Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 50 : Giáo dục


Chương 50: Giáo dục

Ngày 9 tháng 12 năm 1866.

Hôm nay tại Hechingen lại khánh thành thêm một ngôi trường nữa - Trường Văn hóa Hechingen. Thực chất, đây là một trường tiểu học, khác với Học viện Quân sự Hechingen ở chỗ, ngoài việc chiêu sinh học viên người Hoa, còn tuyển sinh tại địa phương Hechingen.

Suy cho cùng, nếu đã học tại Học viện Quân sự Hechingen thì cuối cùng đồng nghĩa với việc phải sang Đông Phi. Vậy nên phụ huynh người Đức nào lại vội vàng đưa con mình sang châu Phi?

Do đó, ngoài học viên người Hoa, học viên người Đức tại Học viện Quân sự Hechingen chủ yếu là trẻ mồ côi từ khắp các vùng của Đức.

Trường Văn hóa Hechingen thì khác. Đây là một trường học chính quy, trong khi Học viện Quân sự Hechingen về bản chất là một “Đại học vỉa hè”.

Học viện Quân sự Hechingen không thuộc hệ thống giáo dục của Phổ, nguồn tuyển sinh hoàn toàn là do học viện tự chủ, và hướng đi sau tốt nghiệp cũng đã định sẵn.

Còn Trường Văn hóa Hechingen đã được đăng ký với chính quyền Phổ. Học sinh người Hoa ở đây đều mang danh nghĩa là “du học sinh” để theo học.

Học viên của Học viện Quân sự Hechingen có thể được Ernst cấp hộ tịch thuộc địa Đông Phi, còn học viên người Hoa tại Trường Văn hóa Hechingen trong hồ sơ của chính quyền Phổ vẫn được ghi là người Hoa.

Suy cho cùng, những học sinh người Hoa này sau này còn phải tiếp tục học tại các trường khác ở Đức. Nếu không có giấy tờ tùy thân do chính phủ cấp, trên lý thuyết họ đều là “người không hộ khẩu”, vậy nên dùng danh nghĩa du học sinh để che chắn, còn Ernst thì làm người bảo lãnh.

Học viện Quân sự Hechingen chỉ đáp ứng nhu cầu nhân lực quân sự, trong khi Ernst cần nhân tài chuyên môn trong mọi ngành nghề trong tương lai.

Để sử dụng hiệu quả nguồn lực giáo dục hạn chế, học viên có thành tích học tập xuất sắc có thể tiếp tục học tại các trường trung học ở Đức, đồng thời Ernst cũng có kế hoạch mở một trường trung học.

Sau đó, những người xuất sắc nhất sẽ được Ernst tiến cử đến các trường đại học ở Đức để dự thính, học tập.

Còn những người học kém, sau khi tốt nghiệp chỉ có thể vào nhà máy của Ernst để vặn ốc vít, tất nhiên cũng có thể dự tuyển vào Học viện Quân sự Hechingen, sau đó đến thuộc địa Đông Phi làm lính, hoặc trở thành giáo viên tiếng Đức.

Hiện nay, khu Duyên Hải đã bắt đầu thí điểm giáo dục tiếng Đức. Ngôi trường tiểu học dạy tiếng Đức đầu tiên đã được thành lập tại Trấn thứ Nhất. Thuộc địa Đông Phi yêu cầu toàn bộ người Hoa nhập cư ở Trấn thứ Nhất phải đưa con em đến học tại trường tiểu học tiếng Đức này.

Giáo viên của trường chính là các học viên tốt nghiệp từ Học viện Quân sự Hechingen, giáo trình cũng là sách giáo khoa mà họ từng sử dụng.

Về vấn đề giáo dục người nhập cư, tất nhiên phải bắt đầu từ lớp trẻ. Thế hệ người nhập cư lớn tuổi không đòi hỏi phải biết tiếng Đức, chỉ cần nắm được vài từ thông dụng là đủ.

Những người Hoa trưởng thành này tư duy đã định hình, cũng đã qua độ tuổi thích hợp nhất để học tập. Nếu muốn xóa mù chữ một cách toàn diện, chi phí phải bỏ ra có thể tưởng tượng được, mà hiệu quả cuối cùng cũng chưa chắc đã như mong đợi.

Chỉ cần để họ nhận thức được rằng tiếng Đức mới là tương lai của thuộc địa, thì những người lanh lợi trong số họ sẽ tự giác học tiếng Đức.

Thực tế, một số người nhập cư nhạy bén đã học được những câu tiếng Đức đơn giản thông qua tiếp xúc với quan chức thuộc địa, từ đó được bố trí làm cán bộ quản lý.

Đối với người nhập cư trong thuộc địa, việc cho con cái đi học không tạo ra gánh nặng tâm lý nào. Dẫu sao cũng có câu: "Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao."

Giới quan liêu ở Viễn Đông thực sự đã dùng sự độc quyền tri thức và giáo dục để chặn đường thăng tiến của dân chúng. Như trong các vở kịch dân gian có câu: "Chỉ cần đỗ Trạng nguyên, muốn gì được nấy." Dân thường dù chưa từng ăn thịt lợn, nhưng cũng đã thấy lợn chạy.

Những cử nhân, tú tài và quan lại bản xứ - những người đi lên từ con đường học vấn - đều gặt hái lợi ích thiết thực. Dù chỉ là tú tài, họ vẫn có thể nhờ việc dạy học mà thoát khỏi lao động chân tay, chưa kể đến các đặc quyền về thuế và địa vị xã hội được nâng cao.

Giáo dục tại thuộc địa Đông Phi dĩ nhiên không phải là kiểu giáo dục sàng lọc quan lại như ở Viễn Đông, mà đơn giản chỉ là xóa mù chữ cho con em di dân bình thường.

Tất nhiên, ở giai đoạn đầu, những ai càng sớm được tiếp cận với giáo dục bắt buộc sẽ càng được hưởng nhiều lợi ích hơn - chẳng hạn như các vị trí công việc tốt tại thuộc địa chắc chắn sẽ ưu tiên những người đã qua đào tạo giáo dục thuộc địa.

Tương lai khi giáo dục bắt buộc phổ cập toàn Đông Phi, thì loại lợi ích này sẽ dần biến mất, và trở thành điều kiện tối thiểu.

Chương trình học tại trường đầu tiên của Đông Phi thực ra rất đơn giản: ngoài dạy tiếng Đức, chỉ có các phép cộng trừ nhân chia cơ bản, cuối cùng là giáo dục tư tưởng “trung quân ái quốc”.

Vì vậy, các em học sinh mỗi ngày chỉ học nửa buổi, buổi sáng học tại trường, buổi chiều vẫn có thể về nhà giúp đỡ gia đình.

Để cải thiện chất lượng cuộc sống, người nhập cư thường làm thêm một số việc tạo thu nhập nhỏ, ví dụ trồng rau gần nhà hoặc nuôi gà vịt. Thuộc địa không can thiệp vào những việc này.

Chỉ cần hoàn thành đúng thời hạn công việc được phân bổ, thời gian còn lại có thể tự sắp xếp. Vì Đông Phi có đất đai tương đối rộng rãi, nên còn rất nhiều đất nhàn rỗi.

Ví dụ như nhà của người nhập cư, không giống như ở Viễn Đông chật chội, ở đây được bố trí phân tán. Khi quy hoạch đã chừa ra hai khoảng đất trước sau: một cái làm vườn, một cái làm kênh thoát nước.

Khái niệm “vườn hoa” đối với người Hoa nhập cư là điều chưa từng nghe thấy. Đất ấy chẳng bằng để trồng rau. Kênh thoát nước đặt sau nhà, thực tế cũng không cần đến quá nhiều đất. Bên cạnh mương nước, chỉ cần xới đất lên là có thể trồng thêm hoa màu.

Những khoản thu nhập tăng thêm từ việc tận dụng đất trống đều thuộc về di dân, không phải nộp lên.

Chỉ có nơi ở của người Đức là thật sự có vườn hoa và bãi cỏ phía trước, còn phía sau kênh thoát nước thì bỏ hoang.

Điều này chỉ thể hiện sự khác biệt về thái độ sống giữa hai nhóm người. Vả lại, tiền lương của người Đức cao hơn, công việc cũng nhàn hơn.

Người Đức cũng tỏ ra hiếu kỳ khi thấy người Hoa nhập cư trồng rau trong vườn. Đôi khi họ chủ động hỏi những người Hoa rằng: đây là rau gì, dụng cụ kia dùng để làm gì.

Người Hoa khi lên tàu sang Đông Phi không phải tay không mà đi. Thuộc địa không tịch thu đồ đạc của họ, nhưng những vật quá cồng kềnh thì không thể đem theo.

Một số người Hoa mang theo hạt giống thực vật trong túi áo, thế là chúng được đưa tới Đông Phi, khiến trên đất châu Phi xuất hiện đủ loại rau Viễn Đông.

Đất đai châu Phi rất thích hợp cho rau màu sinh trưởng. Suy cho cùng, rau bản chất cũng là một loại cỏ, mà châu Phi thì rất hợp cho cỏ phát triển, vì vậy mới sở hữu thảo nguyên cây bụi lớn nhất thế giới.

Ở đây không có mùa đông, chỉ cần đảm bảo đủ nguồn nước thì cây cối sẽ không ngừng sinh trưởng.

Giữa người Đức và người Hoa nhập cư còn có sự khác biệt về nhận thức. Người Đức rất coi trọng lãnh địa, nếu chưa được họ cho phép thì người khác không thể vào sân nhà họ. Trong khi người Hoa thì hay sang nhà nhau chơi, không có khái niệm lãnh địa.

Người Hoa cũng không chủ động vào sân nhà người Đức, vì họ vốn cảm thấy mình ở “thấp một bậc”. Thực ra những người Đức này cũng không có tư tưởng ngạo mạn. Sau khi tiếp xúc với người Hoa, họ có ấn tượng khá tốt, vì suy cho cùng ai cũng là nông dân xuất thân, trao đổi chút kinh nghiệm trồng trọt là có cảm tình ngay.

Người Hoa nhập cư không để tóc đuôi sam, lại chăm chỉ và sạch sẽ — tất cả đều là kết quả từ quy định nghiêm ngặt của thuộc địa, mà người Hoa thì lại rất tuân thủ, nên che lấp được một số khuyết điểm.

Còn người Đức ở thuộc địa Đông Phi cũng là những người dân quê vùng Phổ, không chú trọng tiểu tiết.

Khác biệt duy nhất giữa hai bên là người Đức đã từng trải qua giáo dục bắt buộc, nên trình độ văn hóa tương đối cao — tuy chỉ ở trình độ tiểu học — nên phẩm chất cũng chỉ ở mức giới hạn.

Người Hoa nhập cư trong mắt những người nông dân Đức này là dễ giao tiếp. Tư duy của nông dân bình thường vốn chất phác, không quanh co phức tạp.

Không giống như hậu thế, một số người ra nước ngoài rồi lại tùy tiện hái hoa, bẻ cành trong sân nhà người khác. Khi bị phê bình thì giả vờ oan ức, lý sự cùn. Nói họ vô học thì không đúng, vì họ cũng đã ra nước ngoài, chắc chắn học vấn không thấp — cho nên học vấn và phẩm chất không nhất thiết phải tỷ lệ thuận.

Đây là tình cảnh người Hoa từng gặp phải ở các nước phát triển. Khi Ernst ở châu Phi, người Hoa đúng là “người người chê, chó chó ghét”. Tại công trường nơi Ernst làm việc có rất nhiều công nhân từ quê nhà.

Trình độ học vấn của họ không cao. Ít nhất những người Ernst quen biết hầu hết chỉ học hết cấp hai, cấp ba, nhưng ở châu Phi thì coi người bản địa như trò đùa.

Mỗi ngày đều tỏ ra ngạo mạn, cho trẻ em bản địa ít kẹo bánh, rồi dạy mấy câu “ngốc nghếch”, quay clip rồi đăng lên mạng xã hội, tỏ vẻ thượng đẳng.

Nhưng thực ra, dân bản địa nào có coi họ ra gì? Có khi còn xem họ là lũ ngốc.

Dù Ernst cũng chẳng quý gì người bản địa, nhưng nền giáo dục quê nhà khiến Ernst không thể làm ra những hành vi thất lễ như vậy - quá rẻ tiền.

Mà ở thời đại này, vì quốc lực yếu kém, dân sinh khốn khó, lại chịu ảnh hưởng từ nền giáo dục nô lệ, người Hoa nhập cư ra nước ngoài nào dám ngạo nghễ như hậu thế.

Cẩn trọng rụt rè mới là chân dung thực tế, vì thế người Hoa nhập cư sẵn sàng nhường một bước để giữ hòa khí, nên có thể chung sống hòa thuận với người Đức.

(Hết chương)

[1] Tú tài/Cử nhân: Học vị trong hệ thống khoa cử phong kiến Trung Hoa, Tú tài là cấp thấp nhất, Cử nhân là cấp cao hơn, đỗ qua kỳ thi Hương.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 51 : Cảng Tanga


Chương 51: Cảng Tanga

Ngày 14 tháng 12 năm 1866, khu vực Tanga.

Dưới ánh nắng gắt, những nhân viên quản lý của thuộc địa Đông Phi đội mũ rơm đang dùng roi giám sát đám thổ dân làm việc tại công trường.

Từng nhóm bốn người thổ dân dùng tay không khiêng những tảng đá lớn, chậm rãi xếp chúng dọc bờ biển.

Di dân thì dùng xe cút kít để vận chuyển cát, đá, xi măng ra bờ, sau đó trộn nước và khuấy đều để lấp đầy các khe giữa các khối đá đã được xây dựng.

Đây là công trình xây dựng cảng mới, toàn bộ được xây bằng đá, các phiến đá đã được mài nhẵn, xếp chặt chẽ và kiên cố.

Không xa đó, di dân và thổ dân dùng xẻng, cuốc sắt mở rộng phạm vi vịnh dọc theo bờ biển. Hàng ngàn người cùng thi công, cảnh tượng vô cùng hoành tráng.

Công trường này nằm tại khu vực sau này là thành phố Tanga của Tanzania, và công trình thuộc địa đang xây dựng chính là cảng Tanga.

