Linh Dị Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
24/9/25
502,877
0
36
AP1GczMzfSftRaZFmNS3abs94z32-1tao6693yMgPxvd34bdX5SOtkfpI-iHo_Y2aen6HHhkzn8zoxNJ2Z-ZNACAVaq0qdFBnjfKIjITHJbYttnBKjLkDITagpZ8QVsq2Sumcj8yQyzTW4aOrZCV7sbZHEpg=w215-h322-s-no-gm

Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Tác giả: Bạch Cơ Quán
Thể loại: Linh Dị, Cổ Đại
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô

Tác giả: Bạch Cơ Quán

Thể loại: Cổ Đại, Linh dị.

Số chương: 38 chương + 2 ngoại truyện

Dịch: Quá khứ chậm rãi

Giới thiệu

Thịnh Đường, Trường An, trăm quỷ dạ hành, ngàn yêu phục tụ.

Trên phố Tây thị, nơi giao nhau giữa hai giới âm dương, có một tòa Phiêu Miểu Các thần bí hư vô.

Trong Phiêu Miểu Các, buôn bán đủ các món kỳ trân dị bảo, thất tình lục dục.

Là nơi mà người, yêu, quỷ, thần tới lui.

Phiêu Miểu Các ở đâu?

Người vô duyên, đi lướt qua cũng khó thấy.

Người có duyên, ngàn dặm đến tìm.

Vì sao thế gian phải có Phiêu Miểu Các?

Vì chúng sinh có dục vọng, nên thế gian mới có Phiêu Miểu Các.

Nhân vật chính:

Nguyên Diệu, thư sinh nghèo túng tính cách thuần lương, nhát gan nhưng luôn gặp yêu quái.

Nguyên Diệu vì đi thi mà đến chỗ người thân ở Trường An, lần đầu bước vào Phiêu Miểu Các, hắn vô tình làm bể các loại kỳ trân dị bảo, hắn nghèo đến mức chỉ còn lại có hai mươi văn tiền, bị lừa gạt ký khế ước bán thân, trở thành nô bộc của Phiêu Miểu Các, từ đó về sau đi theo Bạch Cơ chứng kiến muôn màu muôn vẻ của chúng sinh.

Bạch Cơ, chủ nhân Phiêu Miểu các, là mỹ nhân nhưng lại không phải người.

Thân phận thần bí, một người không nổi bật như nàng, từ khi chúng sinh có ấn tượng tới nay, đã kinh doanh Phiêu Miểu Các, bán đủ các kỳ trân dị bảo.

Đối với nàng mà nói, ý nghĩa duy nhất ba ngàn năm qua đối với nàng, là chờ chúng sinh tới mua "Dục vọng", tập hợp đủ "Nhân quả" bằng với cát sông Hằng...​
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 1


Giữa hè, Trường An.

Võ Hậu cải Đường thành Chu, định đô ở Lạc Dương. Vì đã dời đô, văn võ bá quan cùng một phần dân chúng Trường An cũng kéo nhau dọn đến Thần Đô. Trường An dần trở nên thưa thớt, thương gia ít dần, lạnh lẽo hơn trước đây rất nhiều.

Mùa hè nóng bức, nắng cháy như đổ lửa, thời tiết cực kỳ oi ả. Tiếng ve kêu inh ỏi từ xa vọng đến làm phiền giấc mộng của mọi người.

Trong gian phòng của Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu quỳ bên bàn ngọc xanh, đọc một quyển "Sơn Hải Kinh," nhưng vì nóng bức mà lòng thấy bực bội, chẳng đọc nổi chữ nào.

Con mèo đen nhỏ nằm sấp trên bàn ngọc xanh, không có tinh thần.

Bạch Cơ đi ra đại sảnh, lấy một lư hương Bác Sơn và một hộp hương Tu Mạn Na Hoa. hương Tu Mạn trắng như băng tuyết, hương thơm ngát, có thể làm lòng người tĩnh lại.

"Thời tiết nóng quá, thắp một lư hương cho tĩnh tâm."

Bạch Cơ cười nói.

"Quá tốt rồi."

Nguyên Diệu cười đáp.

"Meo!" Con mèo đen ngáp dài, tiếp tục nằm sấp.

Bạch Cơ thắp hương Tu Mạn vào lư hương Bác Sơn, từng sợi khói xanh bay lên, phiêu diêu như giấc mộng.

Tiểu thư sinh ngửi thấy hương thơm nhè nhẹ, dần dần ngủ thiếp đi.

Nhưng Bạch Cơ không ngủ, nàng nghiêng mình dựa trên giường mỹ nhân nhìn từng sợi khói hương quấn quanh tiểu thư sinh đang ngủ, dần dần hiện ra các ảo ảnh.

Núi và biển, rừng cây và sông ngòi, mọi thứ đều như ảo cảnh, các loài chim biến hóa thành hình dáng rực rỡ từ khói hương.

Bạch Cơ cười nói: "Hì hì, thỉnh thoảng nhìn lén giấc mơ của Hiên Chi, không ngờ lại thú vị như vậy." Trong đám chim do khói biến hóa, có con Huyền Điểu lông vũ rực rỡ, hình dáng rất đẹp. Có con chim Trọng Minh giống như gà trống màu sắc sặc sỡ, mỗi mắt đều có hai con ngươi. Cũng có con Bích Phương chỉ có một chân đứng như sếu đỏ. Lại có con chim Tam Thanh, đầu đỏ mắt đen, sắc màu lộng lẫy.

Bạch Cơ đang xem rất thú vị, bỗng trong ảo ảnh khói hương lóe lên một ánh lửa, một bóng chim rực lửa bay lên, nó như một con đại bàng khổng lồ, lông vũ đỏ rực, đôi cánh màu vàng kim.

"...Kim Ô? Già Lâu La? Không, đó là... Phượng Hoàng Bất Tử*! Nó không nên xuất hiện trong giấc mơ của Hiên Chi..." Bạch Cơ lẩm bẩm.

*Chim Bất Tử: Loài chim trong thần thoại phương Tây, tương tự như Phượng Hoàng trong thần thoại Trung Quốc nhưng thuộc về hệ thần thoại khác nhau. Trong tiếng Trung, chim Bất Tử đôi khi được dịch là "Hỏa Phượng Hoàng," nhưng khác biệt với Phượng Hoàng trong truyền thuyết Trung Quốc. Trong cuốn *Chức Phương Ngoại Ký* của Ai Nho Lược thời Minh có ghi chép: "Nghe nói có loài chim tên là Phượng Hoàng (Phoenix), sống thọ từ bốn đến năm trăm năm. Khi cảm thấy mình sắp chết, nó sẽ tụ tập các loại gỗ thơm lại thành một đống, đứng trên đó. Chờ trời rất nóng, nó vẫy đuôi đốt lửa tự thiêu. Xương thịt còn lại biến thành một con sâu, sâu lại biến thành chim. Vì thế trên đời chỉ có một con chim duy nhất."

Phượng Hoàng Bất Tử toàn thân bốc lửa, trong ngọn lửa cháy rực giang cánh, phát ra tiếng kêu chói tai lao về phía Bạch Cơ.

"Ôi! Hỏng rồi!"

Bạch Cơ biến sắc, vội vàng lấy nước trà bên cạnh đổ vào lư hương Bác Sơn, dập tắt hương lửa.

Nguyên Diệu nghe thấy động tĩnh thì dần tỉnh dậy.

Nguyên Diệu nhìn Bạch Cơ thì thấy sắc mặt nàng tái nhợt, ánh mắt rất nghiêm trọng.

"Hiên Chi thu xếp hành lý, chúng ta phải đi Thần Đô ngay." Bạch Cơ nói.

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nói: "Bạch Cơ không phải nói bây giờ đường sá đông đúc, không đi chen chúc, chờ một thời gian rồi mới chuyển sao? Sao đột nhiên lại phải thu xếp hành lý ngay?"

Bạch Cơ cười, bào chữa: "Dù sao, sớm muộn cũng phải đi Thần Đô vẫn nên đi sớm thì tốt hơn. Phiêu Miểu các ở Thần Đô mở cửa sớm, kiếm tiền sớm, tránh bị thiếu thốn, mọi người lại phải uống gió Tây Bắc."

Nguyên Diệu hỏi: “Ờm, Bạch Cơ, mở Phiêu Miểu các ở Lạc Dương có phiền phức không?"

Bạch Cơ cười: "Không phiền, chỉ là dời Phiêu Miểu các trở về, không phải mở lại. Vì từ thời Đông Chu, Đông Hán, Ngụy Triều, Tây Tấn, Bắc Ngụy, và nhà Tùy, Phiêu Miểu các đều ở Lạc Dương. Mọi thứ ở Lạc Dương đều đã sẵn sàng, chỉ cần mở kết giới là xong."

"Thế còn Phiêu Miểu các ở Trường An thì sao?"

Bạch Cơ cười nói: “Phong ấn lại là được. Thời gian còn dài con người sẽ luôn thay đổi triều đại, biết đâu lại dời về đây nữa.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, có cần mang theo đồ trong kho ở lầu hai và đáy giếng không?”

“Đồ trong kho ở đáy giếng không cần di chuyển, vì các kho ở đáy giếng của Trường An và Lạc Dương đều thông nhau. Hàng hóa trong kho ở lầu hai cũng để lại, kho ở Lạc Dương còn rất nhiều hàng, bán cả trăm năm cũng không hết. Khi nào thiếu hàng thì đến Trường An lấy. Những mặt hàng thịnh hành bây giờ thì có thể mang một ít qua, tránh tốn tiền mua hàng, trang trí cửa hàng. Những việc lặt vặt này Hiên Chi không cần lo, Ly Nô sẽ lo liệu, ngươi chỉ cần làm theo lời nó là được.” Bạch Cơ cười nói.

Nguyên Diệu không khỏi lè lưỡi, nghĩ thầm: "Con rồng yêu này rốt cuộc tích trữ bao nhiêu bảo vật trong kho báu của mình vậy?!"

“Bạch Cơ, Phiêu Miểu các ở Lạc Dương nằm ở đâu thế?”

“Nằm ở chợ Nam của Lạc Dương, tại giao giới giữa phường Phúc Thiện và phường Tư Thuận.”

“Chợ Nam của Lạc Dương có huyên náo không? Tại hạ từng qua Lạc Dương trước khi đến Trường An nhưng không đến chợ Nam.”

“Rất huyên náo, có khoảng ba bốn nghìn cửa hàng đủ loại, có người Hồ, người Phù Tang, người Cao Ly, người Thiên Trúc, giống như chợ Tây của Trường An vậy.”

“Vậy Phiêu Miểu các ở Lạc Dương trông như thế nào?”

“Cũng giống nơi này thôi. Nhưng phòng ở đó nhiều hơn, còn có một cái ao lớn ở sân sau.”

“Bạch Cơ, khi đến Lạc Dương, tại hạ có thể có một phòng riêng không? Tại hạ không muốn ngủ ở đại sảnh nữa, mùa hè thì còn được chứ mùa đông ngủ ở đó rất khó chịu.”

“Được. Vậy thì sắp xếp cho Hiên Chi một phòng riêng.”

“Bạch Cơ, khi đến Lạc Dương, có thể tăng lương cho tại hạ không? Dù sao thì giấy ở Lạc Dương cũng đắt đỏ hơn, chi phí sinh hoạt ở Thần Đô chắc chắn sẽ cao hơn Trường An.”

“Không được. Hiên Chi, ‘Lạc Dương chỉ quý’* không có nghĩa như vậy đâu!”

* Lạc Dương Chỉ Quý洛阳纸贵: Vào thời Tây Tấn, ở đô thành Lạc Dương, vì mọi người đua nhau sao chép tác phẩm “Tam Đô Phú” của Tả Tư, dẫn đến việc giấy tạm thời không đủ cung ứng, hàng hóa trở nên khan hiếm và đắt đỏ. Thành ngữ này được dùng để ví von một tác phẩm được xã hội coi trọng, nổi tiếng một thời và được lưu truyền rộng rãi.

Bạch Cơ cười mỉm nói.

“Haiz!” Cố gắng tăng lương không thành, Nguyên Diệu buồn bã nói: “Vậy nhân lúc Ly Nô còn chưa tỉnh, tại hạ đi thu dọn sách vở của mình trước.”

“Đi đi.”

Bạch Cơ cười nói.

Nguyên Diệu đứng dậy đi lên tầng hai thu dọn đồ đạc của mình.

Sau khi Nguyên Diệu rời đi, con mèo đen đang nằm trên bàn ngọc xanh bỗng nhiên mở mắt hỏi: “Chủ nhân, tại sao đột nhiên gấp gáp đến Lạc Dương thế?”

Bạch Cơ vẻ mặt nghiêm trọng, nói: “Ta vừa nhìn thấy chim Bất Tử, loài chim không may đến từ thế giới đen tối ở Tây Vực xuất hiện tại Trung Thổ, thật đáng suy ngẫm. Ta dự cảm rằng Lạc Dương có thể sắp xảy ra chuyện lớn... không, có thể đã xảy ra chuyện lớn rồi...”

“À? Chủ nhân, nếu Thần Đô sắp xảy ra chuyện lớn, chi bằng chúng ta trốn ở Trường An thì tốt hơn. Đợi sau khi chuyện lớn qua rồi, chúng ta mới qua đó xem.”

Mèo đen nói.

Bạch Cơ cười nói: “Vẫn nên đi sớm thì hơn. Chim Bất Tử là loài hiếm gặp và quý giá, ta rất hứng thú với nó.”

“Chủ nhân muốn sớm đến Thần Đô bắt chim sao? Ngài nói sớm một chút, Ly Nô rất giỏi bắt chim mà.” Mèo đen l**m móng vuốt nói.

Bạch Cơ cười nói: “Vẫn nên, đi Thần Đô xem một chút đã.”

*

Trường An cách Lạc Dương tám trăm dặm, nếu cưỡi ngựa khẩn cấp đi theo đường quan dịch, một ngày là đến. Kéo hành lý, đi xe ngựa trên đường quan, mất năm sáu ngày cũng đến nơi.

Bạch Cơ không đi cùng Ly Nô và Nguyên Diệu, nàng ở lại Trường An xử lý chuyện còn xót lại.

Ly Nô lái xe ngựa, chạy rất nhanh, Nguyên Diệu nằm trong đống hàng hóa, bị xóc nảy đến chóng mặt.

Trên đường đi, Nguyên Diệu thấy trên quan đạo có không ít đoàn người kéo theo hành lý, dường như đều từ Trường An chuyển đến Lạc Dương.

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ đi chậm một chút, lưng tại hạ sắp bị xóc nảy đến rời ra rồi!”

Ly Nô cười nói: “Mọt sách nhiều chướng khí quá, xóc nảy một chút sẽ làm khí chướng tan đi.”

Nguyên Diệu có phần tức giận nhưng không dám phản bác, sợ chọc giận Ly Nô, bị hắn bỏ lại trên đường. Dù sao trời nóng thế này, đi bộ đến Lạc Dương còn khổ hơn ngồi xe ngựa bị xóc nảy nhiều.

“Ly Nô lão đệ, tại sao Bạch Cơ không đi cùng chúng ta? nàng sẽ đến Lạc Dương muộn hơn chúng ta sao?”

Ly Nô nói: “Mọt sách, chủ nhân sẽ đến sớm hơn chúng ta, có lẽ bây giờ nàng đã ở Lạc Dương ngồi trong Phiêu Miểu các uống trà ăn điểm tâm rồi.”

Nguyên Diệu nghi ngờ, nói: “Chuyện này... Nàng bay qua đó sao?!”

Ly Nô lắc đầu nói: “Không, chủ nhân rất lười, thường không muốn bay. Chủ nhân đến Lạc Dương không đi đường trần gian, mà đi qua Hoang Dã Thời Gian ở tầng ba của Phiêu Miểu các. Trong Hoang Dã Thời Gian, có một con đường tắt đến Lạc Dương, do chủ nhân khai phá. Đi đường tắt, mất khoảng một giờ là đến thẳng Phiêu Miểu các ở chợ Nam Lạc Dương. Thực ra ta cũng rất ít đi đường trần gian, thường đi cùng chủ nhân qua Hoang Dã Thời Gian. Đường trần gian quá cực nhọc. Nhưng vì mọt sách ngươi là người, không thể đi qua Hoang Dã Thời Gian, ta phải đưa ngươi qua đây, cũng chỉ đành chịu cực một lần.”

Nghe vậy, Nguyên Diệu có hơi cảm động, đột nhiên cảm thấy xe ngựa của Ly Nô cũng không còn xóc nảy nữa.

“Đa tạ Ly Nô lão đệ.”

“Mọt sách không cần khách khí. Mua cho ta mười gói cá khô làm lễ tạ là được.”

Nguyên Diệu miệng giật giật.

“Mười gói thì quá nhiều rồi? Bạch Cơ không chịu tăng lương, cùng lắm mua cho ngươi ba gói.”

Tất nhiên, câu này tiểu thư sinh không dám nói ra.

Nguyên Diệu và Ly Nô lái xe ngựa đi đường, ban ngày đi, ban đêm nghỉ, sáng ngày thứ năm, thành Lạc Dương hiện ra trước mắt hai người. Từ xa nhìn lại, cổng Định Đỉnh uy nghiêm tráng lệ, vẻ phồn hoa của Thần Đô lấp ló hiện ra.

Đã đến Thần Đô Lạc Dương.

*

Lạc Dương nhỏ hơn Trường An một chút nhưng lại phồn hoa giàu có hơn, dân cư đông đúc. Thành Lạc Dương dựa lưng vào núi Mang, có sông Lạc Hà chảy qua thành, chia thành các khu vực như Ngoại Quách Thành, Hoàng Thành, Cung Thành, Hàm Gia Thương Thành, Viên Bích Thành, Diệu Nghi Thành, Đông Thành và Thượng Dương Cung. Ngoại Quách Thành có tám cổng thành, đường phố trong thành giao nhau thành lưới ô bàn cờ, tổng cộng có một trăm mười ba phường. Thương mại tập trung ở chợ Nam, chợ Tây, và chợ Bắc trong thành, trong đó chợ Bắc và chợ Nam có nhiều người từ các quốc gia khác, hàng hóa từ các nước ngoại bang đều tụ tập tại đây. Để thuận tiện cho thương mại, toàn thành Lạc Dương có các kênh rạch thông nước, mọi nơi đều thông tàu thuyền, chợ Nam, chợ Tây, và chợ Bắc đều dựa vào các kênh rạch có thể đi thuyền, nối liền với Đại Vận Hà.

Thần Đô Lạc Dương thương mại phồn thịnh, dân cư đông đúc, quan lại và quý tộc sống một cuộc sống xa hoa, dân thường làm việc từ sáng đến tối, cố gắng sinh tồn. Hàng ngàn yêu quái và ma quỷ ẩn náu trong đám đông nhộn nhịp, sống cùng con người trong Thần Đô.

Ly Nô đang điều khiển xe ngựa đi vào cổng Định Đỉnh, di chuyển trên đường Thiên Môn.

Ly Nô nói: “Ta lại thích Lạc Dương hơn Trường An.”

Nguyên Diệu không hiểu hỏi: “Tại sao?”

Ly Nô nhìn về phía xa, nói: “Lạc Dương là nơi lần đầu ta gặp chủ nhân, cũng là nơi ta ở cùng chủ nhân lâu nhất. Khi ta và chủ nhân gặp nhau, Lạc Dương vẫn còn gọi là Châm Tầm, tòa thành chưa lớn thế này, xây dựng chưa tốt thế này, người và phi nhân cũng chưa nhiều thế này.”

Nguyên Diệu nói: “Hóa ra là vậy. Ta cứ tưởng vì trong sông Lạc Hà có nhiều cá nên ngươi mới thích Lạc Dương hơn.”

Ly Nô cười hì hì: “Đó cũng là một lý do.”

“Ly Nô lão đệ đã trải qua biết bao triều đại cùng Bạch Cơ, ở qua biết bao đô thành, nghĩ lại cũng đúng là kỳ diệu nhỉ.”

“Hì hì, dù sao thì theo chủ nhân là có cá ăn.”

Xe ngựa chạy thẳng qua các phường Minh Giáo, Nghi Nhân, Thuần Hóa, An Nghiệp, sau đó rẽ phải qua các phường Sùng Nghiệp, Tuyên Phạm, Đạo Hóa, vào chợ Nam. Trong chợ Nam, thương nhân tụ tập, ngành nghề hưng thịnh, các cửa hàng sầm uất, các mặt hàng phong phú đa dạng, người Ba Tư, Thiên Trúc, Xiêm La, Cao Ly qua lại, tiếng cười nói rôm rả.

Ly Nô như ngựa quen đường cũ, lái xe ngựa rẽ đông rẽ tây, đi vào một con hẻm yên tĩnh. Không bao lâu, trước mắt Nguyên Diệu xuất hiện một ngôi nhà hai tầng thường thấy ở chợ Nam. Cửa chính của ngôi nhà treo một tấm biển trắng ảo, gỗ đen không bóng, chữ trắng sáng, viết bằng chữ triện cổ: Phiêu Miểu các. Cột cửa hai bên khắc một câu đối: Hồng trần có tướng, giấy say mê vàng trăm sắc. Phù thế vô thường, yêu giận si mê vạn kiếp không.

Bốn cánh cửa gỗ cũ kỹ của Phiêu Miểu các mở rộng, lờ mờ có thể thấy vài kệ hàng bên trong, bày bình hoa, đồ cổ, đồ ngọc và hương liệu.

Nguyên Diệu ngạc nhiên dụi mắt, nếu không phải vừa vào thành Lạc Dương, hắn sẽ nghi mình đã quay lại Trường An, đến trước Phiêu Miểu các ở chợ Tây.

Lúc này, một cô nương áo trắng bước ra từ Phiêu Miểu các. Nàng mặc chiếc váy dài trắng thêu hoa văn Tây Phiên chìm, khoác chiếc áo choàng hoa văn mây vàng. Búi tóc uy đọa, trên búi tóc cài một đóa mẫu đơn vàng rực. Da trắng như tuyết, môi đỏ như lửa, ngươi giương đôi mày được vẽ tỉ mỉ nhìn Nguyên Diệu và Ly Nô bằng đôi mắt đen như mực.

*Một lối búi tóc nghiêng về một bên gọi là “uy đọa” 倭墮.

Là Bạch Cơ.

Nguyên Diệu ngẩn ngơ nhìn.

Bạch Cơ cười nói: “Ôi chao, Hiên Chi, Ly Nô, sao các ngươi giờ mới đến? Ta chờ các ngươi mấy ngày rồi.”

Ly Nô nhảy xuống xe, cười nói: “Chủ nhân, thời tiết quá nóng, ngựa chạy trên quan đạo không nhanh nên giờ mới đến.”

Bạch Cơ nhìn Nguyên Diệu đang ngẩn ngơ, nói: “Hiên Chi, đây là kiểu trang điểm Sông Lạc Hà Lệ Nhân đang thịnh hành gần đây, ta vẽ thế nào?”

Nguyên Diệu tỉnh lại, hơi đỏ mặt, nói nhỏ: “…Rất đẹp.”

Bạch Cơ vui vẻ, cười nói: “Hiên Chi thật có mắt thẩm mỹ.”

Ly Nô hỏi: “Chủ nhân biết gần đây mèo Thần Đô thịnh hành dáng vóc thế nào không?”

Bạch Cơ cười nói: “Giống Trường An, béo tròn là đẹp.”

Ly Nô cười nói: “Để thành mèo đẹp, vậy ta phải ăn nhiều cá hơn rồi.”

Trong lúc nói chuyện, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đi vào Phiêu Miểu các.

Nguyên Diệu nhận thấy, Phiêu Miểu các ở Lạc Dương có bố cục giống Phiêu Miểu các ở Trường An, có cửa hàng, phòng trong, kho, sân sau, và nhà bếp, chỉ là rộng hơn một chút. Theo lời Bạch Cơ, Phiêu Miểu các mở ở Lạc Dương lâu hơn Trường An nên ở đây rộng hơn và trong kho cũng có nhiều hơn.

Sân sau của Phiêu Miểu các đầy cỏ xanh um tùm, tràn ngập sức sống hoang dại. Phía đông sân là nhà bếp, không xa nhà bếp có một cái giếng cổ. Trên giếng cổ, những sợi hơi nước mát lạnh lơ lửng.

Tại phía tây của sân, có một cây bồ đề rậm rạp cành lá. Cây bồ đề với tán lá xanh mướt như một dòng suối nguồn của sự sống. Những rễ khí của cây bồ đề rủ xuống, tạo thành một khu rừng nhỏ dưới gốc cây. Dưới cây có một chiếc bồ đoàn bằng cỏ, bên cạnh bồ đoàn là một cuốn kinh "Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" đang mở ra.

Không xa hành lang là một ao sen nở hoa quanh năm. Nước trong ao trong vắt phản chiếu bầu trời xanh, mây trắng và ánh nắng vàng. Trong nước không có cá bơi, chỉ có những bông hoa sen bảy màu* đang nở rộ. Nước phản chiếu mọi màu sắc có thể có trên thế gian cũng làm tôn lên vẻ đẹp của hoa sen bảy màu. Hoa sen bảy màu gồm hai loại hoa sen và năm loại hoa súng, có màu trắng, cam, xanh lam, vàng, đỏ, hồng nhạt và tím.

* Thất bảo liên hoa trì: Chỉ hồ sen được tạo thành từ thất bảo ở Tây phương Tịnh Độ. Người sinh vào Tịnh Độ sẽ hóa sinh từ hoa sen trong hồ này. Trong kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Sinh vào nước ta, chúng sinh tự nhiên hóa sinh từ bảy bảo liên hoa.” Kinh Phật ghi chép, ao thất bảo lớn bằng một ngàn do-tuần, một do-tuần lớn bằng bốn mươi dặm như biển lớn, một ngàn do-tuần lớn bằng bốn mươi nghìn dặm, chứa đầy nước tám định. Trong hồ thất bảo có rất nhiều hoa sen, bốn bên hồ đều là những bậc thang làm bằng vàng, bạc, lưu ly, trân châu, san hô, xà cừ, mã não - những thứ thất bảo của nhà Phật. Trong một số bức tranh Phật giáo, thất bảo liên hoa trì được mô tả như một hồ nước đầy những hoa sen bảy màu.

Nguyên Diệu nhìn thấy những bông hoa sen kiều diễm trong gió, cảm thán về vẻ đẹp của chúng, không kìm được ngâm nga: "Linh Ba tiên tử muốn ngủ đi, đừng làm phiền mỹ nhân đang ngủ trong ao." Điều thú vị là, sau khi Nguyên Diệu ngâm xong câu thơ này, hoa sen bảy màu trong ao dường như hưởng ứng, tất cả lập tức biến thành màu trắng tuyết. Hoa sen trắng trong nền lá xanh biếc như tiên tử Linh Ba đung đưa trong gió, đẹp đẽ và thanh thoát.

Nguyên Diệu vô cùng kinh ngạc. Bạch Cơ cười nói: "Ao sen thất bảo này là ta mang từ Tây Phương Cực Lạc thế giới đến nhân gian. Nó đã có linh tính, màu sắc của những bông hoa sẽ thay đổi theo tâm trạng của ao sen. Vì vậy nếu Hiên Chi thấy nó buổi sáng là màu đỏ buổi chiều là màu vàng, cũng đừng thấy kỳ lạ. Thường thì nó luôn là bảy màu."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Bạch Cơ từng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sao?"

Bạch Cơ đáp: "Đó là chuyện rất lâu rồi. Sau trận đại chiến giữa trời và đất, ta đã trú tại Tây Phương Cực Lạc thế giới một thời gian... Được rồi, thực ra là sau khi thua trận, ta bị bắt đến đó. Đức Phật đã đặt ta vào ao sen thất bảo để một nhóm Phật đà Bồ tát ngày ngày niệm kinh trước mặt để độ hóa ta. Lúc đó ta hoàn toàn không hiểu kinh văn, chỉ cảm thấy những tiếng niệm kinh đó làm ta đau đầu, trong lòng cuồng loạn không thể kiềm chế, chỉ khi nhìn những bông hoa sen bảy màu này tâm trạng ta mới yên tĩnh lại. Những Phật đà Bồ tát niệm kinh trước mặt một con rồng trắng bị giam trong ao sen, niệm một thời gian không có kết quả. Có lẽ họ cũng không kiên nhẫn nữa, không biết họ đã nói gì với Đức Phật, Đức Phật bèn cho phép ta đến nhân gian để thu thập nhân quả. Khi ta rời khỏi Tây Phương Cực Lạc thế giới, không nỡ rời xa ao sen thất bảo nên đã xin Đức Phật ban cho một phần. Đức Phật đồng ý. Ta mang một phần ao sen thất bảo đến nhân gian, sau đó đặt nó vào sân sau của Phiêu Miểu các. Là cảnh mà Hiên Chi thấy trước mắt đấy."

"Ra là vậy."

Nguyên Diệu biết ao sen thất bảo đến từ Tây Phương Cực Lạc thế giới thì không khỏi kính cẩn.

Bạch Cơ nói: "Haiz, lúc đó ta còn quá trẻ, suy nghĩ không chu đáo. Nếu lúc đó giả vờ nghe hiểu kinh Phật rồi trực tiếp trở thành Phật thì đã không phải xuống nhân gian này. Giờ đây, khổ cực mấy ngàn năm vẫn phải tiếp tục chịu đựng."

Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh.

"Bạch Cơ, cỏ dại sân sau này cũng nên dọn dẹp một chút, trông giống như vùng hoang dã vậy."

"Vì đã mấy trăm năm bỏ hoang, tất nhiên cỏ phải mọc um tùm một chút. Nếu Hiên Chi không thích vậy thì việc dọn dẹp cỏ dại giao cho ngươi."

Bạch Cơ cười nói.

Nguyên Diệu hận không thể cắn đứt lưỡi mình, lí nhí nói: “Ờm, thực ra như thế này cũng đẹp, không có vẻ tầm thường mà đầy vẻ đẹp tự nhiên."

Bạch Cơ cười nói: "Tùy ngươi thôi. Dù sao cũng là ngươi làm việc, dọn dẹp hay không đều do ý của ngươi."

Bạch Cơ sắp xếp cho Nguyên Diệu một phòng trống ở tầng một.

Phòng của Nguyên Diệu có một chiếc giường La Hán bằng gỗ lê hoa khảm chạm nổi kinh Phật bằng tiếng Phạn. Gần cửa sổ có một bàn làm việc bằng gỗ dương vàng, trên bàn đặt văn phòng tứ bảo. Gần tường còn có một giá sách lớn bằng tre. Mở cửa sổ nhìn ra sân sau có thể thấy ao sen đung đưa trong gió.

Nguyên Diệu rất vui mừng, cuối cùng không phải ngủ trong đại sảnh, còn có thể đọc sách và viết thơ.

Ly Nô thấy vậy, nói: "Chủ nhân, Ly Nô cũng muốn có một phòng."

Bạch Cơ cười nói: "Tầng hai còn một phòng chứa đồ, dọn dẹp một chút cũng có thể làm phòng ở."

Ly Nô nghĩ một lúc, nói: "Vậy thì thôi đi. Mỗi ngày lên lên xuống xuống quá phiền, Ly Nô sẽ ngủ trong phòng nhỏ."

Nghỉ ngơi một lúc, Nguyên Diệu bắt đầu chuyển hàng từ xe ngựa vào. Bạch Cơ chọn lựa một lượt hàng hóa mà Nguyên Diệu chuyển vào, chọn những vật phẩm đặt lên kệ trong đại sảnh còn những hàng hóa không chọn thì để một bên, bảo Nguyên Diệu chuyển lên kho tầng hai.

Ly Nô lo lắng cá trong chợ bán hết, nói với Bạch Cơ một tiếng rồi vội vã đi mua cá.

Nguyên Diệu đang chuyển hàng từ xe ngựa vào cửa Phiêu Miểu các, cảm giác như có người từ ngõ cụt bước vào.

Nguyên Diệu quay lại nhìn thấy ba người.

Đi đầu là một nữ tử xinh đẹp và anh khí, nàng mặc một bộ trang phục người Hồ màu năm sắc với cổ áo lật và tay áo hẹp, thắt lưng là một dải lụa dệt bằng ngọc thạch màu tím. Nữ tử da trắng như ngọc, đôi mắt như nước nhưng lại mang vẻ lạnh lùng, cao ngạo. Hai người sau là hai nam tử mặc Hồ phục, đeo kiếm kim sai, trông giống như tùy tùng.

Nguyên Diệu nhìn, nhận ra nữ tử này, đây không phải là Thượng Quan Uyển Nhi đây sao?!

Nguyên Diệu vội vàng đặt đồ xuống, chắp tay hành lễ, nói: "Thượng Quan đại nhân, lâu rồi không gặp, không biết ngài đại giá quang lâm, không kịp đón tiếp từ xa..."

Thượng Quan Uyển Nhi đứng lại, liếc nhìn xe ngựa và hàng hóa dưới đất, lạnh lùng nói: "Ngươi hôm nay mới từ Trường An đến sao?"

Nguyên Diệu đáp: "Đúng vậy."

Thượng Quan Uyển Nhi nói: "Hôm qua ta đã hẹn với Long Tự nhân, hôm nay đến Phiêu Miểu các tìm nàng, nàng không trốn... không, ra ngoài chứ?"

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ đang ở bên trong."

Thượng Quan Uyển Nhi bèn quay người bước về phía Phiêu Miểu các. Đi được vài bước, nàng lại quay đầu lại, dặn dò hai tên thị vệ phía sau: “Các ngươi cứ ở bên ngoài giúp hắn vận chuyển đồ, Phiêu Miểu các này cũng quá nghèo nàn rồi, chả có mấy người hầu sai bảo cả...”

“Vâng, đại nhân.” hai tên thị vệ đáp.

Nói xong, Thượng Quan Uyển Nhi bèn một mình bước vào Phiêu Miểu các.

“Cảm ơn Thượng Quan đại nhân, cảm ơn hai thị vệ đại ca.” Nguyên Diệu cảm kích nói.

Trong đại sảnh, Bạch Cơ đang đứng trước kệ hàng, tay cầm một hộp hương long tiên, suy nghĩ cách sắp xếp. Nàng nghiêng đầu thấy Thượng Quan Uyển Nhi bước vào bèn đặt hương long tiên xuống, cười nói: “Thượng Quan đại nhân, ngài đến rồi. Mời vào bên trong ngồi nói chuyện.”

Thượng Quan Uyển Nhi gật đầu, theo Bạch Cơ vào trong.

Hai tên thị vệ giúp Nguyên Diệu vận chuyển hàng hóa, Nguyên Diệu nhẹ nhõm hơn nhiều. Thấy Bạch Cơ và Thượng Quan Uyển Nhi vào trong, hắn bèn đi pha trà đãi khách.

Nguyên Diệu nhờ hai tên thị vệ chuyển toàn bộ hàng hóa trên xe ngựa vào đại sảnh rồi vào bếp.

Không lâu sau, Nguyên Diệu mang hai tách trà Mông Đỉnh vào trong.

Phòng bên trong của Phiêu Miểu các ở Lạc Dương rộng rãi sáng sủa hơn phòng bên trong của Phiêu Miểu các ở Trường An, vì phía hướng ra sân sau không phải là tường mà là cửa sổ sát nước.

Bên trong có một bức bình phong thủy mặc tám cánh, trên đó không phải là cảnh vật bốn mùa theo mùa mà là Hà Đồ Lạc Thư*. Hà Đồ là bản đồ sao, hai mươi tám chòm sao như một con rồng trắng xoay chuyển, huyền diệu vô cùng, sâu thẳm vô tận. Lạc Thư là bản đồ biến đổi của không gian thiên địa, vuông tròn giao nhau, âm dương tương hỗ.

* Hà Đồ Lạc Thư: Hai bức họa thần bí từ thời cổ đại, chứa đựng những lý lẽ sâu sắc về vũ trụ và tinh tượng, được coi là "rubik của vũ trụ," là nguồn gốc của văn hóa Trung Hoa, thuật số âm dương ngũ hành. Hà Đồ là bản đồ sao, sử dụng trong địa lý, vì trên trời là tượng, dưới đất thành hình. Lạc Thư là biểu đồ biến đổi không gian thiên địa. Nói ngắn gọn, Hà Đồ Lạc Thư là hệ thống phân biệt thời gian, phương hướng và mùa của người cổ đại dựa trên bố cục sao trời.

Trước bức tường phía nam đặt một chiếc giường quý phi còn lại trước các bức tường khác đều là những chiếc giá đa bảo, trên đó đặt một số hàng hóa như đồ cổ ngọc thạch, vàng bạc đồ sứ còn có một số cổ thư.

Cửa sổ sát nước treo rèm trúc Tương Phi, lúc này đang cuộn lên một nửa làn gió mát từ hồ sen mang theo hương sen làm người ta thấy thoải mái tinh thần.

Bên cửa sổ đặt một chiếc bàn ngọc xanh, Bạch Cơ và Thượng Quan Uyển Nhi đang đối diện nhau ngồi.

Khi Nguyên Diệu bước vào đã nghe Bạch Cơ đang khó xử nói: “...Các ngươi không thể vì ta là một con rồng nhìn có vẻ phun nước được mà bắt ta đi dập lửa. Trong thành Lạc Dương liên tiếp xảy ra hỏa hoạn, nếu là âm mưu của con người thì đó là việc của Bất Lương. Nếu là yêu ma tác quái thì đó là nhiệm vụ của Quang Tạng Quốc sư, không liên quan đến ta.”

Nguyên Diệu tò mò, đặt hai tách trà Mông Đỉnh lên bàn ngọc xanh rồi ngồi xuống một bên nghe xem là chuyện gì.

Thượng Quan Uyển Nhi lạnh lùng nói: “Quang Tạng Quốc sư đang ở Dương Châu làm việc khác cho Võ đế, hiện tại ông ấy không thể phân thân nên gửi thư bằng chim tiến cử ngươi, nói rằng ngươi chắc chắn có thể giải quyết việc này.”

Bạch Cơ đảo mắt, cười nói: “Yêu cầu của Võ đế là gì?”

Thượng Quan Uyển Nhi nâng tách trà Mông Đỉnh lên, chuẩn bị uống một ngụm nhưng cảm thấy hơi nóng lại đặt xuống.

“Võ đế vừa mới đăng cơ, trong thành Thần Đô cách vài ngày lại xảy ra hỏa hoạn, hôm nay phường này tự dưng bốc cháy, ngày mai phường kia lại bùng lên lửa, chết không ít người, tổn thất nặng nề làm người dân hoang mang, lòng dân dao động. Yêu cầu của Võ đế là tăng cường trị an, dù là con người gây rối hay yêu ma tác quái, ngươi phải tìm ra gốc rễ, dẹp yên chuyện này. Quan trọng nhất là, bây giờ nếu có phường nào bốc cháy, ngươi phải lập tức đến dập lửa, không cho phép người dân có thêm tổn thất nào.”

Bạch Cơ im lặng một lúc rồi mới nói: “Các ngươi có phải hiểu lầm về rồng không? Không nói rồng có thể phun nước hay không, ta cũng là chủ tứ hải, vua của loài rồng, đi phun nước dập lửa cho các ngươi, ta không cần mặt mũi sao?”

Thượng Quan Uyển Nhi nhấp một ngụm trà, nói: “Phần thưởng của Võ đế rất hậu hĩnh.”

Bạch Cơ cười nói: “Mặt mũi không quan trọng lắm. Dập lửa cũng là việc thiện cứu người, coi như tích công đức cho mình. Long Vương cũng có thể dập lửa thay Thần Đô.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 2


Thượng Quan Uyển Nhi nói: “Nói thế nghĩa là ngươi nhận công việc này rồi?”

Bạch Cơ uống một ngụm trà Mông Đỉnh, cười nói: “Ta có hai điều kiện.”

Thượng Quan Uyển Nhi nhướn mày, nói: “Điều kiện gì?”

Bạch Cơ nói: “Để dẹp yên lửa yêu trong Thần Đô, ta cần một số hương liệu. Ta đã đi qua các thị trấn chợ Bắc, chợ Tây, chợ Nam nhưng hiện không phải mùa nhập hàng của các thương nhân, lượng nhũ hương, cam tùng, nhục quế trên thị trường rất ít, không đủ cho ta sử dụng. Ta muốn Võ đế mở kho của hoàng cung, những hương liệu này để ta tự do lấy. Cần bao nhiêu ta chưa biết nhưng hy vọng các ngươi có thể chuẩn bị nhiều một chút.”

Thượng Quan Uyển Nhi nói: “Xem ra ngươi đã sớm biết nguyên nhân gây ra hỏa hoạn ở Thần Đô rồi.”

Bạch Cơ nói: “Hiện tại, ta chỉ biết điều gì đã gây ra hỏa hoạn.”

Thượng Quan Uyển Nhi nói: “Sau khi ta trở về hoàng cung bẩm báo Võ đế, ta sẽ chuẩn bị mọi thứ ngươi cần. Các loại hương liệu ngoài thị trường, chúng ta cũng sẽ ngay lập tức cho Phủ Nội Vụ mua về cung.”

Bạch Cơ cười nói: “Rất tốt.”

Thượng Quan Uyển Nhi hỏi: “Điều kiện thứ hai là gì?”

Bạch Cơ đảo mắt, cười nói: “Điều kiện thứ hai cũng không phải là chuyện lớn, khi ta đi kiểm tra hương liệu tại ba chợ ở Lạc Dương, thấy một bảng cáo thị trên đường Thiên Môn. Trên bảng cáo thị đó đang chiêu mộ kỳ nhân dị sĩ, viết rằng ai có thể giải quyết được hỏa hoạn yêu ma ở Thần Đô sẽ được thưởng vạn lượng vàng, phong làm Thiên Hộ Hầu. Vàng vạn lượng đối với ta là có ích. Nhưng tiếc rằng, Thiên Hộ Hầu* là vinh hoa phú quý của nhân gian, ta không cần đến...”

* Thiên Hộ Hầu: Tước hiệu thời cổ đại. Hầu tước có quyền thu thuế từ hơn một nghìn hộ dân.

Thượng Quan Uyển Nhi hiểu rõ gian thương trước mắt, nói: “Vậy nên, ngươi muốn đổi Thiên Hộ Hầu thành vàng?”

Bạch Cơ lắc đầu, cười nói: “Không phải. Ta muốn Võ đế ban cho ta núi Mang, phong ta làm Thiên Hộ Hầu của núi Mang.”

Thượng Quan Uyển Nhi ngạc nhiên, nói: “Người sống không vào núi Mang, trong núi Mang hầu như không có người sống, toàn là lăng mộ từ các triều đại trước, không thu được thuế gì... Chẳng lẽ ngươi muốn những người chết chôn trong núi Mang hàng năm nộp thuế cho ngươi? Ngươi là loại ma quỷ gì vậy?!”

Mồ hôi lạnh Nguyên Diệu rơi như mưa.

Bạch Cơ cười nói: “Thượng Quan đại nhân nói đùa rồi. Người chết không thể lao động, không có thu nhập làm sao có thuế mà nộp? Ý của ta là, sau khi mọi việc xong xuôi, ta hy vọng Võ Đế có thể dán thông báo trên núi Mang, nói rằng núi Mang của Đại Chu được phong tặng cho ta, ta là chủ nhân của núi Mang. Còn thuế má của những người sống xung quanh núi Mang, ta không thu một xu nào, họ là con dân của Đại Chu, chỉ nộp thuế cho triều đình.”

Thượng Quan Uyển Nhi bình tĩnh lại, nói: “Ngươi chỉ cần một danh nghĩa hư ảo? Điều này có ý nghĩa gì không?”

Bạch Cơ mỉm cười bí ẩn, nói: “Có lẽ có ý nghĩa, có lẽ không có ý nghĩa.”

Thượng Quan Uyển Nhi nói: “Nếu chỉ là một danh nghĩa hư ảo, điều kiện này ta có thể đồng ý trước, phía Võ đế chắc không có vấn đề gì.”

Bạch Cơ cười nói: “Cảm ơn Thượng Quan đại nhân.”

Thượng Quan Uyển Nhi nói: “Từ giờ trở đi, trong Thần Đô không được phép có dân thường bị thương vong vì hỏa hoạn nữa.”

“Không vấn đề gì.” Bạch Cơ cười nói.

Thượng Quan Uyển Nhi bận rộn công vụ, không có thời gian nhàn rỗi, sau khi giao phó xong mọi chuyện bèn cáo từ.

Nguyên Diệu lịch sự tiễn Thượng Quan Uyển Nhi và hai thị vệ ra khỏi ngõ cụt.

Nguyên Diệu trong lòng đầy nghi vấn, cụ thể vụ hỏa hoạn ở Thần Đô là thế nào? Nguyên nhân là gì? Làm sao để xử lý? Bạch Cơ muốn làm Thiên Hộ Hầu của núi Mang lại là vì sao? Bạch Cơ cần các loại hương liệu như nhũ hương, một dược, cam tùng, quế chi là để làm gì?

Nguyên Diệu muốn tìm Bạch Cơ để hỏi những câu hỏi này, giải tỏa nghi ngờ của mình. Nhưng khi trở lại Phiêu Miểu các, trong đại sảnh, phòng trong, sân sau, bếp đều không thấy bóng dáng Bạch Cơ.

Nguyên Diệu bèn lên lầu hai tìm.

Vừa lên đến lầu hai, Nguyên Diệu đã nghe thấy tiếng bước chân từ một căn phòng.

Căn phòng đó mở cửa nhìn vào thì là phòng ngủ của Bạch Cơ.

Nguyên Diệu đứng bên cửa, gõ nhẹ vào cánh cửa mở.

“Bạch Cơ? Ngươi ở trong đó à?”

“Là Hiên Chi à, vào đi.”

Bên trong phòng, vang lên giọng của Bạch Cơ.

Được phép, Nguyên Diệu mới bước chân vào phòng.

Vừa vào cửa, Nguyên Diệu nhìn thấy một bức bình phong bốn cánh làm từ vỏ trai khảm tranh Sơn Hải Đồ. Sơn Hải Đồ được vẽ bằng mực nước, và liên tục thay đổi hình ảnh, đôi khi là biển cả mênh mông vô tận, đôi khi là dãy núi kéo dài bất tận, thỉnh thoảng có những loài thú kỳ lạ chạy nhảy trong rừng rồi lại lập tức biến thành cá lớn kỳ quái bơi lội trong biển cả.

Bức bình phong trên tranh Sơn Hải Đồ mang lại cảm giác như núi và biển luôn tồn tại ở đó, vĩnh hằng không thay đổi và hình ảnh trên bình phong chỉ là ngẫu nhiên từ các góc nhìn khác nhau thể hiện một đoạn nào đó trong núi và biển. Trên bức bình phong đôi khi có làn sương trắng mờ ảo tỏa ra, giống như lư hương, hư ảo và mờ mịt.

Nguyên Diệu vòng qua bức bình phong Sơn Hải Đồ, phát hiện phòng ngủ của Bạch Cơ rộng rãi hơn ở Trường An nhưng vẫn được bài trí rất đơn giản, không có đồ trang trí và bày biện thừa thãi, không giống phòng của một cô nương.

Vì là mùa hè nóng bức, trong phòng đặt một chiếc giường bạch ngọc lạnh giá, gần giường bạch ngọc có một chiếc gương đồng Đan Hạc đứng, một ngọn đèn đồng Quan Âm nghìn tay. Bên cạnh gương đồng là hai cái rương trang điểm tám tầng cổ kính, bên trong chắc hẳn chứa những vật dụng trang điểm thường ngày của Bạch Cơ. Đối diện với giường bạch ngọc, treo hai bức tranh Đan Thanh, một bức là “Cực Lạc Thế Giới Thiên Phật Đồ”, một bức là “Tu La Địa Ngục Vạn Quỷ Đồ”.

Nguyên Diệu chưa kịp nhìn kỹ hai bức tranh, ánh mắt đã bị việc Bạch Cơ đang làm thu hút.

Bạch Cơ đứng giữa phòng, dưới chân là một sa bàn địa hình rộng ba mét vuông. Trên sa bàn là toàn bộ thành Lạc Dương, sông Lạc Hà Thủy chảy ngang qua thành, một trăm mười ba phường như bàn cờ dọc ngang phân bố.

Trên không sa bàn bản đồ, có ánh sáng vàng kim đan xen, bao phủ toàn bộ Thần Đô.

Bạch Cơ đứng trước thành Lạc Dương, cúi đầu nhìn xuống.

Nguyên Diệu rất tò mò hỏi: “Bạch Cơ, đây là bản đồ Thần Đô phải không?”

Bạch Cơ đáp: “Đúng vậy. Ta đã thi triển pháp thuật, nơi nào trong Thần Đô xảy ra hỏa hoạn, trên sa bàn này sẽ xuất hiện ánh lửa, ta sẽ lập tức biết được.”

Nguyên Diệu vô cùng kinh ngạc, nói: “Thượng Quan đại nhân vừa rời đi chưa bao lâu, ngươi đã bày xong sa bàn Thần Đô rồi?”

Bạch Cơ che mặt cười và nói: “Không phải nhanh như vậy đâu, sa bàn này là ta sắp xếp trong những ngày ngươi và Ly Nô đang trên đường tới đây.”

Nguyên Diệu suy nghĩ trong thư rằng Thượng Quan Uyển Nhi còn chưa tới mà Bạch Cơ đã sắp xếp xong sa bàn của Thần Đô rồi?

“Bạch Cơ, dù cho Thượng Quan đại nhân không tới, không có những phần thưởng đó, ngươi cũng sẽ xử lý chuyện hỏa hoạn ở Thần Đô sao?”

Bạch Cơ cười: “Ta vội vàng tới Thần Đô là vì có linh cảm rằng sẽ có chuyện xảy ra ở đây. Khi ta đến thì ra là có thảm họa do yêu quái. Ta không thể không xử lý vụ hỏa hoạn này, vì nếu ngọn lửa phượng hoàng bất tử bùng lên ở chợ Nam, lửa yêu quái làm hỏng kết giới, thiêu rụi Phiêu Miểu các, ta sẽ đau đầu lắm. Dù sao ta phải xử lý hỏa hoạn nhưng dù sao ta cũng là thương nhân, không thể làm không công được. Nếu Thượng Quan đại nhân không tới, ta cũng sẽ đi nhận bảng thưởng của hoàng đế.”

Nguyên Diệu nói: “Phượng hoàng bất tử? Ngọn lửa tái sinh? Bạch Cơ, rốt cuộc chuyện hỏa hoạn ở Thần Đô là thế nào vậy?”

Bạch Cơ đi vòng quanh sa bàn và nói: “Một con phượng hoàng bất tử đã xuất hiện ở Thần Đô, gây ra những vụ hỏa hoạn này. Một khi lông vũ phượng hoàng bất tử rơi xuống đất, gặp gió sẽ cháy, tạo ra ngọn lửa tái sinh, thiêu rụi mọi thứ. Hiện tại đã xảy ra ba vụ hỏa hoạn, lần lượt ở phường Tòng Chính, phường Cung An và phường Đào Hóa. Ngọn lửa tái sinh khó dập tắt hơn lửa thường, một khi phường bốc cháy, lửa sẽ lan rộng, dân cư xung quanh sẽ chịu thiệt hại. Nghe nói, dân chúng đã chết và bị thương không ít, nhiều người mất nhà cửa.”

Nguyên Diệu nghe vậy, trong lòng đầy thương cảm.

“Bạch Cơ, chúng ta phải làm sao để ngăn chặn thảm họa này tiếp diễn?”

Bạch Cơ nói: “Vì là phượng hoàng bất tử gây ra hỏa hoạn nên chúng ta phải bắt lấy phượng hoàng bất tử.”

Nguyên Diệu hỏi: “Làm sao để bắt?”

Bạch Cơ nói: “Trước hết, phải biết phượng hoàng bất tử đang trốn ở đâu.”

Nguyên Diệu nói: “Phượng hoàng bất tử trốn ở đâu thế?”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Hiện tại không có manh mối gì, ta đang chờ vụ hỏa hoạn tiếp theo xảy ra. Nơi lông vũ phượng hoàng bất tử rơi xuống chắc chắn sẽ có dấu vết của nó.”

Nguyên Diệu nhìn sa bàn lấp lánh ánh vàng, phát hiện trong một trăm mười ba phường rất yên bình, không có dấu hiệu gì sắp cháy.

“Bạch Cơ, phượng hoàng bất tử từ đâu tới? Sao ta chưa từng nghe nói về loài chim này? Gần đây ta đang đọc ‘Sơn Hải Kinh’, cũng không thấy có ghi chép về phượng hoàng bất tử.”

Bạch Cơ cười nói: “Phượng hoàng bất tử không phải là sinh vật của Trung Thổ, mà là một sự tồn tại của thế giới đen tối phương Tây.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên: “Vậy sao nó lại xuất hiện ở Thần Đô?”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Ta cũng không biết. Theo lý mà nói, phượng hoàng bất tử không nên xuất hiện ở phương Đông, càng không nên xuất hiện ở những đô thành đông đúc. Theo ghi chép trong cuộn da dê, phượng hoàng bất tử tránh xa thế gian, sống trên những hòn đảo xa xôi rất ít tiếp cận con người. Hơn nữa, theo ghi chép, ngọn lửa của phượng hoàng bất tử có thể thiêu rụi cả một thành trì.”

Nguyên Diệu giật mình, nói: “Đúng là đáng sợ! Dù thế nào, chúng ta phải bắt được phượng hoàng bất tử trước. Đúng rồi, Bạch Cơ, tại sao ngươi lại yêu cầu Thượng Quan đại nhân cung cấp hương trầm, một dược, cam tùng, quế nhục và các loại hương liệu khác thế?”

Bạch Cơ cười bí ẩn: “Bí mật.”

Nguyên Diệu lại hỏi: “Bạch Cơ, tại sao ngươi muốn trở thành Thiên Hộ Hầu của núi Mang?”

Bạch Cơ cười bí ẩn: “Bí mật. Không nói cho Hiên Chi biết.”

Nguyên Diệu bèn châm chọc: “Bạch Cơ không phải thật sự muốn thu thuế từ những người chết ở núi Mang chứ?”

Bạch Cơ cười: “Vậy ta sẽ cử Hiên Chi đi làm việc này. Ngươi có thể đi vào ban đêm, gõ cửa từng ngôi mộ một và nói với họ rằng họ phải nộp thuế, nếu không sẽ không được yên nghỉ ở đây, phải mang quan tài rời đi, xem họ có ăn ngươi không…”

Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh, nói: “Bạch Cơ là ma quỷ đáng sợ đấy à?!”

Bạch Cơ cười khúc khích: “Ta không phải là ma quỷ đáng sợ gì cả, ta chỉ là một thương nhân tốt bụng mà thôi.”

Khóe miệng Nguyên Diệu co giật.

Bạch Cơ tiếp tục ở lại bên cạnh sa bàn, Nguyên Diệu cảm thấy mình ở đây cũng không giúp được gì, hơn nữa trong sảnh còn có một số hàng hóa cần dọn dẹp bèn xuống lầu dọn dẹp hàng hóa.

Ly Nô mang theo một con cá chép lớn và một giỏ hoa quả rau củ, mỉm cười quay trở lại.

“Mọt sách vẫn là cá ở sông Lạc Hà béo. Hôm nay ngươi có phúc rồi, ta sẽ làm cho ngươi một món cá nướng với sữa. Không, cá chép lớn thịt mềm và ngon, nướng vẫn là ngon nhất, ta sẽ làm một món cá nướng với thảo mộc.”

Nguyên Diệu nói: “Đều được. Nhắc đến cá nướng, ta lại nhớ đến hỏa hoạn. Ly Nô lão đệ, Bạch Cơ gần đây muốn bắt phượng hoàng bất tử, không thể thiếu ngươi được.”

Ly Nô cười nói: “Mọt sách yên tâm, bắt chim là nghề cũ của ta. Dù là phượng hoàng bất tử hay chim chết, ta bắt một con là được một con, không con nào chạy thoát.”

Nguyên Diệu nói: “Phượng hoàng bất tử có thể gây ra hỏa hoạn, nghe rất nguy hiểm, Ly Nô lão đệ ngươi vẫn nên cẩn thận, đừng coi thường.”

Ly Nô nghĩ ngợi, nói: “Chim này có thể phun lửa không? Vậy khi bắt chim, có thể mang theo một con cá ướp sẵn, nếu đói có thể dùng lửa chim nướng cá ăn.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh.

Ly Nô vui vẻ đi vào bếp.

Buổi chiều, một thị vệ đã giúp Nguyên Diệu dọn hàng hóa trước đó đến. Hắn nhận lệnh của Võ đế đưa ba thẻ vàng tới, giao cho Bạch Cơ, nói rằng để tiện cho ba người Bạch Cơ ra vào hoàng cung, tiến vào kho nội cung và điều động Kim Ngô Vệ.

Vào lúc hoàng hôn, khi bầu trời đỏ rực ánh chiều tà, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô ngồi ăn cơm trong sân sau.

Trên bàn gỗ hoàng dương, có một đĩa cá nướng thảo mộc, một đĩa rau cần giấm chua, một bát trứng hấp sứa, và món là bún lạnh lá hòe thanh mát giải nhiệt.

Nguyên Diệu vừa ăn cá nướng vừa hỏi: “Bạch Cơ, mấy ngày nay ngươi ăn uống thế nào?”

Bạch Cơ ngẩn ra, đáp: “Dùng miệng ăn chứ sao.”

Ly Nô cười.

Nguyên Diệu nói: “Không phải, ý ta là mấy ngày nay Ly Nô không có ở đây, ngươi không biết nấu ăn, cũng không vào bếp, ngươi giải quyết chuyện ăn uống thế nào? Có bị đói không?”

Bạch Cơ cười tinh quái, nói: “Mấy ngày nay ta đói bụng thì bắt người hoặc phi nhân mà ăn. Ta nghĩ khi đói chỉ cần đứng ngoài ngõ cụt, chờ sinh vật đầu tiên đi qua, dù là người hay phi nhân, đều bắt nó ăn để no.”

Nguyên Diệu há hốc mồm.

Bạch Cơ nhìn thấy vẻ kinh ngạc của Nguyên Diệu, không nhịn được cười.

“Đùa ngươi thôi. Thần Đô có nhiều tiệm ăn, món ngon đầy rẫy, ta làm sao có thể đói được? Nói cho ngươi biết, ở Thần Đô cũng có chi nhánh của Tửu Lâu nằm gần khu phía Nam.”

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Món ngon ở Thần Đô có gì đặc biệt không?”

Bạch Cơ vừa ăn bún lạnh lá hòe vừa nói: “Ẩm thực ở Thần Đô có đặc điểm nổi bật là món canh nấu kiểu Khương và món nướng kiểu Mặc*. Canh Khương thích hợp ăn vào mùa đông, khi cắt thịt cừu, thịt nai, thịt bò thành lát mỏng và nhúng trong nước dùng để ăn. Món nướng kiểu Mặc, vì cách nướng và cắt thịt khác nhau nên thịt mềm và béo hơn thịt cừu nướng ở Trường An. Ngoài ra, món tiệc nước ở Thần Đô cũng rất đặc biệt, dù có hai mươi tư món nhưng ăn ở chùa và ở phủ của các quý tộc lại có hương vị khác nhau.”

*Canh Khương và món nướng kiểu Mặc: “Canh Khương” là món lẩu thịt cừu của dân du mục tộc Khương ở Tây Bắc cổ đại. “Món nướng kiểu Mặc” là món cừu nướng toàn con của tộc Đông Hồ cổ đại. Vì canh Khương và món nướng kiểu Mặc ngon miệng nên sau khi truyền vào Trung Nguyên rất được ưa chuộng, món lẩu là kết quả của phong tục này.

Nguyên Diệu nghe vậy thì nước miếng chảy dài.

Ly Nô thấy vậy, nói: “Mọt sách, đừng nghĩ nhiều. Mấy món đó quá phức tạp, ta không làm được. Mỗi ngày có cá ăn đã là tốt lắm rồi.”

Nguyên Diệu hơi thất vọng.

Bạch Cơ cười tươi định nói gì đó thì đột nhiên sắc mặt thay đổi như cảm nhận được điều gì.

“Không hay rồi! Thần Đô cháy rồi!”

Nguyên Diệu cũng giật mình, không còn tâm trí nghĩ đến món ngon nữa.

Bạch Cơ bỏ đũa đứng dậy.

“Hiên Chi, Ly Nô, các ngươi cứ ăn đi, ta phải đi dập lửa.”

Nói xong, Bạch Cơ biến thành một con rồng trắng, bay lên không trung đi dập lửa.

Nguyên Diệu vẫn chưa kịp phản ứng, cầm bát cơm, ngây ra tại chỗ.

Ly Nô vừa nhét cá nướng vào miệng vừa nói: “Mọt sách còn ngẩn ra làm gì? Mau vào phòng chủ nhân xem sa bàn, xem chỗ nào cháy rồi chúng ta mau đi theo.”

Nguyên Diệu như bừng tỉnh, vội đặt bát cơm xuống, đứng dậy chạy lên lầu hai.

Nguyên Diệu vào phòng của Bạch Cơ, đi qua bình phong Sơn Hải Đồ bèn thấy trên sa bàn của Thần Đô có khói lửa bốc lên.

Nguyên Diệu nhìn kỹ thì thấy là một phường gần sông Lạc Hà bị cháy. Nguyên Diệu không quen thuộc Lạc Dương, không biết đó là chỗ nào bèn nhìn kỹ nhãn trên sa bàn thì ra là phường Thượng Lâm.

Nguyên Diệu vội chạy xuống lầu, chạy ra sân sau.

“Ly Nô, phường Thượng Lâm bị cháy rồi.”

Ly Nô đã hóa thành một con mèo yêu chín đuôi to bằng con hổ. Mèo yêu chín đuôi đứng trong bụi cỏ, miệng còn nhai đuôi cá.

Mèo yêu chín đuôi nuốt đuôi cá, hạ thấp người xuống, nói: “Mọt sách, mau leo lên.”

Nguyên Diệu vội vàng leo lên lưng mèo yêu, ngồi trên đó.

“Ngồi vững nhé.”

Mèo yêu chín đuôi vài cái nhảy vọt bèn bay ra khỏi Phiêu Miểu các, chạy trên tường và mái nhà, về phía đông bắc.

Trống đường đã điểm, trên đường phố vắng vẻ, không có mấy ai. Mèo yêu chín đuôi cõng Nguyên Diệu chạy rất nhanh, không bao lâu đã thấy sông Lạc Hà hiện ra trước mắt.

Phường Thượng Lâm ở bên kia sông Lạc Hà, Nguyên Diệu nhìn qua bờ sông thì thấy trời phía đông bắc mờ mờ có khói bốc lên nhưng không có ánh lửa.

Mèo yêu chín đuôi định qua cầu phao trên sông Lạc Hà, Nguyên Diệu chợt thấy trên không trung có một con chim lửa khổng lồ bay qua.

Đó là một con chim khổng lồ màu vàng đỏ, hình dáng như một con đại bàng khổng lồ, toàn thân phủ đầy lông vũ đỏ tươi, cánh màu vàng kim, và trên lông đuôi rực rỡ có ngọn lửa hư ảo. Trong ánh chiều tà, con chim khổng lồ này giống như một con phượng hoàng tắm trong lửa.

Nguyên Diệu ngạc nhiên: “Ly Nô, trên trời có một con chim lửa giống phượng hoàng…”

Mèo yêu chín đuôi ngẩng đầu nhìn, vui mừng nói: “Mọt sách, cái đó không phải là con chim bất tử mà chủ nhân muốn bắt sao? Ngươi bám chặt vào, chúng ta đi bắt nó!”

Nguyên Diệu trong lòng cảm thấy có hơi không ổn nhưng vẫn ôm chặt lấy Ly Nô.

Mèo yêu chín đuôi dẫm lên mây lành bay lên không trung, cõng theo Nguyên Diệu đuổi theo bóng dáng của con phượng hoàng bất tử chỉ còn lại một ánh lửa.

Mèo yêu chín đuôi lao nhanh trong không trung, Nguyên Diệu chỉ cảm thấy gió rít bên tai, đầu óc quay cuồng.

Đuổi gần đến nơi, mèo yêu chín đuôi phát hiện trên thân hình màu đỏ vàng của phượng hoàng bất tử có một lớp tử khí màu đen bao phủ.

Phượng hoàng bất tử dường như nhận ra có người đang đuổi theo nó, bất ngờ quay đầu lại. Đôi đồng tử của nó đen như đêm nhưng lại u ám vô thần, bên trong có những xoáy nước kỳ lạ đang xoay tròn, trong xoáy nước có bùa chú nổi lên.

Mèo yêu chín đuôi nhe răng, phun ra ngọn lửa màu xanh biếc. Nó định nhảy lên, chộp lấy phượng hoàng bất tử nhưng vừa chuẩn bị dùng sức từ chân sau thì mới nhớ ra trên lưng vẫn đang cõng theo một con người.

Mèo yêu chín đuôi đang do dự không biết có nên cõng theo Nguyên Diệu lao vào hay không thì phượng hoàng bất tử đột nhiên đón gió vỗ cánh, tăng tốc, chỉ một cú lật người đã bay xa.

Mèo yêu chín đuôi nhìn phượng hoàng bay xa, dần dần chỉ còn lại một chấm đỏ, tiếc nuối nói: "Thôi đi! gia mà lao vào, không tránh khỏi phải đánh nhau với con chim đó, không lo được cho cái gã mọt sách này. Gã mà rơi xuống thì coi như xong."

Nguyên Diệu chỉ cảm thấy gió trời thổi vào tai, bốn phía đều trống không, hắn sợ rơi xuống bèn ôm chặt lấy mèo yêu dưới thân, nghe không rõ mèo yêu đang nói gì.

Mèo yêu chín đuôi quay lại theo lối cũ, trở về Sông Lạc Hà đi về hướng Phường Thượng Lâm.

Nguyên Diệu phát hiện, trên không trung của Phường Thượng Lâm, ngay cả khói cũng không còn, chắc chắn lửa yêu đã bị Bạch Cơ dập tắt.

Mèo yêu chín đuôi vừa qua Sông Lạc Hà còn chưa đến Phường Thượng Lâm thì đã thấy bên bờ Sông Lạc Hà có một nữ tử áo trắng đang ở bên nước, dường như đang rửa tay.

"Ồ, đó không phải là chủ nhân sao?"

Ly Nô tinh mắt nhận ra Bạch Cơ bèn không đến Phường Thượng Lâm nữa, quay đầu chạy về phía Bạch Cơ.

Bạch Cơ ngồi bên bờ lau sậy, nàng thò người ra khỏi mặt nước, vốc lên dòng nước trong lành của Sông Lạc Hà rửa tay trái. Trên cánh tay trái của nàng có vài vết bỏng do lửa nhưng sau khi được nước mát của Sông Lạc Hà rửa qua, những vết bỏng này kỳ diệu thay là đã lành lại.

Bạch Cơ thấy Ly Nô cõng Nguyên Diệu đến, cười nói: "Hiên Chi, Ly Nô, sao các ngươi lại đến đây?"

Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ đang rửa vết thương, vội vàng từ trên lưng mèo yêu chín đuôi nhảy xuống, chạy về phía Bạch Cơ.

"Bạch Cơ bị thương sao? Có đau không?"

Mèo yêu chín đuôi bỗng chốc hóa thành một con mèo đen nhỏ, vì đã chạy lâu, có hơi khát nước, nó đi đến bờ Sông Lạc Hà thè lưỡi ra l**m nước uống.

Bạch Cơ vẫy vẫy tay trái, cười nói: "Hiên Chi đừng lo, chỉ là vết thương nhỏ thôi, đã lành rồi. Nếu không phải để cứu một đứa bé bị mắc kẹt trong lửa còn phải chắn lửa để nó không bị thiêu chết thì ta cũng không bị thương đâu."

Chiều tối, trong Phường Thượng Lâm, nhà kho của một gia đình bỗng nhiên bốc cháy, các tòa nhà trong thành Lạc Dương phần lớn là nhà gỗ, lửa trong nháy mắt đã lan đến hàng xóm láng giềng, mọi người đổ xô đi lấy nước dập lửa. Thông thường, lửa gặp nước sẽ tắt nhưng lửa yêu này rất kỳ quái, không dễ dập tắt. Một ngọn lửa bình thường dội một thùng nước là có thể tắt nhưng ngọn lửa yêu này phải dội mấy thùng nước mới có thể dập tắt được phần nào.

Gần đây, trong kinh thành lửa yêu hoành hành, thương vong nghiêm trọng, bách tính đều biết lửa yêu kỳ quái, khó dập tắt nên không nhiệt tình dập lửa, chỉ lo chạy trốn. Có người tiếc của bất chấp lửa lớn, lộn xộn thu dọn đồ đạc nhưng chưa kịp thu dọn xong, lửa yêu đã thiêu rụi ngôi nhà.

Lửa bùng lên, mọi người tuyệt vọng, chỉ thấy một con rồng trắng vân du xuất hiện trên không trung.

Rồng trắng thân hình uyển chuyển, râu bờm dựng ngược, nó tung hoành trên ngọn lửa yêu hung tàn, lượn quanh trên không trung Phường Thượng Lâm.

Trên không trung Sông Lạc Hà, nổi lên những đợt sóng cuộn trào, tạo thành một luồng nước mạnh mẽ như cơn bão, cuốn về phía ngọn lửa lớn ở Phường Thượng Lâm. Mặc dù ngọn lửa trong phường rất lớn nhưng không bằng sức mạnh của nước cuộn trào từ Sông Lạc Hà, ngọn lửa dần dần bị áp chế rồi từ từ tắt ngấm.

"Òa òa... Òa òa òa..."

Một đứa trẻ nằm trong nôi khóc thét.

Trong căn phòng nơi đứa trẻ đang nằm đã bốc cháy, ngọn lửa sắp lan đến nôi.

Nương của đứa trẻ bị lửa ngăn cách ở sân đã đổ sụp, bà muốn lao vào ngọn lửa dữ dội để cứu con nhưng những người hàng xóm lo lắng cho an toàn của bà, sợ rằng cả hai nương con sẽ chết, đã khuyên can và giữ bà lại.

Tiếng khóc xé lòng của đứa trẻ và những giọt nước mắt tuyệt vọng của mẫu thân bị ngọn lửa yêu tàn nhẫn ngăn cách.

Rồng trắng lượn quanh trên không, đôi mắt vàng rực sáng, nó nhìn thấy dưới đất trong ngọn lửa chưa tắt vẫn còn một đứa trẻ đang khóc bèn gầm lên một tiếng, lao vào ngọn lửa.

Rồng trắng xé toang mái nhà, đẩy đổ tường, nó nhấc đứa trẻ đang khóc thét ra khỏi cái nôi đang cháy, vì sợ quá mạnh tay sẽ làm đứa trẻ chết, nó hành động rất nhẹ nhàng, suýt chút nữa thì làm rơi mất. Rồng trắng che chở đứa trẻ bay ra khỏi ngọn lửa yêu, để bảo vệ đứa trẻ khỏi bị lửa thiêu đốt, ngọn lửa niết bàn đã thiêu đốt bàn chân rồng.

Rồng trắng mang đứa trẻ đang khóc ra khỏi biển lửa, nhẹ nhàng đặt trước mặt mẫu thân.

Một con rồng trắng khổng lồ xuất hiện ngay trước mắt, gần trong gang tấc, mọi người vừa kinh ngạc vừa sợ hãi.

Rồng trắng đặt đứa trẻ xuống rồi bay lên trời.

Mẫu thân ôm lấy đứa trẻ, ngừng rơi nước mắt, trong lòng biết ơn, cúi lạy nói: "Cảm ơn long thần..."

Mọi người bừng tỉnh từ trong kinh ngạc, cũng vội vàng cúi lạy, nói: "Cảm ơn long thần đại nhân hiển linh dập lửa..."

Rồng trắng lượn một vòng quanh Phường Thượng Lâm thì thấy lửa yêu cơ bản đã tắt bèn rời đi.

Bạch Cơ nói: "Ngọn lửa niết bàn bùng lên rất nhanh, dập tắt cũng rất khó, may mà ta đến kịp, không có tổn thương gì."

Nguyên Diệu thầm cảm thán, nói: "Bạch Cơ vì cứu đứa trẻ mà không tiếc thân mình bị thương, thật khiến người ta cảm phục. Nàng đúng là một người tốt bụng!"

Bạch Cơ cười khúc khích, nói: "Ta đâu phải người tốt gì! Ta chỉ làm nhiệm vụ thôi. Trẻ sơ sinh cũng là người, lỡ bị thiêu chết, Thượng Quan đại nhân sẽ lấy cớ này để trừ thưởng của ta."

Nguyên Diệu lạnh toát mồ hôi.

Bạch Cơ nói: "Mải lo dập lửa cứu người, bận rộn cả buổi, ta chẳng nhìn thấy một chiếc lông của chim bất tử nào."

Ly Nô nghe thấy, nói: "Chủ nhân vừa rồi Ly Nô và thư sinh thấy một con chim lửa giống phượng hoàng bay qua ở cầu nổi nhìn hướng là từ Phường Thượng Lâm bay tới, chắc là chim bất tử rồi. Chúng ta còn đuổi theo, Ly Nô lao tới, suýt chút nữa là bắt được nó."

Nguyên Diệu ngẩn ra, nói: "Ly Nô lão đệ thực ra có lao tới đâu? Ngươi đuổi theo con chim lửa một đoạn, nó bèn dang cánh bay xa, chúng ta đành quay về."

Mèo đen nói: “Mọt sách lắm lời quá. Chủ nhân là như thế này, Ly Nô vốn định lao tới bắt chim bất tử nhưng đột nhiên nhớ ra trên lưng còn chở theo mọt sách lắm lời này, lo rằng lao tới sẽ đánh nhau với chim bất tử làm mất mọt sách. Vậy nên Ly Nô không lao lên. Biết thế thì đã để mọt sách lại ở cầu nổi, Ly Nô một mình đuổi theo chim bất tử, có khi đã bắt được nó rồi."

Bạch Cơ nhìn vào tay trái mình, nói: "Ly Nô, may mà ngươi không liều lao tới, ngọn lửa tái sinh của chim bất tử có thể thiêu cháy giáp rồng của ta, ngươi không chống đỡ nổi sẽ bị thương đấy."

Mèo đen kinh ngạc, nói: "Con chim quái này lợi hại vậy sao?"

Bạch Cơ im lặng.

Ly Nô lại nói: "Chủ nhân, Ly Nô nhìn gần, phát hiện chim bất tử có điều kỳ lạ."

Bạch Cơ hỏi: "Kỳ lạ gì?"

Ly Nô nói: "Chim bất tử có vẻ bị dính lời nguyền của con người, toàn thân nó tỏa ra khí đen, trong mắt có xoáy bùa chú như bị lời nguyền khống chế."

Bạch Cơ hỏi: "Ly Nô nhìn rõ đó là loại lời nguyền nào không? Chú ngữ của Phật môn? Phong ấn của Đạo gia? Hay là chú ngải?"

Ly Nô hồi tưởng một lúc, gãi đầu khó khăn nói: "Chủ nhân, Ly Nô tuy là yêu quái nhưng không phân biệt được những loại thuật phức tạp của con người, hơn nữa lúc đó chỉ đối diện trong thoáng chốc, Ly Nô cũng nhìn không rõ, không biết là loại gì..."

Bạch Cơ không hỏi thêm, chỉ lẩm bẩm: "Nếu chim bất tử thực sự bị lời nguyền của con người khống chế, chuyện lửa yêu ở Thần Đô này trở nên phức tạp rồi."

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Sao Bạch Cơ lại nói vậy?"

Bạch Cơ nói: "d*c v*ng của con người, giải quyết càng phức tạp và rắc rối. Ta đại khái đoán được một chút. Nếu đúng như vậy, lòng người thực không đáng tin, vì tham vọng và quyền lực, hoặc chỉ để trút giận, mà không tiếc làm hại dân chúng vô tội của mình."

Nguyên Diệu trong lòng rối bời.

Bạch Cơ đứng bên bờ sông Lạc Hà nhìn ánh sáng lấp lánh trên mặt nước, nói: "Hiên Chi, phong ba máu tanh ở Thần Đô mới chỉ bắt đầu, một vạn lượng vàng và chức quan Thiên Hộ Hầu này rất nóng tay! Thôi, về Phiêu Miểu các trước đã."

Trăng lên trên sông Lạc Hà, gió đêm mát dịu, Ly Nô định biến thành yêu quái chín đuôi, chở Bạch Cơ và Nguyên Diệu trở về.

Bạch Cơ thấy ánh trăng bên bờ sông Lạc Hà đẹp bèn đề nghị đi dọc theo bờ sông một đoạn, tới phường Từ Huệ rồi dùng yêu quái chín đuôi trở về Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu đi dọc bờ sông, mèo đen nhảy nhót trong bụi cỏ, bắt côn trùng kêu.

Nguyên Diệu hỏi: "Bạch Cơ dập lửa thế nào vậy?"

Bạch Cơ ngẩn ra, nói: "Dùng nước dập lửa chứ sao."

Nguyên Diệu nói: "Ý ta là ngươi phun nước dập lửa à? Hay là cầu mưa? Tục ngữ nói, rồng làm mưa, hổ làm gió. Ta đến muộn, không thấy ngươi dập lửa thế nào nên có hơi tò mò..."

Bạch Cơ cười, nói: "Hiên Chi, rồng làm mưa, hổ làm gió, chỉ là cách nói thôi, không thể tin là thật. Rồng không phải sinh ra đã biết làm mưa, cũng không phải sinh ra đã biết phun nước, những thứ đó đều phải luyện pháp thuật sau này. Rồng muốn làm mưa, phải học thuật cầu mưa và hạ mưa. Rồng muốn phun nước, phải học thuật hấp thụ trong bình, ra sông hoặc biển uống đủ lượng nước. Vừa rồi ta không kịp uống nước, càng không kịp bày trận cầu mưa nên dùng thuật gió cuốn nước sông Lạc Hà để dập lửa."

Nguyên Diệu nói: "Thì ra là vậy."

Bạch Cơ cười ranh mãnh, nói: "May mà, Phường Thượng Lâm ở cạnh sông Lạc Hà, nếu chỗ xảy ra cháy xa sông Lạc Hà, gần đó không có nguồn nước thì hỏng rồi."

Nguyên Diệu lo lắng, nói: "Nếu chỗ xảy ra cháy không ở cạnh sông Lạc Hà thì phải làm sao? Dù sao, nơi tiếp theo xảy ra cháy cũng chưa biết ở đâu."

Bạch Cơ buồn bã, nói: "Xem ra, chỉ có thể ta phải uống nhiều nước hơn. Ôi trời, uống nhiều nước, bụng căng tròn cả rồi, thật khó chịu."

Nguyên Diệu lo lắng Bạch Cơ uống nhiều nước sẽ khó chịu nhưng nghĩ lại, nói: "Bạch Cơ lại đang đùa ta, Thần Đô này, giao thông vận chuyển bằng thuyền thuận tiện, nhiều phường phố có nguồn nước. Dù không có nguồn nước, chỉ cần có dân cư, chắc chắn sẽ có giếng nước, ngươi không cần uống nước..."

Bạch Cơ cười, nói: "Ha ha, Hiên Chi hình như trở nên thông minh hơn rồi, đùa không vui được nữa."

Nguyên Diệu giận dữ nói: "Bạch Cơ, đừng xem ta là đồ ngốc!"

Bạch Cơ cười, nói: "Hì hì, trăng đẹp thế này, Hiên Chi đừng giận mà."
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 3


Phiêu Miểu các, bên trong.

Mùa hạ tuy nóng bức nhưng thỉnh thoảng cũng có làn gió nhẹ thổi qua, rèm trúc lay động, hương sen ngào ngạt khắp phòng.

Nguyên Diệu ngồi một mình bên cạnh bàn đá xanh, chống cằm thẫn thờ. Từ cửa sổ nhìn ra sân sau, có thể thấy Ly Nô đang ngồi bên giếng cổ, thả một quả dưa hấu to màu xanh vào thùng nước, sau đó ngâm thùng nước vào dòng nước lạnh của giếng.

Dưới gốc cây Bồ Đề, Bạch Cơ đang ngồi thiền, nhắm mắt tĩnh tâm.

Đã ba ngày trôi qua kể từ vụ cháy ở phường Thượng Lâm. Trong ba ngày này, mọi thứ yên bình, Thần Đô không xảy ra chuyện gì. Về tung tích của phượng hoàng bất tử, Bạch Cơ không có manh mối gì nhưng cũng không vội vàng, chỉ quan sát và chờ đợi. Trong ba ngày này, Bạch Cơ đã viết vài bức thư, người giấy đưa ra ngoài là gửi cho Thượng Quan Uyển Nhi còn hạc giấy thì không rõ gửi cho ai, chỉ thấy nó bay về hướng tây nam. Người giấy mang về thư trả lời của Thượng Quan Uyển Nhi còn hạc giấy đến giờ vẫn chưa trở về.

Trong ba ngày này, Nguyên Diệu cũng dần quen với tòa Phiêu Miểu các ở Lạc Dương. Đôi khi không có việc gì, hắn ra ngoài dạo quanh khu chợ Nam để làm quen với môi trường nơi này.

