Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Convert Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录

Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 110 : Luận về Văn Minh


Chương 110: Luận về Văn Minh

Hiện nay, dân số của Đông Phi (tính cả thổ dân bản địa) tương đương với các thuộc địa của Anh tại Úc. Thế nhưng, để có thể khai phá toàn diện vùng đất này, chừng ấy người là hoàn toàn không đủ.

Khác với Canada hay Úc - các thuộc địa có chỗ dựa là Đế quốc Anh hùng mạnh và đang thời kỳ cực thịnh - nên dù dân cư thưa thớt, cũng chẳng cần lo về an ninh, đặc biệt như Úc: bốn bề là biển cả, không có mối đe dọa từ bên ngoài.

Ngược lại, Đông Phi chỉ có Ernst và tập đoàn Hohenzollern-Hechingen chống lưng - không chịu nổi bất kỳ cơn rung chuyển lớn nào.

Muốn nắm chắc Đông Phi, con đường duy nhất chính là liên tục tăng cường nhập cư. Dân số càng đông thì mức độ an toàn, ổn định càng cao. Cũng như Đế quốc Ottoman hay Viễn Đông, tuy bị các cường quốc chèn ép và phải nhượng bộ lợi ích, nhưng nhờ quy mô dân số lớn, không ai có thể dễ dàng "nuốt chửng".

Dĩ nhiên, ngoại lệ như Ấn Độ thì không tính - vấn đề là ở bản chất đoàn kết dân tộc. Vì thế, sức mạnh cố kết dân tộc không phải là một thứ lý tưởng viển vông, mà là điều hoàn toàn thực tế và hữu hình.

Muốn duy trì sự ổn định lâu dài ở Đông Phi, phải không ngừng củng cố sự đồng thuận văn hóa trong giới di dân - từng bước đồng hóa và làm nhạt dần đặc trưng văn hóa riêng biệt, cuối cùng hình thành một bản sắc thống nhất: bản sắc văn hóa Đông Phi.

Nếu đi theo con đường thuyết chủng tộc phương Tây - đề cao giống nòi - thì chắc chắn sẽ gieo tai họa về sau. Vì vậy, ngay cả với người da đen bản địa, Ernst cũng không phủ nhận trí tuệ của họ.

Trong giáo trình Lịch sử - Xã hội học do chính Ernst biên soạn cho các trường học thuộc địa, phần nói về người bản địa châu Phi được viết như sau: “Họ có thể được cải tạo thông qua giáo dục, tuy nhiên, do ảnh hưởng nặng nề từ lịch sử và văn hóa, nên cái giá để cải tạo là cực kỳ cao.”

Ernst không nói người da đen thấp kém hơn các chủng tộc khác, nhưng thực tế là họ thậm chí không biết cách canh tác, trình độ xã hội còn rất sơ khai. Những quan niệm của họ sẽ không thể thay đổi nếu không trải qua hàng thế kỷ cải tạo.

Mặt khác, nếu không trục xuất bớt người bản địa, thì đất ở đâu cho di dân sinh sống? Vậy nên hắn nhấn mạnh: “Các bạn nên biết ơn và ghi nhớ thân phận mình là người Đức ở Đông Phi - để rồi một ngày báo đáp Tổ quốc.”

Nói ra sự thật còn hơn sau này để sự thật bị phơi bày. Hiện tại, tất cả di dân Đông Phi đều là đồng phạm của Ernst. Về sau, con cháu họ không thể trút tội lên đầu tổ tiên mình được nữa.

Về chủng tộc, bản thân Ernst không tin vào chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, lại càng không dùng lý thuyết đó ở Đông Phi.

Trong sách giáo khoa lịch sử do hắn biên soạn, chương đầu tiên nói về nguồn gốc loài người:

Ernst xác định Đông Phi là cái nôi của nhân loại (trùng hợp với phát hiện khảo cổ sau này vào cuối thế kỷ 20), và cho rằng loài người chia thành ba nhánh: một nhánh di cư sang Tây Phi (người da đen), một nhánh sang Trung Đông (người Âu-Á), một nhánh men theo bờ biển (người nâu - brown-skinned).

Với nhóm Âu-Á, hắn tiếp tục chia thành ba tiểu chủng:

Chủng Địa Trung Hải (La Mã - Ả Rập): tóc đen, mắt đen

Chủng Đông Á: tóc đen, mắt đen

Chủng Bắc Âu: tóc vàng, mắt xanh

Giải thích về màu da, Ernst viện dẫn lý do địa lý: càng gần xích đạo, da càng sẫm màu do cường độ nắng cao; càng xa, da càng sáng. Do đó, sự khác biệt sắc tố là kết quả thích nghi môi trường.

Về hiện tượng tóc vàng - mắt xanh ở Bắc Âu, Ernst giải thích là kết quả của đột biến gen, bởi vì ngoài Bắc Âu ra thì phần lớn các chủng người trên thế giới đều tóc đen - mắt đen. Hơn nữa, Bắc Âu lại có sự đa dạng gen không ổn định (vàng, nâu, đỏ...).

Một điểm thú vị trong học thuyết Ernst là hắn xếp riêng người da nâu thành một nhóm độc lập, cho rằng họ sống gần biển, dựa vào săn cá, nhặt hải sản để sinh tồn rồi dần phát triển và lan rộng. Do đó, Ernst đưa người Ấn Độ, Indonesia, các bộ tộc Nam Đảo, thổ dân châu Đại Dương… vào nhóm "người nâu".

Còn người da đen thì không cần nói nhiều: sống ở nơi nắng gắt, khí hậu khắc nghiệt, quanh năm không mặc đủ quần áo. Qua hàng chục ngàn năm tiến hóa, mới có hình thái như hiện tại.

Nếu những học thuyết này truyền về châu Âu, Ernst chắc chắn sẽ bị giới trí thức cánh tả (white left) lên án dữ dội. Nhưng tiếc thay, đây là Đông Phi - nơi hắn có quyền tuyệt đối. Người duy nhất có thể chất vấn Ernst chỉ có thể là Hoàng đế Maximilian I.

Thế nhưng, Maximilian I lại vô cùng tán thành bộ sách này. Vì khi ông từng làm hoàng đế Mexico, dưới quyền ông cũng có rất nhiều người bản địa da đỏ. Dù không rõ Ernst dựa vào đâu để lập luận, ông vẫn cho rằng Ernst làm rất đúng.

Việc đưa tất cả các chủng tộc vào một đại gia đình nhân loại, lại khéo léo lồng ghép học thuyết Darwin, có thể xóa mờ mâu thuẫn chủng tộc trong Đông Phi. Những đứa trẻ học theo chương trình này, khi trưởng thành, thế giới quan của chúng sẽ được tái kiến tạo hoàn toàn.

Tuy vậy, giáo trình ấy cũng phơi bày tội lỗi của Ernst rõ ràng hơn.

Nếu hắn không coi người da đen là giống loài thấp kém, vậy việc hắn áp bức và bạo hành họ rõ ràng chỉ có thể là vì tư lợi thuần túy - là bản chất ác độc.

Xét về logic, điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng Ernst không hề quan tâm. Hắn chấp nhận trở thành kẻ xâm lược, kẻ bị cả thế giới nguyền rủa - cũng như bao nhân vật lịch sử khác: Đại đế Nga, Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế… - họ đều là những kẻ bạo lực, song dân tộc họ vẫn biết ơn công lao của họ.

Chỉ cần tương lai, Đông Phi như một nền văn minh vẫn tiếp tục tồn tại, thì hậu thế chắc chắn sẽ nhớ đến công lao của Ernst - dù công lao ấy xây dựng trên máu và nước mắt của người bản địa.

Do đó, việc xây dựng bản sắc văn hóa chung cho Đông Phi chính là con bài duy nhất mà Ernst có thể chơi - đồng thời là nền móng lý luận cho triều đại Hohenzollern-Hechingen cai trị lâu dài.

Giống như khái niệm quy y trong tôn giáo, Ernst muốn thực hiện quy y văn hóa - phổ biến văn hóa Đức khắp Đông Phi.

Trong chương trình giáo dục và tuyên truyền, “Đức” không còn là đặc quyền của người German, mà bất cứ ai sẵn sàng sống theo phong cách Đức và tiếp nhận giáo dục Đức, đều có thể gọi mình là “người Đức”.

Từ đó, khái niệm “người Đức” không còn bị giới hạn bởi huyết thống dân tộc, mà mở rộng thành một nền văn minh Đức - nơi văn hóa là yếu tố cốt lõi.

Với người di dân gốc Đức, chỉ cần văn hóa Đông Phi còn lấy Đức làm trung tâm là được.

Còn với di dân không thuộc gốc Đức, họ cũng tìm được lý do để hòa nhập: “Tôi là người tiếp thu và tôn trọng văn hóa Đức, vậy về lý thuyết, tôi cũng là một người Đức.”

Để hiện thực hóa học thuyết đó, cần phải thực hiện bình đẳng chủng tộc về mặt lý thuyết - kể cả với người bản địa da đen.

Tuy Ernst đã và đang bức hại họ, nhưng hắn vẫn khẳng định rằng người da đen không hề thua kém về trí tuệ hay năng lực so với chủng tộc khác.

Đây chính là tội ác cố ý có chủ đích.

Trong khi đó, các thực dân phương Tây có phần “đạo đức” hơn: vì họ tin rằng người da đen thấp kém, họ có thể dùng lý do ấy để tự biện minh cho tội ác của mình - thậm chí coi người da đen là giống loài khác, chỉ tình cờ giống con người về hình thức.

So sánh ra, Ernst giống như tội phạm có nhận thức rõ ràng: biết hành vi mình là tội ác, nhưng vẫn cố tình thực hiện vì lợi ích.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 111 : Dân số và nông nghiệp


Chương 111: Dân số và nông nghiệp

Hệ tư tưởng tương lai của Đông Phi sẽ là một hình thái văn minh – văn minh Đức. Còn những thứ như dân chủ, tự do, bình đẳng không phải là thứ Ernst, một quý tộc truyền thống, cần học theo. Giương cao những khẩu hiệu đó chẳng khác nào tự đào mồ chôn mình.

Những giá trị cốt lõi trong văn hóa Đức – chủ nghĩa quốc gia, trật tự, pháp trị, cùng tư tưởng bảo thủ – mới là nền tảng tồn tại của Ernst.

Đó mới là thứ một quân chủ phong kiến nên tích cực truyền bá. Khoác lên những lớp vỏ hào nhoáng như khoa học kỹ thuật hay thể thao, hoàng tộc Hechingen có thể duy trì quyền lực lâu dài ở Đông Phi.

Về mặt tuyên truyền, những thứ này chắc chắn không thể so được với hệ thống tư tưởng của Mỹ hay Liên Xô tương lai. Nhưng Ernst hoàn toàn có thể bôi nhọ đối thủ!

Dù sao, chỉ cần vượt qua thế kỷ XX, mọi vấn đề sẽ được giải quyết. Đến lúc đó, ai cũng sẽ nhận ra "quạ đen chỗ nào cũng giống nhau".



Tạm gác những suy nghĩ này sang một bên, vấn đề cấp bách nhất của Đông Phi hiện tại vẫn là đẩy mạnh nhập cư. Có dân nhập cư mới khai phá được đất đai, khai phá đất đai mới tạo ra lợi nhuận, có lợi nhuận mới tiếp tục mở rộng thực lực thuộc địa, trang bị thêm quân đội và vũ khí hiện đại.

Biến Đông Phi thành một "Thụy Sĩ châu Phi" – một "xương cứng" không ai có thể nhằn được – thì Ernst sẽ an toàn.

Trong hai năm, gần 600.000 người (580.000) đã nhập cư. Năm sau, con số này chí ít sẽ đạt 500.000.

Một mặt, đội tàu của Hechingen không ngừng mở rộng, chi phí nhập cư giảm. Mặt khác, những nguồn dân nhập cư mới liên tục được khai thác, đặc biệt là từ châu Âu và châu Mỹ.

