau đó biến mất. Nhưng chúng ta không biết họ đã đi đâu! Ở đây chỉ có mấy gian nhà và một hầm chứa lương thực, làm sao giấu được mười ba người? Những Bất Lương đã đến kiểm tra vài lần, nhưng chẳng tìm thấy gì cả. Còn có tin đồn rằng chúng ta đã giết những người mất tích kia. Đây đúng là chuyện vô căn cứ, xúc phạm thần linh! Chúng ta sẽ không hại ai, chúng ta tôn thờ Đấng tối cao A La Ha, chúng ta yêu thương mọi người, tuyệt đối không làm hại ai cả."

Nghe xong lời của A La Bổn Nhị Thế, Nguyên Diệu cũng không có manh mối gì, trong lòng hắn nghĩ, vẫn nên hỏi Bối Đa La thì hơn.

Nguyên Diệu quay đầu nhìn lại, thấy Bối Đa La vẫn còn đang chìm sâu trong suy nghĩ trước tượng thần A La Ha.

Ly Nô từ nãy đến giờ không nói gì, lúc này đi đến trước tượng thần A La Ha.

Ly Nô mở gói giấy dầu, lấy hết những miếng cá khô ra cúng trước tượng thần.

Ly Nô chắp tay cầu nguyện: "Thần linh ơi, ngài nên ăn nhiều một chút. Sau này, Ly Nô sẽ thường xuyên đến để dâng đồ ngon cho Ngài."

Nguyên Diệu ngạc nhiên.

"Ly Nô lão đệ đang làm gì vậy?!"

Ly Nô nói: "Vị Đấng tối cao A La Ha này trông gầy quá, thân hình như cây sậy, gầy đến mức xương sườn cũng lộ ra, trông có vẻ đáng thương. Mọt sách, Phật Tổ và Bồ Tát trong chùa đều tròn trịa, thân hình đầy đặn, uy nghiêm. Nếu các thần tiên đánh nhau, với thân hình mảnh mai như vị A La Ha này, Phật Tổ chỉ cần một chưởng là có thể đập bẹp người này rồi. Ta nghĩ ngài nên ăn nhiều hơn một chút thì mới được."

Khóe miệng của Nguyên Diệu giật giật, nói: "…Không có chuyện thần tiên đánh nhau đâu. Ly Nô đệ, đừng suy nghĩ lung tung, đừng nói bừa, không nên bất kính với thần linh."

Ly Nô nói: "Dù sao thì khi ta nhìn thấy tượng thần A La Ha này, bỗng nhiên cảm thấy sự thiện lương và lòng từ bi, cúng cho ngài chắc cũng không sao chứ?"

A La Bổn Nhị Thế vội vàng nói: "Ôi! Ly Nô huynh đệ, huynh cũng có thể gia nhập Cảnh giáo, tin vào Cảnh giáo."

Ly Nô nói: "Ta không tin giáo phái nào cả."

A La Bổn Nhị Thế nói: "Ôi! Không sao đâu, nhiều con chiên lạc lối vì đã ở trong bóng tối quá lâu, lúc đầu không thể chấp nhận được ánh sáng thánh khiết, không thể tiếp nhận việc gia nhập giáo phái. Tuy nhiên, sau này, họ đều đã gia nhập Cảnh giáo. Ly Nô lão đệ, chỉ cần huynh thường xuyên đến dâng cúng, Đấng tối cao A La Ha nhân từ sẽ giúp huynh sinh ra niềm tin."

Ly Nô lườm A La Bổn Nhị Thế một cái, không nói gì thêm.

Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc, rồi nói: "A La Bổn trụ trì, hay là ngài dẫn chúng ta đi dạo quanh chùa xem có gì khác thường không?"

Nguyên Diệu cho rằng có thể những chuyện kỳ quái ở chùa Thập Tự là do yêu quái gây ra, nên quyết định đi dạo xung quanh để xem có yêu quái nào không.

A La Bổn Nhị Thế đồng ý.

Nguyên Diệu nói với Bối Đa La: "Bối Đa La, chúng ta đi dạo xung quanh nhé?"

Bối Đa La nói: "Lão muốn một mình ở đây thiền định một lúc. Nguyên công tử và Ly Nô cứ đi dạo xung quanh. Dù gì cũng không phải là chuyện lớn, cũng không phải là chuyện xấu. Tất cả duyên pháp đều bắt nguồn từ lòng từ bi. Thuyền từ bi dẫn dắt chúng sinh vượt qua biển khổ."

Nguyên Diệu không hiểu, nhưng hắn nghĩ rằng nếu Bối Đa La nói ông ta muốn một mình thiền định, tốt nhất là không nên quấy rầy ông.

Bối Đa La ngồi xuống, chắp tay rồi chìm vào thiền định.

A La Bổn Nhị Thế dẫn Nguyên Diệu và Ly Nô đi dạo quanh chùa Thập Tự.

Chùa Thập Tự không rộng, chỉ mất một nén nhang thời gian, A La Bổn Nhị Thế đã dẫn Nguyên Diệu và Ly Nô đi hết một vòng. Thậm chí cả hầm chứa lương thực, Nguyên Diệu cũng bước xuống bậc thang để kiểm tra, nhưng không có gì bất thường.

Đi dạo một vòng cũng khá mệt, A La Bổn Nhị Thế mời Nguyên Diệu ngồi xuống ghế đá trong vườn sau và cho người mang trà nước tới.

Một giáo sĩ mặc áo choàng đen mang trà nước đến và đứng bên cạnh.

Nguyên Diệu ngồi trên ghế đá, uống một ly trà xanh.

Một chiếc lá trúc rơi xuống, rơi vào cốc trà, làm gợn lên một vòng sóng nước.

Nguyên Diệu từ nhỏ đã có thể nhìn thấy yêu quái, từ khi vào Phiêu Miểu các, khả năng cảm nhận yêu quái của hắn càng mạnh mẽ hơn.

Trong ngôi chùa Thập Tự này, Nguyên Diệu không cảm thấy có yêu quái, cũng không cảm thấy có hồn ma, nhưng lại có một loại khí tức kỳ lạ lan tỏa khắp nơi.

Loại khí tức này không giống với yêu quái thông thường.

Lấy ví dụ, những yêu quái thông thường giống như một bông hoa hay một cây trúc, chúng cứ tồn tại ở đó, Nguyên Diệu có thể nhìn thấy và cảm nhận được chúng.

Nhưng lần này thì khác, Nguyên Diệu ngửi thấy hương hoa, nghe thấy tiếng lá trúc xào xạc trong gió, nhưng lại không thấy hoa và trúc đâu.

Trong lòng Nguyên Diệu ngờ vực, định hỏi ý kiến của Ly Nô. Dù sao, Ly Nô là mèo yêu, cảm nhận của hắn đối với đồng loại chắc chắn mạnh hơn so với bản thân mình.

“Ly Nô lão đệ, ngươi thấy sao?”

Không có ai trả lời.

Nguyên Diệu nhìn quanh, chỉ thấy A La Bản Nhị Thế đang ngồi trên ghế đá bên cạnh uống trà, chứ không thấy Ly Nô đâu.

“Hử? Ly Nô lão đệ đâu rồi? Hắn đi đâu vậy?”

Nguyên Diệu ngạc nhiên.

A La Bản Nhị Thế ngừng uống trà, cũng có hơi ngạc nhiên.

“Ôi! Đức từ bi Đấng tối cao A La Ha ơi! Con chiên đen lạc lối ấy đi đâu rồi?! Vừa rồi hắn vẫn còn ở đây mà!”

Nguyên Diệu nhớ lại, khi ra khỏi đại sảnh, lúc dạo quanh đây đó, Ly Nô vẫn còn bên cạnh. Khi xuống hầm hắn còn thấy Ly Nô đi theo phía sau qua khóe mắt. Nhưng về sau, hắn mải mê tìm kiếm yêu khí và quỷ khí nên không để ý xung quanh, bỏ qua cả sự hiện diện của Ly Nô.

Tuy vậy, Nguyên Diệu cũng không quá lo lắng, bởi Ly Nô dù sao cũng là một yêu mèo pháp lực cao cường, mạnh hơn những yêu quái thông thường ở thành Lạc Dương, chắc sẽ không gặp nguy hiểm.

“Lúc xuống hầm, Ly Nô lão đệ vẫn còn ở đó. Có thể là ăn nhiều cá khô quá nên đi vệ sinh rồi.”

Nguyên Diệu nói.

A La Bản Nhị Thế đặt tách trà xuống, nói: “Ôi! Đức từ bi Đấng tối cao A La Ha ơi! Con chiên đen nghịch ngợm ấy không lẽ đã bị bỏ lại trong hầm rồi?! Ta đi tìm hắn xem sao. Nguyên huynh, ngươi cứ ngồi nghỉ chút.”

A La Bản Nhị Thế đứng dậy đi tìm Ly Nô.

Nguyên Diệu ngồi uống trà chờ đợi.

Người hầu bưng trà vừa rồi vẫn đứng cạnh, đó là một thiếu niên người Hán, mặt tròn béo phúc hậu. Đợi A La Bản Nhị Thế rời đi cậu ta mới tiến đến trước mặt Nguyên Diệu, nói: “Cao nhân, tiểu nhân có điều muốn bẩm báo.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên, hỏi: “Ngươi là ai? Có chuyện gì vậy?”

Thiếu niên người Hán đáp: “Tiểu nhân là cô nhi, không biết phụ mẫu là ai, quê quán ở đâu, từ nhỏ đã được thu nhận trong nhà thờ này, họ đặt tên cho tiểu nhân là Ước Hàn. Những điều đó không quan trọng. Chuyện là thế này, tiểu nhân quản lý nhà bếp của chùa Thập Tự, lo việc ăn uống hàng ngày cho mọi người. Kể từ khi xảy ra vụ mất tích, thức ăn trong bếp liên tục bị mất. Bánh hồ và điểm tâm đã làm sẵn, cùng sữa dê và phô mai cứ biến mất một cách kỳ lạ. Điều lạ hơn là, tiểu nhân đã nấu canh và hấp rau, để từng bát từng bát trên bàn, vậy mà chỉ trong nháy mắt đã mất đi mấy bát. Tiểu nhân tìm khắp nơi cũng không thấy, nhưng đến sáng hôm sau những chiếc bát trống lại xuất hiện ở chỗ cũ, món canh và rau hấp đã bị ăn hết.”

Nguyên Diệu giật mình, hỏi: “Ước huynh, ngươi nói kỹ hơn xem.”

Ước Hàn nói: “Tiểu nhân đã báo chuyện lạ này cho cha cố A La Bản, nhưng ông ấy nói không cần để ý. Bởi chùa Thập Tự thường xuyên phát chẩn cho người nghèo, phát cháo bánh miễn phí, nên đôi khi không phát thì có người lẻn vào bếp lấy trộm thức ăn. Cha cố A La Bản nói những người lẻn vào ăn trộm đều là kẻ nghèo khổ đói rách, chúng ta nên thương yêu họ như Đức từ bi A La Ha, chỉ cần không quá đáng thì không cần truy cứu. Cha cố nghĩ là người làm nên không quan tâm, nhưng tiểu nhân biết chắc chắn không phải là người làm. Tiểu nhân đã cân nhắc kỹ, số thức ăn mất đúng bằng số người mất tích. Trước đây chỉ mất vài phần ăn, bây giờ mỗi ngày mất đủ cho mười mấy người ăn. Hiện giờ đã mất tích mười ba người, hôm qua tiểu nhân cố tình nấu mười ba bát canh hoành thánh đặt trên bàn. Tối qua, toàn bộ canh hoành thánh đều biến mất. Sáng nay, mười ba chiếc bát trống được đặt ngay ngắn trên bàn, tiểu nhân sợ hãi đến mức giờ còn chưa dám rửa bát.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói: “Ước huynh, chuyện kỳ lạ như vậy, ngươi không báo cho quan phủ sao?”

Ước Hàn vội vàng lắc đầu, nói: “Không dám. Tiểu nhân không thể nói. Nếu để chuyện này lộ ra ngoài sợ rằng sẽ gây ra đại loạn trong dân chúng. Mọi người sẽ nói nhà thờ gây họa yêu quái, còn vu cho là tà giáo. Tiểu nhân từ nhỏ đã lớn lên trong chùa Thập Tự, thấy rõ mọi người ở đây đều là người tốt, chỉ muốn cứu giúp chúng sinh khổ nạn. Các giáo sĩ dù phần lớn là người ngoại bang nhưng họ thường xuyên giúp đỡ người nghèo, khuyên người yêu thương lẫn nhau, lúc có đói kém còn phát cháo bánh cứu tế dân nghèo, toàn làm việc thiện, không hại ai cả. Tiểu nhân không thể để chùa Thập Tự bị hủy hoại, nên không dám nói. Hôm nay cao nhân đến đây, tiểu nhân mới dám bẩm báo thật lòng, chỉ mong cao nhân trừ yêu bắt quỷ, trả lại sự bình yên cho chùa Thập Tự.”

Nguyên Diệu hỏi: “Ước huynh, ngươi có tận mắt thấy thức ăn biến mất như thế nào không? Có chắc là phi nhân trộm không?”

Ước Hàn lắc đầu, nói: “Chắc chắn phi nhân làm. Tiểu nhân có lần gan dạ trốn trong chum gạo theo dõi, thấy rõ ràng bánh đậu đỏ trên đĩa tự dưng biến mất.”

Khi Nguyên Diệu và Ước Hàn đang nói chuyện, A La Bản Nhị Thế vội vã quay trở lại.

“Ôi! Đức từ bi Đấng tối cao A La Ha ơi! Nguyên huynh, ta đã tìm khắp chùa Thập Tự mà không thấy Ly Nô lão đệ đâu. Hắn có phải có việc gì nên rời đi trước rồi không?”

Nguyên Diệu còn đang suy nghĩ về lời Ước Hàn, bèn thản nhiên đáp: “Ly Nô lão đệ nếu có việc về trước chắc chắn sẽ nói với ta, không thể nào bỏ đi mà không báo.”

A La Bản Nhị Thế nói: “Hay là hắn đã nói với Bối Đa La huynh?”

Nguyên Diệu nói: “Vậy thì đi hỏi Bối Đa La xem sao.”

Nguyên Diệu cũng muốn tìm Bối Đa La để bàn bạc về chuyện kỳ lạ trong chùa Thập Tự.

Nguyên Diệu chắp tay chào Ước Hàn rồi cùng A La Bản Nhị Thế rời khỏi hậu viện, đi về phía đại sảnh.

Trong đại sảnh, bụi bay lơ lửng dưới ánh nắng, tượng A La Ha từ bi cúi xuống nhìn chúng sinh, mấy tín đồ đang tụng niệm.

Bối Đa La không thấy đâu cả.

Nguyên Diệu nhìn quanh đại sảnh một lượt vẫn không thấy Bối Đa La.

“Bối Đa La đi đâu rồi?!”

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 5


Nguyên Diệu và A La Bản Nhị Thế đi một vòng trong đại sảnh nhưng không tìm thấy Bối Đa La. Họ hỏi thăm các giáo sĩ và tín đồ đang cầu nguyện trong sảnh, ai cũng nhớ rằng Bối Đa La từng ngồi thiền dưới tượng thần A La Ha, nhưng không ai để ý hắn biến mất từ lúc nào.

A La Bản Nhị Thế xoa đầu suy nghĩ, nói: “Ôi! Đức từ bi Đấng tối cao A La Ha ơi! Rốt cuộc là chuyện gì xảy ra vậy? Mọi người biến đi đâu cả rồi?”

Trong lòng Nguyên Diệu vừa lo lắng vừa bối rối, suy nghĩ một lúc rồi quyết định quay về Phiêu Miểu các tìm Bạch Cơ.

“Trụ trì A La Bản, tiểu sinh cũng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tiểu sinh sẽ quay về Phiêu Miểu các một chuyến, gọi Bạch Cơ đến giải quyết việc này.”

A La Bản Nhị Thế gật đầu, nói: “Được rồi. Nguyên huynh, ta cũng cảm thấy trong nhóm các ngươi, chỉ có tỷ muội Bạch Cơ là trông đáng tin một chút. Hơn nữa, hôm qua ta còn chưa giảng xong giáo lý cho tỷ muội ấy! Ôi, đức từ bi Đấng tối cao A La Ha ơi! Đợi tỷ muội Bạch Cơ đến, ta sẽ tiếp tục truyền bá phúc âm thần thánh cho họ.”

Nguyên Diệu không có thời gian trò chuyện thêm với A La Bản Nhị Thế, vội vàng cáo từ.

*

Chợ Nam, Phiêu Miểu các.

Khi Nguyên Diệu trở về Phiêu Miểu các, đại sảnh không có ai, hắn lập tức đi thẳng vào gian trong.

Gian trong cũng không có ai.

Nguyên Diệu đi vòng qua bình phong Hà Đồ Lạc Thư, bước đến bên cửa sổ, nhìn ra bên ngoài.

Cỏ thơm xanh rì, cây cối um tùm, dưới ánh nắng xuân màu hổ phách, những đóa hoa súng khẽ lay động trong gió xuân.

Dưới tán cây Bồ Đề, một con rồng trắng nhỏ đang cuộn mình trên chiếc bồ đoàn, bên cạnh nó là một hũ rượu lật nghiêng và một ít điểm tâm còn sót lại.

Rồng trắng nhỏ hơi nhướn thân hình linh hoạt của mình lên, dường như đang nói chuyện với ai đó từ xa.

Vì tán lá cây Bồ Đề che khuất tầm nhìn, từ góc độ của Nguyên Diệu, hắn không thể thấy người đang nói chuyện với Bạch Cơ là ai.

Rồng trắng nhỏ nói: “Vậy ngài sẽ không quay lại sớm sao?”

“...Ở đó ta có thể tìm lại thứ đã mất. Ta muốn ở lại đó thêm vài ngày.”

Một giọng nữ trong trẻo, thánh thót vang lên.

“Còn Ly Nô thì sao?” Rồng trắng hỏi.

“Nó rất hứng thú với những câu chuyện ở dị giáo, sẽ ở lại với ta.”

“Vậy chuyện này tạm thời không giải quyết sao?” Rồng trắng thờ ơ hỏi.

“Tạm thời cứ như vậy.”

“Được thôi.” Rồng trắng cười nói.

Một lúc sau, giọng nữ từ tán cây Bồ Đề lại vang lên: “Đến giờ cơm tối, ta và Ly Nô vẫn sẽ quay lại Phiêu Miểu các. Ngươi đừng nghĩ ta không có mặt thì có thể lười biếng. Ly Nô theo ta, vậy việc nấu cơm tất nhiên là ngươi lo liệu.”

Rồng trắng nhỏ cuộn tròn thân mình lại.

“...Không thể mua cơm ngoài sao?”

“Không được. Chỉ có cơm tự nấu mới có linh hồn.”

“Nhưng ta không biết nấu ăn, cũng chưa từng nấu bao giờ...”

“Làm những việc chưa từng làm cũng là một cách tu hành trong nhân gian, giúp ngươi đạt được một trái tim con người.”

“...”

“Hôm nay ngươi đã giặt quần áo chưa? Đã quét dọn Phiêu Miểu các chưa? Đã lau bụi trên các kệ hàng chưa? Đừng có lười biếng, lát nữa còn phải chuẩn bị bữa tối nữa đấy.”

“...Ta sẽ làm ngay.”

Rồng trắng nhỏ vươn người một cái, hóa thành hình người rồi đứng dậy.

Phía sau cây Bồ Đề không còn phát ra âm thanh nào nữa.

Nguyên Diệu không nhịn được mà hỏi: “Bạch Cơ đang nói chuyện với ai vậy?”

Bạch Cơ uể oải đáp: “Không nói chuyện với ai cả. Hiên Chi về rồi sao?”

Nguyên Diệu không bận tâm tới việc Bạch Cơ vừa nói chuyện với ai, mà nói: “Bạch Cơ, chùa Thập Tự quả thật có điểm bất thường, Ly Nô lão đệ và Bối Đa La đều bất ngờ biến mất.”

Bạch Cơ nói: “Không có biến mất đâu, họ vẫn còn ở đó, chỉ là ở lại chùa Thập Tự chơi thôi, Hiên Chi không cần lo lắng.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, chuyện này rốt cuộc là thế nào vậy?”

Bạch Cơ không muốn giải thích, đáp: “Đợi vài ngày nữa Hiên Chi sẽ biết. Ôi, giờ còn phải quét dọn, giặt quần áo và nấu ăn nữa. Hôm nay không cần giặt quần áo, nhưng lại phải nấu ăn. Hiên Chi có biết nấu ăn không?”

Nguyên Diệu lo lắng nói: “Nấu ăn gì chứ? Bạch Cơ, chúng ta phải đi chùa Thập Tự tìm lại Ly Nô lão đệ và Bối Đa La…”

Bạch Cơ đáp: “Không cần đi tìm, họ sẽ trở về Phiêu Miểu các để ăn tối.”

Nguyên Diệu nói: “Vậy không cần đến chùa Thập Tự nữa sao?”

Bạch Cơ nói: “Không cần, Bối Đa La sẽ lo liệu mọi thứ. Chùa Thập Tự bây giờ là nơi tu hành của Bối Đa La, khi ông ấy đạt được giác ngộ mà ông ấy muốn, mọi chuyện sẽ được giải quyết. Hiên Chi, hôm nay nên nấu món gì vừa đơn giản, lại vừa làm Bối Đa La hài lòng nhỉ?”

Nguyên Diệu nhớ tới lời của Ước Hàn ở chùa Thập Tự, buột miệng nói: “Hoành thánh!”

Bạch Cơ hỏi: “Hoành thánh làm như thế nào?”

Nguyên Diệu đáp: “Hoành thánh là món từ bột mì, chắc phải dùng bột mì. Sau đó, tiểu sinh không rõ nữa.”

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Thôi, trước tiên hãy quét dọn đã.”

Thế là, Bạch Cơ đứng dậy, xắn tay áo lên, đội khăn trùm đầu, cầm lấy chổ, bắt đầu quét dọn Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ quét dọn rất kỹ lưỡng, từ đại sảnh, gian phòng bên trong, hành lang đến dưới cây Bồ Đề, tất cả đều được quét sạch sẽ từng chút một.

Nguyên Diệu ngạc nhiên, hắn chưa bao giờ thấy Bạch Cơ siêng năng như vậy.

Nhưng khi Bạch Cơ vừa quét dọn, sắc mặt của nàng dần trở nên vô cùng khó coi, như thể đang kìm nén một ngọn lửa giận trong lòng.

“Thật sự xem ta là nô tì sao? Cái gì mà thử những điều chưa từng làm, giúp tu luyện tâm người, đúng là mệt chết đi được. Nếu không phải nể tình ngài là Bồ Tát, ta sẽ không chịu tội này đâu.”

Nguyên Diệu cầm một cái khăn lau, định lau bụi cho quầy hàng và kệ hàng để giảm bớt công việc của Bạch Cơ, nhưng đột nhiên lại có vài vị khách đến mua hương liệu.

Nguyên Diệu đành phải ra đón khách.

Khi các vị khách đi dạo trong đại sảnh, họ nhìn thấy Bạch Cơ đang cẩn thận quét dọn và lau chùi kệ hàng, bèn khen ngợi: “Cô nô tì này làm việc siêng năng và cẩn thận, còn hơn cả nô tì Tân La nhà ta. Nàng bao nhiêu bạc vậy? Có bán không?”

Nguyên Diệu mở miệng định nói gì đó nhưng lại im lặng.

Bạch Cơ vung cây chổi lên, một tay chống hông, nói: “Ta là chủ nhân của Phiêu Miểu các, không phải nô tì. Không bán, không bán, ngay cả hương liệu cũng không bán cho các ngươi, không làm ăn với các ngươi nữa, mau ra khỏi đây, đừng đứng làm bẩn sàn ta vừa quét.”

Nguyên Diệu vội vàng ngăn lại, nói: “Bạch Cơ, Bối Đa La trêu ngươi, ngươi đừng nổi giận với khách. Đây là những vị khách hiếm hoi lắm, cả năm cũng không thấy mấy người. Nay Phiêu Miểu các khó khăn lắm mới buôn bán khấm khá một chút, có vài khách hàng đến, ngươi đừng đuổi họ đi…”

Bạch Cơ nghe vậy, cố gắng nén giận, rồi cầm chổi đi vào bên trong.

Nguyên Diệu vội vàng xin lỗi khách hàng.

Các vị khách cười nói: “Có chủ nhân nào mà tự tay quét dọn không? Tính tình nô tì này không tốt, nóng nảy quá, không mua nữa.”

“Siêng năng cẩn thận gì chứ, không bằng tính tình tốt.”

“Nô tì tốt nhất là phải có tính tình tốt, hiền lành.”

Nguyên Diệu tiếp đón xong các vị khách mua hương liệu, hoàn thành giao dịch, thu tiền và ghi sổ xong, bèn vội vàng vào hậu viện tìm Bạch Cơ, định an ủi nàng một chút.

Trong bếp khói bếp bay lên nghi ngút, Bạch Cơ đang nhóm lửa nấu cơm.

Nguyên Diệu chưa bao giờ thấy Bạch Cơ nấu ăn, trong lòng vô cùng ngạc nhiên, vội vàng vào bếp kiểm tra.

Trong bếp, dưới bếp lửa đang cháy, một cái nồi sắt đặt trên bếp, bên trong là nửa nồi bột mì.

Nồi sắt đang khô rang bột mì, đáy nồi có hơi đỏ lên, bột mì bắt đầu cháy khét.

Bạch Cơ đứng từ xa quan sát, thấy Nguyên Diệu đến, bèn hỏi: “Hiên Chi, sao hoành thánh vẫn chưa làm xong vậy?”

Nguyên Diệu cũng không biết nấu ăn, nhìn vào nồi bột mì, nghĩ một lúc, rồi nói: “Hoành thánh là món có nước, ngươi chưa cho nước vào!”

Nguyên Diệu đi đến bên giếng cổ, múc được nửa thùng nước. Bạch Cơ nhận lấy thùng nước, đổ nước vào chiếc nồi sắt đã bị nung đỏ.

Một làn khói nước khổng lồ bốc lên từ nồi sắt, hóa thành hơi nước.

Cùng lúc đó nồi sắt “rắc” một tiếng, vỡ tan.

Nửa nồi bột mì bắn lên như bụi, không biết vì sao bột mì trong không khí lại bốc cháy. Cả gian bếp trở nên khói mù mịt, đầy hơi nước.

“Không xong rồi, chạy mau!”

Bạch Cơ lập tức vứt thùng nước và chạy thoát ra ngoài.

Nghe thấy vậy, Nguyên Diệu cũng lập tức chạy theo Bạch Cơ ra khỏi bếp.

Khi cả hai chạy ra khỏi bếp, họ phát hiện bếp bắt đầu bốc cháy.

Nguyên Diệu kinh hãi nói: “Bạch Cơ, bếp cháy rồi!”

Bạch Cơ thản nhiên đáp: “Không sao đâu, không cháy nổi đâu, để ta dập lửa.”

Bạch Cơ niệm chú nước, một cột sóng khổng lồ từ giếng cổ trồi lên, cuộn vào nhà bếp.

Ngọn lửa trong bếp lập tức bị dập tắt.

Tuy nhiên, dù lửa đã tắt nhưng cảnh tượng trong bếp chắc chắn đã trở thành một đống lộn xộn, vô cùng thê thảm.

Bạch Cơ đứng dưới gốc cây Bồ Đề, nói: “Hiên Chi, ta đã hiểu ra một đạo lý.”

Nguyên Diệu mệt mỏi hỏi: “Đạo lý gì?”

“Làm cơm còn nguy hiểm hơn cả chiến đấu!”

“Tại sao ngươi nói vậy?”

“Ta đã từng giết vô số hung thú thời hồng hoang, đánh bại nhiều kẻ địch mạnh, nhưng không nguy hiểm và kinh hãi bằng việc nấu cơm.”

Nguyên Diệu buồn rầu đáp: “Bạch Cơ, không phải do việc nấu cơm nguy hiểm mà là vì ngươi làm bừa nên mới đốt cháy nhà bếp. Chúng ta đã phá tan nát cái bếp như thế này, khi Ly Nô trở về chắc chắn sẽ nổi giận.”

“Tính tình Ly Nô rất tốt, hắn sẽ không giận đâu. Vừa rồi khách nói cũng không sai, đối với người hầu, sự siêng năng chỉ là phụ, quan trọng nhất là tính cách tốt.”

Bạch Cơ hơi xấu hổ, rồi lẳng lặng rời đi.

Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc, lấy hết can đảm bước vào bếp để dọn dẹp tàn cuộc.

Ly Nô sẽ không giận Bạch Cơ nhưng chắc chắn sẽ giận hắn, vì vậy tốt hơn hết là dọn dẹp đống tàn tích để phòng ngừa.

Nguyên Diệu đã dành cả buổi chiều để dọn dẹp bếp. Cuối cùng, hắn cũng thu dọn sạch sẽ những gì Bạch Cơ đã phá hoại. Tuy nhiên, một số dụng cụ nấu nướng và những chiếc hũ sành chứa gia vị bí truyền của Ly Nô đều đã không còn.

Bạch Cơ ngồi dưới gốc cây Bồ Đề, vừa phơi nắng, vừa lo lắng. Trong lúc phiền não, nàng cầm một quyển kinh Phật lên, chú tâm đọc, rồi cẩn thận học thuộc những lời trong đó.

“Tam Không, bao gồm sinh, pháp, và cụ. Tam Huệ, gồm nghe, suy ngẫm, và tu hành. Tam Thân, gồm pháp thân, báo thân, và hóa thân. Tam Bảo, bao gồm Phật, Pháp, và Tăng…”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Bạch Cơ đang làm gì vậy?”

Bạch Cơ ngừng học thuộc, đáp: “Hiên Chi, ta đang tổng hợp và học thuộc những nội dung trong kinh Phật.”

Nguyên Diệu hỏi: “Tại sao ngươi lại học thuộc kinh Phật?”

Bạch Cơ buồn rầu đáp: “Hiên Chi, chúng ta đã phá hỏng bếp, nên không có cách nào nấu bữa tối được. Khi Bối Đa La trở về, chắc chắn phải mua một ít thức ăn bên ngoài để qua loa cho ngài. Ngài sẽ nói rằng ta làm việc không tốt và không tránh khỏi việc nổi giận. Theo kinh nghiệm khi ta ở Tây Thiên, mỗi khi Phật Tổ hay Bồ Tát nổi giận, họ đều tụng kinh… không, dùng Phật lý để hóa độ chúng sinh. Vì vậy, nếu ta ghi nhớ kỹ những lời trong kinh Phật, khi Bối Đa La tụng kinh trước mặt ta, ta cũng có thể đáp lại. Nếu ta có thể trả lời trôi chảy, điều đó sẽ cho thấy ta có lòng thành kính với Phật pháp. Dù ta có đang ở nhân gian, ta vẫn không quên tụng kinh Phật. Như vậy, có thể khi Bối Đa La thấy ta tinh thông Phật lý, ngài sẽ quên chuyện ta không nấu cơm.”

Nghe vậy, Nguyên Diệu nói: “Bạch Cơ đang ôm chân Phật vào phút chót. Hồi nhỏ, để đối phó với câu hỏi của thầy vào ngày hôm sau, tiểu sinh cũng đã phải học thuộc Tứ Thư Ngũ Kinh vào đêm trước.”

“Có vẻ như tín ngưỡng dù là Phật giáo hay Nho giáo, thì hình thức đều giống nhau nhỉ.”

Bạch Cơ suy tư đáp.

Nguyên Diệu gãi đầu, nói: “Tín ngưỡng cần phải thành kính hơn nữa. Tín ngưỡng là ánh sáng cuộc đời, là tín ngưỡng suốt đời và là nơi linh hồn gửi gắm.”

Bạch Cơ ngước mắt lên, nói: “Hiên Chi, tín ngưỡng thực sự không cần thành kính. Nó là điều tất yếu tự nhiên, là số phận bẩm sinh, là tồn tại ở tầng cao hơn sự thành kính.”

Nguyên Diệu nghe không hiểu, nói: “Bạch Cơ, tiểu sinh không hiểu.”

“Sau này Hiên Chi sẽ hiểu thôi.”

Bạch Cơ lười giải thích, nàng vừa lật cuốn kinh trong tay vừa tiếp tục thành tâm học thuộc kinh Phật.

"Tam Độc, bao gồm tham, sân, si. Tam Lậu, gồm dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Tam Nghiệp, gồm thân, khẩu, ý. Tam Tai, gồm đói khát, bệnh dịch, chiến tranh..."

“Bạch Cơ, tín ngưỡng của ngươi là gì?”

Nguyên Diệu rất muốn hỏi câu này, nhưng hắn do dự một lúc, cuối cùng vẫn không hỏi ra.

Bạch Cơ ngồi quỳ dưới gốc cây Bồ Đề, học thuộc kinh Phật suốt buổi chiều. Thấy trời đã về chiều, nàng đi ra ngoài đến tiệm Tất La của người Hồ, mua một ít Tất La anh đào.

Vào lúc chạng vạng, Bối Đa La và Ly Nô cùng trở về.

Bối Đa La có vẻ như đã ngộ ra điều gì đó, còn Ly Nô cũng đắm chìm trong một bầu không khí trang nghiêm, cả hai không ai nói thêm lời nào.

Nguyên Diệu có chút tò mò không hiểu tại sao Bối Đa La và Ly Nô lại biến mất khỏi Tự Thập Tự nên lén lút hỏi Ly Nô, nhưng Ly Nô cứ quanh co không chịu trả lời.

"Gia và Bối Đa La đến thăm Tam Thế."

Cuối cùng, bị Nguyên Diệu truy hỏi quá nhiều, Ly Nô bèn trả lời một cách mập mờ.

"Tam Thế là cái gì?" Nguyên Diệu hỏi.

Ly Nô đáp: "Tam Thế không có gì ăn, nghe các huynh đệ bảo bình thường chỗ đó khi thì no, khi thì đói, mà đồ ăn cũng chẳng ngon lành gì, nên gia và Bối Đa La quay về Phiêu Miểu các để ăn cơm."

"Sao lại quay sang chuyện ăn uống rồi? Ly Nô lão đệ, rốt cuộc ngươi và Bối Đa La đã xảy ra chuyện gì thế? Hai người đã đi đâu?"

Nguyên Diệu nghe mà chẳng hiểu gì, bèn vội vàng hỏi tiếp.

Nhưng Ly Nô không muốn nói thêm gì nữa.

Khi Ly Nô phát hiện bếp bị phá hoại, hắn vừa ngạc nhiên vừa tức giận, sau khi hiểu rõ nguyên do, hắn đã chạy đi tìm Bối Đa La.

"Bối Đa La, chủ nhân không biết nấu ăn, ngài đừng làm khó chủ nhân nữa, từ giờ để gia về sớm nấu cơm đi."

Bối Đa La hơi ngạc nhiên, nói: "Ly Nô, ngươi vẫn còn muốn đến chùa Thập Tự à?"

Ly Nô đáp: "Tất nhiên rồi. Hiếm khi gia lại có chút hứng thú với tôn giáo như vậy."

Bối Đa La nói: "Ngươi có thể tin Phật giáo. Phật giáo có Tứ Đế (1), Bát Chính Đạo (2), còn có duyên khởi, ngũ uẩn, vô thường, vô ngã. Nếu ngươi nhập cửa Phật, sẽ biết chính đạo, có thể quan sát ba ngàn thế giới, có thể hiểu thấu nhân quả thiện ác, và hơn thế nữa, sẽ thấu triệt chân lý của cuộc sống và vũ trụ."

Ly Nô lắc đầu, nói: "Phật giáo quá phức tạp, phải suy nghĩ quá nhiều thứ, nào là đạo lý, tư tưởng, hiểu đi hiểu lại, xoay qua xoay lại, đến mức đầu óc gia cũng rối tung. Phật giáo không hợp với gia. Gia thích Cảnh giáo hơn, rất đơn giản, rất thẳng thắn, chỉ cần có "yêu thương" là đủ."

Bạch Cơ vội nói: "Bối Đa La, ta thành tâm tín ngưỡng Phật giáo."

Bối Đa La đáp: "Bạch Cơ tin vào gì không cần nói bằng lời, Phật Tổ tự nhiên sẽ biết. Bữa tối đã xong chưa? Ồ, ngươi đã đốt bếp rồi, chắc chắn là chưa nấu xong."

Bạch Cơ cười đáp: "Bối Đa La, tuy ta chưa nấu được bữa tối, nhưng ta đã đích thân đi chợ mua một ít Tất La anh đào. Tất La anh đào rất ngon, lại là món chay thanh đạm, thích hợp để dâng lên ngài."

Bối Đa La nói: "Ăn tạm đi vậy. Đêm nay ở chỗ A La Bản Tam Thế còn có một buổi giảng giải về Cựu Ước, lão này ăn xong phải tranh thủ đi ngay."

Bạch Cơ bèn đích thân vào bếp lấy Tất La anh đào.

Nguyên Diệu nhíu mày, hỏi Bối Đa La: "Bối Đa La, ngài có nhầm số không? A La Bản không phải là Nhị Thế sao? Sao lại thành A La Bản Tam Thế?"

Bối Đa La đáp: "Là một A La Bản khác."

"Còn có A La Bản khác sao?" Nguyên Diệu ngẩn người ra.

Nguyên Diệu vốn dĩ đã không quen với tên gọi của người Hồ ở Tây Vực, càng khó hiểu tại sao người Hồ lại đặt tên giống nhau giữa ông cháu, chú cháu, rồi thêm vào những con số sau tên. Theo lễ pháp của Nho giáo, điều này là sự thiếu tôn trọng, khi người trẻ không kiêng kỵ tên của trưởng bối, đúng là thất lễ.

A La Bản Nhị Thế là cháu của A La Bản Nhất Thế, vậy theo quy luật này, A La Bản Tam Thế hẳn là hậu duệ của A La Bản Nhị Thế, có lẽ cũng là cháu của ông ấy?!

"A La Bản Tam Thế là ai?" Nguyên Diệu hỏi.

Bối Đa La đáp: "Là một... sự tồn tại trong chùa Thập Tự."

Nguyên Diệu tưởng rằng ý của Bối Đa La là A La Bản Tam Thế là một nhà truyền giáo trong chùa Thập Tự, nghĩ rằng ông ấy là hậu duệ của A La Bản Nhị Thế, mặc dù vẫn còn bối rối, nhưng hắn không hỏi thêm nữa.

Lúc này, Bạch Cơ bưng món Tất La anh đào lên đặt trước mặt Bối Đa La.

Bối Đa La không nói thêm gì nữa, bắt đầu thưởng thức món Tất La anh đào.

Vì là người hầu, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng hai bên trái phải phía sau Bối Đa La, hầu hạ ngài dùng bữa.

Ly Nô trở lại hình dạng mèo đen nhỏ, ngồi một bên ăn cá thơm khô.

“Chủ nhân, Ly Nô có thể tín ngưỡng Cảnh giáo không?” Mèo đen nhỏ hỏi Bạch Cơ.

Bạch Cơ sững người một chút, rồi nói: “Ly Nô, tín ngưỡng cái gì là tự do của ngươi.”

Nguyên Diệu khuyên nhủ: “Có phải hơi vội vàng không? Ly Nô lão đệ, ngươi có muốn suy nghĩ kỹ hơn không? Sáng nay, ngươi thậm chí còn chưa biết Cảnh giáo là gì...”

Mèo đen nhỏ suy nghĩ một lúc, rồi nói: “Chiều nay ta nghe Tam Thế giảng lâu lắm, thấy Cảnh giáo cũng khá hợp với ta. Chỉ cần có tình thương là được. Còn có thể phạm sai lầm, dù làm gì sai đi nữa, chỉ cần sám hối trước Đấng tối cao A La Ha vài câu là được tha thứ. Phật giáo thì phiền phức hơn, kiếp này phạm lỗi, kiếp sau phải biến thành trâu bò để trả nghiệp.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói: “Ly Nô lão đệ, ngươi không thể nói Phật giáo phiền phức trước mặt Bồ Tát được...”

Bối Đa La dừng ăn Tất La anh đào, nói: “Các tôn giáo, các vị thần, bản chất đều tồn tại nhờ lòng người, tức là nhờ tín ngưỡng. Mỗi tôn giáo có tín ngưỡng khác nhau, Phật giáo khuyên con người từ bi hướng thiện, tu tâm dưỡng tính. Cảnh giáo bao dung mọi vật bằng tình yêu thương, cũng là để giáo hóa con người trở nên thân thiện. Bề ngoài các tôn giáo khác nhau nhưng bản chất là như nhau. Phật của ta từ bi, trí tuệ của ngài có thể nhìn thấu quá khứ và tương lai, bao quát tam giới vạn vật. Thân người chia làm bốn yếu tố, mỗi yếu tố đều có tên, nhưng không có cái "ta" nào cả, tất cả đều không.”

Bạch Cơ cười nói: “Nếu Ly Nô tin vào Cảnh giáo thì Phiêu Miểu các chúng ta giờ có đến ba loại tín ngưỡng rồi. Phật giáo, Nho giáo, Cảnh giáo.”

Bối Đa La nhìn Bạch Cơ, nói: “Rõ ràng là bốn loại. Trong sâu thẳm nội tâm ngươi vẫn còn giữ tín ngưỡng thời hồng hoang. Đó là tín ngưỡng về sức mạnh, sự tàn bạo vô trật tự, kẻ mạnh làm chủ. Dù các vị thần thời đó đã bị những vị thần khác xoá bỏ tên tuổi, không còn ai nhớ đến sự tồn tại của họ, nhưng cội nguồn của tín ngưỡng đó vẫn không hề tàn lụi.”

Bạch Cơ cười nói: “Tín ngưỡng chân chính là điều tất yếu tự nhiên. Đó là sự tồn tại khách quan và vĩnh cửu, có thể vượt qua quá khứ, hiện tại và tương lai, luôn đứng vững trong dòng chảy thời gian và không gian. Thậm chí không cần thiết phải dựng lên một vị thần, vẫn sẽ có vô số tín đồ tự trong tâm mình tin vào chân lý này. Nhưng Bối Đa La, ta bây giờ đã không còn tin vào sức mạnh nữa. Tín ngưỡng về sức mạnh thời hồng hoang đầy rẫy bóng tối, bạo lực và vô trật tự, kẻ mạnh nuốt kẻ yếu. Sau này, con người có trí tuệ cao hơn, tầm nhìn xa hơn mới dần dần hình thành nên trật tự, sự bao dung và tình thương. Họ biết thương xót kẻ yếu, biết tin tưởng vào lòng nhân ái, biết ôm lấy ánh sáng. Giờ ta tin vào Phật giáo, một lòng hướng thiện, tin vào nhân quả. Nếu không tin, ngươi có thể kiểm tra những nội dung trong kinh Phật, ta đều có thể trả lời được.”

Bối Đa La cười mà không nói.

Thuộc lòng kinh điển, cố ý ghi nhớ không nhất thiết đồng nghĩa với việc là tín đồ chân chính. Hoặc nói theo cách khác, tín đồ chân chính thực sự không cần phải học thuộc kinh điển.

Sau bữa tối trời bắt đầu mưa.

Bối Đa La và Ly Nô không muốn bỏ lỡ buổi truyền kinh của A La Bản Tam Thế, một vị Bồ Tát và một con mèo cùng nhau đội mưa xuân đi đến chùa Thập Tự.

Dù Bối Đa La không ở lại Phiêu Miểu các qua đêm, Bạch Cơ vẫn dự định ngủ dưới gốc cây Bồ Đề.

Vì trời mưa, Bạch Cơ tạo ra một kết giới hình cầu chống thấm trong phạm vi cây Bồ Đề, để những giọt mưa rơi dọc theo mái vòm tròn của kết giới xuống bãi cỏ.

Nguyên Diệu từ cửa sổ bên trong nhìn ra, cảm thấy không gian dưới gốc cây Bồ Đề đẹp tuyệt vời, vừa có thể che gió mưa, lại trong suốt.

Dưới gốc cây Bồ Đề, trên chiếc bồ đoàn, một con rồng trắng nhỏ lặng lẽ cuộn tròn.

Dưới ánh sáng mờ nhạt của cây nến màu cam, rồng trắng nhỏ cầm trên tay một cuốn kinh Phật, thành kính tụng đọc trong cơn mưa xuân nhẹ nhàng.

“Phải biết thế gian là vô thường; quốc độ thì mong manh không bền chắc; bốn đại là khổ, là không; năm ấm là vô ngã, hay sinh diệt đổi dời, nó giả dối không thật cũng không chủ; tâm là nguồn gốc của mọi điều ác; thân là chỗ tu tập nhiều điều tội lỗi.”

“Hoa Nghiêm thâm sâu, Pháp Hoa bí tuỷ, tâm yếu của tất cả các vị Phật, hướng dẫn của muôn hạnh Bồ Tát, không ngoài những điều này. Muốn ca ngợi rộng lớn, dù trải qua kiếp cũng không hết, người trí tự khắc hiểu biết.”

“Phải biết sanh tử không ngừng thiêu đốt nên khổ não cũng không số lượng. Do vậy cần phải phát khởi cái Tâm Đại Thừa, mới có thể cứu giúp khắp tất cả chúng sanh, nguyện thay thế cho chúng sanh chịu vô lượng khổ, và khiến cho các chúng sanh rốt ráo được an vui lớn.”*

*Kinh bát đại nhân giác, bản dịch trên thư viện hoa sen

Nhìn thấy Bạch Cơ chăm chú đọc kinh thư, Nguyên Diệu cảm thấy rất hài lòng.

Sau đó, Nguyên Diệu chợt nghĩ, Bạch Cơ đã đang nỗ lực phấn đấu, đêm khuya đọc kinh thư, thì mình cũng nên đọc lại Luận Ngữ, ôn tập đạo lý của thánh hiền.

Thế là, Nguyên Diệu ngồi trước bàn ngọc xanh trong gian phòng, chăm chỉ đọc sách.

Vừa đọc được một trang sách, Nguyên Diệu đã không còn nghe thấy tiếng tụng kinh của Bạch Cơ nữa. Hắn bước đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài.

Dưới gốc cây Bồ Đề, trong cơn mưa xuân, rồng trắng nhỏ đã ôm kinh Phật mà ngủ quên mất rồi.

Con rồng yêu này lại ngủ quên sao?!

Có lẽ vì ban ngày đã làm việc suốt cả ngày, quét dọn toàn bộ Phiêu Miểu các, nấu ăn và còn phá hỏng nhà bếp, nên quá mệt mỏi chăng.

Nguyên Diệu ngáp một cái, rồi quay trở lại bàn ngọc xanh, tiếp tục đọc Luận Ngữ.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 6


Trời trong xanh, ánh nắng mùa xuân rực rỡ. Sau một đêm mưa xuân, cây bồ đề trở nên xanh tươi hơn, lá cây dày đặc trên cây đọng lại những giọt sương ban mai và cả những giọt mưa từ đêm qua.

Những giọt nước trên lá cây phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh, như thể trên cây bồ đề treo ba ngàn thế giới lưu ly.

Nguyên Diệu dậy từ rất sớm nhưng Bạch Cơ còn dậy sớm hơn hắn. Nàng đã ở trong sân sau dọn dẹp những cánh hoa rụng và bùn đất mà mưa xuân mang đến làm bẩn hành lang.

“Bạch Cơ chăm chỉ quá.” Nguyên Diệu cảm thán.

Bạch Cơ đặt cây chổi xuống, nói: “Hiên Chi, ta sợ rằng Bối Đa La về sớm thấy ta chưa làm việc sẽ lại không hài lòng mà trách mắng. Không ngờ, đến giờ ngài và Ly Nô vẫn chưa trở về.”

Nguyên Diệu nói: “Chắc là Bối Đa La và Ly Nô đệ vẫn còn ở chùa Thập Tự thôi.”

Bạch Cơ tiếp tục quét dọn, nói: “Thôi, ta vẫn nên tiếp tục làm việc đi.”

Nguyên Diệu đi đến giếng cổ để múc nước rửa mặt.

Sau khi rửa mặt xong, Nguyên Diệu mở cửa Phiêu Miểu các, chuẩn bị làm ăn.

Ly Nô và Bối Đa La vẫn chưa quay về cho đến giờ ăn sáng.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu nghĩ rằng có lẽ họ sẽ không về ăn sáng.

Vì không có Ly Nô nấu ăn, Bạch Cơ và Nguyên Diệu bắt đầu bàn bạc về bữa sáng.

Bạch Cơ cười nói: “Hay là ta tự làm vậy. Nấu cháo thì ta biết, chỉ cần cho gạo tẻ và nước vào nồi đất, nấu một lát là có thể ăn được.”

Nguyên Diệu nhớ lại cảnh tượng hôm qua khi Bạch Cơ nấu canh hoành thánh mà khiến bếp bị cháy, bèn lắc đầu, nói: “Bạch Cơ, tốt hơn là chúng ta ra ngoài mua vài cái bánh Tất La về ăn.”

Bạch Cơ không vui, nói: “Hôm qua vừa ăn bánh Tất La, hôm nay lại ăn nữa, ta đã ăn đến phát ngán rồi.”

Nguyên Diệu nói: “Bạch Cơ, chịu đựng một chút đi. Ai bảo hai chúng ta đều không biết nấu ăn cơ chứ?”

Bạch Cơ vừa định nói thì một người bước vào Phiêu Miểu các.

Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn, người đến mặc áo choàng đen, đi đôi giày đen, trước ngực đeo một cây thánh giá.

Đó là một giáo sĩ trẻ tuổi của Cảnh giáo.

Nguyên Diệu nhìn kỹ hơn, vị giáo sĩ trẻ này tròn trịa đáng yêu, trông rất quen thuộc.

Chính là Ước Hàn.

Khi Ước Hàn bước vào Phiêu Miểu các, biểu hiện của hắn đầy vẻ mơ màng, nhưng khi nhìn thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng bên quầy nói chuyện, sự mơ màng trên mặt hắn mới dần biến mất.

Ước Hàn vui mừng nói: “Tiểu nhân bái kiến hai vị cao nhân. Lòng từ bi của Đấng tối cao A La Ha thật vĩ đại! Tiểu nhân vừa rồi còn tưởng mình đi nhầm đường! Tiểu nhân quanh quẩn ở chợ Nam, tìm Phiêu Miểu các mãi nhưng không tài nào tìm thấy. Không biết tại sao, tiểu nhân tự nhiên đi vào một con hẻm, rõ ràng trước mắt là một bức tường, vậy mà chớp mắt lại bước vào một cửa hàng. Khi thấy hai vị cao nhân trong cửa hàng, tiểu nhân mới biết mình đã tìm đúng chỗ.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói: “Ước lão đệ, sao ngươi lại đến Phiêu Miểu các?!”

Bạch Cơ cười nói: “Thì ra là người ở chùa Thập Tự.”

Ước Hàn nói: “Là thế này. Hôm qua cao nhân đi rồi, nói là sẽ tìm người giúp đỡ, nhưng sau đó một đi không trở lại, không có tin tức gì. A La Bản thần phụ mãi lo lắng, đêm chẳng ngủ được. Sáng nay, thần phụ vốn định tự mình đến Phiêu Miểu các, mời cao nhân đến xử lý chuyện kỳ quái, nhưng khổ chủ của vụ án mất tích lại bắt đầu kiện tụng kêu oan, lần này là huyện thừa đích thân ngồi xử án, nên A La Bản thần phụ từ sáng sớm đã bị gọi đi công đường đối chất. Do đó tiểu nhân tự nguyện thay thần phụ đến đây.”

Bạch Cơ lẩm bẩm: “À! Cả huyện thừa cũng đã nhúng tay vào. Xem ra nếu không sớm giải quyết A La Bản Tam Thế, thả những người bị giam cầm ra thì mọi chuyện sẽ trở nên rắc rối.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ đang nói gì thế?”

Bạch Cơ cười nói: “Không có gì. Chuyện ở chùa Thập Tự chỉ là việc nhỏ, chỉ cần Bối Đa La đồng ý thì có thể lập tức dẹp yên.”

Ước Hàn có hơi căng thẳng, nói: "Cao nhân, không phải chuyện nhỏ đâu. Chuyện này càng lúc càng kỳ lạ! Tối hôm qua, tiểu nhân đói bụng tỉnh giấc vào nửa đêm, không ngủ được nên dậy đi vào bếp lấy bánh hồ để ăn. Khi đến bên ngoài nhà bếp, tiểu nhân nghe thấy có tiếng nồi niêu va chạm như thể có người đang nấu ăn. Tiểu nhân sợ hãi kinh hoàng, đêm khuya tối tăm thế này ai lại nấu ăn được chứ? Chắc chắn là yêu ma quỷ quái! Vậy nên tiểu nhân đánh liều đốt một cây đuốc xông vào bếp. Và các vị có đoán được không? Một con mèo đen đang ngồi trên bếp nấu món mỳ bột đậu! Nó còn cho vào món mỳ này trứng gà mà tiểu nhân vừa mới mua cùng với rau xanh mà tiểu nhân tự trồng ngoài vườn. Trên bếp đã xếp sẵn mười lăm cái bát, con mèo nấu tổng cộng mười lăm bát mỳ bột đậu. Tiểu nhân ngạc nhiên, lớn tiếng quát tháo, định đe dọa con mèo đen quấy phá. Ai ngờ con mèo ấy lại liếc tiểu nhân một cái, rồi biến mất cùng với mười lăm bát mỳ bột đậu. Tiểu nhân không hề nhắm mắt, con mèo và mười lăm bát mỳ bột đậu biến mất ngay trước mắt tiểu nhân. Trước đây chỉ có thức ăn trong bếp biến mất, nhưng tối qua lại có một con mèo đen nấu ăn, sau đó biến mất cùng món ăn đã nấu xong... Thật quá kỳ quái!”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu liếc mắt nhìn nhau, cả hai đều im lặng.

Ly Nô tối qua đã đến chùa Thập Tự, con mèo đen biết nấu món mỳ bột đậu ấy, khả năng lớn chính là Ly Nô.

Ước Hàn tiếp tục nói: "Điều kỳ lạ hơn nữa là món mỳ bột đậu mà con mèo nấu thực sự rất ngon."

Nguyên Diệu không kìm được mà hỏi: "Ước lão đệ, sao ngươi biết được món mỳ bột đậu của... không, của con mèo đen ngon?"

Ước Hàn mặt đỏ bừng, nói nhỏ: "Vì trong nồi còn dư một ít, tiểu nhân lại đói bụng, nên... lấy ra ăn. Thực sự rất ngon, không ngờ một con mèo lại nấu ăn giỏi hơn cả tiểu nhân."

Nguyên Diệu không nói gì thêm.

Bạch Cơ hỏi: "Ước Hàn, ngươi là đầu bếp à?"

Ước Hàn gật đầu, nói: "Đúng vậy. Cơm nước trong chùa Thập Tự đều do tiểu nhân phụ trách."

Bạch Cơ cười nói: "Thật tốt quá! Ta và Hiên Chi đang lo không biết phải ăn sáng thế nào đây, phiền ngươi vào bếp nấu giúp bọn ta một bữa sáng nhé."

Ước Hàn ngẩn ra, nói: "Có thể, nhưng chuyện kỳ quái ở chùa Thập Tự..."

Bạch Cơ cười nói: "Hôm nay... không, muộn nhất là ngày mai, sẽ được giải quyết thôi. Ước Hàn, ngươi cứ yên tâm mà nấu ăn đi."

Ước Hàn gật đầu.

Nguyên Diệu cảm tạ Ước Hàn rồi dẫn hắn vào bếp.

Ước Hàn đến bếp của Phiêu Miểu các, nhìn quanh một lượt, rồi mở tủ xem xét nguyên liệu còn lại sau trận hỏa hoạn.

"Còn ít phô mai, trứng gà, bột mì. Được rồi, làm đơn giản thôi, ta sẽ nướng bánh phô mai trứng cho các vị."

"Đa tạ Ước lão đệ."

Nguyên Diệu cảm kích nói.

Ước Hàn cho nước vào bột, đánh trứng, cắt nhỏ phô mai, rồi bắt đầu bận rộn.

Nguyên Diệu nhìn Ước Hàn bận rộn, bỗng nhiên hỏi một câu mà hắn đã thắc mắc từ đêm qua.

"Ước lão đệ, trong chùa của các ngươi, có phải có một vị A La Bản Tam Thế không?"

Ước Hàn sững người, dừng tay lại, nói: "A La Bản thần phụ là Nhị Thế, không phải Tam Thế."

"Tiểu sinh biết A La Bản thần phụ là Nhị Thế. Vậy trong chùa của các ngươi, có người nào gọi là A La Bản Tam Thế không?"

Ước Hàn lắc đầu, nói: "Không có."

"Thật sự không có à?"

Nguyên Diệu bối rối, rõ ràng Bối Đa La và Ly Nô đã đi nghe A La Bản Tam Thế thuyết pháp mà.

Ước Hàn nói: "Thật sự không có. Trong chùa Thập Tự chỉ có khoảng mười mấy người, tiểu nhân đều biết rõ, không có ai tên là A La Bản Tam Thế. Ngoài A La Bản thần phụ ra, cũng không có ai khác tên là A La Bản."

Nguyên Diệu ngẩn ngơ, bối rối vô cùng. Hắn rời khỏi bếp, đi vào trong tìm Bạch Cơ.

Bạch Cơ đang ngồi bên bàn ngọc xanh, vừa chờ ăn sáng vừa suy tư điều gì đó.

Nguyên Diệu hỏi: "Bạch Cơ, Bối Đa La và Ly Nô lão đệ rốt cuộc đã đi đâu thế?"

Bạch Cơ cười nói: "Hai người họ đã đến chùa Thập Tự nghe A La Bản Tam Thế thuyết pháp rồi. Tối qua khi hai người họ rời khỏi Phiêu Miểu các, Hiên Chi chẳng phải cũng có mặt sao?"

Nguyên Diệu nói: "Tiểu sinh vừa hỏi Ước lão đệ, trong chùa Thập Tự hoàn toàn không có A La Bản Tam Thế."

Bạch Cơ cười khẽ, chắc chắn nói: "Có đấy. Chỉ là Ước Hàn không nhận ra mà thôi. Thậm chí, cả A La Bản Nhị Thế cũng không nhận ra sự tồn tại của A La Bản Tam Thế."

"À? Vậy A La Bản Tam Thế rốt cuộc là... cái gì?"

Bạch Cơ nghĩ ngợi một lúc, rồi cười nói: "Thế này nhé, Hiên Chi, ta vừa suy nghĩ một chút, mười ba người ở chùa Thập Tự mất tích kỳ lạ cũng là chuyện lớn. Nếu không giải quyết sớm, A La Bản Nhị Thế chắc chắn sẽ gặp rắc rối. Hôm nay A La Bản Nhị Thế lại bị Bất Lương triệu đi, thậm chí còn khiến cả huyện thừa kinh động. Quan lại xưa nay không có nhiều kiên nhẫn, A La Bản Nhị Thế lại có tính cách khó chịu như thế. Lần này, nếu hắn làm phật lòng huyện thừa đại nhân ở công đường có khi lại phải chịu hình phạt nặng. Mà chúng ta đã nhận lời với Tô Lượng, phần thưởng cũng rất hậu hĩnh, nên chúng ta cũng phải làm người có lòng tốt, lập tức chấm dứt thảm họa ở chùa Thập Tự, tránh cho A La Bản Nhị Thế phải chịu tai họa từ trên trời rơi xuống, chịu đòn roi khổ cực. Ngươi ăn sáng xong, thì đi theo Ước Hàn đến chùa Thập Tự gặp A La Bản Tam Thế. Đến chỗ A La Bản Tam Thế, ngươi sẽ gặp được Bối Đa La và Ly Nô. Ngươi nói với Bối Đa La, cơ hội và thời gian để nghe thuyết pháp sau này còn nhiều, trước mắt hãy bảo A La Bản Tam Thế thả người ra trước đã."

Nguyên Diệu ngẩn ngơ, không hiểu ra sao, nhưng hắn quyết định làm theo lời của Bạch Cơ.

"Được rồi. Nhưng mà tiểu sinh phải làm thế nào mới có thể gặp được A La Bản Tam Thế đây?"

Bạch Cơ nói: "Sau khi vào chùa Thập Tự, ngươi chỉ cần tìm một chỗ không có ai, rồi nói một câu ‘A La Bản Tam Thế, xin hãy cho tiểu sinh vào’, là ngươi có thể gặp được A La Bản Tam Thế, cũng như thấy Bối Đa La và Ly Nô."

Nguyên Diệu ngơ ngác gật đầu.

Không lâu sau, Ước Hàn đã làm xong bánh trứng phô mai, nấu một nồi cháo, còn chuẩn bị thêm một ít cá ướp sốt do Ly Nô làm.

Bạch Cơ mời Ước Hàn cùng ăn sáng, nhưng Ước Hàn từ chối, nói rằng mình đã ăn ở chùa Thập Tự rồi.

Nguyên Diệu cảm thấy việc Ước Hàn chỉ nấu mà không ăn có chút không phải, nên tiếp tục mời một cách nồng nhiệt.

Ước Hàn không thể từ chối lòng hiếu khách của Nguyên Diệu, đành ngồi xuống và ăn một chút.

Sau khi ăn sáng xong, Nguyên Diệu cùng Ước Hàn đến chùa Thập Tự.

Khi thấy Nguyên Diệu và Ước Hàn đã đi, Bạch Cơ biết rằng Bối Đa La không thể về ngay, nên nàng duỗi người một cái rồi đi ngủ dưới gốc cây bồ đề.

*

Tại phường Tu Thiện, chùa Thập Tự.

Nguyên Diệu và Ước Hàn đã đến chùa Thập Tự.

Hôm nay, chùa Thập Tự đóng cửa, không mở cửa cho công chúng. Các giáo sĩ trong chùa đều hoảng loạn, tụ tập thành từng nhóm nhỏ, quỳ trước tượng thần Đấng tối cao A La Ha ở đại điện để thành tâm cầu nguyện.

Thì ra vừa rồi có tin tức truyền đến rằng A La Bản Nhị Thế đã khiến quan huyện tức giận vì cố tình truyền giáo tại công đường, và đã bị đánh bằng roi rồi giam vào ngục.

Các giáo sĩ trong chùa cầu nguyện cho A La Bản Nhị Thế, đồng thời cũng thỉnh cầu Đấng tối cao A La Ha từ bi và bảo vệ ngôi chùa thoát khỏi kiếp nạn oan uổng này.

A La Bản Nhị Thế không có mặt nên một giáo sĩ họ Tần làm Phó chủ sự của chùa đã tiếp đón Nguyên Diệu một cách khách sáo.

Phó chủ sự họ Tần chỉ vừa trò chuyện đôi câu với Nguyên Diệu thì có người đến báo rằng quan huyện đã nới lỏng, cho phép đến thăm A La Bản Nhị Thế trong ngục.

A La Bản Nhị Thế nhắn nhủ rằng ông ta đã bị đánh đau, hy vọng Phó chủ sự Tần lập tức mang thuốc trị thương và không quên mang theo thánh thư và giá thập tự đến thăm ông.

Phó chủ sự Tần xin lỗi Nguyên Diệu rồi vội vàng chuẩn bị thuốc, thánh thư, và giá thập tự để đi thăm A La Bản Nhị Thế trong ngục.

Nguyên Diệu đành phải tự mình ở lại trong chùa Thập Tự.

Nguyên Diệu tránh xa đám đông, thực ra các giáo sĩ trong chùa đều bận tâm đến chuyện của mình nên không ai chú ý đến hắn, và đi đến một bức tường, nói: "A La Bản Tam Thế, xin hãy cho tiểu sinh vào."

Vừa dứt lời, trong không gian bỗng lóe lên một vệt ánh sáng vàng chói lóa.

Ánh sáng vàng lan tỏa như những làn sóng, từng đợt bao quanh lấy Nguyên Diệu.

Tiểu thư sinh cúi đầu, thấy từ bàn tay đến cánh tay và bờ vai của mình dần dần biến mất trong ánh sáng vàng.

Nguyên Diệu còn đang ngạc nhiên thì bỗng nhiên mắt tối sầm lại, chân bước loạng choạng.

Sau một khoảnh khắc mơ hồ, Nguyên Diệu bước vào một không gian kỳ diệu.

Đó là một không gian đảo ngược so với thực tại.

Nhìn thoáng qua nơi này giống như là một hình ảnh phản chiếu của đại điện trong chùa Thập Tự.

Trên các xà nhà được trang trí bằng vàng và bạc, một bức tượng thần với vẻ mặt từ bi treo giữa những bụi gai, hoa tươi, nến, và giá thập tự.

Đó là Đấng tối cao A La Ha của giáo phái Cảnh Giáo.

Khi Nguyên Diệu bước vào không gian kỳ diệu này, toàn bộ mọi thứ cũng bị đảo ngược.

Tuy nhiên, sau khi đảo ngược, mọi thứ trước mắt hắn lại trông hoàn toàn bình thường.

Nguyên Diệu nhìn thấy trong đại điện có mười bốn người và một con mèo đen đang quỳ.

Những người này cùng với con mèo đen, đang quỳ thành một vòng tròn trước tượng Đấng tối cao A La Ha, và tất cả đều đang lắng nghe điều gì đó.

Trong số mười bốn người đó, Nguyên Diệu nhận ra Bối Đa La.

Con mèo đen kia, Nguyên Diệu chỉ cần nhìn bóng dáng thôi cũng biết đó là Ly Nô.

Nguyên Diệu nhìn lên tượng Đấng tối cao A La Ha, và hắn ngạc nhiên khi phát hiện ra đôi môi của bức tượng đang mở ra và khép lại, như thể đang nói chuyện.

Khi Nguyên Diệu có suy nghĩ rằng "tượng Đấng tối cao A La Ha đang nói chuyện", thì trong đầu hắn lập tức xuất hiện những lời nói:

"Thánh phụ A La Ha, thánh tử Mi Thí Ha và thánh linh Tịnh Phong Vương hợp thành ba oai lực."

"Chân lý vô vi, huyền diệu khó gọi tên, công dụng rõ ràng, được gọi là Cảnh Giáo."

"Nếu không truy cầu, không cố chấp, sẽ có thể thanh tịnh và sáng suốt. Nếu có thể thanh tịnh và sáng suốt, sẽ có thể giác ngộ và chứng đắc."

"Đấng tối cao trước tiên cử chúng sinh lễ bái chư Phật, chịu khổ thay chư Phật.”

Đúng vậy, giọng nói của Đấng tối cao A La Ha xuất hiện trực tiếp trong tâm trí của Nguyên Diệu, chứ không phải từ tai.

Nguyên Diệu vô cùng ngạc nhiên.

Chẳng lẽ là thần linh giáng thế? người truyền giáo là Đấng tối cao A La Ha của Cảnh Giáo?!

Trời ơi, đây là tình huống gì đây, không chỉ có Bối Đa La của Phật giáo đến Thần Đô, mà ngay cả Đấng tối cao A La Ha của Cảnh Giáo cũng đã giáng lâm sao?!

"À! Vạn năng Đấng tối cao A La Ha! Lại có thêm một người huynh đệ đến với chúng ta. Mọi người cùng chào đón hắn nào."

Tượng Đấng tối cao A La Ha trong không gian phát ra "giọng nói".

Mười bốn người cùng một con mèo đen đồng loạt quay đầu, nhìn chằm chằm vào Nguyên Diệu.

Con mèo đen nhìn thấy Nguyên Diệu, ngạc nhiên nói: "Mọt sách, sao ngươi lại đến đây?"

Nguyên Diệu run giọng đáp: "Là Bạch Cơ bảo tiểu sinh đến. Xin hỏi, ai trong các ngươi là A La Bản Tam Thế?"

Ngoài Bối Đa La, mười ba người còn lại đều nhìn nhau, có vẻ bối rối, không ai nói lời nào.

Nguyên Diệu quan sát kỹ những người đó.

Họ có người nam, người nữ, có người già, người trẻ, người lớn tuổi nhất là một cụ ông đã lớn tuổi, còn người nhỏ tuổi nhất là một thiếu niên khoảng mười tuổi. Họ có người mặc lụa là gấm vóc, đeo trang sức vàng bạc ngọc ngà, trông giống quý tộc. Có người mặc áo vải thô đã sờn cũ, đi giày vá chằng vá đụp, giống như dân thường trong chốn thị thành.

Mười ba người này chắc hẳn là những người mất tích một cách bí ẩn gần đây tại chùa Thập Tự, khiến cả Thần Đô bàn tán xôn xao.

Những người mất tích này không có vẻ sợ hãi hay khổ sở, họ không tỏ ra mệt mỏi hay suy sụp, mà sắc mặt còn hồng hào, tinh thần phấn chấn, biểu cảm bình thản và vui vẻ.

Họ quỳ quanh tượng Đấng tối cao A La Ha lắng nghe thuyết pháp, trông giống như đang tận hưởng một buổi dạo chơi xuân trong ánh nắng tươi sáng.

Ly Nô nói: "Mọt sách, những người này đều không phải là Tam Thế, ngươi hiện đang ở bên trong Tam Thế..."

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: "Ý ngươi là sao?"

Ly Nô giơ móng chỉ xung quanh, nói: "Tam Thế chính là ngôi chùa này. Ngôi chùa Thập Tự đã thành tinh, bị tinh thần truyền giáo của Nhị Thế cảm động, nên đã tin theo Cảnh Giáo."

"Hả?!"

Nguyên Diệu ngạc nhiên.

