Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu

Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 10: [Tuý hoa âm] Hồi sinh



“Sao lại thành thế này?”

“Không thấy con mèo trên tranh nữa.”

Lương Nguyên Kính nhìn chằm chằm bức《Ly miêu hí thảo diệp đồ》trên bàn, sắc mặt ngưng trọng nói.

“Ta nhìn xem!”

A Bảo cố sức nhảy lên án thư, chẳng qua không có thói quen như loài mèo, thế là ngã chổng vó trên mặt đất, cũng may thịt mỡ dày cũng không đau lắm.

Lương Nguyên Kính thấy nàng nhảy lên không được, nói một tiếng “Đắc tội” rồi bế nàng lên trên án.

Hai tay của hắn xách phần nách của A Bảo, cảm giác vô cùng kỳ quái, nàng mất tự nhiên vặn người, cúi đầu nhìn con mèo trên bức hoạ.

“Thật sự không thấy nữa!”

A Bảo khiếp sợ quay đầu, động tác quá đột ngột, suýt chút nữa đã ngã xuống, Lương Nguyên Kính tinh tế đẩy đẩy nàng lại vào trong.

“Không… Không chỉ không có mèo, máu của ngươi cũng vậy…”

Lúc trước Lương Nguyên Kính bất cẩn cắt trúng tay, rõ ràng có máu chảy dính trên bức tranh, cả hai người họ đều thấy rõ như ban ngày, nhưng hiện tại không chỉ giấy Tuyên Thành sạch sẽ trắng tinh, mà ngay cả con mèo được vẽ trên đó cũng biến mất, trong hình chỉ còn lại bình sành cắm cỏ tranh, còn hồn phách của A Bảo lại biến thành y đúc con mèo trên giấy vẽ!

“……”

A Bảo cùng Lương Nguyên Kính đối mặt nhau một lát, rốt cuộc không nhịn được nữa kinh ngạc cảm thán: “Thế gian còn có chuyện kỳ lạ như vậy à?”

Lương Nguyên Kính im lặng, bởi vì đối với hắn mà nói, có thể thấy quỷ hồn đã là điều kỳ bí, gần đây bên người hắn xuất hiện quá nhiều chuyện lạ, dần dần cũng không còn bất ngờ nữa.

Hắn chỉ để ý một chuyện: “Tại sao lại như thế?”

“Ta biết.” A Bảo nói.

“!”

Lương Nguyên Kính hơi hơi trợn to mắt nhìn nàng.

“Bút thần Mã Lương, [1]” A Bảo hỏi hắn, “Ngươi đã nghe qua câu chuyện này chưa?”

“….”

Câu chuyện ⟪Bút thần Mã Lương⟫ là chuyện dân gian xưa nhà nhà đều biết từ triều Đại Trần, ngay cả trẻ em chưa đi học cũng đều nghe qua, đương nhiên Lương Nguyên Kính không thể không biết.

[1] Tóm tắt ⟪Cây bút thần của Mã Lương⟫: Câu chuyện kể về cậu bé tên Mã Lương đam mê vẽ vời nhưng do gia đình nghèo khó không có tiền mua nổi cây bút. Có lần, cậu đi chăn gia súc và thấy người khác đang vẽ tranh nên bước vào xin một cây bút để học vẽ. Nhưng người họa sĩ thấy cậu không có tiền nên không cho khiến Mã Lương rất tức giận. Từ đó cậu chăm chỉ học vẽ, đi đến đâu cũng cố học hỏi tìm tòi. Một ngày nọ, Mã Lương nhặt được một cây bút thần và bất cứ thứ gì cậu vẽ ra đều trở thành hiện thực. Mã Lương chỉ nhận vẽ cho người nghèo, vẽ ra bất kỳ thứ gì nhà nghèo cần. Chẳng bao lâu sau, viên quan này phát hiện ra và tìm đến đòi cậu vẽ ra những thỏi vàng. Mã Lương đã vẽ ngọn núi đầy vàng và đặt dưới biển sâu, khiến cho quan tham rơi xuống biển mà chết. (神笔马良 – có thể tìm đọc thêm)

A Bảo hỏi: “Ngươi dùng bút gì vẽ?”

Lương Nguyên Kính lấy cây bút lông thỏ trông bình thường trên giá bút qua đưa cho nàng xem, trên đó có khắc dòng năm chữ ‘Tặng tiểu hữu Nguyên Kính’.

“Bút này là ai tặng cho ngươi?”

“Tiểu sư phụ Giác Minh ở chùa Tướng Quốc, y là bạn thân của ta, tháng chín năm ngoái, ta nhập kinh cùng y, trên đường đi y tặng ta cây bút này.”

A Bảo thầm nghĩ ngươi cái người này đến cửa còn không thích bước ra, thế mà còn làm bạn với hoà thượng.

“Bút này chắc chắn đã được khai quang.”

“……” Lương Nguyên Kính nói, “Ngày mai ta sẽ đến chùa Tướng Quốc hỏi xem.”

“Cũng chỉ có thể như vậy.”

Nhưng nàng cũng không muốn biến thành mèo vằn mà, A Bảo buồn bực đẩy tới đẩy lui bút lông thỏ, bỗng nhiên nàng ngẩng đầu, đôi mắt xanh biếc bỗng chốc giãn tròng.

“!!!”

Lương Nguyên Kính: “???”

A Bảo hô lớn: “Ta có thể chạm vào bút lông!”

Lương Nguyên Kính: “!”

“Ta có thể chạm vào đồ vật?”

A Bảo nhảy lên vai Lương Nguyên Kính, đệm thịt mèo vỗ lên má hắn, kích động hét lên: “Há! Là thật! Ta có thể sờ vào đồ vật!”

Sau đó nàng lại nhảy xuống án thư, hưng phấn nhảy tới nhảy lui, loạn xạ đụng giá bút trên án, nghiên cứu, bức hoạ cuộn tròn, sách vở, còn vô ý giẫm lên nghiên mực, bước đi trên giấy Tuyên Thành hiện lên đầy dấu hoa mai hình chân mèo.

“……”

“Được rồi, đừng quậy nữa.”

Lương Nguyên Kính hết nhịn nổi túm sau cổ nàng, lấy khăn chà lau móng vuốt đen nhánh của nàng sạch sẽ trở lại.

Tuy rằng ngoại hình chỉ là mèo, nhưng bị hắn bắt lấy chân chà lau vẫn cảm thấy hết sức lạ lẫm, A Bảo khó chịu muốn rút ra, lại bị Lương Nguyên Kính dùng thêm sức đè lấy.

“Chờ chút, sắp xong rồi.”

“……”

Có phải hắn đã quên bên trong con mèo còn chứa hồn phách của con người không hả?!

Mặt mèo A Bảo nóng hổi, hên là còn có lớp lông chống đỡ, nếu không thật sự sẽ mất đi cái mạng già.

Góc nhìn của mèo đối với người rất kỳ, khuôn mặt tuấn tú của Lương Nguyên Kính trước mắt nàng được phóng to lên mấy lần, cho đến hôm nay A Bảo mới phát hiện, người này thật sự rất đẹp nha, nước da trắng mịn như ngọc, không tỳ vết, đôi mắt sáng ngời, mũi cao thẳng, còn có đôi môi nhu thuận.

“Xong rồi.”

Lương Nguyên Kính buông nàng ra, hơi hơi mỉm cười, lúc hắn cười rộ lên gió xuân phất qua bờ dương liễu, trong veo vẫn ôn nhu.

Thình thịch, thình thịch.

Con tim trong lồng ng.ực A Bảo nảy lên vô cùng rõ rệt, thật giống với lúc nàng còn sống, thầm nghĩ bản thân đang làm sao vậy, bị bệnh sao, lại nhìn Lương Nguyên Kính đến mê mẩn.

Cũng không biết có phải thính giác của mèo đặc biệt nhạy bén hay không, nàng thậm chí còn có thể ngửi được mùi đàn hương nhàn nhạt trên người Lương Nguyên Kính nữa.

Đợi đã……

Nếu nàng có thể ngửi thấy mùi vị, cũng có thể chạm vào vật thể, vậy chẳng phải là…

Đôi mắt xanh biếc phát sáng b*n r* bốn phía, A Bảo ngẩng đầu, tỉnh táo phát ra bốn chữ: “Ta! Muốn! Ăn! Bánh!”

**

Cuối cùng cũng đến bữa trưa Lương gia, Lương Nguyên Kính không ra vẻ, xưa nay trong nhà thường là chủ tớ ngồi ăn chung một bàn.

Dư lão thấy hắn cất con mèo không biết từ đâu chui ra vào trong tay áo, còn chuẩn bị chén đũa, gắp miếng cá ướp muối cho nó, trông hình như là chuẩn bị bàn cơm với mèo.

“…..”

Dư lão khó nhịn nổi khuyên nhủ: “Công tử, mèo hoang từ đâu chạy tới đây, chỉ sợ không được sạch sẽ lắm.”

A Bảo đang thử dùng móng mèo cầm đũa, thật sự là quá khó nhằn, buộc phải từ bỏ, nghe thấy lời này, hết sức không vui nói: “Dư lão, ông nói thế làm ta buồn lắm đó, hôm qua ta còn mới nói chuyện với ông mà.”

Nàng ‘meo meo’ xong ngậm miếng cá vào trong miệng.

Lương Nguyên Kính lo lắng nhìn nàng: “Ăn được không? Có mặn quá không?”

Dư lão: “…………”

Cái quái gì đang diễn ra vậy?

Công từ vừa nói chuyện với mèo?

Lương Nguyên Kính khoé mắt thấy được biểu cảm hoảng sợ của ông ấy, bỗng nhiên phản ứng kịp thời, chỉ vào A Bảo hỏi: “Thúc nghe được nàng (nó) nói chuyện không?”

Dư lão: “………………”

Công tử vậy mà thật sự cho rằng mèo có thể nói chuyện!

Lại nhớ tới cử chỉ leo cây kỳ quái của hắn vào buổi sáng, cùng với bộ dạng hồn bay phách lạc trong thư phòng, đồng tử Dư lão lay động, tay cầm đũa bắt đầu run lên.

“Công tử, cậu không sao chứ? Có phải gần đây vẽ tranh quá mệt mỏi không?”

“Hình như ông ấy không nghe thấy ta nói chuyện.” A Bảo phun miếng cá ra.

Lương Nguyên Kính im lặng một lát mới nói: “Tôi không sao.”

“Tôi… Đột nhiên nhớ tới trong bếp còn đang hâm canh, để tôi đi lấy.”

Dư lão vội vã bỏ chạy, dạo gần đây công tử thật sự rất quái lạ nha, thường hay lẩm ba lẩm bẩm, có cần mời đại phụ đến khám không nhỉ.

Chờ lúc ông bưng canh cá hầm trở lại, chợt phát hiện con mèo vằn kia đã biến mất.

“Mèo đâu?” Dư lão tò mò hỏi.

Lương Nguyên Kính nhìn hồn phách A Bảo khôi phục lại bên tay phải mình, không nói gì.

Còn A Bảo đang ngơ ngác nhìn lát cá mới ăn được vài miếng rơi trên mặt đất mà lòng đau như cắt.

Màn đêm buông xuống.

A Bảo và Lương Nguyên Kính trước khi ngủ tổng kết lại ba chuyện.

Thứ nhất, là nhỏ máu vào tranh có thể chuyển sinh hồn phách A Bảo sống dậy theo vật vẽ trong đó, mối liên hệ với cây bút mà Giác Minh hoà thượng bạn thân tặng cho Lương Nguyên Kính, tạm tính là cây bút thần.

Thứ hai, A Bảo sống lại có thể nói tiếng người, nhưng ngoại trừ Lương Nguyên Kính ra, không còn ai nghe hiểu được cả.

Thứ ba, A Bảo không thể sống lại quá lâu, ước chừng tầm nửa canh giờ sẽ trở lại trạng thái ban đầu.

**

Tác giả có chuyện nói:

A Bảo: Xin hãy gọi ta là bậc thầy dọn bàn.

Khác:

⟪Bút thần Mã Lương⟫ là câu chuyện ngụ ngôn do ông Hồng Thủy Đào sáng tác vào thập niên 50 của thế kỷ 20, ý chính là biểu hiện sự tham lam và sắc mặt vô liêm sỉ của giai cấp thống trị, có thể nói quan phủ cổ đại tuyệt đối sẽ không cho phép chuyện này xuất hiện, tôi mượn ở đây một chút, có thể coi nó là ⟪Bút thần Mã Lương⟫ phiên bản cổ đại.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 11: Đi chùa



Hôm sau, Lương Nguyên Kính mang A Bảo theo đi lên chùa Tướng Quốc tìm gặp Giác Minh hoà thượng.

Trên đường đi, A Bảo cưỡi trên lưng lừa hỏi hắn: “Ngươi là hoạ sư, sao lại kết bạn với hoà thượng vậy?”

Lương Nguyên Kính giữ dây thừng, đáp: “Lúc ta còn nhỏ, vì muốn nâng cao kỹ năng hội hoạ, từng đi thăm quan những ngọn núi lớn nổi tiếng, ngày nọ trên đường đến Vĩnh Châu tìm núi Cửu Nghi, đêm mắc trận mưa to, buộc phải tìm chỗ trú ở miếu thờ đổ nát…”

“Để ta đoán xem” A Bảo đầy hứng thú đánh gãy hắn, “Có phải trùng hợp vị hoà thượng đó là trụ trì miếu, sau đó các ngươi làm quen nhau?”

Lương Nguyên Kính mỉm cười lắc đầu: “Không phải thế, miếu thờ cũ kỹ đó cỏ khô héo úa, tượng thần đổ nát, trên ngói đọng lại nhiều mạng nhện, đã lâu rồi không có người vào ở. Tiểu sư phụ Giác Minh giống ta, là tăng nhân vân du [1], lúc đó tình cờ gặp y trở về từ nơi xa, ta vô cùng tò mò về phong tục tập quán nơi khác nên đã hỏi thăm y, y cũng thấy hiếu kỳ về núi non sông nước ta từng ghé qua, thế là bọn ta thắp nến tâm sự suốt cả đêm, đến tận gần sáng ngày hôm sau mới xong. Y nghe ta nói muốn lên phía bắc tham dự học viện Đại Bỉ năm đó, cũng nói y muốn đến Đông Kinh ngắm nhìn chùa Đại Tướng Quốc xem sao, và rồi hai người bọn ta tá túc trên chiếc thuyền hàng, cùng nhau lên đến phía bắc.”

[1] Vân du thường chỉ hoà thượng, đạo sĩ đi đây đi đó không cụ thể địa điểm đi.

“Ta biết rồi” A Bảo đung đưa chân nói, “Sau đó các ngươi ở trên thuyền, tiếp tục thắp nến tâm sự suốt một đêm, hắn tới Đông Kinh rồi, trở thành hoà thượng của chùa Đại Tướng Quốc, còn ngươi thi đậu hoa viện quốc triều, từ đó biến thành hoạ sư hàm lâm đãi chiếu, đúng không?”

Lương Nguyên Kính nén cười: “Cũng không khác biệt lắm.” (đọc tại nudepxinh.wordpress.com)

A Bảo ngó hắn, thầm nghĩ ngươi và đại hòa thượng kia thân mật quá ha, còn thắp nến tâm sự suốt đêm gì gì đó…

Nghĩ lại thì, sao mình lại để ý chuyện đó làm gì, đúng là lo chuyện bao đồng mà, hứ, nhìn mây trôi trên trời còn hơn.

**

Chùa Đại Tướng Quốc nằm ở phía nam của thành Đông Kinh, được xây dựng bởi cao tăng đại sư Tuệ Vân từ thời Đường, nghe đâu đây là nơi ở của Ngụy công tử nhà Tính Lăng quân xưa, tên ban đầu là chùa Kiến Quốc, vào Nguyên Hoà năm thứ nhất, Đường Duệ Tông hạ chiếu chỉ sửa chùa Kiến Quốc thành chùa Tướng Quốc, để kỷ niệm phong hào Tướng Vương trước khi ông lên ngôi, ông còn có tấm bảng đề ‘Chùa Đại Tướng Quốc’, chỉ có chùa Tướng Quốc mới có.

Tới khi nước Đại Trần ra đời, chùa Tướng Quốc đã trở thành chùa dành cho hoàng gia, hương khói ngày càng thịnh, mỗi tháng chỉ mở cửa đón khách đúng năm ngày cho người ngoài ghé thăm cúng bái.

Hôm nay vừa đúng ngày chùa mở, ngôi chùa ngày thường yên tĩnh giờ đây trở nên ồn ào nhộn nhịp, khách tới nhiều như mây, cách xa xa đã trông thấy cảnh tượng náo nhiệt.

A Bảo vừa nhìn thấy cảnh tượng này đã sớm vứt chuyện kia lên chín tầng mây, vươn cái cổ dài nhìn trong vô vọng, thấy Lương Nguyên Kính vẫn không nhanh không chậm buộc con lừa lên cây ngô đồng, không khỏi lên tiếng thúc giục: “Ngươi nhanh lên đi!”

Lương Nguyên Kính đang thắt nút thòng lọng, chợt nhìn nàng nói: “Hay là, nàng đừng đi vào, ở chỗ này chờ ta.”

“?”

A Bảo mặt đen như đáy nồi: “Ý của ngươi là sao? Chê ta phiền?”

“Không có” Lương Nguyên Kính vội nói, “Ta không có ý đó, nơi này là chùa chiền, hào quang Đức Phật soi khắp nơi, nàng là oan hồn, nếu để bị thương thì không hay lắm.”

A Bảo thở nhẹ nhõm, thì ra là ý này, xua xua tay nói: “Không sao đâu, lúc còn sống một là ta không làm việc ác, hai là không giết người…”

Nàng đột ngột khựng lại, nhớ tới đứa bé của Tiết Hành đã chết trong tay mình, nếu được may mắn sinh ra, chắc cũng được tính là một mạng ‘người’.

Nghĩ tới đó, tay của nàng đã sớm dính máu tanh, cũng không được sạch sẽ mấy.

A Bảo miễn cường cười cười, nói: “Thôi, ngươi vào đi.”

Lương Nguyên Kính dò hỏi nhìn nàng một cái, cuối cùng không nói gì.

Chùa Đại Tướng Quốc đình rộng viện sâu, đặc biệt trước cửa còn bán nhiều loài vật như chó mèo, chim chóc quý hiếm, đi vào chùa, trong đình có nhiều màn lụa, bàn ghế, bán ít dây cương cung tên, vài món đồ cổ quý hiếm… Hai bên hành lang còn có nhóm ni cô bán đồ thêu thùa, châu ngọc, trang sức, khăn vấn đầu, mũ mạo các loại, có cả hương dược thổ sản, sách tranh vẽ, cái gì cũng có.

A Bảo nhìn không chớp mắt, mỗi hàng đều phải nhìn bằng con mắt khác.

Dòng người đông đúc tấp nập vào chùa, người không hay ra mồ hôi như Lương Nguyên Kính đã chen đến ướt đẫm, còn A Bảo chỉ là một vong hồn, không cần chen chúc với người sống, vừa mới lơ đãng một chút nàng đã bay đi mất, làm hắn đau đầu không thôi, đành phải ăn nói khép nép cầu xin: “Đừng nhìn nữa, lo chuyện chính trước đã.”

A Bảo ngồi xổm trước quầy hàng, cũng không quay đầu lại nói: “Đợi chút, ta nhìn cá cẩm lý đuôi dài [2] này, chắc ăn ngon lắm, ngươi mua cho ta một con đi.”

[2] Cẩm lý 锦鲤 là cá koi, nhưng mình tìm trên baidu thì có người giải thích nó giống như cá chép thông thường thôi.

Lương Nguyên Kính biết nếu chịu mua lần này, nhất định sẽ có lần tiếp theo, nên kiên quyết không đồng ý.

A Bảo tức giận mắng to, sau đó khóc lóc lăn lộn trên mặt đất.

Lương Nguyên Kính quả thực không có biện pháp với nàng, đành xoay người bỏ đi, quả nhiên không được bao lâu, A Bảo mặt không tình nguyện đuổi theo kịp.

Đi vào chính điện, trên đài thờ một pho tượng giống phật Di Lặc cao tám thước làm bằng đồng mạ vàng, hai bên có treo bích hoạ của Ngô Đạo Tử, A Bảo ngửa đầu quan sát bức hoạ, Lương Nguyên Kính tới bắt chuyện với một sa môn tăng có quen biết, hỏi y Giác Minh có ở chùa không.

Sa môn tăng nói: “Thí chủ tới không đúng lúc, sư phụ tháng trước đã rời chùa vân du rồi.”

Lương Nguyên Kính vội hỏi: “Có nói khi nào trở về không?”