Nga Sa hoàng (nông nô phá sản hàng loạt sau cải cách), Ý (nguồn di cư chủ yếu sang châu Mỹ), cùng các nước Nam Mỹ đều là những "vùng đất trinh nguyên" đầy tiềm năng.

Lượng dân nhập cư từ Viễn Đông hiện đã ổn định, trừ khi xảy ra thiên tai hoặc chiến tranh tạo ra làn sóng lưu dân. Nhưng hiện tại, tình hình Viễn Đông đang bước vào giai đoạn ổn định và phát triển (phong trào Dương Vụ).

Với chính sách nhập cư Viễn Đông hiện nay, Ernst dự định duy trì đến khoảng năm 1890. Bởi cuối thế kỷ XIX là thời kỳ hỗn loạn tư tưởng nhất ở Viễn Đông, cũng là lúc ý thức dân tộc bắt đầu trỗi dậy. Đến lúc đó, Ernst sẽ siết chặt tiêu chuẩn nhập cư để ngăn chặn những phần tử nguy hiểm.

Từ năm sau đến 1890, còn ít nhất 22 năm – khoảng thời gian đủ để nhập khẩu lượng dân cần thiết cho Đông Phi. Tính trung bình mỗi năm 200.000 người, tổng cộng sẽ là 4,4 triệu.

Cộng với các nguồn nhập cư khác, đến năm 1890, Đông Phi có thể tiếp nhận khoảng 10 triệu dân. Và những người đã định cư chắc chắn sẽ sinh con đẻ cái.

Với khả năng sinh sản khủng khiếp của nông dân thời kỳ này, dân số Đông Phi trước Thế chiến I có thể tăng gấp ba lần, ít nhất đạt quy mô tương đương hoặc vượt Pháp.

Dù sao, đất đai để nuôi sống dân số này đều lấy từ thổ dân, nên Ernst và chính phủ Đông Phi không cần xót xa. Kiên định hoàn thành sự nghiệp khai hoang mới là nền tảng xây dựng Đông Phi.

Một quốc gia nông nghiệp đủ lớn, cùng hệ thống huy động nhân lực tương đối hoàn chỉnh và vũ khí không quá lạc hậu, đủ để Đông Phi tự vệ trước thế giới.

Công nghiệp có thể phát triển từ từ. Giải quyết được nông nghiệp mới có sức lo công nghiệp, bởi công nhân cần nông dân nuôi sống. Nhảy ngay vào công nghiệp thì lấy gì mà ăn?

Hơn nữa, phát triển nông nghiệp không chỉ tăng dân số Đông Phi, mà còn củng cố vùng đất mới mở rộng. Lương thực là hàng hóa cứng, đáng tin hơn công nghiệp. Không bán được cũng có thể dùng làm lương thực.

Các thế lực thực dân khác ở châu Phi, trừ khi đưa lượng lớn dân chính quốc sang, còn không thì không thể cạnh tranh với Đông Phi.

Dựa vào thổ dân có thể ngăn chặn bành trướng, nhưng thổ dân được trang bị vũ khí cũng sẽ quay lại cắn chủ. Cách này chỉ khiến đôi bên cùng chịu tổn thất.

Nếu như Anh huy động 400.000 quân như khi trấn áp người Boer, Đông Phi hiện tại chắc chắn không đỡ nổi.

Nhưng khi các cường quốc chú ý đến châu Phi, Đông Phi đã trở thành kẻ thống trị. Chỉ khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn nhất định, các đế quốc châu Âu mới điên cuồng tranh giành thuộc địa toàn cầu – thời điểm đó chính là khoảng năm 1890.

Hai mươi năm phát triển là lá bài của Ernst. Chỉ cần đưa dân số Đông Phi lên mức hàng triệu trước thời hạn, Ernst có thể tuyên bố: Ở châu Phi này, ta không sợ ai!

Đây là vấn đề sinh tồn của Đông Phi, nên việc Ernst chọn nông nghiệp làm điểm đột phá đã được tính toán kỹ.

Trong mắt thực dân thời kỳ này, nông nghiệp không hấp dẫn. Phần lớn chỉ quan tâm đến kim loại quý, đồn điền, hoặc những vùng đất màu mỡ như Ấn Độ, Philippines.

Những kẻ như Ernst, chú trọng trồng lương thực, rất hiếm. Nga và Áo-Hung vốn là cường quốc nông nghiệp, thỉnh thoảng còn dư thừa sản lượng, nên lợi nhuận từ nông nghiệp không cao, khó thu hút thực dân khác.

Hơn nữa, những năm đầu khai phá Đông Phi, Ernst thực chất đang lỗ. Dù hiện tại, sau khi đất đai được khai thác và mùa màng bội thu, Đông Phi đã có thể tự túc và tạo ra giá trị kinh tế.

Nhưng nếu tính cả chi phí nhập cư (quần áo, tàu thuyền, lương thực...) cùng các vật tư thuộc địa (phân bón, vũ khí...), Đông Phi may ra chỉ cân đối thu chi.

Thực dân thời kỳ này đa số thiếu kiên nhẫn, không ai như Ernst, bỏ công phát triển thuộc địa dài hạn.

Anh từng kiên nhẫn vun đắp châu Mỹ, nhưng kết quả là tạo ra Hoa Kỳ – một "nghịch tử". Thuộc địa luôn tiềm ẩn rủi ro.

Ernst cũng đối mặt rủi ro tương tự. Để kiểm soát, thứ nhất là đàn áp mọi tư tưởng trong thuộc địa.

Thứ hai, coi thuộc địa như lãnh thổ chính quốc. Đông Phi tương lai sẽ là căn cơ của Ernst, quan trọng hơn cả tập đoàn Hechingen hùng mạnh hiện tại.

Tập đoàn Hechingen tương lai sẽ là thế lực tư bản toàn cầu bám rễ từ Đông Phi. Cái nào nặng cái nào nhẹ, rõ như ban ngày.

Thứ ba, tránh đầu tư vô ích như Anh ở Mỹ. Để làm được điều này, Ernst quyết không trao quá nhiều quyền lợi cho dân nhập cư ngay lập tức. Câu chuyện "ban ơn một đấu thành thù một hộc" in sâu trong tâm trí Ernst.

Dĩ nhiên, hoàng tộc Hechingen độc chiếm mọi lợi ích là không thực tế. Về bản chất, dân Đông Phi là đối tác của hoàng tộc, nên Ernst sẽ từ từ nhượng bộ.

Quá trình này phải kéo dài ít nhất đến trước Thế chiến II – tức 70-80 năm. Nếu Ernst không sống được đến lúc đó, hậu duệ sẽ tiếp tục sứ mệnh.

Lúc ấy, Đông Phi chắc chắn theo chế độ quân chủ lập hiến. Ernst sẽ chia tách hoàng tộc Hechingen: một nhánh làm quốc vương, một nhánh trở thành gia tộc tư bản kiểu Mỹ.

Một công khai, một bí mật, gia tộc Hohenzollern-Hechingen có thể lẩn vào hậu trường, thông qua tập đoàn Hechingen và quân đội tiếp tục thao túng chính trị Đông Phi.

(Hết chương)

[1] Người Boer: Cộng đồng gốc Hà Lan định cư ở Nam Phi, từng xung đột với Đế quốc Anh trong Chiến tranh Boer (1899-1902).

[2] Phong trào Dương Vụ: Cải cách hiện đại hóa Trung Quốc cuối thế kỷ XIX dưới thời nhà Thanh.

[3] "Quạ đen chỗ nào cũng giống nhau": Thành ngữ ám chỉ bản chất của các thế lực đế quốc đều tàn bạo như nhau.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 112 : Dã tâm


Chương 112: Dã tâm

Tuy nói Đông Phi chủ trương phát triển nông nghiệp là chính, nhưng một số ngành khác cũng có thể bắt đầu xúc tiến, chẳng hạn như thủ công nghiệp và một số ngành công nghiệp cơ bản.

Dù sao thì dân số Đông Phi ngày một tăng, không thể việc gì cũng trông chờ vào nhập khẩu, từ nồi niêu xoong chảo trở đi mà đều phải nhập, thì chi phí sẽ cao đến mức kinh khủng.

Thủ công nghiệp thì dễ hiểu: tiệm rèn, tiệm may, xưởng mộc... Những ngành nghề đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cư dân Đông Phi có thể được cho phép tự do phát triển trước.

Còn ngành công nghiệp cơ bản ở đây là chỉ những ngành phù hợp với điều kiện hiện tại của thuộc địa Đông Phi và không yêu cầu kỹ thuật quá cao, ví dụ như ngành sản xuất xi măng. Xi măng mà cứ phải nhập khẩu từ châu Âu mãi thì không phải kế lâu dài. Muốn tiết kiệm chi phí thì vẫn nên xây dựng nhà máy tại chỗ.

Một số ngành công nghiệp chế biến có thể nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp Đông Phi cũng nên được đưa vào, chẳng hạn như nhà máy xay bột mì, ép dầu, dệt may, v.v...

Mà những nhà máy này thì không thể thiếu động lực hơi nước, thế nên lại cần khai thác nguồn tài nguyên than đá trong nước. Nếu khai thác được mỏ than ở Mbeya mà muốn vận chuyển ra toàn Đông Phi, thì vấn đề giao thông lại đặt ra yêu cầu cao...

Tóm lại, đây là một quá trình phức tạp, nhưng cũng không cần quá vội vàng. Làm từng việc một. Nếu thành công thì đúng là thêm phần như hổ mọc thêm cánh, còn không thành thì cũng chẳng phải tổn thất lớn lao gì.

Còn ngành công nghiệp quân sự là trụ cột đảm bảo an ninh cho thuộc địa Đông Phi, chỉ đứng sau nông nghiệp. Hiện tại, các máy móc thiết bị đã nghỉ hưu từ nhà máy vũ khí châu Âu đang được đưa sang Đông Phi tái sử dụng.

Điều này đảm bảo một phần nhu cầu cung ứng vũ khí và đạn dược, trong tương lai sau khi khai thác được tài nguyên Đông Phi, còn có thể dựa trên nền tảng đó để sao chép sản xuất đạn pháo.

Trong thời gian ngắn, có thể đạt được tự cung tự cấp về vũ khí và đạn dược. Đương nhiên, sản xuất đạn pháo thì vẫn còn gấp gáp chưa kịp, vì nhà máy vũ khí Hechingen tại Trieste vẫn chưa chính thức đi vào sản xuất, dây chuyền pháo binh chưa được lắp đặt hoàn chỉnh, nên Đông Phi vẫn cần thêm thời gian chờ đợi.

Ngoài công tác định cư và phát triển công nghiệp, thì kế hoạch mở rộng trong năm 1868 cũng không thể bị lơ là. Hiện tại có hai hướng cần đặc biệt chú ý: Tây Bắc và lưu vực sông Omo (khu vực biên giới giữa Kenya và Ethiopia).

Tây Bắc thì không cần nói nhiều, từ lâu đã là mục tiêu mà Ernst muốn đoạt lấy, bởi đó là khu vực màu mỡ nhất của toàn Đông Phi.

Còn lưu vực sông Omo, nếu không nhân lúc người Anh đang giao chiến với Ethiopia mà chiếm lấy, thì sau này chưa chắc còn có cơ hội tốt như vậy. Dù sao thì quân Anh cũng sẽ tấn công Đế quốc Abyssinia từ hướng Biển Đỏ.

Mà sông Omo lại nằm ở phía Tây Nam Ethiopia, Đông Phi và Anh tác chiến mỗi bên một hướng, không cản trở lẫn nhau.

Về phần chính quyền Ethiopia, chắc chắn sẽ phải tập trung toàn lực đối phó quân Anh, dù sao thì vùng đất tinh hoa của họ cũng nằm ở trung tâm và phía Bắc đất nước.

Còn phía Tây Nam toàn là cao nguyên và núi non, nhiều bộ lạc sinh sống, nên sự kiểm soát của chính quyền Ethiopia ở đây rất lỏng lẻo.