Nguyên Diệu đang thẫn thờ thì bỗng nhìn thấy trên bầu trời sân sau có một điểm sáng vàng.

Bạch Cơ đang ngồi thiền dưới gốc cây Bồ Đề bất chợt mở mắt ra.

Ánh sáng vàng bay vào Phiêu Miểu các thì ra là một con hạc giấy.

Hạc giấy bay một vòng quanh sân sau rồi bay về phía Bạch Cơ.

Bạch Cơ đưa tay ra, hạc giấy bèn đậu lên tay nàng.

Hạc giấy ngậm một ống thư bằng tre, rồi thả ống thư xuống lòng bàn tay của Bạch Cơ.

Hoàn thành nhiệm vụ, hạc giấy bèn rũ xuống, trở thành một đống giấy cũ đã bị gió mưa tàn phá, trở nên vàng úa.

Bạch Cơ lấy một bức thư ra.

Bạch Cơ mở thư, đọc xong thì phì cười.

Bạch Cơ đứng dậy, từ bên kia ao sen thất bảo, nói với Nguyên Diệu: “Hiên Chi, chúng ta ra ngoài đi dạo nhé.”

Nguyên Diệu hỏi: “Trời nóng thế này, đi đâu vậy?”

Bạch Cơ cười nói: “Hoàng cung.”

Nguyên Diệu tò mò về hoàng cung Lạc Dương trông như thế nào bèn đồng ý: “Được thôi.”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu ra ngoài, đi dọc theo sông Lạc Hà. Mùa hè, bờ sông Lạc Hà rợp bóng liễu, nước xanh mướt, thỉnh thoảng có làn gió mát thổi qua làm xua tan cái nóng, chỉ cảm thấy mát mẻ, dễ chịu.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, chúng ta đến hoàng cung làm gì thế?”

Bạch Cơ cười nói: “Đi làm một số việc.”

“Làm gì cơ?”

“Đến hoàng cung rồi Hiên Chi sẽ biết.”

“Bạch Cơ, vừa nãy hạc giấy mang đến thư của ai vậy?”

Bạch Cơ cười nói: “Quang Tạng Quốc Sư.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Quang Tạng Quốc Sư nói gì?”

Bạch Cơ cười nói: “Quang Tạng Quốc Sư đồng ý cho ta mượn Thượng Thanh quán của ông ấy.”

“Thượng Thanh quán ở đâu thế? Ngươi muốn dùng Thượng Thanh quán để làm gì?”

Bạch Cơ cười tươi nói: “Thượng Thanh quán ở góc đông bắc của hoàng cung. Ta muốn bố trí một cái bẫy ở Thượng Thanh quán để bắt chim.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bắt phượng hoàng bất tử ư?”

Bạch Cơ cười nói: “Đúng vậy. Ta định tìm một chỗ trống trong Thần Đô để đặt bẫy bắt phượng hoàng bất tử nhưng lửa của phượng hoàng bất tử rất mạnh, nếu không kiểm soát được sẽ gây hại cho người dân vô tội. Võ đế yêu cầu không để dân chúng bị thương vong, ta xem bản đồ, chỉ có trong hoàng cung là không có dân chúng thôi, nên nghĩ chi bằng bắt chim ở trong hoàng cung, nếu có cháy thì cháy hoàng cung thôi.”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh, nói: “Bạch Cơ như vậy... có vẻ không ổn lắm?! Nếu muốn tìm một nơi không có người, phía bắc thành ngoại, ở núi Mang không phải rất phù hợp sao?”

Bạch Cơ trầm ngâm, nói: “Từ tình hình cháy trước đó, ta không nghĩ con phượng hoàng bất tử bị con người kiểm soát này có thể bay ra khỏi Thần Đô, bay đến núi Mang rất có khả năng, nó bị mắc kẹt, chỉ có thể hoạt động trong thành.”

“Hả?!”

Nguyên Diệu có hơi ngạc nhiên.

Bạch Cơ cười tươi nói: “Quan trọng hơn, ta là Thiên Hộ Hầu của núi Mang. Nếu phải chọn giữa hoàng cung và núi Mang, ta vẫn chọn lấy hoàng cung làm thử nghiệm.”

Nguyên Diệu không biết nói gì thêm.

Bạch Cơ lại nói: “Tất nhiên để bắt phượng hoàng bất tử không cần cả hoàng cung, ta chỉ cần một nơi phù hợp. Theo ngũ hành tương sinh tương khắc, Thượng Thanh quán nằm ở vị trí lý tưởng để bắt chim. Dù Võ đế có đồng ý, cũng cần thông báo trước với Quang Tạng Quốc Sư, tránh ông ta không nói gì mà tức giận trong lòng. Nếu ông ta tức giận không mọc tóc mày lại trách ta, sau này lại tìm cơ hội gây khó dễ cho ta.”

Nguyên Diệu cười nói: “Hóa ra, hạc giấy bay đến Dương Châu để gửi thư cho Quang Tạng Quốc Sư. Ông ta đồng ý chưa?”

“Đồng ý rồi. Thư nói ông ta đã dùng bùa bay trở về Thượng Thanh quán, truyền lệnh cho đệ tử. Thượng Thanh quán ta có thể sử dụng tùy ý, đạo sĩ trong Thượng Thanh quán ta có thể sai bảo, và ngay cả nếu đốt cháy Thượng Thanh quán, cũng không sao.”

Nguyên Diệu cảm thán nói: “Quang Tạng Quốc Sư đúng là hiểu biết rộng rãi.”

Bạch Cơ cười nói: “Hiểu biết rộng rãi gì, rõ ràng là gian xảo.”

Nguyên Diệu thắc mắc, nói: “Nói vậy nghĩa là sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Quang Tạng Quốc Sư đã sớm biết rằng Thần Đô cháy là do phượng hoàng bất tử còn phượng hoàng bất tử tại sao lại liên tục gây ra cháy trong Thần Đô, ông ta có lẽ cũng đoán được. Vì vậy ông ta ẩn mình ở Dương Châu không trở về, giao việc khó khăn này cho ta làm. Dù sao ông ta là con người, sư phụ của ông ta từng là thần tử của Đại Đường, được nhận ân huệ từ nhà Lý. Ông ta có nhiều điều phải lo lắng và khó xử. Ông ta muốn trung thành với Võ đế, chỉ có thể chọn cách thỏa hiệp. Còn ta là phi nhân, không có quan hệ với con người, không có quá khứ hay tương lai với con người, không có gì phải bận tâm.”

Nguyên Diệu nghe không hiểu, nói: “Tiểu sinh... không hiểu...”

Bạch Cơ nói: “Sau này Hiên Chi sẽ hiểu.”

Nguyên Diệu lại hỏi: “Bạch Cơ, bẫy bắt phượng hoàng bất tử là gì?”

Bạch Cơ cười nói: “Bẫy tất nhiên là phải dùng thức ăn hoặc sở thích của con mồi làm mồi nhử rồi. Phượng hoàng bất tử ăn nhựa thơm, thích thu thập các loại hương liệu như quế, cam tùng, một dược. Ta định dùng bốn loại hương liệu này để bố trí bẫy ở Thượng Thanh quán, dụ phượng hoàng bất tử xuất hiện.”

Nguyên Diệu nghi ngờ hỏi: “Bẫy như vậy có hiệu quả không?”

Bạch Cơ cười nói: “Thử một lần sẽ biết.”

*

Bạch Cơ và Nguyên Diệu vừa trò chuyện vừa đi dạo, không hay đã đến cầu Tân Trung.

Nguyên Diệu nhìn về phía bắc, không khỏi ngẩn người. Tuy còn cách hoàng cung một đoạn nhưng đã có thể mơ hồ thấy được những kiến trúc nối tiếp nhau trong hoàng cung.

Nguyên Diệu đầu tiên thấy hai tòa nhà tròn cao ngất, khí thế hùng vĩ, đứng sừng sững dưới bầu trời như phượng sắt bay lên mây, rồng vàng ẩn trong sương mù.

Nguyên Diệu cảm thán: “Bạch Cơ, hoàng cung Lạc Dương này còn tráng lệ hơn hoàng cung Trường An!”

Bạch Cơ nói: “Tử Vi Cung này… không, bây giờ được Võ đế đổi tên thành Thái Sơ Cung, quy mô còn lớn và hoa lệ hơn Đại Minh Cung ở Trường An,. Hiên Chi nhìn thấy là Vạn Tượng Thần Cung và Thiên Đường. Vạn Tượng Thần Cung trước đây là điện Càn Nguyên, Võ đế không tiếc nhân lực tài sản, dỡ bỏ nó để xây thành Vạn Tượng Thần Cung. Thiên Đường cao hơn Vạn Tượng Thần Cung là nơi cao nhất trong thành Lạc Dương nhưng phía sau Thiên Đường, trên đỉnh núi Mang có ngọn núi Thúy Vân mới là nơi cao nhất Lạc Dương, cũng là nơi ngắm toàn cảnh Thần Đô tốt nhất.”

Nguyên Diệu xúc động, chỉ biết gật đầu.

Bạch Cơ cười nói: “Cổng thành tráng lệ nhất Thái Sơ Cung là Ứng Thiên Môn, có tòa nhà năm phượng, hai tầng quan, ba cửa là nơi tiếp đón các quốc gia đến chầu. Hôm nay, ta không dẫn Hiên Chi đi xem, chúng ta sẽ đến Hàn Gia Thương* và Đông Cung, đi từ cửa Thừa Phúc sẽ tiện hơn.”

*Hàn Gia Thương: Kho lương lớn nhất của nhà Tùy ở Lạc Dương, diện tích khai quật khảo cổ hơn 40 vạn mét vuông, có hàng trăm hầm chứa. Hầm có đường kính lớn nhất lên tới 18 mét, sâu nhất tới 12 mét. Thời Tùy và Đường, khi vùng Quan Trung gặp thiên tai, triều đình sẽ chuyển đến Lạc Dương vì nơi này có nguồn lương thực phong phú. Võ Tắc Thiên ở Lạc Dương và định đô Đại Chu ở Thần Đô cũng vì Lạc Dương có Hàn Gia Thương, lương thực dồi dào.

Nguyên Diệu gật đầu.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến trước cửa Thừa Phúc, trình thẻ vàng thông hành cho lính gác cổng. Thẻ vàng này có vẻ nặng hơn so với thẻ ra vào cung thông thường, một lính vội vàng báo cáo lên cấp trên.

Không lâu sau, một chiếc xe có mái che dừng lại sau Cổng Thừa Phúc. Xe được bốn nam nhân khỏe mạnh khiêng, bên cạnh có một trưởng quân cấm vệ.

Nguyên Diệu không rõ về cấm quân trong cung, không nhận ra trưởng quân này thuộc đơn vị nào trong mười sáu vệ của Nam Nha nhưng chắc chắn không phải là Kim Ngô Vệ.

Trưởng quân cấm vệ nói: “Hai vị đại nhân, mời lên xe, Cao công công đang chờ ở cổng Hàn Gia.”

Bạch Cơ nhướng mày, nói: “Cao công công? Thượng Quan đại nhân đâu? Sao nàng ấy không tự đến?”

Trưởng quân cấm vệ nói: “Chúng ta không biết, chỉ làm theo lệnh.”

Bạch Cơ lên xe, Nguyên Diệu do dự một lúc rồi mới run rẩy bước lên.

Trong hoàng cung, xe là phương tiện đi lại cao cấp nhất, chỉ có hoàng đế mới được ngồi, hoàng hậu và thái hậu thì ngồi xe, phi tần chỉ được ngồi kiệu.

Xe được bốn người khiêng đi trong thành Đông. Nơi xe đi qua, những người rảnh rỗi đều cúi đầu tránh né.

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Bạch Cơ, Cao công công là ai?”

Bạch Cơ lộ ra một vẻ kỳ lạ, im lặng một lúc rồi nói: “… là một người kỳ lạ.”

Nguyên Diệu tò mò, nói: “Ý ngươi là sao?”

Bạch Cơ nói: “Cao công công tên là Cao Diên Phúc, là tổng quản đại nội của Thái Sơ Cung. Khi Võ đế còn là hoàng hậu, ông ta đã theo bà, luôn được bà yêu mến.”

Nguyên Diệu vẫn không hiểu, nói: “Tại sao ngươi nói ông ta là một người kỳ lạ? kỳ lạ ở chỗ nào?”

Bạch Cơ nói: “Lát nữa gặp Hiên Chi sẽ biết.”

Xe gần đến cổng Hàn Gia, Nguyên Diệu từ xa đã thấy một thái giám gầy gò trong bộ y phục màu tím đứng ủ rũ dưới cổng thành. Sau lưng ông ta còn có hai thái giám trẻ tuổi.

Thái giám mặc áo tím đã hơn năm mươi tuổi, mặc áo tròn cổ tím, đầu đội khăn, tay cầm phất trần. Ông ta gầy, có đôi lông mày hình chữ bát, trông buồn rầu. Ánh mắt ông ta trống rỗng như đã mất hết hy vọng vào thế gian, chỉ miễn cưỡng sống.

Cao công công thấy xe dừng lại bèn bước tới.

“Bạch Cơ đại nhân, lâu rồi không gặp.”

Bạch Cơ xuống xe, cười nói: “Cao công công, ông vẫn ủ rũ thế này.”

Cao công công với đôi lông mày cụp xuống, nói: “Lão nô ngày nào cũng sống u uất thế này, đã quen rồi, chỉ chờ chết thôi. Hôm nay trời nóng, Võ đế còn giao việc cho lão nô, đúng là khiến người ta cảm thấy càng u uất.”

Bạch Cơ cười nói: “Cố gắng chịu đựng, biết đâu mai là chết rồi.”

Cao công công nói: “Nghe vậy càng khiến người ta u uất hơn.”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh.

Cao công công nhìn Nguyên Diệu, nói: “Bạch Cơ, thiếu niên này là ai? Là người mới ở Phiêu Miểu các hay là phu quân mới của ngươi?”

Bạch Cơ cười nói: “Là người mới.”

Nguyên Diệu vội cúi đầu, nói: “Tiểu sinh họ Nguyên, tên Diệu, tự Hiên Chi. Chào Cao công công.”

Cao công công liếc nhìn Nguyên Diệu, nói: “Trông cũng u uất, hợp với lão nô đấy.”

“À, cảm ơn Cao công công.”

Nguyên Diệu nói.

Cao công công nói: “Võ đế và Thượng Quan đại nhân hôm nay tiếp đón sứ giả ngoại bang ở Vạn Tượng Thần Cung, họ không thể rời đi nên lão nô đến để hỗ trợ.”

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công, trong kho nội có bao nhiêu nhựa thơm, quế, cam tùng và một dược không?”

Cao công công hỏi ngược lại: “Ngài cần bao nhiêu?”

Bạch Cơ nói: “Càng nhiều càng tốt. Ông cho người chuyển toàn bộ nhựa thơm, quế, cam tùng và một dược trong kho đến Thượng Thanh quán.”

Cao công công buồn rầu nói: “Thượng Thanh quán? Quang Tạng quốc sư không có ở đó, các đệ tử của ông ấy thường kiêu ngạo chỉ nghe lời sư phụ. Lão nô đem hương liệu đến đó e rằng sẽ bị ném ra ngoài.”

Bạch Cơ cười nói: “Không sao. Ta đã nói trước với Quang Tạng quốc sư rồi, ông chỉ cần làm việc là được.”

“Được thôi.”

Cao công công vẫy tay, một tiểu thái giám bước tới.

Cao công công bèn truyền lệnh như Bạch Cơ nói.

Tiểu thái giám nhận lệnh rời đi.

Cao công công nói: “Trời nắng gắt quá, nóng đến mức làm người ta chán nản. Bạch Cơ đại nhân, việc nặng nhọc cứ để cấm vệ quân làm, chúng ta đến Điện Phì Hương nghỉ ngơi, uống một chén trà đá nhé.”

“Được thôi.”

Bạch Cơ cười tươi nói.

*

Điện Phì Hương ở phía tây Đông Cung, phía nam Hàn Gia Thương, gần Thượng Thanh quán.

Điện Phì Hương có hành lang uốn lượn, mái hiên cao vút, tường cung leo đầy hoa hồng, trung tâm trang trí hoa tú cầu.

Điện Phì Hương bốn bề thông thoáng, tuy vẫn còn nóng nực nhưng mát mẻ hơn bên ngoài nhiều.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Cao công công ngồi trong Điện Phì Hương, tiểu thái giám mang trà lạnh và các món điểm tâm cung đình lên.

Nguyên Diệu uống một ngụm trà lạnh, cảm giác mát lạnh làm dịu đi khát nước và nóng nực như thoát khỏi lò lửa, sống rồi.

Cao công công uống một ngụm trà lạnh vẫn chán nản.

Bạch Cơ nói: “Cao công công, Võ đế đổi triều xưng đế, không tránh khỏi có cựu thần Lý Đường phản đối, ai phản đối mạnh nhất?”

Cao công công buồn rầu nói: “Bạch Cơ đại nhân, đây không phải chuyện ngài nên lo lắng.”

Bạch Cơ cười nói: “Ta cũng không muốn lo lắng, chỉ vì nhận nhiệm vụ diệt lửa yêu ở Thần Đô nên phải lo. Lửa yêu chỉ là bề ngoài, lòng người mới là căn nguyên của tai họa, phải trị tận gốc mới được.”

Cao công công nghe xong, càng chán nản hơn.

“Hóa ra, lửa yêu là do họ gây ra… Lần này Võ đế nổi giận, chắc sẽ có nhiều oan hồn nữa ở Liễn Tỉnh Môn* lại có thêm nhiều hoàng tử họ Lý mất mạng.”

* Liễn Tỉnh Môn: cổng thành ở Lạc Dương, nơi hành quyết tội phạm.

Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh.

Bạch Cơ nói: “Nếu tìm ra kẻ đầu sỏ, có thể sẽ ít người chết hơn.”

Cao công công buồn rầu nói: “hết ít chết nhiều đều là chết, chết sớm hay muộn cũng là chết, cũng không khác gì.”

Nguyên Diệu không nhịn được nói: “Cao công công, điều này… vẫn có sự khác biệt.”

Cao công công buồn rầu nói: “Ngươi còn trẻ, khi ngươi đến tuổi lão nô, trải qua nhiều chuyện đời sẽ biết thế giới này không thể thay đổi. Nam nhân không được, nữ nhân cũng không được…”

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Vậy ai được?”

Cao công công nói: “Thái giám chúng ta được làm thái giám rồi nhìn thế giới khác đi, siêu thoát khỏi vạn vật. Trong sự chán nản, miễn cưỡng có một chút sinh cơ. Thế giới này sớm muộn gì cũng là của thái giám chúng ta. Ngươi có muốn tịnh thân làm thái giám không? Lão nô đang thiếu một đệ tử có duyên kế thừa.”

Bạch Cơ che mặt cười.

Nguyên Diệu sợ hãi, vội xua tay nói: “À, cảm ơn Cao công công đã để mắt, tiểu sinh tài hèn sức mọn, không gánh nổi trọng trách này.”

Cao công công chán nản, nói: “Ngươi phản ứng giống hệt người trong tộc của lão nô. Các ngươi không hiểu được cái tốt của việc làm thái giám.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Cao công công, người trong tộc của ngài sao rồi?”

Cao công công buồn rầu nói: “Lão nô được Võ đế ưu ái, trở thành tổng quản đại nội, mặc áo tím, đứng trên hàng tam phẩm, cũng coi như rạng rỡ tổ tiên. Người trong tộc lão nô thấy vậy, cũng muốn vinh hoa phú quý tìm đến nhờ cậy. Lão nô thấy họ còn chí tiến thủ trong thế giới chán nản này rất vui mừng bèn sắp xếp cho huynh đệ cháu chắt tịnh thân vào cung, mong họ có thể làm rạng rỡ dòng họ, lưu danh sử sách. Kết quả huynh đệ cháu chắt đều trốn về quê ngay trong đêm, nói lão nô là bất hiếu muốn tuyệt diệt dòng họ Cao còn xúi giục tộc trưởng loại bỏ lão nô khỏi gia phả. Lão nô vì tương lai của tộc mà lo lắng, họ không những không cảm kích còn báo oán, đúng là vô tâm làm người ta chán nản.”

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công, hay là ông nhận ta làm đệ tử nhé. Làm thái giám chắc thú vị lắm.”

Nguyên Diệu phun ra một ngụm trà đá.

Cao công công có hơi khó xử, nói: “Bạch Cơ đại nhân, nữ nhân không thể làm thái giám, chưa có tiền lệ.”

Bạch Cơ cười nói: “Nữ nhân còn có thể làm hoàng đế, tại sao không thể làm thái giám? Chưa có tiền lệ không có nghĩa là không thể thực hiện.”

Cao công công nói: “Vậy… lão nô sẽ suy nghĩ, tìm hiểu tài liệu lịch sử rồi sẽ trả lời ngài sau.”

“Được thôi.”

Bạch Cơ cười nói.

Nguyên Diệu muốn nói gì đó nhưng lại không thốt nên lời.

Bạch Cơ nhìn về phía đông, vị trí của Đông Cung, dưới bầu trời xanh mây trắng, lộ ra một góc mái cung điện.

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công, bây giờ ai đang sống ở Đông Cung?”

Cao công công nói: “Đông Cung, tất nhiên là Thái tử đang ở.”

Bạch Cơ cười nói: “Ai là Thái tử?”

Cao công công nói: “Hoàng tử thứ tư, Đán.”

Lý Đán là con trai thứ tư của Võ Tắc Thiên, sau khi Đường Cao Tông băng hà, ông lên ngôi hoàng đế nhưng quyền chính bị nương ông nắm giữ, không có thực quyền. Khi Võ Tắc Thiên xưng đế, Lý Đán bị giáng xuống làm hoàng tử, sống ở Đông Cung.

“Ồ.”

Bạch Cơ như có điều suy nghĩ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Cao công công trò chuyện một lát, một vệ binh tới báo cáo rằng hương liệu đã chuyển xong.

Bạch Cơ đứng dậy, cười nói: “Đi, chúng ta đi Thượng Thanh quán xem sao.”

Nguyên Diệu đặt chén trà xuống, đứng dậy.

Cao công công buồn rầu nói: “Trời nóng quá, chẳng muốn động đậy, đúng là chán nản.”

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Cao công công rời khỏi Điện Phì Hương, đi tới Thượng Thanh quán.

Từ Điện Phì Hương đến Thượng Thanh quán, nếu đi cổng chính thì xa hơn. Cao công công đề nghị đi đường tắt qua cổng phụ, tiết kiệm chút sức, Bạch Cơ và Nguyên Diệu không phản đối. Đường tắt qua một ngõ hẻm, đi ngang qua cổng tây của Đông Cung.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Cao công công và hai tiểu thái giám đi dưới cái nắng gay gắt, từ xa đã thấy ba người bước ra từ cổng phụ Đông Cung.

Dưới cái nắng chói chang, ba người đó vẫn mặc áo khoác đen, đội mũ trùm đầu, che kín toàn thân.

Ba người đó từ xa thấy Cao công công, có vẻ hoảng hốt, vội vàng lẩn vào Đông Cung.

Cao công công dù chán nản nhưng mắt tai tinh tường đã nhận ra ba người đó. Tuy nhiên, ông thấy họ tránh mặt mình bèn giả vờ không thấy, dẫn Bạch Cơ và Nguyên Diệu qua cổng tây Đông Cung đi tới Thượng Thanh quán.

Đi xa rồi, Bạch Cơ mới hỏi: “Cao công công, ba người khả nghi vừa nãy là ai?”

Cao công công buồn rầu nói: “Một người là Nam An quận vương Lý Dĩnh, hai người kia là con của Chương Hoài Thái tử* Lý Hiền, một là An Lạc quận vương Lý Quang Thuận, người kia là Vĩnh An quận vương Lý Thủ Nghĩa.”

* Chương Hoài Thái tử: Lý Hiền, con trai thứ sáu của Đường Cao Tông Lý Trị và Võ Tắc Thiên (con trai đầu là Lý Hoằng). Sau khi thái tử Lý Hoằng chết, Lý Hiền được lập làm thái tử, trong thời gian làm thái tử nhiều lần giám quốc, được khen ngợi từ triều đình trong và ngoài. Lý Hiền từng triệu tập văn quan chú giải "Hậu bàn sách", gọi là "Chương Hoài Chú", có giá trị sử học cao. Sau này, Lý Hiền vì mưu phản bị phế, bị giáng xuống Ba Châu, Võ Tắc Thiên phái Khâu Thần Tích giám sát ông. Sau đó, Khâu Thần Tích g**t ch*t Lý Hiền, thực ra là do Võ Tắc Thiên chỉ thị, vì sợ Lý Hiền tranh giành quyền lực với mình.

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nói: “Cao công công, mắt ngài thật tinh tường, tiểu sinh chỉ thấy ba cái bóng đen lướt qua, chưa kịp nhìn rõ mặt mà ngài đã nhận ra?”

Cao công công buồn rầu nói: “Ngươi còn trẻ trong hoàng cung này mắt không tinh, tai không thính, miệng không lanh, phản ứng không nhanh đều khó sống. Những kỹ năng sống còn này, khi ngươi tịnh thân vào cung lão nô sẽ từ từ dạy ngươi…”

“Tiểu sinh không muốn làm thái giám!”

Nguyên Diệu thầm nghĩ.

Bạch Cơ hỏi: “Cao công công, ba vị quận vương ra vào Đông Cung, sao phải lén lút đi cổng phụ?”

Cao công công buồn rầu nói: “Ai biết chứ? Võ đế luôn kiêng kỵ con cháu nhà Lý và cựu thần tụ tập… Nam An quận vương có quan hệ với Từ Kính Nghiệp, người từng nổi dậy ở Dương Châu, ông ta luôn phản đối Võ đế xưng đế, Võ đế kiêng kỵ đám cựu thần đứng sau lưng ông ta, không xử tội ông ta, sau khi Đại Chu thành lập còn phong thưởng. Thật không ngờ, ông ta lại lén lút qua lại với Thái tử còn đưa con của Chương Hoài Thái tử tới, chẳng lẽ muốn dùng kết cục của Chương Hoài Thái tử để đe dọa Thái tử… Ài, nóng quá, chán nản quá, không nói chuyện này nữa.”

Bạch Cơ cười nói: “Các triều đại trước, Thái tử lên ngôi làm Hoàng đế là chuyện thường. Hoàng đế thoái vị làm Thái tử, đây là lần đầu tiên ta thấy. Chắc hẳn, đối diện với triều đại Đại Chu, tâm trạng của Thái tử cũng rất phức tạp.”

Cao công công thở dài: “Tình huống này thực sự không nhiều, nữ chủ xưng đế cũng là lần đầu tiên nên lửa yêu ở Thần Đô mới khiến lòng dân hoang mang, lời đồn nổi lên. Một số lời đồn đã đến tai cung điện, nói rằng gà mái gáy sáng, nghịch thiên đạo nên trời giáng yêu phượng trừng phạt Thần Đô bằng hỏa diệm. Võ đế giận dữ, treo giải thưởng lớn để giải quyết việc này.”

Bạch Cơ cười nói: “Rõ ràng là con người làm loạn lại nói là do trời đất thần quỷ.”

Cao công công nói: “Ai bảo dân chúng đều tin vào điều này.”

Đang nói chuyện, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Cao công công đã đến Thượng Thanh quán.

Thượng Thanh quán nằm ở góc đông bắc hoàng cung là nơi Võ Tắc Thiên ban cho Quang Tạng quốc sư. Vì Võ Tắc Thiên dựa vào “Kinh Đại Vân” nhận mệnh trời, trở thành đế vương của Diêm Phù Đề* nên Đại Chu trọng Phật, Thượng Thanh quán không lộng lẫy tráng lệ như chùa Bạch Mã phía tây hoàng cung nhưng cũng có một vẻ tiên cảnh thanh tịnh, yên tĩnh.

* Diêm Phù Đề: Một trong bốn châu lớn của thế giới theo Phật giáo còn gọi là Nam Diêm Phù Đề. Diêm Phù là cây, Đề là tên châu. Gọi là Diêm Phù Đề vì có cây này. Trong kinh Phật, Diêm Phù Đề thường ám chỉ thế giới loài người, tức là thế giới mà chúng ta đang sống.

Trong Thượng Thanh quán có ba gian đại điện, bốn gác lầu, trồng cây tùng bách xanh tốt quanh năm và một số cây quế đỏ còn có cả hạc tiên và nai đi lại xung quanh. Trước chính điện của Thượng Thanh quán có một khoảng đất trống rộng lớn, ở giữa là một bàn thờ Đạo gia, trên đó khắc hình bát quái của Phục Hy. Những hương liệu như nhũ hương, một dược, can tùng mà cấm vệ quân mang đến được chất thành đống trên khoảng đất trống này.

Bên ngoài Thượng Thanh quán, một hàng đạo sĩ đang đứng chờ dưới cái nắng gay gắt. Đứng đầu là một đạo sĩ trẻ tuổi mặc áo bát quái, đầu đội mũ Tử Dương, người tròn trĩnh, mặt mày hồng hào, tinh thần phấn chấn. Là đại đệ tử của Quang Tạng, tên là Huyền Thanh.

Huyền Thanh vừa thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Cao công công bèn bước tới chào đón.

“Bạch Cơ đại nhân, sư phụ đã gửi thư nhờ chim, bảo chúng ta nghe theo sự phân phó của ngài.”

Cao công công thấy Huyền Thanh dường như không nhìn thấy mình, cũng không chào mình bèn buồn bã lùi sang một bên.

Bạch Cơ cười nói: “Các ngươi có biết vẽ trận phá tà, niệm chú phá tà không?”

Huyền Thanh gật đầu nói: “Biết.”

Bạch Cơ nói: “Vậy thì ta bớt việc rồi.”

Bạch Cơ bước vào Thượng Thanh quán, đứng trước cửa nơi chất đầy hương liệu, quan sát xung quanh một lượt rồi bước tới đứng trên bàn thờ bát quái ở giữa khoảng đất trống.

Bạch Cơ suy nghĩ một hồi, nói: “Bàn thờ này kích thước vừa vặn, các ngươi lấy chu sa vẽ trận phá tà lên đó.”

“Vâng.”

Huyền Thanh đáp lời.

Cách bàn thờ bát quái không xa có một lục giác đình, nhờ có tùng bách và quế đỏ xung quanh mà trong đình rất mát mẻ. Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Cao công công bèn ngồi trong lục giác đình nhìn Huyền Thanh và các đạo sĩ bận rộn trên bàn thờ, dùng chu sa vẽ trận phá tà.

Một tiểu đạo sĩ mang đến ba chén trà và một đĩa hạt tùng, một đĩa nho, một đĩa dưa mật mời khách.

Bạch Cơ vừa uống trà vừa nhìn bàn thờ, không biết đang nghĩ gì.

Nguyên Diệu uống một ngụm trà của đạo gia, chỉ cảm thấy hơi đắng bèn bắt đầu ăn hạt tùng.

Một con hạc tiên bay tới, mổ những quả nho trong đĩa, Cao công công thấy vậy bèn lấy cái phất trần đuổi hạc tiên đi, con hạc tiên mổ vào tay Cao công công một cái rồi bay mất.

Cao công công bị hạc tiên mổ một cái, lông mày càng rủ xuống, sắc mặt càng buồn bã hơn.

Một con nai chạy tới quanh quẩn bên Nguyên Diệu, Nguyên Diệu bèn xoa đầu con nai cho nó ăn dưa mật.

Chẳng mấy chốc, Huyền Thanh và những người khác đã vẽ xong trận phá tà, Bạch Cơ bèn đặt chén trà xuống, bước tới.

Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ nói vài câu gì đó với Huyền Thanh, Huyền Thanh vội vàng ra cổng gọi một đội cấm vệ quân, những cấm vệ quân này lại bắt đầu công việc nặng nhọc, mỗi người mang một trăm cân nhũ hương, một dược, can tùng và quế đặt ở bốn góc dưới bàn thờ.

Bạch Cơ cầm chu sa, vẽ vẽ viết viết trên trận phá tà, dường như lại thêm một lớp trận pháp nữa.

Nguyên Diệu không hiểu, định hỏi Cao công công nhưng lại thấy Cao công công không có việc gì làm quá nhàm chán nên đã gà gật ngủ mất rồi.

Khi Bạch Cơ vẽ xong nét cuối cùng trên bàn thờ, bắt đầu lẩm nhẩm niệm chú, Nguyên Diệu ngửi thấy một mùi hương đậm đặc và hỗn tạp.

Nguyên Diệu thấy chỗ hương liệu chất ở bốn phía bàn thờ bỗng nhiên phát ra ánh sáng đỏ, hương liệu bắt đầu biến đổi, nhũ hương ở phía đông từng chút một tan chảy thành dạng thủy tinh bán trong suốt, một dược ở phía tây tán thành bột màu vàng từng chút một, quế ở phía bắc chậm rãi biến thành màu đen tím, tùng khô màu nâu đậm ở phía nam thì từ từ bốc cháy. Bốn loại hương liệu tỏa ra mùi hương đậm đặc, hòa quyện thành một mùi vị kỳ lạ, từ từ lan tỏa lên không trung Thượng Thanh quán, lan ra toàn bộ hoàng cung, thậm chí theo gió bay khắp Thần Đô.

“Trong cung cháy rồi sao? Cái gì cháy mà mùi lạ thế này?!”

Cao công công giật mình tỉnh giấc, hoảng hốt nói. Khi nhìn rõ chuyện gì đang xảy ra trên bàn thờ, lông mày ông lại rủ xuống, mặt càng buồn bã hơn.

“Bạch Cơ đại nhân, ngài đang làm gì vậy?”

Cao công công lớn tiếng hỏi.

Bạch Cơ vừa hoàn thành mọi việc vừa đi về phía lục giác đình.

“Cao công công, ta đang giúp Thần Đô diệt lửa yêu đây!”

“Ối! Theo lão nô thấy, ngài rõ ràng đang phóng hỏa… Ngài đốt mấy hương liệu này làm gì thế?”

Bạch Cơ cười nói: “Đốt hương liệu, tất nhiên là có tác dụng rồi. Một trăm cân hương liệu, cũng chỉ đủ một canh giờ, cấm vệ quân sẽ liên tục thêm và bổ sung hương liệu vào trận pháp. Không biết khi nào phượng hoàng bất tử mới xuất hiện nên lượng hương liệu tiêu tốn là rất lớn. Hy vọng trước khi hương liệu trong cung bị đốt hết, phượng hoàng bất tử sẽ xuất hiện.”
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 4


Bóng cây mùa hạ che rợp, gió thổi hương thoang thoảng.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Cao công công ngồi trong lục giác đình uống trà, phía dưới bàn thờ bát quái, khói hương cuồn cuộn bay xa theo gió. Một đội cấm vệ quân và vài đạo sĩ ở khoảng đất trống không xa phân loại và sắp xếp nhũ hương, một dược, can tùng, quế để chuẩn bị bổ sung sau một canh giờ.

Sau khi Huyền Thanh vẽ xong trận phá tà, không biết chạy đi đâu. Lúc này, hắn cầm một bức tranh chạy vội đến.

Huyền Thanh vừa lau mồ hôi trên trán vừa đưa bức tranh cho Bạch Cơ xem.

“Bạch Cơ đại nhân, ta đi tìm mãi mà không thấy bức tranh của Vũ Sư Xích Tùng Tử (1), có lẽ nó bị bỏ lại ở Trường An Đại Giác Quán, không mang đến đây. Ngài xem bức tranh Thương Dương (2) này có được không? Thương Dương cũng có thể gọi mưa.”

(1) Vũ Sư Xích Tùng Tử: Trong truyền thuyết là một vị thần mưa trong Đạo giáo.

(2) Thương Dương: Trong truyền thuyết là một loài chim chỉ có một chân, có khả năng gọi mưa.

Nguyên Diệu nhìn kỹ, chỉ thấy trên bức tranh Huyền Thanh cầm là hình một con chim đang bay lượn trong gió và sấm sét. Thương Dương có cổ dài, bụng to, lông vũ màu xanh lam, chỉ có một chân.

Bạch Cơ cười nói: “Cũng được.”

Huyền Thanh treo bức tranh Thương Dương lên một cây tùng.

Bạch Cơ bước tới trước bức tranh, ngươi đưa tay lướt qua bức tranh, miệng lẩm nhẩm niệm chú.

Một luồng sáng vàng lóe lên, một con chim Thương Dương bay từ bức tranh ra, nó bay lượn một vòng trên không trung rồi đậu xuống tay Bạch Cơ.

Thương Dương to cỡ con vẹt, mắt tròn, lông vũ sáng đẹp, trông rất đáng yêu.

Cao công công nhìn con chim Thương Dương rồi nói: “Ôi! Con vẹt này trông đẹp quá, tiếc là chỉ có một chân.”

Bạch Cơ giơ tay, Thương Dương xòe cánh bay lên đậu trên cây tùng.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, con chim Thương Dương này có tác dụng gì không?”

Bạch Cơ cười nói: “Phượng hoàng bất tử phóng hỏa, Thương Dương có thể dập lửa. Nếu hoàng cung bị cháy, nó sẽ đảm nhận việc dập lửa.”

Nguyên Diệu có hơi lo lắng, nói: “Bạch Cơ, hôm đó ta thấy phượng hoàng bất tử to như đại bàng, hai cánh mở ra có thể che kín bầu trời… con chim Thương Dương này có phải quá nhỏ không, ta cảm thấy nó không thể dập tắt được lửa của phượng hoàng bất tử…”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, không thể chim xét đoán qua hình dáng, biển rộng không thể đo bằng cái đấu, khả năng và kích thước không liên quan nhiều. Ngươi yên tâm, dù toàn bộ Thái Sơ cung có cháy, Thương Dương cũng có thể dập tắt trong chớp mắt.”

“Điều này…”

Nguyên Diệu vẫn còn hơi nghi ngờ.

Cao công công nghe vậy không ngồi yên được nữa.

“Bạch Cơ đại nhân vừa rồi lão nô có nghe nhầm không, ngài nói Thái Sơ cung có thể bị cháy là sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công, vì sợ làm ngài hoảng nên lúc trước ta chưa nói rõ. Chuyện là nguyên nhân hỏa hoạn ở Thần Đô là do một con phượng hoàng bất tử. Phượng hoàng bay qua, lông phượng rơi xuống sẽ bốc cháy theo gió. Chỉ cần bắt được phượng hoàng, không để nó bay lung tung trong Thần Đô mới có thể ngăn ngừa hỏa hoạn. Nơi bắt phượng hoàng là Thượng Thanh quán này. Trận pháp và đống hương liệu trên bàn thờ bát quái là cái bẫy bắt phượng hoàng. Chúng ta chỉ cần chờ phượng hoàng xuất hiện.”

Cao công công cảm thấy hơi chóng mặt, nói: “Bạch Cơ đại nhân, ngài đang dẫn tai họa vào hoàng cung sao? Nếu con chim đó bay đến, lông rơi khắp nơi, chẳng phải toàn bộ hoàng cung sẽ biến thành biển lửa sao?!”

Bạch Cơ cười nói: “Cũng có khả năng như vậy. Vì thế ta mới triệu hồi Thương Dương.”

Cao công công đứng dậy, nói: “Việc này, nếu xảy ra sự cố thì hậu quả rất lớn, lão nô không dám tự quyết. Chúng ta vẫn nên đến Vạn Tượng Thần Cung bẩm báo với Võ đế bệ hạ, đợi ngài đồng ý rồi mới làm.”

Bạch Cơ cười nói: “Võ đế bệ hạ bận trăm công nghìn việc, lo toan việc nước, việc nhỏ như việc có thể đốt cháy hoàng cung không cần làm phiền ngài ấy. Dù sao chỉ cần bắt được phượng hoàng là đại công cáo thành.”

Cao công công lo lắng kéo tay áo Bạch Cơ, nói: “Không được, việc này hệ trọng, chắc chắn phải bẩm báo với Võ đế bệ hạ trước. Ngài không sợ, dù hoàng cung có cháy, cũng không ai tìm được ngài nhưng tội lỗi đều thuộc về lão nô. Võ đế bệ hạ giao việc này cho lão nô, nếu hoàng cung bị cháy, lão nô sẽ bị tru di cửu tộc.”

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công đã bị xóa tên khỏi gia phả nhà họ Cao rồi còn sợ gì bị tru di cửu tộc nữa…”

Cao công công vẫn kiên quyết muốn dẫn Bạch Cơ đến Vạn Tượng Thần Cung, Bạch Cơ từ chối không muốn đi, hai người kéo qua kéo lại trong lục giác đình, Nguyên Diệu ngồi bên cạnh bóc hạt tùng, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng động.

Nguyên Diệu dừng bóc hạt tùng, quay đầu nhìn.

Bên ngoài Thượng Thanh quán, một đoàn nghi trượng chia thành hai hàng, một kiệu rồng tám người khiêng dừng lại, một hàng Kim Ngô Vệ, một đội cung nữ lần lượt đứng vào vị trí, bảo vệ vị hoàng đế bước xuống từ kiệu rồng.

“Hoàng đế bệ hạ... giá lâm...”

Các đạo sĩ và cấm vệ quân trong Thượng Thanh quán vội vàng quỳ xuống, đón tiếp hoàng đế.

Nguyên Diệu vội vàng đặt hạt tùng xuống, đứng dậy.

Cao công công cũng không còn thời gian giằng co với Bạch Cơ nữa, ông vội vã đi xuống lục giác đình ra cổng nghênh đón Võ Tắc Thiên.

Võ Tắc Thiên mặc lễ phục long trọng với mười hai chương hoa văn, trên áo hoàng bào thêu hình nhật, nguyệt, tinh tú, rồng, thắt lưng buộc ngọc đen, chân đi giày đỏ*. Bà đội mũ thông thiên, với mười hai tua ngọc trắng rủ xuống. Trời nóng thế này, bà vẫn đi tất đỏ, giày đỏ, áo khoác lộng lẫy, đủ thấy bà rất quan tâm đến hỏa hoạn ở Thần Đô vừa tiếp đón sứ giả ngoại bang tại Vạn Tượng Thần Cung xong, chưa kịp thay lễ phục đã vội đến Thượng Thanh quán.

*Giày đỏ: Loại giày trong trang phục lễ nghi của vua chúa thời xưa.

Sau khi Cao công công hành lễ, ông nói nhỏ vài câu gì đó với Võ Tắc Thiên.

Võ Tắc Thiên hơi ngạc nhiên bèn theo Cao công công bước vào Thượng Thanh quán.

Nguyên Diệu thấy Võ Tắc Thiên, Thượng Quan Uyển Nhi, Cao công công và những người khác tiến về phía lục giác đình bèn vội vàng quỳ xuống hành lễ.

"Thảo dân Nguyên Diệu, tham kiến Võ đế bệ hạ."

Bạch Cơ khẽ gật đầu, nói: "Long Tự Nhân cung nghênh Võ đế bệ hạ."

"Đều miễn lễ đi."

Võ Tắc Thiên không giận tự uy.

Nguyên Diệu đứng dậy, lặng lẽ lui sang một bên.

Võ Tắc Thiên dùng đôi mắt phượng sắc bén quét qua bàn thờ bát quái hỏi: "Long Tự Nhân, Cao công công nói ngươi muốn đốt cháy hoàng cung, chuyện là thế nào?"

Bạch Cơ cười nói: "Ngài yên tâm, không cháy được đâu. Cao công công lo lắng quá thôi."

Võ Tắc Thiên cau mày, nói: "Thần Đô liên tục xảy ra hỏa hoạn, bá tánh chịu nhiều tổn thất, rốt cuộc là vì sao?"

Bạch Cơ đáp: "Hỏa hoạn ở Thần Đô do một con phượng hoàng bất tử gây ra. Nơi nào phượng hoàng bay qua, nếu lông rụng xuống sẽ bốc cháy. Lửa niết bàn của phượng hoàng bất tử khó dập tắt hơn lửa thường, nhà cửa ở Thần Đô lại bố trí dày đặc nên tổn thất rất nặng nề."

Võ Tắc Thiên suy nghĩ một lúc hỏi: "Sao yêu điểu lại vô duyên vô cớ bay lung trong Thần Đô? Việc này là thiên tai hay nhân họa?"

Bạch Cơ im lặng một lúc rồi trả lời: "Nhân họa. Phượng hoàng bất tử không phải vật của Trung Thổ mà là sinh vật từ thế giới hắc ám phương Tây, nó sống tách biệt, không gần loài người. Phượng hoàng xuất hiện ở Thần Đô phồn hoa chắc chắn là do con người. Có kẻ muốn lợi dụng khả năng đốt cháy một tòa thành của phượng hoàng nên dùng tà thuật điều khiển nó."

Võ Tắc Thiên ánh mắt thoáng qua một tia giận dữ, nói: "Bọn chúng muốn hủy diệt Thần Đô sao? Là ai làm chuyện này?"

Bạch Cơ nói: "Hủy diệt Thần Đô là nhắm vào tiêu diệt Đại Chu, chắc chắn không phải là những người ủng hộ và trung thành với ngài."

Võ Tắc Thiên nhìn về bàn thờ bát quái, thở dài nói: "Trẫm vẫn còn quá nhân từ, trẫm hiến tế nhân mạng và máu tươi cho Đại Chu chưa đủ nhiều, chưa vững gốc rễ xã tắc nên làm thần linh tức giận, mang đến hỏa hoạn cho Thần Đô…"

Bạch Cơ nói: "Vẫn nên giết ít người thì hơn. Dù sao, ngài dựa vào Kinh Đại Vân lập thế xưng đế, là một Phật môn đệ tử. Phật môn luôn từ bi, thương xót chúng sinh."

Võ Tắc Thiên nhướn mày, nói: "Trẫm không giết họ họ sẽ tìm mọi cách phản đối trẫm, không tiếc giết hại bá tánh Thần Đô làm tổn thương con dân của trẫm. Trẫm tiêu diệt họ tận gốc, mới là từ bi đối với bá tánh thiên hạ."

Bạch Cơ lạnh nhạt nói: "Có lẽ. Con người luôn đứng trên lập trường của mình, biến ước muốn nội tâm thành chính nghĩa."

Võ Tắc Thiên hỏi: "Còn ngươi thì sao. Long Tự Nhân, ngươi đứng trên lập trường của ai?"

Bạch Cơ giơ tay chỉ về phía Vạn Tượng Thần Cung, cười nói: "Võ đế bệ hạ, ngài có thấy con rồng trên đỉnh Vạn Tượng Thần Cung không? Đó là lập trường của ta. Ta đến nhân gian làm khách, ai là chủ nhân của thiên hạ ta sẽ là khách của người đó. Khách thì đương nhiên đứng trên lập trường của chủ."

Võ Tắc Thiên cười, nói: "Ngươi đúng là loại cỏ đầu tường, gió chiều nào ngả theo chiều đó."

Bạch Cơ cười nói: "Theo nghĩa nào đó thì đúng vậy. Dù sao, mạng người chỉ trăm năm, đế vương nhân gian thay đổi quá nhanh…"

Võ Tắc Thiên hỏi: "Ngươi có thể diệt trừ hỏa hoạn ở Thần Đô không?"

Bạch Cơ đáp: "Ta có thể bắt phượng hoàng bất tử."

Võ Tắc Thiên nói: "Cũng được. Ngươi chỉ cần bắt được phượng hoàng bất tử là hoàn thành ủy thác. Vấn đề nhân họa trẫm sẽ tự xử lý."

Bạch Cơ gật đầu.

Võ Tắc Thiên nói: "Con rồng trên đỉnh Vạn Tượng Thần Cung là được điêu khắc theo hình dáng của ngươi nhưng để nổi bật hơn trẫm cho người sơn màu vàng…"

"Thủ công của nghệ nhân không tốt, con rồng đó trông hơi ngốc, không uy phong lẫm liệt bằng ta."

"…"

Võ Tắc Thiên và Bạch Cơ đang trò chuyện, ngoài Thượng Thanh quán lại có người đến.

Một tiểu thái giám lên báo: "Võ đế bệ hạ, Thái tử ở bên ngoài cầu kiến."

Võ Tắc Thiên nhíu mày, nói: "Cho hắn vào."

Một nam nhân trung niên mặc trang phục hoa lệ bước vào.

Lý Đán mặt trắng, râu thưa, khí chất nho nhã, trông rất hiền hòa, không tranh với đời. Nhưng ánh mắt của hắn tĩnh lặng và thản nhiên như mặt hồ yên ả. Tuy nhiên nhìn kỹ, cảm giác như trong lòng hồ sâu ấy, ẩn giấu một ngọn lửa đang bùng cháy dữ dội.

Lý Đán rõ ràng rất sợ mẫu thân mình, sau khi quỳ lạy, kính cẩn nói: "Nhi thần nghe nói mẫu hoàng bệ hạ giá lâm Thượng Thanh quán, vì cách Đông Cung rất gần nên nhi thần đến thỉnh an."

Võ Tắc Thiên nói: "Ngươi đến đúng lúc lắm. Vụ hỏa hoạn ở Thần Đô đã có manh mối, hiện tại trong Thượng Thanh quán đang bắt một con phượng hoàng bất tử. Thời gian không còn sớm, trẫm phải đến điện Dao Quang dự yến tiệc với sứ thần ngoại bang, ngươi ở đây xử lý việc này thay trẫm."

Lý Đán nghe đến phượng hoàng bất tử, thân hình không khỏi run lên, mồ hôi trên trán lấm tấm.

"Vâng thưa mẫu hoàng bệ hạ. Nhi thần chắc chắn sẽ vì ngài mà chia sẻ lo toan."

"Vị này là Bạch Cơ, do Quang Tạng tiến cử, chịu trách nhiệm vụ hỏa hoạn ở Thần Đô, trong Thượng Thanh quán này, ngươi phải nghe theo nàng ấy." Võ Tắc Thiên nói.

Lý Đán run rẩy nói: "Vâng."

Võ Tắc Thiên dặn dò Lý Đán thêm vài câu thì thấy thời gian không còn sớm bèn rời Thượng Thanh quán để đến Dao Quang điện dự yến tiệc.

Sau khi Võ Tắc Thiên cùng đoàn tùy tùng rời đi, Nguyên Diệu cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Bạch Cơ đến bên cạnh bàn thờ bát quái xem xét, trò chuyện với Cao công công.

Nguyên Diệu vừa ngồi xuống tiếp tục bóc hạt thông, chợt nhớ ra Lý Đán vẫn đứng bên cạnh. Theo lễ nghi, Thái tử đứng một bên thì một dân thường như hắn ngồi là không phù hợp. Theo tuổi tác, trưởng bối đứng hậu bối cũng không nên ngồi.

Nguyên Diệu bèn đứng dậy.

Lý Đán hỏi: "Làm sao các ngươi biết là do phượng hoàng bất tử gây ra?"

Nguyên Diệu thành thật đáp: "Vài ngày trước, khi phường Thượng Lâm bốc cháy, tiểu sinh tình cờ đi qua cầu nổi trên sông Lạc Hà thì thấy một con phượng hoàng bay qua."

Lý Đán nói: "Nghe nói trước khi ngọn lửa lớn bốc cháy ở phường Thượng Lâm, đã có một con rồng từ trời giáng xuống dập tắt lửa, không gây thiệt hại gì."

Nguyên Diệu nói: "Đó là điều may mắn trong bất hạnh."

Lý Đán hỏi: "Các ngươi thật sự có thể bắt được phượng hoàng bất tử sao?”

Nguyên Diệu đáp: "Chắc là được. Thái tử điện hạ yên tâm, Bạch Cơ làm việc luôn cẩn trọng."

Sắc mặt Lý Đán trở nên tái nhợt, dường như có hơi kiệt sức, gần như đứng không vững. Hắn lẩm bẩm: "Ta cảm thấy mình sắp chết rồi..."

Nguyên Diệu nghe thấy nhìn thấy Lý Đán sợ hãi đến mất hồn, trong lòng không khỏi ngờ vực nhưng cũng không dám hỏi nhiều.

Lý Đán ngồi xuống nhìn về phía đường chân trời, lông mày nhíu chặt, đầy vẻ lo lắng, dường như có vô vàn tâm sự.

Lý Đán hỏi Nguyên Diệu: "Ngươi là người ở đâu thế? Họ tên là gì?"

Nguyên Diệu đáp: "Tiểu sinh là người Tương Châu. Họ Nguyên, tên Diệu, tự là Hiên Chi."

Lý Đán lại hỏi: "Ngươi có huynh đệ không?"

Nguyên Diệu đáp: "Tiểu sinh gia đình ít người, không có huynh đệ."

Lý Đán nói: "Ta có ba huynh đệ."

Nguyên Diệu gật đầu.

Lý Đán nói: "Ta là con út trong ba huynh đệ. Đại ca chết rồi, nhị ca cũng chết rồi, giờ chỉ còn lại tam ca và ta. Tam ca ở Phòng Châu xa xôi, Phòng Châu là nơi nghèo khó, điều kiện khắc nghiệt, nghe nói huynh ấy luôn ốm yếu, mắc bệnh tim. Khi nghe tin sứ thần của mẫu hoàng bệ hạ đến, huynh ấy muốn tự sát."

Nguyên Diệu trong lòng buồn bã nhưng không biết phải an ủi Lý Đán thế nào.

Lý Đán mắt đỏ hoe, rơi nước mắt, nói: “Tam ca còn mạnh hơn ta, huynh ấy còn có cơ hội trốn thoát, tránh xa thị phi còn ta bị cuốn vào vòng xoáy, không thể trốn thoát. Ta là một con rối, các cựu thần họ Lý muốn dùng ta đối phó với mẫu hoàng bệ hạ. Ta là một cái bia, mẫu hoàng bệ hạ muốn dùng ta để chắn kẻ thù của bà ấy. Bọn họ đều ẩn nấp phía sau nhưng lại đẩy ta vào giữa trận gió tanh mưa máu, mạng sống ngàn cân treo sợi tóc."

Nguyên Diệu an ủi: "Thái tử điện hạ, ngài đừng suy nghĩ nhiều. Dù là Đại Đường hay Đại Chu, ngài đều là Thái tử là trụ cột của quốc gia."

Lý Đán tuyệt vọng nói: "Ta sắp không còn là Thái tử nữa rồi."

Bạch Cơ và Cao công công vừa nói chuyện vừa bước tới.

"Bạch Cơ đại nhân, tiếp theo chỉ cần chờ đợi thôi sao? Thật sự sẽ không cháy đến hoàng cung chứ?"

"Cao công công, ngài cứ yên tâm mà ngủ một giấc."

"Ôi, nghĩ đến việc hoàng cung có thể bị cháy, lão nô lo lắng đến không ngủ được..."

"Lo lắng một lúc sẽ ngủ được thôi..."

Lý Đán thấy Cao công công đi tới, vội lau khô nước mắt, thu lại vẻ mặt buồn bã.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Lý Đán, Cao công công bèn ngồi trong đình lục giác chờ đợi. Lý Đán nhìn về phía chân trời, tâm sự nặng nề. Cao công công lại bắt đầu gật gù. Chim Thương Dương thấy Cao công công ngủ bèn từ trên cây thông nhảy xuống, đứng một chân trên mũ của ông ta.

Trên bàn thờ bát quái, trận pháp trừ tà lấp lánh ánh đỏ, hương khói mờ mịt bay theo gió.

Nguyên Diệu đưa cho Bạch Cơ một nắm hạt thông đã bóc vỏ.

"Bạch Cơ, ăn đi."

"Cảm ơn Hiên Chi."

Bạch Cơ cười mỉm, nhận lấy và bắt đầu ăn.

Thấy Lý Đán vẻ mặt u sầu ngồi không yên, Bạch Cơ cười nói: "Thái tử điện hạ, trời nóng, không biết phải chờ đến khi nào phượng hoàng bất tử mới xuất hiện. Nếu ngài không thoải mái, không cần phải cố, có thể về Đông Cung trước hoặc vào trong quán tìm chỗ mát mà nghỉ ngơi."

Lý Đán nói: "Mẫu hoàng bệ hạ lệnh ta ở đây chủ sự, ta không thể rời đi, nếu không sẽ là thất trách."

Bạch Cơ vừa ăn hạt thông vừa nói: "Thái tử điện hạ, ngài nghĩ phượng hoàng bất tử có xuất hiện không?"

Lý Đán nói: "Ta không biết."

Bạch Cơ cười hỏi: "Ngài có mong nó xuất hiện không?"

Lý Đán nói: "… Ta không biết."

"Ngài đã thấy phượng hoàng bất tử chưa?"

"… Chưa… chưa thấy."

"Vậy ngài đã thấy cảnh phố phường ở Thần Đô bị lửa yêu thiêu rụi chưa? Nhà cửa trong nháy mắt bị lửa nuốt chửng, nữ nhân trẻ em bị nhấn chìm trong biển lửa, không kịp chạy thoát, bị lửa thiêu cháy thành than, trước khi chết đầy đau khổ và tuyệt vọng. Người thân của họ dù may mắn sống sót nhưng suốt đời sống trong bóng tối của nỗi đau mất người thân, không thể vui vẻ trở lại."

"Ngươi đừng nói nữa…" Lý Đán run rẩy nói.

Bạch Cơ lẩm bẩm: "Quyền lực, thứ này giống như ngọn lửa vậy. Đối với con người, quyền lực như ánh đèn trước mặt con thiêu thân, có sức hút chết người." Khi Bạch Cơ nói, phía đông có một tia sáng đỏ lóe lên.

Trên lầu Thượng Thanh quán, các đạo sĩ đứng trên cao nhìn rõ, họ kinh hô: "Không hay rồi! Đông Cung bốc cháy rồi!" Nghe thấy thế, mặt mày Lý Đán tái nhợt như tờ giấy.

Cao công công kinh hoàng nhảy dựng lên, con chim Thương Dương trên đầu ông ta sợ hãi vỗ cánh bay lên, đậu trên vai Bạch Cơ.

Nguyên Diệu vội vàng đứng dậy, lấy tay che mắt nhìn về phía đông.

Phía đông có khói và lửa bốc lên trời, vị trí là Đông Cung.

Nguyên Diệu lo lắng nói: "Bạch Cơ, Đông Cung cháy rồi, phải làm sao đây?" Bạch Cơ nhìn về phía đông, thong thả ngồi xuống tiếp tục ăn hạt thông.

"Hiên Chi đừng lo, phượng hoàng bất tử vẫn chưa xuất hiện."

Nguyên Diệu gấp gáp nói: "Nhưng mà Đông Cung đang cháy mà!"

Cao công công cũng lo lắng đi tới đi lui, nói: "Bạch Cơ, Đông Cung đã bốc khói lửa rồi, ngài mau làm mưa dập lửa đi!"

Bạch Cơ liếc nhìn Lý Đán, cười nói: "Thái tử điện hạ còn không gấp, các ngươi gấp làm gì?"

Cao công công nói với Lý Đán: "Thái tử điện hạ, sao tự nhiên Đông Cung lại bốc cháy thế? Có phải cung nữ vụng về làm đổ đèn không, ngài có muốn quay về điều động cấm vệ quân dập lửa không?"

Lý Đán nói: "Cao công công, ngươi đang dạy ta làm việc à? Nếu mẫu hoàng bệ hạ lệnh ta ở Thượng Thanh quán, dù Đông Cung cháy, Đông Cung sập, ta cũng không đi đâu."

Cao công công nghe vậy rất thất vọng.

"Vậy... để lão nô qua Đông Cung xem sao."

Bạch Cơ nghiêm mặt nói: "Cao công công, ta khuyên ngài đừng qua đó, cứ ở đây đi."

Cao công công nghe vậy bèn dừng bước, thất vọng đứng sang một bên.

Nguyên Diệu lấy tay che mắt nhìn về phía đông, nói: "Khói lửa ở Đông Cung hình như càng lúc càng lớn, để mặc thế này thật sự không sao chứ?"

Lý Đán vẻ mặt phức tạp, lẩm bẩm: "Họ có thể kiểm soát được mà."

Bạch Cơ liếc nhìn về phía đông, nói: "Chưa chắc. Thái tử điện hạ, ngài quá tin tưởng họ rồi, sức mạnh của phượng hoàng bất tử không phải thuật sĩ bình thường có thể kiểm soát được. Từ khói lửa ở Đông Cung mà xem, phượng hoàng bị các ngài bỏ đói quá lâu, nó ngửi thấy mùi hương liệu, bây giờ đang phát cuồng sẽ thoát ra rất nhanh thôi..."

Bạch Cơ vừa dứt lời, trên bầu trời Đông Cung có ngọn lửa bùng lên, một con chim lửa màu vàng đỏ bay lên bầu trời xanh.

Con chim lửa trông giống một con đại bàng khổng lồ, toàn thân phủ lông đỏ tươi, cánh là màu vàng kim, đuôi lông lộng lẫy mang theo lửa ảo, giống như một con phượng hoàng trong lửa.

"Phượng hoàng bất tử!!!"

Nguyên Diệu kinh ngạc kêu lên.

Phượng hoàng bất tử bay lên từ Đông Cung, lượn một vòng trên không trung, dường như bị mùi hương liệu thu hút lao về phía bàn thờ bát quái ở Thượng Thanh quán.

Phượng hoàng bất tử đậu trên bàn thờ bát quái, ngọn lửa bùng lên cao, đống hương liệu xung quanh bốc cháy dữ dội. Một làn sóng lửa lớn lan tỏa, lửa bốc lên cao, cấm vệ quân và các đạo sĩ vội vàng tránh xa.

Phượng hoàng bất tử trong ngọn lửa lập tức nuốt hương liệu, mắt nó đen như đêm, có xoáy kỳ lạ, bên trong xoáy có bùa chú di chuyển.

Trận pháp trừ tà trên bàn thờ phát sáng rực rỡ, hóa thành những sợi xích như lưới cá, bao vây phượng hoàng bất tử.

Phượng hoàng bất tử ham ăn hương liệu, không phản kháng cũng không bỏ trốn.

Một đợt sóng nhiệt ập đến, Nguyên Diệu thấy không chỉ phía Đông Cung bắt đầu phát sáng đỏ, mà cả Thượng Thanh quán cũng bắt đầu bốc cháy.

"Bạch Cơ, mau dập lửa đi!"

Nguyên Diệu lo lắng nói.

Bạch Cơ chăm chú nhìn phượng hoàng bất tử trên bàn thờ bát quái.

"Đừng vội, để cháy thêm một lúc nữa."

Cao công công nghe vậy rất thất vọng, chỉ muốn ngất đi.

Khi phượng hoàng bất tử bay lên, có bốn người theo sau từ Đông Cung chạy ra, họ mặc áo choàng đen trùm kín đầu rất hoảng hốt chạy đến Thượng Thanh quán.

Vì hỏa hoạn, trong ngoài Thượng Thanh quán cũng trở nên hỗn loạn, cấm vệ quân và các đạo sĩ bị lửa đuổi, hoảng loạn chạy tán loạn.

Bốn người này trong cảnh hỗn loạn tiến vào Thượng Thanh quán, ba người chạy về phía Lý Đán, một người không sợ lửa lao về phía phượng hoàng bất tử trên bàn thờ.

Ba người chạy về phía Lý Đán là Nam An Quận Vương Lý Dĩnh, An Lạc Quận Vương Lý Quang Thuận, Vĩnh An Quận Vương Lý Thủ Nghĩa. Người lao về phía phượng hoàng bất tử có mũi cao, mắt sâu, da ngăm đen, mặt đầy hình xăm kỳ lạ, mũi đeo vòng lớn, trông như một pháp sư ngoại quốc.

Pháp sư miệng lẩm bẩm, lửa không thể xâm phạm cơ thể hắn, hắn tiến về phía bàn thờ muốn kiểm soát lại phượng hoàng bất tử.

Phượng hoàng bất tử không ngừng nuốt hương liệu, mắt nó đen nhánh như mực, xoáy bay nhanh, toàn thân bùng phát ngọn lửa dữ dội.

Pháp sư niệm chú tiến về phía phượng hoàng bất tử, chịu đựng ngọn lửa.

"Hóa ra hắn đã mang phượng hoàng bất tử đến Trung Thổ, vậy hắn phải trả giá rồi..."

Khóe miệng Bạch Cơ hiện lên một nụ cười kỳ dị.

Ngay khi pháp sư bước lên bàn thờ bát quái, pháp thuật của hắn bị phá giải bởi một loại phép thuật cao thâm hơn, mất đi hiệu quả vốn có. Lớp bảo vệ chống lửa của hắn như băng tuyết bị dội nước sôi, tan biến trong chốc lát.

"Ôiiiiii..."

Ngọn lửa thiêu đốt, pháp sư hét lên đau đớn và thảm thiết, hắn dần co rúm lại trong ngọn lửa niết bàn, hóa thành than đen.

Sau khi pháp sư chết, phượng hoàng bất tử như thoát khỏi lồng giam, được tái sinh. Mắt nó trong sáng trở lại, màu vàng kim rực rỡ như hổ phách.

Phượng hoàng bất tử dang đôi cánh rực rỡ, lượn quanh bàn thờ, ăn các loại hương liệu xung quanh.

Lửa ở Đông Cung và Thượng Thanh quán càng ngày càng lớn, sắp trở nên không thể kiểm soát.

Bạch Cơ cúi đầu, nói với con chim Thương Dương trên vai: "Thương Dương, trời giáng mưa lớn, đi dập lửa đi."

Con chim Thương Dương như có linh tính, vỗ cánh bay lên trời.

Chim Thương Dương múa trong gió, cơ thể lớn dần. Chim Thương Dương bay lên bầu trời, há miệng phun ra mưa ngọt, mưa lớn trút xuống.

Nếu lúc này từ đỉnh Thần Cung Vạn Tượng nhìn về phía đông, có thể thấy một cảnh tượng kỳ lạ hòa quyện giữa nước và lửa. Một con chim khổng lồ màu xanh lam lượn trên bầu trời, trên đỉnh mây trắng, dưới người nó mưa lớn như suối.

Trong mưa lớn, ngọn lửa ở Đông Cung dần tắt chỉ còn bàn thờ Thượng Thanh quán vẫn cháy rực. Trong lửa, một con chim lửa màu vàng đỏ đang nuốt hương liệu.

Chim mưa ở trên, chim lửa ở dưới.

Chim xanh bay lên trời, chim đỏ cúi xuống đất.

Cảnh tượng kỳ diệu giữa nước và lửa khiến Nguyên Diệu kinh ngạc không thôi.

Cao công công quên cả thất vọng, chỉ ngạc nhiên nhìn tất cả trước mắt.

Lý Đán im lặng nhìn bàn thờ, Lý Dĩnh, Lý Quang Thuận, Lý Thủ Nghĩa cúi đầu thất vọng, khi thấy pháp sư bị thiêu chết, họ như những con gà chọi bị thua trận, như những con cừu sắp bị giết.

Bạch Cơ nói: "Thái tử điện hạ, ngọn lửa yêu ở Thần Đô này là tác phẩm của bốn người sao?"

Lý Đán chưa kịp lên tiếng, Lý Dĩnh vội nói: "Tất cả đều do ta làm! Pháp sư ngoại quốc là do ta mời đến, thái tử điện hạ hoàn toàn không biết chuyện này..."

Lý Đán thở dài, nói: "Thôi đi, không cần biện hộ cho ta. Ta không ngăn cản các ngươi, chuyện này cũng xem như do ta làm. Nghĩ lại, tất cả đều sai lầm! Các ngươi hận mẫu hoàng, hận bà ấy lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng trong chuyện này, các ngươi cũng chẳng khác gì bà ấy. Vì lợi ích cá nhân, vì giành lại quyền lực, không tiếc để Thần Đô chìm trong lửa địa ngục, không tiếc để dân chúng vô tội chết thảm. Nếu bà ấy là Tu La, các ngươi cũng là ác quỷ. Đối với ta, Đại Đường và Đại Chu đều là địa ngục, đều không khác gì nhau... Ta bị kẹt giữa các ngươi như ở trong địa ngục vô tận, mỗi lúc đều chịu đựng lửa nghiệp. Mẫu hoàng coi ta như con rối, điều khiển ta để xây dựng đế chế của bà, các ngươi coi ta như quân cờ như công cụ trong cuộc chiến giành quyền lực với bà ấy, ai quan tâm đến cảm xúc của ta? Ai thấu hiểu hoàn cảnh của ta? Mỗi đêm ta đều giật mình tỉnh giấc, lo sợ, bàng hoàng, ta khóc như đứa trẻ nhưng không ai giúp ta... Không sao cả, gần đây ta thường mơ thấy đại ca, nhị ca, họ cùng phụ hoàng uống rượu, ca hát nhảy múa trong Đại Minh Cung, mọi người đều rất vui vẻ, họ còn gọi ta mau đến, ta cũng muốn đi..." Lý Đán vừa khóc vừa cười, đột nhiên lao về phía bàn thờ bát quái, dường như muốn nhảy vào lửa.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 5


Nguyên Diệu nhanh mắt lẹ tay, bất chấp tôn ti lễ nghĩa, vội vàng nhảy lên ôm chặt Lý Đán, khuyên: "Thái tử điện hạ, ngài không được kích động..." Bị Nguyên Diệu giữ lại, Lý Đán như mất hết sức lực, cũng mất đi dũng khí nhảy vào lửa, ngã quỵ xuống đất, khóc trong im lặng dưới mưa.

Lý Dĩnh, Lý Quang Thuận, Lý Thủ Nghĩa thấy đại thế đã mất, thất bại không tránh khỏi, ba người cúi đầu thất vọng, im lặng không nói.

Trên bàn thờ bát quái, phượng hoàng bất tử ăn đủ hương liệu, dang đôi cánh màu vàng đỏ, phát ra tiếng kêu dài vang vọng.

Ngọn lửa đỏ bùng lên cao nhưng bị mưa xanh dập tắt như viên ngọc lam giam giữ một chút đỏ rực.

Sau khi lửa ở Đông Cung tắt, mưa xanh từ chim Thương Dương chỉ rơi trong phạm vi Thượng Thanh quán.

Bạch Cơ bước trong mưa xanh tiến về phía bàn thờ bát quái, dừng chân bên cạnh ngọn lửa.

Phượng hoàng bất tử qua nước và lửa, đối diện với Bạch Cơ.

Trong mắt vàng kim như hổ phách của phượng hoàng bất tử phản chiếu bóng một con rồng trắng.

"Bây giờ ngươi không có chủ nhân, vậy ngươi là của ta."

Bạch Cơ cười nói.

Phượng hoàng bất tử vẫy đuôi, toàn thân bùng lên ngọn lửa rực rỡ như một con phượng hoàng tái sinh trong lửa.

Phượng hoàng bất tử cháy trong ngọn lửa, bị thiêu thành tro từng chút một.

Mưa lớn tắt dần, ngọn lửa dần tắt, thân thể phượng hoàng bất tử hóa thành tro bụi.

Sau khi lửa tắt, mưa xanh trên trời cũng dừng lại.

Trên bàn thờ bát quái, khung cảnh hỗn loạn, tàn tích hương liệu đầy đất.

Bạch Cơ bước lên, cúi đầu tìm kiếm trong đống tro. Không lâu sau, ngươi tìm thấy thứ mình muốn.... Trong đống tro, có một con sâu màu vàng đỏ.

Bạch Cơ đưa tay ra, con sâu màu vàng đỏ từ đống tro bò lên lòng bàn tay nàng.

Bạch Cơ mỉm cười, thổi một hơi vào lòng bàn tay với con sâu.

Con sâu cuộn mình lại thành một cục, từ từ hóa thành một cái kén sâu.

Cái kén sâu dần cứng lại, chuyển thành màu xám trắng, trông giống như một viên đá nhỏ.

"Ngươi cứ ngủ yên đi." Bạch Cơ cười nói.

Phượng hoàng bất tử hóa thành sâu, lửa trong hoàng cung hoàn toàn tắt ngấm, con chim Thương Dương trên bầu trời cũng ngừng mưa, nó dần nhỏ lại, bay trở về mặt đất, đậu trên vai Bạch Cơ.

Bạch Cơ cất cái kén sâu đi, rời khỏi bát quái đài, quay lại lục giác đình, con chim Thương Dương trên vai ngươi bèn bay trở lại vào bức tranh trên cây thông.

Bạch Cơ cười nói: "Cao công công, sự việc đã được giải quyết, Thần Đô từ nay sẽ không xảy ra lửa yêu nữa."

Cao công công đã sớm ra lệnh cho cấm vệ quân canh giữ Lý Đán, Lý Dĩnh, Lý Quang Thuận và Lý Thủ Nghĩa, lúc này ông vừa mừng vừa lo, trông càng sầu muộn.

Cao công công mừng vì sự việc đã được giải quyết suôn sẻ, ông có thể báo cáo kết quả. Lo là vì sự việc này liên quan đến thái tử, khi báo cáo sẽ rất phiền phức, Võ Tắc Thiên tính tình thất thượng, nếu nói sai hoặc không may mắn, ông cũng có thể bị trừng phạt.

Bạch Cơ vẫy vẫy ống tay áo ướt sũng, cười nói: "Việc này thật phiền phức, toàn thân ướt đẫm, nhớp nháp rất khó chịu. Cao công công, có thể tìm nơi nào cho ta và Hiên Chi tắm rửa thay đồ không?"

Cao công công nói: "Lão nô sẽ ra lệnh cho cung nữ đưa các ngươi đến Cửu Châu Trì."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Cửu Châu Trì ở đâu thế?"

Cao công công nói: "Ở hậu cung đại nội."

Nguyên Diệu ngạc nhiên: "Hậu cung? Ta là nam tử, đi vào hậu cung nơi phi tần cư ngụ, không ổn lắm."

Cao công công nói: "Ôi dào, thời nay khác xưa, hiện nay nữ đế đang trị vì, hậu cung không có phi tần. Ngoại trừ một vài thái phi già đang ăn chay niệm phật, các điện trong hậu cung hầu như đều trống, không có gì phải tránh né…" Nguyên Diệu đổ mồ hôi.

Cao công công vừa ra lệnh cho cung nữ chuẩn bị kiệu đưa Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến điện suối nước nóng bên Cửu Châu Trì ở Tây đại nội tắm rửa thay đồ vừa để cấm vệ quân giam lỏng Lý Đán và những người kia ở Đông cung vừa phải kiểm tra tình trạng thiệt hại của Đông cung và Thượng Thanh quán. Cũng may, dù xảy ra hỏa hoạn nhưng dập tắt kịp thời, không có cung nhân thương vong, Đông cung bị cháy một điện nhỏ, Thượng Thanh quán bị cháy cửa lớn, đều là những thiệt hại nhỏ.

Cao công công đi báo cáo tình hình với Võ Tắc Thiên.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu ngồi trên kiệu đi tới phía Tây đại nội.

Bạch Cơ vì toàn thân ướt đẫm lại thêm áo trắng bị tro lửa làm bẩn nên nằm nghiêng trên kiệu, không muốn nói chuyện.

Bạch Cơ ngẩng đầu thì thấy trên mặt Nguyên Diệu có một vệt đen, không nhịn được lấy tay áo lau.

"Hiên Chi, trên mặt ngươi có tro. Ta lau giúp ngươi nhé."

Tay áo của Bạch Cơ cũng dính tro, lau một cái, vệt đen trên mặt Nguyên Diệu càng lan rộng.

"Đa tạ Bạch Cơ."

Nguyên Diệu không thấy được mặt mình, tưởng rằng Bạch Cơ đã lau sạch tro giúp mình, vô cùng cảm kích.

"Hiên Chi không cần khách sáo."

Bạch Cơ cảm thấy có lỗi.

"Bạch Cơ, sự việc này thực sự đã được giải quyết chưa?"

Nguyên Diệu hỏi.

Bạch Cơ nói: "Đối với ta, đã giải quyết xong. Đối với Hoàng thượng, sự việc này mới chỉ bắt đầu, những việc tiếp theo là chuyện của bà ấy cần phải giải quyết."

"Bạch Cơ, phượng hoàng bất tử tự cháy rồi hóa thành sâu, chuyện này là sao?"

Bạch Cơ cười nói: "Đó là vòng luân hồi sinh tử của phượng hoàng bất tử. Sâu sinh ra chim, chim lại sinh ra sâu, khi đến thời điểm thích hợp, con sâu này sẽ lại hóa thành phượng hoàng bất tử."

"Bạch Cơ định đặt cái kén sâu của phượng hoàng bất tử ở Phiêu Miểu các sao?"

"Tất nhiên rồi. Là ta bắt được nó mà."

"Có nguy hiểm không? Lỡ nó đột nhiên biến thành chim rồi bốc cháy thì sao…"

"Không sao đâu, Hiên Chi đừng lo, ta sẽ đặt nó ở thời gian hoang dã, rất an toàn." Bạch Cơ mỉm cười nói.

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, Thái tử điện hạ thật đáng thương."

Bạch Cơ nói: "Thế gian rộng lớn, chúng sinh vô số, ai mà không đáng thương? Ta cũng đáng thương lắm, Hiên Chi xem ta toàn thân ướt đẫm, váy trắng cũng biến thành đen rồi."

"Ta cũng ướt hết cả người…"

Chẳng bao lâu sau, kiệu tiến vào phía Tây đại nội, đến điện suối nước nóng bên Cửu Châu Trì. Bạch Cơ và Nguyên Diệu xuống kiệu, được cung nữ dẫn đi tắm rửa riêng.

Trong điện suối nước nóng có các phòng tắm lớn nhỏ khác nhau, hồ sang trọng nhất là hồ rồng của hoàng đế, các hồ khác như hồ mẫu đơn, hồ thược dược, hồ đan khê là của hoàng hậu và phi tần.

Nguyên Diệu vào hồ sen là nơi tắm của các cung tần.

Mặc dù hồ sen là phòng tắm bình thường nhất trong điện suối nước nóng nhưng trong mắt Nguyên Diệu, nó đã rất xa hoa tráng lệ. Hơn nữa hắn không ngờ rằng, một nam tử như mình lại tắm ở nơi dành cho phi tần trong hậu cung, luôn cảm thấy hành động này không hợp lễ giáo, trái với giáo lý thánh nhân nhưng vì đã được hoàng đế cho phép nên cũng không phải vi phạm gì.

Nguyên Diệu từ chối sự giúp đỡ của cung nữ, tự mình tắm rửa trong suối nước nóng.

Trong lúc Nguyên Diệu đang tắm, các cung nữ đã giặt sạch bộ y phục mà hắn thay ra và sấy khô trên lò hương.

Nguyên Diệu tắm xong, đốt hương thay đồ. Khi hắn ăn mặc chỉnh tề bước ra thì thấy Cao công công đã ngồi trong đại điện, cúi đầu buồn bã chờ hắn và Bạch Cơ.

Bạch Cơ dường như vẫn chưa tắm xong, trong điện Long Trì vẫn vang lên tiếng nước và tiếng cười của các cung nữ.

Bạch Cơ sao lại tắm trong hồ của hoàng đế? Con rồng yêu này thật quá đáng!

Nguyên Diệu nghĩ thầm.

Đại điện của điện suối nước nóng thông thoáng ba mặt, hướng ra Cửu Châu Trì, lúc này trời đã tối, đèn hoa mới lên, lờ mờ thấy trong điện Dao Quang đối diện đèn lấp lánh, bóng dáng người qua lại, dường như đang có một bữa tiệc đêm. Gió mát thổi qua Cửu Châu Trì, mang theo tiếng nhạc từ điện Dao Quang, nghe như điệu nhạc vui tươi của người Hồ ở Tây Vực.

"Ngươi tắm xong rồi à?" Cao công công hỏi.

Nguyên Diệu bước tới, ngồi xuống.

"Dạ, đã phiền Cao công công đợi lâu."

Cao công công nói: "Không sao, đây là bổn phận của lão nô. À phải, trời đã tối rồi, sợ đi đêm không tiện, Hoàng thượng cho phép các ngươi nghỉ lại trong cung một đêm. Lát nữa ngươi muốn đi điện Dao Quang dự tiệc tiếp đón sứ thần Tây Vực, hay là nghỉ ngơi trong cung?"

Nguyên Diệu ngạc nhiên: "Ta cũng không biết, phải hỏi Bạch Cơ."

Cao công công nói: "Vậy thì đợi thêm chút nữa."

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: "Cao công công, Thái tử điện hạ không sao chứ?"

Cao công công đáp: "Lý Dĩnh, Lý Quang Thuận, Lý Thủ Nghĩa ba người đã bị áp giải đến Thiên Lao, bọn họ mang lòng mưu phản, không thoát khỏi tội chết. Thái tử điện hạ vẫn bị giam lỏng trong Đông cung, Hoàng thượng chưa đưa ra xử lý... Ủa, lão nô nói với ngươi mấy chuyện này làm gì? Đây không phải là chuyện ngươi nên lo!"

Nguyên Diệu trong lòng trăm tơ nghìn mối, có hơi buồn bã. Hắn nghĩ đến vẻ mặt đau khổ của Lý Đán, không khỏi cầu nguyện cho hắn được bình an. Tranh đoạt quyền lực luôn tàn khốc vô tình, ở cổng Huyền Vũ không có huynh đệ, trong Thái Cực cung không có cha con, trong Đại Minh cung không có tỷ muội, trong Thái Sơ cung cũng không có nương con... Những ân oán tranh đấu của hoàng gia này hắn không thể hiểu hết nhưng dường như cũng có thể thấu hiểu, hắn bất lực, chỉ mong mọi người trong tham vọng, đừng tạo ra thêm bi kịch khó cứu vãn nữa.