Ly Nô tiếp tục: "Ngôi chùa Thập Tự này tự nhận mình là Tam Thế. Nó thấy Nhị Thế buồn phiền vì không thể thu hút tín đồ nên muốn giúp đỡ Nhị Thế. Vì vậy, nó đã nuốt chửng một số người, rồi ngày đêm truyền giáo cho họ."

"?!"

Nguyên Diệu càng thêm sững sờ.

Tượng Đấng tối cao A La Ha mấp máy đôi môi, và một giọng nói trực tiếp vang lên trong đầu Nguyên Diệu. Chính là giọng của A La Bản Tam Thế, tức là ngôi chùa Thập Tự đã thành tinh.

"Ta vì ngưỡng mộ cha xứ A La Bản mà tự gọi mình là A La Bản Tam Thế."

Khi Nguyên Diệu hiểu rằng âm thanh phát ra từ tượng Đấng tối cao A La Ha thực ra chỉ là ngôi chùa yêu quái, hắn bèn cảm thấy bớt sợ hãi hơn. Hắn tò mò hỏi: "Tại sao ngươi lại ngưỡng mộ cha xứ A La Bản?"

Giọng của A La Bản Tam Thế vang lên trực tiếp trong đầu Nguyên Diệu.

"Từ khi ta thành tinh, vì là yêu quái của một ngôi nhà nên ta không thể đi lại tự do, không có bạn bè vì vậy ta rất cô đơn. Những người sống trong ta hầu hết đều rất nhàm chán, cuộc sống của họ vô cùng tẻ nhạt, đến mức ta không muốn nhìn họ. Vì thế, trong lòng ta trống rỗng. Từ khi cha xứ A La Bản từ Trường An đến Lạc Dương và sống trong ta, ta lặng lẽ quan sát cuộc sống của ông, và phát hiện ra ông vô cùng thú vị. Ông có niềm đam mê mãnh liệt với đức tin, cuộc sống của ông tràn đầy sức sống, không gì có thể đánh bại ông, ông thật sự... thật sự quá rực rỡ. Khi nhìn thấy ánh sáng của cha xứ A La Bản, trái tim trống rỗng và cô đơn của ta đột nhiên được lấp đầy, cuộc sống tối tăm của ta cũng có ánh sáng, vì vậy ta theo ông mà tin vào Cảnh Giáo và tự đặt cho mình cái tên A La Bản Tam Thế."

Hóa ra A La Bản Tam Thế chính là ngôi chùa Thập Tự. Nó đã thành tinh và bị ảnh hưởng bởi A La Bản Nhị Thế nên tin vào Cảnh Giáo.

Nguyên Diệu cố gắng hiểu chuyện này vì hắn chưa từng gặp phải điều gì tương tự, trong một thời gian ngắn không biết phải tiếp nhận thế nào.

Giọng của A La Bản Tam Thế lại vang lên trong đầu Nguyên Diệu.

"Cha xứ A La Bản rất lo lắng vì Cảnh Giáo không thu hút được tín đồ nên ta muốn giúp ông gánh bớt nỗi lo. Vì vậy nhân lúc ông tổ chức Thánh Lễ, ta đã giúp ông chiêu mộ tín đồ. Ta chỉ chiêu mộ được mười ba người, những người này sau khi được ta ngày đêm truyền giáo đã tin vào Cảnh Giáo. Họ sống trong ta, không thiếu thốn gì, và cuộc sống rất vui vẻ. Bây giờ ngươi đến đây, tổng cộng đã có mười bốn người."

Con mèo đen không vui nói: "Ngươi quá ngốc nghếch, không biết đếm à, tính cả mọt sách thì tổng cộng là mười sáu người, còn có ta và Bối Đa La nữa."

A La Bản Tam Thế nói: "Ngươi là mèo đen, không tính là người. Ta chỉ có ý định giúp cha xứ A La Bản chiêu mộ tín đồ là con người, không định giúp ông chiêu mộ một con mèo. Bối Đa La, không có ý xúc phạm, ngươi cũng không phải là người. Hơn nữa, ngươi là người dị giáo, thuộc về tà đạo. Ta để ngươi nghe thuyết pháp của ta là vì ít ra ngươi cũng là một vị Bồ Tát, ta tôn trọng ngươi nên để ngươi tắm trong ánh sáng từ bi và vĩ đại của Đấng tối cao A La Ha để gột rửa bụi bẩn dị giáo xám xịt của ngươi."

Ly Nô không phục nói: "Sao gia lại không thể tin vào Cảnh Giáo?! Đêm qua, tín đồ của ngươi còn kêu đói, gia đã làm bữa khuya cho tất cả mọi người đấy!"

A La Bản Nhị Thế nói: "Làm bữa khuya là một chuyện, tin vào tôn giáo lại là chuyện khác. Món quà ta muốn tặng cho linh mục A La Bản là tín đồ con người, chứ không phải một con mèo đen."

Nguyên Diệu nhăn mặt nói: "A La Bản Nhị Thế, ngươi không được vô lễ với Bồ Tát!"

A La Bản Nhị Thế đáp: "Ta rất lễ độ với Bồ Tát mà, mấy hôm nay ta đã kể cho ngài rất nhiều kinh điển và câu chuyện của Cảnh Giáo. Ngài hỏi gì ta đều nói hết. Vì linh mục A La Bản từng dạy rằng, phải dùng tình yêu bao dung thế giới này, yêu tất cả mọi thứ trong thế giới này, bao gồm cả mèo đen và Bồ Tát của tôn giáo khác."

Bối Đa La nghe thấy vậy bèn nở nụ cười.

Nguyên Diệu nhìn quanh, rồi nói: "Những người này là những người mất tích ở chùa Thập Tự sao? Nếu họ đã tin vào Cảnh Giáo, sao ngươi không thả họ về?"

A La Bản Nhị Thế đáp: "Ta định thu đủ một trăm người rồi mới thả họ về. Một trăm tín đồ Cảnh Giáo sẽ là món quà ta tặng cho linh mục A La Bản. Khi linh mục thấy đột nhiên có một trăm người tin vào Cảnh Giáo, chắc chắn sẽ rất vui."

Nguyên Diệu nhăn mặt nói: "A La Bản Tam Thế, ngươi hãy mau thả họ về đi. Vì họ mất tích một cách bí ẩn ở chùa Thập Tự, gia đình của họ đã kiện linh mục A La Bản lên quan phủ. Hiện giờ, linh mục đã bị đánh một trận ở công đường. Đợi đến khi ngươi thu đủ một trăm người, thì có lẽ linh mục đã bị đánh chết rồi."
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 7


A La Bản Nhị Thế có hơi thất vọng, nói: "Thì ra lòng thành kính và nhiệt tình của ta lại gây rắc rối cho linh mục A La Bản sao?"

Nguyên Diệu nhìn quanh mười ba tín đồ, thấy họ đều khỏe mạnh, sắc mặt bình yên. Cả thân thể lẫn tinh thần của họ dường như không bị tổn hại gì dù bị A La Bản Nhị Thế giam giữ.

"Tiểu sinh cũng không biết phải nói sao. Nói chung, đây chỉ là một hiểu lầm nhỏ, ngươi thả mọi người ra thì linh mục sẽ không sao."

"Được rồi. Tiếc là không thể thu đủ một trăm tín đồ."

A La Bản Tam Thế nói một cách thất vọng.

Ly Nô nói: "Tam Thế, ngươi cứ từ từ thu dần dần là được. Đừng nói chứ ngươi quả thật biết truyền giáo đấy, giỏi hơn cả Nhị Thế nhiều. Gia đã bị ngươi thuyết phục rồi, gia tính tin vào Cảnh Giáo rồi đó."

A La Bản Tam Thế chán nản nói: "Mèo đen, ngươi đừng xen vào nữa, chỉ là một con mèo thôi thì có gì để mà tin tưởng..."

"Xì! Ngươi chẳng qua cũng chỉ là một căn nhà đổ nát mà thôi."

Ly Nô không vui nói.

Bối Đa La nói: "Mèo và nhà cửa đều là chúng sinh. Chúng sinh đều có linh tính, đều có thể có tín ngưỡng."

Ly Nô nói: "Bồ Tát nói đúng thật."

Nguyên Diệu nói: "Thôi đừng tranh cãi nữa. A La Bản Tam Thế, ngươi hãy lập tức thả họ ra đi."

Mười ba tín đồ biết mình sắp được thả ra nhưng chẳng ai muốn rời đi.

"Lạy đức Đấng tối cao A La Ha từ bi! Ta còn muốn tiếp tục ở lại đây chiêm ngưỡng thần tích và nghe tiếng thánh, ta không muốn rời đi."

Một tín đồ già ăn mặc như thương nhân nói.

"Đấng tối cao toàn năng A La Ha! Xin người giữ lại con chiên ngoan đạo của Người. Ở đây không phải làm việc vất vả, ngày nào cũng được ăn no uống đủ, ta không muốn ra ngoài..."

Một thanh niên gầy gò, ăn mặc rách rưới nói.

"Đấng tối cao A La Ha! Ta không muốn về, về lại phải đối mặt với đủ thứ phiền phức, từ con đường sự nghiệp đến trong phủ, đầy những việc không dễ giải quyết, áp lực rất lớn, thà ở lại đây, không phải lo lắng gì, ngày ngày đều thảnh thơi thoải mái."

Một quý tộc trung niên mặc áo lụa nói.

"Đấng tối cao thông thái A La Ha! Mặc dù có hơi nhớ nhà, nhưng thần tích và âm thanh thần thánh còn cuốn hút hơn, ta muốn ở lại trong vườn địa đàng này thêm vài ngày để được tắm trong thánh quang."

Tín đồ mất tích tên Trương Tam nói.

"..."

Không biết là do tinh thần của họ được nhà cửa trong vườn địa đàng chăm sóc quá tốt hay vì ngoài đời có quá nhiều phiền toái, mà phần lớn tín đồ đều không muốn rời đi. Một số thì nhớ gia đình nhưng cũng muốn ở lại thêm vài ngày. Một số khác thì lưỡng lự giữa việc ở lại hay ra đi, ở hay về đều được.

A La Bản Tam Thế nói: "Lạy Đấng tối cao từ bi A La Ha! Các ngươi hãy trở về đi. Hãy nhớ, phải yêu tất cả mọi thứ trên thế gian này, yêu vị hoàng đế của chúng ta, yêu cha nương của chúng ta, yêu thầy của chúng ta, yêu người thân, bạn bè và người yêu của chúng ta, cũng phải yêu cả những người xa lạ. Những con chiên lạc lối, nếu tâm trí các ngươi một lần nữa bị che phủ bởi bụi mờ và không thể nhìn rõ sự chỉ dẫn của Đấng tối cao A La Ha, các ngươi có thể tìm đến linh mục A La Bản. Ông ấy sẽ dùng lòng tin kiên định nhất để gột rửa tâm hồn các ngươi và chỉ đường cho cuộc đời các ngươi."

Mười ba tín đồ biết mình phải rời đi, bèn khóc nức nở, không nỡ chia tay.

Tuy nhiên, A La Bản Tam Thế đã quyết định thả họ ra.

Từng luồng ánh sáng vàng lóe lên, mười ba tín đồ bị xoay ngược lại thân thể trong ánh sáng như nước, rồi từng người một biến mất.

“Đúng rồi, khi các ngươi đến gặp linh mục A La Bản, đừng quên nói là A La Bản Tam Thế đã bảo các ngươi đến!”

Mười ba tín đồ đều đã biến mất, lúc này tinh linh trong ngôi nhà mới chợt nhớ đến điều quan trọng nhất, vội vàng bổ sung.

Nhưng mười ba tín đồ đã rời đi từ lâu, không biết họ có nghe thấy không.

Trong không gian ảo mộng, chỉ còn lại Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La.

"Ba người các ngươi có muốn rời đi không?"

Tượng thần A La Ha hé miệng, và “tiếng nói” vang lên trong đầu Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu nhìn về phía Bối Đa La.

Bối Đa La nói: "A La Bản Tam Thế, nghe ngươi giảng pháp, lão phu cảm thấy rất sâu sắc. Tuy chưa nghe đủ nhưng duyên đã đến, lão phu cũng phải đi rồi."

"Cũng được. Khi nào có dịp lại đến."

A La Bản Tam Thế nói.

Với tiếng nói của A La Bản Tam Thế, một luồng ánh sáng vàng bao phủ lấy Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La. Đây là dấu hiệu cho thấy tinh linh trong ngôi nhà sắp đưa họ rời khỏi không gian ảo mộng này.

Ly Nô hỏi: "Này, Tam Thế, ngươi định đưa chúng ta đi đâu?"

A La Bản Tam Thế đáp: "Đến chùa Thập Tự thật sự."

Ly Nô nói: "Vừa nãy ngươi đã đưa mười ba người mất tích trở lại chùa Thập Tự, hiện giờ chắc chắn ở đó rất hỗn loạn. Hay là ngươi đưa chúng ta về thẳng Phiêu Miểu các, để chúng ta khỏi phải đi thêm một đoạn đường."

"..."

A La Bản Tam Thế im lặng một lúc, rồi mới nói: "Ta chỉ là một tinh linh nhỏ trong căn nhà, tu luyện cũng chưa được bao lâu, yêu lực không đủ. Ta chỉ có thể đưa các ngươi đến một nơi trong khu vực phường Tu Thiện. Phiêu Miểu các nằm ở chợ Nam, cách phường Tu Thiện khá xa, ta không thể truyền tống được."

Trên đầu ngón tay của Bối Đa La bỗng lóe lên một tia sáng vàng xanh.

Thân hình của Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La dần dần bị ánh sáng vàng xanh bao phủ.

Như gió xuân thổi qua mặt, tựa như hòa tan vào dòng nước, giống như bước vào một cõi Cực Lạc.

Trước mắt Nguyên Diệu lóe lên một luồng sáng rực rỡ, làm cho mắt không thể mở ra.

Nguyên Diệu không biết mình đã dừng lại trong luồng ánh sáng vàng bao lâu, có thể chỉ là một khoảnh khắc, cũng có thể chỉ là một cái nháy mắt, rồi mọi cảm giác đều biến mất.

Khi Nguyên Diệu lấy lại cảm giác và có thể nhìn rõ mọi thứ, một cảnh tượng xanh tươi rực rỡ đập vào mắt hắn.

Nguyên Diệu nhắm mắt lại, rồi mở ra lần nữa. Màu xanh bắt đầu có hình dạng, đó là một cây bồ đề xanh tươi, tán lá như một chiếc ô lớn che kín cả khoảng trời.

Xung quanh cảnh vật cũng dần hiện rõ hơn.

Dưới cây bồ đề, cỏ xanh như tơ, một hồ sen bảy báu lấp lánh ánh nước phản chiếu bầu trời và những đám mây. Những bông sen bảy màu nở rộ, đung đưa trong gió, tỏa hương thơm ngát, sắc màu rực rỡ.

Cảnh vật trước mắt rất quen thuộc, đây chẳng phải là hậu viên của Phiêu Miểu các sao?!

A La Bản Nhị Thế không có đủ yêu lực để truyền tống Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La về Phiêu Miểu các.

Nhưng Bối Đa La thì có thể.

“Khò… khò…” Một tiếng ngáy nhẹ nhàng vang lên.

Nguyên Diệu, Ly Nô và Bối Đa La nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy một con rồng trắng nhỏ đang cuộn tròn như một đám mây trắng trên tấm đệm dưới gốc cây bồ đề, ngủ say sưa.

Bối Đa La thấy vậy, nói: “Lão phu không ở đây, nó lại lười biếng thế này…”

Ly Nô nói: “Đây không phải là lười biếng mà là thói quen hàng ngày. Chủ nhân không có việc gì thì ngủ, đây là thói quen xưa nay của nàng.”

Nguyên Diệu vội nói: “Thực ra, Bạch Cơ hôm nay dậy rất sớm, còn sớm hơn cả tiểu sinh, nàng đã chăm chỉ quét dọn cả sân sau rồi.”

Rồng trắng nhỏ nghe thấy động tĩnh, mở một mắt ra. Thấy Bối Đa La, nó bèn mở to cả hai mắt và đứng thẳng dậy.

“Ai da, Hiên Chi, Bối Đa La, Ly Nô, sao các ngươi về sớm thế?”

Bối Đa La nói: “Bạch Cơ, trên thế gian này, mọi chuyện đã xảy ra đều không có sớm hay muộn, tất cả đều xảy ra đúng lúc.”

Nghe thấy những lời này, rồng trắng nhỏ liền đứng nghiêm, hóa thành hình người.

Bạch Cơ chắp tay cúi đầu, nói: “Bối Đa La, ngài nói rất đúng.”

Bối Đa La bước tới ngồi xếp bằng dưới gốc cây bồ đề.

“Lão hủ muốn nhập định thiền quán, chứng ngộ bằng tâm, lấy ngộ làm sở đắc.”

Bạch Cơ vội vàng lùi lại, cúi đầu nói: “Không dám quấy rầy tôn giả tu hành.”

Thế là, Bối Đa La ngồi xếp bằng dưới gốc cây bồ đề, bắt đầu nhập thiền.

Ngay khi Bối Đa La nhắm mắt, cơ thể ông ta bắt đầu biến đổi. Ông thoát khỏi hình dạng lão già áo xanh và hóa thành tiền thân của Lục Độ Mẫu - Công chúa Bát Nhã Nguyệt.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt thân hình mảnh mai, dung mạo kiều diễm, thần sắc an nhiên và từ bi. Nàng mặc một bộ áo lụa màu xanh, trang phục theo kiểu nữ tử Thiên Trúc, mái tóc đen dài dày một nửa búi lên, một nửa thả xuống, toàn thân phát ra một loại ánh sáng xanh trong suốt.

Nguyên Diệu ngạc nhiên.

Ly Nô lưỡi líu lại, nói: “Hóa ra, tín ngưỡng Phật giáo, lão già có thể biến thành cô nương xinh đẹp sao?!”

Nguyên Diệu vội nói: “Ly Nô lão đệ đừng nói bậy, bất kính với Bồ Tát! Bạch Cơ từng nói, đây là các pháp thân khác nhau của Bồ Tát.”

Bạch Cơ đứng lặng, thành kính nhìn l*n đ*nh đầu của Công chúa Bát Nhã Nguyệt.

“Ôi, ánh hào quang thực sự đã mờ đi nhiều… Từng nghe nói Bồ Tát cũng có thiên kiếp, không ngờ lại đúng như vậy. Nghĩ kỹ lại, một Bồ Tát không có hào quang tương đương với một vị thần không có sức mạnh, quả là tình trạng nghiêm trọng... Không biết Phật Tổ có thiên kiếp không nữa…” Bạch Cơ lẩm bẩm.

Nguyên Diệu theo ánh mắt của Bạch Cơ nhìn lên nhưng không thấy gì cả. Chỉ cảm thấy pháp tướng của Công chúa Bát Nhã Nguyệt vô cùng đẹp đẽ, thánh thiện, trang nghiêm và đáng kính.

Bối Đa La nhập định dưới cây bồ đề.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô không dám quấy rầy Bồ Tát tu hành nên rời khỏi hậu viện, vào trong phòng. Ba người ngồi bên bàn ngọc xanh, vừa uống trà vừa trò chuyện.

Nguyên Diệu và Ly Nô kể lại từng chuyện đã xảy ra ở chùa Thập Tự.

Bạch Cơ cười nói: “Ngôi nhà có tín ngưỡng, còn biết giúp chủ nhân làm việc, cũng là một điều rất thú vị.”

Nguyên Diệu nói: “Bạch Cơ đã biết chuyện này từ lâu rồi sao?”

Bạch Cơ nói: “Hôm đó ta đến chùa Thập Tự, vì bị A La Bản Nhị Thế quấy rầy truyền đạo, làm ta đau đầu nên ta không nhận ra những người mất tích bị mắc kẹt trong không gian ảo do ngôi nhà tạo ra. Sau đó, Bối Đa La đi vào không gian ảo và dùng linh thức quay lại báo cho ta, lúc đó ta mới biết.”

Nguyên Diệu nói: “Thật ra, A La Bản Tam Thế cũng không có ý xấu gì, những người bị mắc kẹt cũng rất thích ở cùng với nó, tất cả chỉ là hiểu lầm.”

Bạch Cơ cười nói: “Chuyện nhỏ thôi mà. Bối Đa La ban đầu định trì hoãn giải quyết chuyện này, ngài ấy muốn ở lại không gian ảo với mười ba người mất tích để nghe A La Bản Tam Thế truyền pháp. Nhưng sáng nay đột nhiên có biến cố, để A La Bản Nhị Thế bớt chịu đau đớn ngài ấy buộc phải giải quyết chuyện này sớm hơn.”

Nguyên Diệu cảm thán: “Thật ra, tiểu sinh vẫn không hiểu được chuyện này, ngôi nhà cũng có thể thành tinh sao? Nó còn sinh ra tín ngưỡng, có suy nghĩ riêng, dự định tập hợp một trăm tín đồ để làm quà tặng A La Bản trụ trì.”

Bạch Cơ cười nói: “Người và phi nhân, đều là chúng sinh, ngôi nhà tất nhiên cũng có thể có suy nghĩ, sinh ra tín ngưỡng.”

Nguyên Diệu nói: “Cũng phải.”

Bạch Cơ thở dài một tiếng.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, sao ngươi lại thở dài?”

Bạch Cơ nói: “Ngôi nhà của người ta ở chùa Thập Tự có thể thành tinh, còn biết suy nghĩ cho chủ nhân, nghĩ điều chủ nhân nghĩ, lo điều chủ nhân lo, muốn tặng chủ nhân một trăm tín đồ. Hiên Chi nói xem, khi nào thì Phiêu Miểu các của ta mới có thể thành tinh, trở thành Bạch Cơ nhị thế, rồi tự mình nỗ lực kinh doanh, tặng ta một trăm nhân quả đây?”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi, nói: “Bạch Cơ nghĩ nhiều quá rồi. Phiêu Miểu các dù có thành Bạch Cơ nhị thế, chắc chắn cũng sẽ lười biếng giống ngươi, nó sẽ không tự mình kinh doanh, tặng ngươi nhân quả đâu.”

Bạch Cơ uống một ngụm trà, nói: “Ôi, thật ghen tỵ với A La Bản Nhị Thế có một chùa Thập Tự trung thành và chăm chỉ như vậy!”

Ly Nô nói: “Chủ nhân, Ly Nô có thể theo tín ngưỡng Cảnh giáo không?”

Bạch Cơ nói: “Được chứ.”

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, tín ngưỡng là chuyện của tâm linh, của đời người, không thể đùa giỡn, ngươi nên suy nghĩ kỹ.”

Ly Nô nói: “Mọt sách, gia đã suy nghĩ kỹ rồi, mấy ngày nay cũng nghe Tam Thế nói nhiều về Phúc Âm. Gia thấy Cảnh giáo có chút thú vị, hợp với tính tình của gia, dự định thử tín xem sao.”

Nguyên Diệu im lặng một lúc, rồi nói: “Cũng được thôi. Về Cảnh giáo, tiểu sinh không hiểu nhiều, nhưng hiểu được rằng các vị thần trong Cảnh giáo đều có lòng đại từ bi, có thể bao dung tất cả, có lẽ cũng sẽ bao dung cả những lỗi lầm của ngươi. Nếu sau này cảm thấy không hợp, không còn tin nữa, Đấng tối cao A La Ha cũng sẽ không trách ngươi đâu.”

“Mọt sách, gia định dành cả đời còn lại của mình để tín ngưỡng Cảnh giáo. Giống như ngươi tín ngưỡng Nho giáo vậy.” Con mèo đen kiên định nói.

Bạch Cơ nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy Công chúa Bát Nhã Nguyệt đang ngồi xếp bằng dưới gốc cây bồ đề.

Bầu trời và mây nổi phản chiếu trong hồ sen bảy báu, có cơn gió tự do thổi qua sân, cỏ xanh dập dờn như sóng.

Bạch Cơ cười nói: “Sân sau của Phiêu Miểu các này trông giống như là sân của bầu trời và gió.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, sao ngươi lại nói vậy?”

Bạch Cơ cười đáp: “Lúc này, Phật giáo, Cảnh giáo, Nho giáo, và cả tín ngưỡng của ta đều đang hòa quyện trong Phiêu Miểu các, sống chung hòa bình, không có mâu thuẫn. Bầu trời có thể bao dung mọi thứ, còn gió thì vô cùng tự do. Phiêu Miểu các này có thể chứa đựng tất cả, lại tự do, cho nên mới là sân của bầu trời và gió.”

Nguyên Diệu nghe vậy, cảm thán: “Vậy thế giới này có thể trở thành thế giới của bầu trời và gió không?”

Bạch Cơ đáp: “Không thể. Hiên Chi, tín ngưỡng có thể là vĩ đại, nhưng tôn giáo thì lại hẹp hòi, tôn giáo sẽ xung đột lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau, thậm chí vì tín ngưỡng khác biệt mà dẫn đến cuộc tàn sát đẫm máu, chiến tranh xấu xa. Tuy nhiên ở Phiêu Miểu các này, trong sân của bầu trời và gió này, các tín ngưỡng lại hòa hợp với nhau, không có mâu thuẫn.”

Nguyên Diệu buồn bã nói: “Hy vọng rằng có thể có một thế giới của bầu trời và gió.”

Bạch Cơ cười nói: “Vậy th, sau này khi ta trở thành đại ma vương đáng sợ nhất trong tam giới lục đạo, ta sẽ tạo ra một thế giới của bầu trời và gió cho Hiên Chi.”

Nguyên Diệu cau mày, nói: “Bạch Cơ không thể lúc nào cũng nghĩ đến việc trở thành đại ma vương, ngươi phải trở thành quân tử.”

Bạch Cơ đáp: “Haiz, Hiên Chi, so với việc trở thành quân tử, thì trở thành đại ma vương vẫn thú vị hơn. Sau khi trở thành đại ma vương, ta vẫn có thể làm điều tốt. Nhưng nếu trở thành quân tử ta sẽ không thể làm chuyện xấu được nữa.”

“Gì? Bạch Cơ còn muốn làm chuyện xấu sao?!”

Nghe xong, Nguyên Diệu vội vàng lấy thánh hiền ra nói bằng tình, động bằng lễ, giáo huấn Bạch Cơ rằng tuyệt đối không được nảy sinh ý định làm chuyện xấu.

Bạch Cơ theo thói quen chống cằm nghe, hồn bay phách lạc.

Ly Nô cũng lười nghe, nói: “Mọt sách đúng là còn đạo mạo hơn cả Bồ Tát, ngay cả Đấng tối cao A La Hán cũng không nghe nổi.”

Nói xong, Ly Nô bèn đứng dậy đi vào bếp nấu cơm tối.

*

Vào buổi hoàng hôn, ánh tà dương rực rỡ.

Ly Nô nấu xong bữa tối, Bạch Cơ đi về phía cây bồ đề, định mời Bối Đa La dùng bữa.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đã sớm tỉnh khỏi thiền định. Nàng ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, ngẩng đầu lên nhìn về phía ánh tà dương rực rỡ phía tây, lắng nghe tiếng gió chiều thì thầm.

Ánh mắt của Công chúa Bát Nhã Nguyệt đầy trí tuệ và sáng suốt, toàn thân tỏa ra ánh sáng thánh khiết trang nghiêm.

Bạch Cơ sững sờ một chút, rồi nói: “Công chúa Bát Nhã Nguyệt, ánh sáng của ngài dường như đã phục hồi, ngài đã tìm được câu trả lời, giải tỏa được khúc mắc rồi phải không?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đáp: “Ta đã giải quyết được sự hoang mang bấy lâu nay, nhưng vẫn chưa tìm được câu trả lời cuối cùng.”

Bạch Cơ cười nói: “Bồ Tát có trí tuệ vô biên, có thể thông suốt ba ngàn thế giới, có thể thấy quá khứ vị lai, với kiến thức và trải nghiệm rộng lớn của ngài, chỉ cần một cơ duyên là có thể nhìn thấu mọi chướng ngại, ngộ ra chân lý.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nhìn Bạch Cơ, nói: “Nhưng cơ duyên đó cần phải đi qua ngàn núi vạn sông, trải qua vô vàn khó khăn mới có thể xuất hiện.”

Bạch Cơ nói: “Thần Phật có ngọn lửa sinh mệnh bất diệt, có vô tận thời gian, không cần giống như con người phù du, phải vội vàng hiểu nhiều đạo lý, hoàn thành nhiều việc trong một trăm năm ngắn ngủi. Con người quá vội vã, hoảng loạn, nên luôn đi lạc đường. Sau khi lạc đường, vì cuộc đời ngắn ngủi, họ cũng không còn nhiều thời gian để trở về chính đạo, tiếp tục tìm kiếm chân lý. Nhiều người cả đời tìm kiếm trong đau khổ, nhưng không thể chờ đợi, không thể nhìn thấy cơ duyên đó. Nhưng ngài là thần Phật, không bị ràng buộc bởi thời gian, ngài sẽ luôn gặp được cơ duyên đó.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt mỉm cười không nói.

Bạch Cơ cũng cười.

“Xem ra, ngài không còn cần Phiêu Miểu các nữa.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt cười nói: “Ta đã thấu suốt rồi. Nếu không bước vào Phiêu Miểu các ta cũng không thể đến chùa Thập Tự, có cơ hội gặp gỡ cơ duyên.”

Bạch Cơ cười nói: “Bối Đa La, vì Phiêu Miểu các đã giúp ngài nên xin hãy nói vài lời tốt đẹp cho ta trước mặt Phật Tổ. Hãy nói với Phật Tổ rằng ta luôn theo lời dặn dò của ngài, chăm chỉ thu thập nhân quả ở nhân gian mà không nghỉ ngơi. Nếu có thể, xin hãy thuyết phục Phật Tổ rút lại hình phạt với ta, cho ta trở về biển. Đã bao nhiêu năm rồi, Phật Tổ không hề gửi một chỉ thị nào, ta luôn nghi ngờ rằng ngài đã quên mất chuyện trừng phạt khiến ta không thể xuống biển.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt cười nói: “Phật Tổ chưa bao giờ quên hình phạt dành cho ngươi. Ngươi không cần vội, ngươi cũng cần trải qua thử thách trong dòng chảy thời gian dài đằng đẵng, chờ đợi cơ duyên đó.”

Bạch Cơ lo lắng nói: “Ta đã chờ đợi mấy nghìn năm rồi, còn phải chờ đến bao giờ nữa?”

“Có lẽ, cơ duyên đó đã xuất hiện bên cạnh ngươi rồi.”

Bạch Cơ nói: “Cơ duyên nào xuất hiện? Ta chẳng nhìn thấy gì cả.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nhìn về phía hành lang, thấy một tiểu thư sinh đang bày đồ ăn trên bàn gỗ tử đàn theo chỉ dẫn của Ly Nô, cười nói: “Thiên cơ bất khả lộ.”

Theo thói quen cũ, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô vẫn theo Công chúa Bát Nhã Nguyệt tập một vài động tác yoga trên bãi cỏ, rồi cả bốn người mới ngồi xuống dùng bữa.

Ly Nô để ăn mừng mình đã tìm được tín ngưỡng cho cuộc đời mèo, đã lâu lắm mới nấu một con cá trắm cỏ hấp.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nhìn chằm chằm vào con cá hấp trên đĩa lá sen, rồi rơi vào trầm tư.

Gần đây vì thường ăn chay, Nguyên Diệu nghĩ rằng mùi tanh của cá đã làm xúc phạm đến Bồ Tát, nên vội nói: “Ly Nô, Bồ Tát không ăn đồ tanh, ngươi mau mang món cá hấp đi đi.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: “Không sao cả. Khi ta dạo qua cõi người để tìm câu trả lời, ta không quá câu nệ về những tiểu tiết như ăn uống. Khi nhìn thấy con cá này, ta bỗng nhớ lại một số chuyện xưa, một số kỷ niệm liên quan đến cá và Bối Đa La.”

Bạch Cơ cười nói: “Có thể kể cho ta nghe không? Ta luôn muốn biết tại sao ngài lại dùng pháp thân của Bối Đa La để dạo qua cõi trần.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: “Lúc ta bắt đầu hoang mang, dần mất đi hào quang, chính là khi ta trải nghiệm bằng pháp thân của Bối Đa La. Những sự kiện xảy ra lúc ấy đã khiến ta rơi vào mê lạc. Vấn đề nằm ở pháp thân của Bối Đa La, nên ta tất nhiên phải dùng pháp thân của Bối Đa La để giải tỏa nghi ngờ và tìm lại hào quang rồi.”

Nguyên Diệu hơi do dự, rồi hỏi: “Bồ Tát, tiểu sinh có một điều không hiểu, không biết có nên hỏi hay không?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt cười nói: “Có thể hỏi. Giải đáp nghi vấn cho chúng sinh cũng là một việc làm công đức.”

Nguyên Diệu hỏi: “Pháp thân của Bồ Tát là thế nào? Ngài lúc thì hiện th*n d*** hình dáng của Bối Đa La, lúc thì lại là Công chúa Bát Nhã Nguyệt như bây giờ, tiểu sinh hoàn toàn không thể hiểu nổi.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đặt đũa xuống, nói: “Câu hỏi này, ta không biết phải trả lời thế nào, dù ta có giải thích thì ngươi cũng chưa chắc đã hiểu. Giống như ngươi không thể giải thích cho một con phù du về cách sống vốn có của con người, ngôn ngữ và tư duy của chúng ta khác biệt. Chưa từng có người phàm nào hỏi ta điều này, ta… ta không biết phải diễn đạt sao cho đúng.”

Bạch Cơ nói: “Để ta giải thích cho Hiên Chi nhé.”

Nguyên Diệu ngồi thẳng lưng, nghiêm chỉnh đáp: “Tiểu sinh xin rửa tai lắng nghe.”

Bạch Cơ nói: “Thời gian là một dòng sông với vô số nhánh chảy, quá khứ, hiện tại, tương lai đều tồn tại trong đó, đây chính là ba ngàn thế giới. Chúng sinh tồn tại trong ba ngàn thế giới, nhưng không thể giao tiếp với chính mình ở những thế giới khác. Phật Tổ và Bồ Tát cũng tồn tại trong ba ngàn thế giới, nhưng họ có thể chia sẻ thần thức giữa các thế giới, đồng thời trải nghiệm cả ba thời kỳ. Mỗi thế giới, Phật Tổ và Bồ Tát có thể sử dụng các pháp thân khác nhau, hoặc không cần dùng pháp thân nào.”

Đầu Nguyên Diệu như bị nổ tung, mắt mờ mịt, tư duy như mớ hỗn độn, hoàn toàn không hiểu được Bạch Cơ đang nói gì.

Bạch Cơ đành giải thích lại: “Ta sẽ dùng một cách so sánh không chính xác lắm nhưng ngươi có thể hiểu. Ngay lúc này, có ba ngàn thế giới, mỗi thế giới đều có một Hiên Chi. Ba ngàn Hiên Chi này đang làm những việc khác nhau, mỗi thế giới xảy ra những sự kiện khác nhau. Mỗi Hiên Chi có những trải nghiệm đời sống khác nhau. Ba ngàn Hiên Chi không biết đến sự tồn tại của nha, cũng không thể giao tiếp với nhau, và đều nghĩ rằng thế giới của mình là duy nhất. Một Hiên Chi chỉ có thể trải nghiệm một thế giới, sống một đời hạn hẹp và thiếu hiểu biết. Sự khác biệt giữa Bồ Tát và ngươi là Bồ Tát có thể chia sẻ thần thức với chính mình ở ba ngàn thế giới khác nhau, liên kết qua tâm thức. Bằng cách này, Bồ Tát có thể biết được những gì xảy ra ở ba ngàn thế giới. Phật Tổ còn thần thông quảng đại hơn, có thể thấy rõ cả quá khứ và tương lai. Công chúa Bát Nhã Nguyệt khi thiền định dưới gốc bồ đề vừa rồi chính là đang kết nối thần thức với chính mình ở ba ngàn thế giới, và đây cũng là lý do tại sao thần Phật hiểu biết và quyền năng hơn người phàm và các sinh linh khác. Mỗi một thế giới của Bồ Tát chính là một pháp thân, pháp thân có thể hiện nguyên hình hoặc hiện dưới dạng chúng sinh khác nhau, không bị giới hạn bởi giới tính hay chủng tộc.”

Ly Nô lẩm bẩm: “Đây chẳng phải là thuật phân thân sao? Nhưng hình như không phải, phân thân ở ba ngàn thế giới… chỉ nghĩ thôi đã thấy không thể làm được rồi…”

Nguyên Diệu há hốc mồm, sau khi nghe Bạch Cơ giải thích, hắn như hiểu ra mà lại như không thông suốt. Điều này đã vượt xa khỏi tầm hiểu biết của hắn, không phải điều mà một người bình thường có thể thông suốt. Dù vẫn còn nhiều điều băn khoăn, nhưng hắn quyết định không hỏi thêm nữa.

Bạch Cơ thở dài nói: “Thực ra, ta cũng giống ngươi, chỉ có thể trải nghiệm một thế giới này, sống một đời hạn hẹp và thiếu hiểu biết. Mục tiêu cả đời của ta là có thể thành Phật, chia sẻ thần thức với chính mình trong ba ngàn thế giới, và khi đó, ta kết hợp với tất cả các phiên bản trong quá khứ và tương lai sẽ trở thành một đại ma vương vô địch siêu cấp của vũ trụ.”

Nguyên Diệu, Ly Nô, và Công chúa Bát Nhã Nguyệt cùng nhìn về phía Bạch Cơ.

Một người ngạc nhiên, một người tán thưởng, một người suy tư.

Bạch Cơ cười nói: “Ta chỉ đùa thôi. Công chúa Bát Nhã Nguyệt, xin đừng xem là thật. Hãy kể lại câu chuyện về Bối Đa La và con cá đi.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt lặng lẽ trầm tư, một lúc sau mới nói: “Trong thế giới của pháp thân Bối Đa La, ta là một vị quốc vương. Vương quốc của ta nằm ở ranh giới giữa sa mạc và biển cả. Một năm nọ, vương quốc gặp phải hạn hán lớn, ruộng đồng khô cằn, không thu hoạch được gì, và một số dân chúng đã chết đói. Nhà chiêm tinh nói với ta rằng, đợt hạn hán này sẽ kéo dài hai mươi năm, ruộng đồng sẽ không có thu hoạch, dân chúng sẽ không tránh khỏi số phận chết đói. Phải rất lâu sau ta mới hiểu được, vận mệnh đang thử thách ta về việc quan sát nhân quả. Dân chúng của ta trong kiếp trước đều là những kẻ tội ác đầy mình, họ chuyển sinh từ địa ngục, đang trải qua kiếp nạn đói khát. Khi hàng triệu kẻ ác chết đói và được siêu độ, các vì sao sẽ chuyển động, và một vị Phật mới sẽ ra đời. Vị Phật mới đó chính là Bối Đa La. Tuy nhiên, vào lúc đó ta chưa học được cách quan sát nhân quả, mà lại đưa ra quyết định khiến ta rơi vào mê lạc, mất đi hào quang. Vì vậy, Bối Đa La đã không thể thành Phật, chỉ trở thành pháp thân của ta.”

Bạch Cơ tò mò hỏi: “Khi đó, ngài đã đưa ra lựa chọn gì?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: “Ta không đành lòng để dân chúng chịu cảnh đói khát, rơi vào vực sâu của cái chết, nên đã nhảy xuống biển, hóa thành một con cá lớn. Con cá bơi đến bờ biển, mắc cạn trên bãi cát, giống như một hòn đảo khổng lồ, để dân chúng đói khát ăn thịt cá. Họ cắt thịt cá, ta lại mọc thêm thịt mới. Để dân chúng không bị chết đói, ta chịu đựng nỗi đau bị cắt thịt suốt ngày đêm, liên tục cung cấp máu thịt cho họ. Nỗi đau thể xác này kéo dài suốt hai mươi năm, cho đến khi cuối cùng có một trận mưa rào, hạn hán chấm dứt, ta mới rời bờ biển và chìm sâu vào lòng biển. Từ khi ta hóa thân thành cá, dân chúng của ta không còn ai chết vì đói nữa. Nhưng đồng thời, Bối Đa La lại không thể thành Phật.”

Nguyên Diệu đầy bối rối, hỏi: “Tiểu sinh không hiểu, Bồ Tát vì sao hy sinh thân mình để cứu khổ cứu nạn, nhưng lại không thể thành Phật?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đáp: “Nỗi ngờ vực của ngươi giống hệt như của ta lúc bấy giờ. Ta đã hoang mang nhiều năm và từng cầu hỏi Phật Tổ, nhưng chỉ nhận được câu trả lời "quan sát nhân quả". Mọi việc trên đời đều có nguyên nhân và kết quả của nó. Thế gian không có gì là ngẫu nhiên, tất cả mọi việc đều là tất yếu. Quan sát nhân quả là một việc rất quan trọng. Ta hóa thân thành cá lớn chịu đựng đau khổ, tuy giúp dân chúng tránh khỏi chết đói nhưng bản thân họ vốn là ác quỷ. Họ sống sẽ vì bản chất ác quỷ mà phạm thêm nhiều tội lỗi, còn khi họ chết đi sẽ đổi lại được một vị Phật. Vị Phật ấy sẽ giáng thế để cứu độ thêm nhiều sinh linh đau khổ. Nhưng vì ta không nỡ, không quan sát nhân quả, khiến Phật Đà không thể giáng thế. Những người đáng lẽ ra được Phật Đà cứu rỗi lại vì ta mà không được cứu giúp. Ta đã luôn băn khoăn rằng liệu ta có sai không khi không nỡ để dân chúng chết đói, mà hóa thân thành cá lớn để cứu họ? Ta đã tìm kiếm câu trả lời trong ba ngàn thế giới. Khi còn trong sự bối rối, ta đã cứu độ sinh linh, nhưng trái tim ta càng thêm bối rối. Trái tim ta mệt mỏi, cũng dần mất đi ánh sáng. Nhưng bây giờ ta đã tìm thấy câu trả lời ở chùa Thập Tự.”

Nguyên Diệu truy vấn: “Ý ngài là gì?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đáp: “Nhân quả là một vòng xoắn, đời này nối tiếp đời kia, ngoài tạo hóa không ai biết được câu trả lời cuối cùng. Chỉ có từ bi và tình yêu thương mới là cứu rỗi cho tất cả sinh linh. Đấng tối cao A La Ha đã hy sinh thân mình vì thế gian, giống như ta hóa thân thành cá lớn lúc trước. Nhưng dù cùng là hy sinh thân mình, suy nghĩ của chúng ta lại khác nhau, một bên là tình yêu và sự tha thứ, một bên là từ bi và sự không nỡ. Tình yêu và sự không nỡ là hai cảnh giới khác nhau. Tình yêu là cảnh giới mà ta cần học hỏi. Quan sát nhân quả không phải là vô tình mà là một loại tình yêu lớn.”

Nguyên Diệu nói: “Tiểu sinh không hiểu…”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi nói: “Nguyên Diệu, nhân quả giống như câu chuyện "tái ông mất ngựa", ai biết đó là phúc hay họa. Nhìn từ góc độ dài hạn và toàn diện, Công chúa Bát Nhã Nguyệt chọn hóa thân thành cá, dùng thân xác để cứu dân chúng, nhưng lại khiến nhiều người phải mất mạng hơn. Những việc làm của dân chúng và những người mà Bối Đa La lẽ ra phải cứu độ sau khi thành Phật.”

Nguyên Diệu nói: “Nhưng đối mặt với dân chúng sắp chết đói, không thể không làm gì. Không làm gì cả là tàn nhẫn và vô tình. Ai có thể toàn tri, toàn năng, nhìn thấu mọi nhân quả chứ?”

Bạch Cơ nói: “Không ai toàn tri, toàn năng, ngay cả Phật Tổ cũng có điểm mù của mình. Vì vậy, quan sát nhân quả là một thử thách mà thần Phật phải trải qua. Công chúa Bát Nhã Nguyệt đã bối rối trước thử thách này, nàng không tìm được câu trả lời, tâm trí bị mây mờ che lấp, mất đi ánh sáng. Nhưng giờ đây, nàng đã giác ngộ. Quan sát nhân quả cũng là một loại tình yêu lớn.”

Dù Nguyên Diệu không hoàn toàn hiểu nhưng cũng quyết định không truy hỏi thêm nữa. Con người và thần Phật là hai loại tồn tại khác nhau, thời gian và không gian của họ khác nhau, cách họ sống cũng khác nhau nên khó mà hiểu được.

Ly Nô thì chỉ tập trung ăn cá, chẳng buồn nghe mấy lời khó hiểu này.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 8


Trăng đã lên đến ngọn cây, gió đêm thoảng nhẹ.

Sau bữa tối, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô, và Công chúa Bát Nhã Nguyệt mỗi người lại làm việc của mình.

Bạch Cơ lấy ra vài cuộn kinh Phật, ngồi quỳ bên bàn ngọc xanh để đọc.

Nguyên Diệu ngồi quỳ bên cạnh Bạch Cơ, yên lặng đọc cuốn Luận Ngữ.

Ly Nô vừa ngâm nga khúc hát vừa rửa nồi rửa bát trong bếp.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt ngồi thiền dưới mái hiên, tắm mình trong ánh trăng.

Bạch Cơ lật giở cuốn kinh, có hơi chán nản nói: “Những cuộn kinh này đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần rồi mà chẳng có cảm ngộ mới nào, vài ngày nữa ta sẽ đi chùa Bạch Mã mượn thêm vài cuốn kinh chưa đọc về tham khảo. Hiên Chi viết giúp ta một lá thư trình bày lên trụ trì Xá Hoài Nghĩa ở chùa Bạch Mã đi.”

Nghe vậy, Nguyên Diệu đặt Luận Ngữ xuống, đứng dậy đi lấy văn phòng tứ bảo từ quầy, rồi chọn một lá thư mời màu trắng thích hợp từ tủ báu.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt ngồi dưới mái hiên, đột nhiên lên tiếng hỏi: “Chùa Bạch Mã? Đó là một ngôi chùa Phật giáo sao?”

Bạch Cơ cười đáp: “Kinh thành Lạc Dương có tới ba ngàn ngôi chùa, nhưng chùa Bạch Mã là ngôi chùa đứng đầu. Đây là ngôi chùa được xây dựng từ thời Hán Minh Đế, khi Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan cưỡi ngựa trắng mang theo kinh sách từ Tây Vực đến Lạc Dương truyền pháp. Khi đó Phật giáo mới được truyền vào Trung Thổ.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: “Nếu chùa Bạch Mã là ngôi chùa Phật giáo đứng đầu Trung Thổ, thì đó chính là nơi thích hợp để ta ở lại.”

Bạch Cơ hơi sững người, hỏi: “Ý ngài là gì? Công chúa, ngài có dự định gì sao?”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: “Ta dự định sẽ ở lại kinh thành Lạc Dương một thời gian, quan sát cuộc sống của nhân gian, tìm lại ánh sáng của mình. Phiêu Miểu các tràn ngập d*c v*ng, đầy rẫy chướng ngại, không phải là nơi thích hợp để ta ở lâu. Ta vừa mới suy nghĩ về việc nên ở lại nơi nào, ngươi nói chùa Bạch Mã là ngôi chùa đứng đầu, vậy ta sẽ đến đó. Tất nhiên, để tránh rắc rối, ta sẽ ở lại chùa Bạch Mã dưới hình thức pháp thân của Bối Đa La.”

Bạch Cơ mắt sáng lên, cười nói: “Việc này... hiện nay, chùa Bạch Mã không phù hợp để ngài ở lại lâu dài, tốt hơn là ngài nên ở lại Phiêu Miểu các. Ở đây, ngài có thể quan sát mọi tình hình của nhân gian, còn ta sẽ là người hầu cận của ngài, chăm sóc cho ngài.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt không hiểu, Bạch Cơ không biết phải giải thích thế nào.

Nguyên Diệu vừa lúc cầm thư mời tới, nói: “Chuyện là thế này, Công chúa Bát Nhã Nguyệt, hiện nay trụ trì chùa Bạch Mã, Xá Hoài Nghĩa, có mối quan hệ rất thân thiết với Võ đế Bệ Hạ. Chuyện giữa Võ đế Bệ Hạ và Xá Hoài Nghĩa thì cả kinh thành đều biết, không ai không biết, điều này đã làm ô uế sự trong sạch của cửa Phật. Ngài là bậc tôn quý của Phật môn, nếu ở lại chùa Bạch Mã có thể sẽ không chịu nổi những điều làm nhục Phật pháp như vậy, sẽ rất tức giận.”

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nghe xong, khẽ nhắm mắt lại, suy tư một lúc. Thông qua sự kết nối tâm linh với ba nghìn thế giới, nàng đã thấu rõ những điều bí mật mà chùa Bạch Mã luôn che giấu.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt không giận, chỉ nhẹ nhàng nói: "Phật đi lại ở nhân gian, tu hành trải qua kiếp nạn, nếu không có thiên ý thì không thể can thiệp vào chuyện thế gian, làm thay đổi quy luật nhân quả. Tham vọng và tội nghiệt của chùa Bạch Mã, tự có nhân quả của chúng. Chúng sinh chìm đắm trong d*c v*ng, trôi nổi lênh đênh giữa biển dục, tìm cầu trong vô vọng mà chẳng thể giải thoát. Ta sẽ không đến chùa Bạch Mã. Tuy nhiên, ta cũng không muốn ở lại Phiêu Miểu Các."

Bạch Cơ khẽ đảo mắt, nhoẻn miệng cười: "Ta có một ý tưởng. Công chúa Bát Nhã Nguyệt, ngài không cần tá túc ở chùa hay ở Phiêu Miểu Các. Ngài hoàn toàn có thể tự lập nơi kinh đô. Ngài thông thạo yoga, vậy hãy mở một phòng dạy yoga, hướng dẫn mọi người tập luyện. Truyền bá đạo lý yoga rộng rãi, giúp mọi người khỏe mạnh, cũng là tích phúc tạo nghiệp lành. Vừa quan sát nhân gian, vừa tu tâm trải qua kiếp nạn, lại vừa truyền dạy yoga, thật là đôi bên cùng có lợi."

Nghe vậy, công chúa Bát Nhã Nguyệt khẽ mỉm cười, nét mặt dường như có hơi tán thành.

Bạch Cơ lại nói tiếp: "Ngài đừng lo không có ai đến học. Ta quen biết nhiều phu nhân quý tộc, họ vốn nhàn rỗi cả ngày không có việc gì làm. Ta sẽ viết thư giới thiệu mời họ đến. Ta cũng sẽ nhờ công chúa Thái Bình quảng bá, biến yoga thành hoạt động yêu thích của những công chúa quyền quý nhất Đại Chu. Khi ấy yoga sẽ trở thành một trào lưu thời thượng, phòng yoga của ngài chắc chắn sẽ tấp nập người đến, e rằng ngài còn không kịp tiếp đón."

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đáp: "Thú vị thật. Phòng yoga của ta sẽ đặt ở đâu đây? Ta mong muốn nó hiện hữu giữa nhân gian, chứ không mờ ảo như Phiêu Miểu Các."

Bạch Cơ cười: "Nếu ngài muốn nó tồn tại giữa nhân gian thì quá dễ.

Ta sẽ cho ngài mượn một vạn quan tiền, ngài cứ tùy ý mua một căn nhà trong kinh đô mà ngài ưng ý, rồi mở phòng dạy yoga. Nửa năm sau, ngài trả lại ta một vạn năm ngàn quan là được."

Nguyên Diệu chỉ biết đảo mắt, thầm nghĩ. Con rồng yêu gian xảo này, ngay cả cho Bồ Tát vay tiền cũng phải tính lãi, mà lại còn là lãi suất cao những năm phần.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt mỉm cười, đưa ra bàn tay ngọc ngà thon thả.

Nguyên Diệu lén lút đảo mắt, trong lòng thầm oán trách. Con rồng yêu này đúng là gian trá, ngay cả cho Bồ Tát mượn bạc cũng phải tính lãi, mà lại là lãi cao năm phần.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt mỉm cười, đưa tay ngọc mảnh khảnh ra.

Một luồng ánh sáng xanh lóe lên.

Trong hậu viện của Phiêu Miểu các, dưới hành lang, trong căn phòng, hiện ra vô số vàng bạc châu báu.

Vàng bạc chất đống như núi, đá quý lấp lánh rải khắp mặt đất, ánh sáng ngọc chiếu rọi rực rỡ cả đêm.

Bạch Cơ cười nói: "Ta suýt quên mất, Bồ Tát khi đi lại thế gian luôn mang theo toàn bộ kho báu của Tây Thiên bên mình! Nhưng những kho báu này từ Tây Thiên không thuộc về cõi nhân gian, chúng đến từ truyền thuyết rồi trở về hư vô, chẳng qua chỉ là những ảo ảnh đẹp đẽ mà thôi."

Cùng với lời nói của Bạch Cơ, những đống vàng bạc châu báu như núi kia dần dần trở nên trong suốt, và biến mất từng chút mộ như bong bóng mộng ảo t.

Bạch Cơ cười nói: "Những vàng bạc châu báu trong Phiêu Miểu các đều là vật của nhân gian, là những thứ có thật, không phải là ảo ảnh. Công chúa Bát Nhã Nguyệt, ngài đang tu hành trải qua kiếp nạn ở nhân gian, tốt nhất là sử dụng những thứ thuộc về nhân gian. Ảo ảnh dù có thể che mắt nhưng cuối cùng cũng sẽ trở về hư vô, sự giao thoa giữa tồn tại và hư vô sẽ làm rối loạn nhân quả, gây ra những phiền toái không cần thiết. Thôi thì thế này, ta chỉ lấy ngài hai phần lãi thôi. Sau nửa năm ngài trả lại ta mười hai nghìn quan tiền là được."

Nguyên Diệu đang ngạc nhiên trước sự xuất hiện rồi đột ngột biến mất của núi vàng biển bạc, nghe Bạch Cơ nói vậy, không khỏi lại lén lút đảo mắt. Con rồng yêu ham tiền này lúc nào cũng không quên bản tính yêu tiền, ngay cả khi cung phụng Bồ Tát cũng không quên kiếm bạc.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: "Ngươi nói cũng không sai. Vàng bạc ảo hóa, dù có lưu thông trong duyên phận nhưng cuối cùng sẽ trở về hư vô, làm rối loạn nhân quả, gây phiền phức cho loài người. Vậy ta sẽ mượn ngươi mười nghìn quan tiền. Nhưng ta sẽ không trả ngươi mười hai nghìn quan tiền. Hai nghìn quan tiền đó ta sẽ trừ vào việc dạy yoga, ba người trong Phiêu Miểu các của các ngươi tiếp tục theo ta học yoga, không thu học phí của các ngươi."

Bạch Cơ khó xử nói: "Cái này... ta thật không muốn học yoga."

Công chúa Bát Nhã Nguyệt nói: "Khi ngươi học yoga, ta sẽ giảng kinh Phật, đạo Phật và các chuyện về chư Phật Tây Thiên."

"Được."

Bạch Cơ cười tít mắt nói. Nàng không quan tâm đến yoga, nhưng lại rất hứng thú với kinh Phật, đạo Phật, nhất là các câu chuyện về chư Phật Tây Thiên.

Nguyên Diệu nghĩ đến việc trong tương lai mình phải học yoga, cảm thấy rất đau khổ. Nhưng hắn cũng không dám phản kháng quyết định của Bạch Cơ, càng không dám phản đối ý tốt của Bối Đa La, chỉ có thể tự thuyết phục mình rằng học yoga cũng không phải là việc xấu, cố chịu đựng là được.

"Công chúa Bát Nhã Nguyệt, việc không nên trì hoãn, đêm nay gió mát trăng thanh, ánh trăng rất đẹp, ta sẽ cùng ngài ra ngoài dạo quanh Thần Đô xem nơi nào thích hợp để mở tiệm yoga?"

Bạch Cơ đề nghị.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt mỉm cười gật đầu.

Vậy là Bạch Cơ và Công chúa Bát Nhã Nguyệt bước ra ngoài dạo quanh Thần Đô dưới ánh trăng.

Nguyên Diệu ngồi dưới ngọn đèn đồng bảy nhánh, viết xong thư bái thiếp gửi cho Xá Hoài Nghĩa. Hắn nhìn thấy quyển kinh do Bạch Cơ tùy ý đặt trên bàn ngọc xanh, bèn lấy một cuốn ra để đọc.

Nguyên Diệu không thể ngộ ra được những ảo diệu trong kinh Phật, cũng không hiểu được những lời thiền ngữ khô khan và khó hiểu, hắn thường xuyên mất tập trung. Hắn nghĩ đến những chuyện xảy ra trong vài ngày qua, từ việc mua lại Bối Đa La đến vụ lộn xộn của A La Bản Tam Thế ở chùa Thập Tự, rồi đến việc Công chúa Bát Nhã Nguyệt dự định mở tiệm yoga ở Thần Đô. Từng chuyện một đều liên quan đến nhân quả, khiến hắn cảm thấy rằng tôn giáo và tín ngưỡng là những điều rất khó hiểu. Những thứ liên quan mật thiết đến lòng người, như tôn giáo, như yêu ghét, như d*c v*ng, có lẽ đều khó hiểu, vì bản chất của lòng người đã khó đoán, khó hiểu.

Ly Nô sau khi dọn dẹp xong bếp núc thì đi vào trong.

Ly Nô liếc nhìn văn phòng tứ bảo đặt trên bàn ngọc xanh, không biết nghĩ đến điều gì, bèn bước đến.

"Ngươi giúp ta viết vài bức thư."

Nguyên Diệu bừng tỉnh, tò mò hỏi: "Ly Nô lão đệ, ngươi muốn gửi thư cho ai? Viết gì?"

Ly Nô nói: "Cuộc đời ta cuối cùng đã có tín ngưỡng, đây là một việc lớn. Ta nghĩ rằng phải viết thư thông báo cho bạn bè thân thích biết, nói cho họ biết rằng ta đã tín ngưỡng Cảnh giáo. Gửi cho ai ư? Ừm, bạn bè thân thích của ta ở Đông Đô và Tây Kinh không nhiều, đếm đi đếm lại, cũng chỉ có Đồi Mồi, A Thử, và con hồ ly thối trên núi Thúy Hoa. Viết cho ba người bọn họ thôi."

"…Được."

Nguyên Diệu đồng ý.

Nguyên Diệu mài mực, trải giấy, bắt đầu cân nhắc từ ngữ để giúp Ly Nô viết thư.

Con mèo đen ngồi bên cạnh, háo hức chờ đợi.

Vì yêu cầu của Ly Nô không cao, nội dung bức thư chỉ cần viết rằng nó đã tín ngưỡng Cảnh giáo, trở thành tín đồ Cảnh giáo là đủ, nên Nguyên Diệu viết rất nhanh, chẳng mấy chốc đã hoàn thành ba bức thư.

"Ly Nô lão đệ, Đồi Mồi, A Thử, Hồ Thập Tam Lang đều đã có thư, chẳng lẽ không viết thêm một bức cho nhị cửu của ngươi sao?"

Nguyên Diệu hỏi.

"Không cần. Cảnh giáo khá nhỏ bé, nhị cửu của ta là người cổ hủ, suy nghĩ nhiều, sợ rằng ông ấy sẽ tưởng rằng ta đã tín ngưỡng dị giáo rồi lo lắng không cần thiết. Quan trọng nhất là Phi Đầu Man chỉ nhận chuyển thư ở Đông Đô và Tây Kinh, nhị thúc ta ở Thục địa, không chuyển được."

Nguyên Diệu vừa cho ba lá thư vào phong bì, vừa ghi tên người nhận, vừa hỏi: “Cái gì là phi đầu man?”

Ly Nô đáp: “Là người đưa thư. Ở Trường An, việc đưa thư cho cả ngàn yêu quái là do con ốc sên chậm chạp kia đảm nhiệm. Còn ở Thần Đô thì tốt hơn một chút, là phi đầu man nhanh nhẹn. Nhưng cũng chẳng phải tốt lắm, ốc sên không lấy tiền, còn phi đầu man lại lấy tiền, mà hắn đầu óc không tốt, hay quên việc, mười lần thì có năm lần đưa nhầm thư.”

Nguyên Diệu đưa ba lá thư cho Ly Nô.

Ly Nô cầm ba lá thư, ra ngoài chặn phi đầu man lại.

Trong lòng Nguyên Diệu tò mò, phi đầu man rốt cuộc trông thế nào, là một loại tồn tại như thế nào? Hay là lén theo Ly Nô ra ngoài xem thử?

Vì vậy, Nguyên Diệu với lòng tò mò bước đến gần cửa lớn của Phiêu Miểu các, mở cửa ra một khe nhỏ, nhìn ra ngoài qua kẽ cửa.

Bên ngoài cửa, dưới ánh trăng một con mèo đen đang gọi lớn vào không trung.

Dưới chân mèo đen còn có hai dây tiền.

“Phi đầu man, phi đầu man có ở đây đêm nay không? Gia có thư cần gửi!”

Nếu lúc này có ai đi ngang qua đây, có lẽ chỉ nghe thấy tiếng mèo đen kêu dưới ánh trăng.

“Meo! Meo meo… meo meo meo…”

Chẳng bao lâu sau, một đám mây đỏ bay đến, rơi xuống một vệt máu tươi.

Một cái đầu người đầy máu bay như sao băng dưới ánh trăng, dừng lại trên không trung bên trên mèo đen.

Cái đầu ấy là của một người đàn ông râu quai nón, có đôi mắt to như chuông đồng, mũi tròn như cái vòng. Đầu hắn bị đứt lìa từ cổ, giống như bị ai đó chém một nhát, vết cắt lộ ra các mạch máu và cơ bắp, vẫn còn rỉ máu.

“Đừng gọi nữa! Đến rồi. Mấy lá thư?”

Phi đầu man nói.

Mèo đen đáp: “Ba lá.”

“Gửi đi đâu?”

Phi đầu man hỏi.

“Một lá gửi đến Đồng Đà Mạc, cho Đồi Mồi. Hai lá còn lại gửi đi Trường An.”

Mèo đen vừa trả lời, vừa đưa hai dây tiền dưới chân cho phi đầu man.

Phi đầu man không vui, kéo dài giọng, nói: “Ba lá thư, ba dây tiền.”

Mèo đen nói: “Phi đầu, Phiêu Miểu các là khách hàng quen của ngươi rồi. Giảm giá chút đi, hai dây tiền thôi. Gửi thư đến Đồng Đà Mạc cũng không xa, ngươi chỉ cần quay đầu là đến nơi.”

Phi đầu man không đồng ý, nói: “Thời buổi này vật giá leo thang, cuộc sống khó khăn. Ta trên có cha nương già, dưới có con nhỏ, còn phải nuôi sống gia đình, cả nhà ta đứt đầu đợi ăn, không thể giảm giá được.”

Ly Nô nói: “Phi đầu man, lần này giảm đi, thường xuyên qua lại, lần sau gia lại tìm ngươi gửi thư, không tìm ai khác.”

Phi đầu man nói: “Mèo đen, ngươi muốn tìm người khác cũng chẳng còn ai nữa. Làm việc đưa thư là một công việc cực khổ, chẳng ai muốn làm. Ở Thần Đô này, việc đưa thư toàn là ta một mình mệt mỏi làm đó.”

Nguyên Diệu qua khe cửa nhìn thấy phi đầu man hình dạng hung tợn, vừa nói chuyện vừa phun máu, không khỏi sợ hãi đến run rẩy.

Phi đầu man nghe thấy tiếng động, lập tức quay đầu, bay về phía cửa lớn của Phiêu Miểu các.

“Ai trốn sau cửa?!”

Nguyên Diệu chỉ thấy một cái đầu máu chảy, mắt trừng trừng, răng nanh hở ra xuất hiện ngoài cửa, đôi mắt của cái đầu ấy đối diện thẳng với hắn qua khe cửa, khiến hắn sợ hãi đến hét lên một tiếng, ngất xỉu.

Phi đầu man cũng bị hù dọa, nhảy lùi lại ngạc nhiên nói: “Chuyện gì xảy ra? Ai ở trong đó? Làm ta sợ muốn chết!”

Cánh cửa của Phiêu Miểu các mở ra, Nguyên Diệu ngất xỉu nằm thẳng trên đất.

Mèo đen nói: “Đó là mọt sách. Phi đầu man, ngươi nhìn xem, ngươi đã dọa mọt sách nhà gia ngất xỉu rồi, giảm giá chút đi.”

Phi đầu man cắn lưỡi, nhìn lướt qua Nguyên Diệu đang ngất xỉu, nói: “Đây là vị Nguyên công tử nổi tiếng trong truyền thuyết sao?”

Mèo đen đáp: “Truyền thuyết gì chứ, chỉ là một mọt sách thôi. Ngươi làm vậy, mọt sách e rằng sẽ càng trở nên ngốc hơn! Giảm giá đi.”

Phi đầu man thấy mình có lỗi, nói: “Được rồi. Lần này là ngoại lệ. Khi Nguyên công tử tỉnh dậy, thay ta xin lỗi một tiếng.”

Nói xong, phi đầu man lập tức nhận tiền, ngậm ba lá thư bay đi.

Ly Nô thấy Nguyên Diệu bất tỉnh nhân sự, lẩm bẩm: “Ôi, Đấng tối cao vạn năng A La Ha! Không ngờ mọt sách còn có tác dụng thế này, có thể tiết kiệm tiền.”

Ly Nô không muốn dìu Nguyên Diệu vào trong, nhưng lo hắn lạnh bèn đi lấy một cái chăn len Ba Tư, đắp lên cho hắn.

*

Gió xuân dịu dàng, nắng mai rực rỡ.

Trong hậu viện của Phiêu Miểu các.

Một cơn gió nhẹ thổi qua, nước trong ao sen thất bảo khẽ lay động, ánh sáng lung linh, những bông sen bảy màu đung đưa trước gió, tỏa sáng rực rỡ.

Bạch Cơ quỳ dưới hiên nhà khâu những tấm đệm mềm nhiều màu sắc. Bên cạnh nàng là những mảnh vải, bông, và các loại chỉ màu khác nhau, những tấm đệm đã khâu xong được đặt gọn gàng sang một bên.

Nguyên Diệu cũng quỳ trên mặt đất, mặt mày rầu rĩ chia đều bông và cắt vải.

Con mèo đen thì đang bận rộn gỡ những sợi chỉ màu bị rối trên bãi cỏ, nhưng chỉ càng gỡ càng rối, cuối cùng một chân của nó cũng bị dây chỉ quấn chặt.

Bạch Cơ khâu những tấm đệm này để tặng cho Công chúa Bát Nhã Nguyệt.

Công chúa Bát Nhã Nguyệt đã chọn được một chỗ ở Thần Đô, mua một tòa nhà và dự định mở một trung tâm yoga.

Ban đầu, Công chúa Bát Nhã Nguyệt định lấy hình tượng Bối Đa La để điều hành trung tâm yoga, nhưng Bạch Cơ cho rằng hình tượng Bối Đa La không hấp dẫn bằng hình tượng của Công chúa Bát Nhã Nguyệt. Dù sao thì rất ít người sẽ đến học yoga từ một ông già nên nàng tự ý đặt tên trung tâm yoga là Bát Nhã Phường trên thiệp mời các phu nhân quý tộc, và tạo dựng câu chuyện về một công chúa quốc gia xa xôi, có xuất thân cao quý nhưng gặp vận rủi, phải lưu lạc đến Đại Đường, công chúa nước Xà Bà với dung mạo tuyệt sắc.

Bạch Cơ đã bịa chuyện đến mức này, không còn đường quay lại, Công chúa Bát Nhã Nguyệt cũng đành chịu, chỉ biết cười và dùng hình tượng thật để quan sát nhân gian ở Thần Đô. Tuy nhiên, Công chúa Bát Nhã Nguyệt không vui lắm khi Bạch Cơ tùy tiện thêu dệt câu chuyện về nàng, nên nàng mỉm cười yêu cầu Bạch Cơ tự tay khâu một trăm tấm đệm mềm cho Bát Nhã Phường, mỗi tấm phải thêu họa tiết hải vân cát tường*, để thử thách lòng thành kính của Bạch Cơ với Phật môn.

* Hoa văn hải vân cát tường: Tức chữa vạn “卐”. Còn được gọi là Cát Tường Hỷ Xoay. Chữ “卍” là một ký hiệu thường thấy trong các tượng Phật và đồ vật Phật giáo, là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật. Theo "Trường A Hàm Kinh", nó là tướng tốt thứ mười sáu, nằm ở ngực của Phật.

Vừa khâu đệm, Bạch Cơ vừa hát: “Tháng tư cỏ xanh tốt, tháng năm ve kêu vang. Tháng bảy ngoài đồng, tháng tám ở hiên, tháng chín ở cửa, tháng mười dế vào dưới giường ta. Tháng bảy sao băng, tháng tám sửa hũ, tháng chín mặc áo, tháng mười thu hoạch. Ngày mồng một gió bắc thổi, ngày mồng hai lạnh thấu xương. Không áo không quần, sao sống qua nổi năm dài?”*

* Bài ca mười tháng bốn mùa: Thời đại của "Thi Kinh" sử dụng lịch Hạ để ghi chép. Dù lịch Hạ cũng có mười hai tháng, nhưng tên gọi không giống với hiện tại. Trong lịch Hạ, từ tháng Giêng đến tháng Mười Hai có các tên gọi như sau: Tam Chi Nhật, Tứ Chi Nhật, Tàm Nguyệt, Tứ Nguyệt, Ngũ Nguyệt, Lục Nguyệt, Thất Nguyệt, Bát Nguyệt, Cửu Nguyệt, Thập Nguyệt, Nhất Chi Nhật, Nhị Chi Nhật.