Lý do nhất định phải chiếm lấy lưu vực sông Omo, chính là vì nguồn nước. Toàn bộ phía Bắc Kenya tương đối khô hạn, trong khi lưu vực sông Omo là một trong số ít khu vực có lượng mưa dồi dào. Hơn nữa, sông Omo còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của hồ Turkana.

Nếu sau này Đế quốc Ethiopia gây phiền toái cho Đông Phi, thì cũng không cần quá lo lắng. Chính quyền trung ương Ethiopia có rất ít quyền kiểm soát thực tế ở vùng Nam bộ – nơi cư trú của các tộc người Oromo và Luo.

Sự kiểm soát này chẳng khác nào hình thức chư hầu trong các quốc gia phong kiến phương Đông, miễn là không đụng chạm đến lợi ích cốt lõi, thì sẽ không có vấn đề gì lớn.

Nếu chính quyền Ethiopia không biết điều, thì Đông Phi cũng không ngại cho họ "nếm mùi" vũ khí của mình. Dù sao thì khác với Anh hay Ý, Đông Phi không phải là đánh trận ở sân khách.

Ngoài hai khu vực có khả năng dùng đến vũ lực này, thì phía Bắc Kenya cũng phải được khai phá. Dù dân bản địa nơi đây không nhiều (toàn là hoang mạc và thảo nguyên), nhưng cũng không thể bỏ qua.

Khu vực này được quy hoạch làm vùng chăn nuôi, chứ không phù hợp để trồng trọt.

Trừ khi là quanh các con sông và hồ nước – nơi có nguồn nước ổn định – thì còn có thể trồng được một số cây lương thực chịu hạn như kê (lúa miến).

Tuy nhiên, phần lớn vùng Bắc Kenya chỉ có sông theo mùa và các hồ nước mặn. Nguồn nước nơi đây đa phần có độ mặn cao, chỉ phù hợp cho gia súc sử dụng.

Các vùng khan hiếm nước có thể phát triển một số cây trồng đặc sản, nhưng trình độ hiện tại của Đông Phi chưa đủ, nên chăn nuôi vẫn là phương án đơn giản và hiệu quả nhất.

Dẫu vậy, việc chăn nuôi cũng cần có quy hoạch hợp lý, tránh chăn thả bừa bãi dẫn đến hủy hoại lâu dài thảo nguyên.

Ngoài ra, công tác tình báo về phía Tây (Zambia, Zimbabwe) cũng có thể bắt đầu triển khai.

Trong năm 1868, cần hoàn thành việc thám hiểm khu vực Zambia và Zimbabwe, đặc biệt là vành đai mỏ đồng ở ranh giới giữa Zambia và Congo.

Đây là tầng mỏ đồng trầm tích lớn nhất thế giới, đời trước gọi là vành đai mỏ Zambia-Congo, trữ lượng đồng chiếm tới 15% toàn cầu, không chỉ lớn mà còn có chất lượng cao.

Thử hỏi ai mà không bị hấp dẫn bởi nguồn tài nguyên khổng lồ như vậy? Nếu bất kỳ đế quốc thực dân nào biết đến chuyện này, chắc chắn sẽ đổ xô đến. Huống hồ là Ernst.

Vành đai đồng này nằm ở cao nguyên Katanga, không quá xa Đông Phi, chỉ khoảng hơn 700 km về phía Tây từ Mbeya.

Ngoài đồng, cao nguyên Katanga còn có nhiều tài nguyên khác như cobalt, thiếc, radi, uranium và kim cương...

Để tránh xung đột trực tiếp với người Bồ Đào Nha, Đông Phi có thể tạm thời không thám hiểm khu vực Zimbabwe, mà tập trung vào miền Nam Congo và Zambia trước. Đợi sau khi giải quyết xong vấn đề lãnh thổ phía Bắc thì sẽ tiếp tục hành động.

Ernst vừa cầm bút thép vừa viết vẽ lung tung trên bản nháp, chẳng mấy chốc đã kín hết mấy trang giấy.

Những việc này, chính là những nhiệm vụ Đông Phi phải hoàn thành trong năm 1868. Ernst nhanh chóng chỉnh lý lại, sao chép vào sổ tay ghi nhớ.

Phải nói rằng, đây đúng là một kế hoạch đầy dã tâm. Cũng may là hiện tại ở châu Phi cạnh tranh còn ít (gần như không có), nên Ernst mới có cơ hội "nhặt được món hời" như thế này.

Về phần thổ dân bản địa, đối mặt với thuộc địa Đông Phi được trang bị vũ khí hiện đại, chẳng khác nào bị đè bẹp từ một chiều không gian khác.

Thứ thực sự có thể gây tổn thất lớn cho Đông Phi không phải là các bộ lạc bản địa, mà là môi trường tự nhiên khắc nghiệt của châu Phi.

Đặc biệt là rừng nguyên sinh vùng lưu vực sông Zambia, điều kiện cực kỳ gian khổ. Phía Bắc Zambia còn đỡ – chủ yếu là savan nhiệt đới – nên muốn kiểm soát vùng đất giữa Đông Phi và cao nguyên Katanga (Zambia–Congo) cũng không phải quá khó khăn.

Về phần Vương quốc Malawi ở phía Tây Nam hồ Malawi, hiện tại Ernst chưa muốn động đến. Đông Phi và Mozambique cần có vùng đệm. Mà Vương quốc Malawi có tính tự chủ rất mạnh, hầu như không bị ảnh hưởng bởi người Bồ Đào Nha.

Có thể trở thành một lá chắn hiệu quả ngăn cản va chạm trực tiếp giữa Đông Phi và thế lực Bồ Đào Nha. Còn về phần biên giới phía Đông, hiện tại Đông Phi và Mozambique đã đạt được thỏa thuận, lại có sông Ruvuma làm ranh giới tự nhiên, chỉ có một đoạn tiếp giáp nhỏ, nên tạm thời không cần quá lo ngại.

(Hết chương)
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 113 : Giáng Sinh ở Đông Phi


Chương 113: Giáng Sinh ở Đông Phi

Khi châu Âu và châu Mỹ chìm đắm trong không khí Giáng sinh, chính quyền thuộc địa Đông Phi cũng tổ chức lễ kỷ niệm ngày lễ này.

Là một phần của quá trình Đức hóa Đông Phi, tất cả cư dân bắt buộc phải tham gia. Dù sao, trong thời đại thiếu thốn giải trí này, người dân vẫn thích những sự kiện nhộn nhịp.

Với di dân châu Âu, Giáng sinh năm nay thật kỳ lạ - Đông Phi không có mùa đông, khí hậu quanh năm giống mùa hè châu Âu, khiến họ có cảm giác đang đón Giáng sinh giữa mùa hè.

Di dân người Hoa càng không cần nói, nhiều người chưa từng thấy bao giờ. Trong khi đó, di dân Paraguay lại cảm thấy rất thoải mái, bởi vĩ độ Paraguay tương đồng với Đông Phi - nhiệt độ quanh năm trên 10°C, độ cao 300-600m so với mực nước biển.

Đặc biệt là vùng bắc Paraguay cũng có khí hậu thảo nguyên nhiệt đới, nên di dân nước này thích nghi rất nhanh. Điều này giải thích tại sao dù phần lớn di dân Paraguay là phụ nữ và trẻ em, tỷ lệ tử vong ở Đông Phi của họ lại thấp nhất.

Di dân châu Âu và Paraguay đều hiểu rõ cách đón Giáng sinh, nhưng người Hoa thì ít kinh nghiệm hơn.

Những người đến sớm đã tham gia năm ngoái, nhưng người mới đến thì chưa. Để đảm bảo người Hoa tham gia tích cực và tránh xung đột (do Giáng sinh là ngày lễ tôn giáo với nhiều quy tắc), chính quyền Đông Phi cử nhiều tuyên truyền viên - chủ yếu là giáo viên - giải thích chi tiết cho di dân Hoa.

Với di dân Hoa, Giáng sinh năm nay là trải nghiệm khó quên. Ngoài việc được chính quyền hướng dẫn tận tình, họ lần đầu chứng kiến lòng nhiệt thành tôn giáo của người phương Tây.

Yêu cầu của chính quyền là người Hoa bắt buộc phải tham gia. Ngoài họ ra, một số người Serbia cũng có quan điểm khác về Giáng sinh - không phải vì họ không đón, mà do Chính thống giáo sử dụng lịch khác Công giáo.

Nhưng giờ đây ở Đông Phi, không còn giáo hội kiểm soát nữa. Quyền giải thích ý nghĩa Giáng sinh thuộc về chính quyền thuộc địa.

Dù sao, hiểu biết tôn giáo của người bình thường không thể hệ thống và nghiêm ngặt như giáo sĩ. Thêm vào đó, quyền lực của Giáo hội La Mã ngày càng suy yếu, nhường chỗ cho các quốc gia.

Miễn là Đông Phi không ép buộc thay đổi tín ngưỡng (từ Công giáo sang Chính thống giáo hoặc ngược lại), những thay đổi nhỏ này vẫn được di dân châu Âu chấp nhận.

Điển hình là di dân Hoa - chính quyền chỉ yêu cầu họ tham gia lễ kỷ niệm, không bắt theo đạo. Đây là phiên bản "Tự do tín ngưỡng" kiểu Đông Phi. Lý do bắt buộc tham gia Giáng sinh? Đơn giản vì đó là ngày lễ chính thức của thuộc địa.

Để Đức hóa Đông Phi, phải bắt đầu từ những hoạt động văn hóa như lễ hội.

Buổi sáng, chính quyền tổ chức diễu hành và biểu diễn văn nghệ...

Dù Giáng sinh không phải là lễ hội riêng của người Đức mà phổ biến khắp phương Tây, đây vẫn là cơ hội để di dân Hoa tiếp xúc với văn hóa châu Âu. Giống như chính sách nhập cư, việc bắt buộc tham gia các lễ hội phương Tây sẽ kéo dài đến năm 1880.

Đến lúc đó, theo thói quen, nhiều người Hoa sẽ tiếp tục đón Giáng sinh và các ngày lễ khác - đặc biệt là trẻ em được giáo dục theo văn hóa Đức.

Như vậy, về mặt lễ hội, các cộng đồng di dân sẽ dần thống nhất. Đây cũng là một hình thức hòa nhập văn hóa.

Ngoài lễ hội, ngôn ngữ, trang phục, kiến trúc, thói quen sinh hoạt... đều bị ép buộc phải phù hợp với văn hóa Đức. Những thay đổi này sẽ làm biến đổi truyền thống của di dân.

Không chỉ người Hoa, mà tất cả cư dân Đông Phi đều bị ảnh hưởng. Ví dụ như thói quen sinh hoạt không hoàn toàn theo truyền thống Đức, mà kết hợp với lối sống hiện đại - như giữ vệ sinh, ứng xử văn minh...

Ernst đã bổ sung nhiều yếu tố văn hóa tích cực vào "văn hóa Đức", đồng thời loại bỏ những hủ tục. Vì vậy, văn hóa Đức ở Đông Phi là phiên bản cải tiến, khác biệt với châu Âu.

Những yếu tố cơ bản này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Còn những thứ cao cấp hơn như thơ ca, sách vở, âm nhạc... thì đám dân mù chữ ở Đông Phi chưa thể tiếp cận.

...

Nói nhiều không bằng hưởng thụ vật chất thực tế. Để chào mừng lễ hội, chính quyền phân phát nhiều mặt hàng hiếm có: ngoài thịt, bột mì và gạo gấp đôi định mức, còn có đường trắng, trái cây...

Những người độc thân ăn ở căng tin cũng được phát đồ ăn đặc biệt. Tóm lại, ai cũng có phần. Với di dân, được ăn no và ngon còn thiết thực hơn nhiều so với các hoạt động lễ hội.

Đêm xuống, sau bữa tối, Giáng sinh ở Đông Phi kết thúc. Không có cây thông Noel, nến hay quà tặng như trong tưởng tượng.

Giáng sinh Đông Phi là như vậy - thiếu thốn vật chất, cơ sở vật chất thô sơ, ngay cả nến cũng chỉ có ở cơ quan chính quyền.

