Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 50: Con bướm



Giờ Tý ba khắc [1], Lương Nguyên Kính ngồi dưới ánh nền mờ nhạt ở chầu viện, mở trang giấy ra, chấp bút vẽ tranh.

[1] Giờ tý là 23g đêm đến 1g sáng. Một khắc = 15’. (chắc tầm 23g45)

Chầu viện nằm bên ngoài cửa phụ Tuyên Đức lâu, phía đông của Ngự Nhai, là nơi bách quan tập hợp vào sáng sớm chuẩn bị vào triều.

Theo quy định của ⟪Canh giữ cửa cung⟫, đến canh bốn hai kẻng mới mở cửa, trước đó, tất cả quan lại lên triều đều phải chờ tại đây, cũng có quan viên đặc biệt ở ngoại thành vì đường đi quá xa, lo sợ đến trễ nên sẽ đến từ canh ba, chờ ở chầu viện thêm một hai canh giờ.

Nửa đêm giờ Tý, toàn bộ thành Đông Kinh đều đang yên giấc.

Phùng Ích Toàn chắc đã bị Giác Minh hoà thượng chuốc rượu say, ngủ khò khò ở nhà rồi.

Nếu tỉnh táo cũng không sao, canh giờ này cửa cung đã rút chìa khoá, cách thức cung cấm nghiêm ngặt nhất. Không có thư tay từ kim thượng, quan thủ môn cũng không dám tuỳ ý mở cửa. Cửa không mở mà có người xông vào sẽ chịu tội ‘đột nhập’ suốt hai năm. Phùng Ích Toàn nhất định không có lá gan tày trời này.

Hơn nửa đêm đã qua, thủ vệ cũng đỡ nghiêm ngặt hơn ban ngày, có thể để A Bảo thành công lẻn vào Tư Thiên Giám đỡ gặp phiền toái.

Lương Nguyên Kính cầm dao khắc, nhìn A Bảo: “Hay là em quay người lại đi?”

“Vì sao?” A Bảo trừng mắt với chàng, “Em xem cũng không được à?”

“Không phải……”

Lương Nguyên Kính buông tiếng thở dài, đành vén tay áo lên ngay trước mặt nàng. Hiện giờ cánh tay của chàng đã quấn đầy băng vải, mấy vết thương đã khép lại trước đó cũng do oán khí A Bảo xâm nhập làm tét ra lần nữa. Tuy không ứa máu nhưng nhìn vẫn rất ghê, hơn nữa đã không còn chỗ nào hạ dao xuống.

A Bảo siết chặt bàn tay, hơi thở đông cứng, bỗng nhiên thấy hối hận bản thân không nên đưa ra chủ ý thối nát này.

Còn muốn tạo thêm vết sẹo lên người của Lương Nguyên Kính.

Lần cuối cùng, A Bảo tự nói với chính mình, đây nhất định là vết cuối cùng. Chờ sau hôm nay, nàng có thể đi đầu thai, không còn oán khí của nàng, vết thương trên cánh tay chàng sẽ lành lặn trở lại.

“Anh không sao,” Lương Nguyên Kính thấy thần sắc nàng không đúng lắm, lại bắt đầu an ủi nàng, “Không đau chút nào.”

“Em biết, chàng cắt đi, ít… Ít chảy máu lại chút.”

A Bảo tự ti quay người đi chỗ khác, nàng vẫn không thấy cảnh rạch dao máu thịt của Lương Nguyên Kính.

Một lát sau nghe được âm thanh của chàng vang lên từ đằng sau: “Xong rồi.”

Thân thể A Bảo bắt đầu trở nên nóng rực, mềm mại nhẹ bẫng, một luồng ánh sáng đỏ lóe lên, nàng hoá thành con bướm sặc sỡ, vỗ cánh bay lên xà nhà. Lương Nguyên Kính đứng yên tại chỗ, ngửa đầu nhìn nàng chăm chú.

Từ góc nhìn, mặt chàng trở nên có chút kỳ quái, cả người như được bao phủ trong ánh nến, cũng từ đấy tỏa ra vầng sáng ấm áp bao quanh.

A Bảo bay sà xuống, dừng lại trên chiếc mũi cao thẳng của chàng.

“Đừng bướng bỉnh.”

Lương Nguyên Kính cười nâng nàng xuống. A Bảo bay vòng quanh ngón tay thon dài của chàng vài vòng, cuối cùng dừng lại trên đầu ngón tay, vỗ nhẹ cánh bướm.

“Đi đi, mọi việc bảo trọng.”

Lương Nguyên Kính nâng tay lên cao, A Bảo nhảy từ đầu ngón tay chàng bay ra ngoài cửa sổ, lướt qua mái nhà san sát nối liền nhau của thành Đông Kinh, bay thẳng về hướng cung cấm.

Đêm khuya Đông Kinh không một tiếng động, trời cao xanh thẳm mênh mông, vầng trăng sáng treo ngược trên bầu trời đêm, còn có mấy vì sao ảm đạm làm nền bên cạnh.

Từ trên cao nhìn xuống đại nội, hoàn toàn bất đồng với góc nhìn trên mặt đất. A Bảo bay bay, bỗng nhiên phát giác mình bị lạc đường, buộc phải bay xuống đáp trên lá cây.

Nàng hút giọt sương đọng trên đó, cảm giác nóng rực quen thuộc lan ra toàn thân.

A Bảo biết, là Lương Nguyên Kính sợ nàng hoà thành bướm hoạt động không tiện, nên đổi lại thân thể khác cho nàng.

Lúc này đang ở trên con đường ngang đông tây, có đội cấm quân vệ tuần tra trực đêm đi qua, A Bảo vội bay lại góc khuất sau cửa, ít lâu sau, có một thị nữ thô kệch mặc cung trang đi ra từ nơi đó.

Lâu rồi chưa làm người, cảm giác đến nơi đến chốn này làm nàng có hơi không thích ứng kịp. A Bảo giậm giậm chân, nhìn trái phải xung quanh về kiến trúc cung điện, trong lòng đại khái xác định được đây là đâu, chọn đi về con đường mòn hướng tây, rón ra rón rén chạy nhanh tới đó.

Nhưng mà cách nàng đã chết là đã hơn ba năm. Năm xưa trong cung, tuy A Bảo hiếu động mê chơi nhưng không phải đi đến đâu cũng được. Sau đó bị Triệu Tòng cấm túc trong lãnh cung lại càng không tuỳ ý đi lại, chỉ mới qua nửa chén trà nhỏ, nàng phát hiện ra mình lại bị lạc đường.

A Bảo dừng lại, nhìn nhìn kiến trúc xa lạ chung quanh, quả thực cạn lời.

Chẳng phải Tư Thiên Giám ở phía tây sao? Nàng chạy đúng về hướng tây rồi mà, sao lại ở chỗ này vậy?

Trời ạ, nguyên nhân nhiệm vụ thất bại hẳn không đến mức do nàng không biết đường chứ? Vậy thì quá mất mặt rồi!

A Bảo nàng tuyệt đối sẽ không thất bại!

Lúc đang mày mò lại phương hướng, nàng nghe thấy phía sau có tiếng bước chân đi đến.

A Bảo hoảng hốt, vội nhóm mũi chân, ngồi xổm trôn sau con sư tử đá trước cửa điện. Nàng cảm thấy con sư tử đá này có hơi quen mắt, suy đi nghĩ lại vẫn không nhớ đã gặp qua ở đâu.

Đang vắt óc suy nghĩ, chợt nghe đằng trước có người nói chuyện: “Nương nương, theo thiếp thấy Chúc nương tử đang cố tình chọc giận ngài đó ạ, cái gì mà đau bụng không khoẻ, sợ long tử gặp nguy hiểm, đã trễ vậy rồi còn kinh động đến ngài qua đi qua đó, kết quả tới nơi rồi thì bị tỳ nữ ngăn ngoài cửa cung, nói ‘nương tử không sao nữa, đã nghỉ ngơi rồi’. Hứ, khua chiêng gõ trống như vậy, nên để hồng ngự y bắt mạch mới phải, rốt cuộc là không khoẻ thật hay giả bộ chứ!”

Thị nữ tay cầm đèn, trên mặt tức giận bất bình, còn vị ‘Nương nương’ trong miệng nàng ta…

A Bảo sau tượng đá siết chặt tay, trùng hợp dữ vậy, người tới là Tiết Hành.

Tiết Hành mặc áo choàng lông thỏ, búi nửa mái tóc đen lên, cũng không điểm trang quá nhiều. Còn có lọn tóc rơi ra từ mũ trùm đầu, xem ra là được báo tin trong lúc mơ ngủ, chưa kịp rửa mặt chải đầu trang điểm gì đã vội vàng ra cửa.

Nàng ấy không oán giân như thị nữ, chỉ thờ ơ điềm nhiên nói: “Hiện giờ thân thể cô ta nặng nề, quan gia lại nhờ ta chăm sóc sao cho tốt, sự tình liên quan đến long thai thì quan trọng, cẩn thận một chút cũng chẳng sao.”

Thị nữ khó chịu nói: “Long thai thì sao ạ? Nương tử trong cung đây cũng sinh nhiều long tử rồi, không đến lượt cô ta ra vẻ. Nương nương, chi bằng ngài bẩm báo sự thật cho quan gia, để quan gia…”

Nói đến đây, đột nhiên thị nữ ngậm miệng, bởi vì nàng ta nhớ tới, nương tử hậu cung sinh dưỡng quả không ít, mà vị do nàng ta hầu hạ lại chưa từng.

“Nương nương……”

Trong tâm thị nữ sợ hãi trước sau, khiếp đảm nhìn Hoàng hậu.

Tiết Hành tựa như chưa từng nghe ra lời nói mạo phạm đó, chỉ nhìn cửa điện cách đó không xa, thấp giọng lẩm bẩm: “Nói cho y, có tác dụng sao?”

Âm thanh nàng ấy nói quá mỏng, cơ hồ nói ra từ môi, âm cuối phiêu tán trong gió đêm. Thị nữ chưa nghe rõ, thấy ánh mắt nàng ấy dừng trên cửa son loang lổ, không khỏi hỏi: “Nương nương, ngài đang suy nghĩ gì vậy ạ?”

Tiết Hành co rút khoé môi, nhẹ giọng đáp: “Cố nhân.”

Cố nhân?

Thị nữ hoang mang nhíu nhíu mày, vẫn nghe không hiểu, là người Hoàng hậu nương nương quen biết có ở đây sao?

Nhưng ở nơi sâu thẳm hẻo lánh này, cỏ dại tràn lan, đã lâu không ai vào ở. Nghe các cung nhân quét nhà vẩy nước nói, đêm hôm khuya khoắt chỗ này còn có quỷ quậy phá.

Nghĩ vậy, lông tơ sau lưng thị nữ dựng thẳng đứng, đỡ Tiết Hành nói: “Nương nương, đêm hôm đường vắng, chúng ta mau về điện nhé ạ.”

Tiết Hành gật gật đầu, ánh đèn một chủ một hầu dần dần đi xa.

Đợi bóng dáng các nàng biến mất rồi A Bảo mới dẫm hai chân ngồi xổm đứng dậy từ sau lưng tượng sư tử đá, ngửa đầu nhìn phía cửa điện.

Bên trên không có tấm biển, nàng thì biết đây là lãnh cung.

Khó mà tin nổi, thế mà mình đã quên đây là đâu, nàng đã ở đây hơn một năm, cuối cùng chết cũng chết ở ngay chỗ này.

Cây lê trong sân còn sống không? Đoạn lụa trắng nàng dùng để thắt cổ tự vẫn đã lấy xuống chưa? Còn cây trâm bị nàng quăng gãy nữa, có cung nhân nào nhặt được không nhỉ?

Nếu có thì người nọ nhất định đã phát tài rồi, nó là cây trâm Triệu Tòng mời thợ thủ công khéo tay nhất về, hao tốn vô số trân kỳ dị bảo, chế tạo ra cây trâm cho nàng, dù có gãy nát, phỏng chừng vẫn bán được không ít tiền.

A Bảo lắc đầu gượng cười, vì bản thân sầu não quá muộn, bỗng nhiên cơn nóng rực đánh úp thân thể, nàng lại sắp thay đổi.

Giờ đây, thân thể mà Lương Nguyên Kính chuẩn bị cho nàng là Phùng Ích Toàn.

A Bảo duỗi tay tại chỗ, lắc nhẹ eo, cảm giác của thái giám khá quái lạ, nhất thời nàng muốn nhìn thử đ*ng q**n ra sao. Tính lấy bộ phần nào đó ra nhưng lại nghĩ thời gian quý giá, máu Lương Nguyên Kính cũng không phải không có giới hạn, không nên hoang phí cho loại chuyện vô nghĩa này. Nàng dập tắt mớ xúc động vừa sinh sôi, thầm nhớ lại đường đi nước bước trong đầu, bán tín bán nghi xuất phát thêm lần nữa.

Nhưng mà chưa được bao lâu, nàng lại lại lại lại bị lạc đường!

“…………”

A Bảo lẻ loi đứng trên con đường mòn chữ thập lát đá cuội, hai hàng lệ đón gió, a a a! Sao lại thế này hả?!

Phương hướng nàng kém dữ vậy à?

Đông tây nam bắc, nàng phân biệt rõ lắm mà!

Thôi đi! Tìm người hỏi đường còn hơn!

Dù sao hiện tại nàng ở trong thân xác của Phùng Ích Toàn, có ai mà dám từ chối dẫn đường cho Nội Thị Tỉnh Phùng chứ. Về phần tại sao lăn lộn đại nội lâu như vậy vẫn không biết đường, thì đó là chuyện ngày mai của Phùng Ích Toàn, nàng mặc kệ!

A Bảo ôm tất cả các tâm thái bất chấp ở ven đường ôm cây đợi thỏ. Mới ngồi xổm chưa được bao lâu đã thấy có tiểu hoàng môn đang vội vàng chạy từ từ đến, hình như có việc gì đó gấp lắm.

A Bảo nhảy ra ngăn y lại.

Tiểu hoàng môn sợ tới mức la lên, dập mông dưới đất tê tê, chờ thấy rõ người trước mặt, ba hồn lập tức quay về, lanh lẹ đứng dậy nói: “Phùng Ích Toàn, sao ngài còn ở trong cung, không phải hôm nay là ngày tắm gội của ngài ạ?”

A Bảo đang suy tính biện ra lý do gì để gạt người cho tốt thì tiểu hoàng môn kia đã bắt lấy cánh tay của nàng, vừa lôi kéo nàng đi vừa nôn nóng: “Cảm ơn trời đất! Ngài ở đây thì tốt rồi! Mau đi cùng tiểu nhân đi ạ!”

“Đi…… Đi đâu?”

A Bảo bị động đi theo y, hoàn toàn chưa hiểu rõ tình huống.

Tiểu hoàng môn bớt chút thì giờ ngoảnh đầu lại đáp: “Phúc Ninh Điện ạ! Bệnh đau đầu của quan gia lại tái phát rồi!”

Đau đầu?

Triệu Tòng bị bệnh này hồi nào?

Suýt nữa A Bảo đã phun ra câu: Có bệnh thì tìm ngự y chứ tìm nàng làm chi? Nàng cũng đâu chữa bệnh được!

Chẳng lẽ đi gặp Triệu Tòng thật?

Nhưng nàng không có nhiều thời gian, còn nữa, nàng đã đáp ứng với Lương Nguyên Kính không gặp hắn rồi cơ mà.

A Bảo nhìn tiểu hoàng môn túm lấy nàng chạy nước rút đằng trước, khó nhằn cắn môi.

**

Tác giả có chuyện nói:

Bây giờ xin mời Giác Minh hoà thượng đến từ chùa Đại Tướng Quốc trình bày ca khúc về tình yêu nồng nàn:

Em thân yêu ~

Hãy bay từ từ thôi ~

Cẩn thận cây hoa hồng gai phía trước ~

Em thân yêu ơi ~

Hãy hé môi ~

Hương hoa trong gió sẽ làm em say đắm ~

Tôi và em uyển chuyển bay đi nhè nhẹ, bay qua hồng trần mãi mãi ở bên nhau ~~

Bài 两只蝴蝶 – Bài tình ca này thể hiện tấm chân tình của một chàng trai đang yêu muốn gửi đến người con gái mà anh nguyện sẽ gắn bó suốt đời. (nguon ngoaingukhanhlinh)

MC Đao: Người đâu, lôi ra ngoài!
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 51: Hoa mai



Đêm khuya, trong Phúc Ninh Điện.

Chúng cung nhân nô tài quỳ rạp xuống, đều cúi đầu sát đất, run như cầy sấy.

“Bộp⎯⎯”

Lại một bình men xanh hoa văn mỹ nhân rơi trên mặt đất, đập nát thành từng mảnh, hoa cỏ tươi cắm bên trong văng ra, dòng nước uốn lượn chảy xuống theo kẽ hở đá xanh.

“Nói! Là ai làm việc này? Là ai tưới nước?”

Triệu Tòng tóc tai dài rối tung, người mặc tẩm y vàng nhạt, chân trần đứng đó, thái dương nổi gân xanh, khóe mắt gần như muốn nứt rống to.

Cung nhân phía dưới không một ai dám trả lời, từng người ai nấy cũng run rẩy dữ dội.

“Không nói phải không? Không nói thì chết hết đi!”

Ánh mắt Triệu Tòng u tối, cất cao giọng kêu: “Người đâu! Kéo đám cẩu nô tài này xuống, đánh chết hết cho trẫm!”

Dứt lời, lập tức vang lên âm thanh dập đầu xin tha.

Có nội thị sợ chết dồn hết can đảm, lê đầu gối tiến lên, ôm chân hắn than khóc nói: “Quan gia ⎯⎯ Xin quan gia tha mạng! Tiểu nhân biết! Tiểu nhân biết là ai làm!”

“Là ai hả?”

Triệu Tòng dùng một chân đá văng y, nắm cổ áo của y, cắn răng hỏi.

Hốc mắt hắn lõm sâu, tròng mắt giăng đầy tơ máu, xương gò má cao ngất, giống như bộ xương khô biết di chuyển, nội thị sợ tới mức cứng người, lúc lâu mới tìm thấy giọng nói chính mình: “Là… Là Hoà Thuận, tiểu nhân tận mắt nhìn thấy hắn tưới nước…”

“Ngươi nói dối!” Nội thị được gọi là ‘Hoà Thuận’ lập tức oán hận trừng mắt, “Rõ ràng là do ngươi tưới!”

Kế tiếp là màn chúng cung nữ nội thị thi đua tố giác lẫn nhau, tự chứng minh mình trong sạch, ai ai cũng mồm năm miệng mười, không ai nghe rõ lẫn nhau, hiện trường trở nên hỗn loạn.

Triệu Tòng giận dữ, cao giọng gọi thủ vệ ngoài cửa tiến vào, nhưng lại không ai nghe thấy, hắn tức tối bước ra đến cửa đại điện, kéo mạnh cửa Điêu Hoa các ra.

Gió đêm thổi ngược vào trong khiến tóc đen hắn bay bay, áo bào phồng lên, tiểu hoàng môn ngoài cửa bất ngờ không kịp đề phòng, sợ hãi quỳ xuống ngay lập tức, tự tát một cái thật mạnh lên mặt mình.

“Nhìn thẳng long nhan, tiểu nhân đáng chết…”

Triệu Tòng căn bản không để ý đến y, nói với A Bảo: “Phùng Ích Toàn, ngươi tới đúng lúc lắm! Theo trẫm lại đây!”

A Bảo: “……”

A Bảo cứ thế bị hắn túm lôi vào trong điện, đến trước kỷ án. [1]

[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn Baidu)
2f835b790169f9b96a782addd9aa9335.jpg


“Ngươi xem, trẫm đã làm theo cách ngươi chỉ, chuyển nó vào trong điện để giữ ấm, mỗi ngày đảm bảo phơi đủ nắng, cắt tỉa cành hư, bón cả phân rồi, sao nó vẫn không ra hoa hả?”

A Bảo hạ mắt nhìn chậu mai khô cằn trên đó, ăn ngay nói thật: “Nó chết rồi.”

Giọng điệu nàng quá mức bình tĩnh, thế nên Triệu Tòng nghe xong liền sững sờ một lát, sau đó hắn trừng to đôi mắt, chỉ vào A Bảo, giận tím mặt: “Phùng Ích Toàn! Ngươi muốn chết⎯⎯”

Chúng cung nữ thái giám mồ hôi lạnh chảy đầy đầu tiếp tục quỳ rạp trên mặt đất, hô hấp tắc nghẽn, không dám ngẩng đầu, trong điện bỗng trở nên tịch mịch.

Sau một lúc lâu A Bảo mới phản ứng lại, lúc này hẳn bản thân nên kinh sợ quỳ xuống, nàng đóng giả dáng vẻ sợ hãi, khuỵu gối xuống, cúi đầu run bần bật, trong lòng lại nghĩ, hời cho Triệu Tòng quá.

Triệu Tòng còn đang hét to, lúc thì nói muốn ngũ mã phanh thây nàng, lúc thì muốn tru di cửu tộc nàng, trước sau cũng chỉ nghe thấy tiếng gầm rú phẫn nộ của hắn chứ không có tiếng đáp lại.

A Bảo nghe xong mắt trợn trắng, thầm nghĩ muốn nói cái gì thì nói chắc, bừa bãi!

Hiện giờ sao trông Triệu Tòng giống kẻ điên quá vậy?

Mời vừa nãy ở ngoài cửa, nàng đã nghe thấy hắn nổi điên sẵn, trước đây hắn không phải người thích giết chóc như bây giờ, hắn cũng sẽ không gầm rú với cung nhân, đánh mất dáng vẻ phong độ vốn có của mình, hắn là một quân vương nho nhã khiêm tốn kia mà.

Chẳng lẽ……

Do mắc bệnh thật? Tiểu hoàng môn nói ‘đau đầu’ là như này?

Còn đang nghi hoặc, nàng chợt nghe tiếng cung nhân ngoài điện bẩm báo, Hoàng hậu tới.

Tiết Hành dẫn theo thị nữ tiến vào, vẫn là trang phục như ban nãy, có thể nhìn ra sau khi nàng ấy về tẩm điện chưa kịp nghỉ ngơi đã liến thoắng chạy tới chỗ này.

Nàng ấy nhìn chúng cung nhân cúi sát đầu bên dưới, mặt nở nụ cười nhạt đi đến cạnh Triệu Tòng, nắm lấy tay hắn, dịu dàng hỏi: “Quan gia, sao đến giờ này còn chưa nghỉ ngơi? Ngày mai còn lâm triều, đi ngủ sớm nhé.”

Ánh mắt Triệu Tòng vô hồn, thần sắc hoảng hốt, dường như mê sảng lẩm bẩm gì đó: “Tam nương, hoa mai chết rồi, Uyển Nương nàng… Sẽ nổi giận với trẫm, nàng sẽ không chịu quay về bên trẫm…”

Tiết Hành nhìn chậu mai khô trên án, nói: “Đâu có chết ạ, chỉ là chưa tới mùa hoa nở mà thôi. Quan gia đừng lo, ngày mai mời thợ thủ công chăm hoa tới đây nhìn thử là được.”

Mắt Triệu Tòng sáng lên, nắm chặt tay nàng ấy: “Thật không?!”

Lực tay hắn quá lớn, Tiết Hành bị hắn túm chặt thấy đau, cố duy trì bộ mặt mỉm cười: “Đương nhiên, Uyển tỷ tỷ sẽ không vì chút chuyện nhỏ này mà nổi giận với quan gia.”

Triệu Tòng tủi thân đỏ mắt: “Nàng vẫn hay vì chuyện này mà nổi giận với trẫm.”

Tiết Hành chỉ cười xòa chứ không tiếp lời: “Quan gia, khuya rồi, đi ngủ thôi. Đầu lại đau nữa ạ? Có uống thuốc an thần hay chưa?”

“Hồi nương nương, vẫn chưa uống ạ.”

Một thị nữ đang quỳ cung kính đáp, bưng chén canh an thần trên bàn tới.

Tiết Hành dùng tay thử thử độ ấm, nhíu mày nói: “Lạnh rồi, hâm nóng lại đi.”

Thị nữ nói dạ, nghe lời lui xuống.

Tiết Hành lôi kéo Triệu Tòng nói: “Quan gia, đầu rất đau ạ? Thần thiếp xoa giúp ngài chút nhé, quan gia phải ngoan thì Uyển tỷ tỷ mới quay về thăm quan gia chứ.”

Triệu Tòng đỏ mắt: “Đã lâu rồi trẫm chưa mơ thấy nàng.”

Tiết Hành hỏi: “Mấy ngày gần đây quan gia có dùng linh đan do Trương thiên sư luyện hay không?”

“Ăn đan dược là có thể mơ thấy Uyển Nương à?” Triệu Tòng gật gật đầu, “Vậy trẫm ăn, mau đem lại đây cho trẫm.”