Sa môn tăng lắc đầu: “Sư phụ vân du, xưa nay không rõ ngày về, nếu thí chủ có việc gấp, đợi sư phụ trở về, tiểu tăng sẽ chuyển lời tới ngài ấy thay người.”

Tạm thời chỉ có thể như vậy, Lương Nguyên Kính nói câu “Làm phiền rồi” sau đó dẫn A Bảo ra ngoài chính điện.

A Bảo đi theo phía sau hắn, quay đầu nhìn đông nhìn tây, đột nhiên hỏi: “Lương Nguyên Kính, ngươi từng vẽ bích hoạ bao giờ chưa?”

Lương Nguyên Kính thất thần gật đầu nhẹ: “⟪Tịnh thổ Di Lặc hạ sinh⟫ của Văn Thù viện là do ta vẽ.”

Hai mắt A Bảo sáng lên, trộm hỏi: “Vậy ngươi có mang bút thần theo không?”

“Có mang theo.”

Trước khi đến chùa, cho rằng sẽ gặp được Giác Minh nên đặc biệt mang theo bút lông thỏ đến giải đáp nghi ngờ.

Lương Nguyên Kính chợt thấy không đúng, nghiêng đầu hỏi A Bảo: “Hỏi cái đó làm chi?”

A Bảo nhào tới bắt lấy cánh tay hắn van xin: “Lương công tử! Lương đại nhân! Ngươi vẽ tranh cho ta nha! Dùng bút thần vẽ! Nhỏ máu của ngươi! Giống như lần trước đó! Ta muốn được đi dạo một vòng!”

“……”

Lương Nguyên Kính rút cánh tay ra, vô cảm nói: “Không được.”

A Bảo trừng lớn đôi mắt: “Tại sao chứ?” (đọc tại nudepxinh.wordpress.com)

Lương Nguyên Kính nói: “Không tại gì cả, không được là không được.”

Hắn xoay người bỏ đi, A Bảo lập tức đuổi theo, tâm trạng ngũ vị tạp trần, thầm nghĩ Lương Nguyên Kính thật buồn cười, còn dám cự tuyệt nàng nữa chứ.

Suy nghĩ vừa nhảy ra, nàng lại thấy có chỗ không đúng.

Vì sao nàng cảm thấy Lương Nguyên Kính từ chối nàng là chuyện quá đáng? Căn bản là hắn không cần phải nghe nàng nói gì làm theo cái đó mà, nhưng trong thâm tâm A Bảo lại bất giác cảm thấy, Lương Nguyên Kính nên đáp ứng nàng mới phải, cho dù nàng yêu cầu cái gì không hợp lý, nếu hắn không làm được, thì hắn chính là đồ xấu xa nhất đỉnh của đỉnh.

A Bảo một bên cho rằng mình làm như vậy là không nên, một bên lại không ngừng hỏi ‘Tại sao không được’, Lương Nguyên Kính trả lời ‘Không tại gì cả’, ‘Không được’, hai người một trước một sau, vẫn luôn lặp đi lặp lại mấy lời vô tri, nhưng cũng không thấy nhàm chán xíu nào.

Đột nhiên, A Bảo thấy trong đám đông có một đứa nhỏ trong lòng đang ôm một con chó lông xù, bởi vì chạy trốn quá nhanh nên chân trái lỡ vướng vào chân phải, mặt mũi sắp ngã xuống mặt đất, tim A Bảo thắt lại, chạy nhanh đến muốn đỡ cậu, nhưng hai tay không còn chạm vào cái gì được nữa.

Phía sau vang lên ‘Oa’ tiếng gào khóc của đứa nhỏ đó.

A Bảo ngây ngốc xoay người lại, nhìn ngón tay trong suốt của mình.

Lương Nguyên Kính thở dài, đi tới bế đứa nhỏ lên, vỗ vỗ bụi bẩn trên người cậu, dò xét xem cậu có bị thương không, cuối cùng mới lấy khăn tay lau sạch mặt cho cậu, dịu dàng nói: “Đừng khóc, mẹ cháu đâu?”

Đứa nhỏ không ngừng khóc nức lên, chỉ vào nơi xa xa nói: “Chó… Con chó…”

Lương Nguyên Kính quay đầu lại nhìn, con chó bị ngã văng ra ngoài không chạy được, nó rất nhỏ như vừa mới sinh ra chưa lâu, vẫn còn là một chó con, liền ôm nó lại nhét vào ngực cậu nhóc kia.

Lúc này mẹ đứa nhỏ tìm tới, vừa thấy con đã mắng, hoá ra là cậu nhóc muốn con chó lông xù kia nhưng bị mẹ không cho, đứa nhỏ thích quá nên thừa dịp không ai chú ý thì ôm chó bỏ trốn.

Mẹ đứa nhỏ ngàn lần nói lời cảm ơn với Lương Nguyên Kính, sau đó nắm lỗ tai cậu nhóc kéo đi, mơ hồ còn nghe thấy cậu nhóc kia hít hít mũi đáng thương hỏi: “Tại sao không được ạ?”

Người mẹ nóng giận nói: “Không tại vì gì cả, không được là không được.”

A Bảo: “……”

Lương Nguyên Kính nghiêng đầu hỏi nàng: “Còn muốn đi dạo nữa không?”

A Bảo: “!!!”

Nửa canh giờ sau, Lương Nguyên Kính từ phía sau toà tháo hẻo lánh đi ra, còn có một nữ đồng đi theo hắn.

Đầu nữ đồng kia chải hai búi tóc dùng dải lụa hồng nhạt buộc lên, còn điểm xuyến thêm hai cái chuông vàng nhỏ, cô bé sinh ra có gương mặt tròn lung linh, đôi mắt đen lúng liếng, trông đáng yêu ngọc tuyết như đồng tử trên tranh Tết vậy, khiến người ta nhìn thấy mà vui vẻ, chỉ tiếc đôi mày cong như trăng khuyết hơi nhíu lại, sắc mặt còn có vẻ rất là mất kiên nhẫn.

“Ngươi vẽ ta thành dáng vẻ này làm gì hả?” A Bảo bất mãn túm váy bước đi.

Môi Lương Nguyên Kính treo ý cười nói: “Đi thôi.”

Nói xong, rốt cuộc vẫn không nhịn được, lặng lẽ xoa nhẹ đầu A Bảo.

**

Tác giả có chuyện nói:

Lịch trình một ngày của Lương Nguyên Kính:

Giác Minh lại bỏ đi chơi, lo lắng cho vợ quá ⎯ Nàng dám kêu ta lấy máu vẽ tranh cho nàng, quả nhiên không quan tâm ta xíu nào ⎯ Vợ buồn rồi, ôi, vậy tuỳ nàng đi ⎯ Vợ biến thành loli trông đáng yêu muốn nựng ⎯ Lại tiêu hết bạc nữa rồi (nước mắt).

A Bảo: …… Nội tâm ngươi diễn nhiều quá đó.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 12: Cưỡi lừa chung



Mùng năm tháng năm là Tết Đoan Ngọ.

Vào ngày này, người dân của thành Đông Kinh đều phải treo lá cây ngải cứu, xương rồng, cành đào, cành liễu trước cửa để xua đuổi tà ma, còn phải bày biện bánh chưng [1], bánh bao ngũ sắc, trà rượu để cúng bái thần linh.

[1] Bánh chưng Trung Quốc khác với bánh chưng truyền thống bên mình, của họ là hình tam giác còn bên mình là hình vuông.
2934349b033b5bb57cd880733ad3d539b600bc34.webp


Đầu tháng năm sẽ có nha lại của phủ Khai Phong đến dán hoàng bảng lên các cửa thành, thông báo từ hôm nay trở đi Kim Minh Trì và Vườn Lâm Uyển sẽ mở cửa đối ngoại. Mời học giả dân thường vào trong thăm quan, vùng ngoại ô phía tây của thành nhất thời đông đúc tấp nập người ghé chơi.

Ngày Đoan Ngọ này, quan gia ngồi xa giá vui chơi đến Kim Minh Trì xem đua thuyền rồng, tổ chức tiệc tùng cùng quần thần.

Sự kiện trọng đại như vậy tất nhiên không thể thiếu nhóm quan viên Hoạ viện tham dự. Việc họ cần làm đó là sao chép lại cảnh vua và quân thần, nhân dân vui vẻ hân hoa trên tranh lụa, để thế hệ sau ghi nhớ về triều đại thái bình thịnh vượng như hôm nay.

Vết thương trên tay Lương Nguyên Kính đã sớm lành lặn nhờ thuốc mỡ thần kỳ do ngự dược cục điều chế, chỉ là trên mu bàn tay còn để lại sẹo có hình giống như một con chim yến.

Mỗi lần A Bảo nhìn thấy vết sẹo đỏ nhạt kia cũng đều phải thở dài, tay đẹp như vậy lại bị phá hư, ngược lại với Lương Nguyên Kính không để ý cho lắm.

Hắn cũng nằm trong hàng ngũ quan viên Hoạ viên phụng chỉ dự tiệc.

Kim Minh Trì nằm ngoài cổng Thuận Tiên phía tây thành, còn hắn thì ở phía đông ngoài thành, hai bên đông tây cách nhau cả một tòa thành Đông Kinh. Vì để kịp giờ tham dự chỉ có thể xuất phát từ canh năm, dắt lừa đi bộ vào thành trong sương mù sáng sớm.

Mặt trời vừa nhô, người đi đường cũng xuất hiện ngày càng nhiều.

Quan lại người ta cưỡi ngựa đi ra ngoài, nữ quyến cầm cành liễu hoa tươi ngồi kiệu, trước sau đều có đám nô bộc đi theo, bá tánh thường dân đa số là cưỡi lừa hoặc con la, người bán hàng rong trên vai gánh đòn hàng hoá.

Còn có thiếu niên phong lưu đội mũ lụa mỏng ti tiện cợt nhã cưỡi ngựa đuổi theo ca kỹ.

Trước đây, hầu hết kỹ nữ đều cưỡi lừa đen, tuy nhiên nhờ A Bảo, địa vị kỹ nữ đột nhiên được đề cao, đi ra ngoài phần lớn đều cưỡi ngựa son, mặc quần áo mùa hè, đầu đội vòng hoa, đeo khăn che mặt, toát ra loại ph.óng đ.ãng lả lơi.

Người đi đường thấy Lương Nguyên Kính có lừa mà không cưỡi còn chọn cách đi bộ, xôn xao hiếu kỳ nhìn nhìn hắn.

A Bảo bị nhìn ngó chằm chằm có chút mất tự nhiên, nàng nói với người đang dắt lừa: “Lương Nguyên Kính, ngươi ngồi cưỡi đi đi.”

Nàng chỉ là quỷ hồn, vốn không cần cưỡi lừa.

Lương Nguyên Kính hơi nghiêng đầu nhìn nàng, nói: “Không cần đâu.”

Mặt trời tháng năm có hơi gay gắt, cho nên mọi người đều muốn nhân ngày Đoan Ngọ dùng nước ngải thảo nấu sôi tắm gội, để phòng ngừa muỗi độc.

Ngay cả người ngồi ngựa cũng đã đổ mồ hôi ướt mấy cái khăn, chứ đừng nói gì là Lương Nguyên Kính đang đi bộ, hai bên tóc mai hắn đã ướt đẫm mồ hôi, rơi xuống trúng vào vài sợi tóc, gương mặt cũng ửng lên màu hồng nhạt, hiển nhiên đã nóng đến mức không chịu nổi.

A Bảo sớm chiều ở chung với hắn hơn hai tháng, biết hắn ưa thích sạch sẽ, luôn tắm gội mỗi ngày, chưa bao giờ có lúc chật vật như bây giờ.

“Ngươi lên đây mau!” A Bảo nóng người nói, “Còn không lên để người khác kêu ngươi là đồ ngốc à!”

Có ai lại để lưng lừa trống trơn, còn mình thì đi bộ không?

Lại nói, Kim Minh Trì xa như vậy, chỉ dựa vào hai chân của hắn có đi đến trời tối cũng chưa đến nơi nữa là.

Lương Nguyên Kính nghĩ ngợi nói: “Phía trước chắc sẽ có chỗ cho thuê ngựa, ta có thể…”

Sắc mặt A Bảo nghiêm trọng cắt ngang: “Ta hỏi lại lần cuối, ngươi có lên không?”

Lương Nguyên Kính: “……”

“Thất lễ.”

Hắn vén áo choàng lên, lưu loát leo lên lưng lừa, sau đó nắm dây thừng đuổi lừa đi tới.

A Bảo ngồi phía trước, tựa như bị hắn dùng hai cánh tay ôm vào trong lòng, hai má không khỏi ửng đỏ, không mấy tự nhiên xê dịch lên trước.

“Đụng phải nàng sao?” Bên tai vang lên giọng nói hoà nhã.

“Không… Không có……”

A Bảo hơi lắp bắp đáp lại, đáy lòng đồng thời phát điên hò hét, ngươi lắp ba lắp bắp cái quái gì? Nói chuyện với hắn có gì đến mức bị cà lăm chứ!

Tuy nàng nói không có, nhưng nàng vẫn cảm nhận được Lương Nguyên Kính hơi lùi về sau một chút, khoảng cách giữa bọn họ có thể chứa thêm một người ngồi vào.

A Bảo cảm thấy trống rỗng, dưới đáy lòng lại hò hét tiếp, ngươi lui cái gì mà lui hả? Lưng lừa có rộng bao nhiêu đâu, lát nữa ngã chết ngươi cho xem!

Nhưng mà cuối cùng Lương Nguyên Kính cũng không có ngã xuống, bình an lên đường đi đến Kim Minh Trì.

Trên đường đi tới đây A Bảo phát hiện, năm nay người tới xem đua thuyền rồng đông hơn trước rất nhiều, một đường xe ngựa ồn ào huyên náo, lọng che như mây, liếc mắt nhìn toàn thấy đầu người, ngay cả chỗ đặt chân nghỉ ngơi cũng không có.

“Sao nhiều người dữ vậy?” A Bảo kỳ lạ hỏi.

Lương Nguyên Kính nhìn theo hướng nàng nhìn, giải thích cho nàng: “Đây là lần đầu tiên Kim Minh Trì mở cửa trong hơn ba năm qua.”

“Sao chứ?” A Bảo trợn mắt to kinh ngạc nói, “Vậy chẳng phải là…”

Dù nàng chưa nói xong, nhưng Lương Nguyên Kính đã kịp hiểu ý nàng, gật đầu nói: “Đúng vậy.”

Dựa theo lệ thường, Kim Minh Trì, Vườn Lâm Uyển vào mùng một tháng ba sẽ mở cửa cho mọi người vào, Ngự Sử Đài không thể giám quan, chuyện vui này kéo dài đến lễ tắm Phật mùng tám tháng tư mới kết thúc, là sự kiện long trọng đáng mong chờ nhất trong một năm của cư dân thành Đông Kinh.

Tuy nhiên, kể từ Hi Hoà năm thứ tư sau khi phế hậu Lý thị qua đời, Kim Minh Trì và Vườn Lâm Uyển đóng cửa cho đến nay, ngay cả cuộc đua thuyền rồng dịp Đoan Ngọ hằng năm cũng bị bãi bỏ.

Phía triều đình đưa ra lời giải thích do sức khoẻ Thánh Thượng không tốt, tất cả hoạt động mang tính giải trí có thể miễn đều miễn, làm cho bá tánh không dám rêu rao quá mức, đã trải qua nhiều năm Tết Đoan Ngọ quạnh quẽ.

Đến năm nay cuộc đua thuyền rồng được khôi phục trở lại, chắc là vì ăn mừng sắc lập Tiết Hoàng Hậu, cho nên quan gia mới mang theo tất cả hậu phi đến Kim Minh Trì vui chơi, để dân chúng thiên hạ tận mắt nhìn thấy tân Quốc mẫu của Quốc triều.

Cũng vì nguyên nhân này nên các bá tánh tới bên ngoài Kim Minh Trì cũng không vội vào trong, mà chỉ chen chúc đứng ngoài Song Tinh Môn, chờ ngự giá kho bộ quan gia đi qua.

Bốn phía Kim Minh Trì xây bằng gạch mài nước, trên tường mỗi bên mở hơn mười cánh cửa, Song Tinh Môn là cửa chính, ngày thường hàng năm đều đóng cửa, đến ngày hội cũng chỉ cho phép ngự giá, hoàng thân quốc thích, đế cơ phò mã, với cả đại thần tể phụ đặc biệt được quan gia cho phép ra vào, còn thường dân bá tánh đều phải đi bằng cửa khác.

Lương Nguyên Kính đi đường chậm rì lâu lắc nên tới có hơi tương đối trễ, chờ lúc gần đến Song Tinh Môn đã bị dân chúng nơi đây chen chúc cản đường, trái phải trước sau đều không thể động đậy, chỉ có thể ngoài ý muốn xuống lừa đứng yên tại chỗ, chờ đám người giải tán mới đi vào.

Bỗng nhiên nghe thấy trong dòng người kêu lên: “Tới rồi! Ngự giá quan gia tới!”

Đám đông tức khắc ồ ạt, vạn dân duỗi dài cổ mòn mắt nhìn, chỉ thấy hai hàng cấm quân áo bào tơ vàng, khoác áo choàng gấm vóc đeo bảo kiếm đi trước mở đường, đi sau chính là quân dung thổi kèn, trống sắt cùng nghi trượng kho bộ, đến cuối cùng mới là xe ngọc của quan gia.

Quan gia ngồi trong màn ngọc, không nhìn thấy rõ mặt.

Các quân sĩ đẩy xe ngọc qua lại tới lui ba vòng, gọi là ‘gáy ngói xoay’, mục đích là để quân thần sĩ thứ thấy mặt thiên nhan.

Vị trí của Lương Nguyên Kính ở đằng sau, không thể giống với bá tánh đứng trước đó, thấy rõ ngự dung của quan gia, điều này cũng làm cho A Bảo yên lặng thở phào nhẹ nhõm.

Nàng chưa sẵn sàng đối mặt trực tiếp với Triệu Tòng.

Sau ngự giá quan gia chính là hậu phi cung quyến, cuối cùng mới là tất cả quan lại, đi đầu xa giá hậu phi, tất nhiên là phượng giá của Hoàng Hậu nương nương.

Lúc xa giá của Tiết Hoàng Hậu đi ngang qua, bá tánh thành Đông Kinh chấn động.

Tiếng hoan hô vang lên như sấm, ai ai cũng tranh nhau tiến về trước nhìn rõ dung nhan của Hoàng Hậu nương nương, suýt nữa tạo thành sự cố giẫm đạp, nhóm cấm quan kịch liệt ổn định trật tự hiện trường, liên tục quát lớn với đám đông đang xô đẩy nhau.

Nhìn một màn hỗn loạn này, A Bảo chỉ biết chua chát cười.

Năm xưa nàng làm Hoàng Hậu, cũng từng ngồi chung xe ngọc cùng Triệu Tòng giá hạnh Kim Minh Trì, lúc đến Song Tinh Môn, cũng có vạn dân đứng đó quan sát.

Chỉ có điều, bọn họ chủ yếu là đến để chê cười nàng.

Ngày hôm ấy, có một sĩ tử áo trắng đột nhiên xông ra từ trong đám đông, ngăn cản ngự giá, mượn danh chính nghĩa chỉ vào A Bảo, mắng nàng là ‘hoạ quốc gian hậu’.

Lưu loát mắng hơn 3000 chữ mới bị cấm quân kéo thẳng xuống, lúc bị kéo xuống miệng vẫn không ngừng mắng nhiếc, đến khi sùi bọt mép dẫn tới sự chú ý từ mọi người.

Khi đó A Bảo đã hoài thai được bảy tháng, tức giận đến mức ôm bụng đứng lên trong xe ngọc, hàm răng run lập cập, khớp ngón tay đỡ thành xe hiện ra màu xanh trắng, cuối cùng bị động thai khí, hai mắt nhắm tịt, ngất đi trong vòng tay Triệu Tòng.

Sau lại trải qua cuộc tra xét, mới biết tên sĩ tử áo trắng kia tên là Chúc An, vốn là học sinh ở viện Thái Học, xưa nay ngưỡng mộ Đức Dung Hành Chỉ của Đồng Bình chương sự Lữ Dật.

Lữ Dật bởi vì phản đối việc lập hậu nên bị bãi tướng, liên luỵ đến một số môn sinh bè đảng của ông, một nhóm quân thần can đảm gián tiếp khuyên can có cũng bị giáng chức, trục xuất, nhân tài trong triều trống mất một khoảng.

Bởi vì nhóm người này tất cả đều có chung mục đích triều chính, là phản đối Lý thị lập hậu, người đời lúc đó xưng là ‘phái phản Lý’, và do chuyện phát sinh vào năm Hi Hoá, nên còn được gọi là ‘đảng viên Hi Hoà’.