Trời tối đen như mực, làm gì có "đêm Giáng sinh", tốt nhất là đi ngủ sớm. Hơn nữa, khoảng cách xa xôi với châu Âu khiến di dân nơi đây bớt cảm thấy áp lực.

Đây là tâm lý bình thường - trong môi trường xa lạ, con người dễ bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh.

Ví dụ như di dân châu Âu, trước khi đến Đông Phi, họ chịu ảnh hưởng của truyền thống và tôn giáo (vốn ăn sâu vào đời sống). Nhưng ở Đông Phi, họ tiếp xúc với đủ loại người - màu da, tín ngưỡng khác nhau, thậm chí không theo đạo nào.

Kết quả là khi so sánh, mọi người đều giống nhau - cùng làm lụng vất vả kiếm sống. Vô tình, sự tôn kính với văn hóa truyền thống của mỗi người bị suy giảm.

Không cần lo lắng về tác động này, bởi nó là hai chiều: di dân châu Âu tiếp xúc với người Hoa sẽ giảm bớt tín ngưỡng, trong khi người Hoa tiếp xúc với người châu Âu sẽ bị ảnh hưởng bởi tinh thần của họ.

Như vậy, quá trình hòa nhập dân tộc diễn ra liên tục, với điều kiện có sự phân định chủ - thứ rõ ràng và được cả hai bên chấp nhận.

Ở Đông Phi, vị thế văn hóa rất rõ ràng: người Đức đương nhiên coi văn hóa của họ là ưu việt nhất, trong khi các di dân khác tự cảm thấy thua kém.

Đặc biệt là người Serbia - dân tộc không có tổ quốc, luôn sống dưới sự cai trị của quý tộc Đức. Giờ đây, chính quyền Đông Phi cho họ cơ hội trở thành người Đức, tất nhiên họ sẽ nắm lấy. (Người da đen: …?)

Bản chất con người là xu hướng tôn sùng kẻ mạnh. Di dân Đức có Đế quốc Áo-Hung hùng mạnh hậu thuẫn, có Phổ làm bộ mặt quân sự, ngay cả thuộc địa Đông Phi cũng thuộc về người Đức (Ernst). Trước thực lực đó, các di dân khác đương nhiên kính nể.

Nhưng nếu đặt người Đức lên vị trí số một, những người khác sẽ không phục. Giải pháp là biến tất cả thành người Đức - vấn đề sẽ được giải quyết.

Đây chính là âm mưu công khai của Đông Phi - khiến mọi người tự nguyện bị đồng hóa.

(Người da đen: (▼皿▼#), cho tôi cơ hội với!)

(Hết chương)

[1] Lịch Chính thống giáo: Chậm hơn 13 ngày so với lịch Gregory (Công giáo), nên Giáng sinh Chính thống giáo rơi vào ngày 7/1.

[2] "Tự do tín ngưỡng" kiểu Đông Phi: Chính sách không ép buộc cải đạo nhưng bắt tham gia các nghi lễ văn hóa Đức, phản ánh chủ nghĩa thực dụng của Ernst.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 114 : Sau lễ Giáng Sinh


Chương 114: Sau lễ Giáng Sinh

Lễ Giáng Sinh năm 1867, nếu phải nói quốc gia nào ăn mừng vui vẻ nhất, thì chắc chắn là Phổ. Trong suốt năm 1867, nền kinh tế của Liên bang Bắc Đức do Phổ đứng đầu đã bùng nổ mạnh mẽ vào nửa cuối năm.

Sự thành lập của Liên bang Bắc Đức (Norddeutscher Bund) đã hợp nhất toàn bộ khu vực miền Bắc nước Đức, kết nối khu công nghiệp trọng yếu ở miền Tây Phổ với trung tâm chính trị ở miền Đông bằng hệ thống đường sắt.

Bên trong liên bang, hệ thống giao thông và thuế quan thống nhất đã giảm đáng kể chi phí vận chuyển hàng hóa và nguyên liệu.

Bất kỳ nhà máy hay doanh nghiệp nào có quy mô lớn đều được hưởng lợi từ làn sóng thống nhất này.

Tập đoàn Hechingen của Ernst dĩ nhiên cũng được hưởng lợi lớn, không chỉ cùng với Siemens và các công ty mới nổi khác hợp thành “đầu tàu” kinh tế của nước Đức, mà còn mở rộng mạnh mẽ ở các lĩnh vực kinh tế truyền thống nhờ các sáng chế và phát minh.

Ví dụ trong lĩnh vực hàng tiêu dùng hàng ngày, sản phẩm của tập đoàn Hechingen đã chiếm đến 15% thị phần toàn nước Đức (bao gồm cả Đế quốc Áo–Hung).

Chỉ có những ngành công nghiệp nặng như thép, than, máy công cụ... vẫn nằm trong tay các tập đoàn công thương nghiệp truyền thống.

Trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng Hechingen nhờ vào sự hậu thuẫn của các doanh nghiệp thuộc tập đoàn, cùng với việc Ernst sử dụng ký ức từ kiếp trước để đầu tư vào các công ty mới nổi trong làn sóng Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai, đã nhanh chóng vượt mặt nhiều ngân hàng thương mại truyền thống.

Hiện tại, ngân hàng này đã vững vàng giữ vị trí thứ ba tại khu vực Đức. Về mặt địa lý, Hechingen nằm ở miền Nam nước Đức, nhưng về mặt chính trị lại thuộc Liên bang Bắc Đức, đồng thời còn có quan hệ mật thiết với hoàng thất Áo–Hung. Cộng thêm sự nâng đỡ của giới quý tộc ở nhiều nơi, việc phát triển mạnh là điều gần như tất yếu.

Vì vậy, hoạt động của Ngân hàng Hechingen tại khu vực Đức rất suôn sẻ, chi nhánh ngân hàng lớn nhỏ trải dài từ bờ biển Baltic ở phía Bắc đến thành phố cảng Trieste bên bờ biển Adriatic ở phía Nam.

Đồng thời, với lý do thuận tiện cho việc thanh toán khoản tiền mua Alaska từ Đế quốc Nga, ngân hàng này còn mở rộng hoạt động sang các thành phố lớn như Saint Petersburg, Moscow, Kiev.

Đế quốc Nga là một thị trường rất lớn, tuy người Nga hoan nghênh các công ty châu Âu đầu tư, nhưng Ernst vẫn chọn cách tiếp cận thận trọng.

Chỉ mở chi nhánh ở một số thành phố trọng điểm, vì môi trường đầu tư ở các đô thị lớn luôn tốt hơn nhiều so với các khu vực tỉnh lẻ – nhất là khi mức độ tín nhiệm của quan chức địa phương Nga là cực kỳ thấp.

Nếu ở khu vực Đức, Ernst có thể dựa vào danh tiếng của gia tộc Hohenzollern để được giới quý tộc công nhận và giúp đỡ, thì ở Nga, ngoại trừ một vài quý tộc lớn đã có quan hệ hợp tác, hầu như không ai biết đến vị tiểu vương của “tiểu quốc” Hechingen.

Ngoài Nga, Ngân hàng Hechingen cũng mở rộng hoạt động sang các quốc gia có hệ thống pháp lý và thị trường tương đối hoàn thiện như: Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan và các nước Bắc Âu.

Không chỉ đạt thành tựu lớn trong lĩnh vực kinh tế, cả Ernst và Phổ còn ghi dấu ấn trong nhiều phương diện khác.

Ví dụ trong quân sự: sau khi liên tiếp đánh bại Đan Mạch và Áo, cộng thêm những thắng lợi mà Phổ đạt được trước khi Ernst "xuyên không", tinh thần quân đội Phổ đã đạt đến đỉnh cao chưa từng có.

Đặc biệt, trong nửa cuối năm 1867, Hiến pháp Liên bang Bắc Đức chính thức có hiệu lực, xác lập Liên bang Bắc Đức như một thực thể chính trị mới.

Lãnh thổ của liên bang này chiếm đến 2/5 diện tích toàn nước Đức, đạt 340.000 km².

Dân số càng ấn tượng hơn, chiếm tới 2/3 tổng dân số Đức, vượt qua mốc 24 triệu người.

Để so sánh, Pháp quốc khi ấy chỉ có diện tích 550.000 km², dân số khoảng 36 triệu người – và xét đến mức độ công nghiệp hóa, Phổ hoàn toàn đủ sức đối đầu với Pháp.

Cộng thêm các yếu tố: cải tiến vũ khí trang bị, năng lực sản xuất công nghiệp, ứng dụng đường sắt, điện báo trong quân sự, cùng với cải cách quân đội (đặc biệt là hệ thống lực lượng dự bị và Tổng tham mưu), Liên bang Bắc Đức thực chất đã vượt qua “cửa ngõ” gia nhập nhóm các cường quốc châu Âu.

Hiện tại, vị thế của họ chỉ đứng sau Anh, Pháp, Nga, Áo, nhưng nếu xét đến sức chiến đấu trong các cuộc chiến gần đây, có thể tranh cãi xem liệu Phổ hay Áo mới là cường quốc thứ tư thực sự.

Về phần Ernst, hắn đã xếp Liên bang Bắc Đức là cường quốc số 4 của thế giới – bởi đế chế Áo–Hung rời rạc như vậy khó có thể khiến hắn đặt niềm tin. Có lẽ chỉ là “trông to xác” mà thôi.

Dù sao thì, năm nay (1867), Liên bang Bắc Đức (Phổ) đã trải qua một năm cực kỳ thuận lợi – từ trên xuống dưới đều như thế.

Còn ở Nam Đức, cuộc sống người dân lại chẳng mấy dễ chịu. Mất mùa kéo theo hậu quả nghiêm trọng, nhưng may là Đông Phi thuộc địa đã mở ra một con đường sống cho họ.

Có câu nói rất hay: “Nếu không cùng đường, ai lại muốn rời bỏ quê cha đất tổ?”

Trong làn sóng di dân lần này, Đông Phi đã hoàn toàn đánh bại Hoa Kỳ trong cuộc cạnh tranh thu hút người di cư từ miền Nam nước Đức – phần lớn người dân đã chọn đến Đông Phi.

Không phải vì điều kiện ở Mỹ kém, mà bởi người Đức không muốn đánh cược. Đến Bắc Mỹ là phải bắt đầu lại từ đầu trong một thế giới hoàn toàn xa lạ.

Còn ở Đông Phi, mọi thứ đều minh bạch: vẫn là làm thuê cho giới quý tộc. Nông dân miền Nam nước Đức không hiểu rõ tư bản Mỹ, nhưng lại có niềm tin vào giới quý tộc Đức.

Hơn nữa, Ernst vốn dĩ là quý tộc gốc Nam Đức – cho nên, dù có tệ thì cuộc sống ở Đông Phi cũng chẳng thể tệ hơn ở quê nhà, còn sang Mỹ thì chẳng ai biết sẽ bị đối xử ra sao.

Sau Giáng Sinh, dòng người di cư từ Nam Đức đến Đông Phi đã đạt đỉnh. Nhiều thanh niên lên đường, từ biệt cha mẹ, anh em, ngồi lên những cỗ xe ngựa do Tập đoàn Hechingen thuê để đến điểm tập kết.

Khắp các làng mạc ở Nam Đức đều có thể thấy xe ngựa của tập đoàn Hechingen, vận chuyển hoàn toàn miễn phí – đây là cam kết của chính quyền thuộc địa Đông Phi.

Những người di cư này sẽ được tập trung tại các điểm gần nhất rồi đưa đến ga tàu hỏa, sau đó theo kế hoạch chuyển tiếp đến các cảng biển.

Hiện có hai tuyến đường chính dành cho di dân Đức:

Tuyến phía Bắc: theo đường sắt đi lên phía Bắc, ra các cảng ở biển Baltic hoặc Bắc Hải, rồi lên tàu của Hohenzollern hoặc tàu thuê từ Hà Lan đến Đông Phi.

Tuyến phía Nam: trung chuyển qua Bavaria, theo đường sắt đi qua lãnh thổ Áo–Hung đến cảng Trieste, rồi cùng với di dân từ Áo–Hung lên tàu của Hohenzollern đến Đông Phi.