Cao công công nhìn thấy vẻ mặt buồn bã của Nguyên Diệu, trong lòng rất thích, nói: "Ngươi theo Bạch Cơ làm mấy việc tà môn ngoại đạo này, đối đầu với quái lực loạn thần, không những nguy hiểm mà còn không có tiền đồ... Tiền công cũng chẳng được bao nhiêu đúng không?"

Nguyên Diệu đáp: "Tiền công thực sự không nhiều, một tháng chỉ được hai lượng tiền."

Cao công công rũ mày nói: "Hai lượng tiền? Quá ít. Ngươi theo lão nô trong hoàng cung làm việc, một ngày cũng không dưới hai lượng tiền. Nói thật, có lúc giúp đỡ đại quan hiển quý, tiền thưởng riêng cũng đến vạn quan. Hơn nữa, thái giám ít nhất cũng là quan, có chức vụ, có bổng lộc hàng tháng, cũng có thể làm rạng rỡ môn..."

Nguyên Diệu đen mặt lại, chưa kịp mở miệng từ chối thì đã nghe thấy giọng nói của Bạch Cơ.

"Ồ, Cao công công, ngươi giúp ai mà tiền thưởng riêng lên đến vạn quan cơ? Mai ta hỏi Hoàng thượng xem..."

Nguyên Diệu quay lại thì thấy Bạch Cơ mặc một bộ cung trang lộng lẫy, tinh thần sảng khoái bước ra.

Bạch Cơ mặc một chiếc váy lựu đỏ cao eo thêu hoa văn hình chữ thập, khoác một chiếc khăn mỏng năm màu xanh lam, chân đi giày vàng đính ngọc. Nàng búi tóc theo kiểu thịnh hành trong cung, cài trâm ngọc bích tinh xảo còn đeo một bông mẫu đơn đỏ. Tai đeo khuyên minh nguyệt, cổ đeo vòng ngọc trai, cổ tay đeo vòng san hô bảy báu, trông lộng lẫy rực rỡ.

Mắt Bạch Cơ sáng như minh châu, môi đỏ như hoa sen, trên mặt dán hoa điền lộng lẫy, cười tươi đi tới chỗ Nguyên Diệu và Cao công công.

Nguyên Diệu nhìn đến ngẩn ngơ.

"Bạch Cơ, sao ngươi lại mặc cung trang? Đây là lần đầu tiên ta thấy ngươi mặc đồ không phải màu trắng..."

Cao công công thì sợ hãi: "Bạch Cơ đại nhân, ngài nghe lầm rồi, lão nô trung thành, hết lòng vì Hoàng thượng, tiền thưởng vạn quan đó tất nhiên là Hoàng thượng ban..."

Bạch Cơ cười nói: "Áo trắng của ta bị lửa đốt thủng vài lỗ, mặc không đẹp nên ta thay bộ mới, các cung nữ còn búi tóc theo kiểu trong cung, trang điểm theo mốt Thần Đô. Hiên Chi thấy đẹp không?"

"…Đẹp." Nguyên Diệu đỏ mặt, nói nhỏ.

Bạch Cơ cười nói: "Ta vẫn thích màu trắng hơn. Đối với phi nhân, mặc y phục cùng màu với bản thân thấy an toàn hơn, thoải mái hơn."

"...Màu trắng cũng đẹp." Nguyên Diệu đỏ mặt nói nhỏ.

Bạch Cơ nói: "Tắm xong, bụng đói quá, bây giờ về Phiêu Miểu các, Ly Nô có lẽ chưa chuẩn bị đồ ăn cho chúng ta. Cao công công, ngươi đưa ta và Hiên Chi đi ăn món ngon, chuyện tiền thưởng vạn quan ta sẽ giả vờ như chưa nghe thấy."

Cao công công nói: "Bạch Cơ đại nhân, Hoàng thượng giữ ngài lại trong cung nghỉ một đêm. Món ngon đó, ngài muốn ăn ở tiệc đêm điện Dao Quang, hay ăn ở cung điện ngài nghỉ? Ngài định ở cung nào?"

Bạch Cơ nhìn quanh Cửu Châu Trì, ánh mắt dừng ở phía đông bắc.

Cao công công nhìn theo ánh mắt của Bạch Cơ, trong lòng thầm nghĩ không ổn.

Bạch Cơ chỉ vào tòa thiên đường dưới ánh trăng, nói: "Đêm nay ta ở thiên đường. Cao công công, ngươi bảo người mang đồ ăn lên, đừng quên rượu Kim Cốc trong cung."

Nguyên Diệu đổ mồ hôi, nói: "Bạch Cơ, được Hoàng thượng ban ơn lớn, cho chúng ta nghỉ lại trong cung một đêm, khách theo chủ, nghe theo sắp xếp, ngươi tự chọn chỗ ở không phù hợp lắm đâu?"

Cao công công thở dài, nói: “Chuyện đó không sao, Bạch Cơ đại nhân vốn cầu kỳ, và cũng không phải là khách bình thường. Hoàng thượng đã dặn dò, phải chiều theo ý nàng, không được chậm trễ... Chỉ là thiên đường quá cao, thiên đường là nơi Hoàng thượng niệm Phật và tĩnh tâm, ngay cả Hoàng thượng cũng ít khi lên, phải leo lên leo xuống như vậy, đôi chân lão nô không chịu nổi.”

Bạch Cơ cười nói: “Cao công công, đi lại nhiều sẽ sống lâu hơn.”

Cao công công thở dài, nói: “Bạch Cơ đại nhân, ngài đừng lừa lão nô nữa, trên đời này cái gì sống lâu nhất?”

Bạch Cơ đang suy nghĩ.

Cao công công đã trả lời: “Rùa. Rùa sống lâu, vì nó thích tĩnh, không thích động, từ trước đến giờ không hề vận động nhiều.”

Cao công công nói xong bèn đứng dậy dẫn đường.

Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ vẫn đứng đó ngây người, nói: “Bạch Cơ còn ngẩn ra làm gì? Đi thôi.”

Bạch Cơ tỉnh lại, nói: “Không đúng, ta vừa tính toán, ta sống lâu hơn Huyền Vũ... không, sống lâu hơn rùa, rồng mới là loài sống lâu nhất.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi.

Tiếc là Cao công công đã đi ra ngoài điện suối nước nóng, đang bảo các tiểu thái giám thắp đèn lồng, không nghe thấy lời Bạch Cơ nói.

*

Trăng sáng, sao thưa.

Thiên đường còn gọi là Thiên Chi Thánh Đường, là ngôi chùa lễ Phật do Võ Tắc Thiên xây dựng, nó là một tháp Thích Ca cao vút tận mây, hùng vĩ và trang nghiêm.

Thiên đường cao khoảng ngàn thước là công trình cao nhất trong thành Lạc Dương, cao hơn nhiều so với Vạn Tượng Thần Cung gần đó. Thiên đường chỉ có một tòa tháp độc lập, không có quần thể tháp nên nhìn rất nổi bật, duy nhất và oai phong. Nghe nói, khi xây dựng thiên đường, mỗi ngày có mười ngàn công nhân làm việc, vận chuyển đá gỗ từ khắp nơi về, chi phí lên đến hàng ngàn tỷ, kho bạc đều cạn kiệt vì nó.

Thiên đường chia làm năm tầng, đến tầng ba có thể nhìn bao quát Vạn Tượng Thần Cung, đến tầng năm có thể thu toàn cảnh Lạc Dương vào tầm mắt. Trong thiên đường có một tượng Phật vàng cao khoảng chín trăm thước đứng sừng sững, mũi tượng Phật to như thuyền ngàn hộc, có thể chứa mười người ngồi cùng lúc. Bốn bức tường của thiên đường đều là tranh màu, trang nghiêm và rực rỡ.

Tầng cao nhất của thiên đường là tĩnh thất để lễ Phật và tĩnh tâm.

Trong tĩnh thất, bốn mặt thông thoáng, ở phía tây đặt một tượng Phật ngọc, trên nền trải thảm len Ba Tư mềm mại, có đệm ngồi, lư hương, bàn gỗ, trên kệ sách cạnh tường chất đầy kinh sách, bên cạnh kệ sách còn có một chiếc giường quý phi, trông rất tao nhã.

Cao công công cho người mang đồ ăn tinh tế lên, Bạch Cơ ăn rất vui vẻ nhưng Nguyên Diệu thì kích động đến mức không ăn nổi.

Sau bữa tối, Bạch Cơ vừa uống rượu Kim Cốc vừa lật xem kinh Phật bên kệ sách.

Nguyên Diệu bước ra ngoài, đứng bên lan can, gió đêm thổi tung tóc hắn, hắn giơ tay ra, chỉ cảm thấy gió trời mạnh mẽ, tay có thể hái sao.

Nguyên Diệu nhìn xuống dưới, Vạn Tượng Thần Cung ngay dưới chân, ánh trăng chiếu lên mái ngói lưu ly, tạo nên một vùng ánh sáng vàng lấp lánh. Không xa là Cửu Châu Trì, tiệc đêm ở điện Dao Quang vẫn tiếp tục, đèn đuốc lấp lánh như một rừng đèn hoa lay động.

Bạch Cơ cầm bình rượu Kim Cốc vừa uống vừa bước đến lan can.

Nguyên Diệu có hơi kích động, múa tay nói: “Bạch Cơ, ta chưa từng thấy tháp Phật cao như vậy, cũng chưa từng thấy cảnh tượng hùng vĩ như vậy...”

Bạch Cơ nói: “Hiên Chi, cảnh sắc của Bạch Ngọc Kinh còn hùng vĩ và đẹp hơn nơi này nhiều, sao ngươi không thấy kích động như vậy...”

Nguyên Diệu nói: “Tiên cảnh hùng vĩ là điều đương nhiên nhưng cảnh sắc nhân gian kỳ diệu như thế này khiến người ta cảm thấy sức mạnh con người vô tận, người phàm cũng có thể lên trời làm người ta kích động hơn.”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút, không thể hiểu được suy nghĩ và cảm xúc của con người.

“Hiên Chi, uống một ly rượu Kim Cốc đi.”

Nguyên Diệu nói: “Đây là chùa Phật, không được uống rượu.”

Bạch Cơ cười tươi nói: “Không sao đâu, Phật tổ chắc đang ngủ, ngài sẽ nhắm một mắt, mở một mắt thôi.”

Nguyên Diệu nói: “Phải có lòng thành kính, không thể lừa dối Phật tổ, ta không uống đâu. Đúng rồi, Bạch Cơ, ta muốn xuống xem tượng Phật và tranh tường, lúc nãy lên đây quá vội, chưa kịp nhìn rõ...”

Bạch Cơ cười nói: “Đi đi. Cao công công đang ở cầu thang, ngươi đến xin đèn nến. Tháp Phật cao này bằng gỗ rất dễ cháy, tốt nhất là nhờ người trong cung cầm đèn, lỡ ngươi không cầm nến không chắc sẽ làm cháy thiên đường.”

“Được.” Nguyên Diệu gật mạnh đầu.

Nguyên Diệu phấn khích đi tìm Cao công công, dự định tham quan thiên đường vào ban đêm.

Sau khi Nguyên Diệu rời đi, Bạch Cơ ngồi trên lan can, vui vẻ tự rót rượu uống ngắm trăng sao. Nàng để chân lơ lửng, váy dài tung bay, khăn choàng và dây thắt lưng tạo nên những đường cong đẹp dưới ánh trăng.

Lạch cạch.

Sau lưng truyền đến tiếng bước chân nhẹ nhàng.

Bạch Cơ nói: “Hiên Chi xem tượng Phật và tranh tường nhanh thế sao?”

Người sau lưng không trả lời.

Bạch Cơ nghiêng đầu nhìn thấy người đến, không khỏi mỉm cười.

Võ Tắc Thiên đầu đội vương miện, mặc thường phục màu đỏ vàng thêu hoa lớn, thắt lưng chín vòng, chân đi giày sáu cõi. Khuôn mặt bà hơi đỏ, dường như đã uống khá nhiều rượu trong tiệc đêm nhưng ánh mắt vẫn sáng ngời và sắc bén, mang theo vẻ uy nghiêm nhìn khắp thiên hạ.

Bạch Cơ cúi đầu nhìn điện Dao Quang, cười nói: “Tiệc đêm chưa kết thúc, sao Hoàng thượng lại có thời gian lên thiên đường rồi?”

“Tiệc đêm quá ồn, trẫm ra ngoài hít thở không khí.”

Võ Tắc Thiên bước đến cạnh lan can nhìn xuống phía dưới. Bên dưới ngàn thước, tối đen không thấy đáy, Võ Tắc Thiên hơi lùi lại một bước.

Bạch Cơ cười nói: "Ngài sợ rồi sao?"

Võ Tắc Thiên lạnh lùng cười, nói: "Trẫm thì sợ gì? Trên con đường đến ngôi vua, mỗi bước đều đi qua vô số hài cốt của vực sâu không đáy."

"Từng bước từng bước đi đến nơi cao có thể tranh sáng với mặt trời và mặt trăng, quả là không dễ dàng," Bạch Cơ nói.

"Từ xưa đến nay, đều là rồng bay trên trời, trẫm lại muốn phượng hoàng cất tiếng giữa thế gian."

Bạch Cơ nói: "Vì vậy người đầy tham vọng mang đến loài chim bất tử giống phượng hoàng, không tiếc đốt cháy Thần Đô, tàn hại dân chúng khiến ngài mất đi lòng dân."

"Cuối cùng vẫn là trẫm thắng."

"Ngài định xử lý những kẻ mưu phản này thế nào?"

"Tất cả đều bị xử tử. Không làm vậy thì không thể an ủi những dân chúng đã chết trong ngọn lửa yêu ma."

"Vậy còn Thái tử điện hạ?"

"Giữ lại. Để nó suy ngẫm và hối cải. Cũng để nó thấy rằng trời đất và thần Phật đều đứng về phía trẫm, thiên hạ này là của trẫm. Thần phục là lựa chọn duy nhất của nó." Trong bầu trời sao lấp lánh, vị hoàng đế trần gian nói đầy khí phách.

Bạch Cơ cười, nàng uống một ngụm rượu Kim Cốc rồi đưa bình ngọc cho Võ Tắc Thiên.

"Kính ngài thiên hạ."

Võ Tắc Thiên nhận lấy bình ngọc, ngửa đầu uống một ngụm rượu Kim Cốc.

"Thông thường, trong trong chùa Phật trẫm không uống rượu nhưng rượu ngươi kính, ngoại lệ."

"Vô cùng vinh hạnh."

Bạch Cơ ngồi trên lan can, Võ Tắc Thiên đứng cạnh lan can, hai người nhìn ra ngoài biển mây, sao trời sáng mãi.

Bạch Cơ nói: "Các vì sao chi phối quỹ đạo của trần gian, chỉ có đứng ở nơi cao mới có thể giải mã những lời tiên tri trong đó."

Võ Tắc Thiên nói: "Chỗ trẫm và ngươi đứng là vị trí cao nhất của đế quốc." Bạch Cơ nhìn một thoáng đỉnh núi Mang, cười mà không nói gì.

Võ Tắc Thiên nói: "Tự nhân, nghe nói ngươi muốn làm Thiên Hộ Hầu của núi Mang? Trẫm rất tò mò, trong núi Mang chẳng có gì, hoang vu đến mức không thể làm phong địa, ngươi cần nó để làm gì? Nếu ngươi muốn phong địa, phía nam Lạc Dương có ruộng tốt ngàn dặm, thành trì vô số, trẫm có thể ban cho ngươi."

Bạch Cơ uống một ngụm rượu Kim Cốc, nói: "Ta thường ra vào núi Mang, trong núi Mang có một số kẻ chướng mắt, chúng tự xưng là chủ nhân núi Mang, mỗi lần đến đều phải giao tranh với chúng làm ta đau đầu..."

"Ồ, ngươi muốn giết chúng sao?"

"...Không cần thiết."

"Ngươi muốn đuổi chúng khỏi núi Mang?"

"Không cần thiết."

"Ngươi muốn làm chủ chúng, áp bức chúng?"

"Khá gần đúng rồi."

"Được. Mấy ngày nữa, trẫm sẽ phái người đi dán chiếu cáo khắp núi Mang."

"Dán nhiều một chút, tốt nhất là dán đến trăm tờ, cả những chỗ không người trong rừng sâu cũng phải dán, nếu không chúng sẽ giả vờ không thấy..."

"Trẫm sẽ cho người cứ cách mười dặm dán một tờ."

"Cảm ơn Võ đế Bệ hạ."

"Tự Nhân, ngươi có thể tặng trẫm con chim bất tử mà hôm nay bắt được không?"

"...Không thể."

"Vậy thì chiếu cáo chỉ dán một tờ thôi."

"Việc này... Ta có thể tặng ngài thánh nhân chi trị, đợi đến cuối năm khi ngài tế trời ở sông Lạc Hà sẽ cho Bạch Trạch* xuất hiện, dâng sách cho ngài."

* Bạch Trạch: Trong thần thoại Trung Quốc cổ đại là thần thú mang đến may mắn, giúp con người hóa giải tai ương. Bạch Trạch biết nói tiếng người, hiểu rõ thiên văn địa lý, biết được quá khứ và tương lai. Khi thánh nhân trị vì thiên hạ, Bạch Trạch sẽ mang sách đến.

"Kỳ lân xuất hiện trong mây, Bạch Trạch rống trong gió, không chỉ Bạch Trạch, Kỳ Lân cũng phải xuất hiện trong mây mới được song thú tường hòa."

"...Được thôi."

"Đêm nay tiệc đêm ở điện Dao Quang sẽ diễn ra suốt đêm, trong tiệc có đoàn ca múa của sứ giả nước ngoài mang đến, có một nhóm mỹ nam của Không Hạc Giám, khuya còn có pháo hoa rực rỡ. Ngồi trên mây này đúng là chán, mang theo tiểu thư sinh của ngươi, cùng đi tiệc đêm vui chơi đi..."

"Được thôi. Vậy cùng đi nhé." Bạch Cơ uống cạn một ngụm rượu Kim Cốc, cười nói.

Một cơn gió đêm thổi qua, thiên đường chạm mây, sao trời rực rỡ, đêm hè phồn hoa của Thần Đô như mộng ảo.

(Phượng Hoàng Bất Tử - Hết)
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 6


Trăng sáng mới lên, rừng trúc lay động.

Ngoài thành Lạc Dương, bên bờ sông Y, một nam nhân say rượu cầm đèn lồng bước đi lảo đảo.

Nam nhân sống ở làng Phù Đồ dưới hạ nguồn sông Y, hôm nay hắn tụ tập với bạn bè tại quán rượu Hồ Cơ ở ngoại ô tòa thành, về nhà có phần muộn lại uống thêm vài chén.

Nam nhân lảo đảo bước đi, vì đã lâu không uống nhiều rượu như vậy, hắn cảm thấy đầu hơi chóng mặt, cơ thể rất nóng.

Nam nhân đứng lại bên gốc cây trúc, định nghỉ một chút rồi đi tiếp.

Đã vào tiết Bạch Lộ, gió đêm lạnh, gió trên sông Y lạnh buốt xương. Tuy nhiên, hắn lại cảm thấy toàn thân nóng bức, ngũ tạng lục phủ như có lửa đốt, không những không thấy lạnh mà còn rất nóng.

Một cơn gió lạnh thổi qua, đèn lồng tắt. Nam nhân lấy một cây hỏa chiết ra định châm lại đèn lồng. Không biết vì sao, dù hắn cố gắng rất lâu, hỏa chiết vẫn không cháy.

Trong lúc bực bội, nam nhân ngửi thấy một mùi hương. Mùi hương này thoang thoảng rất dễ chịu, giống như mùi phấn son quyến rũ lại giống như hương thơm của hoa cỏ còn thoang thoảng mùi hương khói trong chùa, mang theo một cảm giác trang nghiêm.

Nam nhân đang tò mò không biết mùi hương từ đâu phát ra. Trong rừng trúc sâu thẳm, gió thổi lay bóng, có nhạc tiên giáng trần, bóng người mờ ảo.

Nam nhân nhìn thấy hoa Mạn Đà La bay lượn, hạc trắng, công, và các loài chim kỳ diệu như Ca Lăng Tần Già bay ra, một đoàn Phật tổ với dáng vẻ uy nghi từ từ bước ra khỏi rừng trúc, ngâm nga kinh Phật trang nghiêm. Phật tổ mặc pháp y màu hoàng kim, hào quang sau lưng sáng rực đêm như ba nghìn thế giới lớn.

Nam nhân há hốc miệng ngạc nhiên.

Trong lúc trời hoa rực rỡ, một đoàn Phật tổ bước xuống sông Y, đứng giữa dòng nước. Nước sông lập tức rực rỡ ánh sáng Phật, những đóa hoa sen bảy màu nở rộ.

Phật tổ nói: “Chúng sinh ở Cực Lạc muốn y phục có y phục muốn thức ăn có thức ăn, tất cả đều tự nhiên đủ đầy. Không tham, không sân, không si mê ngu dốt. Tất cả chúng sinh, luôn nghe diệu pháp, đó là thế giới Cực Lạc.”

Nam nhân vốn đã tin thần Phật, nay thấy Phật tổ hiển linh bèn nghĩ rằng duyên Phật của mình đã tới. Hắn như bị ma xui quỷ khiến, theo Phật tổ bước xuống sông Y.

Nam nhân đứng trong nước, một vị Phật bước đến, dâng cho hắn một chiếc pháp y lấp lánh.

Nam nhân cởi bỏ y phục của mình, tr*n tr**ng đứng trong nước lại có hai vị Phật múc nước sông Y, tẩy rửa thân thể hắn.

Nam nhân vốn cơ thể nóng bức, tâm trí bất an, lúc này cảm thấy mát mẻ hơn nhiều, toàn thân thoải mái không nói nên lời, thậm chí có phần cảm giác như đang ở tiên cảnh.

Phật tổ bên cạnh hát khẽ, hoa Mạn Đà La bay khắp trời, xung quanh hoa sen nở rộ, nam nhân nở nụ cười, cả người thoải mái như đã đến thế giới Cực Lạc.

*

Hồ Thập Tam Lang đi dọc bờ sông Y, đến thành Lạc Dương.

Hồ Thập Tam Lang cắn một giỏ tre, trong giỏ có vài hộp thuốc làm từ gỗ mun. Cô cô của Hồ Thập Tam Lang, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ sống ở Lạc Dương, điều hành một nhạc phường ở chợ Quỷ. Gần đây cô cô bị bệnh, Hồ Thập Tam Lang vâng lệnh cha đến Lạc Dương thăm cô cô. Trong giỏ, có thuốc quý mà lão hồ vương gửi tặng cho nghĩa muội.

Ban ngày, Hồ Thập Tam Lang đi lạc đường, lỡ mất nơi trú chân, đêm khuya vẫn còn đi dọc sông Y.

Hồ Thập Tam Lang vừa đi vừa nghĩ rằng sau khi thăm cô cô thì sẽ ghé thăm Phiêu Miểu các một chuyến. Lâu rồi không gặp con mèo đen đó, cảm thấy cần đến để cãi nhau với nó một trận, xem nó có khỏe không, trong lòng mới yên tâm. Hơn nữa, gần đây mới học được vài món ăn của người Hồ, có thể làm cho Bạch Cơ và Nguyên công tử ăn.

Đột nhiên, Hồ Thập Tam Lang thấy từ xa có một người trong sông Y.

Mùa thu sâu, gió đêm lạnh, nước sông lạnh buốt, người đó lại tr*n tr**ng, ngồi trong nước.

Hồ Thập Tam Lang tò mò người đó đang làm gì? Hắn không lạnh sao?!

Hồ Thập Tam Lang đi đến bờ sông.

Lại gần hơn nhìn rõ người đó, Hồ Thập Tam Lang lập tức hoảng hồn.

Đó là một nam nhân ngồi trong sông Y, quần áo vứt bừa bãi bên bờ. Hồn vía lạc lối, tâm trí hoang mang, tay cầm một con dao, không ngừng tự cắt vào mình.

Nam nhân cắt mình đến nát da nát thịt, máu chảy ròng ròng. Bụng hắn bị rạch toang, ruột lòi ra một nửa. Máu tươi nhuộm đỏ nước sông quanh hắn như nở ra vô số hoa sen đỏ.

Biểu cảm của nam nhân rất kỳ lạ, hắn mỉm cười đầy sung sướng, không đau đớn mà còn rất hạnh phúc.

“Chúng sinh ở Cực Lạc muốn y phục có y phục muốn thức ăn có thức ăn, tất cả đều tự nhiên đủ đầy. Không tham, không sân, không si mê ngu dốt. Tất cả chúng sinh, luôn nghe diệu pháp, đó là thế giới Cực Lạc.” Nam nhân mỉm cười, lẩm bẩm.

Hồ Thập Tam Lang nghĩ nam nhân bị yêu quái mê hoặc nhưng nhìn quanh không thấy yêu khí nào. Xung quanh ngoài mình ra, không có yêu quái nào khác.

Hồ Thập Tam Lang vội đặt giỏ tre xuống, lội xuống nước muốn cứu nam nhân.

Tiếc thay, khi Hồ Thập Tam Lang đến gần, ngũ tạng nam nhân đã đứt đoạn, máu chảy cạn, đổ gục xuống nước.

Nam nhân ngã xuống nước, một nửa mặt dưới nước, một nửa mặt trên nước, khóe miệng vẫn giữ nụ cười kỳ lạ như đang ở thế giới Cực Lạc.

Tiểu hồ ly đứng trong vũng máu, không biết vì nước sông quá lạnh, hay vì sợ hãi trong lòng mà toàn thân run rẩy.

*

Thời gian không có bắt đầu và kết thúc.

Không gian vô biên vô tận.

Thế giới vô cùng vô tận.

Trong cơn mơ hồ, Nguyên Diệu đến một cõi Cực Lạc, trước mắt toàn là bảo điện, tinh xá, có bảy báu hồ, nước tám công đức, tràn đầy trong đó. Hoa tươi nở rộ, cát vàng trải khắp đất, nhiều vị Phật ngồi trên những đài sen lớn như bánh xe, tụng kinh giảng đạo.

Hoa trời rực rỡ, tiếng Phạn âm ngân vang, nhiều thiện nam tín nữ đang thành kính lắng nghe.

Nghe như vậy, diệu âm vào tai khiến linh hồn thanh tịnh, tâm trạng yên bình.

Nguyên Diệu dạo bước trong cõi Cực Lạc, tâm trạng rất vui vẻ. Hắn đi mãi thì đột nhiên cảm thấy đất rung núi chuyển, trước mắt là một trận hỗn loạn.

Một con rồng trắng bất ngờ điên cuồng phóng từ hồ bảy báu lên trời.

Rồng trắng rất lớn, thân hình như rắn thần được vảy trong suốt như lưu ly bao phủ. Sừng của nó như san hô, móng vuốt sắc như liềm, râu và bờm như thương kích, uy mãnh và đẹp đẽ.

Trên thân rồng trắng phủ đầy ngọn lửa đan xen giữa vàng kim và băng lam, đồng tử của nó ánh lên màu đỏ yêu dị như giọt máu.

Rồng trắng râu bờm dựng đứng, răng nanh sắc như liềm, nó điên cuồng gần lên, một cơn gió nóng quét qua, bắt đầu há miệng nuốt chửng các Phật tổ đang giảng pháp.

Nguyên Diệu kinh hoàng.

Thiện nam tín nữ chạy tán loạn, rồng trắng nuốt chửng hết các Phật tổ, nước trong bảy báu hồ biến thành màu đỏ yêu quái.

Rồng trắng cuộn mình trên đài sen, ánh mắt yêu dị như máu, răng nanh sắc lạnh. Nó vừa nhai một Phật tổ vừa kiêu ngạo nói: “Từ giờ trở đi, ta và Phật tổ ngang hàng.”

Nguyên Diệu sợ hãi, kêu lên: “Bạch Cơ, đừng mà...”

Rồng trắng nghe thấy tiếng Nguyên Diệu kêu, há miệng rộng, lao tới, nuốt chửng hắn.

“Bạch Cơ, cứu với...”

Nguyên Diệu giật mình tỉnh dậy.

Nguyên Diệu mở mắt thì thấy mình nằm dưới gốc cây bồ đề ở sân sau của Phiêu Miểu các.

Nắng chiều thu xuyên qua lá bồ đề, tỏa ra một màu xanh vàng lấp lánh, giống như lưu ly.

“Hiên Chi không sao chứ? Mơ thấy ác mộng à?”

Bạch Cơ vừa nhai bánh sữa hoa hồng vừa tiến lại gần, quan tâm hỏi.

Con mèo đen đang ngồi trên một chiếc đệm cỏ, cũng đang ăn bánh sữa hoa hồng. Nó vừa khạc bánh sữa hoa hồng ra khỏi cổ họng vừa mắng: “Đồ mọt sách chết tiệt, ban ngày ban mặt mơ ác mộng cái gì! Tiếng hét của ngươi làm ta nghẹn bánh sữa hoa hồng, khụ khụ khụ...”

Nguyên Diệu mới nhớ ra.

Sau bữa trưa, nắng thu rực rỡ, Bạch Cơ rảnh rỗi bèn ngồi dưới gốc cây bồ đề đọc kinh Phật, hắn cũng nằm cạnh phơi nắng, ngắm hồ sen. Vì nắng ấm áp, gió thu dịu dàng, hắn không biết khi nào đã ngủ thiếp đi rồi mơ thấy ác mộng vừa rồi.

“Ly Nô lão đệ không sao chứ?”

Nguyên Diệu có hơi áy náy, vội vàng đi vỗ lưng cho con mèo đen, cho nó uống nước trà.

“Suýt chút nữa là nghẹn chết.” Con mèo đen bực bội nói.

Bạch Cơ vừa ăn bánh sữa hoa hồng vừa cười nói: “Hiên Chi vừa mơ thấy ác mộng gì? Tại sao trong mơ lại gọi tên ta?”

Nguyên Diệu bèn kể lại giấc mơ không đầu không đuôi vừa rồi.

Bạch Cơ cười nói: “Thế giới Cực Lạc tốt đẹp lại bị Hiên Chi mơ thành như vậy... Nhưng trong mơ của Hiên Chi, ta vẫn không giống ta lắm.”

“Tất nhiên không giống hắn, chỉ là mơ thôi mà, Bạch Cơ luôn tâm thiện kính Phật nên sẽ không làm ra chuyện khủng khiếp như nuốt chửng Phật tổ và muốn ngang hàng với Phật tổ đâu.” Tiểu thư sinh nói.

Bạch Cơ cười nói: “Ý ta là, ngang hàng đúng là nhàm chán, không phải phong cách của ta. Chỉ có duy ngã độc tôn mới thú vị.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi, nói: “Bạch Cơ, xin hãy giữ lòng kính Phật và phải sửa lại hành vi của mình làm nhiều việc thiện. Tiểu sinh sẽ thay niệm A Di Đà Phật nhiều để cầu nguyện cho ngươi.”

Bạch Cơ nghe mà đau đầu, cắn một miếng bánh sữa hoa hồng.

Con mèo đen đột nhiên dựng tai lên, nói: “Chủ nhân, hình như có khách đến, nghe bước chân có vẻ quen.”

Bạch Cơ nói: “Hiên Chi đi xem thử.”

“Được.” Nguyên Diệu đứng dậy.

Hiếm khi có khách đến, Nguyên Diệu rời khỏi sân sau, đi đến đại sảnh tiếp đón.

Trong đại sảnh, một công tử trẻ tuổi, anh tuấn, mặc hoa phục đang đứng ở cửa, một chân bước vào Phiêu Miểu các, một chân ở ngoài, trông như muốn vào lại muốn ra.

Nguyên Diệu nhìn thấy, vui mừng nói: “Đan Dương, lâu rồi không gặp.”

Vi Ngạn thấy Nguyên Diệu mới bước vào Phiêu Miểu các.

“Hiên Chi vừa rồi trong lúc mơ hồ, ta còn tưởng mình về Trường An rồi. Đang thấy khó hiểu thì thấy ngươi rồi, lúc này ta mới yên tâm.”

Trước đây ở Trường An, trước khi Vi Ngạn cùng gia đình chuyển đến Lạc Dương, đã đến Phiêu Miểu các để chia tay với Bạch Cơ và Nguyên Diệu. Vì theo cha làm quan ở Thần Đô, ít có thời gian về Trường An, gặp Nguyên Diệu cũng không tiện. Bạch Cơ nói, không cần chia tay, nàng cũng sẽ dời Phiêu Miểu các đến Thần Đô, kêu Vi Ngạn có thể tìm thấy ở chợ Nam. Với số mệnh của hắn rất dễ dàng tìm thấy Phiêu Miểu các. Khi không bận, hắn có thể đến Phiêu Miểu các như ở Trường An.

Nguyên Diệu vừa mời Vi Ngạn vào ngồi vừa nói: “Đan Dương, lâu rồi không gặp, tiểu sinh còn tưởng ngươi sẽ không đến Phiêu Miểu các nữa.”

Vi Ngạn cười nói: “Sau khi đến Lạc Dương, ta nhận lệnh đi Giang Châu làm việc, mấy ngày trước mới về. Vừa xong việc, rảnh rỗi nên ta bèn đến chợ Nam tìm Phiêu Miểu các.”

Nguyên Diệu cười nói: “Đan Dương bây giờ ở phường nào? Khi nào rảnh, tiểu sinh sẽ đến thăm ngươi.”

Vi Ngạn cười nói: "Phường Thượng Thiện. Ngươi vào phường hỏi Vi phủ là biết ngay."

Nguyên Diệu cười nói: "Gần hoàng cung lắm nhỉ."

Vi Ngạn cười nói: "Đúng vậy. Ở Phường Thượng Thiện tiện cho cha ta mỗi ngày ra vào cung."

Nguyên Diệu và Vi Ngạn thân thiết đi vào trong phòng.

Vi Ngạn không khách sáo, ngắm nghía một lúc bố trí và trang trí trong phòng, từ cửa sổ trông ra thấy Bạch Cơ và Ly Nô đang ngồi dưới gốc cây bồ đề ăn bánh sữa hoa hồng bèn vẫy tay gọi: "Bạch Cơ đang ăn gì thế?"

Bạch Cơ nghiêng đầu thì thấy Vi Ngạn, cười nói: "Là Vi công tử à, lâu rồi không gặp. Ta đang ăn bánh sữa hoa hồng mới nướng của Thất Xảo Trai."

Vi Ngạn thèm nhỏ dãi, nói: "Bánh sữa hoa hồng của Thất Xảo Trai là bánh ngon nhất toàn Thần Đô, ai cũng xếp hàng tranh mua, người hầu nhà ta đi muộn, đều không mua được."

Bạch Cơ cười nói: "Vi công tử qua đây ăn một chút đi."

"Được thôi.” Vi Ngạn vui vẻ đi về phía sân sau.

Từ khi đến Lạc Dương, ăn bánh ngọt dễ dàng hơn nhiều, chỉ cần là bánh của Thất Xảo Trai, không cần Nguyên Diệu ra ngoài mua. Chủ tiệm Thất Xảo Trai, tên Xảo Nương là một con yêu chim sặc sỡ, nàng mang theo một bầy chim mở Thất Xảo Trai ở chợ Bắc Lạc Dương làm đủ loại bánh ngọt hoa mỹ. Vì chim chóc khéo tay khéo chân, bánh làm ra rất được các quý bà yêu thích nên Thất Xảo Trai buôn bán phát đạt, nổi tiếng trong Thần Đô. Khi Bạch Cơ muốn ăn bánh Thất Xảo Trai, Nguyên Diệu đi chợ Bắc xếp hàng cũng chưa chắc mua được, nàng sẽ cho hạc giấy mang tờ giấy ghi tên bánh bay đến Thất Xảo Trai. Không lâu sau sẽ có mấy con chim sặc sỡ ngậm một giỏ bánh ngọt hoa tươi đến Phiêu Miểu các.

Bạch Cơ, Vi Ngạn ngồi dưới gốc cây bồ đề vừa ăn bánh sữa hoa hồng vừa tán gẫu. Nguyên Diệu thấy trà nước không nhiều bèn đi pha một bình trà Dương Hiển mà Vi Ngạn thích. Ly Nô ăn no uống đủ, cuộn mình trên đệm cỏ, ngủ thiếp đi.

Bạch Cơ cười nói: "Vi công tử, hôm nay không mua vài bảo vật sao? Phiêu Miểu các ở Thần Đô này, nhiều thứ kỳ lạ hơn ở Trường An nhiều."

Vi Ngạn cắn một miếng bánh sữa hoa hồng, nói: "Đã đến rồi, không mua vài thứ cũng không hợp lý. Bạch Cơ, ở đây có bảo vật nào làm người ta vui vẻ đến bay bổng không?"

Bạch Cơ ngẩn người, nói: "Ta không nghe nhầm chứ? Vi công tử, hắn nói muốn bảo vật gì?"

Vi Ngạn nói: "Bảo vật làm người ta vui vẻ đến bay bổng..."

Bạch Cơ nói: "Vi công tử, hắn không phải luôn thích bảo vật kỳ lạ sao? Sao bây giờ lại đổi sở thích rồi?"

Vi Ngạn cười nói: "Bạch Cơ, ta vẫn thích những vật kỳ quái, vì đối với ta, kinh hoàng mới là nguồn gốc của niềm vui. Gần đây, cái tên Bùi Tiên thích ngươi ấy, sắp đến sinh nhật hắn, dù sao hắn cũng là biểu ca của ta, ta phải tặng một món quà. Nghe nói trong Thần Đô đang nổi lên trào lưu Cực Lạc nên ta muốn tặng Bùi Tiên món quà liên quan đến trào lưu này. Vì nếu tặng cốc xương người, vòng ngũ hành, hoặc thằn lằn ăn xác chết, hắn sẽ đánh ta mất."

Bạch Cơ hơi nghi ngờ, nói: "Vi công tử, trào lưu Cực Lạc là gì? Gần đây ta ít ra ngoài, cũng ít tham gia tiệc tùng, không rõ phong trào ngoài kia..."

Nguyên Diệu nghĩ một chút, nói: "Có phải là tu học Phật pháp không? Dù sao, Cực Lạc thế giới là mục tiêu của Phật giáo."

Vi Ngạn lắc đầu, nói: "Không phải tu học Phật pháp. Hiên Chi, Cực Lạc thế giới của Phật giáo, mọi người tuy hướng tới nhưng đang sống bình thường thì không ai muốn đi cả."

Nguyên Diệu gãi đầu hỏi: "Vậy trào lưu Cực Lạc là gì?"

Vi Ngạn cười bí hiểm, nói: "Cực Lạc là làm cho người ta trải nghiệm niềm vui tột đỉnh. Gần đây, trào lưu trong Thần Đô là mọi người đang tìm kiếm niềm vui, tiệc tùng suốt đêm, đắm mình trong rượu chè, cờ bạc, gái gú..."

Bạch Cơ cười nói: "Rượu ngon, hát hay, gái đẹp, không phải quý tộc luôn làm như vậy sao? Đâu phải mới nổi lên."

Vi Ngạn nói: "Ta chưa nói hết. Tiệc tùng suốt đêm đắm mình trong rượu chè, cờ bạc, gái gú chỉ là niềm vui sơ cấp nhất, ngoài kia có người bí mật bán một loại Cực Lạc tán, ăn vào rồi có thể khiến người ta tiêu tan phiền muộn, vui sướng vô cùng. Tuy nhiên, không có mối quan hệ, Cực Lạc tán rất khó mua, tiền vàng cũng khó mà mua được."

Bạch Cơ mặt dần nghiêm trọng, nói: "Ai bán Cực Lạc tán này?"

Vi Ngạn lắc đầu, nói: "Không biết. Chỉ nghe nói có người bán nhưng không biết mua thế nào. Nếu mua được, ta cũng muốn mua về thử."

Bạch Cơ nói: "Vi công tử, ta khuyên ngươi đừng thử. Mọi việc đều có giá của nó, thứ gì làm người ta trải nghiệm Cực Lạc đều rất đắt. Giá này không liên quan đến tiền bạc, tiền bạc quá rẻ, không đủ trả giá Cực Lạc. Trải nghiệm Cực Lạc phải dùng mạng sống để trả."

Vi Ngạn toát mồ hôi, nói: "Cái này... thật ra, ta không có hứng thú với Cực Lạc, ta thích kinh hoàng hơn. Đúng rồi, ta chưa nói hết. Cực Lạc tán chưa phải là thứ làm người ta vui nhất, theo lời đồn, điều vui sướng nhất là tham gia Tiệc Cực Lạc. Tiệc Cực Lạc rất bí ẩn, nghe nói do yêu quái tổ chức, chỉ người có duyên mới được mời tham dự. Điều này giống như Phiêu Miểu các. Người không có duyên phận, không biết cách đến Tiệc Cực Lạc. Ngoài kia có người treo giải vạn quan tiền tài muốn mua vé vào Tiệc Cực Lạc, đều không có đường."

Bạch Cơ đang trầm ngâm.

Nguyên Diệu hỏi: "Đan Dương, Tiệc Cực Lạc là gì? Nghe kỳ lạ quá, thật sự là yêu quái tổ chức à?"

Vi Ngạn nói: "Ta chưa từng tham dự, không rõ. Nghe người từng tham dự Tiệc Cực Lạc nói, trong Tiệc Cực Lạc sẽ truyền nhau một cuốn sách Cực Lạc, mở cuốn sách đó mới đến được nguồn gốc Cực Lạc."

Bạch Cơ cười, nói: "Sách Cực Lạc? Thật trùng hợp, đó là thứ ta bán ra."
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 7


Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Bạch Cơ, sách Cực Lạc là gì thế?"

Bạch Cơ có vẻ hơi không tự nhiên, nàng uống một ngụm trà Dương Hách, úp mở nói: "Sách Cực Lạc, tất nhiên là cuốn sách có thể mang lại trải nghiệm Cực Lạc. Khụ khụ, Vi công tử, ta rất hứng thú với Cực Lạc Tán và Tiệc Cực Lạc, ngươi có biết rõ hơn không?"

Vi Ngạn cười nói: "Bạch Cơ vừa nãy còn khuyên ta không nên thử Cực Lạc Tán, sao bây giờ lại tự mình hứng thú với nó?"

Bạch Cơ cười bí ẩn, nói: "Bởi vì ta hứng thú với sách Cực Lạc."

Vi Ngạn nói: "Cực Lạc Tán ta không rõ lắm. Nhưng Tiệc Cực Lạc... có liên quan đến chợ Quỷ."

Bạch Cơ khẽ nhếch môi cười.

Nguyên Diệu hỏi: "Đan Dương, chợ Quỷ là gì?"

Vi Ngạn nói: "Hiên Chi, trong Thần Đô có bốn chợ..."

Nguyên Diệu ngắt lời Vi Ngạn, nói: "Không đúng, Đan Dương, trong Thần Đô chỉ có ba chợ, chợ Nam, chợ Bắc và chợ Tây."

Vi Ngạn cười nói: "Hiên Chi, đông tây nam bắc, bốn hướng đều có đủ, đã có chợ Nam, chợ Tây, chợ Bắc, hắn không tò mò vì sao Thần Đô không có chợ Đông sao?"

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Tại sao vậy?"

Vi Ngạn chưa kịp trả lời, Bạch Cơ đã cười nói: "Hiên Chi, Thần Đô có chợ Đông, chỉ là rất ít người biết, cũng rất ít "người" từng đến. chợ Đông còn gọi là chợ Quỷ nằm dưới chân núi Mang, người mua bán qua lại đều là phi nhân, những thứ giao dịch là kỳ vật nhân gian không có, phương thức giao dịch không phải tiền bạc mà là vật đổi vật. Rất lâu trước đây, khi chợ Quỷ mới mở cửa thì có chào đón con người, con người có thể tự do ra vào nhưng con người khó lường, tính tình dễ thay đổi, thường không giữ chữ tín làm ăn thua lỗ. Lâu dần, mọi người chịu nhiều thiệt thòi bèn từ chối con người bước vào chợ Quỷ. Trong một số thời kỳ, mâu thuẫn giữa người và phi nhân khá gay gắt, người lạc vào chợ Quỷ đều bị g**t ch*t, xác chết ngổn ngang ngoài đồng. Trong lời đồng của con người, chợ Quỷ dần trở thành nơi cấm địa kinh hoàng không thể nhắc đến. Tuy nhiên, từ thời Ngụy Tấn trở đi, dân phong ngày càng xuống dốc, phi nhân bắt đầu mê luyến vàng bạc, mặc dù văn bản vẫn cấm con người vào chợ Quỷ nhưng một số người có pháp lực cao thâm ra vào chợ Quỷ mua bán linh hồn hoặc x*c th*t, thì họ cũng mắt nhắm mắt mở cho qua. Đến ngày nay, quy định này càng lỏng lẻo. Đúng rồi, bây giờ giao dịch ở chợ Quỷ đã có thể dùng vàng bạc rồi."

Vi Ngạn ngạc nhiên nói: "Bạch Cơ biết về chợ Quỷ còn nhiều hơn ta nữa."

Bạch Cơ cười nói: "Hì hì, ta là thương nhân mà, sống nhờ chợ, tất nhiên phải biết nhiều về chợ rồi."

Vi Ngạn nói: "Ngươi biết chợ Quỷ, vậy tốt rồi. Nghe nói, vé vào cửa tham gia Tiệc Cực Lạc có thể mua được ở chợ Quỷ."

Bạch Cơ hỏi: "Chợ Quỷ lớn như vậy, thương gia cũng nhiều, tìm ai để mua?"

Vi Ngạn nói: "Tìm phu nhân Hồ Tâm Nguyệt."

Sắc mặt Bạch Cơ lại trở nên nghiêm túc.

Vi Ngạn xoa tay hỏi: "Bạch Cơ có cách nào đến chợ Quỷ không? Ta luôn rất hứng thú với chợ Quỷ rất muốn đi dạo một chút, cảm thấy đồ ở chợ Quỷ đều là thứ ta thích..."

Bạch Cơ nói: "Vi công tử tốt nhất là đừng đi chợ Quỷ, cũng đừng có ý định tự mình tìm chợ Quỷ dưới chân núi Mang. Tuy nói bây giờ chợ Quỷ mắt nhắm mắt mở với con người, thậm chí còn có một số pháp sư nước ngoài ẩn cư trong chợ Quỷ làm những việc bùa chú mờ ám, nhưng con người ra vào chợ Quỷ chỉ giới hạn ở những pháp sư, đạo sĩ, phù thủy có pháp lực cao thâm. Người thường vào chợ Quỷ, nếu gặp phải phi nhân cổ hủ, ghét bỏ con người vẫn sẽ chết nằm nơi hoang vu."

Vi Ngạn trong lòng sợ hãi nhưng vẫn mong mỏi chợ Quỷ muốn đi xem thử.

Vi Ngạn van nài: "Bạch Cơ có thể cùng ta đi dạo chợ Quỷ không? Có ngươi đi cùng, ta chắc chắn không chết."

"Như thế thì được." Bạch Cơ đảo mắt, cười nói: "Nhưng ta là thương nhân, thời gian rất quý giá, không thể đi dạo miễn phí với ngươi. Mượn Hiên Chi một lần, mười lạng bạc. Mượn ta đi dạo chợ Quỷ đắt hơn Hiên Chi, mười lạng vàng. Vi công tử, chúng ta là bạn cũ, không để ngươi thiệt thòi, ngươi mượn ta đi dạo chợ Quỷ, Hiên Chi miễn phí một lần, không lấy bạc của ngươi..."

Vi Ngạn suy nghĩ một lúc, nói: "Mười lạng vàng? Quá đắt rồi. Bạch Cơ, đưa ngươi mười lạng vàng, không biết ta có thể mua được ở chợ Quỷ bao nhiêu đồ."

Nguyên Diệu nhăn nhó nói: "Bạch Cơ, tiểu sinh không có hứng thú với chợ Quỷ, chẳng muốn đi chút nào. Hai người đi dạo là được rồi, sao lại kéo tiểu sinh vào làm gì?"

Bạch Cơ cười nói: "Dù sao Hiên Chi cũng rảnh rỗi mà."

Vi Ngạn tính toán một lúc, nói: "Thế này nhé. Bạch Cơ, ta đưa ngươi mười lạng vàng, ngươi dẫn ta đi chợ Quỷ, chắc chắn phải đưa ta ra an toàn. Ngoài ra, ngươi tặng ta ba lần Hiên Chi nữa." Bạch Cơ cười tươi nói: "Được.”

Nguyên Diệu nhăn nhó nói: "Tiểu sinh không muốn đi chợ Quỷ..."

Vi Ngạn hưng phấn nói: "Bạch Cơ, khi nào chúng ta đi chợ Quỷ? Hôm nay đi nhé?"

Bạch Cơ nói: "Hôm nay không được, chợ Quỷ không phải ngày nào cũng mở. Mấy ngày ba, sáu, chín, lúc hoàng hôn, chợ Quỷ mới mở. Tính toán, ngày mai là ngày chín, chợ Quỷ mở. Chiều mai, khi cổng thành đóng, chúng ta gặp nhau ngoài cửa Đông."

Vi Ngạn xoa tay nói: "Đi dạo chợ Quỷ, cần mang theo gì?"

Bạch Cơ cười gian, nói: "Đi chợ, mua đồ, tất nhiên phải mang tiền bạc. Nếu thấy phiền phức, không mang cũng không sao, dù sao sau khi giao dịch, dù ngươi có chạy đến chân trời góc bể, cũng có người đến nhà ngươi đòi nợ." Vi Ngạn, Nguyên Diệu có hơi ớn lạnh.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Vi Ngạn tiếp tục trò chuyện, tiêu tốn buổi chiều nhàn rỗi mùa thu.

Trước khi Vi Ngạn rời đi, trong số những bảo vật liên quan đến Cực Lạc mà Bạch Cơ giới thiệu, đã mua một chiếc hộp bằng gỗ cây dương xỉ khắc hình các vị Phật thuyết pháp ở thế giới Cực Lạc, định tặng cho Bùi Tiên làm quà sinh nhật. Vì hộp gỗ rẻ hơn ngọc như ý, quạt vàng, dao găm đá quý nhiều, đột nhiên thêm hành trình đi chợ Quỷ, ngân sách mua quà cho Bùi Tiên không còn dư dả nữa.

Sau khi Vi Ngạn rời đi, Bạch Cơ ngồi bên bàn ngọc xanh trong phòng, không biết đang nghĩ gì.

Nguyên Diệu thu lại những báu vật như ngọc như ý, quạt vàng, dao găm đính đá quý trên bàn ngọc bích mà Vi Ngạn chưa chọn, dự định sẽ mang lên kho Đa Bảo.

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi, ta thấy rất kỳ lạ."

Nguyên Diệu hỏi: "Kỳ lạ gì?"

Bạch Cơ nói: "Cuốn sách Cực Lạc ta bán ra rất kỳ lạ."

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, những thứ ngươi bán ra chưa bao giờ bình thường, không có gì phải kỳ lạ cả."

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi không biết rồi. Ta vừa rồi cũng không nói thật với Vi công tử. Thực ra, sách Cực Lạc không phải ta bán ra mà là ta đổi lấy ở chợ Quỷ, dùng vật đổi vật. Và quan trọng nhất là, cuốn sách Cực Lạc ta đem đi đổi không thể mở ra đã thấy Cực Lạc Thế Giới."

"Tại sao?"

Bạch Cơ che mặt bằng tay áo, có hơi ngượng ngùng, nói: "Vì nó là đồ giả. Nó chỉ là một cuộn giấy trắng thôi."

Nguyên Diệu nói: "Ngươi lấy một cuộn giấy trắng lừa người ta?"

Bạch Cơ chớp mắt, cười nói: "Cực Lạc vốn là chuyện tự mỗi người cảm nhận, mỗi người có một trải nghiệm Cực Lạc khác nhau, mật của người này có thể là thuốc độc của người kia. Một cuộn giấy trắng, để người xem tự mình lĩnh ngộ mới có thể đại diện cho mọi Cực Lạc trên đời."

Nguyên Diệu biết Bạch Cơ khéo mồm, không nói lại được nàng nên bèn im lặng.

Bạch Cơ nói: "Cuốn sách Cực Lạc giả không nên có sức mạnh kỳ diệu như vậy."

Nguyên Diệu nghĩ một lúc, nói: "Có lẽ cuốn sách Cực Lạc trong Tiệc Cực Lạc mà Đan Dương nói đến không phải là cuộn giấy trắng mà Bạch Cơ ngươi bán ra? Tiểu sinh thấy Cực Lạc Tán, Tiệc Cực Lạc còn gì trào lưu Cực Lạc nữa, đều có gì đó rất lạ..."

"Hiên Chi nói có lý, cuốn sách Cực Lạc trong Tiệc Cực Lạc chưa chắc là cuộn ta dùng để lừa tiền."

Bạch Cơ suy nghĩ thêm một lúc, nói: "Cảm thấy rất kỳ lạ, phải tìm người hỏi thăm thử."

"Ngươi định hỏi ai?"

Nguyên Diệu hỏi.

"Nếu trào lưu Cực Lạc là phong trào phổ biến trong thành thì tất nhiên phải tìm người hiểu biết về trào lưu nhất, luôn dẫn đầu xu hướng trong Thần Đô để hỏi thăm chứ."

"Ai?"

"Công chúa Thái Bình."

"À." Nguyên Diệu chợt hiểu ra.

Bạch Cơ lấy hoa tiên, nhỏ mực vào nghiên, cầm bút viết một bức thư, để chim bay mang đi.

Lông bút lông sói vẫn còn dính mực, Bạch Cơ lại cầm bút, trên hoa tiên viết hai chữ "Cực Lạc".

Nguyên Diệu ngồi đối diện Bạch Cơ nhìn nàng viết chữ lại thấy bên ngoài cửa sổ phía sân sau khói bếp bốc lên, trong không khí lảng vảng mùi thơm của cá nướng. Đó là Ly Nô đang nhóm lửa nấu bữa tối.

Nguyên Diệu trong lòng trào dâng một niềm hạnh phúc, cảm thấy vô cùng vui sướng. Nếu trên đời thật có Cực Lạc Thế Giới thì lúc này, cảnh này là tịnh độ Cực Lạc của hắn.

"Bạch Cơ, Cực Lạc Thế Giới ở đâu thế?"

Bạch Cơ cười nói: "Theo Phật gia nói, nhân gian gọi là Ta Bà Thế Giới, cách Ta Bà Thế Giới mười vạn ức cõi Phật là Cực Lạc Thế Giới."

Nguyên Diệu hơi ngơ ngác, nói: "Nghe có vẻ rất kỳ diệu, Cực Lạc Thế Giới chắc hẳn là một nơi rất xa xôi."

Bạch Cơ cười nói: "Cực Lạc Thế Giới giống như Đào Hoa Nguyên, cũng là nơi mà nhiều người mơ ước."

"Bạch Cơ có ở nhà không? Nguyên công tử có ở nhà không?" Một giọng nói rụt rè vang lên trong đại sảnh.

Giọng nói này rất quen thuộc, Nguyên Diệu và Bạch Cơ đều nhận ra.

Nguyên Diệu vội vàng đứng dậy, bước ra ngoài.

Trong đại sảnh, một con hồ ly đỏ nhỏ lễ phép ngồi chồm hổm, trước mặt nó đặt một hộp thức ăn ba tầng, bên trong hộp phát ra mùi thơm hấp dẫn của thức ăn.

Nguyên Diệu vui mừng nói: "Thập Tam Lang, lâu quá không gặp."

"Nguyên công tử, lâu quá không gặp." Tiểu hồ ly đỏ liếc nhìn xung quanh, cười nói: "Tiểu lầu ở Lạc Dương vẫn như cũ, không có gì thay đổi. Mỗ đến thăm Bạch Cơ và Nguyên công tử. Đây là vài món ăn thích hợp cho mùa thu mà mỗ làm, vì không muốn tranh bếp với con mèo đen kia nên mỗ làm ở nhà cô cô rồi mang tới đây. Bạch Cơ và Nguyên công tử hãy thử xem."

Nguyên Diệu cầm lấy hộp thức ăn, cười nói: "Thập Tam Lang khách sáo quá, mau vào ngồi đi."

Tiểu hồ ly đỏ đứng dậy, theo Nguyên Diệu vào trong phòng.

Trong phòng, một con mèo đen ngồi tức giận ngoài cửa sổ, Bạch Cơ ngồi nghiêng bên cửa sổ, một tay thò ra ngoài nắm lấy mèo đen vừa nói chuyện với nó.

"Ly Nô, Thập Tam Lang là khách, không được vô lễ."

"Chủ nhân, con hồ ly đó đến thì cứ đến, tại sao lại mang thức ăn? Rõ ràng là chế giễu tài nấu nướng của Ly Nô không được..."

Cáo đỏ nghe thấy, nói: "Mèo đen, mỗ không chế giễu ngươi, tài nấu nướng của ngươi vốn đã không giỏi."

Ly Nô nghe vậy, nổi trận lôi đình.

"Ta nấu ăn đứng thứ hai ở Thần Đô, sao lại không giỏi?"

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Ai là thứ nhất?"

Ly Nô nói: "Là đám chuột ở Thử Lâu."

Hồ Thập Tam Lang nghe vậy, cười nói: "Mỗ học nấu nhiều món mới lạ khắp nơi, thỉnh thoảng cũng đến Thử Lâu, giao lưu với đầu bếp ở đó. Nhiều món ăn mới của đầu bếp Thử Lâu đều do mỗ dạy. Quản sự Hứa cũng luôn muốn mời mỗ quản sự bếp của hắn nhưng mỗ không có thời gian, đã từ chối. mèo đen, nếu ngươi cho rằng Thử Lâu là nhất thì mỗ là nhất của nhất, giỏi hơn ngươi nhiều."

Mèo đen có hơi xấu hổ, cụp tai xuống nhưng vẫn không phục, định tranh cãi thêm.

Bạch Cơ ngửi ngửi, nói: "Mùi gì vậy, có phải thứ gì đó bị cháy không..."

Nguyên Diệu cũng ngửi thấy mùi cháy khét của thịt nướng.

Mèo đen ngửi ngửi, đột nhiên nhảy dựng lên, lao thẳng vào bếp.

"Quên mất, quên mất, trên lò còn đang nướng cá! Con cá trắm lớn của ta cháy mất rồi a a a..."

*

Hoàng hôn dần tắt, cỏ cây nhuộm vàng.

Một chiếc bàn gỗ hoa lê được đặt ở hành lang phía sau, trên bàn bày biện những món ăn tinh xảo mà Hồ Thập Tam Lang mang đến, gồm một đĩa thịt khô Tâm Liên, một đĩa gà Hồ Lô Bát Bảo, một đĩa thịt viên Thiên Trúc, và một đĩa bánh hoa ngỗng. Ở góc bàn, có một con cá trắm nướng cháy khét.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Hồ Thập Tam Lang ngồi bên bàn ăn tối.

Nguyên Diệu ăn một miếng gà Hồ Lô Bát Bảo, cảm thấy Hồ Thập Tam Lang dường như đã cải tiến nước sốt làm cho gà Hồ Lô có hương vị phong phú hơn, dư vị kéo dài.

Bạch Cơ thì đang ăn bánh hoa ngỗng một cách ngon lành.

Nguyên Diệu không nhịn được nói: "Bạch Cơ, bánh ngọt nên để sau bữa ăn, nếu ăn trước sẽ không còn chỗ cho cơm nữa."

"Ồ." Bạch Cơ không vui đáp.

Hồ Thập Tam Lang nói: "Bạch Cơ, Nguyên công tử, các người chắc chắn phải thử món thịt viên Thiên Trúc này, đây là món mới mà ta học được. Thịt cừu bên trong được tẩm gia vị đen của Thiên Trúc, hạt tiêu trắng, nh** h** nghệ tây, nhục đậu khấu, và quả hạnh nhân... hương vị khác hẳn với thịt viên cừu bán ngoài thị trường."

Nghe vậy, Bạch Cơ và Nguyên Diệu vội lấy một viên thịt Thiên Trúc và ăn thử.

Nguyên Diệu cắn một miếng, lớp vỏ mỏng và giòn, thịt bên trong mọng nước và thơm ngon, đúng là khác hẳn với thịt viên cừu ngoài chợ, nước thịt có mùi hương lạ lẫm từ gia vị, ăn lần đầu có hơi không quen nhưng sau vài miếng thì thấy rất ngon.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu không ngớt lời khen ngợi.

Nguyên Diệu nói: "Thập Tam Lang, những món ăn bình thường qua tay ngươi đều trở nên rất ngon miệng."

Bạch Cơ cười nói: "Thập Tam Lang, ngươi rất có tài năng làm đầu bếp đấy."

Ly Nô bướng bỉnh ăn con cá nướng cháy của mình, nói: "Xì! Có gì mà tài giỏi, ta cũng biết làm, chỉ là lười thôi."

Hồ Thập Tam Lang gắp một miếng thịt khô Tâm Liên trong suốt màu hồng đặt vào bát của Ly Nô, nói: "Thông thường thịt khô Tâm Liên được làm từ thịt cừu hoặc thịt lợn thái sợi, ngươi thích ăn cá nên mỗ đã thay bằng thịt cá. Để loại bỏ mùi tanh của cá sống, mỗ đã phết lên một lớp dầu mùi còn rắc thêm một ít bột hoa tulip làm cho thịt cá trở nên trong suốt màu hồng và có hương vị mềm mại. Mèo đen, ngươi thử xem."

Ly Nô miễn cưỡng ăn một miếng, sau khi thịt cá tan trong miệng, mắt nó bắt đầu sáng lên.

Hồ Thập Tam Lang hỏi: "Mèo đen, ngon không?"

Ly Nô lặng lẽ nhấc con cá trắm nướng cháy lên, đặt xuống đất rồi gắp thêm một miếng thịt khô Tâm Liên vừa ăn ngấu nghiến vừa nói: "Cũng tạm, coi như chấp nhận được."

Bạch Cơ hỏi: "Thập Tam Lang, sao ngươi có thời gian đến Lạc Dương thế?"

Hồ Thập Tam Lang ăn một miếng gà Hồ Lô Bát Bảo, nói: "Mỗ được phụ thân phái đến Lạc Dương thăm cô cô."

Bạch Cơ hỏi: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ sao?"

Hồ Thập Tam Lang có hơi lo lắng nói: "Đúng vậy, cô cô bị bệnh."

Bạch Cơ hỏi: "Bà ấy không sao chứ?"

Hồ Thập Tam Lang nói: "Phụ thân nói cô cô có lẽ vẫn là tâm bệnh lâu năm. Tuy nhiên, mỗ đến đây thấy không chỉ là tâm bệnh, cô cô thực sự bệnh. Bà ấy gầy đi nhiều, sắc mặt trông tái nhợt, và tâm sự nặng nề như một cái vỏ rỗng không hồn..."

Nguyên Diệu hỏi: "Đã mời thầy thuốc chưa? Thầy thuốc nói sao?"

Hồ Thập Tam Lang nói: "Đã mời, thầy thuốc nói do suy nghĩ quá nhiều dẫn đến tâm bệnh khiến cơ thể suy kiệt. Cần ít suy nghĩ, nhiều tĩnh dưỡng."

Bạch Cơ nói: "Tối mai, ta vừa đúng có việc phải đi chợ Quỷ sẽ ghé thăm Lầu Tâm Nguyệt thăm phu nhân Tâm Nguyệt Hồ."

Hồ Thập Tam Lang vui mừng nói: "Tốt quá. Bạch Cơ đến thăm cô cô, nói chuyện với bà, cô cô chắc chắn rất vui."

Bạch Cơ cười nói: "Ta cũng có việc muốn hỏi bà ấy."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là ai thế?"

Bạch Cơ và Hồ Thập Tam Lang chưa kịp trả lời, Ly Nô vừa ăn thịt khô Tâm Liên vừa nói: “Mọt sách, ta khuyên ngươi nên tránh xa phu nhân Tâm Nguyệt Hồ ra tám thước. Bà ấy ghét nhất là loại thư sinh như ngươi. Khi còn trẻ, bà ấy yêu một người đọc sách, yêu đến chết đi sống lại, bà ấy theo người đó từ lúc nghèo khó đến khi thành công, cái từ gì đó nhỉ, đúng rồi, "đổ vốn", bà ấy đổ tất cả mọi thứ lẫn nội đan vào người đó nhưng cuối cùng vẫn bị bỏ rơi. Bà ấy mắc tâm bệnh, thỉnh thoảng lại phát tác nhìn thấy người đọc sách là bà ấy quyến rũ, chơi chán rồi thì ăn thịt. Loại như ngươi là con mồi của bà ấy."

Nguyên Diệu giật mình.

Hồ Thập Tam Lang im lặng một lúc rồi nói: "Nguyên công tử, ngươi đừng nghe mèo đen nói bậy. cô cô từ khi mở Lầu Tâm Nguyệt ở chợ Quỷ, đã bước ra khỏi chuyện cũ, bà ấy một lòng kinh doanh nhạc phường rất ít khi báo thù nhân loại."

Bạch Cơ cũng nói: "Những gì Ly Nô nói đều là chuyện cũ cả rồi. Một mối tình sâu nặng, gửi gắm tình yêu sai chỗ, cũng là chuyện rất thường thấy."

Nguyên Diệu không biết nói gì, chỉ gật đầu. Hắn cảm thấy quá khứ của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nghe có hơi đáng thương nhưng việc báo thù nhân loại một cách vô cớ, giết hại con người lại có phần quá đáng.

Mọi người chợt im lặng, bầu không khí trở nên hơi gượng gạo.

Để phá tan sự im lặng đầy lúng túng, Hồ Thập Tam Lang nói: "À, đúng rồi, mấy ngày trước, khi vừa đến Lạc Dương, mỗ đã gặp một chuyện quái dị và đáng sợ."

Bạch Cơ hỏi: "Ngươi đã gặp gì vậy?"

Hồ Thập Tam Lang lộ ra vẻ sợ hãi, nói: "Mỗ đi dọc theo sông Y vào đêm khuya thì thấy một người không mảnh vải che thân, ngồi trong nước. Hắn vừa dùng dao găm rạch bụng mình vừa niệm gì đó như "Cực Lạc Chúng Sinh, cầu áo được áo, cầu ăn được ăn, mọi thứ đều đầy đủ. Không tham, không sân, không si mê. Tất cả chúng sinh luôn nghe Phật pháp, đó là Cực Lạc Thế Giới." Khi ta đến gần, hắn đã chết rồi, chết rất thảm, ruột lòi ra ngoài nhưng trên mặt hắn lại hiện ra nụ cười hạnh phúc. Mỗ sợ đến mức suýt ngất, vội chạy đi..."

Nguyên Diệu giật mình, nói: "Chuyện này thật đáng sợ!"

Bạch Cơ trầm tư nói: "Lại là Cực Lạc Thế Giới..."

Ly Nô nói: "Nghe như có yêu quái đang săn mồi? Cách ăn này thật khó coi, thật nhếch nhác..."

Hồ Thập Tam Lang xoa mặt, nói: "Không phải yêu quái săn mồi, xung quanh không có yêu khí. Mỗ vẫn nghĩ mãi về chuyện này, sau đó quay lại tìm hiểu, người chết là một dân làng ở thôn Phù Đồ. Mỗ lén nghe bọn Bất Lương nói chuyện, họ bảo nguyên nhân cái chết của dân làng này là do dùng quá liều Cực Lạc Tán. Trong làng có nhiều vụ tự sát tương tự, đều liên quan đến Cực Lạc Tán. Bạch Cơ, Cực Lạc Tán là gì thế?"

Bạch Cơ đặt bát đũa xuống, nói: "Cực Lạc Tán là thứ đáng sợ có thể khiến người ta vui sướng."

Hồ Thập Tam Lang vô cùng bối rối, nói: "Thứ gì khiến người ta vui sướng, tại sao lại đáng sợ?"

Bạch Cơ nhẹ nhàng nói: "Bởi vì, niềm vui sướng luôn có cái giá của nó."

Hồ Thập Tam Lang hiểu nhưng không hoàn toàn.

Sau bữa tối, Hồ Thập Tam Lang lịch sự cáo từ.

Thấy trời đã tối, đi lại không tiện, Bạch Cơ giữ Hồ Thập Tam Lang ở lại qua đêm rồi hãy đi. Hồ Thập Tam Lang nghĩ nếu đêm khuya không về, cô cô sẽ lo lắng nên cảm ơn lòng tốt của Bạch Cơ rồi bước đi trong ánh trăng.

Bạch Cơ đứng trên bãi cỏ nhìn lên ánh trăng thượng huyền giống như một chiếc lược ngọc.

Ly Nô vừa ngâm nga khúc nhỏ vừa rửa chén đĩa trong bếp.

Nguyên Diệu khóa cửa tiệm lại, thắp đèn Cửu Chiếu Đồng Tước trong phòng.

Nguyên Diệu nhìn ra ngoài cửa sổ thì thấy Bạch Cơ mặc áo trắng như tuyết đứng trong bụi cỏ. Một cơn gió thu thổi qua, tấm áo lụa màu ánh trăng của Bạch Cơ bay lên, phủ lên cỏ cây một lớp sương mờ ảo.

Một con hạc giấy bay đến trong đêm.

Bạch Cơ đưa tay ra, hạc giấy lượn một vòng trong gió thu rồi đáp xuống đầu ngón tay nàng.

Bạch Cơ mở hạc giấy ra.

Thì ra đó là một bức thư.

Bạch Cơ đọc xong thư, khóe miệng nở một nụ cười.

Bạch Cơ nghiêng đầu, cười nói: "Hiên Chi, đêm nay trăng đẹp quá, chúng ta ra ngoài dạo một chút nhé?"

Nguyên Diệu nói: "Được thôi."

Ly Nô vừa dọn dẹp xong nhà bếp, đi qua bên cạnh Bạch Cơ, nói: "Chủ nhân, Ly Nô tối nay ăn nhiều quá, cảm thấy hơi đầy bụng, cần vận động một chút, có thể đi cùng hai người không?"

Bạch Cơ cười nói: "Ngươi cũng muốn đi à? Vậy thì không cần gọi ngựa trời nữa."

"Chủ nhân, chúng ta sẽ đi đâu?"

"Phường Minh Nghĩa, phủ công chúa Thái Bình."

Thế là Ly Nô hóa thành một con mèo chín đuôi lớn bằng một con hổ, chở Bạch Cơ và Nguyên Diệu rời khỏi Phiêu Miểu các, băng qua đường phố, tiến về Phường Minh Nghĩa.

Dưới ánh trăng, trong tòa thành, con mèo chín đuôi chạy trên con đường vắng lặng không người.

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: "Bạch Cơ, tại sao chúng ta lại đi thăm công chúa Thái Bình vào đêm khuya? Có phải hơi thất lễ không?"

Bạch Cơ cười nói: "Công chúa Thái Bình đêm nay đang tổ chức một Tiệc Cực Lạc. Nếu chúng ta đến vào ban ngày, bữa tiệc đã tan rồi."

"Bạch Cơ vừa rồi con hạc giấy là thư của công chúa Thái Bình à?"

"Đúng vậy."

"Trong thư viết gì vậy?"

"Thư nói bà ấy có Cực Lạc Tán, và tối nay bà ấy tổ chức một Tiệc Cực Lạc trong phủ."

"Có phải là Tiệc Cực Lạc mà Đan Dương đã nói không?"

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc rồi nói: "Có lẽ là vậy. Đi xem là biết. Ta quan tâm sách Cực Lạc hơn."

Không bao lâu, con mèo chín đuôi đã đến Phường Minh Nghĩa, dừng lại cách xa phủ công chúa. Bên ngoài phủ công chúa, cổng đỏ tường cao, dọc theo đường có một hàng xe ngựa trang trí lộng lẫy. Xem ra, khách tham gia tiệc Cực Lạc không ít. Các phu xe đều không có mặt, chắc là vì đêm khuya lạnh giá nên đã vào trong phủ nghỉ ngơi.... Sau khi cấm phường, trên đường phố không ai được đi lại nhưng người dân trong phường có thể tự do di chuyển, vương tôn quý tộc cũng có thể tổ chức dạ tiệc trong phủ mình.

Nguyên Diệu nhìn qua cổng đỏ của phủ công chúa, nói: "Bạch Cơ, chúng ta có thiệp mời dự tiệc không?"

Bạch Cơ nói: "Không có."

"Vậy, chúng ta gõ cửa thăm hỏi sao?"

Bạch Cơ cười tinh nghịch, nói: "Không cần phiền phức vậy, chúng ta từ trên trời đáp xuống, cho công chúa một bất ngờ. Ly Nô, vào thẳng đi."

"Dạ, chủ nhân."

Con mèo chín đuôi nhảy vọt lên, chở Bạch Cơ và Nguyên Diệu vượt qua tường cao của phủ công chúa, tiến vào bên trong.

"…Bạch Cơ, chúng ta tự ý đột nhập phủ công chúa là tội chết đấy." Nguyên Diệu run rẩy nói.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 8


Công chúa Thái Bình luôn thích sự xa hoa, phủ đệ của nàng chiếm diện tích rất rộng, trong phủ có nhiều sân vườn chồng chéo, mái cong cầu kỳ, năm bước một đình đài, mười bước một lầu các, còn dẫn nước từ kênh Thông Tế vào sân sau, tụ thành một hồ sen xanh biếc và trong trẻo.

Bên cạnh hồ sen, có một cung điện hoa lệ trên mặt nước, cung điện được chống đỡ bởi bốn cột ngọc trắng Hán Bạch Ngọc, trên tường đá trắng chạm khắc hoa Mạn Đà La bằng vàng.

Đêm đã khuya, trong phủ công chúa, các khu sân vườn khác đều đã chìm vào bóng tối yên tĩnh, chỉ có cung điện trên mặt nước này là còn sáng đèn. Trong cung điện, những tấm rèm lụa đỏ bay lượn theo gió, những bông hoa Mạn Đà La vàng trên tường nở rộ quyến rũ, tiếng cười nói của nam nữ vang vọng trên mặt nước.

Sau khi con mèo chín đuôi tiến vào phủ công chúa, nó đi đến sân sau theo ánh đèn và tiếng người.

"Chủ nhân, có người trong căn nhà kia, trông rất huyên náo, hình như đang mở tiệc. Ly Nô có nên nhảy vào thẳng không?" Con mèo chín đuôi hỏi.

Nguyên Diệu đưa tay che mắt khỏi ánh sáng nhìn về phía cung điện trên mặt nước, chỉ thấy rèm bay phấp phới, bóng người chập chờn.

"Không nên, chúng ta đột ngột xuất hiện sẽ làm kinh sợ khách mời trong bữa tiệc," Nguyên Diệu nói.

"Ly Nô, dừng ở chỗ vắng vẻ," Bạch Cơ nói.

"Dạ, chủ nhân." Con mèo chín đuôi nhận lệnh, nhảy lên, vượt qua hồ sen, đáp xuống bên cạnh một cột ngọc Hán Bạch ngọc phía sau phòng tiệc mà không gây ra tiếng động.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước xuống đất, con mèo chín đuôi lập tức biến thành một con mèo đen nhỏ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô rời khỏi cột ngọc, men theo tường đá trắng, vòng ra phía trước phòng tiệc.

Nguyên Diệu theo sau Bạch Cơ, nghe tiếng nhạc nhẹ nhàng và tiếng cười nói vui vẻ của nam nữ vang bên tai, ngửi thấy mùi hương nồng nàn, xen lẫn một chút mùi thuốc.

Con mèo đen nói: "Gió đêm lạnh quá, ta muốn uống một ly rượu ấm, không biết trong bữa tiệc có không?"

Đột nhiên, một nam tử trẻ tuổi tuấn tú từ phòng tiệc chạy ra, đụng phải Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô.

Nam nhân chỉ mặc một chiếc áo mỏng, tóc xõa, đi chân trần, mắt mơ màng, hai má đỏ bừng, khóe miệng nở một nụ cười kỳ lạ.

Nguyên Diệu giật mình, nghĩ rằng lần này bị bắt gặp rồi, tránh cũng không kịp, không biết phải viện cớ gì để giải thích đây?

Ai ngờ, nam nhân đẹp trai đó chẳng hề để ý đến Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô, hắn chỉ cười với Bạch Cơ rồi đi lướt qua, thẳng tiến đến bậc thềm bằng ngọc trắng, nhảy vào hồ sen.

Đêm thu lạnh giá nhưng nam nhân ấy nhúng mình vào nước lạnh giá mà không hề cảm thấy rét, còn tỏ ra vô cùng thoải mái, nhắm mắt hưởng thụ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô ngạc nhiên nhìn.

Ly Nô rùng mình, nói: "Nhìn thôi cũng thấy lạnh rồi, ta ngày càng không hiểu nổi loài người nữa..."

Trong khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu đang bối rối, thì từ trong phòng tiệc có thêm vài nam tử mặc áo mỏng manh lần lượt chạy ra, họ đi ngang qua Bạch Cơ và Nguyên Diệu, có người cởi áo mỏng bên bậc thềm, có người không thèm cởi áo mà nhảy thẳng vào hồ, tắm mình trong nước lạnh.

Dưới ánh trăng, những nam nhân đẹp trai nhúng mình trong nước như những đóa hoa sen nở rộ.

Một nam nhân đẹp trai từ trong phòng tiệc chạy ra, dừng lại khi đi ngang qua Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu nhìn kỹ, người này trông rất quen thuộc, chẳng phải là Trương Xương Tông sao?!

Trương Xương Tông với gương mặt tuấn mỹ, hai má ửng đỏ, đồng tử giãn to, mắt đờ đẫn. Gió thu lạnh lẽo nhưng hắn chỉ mặc một chiếc áo mỏng màu trắng, chân trần bước trên mặt đất, dường như không cảm thấy lạnh chút nào.

Trương Xương Tông nhận ra Bạch Cơ, cười nói: "Bạch Cơ cũng đến tham gia tiệc Cực Lạc sao?"

Bạch Cơ đảo mắt, cười nói: "Đúng vậy. Có việc bận nên đến trễ một chút."

Trương Xương Tông liếc nhìn Nguyên Diệu, nói: "Tham gia tiệc Cực Lạc mà ngươi còn mang theo tên xấu xí này à?"

Nguyên Diệu rất tức giận.

Bạch Cơ cười nói: "Ta là người hay bi quan, lúc vui sướng, luôn sợ niềm vui trở thành nỗi buồn. Mang theo Hiên Chi ít ra cũng có người ứng cứu."

Trương Xương Tông cười nói: "Bạch Cơ lại nói đùa rồi, tiệc Cực Lạc không có buồn đâu. Ít nhất, đối với các công chúa và quý phu nhân như ngươi, có thể khiến mọi phiền muộn tạm thời biến mất, vào thế giới Cực Lạc, vui vẻ vô biên, hạnh phúc vô tận."

Bạch Cơ cười nói: "Nghe thật tuyệt vời."

Trương Xương Tông cảm thấy cơ thể nóng bức, mắt đờ đẫn, hai má đỏ hơn, giống như son phấn.

Bạch Cơ tò mò, ngươi đưa tay chạm vào mặt Trương Xương Tông, cảm giác như bị bỏng.

"Ôi, Lục Lang làm sao vậy? Sao nóng thế này?"

Trương Xương Tông cười bí ẩn, nói: "Ăn Cực Lạc Tán vào ai cũng sẽ thế. Khi phát tác, toàn thân nóng bức, ngũ tạng như bị thiêu đốt, phải ngâm mình trong nước lạnh mới thấy dễ chịu."

Nguyên Diệu nhìn những nam nhân trong hồ sen, không kìm được hỏi: "Bọn họ đều trở nên kỳ lạ vì ăn Cực Lạc Tán sao?”

Trương Xương Tông không vui, nói: "Sao gọi là kỳ cục gì chứ, đây gọi là "tắm nước hành tán". Họ đều là những người đẹp trong Khống hạc giám, chọn lọc kỹ càng mà có, kém xa với ta và huynh trưởng nhưng đẹp hơn nhiều người thường. Tên xấu xí như ngươi không có phúc hưởng Cực Lạc Tán đâu, ngươi xấu quá, không có quý phu nhân nào thích ngươi muốn cùng ngươi vui vẻ hành tán đâu."

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: "Vui vẻ hành tán là gì?"

Trương Xương Tông đảo mắt, không buồn trả lời.

Bạch Cơ trầm ngâm hỏi: "Lục Lang, trong tiệc còn Cực Lạc Tán không?"

Trương Xương Tông nói: "Còn chứ, ở chỗ công chúa ấy. Ngươi có thể đến xin nàng. Bạch Cơ, nếu biết ngươi sẽ đến thì ta đã đợi để ăn Cực Lạc Tán muộn hơn rồi."

Bạch Cơ mỉm cười, nói: "Không sao, lát nữa ngươi có thể ăn thêm. Dù sao thì đã là tiệc Cực Lạc, niềm vui sẽ không có giới hạn..."

"Vậy, lát nữa gặp lại." Trương Xương Tông cười gian tà, cởi áo mỏng rồi chạy thẳng ra hồ sen.

Ly Nô nhìn những nam nhân tr*n tr** đang say sưa trong hồ, nói: "Chuyện này giống như một nồi hoành thánh, ta càng lúc càng không hiểu nổi loài người..."

