Tâm Linh Mạng sống trường cửu

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
398230472-256-k805693.jpg

Mạng Sống Trường Cửu
Tác giả: buithitaman1993
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Sanh tử luân hồi
Khổ đau khôn xiết
Sao không thoát khỏi
Về chốn vĩnh hằng Tags: luânsanh​
 
Mạng Sống Trường Cửu
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH


PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ

TRANG NGHIÊM THANH TỊNH

BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH

PHẨM THỨ NHẤT

PHÁP HỘI THÁNH CHÚNG

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ở núi Kỳ Xà Quật nơi thành Vương Xá, cùng với đại thánh chúng Tỳ kheo một vạn hai ngàn vị đã chứng thần thông: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan v.v..., là những bậc thượng thủ.

Lại có các ngài Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát và tất cả Bồ Tát trong hiền kiếp đến tập hội.

PHẨM THỨ HAI

ĐỨC TUÂN PHỔ HIỀN

Lại có mười sáu vị Bồ Tát tại gia: Hiền Hộ Bồ Tát, Thiện Tư Duy Bồ Tát, Huệ Biện Tài Bồ Tát, Quán Vô Trú Bồ Tát, Thần Thông Hoa Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Bảo Tràng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Tịch Căn Bồ Tát, Tín Huệ Bồ Tát, Nguyện Huệ Bồ Tát, Hương Tượng Bồ Tát, Bảo Anh Bồ Tát, Trung Trú Bồ Tát, Chế Hạnh Bồ Tát, Giải Thoát Bồ Tát, là những bậc thượng thủ.

Các vị Bồ Tát này đều tuân theo hạnh nguyện của Phổ Hiền Đại sĩ, thật hành vô lượng hạnh nguyện, quyền hành phương tiện đi khắp mười phương làm các công đức, vào pháp tạng của chư Phật, rốt ráo giải thoát, nguyện chúng sanh ở vô lượng thế giới, đồng chứng Phật quả, rời cung trời Đâu Suất, giáng sanh vào cung vua, bỏ ngôi vị mà xuất gia, khổ hạnh học đạo.

Thị hiện thuận theo thế gian pháp, đem sức định tuệ hàng phục ma oán, đắc pháp vi diệu thành bậc tối Chánh giác, người trời quy ngưỡng.

Chuyển bánh xe pháp, đem pháp âm giác ngộ thế gian, phá thành phiền não, lấp ao tham dục, gột sạch cấu uế, hiển bày đức thanh tịnh, điều phục chúng sanh, tuyên thuyết diệu lý, tích công lũy đức, gây tạo phước điền.

Đem pháp dược cứu liệu các khổ ba cõi.

Làm phép quán đảnh thọ ký Bồ Đề.

Giáo hóa Bồ Tát nên làm A Xà Lê biểu thị vô biên công hạnh, thành thục vô biên thiện căn cho hàng Bồ Tát.

Vô lượng chư Phật đồng đến hộ niệm.

Trong tất cả cõi Phật đều có thể thị hiện như vậy.

Như nhà ảo thuật biến ra các hình tướng, nhưng các hình tướng ấy không có thật tướng.

Bậc Bồ Tát này cũng lại như vậy, đã thông đạt tánh tướng của chúng sanh, cúng dường chư Phật.

Dắt dẫn quần sanh, hóa hiện các thân, mau như ánh chớp.

Phá tan lưới chấp, thoát dây ràng buộc, qua khỏi quả vị Thanh Văn, Bích Chi, chứng nhập ba pháp: Không, vô tướng, vô nguyện.

Khéo lập phương tiện hiển thị ba thừa.

Đối với hàng trung hạ căn thị hiện có diệt độ.

Chứng đắc vô sanh vô diệt, vào sâu thiền định, được vô lượng trăm ngàn pháp tổng trì.

Ngộ nhập Hoa Nghiêm tam muội, chứng trăm ngàn tổng trì tam muội, vẫn trụ sâu trong thiền định, thấy rõ vô lượng Đức Phật.

Khoảnh khắc đi khắp cõi Phật, được biện tài của Phật, vào hạnh nguyện Phổ Hiền.

Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ, vượt khỏi các pháp thế gian.

Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh, đối với vạn vật tùy ý tự tại, với lục đạo phàm phu làm bạn không thỉnh.

Vâng giữ pháp tạng nhiệm màu Như Lai, hộ trì giống Phật khiến không dứt.

Phát rộng lòng thương xót hữu tình, nói lời từ ái, trao pháp nhãn, đóng đường ác, mở cửa lành.

Đối với chúng sanh biểu hiện cởi mở, cứu giúp phò trợ, mong độ chúng sanh đến bờ giác ngộ.

Quyết được vô lượng công đức, trí huệ sáng suốt không thể nghĩ bàn.

Vô lượng vô biên đại Bồ Tát như vậy đồng đến pháp hội.

Lại có năm trăm vị Tỳ kheo ni, bảy ngàn vị Ưu bà tắc, năm trăm vị Ưu bà di và chư thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Phạm chúng đồng đến dự đại hội.

PHẨM THỨ BA

ĐẠI GIÁO DUYÊN KHỞI

Bấy giờ Đức Thế Tôn hiện trăm ngàn sắc tướng oai quang sáng chói, như gương sáng sạch chiếu rõ vạn pháp.

Tôn giả A Nan liền tự suy nghĩ, ngày nay Đức Thế Tôn hiện sắc tướng nghiêm tịnh rạng rỡ nguy nguy, cõi nước trang nghiêm, từ trước đến nay ta chưa từng thấy, thật là hi hữu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo vai hữu, quỳ gối chắp tay bạch Đức Phật rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn!

Hôm nay Thế Tôn vào Đại Tịch Định, an trụ trong pháp đặc biệt, an trụ trong pháp hạnh tối thắng của chư Phật.

Quá hiện vị lai, Phật Phật nhớ nhau.

Thế Tôn vì nhớ chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai hay chư Phật hiện tại phương khác?

Vì sao lại có oai thần hiển diệu thù đặc như vậy.

Cúi xin Đức Thế Tôn chỉ dạy.”

Bấy giờ Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Lành thay!

Lành thay!

Ông vì thương xót lợi lạc các chúng sanh mới hỏi điều vi diệu như vậy.

Lời thưa hỏi của ông hôm nay công đức thù thắng hơn trăm ngàn vạn lần nhiều kiếp bố thí cúng dường các bậc A La Hán, Bích chi Phật cùng chư Thiên, nhơn loại và các loài bò, bay, xuẩn động trong một thiên hạ.

Vì sao vậy?

Chư Thiên, nhân loại và tất cả hàm linh đời sau đều nhơn lời hỏi của ông hôm nay mà được độ thoát.

Này A Nan!

Như Lai vì lòng đại bi vô tận thương xót ba cõi nên xuất hiện ở đời, tuyên dương giáo pháp là muốn cứu bạt quần manh, đem lợi ích chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa ưu đàm hiếm khi xuất hiện, lời hỏi hôm nay của ông lợi ích rất lớn.

A Nan nên biết: Trí Chánh giác của Như Lai rất khó suy lường, không gì chướng ngại được.

Có thể trong một niệm an trụ vô lượng kiếp, thân và các căn không có sanh diệt.

Vì sao vậy?

Định huệ của Như Lai thông đạt vô cùng, tối thắng tự tại với tất cả pháp.

A Nan hãy lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải rõ.

PHẨM THỨ TƯ

PHÁP TẠNG NHÂN ĐỊA

Này A Nan!

Ở vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ lâu xa, có Đức Phật xuất thế hiệu là Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.

Đức Phật đó trụ thế hóa độ bốn mươi hai kiếp, vì hàng chư Thiên, nhơn loại mà thuyết giảng kinh pháp.

Bấy giờ có vị vua tên là Thế Nhiêu nghe Phật thuyết giảng đạo lý, tâm sanh hoan hỷ lãnh ngộ, liền phát tâm Vô thượng chơn chánh, bèn trao ngôi vua theo Phật xuất gia làm sa môn, hiệu là Pháp Tạng, tu hạnh Bồ Tát, đức hạnh cao siêu trí huệ dõng mãnh, thâm tín lý giải đệ nhất.

Lại có hạnh nguyện thù thắng, định tuệ tăng thượng kiên cố bất động, tu hành tinh tấn, đến trước Đức Phật đảnh lễ, quỳ gối chắp tay tán thán phát đại thệ nguyện, nói kệ rằng:

Thân Như Lai vi diệu đoan nghiêm

Thế gian không ai sánh kịp được

Sáng ngời vô lượng khắp mười phương

Nhật nguyệt hỏa châu lu mờ cả.

Thế Tôn diễn thuyết một âm thanh

Tùy loại hữu tình thảy thông hiểu

Lại hay hiện sắc thân đẹp đẽ

Tùy loại chúng sanh đều thấy rõ.

Nguyện con thành Phật có tiếng tốt

Đưa Pháp âm đến vô biên cõi

Tuyên dương pháp: giới, định, tinh tấn

Thông đạt rộng sâu pháp nhiệm mầu.

Trí huệ rộng lớn như biển cả

Nội tâm thanh tịnh dứt trần lao

Ra hẳn vô biên đường ác thú

Mau đến Bồ đề bờ cứu cánh.

Vô minh tham sân đều dứt sạch

Tuyệt hẳn vọng hoặc, đắc tam muội

Như vô lượng Phật đời quá khứ

Làm đại Đạo sư khắp quần sanh.

Hay cứu tất cả sự khổ não

Sanh già bệnh chết của chúng sanh.

Thường tu bố thí, giới, nhẫn nhục

Tinh tấn, định, tuệ sáu ba la

Hữu tình chưa độ khiến được độ,

Kẻ đã độ rồi khiến thành Phật.

Giả sử cúng dường hằng sa Thánh

Không bằng kiên dõng cầu Chánh giác.

Nguyện an trụ vào Tam ma địa

Hằng phóng hào quang chiếu khắp nơi

Chạm đến được vào nơi thanh tịnh

Thù thắng trang nghiêm không ai bằng.

Chúng sanh luân hồi trong các cõi

Mau về cõi con hưởng an lạc

Thường vận từ tâm cứu hữu tình

Độ tận vô biên chúng sanh khổ.

Con nguyện quyết định kiên cố tu

Xin Phật thánh trí chứng biết cho

Dù cho thân nát trong các khổ

Nguyện tâm như vậy thề không thối.

PHẨM THỨ NĂM

CHÍ TÂM TINH TẤN

Pháp Tạng Tỳ kheo nói bài kệ này rồi liền bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Con nay tu hạnh Bồ Tát, đã phát tâm Vô Thượng Chánh giác, giữ nguyện làm Phật, tất được như Phật.

Nguyện Đức Phật vì con rộng giải kinh pháp, con xin phụng trì, như pháp tu hành, dứt sạch gốc khổ sanh tử, mau chứng Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nguyện khi con thành Phật, trí huệ sáng suốt, hào quang sáng chói, tiếng tăm quốc độ lan khắp mười phương.

Trời, người cho đến súc sanh, sanh vào nước con đều thành Bồ Tát.

Nguyện con lập đây tất cả đều hơn các cõi Phật khác, có được chăng?”

Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương liền nói với Pháp Tạng rằng: “Thí như có người lường nước biển trải qua nhiều kiếp còn có thể đến đáy.

Ngươi đã hết lòng cầu đạo tinh tấn không dứt, quyết sẽ được kết quả.

Vậy thì nguyện gì mà chẳng thành?

Ngươi tự suy nghĩ tu phương tiện nào để thành tựu được cõi Phật trang nghiêm.

Việc tu hành như thế ngươi nên tự biết, với việc thanh tịnh cõi Phật, ngươi nên tự nhiếp”.

Pháp Tạng bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Điều ấy quá sâu rộng, không phải cảnh giới của con hiểu được, cúi xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri rộng nói vô lượng vi diệu cõi nước của chư Phật, khi con được nghe như vậy rồi, suy nghĩ tu tập, thệ nguyện con mới được viên mãn”.

Đức Phật Thế Gian Tự Tại Vương biết rõ chí nguyện sâu rộng của Pháp Tạng, liền nói công đức nghiêm tịnh rộng lớn viên mãn cõi nước của hai trăm mười ức Đức Phật đúng theo tâm nguyện ông mong muốn, trải qua ngàn ức năm.

Bấy giờ Pháp Tạng Tỳ kheo nghe Phật nói rồi, đã được thấy rõ, liền phát nguyện vô thượng thù thắng.

Nơi các cõi xấu, đẹp, thiện, ác của trời người suy lường rốt ráo.

Chuyên tâm chọn lựa, kết thành đại nguyện, tinh cần cầu tiến, kính cẩn duy trì tu tập công đức đầy đủ năm kiếp.

Ở nơi hai mươi mốt vô số cõi Phật công đức trang nghiêm, rõ ràng thông suốt thành một nước Phật.

Khi đã tu tập rồi, lại đến chỗ của Như Lai Thế Tự Tại Vương, cúi đầu lạy sát chân, nhiễu Phật ba vòng rồi đứng yên chắp tay bạch Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Con đã thành tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh nước Phật”.

Đức Phật nói: “Lành thay!

Lành thay!

Nay chính phải lúc ông nên nói rõ để mọi người vui mừng, cũng để đại chúng nghe rồi được nhiều lợi lớn, có thể ở cõi Phật đó tu tập nhiếp thọ trọn đủ vô lượng đại nguyện”.

PHẨM THỨ SÁU

PHÁT ĐẠI THỆ NGUYỆN

Pháp Tạng bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót nghe cho:

Con nếu chứng được Vô thượng Bồ Đề, thành Đẳng Chánh giác rồi, cõi nước Phật có đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh các loại.

Nếu có chúng sanh trong ba đường ác cho đến từ địa ngục sanh về cõi con, thọ giáo pháp của con, tất thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không đọa lại ba đường ác nữa.

Được như vậy con mới làm Phật.

Nếu không được như nguyện, thề không thành Vô thượng Chánh giác.

Một - Nguyện trong nước không có ác đạo.

Hai - Nguyện không đọa ba đường ác.

Khi con thành Phật, các chúng sanh ở mười phương thế giới sanh về cõi con, thân tướng sắc vàng ròng, đủ ba mươi hai tướng tốt, đủ tướng đại trượng phu, đoan nghiêm chánh trực, tất cả đồng một dung nhan, nếu có tốt xấu, hình thể sai biệt, thề không thành Chánh giác.

Ba - Nguyện thân có sắc vàng ròng.

Bốn - Nguyện có ba mươi hai tướng tốt.

Năm - Nguyện cho thân không sai biệt.

