Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 20: Say rượu



Đêm đã rất khuya, Lương Nguyên Kính muốn giữ Giác Minh ở lại ngủ một đêm, chờ ngày mai hẳn về chùa Tướng Quốc, không ngờ hòa thượng lại kiên trì muốn đi.

Cũng may hôm nay là Đoan Ngọ, lo lắng dân chúng ra ngoài thành đến Kim Minh Trì vui chơi về muộn, giờ đóng cửa thành sẽ chậm hơn ngày thường một chút.

Lương Nguyên Kính cầm chiếc đèn lồng sa [1], muốn tiễn Giác Minh đi một đoạn.

[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)


A Bảo thấy bọn họ hình như có lời muốn nói nên không đi theo, khi sống lại nàng không khác gì người bình thường, không cần lúc nào cũng nấn ná bên Lương Nguyên Kính trong phạm vi năm trượng.

Chàng đi rồi, A Bảo không biết nên làm gì, nhàm chán chống cằm ngồi trên nắp giếng trong viện, vừa ngắm trăng vừa chờ chàng về.

Ban đêm Dư lão đi tiểu, ra tới nơi thấy có thêm người con gái trong sân, còn tưởng mình tuổi già mắt mờ nên nhìn lầm.

Dùng sức xoa bên mắt, nhìn lại, là thật mà!

“Dư lão đừng kêu!”

A Bảo trước khi ông ấy chuẩn bị xé cổ họng kêu to đã chạy nhanh tới ngăn cản.

“Sao cô biết tên tôi…”

Dư lão càng thêm sợ hãi, vừa run rẩy vừa lùi bước, “Cô… Cô là ai? Đừng lại đây nha…”

A Bảo thầm nghĩ cái này là sao, lúc mình là quỷ thì ông ấy không sợ, ngược lại giờ biến thành người thì lại sợ tới vậy.

Bỗng nhiên trong đầu bừng tỉnh nói với Dư lão: “Ông đừng sợ, tôi không phải người xấu, tôi là vợ của công tử nhà ông, chàng kêu tôi gọi ông là Dư lão.”

“Cô nói dối, công tử nhà tôi chưa từng cưới vợ.” Dư lão nói.

“Chàng cưới rồi,” A Bảo nói dối không chớp mắt, “Chàng cưới ở quê, tôi mới từ dưới đó lên đây, không tin ông cứ hỏi chàng đi.”

“……”

Dư lão bán tín bán nghi nhìn về phía sương phòng của Lương Nguyên Kính.

“Chàng ra ngoài tiễn bằng hữu rồi,” A Bảo lập tức nói, “Là Giác Minh hoà thượng.”

Ban đêm Dư lão đi ngủ rất sớm nên không biết Giác Minh đã tới, chỉ thoáng nghe tiếng chó sủa, còn có tiếng nói chuyện cách vách, chắc công tử có khách ghé thăm. Hơn nữa công tử cùng tiểu sư phụ Giác Minh ở chùa Tướng Quốc có quen biết, ông biết chuyện đó.

Đến bây giờ Dư lão mới tin A Bảo được hơn phân nửa, chỉ là trong lòng còn chút thắc mắc: “Cô nói mình là phu nhân công tử cưới ở quê à?”

“Đúng vậy.” A Bảo không đỏ mặt gật đầu.

“Vậy sao lúc cô nói chuyện không nghe ra giọng ở Dương Châu vậy?”

“……”

A Bảo suýt chút đã lỡ lời hỏi “Anh ta là người Dương Châu?”, may kịp quay đầu là bờ, ngoài miệng biện minh: “Người Dương Châu nhất thiết phải nói giọng Dương Châu sao? Tôi thấy công tử nhà ông nói chuyện cũng đâu có giống đâu, chứng tỏ tôi nói tiếng phổ thông rất tốt. Còn nữa, ông muốn nghe giọng Dương Châu thì tôi nói một câu cho ông nghe là được rồi.”

Cái này quá đơn giản với A Bảo.

Nàng sinh sống trong thành Dương Châu hơn hai năm, nhóm nương tử ở Minh Thuý phường có rất nhiều người địa phương, mưa dầm thấm lâu, nàng nghe miết ấy mà, vì thế lập tức nói vài câu bằng tiếng Dương Châu cho Dư lão nghe.

Bản thân Dư lão cũng là người Dương Châu, chợt nghe giọng nói quê hương rót vào tai, gần gũi lạ thường, liền hoàn toàn tin tưởng vào A Bảo, nhân hậu cười nói: “Hoá ra là nương tử tới, vừa rồi lão nô thất lễ. Hôm nay nương tử đến lúc nào vậy, đi đường vất vả, đã ăn cơm canh gì chưa?”

Ông không nhắc tới thì đỡ, vừa nói tới chữ ‘cơm’, A Bảo lập tức thấy đói meo. Nàng giấu tiếng ‘ùng ục’ vang lên từ bụng, ngại ngùng cười cười với Dư lão.

“Trong nhà còn cơm ạ? Tôi ăn một ít vậy.”

Chỉ trong chốc lát, Dư lão đã nấu xong nồi bánh súp. [2]

[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
194ea7ed23c0cfbe1cec972ecf1b823f.jpg40h_1280.jpeg


A Bảo khuyên can mãi ông ấy mới chịu quay về phòng ngủ, nếu không nàng sợ sẽ giống như lần trước, ăn vài miếng đã biến lại thành linh hồn. Nếu để Dư lão thấy một người đang sống sờ sờ đột nhiên tiêu tan mất dạng, không phải sẽ dọa ông ấy ngất đi sao?

Sau khi A Bảo tiễn ông ấy đi, tự mình lấy cái chén riêng ngồi xổm dưới bếp, ăn sạch sành sanh cái nồi bánh súp đó.

Cũng không biết có phải lần này Lương Nguyên Kính nhỏ nhiều máu hơn lần trước không, đến khi ăn xong rồi A Bảo vẫn chưa trở về trạng thái linh hồn.

Nàng ăn hết nồi bánh súp no căng cả lên, phải lấy tay đỡ bụng bám tường đi về trong viện, chậm rãi tản bộ cho tiêu hoá bớt, không đếm đã đi được mấy vòng, Lương Nguyên Kính đã trở lại.

“Anh về rồi.”

A Bảo đỡ thắt lưng, đứng dưới cây táo nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính cũng không vào ngay, chỉ không nói lời nào đứng ở ngạch cửa ngơ ngác nhìn nàng.

A Bảo thầm nghĩ gần đây vất vả lắm mới không hay ngây người nữa, sao giờ lại khôi phục dáng vẻ ngơ ngơ ngốc ngốc đó rồi, nàng đi tới trước mặt chàng.

“Sao vậy?”

Bỗng nhiên gió đêm thổi qua, có loạt mùi hương không đúng lắm bay vào chóp mũi, A Bảo cố khịt khịt cái mũi, cúi người ngửi ngửi: “Khoan đã, anh uống rượu hả?”

Lương Nguyên Kính đỏ mặt đẩy nàng ra, cất bước vào trong phòng ngủ.

“Uống một chút.”

A Bảo đi theo sau chàng hỏi: “Uống với ai? Không phải anh đi đưa tiễn đại hòa thượng à?”

Lương Nguyên Kính dừng bước hơi quay đầu nhìn nàng, tựa hồ say rồi, bước chân có hơi lảo đảo, gương mặt nhiễm chút đỏ ửng.

“Uống với cậu ấy.”

Hả?

Uống với cậu ấy? Uống với Giác Minh?

A Bảo trừng to đôi mắt: “Không phải y là hòa thượng sao?”

“Ừm, cậu ấy là hòa thượng ăn thịt uống rượu.”

Lương Nguyên Kính tiếp tục đi vào phòng, A Bảo nhìn thấy rất rõ, xác định chàng đã say thật rồi, dưới chân bước không hề theo trình tự, lúc bước lên bậc thang còn suýt nữa bị vấp ngã.

A Bảo chạy nhanh lại đỡ lấy chàng, nghiêng đầu cảm thấy rất hứng thú hỏi: “Vậy y cũng đến hoa lâu hả?”

“……”

“Đến.” Lương Nguyên Kính khẽ nói.

Hiện tại tư duy của chàng có hơi trì trệ, trước khi nói luôn khựng lại suy tư một lát mới nói tiếp: “Cậu ấy nói, trước mặt Phật Tổ chúng sinh bình đẳng, dù là ca kỹ con hát cũng cần được Phật pháp phổ độ.”

“Hòa thượng này cũng khá thú vị, còn không phải là ba hoa hòa thượng hả? Dám ngụy biện như vậy nữa chứ, chùa Tướng Quốc sao còn chưa tiễn y ra ngoài vậy.”

A Bảo thầm nhớ lại lúc mình còn ở Minh Thuý phường sao chưa từng gặp vị khách nào thú vị như y nhỉ, chỉ cần nghĩ tới dáng vẻ đại hòa thượng có cái đầu trọc lóc tay cầm đùi gà tay nâng chén rượu cà cưa đưa đẩy với các nương tử giảng “Khổ ải vô biên, quay đầu là bờ”, A Bảo thiếu chút nữa cười thành tiếng.

Đang tự mình vui mừng khôn xiết, Lương Nguyên Kính thình lình xoay người nhìn nàng chằm chằm.

“Sao… Làm sao vậy?”

A Bảo bị chàng đăm đăm nhìn sinh ra vài phần khẩn trương, chủ yếu là do Lương Nguyên Kính say rượu, sắc mặt đỏ hồng, đôi mắt đen nhánh ướt át như có tầng hơi nước che phủ, thật sự là…

Quá quyến rũ mà!

A Bảo không khỏi nuốt nước miếng.

Ánh mắt Lương Nguyên Kính trong sáng, nói: “Tôi muốn tắm.”

A Bảo: “……”

Lương Nguyên Kính: “Mời em ra ngoài được không?”

A Bảo: “…………”

“Anh uống say hả?” A Bảo hỏi ngay.

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu suy nghĩ lúc lâu sau mới gật gật đầu: “Hình như là vậy.”

“……”

“À ờ,” A Bảo mặt vô biểu cảm, giống như du côn ác bá cưỡng đoạt con gái nhà lành, “Nếu tôi không đi thì sao?”

Lương Nguyên Kính khẽ mở to hai mắt giống như không ngờ được câu trả lời này. Chàng nhăn mặt, vắt óc suy nghĩ thêm hồi lâu, cuối cùng nín giận nói: “Vậy tôi không tắm nữa.”

“……”

A Bảo quay đầu đi, nỗ lực đè ép khoé miệng muốn cười, cực khổ kiềm chế xong mới quay đầu chín chắn nói: “Vậy không tốt lắm, anh đi tắm thì hơn, tôi đi ra ngoài đây.”

Lúc đi tới cửa nàng bỗng xoay người lại cười, giơ tay lên thề: “Anh yên tâm, tôi tuyệt đối sẽ không nhìn lén qua khe cửa đâu.”

Lương Nguyên Kính gật gật đầu, vịn cửa nghiêm túc nói: “Được.”

A Bảo dùng hết sức bình sinh mới khắc chế được trận cười của mình. Chờ đến khi cửa phòng sau lưng khép lại, nàng đi vào trong đình viện, khom lưng ôm bụng xả tràng cười muốn nội thương.

Ha ha ha ha ha ha ha!

Ông trời ơi! Lương Nguyên Kính say rượu mắc cười tới vậy á!

Ha ha ha ha ha! Ai tới cứu nàng với!

A Bảo đỡ cây táo cười đến không chịu nổi, thở hổn hển, hoài nghi trên đời này chắc có người chết vì cười là thật.

Cứu mạng với! Ai đó tới cản nàng lại đi!!

Nàng lại nhớ tới dáng vẻ say mèm của Lương Nguyên Kính, vậy mà còn nhớ phải đi tắm, chờ lát nữa chàng sẽ không chết đuối trong thùng nước đâu ha?

Nhưng mà chính nàng đã đáp ứng tuyệt đối không nhìn lén chàng rồi, tưởng tượng thấy Lương Nguyên Kính vùng vẫy hai cánh tay trong thùng tắm hoảng loạn phá tướng la to “Cứu mạng”, A Bảo lại cười thêm một tràng nữa.

Vất vả lắm mới nhịn cười, nàng ngồi xuống dựa vào cây táo, hít thở sâu bình tâm trở lại.

Ôi, cười đến đau cả bụng.

Lương Nguyên Kính, cái người sao thú vị dữ vậy nè?

Đáng tiếc…

Trong đầu A Bảo đột nhiên hiện ra hai chữ đó, ngay cả nàng cũng thấy khó tin nổi.

Đáng tiếc? Đáng tiếc gì chứ?

“Đáng tiếc anh đã có người trong lòng.” Ở chỗ nào sâu trong đáy lòng trả lời hộ nàng.

Người trong lòng, người trong lòng……

A Bảo lẩm bẩm lặp lại ba chữ này, không rõ đáy lòng có cảm thụ gì, thật giống cảm giác ăn trúng quả mận cực chua, vị chua xót lan ra từ đầu lưỡi xuống tới tận tim.

Người trong lòng, người ở trong lòng Lương Nguyên Kính sẽ có dáng hình thế nào? Có xinh đẹp không?

A Bảo nghĩ nghĩ, bỗng nhiên đôi mắt sáng ngời.

Không đúng! Nàng có thể biết được người trong lòng Lương Nguyên Kính trông như thế nào mà!

Bức tranh đặt dưới đáy rương kia không phải đã vẽ rồi sao?

A Bảo ngó cửa phòng đóng chặt, bên trong lờ mờ chút ánh sáng nến, vậy là Lương Nguyên Kính chưa tắm gội xong.

Nàng lại nhìn về phía cửa thư phòng tối đen như mực, lập tức đứng dậy, vỗ vỗ bụi dưới mông phóng cái vèo tới thư phòng.

Bộ sưu tầm thư họa của Lương Nguyên Kính có rất nhiều, trong phòng để không ít mấy cái rương. Nhưng A Bảo còn nhớ rõ bức tranh vẽ người chàng thích đựng trong cái hòm gỗ mun, bốn gốc bọc bạc, tranh cuộn có dùng sợi chỉ đỏ buộc lại.

Nàng giơ đèn dầu, ánh mắt lia qua từng cái rương.

Gỗ mun nước sơn, bốn góc bọc bạc…

Từ từ…

Tìm thấy rồi!

A Bảo để đèn dầu sang một bên, hưng phấn quên chớp mắt kéo cái rương đó ra tới, tâm tình kích động lạ thường. Lúc đang chuẩn bị mở ra xem thì, khóe miệng tươi cười dần dần cụp xuống.

Chỉ thấy trên cái rương đó có treo một cái khoá vàng đồng óng ánh.

“…………………”

“Thật là quá đáng mà! Còn khóa nữa chứ, đây là phòng của ai?”

A Bảo nổi giận đùng đùng xông thẳng vào sương phòng, mặc kệ Lương Nguyên Kính có còn đang tắm hay không, bây giờ nàng đã về lại thành linh hồn, hai cánh cửa căn bản không ngăn được nàng đâu.

Khi nàng vọt vào, Lương Nguyên Kính đã tắm xong rồi, đang mặc bộ trung y trắng tuyết, đứng ở bên cạnh thùng nước tắm bay hơi lượn lờ. Hình như muốn dọn thùng đổ nước đã dùng ra nhưng vì sau khi say rượu chàng đã hết sức rồi, dọn không nổi, chỉ có thể cúi đầu phát ngốc nhìn mặt nước.

“……”

Cơn tức của A Bảo lập tức tan thành mây khói.

Thôi đi, ai đâu đi so đo với đứa ngốc.

“Đừng có ngây người đó nữa, để đó đi, sáng mai dọn dẹp lại sau.”

“Ồ.”

Lương Nguyên Kính ngơ ngác nhìn tới, sau đó đi vòng ra sau bình phong, nằm vào ổ chăn của mình, hai tay theo quy củ đặt lên bụng, nhắm mắt đi vào giấc ngủ.

A Bảo: “……”

Giỏi lắm, say thì say chứ vẫn biết mình nên ngủ chỗ nào ha.

A Bảo dở khóc dở cười đi tới bên cạnh chàng, ôm đầu gối ngồi xuống ngắm nghía chàng lúc ngủ.

Lương Nguyên Kính mới tắm ra đúng là sắc nước hương trời mà, da thịt như ngọc bốc chút hơi, lông mi ướt át, đôi môi hồng hồng, cần cổ dưới áo trung y trắng nõn, còn thấy xương quai thoắt ẩn thoắt hiện, vừa rồi nàng thật là…

Thiếu chút nữa không nhịn nổi!

Lương Nguyên Kính: “?”

Lúc Lương Nguyên Kính mơ màng ngủ nhận ra có cái gì đó đang nhìn chằm chằm vào mình, đột ngột mở mắt ra, vừa ngạc nhiên vừa ngây thơ nhìn lại nàng, ánh mắt y như con thú nhỏ bị kinh động.

A Bảo: “……”

Đừng có nhìn, còn nhìn nữa nàng sẽ biến thành con sói máu huyết dâng trào đánh gục chàng ngay tại chỗ đó.

“Lương Nguyên Kính.” Nàng kêu chàng.

“Ừm?” Chàng nhắm mắt đáp lại, giọng nói bị tẩm rượu nghe khàn khàn, nghe khá có sức hút.

“Người trong lòng anh ấy, là ai vậy?” A Bảo dẫn dắt từng bước hỏi.

Lương Nguyên Kính ngơ ra, lông mi còn dính hơi nước run rẩy, thấp giọng nói: “Phải…”

A Bảo dựng thẳng lỗ tai cả lúc lâu mà chỉ nghe được mỗi chữ ‘Phải’, sau đó không còn nghe thêm gì khác nữa.

Nàng phải tiến lại gần, dán lỗ tai tới, xong chỉ nghe thấy tiếng hít thở nhè nhẹ rất có quy luật của Lương Nguyên Kính.

“……”

Chàng cứ như vậy đã ngủ rồi!

A Bảo oán trách đạp cho chàng một cước, tự bay tới giường của mình.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 21: Nạn châu chấu



Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, lúc Lương Nguyên Kính đang ăn sáng, nghe thấy Dư lão hỏi: “Công tử, nương tử đâu rồi? Còn chưa dậy à?”

Lương Nguyên Kính suýt phun hết cháo trong miệng ra, ngẩng đầu kinh ngạc nói: “Nương tử gì cơ?”

“Thì là nương tử dưới quê Dương Châu của công tử đó.”

Dư lão trách móc liếc chàng.

“Công tử à, cậu cũng thật là, cưới vợ sao không nói, lại còn xinh đẹp như vậy, thoạt nhìn tưởng tiên nữ giáng trần không thôi. Cô ấy đi từ Dương Châu đến kinh thành tìm cậu, e là đã chịu không ít cực khổ.”

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo tao nhã gật đầu: “Đa tạ đã khích lệ, Dư lão à, không ngờ ông đánh giá tôi cao tới vậy đó.”

Lương Nguyên Kính: “…………”

Dư lão lo lắng sốt ruột nhìn đồ ăn trên bàn: “Cũng không biết bàn này có đủ để nương tử ăn không nữa, đêm qua cô ấy đã ăn sạch cả nồi bánh súp, ui, chắc là đi đường đói dữ lắm.”

“……” A Bảo đen mặt, “Cảm ơn, cái này không cần nói ra đâu.”

Lương Nguyên Kính buông đũa xuống, thản nhiên nói: “Không có nương tử gì cả, tối qua do thúc nằm mơ thôi.”

Dư lão sửng sốt: “Sao thế được? Tôi thấy rất rõ…”

“Thúc nhìn lầm rồi.”

Lương Nguyên Kính thật thà đáng tin cắt lời ông ấy, lau miệng đứng dậy, hôm nay là ngày chàng đến bình phẩm ở hoạ viện.

Trước khi ra cửa, A Bảo thấy vẻ mặt của Dư lão còn hoài nghi ngồi ngơ cả người ra, nội tâm có hơi không đành lòng, quay đầu trách cứ Lương Nguyên Kính: “Anh nói mấy lời đó với ông ấy làm chi? Dư lão sẽ cảm thấy mình già đồ lú lẫn đó.”

“Là em không nên nói vậy với ông ấy.”

A Bảo dừng lại, tinh tế quan sát sắc mặt chàng: “Giận à?”

Lương Nguyên Kính lắc đầu: “Không có.”

A Bảo giật giật khóe môi: “Đến mức đó sao, tôi chỉ đùa chút thôi mà?”

Lương Nguyên Kính xoay người nhìn nàng, nói: “Không phải em đã nhắc nhở tôi, em chết rồi à? Nếu là vậy, em cũng không nên dùng hình hài người sống xuất hiện bên cạnh người quen của tôi, càng không nên đùa dai với họ gì mà ‘nương tử’, nếu vậy lỡ một ngày em không còn nữa, tôi biết giải thích sao với họ đây?”

“……”

Không thể nói gì, A Bảo không còn lời nào để nói.

Một Lương Nguyên Kính ít nói lầm lì đột nhiên trở nên nói năng lưu loát, điều này làm nàng thấy không quen, hơn nữa…

Sao chàng lại dùng giọng điệu lạnh lùng như vậy nói mấy lời đó chứ!

A Bảo tức sắp chết rồi, híp mắt cười lạnh nói: “Hứ, xin lỗi nhiều nha, là tôi sai, tôi không nên ăn nói lung tung trước mặt Dư lão, tôi chết rồi mà, người chết nên có dáng vẻ của người chết, không nên biến thành người sống chấp niệm thế gian này, được chưa?”

Lương Nguyên Kính bỗng ngước mắt lên: “Tôi không có nói vậy.”

A Bảo thấy tức: “Cần nói chắc? Tôi chỉ nghe ra ý đó thôi!”

Lương Nguyên Kính quay đầu đi thở hổn hển, ngực phập phồng kịch liệt, tựa như đang cật lực kiềm chế cảm xúc.

Sau đó, chàng quay đầu lại, tròng mắt đen tuyền lẳng lặng nhìn thẳng vào A Bảo, gần như rập khuôn nhắc lại: “Tôi chỉ không thích em lấy danh ‘nương tử’ ra để đùa cợt.”

“Hiểu luôn,” A Bảo mỉa mai, “Dù sao anh cũng có người mình thích mà.”

“……”

Sắc mặt Lương Nguyên Kính trắng bệch, gắt gao nắm chặt nắm đấm, không lên tiếng.

Bỗng nhiên A Bảo thấy hết thú vị, hờ hững nói: “Yên tâm đi, sau này tôi sẽ không đùa vậy nữa. Anh còn chưa đi hả? Đợi chút đến hoạ viện bị muộn đấy.”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng một cái, môi giật giật, hình như muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng vẫn không nói, cũng không leo lên lưng lừa mà chỉ yên lặng nắm dây thừng đi đằng trước.

A Bảo nhìn dáng người gầy gò của chàng đi trước, bỗng nghĩ, hình như Lương Nguyên Kính cũng không phải rất rất rất tốt, chàng chỉ có một điểm không tốt, chính là chàng đã có người trong lòng.

**

Sáng hôm nay, A Bảo không nói thêm lời nào với Lương Nguyên Kính, cũng không châm chọc ông lão dạy học ở họa viện nữa, một mình lẳng lặng ngồi dưới hành lang phát ngốc.

Lương Nguyên Kính liên tục ngóng qua cửa sổ nhìn nàng, hoạ học chính đang giảng bài thấy chàng mất tập trung như vậy, lập tức hừ một tiếng thật mạnh: “Nếu thấy lão phu dạy không hay, có thể đi ra ngoài.”

Giữa hạ nắng noi chói chang, tiếng ve râm ran khắp nơi, những đám mây trôi về phía chân trời, có lúc tụ lại cũng có lúc tạnh đi. Trước dãy hành lang hoạ viện, có trồng hàng thông xanh biếc và bách tùng thẳng tắp, gió từ cây tùng thổi tới tức khắc làm tinh thần con người thêm khuây khỏa.