Hắn vươn tay đòi Tiết Hành, nàng ấy chỉ cười cười nắm tay hắn: “Quan gia khoan nóng vội, đan dược cùng thuốc an thần kỵ nhau, uống thuốc trước đã…”

Song, vừa dỗ vừa khuyên Triệu Tòng đến hậu điện nghỉ tạm, Triệu Tòng cao lớn được nàng ấy dắt đi theo phía sau, trông như đứa con nhỏ bất lực yếu ớt, còn Tiết Hành là vị từ mẫu kiên nhẫn dịu dàng vỗ về hắn.

Chúng cung nhân may mắn giữ lại được mạng nhỏ, đều âm thầm vỗ ngực.

A Bảo đứng dậy, xoa xoa đầu gối quỳ đau, nghe thấy có người nói: “May sao Hoàng hậu nương nương tới, vẫn là nhờ vào bà ấy, bằng không cái đầu trên cổ tôi chưa chắc được bảo toàn. Đợi quay về, nhất định phải dâng hương cung phụng nương nương mới được, đúng là Bồ Tát sống mà…”

Cũng có nội thị khác mắng: “Xuỳ! Hoa mai rách gì đó, gốc rễ úng cả rồi, cũng chả biết quan gia cái bị gì mà che chở nó như bảo bối vậy…”

Nói xong lời này đã có người đè thấp cổ họng quát: “Nói gì đó? Ngại mình sống quá lâu rồi phải không? Câm miệng lại mau!”

A Bảo ra khỏi Phúc Ninh Điện, đứng dưới hành lang ngước nhìn sao trời, có lẽ vì gió đêm lớn quá, thổi vào mắt có hơi nhẫn nhẫn khó chịu.

Từng hồi ức cãi nhau với Triệu Tòng lúc còn sống xẹt qua trong đầu.

Nàng luôn dễ nổi giận, sau khi Triệu Tòng chọc tức nàng còn không chịu thua, hai người chiến tranh lạnh một thời gian, hắn bớt giận sẽ phái Phùng Ích Toàn đưa tới vài món đồ nhỏ, nào là xửng điểm tâm tinh xảo, con mèo lông dài mắt hai màu, bởi vì hắn nói Uyển Nương của hắn như con mèo nhỏ, xa thì tức giận, gần thì xù lông, có người muốn dỗ dành thì nhe răng cho vu.ốt ve.

Món đồ cuối cùng hắn đưa tới là chậu mai vàng đó.

Thời điểm đưa sang, cành mai gầy mạnh mẽ, nguỵ hoa vàng sắp nở, chằng chịt vui mắt, vừa nhìn đã biết được chăm sóc rất tỉ mỉ.

Trong lúc A Bảo bệnh nặng buồn chán đã ngắt từng đoá hoa xuống, nghiền nát thành bùn, từng chén thuốc nước nâu đổ vào chậu, tưới úng gốc rễ, có làm sao cũng sẽ không sống nổi, y như chủ nhân cũ của nó.

A Bảo nhớ lại ngày ấy bản thân chết đi, mê mang thấy Triệu Tòng hốt hoảng chạy tới chỗ mình, hình như hắn khóc, môi mấp máy lớn giọng gọi ‘Uyển Nương’.

Là ảo giác sao? Khi đó nàng nghĩ, là ảo giác thật sao?

Hiện giờ A Bảo cũng không quá chắc chắn.

“Phùng Ích Toàn, mới nãy ngài đã hù chết tiểu nhân rồi, sao lại nói chậu mai kia đã chết với quan gia chứ… Đâu có chết? Cũng may có Hoàng hậu nương nương, nếu không…”

Tiểu hoàng môn dẫn nàng tới đây đứng đằng sau, mặt mày nom còn sợ sệt.

“Giờ nào rồi?” A Bảo thả ống tay áo hỏi.

“Nhìn trời, xem chừng đến canh ba ạ, sắp đến giờ vào triều.” Tiểu hoàng môn nói.

Vậy không còn nhiều thời gian nữa, Lương Nguyên Kính chống đỡ không được lâu.

A Bảo xoay người, hỏi: “Biết Tư Thiên Giám đi đường nào không?”

Tiểu hoàng môn sửng sốt, gật đầu: “Biết ạ, trễ vậy rồi ngài còn muốn đến Tư Thiên Giám ạ? Ở đằng…”

A Bảo chen lời y: “Dẫn ta đi.”

**

Ước chừng lúc đánh trống, các triều thần nối đuôi nhau đến Tuyên Đức lâu, bọn họ đa phần cưỡi ngựa đến, cũng có số ít cưỡi lừa xanh, trên đầu ngựa còn treo đèn lụa sa, trên đó viết họ tên từng người cộng chức quan đảm nhiệm, nhờ quan thủ vệ kiểm nghiệm.

Bởi vì sắc trời chưa sáng, từ xa xa nhìn lại, ánh đèn như đuốc, trên đường như có con rồng lửa uốn lượn, người cố đô miêu tả ‘canh tư, triều mã động, triều sĩ đến’ [2], bởi vì phần lớn quan thượng triều dùng ánh nến tụ họp lại với nhau, được gọi là ‘thành lửa’.

[2] Canh tư từ 1g sáng đến 3g sáng, quan viên cưỡi ngựa lên triều gặp vua.

Đến canh năm, sắc trời tờ mờ sáng, chúng thần đứng dậy đi ra từ lò lửa chầu viện ấm áp. Tốp ba tốp năm tụ tập dịch bên cửa phải, vừa chờ cửa thành mở vừa thảo luận tình hình chính trị với đồng liêu, còn nhắc về việc vừa nãy nhìn thấy Lương Nguyên Kính ở chầu viện.

Hàn Lâm Đãi Chiếu địa vị thấp hèn, chuyện lên triều này căn bản không đến lượt chàng, nhưng chàng lại ngoài ý muốn xuất hiện ở đây, tình huống như vậy, chỉ có thể được quan gia triệu đến.

Vị hoạ sư Hàn Lâm gần đây liên tục nhận được thánh sủng, không biết là có ý gì, có phải đại diện cho chiều gió nào trong triều chính hay không?

Đáy lòng chư thần đều âm thầm cân nhắc.

Canh năm hai khắc, cửa thành chính thức mở ra. Sau khi quan thủ vệ thẩm tra không chút sai lầm, các triều thần nối đuôi nhau tiến vào, đến trước Tử Thần Điện thượng triều.

A Bảo chuyên môn chọn đúng thời cơ, vừa lúc bỏ qua bọn họ, đợi ra khỏi cửa, bước chân liền khựng lại.

Vào đông ngày ngắn đêm dài, vào giờ này sắc trời còn chưa sáng hẳn, chỉ thấy chút mặt trời nhô lên ngay phía chân trời.

Nàng thấy Lương Nguyên Kính.

Chàng không đợi trong chầu viện ấm áp mà chỉ đứng dưới mái hiên, yên lặng nhìn bầu trời đến xuất thần. Dáng dấp chàng gầy gò, hơi thở ngưng tụ thành khói trắng làm mặt mày chàng không mấy rõ ràng, tay cầm chuỗi Phật châu xâu từng hạt từng hạt.

Chàng đang đợi nàng nhỉ?

Chắc là biết nàng sắp ra tới rồi nên mới không sợ giá rét đứng trong gió như vầy, do đó khi nàng ra ngoài có thể nhìn thấy chàng đầu tiên sao?

“Đêm trước trăng sao như khác đấy, Trời khuya sương gió đứng vì ai?” [3]

[3] Ỷ hoài – Hoàng Cảnh Nhân và bản dịch của Lê Xuân Khải, thivien.

Trong đầu A Bảo chợt hiện lên câu thơ từng học qua, biến thành người rồi, tim nàng dường như có thể cảm nhận nỗi đau châm chích chân thật.

Lương Nguyên Kính ngốc nghếch, chàng không biết vào trong chờ à? Rõ là sức khoẻ yếu không chịu nổi giá rét vậy mà.

Nàng lại nghĩ, Lương Nguyên Kính vẫn luôn thế này sao?

Trông chàng…… Làm nàng cảm giác được sự cô độc, cẩn thận ngẫm lại trong trí nhớ, hình như chàng vẫn luôn lẳng lặng đứng vào một góc, tựa như chiếc bóng an tĩnh.

“Lương Nguyên Kính!” A Bảo hô to một tiếng.

Chàng dưới hiên bị tiếng la tác động, ngoảnh mặt lại nhìn thấy nàng trong nháy mắt, nỗi cô liêu chung quanh chàng tiêu tán ngay tức khắc, môi hơi hơi cong, lộ ra nụ cười dịu dàng lưu luyến.

A Bảo dần chạy vội đến, chạy càng lúc càng nhanh, cuốn theo hơi gió sớm lành lạnh nhảy vào lòng chàng.

Động lượng quá lớn, Lương Nguyên Kính bị đâm sầm dựa vào vách gỗ, than nhẹ một tiếng, đôi tay theo bản năng chặt chẽ đỡ lấy A Bảo, tránh để nàng ngã xuống.

“Nương tử……”

Không chờ chàng nói xong, A Bảo đã ôm mặt chàng hôn lên một cái thật sâu.

Lương Nguyên Kính trợn tròn mắt: “! ! !”

Cái hôn dài qua đi, mặt mũi ai nấy cũng đỏ ửng, A Bảo còn đỡ hơn Lương Nguyên Kính bị nấu chín một chút, đến cả chóp tai cũng đỏ bừng.

A Bảo thoáng thấy có tiểu tốt đi vào chầu viện, mặt đầy khiếp sợ trợn trừng nhìn bọn họ, lúc đụng phải ánh mắt của nàng xong đã kinh hoàng quay đầu vọt chạy.

A Bảo trợn trắng mắt, thầm nghĩ nhìn gì mà nhìn, chưa thấy phu thê người ta ân ái bao giờ chắc?

Bỗng cảm thấy sai sai đâu đó, cúi đầu nhìn, thấy rõ bộ dáng của nàng phản chiếu lại từ trong tròng mắt của Lương Nguyên Kính, là cái mặt già lồi lõm nhăn nheo của Phùng Ích Toàn.

“………………”

Ôi trời ơi, nàng mới vừa dùng cái mặt này đi hôn Lương Nguyên Kính á?

Nhưng mà… Nhưng mà rõ ràng chàng đã rất phối hợp mà!

A Bảo bụm mặt từ trên người chàng trượt xuống, càng nghĩ càng mắc cười, nhịn không được xì một tiếng khom lưng cười ầm lên.

“Ha ha ha ha ha! Lương Nguyên Kính! Chàng tin không, mai… Ngày mai chốn thành Đông Kinh này sẽ đồn, chàng bị Phùng Ích Toàn ngang ngược thô bạo cưỡng hôn đó! Ha ha ha ha ha! Eo ơi… Không ổn rồi, đau bụng quá!”

Lương Nguyên Kính kéo thẳng nàng dậy, xong xoa xoa bụng cười của nàng, bất đắc dĩ nói: “Anh còn chưa kịp nhắc nhở em thì em đã…”

Mặt lại đỏ.

“Đã… Đã thế nào cơ?”

A Bảo xấu xa trêu đùa chàng: “Còn không phải do chàng cũng hăm hở à? Đối với khuôn mặt này mà chàng cũng hôn lấy. Quan nhân ơi, có phải nô gia hiểu lầm gì rồi không, thật ra chàng thích Phùng Ích Toàn ạ?”

“Anh thích em thôi,” Lương Nguyên Kính nghiêm túc nhìn nàng, “Đừng đùa như thế nữa.”

A Bảo gãi gãi mũi không dám chọc chàng, sờ đến bàn tay lạnh ngắt nọ mới vội nói: “Mau mau mau, vào trong đi, bị đông cứng ngắc rồi? Sao không ở trong phòng chờ em hả?”

Nàng thúc giục liên hồi, đẩy Lương Nguyên Kính tới trước lò lửa ngồi xuống, đang muốn xoa tay thay chàng, chợt thấy trên bàn vẽ tranh có thêm chén hoành thánh, nhất thời ngạc nhiên.

“Ăn không?” Lương Nguyên Kính hỏi, “Đoán chừng chắc em sắp ra rồi nên gọi chén hoành thánh cho em.”

Chàng dụng mu bàn tay chạm chạm chén sứ, quay đầu nói với nàng: “Vẫn còn nóng.”

Có một khắc A Bảo rất muốn rơi lệ, nhưng cuối cùng vẫn kìm nén, hít mũi nói: “Ăn.”

Chầu viện sẽ chuẩn bị đồ ăn cho triều thần chưa kịp ăn sáng, đơn giản là chút cháo trắng, bánh hấp linh tinh, trong đó có món hoành thánh là được chư quan ưa chuộng nhất.

Vỏ hoành thánh ở đây được cán rất mỏng, bọc gọn thịt heo bằm, nước súp có váng mỡ heo và vụn đậu phộng, trụng qua nước sôi một lần, thêm chút lớp dầu trôi nổi trên bề mặt.

Hoành thánh còn ấm, bởi vì lo sợ ăn chưa xong sẽ biến thành quỷ hồn nên A Bảo nuốt rất nhanh, còn kể lại kết quả nàng điều tra được ở Tư Thiên Giám cho Lương Nguyên Kính nghe.

“Không có,” Nàng nuốt viên hoành thánh trong miệng xuống, nhú nhứ nói, “Em lật hết mấy công văn ra rồi, không có chữ nào nhắc tới em cả.”

Lương Nguyên Kính sợ nàng nghẹn, kinh hồn bạt vía nhắc nhở: “Ăn chậm lại chút.”

A Bảo bưng chén lên húp cạn nước súp, ngay sau đó buông chén ra, mỹ mãn ‘ợ’ một cái, vuốt cái bụng no căng thích ý nói: “Em sợ ăn chậm sẽ biến thành quỷ, lâu rồi chưa ăn gì, đã quá.”

Lương Nguyên Kính do dự chốc lát, hỏi: “A Bảo, em muốn biến thành người không?”

“Hả? Bây giờ em còn chưa phải người sao?”

“Anh nói,” Lương Nguyên Kính nhanh nhảu giải thích, “Biến thành dáng vẻ nguyên hình của em.”

“Không.” A Bảo lập tức cự tuyệt.

“Còn máu…”

Lương Nguyên Kính dứt khoát vén tay áo lên cho nàng xem, miệng vết thương chưa khép lại, vẫn luôn thấm máu ra ngoài băng gạc.

A Bảo khựng động tác vuốt bụng, vốn định kéo cánh tay chàng qua nhìn kỹ hơn nhưng lại sợ oán khí của mình làm chàng bị thương, đành nói: “Mau đeo Phật châu đại sư cho chàng lên đi! Chàng đừng tháo xuống hoài, em không còn sợ như trước nữa đâu.”

Đây là nói thật.

A Bảo phát hiện Phật quang ngũ sắc cũng không đáng sợ tới vậy. Thỉnh thoảng ở chùa Đại Tướng Quốc nhìn thấy Thủ Chân đại sư giảng kinh cho đệ tử, còn cảm nhận vầng sáng nhu hoà toả ra quanh người cụ, có vẻ đặc biệt hiền từ, Phật quang tựa như ánh đèn dầu tỏa sáng, còn nàng như con thiêu thân, chỉ cần không bay lên dán sát vào đó thì sẽ không xảy ra chuyện gì lớn.

Lương Nguyên Kính chưa từng nghe lời nàng đeo vào, chỉ thực thà bảo: “Đừng lãng phí.”

“……”

Chàng kiên trì quá vậy?!

A Bảo thấy dáng vẻ cật lực đẩy đưa của chàng, trong lòng cũng hiểu ra đôi chút, bèn lia mắt nhìn qua.

“Muốn cái đó?”

“……”

Khỏi đợi Lương Nguyên Kính phủ nhận, nàng đã tự mình suy ngẫm về khả năng trong chuyện này: “Cũng phải ha, lâu rồi không ‘cái đó’. Ờm… Em nghĩ nha, trên đường tới đây hình như có cái hẻm nhỏ, giờ này còn sáng chắc không có người đâu, nhanh một chút, vậy một hiệp là đủ rồi…”

“Anh không có!”

Lương Nguyên Kính kích động đứng bật dậy, bộ dạng đỏ mặt khiến A Bảo nghi ngờ hai lỗ tai của chàng chắc phun ra khói mất.

“Anh không phải vì……”

Khuôn mặt tuấn tú của chàng đỏ ngầu, ấp úng, bởi vì thấy quá thẹn nên mới không nói nên lời.

“Vì sao?” A Bảo chống cằm, thích thú tra hỏi.

“Vì… cùng em ‘cái đó’.”

Vất vả lắm Lương Nguyên Kính mới nặn xong cả câu, cả người như bị rút cạn sức lực, ủ rũ cụp đuôi.

“Ha ha ha ha ha ha ha!”

Rốt cuộc A Bảo không làm bộ đứng đắn nổi nữa, chống cằm cười to, đứng dậy nâng cái mặt nóng như than hồng kia lên, khẽ tựa trán mình vào trán chàng, nhẹ giọng nói: “Em biết mà, biết chàng nhớ em. Lương công tử, hôm nay thời tiết không tồi, lên phố dạo chơi cùng em nhé.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 52: Tà niệm



Đại đức Thích Trúc Thái Minh giải thích về tà niệm như sau: “Tà niệm là nhớ nghĩ về những điều tà bậy, không chân chính. Nghĩ những chuyện tà dâm, nghĩ những chuyện lừa đảo, dối trá, nghĩ những chuyện ác hại người. Đấy là tà niệm”. Tựu chung lại, Sư Phụ chỉ dạy niệm nào có động cơ do tham, sân, si chi phối thì niệm đấy là niệm tà. (nguồn phatgiao.org)

**

Trời vừa rạng sáng, hai bên đường đều là các dinh thự, công sở của quan lại.

Phía đông gồm có Bí Thư Tỉnh, Thái Thường Tự, Tả Tàng Khố và Cảnh Linh Đông Cung, phía tây thì có Cảnh Linh Tây Cung, Lưỡng phủ bát vị [1], phủ Khai Phong, Đô Đình Dịch, và với nơi A Bảo căm ghét nhất – Ngự Sử Đài.[1] Tạm dịch từ nguồn Baidu

Đường rộng hơn hai trăm bước, hai bên có hành lang hoàng gia, đặt các rào chắn sơn đen, quan phủ nghiêm cấm người dân bá tánh mua bán tại đây, trung ương ngự phố (phố hoàng gia) là lối đi dành riêng cho kiệu xe của Hoàng đế, ngày thường nghiêm cấm người và ngựa qua lại. Bởi vậy khung cảnh uy nghiêm chứ không có gì náo nhiệt để xem.

Tuy vậy, cảnh vật nơi đây vẫn khá đẹp.

Bên trong hành lang hoàng gia có hai rãnh nước xây bằng gạch, gần bờ có trồng đào mận lê mơ, trong đầm trồng sen và ấu, sóng xanh xuân hạ lung linh, hoa sen tỏa hương, phong cảnh đẹp như thêu trên gấm. Chỉ tiếc giờ đây trời rét, ngó sen giữa hồ úa tàn, cảnh tượng trở nên tiêu điều.

A Bảo cùng Lương Nguyên Kính tay trong tay, vừa đi dọc bên bờ liễu rủ đến vai vừa nói về chuyện lăng tẩm.

“Chàng nói Triệu Tòng sẽ chôn em ở đâu nhỉ? Hoàng lăng Lạc Dương thì không thể, cũng không ở Đông Kinh…”

Chắc không phải ném ra bãi tha ma đâu ha?

A Bảo nhíu giữa hàng mày, cho rằng dù Triệu Tòng có hận nàng bao nhiêu cũng sẽ không làm đến mức đó đâu.

Lương Nguyên Kính nhéo nhéo lòng bàn tay nàng, an ủi nói: “Đừng nóng vội.”

A Bảo thầm nghĩ gấp chứ, sao không vội được, nếu vết thương trên tay chàng không ổn, bọn họ sẽ trực tiếp gặp mặt nhau dưới địa phủ mất.

Nhưng mà Lương Nguyên Kính có bản lĩnh xoa dịu tâm tình nôn nóng của nàng. Có khi chưa cần chàng mở miệng, chỉ cần nhìn cặp mắt êm dịu như hồ nước tĩnh kia thôi là nàng có thể bình tĩnh lại ngay.

Lương Nguyên Kính sinh ra để khắc nàng, đôi khi A Bảo sẽ nghĩ vậy.

Cả hai đi về phía nam, qua Châu Kiều, ra đến Chu Tước Môn, đi tới gần Long Tân Kiều, cuối cùng đường xá mới nhộn nhịp. Quán rượu quán ăn mở cửa, người bán rong cũng bày sạp bán sớm, vật phẩm trong tháng chạp ngoài quả khô chà bông ra còn có ít thịt thỏ, dạng thịt thú hoang, và cả người gánh hàng rong rao bán dọc đường.

A Bảo muốn mua quà tặng cho cháu gái nhỏ chưa từng gặp mặt, nàng lôi kéo Lương Nguyên Kính đến trước sạp hàng để chọn lựa.

Lựa lựa bỗng thấy tay trái có chút bất tiện, đang tính thả tay Lương Nguyên Kính ra thì chàng đã tăng thêm sức lực, gắt gao bắt lấy tay nàng không buông.

“?” A Bảo khó hiểu quay đầu, “Chàng làm gì vậy?”

“Làm sao vậy?”

A Bảo giơ tay hai người nắm chặt lên cho chàng nhìn, “Buông tay ra, chàng như vậy sao em chọn được đây?”

Lương Nguyên Kính hỏi: “Em muốn thử cái nào?”

Ngầm hiểu, chàng đưa cho nàng xem.

A Bảo: “…………”

Người bán hàng cười nói: “Già đi khắp ngõ hẻm nhiều năm, lần đầu thấy vợ chồng ân ái như lang quan và tiểu nương tử đây, chúc hai vị đồng vợ đồng chồng, đầu bạc răng long.”

Dứt lời, còn tặng cho A Bảo một cái chong chóng.

Tuy A Bảo là người có da mặt dày, nghe xong lời này hai má không khỏi ửng hồng, khuôn mặt tuấn tú của Lương Nguyên Kính trở nên hồng nhạt, nhưng cho dù có ngượng ngùng cỡ nào vẫn không tính buông tay A Bảo ra.

A Bảo hỏi người bán có món đồ nhỏ nào phù hợp với trẻ nhỏ hoạt bát không.

Ánh mắt người bán lập tức dời xuống phần bụng bằng phẳng của nàng, làm khuôn mặt đẹp của A Bảo đỏ hơn, vội vàng xua tay nói: “Không không… Không phải tôi, là cháu gái nhỏ của tôi… Ừm… Tầm năm sáu tuổi ấy.”

Người bán cười to: “Thấy tiểu nương tử cùng phu quân đằm thắm như vậy, sớm muộn gì cũng có con, nhìn thử mấy món mô hạ lạc này đi, sấp nhỏ thích lắm đó.”

A Bảo nghĩ thầm cái người bán hàng rong này nói nhiều quá, cũng không dám đáp theo ông ấy, sợ sẽ bị trêu chọc nhiều hơn, chỉ cúi đầu chọn mô hạ lạc [2]. Đây là món đồ chơi thời Đại Trần nhà nhà đều có, như đồ gốm đất, gỗ điêu khắc, đất sét, bởi vì có ý nghĩa về con cái, ngày lễ bảy tháng bảy cầu xin Chức Nữ, nên người ta thường trưng nó cùng hoa quả, rượu và đồ nướng để phụ nhân dâng hương cầu nguyện.

[2] Đất sét nặn thành hình trẻ con dễ thương, người chăn trâu bò Ngưu Lang và nữ thợ dệt Chức Nữ được bán vào dịp Tết, Thất Tịch. Thường có ý cầu xin cho con cái thông minh và muốn có thêm em bé. (nguồn Baidu)
eda28a818b5e1e0d2f265d73596c7cd458c5c630.jpg


Mô hạ lạc được nặn thành hình em bé mới sinh, có cả nam lẫn nữ.

A Bảo lấy một cái hình tiểu cô nương mặc áo xanh váy đỏ và một tiểu lang quân mặc áo giáp sắt tay cầm giáo gỗ, nhất thời phân vân chưa biết nên chọn cái nào, bèn hỏi Lương Nguyên Kính: “Chàng thấy cái nào đẹp?”

Lương Nguyên Kính nghĩ nghĩ: “Nếu là tiểu nương tử vậy hợp với bé gái hơn?”

A Bảo bĩu môi không đồng tình lắm: “Nhưng mà tiểu nương tử của chúng ta thích tiểu lang quân mà, từ nhỏ đã mong chờ sẽ gả cho lang quân như ý.”

Lương Nguyên Kính đành sửa lại lời nói: “Vậy chọn bé trai đi.”

A Bảo vẫn nhíu mày: “Nhưng mà tiểu lang quân này nhìn uy nghiêm quá, hung dữ kiểu gì ý, sẽ làm cô bé nhà a ca sợ tới mức ban đêm gặp ác mộng thì làm sao đây…”

“……”

Tới đây, Lương Nguyên Kính mới nhận ra nàng đang cố ý làm khó dễ chàng, đành phải nói: “Mua hết.”