Chúc An bất mãn với tình thế triều chính lúc đó, liền mạo hiểm tức tối cản đường ngự giá, vì người trong thiên hạ đau đầu việc quan gia khăng khăng lập Lý thị làm hậu, nói hắn “Vì bao che cho một phụ nhân mà nhẫn tâm làm mất lòng các sĩ tử”, nói A Bảo là “Xuất thân ca nữ đất Thục, lưu lạc đến tận đây, một nữ hầu hai phu, thân trong sạch đã mất dạng rồi”, thậm chí còn xảo ngôn ám chỉ, đứa con trong bụng A Bảo không thuộc huyết mạch của quan gia, thẳng từng than “Trên đời chưa từng có chuyện hoang đường như này”.

Sau trận phong ba này, Chúc An cầu nhận được nhân, bởi vì phỉ báng triều chính đương thời, phê phán quân thượng, xử tội chết.

Trừng phạt như vậy không thể nói là không nặng, từ khi Thái Tổ lập quan từng nói, dạy người đời sau không được giết người đọc sách, Triệu Tòng làm vậy coi như đã vi phạm lời dạy của tổ tiên.

Quần thần thượng tấu cầu tình cho Chúc An, Triệu Tòng lại vì thế giáng chức nhóm quan viên cầu tình, cuối cùng giảm tội chết cho Chúc An, tước đi dân tịch, trục xuất khỏi kinh thành, vĩnh viễn không được bổ nhiệm, con cháu đời sau cũng không được tham gia khoa cử.

Tương đương với việc cắt đứt con đường làm quan triều chính.

Trên thực tế, có người vẫn cảm thấy phán quyết như vầy vẫn quá nặng, nhưng cũng không ai dám dâng thư phân xử cho Chúc An, dưới uy nghiêm của quan gia, ai ai cũng im như ve sầu mùa đông, chỉ có thể tự lo cho bản thân mình, không rảnh bận tâm ai khác.

Sau này Chúc An vẫn được xem là ‘Đảng viên Hi Hoà’, được người đời xưng là ‘Quân tử’.

A Bảo có lúc tự hỏi, dựa vào đâu một người nhục mạ thai phụ ngoài đường còn có thể được xưng làm ‘Quân tử’?

Nếu có ai đó trên phố ngăn một thai phụ lại, đặc biệt mắng nhiếc, nếu vậy người ra tay bênh vực cứu giúp có lẽ sẽ không ít, nhưng vì sự tình phát sinh ở trên người nàng, nên tất cả đều do nàng sai sao?

Nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có một nguyên nhân.

Đó là người dân của thành Đông Kinh không thích nàng, tất cả quan lại không thích nàng, phi tần hậu cung không thích nàng, người đọc sách khắp thiên hạ cũng không thích nàng.

Người duy nhất thích nàng, chỉ có Triệu Tòng, hắn làm phật lòng nhiều người đến vậy, cũng chỉ có thể nói do nàng là ngọn nguồn của sự việc.

Hoàng Hậu không chỉ là thê tử của hắn, còn là quốc mẫu của người người trong thiên hạ, lập hậu phải là chọn hậu cho thiên hạ, hắn không thể chỉ chọn người mình thích.

Sau này, hắn cũng không còn thích A Bảo nữa.

Cho nên A Bảo đành phải chọn cái chết, bây giờ ngẫm nghĩ lại, A Bảo cảm thấy đời mình thật sự quá đau thương, là Hoàng Hậu của một nước thì sao, đứng trên cao thì thế nào, tóm lại nàng cũng chỉ là một nữ nhân không ai yêu mà thôi.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 13: Thần kỹ



[Giải thích tên chương] Gốc 神技 /shén jì/: Kỹ năng thần thánh, siêu phàm – thường được dùng để miêu tả những kỹ năng, tài năng hoặc khả năng đặc biệt xuất chúng, vượt xa mức bình thường, gần như không thể tin được.

**

Kim Minh Trì trong phạm vi chín dặm, liễu rũ chấm nước, cây yên thảo phủ bờ đê, được xây dựng vào năm thứ bảy sau Chu Hiện Đức, nguồn gốc là để Chu Thế Tông diễn tập thuỷ quân, sau nhiều lần tu sửa đã mất đi tác dụng ban đầu, trở thành nơi chơi xuân của Hoàng đế xem thuỷ hí.

Bờ nam có tòa thuỷ điện nằm hướng bắc, đi sâu vài thước vào trong lòng nước, bên ngoài trải nguyệt đài, là nơi quan gia bày yến tiệc cùng quần thần. Bên bờ có lều màu, hoàng thân quốc thích, cung quyến hậu phi, tể chấp đại thần và gia quyến đều nghỉ ngơi ở đây.

Lương Nguyên Kính và đồng liêu hoạ viện cũng được phân vào một cái lều, ở giữa là tể chấp nhị phẩm và kinh quan lục phẩm.

Ở chỗ này, cũng không quan trọng phẩm cấp bọn họ cao đến đâu, hoàn toàn là vì khu vực này có lợi cho việc nhìn thấy rõ tình cảnh mặt hồ, thuận tiện để bọn họ vẽ tranh mà thôi.

Hoạ viện Hàn Lâm gồm Lương Nguyên Kính đang ở bên trong, Họa Học Chính, Đãi Chiếu, Nghệ Học, Chỉ Hầu, Nghệ Nhân… tổng cộng có sáu người. [1]

[1] Hệ thống phân cấp các hoạ sĩ cung đình thời Bắc Tống bao gồm (từ cao đến thấp): Họa Học Chính – Đãi Chiếu – Nghệ Học – Chỉ Hầu – Nghệ Nhân – Hoạ học sinh.

Sáu người này phụ trách vẽ tranh cho ngày hôm nay, nhưng cũng không phải tranh ai cũng sẽ may mắn được thu vào kho hoạ thi trân quý trong cung.

Sau khi bức tranh hoàn thành, đều phải cùng trình lên ngự tiền, được quan gia khâm điểm “Tuyệt phẩm” mới có vinh dự này, vì vậy sáu người họ tuy là đồng liêu, thậm chí còn có người là quan hệ cấp trên cấp dưới, nhưng vẫn mang theo chút ý tứ cạnh tranh nhau.

Những người còn lại đều là hoạ học sinh, bọn họ không cần vẽ tranh, chỉ có mặt ở đây quan sát, học hỏi kỹ xảo từ sáu người vẽ tranh.

Ngoài ra trong trướng còn có vài tên tiểu hoàng môn tỉnh nội thị, phụ trách việc hầu bút mực khi họ vẽ tranh, chờ được sai khiến.

A Bảo thấy cảnh tượng rầm rộ ở Song Tinh Môn đã bay sạch hứng thú, ngơ ngác ngồi trên chiếc ghế tròn, nhìn thuỷ hí trên mặt hồ gần đó.

Thuỷ hí của thành Đông Kinh là đẹp nhất, có ‘Vũ sư vũ báo’, ‘Rơi đao man bài, ‘Rối nước’, ‘Đu dây nước’.

Trừ mấy màn phía trước, phải nói đến màn A Bảo thích xem nhất, chính là ‘Đu dây nước’.

Ở trên thuyền nhất xích đu lên, một người đứng trên đó, càng đu càng cao, cho đến khi đu đến chỗ cao nhất của giá bằng phẳng, sau đó đột nhiên buông tay, người bay nghiêng ra bên ngoài, trong không trung nhào lộn mấy cái xong đâm đầu vào trước, trình diễn đầy mạo hiểm kí.ch th.ích người xem toát cả mồ hôi.

Năm xưa nghệ nhân chơi ‘Đu dây nước’ hay nhất kinh thành, phải là Tống Khang Bảo, biệt danh là ‘Nhất thân đảm’. [2]

[2] 一身胆 ‒ 胆 /dǎn/ ‘đảm’ có nghĩa là gan dạ, táo bạo

Y có kinh nghiệm phong phú, kỹ thuật cao siêu, không chỉ nhảy cao nhất, mà tư thế nhào lộn rất hoàn mỹ, lúc nhảy vào nước cũng làm văng ít bọt nước nhất, làm người ta thán phục không thôi.

Năm đó A Bảo thích xem y trình diễn nhất, còn từng triệu kiến gặp mặt thưởng cho y một thỏi bạc.

‘Nhất thân đảm’ giờ đây cũng không biết ở đâu, người đang đu dây nước không phải y.

A Bảo chống má lơ đãng, có làm sao cũng không thấy hứng thú chút nào.

Chợt nghe có người hỏi bên tai: “Vì sao không vui?”

A Bảo nhếch môi cười, thầm nghĩ sao ngươi biết? Cố ý mạnh miệng nói lại: “Con mắt nào của ngươi thấy ta không vui?”

Lương Nguyên Kính vốn đang cầm bút vẽ tranh, lúc này khựng lại, nghiêm túc liếc mắt đánh giá nàng, hỏi: “Thuỷ hí không đặc sắc sao?”

“Tàm tạm, không hay bằng năm đó.” A Bảo nhún chân nhận xét.

Lương Nguyên Kính gật gật đầu, tiếp tục công tác vẽ tranh.

A Bảo không hề xem thuỷ hí, mà là phát ngốc nhìn chằm chằm sườn mặt của hắn, thầm nghĩ thuỷ hí còn không đẹp bằng Lương Nguyên Kính.

Suy nghĩ này vừa hiện ra, A Bảo liền bị tự mình chọc cuời, bởi vì trong đầu nàng đang tưởng tượng bộ dạng Lương Nguyên Kính khi đu dây nước, sức khoẻ hắn có hạn như vậy, chỉ sợ sẽ bị gió thu lạnh thổi cho run lẩy bẩy mất.

Nhưng nếu năm đó, đúng thật là hắn trình diễn đu dây nước, A Bảo cảm thấy, cho dù tài nghệ của hắn không được tốt, chỉ sợ nàng cũng sẽ thưởng hắn bạc, nói không chừng còn thưởng nhiều thêm mấy thỏi nữa, dựa vào mặt mũi trên gương mặt này của hắn.

Nghĩ cảnh hai tay Lương Nguyên Kính ôm vài thỏi bạc, bộ dạng quỳ rạp trên mặt đất mang ơn mình, A Bảo càng nghĩ càng vui, khó nhịn nổi bật cười ‘xì’ một tiếng.

“Cười gì vậy?” Lương Nguyên Kính dời tầm mắt tới.

“Liên quan gì đến ngươi.”

A Bảo thầm nghĩ ngươi cũng quản nhiều quá đi, ta không vui ngươi cũng hỏi, có cười ngươi cũng hỏi, lại nói ngươi không cần vẽ tranh nữa sao, người ta đã vẽ được một nửa rồi, còn ngươi giờ mới bắt đầu.

Nhưng mà người đã mắc cười rồi, thì lại giống như bị chọc lét cười không ngừng được.

A Bảo càng cười càng sảng khoái, dù sao trừ Lương Nguyên Kính ra cũng không ai nghe thấy nàng, cuối cùng cười đến mức té ra khỏi ghế tròn, mông đáp mặt đất, sau đó tiếp tục bị chính mình chọc, càng cười lớn tiếng hơn, liên luỵ Lương Nguyên Kính không vẽ tiếp được, liên tục nhìn về phía nàng, vẻ mặt khó hiểu.

A Bảo cười đến đau bụng, nghĩ rằng điên rồi điên rồi, mình thật sự không khác gì với bị điên.

Nhưng kỳ thật hôm nay, nàng vốn có chút khổ sở, đặc biệt là vào lúc thấy Tiết Hành được cư dân thành Đông Kinh hoan nghênh đón nhận.

Nhưng Lương Nguyên Kính hoàn toàn xoay chuyển tâm tình tệ này của nàng, cẩn thận nghĩ lại, hắn cũng chưa làm ra cái gì, chỉ có hỏi nàng một câu “Vì sao không vui” mà thôi.

Nói vậy, khiến đáy lòng của A Bảo thật sự thấy thoải mái, để cho nàng biết được, cho dù người khắp thiên hạ không thích nàng, nhưng ít ra vẫn còn có một người nào đó, sẽ quan tâm đến tâm tình nàng tốt hay xấu.

Người đó chính là Lương Nguyên Kính, người mà nàng từng ghét hận nhất trên đời.

Vận mệnh thật luôn kỳ diệu như thế, A Bảo nàng sau khi biến thành cô hồn dã quỷ, đâu cũng không đi, cố tình ở bên người Lương Nguyên Kính, chắc có lẽ đây là ý trời.

Bỗng nhiên A Bảo nảy sinh tò mò, đến sát bên cạnh Lương Nguyên Kính gọi hắn: “Nè, Lương Nguyên Kính.”

“Hử?” Hắn hơi hơi nghiêng đầu, ánh mắt chuyên tâm lẫn dịu dàng.

“Hỏi ngươi một chuyện.”

“Nàng nói đi.”

“Ta với Tiết Hành, ngươi thấy ai đẹp hơn?” A Bảo chờ mong hỏi.

“……”

Môi Lương Nguyên Kính giật giật đang định lên tiếng, A Bảo đột nhiên cảm thấy sợ sệt.

Lỡ đau đáp án không phải kỳ vọng của nàng thì sao bây giờ?

Chỉ sợ nàng sẽ phát hoả, vì chút chuyện nhỏ này nổi giận đùng đùng, cũng có chút xấu hổ.

A a a, mình không nên hỏi chuyện này!

“Ngươi đừng nói!” A Bảo cướp lời Lương Nguyên Kính ngăn cản nói, “Ngươi đừng nói gì hết!”

Lương Nguyên Kính do dự: “Thật ra…”

“Ta không nghe!” A Bảo bịt tai lại nhanh chóng lui về sau, “Ta không nghe! A ô a ô a! Ta không nghe thấy gì hết!”

Lương Nguyên Kính: “…………”

“A Bảo…”

“Ngươi đừng nói chuyện với ta!” A Bảo nói, “Sẽ có người thấy ngươi kỳ quái đó!”

Tiểu hoàng môn đứng hầu sau lưng Lương Nguyên Kính đã nghi ngờ nhìn hắn rồi, đang không hiểu ra sao.

Trên thực tế, Lương Nguyên Kính thường xuyên nói chuyện với A Bảo, người ngoài nhìn vào như đang lầm ba lầm bầm, hơn nữa hắn luôn yên lặng mất tập trung nhìn về một phía, loạt cử chỉ khác thường này đã thu hút sự chú ý từ vài người khác, ngay cả Dư lão trong nhà gần đầy cũng phát hiện ra công tử có vài chỗ lạ thường.

A Bảo không mong hắn sẽ biến thành kẻ điên trong mắt mọi người, lập tức di dời sang vị trí cách hắn xa nhất ngồi xuống.

Năm người còn lại đã vẽ được kha khá, chỉ còn lại vài chi tiết cuối cùng, dù sao A Bảo cũng không đánh giá ra là vẽ tốt hay xấu, chỉ thò đầu lại gần nhìn nhìn.

Ngó tới ngó lui, rốt cuộc vẫn thấy Lương Nguyên Kính vẽ tốt nhất.

Vả lại A Bảo còn phát hiện ra, tranh hắn vẽ hoàn toàn khác biệt so với người khác.

Bởi vì giấy Tuyên Thành hay thước lụa đều không dễ sửa đổi, cho nên người đương thời vẽ tranh, đều sử dụng bút than phác thảo, sau đó phác hoạ ra dáng hình mới tô màu từng cái.

Một bức tranh hoàn chỉnh tỉ mỉ phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp, như tô màu phẳng, nhuộm đồng nhất, nhuộm phân chia, nhuộm nhấn, nhuộm phủ [3] trước khi hoàn thành nó.

[3] Lần lượt 平涂 (Bình đồ: tạo lớp nền cơ bản), 统染 (Thống nhiễm: tạo sự thống nhất về màu và không gian tranh), 分染 (Phân nhiễm: tạo chiều sâu các chi tiết), 提染 (Đề nhiễm: tạo điểm nhấn và sự tương phản trong tranh), 罩染 (Cháo nhiễm: cân bằng màu sắc tổng thể tranh).

Mà Lương Nguyên Kính lại bắt chước vẽ theo Từ Hi thời Ngũ Đại, không cần phác thảo, trực tiếp sử dụng bút pháp không xương [4] để thể hiện hình dáng vật thể bằng màu sắc, không chỉ khiến quá trình vẽ trở nên đơn giản hơn, thời gian vẽ ngắn hơn, mà còn vẽ vật thể thành nhiều mặt, đặc biệt thú vị.

[4] Từ Hi 徐熙 thời Ngũ Đại 五代 (907-960) thường sử dụng bút pháp không xương 没骨法 tức không phác thảo hình dáng trước, thay vào đó sẽ trực tiếp tạo hình ảnh bằng màu vẽ và độ đậm nhạt của mực thiên về thần thái cảm xúc, để vẽ chim và hoa trên mặt nước sông hồ.

Các hoạ học sinh trong lều vốn đang tụm ba tụm năm lại phân tán ở bên cạnh sáu vị hoạ sư, từng người quan sát học tập, thỉnh thoảng còn tấm tắc giao lưu với nhau, bình phẩm về kỹ thuật vẽ.

Nhưng không biết bắt đầu từ lúc nào, những người này đã tụ lại xung quanh Lương Nguyên Kính, dẫn tới cảnh năm hoạ sư còn lại phải cô đơn lẻ bóng, sắc mặt đồng loạt khó coi tới cực hạn.

Đặc biệt trong đó có vị hoạ học chính họ Tần có sắc mặt khó coi nhất, râu ria tức tối vểnh lên.

A Bảo nghĩ thần, cái cấp trên này của hắn, dưới tay có cấp dưới xinh đẹp giỏi giang như Lương Nguyên Kính đây, thoáng chốc đã bị đoạt hết nổi bật, cũng không biết đây là phước hay nghiệp nữa.

Sau một nén nhang, nội thị cục thư hoạ Hàn Lâm tiến vào thu lấy tranh của sáu người đã vẽ xong.

Đúng lúc Lương Nguyên Kính cũng xong nét bút cuối cùng, nét bút kia trông nhẹ nhàng lả lướt, vô cùng nhuần nguyễn, quả thực đã đem trình độ vẽ tranh bẩm sinh của hắn lên một tầng cao mới.

Các hoạ sinh ngắm nhìn đến không chớp mắt, trán đồ đầy mồ hôi, không hẹn mà cùng nhau hô tô kêu lên: “Đẹp quá!”

Lương Nguyên Kính đặt bút xuống, lui về sau một bước, sắc mặt điềm tĩnh đứng yên, trước sau đều là tư thái của quân tử nhã nhặn khiêm tốn.

“……”

Không biết người khác thế nào, dù sao A Bảo cũng nhìn đến ngây người.

Sau khi quan sai lấy sáu bức tranh đi, Lương Nguyên Kính ngay cả thời gian ngồi xuống nghỉ ngơi uống chén trà cũng không có, đã bị các hoạ sinh vây quanh lĩnh giáo tài nghệ.

Còn năm tên hoạ sư thừa lại kia không có lấy một người tới hỏi, càng thêm xấu hổ, từng người chỉ có thể mượn bình phẩm trà che đậy.

Chợt nghe thấy trong đám hoạ sinh có người kinh ngạc cảm thán: “Đây đúng là thần kỹ mà!”

Cái này không khỏi thổi phồng quá mức đi.

Lời này vừa mới rơi xuống, trong góc liền có người nặng nề hừ một tiếng, một người cùng là Đãi Chiếu hoạ viện không cho đó là đúng nói: “Kỹ năng thần thánh gì chứ? Cùng lắm chỉ là một kẻ hèn thôi miên đồ đệ mà thôi.”

Trong năm người, do người này ra mắt nên thu được sự chú ý.

Thứ nhất, y là Đãi Chiếu, cùng phân cấp với Lương Nguyên Kính, nếu lời này do nghệ thuật học hay thậm chí là Hàn lâm nói ra, đều sẽ phát sinh thêm hiềm nghi. Nhưng nếu do cấp trên hay học sinh nói ra, sẽ bị nghi ngờ là ghen ghét người tài, không bao dung cấp dưới, sẽ huỷ đi thanh danh của hắn, cho nên vẫn là để người cấp Đãi Chiếu nói ra mới thích hợp.

Y là quan liêu hoạ viện, nhóm học sinh không dám thẳng thừng phản bác, nhưng cũng có người hứ hứ giọng nhỏ như muỗi nói: “Thôi miên đồ đệ ít ra còn có kỹ năng để làm, không phải sao?”

“Phải đó! Nói rất đúng!”

A Bảo to tiếng phụ hoạ người này, tiếc là mặc nàng có lớn tiếng cỡ nào, trừ Lương Nguyên Kính ra cũng không ai nghe thấy.