Nguyên Diệu mặt mày rầu rĩ nói: “Bạch Cơ, sao ngươi lại hát Thi Kinh thê?”

Bạch Cơ cười: “Hiên Chi, bài ca bốn mùa mười tháng này không phải rất phù hợp để hát khi làm việc nặng nhọc sao? Công chúa Bát Nhã Nguyệt bắt ta tự tay khâu một trăm tấm đệm, chẳng khác gì bắt ta làm việc nặng cả.”

Nguyên Diệu vừa dùng kéo cắt vải vừa nói: “Ai bảo ngươi tự ý quyết định hình tượng của Bồ Tát, lại còn bịa chuyện về cuộc đời của Bồ Tát nữa, Công chúa Bát Nhã Nguyệt chỉ bắt ngươi khâu đệm thôi đã là hình phạt nhẹ rồi.”

Bạch Cơ thở dài: “Hiên Chi, ta làm vậy là vì muốn tốt cho Công chúa Bát Nhã Nguyệt. Để cho trung tâm yoga của nàng không phải vắng vẻ, không ai quan tâm. Công chúa của một quốc gia bí ẩn, xuất thân cao quý nhưng gặp vận rủi, lại có dung mạo tuyệt sắc, những điều này mới có thể thu hút người ta, khơi gợi sự tò mò và lòng thương cảm của họ, khiến Bát Nhã phường đông khách, làm ăn phát đạt.”

Nguyên Diệu mặt mày rầu rĩ nói: “Nhưng ngươi không thể bịa chuyện rằng Công chúa Bát Nhã Nguyệt gặp vận rủi, quốc gia tan vỡ, điều này không đúng. Còn Nước Xà Bà, Nước Xà Bà là quốc gia nào vậy? Ta chưa từng nghe qua.”

Bạch Cơ cười: “Nước Xà Bà là một quốc gia nhỏ ở Nam Hải.”

Nguyên Diệu còn muốn khuyên Bạch Cơ vài câu, nhưng mèo đen nhỏ lại vừa gỡ chỉ vừa hỏi: “Mọt sách, sáng nay ta nhận được thư của con hồ ly thối kia, ta không biết chữ, ngươi đọc giúp ta xem bên trong viết gì?”

Trước đó, Ly Nô đã nhờ Phi Đầu Man gửi đi ba bức thư, một gửi cho Đồi Mồi, một gửi cho A Thử, một gửi cho Hồ Thập Tam Lang, thông báo rằng mình đã tin vào Cảnh giáo.

A Thử hồi âm nhanh nhất, ngay lập tức nhờ Phi Đầu Man mang thư hồi đáp.

Trong thư của A Thử chỉ có một chữ: Tán.*

*Là like mạnh í ạ haha

A Thử sống cùng Hoàng tử Ba Tư Tô Lượng, Tô Lượng vốn dĩ đã tin vào Cảnh giáo, và gia tộc của hắn có mối quan hệ sâu sắc với Cảnh giáo, nên A Thử ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi Cảnh giáo, nó tán thành việc Ly Nô tin vào Cảnh giáo.

Đồi Mồi không gửi thư hồi âm mà ngay hôm sau đã trực tiếp từ Đồng Đà Mạc chạy đến Phiêu Miểu các, cố gắng ngăn cản Ly Nô nhưng không thành. Mèo đen và Đồi Mồi lại cãi nhau một trận, không vui vẻ gì rời đi.

Hôm nay, thư hồi âm của Hồ Thập Tam Lang cuối cùng cũng đến.

Ly Nô không biết chữ, khi nhận được thư thì lại vội ra chợ mua đồ, nên nhờ Nguyên Diệu đọc giúp.

Thư hồi âm của Hồ Thập Tam Lang dài đến ba trang giấy, toàn là những lời đoán mò và lo lắng về tinh thần của Ly Nô, cùng với những lời khuyên Ly Nô nên tập trung vào việc tu luyện yêu quái, đừng lầm đường lạc lối. Cuối thư, Hồ Thập Tam Lang còn nói rằng, lời lẽ không thể diễn tả hết được sự nghi ngờ và lo lắng của nó, nên nó quyết định đích thân đến xem tình hình ra sao.

Nguyên Diệu đọc nội dung thư của Hồ Thập Tam Lang cho Ly Nô nghe.

Ly Nô cười lớn: “Hahahaha! Con hồ ly hôi đó đang nghĩ ngợi lung tung gì vậy! Đợi nó đến, ta sẽ dẫn nó đến chùa Thập Tự, biết đâu nó cũng được Đấng tối cao A La Ha Nhị Thế khai thị và cảm hóa, rồi cũng có tín ngưỡng.”

Bạch Cơ hỏi: “Hiên Chi, Thập Tam Lang khi nào sẽ đến vậy? Hôm nay có đến kịp không?”

Nguyên Diệu đáp: “Không, trong thư Thập Tam Lang viết rằng nó đang giúp Lão Hồ Vương làm việc, đến cuối tháng mới có thời gian rảnh đến Thần Đô. Bạch Cơ, nàng đừng hy vọng Thập Tam Lang sẽ đến giúp nàng khâu đệm, không kịp đâu, ta và Ly Nô lão đệ sẽ giúp nàng làm việc.”

Ba người Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô tiếp tục bận rộn.

Đột nhiên, mèo đen nhỏ bị chỉ màu quấn chặt cảm nhận được điều gì đó, bỗng nhảy lên và biến thành hình người.

“Nhị Thế đến rồi! Hôm qua ta đến chùa Thập Tự chịu lễ rửa tội, gia nhập Cảnh giáo, hắn đến để đưa Kinh Thánh và thánh giá cho ta.”

Bạch Cơ nói: “Đã đến là khách. Hiên Chi và Ly Nô đi đón A La Bản Nhị Thế đi.”

Nguyên Diệu đặt kéo xuống, đứng dậy và bước đến bên cạnh Ly Nô, giúp hắn ta gỡ bỏ những sợi chỉ màu đang quấn quanh mình rồi cùng nhau ra ngoài đón A La Bản Nhị Thế.

Khi Nguyên Diệu và Ly Nô đến đại sảnh, họ thấy A La Bản Nhị Thế với vẻ mặt đầy ngờ vực đang đi qua đi lại trong con ngõ cụt bên ngoài Phiêu Miểu các.

Những người có duyên mới có thể nhìn thấy Phiêu Miểu các và bước vào khe hở của không gian thời gian.

Những người không có duyên thì chỉ có thể loanh quanh trong ngõ cụt.

Nguyên Diệu và Ly Nô vội vàng ra ngoài đón khách, và ngay lập tức A La Bản Nhị Thế như thể đột nhiên nhìn thấy Phiêu Miểu các, thần sắc vô cùng ngạc nhiên.

“Ôi! Ôi Trời! Ly Nô lão đệ, Nguyên huynh đệ, cái nhà của các người ở Phiêu Miểu các này cũng đã thành tinh rồi sao?!”

Nguyên Diệu vội vàng lắc đầu, nói: “Không có thành tinh! Không có thành tinh! A La Bản trụ trì, xin mời vào trong rồi hẵng nói chuyện.”

Ly Nô hỏi: “Nhị Thế, ngươi đã mang Thánh Thư và Thánh Giá đến chưa?”

A La Bản Nhị Thế cười, đáp: “Mang rồi.”

A La Bản Nhị Thế lấy từ chiếc túi mang theo bên mình một cuộn sách và một cây thánh giá, rồi đưa cho Ly Nô.

“Ly Nô huynh đệ có thể nhận được lời kêu gọi của Đấng tối cao A La Ha và tắm mình trong ánh sáng thánh đại từ bi, ta thật sự rất vui mừng! Nguyên huynh đệ, ngươi và Bạch Cơ tỷ tỷ có muốn gia nhập Cảnh Giáo không?”

Ly Nô nhận lấy thánh giá và Thánh Thư, vui mừng chạy đi.

Nguyên Diệu sợ nhất là A La Bản Nhị Thế bất ngờ giảng đạo, nên hắn ta vội vàng đổi chủ đề: “A La Bản trụ trì, vết thương của ngươi đã lành chưa?”

Mười ba người mất tích đã quay trở lại nhân gian nên quan phủ tất nhiên thả A La Bản Nhị Thế. Mười ba người nói rằng họ đã được thần chủ gọi lên, bước vào thiên đường lạc viên, nghe thần âm và được dạy dỗ trong lạc viên. Vì tất cả đều là những hiện tượng kỳ lạ không thể giải thích bằng sức mạnh con người, và những người mất tích đều đã trở về bình an, quan phủ không truy cứu thêm về chùa Thập Tự nữa.

Chuyện này đã lắng xuống và trở thành câu chuyện lạ được truyền tụng trong dân gian, trở thành đề tài cho mọi người bàn tán sau bữa cơm.

A La Bản Nhị Thế đáp: “Tốt hơn nhiều rồi! Ôi! Với sự bảo vệ của Đấng tối cao A La Ha, ta chẳng khác nào được kim cương hộ thể, thân thể bất hoại, mấy cái đòn roi cỏn con này tính là gì đâu? Trước kia, ta thường đến chùa Phật và đạo quán giảng đạo, thường xuyên bị đánh nên ta đã quen rồi.”

Nguyên Diệu im lặng một lúc rồi hỏi: “A La Bản Tam Thế thế nào rồi?”

A La Bản Nhị Thế đáp: “Nó vẫn khỏe. Ta đã nói chuyện với nó rồi, ta khen ngợi nó vì tấm lòng chân thành và lòng mộ đạo của nó trong việc truyền giáo, nhưng cũng trách nó vì hành xử bốc đồng, không nên nuốt người, dẫn đến việc mất tích và làm mất danh tiếng của chùa Thập Tự. Ta đã chính thức thu nhận nó làm đệ tử và giao cho nó nhiệm vụ chiêu mộ một trăm tín đồ mỗi năm. Ôi! Đấng tối cao A La Ha vĩ đại! Dưới ánh sáng thánh của Ngài, ngay cả những ngôi nhà cũng có thể được cảm hóa và trở thành những tín đồ trung thành và hữu dụng của Ngài, Ngài thực sự vĩ đại!”

Nguyên Diệu ngạc nhiên đến há hốc miệng.

Nguyên Diệu lịch sự đưa A La Bản Nhị Thế đến hậu viện để gặp Bạch Cơ.

Bạch Cơ trò chuyện khách sáo với A La Bản Nhị Thế, mời ông ngồi xuống, uống trà và hàn huyên.

Nguyên Diệu rót cho A La Bản Nhị Thế một tách trà xuân lộ.

A La Bản Nhị Thế nhận lấy tách trà xuân lộ, vừa uống vừa liếc nhìn Bạch Cơ và Nguyên Diệu, lại muốn nhân cơ hội truyền giáo.

“Bạch Cơ tỷ tỷ, Nguyên huynh đệ, thế gian này đầy rẫy tội lỗi, chúng sinh đều chìm đắm trong đau khổ, chỉ có ánh sáng thánh của Đấng tối cao A La Ha mới có thể xua tan u ám...”

Bạch Cơ đau đầu, vội vàng ngắt lời A La Bản Nhị Thế, cười nói: “A La Bản Nhị Thế, xin hỏi Đấng tối cao A La Ha có nhiệt tình giúp đỡ những người đang rơi vào cảnh làm việc cực khổ không?”

A La Bản Nhị Thế cười đáp: “Tất nhiên là có. Đấng tối cao A La Ha với tấm lòng bao dung, yêu thương mọi người.”

Bạch Cơ chỉ vào những đống vải và bông trên mặt đất, cười nói: “Ta phải may một trăm cái đệm, điều này xem như là việc cực khổ. Ngươi truyền giáo dù sao cũng chỉ ngồi nói, chi bằng ngươi giúp ta may đệm. Vừa chăm chỉ truyền giáo, vừa đích thân giúp đỡ những người đang chịu khổ đau, điều này mới thật sự thể hiện rằng Đấng tối cao A La Ha từ bi yêu thương mọi người.”

A La Bản Nhị Thế ngớ người, sau đó gật đầu nói: “Được thôi. Chúng ta ở chùa Thập Tự đều tự may áo và cờ thánh, không phải tự khen, nhưng tay nghề may vá của ta cũng không tệ đâu.”

Bạch Cơ cười nói: “Không cần may đâu, ta phải tự tay may. Ngươi chỉ cần giúp ta sắp xếp bông, cắt vải, phân loại chỉ thôi. Ôi, ta không được như ngươi, có một căn nhà thành tinh hóa thành A La Bản Tam Thế, âm thầm giúp ngươi làm việc. Ta cũng hy vọng Phiêu Miểu các có thể thành Bạch Cơ Nhị Thế, giúp ta làm việc.”

A La Bản Nhị Thế vừa cắt vải vừa nói: “Ôi, Bạch Cơ tỷ tỷ, tất cả đều nhờ vào ân đức của Đấng tối cao A La Ha, là phép lạ xảy ra dưới ánh sáng thánh của Ngài! Nếu ngươi tin vào Cảnh Giáo, biết đâu Phiêu Miểu các cũng có thể thành tinh.”

Bạch Cơ cười nói: “A La Bản Nhị Thế, vì ngươi đã giúp ta làm đệm, ta sẽ cho ngươi một ý tưởng truyền giáo. Cách truyền giáo của ngươi không phải sai nhưng hiệu quả quá thấp, số tín đồ chiêu mộ được có hạn. Ngươi có chạy rã chân, nói hết lời, người nghe ngươi nói cũng chỉ có hạn. Ngươi cần triều đình giúp một tay.”

A La Bản Nhị Thế đáp: “Bạch Cơ tỷ tỷ thật viển vông, làm sao triều đình có thể giúp ta được?”

Bạch Cơ nói: “Từ khi Võ đế lên ngôi, đã có không ít người phản đối, người ta phản đối vì bà là phụ nữ, người khác phản đối vì không hài lòng với cách bà trị quốc, bà luôn cần những lời ca tụng về quyền lực thần thánh và những điềm lành để củng cố quyền lực và địa vị của mình. Tại sao Phật giáo lại hưng thịnh? Vì "Kinh Đại Vân" là nguồn gốc của việc Võ đế lên ngôi. Tại sao Đạo giáo vẫn còn trường tồn? Vì Đạo giáo cũng ủng hộ Võ đế, giúp bà trị quốc bình thiên hạ. Cảnh Giáo của các ngươi... Cảnh Giáo hình như chẳng có ích lợi gì, nhưng các ngươi có thể tạo ra một điềm lành thần thánh để dâng lên Võ đế, chẳng hạn như dựng một tấm bia ca ngợi Đại Chu, có khi Võ đế vui vẻ sẽ ban cho Cảnh Giáo một số ân huệ. Chỉ cần một lời nói của Võ đế bệ hạ, một đạo thánh chỉ cũng đủ để các người chiêu mộ hàng ngàn hàng vạn tín đồ. Điều này còn hữu ích hơn việc ngươi phải chạy vạy khắp nơi, hao tổn tâm tư để truyền giáo, hay phải chịu đòn roi ở các chùa chiền, đạo quán nhiều.”

A La Bản Nhị Thế nghe vậy thì mắt sáng lên, nói: “Ôi! Bạch Cơ tỷ tỷ! Tỷ quả đúng là con chiên thông minh lanh lợi nhất, sáng ngời nhất trong số con chiên mà Đấng tối cao A La Ha chăn dắt trên trần gian! Ta sẽ viết thư và ngay lập tức gửi đến Đại Tần Tự ở Trường An, cùng Giám mục bàn tính về việc này!”

A La Bản Nhị Thế đứng dậy, vội vàng trở về chùa Thập Tự để viết thư.

Bạch Cơ vội ngăn lại, nói: “A La Bản Nhị Thế, ngươi đừng vội về! Ta đã cho ngươi một ý kiến, ngươi phải giúp ta hoàn thành những tấm đệm mềm trước đã.”

A La Bản Nhị Thế không còn cách nào khác, đành ở lại tiếp tục cắt vải.

Nguyên Diệu vừa sắp xếp bông, vừa suy ngẫm về ý tưởng mà Bạch Cơ đưa ra cho A La Bản Nhị Thế.

Bạch Cơ luôn có nhiều ý tưởng, nhưng một nửa trong số đó thường là những ý tưởng tồi, tuy nhiên, việc lập bia ca ngợi công đức Đại Chu nghe cũng không tệ. Võ đế bệ hạ luôn yêu thích những loại cát tường và lời ca tụng này. Biết đâu, nếu Cảnh giáo lập bia công đức cho Đại Chu, thật sự có thể khiến Võ đế bệ hạ vui mừng, và từ đó Cảnh giáo sẽ nhận được sự ủng hộ từ triều đình, phát triển mạnh mẽ.

Đức tin vốn dĩ nên bắt nguồn từ trái tim, thuần khiết và chân thành, nhưng khi đức tin chuyển hóa thành tôn giáo, dường như nó trở nên phức tạp hơn.

Nguyên Diệu không thể hiểu rõ mối quan hệ giữa tôn giáo và đức tin, nên quyết định không nghĩ về nó nữa.

Dù sao thì, Bối Đa La vẫn sẽ ở lại Thần Đô, và hắn cũng sẽ đi đến Bát Nhã Phường để học yoga. Nếu có gì không rõ, hắn vẫn có thể thỉnh giáo. Một ngày nào đó, hắn sẽ hiểu rõ mối quan hệ giữa đức tin và tôn giáo.

Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, bầu trời xanh thẳm và bao la, chứa đựng muôn vật, có cơn gió tự do từ chân trời thổi tới, thổi vào hậu viện của Phiêu Miểu các.

Cỏ xanh rạp xuống, hoa sen lay động, mùa hè đầu tiên đã đến.

(Lục Độ Mẫu – Hết)
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 9


Lạc Dương, Phiêu Miểu các.

Thời tiết đầu hạ, trăng sáng sao thưa.

Vì xuân qua hạ tới, đổi mùa, Bạch Cơ dự định thay đổi các bảo vật trên giá hàng của Phiêu Miểu các theo thời tiết.

Sau bữa tối, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô bắt đầu bận rộn.

Bạch Cơ ở kho tầng hai kiểm tra bảo vật, lấy ra một số vật cũ hợp mùa.

Ly Nô chịu trách nhiệm chuyển các bảo vật mà Bạch Cơ đã chọn từ kho ra ngoài.

Nguyên Diệu thì ở hành lang phía sau cẩn thận lau bụi những cổ vật đã chìm vào giấc ngủ trong thời gian dài.

Dưới ánh đèn gió, Nguyên Diệu chăm thúc lau chùi những vật mà Ly Nô đã chuyển từ kho ra.

Những thứ này đều là các cổ vật đã qua nhiều năm tháng: một chiếc gương đồng cổ với hoa văn chim hạc, một chiếc cung đỏ lấp lánh sau khi lau sạch bụi, một cái rổ làm từ tre đã chuyển sang màu vàng do thời gian, một chiếc cờ có vẽ hình rồng và rùa, và một viên ngọc khắc chữ thần thúc kỳ lạ.

Nguyên Diệu nhìn chiếc cờ bám đầy bụi, tự nói với mình: “Chiếc cờ này dính đầy bụi, trông rất bẩn, có nên rửa sạch trước khi đặt lên giá không?”

Hoa văn hình rồng và rùa trên cờ cùng nhau lắc đầu.

Nguyên Diệu giật mình nhưng rồi lại thấy không có gì lạ, giả vờ không nhìn thấy rồng và rùa lắc đầu, lặng lẽ đặt chiếc cờ sang một bên.

Phiêu Miểu các chưa bao giờ có thứ gì bình thường.

Lúc này, Ly Nô lại mang đến thêm vài món đồ.

Nguyên Diệu vội vàng đứng dậy nhận lấy.

Ly Nô ngáp một cái, nói: “Ôi, kho ở Lạc Dương này lớn hơn kho ở Trường An nhiều quá, bảo vật cũng nhiều hơn hẳn. Bảo vật nhiều không phải là điều xấu, điều này chứng tỏ rằng tuy Phiêu Miểu các cửa hàng không lớn nhưng thực lực mạnh mẽ, hàng hóa phong phú. Tuy nhiên, khi hàng hóa nhiều, việc kiểm kê cũng trở nên khó khăn. Chủ nhân ban ngày ngủ đủ giờ lại không buồn ngủ, ngài càng kiểm kê kho báu của mình, càng hứng thú. Đã kiểm kê hai canh giờ rồi mà tinh thần ngài vẫn sảng khoái, ánh mắt sáng ngời, e là đêm nay sẽ làm việc suốt đêm. Tối nay chúng ta đừng nghĩ đến việc ngủ nữa.”

Nguyên Diệu cười nói: “Ly Nô lão đệ, nếu ngươi mệt thì cứ đi ngủ trước. Tiểu sinh không buồn ngủ, có thể cùng Bạch Cơ sắp xếp xong mọi thứ.”

Ly Nô cảnh giác nói: “Mọt sách làm việc mà gia lại đi ngủ, chẳng phải rõ ràng là ngươi siêng năng còn gia lười biếng sao? Ngươi muốn tăng lương nhưng lại hại gia bị chủ nhân trừ lương à?! Ngươi không ngủ, gia cũng không ngủ, gia sẽ đi rửa vài quả mà ngươi mua ban ngày, ăn để tỉnh táo.”

Nói xong, Ly Nô liền chạy đi nhà bếp.

“Ly Nô lão đệ, huynh nghĩ quá rồi, tiểu sinh chỉ lo cho ngươi, không hề có ý định hại ngươi bị trừ lương....” Nguyên Diệu yếu ớt giải thích.

Nguyên Diệu tiếp tục dọn dẹp, hắn cầm một chiếc hộp gỗ bám đầy bụi lên, thổi sạch bụi, rồi mở hộp ra.

Ngay khi Nguyên Diệu mở chiếc hộp gỗ, dưới ánh trăng, trong không trung vang lên một khúc ca bồng bềnh.

"Trên núi có cây phù dung, dưới đồng có hoa cải.

Chưa gặp quân tử, hoa như nở uổng.

Mây thế nào đây? Không bỏ rơi.

Trên núi có cây du, dưới đồng có cỏ linh chi.

Chưa gặp quân tử, hoa như nở uổng.

Mây thế nào đây? Không chết."

Đó là một nữ nhân đang hát, giọng hát của nàng trong trẻo, mềm mại, tràn đầy đau thương, pha lẫn với một chút hận thù mãnh liệt.

Nguyên Diệu lắng tai nghe kỹ nhưng tiếng hát lại biến mất.

Nguyên Diệu cúi xuống nhìn, chỉ thấy trong chiếc hộp gỗ mở ra có một chiếc quạt tròn cổ.

Nguyên Diệu đặt chiếc hộp gỗ xuống, cầm chiếc quạt tròn lên.

Đó là một chiếc quạt hợp hoan làm bằng tre Hương Phi, mặt quạt làm bằng lụa.

Chiếc quạt hợp hoan giống như một vầng trăng sáng, được Nguyên Diệu cầm trong tay.

Thời gian làm cho mặt quạt bằng lụa trở nên hơi ngả vàng, nhưng những hoa văn tinh xảo trên đó vẫn đẹp đến ngạc nhiên.

Đó là những bông hoa nở rộ.

Nguyên Diệu không nhận ra loài hoa gì, chỉ cảm thấy nó giống như anh đào đang nở rộ, nhưng những cánh hoa lại xếp chồng lên nhau như mẫu đơn, còn dáng vẻ của hoa và lá thì lại như thủy tiên, tinh khiết và thanh tao.

Nguyên Diệu đang ngây người nhìn chiếc quạt thì Bạch Cơ đã uyển chuyển bước tới.

Bạch Cơ thấy Nguyên Diệu cầm chiếc quạt thì miệng nở một nụ cười kỳ quái.

Bạch Cơ đến bên tiểu thư sinh, ngồi xuống.

Nguyên Diệu hoàn hồn, cười nói: “Sao Bạch Cơ lại đến đây? Ngươi đã kiểm kê xong bảo vật chưa?”

Bạch Cơ cười nói: “Chưa. Hình như ta nghe thấy một tiếng ca u oán, nên đi theo tiếng hát tới hậu viện xem sao. Hóa ra là ngươi đã đánh thức chiếc quạt Đồ Hoa rồi.”

Nguyên Diệu mơ hồ nói: “Quạt Đồ Hoa gì cơ?”

Bạch Cơ cười nói: “Thật ra, không phải là ngươi đánh thức quạt Đồ Hoa, mà là quạt Đồ Hoa và ngươi có duyên, nên mượn tay ngươi mà tỉnh dậy.”

Nguyên Diệu dường như đã hiểu ra, nói: “Bạch Cơ, chiếc quạt này có tên là quạt Đồ Hoa à?”

“Đúng vậy.”

Bạch Cơ gật đầu.

“Tại sao nó lại được gọi là quạt Đồ Hoa?”

“Bởi vì trên nó có thêu Đồ Hoa.”

“Đồ Hoa là gì?”

“ Đồ Hoa là một loài hoa trong truyền thuyết. Nguyên Diệu, về cây quạt Đồ Hoa này, có một câu chuyện, ngươi muốn nghe không?” “Muốn chứ. Tiểu sinh rất thích nghe kể chuyện mà.” Nguyên Diệu đặt cây quạt Đồ Hoa xuống và nói. Vậy là Bạch Cơ bắt đầu nhớ lại và kể về câu chuyện liên quan đến cây quạt Đồ Hoa.

*

Cuối triều đại nhà Tùy, ở Lạc Dương. Bạch Cơ đang đi trên con đường mòn ngoại thành, phía sau là một con mèo đen nhỏ. Trong tay Bạch Cơ cầm một chiếc hộp gỗ. Bên trong hộp là một cây con. Vừa đi, Bạch Cơ vừa trầm tư.

Gần đây, ứng với thời đại loạn lạc của nhân gian, thiên tinh thay đổi vị trí, địa mạch đổi hướng, dưới lòng đất của núi Mang dâng lên một luồng linh khí của đất mà hiếm gặp trong hàng trăm năm qua. Nữ thần hoa Thần hoa Bách Hoa Nữ Di đã hạ phàm tại núi Mang, hút linh khí trong địa mạch của núi để tưới cho hoa của mình.

Linh khí của đất có thể sánh với tiên dược, giúp tăng cường yêu lực, hỗ trợ việc tu luyện của yêu quái. Những yêu quái lớn nhỏ trong núi Mang không thích Nữ Di đến lấy linh khí của đất nên rất bài xích nàng. Tuy nhiên, linh khí của địa mạch vốn vô chủ, nên phần lớn yêu quái cũng không làm gì được các thần tiên, đành phải chịu đựng.

Nữ Di ỷ vào tiên lực mà kiêu căng, cũng không quan tâm đến suy nghĩ của yêu quái, chỉ làm theo ý thích của mình mà đến núi Mang lấy những thứ cần thiết.

Hôm qua, Bạch Cơ nhận lời mời của bạn thân Thanh Minh, đến dự tiệc tại núi Mang, và tình cờ gặp Nữ Di trong rừng. Giữa khu rừng âm u, thần hoa Bách Hoa xinh đẹp như một viên ngọc giữa biển đêm, toàn thân tỏa ra ánh sáng dịu dàng, trong không khí thoang thoảng mùi hương thanh nhã nhẹ nhàng.

Hiếm có cơ hội gặp nữ thần hoa Bách Hoa, Bạch Cơ bèn hỏi Nữ Di, loài hoa đẹp nhất thế gian là gì. Nữ Di đáp: “Vật đẹp nhất thường nằm trong truyền thuyết. Trong truyền thuyết, Đồ Hoa là loài hoa đẹp nhất thế gian.”

Bạch Cơ nói: “Ta chưa thấy Đồ Hoa bao giờ.” Nữ Di liền đưa tay ngọc ngà của mình ra, trong hư không, ánh sáng chớp lên và hiện ra một cây con.

“Bạch Cơ, ta tặng cây Đồ Hoa này cho ngươi.”

Bạch Cơ cúi xuống nhìn, nói: “Nhưng trên cây này không có hoa.”

Nữ Di cười và nói: “Mùa xuân gieo hạt, mùa thu thu hoạch, vạn vật trên đời đều cần được chăm sóc và chờ đợi thời cơ để thu hoạch. Đồ Hoa cũng không ngoại lệ. Ngươi cần phải chăm sóc nó, tưới nước cho nó thì nó mới có thể nở hoa.”

Bạch Cơ hỏi: “Ta phải tưới nước cho nó bằng gì? Bằng linh khí của địa mạch núi Mang sao?”

Nữ Di lắc đầu và nói: “Dưỡng chất để Đồ Hoa nở rộ còn quý giá và khó tìm hơn cả linh khí của địa mạch núi Mang. Cần phải dùng tình yêu tuyệt vọng nhất, sâu đậm nhất trên đời để tưới nước thì Đồ Hoa mới có thể nở rộ, hiện ra vẻ đẹp truyền thuyết.”

Bạch Cơ nửa tin nửa ngờ nhận lấy Đồ Hoa. Sau khi cảm ơn, Bạch Cơ chia tay Nữ Di và đi dự tiệc yêu quái của Thanh Minh.

Nhớ lại cuộc gặp gỡ tình cờ với Nữ Di vào đêm qua và việc nhận được cây Đồ Hoa, Bạch Cơ vừa đi vừa nhìn chiếc hộp gỗ.

“Ly Nô, ta luôn có cảm giác như Nữ Di đang lừa ta. Đồ Hoa, vẻ đẹp truyền thuyết gì đó, nghe giống như là dối trá lắm. Những thứ liên quan đến truyền thuyết thường không đáng tin cậy.”

Con mèo đen nhỏ cất tiếng người nói: “Chủ nhân, Ly Nô cũng cảm thấy không đáng tin. Nghe nói Nữ Di vì đến núi Mang lấy linh khí địa mạch nên thường xuyên xung đột với một số kẻ phi nhân, thậm chí đã có yêu quái lớn giao đấu với nàng. Yêu ma trong núi Mang khiến nàng chịu nhiều thiệt thòi, phải chăng nàng đã bị yêu ma làm cho tức giận nên trút giận lên người ngài, bừa bãi tặng một cây hoa dởm để lừa ngài. Khiến ngài ôm hy vọng, nhưng theo cách nàng nói thì ngài sẽ chẳng bao giờ trồng được Đồ Hoa.”

Bạch Cơ nghĩ một lúc rồi nói: “Nếu mục đích của Nữ Di khi tặng ta Đồ Hoa là để ta lao lực vô ích thì nàng nên nói ra những việc cụ thể hơn, phức tạp hơn để ta phải khổ sở, như là phải lên trời tìm sương để tưới, hay xuống địa ngục tìm bùn để bảo vệ hoa. Nhưng nàng lại bảo cần dùng tình yêu tuyệt vọng nhất, sâu đậm nhất trên đời để tưới nước cho cây hoa, yêu cầu này quá mơ hồ, đến cả cố gắng cũng không biết phải đi về đâu…” Bạch Cơ đang nói thì một đội kỵ sĩ cưỡi ngựa phóng như bay trên con đường mòn.

Đội kỵ sĩ này mặc trang phục hoa lệ lao tới như cơn lốc, khí thế hung hăng. Dẫn đầu là một nam nhân trung niên với bộ râu quai nón. Mắt hắn đỏ rực, vẻ mặt say xỉn, dẫn đầu đoàn, hoàn toàn không kiểm soát tốc độ ngựa, lao lên phía trước, bỏ xa cả đội phía sau.

Nam nhân râu quai nón thúc ngựa lao nhanh, suýt đâm vào Bạch Cơ đang đi chậm trên đường. Bạch Cơ phản ứng nhanh, thấy con ngựa hoang lao tới, vội lùi lại vài bước mới tránh được.

Dù vậy, một ít bùn từ móng ngựa bắn lên cũng đã dính vào váy Bạch Cơ.

Con mèo đen nhỏ không thấy rõ chuyện gì xảy ra, chỉ phản xạ leo tót lên cây mận bên đường khi thấy Bạch Cơ tránh đi.

Nam nhân râu quai nón suýt nữa đâm vào người nhưng không nói một lời xin lỗi, chỉ quay đầu thúc ngựa bỏ đi.

Một nhóm kỵ sĩ đuổi kịp hắn, rồi vượt qua Bạch Cơ và tiếp tục thúc ngựa rời đi. Bạch Cơ đứng tại chỗ, nhìn theo bóng dáng của Lạc Tai Hồ dẫn đầu đoàn kỵ sĩ rời xa. Từ trên cành cây, con mèo đen thò đầu ra, nhìn thấy đám kỵ sĩ thiếu lễ phép đó, vô cùng tức giận.

“Chủ nhân, Ly Nô đi ăn thịt bọn họ nhé?”

Bạch Cơ cúi đầu nhìn vết bùn trên váy, cười nói: “Ly Nô, đừng quá nhân từ. Đôi khi, trong vòng xoay của nhân quả và số mệnh, cái chết lập tức là hình phạt từ bi nhất cho con người.”

Mèo đen gãi đầu, nói: “Chủ nhân, Ly Nô không hiểu.”

Bạch Cơ chỉ cười nói: “Ngoại ô ít người qua lại, gần thành sẽ đông đúc hơn. Xem số phận hắn ta thế nào.”

Bạch Cơ quay đầu lại và quên đi chuyện về kỵ sĩ này, rồi lại bắt đầu lo lắng về cây Đồ Hoa mà Nữ Di đã tặng nàng. Nàng rất muốn thấy tận mắt vẻ đẹp truyền thuyết của Đồ Hoa, nên định trồng cây non trong vườn sau của Phiêu Miểu các. Tuy nhiên, nàng không biết phải làm thế nào để Đồ Hoa nở, khiến nàng cảm thấy vô cùng mơ hồ, không có manh mối gì.

Chuyện đó tạm gác lại. Đoàn kỵ sĩ suýt đâm vào Bạch Cơ đã lao nhanh đến vùng ngoại ô. Kỵ sĩ dẫn đầu là một nam nhân có râu quai nón, tên là Tư Đồ Chương. Tư Đồ Chương là một quý tộc giàu có ở thành Lạc Dương, tính cách tàn ác và ngạo mạn, nhờ gia đình giàu có quyền thế nên hắn không coi mạng người ra gì.

Tư Đồ Chương thường thích cưỡi ngựa nhanh. Hắn từng giẫm đạp lên người vô tội nhưng Tư Đồ gia dùng tiền bạc để giải quyết. Hôm nay, Tư Đồ Chương uống rượu với bạn bè tại Kinh Kỳ Doanh, và vì say rượu hắn cưỡi ngựa trở về cùng với bọn nô bộc, không chú ý đến đường đi. Tư Đồ Chương dẫn đầu, chạy ở phía trước.

Khi gần đến thành Lạc Dương, trong thành không được phép cưỡi ngựa nhanh và con đường gần cổng thành cũng có quy định về tốc độ ngựa. Bọn nô bộc muốn nhắc nhở Tư Đồ Chương giảm tốc độ, vì con đường gần ngoại ô thành đã bắt đầu đông đúc. Ba bốn người qua đường nghe thấy tiếng vó ngựa, nhìn thấy đoàn kỵ sĩ Tư Đồ Chương tiến đến từ xa, đều vội vàng tránh sang một bên.

Một bà lão tóc bạc, mặc áo bạc, cầm giỏ tre đi trên đường. Bà lão bị điếc nên không nghe thấy tiếng vó ngựa phía sau. Khi bà nhìn thấy Tư Đồ Chương lao đến, vì đã già yếu, bà không kịp phản ứng, không kịp tránh đường. Tư Đồ Chương thúc ngựa đâm vào bà lão và giẫm đạp lên người bà.

Bà lão lập tức phun ra một ngụm máu, toàn thân co giật và ngất đi. Một số người qua đường thấy vậy, vô cùng ngạc nhiên và hốt hoảng hô hoán. Tư Đồ Chương kéo dây cương, giữa tiếng người ồn ào, cơn say của hắn lập tức tỉnh táo lại. Tuy nhiên, hắn chỉ liếc nhìn bà lão ngã xuống đất rồi lại thúc ngựa định rời đi. Có người qua đường muốn chặn hắn lại nhưng bị hắn vung roi đánh bật ra.

Đường phố lúc đó không đông người, không ai dám chặn Tư Đồ Chương lại, đoàn nô bộc vội vàng bảo vệ chủ nhân rời khỏi nơi đó. Người qua đường tốt bụng cứu giúp bà lão bị ngựa giẫm đạp, hơi thở yếu ớt. Có người chạy đến cổng thành báo quan, còn có người đến làng gần đó gọi lang trung.

Bà lão chưa chết, nhờ sự cứu giúp của người qua đường, bà vẫn còn một chút hơi thở yếu ớt.

Lang trung từ làng gần đó đến và nhận ra bà lão. Bà lão họ Hoa, là người cùng làng với lang trung. Không lâu sau, con trai của bà là Hoa Lâm Hải nghe tin mà đến. Hoa Lâm Hải năm nay mới hai mươi tuổi, chưa có vợ. Cha hắn đã qua đời sớm, chỉ còn lại hai nương con nương tựa vào nhau. Thực ra, Hoa Lâm Hải còn có một người ca ca tên là Hoa Lâm Sơn. Nhiều năm trước, Hoa Lâm Sơn từng giao du với các du hiệp Ngũ Lăng, phạm phải án mạng rồi trốn sang ngoài Ngọc Môn Quan. Nghe nói bây giờ đang làm tiêu sư để mưu sinh ở bên ngoài.

Hoa Lâm Hải thấy nương già bị người giẫm đạp, mạng sống treo trên đầu sợi tóc, hắn vô cùng tức giận, nhưng ngoài nỗi giận dữ hắn còn rất buồn bã. Hắn chỉ nghĩ đến việc cứu nương trước. Bà lão Hoa bị ngựa giẫm nát nội tạng, tuy chưa chết ngay nhưng lại chịu đựng những đau đớn khủng khiếp.

Lang trung khám xong thì lắc đầu thở dài. Ông ta nói với Hoa Lâm Hải rằng nội tạng của bà lão Hoa đã nát, không có cách nào chữa trị, chỉ có thể trông chờ vào số mệnh.

Bà lão Hoa liên tục r*n r* đau đớn và khó thở. Trong những ngày còn lại, bà đau đớn và rên la không ngừng. Hoa Lâm Hải bên cạnh chăm sóc nương, nhìn nương đau khổ sống không được chết cũng không xong, hắn khóc nức nở, nước mắt đầm đìa. Hắn đập tay xuống đất đến nỗi rỉ máu, răng gần như nghiến nát. Ngọn lửa hận thù trong lòng Hoa Lâm Hải bừng bừng cháy lên. Trong đám người qua đường, có người nhận ra Tư Đồ Chương.

Sau khi sự việc xảy ra, Hoa Lâm Hải biết được người đã gây thương tích cho nương mình chính là Tư Đồ Chương.

Hoa Lâm Hải đến báo án tại quan phủ, nhưng quan trường hắc ám, Tư Đồ gia quyền thế ngút trời, không ai thèm để ý đến hắn. Hắn đến nhiều lần, nhưng quan phủ còn nói hắn vu cáo người tốt, dùng gậy đánh đuổi hắn ra khỏi cửa phủ.

Tư Đồ Chương vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, sống an nhiên vô sự.

Hoa lão thái bà cuối cùng cũng trút hơi thở cuối cùng sau cơn đau đớn vật vã suốt ba ngày.

Hoa Lâm Hải căm phẫn, nước mắt chan cơm chôn cất nương mình, rồi bán hết gia sản, biến mất không để lại dấu vết.

Một năm sau, vào mùa đông lạnh lẽo, tại thành Lạc Dương xảy ra một vụ án tàn khốc và đẫm máu, làm chấn động khắp nơi.

Vào một đêm đông, tại nhà Tư Đồ Chương ở phường Minh Nghĩa, cả nhà bị thảm sát.

Những người bị giết bao gồm cả Tư Đồ Chương, vài người hộ viện, vợ của hắn và đứa con gái còn nằm trong tã lót.

Con trai mười tuổi của Tư Đồ Chương khi bị bọn cướp truy sát, đã trốn trong một cái lỗ chó nên may mắn thoát nạn.

Nguyên nhân khiến Tư Đồ gia bị diệt môn bị dư luận đồn đoán đủ điều. Có người nói là bọn cướp giết người để cướp của, giả dạng thành người hầu trà trộn vào nhà, chờ cơ hội để ra tay. Cũng có người nói là kẻ thù báo thù, bởi vì theo tiết lộ từ những người biết chuyện, trên tường phòng ngủ của vợ chồng Tư Đồ Chương có viết bốn chữ "Nợ máu trả máu" bằng máu tươi.

Cuối cùng, sau một cuộc tìm kiếm và điều tra, quan phủ đã phát hành hai lệnh truy nã.

Một lệnh truy nã Hoa Lâm Sơn, một lệnh truy nã Hoa Lâm Hải.

Mọi người mới biết rằng, sau khi nương qua đời, Hoa Lâm Hải đã biến mất, là để đi đến ngoài Quan ngọc tìm ca ca Hoa Lâm Sơn.

Hai huynh đệ họ Hoa lợi dụng thời kỳ hỗn loạn, lẻn vào trong thành trở về Lạc Dương.

Hoa Lâm Sơn đổi tên bán thân làm nô lệ, trà trộn vào Tư Đồ gia Chương, phối hợp với đệ đệ để giết cả nhà Tư Đồ Chương, báo thù cho nương.

Sau khi thành công, huynh đệ họ Hoa đã chạy khỏi Lạc Dương và biến mất trong thời kỳ loạn lạc.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 10


Chợ Nam, Phiêu Miểu các.

Trong sân sau, Bạch Cơ đứng dưới cây bồ đề, đăm chiêu nhìn một mầm hoa.

Ly Nô xách theo một con cá lớn đi ngang qua Bạch Cơ để đến nhà bếp.

"Chủ nhân, chuyện diệt môn của Tư Đồ gia mà trước đây mọi người đồn ầm ĩ có diễn biến mới rồi. Ly Nô nghe nói khi mua cá hôm nay, không phải bọn cướp làm mà là kẻ thù trả thù. Hôm nay mọi người ở chợ đều bàn tán về chuyện này."

Bạch Cơ thờ ơ nói: "Kết oán trả thù, oan oan tương báo, tất cả đều là vô ích. Con người rất thích làm những điều vô ích. Chỉ cần họ không bước vào Phiêu Miểu các thì không liên quan gì đến ta. Ta chỉ quan tâm đến mầm hoa của ta, tại sao đến giờ vẫn chưa nở hoa thế này?"

Ly Nô nghĩ một lúc, rồi nói: "Chủ nhân, bây giờ là mùa đông, không phải mùa hoa nở. Có lẽ phải đợi đến mùa xuân năm sau mới nở."

Bạch Cơ nói: "Nhưng mùa xuân năm nay, mầm hoa cũng không nở."

“Ờm, vậy thì chắc là bị Nữ Di gạt rồi. Ly Nô biết mà, Nữ Di đó chắc chắn không có ý tốt, đưa cho chủ nhân một cây hoa vô dụng không nở. Hay chúng ta lên trời tìm Nữ Di, mắng cho một trận, bắt nàng ta trả lại tiền."

"..."

Bạch Cơ im lặng một lúc, rồi nói: "Ly Nô, mầm hoa này Nữ Di tặng, không phải lấy tiền."

"À! Đồ tặng thì không dễ bắt nàng ta trả lại tiền. Nhưng cũng có thể mắng nàng ta một trận."

"Ài, lên trời mắng Nữ Di cũng là vô ích, tốt nhất là chờ thêm một thời gian nữa xem sao."

Bạch Cơ thở dài, nói vậy.

Thời gian trôi nhanh, năm tháng vùn vụt, thời gian tại Phiêu Miểu các dường như dừng lại như thể côn trùng bị đông cứng trong hổ phách. Không biết từ khi nào, năm tháng đã lặng lẽ đổi thay, bên ngoài đã trải qua hai mươi năm.

Trong thời gian đó, mầm hoa vẫn nằm ở sân sau của Phiêu Miểu các. Mầm hoa giữ nguyên hình dáng ban đầu khi được trồng xuống, không phát triển, không héo tàn, cũng chưa bao giờ nở hoa.

Dần dần, Bạch Cơ và Ly Nô cũng đã quên mất chuyện này.

Đối với mong muốn thấy mầm hoa nở, ngắm nhìn vẻ đẹp tuyệt mỹ của hoa, Bạch Cơ cũng dần dần buông bỏ.

Một ngày nọ, khi Bạch Cơ thức dậy sau giấc ngủ trưa, nàng cảm thấy lòng trống rỗng. Không có việc gì để làm, nàng thong thả đi dạo trong khu vườn sau giữa đám cỏ dại, và vô tình đi đến bên mầm hoa dưới gốc bồ đề.

"Trên đời này, tình yêu tuyệt vọng và sâu sắc nhất là loại cảm xúc gì? Phải đi đâu để tìm thứ cảm xúc này để tưới cho mầm hoa của ta đây?"

Bạch Cơ cúi xuống nhìn mầm hoa, lẩm bẩm tự nói.

Để giết thời gian trong lúc không có khách đến, thiếu niên mặc áo đen đang sắp xếp lại các loại hương liệu Tây Vực trên kệ trong sảnh lớn. Hắn lấy xuống rồi đặt lên, sau khi đặt lên lại không hài lòng, lại lấy xuống rồi sắp xếp lại theo một cách khác.

Trong lúc thiếu niên mặc áo đen đang kiên trì sắp xếp hương liệu, một vị khách với dáng vẻ thất thần bước vào Phiêu Miểu các.

Ly Nô nghe thấy tiếng bước chân, quay đầu nhìn lại.

Bước vào Phiêu Miểu các là một nam nhân anh tuấn mặc áo gấm hoa lộng lẫy.

Có khách đến, lại là khách hiếm hoi của loài người, Ly Nô lập tức nở một nụ cười, để lộ hàm răng trắng đều tăm tắp.

“Khách quan muốn mua gì?”

Nam nhân ngẩng đầu nhìn quanh, quét mắt khắp cửa tiệm u ám rùng rợn, ánh mắt lộ rõ vẻ bối rối.

“Đây là Phiêu Miểu các sao? Nghe nói trong Phiêu Miểu các có một cô nương áo trắng và một con mèo đen… Ta có vào nhầm chỗ không?”

Ly Nô nghe vậy lập tức hiểu ra.

Nhiều năm qua, những vị khách loài người bước chân vào Phiêu Miểu các, một số người giống như nam nhân này là cố tình tìm đến. Họ nghe những lời đồn đại trong dân gian hoặc qua lời kể của người quen, biết về sự tồn tại của Phiêu Miểu các và hiểu được sự kỳ lạ của nơi này. Vì vậy, họ đi khắp nơi tìm kiếm mong đạt được mục đích của mình. Những vị khách như vậy không đến vì những loại hương liệu Tây Vực quý hiếm trên kệ hay những viên ngọc trai bảo thạch đắt giá. Những báu vật trần tục không phải là mục đích của họ. Những thứ họ muốn mua, những khao khát mà họ mong muốn thỏa mãn, đều quý hiếm và khó tìm hơn, và cũng càng khó lòng thỏa mãn.

Ly Nô nói: “Đây là Phiêu Miểu các, khách quan không tìm nhầm chỗ đâu. Con mèo đen anh tuấn, thông minh và đáng yêu vô địch mà ngài nói đến, nó đã ra ngoài rồi. Còn cô nương áo trắng…”

Bạch Cơ đã thản nhiên bước từ bên trong ra.

Bạch Cơ nhìn lướt qua nam nhân, cười nói: “Ta chính là cô nương áo trắng trong Phiêu Miểu các. Ta tên là Bạch Cơ, là chủ nhân của Phiêu Miểu các.”

Nam nhân hỏi: “Nghe nói Phiêu Miểu các có thể thực hiện mọi ước nguyện? Điều đó có thật không?”

Bạch Cơ mỉm cười, trả lời: “Trong Phiêu Miểu các, chỉ cần có thể trả giá, bất kỳ ước nguyện nào cũng có thể thực hiện.”

Nam nhân cắn răng, nói: “Ta bằng lòng trả giá. Xin người thực hiện ước nguyện của ta.”

Bạch Cơ cười hỏi: “Ước nguyện của ngài là gì?”

Bên trong, sau tấm bình phong Hà Đồ Lạc Thư, Bạch Cơ và nam nhân đối diện ngồi bên bàn ngọc xanh.

Nam nhân nói: “Ta muốn khiến một người mất đi ký ức.”

Bạch Cơ hỏi: “Muốn ai mất ký ức?”

Nam nhân nói: “Muốn người con gái ta yêu.”

Bạch Cơ hỏi: “Mất đi ký ức gì?”

Nam nhân đau khổ nói: “Mất đi ký ức về mối thù hận.”

Bạch Cơ lạnh nhạt hỏi: “Chuyện này rốt cuộc là sao?”

“Ta tên là Tư Đồ Hiểu, là người đất Lạc Dương. Khi ta mười tuổi, gia đình không may gặp phải bọn cướp. Phụ mẫu và người thân của ta, kể cả đứa muội muội vẫn còn nằm trong tã lót đều không may mắn thoát nạn, tất cả đều bị bọn cướp sát hại, máu nhuộm đầy cửa. Ta hoảng loạn bỏ chạy, trốn trong hang chó mới thoát được một mạng. Mang trên mình mối thù sâu như biển máu, ta thề phải g**t ch*t bọn cướp. Ta khổ công luyện võ, trải qua muôn vàn khó khăn, cuối cùng đã tìm ra kẻ thù năm đó giết hại cả nhà ta đang ung dung ngoài pháp luật, định cư ngoài quan ải Mạc Bắc.”

Tư Đồ Hiểu ngập ngừng một lúc, rồi mơ hồ kể tiếp: “Ta đã tự tay g**t ch*t kẻ thù, lấy máu trả máu, báo thù cho phụ mẫu và muội muội. Nhưng vì một số lý do nên ta lại yêu con gái của kẻ thù. Ta không giết nàng và còn mang nàng về Lạc Dương, giam giữ trong sơn trang của ta. Vì ta đã giết phụ mẫu nàng nên nàng vô cùng hận ta, không thể tha thứ cho ta.”

Tư Đồ Hiểu dừng lại, dường như tâm trạng tràn ngập suy tư, cảm xúc dâng trào không biết nên nói tiếp thế nào.

Bạch Cơ lạnh lùng nói: “Vì nàng hận ngươi nên ngươi muốn nàng mất đi ký ức, quên đi việc ngươi đã giết phụ mẫu nàng sao?”

Tư Đồ Hiểu gật đầu, nói: “Đúng vậy.”

Bạch Cơ hỏi: “Ngươi muốn nàng mất đi ký ức quên đi mối hận với ngươi, chỉ đơn giản vì ngươi yêu nàng sao?”

Tư Đồ Hiểu lắc đầu, đau khổ nói: “Không phải. Hoa Nhược cũng yêu ta, chúng ta đã từng hẹn ước sẽ yêu nhau trọn đời. Hoa Nhược là tên của nàng. Ban đầu ta đã lừa dối nàng, nàng nghĩ rằng ta tiếp cận nàng là vì tình yêu nhưng thực ra ta tiếp cận nàng để tiếp cận cha và bác của nàng để thực hiện kế hoạch báo thù của ta. Nhưng không biết từ lúc nào, ta thực sự đã yêu nàng. Thậm chí khi báo thù trái tim ta vẫn đấu tranh dữ dội, chiếc cân giữa báo thù và tình yêu dành cho nàng không ngừng nghiêng ngả trong lòng ta, cuối cùng mới dừng lại ở sự báo thù.”

“Cần phải dùng tình yêu tuyệt vọng nhất và sâu sắc nhất trên thế gian để tưới, thì Đồ Hoa mới có thể nở rộ, thể hiện ra vẻ đẹp truyền thuyết.”

Bạch Cơ bỗng nhớ đến lời của Nữ Di và Đồ Hoa mãi không thể nở rộ.

Ánh mắt Bạch Cơ lóe lên, nói: “Ngươi muốn Hoa Nhược mất đi ký ức sao?”

Tư Đồ Hiểu rơi lệ, đau khổ nói: “Đúng vậy. Ta muốn cùng nàng bắt đầu lại từ đầu.”

Khóe miệng Bạch Cơ hiện lên một nụ cười kỳ quái, nói: “Vậy thì như ý nguyện của ngươi.”

Bạch Cơ bảo Tư Đồ Hiểu ngồi chờ bên trong, rồi nàng đứng dậy đi ra hậu viện.

Bạch Cơ đi qua hậu viện, tiến vào nhà bếp.

Trong nhà bếp, một con mèo đen đang pha chế gia vị, chuẩn bị ướp một con cá.

“Ly Nô, có gì ăn được không?” Bạch Cơ hỏi.

Mèo đen trả lời: “Chủ nhân đói rồi sao? Giờ chưa đến giờ ăn tối nên cơm vẫn chưa nấu xong... Trong tủ bếp vẫn còn vài món điểm tâm.”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Điểm tâm không được. Tốt nhất là thứ gì đó không thể nhìn ra được làm từ gì nhưng vẫn có thể ăn được.”

Trong lúc mèo đen pha chế gia vị, nó đã dùng chày đá để nghiền nát một ít hương liệu, bột hương liệu chất thành đống nhỏ trên bàn. Bên cạnh đó, còn một ít bột nếp dư trong một chiếc bát sứ.

Bạch Cơ chợt nghĩ ra điều gì đó, nói: “Ly Nô, dùng bột nếp và bột hương liệu vo thành một viên bột tròn cho ta.”

Mèo đen ngạc nhiên hỏi: “Chủ nhân, dùng loại bột hương liệu nào? Bột thảo mộc? Bột xuyên tiêu? Bột hoa tiêu? Bột gừng khô?”

Bạch Cơ mỉm cười: “Tùy ý.”

Vậy là con mèo đen vung móng vuốt, tùy ý lấy một chút bột gia vị, trộn cùng với bột nếp, rồi nhúng chút nước trong và lập tức nặn thành một viên bột tròn cỡ viên ngọc trai. Con mèo đen đặt viên bột tròn đã nặn xong lên bàn.

Bạch Cơ cầm viên bột tròn lên, một tia sáng vàng rực rỡ phát ra từ đầu ngón tay của nàng, lan tỏa vào viên bột tròn đó. Chẳng bao lâu, viên bột tròn đã biến thành màu vàng óng ánh, tỏa ra ánh sáng rực rỡ.

Bạch Cơ cầm viên bột tròn, thì thầm: "Truyền vào linh lực này, chắc chắn có thể làm một người mất trí nhớ. Tuy nhiên, hiệu quả chỉ kéo dài được ba năm. Nên đặt tên là gì đây? Làm người ta mất trí nhớ quên đi hận thù. Ký ức của con người được hình thành từ cảm xúc và hận thù cũng là một dạng cảm xúc. Mất trí nhớ tức là quên đi mọi cảm xúc. Vậy thì gọi là "Vong Tình Đan" là được rồi."

Con mèo đen lẩm bẩm: "Hóa ra bột hạt tiêu, bột thảo quả, và bột nếp cũng có thể nặn thành "Vong Tình Đan" được."

Bạch Cơ đi vào bên trong, trao viên Vong Tình Đan cho Tư Đồ Hiểu.

Tư Đồ Hiểu vội vã nhận lấy.

Bạch Cơ nói với Tư Đồ Hiểu rằng chỉ cần cho Hoa Nhược uống viên Vong Tình Đan, Hoa Nhược sẽ mất trí nhớ và quên đi hận thù.

Tư Đồ Hiểu hỏi: "Bạch Cơ cô nương đưa cho ta Vong Tình Đan, thì ta phải trả giá gì?"

Bạch Cơ nở một nụ cười bí hiểm, nói: "Không cần vội. Ngươi cứ mang viên Vong Tình Đan về thử trước, nếu nguyện vọng của ngươi được thực hiện, hãy đến Phiêu Miểu các trả công sau cũng không muộn."

Tư Đồ Hiểu cầm lấy viên Vong Tình Đan, vội vã rời đi.

Sau khi Tư Đồ Hiểu rời khỏi, Bạch Cơ đứng một mình trong phòng, dường như đang suy nghĩ điều gì đó.

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc, rồi đột nhiên nhớ ra điều gì.

“Ờm, đi tưới nước cho Đồ Hoa thôi. Biết đâu Đồ Hoa của ta có thể nở hoa rồi."

*

Thời gian trôi qua như dòng nước, thoắt cái đã đến mùa xuân năm sau.

Xuân về, ánh sáng rực rỡ, trong núi Mang, cây cối xanh um cỏ hoa tươi tốt.

Thanh Minh hẹn Bạch Cơ cùng nhau đi dạo ngắm hoa, Bạch Cơ không có việc gì làm, cũng muốn đi dạo quanh núi Mang nên đã đồng ý.

Ly Nô không thích Thanh Minh, không muốn cùng đi ngắm cảnh nên viện cớ nói rằng hôm qua vô tình ăn phải cá khô hỏng, hôm nay đau bụng không muốn ra ngoài.

Bạch Cơ đành một mình đến điểm hẹn.

Bạch Cơ và Thanh Minh dạo chơi trong núi Mang cả buổi sáng, hai tiểu nô xà, một kẻ xách đồ uống và thức ăn, một kẻ mang theo chăn đệm và vật dụng đi theo sau họ.

Thanh Minh vốn là con rắn một sừng khổng lồ đến từ nước Ô Trà, được người đời gọi là Cự Xà núi Mang, nó sống trong Vực U Minh của núi Mang.

Sau khi biến thành hình người, Thanh Minh là một thanh niên rất đẹp trai. Hắn thích sự xa hoa, rất tham hưởng thụ, và thường ăn mặc rất tỉ mỉ. Vì hôm nay nói là đi dạo bộ nên hắn không mặc bộ y phục hoàng kim lộng lẫy và nặng nề mà thường mặc trong địa cung của Vực U Minh, chỉ mặc một chiếc áo dài cổ tròn màu xanh, thắt lưng bằng ngọc bích, khoác bên ngoài một chiếc áo choàng màu xanh núi và nước, toát lên khí chất quý phái.

Hôm nay Bạch Cơ ăn mặc rất đơn giản, một chiếc váy trắng trơn, khoác thêm một lớp lụa nước, tóc đen buộc thành búi đơn giản, và cài một chiếc trâm vàng đơn giản.

Một cơn gió xuân thổi qua, trong rừng núi có những cây xanh thẫm, có những cây xanh nhạt, những sắc xanh khác nhau đan xen tạo thành một bức tranh xanh tươi đầy sắc độ. Màu xanh của núi ngập tràn trong ánh nắng trong veo, đậm nhạt như ngọc phỉ thúy.

Một dòng suối trắng như dải ngọc chảy từ khe núi, nước chảy róc rách, dòng nước trong vắt.

Bạch Cơ đứng bên bờ suối ngắm nhìn cảnh sắc núi non.

"Trong núi Mang này rừng cây um tùm nhưng lại không có hoa. Suốt dọc đường đi toàn là màu xanh, chỉ có lác đác vài bông hoa dại. Thiếu đi cảnh ngắm hoa khi dạo xuân đúng là đáng tiếc." Bạch Cơ nói.

Thanh Minh suy nghĩ một lúc, rồi nói: "Có một nơi rất nhiều hoa. Đó là một trang viên của con người nằm ở ngoài núi Mang. Trang viên đó có một khu vườn rất đẹp, trồng đầy các loại hoa, thu hút rất nhiều yêu quái đến du ngoạn vào ban đêm. Ta cũng thỉnh thoảng đến đó."

Bạch Cơ hỏi: "Có xa không?"

Thanh Minh nói: "Cũng không xa lắm, chi bằng đi xem thử nào." Bạch Cơ đồng ý.

Thanh Minh dẫn Bạch Cơ đi đến trang viên của con người.

Dọc theo dòng suối, Bạch Cơ ngắm nhìn cảnh sắc tuyệt đẹp của núi non, cảm thán: "Cảnh sắc núi non đẹp như tranh, phong cảnh tuyệt mỹ. Haiz, Thanh Minh, đi cùng ngươi ngắm cảnh thật uổng phí cảnh sắc đẹp như tranh này."

Thanh Minh không vui, nói: "Bạch Cơ, ngươi cứ ăn nói tệ hại như thế thì sẽ không tìm được yêu quái nào khác chịu làm bạn với ngươi, tình nguyện cùng ngươi đi dạo xuân ngắm cảnh đâu."

Bạch Cơ nói: "Ai nói chứ? Đợi Đồ Hoa của ta nở rộ, ta sẽ mời hàng ngàn yêu quái đến dự tiệc hoa xuân. Ai không đến ta sẽ ăn thịt nó."

Thanh Minh thở dài, nói: "Bạch Cơ làm thế sẽ không có bạn bè đâu."

Bạch Cơ nói: "Thanh Minh, chẳng phải ngươi cũng không có bạn bè sao? Sinh nhật của ngươi chẳng phải cũng ép buộc yêu quái đến dự tiệc sao? Chỉ có ta là tự nguyện đến."

Thanh Minh nói: "Nói ra thì đau lòng, ta chỉ có một người bạn là ngươi, mọi người đều sợ ta, khiếp hãi ta. Ta ở Trung Thổ này không thân thích lại rất ghét cô đơn, nên mới ép buộc mọi người dự tiệc của ta để không khí huyên náo hơn một chút. Ngươi từ ngoài biển xa đến, giống như ta là khách lạ nơi đất khách, hơn nữa ta là rắn, ngươi là rồng, đều không có chân, hai chúng ta cứ làm bạn với nhau vậy."

Bạch Cơ không đồng ý, nói: "Thanh Minh, loài rồng có chân. Nhưng thôi, chúng ta cứ làm bạn với nhau vậy."

Thanh Minh xoa tay, nói: "Bạch Cơ, sau khi ngắm hoa xong, chúng ta cùng đi trêu chọc mấy tiểu yêu quái mà ta không ưa được không?"

Bạch Cơ thở dài, nói: "Ôi, Thanh Minh, ta chợt hiểu tại sao chúng ta lại không có bạn rồi."

Thanh Minh hỏi: "Tại sao?"

Bạch Cơ trả lời: "Ta ăn nói không giỏi, ngươi thì toàn đi làm bậy, hèn gì chẳng ai muốn chơi với chúng ta cả."

Thanh Minh ủ rũ.

Bạch Cơ và Thanh Minh im lặng đi một đoạn, chẳng mấy chốc đã bước ra khỏi kết giới của yêu quái đến ngoài núi.

Đi qua những khúc quanh núi non, Thanh Minh chỉ về phía xa xa, nơi có một điểm đen đỏ xen lẫn, nói: "Đó là trang viên mà yêu quái rất thích."

Bạch Cơ tò mò hỏi: "Trong trang viên đó có những ai sinh sống vậy?"

Thanh Minh trả lời: "Ta không quan tâm, không rõ lắm. Chỉ biết rằng, trước năm ngoái, khi đến trang viên ngắm hoa vào ban đêm, có thể nghe thấy tiếng khóc của nữ nhân phát ra từ nhà giam trong trang viên, rất bi thương rất ai oán. Đôi khi có thể thấy một nữ nhân xinh đẹp đi lang thang trong vườn, khóc nức nở. Nhưng yêu quái chúng ta không quan tâm đến chuyện của loài người, nên chỉ ngắm hoa mà không hỏi lý do."

Bạch Cơ hỏi: "Trước năm ngoái? Vậy năm nay trong trang viên không còn tiếng khóc của nữ nhân nữa sao?"

Thanh Minh trả lời: "Năm nay trang viên chỉ toàn tiếng cười. Không lâu trước đây, trong trang viên còn tổ chức lễ cưới, vườn hoa cũng được chăm sóc và trang hoàng đẹp hơn trước."

Trong lúc trò chuyện, Bạch Cơ, Thanh Minh và hai tiểu yêu hầu đã đi đến cổng trang viên.

Trang viên này nằm xa khu dân cư, chiếm diện tích khá rộng, ngói đen tường trắng, cổng đỏ in bóng liễu, trông rất xa hoa.

Bạch Cơ ngẩng đầu nhìn lên thì thấy trên cổng đỏ có một bảng hiệu đề: "Sơn trang Vân Hoa."

Thật trùng hợp, khi Bạch Cơ đang nhìn bảng hiệu, cánh cổng đỏ của trang viên bỗng nhiên mở ra, và một nam nhân mặc trang phục hoa lệ đi ra.

Bạch Cơ vừa nhìn thấy nam nhân ấy lập tức mỉm cười. Đó chính là Tư Đồ Hiểu.

Bạch Cơ cười nói: "Tư Đồ công tử, đã lâu không gặp."

Tư Đồ Hiểu nhìn thấy Bạch Cơ thì vẫn nhận ra được, chính là nữ chủ quán mà hắn đã đến thăm vào mùa đông năm ngoái. Kể từ khi Tư Đồ Hiểu mang theo "Vong Tình Đan" rời đi, hắn ta chưa từng đến Phiêu Miểu các nữa.

Hôm nay, tình cờ gặp nhau ngay trước cửa nhà, điều này khiến Tư Đồ Hiểu khá bất ngờ, sau đó hắn ta bình tĩnh lại lịch sự cúi chào.

"Bạch Cơ cô nương, đã lâu không gặp. Hôm nay sao nàng lại có thời gian ghé thăm hàn xá thế? Thực ra, trước đây ta đã đến chợ Nam, định đưa nàng phần thưởng cho "Vong Tình Đan", nhưng ta đã tìm kiếm rất lâu mà không thấy Phiêu Miểu các."

Bạch Cơ mỉm cười nói: "Mọi chuyện trên đời đều dựa vào duyên phận, có lẽ chưa đến lúc ngươi cần phải trả giá, nên ngươi không tìm thấy Phiêu Miểu các. Hôm nay, ta cùng bạn dạo chơi trên núi Mang, đi ngang qua đây, không ngờ lại là nhà của ngươi."

Tư Đồ Hiểu cười nhiệt tình: "Đã đến rồi thì là khách, xin mời vào uống một tách trà."

Bạch Cơ cười nói: "Liệu có phiền quá không?"

"Không đâu. Ta còn phải cảm ơn ngươi, chính ngươi đã mang đến cho ta tình yêu viên mãn và cuộc sống hạnh phúc. Xin hãy để ta chiêu đãi ngươi." Tư Đồ Hiểu bảo gia nhân mở hai cánh cổng lớn, mời Bạch Cơ và Thanh Minh vào nhà.

Tư Đồ Hiểu đi về phía Thanh Minh, chắp tay nói: "Vị huynh đài này, xin mời vào."

Thanh Minh trả lời lễ, cười nói: "Ta là Thanh Minh, xin được làm phiền."

Tư Đồ Hiểu vốn định ra ngoài thu tiền thuê ruộng còn nợ của tá điền và mua một số giống hoa mới, nhưng vì gặp Bạch Cơ trước cửa nhà nên hắn ta quyết định để quản gia thay mình đi.

Tư Đồ Hiểu bảo một người hầu đi thông báo với gia đình,rồi bảo một người hầu khác dẫn Bạch Cơ, Thanh Minh và hai tiểu yêu hầu hóa thành tiểu đồng vào trong, còn mình ở cổng dặn dò quản gia một số việc cụ thể.

Thanh Minh thì thầm: "Bạch Cơ, đây là lần đầu tiên ta được chủ nhân mời vào từ cổng chính của trang viên này."

Bạch Cơ mỉm cười nói: "Ngươi là hưởng phúc của ta, hưởng lộc của ta đấy."

Thanh Minh thì thầm: "Vào từ cổng chính thì phiền phức lắm, thà trực tiếp xuyên tường vào hậu hoa viên còn hơn."

Bạch Cơ nói: "Xuyên tường vào là khách không mời mà đến, không được đãi trà, không có điểm tâm ăn."

Thanh Minh còn muốn nói gì đó nhưng Tư Đồ Hiểu đã dặn dò xong công việc và bước lại gần.

Tư Đồ Hiểu cười nói: "Bạch Cơ cô nương, ta đã sai người thông báo cho Hoa Nhược, chúng ta đã thành hôn vào đầu xuân, bây giờ nàng là thê tử của ta. Ngươi nhất định phải gặp nàng. Nếu không có ngươi, chúng ta sẽ không có được hạnh phúc như hiện tại."

Bạch Cơ cười nói: "Đem lại hạnh phúc cho khách và thực hiện nguyện vọng của họ là ý nghĩa tồn tại của Phiêu Miểu các mà."

Tư Đồ Hiểu dẫn đường phía trước, nói: "Xin mời đến hậu hoa viên."

Thanh Minh khen ngợi: "Hậu hoa viên nhà ngươi rất đẹp, nhất là cây anh đào bên cạnh hồ, thật tuyệt mỹ."

Tư Đồ Hiểu ngạc nhiên hỏi: "Thanh Minh huynh, làm sao ngươi biết hậu hoa viên nhà ta đẹp và có một cây anh đào? Ngươi đã từng đến hậu hoa viên nhà ta sao?"

Thanh Minh há miệng, không biết phải nói thế nào.

Bạch Cơ cười nói: "Chúng ta đi đến từ hướng hậu hoa viên, ở trên núi có thể thấy lờ mờ một số cây cối rậm rạp đầy sắc hoa, nhìn từ xa đã cảm thấy rất đẹp rồi. Cây anh đào có thể thấy qua tường trắng, hoa nở như đám mây rực rỡ, vô cùng xinh đệp."

Nghi ngờ của Tư Đồ Hiểu tan biến, hắn cười nói: "Ngôi trang viện này chẳng có ưu điểm gì khác ngoài việc nằm gần núi Mã Nguyên, địa khí tốt, nước nhiều, cây cỏ hoa lá đều dễ sinh sôi nảy nở, phát triển tốt đẹp. Vì vậy, ta mới không ở trong ngôi nhà cũ tại thành Lạc Dương mà dọn về đây."