Cảng Tanga, trong lịch sử ban đầu là cảng quân sự của Đông Phi thuộc Đức năm 1889, về sau khi Tanzania độc lập, đây trở thành cảng biển phía bắc quan trọng nhất của nước này, là cảng lớn thứ hai cả nước, trung tâm chế biến và giao thương cây sisal (dứa gai).

Hiện tại, nơi đây là phần đất mà thuộc địa Đông Phi thuê lại từ Vương quốc Zanzibar để chuẩn bị xây dựng cảng phục vụ cho chính mình.

Trước kia, đây chỉ là một vịnh biển hoang vu thuộc quyền quản lý của Vương quốc Zanzibar.

Cảng Tanga nằm ở phía đông giáp Vịnh Tanga, đường bờ biển quanh co, nhiều vịnh biển tự nhiên tốt, độ sâu trung bình khoảng 17 mét, có đảo Pemba phía đông làm lá chắn tự nhiên, nên vùng biển này ít sóng lớn và gió to.

Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau có gió đông nam, từ tháng 4 đến tháng 10 có gió tây nam, nhiệt độ trung bình cao nhất tháng Một là 32°C, thấp nhất tháng 7 là 20°C, quanh năm ít sương mù, tầm nhìn biển rộng.

Từ Cảng Tanga đến thị trấn Manda gần nhất ở khu vực phía đông vùng Thượng Duyên Hải chỉ khoảng 120 km theo đường chim bay, trở thành cứ điểm mới nhất ở phía bắc của khu vực ven biển thuộc địa Đông Phi.

Sở dĩ chọn nơi này làm cảng không chỉ vì điều kiện tự nhiên phù hợp mà còn bởi từ năm sau, thuộc địa Đông Phi sẽ bắt đầu thâm nhập vào nội địa Kenya.

Hiện tại, thuộc địa Đông Phi đã kiểm soát được phần lớn khu vực Tanganyika, đặc biệt là những nút giao thông quan trọng, vùng đất màu mỡ và có nguồn nước dồi dào đều đã vào tay họ.

Tuy nhiên, diện tích Tanganyika quá lớn, giữa các cứ điểm thuộc địa vẫn tồn tại nhiều bộ lạc thổ dân rải rác mà hiện tại thuộc địa Đông Phi chưa đủ sức xóa sổ.

Chủ yếu là chưa có nơi để đưa những thổ dân này đi. Giải pháp tốt nhất là bán cho các thương nhân của Vương quốc Zanzibar, còn không thì đưa vào các công trình của thuộc địa để tiêu hóa bớt.

Nhưng đó cũng chỉ là muối bỏ biển. Nhu cầu về nô lệ của người Ả Rập là có giới hạn, mà từ khi thuộc địa Đông Phi bắt đầu khai phá sâu vào nội địa, họ đã đẩy một lượng lớn thổ dân cho Vương quốc Zanzibar, khiến thị trường bão hòa.

Giá nô lệ từ đó luôn ở mức thấp, một ngành từng lợi nhuận khổng lồ giờ phải chơi trò “bán rẻ số lượng lớn”.

Đã vậy, không còn cách nào khác ngoài việc thuộc địa Đông Phi tự nghĩ cách giải quyết đám thổ dân này.

Vì lượng tàu thuyền hiện có rất hạn chế, đa số phải dành để chở di dân nên chưa thể đưa đám thổ dân ra nước ngoài.

Do đó, thuộc địa Đông Phi chỉ có thể tạm thời xua đuổi một số bộ lạc, dù vậy, họ vẫn nắm trong tay lượng lớn lao động thổ dân bị bắt giữ.

Đã thế thì phải tận dụng để thực hiện các công trình lớn — khai hoang ruộng đất, xây đường, đào kênh, v.v…

Trong năm nay, công trình lớn nhất chính là xây dựng cảng Tanga, đồng thời cũng xây con đường từ cảng đến thị trấn Manda — tất cả đều huy động số lượng lớn thổ dân.

Nhờ tận dụng rộng rãi lao động bị bắt giữ, cảng Tanga đã thành hình. Cầu cảng, kho hàng đều đã hoàn thiện, thậm chí còn dựng một ngọn hải đăng cao 17 mét tại cảng.

Là cảng xuất nhập khẩu chủ chốt trong tương lai của thuộc địa Đông Phi, Ernst đã nhập một lô pháo từ Đế quốc Áo-Hung, vận chuyển từ cảng Trieste, vòng qua eo biển Gibraltar và bờ biển dài của châu Phi để cập bến tại cảng Dar es Salaam.

Sau đó, dùng sức người và xe kéo đưa đến Tanga, hiện đang dùng số pháo này để thiết lập các pháo đài phòng thủ ở phía bắc và nam của cảng.

Cùng lúc xây dựng cảng Tanga, Ernst cũng cho thành lập nhà máy đầu tiên của thuộc địa — nhà máy chế biến cây sisal (dứa gai).

Ernst đã đặc biệt nhập một lô máy tuốt sợi sisal từ Pháp và vận chuyển đến Đông Phi để lắp ráp.

Là mặt hàng chủ lực hiện tại của thuộc địa Đông Phi, lợi nhuận từ sisal là rất đáng kể. Để gia tăng giá trị, họ quyết định không xuất khẩu nguyên liệu thô nữa, mà chuyển sang xuất khẩu thành phẩm và bán thành phẩm.

Nhà máy sẽ xử lý cây sisal được trồng tại thuộc địa Đông Phi: phân loại, chọn lọc, đưa vào máy để cán, lọc bã, rửa sạch, sấy khô… Sau đó công nhân sẽ chải sợi, sắp xếp, làm thành sợi rồi dệt thành vải bố, vải bạt.

Thành phẩm bao gồm dây thừng, vải bố và bán thành phẩm sợi thô.

Sisal là loại sợi thô, không thích hợp để may quần áo, nhưng sợi sisal dày, dai, chịu mặn, không bị nước biển ăn mòn — trước khi sợi tổng hợp ra đời, đây là vật liệu tốt nhất để làm dây thừng trên tàu.

Ngoài ra còn được dùng làm lưới đánh cá, vải buồm, dây mỏ, bao tải, và thậm chí là nguyên liệu giấy cao cấp như bản đồ hàng hải hay tiền giấy.

Vì vậy, đầu ra cho sisal không phải là vấn đề. Các khu vực khác trên thế giới cũng có trồng sisal, trong đó Brazil và Đông Nam Á có quy mô lớn.

Việc đặt nhà máy sisal tại Cảng Tanga sẽ giúp ngành sisal Đông Phi cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới.

Cây sisal vốn là loại cây chịu hạn, chịu đất xấu, khí hậu Đông Phi lại rất thích hợp, nông dân chỉ cần trồng một lần là gần như không cần chăm sóc.

Hiện tại, chi phí nhân công ở thuộc địa cực kỳ thấp, kết hợp với máy móc hỗ trợ, chi phí sản xuất sợi sisal cực kỳ rẻ.

Công nhân trong nhà máy hiện tại đều là di dân, tổng cộng có ba xưởng, đều nằm gần cảng Tanga.

Khi máy móc vận hành ầm ầm, công nhân đưa lá sisal đã được xếp sẵn vào máy, các trục lăn nghiền nát lá.

Công nhân dùng gậy gỗ cuộn sợi sisal lại thành bó, cho vào nồi rửa, sau đó vớt ra sấy khô.

Cuối cùng dùng tay chải mượt sợi, rồi xe thành dây thừng hoặc chuyển qua xưởng bên để dệt thành vải bố.

Các sản phẩm và bán thành phẩm từ sisal sẽ được xuất khẩu trực tiếp ngay tại cảng Tanga, do tàu buôn của thuộc địa hoặc tàu thương nhân Bồ Đào Nha, Hà Lan dọc bờ biển vận chuyển về châu Âu.

Cảng Tanga giờ đây đã trở thành trung tâm chế biến và giao dịch sisal, đồng thời các sản vật đặc trưng khác của thuộc địa như đinh hương, cúc trừ sâu, vỏ cây canh ki na… cũng có thể xuất khẩu qua đây.

Các vật tư cần thiết của thuộc địa cũng có thể được trung chuyển qua cảng này, đặc biệt là khi năm sau bắt đầu thâm nhập vào Kenya.

Từ Cảng Tanga, đi lên phía bắc một đoạn là đã vào nội địa Kenya, khi đó di dân từ nước ngoài có thể đổ bộ trực tiếp tại Tanga, sau khi phân bổ, được đưa thẳng đến các khu vực thuộc địa tại Kenya.

So với việc đổ bộ tại cảng Dar es Salaam, cách này tiết kiệm được đáng kể nhân lực và vật lực.

Tất nhiên, những di dân tiếp tục khai phá nội địa Tanzania sẽ vẫn đổ bộ tại cảng Dar es Salaam để lấp đầy các khu vực còn trống trong thuộc địa, còn những người đến Kenya sẽ chọn đổ bộ tại Tanga.

(Hết chương)

[1] Pemba: Đảo thuộc quần đảo Zanzibar, cách bờ biển Tanzania 50km về phía đông.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 52 : Trieste


Chương 52: Trieste

Ngày 15 tháng 12 năm 1866.

Trieste, hải cảng quan trọng nhất của Đế quốc Áo.

Kể từ sau khi chiến tranh Áo–Phổ kết thúc, Áo thông qua Pháp chuyển giao Venice cho Ý, Trieste nghiễm nhiên trở thành cảng biển duy nhất và quan trọng nhất của Đế quốc Áo-Hung sắp ra đời (tháng 2 năm 1867).

Hiện tại, chính phủ Áo đang tiến hành đàm phán với giới quý tộc Magyar của Hungary, hai bên tranh luận kịch liệt về quyền lợi và nghĩa vụ.

Tháng Hai năm sau, đôi bên đạt được thỏa hiệp, giới quý tộc Magyar ở Hungary giành được quyền lợi ngang hàng với người Áo, song người Magyar phải cam kết giữ Hungary trong lòng Đế quốc – đây chính là chế độ song trùng.

Trieste là trung tâm đóng tàu và trung tâm thương mại – vận tải biển của Đế quốc Áo-Hung.

Từng giao tranh với Venice suốt hai thế kỷ, người dân bản địa sau đó chủ động cầu viện nhà Habsburg, được sáp nhập vào Đế quốc Áo, từ đó trở thành phần lãnh thổ cốt lõi của Áo.

Trieste thực chất có phương ngữ riêng, nhưng do số lượng người Ý tăng lên, cùng với thời kỳ Cộng hòa Venice từng hưng thịnh và ảnh hưởng của văn hóa Ý trên toàn châu Âu, việc sử dụng tiếng Ý đã trở thành xu hướng chính.

Sau Thế chiến I, Ý đã dùng lý do "người Trieste nói tiếng Ý" để thôn tính vùng đất này. Áo mất Trieste sau 500 năm cai trị - minh chứng rõ nhất cho sự bất lực của đế quốc Áo-Hung.

Ngày nay, thành phố này vẫn giữ đậm phong cách Vienna, dân số nói tiếng Đức cũng không ít. Nếu khi ấy chính phủ Áo tích cực triển khai giáo dục tiếng Đức tại đây, thì đâu đến mức để sau Thế chiến I, nước Áo biến thành quốc gia không giáp biển.

Trieste về sau cũng từ viên minh châu của Đế quốc Áo-Hung biến thành một thành phố tầm thường của nước Ý.

Từ đó thấy được sức mạnh của ảnh hưởng văn hóa. Trieste vốn nói phương ngữ bản địa, nhưng do giao tiếp lâu dài với các quốc gia Ý (đặc biệt là Venice), rốt cuộc chuyển sang nói tiếng Ý, và cuối cùng bị Ý sáp nhập.

Đây cũng chính là lý do Ernst muốn cải tổ hệ thống giáo dục cho dân nhập cư tại Thuộc địa Đông Phi: chỉ cần hình thành được bản sắc dân tộc cho dân nhập cư, thì tương lai Đông Phi chỉ còn những “người Đức chính gốc”.

Hiện nay, Trieste đã nối liền trực tiếp với thủ đô Vienna của Áo, tuyến đường sắt đến Vienna đã được xây dựng từ năm 1857.

Tựa lưng vào toàn thể Đế quốc Áo-Hung làm hậu phương kinh tế, Trieste trở thành thành phố lớn thứ ba trong Đế quốc, chỉ sau Vienna và Prague.

Với tư cách là cảng biển số một của Đế quốc Áo-Hung, nơi đây phụ trách cung ứng than đá và vận tải hàng hóa đối ngoại cho toàn Đế quốc, đồng thời cũng là đại bản doanh của Hải quân Đế quốc Áo-Hung.

Được mệnh danh là “Bờ biển Xanh của Đế quốc Áo-Hung”. Khi ấy, Trieste thực sự là một trong những đại đô thị của châu Âu và thế giới.

Còn khi rơi vào tay Ý, Trieste biến thành thành phố biên giới. Mất đi hậu phương kinh tế, Trieste không còn chỗ đứng trong hàng ngũ các cảng biển của Ý thời hậu thế.

Thậm chí rất nhiều người Ý còn không biết đến thành phố Trieste.

Người đời sau chỉ có thể biết đến cái tên này qua bài diễn văn “Bức màn sắt” của Churchill: ."

“Từ Szczecin (Stettin) bên bờ biển Baltic đến Trieste bên bờ biển Adriatic, một bức màn sắt đã buông xuống khắp châu Âu.” – Churchill

...

Ernst đi dạo trên đường phố Trieste. Hiện nay Ernst cũng coi như là nửa chàng rể của nhà Habsburg, nhân cơ hội này có thể mượn danh nghĩa để đầu tư trong lãnh thổ Đế quốc Áo-Hung.

Trieste chính là một trong những mục tiêu của Ernst, hắn định xây dựng nơi đây thành trung tâm cho đội tàu viễn dương thương mại Đông Phi.

Tuy rằng chức năng có phần trùng lặp với Venice, nhưng Ernst vẫn muốn chia trứng vào hai giỏ khác nhau.

Dẫu sao Venice và Đế quốc Áo-Hung giờ đây cũng coi như hai quốc gia khác biệt. Nếu hàng hóa từ Áo vận chuyển qua Venice, sẽ bị chính phủ Ý thu thuế thêm một lần.

Do đó, xưởng đóng tàu vẫn đặt tại Venice, còn đội tàu thì đổi bản đồ, phát triển tại Trieste.