Nàng không kiềm chế nổi hỏi Lương Nguyên Kính: “Sao ngươi không phản bác lại đám người đó hả? Hiện giờ bọn họ đang nói ngươi mua chuộc danh tiếng, hoạ kỹ vụng về kia kìa!”

Lương Nguyên Kính thưởng trà, mỉm cười nói: “Không cần, hoạ kỹ của ta như thế nào, trong lòng đều biết rõ, người khác nghĩ gì ta không quan tâm.”

“……”

Có đôi khi tính nết của cái người này thật sự quá hiền hoà, cũng rất khó để nói rốt cuộc người này có biết nổi giận hay không, dường như hắn luôn luôn vui vẻ mỉm cười, dáng vẻ vạn sự đều không liên quan đến ta.

A Bảo tức giận thay hắn.

Lúc này trong lều đã nổi lên trận tranh cãi đến tột cùng là phương pháp công bút của cha con Hoàng Thuyên và Hoàng Cư Thái tốt [5], hay là bút pháp không xương của Từ Hi ưu việt hơn.

[5] Hoàng Thuyên 黄筌 (cha) và Hoàng Cư Thái 黄居寮 (con trai – là một hoạ sĩ tài ba nổi tiếng trong lịch sử hội hoạ TQ, cùng thời với Từ Hi) nổi tiếng với phương pháp công bút 工笔 (hay còn được gọi tranh công bút 工笔画) đặc trưng bởi nét vẽ tỉ mỉ, chính xác thiên về kỹ thuật, chi tiết.

Bọn họ cãi nhau túi bụi, còn bản thân Lương Nguyên Kính khởi nguồn sự tình lại yên tĩnh ngồi phẩm trà.

A Bảo nghe đến dốt đặc cán mai, nhưng cũng muốn chen ngang một chân xen vào, vọt tới rống to một câu: “Đừng có xạo sự nữa! Nghe ta nói nè! Lương Nguyên Kính vẽ đẹp nhất, hoạ kỹ của hắn bỏ xa các ngươi tận mười tám con phố lận!”

Lương Nguyên Kính nghe xong, suýt chút ‘Phụt’ một tiếng, phun hết trà trong miệng ra ngoài.

Vào lúc đang ầm ĩ tới đỏ mặt tía tai, nội thị Phùng Ích Toàn hầu hạ bên người quan gia đi vào, theo sau còn có vài tên tiểu hoàng môn, tay mang bàn sơn đều được phủ bằng lụa đỏ.

A Bảo vừa thấy liền biết, dưới lớp vải đỏ chính là nén bạc dùng để ban thưởng.

Nàng lặng lẽ bay tới cạnh Lương Nguyên Kính, ghé vào tai hắn nói: “Chúc mừng ngươi nha, Lương đại nhân, ngươi sắp phát tài rồi.”

Nhưng cuối cùng nén bạc đó không có đưa xuống cho Lương Nguyên Kính.

Phùng Ích Toàn híp mắt cười: “Quan gia khẩu dụ, tuyên Hàn Lâm Đãi Chiếu Lương Hoằng vào trong điện yết kiến, Lương đại nhân, mời đi cùng tôi?”

“………………”

Trước khi A Bảo đi ra khỏi lều, có quay đầu lại nhìn đám người kia một cái, chỉ thấy năm tên hoạ sư đang trợn mắt há hốc mồm, sắc mặt đều không nỡ để nhìn thẳng, đặc biệt là tên lão nhân họ Tần, râu hoa râm cũng đang run rẩy.

Ôi, làm cấp trên của Lương Nguyên Kính thật sự quá đáng thương mà.

Đáy lòng A Bảo tỏ vẻ đồng tình sâu sắc.

**

Tác giả có chuyện nói:

Thuỷ hí 水戏, Kim Minh Trì 金明池, tài liệu tham khảo ⟪ Đông Kinh mộng hoa lục⟫, phần kỹ thuật vẽ (hoạ kỹ) lấy từ nguồn Bách khoa Baidu.
1.png

Kim Minh Trì (nguồn: Baidu)
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 14: Gặp vua



Ở một khắc trước A Bảo còn đồng tình với người khác, rất mau lại đến phiên nàng, chỉ vì nàng bỗng ý thức được một việc.

Nếu tranh của Lương Nguyên Kính được chọn làm tuyệt phẩm, có nghĩa là hắn phải gặp mặt hoàng đế, đồng thời nàng cũng phải đối mặt trực tiếp với Triệu Tòng!

Ngày này tới nhanh vậy, nhanh đến nỗi A Bảo còn chưa biết nên phản ứng thế nào thì Triệu Tòng lập tức xuất hiện trước mắt nàng, chứa đựng ý cười nhạt nhẽo, hỏi Lương Nguyên Kính: “Lương khanh, tay đã tốt hơn chưa?”

Triệu Tòng gầy.

Đó là cảm nhận rõ rệt nhất từ lúc A Bảo nhìn thấy hắn.

Dường như hắn gầy đi, hai bên gò má hơi hóp vào trong, xương gò má cũng lộ rõ, mặc một thường phục tay áo bào đỏ sẫm, cổ áo tròn màu vàng nhạt của đế vương, lại có chút suy nhược không tả xiết.

Nhưng khi hắn cười vẫn rộ lên vẻ anh tuấn như xưa.

Trước kia, A Bảo thích nhất là ngắm nhìn nụ cười của hắn, bởi vì lúc cười, khoé môi cong lên một đường rất hiền hòa, nhưng từ sau khi làm hoàng đế, hắn cũng rất ít khi cười tươi giống vậy.

A Bảo ngơ ngác, không nói rõ đây là loại cảm thụ gì, nói hận cũng không đúng, nói yêu cũng không phải.

Lương Nguyên Kính liếc nàng một cái, mới cẩn thận đáp: “Đa tạ quan gia lo lắng, nhờ thuốc được quan gia ban thưởng, tay của thần đã tốt lên rất nhiều.”

Triệu Tòng cười nói: “Ngươi cảm ơn sai người rồi, nên cảm ơn Hoàng hậu mới đúng, nhờ ngày ấy nàng nhắc nhở trẫm, lệnh ngự dược cục đi chế thuốc mỡ đưa cho ngươi.”

Lương Nguyên Kính đang muốn hướng đến Hoàng Hậu để tạ ơn.

Tiết Hành lại ngăn cản nói: “Nếu không phải do nô tỳ trong điện thần thiếp vô dụng, tay của Lương tiên sinh cũng sẽ không bị bỏng, đây cũng là chuyện thiếp nên làm, nếu tiên sinh còn muốn cảm ơn, đó mới là làm khó thần thiếp.”

“Nói cũng phải,” Triệu Tòng nói giỡn, “Đôi tay của Lương khanh là danh thủ quốc gia, dù có ngàn lượng vàng cũng không đổi được, Hoàng hậu à, chuyện này coi như nàng lấy công chuộc tội.”

Tiết Hành đỏ mặt, cười giận liếc mắt: “Quan gia lại trêu ghẹo thần thiếp.”

Các cung quyến phi tần, hoàng thân quốc thích, đại thần tể tướng đều hiểu ý cười một tiếng, nhìn đế hậu liếc mắt đưa tình.

Sau đó mọi người đều cùng quan gia đi đến bên cạnh ngự án, bình luận bức vẽ ⟪Kim Minh Trì thủy diễn đồ⟫ của Lương Nguyên Kính.

A Bảo ngơ ngác xuất thần, lỗ tai ong ong, cái gì cũng không nghe rõ.

Lương Nguyên Kính nhân lúc không ai chú ý, lo lắng lại gần nhìn nàng: “Không sao chứ?”

Lúc này A Bảo mới hoàn hồn, nghiêm túc dặn dò hắn: “Đừng nói chuyện với ta, lúc nói chuyện với ngự tiền ngươi phải tập trung cao độ, đừng để xảy ra sự cố, nếu bị Ngự Sử Đài buộc tội không phải chuyện đùa, mỗi người một ngụm nước bọt cũng có thể dìm chết ngươi đó.”

Lương Nguyên Kính sâu kín nhìn nàng, xong quay trở lại bên ngự án.

Mọi người bàn luận sôi nổi một hồi sau, có quân sĩ Điện Tiền Ty vào bẩm báo: “Quan gia, giờ lành đua thuyền rồng đã đến.”

Triệu Tòng gật đầu một cái, phân phó người lui xuống chuẩn bị, sau đó nghiêng đầu nhìn Lương Nguyên Kính: “Lương khanh, đi theo trẫm.”

Là vinh hạnh đặc biệt ban cho hắn được bầu bạn với quan gia.

Đó là đặc quyền mà quan thị tòng của Hoàng đế và hai phủ Tể tướng mới có được, giờ phút này lại dừng ngay trên đầu của một Đãi chiếu nho nhỏ của cục vẽ tranh Hàn lâm, không khỏi khiến mọi người nghẹn họng trân trối nhìn nhau.

Ngay cả bản thân của Lương Nguyên Kính cũng lắp bắp kinh hãi, may là từ trước đến nay hắn không để lộ cảm xúc, chỉ kính cẩn đáp “Dạ”, ngay sau đó hơi lùi về sau, đứng ở bên phải của Triệu Tòng.

Địa điểm tốt nhất để quan sát đua thuyền rồng, là Ngũ điện Đông Tây Nam Bắc ở trung tâm mặt nước Kim Minh Trì.

Năm toà cung điện này nằm xa xa đối diện với Thuỷ điện, lại có thêm một cây cầu tiên nối liền toà Bảo Tân Lâu ở bờ bắc. Cầu có ba nhịp, phần giữa nhô cao lên, được sơn màu đỏ tươi, trông giống như cầu vồng lượn, được người đương thời gọi là “Lạc Đà Hồng”.

Dưới cầu có 25 cột hình chim nhạn xếp thành hàng, khi cuộc đua bắt đầu, mấy chiếc thuyền rồng sẽ phải uốn lượn lèo lách qua những khe hẹp giữa các cột, đòi hỏi người chỉ huy phải dày dặn kinh nghiệm và sự phối hợp ăn ý giữa các tay chèo. Đây cũng là phần hấp dẫn nhất trong toàn bộ cuộc đua thuyền rồng.

Tham dự đua thuyền rồng tổng cộng có hai đội ngũ.

Một đội là do binh sĩ xuất ngũ tạo thành đội ngũ quân sĩ ⎯ “Đội Hổ Dực”, tiền thân của đội này là quân thuỷ Hổ Dực thuộc quân đội nhà Trần, nhưng vì tình hình phòng phủ đường thuỷ thời đó bị lơi là, nên mặc dù danh hiệu đội chưa xoá bỏ thì cũng bị mất đi tác dụng ban đầu, chỉ còn lại một đội đua thuyền rồng mang tính biểu diễn thi đấu trong các dịp lễ hội.

Nhưng dù có thế nào, thành viên Hổ Dực vẫn xuất thân từ quân ngũ, ngày thường cũng thường đến Kim Minh Trì tập luyện chèo thuyền, thực lực vẫn không thể xem thường.

Về đội còn lại là được thành lập bởi con em thế gia.

Những người này phần lớn là con cháu nhà quyền quý, dựa vào ông cha mới có được chức quan trong triều, hoặc giữ chức chỉ huy thiêm sự ở Điện Tiền Ty. Bọn họ đều là những kẻ bất tài, ăn chơi trác táng, mỗi ngày ở thành Đông Kinh diễu võ dương oai, kết bè kéo cánh, chuyên làm những việc vô bổ.

Riêng trình độ bọn họ có lẽ chẳng ra gì, dưới tay lại có đám gia nô hùng hậu dốc sức phục vụ, nên quan gia cũng ban cho bọn họ một cái tên chính thức, gọi là “Đội Long Tường”.

Điểm xuất phát cuộc đua nằm ở bờ tây vắng vẻ, còn đích đến nằm ở mặt nước gần điện Lâm Thuỷ. Tại đó có một chiếc thuyền sặc sỡ, trên thuyền có quân sĩ cầm cây tre, trên đỉnh có treo những thứ như cúp vàng, bát bạc, châu báu, gấm vóc, đó chính là phần thưởng dành cho đội chiến thắng.

Quãng đường đua dài khoảng bốn dặm, mỗi đội cử ra mười chiếc thuyền để thi đấu, thuyền của đội Hổ Dực là thuyền đầu hổ, còn đội Long Tường là thuyền rồng nhỏ.

Trong phòng kho bờ nam, còn neo đậu của một chiếc thuyền rồng lớn, nó dài khoảng ba bốn mươi trượng, rộng tầm ba bốn trượng, đầu thuyền có hình đầu rồng, đuôi thuyền là đuôi rồng, hoa văn trên thân thuyền được chạm khắc những vảy rồng vàng lấp lánh, thân thuyền rất rộng, tương truyền rằng đây là do vua Ngô Việt tiền Thục dâng lên khi quy phục triều đình.

Trên nóc lầu truyền, có một quân sĩ Điện Tiền Ty đứng canh, khi y huy động phất cờ đỏ ra hiệu lệnh, hai mươi chiếc thuyền của hai đội Hổ Dực và Long Tường lập tức chèo mái chèo, đồng loạt vượt qua vạch xuất phát được đánh dấu bằng phao, lao về phía cột mốc ở đích đến.

Chỉ trong chốc lát, tiếng hoan hô của người dân hai bên bờ vang lên như thuỷ triều vỗ sóng, vươn cổ quan sát, cổ vũ ủng hộ đội mình thích.

Còn có nhà cái mở cá cược kết quả đua thuyền, thu hút du khách đến đặt cược, thông thường quan phủ sẽ nghiêm cấm nhân dân tụ tập đánh bạc, nhưng riêng hôm nay thì khác, thậm chí có vài đại thần tể phụ, cung quyến hậu phi cũng sẽ náo nức đánh thử một lần, đều vì vui thích mà thôi.

Lương Nguyên Kính đang vui đầu vào tác phẩm ⟪Tranh đua thuyền Kim Minh Trì⟫, Triệu Tòng quay đầu hỏi hắn: “Khanh đặt cược bên nào?”

Mũi bút Lương Nguyên Kính khựng lại, chần chờ nói: “Thần…”

“Đội Long Tường.” A Bảo thình lình lên tiếng.

Đây là lời nói đầu tiên của nàng sau khi vào giữa hồ điện, Lương Nguyên Kính không khỏi nhìn nàng một cái, sau đó nói ngay: “Thần cược đội Long Tường.”

“Được.” Long tâm Triệu Tòng hết sức vui mừng, “Lấy bức ⟪Tranh đua thuyền⟫ của khanh làm phần cược đi, trẫm chọn đội Hổ Dực, bọn họ là đội quân ưu tú, Lương khanh phải cẩn thận đó.”

Nói xong, lại tháo ngọc bội dương chi có khắc hình tường vân long văn, tiện tay ném vào mâm sơn được nâng trong tay nội thị.

Có quan gia làm mẫu, các đại thần hậu phi đều sôi nổi đặt theo, ai nấy cũng tháo vật tuỳ thân của mình xuống, kể cả Tiết Hành cũng tháo chiếc vòng ngọc tuỷ hình phượng trên cổ tay, nàng ấy đặt cho đội Long Tường.

“Đừng lo, ngươi sẽ thắng.” A Bảo nhàn nhạt nói.

Lương Nguyên Kính nghi hoặc nhìn nàng, dù chưa mở miệng, nhưng ý tứ rõ ràng đang hỏi: Sao nàng biết?

A Bảo không nói chuyện.

Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì nàng đã nhiều năm xem đua thuyền rồng, mỗi năm đều như vậy, đội Long Tường sẽ thắng.

Điều này không có nghĩa rằng, trình độ đội Long Tường cao hơn đội Hổ Dực.

Trên thực tế, đội Hổ Dực quanh năm tập luyện, tuổi tác thành viên đều là đại hán tầm 40 tuổi, bọn họ có sức lực khỏe khoắn, kinh nghiệm dày dặn, trình độ rõ cao hơn đám chỉ biết hưởng thụ kia bên đội Long Tường.

Nhưng cũng bởi vì đối phương lo ăn chơi trác táng, trong nhà không giàu cũng có quyền thế, lại nhậm nhiều chức vụ trong Điên Tiền Ty, là quân du côn danh bất hư truyền. Nếu đắc tội với bọn họ, các quân sĩ giải ngũ đội Hổ Dực không quyền không thế, khỏi cần nói cũng biết sẽ không đạt được kết quả tốt.

Cho nên dù mấy chiếc thuyền rồng chưa xuất phát đi chăng nữa, kết quả cũng đã được định trước rồi, đội Hổ Dực chỉ còn nước thua, không thể thắng, hơn nữa vì có nhiều khán giả xem, thua cũng phải thua cho đẹp để tránh tạo ra hiềm nghi.

Dần dà, đội Hổ Dực đã sớm luyện được một phen “Thua” đầy bản lĩnh.

Đương nhiên cũng sẽ có người hỏi, nếu kết quả được định sẵn như vậy, mở đánh cược còn có nghĩa lý gì đâu?

Vấn đề ngốc nghếch như thế, A Bảo cũng từng hỏi qua Triệu Tòng.

Khi đó Triệu Tòng vẫn còn là vị Vương gia phong lưu nhàn tản, hắn giải thích cho nàng, bởi vì hoàng đế tuyệt đối không thích nhìn cục diện nghiêng hẳn về một bên, cho nên dù quần thần biết trước kết quả thi đấu, cũng sẽ đặt cho đội thua, ngay cả bản thân hoàng đế, đôi lúc sẽ đặt giống bọn họ.

Đánh cược, tất nhiên phải có lúc thắng lúc thua mới hay, nếu nghiêng hoàn toàn về một bên, vậy không còn gì thú vị nữa.

Lúc đó A Bảo mờ mịt khó hiểu, nói: “Nhưng thua phải chung tiền mà.”

Triệu Tòng vì sự ngây thơ ngờ nghệch của nàng mà buồn cười: “Thua mấy quan tiền thôi mà có thể lấy được niềm vui của hoàng đế, Uyển Nương à, em nói xem vụ làm ăn này là lời hay lỗ?”

A Bảo nhíu nhíu mày, nói: “Em vẫn muốn thắng tiền thì hơn.”

Triệu Tòng cười vuốt mũi nàng: “Em nha cái đồ tham tiền.”

Một lát sau, hắn phe phẩy cái quạt, bỗng nhiên hỏi tiếp: “Uyển Nương này, em có biết vì sao người trong thiên hạ, ai ai cũng muốn leo lên thật cao không?”

A Bảo lắc đầu: “Không biết.”

Triệu Tòng cong môi cười, nói: “Bởi vì chỉ khi ngồi ở trên cao rồi, mới có người vì khiến em vui lòng mà vắt óc suy nghĩ, tranh giành đến đầu rơi máu chảy mới thôi.”

A Bảo cẩn thận nghĩ ngợi, đột nhiên nói: “Nếu dựa theo chàng nói, vậy người trong thiên hạ muốn làm nhất không hẳn là vị trí Hoàng đế, mà là Hoàng hậu mới phải, bởi vì người nào cũng muốn Hoàng đế vui vẻ, còn Hoàng đế lại muốn có được niềm vui của Hoàng hậu, giống như chàng mỗi ngày đổi cách này cách nọ để lấy lòng em vậy đó.”

“……”

Triệu Tòng sửng sốt mất một lúc lâu, nhưng cũng không nói gì thêm, cuối cùng lại bị nàng chọc cười mà ngã xuống lan can màu son, quạt xếp gõ trúng đầu nàng, cố gắng nhịn cười nói: “Đúng vậy, em nói đúng, sau này nếu ta lên làm quan gia, Uyển Nương nhất định phải là Hoàng hậu của ta, người trong thiên hạ ai nấy cũng muốn làm ta vui, mà ta chỉ muốn lấy lòng em là đủ rồi.”

Chỉ là một câu đùa vu vơ ở Kim Minh Trì năm xưa, ai ngờ sẽ biến thành sự thật, sau này hắn quả thực lên làm quan gia, A Bảo cũng như ý nguyện trở thành Hoàng Hậu, chỉ tiếc là niềm vui của nàng, lại không còn dễ lấy như vậy nữa.

A Bảo nheo nheo khoé mắt, lúc này mới nhớ ra, quỷ hồn không có nước mắt.

Chỉ là trái tim lại rất đau, quặn đau từng cơn, hoà ra cho dù có là người chết, tâm vẫn sẽ đau như vậy.

“Đừng buồn.”

Trong gió truyền đến một tiếng thở dài nhè nhẹ, còn có giọng nói trong trẻo như nước mùa xuân.

“Ta không có buồn.” A Bảo mạnh miệng nói.