Nguyên Diệu vẫn còn bối rối lại hỏi: "Bạch Cơ, "vui vẻ hành tán" là gì?"

Bạch Cơ bước về phía phòng tiệc, cười nói: "Vào trong xem thì sẽ biết thôi." Đèn đuốc mờ ảo, rèm lụa đỏ bay phấp phới, sàn được trải thảm lông dài quý giá của Ba Tư, xen kẽ với da hổ, da báo, và da gấu. Trên bàn, chén bát bừa bãi, một mùi thuốc thoang thoảng trong làn hương đậm đặc.

Giữa sàn nhảy ở trung tâm phòng tiệc, một vũ nữ người Hồ đang thực hiện điệu múa đầy phong cách ngoại quốc. Nàng gần như tr*n tr**ng, chỉ khoác lên mình một tấm lụa mỏng màu vàng. Dáng người nàng mềm mại như rắn linh hoạt, bước nhảy nhẹ nhàng như sóng biển, trang điểm rực rỡ như ngọn lửa, trông như một đóa hoa Mạn Đà La vàng đang nở rộ.

Trên mỗi tấm da hổ, da báo, da gấu đều có vài ba cặp nam nữ, y phục xộc xệch, đang chìm đắm trong lạc thú x*c th*t, họ say mê, giống như đã bước vào cõi Cực Lạc.

Nguyên Diệu nhìn cảnh sắc trong phòng tiệc như chợt hiểu ra ý nghĩa của "vui vẻ hành tán" mà Trương Xương Tông nói, mặt hắn lập tức đỏ bừng, không dám nhìn kỹ xung quanh.

Tuy nhiên, những nam nữ trong tiệc đều đã đắm chìm vào trạng thái điên loạn, cộng thêm rèm đỏ che phủ, không ai để ý đến sự hiện diện của Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô.

Nguyên Diệu đỏ mặt tía tai, cúi đầu nói: "Bạch Cơ, không ngờ tiệc Cực Lạc lại như thế này..."

Bạch Cơ nhìn quanh, cười nói: "Trong mắt của Hiên Chi, tiệc Cực Lạc là như thế nào?"

Nguyên Diệu nghĩ một lúc, đáp: "Một nhóm văn nhân mặc khách cùng nhau uống rượu làm thơ, bàn luận về đạo thánh hiền." "..."

Bạch Cơ không nói nên lời.

Ly Nô nhìn quanh, nói: "Rượu trên bàn đều lạnh cả, không có ly rượu ấm nào sao? Những người này thật sự rất khó coi... Ta từng có lần đang cắt gừng, đột nhiên mắt ngứa bèn lấy tay chùi mắt, kết quả là nước gừng dính vào mắt, đau rát vô cùng. Giờ nhìn những người này, ta lại cảm thấy như mắt mình đang bị dính nước gừng, đau rát quá..."

Nguyên Diệu nói: "Thánh nhân có câu, "phi lễ chớ nhìn, phi lễ chớ nghe". Bạch Cơ, chúng ta đi thôi."

"Đừng vội, để ta tìm công chúa, hỏi vài câu đã." Bạch Cơ mỉm cười nói.

"Chủ nhân, nếu nhìn thêm chút nữa thì mắt của Ly Nô sẽ mù mất."

Bạch Cơ nói: "Ly Nô có thể ngồi bên cạnh sàn nhảy, xem vũ nữ nhảy múa, điệu múa Ba La rất đẹp..."

Ly Nô nhìn vũ nữ trên sàn nhảy, nói: "Múa cũng khá, chỉ là quay vòng làm ta chóng mặt... À, khoan đã, nhảy múa quay vòng vừa có thể làm ấm người vừa tiêu hóa thức ăn..."

Nói xong, Ly Nô bèn biến thành hình người.

Chàng thiếu niên mặc áo đen tuấn tú chạy tới sàn nhảy, nhảy theo nhịp điệu âm nhạc, cùng với vũ nữ người Hồ xoay tròn, nhảy điệu Ba La. Ban đầu, vũ nữ hơi ngạc nhiên nhưng lập tức chấp nhận bạn nhảy mới, phối hợp nhịp nhàng với Ly Nô.

"Ôi..." Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh.

Bạch Cơ nhìn quanh, ánh mắt dừng lại trên một tấm da hổ màu vàng.

Trên tấm da hổ vàng, một nữ nhân xinh đẹp cầm ly rượu vang đỏ, dựa vào gối mềm nhìn vũ nữ người Hồ và Ly Nô nhảy múa. Bên cạnh nàng có hai mỹ nam đang quỳ gối, một người xoa bóp vai, một người ghé sát tai thì thầm điều gì đó, dường như muốn làm nàng cười.

Đó là Thái Bình công chúa.

Bạch Cơ tiến về phía Thái Bình công chúa.

Nguyên Diệu vội vàng đi theo.

Thái Bình công chúa ngẩng đầu thì thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu, không khỏi mỉm cười.

"Tự Nhân, ngươi đến đây làm gì?"

Bạch Cơ ngồi bên cạnh Thái Bình công chúa, cười nói: "Ta rất hứng thú với tiệc Cực Lạc nên không mời mà đến, mong công chúa thứ lỗi..."

Thái Bình công chúa cười nói: "Ta cứ nghĩ ngươi không thích những chuyện phóng túng thế này... Ôi chao, Yêu Duyên trông vẫn ngốc nghếch như ngày nào."

"Tiểu sinh không ngốc nghếch chút nào!!!" Nguyên Diệu cũng ngồi một bên, thầm nghĩ.

Một mỹ nam rót một ly rượu vang, đưa cho Bạch Cơ.

Bạch Cơ nhận lấy, uống một ngụm, cười nói: "Tiệc Cực Lạc này trông có vẻ rất thú vị."

Thái Bình công chúa trong mắt thoáng hiện nét buồn bã, nói: "Lúc đầu cũng thấy hay nhưng càng về sau càng nhàm chán. Tiệc Cực Lạc, chẳng qua là một nhóm nữ nhân góa bụa cô đơn tìm chút niềm vui chóng qua để vượt qua những ngày tháng cô quạnh sau khi chồng qua đời."

Bạch Cơ nói: "Phò mã mất cũng đã hai năm rồi phải không? Xin công chúa hãy bớt đau buồn, đừng quá u sầu."

Thái Bình công chúa nói: "Sống chết chia lìa, uyên ương mất bạn, lúc đầu còn rất đau khổ nhưng quen rồi thì cũng ổn thôi."

Một mỹ nam khác rót rượu cho Nguyên Diệu, hắn thuần thục lấy một gói giấy nhỏ trong chiếc hộp gỗ sơn đen, chuẩn bị cho thứ bên trong vào ly rượu.

Thái Bình công chúa thấy vậy, nói: "Không cần bỏ Cực Lạc Tán, Yêu Duyên không giống các ngươi."

"Dạ, công chúa." Mỹ nam đặt gói giấy xuống, đưa ly rượu cho Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu nhận ly rượu, trong lòng băn khoăn, không dám uống.

"Các ngươi đi chỗ khác phục vụ, ta muốn trò chuyện với bạn ta." Thái Bình công chúa nói.

Hai mỹ nam cúi chào, sau đó đứng dậy rời đi.

*

Ánh nến mờ ảo, rèm lụa đỏ như trong mộng.

Bạch Cơ hỏi: "Công chúa, ta nghe nói trong tiệc Cực Lạc có sách Cực Lạc, không biết có thể cho ta xem không?"

Thái Bình công chúa uống một ngụm rượu đỏ như máu, nói: "Ngươi nghe ai nói vậy?"

Bạch Cơ đáp: "Lời đồn đại trong dân gian."

Thái Bình công chúa nói: "Lời đồn đại trong dân gian phần lớn đều là giả. Sách Cực Lạc là gì? Trong tiệc Cực Lạc của ta không có sách Cực Lạc, ta cũng chưa từng nghe nói về sách Cực Lạc."

Bạch Cơ hỏi: "Vậy, ngài đã từng nghe về phu nhân Tâm Nguyệt Hồ chưa?"

Thái Bình công chúa thắc mắc, nói: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là ai?"

Bạch Cơ đáp: "Nghe nói, tấm vé vào cửa tham gia tiệc Cực Lạc phải mua từ phu nhân Tâm Nguyệt Hồ..."

Thái Bình công chúa cười, nói: "Tự Nhân, ngươi tìm nhầm chỗ rồi. Tiệc Cực Lạc mà ngươi muốn tìm mới có sách Cực Lạc, không phải là ở đây."

Nguyên Diệu không kìm được hỏi: "Chẳng lẽ có nhiều tiệc Cực Lạc khác nhau sao?"

Thái Bình công chúa cười: "Đương nhiên là có. Yêu Duyên, ngươi nhìn thấy trăng lưỡi liềm trên bầu trời không?"

Nguyên Diệu nhìn theo ánh mắt của Thái Bình công chúa, ngoài thủy điện, trên hồ sen, một vầng trăng khuyết sáng như chiếc lược.

"Thấy rồi."

Thái Bình công chúa nói: "Lúc này, dưới ánh trăng ở Thần Đô, có không ít tiệc Cực Lạc. Nam nhân có tiệc Cực Lạc của nam nhân, nữ nhân có tiệc Cực Lạc của nữ nhân, con người có tiệc Cực Lạc của con người, phi nhân có tiệc Cực Lạc của phi nhân. Mỗi người đều có một thế giới Cực Lạc trong lòng mình, vì thế mà tiệc Cực Lạc cũng có nhiều loại..."

Nguyên Diệu ngây người, dường như có điều ngộ ra.

Bạch Cơ hỏi: "Công chúa, có thể cho ta xem Cực Lạc Tán được không?" Thái Bình công chúa đưa tay lấy một gói giấy nhỏ từ trong một chiếc hộp gỗ sơn đen trên tấm da hổ đưa cho Bạch Cơ.

Bạch Cơ nhận lấy gói giấy, mở ra nhìn, bên trong có một ít bột ngũ sắc, tỏa ra mùi thuốc thoang thoảng.

Bạch Cơ nhíu mày, nói: "…Đây chẳng phải là Ngũ Thạch Tán* sao?"

*Ngũ Thạch Tán: Một loại thuốc bột Trung y. Thành phần chính của nó là thạch chung nhũ, tử thạch anh, bạch thạch anh, thạch lưu hoàng, xích thạch chi, ngoài ra còn có một số phụ liệu. Ngũ Thạch Tán được cho là do Trương Trọng Cảnh phát minh, dùng để chữa bệnh thương hàn. Vì loại thuốc bột này có tính chất nóng nên có một số tác dụng bổ ích đối với bệnh nhân thương hàn. Nhưng đến thời Ngụy Tấn, tầng lớp quý tộc, sĩ nhân không bị thương hàn, cũng bắt đầu dùng Ngũ Thạch Tán, bởi vì Ngũ Thạch Tán có một tác dụng tương tự th**c l*c. Sau khi uống thuốc, cơ thể con người lúc thì lạnh run, lúc thì nóng bừng, thân thể tạm thời rơi vào một nỗi đau khổ khó hiểu nhưng tinh thần lại có thể đi vào một trạng thái mơ hồ và quên mình. Những phiền toái thế tục, những rối ren trong tâm trí đều có thể được quên đi còn lại là một cảm giác siêu thoát. Sau khi uống Ngũ Thạch Tán: “Lấy ‘trời đất là một buổi sáng, muôn thuở là chốc lát, mặt trời và mặt trăng là cửa sổ, tám hướng là ngã tư’, không gì đáng để trong mắt, không gì có thể trói buộc mình, chỉ có cái ta phình ra, tự do muốn làm gì thì làm.”

Thái Bình công chúa cười, nói: "Đúng là Ngũ Thạch Tán nhưng đã được cải tiến công thức, dược lực mạnh hơn."

Bạch Cơ gấp lại gói giấy, trả lại cho Thái Bình công chúa, nói: "Thời Ngụy Tấn, nhiều danh sĩ vì tham lam sử dụng Ngũ Thạch Tán mà rơi vào tình trạng điên loạn, chết không toàn mạng. Ngũ Thạch Tán tuy có thể khiến người ta vui sướng như tiên nhưng không có lợi cho cơ thể, công chúa vẫn nên bảo trọng, dùng ít thôi."

Thái Bình công chúa cười, chỉ tay ra ngoài thủy điện nơi những mỹ nam đang ngâm mình trong hồ sen để tán đi cái nóng.

"Ta không bao giờ dùng thứ này. Những thứ này đều là để chuẩn bị cho bọn họ. Tất nhiên, có một số quý phụ thích tìm kiếm Cực Lạc cũng sẽ dùng một ít nhưng ta thì không chạm vào một chút nào. Niềm vui của ta ngoài việc tìm kiếm lạc thú là nhìn họ rơi vào cảnh điên loạn, không thể tự chủ."

Bạch Cơ cười nói: "Ngài vẫn giữ cái sở thích độc ác ấy."

"Ha ha!" Thái Bình công chúa cười vui vẻ.

Bạch Cơ uống cạn ly rượu vang, nói: "Vì đã tìm nhầm chỗ, ta cũng nên rời đi, không làm phiền công chúa hưởng lạc nữa."

Thái Bình công chúa có hơi tò mò hỏi: "Rốt cuộc ngươi đang tìm kiếm thứ gì thế?"

Bạch Cơ đáp: "Ta đang tìm một bữa tiệc Cực Lạc, không liên quan đến nh*c d*c, mà liên quan đến cái chết. Rất có thể còn liên quan đến yêu quái." Bạch Cơ đứng dậy, chuẩn bị rời đi.

Thái Bình công chúa suy nghĩ một lúc, nói: "Tự Nhân, ngươi chờ một chút."

Bạch Cơ lại ngồi xuống.

Thái Bình công chúa đưa tay vào chiếc hộp gỗ sơn đen rút từ tầng dưới cùng ra. Ở ngăn bí mật dưới cùng của chiếc hộp gỗ sơn đen, có một gói giấy màu đỏ.

Thái Bình công chúa lấy gói giấy màu đỏ ra, đưa cho Bạch Cơ.

"Đây có thể là Cực Lạc Tán mà ngươi đang tìm."

Bạch Cơ nhận lấy gói giấy, mở ra.

Nguyên Diệu cúi đầu nhìn, chỉ thấy trong gói giấy màu đỏ vẫn là bột ngũ sắc, có lẽ là Ngũ Thạch Tán nhưng nhìn kỹ nhưng trên bột ngũ sắc lại lóe lên ánh sáng vàng.

Thái Bình công chúa nói nhỏ: “Gói Cực Lạc Tán này được cho là có thêm phấn hoa Mạn Đà La, dược lực mạnh hơn, hiệu quả cũng tốt hơn, thậm chí có thể khiến người ta vui sướng đến chết. Ta mơ hồ cảm thấy nó không ổn, vì vậy chỉ sử dụng loại Ngũ Thạch Tán bình thường trong tiệc Cực Lạc."

Bạch Cơ nhíu mày hỏi: "Công chúa mua những thứ này từ đâu thế?"

Thái Bình công chúa cười, nói: "Từ nhỏ đến lớn, ta muốn gì, nhiều người muốn lấy lòng ta sẽ vắt óc suy nghĩ, đưa những thứ ta muốn đến cho ta. Ta chưa bao giờ quan tâm những thứ đó từ đâu mà có. Nếu ngươi muốn biết ta có thể gọi quản sự đến, có lẽ hắn sẽ biết."

Ánh mắt Bạch Cơ dừng lại ở một góc của gói giấy màu đỏ, nơi có vẽ một cái đuôi cáo hình trăng lưỡi liềm.

"Không cần đâu. Ta biết thứ này từ đâu rồi.”

Bạch Cơ nhìn bột Ngũ Thạch Tán trên giấy đỏ lại hỏi: "Công chúa có biết tác dụng của loại Cực Lạc Tán này không?"

Thái Bình công chúa lắc đầu, nói: "Không biết, ta chưa thử bao giờ."

Bạch Cơ tập trung suy nghĩ.

Trương Xương Tông sau khi hành tán xong, khoác lên mình chiếc áo mỏng nửa khô nửa ướt, tóc vẫn còn ướt sũng, bước vào từ ngoài thủy điện.

Thái Bình công chúa từ xa thấy Trương Xương Tông, mắt sáng lên, trong lòng nảy ra một ý tưởng.

"Tự Nhân, ngươi có muốn biết tác dụng của loại Cực Lạc Tán này không?"

Bạch Cơ nhìn theo ánh mắt của Thái Bình công chúa, khóe miệng hiện lên một nụ cười quái dị.

"Có vẻ như sẽ sớm biết thôi."

Bạch Cơ và Thái Bình công chúa liếc mắt nhìn nhau, cùng nở nụ cười thầm hiểu.

Nguyên Diệu thì lại hoàn toàn mù mịt.

Thái Bình công chúa từ xa vẫy tay gọi Trương Xương Tông, nở nụ cười.

Trương Xương Tông vừa bước vào thủy điện bèn chú ý đến vị trí của Thái Bình công chúa muốn lấy lòng vị công chúa quyền thế ngập trời này. Nhưng khi thấy Thái Bình công chúa đang thì thầm với Bạch Cơ lại biết Thái Bình công chúa vốn kiêu căng ngang ngược, vui buồn thất thường, hắn lo rằng nếu mạo muội tiến đến sẽ khiến nàng nổi giận, vì thế do dự không biết có nên tiến lại hay không. Thấy Thái Bình công chúa vẫy tay gọi mình, hắn vui mừng đi tới.

“Công chúa, vừa rồi ta ở trong hồ sen nhìn thấy ảo cảnh Cực Lạc, trong đó chỉ có nàng và ta.” Trương Xương Tông thân mật ngồi bên cạnh Thái Bình công chúa.

Thái Bình công chúa đưa tay v**t v* bàn tay Trương Xương Tông, mỉm cười nói: “Lục Lang, tay của ngươi lạnh như vậy phải uống thêm một chén rượu Cực Lạc nữa thì chúng ta mới có thể vào ảo cảnh Cực Lạc.” Trương Xương Tông nghe vậy, vui mừng khôn xiết bèn thành thục tìm đến chiếc hộp gỗ đen.

“Đợi đã, Lục Lang. Ở đây còn một gói nữa.”

Bạch Cơ mỉm cười đưa gói giấy màu đỏ trong tay cho Trương Xương Tông.

Trương Xương Tông nhận lấy, cười hỏi: “Bạch Cơ, tại sao gói Cực Lạc Tán này của ngươi lại có màu đỏ?”

Bạch Cơ cười đáp: “Cực Lạc Tán màu đỏ thú vị hơn nhiều.”

Trương Xương Tông có hơi do dự.

Thái Bình công chúa cười đưa ly rượu trước mặt Nguyên Diệu chưa động đến cho Trương Xương Tông.

“Lục Lang sợ rồi sao?”

Trương Xương Tông nhận ly rượu vang từ tay Thái Bình công chúa, nói: “Sợ gì chứ? Chỉ cần khiến công chúa vui vẻ, có chết cũng đáng.” Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ và Thái Bình công chúa cùng nhau hại Trương Xương Tông, không nhịn được khuyên: “Thuốc lạ không rõ nguồn gốc, tốt nhất đừng uống bừa, nếu uống vào mà cơ thể có vấn đề, không phải chuyện đùa đâu…”

Trương Xương Tông vốn có hơi do dự nhưng nghe lời của Nguyên Diệu lại càng không do dự nữa.

“Tên xấu xí nhà ngươi đang ghen tị sao? Ta uống Cực Lạc Tán có thể cùng công chúa tận hưởng Cực Lạc nhưng chẳng ai cùng ngươi chung vui cả.” Trương Xương Tông bèn nhận lấy gói Cực Lạc Tán từ tay Bạch Cơ, ngửa đầu bỏ vào miệng rồi uống một ngụm rượu vang, nuốt luôn thuốc bột.

Nguyên Diệu không nói nên lời.

Bạch Cơ và Thái Bình công chúa cùng nhau tò mò nhìn Trương Xương Tông, xem hắn sẽ có biến đổi gì.

“Công chúa, Bạch Cơ, hai người giống như một đôi hoa sen song sinh dưới ánh trăng, một đóa kiều diễm tuyệt luân, một đóa trắng trong không tì vết…” Trương Xương Tông tự nghĩ dung mạo mình tuấn tú, thu hút ánh mắt của Bạch Cơ và Thái Bình công chúa bèn bắt đầu khen ngợi nhan sắc của Bạch Cơ và Thái Bình công chúa, cố gắng thể hiện tài ăn nói của mình.

Nguyên Diệu không muốn nghe Trương Xương Tông khoe khoang, quay đầu nhìn Ly Nô cùng vũ nữ đang múa điệu Ba La.

Chẳng bao lâu sau, Trương Xương Tông đột nhiên đứng dậy, quỳ xuống hướng về phía đông.

“... Hoàng thượng Võ Tắc Thiên, người đến đây làm gì?!”

Thái Bình công chúa giật mình nhìn quanh hỏi: “Mẫu thân ở đâu thế?!” Bạch Cơ hơi ngẩn ra.

Nguyên Diệu cũng vội quay đầu lại.

Võ Tắc Thiên không hề xuất hiện nhưng Trương Xương Tông sắc mặt mê ly như bị trúng tà, hướng về khoảng không nói: “Hoàng thượng, người thực sự ban cho ta vinh hoa phú quý vô tận sao? Tuyệt vời quá, ta và ca ca cuối cùng cũng đạt được nguyện vọng, từ nay sẽ không còn ai xem thường chúng ta nữa…”

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Thái Bình công chúa tò mò nhìn chằm chằm Trương Xương Tông.

Trương Xương Tông trở nên điên cuồng, dường như rơi vào mộng tưởng của chính mình, lúc thì hưởng thụ đãi ngộ của vương hầu, ngạo nghễ gọi hô bọn gia nhân. Lúc lại như trở về quê hương trong vinh quang, đang hả hê báo thù những người làng từng ức h**p mình.

Nguyên Diệu toát mồ hôi lạnh, nói: “Đây… đây là trúng phải bệnh gì kỳ lạ sao?”

Thái Bình công chúa cười nói: “Ha ha ha ha, cười chết ta rồi! Không ngờ hắn còn có tài diễn độc thoại nữa... Hắn thâm sâu như vậy, ta còn tưởng hắn nịnh nọt lấy lòng mẫu thân và ta, chứa dã tâm sói lang, không ngờ lại đánh giá hắn cao quá, hóa ra cũng chỉ là mơ chút vinh hoa phú quý thôi.”

Bạch Cơ nhìn Trương Xương Tông, sắc mặt nghiêm trọng.

Trên bàn có một đĩa thịt cừu nướng, vài món trái cây lạnh. Trên miếng thịt cừu nướng, có cắm một con dao nhỏ dùng để chia phần.

Trương Xương Tông vừa diễn độc thoại vừa như bị côn trùng cắn khắp người, khó chịu đến nỗi gãi ngứa khắp nơi, hắn như kẻ mộng du nhào tới đĩa thịt cừu nướng, rút con dao nhỏ ra, chĩa về phía mình.

Bạch Cơ phản ứng cực nhanh, thấy sắp xảy ra án mạng thì vội vàng tiến đến nắm lấy cổ tay Trương Xương Tông, đẩy hắn ngã xuống đất, lấy đầu gối đè lên người hắn.

Trương Xương Tông trong cơn mê loạn, sức lực rất lớn, cố sức giãy giụa nhưng sức của Bạch Cơ dường như còn mạnh hơn.

Tay của Trương Xương Tông dần dần buông lỏng, con dao nhỏ rơi xuống đất.

Thái Bình công chúa sững sờ.

Thấy Bạch Cơ khống chế được Trương Xương Tông, Nguyên Diệu vốn định đến giúp đỡ nhưng khi nhìn về phía Trương Xương Tông bèn sững sờ tại chỗ.

Trương Xương Tông nằm sấp trên mặt đất, Bạch Cơ ngồi trên lưng hắn, dùng đầu gối đè chặt hắn, hai người bắt đầu giằng co. Trương Xương Tông trợn trắng mắt, miệng sùi bọt mép nhưng khóe miệng lại mang theo một nụ cười quái dị.

Nguyên Diệu rõ ràng nhìn thấy, trên đỉnh đầu của Trương Xương Tông đang trào ra một ảo ảnh màu vàng, đó là linh hồn của hắn.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 9


Nguyên Diệu đang ngạc nhiên thì lại thấy Bạch Cơ vẽ một tấm bùa chú lên trán Trương Xương Tông, miệng lẩm bẩm niệm chú. Linh hồn vàng kia dường như không thoát khỏi sự trói buộc của bùa chú rồi quay trở lại cơ thể của Trương Xương Tông.

Trương Xương Tông co giật vài cái rồi ngất đi.

Bạch Cơ buông Trương Xương Tông ra, nói: “Thật nguy hiểm. Hóa ra loại Cực Lạc Tán này thực sự có thể khiến người ta vui đến tận cùng mà hóa thành bi thương...”

Thái Bình Công Chúa nghi ngờ hỏi: “Tự Nhân, hắn chết rồi sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Không chết. Nếu vừa rồi muộn một chút, cơ thể hắn bị tổn thương, hồn phách rời khỏi thân xác thì hắn sẽ chết rồi.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ vừa rồi tiểu sinh thấy hồn phách hắn rời khỏi thân xác, đó là chuyện gì vậy?”

Bạch Cơ đáp: “Chắc là do tác dụng của Cực Lạc Tán. Loại Cực Lạc Tán này ngoài Ngũ Thạch Tán còn pha lẫn với dược liệu gây ảo giác và tách rời hồn phách khiến hồn phách rời khỏi thân thể, thoát khỏi sự trói buộc của cơ thể, tận hưởng nhiều k*ch th*ch cảm giác hơn, trong ảo giác đi vào một thế giới Cực Lạc khác. Người pha chế ra loại Cực Lạc Tán này rất độc ác, mục đích của hắn là để người ta tự hủy hoại thân thể trong cơn ảo giác Cực Lạc, khiến linh hồn không thể quay lại thể xác...”

Nguyên Diệu giật mình hỏi: “Thật quá đáng sợ! Nhưng người đã pha ra loại Cực Lạc Tán này, tại sao lại muốn làm như vậy?”

Bạch Cơ đáp: “Chỉ có tìm ra người đó mới có thể biết được.”

Thái Bình Công Chúa thu lại vẻ ngạc nhiên, nói: “May là ta cảm thấy không ổn, chỉ dùng Ngũ Thạch Tán thông thường. Nếu không, đêm tiệc Cực Lạc này đã trở thành yến tiệc xác chết rồi...”

Bạch Cơ cười nói: “Công chúa, những gì ta muốn biết cũng đã biết đủ rồi. Đêm đã khuya, người cứ tiếp tục tận hưởng niềm vui, chúng ta xin cáo từ.” Thái Bình Công Chúa không níu giữ, nàng lo lắng rằng sau khi Trương Xương Tông tỉnh lại sẽ tiếp tục phát điên tự hại mình khiến nàng sợ hãi bèn sai người trói hắn lại, ném ra ngoài điện.

Nguyên Diệu đi vào sàn nhảy gọi Ly Nô nhưng Ly Nô vẫn chưa nhảy đủ vũ điệu Ba La nên còn lưỡng lự một lúc rồi mới luyến tiếc rời khỏi sàn nhảy.

Đám nam nữ trong dạ yến vẫn đang thả mình trong niềm vui tột độ, dưới lớp lụa đỏ che phủ, họ chìm vào cơn điên loạn ngắn ngủi.

Ly Nô ra ngoài thủy điện ở một chỗ hẻo lánh, biến thành một con mèo chín đuôi, cõng Bạch Cơ và Nguyên Diệu dưới ánh trăng, rời khỏi phủ Công chúa trở về Phiêu Miểu các.

*

Ngày hôm sau, nắng thu ấm áp, trời trong vạn dặm.

Vì tối nay phải đi chợ Quỷ, Nguyên Diệu thấy trong lòng rất bất an, cả ngày không yên lòng, thậm chí ghi sổ sách cũng sai vài lần.

Bạch Cơ định nhân tiện đi thăm Hồ Phu Nhân đang bệnh, đến thăm người bệnh không thể đi tay không nên đã gọi một hộp bánh sữa hoa hồng từ Tiệm Thất Xảo. Sau khi chim yêu mang điểm tâm đến, Bạch Cơ đựng vào hộp quà sơn mài đỏ xinh đẹp rồi trang trí bằng hoa cúc nở muộn trong mùa thu. Trang trí xong, Bạch Cơ lại cảm thấy màu sắc không hợp bèn vứt hoa cúc đi thay bằng hoa Mộc Phù Dung.

Tối qua Ly Nô nhảy điệu Bà La trong tiệc Cực Lạc hơi quá mức nên hôm nay cứ kêu đau lưng mỏi chân. Ly Nô bảo Nguyên Diệu ra chợ tìm thầy lang, mua cao da chó chữa đau nhức rồi vội vàng dán vào lưng và chân.

“Ly Nô lão đệ, tối nay ngươi có đi chợ Quỷ không?” Nguyên Diệu hỏi.

Ly Nô mặt mày ủ rũ đáp: “Ta muốn đi lắm nhưng không thể đi được. Đêm qua nhảy nhót quá đà, hôm nay chân mèo của ta vừa đau vừa nhức, làm cá nấu cơm cũng cố gắng lắm rồi. Mọt sách ta không đi được chợ Quỷ, ngươi giúp ta mang về chút đồ nhé.”

Nguyên Diệu hỏi: “Mang gì?”

Ly Nô đáp: “Ngươi vào chợ Quỷ sẽ thấy một con đường chính gọi là Bách Quỷ Nhai. Trên Bách Quỷ Nhai có một cửa hàng quan tài, treo biển hình con mèo. Ngươi vào đó tìm chủ tiệm, chủ tiệm là một con mèo tam thể, cứ nói là ta bảo ngươi đến lấy đồ, nó sẽ đưa cho ngươi một gói đồ. Ngươi cứ mang về là được. Không cần trả tiền vì ta đã thanh toán rồi.”

Nguyên Diệu hơi tò mò hỏi: “Ly Nô lão đệ bảo ta lấy thứ gì vậy?”

Ly Nô do dự một lúc mới nói: “Thịt chuột khô.”

Nguyên Diệu nghĩ một chút lại hỏi: “Ly Nô lão đệ, tại sao ngươi lại phải mua thịt chuột khô từ cửa hàng quan tài ở chợ Quỷ?”

Ly Nô mơ hồ đáp: “Thịt chuột khô ở chợ Quỷ béo hơn một chút. Mọt sách đừng hỏi nhiều, bảo ngươi đi lấy thì đi lấy đi.”

“Ừ.” Nguyên Diệu đáp.

Vì Bạch Cơ và Nguyên Diệu tối nay phải ra ngoài, Ly Nô sớm đã làm một bữa tối đơn giản, ba người cùng ăn với nhau.

Sau bữa tối, Bạch Cơ không vội vàng ra ngoài mà đi lại trong bụi cỏ ở sân sau, dường như đang tìm kiếm thứ gì đó.

Nguyên Diệu nhìn thời gian, cảm thấy nếu không ra ngoài ngay thì sẽ không kịp ra khỏi thành trước khi cửa thành đóng lại.

Nguyên Diệu đang định thúc giục Bạch Cơ thì Ly Nô lại khập khiễng bước ra, ngăn Nguyên Diệu lại.

Ly Nô đưa cho Nguyên Diệu một gói cao da chó nói: “Mọt sách, mang cái này cho con hồ ly thối kia.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nói: “Thập Tam Lang không bị thương không ốm, ngươi đưa nó cao da chó làm gì?”

Mèo đen trả lời: “Con hồ ly đó hôm qua gửi món cá tẩm mật kết hình trái tim rất ngon, ta ăn hết rồi, không có gì để đáp lễ thì gửi cho nó cao da chó vậy. Cao da chó này khá hiệu quả, dán vào thấy mát mát rất thoải mái, bây giờ ta thấy chân đỡ nhiều rồi. Cho nó ít, sau này nếu nó trẹo chân hay lưng thì dùng.”

“Thế này... cũng được.”

Nguyên Diệu nhận lấy cao da chó, bỏ vào trong áo.

Nguyên Diệu cất kỹ cao da chó, Bạch Cơ dường như cũng tìm thấy thứ mình muốn tìm trong bụi cỏ.

Bạch Cơ hái ba cái hoa đèn lồng trắng, bỏ vào trong ống tay áo.

“Hiên Chi, mang hộp quà lên, chúng ta xuất phát thôi.” Bạch Cơ mỉm cười nói.

“Được.” Nguyên Diệu đáp.

Nguyên Diệu xách hộp quà tặng Hồ Phu Nhân, rời khỏi Phiêu Miểu các với Bạch Cơ dưới ánh chiều trà, đi về phía cổng Đông.

Cổng Thượng Đông cách chợ Nam không xa, băng qua sông Lạc bằng cầu nổi, đi qua ba phường nữa là tới nơi.

Khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước ra khỏi Cổng Thượng Đông, trống báo giờ đóng phường trong thành vừa mới vang lên.

Nguyên Diệu vừa bước ra khỏi thành, che tay lên trán để nhìn xa thì thấy Vi Ngạn đang ngồi uống trà ở một quán trà không xa.

Vi Ngạn uống trà một cách hờ hững, ánh mắt luôn dán vào Cổng Thượng Đông, dường như đã chờ Bạch Cơ và Nguyên Diệu từ lâu.

“Đan Dương...” Nguyên Diệu gọi lớn.

“Hiên Chi!”

Vi Ngạn thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu thì vô cùng phấn khích.

Vi Ngạn vội vàng ném vài đồng tiền lên bàn trà, cầm lấy cái bọc nặng trĩu chạy tới chỗ Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

“Bạch Cơ, Hiên Chi, sao các ngươi giờ mới tới? Ta còn tưởng các ngươi không tới, đang lo lắng không biết tối nay làm sao qua đêm ở vùng ngoại ô này đây. Những quán trọ ở gần đây chỉ dành cho khách thương đi đường, không có cái nào ra hồn, chắc trong chăn còn có rận nữa...”

Bạch Cơ cười, liếc mắt đánh giá Vi Ngạn, ánh mắt dừng lại ở cái bọc nặng trĩu của hắn.

“Vi công tử nói đùa rồi, ta luôn giữ lời, sao có thể nuốt lời mà không đến chứ? Nếu chúng ta không đến, chẳng phải ngươi đã phí công mang theo bao nhiêu vàng bạc tiền tài thế này sao?”

Nguyên Diệu liếc nhìn cái bọc nặng trĩu của Vi Ngạn, không nhịn được nói: “Đan Dương không phải đã mang hết tiền tiết kiệm của mình theo đây chứ? Ngươi định mua bao nhiêu đồ ở chợ Quỷ vậy?”

Vi Ngạn cười nói: “Hê hê, ta cứ cảm thấy ở chợ Quỷ bán toàn những thứ ta muốn, hiếm khi có dịp đi, ta định tiêu hết số tiền này. Bạch Cơ thấy nhiều biết rộng lại khéo ăn nói, nhớ phải giúp ta trả giá nhé.”

Bạch Cơ cười nói: “Vi công tử, quên nói với ngươi, chợ Quỷ không giống chợ người. Việc mua bán ở chợ Quỷ không có mặc cả. Chợ Quỷ không có lừa lọc, không có mưu mô, chỉ có mua hoặc không mua. Ngươi cảm thấy đắt thì không mua nhưng không được trả giá.”

“Làm ăn như vậy, thẳng thắn và tiết kiệm thời gian, ta thích.” Vi Ngạn cười nói.

Nguyên Diệu nhìn trời đã dần tối lại hỏi: “Bạch Cơ, chúng ta đến chợ Quỷ bằng cách nào? Nên đi theo hướng nào?”

Bạch Cơ nhìn về phía đường chân trời, nói: “Đi bộ đến chợ Quỷ thì đến sáng cũng không tới. Ta đã đặt một chiếc xe ma, nó sẽ chở chúng tôi tới chợ Quỷ nhưng bây giờ chưa đến giờ hẹn. Chúng ta đi đến chỗ hoang vắng kia đợi.” Vậy là, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn đi dọc theo con đường hoang dã. Ba người đi một lúc, dừng lại dưới một cây khô giữa cánh đồng hoang.

“Chờ ở đây đi.” Bạch Cơ cười nói.

Thấy cành cây khô có thể ngồi được, Bạch Cơ bèn bay lên cây, tựa lưng vào cành mà nhắm mắt dưỡng thần.

Nguyên Diệu và Vi Ngạn không trèo lên được, đành đứng dưới cây trò chuyện.

“Hiên Chi, trong hộp quà ngươi cầm là gì vậy?” Vi Ngạn hỏi.

“Bánh sữa hoa hồng.” Nguyên Diệu đáp.

“... Ta đói bụng rồi, có thể ăn một miếng không?” Vi Ngạn thèm thuồng.

Nguyên Diệu nói: “Không được. Đây là quà thăm bệnh.”

“Ai bệnh vậy?” Vi Ngạn ngạc nhiên.

“Hồ Phu Nhân.” Nguyên Diệu đáp.

Vi Ngạn suy tư một lúc, nói: “Ồ là vị Hồ Phu Nhân bán vé vào tiệc Cực Lạc ư?” Nghe đến Tiệc Cực Lạc, Nguyên Diệu bèn cảm thấy đau đầu.

“Đan Dương, đừng nhắc đến Tiệc Cực Lạc nữa, giờ ta chỉ cần nghe thấy Tiệc Cực Lạc là liên tưởng đến những điều không hay, mắt đau, đầu cũng đau.”

“...”

Khi Nguyên Diệu và Vi Ngạn đang trò chuyện thì bỗng nhiên trong đồng hoang truyền đến âm thanh “khu lu khu lu...” của một cỗ xe đang chạy.

“A, xe ma đến rồi.” Bạch Cơ nói từ trên cây.

Nguyên Diệu và Vi Ngạn dừng lại trò chuyện nhìn quanh bốn phía.

Trời đã hoàn toàn tối, đêm nay mây đen che khuất mặt trăng, đồng hoang không có ánh đèn nên không thể nhìn rõ cỗ xe ngựa đến từ hướng nào.

Nguyên Diệu đang nheo mắt nhìn xung quanh, Vi Ngạn lại run giọng nói: “Hiên Chi nhìn lên trời kìa.” Trong giọng nói run rẩy của Vi Ngạn mang theo sự phấn khích không thể kìm nén.

Nguyên Diệu ngước nhìn lên, đúng lúc mây đen tan ra, ánh trăng như đèn sáng.

Trên trời bay tới một con chim khổng lồ, chim ấy có chín đầu, hình dáng như con gà, lông màu đỏ rực, hai cánh như bánh xe đang xoay. Âm thanh “khu lu khu lu” mà Nguyên Diệu vừa nghe, giống như tiếng xe đang chạy là âm thanh phát ra khi nó bay.

Bạch Cơ bay xuống khỏi cây khô, đứng bên cạnh Vi Ngạn và Nguyên Diệu, cười nói: “Đây là Quỷ Xa Điểu. Quỷ Xa Điểu trước đây là thần điểu. Đêm nay chúng ta sẽ cưỡi nó để đến chợ Quỷ.” Quỷ Xa Điểu thu cánh, đỗ lại nói: “Thần điểu gì chứ, đều là chuyện cũ rồi. Bây giờ sống ở nhân gian, cuộc đời của chim không dễ dàng, kế sinh nhai khó khăn, không giống người khác chỉ có một đầu, ta có chín cái đầu, chín cái miệng phải ăn, chỉ có thể làm mấy việc chở người chở hàng để kiếm sống thôi. Bạch Cơ là khách quen, chở ba người vốn là mười lạng bạc, nhưng người ta chỉ lấy mười lạng thôi. Có muốn thêm thùng xe không?”

Bạch Cơ cười nói: “Có thùng xe thì thoải mái hơn, thêm vào đi.”

Quỷ Xa Điểu nói: “Tổng cộng hai mươi lượng.”

Bạch Cơ cười nói: “Vi công tử, ta ra ngoài vội quá, quên mang theo túi tiền…” Vi Ngạn không còn cách nào khác, đành mở bọc lấy hai mươi lượndg bạc đưa cho Quỷ Xa Điểu.

Quỷ Xa Điểu nhận lấy bạc rồi lùi vào vùng hoang dã. Nguyên Diệu thấy một cái đầu của Quỷ Xa Điểu bất chợt phun ra một làn khói, bao trùm lên thân chim. Không lâu sau, khói tan đi, trên lưng Quỷ Xa Điểu xuất hiện một chiếc thân xe, trông giống như một cỗ xe ngựa, chỉ có điều là không có mái che.

Quỷ Xa Điểu cúi xuống, Bạch Cơ bước lên trước, Nguyên Diệu và Vi Ngạn cũng lập tức theo lên. Cả ba người Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn ngồi trên lưng Quỷ Xa Điểu.

Dưới màn đêm lơ lửng, ánh trăng như tấm lụa mỏng, Quỷ Xa Điểu dang rộng đôi cánh khổng lồ, mang theo Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn bay lên bầu trời đêm, đi về chợ Quỷ.

Đêm thu ở vùng ngoại ô vô cùng yên tĩnh, gió thổi lộng lẫy, ánh trăng nhảy múa trên dòng sông, biến màn đêm thành một vùng xanh thẳm mênh mông kéo dài đến tận chân trời.

Dưới ánh trăng sáng tỏ, Quỷ Xa Điểu chở Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn bay qua những cánh đồng hoang vu, về phía núi Mang. Không lâu sau, những đỉnh núi của núi Mang lờ mờ hiện ra, giữa vùng hoang vu tĩnh lặng, xuất hiện những điểm sáng lấp lánh. Những ánh sáng đó dần tụ lại thành một vùng ánh đèn rực rỡ. Trong ánh đèn ấy, mờ ảo hiện lên hình dáng của một ngôi chợ với những con đường đan xen, những ngôi nhà chồng chất và những người đi lại đông đúc.

Bạch Cơ chỉ về phía ánh đèn phía trước, nói: “Đó là chợ Quỷ.”

Nguyên Diệu và Vi Ngạn ngạc nhiên gật đầu.

Ngoài chợ Quỷ, có một tấm bia đá gãy, bị che khuất trong khói hoang và cỏ dại. Tấm bia đá chỉ còn lại một nửa, trên đó khắc chữ “Chợ” bằng kim văn. Chữ phía trên do tấm bia bị gãy nên chỉ còn một chút dấu vết, không thể nhận ra là chữ gì.

Quỷ Xa Điểu dừng lại bên cạnh tấm bia đá, nói: “Đã đến chợ Quỷ rồi.”

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn bèn bước xuống.

Một làn khói bốc lên, Quỷ Xa Điểu thu thân xe lại. Nó duỗi chân, gập cánh lại, buồn bã nói: “Ôi! Ta còn phải đi kéo thêm một chuyến nữa, tối nay phải bay ba chuyến, nghĩ thôi thôi cũng thấy mệt, đời chim thật khổ quá...” Nói xong, Quỷ Xa Điểu lăn bánh bay đi.

Nguyên Diệu thấy Quỷ Xa Điểu bay đi thì có hơi lo lắng hỏi: “Bạch Cơ, chim bay mất rồi, lát nữa chúng ta làm sao về đây?”

Vi Ngạn nghe vậy cũng lo lắng nói: “Đây là vùng hoang vu hẻo lánh, trước không thấy làng, sau không thấy quán trọ, đến cả quán trọ có chăn rận cũng không tìm được, e rằng chúng ta phải chịu lạnh qua đêm rồi. Biết vậy ta đã mặc áo bông đi…”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, Vi công tử, các ngươi đừng lo, tối nay chúng ta sẽ ở lại chợ Quỷ. Hơn nữa là ở trong tòa nhà của Hồ Phu Nhân tại chợ Quỷ, nơi đó đầy rẫy mỹ nhân.”

Vi Ngạn hỏi: “Trong tòa nhà của Hồ Phu Nhân có chăn sạch không?”

Bạch Cơ cười nói: “Có. Còn có nhiều nàng hồ ly xinh đẹp và đa tình nữa.”

Vi Ngạn nói: “Có chăn sạch là được rồi. Hồ ly thì thôi, ta không có nhiều bạc, chỉ định mua những món bảo vật kỳ lạ, không có ý định mua hồ ly.”

Nguyên Diệu chuẩn bị bước vào chợ Quỷ.

Bạch Cơ ngăn hắn lại, nói: “Đợi đã, Hiên Chi.”

Nguyên Diệu dừng bước.

Bạch Cơ lấy ba chiếc đèn lồng cỏ trắng ra, cười nói: “Người ta vẫn nói, không cầm đèn Quỷ thì không vào chợ Quỷ. Mặc dù bây giờ nhiều người không còn giữ quy tắc cũ nữa nhưng ta vẫn thích giữ gìn truyền thống.”

Trong chớp mắt, trên tay Bạch Cơ xuất hiện ba chiếc đèn lồng quỷ ánh xanh nhạt.

Bạch Cơ đưa cho Nguyên Diệu một chiếc đèn lồng quỷ rồi đưa cho Vi Ngạn một chiếc.

Nguyên Diệu nhận lấy đèn lồng quỷ, ngạc nhiên hỏi: “Bạch Cơ xưa nay không thích giữ quy tắc cũ, sao đột nhiên thay đổi tính nết thế?”

Bạch Cơ cười nói: “Hì hì, ta và Ly Nô đến chợ Quỷ thì không cần cầm đèn lồng quỷ nhưng tối nay mang ngươi và Vi công tử tới đây vẫn nên cầm đèn lồng quỷ mà đi. Vì ánh sáng u ám từ đèn lồng quỷ có thể che giấu khí tức của người sống của các ngươi, để những kẻ không phải là người trong chợ Quỷ không phát hiện ra, tránh gây ra rắc rối không cần thiết.”

Nguyên Diệu và Vi Ngạn hiểu ra.

Ba người Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn cầm đèn lồng quỷ bước vào chợ Quỷ.

Đường phố đan xen, nhà cửa ngay ngắn, hàng quán đông đúc, ánh sáng mờ ảo, những bóng người qua lại không ngừng. Ngoài việc có một chút không khí kỳ quái và một cảm giác lạnh lẽo, chợ Quỷ trông không khác gì so với chợ Nam nơi Phiêu Miểu các tọa lạc, điểm khác biệt duy nhất là một nơi là chợ của người vào ban ngày còn một nơi là chợ của quỷ vào ban đêm.

Bạch Cơ dẫn Nguyên Diệu và Vi Ngạn đến con phố chính. Trên phố chính, các hàng quán san sát, người qua lại tấp nập, chật kín cả đường. Nhưng nếu nhìn kỹ, thực ra chẳng có mấy “người” ở đó.

Những món hàng được bán ở các hàng quán cũng rất kỳ lạ, Nguyên Diệu ban đầu nghĩ rằng trong chợ Quỷ sẽ bán những thứ máu me, kỳ quái, giống như những bộ não người, tim người, gan người, phổi người như đã thấy trên phố Chu Tước trong đêm Hành Quỷ ở Trường An. Nhưng ở chợ Quỷ thì không. Ít nhất, trên phố chính thì không thấy.

Trong chợ Quỷ, hầu hết các mặt hàng được giao dịch là các vật dụng, có hồ lô, bình, ngọc hành rồi nồi, bát, thìa, chậu, v.v. nhìn qua thì rất bình thường không có gì đặc biệt. Cũng có một số loại thực vật không rõ tên, có cái còn được đặt trong chậu hoa là cây sống. Một số khác trông giống như dược liệu mà đã được phơi khô. Còn có những cửa hàng bán các sinh vật giống thằn lằn, bò sát nhốt trong lồng nhưng không phải là thằn lằn, bò sát thật, cùng với một số loài động vật kỳ diệu khác không thể gọi tên. Điều đặc biệt nhất là có những người bán hàng không có sản phẩm gì, chỉ đứng đó với vẻ mặt u ám, trước mặt họ bày biện bút mực, giấy, nghiên và một tờ giấy viết chữ “Thọ”.

Nguyên Diệu tò mò hỏi nhỏ: “Bạch Cơ, những người này bán cái gì vậy?”

Bạch Cơ chưa kịp trả lời, Vi Ngạn đã đáp lời: “Nhìn tình hình này, chắc là họ bán chữ, viết câu đối cho người ta.”

Bạch Cơ cười khúc khích, nói: “Không phải. Họ là những thuật sĩ bán dương thọ.”

Nguyên Diệu sững sờ còn ánh mắt của Vi Ngạn thì sáng lên hỏi: “Bạch Cơ, bán dương thọ là gì?”

Bạch Cơ đáp: “Là nghĩa đen, bán dương thọ. Ví dụ như có người muốn sống thêm mười năm thì có thể giao dịch với những thuật sĩ này, mua thêm mười năm dương thọ. Nhưng những năm dương thọ mà các thuật sĩ này bán hầu hết là từ việc trộm cắp, lừa gạt mà có, không thể phơi bày ra ánh sáng. Tuy nhiên, Vi công tử, ta khuyên ngươi nên từ bỏ ý định mua dương thọ, vì thứ nhất là ngươi không đủ tiền mua, giá cả của họ rất cao, cao đến mức không tưởng. Thứ hai, nghịch thiên cải mệnh, sửa đổi dương thọ cũng giống như uống rượu độc giải khát là lựa chọn tệ nhất, sớm muộn gì cũng sẽ bị số mệnh phản phệ, cái giá phải trả sẽ nhiều hơn những gì ngươi nhận được, và rồi ngươi sẽ hối hận không kịp. Những thuật sĩ này làm nghề chơi dao hai lưỡi, trừ phi đến đường cùng, nếu không thì đừng đánh cược sinh mạng mà giao dịch với họ.”

Ánh mắt của Vi Ngạn lập tức trở nên ảm đạm.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Vi Ngạn tiếp tục tiến về phía trước.

Nguyên Diệu nhìn xung quanh, thở dài: “Giữa đêm khuya, vùng ngoại ô hoang vắng lại có một cái chợ huyên náo giống ảo giác như vậy.”

Bạch Cơ cười nói: “Sự sống là ảo giác lớn nhất trong trời đất và vũ trụ.”

Nguyên Diệu cảm thấy câu nói của Bạch Cơ chứa đầy thiền ý, không khỏi lâm vào suy tư.

Đột nhiên, một chiếc quan tài đang di chuyển trên không trung xuất hiện trước mắt Nguyên Diệu khiến hắn giật mình kinh hãi.

Nguyên Diệu nhìn kỹ lại, phát hiện quan tài không phải đang bay trong không trung mà là do sáu con mèo xếp thành hai hàng khiêng. Những con mèo này khiêng quan tài với tư thế rất vui vẻ, bước đi linh hoạt, động tác phóng đại như thể đang nhảy múa.

Sáu con mèo lúc thì nâng quan tài lên cao, lúc thì hạ thấp xuống còn cùng nhau hát bài ca:

“Lên quan tài, ngủ trên ván, gõ trống khua chiêng chôn trên núi.

Chôn trên núi, khóc than rồi ca hát, hát ca bên trống quay về nhà.

Đời này ta, chẳng biết ai sau, dài ca mà khóc giọt sương mai.

Trời đất là mộ, nhật nguyệt là bia, ngày lành tháng tốt phúc thọ an... phúc thọ an...”

Bọn mèo vừa khiêng quan tài nhảy múa vừa hát bài ca đưa tang. Chúng hát xong vừa đúng lúc dừng lại trước một cửa hàng cũ kỹ. Lũ mèo thả quan tài xuống, con thì mệt mỏi nằm dài ra đất, con thì chạy đi uống nước.

Nguyên Diệu và Vi Ngạn ngạc nhiên nhìn.

Nguyên Diệu phát hiện cửa hàng cũ kỹ này là một tiệm bán quan tài, không có tên, chỉ treo một biển hiệu hình con mèo.

Bạch Cơ cười nói: “Chắc đây là những nhân viên mới của tiệm quan tài mèo, chúng đang tập luyện khiêng quan tài.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Tại sao chúng phải tập luyện khiêng quan tài?”

Bạch Cơ cười nói: “Vì tiệm quan tài mèo mấy năm gần đây muốn thu hút khách hàng, bán được nhiều quan tài hơn nên họ tặng kèm dịch vụ khiêng quan tài và đưa đám. Nghe nói, tùy vào loại quan tài mà khách mua, có thể có bốn con mèo, sáu con mèo, tám con mèo khiêng, kiểu trang trọng nhất là mười sáu con mèo khiêng quan tài.”

“Chuyện này… thật sự có người mua sao?” Nguyên Diệu toát mồ hôi.

Bạch Cơ cười nói: “Có chứ. Làm ăn còn rất phát đạt nữa. Dù là người hay phi nhân tihf ai cũng sẽ chết, chỉ cần đặt mua quan tài, đến ngày chết, dù khách hàng ở xa tận chân trời góc biển hay gần ngay phố xá của Thần Đô, những con mèo này đều sẽ đúng giờ mang quan tài đến và giúp khách hàng khiêng quan tài đi chôn cất.”

Nguyên Diệu nghi ngờ hỏi: “Làm sao mèo có thể biết được ngày khách hàng sẽ chết?”

Bạch Cơ cười nói: “Chuyện này ngươi không cần lo lắng. Chủ tiệm quan tài mèo là một con mèo tam thể tên là Thái Cực, nó có khả năng kỳ diệu là thông hiểu sinh tử. Ngay từ lúc ký kết hợp đồng, nó đã biết được thời hạn của khách hàng rồi.”

“Ồ.” Nguyên Diệu cảm thấy rất kỳ lạ.

Vi Ngạn nghe thấy thú vị, nói: “Ta có thể đến đặt một cái quan tài không? Sau này được đám mèo này hát ca khiêng quan tài chôn cất đúng là thú vị.”

Bạch Cơ cười nói: “Đương nhiên là có thể.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi, nói: “Đan Dương, bây giờ ngươi đặt mua quan tài có phải là hơi sớm không?”

Vi Ngạn cười nói: “Không sớm đâu. Trời có lúc không đoán được, người có họa phúc khó lường, lo xa tính trước vẫn hơn.”

Nói xong, Vi Ngạn bước vào tiệm quan tài.

Bạch Cơ cũng theo vào.

Nguyên Diệu nhớ ra rằng Ly Nô còn nhờ hắn tìm chủ tiệm quan tài mèo để lấy đồ bèn cũng bước vào theo.

Bên trong tiệm quan tài mèo không khí âm u lạnh lẽo, bày biện một số quan tài với chất liệu khác nhau, dưới ánh đèn cam, một con mèo tam thể có đôi mắt khác màu đang ngồi trên quầy, xem xét một cuốn sổ.

Thái Cực thở dài, lẩm bẩm: “Gần đây mấy khách hàng đều đến đúng giờ tốt lại trùng hợp vào cùng một ngày, không đủ người khiêng quan tài, đúng là lo quá. Đám mèo mới đến này vụng về lại yếu đuối, không chịu khổ, huấn luyện cả tháng vẫn chưa khiêng nổi quan tài, đúng là đời mèo sau không bằng đời mèo trước… Ồ, Bạch Cơ đại nhân, ngài sao lại đến chợ Quỷ, lâu rồi không gặp!”

Bạch Cơ chỉ vào Vi Ngạn, cười nói: “Chủ tiệm Thái Cực, ta mang khách đến cho ngươi đây.”

Vi Ngạn nhìn Thái Cực một cái, nói: “Con mèo này tròn trịa, béo phì, trông thật đáng yêu, không ngờ lại đi bán quan tài.”

Thái Cực cười nói: “Vị khách này, ngài muốn mua quan tài loại nào?”

“Ta không rành lắm, chỉ cần nằm thoải mái là được.” Vi Ngạn cười đáp.

Thái Cực cười nói: “Ngân sách của ngài là bao nhiêu?”

Vi Ngạn nghĩ một lát rồi báo một con số.

Thái Cực nhảy xuống khỏi quầy, dẫn Vi Ngạn đi dạo quanh cửa tiệm, giới thiệu cho hắn các loại quan tài khác nhau.

Bạch Cơ thấy Vi Ngạn và Thái Cực đang nói chuyện mua bán bèn bước ra cửa quan tài quán nhìn về phía xa không xa lắm.

Nguyên Diệu không biết nên làm gì, cũng không muốn đi theo Vi Ngạn chọn quan tài nên đến bên cạnh Bạch Cơ, nhìn theo theo ánh mắt.

Nguyên Diệu nhìn thấy một tòa nhà cao ba tầng, tòa nhà này có mái ngói cong, lan can đỏ và tường trắng, dưới ánh trăng ngói lưu ly phản chiếu ánh sáng như pha lê, vô cùng lộng lẫy nhưng không có đèn đuốc nhìn qua cũng không có ai.

Bạch Cơ quay đầu về phía Thái Cực hỏi: "Ông chủ Thái Cực, đêm nay Lầu Tâm Nguyệt sao lại không mở cửa thế?"

Thái Cực dừng nói chuyện với Vi Ngạn, trả lời: "Bạch Cơ đại nhân, Lầu Tâm Nguyệt đã lâu rồi không mở cửa."

Bạch Cơ hỏi: "Tại sao? Có phải phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị bệnh không?"

Thái Cực nói: "Bị bệnh? Con mụ yêu tinh già đó chẳng bệnh tật gì đâu! Bà ta đang làm mấy chuyện mờ ám nên chẳng thèm mở cửa Lầu Tâm Nguyệt thì có..."

Bạch Cơ hỏi: "Ông chủ Thái Cực, sao ông lại nói vậy?"

Thái Cực chẳng còn quan tâm đến việc bán quan tài cho Vi Ngạn nữa, giao cho Vi Ngạn tự đi dạo xem rồi bước tới, nhảy lên một chiếc quan tài, rướn tới bên tai Bạch Cơ, nói nhỏ: "Bạch Cơ đại nhân, ngài đến vừa đúng lúc, nếu ngài không đến, có một số chuyện ta cũng chẳng biết nói với ai. Mọi người đều biết, trên con phố Bách Quỷ này, ta và Tâm Nguyệt Hồ không hòa thuận, hai nhà chúng ta cãi nhau không ít lần. Bà ta chê ta mở quan tài quán ở vị trí đào hoa của bà ấy, làm xui xẻo, cản trở việc buôn bán của lầu xanh. Còn ta thì ghét bà ấy mở lầu xanh ở vị trí tài vận của ta làm ô uế, ảnh hưởng đến việc kinh doanh quan tài của ta. Nhưng những gì ta sắp nói với ngài đều do mấy đứa khiêng quan tài của ta tận mắt chứng kiến, tuyệt đối không phải bịa chuyện để bôi nhọ bà ta đâu. Cách chợ Quỷ không xa, ở hạ lưu sông Y có một ngôi làng tên là Phù Đồ, trong làng có một ngôi chùa cổ tên là chùa Phù Đồ. Gần đây Tâm Nguyệt Hồ thường xuyên đến chùa Phù Đồ còn móc nối với vị trụ trì trong chùa, tổ chức mấy buổi tiệc Cực Lạc ở đó. Ta cho người theo dõi ở ngoài chùa, phát hiện không chỉ có người mà còn có cả phi nhân tham dự mấy buổi tiệc này nhưng dù là người hay phi nhân, sau khi tham dự yến tiệc, luôn có vài người mất tích. Những người này biến mất không rõ tung tích, không biết sống chết ra sao. Chuyện này đầy rẫy sự quái dị, ta vẫn luôn muốn điều tra rõ ràng..."

Bạch Cơ chìm vào suy nghĩ.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 10


Thái Cực kể chuyện xong lại quay về bên Vi Ngạn, tiếp tục bận rộn với việc kinh doanh.

Bạch Cơ suy nghĩ một lúc, bước tới bên Vi Ngạn đang xem xét quan tài, cười nói: "Vi công tử, ta và Hiên Chi cần đến thăm một người bạn đang bị bệnh, ở ngay Lầu Tâm Nguyệt không xa. Thế này đi, công tử cứ ở đây tự chọn quan tài, chọn xong rồi cũng có thể dạo chơi trên con phố Bách Quỷ này, mua những món mà công tử thích."

Vi Ngạn nói: "Được, các ngươi cứ đi."

Bạch Cơ lấy ra một người giấy, đưa cho Vi Ngạn.

"Vi công tử, giữ cái này bên mình. Nếu gặp nguy hiểm, ta sẽ lập tức biết ngay. Nhớ kỹ, đi dạo trên phố Bách Quỷ phải cầm theo đèn lồng quỷ. Hơn nữa, chỉ có thể đi trên phố Bách Quỷ, đừng bước vào những con hẻm ngoài phố chính, càng không được đi xuống dưới lòng đất."

Vi Ngạn nhận lấy người giất, bỏ vào trong áo, tò mò hỏi: "Dưới lòng đất ư?"

Bạch Cơ nói: "Phố Bách Quỷ chỉ là một phần nhỏ của chợ Quỷ, phần lớn khu vực của chợ Quỷ đều ẩn dưới lòng đất, nơi đó có rất nhiều hồn ma kinh khủng và những sinh vật phi nhân đáng sợ. Người phàm xuống dưới lòng đất thì rất nguy hiểm. Vi công tử, nhớ kỹ, ngươi chỉ có thể dạo quanh phố Bách Quỷ, mua những thứ ngươi thích."

Vi Ngạn gật đầu, nói: "Được rồi. Khi nào dạo chán ta sẽ đến Lầu Tâm Nguyệt tìm các ngươi."

Vì sắp rời khỏi quán quan tài, Nguyên Diệu không dám quên lời dặn dò của Ly Nô, nói lại với ông chủ Thái Cực. Thái Cực nghe xong bèn hiểu ngay, bảo Nguyên Diệu chờ một lát rồi vào trong lấy ra một gói giấy đã được buộc chặt, đưa cho Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu thấy gói giấy rất nhẹ, chỉ nặng khoảng một cân.

Thái Cực nói: "Bây giờ chưa vào đông, chuột trong mộ chưa béo, hàng tốt chỉ có từng này thôi."

Nguyên Diệu nghe vậy, sợ đến nỗi suýt ném gói giấy trong tay đi.

Thái Cực nói thêm: "Ngươi chuyển lời tới Ly Nô rằng, dạo này ta bận nhiều việc, thiếu người, bảo nó đến giúp khiêng quan tài vài lần, tất cả đều là việc trong phạm vi Thần Đô, không cần đi xa. Quà tạ ơn là mười cân thịt chuột khô tặng không vào tháng Chạp."

"Việc này... Ly Nô lão đệ biết khiêng quan tài sao?" Nguyên Diệu run rẩy nhét gói thịt chuột khô vào trong áo, hỏi.

Thái Cực cười nói: "Biết chứ. Vì làm kinh doanh quan tài và đưa đám tang nên ta rất quen thuộc với các ngôi mộ, thịt chuột khô của ta đều là hàng thượng hạng từ mộ phần mà ra, tự ta ăn còn không đủ, chỉ bán cho người quen. Từ lâu rồi, Ly Nô vì muốn đổi lấy thịt chuột khô, đã từng đến đây học cách khiêng quan tài và còn khiêng rất tốt nữa. Sau này, nó không khiêng nữa nhưng ta với nó đã trở thành bạn thân, thỉnh thoảng ta sẽ bán cho nó một ít thịt chuột khô."

(mẻ Ly Nô học gì cũng giỏi luôn á)

"Tiểu sinh chắc chắn sẽ chuyển lời." Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh.

"Cảm ơn nhé." Thái Cực cười nói.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu cáo từ rồi rời đi.

"Vi công tử, chân thành nhắc nhở ngươi một câu, tốt nhất là chỉ mua những thứ có thể giao dịch bằng vàng bạc. Những món không nhận vàng bạc thường phải đổi bằng những thứ khác. Ngươi còn trẻ không phân biệt được điều gì quan trọng trong cuộc đời, đừng vì một phút sơ ý mà mất đi những thứ của mình, bây giờ thì không sao nhưng sau này lại rất cần." Khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước ra khỏi quán quan tài, Bạch Cơ quay lại dặn dò Vi Ngạn.

Vi Ngạn dường như hiểu nhưng dường như cũng không hiểu, gật gù.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu rời khỏi quán quan tài, bước đi trên phố Bách Quỷ.

Chẳng bao lâu, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đã đến Lầu Tâm Nguyệt.

Lầu Tâm Nguyệt không mở cửa nhìn qua tối om, Bạch Cơ quen đường rẽ vào cửa bên hông, đưa tay gõ cửa gỗ đầy dây hoa leo.

Không lâu sau, cửa gỗ kêu "kẽo kẹt" một tiếng mở ra, bên trong thò ra một khuôn mặt hồ ly.

"Các ngươi tìm ai?"

Hồ ly cất giọng nữ dịu dàng hỏi.

Bạch Cơ cười nói: "Ta là Bạch Cơ của Phiêu Miểu Các, nghe nói phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị bệnh nên ta đến thăm..."

"Ồ!" Hồ ly nghe vậy, vội vàng mở cửa gỗ, đồng thời biến thành một ngươi hầu gái.

“Xin mời vào! Thập Tam công tử đã dặn, tối nay Bạch Cơ đại nhân của Phiêu Miểu các sẽ đến thăm, nên ta đã cố ý chờ ở cửa bên.” Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước vào.

Nguyên Diệu nhìn quanh nhờ ánh sáng của đèn quỷ, phát hiện bên trong cửa bên là một tiểu viện, có đình đài lầu các, có hoa cỏ cây cối nhưng không thể nhìn rõ ràng.

“Mời đi theo ta.” Tiểu nha hoàn cười nói.

Tiểu nha hoàn đi trước dẫn đường, Bạch Cơ và Nguyên Diệu theo sau, bước qua con đường đá trong khu vườn. Chẳng bao lâu, Nguyên Diệu thấy phía trước có ánh sáng, một ngôi nhà trang trí lộng lẫy hiện ra trước mắt.

Nguyên Diệu nhìn vào trong ngôi nhà, qua những tấm rèm bạc bay lượn, nhìn thấy bên trong ngôi nhà có một lò sưởi, trên sàn trải thảm lông Ba Tư, có bảy tám cô nương xinh đẹp đang ở đó, có người chơi cờ bạc, có người uống rượu trò chuyện. Một thiếu niên mặc áo đỏ tuấn tú vô song cũng đang ngồi giữa những cô nương xinh đẹp ấy, cùng họ cười đùa vui vẻ.

Tiểu nha hoàn bước vào trong, nói: “Thập Tam công tử, Bạch Cơ đại nhân đã đến.”

Thiếu niên mặc áo đỏ vội đứng dậy, bước ra đón, cười nói: “Bạch Cơ, Nguyên công tử, các ngươi đã đến.” Bạch Cơ đặt đèn quỷ ngoài cửa, bước vào.

Nguyên Diệu cũng đặt đèn quỷ xuống, chỉ mang theo hộp quà, theo vào.

Bạch Cơ liếc nhìn Hồ Thập Tam Lang và các hồ nữ, cười nói: “Thập Tam Lang, các ngươi thật huyên náo, tiếng cười vui từ bên ngoài đã có thể nghe thấy.”

Hồ Thập Tam Lang cười nói: “Đêm dài dằng dặc lại chẳng có việc gì làm, mỗ đành chơi trò với các tỷ muội hồ ly.”

Một hồ nữ mặc áo xanh dịu dàng cười nói: “Bạch Cơ đại nhân, gió thu đêm lạnh, ngồi xuống uống một chén rượu ấm đi.”

Một hồ nữ khác mặc áo đỏ quyến rũ che miệng cười nói: “Ôi, vị công tử nhân loại nhã nhặn này, trông rất văn nhã, đúng kiểu mà Tâm Nguyệt tỷ tỷ thích…” Nguyên Diệu không khỏi rùng mình.

Bạch Cơ cười nói: “Nghe nói Tâm Nguyệt Hồ phu nhân bệnh, nên ta cố ý đến thăm…”

Hồ Thập Tam Lang cười nói: “Mỗ đã nói với cô cô tối nay ngươi sẽ đến, cô cô rất vui. Nhưng chiều nay cô cô cảm thấy không khỏe, đã đi nghỉ từ sớm. Mỗ đi xem thử, biết đâu cô cô chưa ngủ, dẫu sao gần đây cô cô cũng luôn ở trong phòng ngủ, cả ngày hôm nay cũng ngủ suốt.” Bạch Cơ cười gật đầu.

Hồ Thập Tam Lang vui vẻ đi đến phòng của Tâm Nguyệt Hồ phu nhân.

Hồ nữ áo xanh đưa một chén rượu ấm cho Bạch Cơ, Bạch Cơ nhận lấy chén rượu, ngồi xuống bên cạnh hồ nữ vừa uống rượu vừa xem hai hồ nữ khác chơi trò lục bác.

Hồ nữ áo đỏ quyến rũ thấy Nguyên Diệu cầm hộp quà ngơ ngác đứng đó, mỉm cười đến gần kéo hắn, nói: “Công tử còn đứng ngây ra đó làm gì? Ngồi xuống uống rượu với chúng ta nào.”

Nguyên Diệu có hơi sợ hãi, nói: “Tiểu sinh đứng đây là được rồi…”

Hồ nữ áo đỏ cười nói: “Công tử, chúng ta đều ngồi, ngươi là khách lại đứng, thật không đúng quy tắc, làm như Lầu Tâm Nguyệt đều là hồ ly quê mùa thô lỗ, không biết cách đối đãi khách…”

Bạch Cơ cũng cười nói: “Hiên Chi luôn khá rụt rè, các ngươi đừng để bụng. Hiên Chi cứ ngồi xuống, chơi cùng các tỷ muội hồ ly đi.”

Nguyên Diệu đành đặt hộp quà xuống, ngồi xuống theo hồ nữ áo đỏ. Ngay lập tức, ba, bốn hồ nữ quyến rũ vây quanh Nguyên Diệu, có người đưa cho hắn rượu ấm, có người vuốt tóc và mặt hắn, có người ngửi mùi hương của hắn, có người giúp hắn cởi bỏ áo ngoài.

Nguyên Diệu bèn đứng dậy, nói: “Các ngươi dừng lại! Nam nữ khác biệt, hành động này không phù hợp với đạo lý của thánh nhân. Thánh nhân dạy rằng, lấy đức mà dẫn dắt, dùng lễ mà ràng buộc, có sự xấu hổ và ngăn cách…” Các hồ nữ bèn ngẩn người.

Nguyên Diệu bắt đầu thao thao bất tuyệt giảng giải đạo lý thánh nhân, hy vọng những hồ nữ này có thể hiểu được lời dạy của thánh nhân, biết cái gì nên làm, cái gì không nên làm.

Bạch Cơ ôm trán, nghe mà đau cả đầu, nói: “Ai đó, mau lấy rượu bịt miệng hắn lại…” Mọi người đang ồn ào, Hồ Thập Tam Lang vội vã chạy vào, hắn có vẻ lo lắng, nói: “Bạch Cơ cô cô không có trong phòng… bà ấy hình như đã biến mất…”

Nguyên Diệu ngừng giảng đạo lý thánh nhân.

Bạch Cơ nói: “Gì mà biến mất?”

Hồ Thập Tam Lang vò mặt, nói: “Trong phòng của cô cô không có ai, chăn gối trên giường La Hán gấp gọn gàng, không giống như cô cô đã ngủ ở đó. Mỗ tìm khắp Lầu Tâm Nguyệt cũng không thấy bà.” Các hồ nữ lo lắng nhìn nhau.

Một hồ nữ mặc áo xanh nói: “Thập Tam công tử đừng lo lắng, có lẽ Tâm Nguyệt tỷ tỷ do bệnh, thấy ngột ngạt nên đã đi ra ngoài dạo bước dưới ánh trăng, lát nữa sẽ quay lại thôi.”

Một hồ nữ mặc áo vàng khác ngần ngại một lúc rồi mới nói: “Phu nhân gần đây… à! Không có gì… không có gì…”

Bạch Cơ cười, tiếp lời hồ nữ mặc áo vàng: “Ngươi muốn nói, Tâm Nguyệt Hồ phu nhân gần đây thường ra ngoài vào ban đêm, đúng không?”

Hồ nữ mặc áo vàng ngập ngừng nói: “Dẫu cho phu nhân thường ra ngoài vào ban đêm nhưng hôm nay biết rằng Bạch Cơ đại nhân sẽ đến thăm bệnh vào buổi tối, thì không lẽ nào lại ra ngoài…”

Hồ Thập Tam Lang vò mặt, nói: “Cô cô thường ra ngoài vào ban đêm? Sao mỗ không biết?”

Bạch Cơ nói: “Thập Tam Lang, Tâm Nguyệt Hồ phu nhân muốn ra ngoài một mình, chắc chắn cũng lén lút giấu ngươi giống như đêm nay.”

Hồ Thập Tam Lang có hơi lo lắng, nói: “Cô cô đã đi đâu?”

Lúc này, tiểu nha hoàn vừa mở cửa cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu vội vã bước vào, giọng có phần hoảng hốt.

“Thập Tam công tử, ta phát hiện hình như phu nhân đã mang theo một số trang sức quý giá…”

Các hồ nữ có hơi hoảng loạn.

Hồ Thập Tam Lang ngơ ngác không hiểu.

Bạch Cơ nói: “Có vẻ như Tâm Nguyệt Hồ phu nhân biết rằng ta sẽ đến thăm bệnh, quá lo lắng nên đã trốn đi trong đêm, thậm chí còn không màng đến Lầu Tâm Nguyệt…”

Hồ Thập Tam Lang run rẩy hỏi: “Bạch Cơ, vì sao cô cô lại lo lắng?”

Bạch Cơ đứng dậy, nói: “Tìm được bà ấy rồi hỏi sẽ biết.”

Hồ Thập Tam Lang hỏi: “Tìm cô cô ở đâu thế?”

Bạch Cơ nói: “Chùa Phù Đồ.”

*

Nước sông Y chảy rì rào, lau sậy trắng như sương.

Ở hạ lưu của sông Y có có một ngôi làng gọi là Phù Đồ. Phía sau làng Phù Đồ, có một ngọn núi tên là núi Hương Phong, ở lưng chừng núi hương Phong có một ngôi chùa cổ, tên là chùa Phù Đồ.

Hồ Thập Tam Lang hóa thành một con hồ ly chín đuôi khổng lồ, cõng Bạch Cơ và Nguyên Diệu dọc theo sông Y, tiến đến bên ngoài làng Phù Đồ. Đêm đã khuya, dân làng Phù Đồ đều đã nghỉ ngơi, ngôi làng chìm trong sự tĩnh lặng.

Ánh trăng sáng như bạc, chiếu rọi khắp nơi làm cho cảnh vật sáng rực. Hồ Thập Tam Lang nhìn thấy ngôi chùa cổ trên núi hương Phong.

“Bạch Cơ, Nguyên công tử, các ngươi nhìn kìa, đó có phải là chùa Phù Đồ trên núi không?” Hồ ly chín đuôi mở miệng nói.

Bạch Cơ liếc nhìn, không khỏi nhíu mày.

“Trong ngôi chùa này có một luồng khí kỳ lạ. Hơn nữa, có hơi quen thuộc…” Vào mùa thu, lá phong đỏ rực như lửa, lá rơi nhuộm màu đỏ như máu. Dưới ánh trăng, khu rừng phong với ngôi chùa Phù Đồ ẩn mình giữa rừng phong đỏ như một con thú dữ đang im lìm.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, Tâm Nguyệt Hồ phu nhân có ở trong ngôi chùa đó không?”

Bạch Cơ lắc đầu nói: “Không biết. Thập Tam Lang, chúng ta đi xem thử.”

Hồ ly chín đuôi nhận lệnh, cõng Bạch Cơ và Nguyên Diệu lao nhanh về ngôi chùa trên sườn núi.

Chẳng bao lâu, Hồ ly chín đuôi dừng lại bên ngoài ngôi chùa cổ. Bạch Cơ và Nguyên Diệu xuống đất, Hồ ly chín đuôi lập tức thu nhỏ lại biến thành một con hồ ly đỏ nhỏ.

Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn cổng chùa, cánh cổng đỏ tươi treo một tấm biển, dưới ánh trăng có thể nhìn thấy rõ, trên tấm biển viết chữ “Chùa Phù Đồ”.

“À, Bạch Cơ, Thập Tam Lang, chúng ta đã không tìm nhầm, đây là chùa Phù Đồ.” Nguyên Diệu nói.

Bạch Cơ đột nhiên trở nên rất cảnh giác, nàng nhìn xung quanh, không biết đang quan sát điều gì.

“Cô cô thực sự có ở trong ngôi chùa này không?” Tiểu hồ ly bồn chồn vò mặt.

Nguyên Diệu giơ tay gõ cổng chùa.

“Cộc cộc...”

“Hiên Chi, đừng gõ!” Bạch Cơ vội ngăn cản nhưng đã quá muộn.

Vào khoảnh khắc tiểu thư sinh giơ tay gõ cửa, cánh cổng đỏ tươi của chùa Phù Đồ “két...” một tiếng, tự động mở ra. Bên trong cánh cổng là một sân đầy cỏ dại hoang tàn, có thể thấy ba ngôi tháp đá mờ ảo.

Một cơn gió đêm thổi qua, lá phong đỏ như máu bay tán loạn khắp nơi.

“Bạch Cơ, có chuyện gì vậy?” Nguyên Diệu ngơ ngác hỏi.

“Ôi! Hiên Chi, bây giờ chúng ta khó mà ra khỏi đây rồi.” Bạch Cơ quay đầu nói.

Nguyên Diệu theo ánh mắt của Bạch Cơ nhìn lại, chỉ thấy đằng sau vốn là khu rừng núi, đột nhiên xuất hiện vô số cánh cổng chùa. Những cánh cổng đỏ tươi chồng chéo nhau, hết cái này đến cái khác, xếp thành hình quạt, nhìn xa xa như kéo dài vô tận.

Nguyên Diệu quay đầu nhìn lại, cổng chùa Phù Đồ đã biến mất, ngôi chùa cũng biến mất chỉ còn lại vô số cánh cổng chùa xếp thành hình quạt giữa những chiếc lá phong đỏ rực.

Hồ Thập Tam Lang lo lắng vò mặt, nói: “Bạch Cơ, chúng ta đã rơi vào ‘thuật’ của ai rồi phải không? Sao lại xuất hiện nhiều cánh cửa thế này, mỗ thấy đầu choáng váng quá…”

Bạch Cơ nhìn quanh, nói: “Trong chùa Phù Đồ này có một lực lượng đã bày ra mê cung ngàn cửa, dường như cố ý để ngăn chúng ta tiến vào. Ở khoảnh khắc Hiên Chi gõ cửa, ‘thuật’ đã kích hoạt. Nếu ta không nhầm thì đây là thuật ngàn cửa, những cánh cửa này được chia thành cửa mở, cửa nghỉ, cửa sinh, cửa thương, cửa đóng, cửa cảnh, cửa chết, cửa sợ, tổng cộng có bốn nghìn ba trăm hai mươi cánh cửa, chỉ có một cánh cửa đúng là cổng chính của chùa Phù Đồ còn lại đều là cửa giả. Bước vào cửa thật thì có thể trở về thực tại, tiến vào chùa Phù Đồ. Nhưng nếu bước vào cửa giả thì không biết điều gì đang chờ đợi chúng ta.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên nói: “Bạch Cơ, vậy phải làm thế nào đây?”

Bạch Cơ thở dài, nói: “Chỉ có thể thử vận may thôi.”

Bạch Cơ bước vào cánh cửa gần mình nhất. Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang vội vã theo vào.

Bên trong cánh cửa là một khu rừng núi vào ban đêm.

Đá núi hiểm trở, rừng cây rậm rạp, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Hồ Thập Tam Lang bước đi trong khu rừng, trong bóng tối dường như có điều gì đó đang ẩn nấp, tiếng gió thổi xen lẫn tiếng gầm rú của thú dữ.

Hồ Thập Tam Lang cảnh giác nhìn xung quanh.

Bất ngờ, một bóng đen lao nhanh tới, một con hổ đói khổng lồ với móng vuốt giương ra lao về phía Bạch Cơ và Nguyên Diệu, dường như muốn ăn thịt họ.

Nguyên Diệu hoảng hốt.

“Bạch Cơ, có hổ!”

Bạch Cơ khẽ giơ tay, một tia sáng trắng lóe lên, con hổ đói bị xé làm đôi rồi cả khu rừng cũng tan biến.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Hồ Thập Tam Lang lại quay trở lại mê cung ngàn cửa.

Bạch Cơ nói: “Giống như vừa rồi, nếu bước vào cửa giả sẽ gặp đủ mọi nguy hiểm. Nếu lúc nãy chúng ta không cẩn thận bị hổ ăn thịt thì sẽ mãi mãi bị kẹt lại trong cửa, không thể thoát ra.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, chúng ta vẫn phải tiếp tục đi vào cửa sao?”

Bạch Cơ nói: “Chỉ còn cách tiếp tục thử vận may thôi. Vì đứng ở đây cũng vẫn nằm trong ‘thuật’.”