A Bảo phì cười.

Quả nhiên một ngày nàng không lấn lướt Lương Nguyên Kính thì cả người sẽ khó chịu mà.

Lương Nguyên Kính lấy túi tiền từ tay áo, hỏi nàng: “Muốn gì nữa không?”

A Bảo cố ý xuyên tạc ý tứ của chàng: “Chàng hỏi ai cơ? Cháu gái nhỏ?”

“Không, anh đang hỏi em.” Lương Nguyên Kính nói.

A Bảo ngắm nghía xong mới nói: “Vậy chàng mua cho em cây tuyết liễu đi, phải là kiểu đón xuân mới được.”

Lương Nguyên Kính mua xong cài lên búi tóc thay nàng.

A Bảo lắc lắc đầu, hỏi chàng: “Đẹp không?”

“Đẹp.” Lương Nguyên Kính nói ngay không chút nghĩ ngợi.

Tuyết liễu bán lẻ trên phố so với cây tuyết liễu bướm đêm làm từ lụa cung đình thì trông có vẻ rẻ tiền hơn. Nhưng bất kỳ vật phẩm trang sức gì đặt cạnh dung nhân ngây thơ hồn nhiên của A Bảo đều trở nên vô cùng phù hợp, hoa lụa vàng nhạt gắn lên tóc mai đen huyền càng tôn lên nhan sắc nổi bật cùng nước da trắng sáng của nàng.

Dòng người tấp nập, ý cười luân chuyển trong mắt A Bảo: “Đẹp đến mức nào cũng đâu đến mức ngây người ngắm nhìn chớ.”

Lương Nguyên Kính mới kịp hoàn hồn bừng tỉnh, ý thức được bản thân đã nhìn nàng chằm chằm hồi lâu, vì thế thẹn thùng cười: “Đi thôi.”

Hai người nắm tay tiếp tục đi dạo, tới trên Long Tân Kiều, A Bảo thoáng chậm lại phía sau, như thế có thể thoải mái ngắm nhìn bóng hình của Lương Nguyên Kính.

Thân hình chàng cao lớn, vai lưng thẳng tắp, tay còn lại đang xách mô hạ lạc mới mua, thật giống người cha đi dạo phố, thuận tiện mua món đồ chơi về nhà dỗ dành con trẻ.

A Bảo chợt suy nghĩ, nếu ngày sau mình không còn nữa, Lương Nguyên Kính sẽ có con sao?

Chàng cũng sẽ giống như bây giờ, dắt tay phu nhân mới ra đây đi dạo sao? Vào mười lăm tháng giêng, chàng sẽ một bên bồng con và một bên nắm tay phu nhân đến ngắm đèn trước Tuyên Đức Lâu?

Nếu thật là thế, chàng nhất định sẽ có một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Trước mặt nương tử, chàng sẽ là lang quân dịu dàng săn sóc. Trước mặt con cái, chàng sẽ là người cha ôn hoà hiền từ.

Chỉ là tưởng tượng hình ảnh một nhà ba người họ hoà thuận vui vẻ, lòng A Bảo lại đau rát, như bị kịch độc rắn rết gặm nhấm. Tránh không khỏi dần dần nổi lên ý niệm đen tối, hận sao để Lương Nguyên Kính phải cô độc sống hết quãng đời còn lại mới phải, hận sao để cả đời này chàng phải nhớ thương nàng mãi mới tốt.

Ý niệm vừa nảy sinh, lòng bàn tay nàng nắm lấy Lương Nguyên Kính bỗng dưng nổi lên trận đau nhức, đau đến mức suýt nữa nàng đã hét to lên, vội vã hất tay của chàng ra.

“Em sao vậy?” Lương Nguyên Kính ngạc nhiên quay đầu lại.

“Không… Không sao hết.”

A Bảo miễn cưỡng cười, giấu tay phải ra sau lưng.

Sắc mặt Lương Nguyên Kính tệ đi: “Em lại bị bỏng rồi phải không?”

A Bảo lập tức chối bỏ: “Không phải.”

Lương Nguyên Kính vốn đã không tin, muốn nàng duỗi tay đang giấu ra, A Bảo thì không phối hợp, chàng trực tiếp xuống tay, A Bảo tức giận siết chặt năm ngón tay thành quyền, bất chấp giãy giụa nói: “Chàng làm gì vậy? Đã nói không phải rồi mà, chàng còn vậy nữa em sẽ nổi giận đó!”

Nhưng nàng có cố sức đến đâu cũng không bật lại một nam tử trưởng thành.

Cuối cùng tay nàng bị Lương Nguyên Kính bẻ ra từng ngón, lòng bàn tay nên trắng nõn, giờ đây lại thành một mảng cháy đen, như đoạn gỗ bị thiêu đốt.

Thoáng chốc, con ngươi Lương Nguyên Kính co rút, gương mặt trắng bệch, sắc môi tái mét.

A Bảo sợ chàng sắp ngất xỉu hoặc phụt ra máu đen nữa nên hoảng loạn nói: “Chàng đừng vậy mà, không… Không đau, chàng nghe em nói đã… Nè! Chàng tính làm gì?!”

Lương Nguyên Kính tháo vòng chuỗi Phật châu thất bảo trên cổ tay xuống, cứ thế định quăng xuống lòng sông Thái Hà.

A Bảo sợ hãi, vội nhào lên ngăn cản nhưng còn sợ Phật quang ngũ sắc nên không dám, chỉ có thể cất cao giọng la: “Đừng ném! Chàng mà ném nó thì em sẽ không để ý tới chàng nữa!”

Lời uy h**p tuy ấu trĩ nhưng vẫn hữu dụng, Lương Nguyên Kính không dám ném đi thật, chàng ngoảnh đầu nói với nàng: “Nó làm em bị thương!”

“Đó… Đó là vì em vừa mới nghĩ, suy nghĩ…”

A Bảo không nói được, bất lực dựa lên thành cầu.

Nàng suy nghĩ cái gì?

Nàng muốn Lương Nguyên Kính sống cô độc hết quãng đời còn lại, sau đó cảm thấy áy náy vô tận, cứ thế nhấn chìm nàng.

A Bảo nghĩ, nàng đúng là xấu xa quá đi, sao có thể nhẫn tâm để Lương Nguyên Kính cô độc cả đời chứ?

Xem ra Giác Minh hoà thượng nói phải, tâm tính của nàng đã bị oán khí nuốt trọn. Có thay đổi ra sao cũng như nước chảy đá mòn, như lửa cháy lan ra đồng cỏ, một khi nổi lên d.ục v.ọng sẽ sinh ra bất mãn, d.ục vọ.ng không được thoả mãn, tích tụ càng nhiều oán khí sẽ bao phủ lấy toàn bộ trái tim nàng, sẽ biến nàng thành ma quỷ mất hết tình người.

Cho đến giờ phút này, A Bảo thầm thấy may mắn, sự mong cầu không cam lòng mới chính thức bị chợp tắt.

Không thể quay đầu, không còn con đường khác nào để đi, nàng chỉ có hai con đường, một là đi đầu thai chuyển thế, hai là hồn bay phách tán, tan thành mây khói.

“Em nghĩ gì vậy?” Lương Nguyên Kính hỏi nàng.

A Bảo cố gắng mượn lực chống đỡ, nở một nụ cười, nửa thật nửa giả thở dài: “Em nghĩ em yêu Lương công tử thật rồi, yêu đến mức không biết sao mới tốt đây.”

Lương Nguyên Kính hoàn toàn sửng sốt.

A Bảo nói: “Đeo Phật châu lên đi, nó có thể bảo hộ chàng.”

Lương Nguyên Kính chưa đeo lên cũng thu tay lại từ hướng lòng sông, gió thổi quét tóc mai chàng rụng lả tả, chẳng biết là bao lâu, đột nhiên chàng nghiêng đầu nhìn A Bảo, nghiêm túc nói: “Anh cũng yêu em.”

Chàng tuân thủ lễ giáo nghiêm ngặt, quân tử phong độ, da mặt lại mỏng, chưa từng nói chữ ‘yêu’ ra ngoài miệng, nhưng hôm nay chàng không những nói ra mà còn nói đến chân thành tha thiết như vầy.

A Bảo đang tính đùa vui một hai câu ghẹo chàng như thường ngày, bỗng nhiên sắc mặt nghiêm túc, chỉ về phía trước nói: “Nhanh! Bắt kịp bà ta!”

“?”

Lương Nguyên Kính quay người lại, thấy nàng chỉ là một phụ nhân lạ mặt đang xách chiếc giỏ tre, có hơi không hiểu: “Vì sao?”

“Ây da⎯ Không kịp giải thích với chàng đâu!”

A Bảo túm lấy ống tay áo của chàng chạy xuống cây cầu.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 53: Nấm mồ



Phụ nhân đi về hướng nam, dần dần ra khỏi Nam Huân Môn ngoại thành hướng về phía ngoại ô.

Mùa đông thành Đông Kinh luôn xám xịt, dù là sáng sớm nhưng sương mù vẫn chưa tan, bao bọc lấy bóng dáng lẻ loi đơn độc của phụ nhân đó, nhìn mờ mờ rất dễ mất dấu.

A Bảo và Lương Nguyên Kính không dám lại gần bà ấy quá, sợ sẽ bị phát hiện. Cứ thế lo lắng đề phòng đuổi theo cả quãng đường, càng đi càng vắng vẻ, cuối cùng phụ nhân dừng lại bên cạnh con đường nhỏ hẻo lánh ít ai lui tới.

“Bà ta tới chỗ này làm gì chứ?” A Bảo tự độc thoại.

“Đi nữa rồi,” Lương Nguyên Kính nghiêng đầu hỏi nàng, “Cần đi theo không?”

“Cần.”

Hình như phụ nhân chỉ dừng lại để phân biệt phương hướng, tiếp theo, bà ấy chọn đi con đường mòn phía bên phải.

Con đường này còn âm u hẻo lánh hơn ban nãy, cỏ dại mọc lan đầy ven đường, bụi gai dày đặc, sương mù bao vây cánh rừng. Tiếng gió càng nghe càng thê lương, cộng thêm âm khí lạnh lẽo chạy từ lòng bàn chân lên đến đỉnh đầu, khiến người ta không rét mà run.

A Bảo dừng lại, nhìn Lương Nguyên Kính, ánh mắt lộ ra nỗi lo lắng.

Cả hai hiện giờ không cần mở miệng cũng có thể hiểu được ý trong mắt đối phương. Lương Nguyên Kính biết nàng lo cho thân thể yếu ớt của chàng không chịu nổi khí lạnh trong rừng, khẽ lắc đầu, bảo bản thân không sao.

Bọn họ tiếp tục theo dõi, chẳng qua dè chừng hơn, còn phải ngừa mấy nhánh cây chỉa chọc trúng, cũng may chưa đi được bao xa, phụ nhân liền ngừng trước cái gò đất nhỏ.

Lương Nguyên Kính chau mày, quan sát xung quanh, thấp giọng nói: “Hình như anh từng tới nơi này.”

“Từng tới?” A Bảo hơi kinh ngạc.

“Ừm, rất quen mắt.”

A Bảo mấp máy môi rất muốn nói gì đó, cuối cùng vẫn không nói ra.

Cả hai nhìn về phụ nhân, chỉ thấy bà ấy đi vòng quanh nhổ cỏ trên gò đất. Cuối cùng cỏ dại được nhổ bỏ sạch sẽ, lúc này giở vải hoa ụp trên giỏ tre, lấy từng đĩa điển tâm theo thứ tự đặt trước gò đất. Sau đó bà ấy thắp hương và nến, tự cầm cây nhang, lạy ba lạy xong quỳ xuống đốt giấy tiền.

Lương Nguyên Kính vỡ lẽ: “Thì ra bà ấy ra khỏi thành để thăm mộ…”

Nói được một nửa đột nhiên dừng lại, trong đầu xoẹt qua tia sáng, đột nhiên chàng hiểu ra vì sao bọn họ phải bất ngờ đi theo một phụ nhân xa lạ. Chàng trừng lớn đôi mắt, khó tin nổi nhìn lại A Bảo.

A Bảo gật đầu, thần sắc phức tạp nói: “Chàng nghĩ đúng rồi, đó là mộ của em.”

**

Sau khi phụ nhân cúng bái xong rời đi, A Bảo mới cùng Lương Nguyên Kính từ trong rừng rậm đi ra.

Nấm mồ cũng không lớn không cao mấy, hơn nửa phân là do nước mưa làm trôi bớt. Trước mộ cũng không có lập bia, bởi vì được phụ nhân nhổ cỏ nên hiện giờ mới trơ trụi. Nếu có người tạt ngang qua tuyệt đối không đoán được đây là một ngôi mộ, có khi còn coi nó là gò đất thông thường.

Trước mộ rải rác chút tiền vàng bằng giấy chưa đốt xong, A Bảo khom lưng nhặt từng tấm lên, lật qua lật lại xem thử.

“Đốt cái này có tác dụng à? Sao trước giờ em chưa từng nhận được nhỉ?”

Lương Nguyên Kính không trả lời.

Nàng ném giấy tiền đi, phủi phủi bụi dính lên tay, ngồi xuống trước mộ, phụ nhân đã bỏ quên giỏ tre lại, nàng cầm miếng bánh hạch đào tơ vàng lên nếm thử, sau đó thoả mãn nheo mắt: “Ờ, quả nhiên tự tay bà ta làm, vẫn chưa quên khẩu vị của em.”

Lương Nguyên Kính còn đang đi lại xung quanh nấm mồ, bộ dạng hồn bay phách lạc.

A Bảo cầm khối điểm tâm lên đưa cho chàng: “Ăn không?”

“……”

Lương Nguyên Kính không nhận lấy, chỉ nói: “Anh nhớ ra mình tới nơi này hồi nào rồi.”

“Hồi nào?” A Bảo vừa ăn vừa hỏi.

“Tháng chín năm ngoái, anh nhập kinh cùng tiểu sư phụ Giác Minh và Dư lão, bởi vì lộ trình chậm trễ, lúc tới con đường này thì cửa thành đã hạ then chốt, bất đắc dĩ ngủ bên ngoài một đêm, chờ sáng sớm hôm sau mới vào thành.”

Lương Nguyên Kính vu.ốt ve thân cây trước mộ, lẩm bẩm nói: “Anh còn nhớ rõ cây đào này.”

Khối điểm tâm giơ lên, A Bảo ăn không vô nữa, nàng im lặng nghiền nửa miếng bánh thành vụn, đột nhiên hỏi: “Bức hoạ kia, lúc ấy chàng cũng mang theo sao?”

Lương Nguyên Kính dại ra, gật đầu: “Mang theo.”

Ra là thế.

A Bảo cẩn thận suy nghĩ về chuyện gì đã xảy ra.

Khi Lương Nguyên Kính lên đường đã đi ngang qua mộ của nàng, còn ở lại ngủ qua một đêm, nói vậy nàng vẫn còn là cô hồn dã quỷ, hồ đồ bay đi khắp nơi, không biết sao bám vào trong tranh, trên đó còn dính máu của chàng.

Sau đó, cứ thế nàng theo vào thành Đông Kinh, bị nhốt trong hòm xiểng. Thẳng đến ngày xuân nọ nửa năm sau, Dư lão tình cờ mở nó ra, giở cuộn tranh được giấu sâu dưới đáy hòm mới giúp nàng nhìn thấy mặt trời cho tới hôm nay.

Lương Nguyên Kính khuỵu một gối xuống trước mộ, đôi tay run rẩy sờ lên nấm mồ, đầu ngón tay trắng nõn dính chút bùn đất, lún vào kẽ móng tay được cắt gọn gàng.

Chàng mù mịt như có chút không thể tin được, đã tìm hồi lâu rồi cứ như vậy xuất hiện, thậm chí đã ở đây từ sớm, chàng cũng từng gặp qua, vận mệnh trêu ngươi như thế, định sẵn mọi chuyện như thế.

“Lương Nguyên Kính, chàng đừng……”

Đừng đau lòng vì nàng, A Bảo muốn nói những lời này, bởi vì nàng đã chết cho nên đừng thương tâm vì nàng nữa, nhưng nàng cũng chợt nhận ra, nếu cứ nói tiếp chắc sẽ làm chàng đau buồn hơn.

Đáng thương quá, nàng nghĩ, Lương Nguyên Kính đáng thương quá.

Trên đời này có nhiều tiểu nương tử xinh đẹp, hiền lành, hiểu lòng người như vậy, vì sao chàng lại đi thích kẻ đã chết như nàng chứ?

Ngực A Bảo nhói lên, nàng đứng dậy muốn an ủi chàng đôi chút, trên lưng bỗng tê rần, có cục đá nện thẳng vào cột sống của nàng.

Cô cậu là ai? Muốn làm gì hả?!

Càng có nhiều cục đá hơn chọi tới, Lương Nguyên Kính lập tức kéo A Bảo ra phìa sau, chắn trận đá bay lại đây.

A Bảo ngẩn ngơ đứng sau lưng chàng, trong đầu đau nhức, có mảng ánh sáng trắng hiện lên, chỉ cảm thấy tình cảnh này rất quen thuộc, dường như… Thật lâu trước kia, cũng có ai đó ôm nàng vào ngực, cũng dùng sống lưng nghênh đón trận mưa đá như vũ bão…

“A Bảo.”

Khuôn mặt mờ căm của thiếu niên ghé vào trên giường đất, sau lưng bị đá đập đến xanh tím cả mảng, chàng khép chặt quần áo lại, thở dài nhè nhẹ: “Sau này không có tôi và a ca em ở nhà, đừng như vậy nữa, nếu không sẽ bị người ta khi dễ, không ai bảo vệ em được.”

“Anh sẽ không ở đây sao?” Giọng nói nào đó hỏi.

Đây là cái gì?

A Bảo thống khổ gõ đầu, đây là ký ức từ đâu tới?

“Đừng ném nữa… Chúng tôi không phải người xấu,” Lương Nguyên Kính luống cuống tay chân giải thích, “Xin lỗi nhưng tôi không hiểu ngôn ngữ của người câm điếc, bà đang nói gì…”

“Bà ta đang nói chúng ta ‘mau cút đi’.”

A Bảo đi ra từ sau lưng chàng, ánh mắt bình tĩnh nói với phụ nhân: “Đã lâu không gặp, còn nhớ rõ ta không?”

Cục đá chuẩn bị ném rơi xuống, phụ nhân trợn mắt há hốc mồm nhìn ngược lại nàng.

**

“Hiện giờ bà không làm việc trong cung nữa à?” A Bảo hỏi.

Ngô thị gật gật đầu, làm dấu tay bảo: Sau khi cô chết, qua mấy ngày sau tôi bị trục xuất khỏi đại nội.

“……”

Cô của trước kia không giống với lúc lớn.

“Ừm,” A Bảo sờ lên mặt mình, “Vẽ đó.”

Vẽ?

Vẻ mặt Ngô thị không hiểu gì.

A Bảo cười cười: “Chẳng phải bà nên hỏi làm sao ta còn sống à?”

Còn sống thì tốt. – Ngô thị khoa tay múa chân nói.

A Bảo mỉm cười: “Quả nhiên, bà vẫn y như trước kia.”

Lần đầu tiên Ngô thị bị phái đến hầu hạ nàng, A Bảo cảm thấy cung nhân câm này rất kỳ lạ, không giống ai cả. Bà ấy chỉ gọi nàng là ‘cô’ chứ không phải ‘nương nương’.

Tuy khi đó A Bảo đã bị tước đi phong hào Hoàng hậu, biếm thành thứ dân, nhưng dù sao cũng là chủ tử nên vẫn phải có tôn ti trên dưới. Mà Ngô thị lại không coi nàng như chủ tử, cũng không tra tấn nàng, ngược lại còn chăm sóc nàng rất tốt.

Đồ ăn lãnh cung không phải do ngự trù trong cung đưa tới, phải tự làm tự ăn, ba bữa mỗi ngày của nàng đều do Ngô thị nấu. A Bảo bị bệnh khẩu vị không tốt lắm, một chén cơm ăn không quá hai miếng, Ngô thị biết nàng thích ăn bánh, còn cố ý học làm cho nàng ăn.

Mấy lần A Bảo phát sốt cao, nóng đến mê mang đều nhờ Ngô thị thức trắng đêm chăm coi bên cạnh, dùng khăn ấm lau mồ hôi thay nàng. Nếu không có bà ấy, có lẽ không cần đợi phải thắt cổ tự vẫn, A Bảo sẽ dễ dàng mất mạng ngay trên giường bệnh.

Bởi thế dù biết Ngô thị là người của Triệu Tòng, nội tâm A Bảo vẫn thấy rất cảm kích bà.

“Mấy năm nay, bà vẫn hay tới cúng bái ta à?” A Bảo hỏi.

Phải.

“Làm sao bà biết ta được chôn ở đây?”

Tư Thiên Giám không chép lại vị trí lăng tẩm của nàng, chỉ có điều… Chỗ này không như vị trí Tư Thiên Giám chọn ra là được rồi.

A Bảo nhìn bốn phía chung quanh, hoài nghi kẻ chôn nàng chỉ chọn bừa bãi đất trống, đào cái hố xong chôn nàng xuống, đâu xứng để gọi là ‘lăng tẩm’. So với mộ hoang vùng nông thôn cũng không khác biệt là mấy, còn tốt hơn phơi thây ở bãi tha ma hoang vu.

Ngô thị khoa tay múa chân – Tôi hỏi Phùng Ích Toàn, ông ta nói cho tôi biết.

A Bảo nhíu mày: “Cho nên đúng là ông ta phụ trách chuyện chôn cất ta à?”

Ngô thị gật đầu: Ngày ấy cô treo cổ tự sát, một khắc cuối cùng quan gia mới đuổi kịp nhưng vẫn muộn màng, Phùng Ích Toàn kiểm tra hơi thở, Tiết mỹ nhân cũng…

“Hoàng hậu,” A Bảo sửa cho đúng, “Hiện tại người ta là Hoàng hậu.”

Đều nói cô ngừng thở rồi, quan gia ôm cô vào trong ngực, không chịu buông tay, luôn miệng nói cô còn hơi thở, cô còn sống, ánh mắt dại ra, nói năng lung tung, nhìn như…

Bà ấy khoa tay múa chân được phân nửa thì ngừng lại, như có lời gì khó nói ra khỏi miệng.

Ngô thị tiếp tục khoa tay múa chân – Tiết mỹ nhân……

“Hoàng hậu.” A Bảo không chê phiền nhắc lại.

Cô ấy sợ quan gia xảy ra chuyện nên dỗ quan gia buông tay, Phùng Ích Toàn nhân cơ hội phái người khiêng xác cô xuống. Xong việc Tiết… Cô ấy triệu tập chúng tôi lại một chỗ, tuyên bố hạ táng cô ngay lập tức, sẽ do Phùng Ích Toàn xử lý. Tôi bị nhốt trong thiên điện, ba ngày sau mới được thả ra, Tiết… Cô ấy cho tôi ít bạc, tống cổ tôi ra khỏi cung, còn những cung nhân khác có giống như tôi không thì tôi không rõ lắm.

A Bảo gật gù, đại khái như hiểu rõ tình hình ngày ấy.

Nàng chết quá đột ngột, còn hay làm trò trước mặt Triệu Tòng, cho dù hắn có đau lòng hay không, ít nhất… Nhất định là không kịp trở tay.

Mà hoàng tộc Triệu thị hình như có chứng rối loạn tâm thần gia truyền. Nghe nói năm xưa lúc Thái Tổ hấp hối, cũng thường hay bừng tỉnh từ trong mơ, sau đó nói năng lung tung, Thái Tông hoàng đế cũng như thế.

Nếu nói điển hình nhất của chứng bệnh này, tất nhiên phải nói đến phế Thái Tử năm xưa.

Hữu An năm thứ bảy, tình trạng điên khùng của phế Thái tử còn vô cùng rõ ràng, một ngày nọ, do y không chịu nổi bị quân phụ quở trách nên đã cởi hết quần áo trước mặt mọi người. Người ngợm tr.ần tru.ồng chạy như điên trong cấm đình, rất nhiều người sơ tới mức biến sắc, cũng là lúc hoàng thất bị gièm pha nặng nề nhất.

Long thể Hoàng đế liên quan đến vận mệnh của quốc gia, đột nhiên Triệu Tòng rối loạn thần kinh trước mặt cung nhân nội thị, không khỏi làm người ta liên tưởng đến vị huynh trưởng kia của hắn. Một khi chuyện này truyền ra bên ngoài, tuyệt đối sẽ lung lay cơ nghiệp chuyện hệ trọng của Đại Trần, khó mà tránh khỏi việc đảo chính.

Đầu tiên Tiết Hành nhốt người hầu lại, phong bế mồm miệng họ xong, tránh để tin tức tiết lộ ra ngoài, đây là cách xử trí vô cùng hợp lý.