Khi con thành Phật, các chúng sanh sanh về cõi con, biết rõ vô lượng kiếp trước.

Thấy rõ những việc thiện ác đã làm.

Nghe rõ sự việc khắp mười phương cả ba đời khứ lai hiện tại.

Nếu không được như nguyện, thề không thành Chánh giác.

Sáu - Nguyện có túc mạng thông.

Bảy - Nguyện có thiên nhãn thông.

Tám - Nguyện có thiên nhĩ thông.

Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con đều được tha tâm trí thông, biết được tâm niệm của chúng sanh xa cách trăm ngàn vạn ức cõi Phật.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Chín - Nguyện có tha tâm thông.

Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con, được thần thông tự tại Ba la mật đa.

Trong khoảnh khắc nếu không đi khắp trăm ngàn vạn ức cõi Phật để cúng dường, thề không thành Chánh giác.

Mười - Nguyện được thần túc thông.

Mười một - Nguyện giáp khắp cúng dường chư Phật.

Khi con thành Phật, nếu có chúng sanh sanh về cõi con, xa lìa tâm phân biệt, các căn tịch tịnh, nếu chẳng an trụ trong định tụ đến Đại Niết bàn, thề không thành Chánh giác.

Mười hai - Nguyện quyết định thành bậc Chánh giác.

Khi con thành Phật, có quang minh vô lượng chiếu khắp mười phương chư Phật, gấp ngàn vạn ức lần ánh sáng của nhật nguyệt.

Nếu có chúng sanh nào thấy hay chạm được ánh sáng của con thì được an lạc, khởi từ tâm làm điều lành, sau sanh về nước con.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Mười ba - Nguyện ánh sáng vô lượng.

Mười bốn - Nguyện chạm quang minh được an lạc.

Khi con thành Phật sống lâu vô lượng.

Vô số Thanh Văn và trời người trong nước cũng có thọ mạng vô lượng.

Giả như chúng sanh ở ba ngàn thế giới thành bậc Duyên Giác trải qua trăm ngàn kiếp để tính đếm, nếu biết được số lượng ấy, thề không thành Chánh giác.

Mười lăm - Nguyện thọ mạng vô lượng.

Mười sáu - Nguyện Thanh Văn vô số.

Khi con thành Phật, vô số chư Phật trong vô lượng cõi ở mười phương thế giới nếu không khen ngợi tên con, nói công đức quốc độ của con, thề không thành Chánh giác.

Mười bảy - Nguyện được Chư Phật xưng tán.

Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh hiệu con, hết lòng tin tưởng, nếu có điều lành nào tâm tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi nước con cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, thề không thành Chánh giác.

Ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng Chánh pháp.

Mười tám - Nguyện mười niệm tất vãng sanh.

Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con, phát tâm Bồ Đề, tu các công hạnh, hành sáu Ba la mật, kiên cố không lùi, lại đem các căn lành hồi hướng nguyện sanh về cõi nước con, một lòng nghĩ đến con ngày đêm không dứt, đến khi mạng chung, con cùng Thánh chúng Bồ Tát liền đến tiếp đón, khoảnh khắc sanh về cõi con được Bất thối chuyển.

Nếu không được như nguyện, thề không thành Chánh giác.

Mười chín - Nguyện nghe danh phát tâm.

Hai mươi - Nguyện lâm chung tiếp dẫn.

Khi con thành Phật, chúng sanh trong mười phương nghe danh hiệu con, nhớ nghĩ nước con, phát tâm Bồ Đề kiên cố không thối lui, trồng các căn lành, hết lòng hồi hướng sanh về Cực Lạc, đều được toại ý; nếu có ác nghiệp đời trước, nghe danh hiệu con hết lòng sám hối, làm các điều lành, lại trì kinh giữ giới nguyện sanh về nước con, mạng chung không lạc vào ba đường ác, liền sanh về nước con.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Hai mươi mốt - Nguyện sám hối được vãng sanh.

Khi con thành Phật, nước con không có phụ nữ.

Nếu có nữ nhơn nào nghe danh hiệu con, thanh tịnh tin tưởng phát tâm Bồ Đề, chán ghét nữ thân, mạng chung liền hóa thân nam tử sanh về nước con.

Các loại chúng sanh ở thế giới mười phương, sanh về nước con đều hóa sanh trong hoa sen thất bảo.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Hai mươi hai - Nguyện trong nước không có người nữ.

Hai mươi ba - Nguyện nhàm chán thân nữ, chuyển thân nam.

Hai mươi bốn - Nguyện Liên hoa hóa sanh.

Khi con thành Phật, chúng sanh khắp mười phương nghe danh hiệu con vui mừng tin tưởng, lễ bái quy mạng, đem tâm thanh tịnh tu hạnh Bồ Tát, chư Thiên và người đời hết lòng tôn kính.

Nếu nghe danh hiệu con, sau khi mạng chung được sanh vào nhà tôn quý, các căn đầy đủ.

Thường tu thù thắng phạm hạnh.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Hai mươi lăm - Nguyện Thiên nhân lễ kính.

Hai mươi sáu - Nguyện nghe danh hiệu được phước.

Hai mươi bảy - Nguyện tu thù thắng hạnh.

Khi con thành Phật, nước con không có tên ba đường ác.

Chúng sanh sanh vào nước con đều nhất tâm trụ vào chánh định.

Không còn nhiệt não, tâm được mát mẻ, hưởng thọ an lạc, như Tỳ Kheo lậu tận.

Nếu còn khởi tưởng niệm tham đắm thân sau, thề không thành Chánh giác.

Hai mươi tám - Nguyện nước không có tên “Bất thiện”.

Hai mươi chín - Nguyện trụ chánh định tụ.

Ba mươi - Nguyện vui như Tỳ kheo dứt sạch các lậu.

Ba mươi mốt - Nguyện không tham chấp thân.

Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con được vô lượng căn lành, thân thể vững chắc như Kim cang bất hoại, thân mình đều có hào quang chiếu sáng.

Thành tựu hết thảy trí huệ, biện tài không cùng tận, rộng nói các pháp bí yếu, giảng kinh thuyết pháp, tiếng như chuông vang.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Ba mươi hai - Nguyện được Na la diên thân.

Ba mươi ba - Nguyện Quang minh trí huệ biện tài.

Ba mươi bốn - Nguyện khéo nói pháp yếu.

Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con quyết chắc đến bậc Nhất sanh Bổ Xứ, trừ khi phát nguyện rộng lớn trở lại độ sanh, giáo hóa hữu tình, khuyến phát tín tâm, tu hạnh Bồ Tát, hành nguyện Phổ Hiền.

Tuy sanh vào thế giới khác hằng lìa ác thú, hoặc thích thuyết pháp, nghe pháp, hay hiện thần túc, tùy ý tu tập thảy đều viên mãn.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Ba mươi lăm - Nguyện nhất sanh bổ xứ.

Ba mươi sáu - Nguyện giáo hóa tùy ý.

Khi con thành Phật, chúng sanh sanh vào nước con, nếu muốn ăn uống, y phục hay các đồ cần dùng tùy ý liền đến.

Nếu khởi niệm cúng dường mười phương Chư Phật, liền được mãn nguyện.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Ba mươi bảy - Nguyện y thực tự đến.

Ba mươi tám - Nguyện ứng niệm thọ cúng.

Khi con thành Phật, vạn vật trong cõi nước con đều trang nghiêm thanh tịnh sáng chói, hình sắc thù thắng vi diệu không thể tả xiết, dù có thiên nhãn cũng không thể diễn tả hết vẻ đẹp về hình sắc, hình tướng lộng lẫy và số lượng chúng sanh ở đó v.v...

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Ba mươi chín - Nguyện trang nghiêm vô tận.

Khi con thành Phật, vô lượng cây cảnh trong cõi nước con cao trăm ngàn do tuần.

Cây làm đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm.

Các Bồ Tát trung phẩm cũng có thể biết rõ.

Nếu muốn thấy các cõi thanh tịnh trang nghiêm của chư Phật, tuy ở nơi cây báu cũng được thấy rõ vạn tượng như xem trong gương.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Bốn mươi - Nguyện có vô lượng cây sắc báu.

Bốn mươi mốt - Nguyện cây hiện cõi Phật.

Khi con thành Phật, cõi nước rộng rãi nghiêm tịnh, sáng chói như gương, chiếu khắp vô lượng vô số bất khả tư nghì thế giới chư Phật khắp mười phương, chúng sanh thấy rồi sanh tâm hi hữu.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Bốn mươi hai - Nguyện chiếu suốt mười phương.

Khi con thành Phật, cùng tột dưới đất, trên đến hư không, tất cả vạn vật cung điện, lầu các, ao nước, hoa cây v.v...trong nước đều do vô lượng bảo hương hiệp thành, hương thơm xông khắp mười phương thế giới, chúng sanh ngửi được đều tu Phật hạnh.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Bốn mươi ba - Nguyện hương báu xông khắp.

Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát trong mười phương cõi Phật nghe danh con rồi đều được thanh tịnh giải thoát, phổ đẳng Tam muội, các môn Tổng trì vào các Tam ma địa cho đến thành Phật.

Tuy ở trong định thường cúng dường vô lượng vô biên chư Phật vẫn không mất định ý.

Nếu không được như vậy, thề không thành Chánh giác.

Bốn mươi bốn - Nguyện phổ đẳng tam muội.

Bốn mươi lăm - Nguyện trong định cúng Phật.

Khi con thành Phật, các bậc Bồ Tát ở thế giới khác nghe danh hiệu con rồi chứng Ly sanh pháp, được các môn Đà la ni, thanh tịnh hoan hỷ, an trụ trong thể tướng bình đẳng, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ trí đức mà không chứng được ba nhẫn, nơi Phật pháp mà không chứng được bậc Bất thối chuyển, thề không thành Chánh giác.

Bốn mươi sáu - Nguyện được môn Tổng trì.

Bốn mươi bảy - Nguyện nghe danh đặng pháp nhẫn.

Bốn mươi tám - Nguyện hiện chứng quả Bất thối chuyển.

PHẨM THỨ BẢY

QUYẾT THÀNH CHÁNH GIÁC

Này A Nan, bấy giờ Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện rồi, liền đọc bài tụng:

Con lập nguyện hơn đời

Tất đến đạo Vô thượng

Nguyện này nếu không toại

Thề không thành Chánh giác.

Lại làm đại thí chủ

Cứu khắp kẻ cùng khổ

Khiến các quần sanh kia

Đêm dài không ưu não.

Phát sanh các căn lành

Thành tựu quả Bồ Đề.

Nếu con thành Chánh giác

Lấy tên Vô Lượng Thọ

Chúng sanh nghe danh này

Sanh về cõi nước con

Thân kim sắc như Phật

Tướng tốt thảy viên mãn

Cũng đem tâm đại bi

Lợi ích các quần sanh

Ly dục, sâu thiền định

Tịnh tuệ tu phạm hạnh.

Nguyện đem trí huệ sáng

Chiếu khắp mười phương cõi

Tiêu trừ ba độc hại

Cứu khỏi các ách nạn

Dứt sạch khổ tam đồ

Diệt hết phiền não ám

Khai sáng mắt trí huệ

Chứng được thân quang minh

Đóng hết ba đường ác

Mở rộng các căn lành.

Vì chúng khai tạng pháp

Rộng thí báu công đức

Trí vô ngại như Phật

Làm các hạnh từ mẫn

Đạo sư cả trời người

Anh hùng khắp ba cõi

Thuyết pháp sư tử hống

Rộng độ các hữu tình

Viên mãn lời phát nguyện

Tất cả đều thành Phật.

Nguyện này nếu thành tựu

Đại thiên thảy chấn động

Các thiên thần trên không

Mưa xuống trân diệu hoa.

Này A Nan!

Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, mặt đất chấn động sáu cách, hoa trời rưới khắp, âm nhạc tự trỗi, không trung vang lời khen: Quyết chắc thành Vô thượng Chánh giác.

PHẨM THỨ TÁM

TÍCH LŨY CÔNG ĐỨC

Này A Nan!

Tỳ kheo Pháp Tạng ở trước Như Lai Thế Tự Tại Vương và giữa đại chúng trời người phát hoằng thệ nguyện này rồi, an trụ trong huệ chân thật, dõng mãnh tinh tấn một hướng chuyên tâm trang nghiêm cõi nước, xây dựng Phật quốc rộng lớn, siêu việt thắng diệu, kiến lập vĩnh viễn, tuyệt không hư hoại, không biến đổi.

Trong vô lượng kiếp vun trồng đức hạnh, không khởi dục tưởng ba độc, chẳng đắm sáu trần, chỉ chuyên nhớ nghĩ chư Phật thuở quá khứ đã tu căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa lìa luống dối, y chơn đế môn, làm các công đức, không nề các khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp thanh tịnh, đem ân huệ lợi ích quần sanh, chí nguyện không mỏi, thành tựu các nhẫn.

Đối với hữu tình nói lời từ ái, vui vẻ hòa dịu, khuyến dụ khích lệ.

Cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng.

Không giả dối nịnh hót, nghiêm trang đứng đắn khuôn phép nhất mực.

Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch.

Giữ gìn khẩu nghiệp, không nói lỗi người, giữ gìn thân nghiệp, không mất oai nghi, giữ gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm.

Nếu có quốc thành, xóm làng, quyến thuộc trân bảo, không sanh tham trước, hằng hành hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ sáu Ba la mật.

Giáo hóa chúng sanh an trụ đạo Vô thượng Chánh giác.

Do thành thục các căn lành như vậy, nên sanh đến chỗ nào tự nhiên cảm ứng có vô lượng kho báu, hoặc làm trưởng giả cư sĩ, hào hiệp tôn quý, hoặc làm sát lợi Quốc Vương, Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm vua cõi trời lục dục cho đến Phạm vương, cung kính cúng dường chư Phật chưa từng gián đoạn.

Những công đức như vậy không thể kể hết.

Miệng thường tỏa hương thơm như hương chiên đàn, hương thơm hoa sen, hương thơm ấy xông khắp vô lượng thế giới.

Phàm sanh ra chỗ nào sắc tướng cũng đoan nghiêm, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi nét đẹp.

Tay thường xuất sanh châu báu vô tận, tất cả đồ cần dùng đẹp đẽ tối thượng để lợi lạc hữu tình.

Do nhân duyên ấy, khiến vô lượng chúng sanh phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

PHẨM THỨ CHÍN

THÀNH TỰU VIÊN MÃN

Này A Nan!