Hồ Thập Tam Lang vò mặt trong lo lắng.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Hồ Thập Tam Lang tiếp tục lang thang trong mê cung ngàn cửa, lúc thì gặp phải rắn khổng lồ tấn công, lúc lại bị đàn ong độc chích, lúc thì đối mặt với cây ăn thịt người, lúc lại gặp phải núi đao, lúc thì sa vào vũng lầy, lúc lại bị mắc kẹt trong sa mạc…

Dù có Bạch Cơ và Hồ Thập Tam Lang ở bên cạnh, những nguy hiểm này đều có thể được hóa giải nhưng đi qua từng cánh cửa, Nguyên Diệu lúc thì sợ hãi đến run rẩy, lúc lại chạy đến kiệt sức, mệt mỏi không nói thành lời."

Một bầy dơi hút máu bị thuật Phong Hành của Bạch Cơ cuốn bay đi, những con dơi còn lại bị Hồ Thập Tam Lang thiêu thành tro bằng Hồ Hỏa. Sau đó, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang lại trở về mê cung ngàn cửa, cả ba người đều th* d*c vì mệt mỏi.

Vừa thở hổn hển, Bạch Cơ vừa nhìn quanh những cánh cửa vô tận, trên mặt hiện lên vẻ lo âu.

Nguyên Diệu ngồi bệt xuống đất, sau khi bị đuổi bởi bầy dơi hút máu, cả người hắn toát cả mồ hôi. Vừa lau mồ hôi, hắn vừa dùng tay áo để quạt gió. Hắn muốn hỏi Bạch Cơ vài câu nhưng lại mệt đến nỗi không còn sức để nói.

Hồ Thập Tam Lang cứ nghiêng đầu, không biết đang làm gì. Một lát sau, tiểu hồ ly mới nói: “Bạch Cơ, Nguyên công tử, trong lúc chiến đấu vừa rồi, ta không cẩn thận bị trẹo cổ, bây giờ cổ đau quá… Hơn nữa, đau đến nỗi không thể quay đầu lại được, dường như chỉ có thể nghiêng đầu, thế này phải làm sao?”

Nghe vậy, Nguyên Diệu nhớ đến miếng cao da chó mà Ly Nô đã nhờ hắn mang cho Hồ Thập Tam Lang bèn vội vàng lấy ra.

“Lúc nãy quên mất. Hồ Thập Tam Lang, đây là quà Ly Nô nhờ tiểu sinh mang cho ngươi, thật không ngờ lại có thể dùng đúng lúc như thế này.”

“…”

Nhìn kỹ món quà của Ly Nô, Hồ Thập Tam Lang im lặng.

Nguyên Diệu cẩn thận dán một miếng cao lên cổ tiểu hồ ly.

Tiểu hồ ly nghiêng đầu ngồi trên đất, Nguyên Diệu cũng ngồi xuống, Bạch Cơ cũng đi lại và ngồi xuống.

Bạch Cơ nói: “Mệt quá, nghỉ một lát thôi.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, chúng ta đã bị mắc kẹt trong những cánh cửa này bao lâu rồi?”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Không biết. Trong mê cung ngàn cửa, thời gian trôi qua không giống như ở thế giới thực, có thể chỉ mới một canh giờ, cũng có thể đã một ngày rồi, nếu không may thì có thể đã là một năm.”

Nguyên Diệu lo lắng hỏi: “Vậy làm thế nào để chúng ta có thể ra ngoài?”

Bạch Cơ buồn bã nói: “Muốn ra khỏi mê cung ngàn cửa, hoặc là tìm được cánh cửa thật, hoặc phải có một phép màu xảy ra…”

Nghe thấy hy vọng ra ngoài trở nên mỏng manh, Nguyên Diệu vô cùng chán nản.

“Bạch Cơ, Thập Tam Lang, tất cả đều tại tiểu sinh tự ý gõ cửa mới gây ra tai họa lớn như thế này…”

Hồ Thập Tam Lang nghiêng đầu an ủi Nguyên Diệu: “Nguyên công tử, chuyện này không thể trách ngươi, ai cũng sẽ gõ cửa thôi. Ngươi không gõ, mỗ cũng sẽ gõ mà… Ôi chao, cổ đau quá…”

Nguyên Diệu vội vàng giúp Hồ Thập Tam Lang xoa cổ.

“Hiên Chi không cần tự trách, mê cung ngàn cửa này là để ngăn cản chúng ta, dù Hiên Chi không gõ cửa chùa thì cũng sẽ có cách khác để kích hoạt thôi. Suỵt, đợi một chút…” Bạch Cơ đột nhiên tập trung, lắng nghe cẩn thận, dường như nàng đang cảm nhận điều gì đó. Một lát sau, nàng mỉm cười nói: “A, Hiên Chi, Thập Tam Lang, phép màu đã xảy ra rồi!”

Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang có hơi bối rối.

Bạch Cơ đứng dậy, lấy một người giấy từ tay áo ra, thổi nhẹ một hơi vào nó, người giấy bay lượn và đứng vững trên mặt đất.

Trên thân người giấy phát ra ánh sáng vàng rực rỡ.

Cùng lúc đó bên tai Nguyên Diệu vang lên giọng nói của Vi Ngạn.

“Kỳ lạ! Con búp bê giấy mà Bạch Cơ đưa cho ta sao lại bất ngờ sống dậy trước cửa chùa này? Còn phát sáng nữa?” Trong ánh sáng vàng rực rỡ, ảo ảnh mê cung ngàn cửa vỡ vụn như gương.

Ánh sáng mặt trời của buổi sáng mùa thu chiếu rọi, sáng rực và rực rỡ, có phần chói mắt.

Nguyên Diệu đưa tay che nắng rồi nhìn lại xung quanh, nhận ra rằng đã là ban ngày. Hắn với Bạch Cơ và Hồ Thập Tam Lang đang đứng bên ngoài chùa Phù Đồ, xung quanh lá phong đỏ như lửa rơi lả tả, còn Vi Ngạn đang cầm người giấy đứng trước mặt họ.

Vi Ngạn thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang thì không khỏi ngạc nhiên, nói: “Bạch Cơ, Hiên Chi, sao các ngươi lại đột nhiên xuất hiện ở đây?”

Nguyên Diệu có hơi mơ hồ, chợt không biết phải trả lời thế nào.

Bạch Cơ mỉm cười nói: “Vi công tử, may có ngươi mang theo con búp bê giấy mà ta đưa đến chùa Phù Đồ, nếu không chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau… Bây giờ đã bao lâu kể từ khi chúng ta chia tay ở chợ Quỷ rồi?”

Vi Ngạn nghe vậy, ngạc nhiên hỏi: “Bạch Cơ đang nói gì vậy? Chẳng phải chúng ta mới chia tay tối qua sao?! Sau khi dạo ở Bách Quỷ Nhai xong, ta đã đến Lầu Tâm Nguyệt tìm ngươi và Hiên Chi nhưng không ai mở cửa cho ta…”

Bạch Cơ cười nói nhỏ: “Ôi chao, tối qua vội quá, ta quên không dặn người trong Lầu Tâm Nguyệt rằng ngươi sẽ đến thăm. Có lẽ lúc ngươi gõ cửa đã quá muộn, họ đều đã ngủ rồi.”

Vi Ngạn tủi thân nói: “Ngươi và Hiên Chi bỏ rơi ta, ta không gõ được cửa Lầu Tâm Nguyệt nên đành phải lang thang ở chợ Quỷ, ta đi dạo mệt mỏi muốn ngủ nhưng không muốn ngủ ngoài trời hoang vắng nên đành quay lại tiệm Quan Tài Mèo muốn nhờ ông chủ mèo cho ở nhờ một đêm vì ta đã đặt một cái quan tài.”

Bạch Cơ nói: “Thật xin lỗi, do ta sơ ý mà quên mất Vi công tử. Chủ quán Thái Cực có cho ngươi ở lại không?”

Vi Ngạn nói: “Có. Tối qua ta đã ngủ trong cái quan tài mà ta đặt…”

Nguyên Diệu nghe vậy, an ủi Vi Ngạn: “Đan Dương, làm ngươi chịu thiệt rồi.”

Vi Ngạn cười nói: “Không sao đâu, khá ổn mà, ta phát hiện ra rằng ngủ trong quan tài rất thoải mái, còn rất có cảm giác kỳ bí, mà lại ấm áp không gió lọt vào. Ngủ vào mùa thu đông còn tốt hơn giường La Hán nhiều… Ta đang tính khi về sẽ đổi giường La Hán của mình thành quan tài…”

“… Ngươi mà ngủ trong quan tài mỗi ngày thì thế bá sẽ tức giận đến mức đuổi ngươi ra khỏi nhà mất?!” Nguyên Diệu thầm nghĩ.

Vi Ngạn tiếp tục nói: “Sáng nay sau khi dậy, ông chủ mèo đã cùng ta đến gõ cửa Lầu Tâm Nguyệt, lần này thì cửa mở. Một tiểu nha đầu nói với chúng ta rằng tối qua các ngươi đã đến chùa Phù Đồ và chưa trở về. Ban đầu ta định về trước thành Lạc Dương nhưng cứ cảm thấy bất an, lo lắng cho các ngươi quá nên đã hỏi chưởng quầy mèo đường đến chùa Phù Đồ để tìm các ngươi. Khi ta vừa đến cổng chùa thì người giấy trong ngực ta đột nhiên cử động còn phát sáng. Vừa lấy ra thì ta đã thấy các ngươi.”

Bạch Cơ cười nói: “Vi công tử, may mà ngươi đến chùa Phù Đồ, may mà ngươi mang theo người của ta. Trên người giấy có yêu khí của ta, có thể kết nối với linh lực của ta, phá vỡ mê cung ngàn cửa. Ngươi đã giúp ta một việc lớn, chuyến đi chợ Quỷ này ta không lấy mười lạng vàng của ngươi nữa.”

Vi Ngạn rất vui mừng, nói: “Tốt quá rồi, ta có thể mua một cái quan tài thoải mái để làm giường rồi.”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh

Bạch Cơ quay đầu, nhìn viên ngọc đổ trên cổng chùa Phù Đô: “Bây giờ, chúng ta mới thực sự đến chùa Phù Đồ.”

Một cơn gió mùa thu thổi qua, cuốn đi lá phong đầy trên mặt đất.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 11


Vì là ban ngày sẽ có hương khách đến lễ Phật nên cổng son của chùa Phù Đồ mở một nửa và đóng một nửa. Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Vi Ngạn và Hồ Thập Tam Lang cùng đi vào chùa Phù Đồ.

Bước vào chùa Phù Đồ, trước mắt họ là một sân có ba tòa tháp Phật bằng đá, trong sân trồng vài cây phong, và bên trong là Đại Hùng Bảo Điện. Một tiểu sa di đang quét lá rụng trước Đại Hùng Bảo Điện.

Tiểu sa di thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Vi Ngạn và một con tiểu hồ ly bước vào, tưởng là hương khách đến lễ Phật bèn dừng việc quét dọn. Tiểu sa di chắp tay trước ngực, lễ phép nói: “A Di Đà Phật! Ba vị thí chủ muốn thắp hương thì xin đi về phía bên trái.”

Bạch Cơ mỉm cười nói: “Tiểu sư phụ, trụ trì của chùa có ở đây không?”

Tiểu sa di vừa định trả lời thì từ trong Đại Hùng Bảo điện có một vị hòa thượng mặc áo vải bước ra.

Vị hòa thượng áo vải khoảng chừng ba mươi tuổi, diện mạo bình thường thân hình tròn trịa, trông rất đỗi bình dị. Hòa thượng áo vải chắp tay nói: “Bần tăng Thành Giác là trụ trì của chùa Phù Đồ này.” Nguyên Diệu quan sát Thành Giác, dù nhìn từ góc độ nào, ông ta cũng chỉ là một người bình thường nhưng trên người ông ta có một luồng ánh sáng vàng nhạt thoáng qua. Nhìn kỹ hơn, trong luồng ánh sáng vàng đó còn xen lẫn một chút khí đen đục.

Bạch Cơ nói: “Thành Giác thiền sư, xin hỏi có vị phu nhân Tâm Nguyệt Hồ từng đến chùa Phù Đồ này không?”

Thành Giác ngước mắt nhìn Bạch Cơ một cái rồi nói: “Không có.”

Bạch Cơ lại mỉm cười hỏi: “Xin hỏi, trong quý tự có tổ chức tiệc Cực Lạc không?”

Thành Giác nhíu mày, nói: “Nữ thí chủ, bần tăng không hiểu ngươi đang nói gì.” Bạch Cơ đưa tay, phẩy nhẹ bên tai của Thành Giác.

“Ôi chao, đã vào mùa thu rồi mà vẫn còn có muỗi…”

Nguyên Diệu nhìn rõ Bạch Cơ bắt lấy một luồng khí đen từ người Thành Giác.

“Vo vo vo...”

Một con muỗi từ tay Bạch Cơ bay đi.

Thành Giác lùi lại một bước, chắp tay trước ngực.

“Nữ thí chủ, chùa Phù Đồ không có phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, cũng không tổ chức tiệc Cực Lạc nào, có lẽ ngươi đã tìm nhầm nơi.” Hồ Thập Tam Lang nghe vậy rất lo lắng, dường như không tin vào lời của Thành Giác nhưng vì bản thân đang ở hình dạng tiểu hồ ly, nếu tùy tiện mở miệng nói sẽ sợ làm mọi người hoảng sợ và gây ra rắc rối.

Bạch Cơ mỉm cười nói: “Nếu vậy, ta xin thắp một nén hương trong quý tự. Ta từng nguyện rằng, khi gặp chùa chiền, chắc chắn sẽ vào lễ bái Phật tổ…” Thành Giác không thể từ chối.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang bèn vào chùa Phù Đồ lễ Phật Bồ Tát. Vi Ngạn vì từ sáng sớm đã bắt đầu đi đường, từ chợ Quỷ đến làng Phù Đồ rất mệt mỏi nên không có hứng thú lễ bái, chỉ ngồi nghỉ trên ghế đá dưới gốc cây phong.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang bắt đầu từ Đại Hùng Bảo Điện vừa lễ Phật vừa dạo qua toàn bộ chùa Phù Đồ. Chùa Phù Đồ không lớn, có ba lớp sân, bên ngoài là Đại Hùng Bảo Điện, phía sau là hai điện nhỏ, một tòa Tàng Kinh Các, và gần núi phía sau là một dãy tăng xá. Trong chùa cũng không có nhiều hòa thượng, chỉ có bảy tám người đang quét dọn, trồng rau, tụng kinh.

Nhân lúc không có ai, Nguyên Diệu nhỏ giọng hỏi: “Bạch Cơ, lúc nãy ngươi đã bắt được gì bên tai của trụ trì Thành Giác thế?” Bạch Cơ mỉm cười, đưa tay ra.

Trên lòng bàn tay của Bạch Cơ, có một con sâu màu đen đang nằm.

Nguyên Diệu không biết đó là gì.

Hồ Thập Tam Lang nhỏ giọng nói: “Yêu thực trùng?”

Bạch Cơ đáp: “Đúng vậy.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, Thập Tam Lang, yêu thực trùng là gì?”

Bạch Cơ giải thích: “Yêu thực trùng là loài côn trùng ăn khí tức của yêu ma. Nếu tâm của một con người bị yêu ma xâm nhập, trên người họ sẽ lưu lại khí tức của yêu ma, và những khí tức này sẽ thu hút, yêu thực trùng vốn có mặt khắp nơi.” Nguyên Diệu dường như đã hiểu.

“Bạch Cơ, ý ngươi là trụ trì Thành Giác đã bị yêu ma chiếm hữu?”

Bạch Cơ lắc đầu nói: “Không, không nghiêm trọng đến mức bị chiếm hữu. Nếu một con người bị yêu ma chiếm hữu, họ sẽ mất đi ý thức của mình còn thiền sư Thành Giác vẫn có tư duy và ý thức của mình, chỉ là ông ta đã bị yêu ma mê hoặc.”

Nguyên Diệu có hơi lo lắng hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ?”

Bạch Cơ thổi nhẹ vào lòng bàn tay, yêu thực trùng bèn biến mất như tro bụi.

Bạch Cơ nói: “Trước tiên phải làm rõ xem yêu ma nào đã mê hoặc thiền sư Thành Giác.”

Hồ Thập Tam Lang nhỏ giọng nói: “Bạch Cơ, Nguyên công tử, yêu ma mê hoặc thiền sư Thành Giác có thể là cô cô không? Vừa rồi mỗ đã dùng yêu lực để cảm nhận, dù rất yếu nhưng trong chùa Phù Đồ vẫn còn lưu lại khí tức của cô cô, bà ấy chắc chắn đã từng đến đây.”

Bạch Cơ lắc đầu nói: “Có lẽ không phải. Dựa vào mê cung ngàn cửa đã giam giữ chúng ta tối qua, yêu ma trong chùa Phù Đồ này mạnh hơn phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nhiều… Chúng ta hãy điều tra thêm về chùa Phù Đồ trước đã.”

Nguyên Diệu gật đầu.

Hồ Thập Tam Lang cũng nghiêng đầu gật đầu.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang lấy cớ ngắm cảnh núi chùa, tiếp tục dạo chơi trong chùa Phù Đồ. Chẳng mấy chốc, họ đã đi đến trước Tàng Kinh Các. Tàng Kinh Các được xây dựng bằng gỗ, mái vòm cong, có hai tầng. Trước Tàng Kinh Các là một khoảng đất trống, trên đất trống có chín tòa tháp đá, bên trong thờ xá lợi của các hòa thượng.

Bạch Cơ dừng bước nhìn chằm chằm vào Tàng Kinh Các.

Cửa lớn của Tàng Kinh Các đóng chặt, hai bên cửa có treo một cặp câu đối: “Thiền môn cư thử địa, thương sinh như mộng trung” (Cửa thiền cư trú nơi này, chúng sinh như trong mộng).

Trước cửa Tàng Kinh Các còn có một vị hòa thượng đứng gác.

Bạch Cơ bước đến gần Tàng Kinh Các, mỉm cười nói: “Tiểu sư phụ, ta có thể vào xem kinh điển mà quý tự lưu giữ không?”

Vị hòa thượng gác cửa chắp tay nói: “A Di Đà Phật! Nữ thí chủ rất xin lỗi, Tàng Kinh Các của chùa không mở cửa cho hương khách.” Bạch Cơ tiếc nuối rời đi.

Bạch Cơ vừa ngắm những tháp Phật gần Tàng Kinh Các vừa vòng ra phía bên hông Tàng Kinh Các. Khóe miệng Bạch Cơ nở một nụ cười quái gở. Thấy xung quanh không có hòa thượng nào, bèn lấy một người giấy ra và đặt nó xuống đất.

Người giấy rung nhẹ một cái trên mặt đất rồi bắt đầu sống dậy. Nó lập tức chạy về phía cửa chính của Tàng Kinh Các, và khi thấy vị hòa thượng gác cửa không để ý, nó nghiêng người và cố gắng chui qua khe hở của cánh cửa để vào bên trong.

"Xong rồi." Bạch Cơ cười nói.

Nguyên Diệu hỏi: "Bạch Cơ cho người giấy vào Tàng Kinh Các làm gì thế?"

Bạch Cơ cười đáp: "Để nó thăm dò Tàng Kinh Các cho ta."

Khi người giấy đã vào Tàng Kinh Các, Bạch Cơ bèn quay người rời đi, Hồ Thập Tam Lang cũng đi theo. Nguyên Diệu đứng tại chỗ, ngước nhìn Tàng Kinh Các ẩn hiện sau những tán lá phong đỏ.

Từ cửa sổ tầng hai đang mở hé, hiện ra khuôn mặt của một lão tăng. Lão tăng đứng trong Tàng Kinh Các nhìn Nguyên Diệu qua cửa sổ. Lông mày của ông ta bạc như tuyết, khuôn mặt đầy dấu vết thời gian, và ánh mắt giống như một cái giếng khô cạn.

Nguyên Diệu nhìn lão tăng, chỉ cảm thấy ánh mắt của lão tăng tuy tĩnh lặng như mặt nước nhưng dưới đáy sâu lại ẩn chứa một con rồng ma đáng sợ.

Bạch Cơ quay đầu lại, nói: "Hiên Chi còn đứng ngẩn ra đó làm gì?"

Nguyên Diệu quay lại nhìn Bạch Cơ, nói: "Bạch Cơ, trên Tàng Kinh Các có một lão tăng."

Bạch Cơ nhìn về phía Tàng Kinh Các, thắc mắc hỏi: "Ở đâu có lão tăng?"

Nguyên Diệu đáp: "Ngay bên cửa sổ tầng hai."

Bạch Cơ cau mày.

Nguyên Diệu nhìn lại lần nữa nhưng cửa sổ tầng hai của Tàng Kinh Các đã đóng chặt, hoàn toàn không có lão tăng nào cả.

Nguyên Diệu gãi đầu, nói: "Lạ thật, chẳng lẽ ta vừa nhìn lầm?" Một cơn gió thu thổi qua, những chiếc lá phong bay lả tả như những con bướm lửa.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang quay trở lại trước Đại Hùng Bảo Điện.

Vi Ngạn đang ngồi trên ghế đá dưới gốc cây phong, trước mặt hắn là một chiếc khăn tay được trải ra trên bàn đá, bên trong có các món đồ như cốc, nhẫn và bầu rượu. Vi Ngạn đã chờ Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang đến mức buồn chán nên đang vui vẻ nghịch ngợm những món đồ mua được ở chợ Quỷ tối qua dưới ánh nắng.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang bước tới.

Bạch Cơ cười nói: "Ồ, Vi công tử, tối qua ngươi mua không ít đồ nhỉ."

Vi Ngạn cười đáp: "Hì hì! Tối qua mua vui quá, ta đã tiêu hết sạch số bạc mang theo rồi."

Nguyên Diệu nói: "Vi công tử, ngươi đem những món đồ mua từ chợ Quỷ ra ngắm nghía trong chùa có vẻ như không tôn kính Phật tổ lắm."

Vi Ngạn đáp: “Hiên Chi, Phật tổ từ bi đại lượng sẽ không trách ta đâu. Ta vừa chợt nhớ ra rằng có lời đồn đại rằng người mua đồ từ chợ Quỷ, đến sáng hôm sau xem lại thì đồ đã biến mất. Ta lo mấy món bảo vật của ta biến mất nên không nhịn được mà phải lấy ra xem."

Bạch Cơ cười nói: "Ở chợ Quỷ mua bán công bằng, không lừa già trẻ, sẽ không có chuyện như ngươi nói đâu. Những lời đồn đó thường là do con người lập mưu để gạt nhau rồi đổ lỗi cho yêu ma quỷ quái. Thôi nào, chúng ta đi thôi."

Vi Ngạn thu dọn mọi thứ, Bạch Cơ để lại tiền dầu hương cho vị tăng trông chùa trước Đại Hùng Bảo điện rồi cùng Nguyên Diệu, Vi Ngạn và Hồ Thập Tam Lang rời khỏi chùa Phù Đồ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Vi Ngạn và Hồ Thập Tam Lang cùng nhau đi xuống núi.

Bạch Cơ nói: "Ôi, mệt quá, bụng đói meo rồi."

Sau một đêm quay cuồng trong ảo cảnh ngàn cửa, Nguyên Diệu cũng cảm thấy vừa mệt vừa buồn ngủ lại vừa đói.

Vi Ngạn nói: "Lúc nãy ta thấy ở làng dưới chân núi có một quán rượu, chúng ta có thể đến đó ăn chút gì. Hình như ngôi làng này làm nghề buôn bán sản phẩm từ núi, ta còn thấy vài chiếc xe ngựa đang chở hàng xuống kinh đô."

Hồ Thập Tam Lang nghiêng đầu nói: "Dù rất mệt nhưng mỗ vẫn lo lắng cho cô cô."

Vi Ngạn hỏi: "Tiểu hồ ly, cô cô của ngươi là ai?"

Hồ Thập Tam Lang đáp: “Cô cô của ta tên là Tâm Nguyệt Hồ."

Vi Ngạn nghe vậy mắt sáng lên, nói: "Có phải là phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bán vé vào tiệc Cực Lạc không? Ngươi có thể bán cho ta một tấm vé không?"

Hồ Thập Tam Lang đáp: "Mỗ không biết ngươi đang nói về cái gì…"

Bạch Cơ một lòng nghĩ đến món ăn ở quán rượu trong làng Phù Đồ bèn vội vàng đi nhanh về phía trước.

Hồ Thập Tam Lang và Vi Ngạn vừa đi vừa trò chuyện.

Nguyên Diệu uể oải bước theo sau.

Hai bên đường núi hương Phong trồng đầy cây phong, dưới cây phong là những tảng đá kỳ dị, trên mặt đất lá rụng đầy.

Trong một khoảnh khắc, Nguyên Diệu thấy có một thứ gì đó màu trắng lấp ló sau một tảng đá bên đường. Thứ màu trắng đó bị lá phong rơi che khuất, không nhìn kỹ thì không thấy rõ.

Nguyên Diệu nhìn kỹ hơn, đó là một bàn tay.

Một bàn tay ngọc ngà của một nữ nhân.

Nguyên Diệu giật mình, lớn tiếng gọi: "Bạch Cơ, có một bàn tay ở đó!"

Bạch Cơ đã đi xa, nghe Nguyên Diệu hô lớn thì đành quay lại.

Hồ Thập Tam Lang và Vi Ngạn dừng chân, quay đầu đi tới.

Hồ Thập Tam Lang cử động mũi, dường như ngửi thấy gì đó, mặt nó biến sắc, lập tức chạy về phía sau tảng đá.

Phía sau tảng đá, lá phong đã che phủ một nữ nhân mặc áo đỏ.

Nữ nhân áo đỏ vô cùng xinh đẹp, làn da trắng như ngọc, mái tóc đen mượt mà như thác nước nhưng thất khiếu của nàng ấy chảy máu, môi tím ngắt, không rõ sống chết ra sao.

Tiểu hồ ly nhìn thấy nữ nhân áo đỏ đang nằm trong đống lá phong, máu chảy ra từ bảy khiếu, hoảng hốt đến mức đầu nghiêng đã thẳng lại. Nó khóc: “Cô cô... cô cô làm sao vậy?"

Nữ nhân áo đỏ là phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Vi Ngạn đều vây quanh.

Bạch Cơ thấy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, vội cúi xuống, đưa tay kiểm tra hơi thở của bà, nói: "May quá vẫn còn một chút hơi thở." Bạch Cơ đặt tay lên trán phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, thầm niệm chú, một luồng ánh sáng xanh băng như dòng nước thấm vào cơ thể của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.

Ánh sáng xanh băng không ngừng tuôn chảy từ Bạch Cơ vào phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, mồ hôi bắt đầu rịn ra trên trán Bạch Cơ.

Sau một chén trà, màu đen tím trên môi phu nhân Tâm Nguyệt Hồ dần nhạt đi, bắt đầu có chút sắc đỏ bình thường trở lại.

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ từ từ mở mắt, thở ra một hơi dài. Bà nhìn thấy Bạch Cơ và Hồ Thập Tam Lang, dường như có hơi xấu hổ muốn nói điều gì đó. Nhưng vừa mở miệng, bà đã ho ra một ngụm máu.

Trên tay áo của Bạch Cơ, xuất hiện một vết máu đỏ như hoa mai.

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ cố gắng ngồi dậy muốn nói gì đó với Bạch Cơ nhưng vì quá yếu, bà lại ngã xuống đất.

Bạch Cơ thở dài khẽ, nói: "Ngươi đừng vội, ngươi đã thoát chết nhưng giờ vẫn rất yếu. Bây giờ nếu cảm xúc dao động mạnh, cẩn thận độc khí tấn công vào tim, hãy nghỉ ngơi một lúc đã." Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ yếu ớt gật đầu. Bà nằm xuống đất rồi bỗng nhiên biến thành một con hồ ly màu vàng đỏ.

*

Vì gặp phải phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị trọng thương, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và những người khác không còn tâm trạng đi ăn ở quán rượu làng Phù Đồ nữa.

Hồ Thập Tam Lang vội vã muốn đưa phu nhân Tâm Nguyệt Hồ trở về Lầu Tâm Nguyệt, Bạch Cơ và Nguyên Diệu quyết định đi cùng Hồ Thập Tam Lang trở về chợ Quỷ.

Vi Ngạn còn có việc vào ngày mai nên chia tay Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Hồ Thập Tam Lang để tự mình đến làng Phù Đồ, đón xe ngựa chở hàng về Lạc Dương.

Sau khi Vi Ngạn rời đi, Hồ Thập Tam Lang biến thành một con hồ yêu chín đuôi, cõng Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và phu nhân Tâm Nguyệt Hồ trở về chợ Quỷ.

Nguyên Diệu phát hiện, ban ngày chợ Quỷ chỉ là một vùng hoang dã đầy cỏ dại, chỉ có một tấm bia đá vỡ đứng trơ trọi trên đồng cỏ.

Hồ yêu chín đuôi đi vòng ba lần quanh bia đá của chợ Quỷ.

Khi hồ yêu chín đuôi vòng đến lần thứ ba, một kết giới nào đó như đột nhiên mở ra. Trên vùng hoang dã, hiện ra một con phố, một thị trấn, là chợ Quỷ.

Ban ngày chợ Quỷ không nhộn nhịp như ban đêm, trên phố Bách Quỷ không có ai, các cửa hàng hai bên phần lớn đều đóng cửa rất yên tĩnh. Ngay cả cửa hàng quan tài mèo cũng chỉ mở một nửa cửa, vài con mèo nằm hoặc ngồi trên các quan tài trước cửa, lim dim phơi nắng.

Khi trở về Lầu Tâm Nguyệt, những con hồ ly thấy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị thương nặng đều hoảng hốt, lập tức lo liệu chỗ nghỉ ngơi cho bà rồi vội vã đến chợ Quỷ dưới lòng đất mời quỷ y.

Quỷ y được mời đến sau khi kiểm tra phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, nói rằng bà đã nuốt phải chất độc, mạng sống ngàn cân treo sợi tóc. May mắn thay, trước đó lão hồ vương đã cho Hồ Thập Tam Lang mang một số linh đan diệu dược để thăm bệnh, quỷ y đã cho phu nhân Tâm Nguyệt Hồ uống một ít đan dược mới giữ được mạng sống.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Hồ Thập Tam Lang đã mệt mỏi sau một đêm vất vả tại chùa Phù Đồ. Nhất là Bạch Cơ vừa rồi đã mất không ít yêu lực để cứu mạng phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.

Thấy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ tạm thời không sao, Bạch Cơ kêu đói và muốn ăn.

Một đám hồ ly vội vã chuẩn bị bữa ăn tinh tế, chiêu đãi Bạch Cơ và Nguyên Diệu. Sau khi ăn xong trong hoa sảnh, Bạch Cơ và Nguyên Diệu nghỉ ngơi nhắm mắt bên lò sưởi. Hồ Thập Tam Lang vì lo lắng cho phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nên ở lại trong phòng bà để chăm sóc, không ăn uống gì.

Bạch Cơ ăn no nằm nghiêng trên ghế quý phi trong hoa sảnh mà ngủ thiếp đi.

Nguyên Diệu cũng cảm thấy rất mệt mỏi nằm ngủ trên tấm thảm nhung trong hoa sảnh.

Nguyên Diệu ngủ rất say, khi tỉnh dậy đã là lúc hoàng hôn.

Nguyên Diệu dụi mắt, ngồi dậy, phát hiện ghế quý phi trống rỗng, Bạch Cơ không biết đã đi đâu. Hoa sảnh rất tối, không có ai thắp đèn, xung quanh vô cùng yên tĩnh.

Nguyên Diệu đứng dậy, đi quanh tìm kiếm, phát hiện Lầu Tâm Nguyệt trống không, không có một bóng người.

Nguyên Diệu thấy kỳ lạ thì gọi lớn: "Bạch Cơ, Thập Tam Lang, các ngươi ở đâu thế?"

Không ai trả lời Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu bước ra khỏi hoa sảnh, đi vào sân.

Khi hoàng hôn buông xuống, ánh sáng mờ ảo, trong sân đầy sương trắng bao quanh, chỉ có thể thấy mờ mờ một số cây cối, hoa cỏ, và những bóng dáng mờ nhạt của đình đài lầu các.

Nguyên Diệu đi vòng quanh sân một lúc, không tìm thấy Bạch Cơ, lòng cảm thấy hơi lo lắng.

"Bạch Cơ, Bạch Cơ đã đi đâu..."

Đi một lúc, Nguyên Diệu thấy một cây anh đào, trên cây đầy hoa nở rộ như mây như sương. Một cơn gió thổi qua, những cánh hoa anh đào rơi rụng lả tả, bay lượn như tuyết.

"Khoảnh khắc đẹp nhất của hoa anh đào không phải khi nở rộ, mà là khi rơi rụng..."

Một con hồ ly màu vàng đỏ ngồi dưới cây anh đào, buồn bã nói.

Nguyên Diệu nhìn lại, đó chẳng phải là phu nhân Tâm Nguyệt Hồ sao?

Nguyên Diệu vội vàng cúi đầu, nói: "Tiểu sinh họ Nguyên, tên Diệu, tự là Hiên Chi, xin kính chào phu nhân Tâm Nguyệt Hồ. Xin hỏi phu nhân có thấy Bạch Cơ không? Tiểu sinh không tìm thấy nàng."

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ quay lại nhìn Nguyên Diệu, nói: "Không tìm thấy nữa, tức là duyên đã hết rồi. Người và phi nhân sớm muộn cũng phải chia tay…"

Nguyên Diệu nghe xong, lo lắng nói: "Phu nhân đừng nói bậy, tiểu sinh và Bạch Cơ sẽ không bao giờ chia tay."

Tâm Nguyệt Hồ lẩm bẩm: "Hỏi thế gian tình ái là gì, mà đôi lứa thề nguyền sống chết. Đôi lứa trên đời sớm muộn cũng phải đường ai nấy đi. Nam nhân trên thế gian, phần lớn đều bạc tình vô nghĩa, là những kẻ không đáng tin cậy nhất…"

Nguyên Diệu vốn muốn biện minh vài lời nhưng hắn nhớ lại lời Ly Nô đã nói trước đó, rằng phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là người si tình nhưng đã bị một nam nhân loài người phụ bạc, bà ta rất ghét những người đọc sách, thậm chí còn ăn thịt họ. Giờ đây, khi Bạch Cơ không ở bên, hắn cảm thấy hơi sợ hãi nên không định tranh cãi với phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nữa.

Nguyên Diệu lặng lẽ nhìn phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.

Tâm Nguyệt Hồ ngẩng đầu nhìn những cánh hoa anh đào bay lượn.

"Ta phải đi rồi."

Nguyên Diệu sửng sốt hỏi: "Người định đi đâu?"

Tâm Nguyệt Hồ buồn bã nói: "Đi địa ngục."

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nói: "Đi… địa ngục?!"

Tâm Nguyệt Hồ nói: "Kể từ khi Ninh Lang chết, thế gian này đối với ta như địa ngục. Ta mơ hồ tìm kiếm niềm vui trong địa ngục, tạo nên một giấc mộng hoa nước vô ích làm hại nhiều người. Đáng tiếc, niềm vui trong giấc mộng hoa nước vẫn là địa ngục, lại hại chết chính ta…"

Nguyên Diệu nói: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, người không thể… người phải kiên cường lên! Nếu người có gì bất trắc, Thập Tam Lang sẽ đau lòng, lão hồ vương cũng sẽ buồn rầu. Các tỷ muội hồ ly ở Lầu Tâm Nguyệt đều mong người bình an vô sự!"

Tâm Nguyệt Hồ nhìn Nguyên Diệu, nói: "Ngươi, con người này thật thú vị, có thể bước vào tâm mộng của ta còn khuyến khích ta sống tiếp…"

Nguyên Diệu ngơ ngác hỏi: "Tâm mộng là gì?"

Tâm Nguyệt Hồ không trả lời Nguyên Diệu, chỉ nói: "Trong mắt người khác, ta như một kẻ si tình điên cuồng, thực ra ta chỉ muốn mãi mãi bên người mình yêu. Tình yêu là điều đẹp đẽ nhất trên đời, cùng người yêu thưởng thức ngọt ngào của tình yêu, giống như đến cõi Cực Lạc. Dù ngọt ngào đó có độc, cũng khiến người ta cam lòng đón nhận. Ta quá tham lam ảo ảnh Cực Lạc nên bị người khác lợi dụng, giờ đây rơi vào kết cục bị diệt khẩu…"

Nguyên Diệu nghe vậy, vội hỏi: "Ai đã lợi dụng người?"

Tâm Nguyệt Hồ nghiến răng nói: "Chùa Phù Đồ, Diệt Uế."

Nguyên Diệu hỏi: "Diệt Uế là ai?"

Tâm Nguyệt Hồ đột nhiên trở nên điên loạn, nói: "Không, không phải Diệt Uế là sách Cực Lạc… là sách Cực Lạc…"

Dưới chân Tâm Nguyệt Hồ, đất đột nhiên cuộn lên, lộ ra một bộ xương trắng hãi hùng.

Tâm Nguyệt Hồ cúi đầu nhìn bộ xương trắng trong đất, ánh mắt bà đột nhiên trở nên dịu dàng và đầy cảm xúc. Tâm Nguyệt Hồ lẩm bẩm: "Ninh Lang đã đến rồi."

Bộ xương trắng ngồi dậy từ trong đất, giang đôi tay về phía Tâm Nguyệt Hồ.

Tâm Nguyệt Hồ lao vào lòng bộ xương trắng, nhìn sâu vào hốc mắt trống rỗng của nó đầy tình cảm.

"Ninh Lang, chúng ta sẽ không bao giờ chia lìa…"

Bộ xương trắng ôm lấy con hồ ly màu vàng đỏ rồi nằm xuống, chìm vào trong đất. Bộ xương và hồ ly cùng nhau chìm xuống lòng đất, dần dần bị đất che phủ.

Nguyên Diệu thấy cảnh tượng quái dị này vừa sợ hãi vừa lo lắng, chỉ có thể lao tới muốn kéo Tâm Nguyệt Hồ ra khỏi lòng đất.

Nhưng Nguyên Diệu đã chậm một bước, khi hắn chạy đến dưới gốc cây anh đào, bộ xương và hồ ly đã ôm nhau chìm vào lòng đất.

Nguyên Diệu chỉ còn biết ngồi xuống vừa dùng tay đào đất vừa lo lắng nói: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, người mau quay lại!"

Bất ngờ, từ trong đất thò ra một bàn tay xương trắng, tóm chặt lấy tay Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu hoảng sợ, vội vàng vùng vẫy.

Bàn tay xương đó có sức mạnh vô cùng lớn, Nguyên Diệu cảm thấy mình không thể đứng vững, sắp bị kéo vào lòng đất.

"Buông tiểu sinh ra, buông tiểu sinh ra..."

Nguyên Diệu vừa vùng vẫy vừa hoảng loạn đánh đập lung tung.

“Mọt sách tự nhiên đánh đấm loạn xạ cái gì vậy?!"

Tiếng của Ly Nô đột ngột vang lên.

Nguyên Diệu lập tức mở mắt, hắn ngồi bật dậy, kinh hãi chưa kịp hoàn hồn, thở hổn hển.

Nguyên Diệu nhìn quanh, phát hiện mình đang nằm trong hoa sảnh của Lầu Tâm Nguyệt. Đã qua giờ thắp đèn, bên ngoài tối đen như mực, hoa sảnh sáng trưng, Bạch Cơ đang ngồi gần đó chống cằm nhìn hắn. Ly Nô ngồi xổm bên cạnh, khó chịu nhìn hắn.

Hóa ra vừa rồi chỉ là một cơn ác mộng.

Nguyên Diệu vui mừng nói: "Bạch Cơ, thật tốt quá, ngươi vẫn ở đây. Ly Nô lão đệ, sao ngươi lại đến đây?"

Ly Nô nói: "Gia thấy chủ nhân và ngươi lâu rồi không trở về Phiêu Miểu các, lo lắng hai người xảy ra chuyện nên đến chợ Quỷ xem thử. Thư sinh, thịt khô của gia đâu?"

Nguyên Diệu vội vàng móc gói giấy ra, đưa cho Ly Nô, nói: "Ở đây."

Ly Nô cầm gói giấy lên xem xét trọng lượng, không mấy hài lòng.

"Chỉ có bấy nhiêu thôi à? Còn không đủ để gia nhét kẽ răng nữa!"

Nguyên Diệu nói: "Chủ quánThái Cực nói gần đây hắn thiếu nhân lực muốn nhờ Ly Nô lão đệ giúp khiêng quan tài, hắn sẽ trả cho ngươi ba cân thịt khô chuột làm thù lao."

Ly Nô nghe xong, nói: "Hừ! Có lẽ đầu mèo của Thái Cực bị kẹp vào ván quan tài rồi, ba cân thịt khô chuột mà muốn sai khiến gia? Để chút nữa gia đi đến cửa hàng quan tài nói chuyện với hắn, ít nhất cũng phải mười cân."

Bạch Cơ ở bên cạnh nói: "Ly Nô để hôm khác đi đến cửa hàng quan tài, lát nữa còn phải đến chùa Phù Đồ nữa đấy."

Nguyên Diệu nghe vậy hỏi: "Bạch Cơ còn phải đến chùa Phù Đồ sao?"

Bạch Cơ thở dài, nói: "Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ vẫn rất nguy hiểm, bà ấy vẫn hôn mê không tỉnh, có nguy cơ mất mạng bất cứ lúc nào. Lúc nãy khi Hiên Chi đang ngủ, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ suýt chút nữa đã đi rồi. Không thể chờ phu nhân Tâm Nguyệt Hồ tỉnh lại để nói cho chúng ta biết đã xảy ra chuyện gì, chúng ta vẫn nên đến chùa Phù Đồ thêm lần nữa để điều tra."

Nguyên Diệu nhận thấy, trên bàn gỗ trước mặt Bạch Cơ có một mảnh người giấy bị rách và nửa đóa hoa Mạn Đà La. Bạch Cơ thấy Nguyên Diệu nhìn vào mảnh người giấy, giải thích: "Đây là người giấy mà sáng nay đã vào Tàng Kinh Các ở chùa Phù Đồ, nó vừa trở về và mang theo một đóa hoa Mạn Đà La. Vì người giấy đã bị phá hỏng, ta không thể biết tình hình cụ thể trong Tàng Kinh Các. Chúng ta vẫn nên đến chùa Phù Đồ thêm một lần, đích thân vào Tàng Kinh Các để xem xét."

Nguyên Diệu kể lại giấc mơ kỳ lạ vừa nãy của mình cho Bạch Cơ nghe. Bạch Cơ nghe xong, chìm vào suy nghĩ.

Nguyên Diệu có hơi tò mò hỏi: "Bạch Cơ, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ gọi một bộ xương trắng là "Ninh Lang", Ninh Lang là ai?"

Bạch Cơ chưa kịp trả lời, Ly Nô đã lên tiếng tán gẫu: "Nam nhân đã bỏ rơi phu nhân Tâm Nguyệt Hồ họ Ninh. Nghe nói, cuối cùng hắn đã bị phu nhân Tâm Nguyệt Hồ g**t ch*t. Mọt sách, giấc mơ của ngươi thật kỳ lạ. Theo lý mà nói, ngươi không thể biết người tình của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ họ gì được."

Nguyên Diệu gãi đầu, nói: "Tiểu sinh cũng thấy giấc mơ này thật kỳ lạ! Trong mơ, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nói rằng tiểu sinh đã bước vào tâm mộng của bà ấy, và trong tâm mộng đó, bà ấy dường như đang nói lời tạm biệt với thế giới này…"

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi, trong giấc mơ của ngươi, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nói bà ấy bị Diệt Uế ở chùa Phù Đồ lợi dụng phải không?"

Nguyên Diệu gật đầu, nói: "Đúng vậy. Bà ấy còn nhắc đến sách Cực Lạc."

"Diệt Uế… sách Cực Lạc… sách Cực Lạc… Diệt Uế…" Bạch Cơ lẩm bẩm rồi bất chợt đứng dậy, nói: "Hiên Chi, Ly Nô, ta phải đi xuống khu vực ngầm của chợ Quỷ, các ngươi ở đây chờ ta." Nói xong, Bạch Cơ bèn vội vã rời đi.

Nguyên Diệu có hơi bối rối.

"Ly Nô lão đệ, Bạch Cơ đi xuống khu vực ngầm của chợ Quỷ làm gì?"

Con mèo đen lắc đầu, nói: "Không biết."

Ngồi một lúc, Nguyên Diệu đã tỉnh táo hơn thì thấy mọi người trong Lầu Tâm Nguyệt đều không có ở đó bèn hỏi: "Ly Nô lão đệ, mọi người trong Lầu Tâm Nguyệt đâu rồi?"

Ly Nô vừa l**m móng vuốt vừa nói: "Mấy con hồ ly đó à? Xảy ra chuyện lớn thế này, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ sống chết chưa rõ, họ có người đang chăm sóc phu nhân, có người thì đang buồn rầu trong phòng còn có người thì đang cầu nguyện dưới ánh trăng ở hoa viên sau…"

Nguyên Diệu hỏi: "Hồ Thập Tam Lang đâu?"

Ly Nô nói: "Con hồ ly thối đó đang chăm sóc cô cô của nó."

"Ục ục..."

Bụng Nguyên Diệu đói đến kêu rộn lên.

Ly Nô nghe thấy, vui vẻ nói: “Mọt sách đói rồi à?"

Nguyên Diệu có hơi ngượng ngùng, nói: "Cũng không đến nỗi."

Ly Nô nói: "Những con hồ ly đó đang loạn cả lên, khóc lóc ỉ ôi, chẳng ai có thời gian nấu ăn cho ngươi đâu." Nguyên Diệu nhìn Ly Nô.

Ly Nô bất đắc dĩ nói: "Thôi được rồi, gia sẽ đi vào bếp nấu cho ngươi. Gia đã biết mà, không có gia, ngươi và chủ nhân của ngươi đều không thể sống nổi, chắc chắn sẽ chết đói hết."

Nguyên Diệu cười nói: "Đa tạ Ly Nô lão đệ…"

"Không biết trong bếp của mấy con hồ ly đó có gì, gia sẽ nấu đại vậy." Ly Nô nhảy xuống bàn gỗ, chạy ra khỏi hoa sảnh, tiến về phía nhà bếp.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 12


Bạch Cơ đi xuống khu vực ngầm của chợ Quỷ, Ly Nô vào bếp nấu ăn, Nguyên Diệu một mình ngồi trong hoa sảnh, ngồi một lúc cảm thấy mình nên đi thăm phu nhân Tâm Nguyệt Hồ mới phải phép.

Nguyên Diệu bước ra khỏi hoa sảnh, chặn lại một nữ hầu hồ ly ở hậu hoa viên để hỏi về phòng của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ rồi đi thăm bà.

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ đang nằm trên giường La Hán, hôn mê không tỉnh, hơi thở yếu ớt.

Từ khi trở về Lầu Tâm Nguyệt vào buổi sáng, Hồ Thập Tam Lang vẫn luôn chăm sóc phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, nó lo lắng, uể oải, sợ rằng phu nhân Tâm Nguyệt Hồ sẽ không thể tỉnh lại.

Con hồ ly nhỏ xoa mặt, buồn bã nói: "Quỷ y nói rằng, dù đã giảm bớt độc của chim trĩ nhưng cô cô đã rơi vào tâm ma, có lẽ sẽ không bao giờ tỉnh lại."

Nguyên Diệu an ủi con hồ ly nhỏ, nói: "Thập Tam Lang đừng lo lắng quá, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ ở hiền gặp lành, bà ấy sẽ không sao đâu. Từ lúc trở về đến giờ ngươ không hề nghỉ ngơi, hãy đi nghỉ ngơi một chút, đừng để bản thân mệt mỏi đến phát bệnh."

Con hồ ly nhỏ ngáp một cái, nói: "Mỗ sẽ canh cô cô thêm một lát nữa rồi đi nghỉ."

Nguyên Diệu hỏi: "Thập Tam Lang, Bạch Cơ đã đi xuống khu vực ngầm của chợ Quỷ, dưới đó có gì vậy?"

Con hồ ly nhỏ xoa mặt, nói: "Dưới khu vực ngầm của chợ Quỷ có một con sông ngầm, là một nhánh của sông Tam Đồ, bên bờ sông ngầm có một tòa thành, gọi là U Đô chợ Quỷ. Trong U Đô tập trung những yêu quái không thể lên mặt đất, giờ đây còn có một số vu sư ngoại quốc chạy trốn vào Đại Đường sống ở đó... U Đô chợ Quỷ là một vương quốc ngầm tách biệt với thế giới, yêu quái trong U Đô rất tàn nhẫn, khát máu, giết người không gớm tay, những người phi nhân bình thường chúng ta nếu không có chuyện gì thì không nên xuống dưới. U Đô chợ Quỷ, càng đi sâu càng nguy hiểm."

Nguyên Diệu có hơi lo lắng, nói: "Không biết Bạch Cơ có gặp nguy hiểm không…"

Con hồ ly nhỏ nói: "Nguyên công tử không cần lo lắng. Chợ Quỷ U Đô chẳng khác nào là sân sau của Phiêu Miểu các với Bạch Cơ cả. Dù ở Đông Đô hay Tây Kinh, trên mặt đất hay dưới lòng đất, Bạch Cơ vẫn là sự tồn tại khiến mọi người phải kính sợ và khiếp đảm nhất, nàng ấy rất an toàn."

Nguyên Diệu vẫn còn lo lắng.

“Sao mọt sách lại đến đây?"

Con mèo đen chạy vào, ngắt lời con hồ ly nhỏ.

Nguyên Diệu nói: "Ly Nô lão đệ, tiểu sinh đến thăm phu nhân Tâm Nguyệt Hồ."

Con mèo đen nhìn phu nhân Tâm Nguyệt Hồ từ xa, nói: "Bà ấy vẫn còn hôn mê. Trong bếp của lũ hồ ly chẳng có gì ăn, chỉ có ít gạo và bột. Ngoài vườn rau phía sau bếp có vài con gà. Giữa đêm khuya, gia lười đun nước giết gà nên đã làm một nồi canh mì hoành thánh trứng. Mọt sách, gia đã múc cho ngươi một bát, đặt ở hoa sảnh rồi. Ngươi nhanh đến ăn khi còn nóng đi."

Nguyên Diệu nghe vậy, nói: "Đa tạ Ly Nô lão đệ."

Con hồ ly nhỏ có hơi áy náy, nói: "Nguyên công tử, dạo gần đây Lầu Tâm Nguyệt đã đóng cửa, đầu bếp và một số gia nhân đều được nghỉ về nhà. Hôm nay lại xảy ra chuyện với cô cô, mọi việc đều rối loạn, tiếp đón không chu đáo, xin ngài thứ lỗi."

Nguyên Diệu vội nói: "Không sao đâu. Là chúng ta đã làm phiền."

Con mèo đen nói với con hồ ly nhỏ: "Hồ ly thối, ngươi có muốn ăn một bát canh mì hoành thánh không?"

Con hồ ly nhỏ xoa mặt, buồn bã nói: "Mỗ không có tâm trạng để uống."

Nguyên Diệu và Ly Nô bèn quay trở lại hoa sảnh.

Nguyên Diệu ngồi xuống bên bàn gỗ, bắt đầu ăn canh mì hoành thánh mà Ly Nô đã làm.

Ly Nô quay lại bếp, múc một bát canh mì hoành thánh, đặt lên khay rồi mang đến cho Hồ Thập Tam Lang và kiên quyết bắt nó ăn.

Hồ Thập Tam Lang không muốn cãi nhau với Ly Nô nên đành miễn cưỡng ăn.

Những con hồ ly khác ngửi thấy mùi thơm của canh mì hoành thánh bèn chạy đến bếp tìm Ly Nô xin uống. Ly Nô không còn cách nào khác, đành phải bắt đầu nhào bột, cắt sợi mì, đánh trứng làm thêm một nồi canh mì hoành thánh lớn để cho lũ hồ ly ăn.

"Nếu không có gia, cả đám hồ ly này chắc chắn sẽ chết đói hết..."

Con mèo đen vừa vã mồ hôi bận rộn trong bếp vừa nói.

Khi Nguyên Diệu và những con hồ ly đang ăn canh mì hoành thánh trong hoa sảnh, Bạch Cơ quay trở lại.

Bạch Cơ thấy mọi người đang ăn canh mì hoành thánh, cười nói: "Ôi, thơm thật đấy."

Nguyên Diệu và những con hồ ly chào hỏi Bạch Cơ rồi tiếp tục ăn canh mì hoành thánh.

Bạch Cơ ngồi xuống đối diện Nguyên Diệu, cười nói: "Hiên Chi ăn nhanh đi, lát nữa chúng ta đi chùa Phù Đồ. Ly Nô đâu?"

Nguyên Diệu nói: "Ly Nô lão đệ đang ở trong bếp nấu canh mì hoành thánh cho mọi người. Bạch Cơ không ăn một bát sao?"

Bạch Cơ nói: "Ta không ăn đâu. Không có tâm trạng."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Bạch Cơ sao thế?"

Bạch Cơ chống cằm, nói: "Lúc nãy, ta đã đi xuống khu vực ngầm của chợ Quỷ để tìm Bốc Lão hỏi thăm vài chuyện."

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Bốc Lão là ai? nàng hỏi thăm chuyện gì?"

Bạch Cơ có hơi u sầu, nói: "Dưới khu vực ngầm của chợ Quỷ có một tòa thành ngầm tên là U Đô, Bốc Lão sống ở U Đô. Bốc Lão là một cây cỏ xạ hương đã sống hàng ngàn năm, tinh thông thuật bói toán, mọi thứ lưu thông trong chợ Quỷ, sau khi bói toán hắn đều biết rõ quá khứ. Ta đến tìm Bốc Lão để hỏi về tung tích của sách Cực Lạc từng được bán ra ở chợ Quỷ."

Nguyên Diệu hỏi: "Nàng đã hỏi ra chưa?"

Bạch Cơ gật đầu, nói: "Ta đã hỏi ra. Ta đã bán sách Cực Lạc vào thời Nam Bắc triều, lúc đó ta bán nó cho một thương nhân du hành ở chợ Quỷ, sau đó ta quên luôn chuyện này. Sau khi Bốc Lão bói toán, phát hiện sách Cực Lạc mà ta đã bán qua tay thương nhân du hành và cuối cùng rơi vào tay một vị hòa thượng tên là Diệt Uế. Diệt Uế là trụ trì của chùa Phù Đồ lúc bấy giờ. Hiện nay, sách Cực Lạc vẫn còn ở chùa Phù Đồ."

Nguyên Diệu nói: "Vậy lời đồn về sách Cực Lạc trong tiệc Cực Lạc, quả đúng là sách Cực Lạc mà ngươi đã từng bán sao?"

Bạch Cơ gật đầu rồi lại lắc đầu, nói: "Phải nhưng cũng không phải. Sách Cực Lạc mà ta đã bán là giả, không thể khiến người ta nhìn thấy thế giới Cực Lạc."

Nguyên Diệu ngừng uống canh mì hoành thánh, nói: "Bạch Cơ, lúc đó sao ngươi lại bán sách Cực Lạc giả?"

Bạch Cơ nhớ lại, nói: "Chuyện này dài lắm. Lúc đó Nam Bắc chia cắt, mười sáu quốc gia chiến tranh liên miên, các nước thường xuyên đánh nhau, bách tính sống trong cảnh lầm than, bị tàn phá bởi chiến tranh, đói kém, bệnh tật. Vì chiến tranh, con người ngày ngày đối mặt với cái chết, áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, cuộc sống tràn đầy đau khổ. Do đó, người ta rất mong mỏi một thế giới Cực Lạc, một vùng đất thanh tịnh không có chiến tranh, không có đói kém, không có bệnh tật, không có đau khổ... Lúc đó ở Lạc Dương cũng có một phong trào Cực Lạc nổi lên, các quý tộc đều dùng ngũ thạch tán để làm tê liệt bản thân, tìm kiếm niềm vui tột đỉnh. Vì lúc đó Cực Lạc rất thịnh hành, mọi thứ liên quan đến Cực Lạc đều bán rất chạy nhưng ta lại không có thứ gì có thể mang đến Cực Lạc nên thỉnh thoảng cũng bán vài món hàng giả."

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, thương nhân cần phải lấy chữ tín làm đầu, có như vậy mới làm ăn phát đạt, không nên lừa lọc khách hàng..."

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi nói đúng. Bây giờ, ta không bao giờ bán hàng giả nữa... Nói về sách Cực Lạc giả, lúc đó để làm cho sách Cực Lạc trông giống thật, ta đã thêm một ít yêu lực vào cuộn giấy trắng, và còn tẩm thêm phấn hoa Mạn Đà La gây ảo giác vào các kẽ vân của cuộn giấy. Người cầm cuộn giấy trắng ban đầu sẽ có một số trải nghiệm kỳ diệu, cụ thể là như thế nào thì tùy từng người. Nhưng nhiều nhất là mười năm, yêu lực và phấn hoa Mạn Đà La sẽ mất tác dụng, sách Cực Lạc sẽ trở về là một cuộn giấy trắng bình thường. Hiện giờ đã mấy trăm năm trôi qua kể từ thời Nam Bắc triều, theo lý mà nói, sách Cực Lạc mà ta đã bán chỉ còn là một cuộn giấy trắng bình thường không thể khiến người ta nhìn thấy thế giới Cực Lạc."

Nguyên Diệu có hơi ngờ vực, nói: "Vậy chuyện sách Cực Lạc là thế nào?"

Bạch Cơ nói: "Phải đến chùa Phù Đồ điều tra cho rõ. Ta cảm thấy rất bất an, luôn có cảm giác rằng phong trào Cực Lạc gần đây ở Thần Đô, dù là Cực Lạc Tán hay yến tiệc đều liên quan đến sách Cực Lạc."

Nguyên Diệu và Ly Nô lại quay về phòng của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, định gọi Hồ Thập Tam Lang cùng đi đêm. Ai ngờ, sau khi uống canh mì hoành thánh, Hồ Thập Tam Lang lại ngủ thiếp đi. Đêm qua, nó đã phải vật lộn suốt đêm trong mê cung ngàn cửa, sáng nay trở về lại chăm sóc cho phu nhân Tâm Nguyệt Hồ nên chưa có thời gian nghỉ ngơi. Nguyên Diệu và Ly Nô thấy con hồ ly nhỏ cuộn tròn trên giường La Hán, ngủ rất say, không nỡ đánh thức nó.

Vì vậy Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô rời khỏi Lầu Tâm Nguyệt, đi đến chùa Phù Đồ.

*

Núi Hương Phong, chùa Phù Đồ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đứng bên ngoài chùa Phù Đồ.

Nguyên Diệu có hơi lo lắng, nói: "Bạch Cơ, liệu chúng ta có bị mắc kẹt trong mê cung ngàn cửa như đêm qua không?"

Bạch Cơ cười, nói: "Không đâu. Ta còn mượn của Bốc Lão một thứ."

Bạch Cơ lấy một chiếc gương đồng cổ nhỏ bằng bàn tay ra. Chiếc gương đồng có những hoa văn xanh loang lổ, được khắc chạm tinh xảo và có những ký tự mà Nguyên Diệu không hiểu.

"Đây là kính Chi Phản. Có chiếc kính Chi Phản này, cho dù chúng ta có lạc vào mê cung ngàn cửa, cũng có thể ngay lập tức tìm thấy cánh cửa thực để trở về."

Nguyên Diệu nghe xong thì an tâm hơn.

Ly Nô đã sớm không kiên nhẫn được nữa bèn trèo tường vào trong chùa Phù Đồ rồi từ bên trong mở cổng lớn của chùa Phù Đồ.

"Chủ nhân, mọt sách, nhanh vào đi."

Bạch Cơ cất kinh Chi Phản bước vào chùa Phù Đồ.

"Có vẻ như đêm nay ngoài chùa Phù Đồ không có thiết lập mê cung ngàn cửa..." Bạch Cơ lẩm bẩm.

Đêm đã khuya, trong chùa Phù Đồ không có một bóng người, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đi nhờ ánh trăng. Vì ban ngày đã thăm dò chùa Phù Đồ, quen thuộc với bố cục bên trong, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô dễ dàng đi qua các sân, tiến về phía tòa Tàng Kinh Các.

Tháp Phật đen kịt, lá phong đỏ rực như lửa, trên mái hiên của Tàng Kinh Các treo một mảnh trăng lưỡi liềm, nhuộm đỏ bởi lá phong.

Từ bên ngoài nhìn vào, bên trong Tàng Kinh Các có ánh đèn, dường như có không ít người. Những bóng người đó có kẻ vặn vẹo, có kẻ lơ lửng, có kẻ cứng đờ, họ phát ra những âm thanh kỳ lạ, có lúc đau đớn, có lúc vui vẻ, không rõ đang làm gì.

Một cơn gió đêm thổi qua, lá phong rơi từng chiếc, trong không khí lan tỏa một mùi máu tanh nồng nặc.

Ly Nô nhìn chăm chú vào Tàng Kinh Các, nói nhỏ: "Chủ nhân, bên trong có vẻ không ổn..."

Bạch Cơ nói: "Vào xem thử."

Nguyên Diệu nhìn quanh, nói: "Bạch Cơ, chúng ta làm sao vào được đây? Có cần lén trèo lên tầng hai rồi lẻn vào từ cửa sổ không?"

"Hiên Chi, đêm qua trong mê cung ngàn cửa, ta đã nén một bụng tức. Hôm nay, bùa giấy của ta cũng bị phá hủy. Giờ ta không còn kiên nhẫn gì với chùa Phù Đồ nữa."

Bạch Cơ giơ tay, một cơn gió cuốn lên từ mặt đất, quét thẳng vào cửa lớn của Tàng Kinh Các.

"Rào rào..."

Cửa lớn của Tàng Kinh Các lập tức vỡ vụn.

Bạch Cơ bước vào Tàng Kinh Các, nói: "Chúng ta vào thẳng làm khách không mời vậy."

Nguyên Diệu và Ly Nô cũng theo vào.

Khoảnh khắc bước vào Tàng Kinh Các, Nguyên Diệu cảm thấy mơ hồ như bước vào cõi hư không, không thật chút nào.

Nguyên Diệu ngửi thấy một mùi hương.

Mùi hương này thoang thoảng rất dễ chịu vừa giống như hương phấn thoảng thoảng vừa giống như hương thơm của cỏ cây lại như mùi hương khói nhang trong chùa, mang một cảm giác trang nghiêm và tôn kính.

Bên trong Tàng Kinh Các, không gian rất rộng lớn, không biết có phải vì đêm đã khuya hay không mà nhìn như kéo dài vô tận. Từng giá sách hình trụ trông như những ngọn tháp Phật, từng ngọn tháp Phật mọc lên từ mặt đất, vươn xa vào cõi hư không đen tối. Trên giá sách chất đầy các loại kinh văn, trong hư không mọc ra những dây leo xanh biếc, dây leo quấn quanh các cuốn kinh, nở ra những bông hoa Mạn Đà La yêu kiều.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô đi qua từng giá sách, tiến sâu vào bên trong.

Đi một lúc, Nguyên Diệu nghe thấy những âm thanh kỳ lạ.

Khi Nguyên Diệu đi vòng qua một giá sách, trước mắt hắn hiện ra một khoảng đất trống. Trên khoảng đất đó, có nhiều người đang ngồi, dường như họ đang tổ chức một bữa tiệc.

Những người này có nam có nữ, có già có trẻ, người thì ngồi trên đệm, người thì nằm rạp trên đất, người thì nằm dài, người thì quỳ gối, có người tỉnh táo, có người đang mơ màng... Biểu cảm của họ vô cùng hạnh phúc nhưng cũng rất mơ hồ như đang nửa say nửa tỉnh, nửa sống nửa chết, mỗi người đều chìm trong giấc mộng riêng của mình.

Trước mặt những người này là những chén rượu và một số gói giấy đỏ. Một số gói giấy đỏ đã được mở ra, bên trong là bột thuốc.

Nguyên Diệu ngửi thấy mùi của Cực Lạc Tán.

Giữa đám người say sưa, điên loạn kia, có một vị hòa thượng lông mày trắng đang ngồi. Phía sau vị hòa thượng lông mày trắng, Thành Giác đang cầm một cuộn tranh, im lặng quỳ gối.

Vị hòa thượng lông mày trắng ngồi yên tĩnh nhắm mắt, khi Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô xuất hiện trong bữa tiệc, ông ta bỗng mở mắt nhìn thẳng vào Bạch Cơ.

Bạch Cơ cũng nhìn chằm chằm vị hòa thượng lông mày trắng qua khoảng không.

Ánh mắt của Bạch Cơ và vị hòa thượng lông mày trắng gặp nhau, trong khoảnh khắc, không gian xung quanh dường như bị vặn vẹo nhưng cuối cùng lại trở về bình thường.

Nguyên Diệu ngửi thấy một mùi máu tanh nồng nặc. Hắn nhìn quanh nhưng không thấy xác chết hay vết máu nào, cũng không tìm ra nguồn gốc của mùi máu tanh.

Ly Nô vẻ mặt cảnh giác, đôi mắt xanh biếc như lưỡi dao sắc bén.

Hòa thượng lông mày trắng nhìn lướt qua mọi người trong buổi tiệc rồi nói: "A Di Đà Phật! Thành Giác à, thời gian đã đến, đã đến lúc mở cửa Tây Phương Cực Lạc cho chúng sinh khổ nạn này rồi."

Thành Giác đáp: "Vâng, sư tổ Diệt Uế."

Thành Giác quỳ ngay ngắn, từ từ mở cuốn sách Cực Lạc trên tay.

*

Khi cuốn sách Cực Lạc từ từ mở ra, những người nam người nữ đột nhiên trở nên điên loạn, bất an. Có người trong cơn hoan lạc cực độ đã cắn đứt lưỡi mình, có người lao đầu vào bức tường gần đó, có người rút trâm cài tóc ra và đâm vào cổ họng mình, có người lấy dao găm và rạch bụng mình ra.

Trong đại sảnh, mọi người bất chợt rơi vào cơn cuồng loạn, buổi yến tiệc biến thành một bữa tiệc xác chết đầy máu, mùi tanh ngọt tràn ngập không gian, cực kỳ nồng nặc.

Nguyên Diệu muốn ngăn mọi người tự hại mình nhưng không hiểu sao, dường như có một rào cản vô hình ngăn cản hắn khiến hắn không thể tiến lên phía trước.

Trên đầu những người nam nữ, từng sợi linh hồn màu vàng bay lên, những linh hồn này dường như bị một sức mạnh vô hình kéo dẫn, lần lượt bay vào cuốn sách trên tay Thành Giác.

Những linh hồn bám vào cuốn sách, trên cuốn sách bèn hiện ra thêm nhiều bức họa.

Vì khoảng cách quá xa, Nguyên Diệu không thể nhìn rõ những bức họa trên cuốn sách.

Nguyên Diệu đột nhiên cảm thấy sợ hãi, hắn muốn lại gần Bạch Cơ hơn. Nhưng khi hắn nhìn sang bên cạnh thì bên cạnh đã trống trơn.

Bạch Cơ không biết đã biến mất từ lúc nào.

Nguyên Diệu nhìn xuống con mèo đen trên đất, run rẩy hỏi: "Ly Nô lão đệ, Bạch Cơ đâu rồi?"

Mèo đen đáp: “Mọt sách à, từ khi chúng ta bước vào Tàng Kinh Các, chúng ta đã rơi vào ảo cảnh rồi. Chủ nhân đã phát hiện và đi tìm ‘lối ra’. Chúng ta cứ ở đây đợi thôi."

Nguyên Diệu gật đầu.

Những người trong buổi tiệc lần lượt chết trong cơn hoan lạc mộng mị, điên đảo hỗn loạn, những đóa hoa Mạn Đà La đỏ rực trôi nổi trong bóng tối vô phong, an ủi những linh hồn xao động.

Chẳng bao lâu, Diệt Uế đột nhiên ngẩng đầu lên, dùng ánh mắt trống rỗng nhìn chằm chằm vào Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu rùng mình.

Bất ngờ, đèn trong đại sảnh vụt tắt, xung quanh lập tức chìm vào bóng tối.

Âm thanh của mọi người biến mất, không còn nghe thấy cả tiếng gió, không gian im ắng đến mức còn đáng sợ hơn cả cái chết.

Nguyên Diệu bắt đầu sợ hãi.

"Ly Nô lão đệ, đã xảy ra chuyện gì vậy? Tiểu sinh hơi sợ..."

Mèo đen căng thẳng đáp: "Ta cũng không biết đã xảy ra chuyện gì... Mọt sách đừng sợ, lát nữa cứ làm theo hiệu lệnh của ta."

Nguyên Diệu cúi đầu nhìn quanh, buồn rầu nói: "Ly Nô lão đệ, xung quanh tối đen thế này, ngươi lại là mèo đen, tiểu sinh không thể nhìn thấy hiệu lệnh của ngươi đâu!"

"Vậy ngươi cứ nghe theo hiệu lệnh của ta."

"...Được thôi."

"Bá...meo...aaa..."

Đột nhiên, Ly Nô phát ra một tiếng thét thảm thiết.

"Ly Nô lão đệ làm sao vậy? Hiệu lệnh này có nghĩa là gì?!"

Nguyên Diệu run rẩy hỏi.

Xung quanh tối đen như mực, không có ai trả lời Nguyên Diệu.

Ly Nô dường như đã biến mất chỉ còn lại Nguyên Diệu đứng một mình trong bóng tối vô tận.

Nguyên Diệu trong lòng đầy sợ hãi, hét lớn: "Ly Nô lão đệ ở đâu thế?"

Bóng đen như đêm đen, xung quanh im ắng đến đáng sợ chỉ còn lại tiếng gió rỗng không.

Đứng yên tại chỗ khiến Nguyên Diệu cảm thấy lo lắng, hắn nhấc chân lên, bước vài bước về phía trước.

"Mọi chúng sinh, tâm vốn không khác, vì chấp mê mà thành, huyễn hóa thành địa ngục. Chúng sinh trong sáu cõi, nhận quả báo theo nghiệp, luân hồi xoay chuyển. Sa đọa vào ba đường, chìm đắm trong sáu dục, chịu khổ vô cùng..."

Bên tai Nguyên Diệu vang lên tiếng tụng kinh, nghe có vẻ là giọng của Diệt Uế.

Nguyên Diệu tiến về phía trước, trong bóng tối hắn thấy những ảo cảnh hiện ra.

Chiến loạn khắp nơi, non sông nhuốm máu, một ngôi làng hoang tàn đổ nát, những ngôi mộ mới dựng lên khắp nơi.

Một nhóm dân làng cầm những thanh dao còn sót lại trên chiến trường, đuổi theo một đôi mẫu tử rách rưới. Cả hai người đều vàng vọt, gầy gò, quần áo rách rưới, trên da họ đầy những vết lở loét, mủ máu chảy ra, trông như đã mắc phải một loại bệnh dịch nào đó.

Cậu bé và mẫu thân đi chân trần trên con đường đất vàng, họ bị trói chặt bằng dây thừng. Gương mặt mẫu thân đờ đẫn như chết, ánh mắt vô hồn, cả cuộc đời chìm trong vô tận đau khổ, trái tim bà đã nguội lạnh.

Vì bị đói khát và bệnh tật dày vò, dưới lớp áo rách rưới của cậu bé, gầy gò đến mức có thể nhìn thấy xương sườn. Cậu bé lảo đảo bước đi, đôi mắt đầy đau đớn và sợ hãi.

Cha của cậu bé đã chết vì bệnh tật năm ngoái, nương cậu bé phải khó nhọc nuôi cậu và đệ đệ. Để sinh tồn, nương góa con côi đành đi nhặt xác trên chiến trường cũ gần đó, gỡ lấy những mảnh giáp và những vật có giá trị trên xác chết.

Mùa hè năm nay rất nóng bức, một loại dịch bệnh truyền nhiễm lan truyền từ những xác chết đang phân hủy, nhiều người nhặt xác đã mắc phải dịch bệnh.

Dịch bệnh bùng phát, nhiều người ở các tòa thành và làng mạc gần chiến trường cổ đã chết.

Vì mưu sinh bằng việc nhặt xác, đệ đệ của cậu bé cũng nhiễm bệnh, không có tiền chữa trị nên đã chết. Đáng tiếc, trong quá trình chăm sóc đệ đệ, hắn và mẫu thân cũng bị lây nhiễm.

Dân làng phát hiện họ đã bị bệnh, sợ bị lây nhiễm nên đã đuổi họ đi. Nhưng họ là nương góa con côi, không có một xu dính túi lại bị bệnh tật hành hạ, không có nơi nào để đi, chỉ còn một căn nhà đổ nát trong làng có thể che mưa chắn gió.

Bên ngoài loạn lạc khắp nơi, dân chúng đói khổ, họ lại mang trong mình dịch bệnh, dù đi đâu cũng là con đường chết. Thà rằng ở lại trong ngôi nhà của mình chờ chết còn hơn là như chó hoang phải chịu đựng gió mưa ngoài hoang dã rồi cuối cùng chết đói, chết bệnh, hoặc bị người ta đánh chết khi tới gần tòa thành hay làng mạc.

Mẫu thân cậu tâm hồn đã nguội lạnh, chỉ muốn ở lại căn nhà đổ nát đó, giữ gìn phần mộ của chồng và đứa con nhỏ mà sống nốt những ngày còn lại. Vì vậy sau khi bị đuổi đi, bà đã nhiều lần lén lút dẫn con trai lớn quay về.

Trong thời loạn lạc, mạng sống của con người chẳng khác gì cỏ rác.

Dân làng không thể đuổi mẫu tử họ đi, lại sợ bị lây nhiễm bệnh dịch nên quyết định giết họ.

Một nhóm dân làng trói chặt hai mẫu tử rồi dẫn họ ra khỏi làng, đến vùng hoang dã, ép họ quỳ xuống.

Mẫu tử họ quỳ trên mặt đất.

Ánh mắt mẫu thân trống rỗng, vô hồn. Đôi môi nứt nẻ, chảy máu của bà khẽ nhúc nhích, dường như đang thì thầm điều gì đó.

Cậu bé vô cùng sợ hãi, run rẩy. Hắn quay đầu nhìn nương, run run nói: "Nương ơi, con sợ quá..."

Mẫu thân quay đầu nhìn con trai, ánh mắt vô hồn.

"Thế gian này như địa ngục, nhân gian đầy dày vò, chúng sinh đều khổ.." Bà thì thầm.

Trưởng lão ra lệnh, một dân làng to khỏe giơ thanh dao lên. Hắn đứng ngay phía sau cậu bé, định giết hắn trước. Với hắn, giết ai trước cũng vậy, dù sao chỉ là chuyện của một cái chớp mắt, hai nhát dao là xong.

Một tia sáng lóe lên, thanh dao chém xuống.

Cậu bé không nhìn thấy nhát dao sau lưng, chỉ cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, vô cùng thê lương.

Mẫu thân nhìn thấy dao chém xuống, trong khoảnh khắc ấy, ánh mắt vô hồn của bà lóe lên một chút sắc mặt, tình yêu nương bản năng khiến linh hồn đã bị đè nặng bởi khổ đau bỗng tỉnh táo trong chốc lát.

Mẫu thân lao mình về phía cậu bé, che chắn cho hắn khỏi nhát dao.

"Rắc!"

Thanh dao chém đôi đầu của mẫu thân.

Máu tươi ấm nóng văng ra như cơn mưa đỏ thẫm.

Cậu bé nhìn thấy đầu nương bị chém đôi, bà kêu lên: "Chạy mau..."

Cậu bé đầu óc trống rỗng, vô thức đứng dậy, mang theo máu me trên mặt và cơ thể, chạy thục mạng.

Người dân làng vừa giết mẫu thân cậu bé ngẩn ra, đến khi hắn chạy xa rồi, hắn mới bừng tỉnh.

Những người dân làng nhìn thi thể mẫu thân nằm trong vũng máu, lưỡng lự không biết có nên đuổi theo giết cậu bé hay không.

Trưởng lão thở dài một tiếng, nói: "Thôi bỏ đi. Nó chạy thoát được rồi. Đúng là tạo nghiệt! Chôn nàng ấy đi. Chôn trên núi, cách xa đất làng một chút, nàng ấy bị bệnh dịch, đừng để lây nhiễm cho người trong làng."

Cậu bé lang thang trong vùng hoang vu như một con chó hoang, bệnh tật và đói khát, chẳng còn sống được bao lâu.

Ở những nơi có người tụ tập như tòa thành và làng mạc, cậu bé không dám đến, vì đến đó hắn sẽ bị g**t ch*t. Hắn không biết nên đi đâu, có thể đi đâu nên đã đến chiến trường cổ nơi hắn từng nhặt xác.

Cậu bé nằm giữa đống xác chết, ngước nhìn bầu trời đầy sao rộng lớn.

Hắn nhớ lại lời mẫu thân trước khi chết, rằng thế gian này như địa ngục, chúng sinh đều khổ. Hắn còn quá nhỏ, chưa hiểu hết ý nghĩa của câu nói đó nhưng hắn hiểu khổ đau, vì trong ký ức của hắn, cuộc sống chỉ toàn là khó khăn. Nghèo đói, vất vả, đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, chiến loạn, cái chết, buồn đau, đau khổ, sợ hãi, đó là tất cả những gì trong cuộc đời ngắn ngủi của hắn, hắn chưa bao giờ biết đến niềm vui, chưa từng một phút giây nào vui vẻ.

Cậu bé nằm trong đống xác chết nhìn lên bầu trời sao, những cơn đau trên thân thể, cái đói cồn cào trong bụng và nỗi trống rỗng trong lòng hòa quyện vào nhau khiến hắn chìm trong đau đớn và tuyệt vọng, hắn đã thấy những con chó hoang chết một cách thê thảm trong cơn đói và bệnh tật bên lề đường, và hắn cảm thấy mình lúc này chẳng khác gì những con chó hoang đó.

Một giọt nước mắt lăn qua khóe mắt hắn, giống như một ngôi sao băng.

Cậu bé tự an ủi mình, có lẽ chỉ cần chịu đựng thêm một chút nữa là có thể bay lên trời và cảm nhận được niềm vui.

"A Di Đà Phật! Chiến loạn khắp nơi, dịch bệnh hoành hành, nhân gian này như một lò luyện, chúng sinh đều khổ..."

Một giọng nói khàn khàn vang lên.

Cậu bé nghe thấy bốn chữ "chúng sinh đều khổ", nghĩ đến mẫu thân rồi mở mắt, ngồi dậy từ đống xác chết.

"A! Sư phụ, ở đây còn một người sống, là một đứa trẻ."

Một giọng nói trẻ trung khác cất lên.

Cạu bé nhìn về phía phát ra âm thanh, vì quá đói và suy nhược lại thêm thân thể đau nhức, hắn thấy đầu óc choáng váng, hoa mắt. Hắn nhìn thấy trên chiến trường cổ, có một nhóm Phật tử sáng chói đang hạ xuống cõi trần gian đầy khổ nạn này.

Cậu bé ngất đi.

Thực ra, cậu bé thấy là một nhóm hòa thượng.

Nhóm hòa thượng này đến từ chùa Phù Đồ, đứng đầu là lão sư có pháp danh Khô Đăng, trụ trì của chùa Phù Đồ. Cứ mỗi ba năm, Khô Đăng lại dẫn đệ tử ra ngoài hành hương, truyền bá Phật pháp, cứu độ chúng sinh trong thời loạn lạc. Đêm đó, họ tình cờ đi qua chiến trường cổ, định niệm kinh siêu độ cho các linh hồn đã chết trận, thì gặp được cậu bé.

Có lẽ nhờ ánh sáng Phật soi rọi, hoặc có thể do trẻ nhỏ chỉ cần không bị đói, cơ thể sẽ tự nhiên khỏe lại, bệnh dịch của cậu bé đã kỳ diệu khỏi hẳn nhờ sự chăm sóc của Khô Đăng và các đệ tử.

Cậu bé sống sót và trở thành đệ tử của Khô Đăng, thuộc phái “Diệt” trong hệ thống tên gọi của chùa. Vì khi gặp hắn, toàn thân hắn đầy vết thương, máu mủ dơ bẩn nên Khô Đăng đặt pháp danh cho hắn là Diệt Uế.

Từ đó, Diệt Uế luôn theo chân Khô Đăng tu hành. Phần lớn thời gian, họ ở lại chùa Phù Đồ, nghiên cứu kinh sách, thỉnh thoảng ra ngoài hành hương, truyền bá Phật pháp.

Sau khi thông hiểu Phật pháp và nhìn thấy đủ loại khổ nạn của nhân gian trong những lần hành hương, Diệt Uế có sự thấu hiểu sâu sắc hơn về lòng người và khổ đau. Sự giác ngộ về Phật lý của Diệt Uế cũng vượt trội hơn nhiều so với các sư huynh đệ, Khô Đăng thường khen ngợi rằng Diệt Uế có tâm hồn trong sáng và căn duyên tốt.

Trong lòng Diệt Uế vẫn luôn có một nghi vấn: Hắn không thể quên được lời nương nói trước khi chết: “Chúng sinh đều khổ.” Hắn không cứu được nương, không thể mang lại niềm vui cho nương, điều đó khiến hắn rất buồn nên hắn đã phát nguyện muốn cứu độ chúng sinh, đưa họ đến cõi Niết bàn.

Năm đó, khi Bắc Ngụy tấn công Nam Tống, Khô Đăng dẫn đệ tử đến thành Diễn, nghỉ lại ở chùa Viên Thông.