Cả hai tuyến này chênh lệch không nhiều về khoảng cách, nhưng đều phải đi vòng quanh bờ biển phía Tây châu Phi, mất nhiều thời gian.

Để phục vụ đợt di dân này, tập đoàn Hechingen đã chi trả một khoản lớn cho chi phí vận chuyển, nhưng miễn là có thể bổ sung nhân khẩu Đức cho Đông Phi, thì bỏ tiền nhiều hơn cũng chẳng đáng gì.

Dù sao, những người di dân này sau khi đến Đông Phi cũng sẽ tiếp tục tạo ra giá trị cho Ernst. Có điều, khoản đầu tư này sẽ sinh lợi chậm một chút – nhưng kiểu gì Ernst cũng không thể lỗ.

Trong khi tiếp tục theo dõi nhiệm vụ di dân, Ernst cũng không hề rảnh rỗi.

Hiện tại, phần lớn nhân viên ở Berlin đã được nghỉ vài ngày, mọi việc đều có ban lãnh đạo giám sát, không xảy ra biến động lớn.

Mà Ernst lại đang có mặt ở Hechingen, tiện thể đi thăm hỏi học viên của Học viện Quân sự và Trường Văn hóa Hechingen.

Những học viên này đều là trẻ mồ côi, không nơi nương tựa – Ernst chính là người thân duy nhất của họ.

Vì vậy, hắn dặn dò gia nhân chuẩn bị quà cáp chu đáo, dự định sẽ đến hai trường để thị sát và thăm hỏi.

(Hết chương)

[1] Chế độ dự bị quân sự Phổ: Hệ thống "Krümper" do Scharnhorst đề xuất sau thất bại trước Napoleon 1806, cho phép duy trì lực lượng quân dự bị hùng hậu mà không vi phạm hiệp ước giới hạn quân số.

[2] Liên bang Bắc Đức: Thực thể tiền thân của Đế chế Đức sau này (do Bismarck thành lập).

[3] Hiến pháp Liên bang Bắc Đức: Chính thức hóa liên bang và củng cố vai trò lãnh đạo của Phổ.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 115 : Nguồn cơn ác mộng của Rudolf


Chương 115: Nguồn cơn ác mộng của Rudolf

"Ernst! Sao chuẩn bị nhiều xe ngựa thế này, con định đi đâu vậy?" - Konstantin hỏi khi nhìn thấy dãy xe ngựa chỉnh tề trong sân.

"Thưa cha, vừa qua Giáng sinh, con định đến thăm các em nhỏ ở trường học. Chúng đều là trẻ mồ côi, không có gia đình nên con muốn quan tâm chút." - Ernst đáp.

"Ừ! Làm tốt lắm Ernst. Cha cũng muốn ghé thăm những đứa trẻ tội nghiệp đó. Đợi cha một chút, lát nữa hai cha con ta cùng đi." - Konstantin nói.

Là quý tộc, những người khôn ngoan thường biết vun đắp thanh danh bằng cách cứu trợ dân nghèo hoặc nhóm yếu thế.

Dĩ nhiên cũng có những kẻ bủn xỉn, chỉ muốn vắt kiệt đồng xu cuối cùng của thần dân, làm xấu mặt giới quý tộc.

Nhưng đa phần đều biết diễn trò, dù không có lòng tốt thật sự.

Hoàng tộc Hechingen vốn có tiếng tốt trong vùng. Konstantin thường xuyên giúp đỡ dân nghèo vào dịp lễ tết...

...

Chiếc xe ngựa lăn bánh chậm rãi, Ernst và Konstantin ngồi bên trong.

"Ernst, cha biết con bận rộn, nhưng đời người không chỉ có công việc. Đôi lúc cần quan tâm những chuyện khác." - Konstantin mở lời.

"Ờ... Cha có thể nói thẳng được không?" - Ernst hỏi lại.

"Đồ ngốc! Là chuyện hôn nhân của con đó! Bao lâu rồi con chưa gặp vị hôn thê?" - Konstantin nói với giọng bực tức.

Ernst giật mình, cố nhớ lại lần gặp cô bé Karina gần nhất - đó là mấy tháng trước khi hắn tới cung điện Schönbrunn.

"Thưa cha, Karina còn quá nhỏ, chưa vội được. Con hiểu cha nôn nóng muốn bế cháu, nhưng con dâu cha đâu có chạy đi đâu. Vài năm nữa tính sau." - Ernst đáp.

Năm nay Karina mới 11 tuổi, sang năm mới 12. Ernst chỉ coi cô bé như một đứa trẻ. Bản thân hắn cũng chưa lớn, lại là hôn nhân chính trị nên không có ác cảm. Dù sao cũng phải vài năm nữa mới cưới.

"Thằng nhóc này! Trong mắt con cha là kẻ nóng vội sao? Dù già rồi, nhưng cha chưa bao giờ hấp tấp trước bất cứ chuyện gì. Nếu không phải là con trai, cha thèm quan tâm làm gì!" - Konstantin nói.

"Là người từng trải, cha muốn chia sẻ với con bài học cuộc đời. Hồi xưa cha và mẹ con cũng là hôn nhân chính trị, trước cưới chẳng có tình cảm gì. Nhưng rồi hai người dần bị thu hút bởi ưu điểm của nhau. Kể cả khi bà Jenny mất, cha cũng không tái hôn, một mình nuôi con khôn lớn."

"Tình cảm con người là thứ cần thời gian vun đắp. Một hòn đá để trong ngực lâu ngày còn ấm lên, huống chi là trái tim!"

"Cha biết giới trẻ bây giờ hay cổ xúy 'tự do yêu đương'..."

Nghe đến đây, Ernst ngắt lời: "Cha không phải đọc lén tiểu thuyết ngôn tình đấy chứ? Con chưa bao giờ để tình cảm chi phối. Thân phận con quyết định mọi thứ đều phải đặt lợi ích gia tộc lên hàng đầu."

Đây là sự thật. Qua hai kiếp người, Ernst hiểu rõ tình yêu giống như mua vé số - không thể đoán trước. Nói thẳng ra thì đó chỉ là cảm xúc nhất thời.

Hạnh phúc sau hôn nhân phụ thuộc vào duyên phận. Có những cặp đôi yêu nhau say đắm trước cưới nhưng lại bất hạnh sau này. Ngược lại, nhiều người kết hôn vì đại cục lại có thể bên nhau đến đầu bạc.

Vì vậy, Ernst không đặt nặng chuyện tình cảm. Thành tựu hắn đạt được ở kiếp này - khai phá Đông Phi - mới là thứ mang lại đam mê thực sự.

Giống như câu nói của dân câu cá: "Tôi cả ngày không câu được con nào mà vẫn không chán.". Ernst thì khác, mọi khoản đầu tư vào Đông Phi đều thu về lợi nhuận hữu hình.

Dù hiện tại còn ít ỏi, nhưng cũng đủ mang lại cho hắn cảm giác thỏa mãn vô bờ.

Không phải Ernst lạnh lùng với tình cảm, chỉ là ở tuổi 17, hắn chọn tập trung cho sự nghiệp và giữ kỷ luật với bản thân.

"Ý cha không phải vậy. Cha muốn con dành thời gian quan tâm Karina. Đứa bé tội nghiệp, có cha mẹ vô trách nhiệm (Maximilian I và vợ), chắc chắn tổn thương nhiều. Hơn nữa, giao lưu trước sẽ giúp hôn nhân sau này thuận hòa." - Konstantin giải thích.

Nghe xong, Ernst suy nghĩ một lát. Lời cha rất có lý. Xét tình trạng tinh thần của gia tộc Habsburg, việc xuất hiện những nhân vật như Maximilian I hay Rudolf là khá hiếm. Thế hệ trước đó cũng từng có vấn đề tâm lý.

Tuy vậy, Maximilian I hiện giờ tinh thần vẫn tốt, IQ không vấn đề, chỉ là hơi xui xẻo. Do được nuông chiều từ nhỏ nên khá lý tưởng hóa, cuối cùng mới sa chân đến chốn thị phi như Mexico.

Còn thái tử Rudolf trong tiền kiếp chọn tự sát cùng tình nhân hoàn toàn do gia đình. Hoàng hậu Sisi vốn không phù hợp với vai trò hoàng hậu, lại ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách Rudolf. Franz lại quá bảo thủ và chuyên quyền. Rudolf phản kháng trong tuyệt vọng, kết cục bi thảm mang theo chút ý nghĩ trả thù cha mẹ.

Ở kiếp này, Ernst đã thay đổi số phận Maximilian I. Hiện tại, ông ta đang sống vô lo vô nghĩ ở Đông Phi, chỉ thỉnh thoảng gửi điện tín can thiệp vào công việc thuộc địa.

Ernst giờ mới hiểu tại sao Maximilian I lại nhận lời làm hoàng đế Mexico. Đặt trong thời hiện đại, ông ta chính là "Giang cư mận", là "Anh hùng bàn phím" điển hình - "Tôi làm cũng được!"

Kết quả chứng minh: Làm được hay không lại là chuyện khác.

Dù vậy, Ernst vẫn tiếp thu một số đề xuất của Maximilian I, vì chúng giúp hắn có góc nhìn đa chiều về sự phát triển Đông Phi.

Về thái tử Rudolf, hiện vẫn là một nhóc con. Ernst đang tính cách kéo cậu bé ra khỏi cung điện Áo, định hình lại giá trị sống.

Ở kiếp trước, chính kiến của Rudolf quá cực đoan. Thay vì làm hoàng đế, hắn ta lại muốn trở thành Tổng thống chung của Áo và Hungary, còn muốn trao thêm quyền cho Hungary.

Đúng là "ăn cây táo rào cây sung"! Nhưng điều này lại rất hợp và phản ánh tư tưởng của hoàng hậu Sisi. Vì vậy, Ernst nghĩ mình có thể giúp Franz uốn nắn lại đứa con trai.

Làm được hay không thì còn tùy, nhưng chắc chắn không thể tệ hơn chuyện tự tử ở kiếp trước. Ernst định dùng lý do "giao lưu học hỏi" để kéo Rudolf đi trải nghiệm cuộc sống kham khổ một thời gian.

Nếu giáo dục hoàng gia Áo chắc chắn thất bại, tại sao không cho cậu bé học những bài học khác biệt?

Sau một hồi suy nghĩ, Ernst nói với cha: "Cha yên tâm, con sẽ thường xuyên đến Áo thăm hỏi."

Hắn quyết định quan sát tâm lý vị hôn thê, đồng thời tìm cơ hội "giáo dục" Rudolf.

(Hết chương)

[1] Hoàng hậu Sisi (1837-1898): Tên thật Elisabeth, hoàng hậu Áo nổi tiếng với vẻ đẹp và tính cách phóng khoáng, thường xuyên xung đột với nghi thức hoàng gia.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 116 : Thiên luân chi lạc


Chương 116: Thiên luân chi lạc

Konstantin gật đầu hài lòng: "Tốt lắm, nghe lời cha không bao giờ thiệt. Sau này con trải đời nhiều, tự khắc sẽ hiểu những lời này."

Ông hoàn toàn không ngờ rằng con trai mình đang ấp ủ ý đồ can thiệp vào chuyện gia đình người khác...

...

Không lâu sau, xe ngựa dừng trước cổng khu học xá - giờ đây nơi này đã chính thức được gọi bằng cái tên đó.

Năm nay, Ernst tiếp tục mở rộng quy mô trường học để tiếp nhận trẻ mồ côi từ Paraguay và các vùng đất Đức.

Ban đầu, ông không ngờ nước Đức lại có nhiều trẻ mồ côi đến thế. Giờ đây, trường Hechingen đã trở thành một trại trẻ mồ côi thực thụ.

Tổng số trẻ mồ côi ở Hechingen lên tới gần 20.000, được phân bổ vào các ngôi trường do hoàng thất xây dựng.