Pháp Tạng Tỳ kheo tu hạnh Bồ Tát, tích công lũy đức vô lượng vô biên trong tất cả pháp mà được tự tại, không thể dùng lời diễn tả hết chỗ phát thệ, thành tựu viên mãn như thật, an trụ cụ túc trang nghiêm, oai đức rộng lớn thanh tịnh cõi Phật được.

Tôn giả A Nan nghe Đức Phật nói lời ấy rồi, cung kính thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Pháp Tạng Bồ Tát chứng Bồ đề là đã thành Phật và nhập diệt rồi hay chưa thành Phật, hay đã thành Phật hiện ở thế giới khác?”

Đức Thế Tôn nói: “Đức Phật Như Lai kia đến không chỗ đến, đi không chỗ đi, không sanh không diệt, không có quá hiện vị lai, chỉ có một nguyện độ sanh.

Hiện ở phương Tây cách Diêm phù đề này mười vạn ức cõi Phật, thế giới đó gọi là Cực Lạc.

Pháp Tạng thành Phật hiệu là A Di Đà, thành Phật đến nay đã mười kiếp, hiện đang thuyết pháp, có vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thanh Văn cung kính vây quanh".

PHẨM THỨ MƯỜI

ĐỀU NGUYỆN LÀM PHẬT

Lúc Đức Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát viên mãn hạnh nguyện rồi, A Xà Vương tử cùng với năm trăm trưởng giả biết được đều rất vui mừng, mỗi mỗi cầm một bó hoa bằng vàng đến trước Phật đảnh lễ và dâng hoa xong ngồi về một phía.

Họ đồng tâm nguyện rằng: “Khi chúng tôi thành Phật đều như Đức Phật A Di Đà”.

Đức Phật biết tâm nguyện của họ, bảo các Tỳ kheo rằng: “Các vương tử này sau sẽ thành Phật.

Đời trước khi còn tu hạnh Bồ Tát, trải qua vô số kiếp đã cúng dường bốn trăm ức Đức Phật.

Thời Phật Ca Diếp họ là đệ tử của ta, nay lại đến cúng dường ta”.

Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói đều rất vui mừng.

PHẨM MƯỜI MỘT

CÕI NƯỚC NGHIÊM TỊNH

Này A Nan!

Cõi Cực Lạc kia có vô lượng công đức đầy đủ trang nghiêm, tuyệt không có danh từ khổ nạn, ác thú ma não, cũng không có bốn mùa nóng lạnh sáng tối, không có sông biển lớn nhỏ, gò nổng hầm hố, gai gốc đá sỏi, núi Thiết Vi, núi Tu Di, đất đá núi non, chỉ là tự nhiên bằng bảy báu.

Vàng ròng làm đất rộng rãi bằng phẳng không có hạn lượng, kỳ diệu tú lệ, thanh tịnh trang nghiêm, thù thắng hơn tất cả thế giới khắp mười phương.

Tôn giả A Nan nghe rồi thưa Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Nếu cõi đó không có núi Tu Di thì Tứ Thiên Vương và Đao Lợi Thiên nương tựa vào đâu?”

Này A Nan, Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất cho đến chư Thiên cõi Sắc và Vô Sắc nương vào đâu?

Tôn giả A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn!

Do nghiệp lực tạo nên không thể nghĩ bàn được”.

Đức Phật hỏi A Nan: “Bất tư nghì nghiệp ông có thể biết chăng?

Quả báo thân ông bất khả tư nghì, nghiệp báo chúng sanh cũng bất khả tư nghì, căn lành của chúng sanh bất khả tư nghì, Thánh lực chư Phật, thế giới chư Phật cũng bất khả tư nghì, đất nước chúng sanh, công đức thiện lực, trú hành nghiệp địa và thần lực chư Phật cũng đều như vậy cả”.

Tôn giả A Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn!

Nghiệp nhân và quả báo không thể nghĩ bàn được.

Đối với pháp này thật con không hoài nghi, nhưng vì muốn phá trừ sự nghi ngờ của chúng sanh đời sau nên thưa hỏi lời này”.

PHẨM MƯỜI HAI

ÁNH SÁNG CHIẾU KHẮP

Này A Nan!

Oai thần và quang minh của Phật A Di Đà tối tôn đệ nhất, quang minh của chư Phật khác chẳng sánh kịp.

Quang minh ấy chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở Phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên dưới và bốn phương phụ cũng lại như vậy.

Hào quang trên đảnh chiếu xa một hai ba bốn do tuần, hoặc trăm ngàn vạn ức do tuần.

Hào quang các Đức Phật khác hoặc chiếu đến một hai cõi Phật, hoặc trăm ngàn cõi Phật, chỉ có hào quang Đức Phật A Di Đà chiếu khắp vô lượng vô số vô biên cõi Phật.

Hào quang chư Phật chiếu ra có xa, có gần vì bổn nguyện công đức đời trước cầu đạo có lớn nhỏ không đồng, nên khi thành Phật tự có hạn lượng.

Quang minh Đức Phật A Di Đà sáng chói gấp bội trăm ngàn vạn lần ánh sáng nhật nguyệt, tôn quý trong các ánh sáng, nên Phật Vô Lượng Thọ cũng hiệu là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đẳng Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Thường Chiếu Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Giải Thoát Quang, Phật An Ổn Quang, Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang, Phật Bất Tư Nghì Quang.

Quang minh ấy chiếu khắp mười phương thế giới, chúng sanh nào gặp được quang minh ấy thì cấu uế tiêu diệt, điều lành phát sanh, thân ý hòa dịu.

Nếu ở tam đồ chịu khổ cùng cực thấy được quang minh này liền được dừng khổ, mạng chung được giải thoát.

Chúng sanh nào nghe được oai thần công đức quang minh này ngày đêm khen nói chí tâm không nghỉ, tùy theo ý nguyện được sanh về Cực Lạc.

PHẨM MƯỜI BA

THỌ MẠNG ĐẠI CHÚNG VÔ LƯỢNG

Này A Nan!

Đức Phật Vô Lượng Thọ mạng sống trường cửu không thể tính được.

Lại có vô số chúng Thanh Văn thần trí thông đạt, năng lực tự tại có thể nắm tất cả thế giới trong bàn tay.

Trong hàng đệ tử ta, đại Mục Kiền Liên có thần thông bậc nhất, trong một ngày đêm biết hết số lượng chúng sanh của tất cả tinh cầu trong đại thiên thế giới.

Giả sử chúng sanh trong mười phương tất cả đều chứng quả Duyên Giác, mỗi mỗi Duyên Giác thọ vạn ức năm, có thần thông như Mục Kiền Liên, đem hết trí lực suốt đời cũng không tính đếm được, ngàn vạn phần cũng không bằng một số phần Thanh Văn trong Phật hội kia.

Ví như biển lớn sâu rộng vô biên, nếu lấy một sợi tóc chẻ làm trăm phần, tán ra thành bụi, rồi lấy một hột bụi ấy thấm một giọt nước biển, nước nơi bụi tóc ấy so với biển cả chẳng lấy gì nhiều.

Này A Nan, các vị Mục Kiền Liên thảy còn biết được số lượng, còn nước nơi bụi tóc so với biển cả không thể tính được.

Thọ mạng của Phật và thọ mạng của chúng Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên, Nhơn ở cõi ấy cũng như vậy, không thể lấy toán số thí dụ mà biết được.

PHẨM MƯỜI BỐN

CÂY BÁU KHẮP NƯỚC

Cõi nước Cực Lạc có nhiều cây báu, có cây thuần bằng vàng, hoặc thuần bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não, hoặc do một thứ báu mà thành, hoặc do hai ba cho đến bảy báu xen nhau hiệp thành.

Gốc thân cành do báu này thành, hoa lá quả do báu khác thành.

Có cây gốc bằng vàng, thân bằng bạc, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã não làm quả.

Lại có các cây do bảy báu xen lẫn nhau làm gốc thân cành lá hoa quả.

Mỗi báu có hàng hàng khác nhau, hàng hàng thẳng nhau, thân thân xây nhau, cành lá hướng nhau, hoa quả xứng nhau, màu sắc rực rỡ tươi đẹp không thể tả xiết.

Khi gió lay động phát ra âm thanh vi diệu.

Các hàng cây báu ấy cùng khắp trong cõi nước.

PHẨM MƯỜI LĂM

BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG

Cây Bồ Đề nơi đạo tràng cao bốn trăm vạn dặm, chu vi rộng năm ngàn do tuần, cành lá bốn phía hai mươi vạn dặm, do các báu tự nhiên hiệp thành, hoa quả sum sê chói sáng cùng khắp.

Lại có các ngọc ma ni hồng lục xanh trắng và các báu quý nhất kết thành chuỗi trang hoàng các cột báu.

Vàng ngọc chuông khánh treo khắp nơi.

Lưới võng trân diệu trăm ngàn vạn sắc giăng mắc trên không.

Vô lượng tia sáng phản chiếu lẫn nhau rất vi diệu, tất cả trang nghiêm tùy ý hiện nên.

Gió nhẹ thổi đến lay động cành lá phát ra vô lượng âm thanh diệu pháp, vang khắp các cõi Phật, âm thanh du dương hòa nhã, tối thắng bậc nhất hơn các âm thanh ở mười phương thế giới.

Nếu chúng sanh nào thấy được cây Bồ Đề, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm trái, chạm được ánh sáng, nghĩ đến công đức của cây thì sáu căn thanh tịnh không có não loạn, trụ vào bất thối chuyển cho đến khi thành Phật.

Nếu thấy được cây ấy thì được ba nhẫn: một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sanh pháp nhẫn.

Này A Nan!

Hoa quả cây cối và các chúng sanh cõi Phật ấy làm các Phật sự như vậy, là do sức oai thần, bản nguyện đầy đủ kiên cố cứu cánh của Phật Vô Lượng Thọ vậy.

PHẨM MƯỜI SÁU

NHÀ CỬA LẦU GÁC

Giảng đường, tịnh xá, lầu quán, lan can nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ cũng do bảy báu tự nhiên hóa thành.

Lại có bạch châu ma ni nghiêm sức, sáng chói không bì được.

Cung điện của Bồ Tát ở cũng lại như vậy.

Nơi đó có chỗ giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, đi kinh hành trên đất.

Tư đạo và tọa thiền trên không trung, cũng có chỗ giảng tụng thọ thính kinh hành.

Những vị tư đạo và tọa thiền là bậc đã chứng Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, hoặc A La Hán.

Vị chưa chứng A Duy Việt Trí thì chứng A Duy Việt Trí.

Các vị ấy tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo đầy đủ pháp hỷ.

PHẨM MƯỜI BẢY

SUỐI AO CÔNG ĐỨC

Hai bên giảng đường có ao suối chảy quanh, ngang dọc sâu cạn bằng nhau, hoặc mười, hai mươi hoặc trăm ngàn do tuần, phẳng lặng thơm sạch, nước đủ tám công đức.

Trên bờ có vô số cây chiên đàn hương, cây trái cát tường, hoa quả thơm tho, chiếu sáng rực rỡ.

Lá dày che khắp trên ao, tỏa ra các mùi thơm, hương thơm thoảng trong gió theo nước bay xa, thế gian không ví được.

Các ao bằng bảy báu, đáy bằng cát vàng, các hoa sen ưu bát la, bát đàm ma, câu vật đầu, phân đà lợi nhiều màu rực rỡ trên khắp mặt nước.

Chúng sanh muốn tắm, nếu muốn nước đến chân, đến gối, đến lưng, đến cổ hoặc muốn rưới khắp thân, muốn lạnh, muốn ấm, chảy mạnh hay từ từ, nhất nhất theo ý muốn, giúp phát giác tính, phá mê khai ngộ, sạch sẽ yên tịnh.

Cát báu dưới đáy phản chiếu khắp nơi, sóng gợn lăn tăn phát ra vô lượng âm thanh vi diệu, nào tiếng Tam Bảo, tiếng Ba la mật, tiếng chỉ tức tịch tịnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực vô úy, tiếng vô tánh vô tác vô ngã, tiếng đại từ bi hỷ xả, tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị.

Khi nghe các âm thanh như vậy tâm liền thanh tịnh không còn phân biệt, chánh trực bình đẳng, thành thục căn lành.

Ý muốn nghe pháp nào chỉ có pháp đó phát ra, nếu không muốn nghe nữa liền im lặng, vĩnh viễn không thối tâm Bồ Đề.

Những người trong mười phương thế giới được vãng sanh đều hóa sanh từ trong hoa sen ở ao thất bảo, được thân pháp tánh, thể chất bất sanh bất diệt, không còn nghe tên khổ não khổ nạn của tam đồ.

Giả dụ còn không có, huống là có khổ.

Chỉ có tiếng vui thích tự nhiên, do vậy nước đó gọi là Cực Lạc.

PHẨM MƯỜI TÁM

HIẾM CÓ SIÊU VIỆT THẾ GIAN

Dung sắc chúng sanh ở nước Cực Lạc lộng lẫy hơn hẳn thế gian, đồng một hình thể không có tướng sai biệt, chỉ vì thuận theo lề lối các phương khác nên có tên là Thiên, Nhơn.

Này A Nan!

Ví như ở thế gian kẻ nghèo khổ ăn xin đứng bên đế vương, diện mạo hình trạng há có thể sánh bằng không?

Đế vương nếu so với Chuyển luân Thánh vương thì thô bỉ xấu xí như kẻ ăn xin.

Chuyển luân Thánh vương oai tướng bậc nhất, nếu so với vua cung trời Đao Lợi lại càng xấu tệ.

Trời Đế Thích so với cõi trời thứ sáu thua xa trăm ngàn lần.

Cõi trời thứ sáu tuy dung mạo xinh đẹp ngàn vạn lần, làm sao sánh bằng dung sắc của Bồ Tát Thanh Văn ở cõi Cực Lạc được.

Đến như cung điện, y phục ẩm thực như là những vật ở cung trời Tha Hóa Tự Tại.

Còn như oai đức phẩm vị thần thông biến hóa của họ thì gấp trăm ngàn vạn lần hơn tất cả cõi nhơn thiên, không thể tính nổi được.

A Nan nên biết, cõi nước Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ có công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn như thế.

PHẨM MƯỜI CHÍN

THỌ DỤNG ĐẦY ĐỦ

Lại nữa, chúng sanh ở thế giới Cực Lạc, hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh đều có sắc thân xinh đẹp như vầy:

Hình dung tướng mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, thọ dụng phong túc, cung điện, phục sức, hương hoa, phan cái tất cả đều trang nghiêm, các sự cần dùng đều theo ý muốn.