Chọn Trieste không chỉ vì lý do kinh tế, mà quan trọng hơn là để đưa người nhập cư sang Đông Phi.

Vấn đề dân nhập cư da trắng luôn làm Ernst đau đầu. Người Đức trong lãnh thổ Phổ rất khó bị thuyết phục sang Đông Phi, trình độ học vấn cao (so với các khu vực khác ở châu Âu) là một phần, hơn nữa Phổ đang phát triển mạnh, cơ hội nhiều, người chọn ra nước ngoài lập nghiệp lại càng ít.

Những người Đức từng ra châu Mỹ liều mình một phen, một phần là do châu Mỹ phát triển sớm, môi trường sống tốt. Một phần khác là do không sống nổi ở Phổ – nhiều người trong số họ là tội phạm, lưu manh, đã bị chính phủ Phổ ghi chép trong hồ sơ. Tất nhiên, cũng không thiếu người đầy tham vọng muốn làm giàu.

Mà hai loại người này vừa nhìn là nhận ra ngay – không phải kiểu dân mà Thuộc địa Đông Phi cần. Đưa sang sẽ chỉ gây bất ổn cho khu vực.

Đế quốc Áo-Hung thì khác. Từ khi thành lập đến nay, quốc lực đã luôn trên đà suy giảm, mức độ công nghiệp hóa thấp, mâu thuẫn dân tộc gay gắt – đây chính là cơ hội cho Ernst khai thác.

Dân số của Đế quốc Áo-Hung chỉ đứng sau Nga hoàng và Đức (vốn đã bị loại khỏi danh sách), trình độ học vấn của người dân thì kém xa người Đức, chỉ nhỉnh hơn Nga một chút. Người mù chữ, không biết một chữ cứng đầu, cực kỳ nhiều.

Nông dân không có học thức, tức là có thể thông qua giáo dục để cải tạo bản sắc văn hóa – đây chính là kiểu dân nhập cư lý tưởng cho Thuộc địa Đông Phi.

Nông dân chưa từng được đi học, trong bất kỳ thời đại nào cũng đều có khả năng sinh sản cao nhất. Nhưng đất đai ở Áo-Hung thì không thể tự dưng tăng lên, thêm vào đó là tầng lớp quý tộc trong nước bóc lột quá mức.

Những nông dân này, hoặc là vào thành phố làm công nhân, song rõ ràng công nghiệp của Đế quốc Áo-Hung không thể hấp thụ lượng dân số lớn đến vậy. Hơn nữa, nhà máy thành phố chưa chắc dễ sống hơn làm ruộng.

Hoặc là nổi dậy chống lại tầng lớp quý tộc địa phương – trong một quốc gia bảo thủ như Đế quốc Áo-Hung, tỷ lệ thành công gần như bằng không.

Lựa chọn cuối cùng: xuất ngoại, đi nơi khác tìm cơ hội việc làm.

Khác với người Đức đã được giáo dục, nếu bạn nói với một người Đức rằng sang Đông Phi làm việc và sinh sống, họ chắc chắn sẽ nghĩ bạn là kẻ lừa đảo – chỉ có lính đánh thuê và người làm công tác thuộc địa chuyên nghiệp mới đi.

Còn dân thường ở đáy xã hội Đế quốc Áo-Hung, bạn nói với họ “sang Đông Phi”, có khi câu đầu tiên họ hỏi lại là: “Đông Phi là ở đâu?”

Lúc này, chỉ cần tăng cường tuyên truyền, miêu tả Đông Phi thành miền đất hứa, rồi tìm vài người giả làm “người từng trải” để thuyết phục – dù sao thì trong nước cũng không có ruộng, cũng không tìm được việc, chi bằng ra nước ngoài thử vận may.

Những nông dân này dù sao cũng không dễ dụ như người Hoa, bởi lẽ dân Hoa lúc ấy thực sự cùng đường mạt lộ, còn dân Áo-Hung vẫn miễn cưỡng sống qua ngày.

Nếu quay về thời kỳ còn chế độ nông nô thì càng không có cửa – vì khi ấy, nông nô là tài sản tư hữu của quý tộc, muốn dụ họ ra đi phải đàm phán với quý tộc địa phương.

Giờ thì đúng lúc – chế độ nông nô vừa mới bị bãi bỏ, những nông dân này không còn được quý tộc chăm lo nữa, ăn mặc ở lại hoàn toàn phải tự mình lo liệu.

Nông dân không có đất trong tay, chỉ có thể tiếp tục làm thuê cho quý tộc, nhưng dân số thì ngày một đông, công cụ sản xuất lại ngày một hiệu quả, nên không cần nhiều người làm ruộng như trước.

Thế là, nông dân không đất chỉ có thể vào thành phố làm thuê nuôi gia đình.

Dân nông ồ ạt đổ vào thành tìm việc, nhưng công nghiệp của Đế quốc Áo-Hung lại không phát triển, không thể hấp thụ nổi lượng lao động khổng lồ.

Ernst liền tổ chức người của công ty đến từng thành phố trong Đế quốc Áo-Hung, dưới danh nghĩa tuyển dụng, dụ dỗ nông dân thất nghiệp sang Đông Phi phát triển.

Không chỉ có lương, mà còn được bao ăn ở. Tương lai kiếm được tiền còn có thể quay về châu Âu.

Công nhân nông nghiệp cũng là công nhân, Ernst nói vậy cũng không sai. Bao ăn ở là thật – chỉ là chỗ ở phải tự xây, còn ăn thì phải ăn nông sản trồng được từ đất của mình.

Còn lương? Nói thật thì chỉ đủ sống, nhưng vẫn có thể dành dụm chút ít. Gì cơ? Không đủ nuôi cả nhà à? Vậy thì ngươi quả là gặp đúng thời rồi.

Khuyến khích cả gia đình sang làm việc tại Thuộc địa Đông Phi – như vậy cơ bản là không lo cơm áo, hơn nữa còn được miễn phí giáo dục cho con trẻ.

Còn chuyện sau này có quay về châu Âu không? Cũng có khả năng – làm độ bốn, năm năm là có hy vọng. Dù sao thì đội tàu thương mại của Thuộc địa Đông Phi hiện tại chỉ có tuyến vào chứ không có tuyến ra, mà số tàu cũng chẳng có mấy chiếc.

Nếu muốn quay về châu Âu bằng tàu thương mại của các quốc gia khác, vé tàu không hề rẻ. Không ở Đông Phi làm vài năm thì chắc chắn không đủ tiền mua vé.

Hiện tại phát triển tại Đông Phi, thì chỉ có thể nuôi sống bản thân và gia đình, chứ đừng mong phát tài. Thuộc địa Đông Phi không có nhiều ngành nghề hỗn tạp như châu Mỹ, không tồn tại khái niệm “khởi nghiệp”.

Đất đai có giá trị đều thuộc quyền sở hữu của chính quyền thuộc địa, muốn bắt chước người Mỹ xây trang trại ở miền Tây là điều không thể.

Tuy nhiên, điểm mạnh của Đông Phi là: chính quyền thuộc địa chịu trả phí tàu cho người dân sang đó định cư – điều này hơn hẳn châu Mỹ, vì chính phủ Mỹ chưa bao giờ chủ động trả tiền cho bạn vượt Đại Tây Dương.

Còn một điểm nữa khi đến Đông Phi: công việc vẫn là trồng trọt – sở trường vốn có của bạn. Nếu sang châu Mỹ, không có tay nghề, bạn cũng chỉ làm lao động phổ thông. Nhưng trồng trọt thì bạn đã quen, không ai có thể lừa bạn được. Cuộc sống dù có khốn khổ cũng không khổ bằng hồi còn làm nông nô.

(Hết chương)

[1] Trieste: Thành phố cảng thuộc Đế quốc Áo (sau là Áo-Hung), hiện nay thuộc Ý, từng là cảng biển lớn nhất của Đế quốc Áo-Hung.

[2] Song trùng Áo-Hung (1867-1918): Chế độ liên hiệp dưới quyền Habsburg, chia sẻ quân đội/ngoại giao nhưng độc lập về hiến pháp, nghị viện.

[3] Magyar: Tên dân tộc chỉ người Hungary, thường dùng trong ngữ cảnh lịch sử và chính trị của Đế quốc Áo-Hung.

[4] Bức màn sắt: Cụm từ nổi tiếng trong bài diễn văn của Winston Churchill (1946), đánh dấu sự phân cực Đông–Tây thời kỳ đầu Chiến tranh Lạnh.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 53 : Trồng khoai tây


Chương 53: Trồng khoai tây

Ngày 16 tháng 12 năm 1866

Thủ phủ vùng cao nguyên phía Bắc – Karatu

Về phía tây bắc Karatu là thảo nguyên Serengeti trứ danh – thế giới động vật đúng nghĩa.

Hiện tại, trong mọi khu vực của Đông Phi thuộc địa, ngoại trừ vùng thượng du ven biển đã được “thanh lọc” kỹ càng, thì các khu còn lại phần lớn vẫn là lãnh địa của dã thú.

Ngay cả thổ dân – vốn có dân số nhiều hơn di dân – khi đối mặt với đàn thú hoang khổng lồ nơi đây cũng trở nên nhỏ bé và chẳng đáng kể gì.

Nguồn tài nguyên động vật dồi dào đến mức thổ dân chỉ cần săn bắn là đủ sống dư dả. Mỗi ngày săn xong lại ca hát nhảy múa, tối đến ngủ thẳng giấc, không lo bữa ăn ngày mai – vì thật sự không bao giờ thiếu con mồi.

Nhưng di dân đến châu Phi với mục tiêu canh tác thì dĩ nhiên không thể học theo thổ dân sống kiểu "ngày nào hay ngày nấy".

Tư duy của họ đã được hun đúc bởi văn hóa nông canh ngàn đời – tôn trọng lao động, tin vào làm việc chăm chỉ để làm giàu. Cách sống "không nghĩ đến ngày mai" của thổ dân khiến họ khó mà cảm thông nổi.

Thật ra, tư tưởng của con người là sản phẩm của điều kiện xã hội. Ví dụ, dù thổ dân không hình thành quốc gia, nhưng môi trường châu Phi lại khiến họ sống rất ổn trong hệ thống bộ lạc nguyên thủy. Một khi bước vào hệ thống xã hội phức tạp hơn, họ lại phát triển dở dang, nửa vời.

Suy cho cùng, tổ tiên loài người khi rời Đông Phi hàng triệu năm trước đều phải đối mặt với khủng hoảng sinh tồn, từ đó mới học cách trồng trọt và chăn nuôi.

Ví như Ai Cập – nếu không có sông Nile để làm nông nghiệp giữa sa mạc mênh mông, thì sống thôi cũng đã là vấn đề lớn. Tất cả những ai rời châu Phi cuối cùng đều phải bước lên con đường “cuộc đua sinh tồn”.

Đến cả triệu năm sau, người châu Âu quay lại cũng "quần" cho các bộ lạc thổ dân kia đến chết ngộp.

Mỗi lần di dân đến một địa điểm mới, việc đầu tiên là dọn sạch dã thú và bộ lạc bản địa có thể gây nguy hiểm.

Để tránh bất trắc, họ tổ chức lao động tập thể – không cho kẻ địch lọt lưới phản công.

Vùng Karatu cây cối rậm rạp, nhưng vào mùa khô thì héo úa, dây leo và cỏ dại vàng úa phủ kín mặt đất.

Khi mới đến, di dân dùng lửa đốt trụi lớp thảm thực vật khô cằn. Sau đám cháy, một lớp tro mỏng đọng lại trên mặt đất.

Sau đó, họ dùng xẻng và cuốc đào bỏ phần rễ và gốc cây dưới đất. Khi đất được xới lên, lớp đất đỏ hồng lộ ra.

Thế nên, khu dân cư và ruộng đất tại Karatu đều có màu đỏ chói – kết hợp với lớp cây vàng úa quanh vùng và bầu trời thấp mờ mịt dưới nắng gắt, tạo nên không khí khá nặng nề.

Karatu có lượng mưa thấp, do vị trí nằm sâu trong đất liền và địa hình cao nguyên khiến hơi nước từ Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương khó thâm nhập.

Phía đông và tây Karatu đều có hồ lớn – phía tây là hồ Eyasi (một hồ muối nội địa theo mùa), phía đông là hồ Manyara (hồ nước mặn). Cả hai đều là hồ dọc theo đới đứt gãy Đông Phi, thường thấy đàn chim hồng hạc và chim nước quần tụ.

Phía bắc Karatu là vùng núi Ngorongoro – một ngọn núi lửa cao nguyên, và Karatu nằm ngay rìa nam khu vực này.

Ngorongoro là vùng sinh thái cực kỳ đặc biệt – tập trung đồng cỏ, rừng cây, đồi núi, hồ, đầm lầy… với vô số loài động vật hoang dã sinh sống, hình thành một hệ sinh thái gần như khép kín.

Cái tên “Ngorongoro” trong tiếng thổ dân có nghĩa là “cái hố lớn”.

Hồ Manyara chính là cửa ngõ vào khu bảo tồn thiên nhiên miệng núi lửa Ngorongoro. Hemingway từng ca ngợi nơi đây là “nơi dễ thương nhất châu Phi”.

Bộ tộc Maasai nổi tiếng sống gần khu vực miệng núi lửa, sống đời du mục.

Vào mùa khô, nước đọng trong miệng núi lửa trở thành nguồn sống của mọi loài – hàng đàn thú hoang kéo đến sinh tồn.

Là thủ phủ mới của vùng cao nguyên phía Bắc, Karatu không được đánh giá cao về tiềm năng – so với các thủ phủ khác.

Sở dĩ Karatu được chọn làm thủ phủ không phải vì điều kiện tự nhiên hay giao thông, mà chỉ vì nó… nằm ở trung tâm vùng.

Ở Đông Phi thuộc địa, những nơi như Mwanza hay Kigoma có điều kiện tự nhiên vượt trội, Dodoma có lợi thế giao thông, còn “đệ nhất trấn” miền Đông lại là nơi đặt nền móng đầu tiên cho thuộc địa.

Chỉ có Karatu và Ronloda (thủ phủ vùng hạ du ven biển) là do Ernst... tùy tiện khoanh tròn trên bản đồ mà thành trung tâm hành chính.