Điều đáng nói là toàn bộ dân số Hechingen chỉ vài vạn người. Giờ đây, nơi này đã trở thành trại trẻ mồ côi lớn nhất nước Đức.

Với làn sóng trẻ mồ côi Paraguay ngày càng tăng, Ernst phải xây thêm trường riêng để dạy tiếng Đức cho chúng.

Số trẻ mồ côi Viễn Đông ở Học viện Quân sự Hechingen thực chất đều ở độ tuổi thiếu niên, chủ yếu để đào tạo nhân tài thông dịch viên cho thuộc địa.

Dĩ nhiên cũng có trẻ nhỏ tuổi hơn, nhưng chúng được chuyển sang các trường tiếng Đức thông thường thay vì học viện quân sự.

Hiện tại, Hechingen có 4 ngôi trường đang được xây dựng hoặc mở rộng, với 10 tòa nhà gồm giảng đường và ký túc xá.

Trong đó, Học viện Quân sự Hechingen chủ yếu dành cho trẻ mồ côi lớn tuổi, ba trường còn lại dành cho trẻ nhỏ.

Là một học viện cấp tốc, Học viện Quân sự đảm nhiệm chức năng như trường trung học. Những học viên không xuất sắc lắm sẽ được điều thẳng tới Đông Phi sau khi tốt nghiệp.

Mấy khóa đầu còn ổn, khi đó toàn là thiếu niên 16-17 tuổi - độ tuổi trông khá chững chạc vào thời đó, nên không quá lạc lõng khi đưa sang Đông Phi.

Nhưng giờ đây, độ tuổi học viên ngày càng trẻ, nhiều em tốt nghiệp mới 15-16 tuổi.

Tuổi càng nhỏ càng dễ uốn nắn tư tưởng, nhưng chi phí đào tạo cũng cao hơn. Ít nhất phải đợi chúng 15-16 tuổi mới cho tốt nghiệp. Tính ra, với những đứa mới 5-6 tuổi hiện nay, Ernst phải nuôi dưỡng chúng ít nhất 10 năm.

Những đứa nhỏ hơn được gửi cho các gia đình ở Đông Phi nhận nuôi, với trợ cấp và giám sát từ chính quyền thuộc địa.

...

"Nào, bé con, gọi 'ông ơi' đi, ông sẽ cho kẹo nhé?"

"Ông ơi!"

"Ôi, ngoan lắm!" Konstantin cười híp mắt bế một em nhỏ, tay khéo léo bóc lớp giấy bọc viên kẹo đưa vào miệng em bé.

Những đứa trẻ xung quanh ánh lên vẻ thèm thuồng, nhưng trong mắt lại thoáng nỗi e dè. Vài đứa bí mật nuốt nước bọt khiến trái tim Konstantin tan chảy.

"Các cháu! Chỉ cần gọi ông một tiếng, ông sẽ phát hết chỗ kẹo này nhé?"

Nhưng không đứa nào dám bước lên.

Konstantin hiểu chúng sợ người lạ. Ông kéo một em nhỏ lại gần, hỏi giọng dịu dàng: "Cháu có thích ăn kẹo không?"

Em bé e thẹn gật đầu.

"Vậy cháu gọi ông một tiếng, ông sẽ tặng cháu viên kẹo này nhé?"

"Dạ... Ông ơi!" - giọng em bé ngọng nghịu.

"Ôi, ngoan quá!" Thế là em bé cũng nhận được kẹo. Konstantin quay sang đám trẻ: "Các cháu thấy chưa, ông giữ lời hứa đấy. Ai gọi ông sẽ được kẹo."

"Ông ơi! Ông ơi..." Những đứa trẻ không cưỡng lại được sự cám dỗ của những viên kẹo ngọt ngào.

Konstantin vui vẻ phát kẹo cho lũ trẻ.

Đây là lớp tiểu học của trường Hechingen, nơi những đứa trẻ 5-6 tuổi theo học.

"Ernst, đứng đó cười ngốc nghếch thế làm gì? Lại đây phụ ta!" - Konstantin gọi con trai.

"Tuân lệnh, thưa phụ thân!" - Ernst giả vờ chào kiểu quân đội rồi bắt đầu phát kẹo.

...

Tại Học viện Quân sự Hechingen.

"Hiệu trưởng tốt!"

Là học viện quân sự, độ tuổi học viên ở đây lớn hơn, khoảng 15-16 tuổi.

Tất nhiên không thể đối xử với chúng như những đứa trẻ mẫu giáo được.

"Chào các em! Trước hết, chúc mọi người Giáng sinh vui vẻ. Hôm nay ta không mang quà gì quý giá, chỉ chuẩn bị chút kẹo. Lớp trưởng đâu? Em phát giúp cả lớp nhé."

"Cảm ơn hiệu trưởng!" - tất cả đồng thanh. Lễ phép là môn học bắt buộc tại Học viện, nhận quà phải biết cảm ơn.

"Ừ." - Ernst gật đầu hài lòng rời khỏi lớp học, tiếp tục đến lớp khác.

Thực chất, Ernst chỉ lớn hơn những học viên này 1-2 tuổi. Nhưng với địa vị của mình, hắn toát lên vẻ uy nghiêm.

Hồi mới giảng dạy cho khóa đầu tiên, Ernst thậm chí còn trẻ hơn một số học viên. Nhưng với trải nghiệm hai kiếp người cùng nền giáo dục quý tộc, ông trông chững chạc như người 20-30 tuổi.

...

Sau khi phát quà xong, trời đã tối. Konstantin và Ernst lên đường về dinh.

Xe ngựa lóc cóc trên con đường lát đá, Konstantin trầm ngâm nói: "Nhìn những đứa trẻ đáng yêu ấy, ta lại nhớ đến con hồi nhỏ. Cũng bé xíu như vậy, ngày nào cũng chạy nhảy như khỉ con. Khi đó ta từng lo lắng tính cách bồng bột ấy sẽ khiến vương triều Hechingen suy tàn dưới tay con. Vậy mà giờ con đã trưởng thành, tính tình ổn định, tư duy táo bạo. Hóa ra lo lắng của ta là thừa."

"Thưa cha, xin cứ yên tâm. Lợi ích gia tộc luôn là ưu tiên hàng đầu của con. Tương lai của hoàng tộc Hechingen chắc chắn sẽ rạng rỡ." - Ernst đáp.

"Cha biết điều đó. Nhưng con phải cố gắng sinh cho ta mấy đứa cháu trai bụ bẫm. Chỉ khi con cháu đầy đàn, gia tộc mới hưng thịnh. Đây là bài học đắt giá của dòng họ ta. Cha không muốn thế hệ con lại đi vào vết xe đổ. Nhìn khắp châu Âu, bao gia tộc lừng lẫy rồi cũng tiêu vong chỉ vì không có người kế thừa." - Konstantin nghiêm túc căn dặn.

"Con hiểu rõ đạo lý này, xin phụ thân yên tâm." - Ernst trả lời chân thành.

Thấy con trai không hời hợt, Konstantin gật đầu hài lòng. Đôi khi ông cảm thấy khó hiểu trước suy nghĩ của Ernst.

Tư duy của cậu hoàn toàn không giống thanh niên cùng tuổi, mà cổ hủ như một lão già. Nhưng hồi trẻ, chính Konstantin cũng không như vậy. Mãi đến tuổi trung niên, ông mới trở nên chín chắn.

Ernst thì khác. Dù vẫn giao lưu với bạn bè đồng trang lứa, cậu luôn duy trì kỷ luật nghiêm khắc và tinh thần cầu tiến trong sự nghiệp.

Dĩ nhiên, phần lớn thanh niên cùng tuổi đang phục vụ trong quân ngũ. Môi trường quân đội khiến họ phải tuân thủ kỷ luật, nhưng khi trở về đời thường lại trở nên buông thả. Cứ đến ngày nghỉ là có thể thấy những quân nhân trẻ tuổi la cà quán rượu, vũ trường.

(Hết chương)

[1] Thiên luân chi lạc: Cụm từ Hán-Việt chỉ niềm vui sum họp gia đình, hạnh phúc giữa cha con.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 117 : Tụ họp tại quán bia


Chương 117: Tụ họp tại quán bia

Đúng như suy nghĩ của Thân vương Konstantin, từ Giáng sinh đến năm mới, các sĩ quan Phổ lần lượt trở về nhà nghỉ lễ.

Và Garritt đã gửi điện báo mời Ernst đến Berlin chơi.

...

Berlin - quán bia nơi Ernst và Garritt thường lui tới thời đi học.

"Ernst, nhớ cậu chết đi được!" Garritt hét lên với Ernst.

"Tránh ra! Cậu trông như thằng điên ấy." – Ernst né tránh với vẻ ghét bỏ.

"Ôi, cậu không hiểu đâu. Cuộc sống trong doanh trại không phải dành cho con người. Ta gần như chết ngộp mỗi ngày trong đó. Giờ có cơ hội hiếm hoi, phải xả hơi chứ."

"Hôm nay ta còn dẫn theo vài người bạn nữa. Nào Ernst, ta giới thiệu cậu với họ."

Đến bàn rượu.

"Đây là Hoàng tử Ernst của gia tộc Hohenzollern." Garritt long trọng giới thiệu thân phận Ernst với đồng nghiệp.

"Xin chào, Điện hạ." Mọi người đồng loạt chào hỏi Ernst.

"Chào các vị!" Ernst đáp lễ.

"Mấy người này đều là bạn thân của ta trong quân ngũ. Họ từng tham chiến trong chiến tranh Phổ-Áo, cùng ta làm việc dưới quyền Bộ Tham mưu. Dĩ nhiên, cha ông chúng ta cũng từng là đồng đội chung chiến hào." Garritt bổ sung.

Mọi người lần lượt ngồi quanh bàn.

Garritt gọi vài vại bia, chia đều cho từng người. Người phục vụ đứng sẵn một bên để tiếp thêm đồ uống.

Sau vài vại bia, cửa miệng mọi người bắt đầu không đóng lại được nữa.

"Ernst, cậu không biết vị chỉ huy mới của chúng ta đâu, hình như tên là Hermann, phải không anh em?" Garritt hỏi mọi người.

"Đúng là Hermann. Ta nghe nói ông ấy nguyên là tham mưu Lữ đoàn 9. Nghe đồn hồi trẻ ông ấy là tay chơi khét tiếng, sau bị cha bắt vào trường quân sự giáo dục lại, rồi tốt nghiệp với thành tích xuất sắc. Ban đầu làm tiểu đoàn trưởng, sau thăng tiến dần. Nghe nói trong trận đánh với Áo, đơn vị của ông ấy dưới làn đạn pháo hạng nặng của Áo vẫn xông lên mở đường máu, phá vỡ phòng tuyến địch. Ông ta cùng vị lữ đoàn trưởng cũ đều là những tay cứng."

"Nghe nói ông ấy cực kỳ nghiêm khắc với thuộc hạ. Chúng ta khổ rồi!"

"Đừng nói chuyện tiêu cực. Tình hình quân đội giờ tốt hơn trước nhiều. Nhà ai cũng có người đi lính, mọi người đều rõ quân đội Phổ trước kia thế nào."

"Cũng đúng. Mấy năm trước, lũ công tử bột thực sự đã bị đàn áp mạnh. Vương quốc giờ yêu cầu cao hơn về trình độ chuyên môn, không thì làm gì có cơ hội cho chúng ta."

Lời này không sai, nhưng thực chất gia thế Garritt và đồng bọn cũng thuộc hàng trung-thượng lưu ở Phổ, lại xuất thân từ các gia đình quý tộc Junker lâu đời.

Những quý tộc chuyển hướng kinh doanh như Ernst lại không phù hợp lắm với dòng chính. Dù trước khi theo Phổ, hoàng tộc Hechingen vốn là quý tộc chính thống Nam Đức.

Trong tiền kiếp, khái niệm Junker gần như gắn liền với Phổ. Thực chất trong tiếng Đức, "Junker" có nghĩa là "con trai địa chủ", nhưng ấn tượng sâu đậm về giới quý tộc Phổ đã biến nó thành đặc trưng riêng.