A Bảo đang cúi đầu đếm kiến, trong tầm mắt xuất hiện thêm một đôi giày đăng vân, nàng kinh ngạc ngẩng đầu nhìn người mới tới.

“Sao ra đây rồi?”

Lương Nguyên Kính ngồi xuống bên cạnh nàng, rũ mắt xuống thấp, đôi tay đặt trên đầu gối, bỗng nhiên nói: “Rất xin lỗi.”

“……”

A Bảo hoàn toàn phát điên: “Anh xin lỗi cái gì hả?”

“Không biết,” Lương Nguyên Kính nghiêng đầu nhìn nàng, “Em còn giận không?”

“…………”

Giờ khắc này A Bảo không biết miêu tả tâm tình mình ra sao, nàng thầm nghĩ, cái đồ ngốc Lương Nguyên Kính này đến việc mình xin lỗi cái gì cũng không biết, sao có thể ngốc tới mức vậy chứ?

Nghĩ lại, mình thật sự quá xấu xa, sao lại bắt đầu khi dễ Lương Nguyên Kính rồi, rõ ràng đã quyết định sau này phải đối xử tốt với chàng hơn mà.

Nhưng cũng vào giây phút này nàng thật sự muốn nhào qua chỗ chàng cắn thêm mấy nhát.

Đồ ngốc! Cái đồ ngốc!

A Bảo cảm xúc lẫn lộn, giống như có hàng ngàn lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ có thể gom gọn lại thành một câu.

“Không giận nữa.” A Bảo buồn bực trả lời.

Lương Nguyên Kính gật gù: “Lát về sẽ mua bánh cho em.”

“……”

Tới nữa rồi đó, cũng chỉ biết mỗi chiêu này, chàng có chấp niệm gì với mấy cái bánh đó à?

Nàng đâu phải…

Thôi được rồi, đúng là nàng rất thích ăn bánh ngọt.

A Bảo nói: “Tôi muốn biến thành người để ăn.”

Lương Nguyên Kính nói: “Được.”

Lúc xong việc, Phúc Ích Toàn lại tìm tới, nói quan gia triệu kiến, vì thế Lương Nguyên Kính liền rời đi dưới ánh mắt hâm mộ lẫn ghen tị của các đồng liêu.

Triệu Tòng tìm chàng vẫn vì chuyện bức hoạ của phế hậu Lý thị.

Từ tháng mười năm Hi Hoà thứ nhất, bởi vì A Bảo từng triệu Lương Nguyên Kính vào cung vẽ tranh nhiều lần. Trong cung vua đã cất chứa không ít bức họa của nàng, chỉ tiếc sau trận hỏa hoạn vào cuối năm Hi Hoà thứ tư, tất cả đồ trong tàng hoạ đều bị thiêu đốt. Đây cũng là nguyên nhân Triệu Tòng mệnh Lương Nguyên Kính vẽ lại cho một bức khác.

Chẳng qua hắn vẫn chưa ra hạn chót đưa tranh tới, chỉ kêu Lương Nguyên Kính vẽ xong là được, trước khi đi còn thưởng giấy và bút mực ngự dụng cho chàng, cùng với một khúc lụa tơ trân phẩm dài sáu thước.

“Phát tài nha, Lương đại nhân.”

Trên đường về, A Bảo trêu ghẹo chàng.

Lương Nguyên Kính cũng không để ý mấy lời này của nàng, chỉ hỏi: “Muốn ăn gì?”

“Tôi suy nghĩ cái…”

Thật ra A Bảo cũng không rõ lắm, đứng trên đường Phan Lâu nhìn đông nhìn tây, khi ánh mắt lướt qua một quán mì ở góc đường dài, ánh mắt đột nhiên lóe sáng.

**

A Bảo có một sở thích lập dị, hoặc có thể nói là, nàng thấy nó bình thường còn trong mắt người khác lại thấy lập dị.

Nàng thích ăn đồ ‘xuống nước’, chính là nội tạng súc vật, thích nhất món ruột heo và dê.

Đây là thói quen ăn uống của nàng bắt đầu từ năm mười bốn tuổi.

A Bảo vốn là người huyện Thanh Thành thuộc quân Vĩnh Khang. [1]

[1] Cái từ ‘quân’ 军 là đơn vị hành chính thời Tống TQ.

Quân Vĩnh Khang phụ thuộc đường Ích Châu, nằm ở vùng Tây Nam Ba Thục. Thời Ngụy Tấn, Ngũ Hồ loạn Hoa [2], người Tấn phải chạy về phía nam, tạo ra một lượng dân lao động lớn và kỹ thuật canh tác tiên tiến, trọng tâm kinh tế dần dần dịch chuyển về phía nam.

[2] 五胡乱华: Ngũ Hồ chỉ 5 tộc gồm Hung Nô, Tiên ti, Yết (Hạt), Khương và Chi (Đê) đã gây ra sự hỗn loạn vào lúc Trung Hoa đang suy yếu.

Đến thời nhà Đường, loạn An sử xảy ra, Đường Minh Hoàng đóng quân ở thành đô, sự phát triển của lưu vực sông Trường Giang phát triển vượt bậc hơn cả phương bắc, trở thành vùng trọng yếu về thuế má, người thời đó còn có câu ‘Dương nhất Ích nhị’. [3]

[3] 扬一益二: Dương Châu đứng đầu, Ích Châu đứng thứ hai về sự sung túc.

Từ thời Ngũ Đại và sự cát cứ phiên trấn [4] thời Đường suy tàn, đất Thục phải chịu đựng nhiều cảnh chiến tranh loạn lạc, nhưng liên tục được tái thiết từ đống tro tàn. Đến khi Thái Tổ lập quốc, cử quân đến tiêu diệt hậu Thục, thu phục phương nam, qua thời Thái Tổ, trải qua hơn 40 năm nghỉ ngơi lấy sức của hai triều Thái Tổ Thái Tông, cuối cùng Tứ Xuyên mới khôi phục lại sự phồn hoa của ‘giàu tài nguyên thiên nhiên’ khi xưa.

[4] Cát cứ (v) chia cắt lãnh thổ để chiếm giữ và lập chủ quyền riêng, không phục tùng chủ quyền trung ương (theo tratu.soha). Và phiên trấn để chỉ các khu vực tự trị thời cổ đại TQ.

Khi đó có người viết: “Thành Đô hảo, tằm thị sấn ngao du, đêm sênh ca vang trên phố tím, ngọn đèn dầu xuân treo hồng lâu, xe ngựa tấp nập chốn Doanh Châu.” [*]

[*] Đoạn này mình edit sơ lại bản cv, tạm thời chưa tìm ra trên thivien.

Nhưng vì chính sự phồn hoa giàu có tấp nập đó nên thành thị Doanh Châu lại một lần nữa nghênh đón tai hoạ ập tới.

Mùa hè tháng năm vào Hữu An năm thứ ba.

Từng đàn châu chấu từ phương nam bay tới, loại côn trùng màu xanh đậm, được bá tánh dân cư gọi là côn trùng châu chấu. Đặc điểm có miệng và cánh rất cứng, thường hay ẩn nấp gặm nhấm dưới phiến lá thực vật.

Chúng nó kết thành đàn di chuyển, lúc tới che kín bầu trời, hễ đi qua chỗ nào sẽ huỷ hoại hết hoa màu chỗ đó.

Sách sử ghi chép: “Trâu ngựa không còn cỏ để ăn, dân sinh đói khát chết đầy đường.”

Đất Thục gặp phải thiên tai cực kỳ nghiêm trọng, lúc đó đã là nạn hạn hán thứ ba từ năm Hữu An đầu tiên, bốn đường Xuyên Hạp hạn hán không mưa, đất đai Thành đô như bị nhốt vào lò lửa, vừa nóng vừa ngợp. Đúng vào thời điểm gieo hạt, nông dân thường trông chờ vào đây để vượt qua năm đói kém, ai ngờ ‘hạn hán lâu tất có châu chấu’, nạn hạn hán cùng nạn châu chấu ập tới, phải gọi là khốn đốn cùng cực.

Trong lúc nhất thời, xác người chết đói rải rác khắp Xuyên Thục, đất cằn dài ngàn dặm, thậm chí còn xảy ra hiện tượng ‘con người ăn thịt lẫn nhau’.

Từ xưa đến nay, nạn đói luôn sinh lưu dân, khi nơi này không còn gì để ăn, người dân buộc phải đi kiếm nơi nào có lương tự, thường gọi là ‘kiếm ăn’.

Lúc ấy bá tánh đất Thục có hai sự lựa chọn, một là đi về phía bắc đến Quan Trung kiếm ăn, khi đó Quan Trung cũng gặp phải tình trạng tương tự. Chẳng qua Quan Trung tiếp giáp phủ Hà Nam Tây Kinh, kinh đô và vài vùng lân cận trọng đại, nên chắc chắn quan phủ sẽ không khoanh tay đứng nhìn.

Còn sự lựa chọn thứ hai, đó là thuận theo Trường Giang xuống Giang Nam kiếm ăn. Ngô Việt xưa nay sung túc, gặp thiên tai cũng nhẹ hơn so với các châu huyện khác, chẳng qua đường xá xa xôi, nếu không thể đến đó sẽ chết đói ngay trên đường.

A Bảo cùng ca ca Lý Hùng nương tựa vào nhau, Lý Hùng chọn đến Dương Châu.

Bọn họ mang theo lương thực và nồi niêu xoong chảo còn sót lại trong nhà, đi thẳng về phía đông, trên đường có vài lần gặp cướp bóc, lại trở về với hai bàn tay trắng, phải đi ăn xin dọc đường để duy trì tính mạng.

Ngay cả cây đàn tỳ bà A Bảo thương yêu nhất cũng phải bán đi, nhưng khi gần đến Động Đình, vừa vào trời đông giá rét, nước đóng thành băng, đường sá khó đi, nàng mắc phải đợt bệnh nặng, suýt bị chết do đói.

Đó là lần A Bảo xém chết trên dọc đường đi, nàng đói đến mức tứ chi teo nhỏ, cả người lại sưng vù bất thường, cái bụng sình to như cái phễu. Bởi vì dọc đường hay gặm rễ cây cỏ nên khuôn mặt nhỏ nhắn vàng như nến, hai mắt không khỏi biến đen, thân mình nhẹ bẫng như bay.

Nàng biết mình sắp chết, dù dọc đường ca ca Lý Hùng luôn chừa phần ăn lại cho nàng, nhưng vẫn cường tráng hơn nhiều, nàng cầu xin a ca đừng lo cho mình nữa, để nàng lại đây chờ chết đi.

Lý Hùng sao chịu được, kêu nàng đừng nói sảng, ôm nàng vào trong hộ nhà nông rách nát, đi khắp nơi tìm đồ bỏ bụng, khi đó đa phần nơi nào phía nam cũng gặp tai hoạ nghiêm trọng, không mười phần cũng hết chín phần.

A Bảo vừa đói vừa lạnh, mắc bệnh sốt cao, thần trí mê mang, thế nhưng vẫn mơ thấy một vị thần tiên trong bộ dạng thiếu niên lang.

Chàng vươn tay với nàng, lòng bàn tay có cầm một miếng bánh ngọt, cười mỉm chi mời nàng ăn.

“Tôi sắp chết sao?” A Bảo nghĩ thầm, “Tiên nhân đón tôi đi à?”

Mặc kệ vị thiếu niên này là ai, A Bảo đã không màng tới, miếng bánh ngọt kia dụ hoặc khiến hai mắt nàng phát sáng, nhào tới giật lấy nó, không quan tâm dồn hết vào trong miệng.

Theo lý mà nói, đồ ăn trong mơ chắc không có mùi vị gì, A Bảo lại ăn được, không phải mùi vị ngọt ngào của điểm tâm mà là một loại tanh tưởi khác.

Mỹ thực Xuyên Thục xưa nay luôn đa dạng, loại đồ ăn hôi tanh này căn bản A Bảo sẽ không cho vào miệng. Nhưng dưới cơn đói khát, A Bảo lại cảm thấy hương vị đó cực kỳ thơm ngon, ăn không chừa sót miếng nào.

Sau khi tỉnh dậy, nàng được nghe kể từ Lý Hùng, hoá ra có một ông lão chạy nạn ngang đây, thấy nàng đói sắp chết nên mới tốt bụng nấu chén mì canh cho nàng.

A Bảo ăn món mùi tanh đấy là ruột của con lừa ông lão mang theo và cũng chính ông đã mổ bụng nó ra.

Chén ruột lừa kia đã cứu mạng nàng.

Về phần thiếu niên lang trong mộng mời nàng ăn bánh nọ, A Bảo đã sớm không nhớ rõ mặt chàng nữa. Thứ duy nhất có thể nhớ chỉ có khoé môi cong hình vòng cung của chàng khi cười, trông dịu dàng lại trong sáng, như ánh trăng hoà tan giữa ao hồ đêm hè.

**

Tác giả có chuyện nói:

Lương Nguyên Kính (tay nắm cuộn chặt, hai mắt đỏ bừng): Em ấy chọc tôi tức muốn chết… Nhưng vẫn phải dỗ dành.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 22: Quán mì



“Không ngon sao?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Hả?”

A Bảo hoàn hồn, lúc này mới ý thức được mình đã ngẩn ngơ trừng mắt nhìn bát mì hồi lâu, cười nói: “Không có, tôi chỉ đang nhớ lại ít chuyện.”

Nàng lấy đũa trúc gắp một miếng bỏ vào miệng, nhất thời thích thú nheo mắt lại.

Lương Nguyên Kính gọi mì ruột dê cho nàng, quán mì này của ông lão chắc đã mở bán nhiều năm, tay nghề không tồi chút nào.

Ruột dê được sơ chế kỹ càng, vị tanh nồng không còn nữa, được cắt ra từng khúc, bơi lềnh phềnh trong nước lèo, sợi mì dai giòn, phía dưới còn có thêm ít dầu mỡ heo, hạt sen, ngó sen, củ ấu và củ năng, trên bề mặt rải chút hành lá, thơm phức nức mũi, nước miếng trực chào.

Chính là hương vị làm A Bảo nhung nhớ rất nhiều năm.

Năm xưa, lúc nàng còn ở bên Triệu Tòng, biết được nàng lại thích ăn loại đồ ăn này thì hết sức buồn cười.

Nội tạng hôi tanh, nhà nào nghèo khổ sau khi mổ heo xong đem treo thịt bán ngoài chợ, chỉ có nội tạng không nỡ bỏ mới giữ lại ăn ở nhà.

Nói cách khác, ruột phèo trong bụng súc vật chỉ có kẻ hèn mới thích ăn, nhà giàu họ chỉ lấy phần tinh hoa nhất trên thân, còn lại đến chó cũng không thèm.

Hắn dẫn dắt A Bảo dạo quanh khắp thành Đông Kinh, dẫn nàng thưởng thức rất nhiều sơn hào hải vị ở khắp nơi, dần dần A Bảo mới không còn thèm đồ ‘xuống nước’ nữa.

Đến sau này làm Hoàng hậu, cơ hội ăn nó càng hiếm hơn, bởi vì người trong hậu cung biết Hoàng hậu nương nương lại đi thích món tanh tưởi như vậy, đều ở trong tối châm biếm nàng, xuất thân con nhà nghèo.

Nội tạng ăn trong miệng toàn mùi hôi, đúng là không phải đồ mà thục nữ danh môn có thể ăn, còn có Hầu ngự sử chuyên môn vì chuyện này mà dâng sớ buộc tội.

Tuy A Bảo thấy rằng, “Ta ăn gì cũng muốn quản, chức Ngự sử của mấy người có rảnh rỗi quá không vậy”, nhưng làm Hoàng hậu một nước, là như thế ấy.

Quốc sự không phải chuyện nhỏ, hết thảy đều là đại sự, có Ngự Sử Đài chuyên ti giám sát, bất kể việc lớn nhỏ đều có thể dâng sớ buộc tội.

Triệu Tòng là vua của một nước, trong việc lập ai làm hậu còn không thể hoàn toàn làm chủ, tất nhiên A Bảo không thể thích cái gì thì ăn cái đó.

Sau này, đến cả Triệu Tòng cũng không cho nàng ăn, có lẽ hắn cảm thấy món ngon khắp thiên hạ còn rất nhiều, không ăn đồ xuống nước cũng không chết đói được. Nhưng A Bảo lại thấy, mình đường đường là Hoàng hậu mà ăn cái gì cũng bị người ta khống chế, thật sự rất uất ức.

Quả thật rất uất ức, gần nửa đời người của nàng luôn thấy bất lực như vậy không thôi.

A Bảo càng nghĩ càng tức, ai oán nhét thêm đũa mì vào miệng.

“Ăn chậm lại chút.” Lương Nguyên Kính khẽ thở dài nói.

“Sao hả? Anh cũng thấy tướng ăn của tôi rất khó coi à?”

A Bảo nhướng mày, hơi nóng bốc lên đôi mắt đang trợn tròn, Lương Nguyên Kính nghĩ thầm nếu mình dám đáp lại nàng một câu “Đúng vậy”, chắc hôm nay nàng sẽ úp chén mì này vào mặt chàng.

Lương Nguyên Kính bất đắc dĩ đáp: “Không phải, sợi mì không nóng sao?”

Nói xong lại rũ mắt, nhẹ giọng nói: “Không thấy khó coi, trước kia cũng không phải chưa từng thấy qua.”

“Trước kia?” A Bảo vừa ăn vừa hỏi, “Trước kia là bao lâu? Anh nói đến lần ở chùa Tướng Quốc á?”

Ngày hôm ấy nàng cũng chưa ăn được mà, chỉ đi mua đồ, chưa mua xong đã biến lại thành quỷ hồn.

Nàng năn nỉ Lương Nguyên Kính vẽ nàng thành người, vẽ thành tiểu nữ đồng cũng chả sao, vì còn mấy miếng bánh ngọt mua về chưa kịp nếm thử, nhưng thằng nhãi Lương Nguyên Kính này lại khăng khăng không đồng ý.

A Bảo nghi ngờ tên quỷ hẹp hòi này sợ nàng tiêu hết tiền trên người chàng nên cố ý trả thù chuyện tư.

Lương Nguyên Kính lắc đầu: “Không phải hôm ấy.”

“Vậy là ngày nào?” A Bảo hỏi.

Lương Nguyên Kính chưa trả lời, ánh mắt chàng tựa như lướt qua A Bảo, xuyên qua thời gian, thấy được hồi ‘trước kia’, vào ngày đầu đông rực rỡ trong hậu uyển cấm đình chi.

**

“Cua là đồ lạnh, có tác dụng hoạt huyết lưu thông, người mang thai không thể ăn nhiều.”

Chàng đứng trước án vừa tô màu xanh đá lên bức tranh cuộn tròn, vừa lên tiếng nhắc nhở người đang ngồi trên ghế bành.

“Không sao, Triệu Tòng nói, ăn một hai con không bị gì cả.”

A Bảo đang hăng hái chén con cua to Ngô Giang tiến cống, gạch cua siêu béo, thêm rượu vàng là rượu ngon hiếm có, người đương thời có tổng cộng hai cách ăn cua, một là mở cua sống ra thêm ít muối mơ gừng cam, tưới rượu lên, rồi rửa tay để ăn, gọi là ‘cua rửa tay’. [1]

[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
u30262284463254611441fm253fmtautoapp138fjpeg.webp


Cách thứ hai là ‘cua nhồi cam’ [2], cắt phần đầu quả cảm chín vàng còn nguyên cành, bỏ ruột, giữ lại ít nước, xong bỏ gạch cua, thịt cua, và gan cua cho vào quả cam, hấp cách thuỷ rượu và giấm, nêm thêm tí muối nữa là ăn.

[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
5404e4bef2a2336b34f44d1fb37038e6.jpeg40wm_2t_55m5a625y3la4uos7memjniusafc_ffffffff_u2ltsgvpsz_36x_23y_23.jpeg


A Bảo thích ăn cua sống, nhưng vỏ cua rất khó lột, nàng cũng không biết xài ‘bộ tám dụng cụ ăn cua’. [3]

[3] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
79a7a30330d9895792461bec007c911c.jpg


Đương nhiên làm Hoàng hậu, sẽ có thị nữ có thể lột dùm nàng.

Nhưng A Bảo không muốn nhờ vả người khác. Một là sợ mình tay chân vụng về, ăn uống gì cũng phải để người ta hầu hạ dâng đến tận miệng, hai là nhìn đôi bàn tay thon trắng của mấy thị nữ đó chậm chạp lột mà lòng như bị lửa đốt, thà tự mình gặm còn hơn.

Xưa giờ nàng ăn cua, đều tay làm hàm nhai, không chịu nhờ ai giúp đỡ.

“Ui da⎯”

Không để ý, A Bảo bị càng cua đâm trúng răng, nàng cau mày nhổ nửa cái răng vỡ ra tay, trắng bóng nhìn như hạt gạo.

“Gãy răng rồi sao? Ta xem xem.”

Không rõ từ khi nào Lương Nguyên Kính đang vẽ tranh đã đi đến bên cạnh nàng, muốn nàng há mồm ra nhìn thử.

A Bảo thầm nghĩ ngươi làm càn, nhưng nghe chàng nói xong lại theo bản năng há to miệng để chàng kiểm tra.

Lương Nguyên Kính dùng hai ngón tay nâng cằm nàng lên cao chút, nhíu mày nhình nhìn bên trong, sau đó thở phào nhẹ nhõm, buông tay ra: “Không chảy máu, chắc không có gì đáng ngại đâu.”

A Bảo lại nghĩ thầm buồn cười, ta là Hoàng hậu, ngươi dám sờ cằm của ta à.

Lương Nguyên Kính đưa mắt lia tới vỏ cua bị nàng nhai nát trên bàn, đột nhiên nói: “Nương nương, thần dạy người lột cua nhé.”

Cuối cùng A Bảo có thể nói một câu, vuốt má nóng bừng nhíu mày: “Ta đâu cần ngươi dạy.”

Ánh mắt Lương Nguyên Kính ôn hoà, dịu dàng nói: “Cắn nữa mẻ răng thì sao? Lột cua rất đơn giản, nàng lại xem.”

Nói xong liền cầm lấy bộ dụng cụ, giải thích cho nàng từng cái tên là gì, dùng như thế nào, sau đó lột ngay một con tại chỗ, từng bước làm cho nàng xem.

Từ trước đến nay A Bảo không quá kiên nhẫn, vả lại còn lòng dạ hẹp hòi. Hễ ai khác muốn dạy gì nàng, ngược lại còn bị nàng ngầm hiểu chê cười cô thô lỗ, chưa từng trải đời, đến việc ăn cua còn không hiểu.

Nếu người khác muốn chỉ nàng lột cua, nàng luôn nổi giận một trận, bọn thị nữ cũng không dám chọc nàng, vừa thấy nàng ăn cua đã trốn đi rất xa.

Lương Nguyên Kính tiến tới chỉ nàng lột cua, theo lý nàng cũng muốn nổi giận, nhưng A Bảo lại mắng không nổi.

Ngón tay của Lương Nguyên Kính rất đẹp. Lúc cầm dụng cụ bạc khéo léo càng thêm tinh tế nhã nhặn. Chàng sinh ra ở vùng Giang Nam trữ tình, ăn cua từ nhỏ tới lớn, nhắc đến những thứ này đều từ tốn giải thích, âm thanh nhu thuận êm tai, như cơn mưa phùn trải dài vào ngày xuân.

A Bảo nghe đến ngơ ngác, mới biết vì sao người nhà giàu sống xa hoa sẽ cố ý mời người về dạy lễ nghi cho con cháu trong nhà, nhất cử nhất động đều phải theo khuôn phép. Hoá ra là vì muốn bồi dưỡng ra công tử thanh tao giống như Lương Nguyên Kính đây.

“Biết chưa?” Lương Nguyên Kính hỏi ngang cắt đứt chuyến lên mây của nàng.

“Hử?” A Bảo ngơ ngơ ngẩng đầu.