"Vì Hoa Nhược thích hoa nên ta đã đã chú tâm quy hoạch hậu hoa viên, mua một số giống hoa quý hiếm, thuê người làm vườn chăm sóc. Không phải tự mình khoe khoang, nhưng hậu hoa viên của ta quả thực rất đáng để ngắm. Nhất là vào mùa xuân, không có bạn bè nào đến thăm mà không khen ngợi."

Tư Đồ Hiểu dẫn Thanh Minh và Bạch Cơ vào nội viện, đi đến hậu hoa viên, hai tên xà bộc được sắp xếp ở trong phòng khách ngoài viện chờ đợi.

Dưới ánh sáng xuân, trong hậu hoa viên trăm hoa đua nở, sắc hoa rực rỡ. Bên cạnh đình Trầm Hương, một hồ nước mùa xuân gợn sóng xanh biếc, bèo nổi như ngọc vụn. Bên bờ hồ, một cây anh đào lớn nở hoa rực rỡ như chiếc ô che phủ màu hồng phấn, tựa như mây mờ rực rỡ phản chiếu trên mặt hồ một cảnh sắc tuyệt đẹp.

Trong hoa viên, ngoài cây anh đào còn có cây đào, cây mơ, cây lê, những cây này đều nở rộ trong gió xuân, cành đầy hoa rực rỡ, từng cây hoa nở như gấm, đẹp giống như lụa đỏ. Tường phía nam đầy hoa tường vi, tường phía bắc hoa dây leo nở rộ, dưới đất còn có nhiều loại hoa quý hiếm đang khoe sắc.

Dưới giàn hoa trà trắng có một bụi hoa mẫu đơn, mẫu đơn trắng lớn như đĩa ngọc, mẫu đơn đỏ giống như quả cầu thêu, mẫu đơn tím còn đang chớm nở, từng bông hoa tô điểm giữa những chiếc lá xanh, sắc hoa quốc sắc thiên hương, xinh đẹp vô cùng.

Trước bụi mẫu đơn trải một tấm thảm lông cừu Ba Tư, đặt một chiếc bàn gỗ hoa lê, một lư hương Bác Sơn và một số gối mềm thêu hoa.

Một nữ tử xinh đẹp mặc trang phục lộng lẫy đang ngồi dựa vào gối mềm, chăm chú thêu thùa, làm việc nữ công.

Bên cạnh nàng có hai tiểu nha hoàn đứng hầu.

Trong lúc thêu thùa, nữ tử dường như đang suy nghĩ gì đó, khóe môi không ngừng hiện lên nụ cười hạnh phúc.

Một tiểu nha hoàn thấy chủ nhân mang khách đến, vội cúi đầu nói nhỏ gì đó với nữ tử.

Nữ tử buông tay khỏi công việc thêu thùa, đứng dậy. Khi nhìn thấy Tư Đồ Hiểu, nụ cười của nàng càng thêm hạnh phúc.

Tư Đồ Hiểu nhìn thấy nữ tử, ánh mắt chợt trở nên dịu dàng như nước.

Tư Đồ Hiểu cười nói: "A Nhược, khách đến rồi. Đây là Bạch Cơ cô nương mà ta đã kể với nàng trước đây, nàng ấy là ân nhân của chúng ta. Chính nhờ linh dược của nàng mà bệnh của nàng mới được chữa khỏi. Đây là Thanh Minh huynh, bạn của Bạch Cơ cô nương."

Hoa Nhược vội vã cúi chào, nhiệt tình nói: "Hai vị khách quý xin mời ngồi. Bạch Cơ cô nương, từ khi hồi phục ta đã mất trí nhớ, không thể nhớ ra mình là ai, cũng không thể nhớ được những chuyện đã qua và những người cũ. Nhưng ta nghe phu quân kể, nhờ có thuốc của nàng nên ta mới thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo, ta luôn vô cùng cảm kích nàng."

"Chuyện này... Bạch Cơ có chút ngượng ngùng, lấp l**m nói: "Ta cũng chỉ làm việc mà ta nên làm thôi. Phu nhân không cần phải nhớ kỹ."

Vợ chồng Tư Đồ Hiểu nhiệt tình tiếp đãi Bạch Cơ và Thanh Minh, bốn người ngồi trên thảm Ba Tư cùng nhau trò chuyện rất vui vẻ.

Nha hoàn dâng bốn chén trà hương lộ lên rồi lần lượt bày biện các món điểm tâm phong phú lên bàn gỗ hoa lê.

"Phu nhân, hoa viên nhà ngài thật đẹp." Bạch Cơ vừa uống trà vừa khen ngợi.

Thanh Minh nói: "Hoa viên này buổi tối càng đẹp hơn, mặt trăng phản chiếu trên hồ nước, giống như tấm gương sáng. Ánh trăng như nước, lấp lánh chiếu rọi, cây cỏ hoa lá như ngâm mình trong ánh trăng, cả hoa viên giống như thế giới dưới nước vậy."

Phu thê Tư Đồ Hiểu sửng sốt.

Tư Đồ Hiểu vô cùng băn khoăn, định mở miệng hỏi tại sao Thanh Minh lại biết hoa viên nhà mình vào ban đêm như thế nào.

Bạch Cơ đã lập tức nói: "Hắn đoán đấy. Thanh Minh tinh thông tranh thủy mặc, cho nên trí tưởng tượng của hắn rất phong phú, chỉ cần nhìn thấy cảnh ban ngày, hắn có thể tưởng tượng ra ban đêm sẽ thế nào. Chỉ cần nhìn một nụ hoa, hắn có thể hình dung khi hoa nở sẽ như thế nào."

Vợ chồng Tư Đồ Hiểu ngộ ra, không còn nghi ngờ nữa, hai người nhìn nhau cười, lặng lẽ nắm tay nhau.

Tư Đồ Hiểu cười nói: "Bây giờ đã là buổi chiều, đi đường về Lạc Dương cũng không tiện, chi bằng hai vị ở lại trang viên của ta một đêm đi."

Hoa Nhược cũng cười nói: "Xin hãy cho phép vợ chồng ta được tận tình tiếp đón."

Bạch Cơ vừa định từ chối thì Thanh Minh đã lên tiếng trả lời: "Được."

Bạch Cơ đá chân, giẫm mạnh lên một chân của Thanh Minh, cười nói: "Vậy thì làm phiền rồi." Chân của Thanh Minh vốn là đuôi rắn biến hóa, bị Bạch Cơ giẫm lên đau đến nỗi nước mắt chảy ròng ròng.

Vợ chồng Tư Đồ Hiểu thấy khách đồng ý ở lại thì vô cùng vui mừng.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 11


Bạch Cơ và Thanh Minh ở lại làm khách tại trang viên Vân Hoa. Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược nhiệt tình tiếp đãi hai người. Vì quản gia đã ra ngoài, Tư Đồ Hiểu đích thân chỉ huy người hầu sắp xếp phòng khách cho Bạch Cơ và Thanh Minh. Bạch Cơ ở lại hậu viện, cùng Hoa Nhược ngắm hoa uống trà.

Vì lo lắng Thanh Minh nói nhiều sẽ lỡ lời khiến Hoa Nhược nghi ngờ và làm khó cho bản thân, Bạch Cơ giả vờ rằng Thanh Minh muốn vẽ tranh và xin Hoa Nhược đưa cho giấy mực để Thanh Minh ra vườn vẽ tranh bên cạnh hồ nước.

Thanh Minh bối rối hỏi: "Bạch Cơ, ta nên vẽ gì đây?"

Bạch Cơ tùy tiện trả lời: "Đồ Hoa."

Thanh Minh hỏi: "Đồ Hoa trông như thế nào?"

Bạch Cơ trả lời: "Ta cũng chưa từng thấy. Trong vườn có nhiều hoa đẹp như vậy, ngươi cứ tưởng tượng mà vẽ."

Thanh Minh đành phải vừa quan sát các loài hoa trong vườn, vừa suy nghĩ và bắt đầu vẽ.

Hoa Nhược tò mò hỏi: "Cô Bạch Cơ, Đồ Hoa là loài hoa gì thế? Ta chưa từng nghe thấy bao giờ.”

Bạch Cơ trả lời: "Đồ Hoa là loài hoa đẹp nhất thế gian. Tuy nhiên, ta cũng chưa từng thấy, chỉ nghe nói thôi."

Bạch Cơ nhìn Hoa Nhược, trầm ngâm nói: "Cũng giống như tình yêu sâu sắc và tuyệt vọng nhất trên thế gian, ta chỉ nghe nói mà chưa từng trải qua."

Hoa Nhược không nhận ra gì, chỉ mỉm cười nói: "Tại sao tình yêu lại khiến người ta tuyệt vọng chứ? Tình yêu phải là thứ mang lại hạnh phúc cho con người chứ."

Bạch Cơ hỏi: "Tình yêu là gì?"

Gương mặt Hoa Nhược hiện lên sự dịu dàng, trong mắt đầy ắp hạnh phúc: "Tình yêu là điều đẹp nhất trên thế gian. Nó như ánh sáng trong thế giới đen tối, giúp con người nhìn rõ phương hướng khi mù mờ và tạo nên sức mạnh vô tận."

Bạch Cơ hỏi tiếp: "Phu nhân, có khi nào người cảm thấy mù mờ không?"

Hoa Nhược ngạc nhiên trả lời: "Ta từng mắc bệnh nặng và mất hết ký ức trước đây. Ta không nhớ mình là ai, từ đâu đến, và đã có quá khứ như thế nào, liệu còn có người thân hay không. Sau khi bệnh tình khỏi thì ta cảm thấy rất mù mờ và lạc lối, may mà có phu quân luôn ở bên cạnh, chỉ dẫn cho ta hướng đi trong cuộc sống và giúp ta chấp nhận con người mới của mình."

Bạch Cơ hỏi: "Ngài có yêu phu quân của mình không?"

Hoa Nhược đỏ mặt, gật đầu chắc chắn: "Ta yêu chàng."

Bạch Cơ lại hỏi: "Phu nhân có muốn khôi phục lại ký ức không?"

Hoa Nhược trả lời: "Nếu có thể khôi phục ký ức thì tất nhiên là tốt rồi. Nếu không thể, hiện tại như thế này cũng rất tốt."

Bạch Cơ chìm vào suy nghĩ.

Trong khi Thanh Minh đang vẽ, hắn hỏi: "Phu nhân, tình yêu có phải là khi ta gặp được người chỉ cho ta phương hướng trong lúc mù mờ không?"

Hoa Nhược mỉm cười nói: "Có thể hiểu như vậy. Tình yêu giống như ánh sao lấp lánh chiếu sáng đại dương, hay như ánh trăng gặp gỡ sa mạc, cũng như làn gió xuân đùa giỡn với vườn hoa đầy màu sắc này."

Thanh Minh lớn tiếng nói: "Bạch Cơ, sau khi đến Lạc Dương, ta rất mù mờ, chính ngươi đã chỉ cho ta hướng đi, để ta ở lại núi Mang. Vì vậy ta yêu ngươi."

Bạch Cơ tỏ vẻ khó chịu nói: "Ngươi mau im miệng lại và tiếp tục vẽ tranh của ngươi đi."

Thanh Minh đành phải im lặng, tiếp tục vẽ. Hoa Nhược bật cười.

"Bạch Cơ cô nương, Thanh Minh công tử và nàng như những tiên nữ, tiên nam bước ra từ bức tranh, một người thì anh tuấn thần kỳ, một người thì đẹp đẽ tuyệt vời, đúng là một đôi uyên ương hoàn hảo."

Bạch Cơ cười nói: "Phu nhân đùa rồi. Chúng ta tồn tại trên thế gian này không phải để có được thứ gọi là tình yêu. Chỉ có phu nhân và Tư Đồ công tử mới là một cặp đôi uyên ương đáng ngưỡng mộ."

Hoa Nhược thầm thắc mắc Bạch Cơ và Thanh Minh thực sự là loại tồn tại như thế nào, muốn mở miệng hỏi điều gì đó.

Bạch Cơ vội vàng chuyển chủ đề sang công việc nữ công. Nàng nhặt chiếc khăn thêu bên cạnh Hoa Nhược lên, trên mặt vải thêu một chùm hoa đào, cánh hoa xếp lớp tinh tế, tay nghề thêu rất tinh xảo.

"Phu nhân, tay nghề của ngài thực sự khéo léo đến mức tuyệt diệu."

Hoa Nhược cười nói: "Đây là một mặt quạt, ta định nhân dịp mùa xuân vẫn còn, làm vài chiếc quạt tròn để dùng khi hè đến."

Bạch Cơ khen ngợi tay nghề của Hoa Nhược, rồi tiếp tục trò chuyện để giết thời gian khi ngắm hoa.

Vào buổi chiều tối, vợ chồng Tư Đồ Hiểu tổ chức tiệc trong hoa sảnh, chiêu đãi Bạch Cơ và Thanh Minh.

Trong bữa tiệc, mọi người nâng chén chúc mừng, chủ và khách đều vui vẻ. Bạch Cơ nhìn vợ chồng Tư Đồ Hiểu thể hiện tình cảm trong từng cử chỉ, không khỏi tưởng tượng về cảnh Đồ Hoa nở rộ.

Sau bữa tối, trăng tròn dần dần lên cao.

Tư Đồ Hiểu dẫn Bạch Cơ và Thanh Minh đến phòng khách.

Tư Đồ Hiểu cầm đèn lồng, bước đi trên hành lang tối tăm, Bạch Cơ và Thanh Minh theo sau.

"Ngươi không cảm thấy rằng đối với phu nhân của mình, tất cả mọi thứ bây giờ đều là sự lừa dối sao?"

Bạch Cơ nhìn theo bóng lưng của Tư Đồ Hiểu, đột nhiên hỏi. Tư Đồ Hiểu khựng lại, hắn dừng bước mà không quay đầu lại.

"Ta biết tất cả đều là lừa dối, tất cả đều là lời nói dối, tất cả đều là ảo ảnh như hoa trong gương, trăng dưới nước, giấc mộng phù du. Cuối cùng có thể tất cả đều là vô ích."

"Vậy tại sao ngươi còn muốn tìm đến Phiêu Miểu các?" Bạch Cơ bối rối hỏi.

Tư Đồ Hiểu thở dài một tiếng, nói: "Ta yêu A Nhược và ta cũng phải trả thù. Đối với ta, sau khi báo thù, tình yêu là bông hoa ảo ảnh nở ra từ đất đai của đau khổ và tuyệt vọng. Sau khi báo thù, cuộc đời của ta chỉ còn lại sự trống rỗng vô tận, thậm chí cuộc sống cũng không còn ý nghĩa."

"Bởi vì ta đã giết phụ mẫu và cả gia đình của Hoa Nhược, trong lòng nàng tràn đầy hận thù với ta. Trong thế giới thực, chúng ta không thể quay lại quá khứ, chỉ còn lại nỗi đau vô tận và sự hận thù không thể xóa nhòa hay tha thứ. Chỉ khi quên đi thực tại trong những lời nói dối hư ảo, chúng ta mới có thể quên hết mọi thứ, yêu nhau, kết thành phu thê và chạm đến hạnh phúc. Ngươi cũng đã thấy, dù Hoa Nhược đã quên hết mọi thứ nhưng hiện giờ nàng rất hạnh phúc."

Bạch Cơ lạnh lùng nói: “Chỉ có phu nhân của ngài đã mất đi ký ức, quên đi thực tại, đắm chìm trong những lời nói dối hư ảo. Còn ngài thì chưa quên thực tại. Tình yêu của ngài dành cho nàng hoàn toàn là những lời nói dối.”

“Tình yêu của ta tuy là giả dối và hư ảo, nhưng ta nguyện kéo dài lời nói dối này suốt đời. Ta nguyện yêu nàng như thế cả đời, để nàng suốt đời đắm chìm trong hạnh phúc. Một lời nói dối có thể kéo dài suốt đời, vậy thì nó sẽ là sự thật. Một đời chỉ có vài chục năm, sẽ qua nhanh thôi.”

“Lời nói dối không thể kéo dài suốt đời.”

Bạch Cơ do dự một lúc, cuối cùng chỉ nói vậy. Nàng vẫn chưa nói cho Tư Đồ Hiểu biết rằng hiệu quả của đan dược vong tình chỉ kéo dài tối đa ba năm. Nếu Hoa Nhược gặp phải cú sốc tinh thần thì những ký ức sẽ trở lại, và hiệu quả của đan dược sẽ lập tức mất đi.

“Ta sẽ kéo dài lời nói dối này suốt đời.” Tư Đồ Hiểu khẳng định chắc nịch.

“Bạch Cơ cô nương, dù sao thì, vẫn cảm ơn ngươi vì đã giúp ta thực hiện được nguyện vọng.”

“Thực hiện nguyện vọng của khách hàng là lý do tồn tại của Phiêu Miểu các.”

Bạch Cơ thản nhiên nói. Tư Đồ Hiểu hỏi: “Ta nên trả gì cho ngươi đây?”

Bạch Cơ suy nghĩ một lúc, rồi cười nói: “Nếu ngươi muốn báo đáp cho ta vì đan dược vong tình để có thể yên tâm thì chiều nay ta thấy phu nhân của ngài đang thêu quạt, ta rất thích tay nghề thêu của nàng, xin hãy kêu nàng làm cho ta một chiếc quạt tròn.”

Tư Đồ Hiểu ngạc nhiên hỏi: “Chỉ cần một chiếc quạt tròn thôi sao?”

Ánh mắt Bạch Cơ sâu thẳm, cười nói: “Đúng vậy.”

Tư Đồ Hiểu dẫn Bạch Cơ và Thanh Minh đến cửa phòng khách, sau khi nói vài câu khách sáo, hắn lập tức cáo từ ra đi.

Sau khi Tư Đồ Hiểu rời đi, Bạch Cơ và Thanh Minh lần lượt vào hai phòng khách, mỗi người nghỉ ngơi.

Đêm khuya, Bạch Cơ không ngủ được, bèn mở cửa sổ, biến thành một con rồng trắng nhỏ to bằng cánh tay, bay đến cây anh đào trong vườn sau.

Rồng trắng nhỏ chui vào đám hoa anh đào rực rỡ, quấn quanh cành cây thưởng thức ánh trăng.

Ánh trăng như nước, bóng cây hoa lay động, một cơn gió đêm thổi qua, cây cỏ rung rinh, cả khu vườn như một thế giới dưới nước.

Rồng trắng nhỏ đang nheo mắt nhìn bóng hoa lay động, cảm nhận hương hoa thoang thoảng trong đêm xuân.

Bỗng nhiên, một bức tranh bay lên không trung di chuyển đến trước mặt rồng trắng nhỏ.

Dưới ánh trăng, nhìn kỹ đó là một bức tranh thủy mặc. Trong tranh là một loài hoa kỳ lạ, hình dạng giống hoa anh đào, cánh hoa giống mẫu đơn và dáng hoa với lá giống thủy tiên. Tranh được vẽ rất thô sơ, màu sắc cũng rất cứng nhắc, thật sự không đẹp. Giọng nói của Thanh Minh vang lên dưới gốc cây anh đào.

“Bạch Cơ, đây là bức tranh ngươi bảo ta vẽ về Đồ Hoa, ta đã vẽ rất cẩn thận, ngươi thấy thế nào?”

Rồng trắng nhỏ cúi đầu nhìn, dưới gốc cây anh đào có một con rắn một sừng to bằng cánh tay đang cuộn tròn.

Rắn một sừng ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rực, dường như đang chờ đợi được nghe lời khen ngợi.

Nhưng rồng trắng nhỏ lại chê bai: “Thứ này trông chẳng ra gì, làm sao có thể là Đồ Hoa? Tranh cũng chẳng đẹp, nét vẽ quá kém.”

Rắn một sừng có hơi ấm ức, nói: “Ta chưa bao giờ thấy Đồ Hoa, đây là ngươi bảo ta tưởng tượng rồi vẽ dựa trên các loài hoa trong vườn. Hơn nữa, ta chỉ là một con rắn, chưa từng học vẽ, không phải họa sĩ nên nét vẽ tất nhiên không tốt.”

Rồng trắng nhỏ ngẩng đầu nhìn trăng tròn, nói: “Ta cũng chưa từng thấy Đồ Hoa. Thanh Minh, khi Đồ Hoa của ta nở, ta sẽ tổ chức một buổi tiệc ngắm hoa, lúc đó sẽ mời ngươi cùng ngắm hoa.”

Rắn một sừng nghe vậy thì lại vui mừng. “Được thôi.”

Vì Bạch Cơ không thích bức tranh của mình, rắn một sừng lập tức tùy tiện vứt bức tranh vào đám hoa.

Rắn một sừng cũng trèo lên cây anh đào, định cùng rồng trắng nhỏ ngắm hoa dưới ánh trăng.

Nhưng rồng trắng nhỏ tỏ ra rất khó chịu, nói: “Cây anh đào này là của ta, ngươi đi cây khác đi.”

Rắn một sừng đành phải trèo lên một cây đào khác.

Một con rồng, một con rắn cùng nhau cuộn tròn trên những cây hoa trong vườn, tắm mình dưới ánh trăng và gió đêm xuân.

Rồng trắng nhỏ cảm thấy rất thoải mái, dần dần buồn ngủ, nó vươn mình, chuẩn bị gối đầu lên hoa anh đào để ngủ.

Nhưng từ cây đào, rắn một sừng lại lớn tiếng nói: “Bạch Cơ, ta hơi mất ngủ, ngươi cũng đừng ngủ, chúng ta kể chuyện ma đi.”

Cơn buồn ngủ của rồng trắng nhỏ bị tiếng nói làm tan biến, nó cố nén giận, mắt xoay tròn, nói: “Kể chuyện ma chán lắm, vừa không dọa được ngươi, cũng không dọa được ta. Chi bằng chúng ta chơi trốn tìm. Ngươi có thấy cái bầu bên cạnh ao không? Ngươi chui vào đó, nhắm mắt lại và đếm đến mười. Trong lúc ngươi đếm, ta sẽ trốn trong vườn. Khi ngươi đếm đến mười, hãy ra ngoài tìm ta.”

Rắn một sừng tin là thật, nói: “Được thôi.”

Cái bầu bên cạnh ao là một món trang trí, nó vốn dĩ được đặt trên bàn đá trong đình, có lẽ bị gió đêm thổi đổ, lăn đến bên bờ ao.

Rắn một sừng thu nhỏ thân hình, chui tọt vào trong cái bầu, chuẩn bị bắt đầu đếm.

Rồng trắng nhỏ bay xuống rồi nhẹ nhàng trả lời bên bờ hồ nước. Rồng trắng nhỏ giơ móng lên, nhặt chiếc hồ lô. Bên trong hồ lô vọng ra tiếng của Thanh Minh.

"Ngươi có thể bắt đầu đếm chưa, Bạch Cơ?" Rồng trắng nhỏ bứt một nắm cỏ xanh, nhét vào miệng hồ lô: "Ngươi có thể bắt đầu đếm rồi."

Vừa trả lời, Rồng trắng nhỏ biến thành một con rồng khổng lồ. Rồng trắng nắm lấy hồ lô, bay vút lên không trung. Nó dùng hết sức lực của mình, khi trong hồ lô vang lên tiếng “một, hai, ba.” thì rồng trắng đã ném chiếc hồ lô về phía thành Lạc Dương.

Dưới ánh trăng tròn, hồ lô vẽ nên một dải sáng như sao băng, rời khỏi Sơn trang Vân Hoa rồi biến mất trong màn đêm.

Sau khi ném hồ lô đi, rồng trắng lại hóa thành con rồng trắng nhỏ mảnh mai, đáp xuống vườn sau của Sơn trang Vân Hoa. Rồng trắng nhỏ bay trở về cây anh đào, cuộn mình giữa những tán hoa mà nhắm mắt ngủ: “Ờm, giờ thì có thể yên tĩnh mà ngủ rồi." Không bao lâu sau, rồng trắng nhỏ chìm vào giấc ngủ, phát ra những tiếng ngáy khẽ.

*

Ngày hôm sau khi Bạch Cơ tỉnh dậy, Thanh Minh đã biến mất, không quay lại Sơn trang Vân Hoa. Bạch Cơ đành phải thông báo với Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược rằng Thanh Minh đã rời đi từ sáng sớm vì có việc. Sau bữa sáng ở Sơn trang Vân Hoa, Bạch Cơ cũng cáo từ rời đi.

Trên đường trở về Lạc Dương, Bạch Cơ nghe thấy nông dân sống ở ngoại ô nói chuyện rằng đêm qua, bên bờ sông Lạc xuất hiện một con rắn khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Con xà yêu quái đó không làm hại ai, chỉ chạy lung tung một lúc rồi biến mất.

Bạch Cơ nghĩ: "Không ngờ ta lại ném Thanh Minh từ núi Mang đến tận thành Lạc Dương sao?" Nàng cảm thấy ngạc nhiên.

Khi vừa bước chân vào Phiêu Miểu các, Ly Nô đã vội vã chạy tới nói: "Chủ nhân, ngài đã gây gổ với con rắn một sừng ở núi Mang sao? Sáng nay nó xông vào Phiêu Miểu các, mặt mũi bầm dập, trông rất giận dữ. Nó mắng nhiếc Ly Nô thậm tệ, còn tuyên bố sẽ cạch mặt ngài.”

Bạch Cơ có phần ngạc nhiên: "Thật sao? Rồi sao nữa? Bây giờ Thanh Minh đi đâu rồi?"

Ly Nô trả lời: "Chắc là về lại núi Mang rồi. Hắn xông vào Phiêu Miểu các, đập vỡ vài cái bình hoa trên kệ. Vì chủ nhân không có ở đây, Ly Nô lại không đấu lại được hắn, cũng không dám đụng chạm gì, chỉ đành nhẫn nhịn chịu đựng. Sau khi mắng chửi Ly Nô một hồi, có vẻ hắn đã hả giận nên bỏ đi."

Bạch Cơ kể lại chuyện tối qua cho Ly Nô nghe.

"Ly Nô, có phải ta đã làm quá đáng rồi không? Dù hắn có làm phiền giấc ngủ của ta, cũng không nên tùy tiện ném hắn đi như thế. Chắc phải đến xin lỗi hắn thôi."

Ly Nô trả lời: "Không, chủ nhân, ngài không làm gì sai cả. Tất cả đều do tính khí quái đản và nhỏ nhen của con rắn một sừng đó. Yêu quái mà nửa đêm đòi kể chuyện ma, thế mà hắn cũng nghĩ ra cho được! Ngài ném hắn đi tuy không thỏa đáng lắm nhưng hắn cũng đã đập vỡ hai cái bình hoa của chúng ta và còn mắng Ly Nô một trận, xem như hòa rồi."

Bạch Cơ hỏi: "Hắn đập vỡ cái bình nào vậy?"

Ly Nô trả lời: "Không phải cổ vật hay vật quý giá gì, chỉ là những chiếc bình hoa không đáng tiền."

Bạch Cơ nói: "Dù sao đi nữa ta vẫn sẽ viết thư xin lỗi Thanh Minh. Dù sao hắn cũng là bạn của ta. Tình bạn là điều vô cùng quý giá."

Bạch Cơ nói sẽ viết thư xin lỗi nhưng kéo dài cả mùa xuân mà vẫn chưa viết xong. Còn Thanh Minh thì thỉnh thoảng lại sai con rắn thuộc hạ gửi thư cạch mặt và thư trách móc đến Phiêu Miểu các.

Trong những lá thư cạch mặt và thư trách móc mà Thanh Minh gửi tới, tất cả đều là những lời chỉ trích Bạch Cơ không có tình cảm, không biết trân trọng tình bạn, nói năng vụng về và hành động quá đáng.

Sau khi đọc những lá thư cạch mặt và thư trách móc của Thanh Minh, Bạch Cơ cảm thấy đau đầu, càng không biết phải viết thư xin lỗi thế nào. Thêm vào đó, Ly Nô thường xuyên thổi gió bên tai, nói rằng Bạch Cơ không làm gì sai cả, không cần phải xin lỗi con rắn một sừng đó. Do đó, chuyện xin lỗi cứ kéo dài mãi không xong.

Vào đầu mùa hè, Hoa Nhược đến Phiêu Miểu các và mang theo một chiếc quạt tròn để tặng Bạch Cơ.

Hai người cùng ngồi đối diện bên bàn ngọc xanh. Bạch Cơ mở chiếc hộp gỗ trước mặt, thấy một chiếc quạt hợp hoan được làm từ thân trúc Tương Phi, mặt quạt bằng lụa. Quạt hợp hoan trông như một vầng trăng tròn, trên mặt quạt có những hoa văn tinh xảo được thêu kỹ lưỡng.

Đó là một số hoa đang nở rộ, rõ ràng là thêu theo bản vẽ của Thanh Minh, chỉ là tay nghề thêu của Hoa Nhược tốt hơn tay nghề vẽ của Thanh Minh nhiều.

Cả bông hoa như đang nở rộ giống như hoa anh đào, cánh hoa tầng tầng lớp lớp như hoa mẫu đơn, nhưng dáng vẻ hoa và lá lại thanh tao như thủy tiên.

Bạch Cơ mỉm cười: "Hoa thêu trên chiếc quạt này đẹp quá."

Hoa Nhược cười trả lời: "Vì không biết cô nương thích hoa văn gì nên ta đã thêu theo bức tranh Thanh Minh công tử vẽ lúc ngắm hoa xuân."

Bạch Cơ cười: "Cảm ơn phu nhân. Ta rất thích chiếc quạt tròn này."

Hai người trò chuyện, Hoa Nhược nói về cuộc sống gần đây của mình. nàng và Tư Đồ Hiểu đã mở rộng Sơn trang Vân Hoa, xây dựng thêm một dòng suối mới trong vườn sau, mở rộng hồ nước, trồng hoa sen từ Tây Vực, dựng thêm một số giàn hoa, và trồng thêm một số loài hoa nở vào mùa hè.

Trong lúc trò chuyện về những chuyện vụn vặt hàng ngày, Hoa Nhược trông rất hạnh phúc. Nàng hoàn toàn đắm chìm trong tình yêu với Tư Đồ Hiểu, tận hưởng niềm vui trong sự hòa hợp với người yêu và rất hài lòng với cuộc sống của mình. Bạch Cơ liếc mắt nhìn về phía giữa lông mày của Hoa Nhược, nơi có một điểm sáng vàng. Đó là pháp thuật của Bạch Cơ, có thể khiến Hoa Nhược tạm thời mất trí nhớ, quên đi những ký ức đã qua. Ánh sáng vàng vẫn còn rõ ràng, điều đó có nghĩa là pháp thuật vẫn chưa mất tác dụng. Một khi pháp thuật mất đi, Hoa Nhược sẽ khôi phục ký ức và nhớ lại tất cả những tình yêu và hận thù đã từng trải qua. Tư Đồ gia và Hoa gia có mối thù truyền kiếp qua hai đời, và người mà nàng yêu thương nhất lại là người đã giết phụ mẫu, người thân của nàng. Càng yêu Tư Đồ Hiểu sâu đậm càng hài lòng với hạnh phúc hiện tại thì khi ký ức trở lại, tình yêu này sẽ càng trở nên tuyệt vọng.

Nếu dùng tình yêu sâu sắc và tuyệt vọng này để tưới nước cho Đồ Hoa thì có thể sẽ nhìn thấy loài hoa trong truyền thuyết nở rộ. Bạch Cơ không kìm được suy nghĩ trong lòng.

Sau khi tiễn Hoa Nhược, Bạch Cơ vui vẻ cất chiếc quạt Đồ Hoa vào bảo các rồi đi đến cây bồ đề trong vườn sau để tưới nước cho cây Đồ Hoa. Chẳng mấy chốc, Đồ Hoa sẽ có thể nở rộ.

Thời gian trôi nhanh, chẳng mấy chốc đã đến mùa thu. Thanh Minh không còn gửi thư khiển trách đến Phiêu Miểu các nữa. Bạch Cơ thấy Thanh Minh không còn gửi thư mắng mình bèn đoán rằng từ mùa xuân đến mùa thu, cơn giận của Thanh Minh có lẽ đã nguôi đi nên quyết định đích thân đến núi Mang xin lỗi Thanh Minh.

Hôm ấy, trời thu mát mẻ, nắng nhẹ, Bạch Cơ dự định đến núi Mang thăm Thanh Minh. Nàng đặt chiếc trâm ngọc bích mà Thanh Minh rất thích vào hộp quà, rồi lấy một hộp trà mà Thanh Minh ưa chuộng từ trên kệ xuống cho luôn vào hộp, sau đó mang quà đến núi Mang.

Bạch Cơ nghỉ ngơi trên một ngọn đồi ở ngoại ô, vừa ngắm nhìn rừng lá mùa thu, vừa suy nghĩ trong lòng. Khi đến được Vực U Minh và gặp Thanh Minh, nàng nên xin lỗi thế nào để thể hiện sự chân thành hơn đây.

Khi Bạch Cơ đang suy nghĩ thì một nam nhân lữ hành phong trần đi tới từ ngoại ô. Đó là một nam nhân trung niên, thân hình vạm vỡ, đội nón lá, đeo một thanh đao thô, dẫn theo một con ngựa gầy. Trông hắn giống như một đao khách.

Đao khách tiến đến gần Bạch Cơ và lịch sự nói: "Ta là người ngoại quốc, bị lạc đường ở ngoại ô này. Xin hỏi cô nương gần đây có một trang viên tên là Sơn trang Vân Hoa không?"

Sơn trang Vân Hoa ở gần đây. Bạch Cơ gật đầu, nói: "Có đấy."

"Xin hỏi đường đến Sơn trang Vân Hoa như thế nào?" Đao khách hỏi. Bạch Cơ chỉ đường đến Sơn trang Vân Hoa cho đao khách. Sau khi đao khách cảm ơn thì hắn quay người rời đi.

Bạch Cơ không để tâm đến chuyện nhỏ này, sau khi nghĩ kỹ lời xin lỗi trong lòng, nàng lập tức đi đến Vực U Minh. Vì Bạch Cơ đích thân đến tận nơi xin lỗi, lời lẽ chân thành và còn mang theo quà tặng, Thanh Minh đã tha thứ cho Bạch Cơ. Một rồng một rắn xóa bỏ hiểu lầm, tiếp tục làm bạn.

Thời gian trôi qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến mùa đông lạnh giá. Bạch Cơ nhàn rỗi, không có việc gì làm nên đến núi Mang tìm Thanh Minh cùng chơi. Sau khi một rồng một rắn ăn uống no say ở Vực U Minh, không biết phải chơi gì, thì theo đề nghị của Thanh Minh, cả hai cùng đi bắt yêu quái trong núi Mang.

Bắt yêu quái là trò chơi mới do Thanh Minh nghĩ ra, giống như săn bắn của con người, chỉ khác là sẽ không lấy mạng của con mồi. Trong đêm tuyết trăng, một con rồng trắng và một con rắn một sừng cùng bay qua núi Mang, đuổi theo những tiểu yêu quái hoạt động về đêm, khiến chúng chạy tán loạn, khóc thét.

Sau khi bắt được yêu quái, chúng sẽ bị ném vào hai cái hố lớn do bầy rắn canh giữ, cuối cùng xem ai có nhiều yêu quái hơn trong hố thì người đó thắng. Sau khi trò chơi kết thúc, những yêu quái nhỏ sẽ được thả ra.

Giữa rừng núi, khi rồng trắng đang đuổi theo một tiểu yêu thỏ đang chạy trốn thì bất ngờ phát hiện một người đầy máu nằm trên tuyết. Rồng trắng tò mò, bèn không đuổi theo thỏ yêu nữa mà bay đến bên cạnh người đó.

Đó là một nam nhân mặc trang phục đao khách, nằm mê man trên tuyết, bụng có vết thương, người đầy máu, chỉ còn chút hơi thở. Rồng trắng nhận ra nam nhân này. Chính là người ngoại quốc vào mùa thu đã hỏi đường đến Sơn trang Vân Hoa.

Rồng trắng đưa móng vuốt ra, tỏa một chút linh khí vàng bao phủ vết thương ở bụng nam nhân, vết thương lập tức ngừng chảy máu. Rồng trắng nhấc đao khách lên và mang hắn đến Vực U Minh.

Bạch Cơ đã cứu sống đao khách đang cận kề cái chết trong tuyết. Khi đao khách tỉnh lại, hắn đã kể về xuất thân của mình và lý do khiến hắn bị thương nặng.

Hóa ra, đao khách tên là Hoa Phác, đến từ ngoài ải. Hoa Phác không ngại ngàn dặm đến Lạc Dương với hai mục đích, một là báo thù, hai là tìm người.

Quê hương của Hoa Phác là một thị trấn nhỏ bên ngoài cửa ải ngọc Môn, sau khi trưởng thành, hắn không sống cùng phụ mẫu mà định cư tại quốc gia Cao Xương, làm võ sĩ cho giới quý tộc. Mùa xuân năm nay, Hoa Phác nhận được tin từ người thân gửi đến, nói rằng phụ mẫu, đệ đệ, thúc và thím của hắn đều bị giết. Hoa Phác vô cùng sốc, vừa đau buồn vừa tức giận, hắn vội vàng thu dọn hành lý, từ biệt vợ con trở về quê hương.

Khi trở về quê nhà, Hoa Phác nghe kể lại từ người thân và những người hầu còn sống sót sau cuộc thảm sát rằng, một người tên Tư Đồ Hiểu đã giết hại phụ mẫu và huynh đệ của mình, cùng cả gia đình của thúc thím, còn biểu muội Hoa Nhược thì bị kẻ thù bắt cóc mang đi Lạc Dương, không rõ sống chết ra sao. Mối thù giết phụ mẫu không đội trời chung. Hoa Phác vô cùng đau khổ và phẫn nộ, quyết định đi đến Lạc Dương, thề g**t ch*t Tư Đồ Hiểu và cứu biểu muội trở về.

Lúc đó là thời loạn lạc, chư hầu tranh bá, cả trong lẫn ngoài Quan đều ngập tràn binh đao loạn lạc, dân lưu lạc khắp nơi. Hoa Phác không mất nhiều công sức, đã trà trộn vào Quan Nội và đến Lạc Dương vào mùa thu.

Khi đến Lạc Dương, Hoa Phác qua nhiều lần dò la, đã tìm được đến Sơn trang Vân Hoa và gặp được Tư Đồ Hiểu. Hoa Phác lén lút quan sát cuộc sống của Tư Đồ Hiểu, muốn tìm cơ hội báo thù và tìm kiếm Hoa Nhược.

Điều khiến Hoa Phác ngạc nhiên nhất là biểu muội Hoa Nhược lại kết hôn với kẻ thù và sống hạnh phúc bên hắn. Khi Tư Đồ Hiểu rời khỏi sơn trang, Hoa Phác bí mật tìm gặp Hoa Nhược, chất vấn lý do tại sao nàng lại kết hôn với kẻ thù, nhưng Hoa Nhược lại hoàn toàn không nhận ra hắn.

Lúc này, Hoa Phác mới biết rằng biểu muội mình đã mất trí nhớ. Hắn kể lại toàn bộ sự việc cho Hoa Nhược khiến nàng vô cùng ngạc nhiên. Dù không muốn tin vào lời của Hoa Phác nhưng trí nhớ của nàng bắt đầu rối loạn, cảm xúc cũng trở nên tan vỡ.

Phụ mẫu chết thảm, người thân bị tàn sát, mối hận thù của Hoa Phác với Tư Đồ Hiểu không thể tiêu tan, chỉ có máu mới trả được món nợ này. Khi Tư Đồ Hiểu ra ngoài, Hoa Phác phục kích giữa đường định giết hắn. Nhưng Tư Đồ Hiểu võ nghệ cao cường, Hoa Phác không phải đối thủ của hắn, sau một hồi giao đấu còn khiến hắn bị đâm trọng thương và phải tháo chạy.

Trong lúc chạy trốn, vì mất máu quá nhiều nên Hoa Phác ngất xỉu trong rừng, nằm giữa tuyết. Bạch Cơ nghe xong câu chuyện, quyết định để Hoa Phác ở lại vực U Minh dưỡng thương và giao cho Thanh Minh chăm sóc hắn.

Bạch Cơ cứ vài ngày lại từ Phiêu Miểu các đến Vực U Minh thăm Hoa Phác. Thanh Minh không vui khi nói với Bạch Cơ: "Bạch Cơ, sao nàng lại cứu một con người, còn bắt ta phải chăm sóc hắn thế?"

Bạch Cơ trả lời: "Hắn cũng là một phần của nhân quả khiến Đồ Hoa nở rộ. Thanh Minh, nếu ngươi muốn tham dự Đồ Hoa Yến của ta thì phải giúp sức."

Thanh Minh trả lời: "Ta không muốn tham dự Đồ Hoa Yến của ngươi."

Bạch Cơ cười nói: "Không muốn tham dự cũng phải giúp sức. Thanh Minh, chúng ta là bạn bè, là bạn bè thì nên giúp đỡ lẫn nhau."

Thanh Minh đành im lặng, ngoan ngoãn để xà bộc chăm sóc Hoa Phác. Nhờ sự chăm sóc tốt của xà bộc, vết thương của Hoa Phác lập tức lành lặn. Hôm đó, Bạch Cơ đến Vực U Minh thăm Hoa Phác đã hồi phục sức khỏe và chuẩn bị rời đi.

Để tránh phiền phức, Thanh Minh chỉ để Hoa Phác ở vùng ngoài cùng của Vực U Minh. Nó hóa ra một căn nhà nhỏ như của người trần gian cho Hoa Phác ở lại dưỡng thương, hai xà bộc chăm sóc cho hắn cũng đều có dáng vẻ như tiểu đồng.

Hoa Phác cứ ngỡ rằng người cứu mình là Bạch Cơ và Thanh Minh đều là con người, hai người họ đi săn trong tuyết, phát hiện ra mình sắp chết và đã đưa mình về nhà. Khi đã hồi phục sức khỏe, Hoa Phác đang luyện đao trong sân, Bạch Cơ đứng ngoài hàng rào nhìn vào.

"Hoa công tử, nghe nói ngươi định rời đi?" Bạch Cơ hỏi.

Nghe vậy, Hoa Phác thu đao lại. "Đúng vậy, Bạch Cơ cô nương, đa tạ ngươi và huynh đệ Thanh Minh đã cứu mạng ta."

Bạch Cơ hỏi: "Lần này ngươi rời đi có phải định trở về Quan Ngoại không?"

Hoa Phác lắc đầu trả lời: "Không, ta sẽ đến Sơn trang Vân Hoa, tìm Tư Đồ Hiểu để trả thù."

Bạch Cơ im lặng một lúc rồi mới nói: "Có lẽ trở về Quan Ngoại mới là lựa chọn tốt hơn. Ngươi còn có vợ con và họ đang chờ ngươi."

Hoa Phác đau buồn nói: "Bảo ta phớt lờ việc phụ mẫu bị giết hại, từ bỏ việc báo thù, để cho kẻ thù tiếp tục sống yên ổn thì ta không thể làm được. Dù thế nào cũng không thể làm được."

Bạch Cơ nói: "Báo thù là một việc nguy hiểm. Nếu ngươi đến Sơn trang Vân Hoa, có thể sẽ mất mạng."

Hoa Phác nói: "Báo thù vốn dĩ là phải đánh cược cả tính mạng, không phải ngươi chết thì ta vong. Chỉ có máu mới dập tắt được hận thù. Chỉ có dâng hiến sinh mạng của kẻ thù mới an ủi được vong hồn của người thân. Khi ta quyết định đến Lạc Dương, ta đã có ý thức buông bỏ sống chết. Nếu ta không may chết đi thì con trai ta sau này cũng sẽ báo thù cho ta."

Bạch Cơ rất bối rối. Oán thù giữa Tư Đồ gia và Hoa gia bắt đầu từ việc Tư Đồ Chương thúc ngựa lao nhanh, đâm chết bà lão của Hoa gia. Huynh đệ Hoa Lâm Sơn và Hoa Lâm Hải g**t ch*t cả nhà Tư Đồ Chương, bao gồm cả đứa trẻ còn trong tã lót, để báo thù cho nương mình. Sau đó, con trai của Tư Đồ Chương, Tư Đồ Hiểu, lại đi đến Quan Ngoại để báo thù, g**t ch*t cả gia đình Hoa Lâm Sơn và Hoa Lâm Hải. Giờ đây, con trai của Hoa Lâm Sơn là Hoa Phác lại đến Lạc Dương để giết Tư Đồ Hiểu.

Hết đời này đến đời khác, báo thù chồng chất, oán hận không bao giờ dứt: "Nếu ngươi bị Tư Đồ Hiểu g**t ch*t, con trai ngươi sau này lại sẽ đến báo thù cho ngươi. Nếu con trai ngươi có thể g**t ch*t Tư Đồ Hiểu thì sau này con cháu của Tư Đồ Hiểu lại sẽ tìm cách g**t ch*t con trai ngươi, để báo thù cho Tư Đồ Hiểu. Rồi người thân của ngươi lại sẽ báo thù cho người thân của Tư Đồ Hiểu. Cứ như thế, đời đời kiếp kiếp báo thù lẫn nhau, giết chóc không ngừng nghỉ, đầy đau khổ và nguy hiểm, tất cả chẳng phải chỉ là một trò chơi vô ích sao?"

Hoa Phác nói: "Bạch Cơ cô nương đang muốn khuyên ta từ bỏ hận thù, không báo thù cho phụ mẫu sao? Là một nam nhi chân chính, sao ta có thể làm được điều đó? Nếu không quan tâm đến sự sống chết của phụ mẫu, để cho sinh mạng của họ bị người khác giẫm đạp, chỉ để mình sống sót thì ta còn xứng làm người sao?"

Bạch Cơ nói: "Ta không khuyên ngươi từ bỏ hận thù mà là đang thấy khó hiểu. Con người vì oán thù mà đời đời kiếp kiếp rơi vào vòng xoáy giết chóc không dứt, đúng là vô nghĩa biết bao. Tại sao con người lại làm những điều vô nghĩa như vậy?"

Hoa Phác buồn bã nói: "Con người không phải đều như thế sao? Trong sự truyền thừa từ đời này sang đời khác, còn có sự truyền thừa của thù hận." Bạch Cơ lặng lẽ không nói gì thêm.

Hoa Phác nói: "Hơn nữa, ta không hề thua kém Tư Đồ Hiểu. Lần trước chỉ vì ta sơ suất, lần này nhất định ta sẽ lấy mạng hắn. Chỉ cần giết sạch toàn bộ người Tư Đồ gia, nhổ cỏ tận gốc, mối thù này sẽ hoàn toàn kết thúc."

Bạch Cơ không có lý do gì để ngăn cản và cũng không thể ngăn cản nên đành để Hoa Phác rời đi.

Hoa Phác lao vào con đường định mệnh mà hắn đã chọn, không hề hối tiếc.

Không lâu sau đó, Thanh Minh báo tin cho Bạch Cơ rằng Hoa Phác đã thất bại trong việc báo thù và bị Tư Đồ Hiểu g**t ch*t.

Nhận được tin Hoa Phác đã chết, Bạch Cơ cảm thấy bàng hoàng và đầy hoang mang.

Bạch Cơ không thể hiểu được lòng hận thù của con người, cũng như không thể hiểu được tình yêu của họ.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 12


Sau mùa xuân, Bạch Cơ đến núi Mang để thăm Thanh Minh.

Thanh Minh nói với Bạch Cơ rằng, trong Sơn trang Vân Hoa lại bắt đầu vang lên tiếng khóc đau khổ của nữ nhân, cùng với những bài ca buồn thảm.

Trong lòng Bạch Cơ nổi lên sự tò mò, vào một đêm khuya, nàng và Thanh Minh đến Sơn trang Vân Hoa để xem chuyện gì đang xảy ra.

Lần này, Bạch Cơ và Thanh Minh không đi vào sơn trang Vân Hoa qua cổng chính mà biến thành hai con bướm, một trắng một xanh, theo gió đêm bay vào khu vườn.

Dưới ánh trăng, khu vườn đầu xuân tràn đầy sức sống. Mặc dù nhiều loài hoa xuân chưa nở nhưng lá cây đã xanh tươi, nụ hoa dưới ánh trăng rung rinh, duyên dáng.

Cây hoa anh đào mà Bạch Cơ từng ngủ qua đêm dưới nó năm ngoái đã bắt đầu kết nụ, những nụ hoa trang điểm trên cành cây, tựa như gò má thiếu nữ e thẹn, ửng hồng nhẹ nhàng.

Con bướm trắng đậu trên một cành hoa anh đào.

Con bướm xanh đậu trên một cành hoa đào.

"Trên núi có cây sồi, dưới thung lũng có cỏ ngải. Chưa thấy quân tử, hoa chỉ như đoá hoa vô ích.

Mây trời phiêu diêu, không biết sẽ đi về đâu. Trên núi có cây sơn, dưới thung lũng có cỏ tía. Chưa thấy quân tử, hoa chỉ như đoá hư vô.

Mây trời phiêu diêu, không biết sẽ đi về đâu."

Trong màn đêm vang lên tiếng ca của một nữ nhân.

Tiếng ca vang vọng, êm ái, tràn đầy nỗi buồn.

Con bướm trắng theo tiếng ca của nữ nhân, bay vào sâu trong khu vườn, đến một nhà tù dưới chân giả sơn.

Trong nhà tù có một nữ nhân xinh đẹp bị giam giữ.

Nữ nhân vừa khóc vừa hát, ánh mắt vô hồn, thần sắc tuyệt vọng.

Đó là Hoa Nhược.

Hoa Nhược đối diện với hư không, lẩm bẩm: "Không thể tha thứ, ta hận hắn."

Trên trán Hoa Nhược đã không còn vệt vàng.

Sự xuất hiện và cái chết của Hoa Phác khiến nàng khôi phục ký ức, nhớ lại tất cả quá khứ của mình. Khi ký ức trở lại, nàng còn đau đớn hơn trước, bởi lòng hận thù trỗi dậy cùng với tình yêu không thể từ bỏ. Nàng lưu luyến những khoảnh khắc hạnh phúc bên Tư Đồ Hiểu, và dành cho hắn một tình yêu sâu đậm. Yêu và hận cùng tồn tại, xen lẫn trong lòng nàng, mâu thuẫn và xung đột lẫn nhau khiến nàng vô cùng đau khổ. Tình yêu và hận thù tuyệt vọng đan xen, khiến nàng không thể giải thoát.

Con bướm trắng bay ra khỏi nhà tù.

Con bướm trắng bay vòng ra khỏi giả sơn, xuyên qua khu vườn, đến một căn phòng nhỏ. Đó là thư phòng của Tư Đồ Hiểu.

Dưới ánh đèn lẻ loi, Tư Đồ Hiểu ngồi bệt trên sàn, một mình uống rượu giải sầu.

Dưới chân hắn là những bình rượu trống rỗng nằm rải rác.

Tư Đồ Hiểu vô cùng đau khổ, uống rượu không giúp hắn giải tỏa nỗi buồn, lại càng khiến hắn đau đớn, không thể thoát ra hơn.

Từ khi Hoa Phác đến tìm hắn báo thù, cuộc sống hạnh phúc của Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược giống như một chiếc bình ngọc bị ném xuống đất, đột ngột vỡ tan.

Lời nói dối vốn chỉ là một giấc mơ hư ảo, dù có thể che đậy tạm thời thì sớm muộn cũng sẽ tan vỡ trước thực tại.

Hoa Nhược sớm muộn gì cũng sẽ khôi phục trí nhớ, chỉ là cái chết của Hoa Phác đã đẩy nhanh quá trình tan vỡ của lời nói dối mà thôi.

Hoa Nhược bị cái chết của Hoa Phác kích động, đã phần nào nhớ lại ký ức, và khi thấy Hoa Phác bị Tư Đồ Hiểu g**t ch*t, nàng hoàn toàn khôi phục trí nhớ và nhớ lại tất cả.

Tư Đồ Hiểu đã g**t ch*t phụ mẫu và người thân của nàng, nàng không thể tha thứ, nàng hận hắn.

Tư Đồ Hiểu chỉ còn cách giam giữ Hoa Nhược như lúc ban đầu, hắn không biết phải làm sao, chỉ có thể mượn rượu giải sầu, trong đau khổ vô cùng.

Con bướm trắng rơi xuống đất.

Chỉ trong chớp mắt, Bạch Cơ đã xuất hiện trước mặt Tư Đồ Hiểu.

Tư Đồ Hiểu ngạc nhiên mở to mắt. Nhưng rất nhanh hắn đã trở nên bình tĩnh. Hắn không sợ hãi, vì so với nỗi sợ thì sự đau khổ của hắn của hắn còn nhiều hơn, thậm chí lấn át mọi cảm xúc khác. Hơn nữa, từ lâu hắn đã mơ hồ biết rằng Phiêu Miểu các là một nơi không bình thường, chủ nhân của Phiêu Miểu các chắc chắn không phải người phàm, mà là yêu ma, hoặc thần quỷ.

Tư Đồ Hiểu nhìn thấy Bạch Cơ, như một người sắp chết đuối, vớ được một cọng rơm cứu mạng.

"Bạch Cơ cô nương, xin ngươi hãy cho ta thêm một viên Vong Tình Đan nữa, để A Nhược tiếp tục mất trí nhớ, quên đi hận thù, tiếp tục yêu ta..."

Bạch Cơ lắc đầu nói: “Ta không thể đưa cho ngươi thêm một viên Vong Tình Đan nữa.” người sắp chết đuối, dù có bám lấy cọng rơm cứu mạng, cuối cùng vẫn sẽ chết đuối thôi. Bởi vì cọng rơm không thể chịu nổi trọng lượng của một người, không thể cứu mạng được.

Tư Đồ Hiểu không cam tâm, khẩn cầu: “Vậy ngươi có cách nào khác không, để A Nhược tiếp tục yêu ta? Chỉ cần ngươi khiến A Nhược yêu ta, bất kỳ cái giá nào ta cũng sẵn lòng trả.”

Bạch Cơ lắc đầu.

Tư Đồ Hiểu vô cùng thất vọng, hỏi: “Vậy ngươi xuất hiện trước mặt ta để làm gì?”

“Ta xuất hiện là để hỏi ngươi hai câu hỏi.” Bạch Cơ bình tĩnh nói.

Tư Đồ Hiểu hỏi: “Câu hỏi gì?”

“Ngươi tại sao phải giết Hoa Phác?”

Tư Đồ Hiểu sững sờ một lúc, rồi mới trả lời: “Ta buộc phải làm vậy. Hoa Phác đến tìm ta báo thù, nếu ta không giết hắn thì hắn sẽ giết ta. Giữa chúng ta không có khả năng hòa giải, chỉ có thể sống chết với nhau. Ta thắng, hắn chết. Nếu ta thua, người chết sẽ là ta.”

Bạch Cơ lại hỏi: “Nếu thời gian có thể quay trở lại, cho ngươi một cơ hội nữa, ngươi sẽ chọn từ bỏ báo thù không? Nếu ngươi đồng ý từ bỏ báo thù thì cả nhà Hoa thị sẽ còn sống, Hoa Phác cũng sẽ sống, và phu nhân của ngươi sẽ không hận ngươi. Lúc này ngươi và phu nhân của ngươi có lẽ sẽ có thể hạnh phúc mà sống cùng nhau.”

Tư Đồ Hiểu trầm tư một lúc, lắc đầu, nói: “Ta không thể từ bỏ báo thù. Nếu từ bỏ báo thù, để kẻ thù ung dung tự tại thì nửa đời sau của ta sẽ sống trong sự hối hận với phụ mẫu và muội muội. Sự hối hận chính là cái gông của tội lỗi, mang nó suốt đời sẽ rất nặng nề. Chỉ có mạng sống của kẻ thù mới là chìa khóa mở chiếc gông ấy.”

“Vậy ngươi có thể từ bỏ tình yêu dành cho phu nhân của ngươi không?” Bạch Cơ lại hỏi.

Tư Đồ Hiểu lắc đầu, nói: “Ta cũng không thể. Ta đã thử rất nhiều lần nhưng cuối cùng vẫn không thể buông bỏ tình cảm này, ta không thể ngừng yêu nàng.”

“Vậy ngươi định làm gì?”

Tư Đồ Hiểu tuyệt vọng nói: “Chỉ có cái chết mới có thể giải thoát.” Bạch Cơ không hỏi Tư Đồ Hiểu rằng cái chết của ai mới có thể khiến hắn giải thoát.

Bạch Cơ lại hóa thành một con bướm trắng, bay ra khỏi thư phòng.

Con bướm trắng bay đến khu vườn, đánh thức con bướm xanh đang nghỉ ngơi dưới cây hoa đào. Hai con bướm uyển chuyển bay đi trong ánh trăng.

Vì Bạch Cơ rất quan tâm đến Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược, Thanh Minh đã phái một con xà bộc lén lút ẩn náu trong trang viên Vân Hoa, âm thầm quan sát số phận của hai người.

Không lâu sau đó, xà bộc truyền tin tức về.

Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược sau một trận đối thoại dài, nhận ra rằng cả hai đều yêu nhau sâu đậm, không thể buông bỏ, nhưng cũng vì mối thù truyền kiếp mà không thể sống bên nhau trọn đời. Cuối cùng họ quyết định cùng nhau chết.

Sinh mệnh tuy quý giá nhưng sống trong nỗi đau khổ nặng nề, không thấy hy vọng và ánh sáng của tương lai, còn khổ sở hơn cả cái chết. Khi cuộc sống không bằng cái chết thì cái chết là sự giải thoát tốt nhất. Tư Đồ Hiểu tự mình chuẩn bị hai chén rượu độc.

Một chén cho hắn, một chén cho Hoa Nhược.

Sau khi cùng uống rượu độc, Tư Đồ Hiểu và Hoa Nhược quên đi hận thù, nắm tay nhau nằm xuống, chỉ còn lại tình yêu. Lúc uống rượu độc, cả hai đều cảm thấy gông xiềng của cuộc đời đã được tháo bỏ, trong lòng không còn mâu thuẫn và đau khổ, nỗi buồn và tuyệt vọng cũng biến mất, cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và đầy đặn.

Họ ôm nhau chờ đợi cái chết đến. Tuy nhiên, cuối cùng chỉ có Tư Đồ Hiểu chết đi.

Hoa Nhược vẫn còn sống.

Dù đã quyết định cùng chết nhưng đến phút cuối cùng, Tư Đồ Hiểu vẫn không nỡ bỏ thuốc độc vào chén rượu của Hoa Nhược. Hắn yêu nàng sâu đậm, không nỡ cướp đi mạng sống của nàng, dù nàng là hậu duệ của kẻ thù.

Tư Đồ Hiểu uống rượu độc, còn Hoa Nhược uống rượu không có độc.

Tư Đồ Hiểu ôm Hoa Nhược mà chết, hắn cảm thấy cuối cùng đã hoàn toàn thoát khỏi gông xiềng nặng nề. Cuộc đời báo thù thật mệt mỏi. Vì báo thù cuộc sống của hắn chỉ toàn là hận thù, sợ hãi, giết chóc, toan tính. Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn ngủi khi Hoa Nhược mất trí nhớ và cùng hắn kết thành phu thê tại trang viên Vân Hoa, hắn chưa từng cảm thấy nhẹ nhàng, cũng chưa từng hạnh phúc, càng chưa từng có được sự an yên.

Lúc này, trong lòng hắn vô cùng bình yên và thỏa mãn.

Hoa Nhược nhìn Tư Đồ Hiểu trúng độc mà chết, ngoài sự ngạc nhiên thì trái tim vừa mới trở nên nhẹ nhàng và đầy đặn đột ngột rơi vào một nỗi đau và tuyệt vọng lớn hơn rất nhiều. Nỗi tuyệt vọng còn nặng nề hơn trước đây, bóng tối còn u ám hơn trước, khiến Hoa Nhược không thở nổi.

Ngoài mối thù truyền kiếp, nàng còn phải gánh thêm nỗi đau của tình yêu đã mãi mãi mất đi.

Hoa Nhược cảm thấy con đường đời quá đỗi tối tăm, quá đỗi đau khổ, không thấy được chút ánh sáng nào, cũng không còn lại chút hy vọng nào.

Nàng ôm lấy thi thể lạnh lẽo của Tư Đồ Hiểu, gào khóc nức nở trong đêm dài vô tận, trái tim tan nát và tuyệt vọng.

*

Phiêu Miểu các, sân sau.

Bạch Cơ kể xong câu chuyện, trong lòng Nguyên Diệu vô cùng đau xót.

Nguyên Diệu vừa lau nước mắt vừa hỏi: “Bạch Cơ, sau đó thì sao?”

Bạch Cơ nói: "Sau khi Tư Đồ công tử qua đời, phu nhân Hoa Nhược vô cùng đau khổ, không ăn không uống, tinh thần mơ màng, gần như sắp chết. Nghe theo lời mô tả của xà bộc, ta mang theo phu nhân Hoa Nhược và cây quạt Đồ Hoa mà bà ấy tặng, chính là cây quạt mà Hiên Chi đang cầm đi đến trang viên Vân Hoa. Phu nhân Hoa Nhược chìm vào nỗi tuyệt vọng và tình yêu sâu đậm nhất. Ta cho rằng ta đã tìm thấy tình yêu sâu đậm và tuyệt vọng nhất trên thế gian đủ để nuôi dưỡng Đồ Hoa, giúp nó nở rộ. Vì vậy, ta đã lấy đi tình yêu sâu đậm và tuyệt vọng nhất trong lòng phu nhân Hoa Nhược, chuyển cảm xúc ấy vào cây quạt Đồ Hoa. Tiếng ca mà ngươi vừa nghe chính là âm thanh ảo vọng của tình yêu tuyệt vọng đó. Ta mang quạt Đồ Hoa trở về Phiêu Miểu các, dùng cảm xúc trên đó để nuôi dưỡng Đồ Hoa."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Đồ Hoa đã nở chưa?"

Bạch Cơ nhíu mày, nói: "Chưa nở. Quả nhiên là bị Nữ Di lừa rồi, trên thế gian này vốn không có Đồ Hoa, cây hoa mà bà ấy đưa cho ta cũng không thể nào nở được."

Nguyên Diệu nói: "Có lẽ có sự nhầm lẫn hoặc hiểu lầm gì chăng? Nữ Di là một vị thần hoa trên thiên giới, một thần tiên đáng kính, không lý do gì lại lừa ngươi."

Bạch Cơ chưa kịp trả lời thì Ly Nô vừa bưng khay trái cây rửa sạch vào. Hắn đặt khay mã não xuống đất, nói: "Mọt sách, thần tiên cũng không phải ai cũng đáng kính cả, cũng có những người xấu tính, nhỏ nhen. Nữ DI này chính là một thần tiên xấu xa. Chắc hẳn năm xưa bà ta đến núi Mang để lấy linh khí địa mạch nhưng không tranh giành được với các yêu quái lớn khác trong núi Mang, bị chọc tức bèn quay sang trêu chọc chủ nhân hiền lành của ta. Bà ta đưa ra một cây hoa giả để lừa gạt chủ nhân, khiến chủ nhân chịu đựng sự vất vả và kỳ vọng vô ích. Dù sao thì những năm qua, gia vẫn luôn nói xấu Nữ Di khắp nơi, khiến con người không còn cúng bái bà ấy nữa."

Bạch Cơ cũng tức giận nói: "Kể từ khi biết mình bị Nữ Di lừa, ta cũng không nói chuyện với bà ấy nữa. Thỉnh thoảng gặp bà ấy trên thiên giới, ta đều quay đầu đi, không nói với bà ấy một lời."

"Điều này...!" Nguyên Diệu lúng túng, đành hỏi: "Vậy cây Đồ Hoa thì sao? Các ngươi có vứt đi chưa?"

Bạch Cơ nói: "Không vứt đi, giờ nó vẫn còn. Chỉ là không còn ở trong Phiêu Miểu các nữa."

Nguyên Diệu hỏi: "Vậy nó ở đâu?"

Bạch Cơ không trả lời trực tiếp câu hỏi của Nguyên Diệu, mà rơi vào trầm tư.

Một lúc lâu sau, Bạch Cơ mới nói: "Con người là tồn tại được cấu thành bởi cảm xúc. Năm đó ta đã rút đi tình yêu và hận thù, hy vọng và tuyệt vọng của phu nhân Hoa Nhược. Nhờ đó mà phu nhân trở nên bình tâm, không còn khăng khăng muốn chết, mà sống tiếp một cách an yên. Tuy nhiên, mọi việc đều có cái giá của nó. Khi ta rút đi nỗi đau khổ, tuyệt vọng và tình yêu của bà ấy, cuộc sống còn lại của bà ấy không còn cảm xúc, không thể cảm nhận được niềm vui, cũng không còn hy vọng. Trái tim của bà ấy đã trở thành khô cằn và lạnh lẽo. Phu nhân Hoa Nhược đến Phiêu Miểu các, nói lời từ biệt với ta, bà ấy dự định xuất gia làm ni cô, sống cùng ánh thanh đăng cổ Phật suốt đời. Lúc đó ta đã định vứt bỏ Đồ Hoa. Phu nhân Hoa Nhược khẩn cầu, xin ta tặng Đồ Hoa cho bà ấy, để bà ấy mang đến ngôi chùa mà bà ấy sẽ xuất gia để trồng. Ta nghĩ rằng cây hoa này vốn không thể nở, rất giống với cuộc đời còn lại của bà ấy, và Đồ Hoa thực sự có duyên với bà ấy nên ta đã tặng cho bà ấy cây hoa đó. Sau này, thỉnh thoảng ta vẫn đến thăm phu nhân Hoa Nhược tại ngôi chùa mà bà ấy xuất gia, cũng tiện thể nhìn xem cây Đồ Hoa mà bà ấy trồng. Đồ Hoa không nở, bà ấy cũng như một thân cây khô cằn, sống cùng thanh đăng cổ Phật, không buồn không vui."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Phu nhân Hoa Nhược xuất gia ở đâu thế? Bà ấy còn sống không?"

Bạch Cơ trả lời: "Tất nhiên là còn sống. Bà ấy xuất gia tại am Vân Hoa, pháp danh là Vân Hoa. Bà ấy chính là sư tổ của công chúa Ngọc Quỷ."

"Công chúa Ngọc Quỷ là đệ tử của bà ấy ư?!" Nguyên Diệu ngạc nhiên.

Bạch Cơ nghĩ một lúc, nói: "Hiên Chi, ngày mai chúng ta sẽ đến am Vân Hoa thăm sư thái Vân Hoa. Ta nghĩ rằng, việc Hiên Chi đánh thức quạt Đồ Hoa là một duyên phận. Ta đã giữ cây quạt Đồ Hoa suốt mấy chục năm, giờ là lúc nên trả lại "tình yêu sâu đậm và tuyệt vọng nhất" cho sư thái Vân Hoa. Hơn nữa, ta còn có một tâm kết muốn tìm sư thái Vân Hoa để giải."

Nguyên Diệu gật đầu, nói: "Được thôi. Ngày mai chúng ta cùng đến am Vân Hoa, tiểu sinh cũng muốn xem cây Đồ Hoa."

Ly Nô cắn một miếng trái cây, có hơi lo lắng.

"Chủ nhân, sư thái Vân Hoa đã già rồi, chỉ còn nửa bước nữa là vào mộ. Giờ người trả lại cho bà ấy những cảm xúc đã từng đè nặng cuộc sống của bà ấy, khiến bà ấy không muốn sống nữa, bà ấy có chịu nổi không? Có thể chết ngay không?"

Bạch Cơ nói: "Ly Nô, chính vì sư thái Vân Hoa đã lớn tuổi nên ta mới muốn trả lại "cảm xúc" cho bà ấy. Nếu không trả lại ngay bây giờ thì sẽ không còn cơ hội nữa. Còn việc bà ấy có chịu nổi hay không thì đó không phải là điều chúng ta nên lo lắng. "Cảm xúc" vốn là của bà ấy, là một phần của cuộc đời bà ấy. Dù bà ấy có chịu nổi hay không, cũng phải chấp nhận. Cảm xúc là dấu vết của cuộc đời con người. Mất đi một phần cảm xúc, cuộc sống sẽ không trọn vẹn. Dù tốt hay xấu đều phải trả lại cho bà ấy những gì thuộc về bà ấy."

Ly Nô nói: "Ai da, con người đúng là loài sinh vật phiền phức, nào là tình yêu, nào là thù hận, thật phiền phức chết đi được."

Nguyên Diệu không nhịn được mà nói: "Ly Nô lão đệ, phi nhân cũng có cảm xúc, cũng có tình yêu và thù hận mà."

Ly Nô nói: "Vớ vẩn, gia không có tình yêu và thù hận. Chủ nhân cũng không có, mà “Mọt sách cũng không có, đúng không?"

"Đúng là không có thật..." Nguyên Diệu không có người yêu, cũng không có kẻ thù nên đành phải thừa nhận.

Vì vậy, ba người không có tình yêu, cũng không hiểu về thù hận, cùng nhau im lặng không biết nói gì thêm. Họ lặng lẽ ăn xong trái cây, rồi tiếp tục thu dọn đồ đạc.

Thu dọn xong, ba người lần lượt đi ngủ.

*

Đầu hè, ánh mặt trời rực rỡ.

Sau khi ăn sáng, Bạch Cơ và Nguyên Diệu rời Phiêu Miểu các đi đến am Vân Hoa.

Am Vân Hoa nằm ở ngoài cổng Kiến Xuân, đi dọc theo sông Y ba dặm, nằm trên sườn núi của một ngọn núi vô danh.