Đến mức sau Thế chiến II, phe Đồng minh triệt để tiêu diệt giới quý tộc Junker ở Phổ. Các nước thắng trận cùng chia nhau lãnh thổ Phổ, trục xuất cư dân, phá hủy nhà cửa, thậm chí đổi tên địa danh. Mộ phần tổ tiên của nhiều gia tộc Junker bị khai quật. Từ đó, giới quý tộc Junker biến mất vĩnh viễn.

"Thôi, không nói chuyện phiền não nữa. Ernst, dạo này cậu bận gì thế? Lâu rồi không nghe tin tức gì lớn từ cậu." Garritt hỏi.

Là một đại tư bản trẻ tuổi giàu có, Ernst cũng có chút danh tiếng khắp nước Đức.

Đặc biệt là thời điểm mua Alaska, nhiều người Bắc Đức biết đến gã "ngốc nghếch" này. Giới truyền thông chế giễu Ernst mua phải vùng đất cằn cỗi.

Về việc này, Ernst chỉ muốn nói: Có tiền, mua về để đấy cũng được. Dù sau này không giữ được Alaska, ngăn cản nước khác phát triển cũng là điều tốt. Dù Mỹ hay Nga khai thác Alaska trước, Ernst đều thấy thiệt.

Hành động "được ăn cả ngã về không" này thực ra khá thú vị. Dĩ nhiên, nếu giữ được Alaska thì càng tốt.

"Ta có tin tức gì lớn đâu. Đánh giá ta cao quá. Dạo này ta rất im hơi lặng tiếng." Ernst nói.

Mấy tháng qua, thuộc địa Đông Phi đang bận tiêu hóa lãnh thổ, không mở rộng ra ngoài. Tập đoàn Hechingen cũng đang sắp xếp lại nghiệp vụ, không có động thái lớn.

"Ta nghe phụ thân nói, Bộ Quân nhu vẫn không ngừng tăng mua sắm vật tư chiến tranh. Trong đó, nguồn cung hàng tiêu dùng lớn nhất lại đến từ công ty của cậu." Garritt nói.

Ernst đáp: "Thực ra cũng không lời lãi mấy. Nhiều mặt hàng cho cựu binh được cung cấp với giá gốc. Hiện tại Hechingen đang tập trung vào thị trường dân sự."

Chuyện hàng quân nhu không phải nói dối, không lời cũng là thật. Nhưng đây là một phần kế hoạch nuôi dưỡng khách hàng của Ernst, đồng thời tạo ấn tượng tốt với hoàng tộc và chính phủ Phổ.

Phổ thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, binh lính đến từ khắp nơi. Khi họ quen dùng sản phẩm của Hechingen, họ sẽ trở thành những quảng cáo di động trong tương lai.

Duy trì quan hệ với chính phủ cũng rất quan trọng. Sau này chính phủ khó lòng qua cầu rút ván, phải nhớ ơn Hechingen mà ưu ái. Ví dụ như ngành thuốc lá quân đội cực kỳ béo bở, đã rút cạn ví của biết bao quân nhân.

Thị trường dân sự còn nhiều tiềm năng khai thác. Hiện nay, nguồn cung hàng tiêu dùng chủ yếu vẫn từ các xưởng nhỏ, trình độ sản xuất không thể so với Hechingen. Trong tương lai, ngày càng nhiều sản phẩm Hechingen giá rẻ bền chắc sẽ xuất hiện trên thị trường.

"Thật hay đùa đấy? Không lời mà vẫn hợp tác với quân đội!" Garritt tỏ vẻ không tin.

"Lừa cậu làm gì? Ta cần phải nói dối sao? Cậu cứ hỏi phụ thân cậu về giá nhập hàng của quân đội thì biết." Ernst nói.

"Cậu đỉnh thật!" Garritt gật đầu với Ernst.

Hy sinh một phần lợi ích để đổi lấy lợi ích lớn hơn, với Ernst là rất đáng. Không như những kẻ chỉ biết dựa vào quan hệ để kéo đơn hàng quân đội. Hàng chất lượng tốt thì không sao, chứ kém chất lượng mà bị phát hiện ở một quốc gia quân phiệt như Phổ thì khốn đốn.

Hiện tại, ngành kinh doanh sinh lời nhất của Ernst xếp theo thứ tự: thứ nhất là ngân hàng, thứ hai thuốc lá, thứ ba công ty điện lực, thứ tư sản xuất hàng tiêu dùng, thứ năm động cơ...

Thuốc lá là ngành siêu lợi nhuận. Khi diện tích trồng thuốc ở Đông Phi mở rộng, chi phí sẽ còn giảm mạnh.

Công ty điện lực hiện cũng thu bộn tiền từ hệ thống chiếu sáng, cùng nhiều sản phẩm phái sinh khác.

Còn Công ty Năng lượng và Động lực Berlin - tiềm năng nhất - dù Ernst đang kìm hãm thời điểm ra mắt sản phẩm, nhưng với hiểu biết sâu về động cơ tiên tiến, công ty đã hoàn thiện động cơ cũ đến mức điêu luyện.

Hiện tại, động cơ hai kỳ do công ty sản xuất có chất lượng vượt trội so với đối thủ. Thực chất, sản phẩm này đã lạc hậu hai thế hệ trong nội bộ.

Nhưng "buôn có bạn, bán có phường" quá hấp dẫn. Khi đối thủ sắp đuổi kịp, Berlin lại tung ra sản phẩm mới vượt trội, tạo hiệu ứng thị trường rằng sản phẩm của họ chất lượng tốt, đáng đồng tiền. Mua theo nhãn hiệu là chuẩn nhất.

(Hết chương)

[1] Garritt: Nhân vật đã xuất hiện trong chương 34
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 118 : Mùa vụ bận rộn


Chương 118: Mùa vụ bận rộn

Khi lễ Giáng sinh kết thúc, những người nhập cư Đông Phi lại bắt đầu cuộc sống bận rộn. Khác với châu Âu đang trong mùa đông, nhiều vùng ở Đông Phi đang trải qua tiểu mùa mưa (thường từ tháng 11 đến tháng 12).

Vừa trồng trọt, di dân vừa phải nạo vét kênh mương, đảm bảo hệ thống thoát nước và dẫn nước hoạt động tốt.

Điều kiện khí hậu Đông Phi tuy không phải "thiên thời địa lợi", nhưng cũng vượt trung bình thế giới. Chỉ cần đảm bảo đủ nước, lúa gạo có thể trồng 2,5 vụ/năm (5 vụ/2 năm).

Những vùng đất đang khai phá đều nằm gần sông hồ hoặc khu vực mưa nhiều. Giải quyết được vấn đề nước, trồng trọt không còn là thách thức - nên di dân luôn tay luôn chân.

Chỉ trong thời gian chờ cây trồng phát triển, Đông Phi mới có "nông nhàn". Lúc này, chính quyền sẽ huy động di dân đi chinh phục vùng mới.

Đây chính là mô hình bành trướng của Đông Phi: mùa vụ làm dân, chiến sự làm lính. Ngay cả khi không có chiến tranh, dân quân vẫn được huấn luyện - hiếm khi nào ngồi không.

Cách vận hành này vừa không ảnh hưởng sản xuất, vừa đảm bảo chiến đấu - nền tảng cho sự mở rộng có trật tự của Đông Phi. Ngoài dân quân, thuộc địa vẫn duy trì quân thường trực.

Thông thường, dân quân đủ sức đối phó thổ dân. Chỉ khi gặp "cứng đầu", quân chính quy mới ra tay.

Nhưng tình huống này chỉ xảy ra trong giai đoạn bành trướng. Khi Đông Phi ngừng mở rộng hoặc đủ nhân lực, dân quân sẽ không cần tham chiến nữa.

Vấn đề chính là việc thanh lọc thổ dân đòi hỏi nhân lực lớn. Bọn họ quen thuộc địa hình, có thể lẩn vào rừng núi.

Với quân số ít ỏi, quân chính quy không thể chơi trò trốn tìm với thổ dân. Do đó phải huy động dân quân tổng rà soát khu vực chinh phục.

Dù có "cá lọt lưới" cũng không đáng ngại. Giống như các loài xâm lấn, dù vài cá thể lọt vào cũng không thể sinh sản nếu không tìm được bạn tình.

Đông Phi đang trong tình trạng tương tự. Chắc chắn có thổ dân lọt lưới, nhưng một khi tách khỏi xã hội - dù là xã hội nguyên thủy - họ khó tồn tại nơi hoang dã.

Những vùng đất tốt đều bị di dân chiếm giữ. Sống cùng thú hoang, dù may mắn thoát khỏi nanh vuốt và cuộc truy lùng, kẻ lọt lưới cuối cùng cũng chết già trong cô độc.

Động vật hoang dã châu Phi phần lớn sống theo bầy đàn, hiếm khi đơn độc. Khả năng thích nghi của chúng còn vượt xa con người.

Chúng còn phải "dựa hơi" nhau, huống chi là người. Một lý do khiến Đông Phi không đông dân như Tây Phi chính là thiếu sức người.

Các bộ lạc thổ dân Đông Phi chỉ ngang ngửa với động vật trên thảo nguyên. Di dân Đông Phi khác biệt nhờ vũ khí nóng - "hàng khủng" áp đảo.

Dù động vật mạnh đến đâu cũng gục ngã trước một phát súng. Thổ dân phải hợp tác, ít nhất 4-5 người mới đối phó được một con thú. Với voi hay hà mã, cả làng phải cùng săn bắt.

...

Việc dành thời gian tổ chức Giáng sinh đã thể hiện sự tôn trọng ngày lễ truyền thống của chính quyền Đông Phi.

Mùa mưa hàng năm luôn là thời điểm bận rộn nhất. Cơ sở hạ tầng Đông Phi còn yếu kém, lượng mưa tập trung trở thành thách thức.

Trước đây, nước mưa chỉ chảy theo địa hình, khiến vùng trũng dễ ngập lụt. Đây cũng là lý do thổ dân không sống gần sông - họ chỉ đến lấy nước rồi về, vì chủ yếu sống bằng săn bắn.

Các phim tài liệu thường ghi hình cảnh người châu Phi vác bình đi lấy nước xa xôi. Một phần do nguồn nước thường có nhiều thú dữ nguy hiểm.

Nhưng di dân Đông Phi không có lựa chọn này. Nông nghiệp là ngành trọng yếu, đòi hỏi phải ở gần nguồn nước. Thú hoang đã bị chính quyền tiêu diệt, nên di dân tập trung quanh sông hồ.

Để dẫn nước tưới tiêu, họ phải đào mương, làm cọn nước. Nhưng vào mùa mưa, một số đoạn sông dễ gây lụt.

Nhằm tránh đe dọa nhà cửa và ruộng đồng, việc nạo vét sông ngòi, đắp đê trở thành nhiệm vụ cấp thiết - đòi hỏi sự chung sức của toàn thuộc địa.

Dĩ nhiên, đây chủ yếu là biện pháp phòng ngừa. Thiệt hại do lũ lụt thực tế không lớn, chỉ xảy ra vào năm mưa cực đoan.

Nếu chuẩn bị tốt, Đông Phi hoàn toàn chịu đựng được. Diện tích đất canh tác rộng lớn, phần ven sông chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, chủ yếu dẫn nước qua mương.

Trong tương lai, khi điều kiện cho phép, máy bơm sẽ được nhập khẩu, thay thế sức người.

Thậm chí không cần chờ lâu - những công cụ nguyên thủy như cối xay gió có thể áp dụng ngay. Ernst dự định cử người sang Hà Lan học hỏi kinh nghiệm.

Thực chất, cối xay gió Hà Lan vốn có nguồn gốc từ vùng đất Đức, nhưng được họ cải tiến đa dạng: không chỉ tưới tiêu mà còn xay ngũ cốc, thuốc lá, ép dầu, làm giấy...

Dù thời đại hơi nước khiến cối xay gió dần lỗi thời, nhưng tại vùng đất hoang sơ như Đông Phi, chúng vẫn phát huy tác dụng.