Tại Đông Phi thuộc địa, các thành phố đều xuất phát từ con số 0, vậy nên tương lai Karatu và Ronloda phát triển ra sao, phụ thuộc vào việc họ có tận dụng được lợi thế khởi đầu hay không.

Vì lượng mưa ít, Karatu không trồng lúa hay lúa mì, mà chọn khoai tây – loại cây chịu hạn tốt.

Khoai tây là loại cây “lười” – như cây dứa gai (sisal), không cần chăm bón nhiều.

Khoai ưa lạnh, kỵ nóng. Karatu nằm ở cao nguyên, nhiệt độ dao động từ 10-20 oC – rất lý tưởng.

Vùng cao nguyên có điều kiện ánh sáng tuyệt vời: không khí loãng, mây mỏng, nắng gắt – vô cùng có lợi cho cây trồng.

Đất lại có tính axit nhẹ – tro thực vật khi đốt chính là để điều chỉnh độ pH.

Đất ở Karatu lại tơi xốp, không dính – tạo điều kiện cho rễ và củ khoai phát triển tốt.

Mặc dù ít mưa, nguồn nước từ sông suối vẫn đủ để tưới tiêu.

Di dân dùng cuốc xới đất, lên luống, cắt khoai giống (mỗi củ có 2 mầm), cách nhau 20–30 cm, mầm hướng lên, cắm vào đất đã cày, rắc thêm phân – thế là xong giai đoạn trồng ban đầu.

Về cây công nghiệp, Karatu vẫn chọn dứa gai (sisal).

Khu rừng ở vùng núi Ngorongoro khá phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng – đặc biệt là dùng gỗ làm nhà, chế tạo công cụ sản xuất như cối xay nước, cối xay gió…

Hiện di dân Karatu mới chỉ hoạt động ở khu vực đông nam vùng núi Ngorongoro, chưa tiến sâu vào bên trong.

Phía tây bắc của vùng cao nguyên này – tức khu vực thảo nguyên Serengeti – hoàn toàn chưa có thế lực nào của thuộc địa Đông Phi đặt chân tới.

Khu vực phía tây đó lại tiếp giáp với vùng hồ lớn – nơi có lượng di dân chỉ đứng sau vùng thượng du ven biển. Giữa thảo nguyên Serengeti và vùng hồ lớn không có rào chắn tự nhiên.

Vì vậy, Serengeti được phân vào vùng hồ lớn – dù thật ra nó là thiên đường động vật hoang dã đúng nghĩa.

Trong phim tài liệu thời hiện đại, cảnh hàng vạn con linh dương đầu bò vượt sông chính là tại đây – dòng sông ấy tên là Mara, chảy giữa Kenya và Tanzania. Mỗi năm, đàn linh dương và các loài thú khác đều di cư qua lại giữa Masai Mara (Kenya) và Serengeti (Tanzania).

Mảnh đất rộng lớn này, ở kiếp trước dù thuộc về Tanzania, cũng chưa từng được phát triển thực sự – mà trở thành công viên quốc gia. Đông Phi thuộc địa hiện tại cũng chẳng dại mà đụng đến Serengeti.

Vì số lượng động vật hoang dã nơi đây quá lớn, rất khó kiểm soát. Giai đoạn đầu, Đông Phi thuộc địa chắc chắn sẽ phát triển kiểu “bạo lực”, và các khu vực khác đã “ăn đủ”.

Thế thì chi bằng giữ lại thảo nguyên Serengeti – xem như chừa một mảnh đất thanh tịnh cho thú hoang Đông Phi. Hiện tại, Đông Phi thuộc địa thiếu gì đất – hoàn toàn có thể mở rộng về phía bắc và tây.

Thế nên, dù diện tích không nhỏ, ảnh hưởng của Serengeti đối với Đông Phi thuộc địa là rất hạn chế.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 54 : Đối thoại tại Cung điện Schönbrunn


Chương 54: Đối thoại tại Cung điện Schönbrunn

Cung điện Schönbrunn của triều đình Habsburg.

Ernst đến gặp Hoàng đế Franz để xin hỗ trợ.

Thành thật mà nói, gần đây Franz đang bận tối mắt với hậu quả sau chiến tranh, lại thêm việc đối phó với những yêu sách vô lý của giới quý tộc Hungary.

Tuy vậy, Franz vẫn dành thời gian tiếp kiến vị cháu rể tương lai.

"Ernst, sao có rảnh đến Áo thế?" Hoàng đế Franz hỏi.

"Bệ hạ, thần đến là mong Áo có thể hỗ trợ công tác tuyển dụng lao động trong lãnh thổ đế quốc," Ernst thẳng thắn trình bày.

"Chuyện nhỏ nhặt thế cần gì phải báo cáo trẫm!" Franz tỏ vẻ khó hiểu.

Việc tuyển mộ công nhân là chuyện vặt vãnh, đâu cần đích thân đến cung điện? Nếu doanh nghiệp nào cũng thế này thì ngày nào ông cũng phải nghe báo cáo.

"Thực ra là... số lượng tuyển dụng lần này của thần hơi nhiều. Và mong chính phủ Áo đứng ra bảo trợ."

"Nhiều là bao nhiêu?" Franz tò mò hỏi.

"Nếu được, vài chục nghìn, thậm chí vài trăm nghìn người," Ernst trả lời với vẻ mặt bình thản.

"Ernst, ngươi đùa sao! Đây là tuyển quân đội hay gì? Con số ấy thật không tưởng!" Franz không tin nổi.

Ernst giải thích cặn kẽ: "Bệ hạ hẳn biết thần có thuộc địa ở Đông Phi, hiệu quả kinh tế khá ổn nhưng bị hạn chế bởi dân số. Ban đầu do thiếu người da trắng, thần phải tuyển mộ từ châu Á. Giống như tỷ lệ người Đức trong đế quốc Áo, số dân da trắng ở thuộc địa quá ít - bệ hạ hiểu ý nghĩa của điều này chứ?"

"À, ngươi muốn cân bằng dân số châu Á bằng cách tuyển người từ Áo! Nhưng sao không tuyển từ Phổ?"

Ernst thầm chửi thề: Làm sao nói thẳng rằng dân Áo dễ lừa hơn do trình độ thấp?

"Thực tế là quân đội Phổ đã giải quyết tốt vấn đề việc làm. Ai cũng biết quy mô quân đội Phổ... khá phi lý nên rất khó tuyển công nhân."

Loại lời nói vớ vẩn này, Franz đương nhiên không tin lấy một chữ. Nhưng ông vẫn quyết định cho Ernst một cơ hội: "Nếu đưa ra được lý do thuyết phục, trẫm có thể ủng hộ."

Ernst chậm rãi: "Bệ hạ có đau đầu vì chủ nghĩa dân tộc không?"

"Đúng vậy, nhất là bọn Hungary ngày càng lấn tới."

"Theo bệ hạ, giới quý tộc Hungary dựa vào đâu để mặc cả?"

"Diện tích rộng, dân số đông. Nếu Hungary độc lập, Áo sẽ mất vị thế ở châu Âu!"

"Đúng thế, thưa Bệ hạ." Ernst phụ họa.

"Chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy tại châu Âu, thực chất là âm mưu của Anh – Pháp nhằm phá hoại quý quốc. Người Đức trong Đế quốc chỉ chiếm chưa đến ba mươi phần trăm."

"Số người Đức chỉ chiếm hơn hai mươi phần trăm. Trong khi người Hungary chiếm tới hai mươi phần trăm. Ngoài ra còn có mười phần trăm người Ba Lan, các dân tộc Slav như Tiệp Khắc, Slovakia, Croatia, cùng một số ít người Romania và người Ý."

"Trong số này, riêng người Hungary đã đủ sức thách thức dân tộc Đức, huống chi còn có người Ba Lan ở Galicia cùng các dân tộc Slav khác. Trước đây, dựa vào cả khu vực người Đức, Đế quốc còn có thể đè nén những dân tộc kia."

"Nhưng nay tình hình quốc tế ngày càng hỗn loạn, nước Áo không thể tiếp tục uy hiếp toàn châu Âu như trước. Ngay cả một 'thằng hề' như Ý cũng dám nhòm ngó lãnh thổ Đế quốc. Nếu chúng kích động người Ý trong nội địa, thì Trieste và toàn bộ phía Nam của Đế quốc sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm."

"Người Ba Lan từ lâu đã tích cực tìm kiếm sự ủng hộ phục quốc từ các nước Âu – Mỹ. Nhưng Ba Lan chỉ là một quốc gia từng tồn tại trong lịch sử. Thứ thúc đẩy người Ba Lan, chính là bản sắc văn hóa được xây dựng từ thời huy hoàng của vùng đất ấy."

"Nhưng người Ba Lan thật sự chỉ đòi lại lãnh thổ từ người Nga sao? Hiện nay vì cần sự ủng hộ nên họ mới chuyên tâm bôi nhọ nước Nga. Nhưng năm xưa Phổ và Áo họ đâu dễ quên."

"Cho dù hiện tại người Ba Lan trong nội địa Đế quốc vẫn ủng hộ hoàng gia, nhưng có câu: 'Có thể chung hưởng phú quý, không thể đồng cam cộng khổ.' Hiện nay họ ủng hộ quý quốc vì dùng khổ nạn của người Ba Lan tại Nga làm nền. Một khi kinh tế nước Áo gặp khó, họ sẽ lập tức đổ lỗi lên đầu Đế quốc."

"Chưa kể, trong Đế quốc còn có nhiều dân tộc Slav khác. Gần đây, người Nga do oán hận quý quốc sau Chiến tranh Crimea, lại tăng cường ảnh hưởng với người Slav — điều này là ai cũng thấy rõ. Đế chế Ottoman gần đây cũng đã lãnh đủ rồi."



Franz chau mày nghe Ernst thao thao bất tuyệt, cuối cùng ngắt lời:

"Đủ rồi, ta hiểu ý ngươi."Franz nhíu mày ngắt lời: "Trẫm hiểu ý ngươi."

Franz đứng dậy, hai tay đặt sau lưng, nhìn lên bản đồ lãnh thổ Đế quốc Áo với vẻ u sầu:

"Ta đâu không biết những căn bệnh cố hữu của Đế quốc. Nhưng chính trị không đơn giản như ngươi nghĩ, Ernst."

Ông dịu giọng nói tiếp:

"Có lẽ ngươi còn trẻ, mà người trẻ thì luôn dám đối diện nghịch cảnh. Nhưng nước Áo quá già rồi, đến mức chỉ một biến động nhỏ cũng có thể khiến cả Đế quốc lâm vào đại họa."

"Ví dụ như Maximilian — kẻ cố chấp đó. Kết quả là vấp ngã thảm hại ở Mexico. Hắn còn tự cao tự đại, không chịu cầu cứu ta. Giờ không rõ sống chết thế nào!"

Ông bước đến trước mặt Ernst, nhìn thẳng với ánh mắt kiên nghị:

"Đế quốc Áo từng là bá chủ lục địa châu Âu. Tuy hiện tại đối diện muôn trùng khó khăn, ta tự nhận chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề của nước Áo, nhưng vẫn đủ khả năng chống đỡ để quốc gia vĩ đại này tiếp tục bước đi."

Ông xoay người, quay lưng về phía Ernst:

"Chờ đến khi ta già yếu, tương lai sẽ thuộc về những người trẻ như ngươi. Ta tin các ngươi, và cả thế hệ kế thừa của nước Áo, sẽ dùng trí tuệ để đưa Áo trở lại thời kỳ huy hoàng."

"Quả thực, vì chủ nghĩa dân tộc mà nước Áo trở nên bất ổn. Chính phủ cũng mong muốn thay đổi cục diện này."

"Nhưng áp lực chúng ta đang gánh phải là điều người thường không thể tưởng tượng nổi. Giới quý tộc các dân tộc địa phương nắm quyền kiểm soát địa phương còn mạnh hơn cả chính phủ trung ương. Hơn nữa, bản thân chính phủ trung ương cũng đối diện nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề tài chính, luôn cản trở mọi nỗ lực cải cách."

Nói đến đây, Franz có phần chán nản, lẩm bẩm:

"Ta cũng từng cố noi gương tổ tiên, thúc đẩy tập quyền trung ương và đẩy mạnh giáo dục tiếng Đức cho dân chúng."

"Nhưng mỗi khi chính phủ vừa đề xuất những điều đó, tầng lớp quyền quý địa phương lại phản đối kịch liệt. Thêm vào đó, mấy năm nay kinh tế Đế quốc sa sút, chính phủ cũng không còn dư tài chính để hỗ trợ cải cách."

Ernst đương nhiên hiểu rõ những khó khăn này. Nước Áo quả thật đang mắc kẹt trong giai đoạn chuyển mình, và hiện tại chưa xuất hiện nhân vật nào có thể xoay chuyển tình thế.

Như Franz vậy, dù là hoàng đế, ông không thể là nhà cải cách cấp tiến. Thân phận của ông quyết định rằng phải đặt lợi ích của dòng họ Habsburg lên hàng đầu.

Nếu ông thực hiện cải cách, rất có thể sẽ làm lung lay nền tảng thống trị của dòng họ. Vì vậy hoàng thất sẽ không bao giờ chủ động lãnh đạo cải cách.

Trong khi đó, chính phủ Áo hiện thời lại không có một chính khách vừa tài năng kiệt xuất, vừa có ảnh hưởng không thể thay thế trên toàn Đế quốc.

Nhìn sang Phổ — họ có Bismarck, lại được hậu thuẫn bởi Wilhelm I và các đời quân chủ minh mẫn, đã đặt nền móng vững chắc cho Phổ. Bismarck lại dựa vào chiến thắng quân sự và thành tựu ngoại giao để gây dựng uy tín cá nhân.

Nếu nước Áo lúc này cũng xuất hiện một nhân vật cỡ Bismarck, thì vẫn còn cơ hội. Đáng tiếc, nước Áo không phải kiểu "con bạc" như Phổ, không có tinh thần tự cải tổ.

Dĩ nhiên, Ernst đến đây không phải để giúp nước Áo giải quyết vấn đề chính trị, mà là để kiếm người cho thuộc địa.

"Thưa Bệ hạ, vấn đề của nước Áo đúng là rất nan giải, nhưng ta có thể chọn cách hạ thấp độ khó của nhiệm vụ."

