- Tham gia
- 7/9/25
- Bài viết
- 375,544
- Điểm cảm xúc
- 0
- Điểm thành tích
- 36
- Chủ đề Tác giả
- #371
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 370 : Làm ăn
Chương 370 : Làm ăn
Chương 370: Làm ăn
Văn vật là một trong những vật tải văn hóa, mà văn hóa lại chính là điều quốc gia non trẻ như Đông Phi khuyết thiếu nhất. Không nói đến Mỹ – quốc gia có lịch sử ngắn ngủi, ngay cả nước Nga cũng không ngoại lệ.
Lịch sử Nga tuy không ngắn, nhưng lại vô cùng lúng túng, không bao giờ thoát khỏi cái bóng của Mông Cổ và Kim Trướng hãn quốc, cũng thường xuyên bị phương Tây chế giễu, lúc nào cũng bị “đuổi khỏi châu Âu”.
Bởi vậy, chủ nghĩa hư vô lịch sử ở Nga thịnh hành: thời Sa Nga thì phủ định Mông Cổ, thời Liên Xô thì phủ định Sa Nga, còn hiện tại nước Nga lại phủ định Liên Xô. Chính vì thế, nước Nga vĩnh viễn lạc lõng giữa Âu – Á, không tìm được cảm giác quy thuộc, cả dân tộc Slav đều như vậy. Nếu người Slav có thể tìm thấy niềm tự tin văn hóa, thì chắc chắn sẽ trở thành sức mạnh đủ sức thay đổi thế giới.
Điểm tương đồng giữa Vương quốc Đông Phi và Nga chính là: đều có sự tham gia của người da vàng và da trắng. Gần một nửa thần dân Đông Phi đến từ Viễn Đông. Ernst đương nhiên sẽ không phủ nhận đoạn lịch sử này, bằng không thì lấy gì giải thích nguồn gốc người da vàng trong lãnh thổ Đông Phi? Chẳng lẽ bảo rằng tổ tiên họ “chui ra từ hòn đá” sao?
Hiện nay Đông Phi đang toàn diện Đức hóa – đây là biện pháp cần thiết để củng cố chính quyền. Hơn nữa, trung tâm thế giới giờ đây quả thật đang ở châu Âu, Đông Phi cần phải dựa vào châu Âu. Lấy tư cách là một quốc gia Đức để tham gia quốc tế thì sẽ dễ dàng hơn nhiều. Mà “Đức” vốn là một khái niệm văn hóa, không nhất thiết phải đặt ở châu Âu – cũng như Mỹ ở châu Mỹ mà vẫn là quốc gia nói tiếng Anh.
Bởi vậy, Ernst cho rằng Vương quốc Đông Phi là một quốc gia được hình thành từ sự dung hòa giữa người Đức và người Hoa. Vậy thì, Đông Phi có đầy đủ lý do để kế thừa đồng thời hai nền văn hóa.
Sưu tập cá nhân của Ernst sau này cũng sẽ lưu lại Đông Phi. Đó là tài sản văn hóa vô giá của Vương quốc Đông Phi, không ai có thể phủ nhận việc con cháu Đông Phi có huyết thống Hoa Hạ, cũng như người Hoa ở Nam Dương vậy – họ vẫn là con cháu Viêm Hoàng.
Ernst làm như vậy còn một tầng suy xét khác: bản thân lịch sử – văn hóa Đức vốn không quá sâu dày. Khái niệm “Đức” trước hết nhờ vào thời kỳ huy hoàng của Đế quốc La Mã Thần Thánh ở châu Âu, sau đó nhờ Napoléon Đại đế ép toàn bộ các tiểu quốc Đức phải kết tụ thành một ý thức văn hóa chung.
Nhưng suy cho cùng, thời đại Thần Thánh La Mã cũng chẳng dài, mà ngược dòng đến thời La Mã cổ, tổ tiên người Đức cũng chỉ là một đám man tộc trong rừng rậm.
Lịch sử Đức trước khi người German diệt La Mã hầu như trống rỗng, chẳng khác gì thổ dân châu Phi hiện giờ. Trong khi đó, nền văn minh Viễn Đông đã đạt cực thịnh. Gắn kết văn minh Viễn Đông với lịch sử Đức, sau này người Đông Phi hoàn toàn có thể tự hào rằng mình “năm nghìn năm văn hiến”.
Tổ tiên của dân tộc, dù là ai, cũng là lịch sử của chính dân tộc. Đông Phi vốn sinh ra để trở thành người thừa kế của hai nền văn minh, Ernst đối với chuyện này không hề có chút gánh nặng tâm lý nào.
…
Trong khi Ernst vẫn còn chần chừ ở cảng Trieste, thì Tổng cục trưởng Cục Di dân Thomas đã tới Haiti.