Lương Nguyên Kính nhìn mặt nàng, bất đắc dĩ nói: “Lại mất tập trung?”

Gì mà ‘lại’?

Lúc nào nàng thất thần trước mặt chàng đâu chứ?

“Không có!” A Bảo trừng mắt phủ nhận, lại ra lệnh chàng, “Ngươi lặp lại lần nữa! Ngồi xuống nói!”

Lương Nguyên Kính sửng sốt, khó xử nói: “Vậy thì không hợp quy củ.”

A Bảo thầm nghĩ trước nay ngươi vẫn mất quy củ với ta, giờ mới biết à, mặt mũi mất kiên nhẫn nói: “Chẳng lẽ ngươi muốn ta ngẩng đầu nghe ngươi nói? Mỏi cổ lắm rồi, ngươi ngồi xuống nhanh cho ta!”

Lương Nguyên Kính đành phải ngồi tém sang một bên trên ghế thêu, lại một lần nữa chỉ từng bước lột cua cho nàng. Lần này A Bảo nghe rất nhập tâm, thậm chí còn bắt chước theo hành động của chàng.

“Không phải thế, muốn cắt chỗ này…”

Lương Nguyên Kính ấn tay nàng cầm cây kéo bạc, hướng dẫn nàng cắt cho chính xác. Lúc này Triệu Tòng hạ triều đi tới, hắn đến Khôn Ninh Điện không tìm thấy nàng thì đến ngự hoa uyển, vừa vặn gặp được cảnh này, nhất thời giật mình tại chỗ.

Lương Nguyên Kính lập tức buông tay A Bảo ra, đứng dậy hành lễ.

Triệu Tòng kêu chàng bình thân, cười hỏi: “Hai người đang làm gì đây vậy?”

“Y dạy em lột cua đó!”

A Bảo ném kiềm bạc đi, nhăn mặt giận hờn hắn: “Tức chết em! Hôm nay em ăn cua bị càng cua đâm rớt nửa cái răng! Sau này chàng không được cho em ăn thứ này nữa!”

Triệu Tòng khiếp sợ chạy nhanh lại, A Bảo hả miệng cho hắn xem.

Cái kia rớt là một cái răng hàm, cũng không khoa trương như nàng nói, không có gãy nửa cái, cùng lắm là bị mẻ thôi, không ảnh hưởng gì hết.

Triệu Tòng nhìn rồi cười ha ha chỉ vào nàng, cười nhạo nàng ăn cua còn để mẻ răng, có thể nói là người đầu tiên trong quốc triều mà.

A Bảo tức giận muốn chết, lấy đống vỏ cua ném trên án ném vào người hắn, trong Đông uyển, tràn ngập tiếng la mắng thánh thót của nàng cùng với tiếng cười to của Triệu Tòng.

Lương Nguyên Kính an tĩnh đứng ở một bên, không nói lời nào, dưới giàn hoa tử đằng giăng đầy, lẳng lặng tựa như một cái bóng.

**

“Thì ra anh nói tới lần đó.”

A Bảo cũng nhớ tới, ánh mắt có chút hoài niệm, cười ha ha nói: “Lúc đó, hình như tôi vẫn hay ghẹo chọc anh.”

Đâu chỉ là ghẹo chọc, là đùa dai mới đúng.

Khi đó nàng mới lên làm hậu, quan lại không ai mừng nàng, nhóm nương tử hậu cung kéo bè kéo phái, duy chỉ có Tiết Hành như Thiên Lôi sai đâu đánh đó, xấu hổ lui tới chỗ nàng.

Ngày trong cấm cung dài đằng đẵng, chán muốn chết, Triệu Tòng lại bận việc quốc chính, muốn đọc thoại bản cũng bị mắng. Nàng không tìm thấy ai để chơi chung, đành phải chơi với Lương Nguyên Kính.

A Bảo sai nhóm tiểu nha đầu lén trộn muối vào trà bưng đến, mong chờ nhìn thấy dáng vẻ bị mặn cùng vẻ mặt dữ tợn của chàng. Đáng tiếc vị Lương đại nhân này chỉ hơi nhíu mày, đặt sang một bên không uống nữa, hại A Bảo thất vọng vô cùng, cảm thấy người này không thú vị xíu nào.

Sau này Lạc Dương tiến cống mận, loại mận sinh trưởng ở phường Gia Khánh Tây Kinh, vỏ trái màu đỏ tím, chua chua ngọt ngọt, người đương thời gọi là ‘Gia Khánh tử’. Sau khi mang thai A Bảo thích ăn chua, phải nói là cực kỳ thích, mỗi khi có đồ cống nạp, Triệu Tòng đều sẽ phái người đưa tới cho nàng.

A Bảo nhàn hạ chán chường, ném Gia Khánh tử tới cho Lương Nguyên Kính, mặt mũi khôn lỏi cười nói: “Lương đại nhân, mời ngươi quả mận!”

Lương Nguyên Kính đang cúi đầu vẽ tranh, không kịp né, quả mận đỏ tươi rơi trúng mũ quan của chàng, bay xéo ra ngoài lọt vào bụi cỏ.

Lương Nguyên Kính cũng không giận, chỉ yên lặng nhặt mũ quan rớt xuống, vỗ vỗ cọng cỏ bụi bẩn trên đó, sau đó đội lại lên đầu.

Nhưng dường như A Bảo lại tìm ra điểm vui trong đó, quả mận liền như mưa sao băng liên tiếp đáp tới chỗ chàng.

Lương Nguyên Kính né qua né lại, đối phó đến luống cuống tay chân.

Bỗng nhiên có một quả không trúng, trùng hợp sao đập vào nghiên mực trên bàn, nước mực b*n r*, làm dơ quan bào màu đỏ của chàng, có vài giọt thì bắn lên trên gò má trắng nõn.

A Bảo sửng sốt ngạc nhiên, xong lại phì cười, vỗ bàn cười lớn tiếng, suýt chút ngã xuống cái ghế bành gỗ vàng.

Lương Nguyên Kính đoan chính tự kiềm chế, chưa từng phải chật vật như bây giờ, cả người toàn là mực, chàng ngơ ngẩn đứng tại chỗ, nhìn A Bảo đang hết sức vui sướng, âm thầm buông tiếng thở dài.

**

Nhớ lại chuyện cũ năm xưa, A Bảo thấy buồn cười thật, nhưng lại thêm chút ngượng ngùng.

Xem ra hiện tại, nàng của trước kia cũng nhàm chán quá đi mất, ngoài pha muối vào trà, chọi mận vào người ra. Còn cố tình không ban ghế cho chàng, khiến chàng chỉ có thể gập eo vẽ tranh, hình như nàng từng làm thêm nhiều chuyện quá đáng hơn.

Nàng cố ‘chỉnh’ Lương Nguyên Kính cỡ đó, thế mà chàng cũng chưa từng nóng giận, tính tình của người này rốt cuộc tốt đến cỡ nào nữa vậy.

Bỗng nhiên A Bảo thấy tò mò, chân phải đá đá cẳng chân của Lương Nguyên Kính dưới bàn gỗ nhỏ.

“Nè, nói thật đi, trước kia anh cũng từng thấy rất ghét tôi phải không?”

“Không ghét.” Lương Nguyên Kính nói.

A Bảo ‘chậc’ bất mãn nói lại: “Anh khai thật đi, yên tâm, nương nương thứ tội cho.”

Lương Nguyên Kính cong môi cười: “Không ghét thật, cùng lắm… Chỉ thấy bất đắc dĩ vài phần thôi.”

A Bảo thầm nghĩ tính tình tốt quá đi mất, đúng thực là không biết giận, đến đó rồi mà chỉ thấy bất đắc dĩ, ngoài miệng làm bộ không tin nói: “Thật á? Vậy sao anh hay thở dài?”

“Thở dài?” Giọng điệu Lương Nguyên Kính hơi cao mang theo nghi hoặc.

“Đúng vậy,” A Bảo gợi lại hồi ức giúp chàng, “Chính lúc tôi chọi mận vào người anh đó, bất cẩn va vào nghiên mực, mực bắn trúng mặt anh… Anh nhìn gì? Thật sự là tôi không cẩn thận! Anh không tin à?”

Lương Nguyên Kính nói nhanh: “Không phải không tin.”

A Bảo gật gù xong mới tiếp tục: “Sau đó tôi cười, không trách tôi được, dáng vẻ khi đó của anh thật sự rất mắc cười, nhìn thấy là phì cười ngay, sau đó⎯ hứ, anh nhìn tôi, than thân thở một hơi dài, giống vậy nè, ầyyy⎯⎯”

Nàng thả đũa xuống, đứng dậy tay chắp sau lưng bắt chước than ngắn thở dài giống chàng, trông rất sống động.

Lương Nguyên Kính bật cười: “Cũng không thở dài đến mức đó.”

“Có mà!”

A Bảo ngồi xuống tức giận trừng mắt liếc chàng: “Anh nói đi, vì sao anh hay thở dài, có phải chê tôi phiền không?”

Trong đầu Lương Nguyên Kính nghiêm túc hồi tưởng lại một phen, nói: “Không có, chỉ là ngày ấy nước mực văng trúng, làm bẩn bức tranh vừa vẽ xong, trong lòng thấy tiếc nuối nên mới buông tiếng thở dài.”

Trong lòng A Bảo còn nghi hoặc, không phải chàng không thích vẽ tranh cho nàng sao. Mỗi lần vào cung đều mang dáng vẻ không tình nguyện, vậy mà còn thấy tiếc nuối nữa chứ.

Nói tới đây liền có vấn đề không thể không hỏi.

Lúc trước A Bảo không dám, cảm thấy có hỏi cũng tự rước lấy nhục, cần gì phải vậy kẻo phá hỏng mối quan hệ vừa hàn gắn lại giữa mình và Lương Nguyên Kính. Nhưng đáp án của vấn đề này, nàng thực sự rất muốn biết.

Tạm thời nàng cho rằng bản thân có thể hỏi.

“Lúc trước,” A Bảo hỏi thật cẩn thận, “Vì sao anh không chịu vẽ tranh cho tôi?”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 23: Tâm nguyện



Phố dài ngựa xe như nước, tiếng rao hàng kêu thánh thót chưa ngưng.

Câu hỏi A Bảo theo hơi gió bay vào tai của Lương Nguyên Kính làm chàng bỗng ngẩn ra.

Chàng nhìn A Bảo, hôm nay chàng vẽ nàng thành thiếu nữ trẻ tuổi, đầu chải tóc song hoàn [1], mặt mũi tương tự bảy phần so với quá khứ, mặc bộ áo vàng nhạt. Thái độ ngây thơ hồn nhiên, giống như chim hoàng oanh vừa thoát khỏi hố sâu.

[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
20200617101312_185749.jpg


Lương Nguyên Kính rũ mắt: “Bởi vì tôi bị bệnh.”

A Bảo khinh thường: “Lý do này anh cầm đi lừa người khác thì thôi đi, giờ vẫn xài để lừa tôi. Lương Nguyên Kính, anh không coi tôi là bạn à?”

“Không lừa em,” Lương Nguyên Kính giải thích, “Năm ấy tôi mới tới thành Đông Kinh chưa bao lâu, không thích ứng với khí hậu ở đó. Ban đêm nhiễm lạnh, bệnh phổi cũ tái phát, ngày nào cũng ho khan liên tục, thật sự là bất lực nhận lệnh.”

Phổi của chàng không khoẻ A Bảo cũng biết, không chỉ không chịu nổi giá rét, mỗi lần thời tiết thay đổi đều sẽ sinh bệnh.

Dư lão thường xuyên đến hiệu thuốc lấy ít dược liệu như xuyên bối mẫu, la hán quả, tỳ bà diệp, nấu cùng lê tuyết cắt thành miếng, sắc thành nước cho chàng trị bệnh ho. [2]

[2] Hình ảnh minh hoạ (Nguồn: Baidu)
5516dace8451c8eb2644366d332f4271.jpg40h_1280.jpeg


fa998d2d4eeb590dbf815861fdb11451.jpeg


Năm đó chàng kháng chỉ, lấy lý do ‘bất ngờ cảm phong hàn, thân thể không được khoẻ’, ai nấy đều cho đó là giả, là bất mãn với tân hậu mới bịa cớ. Ngay cả A Bảo cũng cho rằng là vậy, ai ngờ chàng bị bệnh thật!

A Bảo vừa rầu rĩ bệnh phổi này của Lương Nguyên Kính làm sao cho tốt lên, có cách nào trị tận gốc không, vừa nghĩ lại, không đúng nha, chàng mắc bệnh nên kháng chỉ, rốt cuộc là muốn sống hay không muốn sống đây?

Nàng cạn lời nhìn Lương Nguyên Kính, nói: “Anh nghĩ tôi tốt tính à, nếu năm đó tôi nổi cơn thịnh nộ muốn lấy đầu của anh thì sao?”

Đương nhiên cũng không có khả năng.

Đừng nói Triệu Tòng sẽ không cho phép, mấy nhóm quan đài gián đó cũng không dễ đối phó. Đại Trần lấy nhân hiếu trị quốc, từ lúc lập triều tới nay chưa có thần tử nào chết dưới tay đao phủ, nghiêm trọng lắm cũng chỉ xăm chữ lên mặt rồi lưu đày. Nếu nàng phá vỡ tiền lệ này, cho dù là một Hàn lâm Đãi chiếu nhỏ bé thôi, cũng coi như ‘gậy ông đập lưng ông’.

Lương Nguyên Kính hơi thở dài nói: “Thật ra, năm đó tôi cũng cảm thấy không nên kháng chỉ. Nhưng học chính lại cật lực khuyên tôi dưỡng bệnh trước, kim thượng thương người, săn sóc nhân thần, sẽ không giận cá chém thớt lên người tôi. Nếu tôi gắng gượng cơ thể bệnh thật phụng chỉ vào cung, vừa vẽ tranh không đẹp, ngược lại khiến người ta nói kim thượng khắt khe với thần tử.”

“……” A Bảo nghi hoặc, “Cấp trên lừa anh, đúng không?”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Đúng vậy, giờ tôi nghĩ lại mới biết.”

A Bảo: “………………”

Giờ mới biết cái rắm! Chờ đến mòn cả mắt luôn rồi!!

Cuối cùng cũng phá án xong!

Hoá ra năm đó chàng kháng chỉ, từ chối vẽ tranh cho nàng, căn bản không phải như lời đồn chán ghét nàng, mà là bị cấp trên giật dây.

Vị cấp trên này cũng gian xảo ghê, kim thượng thương người?

Cũng đúng, kim thượng đúng rất thương người, nhưng A Bảo nàng lòng dạ hẹp hòi, nàng rất mang thù.

Năm xưa bởi vì việc này mà nàng biến thành trò cười từ đầu đường xuống cuối ngõ. Còn Lương Nguyên Kính lại được người đương thời tán thưởng ‘Ngay thẳng chính trực, không sợ quyền thế’, ‘Có bản lĩnh’, người ở thành Đông Kinh tuyên dương chiến tích của chàng, làm sao nàng có thể không tức giận chứ?

Cho nên sau này nàng luôn năm lần bảy lượt chọc ghẹo chàng, trả thù chàng, kết quả chỉ là hiểu lầm mà thôi!

“Nực cười!”

A Bảo trong cơn giận dữ đập bàn đứng lên: “Vị cấp trên kia của anh là ai vậy? Tên gì? Là cái ông già râu dài họ Tần phải không? Tôi muốn đánh ông ta đến mức con cháu nhận không ra!”

Người đi đường xôn xao nhìn ngó nàng, Lương Nguyên Kính vội vàng kéo nàng ngồi xuống, rót thêm chén trà giúp nàng hạ hoả: “Ông ấy về quê dưỡng già lâu rồi, không phải Tần Học chính, em nhất định đừng đánh người ta!”

A Bảo uống ngụm trà sau đó đập chén trà lên bàn thật mạnh, cả giận: “Anh cũng dễ bị chơi quá đi, ai cũng có thể gạt anh, hừ! Nếu không phải tôi tốt tính, sao anh có thể sống tới hôm nay chứ?”

Lương Nguyên Kính nghe vậy cười cong cả mắt: “Phải, là nhờ em tốt tính.”

Thiếu chút lăn lộn tới chết, nhưng thật sự ‘tốt tính’ mà.

Mặt trời chiều ngả về tây, Lương Nguyên Kính đứng dậy tính tiền, hai người đi về nhà.

Lúc này A Bảo đã về lại thành linh hồn, nằm trên lưng con lừa, bắt chéo khua khua chân ngắm bầu trời.

Mây tía giăng đầy trời, xung quanh đều có người trên đường về nhà, ra khỏi thành, hai bên núi cao xanh, xa xa có thể trông thấy khói bếp lượn lờ bay lên từ thôn trang.

A Bảo ngâm nga bài ca dao nào đó, chợt nghe Lương Nguyên Kính hỏi: “A Bảo, em có tâm nguyện không?”

“Có chớ,” A Bảo nói, “Xông vào đại nội, giết sạch cả Triệu Tòng và đám nữ nhân của hắn, châm lửa đốt hoàng cung. Sau đó buộc râu của mấy gián quan Ngự Sử Đài, treo lên hành lang Trung Thư tỉnh [3] hong khô ba tháng.”

[3] Cơ quan hành chính chịu trách nhiệm soạn thảo và ban hình chiếu chỉ của hoàng đế.

“……”

Lương Nguyên Kính dừng bước, bất đắc dĩ nhìn nàng: “Đừng nói bậy.”

A Bảo cười, nàng nói giỡn thôi mà.

“Anh tin lời Giác Minh hoà thượng nói, muốn tôi thực hiện tâm nguyện lúc còn sống để tôi được đi đầu thai đúng không?” Nàng ngồi dậy hỏi.

Lương Nguyên Kính gật gật đầu.

A Bảo mím môi mấy lần, vốn định nói, như bây giờ không tốt sao? Nhưng mà lời này không nên hỏi ra miệng, một khi đã hỏi sẽ thật sự trở nên chấp niệm thế gian.

Còn nữa, Lương Nguyên Kính chàng đang sống yên ổn, dựa vào đâu phải ở cùng một quỷ hồn như nàng?

Hiện tại chàng cũng sắp thành người điên trong mắt kẻ khác rồi. Mỗi ngày cứ lầm bà lầm bầm, Dư lão luôn sốt ruột lắng lo nhìn chàng, sợ chàng bị bệnh gì đó khó trị.

Không thể vậy được, Lương Nguyên Kính cần phải có cuộc sống riêng cho mình, mai mốt còn phải cưới vợ, sinh con đẻ cái. Giống như người bình thường yên bĩnh sống hết quãng đời, nói không chừng còn may mắn hơn cưới được người chàng thầm thích.

Mà nàng, thì phải rời đi.

A Bảo cúi đầu, rõ làm quỷ hồn không có nước mắt, nhưng không biết thế nào lại luôn có cảm nhận nước mắt muốn tràn mi rơi xuống.

Nàng khẽ mỉm cười nói: “Tâm nguyện à, không biết nữa, chắc là ăn một chén mì ruột dê, đó là tâm nguyện chưa làm xong của tôi.”

Phía chân trời có chim bay về tổ, vỗ vỗ cánh bay vào trong núi rừng.

Lương Nguyên Kính muốn nói lại thôi, liếc mắt nhìn nàng một cái, không nói gì.

**

Màn đêm buông xuống, đến trước khi vào giấc A Bảo mới nhớ ra một chuyện: “Đúng rồi, nghe Dư lão nói, anh là người Dương Châu à?”

Lương Nguyên Kính khựng hành động cởi áo ngoài sau bình phong lại, đáp: “Ừm, người Giang Đô Dương Châu.”

“Tôi cũng là người Dương Châu đó,” A Bảo vui mừng nói, “Một nửa là người Dương Châu, nè, anh biết Minh Thuý phường không?”

“Biết.”

A Bảo thầm nghĩ đến cả đệ nhất kỹ quán Dương Châu anh cũng biết, ngày thường chắc không ít lần vẽ chân dung có các nương tử nổi tiếng.

Vừa nghĩ, năm đó mình cũng được coi có chút danh tiếng, sao chưa gặp qua Lương Nguyên Kính lần sao nhỉ?

Nàng mang theo tâm lý thích khoe khoang, nói với Lương Nguyên Kính: “Kể cho anh nghe, năm đó tôi là người đứng đầu trong số nương tử của Minh Thuý phường đó. ‘Ngũ Lăng thiếu niên tranh giành quấn quýt’ [4], cảnh tượng đó không phải tôi tự bịa đâu, ngoài tôi ra cũng không ai làm được. Ngay cả Đại nhân Tri châu còn muốn mời tôi về phủ đàn tỳ bà, tôi cũng cần suy xét thêm chút nữa đấy.”

[4] Ý được các thiếu niên con nhà giàu thích, săn đón.

Năm xưa, A Bảo cùng anh trai Lý Hùng chạy trốn về phía đông, anh em hai người không biết nếm bao nhiêu đau khổ, vất vả lắm mới tới được Dương Châu.

Lúc đó phủ Dương Châu đuợc mệnh danh là ‘danh đô phía bắc Hoài’, trực thuộc đông lộ Hoài Nam, quản lý năm huyện: Giang Đô, Quảng Lăng, Thiên Trường, Thái Hưng, Cao Bưu cùng với Lưỡng Chiết, phía đông Giang Nam cũng được gọi là ba đường giàu có nhất thiên hạ. Hơn phân nửa thuế má của quốc triều đều từ đó mà ra, có thể nói là nơi thương nhiên phát đạt, tàu xe ngày đêm không ngơi, người đương thời miêu tả ‘dưới hoàng hôn muôn thuyền thương nối đuôi nhau, thành phố ngấm gió xuân rượu cũng đầy lò’.

Tuy nhiên, sống ở Ngô Trung không hề dễ dàng. Dương Châu gặp tai hoạ chịu thiệt ít hơn nên có rất nhiều người dân chạy nạn mãnh liệt tiến vào, giá hàng trong thành tăng cao, lương quế hạt gạo, người chết đói rét rã rời.

Lý Hùng vốn là thợ bạc, dựa vào tay nghề chế tạo trâm cài trang sức cho nhà giàu, nhưng vào thời gian loạn lạc, người người đều giãy giụa vì cơm no áo ấm, làm gì dư dả mà đi chế bạc.

Hơn nữa mới tới Dương Châu, lạ nước lạ cái, không có nguồn khách cố định, uổng cho tay nghề của Lý Hùng, hết cách nuôi sống mình lẫn A Bảo, cùng đường lắm chỉ có thể bán A Bảo vào Minh Thuý phường.

Nói là ‘bán’ nhưng lại giúp A Bảo sống sót.

Thành Dương Châu tuy nhiều nhà phá sản, dân đói rải rác khắp nơi, nhưng quý nhân nhà quan vẫn thường hay lui tới, nên hưởng thụ cái gì thì hưởng.

Hai bên con sông nhỏ Tần Hoài, toàn là hoa lâu quán rượu, đàn sáo sênh ca liên tục rót vào tai, trên mặt sống, thuyền hoa san sát nhau, xa hoa truỵ lạc cả đêm không nghỉ.

Minh Thuý phường là kỹ quán có tiếng tăm vang dội nhất Dương Châu. Nổi nhất là Thôi Tiểu Ngọc, diện mạo quyến rũ, giỏi văn thơ kéo thi hoạ, được khen ngợi ‘Xinh đẹp tài giỏi’, khiến cho tài tử tám phương tranh nhau tìm gặp.

Sau khi A Bảo bị bán vào Minh Thuý phường, bị cử đến hầu hạ bên cạnh vị Thôi nương tử.

Nàng không bán thân, bởi vì chiếu theo luật pháp Đại Trần, ca kỹ thuộc vào tiện tịch, địa vị xã hội thấp hơn người ta một bậc.

Đây là do Lý Hùng chừa cho nàng con đường lui, mỗi ngày anh đều ra bến tàu phụ khuân vác, chờ có đủ tiền rồi sẽ chuộc A Bảo ra, đón cô ra sống cho đàng hoàng.