Cuộc đua thuyền rồng kết thúc, kết quả thi đấu không hề bị chậm trễ, đội thắng là đội Long Tường.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 15: Mỹ nhân



Hoạt động cuối cùng của ngày hôm nay là quan gia ngự giá đến Bảo Tân Lâu, nơi các quân đội trình diễn tạp kỹ, còn có số ít nghệ sĩ dân gian thành Đông Kinh may mắn được biểu diễn trước mặt ngự tiền.

Các tiết mục bao gồm múa lân múa cờ; hơn một trăm quân sĩ trong quân đội cầm gậy và khiên chia thành cặp đấu tay đôi với nhau; cũng có nghĩ sĩ dân gian mang mặt nạ có mặt mũi hung tợn, tóc xõa tung, tụ tập lại nhảy múa để thỉnh mời thần linh và xua đuổi ma quỷ, thỉnh thoảng còn phun lửa bằng miệng; ngoài ra còn có bắn cung, cưỡi ngựa, và thi đấu đánh cầu.

Bên cạnh đó các nữ quan trong cung ăn mặc như con trai, tô son trát phấn, mặc quần áo lộng lẫy, cưỡi ngựa phi nước đại trên sân, dáng người thướt tha nhẹ nhàng, tạo nên những làn gió thơm ngát.

Từng tiết mục trước khi lên sân khấu, đều sẽ có người đốt pháo, phát ra một tiếng nổ vang trời, khói thuốc tan dần, tới lượt đội biểu diễn tiếp theo lên sân khấu.

Năm xưa, lúc A Bảo còn ở trong cung, nàng rất thích xem những tiết mục thế này, nhưng giờ đây nàng chẳng còn thấy thế nữa.

Có lẽ rốt cuộc nàng đã sáng tỏ, vui thích náo nhiệt chỉ là nhất thời, đợi khi pháo hoa tan hết, yến tiệc kết thúc, cảm giác cô đơn quạnh quẽ càng thêm rõ rệt.

Sau bữa tiệc, ngự giá hồi cung.

Quan gia không ngồi kiệu ngọc như lúc mới đến, hắn chỉ dắt con ngựa xanh của mình, quyết định đi dạo thêm chút mới trở về cung. Hắn để người khác ở lại đi phía xa xa, chỉ khâm điểm Lương Nguyên Kính đi cùng mình.

Quyết định này chắc chắn sẽ khiến chúng quan lại kinh ngạc.

Hôm nay, quan gia dường như đặc biệt ưu ái vị hoạ sư hàn lâm này, không chỉ lệnh hắn ở bên hầu hạ suốt buổi, lúc còn xem đua thuyền rồng cũng chủ động mời hắn đặt cược. Thậm chí còn tự mình thưởng cho Lương Nguyên Kính một đoá hoa tử đinh hương, để hắn cài lên trên mũ quan.

Thời đó, triều đình ưa chuộng màu tím. Các quan từ tam phẩm trở lên mới được phép mặc đồ tím đeo túi cá vàng, ngũ quan trở lên mặc đồ đỏ mới đeo túi cá bạc, bởi vậy mới có câu “Dịch tử yêu kim” [1], ý chỉ chức vụ tể tướng.

[1] 曳紫腰金 nghĩa là kéo áo tím đeo túi vàng.

Mà hoa tử đinh hương tím là loại đột biến từ hoa mẫu đơn Lạc Dương, cánh hoa ngàn lá, mang sắc tím, lá dày đều rang như được cắt tỉa gọn gàng. Vì vậy mới được gọi là ‘bình đầu tử’ [2].

[2] Gốc 平头紫 (hình ảnh minh hoạ)
20150813222842_tz4vl.thumb_.1000_0.jpeg


Bởi vì màu sắc đặc thù của nó, người đương thời liền cho rằng ý nghĩa có số làm quan, ngày sau có thể một bước lên mây, thậm chí đạt đến chức vụ cao nhất như tể tướng. Vì thế các thí sinh được xướng danh trong điện Tập Anh, họ thường cài hoa này lên tóc rồi cưỡi ngựa đi quanh con phố, thể hiện phong thái đầy tự hào và hân hoan.

Hôm nay quan gia ban bình đầu tử cho Lương Nguyên Kính, quả thật là ân sủng quá mức, hành động này có hàm ý gì, tránh không khỏi suy nghĩ sâu xa.

Mặc kệ người khác phỏng đoán tâm ý của quan gia như thế nào, Lương Nguyên Kính vẫn không hề hay biết. Thậm chí còn chẳng để bụng, hắn đang thong thả bình tĩnh đi theo bên cạnh quan gia, chỉ chậm lại một bước chân.

Bên Kim Minh Trì châm đốt pháo hoa, tiếng ‘phực’ vang lên, khói lửa lộng lẫy bay lên bầu trời, hoa lệ nở rộ giữa màn đêm, trong giây lát rồi lại tan biến.

Đột nhiên Triệu Tòng dừng bước, chắp tay nhìn lên bầu trời đêm, Lương Nguyên Kính ở phía sau cũng dừng lại, im lặng không nói lời nào.

“Nếu có nàng ở đây, chắc hẳn lại cười to vừa nhìn vừa vỗ tay.”

Từ nàng này chỉ ai, hắn cũng không nói rõ, Lương Nguyên Kính cũng chỉ yên lặng lắng nghe, không đáp lại.

Chỉ có A Bảo ở một bên hờ hững nói: “Nói sai rồi, ta không có vỗ tay cười to đâu.”

“Uyển Nương nàng ấy, thích nhất loại giải trí náo nhiệt, đầy màu sắc rực rỡ như này.”

Khoé môi Triệu Tòng mỉm cười, quay đầu nhìn Lương Nguyên Kính, ánh mắt hơi lơ đãng lại như vô tình chạm phải A Bảo đang đi theo phía sau.

Trong lòng A Bảo cứng lại, chỉ mơ màng cảm thấy hắn vẫn là vị Vương gia phong lưu nho nhã, ôn tồn lễ độ kia ở thành Dương Châu năm đó, cưỡi con ngựa đẹp mặc y phục mùa xuân, đứng ở hành lang dài của Minh Thuý phường, cùng nàng đứng trên lầu hai xa xa nhìn nhau, một cái liếc mắt ngỡ đâu muôn đời.

Pháo hoa biến mất, màn đêm yên tĩnh trở lại.

Triệu Tòng thu hồi ánh mắt, chợt hỏi Lương Nguyên Kính: “Năm đó khanh vẽ không ít bức hoạ cho Uyển Nương, có còn nhớ rõ diện mạo của nàng không?”

Lương Nguyên Kính vẫn không đáp.

Triệu Tòng cũng không ngại, chỉ hơi mỉm cười, thấp giọng nói: “Ta à, đã sắp quên mất dáng vẻ của nàng rồi.”

A Bảo im lặng rũ mắt, thầm nghĩ, quên thì quên thôi, bây giờ nói lời này còn có nghĩa lý gì đâu?

Nàng không muốn nghe nữa, đi đến tảng đá lớn bên cạnh hồ, ngồi trên đó chống cằm ngơ ngẩn nhìn nước trong hồ.

Triệu Tòng ở đằng sau chợt nói: “Không biết Lương khanh có đồng ý vẽ lại Uyển Nương cho trẫm một bức được không? Mấy hoạ sư trong cung, nếu nói ai có thể vẽ dáng hình nàng một cách sinh động nhất, trừ khanh ra cũng không còn ai khác.”

A Bảo: “……”

Hà tất gì chứ?

Lúc còn sống thì ầm ĩ đến long trời lở đất, hai bên ai nấy đều hận không thể b.óp c.hết đối phương, đợi lúc chết rồi mới biết hoài niệm về nàng.

A Bảo không biết nên nói gì cho phải.

Nhưng mà nàng đã đợi được một hồi lâu, cũng chưa nghe thấy Lương Nguyên Kính trả lời.

Làm gì đó? Cái đồ ngốc này!

Không phải đã nói hắn lúc nói chuyện với ngự tiền cần phải chuyên tâm sao?

A Bảo nghi hoặc nhìn lại thì thấy Lương Nguyên Kính lui về sau một bước, chắp tay nói: “Thần…”

Chẳng lẽ hắn muốn kháng chỉ?!

A Bảo cả kinh đổ đầy mồ hôi lạnh, vội vàng bay qua la to: “Mau đáp ứng hắn đi! Cái tên ngốc này!”

Lương Nguyên Kính ngẩn ra.

“Nghe lời đi!”

Mặt mũi A Bảo giận dữ, bay qua bay lại quanh người hắn, hận không thể xách tai hắn lên réo to: “Đồ ngốc! Ngươi có mấy cái mạng dám kháng chỉ hả? Ta còn muốn ăn điểm tâm nhà Vương bà bà nữa, nếu ngươi chết rồi, ta đi đâu để ăn đây?!”

Lương Nguyên Kính mím môi, ánh mắt đượm buồn, khom người nói: “Thần tuân chỉ.”

Triệu Tòng trông thấy trước đó hắn có chần chờ hồi lâu, tỏ vẻ hiểu ý nói: “Khanh có chuyện gì khó xử, cứ nói ra đi, trẫm…”

Lời còn chưa dứt, đã nghe thấy sột soạt áo lụa lướt trên mặt đất, hình như có người đi ngang qua.

Triệu Tòng lập tức im miệng, đồng thời cho Lương Nguyên Kính ánh mắt ra hiệu, mang ý chớ có để lộ ra ngoài, hình như không muốn có người phát hiện hắn đang ở đây.

Lương Nguyên Kính yên tĩnh đứng sang một bên.

Bóng đêm bao trùm toàn bộ Kim Minh Trì, đêm nay có sao không có trăng, bọn họ đứng trong bóng tối bên cạnh núi giả, im lặng như hai bức tượng đá.

Dù sao A Bảo cũng không bị ai phát hiện, nàng bay đến bên cạnh núi giả, chỉ thấy có một cung phi dẫn theo thị nữ đang đứng đợi xe giá.

Thị nữ kia mặc áo màu vàng nhạt, phía dưới mặc váy màu trắng, trên tay cầm một ngọn đèn lưu ly trong cung, nói với vị cung phi kia: “Nương tử, thứ cho thiếp nói thẳng, hôm nay người có hơi quá, Hoàng hậu thưởng cho người đĩa bánh sơn trà, nếu người không thích ăn cứ qua loa cắn một miếng là được, cần gì thẳng thừng nói người không thể ăn, từ chối ý tốt của cô ấy, nếu để việc này truyền ra ngoài, e là thể diện Hoàng hậu nương nương không được tốt lắm.”

“Ý tốt à?”

Vị cung phi kia khinh thường hừ một tiếng: “Chỉ sợ do ngươi mới vào cung chưa lâu nên không biết vị Hoàng hậu nương nương này của chúng ta đã làm ra chuyện gì. Năm xưa, lúc phế hậu Lý thị còn tại vị, cũng từng mang thai, nhưng chỉ vì ăn trúng đĩa bánh quế hoa của Hoàng hậu, nên thai nhi hơn bảy tháng cứ như vậy máu chảy không ngừng dẫn đến sảy thai, nghe nói còn là mang thai con trai đó. Hừ, ngươi nói xem, có vết xe đổ đó, ta làm sao dám ăn đĩa điểm tâm kia?”

Thị nữ kinh hãi vội vàng nhìn khắp trái phải, thì thầm nói: “Nương tử! Người đã quên lệnh cấm của quan gia? Không thể nhắc đến vị kia…”

“Ta biết,” Cung phi kia nôn nóng xen ngang, nhưng âm thanh cũng tự động thu nhỏ lại, “Nơi này không phải chỉ có ngươi thôi sao? Làm gì có ai nghe thấy nữa.”

A Bảo: “…………”

Úi, nơi này còn có hai người đàn ông một con ma nghe thấy nữa đó nha.

Ban đầu A Bảo không biết vị cung phi này mang thai, giờ đây nhìn kỹ mới phát hiện đúng thật phần bụng nhỏ của nàng ta có hơi nhô lên.

Triệu Tòng có thêm một đứa con.

Không biết vì sao khi biết được tin này, nội tâm A Bảo lại vô cùng bình tĩnh, không còn nóng nảy hít thở không thông hay tim gan muốn nổ tung như trước kia.

Thậm chí nàng còn rất thản nhiên chầm chậm quan sát vị cung phi này, chỉ thấy nàng ta rất lạ mặt, trong trí nhớ của nàng không có người này, chắc là người mới tiến cung sau khi nàng mất.

Nhưng mà nom mặt mũi lại có hơi đỗi quen thuộc, chỉ là nhất thời A Bảo không nhớ ra nàng ta trông giống ai.

Cũng không biết nàng ta có phẩm vị gì, nhưng thấy người ta mặc váy đỏ thêu kim tuyến, khoác trên người là tấm lụa mỏng như cánh ve sầu, đầu đội chiếc mũ làm bằng ngà voi, còn được khảm những hạt châu quý do Nam Bang tiến công, nghĩ chắc phẩm cấp không thấp đâu nhỉ.

Thị nữ kia tuy biết chút ít chuyện bí mật trong cung, nhưng vẫn thấy sốt ruột lo lắng nói: “Tuy là vậy, nhưng Hoàng hậu vẫn là Hoàng hậu, nương tử à, người hạ thấp thể diện cô ấy như vậy, nếu lỡ truyền tới tai của quan gia…”

“Nếu để quan gia biết sẽ ra sao đây?”

Cung phi kia bất mãn khinh miệt, tựa như không để ý chút nào nói: “Ngươi nghĩ quan gia sẽ chịu cho Hoàng hậu mấy phần thể diện? Sau khi Lý thị qua đời, ngôi vị hoàng hậu bỏ trống ba năm, nếu không phải do đám quan lại tiền triều tranh nhau dâng sớ, tấu thỉnh quan gia lập hậu, mà Hoàng hậu kia còn có cha từng làm Khu mật sứ, vị trí trung cung này á, ta nghĩ chắc không tới lượt cô ta ngồi vào đâu.”

“Vậy thì ý của ngươi là, vị trí đó vốn nên để cho ngươi sao Chúc mỹ nhân?”

Triệu Tòng từ sau núi giả thong thả vòng ra tới, Lương Nguyên Kính không nói lời nào đi theo phía sau hắn.

A Bảo nghẹn họng trân trối nhìn, Mỹ nhân?

Chỉ mới là Mỹ nhân thôi á?

Nhìn cách nàng ta ăn mặc xinh đẹp chỉnh tề như vậy, nàng còn tưởng ít nhất phải là chức Phi đó.

Quái lạ, Tiết Hành thế mà có thể chịu đựng cung phi dưới tay vượt quá giới hạn đến mức này à, gần như lấn át cả uy phong làm Hoàng hậu của mình nữa, coi bộ so với tính tình lúc còn đấu đá với nàng thì đã tốt lên rất nhiều.

Chúc mỹ nhân ngàn vạn lần không ngờ tới nơi này còn có người khác, thấy người tới còn là quan gia, sợ tới mức khuôn mặt nhỏ trắng bệch, khăn lụa trong tay suýt chút bị nàng ta xé ra thành hai mảnh.

“Quan… Quan gia ạ?”

Triệu Tòng cười khẽ, liếc mắt đánh giá cái bụng nhô lên kia một cái, nói: “Xem ra, ngươi rất để tâm đến đứa con trong bụng.”

“Hậu duệ hoàng gia, thần… Thần thiếp không dám không cẩn thận.”

“Ừ, nói đúng lắm,” Triệu Tòng gật đầu sau đó nhìn nàng ấy nói, “Đã vậy, trong mười tháng mang thai này, không có việc gì ngươi không cần ra cửa, dưỡng thai quan trọng hơn, mọi thứ phải hết sức cẩn trọng.”

Lời này có nghĩa là muốn cấm túc nàng ta.

Chúc mỹ nhân hốt hoảng ngẩng đầu, không dám tin: “Quan gia⎯”

Sắc mặt Triệu Tòng chợt trầm xuống, ánh mắt đầy vẻ hung ác, thậm chí còn không màng Chúc mỹ nhân đang nắm lấy tay áo mình, giật ra phủi tay bỏ đi ngay lập tức.

Lúc đi tới bên vách đá, bỗng nhiên quay đầu lại, trong bóng đêm nửa sáng nửa tối đó, ý vị thâm trường cười: “Phải rồi, về việc còn lại, ngươi yên tâm, Hoàng hậu sẽ chăm sóc tốt cho ngươi.”

Chúc mỹ nhân nghe vậy, tuyệt vọng ngã quỵ trên mặt đất.

Thị nữ đỡ nàng ta, cũng đầy mặt không đành lòng.

“Hắn thay đổi,” A Bảo đi theo sau Lương Nguyên Kính bỗng nói, “Thay đổi rất nhiều.”

Triệu Tòng trước kia, mỗi lần cười rộ lên sẽ như trăng thanh gió mát, tuyệt đối không giống với vừa rồi, âm u tàn nhẫn, khiến ai nấy nhìn vào phải ớn lạnh khắp cả người.

A Bảo bỗng nhớ tới, có lẽ từ trước đến nay bản thân chưa từng thật sự hiểu rõ hắn.

Lương Nguyên Kính không nói gì chỉ nghiêng đầu nhìn nàng một cái.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 16: Về đêm



“Ta thấy Chúc mỹ nhân kia có hơi quen mắt, ngươi có biết cô ta là nương tử nhà vị đại nhân nào không?”

Trên đường về nhà, A Bảo ở đằng sau hỏi Lương Nguyên Kính.

Thật ra nàng cũng không kỳ vọng Lương Nguyên Kính có thể đưa ra đáp án, trông hắn cũng không giống người sẽ biết rõ mấy chuyện này.

Không ngờ Lương Nguyên Kính lại nhắc nhở nàng một câu: “Cô ấy họ Chúc.”

A Bảo vừa nói “Ta biết mà” vừa tỉ mỉ kiếm tìm trong triều có quan lớn ngũ phẩm trở lên nào họ Chúc hay không.

Nàng trước kia không nhớ mấy cái này, chỉ là do bị mắng nhiều quá nên mới cố tình tìm hiểu chút chút về thế lực trong triều.

Quan viên nào cùng phái với nhau, quan viên nào có quan hệ thông gia, quan viên nào là thầy trò đặc biệt, quan viên nào nhìn thì hoà hợp nhưng sau lưng lại ngầm đấu đá.

Hiểu biết càng sâu mới hay, phe phái trong triều vô cùng rắc rối, trong anh có tôi trong tôi có anh, mãi mãi không thể phân định rõ ràng.

A Bảo nghĩ tới nghĩ lui, trong kinh quan không có vị nào họ Chúc cả. Nhưng thật ra nàng chợt nhớ tới một vị họ Chúc nọ không phải làm quan, cũng không phải trưởng quan của châu huyện nào.

Chính xác hơn, người nọ không phải quan mà là một thứ dân.

“Chúc An?” A Bảo hỏi.

“Ừ.” Âm thanh trầm ấm của Lương Nguyên Kính truyền đến, “Tháng hai năm ngoái, Chúc An bệnh chết ở Hàng Châu, quan gia hạ chiếu giải trừ lệnh cấm tham gia thi cử của Chúc thị, còn phong chức quan cho vài đứa con đứa cháu của hắn.”

“Vậy Chúc mỹ nhân là?”

“Em họ của hắn.”

A Bảo im lặng trong chốc lát mới nói tiếp: “Ta còn nhớ rõ diện mạo của Chúc An, hắn với cô em họ lớn lên không giống nhau lắm nhỉ.”

Lương Nguyên Kính hai tay giữ chặt dây buộc con lừa, nhàn nhạt nói: “Chúc mỹ nhân không phải giống hắn.”

“Vậy giống ai?”

“Nàng.”

“……”

A Bảo rất lâu sau vẫn chưa nói thêm được câu nào, cuối cùng nghiêng đầu lạc giọng nói: “Ngươi đùa đấy à?”

“Là sự thật.”

Lương Nguyên Kính nghiêm túc giải thích cho nàng, còn khua khua tay trái vẽ vời chút hình dáng trên không trung.

“Lông mày của hai người rất giống nhau, đều là mày cong như trăng non, đôi má tròn đầy, dáng mắt hạnh nhân, môi trên mỏng hơn môi dưới, ở giữa môi còn có…”

“Được rồi được rồi, không cần nói nữa.”

A Bảo vội vàng ngắt lời hắn, làm hoạ sư có điểm này không tốt, cái gì cũng quan sát tỉ mỉ rồi lại tự tạo hình ở trong đầu.

Được rồi, nàng thừa nhận Chúc mỹ nhân có hơi giống mình vài phần.

Vậy thì vấn đề.

Chúc An có biết đường muội của y giống nàng không? Do từ nhỏ y có thù oán với đường muội nên ngày đó trước Song Tinh Môn mới nhảy ra ngăn xe nhục mạ nàng?