Dọc theo sông Y, ánh nắng màu hổ phách như tấm lụa mỏng, lơ lửng trên cánh đồng xanh tươi.

Công chúa Ngọc Quỷ cũng đang ở trong am Vân Hoa. Khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến thăm sư thái Vân Hoa, họ dự định tiện thể thăm Công chúa Ngọc Quỷ. Họ mang theo quà cho Công chúa Ngọc Quỷ, gồm một giỏ trái cây tươi mua ở chợ sớm đầu cầu và một hũ cá khô thơm phức mà Ly Nô đã cất giữ.

Công chúa Ngọc Quỷ là một con linh miêu. Khi xuất gia tại chùa Linh Tiêu ở Trường An, sư phụ của nàng rất nghiêm khắc và nàng đã cố gắng kiềm chế bản năng ăn thịt, chuyển sang ăn chay. Nhưng sau khi được gửi đến am Vân Hoa ở Lạc Dương, sư phụ mới là Vân Không không nghiêm khắc lắm, và thời gian kiềm chế bản năng ăn thịt của nàng đã quá hạn, cơ thể nàng bắt đầu yếu đi vì thiếu thịt. Vì vậy nàng lại trở về với bản năng ăn thịt. nàng cố gắng ăn chay và ăn thịt xen kẽ, và hầu hết thời gian nàng chỉ ăn những con cá bắt được từ sông Lạc và sông Y.

Vì Công chúa Ngọc Quỷ thích ăn cá nên Bạch Cơ và Nguyên Diệu đã mang theo hũ cá khô của Ly Nô để làm quà tặng, mặc cho Ly Nô không vui vẻ gì.

Bạch Cơ cũng mang theo cây quạt Đồ Hoa.

Trên đường đi hoa nở rộ, Nguyên Diệu lại hái thêm một ít hoa tươi và đặt vào giỏ trái cây.

Bạch Cơ vui vẻ ngắm cảnh xung quanh.

“Mùa hè đầu hạ này thật đẹp. Có nhờ có ngươi, nên mọi bông hoa trên thế gian giống như nở rộ vì ta vậy.”

Nguyên Diệu đỏ mặt, trong lòng như vừa nếm mật ong, ngọt ngào vô cùng.

“Bạch Cơ, có thể cùng ngươi ngắm cảnh đẹp thế này, tiểu sinh cũng cảm thấy rất hạnh phúc.”

Am Vân Hoa là một ngôi chùa ni cô yên tĩnh nằm giữa lưng chừng núi vô danh, được bao quanh bởi cây xanh và hoa lá, hương khói không quá nhiều nhưng cũng không hẳn là vắng vẻ.

Trong am Vân Hoa có vài ba khách hành hương đến cầu nguyện và dâng hương.

Khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước vào am Vân Hoa, họ nhìn thấy một người quen ngoài thiền đường.

Đó là một ni cô trẻ tròn trĩnh, gương mặt hiền lành.

Pháp danh của nàng là Vô Lộc, sư tỷ của công chúa Ngọc Quỷ.

Trong sự kiện "Mang Sơn Đằng," đệ đệ thế tục của Vô Lộc là Ngô Du đã gặp phải chuyện kỳ lạ bị chia cắt cơ thể và suýt mất mạng. Công chúa Ngọc Quỷ đã cùng Vô Lộc vào Phiêu Miểu các cầu cứu, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đã giải quyết vấn đề và cứu Ngô Du.

Khi thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu, Vô Lộc vội vàng đến chào hỏi và mời họ vào.

Sau khi chào hỏi, Bạch Cơ và Nguyên Diệu bày tỏ ý định đến thăm sư thái Vân Hoa.

Sư thái Vân Hoa ẩn cư trong một tiểu viện gần am Vân Hoa, yên tĩnh thờ Phật, không quan tâm đến chuyện thế gian.

Vô Lộc cử một ni cô trẻ đi báo cho sư thái Vân Hoa. Bạch Cơ hỏi: “Công chúa Ngọc Quỷ có ở đây không?”

Vô Lộc mỉm cười trả lời: “Hôm nay Ngọc Quỷ không ở chùa. Phu nhân của Quốc công Từ đang tổ chức một lễ cầu phúc, đã gửi thiệp mời sư phụ đến phủ Quốc công giảng kinh, và sư phụ đã dẫn Ngọc Quỷ đi cùng.”

Vì Công chúa Ngọc Quỷ không có ở đó, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đành giao trái cây và cá khô cho Vô Lộc, nhờ nàng chuyển lại cho Công chúa Ngọc Quỷ. Để cải thiện mối quan hệ đối địch giữa Ly Nô và Công chúa Ngọc Quỷ, họ cố ý nhấn mạnh rằng cá khô là do Ly Nô tặng.

Trong lúc nói chuyện, ni cô trẻ quay lại báo rằng sư thái Vân Hoa đã mời khách vào.

Vô Lộc lập tức chỉ dẫn ni cô dẫn đường cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến biệt viện.

Sau khi chào tạm biệt Vô Lộc, Bạch Cơ và Nguyên Diệu theo chân ni cô trẻ đi gặp sư thái Vân Hoa.

Viện của sư thái Vân Hoa không xa am Vân Hoa, chỉ cần ra cửa bên, bước lên vài bậc thang, đi qua một rừng trúc là đến.

Đó là một tiểu viện, trong sân có một cây hoa anh đào, trên mặt đất trồng đầy các loại hoa tươi. Vì bây giờ đã vào đầu hạ, không phải mùa xuân nên cây hoa anh đào chỉ còn lá xanh và vài cánh hoa đỏ rụng. Tuy nhiên, trên tường vườn leo đầy hoa tường vi trắng hồng và hoa tử đằng rực rỡ.

Khi đi qua viện, Nguyên Diệu chăm chú quan sát khắp nơi, nhưng vì trên đất toàn là hoa tươi, nên hắn không nhận ra được cây nào là mầm hoa Đồ Hoa.

Đôi mắt của Bạch Cơ bất giác lướt qua một chỗ dưới gốc cây hoa anh đào. Trước đây khi nàng đến thăm, ở đó từng trồng mầm hoa Đồ Hoa, giờ chỉ còn lại vài viên đá và một ít cỏ dại.

Có lẽ mầm hoa Đồ Hoa đã khô héo? Hoặc có thể sư thái Vân Hoa đã di chuyển mầm hoa Đồ Hoa đến chỗ khác? Bạch Cơ ngẫm nghĩ rồi bỏ qua, không bận tâm nhiều. Dù sao khi nàng tặng mầm hoa Đồ Hoa cho sư thái Vân Hoa, nàng đã buông bỏ hy vọng về việc thấy hoa Đồ Hoa nở rộ.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước vào phòng.

Sư thái Vân Hoa đang ngồi thiền trước tượng Phật. Bà đã hơn bảy mươi tuổi, khuôn mặt đầy nếp nhăn, mặc một chiếc áo cà sa bằng vải thô đơn giản.

Sư thái Vân Hoa chào đón Bạch Cơ và Nguyên Diệu ngồi xuống. Bà có đôi lông mày từ bi, dung mạo hiền lành, cử chỉ và lời nói vô cùng trang nhã.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu quỳ xuống trên hai chiếc bồ đoàn.

Sư thái Vân Hoa nói: “Bạch Cơ cô nương, lần cuối chúng ta gặp nhau đã hơn ba mươi năm trước. Hơn ba mươi năm không gặp, nàng vẫn không thay đổi chút nào.”

Bạch Cơ mỉm cười: “Ta là loại sinh mệnh bị giam cầm trong thời gian, dung mạo tất nhiên sẽ không thay đổi.”

Sư thái Vân Hoa nhìn Nguyên Diệu một cái, nói: “Cũng có hơi khác biệt, lần này người đi cùng nàng không phải là Thanh Minh công tử.”

Nguyên Diệu vội vàng hành lễ.

Bạch Cơ nói: "Đúng vậy. Đây là Hiên Chi, một người mới đến Phiêu Miểu các."

Sư thái Vân Hoa nói: "Bạch Cơ cô nương, không biết có phải vì ta sắp hết tuổi thọ, ngày tháng không còn nhiều mà dường như ta đã có cảm nhận nhạy bén hơn về cuộc sống. Gần đây ta bắt đầu có những cảm xúc. Kể từ khi nàng rút hết cảm xúc của ta, lấy đi tình yêu và hận thù, hy vọng và tuyệt vọng ra khỏi cơ thể, tâm trí của ta trở nên tĩnh lặng như một giếng cổ không gợn sóng, không còn cảm nhận được bất kỳ cảm xúc nào. Nhưng gần đây, ta lại có thể cảm nhận được một vài cảm xúc, dù rất nhỏ nhưng rất chân thực. Đôi khi, trong lòng ta xuất hiện một chút vui vẻ, đôi khi lại có một chút tức giận, có lúc còn cảm thấy hài lòng, rồi sau đó là chút thất vọng. Mấy chục năm qua, vì không còn cảm xúc, ta chưa từng nằm mơ khi ngủ. Gần đây, ta lại bắt đầu mơ thấy thời gian sống cùng phụ mẫu ở bên ngoài ải Ngọc Môn, mơ thấy lần đầu gặp gỡ với người ấy, và cũng mơ thấy khoảng thời gian đau khổ khi mất đi người thân yêu, rồi còn mơ thấy niềm vui và hạnh phúc ở trang viên Vân Hoa tại núi Mang, và cuối cùng là cảm xúc yêu hận không chịu nổi khi lựa chọn cái chết. Ta không thể cảm nhận được những cảm xúc này, giống như đang nhìn qua một sân khấu, xem người khác vui buồn lẫn lộn. Nhưng chúng đột nhiên xuất hiện nhiều lần trong tâm trí ta như đèn quay, đây là điều chưa từng xảy ra trong mấy chục năm qua. Ta có một dự cảm kỳ lạ, ta cảm thấy ta sắp hết tuổi thọ, ngày tháng không còn nhiều, ta cảm thấy nàng sẽ đến tìm ta sớm."

Bạch Cơ nói: "Ta thật sự đã đến tìm người." Sư thái Vân Hoa khẽ mỉm cười, ánh mắt trong sáng.

"Ta thậm chí biết vì sao nàng lại đến.”

Bạch Cơ lấy ra một chiếc hộp gỗ từ trong tay áo, bên trong đựng cây quạt Đồ Hoa, đặt trước mặt sư thái Vân Hoa.

“Ta muốn trả lại cây quạt Đồ Hoa cho người, bao gồm cả tình yêu, hận thù và tuyệt vọng của người.”

Sư thái Vân Hoa bình tĩnh nói: “Kể từ khi có dự cảm rằng ngày tàn của mình sắp đến, ta đã luôn chờ nàng mang cây quạt Đồ Hoa đến.”

Bạch Cơ nói: “Trước khi trả lại cảm xúc cho người, ta có một khúc mắc trong lòng, muốn nhờ người giúp ta giải tỏa.”

Sư thái Vân Hoa nói: “Cứ nói ra đi.”

Bạch Cơ nói: “Năm đó khi ta tặng người cây Đồ Hoa, ta đã thẳng thắn rằng vì công tử Tư Đồ đã đến Phiêu Miểu các và trở thành khách của ta, nên ta đã thực hiện ước nguyện của hắn, giúp người tạm thời quên đi mọi thứ và yêu hắn. Việc ta làm như vậy là đúng hay sai? Ta đã giúp công tử Tư Đồ lừa dối người, người có từng hận ta không?”

Sư thái Vân Hoa bình tĩnh nói: "Chuyện này không có gì đúng hay sai, giống như ân oán của Tư Đồ gia và Hoa gia qua nhiều đời vậy. Nhân quả tuần hoàn, vòng luân hồi liên tục, trên đời này có quá nhiều chuyện không thể đánh giá một cách đơn giản là đúng hay sai. Ta không hận nàng vì đã khiến ta tạm thời quên đi hận thù, có một khoảng thời gian hạnh phúc giả tạo và một người yêu thực sự. Ngược lại, từ khoảnh khắc nhìn lại cuộc đời từ điểm cuối của sinh mệnh, ta còn rất cảm kích nàng, cảm kích nàng đã thay đổi cuộc đời ta. Nếu không có nàng, ta đã bị giam cầm ở trang viên Vân Hoa, đầy hận thù nhưng không thể từ bỏ tình yêu đó, chỉ có thể chết trong đau khổ và tuyệt vọng. Chính nhờ có nàng, ta mới có thể làm một giấc mộng hạnh phúc ảo, trải qua tình yêu sâu sắc nhưng cũng đầy tuyệt vọng nhất."

Bạch Cơ mỉm cười nói: “Nghe người nói như vậy thì khúc mắc trong lòng ta đã được giải tỏa. Đúng rồi, cây Đồ Hoa ta tặng người đâu rồi? Khi đi qua sân, ta đã nhìn dưới gốc cây anh đào, nhưng nó không còn ở đó nữa, có phải đã khô héo rồi không?”

Sư thái Vân Hoa nói: "Không phải. Tối qua không hiểu sao, trong lòng ta đột nhiên có một mong muốn mạnh mẽ, như thể một thứ gì đó sâu thẳm trong sinh mệnh đã thức tỉnh. Ta nhìn ra cửa sổ và thấy cây Đồ Hoa, một thôi th*c m*nh mẽ khiến ta đi đến dưới gốc cây anh đào, đào cây Đồ Hoa lên và nuốt vào trong cơ thể."

Nguyên Diệu vô cùng ngạc nhiên.

Bạch Cơ cũng im lặng một lúc mới hiểu ra sự việc này: "Người đã ăn cây Đồ Hoa sao?"

Sư thái Vân Hoa mơ màng gật đầu, nói: "Đúng vậy. Một thôi thúc nào đó đã khiến ta tin rằng ta nên ăn nó. Chỉ khi nó hợp nhất với cơ thể ta thì mới có thể viên mãn."

Bạch Cơ sửng sốt, một lúc sau mới nói: “Cũng được thôi. Dù sao, cây Đồ Hoa và người rất có duyên. Hơn nữa, ta đã tặng nó cho người rồi, nó là của người. Người muốn xử lý thế nào đều là tự do của người.”

Bạch Cơ mở chiếc hộp gỗ lấy cây quạt Đồ Hoa ra. Giữa không trung, dường như có tiếng nữ nhân đang hát.

"Núi có phù dung, dưới đầm có cỏ phú di."

"Chưa gặp được quân tử, hoa đẹp chỉ là Đồ Hoa."

"Sao mà đám mây lại tan biến? Đừng vứt bỏ."

"Núi có cây sồi, dưới đầm có cây cỏ linh chi."

"Chưa gặp được quân tử, mộng ảo như Đồ Hoa."

"Sao mà đám mây lại tan biến? Đừng chết đi."

Sư thái Vân Hoa tỏ ra mơ màng.

Bạch Cơ lẩm bẩm niệm chú, một tia sáng vàng rực như gợn sóng nước lướt qua cây quạt Đồ Hoa, rồi bất ngờ bùng nổ, tạo thành một cơn sóng sáng cuốn về phía vị ni cô già đang mơ màng.

Ánh sáng vàng rực rỡ bao trùm lấy sư thái Vân Hoa, giữa không trung vang lên tiếng khóc đau đớn của một nữ nhân.

Chẳng bao lâu sau, ánh sáng vàng tan biến, chỉ còn lại vị ni cô già tuổi đã cao vẫn ngồi yên lặng. Cảm xúc trở lại trong tâm trí bà, trái tim đóng băng dần tan chảy, khả năng cảm nhận bắt đầu hồi sinh. Bà bắt đầu cảm nhận được mọi thứ, và một lần nữa trải qua sự đau đớn như ngọn lửa thiêu đốt không thể chịu đựng nổi.

Trên khuôn mặt đầy nếp nhăn của sư thái Vân Hoa, những giọt nước mắt già nua chảy xuống, ánh mắt tràn đầy đau buồn và thống khổ.

"Hắn dùng sinh mạng để tặng ta phần đời còn lại, còn ta dùng phần đời còn lại để nhớ đến sinh mạng của hắn. Không ngờ ở điểm cuối của cuộc đời, ta vẫn yêu hắn sâu đậm như vậy, cũng hận hắn sâu đậm như vậy."

Ngay lúc đó trên cơ thể sư thái Vân Hoa đột nhiên xảy ra một biến đổi lớn.

Từ vị trí trái tim của sư thái Vân Hoa, xuất hiện một dòng ánh sáng rực rỡ và lấp lánh.

Trong dòng ánh sáng đó, một mầm xanh từ từ nhú lên, dần dần lớn lên.

Một đóa hoa vàng xuất hiện từ mầm xanh.

Đóa hoa vàng đón gió lớn lên thì dần dần nở rộ, lớn như một chiếc đĩa tròn.

Khi đóa hoa từng chút một nở rộ, lá cây dần dần chuyển từ màu xanh sang màu trong suốt như pha lê, trong khi những cánh hoa vàng ngày càng tỏa sáng lấp lánh. Cánh hoa xòe ra, cánh hoa cuộn lại, nh** h** tỏa sáng rực rỡ, trong không khí tràn ngập một mùi hương thanh khiết và nồng nàn.

Bạch Cơ ngạc nhiên, sau đó như chợt hiểu ra điều gì, nói: "Thì ra đây chính là Đồ Hoa." Đóa hoa nở rộ trên ngực sư thái Vân Hoa chỉ là một ảo ảnh.

Điều kỳ diệu nhất là khi dòng ánh sáng ấy chảy xuống đất, những bông hoa vàng bắt đầu từ từ nở rộ như những đốm lửa nhỏ trên mặt đất, giống như trải một tấm thảm hoa vàng rực rỡ. Đồ Hoa lớn lên rất nhanh và nở ra dữ dội, trải dài từ nền thiền phòng, hành lang, sân sau, bờ tường, thậm chí cả trên mái nhà, đều dần xuất hiện những cành lá trong suốt, nở ra những bông hoa vàng.

Sau khi Đồ Hoa nở rộ, tất cả những bông hoa mùa hè trong sân sau đều mất màu sắc, những bông hoa tường vi trắng phớt hồng trên tường bị bao phủ bởi màu vàng rực rỡ, đến cả những bông hoa lan tiêu đỏ rực như lửa cũng bị che khuất, không thể nhìn thấy rõ.

Đồ Hoa dần dần lan rộng, thậm chí nở ra trong những biệt viện hẻo lánh, phủ kín rừng trúc và lan tới khắp cả am Vân Hoa.

Nếu lúc này có người đi ngang qua chân núi Vô Danh, nhìn lên am Vân Hoa nằm giữa lưng chừng núi sẽ thấy ánh vàng chói lọi và biển hoa hư ảo như mơ.

Đó là một vẻ đẹp vô thực khiến người ta phải ngạc nhiên.

Nguyên Diệu nhìn thấy cả vườn đầy Đồ Hoa, không kìm được mà thốt lên: "Đẹp quá! Tiểu sinh đột nhiên cảm thấy từ ngữ không đủ để diễn tả vẻ đẹp của Đồ Hoa."

Bạch Cơ nói: "Đồ Hoa là loài hoa đẹp nhất trên thế gian, nếu không biết phải diễn tả thế nào thì chỉ cần nói như vậy là đủ."

Sư thái Vân Hoa nhìn những bông hoa đẹp đẽ mọc lên nhờ mình, trên khuôn mặt lộ ra vẻ buồn bã.

“Những bông hoa đẹp đến thế này, nếu như chàng cũng có thể thấy được thì tốt biết mấy.”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu không nói gì, chỉ lặng lẽ thưởng thức vẻ đẹp rực rỡ và huyền ảo của những đóa hoa.

*

Trăng tỏ sao thưa, mây như sợi vặn vẹo trôi. Tại sân sau của Phiêu Miểu các.

Dưới gốc cây bồ đề, bên cạnh ao sen bảy báu, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Thanh Minh đang ngồi trên một tấm thảm nhung Ba Tư họa tiết hoa lạc tiên, thoải mái uống rượu và ngắm trăng.

Trên thảm nhung Ba Tư trải vài chiếc đệm mềm, xung quanh đệm có những bông hoa nở rộ rải rác một cách ngẫu nhiên. Giữa tấm thảm có đặt một chiếc babf làm từ gỗ lê hoa, trên đó có một bình rượu Kim Cốc, một đĩa dưa hấu và nho, một đĩa thịt cừu lạnh, và một đĩa bánh ngọt hoa sen.

Trên chiếc bàn gỗ hoa lê còn đặt một chiếc hộp gỗ, chiếc hộp đã mở, bên trong có chiếc quạt Đồ Hoa.

Trên chiếc quạt Đồ Hoa, xuất hiện một bông hoa hư ảo màu vàng.

Đêm sâu lắng, ánh trăng mờ ảo, bông hoa hư ảo màu vàng lơ lửng giữa không trung, ánh sáng chói lọi từ cánh hoa cuộn trào, lấp lánh như ngọc.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Thanh Minh nâng những chiếc chén sứ trắng, vừa thưởng thức rượu Kim Cốc, vừa ngắm nhìn bông hoa hư ảo màu vàng trong đêm.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến thăm sư thái Vân Hoa tại am Vân Hoa đã là chuyện của bảy ngày trước.

Khi Đồ Hoa nở rộ đến đỉnh điểm, sư thái Vân Hoa đã lặng lẽ viên tịch.

Vào cuối cuộc đời, Hoa Nhược đã dùng tình yêu sâu sắc và tuyệt vọng nhất của mình để khiến Đồ Hoa huyền thoại nở rộ, để mọi người được chứng kiến bông hoa hư ảo đẹp nhất trong truyền thuyết.

Am Vân Hoa bỗng nhiên nở ra một biển hoa rực rỡ khiến ai cũng ngạc nhiên, tin tức lập tức lan truyền đến Lạc Dương, mọi người đổ xô đến núi Vô Danh để chiêm ngưỡng vẻ đẹp huyền thoại này, và họ cho rằng đó là sự hiển linh của Phật Tổ, nên tất cả đều cúi đầu đảnh lễ trước cảnh tượng kỳ lạ này.

Ba ngày sau khi sư thái Vân Hoa viên tịch, Đồ Hoa mới bắt đầu tàn lụi, dần dần biến mất, trở về hư vô.

Vì sư thái Vân Hoa đã viên tịch, Bạch Cơ đã mang quạt Đồ Hoa trở về Phiêu Miểu các. Nàng còn dùng yêu lực của mình để giữ một bông hoa Đồ Hoa nở rộ vĩnh viễn trên chiếc quạt Đồ Hoa.

Sau khi Đồ Hoa nở rộ, Bạch Cơ đã phái Ly Nô đi mời Thanh Minh đến ngắm hoa. Trước đó, nàng đã hứa với Thanh Minh rằng khi Đồ Hoa nở sẽ mời hắn đến ngắm hoa. Nhưng đúng lúc đó Thanh Minh có việc phải đi xa, đến khi quay lại vực U Minh thì hoa ở am Vân Hoa đã tàn héo hết.

Thanh Minh trở về vực U Minh, nghe đám xà bộc nói rằng Bạch Cơ đã mời hắn, nhưng tiếc là hắn không có mặt và đã lỡ mất Đồ Hoa nở rộ, trong lòng cảm thấy vô cùng hối tiếc.

Thanh Minh vội vã đến Phiêu Miểu các làm khách.

Bạch Cơ lập tức tổ chức một buổi yến tiệc đêm, lấy chiếc quạt Đồ Hoa mà mình đã bảo quản để Thanh Minh thưởng thức.

Bạch Cơ cười nói: “Thanh Minh, Đồ Hoa thật sự này đẹp hơn nhiều so với Đồ Hoa mà ngươi tự tưởng tượng và vẽ ra.”

Thanh Minh nheo mắt, vừa thưởng rượu, vừa ngắm bông hoa vàng nở rộ trong đêm.

“Đẹp như mộng ảo, đẹp đến mức không thật. Tiếc là ta không có duyên với Đồ Hoa, không thể chứng kiến biển hoa Đồ Hoa ở am Vân Hoa. Bạch Cơ có thể tặng ta chiếc quạt Đồ Hoa và bông hoa này được không?”

Bạch Cơ trả lời: “Không thể. Ta đã quyết định mang chiếc quạt Đồ Hoa và bông hoa này lên Thiên Giới để tặng cho Nữ Di.”

Thanh Minh không vui nói: “Tại sao lại tặng cho Nữ Di mà không tặng cho ta? Chẳng lẽ nàng ấy mới là bạn của ngươi sao?”

“Đồ Hoa là do Nữ Di tặng cho ta, nàng ấy cũng chỉ cho ta cách khiến Đồ Hoa nở rộ. Nếu không có nàng ấy thì ta sẽ không thể thấy được bông hoa truyền thuyết vô song này. Hơn nữa, trước đây ta từng hiểu lầm Nữ Di, tưởng rằng nàng ấy lừa dối ta. Giờ nghĩ lại, là do ta đã hiểu sai cách khiến Đồ Hoa nở rộ từ đầu. Không phải là dùng tình yêu và tuyệt vọng của người khác để tưới tắm cho mầm hoa, mà là phải dùng chính mạng sống và tình cảm của mình để khiến Đồ Hoa nở. Ta định vài ngày nữa sẽ lên Thiên Giới, mang chiếc quạt Đồ Hoa và bông hoa này tặng cho Nữ Di, tiện thể trò chuyện với nàng ấy về những loài hoa truyền thuyết khác.”

Bạch Cơ mỉm cười nói.

Thanh Minh nói: “Bạch Cơ, thật sự không thể tặng Đồ Hoa cho ta sao? Dù sao, họa tiết trên chiếc quạt Đồ Hoa này là do ta tưởng tượng ra mà.”

“Không thể. Hoa đẹp phải dành cho người đẹp. Nữ Di xinh đẹp hơn ngươi, tặng Đồ Hoa cho nàng ấy hợp hơn.” Bạch Cơ kiên quyết từ chối

"Chẳng lẽ ta không đủ tuấn tú sao?"

Thanh Minh không vui, quay đầu hỏi Nguyên Diệu, người đang lặng lẽ uống rượu ngắm hoa bên cạnh: "Thư sinh, ngươi nhìn mặt ta xem, chẳng lẽ ta không phải là mỹ nam tử đẹp nhất thế gian sao?"

"Chuyện này..." Nguyên Diệu không biết nói gì, đành trả lời: "Thanh Minh huynh đệ, dung mạo của huynh là người đẹp nhất trong số những kẻ phi nhân mà tiểu sinh từng gặp."

Lúc này, Ly Nô mang một đĩa cá tre xanh nướng muối tiêu vừa nướng xong trên lò lửa bước tới.

"Mọt sách, ý ngươi là gì? Chẳng lẽ gia đây còn thua con rắn một sừng này về độ tuấn tú sao?!"

Nguyên Diệu đành trả lời: "Ly Nô lão đệ cũng rất tuấn tú mà."

Nghe vậy, Ly Nô đặt đĩa cá tre xanh xuống, vui vẻ ngồi sang một bên ăn.

Bạch Cơ nghe xong lại không vui, nói: "Hiên Chi, chẳng lẽ khi ta hóa thành Long công tử thì không đủ tuấn tú sao?"

"Không! Bạch Cơ cũng rất tuấn tú, các ngươi đều tuấn tú cả..."

Đối diện với mấy kẻ phi nhân hiếu thắng này, Nguyên Diệu không dám đắc tội ai, chỉ có thể nói lời qua loa như vậy.

Bạch Cơ nói: "Thế này nhé, Thanh Minh, dù ta không thể tặng ngươi quạt Đồ Hoa, nhưng ta sẽ tặng ngươi một bức tranh thêu Đồ Hoa."

Thanh Minh đồng ý.

"Được. Tốt nhất là thêu thành một cái túi hương hoặc túi thơm."

Bạch Cơ nhíu mày, nói: "Thêu thành túi hương và túi thơm phiền phức lắm, còn phải cắt may nữa, cùng lắm ta chỉ thêu cho ngươi thành một cái khăn tay thôi."

"Thôi được, ta muốn khăn tay màu xanh." Thanh Minh vui vẻ nói.

Bạch Cơ trả lời: "Được."

Bạch Cơ nghĩ, đã đồng ý thêu khăn tay Đồ Hoa cho Thanh Minh, dù sao cũng đã bắt đầu cầm kim chỉ, chi bằng nhân tiện thêu luôn mấy cái nữa. Một cái màu trắng cho bản thân, một cái màu xanh cho Thanh Minh, một cái màu đen cho Ly Nô, và một cái màu hồng cho Công chúa Ngọc Quỷ.

"Hiên Chi thích khăn tay màu nào? Ta tiện tay thêu cho ngươi một cái."

Bạch Cơ khẽ hỏi.

Nguyên Diệu cười trả lời: "Màu nào ta cũng thích, chỉ cần là do Bạch Cơ tặng là được."

Bạch Cơ mỉm cười, đang suy nghĩ về cách phối màu cho khăn tay.

Thanh Minh đột nhiên nói: "Bạch Cơ, Đồ Hoa cũng đã ngắm đủ rồi. Đêm nay tĩnh lặng như vậy, trong Phiêu Miểu các lại đầy ma quỷ âm u, rất có không khí để kể chuyện ma, hay là chúng ta kể vài câu chuyện ma đáng sợ đi?"

Ly Nô nghe vậy, cắn một miếng cá tre xanh, nói: "Rắn một sừng, chuyện này ngươi cũng nghĩ ra được! Chúng ta ở đây uống rượu ngắm hoa, bản thân nó đã là một câu chuyện ma đáng sợ rồi, còn cần kể thêm gì nữa chứ?"

Bạch Cơ cười nói: "Hay là chúng ta chơi trốn tìm nhé?"

Thanh Minh nghe vậy, có hơi sợ hãi.

"Bạch Cơ lại muốn ném ta à? Bị ném đi và rơi xuống đất sẽ đau lắm."

Bạch Cơ cười nói: "Không phải đâu, Thanh Minh, ta thật sự muốn chơi trốn tìm mà."

Nguyên Diệu nói: "Đêm đẹp thế này, vẫn nên làm thơ ngâm vịnh, luận bàn học vấn, thảo luận đạo Thánh hiền là tốt nhất."

Ly Nô nói: "Theo ý gia, vẫn nên yên tĩnh mà uống rượu ngon, ăn cá nướng mới hợp với đêm nay và với đóa Đồ Hoa này!"

Bốn người tranh cãi không ngừng, mãi vẫn không biết nên chơi gì.

Một cơn gió đêm thổi qua, lá Bồ Đề xao động, hoa Đồ Hoa như ảo mộng, mùa hè lại đến.

(Quạt Đồ Hoa - kết thúc)
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 13


Thần Đô, Lạc Dương, đêm khuya thăm thẳm.

Trong thành Lạc Dương không còn ánh đèn, bách tính đều đã say ngủ.

Dưới ánh sao và ánh trăng, trong các phường phố dày đặc của thành, từ trên mái nhà của mỗi hộ gia đình lặng lẽ bốc lên những sợi khói nhẹ.

Những làn khói này có dạng trong suốt, với đủ mọi màu sắc, ngoài các màu cơ bản thường thấy như trắng, đen, đỏ, cam, vàng, lục, xanh, lam, tím, còn có nhiều màu sắc kỳ diệu và rực rỡ hơn được pha trộn từ chín màu khác nhau.

Những làn khói đầy màu sắc này từ mái nhà mỗi hộ gia đình trong thành Lạc Dương bay lên, lơ lửng giữa không trung. Trong ánh trăng, khói trong suốt bay lượn, hàng trăm hàng nghìn màu sắc đung đưa xoay chuyển, giống như những con rắn đầy màu sắc đang múa theo nhịp nhạc khi nghệ nhân Ấn Độ thổi sáo, vô cùng linh động.

Như thể bầu trời đêm là một bức tranh, cảnh tượng này giống như giọt mực màu rơi xuống nước, vết mực tan, nở bung ra như những sợi chỉ, tạo nên những dấu vết kỳ diệu.

Khói sắc màu bay lượn, cuộn xoáy, tạo thành những hình thù kỳ lạ và rực rỡ trên bầu trời đêm của thành Lạc Dương.

"Mi...uuu..."

Trên bầu trời đêm, vang lên một tiếng kêu dài và réo rắt.

Một con dị thú chạy vội ra dưới ánh trăng.

Dị thú có toàn thân màu xám, trên người có lông bờm, bốn chân dài và đuôi ngắn.

Hình dạng của dị thú có chút giống lợn rừng, lưng tròn, phần trước dần thu hẹp lại. Đầu của nó giống tê giác, nhưng lại có chiếc mũi mềm như voi. Vì mũi của nó không dài như voi, nên nhìn tổng thể lại giống lợn hơn.

Dị thú chạy điên cuồng giữa không trung, như thể mất trí, đôi mắt phát ra ánh sáng đỏ rực quỷ dị.

Mỗi khi dị thú chạm vào những làn khói đầy màu sắc, nó lập tức há miệng, hút hết vào bụng.

Dị thú lao loạn trong khói, hút lấy hút để. Sau khi no nê, dị thú lại phát ra tiếng kêu "Mi...uuu...uuu...", rồi chạy xa dần dưới ánh trăng.

Trong thành Lạc Dương, những giấc mơ của con người bắt đầu thay đổi, có người trong cơn ác mộng bắt đầu phát ra những tiếng nói mê đầy đau đớn.

Khi dị thú đang nuốt chửng khói sắc màu dưới ánh trăng, tại chợ Nam, trong Phiêu Miểu các.

Tầng hai, trong phòng ngủ, Bạch Cơ đang say giấc.

Trong giấc mơ, là Tây Phương Cực Lạc, Bạch Cơ mơ thấy mình đã trở thành tổ của chúng Phật.

Tại vùng đất Phật kim quang, muôn loài vi diệu, Bạch Cơ ưu nhã ngồi trên tòa sen, hai tay đặt trên đầu gối, kết ấn trí tuệ. Tóc nàng được búi thành hình sóng nước, lộ ra một đôi sừng rồng, trên người mặc một chiếc áo cà sa màu vàng ánh kim. Toàn thân nàng tỏa ra muôn đạo kim quang, sau lưng là một vòng hào quang rực rỡ, lộng lẫy.

Trước mặt Bạch Cơ, hàng ngàn vị Phật và Bồ Tát cùng hàng vạn thiện nam tín nữ đang quỳ lắng nghe Bạch Cơ giảng pháp.

Bên trái Bạch Cơ, đột nhiên xuất hiện một con mèo đen nhỏ. Mèo đen nhỏ ôm một con cá.

Bên phải Bạch Cơ, đột nhiên xuất hiện một thư sinh mặc áo xanh. Thư sinh nhỏ ôm sách.

Những chỗ xuất hiện bất ngờ này không quá quan trọng, thậm chí có phần mơ hồ, chúng không phải là trọng điểm của giấc mơ đẹp này.

Trọng điểm là, trong giấc mơ này, Bạch Cơ đã trở thành Phật Tổ, đang truyền giảng Phật pháp cho chúng sinh.

Bạch Cơ vô cùng vui vẻ, thỏa mãn, nàng ngồi trên các vị Phật và Bồ Tát, trong giấc mơ tận hưởng niềm hạnh phúc của việc đạt được tâm nguyện.

Ta nghe như vậy, hoa trời rơi loạn.

Bạch Cơ như dòng suối chảy, không ngừng giảng giải giáo lý của mình cho chúng sinh.

Bỗng nhiên, bầu trời nứt toạc, một bàn tay khổng lồ từ trên trời giáng xuống.

"Rồng yêu, ngừng ngay lời tà! Trả lại tòa sen cho ta..." kèm theo âm thanh hùng hồn của Phật, bàn tay khổng lồ đó đè xuống Bạch Cơ, bao phủ nàng trong màn đen vô tận.

Bạch Cơ tiếp tục mơ, nàng mơ thấy núi tuyết và vực sâu, để có được sức mạnh của Bàn Cổ, nàng tự tay g**t ch*t Băng Di bị ma hóa. Sinh ly tử biệt, nàng đau đớn vô cùng, tâm can tan nát, từ đó mất đi trái tim.

Bạch Cơ mơ thấy trên đảo Kình Lạc, nàng chìm đắm trong giết chóc, không ngừng khơi mào chiến tranh, bắt các bộ tộc thua trận phải hiến tế, mưu cầu lấp đầy khoảng trống trong lòng bằng những sinh mạng tươi trẻ. Vùng biển xung quanh đảo Kình Lạc đều nhuộm đỏ máu.

Bạch Cơ còn mơ thấy sau trận đại chiến giữa trời và đất, nàng bị giam dưới đáy ao sen bảy báu, những chiếc xiềng lạnh lẽo trói buộc nàng, mỗi ngày đều phải chịu sự xâm nhập của băng lạnh và thiêu đốt của nghiệp hỏa, để thanh tẩy tội lỗi của mình trong sự dày vò của băng và lửa.

Đó là ký ức đau đớn nhất của Bạch Cơ, ác mộng đã khiến ký ức mà nàng cố ý phong ấn trong tâm thức bừng tỉnh.

Bạch Cơ trong giấc ngủ cau mày, phát ra những tiếng nói mê đầy đau khổ.

Tầng một, trong phòng ngủ của Nguyên Diệu.

Thư sinh ngủ rất ngon, hắn đang có một giấc mơ đẹp.

Mùa xuân, ánh nắng rực rỡ, trăm hoa đua nở. Nguyên Diệu, Bạch Cơ, Ly Nô tổ chức một bữa tiệc xuân ngoài đồng.

Những người tham dự bữa tiệc có cả người và phi nhân, phi nhân gồm có Hồ Thập Tam Lang, Công chúa Ngọc Quỷ, A Thử, Phượng Xí, Quỷ Vương, Đồi Mồi, Bối Đa La, Dạ Xoa... Những người tham dự bữa tiệc là Vi Ngạn, Bùi Tiên, Vi Phi Yên, Quang Tạng Quốc Sư, Huyền Trang, Vương Duy... tất cả đều là những bạn bè mà hắn đã quen biết và kết giao trong các sự kiện khác nhau.

Trên bãi cỏ đầy hoa, có một chiếc bàn lớn làm từ gỗ lê được đặt sẵn, trên bàn đầy ắp các loại mỹ thực và rượu ngon, bạn bè quây quần bên bàn, cùng nhau nâng ly uống rượu, tiếng cười nói rôm rả, vui vẻ vô cùng.

Trong giấc mơ của Nguyên Diệu, Bạch Cơ nho nhã, ôn hòa, khiêm tốn và lễ độ, nàng với tư cách là chủ nhân của bữa tiệc, giao tiếp thân mật với khách mời, nói năng đầy lý lẽ, toàn là nhân nghĩa đạo đức, lời nói và hành động đều rất mực tuân thủ đạo Thánh hiền.

Trong giấc mơ của Nguyên Diệu, Ly Nô cũng không còn ngang ngược hống hách, mà trở nên ngoan ngoãn, dịu dàng, chăm sóc chu đáo từng vị khách, ân cần nướng cá ngon cho mọi người, nhiệt tình rót rượu nho cho họ.

Bữa tiệc mùa xuân, mọi người hòa thuận, tiếng cười vui vẻ, tất cả đều hòa hợp và vui tươi đến lạ thường.

Bỗng nhiên, như một cơn bão lớn bất ngờ ập đến, một bóng đen xuất hiện tại bữa tiệc.

Đó là một Ma Phật khổng lồ với sáu cánh tay. Chính là Ma Tôn Ba Tuần.

Ba Tuần với khuôn mặt dữ tợn, ngạo mạn cười lớn, lật tung chiếc bàn đầy những món ngon, làm cho đám người và phi nhân trong buổi tiệc hoảng loạn. Hắn bắt đầu cuộc tàn sát của mình.

Vi Ngạn là người xui xẻo nhất, vì Ba Tuần xuất hiện ngay sau lưng hắn. Không kịp chạy thoát, hắn bị Ma Phật sáu tay bắt được, xé làm đôi. "Đan Dương..." Nguyên Diệu đau đớn khóc lên.

Ba Tuần lại bắt đầu đuổi theo Bùi Tiên. Bùi Tiên cũng không thoát nổi, bị Ba Tuần vỗ một chưởng chết tươi. "Trọng Hoa..." Nguyên Diệu tuyệt vọng khóc lên.

Mọi người lập tức chạy trốn, thân hình Ba Tuần càng lúc càng lớn, như một gã khổng lồ, bắt đầu điên cuồng tàn sát. Hắn lúc thì vỗ chết Quang Tạng Quốc Sư, lúc thì nuốt chửng Hồ Thập Tam Lang, khi lại giẫm chết Công chúa Ngọc Quỷ, khi lại bắt lấy Ly Nô. Nguyên Diệu lo lắng và đau đớn tột cùng, hắn muốn xông lên đối đầu với Ba Tuần nhưng lại không thể chống lại hắn. Hắn cố gắng lao tới nhưng chẳng thể di chuyển được chút nào.

Bạch Cơ hóa thành một con rồng trắng khổng lồ, chiến đấu với Ma Phật sáu tay giữa không trung. Trời bỗng chốc mây đen kéo tới, sấm chớp vang rền. Rồng trắng và Ma Phật sáu tay ác đấu, dần dần sức lực yếu đi, không chống nổi đối thủ. Ma Phật sáu tay mở rộng cánh tay khổng lồ, một tay bắt lấy đầu rồng trắng, một tay giữ chặt đuôi, bắt đầu dùng sức muốn xé nó làm hai.

Nguyên Diệu đau đớn tột cùng, trong đầu hắn là một màn đen kịt, tim như muốn vỡ ra. Trong giấc mơ, Nguyên Diệu r*n r* đau khổ, từ vị trí trái tim hắn, từng sợi khí đen bắt đầu lan ra.

Bên trong phòng, con mèo đen đang chìm trong giấc ngủ mơ màng. Ly Nô cũng có một giấc mơ.

Trong mơ là một buổi chiều bình yên, ở hậu viện của Phiêu Miểu các, Bạch Cơ và Nguyên Diệu nhàn rỗi không có việc gì làm, cùng ngồi uống trà trò chuyện. Ly Nô và Hồ Thập Tam Lang cùng nhau nướng cá trên lò than đỏ. Cả hai đang thi xem ai nướng cá thơm ngon hơn. Cược là khô cá thơm và gà bọc hồ lô.

Nếu Ly Nô thắng, Hồ Thập Tam Lang sẽ mua cho hắn một tháng khô cá thơm. Nếu Hồ Thập Tam Lang thắng, Ly Nô sẽ mời hắn ăn gà bọc hồ lô suốt một tháng. Trọng tài là Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

Như thường lệ, Ly Nô và Hồ Thập Tam Lang vừa thi tài vừa thỉnh thoảng cãi cọ, chê bai tài nấu nướng của nhau. Vì Ly Nô giỏi cãi vã, có thể dễ dàng làm hai việc cùng lúc, nên vừa chú tâm nướng cá mà vẫn có thể tiện miệng châm chọc Hồ Thập Tam Lang vài câu. Hồ Thập Tam Lang phải phân tâm để trả lời trả, nên không chú ý tới lửa than, cá của hắn bị nướng cháy.

Ly Nô vui mừng khôn xiết, nghĩ rằng mình sẽ thắng và có được một tháng khô cá thơm. Ai ngờ, Dạ Xoa bỗng nhiên xông vào Phiêu Miểu các. Dạ Xoa mặc một bộ đồ tang màu trắng, vừa nhìn thấy Ly Nô lập tức dậm chân nói: "Mèo đen! Ngươi còn có tâm trạng ở đây nướng cá ăn. Muội muội Đồi Mồi của ngươi đã chết rồi kìa!"

"Ôi?!!"

Ly Nô sững sờ. Dạ Xoa vung cây gậy khóc tang, nói: "Không biết từ đâu xuất hiện một con yêu trùng ăn trộm tiên đan, nó dẫn theo một đám yêu quái đến khu vực Bình Khang để cướp địa bàn của Ác Quỷ Đạo. Đồi Mồi muốn lập công, tự nguyện đi tiên phong, nhưng bị yêu trùng cắn chết. Quỷ Vương Bệ hạ và chúng ta đang tổ chức tang lễ cho Đồi Mồi, ngươi là ca ca ruột của nó, mau tới dự tang lễ, nhìn muội muội lần cuối trước khi chôn cất đi."

"…"

Ly Nô chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, trước mắt tối sầm lại, gần như không đứng vững.

Cá nướng của Ly Nô đã rơi xuống lò than, lập tức bị cháy đen. Ly Nô trong lòng buồn bã, vô cùng đau khổ. Trong giấc mơ, con mèo đen phát ra những tiếng r*n r* đau đớn.

Tại Thái Sơ Cung, trên điện Thượng Dương, Võ Tắc Thiên đã nằm trên long sàng và chìm sâu vào giấc ngủ. Trong mơ, Võ Tắc Thiên mặc một bộ hoàng bào chín con rồng, đầu đội mũ ngọc trắng, ngồi trên Minh Đường, nhận lễ bái của bá quan và đón tiếp các sứ thần từ vạn nước.

Trong mơ, đế quốc Đại Chu trời yên biển lặng, quốc lực ngày càng hùng mạnh, bản đồ mở rộng gấp ba lần so với thời Đại Đường. Trong mơ, quốc khố đầy ắp vàng bạc vải vóc, Hàn Gia Thương đầy ắp lúa gạo, vì chứa không hết nên phải xây dựng thêm kho lương lớn hơn.

Bách tính an cư lạc nghiệp, dân gian không có ai khổ đau, mọi người đều ca ngợi nữ đế là một vị minh quân hiếm có trong lịch sử. Võ Tắc Thiên ban đầu đắm mình trong giấc mộng vương đồ bá nghiệp, tâm trạng vô cùng thoải mái.

Không biết vì sao, cảnh trong mơ đột nhiên biến đổi, Võ Tắc Thiên lại mơ thấy mình dần dần già đi. Trong gương đồng, nữ đế tóc bạc trắng, nếp nhăn hiện lên nơi khóe mắt, răng cũng dần rụng hết. Nữ đế dần dần già yếu, đổ một cơn bệnh nặng, nằm trên long sàng, trong lòng dâng lên một cảm giác bất lực, chỉ cảm thấy mình sắp không thể giữ được quyền lực của đế quốc nữa rồi.

Bỗng nhiên, hoàng cung bắt đầu bốc cháy, bên ngoài cung truyền đến tiếng binh khí và sự chém giết.

Võ Tắc Thiên gắng gượng chống đỡ cơ thể, ánh mắt mờ đục nhìn ra ngoài điện. Trong đôi mắt lão hóa của mình, nữ đế sắp chết nhìn thấy một nhóm văn thần võ tướng vây quanh con trai bà xông vào trong điện. Đối diện với nữ đế già nua bất lực, những thần tử và con trai này bỗng thay đổi thái độ từ trước đây, không còn sự phục tùng và khiêm nhường, mà ép buộc bà thoái vị, giao lại quyền lực. Võ Tắc Thiên vô cùng đau khổ, nhưng lại không thể làm gì được. Trong giấc mơ, Võ Tắc Thiên nhíu mày, phát ra những tiếng r*n r* đau đớn.

*

Thế giới giữa xuân, hoa nở khắp Lạc Dương.

Chợ Nam, Phiêu Miểu các.

Mấy ngày nay, không khí ở Phiêu Miểu các vô cùng ảm đạm. Bạch Cơ phần lớn thời gian đều buồn bã không vui. Ly Nô thì hầu như lúc nào cũng ủ rũ. Nguyên Diệu mấy ngày nay thường xuyên gặp ác mộng, dù biết rõ rằng mộng chỉ là hư ảo, nhưng vẫn ảnh hưởng đến tâm trạng hàng ngày, khiến hắn cũng trở nên không vui.

Ngày hôm đó, sau khi thức dậy, cả ba người Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đều mang vẻ mệt mỏi như không ngủ ngon, đôi mắt thâm quầng. Ly Nô uể oải chuẩn bị bữa sáng, Bạch Cơ và Nguyên Diệu buồn bã ăn xong, cả ba đều không có tâm trạng nói chuyện nhiều. Nguyên Diệu nhận thấy từ sau khi ăn sáng xong, Bạch Cơ bắt đầu tìm kiếm thứ gì đó trong Phiêu Miểu các.

Thỉnh thoảng, Bạch Cơ đi quanh đại sảnh và gian trong, tìm kiếm ở các góc kẹt của kệ hàng và tủ đa bảo. Đôi lúc, nàng kéo tấm rèm tre, dịch chuyển bàn ngọc xanh, nhìn qua rồi lại đặt mọi thứ trở lại vị trí cũ.

Đôi lúc, Bạch Cơ còn lục lọi giữa những bụi cây và cỏ dại trong sân sau, thậm chí nàng còn thò đầu vào chiếc giếng cổ, nhìn sâu vào bên trong giếng tối tăm. Nguyên Diệu vốn định hỏi Bạch Cơ đang tìm cái gì, nhưng thấy nàng bận rộn với vẻ mặt nghiêm túc, nên không tiện quấy rầy.

Đợi đến khi Bạch Cơ ngồi xuống, bắt đầu uống trà bên bàn ngọc xanh, Nguyên Diệu mới hỏi: “Bạch Cơ, cả buổi sáng nay ngươi tìm gì vậy?”

Bạch Cơ nâng tách trà, thở dài một tiếng rồi nói: “Hiên Chi, ta đang tìm khiếu hài hước của mình. Dường như ta đã đánh mất nó.”

“Khiếu hài hước cũng có thể mất sao?!”

Nguyên Diệu ngạc nhiên. Bạch Cơ trả lời: “Không biết nó có thể mất hay không, nhưng gần đây ta thật sự không còn chút hài hước nào, nên tạm nghĩ là nó đã mất và thử tìm xem có thể tìm lại được không.”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi, nói: “Bạch Cơ vốn không có thứ gọi là khiếu hài hước, tìm cũng chỉ là công cốc thôi.”

Bạch Cơ không vui, nói: “Hiên Chi mới là người không có khiếu hài hước.”

Bạch Cơ ngồi lặng lẽ, buồn bã. Con mèo đen cũng ủ rũ ngồi trên đệm mềm. Gần đây nó nói rất ít, tâm trạng cũng uể oải, thậm chí vừa rồi cũng lười không muốn cãi nhau với Nguyên Diệu. Tiểu thư sinh cũng có hơi buồn bã. Gần đây, hắn thường xuyên gặp phải những giấc mơ không vui, trong mơ luôn xảy ra những chuyện buồn bã, đau khổ, khiến người ta sau khi tỉnh dậy đều cảm thấy chán nản.

Nguyên Diệu thở dài, nói: “Không biết sao, gần đây ta luôn mơ thấy những giấc mơ khiến người ta đau khổ. Dù biết rõ giấc mơ chỉ là hư ảo, nhưng khi tỉnh dậy, nghĩ lại những gì xảy ra trong mơ vẫn khiến ta không vui.”

Con mèo đen lên tiếng: “Gia cũng vậy.”

“Hiên Chi, Ly Nô, các khiếu cũng thỉnh thoảng gặp ác mộng sao?”

Bạch Cơ nghe vậy, ngạc nhiên hỏi. Nguyên Diệu trả lời: “Chẳng lẽ Bạch Cơ cũng như vậy?”

Ly Nô nói: “Đúng vậy, chủ nhân, Ly Nô gần đây thường mơ thấy Đồi Mồi chết, dù biết rõ đó chỉ là mơ, nhưng tỉnh dậy rồi vẫn cảm thấy buồn bã.”

Bạch Cơ hỏi: “Các ngươi bắt đầu gặp ác mộng từ khi nào?”

Nguyên Diệu nói: “Mấy ngày gần đây.”

Ly Nô trả lời: “Từ hôm Xuân Phân, tức là bảy ngày trước.”

Bạch Cơ dường như nhớ ra điều gì đó. Nàng đặt tách trà xuống, đứng dậy, đến tủ đa bảo lấy một chiếc gương đồng trang trí hoa văn ốc biển. Bạch Cơ cầm chiếc gương đồng, bước đến bên cửa sổ, đưa gương về phía ánh sáng.

Bạch Cơ tập trung tĩnh khí, đôi mắt biến thành màu vàng, nàng dùng linh lực nhìn vào hình ảnh của mình trong gương. Trong gương đồng, giữa trán của Bạch Cơ có một vết đen. Bạch Cơ lại dùng đôi mắt vàng nhìn vào Nguyên Diệu và Ly Nô. Trên trán Nguyên Diệu, cũng có một vết đen. Con mèo đen thì toàn thân đã đen, khó thấy vết đen nào, nhưng trên trán nó, mơ hồ có một làn khói đen bao phủ.

Bạch Cơ đặt gương xuống, nói: “Thì ra là vậy. Gần đây luôn gặp ác mộng, ban ngày cũng không vui vẻ, ta cứ tưởng là do mất đi khiếu hài hước. Không ngờ lại là do những giấc mộng đẹp bị ăn mất!”

Nguyên Diệu nghe vậy, tò mò hỏi: “Bạch Cơ, bị ăn mất giấc mộng đẹp là sao?”

Bạch Cơ giải thích: “Người và phi nhân đều cần ngủ. Khi ngủ say, sinh linh sẽ mơ. Giấc mơ là kết quả của tinh khí, sẽ tràn ra khỏi cơ thể sinh linh và bay lơ lửng xung quanh. Trạng thái giấc mơ bay ra khỏi cơ thể người và phi nhân, chúng ta tạm gọi nó là "tơ mộng". Vì giấc mơ xuất phát từ não bộ, nên "tơ mộng" sẽ từ đầu thoát ra, bay ra ngoài cơ thể. Một đầu của "tơ mộng" nối với não bộ của sinh linh, đầu kia xuyên qua tất cả những tồn tại hữu hình và vô hình, bay lơ lửng trên không trung, kéo dài vô tận. Nếu "tơ mộng" của người A và người B trong lúc bay lơ lửng có sự rối rắm hoặc giao nhau nhất định, họ sẽ mơ thấy những điều tương tự nhau."

Thấy hai người gặp nhau. Thông thường, "tơ mộng" của sinh linh sẽ trôi nổi khắp nơi trong thế giới hữu hạn hay vô hạn sau khi sinh linh chìm vào giấc ngủ, không có vấn đề gì và cũng không có nguy hiểm. Nhưng nếu gặp phải một sinh linh nào đó có khả năng nhìn thấy "tơ mộng", chạm vào "tơ mộng", thì sẽ có nguy hiểm. Nếu "tơ mộng" của giấc mơ đẹp bị ăn mất, con người hoặc phi nhân sẽ rơi vào ác mộng. Việc liên tục gặp ác mộng sẽ ảnh hưởng đến tinh thần, thậm chí nghiêm trọng hơn có thể đe dọa tính mạng."

Nguyên Diệu vô cùng ngạc nhiên.

“Giấc mơ cũng có thể bị ăn mất ư?!”

Bạch Cơ gật đầu.

“Ban đầu ta không nhận ra, chỉ nghĩ rằng mình ngẫu nhiên gặp phải ác mộng. Nhưng khi nghe các ngươi nói rằng các ngươi cũng bị như vậy, ta mới dùng linh lực kiểm tra, quả nhiên trên ấn đường của chúng ta đều có dấu vết màu đen, đó là dấu vết do giấc mơ đẹp bị ăn mất để lại. Tiện thể nói thêm, nếu ác mộng bị ăn mất thì đó là một chuyện may mắn, sẽ làm cho tâm trạng trở nên vui vẻ. Nếu ác mộng bị ăn mất, ấn đường sẽ xuất hiện một ánh sáng nhạt.”

Ly Nô hỏi: "Chủ nhân, ý ngài là có ai đó đã ăn mất giấc mơ đẹp của chúng ta. Hãy nói cho Ly Nô biết là ai đã ăn? Ly Nô sẽ đi ăn nó ngay!"

Bạch Cơ nói: "Chắc chắn là một phi nhân nào đó. Ta nghĩ rằng có không ít phi nhân có thể ăn giấc mơ trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, bình thường ta không để tâm ghi nhớ, giờ nghĩ lại cũng không thể nhớ ra, để ta đi lật lại sổ ghi chép về yêu quái."

Có hướng cố gắng, tâm trạng của Bạch Cơ trở nên phấn chấn hơn, sau khi đặt chiếc gương đồng với họa tiết ốc biển xuống, nàng lập tức lên kho tầng hai tìm kiếm sách cổ.

Ly Nô cố gắng giữ tinh thần, đi ra chợ mua cá.

Thư sinh cố gắng giữ tinh thần, ngồi ở quầy hàng trông cửa tiệm.

Kể từ khi gặp Bạch Cơ và Ly Nô, thế giới của Nguyên Diệu đã thay đổi, luôn có những chuyện chưa từng nghe thấy xảy ra, còn gặp gỡ đủ loại tồn tại kỳ lạ.

Giấc mơ của con người và phi nhân có thể hóa thành tơ mộng, thậm chí bị phi nhân thần kỳ ăn mất, đúng là một chuyện kỳ diệu vô cùng.

Phi nhân ăn giấc mơ rốt cuộc là thứ gì? Nó tên gì? Hình dáng thế nào? Đến từ đâu? Tại sao phải ăn giấc mơ?

Nguyên Diệu đang mơ màng suy nghĩ thì đột nhiên có hai người bước vào Phiêu Miểu các.

Đó là hai nam tử đẹp đẽ mặc trang phục sang trọng.

Một người cao lớn, mày kiếm mắt sao, sống mũi cao, dung mạo vô cùng tuấn tú, tỏa ra khí chất anh hùng. Người kia thì dáng người thanh tú, môi đỏ răng trắng, dung nhan tuấn mỹ, giống như một đóa sen rung rinh trong gió.

Nguyên Diệu nhìn thấy lập tức nhận ra ngay, đó chính là Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông.

Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông là hai huynh đệ, họ có dung mạo tuấn tú, khéo léo, đều là sủng thần của Võ Tắc Thiên, phục vụ trong cung.

Nữ đế đã lập ra một phủ gọi là Khống Hạc Phủ cho huynh đệ Trương thị, bổ nhiệm Trương Dịch Chi làm Tả Phủ Lệnh, kiêm Tư Vệ Thiếu Khanh. Trương Xương Tông được phong làm Hữu Phủ Lệnh, kiêm Xuân Quan Thị Lang.

Khống Hạc Phủ còn gọi là Khống Hạc Giám, là một cơ quan văn nghệ, công việc chính là biên tập thơ văn của người xưa hoặc các thi nhân đương thời, biên soạn thành tập.

Công việc thứ hai là trong các yến tiệc cung đình, những nam tử đẹp của Khống Hạc Giám phải trình diễn tài nghệ, phụng sự và làm vui lòng Hoàng Hậu. Thành viên chính của Khống Hạc Giám ngoài huynh đệ Trương thị còn có Lý Khuông Tú, Cát Húc, Tiết Cử, Nghiêm Triều Ẩn, Tống Chi Vấn, Quách Nguyên Chấn v.v.

Nguyên Diệu từng theo Bạch Cơ dự vài yến tiệc cung đình, từng gặp Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông.

Nguyên Diệu chưa từng tiếp xúc với Trương Dịch Chi, chỉ có quen mặt, không thể nói là thích hay ghét. Nhưng hắn có nhiều duyên nợ với Trương Xương Tông, đã vài lần tiếp xúc, cứ nhìn thấy Trương Xương Tông là đau đầu.

Trương Xương Tông cũng không thích Nguyên Diệu, mỗi lần thấy hắn là khó chịu, chỉ gọi hắn là "xấu xí."

Huynh đệ Trương thị nhờ vào nhan sắc mà phục vụ người, cần duy trì vẻ ngoài mỹ lệ, họ có giao dịch mua bán dược phẩm làm đẹp với Bạch Cơ, thường xuyên có qua lại mua bán.

Huynh đệ Trương thị định kỳ mua những loại phấn hương từ xương mỹ nhân nghiền thành, son từ máu mỹ nhân chế thành, công thức bí mật, cách làm đẫm máu, cần có phép thuật gia trì, Nguyên Diệu nhìn thấy mà tê đầu.

Huynh đệ Trương thị đến thăm chắc là để lấy phấn hương và son môi.

Nguyên Diệu cố gắng chịu đựng, chào đón: “Hai vị Trương phủ lệnh đã lâu không gặp, có phải đến lấy phấn hương và son môi không? Xin mời vào bên trong ngồi. Tiểu sinh sẽ lên lầu mời Bạch Cơ xuống.”

Trương Xương Tông vừa thấy Nguyên Diệu đã ghét bỏ, quay mặt đi, không muốn để ý đến hắn.

Trương Dịch Chi lại rất nhiệt tình với Nguyên Diệu, hắn tiến lên nắm lấy tay Nguyên Diệu, thân thiết nói: “Nguyên huynh, mấy lần gặp huynh tại yến tiệc trong cung, cũng thường nghe đệ đệ nhắc đến huynh, nhưng vẫn chưa có dịp thân cận. Hôm nay thấy huynh, chỉ cảm thấy rất hợp ý. Tuy rằng chúng ta đến thăm Bạch Cơ, nhưng ta vẫn muốn trò chuyện cùng huynh nhiều hơn.”

Nguyên Diệu vô cùng ngạc nhiên.

“Trương phủ lệnh, ngài quá khách khí rồi, tiểu sinh thực sự được ưu ái quá mức...”

Trương Xương Tông cũng rất ngạc nhiên. Hắn biết rằng huynh trưởng của mình luôn rất chú trọng đến các mối quan hệ, giỏi đoán ý người khác, thu phục lòng người, nhưng hắn không hiểu tại sao huynh trưởng lại muốn thu phục một kẻ thấp kém như Nguyên Diệu. Hắn cảm thấy đối với Nguyên Diệu, chẳng cần phải tốn sức hay mưu kế, thậm chí không cần nhìn đến hắn.

Trương Dịch Chi thân thiết nói: “Gì mà phủ lệnh với không phủ lệnh, Nguyên huynh, huynh cứ gọi ta là Ngũ Lang. Huynh làm ta nhớ đến người huynh trưởng xa xôi của ta, huynh trưởng cũng giống huynh, văn nhã và tuấn tú. Khi ta còn nhỏ, huynh trưởng rất thương ta, nghĩ đến huynh trưởng, lòng ta lại thấy ấm áp, thấy huynh cũng khiến ta không khỏi cảm thấy ấm lòng, sinh ra ý muốn thân cận.”

Nguyên Diệu không biết phải làm thế nào trước sự thân thiện cố ý của Trương Dịch Chi.

"Tiểu sinh không dám nhận mình là huynh trưởng của ngài. Ngũ Lang, xin hãy gọi tiểu sinh là Hiên Chi."

"Hiên Chi, quê quán ngươi ở đâu? Đã thành gia lập thất chưa? Trong nhà còn những ai? Gần đây ngươi đang đọc sách gì?"

Trương Dịch Chi dường như quên mất mục đích của mình, nắm tay Nguyên Diệu, cùng bước vào gian trong, ngồi kề nhau đàm đạo.

Nguyên Diệu không còn cách nào, đành phải trả lời.

Vì Trương Dịch Chi rất nhiệt tình, lời nói chân thành, lại rất biết cách an ủi lòng người, nên sau một hồi trò chuyện tâm giao, Nguyên Diệu cũng không còn ác cảm với hắn, chỉ cảm thấy hắn là người dễ gần.

Trương Xương Tông nghe mà thấy sốt ruột, nhưng không dám cắt ngang cuộc trò chuyện của huynh trưởng, chỉ có thể đứng yên bên gian trưng bày báu vật, ngắm nghía những tranh chữ, bình hoa, hương liệu và các đồ vật linh tinh khác.

Trương Dịch Chi bước vào Phiêu Miểu các, không vội gặp Bạch Cơ, mà trò chuyện với Nguyên Diệu suốt nửa canh giờ.

Trước sự nhiệt tình của Trương Dịch Chi, Nguyên Diệu không tìm được cơ hội thích hợp để thoát ra và đi mời Bạch Cơ.

May thay, dường như Bạch Cơ đã tìm thấy được điều gì đó trong cuốn bút ký về yêu quái, bèn phấn khởi bước xuống lầu.

"Hiên Chi, ta vừa nghĩ ra một chuyện thú vị!" Bạch Cơ vừa xuống lầu vừa lớn tiếng nói.

Khi Bạch Cơ nhìn thấy Nguyên Diệu và Trương Dịch Chi đang nắm tay nhau ngồi bên bàn đá ngọc xanh trò chuyện, còn Trương Xương Tông thì buồn chán đứng bên gian trưng bày, nàng mới biết là Phiêu Miểu các có khách đến.

Bạch Cơ thay vào khuôn mặt một nụ cười thân thiện, nói: "Chà! Đúng là hiếm có khách quý, Ngũ Lang, Lục Lang sao hôm nay lại có nhã hứng đến Phiêu Miểu các vậy?"

Trương Dịch Chi lúc này mới buông tay Nguyên Diệu, đứng dậy hành lễ và nói: "Bạch Cơ, hôm nay chúng ta đến đây là để mua đồ."

Bạch Cơ bước tới, ngồi xuống bên bàn đá ngọc xanh.

"Vậy hai vị muốn mua gì?"
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 14


Trương Dịch Chi cũng ngồi xuống, hắn biết Bạch Cơ và Nguyên Diệu không giống nhau, không lòng vòng nhiều lời mà nói thẳng vào vấn đề: "Mấy ngày nay, Võ đế Bệ hạ thường xuyên gặp ác mộng, khiến long thể không được khỏe. Ngự y đã khám và nói đó là do lao tâm tổn trí, chỉ khuyên nên bổ dưỡng và tĩnh dưỡng. Nhưng Tiết Hoài Nghĩa* ở chùa Bạch Mã, vì muốn tranh sủng lại nói là do yêu ma quấy nhiễu, nên phải nghe hắn niệm kinh trừ tà hàng đêm mới có thể an thần. Hắn còn mê hoặc Võ đế Bệ hạ, khiến người chuyên sủng hắn. Võ đế Bệ hạ thường lui tới chùa Bạch Mã, không hề ghé qua Khổng Hạc Giám, lại càng không triệu kiến huynh đệ chúng ta. Bạch Cơ có bảo vật nào có thể giúp người ta tránh khỏi ác mộng không?"

* 薛怀义 (Tiết Hoài Nghĩa): tên đúng là Phùng Tiểu Bảo, là một sủng thần thời Võ Chu trong triều đại nhà Đường. Trong lịch sử, Tiết Hoài Nghĩa và anh em Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông có độ chênh lệch tuổi tác khoảng hai, ba mươi năm. Mặc dù cùng sống trong một thời kỳ, nhưng Tiết Hoài Nghĩa chết sớm, và quỹ đạo cuộc đời của ba người họ không hề giao nhau. Tuy nhiên, trong tác phẩm này tác giả đã hư cấu về việc các nhân vật gặp gỡ nhau, vì cho rằng sự đồng tồn tại của họ sẽ tạo nên nhiều tình tiết thú vị hơn, và tăng thêm sự xung đột trong cốt truyện.

"Võ đế Bệ hạ gặp ác mộng ư?" Bạch Cơ nhíu mày.

Trương Dịch Chi trả lời: "Đúng vậy."

Bạch Cơ suy nghĩ một lúc, rồi hỏi: "Ngũ Lang, Lục Lang, gần đây hai vị không gặp ác mộng chứ?"

Trương Dịch Chi lắc đầu, nói: "Không có, ta ngủ rất yên giấc."

Trương Xương Tông cũng nói: "Ta cũng không gặp ác mộng. Tuy nhiên, huynh trưởng, ta nghe các tai mắt nói rằng mấy ngày nay một số triều thần và cung nhân cũng thường xuyên gặp ác mộng."

Bạch Cơ trầm ngâm không nói.

Trương Dịch Chi hỏi: "Bạch Cơ, trong Phiêu Miểu các có bảo vật nào giúp người ta không gặp ác mộng không?"

Nghe vậy, Bạch Cơ đảo mắt, mỉm cười: "Tất nhiên là có. Chỉ có điều, giá hơi đắt."

Trương Dịch Chi hỏi: "Đó là thứ gì?"

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi, ra kệ ngoài lấy cho ta một hộp hương An Tức Càn Lan."

"Nhưng Bạch Cơ, An Tức Can Lan là gì? Chúng ta có loại hương liệu đó không?"

Nguyên Diệu thật thà, thốt ra ngay.

Bạch Cơ chỉ biết đứng dậy, cười nói: "Thôi để ta tự đi lấy. Hiên Chi kiến thức hạn hẹp, không biết được đồ tốt."

Bạch Cơ đi tới đại sảnh, tiến đến kệ hàng, tùy tiện lấy một hộp hương Thủy Trầm rẻ tiền. Nàng khẽ thi triển một pháp thuật, truyền chút linh lực màu vàng vào hương Thủy Trầm. Bất cứ ai đốt hương Thủy Trầm này để trợ giấc ngủ sẽ ngủ rất say, không hề mơ mộng. Nếu không mơ, thì cũng chẳng gặp ác mộng.

Bạch Cơ mang hương Thủy Trầm vào gian trong, đặt lên bàn đá ngọc xanh.

"Đây là hương An Tức Can Lan, có khả năng trừ tà niệm và an thần. Đốt một chút trước khi ngủ sẽ giúp giấc ngủ trở nên ngọt ngào và không gặp ác mộng."

Trương Xương Tông hỏi: "Bao nhiêu bạc?"

Bạch Cơ mỉm cười trả lời: "Hương An Tức Càn Lan vô cùng quý giá, hiếm có khó tìm. Trong Đại Đường... không, trong Đại Chu Đế Quốc, chỉ có ở Phiêu Miểu các mới có, nơi khác các ngươi không thể mua được. Hương liệu này được vận chuyển từ quốc gia Can Lan xa xôi, vượt qua năm đại dương. Nguyên liệu của nó là từ những cây trầm hương cổ thụ mọc trên đỉnh núi tuyết linh thiêng nhất của Can Lan."