Đến nỗi chôn cất nàng ngay tức khắc, còn là vì tránh cho đêm dài lắm mộng. Đỡ để Triệu Tòng sau khi tỉnh táo lại tìm kiếm thi thể của nàng, bí mật tiến hành đám tang, tránh kích động đến Triệu Tòng đang thần kinh suy nhược…

Khoan đã, không đúng lắm.

“Tin ta chết chẳng phải đến tháng mười mới công bố sao?”

Phải – Ngô thị gật đầu, Nhưng đúng là xác của cô cũng được hạ táng ngay trong ngày.

Khó trách mộ phần được cất qua loa như vậy, chỉ chọn chỗ núi rừng hoang vắng, đúng là đã đào bừa cái hố chôn nàng ngay, e là ngay cả ‘Tiểu liệm’ [1] cũng không có?

[1] Nghi lễ này bao gồm tắm rửa cho người chết, mặc quần áo, đắp chăn, v.v. Việc đặt người chết vào quan tài mà không phủ chăn được gọi là tiểu liệm. (theo Baidu)

A Bảo thở dài, nói: “Thôi đi, không nói chuyện đen đủi này nữa, nói về bà đi, hiện giờ bà đang ở đâu?”

Nhà con trai.

A Bảo biết bà ấy có đứa con trai, hồi trước suốt ngày ở trong lãnh cung nhàm chán nên chỉ có thể nói chuyện cùng người câm. Tuy bà ấy nói không nhiều lắm, có lúc còn vờ như không nghe thấy, nhưng A Bảo vẫn cạy miệng bà nói ra chuyện con trai, còn biết y đã thành thân nữa.

Ở cùng con dâu, nói vậy chắc sẽ không quá thoải mái rồi.

A Bảo thấy áo quần bà ấy cũ kỹ, áo ngoài còn dính vụn bánh thừa, búi tóc không có món trang sức nào, chỉ dùng cái khăn vải buộc gọn, bên tóc mai có vài sợi bạc màu. Sợ là sống không khá là bao.

A Bảo quay đầu lại nhìn, thấy Lương Nguyên Kính đang ngồi trên mộ phần của nàng, ôm mô hạ lạc thất thần suy nghĩ, ánh mặt trời đông ấm áp rọi lên đầu vai, càng làm nổi bật mặt mày như quan ngọc [2] của chàng, tuấn nhã đến cực điểm.

[2] Ngọc trang sức trên mũ. Thường chỉ đàn ông có dung mạo đẹp.

A Bảo vẫy tay với chàng, chàng thoáng trông thấy liền đứng dậy đi tới.

“Đưa túi tiền đây.”

Lương Nguyên Kính lấy túi tiền từ trong tay áo ra đưa nàng.

A Bảo đổ tiền bên trong ra đếm đếm, ngoại trừ mấy chục đồng tiền ra còn có vài lượng bạc vụn, nàng cất tiền vào lại xong đưa hết toàn bộ nó cho Ngô thị.

Ngô thị xua tay chối từ, bị A Bảo hung hăng trừng mắt: “Bà có lấy không đây? Không lấy chính là coi thường ta!”

Ngô thị đành nhận tiền, miệng ‘a a’ vài tiếng, là nói lời cảm ơn với nàng.

A Bảo lại hỏi: “Trong nhà có cháu chiếc gì chưa?”

Ngô thị gật đầu, giơ số bốn, tức là 4 tuổi.

“Vừa hay.”

A Bảo vươn tay, không cần mở miệng, Lương Nguyên Kính đã đưa mô hạ lạc trong tay cho nàng.

A Bảo lướt nhìn, nói: “Bé trai đi.”

Lương Nguyên Kính lấy cái trong tay nàng ra, đôi thành tiểu lang quân múa giáo.

A Bảo đưa mô hạ lạc cho Ngô thị: “Món đồ nhỏ không đáng giá bao nhiêu, đem về cho cháu bà chơi đi. Hiện giờ ta đang ở chùa Đại Tướng Quốc, sau này nếu bà có gặp chuyện gì khó xử cứ đến đó tìm ta, nếu ta… Không còn nữa, cũng có thể tới đó báo danh Lương công tử, tiểu sa di trong chùa đều biết chàng.”

Ngô thị cầm mô hạ lạc, nhìn về Lương Nguyên Kính đã lẳng lặng rời đi, mặt mũi cười tủm tỉm, khoa tay múa chân tiếp – Cô tìm được bến đỗ của mình rồi.

“Bà nói chàng á?” A Bảo quay đầu nhìn hướng ngược lại, “Chàng là quan nhân của ta.”

Dứt lời, lại cúi đầu cười: “Là một tên ngốc.”

Ngô thị: Rất hợp với cô.

Lần này A Bảo không kịp nói đã ngay trước ánh mắt kinh hoàng của Ngô thị, thân thể dần dần trở nên trong suốt, hoá thành vong hồn.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 54: Mở nắp quan tài



27 tháng chạp là ngày thích hợp để tắm rửa, tế lễ, nhập liệm, dời mộ và cởi bỏ tang phục.

A Bảo, Lương Nguyên Kính, Giác Minh hoà thượng và Lý Hùng đi đến ngoại ô phía nam, sau khi tiến hành nghi thức cúng bái đơn giản, Lý Hùng vung xẻng xúc đất, ở một bên là hòa thượng đang chắp tay hành lễ, tụng niệm ⟪Kinh Địa Tạng⟫.

Nấm mồ càng đào càng sâu, càng đi xuống lớp đất càng ẩm ướt, hơn nữa còn nhoè ra màu đỏ thẫm y như máu.

Giác Minh nhìn mà mi tâm nhíu chặt.

Từ lúc vào sâu trong cánh rừng, y đã cảm thấy có gì đó không ổn, tựa như có thứ vô hình nào đó đang ngấm ngầm quấy nhiễu làm y rất đỗi không thoải mái.

Lý Hùng tiếp tục đào, bỗng nhiên ánh mắt xác định, dừng xẻng trên tay, nhảy vào hố chôn, dùng bàn tay lau đi lớp đất mỏng manh, góc quan tài hiện rõ ra trước mắt.

Anh ngẩng đầu nói với mọi người đang chờ ở phía trên: “Tìm được rồi.”

Ba nam nhân cùng nhau hợp sức nâng nó lên, cỗ quan tài cũng không quá nặng, chất liệu làm từ gỗ bách trơn không có lớp nước sơn, những chỗ không dính đất còn lộ ra mặt gỗ trắng bóc.

Cũng chính vì không có lớp sơn bảo quản, mức độ mục nát khá nghiêm trọng, thanh đỡ bên dưới quan tài bị mối mọt ăn rỗng, chỉ cần đụng nhẹ sẽ vỡ tan thành từng mảnh, có thể nhìn ra trước lúc hạ táng có bao nhiêu phần hấp tấp.

Lý Hùng thấy thế, đỏ mắt giậm chân mắng to, ngay cả nhà nghèo vùng nông thôn cũng không cẩu thả đến mức này, quả thật là không tôn trọng người đã khuất, đáng bị thiên lôi trừng phạt.

Giác Minh hoà thượng cũng thương xót, chắp tay thở dài: “A di đà phật.”

“A ca, đừng mắng nữa.”

A Bảo che mắt bất lực nói.

Lương Nguyên Kính chưa nói lời nào, chàng rũ mắt, khẽ vuốt quan tài, thần sắc mờ nhạt, chỉ có ngón tay hơi run rẩy nhẹ.

Sau một lúc lâu, chàng xen ngang lời mắng nhiếc tuôn trào của Lý Hùng: “Lý huynh, mở quan tài ra đi.”

Nắp quan tài có chín cây đinh bị rỉ sét, Lý Hùng không cần cố quá nhiều sức đã cạy đinh ra xong.

Từng cây đinh sắt đen rơi xuống, bỗng nhiên A Bảo sợ phải đối diện với nó, nàng không muốn Lương Nguyên Kính nhìn thấy xác chết của mình, nhỡ đâu quá khó coi thì làm sao đây?

Nàng đã chết ba năm, hẳn nó đã thối rữa thành bộ xương khô rồi? Nhỡ đâu mai sau nàng không còn nữa, mỗi lần Lương Nguyên Kính nhớ tới nàng sẽ nhớ luôn bộ dạng xương khô trắng bệch này thì sao?

“Lương Nguyên Kính, chàng…”

A Bảo dịch đến trước người chàng, đang tính khuyên chàng đừng nhìn, lại trông thấy chàng bất thình lình mở to hai mắt, sắc mặt đột ngột biến đổi.

Làm sao vậy?

A Bảo không hiểu được, sau lưng lại vang lên tiếng gào khóc như dã thú.

“A Bảo à ⎯⎯”

Lý Hùng nhào tới mở quan tài ra, gân cổ sụp đổ khóc lớn: “A Bảo của anh! Những kẻ dùng ngàn đao giết người đó, sao bọn chúng có thể đối xử với em như vậy hả ⎯⎯”

A Bảo xoay người, khó tin nổi lùi về sau nửa bước.

Bề mặt nắp quan tài được mở ra có những vết xước do móng tay cào cấu hằn sâu vào gỗ tận ba phân, trong lớp gỗ còn có mảnh móng tay đứt gãy lẫn vết máu loang lổ. Bên trong quan tài, bộ xương trắng nằm co quắp vặn vẹo thành loại tư thế rất quỷ dị, dường như trước khi chết người này đã phải thống khổ biết bao nhiêu.

Hoá ra, nàng chết không phải do thắt cổ tự vẫn.

Ngày ấy Triệu Tòng ôm nàng vào lòng, nói nàng còn hơi thở, nói nàng còn sống đều là sự thật chứ không phải do hắn rối loạn thần kinh nên mới nói sảng.

Hoá ra, nàng bị nhốt trong cỗ quan tài tối đen này, còn sống bị ngộp cho đến chết.

“Đùng đoàng ⎯⎯”

Tiếng sấm ầm vang, thoáng chốc gió giục mây vần, trời đất đổi màu, cuối cùng trận mưa to giá rét đầu năm cũng giáng xuống, mưa rào tầm tã xối ướt cả ba người có mặt tại nơi đây, chẳng ai nói câu nào, nước mưa dứt khoát trôi sạch lớp đất.

Lương Nguyên Kính mặt mày trắng bệch, nước mưa chảy từ mặt chàng xuống tới cổ, chàng gắt gao nắm chặt thành quyền, cắn siết hàm răng, đôi mắt đỏ ngầu, đột nhiên xoay người lớn tiếng chất vấn A Bảo: “Chẳng phải em nói mình treo cổ tự vẫn à? Chuyện này là sao? Rốt cuộc làm sao mà em chết hả?”

“Em… Em không biết.”

A Bảo bị chàng dọa sợ tới mức cuống quít lắc đầu, không khỏi kinh hãi lùi bước, “Em không biết… Đừng hỏi em, em không biết… Em không biết mà!”

Nàng không biết!

Đừng hỏi nàng! Nàng không biết gì hết!

Không biết mà!

A Bảo bịt tai liên tục lắc đầu, chỉ là có thứ gì đó quả quyết bay vào trong trí óc nàng.

Đó là một mảnh đen u tối, rất tối, tối đến mức không nhìn thấy năm ngón tay xoè ra.

“Có ai không ⎯⎯”

Nàng liều mạng vỗ vào quan tài nhưng chỉ nghe thấy tiếng đóng đinh.

“Đừng mà ⎯⎯ Ta còn sống ⎯⎯”

Nàng kêu, nhưng lại không ai trả lời.

Nắp quan tài từng tấc từng tấc khép kín, tước đi tia sáng cuối cùng, không khí càng lúc càng loãng, nàng há miệng hít thở, mười ngón tay cào loạn trên nắp quan tài, móng tay đứt gãy, máu tươi đầm đìa.

Đau! Đau quá!

“Triệu Tòng……” Nàng gọi.

“A ca…” Nàng tuyệt vọng khóc lóc, “Cầu xin mấy người… Ai đó tới cứu ta đi?”

Không có ai hết.

Sẽ không có ai đến cứu nàng, cuối cùng không khí tan biến sạch sẽ, quan tài bịt kín, nàng đau khổ giãy giụa, run lẩy bẩy, hai chân đạp loạn, ngón tay cào cấu chảy máu, nhãn cầu lồi ra, khoảnh khắc gần chết, nàng bộc phát tiếng thét chói tai thê lương nhất đời mình.

“A a a a a a ⎯⎯”

Tại sao?

Tại sao lại đối xử với nàng như vậy?

Rốt cuộc nàng đã làm gì sai hả?! Triệu Tòng! Tiết Hành! Chúc An! Phùng Ích Toàn!

Tất cả những kẻ trong thiên hạ này! Nàng muốn bọn họ không! Được! Chết! Tử! Tế!

“A a a a a a!”

“Nương tử ⎯⎯”

Tiếng gió chung quanh gào thét, cát bay đá lăn, thân cây gần chỗ Lý Hùng nhất đã bị gió to quật ngã.

Lương Nguyên Kính nằm trên mặt đất, tai mũi chảy máu, đầu ngón tay lún sâu, kiệt sức ngẩng đầu la to: “A Bảo, đừng ⎯⎯”

Thất khiếu* Giác Minh hoà thượng cũng đổ máu, từng trận gió to quét tới, y cắm sâu thiền trượng trong tay xuống đất, hô lên: “Cầm lấy!”

Lương Nguyên Kính ôm thiền trượng mới không đến mức bị gió cuốn đi.

Giác Minh lại la lên: “Đưa Phật châu cho tôi!”

“Cậu muốn làm gì?” Lương Nguyên Kính che cổ tay, “Đừng tổn thương nàng!”

Giác Minh giận sôi máu, quát lớn: “Cậu mở to mắt lên mà nhìn ⎯⎯ Kia không phải là nương tử của cậu đâu! Cô ấy đã nhập ma rồi!”

Lương Nguyên Kính mù mịt nhìn lại, A Bảo vẫn đang gào thét, hồn phách của nàng chẳng còn trong suốt nữa mà đã biến thành một màu đen, oán khí rõ rệt như thế, ngay cả đạo hạnh chưa thông như Giác Minh hoà thượng còn nhìn thấy được, khói đen lành lạnh lượn lờ, dường như có đôi mắt đỏ sẫm hiện ra, hệt như Tu La khát máu trong đêm tối.

“Cậu ⎯⎯”

Giác Minh không biết nên nói với chàng như nào mới phải.

Trời còn đổ mưa to, nước mưa bị gió cuốn cho nghiêng ngả, mây đen che kín ánh mặt trời, sấm sét ầm ầm, như thể tất cả mây đen của thành Đông Kinh đều giăng kết ngay trên đầu bọn họ. Mây đen tụ thành xoáy nước, tạo thành tâm điểm giông bão, đột nhiên, tia sét tím đánh xuống như lưỡi roi khổng lồ quất tới, nháy mắt đã chém cây đào bên mộ gãy ra làm đôi, vỏ cây bị cháy cho đen xém.

“A a a a a a a ⎯⎯”

Trong làn khói đen một lần nữa phát ra tiếng nữ nhân kêu thảm thiết đau khổ tột cùng, khói đen tích tụ lại nhiều hơn, biến thành hình người đang giơ nanh múa vuốt.

“Mau đưa cho tôi!”

Giác Minh cả giận quay đầu: “Không đưa, cô ấy sẽ bị thiên lôi đánh cho tan thành mây khói đó!”

Lương Nguyên Kính đờ đẫn, chàng không dám chậm trễ nữa, lập tức tháo Phật châu trên cổ tay xuống đưa cho y.

Giác Minh chắp tay niệm Phật hiệu, ngay sau đó giật đứt Phật châu, bảy viên bảo châu loá ra Phật quang, tung bay giữa không trung.

Giác Minh khoanh chân ngồi xuống tại chỗ, đôi tay bắt ấn*, nhắm mắt tụng kinh, Phật châu xoay tròn tạo thành hình chữ ‘Vạn卐’ màu vàng lao về làn khói đen, bao vây nó như sợi dây thừng, càng trói càng chặt. Làn khói đen giãy giụa, điên cuồng vật lộn, đồng thời cũng phát ra tiếng kêu thảm thiết chói tai.

Lương Nguyên Kính cảm thấy xương ngực đau nhói, miệng phụt ra ngụm máu đen, nhưng chàng vẫn cắn răng chịu đựng không để mình ngất xỉu.

“Nương tử……”

Chàng run rẩy vươn đầu ngón tay muốn chạm vào người nọ, dù chỉ là một góc váy, “A Bảo… Đừng thành ma…”

Tiếng hét tựa hồ ngưng trệ đôi chút, gió lốc chung quanh yên tĩnh lại.

Ngay sau đó, Phật quang bùng cháy, cuồng phong nổi dậy, tiếng hét vang lên lần nữa, làn khói đen bất ngờ tăng vọt, lần này như muốn phá tan kết giới của bảy viên Phật châu.

“Tiếp tục đi!”

Giác Minh phun ra ngụm máu, hô to trong gió lốc: “Tiểu hữu Nguyên Kính! Nói chuyện với cô ấy tiếp đi! Đừng dừng lại! Hình như cô ấy chịu nghe lời cậu nói!”

Lương Nguyên Kính sửng sốt, mặt mày rủ xuống, máu tươi đỏ thẫm liên tục tuôn trào nơi khóe mắt, như giọt lệ càng tôn lên sắc mặt trắng bệch của chàng đây, thoạt nhìn có vẻ vừa xinh đẹp vừa ma mị.

Một lát sau, trong tiếng gào thét thê lương của nữ nhân vang lên tiếng hát trầm ấm của người thanh niên.

“Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời.”

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi.”

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [1]

[1] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.

Dưới tiếng ca ấy, nữ quỷ thành ma an tĩnh lạ thường, bảy viên Phật châu bay quanh nàng, trong tầng sương đen dày đặc mơ hồ trông thấy sườn mặt biến dạng của nữ nhân hơi hơi ngẩng dậy, tựa như đang trầm ngâm lắng nghe.

Mưa gió bay xa, trời đất yên tĩnh, chỉ còn lại giọng ca ấm áp.

Sắc trời sầm tối, duy nhất pháp thân Giác Minh lại toả ra Phật quang kim sắc như đèn sáng dẫn lối trong đêm đen, hai mắt y khép hờ, tăng bào bị gió lớn thổi phồng, miệng chảy máu tươi, tiếp tục chắp tay tụng niệm kinh Phật.

Bỗng nhiên, y mở mắt ra, dừng việc tụng kinh lại, đứng dậy rút thiền trượng dựng thẳng trước ngực, bổ trượng xuống gầm lên: “Khổ ải vô biên, quay đầu là bờ. Tiểu nương tử A Bảo, xuất ma! Xuất ⎯⎯”

Phật quang của kim cương* thiền trượng bừng sáng, biến thành cây đại bổng to bằng miệng chén, mang theo sức mạnh ngàn cân có thể dời non lấp bể khiến xung quanh trở nên tĩnh mịch, yên lặng đến đáng sợ.

“Nương tử……”

Lương Nguyên Kính bò dậy từ trên mặt đất, chưa kịp lau khô máu trên mặt đã tìm kiếm khắp nơi.

“Nương tử, em ở đâu?”

“A Bảo ⎯⎯”

“Em đang ở đâu?”

Chàng kiệt sức ngã quỵ xuống đất, bả vai run rẩy, hai tay ôm mặt, từng giọt lệ nóng chảy dài qua từng kẽ hở ngón tay.

“Ở đây.”

Giọng nữ thân thuộc vang lên từ sau lưng.

Lương Nguyên Kính quay đầu lại, chàng thấy A Bảo tóc đen xoã dài mặc bộ váy đỏ hồng, giữa trán có vệt đen chỉ dọc, nàng lẳng lặng đứng đó như lần gặp nhau dưới núi Thanh Thành.

**

* Thất khiếu: hai tai; hai mắt; hai lổ mũi và miệng.

* Bắt ấn hay còn gọi là kết ấn, nghĩa là tác động vào đầu ngón tay, hoặc các gốc của ngón tay để kích hoạt những huyệt ở vùng đỉnh đầu hoặc vùng xương cùng, hai khu vực thu xả và giao hòa giữa nội khí của cơ thể với thiên khí hoặc địa khí của vũ trụ bên ngoài. Tư thế tay thể hiện hạnh nguyện, nguyện lực của các vị Phật, Bồ Tát. Tư thế đó có được do tu thân, tu khẩu, tu ý mà ra. Tư thế đó thể hiện cho hạnh nguyện và phương pháp độ sinh của chư Phật. (nguồn buddhistart)

* Kim cương chử hay chày kim cương (tiếng Phạn: वज्र – vajra) là một trong những biểu tượng quan trọng của Phật giáo và Ấn Độ giáo. Đây là một pháp khí có tính chất cứng rắn của kim cương, có thể cắt mọi vật thể khác mà không vật thể nào cắt được nó, đồng thời, nó có thêm sức mạnh vô địch của sấm sét. Do vậy, nó là biểu tượng cho tinh thần kiên định và uy lực tâm linh. (wikipedia)
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 55: Hoa đăng



28 tháng chạp, hài cốt của A Bảo được di dời sang cỗ quan tài làm bằng gỗ lim tốt, đặt ở trong Phật đường chùa Đại Tướng Quốc, có ba mươi sáu tăng nhân mỗi sớm mỗi tối tụng niệm ⟪Kinh Vãng Sanh⟫ một lần giúp nàng siêu độ.

Trong thiền thất hậu viện, Giác Minh hoà thượng giao vòng chuỗi lại cho Thủ Chân đại sư, bảy viên Phật châu đều có tổn hại lớn nhỏ. Nghiêm trọng nhất là xá lợi tử của cao tăng nọ có vết rách hơi nhỏ, Thủ Chân nâng trong lòng bàn tay, chỉ nắm nhè nhẹ vòng đã hóa thành bụi mịn.

Cụ đổ bụi từ lòng bàn tay vào lư hương, sắc mặt trang nghiêm nói: “Đột tử, còn trong quan tài cực âm, sát khí nặng nề nhất, e rằng phải làm đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày pháp sự mới khử sạch lệ khí.”

Giác Minh ngồi quỳ trên đệm hương bồ sau cụ, gật đầu cung kính đáp ‘Dạ’, y mới phục hồi lại từ lần đuổi ma hôm qua, nguyên khí thương tổn lớn, màu môi tái nhợt, cũng không còn thần thái sáng láng như ngày thường.

Thủ Chân trầm ngâm: “Chùa Tướng Quốc không được.”

Chùa Tướng Quốc quá gần phố phường, hồng trần lẫn lộn, đích thật không thích hợp dùng làm đạo tràng*.

Giác Minh ngẫm nghĩ: “Ngoài cửa Phong Châu kinh thành có ngọn núi vạn năm, trên núi có chùa Sùng Ninh, ngày thường hương khói không thịnh, ít người ghé thăm.”

Thủ Chân ngầm đồng ý với đề nghị này.

Giác Minh lại có hơi do dự, chợt hỏi: “Sư phụ ơi, tiểu hữu kia của đệ tử…”

Thủ Chân đánh gãy lời y: “Trong lòng con sớm có kết luận.”

Tiếng gõ mõ vang lên trong thiền thất, Giác Minh lặng lẽ lui xuống.

Thực tình, trong lòng y sao mà không biết được đây?

Tiểu hữu Nguyên Kính là nguyên nhân lớn nhất khiến tiểu nương tử A Bảo ở lại thế gian này. Hiện giờ A Bảo đã có dấu hiệu nhập ma, nếu muốn loại trừ oán khi trong lòng nàng, tiểu hữu Nguyên Kính không thể gặp lại nàng nữa. Sở dĩ y hỏi sư phụ, cũng chỉ vì quá đáng thương cho lòng si mê này của bằng hữu tốt.

Chữ ‘tình’, từ xưa đến nay, đều mang theo đau khổ.

Mưa trên lá chuối tây, Giác Minh hoà thượng đứng dưới hiên, phát ra tiếng thở dài nhỏ khó nghe thấy.

**

Lúc Lương Nguyên Kính tỉnh lại, đã không thấy bóng dáng A Bảo đâu.

Từ hôm qua sau khi nàng nhập ma, liên hệ giữa bọn họ bị cắt đứt, nàng không cần ở bên cạnh chàng trong phạm vi năm trượng nữa.

Lương Nguyên Kính xỏ giày xuống giường, che ô vải dầu tìm khắp nơi trong chùa, cuối cùng cũng thấy được nàng trên gác chuông phía đông Văn Thù Viện.

A Bảo ôm đầu gối ngồi trên ngói lưu ly xanh lơ, nhìn cơn mưa phùn không ngớt phía chân trời.

Lương Nguyên Kính thu ô, xách quần áo lên lầu, hiện giờ thân thể chàng suy nhược, cứ ba bước chân phải tạm dừng nghỉ ngơi. Đợi lên đến gác chuông, tấm lưng đã đổ đầy mồ hôi lạnh.