Tuyến hàng hải từ châu Âu sang Bắc Mỹ vốn rất dày đặc, nên cũng không cần lo thiếu chuyến.
Một nhóm người da trắng đặt chân lên cảng Prince (Port-au-Prince), cũng chẳng gây ra sự chú ý nào. Port-au-Prince là thủ đô của Cộng hòa Haiti, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và là hải cảng lớn nhất, nằm ở bờ đông nam vịnh Gonâve, trên đồng bằng Cul-de-Sac.
Năm 1843, một trận động đất phá hủy thủ đô Cap-Haïtien, còn Port-au-Prince cũng từng bị thiêu rụi bởi hỏa hoạn, nên hiện nay thành phố này chỉ là phiên bản chắp vá sau khi tu sửa, không thể so với cảng xưa kia.
Đương kim Tổng thống Haiti là Nissage Saget, vốn là một kẻ hay gây chuyện. Trước đó, trong chiến tranh Pháp – Phổ, ông ta từng công khai ủng hộ Pháp, khiến Đức bất mãn. Hậu quả là Đức đòi bồi thường 3.000 bảng, đồng thời phái hai chiến hạm đến Port-au-Prince thị uy. Cuối cùng, Haiti buộc phải bồi thường, khiến Saget rơi vào cảnh lao đao, vừa phải đối mặt với áp lực ngoại giao, vừa phải xoa dịu cơn giận dữ của dân chúng.
Trước Saget, chỉ trong ba năm Haiti đã đổi hai đời Tổng thống. Người đầu tiên là Fabre Geffrard – có thể nói là vị “minh quân” hiếm hoi trong lịch sử Haiti, thậm chí được thừa nhận là Tổng thống xuất sắc nhất từ trước đến nay.
Trong thời gian trị vì, ông ta thực hiện nhiều cải cách, khiến Haiti được coi là giai đoạn thịnh trị nhất. Thế nhưng cuối cùng, Geffrard cũng đi theo lối mòn cũ: sửa hiến pháp, tự tăng lương, mua đồn điền, chi thêm cho quân đội, bệnh viện và xa xỉ phẩm cho cá nhân.
Ở cuối triều kỳ, phe dưới quyền nhiều lần định đảo chính nhưng đều thất bại. Mãi đến năm 1867, ông mới bị quân phiến loạn do Sylvain Salnave cầm đầu buộc thoái vị, phải sống lưu vong, kết thúc tám năm cầm quyền.
Salnave thì hoàn toàn là hôn quân. Vừa nhậm chức chưa bao lâu, trong nước đã loạn lạc liên miên, nông dân khởi nghĩa không dứt, ông ta lại càng đàn áp đối lập, sửa hiến pháp để tăng quyền lực, tự phong làm Tổng thống trọn đời, cuối cùng cũng bị lật đổ.
Nói ngắn gọn, lịch sử Haiti chỉ là một mớ hỗn độn. Tổng thống đương nhiệm Nissage Saget bất cứ lúc nào cũng có thể mất ghế.
Nhưng Thomas thì chẳng bận tâm. Một Haiti hỗn loạn mới là điều Đông Phi mong muốn. Sau khi tìm hiểu kỹ tình hình, ông quyết định không phí tiền hối lộ Tổng thống, mà tìm đến gia tộc Chélos ở Port-au-Prince.
Gia tộc Chélos là một thế gia da đen – da trắng lai, có địa vị cao quý ở địa phương. Tổ phụ đời trước – Lão Chélos, từng theo quốc phụ lập công khai quốc, nhưng không quan tâm chính trị, chỉ lo làm giàu. Nhờ đó, gia tộc này qua bao đời Tổng thống – Hoàng đế vẫn đứng vững, trở thành trụ cột ở Haiti. Năm 1863, Lão Chélos qua đời, hiện gia tộc do con trai cả là Tiểu Chélos nắm quyền.
Tại trang viên của Chélos, Tiểu Chélos tiếp kiến Thomas.
“Chào thủ lĩnh Chélos! Vừa đặt chân đến quý quốc, ta đã nghe danh ngài. Ở Port-au-Prince này, gia tộc Chélos quả là lời có trọng lượng như vàng.”
Tiểu Chélos đáp: “Thưa ông, ngài là?”
Thomas mỉm cười: “Ta là một thương nhân đến từ Pháp, ngài có thể gọi ta là Médina.”
Thomas vốn tinh thông nhiều ngoại ngữ, đây cũng là một trong những nguyên nhân ông được cất nhắc làm Tổng cục trưởng Cục Di dân Đông Phi.