Một năm đó, A Bảo vừa mới mười lăm tuổi, đúng vào những năm tháng ngây thơ hồn nhiên.

Suốt ngày chạy xuôi chạy ngược ở Minh Thuý phường cũng không thấy mệt, Thôi nương tử thường hay véo nhẹ mũi nàng, ‘Giống cún con quá’.

Ma ma trong lâu thích nàng, nhóm nương tử thích nàng. Ngay cả đầu bếp nhóm lửa nấu cơm cũng thích nàng, biết nàng thích ăn giò ninh tương, cố ý giữ lại một cái, chờ đến đêm sẽ cho nàng ăn bữa khuya.

Ngày nào a ca cũng xuống bến tàu làm việc, cũng sẽ mang theo chút điểm tâm ngọt tới thăm nàng, bảo nàng đừng quậy quọ kẻo chọc giận Thôi nương tử, phải ngoan ngoãn nghe lời ma ma.

A Bảo vừa ngồm ngoàm điểm tâm vừa ‘dạ’ cho có lệ. Trong lòng lại nghĩ, Thôi nương tử sẽ không giận nàng đâu, Thôi nương tử thích nàng nhất.

Năm đầu ở Dương Châu trôi qua như vậy.

Đông đi xuân tới, dân đói trong thành ngày càng ít đi, gần Hồ Tây Gầy xuất hiện thêm nhiều cặp giai nhân tài tử đi chơi chung, 24 cây cầu tấp nập du khách.

A Bảo sang năm mười sáu tuổi, người dần nảy nở, đầu cũng cao hơn, không còn là bộ dáng trẻ con như lúc trước nữa.

Nàng trở thành một viên ngọc thô chưa được mài giũa, bắt đầu tỏa ra hào quang chói mắt, bầu bạn dự tiệc chơi xuân cùng Thôi nương tử, càng thu hút thêm nhiều ánh mắt ngạc nhiên dừng trên người nàng.

Thường có người chỉ vào nàng hỏi: “Tiểu nương tử ôm đàn tranh bên cạnh Thôi nương tử là ai vậy?”

Ma ma khôn khéo của Minh Thuý phường đã nhìn ra cơ hội kinh doanh mới, bắt đầu đào tạo A Bảo chơi nhạc.

‘Minh Thuý phường’ ⎯⎯ từ câu thơ của Đỗ Phủ, “Hai cái oanh vàng chuyền liễu biếc, Một đàn cò trắng vạch trời xanh”, vốn dĩ đã nổi danh khắp Dương Châu về nghệ thuật âm nhạc.

*Trích từ bài Tuyệt cú bốn bài kỳ 3 – Đỗ phủ và bản dịch của Nhượng Tống, thivien.net.

Phần lớn các nương tử trong lâu đều thông hiểu nhạc nghệ, ít nhất biết chơi một hai món nhạc cụ. Như Thôi Tiểu Ngọc chơi đàn tranh, nhưng cầm nghệ của nàng ấy cũng không phải đặc biệt xuất sắc, bù qua sớt lại với tài nghệ thi hoạ của mình mà thôi.

Ma ma thường ngầm hận dưới tay mình không dạy ra vị nương tử nào có nhạc nghệ nổi tiếng vang thiên hạ, khiến cho Minh Thuý phường mấy năm này dần dần suy thoái, cạnh tranh không lại mấy cái kỹ quán mới mở bên bờ sông nhỏ Tần Hoài, chính chắn đường hoàng mở ngay bên cạnh.

A Bảo vốn tinh thông âm luật, nàng từ năm ba tuổi đã đi theo vị nữ nghệ sĩ đất Thục học tỳ bà.

Lúc còn ở quê, nàng thường hay ôm tỳ bà lên phố bán nghệ, ca ca Lý Hùng ở sạp bên cạnh gõ đồ bạc, vừa trông nom nàng tránh bị mấy tên lưu manh đầu đường làm phiền.

Sau mười năm mài giữa, tài nghệ tỳ bà của A Bảo đã đạt đến trình độ cao thâm. Ngay cả sư phụ già ma ma phái tới nghe nàng đàn một khúc tỳ bà xong cũng nói mình không còn chỗ nào để dạy nữa.

Ma ma vui mừng khôn xiết, kêu Thôi nương tử mang nàng tham gia yến hội của mấy quý nhân quan lớn, lúc Thôi nương tử ngâm thơ, nàng sẽ phụ đàn trợ hứng.

Sau quãng thời gian đó, A Bảo càng lúc càng nổi tiếng, người nào cũng biết tỳ bà nữ ở Minh Thuý phường. Cầm kỹ cao siêu, nhan sắc khuynh thành, kể cả vị Thôi nương tử ‘xinh đẹp tài giỏi’ còn không bằng.

Từ đó về sau, khách nhân hâm mộ danh tiếng của A Bảo đến nghe đàn tỳ bà nhiều đột biến.

Nhưng dịp thật sự khiến A Bảo thành danh là vào vạn hoa yến tại phủ Thái thú Dương Châu.

**

Tác giả có chuyện nói:

Tôi giải thích một chút về chuyện Lương Nguyên Kính từ chối vẽ tranh cho tân hậu.

Nói cách khác, bạn là tay mơ mới nhậm chức, thứ hai phải tổ chức đại hội nhân viên, nhưng trùng hợp bạn bị bệnh, đồng nghiệp khuyên bạn nghỉ ngơi, dù sao ông chủ cũng là người tốt sẽ không so đo đâu, bạn cũng bệnh mệt không dậy nổi nên xin nghỉ ngay.

Không ngờ kết quả là, ông chủ không so đo, phó tổng lại tức giận, bởi vì anh ta là ‘con ông cháu cha’, vốn đã bị người ta nói ‘nhờ vào quan hệ’ nên trong lòng đã ngấm tức, tiệc nhân viên quan trọng sao bạn không tới? Được rồi, vậy chịu trận dài dài đi.

Lương Nguyên Kính cái người này, bạn nói chàng ngốc tôi không đồng tình, chỉ có thể nói chàng tâm tư đơn thuần trong sáng, không hiểu chốn quan trường vòng vo đó, cho nên dễ bị người ta hố.

Mặc khác, trước khi chàng tiến cung cũng không biết Hoàng hậu là A Bảo, đừng quên, A Bảo lấy tên ‘Lý Uyển’ để vào cung.

Cho nên mới phải cảm thán một câu: Thế gian chưa bao giờ thôi chuyện trời xui đất khiến, bình thường mà hen.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 24: Tỳ bà



Hữu An năm thứ năm, vào mùa hoa nở.

Tri Châu Lý Kỳ mở cửa Phan Viên tổ chức Hội Vạn hoa.

Tọa lạc Phan Viên ở ven sông Hồ Tây Gầy, vốn là dinh thự riêng của một thương nhân buôn muối Dương Châu, Lý Kỳ ưa thích cảnh sắc hữu tình, có người mua tặng riêng cho ông làm sân vườn tại nhà.

Phan Viên được xây dựng bởi rất nhiều nghệ nhân lành nghề, trong vườn trồng khóm trúc xanh khắp nơi, núi giả đá hồ san sát nhau, tạo nên khung cảnh vô cùng mới lạ, cộng thêm những lầu các đình đài đặt ở giữa, có thể nói là cảnh vật thay đổi theo từng bước chân, mỗi bước đi đều ẩn chứa mỗi nét đẹp khác nhau.

Hơn nữa, Phan Viên còn ở gần cảnh đẹp Hồ Tây Gầy, đứng trên lầu các ngắm nhìn từ xa, có thể nhìn thấy Tiểu Kim Sơn trên hồ, đợi tới mùa đông trời rơi đầy tuyết, hoa mai trên núi sẽ nở, du khách sôi nổi tới đây đạp tuyết tìm mai, người đương thời gọi đó là ‘Đệ nhất viên Dương Châu’.

Cái gọi là ‘Hội Vạn Hoa’, thực chất chỉ để ngắm một loài hoa, là hoa thược dược.

Lúc bấy giờ, hoa thược dược Dương Châu vang danh thiên hạ, sánh với mẫu đơn Lạc Dương và hải đường Thành Đô, đều là những loài hoa quý giá.

Lý Kỳ tổ chức tiệc ngắm hoa, các nhà vườn và nông dân trồng hoa tranh nhau đưa lên những bông hoa thược dược quý hiếm do nhà trồng, bình dân bá tánh cũng có thể vào vườn ngắm nghía, vì thế ngày ấy người người chen chúc vào Phan Viên, ước chừng có thể chứa đâu đó mấy ngàn người.

Thôi nương tử là danh kỹ nổi tiếng, trước giờ thường hay giao du với nhà vườn, tất nhiên cũng đồng ý lời mời đến đó.

Không may là hôm đó nàng ấy bị bệnh, cổ họng mất giọng, không thể lên sân khấu biểu diễn, nhưng phần lớn khách khứa Lý Kỳ mời mọc tới là vì hâm mộ mỹ danh Thôi nương tử, nếu tự ý đổi người e là sẽ hỏng việc.

Rơi vào ngõ cụt, Thôi nương tử đành nhờ A Bảo thay nàng ấy lên sân khấu, còn mình sẽ ngồi một bên gõ phách đệm nhạc cho nàng.

A Bảo mới mười sáu tuổi, nghé con mới sinh không sợ cọp, Thôi nương tử nói diễn xong rồi sẽ bao nàng ăn bánh đậu ve, nàng lập tức ôm đàn tỳ bà lên sân khấu.

Đôi tay trắng mơn vừa gảy, dây đàn tỳ bà vang lên, thấu tận trời xanh.

Thoáng chốc mãn đường yên tĩnh.

A Bảo rũ đôi mắt sáng, vừa đàn vừa hát:

“Tuổi trẻ khí phách anh hùng, bao năm kết bạn hào kiệt tứ phương. To gan dạ cứng tóc dựng. Vào sinh ra tử một lời khó phai.” (editor bày đặt mỗi đoạn này)

Tay phải gảy nhanh lên dây đàn, như nước chảy mây trôi, như mưa trên lá chuối.

“Anh hào, uy dũng, ngang tàng, Sênh sang võng lọng, vẻ vang ai bằng. Thành Đông cương ngựa thẳng băng. Say bên quán rượu, biết chăng xuân nồng. Chum vò, cóng quý sạch không. Uống như nước biển, như rồng cuốn mây. Hô chim gọi khuyển một bầy. Lấy lông chim trắng gắn đầy tên cung. Thú vui săn bắn lạ lùng.” (bản dịch của Chi Nguyen, thivien.net)

Nửa khúc hát vừa dứt, nhẹ nhàng gảy chậm rãi, tiếng đàn trầm buồn, khí thế anh hùng bỗng chốc lắng đọng, như khóc than như trút bầu tâm sự.

A Bảo thuận tay xoa dây cung, khẽ hát than: “Hang sâu thú hiểm, tận cùng tìm ra. Chẳng màng giấc mộng phù hoa. Cung son bỏ ngỏ, la cà cùng trăng. Buồm mây bạt gió băng băng. Bao nhiêu quan bổng, đãi đằng bằng không. Như chim tháo cũi sổ lồng. Tùng thư sách quý hàng chồng bỏ qua. Như mây hội tụ được đà. Cung cách thô vụng, khó mà thành công. Tù và đánh động thinh không. Ngư Dương bến nước, già trông đau lòng. Kỷ cương trói buộc không xong. Nhác trông lưỡi kiếm, còn hòng gió Tây.” (bản dịch của Chi Nguyen, thivien.net)

Đợi hát đến câu “Giận rong chơi non nước, Tay gảy phím tơ đồng, Mắt ngóng chim hồng.”, nàng lướt qua dây đàn một lượt, như tiếng tơ xé, tiếng đàn đột nhiên im bặt, dư âm còn chưa dứt. [1]

[1] Trích từ Lục châu ca đầu – Hạ Chú và bản dịch của Chi Nguyen, nguồn thivien.net.

A Bảo thu dọn, ôm tỳ bà đứng dậy kéo áo hành lễ.

Dưới đài không ai phát ra tiếng động nào, toàn trợn mắt há hốc mồm, như tâm trí còn ôm mộng, đợi đến khi có phản ứng thì nàng đã như không việc gì đi xuống, tìm Thôi nương tử bao bánh đậu ve. [2]

[2] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
29381f30e924b899a90180d2595e0a950a7b0308589a.webp


**

Trên Yên Vũ Lâu của Phan Viên, một khúc ⟪lục châu ca đầu⟫ của A Bảo nổi tiếng khắp Dương Châu.

Từ trên xuống dưới Minh Thuý phường ai ai cũng sủng nàng, ma ma càng cưng nàng y như bảo bối, cũng cố gắng khuyên nàng nên sửa nhạc tịch, bày ra đủ loại điểm tốt trong đó.

Tỷ như sửa thành nhạc tịch rồi, sẽ có thêm nhiều quý nhân quan lớn mời nàng dự tiệc du ngoạn, còn được tặng quà nữa, nàng có thể kiếm được số tiền mà người bình thường cả đời không kiếm nổi.

A Bảo không có khái niệm về tiền, nàng sinh ra chỉ biết ăn, ma ma liền thay đổi cách nói, nếu nàng chịu sửa nhạc tịch, có thể ăn bánh ngọt suốt đời.

A Bảo nghe xong mới có chút động tâm, nhưng Lý Hùng lại nhất quyết không đồng ý.

“Người khác toàn tìm mọi cách, mọi biện pháp để sửa lên dân tịch, em thì ngược lại! Dân tịch trong sạch thì muốn đổi thành nhạc tịch! Em biết nhạc tịch là cái gì không? Là tiện dân! Nếu em sửa lại thành nhạc tịch, về sau không thể gả vào nhà trong sạch làm vợ được, chỉ có thể làm thiếp!”

“Không phải em muốn gả cho anh sao?” A Bảo nháy mắt nói, “Chỉ cần a ca không cưới vợ, vậy em làm thê hay thiếp cũng như nhau.”

Nàng là đứa trẻ bị vứt bỏ, được cha mẹ Lý Hùng nhặt về, xem như con dâu nuôi từ bé, từ nhỏ A Bảo đã biết lớn lên mình sẽ gả cho a ca làm vợ.

Lý Hùng bị nàng bẻ ngược, trừng mắt nói: “Dù sao em cũng không được sửa thành nhạc tịch!”

A Bảo còn chưa từ bỏ ý định: “Nhưng mà ma ma nói, sửa thành nhạc tịch có thể ăn bánh ngọt suốt đời đó.”

“……”

Lý Hùng bị nàng chọc tức đến đau xương, đẩy cái đầu nàng mắng: “Ăn ăn ăn! Chỉ biết ăn! Ngày đó bị bán đi còn đếm tiền dùm người ta mất!”

“A! A ca đừng đánh mà!”

A Bảo vắt giò lên cổ mà chạy, sau đó lại dừng bước reo leo: “Anh bán em à, bán lấy tiền mua kẹo vừng cho em ăn…”

“Em⎯⎯”

Lý Hùng tức giận vén tay áo muốn đánh nàng, A Bảo lại hét lên nhảy loạn trong nhà, đầu gối anh bị bệnh phong thấp không đuổi kịp nàng, đành thở dài thật mạnh, nghi ngờ một ngày nào đó sẽ bị cái đồ không có mắt này chọc cho tức chết.

Khi đó mặc dù anh đã trở về nghề cũ làm thợ bạc, nhờ có Minh Thuý phường chiếu cố, làm ăn cũng không tệ lắm, nhưng bởi vì mùa đông khắc nghiệt giúp việc ở bến tàu, mỗi khi dỡ hàng hai chân phải ngâm trong nước sông lạnh băng, cứ thế mắc phải căn bệnh phong thấp nặng.

Bởi vì muốn tiết kiệm tiền chuộc A Bảo ra, mua một căn nhà không lớn không nhỏ ở lại thành Dương Châu, không tính bỏ tiền tìm đại phu trị bệnh tận gốc, chỉ qua loa dán thuốc cho xong, dẫn đến bệnh chứng ngày càng nghiêm trọng, mỗi lần đến trời thu gió mát, đầu gối sẽ sưng u một cục, đau đến chết đi sống lại.

A Bảo luyến tiếc a ca chịu khổ, nghĩ nếu mình làm ca kỹ, vừa có tiền ăn bánh cả đời, vừa có thể dẫn a ca đến y quán trị bệnh ở chân, nói không chừng còn mua được nhà, được cả ba trong một, cớ gì không làm nữa?

Đến nỗi a ca nói sửa nhạc tịch về sau chỉ được làm thiếp, không thể làm thê gì gì đó thì liên quan gì đâu?

Ngày nàng lập gia đình còn rất xa, hơn nữa, dù sao a ca cũng sẽ không rời bỏ nàng mà.

Vì thế nàng vụng trộm gạt Lý Hùng, đi theo ma ma đến quan phủ sửa thành nhạc tịch, Lý Hùng biết được tất nhiên nổi trận lôi đình, gào thét kêu muốn đánh gãy chân nàng, nhưng không ngờ còn có thêm một người nữa tỏ vẻ không tán thành quyết định này của nàng.

“A Bảo ngốc à, em sửa thành nhạc tịch rồi, làm ca kỹ, ngày sau nếu gặp được người mình thích phải làm sao đây, em muốn làm thiếp của người ta à?”

Thôi nương tử dùng ánh mắt thương hại nhìn nàng.

“Không sao ạ,” A Bảo hồn nhiên không thèm để ý, “A ca sẽ cưới em.”

Thôi nương tử xì cười: “Chị nói thích, là người em sẽ thích trong tương lai, không phải nói a ca của em.”

A Bảo ngây ngơ mù tịt, không phân rõ hai cái này khác gì nhau, nhưng nàng suy nghĩ, chần chờ nói: “Nếu là người em chân thành thích, y cũng thích em thì sẽ không để em làm thiếp đâu.”

Thôi nương tử thở dài: “Nói thì là vậy, nhưng nhân sinh trên đời này luôn có rất nhiều trói buộc, người có thể chân chính tự do thoải mái sống có bao nhiêu đâu? A Bảo à, nếu ngày sau em thích y, mà y cũng thật lòng thích em, nhưng y lại có đủ loại nguyên nhân đành nạp em làm thiếp, em sẽ làm thế nào?”

A Bảo nổi giận nói: “Vậy y không đáng được em thích!”

Thôi nương tử ngẩn ra, bị khí phách của đứa nhỏ này làm cho dở khóc dở cười: “Nói em ngốc quả không sai mà, loại chuyện thích ai này, đâu thể chỉ mình em đinh đoạt.”

Nói tới đây, bỗng nhiên nàng ấy thở dài, nói: “Có lẽ ngày ấy ở Yên Vũ Lâu, chị không nên để em lên đài thay mình.”

“Không sao đâu ạ,” A Bảo nói, “Chị bị bệnh mà.”

“Nha đầu ngốc.”

Thôi nương tử cười, phủi miếng điểm tâm còn dính trên mặt nàng, xong dịu dàng véo véo gò má nàng.

**

Sau đó, danh tiếng của A Bảo ở Dương Châu ngày càng vang, từ từ nổi hơn cả Thôi Tiểu Ngọc, thành danh kỹ thế hệ mới bên sông nhỏ Tần Hoài.

Cái gọi là ‘Ngũ lăng thiếu niên tranh giành quấn quýt, vì khúc nhạc lụa đỏ quấn quanh không hết’ cũng không phải nói khống.

A Bảo thích cười, không phải cái cười nhẹ diệu uyển chuyển như con gái Giang Nam, mà là thoải mái cười to.

Trên người nàng có tính cách đặc biệt tốt đẹp thanh thuần của con gái đất Thục, nhiệt tình, hào sảng, phóng khoáng, còn rất đanh đá. Nàng động một chút là giận, say rượu xong sẽ mắng chửi người ta, một khi đã nóng thì có là Tri Châu hay Thông Phán cũng không được nàng đặt vào mắt.

Nhưng mà chính vì kiểu mưa nắng thất thường thuộc phong tình đất Thục này khác biệt với giai nhân Giang Nam, nên càng có thêm đám người theo đuổi nàng, hận không thể để nàng mắng cho một trận.

A Bảo trở thành thủ lĩnh ở Minh Thuý phường, nhưng kỳ lạ là, nhóm nương tử trong lâu vẫn thích nàng như xưa, không ai tranh giành đấu đá với nàng cả.

Ngay cả Thôi nương tử bị nàng ‘cướp’ đi sự nổi bật cũng cười nói: “Có người sinh ra đã khiến cho người ta yêu thích, hâm mộ không thôi.”

Dưới ánh hào quang của A Bảo, Thôi Tiểu Ngọc hoàn toàn trở nên xuống dốc, Thôi nương tử ngày xưa xinh đẹp tài giỏi, giờ đây đã đến mức vắng vẻ.

Nàng ấy năm nay gần 30, dung nhanh có dấu hiệu ở tuổi xế chiều, vì muốn tìm đường lui cho mình, chọn một thương nhân đi thuyền.

Vị thuyền thương này đã cổ vũ nàng từ khi mới thành danh, mỗi lần đến Dương Châu đều tìm nàng ấy, Thôi Tiểu Ngọc muốn gả cho hắn làm thiếp.

A Bảo không hài lòng lắm về hôn nhân này, nhăn tít hàng mày thanh tú nói: “Râu quai nón vừa béo vừa xấu, không xứng với nương tử xíu nào.”

Cuối năm ngoái, nàng từng gặp qua vị thuyền thương này một lần, có ấn tượng sâu sắc với hàm râu quai nón phủ đầy mặt, mỗi lần nhắc tới người ta toàn gọi là ‘râu xồm’.

Thôi Tiểu Ngọc biết nàng xưa giờ kiến thức hạn hẹp, thích vẻ ngoài xinh đẹp, nghe vậy cười trêu: “Y lớn lên không đẹp, vậy ai mới đẹp đây? Thiếu niên lang trong mơ nọ của em à?”

Thoáng chốc A Bảo xấu hổ đỏ bừng cả mặt.

Thiếu niên lang trong mơ nọ, tất nhiên là lần chạy nạn đói sắp chết trên đường đó, tiên nhân đã mời nàng ăn bánh.

Không biết vì sao, kể từ khi đến Dương Châu rồi, A Bảo càng thường xuyên mơ thấy y, lúc thì y dạy nàng ngâm thơ, nghe nàng đàn tỳ bà, hình như y còn rất quen thuộc thành Dương Châu, sẽ kể cho nàng nghe lai lịch chuyện xưa của mỗi danh tích trong thành.

Thiếu niên có giọng nói trong trẻo êm tai, trên môi luôn treo ý cười nhè nhẹ, chỉ tiếc là khuôn mặt luôn mờ mịt như mây mù, không thấy rõ được.

Chuyện này A Bảo chỉ kể qua với Thôi Tiểu Ngọc, ai ngờ sau khi nghe xong, nàng ấy thường lấy ra trêu nàng, nói khó mà có được, cái đồ không có mắt này cuối cùng cũng bắt đầu tương tư.

A Bảo ho nhẹ một tiếng, cố tình rõ rệt lảng sang chuyện khác: “Không phải trong nhà râu xồm đã cưới thê rồi sao?”

Ánh mắt Thôi Tiểu Ngọc u buồn, gượng cười nói: “Phải, xuất thân giống chúng ta đây, cũng chỉ có thể làm thị thiếp nhà người ta, ngay cả vợ kế cũng không đủ trình độ đâu.”

“Vị Âu Dương đại tài tử đâu ạ?” A Bảo lại hỏi.

“Không biết, lâu rồi không nhận được thư y gửi, chắc là năm nay đỗ cao rồi.” Thôi Tiểu Ngọc cười chua chát.

Nàng ấy sinh ra trong dòng dõi thư hương, chỉ vì gia đạo sa sút nên mười bốn tuổi đã lang thang, từ nhỏ đọc đủ thi thư, tự nhiên Thôi Tiểu Ngọc cũng hâm mộ nam nhân học thi văn Hàn Mặc.