Ernst tiếp tục:

"Ví dụ như việc thần tuyển dụng lao động trong lãnh thổ Đế quốc, thực chất là tiếp nhận những nông dân thất nghiệp từ vùng quê toàn quốc. Họ vừa mới đổ về thành thị, trong khi thị trường việc làm rõ ràng không thể hấp thụ hết chừng đó người."

"Nếu số dân này không có việc làm, sẽ làm trầm trọng thêm khủng hoảng xã hội tại Áo, càng khiến cải cách khó thực hiện hơn. Chưa kể, họ sẽ bị những nhà tư bản cấp tiến lôi kéo — dù sao chuyện này cũng từng có tiền lệ."

Franz thở dài:

"Được rồi, tâm tư của ngươi ta hiểu cả."

"Ngươi có thể tuyển dụng trong lãnh thổ Đế quốc Áo, chỉ cần ngươi có khả năng, muốn tuyển bao nhiêu thì tuyển. Nhưng ta cảnh báo trước — không được động đến người Đức. Còn các dân tộc khác, nếu ngươi tuyển càng nhiều thì càng tốt. Chúng ta không những không phản đối, mà còn ủng hộ."

Cứ như vậy, hai người âm thầm đạt được một thỏa thuận miệng:

Nước Áo, thông qua Ernst, giảm bớt dân số các dân tộc khác; còn Ernst thì thu được nguồn nhân công da trắng để khai thác châu Phi.

Ai nấy đều hướng về một tương lai tươi sáng…

(Hết chương)

[1] Schönbrunn: Cung điện mùa hè của hoàng gia Habsburg, biểu tượng quyền lực Áo, nơi diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 55 : Đến Đông Phi


Chương 55: Đến Đông Phi

Ngày 22 tháng 12 năm 1866.

Thị trấn Doboz, Hungary.

János – một người Hungary biết nói tiếng Đức.

Khi còn trẻ, János từng đến Áo kiếm sống, cuối cùng làm công nhân tại Trieste. Nhưng một sự cố máy móc đã khiến János vĩnh viễn mất đi cánh tay trái của mình.

Số phận vẫn còn may, nhờ vài loại thuốc đơn giản mà János giữ được mạng sống, nhưng cũng tiêu sạch số tiền dành dụm. Mất cánh tay cũng đồng nghĩa mất khả năng lao động.

Ông chủ nhà máy vô lương tâm đã lập tức sa thải János vì không còn giá trị sử dụng. Đúng lúc tiền đồ mờ mịt, János gặp được Công ty Melede – một công ty mới thành lập tại Áo, đang tuyển người.

Điều kiện tuyển dụng của công ty này khá đặc biệt: không yêu cầu bằng cấp, chỉ cần biết tiếng Đức và ít nhất một phương ngữ trong lãnh thổ Đế quốc Áo-Hung. Tất nhiên, biết nhiều ngôn ngữ thì càng tốt. Sau khi phỏng vấn là có thể đi làm.

Với tâm lý "còn nước còn tát", János đăng ký. Nhờ biết tiếng Hungary và tiếng Đức, cộng thêm tài ăn nói, János được Công ty Melede nhận ngay.

Công việc của János rất đơn giản: đến vùng Hungary chiêu mộ người. Mức lương hoàn toàn phụ thuộc vào số người mà János "thuyết phục" được để lên tàu đến thuộc địa Đông Phi.

Cái gọi là Công ty Melede này thực chất là vỏ bọc mới của tập đoàn Hechingen tại Áo, phụ trách mảng di dân trong lãnh thổ Đế quốc Áo-Hung trong tương lai.

Vừa bước chân vào nghề, János đã hiểu được đại khái nghiệp vụ của công ty Melede.

János là người khá lanh lợi, sau khi cân nhắc tình hình của bản thân và muốn sớm có thu nhập, hắn quyết định bắt đầu công việc ngay tại quê nhà.

Dù Công ty Melede trông như một công ty ma, nhưng với János – người mất khả năng lao động – chỉ cần công ty chịu trả lương thì nó là công ty tốt, chẳng quan tâm thật giả làm gì.

Sở dĩ gọi là công ty ma vì khi János đi phỏng vấn, Melede chỉ có tổng cộng ba nhân viên. Mà tuyển người lại không yêu cầu học vấn gì.

János từng tiếp xúc với vài công ty nhỏ làm trong ngành tài chính, nhưng những nơi đó đều đòi hỏi nhân sự có trình độ cao.

Hơn nữa, nơi làm việc của Melede lại đặt ở châu Phi. Là người từng bôn ba đó đây khi còn trẻ, János từng nghe các thủy thủ tàu viễn dương kể về châu Phi:

Nghe nói châu Phi toàn là cát, nắng nóng như thiêu đốt, thương nhân Ả Rập mặc áo dài cưỡi lạc đà xuyên qua sa mạc.

Người Ai Cập sống nhờ sông Nile, trong đó có sinh vật gọi là cá sấu – rất đáng sợ – mở miệng là có thể nuốt chửng một người.

Các thủy thủ đó thường chạy tuyến quanh Địa Trung Hải, nên đã gieo vào tâm trí János nhỏ tuổi hình ảnh về một châu Phi đầy nắng cháy, sa mạc, thương nhân Ả Rập và nô lệ da đen…

Tóm lại, trong mắt János, châu Phi không phải vùng đất tốt đẹp. Nhưng sau khi gia nhập Melede, hắn bắt đầu tìm hiểu về Đông Phi.

Dù sao muốn lôi kéo người đi di dân thì phải tô vẽ Đông Phi cho thật hấp dẫn. Còn tình hình thực tế của thuộc địa Đông Phi cũng phải phổ biến rõ ràng với nhân viên.

Chứ không lẽ để những nhân viên ít học đó tự bịa ra hình ảnh Đông Phi? Thà phát cho họ mỗi người một quyển Kinh Thánh rồi bảo với dân quê: "Đông Phi chính là vườn Địa Đàng – nơi Adam và Eva từng sống."

Tóm lại, Đông Phi sau khi được Công ty Melede "tái biên soạn" thì là như sau: đất đai màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, đồng cỏ bao la, bốn mùa như xuân. Quan trọng nhất: hiện giờ sang Đông Phi làm việc không chỉ được miễn phí vé tàu, còn bao ăn bao ở, không nợ lương, hoan nghênh cả gia đình di cư, con cái còn được học miễn phí.

Đó là khuôn mẫu cơ bản, nhân viên được tùy ý phát huy óc tưởng tượng, nói quá cỡ cũng không sao!

Còn nếu người nhập cư đến Đông Phi rồi phát hiện sự thật không giống quảng cáo – xin lỗi, đó là do hành vi cá nhân của nhân viên. Và đến rồi thì không có chuyện quay lại.

...

János đang hăng hái tuyên truyền với dân làng về lợi ích của thuộc địa Đông Phi:

“Mọi người mau đăng ký đi, lỡ mất cơ hội này rồi thì đừng hối hận!”

“Ngươi không phải đang dụ dỗ tụi ta đấy chứ? Điều kiện tốt vậy mà đến lượt tụi ta à?”

“Chúng ta là người một làng, ta mà gạt mọi người sao được? Đây giống như chuyện mấy người qua Mỹ làm ăn năm xưa. Khác cái là Đông Phi phát hiện muộn hơn, giờ nước Mỹ không thiếu người nữa, còn Đông Phi thì rất thiếu, nên chúng ta mới có cơ hội.”

“Thế sao ngươi không đi Đông Phi mà lại bảo tụi ta đi?”

“Câu này kỳ lạ thật đấy. Ta là do công ty sắp xếp làm công việc này. Ngươi nhìn xem tay ta thế này, kiếm được việc là may rồi. Sau này không làm nổi nữa, ta cũng sẽ đến Đông Phi dưỡng già. Dù sao bên đó cũng bao ăn bao ở, còn được cấp nhà cơ mà.”

Nói rồi, János giơ tay áo trống không bên trái, vung lên – ống tay áo lắc lư trong gió.

Một người phụ nữ nói: “János à, cái Đông Phi này trước giờ chưa từng nghe đến, dân làng tụi ta không dám đi bừa đến một nơi xa lạ đâu.”

Một người khác cũng tiếp lời: “Ngươi đừng nói mấy cái chuyện Đông Phi nữa. Ngươi từ thành phố về, nói thử coi làm việc ở thành phố thế nào, ta cũng định cho mấy đứa nhà tôi ra ngoài kiếm cơm.”

“Ở thành phố cũng chẳng dễ đâu! Lũ nhỏ nhà ngươi có tay nghề hay từng đi học không? Nếu không, chỉ có thể đi học việc cho người ta hoặc làm lao động tay chân. So ra, chi bằng đến Đông Phi làm ăn còn hơn!”

János tiếp tục:

“Ngươi nghĩ xem, gia đình làm nông bao đời, sao phải đi làm thuê cho người khác mấy năm mà chẳng được gì? Làm việc tay chân không chỉ cực mà lương lại thấp, làm vài năm là héo cả người!”

“Còn sang Đông Phi thì khác, bên đó không thiếu nhất là gì? Là đất! trang viên mình mỗi năm nhiều người ra ngoài làm thuê, không phải vì đất không đủ trồng trọt sao? Từ sau khi nông dân được giải phóng, đám quý tộc cũng đâu cần nhiều người cày ruộng nữa. Mà đến Đông Phi cũng là làm ruộng cho quý tộc Đức, chỉ là đổi địa điểm thôi.”

“Huống chi, bên đó còn cho con cái học miễn phí, thức ăn thì đầy đủ, cả nhà sang đó sống no đủ không phải tốt hơn sao? Làm việc cũng toàn việc quen thuộc, ai mà dám lừa gạt dân trồng trọt chuyện trồng trọt được?”

“Đừng nghĩ ai lên thành phố cũng phát tài. Trong đó nước sâu lắm! Phần lớn người lên đó chẳng được gì. Người có thể phát đạt rồi về khoe khoang là một phần vạn – cơ hội cực nhỏ, ngươi tin là mình có khả năng và may mắn đó sao?”

...

Cảng Trieste.

Cuối cùng, János cũng “dụ” được mấy chục người dân làng.

Vốn dĩ ở nông thôn Hungary, người sinh nhiều con là bình thường, nhà nào cũng có ba năm đứa. Đứa lớn thì kế nghiệp, mấy đứa nhỏ phải ra ngoài bươn chải.

János dẫn mấy chục người đến cảng Trieste. Một binh sĩ Áo tiếp đón họ.

Binh sĩ này là người phụ trách cảng, hôm nay vừa nhận được lệnh chuẩn bị làm công tác tư tưởng cho nhóm di dân này trước khi họ lên đường đến Đông Phi.

Phương pháp rất đơn giản, trực tiếp: chứng minh rằng Công ty Melede là công ty hợp pháp, không phải thứ gì mờ ám. Phía sau có quý tộc Đức liên hệ với hoàng thất.

Vì vậy, mọi người cứ yên tâm, chính phủ sẽ không lừa gạt dân chúng đâu. Đi vài ba năm làm ăn phát đạt rồi về là được.

Còn có thể về hay không, chỉ chính phủ Áo biết.

Dù sao các hoạt động của Ernst, họ vẫn ủng hộ – chỉ là không thể công khai nhúng tay. Nếu để người Magyar biết mưu tính thật sự thì khó mà rút lui.

Ảnh hưởng của giới quý tộc Magyar ở vùng Hungary quá lớn, nếu không thì họ đâu có dám ngang nhiên làm càn trước mặt chính quyền Áo.

Thực ra việc Ernst chiêu mộ lao động từ Đế quốc Áo-Hung là một cách để làm suy yếu thế lực quý tộc địa phương, tuy có phần “muối bỏ biển”, nhưng còn hơn không làm gì.

Đồng thời cũng giải quyết một phần vấn đề thất nghiệp, nhất là với dân số đang tăng nhanh.

Dân chúng thất nghiệp thời nào cũng gây bất ổn. Ernst gom những người này đưa đi cũng coi như giảm bớt mâu thuẫn xã hội.

Hiện tại, hoàng thất Habsburg vẫn còn chút tín nhiệm trong lòng người dân. Dân thường không tin thì tin ai – chẳng lẽ Hoàng đế lại gạt họ?

Vậy là nhóm di dân an tâm lên tàu sang Đông Phi…

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 56 : Cân bằng


Chương 56: Cân bằng

Ernst từ Áo quay về Hechingen, cùng Thân vương Konstantin đón Giáng sinh năm 1866.

Thuộc địa Đông Phi cũng đang phát triển tuần tự theo kế hoạch.

Ngày 14 tháng 1 năm 1867.

Đoàn dân di cư đầu tiên từ Đế quốc Áo-Hung đã cập cảng Dar es Salaam.

Những người di cư lần đầu đặt chân đến Đông Phi, vốn đã bị xóc nảy bởi hành trình trên biển rèn luyện tính nhẫn nại, nay khi thấy đất liền thì ai nấy đều vui mừng khôn tả.

Vì khu vực này vẫn còn nằm trong lãnh thổ của Vương quốc Zanzibar, nên trong mắt đám di dân, điều kiện nơi đây vẫn tương đối ổn – dù sao thì Zanzibar cũng đã được khai thác nhiều năm, cơ sở hạ tầng thành thị miễn cưỡng có thể chấp nhận.

Ở Zanzibar có thể thấy đủ mọi sắc tộc: người Đức, người Ả Rập, người Bồ Đào Nha, người da đen, người Ấn Độ, người Hoa...

Đám di dân từ nội địa Đế quốc Áo, suốt đời chưa từng rời khỏi Trung Âu, nay lần đầu chứng kiến những điều này, quả thực mở mang tầm mắt. Phong cách kiến trúc nơi đây lại đậm chất Ả Rập, khác biệt hoàn toàn so với châu Âu.

Thêm vào đó là những bãi biển nhiệt đới và hàng dừa cao vút — tất cả đều mới mẻ và kỳ thú đối với họ.

...

Sau ba ngày hành trình, đoàn di dân được đưa đến Trấn thứ Nhất, nơi các quan chức thuộc địa đã chờ sẵn để tranh nhau tiếp nhận di dân cho các khu vực đã được phân bổ.

Chẳng ngờ rằng lứa di dân đầu tiên hôm nay lại là người da trắng! Đám quan chức vốn đã quen tiếp nhận di dân người Hoa không khỏi ngạc nhiên.