Chuông đồng chùa Đại Tướng Quốc cao tầm tám thước, nặng hơn vạn cân, bề mặt có mười sáu chữ ‘Hoàng đồ củng cố, đế đạo hà xương, Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển’*, do các nghệ nhân đúc vào năm Thái Tổ tại vị, vốn dùng để đánh thức cư dân thành Đông Kinh, hiện giờ không cần nữa nên chuông đã phủ lớp màu xanh lục.

“A Bảo ơi.” Chàng nhẹ tiếng gọi.

“Chàng không nên tới đây.”

Qua hồi lâu, đỉnh gác chuông truyền đến giọng nữ lãnh đạm, pha lẫn trong tiếng mưa rơi tí tách, hư ảo tựa hồ chẳng nghe thấy gì.

“Vào trong thôi,” Lương Nguyên Kính nói, “Trời đang mưa.”

“Thì có sao? Quỷ hồn sẽ không bị mưa xối.”

A Bảo từ ngói lưu ly bay xuống, ngừng giữa không trung. Nàng mặc bộ váy đỏ, tóc dài xoã tung, vệt đen giữa mày hiện rõ rệt, sát khí quanh thân trở nên nặng nề, mưa bụi bay tán loạn đều tránh né nàng.

Lương Nguyên Kính cầm lòng không đậu vươn tay muốn chạm vào nàng, nháy mắt nàng lại lùi thật xa về sau.

“Quay về đi, bên ngoài lạnh.”

A Bảo nói xong liền xoay người bay vào tầng mây.

Lương Nguyên Kính vịn tay ngóng trông xa xăm, chỉ thấy mỗi trời đất mưa phùn ào ào, trắng toát cả mảng. Thành Đông Kinh được bao phủ trong mưa bụi mông lung, chưa từng gặp lại bóng hồng xinh đẹp kia nữa.

“A Bảo……” Chàng thì thào gọi.

**

30 tháng chạp, giao thừa tuổi mới.

Ngày này, trong cung cấm sẽ cử hành nghi lễ lớn rước thần đuổi tà. Các quan thân sự của hoàng đế sẽ ban cấm quân đeo mặt nạ, mặc áo giáp, tay cầm giáo vàng kích bạc, cờ rồng ngũ sắc, cùng các đào kép Giáo Phường Ty hoá thân thành Phán Quan, Tiểu Muội Chung Quỳ, Táo Quân, Thổ Địa, Ngũ Phương Quỷ Sứ, vừa đi vừa đánh trống từ cung đình đến Đông Hoa Môn, theo đoàn lớn hoành tráng rầm rộ đi tiếp ra Nam Huân Môn, đến vùng Chuyển Long Loan xua đuổi tà ma xong quay về.

Ban đêm, tiếng pháo trúc nổ liên miên, khắp đường làng đều nghe thấy.

Sĩ thứ kinh thành quây quần bên lò lửa cho đến giờ Tý mới thôi, gọi là ‘đón Giao Thừa.’

Tại ngay thời khắc náo nhiệt nhất trong năm, linh cữu của A Bảo ra khỏi Phong Khâu Môn phía bắc thành, đi về hướng núi Vạn Tuế.

Nàng khoanh chân ngồi trên nắp quan tài chính mình, phía trước là ba mươi sáu tăng ni tụng kinh cho nàng. Dẫn đầu là Thủ Chân đại sư khoác áo cà sa đỏ vàng, tay cầm chuông kim cang*, bảy bước lắc chuông một lần, Giác Minh hoà thượng tay cầm cờ dẫn hồn hộ pháp cho nàng.

Ca ca Lý Hùng mặc áo tang, đã khóc đến hai mắt sưng to rõ rệt. Anh rải tiền giấy, cứ vài bước chân sẽ hô lên một tiếng “A Bảo, hồn về”, giọng nói khàn đặc nghẹn ngào khó nghe.

Đằng sau linh cữu còn có bảy mươi hai tăng nhân đưa tang, vừa tròn số ‘108’*. Ở sau cùng đội ngũ, là Lương Nguyên Kính đi theo từ xa xa.

“Quay về đi… Ngốc ạ.” A Bảo nhẹ giọng nói.

Đội ngũ đi đến chân núi Vạn Tuế, Giác Minh hoà thượng lại gần Lương Nguyên Kính, ánh mắt thương xót, khẽ khuyên nhủ chàng: “Đưa đến đây thôi.”

Lương Nguyên Kính giật mình hồi lâu, cuối cùng đáp: “Được.”

Chàng dừng lại ngay chân núi, ngóng theo chúng tăng nâng quan tài đi lên núi, ánh nến đèn lồng chiếu sáng núi rừng tĩnh lặng. Bóng hồng nọ ngồi trên nắp quan tài, từ đầu đến cuối chưa từng quay đầu lại.

**

Mùng một tháng giêng, năm Vĩnh Ninh thứ tư.

Pháp sự an hồn A Bảo chính thức cử hành trong chùa Sùng Ninh, linh cữu nàng được đặt trong bảo điện Phật Di Lặc. Từ Thủ Chân đại sư dẫn dắt Giác Minh hoà thượng, lẫn 108 tăng nhân, ngày đêm tụng niệm kinh vãng sanh, đàn hương trong điện lượn lờ, tiếng gõ mõ suốt đêm chẳng ngừng.

Mấy ngày trôi qua, oán khí quanh người A Bảo quả nhiên có tiêu giảm, nóng nảy trong lòng giảm xuống, bên tai không còn nghe thấy tiếng mời gọi đánh giết nữa, vệt đen chỉ dọc giữa mày phai mờ hơn so với trước.

Mùng tám tháng giêng, Lý Hùng lên tới núi, mang theo túi bánh mật nhà Vương bà bà, linh vị thờ cúng trước kia của nàng, còn đốt cháy quyển tranh cuộn vào chậu than.

Song, A Bảo ngồi trên tháp Phật sau núi ngắm nhìn phong cảnh thu được một bức hoạ.

Trong tranh là xe giá cấm quân binh sĩ diễn tập cho đại lễ long trọng hằng năm, trước xe có bảy con voi, vệ sĩ cưỡi voi mặc áo tím, đội khăn chít đầu, ngồi trên cổ voi, tay cầm cán ngắn chỉ huy voi xoay vòng.

Hai bên phố sá có không ít dân chúng nghển cổ quan sát, trong đó có đứa bé tóc trái đào, do không được cha mẹ trông coi nên đã lao ra chạc cây son ngăn cản đám đông. Con voi đi đầu bị hù sợ, chân trước bật lên cao, cận cảnh sắp giẫm chết đứa bé kia.

Người vẽ tranh phác hoạ rất chân thật, như đứa bé dưới chân voi khóc nỉ non. Vệ sĩ trên voi giơ cao cán đồng, chuẩn bị đâm xuống dưới ánh mắt kinh hãi trên mặt mọi người xung quanh, có phụ nhân mặc đồ màu lam rơi đầy nước mắt, liều mạng nhào lên bị người chung quanh giữ lấy. Toàn cảnh sinh động y như thật, làm người ngoài xem tranh cảm nhận rõ nguy hiểm trùng trùng ngay lúc ấy, cục diện khẩn trương mạng sống mỏng manh.

Trên bức tranh cuộn tròn có chữ viết, nét bút thư pháp như nước chảy mây trôi:

Qua Tuyên Đức Lâu, thấy đại lễ cưỡi voi diễn tập, một đứa trẻ vô cớ lao ra, gặp hiểm nguy dưới chân voi, may mắn được người lạ cứu giúp. Đoán rằng nếu có khanh ở đây, chắc sẽ vỗ tay hô to, nên đã vẽ thước tranh diễn tả toàn bộ cảnh tượng ấy, nhằm muốn khanh vui vẻ.

Ký tên: Phu, Nguyên Kính.

A Bảo cầm tranh, quả thật đã phì cười, ngón tay chậm rãi v.uốt ve bức hoạ cuộn tròn, dịu dàng nói: “Người lạ nọ, là chàng thì có.”

Từ đó về sau, mỗi ngày Lý Hùng sẽ lên núi, mang theo ít điểm tâm và thiêu một bức hoạ. Trong tranh có phố phường ngõ hẻm, có quán rượu quán trà, có cầu đỏ trên Biện Hà, cũng có quán mì ruột dê đường Phan Lâu bọn họ từng ghé ăn, kể cả Phàn Lâu, ngói ngoài Chu Tước Kiều, chợ đêm Châu Kiều.

Mỗi bức hoạ đều do đích thân Lương Nguyên Kính đề bút. Nội dung đâu đâu cũng là hôm nay chàng đã đi đâu, gặp chuyện gì thú vị, nếu có A Bảo ở đó, nàng sẽ thấy thế nào ra sao các thứ.

Cuối cùng ký tên: Phu, Nguyên Kính.

Mười lăm tháng giêng, lễ Thượng Nguyên.

Thành Đông Kinh thao thức cả ngày lẫn đêm, phố phường lớn nhỏ treo đầy hoa đăng, đêm cũng như ngày, người đi đường chen vai nối gót, sôi nổi đến trước Tuyên Đức Lâu ngắm đèn.

Quốc triều nhân dịp sắc lập tân hậu, đêm Nguyên Tiêu năm nay náo nhiệt long trọng gấp trăm lần, chỉ riêng đèn Ngao Sơn đã cao bằng hai tầng lầu, trên đèn vẽ mười hai con giáp, các vị thần tiên, còn có dòng nước chảy xuống từ đỉnh đèn, trông như thác nước.

Ngoài ra, còn có hoa đăng, đèn chim, đèn thú, đèn cá, đèn kỳ lân nhiều vô số kể, thêm cả người Giáo Phường Ty múa may đèn hình cá, đèn màu hình rồng, như cá rồng vùng vẫy khiến người xem hoa cả mắt.

Trước cửa lầu, các nghệ nhân nổi tiếng nhất thành Đông Kinh biểu diễn đá cầu đánh hoàn, đi dây trên không, đô vật nữ, dị hơn là nuốt kiếm, kỹ thuật phun lửa, người xem chưa kịp nhìn đã hô to xuất sắc.

Trên lầu Tuyên Đức, thiết lập ngự toà, quan gia dẫn hậu phi công chúa, tể chấp và tất cả quan lại cùng nhau ngắm đèn, chung vui cùng dân lành, các học sĩ còn muốn làm từ, trình lên cho vua thưởng thức.

Đêm nay ồn ào náo nhiệt sôi động thế nào, riêng A Bảo ở trên núi Vạn Tuế ngoài thành xa xôi cũng có thể nhìn thấy ngọn đèn dầu sặc sỡ của thành Đông Kinh.

Nàng nhớ lại ngày đưa a ca lên thuyền ở bến đò, nàng nói chuyện với Lương Nguyên Kính, chờ đến Nguyên Tiêu, nàng muốn cùng chàng đến Tuyên Đức Lâu xem đô vật nữ, lên Phàn lâu ngắm đèn. Bọn họ còn hứa hẹn ngày sau sẽ đến Tuyền Châu ngắm biển, ấy mà giờ đây, nàng chỉ có thể ngắm đèn cùng chàng thông qua bức hoạ.

A Bảo cười khổ, mở bức hoạ cuộn tròn trong tay, cúi đầu xem xem hôm nay chàng vẽ gì cho nàng.

Trước Tuyên Đức Lâu, đèn đuốc rực rỡ, như mưa sao băng, nghệ nhân trình diễn hết mình.

Ba vòng bá tánh cả trong lẫn ngoài vây quanh hai vị đấu vật vạm vỡ, ngực trần lộ ra đang thi đấu. Một nữ đô vật rơi vào thế yếu, e là sắp bị đối thủ vật ngã.

Người xem chung quanh sôi nổi vươn tay reo hò, tâm thái thần sắc mỗi người mỗi khác, còn có tiểu nữ đồng búi tóc sơ nha được mẹ ôm vào lòng, tay nhỏ cầm hồ lô đường đang tính bỏ vào miệng.

Góc trái bức tranh cuộn tròn có lời đề bút, là khuyết từ của cư sĩ nọ:

“Đêm xuân gió thổi ngàn hoa nở,
Rụng như mưa, sao rực rỡ.
Ngựa quý, hương đưa, xe trạm trổ.
Phụng tiêu uyển chuyển,
Ánh trăng lay động,
Suốt đêm rồng cá rộn.

Ngài tằm, liễu tuyết, tơ vàng rủ,
Phảng phất hương bay, cười nói rộ.
Giữa đám tìm người trăm ngàn độ,
Bỗng quay đầu lại,
Người ngay trước mắt,
Dưới lửa tàn đứng đó.” [1]

[1] Thanh ngọc án – Nguyên Tịch – Tân Khí Tật và bản dịch của Như Quy, thivien.

Dòng cuối còn kèm theo câu lạc khoản: Mừng ngày sinh nhật của nương tử, phu, Nguyên Kính.

“Chàng còn nhớ rõ à, hôm nay là sinh nhật của em.”

Đầu ngón tay lưu luyến ve vuốt dòng mực kia, tim người đau xót khôn nguôi, chỉ tiếc là A Bảo chẳng thể khóc.

Bức tranh cuộn hoá thành ánh sáng bạc, tiêu tán ngay trong tay nàng.

Nàng ngẩng đầu lên, ngồi trên tháp Phật, hai chân đong đưa giữa không trung, ngắm sao tối hôm nay.

Trời đêm đông luôn âm u, không bằng đêm hè sáng tỏ, nàng dốc hết sức tìm kiếm cũng chỉ thấy mấy vì sao mờ nhạt.

A Bảo có hơi thất vọng, cảm giác ông trời không cho cô mặt mũi mừng ngày sinh nhật, chỉ là……

Người đã khuất còn đón sinh nhật không nhỉ? Hẳn là không rồi.

Chả thú vị xíu nào.

A Bảo cực kỳ buồn chán, đang muốn bay xuống linh đường của riêng mình ăn vài miếng bánh, bỗng nhiên ánh mắt xác định.

Sâu trong núi rừng, có một ngôi sao sáng ngời từ từ bay lên càng lúc càng cao, không đúng…

Đó không phải là ngôi sao. Đó là đèn!

Có người ở dưới chân núi thả đèn Khổng Minh!

A Bảo mở to đôi mắt, là chàng sao? Là người mà nàng đang nghĩ tới sao?

Ngoại trừ đồ ngốc Lương Nguyên Kính ra thì còn có ai sẽ chạy đến núi Vạn Tuế ngoài thành thả đèn vào đêm Nguyên Tiêu nữa chứ?

Mỗi khắc càng có nhiều đèn Khổng Minh bay lên bầu trời đêm. Núi rừng tăm tối được soi sáng, như đom đóm bay múa đầy đêm hè, hay như hàng tỉ sao trời lộng lẫy, vô cùng hoành tráng.

A Bảo bay lên, hoà mình vào vô số chiếc đèn Khổng Minh lơ lửng, tựa như đặt mình vào giữa ngân hà chín tầng trời. Bỗng nhiên phát hiện trên đèn còn đề chữ, nét chữ viết tay rồng bay phượng múa.

Nàng đọc từng chiếc từng chiếc, trong đó có một chiếc viết ‘Xuân xanh mãi mãi’, chiếc bên cạnh viết ‘Bình an hạnh phúc’, còn có chiếc ‘Gặp mỹ nhân lòng nhớ chẳng buông, Ngày ta cách trở tưởng điên cuồng.’ [2]

[2] Phượng cầu hoàng – Tư Mã Tương Như và bản dịch thơ của Mắm (tham khảo từ nguồn https://tratamtuutu.wordpress.com/2021/10/17/phuong-cau-hoang-tu-ma-tuong-nhu/)

A Bảo dùng hai tay ôm mặt, vừa vui mừng vừa khổ sở, khóc xong lại cười mà cười xong lại khóc, cuối cùng nức nở nói: “Em cũng nhớ chàng mà, đồ ngốc…”

Còn nhớ đêm giao thừa năm nào tại thành Đông Kinh, Triệu Tòng đã thành quan gia vì dỗ nàng vui vẻ, đã hao phí mấy vạn tiền đồng trong nội bộ, treo lên vạn hoa đăng khắp cung cấm, chiếu rọi toàn bộ đại nội hoàng cung rạng rỡ, trang trí lộng lẫy.

Hắn choàng cánh tay cùng nàng dạo đêm xem đèn, phía sau là hàng nghi thức dài như mình rồng, gồm nội thị, cung nhân và nhóm nương tử hậu cung.

Vô số ánh đèn, tiếng người ầm ĩ. A Bảo mê say hoa mắt, làm nhiễu lỗ tai nàng, đến cả Triệu Tòng từng nói lời gì đó nàng cũng chẳng nghe rõ.

Ngày hôm sau, hoa đăng quý giá đó liền bị cung nhân thu dọn sạch sẽ, những gì để lại cũng chỉ là ngòi bút sát phạt của đám gián quan mà thôi.

Chúng nó làm gì mà so được với đèn Khổng Minh đêm nay?

Đèn này này là do người nọ tự tay làm ra, tự tay viết chữ, tự tay châm ngòi, kí thác lời chúc nguyện cùng lời tưởng niệm chân thành của riêng mình gửi tới cho nàng đó.

Suốt cuộc đời của A Bảo lại chưa từng nhìn thấy ngọn đèn nào xinh đẹp hơn nhường này.

**

* Đạo tràng là khái niệm thường được dùng để chỉ nơi hội tụ của những người con Phật, có cùng một ý hướng chuyên tu, theo một pháp môn tu hành nào đó đã được lựa chọn, hoặc do một vị sư hướng đạo, trong muôn vàn pháp môn của Phật chỉ dạy. (nguồn: phatgiao.org)

* Hoàng đồ củng cố: Cơ đồ hoàng gia bền vững mãi.
Đế đạo hà xương: Chính sách tốt đẹp của vua được thi hành ở khắp nơi.
Phật nhật tăng huy: Đạo Phật ngày càng sáng ngời.
Pháp luân thường chuyển: Đạo Phật được truyền bá khắp nơi.
(tham khảo chuaxaloi.vn)

* Chuông kim cang (hình ảnh từ Baidu)
d0c8a786c9177f3e67099ff33d9b2cc79f3df9dcf88b.jpeg


* Số 108 được xem là con số thiêng liêng trong Phật giáo, xuất hiện trong nhiều khía cạnh của giáo lý và thực hành. Theo quan niệm nhà Phật, 108 tượng trưng cho sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, giúp con người vượt qua phiền não và đạt đến giác ngộ.
Trong nhiều nghi lễ Phật giáo, tiếng chuông chùa thường vang lên 108 lần vào thời khắc giao thừa để xua đuổi phiền não của năm cũ và chào đón năm mới an lành. (nguồn: truclaman)
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 56: Đêm tuyết



Giữa xuân, ngày mười bốn tháng hai.

Lương Nguyên Kính đang đứng trước cửa Thuỳ Củng Điện, chàng ngửa đầu nhìn bầu trời bị tường cao màu đỏ vây quanh, cuối cùng hôm nay thành Đông Kinh mới ngừng mưa, chỉ là sắc trời vẫn u ám như cũ, đến cả con thú nằm trên ngói lưu ly màu vàng [1] cũng thấy u buồn ỉu xìu như vậy.

[1] Hình ảnh minh hoạ từ Baidu
u15409902811547462496fm253fmtautoapp138fjpeg-edited.webp


“Lương tiên sinh, có chuyện gì thế?”

Phùng Ích Toàn vung cây phất trần, kinh ngạc xoay người nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính lắc đầu, tiếp tục đi theo ông ta về phía trước, thấp giọng nói: “Hình như sắp có tuyết rơi.”

“Đúng vậy.”

Phùng Ích Toàn cũng ngước mắt nhìn trời, thở dài: “Tuyết nay cũng nên rơi rồi, năm ngoái còn không có trận tuyết nào, nếu lần này cũng vậy, chỉ sợ năm nay lại rơi vào mùa hạn hán. Quan gia vì chuyện này mà âu sầu, đến đêm chẳng ngủ được, còn phải nhờ Trương thiên sư làm nghi thức cầu tuyết nữa là.”

Người nọ ở phía sau lại như người câm, tựa như câu trước của chàng chỉ đang cảm thán một mình chứ không phải có ý bắt chuyện cùng ông ta vậy.

Phùng Ích Toàn thầm nghĩ, Lương đại nhân cũng thật là không biết đối nhân xử thế, khó trách đã oằn mình nhiều năm mà vẫn chỉ là một cái Hàn Lâm Đãi Chiếu nhỏ bé.

Bất quá, hiện giờ người ta đang được quan gia nghênh đón. Tuy Phùng Ích Toàn hầu hạ ngự tiền nhiều năm nhưng ông ta cũng không dám mạo phạm vị Lương hoạ sư này, cố nói lời nào dễ nghe.

“Nhưng quan gia chờ tiên sinh đã lâu, cứ nhắc tới tiên sinh ngài mãi đấy, tiếc là dịp cuối năm nhiều việc phải làm, còn có chuyện đàm phán hoà bình cùng Tây Hạ nên mới chưa có cơ hội tuyên tiên sinh vào yết kiến. Hôm nay diện thánh, ngày tiên sinh được thăng chức tới nhanh lắm rồi ạ, thần xin tại đây chúc mừng tiên sinh trước.”

Dứt lời, liền nở nụ cười chắp tay xá Lương Nguyên Kính một cái.

Ông ta vào Nội Thị Tỉnh đã lâu, đến cả tể chấp trọng thần còn chưa hành lễ lớn tới vầy.

Theo lý thuyết, cho dù là kẻ không biết thức thời như nào cũng nên khiêm nhường hoàn lễ lại. Nhưng Lương Nguyên Kính vậy mà coi như không thấy ông ta, công khai nhận hẳn cái lễ này.

Khoé miệng xu nịnh của Phùng Ích Toàn cứng lại ngay tức khắc. Dựa vào kinh nghiệm lăn lộn trườn bò trong hậu cung nhiều năm mới không thể hiện ra mặt, thâm tâm điên cuồng mắng nhiếc, mặt cười nhưng lòng thì không, cố làm cho xong phận sự mời Lương Nguyên Kính vào Thuỳ Củng Điện.

Thùy Củng Điện.

Triệu Tòng đang ngồi sau ngự án phê duyệt tấu chương, thấy Lương Nguyên Kính tiến vào đã tự mình đứng dậy chào đón, còn nói chàng miễn hành lễ, phân phó Phùng Ích Toàn dâng trà xong quay sang ân cần thăm hỏi Lương Nguyên Kính: “Lâu rồi chưa gặp Lương khanh, hình như đã ốm đi rất nhiều, do mấy ngày gần đây phát bệnh nữa à? Có cần trẫm tuyên ngự y…”

“Thần không sao.” Lương Nguyên Kính nói.

Triệu Tòng đờ ra, có chút xấu hổ, phân phó cung nhân dọn chỗ cho chàng.

Trà dâng lên xong, quân thần hai người phẩm trà chốc lát, cách khói trà mờ mịt, Triệu Tòng vuốt nhẹ chung trà trong tay, cuối cùng nói ra ý đồ triệu chàng tới đây.

“Đoan Ngọ năm ngoái, tại Kim Minh Trì trẫm từng giao phó Lương khanh vẽ một bức tranh hình Uyển Nương, sau đó bận rộn chính sự, trẫm chưa rảnh đề cập đến, không biết khanh đã vẽ tới đâu rồi?”

Lương Nguyên Kính lấy hộp gấm khắc hoa bên cạnh qua, hai tay nâng lên cho hắn: “Bức tranh đây, cung thỉnh quan gia xem thử.”

“Hoá ra đã xong rồi à?”

Thần sắc Triệu Tòng hoảng hốt, nhận lấy hộp gấm kia, quan sát kỹ càng, đôi tay còn đang run rẩy.

Hắn đặt hộp gấm lên án, hít sâu mấy lần tựa như đang chuẩn bị tâm lý, lúc này mới run tay mở nắp hộp ra.

Tranh cuộn được buộc bằng dải lụa, hắn chầm chậm cởi vỏ, bức hoạ cuộn tròn mở ra. Bản lụa đầy màu sắc, bất đồng với tranh cung đình tráng lệ kiều diễm, màu sắc bức hoạ này trang nhã, cũng không giống với tưởng tượng của hắn, trong tranh không chỉ có một chủ thể.

Trên tranh là con phố dài rực rỡ, hai bên cửa hàng san sát, biển hiệu quán rượu bay phấp phới, người qua lại tấp nập, có phụ nhân bồng con trẻ lên phố, có người bán hàng rong khiêng đòn gánh bánh hấp, những người bán rong đi khắp ngõ hẻm, thợ bạc gõ búa đẽo trang sức, còn có đạo sĩ xem bói cho người qua đường, tiên sinh giảng thư trong quán trà được vây quanh bởi khách uống trà si mê nghe.

Giữa phố, có một mỹ nhân ngồi ôm cây đàn tỳ bà, nàng mặc bộ váy đỏ rực, giữa cổ tay có ba chiếc vòng bạc.

“Đây… Đây là gì hả?”