Nghe đến “Pháp”, Tiểu Chélos liền cảnh giác, lại nhận ra giọng Pháp của đối phương hơi lạ. Nhưng ông ta không lộ ra, chỉ hỏi: “Thì ra là người Pháp. Tổ mẫu của ta vốn cũng là người Pháp, ta từng du học ở Paris, nên rất quen thuộc tiếng Pháp. Chỉ là, giọng của ngài hơi khác, ngài quê ở đâu? Và tìm đến gia tộc Chélos ta có chuyện gì?”
Thomas: “Thì ra ngài cũng có nửa dòng máu Pháp, thật trùng hợp. Ta đến từ vùng đông bắc nước Pháp, gần biên giới Bỉ, nên lẫn chút âm Hà Lan.”
Tiểu Chélos gật đầu: “Ra vậy.” Ông nhớ đến việc tổ mẫu mình vốn từ miền nam nước Pháp, cũng khác biệt với tiếng Paris chuẩn, nên thôi không nghi ngờ.
Thomas tiếp lời: “Lần này ta tới là muốn bàn một vụ làm ăn với quý gia tộc.”
Tiểu Chélos: “Không rõ là chuyện gì?”
Thomas: “Buôn nô lệ.”
“Khụ khụ khụ…” Tiểu Chélos suýt sặc, nhưng rồi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh: “Chuyện đó không ổn, thưa Médina. Nô lệ đã bị quốc tế cấm từ lâu. Nếu Haiti nhúng tay vào, e là sẽ mang họa.”
Ông thậm chí còn nghi ngờ đây là cái bẫy do Pháp gài.
Thomas khẽ lắc đầu: “Ngài đừng lo, ta chỉ là một thương nhân nô lệ, mục tiêu duy nhất là lợi nhuận. Gia tộc Chélos chỉ cần cung cấp chút tiện lợi cho đoàn tàu của ta khi cập cảng, còn lại chúng ta không ràng buộc gì.”
Tiểu Chélos dò hỏi: “Ngài chắc không phải người của chính phủ Pháp chứ?”
Thomas suýt bật cười, rồi nói: “Sao có thể. Giờ nội bộ Pháp rối như canh hẹ, phe cộng hòa với phe quân chủ còn đang cãi nhau ở nghị viện, làm gì có hơi lo chuyện ngoài. Huống hồ, chính Pháp vốn đã từng buôn nô lệ, chúng ta chỉ tiếp tục truyền thống mà thôi.”
Tiểu Chélos thấy có lý, lại nghĩ Haiti vốn vô tổ chức, có thêm kênh buôn bán cũng không sao. Nhưng ông ta thầm nhủ: phải kiếm chác cho xứng đáng.
“Được thôi, nhưng mạng người cũng là mạng người. Nếu muốn chúng ta giúp, thì phải tính phí theo đầu người.”
“Cái gì? Theo đầu người? Vậy thì giá trên trời rồi!” Thomas nhăn mặt, lắc đầu. “Chúng ta chỉ muốn làm ăn một lần, không thể tính từng người được, cùng lắm tính theo năm.”
Tiểu Chélos nghiêm giọng: “Haiti dân số ít, nếu mua bán thì phải có lợi cho chúng ta. Thậm chí, gia tộc còn có thể cung cấp dịch vụ săn bắt nô lệ cho ngài.”
Thomas bật cười: “Ngài hiểu nhầm rồi, chúng ta không cần người Haiti.”
“Không cần người Haiti? Thế các ngài lấy đâu ra nô lệ?”
“Đúng vậy, chính từ châu Phi. Pháp vốn có thuộc địa ở đó.”
Tiểu Chélos ngạc nhiên: “Vậy thì ngài đến Haiti làm gì? Nước chúng ta nghèo nàn, nào có tiền mua nô lệ.”
Thomas: “Thị trường của chúng ta là Mỹ, Haiti chỉ là trạm trung chuyển.”
Tiểu Chélos gật gù: “Thế thì dễ hiểu rồi. Vậy ra các ngài cần chỗ đứng chân để liên hệ với giới chủ Mỹ.”
Cuộc thương thảo sau đó nhanh chóng đi đến kết quả. Gia tộc Chélos đồng ý làm trung gian, đổi lại họ sẽ ăn hoa hồng. Thomas ngụy danh Médina cũng lập tức nhận lời, coi đây là một khoản lời bất ngờ.
Nhưng để hợp thức hóa, Thomas còn yêu cầu: “Xin quý gia tộc giúp đỡ cấp cho những người này thân phận giả mạo là người Haiti.”
Tiểu Chélos cười khinh khỉnh: “Haiti nào có hộ chiếu, chỉ cần một tờ giấy chứng nhận của Tổng thống phủ là xong.”
Thomas cúi đầu đáp: “Vậy thì nhờ cả vào ngài.”
(Hết chương)