Khi muốn ăn, chén bát bằng bảy báu tự nhiên hiện ra, trăm thứ thức ăn tự nhiên sung mãn, tuy có đồ ăn nhưng không phải ăn, chỉ thấy sắc ngửi hương, ăn bằng ý tưởng.

Sức lực tăng trưởng, không có đại tiểu tiện, thân tâm nhẹ nhàng, không tham luyến hương vị, dùng rồi liền biến mất, đến giờ ăn lại hiện ra.

Lại có nhiều y phục báu đẹp, giải mũ áo bằng anh lạc trăm ngàn màu sắc sáng chói vô lượng, tất cả tự nhiên mặc vào thân.

Nhà cửa xứng với hình sắc.

Lưới báu giăng trên không, linh báu treo khắp, đẹp đẽ lạ lùng, bóng loáng sáng ngời, hết sức tráng lệ.

Lầu các lan can, mái hiên điện đường, rộng hẹp vuông tròn, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc giữa không trung, hoặc trên đất bằng, thanh tịnh yên ổn vi diệu an vui, tùy ý hiện đến đầy đủ.

PHẨM HAI MƯƠI

GIÓ ĐỨC MƯA HOA

Cõi nước Đức Phật đó, đến giờ ăn gió thoảng nhẹ tự nhiên làm lay động lưới giăng và các cây báu phát ra âm thanh vi diệu, diễn nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, các Ba la mật, lưu bố vạn thứ hương đức, ai nghe được rồi phiền não tập khí tự nhiên không khởi.

Gió chạm vào mình an hòa dễ chịu, như vị Tỳ kheo chứng được diệt tận định.

Lại thổi bảy hàng cây báu, thổi hoa tụ lại từng loại màu sắc trải khắp mặt đất, thứ lớp theo sắc không có tạp loạn, êm dịu sáng sạch như đâu la miên, chân đi lên lún sâu bốn lóng tay, khi dở chân lên lại bằng phẳng như cũ.

Qua khỏi giờ ăn hoa ấy tự mất, mặt đất sạch sẽ, lại mưa hoa mới, tùy theo thời tiết rơi cùng khắp như trước không khác, như vậy sáu lần mỗi ngày đêm.

PHẨM HAI MƯƠI MỐT

SEN BÁU PHẬT QUANG

Lại có nhiều hoa sen báu cùng khắp cả nước, mỗi mỗi hoa báu có trăm ngàn ức cánh.

Ánh sáng mỗi hoa có nhiều màu sắc, hoa xanh thì ánh sáng xanh, hoa trắng ánh sáng trắng, vàng đỏ tía huyền, màu sắc ánh sáng cũng lại như vậy.

Lại có vô lượng diệu bảo, trăm ngàn ma ni lấp lánh kỳ lạ, sáng chiếu như nhật nguyệt.

Hoa sen to hoặc nửa do tuần, hoặc một hai ba bốn cho đến trăm ngàn do tuần.

Trong mỗi hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng.

Trong mỗi ánh sáng có ba mươi sáu trăm ngàn Đức Phật sắc thân tử kim, tướng tốt thù đặc.

Mỗi mỗi Đức Phật lại phóng ra trăm ngàn hào quang chiếu khắp mười phương nói pháp vi diệu.

Chư Phật ấy muốn đưa vô lượng chúng sanh đến Phật đạo.

PHẨM HAI MƯƠI HAI

QUYẾT CHỨNG CỰC QUẢ

Lại này A Nan!

Cõi nước Đức Phật đó không có cảnh tối tăm đèn đuốc nhật nguyệt tinh tú ngày đêm, cũng không có tên năm tháng kiếp số, lại không có sự tham đắm nhà cửa, mọi nơi không có danh hiệu tiêu thức, cũng không có nhà ở riêng biệt, chỉ có sự hưởng thọ thanh tịnh an lạc tối thượng.

Nếu có trai lành gái tín nào hoặc đã sanh hoặc sẽ sanh đều an trụ nơi chánh định, quyết sẽ chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Tại sao vậy?

Nếu có tà định hay bất định thì không biết rõ đạo lý nhân quả để sanh về Cực Lạc được.

PHẨM HAI MƯƠI BA

MƯỜI PHƯƠNG CHƯ PHẬT TÁN THÁN

Lại nữa A Nan, hằng hà sa số thế giới ở phương Đông, trong mỗi thế giới có hằng sa Đức Phật xuất tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang minh nói lời thành thật, khen ngợi công đức bất khả tư nghì của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Hằng sa thế giới chư Phật ở chín phương khác cũng đồng xưng tán như thế.

Tại sao vậy?

Vì muốn chúng sanh ở các phương khác nghe danh hiệu Đức Phật Vô Lượng Thọ, phát tâm thanh tịnh nhớ nghĩ thọ trì, quy y cúng dường cho đến phát một niệm tịnh tín, nếu có căn lành nào chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về cõi Cực Lạc ấy, tùy nguyện vãng sanh, được Bất thối chuyển cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ Đề.

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

BA BẬC VÃNG SANH

Này A Nan!

Chư thiên, nhân dân ở mười phương thế giới chí tâm nguyện sanh về cõi ấy có ba hạng:

Bậc thượng phẩm là những người xuất gia, lìa tham dục làm sa môn, phát tâm Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, làm các công đức, nguyện sanh về cõi đó.

Những chúng sanh này khi mạng chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện đến trước mặt, liền theo Đức Phật sanh về cõi đó, tự nhiên hóa sanh trong hoa sen bảy báu, trí huệ dõng mãnh, thần thông tự tại.

Này A Nan!

Nếu có chúng sanh muốn hiện đời thấy Phật A Di Đà, phải phát tâm Vô thượng Bồ Đề, phải luôn nhớ nghĩ cõi nước Cực Lạc, nhóm chứa được căn lành nào nên đem hồi hướng.

Do thấy được Phật nên khi sanh về nước đó được bậc Bất thối chuyển cho đến quả vị Vô thượng Bồ Đề.

Hạng trung là những người tuy không làm sa môn, nhưng làm nhiều công đức, phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà.

Tuy đã làm nhiều công đức, giữ gìn trai giới, xây dựng tháp tượng, cúng dường, treo phan đốt đèn, dâng cúng hoa hương, tất cả đều phải hồi hướng nguyện sanh về Cực Lạc.

Khi mạng chung hóa thân Đức Phật A Di Đà hiện ra đầy đủ tướng tốt quang minh như chính Đức Phật cùng với đại chúng vây quanh hiện trước người đó, nhiếp thọ tiếp dẫn, liền theo hóa Phật sanh về cõi Cực Lạc, ở bậc Bất thối chuyển Vô thượng Bồ Đề, công đức trí huệ kế bậc thượng phẩm.

Hạng hạ phẩm là những người giả sử không hay làm các công đức, mà đã phát tâm Vô thượng Bồ Đề, chuyên tâm niệm Phật A Di Đà, vui mừng tin sâu không chút nghi ngờ, hết lòng nguyện sanh về cõi Cực Lạc.

Người này mạng chung mộng thấy Đức Phật cũng được vãng sanh, công đức trí huệ kế bậc trung.

Nếu có chúng sanh theo pháp đại thừa, đem tâm thanh tịnh, hướng về Đức Vô Lượng Thọ, niệm đến mười niệm, nguyện sanh về Cực Lạc, nghe pháp rộng sâu hiểu rốt ráo, cho đến được một niệm thanh tịnh, phát một niệm nhớ nghĩ về Đức Phật đó, người này mạng chung thấy Đức Phật A Di Đà như trong chiêm bao, nhất định sanh về nước Cực Lạc, được Bất thối chuyển Vô thượng Bồ Đề.

Lại này A Nan, nếu có trai lành gái tín nào nghe kinh này, thọ trì đọc tụng biên chép cúng dường, ngày đêm liên tục cầu sanh về cõi Cực Lạc, phát tâm Bồ Đề, giữ các giới cấm bền vững không phạm, lợi ích hữu tình, làm được chút điều lành gì đều ban bố cho họ khiến được an vui, hằng nhớ nghĩ đến Đức Phật A Di Đà và cõi nước Cực Lạc ở phương Tây, người ấy khi mạng chung có sắc tướng trang nghiêm như Phật, sanh về cõi báu mau được nghe pháp, vĩnh viễn không thối chuyển.

PHẨM HAI MƯƠI LĂM

CHÁNH NHÂN VÃNG SANH

Lại nữa A Nan, nếu có chúng sanh muốn sanh về nước kia, tuy không siêng năng thiền định, nhưng hết lòng trì kinh giữ giới, chuyên làm điều lành, nghĩa là không giết hại sanh vật, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không thêu dệt, không nói lời hung dữ, không nói đâm thọc, không tham lam, không giận hờn, không si mê, ngày đêm nhớ nghĩ Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc có nhiều công đức, nhiều sự trang nghiêm, chí tâm quy y đảnh lễ cúng dường; người ấy khi mạng chung không kinh sợ, tâm không rối loạn, liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc.

Nếu người quá nhiều việc không thể xuất gia, không rảnh tu trai giới, nhất tâm thanh tịnh, lúc rảnh rỗi yên tịnh thân tâm, tuyệt dục bỏ lo lắng, từ tâm tinh tấn, không hờn giận, ganh ghét, không tham tiếc keo kiệt, không ân hận hồ nghi, hiếu thuận, trung tín, tin sâu lời Phật dạy, tin làm lành đặng phước, phụng trì các pháp như vậy không được thiếu mất, suy nghĩ chín chắn, muốn được độ thoát, ngày đêm luôn cầu nguyện được vãng sanh về cõi thanh tịnh của Phật A Di Đà, trong mười ngày đêm, cho đến một ngày một đêm không ngừng nghỉ, khi mạng chung được sanh về cõi nước kia, tu đạo Bồ Tát.

Những người vãng sanh đều được Bất thối chuyển, thân sắc đủ ba mươi hai tướng tốt, sẽ được thành Phật.

Nếu muốn thành Phật ở một phương cõi nào khác, theo tâm ước nguyện tùy sự chuyên cần, sáng tối cầu đạo không ngừng nghỉ, sẽ được kết quả không mất chí nguyện.

Này A Nan!

Do điều lợi này nên vô lượng vô số bất khả tư nghì, vô biên thế giới chư Phật Như Lai đều xưng dương tán thán công đức Phật Vô Lượng Thọ.

PHẨM HAI MƯƠI SÁU

LỄ CÚNG NGHE PHÁP

Lại nữa A Nan!

Chúng Bồ Tát ở mười phương thế giới muốn đảnh lễ Phật Vô Lượng Thọ ở thế giới Cực Lạc, đem hương hoa, tràng phan bảo cái đến chỗ Phật cung kính cúng dường, nghe giảng kinh pháp và xướng danh ca ngợi sự tuyên dương hóa đạo công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Đông phương các cõi

Phật Số nhiều như hằng sa

Hằng sa chúng Bồ Tát

Đến lễ Vô Lượng Thọ

Nam Tây Bắc bốn phương

Thượng hạ cũng như vậy

Thảy chí tâm tôn trọng

Dâng cúng các trân diệu

Phát những lời hòa nhã

Ca ngợi đấng Tối Thắng

Cứu cánh thần thông tuệ

Chứng nhập sâu pháp môn

Nghe được danh hiệu Phật

An lành được lợi lớn.

Trong các sự cúng dường

Siêng tu không biếng trễ

Quán cõi thù thắng kia

Vi diệu khó nghĩ bàn

Công đức rất trang nghiêm

Cõi Phật khác khó bằng

Nhơn phát tâm vô thượng

Nguyện mau thành Bồ Đề.

Bấy giờ Vô Lượng Thọ

Kim dung hiện mỉm cười

Hào quang từ miệng ra

Chiếu khắp mười phương cõi

Rồi xoay chiếu thân Ngài

Ba vòng vào đảnh Phật.

Bồ Tát thấy quang này

Liền chứng Bất thối chuyển

Tất cả chúng trong hội

Đều vui mừng hớn hở

Lời Phật như sấm vang

Tiếng bát âm vi diệu

Bồ Tát mười phương đến

Di Đà thấu rõ tâm

Chí cầu cõi nghiêm tịnh

Thọ ký sẽ thành Phật

Biết rõ tất cả pháp

Như mộng huyễn tiếng vang

Trọn đầy các diệu nguyện

Quyết thành như Cực Lạc

Biết cõi như ảnh tượng

Phát tâm thệ nguyện lớn

Rốt ráo hạnh Bồ Tát

Đầy đủ các công đức

Thành đạt đạo Bồ Đề

Thọ ký sẽ thành Phật

Thông đạt các pháp tánh

Hết thảy không, vô ngã

Chuyên cầu tịnh cõi Phật

Quyết thành như Cực Lạc

Nghe pháp vâng phụng hành

Đạt đến chốn thanh tịnh

Tất được Vô Lượng Tôn

Thọ ký thành Chánh giác

Thù thắng vô biên cõi

Do nguyện lực Di Đà

Nghe danh cầu vãng sanh

Đến bậc Bất thối chuyển

Lập thệ nguyện Bồ Tát

Nguyện cõi này không khác

Khắp độ hết thảy chúng

Đều phát tâm Bồ Đề

Bỏ thân luân hồi rồi

Đều được lên bờ giác

Phụng sự vạn ức Phật

Giáo hóa khắp các cõi

Kính vui mừng trở về

Cõi An Dưỡng Cực Lạc.

PHẨM HAI MƯƠI BẢY

TÁN THÁN PHẬT ĐỨC

Này A Nan, Bồ Tát ở cõi Cực Lạc nhờ oai thần của Phật trong khoảng bữa ăn đi lại vô biên cõi Phật khắp mười phương để cúng dường.

Những hoa hương, tràng phan, đồ cúng dường, khởi tâm liền hiện đủ các thứ trân bảo trên tay, thế gian không thể có để cúng dường chư Phật và chúng Bồ Tát.

Nếu muốn rải hoa, liền trên không trung các hoa hiệp lại thành một lọng hoa tròn lớn có trăm ngàn sắc sáng, mỗi sắc có hương thơm khác nhau tỏa ngát muôn phương.

Đài hoa nhỏ đủ mười do tuần, cứ vậy lớn dần trùm khắp ba ngàn thế giới, theo đó trước sau thứ lớp ẩn hiện, nếu không có ai cúng hoa mới thì hoa cũ không rơi xuống, lơ lửng trên không vang tiếng nhạc vi diệu tán thán Phật đức.

Chốc lát trở về bổn quốc tụ họp tại giảng đường thất bảo nghe Phật Vô Lượng Thọ rộng giảng diệu pháp, tâm ý thông triệt vui mừng đại ngộ.