Vật liệu chính như gỗ, gạch đá đều có sẵn. Vật liệu khác có thể nhập từ châu Âu.

Đông Phi chưa đủ điều kiện bước vào thời đại công nghiệp, nhưng có thể tận dụng mọi công cụ và kinh nghiệm tiên tiến nhất của nền nông nghiệp truyền thống.

Mục đích chính là tiết kiệm chi phí. Công nghiệp đòi hỏi cao, không thể một sớm một chiều. Trong khi công cụ nông nghiệp truyền thống có thể tự sản xuất.

Áp dụng những bài học kinh nghiệm tích lũy hàng nghìn năm, Đông Phi có thể đẩy hiệu suất nông nghiệp lên mức tối đa của thời đại.

Thời kỳ nông nghiệp chỉ là giai đoạn quá độ. Ernst hiểu rõ công nghiệp hóa mới là tương lai, nhưng xây nhà phải có móng - nền nông nghiệp vững chắc là tiền đề cho công nghiệp.

Dĩ nhiên, quy mô công nghiệp nhỏ vẫn khả thi. Nhưng như vậy, Ernst chỉ cần tập trung phát triển Hechingen, không cần mở rộng đến Đông Phi. Tiềm năng vùng đất này quá lớn để lãng phí.

Việc Đông Phi nâng cấp từ chế độ kinh tế nguyên thủy lên nông nghiệp đã là bước tiến lớn. Chưa kể họ chỉ mất vài chục năm để hoàn thành quá trình mà nhiều nước cần hàng trăm, nghìn năm.

(Hết chương)

[1] Cọn nước: Công cụ dẫn nước truyền thống bằng sức nước hoặc sức người.

[2] Hệ thống cối xay gió Hà Lan: Được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 1997, từng là "trái tim công nghiệp" của Hà Lan thế kỷ 17-18.
 
Phi Châu Sang Nghiệp Thực Lục - 非洲创业实录
Chương 119 : Trung tâm Nghiên cứu Bệnh nhiệt đới


Chương 119: Trung tâm Nghiên cứu Bệnh nhiệt đới

Ngày 4 tháng 1 năm 1868

Berlin – không chỉ là trung tâm chính trị của Phổ, mà còn là một trong những trung tâm học thuật lớn nhất vương quốc.

Rất nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và học giả hàng đầu đều tập trung tại đây.

Hôm nay, Ernst cũng thành lập một tổ chức nghiên cứu y học ở Berlin – Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Nhiệt đới.

Thực ra, Ernst hiểu biết về y học còn chẳng bằng người thổi lửa bằng chày cán bột – hoàn toàn mù tịt. Nhưng có tiền thì chuyện gì cũng làm được, chỉ cần rót vốn, tự nhiên sẽ có nhân tài tìm đến.

Nghe tên là biết: Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Nhiệt đới chủ yếu nhằm vào việc nghiên cứu và khắc chế các bệnh lý phổ biến ở vùng nhiệt đới.

Tuy nhiên, với một quốc gia nằm ở vĩ độ trung như Phổ, lại không có thuộc địa ở hải ngoại, thì trình độ nghiên cứu bệnh nhiệt đới gần như bằng không – chẳng thể nào so bì với Anh hay Pháp.

Huống hồ ở thời đại này, đừng nói đến bệnh nhiệt đới, ngay cả đối với các bệnh truyền nhiễm thông thường, giới y học vẫn đang trong giai đoạn mò mẫm khám phá. Vậy nên, muốn có đột phá thì chẳng khác gì leo lên trời.

Ernst cũng chẳng trông đợi nghiên cứu có thể ngay lập tức cải thiện điều kiện y tế ở Đông Phi – thứ hắn cần là tích lũy kỹ thuật từ sớm, để về sau không bị tụt hậu.

Vì sao ở kiếp trước, các công ty và viện nghiên cứu y học phương Tây lại có thể độc quyền những lý luận và kỹ thuật tiên tiến nhất?

Đơn giản vì họ bắt đầu sớm, cộng thêm được quốc lực hùng hậu hậu thuẫn – từng bước xây dựng nên những "pháo đài học thuật" vững chắc.

Còn Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Nhiệt đới của Ernst giờ đây, chính là nền móng kỹ thuật và kinh nghiệm chuẩn bị cho Đông Phi trong tương lai.

Chậm một bước không sao, nhưng nếu bước nào cũng chậm, thì sẽ phải trả giá đắt.

Mặc dù có chữ “nhiệt đới” trong tên gọi, song phạm vi nghiên cứu của trung tâm này không chỉ giới hạn ở vùng nhiệt đới.

Ernst dự định chia trung tâm thành hai phần:

Một phần đặt tại Berlin,

Một phần xây dựng ở Đông Phi.

Ở Berlin, do thiếu điều kiện bảo quản mẫu bệnh nhiệt đới sống, nên chủ yếu nghiên cứu các bệnh truyền thống phổ biến tại châu Âu.

Còn cơ sở ở Đông Phi mới là nơi tập trung nghiên cứu các bệnh vùng nhiệt đới thực thụ – đồng nghĩa với việc phải đổ rất nhiều tiền của.

Ví dụ như:

Nhân sự: chỉ có thể mời các chuyên gia y tế đã được đào tạo bài bản từ châu Âu.

Ai lại chấp nhận mạo hiểm mạng sống để đến châu Phi làm việc nếu không có đủ đãi ngộ?

Không thể loại trừ có những người lý tưởng, đam mê y học, dám hy sinh vì lợi ích nhân loại – nhưng phần lớn mọi người vẫn cần ăn cơm nuôi thân.

Vì vậy, mức lương cho nhân viên ở trung tâm Đông Phi sẽ phải rất cao, kèm theo bảo hiểm cực lớn để đảm bảo họ yên tâm cống hiến.

Thiết bị y tế cũng là một khoản đầu tư khổng lồ.

Không thể tiết kiệm được – muốn có kết quả, thì cần có công cụ tiên tiến hỗ trợ.

Nếu ở Berlin còn tiện, thì Đông Phi phải vận chuyển bằng đường biển, vô cùng tốn thời gian, công sức và tiền bạc.

Ngoài ra, Ernst còn chuẩn bị thu mua sách vở, tài liệu y học từ khắp nơi trên thế giới cho các chuyên gia tham khảo.

Ví dụ như:

Penicillin, có lời đồn rằng người Trung Quốc cổ đại đã tiếp xúc với nó từ sớm – Ernst chẳng biết thật hay giả, vì ở kiếp trước, Internet đúng là cái “ao tù thông tin”, nơi tin đồn không cần phí tổn.

Nhưng như Thanh hao tố (Artemisinin) thì là có xác nhận chính thức – ghi chép rõ ràng trong y thư cổ của Trung Quốc.

Trên thế giới, ngoài y học Trung Hoa, thì nơi nào cũng có hệ thống y học hoặc các hình thái pháp sư chữa bệnh.

Dù là thô sơ hay mê tín, trong số đó chắc chắn có những phương thuốc và kinh nghiệm có thể trích xuất ra để nghiên cứu.

Trên lý thuyết, thời đại này không cần thiết lập viện nghiên cứu riêng ở thuộc địa – các nước lớn vẫn thường xây trụ sở trong nước và thu thập mẫu vật từ khắp nơi.

Nhưng Ernst vẫn quyết định thiết lập một trung tâm độc lập ở Đông Phi – phần nhiều là vì nỗi sợ đến từ nhận thức của kiếp trước.

Phải biết rằng, trong ký ức kiếp trước, châu Phi chính là "tổ hợp virus" đáng sợ nhất: HIV/AIDS, Ebola, Marburg... mỗi cái đều là quái vật đỉnh cao trong thế giới virus.

Ernst cực kỳ thận trọng – lỡ như mang mầm bệnh từ châu Phi về châu Âu, gây nên tổn thất nghiêm trọng, rồi cuối cùng bị phát hiện chính là do mình gây ra, thì e là cả thế giới sẽ không còn chỗ dung thân cho Ernst nữa.

Dù nghe hơi lo xa, nhưng lo lắng đó cũng có lý.

Châu Phi là cái nôi của loài người, nên đa dạng di truyền ở người bản địa là cao nhất – đây chính là điều kiện lý tưởng để virus đột biến và phát triển.

Thêm vào đó là điều kiện vệ sinh cực kỳ tồi tệ – như uống nước bẩn, ăn thịt sống...

Cộng với chiến tranh, cơ sở y tế yếu kém, nên châu Phi ở kiếp trước mới trở thành ổ dịch toàn cầu.

Thực tế, các khu vực khác như Nam Mỹ hay Ấn Độ có điều kiện môi trường tương tự, nhưng không bùng phát dữ dội như châu Phi – cho thấy môi trường không phải yếu tố quyết định.

Hơn nữa, Ernst đang tiến hành thanh lọc dân bản địa ở Đông Phi, từ đó giảm sự đa dạng di truyền, cắt giảm rủi ro về nguồn bệnh.

Cùng lúc đó, hắn còn cải thiện điều kiện vệ sinh ở các khu dân cư, xử lý sạch động vật hoang dã quanh khu vực, nhất là các loài linh trưởng, nhằm trực tiếp cắt đứt con đường truyền nhiễm.

Khi Đông Phi thuộc địa tiếp tục mở rộng, nó chắc chắn sẽ thay đổi toàn bộ cục diện lục địa châu Phi.

Khi ấy, những virus đáng sợ như ở kiếp trước có khi còn không có đất sống để xuất hiện.

Ví dụ như HIV – khởi nguồn tại Congo (Kinshasa), xuất hiện vào nửa sau thế kỷ 20.

Còn giờ thì còn lâu mới tới thời điểm đó. Nếu nhìn tốc độ mở rộng hiện nay của thuộc địa Đông Phi, rất có khả năng sẽ chiếm lĩnh dãy núi Mitumba ở phía Tây và cả vùng cao nguyên phía Nam Congo.

Những nơi này đều nằm ở giao lộ giữa savanna nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới – cực kỳ thích hợp để phát triển nông nghiệp.

Kiếp trước, Rwanda cũng từng chiếm một phần lãnh thổ Congo nằm trên dãy Mitumba.

Ernst chưa định thôn tính toàn bộ Congo, vì rừng mưa nhiệt đới rất khó khai phá, lại khó đuổi dân bản địa ra khỏi đó.

Tuy nhiên, khi chiếm lĩnh vùng Tây Bắc, chắc chắn sẽ có làn sóng người bản địa chạy trốn sang phía Tây, vào sâu trong lãnh thổ Congo.

Nếu sau đó tiếp tục chiếm Zambia, thì vương quốc tại đó cũng sẽ bị đẩy lùi vào rừng mưa Congo.

Nhưng rừng rậm không phải nơi lý tưởng để sinh sống. Ở kiếp trước, đa phần người Congo sống dọc theo rìa lưu vực sông Congo, tránh xa khu rừng sâu.

Muốn nuôi sống đám người đó, họ chỉ có thể tiếp tục trốn chạy về phía Bắc, tiến vào thảo nguyên Trung Phi hoặc khu vực Tây Phi.

Tóm lại, Congo thời kỳ này chắc chắn sẽ rất khác so với kiếp trước – việc những loại bệnh như AIDS có xuất hiện hay không cũng khó mà nói trước được.

Mà sự cẩn trọng của Ernst không phải vô lý: virus Marburg kiếp trước được phát hiện ngay trong phòng thí nghiệm tại Marburg (Tây Đức).

Mà loại virus đó thì có nguồn gốc từ khỉ ở Uganda và Kenya – mà Kenya giờ chính là lãnh thổ thuộc địa của Đông Phi.

Vậy nên, chiến dịch "xóa sổ linh trưởng bản địa" tại Đông Phi hiện tại cũng không phải là không có lý.

Phải hiểu rằng, bây giờ mới chỉ là thế kỷ 19, trình độ y tế còn kém xa so với năm 1967 (năm phát hiện virus Marburg). Do đó, giải pháp “xử lý vật lý triệt để” vẫn là an toàn nhất.

(Hết chương)
 
Back
Top Bottom