Lúc này, Diệt Uế đã đến tuổi trung niên còn Khô Đăng thì đã già yếu. Đây là lần cuối cùng Khô Đăng dẫn đệ tử ra ngoài hành hương. Sau chuyến đi này trở về chùa Phù Đồ, Khô Đăng dự định sẽ truyền lại chức trụ trì cho Diệt Uế còn mình sẽ đóng cửa tĩnh tu, không ra ngoài nữa.

Thành Diễn là một thành nhỏ, chùa Viên Thông là ngôi chùa lớn nhất trong thành.

Quân Bắc Ngụy bao vây thành Diễn, chủ thành và tướng quân không chịu mở cửa đầu hàng, hy vọng đợi quân Tống đến cứu, hai bên cứ giằng co như vậy. Khô Đăng, Diệt Uế và các đệ tử cũng bị mắc kẹt trong chùa Viên Thông.

Từ đầu mùa thu đến giữa mùa đông, sự giằng co kéo dài suốt ba tháng, quân Tống bị kẹt ở sông Vị, không thể tới cứu. Nhưng người trong thành Diễn không biết điều đó nên vẫn cố thủ kiên quyết chờ đợi.

Lương thực trong thành Diễn đã cạn kiệt từ lâu, mọi nhà đều không còn một hạt gạo, gia súc như bò, ngựa, chó cũng bị giết sạch và ăn hết từ đợt tuyết đầu tiên. Mùa đông khắc nghiệt, ngay cả lá cây và cỏ dại cũng không còn gì ăn được. Từ binh sĩ đến dân chúng, tất cả đều đói khát đến cùng cực, phải ăn đất để cầm cự.

Có người thân thể suy yếu, vì ăn đất mà bụng trương phình rồi chết. Những xác chết này bị đặt trước chùa Viên Thông, sáng hôm sau chỉ còn là những bộ xương trắng đẫm máu.

Đó là lần đầu tiên Diệt Uế chứng kiến cảnh người ta chia xác và ăn thịt người.

Diệt Uế gần như sụp đổ.

Tuy nhiên, điều khiến Diệt Uế hoàn toàn sụp đổ là những gì xảy ra sau đó.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 13


Thời đó, Phật pháp chưa phổ biến, nhiều tín ngưỡng khác nhau tồn tại, mỗi quốc gia, mỗi tòa thành đều có tín ngưỡng riêng. Có nước trọng Phật, có thành trấn lại bài trừ Phật giáo.

Người dân thành Diễn không tôn trọng Phật giáo, một số quý tộc cho rằng những phép lạ của nhà Phật là dị đoan, giáo lý của Phật là tà thuyết. Cộng thêm việc xác chết trước chùa Viên Thông liên tục biến thành xương trắng, tin đồn lan truyền rằng các hòa thượng là quỷ ăn xác.

Chủ thành và tướng quân vốn không ưa Phật giáo, nghe được tin đồn này bèn ra lệnh đem các hòa thượng ở chùa Viên Thông ra nấu và chia cho mọi người ăn.

Một đám binh sĩ cầm vũ khí xông vào chùa Viên Thông, tất cả hòa thượng trong chùa, bao gồm Khô Đăng, Diệt Uế và một vài đệ tử đi theo đều bị bắt. Binh lính đuổi hết các hòa thượng già trẻ đến bên ngoài chùa Viên Thông, dù là ai phản kháng đều bị giết ngay tại chỗ.

Bên ngoài chùa Viên Thông, củi lửa bập bùng, ba cái vạc lớn được đặt trên lửa.

Binh lính lột hết y phục của các hòa thượng, bất chấp tiếng kêu la, vùng vẫy của họ, ép buộc họ vào vạc nước sôi.

"Aaaaa..."

Các hòa thượng gào thét trong đau đớn, bị luộc sống.

Trong vạc nước, nước sôi cuồn cuộn, xác chết của các hòa thượng bị luộc đến nứt da nứt thịt, lật nhào trong nước. Có vài xác đã bị nấu nhừ chỉ còn lại những bộ xương trắng.

Không khí tràn ngập mùi thơm của thịt luộc.

Một đám dân chúng bụng đói cồn cào, bưng bát đứng xếp hàng dài, lần lượt đi qua các vạc nước.

Binh lính cầm một cái muỗng lớn như đang phát cháo cứu đói cho dân tị nạn, từ vạc nước múc lên một muỗng canh thịt, đổ vào bát của dân chúng.

Dân chúng bụng đói, thèm khát canh thịt, họ ngấu nghiến ăn thịt uống canh, không hề để ý đến những hòa thượng đang quằn quại trong biển máu, bị luộc sống.

Một cái vạc có thể luộc được ba hòa thượng. Khi canh thịt của ba hòa thượng đã bị chia hết, binh lính lại thêm nước vào vạc, đợi nước sôi rồi lại thả thêm hòa thượng vào.

Các hòa thượng đứng yên lặng, chờ đợi đến lượt mình bị ném vào vạc. Trong số họ, có người tâm tĩnh như nước, không hề dao động, chỉ khe khẽ niệm Phật. Có người sợ hãi tột độ, không chịu đựng nổi muốn bỏ chạy. Tuy nhiên, hễ hòa thượng nào chạy trốn, binh lính sẽ đuổi theo, chém chết rồi ném xác vào vạc.

Khô Đăng và Diệt Uế đứng giữa các hòa thượng nhìn binh lính lần lượt ném từng hòa thượng vào vạc nước.

Các hòa thượng quằn quại, kêu gào trong nước sôi, đau đớn đến tột cùng.

Người dân xung quanh ôm bát như bị ác quỷ chiếm đoạt, không có hơi lòng thương xót, mắt họ sáng rực, chăm chăm nhìn vào nồi nước sôi, chờ đợi thịt canh được đổ vào bát.

Diệt Uế vô cùng sụp đổ, hắn run rẩy hỏi: "Sư phụ, đây là địa ngục phải không?"

Khô Đăng thở dài, bình thản đáp: "A Di Đà Phật! Diệt Uế, nhân gian như lò luyện, chúng sinh đều khổ, thế giới Ta Bà này vốn dĩ là địa ngục, chỉ có cõi Phật cách mười vạn ức cõi Phật thổ mới là Cực Lạc tịnh độ. Chúng sinh ở Cực Lạc muốn gì được nấy, muốn ăn có ăn, mọi thứ tự nhiên đầy đủ. Không tham, không sân, không si mê. Chúng sinh đều nghe pháp vi diệu, đó là thế giới Cực Lạc."

Nghe lời Khô Đăng, các hòa thượng đều chắp tay, cúi đầu niệm Phật.

Nhìn cảnh tượng hòa thượng bị luộc, Diệt Uế nhìn thấy cõi Tịnh độ Cực Lạc hư ảo trong lòng đang tan vỡ.

Ngọn lửa lớn rực cháy, nước trong nồi sôi sùng sục, vài binh sĩ lại đến bắt hòa thượng.

Khô Đăng nói: "Diệt Uế, hôm nay thầy đã đến hạn, không thể truyền bá Phật pháp cứu độ chúng sinh được nữa. Nguyện vọng lớn nhất trong đời này của thầy là có thể lan tỏa ánh sáng Phật, cứu vớt chúng sinh ra khỏi biển khổ, mang đến cho nhân gian một mảnh đất Cực Lạc."

Nói xong, Khô Đăng tự nguyện bước ra ngoài, tiến đến nồi nước sôi.

Binh lính ngẩn người trong chốc lát.

Khô Đăng ung dung cởi bỏ áo cà sa, đặt chuỗi tràng hạt xuống.

"A Di Đà Phật! Chúng sinh đều khổ, đức Phật từ bi..."

Khô Đăng giữ thẳng lưng còng gầy gò của mình, niệm lớn Phật hiệu rồi tự lao vào nồi nước sôi.

"Sư phụ..." Diệt Uế khóc thét, quỳ xuống đất.

Khô Đăng bị nước sôi thiêu chết, xác chìm nổi trong nước.

"A Di Đà Phật..."

Các hòa thượng cúi đầu niệm Phật, đệ tử của Khô Đăng rơi nước mắt.

Diệt Uế nước mắt đầm đìa, hắn nhìn vào những binh lính lạnh lùng và những người dân ăn thịt người như ngạ quỷ, lòng đầy căm hận. Nhưng khi căm hận đạt đến đỉnh điểm, nó biến thành lòng thương xót. Chúng sinh đã đắm chìm trong khổ đau quá lâu, tâm hồn bị tội lỗi nhuốm bẩn, đã biến thành ác quỷ, họ cần sự cứu rỗi, cần được thanh tẩy, cần được đưa vào thế giới Cực Lạc.

Từng hòa thượng bị bắt đi, khi đến lượt Diệt Uế thì đột nhiên bên ngoài cổng thành xảy ra một cuộc náo loạn, kỵ binh Bắc Ngụy tiến vào thành.

Thì ra việc luộc chín hòa thượng quá tàn nhẫn khiến một số tín đồ Phật giáo và dân chúng có lương tâm không thể chịu đựng, họ nhân lúc chủ thành và quân đội tập trung bên ngoài chùa Viên Thông, bí mật nổi dậy, mở cổng thành, dẫn gia đình chạy trốn.

Quân đội Bắc Ngụy thấy cổng thành Diễn mở toang bèn tập hợp kỵ binh, xông vào.

Trong thành Diễn, khói lửa chiến tranh ngút trời, kỵ binh Bắc Ngụy sau khi vào thành đã thiêu đốt, cướp bóc, binh lính và dân chúng trong thành chết vô số.

Đám người dân ôm bát chia phần thịt người thấy kỵ binh Bắc Ngụy xông tới, họ bỏ chạy tán loạn nhưng không kịp, bị kỵ binh Bắc Ngụy g**t ch*t và giẫm đạp.

Tiếng khóc than, tiếng kêu gào, máu thịt tung tóe, chúng sinh đều là những linh hồn chết trong chiến tranh, màu đỏ tươi bao trùm khắp đất trời.

Bên ngoài chùa Viên Thông, Diệt Uế và những hòa thượng còn lại đứng yên lặng, không có ý định chạy trốn. Lúc này, trời đất như lò luyện, thế gian là địa ngục, không có Tịnh độ Cực Lạc nào để chạy trốn.

Bắc Ngụy trọng Phật, quân đội có lệnh nghiêm cấm giết hại hòa thượng. Vì vậy trong khi các kỵ binh ở ngoài chùa Viên Thông giao chiến với quân đội thành Diễn, thảm sát dân chúng, không ai làm tổn thương nhóm người của Diệt Uế.

Diệt Uế sống sót trong địa ngục.

Không lâu sau đó, Diệt Uế mang theo xá lợi của Khô Đăng, cùng vài vị sư huynh đệ rời khỏi thành Diễn, trở về chùa Phù Đồ.

Diệt Uế đã đặt xá lợi của Khô Đăng vào bảo tháp trong chùa Phù Đồ, và trở thành trụ trì của chùa Phù Đồ theo di nguyện của Khô Đăng.

Trong những năm tháng còn lại của cuộc đời, Diệt Uế tiếp tục tu hành, nghiên cứu thiền lý, hắn cũng như Khô Đăng, đi khắp nơi hành hương, truyền bá Phật pháp cho chúng sinh.

Khi hành hương trong thời loạn, luôn có thể thấy vô vàn khổ đau. Vô số cảnh khổ đau khiến người ta đau buồn, trong lòng Diệt Uế dần nảy sinh một chấp niệm, hắn muốn thanh tẩy thế gian đầy khổ đau này, đưa mọi người vào thế giới Cực Lạc.

Đó là chấp niệm suốt đời không thể buông bỏ của hắn, cũng là ma chướng mà hắn không thể vượt qua trên con đường cầu Phật.

Về cuối đời, Diệt Uế tình cờ có được một quyển sách Cực Lạc. Người ta nói rằng, chỉ cần mở cuốn sách này ra, chúng sinh có thể bước vào Tịnh độ Cực Lạc, được hưởng niềm vui vĩnh hằng.

Khi Diệt Uế mở sách Cực Lạc, hắn thấy cha, nương và đệ đệ mình, không có chiến tranh, không có đói khát, không có bệnh tật, không có sinh ly tử biệt, cả gia đình bốn người họ hạnh phúc sống trong Tịnh độ Cực Lạc, khi lạnh có áo ấm, khi đói có thức ăn, khi cô đơn có sự quan tâm và yêu thương, họ sống không lo lắng, trong lòng tràn đầy niềm vui...

Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Diệt Uế trải nghiệm niềm vui trong cuộc đời này.

Diệt Uế viên tịch trong ảo cảnh Cực Lạc.

Khi Diệt Uế qua đời, nét mặt bình thản, khóe miệng nở nụ cười hạnh phúc.

Do chấp niệm muốn cứu độ chúng sinh vào Tịnh độ Cực Lạc, linh hồn Diệt Uế gắn vào cuốn sách Cực Lạc, hắn hấp thụ linh lực của rồng trên cuốn sách, trong suốt thời gian dài, hóa thành yêu linh.

Sau khi Diệt Uế chết, cuốn sách Cực Lạc được đặt trong Tàng Kinh Các của chùa Phù Đồ, cùng với vô số kinh điển khác bị phủ đầy bụi, không ai hỏi đến.

Thời gian trôi qua, năm tháng vụt bay, thoáng chốc đã đến thời Đại Chu, trụ trì chùa Phù Đồ đã trở thành Thành Giác.

Sau khi Võ Tắc Thiên lên ngôi, bà rất tôn sùng Phật giáo, rất yêu thích các bảo vật của Phật giáo. Thành Giác nghĩ rằng chùa Phù Đồ cũng là một ngôi chùa cổ có từ lâu đời, Tàng Kinh Các có thể có những bản kinh quý hiếm, có thể dâng lên nữ đế để được phong thưởng.

Thành Giác lục tìm trong Tàng Kinh Các, vô tình phát hiện ra cuốn sách Cực Lạc.

Yêu linh của Diệt Uế luôn ẩn náu trong cuốn sách Cực Lạc, theo năm tháng trôi qua, chấp niệm của hắn ngày càng sâu, hóa thành ác linh.

Khi Thành Giác mở cuốn sách Cực Lạc, yêu linh của Diệt Uế đã mê hoặc ông khiến ông giúp mình thực hiện nguyện vọng phổ độ chúng sinh vào Cực Lạc.

Chấp niệm của Diệt Uế đã làm cho Tàng Kinh Các nở rộ đầy những bông hoa Mạn Đà La gây ảo giác.

Diệt Uế nhớ lại thời đại của hắn, khi mọi người dùng Ngũ Thạch tán để đạt đến Cực Lạc, hắn đã kết hợp hoa Mạn Đà La với Ngũ Thạch tán, chế tạo ra thuốc Cực Lạc.

Sau khi dùng thuốc Cực Lạc, người ta sẽ có ảo giác tuyệt diệu, bước vào thế giới Cực Lạc. Còn Diệt Uế sẽ dùng cái chết để cứu độ những chúng sinh khổ nạn này, đưa linh hồn họ vào trong cuốn sách, cùng với hắn mãi mãi ở trong thế giới Cực Lạc.

Thành Giác và phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là tình nhân, thỉnh thoảng bà đến chùa Phù Đồ để gặp gỡ với Thành Giác.

Diệt Uế nhận ra phu nhân Tâm Nguyệt Hồ có một loại chấp niệm khó dứt với Thành Giác, yêu hận đan xen.

Đó là mối tâm kết của bà.

Thành Giác là ảo cảnh Cực Lạc của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, là mê cung mà bà không thể thoát ra qua bao đời kiếp, giống như Diệt Uế luôn bị kẹt trong mê cung tâm hồn không thể cứu độ chúng sinh khổ nạn, không thể giải thoát.

Diệt Uế đã dùng cuốn Sách Cực Lạc để mê hoặc phu nhân Tâm Nguyệt Hồ. Hắn cần bà và Thành Giác giúp mình phát tán thuốc Cực Lạc đến nhiều người hơn, hắn còn cần bà và Thành Giác đưa những người đang chịu khổ nạn đến chùa Phù Đồ, trong những Tiệc Cực Lạc, đưa họ thoát khỏi biển khổ, bước vào cõi Cực Lạc vĩnh hằng.

Diệt Uế muốn đưa tất cả những người khổ nạn trên thế gian vào cõi Cực Lạc. Đó là nguyện vọng mà dù chết hóa thành yêu linh rồi hắn vẫn mãi đeo đuổi.

Tất cả ảo cảnh đều biến mất.

Nguyên Diệu cảm thấy vô cùng buồn bã, tâm trạng nặng nề.

Trong bóng tối, một lão hòa thượng mày trắng từ từ bước về phía Nguyên Diệu, đôi mắt đen như mực nhưng đáy mắt lại trong vắt như nước.

Lão tăng lông mày trắng đưa tay về phía Nguyên Diệu, nói: “A Di Đà Phật! Nhân gian như lò lửa, chúng sinh đều khổ, thế giới Ta Bà này là địa ngục, chỉ có ở cõi Cực Lạc xa xôi của Phật quốc mới có cảnh giới an lạc. Ngươi đi cùng lão nạp nhé.”

“Không, không muốn...”

Nguyên Diệu lắc đầu, vô thức lùi lại vài bước.

Đằng sau lão hòa thượng mày trắng, vô số hoa Mạn Đà La rơi xuống từ trên trời, bay tán loạn khắp nơi. Hoa Mạn Đà La biến thành những bàn tay đỏ như máu, bay tới từ trong hư không, nắm chặt lấy Nguyên Diệu.

“A Di Đà Phật! Ba người các ngươi cùng bước vào ảo cảnh của tiệc Cực Lạc, chỉ có ngươi bước vào được linh đài của lão nạp, nhìn thấy được cuộc đời lão nạp. Ngươi có căn duyên, lão nạp muốn dẫn ngươi thoát khỏi bể khổ, bước vào Cực Lạc tịnh độ... Đừng sợ, đau khổ chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi, linh hồn ngươi sẽ sớm nhập vào cuộn tranh, đạt được Cực Lạc vĩnh hằng…”

Nguyên Diệu vô cùng sợ hãi, hắn vùng vẫy một cách tuyệt vọng nhưng không thể thoát ra.

“Bạch Cơ, cứu ta với…”

Đột nhiên, trong hư không xuất hiện một móng vuốt rồng khổng lồ.

Móng vuốt rồng sắc nhọn như lưỡi dao, ngay lập tức chộp lấy lão hòa thượng mày trắng.

Trong bóng tối, vang lên giọng nói của Bạch Cơ.

“Lão hòa thượng này, định mang Hiên Chi của ta đi đâu?”

(của ta luôn ha)

Lão hòa thượng mày trắng vùng vẫy trong móng vuốt rồng.

Những bàn tay đang nắm lấy Nguyên Diệu lập tức biến thành hoa Mạn Đà La, rồi bị gió thổi bay tán loạn.

Đầu của rồng trắng dần hiện ra trong bóng tối, râu ria dựng đứng, đôi mắt vàng rực sáng, nhìn chằm chằm vào lão hòa thượng mày trắng bị mình chộp lấy.

Lão hòa thượng mày trắng thấy con rồng khổng lồ, có hơi hoảng sợ, lắp bắp nói: “Tại sao ngươi có thể tìm được ‘đường’ thoát ra khỏi ảo cảnh của sách Cực Lạc?”

Rồng rắng nhe răng, nói: “Sách Cực Lạc là do ta tạo ra, ngươi chẳng qua chỉ là chấp niệm hóa thành ma vật, dựa vào linh lực của ta mà tồn tại, ta tất nhiên có thể tìm ra ‘đường’ trong ảo cảnh của ngươi. Lão hòa thượng, vì chấp niệm của mình, ngươi đã g**t ch*t biết bao nhiêu người. Ngươi thực sự là đệ tử Phật môn sao?”

Lão hòa thượng mày trắng nói: “Lão nạp không giết người, lão nạp đang độ người.”

Đôi mắt vàng của rồng trắng nheo lại thành một vầng trăng khuyết, nói: “Ngươi thử nhìn kỹ lại sách Cực Lạc xem.”

Trong hư không, một cuộn tranh phát sáng bay tới, cuộn tranh kéo dài vô tận.

Trên cuộn tranh, vẽ vô số người đủ mọi hình dạng, màu sắc, mỗi người đều sống động như thật, họ hóa thành Phật, mặc áo quần lộng lẫy, gương mặt mang nụ cười Cực Lạc, toàn thân tỏa ra ánh sáng vàng rực rỡ.

Chúng sinh đông đảo, đều ở Cực Lạc.

Lão hòa thượng mày trắng mỉm cười hài lòng: “A Di Đà Phật! Họ đều đang ở thế giới Cực Lạc.”

Rồng trắng lạnh lùng nói: “Lão hòa thượng, ngươi nhìn lại cho kỹ?”

Trên cuộn tranh vẽ vô số người đủ mọi hình dạng, màu sắc, mỗi người đều là một xác chết đầy máu, họ giữ nguyên tư thế lúc chết, hoặc thịt rách xương lộ, hoặc bụng vỡ ruột tràn, trên gương mặt họ là biểu cảm đau đớn, dữ tợn và kinh khủng.

Đông đảo chúng sinh, đều ở địa ngục.

*

"Lão hòa thượng mày trắng kêu lên đầy đau đớn trong móng vuốt của rồng trắng, không thể nhìn thẳng vào cuốn sách Cực Lạc, không thể chấp nhận sự thật.

Rồng trắng nói: "Lão hòa thượng, ngươi hãy nhìn kỹ thế giới Cực Lạc của ngươi. Thế giới Cực Lạc của ngươi là địa ngục của chúng sinh, lòng từ bi của ngươi là nỗi khổ của chúng sinh..."

"Im đi! Ngươi đừng nói nữa!" Lão hòa thượng mày trắng điên cuồng nói.

Rồng trắng tiếp tục: "Linh hồn của họ bị ngươi giam cầm trên cuộn tranh, mãi mãi chịu đựng trong đau khổ. Ngươi đã che mắt mình, không nhìn thấy nỗi khổ của họ. Ngươi chỉ vì thỏa mãn d*c v*ng của mình đã dùng hoa Mạn Đà La để mê hoặc tâm hồn chúng sinh, mang đến cho họ cái chết đầy đau đớn và sự hư vô vĩnh

cửu..."

Lão hòa thượng mày trắng lắc đầu, nói: "Không phải vậy, không phải như thế! Đây không phải là nguyện vọng của lão nạp. Lão nạp chỉ muốn đưa chúng sinh khổ nạn vào cõi Cực Lạc, lão nạp muốn rửa sạch tạp uế của thế gian này, cứu rỗi những linh hồn sa ngã..."

Rồng trắng nhìn Lão hòa thượng mày trắng, trong ánh mắt thương hại, nói: "Lão hòa thượng, ta đã gặp rất nhiều người như ngươi, bị lạc lối trong ảo giác, tự coi mình là thần thánh trên cõi trời cao. Đáng tiếc, sức mình có hạn, ngươi đã tích lũy quá nhiều nghiệp chướng, đi nhầm đường."

Lão hòa thượng mày trắng nhìn vào bức tranh Cực Lạc trong hư không.

Trên bức tranh Cực Lạc, chúng sinh đang đau khổ vô cùng, từng linh hồn oan uổng lần lượt hiện lên trước mắt Lão hòa thượng mày trắng. Mỗi linh hồn chết oan đều có khuôn mặt méo mó, phát ra những tiếng k** r*n đầy bi thảm nhìn lão tăng với ánh mắt oán hận.

Lão hòa thượng mày trắng lập tức sụp đổ.

"Đây... Đây không phải là điều lão nạp muốn... Trời ơi, lão nạp đã làm gì thế này... Sư phụ, đệ tử xin lỗi người, đệ tử đã bị vọng tưởng che mờ tâm trí, lạc lối và phạm phải sai lầm lớn..."

Rồng trắng thở dài một tiếng không thể nghe rõ.

"Lão hòa thượng, họ đều bị mắc kẹt trong chấp niệm của ngươi, không thể giải thoát. Hãy buông tha cho họ, và cũng buông tha cho chính ngươi, để họ đến nơi họ cần đến."

Lão hòa thượng mày trắng chắp tay, nói: "A Di Đà Phật!"

Một cơn gió đêm thổi qua, những bông hoa Mạn Đà La bay lượn trên trời, xoay quanh Lão hòa thượng mày trắng và dần dần bao phủ ông.

"A Di Đà Phật! Chúng sinh ở cõi Cực Lạc, nghĩ đến áo thì có áo, nghĩ đến thức ăn thì có thức ăn, mọi thứ đều tự nhiên đầy đủ. Không tham, không sân, không si mê. Mọi chúng sinh luôn nghe pháp vi diệu, đó là thế giới Cực Lạc..."

Lão hòa thượng mày trắng lẩm bẩm, những bông hoa Mạn Đà La đỏ thẫm biến thành những ngọn lửa bừng bừng.

Ngọn lửa cháy dữ dội, nuốt chửng Lão hòa thượng mày trắng, ông dần dần biến thành một bộ xương trong ngọn lửa. Cùng lúc đó những bông hoa Mạn Đà La bay lượn trên trời biến thành từng câu kinh văn.

Trong hư không, trên cuộn tranh, những chúng sinh bị giam cầm bay lên không trung, họ bám vào những dòng kinh văn, từ từ bay lên trời.

Không thiện, cũng không ác.

Vãng tử, cũng vãng sinh.

Chúng sinh đã thoát khỏi sự giam cầm của Diệt Uế, họ rời khỏi sách Cực Lạc, cưỡi trên kinh văn, tiến vào luân hồi.

Khi linh hồn cuối cùng rời khỏi sách Cực Lạc và cuốn kinh trở thành một cuộn giấy trắng trống rỗng, bộ xương của Diệt Uế ngay lập tức vỡ thành tro bụi.

Một đàn bướm khô héo như lá vàng vỗ cánh bay tán loạn trong hư không, dần dần biến mất rồi không còn dấu vết.

Một cơn gió thổi qua, cuộn giấy trắng bay vào móng vuốt của Rồng trắng.

Nguyên Diệu nghiêng đầu nhìn lên cuộn giấy trên không trung.

Trên cuộn giấy, dần dần hiện lên hình ảnh của một lão hòa thượng mày trắng.

Rồng trắng nói: "Lão hòa thượng, ngươi không muốn vào luân hồi sao? Ồ, ta hiểu rồi, ngươi vẫn không thể rời bỏ cõi Cực Lạc, còn h*m m**n cái ảo tưởng hư không đó."

Không ai trả lời câu hỏi của Rồng trắng.

Tuy nhiên, trên cuộn Sách Cực Lạc, lão hòa thượng mày trắng đã chắp tay, đôi mắt khép lại.

Nguyên Diệu nhìn Diệt Uế trong cuốn Sách Cực Lạc, cảm xúc trong lòng vô cùng phức tạp.

Đột nhiên, hư không bắt đầu rung chuyển, đất trời quanh đó cũng chao đảo.

Rồng trắng nói: "Đi thôi, Hiên Chi, đã đến lúc rời khỏi ảo cảnh Cực Lạc của lão hòa thượng rồi."

"Đi bằng cách nào?"

Nguyên Diệu cố gắng giữ vững thân hình, hỏi.

Rồng trắng không trả lời, nó cầm cuộn sách Cực Lạc bay lượn một vòng trên không rồi biến mất.

Đồng thời, dưới chân Nguyên Diệu xuất hiện một con "đường" hư ảo.

Nguyên Diệu vội vàng bước lên "đường".

Khi vừa bước lên "đường", trước mắt Nguyên Diệu hiện ra một luồng ánh sáng.

Nguyên Diệu lập tức chạy về phía ánh sáng.

Đang chạy, Nguyên Diệu thấy trong ánh sáng phía trước có một bóng đen cũng đang chạy.

Nguyên Diệu nhìn kỹ, đó là một con mèo đen.

"Ly Nô lão đệ?!"

Mèo đen quay đầu lại nhìn, nói: "Mọt sách cũng đến rồi à?"

"Ly Nô lão đệ đã đi đâu thế?"

"Ta rơi vào một cái hố, khắp nơi đều là ảo cảnh, không thể thoát ra. Vừa rồi nghe thấy tiếng chủ nhân, dưới chân mới có "đường"."

"..."

"Mọt sách mau chạy đi, chỉ cần chạy thêm vài bước nữa là sẽ ra ngoài."

Nguyên Diệu và Ly Nô chạy thêm vài bước, đột nhiên bước hụt một bước, ánh sáng bao phủ họ, sáng đến nỗi không thể mở mắt."

Khi Nguyên Diệu có thể nhìn rõ xung quanh, hắn phát hiện bản thân cùng Ly Nô đã trở về Tàng Kinh Các.

Tàng Kinh Các khác hẳn với những gì hắn vừa thấy.

Không còn không gian vô tận, chỉ có một gian thư phòng rộng lớn, giá sách hình trụ chất đầy quyển kinh, trên giá và sách đều phủ một lớp bụi, không còn đoá hoa Mạn Đà La nở rộ. Không có yến tiệc, cũng không có đám đông, càng không có máu và xác chết.

Dưới ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu, Thành Giác đang gục trên bàn, mê man bất tỉnh. Bạch Cơ lặng lẽ đứng bên cạnh, trong tay cầm một cuộn kinh ngả vàng.

Bạch Cơ ngẩng đầu lên nhìn thấy Nguyên Diệu và Ly Nô thì mỉm cười nói: “Ồ, Hiên Chi, Ly Nô, các ngươi ra ngoài rồi.”

Nguyên Diệu đảo mắt nhìn quanh, hỏi: “Bạch Cơ, rốt cuộc chuyện này là thế nào? Vừa rồi còn thấy yến tiệc, lại có người nữa?”

Bạch Cơ cười nói: “Đêm đã khuya, Tàng Kinh Các này không có tiệc Cực Lạc, cũng không có ai. Khi chúng ta bước vào chùa Phù Đồ, đã đặt chân vào ảo cảnh Cực Lạc của Diệt Uế rồi, những gì chúng ta thấy đều là ảo ảnh của quá khứ.”

Nguyên Diệu và Ly Nô tiến đến gần Bạch Cơ.

Ly Nô liếc nhìn Thành Giác đang gục trên bàn, hỏi: “Chủ nhân, vị hòa thượng này có phải sắp chết rồi không?”

Nguyên Diệu cúi đầu nhìn thoáng qua Thành Giác đang hôn mê, không khỏi giật mình.

Thành Giác nửa nằm trên bàn, hai mắt lật ngược, mặt mày vàng vọt trông như đã chết.

Nguyên Diệu cúi người xuống, đưa tay dò hơi thở của Thành Giác.

Hơi thở Thành Giác yếu như tơ, nửa sống nửa chết.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, trụ trì Thành Giác còn sống không?”

Bạch Cơ liếc nhìn Thành Giác, nói: “Vẫn chưa chết, nhưng cũng không sống nổi nữa. Ông ta bị ác linh của Diệt Uế mê hoặc tâm trí, tổ chức yến tiệc Cực Lạc để hại người vô tội. Những ai bị ác linh xâm chiếm cơ thể thì mạng không còn dài.”

Nguyên Diệu cảm thấy thương hại, nói: “Trụ trì Thành Giác bị mê hoặc tâm trí mới làm sai chuyện… Bạch Cơ có thể cứu ông ta không…”

Bạch Cơ hơi khó xử, nói: “Hiên Chi, lúc trước bị mắc kẹt trong mê cung ngàn cửa ta đã tiêu hao không ít linh lực. Sau đó, để bảo vệ tính mạng của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, ta lại tổn hao thêm nhiều linh lực nữa. Bây giờ mà cứu ông ta, ta phải nói lời tạm biệt với ngươi rồi.”

Nguyên Diệu khó hiểu, hỏi: “Ý ngươi là gì?”

Bạch Cơ đáp: “Trong thời gian ngắn tiêu hao quá nhiều linh lực, tổn thương đến nguyên thần, ta phải đóng cửa Phiêu Miểu Các, ngủ đông vài chục hoặc cả trăm năm để hồi phục.”

“Chuyện này…”

Nguyên Diệu nhìn Thành Giác, trong lòng vẫn còn chút buồn bã. Mặc dù tiệc Cực Lạc lan truyền vào Thần Đô qua Thành Giác và phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, khiến nhiều người mất mạng. Thành Giác đã hại chết nhiều người vô tội, nhưng ông ta cũng chỉ là quân cờ bị ác linh của Diệt Uế điều khiển.

Bạch Cơ nói: “Hiên Chi đừng buồn. Trên đời này, vạn sự đều có duyên pháp của nó, người làm việc gì đều có nhân quả. Thành Giác giúp kẻ xấu làm việc ác, còn dùng độc chướng hại phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, kết cục này chính là quả của ông ta.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ không phải bị ác linh của Diệt Uế mê hoặc sao? Sao lại là bị Thành Giác hại?”

Bạch Cơ im lặng một lúc, mới nói: “Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ là một yêu quái lớn, có tu vi nghìn năm, ác linh của Diệt Uế chẳng là gì trước mặt bà ta. Bà ta không bị Diệt Uế mê hoặc, chỉ bị Thành Giác làm mất hồn. Đó là số kiếp của bà ta.”

Nguyên Diệu vẫn chưa hiểu, hắn vừa định mở miệng hỏi thì bất ngờ có hai cái bóng đỏ xẹt qua như gió.

Thì ra là hai con hồ ly đỏ.

Một con là Hồ Thập Tam Lang. Con hồ ly đỏ ánh kim vừa đáp xuống đất đã hoá thành một nữ nhân áo đỏ, dung nhan tuyệt mỹ.

Chính là phu nhân Tâm Nguyệt Hồ.

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ mặt mày tái nhợt, trông có vẻ yếu ớt, bà ta lao tới ôm lấy Thành Giác đang hấp hối.

Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ cúi đầu nhìn Thành Giác, ánh mắt dịu dàng đầy tình cảm, một giọt lệ trong suốt rơi xuống từ khoé mắt bà ta.

“Ninh Lang…”

Nguyên Diệu nhớ lại trong mơ mình thấy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ ôm một bộ xương trắng, chôn sâu dưới đất, miệng gọi Ninh Lang. Ninh Lang chắc hẳn là người tình của bà ta khi xưa. Nghe nói, Ninh Lang phụ bạc phu nhân Tâm Nguyệt Hồ khiến bà ta hận mà g**t ch*t hắn. Vậy tại sao bây giờ bà ta lại ôm Thành Giác gọi Ninh Lang?!

Phiêu Miểu Các, hậu viện.

Trời thu cao trong, nắng ấm chan hòa, khắp sân cỏ thu đã vàng úa, nhưng cây Bồ Đề xanh biếc như một chiếc ô khổng lồ xanh vàng, hồ sen Thất Bảo lấp lánh sóng biếc, hoa sen nở rộ, sáng rực rỡ.

Sau bữa sáng, Ly Nô đã ra ngoài mua cá.

Bạch Cơ thấy trời nắng đẹp bèn trải một tấm thảm len Ba Tư lên thảm cỏ, đặt lên vài chiếc đệm mềm, sau đó lấy ra một chai rượu Lưu Hà từ Tây Vực, vừa thưởng thức rượu nho vừa nằm tựa lên đệm phơi nắng.

Nguyên Diệu bận rộn suốt trong cửa tiệm, hắn dọn dẹp sảnh chính một lượt, sau đó tính toán lại sổ sách gần đây, rồi đóng gói hàng hóa cần giao trong các hộp, định bụng sẽ đi giao sau bữa trưa.

Từ cửa sổ trong phòng, Nguyên Diệu nhìn ra thấy Bạch Cơ ngoài sân lúc thì nằm phơi nắng, lúc thì bò ra phơi, rồi lại nghiêng người phơi nắng, có vẻ như rất chán chường, không khỏi nói: "Bạch Cơ từ sáng đến giờ chỉ toàn nằm phơi nắng thôi. Nếu thấy chán quá thì ngươi có thể đi giao hàng, vừa đi vừa phơi nắng, nhìn ngắm cảnh sắc sông Lạc và phong cảnh Thần Đô, chắc chắn thú vị hơn nằm đây phơi nắng nhiều."

Bạch Cơ mở mắt, cầm ly thủy tinh lên, uống một ngụm rượu đỏ Lưu Hà, cười nói: "Hiên Chi tự đi giao hàng đi. Ta đang hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt, luyện khí nội công, không thể động đậy được."

Tinh hoa nhật nguyệt, luyện khí nội công gì chứ, chưa từng nghe yêu quái nào vừa uống rượu nho vừa phơi nắng để tu luyện. Con yêu rồng này rõ ràng chỉ là lười biếng, chẳng muốn động đậy.

Nguyên Diệu thầm nghĩ trong lòng.

Đột nhiên, Nguyên Diệu nhớ ra điều gì đó, nói: "À đúng rồi, Bạch Cơ, hôm qua khi ta đi giao hàng, có gặp Đan Dương, tiện nói chuyện một chút. Ngày kia là sinh nhật của Trọng Hoa, hắn nhờ Đan Dương mời chúng ta, đặc biệt là ngươi đến lầu Mẫu Đơn tham gia tiệc sinh nhật của hắn."

Bạch Cơ nghe xong, bèn nói: "Sinh nhật của Bùi tướng quân à? Nếu đi thì phải mang quà, còn phải nghe hắn bày tỏ nỗi lòng... Nghĩ đến thôi đã thấy phiền rồi, ta sẽ không đi đâu. Hiên Chi có đi không?"

Nguyên Diệu gãi đầu, nói: "Trọng Hoa rất tốt với ta, hắn đã mời thì ta muốn đi..."

Bạch Cơ nói: "Vậy Hiên Chi đi nhé. Ngươi cứ nói là mấy hôm nay ta phải đi Trường An thu nợ, không có mặt ở Thần Đô."

"Được." Nguyên Diệu trả lời.

Nguyên Diệu tiếp tục bận rộn, Bạch Cơ tiếp tục uống rượu và phơi nắng.

Lúc này, một con tiểu hồ ly ngậm giỏ trúc đi vào Phiêu Miểu Các. Trong giỏ trúc chứa đầy các loại dâu rừng mùa thu, có quả mâm xôi đỏ, quả dây leo xanh.

"Có ai ở đây không? Bạch Cơ, Nguyên công tử, các ngươi có ở đây không?"

Hồ Thập Tam Lang đặt giỏ trúc xuống sảnh chính, lễ phép hỏi.

Nguyên Diệu bước ra từ phòng trong, cười nói: “Thập Tam Lang, sao ngươi lại đến đây? Mau vào ngồi đi.”

Tiểu hồ ly lịch sự đáp: “Nguyên công tử, mỗ đến để cáo từ. Ngày mai, mỗ sẽ trở về núi Thúy Hoa. Đây là một ít quả dại trong rừng gần chợ Quỷ, không thể mua được ở chợ. Thấy chúng ngon lành, mỗ hái một ít mang đến cho mọi người thử.”

Nguyên Diệu nói: “Thập Tam Lang thật có lòng. Bạch Cơ đang tắm nắng ở sân sau, để ta dẫn ngươi vào.”

Nguyên Diệu nhấc giỏ tre, dẫn tiểu hồ ly vào sân sau.

Tiểu hồ ly nói ý định đến với Bạch Cơ, Bạch Cơ bèn giữ nó lại ở Phiêu Miểu các ăn tối, coi như tiệc tiễn biệt.

Tiểu hồ ly vui vẻ đồng ý.

Bạch Cơ rót cho hồ ly một ly rượu Lưu Hà, cũng rót cho Nguyên Diệu một ly.

Tiểu hồ ly rửa sạch những quả dại trong giỏ tre, bên giếng nước rồi bày chúng lên đĩa hổ phách.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Hồ Thập Tam Lang vừa ngồi trên tấm thảm Ba Tư phơi nắng vừa ăn những quả dại chua ngọt vừa trò chuyện.

Bạch Cơ hỏi: “Thập Tam Lang, sức khỏe của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ có khá hơn không?”

Hồ Thập Tam Lang ăn một quả dâu tằm, chua đến mức nheo mắt lại.

“Cô cô đã khá hơn rồi, giờ Lầu Tâm Nguyệt cũng bắt đầu kinh doanh trở lại. Hôm nay, khi ta ra ngoài, cô cô còn nhờ ta mời Bạch Cơ có dịp thì đến Lầu Tâm Nguyệt chơi. À, mấy tỷ muội hồ ly cũng rất mong con mèo đen đáng ghét đó đến chơi, họ nói chưa bao giờ được ăn món mì hoành thánh ngon như vậy. Giờ đầu bếp quay lại làm việc rồi nhưng họ lại chê bai tay nghề của đầu bếp không bằng.”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi lạnh. Nhưng đúng là món mì hoành thánh do Ly Nô nấu rất ngon.

Bạch Cơ cười hỏi: “Trụ trì Thành Giác thế nào rồi?”

Hồ Thập Tam Lang lo lắng, nói: “Dưới sự chăm sóc tận tình của cô cô, trụ trì Thành Giác cũng đã tỉnh lại. Sau khi có thể đứng dậy, ông ấy đã trở về chùa Phù Đồ. Trụ trì Thành Giác rất hối hận về những gì mình đã làm, hối hận vì vô tình đã gây hại cho nhiều người, cảm thấy có lỗi với Phật tổ. Nhưng ta cảm thấy ông ta lại chẳng hề hối hận về việc đầu độc cô cô, nhưng cô cô cũng không để tâm. Ta không hiểu cũng không biết phải nói gì, chỉ cảm thấy rất lo cho cô cô.”

Bạch Cơ nói: “Tình cảm là thứ phức tạp, người ngoài rất khó hiểu. Đây là lựa chọn của phu nhân Tâm Nguyệt Hồ, chúng ta cũng không nên nói nhiều. Có lẽ đây cũng là nhân quả đã được định sẵn từ trước.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, tại sao ngươi lại nói như vậy?”

Bạch Cơ nhấp một ngụm rượu vang, mắt nheo lại nhớ lại: “Năm xưa, phu nhân Tâm Nguyệt Hồ bị tình lang phản bội, nàng mất nội đan, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, trong lòng tràn ngập hận thù. Nàng đến Phiêu Miểu các tìm ta thực hiện một giao dịch. Ta giúp nàng tái sinh, nàng có được sức mạnh rồi đi báo thù. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ trong cơn giận dữ đã giết cả gia đình của Ninh Lang, từ phụ mẫu, thê tử đến con cái của Ninh Lang đều bị hại, không ai sống sót. Nhưng nàng vẫn còn tình cảm với Ninh Lang, không giết hắn và mong được tái hợp. Ninh Lang lại tràn đầy hận thù với nàng, trước khi chết, hắn thề độc rằng kiếp kiếp đời đời sẽ không yêu nàng, mà sẽ trừng phạt nàng rồi tự sát. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ không cam lòng, liên tục tìm kiếm kiếp sau của Ninh Lang, mỗi kiếp đều kết duyên với hắn, tái ngộ tình xưa. Lúc đó ta không hiểu gì cả, hoàn toàn không hiểu tại sao phu nhân Tâm Nguyệt Hồ lại làm như vậy. Ly Nô cũng cho rằng phu nhân Tâm Nguyệt Hồ đã phát điên. Nhưng giờ nghĩ lại, trên đời này có đủ loại người, tình cảm cũng phức tạp, đa dạng, tình yêu cũng không chỉ có một hình thức duy nhất. Phu nhân Tâm Nguyệt Hồ và Ninh Lang qua kiếp kiếp đời đời vẫn dây dưa như vậy, có lẽ đó là kết quả của tình yêu.”

Nguyên Diệu nói: “Thì ra có một câu chuyện như vậy đằng sau, tình cảm trong đó thật phức tạp…”

Hồ Thập Tam Lang vò đầu bứt tóc điên cuồng.

“Ta hoàn toàn không hiểu, chỉ cảm thấy cô cô có hơi điên rồ…”

Bạch Cơ nói: “Đây có lẽ là tình yêu. Khi yêu và hận đạt đến cực điểm, đều trở nên điên cuồng.”

Ly Nô mua đồ về, nó xách theo một con cá trắm lớn còn mang theo một chiếc giỏ tre, bên trong chứa những con cá trúc nhỏ.

Ly Nô vừa nhìn thấy Hồ Thập Tam Lang đang ngồi trong sân sau uống rượu bèn muốn gây sự nhưng vì có Bạch Cơ ở đó, nó không dám làm bừa.

Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, sao hôm nay ngươi lại mua nhiều cá thế? Cả cá trắm lẫn cá trúc?”

Mèo đen chỉ vào giỏ tre, cười nói: “Ta ngày nào cũng đi mua cá, ông lão bán cá đã quen mặt ta rồi. Giỏ cá trúc này là ông ấy tặng. Trưa nay ta không nấu cơm đâu, ta sẽ nướng cá trúc cho mọi người ăn.”

Nói xong, Ly Nô bèn vào bếp chuẩn bị.

Chẳng bao lâu, Ly Nô mang ra một chiếc lò nướng bằng đất đỏ, xiên những con cá trúc đã được ướp gia vị bằng que tre rồi đặt lên lò nướng, từ từ nướng trên lửa.

Hồ Thập Tam Lang cũng qua giúp, cầm quạt nan bắt đầu quạt lửa.

Một con mèo và một con hồ ly cùng nướng cá trúc, hương thơm của cá nướng lan tỏa trong không khí.

Một cơn gió thổi qua, cỏ khô rạp xuống, bức tranh cuộn treo trên cây bồ đề lay động phát ra những tiếng kêu lách tách.

Kể từ khi Bạch Cơ lấy lại được cuộn tranh Cực Lạc, nàng đã treo nó trên cây bồ đề, và mỗi khi rảnh rỗi, nàng lại ngồi thiền trước cuộn tranh, không biết nàng đang suy ngẫm điều gì.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, ta luôn muốn hỏi, tại sao ngươi lại treo cuộn tranh Cực Lạc trên cây bồ đề thế?”

Bạch Cơ nhấp một ngụm rượu vang, nói: “Hiên Chi, ta luôn suy nghĩ về mối quan hệ giữa lòng người, tín ngưỡng và tôn giáo. Diệt Uế tin Phật giáo, tin vào sức mạnh vô biên của Phật pháp, cả đời ông ấy đều dùng lý tưởng Phật giáo để cứu rỗi chúng sinh. Ông ấy có một chấp niệm là muốn đưa chúng sinh vào cõi Cực Lạc. Nếu như tình yêu là thứ đẩy phu nhân Tâm Nguyệt Hồ vào sự điên rồ thì tín ngưỡng là thứ khiến Diệt Uế rơi vào sự điên rồ.”

Nguyên Diệu thở dài nói: “Luôn cảm thấy Diệt Uế thiền sư thật đáng thương, cả đời này, thứ ông ấy muốn có chỉ là mọi người có cơm ăn áo mặc, không phải đối mặt với chiến tranh và cái chết.”

Bạch Cơ nói: “Đúng vậy, trong thời đại mà ông ấy sống, vì chiến tranh liên miên, thế gian ngập tràn thối nát và cái chết. Chúng sinh chìm trong khổ đau, thế giới đầy bụi trần khiến ông ấy sa vào chấp niệm. Ngày nay, thiên hạ thái bình, mọi người sống trong cảnh yên vui, con người sống an nhàn, yên ổn, chúng sinh đã sống trong thế giới Cực Lạc mà hắn từng mong đợi. Đáng tiếc, hắn lại bị chấp niệm làm mờ mắt, không nhìn thấy thế giới thực mà mang đến sự mục nát và cái chết cho chúng sinh, gây hại cho không ít người vô tội."

Nguyên Diệu cảm thấy rất buồn, thở dài đầy thương cảm.

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi, đừng nhắc đến Diệt Uế nữa. Gần đây, ta ngày nào cũng đối diện với sách Cực Lạc suy nghĩ, và sau khi suy nghĩ, ta đã rút ra một điều."

Nguyên Diệu dựng tai lên hỏi: "Là điều gì?"

Bạch Cơ nghiêm túc nói: "Niềm tin là nền tảng của tôn giáo, niềm tin tạo ra thần Phật, niềm tin bắt nguồn từ lòng người là ảo ảnh chân thật nhất của chúng sinh. Đồng thời, niềm tin cũng có thể nuôi dưỡng tâm hồn chúng sinh, mang lại sự cứu rỗi cho linh hồn của chúng sinh, và cũng có thể mang lại cho chúng sinh sức mạnh vô tận..."

Nguyên Diệu hỏi: "Vậy nên Bạch Cơ, sau khi suy nghĩ, ngươi đã rút ra kết luận gì? Có phải là ngươi sẽ tôn thờ Phật tổ một cách thành kính hơn, mỗi ngày niệm kinh nhiều hơn và làm nhiều việc thiện hơn không?"

Bạch Cơ lắc đầu, nói: "Không phải vậy, Hiên Chi. Sau khi suy nghĩ, ta rút ra kết luận rằng, ta cũng có thể tạo ra một tôn giáo."

Nguyên Diệu nghe không rõ, hỏi lại: "Cái gì?!"

Bạch Cơ nghiêm túc nói: "Nếu lòng người đã cần niềm tin, tôn giáo lại được sinh ra từ niềm tin thì ta cũng có thể mượn sức mạnh của lòng người, tạo ra một tôn giáo. Nếu tôn giáo này đi sâu vào lòng người, có nhiều tín đồ, lan rộng khắp thế giới thì chẳng mấy chốc sẽ được thu thập đủ hàng vạn nhân quả. Ta sẽ không cần mở Phiêu Miểu các nữa, cũng không cần phải thu thập từng nhân quả một, cực khổ biết bao."

“Phụt...”

Nguyên Diệu phun một ngụm rượu nho ra ngoài. Con rồng yêu này mỗi ngày ngồi dưới gốc cây bồ đề suy nghĩ, rút ra được kết luận là phải tạo ra một tôn giáo mới sao?

"Bạch Cơ, việc tạo ra một tôn giáo mới là rất khó khăn..."

"Không khó khăn lắm. Ngươi xem, bức trạn Cực Lạc là ta tạo ra, nó cũng thu hút được nhiều người còn khiến kinh đô dấy lên một làn sóng ưa chuộng Cực Lạc nữa."

Làn sóng ưa chuộng Cực Lạc nổi lên là do chấp niệm của Diệt Uế và Cực Lạc Tán mê hoặc mọi người, chứ không phải do bức tranh Cực Lạc giả mạo của ngươi đâu.

Nguyên Diệu nghĩ thầm.

"Tạo ra tôn giáo gì đây nhỉ? Phải có đông đảo tín đồ mới được."

Bạch Cơ suy nghĩ.

Ly Nô vừa nướng cá thanh trúc vừa nói: "Chủ nhân, dân dĩ thực vi thiên, ai ai cũng cần ăn cơm, ăn cơm là điều mà mọi người đều phải làm, ngươi có thể tạo ra một giáo phái về ẩm thực."

Bạch Cơ có hơi khó khăn, nói: "Giáo phái về ẩm thực có thể có nhiều tín đồ. Nhưng ta lại không biết nấu ăn..."

Ly Nô nói: "Chủ nhân, Ly Nô biết nấu. Người không cần lo lắng. Người chỉ cần làm thần minh, Ly Nô sẽ làm giáo chủ, thay ngươi chiêu mộ tín đồ, thu thập nhân quả."

Hồ Thập Tam Lang vừa để cá thanh trúc nướng vào đĩa lá sen vừa mang tới cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu vừa nói: "Mỗ cũng có chút tài nghệ nấu nướng, vậy thì mỗ sẽ làm hộ pháp của giáo phái ẩm thực."

Bạch Cơ cầm một xiên cá thanh trúc nướng lêm, cắn một miếng, cười nói: "Thơm ngon, mềm mại, đúng là ngon! Hiáo phái ẩm thực này biết đâu có thể thành công!"

Nguyên Diệu vốn có rất nhiều điều muốn nói nhưng sau khi cắn một miếng cá nướng thì quên mất mình định nói gì.

Nguyên Diệu vừa ăn cá thanh trúc nướng thơm ngon vừa lắng nghe Bạch Cơ, Ly Nô, và Hồ Thập Tam Lang bàn luận sôi nổi, xây dựng nên một bức tranh lớn về giáo phái ẩm thực, hắn chợt cảm thấy buổi chiều mùa thu ấm áp này thật đẹp đẽ.

Cực Lạc thế giới, cũng chỉ đến thế mà thôi.

Một cơn gió thổi qua, dưới gốc cây bồ đề, sách Cực Lạc bay phấp phới theo gió, hình ảnh Diệt Uế trên đó mỉm cười, biểu cảm hạnh phúc và vui vẻ, dường như đã bước vào thế giới Cực Lạc vĩnh hằng.

Cuối thu đã đến rồi.

(Sách Cực Lạc hết)
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 14


Lạc Dương, núi Mang.

Cây cối mọc dày đặc xanh tươi như mây, giữa rừng núi hẻo lánh ít dấu chân người, chỉ có những sợi dây leo treo lơ lửng giữa hàng loạt những ngôi mộ cổ.

Núi Mang đất dày nước thấp rất thích hợp cho việc an táng, từ xưa đến nay, các hoàng đế và danh nhân phần lớn đều được chôn cất tại đây, thậm chí dân thường cũng có nhiều người được an táng trong núi này.

Giữa rừng núi sâu thẳm, có một ngôi mộ cổ đã sập một nửa bị dây leo phủ kín, ngay cả ánh nắng giữa trưa cũng không thể xuyên qua.

Bên trong mộ cổ có một căn phòng tối tăm, trong phòng đặt nhiều hũ thuốc lớn nhỏ, trên mặt đất còn rải rác những dược liệu kỳ quái.

Trên đống lửa, một chiếc ấm đất có hai tai đang treo lơ lửng, bên trong chiếc ấm chứa một chất lỏng màu nâu xanh đang sôi sùng sục và bốc lên những bong bóng nhỏ.

Bên cạnh đống lửa có một con yêu quái trông rất giống linh cẩu đang ngồi xổm, nó vươn móng vuốt, cầm một chiếc que gỗ khuấy chất lỏng màu nâu xanh trong ấm.

Đó là một con Tất Xá Già*.

*Tất Xá Già: Quỷ ăn xác trong thần thoại Ấn Độ.

Móng vuốt của Tất Xá Già sắc nhọn như dao, trên đó vẫn còn nhỏ máu tươi.

“Cái tên vu y đáng chết này vừa đến Thần Đô là quên cả thời gian, giờ vẫn chưa chịu quay về…” Tất Xá Già vừa khuấy thuốc vừa lẩm bẩm oán trách.

“Cứu mạng...cứu mạng với...”

Từ phòng mộ bên cạnh truyền đến tiếng khóc nức nở xen lẫn với tiếng kêu cứu.

Tất Xá Già vừa nghe tiếng kêu cứu từ phòng bên cạnh vừa tiếp tục khuấy vu dược.

Qua một thời gian dài, vu dược trong nồi gốm đã biến thành màu xanh lục, chuyển thành trạng thái sền sệt, gần như đông đặc.

“Ờm, gần xong rồi.”

Tất Xá Già đặt cây gậy gỗ xuống, không khuấy nữa rồi dùng cây gậy cời lửa để ngọn lửa nhỏ lại.

“Cứu mạng...”

Tiếng kêu cứu từ phòng mộ bên cạnh ngày càng khàn và yếu.

Tất Xá Già đứng dậy, vươn vai một cái.

“Ôi, đói quá, phải nấu cơm thôi.”

Tất Xá Già băng qua một cánh cửa mộ,tiến vào phòng mộ bên cạnh.

Trong phòng mộ, những dây leo quấn quanh, một thanh niên loài người bị trói chặt vào một cây cột tròn bằng những dây leo.

Khi thanh niên nhìn thấy Tất Xá Già đi tới, thì hắn lập tức thấy sợ hãi vô cùng. Sức lực của hắn đã cạn kiệt, giọng nói đã khàn đặc.

“Cứu mạng...”

Tất Xá Già không thèm để ý đến thanh niên vì dù hắn có kêu gào thế nào thì trong vùng sâu của núi Mang này không ai có thể nghe thấy tiếng kêu cứu từ ngôi mộ cổ.

Tất Xá Già đi qua thanh niên tiến về phía một chiếc bàn đá lớn.

Trên bàn đá máu me bê bết, đặt những con dao như rìu, dao lóc xương, dao bếp và một số mảnh thịt xương đã bị chặt nhỏ nằm rải rác.

Khi thấy Tất Xá Già tiến về phía bàn đá, khuôn mặt thanh niên trở nên tái nhợt, đôi chân run rẩy.

Tất Xá Già đứng trước bàn đá, cúi xuống từ dưới đất nhấc lên một miếng thịt heo vẫn còn đẫm máu ném lên bàn đá.

Tất Xá Già cầm lên cây rìu bắt đầu chặt thịt.

Xương thịt bắn tung tóe, máu tươi tuôn chảy.

Khi thấy Tất Xá Già múa rìu chặt thịt một cách hùng hổ, thanh niên sợ hãi hét lên một tiếng, hai mắt lật lên, ngất xỉu.

Thì ra Tất Xá Già không chặt thịt heo mà là nửa phần cơ thể của một người.

Người này khi còn sống là bạn của thanh niên này.

Tất Xá Già quay đầu lại thì thấy thanh niên đã ngất xỉu, nói: “Chậc chậc, thật nhát gan! Hôm nay ta không ăn ngươi, mặc dù ta rất muốn ăn ngươi nhưng ngươi vẫn còn phải làm người thử thuốc cho vu y mà.” Tất Xá Già đặt cây rìu xuống, nâng lên cái đầu vừa chặt, nó hít lấy hít để, ngửi mùi não trắng toát thì thèm nhỏ dãi.

“Thơm quá! Não tươi ngon như thế này nên nướng hay nấu canh đây?” Một sợi dây leo từ trên không trung thò xuống, quấn quanh cái đầu mà Tất Xá Già đang cầm rồi lập tức đâm vào, khuấy mạnh.

“Khì khì, ngươi cũng thấy não người rất thơm phải không? Đừng khuấy nữa, bị ngươi khuấy nát hết rồi thì chỉ có thể nấu canh thôi.” Dây leo rút ra khỏi đầu, lập tức quấn lấy cổ dài của Tất Xá Già rồi đột ngột siết chặt như muốn bóp nghẹt nó.

Tất Xá Già vứt cái đầu xuống đưa móng vuốt giữ chặt lấy dây leo, nói: “Khụ khụ, đừng nghịch nữa! Nếu nghịch nữa cẩn thận ta mách vu y đấy!” Nghe đến hai từ “vu y”, dây leo lập tức thả Tất Xá Già ra, rồi lập tức lặng lẽ rút lui.

Tất Xá Già cúi đầu thì thấy não tươi đã bắn tung tóe trên bàn đá, không khỏi cảm thấy chán nản. Dù nướng hay nấu canh cũng đều không thể dùng được nữa.

“Haizz! Thật tiếc cho cái đầu ngon lành như thế! Xem ra, hôm nay chỉ có thể nướng chân người thôi.” Không ai trả lời Tất Xá Già, trong ngôi mộ cổ chỉ có những dây leo lay động, im lặng không tiếng động.

*

Giữa hè, Lạc Dương.

Phiêu Miểu các, sân sau.

Trên tường viện, dây leo của hoa hồng dại mọc đầy, màu xanh biếc và đỏ rực đan xen, phản chiếu lẫn nhau.

Một cơn gió nhẹ thoảng qua, những cánh hoa rơi rụng mang theo từng làn hương nhẹ như tiếng hát mơ hồ.

Bạch Cơ mặc một chiếc váy Lưu Tiên tay rộng, màu trắng tuyết với hoa văn hoa sen, tóc ngươi được búi nửa chùng, trên tóc cài một bông mẫu đơn Diêu Hoàng, rủ xuống một chuỗi tua rua ngọc trai màu trắng sữa.

Bạch Cơ ngồi dưới mái hiên hành lang, bên cạnh nàng là một vò rượu Kim Cốc, một đĩa bánh hoa sen, một đĩa dưa mật và một đĩa nho.

Bạch Cơ vừa ngắm hoa hồng dại nở rộ vừa tự rót rượu uống. Đôi mắt nàng như đóa sen màu xanh, long lanh như nước, hai má ửng hồng do men say như ráng mây.

Bạch Cơ cầm lấy vò rượu để rót thêm nhưng phát hiện ra vò rượu Kim Cốc đã cạn.

“Hiên Chi... Hiên Chi...” Bạch Cơ lớn tiếng gọi.

Nguyên Diệu đang ngồi ghi chép sổ sách bên bàn ngọc xanh trong phòng, nghe thấy Bạch Cơ gọi mình thì vội vàng dừng bút, thò đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn.

“Có chuyện gì vậy, Bạch Cơ?”

Bạch Cơ lắc lắc cái vò rượu rỗng, cười nói: “Hi hi, rượu Kim Cốc uống hết rồi, phiền Hiên Chi lấy thêm cho ta một vò nữa.”

Nguyên Diệu nghe vậy thì khuyên: “Bạch Cơ, giữa ban ngày ban mặt, ngươi nên uống ít rượu thôi.”

Bạch Cơ thở dài: “Không có khách, rảnh rỗi buồn chán. Ngoài uống rượu ra thì ta cũng không biết làm gì khác.”

Nguyên Diệu nói: “Ngươi có thể đọc thơ. Gần đây có mấy bài thơ mới được truyền tụng rất hay.”

Bạch Cơ lắc chiếc cốc sứ xanh, cười nói: “Rượu là thơ đựng trong cốc, ta thế này là đang đọc thơ rồi. Hiên Chi lấy thêm cho ta một vò rượu Kim Cốc rồi ta sẽ tiếp tục đọc.” Nguyên Diệu toát mồ hôi.

Nguyên Diệu đứng dậy, lấy một vò rượu Kim Cốc từ ngăn dưới của tủ Đa Bảo mang ra sân sau cho Bạch Cơ.

Bạch Cơ nhận lấy vò rượu Kim Cốc, cười nói: “Cảm ơn Hiên Chi.”

Nguyên Diệu lo lắng nói: “Bạch Cơ, tháng này đã qua hai mươi ngày rồi mà Phiêu Miểu các vẫn chưa mở cửa, không có một đồng nào thu vào. Lan Đình Trúc, rượu Kim Cốc đều là những thứ quý nhất ở Thần Đô. Vò rượu Kim Cốc này giá năm mươi lạng bạc một vò, tháng này ngươi đã uống hết ba mươi vò rồi. Không, tính luôn vò này là ba mươi mốt vò. Chỉ riêng tiền rượu thôi thì tháng này đã tốn một nghìn năm trăm lạng bạc... Thu không bù chi, ta thấy không ổn chút nào.”

Bạch Cơ dừng tay, không tiếp tục mở nắp vò rượu nữa, nói: “Nghe Hiên Chi nói vậy, có vẻ như đúng là tiêu xài quá nhiều. Lạ thật, trước đây ở Lạc Dương cũng uống rượu Kim Cốc thoải mái thế này mà sao không thấy tốn kém gì nhiều nhỉ.”

“Đó là vì Ly Nô lão đệ chưa bao giờ ghi sổ…”

Nghe vậy, Bạch Cơ vui vẻ đập vỡ nắp bùn trên vò rượu, rót một chén rượu Kim Cốc.

“Vậy Hiên Chi đừng ghi sổ nữa là được rồi.”

“...”

Bạch Cơ lại rót thêm một chén rượu Kim Cốc, đưa cho tiểu thư sinh đang nhăn nhó.

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi đừng lo lắng, ta đã có ý tưởng rồi. Tháng này sẽ không bị lỗ đâu.”

Nguyên Diệu nhận chén rượu Kim Cốc, uống một ngụm hỏi: “Ý tưởng gì vậy?”

Bạch Cơ cười nói: “Trước đây, chẳng phải Võ đế đã phong ta làm Thiên Hộ Hầu ở núi Mang sao? Phiêu Miểu các không có khách, cũng không thể cưỡng cầu, chúng ta đi dạo quanh lãnh địa xem có thể kiếm được chút bạc nào không.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, tiểu sinh không hiểu lắm, ngươi định đi núi Mang tìm ai đòi bạc vậy?”

Bạch Cơ chớp mắt, cười gian nói: “Điều đó thì còn phải xem bắt được ai sau khi vào núi Mang thôi.” Nguyên Diệu muốn hỏi kỹ hơn nhưng đột nhiên có một cái đầu mèo nhô ra từ bụi hoa hồng từ phía sau tường viện.

Đó là một con mèo li hoa.

Mèo li hoa có đôi mắt tròn xoe và bộ lông xù xì rối bời.

Khi mèo li hoa nhìn thấy Nguyên Diệu thì khẽ kêu lên một tiếng.

“Meo...”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu cùng ngẩng đầu nhìn về phía bụi hoa hồng thì vừa khéo bắt gặp ánh mắt của mèo li hoa.

Bạch Cơ cười nói: “Ôi chao, là công chúa Ngọc Quỷ đấy à.”

Nguyên Diệu cũng cười nói: “Công chúa Ngọc Quỷ sao lại có thời gian đến Thần Đô vậy?” Mèo li hoa thấy Nguyên Diệu nói chuyện với mình thì vô cùng xấu hổ, nó vội vàng thụt đầu lại, trốn sau bụi hoa hồng, sau khi đã chải lại bộ lông rối bời của mình cho mượt mà thì nó mới lại thò đầu ra.

“Bạch Cơ, Nguyên công tử, đã lâu không gặp…”

Bạch Cơ cười nói: “Công chúa Ngọc Quỷ, mau vào đây ngồi nào. Vừa hay ở đây có một vò rượu Kim Cốc, chúng ta cùng vừa ngắm hoa vừa uống rượu.”

“Được.” Công chúa Ngọc Quỷ ngượng ngùng nói.

Mèo li hoa nhanh nhẹn nhảy vào Phiêu Miểu các, băng qua khu vườn cỏ dại um tùm đến bên dưới mái hiên hành lang.

Mèo li hoa ngồi xổm đối diện với Nguyên Diệu, vô cùng ngượng ngùng lại rất căng thẳng.

Bạch Cơ rót một chén rượu Kim Cốc, đặt trước mặt mèo li hoa.

Mèo li hoa hồi hộp uống một ngụm, đột nhiên nhận ra, nói: “Rượu?! Vừa nãy ta quá kích động, nghe nhầm thành uống trà… Không, không, ta không thể uống rượu, uống rượu là phạm vào giới luật rồi…”

Bạch Cơ nói: “Ơ… Vậy ăn chút điểm tâm đi. Ngụm vừa rồi là vô ý, Phật tổ sẽ không trách đâu.”

Nguyên Diệu hỏi: “Công chúa Ngọc Quỷ, nàng vẫn đang tu hành ở Am Linh Tiêu sao?”

Mèo li hoa nghe Nguyên Diệu hỏi thì kích động nói: “Không còn ở đó nữa. Sư phụ ta đã tặng ta cho người khác rồi!” Bạch Cơ và Nguyên Diệu đều sững sờ.

Mèo li hoa vội giải thích: “Sư phụ ta có một người bạn thân cũng là ni cô, pháp danh là Vân Không - trụ trì am Vân Hoa ở Lạc Dương. Trụ trì Vân Không đến Am Linh Tiêu chơi thì thấy ta rất dễ thương nên sư phụ ta đã tặng ta cho bà ấy. Ban đầu ta không muốn bị tặng đi nhưng khi nghĩ đến am Vân Hoa ở Lạc Dương, mà Nguyên công tử cũng ở Lạc Dương nên ta không phản đối nữa. Ta đã ở am Vân Hoa được nửa tháng rồi.” Nguyên Diệu hỏi: “Am Vân Hoa ở phường nào vậy?”

Mèo li hoa kích động nói: “Am Vân Hoa không nằm trong thành Lạc Dương, mà ở ngoài cửa Kiến Xuân, đi dọc theo sông Y ba dặm là đến. Nếu Nguyên công tử có thời gian thì hãy đến chơi!”

Nguyên Diệu toát mồ hôi. Nơi đó là am ni cô, thường chỉ có nữ giới đến dâng hương, một nam nhân như hắn không có việc gì lại đến am ni cô chơi, thật sự không hợp lý lắm.

Bạch Cơ cười nói: “Công chúa Ngọc Quỷ ở am Vân Hoa có quen không?”

Mèo li hoa cười nói: “Rất quen. Mọi người đều rất thân thiện, cũng rất chăm sóc ta. Sư tỷ Vô Lộc lo ta ăn chay không béo được, thỉnh thoảng còn lén cho ta ăn cá bắt từ sông Y… À đúng rồi, sư tỷ Vô Lộc vẫn đang đợi ở quán trà đấy!”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu nhìn nhau.

Mèo li hoa nói: “Hôm nay ta đến Phiêu Miểu các một là để thăm… Nguyên công tử và Bạch Cơ, hai là để đưa sư tỷ Vô Lộc đến Phiêu Miểu các, nàng ấy có chuyện khổ tâm, hy vọng Bạch Cơ có thể giúp nàng ấy giải quyết.”

Mắt Bạch Cơ sáng lên, nói: “Ôi! Có khách rồi.”

Mèo li hoa nói: “Bạch Cơ, sư tỷ Vô Lộc rất nghèo, không có tiền bạc, mặc dù nàng ấy luôn mong muốn phát tài…”

Bạch Cơ cười nói: “Không sao, nếu đã là sư tỷ của công chúa Ngọc Quỷ thì ta sẽ tính cho nàng ấy giá rẻ. Nàng ấy đâu rồi?”

Mèo li hoa nói: “Vị sư tỷ Vô Lộc dường như không thể vào được Phiêu Miểu các. Ta đã cùng nàng tìm Phiêu Miểu các ở chợ Nam, đi mấy vòng đến mức chân đều mỏi mà vẫn không tìm thấy. Sư tỷ Vô Lộc đi mệt rồi nên tìm một quán trà để nghỉ ngơi. Ta bảo nàng chờ còn ta tự đi tìm nhưng vẫn không tìm thấy. Tuy nhiên, ta cảm nhận được một luồng khí tức ẩn giấu của kết giới nên đã phá kết giới mà vào được.” Bạch Cơ im lặng một lúc rồi đột ngột đứng lên.

Nguyên Diệu giật mình hỏi: “Bạch Cơ sao vậy?”

Bạch Cơ đáp: “Hiên Chi, ta biết tại sao hai mươi ngày qua không có khách đến rồi.”

Nguyên Diệu hỏi: “Tại sao?”

“Ta đã quên mở kết giới. Cuối tháng trước ta đã củng cố lại kết giới nhưng vì muốn uống rượu nên quên mất việc mở kết giới. Đợi đến khi tỉnh rượu ta lại nghĩ rằng mình đã mở kết giới rồi. Phiêu Miểu các cứ đóng cửa như vậy không cho ai vào, tất nhiên sẽ không có khách rồi.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi, nói: “…Bạch Cơ, uống rượu làm hỏng việc, xin ngươi đừng uống quá nhiều nữa.”

Công chúa Ngọc Quỷ nói: “Để ta đi gọi sư tỷ Vô Lộc đến?”

Bạch Cơ nói: “Hiên Chi đi cùng công chúa Ngọc Quỷ, dẫn đường cho họ. Trước khi các người trở lại thì ta sẽ mở kết giới.” Thế là Nguyên Diệu và mèo li hoa rời khỏi Phiêu Miểu các.

Trong chợ Nam, thương nhân đông đúc, người qua kẻ lại tấp nập.

Quán trà nơi Vô Lộc nghỉ chân thực ra không xa Phiêu Miểu các, Nguyên Diệu và mèo li hoa đã đến ngay.

Vô Lộc là một ni cô trẻ tuổi, mặc áo ni cô màu xám, dáng người đầy đặn, gương mặt hiền hòa và trông rất mệt mỏi.

Vô Lộc nhìn thấy mèo li hoa bèn thanh toán tiền trà và rời khỏi quán trà.

Mèo li hoa nhảy lên vai Vô Lộc, nói nhỏ: “Sư tỷ Vô Lộc, chúng ta đã tìm được Phiêu Miểu các rồi, cùng đi thôi. Vị này là Nguyên công tử của Phiêu Miểu các.”

Sau khi Vô Lộc và Nguyên Diệu chào hỏi nhau, hai người một mèo đi qua khu chợ tiến vào một con hẻm cụt.

Nguyên Diệu, Vô Lộc và mèo li hoa chưa kịp đi vào hẻm cụt thì Ly Nô vừa xách một con cá lớn màu vàng vừa nghêu ngao hát trở về.

Ly Nô nhìn thấy nhóm Nguyên Diệu thì cười nói: “Mèo rừng, sao ngươi cũng đến Trường An? Mọt sách, ni cô mập này là ai thế?”

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, không được vô lễ! Đây là sư cô Vô Lộc, khách của Phiêu Miểu các.”

Vô Lộc tò mò nhìn thiếu niên mặc áo đen đang xách một con cá vàng lớn.

Mèo li hoa nói: “Sư tỷ Vô Lộc đừng để ý đến hắn, hắn chỉ là kẻ ăn không ngồi rồi trong Phiêu Miểu các thôi.” Ly Nô định phản bác nhưng sợ mèo li hoa tức giận biến thành mèo rừng, hắn đánh không lại nên im lặng.

Vô Lộc nhìn con cá vàng, thở dài nói: “Ngọc Quỷ, chờ khi ta phát tài, ta sẽ mua cá vàng lớn cho ngươi ăn.” mèo li hoa vui vẻ.

Ly Nô bĩu môi, nói: “Mèo rừng, ngươi đừng mơ nữa. Nàng ta đã tên là Vô Lộc rồi thì còn phát tài gì nữa?”

Nguyên Diệu nghe vậy thì vội nói: “Ly Nô lão đệ, mau ngậm miệng lại...”

Trong lúc nói chuyện tranh cãi, bốn người họ đã đi qua hẻm cụt và tiến vào Phiêu Miểu các.

*

Phiêu Miểu các, bên trong.

Bạch Cơ, Vô Lộc và mèo li hoa cùng ngồi xuống bên cạnh bàn ngọc xanh.

Nguyên Diệu pha một ấm trà hương nhụy, mang đến một đĩa dưa mật ong và một đĩa nho.

Bạch Cơ cười nói: “Sư thái Vô Lộc, có chuyện gì khiến người phiền muộn sao?”

Vô Lộc uống một ngụm trà hương nhụy, nhăn mày nói: “Là thế này. Người đệ đệ ở thế tục của ta gần đây gặp phải chuyện kỳ lạ, phát bệnh điên loạn. Nương già không biết làm sao đành đến chùa Vân Hoa tìm ta, mong ta mượn phúc của Phật ta giúp đệ đệ ta hồi phục lại như cũ. Ta hàng ngày thành tâm tụng kinh cầu nguyện nhưng đệ đệ vẫn không khá hơn, Ngọc Quỷ nói những chuyện quái lạ như thế này có thể đến Phiêu Miểu các nên ta đến đây.”

Bạch Cơ nói: “Sư thái Vô Lộc, đệ đệ người gặp chuyện gì thế?”

Vô Lộc đáp: “Nghe nương ta nói, đệ đệ ta và bạn đi Núi Mang ngắm cảnh, hai người bị mất tích. Vài ngày sau một đoàn thương buôn đi ngang qua con đường dưới núi phát hiện đệ đệ ta nằm trong bụi cỏ bèn cứu hắn và đưa hắn vào kinh thành. Trùng hợp, người hàng xóm của ta đang làm ăn ở chợ Tây nhận ra đệ đệ ta, nương ta đã cảm ơn đoàn thương buôn và đưa đệ đệ về nhà. Sau khi tỉnh lại, đệ đệ ta thần trí không tỉnh táo, điên loạn, nói gì mà chó hoang, yêu quái dây leo, ăn thịt người... Thầy thuốc cũng hết cách, mời đạo sĩ đến trừ tà cũng không hiệu quả, nương ta rất lo, đành đến tìm ta mong tìm ra cách.”

Bạch Cơ lẩm bẩm: “Núi Mang à... Thế này nhé, sư thái Vô Lộc, ta sẽ đến nhà người xem tình trạng của đệ đệ người rồi tính tiếp.”

Vô Lộc thở phào nhẹ nhõm, nói: “Tốt quá rồi! Nhà của ta ở Phường Đại Đồng. Phường Đại Đồng, phố số hai, nhà họ Ngô bán đậu hũ. Ngươi đến Phường Đại Đồng hỏi thăm là biết ngay. Hôm nay ta lấy cớ mua kim chỉ để ra ngoài, phải quay về chùa Vân Hoa, không thể đưa ngươi đi được.”

Bạch Cơ cười nói: “Không sao. Ta và Hiên Chi sẽ đi cùng.”

Vô Lộc gãi đầu hỏi: “Xin hỏi, tiền thù lao là bao nhiêu thế? Ngọc Quỷ nói rằng quy tắc của Phiêu Miểu các là vật đổi vật, mọi việc đều có cái giá của nó.”

Bạch Cơ cười nói: “Ta chưa rõ tình trạng của đệ đệ người thế nào nên vấn đề thù lao đợi ta xem đã rồi mới quyết định.”

Vô Lộc chắp tay, nói: “A Di Đà Phật! Cảm ơn Bạch Cơ thí chủ rất nhiều.”

Vô Lộc uống hết trà hương nhụy rồi cùng công chúa Ngọc Quỷ cáo từ.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 15


Phường Đại Đồng, phố số hai.

Sau khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu đến Phường Đại Đồng, họ hỏi thăm hàng xóm và lập tức tìm đến nhà họ Ngô bán đậu hũ.

Gia đình của Vô Lộc có hai người đệ đệ, một người là ca ca, và một người là đệ đệ. Ca ca của Vô Lộc cùng với tẩu tẩu và nương già điều hành quán đậu hũ để kiếm sống. Đệ đệ của nàng là Ngô Du mới hai mươi tuổi, không làm việc gì đàng hoàng, chỉ lang thang trên các đường phố ở Lạc Dương. Hắn và bạn bè đi chơi Núi Mang và bị mất tích, khi trở về thì mắc chứng bệnh kỳ lạ.

Ngô Đại Nương khi nghe thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu là đạo sĩ mà con gái mời đến bèn vội vàng chào đón và đưa họ vào trong viện.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi theo Ngô Đại Nương đi về phía nam viện.

Khi họ bước vào viện, bước chân của Ngô Đại Nương nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

“Aaaaaaaaa...”

Đột nhiên, từ trong phòng vang lên tiếng hét đầy sợ hãi của một nam nhân.

Bạch Cơ bịt tai lại.

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: "Đại nương, có chuyện gì vậy?"

Ngô đại nương khóc lóc: "Là con trai ta... chắc chắn nó đã nghe thấy tiếng bước chân của các vị, mỗi khi nghe tiếng bước chân thì nó lại hét lên như thể bị thứ gì đó làm cho khiếp sợ. Từ khi nó trở về, chúng ta không dám đi nặng chân trong sân vì sợ nó tái phát bệnh."

Vừa nói, Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ngô đại nương đã đến trước cửa phòng bên.

Ngô đại nương đẩy cửa bước vào, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi theo sau.

Phòng bên trong rất lộn xộn, chân đèn, lư hương, bàn ghế, bát đĩa bị vứt bừa bộn dưới đất. Trên sàn còn sót lại tro tàn của các nghi lễ trừ tà và giấy bùa đã cháy, dưới cửa sổ còn nửa bát muối thô và một ít đậu. Một thanh niên gầy yếu, run rẩy co ro trong góc phòng trên một tấm thảm lông, chắc hẳn là Ngô Du.

Khuôn mặt Ngô Du vàng vọt, môi cũng không còn chút sắc máu, đôi mắt hắn đầy sợ hãi, thỉnh thoảng lại rơi vào trạng thái đờ đẫn mất trí.

Khi Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ngô đại nương bước vào, Ngô Du vừa la lên "Đừng lại đây, cứu với! Cứu với!" vừa cố gắng lùi vào góc phòng như thể chỉ có chui rúc vào góc phòng, hắn mới có thể trốn tránh mọi nỗi kinh hoàng.

Nhìn một thanh niên tuổi trẻ đầy sức sống mà giờ lại biến thành như vậy, Nguyên Diệu không khỏi cảm thấy buồn bã.

Ngô đại nương vừa khóc vừa hỏi: "Hai vị cao nhân định trừ tà thế nào? Cần những thứ gì? Đàn hương, giấy bùa, chu sa vẫn còn lại một ít từ lễ trừ tà của đạo sĩ hôm trước..."

Bạch Cơ liếc nhìn Ngô Du, nói: "Chúng ta không cần những thứ đó. Ngô đại nương, con trai của ngươi không bị tà nhập, hắn chỉ bị kinh hoàng tột độ, tâm trí bị giam cầm trong tấm ma thôi... Ngươi thấy không, đầu óc của hắn bị bao phủ bởi bóng tối của những dây leo, những dây leo ấy là nguồn gốc của ác mộng, sự sợ hãi đối với chúng đã che mờ tâm trí hắn..."

Ngô đại nương lau nước mắt nhìn con trai mình, ngờ vực hỏi: "Dây leo gì? Ta không nhìn thấy..."

Nguyên Diệu nhìn kỹ Ngô Du, chỉ thấy trên đỉnh đầu hắn có một đám khí đen dơ bẩn, không có dây leo gì cả. Tuy nhiên, nếu Bạch Cơ nói có dây leo thì chắc chắn là có dây leo, nàng ấy có thể nhìn thấy những thứ con người không thể thấy.