Nàng ấy thường xuyên cải trang nam tử, tham gia hội nhóm văn nhân đương thời, cùng bọn họ đàm luận văn học, đối thơ viết chữ.

Lúc đó tuổi còn trẻ, cũng từng giúp đỡ qua vài sĩ tử nghèo rớt mồng thời, chỉ là những kẻ đó không lừa tiền cũng biệt vô âm tín, vị Âu Dương đại tài tử cũng nằm trong số đó, ba lần thi trượt, mắt thấy đời này không có duyên đỗ đạt.

A Bảo gật gù, chợt nói: “Em thấy Âu Dương tài tử xứng đôi với nương tử hơn, chị nên gả cho y mới đúng.”

Thôi Tiểu Ngọc nghe xong hơi ngỡ ngàng, bật cười nói: “Trên đời làm gì có chuyện nào hoàn hảo, hơn nữa trong nhà Âu Dương cũng có thê thất, dù chị vẫn còn duyên nợ với y, gả qua cũng có thể làm thiếp mà thôi.”

“Nếu y thích chị sẽ không để chị làm thiếp.” A Bảo vẫn giữ nguyên quan điểm này.

“Vậy vợ y cưới về phải làm sao? Cô ấy lo liệu việc nhà, sinh con đẻ cái cho y, lúc y vào kinh thi cử, tận tâm phụng dưỡng họ hàng, thay y tẫn hiếu, không chút sai lầm, chẳng lẽ vì chị mà hưu bỏ cô ấy?”

A Bảo lắc đầu, cái này đương nhiên không đúng, nhưng nàng lại không rõ, cuối cùng chỉ cố chấp: “Dù sao thì em cũng không làm thiếp.”

Thôi Tiểu Ngọc nhìn khuôn mặt trắng nõn của nàng, lả lướt đáng yêu, lại không khỏi nổi lên tâm tư trêu chọc nàng, cười nói: “A Bảo của chúng ta đây mai mốt muốn gả cùng ai làm thê đây? Là a ca của em, hay là vị thiếu niên lang trong mơ?”

“Ài! Sao chị nhắc lại nữa?!” A Bảo che gương mặt nóng hổi kêu lên.

Thôi Tiểu Ngọc không thuận theo nàng mà tiếp tục sấn tới không tha: “Đỏ mặt gì chứ? Đỏ mặt vì a ca hay vì thiếu niên nọ vậy?”

“Đừng nói nữa mà!”

“Xấu hổ làm gì, nói đi, rốt cuộc muốn gả cho ai?”

Thôi Tiểu Ngọc muốn chọc ngứa nàng, A Bảo từ nhỏ sợ nhất bị chọc cù lét, hấp tấp trốn sang bên cạnh, chầm chậm lui lại ra ban công.

Thôi Tiểu Ngọc tay dán lên eo nàng, mới vừa cào vài cái A Bảo đã khom lưng cười ầm lên, đoá thược dược cài bên tai rung lắc theo, cứ thế lăn rớt xuống lầu.

“Ơ⎯⎯ Hoa của em!”

A Bảo thốt lên, đỡ lan can nhìn xuống dưới lầu.

Trên đường dài đá xanh, một vị công tử anh tuấn mặc bộ áo mỏng sáng màu như trăng dắt ngựa đứng đó, trong tay cầm thêm một đoá hoa thược dược, ánh mắt đưa tình nhìn nàng. Khoé môi y lúc cười lên rất đẹp lại ôn hòa, cùng với khuôn mặt nào đó trong mơ của A Bảo vi diệu chồng lên nhau.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 25: Tuyên Vương



Đó là lần A Bảo và Triệu Tòng gặp nhau.

Khi ấy hắn còn chưa tên Triệu Tòng, gọi là Thừa Tuấn, là con trai thứ ba của hoàng đế Thái Tông, tuổi mụ vừa tròn 22, đã phong làm thân vương, người khác đều kêu hắn ‘Tam đại vương’, hoặc là ‘Tuyên Vương điện hạ’, chỉ có A Bảo luôn miệng kêu hắn ‘Triệu Thừa Tuấn’.

Tri châu Lý Kỳ nghe mà bay mất hồn vía.

Bá tánh tầm thường nếu trùng tên với vương thất, vì kiêng dè cũng phải sửa tên lại, ông có mượn ngàn mượn vạn cái lá gan cũng không dám gọi thẳng tên huý thân vương, A Bảo đúng là ăn gan hùm mật gấu.

Ông thay A Bảo cáo tội với Tuyên Vương: “Tiểu nương tử này xưa nay luôn không tim không phổi, nói chuyện cũng không biết lựa lời, nếu không phải đàn tỳ bà tốt, đã sớm bị người ta trùm bao bố nhấn xuống Hồ Tây Gầy rồi, mong điện hạ niệm tình nàng còn nhỏ tuổi, không hiểu chuyện trên dưới, chớ có so đo cùng nàng.”

A Bảo tai thính nghe xong lời này nhất thời trợn tròn mắt, thầm nghĩ được lắm Lý Thái thú, sau này nếu có quỳ xuống xin mời nàng vào phủ đàn tỳ bà nàng cũng không chịu đâu.

Triệu Tòng tay chầm chén trà, khẽ cười nói: “Không sao, đặt tên vốn để người ta kêu mà, Lý Tri châu nếu không ngại cứ kêu thẳng tên huý của bổn vương.”

Lý Kỳ vội nói không dám.

Triệu Tòng gắp miếng ngó sen đặt vào dĩa của A Bảo, ôn hoà nói: “Món này ăn ngon, em nếm thử.”

Hắn rất thông minh không thể nghi ngờ, thoáng một cái đã phát hiện ra nhược điểm của A Bảo ⎯ thích ăn.

Thân A Bảo nếu nói nàng không tim không phổi cũng không hẳn đúng, nàng cũng không ngốc, ngược lại nhạy bén thông tuệ, chẳng qua thứ nàng quan tâm toàn tách biệt với người khác.

Nếu người khác có thể ngồi cùng bàn ăn cùng Tuyên Vương, còn may mắn được hắn gắp đồ ăn cho, thế đã sớm quỳ trên mặt đất cảm động rớt nước mắt, nhưng riêng trong mắt của A Bảo, Tuyên Vương điện hạ gì đó còn không dằn dĩa ngó sen viên chiên đâu.

Triệu Tòng cũng không biết nhìn trúng điểm nào ở nàng, chuyến này hắn tới Dương Châu, vốn có công việc cần làm, sau khi hoàn thành sẽ ở lại thêm một năm, đợi đến tháng chín năm thứ hai mới lên phía bắc về lại Đông Kinh.

Thời gian một năm này, ngày nào hắn cũng đến Minh Thuý phường tìm A Bảo, mưa gió không hề hấn gì, cũng không phải muốn nghe nàng đàn tỳ bà, chỉ cần có thể trò chuyện cùng nàng là đủ rồi.

Đôi khi A Bảo rụt rè, đóng cửa từ chối tiếp khách, kể cả hắn cũng không tiếp, ma ma sợ tới mức liên tục than ‘Tiểu tổ tông’ cầu xin nàng, Triệu Tòng cũng không giận, chỉ cách cửa nói chuyện cùng A Bảo.

Nếu hắn nói gì thú vị khiến A Bảo bật cười, nàng sẽ mở cửa ngay, nếu ngày ấy tâm tình nàng thật sự không tốt, cho dù hắn nói đến miệng lưỡi khô khan, nàng cũng sẽ không phản ứng.

Ma ma thở dài, nàng có thể bình an vô sự lớn tới cỡ này đúng là kỳ tích.

Nhóm nương tử trong lâu cũng cười: “A Bảo, đừng làm bộ làm tịch nữa, ông trời vất vả lắm mới làm ‘rơi’ vị công tử vương tôn xuống đây, chạy nhanh đến bắt lấy cơ hội mới phải, đừng để đến lúc người ta về Đông Kinh mới bắt đầu hối hận nha.”

A Bảo nổi giận trừng mắt: “Em mới không cần làm bộ làm tịch!”

Đúng thật nàng không làm vậy, A Bảo hào sảng nhanh nhẹn, từ trước đến nay đều có gì nói đó, không biết cái gì mà ‘làm bộ làm tịch’, nàng chỉ là…

Chưa xác định được tâm ý của mình.

Ngày ấy trên lầu hai Minh Thuý phường, mới gặp Triệu Tòng là nàng đã cảm nhận được sự rung động, đó là lần đầu tiên nàng trải nghiệm qua cảm giác như vậy suốt mười sáu năm, trái tim tựa như hòn đá nhỏ rơi vào trong hồ, đẩy ra một vòng gợn sóng.

Triệu Tòng cũng rất rất tốt, anh tuấn phong lưu, tuy là Vương gia nhưng cũng không làm giá, sẽ kể chuyện cười cho nàng, tặng nàng mấy lễ vật mới mẻ thú vị, hắn ở trong Phan Viên, thường xuyên mời các đầu bếp nổi tiếng nấu một bàn đồ ăn ngon mời nàng đến đó.

Nhưng mà, A Bảo vẫn thấy sai sai đâu đó, nàng không thể nói rõ sai chỗ nào, chỉ là nội tâm mơ màng sinh ra loại cảm giác, chính là… Có gì đó sai sai.

Nàng nói sự hoang mang đó lại cho Thôi nương tử nghe, Thôi Tiểu Ngọc cười nói lại: “Có phải còn nhớ vị thiếu niên trong mơ không? Không phải em nói, Tuyên Vương điện hạ rất giống với vị đó sao?”

“Đúng là có điểm giống…” A Bảo cau mày, “Nhưng mà cũng có chút không giống…”

“Không giống chỗ nào?” Thôi Tiểu Ngọc hỏi.

“Em cũng không biết nữa.”

A Bảo mờ mịt lắc đầu, thật ra nàng cũng có một quãng thời gian không còn mơ thấy thiếu niên lang kia nữa. Khuôn mặt mờ mờ ở trong đầu nàng ngày càng mờ hơn, nàng đã sắp quên âm thanh của y, chỉ nhớ mang máng lúc y cười rộ lên rất hiền hoà rất đẹp, giống với làn gió xuân Hồ Tây Gầy.

Thôi Tiểu Ngọc thở dài: “A Bảo, em không thể dành cả đời để truy tìm một bóng dáng hư ảo trong mơ, ‘nhất thiết hữu vi pháp, như mộng ảo bào ảnh, như lộ diệc như điển, ứng tác như thị quán’.” [1]

[1] Trích từ Kinh Kim Cang. (nhấp vào đọc thêm thông tin tại nguồn thuvienhoasen)

“Có ý gì ạ?” A Bảo lẩm bẩm hỏi.

Thôi Tiểu Ngọc xoa xoa đầu nàng, nói: “Ý là để em nắm chắc hiện tại, chị sắp xuất giá, muốn nhìn em có kết cục tốt. Tuyên Vương điện hạ tuy xuất thân thiên gia, nhưng y là con thứ ba của kim thượng, cả đời này vô duyên với ngôi vị hoàng đế, mà y cũng yêu thích em. A Bảo, y sẽ đối xử em thật tốt, em có phúc phần so với đại đa số người trong đây, chớ có phụ lòng.”

A Bảo ôm eo nàng ấy, y như con mèo nhỏ ăn vạ cọ tới cọ lui trong lòng nàng ấy, nũng nịu nói: “Em lấy phúc phần chia cho chị, nương tử, chị đừng xuất giá được không, em nhớ chị.”

Thôi Tiểu Ngọc bật cười, vỗ vỗ cái ót của nàng: “Đã bao lớn rồi còn làm nũng?”

**

Ngày mà Thôi Tiểu Ngọc xuất giá, là mùng ba tháng ba năm Hữu An thứ sáu, tết Thượng Tị, dân gian gọi là ‘Tiết nữ nhi’.

Các nữ nhi trong nhà ai chưa xuất các thường sẽ nhân ngày hôm nay rong chơi kết bạn, đi chùa dâng hương, cầu nguyện tương lai có thể gả cho một người chồng tốt, vào được gia đình tốt.

Dựa theo hoàng lịch, ngày này thích hợp để động thổ, hiến tế, an giường [2], gả cưới, là ngày thượng thượng đại cát.

[2] Lễ an giường thường được thực hiện trước khi sử dụng giường mới, đặc biệt là trong dịp cưới hoặc dọn về nhà mới.

Mùa xuân mới lại đến, hoa hạnh ngoài thành Dương Châu nở rộ, như tầng mây cháy, mênh mông bồng bềnh trải dài mười dặm.

Thuyền thương quê quán ở Giang Hạ, Thôi Tiểu Ngọc muốn theo thuyền thương xuôi dọc theo Trường Giang, nhóm nương tử Minh Thuý phường đưa tiễn nàng ấy xuất giá, đưa nàng ấy ra tới bến tàu.

Đều là tỷ muội nhiều năm, mọi người đều luyến tiếc nàng ấy, nhưng mà trong số các nương tử, người khóc dữ dội nhất phải kể đến A Bảo.

Nửa người nàng gần như bám lên trên người Thôi Tiểu Ngọc, ôm nàng ấy khóc đến đau khổ tột cùng.

Nương tử khác có khóc, một là mắt óng ánh giọt lệ, hai là nắm chặt khăn yên lặng cúi đầu lau nước mắt, duy chỉ có nàng gân cổ khóc lớn, tiếng khóc thu hút người đi đường ghé lại ngó xem, nước mắt trào ra nhiều như vậy, ngay cả áo cưới hồng đào thêu hoa hải đường của Thôi Tiểu Ngọc cũng bị nàng làm cho ướt.

Nỗi buồn chia ly của Thôi Tiểu Ngọc bị nàng khóc cho trôi sạch, ôm nàng bất đắc dĩ rầy: “Không khóc nữa, tổ tông ơi, sông Trường Giang bị em khóc khô cả rồi.”

A Bảo lại ‘oà’ lên tiếp tục gào khóc, nước mắt tuôn ra không ngừng, khóc riết cái mặt y như con mèo hoa, giọng nói khô khan liên tục kêu “Đừng đi, đừng đi mà”.

Lý Hùng nhìn không nổi nữa, xách sau gáy nàng kéo ra: “Được rồi, xuất giá là chuyện đại hỉ, em đừng chậm trễ giờ lành của người ta.”

“Không⎯⎯”

A Bảo chết không buông tay, dính chặt trên người Thôi Tiểu Ngọc còn hơn keo dán chó, làm Thôi Tiểu Ngọc cũng nghiêng ngả đứng không vững, đỡ lấy mũ trên đầu bất đắc dĩ nói: “A Bảo à, em muốn chị phải làm sao bây giờ? Dứt khoát bỏ em vào rương của hồi môn mang theo nhé.”

A Bảo khóc lóc nói: “Vậy chị dẫn em đi đi! Phải đi cùng nhau cơ!”

Nói xong đã thật sự tính tìm cái hòm xiểng chứa của hồi môn chui vào trong, khiến mọi người phải dở khóc dở cười, vẫn là Triệu Tòng kéo nàng lại, dùng lời hay ý đẹp trấn an rất lâu, sau đó Thôi Tiểu Ngọc mới có thể thoát ra đi lên thuyền.

Sóng xanh dập dờn, chiếc thuyền đi xa, chỉ thấy mỗi cánh buồm trắng đang từ từ đi về phía chân trời.

A Bảo ngồi xổm bên bờ, vùi đầu vào đầu gối, khóc đến thoi thóp.

Người ở Minh Thuý phường và a ca nàng không biết đã rời đi từ lúc nào, chỉ còn mỗi Triệu Tòng ở lại cùng nàng, hắn đặt tay lên đầu vai nàng, không có khuyên nàng đừng khóc, chỉ yên lặng chờ nàng khóc cho đủ thì thôi.

A Bảo vừa khóc vừa nói với hắn, năm đó mới vào Minh Thuý phường đã được sai khiến đến hầu hạ bên cạnh Thôi Tiểu Ngọc, lần đầu tiên nhìn thấy nàng ai nấy cũng ngây người, con ngươi bất động cũng không biết đang nhìn gì.

Thôi Tiểu Ngọc hỏi nàng tên gì nàng cũng không đáp, thấy nàng sững sờ nhìn mình mới tưởng nàng đang nhìn cây trâm hình con bướm trên búi tóc, liền lấy xuống đưa cho nàng, nói: “Cho em nè.”

Ai ngờ A Bảo lại liên tục xua tay từ chối.

Hoá ra không phải nhìn cây trâm cài, mà là nàng nhìn đĩa điểm tâm trên bàn sau lưng nàng ấy, bánh từ mứt táo làm thành hình hoa hải đường, ở giữa còn có chút mứt táo hồng hồng.

Thôi Tiểu Ngọc nghe xong liền đẩy đĩa điểm tâm đó cho nàng.

A Bảo lại nhớ tới lời a ca dặn dò, không dám duỗi tay nhận, khẽ l**m môi dưới nói: “Em ăn rồi, a ca đã mua kẹo vừng cho em.”

Thôi Tiểu Ngọc cười: “Biết rồi, trên mặt em còn dính chút nước đường kìa. Ăn đi, không sao hết, em gầy quá.”

Xong A Bảo mới nhận đĩa điểm tâm đó ăn ngấu nghiến.

Lúc đó nàng mới vượt qua nạn đói, cả người gầy trơ xương, khuôn mặt nhỏ nhòn nhọn, chỉ cần nhắc đến ăn, trong mắt sẽ phát sáng như sói đói, cổ họng giống như mọc thêm đôi bàn tay nhỏ, chào gọi với đồ ăn ngon: Mau vào bụng ta đi.

Dĩa bánh từ mứt táo thơm ngon mềm mại, là món ngon nhất nàng từng được ăn trừ chén ruột lừa lần trước, ăn được món ngon nhất rồi dạ dày cũng dịu xuống.

Sau này làm thị nữ của Thôi Tiểu Ngọc, nàng tay chân vụng về, không làm hỏng đồ đạc thì thường xuyên làm trò hề, nhưng mà Thôi nương tử lại chưa từng trách móc nàng.

Nàng ấy sẽ cười nàng trước, nói nàng ‘Giống cún con quá’, còn hay đút điểm tâm cho nàng ăn, ngẫu nhiên sẽ đọc vài câu thơ là lạ cho nàng nghe.

Nàng ấy nói A Bảo giống như đứa em gái trong nhà, tiểu cô nương kia ba tuổi mắc bệnh đậu mùa không qua khỏi, nàng ấy nhìn A Bảo như nhìn em gái nhỏ không có cơ hội lớn lên của mình.

A Bảo cũng thích Thôi Tiểu Ngọc, người nàng ấy rất thơm, ôm vào cũng mềm mại, nàng thích nhất được ăn vạ làm nũng trong lòng nàng ấy.

Đều tại tên râu xồm mang Thôi nương tử rời đi.

Giọng A Bảo khàn do khóc, khóc đến mất hết sức lực, chỉ có thể níu lấy cây xuân thảo trên mặt đất phát ngốc.

Triệu Tòng dùng khăn tay lau khô nước mắt cho nàng, bỗng nhiên thở dài nói: “‘Lưu tiêu sao dễ bỏ rơi người, đào vội hồng rồi, chuối chóng xanh rồi’.”

A Bảo đôi mắt ướt hồng, ngơ ngác hỏi: “Có ý gì?”

“Thời gian trôi qua rất nhanh.” Triệu Tòng nói.

“Đây là từ Tưởng Tiệp ngồi thuyền qua Ngô giang, trong ⟪nhất tiễn mai⟫ viết: ‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời, Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi, Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi. Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng rồi, Chuối chóng xanh rồi’.” [3]

[3] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net.

“Ta thấy em hôm nay lưu luyến Thôi nương tử không rời, lại nhớ về chuyện xưa lúc cả hai còn thân mật gần gũi, đều xuất phát từ tình cảm mà ra.”

A Bảo ‘ồ’ lên, tò mò hỏi: “Anh rất thích đọc thơ à?”

“Này không phải thơ, là từ,” Triệu Tòng cười cười, “Cũng không thể nói là thích nữa… Ta cũng sẽ làm từ, chẳng qua không hay như người khác làm, lần sau làm cho em nghe nhé?” [4]

[4] Thể loại ‘Từ’ có số chữ trong bài cố định, câu dài ngắn, và phối hợp chặt chẽ với âm nhạc. Song, nó khác
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 26: Gả xa



A Bảo đưa cho Triệu Tòng một vấn đề nan giải.

Nàng là nhạc tịch, muốn làm thiếp của thân vương còn không dễ dàng gì chứ đừng nói là làm chính thê?

Nhóm nương tử chê cười nàng: “A Bảo ơi, đừng cứng nhắc quá, không phải ai cũng có thể làm phượng hoàng trên cành cao đâu.”

Ma ma cũng mắng nàng ngốc, nàng là ca kỹ của Minh Thuý phường, đời này có thể phụng dưỡng cho Tuyên Vương điện hạ đã có phúc khí, được tổ tiên phù hộ rồi, lại dám hy vọng xa vời đến vị trí vương phi.

Nếu Tuyên Vương tỉnh táo lại, nói không chừng sẽ quay về Đông Kinh bỏ nàng lại, thành Đông Kinh có rất nhiều tiểu nương tử hiền lành hiểu chuyện, ai đâu nhớ tới A Bảo chứ.

Mỗi lần A Bảo nghe xong cũng không có ý phản biện lại, chỉ yên lặng đi đóng cửa phòng.

Sau khi Thôi nương tử xuất giá, nàng luôn thấy mất hứng thú, không đàn tỳ bà nữa, cũng không ầm ĩ đòi đi ra ngoài chơi, có món ăn ngon cũng không thấy gương mặt tươi cười của nàng đâu.

Nàng dường như đã trưởng thành chỉ sau một đêm, không còn giống dáng vẻ đứa trẻ nhỏ như lúc trước, mà là dáng vẻ hơi giống phụ nữ.

Lý Hùng biết được nàng phải gả cho Tuyên Vương làm vợ, không cười chê nàng điên muốn làm vương phi như những người khác, chỉ hỏi: “Em muốn gả cho y thật sao?”

A Bảo gật đầu, nói: “Anh ấy thích em, em phải gả cho anh ấy.”

Lý Hùng lại hỏi: “Vậy em thích y không?”

A Bảo nghiêm túc nghĩ ngợi: “Thích ạ.”

Lý Hùng nhìn nàng, sắc mặt phức tạp, tựa như nhẹ nhàng thở nhưng vẫn có chút muốn nói lại thôi, cuối cùng nhíu mày nói: “Y là Vương gia, mà em là nhạc tịch, chỉ sợ…”

“Nếu anh ấy không cưới em thì em không gả nữa,” A Bảo cắt ngang lời anh, “Em gả cho anh là được, a ca.”

“……”

Lý Hùng già dặn thở dài, chắp hai tay sau lưng rời đi.

Tại anh, thế mà tin vào lời đồn đãi, thật sự cho rằng ‘đồ không có mắt’ đã trưởng thành.

**

Xuân đi thu tới, A Bảo đều luôn uể oải không vui, nàng ghé vào cửa sổ nhìn khách nhân qua đường dưới lầu, mặc kệ Triệu Tòng trêu chọc nàng thế nào cũng không còn hứng thú ra khỏi cửa.

Nàng ốm xuống, đôi má no thịt như trẻ con biến mất, trước đây Thôi nương tử thích véo hai bên thịt đó của nàng nhất, giờ thì không còn nữa.

Triệu Tòng đau lòng nàng gầy đi, nắm tay nàng thề thốt: “A Bảo, em yên tâm, ta chắc chắn sẽ cưới em làm vợ.”

A Bảo cười nói: “Được, em chờ chàng.”

Cuối cùng Triệu Tòng cũng thực hiện được lời hứa hẹn của hắn.