Triệu Tòng bất thình lình ngẩng đầu. Chỉ trong cái chớp mắt, sự phẫn nộ, thất vọng, oán giận bị phật lòng sau quãng thời gian chờ đợi đã lâu, đủ loại cảm xúc ngổn ngang đồng loạt nảy lên trong lòng hắn, y như có dòng nước chảy xiết dẫn đến xung đột.

Triệu Tòng giơ bức hoạ cuộn tròn lên, giận tím mặt nói: “Lương Hoằng! Ngươi nói cho trẫm, ngươi vẽ cái gì đây hả? Trẫm muốn ngươi vẽ Uyển Nương, kết quả cho ngươi lừa gạt trẫm như này à?!”

Cuộn tranh trôi theo cơn tức giận ngập trời của đế vương, ném tới chỗ Lương Nguyên Kính, tình cờ quét trúng khoé mắt chàng. Sau đó rơi trên sàn gạch xanh, tiếng ‘bụp’ dội ngược lại.

Lương Nguyên Kính cúi người nhặt lại tranh, thờ ơ nói: “Thần vẽ nàng mà, quan gia không nhận ra sao?”

“Ngươi nói cái gì?” Triệu Tòng sững sờ.

Lương Nguyên Kính mở bức hoạ cuộn tròn ra, rũ mắt nói: “Quan gia có từng thấy lời bạt này chưa? Mùa xuân năm Hữu An thứ hai, thần du ngoạn đến Xuyên Thục, dưới chân núi Thanh Thành đã gặp được một tiểu cô nương. Nàng là đứa trẻ bị vứt bỏ, được một đôi vợ chồng tốt bụng nhặt về, coi như vàng ngọc nuôi lớn. Qua mấy năm sau, đôi vợ chồng ấy qua đời, trong nhà chỉ còn huynh trưởng của nàng, hành nghề thợ bạc, tiểu cô nương thích dính người, luyến tiếc tách ra khỏi ca ca, lúc huynh trưởng đánh trang sức bên sạp, nàng sẽ bán nghệ ngay đầu đường. Lúc thần mới gặp nàng, nàng đang ôm tỳ bà xướng bài sơn ca địa phương, tiếng hát lay động lòng người, vang tận mây xanh, nói là nhạc tiên nhân gian cũng không quá đáng.”

Triệu Tòng trầm mặc, hỏi: “Sau đó thì sao?”

“Sau đó…”

Lương Nguyên Kính ôm bức hoạ cuộn tròn, thong thả bước đến trước ngọn đèn sát đất.

“Vào năm Hi Hoà thứ nhất, thần ở Đông Kinh, gặp lại tiểu cô nương ấy. Nàng gả cho người khác, trở thành Hoàng hậu kim tôn ngọc quý, nhưng ai nấy cũng ở sau lưng coi thường nàng, cười nhạo thân phận ca nữ hàn vi của nàng. Không một ai biết, thật ra nàng rất lương thiện, thẳng thắn thật thà, muốn khóc sẽ khóc thật to, muốn cười sẽ cười thật lớn, nàng thích ăn bánh ngọt nhất, vả lại rất giỏi đàn tỳ bà.”

Sắc mặt Triệu Tòng nghiêm trọng lên.

“Tiểu cô nương làm Hoàng hậu, nàng thật sự không vui, cũng không còn lớn tiếng đùa giỡn nữa, cho dù có cười rộ lên, giữa mày vẫn còn vẻ u sầu không xua được. Đại nội thâm cung tường cao nơi đây, nàng như một chú chim bị nhốt trong lồng sắt sơn vàng, mất hết tự do, dần dần cũng mất đi vẻ xán lạn lúc trước…”

“Im miệng!”

Triệu Tòng càng nghe càng cả giận, lồng ng.ực phập phồng kịch liệt, rốt cuộc không nhịn nổi vỗ án gầm lên: “Lương Hoằng⎯⎯ Ngươi to gan! Ngươi dám phê bình Hoàng hậu!”

“Hoàng hậu?”

Lương Nguyên Kính cười nhạt: “Hoàng hậu của Quan gia chẳng phải mang họ Tiết sao? Tiểu cô nương mà thần nói, nàng không có họ, nàng tên A Bảo, là vợ của thần, là người thần yêu thương nhất đời mình.”

“Ngươi ⎯⎯”

Triệu Tòng tức tối đến mặt mày xanh mét, rất muốn chém chết người này tại chỗ, bỗng nhiên thấy hành động của chàng, hắn trừng lớn hai mắt: “Ngươi! Ngươi muốn làm gì?”

Lương Nguyên Kính vén đèn chụp lên, hơ bức hoạ cuộn tròn lên ánh nến, chất lụa dễ bắt lửa, chỉ sau chốc lát, đã cháy được hơn phân nửa.

Triệu Tòng gào lên, vội vàng nhào qua đoạt lấy.

Ngọn lửa cháy bỏng ngón tay hắn, rất mau đã tứa máu. Dường như hắn không thấy đau, chỉ lo dập ngọn lửa càng lúc càng lớn, nhưng mặc cho hắn có cố thế nào, chung quy gương vỡ khó lành. Khoảnh khắc tranh lụa bị đốt thành đóng tro tàn, mỹ nhân váy đỏ ôm đàn tỳ bà, và cả dung mạo xinh đẹp của nàng, cũng biến mất không thấy đâu.

“Lương ⎯ Hoằng ⎯”

Triệu Tòng hai mắt đỏ ngầu, khoé mắt muốn tét ra, nhào qua đấm một quyền vào Lương Nguyên Kính, túm cổ áo chàng, nghiến răng chất vấn từng câu từng chữ : “Uyển Nương! Nàng ở đâu! Ngươi biết! Nhất định là ngươi biết!”

Lương Nguyên Kính để mặc bị hắn túm, ngước ánh mắt đã không đếm xỉa đến sống chết lên, hỏi ngược lại: “Quan gia chưa biết à?”

Triệu Tòng gào rú như sấm: “Nói cho trẫm! Nếu không trẫm lăng trì ngươi!”

Lương Nguyên Kính nghe thế, ngược lại khẽ mỉm cười. Tựa như cái chết đối với chàng là một chuyện vui mong chờ đã lâu, không đáng để sợ hãi.

Chàng nhẹ giọng đáp: “Nàng chết rồi.”

“Không⎯⎯” Triệu Tòng đỏ mắt nổi điên hét, “Nàng không chết! Đó là nàng diễn trò gạt trẫm! Xưa nay nàng thích đùa vui với trẫm như vậy, chẳng qua… Chẳng qua lần này y như thật hơn chút thôi, nàng về Dương Châu rồi… Phải, nhất định nàng đã về Dương Châu rồi…”

Hắn buông Lương Nguyên Kính ra, vừa gật đầu vừa lải nhải liên hồi, cũng không biết vì thuyết phục người khác, hay là tự thuyết phục chính mình.

Lương Nguyên Kính sửa sang vạt áo lệch lại, lạnh nhạt nói: “Nàng không về Dương Châu, nàng chết rồi, chết vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ tư, trước khi chết, nàng còn chưa kịp ngắm hoa lê nở trong sân. Xác của nàng được chôn ở ngoại ô phía nam, mặc bộ áo mỏng, mộ phần đơn chiếc, trước mộ còn có gốc cây đào. Thanh Minh mỗi năm, ngoại trừ lão phụ nhân từng chăm sóc nàng lúc còn sống ra thì không còn ai tới đó cúng bái nữa. Trước khi hạ táng, nàng còn thừa lại hơi thở cuối cùng, tỉnh lại trong cỗ quan tài tăm tối, sợ hãi bất lực, liều mạng kêu cứu nhưng lại bị người ta đóng đinh nhốt ở bên trong, cuối cùng ngộp thở cho đến chết.”

Triệu Tòng hoàn toàn ngây dại, lẩm bẩm nhìn chàng: “Ngươi…… Ngươi đang lừa ta……”

Lương Nguyên Kính điềm nhiên: “Thần không dám khi quân. Nếu quan gia không tin, có thể gọi Phùng Ích Toàn tiến vào, hỏi liền sẽ biết, không có ai rõ hơn ông ta cả.”

Ánh nến rực rỡ, nội điện tĩnh mịch.

Không rõ qua bao lâu, Triệu Tòng nhẹ nhàng nói: “Trẫm không hỏi, ngươi gạt ta, Uyển Nương chưa chết, các ngươi đều đang lừa trẫm. Lương Hoằng, ngươi không muốn nói nàng đang ở đâu đúng không? Được lắm, trẫm có rất nhiều cách khiến ngươi tự nguyện nói ra.”

Hắn cất cao giọng: “Người đâu⎯⎯”

Phùng Ích Toàn từ ngoài điện tiến vào, khoanh tay đứng hầu.

“Kéo Lương Hoằng đến bạo thất, nghiêm hình thẩm vấn!”

“! ! !”

Phùng Ích Toàn ngẩng đầu, trong mắt chứa đầy nỗi khiếp sợ.

Triệu Tòng chưa được đáp lại, nhất thời ném nghiên mực qua: “Điếc à? Không nghe rõ trẫm vừa nói gì hả?!”

Mặt già Phùng Ích Toàn bị mực nước bắn trúng nhưng không dám nâng tay áo lau đi, cuống quít quỳ xuống dập đầu: “Quan gia bớt giận…”

Ông ta dùng khoé mắt trộm liếc nhìn Lương Nguyên Kính, thấy chàng chỉ hờ hững quỳ dưới đất, hoàn toàn chẳng có chút sợ hãi, khiến ông ta càng không hiểu gì.

Vị Lương đại nhân này, đã làm gì mới chọc Thánh Thượng nổi giận tới vậy chứ?

Ông ta miễn cưỡng lấy hết can đảm, hỏi: “Xin hỏi quan gia, Lương đại nhân đã phạm vào tội gì ạ? Muốn thẩm vấn… Tội gì ạ?”

Triệu Tòng lạnh mặt, gằn từng chữ một: “Hoàng hậu ở đâu?”

Hoàng hậu?

Chẳng phải đang ở Khôn Ninh Điện sao?

Phùng Ích Toàn nhất thời có chút hồ đồ, nhưng thực mau ông ta mới kịp phản ứng lại. E là quan gia nói không phải Tiết Hoàng hậu, mà là năm xưa… Phế hậu Lý thị mới đúng.

Lương Nguyên Kính bị người áp ra khỏi Thuỳ Củng Điện mới hay không rõ từ khi nào bên ngoài đã đổ trận tuyết lớn như lông ngỗng. Đúng lúc như cư dân thành Đông Kinh đã mong chờ, cuối cùng cũng đến.

Cảnh đêm man man, bọt tuyết từ bầu trời đen như mực giáng xuống. Trong đó có một băng nhũ sáu cánh trùng hợp dừng trên lông mi dài mảnh của chàng, chốc lát sau liền tan ra thành nước.

Chàng dừng bước, ngẩng đầu nhìn về phía đông bắc.

Tuyết rơi, núi Vạn Tuế cũng thế, tiếc là không kịp vẽ bức ‘hàn mai tuyết rơi hợp thời’ đem lên núi cho người nọ xem.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 57: Ngục tù



Trong một đêm, núi Vạn Tuế bị tuyết đóng dày đặc vùi lấp.

Đến bình minh, tuyết vẫn còn rơi, gió bấc thổi ào ào. A Bảo khoanh chân ngồi trên tháp Phật, đã đợi một ngày một đêm mà chưa nhận được tranh của Lương Nguyên Kính.

Nhất định là do tuyết rơi quá dày, đường lên núi không dễ đi nên a ca mới chưa tới, nàng nghĩ vậy.

Lại một ngày trôi qua, nàng vẫn chưa chờ được Lý Hùng lên núi, bắt đầu cảm thấy nóng lòng, lo lắng có phải Lương Nguyên Kính mắc bệnh nữa rồi không. Trời lạnh cóng, sắc khoẻ chàng mãi không khoẻ, gặp thời tiết giá rét như vầy, ho khan dễ tái phát.

Tới buổi chiều ngày thứ ba, A Bảo không ngồi yên nổi nữa, quyết tâm bay xuống núi xem thử. Nàng sẽ không tới gần chàng, sẽ không để chàng phát hiện ra, nàng chỉ đứng xa xa trông thôi, biết được chàng bình yên vô sợ là đủ rồi.

Khi bay tới giữa sườn núi, nàng trông thấy có hai người đứng trong đình. Một trong hai là Giác Minh hoà thượng, người còn lại mặc áo suông xanh đen, đầu đội mũ nhung, chính là Lý Hùng ba ngày chưa gặp.

A Bảo vội bay qua đó, trùng hợp nghe được ca ca nôn nóng nói: “Hôm mười bốn, cậu ấy phụng chỉ vào cung, tôi ở nhà chờ mãi chờ mãi vẫn không thấy cậu ấy quay về. Vất vả lắm mới tìm được tiểu hoàng môn hầu hạ ngự tiền hỏi thăm, nói là không biết cậu ấy làm gì chọc tức long nhan, hiện giờ đang bị nhốt trong cung. Tiểu sư phụ, cậu xem xem phải làm sao đây? Tôi ở chốn thành Đông Kinh này không có cách nào, nhưng tôi có bạc, có thể chuộc cậu ấy ra không vậy?”

Giác Minh cũng chau mày, trầm ngâm đáp: “Thiên tử nổi giận, phơi thây ngàn dặm. E là chuyện này không thể giải quyết bằng tiền…”

Lý Hùng đi qua đi lại như kiến bò trên chảo nóng, cuối cùng đấm thật mạnh vào cây cột hành lang núi đình, làm rơi không ít tuyết.

“Chỗ A Bảo chỉ sợ không giấu được, nhưng tôi phải ăn nói sao với nó đây…”

Tiếp đó họ nói gì A Bảo nghe không rõ nữa, bởi vì tới câu Lương Nguyên Kính ‘bị nhốt trong cung’ kia, nàng đã bất chấp tất cả, vội vã bay về phía dưới chân núi.

Tuyết càng rơi càng dày, trời đất một mảng trắng xóa, không có màu sắc nào khác, tựa như phương trời thuỷ tinh. ‘Nghìn non vắng bóng chim bay, Mịt mùng muôn dặm chẳng hay chân người’ [1]. Trên con đường phủ đầy tuyết trắng ấy, không biết từ bao giờ đã có bóng người già nua đứng đó, khoác áo cà sa đỏ vàng, đầu mày rậm rạp, con mắt trắng dã, tựa hồ sớm đoán được nàng sẽ xuống núi nên cố ý đứng chờ nàng.

[1] Giang tuyết – Liễu Tông Nguyên và bản dịch của Hải Đà, thivien.

A Bảo bỗng dừng lại.

Thủ Chân chắp tay hành lễ, mặt mày thương xót, nói: “A di đà phật, trần duyên thí chủ đã đứt, cớ sao còn chấp mê bất ngộ, không chịu buông bỏ chuyện cũ?”

A Bảo sinh lòng áy náy, nhưng vẫn đáp: “Xin lỗi ngài, đại sư, chàng là quan nhân của con, giờ đây tính mạng chàng gặp nguy, con… Con cần phải đi cứu chàng.”

“Cho dù chuyến này đi rồi, hồn bay phách tán cũng không hối hận sao?”

“Không hối hận.” A Bảo trả lời, chưa có khắc nào khiến nàng do dự.

Thủ Chân nghe thế, cũng chẳng nói gì, chỉ yên lặng tránh sang một bước.

“Đa tạ đại sư thành toàn.”

A Bảo nói cảm ơn xong, không quay đầu bay về hướng dưới chân núi.

**

A Bảo biết nhà giam hoàng thành ở đâu, năm xưa nàng đẻ non liên lụy tới không ít người, rất nhiều cung nhân bị kéo đến bạo thất nghiêm hình tra tấn, thậm chí là chết ngay trong ngục.

Lúc A Bảo có thể xuống giường, cũng từng đi dự thính hồi thẩm vấn, tận mắt nhìn thấy thủ đoạn thẩm vấn của bọn thái giám đo Nàng không dám tưởng tượng những khổ hình tương tự sẽ đánh lên trên người của Lương Nguyên Kính. Chàng yếu ớt đến nhường nào, một trận bệnh thôi đã có thể đánh rớt cái mạng nhỏ của chàng.

Nhà giam âm u, ẩm ướt, côn trùng chuột nhắt hoành hành, A Bảo lần mò từng phòng, cuối cùng tìm được Lương Nguyên Kính ở ngay phòng giam cuối cùng.

Nhà lao đến cả cái giường cũng không có, chỉ lót lớp rơm rạ ươn ướt trên mặt đất. Chàng nhắm mắt ngồi dựa vào góc tường, toàn thân chỉ mặc bộ áo đơn sơ, bị roi quất rách tơi tả, cả người đan xen mấy vết máu.

A Bảo dừng bước chân, nhất thời không dám tiến lại, không thể tin nổi cái người bê bết máu đầu bù tóc rối kia là Lương Nguyên Kính của nàng. Là Lương Nguyên Kính mỹ ngọc ôn hoà xưa nay trong sạch.

“Em đến rồi.”

Lương Nguyên Kính mở mắt ra thấy nàng nhưng không có nửa phần kinh ngạc, “Biết là em sẽ đến mà.”

A Bảo vào trong, ngồi xuống bên người chàng, thấy ngón tay chàng đặt trên đầu gối cũng máu tươi đầm đìa, xương ngón tay biến dạng nghiêm trọng. Trái tim bỗng thắt lại.

“Tay chàng……”

“Đừng sợ, đã hết đau rồi.”

Lương Nguyên Kính giấu tay để nàng không nhìn thấy.

“Chàng đã làm gì?” A Bảo phẫn nộ hỏi, “Rốt cuộc chàng đã làm gì hả? Tại sao bọn họ lại đối xử với chàng như vậy?!”

Lương Nguyên Kính không trả lời câu hỏi này. Ánh mắt ấm áp mềm mại đặt trên mặt nàng, đột nhiên hỏi: “A Bảo nè, khi đó rất mệt lắm nhỉ?”

A Bảo sửng sốt: “Cái gì?”

Môi Lương Nguyên Kính lạnh căm đến tím tái, che miệng ho khan kịch liệt, ho ra máu, chàng lau vết máu trên mặt, thì thào nói: “Anh vào cung rồi, thấy tường cung tứ phía mới biết, tường cao như vậy, người như em bị nhốt tại đó, không có người thân, không có bạn bè, không có con trẻ, lẻ loi hiu quạnh, sống không nổi nữa nên mới hạ quyết tâm kết thúc đời mình em nhỉ?”

“Đều là chuyện quá khứ.” A Bảo mũi chua xót, dời ánh mắt đi, không dám đối mắt với chàng.

Lương Nguyên Kính vươn tay, đầu ngón tay run rẩy, vu.ốt ve cổ nàng, “Đau không?”

Treo cổ tự vẫn nhất định là rất đau, bị người ta đóng đinh nhốt trong quan tài tối đen, có sợ không?

A Bảo không muốn nhắc lại chuyện cũ năm xưa với chàng, đứng dậy từ trên mặt đất nói: “Chàng có thể lấy giấy bút không? Vẽ thành dáng hình trước kia của em, em sẽ đi tìm Triệu Tòng, sẽ kêu hắn thả chàng.”

“Anh rất hối hận,” Lương Nguyên Kính thấp giọng nói, “Hối hận năm đó vốn không nên rời khỏi Đông Kinh.”

Chàng nói xong câu đó liền khép mắt lại, mặc cho A Bảo nói thế nào, chàng vẫn không chịu mở miệng thêm lần nữa.

Canh giờ thẩm vấn lại đến, Phùng Ích Toàn mang theo hai tiểu hoàng môn tiến vào, trúc nẹp gắn vào ngón tay của Lương Nguyên Kính. Phùng Ích Toàn có chút không đành lòng, bèn hảo tâm khuyên nhủ: “Lương đại nhân à, tay đứt ruột xót, tay này của cậu nếu chịu kẹp nữa, e là sau này chẳng thể vẽ tranh được, chi bằng khai sớm đi, rốt cuộc, Hoàng hậu nương nương đang ở đâu?”

Lương Nguyên Kính mở mắt ra, nhàn nhạt cười: “Nàng chết rồi, chẳng phải Phùng Ích Toàn ông rõ ràng nhất sao?”

“Cậu⎯”

Đáy mắt Phùng Ích Toàn rộ lên tia chột dạ, ông ta vung cây phất trần, “Hàm hồ ngang bướng quá mức, hành hình!”

Hai tiểu hoàng môn đồng loạt dùng sức kéo dây thừng, ván kẹp buộc chặt, khiến xương ngón tay bị đè ép đến cong cong biến dạng.

Lương Nguyên Kính trán đổ đầy mồ hôi lạnh như thác nước, kiệt sức c*n m** d***, nhẫn nhịn không phát ra tiếng. Nhưng vẫn đau quá, loại đau đớn này không phải thứ người thường có thể chịu nổi, thần trí đau đến hồ đồ, tiếng kêu thảm thiết thoát ra từ kẽ răng.

A Bảo la lên, nhào qua ôm lấy chàng, vung tay đá chân với hai tiểu hoàng môn nọ, vừa hô vừa mắng.

Nhưng nàng chỉ là một vong hồn, sự thật nàng chẳng thể làm nên trò trống gì, nhìn khuôn mặt thống khổ vặn vẹo của Lương Nguyên Kính, lòng dạ nàng đau nhói, như bị ai đó hung hăng xẻo lấy máu thịt. Rõ ràng người chịu hình là Lương Nguyên Kính, nhưng nàng lại là người bộc phát ra tiếng hét thê lương chói tai.

“A a a a a a a ⎯⎯”

Tiếng gào thảm thiết chói tai của nữ nhân, sắc bén, đầy rẫy tuyệt vọng xé gan xé ruột, thoáng cái gợi lên ký ức đáng sợ nhất sâu trong trí nhớ của Phùng Ích Toàn.

Ông ta đứng bật dậy, hoảng sợ nhìn chung quanh: “Sao lại thế này? Các ngươi có nghe thấy tiếng nữ nhân kêu không hả?”

Hai tiểu hoàng môn dừng thi hình, mặt đối mặt nhìn nhau.

Tiếng nữ nhân gì cơ?

Chỗ này làm gì có nữ nhân nào?

Nhưng ngay sau đó, đột nhiên có trận cuồng phong quỷ dị ập tới, ánh nến phụt tắt, nhà giam lâm vào bóng tối đen như mực.

Oán khí từ trong góc lặng lẽ nảy sinh, lan tràn, dần dần tích tụ thành hình của một người. Cả ba kẻ ở đây đều thấy rất rõ bóng dáng nữ nhân nọ phản chiếu từ trên tường, tóc đen xõa dài, móng tay dài ngoằng, nháy mắt bao trùm nửa vách, như ma quỷ đòi mạng.

Hai tiểu hoàng môn suýt chút tiểu ra quần, hét la thật to xông ra cửa: “Quỷ kìa⎯⎯ Có quỷ!”

Phùng Ích Toàn chạy không nổi, cổ chân ông ta như bị xiềng xích vô hình khoá chặt khiến ông ta không cử động được. Đột nhiên thân thể bị cuồng phong quét tới, ‘rầm’ văng vào tường, còn chưa kịp rơi xuống, yết hầu đã bị làn khói đen bóp chặt.

Hai chân ông ta vẫy loạn giữa không trung, đôi tay cố sức nới cổ, mặt nghẹn ra màu đỏ tím, tròng mắt sung huyết, có kêu cũng không xong.

Không khí từ phổi dần bị rút cạn, trước khi ý thức lâm vào hôn mê, ông ta thấy rõ mặt mũi nữ nhân đó, trông hết sức dữ tợn, có màu xanh trắng, tràn ngập oán hận nhưng lại xinh đẹp vô cùng.

“Ầm ầm⎯⎯”

Tiếng sấm vang lên ngoài cửa sổ, tia chớp chiếu sáng lên nhà tù tối đen.

Cư nhân thành Đông Kinh kinh ngạc ngửa đầu nhìn, phát hiện mây đen giăng kín bầu trời, cơn lốc tạt ngang, tựa như muốn tạo ra trận bão tuyết, quái lạ, đang là thời tiết giữa xuân mà.

Trong Phúc Ninh Điện.

Triệu Tòng trên long sàng đột ngột mở mắt, ngồi dậy kêu to: “Uyển Nương⎯⎯”

Cùng lúc đó, trên núi Vạn Tuế.

Tia chớp bổ xuyên qua nóc điện Phật Di Lặc, trực tiếp bật tung nắp quan tài ở linh đường, lộ ra bộ xương trắng dưới tấm vải liệm đỏ thẫm.

Đồng thời, tiếng tụng kinh trong điện dừng lại. Các tăng nhân sợ hãi cả kinh, nhìn trái phải xung quanh, duy mỗi Thủ Chân vẫn còn đang gõ mõ, lãnh đạm nói: “Tiếp tục.”

Tại nhà giam, sấm sét vang dội.

“A Bảo, khụ khụ… Đừng…”

Lương Nguyên Kính tỉnh lại từ trận đau nhức, quỳ rạp trên mặt đất, kiệt sức bò về hướng nàng, “Đừng giết người……”

Làn khói đen rút lại, Phùng Ích Toàn ngất xỉu như bãi bùn lầy rơi rớt xuống đất, bất tỉnh nhân sự.