Nói đi cũng phải nói lại, vị Chúc sĩ tử này khi nhìn thấy một khuôn mặt tương tự em họ mình mà cũng có thể nhục mạ, mắng chửi hung hăng đến vậy, mắng đến mức sùi bọt mép. Cái này không thể nói y và đường muội không thù không oán gì nha.

Trong lòng A Bảo cười lạnh.

Còn về phần Triệu Tòng sau khi nàng chết liền ân xá cho cả nhà Chúc thị, nạp cả em gái Chúc An phong làm Mỹ nhân nữa, thậm chí nàng không thấy tức giận gì, còn cảm thấy loại ghê tởm vi diệu. Nhớ lại buổi sáng bản thân thấy Triệu Tòng trở nên ốm nhom thì trong lòng đột nhiên nảy sinh loại khó chịu đau lòng, thật là nực cười mà!

Hắn cần đau lòng đến thế không?

Trái ôm phải ấp như vậy, nữ nhân hết nạp người này đến người khác, còn sinh nở con cái cho hắn nữa. Cuộc sống trôi qua rất tốt, cần gì phải đau lòng cho người đã chết là nàng chứ?

A Bảo phẫn nộ đến mức tự tát cho mình hai cái. Đương nhiên là đánh không trúng, bàn tay xuyên hẳn qua mặt.

Lương Nguyên Kính: “……”

“Làm sao vậy?” Hắn dịu dàng hỏi.

“Không sao hết!” A Bảo tức giận nói, “Chỉ là thấy bản thân ngốc quá! Ngốc muốn chết! Phải! Là ngốc chết mất!”

“……”

Lương Nguyên Kính thở dài: “Nào có ai tự mắng mình ngốc chứ?”

Giọng nói hắn mềm mại, ôn hoà tựa như tuyết rơi tháng ba hàng năm ở Biện Kinh. Bởi vì rơi vào mùa hoa đào nở, nên được gọi là ‘Tuyết hoa đào’, rơi xuống đất không phát ra tiếng động, yên tĩnh ôn hoà, lập tức hoá giải oán khí trong lòng A Bảo đang tức tối dễ như trở bàn tay.

Thâm tâm A Bảo thấy ngứa ngáy.

Nàng rất muốn lăn một vòng vào lòng của Lương Nguyên Kính, hoặc cọ cọ hắn, hoặc là nhảy lên trên lưng hắn, cắn một cái ở đầu vai hắn, hoặc làm rối búi tóc đã được hắn chải chuốt cẩn thận.

Tại sao lại như vậy? Hay do lần bị biến thành con mèo vằn? Bị nhiễm chút tính mèo trong người?

Nhưng mà… Nhưng mà……

Nhưng mà Lương Nguyên Kính tên này thật sự rất rất tốt đó!

Sao hắn có thể tốt tới vậy nhỉ? Ôi! Hắn tốt đến mức làm nàng thấy có chút tức giận!

A Bảo xoay tới xoay lui ở trên lưng lừa. Lương Nguyên Kính sợ nàng ngã xuống, đành lấy tay phải đỡ nàng, nói: “Ngồi yên, đừng cựa quậy nữa, coi chừng té.”

A Bảo muốn nói có té cũng chả sao, nàng sẽ không thấy đau, không biết tại sao, Lương Nguyên Kính luôn quên mất chuyện nàng chỉ là mỗi cái quỷ hồn. Nhưng nghĩ lại, vẫn khỏi cần nhắc nhở hắn.

Chắc có lẽ chịu ảnh hưởng bởi vị Chúc mỹ nhân kia, làm nàng nhớ tới một câu chuyện xưa.

“Nè, Lương Nguyên Kính.” Nàng lấy khuỷu tay chọc chọc sau lưng hắn.

“Hả?”

“Ngươi còn nhớ đứa bé kia của ta không?”

Mây tạnh sương tan, trăng sáng ẩn mình sau tầng mây rốt cuộc cũng xuất hiện. Tối nay sao thưa trăng sáng, ánh trăng trong vắt rọi khắp nẻo đường, khiến cảnh vật trở nên tinh khiết như tuyết. Nhân gian đã vào tiết trời giữa hạ, trên con đường nhỏ rộng lớn có lác đác hai ba người đang trở về nhà, trong bụi cỏ còn truyền đến tiếng dế kêu.

Ồn ào xôn xao như thế, lại như yên tĩnh tẻ nhạt.

Người nọ im lặng rất lâu, xong vào lúc A Bảo cho rằng hắn sẽ không trả lời mình thì lại nghe thấy tiếng nói hiền từ dễ nghe đó: “Nhớ rõ.”

A Bảo nghiêng đầu, mỉm cười nói: “Ta cũng nhớ, ngày đó là ngươi ôm ta đến ngự dược cục.”

**

Thời điểm A Bảo vừa hoài thai.

Tin tức nàng mang thai là được chẩn đoán vào ngày năm tháng mười năm Hi Hoà thứ nhất, chính là ngày thứ ba sau khi nàng triệu Lương Nguyên Kính vào cung cười cợt một phen ở Ngự hoa uyển.

Sáng sớm hôm đó A Bảo cảm thấy thân mình không thoải mái lắm. Lúc dùng bữa sáng còn nôn mửa tới năm lần bảy lượt, khiến Triệu Tòng ở lại dùng bữa với nàng sau khi hạ triều sợ hãi quá mức, liên tục gọi người mời ngự y tới đây.

Chờ ngự y tới rồi thì chẩn ra đã mang thai được hơn hai tháng.

Triệu Tòng hoảng đến ngây người, sau đó vui mừng khôn xiết, vừa ôm A Bảo vào ngực vừa nói liên tiếp ba chữ “Thưởng” với ngự y.

Không thể trách hắn làm lố, thật sự đứa nhỏ này tới rất kịp thời.

Lúc đó quan viên triều chính bất mãn với quyết định lập hậu của hắn, phe ‘ủng Lý’ và ‘phản Lý’ mỗi ngày ở trên triều đều như nước với lửa, ồn ào ầm ĩ liên miên. Càng đừng nhắc đến mấy bức thư can gián chất đầy trên ngự án của hắn, làm hắn tinh thần lẫn thể xác đều mệt mỏi. Thậm chí còn nổi lên nghi hoặc có thật mình không nên lập A Bảo làm hậu hay không.

Nhưng Hoàng hậu của một đất nước, sao có thể lập rồi phế dễ dàng vậy được?

Triệu Tòng tiến không được lùi cũng không xong, thật sự là tiến thoái lưỡng nan, nhưng đứa nhỏ trong bụng A Bảo lại kịp thời tới cứu hắn ra khỏi như lửa sém lông mày!

Có đứa nhỏ sẽ giúp A Bảo ngồi chắc hậu vị hơn chút đỉnh.

Thực tế cũng được xem là vậy.

Sau khi công bố tin vui A Bảo có thai, phe phái ‘phản Lý’ đang xôn xao lập tức câm miệng.

Lúc đó Triệu Tòng 27 tuổi, đang vào độ tuổi tinh lực mạnh mẽ, nếu dưới gối không có đứa con nào, đế vương không con, nền tảng lập quốc liền không xong. Cái thai này của A Bảo thật sự quá mức trọng yếu. Trong lúc nhất thời không ai tiếp tục tranh chấp vấn đề lập hậu nữa, trong ngoài triều dã cuối cùng khôi phục lại thời kỳ an yên.

Đáng tiếc, ngày vui chóng tàn.

Vào những ngày gần cuối năm, trong dân gian liên tục xuất hiện lời đồn đãi. Nói rằng cái thai này của Hoàng hậu có lai lịch không rõ ràng, sợ không phải huyết mạch của quan gia.

Mà tất cả những lời này, lại phải nói từ năm ấy, năm Triệu Tòng còn chưa được sắp lập làm Thái Tử.

**

Hữu An năm thứ bảy, Thái tử phát điên, Tĩnh Vương chết bất đắc kỳ tử.

Thái Tông hoàng đế mất liên tiếp hai đứa con trai, trong vòng một đêm trông già nua thấy rõ.

Triệu Tòng liền tiến vào tầm mắt của ông, ông bắt đầu bồi dưỡng đứa con trai thứ ba này coi như người thừa kế ngôi vị hoàng đế. Với một điều kiện quan trọng nhất, đó là phải hưu thê, trữ quân một nước, không thể cưới thê tử có xuất thân ca kỹ.

Một bên là ngôi vị hoàng đế trong tầm tay, một bên là vợ chồng son mới cưới. Bên nào nặng bên nào nhẹ, trong lòng Triệu Tòng đã sớm đưa ra quyết định.

Hắn dỗ dành A Bảo, chỉ tay lên trời thề rằng hắn chỉ yêu mỗi nàng, trong lòng chỉ có mình nàng. Nhưng chỉ cần nàng chịu chút hy sinh nho nhỏ, đợi mai sau lên ngôi rồi, hắn nhất định vẻ vang đón nàng về, lập nàng làm Hoàng hậu.

A Bảo quấy khóc không thôi, náo loạn đòi về Dương Châu.

Nàng không phải không biết hưu thê là loại ý tứ gì. Lúc trước ở Dương Châu đã từng nói, A Bảo nàng vĩnh viễn không làm thiếp, nếu hắn muốn lấy nàng, phải cưới hỏi đàng hoàng, mời nàng về làm vợ. Triệu Tòng muốn hưu nàng, nàng không phản đối, vậy để nàng quay về Dương Châu là được rồi.

Triệu Tòng lại thế nào cũng không chịu. Sau khi dùng hết mọi thủ đoạn mềm dẻo đến cứng rắn đều không có tác dụng, thậm chí hắn còn quỳ gối xuống để cầu xin A Bảo, xin nàng đừng rời khỏi hắn.

Hai người họ cứ nửa hoà hợp nửa giận dỗi như vậy hơn một năm trời. Cuối cùng là A Bảo chịu thỏa hiệp.

A Bảo hết cách rồi, Triệu Tòng không cho nàng đi, mà nàng cũng còn luyến tiếc hắn nữa.

Tình nghĩa phu thê nửa năm, đã đòi sao thì không đưa trăng tới, sủng ái chiều chuộng che chở hết mực. Nàng lại không phải người có ý chí sắt đá, luôn dễ dàng bị lay động như vậy đó.

Tháng ba, Minh Quang năm thứ nhất, A Bảo bị bỏ rơi giữa đường, đón tiếp Tiết gia tam nương tử vào cửa, trở thành nữ chủ nhân mới của phủ Tuyên Vương.

Sau khi bị hưu, A Bảo cũng không có dọn ra vương phủ, mà vẫn ở lại cái sân viện nhỏ của nàng.

Nàng vẫn không rõ mình được tính là gì nữa. Cuộc sống so với lúc trước không khác biệt gì mấy, ngoại trừ đêm đại hôn đó, mỗi đêm Triệu Tòng đều đến dỗ nàng ngủ. Lúc nàng đi lại trong phủ, cũng chưa từng gặp qua vị tân Vương phi kia.

Lúc đó nàng không biết được, cuộc sống bình yên của nàng là được xây dựng trên máu tươi nước mắt của người khác.

Đến tận đêm khuya ngày đông chí tuyết lớn, Tiết Hành khoác áo choàng ghé thăm, khóc lóc cầu xin nàng chừa cho một con đường sống.

A Bảo mới biết, lúc nàng đi lại trong phủ không thấy được vị tân Vương phi đó, không phải vì người vợ mới này của Triệu Tòng tính tình lười biếng không thích đi dạo. Mà là vì trước đó Triệu Tòng có dặn dò nàng ta không được tự tiện ra ngoài, cũng không cho nàng ta thăm nom A Bảo gì hết, càng không được đến cửa quấy rầy nàng.

Đêm đó, Tiết Hành đội gió tuyết ghé thăm, thật ra cũng mạo hiểm chọc giận Triệu Tòng.

A Bảo vẩy vẩy, vừa đánh vừa mắng đuổi Triệu Tòng vào phòng của nàng ta. Xong lúc đi dọc theo con đường về lại sân viện, gió bắc gào thét, nàng ôm lấy ngực mình, lòng đau như cắt.

Nàng rất muốn rất muốn quay lại Dương Châu của nàng, vừa ôm đàn tỳ bà vừa hát ca. Nếu không gặp được Triệu Tòng thì tốt rồi, nếu không theo hắn đến Đông Kinh thì tốt rồi.

Tại một khắc kia, A Bảo hối hận không thôi. Nhưng đời người như nước chảy, chuyện gì qua đã là quá khứ, khó mà quay đầu lại.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 17: Ngày xưa



Thái Tông hoàng đế biết chuyện A Bảo còn ở phủ Tuyên Vương rất nhanh. Ông lấy vị trí Thái tử ra uy h**p, bức Triệu Tòng đuổi A Bảo ra khỏi phủ.

Mùa xuân Minh Quang năm thứ hai, A Bảo dọn ra phủ Tuyên Vương.

Triệu Tòng lo sợ một khi nàng rời khỏi tầm mắt hắn sẽ quay về Dương Châu. Sau đó sắp xếp cho nàng ở lại nhà của tâm phúc Trương Ngu Thần, ngoài trách nhiệm chăm sóc ra còn phải giám sát thật chặt chẽ.

Tuy là vậy, A Bảo lại ở chung với cả nhà Trương gia rất tốt, nàng đi theo Trương phu nhân học nữ hồng may vá, đi theo Trương Ngu Thần đọc sách viết chữ. Nàng còn cùng cô con gái nhỏ Trương gia chơi trò tung tiền, đánh cầu, dạy cô bé đàn tỳ bà, hát những điệu nhạc nhỏ đất Thục, cả nhà Trương gia đều cực kỳ yêu thích nàng.

Lúc Triệu Tòng nhậm chức ở phủ Khai Phong, còn phải thường xuyên vào cung phụ giúp Thái Tông xử lý chính sự, công việc bận rộn. Nhưng nếu có lúc nhàn rỗi, hắn sẽ len lén bỏ lại người theo dõi, đi đến Trương gia thăm A Bảo.

Lúc đầu A Bảo còn cáu kỉnh, không chịu để ý tới hắn, làm bộ không quen biết, hắn cũng không tức giận, còn giỡn mặt tới giúp nàng làm việc nhà, hoặc mặt dày đòi lấy túi tiền mà nàng tự tay thêu vá.

A Bảo có mắng hắn, hắn vẫn thản nhiên nghe mắng. Đóng cửa phòng không để ý tới hắn, hắn sẽ yên lặng đứng ngoài cửa nói chuyện cùng nàng đôi ba câu.

Dần dà, tảng băng trong lòng A Bảo cũng bị hắn ấp cho tan, hai người cứ ở bên nhau một cách khó khăn, thi thoảng mới được một lần gặp mặt. Cho đến mùa đông Minh Quang năm thứ ba, Thái Tông băng hà, Triệu Tòng chính thức đăng cơ.

Sau khi hắn lên làm hoàng đế, cũng không đón A Bảo vào cung ngay mà phải chờ đến lúc thế cục vững vàng mới lập A Bảo lên làm hậu, khiến đám quần thần trở tay không kịp.

Lời đồn đãi bắt đầu từ đó mà ra.

Tháng chín A Bảo mới vào cung, đầu tháng mười chẩn đoán có thai, theo mạch tượng là hoài thai hơn hai tháng.

Điều này có nghĩa là trước khi tiến cung nàng đã mang thai ở Trương gia rồi.

Từ sau khi Triệu Tòng đăng cơ, A Bảo được sắp lập làm Hoàng hậu, người nhà Trung Ngu Thần liên tục khoe khoang chuyện Hoàng hậu nương nương từng ở nhà mình ra khắp phố phường. Còn nói Hoàng hậu có quan hệ vô cùng thân mật với chủ nhà, còn được Trương đại nhân dạy cho đọc sách viết chữ, Trương nương tử cầm tay chỉ nàng thêu thùa.

Lời đồn ngày càng trở nên nghiêm trọng, truyền càng xa càng sai lệch. Thế nào lại nói rằng Trương Ngu Thần cầm tay dạy A Bảo viết chữ, hai người họ giấu đầu lòi đuôi, cái thai này trong bụng Hoàng hậu không phải long tử của quan gia, mà là nghiệt chủng của Trương đại nhân Trương Ngu Thần.

Lời đồn lan rộng đến triều đình. Triệu Tòng giận dữ, biếm cả nhà Trương Ngu Thần đến Vi Châu, bắt bỏ tù mấy kẻ hầu trong nhà, nhưng vì thiên tử tức giận lôi đình, đổi lại lời đồn càng mất khống chế hơn.

Vào thời điểm đang sứt đầu mẻ trán vì tai tiếng, A Bảo lại không có cảm thụ gì quá lớn, thứ nhất là bởi vì Triệu Tòng che giấu rất tốt, không để lời đồn truyền tới tai nàng. Thứ hai là nàng tin tưởng Triệu Tòng, tin tưởng hắn có thể xử lý ổn thoả mọi chuyện.

Về phần thứ ba chỉ có mỗi mình nàng mới biết.

Nàng đang lừa mình dối người. Cho dù ai ai cũng phỉ báng nàng, nói nàng không còn trong sạch, nàng cũng cảm thấy Triệu Tòng sẽ không tin bọn họ.

Nhưng sự thật lại quá rõ ràng.

Cho dù Triệu Tòng không quá tin, nội tâm đại khái cũng xuất hiện vài nghi vấn. Nếu không tại sao biến một người ôn hoà như hắn, có thể giận tím người biếm cả nhà Trương Ngu Thần đến Vi Châu xa xôi như vậy, còn giam giữ nhiều người trong ngục nữa. Nếu không phải bị người ta chọc trúng, cần gì phải thẹn quá giận đến mức đó?

Đối với chuyện này, nội tâm A Bảo rất rõ ràng, đúng như lời Tiết Hành từng nói, nàng biết, nàng vẫn luôn biết, chỉ là không dám thừa nhận mà thôi.

Nàng vừa tình nguyện sống trong sự hạnh phúc giả tạo tự mình vẽ ra, vừa sẵn lòng tin tưởng, chỉ cần bản thân hạ sinh hài tử là được. Một khi em bé chào đời, bọn họ sẽ phát hiện đứa con lớn lên giống ai, lời đồn tự khắc sập đổ.

Có suy nghĩ này rồi, nàng liền trở thành vị mẫu thân trông ngóng con mình ra đời hơn bất kỳ người mẹ nào hết.

Nàng trong hậu cung không có bằng hữu, chỉ có thể đem hết niềm vui sướng và chờ mong nói cho Lương Nguyên Kính nghe. Khi đó nàng còn mượn cớ vẽ tranh mình, thường tuyên Lương Nguyên Kính vào cung.

Tại sao lại là hắn mà không phải ai khác?

Nói đại là vì Lương Nguyên Kính đặc biệt không thích nàng đi.

Người này chưa bao giờ xem nàng là Hoàng hậu sẽ cung kính vài phần với nàng, ngược lại, hắn còn có chút ‘Đại bất kính’ với nàng nữa cơ.

Tỷ như hắn sẽ hay thất thần nhìn mặt nàng, rất ít khi gọi nàng “Hoàng hậu nương nương”, lâu lâu mới gọi một tiếng một cách không tình nguyện chẳng hạn, tựa như bài xích cách gọi đó từ trong hàm của mình vậy.

A Bảo biết, hắn cũng giống như mấy vị đại thần tiền triều, cũng không tán thành vị trí Hoàng hậu này của nàng. Nhưng ít nhất những người đó chỉ thầm mắng nàng trong lòng chứ không thể hiện ngoài mặt, còn vị Lương đại hoạ sư này á, lại biểu hiện rất rõ ràng rành mạch lên mặt mình.

Cái này làm cho A Bảo thấy tức giận không thôi. Thầm tính toán trong lòng, càng muốn triệu Lương Nguyên Kính tiến cung, càng muốn bày ra vẻ làm Hoàng hậu trước mặt hắn, để xem rốt cuộc hắn có chịu thừa nhận vị Hoàng hậu này hay không.

Về sau, ngay cả nàng cũng không rõ, cuối cùng là nàng muốn tra tấn Lương Nguyên Kính hay thật sự coi hắn là bạn bè đây?

Có khi vẽ tranh, nàng sẽ hỏi Lương Nguyên Kính xem cái thai này của mình là trai hay gái.

Lương Nguyên Kính đáp không biết.

Nàng nói không được bắt hắn phải chọn một cái.

Lương Nguyên Kính nghĩ nghĩ, xong nói: “Bé gái.”

A Bảo lại vỗ về bụng mình, cúi đầu cười nói: “Ta thì mong là một tiểu lang quân, muốn nó lớn lên giống cha mới tốt.”

Lương Nguyên Kính không nói nữa.

Nàng lại đòi hắn vẽ hình để thêu thùa, muốn tự may áo yếm cho đứa con chưa ra đời này.