Lại có gió thơm thổi hàng cây báu phát âm thanh vi diệu, vô lượng hương thơm theo gió bay khắp bốn phương theo như ý nguyện cúng dường không dứt.

Chư Thiên đem trăm ngàn hoa hương, vạn thứ kỹ nhạc đến cúng dường Phật và chúng Bồ Tát Thanh Văn.

Chư Thiên trước sau qua lại, hớn hở vui mừng, là do oai thần bổn nguyện của Phật Vô Lượng Thọ và đã từng cúng dường các Đức Như Lai, có căn lành tương tục không giảm thiếu, khéo tu tập, khéo nhiếp thủ, khéo thành tựu vậy.

PHẨM HAI MƯƠI TÁM

ĐẠI SĨ THẦN QUANG

Này A Nan, chúng Bồ Tát tại cõi Phật đó nghe thấy hết khắp cả không gian và thời gian, biết hết tâm ý thiện ác, lời nguyện cầu khi nào được thoát ly lục đạo, được khai ngộ, được vãng sanh của chư Thiên, nhân loại cho đến các loài bò bay xuẩn động.

Chúng Thanh Văn ở cõi Phật kia có thân sáng tám thước, ánh sáng của Bồ Tát chiếu xa một trăm do tuần, có hai vị Bồ Tát tôn quý bậc nhất và ánh sáng chiếu khắp ba ngàn cả ngàn thế giới.

Tôn giả A Nan thưa Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Hai vị Bồ Tát ấy danh hiệu gì?”

Phật nói: “Một vị tên là Quán Thế Âm, vị thứ hai tên là Đại Thế Chí, hai vị Bồ Tát này khi còn ở cõi Ta bà tu hạnh Bồ Tát được sanh về cõi Cực Lạc, thường ở hai bên tả hữu Phật A Di Đà.

Muốn đến mười phương vô lượng cõi Phật liền đến, hiện ở thế gian này làm nhiều sự lợi lạc.

Những trai lành gái tín ở thế gian nếu có tai nạn ngặt nghèo hoảng sợ, chỉ cần hướng tâm về Bồ Tát Quán Thế Âm thì không có nạn gì mà không được cứu thoát.”

PHẨM HAI MƯƠI CHÍN

NGUYỆN LỰC HOẰNG SÂU

Lại này A Nan!

Tất cả Bồ Tát ở cõi Phật ấy hoặc hiện tại hay vị lai đều rất rốt ráo được Nhất sanh Bổ Xứ, chỉ trừ phát đại nguyện vào trong sanh tử để độ quần sanh, làm sư tử hống, mặc áo giáp làm những công đức trang nghiêm cho thệ nguyện của mình.

Tuy sanh trong đời ác ngũ trược, thị hiện đồng loại cho đến thành Phật, không thọ ác thú, sanh ở nơi nào đều biết rõ túc mạng.

Ý của Đức Phật Vô Lượng Thọ muốn độ thoát tất cả chúng sanh khắp mười phương thế giới sanh về cõi Cực Lạc đạt đến Niết bàn.

Đã làm Bồ Tát thì quyết chắc thành Phật.

Đã thành Phật rồi trở lại giáo hóa độ thoát, triển chuyển không nghỉ.

Thanh Văn, Bồ Tát, chúng sanh sanh về cõi Phật đó đạt đến Niết bàn, chứng quả Phật số nhiều không thể tính được.

Trong cõi Phật đó chỉ có một pháp không có tăng thêm.

Vì sao vậy?

Ví như biển lớn là vua, các dòng nước chảy vào biển cả, nước trong biển ấy cũng không thêm bớt.

Cõi Phật A Di Đà vĩnh viễn rộng lớn sáng đẹp an lạc hơn cả vô số cõi Phật trong mười phương.

Ấy là do sự phát nguyện cầu đạo, tích lũy công đức khi còn làm Bồ Tát.

Ân đức bố thí của Phật Vô Lượng Thọ khắp mười phương không cùng cực, sâu rộng không lường, không thể nói hết được.

PHẨM BA MƯƠI

BỒ TÁT TU TRÌ

Lại này A Nan!

Thiền định, trí huệ, thần thông, oai đức các vị Bồ Tát trong cõi Phật đó đều viên mãn.

Mật tạng chư Phật rất sâu xa rốt ráo sáng tỏ, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, thâm nhập chánh huệ, không còn dư tập, thật hành theo lời Phật dạy, hành thất giác chi, tu ngũ nhãn rõ biết chơn đế đạt cả tục đế.

Nhục nhãn thì so đo, thiên nhãn thấy thông suốt, pháp nhãn thấy biết thanh tịnh, huệ nhãn biết rõ chơn không, Phật nhãn đầy đủ công năng, biết rõ pháp tánh, biện tài tổng trì tự tại vô ngại, biết rõ vô biên phương tiện ở thế gian, nói đúng chơn đế, hiểu sâu nghĩa lý, cứu độ các hữu tình, diễn nói Chánh pháp, vô tướng vô vi, vô phược vô thoát, vô phân biệt, xa lìa điên đảo, đối vật thọ dụng không có tư tưởng chiếm giữ, đi khắp cõi Phật không ưa không chán, không mong cầu cũng không chấp trước, cũng không có tưởng oán hận đây kia.

Vì sao vậy?

Các vị Bồ Tát đối với chúng sanh có tâm đại từ bi đại lợi ích, xa lìa chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng chơn thật trí thấu rõ các pháp là như như, biết rõ phương tiện giảng giải về tứ đế, không thích học thuyết thế gian, thích luận Chánh pháp, biết tất cả pháp đều không tịch, tập khí phiền não chướng và sở tri chướng đều dứt sạch, ở trong ba cõi bình đẳng siêng tu cứu cánh nhất thừa đến bờ giải thoát, quyết dứt lưới nghi chứng vô sở đắc, dùng phương tiện trí tăng trưởng hiểu biết, an trụ thần thông được nhất thừa Phật quả, không nhờ vào người khác.

PHẨM BA MƯƠI MỐT

CÔNG ĐỨC CHÂN THẬT

Trí huệ uyên thâm như biển cả, Bồ Đề cao rộng như Tu di, thân sáng chói như nhật nguyệt, tâm trong trắng như tuyết sơn, nhẫn nhục như đất bằng, bình đẳng tất cả, thanh tịnh như nước rửa sạch trần cấu, hừng hực như lửa đốt hết phiền não, không chấp trước như gió không gì chướng ngại, pháp âm như sấm vang thức tỉnh kẻ chưa giác, mưa pháp cam lồ thấm nhuần chúng sanh, thênh thang như hư không bao dung tất cả, thanh tịnh như hoa sen lìa xa ô nhiễm, như cây ni câu che khắp rộng rãi, như chùy kim cương phá tan tà chấp, như núi Thiết Vi tà ma ngoại đạo không lay chuyển được, tâm chánh trực khéo giỏi quyết định, luận pháp không chán, cầu pháp không mệt mỏi, giới như lưu ly trong ngoài sáng sạch, phàm nói điều gì đều làm cho người vui tín phục, đánh trống pháp, lập pháp tràng, sáng huệ nhật, phá si ám, thuần tịnh ôn hòa, tịch định an nhiên, làm đại đạo sư, điều phục tự tha, dắt dẫn quần sanh, xả bỏ ái trước, xa hẳn ba độc, thung dung tự tại, nhân duyên nguyện lực phát sanh thiện căn, phá dẹp ma quân, tôn trọng cúng dường chư Phật, đèn sáng cho thế gian, ruộng phước tối thắng, an lành tột bậc, kham thọ cúng dường, hiển hách hoan hỷ, mạnh bạo không sợ sệt, thân tướng đẹp đẽ, công đức biện tại đầy đủ trang nghiêm không ai sánh được.

Thường được chư Phật khen ngợi.

Bồ Tát rốt ráo các Ba la mật, an trụ vào Tam ma địa bất sanh bất diệt, giáo hóa khắp nơi khác với hàng nhị thừa.

A Nan, ta nay lược nói chơn thật công đức các hàng Bồ Tát ở thế giới Cực Lạc kia tất cả đều như vậy.

Nếu nói rộng ra trải trăm ngàn vạn kiếp cũng không hết được.

PHẨM BA MƯƠI HAI

THỌ LẠC KHÔNG CÙNG TẬN

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát và Thiên, nhơn: “Công đức trí huệ của Thanh Văn, Bồ Tát ở cõi Đức Phật Vô Lượng Thọ không thể nói hết được.

Cõi nước Cực Lạc kia vi diệu an lạc thanh tịnh như vậy, há còn phương pháp nào hơn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, tự nhiên thành tựu, xuất nhập cúng dường, quán kinh tu đạo, pháp hỷ vẹn toàn, trí huệ sáng suốt, tâm không thối chuyển, ý không giải đãi, ngoài hiện an nhàn, trong lại tinh tấn, dung cách trùm cả thái hư, đạt đến trung đạo, trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, hành động chánh trực, thân tâm khiết tịnh, không tham nhiễm ái, chí nguyện cương định, không tăng chẳng giảm, cầu đạo hòa chánh, không bị tà tâm khuynh đảo, tuân lời Phật dạy quyết không trái phạm, nếu đã quyết tâm thì phải kiên trì không nghĩ gì khác, không lo nghĩ ưu buồn, an nhiên vô vi, tâm rỗng như hư không, không lập một pháp, bình thản không tham dục, trọn thành thiện nguyện, dốc lòng cầu tiến, từ bi ai mẫn, lễ nghĩa gồm đủ, sự lý viên dung, đạt đến giải thoát, tự tánh bản nhiên hoàn toàn thanh tịnh, chí nguyện vô thượng, thân tâm tịch định an lạc.

Hốt nhiên tâm khai đạt lý giác ngộ triệt để, thấy được thật tướng các pháp, bản thể vũ trụ, quang sắc xen nhau tất cả chỉ là như như, biến chuyển vô cùng.

Uất đơn việt thành thất bảo, nắm rõ vạn vật, sáng sạch hiển lộ tột đẹp vô cùng không gì sánh được, rõ ràng không trên dưới, thông suốt không ngằn mé.

Vậy phải hết sức siêng năng tinh tấn tu tập quyết chắc được vãng sanh về cõi vô lượng thanh tịnh Phật A Di Đà, chấm dứt năm thú, đóng kín ác đạo.

Đạt đạo không khó, vãng sanh há lại không được sao!

Cõi kia không trái lẽ, thuận theo tự nhiên, bỏ tất cả như hư không, siêng năng niệm Phật cầu sanh quyết đến Cực Lạc, thọ mạng an lạc không cùng, há lại tham đắm thế sự, toàn là vô thường, sầu khổ cả?

PHẨM BA MƯƠI BA

KHUYẾN DỤ SÁCH TẤN

Người đời vì sự tranh đua nên sống trong cảnh thô bạo, khổ cực nhọc thân làm lụng để tự cung cấp.

Tôn quý ty tiện, nghèo khổ giàu sang, lớn nhỏ trai gái phải lao tâm khổ trí, suy nghĩ lo toan.

Không nhà lo nhà, quyến thuộc tài vật, có hoặc không cũng lo, có rồi còn thiếu, muốn sao cho bằng người.

Lại còn lo sợ vô thường, nước lửa trộm cướp, oan gia trái chủ, lửa thiêu nước chìm, tiêu tan sạch sẽ, tâm ý khư khư không chịu buông xả, mạng chung hết thở, không ai tránh khỏi, nghèo giàu như nhau, sầu khổ trăm mối.

Thế nên ở đời cha con anh em, vợ chồng thân thuộc nên thương kính nhau, không nên ghét giận nhau, có không nên thông cảm nhau, không nên tham tiếc, nói năng hòa nhã đừng chống đối nhau.

Hễ có tranh cãi liền sanh giận dữ, thành oán thù nhiều kiếp về sau.

Sự việc ở đời đem nhiều khổ lụy, tuy chưa gặp phải, phải gấp có ý tưởng ngăn trừ.

Con người vì ái dục nên phải sống chết qua lại sáu nẻo, tự chịu khổ vui không ai thay thế được.

Lành dữ biến hóa theo đó đi thọ sanh không đồng, tụ họp không hạn kỳ.

Lúc còn cường tráng sao không nỗ lực tu tập, đợi đến lúc nào?

Người đời, không biện biệt được tốt xấu cát hung họa phước, thần trí ngu muội, lại theo các giáo điều khác, liên tiếp điên đảo, nguồn gốc vô thường mê mờ không chịu suy xét, chẳng tin kinh pháp, không biết lo xa, say mê giận hờn, tham đắm tài sắc, trọn chẳng ngừng nghỉ, thật đáng thương thay!

Đời trước ngu muội, không biết đạo đức, không ai chỉ bảo đâu có lạ gì?

Sanh tử luân hồi, thiện ác báo ứng đều chẳng tin tưởng, cho là không có.

Tự thử nhìn lại: nào cha khóc con, con khóc cha, anh em vợ chồng than khóc lẫn nhau, một đời sanh tử tiễn đưa thương tiếc, buồn thương trói buộc không sao giải nổi, nghĩ nhớ ơn sâu không ngoài tình dục.

Sao chẳng suy cùng xét kỹ, chuyên tâm hành đạo, khi tuổi già mạng hết không biết làm sao?

Kẻ mê thì nhiều, người ngộ đạo rất ít, phần nhiều ôm lòng giết hại, ác khí tràn đầy, làm điều hư dối, trái ngược trời đất mặc tình tạo tội.

Khi mạng sống hết, đọa vào ác đạo không biết ngày ra.

Các ngươi phải nghĩ kỹ, xa lìa điều ác, siêng làm việc lành, ái dục vinh hoa không thể giữ mãi, đều phải ly biệt chẳng có vui gì.

Nên phải siêng năng tinh tấn cầu sanh về cõi An Lạc, được trí huệ sáng suốt, công đức thù thắng, đừng theo tâm tham dục, cô phụ kinh giới, uổng phí đời sau.

PHẨM BA MƯƠI BỐN

TÂM ĐƯỢC MỞ SÁNG

Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Lời Thế Tôn răn dạy rất sâu, rất đúng, nhờ ơn đức từ bi giải thoát ưu khổ.

Phật là đấng Pháp vương tôn quý siêu việt trong hàng Thánh, quang minh vô tận, trí huệ không cùng, Đạo sư khắp cả trời người.

Ngày nay được gặp Phật lại được nghe hồng danh Vô Lượng Thọ, tâm trí được sáng tỏ rất là vui mừng”.

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Kính Phật là điều đại thiện, niệm Phật quan trọng hơn, giúp cắt hết lưới nghi, dứt hết ái dục, lấp hết nguồn ác, đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị chánh đạo, độ người chưa độ.