Có môn khách góp lời với Tri châu Lý Kỳ, nhận A Bảo làm dưỡng nữ, dời vào gia phả Lý gia, lúc đó Lý Kỳ chưa biết đề nghị này sẽ kết thúc con đường làm quan của ông, chỉ cảm thấy một là có thể khiến Tuyên Vương điện hạ vui vẻ, hai là có thể bám vào vị Phật lớn này leo lên, thật sự là nhất cử lưỡng tiện.

Mà Triệu Tòng cũng vui mừng với đề nghị này, chạy tới báo tin tốt cho A Bảo.

A Bảo lại nhíu mày: “Em có cha mẹ, vì sao phải nhận người khác làm cha?”

‘Cha mẹ’ trong miệng nàng tất chỉ cha mẹ của Lý Hùng, hai vợ chồng già nhặt nàng về chưa được mấy năm đã qua đời vì bệnh, nàng cùng a ca từ nhỏ cho tới lớn đều nương tựa vào nhau mà sống.

Nếu người khác có thể được nhận Tri Châu đại nhân làm cha, khẳng định sẽ phấn chấn không biết nên như nào cho phải, nhưng Triệu Tòng biết, A Bảo luôn khác biệt so với họ, hắn yêu nàng cũng vì điểm này.

Vì thế hắn vội nói: “Em coi như là vì ta nhé! A Bảo, ta thật sự là gấp rút muốn cưới em, một khắc cũng không thể đợi!”

Hắn phấn khởi đến mức mặt mày đỏ hồng, vốn dĩ trong lòng A Bảo còn có chút không đồng tình, thấy dáng vẻ này của hắn nên đành phải gật đầu: “Được ạ.”

Phủ Thái thú tổ chức tiệc rất náo nhiệt, A Bảo chưa kịp quỳ xuống dâng trà, nương tử của Lý Kỳ đã chạy nhanh lại đỡ nàng lên, kinh sợ nhận trà từ trong tay nàng, vợ chồng Lý Kỳ càng không dám để nàng gọi mình một tiếng ‘cha mẹ’.

Kính trà cho cha mẹ xong, tới đưa trà cho huynh trưởng.

Vì che giấu mối quan hệ ‘con dâu nuôi từ bé của Lý Hùng’ xấu hổ kia, nàng cần chính thức nhận Lý Hùng làm huynh trưởng.

“A ca, uống trà.”

A Bảo quỳ trên mặt đất, nghiêm túc ngoan ngoãn dâng chén trà sứ Thanh Hoa nói.

“Tốt rồi tốt rồi, uống xong chén trà này, em sẽ là em gái của anh.”

Lý Hùng mắt chứa lệ nóng, uống một hơi cạn sạch chén trà nóng.

Tuy rằng bắt đầu từ khi cha mẹ nhặt A Bảo về nhà, người trong thôn đều nói nàng là con dâu nuôi từ bé của anh, nhưng hai đứa trẻ cùng nhau lớn lên, vài năm sau, cha mẹ qua đời, A Bảo còn nhỏ, Lý Hùng gần như vừa làm cha vừa làm mẹ nuôi nàng lớn, nhiều năm trôi qua đã thật sự xem nàng em gái ruột.

Anh nhìn A Bảo, tiểu công nương như hạt đậu, từ nhỏ hay kéo kéo góc áo của mình, chạy theo anh từ đầu thôn đến cuối thôn, muốn bỏ cũng không được, giờ đây lớn lên lại trổ mã xinh đẹp đến chừng này.

“A Bảo à,” Lý Hùng nói, “Về sau là đại cô nương rồi, gả cho người ta, phải hiểu chuyện một chút, đừng tuỳ tiện như trước kia nữa.”

A Bảo từ trên mặt đất đứng dậy, chắp tay sau lưng cười hì hì nói: “Là Lý Uyển ạ, a ca, anh lại quên nữa rồi.”

Lý Uyển, là tên mới của nàng, do Triệu Tòng tự mình đặt cho nàng.

A Bảo không có họ, nàng được Lý gia nhặt về, cả người ngoại trừ quần tã lót nền xanh hoa nhỏ ra cũng không còn gì khác, cha mẹ thân sinh không nhắn gửi lại lời nào, vứt bỏ nàng dưới gốc cây hoè ở cửa thôn Lý gia.

Bên cạnh cây hoè còn có cái giếng già, người thôn Lý gia đều nói, A Bảo vốn bị quăng xuống giếng, chẳng qua đột nhiên mẹ ruột nàng nổi lương tâm, không quăng nữa mà đặt dưới cây hoè, cái mạng nhỏ của nàng mới được bảo toàn.

Vợ chồng Lý gia nhặt nàng về, cũng chưa đặt tên cho nàng, dựa theo xưng hô địa phương hay gọi con út trong nhà, kêu nàng là ‘A Bảo, A Bảo’ cho đến lúc lớn.

A Bảo có hộ tịch mới, tên mới, nàng không biết chữ, Triệu Tòng cầm tay dạy nàng, viết tên mình xuống tờ giấy Tuyên Thành ⎯⎯

Lý, Uyển.

‘Lý’, là họ Lý của dưỡng phụ Lý Kỳ.

‘Uyển’, nghĩ là thuận theo, trong ⟪Tả Truyện⟫ có câu: phụ nữ nhu mì nghe lời. [1]

[1] 婉 nghĩa là mềm dẻo, nhu mì, thanh lịch.

“Chàng muốn em chàng nghe lời sao?” Lúc đó A Bảo được hắn ôm vào ngực, quay mặt hỏi.

Triệu Tòng ngẩn người, cong mắt cười, cằm gác lên vai nàng, ngửi mùi thơm bên tai nàng: “Sao có thể? Là ta nghe lời em mới đúng.”

**

Hữu An năm thứ sáu, mùng tám tháng chín, A Bảo cùng Triệu Tòng đại hôn tại Phan Viên.

Nàng xuất giá từ phủ Thái thú, Lý Kỳ chuẩn bị 180 gánh của hồi môn cho nàng vô cùng hoành tráng, đội ngũ đưa giá xếp dài thành hàng, rất xứng với câu ‘mười dặm hồng trang’.

Triệu Tòng cưỡi ngựa cao to, ngực buộc hoa hồng, tự thân đón dâu.

Bá tánh nửa thành Dương Châu đều tới, chen chúc trước cửa phủ Thái thú quan sát hôn sự náo nhiệt chấn động này.

A Bảo ghé vào lưng của ca ca, trên đầu đội chiếc khăn voan thêu hình long phượng, không nhìn thấy gì cả, chỉ nghe thấy tiếng pháo và tiếng thổi kèn đàn vui ca hát.

“Thổi khó nghe quá đi”, nàng nghĩ, “Còn không hay bằng tiếng tỳ bà của mình.”

Lý Hùng đưa nàng vào kiệu hoa, hỉ nương lanh lảnh hô “Giờ lành đã đến, khởi kiệu”, một bàn tay xốc mành kiệu đưa vào, cổ tay áo hỉ phục đỏ tươi, lòng bàn tay cầm thêm một khối bánh từ mứt táo hình cánh hoa hải đường điểm xuyết chút mứt táo hồng ở giữa.

A Bảo ngơ ra, đôi mắt dưới khăn voan cong thành hình trăng non.

Vươn tay tới nhận lấy khối điểm tâm.

Đêm động phòng hoa chúc, tay Triệu Tòng cầm đòn cân vạch khăn giở của nàng lên, ôm nàng ngã lên chăn gấm hình uyên ương nghịch nước phía sau.

Đôi mặt đen nhánh của hắn dưới màn che đỏ, ánh nến đèn cây đỏ sáng đến kinh người, môi gấp không chờ nổi dao động trên cổ nàng, thấp giọng thở gấp nói: “Uyển Nương, cuối cùng ta cũng cưới được em…”

A Bảo chặn bàn tay muốn cởi đai lưng nàng lại, nói: “Chàng đọc lại cho em lần nữa đi.”

“Đọc cái gì?”

“Bài từ đó.”

Triệu Tòng ngẩn ra một lát mới thì thầm: ‘Một phiến xuân sầu cậy rượu xuôi. Giữa ngạn thuyền trôi, lầu trước cờ vời,…”

Màn che rơi xuống, bóng ngươi thành đôi.

“Đò Thu nẻo Thái dặm đưa rồi. Mưa đổ vài thôi, Gió hắt vài hồi,”

Bóng hình dần dần hợp thành một người, ôm nhau ngã xuống.

“Đâu buổi về mang áo khách phơi. Còn nghịch sênh chơi, Lò chẳng hương phôi.”

Gối chăn đảo lộn, đôi nến long phượng bùng cháy rồi tắt, căn phòng chìm vào một mảnh tối đen, rèm lụa đỏ vang lên tiếng xào xạc từ vải áo.

“Lưu quang sao dễ bỏ rơi người, Đào vội hồng⎯⎯”

“Chuối chóng xanh rồi.” [2]

[2] Nhất tiễn mai – Chu quá Ngô giang – Tưởng Tiệp và bản dịch của Se Sẻ, thivien.net

Một đêm gian nan trôi qua, A Bảo rất đau, không biết vì sao ngày xưa nhóm nương tử Minh Thuý phường hay giỡn làm chuyện đó rất sung sướng, nàng không thấy sướng chút nào cả, ngược lại, rất không thoải mái mới đúng.

Nói chung Triệu Tòng rất thích, làm xong còn liên tục ôm hôn nàng, mồ hôi đầm đìa chen chúc ở cùng một chỗ với nhau, A Bảo bị tay hắn ôm chặt không thở nổi, khẽ dịch người vào trong, Triệu Tòng lập tức dán tới.

Nàng tức giận muốn đá hắn mấy cái, nhưng lại không còn sức nhấc chân, cuối cùng mơ màng lim dim ngủ đi.

Trong mơ, A Bảo gặp lại thiếu niên nọ.

Nàng đã có một quãng thời gian không mơ thấy y, đêm nay, không biết vì sao lại xuất hiện.

Y giống như bình thường, mặc bộ trường sam xanh nhạt, tay áo thêu hoa văn lá trúc, cầm một cái dù giấy mặt trên cũng vẽ hình cành trúc thuỷ mặc, dù của y che rất thấp phủ lên khuôn mặt y, chỉ mơ thấy đôi môi hơi hé từ mép dù.

“A Bảo, tôi phải đi.”

“Đi? Đi đâu?” A Bảo đuổi theo, gắt gao kéo cổ tay áo y lại, “Không! Chàng đừng đi!”

Người nọ chỉ hờ hững hất tay nàng ra rồi xoay người bỏ đi.

Dáng người cao lớn mảnh khảnh càng lúc càng xa, hoà thành một vệt nước rồi tan biến theo đất trời, trong phút chốc A Bảo đau thấu tâm can, khóc lóc đuổi theo.

“Chàng đừng đi, đừng đi mà……”

A Bảo tiếp tục đuổi theo, dẫm vào góc váy té lăn ra đất bùn.

Nàng che gò má lại, từng mảng nước tràn ra từ kẻ tay: “Xin chàng, đừng đi⎯⎯”

Tên của chàng là gì? Hình như có ba chữ, là gì? Nàng sắp nhớ ra rồi.

Là…

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng lay nàng dậy, ánh mắt lo lắng nhìn nàng: “Sao vậy? Có phải gặp ác mộng không?”

A Bảo trợn mắt mờ mịt một lúc lâu sau mới phản ứng kịp thời, ‘Uyển Nương’ này là đang kêu nàng, đây là tên mới của mình.

Nàng lấy lại tinh thần, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, ác mộng rất đáng sợ.”

Triệu Tòng ôm nàng vào lòng ngực, vuốt mái tóc dài của nàng, nói: “Ta không đi đâu hết, Uyển Nương, ta sẽ luôn ở bên em mà.”

A Bảo nhắm mắt lại dựa vào ngực hắn, nhẹ giọng nói: “Ừm.”

**

Ngày thứ ba sau cưới, Triệu Tòng muốn khởi hành về Đông Kinh.

Từng lá thư từ kinh thành gửi đến trạm dịch, đều thúc giục hắn hồi kinh ngay lập tức, không còn cách nào ở lại Dương Châu được nữa.

Tất nhiên A Bảo muốn đi cùng hắn, chỉ là nàng không ngờ tới, a ca sẽ không đi theo bọn họ.

“Anh theo em đi Đông Kinh làm gì chứ,” Lý Hùng nói, “Anh quen ở lại thành Dương Châu rồi, làm ăn cũng rất khá, đến Đông Kinh làm lại từ đầu nữa à? A Bảo, ca ca mệt rồi, không muốn chạy tới chạy lui nữa, em coi như hoàn thành tâm nguyện này của anh đi.”

A Bảo trợn tròn mắt, nàng chưa từng ngờ sẽ có ngày mình chia tay a ca, từ Xuyên Thục đến Dương Châu vừa khó lại vừa mệt, a ca cũng chưa từng bỏ nàng mà.

“Nhưng mà… Thừa Tuấn nói Đông Kinh rất thú vị.”

Nàng chỉ biết mỗi câu này, thật giống như chữ ‘thú vị’ này trong mắt nàng to bằng trời vậy.

Lý Hùng bật cười, xoa xoa đầu nàng nói: “Vậy em phải chơi thay phần của anh, a ca chờ qua năm sẽ đến thăm em.”

Sau đó lấy ra một cây trâm bạc từ trong ngực đặt vào lòng bàn tay của A Bảo.

“Chiếc vòng bạc ngày xưa làm cho em, trên đường chạy nạn phải cầm cố để giữ mạng, đây a ca tự tay làm cho em cây trâm này, kiểu dáng ‘như ý’, A Bảo à……”

Anh nói tới đây, giọng nói mới có chút nghẹn ngào, lấy tay áo lau qua đôi mắt một chút, cười nói: “Sau này, những ngày không có a ca, phải bảo trọng, vạn sự như ý.”

A Bảo cúi đầu không nói lời nào, lòng bàn tay gắt gao nắm chặt cây trâm như ý đến mức chảy mồ hôi.

Cho đến khi lên thuyền, khoảng khắc chiếc thuyền rời khỏi bến đò cổ Qua Châu, dường như nàng mới phản ứng lại, đột ngột vọt tới thành thuyền hô to về phía bờ bên kia: “A ca⎯⎯”

Nước mắt lập tức trào ra, A Bảo bám chặt vào rào chắn, nửa người vươn ra ngoài lan can.

“A ca, a ca⎯⎯ Em không đi nữa! Oà! Em không đi nữa mà! A ca anh đừng không cần em⎯⎯”

“Uyển Nương!”

Triệu Tòng sợ tới mức mặt mày tái nhợt, vội vàng ôm nàng xuống dưới.

A Bảo vung tay đá chân, điên cuồng giãy giụa trong lòng hắn, khóc lớn la to: “Buông ra! Không đi Đông Kinh nữa! A ca!”

Lý Hùng tựa hồ cũng nghe thấy tiếng la của nàng, chạy như bay dọc theo con đê dài ngoằng, giương cánh tay hô to với nàng, cách xa quá A Bảo không nghe rõ anh đang nói gì.

“A ca, em không đi nữa, đừng bỏ em…”

A Bảo bị Triệu Tòng gắt gao ôm chặt, khóc đến khàn cả giọng.

Ngày thu con dê dài quá, mặt trời ngả về đằng tây, còn lau sậy khẽ xào xạc, Lý Hùng dốc hết sức đuổi theo, nhưng mà vẫn không đuổi kịp chiếc thuyền, buồm thuyền càng lúc càng xa, còn anh biến thành chấm đen nhỏ di chuyển trên con đê dài.

A Bảo sực nhớ ra, chân anh không được khoẻ, chân anh bị phong thấp.

**

“Tôi biết tâm nguyện của mình là gì rồi.” Trong bóng tối, A Bảo lau nước mắt vô hình trên mặt.

“Là gì?”

Đã trễ thế này rồi mà Lương Nguyên Kính còn chưa đi vào giấc ngủ.

“Tôi muốn gặp a ca.” A Bảo nói.

**

[Thơ Đường] Khiển hoài – Đỗ Mục

Giang hồ lảo đảo bước say
Lưng ong gái Sở nhẹ tay dãi dầu
Mười năm tỉnh mộng Dương Châu
Chỉ mua được tiếng thanh lâu bạc tình.

(bản dịch của Đinh Vũ Ngọc, thivien)

⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển ba ⟪Dương Châu mạn⟫
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 27: [Như mộng lệnh] Phàn lâu



Hình ảnh minh hoạ về Phàn lâu (nguồn: Baidu)
a26f83fc227d49f3a541a2e94429f920.jpeg


**

“Tôi biết tâm nguyện của mình là gì rồi!”

A Bảo từ giữa cánh tay ngẩng đầu lên, đôi mắt đen nhánh sáng ngời nhìn người nọ đang đọc sách bên cửa sổ phía nam. Thấy chàng không phản ứng, chỉ yên lặng lật trang sách, nàng sờ sờ cái mũi, đứng dậy đi đến trước người chàng, hơi cúi người xuống.

“Nè, anh không muốn biết là gì à?”

“Không muốn.”

Lương Nguyên Kính đổi hướng tiếp tục đọc sách.

“Tôi muốn ăn hạt dẻ rang đường nhà Lý Hoà.” A Bảo nói.

Vẫn thấy Lương Nguyên Kính không phản ứng gì, nàng bay tới ngồi trên cửa sổ, hai chân nhàm chán đung đưa qua lại.

“Không phải anh muốn thực hiện tâm nguyện của tôi để tôi đầu thai chuyển thế hả, mua hạt dẻ ra đường cho tôi đi, nói không chừng ăn xong sẽ đầu thai liền đó.”

Rốt cuộc Lương Nguyên Kính mới ngẩng đầu khỏi trang sách, bất đắc dĩ nói: “Em ăn rồi.”

“Sao có thể?” A Bảo kinh ngạc nói, “Hồi nào cơ?”

“Lập thu tháng trước, em nói em muốn ăn đầu gà nhà Lý Hòa, Thất Tịch, em muốn đến Chu Tước Môn xem kịch, tháng trước đó nữa sinh nhật Thôi Phủ Quân, em nói muốn đi xem trò chơi dân gian, hôm trước tiết Thu Xã em cũng kêu tôi dẫn em đi ăn cơm xã.” [1]

[1] Truyền thống của vài dân tộc ở TQ từ thời xưa, nôm na là món cơm ăn trộn từ nhiều nguyên liệu lại với nhau, được ăn vào ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập Xuân/Thu với mong ước một năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, gia đình ấm no, hạnh phúc. (theo Baidu)
nasavtiiez3giz0rcjarv2q_qubkosmc3lbepjcetls89wn225jkwhseibwsq9ks.jpg


“……”

A Bảo nói thầm trong lòng, cho dù có vài món là nàng thấy thèm mới đặt điều lung tung, nhưng anh cũng không cần nhớ rõ từng ngày từng món tới vậy đâu.

Mắt thấy Lương Nguyên Kính còn muốn liệt kê thêm mấy món nữa, nàng vội vàng chen ngang: “Được rồi được rồi, tôi biết rồi, anh đừng nói nữa. Thật ra tôi không ăn cũng được, nhưng tôi muốn đi chơi. Hôm nay trời đẹp như vậy, anh có thể đừng suốt ngày buồn chán ngồi trong phòng đọc sách hay không?”

“Không thể.” Lương Nguyên Kính trả lời lại nàng bằng hai chữ này.

Cái đồ bướng bỉnh!

A Bảo hận không thể đạp cho chàng hai cước xả giận, chưa từng thấy người nào không thích ra cửa như chàng, lại còn trói mình ở quanh chàng nữa chứ, đi cũng không được, chỉ có thể ngắm gương mặt này phát ngốc. Cho dù chàng lớn lên có tuấn tú thế nào đi chăng nữa, cũng sẽ ngắm đến phát chán thôi!

A Bảo bất đắc dĩ dời ánh mắt ra ngoài cửa sổ.

Từ ngày Đoan Ngọ cho tới nay đã trôi qua ba tháng, mùa thu tới rồi, thời tiết cuối thu cũng mát mẻ, trời xanh mây tạnh, cây táo đình viện cũng đã kết trái từ lâu. Trước đó vài ngày còn bị A Bảo ép buộc Lương Nguyên Kính dùng gậy trúc thọc rớt, chừa lại cho nàng ăn.

Nhớ tới ngày ấy chàng tay chân vụng về thọc táo, kết quả bị táo rơi đầy trời đập trúng đầu, làm A Bảo phải bật cười.

Lương Nguyên Kính cái người này, ngoại trừ chuyện vẽ tranh thành thạo như chuyên gia ra, còn lại đều ngốc như nhau.

“Cười gì vậy?” Lương Nguyên Kính hỏi.

“Không nói cho anh,” A Bảo ‘hứ’ xong nằm trên án thư, lăn từ đầu bên đây sang đến đầu bên kia, “Ra ngoài đi, nhàm chán quá, buồn bực quá, cả người mốc meo cả rồi…”

Lương Nguyên Kính chỉ có thể cầm sách lên, không thể tránh được nàng đang lăn lộn.

Lăn qua lăn lại mấy lần, cửa thư phòng bị gõ vang lên, Dư lão cầm một xấp thư tiến vào, nói: “Công tử, đây là thư của mấy ngày gần đây.”

“Đa tạ.”

Lương Nguyên Kính nhận lấy, mở từng lá thư ra xem, bỗng phát hiện Dư lão còn chưa đi, vừa nhấc đầu đã thấy ánh mắt ‘muốn nói rồi thôi’ của ông, sửng sốt hỏi: “Còn việc gì sao?”

“Không… Không có gì.”

Dư lão đi ra ngoài, trước khi bước qua cửa còn lo lắng nhìn chàng một cái.

Lương Nguyên Kính: “?”

“Chắc chắn ông ấy cho rằng anh lại lầm bà lầm bầm một mình nữa rồi,” A Bảo nói, “Cho nên tôi muốn anh đi ra ngoài đi, bằng không người ta sẽ nghĩ anh là đồ điên đó.”

Lương Nguyên Kính không trả lời, cúi đầu đọc thư, bỗng nhiên ánh mắt sáng ngời, kích động đập bàn, hiếm khi chàng bộc lộ cảm xúc ra ngoài như bây giờ.

“Gì vậy?” A Bảo ngồi dậy hỏi, “Thư của ai?”

Lương Nguyên Kính không đáp, A Bảo muốn lại gần đọc thử thì đã bị chàng giấu dẹm đi, quay đầu lại thấy chàng lấy dụng cụ vẽ tranh ra, trong lòng nhất thời vui vẻ.

“Muốn ra ngoài hả?”

Lương Nguyên Kính cõng rương gỗ nhỏ, gật gật đầu.

“Thật hả? Muốn đi đâu? Đi đâu?”

Trong lòng A Bảo như bắn pháo hoa, hưng phấn chạy vòng quanh hai vòng khắp căn phòng, cuối cùng! Cuối cùng cũng ra ngoài!

Lương Nguyên Kính cười nhìn nàng, hai tròng mắt sáng tỏ như sao: “Đi giúp em thực hiện tâm nguyện.”

**

“Hướng này không phải đến nhà Lý Hoà, anh muốn đi đâu vậy?”

A Bảo nghi hoặc nhìn hẻm nhỏ trước mặt, nàng đã chết hơn ba năm, đối với bố cục thành Đông Kinh mà nói, đã có chút xa lạ, nhưng trái cây nhà Lý Hoà ở ngoài vách tường phía tây, hướng này không phải đi về phía tây, ngược lại giống như…

“Phàn lâu,” Lương Nguyên Kính nói, “Chúng ta đến phàn lâu.”

Phàn lâu, nhắc tới ‘Phàn lâu’, tên gốc là ‘Bạch Phàn lâu’, sau này đều được gọi tắt thành ‘Phàn lâu’, vốn là nơi đại thương nhân mua phèn, bị người nghe nhầm đồn bậy thành vì ông chủ họ Phàn, cho nên mới có tên là ‘Phàn lâu’.