Nguyên Diệu thầm đảo mắt, hắn đã nhận ra đó là hương Thủy Trầm. Hắn nghĩ rằng huynh đệ nhà họ Trương thông minh như vậy, chắc sẽ không bị lừa bởi lời nói dối của Bạch Cơ, vì trầm hương không thể mọc trên đỉnh núi tuyết.

"Vậy giá bao nhiêu bạc? Bạch Cơ, chỉ một hộp hương nhỏ như thế này, ngươi không định lấy của bọn ta một trăm lạng vàng chứ?" Trương Xương Tông hỏi.

Bạch Cơ cười nói: "Không đâu, không đâu, Ngũ Lang, Lục Lang là khách quen, thường xuyên tới lui, ta làm sao dám hét giá trên trời? Chỉ cần mười lạng vàng là được rồi."

Nguyên Diệu tính toán, hộp hương Thủy Trầm này chỉ tốn khoảng một lạng bạc.

Huynh đệ họ Trương hiện đang được thánh sủng, quyền lực trong tay, không hề bận tâm tới mười lạng vàng, không mặc cả mà đồng ý mua ngay.

Bạch Cơ nhân cơ hội nói thêm: "Thiền sư Tiết Hoài Nghĩa cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn, cơ thể đầy hình xăm, lưng hùm vai gấu, vô cùng nam tính. Võ đế Bệ hạ rất mê mẩn vẻ đẹp nam tính ấy. Còn hai ngươi... Ngũ Lang thì không sao, nhưng Lục Lang, ngươi yếu đuối như cành liễu lay trong gió, thân hình như hoa sen, quá yếu mềm. Ta ở đây có một loại dược liệu bí mật từ Tây Vực, có thể giúp tăng cường cơ bắp, khiến người trở nên vạm vỡ, hùng tráng, sức mạnh có thể nhấc đỉnh, ngươi có muốn mua một ít để thử không? Dù sao bây giờ, người có thể khiến Võ đế Bệ hạ say mê là những nam nhân mạnh mẽ như thiền sư Tiết."

Trương Xương Tông có chút động lòng, định hỏi thêm.

Trương Dịch Chi lập tức nói: "Lục đệ, để huynh dạy ngươi một số điều về cách sống trong cung đình. Những người như chúng ta, được hoàng đế sủng ái, để giữ được tình yêu bền vững, điều quan trọng nhất là phải giữ được phong cách riêng của mình. Lòng người tham lam, d*c v*ng vô tận, sở thích của Bệ hạ có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Hôm nay người thích mẫu đơn rực rỡ, ngày mai có thể sẽ thích mai cô độc, ngày sau lại có thể thích sen thanh nhã, và có lẽ một ngày nào đó sẽ thích cúc vàng. Chỉ cần khiến trái tim người rung động, thì bất kỳ thứ gì cũng có thể trở thành sở thích của người, và sở thích đó có thể thay đổi bất kỳ lúc nào. Chúng ta chỉ cần giữ vững phong cách riêng của mình, phát huy nó đến cực điểm, khiến người chỉ cần nhìn qua đã động lòng và mãi không quên, đó mới là điều quan trọng nhất. Nếu ngươi bắt chước thiền sư Tiết Hoài Nghĩa, dù có bắt chước tốt đến đâu, ngươi cũng chỉ là Tiết Hoài Nghĩa thứ hai. Ngươi phải là Trương Xương Tông độc nhất."

Trương Xương Tông gật đầu, không còn bị Bạch Cơ dụ dỗ nữa.

Bạch Cơ thấy không bán được hàng, chỉ có thể cười nói: "Ta luôn ngưỡng mộ sự thông minh của Ngũ Lang."

Huynh đệ họ Trương sau khi mua được thứ mình muốn lập tức cáo từ ra về.

Trương Dịch Chi rất nhiệt tình với Nguyên Diệu, trước khi đi còn mời hắn khi rảnh thì đến Khống Hạc Phủ gặp mình, cùng nhau đánh đàn ngâm thơ, trao đổi học vấn.

Sau khi huynh đệ họ Trương rời đi, Bạch Cơ tiện tay ném mười lạng vàng họ để lại vào cái bình gốm đựng tiền lẻ trên quầy, tâm trạng rất vui vẻ.

Nguyên Diệu thì cẩn thận mài mực, cầm bút ghi chép khoản thu này vào sổ sách.

" Bạch Cơ, tại sao Trương Ngũ Lang lại thân thiện với ta như vậy?" Nguyên Diệu hỏi.

Bạch Cơ cười nói: "Vì hắn là một kẻ cơ hội. Hay nói một cách khác, hắn là người sống nhờ vào "quan hệ". Nhận biết người khác là bản năng của hắn, nịnh nọt và lợi dụng người khác là cách sống của hắn. Hắn có thể dễ dàng nhận ra ai trong đám đông có giá trị lớn đối với hắn, có thể mang lại cho hắn dưỡng chất để sinh tồn và lợi ích khổng lồ. Còn Lục Lang thì không thông minh bằng Ngũ Lang, cũng không khôn khéo như Ngũ Lang, giống như một đứa trẻ bị nuông chiều. Ta lại thích đùa giỡn với Lục Lang hơn, vì không phải động não khi ở cạnh hắn, còn khi trò chuyện với Ngũ Lang thì phải dụng tâm."

Nguyên Diệu không nhịn được cười: "Bạch Cơ, ý ngươi Trương Lục Lang là một kẻ ngốc sao?"

Bạch Cơ che miệng cười: "Lục Lang có ngốc đến đâu cũng thông minh hơn Hiên Chi nhiều."

Nguyên Diệu không cười nổi nữa.

Bạch Cơ cười nói: "Nhưng Hiên Chi dù ngốc nghếch, đối với ta, vẫn là bảo vật vô giá."

Lòng Nguyên Diệu chợt ấm lên, mặt cũng đỏ bừng.

Bạch Cơ nói: "Nghe Ngũ Lang, Lục Lang nói, những người bị mất đi giấc mơ đẹp ngoài ta, Hiên Chi, Ly Nô, còn có Võ đế Bệ hạ và một số triều thần. Có vẻ như thật sự có kẻ phi nhân nào đó đang tác oai tác quái."

Nguyên Diệu hỏi: "Kẻ phi nhân nào vậy? Bạch Cơ, nàng có tìm ra câu trả lời trên lầu không?"

Bạch Cơ chợt nhớ ra điều gì đó, cười nói: "Vẫn chưa tìm được. Nhưng ta tìm thấy một thứ rất thú vị."

Nguyên Diệu hỏi: "Thứ gì vậy?"

Bạch Cơ trả lời: "Hiên Chi đã từng nghe về câu chuyện về "đố ngư hóa mạch vọng"* chưa?"

* 蠹鱼化脉望 (đố ngư hóa mạch vọng): xuất hiện trong tác phẩm "Dậu Dương Tạp Trở" của Đoàn Thành Thức thời Đường: Khi mọt sách ba lần ăn chữ "thần tiên" thì sẽ hóa thành mọt tiên, được gọi là "mạch vọng". Câu chuyện Bạch Cơ kể xuất phát từ "Nguyên Hóa Ký" của Hoàng Phủ thị thời Đường.

Nguyên Diệu lắc đầu, nói: "Chưa từng nghe."

Bạch Cơ cười nói: "Có một thư sinh họ Hà, mua được một cuốn sách cổ. Khi lật giở cuốn sách, Hà thư sinh phát hiện trong đó có một chiếc vòng tròn. Chiếc vòng này có đường kính khoảng bốn tấc, trông giống như công cụ để cuộn tóc của nữ nhân. Hà thư sinh tò mò nghịch ngợm chiếc vòng và không cẩn thận làm gãy nó, từ giữa chiếc vòng rỉ ra nhiều nước trong. Hà thư sinh không hiểu đó là gì, bèn thử đốt chiếc vòng bằng lửa. Chiếc vòng khi cháy tỏa ra mùi tóc cháy khét. Rất lâu sau đó, Hà thư sinh gặp một đạo sĩ, kể lại chuyện này. Đạo sĩ vô cùng cảm thán, tiếc nuối cho Hà thư sinh đã bỏ lỡ cơ hội trở thành tiên nhân. Con mọt sách ba lần ăn chữ "thần tiên" trong sách sẽ biến thành chiếc vòng mà Hà thư sinh phát hiện. Chiếc vòng này gọi là mạch vọng, uống nước trong mạch vọng sẽ có thể trở thành tiên."

Nguyên Diệu ngạc nhiên thốt lên: "Thật kỳ diệu!"

Một lúc sau, Nguyên Diệu lại hỏi: “Nhưng việc con mọt sách hóa thành mạch vọng có liên quan gì đến việc những giấc mơ đẹp bị ăn mất?”

Bạch Cơ cười nói: “Không liên quan gì cả. Khi ta lục tìm trong cuốn bút ký về yêu quái ở tầng hai, vô tình ta nhìn thấy con mọt sách mà ta đã cất giữ, nó được tạo ra từ mạch vọng ngược hóa, và đột nhiên trong đầu ta nảy ra một ý tưởng.”

Nguyên Diệu hỏi: “Mạch vọng ngược hóa thành mọt sách là gì?”

Bạch Cơ trả lời: “Đã từng có một vị khách bước vào Phiêu Miểu các, hắn không giống như thư sinh họ Hà trong câu chuyện, hắn có duyên với thiên cơ. Với sự giúp đỡ của ta, hắn đã thành công có được mạch vọng, trở thành bán tiên. Đúng vậy, truyền thuyết chỉ nên tin một nửa thôi, mạch vọng chỉ có thể khiến người ta trở thành bán tiên, không thể thành thần tiên. Sau khi vị khách uống nước trong mạch vọng và trở thành bán tiên, phần xác của mạch vọng – tức là phần giống với công cụ cuốn tóc của nữ nhân, ta đã phơi khô, nghiền thành bột và cho mọt sách ăn.”

Nguyên Diệu há hốc mồm, hỏi: “Rồi sao nữa?”

Bạch Cơ lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ từ trong tay áo, cười nói: “Rồi ta đã có được một vài con mọt sách có linh khí, được tạo ra từ mạch vọng ngược hóa.”

Nguyên Diệu gãi đầu, nói: “Bạch Cơ, tiểu sinh vẫn không hiểu con mọt sách và việc những giấc mơ đẹp bị ăn mất có liên quan gì nhau.”

“Hiên Chi từ từ nghe ta nói.”

Bạch Cơ chậm rãi giải thích: “Trước đây, khi mới có được những con mọt sách này, ta đã thử nghiệm một chút. Ta cố ý đặt con mọt sách vào quyển sách chỉ toàn chữ ‘thần tiên’ dày đặc, mong rằng chúng sẽ ăn ba lần chữ ‘thần tiên’ rồi hóa thành mạch vọng lần nữa. Nếu có thể sản xuất hàng loạt mạch vọng thì đúng là một món hời. Kết quả là, không có tác dụng, mọt sách ăn hết chữ ‘thần tiên’ mà cũng không hóa thành mạch vọng. Dường như việc trở thành tiên cần phải có duyên phận, không phải là điều có thể cố ý tạo ra.

Vì thế, ta lại thử nghiệm khác, ta viết đầy chữ ‘vàng’ lên một quyển sách, để xem sau khi mọt sách ăn ba lần chữ ‘vàng’, chúng sẽ hóa thành cái gì.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Chúng hóa thành cái gì? Có phải cũng không có tác dụng như trước không?”

Bạch Cơ che mặt bằng ống tay áo, cười nói: “Vàng thì vẫn có thể tạo ra một cách đặc biệt. Vài con mọt sách ăn ba lần chữ ‘vàng’, có con hóa thành một miếng vàng, có con hóa thành một mảnh bạc nhỏ, cũng có con biến thành một đồng tiền xu. Tất nhiên, cũng có con chỉ hóa thành một chút bụi.”

Nguyên Diệu thấy điều này thật kỳ diệu.

Bạch Cơ tiếp tục: “Vừa rồi, khi ta nhìn thấy chiếc hộp chứa những con mọt sách ngược hóa từ mạch vọng, ta chợt nảy ra một ý tưởng. Nếu viết đầy chữ ‘mộng’ lên một quyển sách để chúng ăn hết, thì con mọt sách sau khi ăn ba lần chữ ‘mộng’ sẽ hóa thành cái gì?”

“Có thể hóa thành con quái vật ăn mộng chăng?!” Nguyên Diệu thốt lên.

Bạch Cơ suy nghĩ một lát, rồi nói: “Ta cũng không thể đoán ra nó sẽ hóa thành gì. Chi bằng chúng ta thử một lần xem sao.”

Nguyên Diệu gật đầu nói: “Được.”

Thế là, Bạch Cơ và Nguyên Diệu tạm gác lại việc nghiên cứu vấn đề giấc mộng bị ăn mất, để bắt đầu thí nghiệm cho mọt sách ăn mộng. Bạch Cơ lấy ra rất nhiều tờ giấy, để Nguyên Diệu viết đầy chữ ‘mộng’ bằng bút tiểu khải trên đó.

Bạch Cơ cũng chuẩn bị sẵn một số hộp gỗ, trong mỗi hộp đặt ba tờ giấy có chữ ‘mộng’. Nàng hồi sinh những con mọt sách ngược hóa từ mạch vọng và để chúng sinh sôi. Mỗi chiếc hộp gỗ đặt một con mọt sách, để chúng ăn chữ. Sau khi mọt sách ăn hết ba lần chữ ‘mộng’, sẽ biết chúng hóa thành cái gì.

Do Bạch Cơ không cẩn thận, dùng yêu lực sinh ra nhiều con mọt sách hơn mức cần thiết, nàng cảm thấy không nên lãng phí, có thể dùng để biến chúng thành vàng.

Bạch Cơ lại bảo Nguyên Diệu làm việc cả đêm, viết đầy chữ ‘vàng’ lên một chồng giấy Tuyên.

Bạch Cơ lấy ra vài chiếc lọ nhỏ, trong mỗi lọ đều có giấy viết đầy chữ ‘vàng’ và một con mọt sách.

Bạch Cơ dọn trống hai hàng trong bảo khố, một hàng đặt những chiếc hộp mọt sách ăn mộng, một hàng đặt những chiếc lọ mọt sách ăn vàng, rồi chỉ cần tĩnh tâm chờ đợi.

Ly Nô thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu bận rộn với những việc này, không khỏi nghĩ thầm: Nếu mọt sách ăn ba lần chữ ‘cá’, thì sẽ hóa thành cái gì? Có phải sẽ biến thành một con cá voi khổng lồ? Hay là biến thành một người cá?

Tuy nhiên, Ly Nô chỉ nghĩ vậy thôi, không có ý định thí nghiệm.

Thời gian trôi qua từng ngày, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô vẫn tiếp tục có những giấc mơ không vui vẻ, tuy nhiên mức độ ác mộng đã giảm đi so với ban đầu.

Tình trạng này giống như bị thứ gì đó cắn phải, ban đầu rất nghiêm trọng, dần dần vết thương cũng đang tự lành lại từng ngày.

Bạch Cơ lật xem bút ký về yêu quái, nhưng vẫn không tìm ra được gì về loài phi nhân ăn giấc mơ đẹp. Nàng còn thức trắng đêm, đi dạo quanh Thần Đô để quan sát, nhưng vẫn không tìm ra thứ phi nhân nào đã ăn mất những giấc mơ đẹp của mọi người.

*

Hôm đó, một trận mưa xuân trút xuống.

Bên trong Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ ngồi trước chiếc bàn ngọc xanh, trước mặt nàng trải rộng một quyển cổ thư. Vừa lật giở những trang sách ghi chép về yêu quái, nàng vừa nhấp một ngụm trà thanh, thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi những chồi non đang đẫm trong cơn mưa xuân.

Con mèo đen đang bận rộn trong nhà bếp. Hôm nay, nó đã mua được một ít cá dẹp tươi ngon, định chế biến thành món cá lên men thơm ngon, sau đó đóng vào hũ và nhờ người mang đến phường Bình Khang ở Trường An cho Đồi Mồi. Gần đây, nó luôn gặp ác mộng về Đồi Mồi, dù ngoài đời Đồi Mồi vẫn bình an vô sự, nhưng mèo đen vẫn rất lo lắng cho muội muội, muốn gửi tặng nàng món cá lên men này.

Nguyên Diệu đứng sau quầy, vì không có khách nên hắn chẳng có việc gì làm. Trời lại vừa mới đổ mưa xuân, trong lòng hắn bỗng dâng lên cảm hứng để sáng tác một bài thơ về cơn mưa.

Nguyên Diệu đang mải mê tìm từ ngữ cho bài thơ trong tâm trí mình.

Bỗng nhiên, Vi Ngạn vội vã bước vào Phiêu Miểu các.

Thấy Nguyên Diệu, Vi Ngạn lập tức hỏi: “Hiên Chi, Bạch Cơ có ở đây không?”

Nguyên Diệu cười trả lời: “Đan Dương, hôm nay sao ngươi lại rảnh rỗi ghé qua Phiêu Miểu các vậy? Bạch Cơ đang ở bên trong.”

Vi Ngạn vừa theo Nguyên Diệu bước vào bên trong vừa nói: “Ta gặp phải một chuyện kỳ lạ, muốn hỏi thử Bạch Cơ xem đó là điềm lành hay điềm dữ.”

Bạch Cơ đã nghe thấy từ trước, nàng cười nói: “Vi công tử, ta đâu phải là thầy bói, cũng không phải là Bách Hiểu Sinh của Lạc Dương, ngươi không thể cứ gặp chuyện khó hiểu là chạy đến hỏi ta. Phiêu Miểu các là nơi buôn bán, ngươi đến đây là để mua đồ.”

Vi Ngạn ngồi xuống đối diện với Bạch Cơ, cười nói: “Bạch Cơ, chuyện mua đồ thì không khó. Năm nay ta được thăng chức, lương bổng cũng tăng lên, có thể mua nhiều thứ mình thích hơn. Nhưng sau khi thăng chức, công việc cũng nhiều hơn, mỗi ngày đều phải dậy sớm về muộn, rất mệt mỏi, thời gian rảnh rỗi ít hơn trước.”

Bạch Cơ cười nói: “Chúc mừng, chúc mừng! Vi công tử đã được thăng chức gì vậy?”

Vi Ngạn trả lời: “Ta vừa được thăng chức làm Hữu Thập Di của Trung Thư Tỉnh.”

Ngoại trừ bốn loại chức vụ vua chúa, Bạch Cơ không bao giờ quan tâm đến các chức vụ khác của con người, không rõ Vi Ngạn vừa được thăng chức gì nên chỉ hỏi đại: “Hữu Thập Di là làm gì?”

Vi Ngạn giải thích: “Hữu Thập Di là người phụ trách việc bổ sung và sửa chữa, làm tất cả mọi việc. Nói trắng ra, giống như công việc tạp vụ mà ta làm ở Phụng Các trước đây, chỉ có điều công việc ở Phụng Các thì nhàn rỗi, còn Thập Di thì bận rộn hơn. Chỗ nào trong triều đình có công việc tồn đọng, thì sẽ điều chúng ta đến hỗ trợ. Nếu triều đình ban hành điều lệ mới hay tổ chức hoạt động lớn, cũng sẽ giao nhiệm vụ cho chúng ta. Phụ thân ta bảo ta làm Thập Di vài năm để rèn luyện, tích lũy quan hệ và kinh nghiệm.”

Nguyên Diệu cười nói: “Đan Dương phải làm Thập Di cho tốt, rèn luyện bản thân nhiều hơn, đừng ham chơi như trước nữa.”

Vi Ngạn nhăn mặt nói: “Hiên Chi, thực ra ta chẳng muốn rèn luyện bản thân chút nào, nếu có thể mãi mãi tự do nhàn nhã như trước đây thì tốt biết mấy. À, dạo này ta bị giao nhiệm vụ chép lại và hiệu đính bộ luật mới mà Võ đế Bệ hạ vừa ban hành, phải gấp rút hoàn thành nên bận rộn lắm, ban đêm không có thời gian về nhà, đành ở lại phòng của Viện Hàn Lâm. Chuyện kỳ lạ mà ta gặp chính là xảy ra khi ta ngủ lại trong cung.”

Bạch Cơ cười nói: “Vi công tử đã thấy điều kỳ lạ gì thế?”

Vi Ngạn kỳ quái, nói: “Ta đã thấy một con lợn bay trên trời.”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu nhìn nhau rồi bật cười. Bạch Cơ cười nói: “Vi công tử, có phải ngươi đã làm việc quá khuya, đèn dầu leo lét, mắt mỏi mệt nên hoa mắt nhìn nhầm rồi không?”

Nguyên Diệu cười nói: “Đan Dương, có phải ngươi mệt quá rồi nên ngủ quên, rồi mơ thấy một con lợn bay không?”

Thấy cả Bạch Cơ và Nguyên Diệu đều không tin lời mình, Vi Ngạn cuống lên.

“Bạch Cơ, Hiên Chi, ta không hề hoa mắt, cũng không hề nằm mơ, ta thật sự đã thấy một con lợn bay trên trời, con lợn ấy còn đang nuốt chửng những làn khói màu sắc rực rỡ nữa!”

Vi Ngạn kể lại chi tiết những gì mình đã thấy.

Vi Ngạn đêm đó ngủ lại ở Viện Hàn Lâm, dẫn theo mấy viên lại đi chép và hiệu đính bộ luật. Việc chép và hiệu đính luật pháp là một công việc khô khan, đây là nhiệm vụ phát sinh thêm, không được phép chiếm dụng thời gian làm việc ban ngày.

Mọi người cặm cụi làm việc dưới ánh đèn dầu vàng vọt, ai nấy đều mệt mỏi rã rời. Uống hơi nhiều trà, Vi Ngạn đứng dậy đi nhà vệ sinh.

Dưới ánh trăng, sau khi đi vệ sinh xong, Vi Ngạn không vội trở lại làm việc ngay. Hắn bước vào sân, duỗi người dưới gốc cây liễu, ngẩng đầu hít thở không khí trong lành của đêm xuân.

Bỗng nhiên, trong một thoáng mờ mờ, Vi Ngạn nhìn thấy một con lợn vui vẻ bay qua đầu mình, rồi bay thẳng lên trời.

Vi Ngạn nghi ngờ mình hoa mắt vì mệt, bèn dụi mắt.

Khi hắn ngẩng đầu nhìn lại lần nữa, thì thấy rõ hơn...

Trên bầu trời bay lơ lửng nhiều làn khói đủ màu sắc rực rỡ. Con heo bay lên trời, chạy đi chạy lại trong làn khói màu sắc, ăn uống lung tung.

"Mi...uuu..."

Sau khi ăn uống no nê, con heo bay phát ra tiếng kêu kỳ lạ, rồi chạy xa trong ánh trăng.

Vi Ngạn hết sức ngạc nhiên, muốn gọi các đồng nghiệp đến xem con heo bay, nhưng con heo bay và làn khói màu sắc đã biến mất.

"Bạch Cơ, đây là điềm xấu hay điềm lành thế? Hay là... trong hoàng cung đang có yêu quái quấy phá?!"

Sau khi nói xong, Vi Ngạn hỏi thêm.

Bạch Cơ nghe xong lời kể của Vi Ngạn, trong lòng đột nhiên sáng tỏ.

Để xác nhận suy nghĩ của mình, Bạch Cơ cười nói: "Vi công tử, ngài có thể mô tả kỹ hơn về hình dáng của con heo bay đó không?"

Vi Ngạn hồi tưởng một chút, nói: "Vì ở xa quá lại là ban đêm, ta không nhìn rõ. Nó có màu xám đen, có bốn chân như heo, thân hình mập mạp tròn trịa, đuôi rất ngắn. Tiếng kêu của nó rất kỳ lạ, phát ra âm thanh như "mi u mi u".

Bạch Cơ lại cười hỏi: "Vi công tử, gần đây ngài có gặp ác mộng không?"

Vi Ngạn lắc đầu, nói: "Không. Gần đây ta bận rộn đến mức không có thời gian để ngủ, cùng lắm là chợp mắt một chút vào buổi trưa, làm gì có thời gian mà gặp ác mộng?"

"Vi công tử, con heo bay mà ngài nhìn thấy gọi là Thực Mộng Mạc. Nó là một loại dị thú chuyên ăn ác mộng của người và phi nhân."

Bạch Cơ nói.

"Cái gì... Mạc? Có ăn được không?"

Vi Ngạn thắc mắc.

"Thực Mộng Mạc. Không ăn được, nhưng nó có thể ăn ác mộng của người và phi nhân."

Bạch Cơ cười nói.

Bạch Cơ lại nói với Nguyên Diệu: "Hiên Chi, ta biết tại sao gần đây chúng ta lại gặp ác mộng rồi, có lẽ là do con Thực Mộng Mạc này ăn tơ mộng lung tung. Nhưng có một điều rất kỳ lạ. Thực Mộng Mạc thường chỉ ăn ác mộng, không ăn giấc mơ đẹp. Tại sao con Thực Mộng Mạc này lại ăn cả giấc mơ đẹp lẫn ác mộng?"

Nguyên Diệu lần này thông minh hơn, nói: "Bạch Cơ, tìm ra con Thực Mộng Mạc này là có thể giải trả lời được thắc mắc."

Bạch Cơ gật đầu, lại hỏi Vi Ngạn: "Vi công tử nhìn thấy Thực Mộng Mạc trong hoàng cung sao?"

Vi Ngạn gật đầu.

Bạch Cơ lại hỏi: "Ngài đã nhìn thấy mấy lần? Cụ thể ở đâu?"

Vi Ngạn nói: "Ta chỉ nhìn thấy một lần vào đêm qua. Ta ở trong nhà khách của Hàn Lâm Viện, con heo bay xuất hiện ở phía cung Dao Quang tại hồ Cửu Châu."

Bạch Cơ trầm ngâm không nói gì.

"Ta nhìn thấy con gì đó gọi là Mạc, rốt cuộc là điềm lành hay điềm xấu?"

Vi Ngạn hỏi.

Bạch Cơ tỉnh lại, cười nói: "Là điềm lành. Vi công tử không cần lo lắng, Thực Mộng Mạc là một sinh vật may mắn có thể ăn hết ác mộng, nhìn thấy nó sẽ không mang lại tai họa cho ngài đâu." Vi Ngạn lập tức yên tâm.

Bạch Cơ đảo mắt, cười nói: "Vi công tử hôm nay hiếm khi đến được Phiêu Miểu các, sao không mua vài món đồ thú vị đã rồi về?"

Vi Ngạn nghĩ rằng đã đến đây rồi, gần đây cũng dư dả, nên muốn xem có món bảo vật hắc ám nào hay ho để mua về thưởng thức.

"Bạch Cơ có gì mới không?"

Bạch Cơ suy nghĩ một chút, nói: "Hiện tại không phải là mùa nhập hàng, ta cũng không tự tay làm gì, có lẽ trên kệ không có thứ gì mà Vi công tử thích. Những bảo vật hắc ám kỳ quái trong kho thì không có duyên với Vi công tử, nếu ta bán cho ngài thì cũng chỉ hại ngài thôi. Tuy nhiên, ta vừa làm xong một đợt đồ chơi nhỏ, tuy không nói là hắc ám kỳ quái, nhưng cũng rất thú vị, có thể nhượng lại cho Vi công tử một cái."

Vi Ngạn bị khơi dậy sự tò mò, hỏi: "Là món đồ chơi thú vị gì vậy?"

Bạch Cơ dẫn Vi Ngạn đến trước tủ đa bảo, chỉ vào những chiếc bình nhỏ chứa mọt sách ăn vàng, và kể cho Vi Ngạn nghe truyền thuyết về "đố ngư hóa mạch vọng" cùng câu chuyện mọt sách ăn vàng: "Ta bán cho ngươi một bình vàng này, giá mười lượng vàng." Bạch Cơ cười nói.

Vi Ngạn trả lời: "Bạch Cơ đừng coi ta là kẻ ngốc! Chỉ là một cái bình rách, làm sao mà đáng giá mười lượng vàng? Sao ngươi không đi cướp đi!"

Bạch Cơ cười nói: "Vi công tử nói đùa rồi. Những chiếc bình vàng này vô cùng quý hiếm, mười lượng vàng một cái, chắc chắn không lỗ. Mọt sách của ta sau khi ăn vàng ba lần sẽ hóa thành vàng thật. Số vàng hóa ra nhiều hay ít là do may mắn, có thể là rất nhiều đến trăm lượng, có khi ít, chỉ có mười lượng. Mua bình vàng này là một vụ cá cược chắc chắn không lỗ."

Nguyên Diệu thầm đảo mắt.

Bạch Cơ, để bán được chiếc bình, đã phóng đại tình huống tốt nhất, mà không hề nói về tình huống tệ nhất, rằng mọt sách sau khi ăn vàng ba lần, có thể hóa thành một chút bụi. Vi Ngạn do dự không biết có nên mua hay không.

Bạch Cơ với miệng lưỡi ngọt như mật, lại nói: "Không giấu gì Vi công tử, ta từng có lần may mắn đến mức đã mở ra cả một bình đầy vàng. Khi mọt sách ăn vàng ba lần, tình huống tốt nhất không chỉ là một bình đầy vàng, biết đâu còn hóa ra một ngôi nhà vàng khổng lồ nữa! lúc đó Vi công tử có thể cất giữ những mỹ nhân mà ngài thích và những bảo vật kỳ lạ của ngài trong ngôi nhà vàng đó..."

Vi Ngạn có hơi động lòng, nói: "Nếu ta có một ngôi nhà vàng, ta sẽ cùng Hiên Chi sống trong đó." Nguyên Diệu nghe vậy vừa bất ngờ vừa cảm động.

Bạch Cơ cười nói: "Vậy Vi công tử còn chờ gì nữa, không bằng mua đi."

Vi Ngạn nói: "Ta mua ba cái được không? Một cái bình có thể không mở ra được ngôi nhà vàng, ba lần thì cơ hội lớn hơn."

Bạch Cơ không đồng ý bán ba cái, nói: "Chỉ bán một cái thôi. Đây là vì Vi công tử là khách quen nên ta mới sẵn lòng nhượng lại một cái. Phần còn lại, ta giữ để tự mở lấy vàng!"

Thế là, Vi Ngạn bỏ ra mười lượng vàng, chọn một chiếc bình vàng, hài lòng rời khỏi Phiêu Miểu các.

Sau khi Vi Ngạn rời đi, Bạch Cơ rất vui vẻ, nàng tiện tay ném mười lượng vàng mà Vi Ngạn để lại vào chiếc bình gốm đựng tiền lẻ trên quầy.

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, phải chăng Đan Dương lại bị lừa rồi? Trong chiếc bình vàng có thể chẳng có gì cả."

Bạch Cơ cười nói: "Hiên Chi, Vi công tử không bị lừa, ngài ấy đã mua được một thứ quý giá nhất trên đời, một thứ quý giá đến mức không thể dùng tiền bạc để đo lường."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Thứ gì vậy?"

Bạch Cơ cười nói: "Hy vọng. Ngài ấy đã mua được hy vọng có được ngôi nhà vàng."

Nguyên Diệu không nói nên lời.

Con rồng yêu xảo quyệt này thật khéo miệng, giỏi ngụy biện, Nguyên Diệu không thể cãi lại nàng, đành đổi chủ đề.

"Bạch Cơ, chuyện giấc mơ đẹp bị ăn mất thì sao?"

"Ta sẽ đến hoàng cung một chuyến tối nay, xem có thể gặp được Thực Mộng Mạc không." Bạch Cơ nói.

Đêm khuya, Bạch Cơ đi một vòng nhưng không thu được gì cả.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 15


Thời gian trôi qua không hay biết, lại vài ngày nữa đã trôi qua.

Trương Dịch Chi dường như vẫn còn lưu luyến mối quan hệ với Nguyên Diệu, hắn phái người đưa cho Nguyên Diệu một bức thư. Kèm theo bức thư là một tấm thẻ lệnh vào cung.

Nguyên Diệu mở thư ra xem nhưng không biết nên làm gì.

Hóa ra Trương Dịch Chi mời Nguyên Diệu đến Khống Hạc Giám để biên tập thơ văn.

Vào đầu xuân, Võ Tắc Thiên giao cho Khống Hạc Giám một nhiệm vụ văn học, đó là tập hợp các bài thơ của các văn nhân Đại Chu, tất nhiên bao gồm cả Đại Đường trước đó đã lưu truyền trong dân gian thành một tập thơ.

Công việc này do Thượng Quan Uyển Nhi giám sát, nhưng việc chọn lọc các bài thơ từ khắp nơi gửi về, sao chép và biên tập thành tập là những công việc nhỏ nhặt và rườm rà, được giao cho hai phủ lệnh của Khống Hạc Giám đảm nhận.

Trương Dịch Chi, Trương Xương Tông bận rộn tranh sủng cùng các buổi yến tiệc mùa xuân, chẳng có tâm trí để làm những việc cần phải cúi đầu dốc sức như thế này. Họ định giao cho người khác làm. Nhưng trong Khống Hạc Giám, dù có nhiều mỹ nam, tài nghệ của họ đa dạng, nhưng ít người thông thạo thơ văn, lại càng ít người biết thưởng thức thơ văn. Trương Dịch Chi nhớ đến cuộc trò chuyện với Nguyên Diệu, nhận thấy Nguyên Diệu học vấn uyên thâm, am tường thơ văn nên nhân cơ hội mời Nguyên Diệu đến giúp biên tập thơ, và hứa hẹn trả công hậu hĩnh. Hơn nữa, nếu Nguyên Diệu muốn vào Khống Hạc Giám, hắn có thể giúp giới thiệu và đề cử.

Nguyên Diệu đưa thư cho Bạch Cơ, nhờ Bạch Cơ quyết định giúp.

Bạch Cơ đọc thư xong, cười nói: "Dù sao Hiên Chi cũng đang rảnh rỗi, đến cung giúp sao chép thơ lại còn kiếm thêm được chút bạc. Nếu Hiên Chi muốn ở lại Khống Hạc Giám cũng được thôi. Khống Hạc Giám hiện nay là bậc thang thăng tiến nhanh nhất trên con đường làm quan đấy."

Nguyên Diệu khổ sở nói: "Giúp biên tập thơ văn thì tiểu sinh còn có thể, nhưng ở lại Khống Hạc Giám thì miễn đi."

Ly Nô không đồng ý, nói: "Mọt sách, gia khuyên ngươi đừng dây dưa với huynh đệ Trương gia. Hai người đó chẳng phải thứ gì tốt đẹp, đừng thấy bây giờ họ đang được sủng ái, quyền thế đầy tay mà lầm. Võ đế lớn tuổi hơn họ nhiều, sớm muộn gì cũng sẽ qua đời trước. Khi Võ đế băng hà, hai người họ mất chỗ dựa, rồi sẽ có lúc họ gặp bi kịch. Hơn nữa, huynh đệ Trương gia không đội trời chung với hòa thượng họ Tiết ở chùa Bạch Mã, đang đấu đá ác liệt để tranh sủng. Nếu ngươi đi quá gần với huynh đệ Trương gia, lỡ bị cuốn vào thì biết làm sao?"

Nghe xong lời của Ly Nô, Nguyên Diệu bỗng không muốn nhận lời mời của Trương Dịch Chi nữa.

Bạch Cơ cười nói: "Ly Nô, gần đây Hiên Chi vì những cơn ác mộng mà tâm trạng không tốt, cứ để hắn vào hoàng cung dạo chơi một chút đi. Những tranh đấu giành sủng ái giữa đám nam nhân đó đều là chuyện nhỏ, chỉ cần Hiên Chi không tham gia vào mưu phản thì cũng chẳng có gì phải lo. Hiên Chi, đi đi, có ta ở đây, không sao đâu."

Được Bạch Cơ khích lệ, Nguyên Diệu quyết định chấp nhận lời mời của Trương Dịch Chi.

Nguyên Diệu chuẩn bị một chút rồi tiến vào hoàng cung.

Nguyên Diệu đến cổng Trường Lạc, đưa thẻ bài cho lính canh và nói rõ ý định của mình. Chẳng mấy chốc, một tiểu thái giám bước ra dẫn Nguyên Diệu đi qua cổng Cảnh Vận và Minh Phúc, đến một thư viện.

Thư viện mang tên thư viện Lệ Chính.

thư viện Lệ Chính là một nơi yên tĩnh, bao gồm ba tòa cung điện và một khu vườn lớn, nơi trồng nhiều cây đào và cây mận. Phía bắc là tập Hiền Điện, phía nam là Sử Cục, phía đông là Trung Thư Tỉnh, còn phía tây cách một bức tường là hồ Cửu Châu và Diêu Quang Điện.

Nguyên Diệu đã từng theo Bạch Cơ đến hoàng cung vài lần, cũng từng sống trên Thiên Đường, tham gia yến tiệc ở Diêu Quang Điện, nhưng vì hoàng cung quá lớn, hắn chỉ nắm được đại khái bố cục mà chưa từng đến thư viện Lệ Chính.

thư viện Lệ Chính là nơi quốc gia biên soạn sách, chịu trách nhiệm thu thập, kiểm duyệt và lưu trữ sách. Sau khi Võ đế giao nhiệm vụ biên soạn tập thơ, huynh đệ họ Trương đã xin thư viện Lệ Chính làm nơi biên soạn và được chấp thuận.

Trong thư viện Lệ Chính, Trương Dịch Chi đang giám sát một số văn nhân xem xét các bản thảo thơ từ khắp nơi gửi đến, thảo luận về việc thu nhận hoặc loại bỏ các bài thơ.

Thấy Nguyên Diệu đến, Trương Dịch Chi rất vui mừng, nhiệt tình chào hỏi hắn. Sau một hồi trò chuyện, Trương Dịch Chi giao toàn bộ công việc biên soạn tập thơ cho Nguyên Diệu và để mấy văn nhân được tuyển dụng hỗ trợ hắn.

Nguyên Diệu bắt đầu công việc biên soạn các bản thảo.

Sau một ngày bận rộn, Nguyên Diệu đã quen với quy trình biên soạn và cảm thấy mặc dù có chút nhàm chán nhưng cũng khá thú vị.

Khi trời chạng vạng, sau khi hoàn thành công việc, Nguyên Diệu và các văn nhân khác rời khỏi hoàng cung rồi ai nấy về nhà.

Nguyên Diệu quay về Phiêu Miểu các, trong lúc ăn tối, hắn kể cho Bạch Cơ và Ly Nô nghe về những việc lặt vặt trong quá trình biên soạn thơ, nhưng Bạch Cơ và Ly Nô chẳng mấy hứng thú, chỉ nghe qua loa.

Hôm sau, trời chưa sáng Nguyên Diệu đã dậy, mang theo thẻ bài đi vào hoàng cung. Trên đường hắn mua một chiếc bánh kẹp thịt cừu từ tiệm của người Hồ làm bữa sáng.

Khi Nguyên Diệu đến hoàng cung, trời mới tờ mờ sáng nhưng bên ngoài cung môn đã có rất nhiều người, đều là các triều thần đến dự buổi triều sớm hoặc những người như Nguyên Diệu đến giúp đỡ công việc trong cung.

Nguyên Diệu đến thư viện Lệ Chính, cung nhân đã mở cửa điện và bắt đầu quét dọn sân vườn.

Nguyên Diệu là người đến sớm nhất, các đồng nghiệp khác vẫn chưa đến, còn huynh đệ Trương gia thì không thấy đâu.

Nguyên Diệu uống một ly trà nóng, ăn hết bánh kẹp thịt cừu, chờ khi ánh mặt trời chiếu vào trong điện, hắn mới bắt đầu ngồi vào bàn, làm công việc hiệu đính.

Khi mặt trời lên cao, các đồng nghiệp mới lác đác đến, vẫn còn ngái ngủ.

Huynh đệ Trương gia chẳng thấy tăm hơi đâu.

Từ đồng nghiệp, Nguyên Diệu được biết rằng huynh đệ Trương gia chỉ đến ba ngày trong mười ngày, mà nếu có đến cũng chỉ là xem xét tiến độ tuyển chọn thơ, giao việc cho mọi người rồi rời đi.

Vì việc biên soạn thơ là "chuyện vặt", không phải quốc sự quan trọng và cũng không gấp gáp nên mọi người đều làm việc với thái độ nhàn nhã.

Nguyên Diệu lại rất nghiêm túc. Hắn cẩn thận đọc lại từng bài thơ, chọn lọc những bài hay để đưa vào danh sách chờ biên soạn.

Đến trưa, sẽ có cung nhân từ Thượng Thực Cục mang hộp cơm đến cho các văn nhân đang làm việc tại thư viện Lệ Chính*.

* 丽正书院: Vào thời nhà Đường, ở cung Tử Vi, Đông Đô, Lạc Dương (Thái Sơ Cung), là thư viện công lập sớm nhất của Trung Quốc, do Đường Huyền Tông sáng lập vào năm Khai Nguyên thứ 5 (năm 717 Công nguyên). Đây là một cơ quan biên tập sách của triều đình, nhiệm vụ chính là thu thập, hiệu đính và lưu trữ sách, được coi là thư viện đầu tiên của Trung Quốc. Đến năm Khai Nguyên thứ 13 (năm 725 Công nguyên), thư viện này được đổi tên thành Tập Hiền Điện Thư Viện, gọi tắt là "Tập Hiền Thư Viện". (Tác giả nào đó đã dời thời gian của Lễ Chính Thư Viện đến thời Võ Chu, tức là đã đẩy thời gian về trước khoảng ba mươi năm.)

Mọi người thường ăn xong rồi ngủ trưa một lát trong điện, nạp đầy năng lượng để làm việc vào buổi chiều.

Nguyên Diệu ăn xong nhưng không ngủ được, bèn ra vườn dạo chơi.

Nguyên Diệu đi dạo trong vườn, thấy hoa mơ, hoa mận nở rộ rực rỡ khắp nơi, bất giác nhớ đến bài thơ vừa mới xem trong lúc biên soạn.

"Nến đỏ trôi mây hồng,

Phấn đậm mất nét hồn nhiên.

Tường cung ngói biếc chất chồng,

Khóa kín xuân về trong vườn mơ."

Nguyên Diệu vừa suy nghĩ xem có nên đưa bài thơ này vào tập thơ hay không, vừa lang thang trong rừng hoa mơ, cuối cùng hắn quyết định chọn bài thơ này.

Đi dạo một lúc, Nguyên Diệu cảm thấy hơi mệt, định quay lại điện để ngủ trưa.

Nguyên Diệu bước đi trên hành lang dài trở về đại điện.

Không biết tại sao, Nguyên Diệu lại thấy hành lang có hơi xa lạ.

...Hành lang này dường như không phải là hành lang mà Nguyên Diệu đã đi qua trước đó.

Nguyên Diệu thầm nghĩ, có lẽ vì vừa rồi mải ngắm hoa mơ mà vô tình đi vòng ra phía sau đại điện, nhưng dù sao Thư Viện Lệ Chính cũng không lớn lắm. Nhìn chung hướng đi vẫn đúng, cứ tiếp tục đi theo hành lang này, chắc chắn cũng sẽ quay lại được chính điện. Nguyên Diệu tiếp tục bước đi trên hành lang.

Đột nhiên, từ một căn phòng bên cạnh hành lang vang lên tiếng nói.

Một người nói: “Nhị đệ, ngươi dẫn theo huynh đệ ra tay giết tể tướng trên đường lên triều. Tam đệ, ngươi dẫn các huynh đệ khác ở căn cứ ngoài thành tiếp ứng.”

Nhị đệ hỏi: “Đại ca, bình thường nói đến mưu phản, không phải là ám sát hoàng thượng sao? Tại sao chúng ta lại giết tể tướng?”

Đại ca trả lời: “Hoàng thượng có nhiều cận vệ như vậy, chúng ta có thể ám sát được sao? Tể tướng không có nhiều cận vệ, dễ ám sát hơn, nên chúng ta cứ giết ông ta trước.”

Nguyên Diệu nghe thấy, sợ đến mức giật nảy mình.

Giữa ban ngày ban mặt, trong nội cung lại có người âm mưu mưu phản, thật là quá táo tợn.

Võ Tắc Thiên luôn rất nhạy cảm với những chuyện mưu phản, quyết không cho phép xảy ra, nếu xảy ra sẽ có biện pháp đàn áp vô cùng tàn bạo, thà giết nhầm một nghìn người còn hơn để sót một người. Thông thường, một vụ mưu phản có thể liên lụy đến hàng nghìn người chết thảm, đó là một cảnh tượng vô cùng bi thảm.

Trong lòng Nguyên Diệu sợ hãi, muốn bảo toàn bản thân mà tránh đi không nghe.

Nhưng hắn lại nghĩ, nếu vụ mưu phản này xảy ra sẽ liên lụy đến rất nhiều người phải mất mạng, chẳng bằng lấy can đảm mà nghe tiếp, xem có thể tìm được cơ hội nào không, trước khi vụ mưu phản xảy ra có thể ngăn chặn nó. Ngăn ngừa từ sớm, tránh để thảm họa lan rộng, có thể cứu giúp được nhiều người.

Nghĩ đến đây, Nguyên Diệu lén lút đến gần cửa sổ phát ra tiếng nói.

Rốt cuộc là ai đang âm mưu mưu phản đây?

Nguyên Diệu rất tò mò, hắn dùng nước bọt làm ướt ngón tay, nhẹ nhàng đâm thủng một lỗ trên tấm giấy cửa sổ.

Nguyên Diệu nhìn qua lỗ nhỏ vào trong phòng.

Đây là một phòng bên phía bóng râm, ánh sáng mặt trời không chiếu vào được, rất âm u và tối tăm, nhưng căn phòng không lớn, dù ánh sáng không tốt cũng có thể thấy rõ, rõ ràng là không có ai.

Trong lòng Nguyên Diệu đang ngờ vực, lại nghe thấy tiếng nói.

Vẫn là ba người khi nãy tiếp tục bàn mưu phản.

Nhị đệ nói: “Đại ca, ta đã suy nghĩ rồi, thấy không ổn, chưa từng nghe nói ai mưu phản lại đi giết tể tướng. Mọi người mưu phản, đều là ám sát hoàng thượng.”

Đại ca trả lời: “Lần đầu mưu phản.không có kinh nghiệm, ám sát hoàng thượng quá khó, chúng ta cứ giết tể tướng trước xem sao.”

Tam đệ hỏi: “Đại ca, nhị ca, sau khi giết tể tướng, chúng ta sẽ làm gì tiếp?”

Đại ca trả lời: “Tất nhiên là làm hoàng thượng. Ta làm hoàng thượng, hai đệ làm vương gia!”

Nhị đệ suy nghĩ một lúc, lại nói: “Không đúng rồi, đại ca. Chúng ta chỉ giết tể tướng, hoàng thượng vẫn còn đó. Hoàng thượng còn sống, ngươi không thể làm hoàng thượng được, chẳng lẽ chúng ta giết tể tướng xong, hoàng thượng sẽ nhường ngôi cho ngươi sao?”

Tam đệ nói: “Đại ca, nhị ca nói có lý. Mưu phản vẫn phải giết hoàng thượng.”

Đại ca thở dài một hơi, nói: “Từ khi quân sư chết bệnh, ba người chúng ta không còn một cái đầu thông minh, làm việc gì cũng lơ mơ. Khó khăn lắm mới trộm được quốc bảo, có cơ hội mưu phản danh chính ngôn thuận, làm một trận để được làm hoàng thượng, nhưng vì quân sư không còn chúng ta không biết làm sao để mưu phản.”

Nhị đệ suy nghĩ một lúc, nói: “Đại ca, chẳng bằng thế này, buổi sáng chúng ta giết tể tướng, buổi trưa giết hoàng thượng, chẳng phải hoàng thượng cũng mất mạng rồi sao?”

Nguyên Diệu nghe những lời trong phòng càng lúc càng vô lý, sự tò mò trong lòng vượt qua cả nỗi sợ. Vì không thể nhìn thấy người, hắn lập tức đi đến bên cửa, đẩy cửa phòng ra bước vào.

Nguyên Diệu muốn nhìn rõ rốt cuộc là ai đang âm mưu mưu phản, kết quả là trong phòng trống trơn, không có ai cả.

Nguyên Diệu cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trên mặt đất phía tường phía tây có ba người nhỏ bằng ngón tay cái.

Ba người nhỏ ấy mặc chiến bào, mang dáng vẻ võ sĩ.

Một người trông có vẻ lớn tuổi hơn, khuôn mặt đầy râu quai nón, đeo kiếm bên hông.

Một người khác dáng vóc cao gầy, để râu hình chữ bát, mang theo cung tên. Một người khác thấp bé, bụng phệ, tay cầm chùy sao.

Họ ngạc nhiên nhìn Nguyên Diệu bước vào phòng.

Nguyên Diệu nhìn rõ ba người nhỏ, vừa ngạc nhiên lại vừa thở phào nhẹ nhõm.

Thật may.

Hóa ra không phải người trong thế giới thực mưu phản, mà là ba người nhỏ kỳ lạ này.

Vì ở Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu đã quen với nhiều sự tồn tại kỳ lạ, trong sự kiện “Quỷ Thủ Liên.” Hắn cũng đã từng gặp Hoa Phách nhỏ bé bằng ngón tay cái, nên không sợ ba võ sĩ nhỏ này.

Nguyên Diệu cúi người chào, nói: “Tại hạ Nguyên Diệu, vô tình bước vào nơi này, làm phiền ba vị rồi. Nhưng không biết, ba vị là ai, vì sao lại ở trong phòng của Thư Viện Lệ Chính?”

Thấy Nguyên Diệu rất lịch sự, người có râu quai nón cũng tỏ ra khách khí, cúi chào trả lời: “Ba huynh đệ chúng ta là võ sĩ của Mộng quốc. Vì một số lý do, chúng ta tạm thời ẩn náu ở Thư Viện Lệ Chính, vừa rồi chúng ta đang bàn bạc về chuyện mưu phản.”

Người có râu chữ bát vội nói: “Đại ca, mưu phản là việc bí mật, sao có thể tùy tiện nói với người khác được?”

Người có râu quai nón nói: “Không sao, hắn phi nhân của Mộng quốc, dù sao hắn chắc chắn đã nghe rồi.”

Người thấp bé cầm chùy sao nhìn Nguyên Diệu một lúc, nói: “Đại ca, nhị ca, ta thấy người này trông nho nhã, ánh mắt rất sáng suốt, có vẻ đã đọc nhiều sách, trông giống như quân sư của chúng ta đã mất.”

Râu chữ bát cũng ngước lên nhìn Nguyên Diệu vài lần, nói: "Quả thật có vẻ giống, cũng là dáng vẻ thư sinh."

Râu quai nón nói: "Nếu giống quân sư thì chúng ta hỏi thử hắn xem hắn nghĩ gì về kế hoạch phản loạn của chúng ta."

Sau đó, Râu chữ bát hỏi Nguyên Diệu: "Thư sinh, hãy cho chúng ta biết, phản loạn thì nên ám sát hoàng thượng hay nên ám sát tể tướng?"

Nguyên Diệu nghe vậy, vội vàng nói: "Không nên ám sát hoàng thượng, cũng không nên ám sát tể tướng. Phản loạn là việc không đúng, trái với đạo lý vua ta. Không nên phản loạn."

Râu quai nón mất kiên nhẫn, nói: "Thư sinh này đúng là mọt sách, không nghe hắn nữa, chúng ta tiếp tục bàn bạc."

Ba vị võ sĩ không để ý đến Nguyên Diệu, tiếp tục tranh luận về việc ám sát tể tướng và hoàng đế, nhưng họ đều không thông minh lắm, cứ mãi tranh luận xem nên ám sát hoàng đế trước hay tể tướng trước.

Ba vị võ sĩ tranh luận mãi mà vẫn không đưa ra được kết luận.

Nguyên Diệu đứng bên cạnh nghe rõ, hiểu rằng ba vị võ sĩ của Mộng quốc này chỉ muốn phản loạn ở đất nước của họ, không phải ở Đại Chu. Lúc này Nguyên Diệu mới yên tâm, đồng thời cũng cảm thấy thương hại cho hoàng đế và tể tướng sắp bị ám sát của Mộng quốc. Dù là quốc gia nào, phản loạn đều sẽ dẫn đến máu chảy thành sông và chiến tranh, mạng sống sẽ bị cướp đi. Nguyên Diệu không muốn chứng kiến Mộng quốc gặp tai họa, muốn thuyết phục ba vị võ sĩ từ bỏ ý định phản loạn.

Nguyên Diệu nảy ra một ý tưởng, nói: "Ba vị hãy nghe lời của tiểu sinh. Nếu muốn làm hoàng đế, xây dựng một quốc gia mới, thì trước hết phải bàn luận về các vấn đề của quốc gia."

Râu quai nón trừng mắt hỏi: "Lời này có ý gì?"

Nguyên Diệu bình tĩnh trả lời: "Một quốc gia mới muốn thành lập, một chính quyền mới muốn vận hành, cần có văn thần võ tướng, đủ các loại nhân tài. Phản loạn không chỉ là ám sát hoàng đế hay tể tướng, nếu chỉ ám sát hoàng đế sẽ kích động lòng dân khiến người dân càng phản đối các người. Phản loạn cần có một lý do chính đáng và hợp lý, tức là đạo lý lớn của thiên hạ và lòng dân. Sử dụng đạo lý lớn để bao trùm chính quyền, dùng một nhóm nhân tài mới để thay thế văn thần võ tướng hiện tại, như vậy mới có thể phản loạn hợp lý. Các người có bao nhiêu văn thần? Bao nhiêu võ tướng? Các người có đạo lý lớn nào để kêu gọi lòng dân, khiến người dân sẵn sàng theo các người không?"

Râu quai nón và Râu chữ bát nghe rất chăm chú.

Tên lùn xúc động nói: "Đại ca, nhị ca, ta đã nói rồi mà, hắn giống quân sư của chúng ta chứ? Ta nhớ quân sư khi còn sống cũng đã nói những lời tương tự."

Râu chữ bát vuốt râu, nói: "Ta nghe không hiểu lắm nhưng có vẻ như đó là những lời rất cao siêu. Đại ca, nhìn hắn có vẻ thông minh hơn chúng ta, sao chúng ta không để hắn làm quân sư đi!"

Râu quai nón nói: "Nếu hắn giỏi việc phản loạn thì hắn sẽ là quân sư của chúng ta!"

Râu quai nón giơ tay chỉ vào Nguyên Diệu, miệng lẩm nhẩm những câu chú.

Một luồng sáng đỏ lóe lên, Nguyên Diệu phát hiện mọi thứ xung quanh đang lập tức lớn lên. Thực ra, chính hắn đang dần nhỏ lại. Không lâu sau, hắn đã trở nên nhỏ bé như ba người của Mộng quốc.

Ba vị võ sĩ cùng xúm lại quanh Nguyên Diệu, đưa hắn đi về phía Mộng quốc để cùng họ phản loạn.

Nguyên Diệu hết sức ngạc nhiên, lại có phần lo sợ. Ý định ban đầu của hắn là nghĩ rằng ba vị võ sĩ này không quá thông minh nên hắn cố tình nói những lời to tát về việc xây dựng quốc gia và làm hoàng đế để làm họ khiếp sợ, từ đó từ bỏ ý định phản loạn. Nhưng không ngờ rằng sau khi nghe lý thuyết của Nguyên Diệu, họ lại muốn hắn làm quân sư, còn biến hắn nhỏ lại để đưa hắn đi phản loạn cùng họ.

Nguyên Diệu vùng vẫy kêu cứu, muốn thoát thân nhưng vô ích, bị ba vị võ sĩ bao vây đưa đi, biến mất vào bức tường phía tây.

Trong thư viện Lệ Chính, các văn nhân buổi chiều không thấy Nguyên Diệu, nghĩ rằng hắn có việc nên đã về trước, không ai để ý.

Tối đó Nguyên Diệu không trở về Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ và Ly Nô cho rằng Nguyên Diệu có thể đang bận rộn biên soạn thơ ca, hoặc bị Trương Dịch Chi giữ lại, nên đã ở lại qua đêm trong hoàng cung cũng không quá để tâm.

Nguyên Diệu là người phàm, khi hắn rời khỏi Phiêu Miểu các và giao thiệp với người phàm, chắc chắn sẽ có cuộc sống xã giao của riêng hắn. Việc một hai ngày không trở về Phiêu Miểu các cũng là điều bình thường, Bạch Cơ và Ly Nô không muốn can thiệp quá nhiều. Dù sao, khi rảnh rỗi, Nguyên Diệu chắc chắn sẽ quay lại.

Ngày hôm sau, khi trăng đã lên cao, Nguyên Diệu vẫn chưa trở về Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ cũng không để tâm, nàng đứng trước Đa Bảo Các, cầm một chiếc hộp gỗ, kéo ra một khe nhỏ để kiểm tra con mọt sách của mình.

Ly Nô đứng một bên lẩm bẩm: "Chủ nhân, mọt sách đã hai đêm không trở về rồi, liệu có chuyện gì xảy ra không?"

Bạch Cơ đặt chiếc hộp gỗ trở lại Đa Bảo Các, nói: "Chắc sẽ không có chuyện gì đâu. Ta nghĩ rằng Trương phủ lệnh quá nhiệt tình, giữ chân Hiên Chi ở trong cung rồi. Có lẽ ngày mai hắn sẽ về thôi."

Ly Nô nói: "Ôi, tuy mọt sách thường ngày rất chướng mắt, lại hay nói nhiều, nhưng hắn đột nhiên không có ở đây, Phiêu Miểu các lại trở nên rất lạnh lẽo, đúng là nhớ hắn."

Bạch Cơ cười nói: "Ly Nô, nếu ngươi đã nhớ nhung Hiên Chi vậy thì ngươi hãy đi đến hoàng cung tìm Hiên Chi ngay bây giờ đi."

Ly Nô lười biếng trả lời: "Đã khuya thế này rồi, thôi bỏ đi, biết đâu ngày mai mọt sách sẽ trở về."

Bạch Cơ và Ly Nô trò chuyện vài câu, rồi chuẩn bị nghỉ ngơi.

Ai ngờ, một cái đầu bất ngờ bay xuống sân sau của Phiêu Miểu các giữa màn đêm. Đó là một cái đầu của nữ nhân, có đôi lông mày thanh tú, đôi mắt đẹp, môi đỏ và răng trắng, tóc đen búi thành kiểu phi đao cát. Khi cái đầu bay, vài lọn tóc xanh rủ xuống dưới ánh trăng, tạo thành những đường cong thanh thoát.

Mặc dù cái đầu của nữ nhân trông đẹp nhưng vẫn có phần đáng sợ, vì chỉ là một cái đầu, không có cơ thể. Cái đầu của mỹ nhân đó ở trong sân hét lớn: "Mưu phản rồi, chặt đầu rồi. Ba ngày nữa sẽ bị xử trảm."

Bạch Cơ và Ly Nô nghe thấy lập tức đi đến bên cửa sổ.

Ly Nô kéo lên bức rèm trúc, còn Bạch Cơ thì nhìn ra sân từ cửa sổ.

Khi nhìn thấy cái đầu mỹ nhân, Bạch Cơ cười nói: "Hóa ra là A Lạc. Ngươi đang nói gì vậy? Có tin tức gì muốn truyền cho ta sao?"

A Lạc là một Phi Đầu Man*, vì có thể tách rời đầu và cơ thể, lại có tốc độ bay nhanh, nên A Lạc thường giúp các phi nhân ở Thần Đô truyền tin để kiếm sống.

*Phi Đầu Man: Còn gọi là “Lạc Đầu Thị”, là một loài yêu quái trong truyền thuyết. Xuất phát từ cuốn “Sưu Thần Ký” của Can Bảo thời Tấn. Tương truyền rằng, vào thời Tam Quốc, đại tướng Chu Hoàn của nước Ngô đã từng gặp “Lạc Đầu Thị”. Bình thường, Phi Đầu Man trông không khác gì người thường, nhưng khi đêm xuống, lúc mọi người đã ngủ say, cổ của nó bắt đầu kéo dài, sau đó đầu và cơ thể tách rời nhau. Đầu có thể bay tự do và chỉ quay về cơ thể khi gà gáy vào buổi sáng.

Mặc dù đều là truyền tin, A Lạc khác với những con ốc sên đưa tin ở Trường An ở ba điểm. Thứ nhất, ốc sên đưa tin miễn phí, còn A Lạc thu tiền khi truyền tin. Thứ hai, ốc sên đưa tin rất chậm, một tin có khi mất đến mười mấy ngày mới đến nơi, có những tin phải mất vài năm mới đến nơi. Ngược lại, A Lạc truyền tin rất nhanh, cơ bản là trong một đêm đã có thể đến nơi, thích hợp cho những ai có việc gấp. Thứ ba, ốc sên làm việc suốt ngày đêm, còn Phi Đầu Man chỉ có thể tách đầu vào ban đêm, ban ngày A Lạc trở lại thành một thiếu nữ bình thường chỉ vào ban đêm mới tách đầu để truyền tin.

Điểm giống với ốc sên Trường An là A Lạc cũng rất yêu thích công việc của mình, cho rằng việc truyền tin cho mọi người là một việc có ý nghĩa, là sứ mệnh cuộc đời mình.

A Lạc rất nhiệt huyết, truyền tin cũng rất nhiệt tình, một cái đầu bay qua bay lại trong đêm tối lúc nào cũng hối hả, điều này dẫn đến việc mặc dù tốc độ nhanh nhưng thông tin thường bị bỏ sót và không chính xác.

A Lạc nhìn Bạch Cơ, dõng dạc nói: "Bạch Cơ, ốc sên đưa tin cho ngươi, nói rằng có một công tử họ Nguyên vì mưu phản mà bị giam trong thiên lao, ba ngày nữa sẽ bị chém đầu."

Bạch Cơ và Ly Nô nghe vậy lập tức sững sờ.

Bạch Cơ ngờ vực nói: "Hiên Chi làm sao lại mưu phản? Không đúng, chuyện này sao lại liên quan đến ốc sên?"

Ly Nô lo lắng nói: "Chủ nhân, tạm thời đừng bận tâm đến ốc sên, hóa ra mọt sách không trở về là vì đi mưu phản. Ba ngày nữa sẽ bị chém đầu rồi."

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc rồi nói: "Hiên Chi là người lương thiện và chính trực, lại nhát gan sợ phiền phức, làm sao có thể mưu phản? Điều này không thể xảy ra."

Ly Nô suy nghĩ rồi nói: "Có phải do huynh đệ họ Trương dụ dỗ không? Mọt sách mềm lòng, dễ bị lôi kéo. Huynh đệ họ Trương vốn không phải người tốt, chắc chắn là hai người đó đã dụ dỗ mọt sách cùng mưu phản, rồi bị phát hiện và bị bắt hết."

Bạch Cơ nửa tin nửa ngờ, bèn hỏi Phi Đầu Man: "A Lạc, rốt cuộc chuyện này là thế nào?"

Cái đầu lắc qua lắc lại, đôi môi đỏ mở ra nhẹ nhàng nói: "Ta cũng không biết. Ta đi ngang qua bên ngoài hoàng cung, tình cờ gặp ốc sên. Ốc sên nhìn thấy ta lập tức gọi lại, đưa cho ta tiền bạc, bảo ta đến Phiêu Miểu các để truyền tin."

A Lạc đang vội đi truyền tin cho nhà khác nên đã cáo từ rời đi. Sau khi A Lạc đi, Bạch Cơ và Ly Nô không thể ngủ được.

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi có lẽ đang ở trong đại lao, Ly Nô, ngươi hãy đến hoàng cung ngay bây giờ, đưa Hiên Chi về. Ta sẽ nghĩ ra một lời giải thích, ngày mai đến gặp Võ đế, dùng một lý do hợp lý để giải oan cho Hiên Chi khỏi tội mưu phản."

"Vâng, thưa chủ nhân."

Ly Nô vừa chuẩn bị ra ngoài vừa thở dài nói: "Thật tội nghiệp cho mọt sách, không có việc gì làm lại đi mưu phản, bây giờ chắc chắn đang bị tra tấn dã man rồi, không biết có còn quay về được không."

Con mèo đen nhỏ bước nhanh dưới ánh trăng, đi về phía hoàng cung mà đi.

Trong phòng, Bạch Cơ ngồi trước bàn ngọc xanh. Nàng vừa ngáp vừa chờ đợi Ly Nô đưa Nguyên Diệu trở về.

Vì chuyện mưu phản của nhân gian đối với Bạch Cơ cũng không phải là việc lớn, dù sao Ly Nô cũng đã đi tìm Nguyên Diệu rồi, đoán rằng Nguyên Diệu không sao.

Bạch Cơ dần dần thư giãn.

Đêm khuya yên tĩnh, một khi thả lỏng, con người sẽ cảm thấy buồn ngủ, Bạch Cơ rất mệt mỏi.

Bạch Cơ định lên lầu ngủ, nhưng rồi nghĩ lại, nếu lát nữa Ly Nô đưa Nguyên Diệu trở về, mà nàng lại lên lầu ngủ rồi thì sẽ tỏ ra quá thờ ơ với Nguyên Diệu, không thể giữ thể diện.

Vì vậy, Bạch Cơ đứng dậy, đi đến bên chiếc giường quý phi, nằm xuống ngủ. Như vậy, ít nhất cũng không lên lầu ngủ, trông như nàng đã luôn chờ đợi Nguyên Diệu, chỉ là chợp mắt một chút thôi.

Bạch Cơ mơ một giấc mộng đẹp, ngủ đến tận sáng hôm sau.

Tối hôm đó, Bạch Cơ hiếm khi không gặp ác mộng, nhưng khi tỉnh dậy lại cảm thấy vô cùng lo lắng.

Trời đã lên cao, nhưng trong Phiêu Miểu các trống không, Nguyên Diệu không trở về, Ly Nô cũng chẳng thấy tăm hơi.

Bạch Cơ đi một vòng quanh Phiêu Miểu các, xác nhận rằng cả Nguyên Diệu và Ly Nô đều không về, nàng đành bỏ qua việc chải chuốt, hóa thành một con rồng trắng khổng lồ, cuộn mình bay về phía hoàng cung.

Con rồng trắng bay quá nhanh, nàng không nhận ra rằng giữa ban ngày ban mặt, trên những con đường đan xen của thành Lạc Dương rộng lớn, chẳng có một bóng người.

Rồng trắng bay đến phía trên cung Thái Sơ, khi tìm kiếm Nguyên Diệu và Ly Nô trong hoàng cung, nàng mới phát hiện ra điều bất thường.

Giữa ban ngày, hoàng cung lẽ ra phải đầy ắp người, hoàng đế, triều thần, lính canh, cung nữ, thái giám đều nên làm công việc của mình trong các cung điện.

Nhưng vào thời khắc này, các cổng của cung Thái Sơ đều đóng kín, bên trong hoàng cung không một bóng người.

Rồng trắng ngờ vực, không để ý đến việc tìm kiếm Nguyên Diệu và Ly Nô, nàng cử động cánh mũi, hạ mình xuống, lần theo dấu vết của "người."

Rồng trắng ngạc nhiên phát hiện rằng, dù là cung nữ, lính canh, thái giám hay quan viên, tất cả mọi người đều đang ngủ.

Những thái giám, cung nữ, lính canh, quan viên này không chết, cũng không bị thương, họ nằm trên đất, thở đều đều, chỉ đơn giản là đang ngủ.

Mọi người đều chìm vào giấc ngủ, khiến cho cung Thái Sơ trở nên trống rỗng, mờ ảo, giống như một giấc mơ lớn đầy kỳ lạ.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 16


Nguyên Diệu bị ba võ sĩ đưa vào Mộng quốc.

Trong Mộng quốc, Nguyên Diệu lơ mơ bị ba võ sĩ dẫn vào một thành trì cổ xưa, trên những con đường đan xen chằng chịt, họ đưa Nguyên Diệu trên một chiếc xe ngựa, quẹo bảy, tám lần, vào một căn nhà cổ cũ kỹ... đây là căn cứ mà các võ sĩ dùng để chuẩn bị mưu phản trong kinh thành.

Các võ sĩ chưa kịp mưu phản, đã mở một buổi tiệc mừng vì cho rằng họ đã có được quân sư.

Nguyên Diệu lòng đầy lo lắng, vội vàng khuyên nhủ ba võ sĩ không nên mưu phản, và bày tỏ rằng mình không muốn làm quân sư của họ, chỉ muốn trở về Thư Viện Lệ Chính.

Ba võ sĩ không nghe Nguyên Diệu, họ mở tiệc lớn, cùng với một nhóm võ sĩ dưới trướng uống rượu ăn mừng. Giữa lúc tiệc tùng đang vui vẻ, bên ngoài đột nhiên xảy ra một cuộc náo loạn.

Hóa ra, ba võ sĩ ẩn nấp trong kinh thành nhưng hành động không đủ kín đáo, khiến hàng xóm xung quanh phát hiện điều bất thường. Hàng xóm báo cáo với triều đình, vì vậy mưu phản chưa kịp bắt đầu đã bị bại lộ, triều đình phái quan binh đến bắt giữ, và các quan binh đã bao vây căn nhà.

Sau một trận hỗn chiến, Râu quai nón bị thương chạy trốn, Râu chữ bát, Tên lùn và Nguyên Diệu bị quan binh bắt giữ và đưa vào ngục.

Sự việc xảy ra quá nhanh, Nguyên Diệu còn chưa hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra đã bị quan binh bắt, trở thành tù nhân trong Mộng quốc một cách mơ hồ.