Tuy nhiên, sự ngạc nhiên chẳng kéo dài bao lâu, vì chẳng mấy chốc, bọn họ đã cãi nhau đến vỡ đầu chảy máu. Hiện tại, toàn bộ quan chức ở Đông Phi đều do người Đức đảm nhiệm, còn học viên của Học viện Quân sự Hechingen thường đảm nhiệm vai trò phiên dịch và trợ lý, hoặc làm sĩ quan cấp thấp trong quân đội thuộc địa.

Thật ra, ngay cả những người Đức này trong lòng cũng có chút bất an — nhỡ người da vàng dưới quyền họ nổi loạn thì sao? Trước đây dân số còn ít thì không sao, nhưng chỉ trong vài tháng cuối năm trước, số lượng người Hoa nhập cư đã tăng thêm hàng vạn, trong khi số lượng người Đức vẫn giữ nguyên ở mức hơn hai nghìn.

Với hai nghìn người trấn áp vài vạn thì còn tạm ổn, nhưng nếu cứ đà này thì năm nay là vài vạn, sang năm là mười mấy vạn, năm kế tiếp là mấy chục vạn.

Mà đó còn là dự đoán dè dặt — ai biết được Ernst có tăng thêm số lượng tàu để đưa thêm người qua hay không?

Tuy người Hoa khá nghe lời, năng suất lao động cũng cao, từ sau khi dỡ bỏ hạn chế nhập cư người Hoa, tốc độ khai phá Đông Phi rõ rệt tăng vọt.

Nhưng đối với các quan chức Đức thì, chỉ khi sử dụng người cùng chủng tộc (da trắng) họ mới thấy yên tâm — vì họ không biết nói tiếng Hán, nhiều công việc lại phải dựa vào học viên Học viện Quân sự Hechingen để hoàn thành.

Giới quan chức Đức đã nếm được vị ngọt của quyền lực, tất nhiên không an tâm — vì đám học viên kia trung thành với Ernst, đồng thời còn có vai trò giám sát họ.

Thế nhưng, từ góc nhìn của Ernst, ông dĩ nhiên tin tưởng đám học viên do chính tay mình đào tạo hơn là những người Đức được thuê bằng tiền.

Có điều lòng người khó dò, vậy nên Ernst cũng không dám giao toàn bộ thuộc địa cho họ quản lý, thà dùng những người Đức có năng lực trung bình — phần lớn là cựu binh hoặc lính đánh thuê phiêu bạt hải ngoại, chỉ có thiểu số ở tầng cao là quản lý do Tập đoàn Hechingen cử sang.

Lần di cư quy mô lớn từ nội địa Đế quốc Áo lần này, mục đích cũng là để tránh cho người Hoa chiếm thế áp đảo tuyệt đối.

Ernst, suy cho cùng, chỉ là một quý tộc phong kiến ôm mộng khai phá theo bản đồ. Luôn có người nghi ngờ ông “da trắng lòng vàng” – nhưng thật ra Ernst chưa từng nghĩ như vậy. Ngoài việc thực hiện lý tưởng vĩ đại của kiếp trước, thì việc thành lập một cường quốc tại Đông Phi — không để cho đám thổ dân phung phí vùng đất tốt đẹp của châu Phi — cũng là ưu tiên hàng đầu. Lợi ích của gia tộc Hohenzollern luôn là số một trong lòng ông.

Theo nhận định của Ernst, châu Phi hoàn toàn có thể nuôi sống hai cường quốc hàng đầu thế giới, một ở Tây Phi, một ở Đông Nam Phi.

Tây Phi thì dân cư đông đúc, thế lực các nước phức tạp, ai cũng chen chân vào bờ biển vàng. Đông Phi thì chỉ có mỗi Bồ Đào Nha là “tay chơi lớn”.

Nam Phi – Cape Town đã rơi vào tay người Anh, còn người Boer cũng chẳng dễ chọc, nên không phải mảnh đất lý tưởng để khởi đầu.

Còn Đông Phi, về cơ bản chỉ có Bồ Đào Nha – một đế quốc đã xuống dốc – là đáng chú ý. Sultanate Zanzibar kế bên thì Ernst chẳng buồn để mắt (quân số thuộc địa đã vượt qua lực lượng của Zanzibar rồi).

Muốn phát triển Đông Phi thì phải đuổi sạch thổ dân, và cách hiệu quả nhất là học theo người Mỹ — dùng người nhập cư để chiếm đất của người da đỏ.

Chẳng hạn như Đông Phi thuộc Đức ở kiếp trước, quan chức địa phương từng báo cáo về Berlin rằng: “Người da trắng không thể định cư hàng loạt ở Tanganyika; việc trồng quy mô lớn buộc phải dùng lao động bản địa.”

Vậy nên, không phải Ernst không muốn dùng người Đức, mà vì người Đức quá ít. Dân số vùng đất Đức cũng chỉ đủ dùng, lại từng hỗn loạn bởi chiến tranh nên nhiều người chọn xuất ngoại. Giờ thì nước Đức về cơ bản đã ổn định dưới tay Phổ.

Không còn chiến tranh, người Đức tất nhiên chọn ở lại quê nhà. Với nền công nghiệp của Phổ đang phát triển mạnh, nước Đức trở nên đủ sức giải quyết vấn đề thất nghiệp — “chiếc bánh” đã to hơn.

Hơn nữa, mức sống ở Đức vào thời kỳ này thuộc hàng cao nhất thế giới — nên người Đức chẳng dại gì rời đi.

Dù là dân Đức ở Áo, khi chọn nơi làm việc và sinh sống cũng ưu tiên về Đức trước tiên.

Vì thế, muốn khai phá châu Phi thì phải có lượng lớn lao động dư thừa, mà các nước hiện nay đủ điều kiện chỉ còn Đế quốc Nga, Ấn Độ và Thanh triều.

Người Nga không phù hợp – sống lâu năm ở ôn đới, cận hàn và hàn đới, ai chịu nổi khí hậu châu Phi?

Ấn Độ thì Ernst càng không muốn dùng — chưa nói đến danh tiếng tệ hại của người Ấn ở kiếp trước, mà sau này, Ấn Độ chính là đối thủ mạnh nhất của Đông Phi trên Ấn Độ Dương. Ernst còn mộng thống trị Ấn Độ Dương cơ mà.

Một Ấn Độ thống nhất đủ khả năng can thiệp toàn bộ quốc gia quanh Ấn Độ Dương. Về sau, người Ấn lợi dụng cộng đồng gốc Ấn thời thuộc địa Anh để can thiệp vào chính trị châu Phi.

Còn nhà Thanh thì không có được khả năng ấy — tầm ảnh hưởng xa nhất cũng chỉ tới eo biển Malacca. Mà suốt cả kiếp trước, Ernst cũng chưa bao giờ thấy hải quân của đế quốc Trung Hoa băng qua chuỗi đảo thứ nhất, chứ đừng nói là Malacca.

Nói thẳng ra, Ấn Độ chỉ cần siết cổ Malacca là đủ bóp nghẹt nửa nền kinh tế của đế quốc. Một là tuyến năng lượng chính bị cắt đứt, hai là hàng hóa sang châu Âu phải trung chuyển qua châu Mỹ. Vì thế vị trí của Pakistan mới quan trọng đến vậy – ai cũng biết hai nước chỉ là “anh em bề ngoài”, nhưng mối đe dọa chung buộc họ phải cùng đứng một phe. Ai mà động thật lòng, người đó mới là kẻ ngu.

Trong tương lai, làm suy yếu Ấn Độ chính là chiến lược lâu dài của Đông Phi — vì Ấn Độ Dương chỉ có thể có một bá chủ, mà mục tiêu của Đông Phi chính là ngôi vị đó.

Eo biển Malacca cũng sẽ trở thành mục tiêu của Đông Phi trong tương lai.

Hai nguồn lao động kia đều không dùng được, thì chỉ còn lại người Hoa. Ernst vốn là người Hoa ở kiếp trước, dĩ nhiên có thiện cảm — mà đúng là người Hoa dùng rất tốt.

Giờ đây Ernst đã là một người Đức chính hiệu, về mặt thân phận, tất nhiên đặt người Đức lên trên hết. Dù sao thân phận này là không thể thay đổi, người Đức lên trước tức là bản thân mình lên trước.

Muốn phát triển thuộc địa Đông Phi, thì trước hết phải khai phá nó — nếu không, chẳng ai trong đám người Đức ngu dại gì mà chịu đến. Chẳng lẽ phải trả lương cao để dụ họ? Mà tiền của Ernst cũng đâu phải nhặt được từ gió. Đám hơn hai nghìn người Đức được thuê lúc đầu đã tiêu tốn không ít ngân sách của Ernst ở Đông Phi rồi.

Dù có dụ được người Áo-Hung qua, thì cũng chỉ là đám nông dân gốc Hungary và Slav truyền đời làm ruộng.

Dân số Đế quốc Áo-Hung chỉ xếp vào hàng trung bình, lại còn thành phần phức tạp – nhưng Ernst không quan tâm. Dù sao, ở kiếp sau, nước Mỹ cũng do người Anglo-Saxon thống trị, trong khi dân nhập cư đủ loại từ khắp thế giới. Dân gốc Đức là nhóm nhập cư lớn nhất, sau đó là dân gốc Latin trỗi dậy, nhưng người Anglo-Saxon vẫn là giai cấp thống trị. Tiếng Anh chính là nền tảng thống trị nước Mỹ.

Ernst cũng muốn lập ra một quốc gia nói tiếng Đức — mọi nền văn hóa đều hướng về nước Đức. Ngay cả Tanzania sau khi độc lập cũng vẫn dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức. Vậy nên vấn đề chủng tộc là phụ, ngôn ngữ và văn hóa mới là cốt lõi của quyền lực.

Nếu không, như Brazil – tồn tại còn chẳng có lý do, thứ giữ nước đó thống nhất chỉ là tiếng Bồ Đào Nha và bản sắc văn hóa.

Cho dù giờ chưa thể chiêu mộ dân Đức đại quy mô, Ernst cũng không định học Mỹ – đi gom mấy tên trộm cướp và lừa đảo làm dân di cư thì không được.

Mỹ thì dựa vào nền tảng quốc lực mạnh nhất thế giới, chứ tỷ lệ tội phạm ở đó chẳng khác gì Nam Mỹ — khác biệt duy nhất là người Mỹ giàu, còn Nam Mỹ thì nghèo rớt mồng tơi.

Hiện tại không gọi được dân Đức, không có nghĩa tương lai không gọi được. Đợi khi Đông Phi phát triển rồi, sẽ có người tự nguyện kéo đến. Vả lại tương lai còn hai cuộc Thế chiến và khủng hoảng kinh tế — chính là cơ hội Ernst ra tay ở châu Âu, chả việc gì phải vội.

Ngược lại, nếu không phát triển được Đông Phi, thì dù có sang châu Âu quỳ lạy cầu xin người ta nhập cư, họ cũng chẳng tới.

Nên hiện giờ, trọng tâm của Đông Phi là khai hoang và xây dựng nền nông nghiệp vững chắc — có nền móng rồi mới có tương lai.

Đến khi điều kiện nông nghiệp đã chín muồi, mới bước vào công nghiệp hóa, khi đó mới thực sự cần lượng lớn dân di cư châu Âu.

Về việc di dân người Hoa quá nhiều, khi chưa quét sạch đám thổ dân, điều đó chưa phải là vấn đề. Ernst đã bắt đầu tìm cách dùng di dân châu Âu để cân bằng số lượng người Hoa.

Cả dân châu Âu lẫn người Hoa đều là kẻ ngoại lai xâm chiếm Đông Phi – chỉ khác nhau ở chỗ ai là chủ mưu, ai là đồng phạm. Sau khi quét sạch thổ dân, hai chủng tộc này cũng sẽ không thể thật sự an tâm với nhau – chính là hiệu quả mà Ernst muốn. Ai cũng có tì vết thì mới khó đề cập đến mâu thuẫn chủng tộc – giống như người Mỹ hôm nay ngó lơ hoàn toàn người da đỏ, thành một kiểu ngầm hiểu với nhau.

Mà Ernst cũng không định học Mỹ hay Nam Phi làm chế độ phân biệt chủng tộc. Hiện nay, Đông Phi đi theo mô hình Brazil và Cuba, nói cho cùng vẫn là lấy bản sắc văn hóa làm gốc.

Bản sắc ấy tất nhiên phải được giáo dục từ nhỏ. Đừng tưởng đám di dân thuộc địa không có văn hóa — thực ra trong đầu ai cũng tính toán như cáo. Tuy họ chưa từng được giáo dục bài bản, nhưng kinh nghiệm xã hội cha truyền con nối thì đầy rẫy.

Muốn thay đổi tư tưởng của thế hệ di dân đầu tiên thông qua giáo dục là chuyện vừa tốn công vừa vô ích. Ernst chỉ cần cho họ ăn no, họ sẽ mang ơn đội đức rồi.

Người Hoa hiện tại đâu có khái niệm gì về chính trị — khác với dân châu Âu thích gào thét đòi quyền này quyền kia. Trước thời Dân quốc, người Hoa chỉ khi thật sự đói không sống nổi mới tạo phản. Miễn là còn một bát cháo sống cầm hơi, họ sẽ cố gắng chịu đựng đến cùng.

Nhưng nếu thời Dân quốc đã tới, Ernst lại không nhận thêm người Hoa từ Viễn Đông nữa. Khi ấy không còn là di dân, mà là tuyển đám lưu manh suốt ngày tạo phản. Ngay cả người phương Tây cũng hoài niệm triều Đại Thanh. Thật đấy, tôi khóc mất thôi.

Ernst nghĩ vậy.

...

Việc thực dân hóa là một tội ác không thể rửa sạch — Ernst lựa chọn lôi người Hoa vào cùng, để sau này khi hiện đại hóa, hậu duệ người Hoa ở Đông Phi cũng không thể đường hoàng nói chuyện.

Cứ học người Mỹ – hiểu ngầm với nhau, coi như Đông Phi chưa từng có thổ dân, chỉ có hòa huyết giữa người Đức và người Hoa mới là chính đạo.

Ernst không chọn cách “tiêu diệt hoàn toàn” như người Mỹ làm với người da đỏ – vậy cũng đã là một kiểu nhân từ rồi. Trên thế giới này, không một tên thực dân nào cao thượng hơn Ernst cả.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 57 : Đội thám hiểm


Chương 57: Đội thám hiểm

Ngày 12 tháng 1 năm 1867.