Trong số 72 cửa hàng nổi tiếng ở Đông Kinh, Phàn lâu đứng đầu, ‘tửu lâu đệ nhất kinh thành, ngày nào cũng có ngàn người đến mua’, người đương thời còn có bài thơ ghi chép lại việc này: “Ca vũ Lương Viên đủ phong lưu, rượu ngon ta uống giải đoạn sầu. Nhớ lại chuyện vui thời niên thiếu, đêm dài phàn lâu vẫn sáng đèn.”

Nó nằm ở phường Cảnh Minh ngoài cửa Đông Hoa cung thành, được xây dựng 5 tầng lầu: đông, tây, nam, bắc, trung. Mỗi lầu cao ba tầng, được nối với nhau bằng cầu bay và lan can, thông nhau cả sáng lẫn tối. Khi về đêm, trong lầu đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, chỉ riêng tiền đèn mỗi năm thôi đã tiêu tốn rất nhiều.

Đến đêm Nguyên Tiêu mười lăm tháng giêng, phàn lâu sẽ đặt một chiếc đèn sen trên mỗi mái ngói, nhìn từ xa trông như cung điện thần tiên. Từ trước đến nay là nơi văn nhân đến yến ẩm, nội hoạn trong cung và công tử vương tôn, con cháu nhà giàu cũng thích tới đây xem đèn.

Năm xưa A Bảo thường tới đây cùng Triệu Tòng, chỉ vì nơi đây không chỉ tiện cho việc xem đèn, trái cây ẩm thực cũng không tệ, nếu bước lên lầu tây nhìn phương xa còn thấy được bao quát cả cấm thành.

Bởi vì là khu vực tiếp giáp đại nội, chi phí trong lâu tất nhiên cũng không rẻ. Hôm nay Lương Nguyên Kính lại dẫn nàng đến đây, có phải đã chịu chút kí.ch thí.ch gì hay không?

A Bảo đi đường nửa tin nửa ngờ, theo chàng tiến vào lâu.

Phàm là tửu lâu kinh thành, lầu một thường dành cho khách ghé tạm, lầu hai mới là nhã các. Tiểu nhị quen biết Lương Nguyên Kính, vừa thấy chàng đã dẫn người lên lầu hai.

Hành lang dài hai bên Nam Bắc gần giếng trời, có không ít kỹ nữ trang điểm đậm ngồi đó, nhìn thấy Lương Nguyên Kính, họ đồng loạt reo lên rồi ùa tới, luôn miệng gọi “Lương công tử”, từng đôi tay trắng mịn móng tay sơn hồng vươn ra chạm sờ lên người chàng.

A Bảo trước đây đến phàn lâu đều có nội thị dọn đường, nên đây là lần đầu tiên gặp phải tình huống náo nhiệt này, thoáng chốc khiếp sợ, hoảng hốt la: “Làm gì? Làm gì vậy?”

Nhóm kỹ nữ dĩ nhiên không thấy nàng, từng tay xuyên qua người nàng, hướng tới tiếp đón Lương Nguyên Kính.

“Lương công tử, lâu rồi không gặp chàng nha.”

“Lương công tử, chừng nào mới vào phòng vẽ tranh cho nô gia đây?”

“Đi thôi, Lương công tử, tới phòng em trước nha.”

“Tới phòng em cơ.”

“Tránh ra hết, tôi tới trước mà.”

Chúng kỹ nữ không hợp cạ nhau. Vì tranh giành Lương Nguyên Kính mà vung tay đánh nhau, còn có người thừa nước đục thả câu, thừa dịp hỗn loạn âm thầm trộm cắp, chiếm không ít tiện nghi của Lương Nguyên Kính.

A Bảo nghĩ mà buồn cười, tôi còn chưa sờ qua, vậy mà đã có người giành sờ trước. Lúc này mới dẫn đầu, vén tay áo nhảy chắn trước người Lương Nguyên Kính, hung thần ác sát quát: “Đừng chạm vào anh ấy! Cô! Tay của cô nữa! Tôi thấy hết! Chớ có sờ tới! Mau gọi người đi! Có người vô lễ! Có người vô lễ với phụ nam nhà lành kìa!”

“……”

Lương Nguyên Kính cẩn thận nghiêng người, dồn hết sức tránh đi những bàn tay sờ tới kia, trong hỗn loạn còn nghe thấy tiếng tiểu nhị sụp đổ gào khóc: “Đừng có sờ nữa! Sờ lầm người rồi! Ui da! Ai véo mông ông đó!”

Hai người một quỷ thập tử nhất sinh, vất vả lắm mới đi qua khỏi hành lang dài, chọn trốn vào một căn phòng nhỏ. Cửa vừa đóng lại đã dựa vào đó thở phào một hơi.

A Bảo lửa giận đầy bụng, muốn kéo lỗ tai Lương Nguyên Kính lên hỏi, có phải tất cả kỹ nữ của thành Đông Kinh này đều quen biết chàng không, Lương đại nhân đúng là tiếng tăm bay xa mà!

Nhưng khi ánh mắt quét qua chỗ ngồi sát cửa sổ, không khỏi chau mày, thầm nghĩ: “Tên tiểu nhị này sao thế? Phòng này có người rồi còn dẫn bọn ta vào làm gì?”

“Đúng là cậu rồi.”

Người nọ đang đứng bên cửa sổ ngắm phố xá chậm rãi xoay người, tóc mai nhiễm sương bụi, gương mặt chữ điền hiền hậu chất phác mang theo nụ cười tươi ấm áp quen thuộc đến mức không thể quen thuộc hơn.

“Anh còn tưởng rằng mình nhận lầm thư, Lương tiên sinh, đã lâu không gặp.”

A Bảo đứng ngây ngốc tại chỗ, hai chân chưa đeo chì, không thể di chuyển được bước nào.

Sao lại thế này?

Là mơ sao?

Nhưng mà quỷ hồn sẽ không nằm mơ.

Nàng thất thố nhìn Lương Nguyên Kính, chàng gật đầu với nàng.

A Bảo bước đi nặng nề, mỗi bước chân như treo ngàn cân, nàng lê từng bước một đi về phía người nọ bên cửa sổ, không dám tin nâng tay lên, sờ sờ lên gương mặt trong trí nhớ vào giữa hư không.

Nàng y như chim non nhào vào lòng ngực anh, nhắm mắt lẩm bẩm: “A ca……”

**

“Sao lại thế này? A ca của tôi sao ở đây? Anh ấy nói ‘nhận lầm thư’ à? Thư gì thế? Thư anh gửi anh ấy á? Anh quen a ca của tôi hả?”

A Bảo quả thực thấy cực kỳ hưng phấn, từng câu hỏi lần lượt nhảy ra, lại bay hai ba vòng quanh nội các.

Lương Nguyên Kính bị nàng làm cho choáng váng đầu óc, vội ngăn lại nói: “Chờ chút, em bình tĩnh lại đi.”

Lý Hùng lạ lẫm nói: “Bình tĩnh cái gì? Anh rất bình tĩnh đây.”

“Tôi không bình tĩnh nổi! Tôi vui quá đi mất! Há!”

A Bảo bay lên xà nhà chơi đánh đu, chốc nữa lại ghé vào đầu vai của Lý Hùng, giống như tiểu hồ ly thân mật cọ xát, “A ca, em gặp được anh rồi, tốt quá, em rất nhớ anh.”

Lương Nguyên Kính mỉm cười: “Trong tộc của tôi có vị đường huynh, từng giữ chức Tư hộ Tham quân dưới quyền Lý Tri châu. Lúc Lý Tri châu được điều đến Sở Châu nhậm chức, cũng từng dẫn anh ấy đi cùng. Tôi viết thư hỏi thăm tung tích huynh trưởng của em, biết được năm xưa Lý Tri châu bị biếm xuống nên sinh lòng oán hận, đã qua đời vào mùa xuân năm Hi Hoà thứ hai, sau đó huynh trưởng em di dời cả nhà đến Tuyền Châu, làm ăn buôn bán nhỏ với các hải thương, hiện đã định cư và lập nghiệp ở đó. Tôi nghe được tin này, đã nhờ người quen truyền tin giúp, mời anh ấy tới Đông Kinh một chuyến.”

“???” Lý Hùng hoảng sợ quay đầu lại, “Cậu nói chuyện với ai đó?”

“Anh ta đang nói chuyện với em,” A Bảo nói, lại tò mò hỏi Lương Nguyên Kính, “Anh và a ca, là người quen cũ à?”

Lương Nguyên Kính “Ừm” một tiếng, rũ mắt xuống đáp: “Năm xưa có từng may mắn gắn bó.”

A Bảo thầm nghĩ quái thật, chàng quen biết a ca, sao mình lại không biết? Chẳng lẽ gặp nhau vào mấy năm nàng rời khỏi Dương Châu?

Lương Nguyên Kính ngước mắt hỏi: “Muốn gặp mặt anh ấy không?”

“Tôi… Tôi không biết.”

A Bảo có chút do dự, xoay người nhìn Lý Hùng.

Mặt anh đầy ý ‘muốn nói lại thôi’, chắc đang cho rằng Lương Nguyên Kính điên rồi, nói câu nào nghe cũng không hiểu.

Khi còn nhỏ a ca hay tín phụng quỷ thần, thường kể cho nàng nghe chuyện xưa về yêu ma quỷ quái, giờ thì nàng đã chết, một vong hồn nếu thình lình xuất hiện trước mặt anh, khiến anh sợ hãi thì làm sao đây?

Hơn nữa, nếu một ngày nào đó mình phải đi đầu thai chuyển thế, cần gì phải hoàn hồn biến thành người, cho anh một niềm hy vọng không nên có.

A Bảo nghĩ ngợi hồi lâu, thế nhưng càng nghĩ càng thấy không nên xuất hiện trước mặt a ca, nàng đắn đo không quyết định được, đành bất lực nhìn về phía Lương Nguyên Kính.

“Làm sao bây giờ? Tôi nên gặp hay không gặp?”

“Gặp đi,” Lương Nguyên Kính nói, “Chẳng phải đây là tâm nguyện của em sao.”

Chàng lấy giấy và bút mực từ rương gỗ ra, trải lên bàn gỗ hoa lê, chuẩn bị vẽ tranh.

Lý Hùng không hiểu gì sất: “Lương tiên sinh, cậu đang…”

“Xin chờ một lát.”

Lương Nguyên Kính nói xong, sau đó trải giấy ra đâu vào đấy, nghiền mực, chấm bút, cổ tay run nhẹ, một nét mực xuất hiện trên giấy trắng Tuyên Thành.

Lý Hùng đứng bên cạnh không nói lời nào, trong lòng lại nói thầm, không biết Lương Nguyên Kính này đang giả thần giả quỷ cái gì nữa, bao năm không gặp, nhìn thế nào cũng giống như thần trí có vấn đề.

Nhưng mà càng nhìn, đôi mắt anh trừng lớn, “Từ từ đã, cậu vẽ……”

A Bảo thò lại gần nhìn, cũng ‘ô’ một tiếng: “Sao anh vẽ thành hình tôi?”

Phải biết rằng, ngày thường A Bảo lên phố, vì tránh bị người khác nhận ra, chàng sẽ chỉ vẽ lại hình người có bốn năm phần tương tự nàng hồi xưa, có khi vẫn giống với một người hoàn toàn xa lạ.

Tỷ như đêm Thất Tịch lần trước, chàng vẽ nàng thành một thiếu niên lang tuấn tú. Ngày hội Ngưu Lang Chức Nữ, trên đường nhiều nam thanh nữ tú, duy chỉ bọn họ hai ‘người nam’ dạo phố cùng nhau, dẫn tới vô số cái ghé mắt từ người đi đường.

“Chắc là vì muốn mình gặp a ca nên mới cố ý vẽ dáng hình trước kia của mình.” A Bảo thầm nghĩ.

Cảm giác nhìn mình trong tranh không giống như lúc nhìn vào gương, huống hồ A Bảo đã lâu rồi chưa soi gương, thì ra dưới ngòi bút của Lương Nguyên Kính, mình trông như này, nàng yên lặng nghĩ.

Người trong tranh vô cùng xinh đẹp, đôi mày cong như trăng non, tròng mắt đen như mực, vừa trong trẻo lại có thần, đáng chú ý nhất chính là đôi môi anh đào kia, môi trên mỏng, môi dưới hơi dày, giữa môi còn có cục châu, hơi chu chu, như vui như giận, lộ ra ba phần xinh đẹp, bảy phần ngây thơ.

Nàng mặc một bộ áo ngắn màu trắng như trăng, dưới mặc áo váy tím nhạt thêu hình chữ vạn, cánh tay choàng dải lụa, trong tay cầm quạt lụa, mặt quạt thêu hình thỏ ngọc dưới trăng.

Lương Nguyên Kính vẽ đẹp như vậy, người trong họa sinh động như thật, tựa như muốn hồi sinh sống lại.

Hai mắt Lý Hùng đỏ ngầu, bất giác cúi thấp đầu nhìn kỹ hơn, cách bức hoạ càng gần, trong nháy mắt thấy có chút ánh sáng chợt lóe, trong tay Lương Nguyên Kính cầm con dao nhỏ, kéo tay áo lên, muốn tự cắt lên cánh tay trái của mình.

“! ! ! ! !”

“Lương công tử! Cậu làm gì vậy?!”

Lý Hùng hoảng sợ nhìn chàng, tính giật lấy con dao kia, lại sợ hai bên tranh chấp gây tổn hại cho nhau, chỉ có thể đứng yên khuyên can: “Có gì cậu từ từ nói, đừng xúc động! Bỏ dao xuống!”

“Tôi không sao.”

Lương Nguyên Kính đang bận trộn, dành chút thì giờ đáp anh một câu.

A Bảo từ bên cạnh nhìn tới, không hiểu vì sao có hơi không đành lòng, nhỏ giọng nhắc nhở: “Nhỏ ít máu thôi.”

Lương Nguyên Kính rũ mắt: “Ừm.”

Lưỡi dao sắc bén đặt lên làn da, trong khoảng khắc cắt ra một lằn nhỏ, máu đỏ tươi theo cánh tay chàng uốn lượn chảy xuống, nhiễu vào tranh vẽ, như ‘các con sông đổ về một biển’, hình thành một cái xoáy nước diệu kỳ. Sau đó bị hấp thụ sạch sẽ, mỹ nhân trong tranh cũng biến mất theo, chỉ còn tờ giấy Tuyên Thành trắng như tuyết.

Lý Hùng: ?????

Anh dùng tay áo chùi chùi mắt, xong tập trung nhìn lại.

Không đúng, vẫn trống trơn!

Người đâu? Người lớn trên giấy vẽ đâu?

Sao lại thế này? Chẳng lẽ không phải Lương Nguyên Kính điên mà là anh? Hay tối qua ngủ không ngon nên xuất hiện ảo giác?

Lý Hùng mặt mày ‘nghi ngờ nhân sinh’, chợt nghe phía sau truyền đến tiếng gọi nhẹ: “A ca.”
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 28: Ngất xỉu



“A ca.”

A Bảo nắm chặt tà váy, vừa khẩn trương vừa chờ mong nhìn ca ca.

“Em…” Lý Hùng hít hà một hơi, run rẩy hỏi, “Em là A Bảo?”

“Phải! Là em!”

A Bảo gật đầu như giã tỏi, hận không thể phi lên ôm chầm lấy a ca, nhưng lại lo làm anh sợ, trong khoảng thời gian ngắn không dám hành động thiếu suy nghĩ.

Lý Hùng chỉ vào nàng, quay đầu hỏi Lương Nguyên Kính: “Cậu thấy được không? A Bảo đứng chỗ đó đó.”

Lương Nguyên Kính nói: “Thấy được.”

“Ra là vậy.”

Lý Hùng bi tráng gật đầu một cái, tiếp đó hai mắt trợn lên, ngất đi.

A Bảo: “! ! !”

Lương Nguyên Kính: “…………”

“A ca!” A Bảo la lên, nhào qua đẩy đẩy anh, “A ca! Anh sao vậy?”

Lý Hùng nhắm nghiền hai mắt, bất tỉnh nhân sự.

Nước mắt A Bảo lập tức rơi ra, hoảng loạn thất thố nói: “Tôi… Tôi hù chết a ca rồi.”

Lương Nguyên Kính thử đặt tay dưới chóp mũi của Lý Hùng, nói: “Chưa chết, chỉ ngất đi thôi.”

Hai tay chàng luồn qua nách Lý Hùng, kéo anh lên giường mềm trong phòng.

A Bảo vốn định tiến lên phụ một chút, lúc này vang lên tiếng gõ cửa.

Một phụ nhân trung niên đầu búi tóc vãn nguy, eo thắt khăn thanh hoa cười cười tiến vào, trong miệng nói: “Lang quân vạn phúc, thiếp cho…”

Thấy rõ cảnh tượng trong phòng, ý cười khóe miệng của phụ nhân cứng lại, ngơ ngác bổ sung xong lời nói: “… Rót rượu tới.”

A Bảo đang giúp nâng chân Lý Hùng lên, nghe vậy quay đầu lại, vẻ mặt hấp tấp: “Hả? Chúng tôi đâu kêu người rót rượu, vào nhầm phòng rồi à?”

“Không… Không phải,” Lương Nguyên Kính mệt thở hồng hộc, giải thích nói, “Bà ấy là tuấn tao.”

“Tuấn tao là cái gì?” A Bảo hỏi.

“Là……” Lương Nguyên Kính bất lực nói, “Tóm lại em đưa trước cho bà ấy chút tiền thưởng để bà ấy rời đi đi.”

A Bảo tuy chưa hiểu gì nhưng vẫn làm theo lời chàng nói, lấy mấy chục văn tiền từ túi tiền của chàng, thưởng cho phụ nhân kia.

“Đa tạ nương tử.”

Phụ nhân hơi nhún người hành lễ, cười lui xuống.

Lương Nguyên Kính hao tổn sức lực một hồi sau mới đưa Lý Hùng lên giường xong, lúc này quay sang giải thích cho A Bảo.

Hoá ra ‘tuấn tao’ là nghề mới nổi trong mấy năm gần đây ở thành Đông Kinh, phụ nhân láng giềng trong nhà không có việc gì làm, vì trợ cấp cho gia đình sẽ ra vào các tửu lâu, đổi canh rót rượu cho khách đổi lấy chút tiền thưởng.

A Bảo thầm nghĩ ra là vậy, đúng là sống lâu cái gì cũng nhìn thấy, xong lại hỏi: “Tửu lâu cũng để cho các nàng ra vào tự do à?”

“Đa số là vậy,” Lương Nguyên Kính nói, “Tửu lâu cũng có thể rút bớt tiền thưởng mà họ có được.”

A Bảo đột nhiên hiểu thấu, sau đó phản ứng lại, không đúng nha, sao nàng còn nói chuyện với Lương Nguyên Kính chứ? Hiện tại quan trọng nhất là cứu a ca mới phải!”

“A ca, tỉnh lại?”

Nàng tiến lại vỗ vỗ mặt của Lý Hùng vẫn không thấy anh phản ứng gì.

“Làm sao đây? Vẫn chưa tỉnh.” A Bảo nghiêng đầu hỏi Lương Nguyên Kính, “Anh nói tạt nước lên có tác dụng không nhỉ?”

Lương Nguyên Kính nói: “Có thể thử.”

A Bảo nói là làm, lập tức xoay người lấy ấm trà từ trên bàn, không màng tất cả tạt lên trên mặt của Lý Hùng.

“!!!”

Lương Nguyên Kính bị nàng làm cho hoảng sợ, sờ sờ ấm trà, còn ổn còn ổn, nước trà chỉ âm ấm thôi.

Lý Hùng hoàn toàn không có dấu hiệu tỉnh lại.

A Bảo gấp đến mức chạy quanh phòng, Lương Nguyên Kính lấy khăn tay, lau khô vệt nước đọng trên mặt Lý Hùng, lúc này cửa phòng lại bị người ta đẩy ra.

Nhóm thiếu nữ 17-18 tuổi trang điểm ăn mặc lộng lẫy ùa vào, tay cầm những tấm thẻ ngà đỏ, trong ngực còn ôm đàn tỳ bà đuôi phượng, không mời mà đến, cười nói rôm rả: “Lang quân vạn phúc, các nô gia tới hầu…”

Thấy Lương Nguyên Kính đang cầm khăn, chuyên chú tinh tế lau mặt cho một đại hán cao bảy thước, nhóm kỹ nữ đồng thời im bặt, nuốt nửa lời còn lại xuống bụng.

“……”

A Bảo không cần đợi Lương Nguyên Kính phân phó nữa, tự lấy tiền ra đưa cho các nàng, để bọn họ lui xuống.

“Những người này là ai?”

“Tráp khách.” Lương Nguyên Kính nói.

Tráp khách, chuyên chỉ các kỹ nữ hạ đẳng không mời mà đến, biểu diễn đàn hát cho khách hàng, hoặc ngồi xuống hầu rượu, những người này dựa vào việc tán gẫu với khách nhân, mượn cớ xin thêm chút tiền thưởng, còn được gọi là ‘ngồi tiếp rượu’.

“Giống với nhóm người chúng ta gặp lúc lên lầu á?” A Bảo hỏi.

“Không giống, kia là ca kỹ tửu lâu nuôi.”

Điểm khác nhau đó là ca kỹ chủ quán tự nuôi, tên họ đều ghi trên Quần Phương Phổ, nếu khách nhân có yêu cầu có thể chỉ vài cái tên tới làm bạn uống rượu, còn ‘tráp khách’ là không mời mà đến, xuất thân phố phường, phần lớn đều là bần gia nữ tầng lớp thấp, tuổi còn nhỏ đã sa đọa nhuốm bụi trần.

A Bảo phát hiện hiện giờ thành Đông Kinh, so với lúc mình còn sống đã biến hoá đi rất nhiều, trong đó có chút bất đồng lớn, chính là phong cách chơi gái thịnh hành khắp nơi.

Phố Mã Hành có chợ Liêu Nhi, các ngõ Đông Tây Kê Nhi, có nhiều kỹ viện.

Tửu lâu hơi lớn càng là nơi bắt đầu làm kỹ nữ trắng trợn táo bạo, cửa treo một ngọn đèn sa vàng, tức là trong lâu có kỹ nữ, nhưng chỉ dành cho khách gọi rượu.

Vương tôn công tử, hào thân cự cố rất thường dẫn kỹ nữ đi chơi, dựa vào sắc đẹp, đắm chìm trong hương thơm mềm mại này vô bờ bến. Những người như Lương Nguyên Kính, trốn còn không kịp, tránh nữ nhân như hổ dữ có lẽ vẫn có, nhưng cũng chỉ như lông phượng sừng lân mà thôi.

Một điểm khác nữa, số người nhàn rỗi ở kinh thành, suốt ngày ăn no rồi đi chơi còn nhiều hơn trước.

Biết rằng, loại nghề như ‘tuấn tao’, ‘tráp khách’, nếu ở luật pháp nghiêm minh ở hai triều Thái Tổ Thái Tông, tuyệt đối sẽ không thể nào xuất hiện.

A Bảo không khỏi nghĩ, ngoài tuấn tao tráp khách ra, còn có gì khác nữa không nhỉ?

Quả nhiên, vừa nghĩ đến điều đó, ngoài cửa lại có hai vị khách không mời xông vào, cõng túi thuốc, bưng một thùng rượu bạc, miệng rao ra rả: “Thuốc tráng dương gia truyền đây, không màu không mùi, có thể uống trực tiếp hoặc pha với rượu, uống xong cường tráng lâu dài, hiệu quả tức thì, mời thử một lần nha, không hiệu quả không lấy tiền…”

A Bảo: “………”

Đây là trêu nàng chắc? Sao còn bán cả thuốc tráng dương nữa?!

Hai người kia vào phòng, thấy Lương Nguyên Kính nằm trên người một đại hán, hình như đang cởi cúc áo, hán tử kia hôn mê bất tỉnh, trên mặt còn hơi ẩm ướt do dính nước, không khí tức khắc trở nên an tĩnh.

Khoan đã!