Các ngươi phải biết chúng sanh mười phương nhiều kiếp đến nay luân chuyển trong năm đường, sầu khổ không dứt, sanh đã là khổ, già cũng khổ, bệnh càng khổ hơn, chết rất là đau khổ, hôi thối bất tịnh không có gì vui.

Nên quyết cắt đứt, tẩy trừ tâm xấu, nói năng hành động thành tín, trong ngoài hợp nhất, trước tự độ mình, lại ra độ người; hết lòng cầu nguyện, chứa nhóm căn lành, chỉ cần tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về cõi Vô Lượng Thọ, an vui vô cùng, vĩnh viễn dứt sạch sanh tử không còn khổ hoạn, thọ mạng ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý.

Nên phải tinh tấn cầu đạt, tâm nguyện không được nghi ngờ.

Như còn chút nghi hoặc sẽ sanh về cung điện thất bảo ở biên địa của nước Cực Lạc, chịu các tai ách trải qua năm trăm năm”.

Ngài Di Lặc bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Chúng con xin vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi ngờ”.

PHẨM BA MƯƠI LĂM

TRƯỢC THẾ ÁC KHỔ

Phật bảo Di Lặc: “Các ngươi sanh trong đời này, tâm ý chánh trực không làm điều ác, đó là có đức hạnh lớn.

Vì sao vậy?

Mười phương thế giới của chư Phật thiện nhiều ác ít rất dễ khai hóa.

Chỉ có thế gian năm ác trược này rất là cực khổ.

Ta nay thành Phật ở đây để giáo hóa quần sanh bỏ năm điều dữ, dứt năm sự thống khổ, lìa năm sự thiêu đốt, điều phục tâm ý khiến làm năm điều lành, phước đức được thành tựu.

Những gì là năm?

Điều thứ nhất: Các loài chúng sanh ở thế gian thích làm điều ác, mạnh hiếp yếu, chèn ép nhau, tàn sát tổn hại ăn nuốt lẫn nhau, không biết làm lành để chịu hậu quả.

Có kẻ cùng khổ, cô độc, câm điếc đui ngọng, si ác ngông cuồng là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm lành.

Những hạng tôn quý, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao là do biết từ ái hiếu thuận, tu thiện tích đức từ đời trước.

Khi còn sanh tiền đã làm sai trái, sau khi mạng chung vào chốn u minh, chuyển thọ thân hình sanh vào các nẻo, nên có địa ngục, súc sanh, ví như lao ngục ở thế gian có cực hình kịch khổ, thần thức tùy tội đã tạo mà thọ mạng có dài ngắn theo nhau trả báo, tội ác chưa hết lại tiếp tục chịu tội, xoay vần nhiều kiếp không thôi, rất khó giải thoát, khổ thống không thể nói hết được.

Ác đạo tuần hoàn cảm ứng tự nhiên, tuy không báo ứng tức thời, nhưng thiện ác chung quy vẫn phải chịu quả báo.

Điều thứ hai: Nhân loại thế gian không theo pháp luật, hoang dâm thái quá, mặc tình phóng túng; trên thì không minh, tại vị không chính, hãm hại oan uổng, tổn hại trung lương, tâm miệng khác biệt, mưu toan nhiều bề, trong ngoài dối trá, giận dỗi ngu si, muốn lợi về mình, tham lam không chán; lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét trước sau, giàu có keo kiệt không chịu bố thí, chất chứa cho đầy, nhọc tâm khổ thân, đến khi mạng chung không đem được gì, thiện ác họa phước tùy nghiệp thọ sanh, hoặc sanh vào nơi sung sướng hay vào chốn khổ độc.

Thấy người làm lành lại còn hủy báng không chịu bắt chước; thường nghĩ trộm cướp, rình đoạt của người, tiêu phá hết rồi lại đi tìm nữa.

Chết đọa vào ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, đau khổ vô cùng.

Điều thứ ba: Người đời nương nhau mà sống còn trong trời đất, thọ mạng chẳng được là bao.

Kẻ bất lương tâm không chính đính, ôm lòng tà ác, luôn nghĩ dâm dục, phiền não tràn hông, thái độ tà ngụy buông lung, hao tổn tài sản, làm điều phi pháp, ai cầu xin gì cũng không chấp thuận, lại còn tụ bè kết đảng, hưng binh gây chiến đánh cướp giết hại, chiếm đoạt bức hiếp, chu cấp cho vợ con, no thân hưởng lạc, khiến người chán ghét, lo lắng khổ cực, tạo nhiều tội ác, chết vào tam đồ chịu vô lượng khổ, qua lại nhiều kiếp, khó được giải thoát, khổ đau khôn xiết.

Điều thứ tư: Người ta ở đời không chịu tu thiện, nói dối, nói lời hung dữ, nói đâm thọc, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, hãm hại người hiền, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, chẳng thành tín với bằng hữu, tự cao tự đại, cho mình có lý, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người, mong người kính nể, không biết hổ thẹn, ôm lòng kiêu mạn, khó thể giáo hóa.

Nhờ chút phước đức từ đời trước, đời này làm ác phước đức mất hết.

Thọ mạng hết rồi, các điều ác bao vây, oán cừu dẫn dắt không sao tránh khỏi, chỉ việc tiến vào vạc lửa, thân thể tan nát, tâm thần thống khổ, bấy giờ nghĩ lại ăn năn thì đã muộn rồi.

Điều thứ năm: Người đời phóng túng, lười biếng không chịu làm lành, tu sửa thân tâm; cha mẹ khuyên bảo, ngang trái chống đối như là oan gia, phụ bạc ân nghĩa không chút báo đền, phóng túng lêu lổng, rượu chè xa hoa, đần độn bướng bỉnh, không chút lễ nghĩa, không thể can gián, giao tiếp lục thân quyến thuộc không chút ân tình, không nhớ ơn cha mẹ, không đoái nghĩa thầy trò bằng hữu, chỉ lo cho tự thân, không được một điều lành.

Không tin Phật Pháp, không tin sanh tử thiện ác, muốn hại hiền nhân, phá hoại Phật Pháp, ngu si mông muội tự cho thông minh, không biết từ đâu sanh đến, chết sẽ đi về đâu, bất nhơn bất thuận lại muốn trường thọ, thương xót khuyên bảo lại không chịu nghe, khô hơi khản tiếng cũng thành vô ích.

Tâm ý cố chấp không chịu thấu hiểu, mạng chung cận kề hối tiếc đã không tu thiện, đến khi nhắm mắt ăn năn hối hận sao còn kịp nữa!

Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước rành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được.

Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng.

Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối, ai hay biết được?

Chỉ có Đức Phật biết rõ khai thị chỉ dạy, người tuân hành rất ít, nên sanh tử không thôi, ác đạo không dứt.

Người đời tạo ác như thế, nên tự nhiên có ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn không thể nói được.

Do vậy nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn thiêu đốt thân người.

Nếu tự nhất tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, chí tâm làm lành, không làm việc ác, thì được độ thoát, đầy đủ phước đức, được trường thọ đến đạo Bồ Đề.

Đây là năm điều đại thiện.

PHẨM BA MƯƠI SÁU

BAO LƯỢT KHUYÊN LƠN

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Những ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu đó chuyển tiếp cho nhau, nếu phạm tội tất phải vào ác đạo, hiện đời sẽ bị bệnh hoạn tai ương, cầu sống không được, cầu chết không xong, để cho người đời thấy sự chiêu cảm đó, mạng chung đọa vào ba đường ác, thống khổ quá lắm, tự bị thiêu đốt, cùng kết oán thù tàn hại lẫn nhau.

Tạo một tội nhỏ lần thành to lớn, do tham đắm tài sắc không chịu bố thí, muốn khoái lạc bản thân không chịu phản tỉnh, si ám thúc dục tranh lợi về mình, phú quý vinh hoa đương thời vừa ý, không chịu nhẫn nhịn, không chuyên tu thiện, không bao lâu uy thế theo đó tiêu diệt, nghiệp lực an bài báo ứng tự nhiên, dù có lo lắng hoảng hốt cũng phải vào ba ác đạo.

Xưa nay như vậy, đau khổ lắm thay!

Các ngươi được giáo pháp của chư Phật chỉ dạy phải suy nghĩ chín chắn tự ghi nhớ kỹ, trọn đời không được biếng trễ.

Kính Phật trọng hiền, lương thiện từ bi, cầu thoát ba cõi, dứt sạch gốc sanh tử, lìa hẳn lo sợ thống khổ tam đồ.

Thế nào là hành thiện bậc nhất?

Phải tự tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải đoan chánh, thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng, đừng theo thị dục, không phạm điều ác, ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh từ tốn.

Vội vàng hấp tấp không suy xét chín chắn sẽ hư hỏng hối hận về sau, uổng phí một đời”.

PHẨM BA MƯƠI BẢY

NHƯ NGHÈO ĐẶNG CỦA BÁU

Các ngươi đã trồng nhiều căn lành, phải nhẫn nhục tinh tấn, đừng phạm giới cấm, từ tâm chuyên nhất, thanh tịnh trai giới, tu một ngày một đêm ở cõi Ta bà còn hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả trăm năm.

Tại sao vậy?

Cõi nước của Đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác.

Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi Phật khác.

Tại sao vậy?

Vì cõi Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ.

Ta vì thương các ngươi nên đã hết lòng chỉ dạy trao cho kinh pháp, vậy phải nhớ giữ tuân hành.

Tôn ti nam nữ quyến thuộc bằng hữu chỉ bảo lẫn nhau, cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu, nếu có sai phạm phải tự hối cải, bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa, phụng trì kinh giới, như nghèo được của, sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm, tự nhiên cảm ứng được như sở nguyện.

Khi Phật còn tại thế quốc ấp thôn trang đều được hóa độ, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa thuận gió hòa, tai dịch không khởi, quốc thái dân an, binh đao vô dụng, nhân đức hưng vượng, giữ gìn lễ nghĩa, nước không trộm cướp, không có oán tặc, mạnh không hiếp yếu, đều được an lành.

Ta thương các ngươi còn hơn cha mẹ thương con.

Ta nay làm Phật ở đời này chỉ rõ điều lành điều dữ, dứt khổ sanh tử, được năm điều thiện, lên chốn an lạc vô vi.

Khi ta nhập Niết bàn, kinh điển lần lần diệt mất, nhân dân gian trá, làm nhiều điều ác, ngũ thiêu ngũ thống, về lâu sau càng làm ác nhiều thêm nữa, các ngươi nên khuyên bảo nhau như lời Phật dạy không được tái phạm”.

Ngài Di Lặc Bồ Tát chắp tay thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Người đời ác khổ như vậy, Phật đều từ bi thương xót độ thoát tất cả.

Con xin nghe lời ân cần dạy bảo của Thế Tôn không dám sai trái”.

PHẨM BA MƯƠI TÁM

LỄ PHẬT HIỆN ÁNH SÁNG

Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Nếu ngươi muốn thấy Đức Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng và các Bồ Tát, A La Hán v.v...

ở cõi nước đó, nên đứng dậy quay mặt về phương Tây hướng mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ xưng niệm: Nam mô A Di Đà Phật”.

Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mặt hướng về phương Tây, chắp tay đảnh lễ bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Con nay nguyện được thấy Đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, cúng dường phụng sự, vun trồng các căn lành”.

Khi vừa đảnh lễ liền thấy Đức Phật A Di Đà, dung nhan nguy nguy, sắc tướng trang nghiêm, quang minh rực rỡ, cao lớn vượt trên tất cả thế giới.

Lại nghe chư Phật Như Lai khắp mười phương thế giới xưng dương tán thán vô lượng công đức vô ngại vô cùng của Đức Phật A Di Đà.

Tôn giả A Nan bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Cõi Phật thanh tịnh kia rất hiếm có, con nguyện mong được sanh về cõi đó”.

Đức Thế Tôn nói những người được sanh về cõi đó đã từng thân cận vô lượng đức Phật, nhiều thiện căn phước đức, ngươi muốn sanh về cõi đó thì phải nhất tâm quy y mong cầu.

Vừa nói lời ấy xong, trên tay Đức Phật A Di Đà liền phóng ra vô lượng tia sáng chiếu khắp thế giới chư Phật, cõi nước chư Phật thảy đều hiện rõ như ở trước mắt.

Do quang minh thanh tịnh thù thắng của Đức Phật A Di Đà, nên ở thế giới này như Hắc sơn, Tuyết sơn, Kim cang, Thiết vi các núi lớn nhỏ, sông suối, rừng cây, cung điện của trời, người, tất cả cảnh giới đều sáng rõ, như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, hang hố, thảy đều sáng rõ, đồng một màu sắc, như thời kiếp thủy tai nước tràn đầy cả, vạn vật chìm ngập, thăm thẳm mênh mông, chỉ toàn là nước.

Quang minh của Phật cũng chiếu khắp như vậy, tất cả quang minh của Thanh Văn, Bồ Tát đều bị lu mờ bởi ánh hào quang sáng chói rực rỡ của Đức Phật.

Hàng tứ chúng trong đây, Thiên long, Bát bộ, người và phi nhân v.v...

đồng thấy các sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc.

Đức Phật A Di Đà ở trên tòa cao, oai đức nguy nguy, tướng hảo quang minh.

Các hàng Thanh Văn, Bồ Tát cung kính vây quanh, như núi Tu Di đứng giữa biển cả.

Thân Phật sáng rõ chiếu diệu thanh tịnh bình chánh, không có tạp uế và hình loại quái dị, chỉ có các thứ báu trang nghiêm, Thánh Hiền chung ở.

Tôn giả A Nan và các chúng Bồ Tát v.v...

đều rất vui mừng hớn hở đảnh lễ năm vóc sát đất xưng niệm Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà.

Chư Thiên và chúng nhân cho đến loài bò bay xuẩn động đều thấy hào quang ấy cả.

Những kẻ bệnh khổ được hết bệnh khổ, những kẻ sầu não được giải thoát, thảy đều có từ tâm làm lành, vui mừng sung sướng.

Những nhạc khí như chuông, khánh, cầm sắt, không hầu không đánh tự trỗi.

Chư Thiên và nhân dân trong các cõi Phật khác đều đem hoa hương đến giữa hư không rải xuống cúng dường.

Bấy giờ thế giới Cực Lạc ở phương Tây cách xa cả trăm ngàn vô lượng ức cõi nước, nhờ oai lực của Phật mà thấy rõ như ở trước mắt, như được tịnh thiên nhãn thấy như ở khoảng tám thước.