Namanga, một địa điểm nhỏ nằm ở biên giới giữa Kenya và Tanzania.

Một đội thám hiểm đang tiến về phía bắc trong địa phận Namanga, do Henriette, một nhà thám hiểm tự học người Đức, làm đội trưởng.

Từ nhỏ, Henriette đã rất thích nghe những câu chuyện phiêu lưu do người già trong làng kể lại, luôn khao khát trở thành một nhà thám hiểm như trong truyện, chu du khắp nơi để tìm kiếm cảm giác kích thích và mới mẻ.

Điểm đến đầu tiên mà Henriette lựa chọn chính là châu Phi, bởi vì trong con mắt của người châu Âu lúc bấy giờ, châu Phi vẫn là một vùng đất đầy bí ẩn. Đáng tiếc là Henriette lại không có một xu dính túi, không thể mua nổi vé tàu đến châu Phi.

May thay, khi đó Ernst đang tuyển người ở các vùng nói tiếng Đức để đến thuộc địa Đông Phi thăm dò đường sá, Henriette liền ghi danh.

Cũng giống như đoàn trưởng Arman, Henriette là một trong những thành viên đầu tiên của đội lính đánh thuê thuộc địa Đông Phi.

Hắn ta cùng với đội lính đánh thuê xuất phát từ Biển Baltic, vượt qua Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, cuối cùng đặt chân đến Đông Phi.

Vì ban đầu không quen thuộc với môi trường nội địa Đông Phi, nên đội lính đánh thuê cần khảo sát địa hình bên trong, từ đó thành lập nhiều đội thám hiểm nhỏ. Những đội này được tuyển chọn từ hơn hai ngàn người Đức đầu tiên đặt chân đến thuộc địa.

Henriette là người đầu tiên ghi danh tham gia đội thám hiểm, vì vậy được bổ nhiệm làm đội trưởng một tiểu đội. Hắn đã dẫn theo đội ngũ hơn mười người, tiến thẳng về phía tây đến vùng hồ Zollern (tức hồ Tanganyika).

Lần này, Henriette tiếp tục dẫn đội thám hiểm đi khảo sát khu vực Kenya, nhưng lần này là từ lãnh thổ Đông Phi tiến vào miền trung-tây Kenya.

Cùng thời điểm, còn có một đội thám hiểm khác do thủ phủ Mwanza ở vùng Hồ Lớn (hồ Victoria) phái đi, tiến về phía bắc theo rìa phía đông hồ.



Vài ngày trước, nhóm của Henriette xuất phát từ Karatu, trước tiên đi về phía đông đến trạm Arusha, sau đó từ Arusha rẽ lên phía bắc, và hôm nay thì đến được Namanga.

Namanga vốn là một thị trấn nhỏ nằm ở biên giới Tanzania và Kenya, cách núi Kilimanjaro khoảng 70 km về phía đông.

Do Vương quốc Zanzibar kiểm soát phần lớn lãnh thổ phía đông Kenya, để tránh gây rắc rối, thuộc địa Đông Phi không xuất phát từ hướng đông mà lựa chọn tiến vào Kenya từ khu vực cao nguyên phía bắc, vốn nằm gần trung tâm của thuộc địa.

Đội của Henriette chỉ cần tiếp tục đi thẳng về phía bắc từ Namanga chừng 150 km nữa là sẽ đến khu vực từng là thủ đô Nairobi của Kenya trong kiếp trước.

Miền trung-tây của Kenya là khu vực tinh túy của cả quốc gia. Điều này thể hiện rõ trên bản đồ hành chính: vùng tây-nam có nhiều đơn vị hành chính với diện tích nhỏ, trong khi ba tỉnh ở phía đông lại chiếm hơn một nửa diện tích đất nước.

Dân cư Kenya tập trung đông đúc ở cao nguyên phía tây và vùng gần các hồ lớn, các khu vực khác chỉ có những nơi ven biển như Mombasa là có mật độ dân số tương đối cao.

Vương quốc Zanzibar kiểm soát Kenya chặt chẽ hơn nhiều so với Tanzania, gần như toàn bộ miền đông Kenya đều nằm trong tay họ.

Vì vậy, thuộc địa Đông Phi chọn cách ra tay từ khu trung-tây, chuẩn bị thâu tóm vùng đất nằm giữa Uganda và lãnh thổ của Zanzibar.

Henriette đội một chiếc mũ tròn đan bằng lá chuối, tay cầm một nhành cây được mài thành dạng gậy chống, dưới cái nắng gắt của cao nguyên Đông Phi, dẫn theo mấy chục người di chuyển vất vả, vừa đi vừa quan sát địa hình và ghi chép lại phong cảnh dọc đường.

“Đội trưởng, nghỉ chút đi? Đường vừa xấu lại nắng chói chang, không chịu nổi nữa rồi!” – một thành viên đề nghị.

Henriette dùng tay áo lau mồ hôi trên trán, hít sâu một hơi.

Anh ngẩng đầu nhìn trời, rồi lấy la bàn ra xem phương hướng.

Lúc này vừa qua buổi trưa, mặt trời ở đỉnh đầu chiếu xuống mặt đất nóng hầm hập, hơi nóng bốc lên như lửa đốt.

Henriette lấy từ ba lô ra tấm bản đồ thô mà mình đã vẽ trong hành trình, rồi gạch bỏ tên núi Ngong khỏi danh sách điểm đến.

Từ vị trí hiện tại nhìn lên phía bắc, có thể thấy một ngọn đồi lấp ló phía trước, đó chính là núi Ngong mà thương nhân Ả Rập từng nhắc đến.

Henriette chỉ vào núi Ngong rồi nói với các thành viên:

“Chúng ta cố thêm chút nữa, hôm nay nhất định phải đến chân núi. Nhìn từ đây thì không còn xa nữa, cùng lắm là mười dặm đường. Đến đó rồi nghỉ ngơi luôn.”

Nghe còn mười dặm là có thể nghỉ, mọi người không còn kêu ca nữa. Với những người đã quen đi đường dài như họ, nếu còn sức thì mười dặm cũng chỉ là khởi động.

Đội tiếp tục xuất phát. Sau khoảng một tiếng rưỡi, trời dần chuyển sang hoàng hôn, mặt trời sắp khuất sau đường chân trời.

Cuối cùng, đội cũng đến được chân núi Ngong, nơi đây có môi trường rất tốt: cây cối xanh um, rừng rậm bao phủ.

Họ bắt đầu dựng trại nghỉ ngơi. Chẳng mấy chốc, vài chiếc lều trại được dựng xong.

Henriette ngồi trong lều, lấy sổ tay ra để rà soát và bổ sung các chi tiết vẽ bản đồ.

Từ Arusha đến Namanga, phần lớn là địa hình bằng phẳng, ít đồi núi. Càng đi lên phía bắc, khí hậu càng trở nên khô hơn, tuy nhiên dọc đường vẫn có thảm thực vật và rừng rải rác.

Đến gần núi Ngong thì màu xanh xuất hiện nhiều hơn hẳn, rừng rậm mọc đầy, sông suối cũng dày đặc – chẳng thua kém gì vùng Arusha.

Henriette chăm chú đọc lại ghi chép, dùng bút chì đánh dấu các chi tiết quan trọng lên bản đồ.

Mãi đến khi trời tối mịt, hắn mới hoàn tất việc ghi chú – tấm bản đồ kín đặc những dòng chữ chú thích và ký hiệu.



“Đội trưởng Henriette, ăn cơm thôi!” – giọng đồng đội vang lên từ ngoài lều.

Ban đêm ở Đông Phi xuống nhiệt độ rất nhanh. Mọi người kiếm củi nhóm lửa, vừa sưởi ấm vừa nấu ăn.

Trong lúc Henriette làm việc, họ đã săn được một con linh miêu.

Sau khi lột da và lọc thịt, cộng cả xương cũng chỉ được vài ký, họ dùng xiên gỗ xiên qua, rắc thêm gia vị và muối rồi đem nướng.

Họ mang theo gạo trồng tại thuộc địa, học được cách hấp cơm từ người Hoa. Dù vậy, người Đức trong đội vẫn thèm được ăn bánh mì hơn.

Nhưng điều kiện thuộc địa không cho phép, hơn nữa làm bánh mì lại lắm công đoạn – nhào bột, nướng lò – không phù hợp với môi trường dã ngoại. Cũng quan trọng hơn, toàn đội là đàn ông – trước đây có ai biết nấu ăn đâu.

May mà các cách nấu đơn giản như nướng thịt hay nấu cơm thì học cái là biết ngay.

Họ cho gạo và nước vào hộp nhôm, đặt lên than hồng để nấu. Thịt linh miêu rỉ mỡ xèo xèo trên than, thêm ít rau dại hái được – cũng đủ no bụng.

Gạo thuộc địa là loại hạt dài giống Nam Á, rau dại là học được từ dân bản địa. Còn về vị thịt linh miêu thì cũng tạm, có thể do chưa quen khẩu vị nên không thấy ngon lắm.

Ăn xong, mọi người chia nhau nghỉ ngơi, có hai người gác đêm, thay phiên nhau canh phòng thú dữ.

Trong bóng tối, ngọn lửa nhảy múa trên khoảng đất trống, tiếng côn trùng râm ran, trong rừng đêm quanh đó dường như có vài đôi mắt phát sáng đang âm thầm quan sát đội thám hiểm.

Người gác vừa thêm củi vừa siết chặt khẩu súng, cảnh giác với xung quanh.



Sáng hôm sau, đoàn thám hiểm thu dọn đồ đạc tiếp tục hành trình. Chỉ cần vượt qua núi Ngong, họ sẽ chính thức đặt chân vào lãnh thổ Kenya.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 58 : Mưu đồ


Chương 58: Mưu đồ

Sultanate Zanzibar.

Từ khi Thuộc địa Đông Phi được thiết lập đến nay, mối quan hệ giữa Thuộc địa Đông Phi và Sultanate Zanzibar vẫn tương đối hòa thuận.

Thuộc địa Đông Phi mở rộng về nội lục phía tây Đông Phi, tuy có ảnh hưởng đến tuyến thương mại truyền thống của các thương nhân Ả Rập, nhưng Thuộc địa Đông Phi lại không hề quan tâm đến nô lệ bản địa và ngà voi.

Mỗi khi dọn dẹp vùng đất mới chiếm lĩnh, Thuộc địa Đông Phi sẽ đưa người bản địa, ngà voi cùng các sản vật khác đến cảng Dar es Salaam để giao dịch với các thương nhân quốc tế.

Khác với các đoàn thương nhân Ả Rập trước kia phải giao thiệp với các bộ lạc Bantu trong nội địa, Thuộc địa Đông Phi chọn cách trực tiếp “lật bàn”, mỗi lần mở rộng đều thu được số lượng lớn người bản địa vào tay.

Thuộc địa Đông Phi tất nhiên không giữ lại đám người này, mà trực tiếp hạ giá nô lệ xuống thấp, thương nhân Ả Rập chỉ cần đợi tại cảng là có hàng được đưa đến tận nơi.

Đổi lại, Thuộc địa Đông Phi chỉ yêu cầu thương nhân Ả Rập cung cấp lương thực và các sản vật khác.

Tuy nhiên, hành động của Thuộc địa Đông Phi vẫn khiến một số người cảm thấy khó chịu — đại diện tiêu biểu chính là phái tiến bộ trong Sultanate Zanzibar do em trai của Sultan Majid bin Said là Barghash bin Said đứng đầu.

Sự việc phải nói từ Sultan đương triều Majid bin Said.

Majid bin Said là con trai thứ sáu của quốc vương Oman tiền nhiệm, Said bin Sultan.

Said bin Sultan là một nhân vật vô cùng lợi hại, từng đưa Đế quốc Oman bước vào thời kỳ hưng thịnh, và chính ông là người đã chinh phục Zanzibar.

Sau khi ông qua đời, Majid bin Said tranh ngôi với người anh thứ ba là Thuwaini bin Said, nhưng Thuwaini mưu lược cao hơn, giành được ngôi vua Oman.

Majid bin Said bèn tự xưng là Sultan của Zanzibar, dẫn đến việc Zanzibar tách khỏi Đế quốc Oman, trở thành một quốc gia độc lập.

Trong thời gian trị vì, Majid bin Said dựa vào hoạt động buôn bán nô lệ gây nhiều tranh cãi ở Ấn Độ Dương để củng cố quyền lực và tích lũy của cải quốc gia.

Trong thời gian đó, Barghash bin Said (cũng là con trai của Said bin Sultan) từng âm mưu đoạt vị nhưng thất bại, bị lưu đày sang Bombay hai năm.

Vấn đề ở chỗ Barghash bin Said kịch liệt phản đối chế độ nô lệ. Hắn ủng hộ chủ nghĩa bãi nô, đồng thời quan tâm đến khoa học kỹ thuật phương Tây, mong muốn thúc đẩy phát triển Sultanate Zanzibar thông qua hạ tầng cơ sở (và trong lịch sử thực tế, ông đã thực hiện điều này).

Trong khi đó, Thuộc địa Đông Phi lại sốt sắng tìm cách “đóng gói” người bản địa để “xả hàng” với quy mô lớn — điều này, trong mắt Barghash bin Said, chẳng khác gì giúp kẻ ác làm điều ác.



Cảng Dar es Salaam, tư dinh của Barghash bin Said.

“Chư vị, chúng ta không thể tiếp tục khoanh tay chờ chết được nữa, nếu không Zanzibar sẽ không còn tương lai!”

Barghash bin Said đỏ hoe mắt, giận dữ hét lớn.

“Majid bin Said giờ đã già lú lẫn, lại có bọn người Đông Phi do Đức hậu thuẫn tiếp tay làm bậy. Vốn dĩ buôn bán nô lệ là hành động đi ngược lịch sử, ngày nay các cường quốc trên thế giới đều đã bãi bỏ chế độ nô lệ. Nếu chúng ta không xóa bỏ nạn buôn nô lệ, Zanzibar sao có thể gia nhập thế giới văn minh? Cứ giậm chân tại chỗ thì sớm muộn cũng bị thời đại đào thải.”