Bạch Cơ quan sát xung quanh, cười nói: "Ngô đại nương, có thể cho ta một cốc trà không?"

Ngô đại nương nghe vậy, tưởng rằng Bạch Cơ muốn uống trà thì cảm thấy áy náy: "Ta chỉ lo cho bệnh tình của con trai mà quên mất chuyện pha trà tiếp đãi hai vị cao nhân, đúng là thất lễ, mong hai vị thứ lỗi..."

Ngô đại nương vội vàng ra ngoài pha trà.

Nguyên Diệu nhìn quanh, nói: "Bạch Cơ, có vẻ như nhà họ Ngô đã thực hiện rất nhiều lễ trừ tà nhưng dường như không có hiệu quả gì cả."

Bạch Cơ nói: "Không bị tà nhập thì trừ tà làm gì? Có làm trăm lần cũng là vô ích thôi."

Nguyên Diệu nhìn Ngô Du, lo lắng hỏi: "Bạch Cơ có thể chữa khỏi cho hắn không?"

Bạch Cơ cười đáp: "Mạnh như người lực sĩ nhặt lên một cọng rơm."

Nguyên Diệu ngơ ngác hỏi: "Ý ngươi là gì?"

Bạch Cơ cười: "Dễ như trở bàn tay."

Nguyên Diệu toát mồ hôi: "Bạch Cơ đang tự sáng tạo ra mấy câu thành ngữ linh tinh gì vậy?"

"Hi hi."

Vừa nói, Ngô đại nương đã bưng một khay gỗ sơn đỏ vào phòng, trên khay có hai tách trà.

Ngô đại nương nói: "Ta đã thất lễ, mời hai vị cao nhân dùng trà."

Nguyên Diệu vội vàng cầm lấy một tách, nói: "Cảm ơn Ngô đại nương."

Bạch Cơ cầm lấy tách trà, đi về phía Ngô Du đang co ro ở góc phòng, nàng đặt tách trà cách Ngô Du bảy bước chân.

Ngô Du sợ hãi, không hiểu Bạch Cơ đang làm gì nhưng khi có người tiến lại gần mình, hắn theo bản năng cảm thấy sợ hãi muốn bỏ chạy.

Bạch Cơ nói: "Ngô đại nương, Hiên Chi, các người qua đây giữ chặt hắn, đừng để hắn cử động."

Ngô đại nương lúc này mới hiểu, Bạch Cơ xin trà không phải để uống mà để "trừ tà". Bà vội vàng tiến đến bên cạnh con trai vừa trấn an vừa giữ chặt hắn. Vì đã nhiều lần tổ chức lễ trừ tà để ngăn con trai bỏ chạy điên cuồng, nên bà đã quen với việc này.

Nguyên Diệu đặt tách trà xuống, cũng tiến đến góc phòng giúp Ngô đại nương giữ chặt Ngô Du.

Bạch Cơ tiến về phía cửa sổ, nơi có một bát muối thô và một vài hạt đậu rải rác.

Bạch Cơ nhặt một ít muối thô, quay lại chỗ tách trà thả muối vào trong trà.

Bạch Cơ lẩm bẩm vài câu chú, muối thô tan dần trong nước trà. Khi muối tan, một làn sương vàng nhẹ nhàng bay lên từ tách trà.

Những làn sương vàng này bay về phía đầu Ngô Du, quấn quanh bóng tối dày đặc trên đầu hắn.

Bóng tối dần dần tan biến trong cuộc đấu tranh với sương vàng.

Nỗi sợ hãi bị ám ảnh bởi tâm ma của Ngô Du bị xua tan, đầu óc của hắn dần trở nên sáng tỏ, ánh mắt của hắn cũng trở nên tỉnh táo hơn.

Tách trà đã biến thành một màu đen đục.

Ngô Du tỉnh táo nhìn quanh, khi nhìn thấy Ngô đại nương thì hắn yếu ớt gọi: "Nương ơi." Ngô đại nương thấy con trai tỉnh táo trở lại thì vừa mừng vừa lo, xúc động đến mức không nói nên lời.

Nguyên Diệu buông Ngô Du ra.

Bạch Cơ cười nói: "Xong rồi. Ngô đại nương, con trai ngươi đã không sao, hắn sẽ không còn bị ám ảnh bởi tâm ma nữa. Tuy nhiên, do cơ thể hắn đã yếu đi vì sợ hãi nên cần nằm dưỡng bệnh một thời gian."

Ngô đại nương vui mừng nói: "Đúng là tốt quá! Cảm ơn hai vị cao nhân rất nhiều."

Bạch Cơ cười nói: "Vì chuyện đã xong rồi nên chúng ta cũng xin cáo từ."

Ngô đại nương cảm ơn rối rít, bà muốn đưa bạc cho Bạch Cơ nhưng nàng từ chối, nói rằng chỉ giúp bạn bè, không nhận bạc, chỉ xin tách trà đã biến thành màu đen kia.

Ngô đại nương cảm thấy áy náy, bà cố chấp tặng cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu một túi đậu hũ lớn do nhà bà làm, họ không từ chối được nên đành nhận lấy.

Nguyên Diệu ôm túi đậu hũ lớn, Bạch Cơ cầm tách trà, cả hai cùng đi trên con đường trở lại chợ Nam.

Nguyên Diệu nói: "Bạch Cơ, ta có rất nhiều câu đang muốn hỏi."

Bạch Cơ cười đáp: "Còn bốn phường nữa mới đến chợ Nam, Hiên Chi cứ từ từ hỏi."

Nguyên Diệu hỏi: "Tại sao ngươi lại cho muối vào trong trà?"

Bạch Cơ cười nói: "Muối là một thứ quan trọng, có thể hóa giải tà khí, tâm ma cũng là một loại tà khí. Thêm muối vào trà gọi là "an dẫn thủy", kèm theo chú an thần, có thể làm sạch đầu óc và trấn an tâm linh con người."

Nguyên Diệu lại hỏi: "Bạch Cơ không tò mò về những điều kỳ lạ mà Ngô Du gặp phải ở trong núi Mang sao? Khi hắn tỉnh lại, sao ngươi không hỏi hắn?"

“Không hỏi được gì đâu, Ngô Du bây giờ đã không nhớ gì về những gì xảy ra trong núi Mang nữa rồi. Ký ức khiến hắn sợ hãi đến mất trí đã theo tâm ma đi vào trong An Dẫn Thủy rồi.”

Bạch Cơ lắc lắc tách trà trong tay, cười nói: “Này, Hiên Chi, ký ức kinh hoàng của Ngô Du về núi Mang nằm trong đây này! Đợi về Phiêu Miểu các rồi ta sẽ có cách để tìm hiểu rõ ràng.” Nguyên Diệu giờ mới hiểu.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu vừa tản bộ vừa trò chuyện.

“Bạch Cơ, tại sao ngươi không nhận tiền bạc của Ngô đại nương? Điều này không giống ngươi chút nào.”

Bạch Cơ đáp: “Bởi vì đây là giúp đỡ công chúa Ngọc Quỷ mà.”

Nguyên Diệu hỏi: “Chẳng lẽ, ngươi định đòi tiền công chúa Ngọc Quỷ sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Công chúa Ngọc Quỷ dễ thương như vậy, sao ta nỡ lòng nào đòi thù lao từ nàng ấy? Khoản này sẽ ghi vào sổ nợ của Hiên Chi, ta sẽ trừ vào tiền công của ngươi…”

Nguyên Diệu mặt mày bí xị, nói: “Tại sao giúp công chúa Ngọc Quỷ mà lại trừ vào tiền công của ta?”

“Vì Hiên Chi hỏi quá nhiều nên không kìm được muốn trừ tiền công của ngươi…”

“Bạch Cơ, gói đậu hũ này nặng quá. Tối nay chúng ta ăn cá nấu đậu hũ chứ?”

“Vấn đề này phải hỏi Ly Nô. Hừm, cá nấu đậu hũ nghe cũng hay đấy…”

“Bụp...”

Khi Bạch Cơ quay đầu nói chuyện với Nguyên Diệu, không ngờ lại va phải một người đi ngược chiều, chén An Dẫn thủy trong tay nàng rơi xuống đất, “choang” một tiếng, vỡ tan.

Nước đen ngấm vào đất, biến mất không dấu vết.

Người đụng phải Bạch Cơ là một nam nhân tráng kiện.

Nam nhân mặc một chiếc áo dài màu xanh quạ đã cũ, trên áo thêu hoa văn màu trắng. Hắn đi đôi dép cói dính đầy bùn đất, chống một cây gậy tre, sau lưng đeo một hộp thuốc. Trên hộp thuốc có một cây gậy gỗ treo một tấm vải cũ màu xanh xám, một mặt của tấm vải viết chữ “Y”, mặt kia viết chữ “Vu”. Có vẻ đây là một Vu Y chuyên đi khắp nơi chữa bệnh.

Vu Y này đang ở tuổi trung niên, thân hình cao lớn, dung mạo đường hoàng nhưng trên khuôn mặt lại lộ rõ sự u sầu khó hóa giải, hai bên tóc mai cũng đã sớm nhuốm màu sương trắng không hợp với tuổi.

“Thật xin lỗi...”

Vì tách trà trong tay Bạch Cơ bị rơi vỡ, Vu Y vội vàng xin lỗi vì sự bất cẩn của mình.

Bạch Cơ cúi đầu nhìn An Dẫn thủy đã biến mất, tiếc nuối nói: “Thật đáng tiếc, sự tò mò của ta không được thỏa mãn rồi.” Bạch Cơ ngẩng đầu nhìn Vu Y, ánh mắt nhìn hắn đầy hứng thú.

“Không sao. Ta cũng có lỗi, ta chỉ lo nói chuyện mà không để ý đến đường đi.” Bạch Cơ cười nói.

Vu Y cúi đầu chào rồi bước qua Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

Bạch Cơ quay đầu lại, ánh mắt nóng bỏng nhìn chằm chằm vào bóng lưng của Vu Y.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ nhìn gì thế?”

Bạch Cơ đáp: “Người này có khí yêu rất nặng còn có cả tàn ảnh của những oán niệm độc ác.”

Nguyên Diệu dụi mắt nhìn về phía Vu Y, nói: “Hắn là một yêu quái sao? Nhưng rõ ràng ta thấy hắn là một con người mà!”

Bạch Cơ nói: “Hắn là con người. Tuy nhiên, con người ở lâu với yêu quái, ma quỷ, cũng sẽ bị nhiễm khí yêu. Ví dụ như Hiên Chi ở cùng ta và Ly Nô lâu ngày, trên người cũng sẽ dính yêu khí.”

“Bạch Cơ, ý ngươi là Vu Y này sống chung với yêu quái?”

Bạch Cơ đáp: “Đúng vậy. Vu giao tiếp với quỷ thần, Y chữa trị sinh tử, đối với một Vu Y, việc sống cùng với những thứ không phải con người cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, trên người Vu Y này vẫn có điều gì đó kỳ lạ không thể nói ra được…”

Nguyên Diệu nói: “Vu Y sống chung với người hay với yêu quái cũng không liên quan gì đến chúng ta. Bạch Cơ, trời đã tối, chúng ta mau về Phiêu Miểu các thôi. Nếu đi nhanh còn kịp kêu Ly Nô làm món cá nấu đậu hũ.”

Nghe thấy có món cá nấu đậu hũ, Bạch Cơ bèn quay đầu bước đi, nói: “Ừ, Hiên Chi, mau đi thôi.”

*

Khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu trở về Phiêu Miểu các, trống phố vẫn chưa vang lên.

Thường thì vào giờ này, Ly Nô đã ở trong bếp bận rộn nấu bữa tối. Nhưng hôm nay, Ly Nô lại lười biếng ngồi ngẩn ngơ trên chiếc bàn xanh trong phòng.

“Chủ nhân, mọt sách đã về rồi.”

Thấy Bạch Cơ và Nguyên Diệu bước vào phòng, con mèo đen đứng dậy nói.

Bạch Cơ duỗi người, ngồi xuống bên cạnh chiếc bàn xanh.

“Về rồi. Ly Nô, sao hôm nay ngươi chưa nấu cơm tối nữa vậy?”

Ly Nô đáp: “Chủ nhân, cơm đã được hấp trong nồi. Sắp chín rồi.”

Nguyên Diệu đặt một gói lớn đậu hũ lên bàn xanh, cũng ngồi xuống duỗi người một cái. Cả quãng đường về nhà còn ôm một gói đậu hũ lớn, thật sự rất mệt mỏi.

“Ly Nô lão đệ, tối nay vừa hay có thể nấu canh cá đậu hũ.”

Con mèo đen liếc nhìn đậu hũ, có hơi ngạc nhiên, nói: “… Ở đây có đến mười cân. Chủ nhân, mọt sách mua nhiều đậu hũ thế này làm gì?”

Bạch Cơ uống một ngụm trà đã nguội, nói: “Ồ, đây là đô người khác tặng. Ly Nô, tối nay làm món canh cá đậu hũ đi.”

Con mèo đen gãi đầu, nói: “Chủ nhân, hôm nay không thể làm món canh cá đậu hũ được.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Tại sao? Chẳng lẽ con cá vàng lớn đó chạy mất rồi?”

Con mèo đen rùng mình, nói: “Con cá vàng lớn không chạy. Là thế này, sau khi các người đi, Đồi Mồi đã đến. Đồi Mồi mang đến cho gia một hũ bát hòa tê*. Có bát hòa tê, tất nhiên phải ăn cá sống thái lát. Cá sống phải ăn ngay khi cắt mới tươi ngon nên ta đợi các ngươi về rồi mới làm.”

*(八和齏) Bát hòa tê: Một loại gia vị, được làm từ tỏi, gừng, vỏ cam, mận trắng, hạt kê chín, cơm gạo nếp, muối, và xì dầu. Xuất xứ từ sách "Tề Dân Yếu Thuật" của Giả Tư Hiệp.

Bạch Cơ cười nói: “Lâu rồi chưa ăn cá sống thái lát, nghe cũng hấp dẫn đấy.”

Nguyên Diệu hỏi: “Vậy đậu hũ làm sao bây giờ?”

Ly Nô đáp: “Cắt một miếng để trộn với bát hòa tê ăn, còn lại thì cho vào thùng gỗ đựng đá treo dưới giếng từ từ ăn.”

Hoàng hôn buông xuống, gió chiều nhẹ nhàng.

Trong sân sau, dưới mái hiên, có một chiếc bàn gỗ hoa lê.

Trên bàn gỗ bày một đĩa đậu hũ trộn bát hòa tê, ba đĩa bát hòa tê, ba bát cơm, ba chén rượu Kim Cốc.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu ngồi bên bàn gỗ hoa lê chờ đợi, Ly Nô đang ở trong bếp cắt cá sống thái lát nhanh như bay.

Không lâu sau, Ly Nô bưng ra một đĩa lớn cá sống thái lát mỏng như cánh ve, mềm mại như tuyết.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô bắt đầu ăn tối.

Nguyên Diệu gắp một miếng cá sống nhúng vào bát hòa tê rồi cho vào miệng. Cá sống mềm mịn, dẻo dai và béo ngậy, bát hòa tê vừa khéo át đi mùi tanh của cá, chỉ còn lại vị ngọt tươi và sự mềm mại của lát cá.

Nguyên Diệu không kìm được, gật gù nói: “Lễ ký có nói: ‘Món gỏi cá, xuân dùng gừng, thu dùng cải.’ Đáng tiếc là bây giờ đang là mùa hè hạt cải chưa chín. Nếu thêm một chút hạt cải giã vào bát hòa tê thì món cá sống này sẽ càng thêm tuyệt hảo.”

Ly Nô mắng: “Chỉ có đồ mọt sách như ngươi mới nói nhiều như vậy, có bát hòa tê là tốt lắm rồi còn muốn hạt cải gì nữa?!”

Nguyên Diệu không dám nói thêm, lặng lẽ ăn cá.

Bạch Cơ cười nói: “Ly Nô, tại sao hôm nay Đồi Mồi lại đến Phiêu Miểu các tặng ngươi bát hòa tê vậy?”

Ly Nô đặt đũa xuống, nói: “Vài ngày trước, ta đi chợ phía Bắc tìm một số gia vị ngoại lai. Tại Đồng Đà Mạch*, ta gặp Đồi Mồi, lâu ngày không gặp nên chúng ta trò chuyện vài câu. Trong lúc nói chuyện phiếm, ta đã nói về những phiền muộn gần đây, và hôm nay Đồi Mồi mang bát hòa tê đến.”

*Đồng Đà Mạch là một phường ở Lạc Dương thời Tùy Đường. Nó giáp sông Lạc Hà ở phía Nam, giáp sông Triền ở phía Tây, và phía Bắc chỉ cách một phường là chợ Bắc, một trong ba chợ lớn trong thành Đông Đô. Đồng Đà Mạch là nơi sầm uất, phồn hoa nhất. Sau này, từ “Đồng Đà Mạch” được dùng để chỉ con đường sầm uất nhất.

Bạch Cơ đặt đũa xuống, quan tâm hỏi: “Ly Nô có phiền muộn gì thế?”

Nguyên Diệu cũng lo lắng nói: “Ly Nô lão đệ có chuyện gì phiền lòng thì cứ nói ra. Bạch Cơ và ta đều sẵn lòng chia sẻ nỗi lo giúp ngươi.”

Ly Nô thở dài một tiếng, nói: “Cũng không phải chuyện lớn gì. Hơn nữa, việc phiền muộn này chủ nhân và mọt sách các ngươi cũng không giúp được.”

Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì thế?”

Ly Nô gãi đầu, nói: “Chủ nhân, mọt sách không nhận thấy gần đây đồ ăn ta nấu đều không ngon sao?”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Không cảm thấy. Có thể là gần đây ta say mê uống rượu Kim Cốc nên không chú ý đến đồ ăn.”

Nguyên Diệu lắc đầu, nói: “Ta không có yêu cầu gì đối với ba bữa ăn mỗi ngày, chỉ cần no bụng là được. Nhưng nghe ngươi nói vậy, dường như cá ngươi nấu gần đây thật sự thiếu đi chút gì đó so với trước đây.”

Ly Nô ủ rũ nói: “Gần đây ta bị giảm sút vị giác, không còn nhạy cảm với hương vị của các món ăn. Hơn nữa, ta không có cảm hứng nấu nướng, không có ý tưởng mới nên thiếu đi sự đam mê mãnh liệt và hương vị tuyệt vời. Ta đến chợ phía Bắc để tìm gia vị ngoại lai là để tìm kiếm một hương vị khác biệt. Hôm nay Đồi Mồi mang bát hòa tê đến để giúp ta lấy lại tinh thần.”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút, nói: “Ly Nô, ta không biết nấu ăn nên không giúp được ngươi trong việc này. Nhưng ta có một ý kiến. Ngươi có thể đến Thử lâu một thời gian, trao đổi kinh nghiệm với các đầu bếp chuột tài ba, có lẽ ngươi sẽ lấy lại đam mê nấu nướng.”

Nguyên Diệu gật đầu liên tục.

Ly Nô buồn bã nói: “Chủ nhân, ta đã đến Thử lâu từ lâu rồi. Những con chuột đó không chịu tiến bộ, lười biếng trong việc nghiên cứu món ăn mới, thực đơn của lầu Vạn Trân ở Lạc Dương vẫn giống hệt với thực đơn ở lầu Vạn Trân Trường An. Ta không tìm thấy hương vị khác biệt nào ở Thử lâu cả.”

Nguyên Diệu nói: “Trong Thần Đô này, quán ăn tửu lầu rất nhiều, nếu không tìm thấy ở lầu Vạn Trân ngươi có thể đến thăm vài quán ăn khác, biết đâu có thể tìm lại được bí quyết nấu nướng, xua tan nỗi phiền muộn.”

Ly Nô nghe vậy lại càng buồn thêm.

“Ta đã đi vài nơi rồi. Ta biến thành mèo đen ẩn mình trên xà nhà của bếp, thỉnh thoảng nhảy xuống ăn một miếng... hầu hết đều rất dở, tay nghề của các đầu bếp con người còn không bằng chuột. Ta đến vài nơi và thấy thất vọng vô cùng nên chẳng còn hứng thú tiếp tục đến các nhà bếp khác để quan sát nữa.”

Bạch Cơ suy nghĩ một chút, nói: “Ly Nô, Thập Tam Lang có tay nghề nấu ăn rất giỏi, có lẽ nó có thể giúp ngươi.”

Nguyên Diệu nói: “Ly Nô lão đệ, ta có thể viết thư nhờ người gửi đến Trường An, mời Thập Tam Lang đến Phiêu Miểu các…”

Ly Nô lắc đầu liên tục như trống bỏi, nói: “Đừng! Đừng bao giờ làm vậy! Sẽ bị con hồ ly thối đó cười nhạo mất!”

Bạch Cơ an ủi Ly Nô: “Ly Nô đừng lo lắng nữa. Có lẽ cái nóng mùa hè đã ảnh hưởng đến tâm trạng, một thời gian nữa là sẽ ổn thôi.”

Nguyên Diệu cũng nói: “Đúng vậy, Ly Nô lão đệ, nếu ngươi muốn tìm cảm hứng nấu ăn và hương vị khác biệt thì ta có thể cùng ngươi đến quán ăn của người Hồ xem thế nào.”

Ly Nô cảm động nói: “Mọt sách, vừa rồi ta không nên quát ngươi. Đến mùa thu, ta sẽ tự tay vào núi hái hạt cải cho ngươi để ngươi có thể thưởng thức món cá sống thái lát với hạt cải.”

Nguyên Diệu xúc động nói: “Cảm ơn Ly Nô lão đệ.”

Tâm trạng của Ly Nô đã khá lên nhiều, ba người tiếp tục vừa ăn vừa trò chuyện. Không lâu sau, họ đã dùng xong bữa tiệc cá sống trong ánh chiều tà đỏ rực.

Sau khi thắp đèn, dưới ánh trăng mờ ảo, Bạch Cơ ngồi bên bàn ngọc xanh vừa suy tư vừa cầm bút viết gì đó trên giấy.

Bạch Cơ dường như không hài lòng với nội dung mình viết, mỗi lần chỉ viết được vài câu là lại vo tròn giấy vứt đi. Dưới chân nàng đã có mấy cục giấy bỏ đi.

Nguyên Diệu không biết Bạch Cơ đang viết gì, cũng không dám quấy rầy, chỉ ngồi tựa vào ghế quý phi gần đó đọc một tập thơ mới.

Ly Nô cuộn tròn bên cạnh Nguyên Diệu, nhắm mắt dưỡng thần.

Khi Bạch Cơ lại một lần nữa vo tròn giấy viết, định vứt đi, Nguyên Diệu không kìm được hỏi: “Bạch Cơ đang viết gì vậy?”

Bạch Cơ vứt giấy đi, cười nói: “Là Thiên Hộ Hầu của núi Mang, ta đang viết quy định cho dân chúng của núi Mang.”

Nguyên Diệu giật mình, gấp tập thơ lại, ngồi dậy hỏi: “Quy định gì?!”

Bạch Cơ cúi đầu, nói: “Ôi! Viết mãi mà không thấy phù hợp. Thôi không viết nữa. Ở núi Mang có đủ loại yêu quái và ma quỷ, không thể định ra quy tắc thống nhất được.”

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, rốt cuộc ở núi Mang có những gì thế?”

Bạch Cơ đáp: “Trong núi Mang có rất nhiều lăng mộ, chôn cất các hoàng đế và tướng quân của các triều đại trước đây. Một số người đã qua đời,chỉ còn lại những ngôi mộ trống, trong khi một số người khác vẫn còn nguyện vọng chưa hoàn thành, hóa thành lệ quỷ lang thang ở núi Mang. Những ngôi mộ trống với phong thủy tuyệt vời đó tụ hội linh khí dồi dào của địa mạch, trở thành nơi tu luyện tốt nhất, vì vậy chúng đã biến thành tổ ấm thoải mái của các đại yêu quái, nơi trú ngụ của một số yêu quái khó đối phó. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, ta cảm thấy việc gây rối với những yêu ma quỷ quái ở núi Mang vì một ít bạc, dẫn đến gây thù chuốc oán thật phiền phức. Ta quyết định không lập quy tắc, không thu thuế, chỉ làm một Mang Sơn Hầu trên danh nghĩa thôi.”

Con mèo đen dựng đứng hai tai lên, mở một mắt ra, nói: “Chủ nhân, Ly Nô có một ý tưởng, có thể vừa kiếm được bạc vừa không chọc giận yêu quái.”

Bạch Cơ hỏi: “Ý tưởng gì?”

Con mèo đen đứng dậy, duỗi người một cái, nói: “Trộm mộ. Ba chúng ta tranh thủ ban đêm đi trộm mộ ở núi Mang, trộm được vàng bạc châu báu thì chạy, nếu chẳng may bị bắt chúng ta sẽ đưa danh phận Mang Sơn Hầu của chủ nhân ra, nói rằng ngài đang tuần tra lãnh địa vào ban đêm…”

Nguyên Diệu nhăn nhó, nói: “Ly Nô lão đệ toàn nghĩ ra những ý tưởng tồi tệ như vậy sao? Tiểu sinh không muốn đi trộm mộ cùng các ngươi đâu.”

Bạch Cơ cũng nói: “Không ổn. Trộm mộ không phù hợp với thân phận Mang Sơn Hầu của ta. Thôi, ta không kỳ vọng vào việc kiếm tiền từ núi Mang để bù đắp thâm hụt kinh doanh của Phiêu Miểu các nữa. Dù sao, ta yêu cầu Võ đế ban cho núi Mang là vì mục đích quan trọng hơn.”

Nguyên Diệu cười nói: “Như vậy là đúng rồi.”

Bạch Cơ cười nói: “Tuy nhiên, cảnh sắc của núi Mang rất đẹp. Từ đỉnh Thúy Vân nhìn xuống thành Lạc Dương có thể thu cả sông Y, sông Lạc Hà, núi non, tòa thành vào tầm mắt, phong cảnh thật hùng vĩ. Một ngày nào đó khi thời tiết đẹp, ta sẽ dẫn Hiên Chi đi tham quan núi Mang.”

“Được thôi.” Nguyên Diệu vui vẻ nói.

Vì đã từ bỏ ý định kiếm tiền từ núi Mang, Bạch Cơ không còn đau đầu suy nghĩ về việc viết quy tắc nữa, nàng lại ôm một hũ rượu Kim Cốc đi ra sân sau, ngắm trăng và uống rượu thoải mái.

Nguyên Diệu tiếp tục đọc tập thơ mới của phố phường, không lâu sau thì buồn ngủ, hắn quay về phòng và đi ngủ.

*

Ngày hôm sau, giữa mùa hè, thời tiết nóng bức khó chịu.

Bạch Cơ ngủ trên lầu hai, gần đến trưa vẫn chưa dậy.

Ly Nô hôm nay định làm đậu hũ, nó lấy đậu hũ đã được làm lạnh dưới đáy giếng ra, cắt một miếng.

Ly Nô nhìn đậu hũ trắng ngọc ngà như ngọc bích, suy tư một lúc lâu mà vẫn không có cảm hứng nấu nướng, không nghĩ ra món ăn gì để làm. Chán chường quá, nó bèn ngồi dưới mái hiên sân sau, dùng dao nhỏ khắc đậu hũ thành một đóa hoa mẫu đơn đang nở rộ.

Nguyên Diệu thấy Ly Nô đang chăm chú khắc đậu hũ thì vô cùng ngạc nhiên. Nhưng hắn cũng không có thời gian để ý đến, vì Phiêu Miểu các hôm nay buôn bán rất đắt khách, những người đến đều là khách hàng có duyên, chỉ trong một buổi sáng hắn đã hoàn thành năm giao dịch.

Nguyên Diệu đứng cạnh quầy, tâm trạng rất tốt. Đợi Bạch Cơ dậy, hắn sẽ kể cho nàng nghe về tình hình buôn bán hôm nay, chắc chắn nàng sẽ rất vui.

Nguyên Diệu đang vui vẻ thì đột nhiên có một bóng người vội vã bước vào Phiêu Miểu các.

Nguyên Diệu ngẩng đầu nhìn, người bước vào là một bà lão tóc bạc. Bà lão tóc bạc rất sợ hãi và lo lắng, mắt thâm quầng, trong mắt còn đầy tơ máu, dường như cả đêm không ngủ.

Nguyên Diệu nhận ra bà lão tóc bạc này là Ngô đại nương mà hắn đã gặp hôm qua ở Phường Đại Đồng.

Ngô đại nương vô cùng hoảng sợ, không còn để ý đến lễ nghi, bước vào nhìn thấy Nguyên Diệu bèn nắm chặt tay áo hắn, khóc nói: “Cao nhân, xin ngài hãy cứu con trai ta lần nữa...”

Nguyên Diệu không hiểu gì, không biết đã xảy ra chuyện gì.

“Ngô đại nương, sao bà lại đến Phiêu Miểu các? Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Ngô đại nương run rẩy nói: “Nguyên công tử, đêm qua con trai ta đã xảy ra chuyện rất kỳ quái, cả nhà ta đều sợ hãi mất hồn. Ta nhớ mơ hồ rằng hai vị nói là đến từ Phiêu Miểu các ở chợ Nam, hôm nay ta đã tìm đến đây. Xin cao nhân cứu con trai ta một lần nữa…”

Nguyên Diệu hỏi: “Ngô đại nương, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Ngô đại nương sợ hãi nói: “Con trai ta… nó đã tách ra rồi…”

Nguyên Diệu hoang mang hỏi: “Tách ra là sao?”

Ngô đại nương không biết nhớ lại điều gì, giọng nói sợ hãi đến run rẩy, nói năng lắp bắp.

“Là… tách ra, biến thành hai nửa… toàn bộ cơ thể bị tách ra từ giữa, biến thành hai nửa…”
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 16


Nguyên Diệu không hiểu, hắn thấy Ngô đại nương hoảng loạn bèn nói: “Ngô đại nương, bà đừng vội, mời vào trong uống một chén trà lạnh, bình tĩnh lại. Tiểu sinh sẽ đi gọi Bạch Cơ xuống. Thường thì những chuyện kỳ lạ đều có cách giải quyết nếu Bạch Cơ ra tay.”

Ngô đại nương cố gắng giữ bình tĩnh, theo Nguyên Diệu vào phòng trong, vòng qua bình phong Hà Đồ Lạc Thư rồi ngồi xuống bên bàn ngọc xanh.

Nguyên Diệu rót một chén trà lạnh cho Ngô đại nương, sau đó đi lên lầu tìm Bạch Cơ.

“Cốc cốc...” Nguyên Diệu đứng trước phòng của Bạch Cơ, giơ tay gõ cửa hai lần.

“Bạch Cơ đã tỉnh chưa?”

Không có phản hồi từ trong phòng, Nguyên Diệu bèn đẩy cửa bước vào.

Nguyên Diệu đi vòng qua bức bình phong có treo quần áo của Bạch Cơ và tiến về phía giường La Hán.

Trên giường, một con rồng trắng to bằng cánh tay đang cuộn tròn ngủ say, trông như một đám mây trắng đang phát ra tiếng ngáy.

“Bạch Cơ mau tỉnh dậy!” Nguyên Diệu nói với con rồng trắng đang say giấc chưa tỉnh.

Rồng trắng nhỏ mở một mắt, lơ đễnh nhìn.

“Hiên Chi, bây giờ ta không đói, không muốn ăn sáng đâu. Ngươi và Ly Nô cứ ăn trước đi, ta chỉ muốn ngủ thôi...”

Nguyên Diệu đổ mồ hôi, nói: “Bây giờ đã là giữa trưa rồi... Bạch Cơ, ta không đến để gọi ngươi ăn cơm đâu. Ngô đại nương ở phường Đại Đồng vừa đến Phiêu Miểu các, có vẻ con trai bà ta gặp chuyện gì đó. Bà ấy rất hoảng loạn và lo lắng, nhưng nói năng lộn xộn ta không hiểu được. Ngươi xuống xem thử đi.”

Nghe vậy, Rồng trắng nhỏ mở cả hai mắt, từ từ nhấc đầu dậy như một con linh xà.

Trong nháy mắt, Rồng trắng nhỏ đã biến mất, Nguyên Diệu nhìn thấy trên giường Hàn ngọc có một nữ nhân tr*n tr**ng, mắt ngái ngủ, tóc đen dài rối bù phủ lên cơ thể gọn gàng và làn da trắng như tuyết.

Nguyên Diệu không khỏi đỏ mặt, lớn tiếng nói: “Bạch Cơ làm ơn mặc quần áo vào! Không mặc gì là không hợp lễ nghi.”

Bạch Cơ vươn vai, cười nói: “Hiên Chi nói sai rồi. Ngủ mà không mặc gì là trạng thái tự nhiên nhất, thể hiện sự chân thành của con người với trời đất vạn vật. Quần áo của ta treo trên bình phong, ngươi lấy giúp ta.”

Nguyên Diệu vội vàng đi lấy quần áo cho Bạch Cơ, khi đưa quần áo cho nàng, tiểu thư sinh rất ngượng ngùng, đỏ mặt quay đầu sang chỗ khác.

Bạch Cơ nhận lấy quần áo vừa khoác lên người vừa cười nói: “Hiên Chi cũng nên thử ngủ mà không mặc gì. Vào mùa hè nóng bức, ngủ mà không mặc gì sẽ giúp dễ dàng chìm vào giấc ngủ hơn, rất thoải mái đấy.”

Nguyên Diệu nghĩ ngợi một chút, lắc đầu nói: “Thôi không cần đâu. Lỡ nửa đêm có chuyện gì xảy ra, không kịp mặc quần áo thì sao? Ngươi có thể biến thành rồng, Ly Nô có thể biến thành mèo, chẳng ai nhìn ra có mặc đồ hay không, chỉ có ta là người duy nhất chạy xung quanh mà không mặc gì thì thật xấu hổ quá...”

Bạch Cơ im lặng một lúc rồi nói: “Ờm, quả nhiên làm yêu quái vẫn tiện hơn…”

Trong khi nói chuyện, Bạch Cơ đã mặc xong một chiếc váy dài màu trắng có họa tiết mây, khoác thêm một chiếc khăn voan mỏng hơi trong suốt rồi đứng trước gương đồng, dùng một cây trâm ngọc bích búi tóc thành một kiểu tóc đơn giản. Sau đó, nàng cùng Nguyên Diệu xuống lầu.

Trong phòng, cạnh chiếc bàn ngọc xanh, Bạch Cơ và Ngô đại nương ngồi đối diện nhau.

Nguyên Diệu đứng cạnh cửa sổ kéo tấm rèm tre lên nhìn ra sân sau thì thấy Ly Nô vẫn đang ngồi dưới mái hiên điêu khắc hoa mẫu đơn từ đậu hũ.

Bạch Cơ hỏi: “Ngô đại nương, con trai bà xảy ra chuyện gì thế?”

Ngô đại nương hoảng sợ nói: “Hôm qua sau khi các người rời đi, ban đầu mọi thứ vẫn bình thường…”

Hôm qua, sau khi Bạch Cơ và Nguyên Diệu rời khỏi nhà Ngô đại nương, Ngô Du đã tỉnh táo trở lại, nhận ra nương, ca ca, và tẩu tẩu, cũng không còn sợ hãi nữa. Hắn còn nói đói bụng và muốn ăn gì đó.

Ngô đại nương rất vui mừng bèn hầm một nồi canh gà để bồi bổ sức khỏe cho con trai.

Nhưng chuyện xảy ra vào buổi tối.

Lúc chạng vạng, Ngô Du cảm thấy cơ thể đau đớn nên đi ngủ sớm.

Ngô đại nương tưởng rằng cơn đau là do con trai yếu đuối sau thời gian bệnh tật dài, nghĩ rằng chỉ cần nghỉ ngơi và bồi dưỡng một chút là sẽ khỏe lại nên không bận tâm.

Nửa đêm, Ngô Du kêu lên đau đớn và r*n r* không ngừng trong giấc mơ.

“Ôi trời ơi, đau quá...cả người đau quá...”

Ngô đại nương nghe thấy tiếng con trai kêu từ phòng bên cạnh bèn vội vã khoác áo đứng dậy, cầm đèn dầu đi vào phòng của con trai.

Ngô Du nằm trên thảm nhung, sắc mặt tái nhợt, trán lấm tấm mồ hôi vì không thể chịu nổi cơn đau.

“Nương ơi, tay và chân con hình như đang nứt ra, đau lắm...”

Ngô Vu Yếu ớt giơ tay lên khi thấy nương đến gần, nói.

Ngô đại nương soi đèn dầu lên đôi tay của Ngô Du, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt thì đầu bà đột nhiên choáng váng, mắt tối sầm lại.

Đôi tay của Ngô Du đã nứt toác ra như thể bị dao chém vào, vết nứt từ giữa ngón tay giữa và ngón áp út kéo dài đến cổ tay.

Ánh đèn dầu chiếu lên đôi tay nứt toác của Ngô Du, bóng đổ lên tường trông giống như hai nhánh cây phân nhánh, vô cùng đáng sợ.

Điều kỳ lạ hơn nữa là vết nứt trên đôi tay Ngô Du không chảy máu, dường như một sức mạnh bí ẩn nào đó đã khiến nó tự nhiên nứt ra.

Ngô đại nương tiếp tục soi đèn dầu xuống đôi chân của Ngô Du thì thấy rằng đôi chân của hắn cũng bị nứt toác từ giữa ngón chân giữa và ngón áp út kéo dài đến lòng bàn chân.

Ngô Du nhìn rõ đôi tay và chân của mình, hoảng sợ hét lên một tiếng rồi ngất lịm đi.

Ngô đại nương hoảng loạn, vội vàng đi gọi con trai cả và con dâu.

Ca ca và tẩu tẩu của Ngô Du nghe tin chạy đến, nhìn thấy tình cảnh quái dị này cũng rất hoảng hốt và sợ hãi, không biết phải làm sao.

Cơ thể của Ngô Du từ từ nứt ra với tốc độ chậm rãi, đến sáng nay, hai chân của hắn đã tách thành bốn, hai cánh tay cũng nứt đến tận vai.

Ba người trong nhà họ Ngô suốt đêm không chợp mắt, đến sáng, đại ca của Ngô Du rời nhà để mời thầy thuốc. Thầy thuốc đến nhà họ Ngô thăm khám, sau khi xem xét, cho rằng căn bệnh kỳ lạ và đáng sợ này là chuyện của quỷ thần, không thuộc phạm vi chữa trị của y học.

Vì vậy Ngô đại nương vội vã đến chợ Nam để tìm Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

“... Một người bị nứt ra làm đôi?”

Mặc dù Ngô đại nương đã kể rõ ràng tình huống nhưng Nguyên Diệu vẫn không thể tưởng tượng được việc một người sống bị nứt làm đôi sẽ như thế nào.

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc, nói: “Ngô đại nương, bà đừng lo lắng, ta và Hiên Chi sẽ đi cùng bà đến Phường Đại Đồng để xem tình hình.”

Ngô đại nương gật đầu lập tức.

Sau khi giao việc trông coi tiệm cho Ly Nô, Bạch Cơ với Nguyên Diệu và Ngô đại nương rời khỏi Phiêu Miểu các. Vì Ngô Du đang trong quá trình phân tách, tình hình khá khẩn cấp nên Bạch Cơ và Nguyên Diệu thuê một chiếc xe ngựa ở chợ Nam, ba người đi xe ngựa về phía Phường Đại Đồng.

Tại Phường Đại Đồng, trên phố số hai, ở cửa hàng đậu phụ của nhà họ Ngô.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu đứng trước mặt Ngô Du.

Ngô Du nằm thẳng đờ trên một tấm thảm nhung, đã hôn mê bất tỉnh. Hình dáng của hắn hiện tại rất kỳ lạ và đáng sợ, hai tay của hắn đã nứt đến vai, hai chân cũng đã nứt đến eo. Hơn nữa, quá trình phân tách này vẫn đang tiếp tục với tốc độ cực kỳ chậm.

Mặc dù mắt Ngô Du nhắm chặt, mặt nhợt nhạt như giấy vàng nhưng lồng ngực hắn vẫn nhấp nhô nhẹ nhàng theo nhịp thở, cho thấy hắn vẫn còn sống.

Nguyên Diệu nhìn mà dựng đứng tóc gáy, hỏi nhỏ: “Bạch Cơ, chuyện này là sao vậy?”

Bạch Cơ đứng bên cạnh Ngô Du, cúi đầu quan sát, nói: “Ta chưa từng thấy tình trạng này bao giờ. Mặc dù tình hình có vẻ kỳ lạ nhưng đây không phải là ma quỷ nhập thân hay chuyện của quỷ thần...”

Ngô đại nương lo lắng hỏi: “Thưa cao nhân, liệu có cách nào chữa trị không?”

Bạch Cơ quỳ xuống bên tấm thảm nhung nhìn kỹ bàn tay đang nứt ra của Ngô Du. Khi đến gần hơn, có thể thấy da của hắn ẩn hiện một chút ánh xanh.

Bạch Cơ dùng móng tay khẽ cào nhẹ lên mu bàn tay của Ngô Du, da nứt ra, vài giọt máu đỏ tươi ẩn hiện ánh sáng xanh biếc chảy ra.

Bạch Cơ nói: “Đây là bị trúng độc.”

Ngô đại nương ngạc nhiên nói: “Trúng độc? Nhưng nó đâu có ăn phải thứ gì độc hại! Hơn nữa, cả đời ta chưa từng nghe nói có loại độc nào khiến người ta trở nên như thế này...”

Bạch Cơ đáp: “Loại độc gây ra triệu chứng này khá hiếm... Hẳn là đã bị trúng độc từ trước khi trở về đây, có lẽ liên quan đến những gì đã xảy ra trong núi Mang.”

Ngô đại nương nói: “Hôm qua ta đã hỏi, nó không nhớ gì về những gì đã xảy ra trong núi Mang cả.”

Bạch Cơ nói: “Phải biết được nguyên nhân thì mới có thể bốc thuốc đúng cách. Nếu không biết gốc rễ của vấn đề thì rất khó để xử lý. Thôi được, hôm nay ta sẽ đi đến núi Mang một chuyến để hỏi thăm những người quen ở đó, hy vọng có thể may mắn biết được con bà đã gặp phải chuyện gì.”

Ngô đại nương ngờ vực hỏi: “Ngài có người quen ở núi Mang sao?”

Bạch Cơ chống chế: “Khi trước ta từng buôn bán dược liệu, thường đến các thôn làng bên ngoài núi Mang để mua dược liệu, quen biết vài người trong thôn. Những người hái thuốc thỉnh thoảng vào núi Mang, họ khá quen thuộc với tình hình ở đó. Ta sẽ đi hỏi thăm giúp bà.”

Ngô đại nương cảm kích nói: “Đa tạ cao nhân.”

Bạch Cơ đứng dậy, chuẩn bị cáo từ.

Đột nhiên, đại ca của Ngô Du dẫn một Vu Y vội vã bước vào.

“Nương ơi, vị đại phu này tình cờ đi ngang qua, con nhìn thấy nên mời vào. Con nghĩ rằng nhiều thầy lang xem thì đệ đệ cũng có thêm cơ hội sống nên đã mời ông ấy vào.”

Nguyên Diệu nhìn về phía Vu Y thì thấy ông ta mặc một chiếc áo dài màu xanh quạ đã cũ, thêu hoa văn bạch lý, đi đôi dép cói dính đầy bùn đất, chống một cây gậy tre, đeo sau lưng một hộp thuốc. Trên hộp thuốc có một cây gậy gỗ, treo một tấm vải cũ màu xanh xám, một mặt của tấm vải viết chữ “Y”, mặt kia viết chữ “Vu”.

Là người hôm qua đã làm đổ An Dẫn thủy trong tay Bạch Cơ.

Vu Y dường như vẫn nhớ Bạch Cơ và Nguyên Diệu, khẽ gật đầu chào hai người.

Nguyên Diệu vội vàng đáp lễ.

Ngô đại nương, với tâm trạng mong chờ như nắm lấy sợi dây cứu sinh cuối cùng, lập tức mời Vu Y xem bệnh cho con trai.

Vu Y đặt hộp thuốc xuống, tiến đến bên Ngô Du đang hôn mê nằm trên mặt đất.

Vu Y quỳ xuống bên cạnh Ngô Du, bắt đầu quan sát và thăm khám tình trạng của hắn.

Nhìn tình trạng kỳ lạ của Ngô Du, trong mắt Vu Y thoáng hiện lên một tia sáng hứng thú khó nhận ra như thể một lữ khách lạc lối trong bóng tối cuối cùng cũng nhìn thấy ánh bình minh trên đường chân trời.

Tuy nhiên, Vu Y lập tức lấy lại vẻ điềm tĩnh.

“Bệnh tình kỳ lạ này, ta chưa từng thấy, trông có vẻ rất nguy hiểm...” Vu Y nói.

Ngô đại nương vô cùng lo lắng.

Nguyên Diệu không khỏi lo cho tính mạng của Ngô Du.

“Nhưng nếu có thể, ta có thể ở lại đây quan sát bệnh tình của quý công tử thêm một thời gian, có thể nghĩ ra cách chữa trị...” Vu Y nói.

Ngô đại nương vội vàng nói: “Được, tất nhiên là được rồi. Nhờ cậy vào ngài vậy.”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu không thể giúp gì thêm bèn cáo từ ra về.

Trở về Phiêu Miểu các, Bạch Cơ và Nguyên Diệu chuẩn bị đi núi Mang.

Biết được Bạch Cơ và Nguyên Diệu sẽ đến núi Mang, Ly Nô ngừng việc điêu khắc đậu phụ hình hoa mẫu đơn, vì nghĩ rằng ở lại Phiêu Miểu các một mình sẽ rất buồn chán nên cũng muốn đi cùng đến núi Mang.

Bạch Cơ đồng ý.

Bạch Cơ triệu hồi ba con ngựa trời mạnh mẽ hùng dũng từ bức tranh "Bách Mã Đồ" trong đại sảnh. Vì đây là lần đầu tiên nàng đi đến lãnh địa của mình sau khi được phong tước, mặc dù chưa có dân chúng nào thừa nhận hay tiếp đón nàng nhưng Bạch Cơ vẫn cảm thấy cần phải có khí thế của Mang Sơn Hầu nên bèn đi tắm rửa và thay y phục.

Ly Nô lo liệu chuẩn bị đồ đạc cho chuyến đi, nói: “Mọt sách đi ra phố trước, đến quán ăn của người Hồ mua ít thịt cừu bì lạc và bánh hồ. Chuyến đi này không biết khi nào mới về, mà trên núi Mang thì chẳng có gì để ăn. Để không bị đói chúng ta phải mang theo ít bánh hồ để ăn chống đói.” Nguyên Diệu gật đầu, cầm một xâu tiền ra ngoài mua bì lạc.

Ly Nô rất chu đáo, nó lấy một chiếc khăn bọc lại, gói ghém nào là hỏa chiết, lư hương Bác Sơn, một hộp hương ngải đuổi muỗi, một bầu nước đựng trà hương lộ mát lạnh, một con dao găm, một chùm nho, hai trái dưa mật, một tấm thảm Ba Tư có hoa văn Tây Phan, và một chiếc chăn nhỏ nó tự đắp vào đêm hè...

Khi Nguyên Diệu mang theo một gói bì lạc thịt cừu và bánh hồ trở về, nhìn thấy Ly Nô đang gói ghém cả đống thứ linh tinh này, không nhịn được hỏi: “Ly Nô lão đệ đang làm gì vậy?”

Ly Nô không ngẩng đầu lên, đáp: “Ta đang chuẩn bị đồ để mang lên núi Mang.”

Nguyên Diệu toát mồ hôi, nói: “Chỉ đi một chuyến đến núi Mang thôi mà, sao ngươi mang theo nhiều thứ như vậy?! Những thứ khác thì thôi nhưng ngươi mang thảm và chăn làm gì?”

Ly Nô đáp: “Chủ nhân thích sạch sẽ, chủ nhân sợ lạnh.”

Nguyên Diệu nói: “Bây giờ là giữa mùa hè, sao lại lạnh được?”

Ly Nô vừa định đáp lời thì Bạch Cơ đã ăn mặc chỉnh tề, từ trên lầu bước xuống.

Bạch Cơ mặc một bộ nam trang, áo tay hẹp trắng thêu họa tiết mây bằng chỉ vàng bạc, thắt lưng đai cửu hoàn thất tinh, chân đi giày Lục Hợp. Mái tóc đen được búi cao, trên đầu đội ngọc quan bạch ngọc, đôi lông mày nghiêng vào tóc mai, trông vừa phong độ vừa hoa lệ.

Vì là mùa hè, Bạch Cơ còn cố ý cầm một chiếc quạt dơi xương ngọc mạ vàng tao nhã và quý phái.

Bạch Cơ xòe chiếc quạt dơi ra, cười hỏi: “Hiên Chi, thế nào, có đẹp không?”

Nguyên Diệu mặt đỏ bừng, nói nhỏ: “Đẹp lắm…”

Bạch Cơ lại hỏi: “Ta có khí chất của Mang Sơn Hầu không?”

Nguyên Diệu lắc đầu, nói: “Vì quá đẹp nên cảm giác không có khí chất…”

Bạch Cơ phiền muộn nói: “Lời của Hiên Chi đúng là khiến người ta vừa vui vừa buồn.”

Ly Nô vội vàng nói: “Chủ nhân không cần lo lắng vì không có khí chất. Ngài chỉ cần biến thành rồng lớn, gầm lên một tiếng trên không trung là có khí chất ngay ấy mà.”

Bạch Cơ rung chiếc quạt dơi, cười nói: “Nói cũng đúng.”

Ba người Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô cưỡi ngựa trời, rời khỏi Phiêu Miểu các, đi về núi Mang.

Núi Mang nằm ở phía đông bắc Lạc Dương là một nhánh của núi Hào, dãy núi kéo dài từ đông sang tây như một con rắn khổng lồ màu xanh đen.

Khi Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô đến núi Mang, mặt trời đã ngả về phía tây.

Núi rừng thâm u, mồ mả san sát, ánh hoàng hôn vàng rực chiếu lên rừng cây xanh biếc.

Dù đang là giữa mùa hè nhưng khi vào núi Mang, Nguyên Diệu lại cảm thấy có hơi lạnh lẽo khó hiểu, trên đường đi hắn đã rùng mình mấy lần rồi.

Nguyên Diệu suy đoán trong lòng, có lẽ vì sắp đến hoàng hôn, mặt trời sắp lặn nên núi mới lạnh như vậy, sớm biết thế đã mang theo áo choàng để giữ ấm.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ, đã muộn thế này rồi, chúng ta bây giờ nên làm gì?”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi nói sai rồi. Bây giờ không phải là quá muộn, mà là quá sớm, mọi người vẫn chưa tỉnh… Vì còn sớm, đi dạo ở trong núi cũng chẳng có gì thú vị, hôm nay thời tiết tốt, không có sương mù rất thích hợp để ngắm cảnh xa. Ta sẽ dẫn Hiên Chi đi l*n đ*nh Thúy Vân để ngắm cảnh. Cảnh chiều muộn ở núi Mang là một cảnh đẹp hùng vĩ.”

Nguyên Diệu cười nói: “Được thôi.”

Ly Nô lười biếng nói: “Chủ nhân, đường l*n đ*nh Thúy Vân rất dốc, ngựa không thể lên được, chúng ta phải xuống ngựa đi bộ một đoạn… Chi bằng, cho ngựa trời bay lên đó cho tiện.”

Bạch Cơ đặt tay lên trán để che nắng, nhìn về phía đỉnh cao nhất của núi Mang, nói: “Ờm, Ngô Du cũng vì lên núi Mang ngắm cảnh cùng bạn bè mà gặp chuyện không may. Có lẽ hắn đã từng đến đỉnh Thúy Vân, chúng ta vẫn nên đi bộ như con người, biết đâu trên đường có thể phát hiện ra điều gì đó.”

Ly Nô xụ tai xuống, nói: “Chủ nhân, Ly Nô mang theo một đống đồ, thực sự không muốn leo núi. Ly Nô có thể cưỡi ngựa trời bay l*n đ*nh Thúy Vân trước được không?”

Bạch Cơ cười nói: “Cũng được.”

Ly Nô dựng tai lên, vui mừng nói: “Vậy, Ly Nô sẽ bay l*n đ*nh Thúy Vân trước, chờ ngài và thư sinh.”

“Đi đi.”Bạch Cơ cười nói.

Ly Nô lẩm bẩm đọc chú ngữ.

“Phạch phạch...” Ngựa trời từ từ mọc ra đôi cánh.

Ngựa trời đập cánh, chở Ly Nô bay lên không, về phía đỉnh Thúy Vân.

Sau khi Ly Nô rời đi, Bạch Cơ và Nguyên Diệu cưỡi ngựa trời đi một đoạn trong rừng núi, địa hình đột ngột thay đổi, trở nên hiểm trở. Trong núi không còn đường ngựa có thể đi, chỉ có thể xuống ngựa mà đi bộ.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu xuống ngựa đi bộ về phía đỉnh Thúy Vân.

Trên đường, núi đá u ám, hoa dại mọc đầy cây, Bạch Cơ quan sát xung quanh nhưng không thấy điều gì bất thường.

Bạch Cơ nói: “Không có dấu vết nào của con người từng qua lại, xem ra dù phong cảnh trên đỉnh Thúy Vân rất đẹp nhưng rất ít người lên đến đó. Ngô Du và bạn bè có thể ngắm cảnh ở nơi khác, không phải đỉnh Thúy Vân.”

Nguyên Diệu nói: “Haiz, không biết bạn của Ngô Du đã ra sao rồi? Nghe Ngô đại nương nói họ cũng mất tích.”

Bạch Cơ nói: “Chắc là không còn hy vọng sống sót rồi.”

“Bạch Cơ, trong núi Mang này có yêu quái ăn thịt người không?”

Bạch Cơ nói: “Nhiều lắm.”

Nguyên Diệu run giọng hỏi: “Tiểu sinh có bị ăn không?”

“Ờm, mặc dù có ta và Ly Nô ở bên, Hiên Chi không đến mức bị ăn thịt nhưng còn sống mà đi vào núi Mang thì thật không tiện. Hiên Chi như thế này, quả thực không thích hợp để đi lại trong núi Mang.” Bạch Cơ cúi đầu suy nghĩ rồi tình cờ thấy bên cạnh tảng đá không xa có một đóa hoa diên vĩ tím, nàng bước đến, hái đóa hoa diên vĩ.

Bạch Cơ thổi một hơi vào bông hoa diên vĩ.

Bạch Cơ tiến đến gần Nguyên Diệu, nhón chân lên, nhẹ nhàng cài một bông hoa lan tím vào búi tóc của hắn.

Nguyên Diệu không hiểu bèn hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

Bạch Cơ mỉm cười đáp: “Ta cho Hiên Chi mượn một chút long khí, những yêu quái thông thường sẽ nghĩ rằng ngươi là rồng đấy! Long khí của Hiên Chi sẽ biến mất khi bông hoa lan này héo tàn.”

Nguyên Diệu cúi đầu nhìn hai tay mình.

"Long khí này có gì khác đâu, cũng chẳng thay đổi gì mà." Nguyên Diệu tự nhủ.

“Cảm ơn Bạch Cơ, dù ta không biết long khí có tác dụng gì nhưng dường như ta không còn sợ hãi nữa.”

“Không cần khách sáo, Hiên Chi. Việc mượn long khí của ngươi sẽ được quy đổi thành bạc, trừ vào lương của ngươi nhé.”

“...”

Bạch Cơ và Nguyên Diệu vừa trò chuyện vừa leo lên núi. Khi cả hai lên đến đỉnh Thúy Vân thì trời đã ngả bóng hoàng hôn, ráng chiều đỏ rực cả bầu trời.

Nguyên Diệu có hơi tiếc nuối: “Vẫn muộn một chút, không kịp ngắm mặt trời lặn rồi.”

Bạch Cơ mỉm cười: “Không muộn đâu, không muộn đâu, thời gian thế này là vừa đẹp. Cảnh đẹp khi ngắm nhìn núi Mang vào buổi tối không phải là lúc mặt trời lặn. Ồ, ta đói quá, cả ngày chưa ăn gì. Chúng ta tìm Ly Nô rồi cùng ăn bánh hồ nhé.”

“Được thôi.” Nguyên Diệu đáp.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu cùng đi tìm Ly Nô trên đỉnh Thúy Vân.

Đỉnh Thúy Vân không lớn lắm, khi hai người vòng qua một tảng đá lớn thì đã thấy trên một bãi cỏ hoang, có trải một tấm thảm nhung Ba Tư với họa tiết hoa lạc tiên, trên đó bày một chùm nho, hai trái dưa mật đã cắt sẵn, một gói bánh tất la thịt cừu, một gói bánh hồ và một túi nước. Ở vị trí thuận gió, một lư hương Bác Sơn đang đốt hương ngải để xua muỗi, khói nhẹ nhàng bay lên thành từng sợi.

Một con mèo đen và một con linh cẩu ngồi cạnh nhau trên tấm thảm nhung, mỗi con cầm một chiếc bánh hồ vừa ăn vừa ngắm ánh sáng cuối cùng của hoàng hôn.

Nguyên Diệu nói nhỏ: “Ly Nô đúng là thoải mái quá! Bạch Cơ, con chó kia là bạn của ngươi và Ly Nô trên núi Mang à?”

Bạch Cơ lắc đầu: “Không phải. Ta không quen nó.”

Nghe tiếng nói chuyện, con mèo đen và linh cẩu cùng quay đầu lại.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 17


Khi linh cẩu quay đầu lại, Nguyên Diệu mới nhận ra đó không phải là một con linh cẩu, mà là một yêu quái trông rất giống linh cẩu.

Tất Xá Già nhìn Bạch Cơ và Nguyên Diệu, khẽ ngửi ngửi không khí bằng mũi rồi nhe răng: “Tưởng là loài người, hóa ra lại là hai con rồng...”

Ly Nô đứng dậy, cười nói: “Chủ nhân, mọt sách lên rồi à! Ly Nô đã chọn một chỗ ngắm cảnh tốt nhất và bày sẵn đồ ăn thức uống rồi. Hai người leo núi mệt rồi phải không? Mau đến đây nghỉ ngơi chút đi.”

Leo núi suốt đoạn đường dài, Bạch Cơ và Nguyên Diệu quả thật có hơi mệt mỏi, cả hai bước đến tấm thảm nhung Ba Tư và ngồi xuống.

Ly Nô tiện tay hái hai bông hoa lục giác từ bãi cỏ bên cạnh. Nó lật ngược hai bông hoa, chúng bèn biến thành hai chiếc ly lục giác.

Ly Nô mở túi nước và rót hai ly trà để giải nhiệt cho Bạch Cơ và Nguyên Diệu.

Ly Nô lắc lắc túi nước, hỏi Tất Xá Già đang gặm bánh hồ: “Ngươi có muốn uống không?”

Tất Xá Già lắc đầu: “Ta không thích uống trà hoa cỏ.”

Ly Nô nói: “Chủ nhân, Ly Nô gặp con yêu quái linh cẩu này ở trên đỉnh núi. Nó đang tìm chủ nhân của nó. Nó nói nó đói bụng nên Ly Nô đã mủi lòng mời nó ăn một cái bánh hồ.”

Tất Xá Già nói: “Mèo đen, nói lại lần nữa, ta không phải là yêu quái linh cẩu, ta là một con Tất Xá Già.”

Nguyên Diệu không kiềm được mà hỏi: “Tất Xá Già là loại yêu quái gì?”

Tất Xá Già vừa gặm bánh hồ vừa trả lời: “Là ngạ quỷ.”

Bạch Cơ cầm một chiếc bánh hồ vừa ăn vừa nói: “Đó là ngạ quỷ được ghi chép trong kinh Phật, chuyên ăn xác chết.”

Nghe vậy, Nguyên Diệu âm thầm dịch người ra xa Tất Xá Già thêm một chút.

Tất Xá Già hỏi: “Khi hai người lên núi có thấy chủ nhân nhà ta trên đường không?”

Nguyên Diệu trả lời: “Chúng ta đi suốt đoạn đường nhưng không gặp ai cả... À, cũng không gặp loài phi nhân nào.”

Tất Xá Già nói: “Chà, có lẽ chủ nhân đã chạy qua ngọn núi khác chơi rồi, hoặc có thể đã về nhà rồi. Trẻ con không thể ngồi yên được, suốt ngày chỉ thích chạy nhảy lung tung.”

Nguyên Diệu tò mò hỏi: “Chủ nhân nhà ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”

Tất Xá Già vừa định trả lời thì bất ngờ xuất hiện một bóng người từ phía sau một tảng đá.

Đó là một thiếu niên loài người mặc áo tròn màu cỏ non.

Thiếu niên khoảng đôi mươi, trắng trẻo và khôi ngô, đôi mắt sáng ngời và trong trẻo, ánh mắt lấp lánh vẻ ngây thơ của trẻ nhỏ. Trên tay thiếu niên cầm một quả cầu gốm khắc hoa tú cầu phát ra tiếng reng reng.

Tất Xá Già thấy thiếu niên, vui mừng nói: “Chủ nhân, cuối cùng ta cũng tìm được ngươi rồi.”

Nguyên Diệu có hơi ngạc nhiên. Đây là chủ nhân mà Tất Xá Già đang tìm sao?! Hắn tưởng rằng chủ nhân mà Tất Xá Già nói đến cũng là một Tất Xá Già nhưng không ngờ lại là một thiếu niên loài người. Hơn nữa, thiếu niên này cầm quả cầu gốm giống như đồ chơi của trẻ con, không hề phù hợp với độ tuổi của hắn.

Thiếu niên chống một tay lên hông, tay còn lại chỉ vào Tất Xá Già, tức giận nói: “A Đạt, ngươi ở đây chơi với người ta mà không gọi ta!”

Thiếu niên hành xử như một đứa trẻ chưa trưởng thành.

Tất Xá Già vội đứng lên, đi đến bên thiếu niên, nói: “Chủ nhân, ngươi đúng là nhọc lòng ta. Ta không chơi, ta đi tìm ngươi khắp nơi, ngươi đừng chạy lung tung nữa, hãy về nhà trước khi cha ngươi về đi mà.”

Thiếu niên nhìn về phía Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô, cười khúc khích nói: “A Đạt, ngươi có thể dẫn ba người này về nhà không? Ta muốn chơi trò chơi với họ.”

Tất Xá Già giật mình, nói: “Không được! Ba vị này là long thần và mèo yêu chín đuôi đến du ngoạn núi Mang...”

“Ngươi nói dối!” Thiếu niên chỉ vào Nguyên Diệu, cười nham hiểm: “Người này rõ ràng là loài người.”

Nguyên Diệu cảm thấy có hơi lo lắng.

Tất Xá Già nhìn Nguyên Diệu một lúc, chỉ thấy long khí bao quanh hắn, linh lực tràn đầy.

“Chủ nhân! Đừng nói nhảm nữa! Đi! Chúng ta về nhà, nếu không cha ngươi sẽ mắng ta mất.”

Tất Xá Già nắm lấy tay của thiếu niên, tay kia chỉ vào đầu mình và nói với Bạch Cơ, Nguyên Diệu, cùng Ly Nô: "Thiếu lang quân nhà ta lúc năm tuổi gặp phải một tai nạn, đầu óc bị tổn thương. Tâm trí của hắn vẫn luôn dừng lại ở năm tuổi. Hắn có nói năng lảm nhảm gì thì mong các vị đừng để ý. Ta phải đưa thiếu lang quân về rồi, xin cáo từ. À, cảm ơn các vị vì bánh hồ nhé!"

"Đi cẩn thận, không tiễn đâu!" Ly Nô nói.

"Đầu óc ngươi mới có vấn đề." Thiếu niên không hài lòng nói.

"Đi thôi, về nhà nào!"

Tất Xá Già kéo thiếu niên, rời khỏi đỉnh núi. Đi được vài bước, nó quay đầu lại thì thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô đang nhìn mình bèn vẫy tay chào.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô cũng vội vàng vẫy tay chào tiễn biệt Tất Xá Già và thiếu niên, nhìn họ dần dần biến mất trong bóng hoàng hôn.

Nguyên Diệu tò mò hỏi: "Bạch Cơ, chẳng phải ngươi nói "người sống không vào núi Mang" sao? Thiếu niên này là sao vậy?"

Bạch Cơ và Ly Nô nhìn nhau, Bạch Cơ nói: "Hiên Chi đang nói linh tinh gì vậy, thiếu niên này không phải là con người."

"Mọt sách đến cả người và phi nhân cũng không phân biệt được sao?"

Nguyên Diệu ngẩn người, nói: "Rõ ràng là con người mà. Ta vẫn có thể phân biệt rõ ràng giữa người và phi nhân."

Bạch Cơ suy nghĩ một chút, cười nói: "Thực ra Hiên Chi cũng không nói sai. Thiếu niên này có một nửa là con người. Trong núi Mang này có đủ mọi chuyện kỳ lạ. Những kẻ qua đường như thế này không liên quan gì đến chúng ta."

Nguyên Diệu gãi đầu nói: "Ta cứ cảm thấy Tất Xá Già và thiếu niên này có điều gì đó rất kỳ quái."

Sau khi Tất Xá Già và thiếu niên rời đi, trời đã hoàn toàn tối.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô ngồi trên tấm thảm nhung Ba Tư vừa uống trà hương nhu vừa ăn thịt cừu nướng và bánh hồ vừa ngắm nhìn kinh thành Thần Đô từ xa.

Bóng đêm dần buông xuống, núi non chìm vào trong bóng tối. Trong tòa thành Thần Đô, ánh sáng từ những ngôi nhà dần dần thắp sáng, tạo thành một biển sao lấp lánh trên mặt đất.

"Đẹp quá!" Nguyên Diệu không thể kìm lòng mà khen ngợi.

Bạch Cơ cười nói: "Mỗi ánh đèn đều là một d*c v*ng. Biển lửa sao rực rỡ này được hình thành từ những d*c v*ng của con người, quả đúng là tuyệt đẹp."

Ly Nô chỉ cảm thấy gió đêm trên đỉnh núi lạnh buốt, nó đã lấy chiếc chăn nhỏ của mình ra và quấn chặt quanh người.

Mèo đen nói: "Thịt cừu nướng khi lạnh có mùi tanh khó ăn quá. Càng nhìn ta càng thấy biển đèn bên dưới giống như một chậu lửa đang cháy rực, có thể dùng để nướng cá. Một chậu lửa lớn như vậy có thể nướng cùng lúc mấy con cá béo mềm mọng nước..."

Ly Nô vừa nuốt nước miếng vừa tưởng tượng, trong đầu nghĩ đến cảnh nướng những con cá béo không có thật trên biển đèn rực rỡ ở Thần Đô.

Mặc dù cảnh đêm từ núi Mang rất đẹp nhưng ngắm nhìn một lúc cũng cảm thấy chán.

Một cơn gió đêm thổi qua, Nguyên Diệu rùng mình vì lạnh.

"Bạch Cơ, đỉnh núi lạnh quá, chúng ta xuống làm việc chính thôi. Xong việc rồi còn về Phiêu Miểu các ngủ."

Bạch Cơ nói: "Được. Giờ này, mọi người cũng gần như đều đã tỉnh dậy rồi."

Ly Nô và Nguyên Diệu thu dọn tàn tích trên tấm thảm nhung Ba Tư, Bạch Cơ đi đến bên một tảng đá, hái một cây đèn lồng từ giữa bụi cỏ.

Chỉ trong chớp mắt, cây đèn lồng trong tay Bạch Cơ biến thành một chiếc đèn phát ra ánh sáng xanh lục như lửa quỷ.

Bạch Cơ đưa chiếc đèn quỷ cho Nguyên Diệu, nói: "Hiên Chi cầm lấy."

"Được." Nguyên Diệu nhận lấy chiếc đèn quỷ.

Ly Nô mang gói đồ đi đến một cây thông, nó treo gói đồ lên ngựa trời đang ăn cỏ sau cây.

"Chủ nhân, đêm nay có cần triệu hồi con rắn Minh nữa không?" Bạch Cơ gật đầu.

"Hiếm khi đến núi Mang, hãy gặp lại bạn cũ một lần. Không biết hắn còn ở núi Mang không..."

Ly Nô nói: "Vậy thì để Ngựa trời xuống núi trước."

Ly Nô vỗ đầu ngựa, Ngựa trời dường như hiểu được ý của mèo, nó ngẩng đầu hí vang, vỗ cánh bay xuống núi, tìm đồng bọn của mình.

Bạch Cơ đứng bên vách núi, trong gió trời lộng lẫy, ngươi vươn tay ra.

Một luồng long khí từ lòng bàn tay Bạch Cơ bay vút lên trời, trong mây trên trời vang lên một tiếng sấm nổ.

"Ầm ầm..."

Không lâu sau, trong khu rừng của núi Mang vang lên tiếng "xào xạc..." giống như đáp lại tiếng sấm, có một thứ khổng lồ đang xuyên qua bóng tối của khu rừng, chầm chậm tiến đến.

Nguyên Diệu quay đầu nhìn về phía phát ra tiếng xào xạc.

Dưới ánh trăng khuyết, một con mãng xà khổng lồ có màu xanh trắng đang vượt núi băng rừng, chầm chậm tiến đến.

Thân hình mãng xà to lớn như bánh xe khổng lồ, chiều dài khoảng trăm trượng, đứng thẳng lên như ngọn núi. Mắt của nó có màu xanh biếc, trên đầu có một chiếc sừng, thân thể phát ra ánh sáng lạnh màu xanh trắng.

Nguyên Diệu nhìn thấy, con mãng xà khổng lồ này lớn hơn Xà Phu nhân ở Trường An đến ba lần, không khỏi cảm thấy sợ hãi trong lòng.

"Bạch Cơ, lâu rồi không gặp." Mãng xà núi Mang đứng dưới vách đá, ngẩng đầu lên nhìn Bạch Cơ với đôi mắt sáng rực như đèn lồng xanh, nói.

Bạch Cơ cười nói: "Cũng không lâu lắm, chỉ có trăm năm thôi mà. Thanh Minh, ta tưởng ngươi đã về nước Ô Đồ rồi, không ngờ ngươi vẫn ở lại núi Mang."

Mãng xà nói: "Khó khăn lắm mới thoát khỏi nước Ô Đồ, ta không muốn quay về."

Bạch Cơ cười nói: "Thanh Minh, đêm nay trăng rất đẹp, dẫn chúng ta đi dạo quanh núi Mang một vòng nhé."

Mãng xà nhìn lướt qua Nguyên Diệu và Ly Nô, ánh mắt dừng lại trên người Nguyên Diệu.

"Đây là long tộc? Không đúng, tuy trên người có khí tức của rồng nhưng khí tức của con người còn nồng hơn."

Bạch Cơ cười nói: "Chỉ là một chút trò vặt vãnh, không lừa được đại yêu quái như ngươi. Hiên Chi là con người là người hầu mới mua của ta ở Trường An."

Con mãng xà bỗng chốc áp sát Nguyên Diệu, dùng đôi mắt như gương đồng quan sát hắn, nói: "Trông ngốc nghếch thế này chắc là đầu óc cũng chẳng lanh lợi, mà diện mạo cũng bình thường... Bạch Cơ, ánh mắt chọn người hầu của ngươi thật đáng lo ngại. Ta có nhiều người hầu đẹp đẽ lắm, cả nam lẫn nữ, ngươi có muốn ta tặng ngươi vài người không?" Lưỡi của mãng xà phất phơ trên mặt Nguyên Diệu, lạnh buốt như nước đá làm hắn vô cùng sợ hãi, vội vàng lùi ra sau ẩn nấp sau lưng Bạch Cơ.

Bạch Cơ chưa kịp nói gì, Ly Nô đã lên tiếng mắng: "Người hầu của ngươi toàn là rắn, chủ nhân ta với rắn không hợp nhau, đừng có màđưa tới Phiêu Miểu các. Đưa tới là ta nấu ngay thành một nồi súp rắn hành tỏi cho ngươi đó."

Bạch Cơ cười nói: "Thanh Minh, cảm ơn ý tốt của ngươi. Nhưng Ly Nô không thích rắn, nên không thể làm gì khác được."

Mãng xà vòng qua bên cạnh chú mèo đen nhỏ, há miệng lớn ra như muốn nuốt chửng nó.

Chú mèo đen đảo mắt, không thèm để ý mà quay đầu đi chỗ khác.

Mãng xà chỉ muốn dọa chơi, không dám thực sự nuốt chú mèo đen, thấy chú mèo không quan tâm đến mình, nó bèn từ bỏ.

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô ngồi trên lưng mãng xà, được nó chở đi dạo trong núi Mang.

Dưới ánh trăng trong núi Mang, cây cối um tùm, giữa rừng ẩn hiện những ngôi mộ cổ. Yêu quái đi lại trong núi, hồn ma lượn lờ bên ngoài mộ, thỉnh thoảng còn thấy một vài thứ hình thù kỳ dị hơn.

Bạch Cơ ngồi trên lưng mãng xà nhìn xung quanh.

Cô nói: "Hơn trăm năm không đến, cây cối ở núi Mang càng trở nên rậm rạp, trông cũng u ám hơn."

Ly Nô quấn chặt chiếc chăn nhỏ, nói: "Âm khí cũng nặng hơn. Lạnh chết đi được."

Nguyên Diệu rùng mình không dám lên tiếng, càng không dám nhìn kỹ vào những bóng ma ẩn hiện trong rừng rậm.

Mãng xà vừa đi vừa nói: "Bạch Cơ vốn ít khi ra khỏi Phiêu Miểu các, đêm nay đến núi Mang là có chuyện gì thế?"

Bạch Cơ nói: "Cũng không có chuyện lớn gì. Bởi vì Võ đế phong cho ta núi Mang làm Mang Sơn Hầu nên ta đến để tuần tra lãnh địa của mình."

Mãng xà nói: "Mang Sơn Hầu? À, ta nhớ rồi, mùa xuân năm nay có dán một tấm cáo thị hoàng bảng trong núi Mang. Bạch Cơ, dù là bạn bè ta cũng phải nói rõ trước, dù ngươi là Mang Sơn Hầu nhưng vực sâu U Minh không thuộc quyền cai quản của ngươi. Ta sẽ không chia sẻ với ngươi bảo vật và sức mạnh hắc ám trong vực sâu."

Bạch Cơ nói: "A, ta biết mà, các đại yêu quái các ngươi đều như vậy... Thanh Minh, ngươi yên tâm, ta không định cướp đồ của ngươi. Ta muốn những thứ khác cơ."

Mãng xà uốn mình, nói: "Vậy thì tốt quá! Bạch Cơ, vài ngày nữa ta sẽ tổ chức một buổi tiệc yêu quái tại núi Mang, mời tất cả yêu quái và ma quỷ trong núi Mang tham dự, để chúc mừng ngươi trở thành Mang Sơn Hầu và làm lễ đăng quang cho ngươi..."

Ly Nô bĩu môi nói: "Ngươi đúng là con rắn độc một bụng mưu mô, ngươi tổ chức tiệc yêu quái ở núi Mang là muốn hại chủ nhân ta à?"

Nguyên Diệu nghĩ thầm, nếu các đại yêu quái trong núi Mang đều giống như Thanh Minh, không muốn từ bỏ lãnh địa của mình, không muốn mất bảo vật thì buổi tiệc đăng quang này sẽ biến thành buổi tiệc đấu đá, mọi người sẽ phải chiến đấu với Bạch Cơ, không khéo còn khiến núi Mang nhuốm máu.

Bạch Cơ cười nói: "Thanh Minh, tiệc yêu quái ở núi Mang chắc chắn sẽ diễn ra nhưng không phải bây giờ. Hiện tại, ta chưa cần đến những thứ trong núi Mang. Đúng rồi, đêm nay ta đến núi Mang còn có một việc nữa."

Mãng xà hỏi: "Chuyện gì vậy?"

Bạch Cơ nói: "Có một con người đến núi Mang, không biết gặp phải chuyện gì mà bị kinh hãi. Hình như hắn ta còn trúng độc, toàn thân từ tay chân bắt đầu phân tách, trở nên dị dạng. Ta muốn biết nguyên nhân là gì, có phải liên quan đến yêu quái nào trong núi Mang không."

Mãng xà nghĩ một lát, có hơi mơ hồ.

"Trong núi Mang này, yêu quái ẩn nấp không thua kém gì những yêu quái ở Lạc Dương. Yêu quái trong núi Mang thường săn người nên người sống không vào núi Mang. Ta luôn ẩn mình dưới vực sâu U Minh, rất ít khi lên mặt đất, không rõ những chuyện trên mặt đất. Nhưng ta có thể bảo thuộc hạ của mình đi hỏi thăm, ngươi cho ta vài ngày, ta sẽ tìm ra được."

Bạch Cơ đang cân nhắc.

Nguyên Diệu không nhịn được nói: "Bạch Cơ, tình trạng của Ngô Du rất nguy kịch, nói là ngàn cân treo sợi tóc cũng không quá. E rằng không thể đợi vài ngày đâu.”

Bạch Cơ nói: "Hiên Chi nói đúng. Thanh Minh, chuyện này liên quan đến sinh tử, chúng ta muốn cứu người rất gấp. Ngươi có biết ai hiểu rõ tình hình trên núi Mang không?"

Mãng xà nghĩ một lát rồi nói: "Có rồi, ta sẽ đưa các ngươi đi tìm Chi Diệp. Nàng ấy và tộc của mình mỗi ngày đều tìm kiếm thức ăn khắp nơi trong núi Mang nên rất thông thạo tin tức, rất ít chuyện trên mặt đất mà họ không biết."

Bạch Cơ có hơi ngờ vực hỏi: "Chi Diệp?"

Thanh Minh nói: "Tộc Chi Diệp là một bộ tộc mới di cư đến núi Mang sau khi ngươi rời Trường An."

Bạch Cơ chợt hiểu ra, nói: "Ồ thì ra là những kẻ mới đến."

Dưới ánh trăng, mãng xà chở Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô lặng lẽ di chuyển trong núi Mang. Chẳng mấy chốc, mãng xà đã đến dưới một cây đại thụ cao chọc trời.

Nguyên Diệu cảm thấy hơi kỳ lạ, khi tiến gần cây này, không khí trở nên nóng bức hơn nhiều như giữa trưa mùa hè.

Ly Nô cũng cảm thấy nóng bèn để chiếc chăn nhỏ sang một bên.

Bạch Cơ nói: "Trong cây này có chứa Hỏa Sức Châu à? Nóng quá."

Mãng xà nói: "Tộc Chi Diệp di cư từ phương Nam đến nên họ sợ lạnh. Vì vậy họ đặt Hỏa Sức Châu trong cây chết này để giữ ấm cho tổ của mình."

"Cây chết?" Nguyên Diệu cảm thấy lạ lùng, cái cây trước mặt rõ ràng là sum suê cành lá, đầy sức sống, sao lại nói là cây chết?

"Ôi, Thanh Minh, ngươi từ vực sâu U Minh lên đây à? Đúng là chuyện hiếm thấy..." Một giọng nói nhẹ nhàng nhưng đầy mê hoặc của nữ nhân vang lên.

Khi giọng nói của nữ nhân vang lên, lá cây trên cây bỗng không gió mà lay, lắc lư trong màn đêm, và từ từ di chuyển.

Lá cây sao lại có thể di chuyển được?!

Nguyên Diệu ngạc nhiên, nhìn kỹ lại mới phát hiện ra rằng cây này thực ra là một cây chết, những cành cây khẳng khiu không hề có lá Nguyên Diệu khiến vô cùng ngạc nhiên, nhìn kỹ lại mới phát hiện ra cái cây này thực chất là một cây chết, các cành cây trơ trụi không hề có lá. Những chiếc "lá cây" thật ra chỉ là một nhóm kiến đông nghịt trên cây, dùng tơ nhả ra để kết thành mạng, tụ lại thành một khối. Trong đó, con kiến cây phát ra âm thanh, thân hình khổng lồ, màu hổ phách, được bao quanh bởi vô số kiến khác.

Con rắn lớn nói: "Đêm nay có bạn đến Núi Mang, tất nhiên ta phải lên đây tụ tập. Chi Diệp, ta muốn hỏi ngươi một việc được không?"

"Việc gì?" Chi Diệp hỏi.

Con rắn lớn nói: "Liên quan đến việc con người đi vào Núi Mang."

Rồi con rắn kể lại toàn bộ sự việc mà Bạch Cơ muốn tìm hiểu.

Nghe xong, Chi Diệp bàn bạc với đám đồng loại một lúc rồi nói: "Các ngươi hãy đi về phía bắc, vào sâu trong hẻm núi, tìm trong những ngôi mộ cổ, có lẽ sẽ tìm được câu trả lời mà các ngươi cần."

Bạch Cơ hỏi: "Trong ngôi mộ cổ ở hẻm núi có gì?"

Chi Diệp đáp: "Ở đó có một khu vực phủ đầy dây leo rất u ám còn có cả kết giới chú thuật, chúng ta đi kiếm ăn cũng không dám tới đó."

Bạch Cơ hỏi tiếp: "Nếu các ngươi chưa bao giờ đến mộ cổ bị dây leo phủ kín thì sao biết nơi đó có đáp án mà chúng ta cần?"