A Bảo đột nhiên ý thức được tình huống này rất dễ gây hiểu lầm, chạy nhanh vươn tay nói: “Hai vị nghe tôi nói đã, chuyện không phải như những gì hai người nghĩ đâu!”

Hai người kia liếc nhau, nhanh chóng sửa lại lời: “Thuốc tráng dương gia truyền đây, Long Vương cũng thấy hiệu quả, bất luận là trên hay dưới, uống vào rồi tình thế chao đảo, không biết trời đất là gì…”

A Bảo: “…………”

Lương Nguyên Kính xuống giường, dùng tốc độ nhanh nhẹn trước giờ chưa từng có chạy đến bên cạnh A Bảo, lấy túi tiền từ trong tay nàng nhét hết vào ngực hai người đó, sau đó quăng họ ra khỏi ngoài, lưu loát đóng cửa lại.

Cánh cửa vang lên ‘rầm’, ngay cả bụi tường cũng rớt xuống không ít.

Lương Nguyên Kính thở hổn hển, mặt đỏ như cua nấu chín, đỏ thửng tới tận cổ nhìn A Bảo, lồng ng.ực phập phồng bất định.

A Bảo không biết nên khóc hay cười: “Hai người đó là thần tiên phương nào?”

Lương Nguyên Kính bình tĩnh lại, đáp: “Rải tạm.”

Rải tạm, vẫn không mời mà đến, chuyên môn chào mặt hàng như xuân dược, quả khô, củ cải, trái cây cho khách uống rượu, cũng không hỏi khách có mua không, trực tiếp bỏ thuốc vào rượu, nếu có hiệu quả tại chỗ sẽ đòi tiền ngay.

A Bảo nghe xong nghẹn họng trăn trối.

Sao còn có loại người này nữa, đây đâu phải thuận mua vừa bán? Nhỡ có người uống xong thật sự có tác dụng, chẳng phải sẽ xấu hổ chết người ta hay sao, giả sử vừa rồi Lương Nguyên Kính mà uống…

Dừng lại!

Loại chuyện này không nên suy nghĩ sâu xa hơn đâu.

A Bảo che đôi má ửng đỏ, nhìn như được trát phấn, ngẩng đầu thì thấy mặt Lương Nguyên Kính vẫn còn đỏ! Thậm chí còn đỏ hơn lúc nãy nữa!!

Làm gì đó? Chàng đỏ cái gì mà đỏ?!

Nội tâm A Bảo hò hét muốn điên lên.

Ánh mắt hai người va vào nhau, đều ho nhẹ một tiếng, mất tự nhiên quay đầu đi.

“Có người không?” Ngoài cửa lại vang lên tiếng gõ cửa.

“…………………”

“Không có!” Lương Nguyên Kính quay đầu nói.

“Không cần!” A Bảo đồng thời quát.

Người nọ ngoài cửa yên tĩnh một lát, sau đó đi tới phòng bên cạnh, trên hành lang mơ hồ có tiếng nói chuyện truyền đến: “A di đà phật, vị thí chủ này, bần tăng thấy ấn đường thí chủ hơi tối, sắp tới có thể gặp phải tai ương đổ máu. Ở đây tôi có một chuỗi châu Phật đàn, được Trí Huyền đại sư chùa Khai Bảo khai quang, xua đuổi chướng khí, tránh được tai nạn, thí chủ thấy cần không…”

“……”

A Bảo kéo cửa ra, thăm dò hỏi: “Nè, đại hoà thượng, chuỗi Phật châu này bao nhiêu tiền vậy?”

Hoà thượng đang xem chỉ tay cho người ta quay đầu lại, thấy A Bảo, chắp tay trước ngực, cười tủm tỉm nói: “A di đà phật, thì ra là tiểu nương tử A Bảo.”

**

Lý Hùng ngất đi tỉnh lại, mở mắt ra trông thấy gương mặt hiền từ của hòa thượng trẻ tuổi, bên má phải còn có một lúm đồng tiền sâu.

Sao lại thế này? Đây là đâu? Anh là ai?

Hình như là ở phàn lâu, vừa mới thấy đứa em gái đã chết hơn ba năm của mình……

Hòa thượng ôn hoà nói: “Thí chủ, anh khỏe chưa? Vừa rồi thấy anh ngất xỉu nên tiểu tăng có châm kim cho anh.”

Lúc này Lý Hùng mới lấy lại tinh thần, ngơ ngác nói: “Đa tạ tiểu sư phụ……”

Lúc này một khuôn mặt xinh đẹp ló ra từ sau lưng hòa thượng: “A ca?”

“! ! !”

“Quỷ kìa!” Lý Hùng kinh hoàng nhảy dựng trên giường.

A Bảo cũng bị anh hù sợ, nhìn bốn phía trái phải: “Quỷ? Ở đâu? Chỗ nào có quỷ?”

Lương Nguyên Kính ‘khụ’ một tiếng, nhắc khéo nói: “Anh ấy chắc nói em đó.”

“À!” Nàng mới kịp phản ứng lại, chỉ vào mình nói, “Anh nói em hả? A ca, em không phải quỷ, em là A Bảo mà, không phải, bây giờ em là người, chờ chút nữa mới là quỷ…”

Lý Hùng ngạc nhiên nghi ngờ không yên nhìn nàng: “Em… Rốt cuộc em là người hay quỷ vậy?!”

A Bảo căng căng môi, cuối cùng bối rối nói: “Em cũng không biết.”

“Thí chủ đừng vội,” Giác Minh hoà thượng hào quang phát sáng, mỉm cười trấn an Lý Hùng, “Nghe tiểu tăng từ từ nói đã.”

Trôi qua một nén nhang.

Lý Hùng trợn to hai mắt, vừa không dám tin, vừa kinh ngạc vui mừng nhìn A Bảo: “Em chưa chết?”

A Bảo nói: “Không phải không phải, em chết rồi.”

Lý Hùng: “Vậy giờ em sống à?!”

“Cái đó… Cũng không phải,” A Bảo chột dạ, “Nhờ Lương Nguyên Kính dùng máu vẽ tranh, em mới có thể…”

Những lời còn lại trôi xuống miệng, bởi vì Lý Hùng đã ôm chầm nàng vào lòng.

“A Bảo à! Em hù chết ca ca rồi! Em biết không? Không chết là tốt! Không chết là tốt! Đi theo a ca, đừng ở lại thành Đông Kinh ăn thịt người này nữa, a ca nuôi em! Hiện tại a ca kiếm được rất nhiều tiền, có nhà lớn…”

Hán tử hơn 40 tuổi, cao hơn bảy thước, thế mà ôm lấy A Bảo khóc lóc thảm thiết, trong lời nói toàn là hối hận, hối hận lúc trước không nên để A Bảo một mình đến Đông Kinh, hối hận không nên để nàng ở lại kinh thành, ngay cả một người nhà mẹ đẻ có thể dựa vào cũng không có.

Lương Nguyên Kính và Giác Minh hoà thượng không biết đã lặng lẽ ra khỏi phòng từ bao giờ, A Bảo căng căng môi, cuối cùng cũng chưa nói gì, không muốn lìa xa dựa vào lồng ng.ực ấm áp của ca ca, sườn mặt dính sát vào ngực anh.

Giờ khắc này, nàng như một người lữ hành đơn độc lẻ loi đi giữa trời gió tuyết lớn cuối cùng cũng về được tới nhà.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 29: Nhận ra



“A ca, chân anh tốt hơn chưa?”

Lý Hùng dứt khoát quay đầu đi, khi quay đầu lại phiếm mắt đã ửng đỏ, “Rồi.”

“Vậy thì tốt.”

A Bảo hơi mỉm cười, lại hỏi: “Anh lập gia đình chưa?”

“Rồi.”

“Thật à?” A Bảo mở to hai mắt, cảm thấy vui cho anh từ tận đáy lòng, “Tẩu tẩu là người thế nào ạ?”

Lý Hùng nói: “Nàng là người dân Tuyền Châu, con gái của nông dân trồng chè, công phu pha trà rất tốt, trước kia anh uống trà do nàng pha xong mới quyết tâm cưới người về, sau này nếu có cơ hội, cũng sẽ cho em uống thử.”

Lý Hùng hốc mắt ươn ướt, lấy tay áo quẹt quẹt, nghiêm túc nói: “A Bảo, tẩu tẩu chắc chắn rất thích em.”

“Em cũng chắc chắn thích chị ấy,” A Bảo vô cùng khẳng định, “A ca, anh và tẩu tẩu có con chưa?”

“Có đứa con gái, bướng bỉnh y như em hồi nhỏ.”

“Con gái tốt,” A Bảo cười nói, “Con gái lớn rồi biết thương cha.”

Nàng nhìn nhìn trên dưới người mình, vốn định lấy vòng tay hay trâm cài gì đó làm lễ vật tặng cho cháu gái nhỏ.

Chợt nhớ tới, mình chỉ là một vong hồn, mặc dù nhờ tranh hồi dương lại nhưng chung quy vẫn không phải người sống. Một khi máu của Lương Nguyên Kính hết hiệu lực, nàng sẽ trở lại thành hồn phách, thân thể này bám vào mỹ nhân trên giấy vẽ, dù nàng có tháo trang sức xuống, đến giờ rồi cũng sẽ biến mất theo.

“Xin lỗi anh nhiều, a ca.” A Bảo áy náy nói, “Em không có gì để cho con gái anh hết.”

Lý Hùng trừng mắt lên: “Em nói cái này làm gì?”

A Bảo cười cười hỏi tiếp: “Đặt tên chưa ạ? Tên là gì?”

Lý Hùng nói: “Tên đầy đủ là Lý Thanh, tên mụ cũng giống em, gọi là ‘A Bảo’.”

“A Bảo, A Bảo.”

A Bảo lẩm bẩm đọc hai lần, cười nói: “Lại thêm một tiểu A Bảo nữa.”

Hai người đều không hẹn cùng nhớ về chuyện hồi nhỏ. A Bảo năm hai ba tuổi dính người đến sợ, đi chỗ nào cũng để ca ca ôm, người trong thôn Lý gia thường xuyên thấy trên chân Lý Hùng treo thêm một hạt đậu nhỏ nên hay chê cười anh.

Khi đó Lý Hùng cũng không lớn là bao, thiếu niên nhỏ tuổi da mặt mỏng, bị người ngoài trêu ghẹo hai ba câu đã đỏ mặt, muốn nổi nóng với A Bảo. Thông thường mới vừa rầy một tiếng, A Bảo đã khóc thét lên cực dữ dội, làm anh không giận nổi, phải cõng nàng lên lưng dỗ dành.

Lớn hơn chút nữa Lý Hùng học trường tư thục trên trấn, mỗi ngày A Bảo đều mang ghế gấp nhỏ ra ngồi dưới cây hòe lớn cửa thôn đợi anh về Từ sau giờ ngọ [1] chờ đến khi mặt trời lặn.

[1] Từ 11g đến 13g.

Vừa nhìn thấy bóng dáng Lý Hùng đã chạy như bay lại, giống chú chó nhỏ vây quanh anh kêu ‘A ca a ca’, lục lọi cặp sách xem xem anh có mua gì cho nàng ăn không, sau đó cưỡi lên lưng anh, ra lệnh anh cõng nàng về nhà.

Lý Hùng chỉ có thể nhẫn nại cam chịu cõng nàng đi về nhà, trong ánh chiều tà hoàng hôn, bóng hình hai anh em hằn ngược lại kéo ra rất dài trên con đường nhỏ.

A Bảo mỉm cười từ trong hồi ức bước ra, đột nhiên nhớ tới hỏi: “Phải rồi, a ca, sao anh bắt đầu làm ăn hải thương vậy?”

Lý Hùng thở dài: “Cái này cũng nhờ vào hôn phu của Thôi nương tử, năm đó do anh ta nâng đỡ anh…”

A Bảo vội hỏi: “Thôi nương tử sống tốt chứ ạ?”

“Cô ấy sống rất tốt,” Lý Hùng khẽ cười đáp, “Hai năm trước, vợ lớn của chồng cô ấy qua đời nên đã nâng cô ấy lên làm chính thất, năm ngoái còn có thêm một tiểu tử mập mạp, đặt tên là Vinh Ca Nhi.”

“Lớn lên giống ai? Thôi nương tử hay tên râu xồm?”

“Mặt mũi giống Thôi nương tử hơn.”

“Cảm tạ trời đất.” A Bảo nhất thời thở phào nhẹ nhõm.

“……”

“A Bảo,” Lý Hùng chau mày ngập ngừng hỏi, “Năm đó em……”

“Muốn hỏi em chết như thế nào đúng không?”

A Bảo hiểu ý tiếp lời, lông mi hơi hơi rũ thấp, đáy mắt hiện lên một hình bóng nhỏ vòng cung.

“Em mắc bệnh nặng, a ca.”

Hai mắt Lý Hùng rưng rưng, bỗng nhiên hung ác đấm một cái lên bàn: “Sớm biết thế này, lúc trước anh đã không nên để em một mình đến thành Đông Kinh mà.”

A Bảo hoảng sợ, vội vàng kéo tay anh: “Đều đã qua rồi, a ca, em không sao. Hơn nữa, năm đó anh vất vả lắm mới an ổn ở Dương Châu, thật ra cũng không nên…”

“Không! Đó là giả! Gạt em thôi!”

A Bảo sửng sốt.

Đôi mắt Lý Hùng đỏ ngầu nhìn nàng: “Năm đó, anh tính theo em vào thành Đông Kinh, đã thu xếp hành lý xong rồi, ngay cả phòng thuê cũng trả lại, ai ngờ Tuyên Vương điện hạ… Không, hiện tại là quan gia mới phải, y phái người tìm tới, kêu anh đến Phan Viên, từ bỏ ý định theo em đến Đông Kinh.”

“Sao ạ?”

A Bảo hoàn toàn ngây dại, nàng cũng không biết chuyện này còn có uẩn khúc lớn tới vậy. Năm xưa nàng vẫn hay nghĩ a ca ngại nàng phiền, không thích đi theo sau phải chạy ngược chạy xuôi chăm sóc nàng nên mới để nàng tự mình đến Đông Kinh.

Ngay cả Triệu Tòng cũng nói với nàng như vậy, hắn còn trấn an nàng, a ca không cần nàng nhưng hắn thì cần, hắn sẽ luôn ở bên cạnh chăm sóc nàng.

“Nhưng mà sao Triệu Tòng lại như vậy…”

A Bảo chưa hỏi xong đã đoán ra đáp án.

Cần gì hỏi thêm, nguyên nhân đã rõ ràng thế rồi.

Nàng từng là con dâu nuôi từ bé của Lý Hùng, tuy chỉ mới nói miệng, hai người họ cũng không phát sinh thêm gì khác. Nhưng vì tị hiềm, vì thể diện hoàng thất, vì thân phận giả ‘Lý Uyển’ không bị vạch trần, Lý Hùng nhất định không thể đi Đông Kinh, thậm chí nên cách nàng càng xa càng tốt.

Lý Hùng nức nở nói: “Năm đó, anh ra bến đò đưa em lên thuyền, nói cuối năm sẽ đến Đông Kinh thăm em, nhưng đến ngày anh lên đường, Lý Tri châu lại phái người tới, giam anh lại trong phủ suốt mười ngày nên đi không được… Sau này, anh viết không ít thư cho em, trước sau cũng không thấy em trả lời, A Bảo, có phải em thấy giận ca ca không?”

A Bảo ngẩn ngơ mê mang: “Thư gì ạ?”

Lý Hùng vội hỏi: “Em không nhận được?”

A Bảo lắc đầu, nàng chưa từng biết a ca có gửi thư cho mình.

Năm đó, nàng ở Đông Kinh chờ đợi mòn mỏi không thấy a ca làm theo hứa hẹn tới thăm nàng, tức giận ném cây trâm như ý bạc anh đưa. Ném xong lại hối hận, nửa đêm chạy tới hậu uyển vương phủ tìm, nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy.

Đêm hôm ấy tuyết lớn, nàng ngồi trong bụi hoa lộn xộn, khóc như đứa trẻ không tìm được nhà.

Còn vương phủ vì nàng biến mất mà nhốn nháo như người ngã ngựa chết. Tiếng khóc khiến Triệu Tòng hoảng sợ, hắn ôm nàng vào trong phòng, vừa kêu người đi mời đại phu, vừa dịu dàng an ủi nàng, cây trâm mất không sao cả, sau này hắn sẽ cho người đánh cho nàng cái tốt hơn.

Sau này, hắn quả thật tặng nàng cái tốt hơn. Cây trâm dùng ngọc hiếm chế thành, mời thợ thủ công tốt nhất Đại Trần đến, dốc lòng tạo hình mất nửa năm, trên nạm trân châu, mã não, ngà voi, cực kỳ xa hoa, trên đời này không có nữ nhân nào là không mơ ước.

Cây trâm ngọc đó sau này lại bị A Bảo tháo xuống, gõ gõ nhẹ trên cửa sổ, cuối cùng rơi xuống gãy làm đôi.

Trong lòng A Bảo, nó luôn kém hơn cây trâm như ý bạc kia. Tuy kiểu dáng như ý rất cũ, tay nghề cũng thô sơ, năm đó lúc đeo nó vào thành Đông Kinh rồi còn bị nhóm quý nữ ngấm ngầm chê cười hồi lâu.

Thời buổi này còn ai dùng trâm bạc nữa, có th* t*c quá không, hiện giờ mọi người đều cài hoa quan, trên còn điểm xuyết trân châu ngà voi hình hoa cỏ. Đó mới là phong cách trang điểm thịnh hành nhất.

Nhưng mà mặc kệ người khác có châm biến thế nào, A Bảo vẫn không tháo nó xuống. Bởi vì đây là cây trâm như ý a ca tự tay làm cho nàng.

Trước lúc chia tay, anh nhét cây trâm vào lòng bàn tay nàng, đỏ mắt nói rằng, A Bảo à, sau này phải bảo trọng, vạn sự như ý.

Anh đưa trâm như ý cho nàng, hy vọng nàng mọi chuyện như ý, nhưng A Bảo làm mất cây trâm đó, sau này mọi chuyện cũng không được như ý nữa.

Hai mắt A Bảo đỏ bừng, rốt cuộc ‘oà’ lên gào khóc.

Từ nhỏ đến lớn, nàng vẫn luôn khóc theo kiểu này, oa oa khóc lớn, vô cùng đau thương, không khiến mình khó thở là không được.

Nàng hồi nhỏ khóc ở đầu thôn thì người cuối thôn còn có thể nghe thấy. Về sau đến thành Đông Kinh rồi, các nàng ấy nói như vậy thô lỗ quá, nói không được dạy dỗ, chỉ có người nhà quê mới khóc lóc om sòm như vậy thôi. Danh môn thục nữ mỗi lần khóc đều là thầm rơi nước mắt.

A Bảo cũng từng thử khóc thút thít như các quý nữ trong kinh, ban đầu không ra nước mắt, làm cho nàng cạn lời, đến cả khóc cũng không biết phải khóc như thế nào.

Đây là tiếng khóc lớn đầu tiên sau nhiều năm qua của nàng, vừa khóc là đã không dừng được.

Hết cách rồi, A Bảo quá tủi thân, quá khổ sở, nàng tưởng a ca không cần mình, lại không ngờ anh vẫn luôn viết thư cho nàng, còn nàng thì sinh lòng oán hận, làm mất cây trâm anh tặng.

Lý Hùng vừa thấy nàng khóc liền luống cuống tay chân, nàng là đại cô nương, cũng không thể ôm dỗ như hồi nhỏ, chỉ có thể ở cạnh lo lắng suông: “A Bảo, sao vậy? Em đừng khóc mà!”

A Bảo mặc kệ ôm lấy eo anh, dán toàn bộ nước mắt nước mũi lên vạt áo phần ngực của anh, tiếp tục oà oà khóc lớn.

Lý Hùng vụng về vỗ vỗ lưng nàng, mới xa lạ dỗ dành: “Được rồi, không khóc nữa, sau này theo a ca đến Tuyền Châu, a ca sẽ chăm sóc em.”

“Cây trâm……” A Bảo khóc sụt sùi, “Em làm mất… cây trâm anh đưa……”

Lý Hùng giật mình, thì ra nàng khóc vì việc nhỏ nhặt này, có chút dở khóc dở cười nói: “Mất thì mất thôi, a ca đánh lại cây khác cho em là được.”

A Bảo vùi vào trong lòng ngực anh, khóc hu hu.

Tiếng khóc xuyên qua cửa phòng, truyền đến lỗ tai của Lương Nguyên Kính, chàng hơi nghiêng nghiêng đầu hướng nhìn về trong phòng, trong mắt tỏ không rõ cảm xúc.

Không biết qua bao lâu, cửa phòng mở, A Bảo đi ra, đuôi mắt hồng hồng, lông mi đều bị nước mắt làm ướt, càng thêm đậm đen.

“Đại hoà thượng đâu?” Nàng hỏi.

“Đi khai triển Phật pháp rồi.” Lương Nguyên Kính đáp.

“……”

“Là đi lừa gạt mới đúng ấy.”

A Bảo nhỏ giọng nói, nàng rũ mắt nhìn xung quanh trái phải, tựa hộ có chút thẹn thùng, không dám ngẩng đầu nhìn Lương Nguyên Kính, xoắn ngón tay nói: “A ca tôi nói, gọi anh vào trong, mọi người cùng ăn một bữa cơm.”

Người trước mặt chưa lên tiếng, trong tầm mắt xuất hiện thêm một chiếc khăn sạch thêu hình trúc xanh.

A Bảo ngẩng đầu hoang mang nhìn chàng.

Lương Nguyên Kính thấy nàng hồi lâu không nhận lấy thì chủ động lau mặt giúp nàng, động tác chàng rất nhẹ nhàng, ánh mắt cũng rất chuyên tâm nhìn nàng.

Trong lòng A Bảo nổi lên một trận cuồng phong quét tới

Nàng muốn nắm lấy lấy bàn tay đẹp đẽ của Lương Nguyên Kính, muốn ôm vòng eo thon chắc của chàng, muốn vùi mặt vào phần ngực chàng cọ cọ, ngửi lấy mùi đàn hương dễ chịu trên người chàng.

Không biết từ khi nào thân thể nàng vẫn luôn len lỏi chút xúc động này, muốn không màng tất cả để gần gũi Lương Nguyên Kính hơn.

Nàng biết bản thân luôn luôn có hơi dính người, nhưng đối với Lương Nguyên Kính lại khác như với a ca, nàng muốn làm nũng với a ca, còn Lương Nguyên Kính, nàng muốn làm gì đó hơn vậy nhiều.

Vào giờ khắc này đây, rốt cuộc A Bảo mới tỉnh ngộ, hoá ra mình đã thích Lương Nguyên Kính từ bao giờ.

Chuyện này đúng là không ổn tẹo nào, nàng là người chết, mà Lương Nguyên Kính còn có người trong lòng.

“Chàng có người chàng thích, đừng nghĩ về những chuyện này nữa.” A Bảo dặn lòng tự cảnh cáo chính mình.

“Tiếc quá đi mất,” Nàng tràn ngập tiếc nuối nghĩ, “Nếu năm xưa ở thành Dương Châu, người bắt được đoá hoa thược dược kia không phải Triệu Tòng mà là Lương Nguyên Kính thì tốt biết mấy.”

“Làm sao vậy?”

Lương Nguyên Kính thấy ánh mắt nàng thờ thẫn, có hơi lo lắng nhìn nàng: “Có phải sắp hết hiệu lực rồi không? Tôi nhỏ thêm máu nhé?”

“Không, không có,” A Bảo nói lại ngay rồi cau mày, “Mất nhiều máu không tốt cho sức khoẻ, anh đừng để chảy máu nữa.”

Lương Nguyên Kính không nói gì.

A Bảo vào cửa trước: “Đúng rồi, tôi nói với a ca mình bệnh chết, không phải… Tóm lại, anh đừng lỡ lời nhé.”

Lương Nguyên Kính đờ ra một lúc, khẽ gật đầu.
 
Back
Top Bottom