Ngồi bên dưới là những thân tín của Barghash bin Said, họ đều từng chứng kiến sức mạnh to lớn của nền văn minh công nghiệp phương Tây, và trong thế giới Ả Rập, họ cũng thuộc tầng lớp tư tưởng khai sáng (có thể có liên hệ đến ảnh hưởng của người Anh đứng sau Đế quốc Oman).

“Ngài nói đúng, thưa Điện hạ. Nhưng với lực lượng trong tay chúng ta, e là rất khó chống lại lực lượng vũ trang người Đức ở Thuộc địa Đông Phi.” — một sĩ quan của Sultanate Zanzibar lên tiếng.

“Nếu chúng ta không hành động, thì còn ai có thể giương cao ngọn cờ cho tương lai của Zanzibar? Vậy nên dù con đường phía trước có chông gai đến đâu, chúng ta cũng phải dũng cảm đối mặt. Trông cậy vào Majid là chuyện không tưởng — ông ta giờ chỉ biết hưởng lạc, sa vào thuốc kích thích, không thể tự thoát ra.” — Barghash bin Said đáp lại.

“Nhưng, thưa Điện hạ, nếu không thuyết phục được Đức vua đứng về phía chúng ta, thì lực lượng chúng ta có thể điều động sẽ rất hạn chế!” — một sĩ quan trẻ tuổi lên tiếng.

“Thì sao chứ? Chúng ta là đại diện cho phe văn minh! Việc Đức vua lợi dụng nô lệ để trục lợi là hành vi trái đạo lý trời đất. Chỉ cần chúng ta hô hào, chắc chắn sẽ đánh thức được lương tri của đông đảo đồng bào Zanzibar, cùng chúng ta lật đổ chế độ buôn nô!” — một thanh niên mặc âu phục nói.

“Ngươi không có não à? Với tư duy ngây thơ thế này mà cũng mơ biến đổi Zanzibar? Chính trị đâu phải trò chơi con nít!” — một sĩ quan khác mắng.

“Tôi thấy là có người sợ chết nên mới không dám vì đại nghiệp của Zanzibar mà hy sinh đấy chứ!”

“Thằng nhãi, ngươi biết ngươi đang nói gì không? Ta là người sớm đã theo Điện hạ chống lại Sultan từ thuở đầu, không như ngươi — chỉ biết chém gió khoác lác, gặp chuyện là vãi ra quần.”

“Thế nào! Không nói lại thì quay sang công kích cá nhân à?”



Hai bên bắt đầu to tiếng cãi vã.

Barghash bin Said mặt mày u ám nhìn thủ hạ cãi nhau ầm ĩ, vỗ mạnh lên mặt bàn một tiếng “bốp” lớn vang dội khiến mọi người lập tức im bặt.

Barghash bin Said nghiêm nghị quát: “Đủ rồi! Suốt ngày cãi vã, còn ra thể thống gì nữa? Các người làm thế này còn ra thể thống gì không?”

“Giải quyết vấn đề không phải bằng mồm mép, mà là bằng năng lực và phương pháp. So với việc đổ lỗi lẫn nhau, chi bằng hãy nghĩ cách giải quyết. Mọi người cùng nhau hiến kế, tìm đường ra.”

Mọi người im lặng…

Nhìn đám thuộc hạ cứng họng, Barghash bin Said trầm giọng nói đầy khuyên nhủ: “Ta nào không biết chuyện này nguy hiểm thế nào. Nhưng chúng ta không còn đường lui. Thất bại không đáng sợ — cho dù thất bại thì cũng chỉ là tạm thời. Giống như năm xưa, chúng ta bị ép lưu vong sang Ấn Độ, nhưng giờ chẳng phải đã trở lại rồi sao?”

Barghash bin Said tiếp tục: “Muốn bãi bỏ chế độ nô lệ thì phải chuẩn bị hai bước. Một là cắt đứt nguồn hàng của Majid — tức tuyến cung cấp nô lệ từ Thuộc địa Đông Phi. Hai là lật đổ quyền thống trị của Majid. Chỉ có như vậy mới có thể đưa Zanzibar bước vào xã hội hiện đại. Lần này, tuyệt đối không được để kết cục như lần trước — chật vật tháo chạy.”

“Hiện tại trong tay ta đã nắm một lực lượng quân sự quy mô không nhỏ — đây chính là thế lực nền tảng của chúng ta. Chỉ cần loại bỏ nhanh gọn Majid cùng thuộc hạ của hắn, thì quyền lực quốc gia Zanzibar sẽ thuộc về tay chúng ta.”

“Về Thuộc địa Đông Phi, ta đã tìm hiểu rồi — theo tin tình báo do thương nhân Bồ Đào Nha và Anh cung cấp, ngoài hai nghìn cựu binh Phổ (thực tế chỉ hơn một nghìn), còn lại đều là nông dân từ Đông Á được điều đến.”

“Chỉ cần chúng ta nắm được quyền lực ở Zanzibar, là có thể tổ chức được đội quân chuyên nghiệp trên bốn nghìn người. Đồng thời còn có thể tạm thời huy động một bộ phận dân chúng để đối phó với đám nông dân kia. Bốn nghìn đánh hai nghìn, lợi thế rõ ràng thuộc về chúng ta.”

Nghe xong kế hoạch của Barghash bin Said, một sĩ quan nói: “Thưa Điện hạ, vậy còn Đức vua thì sao? Nếu chúng ta thành công, chẳng lẽ phải…” — vừa nói vừa đưa tay lên làm động tác hình khẩu súng chĩa vào trán — “pằng!” — ra hiệu hành quyết.

Barghash bin Said lắc đầu: “Đó là hành động của man rợ. Các quốc gia châu Âu, dù đấu đá chính trị khốc liệt, cũng không bao giờ bức hại kẻ bại trận. Ngay cả Napoleon, một kẻ đầy tham vọng, các vua châu Âu cuối cùng cũng chỉ lưu đày ông ta mà thôi.”

Một sĩ quan tên là Abdullah nói: “Điện hạ, không thể mềm lòng! Nhỡ đâu Majid lại quay về phục thù thì sao…”

Barghash bin Said: “Thôi, ta đã quyết. Không còn gì để thương lượng. Đến lúc đó, ta sẽ lưu đày hắn sang một nước khác — nghe nói hắn có quan hệ khá tốt với Sultanate Oussa, vậy thì đưa hắn sang đó. Dù sao hắn cũng già rồi, không thể quay lại gây họa nữa. Dù sao thì hắn cũng không giống chúng ta — không có người Anh hậu thuẫn.”



Vậy là một âm mưu nhằm vào Thuộc địa Đông Phi và Sultan Majid bin Said của Zanzibar đã hình thành.

Nếu các quan chức Đông Phi biết được kế hoạch này, chắc chắn sẽ không nhịn được mà thốt lên: Đây là logic kiểu gì vậy? Chế độ buôn nô lệ đâu phải do bọn ta khởi xướng, chỉ tiện tay kiếm chút tiền mà cũng bị lôi vào cuộc?

Đúng là tai bay vạ gió. Rõ ràng là chuyện nhà các người, lại cứ phải lôi người ngoài vào. Vậy mà còn mặt dày nói Thuộc địa Đông Phi là kẻ xấu? Còn bảo là tiếp tay làm ác nữa?

Về mặt logic cũng chẳng hề thông suốt! Mãi đến sau này, các quan chức Thuộc địa Đông Phi vẫn không thể hiểu nổi tư duy não xoắn của đám người Ả Rập này.

(Hết chương)

[1] Bargash bin Said (1837-1888): Sultan Zanzibar tương lai (1870-1888), người tiến hành cải cách hiện đại hóa và bãi nô.

[2] Majid bin Said (1834-1870): Sultan Zanzibar giai đoạn 1856-1870, duy trì chế độ nô lệ để củng cố quyền lực.

[3] Chính sách bãi nô: Anh gây sức ép buộc Zanzibar bãi bỏ chế độ nô lệ từ 1873, nhưng thực tế vẫn tồn tại đến đầu thế kỷ 20.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 59 : Đảo chính cung đình Zanzibar


Chương 59: Đảo chính cung đình Zanzibar

Ngày 23 tháng 1 năm 1867.

Doanh trại quân đội tại cảng Dar es Salaam, Vương quốc Hồi giáo Zanzibar.

Bargash bin Said đang cùng tâm phúc lên kế hoạch lật đổ chính quyền Sultan.

"Abdullah, ngươi tập hợp được bao nhiêu người?" Bargash hỏi.

"Điện hạ, bản thân hạ thần kiểm soát 80 quân, thêm vài sĩ quan đã an bài, tổng cộng hơn 300 người."

"Tốt! Ta nắm 800 quân, tổng 1.200 - bằng một phần ba quân đội toàn vương quốc." Bargash phân tích.

"Majid giờ chắc đang say sưa trong cung điện. Chỉ cần bất ngờ bắt hết thân tín của hắn, Zanzibar sẽ thuộc về chúng ta!"

Các sĩ quan và mưu sĩ đều phấn khích. Nếu đảo chính thành công, họ sẽ trở thành trọng thần.

"Chỉ có Điện hạ mới đưa Zanzibar đến tương lai tươi sáng! Chúng thần nguyện đi theo bước chân ngài." Một mưu sĩ nịnh hót.

"Xin Điện hạ phân nhiệm vụ! Đã đến lúc thay đổi đất nước lạc hậu này!"

Bargash vô cùng hài lòng trước sự cuồng nhiệt của thuộc hạ.

Cảm giác nắm quyền lực khiến Bargash thỏa mãn. Dù tự coi mình là người dẫn dắt Zanzibar, ông ta cũng không tránh khỏi ham muốn quyền lực.

Bargash hăng hái bước tới bàn, bắt đầu phân công:

"Cung điện Zanzibar có khoảng 120 lính gác phân tán khắp nơi, không kịp tập hợp. Ta sẽ dẫn quân bắt giữ Majid, khiến bọn chúng mất chỉ huy."

Ông chỉ vào vị trí cung điện trên bản đồ:

"Cánh quân thứ nhất 500 người tấn công cung điện. Abdullah phụ trách giải giáp doanh trại ngoại thành. Ta sẽ trực tiếp tới phòng ngủ của Majid."

"Thời gian hành động là 5 giờ sáng mai, khi lính gác lơ là. Mọi người phải tập hợp lúc 3 giờ."

"Kiểm soát được cung điện và quân đội là thắng lợi. Sau đó tập hợp toàn quốc, đuổi bọn German ở Dar es Salaam và Tanga."

"Giờ chia nhỏ nhiệm vụ, ngày mai hành động..."

...

Trong khi Bargash bàn kế hoạch, Sultan Majid đang làm gì?

Thực tế Majid hoàn toàn không biết âm mưu. Thời trẻ, ông ta từng là người có năng lực, tranh được độc lập cho Zanzibar.

Nhưng về già, Majid buông thả, ngày đêm chìm đắm trong hưởng lạc và chất kích thích.

Trong lịch sử, Majid qua đời vào khoảng thời gian này, được cho là do dùng "chất kích thích" quá liều.

...

Sáng hôm sau, cung điện Zanzibar.

Trời vừa hửng sáng, lính gác lười nhác đứng trước cửa. Đột nhiên Bargash dẫn vài người tới.

Nhận ra em trai Sultan, lính gác tưởng Bargash đến bàn việc như thường lệ.

Ai ngờ hai người đi cùng rút súng lục từ tay áo chĩa vào ngực họ.

"Đừng động đậy, không tao bắn!"

Bargash vẫy tay, một đội quân từ ngõ tối xông ra. Ông ta dẫn người thẳng tới phòng ngủ Majid, số còn lại khống chế lính gác và người hầu.

Majid đang ngủ cùng hoàng hậu thì một nữ tỳ chạy vào:

"Bệ hạ, không tốt rồi! Bargash dẫn quân xông vào!"

Majid choáng váng tỉnh dậy, định mắng thì Bargash đã xuất hiện.

"Ngươi định làm gì? Phản nghịch sao?"

Bargash cười nhạt: "Anh trai thân yêu, ngươi già rồi, không nhìn ra tình hình sao? Đúng vậy, đây là đảo chính!"

"Ngươi... ngươi... ôi!"

Tỉnh táo lại, Sultan Majid thở dài buông xuôi.

...

Trong khi Bargash khống chế Majid, Abdullah cũng chiếm được doanh trại. Toàn bộ cuộc đảo chính hầu như không gặp kháng cự.

8 giờ sáng, các đại thần tới chầu, chỉ thấy Bargash ngồi trên ngai vàng.

"Chư vị, Sultan tuổi cao sức yếu, không thể xử lý chính sự, nên ủy thác cho ta."

Đám đại thần của Majid đúng là đồ bỏ đi, thấy lính trang bị vũ khí đầy mình, lập tức theo phe Bargash.

...

Trong lúc đảo chính diễn ra, Basel - người phụ trách cảng Dar es Salaam của thuộc địa Đông Phi - nhận thấy điều bất thường.

Hàng trăm binh lính di chuyển vội vã trên phố - điều chưa từng có. Quân đội Zanzibar thường không xuất hiện ồ ạt như vậy.

Ngay cả khi Sultan Majid xuất hành, đội cận vệ hoàng gia cũng chỉ di chuyển chỉnh tề trong trang phục Ả Rập lộng lẫy.

Nhưng hôm nay, binh lính trên phố không phải cận vệ, súng ống nạp đạn đầy đủ, rõ ràng chuẩn bị chiến đấu.

Basel càng nghĩ càng thấy bất ổn, liền gọi trợ lý Dürer:

"Ngươi lập tức tới biên giới báo cáo, nói Zanzibar có thể xảy ra đảo chính, đề nghị chính phủ và quân đội thuộc địa đề phòng."

Dürer gật đầu định đi, Basel kéo lại: "Đổi sang trang phục Ả Rập, đừng mặc quân phục."

Cải trang thành thương nhân Ả Rập, Dürer cưỡi ngựa rời trụ sở từ cửa sau.

(Hết chương)

[1] Trang phục Ả Rập: Thường gồm áo choàng dài (thawb), khăn đội đầu (keffiyeh) và dây buộc (agal), giúp người Đức ngụy trang hiệu quả.

[2] Súng lục ổ quay: Loại súng ngắn phổ biến thế kỷ 19, thường là Colt 1851 Navy hoặc các phiên bản sao chép châu Âu.
 
Back
Top Bottom