Sau một trận thẩm vấn, hoàng đế của Mộng quốc ra phán quyết rằng tất cả kẻ phản loạn đều sẽ bị chém đầu sau ba ngày, bao gồm cả Nguyên Diệu với vai trò quân sư.

Nguyên Diệu cố gắng biện hộ rằng mình không phải là quân sư của ba võ sĩ, nhưng không ai tin hắn.

Nguyên Diệu rất sợ hãi, lòng đầy lo âu, chỉ biết khóc trong ngục.

Trong phòng giam có một ô cửa trời, bên ngoài cửa trời là một cây cổ thụ tán lá xum xuê.

Khi trăng lên giữa trời, một con ốc sên chậm rãi bò qua những tán lá của cây cổ thụ.

Con ốc sên nghe thấy tiếng khóc của Nguyên Diệu, cảm thấy rất quen thuộc, nó quay đầu nhìn xuống, ngạc nhiên nói:

"Nguyên công tử, sao ngài lại bị giam trong thiên lao?" Nguyên Diệu ngẩng đầu lên, nhìn thấy con ốc sên.

Vì ốc sên trông rất khác, Nguyên Diệu không nhận ra ngay, nhưng nghe giọng nói thì thấy rất quen thuộc.

Nguyên Diệu nghĩ một lúc, rồi hỏi: "Có phải là ốc sên đưa tin ở Trường An không?"

Ốc sên gật đầu, nói: "Đúng vậy. Nguyên công tử, sao ngài lại đến Mộng quốc? Lại còn bị giam trong thiên lao nữa?"

Nguyên Diệu đau khổ, nói: "Một lời khó nói hết."

Nhìn thấy con ốc sên, Nguyên Diệu liên tưởng đến việc truyền tin và lập tức nảy ra hy vọng.

"Ốc Sên hiền đệ, ngươi có thể đến Phiêu Miểu các truyền tin cho Bạch Cơ thay ta không?"

Ốc Sên nghe vậy, nói: "Hả?! Ta đến Lạc Dương để thăm bạn, không muốn truyền tin. Ta chỉ truyền tin ở Trường An, việc ở Lạc Dương không thuộc trách nhiệm của ta."

"Ốc Sên hiền đệ, việc này gấp rút và liên quan đến mạng sống, xin ngươi linh động một chút. Làm ơn hãy đến Phiêu Miểu các và báo với Bạch Cơ rằng ta bị dính vào vụ án mưu phản, ba ngày nữa sẽ bị chém đầu, xin Bạch Cơ nhất định phải đến cứu ta." Nguyên Diệu khẩn cầu.

Ốc Sên nghe vậy, nói: "Nghiêm trọng như vậy sao?! Vậy thì ta sẽ giúp Nguyên công tử một chuyến."

"Đa tạ Ốc Sên hiền đệ." Nguyên Diệu vui mừng, vội vàng cảm ơn.

Ốc Sên từ từ đổi hướng, bò về phía gốc cây.

Nguyên Diệu nhìn thấy động tác chậm chạp của Ốc Sên, lòng đầy lo lắng, hắn nghi ngờ rằng với tốc độ của Ốc Sên, khi đầu của hắn đã rơi xuống đất, có khi Ốc Sên vẫn còn trên đường. Nhưng trong tình thế bị giam cầm hiện tại, Nguyên Diệu không còn cách nào khác, đành phải đặt một tia hy vọng vào Ốc Sên.

Ốc Sên bò suốt một ngày một đêm mới bò đến con đường dẫn vào hoàng cung.

Ốc Sên vô cùng mệt mỏi, định nghỉ ngơi một chút thì đột nhiên nhìn thấy một cái đầu mỹ nhân bay qua bay lại như một ngôi sao băng, cuối cùng dừng lại trên đầu của nó.

"Ồ, Ốc Sên, ngươi sao lại đến Lạc Dương? Phải chăng gửi tin quá chậm, không sống nổi ở Trường An nữa à?" Cái đầu mỹ nhân cười đùa.

Ốc Sên nói: "Ta đến Lạc Dương để thăm bạn bè. A Lạc, ngươi đến thật đúng lúc, ta không quen thuộc với đường phố ở đây, ngươi giúp ta truyền tin được không?"

Cái đầu mỹ nhân cười nói: "Được thôi. Trong thành, không kể xa gần, giá một lượng bạc. Ngoài thành, tính phí theo khoảng cách." Ốc Sên lập tức ủy thác lời nhắn của Nguyên Diệu cho A Lạc.

A Lạc tính tình nóng nảy, chỉ nghe đến mưu phản, thiên lao, ba ngày sau chém đầu, bèn hối hả bay đi.

Ốc Sên ở phía sau gọi lớn: "Ta chưa nói xong đâu, là Mộng quốc...quốc..."

Cái đầu mỹ nhân bay quá nhanh, không hề nghe thấy. Nguyên Diệu trong thiên lao chờ đợi.

Một ngày một đêm trôi qua, Bạch Cơ và Ly Nô không hề đến.

Nguyên Diệu nghi ngờ rằng Ốc Sên quá chậm, ba ngày cũng chưa chắc đã truyền được tin, lại nghĩ đến hoàn cảnh kỳ lạ của mình, lòng không khỏi đắng cay, suốt thời gian dài khóc lóc không ngừng.

Râu chữ bát thấy Nguyên Diệu khóc mãi không thôi, an ủi hắn: "Quân sư đừng đau lòng, đại ca nhất định sẽ trở lại cứu chúng ta."

Nguyên Diệu khóc nói: "Hoàng cung này canh phòng nghiêm ngặt, chúng ta đều bị kết án tử hình, làm sao hắn có thể đến cứu chúng ta được?"

Tên lùn nói: "Quân sư không biết đấy thôi, quốc bảo đang ở trong tay chúng ta, đại ca chắc chắn sẽ lấy quốc bảo để đổi lấy mạng sống của chúng ta."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Quốc bảo gì?"

Râu chữ bát nói: "Tam đệ, quốc bảo quan trọng như vậy, không thể nói cho hắn biết."

Tên lùn nói: "Nhị ca, hắn là quân sư của chúng ta, bây giờ cùng chúng ta chung sống, cùng chịu nạn, không phải người ngoài, không cần phải giấu diếm."

Râu chữ bát nghĩ một lúc rồi nói: "Được thôi. Quân sư không phải người ngoài, vậy thì không giấu nữa. Quốc bảo của Mộng quốc là một thần thú, tên là Thực Mộng Mạc..."

Thực Mộng Mạc là thần thú bảo vệ Mộng quốc, nó ăn những cơn ác mộng, có thể tiêu diệt ác mộng của người hoặc phi nhân.

Mộng quốc là một quốc gia bảo vệ giấc mộng đẹp và chuyển hóa ác mộng. Dân chúng của quốc gia này sống dựa vào các tơ mộng của ba nghìn thế giới và muôn vàn sinh linh, cùng với Thực Mộng Mạc, họ chuyển hóa ác mộng thành giấc mơ đẹp và sống nhờ vào những giấc mơ đó.

Thực Mộng Mạc sống trong một vườn thánh đầy hoa tươi rực rỡ, được vua và dân chúng thờ phụng.

Một ngày nọ, ba võ sĩ đi qua vườn thánh, họ ngạc nhiên phát hiện ra kết giới của vườn thánh đã biến mất, và Thực Mộng Mạc lảo đảo bước ra, sau đó ngã xuống cỏ.

Ba võ sĩ bàn bạc và quyết định ăn cắp Thực Mộng Mạc.

Ba võ sĩ vốn là những võ sĩ thất bại, luôn sống như bọn trộm cướp. Khi có được Thực Mộng Mạc, họ đã giấu nó vào sơn trại của mình, chờ thời cơ để mưu phản.

Việc Thực Mộng Mạc bị mất tích trong vườn thánh không thể giấu được, việc chuyển hóa giấc mơ cũng không thể tiến hành bình thường vua và các quan đại thần vô cùng lo lắng, ngay lập tức ban hành lệnh tìm kiếm khắp cả nước.

Râu quai nón biết một số pháp thuật kỳ môn, có thể mở cánh cửa dẫn đến thế giới khác. Hắn lo sợ không thể giấu được Thực Mộng Mạc nên đã mở cánh cửa giữa Mộng quốc và nhân gian, giấu Thực Mộng Mạc vào nhân gian. Cánh cửa giữa Mộng quốc và nhân gian tình cờ nằm ở hồ Cửu Châu của cung Thái Sơ, ba võ sĩ đã giấu Thực Mộng Mạc vào căn phòng hẻo lánh ở thư viện Lệ Chính, nằm cách một bức tường với hồ Cửu Châu, nơi ít người qua lại...chính là nơi mà Nguyên Diệu vô tình nghe được ba võ sĩ bàn mưu phản.

Râu chữ bát và Tên lùn nghĩ rằng, Râu quai nón đã trốn thoát, rất có khả năng hắn đã chạy đến nhân gian. Hắn sẽ không bỏ mặc hai người huynh đệ của mình, nếu không cứu được họ, chắc chắn sẽ dùng Thực Mộng Mạc để đàm phán với triều đình, đổi lấy sự an toàn cho tất cả mọi người.

Nguyên Diệu nghe vậy, tâm trí quay cuồng, lòng lạnh buốt một nửa.

Nguyên Diệu nghĩ rằng, chẳng trách gần đây Bạch Cơ, Ly Nô và hắn thường xuyên gặp ác mộng, hẳn là có liên quan đến việc ba võ sĩ giấu Thực Mộng Mạc vào nhân gian. Vi Ngạn qua đêm trong hoàng cung, con heo bay mà hắn nhìn thấy rất có thể chính là Thực Mộng Mạc được giấu trong nhân gian.

Nguyên Diệu cảm thấy lạnh lẽo trong lòng vì ba võ sĩ này đều không sáng suốt. Giống như trước đây họ từng nghĩ rằng chỉ cần ám sát tể tướng là có thể trở thành hoàng đế, giờ đây họ cũng nghĩ rằng nếu Râu quai nón trả lại Thực Mộng Mạc thì Râu chữ bát và Tên lùn sẽ được cứu. Họ không biết rằng tội mưu phản là tội chết, mà ăn cắp quốc bảo rồi lại mưu phản thì còn nặng tội hơn, chém đầu không đủ, có lẽ phải chịu lăng trì.

Râu quai nón muốn dùng Thực Mộng Mạc để thương lượng với triều đình thì đúng là hoang tưởng. Chỉ sợ hoàng thượng biết quốc bảo bị Râu quai nón trộm mất, trong cơn giận dữ sẽ không tha cho Râu quai nón, mà sẽ phái quân truy lùng, tiêu diệt sạch sẽ.

Nguyên Diệu cảm thấy đắng cay trong lòng, không muốn nói gì nữa, cũng không muốn khóc nữa. Hắn bước đến góc tường, im lặng ngồi xuống, lòng dạ như tro tàn.

Trăng đã l*n đ*nh trời, thành Lạc Dương yên tĩnh.

Sau khi nhận được tin nhắn từ Phi Đầu Man, Ly Nô vội vã bay đến cung Thái Sơ để cứu Nguyên Diệu.

Ly Nô đầu tiên chạy đến thiên lao, tưởng rằng Nguyên Diệu đã bị tra tấn đến hấp hối, nên cẩn thận kiểm tra từng phòng giam trong

thiên lao. Nhưng không tìm thấy Nguyên Diệu.

Gần đây, trong thiên lao không có nhiều phạm nhân, càng không có tội phạm mưu phản trọng tội, hầu hết các phòng giam đều trống rỗng.

Ly Nô băn khoăn nhớ đến hai huynh đệ họ Trương, bèn vội chạy đến Khống Hạc Giám.

Kết quả là tối nay Võ Tắc Thiên bỗng nhiên có hứng, mở một bữa tiệc đêm cung đình ở Diêu Quang Điện, hai huynh đệ họ Trương, một người đàn, một người phục vụ rượu, đều đang bên cạnh nữ hoàng để phục vụ.

Ly Nô thấy hai huynh đệ họ Trương không có chuyện gì, chợt không hiểu Nguyên Diệu đang mưu phản với ai, nó lang thang ngoài Diêu Quang Điện, định tìm cơ hội vào hỏi một câu.

Võ Tắc Thiên liếc thấy con mèo đen nhỏ đang lấp ló ngoài Diêu Quang Điện.

Vì đã đốt "Hương Càn Nam An Tức", không còn mơ ác mộng nữa, nữ hoàng cảm thấy sức khỏe và tinh thần đều tốt hơn rất nhiều. Tối nay, tâm trạng bà ta vui vẻ, khác hẳn ngày thường không thích mèo, giờ lại có chút lòng từ bi.

“Con mèo đen nhỏ ngoài kia nhìn có vẻ đáng thương, chắc là đang đói bụng. Đừng làm nó sợ, mang đĩa cá này ra cho nó ăn đi.” Võ Tắc Thiên mỉm cười nói.

Nữ hầu bên cạnh nhận lệnh, bèn cầm đĩa cá sữa trên bàn ăn, nhẹ nhàng bước ra khỏi Diêu Quang Điện.

Nữ hầu đặt đĩa cá sữa xuống đất, gọi con mèo đen nhỏ đến ăn. Ly Nô khẽ cử động mũi, ngửi một cái.

Kỹ năng của ngự trù trong cung rất tinh xảo, cá sữa mịn như tuyết, sốt vàng óng, màu sắc, hương vị và mùi thơm đều đầy đủ.

Sau nửa ngày chạy ngược xuôi, bụng Ly Nô có chút đói, nó nghĩ ăn xong cá sữa rồi tìm Nguyên Diệu cũng không muộn.

Mèo đen nhỏ há miệng ngậm cá, rời khỏi Diêu Quang Điện, định tìm một nơi yên tĩnh ở hồ Cửu Châu để thưởng thức.

Sau một hòn đá, mèo đen nhỏ đang chuẩn bị thưởng thức cá sữa.

Đột nhiên, một con lợn bay màu xám đen lướt qua, giật lấy cá sữa từ miệng Ly Nô.

Ly Nô nhận ra, không khỏi tức giận, vội vàng nhảy lên đuổi theo con lợn bay.

"Con yêu quái lợn mù mắt, dám giật cá từ miệng gia?! Mau trả lại cá cho gia..."

Thực ra.con lợn bay đó...chính là Thực Mộng Mạc... Nó không có ý định giật cá của Ly Nô, chỉ là trong miệng nó có luồng khí lưu cuộn lên, không ngừng hút mọi thứ xung quanh. Nó bay qua đầu Ly Nô, luồng khí tạo ra vô tình hút đi cá sữa mà Ly Nô đang chuẩn bị ăn.

Mắt Thực Mộng Mạc đen kịt vô hồn, toàn thân phát ra khí đen, liên tục nuốt chửng mọi tơ mộng xung quanh. Tất nhiên, Ly Nô không thể nhìn thấy những tơ mộng, nó chỉ thấy con lợn bay đang há miệng hút không khí, cùng với cá sữa cũng bị hút vào miệng lợn bay.

Mèo đen nhỏ xù lông, biến thành một con mèo yêu chín đuôi to như hổ.

Mèo yêu chín đuôi phun ra ngọn lửa xanh biếc, lao vào Thực Mộng Mạc.

Thực Mộng Mạc bị ngọn lửa yêu đốt cháy, lập tức bị kích động, nó đột ngột phình to gấp nhiều lần, biến thành một con yêu quái lợn khổng lồ to bằng một cung điện.

Ly Nô nhìn thấy, không chịu thua, bay lên tấn công, cùng Thực Mộng Mạc hóa yêu đánh nhau.

Trong trận đấu, Thực Mộng Mạc ngày càng trở nên đen tối, ánh mắt càng trở nên u ám vô hồn, toàn thân liên tục phun ra từng luồng khí đen đặc quánh.

Những luồng khí đen đặc rơi xuống đất, biến thành bùn nhão bẩn thỉu, gây cảm giác ghê tởm, và tỏa ra mùi hôi nồng nặc.

Ly Nô nhìn thấy, cảm thấy kinh tởm vô cùng, lập tức không muốn dây dưa với yêu quái lợn nữa.

"Ôi, con yêu quái lợn này thật bẩn...thôi, mèo tốt không đánh với lợn, cá để cho ngươi, gia không chấp với ngươi nữa.”

Ly Nô quay người định bỏ đi, nhưng đã muộn.

Thực Mộng Mạc há miệng rộng, một luồng sức mạnh lớn cuốn đến, hút luôn mèo yêu chín đuôi vào bụng.

Mèo yêu chín đuôi vừa phun lửa yêu vừa vùng vẫy, nhưng bị bùn đen do Thực Mộng Mạc tiết ra bao quanh, từ từ trượt vào hố đen trong miệng lợn khổng lồ.

Cùng lúc đó Thực Mộng Mạc dường như mất hết tinh thần, không thể kiểm soát bản thân, từ cơ thể và miệng nó không ngừng tuôn ra bùn đen hôi thối, bùn đen phát ra một làn khí đen dày đặc.

Khí đen lấy hồ Cửu Châu làm trung tâm, lan rộng ra cung Thái Sơ, bao trùm cung Thái Sơ từng chút một.

Dần dần, khí đen lại lấy cung Thái Sơ làm trung tâm, lan ra bốn phía của Thần Đô.

Khí đen lan đến đâu, những người chưa ngủ đều lần lượt ngã xuống, chìm vào giấc ngủ sâu. Những người đã ngủ rồi thì bị khí đen bao phủ, rơi vào những cơn ác mộng sâu hơn.

*

Một võ sĩ Râu quai nón nhỏ cỡ ngón tay cái đứng trên một tảng đá bên hồ Cửu Châu, nhìn chằm chằm vào con Thực Mộng Mạc đã bị yêu hóa, vừa sợ hãi vừa lo lắng.

Râu quai nón chạy trốn khỏi cuộc truy đuổi vì tội phản nghịch, lén đến nhân gian với ý định dùng Thực Mộng Mạc để đổi lấy mạng sống cho huynh đệ mình, nhưng kết cục là Thực Mộng Mạc hoàn toàn mất kiểm soát và biến thành hình dạng hiện tại.

Tại sao Thực Mộng Mạc lại bị yêu hóa, Râu quai nón phần nào hiểu được, vì năm nay Mộng quốc đáng lẽ phải tổ chức lễ tế thanh lọc Thực Mộng Mạc ngàn năm, nhưng quốc vương đã không thực hiện lễ này. Ba huynh đệ họ đã lén lấy cắp... không, nhặt được Thực Mộng Mạc ngoài vườn Thánh, nhưng từ lúc đó Thực Mộng Mạc đã không còn bình thường. Lẽ ra, với tư cách là thánh thú của Mộng quốc, Thực Mộng Mạc phải có màu sắc rực rỡ, nhưng khi họ nhặt được, nó đã chuyển sang màu xám, và khi ẩn mình ở nhân gian, nó dần chuyển sang màu xám đen, còn tỏa ra khí dơ bẩn.

Râu quai nón suy nghĩ nhiều thứ, vừa hoảng sợ vừa lo lắng, không biết phải làm gì.

Điều may mắn là dường như Râu quai nón không bị ảnh hưởng bởi Thực Mộng Mạc, nên không bị rơi vào giấc ngủ sâu và mắc kẹt trong ác mộng.

Râu quai nón, với tư duy đơn giản, suy nghĩ một hồi lâu rồi quyết định bỏ qua Thực Mộng Mạc và tự quay về Mộng quốc, xông vào Thiên Lao để cứu huynh đệ của mình.

Râu quai nón quyết định rồi lập tức muốn trở về Mộng quốc.

Nhưng trong trận chiến với Ly Nô, Thực Mộng Mạc đã hoàn toàn bị yêu hóa, chất bùn đen mà nó tiết ra đã làm tắc nghẽn “cửa ngõ” giữa nhân gian và Mộng quốc, khí dơ mà nó phát ra biến thành cơn ác mộng, làm cho không gian chồng chéo lên nhau, biến cung Thái Sơ thành một mê cung trong mộng.

Nói cách khác, Râu quai nón không còn đường trở về Mộng quốc nữa.

Râu quai nón sững sờ, hắn đã lang thang cả đêm trong không gian mộng ảo mà không tìm được đường về, lo lắng như con kiến trên chảo nóng.

Râu quai nón lạc lối trong ảo cảnh, kiệt sức và mất hết hy vọng.

Rồng trắng bay vào cung Thái Sơ, ngạc nhiên khi thấy mọi người đều ngủ say, không gian bị một sức mạnh thần bí xoắn vặn, biến thành một mê cung trong mộng.

Rồng trắng râu tóc dựng ngược, ngẩng đầu rống to... nó muốn dùng tiếng rống của rồng để phá vỡ ảo cảnh.

Nhưng vô ích, cảnh mộng này không thể bị tiếng rống của rồng phá hủy.

Tuy nhiên, tiếng rống của Rồng trắng đã lọt vào tai của Râu quai nón, kẻ đang đầy lo lắng.

Râu quai nón ngẩng đầu, chỉ thấy trên bầu trời có một bóng rồng khổng lồ và mờ ảo đang uốn lượn.

“Có rồng?!” Râu quai nón muốn nhìn rõ xem chuyện gì đang xảy ra với con rồng, bèn vội vàng niệm chú ngữ, cơ thể hắn ta phình to như gặp gió, bỗng nhiên lớn lên, biến thành một người khổng lồ cao hơn cả cung điện.

Rồng trắng quay đầu lại, cũng nhìn thấy Râu quai nón sừng sững như một vị Kim Cang. Rồng trắng lườm mắt, ánh mắt vàng rực cháy.

“Vẫn còn một người thức sao.”

Râu quai nón lông mày dựng ngược, nhe răng trợn mắt, cơ thể hắn lắc lư, chập chờn, như thể có thể ngã xuống bất cứ lúc nào... pháp thuật của hắn không đủ sâu, cộng thêm việc đã đi lạc trong mê cung suốt cả đêm, cơ thể và tinh thần đều mệt mỏi, không đủ để duy trì hình thể khổng lồ đã hóa phép.

Chỉ trong chốc lát, Râu quai nón giống như quả bóng bị xì hơi. Cơ thể hắn dần dần co lại với tốc độ có thể nhìn thấy bằng mắt thường, trở lại hình dạng ban đầu.

Rồng trắng nhìn thấy vậy, cũng chầm chậm hạ cánh, hóa thành hình người. Để tiện giao tiếp, nàng cũng biến thành kích thước nhỏ như Râu quai nón.

Bạch Cơ đứng trước mặt Râu quai nón, chăm chú nhìn hắn.

Râu quai nón thấy một thiếu nữ xinh đẹp nhìn mình chằm chằm thì không khỏi đỏ mặt. Nhưng khi nghĩ đến việc cô nương này là một con Rồng trắng khổng lồ, hắn ta lại có hơi run sợ.

Bạch Cơ hỏi: “Ngươi là người của Mộng quốc sao? Hoàng cung biến thành thế này là do ngươi làm ư?”

Râu quai nón gật đầu, rồi lắc đầu: "Ta là người của Mộng quốc, nhưng tất cả chuyện này không phải do ta làm, mà là do Thực Mộng Mạc gây ra.”

Bạch Cơ hỏi: “Thực Mộng Mạc làm sao chạy đến nhân gian?”

Râu quai nón đầu óc đơn giản, nghe Bạch Cơ hỏi, bèn kể lại toàn bộ sự việc. Hắn ta kể về việc mình và các huynh đệ làm thế nào để ăn trộm Thực Mộng Mạc, rồi giấu nó ở nhân gian. Ngoại trừ việc bắt Nguyên Diệu vào Mộng quốc, hắn còn kể về âm mưu tạo phản của họ, làm thế nào mà sự việc bại lộ, các huynh đệ bị bắt, còn hắn thì may mắn trốn thoát và ẩn náu ở nhân gian. Tối qua, Thực Mộng Mạc như thường lệ đi ăn những sợi tơ mộng, nhưng bất ngờ gặp phải một con mèo yêu chín đuôi, xảy ra một trận chiến. Trong lúc giao đấu, Thực Mộng Mạc đột nhiên phát điên, tiết ra bùn đen, phun ra sương đen, khiến hoàng cung biến thành thế này.

Bạch Cơ ngạc nhiên: "Mèo yêu chín đuôi bị Thực Mộng Mạc nuốt chửng rồi sao?!”

Râu quai nón gật đầu, nói: “Đúng vậy.”

Bạch Cơ hỏi tiếp: “Mèo yêu có đi cùng một thư sinh con người không?”

Râu quai nón lắc đầu, nói: “Không. Ta chỉ thấy một con mèo yêu chín đuôi.”

Bạch Cơ lại hỏi: “Thực Mộng Mạc hiện giờ ở đâu?”

Râu quai nón mờ mịt trả lời: “Ta không biết.”

Bạch Cơ chìm vào suy tư. Theo những gì nàng biết, Thực Mộng Mạc là một sinh vật kỳ diệu, nó ăn những cơn ác mộng và chỉ hấp thụ năng lượng vô hình, không thể nuốt và tiêu hóa bất kỳ thứ gì có hình dạng vật lý. Ngay cả khi Ly Nô bị Thực Mộng Mạc nuốt, nó cũng sẽ không bị tiêu hóa mà chỉ bị giam cầm trong một không gian mộng cảnh, rơi vào cơn ác mộng. Dù tạm thời Ly Nô chưa gặp nguy hiểm đến tính mạng, nhưng vẫn cần phải tìm nó sớm.

Thực Mộng Mạc sống nhờ ác mộng, không thể rời khỏi mộng cảnh, nên có thể đang ẩn nấp ở một góc nào đó trong không gian mộng cảnh.

Râu quai nón thấy Bạch Cơ chìm vào suy nghĩ, hắn cũng lo lắng vô cùng. "Mii...ú ú ú..."

Đúng lúc này, một tiếng kêu vang lên từ trên không trung phía trên hồ Cửu Châu.

Một con lợn bay đen như đêm chạy băng qua bầu trời đêm, mắt nó vô hồn, toàn thân bị khí đen bao phủ, và trên da liên tục tiết ra bùn đen, trông rất bẩn thỉu.

Râu quai nón thấy vậy, chỉ vào con lợn bay đen và nói: "Thực Mộng Mạc ở đó!"

Bạch Cơ ngẩng đầu lên, nhìn thấy Thực Mộng Mạc màu đen, lông mày nàng nhíu lại.

"Thần thú may mắn sao lại trở nên bẩn thỉu như vậy..." Bạch Cơ lẩm bẩm.

Nhìn thấy Thực Mộng Mạc ô uế, Bạch Cơ suy nghĩ một lát, rồi quyết định không vội cứu Ly Nô đang bị nó nuốt.

Bạch Cơ nói với Râu quai nón: "Ngươi thử mở lại lối vào một lần nữa, chúng ta sẽ đi đến Mộng quốc, gặp vua của các ngươi."

Râu quai nón do dự một chút rồi đồng ý. Hắn niệm chú và tạo một dấu ấn.

Một luồng ánh sáng lóe lên, trong không gian xuất hiện một cái lỗ tròn. Nhưng ngay khi cái lỗ xuất hiện, bùn đen như có sinh mệnh lập tức tràn đến, từng lớp từng lớp bịt kín cái lỗ tròn.

Bạch Cơ thấy vậy, nàng giơ ngón tay lên. Một ngọn lửa rồng màu vàng đỏ bốc lên, quét qua bùn đen chắn lối vào. Bùn đen tan chảy thành khói bụi và biến mất không dấu vết.

Râu quai nón vui mừng, vội vàng nhảy vào cái lỗ tròn.

Bạch Cơ cũng theo sau.

*

Tại Mộng quốc, trong hoàng cung.

Vị vua ngồi trên ngai vàng, bên cạnh là các quan lại và hộ vệ.

Vua là một ông lão uy nghiêm với tóc và râu đều trắng như tuyết.

Bạch Cơ và Râu quai nón đứng trong đại điện, xung quanh là một số quan văn võ.

Sau khi đưa Râu quai nón đến Mộng quốc, Bạch Cơ đã tuyên bố trước cổng cung điện rằng nàng đã tìm thấy thần thú Thực Mộng Mạc đã mất tích.

Do đó, Bạch Cơ và Râu quai nón được hộ vệ đưa vào diện kiến vua và các quan lại.

Vua hỏi: "Thần thú hiện ở đâu?"

Bạch Cơ mỉm cười: "Thưa bệ hạ, trước khi trả lời câu hỏi của ngài, ta muốn hỏi về vấn đề của Thực Mộng Mạc."

Vua nhìn Bạch Cơ và nói: "Ngươi không phải là dân của Mộng quốc, chỉ là một người lạ đến từ phương xa. Ngươi chỉ cần trả lại thần thú, không cần biết quá nhiều."

Bạch Cơ mỉm cười nói: "Ta e rằng ngay cả khi ta nói với các ngài về vị trí của Thực Mộng Mạc, các ngài cũng không thể đưa nó trở lại Mộng quốc."

Vua không tỏ ra ngạc nhiên, ông nhíu mày và hỏi: "Thần thú đã hoàn toàn bị ô uế sao?"

Bạch Cơ gật đầu và nói: "Đúng vậy. Thực Mộng Mạc hiện đang ở nhân gian và đã hoàn toàn trở thành một sinh vật ô uế."

Vua ngồi gục xuống ngai vàng, nhìn quanh các đại thần và hỏi: "Các khanh nghĩ sao? Có cách nào không?"

Tất cả các quan văn võ nhìn nhau, ai nấy đều im lặng.

Trong đại điện im phăng phắc, mọi người đều nín thở, không ai dám lên tiếng. Dù một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy rõ.

Bạch Cơ phá vỡ sự im lặng và hỏi: "Con Thực Mộng Mạc này bao nhiêu tuổi rồi?"

Vua trả lời: "Năm nghìn tuổi rồi."

Bạch Cơ nói: "Năm nghìn năm là một đại kiếp, cần phải thanh tẩy và làm sạch rất kỹ lưỡng."

Vua tỏ ra ngạc nhiên và nói: "Người lạ đến từ phương xa như ngươi mà cũng biết về bí mật của thần thú sao?"

Bạch Cơ cười và nói: "Ta có biết đôi chút. Ta đã từng đọc trong sách cổ rằng Thực Mộng Mạc là một sinh vật ăn ác mộng, bên trong nó không ngừng tích tụ những điều ô uế và tối tăm. Ác mộng của chúng sinh là năng lượng tiêu cực bẩn thỉu nhất. Khi năng lượng tiêu cực tích tụ đến đỉnh điểm trong cơ thể Thực Mộng Mạc, nó sẽ trở nên ô uế và biến thành một yêu ma mất hết lý trí. Cứ mỗi ngàn năm, năng lượng tiêu cực trong cơ thể Thực Mộng Mạc sẽ đạt đến đỉnh điểm, bắt đầu quá trình biến thành yêu ma. Lúc này, cần có một sức mạnh bên ngoài để thanh tẩy và đưa nó trở lại trạng thái bình thường. Nói chung, những con Thực Mộng Mạc sống càng lâu, vì ăn nhiều ác mộng, tích tụ càng nhiều ô uế, nên càng khó thanh tẩy."

Vua thấy Bạch Cơ đã biết mọi chuyện, cũng không giấu diếm nữa.

"Đúng vậy, năm nay chính là đại kiếp năm nghìn năm của thần thú. Theo quy tắc trước đây, vào các tiết lập xuân, lập hạ, lập thu và lập đông, sẽ tổ chức bốn lễ đại tế trong vườn Thánh, đưa thần thú vào thánh tuyền để tẩy rửa, sau đó các tế sư sẽ niệm chú thanh tẩy, có thể xua tan hết uế khí, trừ sạch những điều bẩn thỉu và giúp thần thú không bị yêu hóa. Nhưng... do một vài lý do, lễ thanh tẩy trong tiết lập xuân năm nay đã không được tổ chức, thần thú lập tức gặp vấn đề."

Bạch Cơ tò mò hỏi: "Tại sao lại không tổ chức lễ thanh tẩy?"

Vua tránh ánh mắt của nàng, không muốn trả lời. Các đại thần xung quanh cũng lộ vẻ khó xử, không dám lên tiếng.

Râu quai nón thấy vậy, nói: "Vì bệ hạ tham lam hưởng lạc, xây dựng lại ngự hoa viên nên đã phá vỡ mạch nước của thánh tuyền. Thánh tuyền trong vườn Thánh đã khô cạn từ lâu, không còn nước nữa. Không có nước thánh thì sao tổ chức lễ thanh tẩy? Làm sao thanh tẩy thần thú được? Chính vì chuyện này mà dân gian đầy rẫy lời oán trách, họ nói rằng thần thú sẽ gặp vấn đề và quốc gia sẽ sớm diệt vong."

Đây cũng là một trong những lý do khiến Râu quai nón sau khi nhặt được Thực Mộng Mạc đã nảy sinh ý định phản loạn. Hắn cho rằng bệ hạ không đủ tư cách, muốn phản loạn để tự mình lên ngôi.

Nhà vua vừa nghe xong bèn cố gắng tranh luận.

“Sau khi phá vỡ mạch nước của Thánh Tuyền, trẫm đã tự kiểm điểm. Trẫm đã cho người sửa chữa và cố gắng khôi phục mạch nước, nhưng dù đã sửa lại chỗ bị phá vỡ, nước Thánh vẫn không chảy ra. Trẫm cũng đã bảo các tư tế dùng nước suối tinh khiết nhất từ núi để thanh tẩy Thánh Thú, nhưng tiếc là không có tác dụng, phải cần đến nước Thánh Tuyền mới được.”

Bạch Cơ nghe vậy, hỏi: “Vậy bây giờ phải làm sao?”

Nhà vua lặng thinh, Râu quai nón lặng thinh, toàn bộ quan văn võ đều im lặng.

Trong đại điện, không gian tĩnh lặng đến mức dù có rơi một chiếc kim cũng có thể nghe thấy.

Cuối cùng tể tướng phá vỡ sự im lặng, lên tiếng.

“Hoàng thượng, đã có người ngoại lai nói rằng Thánh Thú đang ở nhân gian, chi bằng lão thần sẽ liều mình cùng nàng đến nhân gian một chuyến, xem Thánh Thú hiện tại ra sao.”

Nhà vua gật đầu, đồng ý.

“Như vậy thì tốt. Nhọc cho khanh rồi.”

Nhà vua lại nói: “Người ngoại lai, ngươi đã báo cho trẫm tung tích của Thánh Thú, theo lời hứa trên hoàng bảng, trẫm có thể ban cho ngươi một phần thưởng, ngươi muốn gì?”

Bạch Cơ chưa kịp mở lời, Râu quai nón đã vội nói: “Xin hoàng thượng ân xá một số tử tù.”

Thực Mộng Mạc ở nhân gian đã hóa yêu, khiến nhân gian rơi vào cơn ác mộng, Ly Nô lại bị Thực Mộng Mạc nuốt chửng, sống chết chưa rõ. Bạch Cơ đang lo lắng không biết phải giải quyết những vấn đề này thế nào, nên không muốn tranh công với Râu quai nón, bèn nhường phần thưởng của hoàng bảng cho hắn.

Nhà vua đồng ý với yêu cầu của Râu quai nón, giải thoát Râu chữ bát, Tên lùn, và Nguyên Diệu và nhóm người của hắn.

Khi Bạch Cơ nhìn thấy Nguyên Diệu trong đám người được phóng thích, nàng có hơi ngạc nhiên. Nàng không ngờ Nguyên Diệu lại đang mưu phản ở Mộng quốc.

Nguyên Diệu lại tưởng rằng ốc sên đã thành công gửi tin, Bạch Cơ cố tình đến Mộng quốc để cứu mình nên rất vui mừng, đầy lòng cảm kích.

“Bạch Cơ, cảm ơn đã đến cứu tiểu sinh!”

“Việc này... thực ra cũng không có gì đặc biệt, ta thậm chí còn không biết Hiên Chi ở đây… Nhưng một khi nghe nói Hiên Chi gặp nguy hiểm, ta thực sự rất lo lắng, cảm giác đó là thật.” Bạch Cơ nói.

Nguyên Diệu hỏi: “À? Vậy ra Bạch Cơ không cố tình đến cứu tiểu sinh sao?”

Bạch Cơ lấy tay áo che môi, nói: “Ta đâu có biết Hiên Chi ở Mộng quốc, ta còn tưởng ngươi bị giam ở thiên lao của cung Thái Sơ cơ đấy. Hiên Chi, sao ngươi lại đến Mộng quốc mưu phản vậy?”

Nguyên Diệu nghe xong thì thấy đau đầu, hắn vội vàng xua tay: "Không có mưu phản, không có mưu phản, tiểu sinh cũng không biết chuyện gì xảy ra, cứ mơ mơ hồ hồ bị giam vào thiên lao...”

Nguyên Diệu kể lại mọi chuyện đã xảy ra ở thư viện Lệ Chính, kể về việc hắn bị đưa đến Mộng quốc một cách bất đắc dĩ. Râu quai nón, Râu chữ bát, Tên lùn vừa nghe xong, bèn trao đổi ánh mắt, định lập tức rời đi.

Bạch Cơ tinh ý nhận ra, vội vàng gọi họ lại.

“Ba người các ngươi đừng chạy, đi cùng ta về nhân gian. Đừng nói đến chuyện các ngươi vô cớ bắt Hiên Chi của ta đi, ngay cả việc của Thực Mộng Mạc, các ngươi cũng không thể chối bỏ trách nhiệm. Dù sao cơn ác mộng ở nhân gian là do ba người các ngươi gây ra, các ngươi phải ra sức giải quyết.”

Râu quai nón, Râu chữ bát, Tên lùn không thể phản bác, cũng không thể chạy trốn, đành phải đồng ý.

Thế là Bạch Cơ, Nguyên Diệu, tể tướng, và ba huynh đệ Râu quai nón cùng rời Mộng quốc, đến nhân gian xem xét tình hình.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 17


Tại nhân gian, Lạc Dương.

Sau khi trở về nhân gian, Bạch Cơ và Nguyên Diệu khôi phục lại kích thước ban đầu, còn tể tướng, Râu quai nón, Râu chữ bát, Tên lùn vẫn chỉ bằng kích cỡ ngón tay cái. Để thuận tiện, Nguyên Diệu để bốn người tí hon đứng trên vai mình, mang theo họ di chuyển.

Trong cung Thái Sơ, khắp thành Lạc Dương, mọi người đều chìm vào giấc ngủ, thế giới rơi vào cảnh mộng chồng chất và méo mó.

Thấy vậy, Nguyên Diệu vô cùng ngạc nhiên, nghe nói Ly Nô bị Thực Mộng Mạc nuốt chửng, lại càng lo lắng không yên.

Mọi người đến hồ Cửu Châu, phát hiện giữa hồ nước có một ngọn đồi đen sừng sững.

Nhìn kỹ, hóa ra đó chính là Thực Mộng Mạc đã hoàn toàn hóa yêu.

Thực Mộng Mạc to lớn như một ngọn đồi, đang nằm trong hồ Cửu Châu nhắm mắt nghỉ ngơi. Cả người nó đen nhánh, trên người liên tục chảy ra từng lớp bùn đen xếp chồng lên nhau, từ miệng và mũi không ngừng bốc lên những làn khói đen.

Bùn đen lắng đọng quanh Thực Mộng Mạc, khói đen khiến nước hồ Cửu Châu trở nên đục ngầu, lại còn tỏa ra mùi khó chịu.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, tể tướng và ba huynh đệ Râu quai nón đứng nhìn từ xa, ai nấy đều bị cảnh tượng này làm kinh hãi đến sững sờ, không biết phải làm gì.

Bạch Cơ hỏi: “Tể tướng, ngài thấy nên làm thế nào?”

Tể tướng vuốt râu, lắc đầu, nói: “Không biết. Lão phu sống cả đời, chưa bao giờ gặp chuyện như thế này.”

Râu quai nón lên tiếng: “Có lẽ, nếu tẩy sạch thần thú thì sẽ khôi phục được bình thường?”

Râu chữ bát nói: “Đại ca, e rằng không tẩy được. Huynb xem, thần thú ngâm trong hồ Cửu Châu không chỉ không sạch, mà còn làm ô nhiễm cả nước hồ.”

Tể tướng nói: “Phải cần nước Thánh Tuyền mới có thể thanh tẩy thần thú. Đáng tiếc, Thánh Tuyền đã...”

Bạch Cơ nói: “Để thanh tẩy ô uế, không chỉ có nước, còn có lửa. Hay là ta phun ra Hồng Liên Nghiệp Hỏa có thể thiêu đốt mọi thứ, đốt cháy Thực Mộng Mạc cùng với mọi thứ ô uế?"

Tể tướng và ba huynh đệ Râu quai nón cùng lắc đầu: "Không được đâu." Râu quai nón nói: "Nếu bị Hồng Liên Nghiệp Hỏa thiêu đốt, thần thú cũng sẽ chết mất."

Râu chữ bát nói thêm: "Nếu thần thú không còn, vương quốc của chúng ta cũng sẽ tiêu vong." Tên lùn nói.

"Người dị quốc, tuyệt đối không thể đốt thần thú bằng lửa. Nếu mất đi thần thú, dân chúng trong vương quốc sẽ không thể chuyển đổi giấc mơ mà hấp thụ sinh lực từ tơ mộng, và tất cả mọi người đều không thể sống sót." Tể tướng nói.

Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc rồi cũng nói: "Bạch Cơ, tốt nhất là đừng thiêu rụi thần thú, huống hồ còn có Ly Nô đang bị nó nuốt vào bụng. Nếu ngươi thiêu hủy nó, thì Ly Nô sẽ ra sao?"

Bạch Cơ cũng có phần khó xử, nàng biết rất ít về Thực Mộng Mạc nên cũng không biết phải làm sao trong tình huống này: "Cũng đúng, không thể đốt được, Ly Nô vẫn còn ở trong bụng nó." nàng nói.

Đúng lúc đó từ trong hồ Cửu Châu, một đôi mắt tròn xoe hiện lên. Khi đôi mắt ấy nhìn thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng bên bờ hồ Cửu Châu, lập tức tỏ ra vui mừng, một cái đầu mèo thò ra khỏi đám cây thủy chú: "Chủ nhân, mọt sách, Ly Nô khổ quá!"

Con mèo đen nhỏ lảo đảo, mình mẩy dính đầy bùn, lao đến chỗ Bạch Cơ và Nguyên Diệu. Nó ướt sũng, lông mèo dính đầy bùn, tỏa ra một mùi hôi thối.

"Ly Nô lão đệ vẫn sống, đúng là tốt quá!" Nguyên Diệu thấy Ly Nô bình an vô sự, bèn rất vui mừng, cúi người định ôm lấy nó. Nhưng mùi hôi thối bốc lên từ bộ lông mèo và lớp bùn nhầy nhụa dày đặc trên cơ thể khiến Nguyên Diệu vội đứng dậy và lùi lại vài bước.

Bạch Cơ cũng che mũi bằng tay áo, lùi lại vài bước: "Ly Nô, sao ngươi lại trở nên bẩn thỉu và hôi thối thế này?"

Mèo đen nhỏ cảm thấy tự ti, nó cũng không dám tiến tới gần mà lùi lại vài bước, cúi đầu. Mèo đen nhỏ giơ móng vuốt chỉ về phía Thực Mộng Mạc trong hồ Cửu Châu và khóc nói: "Chủ nhân, tất cả là do con heo bay này hại! Nó nuốt Ly Nô vào bụng rồi lại nhổ ra. Trong bụng nó toàn là bùn thối khủng khiếp, Ly Nô bị nhấn chìm, và khi bị nhổ ra, toàn thân đều bẩn thỉu và hôi thối không chịu nổi. Ly Nô vừa rồi đang ở trong nước để rửa sạch, nghe thấy tiếng nói nên mới phát hiện ra các ngươi."

Nguyên Diệu không khỏi thương cảm cho Ly Nô: "Tội nghiệp Ly Nô lão đệ..."

Bạch Cơ nói: "Ly Nô, ngươi hãy rửa sạch mình thêm chút nữa đi."

Ly Nô rất khó xử, nói: "Chủ nhân, Ly Nô đã rửa suốt nửa canh giờ rồi, nhưng nước trong hồ cũng bị con heo yêu kia làm cho bẩn thỉu và hôi thối, rửa sạch rồi cũng như không."

Bạch Cơ nói: "Trong hoàng cung vẫn còn một số giếng nước. Ly Nô, ngươi hãy tìm một giếng nước sạch mà rửa."

Ly Nô đang chuẩn bị đi thì Nguyên Diệu nói: "Hay là trở về Phiêu Miểu các mà rửa đi. Bây giờ như thế này cũng không thể giải quyết vấn đề ngay được, chi bằng hãy về Phiêu Miểu các rồi tính kế lâu dài."

Bạch Cơ và Ly Nô không có ý kiến gì, còn Tể tướng cùng ba huynh đệ Râu quai nón dù có ý kiến khác, nhưng do đang đứng trên vai Nguyên Diệu nên cũng chỉ đành theo hắn trở về Phiêu Miểu các.

Khi trở về Phiêu Miểu các ở chợ Nam, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đều rất lo lắng. Trên đường trở về, họ thấy tất cả mọi người đều chìm vào giấc ngủ, thế giới rơi vào một cảnh mộng quái dị chồng chất và biến dạng.

Tình cảnh kỳ lạ này khiến ai cũng bất an. Bạch Cơ không nghĩ ra cách nào khác, chỉ đành lục tìm một đống sách cổ về Thực Mộng Mạc, quỳ bên bàn ngọc xanh để lật giở, hy vọng tìm được manh mối phá giải tình huống.

Tể tướng và ba huynh đệ Râu quai nón quỳ trên bàn ngọc xanh, chờ đợi Bạch Cơ nghĩ ra cách. Khi Ly Nô trở về Phiêu Miểu các, nó lập tức vội vã đi đến giếng nước để rửa sạch mình. Vì bùn đất quá bẩn và khó tẩy, Ly Nô còn nhờ Nguyên Diệu nhóm lửa đun nước nóng và dùng xà phòng để tắm rửa kỹ lưỡng, thậm chí còn lấy một chiếc thùng gỗ làm bồn tắm, rắc thêm bột hương và cánh hoa để tắm.

Nhưng tất cả những cố gắng ấy đều vô ích. Bùn đen do Thực Mộng Mạc tiết ra quá ô uế, và Ly Nô bị ngâm trong bụng của nó quá lâu, khiến toàn thân bị nhiễm mùi khó chịu, dù đã rửa sạch nhưng vẫn phát ra một mùi khó ngửi.

Thúc mèo đen vốn có tính sạch sẽ sắp phát điên. Nó sợ người khác ngửi thấy mùi hôi trên lông và chê nó quá bẩn, nên không muốn gặp ai, tự ti trốn dưới gầm tủ Đa Bảo.

Nguyên Diệu, sau khi hoàn thành các công việc được Ly Nô giao, bèn đi tìm nó khắp nơi. Hắn muốn hỏi xem liệu mình có cần tiếp tục chẻ củi đun nước nữa không, nên đi tìm Ly Nô và bước vào gian trong.

Nguyên Diệu thấy một đoạn đuôi mèo đen thò ra dưới góc tủ đa bảo, bèn bước tới hỏi: "Ly Nô lão đệ có tiếp tục tắm nữa không? Tiểu sinh cần phải tiếp tục đun nước không?"

Ly Nô chưa kịp trả lời thì Nguyên Diệu đã thấy một trong những chiếc hộp gỗ đựng sách bị mọt ăn trên tủ đa bảo phát ra ánh sáng nhẹ nhàng mà óng ánh.

Nguyên Diệu không khỏi ngạc nhiên, nói: "Bạch Cơ, cái hộp gỗ đang phát sáng."

Nghe vậy, Bạch Cơ ngẩng đầu lên từ cuốn cổ thư.

"Á! Mọt sách đã ăn đến lần thứ ba chữ mộng rồi." Bạch Cơ nhìn thấy chiếc hộp gỗ phát sáng, bèn cười nói.

Tể tướng, Râu quai nón, Râu chữ bát, và Tên lùn cũng đồng loạt quay đầu nhìn về phía tủ đa bảo.

Bạch Cơ đứng dậy, đi đến tủ đa bảo, lấy chiếc hộp gỗ phát sáng.

"Chỉ có chiếc hộp này là có mọt sách đã ăn đến ba lần chữ mộng. Hiên Chi, hãy để chúng ta xem thử, mọt sách sau khi ăn mộng sẽ biến thành gì."

Bạch Cơ đem chiếc hộp gỗ đặt lên bàn ngọc xanh, đưa tay ngọc mở chiếc hộp phát sáng.

Con mèo đen dưới tủ đa bảo cũng thò cái đầu ướt nhẹp ra, tò mò nhìn về phía bàn ngọc xanh.

Trong chiếc hộp gỗ, giữa những mảnh giấy vụn, mọt sách đã biến mất, chỉ còn lại một viên đá đen như hòn sỏi đang phát sáng lấp lánh.

Nguyên Diệu rất ngạc nhiên.

"Bạch Cơ, đây là gì?"

Bạch Cơ cầm viên đá lên, nhìn từ trái qua phải, cân nhắc một hồi rồi đưa lên mũi ngửi.

"Đây là… đá rửa?* Mọt sách ăn mộng sao lại biến thành đá rửa?"

* Tẩy thạch(đá rửa): Một loại đá có chứa kiềm, có thể hòa tan chất bẩn. Xuất xứ từ “Sơn Hải Kinh - Tây Sơn Kinh”, "Tiền Lai chi sơn, kỳ thượng đa tùng, kỳ hạ đa tẩy thạch." Chú thích quan trọng: đá Tẩy Mộng là một khái niệm hư cấu, không có trong cổ thư.

Bạch Cơ rất bối rối, đặt viên đá rửa lên bàn ngọc xanh.

Nguyên Diệu bước đến bên bàn ngọc xanh, cầm viên đá rửa lên xem xét, cũng không hiểu ra sao.

Tể tướng tiến đến bên cạnh viên đá rửa, xoay một vòng, còn dùng tay gõ gõ, rồi ngửi một cái.

"Viên đá rửa này có mùi giống như nước thánh..." Tể tướng lẩm bẩm.

Nghe vậy, Bạch Cơ lập tức nảy ra ý tưởng.

Con mèo đen dưới tủ đa bảo rụt rè nói: "Chủ nhân, nếu đây là đá rửa, người có thể dùng nó để rửa cho Ly Nô không? Ly Nô bị dính bùn bẩn từ con heo yêu quái đó, giờ người toàn mùi hôi thối, dùng xà phòng và bột thơm rửa cũng không sạch, sống thật khổ sở."

Bạch Cơ nói: "Được. Ly Nô, ta và Hiên Chi sẽ giúp ngươi rửa sạch."

Ly Nô ngạc nhiên, nói: "Chủ nhân, sao dám làm phiền người động tay?"

Bạch Cơ mỉm cười nói: "Không sao, ta chỉ muốn xem thử có thể rửa sạch được gì thôi."

Nghe vậy, Nguyên Diệu lập tức đi tiếp tục đun nước.

Ở sân sau, bên giếng cổ.

Nguyên Diệu dùng thùng gỗ đựng nước ấm, Bạch Cơ lấy viên đá rửa ra và đặt vào trong nước ấm.

Nguyên Diệu quan sát kỹ, phát hiện viên đá rửa khi đặt vào nước ấm thì bắt đầu sủi bọt.

Nước trong thùng sau khi ngâm viên đá rửa dần dần tỏa ra một ánh sáng nhạt như ánh ngọc trai.

Con mèo đen vội vàng nhảy vào thùng gỗ, ngâm mình trong nước ấm, thoải mái nhắm mắt lại.

"Mọt sách, còn đứng đó làm gì? Mau kỳ lưng cho gia!"

Ly Nô nói.

Nghe vậy, Nguyên Diệu đành phải kỳ lưng cho Ly Nô.

Nước đã được ngâm viên đá rửa từ bộ lông mèo của Ly Nô đã cuốn đi nhiều bùn bẩn, khiến thùng nước lập tức trở nên đục ngầu, nhưng vì viên đá rửa trong nước vẫn đang sủi bọt, nên nước đục cũng lập tức trở lại trong sạch. Bùn bẩn đã bị viên đá rửa phân giải.

Lần này, Ly Nô đã tắm sạch sẽ, không còn mùi khó chịu nữa.

Bạch Cơ nhìn thấy, bèn cười nói: "Hóa ra, đây là đá rửa mộng. Mọt sách ăn mộng có thể biến thành đá rửa mộng, có khả năng rửa sạch ác mộng, đúng là thú vị."

Trong phòng, trên bàn ngọc xanh.

Râu quai nón càu nhàu: "Đã đến nước này rồi, mà họ còn có tâm trạng tắm cho mèo."

Râu chữ bát nói: "Mấy dị nhân này, làm việc không biết nặng nhẹ, không đáng tin."

Tên lùn lo lắng: "Bây giờ phải làm sao đây?"

Tể tướng vuốt râu trắng, khinh thường nói: "Các ngươi chỉ là lũ giặc cỏ đem kiến thức nông cạn, không hiểu được sự cao minh của dị nhân, có thể dùng đá rửa tắm cho mèo, thì thần thú cũng có thể được thanh tẩy."

Râu quai nón thấy tể tướng nói mình nông cạn, bèn tức giận, định xông lên đánh ông ta.

Râu chữ bát vội vàng ngăn lại, nói: "Đại ca, đừng l* m*ng, đánh tể tướng, chúng ta lại bị tống vào ngục."

Tên lùn nói: "Đại ca, nhị ca, bây giờ tể tướng không có hộ vệ, chúng ta chẳng phải có thể ám sát ông ta sao?"

Râu chữ bát vội vàng khuyên: "Tam đệ, bây giờ chúng ta đã thất bại trong việc tạo phản, còn ám sát ông ta làm gì?"

Râu quai nón nói: "Lão già này nói chuyện khó nghe, lại kiêu ngạo, không cần tạo phản cũng có thể ám sát ông ta."

Tể tướng không vui, nói: "Lũ giặc cỏ, lão phu và các ngươi không thù không oán, sao lại ác độc như vậy?!"

Tể tướng và ba huynh đệ Râu quai nón đang cãi nhau thì Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước vào.

Bạch Cơ cười nói: "Tể tướng, chúng ta hãy bàn một vụ giao dịch nhé."

*

Trăng đã lên giữa trời, mây vờn khắp nơi. cung Thái Sơ, hồ Cửu Châu.

Con Thực Mộng Mạc đã hóa thành yêu ma, nằm phục trong bờ nông của hồ Cửu Châu, tựa như một ngọn đồi đen. Da của nó không ngừng tiết ra bùn đen bẩn thỉu, từ mũi miệng cũng tràn ra khí độc hôi thối.

Nước hồ Cửu Châu vốn trong vắt giờ đã trở nên đen kịt, dính nhờn và bốc mùi thối.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô đứng từ xa nhìn hồ.

Ly Nô cầm theo một cái thùng gỗ lớn, trong đó có vài cái bàn chải và mấy miếng vải.

Tể tướng, Râu quai nón, Râu chữ bát, và Tên lùn đứng trên vai Nguyên Diệu.

Bạch Cơ nhìn ngọn đồi khổng lồ là con Thực Mộng Mạc, rồi lại nhìn bốn người tí hon trên vai Nguyên Diệu, cảm thấy hơi lo lắng.

"Kích thước quá chênh lệch, có vẻ không ổn, nhưng cứ thử xem."

Bạch Cơ lẩm bẩm một câu, một luồng kim quang lóe lên.

Tể tướng, Râu quai nón, Râu chữ bát và Tên lùn từ vai Nguyên Diệu lăn xuống đất, biến thành người có kích cỡ như Nguyên Diệu.

Râu quai nón, Râu chữ bát, và Tên lùn biết sắp phải làm việc nặng nhọc nên quyết định nhẹ nhàng hơn, tháo vũ khí, cởi bỏ giáp và giày ủng, để trần nửa thân trên, chỉ còn lại một chiếc quần ngắn. Họ còn lấy khăn trùm đầu hoặc khăn tay che miệng mũi, để tránh ngửi phải mùi hôi thối. Sau đó, họ chọn bàn chải và vải lau từ thùng gỗ của Ly Nô.

Tể tướng vẫn đang quan sát con Thực Mộng Mạc, nói: "Dị nhân, có thể khiến thần thú nhỏ lại không?"

Bạch Cơ trả lời: "Nếu có thể làm nó nhỏ lại, thì ta đã không cần đến các ngươi. Để khôi phục kích thước ban đầu của nó, phải tịnh hóa nó."

Râu quai nón giơ tay lên để che nắng, nhìn một chút con Thực Mộng Mạc rồi hỏi: "Có thể khiến chúng ta lớn lên một chút, giống như lúc ta gặp ngươi, biến mình thành người khổng lồ không?"

Bạch Cơ lắc đầu: "Không được. Thứ nhất, việc biến các ngươi thành khổng lồ tiêu tốn quá nhiều yêu lực. Thứ hai, sự khổng lồ chỉ duy trì trong một khoảng thời gian ngắn, tối đa chỉ bằng thời gian đốt một cây hương. Thời gian đó không đủ để các ngươi hoàn thành công việc."

Tể tướng nghe xong thì ngây người ra.

"Bốn người? Không phải chỉ ba người kia làm việc sao?"

Bạch Cơ cười nói: "Thêm một người, thêm một đôi tay, ngài cũng phải làm việc đi."

Tể tướng không đồng ý: "Lão phu đã già yếu, không còn đủ sức làm việc nặng nhọc nữa. Hay là để lão phu về Mộng Quốc, điều động một đội hộ vệ tinh nhuệ đến?"

Bạch Cơ không còn kiên nhẫn: "Quay về Mộng Quốc sẽ tốn quá nhiều thời gian. Nhân gian không thể mãi chìm trong mộng cảnh, kéo dài quá lâu sẽ xảy ra chuyện. Các ngươi hãy thử trước, nếu thật sự không được, thì mới nhờ viện trợ."

Tể tướng do dự một chút, cắn răng, rồi bắt đầu run rẩy c** đ*: "Ôi! Vì thần thú, vì hoàng thượng, vì Mộng Quốc, lão phu đành liều mình thử một lần vậy."

Nguyên Diệu thấy vậy thì có hơi đồng cảm với lão tể tướng, suy nghĩ một lúc rồi cũng bắt đầu c** đ*.

"Bạch Cơ, tiểu sinh cũng muốn giúp một tay."

Bạch Cơ cười: "Cũng được. Thực Mộng Mạc không ăn người, không có nguy hiểm, chỉ hơi bẩn, có thể sẽ hơi mệt."

Nguyên Diệu quay đầu nhìn Ly Nô.

Ly Nô lập tức lùi về sau, nói: "Mọt sách đừng nhìn gia, gia sẽ không đi đâu. Trước đây, bị cái con yêu quái heo bay đó bắn bùn đen khắp người, gia suýt phát điên, mãi mới tẩy sạch được, gia không muốn lại gần nó nữa đâu."

Nguyên Diệu lại quay sang nhìn Bạch Cơ.

Bạch Cơ vội lùi về sau, cười nói: "Thánh nhân có dạy: Nam nữ thụ thụ bất thân. Các ngươi đều là nam nhân c** tr*n làm việc, ta là một nữ nhi yếu đuối chen vào giữa, không hợp với lời dạy của thánh nhân, sẽ bị dị nghị. Thôi thì để các ngươi làm."

Nguyên Diệu méo mặt: "Bạch Cơ biến thành rồng thì đâu còn vi phạm lời dạy của thánh nhân nữa?"

Bạch Cơ cười: "Nguyên Diệu, ta biến thành rồng sẽ khiến họ sợ hãi. Hơn nữa, Thực Mộng Mạc bây giờ bẩn thỉu như thế, ta chẳng muốn lại gần nó nên các ngươi cứ làm đi."

Bạch Cơ thoái thác, Nguyên Diệu đành bất đắc dĩ cùng tể tướng, Râu quai nón, và ba người khác tiến về hồ Cửu Châu.

Năm người gồm Nguyên Diệu, tể tướng, Râu quai nón và những người khác c** tr*n, bịt mũi, tay cầm các dụng cụ làm sạch như bàn chải, khăn lau, lần mò bước xuống hồ Cửu Châu, lội qua lớp bùn đen bẩn, từng bước tiến về phía con Thực Mộng Mạc. Công việc của họ là dùng đá rửa mộng, do con mạch vòng hóa thành, để tịnh hóa Thực Mộng.

Nhìn thấy năm người Nguyên Diệu tiến vào hồ Cửu Châu, tiến về phía con Thực Mộng Mạc, Bạch Cơ và Ly Nô vội đứng lên một tảng đá giả, cố gắng đứng xa hơn một chút.

Bạch Cơ lấy đá rửa mộng từ trong tay áo, khẽ thổi một hơi.

đá rửa mộng phát ra một ánh sáng vàng nhạt, bay lên không trung.

đá rửa mộng trôi dạt về phía hồ Cửu Châu, dừng lại trên không trung phía trên Thực Mộng Mạc, rồi rơi xuống.

"Phùm..."

Khi viên đá tẩy mộng chìm vào trong nước, một vài bong bóng nổi lên, nước bẩn dần dần tan ra, nước hồ vốn đen ngòm cũng từ từ trở nên trong suốt.

Thực Mộng Mạc cảm nhận được điều gì đó khác thường. Nó vốn đang nằm nghỉ ngơi trong nước cạn, mắt nhắm nghiền, nhưng lúc này bỗng nhiên mở to đôi mắt đen kịt.

Viên đá tẩy mộng hòa tan những cặn bẩn do ác mộng tích tụ khiến Thực Mộng Mạc giật mình. Nó đứng dậy và định bay đi.

Nguyên Diệu, lão tể tướng, Râu quai nón và ba người kia lúc này vẫn đang lội trong nước bùn, tốc độ di chuyển bị cản trở bởi lớp bùn bẩn, họ vẫn chưa đến được vị trí của Thực Mộng Mạc.

Thấy vậy, Bạch Cơ thở dài và nói: “Vào thời điểm này, không thể để nó chạy thoát được. Đành phải hao tổn một ít yêu lực nữa rồi.”

Trên bầu trời đêm, mây gió tụ lại, tiếng sấm chớp vang lên. Một tia sét sáng rực xuất hiện, biến thành một sợi xích vàng mang theo bùa chú.

Sợi xích vàng lập tức cuốn lấy Thực Mộng Mạc, trói chặt thân hình to lớn của nó tại chỗ.

Thực Mộng Mạc muốn há miệng, tạo ra một luồng xoáy mạnh mẽ, nhưng sợi xích đã khéo léo cuốn thêm một vòng, gọn gàng bịt kín miệng của nó lại.

Lúc này, Nguyên Diệu, lão tể tướng, Râu quai nón và ba người kia cũng đã đến nơi.

Lão tể tướng run rẩy bước tới gần Thực Mộng Mạc và nói: “Bắt đầu thanh tẩy thần thú thôi.”

Nguyên Diệu hỏi: “Làm sao để thanh tẩy?”

Lão tể tướng trả lời: “Chỉ cần rửa sạch nó là được.”

Nói xong, lão tể tướng dùng đôi tay gầy guộc của mình múc nước trong và đổ lên thân hình bị trói buộc của Thực Mộng Mạc.

Thật kỳ diệu, những chỗ bị nước trong dội lên, lớp bùn bẩn bám trên da Thực Mộng Mạc bắt đầu tan chảy.

Nguyên Diệu, Râu quai nón và ba người kia thấy vậy, bèn bắt chước lão tể tướng, cùng nhau đổ nước lên Thực Mộng Mạc, rồi dùng bàn chải và khăn lau để làm sạch nó.

Thực Mộng Mạc bị sợi xích vàng trói chặt tại chỗ, không thể động đậy, muốn mở miệng cũng không được, chỉ đành chịu đựng sự thanh tẩy.

Lão tể tướng tuy đã già yếu nhưng dù sao cũng là một vị tể tướng của một nước, có sự thông thái toàn diện và khả năng điều phối mọi người. Ông thấy Thực Mộng Mạc to lớn như ngọn núi, mọi người rửa bừa bãi như vậy khó mà có hiệu quả, nên ông đã đơn giản phân công lại công việc. Ông sẽ rửa đầu của Thực Mộng Mạc, Nguyên Diệu sẽ rửa chân trước bên trái của nó, Râu quai nón sẽ rửa chân trước bên phải, Râu chữ bát rửa chân sau bên trái, và Tên lùn rửa chân sau bên phải. Sau khi mọi người rửa xong, họ sẽ cùng nhau rửa phần thân to lớn của Thực Mộng Mạc.

Phân công như vậy giúp họ tránh được việc rửa lộn xộn, đan xen, vừa tốn sức mà lại không làm sạch được, lãng phí thời gian.

Nguyên Diệu được phân công rửa chân trước bên trái của Thực Mộng Mạc.

Đối với Nguyên Diệu, chân trước bên trái của Thực Mộng Mạc giống như một cột hành lang trong cung điện, trên đó đầy bùn nhơ và cần được rửa sạch bằng nước trong.

Sức mạnh thanh tẩy của viên đá tẩy mộng rất mạnh mẽ, kể từ khi nó chìm xuống nước, nó đã không ngừng thanh tẩy những năng lượng tiêu cực của ác mộng, nước trong hồ Cửu Châu đang dần trở nên trong suốt với tốc độ có thể nhìn thấy bằng mắt thường, và lớp bùn bẩn tiết ra từ da của Thực Mộng Mạc cũng đang tan chảy rất nhanh.

Nguyên Diệu làm việc chăm chỉ, đổ nước trong lên chân của Thực Mộng Mạc để hòa tan bùn bẩn, rồi dùng bàn chải để cọ sạch. Quy trình này rất quen thuộc với Nguyên Diệu, giống như việc hắn thường lau chùi sàn nhà trong Phiêu Miểu các, chỉ có điều chân của Thực Mộng Mạc bẩn hơn nhiều so với sàn nhà của Phiêu Miểu các.

Chẳng bao lâu, Nguyên Diệu đã mệt mỏi, mồ hôi nhễ nhại. Hắn nhìn quanh, thấy ba huynh đệ Râu quai nón không hề lười biếng, ai nấy đều đang làm việc rất nghiêm túc và chăm chỉ.

Lão tể tướng, dù đã tuổi cao sức yếu, lại quen sống trong nhung lụa, làm việc rất chậm, lau chùi một lát rồi lại phải nghỉ ngơi một chút, lấy lại hơi thở.

Lão tể tướng đang rửa phần đầu của Thực Mộng Mạc, phần đầu của con quái vật bị biến thành yêu ma này trông khá dữ tợn, vì bị sợi xích vàng khóa chặt miệng mũi, đôi mắt đen của nó đầy sự phẫn nộ.

Thực Mộng Mạc vốn là thần thú của Mộng quốc, lão tể tướng cũng rất áy náy, vừa lau rửa vừa lẩm bẩm xin lỗi thần thú, nói rằng đây là việc bất đắc dĩ, mong thần thú không trách.

Nguyên Diệu, lão tể tướng, và ba huynh đệ Râu quai nón làm việc hết sức chăm chỉ, cẩn thận rửa sạch Thực Mộng Mạc.

Thực Mộng Mạc bị ép phải chịu đựng sự thanh tẩy, từng mảng bùn bẩn lớn bị hòa tan và trôi ra từ thân thể nó, tan vào nước hồ Cửu Châu.

Bạch Cơ và Ly Nô đứng nhìn từ xa.

Ly Nô vốn bị chứng sạch sẽ ám ảnh, nói: “Chủ nhân, thật kinh tởm, cảnh tượng này còn kinh khủng hơn cả ác mộng.”

Bạch Cơ trả lời: “Không biết sao, cảnh này khiến ta nhớ đến thời kỳ xa xưa, khi các bộ lạc con người săn được những con lợn rừng quý giá và chuẩn bị lễ tế. Họ cũng rửa sạch bùn bẩn trên những con lợn rừng như vậy.”

Ly Nô rùng mình nói: “Dù là rửa lợn rừng để tế lễ hay rửa con yêu quái lợn này thì đều là ác mộng.”

Nguyên Diệu làm việc rất chăm chỉ, hắn ngạc nhiên phát hiện rằng, khi bùn bẩn bị hòa tan và rửa sạch, da của Thực Mộng Mạc từ màu đen dần dần chuyển sang màu xám.

Không biết có phải là ảo giác hay không, nhưng Nguyên Diệu còn cảm thấy sợi xích vàng trói chặt Thực Mộng Mạc đang từ từ lỏng ra. Nói cách khác, chân của Thực Mộng Mạc đang từ từ thu nhỏ lại.

Ban đầu to như một ngọn núi, nhưng sau khi lớp bùn bẩn bị rửa sạch, Thực Mộng Mạc dần dần thu nhỏ lại, chỉ còn bằng một con voi.

Sợi xích vàng không thay đổi, khi Thực Mộng Mạc nhỏ lại, nó đã thoát ra khỏi sợi xích đang lỏng ra.

Sau khi thoát khỏi sợi xích, việc đầu tiên mà Thực Mộng Mạc làm là phun ra một luồng khí từ miệng và mũi, thổi bay lão tể tướng đang rửa đầu cho nó.

Tội nghiệp lão tể tướng, không kịp phản ứng, bị luồng khí thổi bay, lăn xuống nước. May mắn là ông không bị thương, tự mình lồm cồm bò dậy.

Thực Mộng Mạc nhân cơ hội tung một cú đá trúng Nguyên Diệu, khiến hắn bay xa. Nguyên Diệu ngã lăn ra nước, bối rối nhìn quanh. Râu quai nón, Râu chữ bát, và Tên lùn phản ứng rất nhanh, vì cả ba đều là người luyện võ, thân thể linh hoạt và động tác nhanh nhẹn, họ lập tức ôm chặt ba chân của Thực Mộng Mạc.