A Bảo xoay người trừng mắt với Lương Nguyên Kính. Oán khí bao phủ toàn thân nàng, không chỉ vệt đen giữa mày đậm hơn, ngay cả quanh mắt cũng lộ ra khí đen dày đặc, lệ máu như châu, chậm rãi lăn dọc trên gương mặt trắng bệch của nàng.

Hoá ra, quỷ hồn cũng có thể rơi lệ, chẳng qua, nước mắt của nàng là máu.

“Vẽ tranh!” Nàng lạnh giọng ra lệnh.

Lương Nguyên Kính không đáp lời.

“Vẽ tranh!”

Nàng nhắc lại lần nữa, khói đen như sợi dây thừng, luồn qua cuốn lấy cổ tay phải của Lương Nguyên Kính.

“Đau.” Lương Nguyên Kính nhìn nàng nói.

“……”

Khoảnh khắc khói đen tan biến, A Bảo khôi phục về hình thể bình thường, ôm đầu, cáu kỉnh đi đi lại lại trong phòng giam. Giờ đây nàng hoàn toàn mất hết lý trí, nội tâm ngập tràn d.ục vọ.ng giết người, cần phải dồn mọi sức lực mới miễn cưỡng áp chế cơn xúc động kia xuống. Vậy mà Lương Nguyên Kính còn khiêu khích điểm mấu chốt của nàng.

Cứ giết quách chàng cho xong! Chết chùm đi!

Bỗng chốc nàng dừng bước, trong lòng bắt đầu sôi trào ý niệm thâm độc.

Lương Nguyên Kính quỳ trên mặt đất, kẹp trúc giữa ngón tay nới lỏng, bỗng nhiên, đầu ngón tay của chàng run rẩy, dùng máu tươi vẽ vẽ trên mặt đất.

Phảng phất như quay về lại hồi nhỏ, chàng bị cha dùng thước đánh đến lòng bàn tay chảy bê bết máu, nhưng cũng chưa hối cải. Quỳ gối ở trong viện, dùng máu đầu ngón tay vẽ tranh trên mặt đất.

Từng nét vẽ, vết máu dần thành hình, biến thành trận hồng quang.

Hồn phách A Bảo bị thu hết vào đó, tầm nhìn khuếch đại, nàng hoá thành một con thỏ.

“Chàng làm gì đó? Em kêu chàng vẽ tranh! Chứ đâu kêu chàng vẽ thỏ!”

Chân thỏ ngắn quá, nàng đứng trên mặt đất tức giận nhảy tới nhảy lui.

Lương Nguyên Kính bế thỏ trắng lông xù xù lên, ôm vào lòng bàn tay, dùng chóp mũi cọ cọ nàng, mỉm cười nói: “Đáng yêu quá, em còn muốn anh vẽ gì nữa không? Mèo con thì sao?”

“……”

Tiếp đó, chàng như tìm được thú vui mới, tù tì vẽ ra rất nhiều con động vật nhỏ, nhưng mà không chịu nàng vẽ thành người. Chốc lát A Bảo biến thành con mèo nhỏ, đến thành chó mặt xệ, thêm chút lại thành chuột lang con, bị chàng làm cho chẳng tức giận nổi nữa.

Cuối cùng, Lương Nguyên Kính suy tư gì đó, lại vẽ nàng thành chú chim hoàng oanh tươi sáng.

Chàng đặt chim nhỏ đứng trong lòng bàn tay của mình, rũ mắt nói: “A Bảo, em sinh ra là để tự do, không nên bị phong bế tại tường cao này nữa, vỗ cánh bay thật cao nhé.”

Nói xong, cố sức đứng lên, khập khiễng đi đến bên cửa sổ, vươn tay đi.

Bệ cửa sổ đọng lớp tuyết trắng, chim hoàng oanh đứng trên đó, thấy chàng trở lại góc u tối, cuộn mình trong đống rơm rạ nghiêng người nằm xuống. Bóng lưng thon gầy đơn bạc, vết máu loang lổ trên áo.

Chim hoàng anh nán lại nhìn thêm chốc lát, xong nó bay ra khỏi song sắt, hướng về nơi trời cao đất rộng.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 58: Cố nhân



Núi Vạn Tuế tuyết trắng xoá, động vật trên núi đều trốn đi ngủ đông, mọi âm thanh đều tĩnh lặng. Bởi vì muốn làm pháp sự, Giác Minh hoà thượng đã ăn chay hơn một tháng, miệng mồm giờ nhạt như nước ốc.

Buổi tối đi nghỉ ngơi, y theo thường lệ bưng cơm chay ngồi ở hành lang ngoài phòng ăn cơm, lại trông thấy xa xa có con chim hoàng anh bay lại đây.

Trời lạnh như vầy, cũng không mấy khi thấy được vật sống. Thế cho nên lần đầu hoà thượng nhìn thấy chim không phải kinh ngạc cảm thán màu sắc lông con chim này tươi sáng xinh đẹp bao nhiêu, mà là nuốt nước miếng theo bản năng.

Nhưng có Thủ Chân ở đây, y không dám sát sanh phá giới, liền rải chút cơm lên lan can, dụ chim chóc bay lại ăn.

Chim hoàng oanh không ăn cơm y rải, chỉ dừng ngay trên đầu y, mổ mổ cái đầu trọc lóc.

“Ai ui! Con chim này! Sao lấy oán trả ơn thế hả! Coi chừng ta nhổ lông kho tàu mi đó!”

Hoà thượng hết sức phẫn nộ che đầu.

Chim hoàng oanh dùng sức mổ mu bàn tay y vài cái, xong bay đến trên đất tuyết, giẫm tới giẫm lui.

Giác Minh hoà thượng vui vẻ, cười nói ha ha: “Đang làm gì vậy? Cầu hôn ai à?”

Nhưng dần dà, khoé miệng tươi cười y cứng lại. Bởi vì y phát hiện hình như con chim này không phải giẫm đạp lung tung, trông rất có kết cấu, nàng hì hà hì hục ấn móng vuốt xuống tuyết, ra là để tạo chữ.

Khoan đã…

Giác Minh buông chén đũa, chạy lại nhìn thử, thấy đó là chữ…

‘Bảo’?

“Mi là tiểu nương tử A Bảo á?!” Hoà thượng trừng mắt, chỉ vào chim hét lớn.

Chim hoàng oanh thôi động tác, bay lên đầu vai y, mổ mổ vành tai khiến Giác Minh đau đến kêu ‘ui da’, che tai lại nói: “Xin lỗi cô nha! Tiểu nương tử A Bảo! Tôi nhận ra cô đến rồi! Không đúng… Sao cô biến thành chim được? Chẳng lẽ cô xuống núi tìm tiểu hữu Nguyên Kính à?!”

Chim hoàng anh bay lên giữa trời, đột nhiên sà thẳng xuống, rơi trên mặt tuyết, nằm yên bất động.

? ? ?

Ý gì đây?

Giác Minh vận động trí lực toàn thân, thử dò hỏi: “Cô đang nói, tiểu hữu Nguyên Kính sắp chết á?”

Chim hoàng oanh bay lên lại, mổ vài cái lên mu bàn tay của y, bay về phía trước, Giác Minh hoà thượng đuổi nhanh theo kịp, cuối cùng theo vào thiền phòng của mình.

Y cảm thấy quái lạ: “Ủa, sao cô biết tiểu tăng ở gian phòng này? À… Hòm thuốc, muốn tiểu tăng cầm hòm thuốc đi cứu chữa tiểu hữu Nguyên Kính sao?”

Y vội vàng thu thập hòm thuốc xong còn thấy chim hoàng oanh bay lên giường mình, nhảy qua nhảy lại trên chăn.

Giác Minh đau đầu than: “Đừng mổ chăn mà, sợi bông muốn bung ra ⎯ Ui! Đau quá! Tôi biết rồi biết rồi! Phải mang chăn cho cậu ấy đúng không? Đừng mổ nữa!”

Hoà thượng đóng gói chăn bông của mình, tìm thêm vài bộ quần áo mùa đông, gói chúng lại buộc lên lưng.

Chim hoàng oanh bay lên vách thường, mỏ chim mổ lên bức tranh sơn thuỷ trên đó, mổ lủng một cái lỗ. Con tim Giác Minh hoà thượng rỉ máu, đó là tranh năm xưa tiểu hữu Nguyên Kính tặng cho y.

Từ từ, tranh…

Y nhất thời hiểu rõ ý tứ của A Bảo, là muốn y mang bức tranh dính máu Lương Nguyên Kính theo cùng. Bởi vì bức tranh đó có nguồn gốc sâu xa với A Bảo nên Thủ Chân đại sư đã âm thầm tính toán, xin lại nó từ Lương Nguyên Kính, cúng nó cung linh cữu của A Bảo trong điện Phật Di Lặc để trừ tà.

Giác Minh vuốt cái đầu trọc, lần này hơi khó xử: “Sư phụ tôi ở đó, không biết có lấy được hay không…”

Chim hoàng oanh tung cánh, hung hãn vọt tới chỗ y.

Hoà thượng quả thực rất sợ nàng, sợ tới mức vắt chân lên cổ chạy: “Biết rồi! Tiểu tăng đi ngay đây! Đừng có mổ mà!”

Cũng không rõ có phải Thủ Chân đã hay biết gì không, Giác Minh rón ra rón rén lẻn vào linh đường. Lúc trộm bức tranh nọ, cụ vẫn luôn nhắm mắt gõ mõ, các tăng nhân tụng kinh ở đó thấy nhưng cũng không dám nhắc nhở, mỗi người chỉ mở to đôi mắt kinh ngạc nhìn y.

Mặt già Giác Minh đỏ bừng, cảm giác làm việc này còn xấu hổ hơn lúc bị trù trì bắt được mình đang ăn thịt chó, lòng bàn chân bôi dầu chuồn ra khỏi linh đường.

Đã mang đủ đồ, một người một chim cùng xuống núi.

Giác Minh hoà thượng đi đường khổ không tả nổi, chỉ mới chậm bước chút thôi là chim hoàng oanh đã bay tới mổ cái đầu trọc của y rồi. Kết quả y dùng tốc độ xưa nay chưa từng có của mình đi thật nhanh. Dù vậy lúc tới ngoài cửa Đông Hoa hoàng thành thì trời cũng đã tối.

Lúc này cửa cung chưa hạ khoá, nhưng Giác Minh là kẻ vô danh, còn có trang phục kỳ quá ôm hòm thuốc cõng chăn bông, tất nhiên không có khả năng được vào trong.

“Làm sao bây giờ? Tiểu tăng đâu vào được…”

Giác Minh gãi gãi đầu trọc, có chút vô phương cứu chữa.

Nhưng vào lúc này, cuồng phong nổi dậy, lông chim phần cổ của chim hoàng oanh bỗng nhiên dựng thẳng đứng, thân hình phình to gấp bội, như một con đại bàng khổng lồ, cả thân bùng phát luồng khói đen bạc, nháy mắt tràn ngập cả toà cửa thành. Nhóm thủ vệ hoảng sợ la hét, chạy ngược chạy xuôi, không biết đã xảy ra chuyện gì.

Giác Minh: “! ! !”

Giác Minh khó mà tin được: “Tiểu nương tử A Bảo! Oán khí trên người cô càng lúc càng nặng! Dừng lại đi! Cô còn như vậy sẽ bị trời phạt mất!”

Chim hoàng oanh giận dữ, vung cánh đẩy hoà thượng vào trong thành.

Giác Minh văng ngã một cú thật xa, ngã chổng vó lên, suýt chút phun ra ngụm máu già, thấy chim hoàng oanh giương cánh chuẩn bị quăng mình nữa, y vội vàng vươn tay ngăn cản.

“Tôi đi! Tôi đi được! Tiểu nương tử A Bảo, xin cô đừng đẩy nữa…”

Chuyện lạ Đông Hoa Môn thu hút cấm quân, nhiều quân sĩ Điện Tiền Ty cầm vũ khí, bao vây bọn họ, nhưng dưới luồng khói đen quỷ dị nọ, chẳng có ai dám tiến lên trước.

Giác Minh hoà thượng cứ như vậy nghênh ngang vào nhà giam đại nội, cả quãng đường vắng tanh.

Tuy nhìn qua trông có vẻ uy phong lẫm liệt, nhưng nội tâm hoà thượng chứa đầy nước mắt, nghĩ thầm, lần này coi như y không tiếc cả mạng sống để cứu giúp bạn tốt đi, tiểu hữu Nguyên Kính ơi, cậu nhớ cẩn thận chút nha, đừng ‘hết hơi’ trước lúc tôi tới đó, nếu không e rằng nương tử cậu sẽ dỡ cả cái hoàng cung này mất.

Nhà giam vẫn như cũ, bất đồng là Phùng Ích Toàn trên mặt đất đã biến mất tăm, còn Lương Nguyên Kính đang nằm nghiêng trên rơm rạ, không rõ sống chết.

Giác Minh cả kinh, vội vã tiến lên lật chàng lại, bắt mạch tượng cho chàng, mỏng manh suy yếu quá, suýt chút nữa bắt không ra. Cúi đầu nghe tiếng tim đập cũng rất chậm, hiển nhiên đã đạt đến cực hạn rồi.

Giác Minh đút cho chàng viên Thiên Vương Bảo Mệnh đan trước, tạm thời giữ lại được mạng, lấy chăn bông bung ra đắp hết lên người chàng.

Chim hoàng oanh liên tục mổ cuộn tranh, mổ vang kêu tách tách, Giác Minh bận vỗ vào ót mình, cũng không quay đầu lại mà hô: “Biết rồi biết rồi! Chờ chút đã!”

Y mở bức hoạ cuộn tròn ra, vết máu cũ trên đó đã phai mờ đôi chút, muốn nhỏ thêm máu lên đó cũng chẳng khó, bởi vì Lương Nguyên Kính mình đầy thương tích, như không còn chỗ nào lành lặn. Cộng thêm việc oán khí A Bảo bộc phát thêm lần nữa nên miệng vết thương của chàng hở ra khiến máu chảy không ngừng.

Giác Minh nâng cánh tay chàng lên, cuộn ống tay áo lên, đặt bức hoạ cuộn tròn lên đó. Từng giọt máu đỏ thắm dừng lại giữa mày mỹ nhân trong tranh, dần dần biến thành lốc xoáy diệu kỳ, hồng quang chợt loé, mỹ nhân biến mất, chim hoàng oanh cũng vậy, thay vào đó là một nữ t* c*ng đình khoác vàng mang ngọc.

“Chàng sao rồi?”

Biến thành người trong nháy mắt, A Bảo gấp gáp chờ không đặng hỏi ngay.

“Không tốt lắm,” Giác Minh cau mày, ăn ngay nói thật, “Tôi chỉ có thể tận lực cứu chữa, còn sống được hay không, còn dựa vào phước phần của cậu ấy.”

A Bảo quỳ trên mặt đất, thật cẩn trọng nâng bàn tay đã biến dạng vặn vẹo của Lương Nguyên Kính lên, không dám dùng sức, hôn chi chít lên đó, hy vọng có thể giảm bớt đau đớn cho chàng.

Nhiệt độ cơ thể Lương Nguyên Kính lạnh ngắt, dù được đắp chăn cũng không đỡ hơn, hai mắt nhắm nghiền. Tuy đầu bù tóc rối, thương tật chồng chất, nhưng khuôn mặt vẫn tuấn tú vốn có, vẫn xinh đẹp như vậy.

Từng giọt nước mắt A Bảo lăn dài.

Nàng run rẩy hạ tay, nâng mặt Lương Nguyên Kính lên, lau bớt máu thay chàng, sửa sang lại mái tóc rối, còn trân trọng hôn lên trán chàng một cái, môi dời sang tai chàng, nhẹ giọng nỉ non: “Chàng phải sống sót, Lương Nguyên Kính, nghe chưa? Chàng nhất định phải sống sót, em sẽ cứu chàng.”

Đắp gọn chăn cho chàng, nàng đứng bật dậy, nói với Giác Minh: “Chàng giao lại cho anh, đại hoà thượng.”

Giác Minh thần sắc phức tạp, khẽ hé miệng như đang tính nói gì đó nhưng rồi lại thôi, cuối cùng chỉ nói: “Dù thế nào cũng đừng đả thương người khác, tiểu hữu này của tôi si tình, nếu biết được cô vì cậu ấy phải gánh chịu kết cục tan thành mây khói, thế thì chẳng khác giết cậu ấy đi là bao.”

A Bảo không trả lời, chỉ chừa lại cho y chiếc bóng.

Cung vua đang lâm vào hỗn loạn, không ai nói rõ được tình huống, có tên nói do yêu ma quỷ quái quậy phá, có kẻ nói do thích khách Tây Hạ trà trộn, còn có người nói có hoà thượng làm phép tính làm hại Thánh Thượng. Bên ngoài Phúc Ninh Điện có ba lớp quân sĩ Điện Tiền Ty, bảo vệ nghiêm ngặt.

A Bảo đứng từ xa nhìn cảnh này, do dự mấy phen, cuối cùng không có xông vào, trầm ngâm chốc lát, quay người bước vào bóng đêm.

Tại Khôn Ninh Điện, cũng nhốn nháo hoảng loạn không kém.

Tiết Hành biết tin có kẻ làm càn cũng kinh sợ theo, bất chấp túm lấy tiểu hoàng môn báo tin hỏi: “Quan gia đâu? Quan gia sao rồi hả?”

Tiểu hoàng môn vội trả lời: “Lúc tiểu nhân tới đó, Lục Thái uý đã điều động quân sĩ Điện Tiền Ty đến hộ giá, quan gia cát nhân thiên tướng, nhất định sẽ bình an vô sự thôi ạ!”

Chỉ nói thôi cũng chẳng thể an ủi Tiết Hành, nàng ấy nhíu mày nói: “Không được! Ta phải đến Phúc Ninh Điện xem sao!”

Thị nữ chung quanh nghe xong, sôi nổi quỳ xuống khuyên Hoàng hậu nương nương bình tĩnh, hiện giờ thích khách tăm tích không rõ ràng, ý đồ ra sao chẳng ai hay, sắc trời lại tối, bên ngoài còn có sét đánh, trước mắt chỉ có cách đóng cửa Khôn Ninh Điện không ra ngoài mới là an toàn nhất, nếu trên đường gặp chuyện gì nguy hiểm, bọn họ đều không gánh nổi hậu quả.

Tiết Hành bị chúng thị nữ ôm chân, không bước đi được thì nổi giận tím mặt: “Cẩu nô tài! Nếu quan gia xảy ra chuyện, các ngươi có đảm đương nổi không hả?!”

Nàng ấy luôn ôn hoà khiêm nhường, có lòng từ bi, đây là lần đầu tiên nổi giận lớn tiếng như trước mặt cung nhân.

Chúng thị nữ sợ đến phát run, nhưng cũng không dám buông tay ra, quan gia xảy ra chuyện, bọn họ đảm đương không nổi, nhưng Hoàng hậu nương nương xảy ra chuyện, bọn họ hầu hạ bên người càng đảm đương không nổi.

Cái nào ít hại hơi thì chọn cái đó, chúng thị nữ không hẹn khóc lóc cùng nhanh, xôn xao kêu ‘Nương nương bình tĩnh ạ’.

Đang lúc giằng co, có nội thị phụ trách canh cửa ngoài điện tiến vào.

Mí mắt Tiết Hành đột ngột giật giật, vội hỏi: “Sao vậy? Bên quan gia có tin tức gì sao?”

“Không không không…” Tiểu nội thị sợ tới mức líu lưỡi, khóc không ra nước mắt, “Bên ngoài… Bên ngoài có người…”

“Ngươi hoảng cái gì mà hoảng?!”

Tiết Hành nhíu mày phẫn nộ quát: “Nói chuyện cho đàng hoàng! Rốt cuộc là ai tới?!”

Tiểu nội thị run bần bật: “Người đó nói là… Cố nhân.”

Tiết Hành bỗng dại ra.

Đúng vào lúc này, cửa các bị đẩy ra, hoa tuyết bị gió đêm thổi ngược vào, dập tắt ánh nến trong điện, có người mặc cung trang, đầu đầy châu ngọc, mỉm cười dịu dàng bước qua ngạch cửa, đi vào.

Ánh đèn hiu hắt, chiếu sáng gương mặt xinh đẹp quen thuộc nọ.

Giống như cố nhân lâu rồi không gặp. Nàng hết sức tự nhiên ngồi xuống, vắt chéo chân, ân cần cười hỏi thăm Tiết Hành: “Uy phong lớn thật nha, Hoàng hậu nương nương.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 59: Thanh thản



“Cô… Cô là người hay quỷ?”

Tiết Hành khiếp sợ nhìn người đang ngồi ghế ăn điểm tâm kia.

“Tại sao mỗi người trong các ngươi nhìn thấy ta, đều phải hỏi câu này thế? Có gì mới mẻ hơn chút không?”

A Bảo buông điểm tâm xuống, phủi vụn bánh rơi trên người, ngước mắt nói: “Để mà nói, ta hẳn là quỷ rồi, nhưng nói đi cũng phải nói lại, ta là người hay quỷ, cô nên biết rõ nhất chứ nhỉ? Dù sao năm đó, là cô thử hơi thở cho ta mà.”

“Phải…”

Tiết Hành mờ mịt: “Lúc ấy cô đã tắt thở…”

“Không hẳn,” A Bảo nói, “Vào trong quan tài còn thừa lại một hơi, là cái đồ quỷ thất đức tuyệt tử tuyệt tôn Phùng Ích Toàn đã khiến ta chết ngạt trong đó.”

“…………”

Tiết Hành trừng to đôi mắt: “Không thể nào!”

A Bảo cẩn thận quan sát thần sắc của nàng ấy, trông không giống giả bộ lắm, nhưng nữ nhân Tiết Hành này luôn am hiểu diễn kịch, nàng ấy tựa như con hát trời sinh, cả đời này mang mặt nạ mà sống. Đừng nói là A Bảo không phân biệt được thật giả, nội tâm nàng hoài nghi ngay cả bản thân Tiết Hành cũng chưa chắc phân biệt nổi.

Rốt cuộc nàng ấy biết hay không, chuyện này A Bảo đã không muốn truy cứu tiếp, không có nghĩa lý gì, nhưng không có nghĩa nàng sẽ không lợi dụng chuyện này.

“Cô thiếu ta một ân tình nha, Tiết tam nương tử.”

Nàng nhìn chằm chằm Tiết Hành, sâu kín nói.

Tiết Hành không hổ là nữ nhân thông minh nhất cấm đình, rất mau phản ứng lại ngay: “Cô muốn tôi làm gì?”

“Ta muốn gặp Triệu Tòng.”

Thấy sắc mặt nàng ấy thay đổi ngay tức khắc, A Bảo lập tức bổ sung: “Đừng lo, ta sẽ không nói hắn là cô cùng Phùng Ích Toàn liên thủ hại chết ta đâu. Ta cũng sẽ không tổn thương hắn, thiên tử là Tử Vi Tinh giáng thế, có long khí hộ thân, ta là vong hồn tầm thường không thể gây hạ đến hắn, ta chỉ yêu cầu hắn thả một người ra.”

“Là Lương tiên sinh sao?” Tiết Hành hỏi.

A Bảo không phủ nhận, chỉ hỏi: “Việc này, cô có thể giúp không?”

Tiết Hành trầm mặc.

A Bảo nhắc nàng ấy: “Ta không có nhiều thì giờ để chờ cô.”

“Cô cần thay quần áo,” Tiết Hành nhìn nàng nói, “Nếu cô không ngại, có thể giả làm thị nữ của tôi.”

“Được.”

A Bảo không suy tư gì thêm liền gật đầu.

Dưới sự trợ giúp của Tiết Hành, nàng đổi sang trang phục của thị nữ, quần áo và trang sức châu hoa được cởi bỏ đều hoá thành hư ảo, Tiết Hành nhìn đến ngây dại.

A Bảo thấy nhiều nên không trách, vừa buộc áo choàng vừa trào phúng: “Đâu cần kinh ngạc tới vậy, Hoàng hậu, tròng mắt sắp lọt ra tới ngoài rồi kìa.”

Dây đai bị nàng thắt nút chết, càng thắt càng chặt, Tiết Hành nhìn nhìn thì tiến lại tháo nút thắt, giúp nàng buộc lại từ đầu.

Nàng ấy cao gầy hơn A Bảo một cái đầu, lúc làm chuyện này phải cúi đầu, mặt mũi nhàn nhạt nói: “Chỉ là tôi chưa thấy qua thôi.”

A Bảo trợn trắng mắt, không muốn nói chuyện cùng nàng ấy.

Hai người chọn cầm ngọn đèn cung đình ra khỏi cửa Khôn Ninh Điện. Lúc đến trước Phúc Ninh Điện, bên ngoài lại giáng xuống trận tuyết lớn, nhìn như sợi bông được kéo ra. Thi thoảng còn tạt qua đợt sấm rền, A Bảo sợ tới mức hai vai co rụt, sợ tiếp theo nó sẽ bổ xuống đầu mình.