Chi Diệp nói: "Thời gian trước, chúng ta nhặt được một bàn tay người bên ngoài hẻm núi, bàn tay đó bị tách làm đôi."

Nghe vậy, Bạch Cơ nói: "Cảm ơn. Vậy chúng ta sẽ đi xem trong hẻm núi."

Sau khi từ biệt tộc Chi Diệp, con rắn lớn chở Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô đổi hướng, đi về phía bắc.

Dưới ánh trăng, trong Núi Mang, một hẻm núi ẩn mình giữa những ngọn núi.

Con rắn lớn dừng lại trước hẻm núi, nói: "Bạch Cơ, ta chỉ đưa các ngươi đến đây thôi. Trong hẻm núi này có rất nhiều lăng mộ, địa hình gập ghềnh, không thích hợp để thân hình to lớn như ta di chuyển."

Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô bèn xuống đất.

Bạch Cơ cười nói: "Thanh Minh, cảm ơn ngươi đã đồng hành với chúng ta đêm nay. Nếu rảnh rỗi ngươi có thể đến Phiêu Miểu các tìm ta uống rượu."

"Được thôi, ta thích uống rượu Kim Cốc nhất." Con rắn lớn vui vẻ vặn mình.

Bạch Cơ cười nói: "Không thành vấn đề, ta sẽ chuẩn bị sẵn vài hũ."

Sau khi con rắn lớn rời đi, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô tiến vào những ngôi mộ cổ trong hẻm núi dưới ánh trăng.

Trong rừng cây rậm rạp là những ngôi mộ u ám, gió đêm thổi qua không ngừng vọng lại tiếng kêu thê lương của loài chim đêm.

Nguyên Diệu cầm đèn lồng quỷ xanh, đi trong rừng mà lòng đầy bất an. Không hiểu sao khi vào hẻm núi, hắn rất ít thấy những hình bóng quái dị.

Bạch Cơ lẩm bẩm: "Bước vào hẻm núi, dường như không còn yêu khí nữa nhưng không khí cứ kỳ lạ thế nào ấy..."

Ly Nô nhíu mũi lại, nói: "Chủ nhân, mọt sách, các ngươi có ngửi thấy không? Thơm quá! Như thể ai đó đang nấu ăn vậy?"

Nguyên Diệu vội hít hít mũi, trong gió đêm, có mùi thơm nhè nhẹ của thịt nướng.

Bạch Cơ hít hít mũi, nói: "Dường như còn có cả mùi thuốc bắc, giống như ai đó đang sắc thuốc..."

"Chủ nhân, mọt sách, chúng ta đi theo mùi kia đi." Ly Nô đề nghị.

Bạch Cơ và Nguyên Diệu không phản đối. Vì họ cũng không biết phải đi đâu nên nghe theo đề nghị của Ly Nô, thử vận may một phen.

Ly Nô dẫn đầu đuổi theo mùi hương, Bạch Cơ và Nguyên Diệu đi theo sau.

Sau khoảng thời gian một nén nhang, ba người họ đến trước một ngôi mộ cổ đổ nát. Trước ngôi mộ có một tấm bia cao bị gãy làm đôi, tấm bia phủ đầy dây leo, không nhìn rõ được khắc gì trên đó.

Từ cửa vào ngôi mộ, phát ra ánh sáng đỏ mờ mờ như thể có đèn lửa.

Mùi thịt nướng là phát ra từ trong ngôi mộ.

Ly Nô nhíu mũi, nói: "Mùi đồ nướng không hôi còn pha lẫn mùi mỡ và mật ong, tiêu, tía tô, sả... Chỉ cần ngửi thôi cũng biết người nấu ăn rất giỏi! Không ngờ tìm mãi ở Lạc Dương chẳng thấy đầu bếp nào ra hồn, hóa ra đầu bếp giỏi đều ở trong mộ!"

Nguyên Diệu ngửi thấy mùi thơm, thì bụng đói cồn cào.

Bạch Cơ nhìn quanh.

Bỗng nhiên, một dây leo ẩn mình trong bóng tối giống như con rắn lặng lẽ rút khỏi tấm bia.

Bạch Cơ tình cờ nhìn thấy, sắc mặt trở nên nghiêm trọng, định đuổi theo dây leo đó.

Nhưng từ cửa ngôi mộ, đã có một con yêu tinh linh cẩu bước ra.

Hai bàn tay con linh cẩu vẫn còn dính dầu và bột gia vị, khi thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu, và Ly Nô, nó tỏ ra ngạc nhiên.

"Sao các ngươi lại đến đây?!"

Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô nhìn kỹ lại, nhận ra đó là Tất Xá Già, kẻ đã cùng Ly Nô ngắm hoàng hôn trên đỉnh Thúy Vân vào lúc hoàng hôn.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 18


Bạch Cơ và Nguyên Diệu chưa kịp nói gì, Ly Nô đã lên tiếng trước: "Ồ! Linh cẩu, đây là nhà ngươi sao?"

Tất Xá Già quay đầu nhìn lại ngôi mộ rồi xoa tay nói: "Đây là nhà mới của ta, ngôi mộ trước kia bị sập do mưa lớn rồi."

Bạch Cơ cười nói: "Nhà ngươi trông khá đấy, không mời chúng ta vào ngồi chơi sao?"

Tất Xá Già suy nghĩ một lúc rồi nói: "Dù sao hôm nay Vu Y cũng không có nhà, mời các ngươi vào ngồi chơi chút đi. Đúng lúc ta đang làm bữa tối, nếu các ngươi không chê thì ăn cùng luôn nhé?"

Nguyên Diệu nhớ lại Tất Xá Già là loại ngạ quỷ ăn xác chết, định từ chối.

Nhưng Bạch Cơ lại cười nói: "Được thôi. Đi lâu rồi vừa hay đang đói bụng."

Thế là Tất Xá Già dẫn Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô vào trong ngôi mộ cổ.

Bạch Cơ và Ly Nô đi theo Tất Xá Già ở phía trước, Nguyên Diệu lưỡng lự đi theo sau.

Ly Nô hỏi: "Linh cẩu, ngươi đang làm món gì mà thơm thế?"

Tất Xá Già nói: "Thịt nướng... Mà này, ngươi đừng gọi ta là linh cẩu, ta không phải là linh cẩu, ta là Tất Xá Già!"

"Biết rồi, linh cẩu." Ly Nô đáp.

Nguyên Diệu đi qua hành lang của ngôi mộ, chỉ cảm thấy âm u lạnh lẽo, không khỏi nổi da gà.

Khi đi qua cánh cửa mộ thứ hai, bức tượng thú trấn mộ ở bên cạnh cửa đá, khi Nguyên Diệu đi qua, bỗng nhiên nháy mắt một cái rồi há miệng nhưng không phát ra âm thanh.

Nguyên Diệu nhìn kỹ lại, hình dạng miệng của thú trấn mộ dường như đang nói: "Chạy mau..."

Nguyên Diệu lập tức muốn chạy trốn nhưng Bạch Cơ và Ly Nô đã đi theo Tất Xá Già vào trong mộ thất.

Nguyên Diệu mặc dù trong lòng lo lắng nhưng cũng đành phải cắn răng đi theo vào bên trong.

Tất Xá Già dẫn Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô vào một phòng mộ đã bị sụp đổ một nửa. Ở góc đông bắc của phòng mộ có một chiếc đèn cung đình hình chim hạc đang thắp sáng. Dọc theo bức tường là một đống bình thuốc lớn nhỏ khác nhau, dưới đất còn để một số loại dược liệu kỳ quái. Trên đống củi cháy, một chiếc nồi đất được treo lủng lẳng, bên trong chứa một ít chất lỏng màu nâu vàng, đang sôi sùng sục.

Tất Xá Già có vẻ hơi ngượng ngùng nói: “Đây là phòng thuốc... Chúng ta chưa bao giờ có khách, vì vậy không có sẵn phòng khách để tiếp đón.”

Ly Nô nhìn quanh một lượt rồi hỏi: “Linh cẩu, ngươi cũng biết chế biến dược liệu sao?”

Tất Xá Già xua tay, nói: “Không phải, đây là phòng thuốc của Vu Y. Ta không biết chế biến dược liệu, ta nhìn thấy dược liệu đã đau đầu rồi, đến trà hoa cỏ ta còn không uống nữa là. Vu Y không thích người khác động vào thuốc và bình của hắn nên ở đây không tiện để tiếp đãi các ngươi. Hãy theo ta vào nhà bếp. Nhà bếp trước đây vốn là một bàn thờ trong ngôi mộ cổ, không gian cũng khá rộng, tạm bợ mà tiếp đãi khách vậy.”

Bạch Cơ hỏi: “Vu Y là ai? Là chủ nhân của ngươi sao?”

Tất Xá Già lắc đầu, nói: “Không phải. Vu Y là cha của Thiếu Lang Quân.”

Nguyên Diệu có phần khó hiểu hỏi: “Thiếu Lang Quân là chủ nhân của ngươi, vậy tại sao cha của hắn không phải là chủ nhân của ngươi?”

Tất Xá Già đáp: “Chủ nhân của ta là nương của Thiếu Lang Quân. Ta không có liên quan gì đến Vu Y đó cả, chỉ vì nể mặt Thiếu Lang Quân nên mới cùng hắn ở lại ngôi mộ cổ này thôi.”

Nguyên Diệu lại hỏi: “Vậy còn nương của Thiếu Lang Quân, chủ nhân của ngươi thì sao?”

Vừa nghe đến đây, ánh mắt hung ác của Tất Xá Già lập tức trở nên u ám, nói: “Bà ấy đã đã qua đời nhiều năm rồi.” Nguyên Diệu bèn không hỏi thêm nữa.

Khi nói chuyện, Bạch Cơ, Nguyên Diệu, Ly Nô và Tất Xá Già đã bước vào phòng mộ bên trong.

Phòng mộ rất rộng rãi, có vài cột trụ tròn bị gãy đứng trơ trọi trên nền đất. Ở trung tâm phòng mộ có một bệ đá khổng lồ, trên bệ đá đầy vết máu, đặt nhiều loại dao như rìu, dao lọc xương, dao cắt thịt còn có một số mảnh thịt băm và vết máu đã khô, bên cạnh còn có một chiếc bình ba màu, trong bình chứa một ít gia vị đã được nghiền nát thành dạng sệt.

Không xa bệ đá, có một cái hố hình vuông lõm xuống mặt đất, vốn dĩ hố này là máng thoát máu kết nối với bệ tế trong phòng mộ, dùng để xả máu của các vật tế khi làm nghi lễ. Tất Xá Già đã cải tạo lại máng thoát máu này, đào hố sâu hơn và xếp chồng lên một vòng đá cao thấp xung quanh, biến nó thành một lò đất.

Trong lò đất, ngọn lửa đang cháy rực, nướng một tảng thịt lớn xiên qua thanh kiếm dài dùng để tuẫn táng trong mộ cổ.

Tảng thịt bị lửa lớn nướng đến xèo xèo, mỡ chảy ra tí tách, tỏa ra mùi thơm quyến rũ của thịt và gia vị hòa quyện.

Mùi thơm của thịt nướng như một sợi dây dẫn dụ con mèo đen bước tới.

Mèo đen phập phồng cánh mũi, cẩn thận ngửi mùi thịt nướng, nói: “Lại gần ngửi kỹ thì thấy miếng thịt này không ổn lắm vừa già vừa không tươi. Tuy nhiên, gia vị này rất đặc biệt rất k*ch th*ch vị giác. Hơn nữa, cái lò đất này cũng không tệ, nửa kín miệng, bên trái cao, bên phải thấp như vậy ngọn lửa cháy sẽ có nhiều tầng lớp, thịt nướng ra cũng có kết cấu hơn. Thịt nướng hoặc cá nướng có ngon hay không đều phụ thuộc vào ngọn lửa này.”

Nghe vậy, mắt Tất Xá Già bỗng sáng lên, hắn kích động nắm lấy móng vuốt của Ly Nô như Bá Nha gặp Tử Kỳ.

“Mèo đen, thì ra ngươi cũng biết nấu ăn sao?! Lâu lắm rồi ta mới gặp được người đồng đạo có thể trao đổi về ẩm thực!”

Ly Nô giật mạnh móng vuốt, nói: “Nhanh lên, lật miếng thịt đi, sắp cháy rồi!”

Tất Xá Già vội vàng buông tay Ly Nô ra, chạy đi lật miếng thịt.

Ly Nô và Tất Xá Già đứng cạnh lò lửa, trao đổi những kỹ thuật để làm ra món thịt nướng ngon, trò chuyện vô cùng hăng say.

Bạch Cơ vừa quan sát xung quanh vừa bước đến bên bệ tế.

Nguyên Diệu vì sợ hãi nên bám sát Bạch Cơ.

Bạch Cơ thoáng nhìn thấy trên nền đất dưới bệ tế rơi một bàn tay người bị chặt đứt, nàng liếc nhìn đống thịt vụn trên bệ tế rồi lại nhìn miếng thịt nướng không xa, không khỏi nở một nụ cười quái đản. Thấy Nguyên Diệu cũng đi theo tới, nàng thản nhiên đưa chân đá bàn tay người kia ra sau một thùng gỗ, giấu đi.

Khi Nguyên Diệu đi tới thì không nhìn thấy bàn tay người.

Nguyên Diệu thấy bệ tế trên dưới đều đầy vết máu, không khỏi lạnh cả sống lưng.

Nguyên Diệu nhìn chằm chằm vào đống thịt vụn trên bệ tế, hỏi nhỏ: “Bạch Cơ, đây là thịt gì vậy?”

Bạch Cơ cười mỉm, lấp lửng nói: “Chắc là thịt heo thịt dê gì đó. Ta không giỏi phân biệt các loại thịt.” Nói xong, Bạch Cơ bèn rời khỏi bệ tế, đi về phía lò lửa.

Nguyên Diệu cũng vội vã theo sau.

Ly Nô và Tất Xá Già vẫn đang vừa nướng thịt vừa trao đổi về ẩm thực.

Ly Nô hỏi: “Linh cẩu, gia vị ngươi dùng để nướng thịt là gì vậy?”

Tất Xá Già bận rộn lật thịt, nói: “Trong bình kia vẫn còn ít, ngươi tự xem đi.” Ly Nô chạy nhanh đến bên bệ tế, nhảy phóc lên.

Mèo đen ngồi xổm bên bình ba màu vừa nhìn vừa ngửi gia vị đã được giã nát.

“Mật ong đá, tiêu, tía tô, sả... ta chỉ nhận ra mấy loại này... Còn một mùi hương rất kỳ lạ là gia vị gì vậy?”

Tất Xá Già thuận miệng đáp: “Là thiếu lang quân nhà ta.”

“Cái gì cơ?!” Mèo đen sửng sốt.

“Cái gì?!” Nguyên Diệu ngạc nhiên.

“Hả?!” Bạch Cơ sững sờ.

Lúc này Tất Xá Già mới nhận ra mình lỡ lời, hắn nghĩ lại, mặc dù với Ly Nô có chung niềm đam mê nấu nướng vừa gặp như tri âm nhưng dù sao cũng chỉ mới gặp gỡ, không rõ lai lịch ba con yêu quái này nên vẫn là không nên tiết lộ bí mật.

Tất Xá Già nuốt nước bọt, nói lảng: “Là gia vị... mà Thiếu Lang Quân nhà ta thích nhất.” Nghe vậy, Nguyên Diệu thở phào nhẹ nhõm. Hắn còn tưởng con ngạ quỷ này đã biến chủ nhân nhỏ của mình thành gia vị cho thịt nướng chứ.

Bạch Cơ không nói gì, chỉ trầm ngâm suy nghĩ.

Ly Nô tò mò hỏi tiếp: “Là gia vị gì vậy?”

Tất Xá Già nói: “Đó là một loại lá dây leo. Loại lá này gọi là Cỏ Tiên, mọc trong rừng sâu ở vùng đất Bách Việt. Người Việt ở đó rất thích mùi hương của Cỏ Tiên, thường giã nát để làm gia vị trong các món ăn.”

Ly Nô bừng tỉnh, nói: “Hóa ra là thứ mà Trung Nguyên không có, bảo sao ta không nhận ra đó là gì.”

Bạch Cơ hứng thú hỏi: “Ngươi và Vu Y đến từ vùng đất Bách Việt sao?” Tất Xá Già suy nghĩ một chút, hắn cảm thấy mặc dù không thể tiết lộ bí mật nhưng câu hỏi của Bạch Cơ vẫn có thể trả lời được.

“Vu Y không phải là người Bách Việt nhưng chủ nhân của ta thì phải. Trong rừng sâu ở phía nam nhất của đất Bách Việt, có một thung lũng biệt lập với thế giới bên ngoài, nơi đó có một bộ tộc sống ẩn cư. Vì bộ tộc này xem Cỏ Tiên là vật tổ để thờ phụng nên người địa phương gọi họ là Tiên tộc. Người Tiên tộc ai cũng có dị năng kỳ lạ, có thể giao tiếp với quỷ thần, và chủ nhân của ta là người Tiên tộc.” Bạch Cơ dường như muốn nói gì đó nhưng sau khi trầm ngâm một lúc lại im lặng không nói nữa.

Tất Xá Già lật lại miếng thịt nướng, tiếp tục nói: “Người Tiên tộc có một luật lệ, suốt đời không được rời khỏi thung lũng ẩn cư, cũng không được kết hôn với người ngoài. Nếu không sẽ bị nguyền rủa. Nhưng chủ nhân của ta lại bị Vu Y đáng chết kia dụ dỗ.”

Nguyên Diệu không nhịn được hỏi: “Bị dụ dỗ là sao?”

Tất Xá Già đáp: “Là bỏ trốn. Tên Vu Y đó lang bạt khắp nơi, có một năm hắn du ngoạn đến thung lũng của người Tiên tộc, khi đang hái thuốc trên núi thì ngã từ vách đá xuống, bị thương ở chân, được chủ nhân ta đi ngang qua cứu về. Vu Y ở lại nhà chủ nhân để dưỡng thương, hai người có tình cảm với nhau rồi yêu nhau. Người Tiên tộc không được kết hôn với người ngoài nên chủ nhân ta bỏ trốn cùng Vu Y, cả hai rời khỏi đất Bách Việt, sau đó sinh ra Thiếu Lang Quân... Tất cả đều là do chủ nhân kể lại. Ta là người được chủ nhân cứu trên đường đi, để trả ơn, ta theo hầu chủ nhân. Đôi khi chủ nhân nhớ nhà, Vu Y sẽ trồng một ít Cỏ Tiên tại nơi ở của bà. Chủ nhân thường dùng Cỏ Tiên làm gia vị trong các món ăn, nhờ vậy ta cũng học được.”

Bạch Cơ hỏi: “Chủ nhân của ngươi qua đời như thế nào?”

“... Bệnh mà chết.” Tất Xá Già im lặng một lúc mới đáp.

“Sau khi chủ nhân qua đời, lẽ ra ta đã được tự do. Nhưng vì chủ nhân có ơn với ta, ta không thể yên tâm nếu không chăm sóc Thiếu Lang Quân trưởng thành nên quyết định ở lại để chăm sóc hắn, sống chung với Vu Y để qua ngày.”

Nguyên Diệu hỏi: “Thiếu Lang Quân nhà ngươi đâu rồi?”

Tất Xá Già đáp: “Đang ngủ. Hắn thường ngủ sớm. À, thịt nướng đã chín rồi.”

Ly Nô hứng khởi xoa xoa móng vuốt, nói: “Này, sách mọt, mau đi lấy dĩa đi.” Nguyên Diệu bèn đi về phía bệ tế để tìm dĩa.

Trên bệ tế, chỉ thấy có rìu, dao lọc xương, dao cắt thịt và một vài chiếc bát đĩa bằng đất sét nhưng không thấy dĩa đâu.

Dĩa ở đâu nhỉ? Nguyên Diệu vừa tìm kiếm vừa suy nghĩ.

Một sợi dây leo màu xanh lục lặng lẽ bò từ những bức tường đổ nát của phòng mộ vào trong, chầm chậm di chuyển trên bệ tế rồi rút ra ba chiếc dĩa tròn có hoa văn hình nho từ dưới một cái bình đất màu vàng, nhẹ nhàng đưa đến trước mặt Nguyên Diệu.

Nguyên Diệu thấy ba chiếc dĩa được đưa đến tay mình bèn thở phào nhẹ nhõm, hắn thuận tay nhận lấy dĩa, nói: “Cảm ơn.”

Dây leo trong không trung khẽ uốn éo rồi bằng một giọng trẻ con nói: “Không có chi.” Nguyên Diệu ngây người nhìn chằm chằm vào dây leo đang uốn éo trước mặt, há hốc mồm.

Dây leo vươn vai, quấn qua quấn lại, nói: “Ta cũng muốn ăn thịt nướng.”

Nguyên Diệu nghe thấy dây leo biết nói, giọng nói lại rất quen thuộc, là giọng của Thiếu Lang Quân mà hắn đã gặp lúc chạng vạng tối.

Tình huống này khá kỳ quái, Nguyên Diệu có hơi sợ hãi, định nhấc chân chạy đi.

Vì có một đoạn dây leo quấn quanh dưới đất, khi Nguyên Diệu vừa bước chạy, không cẩn thận bị một sợi dây leo vướng chân, ngã nhào xuống đất.

“Choang!” Ba chiếc dĩa tròn trong tay Nguyên Diệu lập tức rơi vỡ.

Bông hoa đuôi phượng màu tím cài trên tóc Nguyên Diệu cũng rơi xuống, khí tức của rồng che giấu hơi người lập tức bị lộ.

Dây leo lập tức cảm nhận được, nó bất ngờ vọt lên không, quấn chặt lấy thư sinh đang sợ đến ngẩn người.

“Có mùi của con người... Thật tuyệt, có thể chơi trò chơi rồi!”

Nguyên Diệu ngã ngồi trên đất thì thấy một mảnh dây leo xanh biếc từ trên cao lao tới quấn chặt mình, sợ hãi kêu lên: “Bạch Cơ, cứu mạng...”

Bạch Cơ nheo mắt nhìn dây leo đang bay lượn phía không xa, đôi mắt sáng ngời, nàng nghiêng đầu suy nghĩ điều gì đó nhưng không hề hành động.

Con mèo đen chỉ chú ý đến miếng thịt nướng, thấy Bạch Cơ không động đậy nó cũng không động đậy.

Vậy là dây leo lập tức quấn chặt thư sinh, trói chặt hắn vào một chiếc cột trụ trong phòng mộ.

Tất Xá Già đứng dậy, cánh mũi phập phồng, tiến về phía thư sinh.

“Hóa ra là một con người.”

Tất Xá Già cảnh giác quay đầu nhìn về phía Bạch Cơ và Ly Nô.

“Sao các ngươi lại đi cùng một con người? Không lẽ các ngươi cũng là người?”

Bạch Cơ và Ly Nô nhìn nhau một cái, đồng thanh đáp: “Chúng ta không quen hắn!”

Bạch Cơ cười nói: “Ta là một con rồng, thật còn hơn vàng. Ta gặp con người này trên đường, cứ tưởng hắn cũng là rồng nên mới cùng du ngoạn, hóa ra lại là một con người!”

Mèo đen nói: “Ta là một con mèo, ngươi nhìn cũng biết rồi. Ta đã cảm thấy hắn có gì đó kỳ lạ không giống phi nhân, hóa ra lại là con người giả dạng.”

Nguyên Diệu thấy Bạch Cơ và Ly Nô giả vờ không quen mình, không khỏi tức giận nhưng hắn lại không có cách nào, đành phải nuốt sự sợ hãi vào trong lòng, lặng lẽ chịu đựng.

Tất Xá Già rất do dự, trong lòng phân vân, không biết có nên tin lời Bạch Cơ và Ly Nô hay không.

Ly Nô lớn tiếng nói: “Này, linh cẩu, ngươi có để chúng ta ăn thịt nướng hay chưa?”

Tất Xá Già nói: “Mèo đen, ngươi chờ chút đã.”

Ly Nô không vui, định nổi cáu nhưng Bạch Cơ vội vàng ra hiệu cho hắn nhịn lại.

Ly Nô bèn im lặng.

Dây leo không gió mà lay động, uốn éo quấn quanh, nói: “Ta cũng muốn ăn thịt nướng.”

Tất Xá Già nói: “Thiếu Lang Quân hãy buộc người này vào cột đi, đợi cha ngươi về rồi lấy hắn để thử thuốc.”

Dây leo nghe vậy, lập tức hành động, xoắn lại bay lên, giống như bó một đòn bánh tét, quấn chặt thư sinh vào cột trụ trong phòng mộ thất.

Tất Xá Già đứng bên cạnh Nguyên Diệu, hít hà trên người hắn rồi nhe răng cười.

“Trước đây, vì ta sơ suất để người thử thuốc kia trốn thoát. Vu Y mắng ta thậm tệ, trách ta để kẻ có khả năng thành công nhất chạy mất. Ta luôn muốn bắt một người khác về nhưng rất ít người sống đến núi Mang, tìm được người ở đây khó lắm, hôm nay xem ra ta may mắn, chính ngươi tự dâng mình lên.”

“Bạch Cơ, Ly Nô lão đệ, cứu ta với...” Nguyên Diệu khóc lóc nói, vẻ mặt sợ hãi.

Bạch Cơ quay đầu sang trái, Ly Nô quay đầu sang phải, cả hai giả vờ như không nghe thấy tiếng cầu cứu của thư sinh.

Bạch Cơ hỏi: “Tất Xá Già, Vu Y nhà ngươi lấy người để thử thuốc gì vậy?”

Tất Xá Già quay lại đáp: “Chuyện này không liên quan đến các ngươi. Các ngươi ăn thịt nướng xong rồi đi đi. Ồ, đĩa bị vỡ hết rồi, các ngươi chờ chút, ta sẽ sang phòng đồ tùy táng bên cạnh tìm thêm vài cái đĩa. Thiếu Lang Quân canh chừng họ giúp ta nhé.”

Dây leo đung đưa một chút, ngây thơ trả lời: “Được ạ.”

Tất Xá Già bèn rời đi.

Bạch Cơ nhìn dây leo đang đung đưa trong không trung, ánh mắt lóe lên, cười thân thiết hỏi: “Thiếu Lang Quân tên gì vậy?”

Dây leo ngây thơ đáp: “Ta tên là Vũ.”

Bạch Cơ thân thiết cười hỏi: “Tiểu Vũ, ngươi mấy tuổi rồi?”

Dây leo đáp: “Ta năm tuổi rồi.”

Bạch Cơ lại hỏi: “Tiểu Vũ, cha ngươi dùng người thử thuốc gì vậy?”

Dây leo trả lời: “Cha ta đang thử thuốc cho ta, vì ta bị bệnh.”

Bạch Cơ tò mò hỏi: “Ngươi bị bệnh gì vậy?”

Dây leo buồn bã đáp: “Ta cũng không biết. Ta cảm thấy mình không bị bệnh nhưng cha và A Đạt đều nói ta bị bệnh.”

Ly Nô không nhịn được thì thầm: “Chủ nhân, nó bị bệnh đần độn rồi.”

Dây leo không vui phản bác: “Ta không có bị bệnh đần độn, ta thông minh lắm. Ta biết thuốc cha ta thử không phải để chữa bệnh đần độn đâu, những người uống thuốc đó, cơ thể đều bị nứt ra.” Nguyên Diệu nghe vậy không khỏi giật mình.

Bạch Cơ ngẩn ra, định hỏi kỹ hơn.

Ngay lúc đó bên ngoài mộ thất vang lên tiếng bước chân, xen lẫn tiếng Tất Xá Già nói chuyện với người khác.

Giọng Tất Xá Già có vẻ ngạc nhiên, pha chút khó xử.

“Vu Y, sao ngươi đột nhiên quay về thế?”

Một nam nhân đáp: “A Đạt, người thử thuốc ngươi làm mất lần trước đã trốn về Thần Đô rồi, ta đã tìm thấy hắn. Hắn quả đúng là kẻ thành công nhất, hắn nứt ra lúc đang sống.” Giọng nam nhân nghe quen thuộc nhưng Nguyên Diệu chợt không nhớ ra hắn là ai.

“Nói vậy, Thiếu Lang Quân có hy vọng sống rồi!” Mắt Tất Xá Già sáng lên nhưng vẻ mặt vẫn có hơi khó xử.

Giọng nam nhân đầy hưng phấn không thể kìm nén: “Đúng vậy. A Đạt, Vũ Nhi có thể được cứu. Nhưng ta cần theo dõi thêm vài ngày và cho hắn uống thêm một ít thuốc, xem hắn cuối cùng có thể sống sót hay không. Ta về để lấy thuốc. Công thức thuốc thảo dược ta đã ghi lại để trên tầng ba của kệ thuốc… A Đạt, ngươi làm sao vậy? Trông ngươi có vẻ lạ lắm?”

Tất Xá Già lắp bắp đáp: “…Vu Y, không biết tối nay ngươi về, ta… ta mời vài vị khách… đến nhà ăn cơm…”

Nam nhân chán ghét nói: “Ai thèm ăn cơm ngươi nấu?! Khách gì ở đây?”

Tất Xá Già không vui nói: “Vu Y, ngươi nói vậy là sao? Ngươi ăn cơm ta nấu suốt hai mươi năm nay rồi. Không có ta nấu, ngươi đã chết đói lâu rồi. Khách hôm nay là bạn mới của ta.”

Nam nhân ngạc nhiên hỏi: “Ngươi còn kết bạn được sao?!”

Tất Xá Già lẩm bẩm: “Vu Y, ngươi nói thế nghĩa là sao, ta sao lại không kết bạn được chứ?”

Nam nhân hỏi: “Là bạn gì vậy?”

Tất Xá Già vừa bước vào mộ thất, chỉ vào Bạch Cơ, Ly Nô và Nguyên Diệu đang bị dây leo trói chặt: “Là họ.” Nam nhân bước vào mộ thất.

Nguyên Diệu nhìn kỹ nam nhân, không khỏi ngây người khi thấy hắn mặc một bộ trường bào màu xanh đậm, thêu hoa văn cây sài, đi đôi giày rơm dính đầy bùn đất, chống một cây gậy tre, trên lưng đeo một hòm thuốc. Trên hòm có một cây gậy gỗ treo một tấm vải cũ màu xanh, một mặt vải ghi chữ “Y”, mặt kia ghi chữ “Vu”.

Đây chẳng phải là Vu Y đã gặp ở nhà Ngô Du sao? Hắn lại là cha của Thiếu Lang Quân ư?! Hơn nữa, hắn nói thử thuốc trên người là ý gì?

Nguyên Diệu vừa nghĩ ngợi, dây leo trói hắn thấy Vu Y, đột nhiên đung đưa, giọng nói ngây thơ vui vẻ vang lên: “A Đạt, ngươi về rồi. Trong khách của A Đạt có một con người, lại có thể chơi trò chơi nữa rồi…” Vu Y thấy Bạch Cơ, Nguyên Diệu và Ly Nô, không khỏi giật mình.

Bạch Cơ thấy Vu Y, cười nói: “Thì ra là ngươi. Xem ra, chúng ta thật có duyên.”

Vu Y nghiêm mặt, nói: “A Đạt, ba người này không thể để lại.”

Tất Xá Già vẫn ngây ngô đáp: “Vu Y, đây không phải là ba người, chỉ có người bị Thiếu Lang Quân trói mới là người. Ngươi này là rồng còn đây là một con mèo đen.”

Vu Y mắng: “Ngươi đúng là đồ quái vật ăn xác ngu ngốc. Ba người họ đến núi Mang là tìm chúng ta vì chuyện về thuốc thử! Nếu giữ họ lại, không cứu được Vũ Nhi đâu!” Tất Xá Già nghe vậy, dường như hiểu ra điều gì, nó đột nhiên lao về phía Bạch Cơ định tấn công.

Ly Nô nhanh hơn một bước, lập tức hóa thành một con mèo yêu chín đuôi to lớn như một con hổ, bất ngờ lao tới Tất Xá Già, dùng một móng vuốt hất nó ngã lăn ra đất rồi giẫm lên.

“Linh cẩu, đừng cựa quậy, ngươi không đánh lại chủ nhân đâu.”

Trong tay Bạch Cơ bùng lên ánh sáng vàng, một luồng lửa rồng đỏ vàng cuộn tới, thiêu cháy dây leo đang trói chặt Nguyên Diệu.

Dây leo bị lửa rồng đốt cháy, dường như đau đớn không chịu nổi, kêu lên một tiếng thảm thiết.

“Hu hu, nóng quá, đau quá...”

Dây leo khóc thét rồi vội vã rút lui tản ra.

Nguyên Diệu được tự do bèn lập tức bò dậy, chạy về phía Bạch Cơ.

Tất Xá Già thấy dây leo bị lửa rồng thiêu đốt, không khỏi tức giận, lập tức hóa thành yêu quái, cả người biến thành màu xanh lục, toát ra thi độc.

Mèo yêu chín đuôi thấy vậy, khinh bỉ buông móng vuốt ra.

“Chậc, thật bẩn thỉu! Linh cẩu, ngươi bẩn thỉu thế này, quả thật không phải là một đầu bếp giỏi!”

Tất Xá Già phun một luồng chất thi độc chết màu xanh lục về phía Ly Nô, tức giận nói: “Mèo đen, nói lại lần nữa xem, ta không phải là linh cẩu!”

Mèo yêu chín đuôi nghiêng đầu, tránh được luồng thi độc màu xanh lục của Tất Xá Già, đồng thời phun ra một đám lửa yêu.

“Biết rồi, linh cẩu.”

Lửa yêu nổ tung, hất tung Tất Xá Già.

Tất Xá Già kêu lên thảm thiết, va vào tường rồi rơi xuống đất.

“A Đạt, A Đạt, ngươi có sao không?”

Một sợi dây leo xanh lục thò ra từ khe nứt trên tường cổ mộ nhưng nó rất sợ hãi, chỉ dám ló ra một chút lá xanh.

Vu Y thấy Tất Xá Già không phải đối thủ của Ly Nô, biết rằng đêm nay gặp phải đối thủ khó chơi, chợt không biết phải làm sao.

Bạch Cơ mỉm cười hỏi: “Vu Y, bệnh quái lạ của Ngô Du là sao?”

Sắc mặt Vu Y tái nhợt nhưng không nói một lời.

Bạch Cơ cười nói: “Ngươi không nói cũng không sao, dù sao ta cũng đã hiểu rồi. Ngô Du toàn thần bị nứt ta như bây giờ do ngươi. Người bạn của Ngô Du, kẻ đã cùng hắn lên núi Mang nhưng rồi mất tích, cũng là do ngươi giết. Ngươi là thủ phạm, chỉ cần đem giao ngươi cho Ngô gia là được.”

Nghe vậy, Vu Y vội lắc đầu: “Không! Không! Ta sắp thành công rồi, ta không thể bỏ dở giữa chừng, nếu không, Vũ Nhi sẽ chết mất.”

Bạch Cơ nhìn Vu Y, giọng nói nhẹ nhàng như gió thoảng.

“Vậy thì hãy nói cho ta biết mọi chuyện. Biết đâu ta có thể giúp ngươi thực hiện nguyện vọng. Những khát khao sâu thẳm trong lòng ngươi.”

Vu Y ngước lên nhìn Bạch Cơ, đôi mắt vàng kim của nàng giống như một xoáy nước mê cung, nơi tận cùng của xoáy nước ấy ẩn chứa một sức mạnh to lớn, gần như thần phật. Con người chỉ cần về phía sức mạnh ấy mà cầu nguyện là có thể thực hiện mong muốn trong lòng. Nhưng sức mạnh ấy cũng sẽ nuốt chửng tất cả như một cái giá mà người đời phải trả khi thực hiện điều ước của mình.

Vu Y hỏi: “Ngươi thật sự có thể thực hiện được nguyện vọng của ta sao?”

Bạch Cơ đáp: “Phiêu Miểu các tồn tại là để thực hiện những mong muốn của thế gian. Ngươi có điều ước gì?”

Vu Y lẩm bẩm: “Phiêu Miểu các? Ta đã nghe nói về Phiêu Miểu các, cũng từng đi khắp phố phường tìm kiếm nhưng chưa từng tìm thấy.”

Bạch Cơ nói: “Người không có duyên sẽ không thể bước vào Phiêu Miểu các. Khi duyên chưa đến sẽ không thể nhìn thấy Phiêu Miểu các. Mọi sự đều có duyên khởi, và mọi nhân quả đều đã được định trước. Ngươi có điều ước gì?”

Vu Y với vẻ mặt đầy đau khổ nói: “Ta... ta hy vọng Vũ Nhi có thể thoát khỏi lời nguyền định mệnh, có thể sống yên bình…”

Bạch Cơ nói: “Chuyện này là thế nào?”

Vu Y bắt đầu kể, vẻ mặt vô cùng bi thương.
 
Phiêu Miểu 7 - Quyển Thần Đô
Chương 19


Vu Y từ từ kể lại với nét mặt rất buồn.

“Thê tử ta, A La là người Tiên tộc. Tiên tộc là một bộ tộc sống ẩn dật trong núi sâu ở Nam Cương, họ thờ phụng và tôn thờ cỏ tiên như một vật tổ. Họ sống biệt lập, không giao thiệp với người ngoài. Người Tiên tộc có khả năng thông linh với quỷ thần, vô cùng thần bí. Rất lâu trước đây, khi ta du ngoạn đến Nam Cương, vô tình lạc vào nơi cư trú của Tiên tộc. Ta và A La gặp nhau rồi yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chúng ta yêu nhau nhưng Tiên tộc không kết hôn với người ngoài, và người trong tộc A La phản đối chúng ta ở bên nhau. Chúng ta không muốn chia lìa nên đã bỏ trốn. Tiên tộc không kết hôn với người ngoài, cũng không thể rời khỏi nơi cư trú của họ, nếu không sẽ phải chịu lời nguyền định mệnh. Tuy nhiên khi bỏ trốn, chúng ta không nhận ra lời nguyền định mệnh đó đáng sợ đến mức nào. Thậm chí, A La cũng không biết, sau khi rời khỏi tộc, nàng sẽ phải chịu đựng số phận kinh khủng như thế nào. Nhiều khi, con người vì vô tri không thể hiểu được những lời cảnh báo của định mệnh. Chỉ đến khi trải qua mọi thứ, họ mới hiểu lời cảnh báo của định mệnh là gì. Hóa ra, Tiên tộc không phải là con người, họ là hậu duệ của cỏ tiên…”

Nguyên Diệu nghe đến đây có hơi hoang mang, không kìm được mà cắt ngang lời Vu Y hỏi: “Hậu duệ của cỏ tiên là gì? Tiên tộc đều là yêu quái cỏ tiên sao?”

Vu Y lắc đầu đáp: “Không phải yêu quái, họ là con người, chỉ là họ là tồn tại nửa người nửa cỏ tiên…”

Nguyên Diệu vẫn có hơi mơ hồ, ánh mắt đầy mông lung. Nửa người nửa cỏ tiên nhưng lại không phải yêu quái, loại tồn tại này thật khó hiểu.

Ly Nô thấy Nguyên Diệu có vẻ mông lung bèn nói: “Mọt sách ngốc, chuyện này dễ hiểu thôi, Tiên tộc đều là người thực vật.”

Nguyên Diệu hỏi: “Ly Nô lão đệ, người thực vật là gì?”

Ly Nô đáp: “Là vừa là thực vật vừa là người thôi.”

Nguyên Diệu vẫn chưa hiểu muốn hỏi thêm.

Bạch Cơ bèn nói: “Được rồi, Hiên Chi, Ly Nô, hai ngươi đừng bàn luận về người thực vật nữa. Vu Y, ngươi kể tiếp đi.”

Vu Y chìm vào ký ức với vẻ mặt đau khổ.

“Sau khi ta và A La bỏ trốn mới biết rằng Tiên tộc là hậu duệ của cỏ tiên là những tồn tại nửa người nửa cỏ tiên. Tiên tộc có khả năng thông linh với quỷ thần nhưng họ phải sống quần cư mới có thể tồn tại bình thường. Người Tiên tộc không thể rời xa đồng loại, sống riêng lẻ. Một khi rời khỏi tộc, sức sống của họ sẽ lập tức cạn kiệt. Đó là lời nguyền của số phận dành cho người Tiên tộc. Sau khi rời khỏi Nam Cương, sức sống của A La dần dần mất đi, nàng ngày càng trở nên yếu đuối. Sau đó vì mang thai và sinh nở, sức lực tiêu hao quá nhiều, càng làm cho nàng suy yếu lập tức. Sau khi sinh Vũ Nhi, nàng phải nằm liệt giường. Ta hành nghề y đã nhiều năm, thông hiểu y lý, cũng biết đôi chút về quỷ thần. Ta đã dùng mọi cách của mình để tạm thời trì hoãn sự tiêu hao sinh mệnh của nàng. Tuy nhiên, sau đó…”

Vu Y nói tiếp, tuy ngập ngừng nhưng cuối cùng cũng thốt lên: "Khi Vũ Nhi năm tuổi thì nương nó... mất. Nàng qua đời khi chỉ mới hai mươi ba tuổi. Trong cơ thể Vũ Nhi cũng mang dòng máu của người Tiên tộc, giống như nương nó, bị lời nguyền của dòng máu Tiên tộc đeo bám. Rời xa nơi cư ngụ của Tiên tộc, nó sẽ không thể sống được lâu. Vũ Nhi năm nay đã mười chín tuổi, nó sống được đến bây giờ có lẽ vì nó mang trong mình một nửa dòng máu con người. Nhưng những năm gần đây, nó cũng bắt đầu yếu dần. Những dấu hiệu và triệu chứng suy kiệt mà nương nó từng gặp phải cũng bắt đầu xuất hiện trên cơ thể Vũ Nhi. Ta cảm thấy Vũ Nhi cũng sẽ không sống được bao lâu nữa, nó cũng sẽ lập tức suy kiệt và rời xa ta. Đối với một người cha, điều không thể chịu đựng nổi nhất là người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh. Ta không thể để Vũ Nhi chết. Ta chắc chắn phải giúp Vũ Nhi sống sót, thoát khỏi lời nguyền của dòng máu Tiên tộc, sống như một con người bình thường."

Bạch Cơ thở dài, nói: "Vậy nên, để cứu con trai mình, ngươi đã ẩn mình trong núi Mang, pha chế dược thảo và lấy con người làm thí nghiệm khiến họ bị phân tách như loài dây leo? Đây đúng là một ý nghĩ điên rồ và một hành động điên rồ hơn."

Nguyên Diệu không kìm được mà nói: "Vu Y, mặc dù ý định ban đầu của ngươi là do tình cảm gia đình. Nhưng những người bị ngươi dùng làm thí nghiệm, chẳng phải họ cũng quá oan uổng, quá đáng thương sao?"

Vu Y cúi đầu, đau khổ nói: "Ta không còn cách nào khác, để Vũ Nhi có thể sống sót, ta chỉ có thể làm như vậy. Có lẽ ta đã quá ích kỷ nhưng là một người cha, ta chỉ muốn con mình thoát khỏi lời nguyền của số phận, được sống sót mà thôi."

Nguyên Diệu vừa tức giận vừa buồn bã nói: "Những người mà ngươi dùng làm thí nghiệm như Ngô Du, cũng có phụ mẫu. Họ cũng hy vọng con mình có thể sống sót, chứ không phải bị ngươi bắt làm thí nghiệm và chết trong núi Mang."

Vu Y cúi đầu, im lặng không nói gì.

Bạch Cơ nhìn Vu Y và hỏi: "Ngươi biết bao nhiêu về Tiên tộc?"

Vu Y ngước lên, ánh mắt đầy mơ hồ.

"Cho đến nay, ta vẫn không rõ Tiên tộc là một tồn tại như thế nào, họ có những bí mật gì. Thậm chí cả A La cũng biết rất ít về tộc của mình. Nếu ban đầu nàng biết số phận của mình và số phận của con mình như thể thì nàng sẽ không bỏ trốn cùng ta."

Ly Nô không kìm được mà nói: "Nghe như thê tử và con ngươi chết sớm là do rời xa Tiên tộc, vậy nếu họ rời xa ngươi và trở lại Tiên tộc, chẳng phải họ sẽ sống được sao? Ngươi cũng không cần phải làm những việc trái lương tâm như bắt người làm thí nghiệm nữa."

Vu Y ánh mắt bi thương nói: "Không còn cách nào trở về. Khi sức sống của A La bắt đầu suy kiệt, nàng nhận ra rằng cuộc sống của mình đang dần trôi đi là do rời xa tộc. Vậy nên, chúng ta cùng trở về thung lũng nơi Tiên tộc từng ẩn cư mà chúng ta đã trốn chạy khỏi. Nhưng khi đến nơi, thung lũng đã trống rỗng, không còn một ai trong Tiên tộc. Họ đã di cư đi nơi khác. Theo những gì A La nhớ lại, Tiên tộc mặc dù sẽ ẩn cư ở một nơi nào đó trong thời gian dài nhưng không phải mãi mãi định cư ở một chỗ cố định. Phụ mẫu nàng đã từng nói rằng trước khi nàng sinh ra, Tiên tộc mới di cư đến thung lũng nơi chúng ta gặp nhau. Lý do họ di cư, dựa vào điều gì mà di cư, khi nào sẽ di cư và sẽ di cư đi đâu, đó là những bí mật chỉ có đại pháp sư và tộc trưởng mới biết, các thành viên trong tộc chỉ tuân theo lệnh mà hành động. A La cũng không biết tộc của mình đã di cư đi đâu, có thể vẫn ở một nơi nào đó trong dãy núi Nam Cương, hoặc có thể đã đi xa đến tận chân trời, góc biển, không thể tìm ra. Chúng ta đã tìm kiếm rất lâu ở Nam Cương nhưng không có tin tức gì về Tiên tộc, thậm chí nhiều người còn chưa bao giờ nghe nói về Tiên tộc, không biết rằng Tiên tộc tồn tại. Chúng ta đành phải từ bỏ việc tìm kiếm. Tiên tộc mang trong mình quá nhiều bí mật, đó là những câu đố mà cả ta và A La đều không biết. Những năm qua, ta vừa thu thập tư liệu về Tiên tộc vừa pha chế các loại dược thảo để Vũ Nhi có thể sống sót. Nhưng dù đã nghiên cứu nhiều năm, ta vẫn không hiểu Tiên tộc thực sự là sự tồn tại như thế nào."

Bạch Cơ nói: "Ta biết Tiên tộc là sự tồn tại như thế nào, cũng biết tại sao họ lại di cư. Khi Tất Xá Già nói chủ nhân của nó là người Tiên tộc, ta đã mơ hồ đoán ra mọi chuyện."

Vu Y ngẩng đầu nhìn Bạch Cơ, trong mắt lóe lên một tia hy vọng: "Tiên tộc tại sao phải di cư? Họ đã đi đâu? Có thể tìm thấy họ không? Nếu có thể tìm thấy họ, chỉ cần sống cùng họ, có lẽ Vũ Nhi vẫn có thể sống sót..."

Bạch Cơ mỉm cười nói: "Ta cho ngươi biết bí mật của Tiên tộc, ngươi sẽ trao đổi với ta điều gì?"

Vu Y nói: "Ngươi muốn gì? Chỉ cần có thể giúp Y u sống sót, ta sẽ cho ngươi mọi thứ."

Bạch Cơ nhìn một sợi dây leo màu xanh thò ra từ khe tường của phòng mộ, khóe miệng khẽ nở một nụ cười bí ẩn.

"Vu Y, ngươi đã từng nghe nói về Kiến Mộc chưa?"

Vu Y sững sờ, ánh mắt trở nên mơ hồ, không hiểu sao Bạch Cơ lại đột nhiên nhắc đến Kiến Mộc.

Nguyên Diệu cũng không hiểu tại sao Bạch Cơ lại chuyển sang chủ đề này.

"Bạch Cơ, không phải đang nói về Cỏ Tiên sao? Sao lại lôi Kiến Mộc vào?"

Bạch Cơ cười nói: "Hiên Chi muốn nói về Cỏ Tiên thì chắc chắn phải nhắc đến Kiến Mộc. Bí mật của Tiên tộc và lý do họ di cư đều liên quan đến Kiến Mộc."

Nguyên Diệu hỏi: "Bạch Cơ, rốt cuộc là chuyện gì thế?"

Bạch Cơ nói: "Kiến Mộc là cây thánh thời thượng cổ, là cầu nối giữa trời, đất và con người. Cỏ Tiên là một loài dây leo mọc trên Kiến Mộc, vì Kiến Mộc tồn tại ở nơi giao thoa giữa nhân gian và thiên giới, nơi giao thoa đó là ‘cánh cửa’ kết nối hai thế giới. Ở nơi ‘cánh cửa’ hiện diện, linh khí vô cùng dồi dào, đó là nguồn sống của Cỏ Tiên. Người Tiên tộc là hậu duệ của Cỏ Tiên, họ cùng tồn tại với Kiến Mộc, phải sống gần ‘cánh cửa’ để tồn tại. Thời thượng cổ, đã xảy ra một số chuyện, các vị thần không còn muốn giao tiếp với loài người nữa, Kiến Mộc bị các vị thần phá hủy, từ lâu đã biến mất khỏi thế gian. Nhưng Cỏ Tiên vẫn sống nhờ linh khí từ ‘cánh cửa’, và hậu duệ của Cỏ Tiên vẫn tiếp tục canh giữ ‘cánh cửa’ nối giữa nhân gian và thiên giới, hy vọng một ngày nào đó Kiến Mộc sẽ xuất hiện lại. ‘Cánh cửa’ không phải là một địa điểm cụ thể, nó di chuyển trong không gian và thời gian, người Tiên tộc sẽ di cư theo sự di chuyển của ‘cánh cửa’, chỉ có linh khí dồi dào từ ‘cánh cửa’ mới giúp họ tồn tại. Rời khỏi ‘cánh cửa’, không được linh khí nuôi dưỡng, họ sẽ suy kiệt rồi chết, giống như A La vậy. A La cùng ngươi bỏ trốn, rời xa nơi cư ngụ của Tiên tộc gần ‘cánh cửa’, không được linh khí nuôi dưỡng nên sinh lực của nàng suy kiệt. Thời gian trôi qua nhanh, ngàn năm chỉ trong chớp mắt, trong suốt thời gian dài đó, phần lớn người Tiên tộc có lẽ đã quên tại sao họ phải di cư theo "cửa". Chỉ có đại vu và tộc trưởng, thông qua những lời răn dạy truyền miệng từ đời này sang đời khác mới thấy được một chút bí mật cổ xưa, tuân theo những lời tiên tri xa xưa, dẫn dắt dân tộc mình sống ẩn dật và sống sót qua các thời kỳ.”

Vu Y có hơi ngạc nhiên, nói: “Hóa ra việc người Tiên tộc di cư là vì lý do này. Năm đó ta và A La trở lại thung lũng, không tìm thấy người Tiên tộc là vì ‘cửa’ đã chuyển sang nơi khác, họ đã di chuyển theo ‘cửa’ rồi sao?”

Bạch Cơ gật đầu, nói: “Lối vào giữa thiên giới và trần gian sẽ thay đổi vị trí theo thời gian. Thật không may, sau khi ngươi và A La bỏ trốn, ‘cửa’ đúng lúc thay đổi vị trí nên người Tiên tộc đã di cư theo ‘cửa’. Khi các ngươi quay lại thung lũng nơi Tiên tộc ẩn cư, tất nhiên là đã không còn ai ở đó nữa.”

Vu Y lo lắng hỏi: “Người Tiên tộc di cư đi đâu rồi? Họ hiện đang sống ở đâu thế? Ngươi đã biết bí mật của Tiên tộc, cũng biết về ‘cửa’, vậy chắc chắn ngươi biết người Tiên tộc hiện đang ở đâu! Cầu xin ngươi, hãy nói cho ta biết ta phải tìm Tiên tộc ở đâu…”

Bạch Cơ lắc đầu, nói: “Thật tiếc, ta không biết hiện tại người Tiên tộc đang ở đâu. Ta biết bí mật của Tiên tộc. Nhưng về vị trí của ‘cửa’ thì ta không biết. Vị trí của ‘cửa’, trong ba giới này có lẽ chỉ có người Tiên tộc mới biết, họ có mối liên hệ mật thiết với ‘cửa’, ‘cửa’ là nguồn sống của họ.”

Vu Y thất vọng nhưng ánh mắt lại trở nên lạnh lùng và kiên định.

“Vậy thì đưa Vũ Nhi trở lại Tiên tộc, để nó sống cùng người Tiên tộc nhằm bảo vệ mạng sống của nó là điều không thể thực hiện. Bây giờ, cách duy nhất để Vũ Nhi sống sót là chia tách nó ra, biến nó thành một con người thực sự.”

Bạch Cơ cười.

“Vu Y, ta khuyên ngươi nên từ bỏ ý tưởng điên rồ và ngớ ngẩn này. Dù Ngô Du có sống sót sau khi bị chia tách thì con trai ngươi cũng chưa chắc có thể sống sót. Ngô Du là con người còn con trai ngươi chỉ là một nửa con người. Họ là hai sự tồn tại hoàn toàn khác nhau. Thuốc đã thành công trên Ngô Du chưa chắc đã có tác dụng với con trai ngươi, chưa biết chừng nếu không may con trai ngươi có thể sẽ chết ngay lập tức sau khi bị chia tách…”

Vu Y hiểu rõ rằng lời Bạch Cơ nói là có lý. Hắn đã hành nghề y nhiều năm, am hiểu tác dụng của thuốc phụ thuộc vào từng người. Dù Ngô Du có sống sót sau khi bị chia tách và uống cùng loại thuốc thì con trai hắn cũng chưa chắc có thể sống sót. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Bạch Cơ và nhóm người của nàng, nhất là sau khi Bạch Cơ tiết lộ bí mật của Tiên tộc, đã làm sáng tỏ những nghi ngờ mà hắn đã mang trong lòng suốt nhiều năm. Nguyện vọng của hắn cũng đã có một chút ánh sáng, không còn chìm trong bóng tối tuyệt vọng, không còn hoàn toàn không có manh mối và hy vọng như trước.

“Xin hãy chỉ cho ta một con đường sáng.”

Vu Y quỳ xuống đất, van xin Bạch Cơ.

Bạch Cơ trầm ngâm một lúc rồi cười.

“Hiên Chi, Ly Nô, chúng ta đến đây để làm gì?”

Nguyên Diệu đáp: “Bạch Cơ, chúng ta đến để cứu Ngô Du.”

Ly Nô nói: “Chủ nhân, chúng ta đến đây để ăn khuya. Haiz, mãi lo nói chuyện, nghe hắn kể chuyện vợ con hắn, thịt nướng đã cháy khét hết rồi, chẳng còn gì để ăn nữa.”

Bạch Cơ cười nói: “Ngô Du cần phải được cứu nhưng chúng ta cũng phải ăn khuya. Ta đói bụng rồi. Vu Y, ngươi bảo Tất Xá Già chuẩn bị một ít đồ ăn cho chúng ta đi. Phải rồi, chúng ta không ăn thịt nữa, dù sao chân tay người nướng, Hiên Chi ăn vào cũng sẽ nôn ra, chúng ta chỉ cần ăn chút thức ăn chay đơn giản là được.”

Vu Y còn chưa kịp nói gì thì Nguyên Diệu đã lên tiếng: “Bạch Cơ, lúc này mà ngươi còn ăn được sao? Vẫn là cứu Ngô Du quan trọng hơn.”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi, đừng vội mà. Có thực mới vực được đạo, ăn no rồi mới có sức mà cứu người. Hơn nữa, ta phải đi dạo một vòng, xem chỗ này có thích hợp để trồng Kiến Mộc hay không…”

Nguyên Diệu nghi ngờ hỏi: “Bạch Cơ, trồng Kiến Mộc gì chứ?”

Bạch Cơ mỉm cười bí ẩn, nói: “Bí mật, không nói cho Hiên Chi biết đâu.”

Nguyên Diệu không hiểu Bạch Cơ đang muốn làm gì nhưng cũng biết rằng nếu Bạch Cơ không muốn nói thì giờ có hỏi cũng không biết được nên dứt khoát không hỏi nữa.

Vu Y không còn cách nào khác, đành phải bảo Tất Xá Già đi chuẩn bị đồ ăn.

Tất Xá Già đứng dậy, bắt đầu làm việc.

Vì Bạch Cơ nói muốn ăn chay, Tất Xá Già quyết định đơn giản nướng vài cây nấm hái từ chiều để đối phó.

Bạch Cơ rời khỏi mộ thất, không biết làm gì.

Vu Y cúi đầu ngồi bên tường, không biết đang nghĩ gì.

Nguyên Diệu ngồi cạnh Vu Y, trong lòng đầy rẫy sự bối rối, không biết phải làm gì, chỉ có thể nhìn Tất Xá Già bận rộn ở bên bàn thờ không xa.

Dây leo thấy không khí căng thẳng trong mộ thất đã tan biến, dường như không có chuyện gì nữa bèn lặng lẽ chui vào, lượn lờ quanh Tất Xá Già, đung đưa xung quanh hắn.

Ly Nô cười đùa tiến đến gần, định giúp Tất Xá Già và học nấu ăn.

“Linh cẩu, nướng nấm thì dùng loại gia vị gì ngon?”

Tất Xá Già vì bị Ly Nô đánh nên rất giận, không thèm để ý đến hắn.

“Linh cẩu, ngươi giận rồi à? lúc trước là ngươi động thủ trước nên gia mới đánh ngươi.”

Tất Xá Già quay người đi, tiện tay ngắt mấy lá của dây leo đang đung đưa, ném vào cối đá. Tất Xá Già thêm một ít muối vào cối, cúi đầu dùng chày nghiền gia vị, không thèm đếm xỉa đến Ly Nô.

“Linh cẩu, nước chấm nướng nấm phải thêm một ít đường mới ngon.”

Ly Nô nghiêm túc đề nghị.

“Đã nói bao nhiêu lần rồi! Ta không phải linh cẩu, ta là Tất Xá Già. Nhìn cách ngươi ăn cũng biết ngươi là tay mơ, nấm vốn đã rất ngon rồi, cần gì thêm đường cho ngon? Nướng nấm chỉ cần thêm chút muối là đủ. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm nướng nấm của ta, nghiền thêm chút nước cỏ tiên rắc lên nấm sẽ càng ngon hơn.”

Tất Xá Già vừa nhắc đến cỏ Tiên, dường như nhớ về chủ nhân đã khuất của mình. Hắn nhìn dây leo đang đung đưa với ánh mắt dịu dàng và đầy đau buồn.

“Con mèo đen, các ngươi có thể cứu thiếu gia nhà ta không? Chỉ cần ngươi có thể cứu hắn, ta nguyện dạy hết tất cả kỹ nghệ nấu nướng của ta cho ngươi, không giữ lại chút gì.”

Ly Nô vừa ngửi hương vị của nước sốt trong cối đá vừa nói: “Ờm, linh cẩu, ngươi yên tâm đi. Chủ nhân đã ở lại để ăn khuya thì thiếu gia nhà ngươi chắc chắn sẽ được cứu. Nếu chủ nhân không định quan tâm đến chuyện này thì đã quay đầu rời đi từ lâu rồi. Nhưng nếu bữa khuya của ngươi nấu quá dở khiến chủ nhân không hài lòng thì có thể nàng sẽ đổi ý, không cứu thiếu gia nhà ngươi nữa.”

Nghe vậy, Tất Xá Già vội vã hái thêm vài lá từ dây leo, ném vào cối đá và giã mạnh hơn.

Dây leo thấy đau, tức giận nói: “A Đạt, ngươi nhẹ tay chút được không, đừng giật lá của ta mạnh như vậy!”

Ly Nô thấy vậy, lẩm bẩm: “Có người thực vật làm bếp thì tiện thật… Tiếc là mọt sách không phải người thực vật…”

Nguyên Diệu không nghe thấy lời lẩm bẩm của Ly Nô, vì hắn đang suy nghĩ về bệnh tình của Ngô Du, lo lắng cho an nguy của y.

“Vu Y, Ngô Du mà ngươi đã dùng để thử thuốc còn cứu được không?” Nguyên Diệu hỏi.

Vu Y nghe vậy, tỉnh lại từ cơn mơ màng.

“Loại thuốc khiến người bị chia tách thực ra là một loại độc tố tiềm ẩn. Khi ta bào chế loại độc tố này, ta đã chuẩn bị sẵn thuốc giải. Nhưng thuốc men, nhất là những loại đang thử nghiệm, sau khi vào miệng thì triệu chứng và phản ứng rất khó kiểm soát, thuốc giải chưa chắc đã hiệu quả. Ngô Du uống thuốc giải rồi, có thể cứu được, có thể không.”

Nguyên Diệu vừa tức giận vừa buồn bã, nói: “Vu Y, ngươi làm những việc trái với lương tâm như vậy mà không thấy áy náy sao?”

Vu Y mắt tối sầm, có hơi buồn bã.

“Ta không có lương tâm.”

Nguyên Diệu định nói thêm gì đó nhưng giọng Bạch Cơ lại vang lên.

“Người thực sự không có lương tâm sẽ không nói như vậy. Họ hoàn toàn không có nhận thức gì về hai chữ lương tâm.”

Vu Y đau khổ cúi đầu.

Nguyên Diệu hỏi: “Bạch Cơ vừa đi đâu vậy?”

Bạch Cơ cười nói: “Ta đi thăm dò và cảm nhận, linh lực của địa mạch núi Mang vẫn rất phong phú, có thể chịu đựng được sự tái sinh của Kiến Mộc.”

Nguyên Diệu bối rối hỏi: “Bạch Cơ, sự tái sinh của Kiến Mộc là gì?”

Bạch Cơ chống nạnh, cười nói: “Hiên Chi, với tư cách là Hầu tước mới của núi Mang, ta có một kế hoạch vô cùng vĩ đại.”

Nguyên Diệu hỏi: “Kế hoạch vô cùng vĩ đại gì?”

Bạch Cơ chống nạnh nói: “Ta định tái sinh Kiến Mộc trên lãnh địa của ta, tái thiết cây cầu liên kết giữa thiên giới và nhân gian, giữa thần và người.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên, khó hiểu nói: “Kiến Mộc chẳng phải đã bị thần linh phá hủy từ lâu rồi sao? Ngươi lấy đâu ra Kiến Mộc để tái sinh nó ở núi Mang?”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi quên rồi à? Ta có hạt giống của Kiến Mộc mà.”

Nguyên Diệu nhớ lại sự kiện "giường Phù Thế"*, trong đó, Bạch Cơ đã nhận được hạt giống Kiến Mộc từ tay Hoàng tiên sinh như một phần trao đổi để cho ông ấy vào giấc mơ. Sau đó, Bạch Cơ đã cất giữ hạt giống Kiến Mộc trong kho của Phiêu Miểu các, nếu Bạch Cơ không nhắc đến, Nguyên Diệu gần như đã quên mất sự tồn tại của nó.

*cái quyển này em dịch sót do cái raw tải về không thấy, nó ở quyển thiên chỉ á, nào em bổ sung sau nhớ, hèn gì thấy lạ quá, lật app mí thấy nó nằm sau ngoại truyện hiuhiu

“Bạch Cơ định trồng hạt giống Kiến Mộc ở núi Mang ư? Nhưng… liệu có thể trồng ra Kiến Mộc không? Dù sao Kiến Mộc cũng là thần vật trong truyền thuyết còn núi Mang là đất trần gian, chúng ta lại không có kỹ năng trồng cây, cứ cảm thấy không thể trồng ra được.”

“Hiên Chi, không phải chúng ta trồng, mà là họ trồng.” Bạch Cơ chỉ về phía dây leo đang đung đưa bên cạnh Tất Xá Già và Ly Nô, nói: “Cụ thể hơn là nó trồng. Chỉ có nó với huyết mạch của cỏ Tiên mới có khả năng tái sinh Kiến Mộc.”

Nguyên Diệu vẫn không hiểu.

Vu Y cũng rất bối rối, nói: “Vũ Nhi trồng Kiến Mộc thay ngươi? Tại sao?”

Bạch Cơ đáp: “Để sống sót. Nó phải trồng Kiến Mộc, và trồng ra Kiến Mộc mới có thể sống sót.”

Vu Y vẫn chưa hiểu, Nguyên Diệu cũng không hiểu lời Bạch Cơ nói.

Bạch Cơ hỏi lại: “Vu Y, ngươi nghĩ người Tiên tộc có thể sống một mình không?”

Vu Y do dự một chút rồi nói: “Người Tiên tộc phải sống cộng cư, không thể sống một mình, đó là cách họ tồn tại.”

Bạch Cơ cười nói: “Vu Y, ngươi chỉ thấy bề ngoài mà không thấy bản chất dưới bề mặt. Bề ngoài đúng như ngươi nói, người Tiên tộc không thể rời xa đồng tộc mà sống một mình. Một khi rời xa đồng tộc thì người Tiên tộc sẽ như cây cỏ thiếu ánh sáng và nước, sinh lực của họ sẽ dần cạn kiệt. Chính xác hơn, không phải họ không thể rời xa đồng tộc, mà là không thể rời xa ‘cửa’. Linh lực của ‘cửa’ là ánh sáng và nước mà người Tiên tộc dựa vào để sinh tồn. Mà vị trí của ‘cửa’ sẽ thay đổi theo thời gian sẽ thay đổi địa điểm tồn tại, chỉ có Đại Vu và tộc trưởng của Tiên tộc mới có khả năng biết được sự biến chuyển của ‘cửa’ rồi dẫn dắt đồng tộc theo đuổi vị trí của ‘cửa’ mà di cư, vì vậy người Tiên tộc chỉ có thể sống cộng cư, không thể sống một mình. Thật ra, có thể sống một mình hay không không phải là trọng điểm, trọng điểm là có ‘cửa’ hay không. Nếu bản thân có thể sở hữu ‘cửa’, hấp thụ linh lực từ ‘cửa’ thì người Tiên tộc cũng có thể sống một mình. Ngươi không có cách nào tìm thấy người Tiên tộc, ta cũng không thể tìm thấy họ, Tiểu Vũ không thể trở về Tiên tộc, cả đời còn lại chỉ có thể sống một mình. Để Tiểu Vũ có thể sống một mình, chúng ta phải để nó sở hữu ‘cửa’, chỉ cần nó sở hữu ‘cửa’, có thể hấp thụ linh lực từ ‘cửa’, sinh lực của nó sẽ không cạn kiệt, và nó sẽ có thể sống sót.”

Vu Y vẫn còn rất thắc mắc hỏi: “Vị trí của ‘cửa’ chỉ có Đại Vu và tộc trưởng của Tiên tộc mới biết làm sao Tiểu Vũ có thể sở hữu ‘cửa’ được?”

Bạch Cơ chống tay lên trán, nói: “Vu Y, ngươi phải suy nghĩ linh hoạt hơn, vượt qua giới hạn tư duy của loài người mà nghĩ về vấn đề này.”

Ly Nô không kìm được mà nói: “Chủ nhân, với cái đầu óc ngu ngốc của hắn còn ngốc hơn cả thư sinh thì chỉ có thể nghĩ ra mấy cách ngu ngốc như bắt người thử thuốc và nghĩ đủ cách để chia tách con trai mình thôi.”

Nguyên Diệu thì hiểu ra, nói: “Vu Y, ý của Bạch Cơ là Kiến Mộc là điểm giao giữa nhân gian và thiên giới, là nơi ‘cửa’ của nhân gian và thiên giới. Nếu lệnh lang trồng được Kiến Mộc, điều đó có nghĩa là hắn tự mình sở hữu ‘cửa’, Tiên tộc sống nhờ ‘cửa’, lệnh lang có thể hấp thụ linh lực từ ‘cửa’ mà sống sót. Bạch Cơ vừa hay có một hạt giống của Kiến Mộc, nàng định tặng lệnh lang hạt giống này, để hắn trồng Kiến Mộc ở núi Mang và sống sót an toàn.”

Vu Y sửng sốt, nói: “Một tồn tại kỳ diệu như Kiến Mộc thực sự có thể trồng ở núi Mang sao?”

Bạch Cơ cười nói: “Hiên Chi chỉ nói đúng một nửa thôi. Ta định để Tiểu Vũ trồng Kiến Mộc ở núi Mang nhưng hạt giống Kiến Mộc không phải là tặng cho hắn, mà là cho mượn. Sau khi Kiến Mộc mọc lên, Kiến Mộc thuộc về ta. Cây cầu kết nối giữa thiên giới và nhân gian, cũng là của ta.”

Nguyên Diệu im lặng.

Vu Y nhìn Bạch Cơ hỏi: “Làm theo lời ngươi nói, Tiểu Vũ thực sự có thể sống sót không?”

Bạch Cơ nói: “Có thể được cũng có thể không. Tuy nhiên, ta có thể đảm bảo rằng khả năng Tiểu Vũ sống sót nhờ trồng Kiến Mộc lớn hơn rất nhiều so với việc ngươi dùng độc dược chia tách hắn để sống. Dù sao, độc dược của ngươi vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, hắn uống vào không biết sẽ biến thành thế nào, cũng không biết sẽ có hậu quả đáng sợ gì. Hạt giống Kiến Mộc của ta là đúng là thứ duy nhất trên trời đất này. Từ xa xưa, cỏ Tiên sống nhờ vào Kiến Mộc, leo bám Kiến Mộc mà tồn tại. Nếu lệnh lang là hậu duệ của cỏ Tiên thì Kiến Mộc chắc chắn có thể giúp hắn sống sót. Dù bây giờ Kiến Mộc chỉ là một hạt giống, linh lực của nó có thể không đủ để duy trì sự sống của cả Tiên tộc nhưng chỉ cần nó không bị lệnh lang trồng chết, có thể bén rễ ở núi Mang thì linh lực của nó chỉ để giữ cho lệnh lang sống sót là hoàn toàn không có vấn đề gì.”

Vu Y không nói thêm gì nữa.

Ở đằng xa, Tất Xá Già và Ly Nô đã nướng chín nấm.

Tất Xá Già lo lắng, trầm tư, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nhìn về phía Vu Y đang im lặng vừa bày bát đĩa lên bàn thờ một cách thiếu tập trung.

Dây leo thấy đã có thể ăn nấm nướng bèn lập tức rút lui khỏi các khe tường với vẻ thích thú. Chẳng bao lâu sau, một thiếu niên cầm quả cầu sứ bước vào mộ thất với vẻ nhí nhảnh.

Thiếu niên tiến đến bên Vu Y, ngồi xuống.

“Ấy, sao cha trông có vẻ buồn bã vậy?”

Vu Y cố gượng cười, nói: “Vũ nhi, cha rất vui, bệnh của con có cách chữa rồi, con có thể sống sót.”

Vũ cười nói: “A cha, con không có bệnh mà.”

Vu Y cười dịu dàng. Nhìn con trai, ông lại nhớ đến người thê tử đã khuất, trong mắt ông hiện lên một nỗi buồn sâu đậm không thể xóa nhòa.

Ly Nô đứng bên bàn thờ lớn tiếng gọi: “Chủ nhân, mọt sách, nấm đã nướng chín rồi, thơm lừng, mau tới ăn khuya thôi.”

Bạch Cơ vươn vai, cười nói: “Trước khi ăn khuya, phải giải quyết một việc quan trọng đã. Nếu không Hiên Chi sẽ không thể ăn ngon miệng được.”

Nguyên Diệu ngạc nhiên hỏi: “Việc quan trọng gì?”

Bạch Cơ nhìn Vu Y, nói: “Vu Y, ta sẽ cứu con trai ngươi, đổi lại, ngươi có bằng lòng trao sinh mạng cho ta không?”

“Bốp...”

Nghe vậy, Tất Xá Già lỡ tay làm vỡ một cái đĩa lấy từ phòng chôn đồ tế lễ bên cạnh.

Vũ Nhi nhìn Bạch Cơ với vẻ đầy mơ hồ.

Vu Y nghiến răng, nói: “Được. Chỉ cần Vũ nhi có thể sống sót, ta nguyện trao sinh mạng cho ngươi.”

Nguyên Diệu không hiểu hỏi: “Bạch Cơ cần sinh mạng của Vu Y để làm gì?”

Bạch Cơ cười nói: “Để tặng cho Hiên Chi. Nếu Hiên Chi không có sinh mạng của Vu Y thì không thể yên tâm ăn khuya được.”

Nguyên Diệu càng thêm bối rối.

Bạch Cơ nghiêm túc nói: “Võ đế phong ta làm Mang Sơn Hầu, ta là chủ nhân của núi Mang này. Các cư dân trong núi Mang đều là con dân của ta, do ta cai quản. Những việc họ làm, đúng sai thưởng phạt, đều do ta quyết định. Sự sống chết của họ cũng do ta quản sự. Hiên Chi, bây giờ ta giao sinh mạng của Vu Y cho ngươi, ngươi hãy quyết định hắn sống hay chết đi.”

Nguyên Diệu ngỡ ngàng.

Vu Y vì muốn con trai sống sót đã dùng người vô tội để thử thuốc trong núi Mang, hại chết không ít người. Những người may mắn như Ngô Du thì giờ đây đang nguy kịch, sống chết không rõ. Những người kém may mắn như bạn của Ngô Du thì đã mất mạng từ lâu, trở thành những linh hồn oan uổng trong núi Mang.

Nợ máu phải trả bằng máu, Vu Y đáng phải chết để chuộc tội. Nhưng Vu Y thực sự không phải xấu, so với Lôi Toàn trong sự kiện “Đoạn Chỉ Giới”, kẻ vì lòng tham và muốn chiếm đoạt danh lợi tài phú mà hại chết bốn mươi chín thiếu nữ, Vu Y thử thuốc trên người khác chỉ vì tình phụ tử sâu nặng, chỉ vì muốn con trai mình có thể sống sót.

Vu Y và Lôi Toàn không giống nhau.

Nhưng những người bị Vu Y bắt để thử thuốc cũng có phụ mẫu và phụ mẫu họ cũng sẽ chìm trong nỗi đau khôn nguôi vì mất con, không thể thoát khỏi nỗi buồn ấy suốt đời.

Trong lòng Nguyên Diệu rất mâu thuẫn, không biết nên làm gì.

Vị Vu Y thở dài, nói: "Ta tự biết tội nghiệt của mình nặng nề, đã gây ra những sai lầm không thể tha thứ. Ta nguyện lấy cái chết để tạ tội. Nhưng xin cho ta chữa trị cho Ngô Du trước, giữ mạng sống cho cậu ấy rồi ta sẽ dùng mạng sống của mình để đền bù nợ máu. Ta là một Vu Y, từ nhỏ sư phụ đã dạy ta rằng sứ mệnh của người Vu Y là cứu giúp thế gian, trị bệnh cứu người. Ta chưa bao giờ quên nhiệm vụ của mình. Sau khi thành tài, ta đi khắp bốn phương, nơi nào gặp bệnh nhân, dù là người giàu có hay nghèo khó, ta đều cố hết sức chữa trị, không dám lơ là một chút nào, chỉ mong có thể giúp thế gian bớt đi những người bị bệnh tật hành hạ, hay bị bệnh tước đoạt mạng sống. Nhưng rồi... nhưng rồi ta gặp A La, sau khi Vũ Nhi ra đời, A La qua đời, và Vũ Nhi cũng không còn sống được lâu... Ta bị tâm ma quấy nhiễu, bị lòng ích kỷ che mờ, quên mất sứ mệnh của mình, quên mất rằng Vu Y phải luôn cứu người, không được hại người. Ta đã làm những việc không thể tha thứ..."

Nói đến đây, giọng của Vu Y dần nghẹn lại.

Nguyên Diệu nghe xong, lòng cảm thấy rất buồn và mâu thuẫn. Đối với một người thực sự hối cải, cái chết không phải là cách tốt nhất để chuộc tội.

Nguyên Diệu suy nghĩ một hồi, không biết phải làm gì, nên quay đầu nhìn về phía Bạch Cơ, mong nàng có thể cho một lời khuyên.

Ai ngờ, Bạch Cơ đã rời đi từ lúc nào, ngửi thấy mùi thơm hấp dẫn, nàng đã chạy đến bên đống lửa để ăn nấm nướng của Ly Nô.

Nguyên Diệu không khỏi tức giận, con rồng yêu này để lại cho hắn quyết định việc khó khăn như thế, còn mình thì chạy đi ăn đêm.

Nguyên Diệu hỏi Vu Y: "Ngươi đã thử thuốc trên bao nhiêu người rồi?"

Vu Y đáp: "Có tổng cộng chín người. Ngô Du là người thứ mười."

Nguyên Diệu dừng lại một chút, rồi hỏi: "Cả chín người đó đều đã chết sao?"

"Đúng vậy. Họ đều chết vì không chịu nổi độc tính của thuốc, cơ thể tan vỡ dần trong quá trình bị hủy hoại." Vu Y đau đớn đáp, giọng tràn đầy hối hận: "Nghĩ lại, ta không nên làm như vậy, điều đó là quá tàn nhẫn đối với họ. Nếu sớm gặp được các vị, biết được bí mật của lời nguyền người Tiên tộc và tìm ra cách cứu Vũ Nhi, ta tuyệt đối sẽ không làm những việc tàn nhẫn như thế... Nếu sớm gặp được các vị, có lẽ A La... A La cũng còn sống..."

Đáng tiếc, trên đời này không có "nếu như". Những cuộc gặp gỡ giữa con người với nhau, những mối nhân duyên giữa người và sự việc đều đã được số phận sắp xếp từ trước. Không thể đến sớm cũng không thể trì hoãn, không có sự ngẫu nhiên, chỉ có tất yếu của số phận.

Nguyên Diệu thở dài, nói: "Vu Y, Bạch Cơ giao việc sống chết của ngươi cho ta, nhưng ta chỉ là một con người nhỏ bé, không thể quyết định mạng sống của ngươi."

Vu Y nhìn hắn, đầy hoang mang.

Nguyên Diệu hít sâu một hơi, nói: "Sống chết của ngươi sẽ do Ngô Du quyết định. Nếu Ngô Du chết ngươi sẽ phải trả mạng cho cậu ấy. Nếu ngươi cứu được Ngô Du thì ngươi có thể sống tiếp. Tuy nhiên, ta có một điều kiện, trong phần đời còn lại, mỗi năm ngươi phải chữa trị miễn phí cho chín người bệnh. Đó coi như là cách ngươi chuộc lại những sai lầm trước kia. Cũng để ngươi nhớ rằng ngươi là một Vu Y, sứ mệnh của ngươi là cứu người, không phải vì tư lợi mà hại người vô tội."

Vu Y nghe xong, cúi đầu chạm đất, nói: "Ta nhất định sẽ làm theo. Ta sẽ cố hết sức cứu Ngô Du, không phải để cứu mạng mình mà bởi vì sau khi Vũ Nhi được cứu, ta không muốn làm hại người khác nữa. Ta thực sự muốn cứu hắn. Hắn trở nên như bây giờ là vì sai lầm của ta, ta nhất định phải chữa trị cho hắn. Nếu phần đời còn lại của ta có thể sống sót, ta sẽ làm nhiều việc thiện, chữa bệnh cứu người, tuyệt đối không hại người nữa."

Nguyên Diệu gật đầu, trong lòng buồn bã, nhưng lại cảm thấy nếu phần đời còn lại của Vu Y có thể cứu được nhiều người hơn, mang lại hạnh phúc cho nhiều người, và làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn thì việc này cũng không phải là điều xấu. Đối với những kẻ thực sự xấu xa, cái chết là hình phạt, cũng là sự từ bi đối với chúng sinh. Nhưng với những người có lòng hối cải và quyết tâm chuộc tội, cái chết không có ý nghĩa, để họ sống mà chuộc tội mới là sự từ bi thật sự đối với thế giới.

Bạch Cơ không biết từ lúc nào đã quay lại, vừa ăn nấm nướng vừa nói: "Người không phải thánh hiền, ai mà không phạm sai lầm. Buông bỏ đồ đao, lập địa thành Phật. Có lẽ là như vậy đấy. Hiên Chi, mọi việc đã xong, có thể ăn đêm rồi."

Nguyên Diệu buồn bã nói: "Bạch Cơ, ta thật sự không có tâm trạng ăn đêm. Mặc dù mọi chuyện trông có vẻ đã giải quyết, nhưng thực ra vẫn còn nhiều thứ đang treo lơ lửng. Ta rất lo lắng cho Ngô Du liệu có tỉnh lại không, và cũng lo lắng không biết cây Kiến Mộc có thực sự mọc lên từ dãy núi Mang hay không."

Bạch Cơ cầm một xiên nấm nướng nhét vào miệng Nguyên Diệu, mỉm cười nói: "Hiên Chi thật là lo nghĩ nhiều, trước hết cứ ăn nấm nướng đi đã."

Nguyên Diệu ăn một miếng nấm nướng, cảm thấy mềm ngon, mọng nước, lại mang theo mùi thơm đặc trưng của loại thảo mộc ướp gia vị, thực sự rất ngon.

Sau khi ăn một chiếc nấm nướng, tiểu thư sinh thấy khẩu vị tăng lên, bèn cùng Bạch Cơ ngồi bên đống lửa ăn đêm, tạm thời gác lại mọi chuyện về Ngô Du và cây Kiến Mộc.
 
Back
Top Bottom