Lúc đó Lương Nguyên Kính không trả lời, nàng còn tưởng hắn đang cự tuyệt. Ai ngờ đâu lần vào cung tiếp theo, hắn đã mang theo một xấp bản thảo lại đây.

Có hình hoa cỏ bốn màu, hình long phượng biểu tượng cho sự may mắn, còn có hình con hổ nhỏ vừa uy phong vừa đáng yêu đang chơi đùa với quả tú cầu ngũ sắc. Chỉ vì Lương Nguyên Kính nói, nếu hài tử nàng sinh ra, chắc sẽ cầm tinh con hổ.

A Bảo vừa mừng vừa sợ, thích xấp bản thảo đến mức không buông tay.

“Đa tạ đa tạ,” Nói xong chợt liếc nhìn hắn một cái, cười nói, “Hoá ra ngươi cũng không phải là người đáng ghét tới vậy.”

Lương Nguyên Kính mím môi, yên lặng rũ mắt đứng hầu bên cạnh, trên mặt không lộ rõ đang vui hay buồn.

Sau khi xấp bản thảo bị A Bảo đem về, nàng dựa theo hình vẽ đa dạng đó, mỗi bức may thành mỗi cái yếm.

Triệu Tòng thấy được mới hết sức khó hiểu: “Cái này có cung nhân làm, em cần gì bận bịu như vậy, vừa tốn sức vừa đau mắt.”

Lúc đó A Bảo đang thêu yếm hình lão hổ chơi tú cầu, nghe vậy mới dụi dụi đôi mắt chua xót nói: “Tự tay mẹ nó may sao có thể giống với mấy cái cung nhân làm chứ?”

Triệu Tòng cướp lấy khung căng vải thêu trong tay ra: “Đừng thêu nữa, mắt em đỏ lên hết rồi kìa.”

A Bảo đoạt lại vừa tiếp tục thêu vừa nói: “Hình cuối rồi, nếu chàng mệt thì ngủ trước đi, để em thêu xong là được rồi.”

Triệu Tòng không đi ngủ mà là ngồi ở bên cạnh nàng, im lặng hồi lâu, thẳng đến khi A Bảo thêu xong, mới buồn ngủ ngáp một cái, đột nhiên hắn thấp giọng hỏi: “Vì sao em muốn thêu nhiều như vậy?”

A Bảo duỗi duỗi thắt lưng, khó hiểu liếc hắn, đạo lý đơn giản như vầy sao hắn còn chưa hiểu.

“Con sẽ lớn nhanh thôi, thêu thêm vài cái thay phiên mặc.”

Cuối cùng cả đêm hôm đó, Triệu Tòng vẫn không nói thêm câu nào nữa.

Đang mơ mơ màng màng ngủ, A Bảo cảm giác có vật nặng nào đó bò trên bụng mình, đè nàng tới mức thấy không thoải mái. Nàng mất kiên nhẫn đá đá chân đuổi cái vật ấy đi.

Sáng sớm hôm sau tỉnh lại, Triệu Tòng đã vào triều rất sớm, không còn ở lại chỗ nàng nữa. Lúc cúi đầu nàng bỗng nhiên phát hiện, trên vạt áo ngủ còn lấm tấm vài vệt thấm nước chưa khô.

Sau này A Bảo nhớ lại, chắc là đêm đó Triệu Tòng chính thức hạ quyết tâm bỏ đi đứa nhỏ này.

Nàng một lòng chờ đợi đứa con bình an chào đời, khoẻ mạnh lớn lên, cẩn thận may vài cái yếm lúc nhỏ đến chút quần áo khi lớn cho nó mặc, nhưng Triệu Tòng lại không cho nàng cơ hội sinh đứa nhỏ ra.

Ngày đó là ngày hai mươi tháng ba, cách ngày nàng bị Chúc An ngăn trước Song Tinh Môn mắng nhiếc làm trò cười trước mặt thiên hạ không lâu, Tiết Hành tống cổ người đưa đĩa bánh quế hoa tới.

Lúc đó Lương Nguyên Kính cũng có mặt. Hắn ở trong ngự hoa uyển vẽ tranh cho nàng, thấy nàng cầm khối bánh quế hoa tính đưa vào trong miệng, đột nhiên nói: “Đừng ăn.”

Ngày thường đang vẽ tranh hắn rất ít khi chủ động mở miệng, bởi vậy A Bảo mới có hơi giật mình: “Hả?”

Lương Nguyên Kính nhìn bụng nàng, lại nhìn thị nữ bị Tiết Hành sai đưa điểm tâm tới, thấp giọng nói: “Không an toàn.”

Lời vậy mà hắn cũng dám nói, A Bảo nửa kinh ngạc nửa thấy buồn cười.

“Ngươi cho rằng Tiết Hành sẽ hạ độc vào đây à?” Nàng cười liếc hắn, “Yên tâm đi, Tiết Hành không ngu xuẩn tới mức đó đâu.”

Dứt lời, cắn một miếng bánh quế hoa trong tay, sau đó nhanh nuốt xuống.

Lương Nguyên Kính cản không kịp, chỉ có thể trơ mắt nhìn nàng ăn nó.

A Bảo bị thần sắc lo sốt vó của hắn chọc cười: “Làm gì đó? Y như nhìn thấy người sắp chết vậy, Lương đại nhân, vẽ tranh của ngươi tiếp đi, ta sẽ không sao đâu.”

Nhưng mà nửa nén hương trôi qua, từ bụng lại truyền đến cơn đau nhức dữ dội.

A Bảo ôm bụng té lăn ra đất, trán đổ đầy mồ hôi lạnh, thị nữ bên cạnh hét lên rất to, biến thành một mớ hỗn độn.

A Bảo đau đến độ không mở mắt ra nổi, vẫn nhớ rõ trong tầm mắt mờ mịt, Lương Nguyên Kính ném bút không màng tất cả chạy tới chỗ nàng.

“Đứa nhỏ…”

Nàng nắm lấy cổ áo hắn, kiệt sức nói ra hai chữ.

“Ta biết! Ta hiểu! Nàng đừng nói chuyện!”

Lương Nguyên Kính la lớn ở bên tai nàng, đôi tay có sức mạnh tóm lấy bắp chân nàng, ôm cổ nàng nâng lên.

Rõ là người mảnh khảnh như vậy, rõ là một đôi tay chỉ biết cầm bút. Nhưng sức lực lại không nhỏ tẹo nào, đôi tay cũng có lực ổn định có thể bế ngang nàng đang hoài thai bảy tháng dễ như trở bàn tay.

“Máu…”

A Bảo nghe tiếng kêu khiếp sợ của thị nữ.

“Con… Con của ta, có phải không…”

Nước mắt A Bảo chảy dài từ nơi khoé mắt, làm ướt quan bào màu đỏ của Lương Nguyên Kính, tạo thành dấu vết sẫm màu.

“Con của nàng rất ổn! Nàng đừng sợ! Ta mang nàng đi tìm đại phu!” Lương Nguyên Kính dùng giọng điệu trầm lắng bình tĩnh nói vào tai nàng. Sau đó quát hỏi bọn thị nữ đang hoảng loạn kia, “Ngự dược cục ở hướng nào?”

Có thị nữ nói: “Tôi biết! Lương đại nhân, mời đi theo tôi!”

“Lương Nguyên Kính……”

A Bảo dùng chút sức lực cuối cùng, hô tên Lương Nguyên Kính, chưa kịp nói xong nhưng nàng biết, Lương Nguyên Kính nhất định sẽ hiểu.

Hắn sẽ hiểu câu nói nửa chừng kia của nàng, là cầu xin hắn cứu mạng con nàng. Nàng biết xưa nay mình đối xử khắc nghiệt với hắn, luôn thích trêu chọc hắn. Nàng sai rồi, xin hắn cứu đứa con của nàng, có thể để nó bình an chào đời, A Bảo nàng sẽ cảm kích hắn cả đời, sẽ báo đáp hắn.

Chờ sau khi lý trí hoàn toàn biến thành màu đen, ngón tay A Bảo vẫn luôn nắm chặt vạt áo của Lương Nguyên Kính.

Tay nàng nắm rất chặt thế nên quan y ngự dược cục phải cắt lấy mảnh vải nhỏ áo choàng trước ngực Lương Nguyên Kính xuống. Cho đến khi Triệu Tòng ở Sùng Chính Điện hay tin. Lúc vội vàng tới đây, trong tay A Bảo còn giữ chặt miếng vải đỏ nho nhỏ đó không buông.

Nhưng cuối cùng nàng vẫn mất đi đứa bé kia, đứa con đầu tiên của nàng.

Cũng là đứa con duy nhất nàng từng mang thai.
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 18: Khách đến thăm



“Lương Nguyên Kính, đường từ ngự hoa uyển đến ngự dược cục ấy, có xa không?”

Đột nhiên A Bảo hỏi.

Lương Nguyên Kính ngẩn ra mới thấp giọng thở dài: “Xa.”

Quá xa, là khoảng cách xa xôi nhất trong cuộc đời của hắn, dường như điểm cuối nằm ở phía chân trời, có chạy như thế nào cũng không tới, hai tay của hắn, đều bị máu của nàng chảy ra nhuộm đỏ.

A Bảo lại hỏi: “Năm đó, vì sao ngươi rời Đông Kinh?”

Một năm đó, nàng mất con nhưng bởi vì thai nhi bảy tháng đã lớn, chỉ có thể phá, thân thể bị tổn thương nghiêm trọng.

A Bảo cũng không biết mình vòng một vòng từ quỷ môn quan về lại như nào, chỉ là sau khi tỉnh dậy nghe người ta nói, ngày ấy Triệu Tòng ở ngự dược cục long uy nổi điên, nói rằng nếu không thể cứu mạng Hoàng hậu sẽ để cả ngự dược cục chôn cùng vân vân.

Nhóm y quan ở ngự dược cục bị uy h**p lên tính mạng nên đã hao tốn vô số dược liệu quý hiếm, ai nấy cũng đều cố phát huy trình độ cao nhất của mình, lúc này mới nơm nớp lo sợ cứu A Bảo sống lại, tuy là thế nhưng thân thể A Bảo vẫn bị tổn hại rất lớn, đã không thể sinh con nối dõi được nữa.

Trừ bỏ xuất thân ra, cuối cùng A Bảo đã có thêm lý do chính đáng bị phế, một nữ nhân không thể sinh con đẻ cái sao có thể làm Hoàng hậu?

Đáng tiếc lần này cho dù quần thần có khuyên can ra sao, Triệu Tòng đều nhất quyết không chịu phế hậu.

Cho tới bây giờ A Bảo mới biết được, hoá ra đó là sự đền bù Triệu Tòng cho mình, cái vị trí Hoàng hậu lạnh như băng để đổi lấy đứa con chết trong tay hắn.

Chỉ là nàng khi đó đã không quan tâm đến ai làm Hoàng hậu nữa rồi.

Nàng kéo lê thân thể bị tàn phá, mỗi ngày ở Khôn Ninh Điện ôm những cái áo yếm đó khóc lóc đau thương, còn Triệu Tòng suốt ngày làm bạn với nàng, an ủi nàng cũng không tác dụng, nàng đã giam hãm mình sâu trong bi thương, không thoát được.

Hi Hoà năm thứ hai trôi qua như vậy.

Triệu Tòng vốn tưởng rằng theo thời gian A Bảo sẽ từ từ tốt lên, nhưng mà nàng thì không, thiếu nữ xinh đẹp thích cười ngày xưa đã biến mất tăm rồi, thay vào đó là một A Bảo cõi lòng đầy oán hận, sinh ra gai nhọn, đã khắc nghiệt lại còn hay nói móc người khác.

Nàng nhìn bằng mắt thường cũng thấy được mình đã ốm đi rất nhiều, vả lại còn bị chứng băng huyết, quỳ thuỷ mỗi tháng một là không tới, hai là chảy máu không ngừng, nổi cơn đau bụng kinh đến nỗi khiến nàng muốn tự cầm dao mổ bụng mình.

Nàng không hề thị tẩm, cũng từ chối sự thân mật của Triệu Tòng, thậm chí còn không cho phép hắn bước vào tẩm điện của mình.

Đến cuối cùng Triệu Tòng mất hết sự kiên nhẫn đối với nàng, có lần hắn đòi hỏi bị cự tuyệt đã giận tái mặt dùng tới bạo lực, gặp ngay A Bảo với lấy bình hoa nhỏ trên giàn hoa đập cho chảy máu đầu.

“Là do ta đã quá nuông chiều ngươi.”

Triệu Tòng ôm trán đang chảy máu không ngừng, lạnh lùng nhìn nàng.

Màn đêm buông xuống, hắn nghênh ngang bỏ đi, từ đó về sau không còn đặt chân đến Khôn Ninh Điện của A Bảo nữa.

Có lẽ xuất phát từ lòng trả thù, sau này hắn nạp thêm rất nhiều mỹ nhân, hậu cung đông đúc, lại có thêm nữ nhân bụng nhô lên, số trời mà. A Bảo thích ăn giấm lại như không nhìn thấy.

Rồi đến khi nàng nghe tin Tiết Hành bị biếm xuống Mỹ nhân cũng có hỉ, nàng mất lý trí liều mạng nhảy vào tẩm các của Tiết Hành, căm phẫn đẩy nàng ta ngã xuống đất, dồn hết sức lực đánh vào bụng nàng ta.

“Ta mất con, dựa vào đâu ngươi có được?”

Cung nhân có mặt ở hiện trường nói, lúc ấy thái độ nàng điên cuồng, trong miệng luôn lặp đi lặp lại câu nói đó.

Tiết Hành sinh non, đứa bé trong bụng nàng ta vẫn chưa tới hai tháng, đến nỗi A Bảo liền bị Triệu Tòng hạ lệnh cởi bỏ phục chế Hoàng hậu, phế thành thứ dân.

Năm này đã là mùa xuân Hi Hoà năm thứ ba, cách một năm tới ngày nàng chết đi.

Năm đó mất con nhỏ, ý chí tinh thần sa sút, A Bảo không phải không tính tuyên Lương Nguyên Kính vào cung, cung nhân hầu hạ nàng đọc thoại bản đã bị đuổi thay người mới, những người mới đến nàng không quen biết ai hết, nàng ở trong cung không có bạn chơi, nữ nhân hậu cung xem thường nàng, coi nàng là trò cười.

A Bảo bấm đốt ngón tay tính đi tính lại, ở thành Đông Kinh rộng lớn như vậy, nếu hỏi người bạn chân chính có thể nói chuyện với mình được thế mà chỉ có mỗi Lương Nguyên Kính, nàng còn chưa cảm ơn lần hắn đưa nàng đến ngự dược cục, tuy rốt cuộc không giữ được đứa bé, nàng vẫn nên cảm tạ hắn mới phải.

Chỉ là theo lời như cung nhân nói, lúc nàng đi tuyên Lương Nguyên Kính vào cung vẽ tranh, bọn họ đều ngạc nhiên nói: “Nương nương, ngài chưa biết sao?”

“Biết gì?”

“Lương đại nhân đã rời khỏi Đông Kinh rồi ạ.”

“……”

A Bảo há miệng, mịt mờ một lúc rất lâu sau đó mới nghe rõ người đó nói gì.

“Rời đi rồi?” Nàng lẩm bẩm, “Rời đi, rời đi cũng tốt…”

Qua một lúc sau chợt hỏi cung nhân kia: “Y đi đâu vậy?”

Cung nhân khó xử lắc đầu: “Cái này nô tỳ không biết ạ, chắc là về quê rồi.”

“Về quê?”

A Bảo lại muốn hỏi, quê nhà của Lương Nguyên Kính ở đâu, nhưng nếu có hỏi chắc cũng không biết nên đành phải ngậm miệng.

Sau đó vào lãnh cung hẻo lánh, bên cạnh chỉ có mỗi người câm bầu bạn, lúc A Bảo bệnh tật triền miên nằm trên giường, thường nghĩ nếu Lương Nguyên Kính còn ở đây mình có suy bại đến nước này không nhỉ?

Chắc sẽ không đâu.

Tên Lương Nguyên Kính kia chắc chắn sẽ dùng ánh mắt khiến người ta chán ghét nhìn thẳng vào nàng, nói cái gì mà “Ngươi không thể làm vậy”, thật giống như nàng nên nghe lời hắn, căn bản không thèm đem Hoàng hậu nàng đặt vào mắt.

Nhưng A Bảo cảm thấy nếu Lương Nguyên Kính thật sự còn ở đây, nếu hắn dám nói những câu người khác ngại nói, có lẽ nàng sẽ thật sự sẽ nghe theo hắn.

Bởi vì nàng không muốn người bạn duy nhất của nàng trên thế gian này, cũng trở nên chán ghét nàng.

Chỉ tiếc là không còn Lương Nguyên Kính nữa.

**

“Vì sao ngươi rời Đông Kinh?”

A Bảo hỏi lại lần nữa, vấn đề này nàng muốn hỏi từ lâu rồi.

Lương Nguyên Kính yên lặng chốc lát mới nói: “Năm ấy, phụ thân ta mắc bệnh nên gửi thư kêu ta trở về chăm sóc.”

“À,” A Bảo nói, “Cha ngươi bệnh nên về là phải ha, giờ ông ấy đã khoẻ hơn chưa?”

“Năm Hi Hoà thứ tư đã đi rồi.”

“……”

A Bảo im bặt một hồi: “Nén bi thương.”

“Đều đã qua.”

Lương Nguyên Kính dừng lừa lại, từ trên lưng nó leo xuống, nhìn A Bảo nói: “Sắp đến nhà rồi, ta dẫn nàng vào.”

A Bảo gật gật đầu.

Lương Nguyên Kính vẫn như thường ở đằng trước dắt lừa cho nàng, A Bảo ngồi một mình trên lưng lừa, bỗng nhiên kêu: “Lương Nguyên Kính.”

“Hử?” Hắn không quay đầu lại đáp.

“Vừa nãy còn ở Kim Minh Trì, ngươi muốn kháng chỉ hả?”

Bước chân của Lương Nguyên Kính hơi khựng lại chút xíu, rất nhanh đã trở lại bình thường như không có việc gì, chưa trả lời chỉ hỏi ngược lại: “Nàng hy vọng ta sẽ vẽ bức tranh nàng sau đó giao cho hắn?”

Chữ hắn này tất nhiên nói Triệu Tòng.

A Bảo lắc đầu: “Này không phải vấn đề ta muốn, Lương Nguyên Kính, hình như ngươi đã quên mất một chuyện.”

“Chuyện gì?”

A Bảo hít sâu một hơi, bình tĩnh nói: “Ta chết rồi.”

Lần này Lương Nguyên Kính mới thật sự dừng bước, hắn không quay đầu lại, bóng hình cô đơn cô tịch, để lại cái bóng dài nghiêng trên mặt đất.

A Bảo không thấy sắc mặt của hắn, tất nhiên nàng có thể bay đến trước để nhìn thử xem sao.

Nhưng mà lúc này đây, A Bảo không muốn làm vậy.

Nàng nói: “Ta hy vọng thời khắc này đây ngươi sẽ nhớ kỹ, ta chết rồi, muốn làm gì hay quyết định cái gì, không cần phải dè chừng ta mà hãy ưu tiên suy xét chính mình trước đã. Ví dụ như chuyện hôm nay đi, giả sử ngươi cự tuyệt ý chỉ của Triệu Tòng, với ta mà nói không có chút tác dụng gì hết, còn với ngươi là khó thoát tội chết, không còn cơ hội để về nhà nữa đâu.”

A Bảo ngóng nhìn sao trời trên cao, trùng hợp thay bọn họ đã đi qua cây hoè già, sương sớm kết trên phiến lá, gió đêm thổi tới, cành lá rung rinh, mấy giọt sương từ trên đầu rơi xuống, không có dừng ở giữa mày A Bảo, mà là xuyên hẳn qua đầu nàng.

A Bảo cười tự giễu, nói: “Lương Nguyên Kính, ta chết rồi, có biết người chết là như nào không? Là sẽ không khóc, sẽ không đau, sẽ không nằm mơ, cũng sẽ không đói không khát. Ta sẽ không ngã khỏi lưng con lừa, dù có té xuống, cũng sẽ không thấy đau đớn, ngươi xem.”

Nàng cố ý ngả nghiêng sang một bên, ngã xuống khỏi lưng lừa.

Lương Nguyên Kính hết sức kinh ngạc, theo bản năng duỗi tay đỡ đần, nhưng hai tay của hắn lại xuyên qua thân thể của A Bảo.

Hắn ngây ngốc tại chỗ.

A Bảo tận lực xem nhẹ khoảng khắc thất thần trong mắt hắn, tỏ vẻ không sao hết bay từ dưới đất ngồi lên lại lưng con lừa, nói: “Ngươi mua mấy món điểm tâm cho ta, ta cũng không thể ăn, sở dĩ để ngươi mua chỉ bởi vì ta thấy rất hoài niệm hương vị của nó mà thôi.”