Tiết Hành ngẩng đầu nhìn bầu trời, sau đó nghiêng đầu hỏi nàng: “Sợ sét đánh?”

A Bảo giận, thầm nghĩ cô biết hỏi quá ha, “Không cần cô lo.”

Dọc đường đi có gặp vài quân sĩ đang chạy ngược chạy xuôi, nói là đã bắt được thích khách, là một hoà thượng, hiện giờ đã giải người đến bạo thất chờ thẩm vấn.

A Bảo nghe thấy, thâm tâm thầm mắng té tát Giác Minh hoà thượng, cái đồ hoà thượng thối vô dụng! Làm phiền thêm cho nàng!

Tiết Hành cầm đèn liếc qua, hỏi: “Là người quen à?”

A Bảo không muốn giải thích.

Tiết Hành lại nói: “Xem ra cô muốn thả không chỉ có một, mà là hai người lận.”

“……”

Rốt cuộc A Bảo không nhịn nổi, quay đầu nói: “Cô ngậm miệng lại được không?”

Tiết Hành đành thôi.

**

Tuy đã bắt được thích khách, nhưng sự tình liên quan đến an nguy của Thánh Thượng, mọi người vẫn không dám lơ là thiếu cảnh giác.

Chỉ huy sứ Lục Vân của Điện Tiền Ty tự mình ra trận, ngay cả một con muỗi cũng không chui lọt vào điện, nhưng y không dám ngăn cản Hoàng hậu, chỉ liên tục đánh giá thị nữ đi theo phía sau người.

Nàng mặc áo choàng, đội mũ trùm đầu, che đậy kín cẩn quá mức, lại còn cúi đầu, không thấy rõ diện mạo.

“Có vấn đề gì sao? Lục đại nhân?”

Tiết Hành bất động thanh sắc dời nửa bước chân sang che cho A Bảo phía sau.

Lục Chỉ huy thu hồi tầm mắt như chim ưng, cung kính chắp tay đáp: “Không có gì ạ, nương nương mời vào.”

Sau khi Tiết Hành vào được Phúc Ninh Điện, liền có nội thị tiến lại bẩm báo, nói là quan gia bị bóng đè, hơn nữa đột nhiên xuất hiện sấm sét nên đã bị kinh hách, thần trí luôn mất tỉnh táo, còn nhắc về phế hậu Lý thị mãi.

Tiết Hành nghe xong gật nhẹ đầu, kêu cung nhân hầu hạ có trong điện lui ra ngoài, chưa được gọi thì đừng tiến vào.

Nàng ấy dẫn A Bảo đi đến hậu điện, thuận tiện giải thích cho nàng nghe: “Từ sau khi cô… Không có ở đây, quan gia thường hay gặp ác mộng, thần trí lúc thì thanh tỉnh lúc thì hồ đồ, luôn nói cô chưa chết, nói cô… Chỉ về lại Dương Châu mà thôi.”

Nàng ấy dừng bước, xoay người nhìn A Bảo: “Nếu được, cô có thể giả làm người trong mộng của y không? Hiện giờ y không phân biệt rõ được, đừng nói là cô đã chết, coi như y đáng thương nhé, được không?”

A Bảo không trả lời, chỉ lạnh lùng nói: “Mở cửa đi.”

Ngọn đèn dầu tẩm điện tối tăm, như được người ta cố ý bố trí thành, Triệu Tòng chỉ mặc bộ áo ngủ đơn bạc, đi chân trần, ngồi ngay bệ đạp trước giường, ôm chậu mai đã chết vào lòng, hai mặt đờ đẫn, như lạc vào cõi thần tiên.

“Quan gia.”

Tiết Hành đi qua, ngồi xổm xuống trước mặt hắn, nắm tay hắn nhẹ giọng gọi.

“Tam nương…”

Triệu Tòng lấy lại tinh thần, lẩm bẩm nói: “Trẫm mơ thấy Uyển Nương, nàng nói nàng hận trẫm, nàng muốn móc tim gan của trẫm…”

Tiết Hành lấy khăn lau mồ hôi lạnh trên trán cho hắn, giống như mẹ hiền dỗ con nhỏ, mềm mại nhỏ nhẹ nói: “Sao có thể chứ? Uyển tỷ tỷ yêu quan gia như vậy, sẽ không tổn thương quan gia đâu ạ, chẳng qua là ác mộng thôi. Quan gia, chàng nhìn xem, thần thiếp mang ai tới cho chàng nè?”

Nàng ấy bảo Triệu Tòng nhìn về hướng cửa, A Bảo đứng vào chỗ ánh nến chiếu không tới, từ tốn tháo mũ trùm đầu xuống.

“Uyển Nương!!!”

Triệu Tòng đứng bật dậy, ánh mắt sáng quắc nhìn nàng chằm chằm.

Chậu tịch mai rơi xuống từ trên đầu gối hắn, chậu hoa vỡ nát, đất cát văng đầy sàn.

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng chạy chân trần tới, vừa ôm nàng vào lòng mình vừa mừng rỡ hô như điên: “Em chưa chết! Trẫm biết ngay! Em chưa chết! Bọn họ đều gạt ta!”

Tiết Hành âm thầm rời khỏi tẩm điện, A Bảo hít sâu một hơi, dùng sức đẩy Triệu Tòng ra, hờ hững nói: “Thả Lương Nguyên Kính.”

“Uyển Nương ơi……”

Triệu Tòng chưa từ bỏ ý định muốn ôm nàng, cuối cùng chọc cho A Bảo tức giận, đánh một cái lên người hắn, “Tôi kêu anh thả Lương Nguyên Kính mà! Thả chàng ra! Anh có hiểu tiếng người không hả?!”

Triệu Tòng bị nàng đánh thật đau, nhưng vẫn cố chấp ôm nàng vào lòng, máu thịt dưới tay là thật, còn có nhiệt độ cơ thể âm ấm, ngửi một hơi thật sâu, chóp mũi vấn vương hương thơm quen thuộc trên người Uyển Nương. Nàng không phải ảo ảnh đuổi chẳng kịp kia trong mộng, đích xác là một người vô cùng chân thật.

Nàng quay về rồi, Uyển Nương hắn về rồi.

Triệu Tòng gắt gao ôm người vào lồng ng.ực, tựa như muốn hoà nàng vào xương thịt của mình, phát ra tiếng thở dài thoả mãn.

“Được! Được! Ta thả y! Uyển Nương, cho dù em muốn cái gì, em biết mà, ta sẽ luôn đáp ứng em.”

Cho dù hắn có ra hứa hẹn gì, A Bảo vẫn chưa thấy yên tâm, phải tự mình thấy tự tay hắn viết chiếu mới được, lúc viết sắp xong, nàng mới nhớ ra: “Khoan đã, còn một người nữa, Giác Minh hoà thượng.”

Suýt chút quên mất.

Triệu Tòng không hỏi hai lời, viết thêm pháp hiệu hoà thượng vào đó.

Chờ hắn viết xong, A Bảo đọc lại từ đầu đến cuối, xác nhận không có sai lệch nào, lúc này mới cuốn chiếu cất vào tay áo.

Triệu Tòng mãi quên cả chớp mắt nhìn nàng đăm đăm, sợ rằng chỉ trong một cái chớp mắt thôi là nàng sẽ biến mất vậy.

“Uyển Nương này, mấy năm nay em đi đâu vậy? Là về lại Dương Châu sao?”

A Bảo: “……”

“Em còn giận ta à?” Triệu Tòng bắt lấy tay áo nàng, “Đừng giận ta nữa được không? Ta sai rồi, em xem, cây trâm tặng em, ta đã tìm thợ sửa lại…”

Hắn lấy cây ngọc trâm từ ngực ra, chỗ vốn đã đứt đoạn giờ được mạ thêm lớp vàng, nối hai đoạn trâm liền lại với nhau.

“Còn hoa mai… Hoa mai ta tặng em, ta vẫn thường chăm sóc kỹ… Em tới đây xem!”

Hắn nắm ống tay áo A Bảo, vốn định dẫn nàng tới nhìn hoa mai, lại phát hiện chậu mai vì lần sơ sẩy vừa nãy của hắn nên đã rớt xuống sàn vỡ nát.

Triệu Tòng ngây dại, vội vàng quỳ xuống, luống cuống tay chân gom đống đất, còn bị mảnh sứ chậu vỡ cứa vào lòng bàn tay chảy dài máu.

“Đừng làm nữa,” A Bảo nhẹ nhàng nói, “Hoa chết rồi.”

“Không……”

Triệu Tòng ngẩng đầu ngơ ngác nhìn nàng.

A Bảo ngồi xổm xuống, nghiêm túc nhìn hắn: “Chậu hoa vỡ rồi không lành lại được, hoa chết rồi cũng không nảy nở được nữa, còn có cây trâm…”

A Bảo nhét trâm ngọc vào tay hắn: “Gãy là gãy, mặc anh có tìm thợ tay nghề cao siêu đến đâu, cũng không thể quay về hình dạng ban đầu. Người chết rồi, là đã hết rồi, dù cho anh có không muốn thừa nhận tới bao giờ, cũng vậy thôi. Triệu Tòng à, anh hiểu chưa?”

Triệu Tòng tê liệt ngồi bệt dưới đất, thần sắc hoảng hốt, ngơ ngẩn rơi lệ: “Nhất định là trẫm đang nằm mơ.”

A Bảo không phản bác, chợt nghe hắn sâu kín hỏi: “Uyển Nương này, em có hận trẫm không?”

A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi: “Trước kia chắc là có.”

“Vậy em có từng yêu trẫm không?”

Từng yêu sao?

Đây là vấn đề vô cùng phức tạp, nhất thời A Bảo chưa nghĩ ra đáp án.

Có đôi khi, tình cảm con người cũng không thể chỉ gói gọn trong hai chữ yêu và hận được, nếu muốn A Bảo dùng một từ để miêu tả mối quan hệ giữa nàng và Triệu Tòng, nàng nghĩ nàng sẽ không nói về chữ ‘yêu’ hay ‘hận’, hẳn là ⎯

“Ỷ lại.”

Từ ngày nọ vào năm Hữu An thứ sáu rời Dương Châu, tách khỏi anh mình, A Bảo đã bước vào con đường ỷ lại Triệu Tòng. Nàng ở Đông Kinh đưa mắt không quen, còn không hoà nhập được với vòng quý nữ kinh đô, người mà có thể tín nhiệm, cũng chỉ có mỗi Triệu Tòng mà thôi.

Triệu Tòng tựa hồ cũng hết sức hưởng thụ loại tin cậy nàng dành cho hắn. Hắn dẫn nàng dạo chơi khắp thành Đông Kinh, muốn tìm mọi cách dỗ nàng vui vẻ, tất cả sự chưa thích ứng khi tách khỏi Lý Hùng, sự ỷ lại từ a ca, tất cả đều di dời lên trên người hắn.

Nhưng mà sau đó thì sao?

Hắn dùng loại ánh mắt xa lạ, lạnh lẽo như vậy để nhìn nàng, còn nói: “Là do ta đã quá nuông chiều ngươi.”

Câu nói như đòn cảnh tỉnh, nó hoàn toàn đánh bật lại A Bảo, lúc đó nàng mới thấu, căn bản Triệu Tòng không phải là Lý Hùng, a ca đối xử vô điều kiện với nàng, bởi vì anh không cần nàng đáp trả.

Nhưng Triệu Tòng thì không, hắn cần nàng đáp lại mình, cần nàng khắc ghi trong lòng, cũng là loại báo đáp tương ứng.

Hắn đối xử có điều kiện với nàng, đó là ‘Ta đối tốt với ngươi như vậy, ngươi cũng cần đáp ứng lại ta theo yêu cầu, nếu không ta sẽ tịch thu lại những gì đã cho ngươi’.

Khi đó Triệu Tòng cãi nhau cùng nàng, luôn miệng nói, ta vì em mà chống cự với đám quan lại kia, đối kháng với tổ chế Đại Trần, vì em thành trò cười cho thiên cổ, vì em làm ra chuyện thiên hạ không tán đồng, vì em đắc tội với thế nhân. Nói không chừng mai sau sử sách ghi lại, vậy mà em còn muốn mắng ta mê muội cái đẹp. Sao em không hiểu chuyện chút đi? Ngoan hơn? Để ta bớt lo hơn chút thì sao?

Nhưng A Bảo lại nghĩ, căn bản điều nàng muốn đâu phải như này.

Xưa nay Triệu Tòng vẫn luôn không rõ, điều nàng chân chính muốn là gì, tựa như hắn không biết nàng rất muốn tìm cây trâm như ý a ca tặng, chứ chẳng phải trâm ngọc đẹp đẽ trân quý nhưng lại vô dụng kia.

Hoàng quyền, đế vị, biến người chung chăn gối thành một nam nhân xa lạ. A Bảo ngày càng không hiểu nổi hắn, hắn nói ít hơn, tâm cơ thâm trầm, chẳng tươi cười nốt, ánh mắt nhìn nàng dần dần chứa đựng nhiều sự bất mãn, bắt bẻ cũng nhiều.

Hắn không cho nàng đàn tỳ bà, không cho nàng ăn món nàng muốn, không cho đọc thoại bản, chặn thư tín a ca gửi cho. Tình yêu của hắn là chiếc lồng sắt mạ vàng hoa mỹ tinh xảo, khiến nàng cảm thấy hít thở không thông.

Đôi khi A Bảo sẽ nghĩ, nếu Triệu Tòng không bước lên đế vị vốn chẳng thuộc về hắn. Nếu hắn vẫn là Triệu Thừa Tuấn như hồi ở Dương Châu, kết cục của bọn họ có khác hơn không, có lẽ bọn họ sẽ ân ái đến già, sẽ con cháu đầy nhà ấy nhỉ.

Tiếc là, đời người không có ‘nếu’.

Cho nên đối với câu hỏi hắn đưa ra, A Bảo chỉ có thể trầm mặc không đáp.

Triệu Tòng hai tay che mặt, khóc ròng nói: “Trẫm rất yêu rất yêu em mà.”

“Anh không yêu tôi,” A Bảo bình tĩnh lại, “Anh yêu Lý Uyển, tôi không phải nàng, tôi là A Bảo. A Bảo là A Bảo, người không có gia thế cao quý, cũng không học được cách cư xử dịu dàng như các vị nương tử khác.”

Triệu Tòng sững sờ, buông đôi tay ôm mặt xuống, hai mắt đỏ bừng nhìn nàng.

Hoá ra lúc hắn không cười, dáng vẻ chẳng giống người nọ chút nào, A Bảo có chút nghi hoặc sao năm đó mình lại nhận lầm được.

“Có lẽ tôi cũng không yêu anh.”

A Bảo hơi hơi mỉm cười, nói: “Chúng ta yêu, chỉ là bóng dáng nơi đáy lòng của nhau mà thôi.”

Rốt cuộc nghĩ rõ điểm này, nhất thời lòng A Bảo nảy sinh loại cảm giác giải trừ bế tắc, có yêu hận gì cũng không quan trọng. Nàng không cần hận Triệu Tòng, bởi vì tình yêu nàng dành cho hắn không hề thuần khiết, bọn họ từ lúc mới gặp đã là một loại sai lầm.

Thôi nương tử nói không sai, suốt đời nàng chỉ theo đuổi bóng hình hư ảo, như trăng trong nước, như hoa trong gương, mà giờ khắc này đây, nàng không cần tiếp tục kiếm tìm nữa, bởi vì người nọ, vẫn luôn đứng ngay phía sau nàng, chưa từng rời đi.

Thoáng chốc, A Bảo cảm nhận được oán khí nội tâm bị quét khỏi sạch sẽ, linh hồn nàng tựa như được gột rửa, bắt đầu trở nên trong suốt, thuần tuý thêm một lần nữa.

Đến lúc nàng phải đi rồi.

Triệu Tòng vội túm chặt cổ tay của nàng, nhưng cả người lại hết sức ngây ngẩn, bởi vì đầu ngón tay A Bảo đang tan biến, hoà thành bụi vàng bay bay.

“Em…”

Yết hầu hắn như bị người ta bóp chặt, nói không thành lời.

A Bảo vẫy tay hắn ra, cũng không kịp quay đầu: “Tôi không còn bao nhiêu thời gian nữa, cần phải đi ngay lập tức…”

Nàng xoay người lao ra Phúc Ninh Điện, bỗng nhiên có người từ trong góc duỗi tay ra ngăn nàng lại, là Tiết Hành.

A Bảo gấp muốn điên rồi, sao càng vào thời điểm mấu chốt thì càng có người chặn đường vậy nè.

“Cô muốn nói gì thì ngắn gọn thôi, tôi không còn nhiều thời gian!”

Tiết Hành ngây dại, cũng thấy tay trái của nàng đang thong thả tan biến, Tiết tam nương tử luôn trầm ổn, tiến lùi vừa đủ giờ đây lại có chút lắp bắp.

“Tôi… Tôi muốn nói cho cô biết, hạ táng cô vẫn còn sống, tôi thật sự không biết chuyện đó, lúc ấy tôi đã thử, xác thật là cô đã ngừng thở. Phùng Ích Toàn ông ta không nói cho tôi hay, còn về nguyên nhân, tôi đoán chắc do ông ta không nghe thấy, có lẽ là… Ông ta cho rằng nhiều thêm một chuyện chi bằng bớt đi một chuyện. Thành thật xin lỗi, tôi nói lời này cũng không phải muốn bao biện cho mình. Cho dù cô tin hay không thì, tôi…”

“Tôi tin.” A Bảo ngắt lời nàng ấy.

Tiết Hành ngẩn ra.

A Bảo hỏi: “Còn muốn nói gì nữa không?”

Tiết Hành thất thần một lát, xong lắc đầu, đáp: “Hết rồi.”

A Bảo cất bước phải đi, Tiết Hành vẫn ngăn nàng lại, giao cho nàng tấm thẻ bài: “Khắp nơi trong cung đều đang hạ giới nghiêm, cô cầm thẻ bài này, hành sự tiện nghi hơn nhiều.”

A Bảo rũ mắt nhìn tấm thẻ trong lòng bàn tay, chợt ngước mắt lên, nghiêm túc nói: “Đa tạ.”

Tiết Hành chua xót cười, thay nàng cột chắc áo choàng, đội mũ trùm đầu lên, nói: “Đi đi.”

A Bảo gật đầu, bay vào giữa trời đầy tuyết.

Sấm rền len vào tầng mây, phía chân trời không còn sấm sét ầm ầm, giờ đây cấm đình an tĩnh bình yên như vậy. Gió đêm thổi vạt áo choàng A Bảo tung bay, mũ trùm đầu rơi rớt, muôn vàn bông tuyết mềm nhẹ bay lên mặt nàng, như ký ức nơi sâu thẳm, những cảnh quang từng bị nàng quên lãng.

“Tiểu sinh họ Lương, tên Hoằng, tự Nguyên Kính.”

“Tiểu sinh? Anh rất nhỏ à?”

Gương mặt thiếu niên ửng hồng, ngay cả vành tai cũng nhiễm chút nhàn nhạt, y như hoa đào nở rộ đầu xuân.

Nàng nói: “Tôi tên A Bảo.”

“Tiểu nương tử A Bảo.”

“Cái gì mà ‘Tiểu nương tử A Bảo’, A Bảo là A Bảo, không có ‘tiểu nương tử’ gì hết.”

Đình viện, chàng chống thanh trúc chậm rì rì đi vòng quanh, nàng khẩn trương đi theo phía sau chàng, sợ chàng té ngã, còn chàng ngoái đầu cười nhìn lại nàng.

Một khắc đó, có hàng ngàn hàng vạn con bướm bay lên từ đáy lòng nàng.

Dưới cây sơn trà, chàng ngửa đầu nhìn nàng, vô thức duỗi cánh tay ra, giống như có thể tiếp nàng bất cứ lúc nào.

Nàng không nói cho chàng biết, từ nhỏ nàng đã học được cách leo cây, cây sơn trà bé tí này không có làm khó được nàng.

“Đồ ngốc! Tiếp này!”

Từng quả sơn trà như mưa sao băng ném xuống, chàng không tiếp được quả nào, còn bị rớt trúng cho vô cùng chật vật, còn nàng thì ngồi trên chạc cây cười ha hả.

Tháng sau, lá sen xanh biếc.

Nàng ôm đầy đài sen ở trong lòng chạy vội về phía trước, chàng thì thở hồng hộc ngay phía sau, mặt đỏ như gấc. Tình cờ dừng lại, quay đầu nhìn ông già cầm gậy trúc mắng to đuổi theo, sợ tới mức chả dám nghỉ ngơi, tiếp tục chạy bạt mạng như điên.

Bỗng nhiên nàng quành lại, kéo tay chàng chui vào con đường mòn.

Ngày hè ánh mặt trời nóng cháy vẩy đầy trên con đường đất nông thôn, tiếng cười nàng thanh thuý như tiếng chuông bạc, reo lên cả con đường. Thiếu niên thiếu nữ mười ngón tay đan vào nhau, lòng bàn tay áp sát, thấm tầng mồ hôi mỏng, hương hoa sen thơm ngát ập vào mũi, khiến con người ta say mê quên lối về.

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi, Chuối chóng xanh rồi…” [1]

[1] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.

Ánh trăng như bạc, thiếu niên ngồi trên ngạch cửa, lòng ôm tỳ bà, ngón tay thon dài gảy dây đàn, cất lên giọng ca dịu dàng trầm ấm. Mày mặt chàng sạch sẽ, tinh tế như vậy, tựa như thần tiên trên trời khiến nàng phải nín thở, vì sợ quấy nhiễu cảnh tượng trong mơ.

“Non có cây, cây lại có cành, Tâm hân hoan chàng, chàng có hay?…” [2]

[2] Việt nhân ca và bản dịch của Vệ Ca, thivien.net.

Sau giờ ngọ ngày hè, nàng đang say mộng đẹp. Chợt thấy trên má có chút ngứa ngứa, mở mắt ra thì thấy, ánh mặt trời chói chang chiếu qua tán cây xanh, kí.ch thí.ch đồng tử nàng đột nhiên co rút.

Nàng híp mắt, thấy phần cằm có độ cong hoàn mỹ của thiếu niên nọ, trái tim tức khắc đánh trống reo hò.

Trong đám đông, nàng không tìm thấy bóng dáng chàng đâu, hoảng sợ đứng dậy nhìn khắp nơi xung quanh, chợt nghe tiếng ‘ting’ nhỏ, nàng xoay người, nén bạc xoay vòng trong thau đồng, còn chàng dáng ngọc đứng thẳng đó cười với nàng.

“Tiểu nương tử với khúc nhạc như nhạc tiên luân âm, nhân gian nào mấy khi được nghe, một chút tâm ý, kính mong vui lòng nhận cho.”

Tiếng khua chiêng náo nhiệt mở màn kịch dân dã vang to, bọn họ đứng giữa biển người tấp nập, tiếng nói chàng ôn hoà, kể cho nàng nghe cảnh vật Dương Châu, con người Dương Châu, di tích cổ Dương Châu ra làm sao.

Nàng nghe xong trợn tròn mắt, không chịu bỏ qua tiếp tục truy hỏi, chấp nhất muốn biết rõ trong lòng chàng, Thành Đô tốt hay Dương Châu tốt hơn.

Chàng cười mỉm chi đáp, mỗi nơi đều có cái hay của nó.

Nàng bĩu môi, lẩm bẩm cực nhỏ tiếng, vẫn là Thành Đô chúng tôi tốt hơn.

Tiếng hát trên sân khấu cất cao, thiếu nữ chẳng thể nói ra lời tâm sự sâu kín giữa đám đông.

Dưới đáy lòng nàng lén nói, tuy Dương Châu có hoa thược dược, có Hồ Tây Gầy, có sông nhỏ Tần Hoài, có 24 cây cầ. Nhưng Thành Đô cũng có hoa hải đường, có chợ tơ tằm, có cảnh mặt trời lên hoa hồng đỏ như lửa, có sông xanh tựa như màu chàm mỗi đợt xuân về. Còn có một tiểu cô nương tên là A Bảo nữa, nàng thích chàng, nên chàng đừng đi có được không?

Cuối cùng mảnh bông tuyết lất phất bay qua, uyển chuyển mềm mại dừng trên đuôi mắt của A Bảo, hoà tan thành một giọt nước mắt.

Phản chiếu trong mắt nàng, là con phố dài ngày xuân năm nọ, nàng ngồi giữa đường đàn tỳ bà, có người trẻ tuổi cầm ô, đeo hòm xiểng đi đường, đứng trước quán trà. Chàng mặc bộ áo dài màu xanh, tay áo thêu hoa văn khóm trúc, hết lần này tới lần khác đều vô tình nhìn sang nàng, mắt như nước mùa thu, môi chứa cái cười nhạt.

Chỉ một cái liếc mắt, cả đời chẳng thoát nổi.
 
Back
Top Bottom