Thực Mộng Mạc không thể đá được ba người Râu quai nón, vô cùng tức giận, bèn quay đầu lao thẳng đến Nguyên Diệu đang gần nhất. Nguyên Diệu thấy Thực Mộng Mạc lao đến với khí thế hùng hổ, hắn sợ hãi, lập tức bật dậy từ dưới nước, cố gắng chạy trốn.

"Bạch Cơ, cứu mạng!" Nguyên Diệu vừa lảo đảo chạy trong nước vừa la hét.

Bạch Cơ nhìn thấy, cười nói: Hiên Chi, ta không muốn làm bẩn váy trắng của mình nên sẽ không đến đâu. Ngươi nhanh chạy về phía sợi xích, Phược Vân Tỏa sẽ lại trói chặt Thực Mộng Mạc. Cố lên!”

Ly Nô cũng cười nói: “Mọt sách, chạy nhanh lên! Cẩn thận kẻo bị con heo yêu này hút vào miệng đấy!”

Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ và Ly Nô chỉ đứng xem kịch hay, không giúp gì, hắn rất tức giận nhưng cũng chẳng thể làm gì khác, đành phải chọn đúng thời điểm, né tránh bước chân của Thực Mộng Mạc và chạy về phía sợi xích vàng.

Bạch Cơ niệm chú. Trên trời, mây đen lại cuộn lên, sấm chớp lóe sáng, Phược Vân Tỏa dường như có sinh mệnh, quấn lấy Thực Mộng Mạc như một con rắn linh hoạt.

Con Thực Mộng Mạc bị yêu hóa, thần trí mơ hồ, hành động cứng nhắc, một lần nữa bị sợi xích vàng có bùa chú trói chặt. Ba huynh đệ Râu quai nón thấy Thực Mộng Mạc bị trói chặt lại mới dám buông tay, lui về một bên. Nguyên Diệu thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy.
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 18


Lần này, sợi xích vàng không trói kín mũi miệng Thực Mộng Mạc, khiến nó phun ra một luồng khí mạnh, hút tất cả mọi thứ xung quanh. Bạch Cơ chầm chậm nâng tay lên, viên đá rửa mộng đã chìm xuống nước giờ nổi lên giữa không trung.

đá rửa mộng phát ra ánh sáng dịu nhẹ, bị Thực Mộng Mạc hút vào bụng. Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, ta khuyên ngươi nên đứng xa xa khỏi đầu Thực Mộng Mạc một chút.”

Nguyên Diệu còn chưa hiểu lời của Bạch Cơ thì đã nghe thấy tiếng kêu thê lương phát ra từ miệng Thực Mộng Mạc: “Mi...uuu...uuuu...”

Con Thực Mộng Mạc đột nhiên mở miệng, phun ra một dòng bùn đen hôi thối tràn ngập. Từng đợt bùn đen bẩn thỉu từ trong cơ thể nó trào ra, chất đống trong hồ Cửu Châu, mùi hôi thối nồng nặc tỏa ra khắp nơi. Nguyên Diệu, Tể Tướng, và ba huynh đệ Râu quai nón không kịp tránh né, bị bùn đen ngập đến tận đùi. Họ cố gắng chịu đựng cảm giác buồn nôn, đứng trong bùn đen đầy ngỡ ngàng nhìn Thực Mộng Mạc tiếp tục nôn ra những chất bẩn thỉu. Những chất bẩn thỉu này đều là năng lượng tiêu cực tích tụ từ những ác mộng mà Thực Mộng Mạc đã ăn vào suốt một ngàn năm qua.

Ly Nô thở dài nói: “Chủ nhân, đó là năm tên ngốc à? Bùn bẩn thế mà họ còn không biết tránh ra...”

Bạch Cơ cười nói: “Chắc là sợ quá nên quên mất. Không sao cả, nước trong ao Cửu Châu đã được đá rửa mộng biến thành nước rửa mộng, bùn từ ác mộng tạo ra sẽ tan biến ngay thôi.”

Sau khi Thực Mộng Mạc nôn hết bùn trong bụng, cơ thể và màu sắc của nó lại một lần nữa thay đổi. Thân hình Thực Mộng Mạc từ cỡ một con voi dần thu nhỏ lại chỉ còn như một con heo rừng. Trên thân nó không còn tiết ra bùn nữa, màu da từ đen tuyền như đêm tối chuyển thành màu xám nhạt, dưới lớp màu xám nhạt đó dường như còn có những ánh sáng lấp lánh.

Ánh mắt Thực Mộng Mạc trở nên sáng sủa hơn, tính khí cũng không còn hung hăng, mà trở nên ngoan ngoãn hơn. Bạch Cơ niệm chú, thu lại Phược Vân Tỏa. Trời cũng không còn mây đen biến đổi, sấm chớp vang rền, thay vào đó là một vầng trăng tròn lơ lửng trên những đám mây xoắn, khắp trời đầy sao lấp lánh.

Thực Mộng Mạc sau khi nôn hết bùn trong bụng, cuối cùng cũng nôn ra viên đá rửa mộng.

Thực Mộng Mạc lắc đầu, vẫy thân mình, rũ sạch nước trên da: "Mi...uuu...” Thực Mộng Mạc ngẩng đầu kêu lên, chuẩn bị bay lên trời.

Bạch Cơ thấy thế, nói: “Ôi trời, vẫn chưa thanh tẩy xong mà! Hiên Chi, Tể Tướng, đừng để nó chạy thoát, mau bắt lấy nó.”

Vì lúc này Thực Mộng Mạc chỉ to bằng một con heo, ánh mắt đầy linh khí, trông lại ngoan ngoãn, không có tính công kích, nên Nguyên Diệu và bốn người không còn sợ nó nữa, bèn cùng nhau vây quanh bắt lấy nó. Thực Mộng Mạc rất nhanh nhẹn, thấy mọi người vây bắt, nó lập tức nhắm vào khoảng trống giữa Tể Tướng và Nguyên Diệu mà chui ra khỏi vòng vây.

Râu quai nón thấy Thực Mộng Mạc chạy thoát, vội nhảy lên, lao tới để bắt nó. Nhưng Thực Mộng Mạc khéo léo tránh né, khiến Râu quai nón ngã nhào xuống đất, bắt hụt.

Năm người cùng nhau đuổi bắt Thực Mộng Mạc, làm náo loạn cả lên nhưng suốt nửa ngày trời cũng không thể tóm được nó. Ngay cả bùn dưới hồ Cửu Châu cũng bị đá rửa mộng thanh lọc sạch sẽ, nhưng bọn họ vẫn chưa bắt được nó.

Ly Nô lo lắng nói: “Năm người cộng lại cũng phải mười bàn tay, vậy mà ngay cả một con lợn cũng không bắt được, đúng là quá vụng về…”

Không thể chịu nổi nữa, Ly Nô nhảy lên, biến thành một con mèo yêu chín đuôi, lao thẳng về phía Thực Mộng Mạc.

Ly Nô vừa ra tay, một mình đã bằng cả năm người, di chuyển linh hoạt và nhanh nhẹn.

Thực Mộng Mạc không có chỗ nào để chạy trốn, bị mèo yêu chín đuôi đè dưới móng vuốt.

“Ly Nô, giữ chặt nó lại.”

Bạch Cơ nhẹ nhàng tiến đến gần hồ Cửu Châu, ngồi xổm xuống trước Thực Mộng Mạc. Nàng xoay nhẹ bàn tay, đá rửa mộng trong hồ nổi lên giữa không trung, dừng lại trong lòng bàn tay nàng.

Thực Mộng Mạc bị giữ chặt dưới móng vuốt của Ly Nô, ban đầu nó rất kích động, nhưng khi nhìn thấy đá rửa mộng trong tay Bạch Cơ, dường như nó hiểu ra điều gì đó. Nó không còn giãy giụa nữa, trở nên ngoan ngoãn, nằm phục xuống trong làn nước cạn, đôi mắt đầy linh tính của nó lấp lánh như những ngôi sao.

Bạch Cơ cười nói: “Đừng sợ, ta đến để thanh lọc hoàn toàn cho ngươi.” Bạch Cơ lấy nước từ hồ, dùng đá rửa mộng di chuyển trên thân thể của Thực Mộng Mạc.

Một điều kỳ diệu đã xảy ra.

Làn da xám xịt của Thực Mộng Mạc bắt đầu tan chảy, như thể một lớp bùn đang bị rửa sạch. Bên dưới lớp bùn đó, những màu sắc rực rỡ và ánh sáng nhẹ nhàng dần dần lộ ra.

Dần dần, Thực Mộng Mạc trở lại màu sắc thật của nó. Khi không còn bị năng lượng tiêu cực tích tụ từ ác mộng xâm chiếm, nó có làn da rực rỡ với nhiều màu sắc khác nhau, toàn thân tỏa ra một ánh sáng mộng mơ.

Khi Thực Mộng Mạc được thanh lọc hoàn toàn, môi trường xung quanh cũng bắt đầu thay đổi.

Những làn khói mỏng trong suốt, đầy màu sắc từ từ bốc lên, lan tỏa xung quanh Bạch Cơ, Nguyên Diệu và những người khác.

Dưới ánh trăng, những làn khói màu bung tỏa như những sợi tơ, trôi lơ lửng, xoay tròn trong gió, tạo thành những hình dạng kỳ diệu và lấp lánh.

“Mi... Uuuuu...”

Thực Mộng Mạc kêu lên một tiếng vui mừng, lao vào giữa làn khói màu và bắt đầu hút.

Lần này, Thực Mộng Mạc không hút bừa bãi, nó chỉ hút những sợi tơ màu đen, nâu, xám, và để lại những màu sắc rực rỡ.

Tể tướng nhìn thấy, nước mắt tuôn rơi, vui mừng khôn xiết.

“Thật tuyệt vời! Cảm tạ trời cao, thần thú đã được thanh lọc!” Râu quai nón, Râu chữ bát, và Tên lùn cũng rất vui mừng.

Điều kỳ diệu là, khi Thực Mộng Mạc hút những sợi tơ ác mộng màu đen, một chút ánh sáng sẽ phát ra từ đỉnh đầu nó, ánh sáng huyền ảo này sẽ bay về phía Tể tướng, Râu quai nón, và những người khác từ Mộng quốc và nhập vào cơ thể họ.

Bốn người của Mộng quốc sau khi hấp thụ ánh sáng, sinh lực dường như được nuôi dưỡng, trở nên tràn đầy sức sống hơn.

Vì niềm vui, họ bỏ qua những thù hận trước đó, bất chấp sự khác biệt giữa tể tướng và kẻ cướp, cùng nắm tay nhảy múa quanh hồ Cửu Châu.

Nhảy múa một hồi, cả bốn người thu nhỏ lại thành kích cỡ của ngón tay cái.

Đứng trước cảnh tượng kỳ diệu này, nhìn xung quanh những làn khói màu trôi lơ lửng, Nguyên Diệu cảm thấy mình như đang ở trong một giấc mơ.

“Bạch Cơ, chuyện này đúng là kỳ diệu.” Nguyên Diệu cảm thán.

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, giấc mơ vốn là điều kỳ diệu nhất trên thế gian.”

Ly Nô đã trở lại hình dạng một con mèo đen nhỏ, nhìn Thực Mộng Mạc đang ăn sợi tơ ác mộng, nói: “Chủ nhân, tiếp theo chúng ta làm gì?”

Bạch Cơ cười nói: “Chúng ta sẽ đưa Thực Mộng Mạc trở về Mộng quốc.”

Thực Mộng Mạc sau khi ăn no sợi tơ ác mộng, thì tìm một chỗ khác để bắt đầu ngủ.

Khi Thực Mộng Mạc chìm vào giấc ngủ, nó cũng thu nhỏ lại thành kích thước của ngón tay cái, trở về kích cỡ thật ở Mộng quốc. Dường như nó có thể tự do thay đổi kích cỡ tùy thuộc vào thế giới mà nó đang ở.

Khi sợi tơ mộng biến mất và Thực Mộng Mạc chìm vào giấc ngủ, những giấc mơ chồng chéo và méo mó trong nhân gian cũng tan vỡ, cung Thái Sơ và thành Lạc Dương trở lại bình thường, mọi người lần lượt ngáp dài và tỉnh dậy từ những giấc mơ.

Mọi người đều không biết chuyện gì đã xảy ra, một số người thắc mắc tại sao mình đang làm việc lại ngủ gật, có người đang ngủ trên giường ở nhà thì thấy vẫn là ban đêm, xoay người rồi tiếp tục ngủ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Tể tướng cùng bốn người của Mộng quốc mang Thực Mộng Mạc trở về Mộng quốc.

Vì đã đưa Thực Mộng Mạc trở về và thanh lọc nó, vua của Mộng quốc rất vui mừng, tổ chức yến tiệc để tiếp đãi đoàn của Bạch Cơ.

Trước đó, Bạch Cơ và Tể tướng đã làm một cuộc giao dịch, nàng giúp thanh lọc Thực Mộng Mạc, đổi lại, nàng muốn trở thành một trong những Đại Tế Ti của Mộng quốc.

Tại sao là “một trong những” Đại Tế Ti? Vì Bạch Cơ không muốn sống trong Mộng quốc, cũng không muốn ngày nào cũng ở trong vườn Thánh để chăm sóc Thực Mộng Mạc và chủ trì các nghi lễ, những công việc vụn vặt này nàng để cho những Đại Tế Ti khác làm, nàng chỉ muốn có một thân phận hợp pháp để có thể ra vào vườn Thánh bất cứ lúc nào và tiếp xúc với Thực Mộng Mạc.

Tể tướng đã ca ngợi công lao của Bạch Cơ trước vua và tiến cử nàng làm Đại Tế Ti của vườn Thánh.

Vua suy nghĩ một chút, thấy rằng nước thánh đã cạn kiệt, đá rửa mộng là của Bạch Cơ, chỉ có nàng mới có thể thanh lọc Thực Mộng Mạc, nên đành đồng ý để nàng trở thành Đại Tế Ti.

Lễ phong chức và đăng quang Đại Tế Ti có phần rườm rà, vì vậy Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đã ở lại Mộng quốc vài ngày.

Ba huynh đệ Râu quai nón cũng có công lao trong việc thanh trừ Thực Mộng Mạc, và tể tướng đã báo cáo sự thật này với nhà vua. Bạch Cơ, vì thấy ba huynh đệ Râu quai nón cần mẫn giúp đỡ mình mà không đòi hỏi sự trả lời lại, đã che giấu và giữ kín việc Thực Mộng Mạc chính là do họ mang vào nhân gian. Nàng chỉ nói rằng Thực Mộng Mạc không thể thanh tẩy, sau khi trở thành yêu ma, mất hết lý trí, vô tình xông ra khỏi vườn Thánh và chạy vào nhân gian.

Nhà vua nhìn thấy Râu quai nón thân hình vạm vỡ, có dáng vẻ dũng sĩ, nên rất tán thưởng và phong cho hắn làm Hộ Quốc Đại Tướng Quân. Ba huynh đệ Râu quai nón vốn định tạo phản để lên làm hoàng đế, nhưng kết cục lại không thành công, mà chỉ trở thành Hộ Quốc Tướng Quân. Ba người họ đầu óc không được nhanh nhẹn, suy đi tính lại vẫn không biết có nên tiếp tục mưu phản hay không, nên họ đi tìm quân sư mà họ tin tưởng...Nguyên Diệu...để bàn bạc. Nghe xong, Nguyên Diệu vội khuyên ba huynh đệ Râu quai nón từ nay nên yên ổn làm Hộ Quốc Tướng Quân, bảo vệ đất nước, trung thành với hoàng thượng và đừng nghĩ đến chuyện tạo phản nữa. Ba huynh đệ này vốn không giỏi suy nghĩ, nên theo thói quen nghe lời quân sư.

Nguyên Diệu luôn thắc mắc tại sao Bạch Cơ lại muốn trở thành Đại Tế Ti của Mộng quốc tưởng. Hắn đã hỏi vài lần, nhưng Bạch Cơ chỉ mỉm cười mà không trả lời.

Ba ngày sau, khi công việc ở Mộng quốc tưởng đã xong, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô trở về nhân gian.

*

Sau khi trở về nhân gian, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô sống cuộc sống như bình thường, thế giới cũng không có gì thay đổi, ngày vẫn lên, đêm vẫn xuống, mọi người vẫn tiếp tục cuộc sống thường ngày.

Vì vụ việc xảy ra ở Thư Viện Lệ Chính khi vô tình đụng phải ba huynh đệ Râu quai nón đang mưu phản, bị họ ép đưa đến Mộng quốc, rồi bị bắt giam vào ngục và suýt bị chặt đầu, nên Nguyên Diệu mất hứng thú, không còn muốn vào hoàng cung nữa. Hắn viết một lá thư với lời lẽ chân thành, viện lý do sức khỏe không tốt, từ chối công việc tiếp tục giúp Trương Dịch Chi hiệu đính thi tập. Nguyên Diệu có số phận đặc biệt, luôn gặp phải những chuyện kỳ quái. Gặp ở nơi hoang vu hay đầu đường xó chợ thì không sao, nhưng hoàng cung là nơi của thiên tử, nếu hắn gặp phải chuyện quái dị trong hoàng cung, lỡ mà gây ra tai họa thì có thể sẽ làm hại đến quốc gia.

Nguyên Diệu cảm thấy mình nên tránh vào hoàng cung, tốt hơn là ở lại Phiêu Miểu các. Trương Dịch Chi cũng không ép buộc, viết thư hồi âm, dặn Nguyên Diệu nghỉ ngơi cho tốt, bảo trọng sức khỏe, còn gửi thêm một ít bạc làm thù lao.

Nguyên Diệu cảm thấy rất ngại, ấn tượng về Trương Dịch Chi cũng trở nên tốt hơn. Khi biết được trước đó Ốc Sên đã thuê Phi Đầu Man A Lạc để gửi thư cho mình, Nguyên Diệu cố ý tìm gặp Ốc Sên đang thăm bạn bè ở Lạc Dương để bày tỏ lòng cảm ơn, còn tặng thêm hai lượng bạc.

Sau sự việc này, Ly Nô bỗng yêu thích việc tắm rửa, mỗi ngày đều phải tắm một lần, và thường xuyên đòi Bạch Cơ cho mượn đá rửa mộng để tắm.

Dù Bạch Cơ đã nói với Ly Nô rằng bùn ác mộng đã được gột rửa sạch sẽ, và hiện giờ thứ nó cần không phải là đá rửa mộng, mà là đá xà phòng và bột hương để rửa sạch mồ hôi thật, nhưng Ly Nô vẫn không nghe.

Bạch Cơ đành phải đưa đá rửa mộng cho Ly Nô, để nó tự do tắm rửa.

Cuối cùng, Nguyên Diệu không chịu nổi nữa, nói: "Ly Nô lão đệ, ngươi không nhận ra rằng lông mèo của ngươi đã rụng nhiều lắm sao? Mèo mà tắm hàng ngày, lông dễ rụng, sẽ bị hói đấy."

Nghe vậy, Ly Nô mới dừng lại việc tắm rửa mỗi ngày, trả đá rửa mộng cho Bạch Cơ, và trở lại thói quen tắm mười ngày một lần như trước.

Tại Đa Bảo Các, việc thử nghiệm cho mọt sách ăn vàng cuối cùng cũng hoàn thành. Đáng tiếc là tất cả đều thất bại. Một số thì chết trước khi ăn hết ba chữ "vàng", để lại trong hũ vài mảnh giấy vụn. Một số thì cả mọt sách lẫn giấy đều không thay đổi gì. Còn một số thì chỉ để lại chút tro tàn trong hũ. Tóm lại, lần này là công cốc, Bạch Cơ không thể biến được chút vàng nào từ việc thử nghiệm này.

Bạch Cơ vô cùng thất vọng, tâm trạng suy sụp.

Ở gian trong, bên cạnh bức bình phong Hà Đồ Lạc Thư, Bạch Cơ ngồi trước bàn ngọc xanh, vừa uống trà Mông Đỉnh Xuân vừa ăn một đĩa bánh sữa hoa hồng, một đĩa bánh xuân ngọc lộ, và một chén chè ngọt anh đào.

Nguyên Diệu ngồi một bên, đọc cuốn sách mới mua ở phố. Bạch Cơ nhíu mày ăn, vừa ăn vừa nói: "Hiên Chi, ăn cả đống đồ ngọt rồi mà tâm trạng vẫn không tốt hơn chút nào."

Nguyên Diệu trả lời: "Bạch Cơ vẫn còn buồn vì việc mọt sách không biến thành vàng sao?"

Bạch Cơ nói: "Đúng vậy."

Nguyên Diệu đành phải an ủi: "Bạch Cơ, mọt sách không biến thành vàng thì ngươi cũng chẳng mất mát gì, đừng buồn nữa, quên chuyện đó đi. Bây giờ đang là giữa mùa xuân, khắp nơi hoa nở, để tiểu sinh đưa ngươi ra bờ sông Lạc đi dạo, ngắm hoa cho khuây khỏa nhé?”

Bạch Cơ trả lời: "Haiz, tâm trạng tệ quá, chẳng muốn ra ngoài." Nguyên Diệu đành tiếp tục khuyên nhủ vài câu.

Bạch Cơ ăn thêm một lúc rồi lại nói: “Hiên Chi, chúng ta đi đến Mộng quốc đi.”

Nguyên Diệu ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách phố, hỏi: "Đến Mộng quốc để làm gì?"

Bạch Cơ không trả lời câu hỏi của Nguyên Diệu, mà mỉm cười hỏi: "Hiên Chi có biết tại sao ta lại muốn làm Đại Tế Ti của Mộng quốc không?"

Nguyên Diệu lắc đầu, trả lời: "Không biết."

Trước đây, Nguyên Diệu đã hỏi vài lần, nhưng Bạch Cơ đều không trả lời. Lần này, Bạch Cơ mới đưa ra câu trả lời.

"Hiên Chi, Thực Mộng Mạc là một loại dị thú thần kỳ hiếm có trên đời, nó sinh ra từ giấc mơ, sống dựa vào giấc mơ, toàn thân phát ra năng lượng tinh thần của giấc mơ. Ta thi triển chú ngữ ngưng tụ giấc mơ, có thể lấy từ nó hai thứ. Một thứ chúng ta tạm gọi là viên Mộng Đẹp, và thứ kia gọi là viên Ác Mộng. Như tên gọi của chúng, viên Mộng Đẹp có thể khiến con người và phi nhân loại có một giấc mơ đẹp, còn viên Ác Mộng có thể khiến họ có một giấc mơ kinh khủng. Ta định kỳ đến Mộng quốc lấy hai loại này từ Thực Mộng Mạc, rồi mang về Phiêu Miểu các để bán với giá cao."

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nói: "Còn có thứ này nữa sao?! Bạch Cơ, làm sao để có được Viên Mộng Đẹp và Viên Ác Mộng? Chúng có gây hại cho Thực Mộng Mạc không?"

Bạch Cơ cười nói: "Dùng chú ngữ Ngưng Mộng để lấy, sẽ không gây hại cho Thực Mộng Mạc đâu. Thực Mộng Mạc vốn có khả năng tạo ra sức mạnh từ giấc mơ không ngừng, ta chỉ lấy một chút sức mạnh mộng mà nó tràn ra thôi. Nếu so sánh Thực Mộng Mạc với một cây ăn quả, ta chỉ thỉnh thoảng hái vài trái mà thôi. Hái quả sẽ không làm hại đến cây, dù không hái, quả cũng sẽ chín rụng xuống đất và cuối cùng sẽ mục nát, trở về với bụi đất. Sức mạnh từ giấc mơ của Thực Mộng Mạc, sau khi tràn ra cũng sẽ tan biến vào vũ trụ mênh mông."

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, nếu ngươi hái quả, chủ nhân của cây là vua của Mộng quốc sẽ không có ý kiến gì sao?"

Bạch Cơ cười nói: "Đối với dân của Mộng quốc, phần sức mạnh từ giấc mơ mà ta lấy đi là thứ họ không cần đến. Ta không cần phải báo cho họ biết. Ta là Đại Tế Ti, việc chăm sóc Thực Mộng Mạc trong vườn Thánh là trách nhiệm tất nhiên của ta."

Nguyên Diệu bừng tỉnh, nói: "Thì ra đây là mục đích khi ngươi trở thành Đại Tế Ti."

Bạch Cơ cười nói: "Nguyên Diệu, ta làm điều này cũng là vì nhân loại và những sinh vật khác. Có Viên Mộng Đẹp, ta có thể mang lại giấc mơ đẹp cho mọi người. Hơn nữa, ta đã bỏ công sức thanh lọc Thực Mộng Mạc, ta cũng cần có chút phần thưởng. Ta đã trở thành Đại Tế Ti của Vương quốc Giấc Mơ, ta cũng sẽ gánh vác một số trách nhiệm, sức khỏe của Thực Mộng Mạc sẽ không gặp vấn đề gì, trong thiên niên kỷ tới, Thực Mộng Mạc vẫn sẽ được ta thanh lọc, ta cũng sẽ bảo vệ Mộng quốc."

Nguyên Diệu nghĩ, mặc dù Bạch Cơ lấy đi sức mạnh mộng của Thực Mộng Mạc, nhưng Thực Mộng Mạc sẽ không bị tổn hại, Mộng quốc cũng sẽ được nàng bảo vệ, nói chung cũng không có gì đáng ngại.

"Bạch Cơ, chúng ta đi đến Mộng quốc ngay bây giờ sao?"

Bạch Cơ nói: "Bây giờ đi ngay, ta cần lấy một ít Viên Mộng Đẹp và Viên Ác Mộng. Ta đang rất cần ăn Viên Mộng Đẹp, để mình có thể mơ một giấc mơ đẹp. Biết đâu, trong giấc mơ, lũ mọt sẽ hóa thành núi vàng!"

Nguyên Diệu thầm lườm nàng.

"Chờ đã, Bạch Cơ, Viên Ác Mộng dùng để làm gì? Cũng có thể bán được sao?"

Bạch Cơ cười nói: "Tất nhiên cũng có thể bán. Ví dụ, nếu ghét ai đó, có thể mua Viên Ác Mộng tặng cho hắn, để hắn phải mơ thấy ác mộng. Với bản tính con người, không chừng Viên Ác Mộng sẽ bán chạy hơn cả Viên Mộng Đẹp đấy."

"..."

Nguyên Diệu không nói nên lời.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu dọn dẹp một chút, chuẩn bị đi đến Mộng quốc thì Vi Ngạn bất ngờ xuất hiện.

Vi Ngạn chỉ chào hỏi qua với Ly Nô, rồi lớn tiếng gọi: "Hiên Chi Hiên Chi..."

Nguyên Diệu nghe thấy từ bên trong, vội vàng đi ra.

"Đan Dương, hôm nay sao ngươi lại đến? Gọi ta có việc gì?"

Bạch Cơ cũng đi ra, cười nói: "Vi công tử, hôm nay sao lại có thời gian đến đây thế?"

Vi Ngạn thấy Bạch Cơ, mừng rỡ nói: "Bạch Cơ cũng ở đây à, cùng đi luôn nhé."

Bạch Cơ cười nói: "Đi đâu vậy?"

Vi Ngạn cười nói: "Bạch Cơ, ta muốn mời ngươi và Hiên Chi đi uống rượu ở lầu Mẫu Đơn! Hôm nay ta mời, các ngươi ăn gì, uống gì, chơi gì, tất cả đều tính vào ta!"

Nguyên Diệu cười nói: "Đan Dương gặp chuyện gì vui vậy?"

Bạch Cơ cười nói: "Vi công tử, ngươi lại được thăng chức rồi sao?"

Vi Ngạn nhìn Bạch Cơ, rất kích động, cười nói: "Bạch Cơ quả là tri kỷ của ta, ngươi thật chu đáo!"

Bạch Cơ nhất thời không hiểu chuyện gì, cười nói: "Vi công tử, ngươi vui như vậy, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thế?"

Vi Ngạn nói: "Bạch Cơ còn nhớ ngươi đã bán cho ta con mọt ăn vàng không?"

Bạch Cơ gật đầu, nói: "Nhớ chứ."

Vi Ngạn cười nói: "Bạch Cơ quả là một thương nhân đáng tin cậy, không bao giờ lừa gạt ai, con mọt ngươi bán cho ta đã biến thành một đống vàng. Ta còn hoảng sợ, ta để bình đựng con mọt trên kệ trong thư phòng, kết quả là nó biến ra một đống vàng lấp lánh, đến mức kệ cũng sập xuống. Mười lượng vàng, đổi lấy một đống vàng, thật quá lời."

Bạch Cơ đã làm rất nhiều bình mọt ăn vàng, chỉ bán cho Vi Ngạn một cái, và kết quả chỉ có cái đó biến ra vàng.

Nguyên Diệu ngạc nhiên, không khỏi há hốc mồm.

Bạch Cơ nghe vậy thì như sét đánh ngang tai, lập tức đơ người ra, ánh mắt dần trở nên u ám, giống hệt như Thực Mộng Mạc trước khi được thanh lọc.

Vi Ngạn vẫn chưa nhận ra sự thay đổi của Bạch Cơ, còn đang vui mừng nói: "Bạch Cơ, thành thật mà nói, lúc đó ta còn nghĩ ngươi chỉ dùng lời ngon ngọt để lừa bạc của ta, không ngờ ngươi thực sự muốn tốt cho ta! Ngươi là người bạn tốt nhất của ta, đã mang lại cho ta tài sản như vậy, chúng ta là tri kỷ! Ta nhất định phải mời ngươi và Hiên Chi ăn một bữa!"

Bạch Cơ tỉnh lại, mơ hồ nói: "Tại sao lúc đó ta lại bán con mọt? Ta không nên bán, thật hối hận... Ta phải đi đến Mộng quốc, ta cần Viên Mộng Đẹp, nếu không thì ta không sống nổi. Hiên Chi cùng Vi công tử đến lầu Mẫu Đơn đi, ta không muốn ở lại thế giới thực tàn khốc này nữa, ta muốn trốn vào Mộng quốc hư ảo..."

Bạch Cơ không để ý đến lời giữ lại của Vi Ngạn, đi như một cái xác không hồn. Nguyên Diệu thấy vậy cũng từ chối lời mời của Vi Ngạn, đi theo Bạch Cơ, cùng nàng đến Mộng quốc để trốn tránh thực tại. Dù nàng vui hay buồn, Nguyên Diệu vẫn luôn lặng lẽ bên cạnh nàng.

Vi Ngạn đến mời Bạch Cơ và Nguyên Diệu, nhưng không ai chấp nhận lời mời của hắn, khiến hắn cảm thấy có hơi thất vọng. Hắn liếc nhìn Ly Nô đang ăn cá khô ở quầy, cười nói: "Ly Nô, Bạch Cơ và Hiên Chi không đi cùng ta, ta một mình đến lầu Mẫu Đơn cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hay ngươi cùng ta đi, chúng ta cùng nhau đi ăn uống!"

Ly Nô nhanh trí, cười nói, bắt chước giọng điệu của Bạch Cơ: "Vi công tử, mượn Hiên Chi một ngày mười lượng bạc. Mượn Ly Nô một ngày, mười gói cá khô."

Vi Ngạn vừa nhận được của phú quý trời ban, rất hào phóng, cười nói: "Không vấn đề gì. Ta sẽ tặng Ly Nô mười một gói."

Ly Nô vui mừng nói: "Tuyệt quá. Vi công tử, sau này ngươi đến Phiêu Miểu các, Ly Nô sẽ luôn tươi cười đón tiếp ngươi."

Vậy là, Vi Ngạn và Ly Nô cùng nhau đến lầu Mẫu Đơn.

Gió nhẹ thổi qua, hoa rơi như mưa, đẹp như mộng ảo, đầu hè đã đến.

(Thực Mộng Mạc - Hết)
 
Phiêu Miểu 8 - Quyển Già Lam
Chương 19


Mùa hè, đêm tối.

Chợ Nam, Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu ngồi dưới mái hiên sân sau, cùng nhau trò chuyện dưới ánh trăng.

Gần đến Tết Đoan Ngọ, Bạch Cơ vừa trò chuyện với Nguyên Diệu vừa cầm các sợi chỉ đỏ, vàng, xanh dương, trắng, đen, đan thành những sợi dây nhỏ xinh.

Những sợi dây nhỏ xinh này gọi là "dây Trường Mệnh"* năm màu tượng trưng cho ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, là vật phẩm nhỏ dùng để trừ tà đón may trong Tết Đoan Ngọ.

* dây Trường Mệnh: Còn được gọi là "Tục mệnh lũ", "Ngũ sắc ti", "Trường mệnh thọ tuyến", là linh vật và đồ trang trí trong Tết Đoan Ngọ, có nguồn gốc từ quan niệm ngũ hành cổ xưa, phát triển từ tục xăm mình của người xưa.

Năm nay là Tết Đoan Ngọ đầu tiên sau khi Phiêu Miểu các dời về Lạc Dương, Bạch Cơ định nhân dịp này gửi tặng bạn bè cũ, khách quen ở Thần Đô bánh ú và dây Trường Mệnh để thể hiện tình cảm sâu nặng. Thực ra, mục đích chính là thông báo cho những người quen biết rằng Phiêu Miểu các đã trở lại Lạc Dương, mọi người có thể đến mua hàng.

Để dây Trường Mệnh có nét đặc trưng của Long Vương, Bạch Cơ đã bỏ ra một chút công sức. nàng đan vào mỗi sợi dây một viên ngọc trai biển và hai mảnh vỏ sò màu sắc. Ngọc trai và vỏ sò là do Tù Ngưu đem về từ biển theo lệnh của Bạch Cơ.

Quà Tết Đoan Ngọ không chỉ có dây Trường Mệnh mà còn phải đi kèm với bánh ú.

Vì hầu hết những người nhận quà là phi nhân, họ không thực sự thích ăn bánh ú, một số thậm chí không ăn được thức ăn của con người, nên ban đầu Bạch Cơ định mua một ít bánh ú ở chợ để tặng cho có lệ.

Nhưng Ly Nô không đồng ý.

Ly Nô sau sự kiện "Thỏ mặt người" đã học được cách gói bánh ú từ Hồ Thập Tam Lang, tự cho rằng đã học được rất khá. Thật tiếc, Tết Đoan Ngọ chỉ có một lần trong năm, mà Bạch Cơ lại không tặng quà, nên chú mèo đen nhỏ chưa bao giờ có cơ hội thể hiện tài nghệ của mình. Lần này, Bạch Cơ đã quyết định tặng quà, nó nhất định phải tự tay gói bánh ú để mọi người thưởng thức tài nghệ của nó.

Thúc mèo đen bận rộn dưới ánh trăng, phơi khô lá tre và ngâm nếp.

Nguyên Diệu cũng không rảnh rỗi, hắn đang chọn những viên ngọc trai tròn và vỏ sò nguyên vẹn từ một đống ngọc trai và vỏ sò, rồi dùng dụng cụ đục lỗ để đan chúng vào dây Trường Mệnh cho Bạch Cơ.

Vừa chọn vỏ sò màu sắc, Nguyên Diệu vừa hỏi: "Bạch Cơ, dây Trường Mệnh thực sự có thể giúp người ta sống lâu trăm tuổi không?"

Bạch Cơ cười, trả lời: "Làm sao có thể? Nguyên Diệu, nếu dây Trường Mệnh thực sự có thể giúp người ta sống lâu trăm tuổi, thì các hoàng đế cổ đại không cần phải vất vả, hao tổn nhân lực và tài nguyên. Họ chỉ cần quấn đầy mình với những sợi chỉ năm màu là có thể trường sinh bất lão rồi."

Nguyên Diệu hỏi: "Vậy dây Trường Mệnh có tác dụng gì?"

Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi nói: "Thực ra, không có tác dụng gì cả. dây Trường Mệnh không thể dùng để trị bệnh hay phòng tránh tai họa, thậm chí tác dụng trừ tà cũng gần như không có. Chúng ta phi nhân không chỉ tự đan dây Trường Mệnh để đeo mà còn học theo con người tặng cho nhau."

Nhìn con rồng yêu đang đan dây Trường Mệnh và định tặng nó làm quà, Nguyên Diệu không biết phải nói gì, chỉ có thể im lặng.

Ly Nô nghe thấy, nói: "Chủ nhân, dây Trường Mệnh vẫn có tác dụng. Khi Ly Nô còn nhỏ, có một năm cha bị bệnh, ông đeo dây Trường Mệnh do nhị cửu đan và đã khỏi bệnh."

Bạch Cơ cười nói: "Ly Nô, trên thế giới có một thứ gọi là trùng hợp ngẫu nhiên. Dù cha ngươi không đeo dây Trường Mệnh mà Ba La Mật thiền sư đan, thì ông ấy cũng sẽ khỏe lại thôi."

Ly Nô gãi đầu, nói: "Thật vậy sao?"

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, nếu dây Trường Mệnh không có tác dụng.thì tại sao cả người lẫn phi nhân đều truyền nhau từ đời này sang đời khác rằng nó có thể trừ bệnh phòng tai?"

Bạch Cơ cười nói: "Tín ngưỡng của tâm hồn là một sức mạnh lớn. Ví dụ, cha của Ly Nô, khi ông ấy bị bệnh, dù cơ thể đang hồi phục nhưng tâm hồn thì mơ hồ, không biết liệu mình có thể khỏi bệnh không. Lúc đó thiền sư Ba La Mật tặng ông ấy dây Trường Mệnh, ông ấy tin rằng dây Trường Mệnh có thể trừ bệnh phòng tai, giúp ích cho việc hồi phục. Vì vậy, tâm hồn ông ấy không còn mơ hồ yếu đuối nữa, và bệnh cũng lập tức khỏi. Sau khi khỏi bệnh, cha của Ly Nô tin rằng mình khỏi bệnh là do công dụng của dây Trường Mệnh, nên đã kể lại cho Ly Nô. Ly Nô cũng tin tưởng điều đó. Còn những người bị bệnh nặng, dù đeo dây Trường Mệnh nhưng vẫn qua đời, cả người lẫn phi nhân đều không trách móc dây Trường Mệnh không có tác dụng, mà cho rằng số phận đã định. Vì vậy, những câu chuyện lưu truyền trên thế gian đều là "kỳ tích" về việc dây Trường Mệnh có thể trừ bệnh phòng tai."

Nguyên Diệu cảm thán: "Tâm lý con người thật kỳ diệu. Vậy nghĩa là chỉ cần tin vào điều gì thì điều đó sẽ trở thành sự thật sao?"

Bạch Cơ lắc đầu, cười nói: "Tin tưởng là một chuyện, thực tế lại là chuyện khác. Tâm lý con người có kỳ tích tích cực, nhưng cũng có kỳ tích tiêu cực. Trong tâm mỗi người, cả người lẫn phi nhân, đều có một bức màn che chắn giữa tích cực và tiêu cực, nơi giấu kín những phần riêng tư nhất. Để tránh xung đột, mọi người không bao giờ chạm vào bức màn trong lòng người khác. Để sống bình thường mọi người cũng không bao giờ đẩy đổ bức màn trong lòng mình."

Nguyên Diệu nghe lời Bạch Cơ nói, không khỏi trầm ngâm suy nghĩ.

Ly Nô nghe không hiểu, cũng không để ý, vì trong tâm nó không có bức màn che chắn đó.

"Chủ nhân, mọt sách, bánh ú để tặng là ngọt hay mặn đây?" Ly Nô hỏi với vẻ bối rối.

"Bánh ngọt." Bạch Cơ trả lời.

"Bánh mặn." Nguyên Diệu nói.

"Rốt cuộc là bánh ngọt hay bánh mặn?" Ly Nô gãi đầu hỏi.

Bạch Cơ nói: "Đồ để tặng tất nhiên là đồ ngọt mới hợp. Làm giống như những bánh ú ngọt bán ở chợ, bên trong gói vài quả táo mật là được rồi."

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, dây Trường Mệnh mà ngươi đan rất có đặc trưng của biển cả, nào là ngọc trai, nào là vỏ sò. Vậy bánh ú cũng nên phù hợp với biển cả mới thích hợp. Tại hạ nghe nói, nước biển thì mặn."

Bạch Cơ bật cười nói: "Nguyên Diệu, không thể vì nước biển mặn mà làm bánh ú tặng lễ cũng phải mặn. Bánh mặn, e rằng mọi người không quen ăn."

Nguyên Diệu nói: "Tại hạ suy nghĩ thế này, bánh ú ngọt rất phổ biến, mọi người trong dịp lễ chắc sẽ nhận được không ít, ăn cũng nhiều. Còn bánh ú mặn thì hiếm gặp, nếu kết hợp với dây Trường Mệnh bằng ngọc trai vỏ sò của ngươi, càng làm nổi bật đặc trưng là rồng dưới biển của ngươi."

Bạch Cơ bị lay động, lập tức suy tư.

"Cộc cộc cộc." Trong đêm tĩnh lặng, vang lên tiếng gõ cửa.

Ly Nô dựng tai lên, nói: "Muộn thế này mà vẫn có khách đến sao."

Bạch Cơ bừng tỉnh, cười nói: "Thôi, đừng bàn về bánh ngọt bánh mặn nữa. Hiên Chi, đi mở cửa đi."

"Ừ."

Nguyên Diệu đứng lên, chỉnh lại áo rồi ra ngoài mở cửa.

Nguyên Diệu cầm theo một ngọn đèn dầu, đi qua hành lang, qua gian phòng, ngang qua đại sảnh yên tĩnh rồi đến gần cửa chính. Theo kinh nghiệm của Nguyên Diệu, khách đến vào đêm khuya phần lớn đều là phi nhân, những phi nhân này có thể có hình dáng đáng sợ. Dù thư sinh đã quen, nhưng vẫn không thể tránh khỏi sự sợ hãi về mặt thị giác.

Nguyên Diệu hít sâu một hơi, chuẩn bị tâm lý để đối diện với phi nhân đáng sợ, rồi mới mở cửa.

Ngoài cửa tiệm, trong con ngõ cụt, dưới màn sương đêm mờ ảo là một cô nương trẻ mặc đồ xanh đứng đó.

Cô nương mặc đồ xanh có dáng người mảnh mai, khoác trên mình chiếc váy lụa xanh lá sen, quấn thêm chiếc khăn voan đỏ thêu hoa. Nàng búi tóc đơn giản, da trắng mịn, dung nhan thanh tú như một mỹ nhân dịu dàng.

Cô nương mặc đồ xanh đứng lạc lõng, trong mắt đầy vẻ mơ hồ.

Nguyên Diệu nhìn kỹ, thì thấy dưới váy lụa xanh của nàng lộ ra một đoạn đuôi thằn lằn.

Khách đến lúc nửa đêm, quả nhiên phi nhân. Tuy nhiên, may mắn là nữ yêu thằn lằn này không có hình dạng quá đáng sợ.

Nguyên Diệu lịch sự nói: "Cô nương đến Phiêu Miểu các vào đêm khuya là có chuyện gì vậy?"

Cô nương mặc đồ xanh nói: "Ta... ta muốn nhờ Bạch Cơ giúp một việc."

Nguyên Diệu trả lời: "Mời vào, Bạch Cơ đang ở bên trong." cô nương mặc đồ xanh thất thần bước vào Miểu Phiêu Miểu các.

Trong gian phòng, để tiếp khách, bảy cây đèn đồng đã được thắp sáng, khiến cả gian phòng rực rỡ ánh đèn.

Sau bức bình phong Hà Đồ Lạc Thư, Bạch Cơ đang ngồi bên bàn ngọc xanh, cô nương mặc đồ xanh ngồi đối diện với Bạch Cơ. Nguyên Diệu đứng bên cạnh, Ly Nô sau khi bận rộn phơi lá trúc cũng đang ngồi nghỉ ngơi trên chiếc giường quý phi.

Bạch Cơ nhìn cô nương mặc đồ xanh, cười nói: "Ngươi muốn mua thứ gì, hay có điều gì muốn nhờ cậy?"

Nữ tử áo xanh nhút nhát nói: “Bạch Cơ đại nhân, ta không đến đây để mua đồ, ta đến Phiêu Miểu các là muốn nhờ ngài một việc. Mọi người đều nói ngài có thể làm mọi thứ, có thể thực hiện tất cả mong muốn của mọi người.”

Bạch Cơ cười nói: “Lời này phóng đại quá rồi, ta đâu phải là thần Phật, sao có thể thực hiện mọi mong muốn của mọi người? Hơn nữa, dù là thần Phật cũng không thể thỏa mãn tất cả mong muốn của thế gian. Tuy nhiên, ngươi có điều gì muốn nói thì hãy nói ra, chỉ cần ta có thể làm được, ta nhất định sẽ giúp ngươi giải quyết. Nhưng trước hết ngươi phải trả cái giá tương xứng.”

Nữ tử áo xanh liên tục gật đầu, nói: “Ta có bạc. Bạch Cơ đại nhân, xin ngài nhận lời ủy thác rửa sạch oan khuất cho ta.”

Bạch Cơ hỏi: “Chuyện là như thế nào?”

Nữ tử áo xanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chuyện có hơi phức tạp, ta sẽ nói đơn giản trước. Ta cùng bốn người bạn kết nghĩa kim lan, sống cùng nhau như người một nhà. Chúng ta sống trong một căn nhà lớn ở giữa núi Mang. Đại tỷ là rắn, nhị ca là bò cạp, ta là người thứ ba, tên là Vong Xuyên, như ngài thấy, ta là một con thằn lằn. Tứ đệ là con rết, ngũ đệ là con cóc.”

Con mèo đen vốn đang nhắm mắt nghỉ ngơi trên ghế quý phi, nghe xong lập tức mở mắt cười nói: “Đây không phải là "Ngũ độc"* mà loài người nói sao? năm con độc vật này sao lại kết nghĩa kim lan và sống cùng nhau thế?”

* Ngũ độc: Là cách gọi chung của năm loài động vật: rắn, bò cạp, thằn lằn, con rết, con cóc. Từ thời Chiến Quốc, dân gian miền Bắc đã cho rằng "Đoan Ngọ đến, ngũ độc tỉnh", phong tục dân gian Trung Quốc có tục ăn bánh ngũ độc vào Tết Đoan Ngọ, lấy kim đâm vào hình thêu ngũ độc để xua đuổi tà khí, cầu mong bình an.

Nguyên Diệu vội nói: “Ly Nô lão đệ, đừng vô lễ với khách!”

Nữ tử áo xanh trả lời: “Chính vì chúng ta bị loài người gọi là ngũ độc, nên mới đồng cảm với nhau, kết bạn sống cùng nhau để tự bảo vệ.”

Bạch Cơ nói: “Vong Xuyên cô nương, rồi sau đó?”

Vì bị Ly Nô chen ngang, Vong Xuyên một lúc không lấy lại được suy nghĩ, nàng cúi đầu suy nghĩ một lúc, rồi bối rối nói: “Ngũ đệ đã bị giết, họ đều nói là ta giết ngũ đệ. Nhưng ta không giết ngũ đệ, ta vô tội. Nhưng họ không tin ta, mà ta cũng không thể chứng minh mình trong sạch nên ta đã đến Phiêu Miểu các cầu xin Bạch Cơ ngài, xin ngài đến núi Mang tìm ra kẻ đã giết ngũ đệ để rửa oan cho ta.”

Bạch Cơ nói: “núi Mang à, việc này ta sẽ nhận. Ta là thiên hộ hầu của núi Mang, núi Mang vốn là phong địa của ta, những việc xảy ra trong núi Mang, ta phải lo.”

Nguyên Diệu suy nghĩ một lúc, hỏi: “Vong Xuyên cô nương, tại sao mọi người lại nói là ngươi giết ngũ đệ?”

Vong Xuyên nói: “Vì ta bị ngất bên cạnh thi thể của ngũ đệ, trên tay và người đều có máu của ngũ đệ. Ta không nhớ chuyện gì đã xảy ra, cũng hoàn toàn không thấy kẻ giết người hành động như thế nào, ta chỉ nhớ rằng khi đó ta và ngũ đệ đang tu luyện bên bờ sông, vừa hít thở khí linh của mặt trăng vừa trò chuyện. Không biết sao ta ngất đi. Lúc bị đại tỷ đánh thức, tỉnh dậy thì thấy ngũ đệ đã chết.”

Bạch Cơ hơi ngạc nhiên nói: “Chuyện này đúng là kỳ lạ.”

Ly Nô nói: “Thằn lằn, có phải ngươi giết cóc không?”

Vong Xuyên tức giận nói: “Mèo đen, ta là thằn lằn, không phải thằn lằn bốn chân. Ta và ngũ đệ luôn có tình cảm rất tốt, không có mâu thuẫn gì, tại sao ta lại vô cớ giết đệ ấy? Ta nghĩ chắc chắn là do con hổ xấu xa có mâu thuẫn với năm huynh đệ chúng ta làm, nó sống trong hang Thạch Nhưỡng gần phủ của chúng ta. Ta nhớ mang máng trước khi ta ngất đi, hình như có thấy bóng dáng của một con hổ. Nhưng ta ngất rồi, không thấy con hổ xấu xa hành động, hơn nữa con hổ không có lý do gì chỉ giết ngũ đệ mà không giết ta, chuyện này không hợp lý. Vì chỉ có ngũ đệ chết còn ta thì sống, nên ta nói trước khi ngất có thấy bóng dáng con hổ, mọi người cũng nửa tin nửa ngờ, không chịu tin ta.”

Nguyên Diệu hỏi: “Vậy các người đã đi chất vấn con hổ chưa?”

Vong Xuyên nói: “Con hổ xấu xa đó luôn có mâu thuẫn với năm huynh đệ chúng ta, chất vấn nó, nó cũng không nói thật. Hỏi cũng như không, nhưng ta vẫn nghi ngờ nó.”

Bạch Cơ nói: “Chuyện này, suy đoán mơ hồ không có ích. Hôm nay đã muộn rồi, không cần gấp, ngày mai ta sẽ đi núi Mang xem thế nào.”

Vong Xuyên vui mừng nói: “Thật tốt quá. Năm huynh đệ chúng ta sống ở Thanh Khê Nhuận, trong hang đá đen, ngài cứ đến núi Mang hỏi về Ngũ Độc U Phủ, là sẽ biết.”

Bạch Cơ nhận lời ủy thác, Vong Xuyên cáo từ rời đi. Nàng nói sẽ quay về thông báo cho ba huynh đệ còn lại, cùng nhau đón tiếp Bạch Cơ ở động phủ. Sau khi Vong Xuyên rời đi, Bạch Cơ mới đột nhiên nhận ra điều gì đó.

“Hiên Chi, ta có phải quên không đòi tiền công không?”

Nguyên Diệu cười nói: “Đúng vậy.”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi cười.

“Không sao, ngày mai đến núi Mang xem tình hình rồi tùy tình hình mà thu phí.”

Nguyên Diệu thở dài nói: “Vong Xuyên cô nương này cũng thật đáng thương, huynh đệ chết mà còn bị mọi người oan uổng, chắc hẳn rất đau khổ.”

Bạch Cơ cười.

“Con thằn lằn có một loại khí tức rất kỳ lạ.”

Ly Nô nói: “Chủ nhân, ngày mai ngài thật sự muốn đến cái ổ độc vật đó sao? Sắp đến Tết Đoan Ngọ rồi, tốt nhất không nên tiếp xúc quá gần với Ngũ Độc.”

Bạch Cơ nói: “Đã nhận lời ủy thác rồi thì vẫn nên đi một chuyến. Cùng lắm thì đeo dây Trường Mệnh để trừ tà trừ độc.”

Nguyên Diệu nói: “Bạch Cơ, chẳng phải ngươi nói dây Trường Mệnh không có tác dụng trừ tà sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, ta cũng đã nói rồi, tâm linh là một sức mạnh rất lớn. Chúng ta cứ tin rằng dây Trường Mệnh có thể trừ tà trừ độc, đeo lên rồi đến núi Mang.”

"Chúng ta? Ta cũng phải đi sao?!”

“Hiên Chi tất nhiên phải đi cùng rồi.” Bạch Cơ cười tươi nói.

Thế là vì ngày mai phải đến núi Mang, Bạch Cơ và Nguyên Diệu không tiếp tục dệt dây Trường Mệnh để tặng quà, mà sớm đi nghỉ ngơi.

*

Ngày hôm sau, Bạch Cơ và Nguyên Diệu dự định buổi sáng sẽ khởi hành đi Núi Mang, nhưng hôm nay buôn bán ở Phiêu Miểu các rất tốt. Từ lúc mở cửa đến trưa, từng đợt khách liên tục đến, có người mua hương liệu, ngọc thạch để kết duyên, cũng có người đến để mua "nhân quả". Nguyên Diệu bận rộn trong đại sảnh, bán hàng, thu ngân, và ghi chép sổ sách. Bạch Cơ ở trong phòng, sau khi nghe xong yêu cầu của khách hàng mua "nhân quả." thì trời đã quá trưa.

Thật ra, "nhân quả" ở Phiêu Miểu các không phải là hoàn toàn kết thúc một cái để cái khác bắt đầu, hỗn loạn mới là trạng thái thường xuyên của thế gian. Hầu hết thời gian, hai hoặc nhiều hơn "nhân quả" diễn ra đồng thời, và để kể một câu chuyện rõ ràng, người ta phải chọn nói từng nhánh một.

Bạch Cơ cân nhắc một lúc, thấy rằng lời yêu cầu của Vong Xuyên không quá gấp, nên quyết định theo chân vị khách trước mắt để giải quyết một số việc. Tuy nhiên, vì đã hứa với Vong Xuyên tối qua, không thể thất hứa mà không đi.

Vậy nên, Bạch Cơ dự định để Nguyên Diệu đi trước một mình đến Ngũ Độc U Phủ xem xét tình hình.

Nguyên Diệu vừa nghe Bạch Cơ bảo mình đi một mình đến Núi Mang, lại còn đến hang động của những loài độc vật như rắn, bọ cạp, thằn lằn, rết, cóc, bèn lập tức lắc đầu lia lịa.

“Bạch Cơ, tiểu sinh chỉ là một người bình thường không có pháp lực, không dám một mình đi đến những nơi như vậy.”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút rồi gọi: "Ly Nô, ngươi đi cùng Hiên Chi."

Ly Nô nghe thấy, không muốn đi đến ổ độc vật nên vội vàng tìm lý do.

"Chủ nhân, hôm nay việc buôn bán ở Phiêu Miểu các rất tốt, có khả năng chiều và tối sẽ có khách, không thể để cả ba chúng ta đều ra ngoài, phải để một người ở lại. Nếu tất cả chúng ta đều ra ngoài, khách đến mà không thấy ai thì sẽ mất tiền và nhân quả. Hơn nữa, Ly Nô còn phải gói bánh ú để tặng quà nữa! Hôm qua gạo nếp đã ngâm nước, nếu hôm nay không gói bánh thì gạo nếp sẽ hỏng mất."

Ly Nô nói rất có lý, Bạch Cơ và Nguyên Diệu không có lý do gì để phản bác. Bạch Cơ nghĩ một lát rồi cười nói: "Hiên Chi, ở Núi Mang, chúng ta cũng có người quen. Ngươi sợ đi một mình thì ta sẽ nhờ người đi cùng ngươi. Ta sẽ dùng hạc giấy gửi tin cho Thanh Minh, nhờ hắn đi cùng ngươi đến Ngũ Độc U Phủ."

Thanh Minh là một con rắn khổng lồ có sừng đến từ nước Ô Trà, được mọi người gọi là Cự Xà Núi Mang, nó sống ở Vực U Minh trong Núi Mang. Nó là bạn cũ của Bạch Cơ.

Nguyên Diệu nghĩ đến hình ảnh kinh khủng của Cự Xà Núi Mang, trong lòng vô cùng sợ hãi. Khi đi cùng Bạch Cơ thì hắn không sợ Thanh Minh, nhưng khi phải ở cùng Thanh Minh một mình thì hắn vẫn sợ vì không hiểu rõ tính tình của nó.

Nguyên Diệu mặt mày ủ rũ hỏi: "Bạch Cơ, có thể để Vu Y đi cùng tiểu sinh được không? Dù sao Vu Y cũng là con người, còn biết y thuật, nếu tiểu sinh bị trúng độc, hắn còn có thể giúp giải độc."

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi đừng hy vọng vào gia đình Vu Y nữa. Tháng này Vu Y ra ngoài chữa bệnh rồi, không ở Núi Mang, thậm chí còn không ở Lạc Dương. Tiểu Vũ vì linh lực của "cửa", giờ đang bế quan ngủ sâu để hấp thu linh khí, A Đạt phải chăm sóc Tiểu Vũ, không thể rời khỏi."

Vu Y, Tiểu Vũ, và Tất Xá Già A Đạt là những người bạn mà Nguyên Diệu quen trong sự kiện "Mang Sơn Đằng", họ sống trong cổ mộ ở Núi Mang, giúp Bạch Cơ trồng Kiến Mộc. Nguyên Diệu vốn mong ba người bạn thân quen này sẽ làm bạn đồng hành, nhưng không thể trông cậy vào họ.

Nguyên Diệu lo lắng hỏi: "Bạch Cơ, Thanh Minh có ăn tiểu sinh không?"

Bạch Cơ cười nói: "Không đâu. Nếu nó ăn Hiên Chi, ta sẽ ăn nó."

Trong lòng Nguyên Diệu chua xót nói: "Bạch Cơ ăn nó rồi, tiểu sinh cũng không sống nổi."

Bạch Cơ cười khúc khích nói: "Hiên Chi đừng lo lắng, ta sẽ dặn Thanh Minh trong thư không được ăn ngươi."

Nguyên Diệu đành miễn cưỡng chấp nhận đi cùng Thanh Minh. Trước khi lên đường, Nguyên Diệu cẩn thận đeo dây trường mệnh do Bạch Cơ đan lên cổ tay, sau khi từ biệt Bạch Cơ và Ly Nô, hắn một mình đến Núi Mang.

Nguyên Diệu lo lắng và bồn chồn đi đường, vì bất cẩn mà hắn đi lạc. Đến khi quay lại đúng đường và đến Núi Mang thì trời đã gần hoàng hôn.

Nguyên Diệu tiến vào Núi Mang, theo lời dặn của Bạch Cơ, chuẩn bị hét lớn một tiếng để triệu gọi Thanh Minh. Nguyên Diệu hít sâu, chuẩn bị cất tiếng.

Thì một giọng nói của một nam nhân vang lên từ rừng phía sau Nguyên Diệu.

“Thú cưng nhỏ, sao giờ ngươi mới đến? Ta nhận được tin của Bạch Cơ nên đã từ Vực U Minh lên đây, chờ ngươi cả nửa ngày rồi.”

Nguyên Diệu quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một thanh niên tuấn tú và quý phái bước ra từ rừng cây, tựa như vầng trăng sáng trong vắt rực rỡ từ trong mây đen trỗi dậy.

Người thanh niên có dáng người cao ráo, phong thái như cây ngọc trước gió, khoác trên mình một bộ áo gấm màu xanh lam làm rất tinh xảo, đi một đôi giày đen có gắn đá quý xanh lá, eo đeo một thắt lưng ngọc chín vòng. Mái tóc đen của hắn được búi lên bằng một cây trâm ngọc bích xanh biếc tựa như sắp nhỏ nước. Hắn có sống mũi cao, mắt sâu, đồng tử đen mang theo một chút sắc xanh lục, khuôn mặt tuấn tú và vẻ đẹp ấy lại có thêm sự quyến rũ ma mị.

Nguyên Diệu chưa bao giờ gặp nam nhân này, nên không khỏi cảm thấy ngờ vực. Nam nhân chỉ tay vào mình, nói: “Thanh Minh, hình người.” Nguyên Diệu bừng tỉnh, vội vàng cúi chào.

“Thanh Minh huynh, tiểu sinh Nguyên Diệu, tự là Hiên Chi.”

Thanh Minh gật đầu, hỏi: “Thú cưng nhỏ, Bạch Cơ gọi ngươi thế nào?”

Nguyên Diệu trả lời: “Bạch Cơ thường gọi tiểu sinh bằng tự, gọi tiểu sinh là Hiên Chi. Không đúng, ai là thú cưng nhỏ?!”

Thanh Minh nói: “Theo ta thấy, ngươi chính là một thú cưng nhỏ do Bạch Cơ nuôi. Hiên Chi, thú cưng nhỏ, thú cưng nhỏ, Hiên Chi, Hiên Chi khó gọi quá, thôi thì gọi ngươi là thú cưng nhỏ cho dễ nhớ. Từ nay ta sẽ gọi ngươi là thú cưng nhỏ. Bạch Cơ đã truyền thư bằng hạc giấy, tình hình ta đã nắm rõ, ta sẽ theo ngươi đến Ngũ Độc U Phủ để bảo vệ ngươi.”

Nguyên Diệu lớn tiếng nói: “Tiểu sinh là người của Phiêu Miểu các, không phải thú cưng!”

Thanh Minh cười: “Người hầu nhỏ, thú cưng nhỏ, theo ta thấy, cũng chẳng khác gì nhau. Bạch Cơ đúng là mắt kém, lại nuôi một thú cưng nhỏ chẳng mấy đẹp đẽ. Nhưng mà, nó cũng còn nhảy nhót linh hoạt, khá là dễ thương.”

Nguyên Diệu có hơi tức giận, nhưng Bạch Cơ không ở đây, hắn sợ Thanh Minh là một con rắn khổng lồ nên không dám phát tác.

Thanh Minh nói: “Thú cưng nhỏ, ngươi đến chậm quá, khi ta đang chờ ngươi không có việc gì làm, nên đã tìm đến hỏi thăm Chúc Diệp và biết được vị trí chính xác của Ngũ Độc U Phủ rồi. Tranh thủ lúc trời chưa tối, ngươi đi theo ta, ta sẽ dẫn ngươi đến đó.” Chúc Diệp là một tộc kiến cây từ phương Nam di cư đến núi Mang, tộc kiến mộc mỗi ngày đều đi khắp núi Mang tìm kiếm thức ăn, tin tức rất nhanh nhạy, mọi việc trên mặt đất hiếm khi mà chúng không biết.

Nguyên Diệu cố gắng nhịn cơn giận, quyết định tạm thời không chấp nhặt việc Thanh Minh gọi mình là thú cưng nhỏ, trước tiên phải giải quyết nhiệm vụ của Vong Xuyên, bèn gật đầu.

“Cảm ơn Thanh Minh huynh.”

Trong lúc hoàng hôn, khi sao trăng dần xuất hiện, Nguyên Diệu và Thanh Minh đồng hành đi trong núi Mang, về phía Ngũ Độc U Phủ.

Trên đường đi, Nguyên Diệu và Thanh Minh im lặng không nói, không có lời gì để nói, bầu không khí có phần lúng túng.

Để giảm bớt sự lúng túng, Thanh Minh nói: “Thú cưng nhỏ, khi ta hỏi đường Chúc Diệp, ta cũng tiện thể hỏi thăm một chút về gia đình huynh đệ ngũ độc. Ngươi có muốn nghe không?”

Nguyên Diệu lập tức trả lời: “Mong Thanh Minh huynh nói rõ.”

Thanh Minh nói: “Năm sinh vật độc đó là năm huynh đệ kết nghĩa, trong đó, đại tỷ là một con rắn độc đến từ Thiên Trúc, tên là Kim Hoàn. Kim Hoàn là một góa phụ xinh đẹp, nàng đã từng gả hai lần trong núi Mang, cả hai người chồng đều đã chết. Ngũ Độc U Phủ này chính là tài sản của người chồng đầu tiên để lại cho nàng. Nhị ca là một con bọ cạp độc, tên là A Khôi. A Khôi có một nhóm bọ cạp dưới quyền, chúng chịu trách nhiệm bảo vệ Ngũ Độc U Phủ. Khi có kẻ thù xâm nhập, thường là A Khôi dẫn đầu nhóm bọ cạp này để giải quyết. Tam muội là một con thằn lằn, tên là Vong Xuyên. Nàng có tính cách điềm tĩnh, suy nghĩ tỉ mỉ, giỏi xử lý các mối quan hệ. Khi có tranh chấp hoặc xung đột lãnh thổ hay lợi ích trong núi Mang, thường là Vong Xuyên ra mặt để đàm phán. Trong số đó, tứ đệ là một con rết, tên là Thiểu Cát. Thiểu Cát tính tình cô độc, thích ở yên tĩnh, hầu như không bao giờ rời khỏi Ngũ Độc U Phủ, rất ít người gặp được hắn. Thiểu Cát thích nghiên cứu và pha chế các loại độc dược có tác dụng khác nhau dưới lòng đất. Những loại độc dược mà hắn điều chế đều rất chất lượng và được ưa chuộng trong giới phi nhân ở núi Mang. Khi cần độc dược, mọi người đều bỏ ra số tiền lớn để mua. Những loại độc dược mà Thiểu Cát pha chế là điểm nổi bật của Ngũ Độc U Phủ, cũng là nguồn thu nhập của họ. Ta cũng từng mua. Ngũ đệ là một con cóc độc, tên là Hoa Bảo. Hoa Bảo còn nhỏ tuổi, được các huynh tỷ rất cưng chiều, không có tài năng gì, nhưng lại thích khoe khoang, kết giao với bạn bè không tốt trong núi Mang và gây rắc rối.”

Nguyên Diệu nghe đến đây thì có hơi mơ hồ.

“Vậy, Thanh Minh huynh, Ngũ Độc U Phủ là nơi như thế nào?”

Thanh Minh trả lời: “Ngũ Độc U Phủ là một hang ổ yêu quái, cũng giống như vực U Minh của ta. Tuy nhiên, Ngũ Độc U Phủ không rộng lớn như động phủ của ta. Trong Ngũ Độc U Phủ, ngoài huynh đệ ngũ độc, còn có một đám hộ vệ và gia nhân. Những hộ vệ và gia nhân này cũng là những sinh vật độc. Theo như Chúc Diệp nói, có một điều đáng chú ý là một con nhện độc. Con nhện độc đó tên là A Châu, là muội muội của người chồng đầu tiên của Kim Hoàn. Ngũ Độc U Phủ vốn là nhà của nàng, sau khi ca ca nàng qua đời, để lại động phủ và tài sản trong đó cho tẩu tẩu, và tẩu tẩu đã đổi tên thành Ngũ Độc U Phủ. A Châu cũng theo sống cùng tẩu tẩu. Nàng chịu trách nhiệm quản lý gia nhân và xử lý những công việc vụn vặt trong Ngũ Độc U Phủ, coi như là quản gia.”

Nguyên Diệu gật đầu.

Thanh Minh lại nói tiếp: “Ngoài ra, còn một điều đáng chú ý nữa, không xa Ngũ Độc U Phủ có một hang động tên là Hắc Thạch, nơi cư trú của một con hổ hung dữ. Con hổ đó tên là Sơn Quân, nó đã sống cùng vợ lẽ và gia nhân trong hang động Hắc Thạch từ khi Ngũ Độc U Phủ vẫn còn là động của nhện độc. Sơn Quân có xung đột với huynh đệ ngũ độc. Chúng đã đấu tranh với nhau suốt nhiều năm, vợ lẽ và gia nhân của Sơn Quân bị huynh đệ ngũ độc giết hại gần hết, cuối cùng chỉ còn lại rất ít người. Người chồng thứ hai của Kim Hoàn được cho là đã bị Sơn Quân cắn chết.”

Nguyên Diệu hỏi: “Tiểu sinh nghe có hơi mơ hồ, vậy đại tỷ Kim Hoàn đã kết hôn mấy lần? Và những người đó là ai?”

Thanh Minh suy nghĩ một lúc, rồi đếm trên ngón tay: “Hai lần. Người chồng đầu tiên của nàng là nhện độc, chính là ca ca của A Châu, cũng là chủ nhân ban đầu của Ngũ Độc U Phủ. Sau đó, nàng lại cưới một con rắn độc. Nhưng do xung đột, con rắn độc đã bị Sơn Quân cắn chết.”

Nguyên Diệu gật đầu, lại hỏi: “Vậy chỉ có đại tỷ Kim Hoàn là đã kết hôn thôi sao? Bốn người kia không có kết hôn à?”

Thanh Minh trả lời: “Bốn người kia hình như chưa kết hôn, ta không nghe Chúc Diệp nói. Mặc dù cùng sống ở núi Mang, coi như là hàng xóm láng giềng, nhưng ta sống ở vùng U Minh, họ sống trên mặt đất, địa giới khác nhau. Ta từng cử người hầu mua độc dược của họ, nhưng ta chẳng biết gì về năm huynh đệ độc, thậm chí có thể nói là không có ấn tượng gì về họ. Ta cũng không biết họ đã chuyển đến núi Mang và định cư ở Ngũ Độc U Phủ từ khi nào.”

Nguyên Diệu cười và nói: "Thanh Minh huynh, lần này huynh có thể nhân cơ hội mà hiểu rõ hơn về hàng xóm của mình."

Thanh Minh cười trả lời: "Thú cưng nhỏ, núi Mang và thành Lạc Dương không giống nhau đâu. Ở núi Mang, yêu quái hung ác tụ tập, kẻ yếu bị ăn thịt, kẻ mạnh sống sót. Để giành lãnh thổ và nguồn sống, chúng ta liên tục tiêu diệt và thôn tính lẫn nhau. Cuối cùng, những kẻ sống sót để làm hàng xóm đều là những yêu quái trong yêu quái. Ở núi Mang, tốt nhất hàng xóm nên sống yên ổn, xa cách, không nên quen biết lẫn nhau thì hơn."

Nguyên Diệu không khỏi rùng mình.

Vừa nói chuyện, Nguyên Diệu và Thanh Minh đã đến địa phận của Ngũ Độc U Phủ.
 
Back
Top Bottom