Nàng nhẹ nhàng thở dài một hơi: “Ngươi xem đi, Lương Nguyên Kính, đây mới là người chết ấy.”

“Nàng ăn được.”

Giữa đôi mày tuấn tú phong độ bỗng xuất hiện nỗi cố chấp không thích hợp với tính tình hắn, hắn mấp môi nói: “Chỉ cần ta lấy máu vẽ tranh thì nàng sẽ có thể sống lại.”

“À, thiếu chút nữa quên cái này.”

A Bảo cười: “Đúng ha, nói vậy là ta vẫn có thể sống lại, nhưng mà…”

Nàng chuyển đề tài, cụp mắt nhìn chằm chằm đầu ngón tay trong suốt, nụ cười dần trở nên ảm đạm.

“Ta vẫn là người đã chết thôi.”

Còn lại một quãng đường ngắn, hai người họ đều không nói thêm lời nào nữa.

A Bảo cưỡi ở trên lưng lừa, nhìn bóng dáng gầy guộc Lương Nguyên Kính đang dắt lừa đi trước, đáy lòng chợt nảy sinh nỗi niềm khổ sở.

Nàng nghĩ, nàng không nên khi dễ Lương Nguyên Kính, mặc kệ là trước đây hay hiện tại.

Lương Nguyên Kính ấy, hắn là cái người siêu siêu siêu tốt luôn.

Nếu bản thân không chết thì tốt rồi, nếu mình không chết đi, nhất định nàng sẽ……

Sẽ như nào nhỉ?

A Bảo chưa cẩn thận suy nghĩ, bỗng nhiên phát hiện con lừa đã dừng lại.

Nàng đang muốn hỏi Lương Nguyên Kính làm sao vậy, ngẩng đầu lại thấy có người đứng kế cửa nhà Lương gia, người nọ thân mặc tăng bào, đầu đội nón cói, lưng đeo hồ lô, yên lặng đứng dưới ánh trăng trong vắt, bên má phải còn có cái lúm đồng tiền sâu, khẽ mỉm cười nhìn Lương Nguyên Kính.

Đêm hè tĩnh lặng, không biết chó nhà nào đang sủa.

Hoà thượng đứng cách rất xa, cười vang nói: “Tiểu hữu Nguyên Kính, từ lần từ biệt ở phàn lâu đến nay, đã lâu không gặp, cậu khoẻ không?”

**

[Thơ Đường] Phùng tuyết túc Phù Dung sơn chủ nhân – Lưu Trường Khanh

Hoàng hôn núi trải xa mờ,

Ngôi nhà trời lạnh trống trơ nỗi nghèo.

Cửa xiêu chó sủa vọng veo,

Đêm đông tuyết lạnh người theo quay về.

(bản dịch của Thien Thanh, thivien net)

⎯ ⋆˚࿔ Hết quyển hai «Tuý hoa âm»

**

Tác giả có chuyện nói:

Các cơ quan thai nhi bảy tháng về cơ bản đã phát triển hoàn toàn, có mắt mũi hết rồi, nếu sinh vào lúc này đã tính thành sinh non, dù dựa vào trình độ tiên tiến thời giờ cũng còn rất nguy hiểm, dựa vào thời cổ đại thì, xác suất có thể một xác hai mạng.

Tôi tính viết còn năm tháng thôi, nhưng như vậy thì thời gian không khớp nhau, chỗ này chúng ta cứ đặt giải thiết các ngự y đã cố gắng hết sức đi, chứ nếu không chạy chữa được là chết rồi. (rớt nước mắt)editor cũm thía
 
Phế Hậu A Bảo - Đao Thượng Phiêu
Chương 19: [Dương Châu mạn] Hoà thượng



“Chuyến này tôi xuôi về phía nam, vân du Cô Tô, đầu tiên là đến Thừa Thiên Tự ở Tô Châu, sau đó đi Tây Hồ Hàng Châu, bái yết chùa Linh Ẩn, Phi Lai Phong, phong cảnh Giang Nam quả nhiên khác biệt so với phía bắc, tiểu hữu Nguyên Kính nè, nơi này khác nhau ra sao nhất định tôi phải tỉ mỉ nói với cậu, đêm nay chúng ta lại thắp nến tâm sự suốt đêm…”

Giác Minh hoà thượng vừa vào phòng đã nói năng không ngừng nghỉ, y như muốn kể hết những gì y từng đi qua vậy.

Lương Nguyên Kính thắp sáng đèn dầu xong xoay người lựa lời nói: “Tiểu sư phụ, cái đó sau này chúng ta từ từ nói, tôi có chuyện…”

“À, phải phải phải,” Giác Minh chen lời chàng, “Tôi trở lại chùa thì có người nói tháng trước cậu tới tìm gặp tôi, cho nên tôi mới ‘vó ngựa lao nhanh’ lập tức đến nhà tìm cậu, cậu tìm tôi có chuyện gì vậy?”

Lương Nguyên Kính cùng A Bảo đưa mắt với nhau, nhìn hòa thượng nói: “Cậu có thấy cái gì khác trong phòng này không?”

Giác Minh há mồm: “Cái đèn, cái giường, bàn ghế, bình phong… Ủa, sao sau tấm bình phong còn có thêm cái giường nữa vậy? Tiểu hữu Nguyên Kính, chắc cậu đoán trước hôm nay tôi sẽ đến tá túc nhà cậu đúng không? Úi xời! Khách sáo quá đó! Tôi và cậu ngủ cùng sập là được rồi, cần gì phiền phức thế đâu!”

Hoà thượng mặt mày vui mừng.

Lương Nguyên Kính: “……”

A Bảo: “……”

Tầm mắt nàng hoài nghi quét qua quét lại trên mặt hai người họ, có thật sự chỉ là bạn bè hay không vậy? Nghe có vẻ không đơn giản lắm nha.

Lương Nguyên Kính đỡ trán nói: “Không phải mấy cái đó, là người, cậu có thấy ai không?”

Giác Minh nói: “Cậu.”

Lương Nguyên Kính: “Trừ tôi ra.”

Giác Minh chỉ vào mình: “Tôi.”

“………………”

“Y không thấy tôi.” A Bảo nói, “Thôi, đừng hỏi nữa.”

Lương Nguyên Kính nhìn nàng một cái, hít một hơi sâu, chỉ vào vị trí nàng đứng nói với Giác Minh: “Chỗ này có một quỷ hồn, cậu không thấy hả?”

Giác Minh hoà thượng hoảng sợ lùi về sau một bước, nói: “Ai đâu? Quỷ hồn của ai?”

A Bảo trừng mắt với Lương Nguyên Kính: “Đã trễ thế này, anh cần gì hù y?”

Lương Nguyên Kính rũ mắt nói: “Của Hoàng hậu.”

Nói xong, có lẽ nhớ tới Tiết Hoàng hậu quốc triều mới lập, lại bổ sung thêm: “Vị trước kia.”

Giác Minh tức khắc thở phào nhẹ nhõm, nhíu mày nói: “Sao cậu còn…”

Còn?

Còn gì thế?

A Bảo không hiểu gì, nhưng Giác Minh hoà thượng lại không nói tiếp, chỉ thở dài nhìn Lương Nguyên Kính, chân thành nói: “Hay vầy đi, chỗ tôi có hai cuốn kinh thư, cậu cầm lấy mỗi ngày chép ba lần, nhưng cần phải bình tâm tĩnh khí, buông bỏ những điều không nên có…”

“Cây bút cậu tặng tôi,” Lương Nguyên Kính đột nhiên hỏi, “Là từ nơi nào có được?”

A Bảo gấp muốn chết, thầm nghĩ anh đừng cắt ngang y nữa mà, nàng chỉ nghe được phần đầu, buông bỏ cái gì? Điều gì không nên có?

Giác Minh sửng sốt: “Hả? Cậu nói tới cây bút tôi đưa cho cậu lúc cùng nhau nhập kinh vào tháng chín năm ngoái á?”

Lương Nguyên Kính gật đầu: “Đúng vậy.”

Giác Minh gãi gãi cái đầu trọc, hết sức hoang mang nói: “Cây bút đó? Hình như là vị huyện thừa Hồ Châu tặng tôi, cậu biết nơi đó sản xuất bút tốt nhất mà, thông thường xưa nay cậu đâu yêu thích cái gì ngoài sưu tầm văn phòng tứ bảo, nên tôi mới mượn hoa dâng phật, lấy nó tặng cậu. Sao vậy, bút đó có vấn đề gì à?”

Lương Nguyên Kính nhìn về phía A Bảo.

A Bảo thở dài: “Nói cho y đi.”

Nửa canh giờ sau.

Giác Minh hoà thượng uống xong ngụm trà trong chén mới nói: “Cậu nói, cậu có thể thấy quỷ hồn của Hoàng hậu nương nương, nếu lấy máu nhỏ vào nghiên mực, sau đó vẽ bằng bút thần, hồn phách của Hoàng hậu nương nương sẽ nhập vào vật sống trong tranh, có thể cải tử hoàn sinh?”

Lương Nguyên Kính nghiêm trọng gật đầu: “Đúng vậy.”

A Bảo che mặt lại: “Lương Nguyên Kính, nghe như anh bị điên sao ấy.”

Không ngờ còn có người điên hơn cả Lương Nguyên Kính, đột nhiên Giác Minh hoà thượng đứng dậy, cúi người vái chào, chấp tay hành lễ, miệng niệm phật nói: “A di đà phật, tiểu tăng pháp hiệu Giác Minh, ở đây xin bái kiến Hoàng hậu nương nương.”

“……”

A Bảo: “Tôi bên này.”

Lương Nguyên Kính nhắc nhở: “Nàng ở bên phải cậu.”

Giác Minh liền thay đổi phương hướng, vẫn cúi người bái lạy: “Tiểu tăng bái kiến Hoàng hậu nương nương.”

“Cảm ơn nha, là tiền Hoàng Hậu, nếu không ngại cứ gọi tôi là A Bảo.”

A Bảo nhìn về phía Lương Nguyên Kính, ý tứ là thay tôi truyền đạt lại cho y đi.

Lương Nguyên Kính mím môi, nói: “Nàng kêu cậu gọi nàng là A Bảo.”

Quay lại đề tài cải tử hoàn sinh.

Lương Nguyên Kính hỏi Giác Minh: “Cậu thấy nguyên nhân do đâu? Cây bút cậu tặng tôi là bút thần thật à?”

Giác Minh lắc đầu, sắc mặt hơi suy sụp: “Nó chỉ là cây bút phổ thông bình thường không có gì đặc biệt cả!”

“Vậy sao……”

“Khoan nói này đã,” Giác Minh xen vào, “Tiểu hữu Nguyên Kính à, tôi chỉ muốn hỏi cậu một chuyện, cậu có từng thử dùng cây bút khác vẽ tranh để Hoàng… tiểu nương tử A Bảo sống lại chưa?”

“Thử rồi,” Lương Nguyên Kính nhíu mày, “Không được.”

“Từng nhỏ máu vào luôn sao?”

Lương Nguyên Kính ngẩn ra.

A Bảo âm thầm nói: “Không có.”

Từ sắc mặt của chàng Giác Minh cũng đã suy đoán ra đáp án, tay trái nắm lại đập vào lòng bàn tay một cái: “Cậu xem, chuyện này không phải rất rõ ràng sao, chuyện cải tử hoàn sinh không liên quan đến cây bút tôi tặng, mà là liên quan đến máu của cậu đó, dù cậu có vẽ bằng bút gì đi chăng nữa, chỉ cần nhỏ máu vào, linh hồn tiểu nương tử A Bảo sẽ sống lại, không tin cậu cứ thử xem.”

Lương Nguyên Kính ngây ngốc cả người.

A Bảo quay đầu nói với chàng: “Thử xem sao đi.”

Sau một nén nhang, toàn thân A Bảo lại nóng hổi, cảm thấy chóng mặt hoa mắt.

Ngay sau đó, nàng cảm nhận được bản thân đang từ từ lùn xuống, tầm mắt nàng thấy dáng người của Lương Nguyên Kính và Giác Minh càng trở nên cao lớn dị thường, đồ vật bày biện trong phòng cũng vô cùng kỳ quái, hình như mấy món đó bị phóng to ra gấp mười lần lận.

Lạ quá, Lương Nguyên Kính vẽ nàng thành cái gì vậy?

A Bảo lắc lắc đầu, cử động tứ chi.

Miệng Giác Minh há to ra, ngạc nhiên không thôi chỉ vào nàng: “Quào! Chó kìa!”

A Bảo: “…………”

Chó?

Chó á??

Lương Nguyên Kính vẽ nàng biến thành một con chó???

A a a! Nực cười!! Nàng cắn chết chàng!!!

A Bảo phi thẳng qua, bám lên chân trái của Lương Nguyên Kính, ẳng ẳng một tiếng.

Lương Nguyên Kính cười bế chú chó nhỏ đen trắng lên, bắt lấy hai chân trước của nàng: “Đừng giận, thời gian có hạn chỉ có thể vẽ được như này thôi.”

Ẳng ẳng! Tôi mặc kệ anh!

Chân sau của A Bảo điên cuồng đạp loạn trong không khí, đáng tiếc chân quá ngắn, không thể đá tới cái bản mặt khó ưa của Lương Nguyên Kính.

Lương Nguyên Kính ôm nàng vào lòng ngực, một lần nữa cầm bút lên:

“Tôi vẽ bức khác cho em.”

“Vẽ cho đàng hoàng!” A Bảo tức giận nói, “Lại vẽ thành con chó con mèo nào khác đi, coi tôi có cắn chết anh không!”

Lương Nguyên Kính nâng môi cười nhạt, múa bút vẩy mực.

A Bảo hờn dỗi chốc lát cũng từ từ hết giận, ngửi thấy mùi hương bạch đàn dễ chịu từ trên cổ chàng sinh ra chút mê mang.

Ui cha, thơm quá vậy, trên người Lương Nguyên Kính thơm quá, lại ấm nữa, nàng tự động cọ qua cọ qua trong lòng ngực chàng, ủn tới ủn lui cho tới khi vạt áo chàng nhăn nhúm.

“Đừng quậy.”

Lương Nguyên Kính vừa vẽ vời vừa lấy tay chụp cái đầu cún của nàng lại.

Oa, xúc cảm chàng sờ đầu nàng sướng quá đi.

A Bảo nỗ lực dúi dúi vào bàn tay chàng, Lương Nguyên Kính liền thuận thế xoa xoa đầu nàng, còn dùng ngón tay vu.ốt ve dọc phần lưng cho nàng.

Giác minh: “………………”

Là y bị ảo giác sao?

Vì sao y cảm thấy ánh mắt chú chó này say đắm dữ vậy?

“Đúng là thế gian rộng lớn, chuyện gì cũng có thể xảy ra mà.” Hoà thượng khẽ cảm thán, “Tiểu hữu Nguyên Kính, không giấu gì cậu, lúc nãy nghe cậu nói gì mà hồn nhập tranh sống lại tôi chỉ dám tin ba phần, giờ lại tận mắt chứng kiến chó con trong tranh xuất ra ngoài phòng mới biết thiên hạ cũng có chuyện kỳ diệu như này!”

Lương Nguyên Kính ngừng bút trong tay, thở dài: “Ban đầu tôi cũng không dám tin mà.”

A Bảo chán chường dúi đầu vào tay chàng, sờ tiếp coi! Đừng có ngừng mà!

Lương Nguyên Kính lập tức trấn an vuốt vuốt lông nàng, tiếp tục vẽ tranh, qua hồi lâu sau mới vẽ xong.

“Vẽ xong rồi?” Giác Minh thò người lại nhìn, không khỏi oà lên, “Đây là…”

Là cái gì?

Sao hoà thượng này hay úp úp mở mở quá vậy?

A Bảo đang ăn vạ lim dim sắp ngủ trong lòng ngực của Lương Nguyên Kính, giờ cố chống mí mắt lên nhìn bức tranh, mắt chó tức khắc mở to.

Trên tranh…

Là nàng mà.

À đâu… Cũng không thể hoàn toàn nói là nàng, người trong tranh có mặt mũi dáng người tương tự nàng, nhưng lại có hơi không khớp lắm, so phong thái năm xưa của nàng thì có vẻ ngây thơ non nớt hơn, giống như…

A Bảo thời thiếu niên.

Kỳ lạ, khi đó Lương Nguyên Kính đã quen biết mình rồi à? Sao vẽ giống tới vậy được nhỉ?

A Bảo đang muốn tiến lên nhìn kỹ hơn thì Lương Nguyên Kính đã dùng con dao nhỏ trên bàn cắt nhát vào bàn tay mình, tay nắm thành quyền, từng giọt máu tươi rớt xuống, như giọt nhỏ xuống giữa mày mỹ nhân trong tranh, tạo thành hình xoáy nước, máu tươi nhanh chóng chảy vào đó, sau khi ánh đỏ hồng chợt loé, tính luôn cả mỹ nhân đang dạt dào ý cười dần dần biến mất.

Tuy lúc nãy đã xem qua một lần, Giác Minh vẫn phải trợn mắt há hốc mồm.

Thanh tao như nước mùa thu, quý phái từ trong xương cốt.

Mày cong như trăng non, mắt sáng như vì sao, môi đỏ thắm như son.

Lương Nguyên Kính không hổ danh là họa sư vẽ mỹ nhân giỏi nhất thế gian, không biết từ bao giờ, vị tuyệt sắc giai nhân đã xuất hiện, trên mặc chiếc áo lụa mỏng màu xanh ngọc nhạt, dưới mặc chiếc váy dài thướt tha màu đỏ sẫm điểm hoa trắng, cánh tay choàng áo lụa son, trang sức trên tóc lấp lánh, eo đeo ngọc bội, cổ tay trắng nõn đeo ba chiếc vòng bạc, ánh mắt buông lơi, yên lặng đứng giữa ánh nến.

“A Bảo.”

Ánh mắt Lương Nguyên Kính chuyên chú khẽ gọi tên nàng.

A Bảo cúi đầu lật tay mình lên xuống, hoảng hốt một hồi mới hoàn hồn trở lại

Nàng ngẩng đầu cười: “Xin lỗi nhiều, lâu rồi chưa làm người sống, lại y đúc như trước kia, tôi có chút… Không quen lắm. Chỉ là… Sao anh biết tôi có ba chiếc vòng bạc này vậy? Đó là vòng a ca làm cho tôi, sau này phải cầm cố, tôi muốn tìm lại cũng không được.”

Lương Nguyên Kính dời mắt: “Tôi vẽ đại thôi, cũng không biết em có.”

“Thật không?” A Bảo có hơi nghi ngờ, “Nhưng mà giống lắm, thực sự giống y như đúc.”

Kể cả hoa văn được khắc trên đó cũng giống nữa.

Giác Minh hoà thượng gượng cười vài tiếng, nói: “Phàm là nữ tử khuê các Đại Trần ai cũng thích mang trang sức bạc thôi, trưởng bối trong nhà cũng thường chế tạo bạc làm của hồi môn gả con gái, là chuyện bình thường có gì lạ đâu, ha ha, chả có gì lạ.”

Cũng phải, nhớ rõ năm xưa còn ở nhà Trương Ngu Thần, trên cổ tiểu nương tử nhà ông ấy cũng có một cái khóa như ý làm bằng bạc [1], nghe nói là đã đeo từ nhỏ cơ.

[1] Hình ảnh minh hoạ (nguồn: Baidu)
u33560138583720813786fm224app112fjpeg.jpeg


A Bảo cũng không nói gì nữa.

Lương Nguyên Kính quay đầu hỏi Giác Minh: “Cậu thấy vì sao lại như vậy?”

Giác Minh đứng lên, đi đi lại lại trong vòng vài bước, giữa mày nhíu chặt: “Lấy máu vẽ tranh hồn phách sống lại là chuyện thần kỳ, tôi chưa nghe nói bao giờ, cũng không hiểu được nguyên nhân, có lẽ phải chờ sau khi tôi về chùa, lật kinh thư ra đọc xong mới biết được, chẳng qua…”

“Chẳng qua gì?” Lương Nguyên Kính truy hỏi.

Giác Minh nhìn ngược về phía A Bảo, trên mặt chất chứa vẻ thương xót, nói a di đà phật: “Chẳng qua, thân xác của tiểu nương tử A Bảo đã tiêu tan mà hồn vẫn còn lưu lạc trên trần gian này, không vào được sáu cõi luân hồi , nếu vậy, chắc là sinh thời còn tâm nguyện chưa làm xong.”

A Bảo chợt ngẩn người.

Tâm nguyện… Chưa làm xong?
 
Back
Top Bottom