Đại chúng ở cõi Cực Lạc cũng lại như vậy, đều thấy Đức Thích Ca Như Lai ở thế giới Ta bà này và chúng Tỳ kheo vây quanh nghe pháp.

PHẨM BA MƯƠI CHÍN

TỪ THỊ THUẬT CHỖ THẤY

Bấy giờ Đức Phật bảo tôn giả A Nan và Từ Thị Bồ Tát rằng: “Các ông có thấy cung điện, lầu các, ao hồ, rừng cây khắp cả vi diệu trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc không?

Các ông có thấy chư thiên ở cõi Dục cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh đem hoa hương cúng dường khắp cõi Phật không?”

Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Chúng con nhìn thấy”.

“Các ông có nghe tiếng lớn của Đức Phật A Di Đà truyền khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh không?”

Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Chúng con có nghe”.

Đức Phật bảo: “Các ông có thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không?

Và thấy họ liên tục niệm Phật không?

Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do Đức Phật biến hóa ra không?”

Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Như lời Đức Thế Tôn nói, chúng con đều thấy cả”.

Đức Phật bảo Di Lặc rằng: “Nhân dân ở nước đó có thai sanh nữa, ông có thấy chăng?”

Ngài Di Lặc bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Con thấy người thế giới Cực Lạc ở trong thai như ở trong cung điện cõi Dạ Ma Thiên.

Lại thấy chúng sanh ngồi kiết già ở trong hoa sen tự nhiên hóa sanh.

Do nhân duyên gì nhân dân ở cõi đó có hạng thai sanh, hạng hóa sanh?”

PHẨM BỐN MƯƠI

BIÊN ĐỊA, NGHI THÀNH

Đức Phật bảo ngài Từ Thị: “Nếu có chúng sanh do tâm nghi hoặc làm các công đức, nguyện sanh về Cực Lạc, không rõ Phật trí, bất tư nghì trí, bất khả xứng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, đối với các trí này nghi ngờ không tin, nhưng vì tin tội phước mà tu tập hạnh lành, nguyện sanh về Cực Lạc.

Lại có chúng sanh chứa nhóm thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, vô đẳng trí, oai đức quảng đại bất tư nghì trí, đối với căn lành không sanh lòng tin, ý chí còn do dự đối với sự vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, không có tinh chuyên, nhưng vì liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh.

Do những nhân duyên đó, những hạng người này tuy được sanh về Cực Lạc, nhưng không thể đến thẳng cõi Đức Phật Vô Lượng Thọ được, chỉ đến biên giới cõi Phật, ở trong thành thất bảo thôi.

Không phải Đức Phật muốn như vậy, mà vì chính họ tạo nên tâm đến đó vậy.

Ở đó cũng có các ao sen thất bảo, tự nhiên thọ thân, ăn uống sung sướng như cõi trời Đao Lợi, nhưng ở trong thành đó không thể ra khỏi, nhà ở trên đất, không thể tùy ý cao lớn.

Ở đó năm trăm năm không thấy Phật, không nghe được pháp, không thấy Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn, trí huệ không sáng suốt, biết kinh pháp lại ít, tâm không mở mang, ý không vui vẻ, nên ở đó gọi là thai sanh.

Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí, cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, gieo các thiện căn làm các công đức, chí tâm hồi hướng, nên được hóa sanh ngồi kiết già trong hoa thất bảo, khoảnh khắc được thân tướng quang minh, công đức trí huệ thành tựu đầy đủ như các bậc Bồ Tát vậy.

Di Lặc Bồ Tát phải biết, hạng hóa sanh đó có trí huệ thù thắng.

Hạng thai sanh kia trong năm trăm năm không thấy Tam Bảo, không biết phép tắc của Bồ Tát, không được tu tập công đức, không có nhân duyên cúng dường Phật Vô Lượng Thọ, phải biết hạng người này do đời trước không có trí huệ, sanh tâm nghi hoặc mà ra.

PHẨM BỐN MƯƠI MỐT

HOẶC TẬN KIẾN PHẬT

Thí như Chuyển luân Thánh vương có bảy ngục báu để giam những vương tử nào mắc tội, trong đó cũng có lầu các cung điện, màn báu, giường báu, lan can cửa sổ, giường ghế trang sức quý báu, ăn uống y phục được cấp dưỡng như Chuyển luân Thánh vương, nhưng bị trói chân bằng xích vàng.

Các tiểu vương tử này có thích ở nơi ấy không?

Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Dĩ nhiên không vui thích.

Khi họ bị giam cầm không được tự do, chỉ muốn tìm đủ mọi cách để được ra khỏi ngục, lại cầu mọi thế lực cận thần giúp xin nhưng cũng không toại ý, bao giờ Chuyển luân Thánh vương bằng lòng mới được giải thoát”.

Đức Phật bảo ngài Từ Thị: “Này Di Lặc, các chúng sanh này cũng lại như vậy.

Vì có tâm nghi hoặc Phật trí, cho đến quảng đại trí, đối với thiện căn thiếu lòng tin sâu, do nghe danh hiệu Phật mà phát tâm tin thôi.

Tuy sanh về cõi Cực Lạc ở trong hoa sen, nhưng không được ra khỏi hoa thai, trong đó cũng đủ vườn tược cung điện.

Tại sao vậy?

Trong hoa thai đó thanh tịnh không có uế ác, nhưng trong năm trăm năm không thấy Tam bảo, không được cúng dường phụng sự chư Phật, xa lìa tất cả thiện căn thù thắng, do nỗi khổ đó nên không vui thích.

Nếu như những chúng sanh này biết được tội đời trước, hết lòng ăn năn tự trách, cầu được ra khỏi thai hoa, khi đã hết nghiệp rồi mới được ra khỏi, thẳng đến chỗ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe kinh pháp, lâu sau cũng được giải ngộ hoan hỷ, cũng được đi khắp cúng dường vô lượng vô số chư Phật, tu tập các công đức.

Này A Dật Đa!

Phải biết rằng tâm nghi hoặc tổn hại rất lớn, mất lợi ích lớn đối với Bồ Tát, nên phải tin tưởng minh bạch vô thượng trí huệ của Phật.”

Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Tại sao có một hạng chúng sanh ở thế giới này tuy cũng tu thiện mà không cầu vãng sanh?”

“Này Từ Thị!

Những chúng sanh này trí huệ cạn cợt, phân biệt Tây phương không bằng cõi trời, do vậy không thích cầu sanh về cõi Cực Lạc.”

Ngài Từ Thị bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn!

Những chúng sanh này luống dối phân biệt không cầu sanh về cõi Phật, làm sao thoát khỏi luân hồi?”

Đức Phật nói: “Các chúng sanh ấy có nhiều căn lành, nhưng không bỏ tâm phân biệt vọng tưởng, không cầu Phật huệ, tham đắm phước báu vui thú thế gian.

Tuy cũng làm phước, nhưng chỉ cầu quả báo nhơn thiên.

Tuy được quả báo đầy đủ phong túc, nhưng chưa ra khỏi ngục tù tam giới.

Giả sử cha mẹ, vợ con, nam nữ quyến thuộc mà không dứt bỏ dục vọng, tà kiến vọng chấp thì luôn ở trong vòng luân hồi không được tự tại.

Hạng người ngu si đó không gieo căn lành, chỉ dùng thế trí biện thông thì tăng thêm tà kiến, làm sao ra khỏi đại nạn sanh tử được.

Lại có chúng sanh tuy có gieo căn lành, tạo phước lớn, nhưng vẫn giữ tâm phân biệt, tình chấp sâu nặng, cũng cầu thoát luân hồi, nhưng không thoát được.

Nếu đem cái trí huệ vô tướng mà làm các công đức, thân tâm thanh tịnh, xa lìa tâm phân biệt, cầu sanh về Tịnh độ cho đến quả Bồ Đề, quyết được sanh về cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.”

PHẨM BỐN MƯƠI HAI

BỒ TÁT VÃNG SANH

Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn!

Hiện nay có bao nhiêu các bậc Bất thối Bồ Tát ở cõi Ta bà này và các cõi Phật khác được sanh về nước Cực Lạc?”

Phật nói: “Này Di Lặc, ở thế giới Ta bà này có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát đã từng cúng dường vô số chư Phật, làm nhiều công đức đã sanh về Cực Lạc.

Các bậc Bồ Tát sơ phát tâm, tu tập công đức đã được vãng sanh số lượng không thể tính được.

Không những các bậc Bồ Tát ở cõi này được vãng sanh về nước Cực Lạc, mà các cõi Phật khác cũng lại như vậy.

Cõi nước của Đức Phật Viễn Chiếu có mười tám câu chi na do tha đại Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.

Cõi nước của Đức Phật Bảo Tạng ở phương Đông Bắc có chín mươi ức bất thối Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.

Các bậc bất thối Bồ Tát ở những cõi Đức Phật Vô Lượng Âm, Đức Phật Quang Minh, Đức Phật Long Thiên, Đức Phật Thắng Lực, Đức Phật Sư Tử, Đức Phật Ly Trần, Đức Phật Đức Thủ, Đức Phật Nhân Vương, Đức Phật Hoa Tràng đã vãng sanh số lượng mười trăm ức, hoặc trăm ngàn ức cho đến vạn ức vị.

Đức Phật số mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa, có vô số chúng Bồ Tát ở cõi Phật đó đều ở bậc bất thối chuyển, đã sanh về cõi Cực Lạc.

Các vị ấy có trí huệ dõng mãnh, từng cúng dường vô lượng chư Phật, rất mực tinh tấn, thẳng đến nhất thừa, trong bảy ngày đêm kiên cố tu tập như pháp bằng cả trăm ngàn ức kiếp tu tập.

Đức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy có bảy trăm chín mươi ức đại Bồ Tát, các vị tiểu Bồ Tát và chúng Tỳ kheo v.v... sanh về cõi Cực Lạc không đếm kể được.

Danh hiệu của chư Phật trong mười phương thế giới và chúng Bồ Tát đã vãng sanh, chỉ nói tên thôi mãn kiếp cũng không hết.

PHẨM BỐN MƯƠI BA

CHẲNG PHẢI LÀ TIỂU THỪA

Này Từ Thị!

Ông thấy các bậc Bồ Tát Ma ha tát kia được nhiều lợi ích như vậy.

Nếu có trai lành gái tín nào, được nghe danh hiệu Đức Phật A Di Đà, sanh tâm vui mừng hớn hở chừng một niệm, quy y chiêm lễ như thuyết tu hành, phải biết người này được lợi ích rất lớn, được nhiều công đức như đã nói ở trên, tâm không tự ti, cũng không cống cao, thành tựu thiện căn được thêm tăng trưởng, phải biết người này không phải tiểu thừa, ở trong pháp của ta được gọi là đệ tử bậc nhất.

Cho nên ta bảo ông rằng: những Thiên, Nhân, A tu la ở thế giới này nên phải hớn hở tin thích tu tập, sanh tâm hy hữu, nên lấy kinh này làm thầy hướng dẫn để cho vô lượng chúng sanh mau được vào bậc Bất thối chuyển, thấy được cõi Cực Lạc rộng lớn trang nghiêm nhiếp thọ thù thắng, viên mãn công đức hơn cả.

Nên phải tinh tấn vâng giữ pháp môn này cầu được vãng sanh, không nên sanh tâm thối thất hư ngụy, dù có vào hầm lửa lớn cũng không được nghi ngờ hối hận.

Tại sao vậy?

Vô lượng vô số Bồ Tát đều mong cầu trân trọng lắng nghe pháp môn vi diệu này, không có tâm sai trái.

Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà còn không được, nên các ngươi phải cầu giữ pháp môn này.

PHẨM BỐN MƯƠI BỐN

THỌ KÝ BỒ ĐỀ

Về đời sau đến khi Chánh pháp diệt tận, nếu có chúng sanh nào đã trồng căn lành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nhờ vào oai lực của Phật Vô Lượng Thọ gia bị mới gặp được kinh pháp này, giữ gìn thọ trì sẽ được quảng đại Nhất Thiết Trí.

Ở trong kinh pháp đó hiểu rõ cặn kẽ, sẽ được nhiều hoan hỷ, nên lưu truyền cho mọi người tin theo tu tập.

Các thiện nam tín nữ đối với pháp này nếu đã cầu, hiện cầu hay sẽ cầu vãng sanh đều được nhiều lợi ích.

Các ông phải nên kiên định chắc chắn, trồng các căn lành, nên luôn luôn tu tập không được ngừng nghỉ nghi ngờ, chẳng vào các cõi trân bảo thành tựu lao ngục.

Này A Dật Đa!

Những hạng đại oai đức này thường từ nơi các pháp đại thừa khác mà được, nên đối với pháp này không chịu lắng nghe.

Có đến một ức vị Bồ Tát thối chuyển bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nếu có chúng sanh nào đối với kinh này viết chép cúng dường thọ trì đọc tụng, trong chút thời gian vì người diễn nói, khuyên họ lắng nghe, không sanh ưu não, cho đến ngày đêm suy nghĩ cõi Cực Lạc và công đức của Phật A Di Đà, đối với đạo vô thượng không thối chuyển, giả sử ba ngàn thế giới tràn ngập lửa lớn, người đó khi mạng chung cũng có thể vượt khỏi, sanh vào cõi Cực Lạc.

Bởi người ấy đời quá khứ đã từng gặp Phật và được thọ ký Bồ Đề, tất cả Như Lai đồng tán thán.

Vì thế nên phải chuyên tâm tin thọ, trì tụng diễn thuyết tu hành.

PHẨM BỐN MƯƠI LĂM

CHỈ LƯU LẠI MỘT KINH NÀY

Ta nay vì chúng sanh mà nói kinh này, khiến thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ và cảnh giới trang nghiêm của cõi Cực Lạc, hễ có tâm nguyện cầu đều được như ý.

Chớ để sau khi Ta diệt độ rồi sanh tâm nghi hoặc.

Đời tương lai khi kinh pháp diệt tận, Ta đem lòng từ bi thương xót đặc biệt lưu lại kinh này trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp được kinh này tùy ý nguyện cầu đều được độ thoát.

Như Lai ra đời rất khó gặp khó thấy, kinh pháp của Phật khó được khó nghe, gặp thiện tri thức nghe được pháp tu hành cũng đã là khó.

Nếu nghe kinh này tin thích thọ trì là điều khó trong khó, không gì khó hơn.

Nếu có chúng sanh được nghe lời Phật, từ tâm thanh tịnh, hớn hở vui mừng, hoặc râu tóc dựng đứng hay mắt rơi lệ, là do đời trước từng làm Phật sự, không phải là người phàm.

Nếu nghe danh hiệu Phật tâm sanh hồ nghi, đối với kinh Phật đều không tin tưởng, đó là từ ác đạo sanh ra, túc ương chưa dứt, chưa được độ thoát, nên có tâm hồ nghi, không chịu tin tưởng.

PHẨM BỐN MƯƠI SÁU

CẦN TU KIÊN TRÌ

Này Di Lặc Bồ Tát!

Pháp của chư Phật Như Lai vô thượng, đủ thập lực, vô úy, thậm thâm vô ngại vô trước; pháp Ba la mật của Bồ Tát cũng không dễ gặp.

Nói pháp này cho người cũng khó khai thị.

Người không có lòng tin sâu vững chắc cũng khó gặp được kinh pháp này.

Ta nay như lý tuyên nói pháp môn “Quảng đại vi diệu nhất thiết chư Phật xưng tán” này đem giao phó cho các ông, các ông phải cẩn thận thủ hộ, làm lợi ích cho các hữu tình chìm đắm trong đêm dài, chớ để cho chúng đọa lạc trong ngũ thú chịu các khổ ách.

Nên siêng năng tu hành, thuận theo giáo pháp của ta, phải tâm nguyện như Phật, thường nhớ ân sư, phải làm cho pháp này lưu truyền dài lâu không bị tiêu diệt, kiên cố giữ gìn không để hủy hoại vong thất, kinh pháp nhiều ít nhớ kỹ không quên, quyết được đạo quả.

Pháp của Ta như vậy, làm như vậy, nói như vậy, Như Lai đã hành trì cũng theo đó mà hành trì, tu các phước thiện, cầu sanh về cõi Tịnh độ.

PHẨM BỐN MƯƠI BẢY

PHƯỚC HUỆ ĐƯỢC NGHE

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:

Nếu xa xưa không tu phước huệ,

Thì Chánh pháp này không thể nghe

Đã từng cúng dường các Như Lai

Nên hay vui mừng tin pháp này.

Kiêu mạn giải đãi và tà kiến,

Pháp vi diệu Như Lai khó tin

Như người mù hằng thấy tối đen

Không thể dẫn đường cho người khác.

Chỉ từng trước Phật trồng căn lành,

Cứu đời hành thiện mới tu tập,

Nghe rồi thọ trì và biên chép,

Đọc tụng tán thán và cúng dường.

Như vậy nhất tâm cầu Tịnh độ

Giá sử lửa cháy khắp ba ngàn

Nhờ oai Đức Phật tất siêu việt

Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc.

Biển trí huệ Như Lai sâu rộng,

Chỉ Phật cùng Phật mới biết được.

Thanh Văn ức kiếp suy trí Phật,

Tận hết sức cũng không thể hiểu.

Công đức Như Lai Phật tự biết,

Chỉ có Thế Tôn mới khai thị.

Thân người khó được, Phật khó gặp,

Tín huệ nghe pháp khó trong khó.

Nếu các hữu tình sắp thành Phật,

Hạnh hơn Phổ Hiền lên bờ giác.

Hỡi những kẻ học rộng trí cả

Nên tin lời như thật của Ta.

Diệu pháp này may phước được nghe

Nên vui mừng hãy chuyên niệm Phật

Thọ trì quyết thoát biển sanh tử

Phật gọi người này thật bạn lành.

PHẨM BỐN MƯƠI TÁM

NGHE KINH ĐƯỢC LỢI ÍCH

Khi Đức Thế Tôn nói kinh này rồi, có một vạn hai ngàn na do tha chúng sanh xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi ức chúng sanh chứng quả A na hàm, sáu ngàn tám trăm Tỳ kheo lậu tận tâm được giải thoát, bốn mươi ức Bồ Tát được Bất thối chuyển, dùng công đức hoằng thệ mà tự trang nghiêm quả Vô Thượng Bồ Đề, hai mươi lăm ức chúng sanh được bất thối nhẫn, bốn vạn ức na do tha trăm ngàn chúng sanh chưa từng phát nguyện thành Phật, nay mới phát tâm gieo các căn lành, nguyện sanh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà, đều sẽ vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật Vô Lượng Thọ, thảy đều thứ lớp thành Phật khắp các phương, cùng một danh hiệu là Diệu Âm Như Lai.

Lại có tám vạn câu chi na do tha hữu tình ở mười phương cõi Phật, hoặc hiện vãng sanh, hoặc sẽ vãng sanh thấy Phật A Di Đà, được thọ ký pháp nhẫn thành Vô Thượng Bồ Đề, các hữu tình này có túc nguyện nhân duyên với Đức Phật A Di Đà.

Bấy giờ đại thiên thế giới chấn động sáu cách và hiện các hy hữu thần biến.

Quang minh sáng chói chiếu khắp mười phương.

Lại có chư Thiên giữa hư không tấu âm nhạc vi diệu, cho đến chư Thiên Sắc giới cũng nghe và khen chưa từng có, vô lượng hoa đẹp thơm rưới xuống.

Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long, Bát Bộ tất cả đại chúng nghe lời Đức Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

Phật nói Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ

Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác.

BỔ KHUYẾT TÂM KINH

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử!

Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc.

Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử!

Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc, vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.

Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú.

Tức thuyết chú viết:

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha” (ba lần)

A DI ĐÀ PHẬT
 
Mạng Sống Trường Cửu
PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG NGHĨA KINH


PHẬT THUYẾT ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG NGHĨA KINH

PHẨM THỨ NHẤT

ĐỨC HẠNH

Tôi nghe như thế này.

Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.

Chư thiên, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, chư tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu- bà-tắc, ưu-bà-di cùng hội đủ.

Các vị vua đại chuyển luân, tiểu chuyển luân, kim luân, ngân luân, các luân vương khác, quốc vương, vương tử, quan, dân, sĩ thứ, nữ sĩ, đại trưởng giả trong nước, mỗi người đều có quyến thuộc đi theo đến số trăm ngàn vạn, cùng đến chỗ Phật, cúi đầu và mặt làm lễ dưới chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng, đốt hương rải hoa cúng dường đủ món...

Cúng dường xong, tất cả đều lui lại ngồi sang một bên.

Trong hàng Bồ Tát có các vị: Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, Pháp vương tử Đại Oai Đức Tạng, Pháp vương tử Vô Ưu Tạng, Pháp vương tử Đại Biện Tạng, Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Đạo Thủ, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng, Bồ Tát Hoa Tràng, Bồ Tát Hoa Quang, Bồ Tát Đà-la-ni Tự Tại Vương, Bồ Tát Thường Tinh Tấn, Bồ Tát Bảo Ấn Thủ, Bồ Tát Bảo Tích, Bồ Tát Bảo Trượng, Bồ Tát Việt Tam Giới, Bồ Tát Tỳ-ma-bạt-la, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Đại Hương Tượng, Bồ Tát Sư Tử Hống Vương, Bồ Tát Sư Tử Du Hý Thế, Bồ Tát Sư Tử Phấn Tấn, Bồ Tát Sư Tử Tinh Tấn, Bồ Tát Dõng Nhuệ Lực, Bồ Tát Sư Tử Oai Mãnh Phục, Bồ Tát Trang Nghiêm, Bồ Tát Đại Trang Nghiêm.

Các vị đại Bồ Tát như vậy là tám mươi ngàn người cùng đến hội.

Chư Bồ Tát này đều là các vị Pháp thân Đại sĩ, thành tựu Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến.

Tâm ý thiền tịch, thường ở trong Tam-muội, điềm an đạm bạc, không còn hành vi tạo tác, không chỗ tham muốn; những tư tưởng điên đảo, rối loạn đều đã dứt sạch không còn trở lại; vắng lặng trong sạch đến chỗ huyền vi không tịch; chí nguyện không lay chuyển cho đến trăm ngàn kiếp; vô lượng pháp môn đều tự thấy biết trong hiện tại; đạt trí tuệ lớn, thông đạt các pháp, hiểu rõ và phân biệt tánh tướng chân thật: có không, dài ngắn...

đều hiện rõ.

Các ngài lại khéo biết được tánh dục của các căn; dùng phép Tổng trì, tài biện thuyết không ngăn ngại; khi chư Phật chuyển bánh xe Pháp, các ngài có thể tùy thuận chuyển theo.

Trước hết, tưới nước pháp vi diệu làm êm lắng bụi bặm tham dục; mở cửa Niết- bàn, quạt gió giải thoát trừ bỏ phiền não nóng bức của thế gian, đặt vào nơi Pháp trong sạch mát mẽ.

Kế đó, dạy cho pháp sâu xa là Mười hai nhân duyên để dập tắt ngọn lửa vô minh, già, bệnh, chết, đang thiêu đốt; gom bày hết các nỗi khổ dưới ánh sáng mặt trời, rồi mới tưới mưa pháp Vô thượng Đại thừa, thấm nhuần hết thảy những chúng sanh có thiện căn.

Các ngài gieo hạt giống lành trên ruộng công đức, khiến cho nảy mầm Bồ-đề.

Trí tuệ các ngài chói sáng như mặt trời, mặt trăng; phương tiện linh hoạt biến chuyển như thời tiết, cùng giúp cho tăng trưởng sự nghiệp Đại thừa, khiến cho nhiều người được mau chóng thành quả Phật.

Các ngài thường trụ nơi chỗ khoái lạc vi diệu chân thật, đem lòng đại bi vô lượng cứu khổ cho chúng sanh.

Đối với chúng sanh, các ngài là thiện tri thức chân chánh, là ruộng phước tốt đẹp rộng lớn, là bậc thầy không đợi cầu thỉnh, là nơi nương cậy an ổn, khoái lạc để chúng sanh theo về được chở che, giúp đỡ.

Ở khắp mọi nơi, các ngài vì chúng sanh mà làm bậc thầy dạy đạo cao cả, dẫn dắt đưa về nẻo chánh.

Các ngài thường làm mắt sáng cho người mù, làm tai nghe cho người điếc.

Những người nào có các căn không đầy đủ hoặc bị hư hoại, các ngài đều khiến cho được lành lặn, đầy đủ.

Vì kẻ điên cuồng, hoang loạn mà khiến cho vào sâu trong chánh niệm.

Các ngài làm người đưa thuyền lớn, chuyên chở chúng sanh qua sông sanh tử, đến bờ Niết-bàn.

Các ngài làm thầy thuốc giỏi, phân biệt rõ triệu chứng bệnh, hiểu rành tánh chất của thuốc, tùy bệnh mà cho khiến người bệnh vui lòng dùng thuốc.

Các ngài làm bậc dạy dỗ điều phục, không có những nết phóng túng buông thả, như người khéo dạy voi ngựa, có thể điều phục hết tất cả.

Các ngài như sư tử dũng mãnh, oai lực làm cho các thú đều tùng phục, khó lòng ngỗ nghịch.

Các ngài dạo chơi trong các pháp ba- la-mật của hàng Bồ Tát, đối với địa vị Như Lai lập chí kiên cố không lay chuyển, trụ yên nơi nguyện lực, làm trong sạch khắp cõi Phật, không bao lâu nữa sẽ thành tựu quả Phật.

Các vị đại Bồ Tát ấy đều có đủ các đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy.

Trong hàng tỳ-kheo có các vị: Đại trí Xá-lợi-phất, Thần thông Mục-kiền- liên, Huệ Mạng Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca- chiên-diên, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử, nhóm các ông A-nhã Kiều-trần-như, Thiên nhãn A-na-luật, Trì luật Ưu-ba- ly, Thị giả A-nan, Phật tử La-vân, Ưu- ba-nan-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc- câu-la, A-châu-đà, Tá-già-đà, Đầu đà Đại Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp và các vị đệ tử...

Cả thảy mười hai ngàn người, đều là bậc A-la-hán đã dứt hết các mối phiền não trói buộc, chẳng bao giờ bị ràng buộc trở lại nữa, thật sự được giải thoát.

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Đại Trang Nghiêm quán sát khắp chúng hội, biết rõ tâm ý của mỗi vị, liền cùng với tám mươi ngàn vị đại Bồ Tát đứng dậy tiến đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ dưới chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng, rồi đốt hương trời, rải hoa trời cúng dường.

Lại có những y phục, chuỗi ngọc, châu báu vô giá của cõi trời, từ trên không trung dần dần hiện xuống, bao quanh bốn phía cúng dường Phật.

Lại có những món ăn đủ trăm mùi vị được nấu ở nhà bếp cõi trời, đựng trong các chén bát cõi trời, hiện ra đầy đủ, dư dật.

Chỉ cần nhìn và ngửi các món ăn ấy tự nhiên đã thấy no đủ rồi.

Các loại cờ xí, lọng phướn, nhạc cụ vi diệu trên cõi trời được bày biện ra khắp nơi, trỗi lên âm nhạc cõi trời để cúng dường làm vui Phật.

Liền đó, các vị Bồ Tát đều quỳ xuống, một lòng chắp tay cùng nhau đọc kệ tán thán Phật.

Kệ rằng:

“Lớn thay!

Bậc giác ngộ, Thánh chủ!

Dứt sạch cấu nhiễm, không sở trước.

Bậc thầy điều phục khắp trời người,

Đạo đức như hương xông khắp chốn.

Trí tuệ, tình cảm đều ngưng lắng,

Ý diệt, thức quên, tâm tịch tĩnh.

Vĩnh viễn dứt trừ tưởng hư vọng,

Không còn các đại, ấm, giới, nhập.

Thân ấy chẳng có cũng chẳng không,

Chẳng phải nhân duyên, chẳng đây kia,

Chẳng vuông chẳng tròn, chẳng dài ngắn,

Chẳng hiện, chẳng mất, chẳng sanh diệt.

Cũng chẳng tạo tác, chẳng sanh khởi,

Chẳng ngồi, chẳng nằm, chẳng đi đứng,

Chẳng động, chẳng chuyển, chẳng giữ yên,

Chẳng tới chẳng lui, chẳng an nguy.

Chẳng đúng, chẳng sai, chẳng được mất,

Chẳng đây, chẳng đó, chẳng đến đi.

Cũng chẳng xanh vàng, chẳng đỏ trắng,

Chẳng hồng, chẳng tía, mọi màu sắc.

Sanh Giới, Định, Tuệ, Giải, Tri kiến.

Được Tam minh, Lục thông, Đạo phẩm.

Khởi Từ bi, Thập lực, Vô úy,

Hiện ra theo nghiệp lành chúng sanh,

Thân cao lớn sắc vàng chói sáng,

Nghiêm trang tề chỉnh chiếu diệu hình.

Đầu tỏa ánh dương, mày như nguyệt,

Tóc xoáy xám xanh, đảnh nhục kế.

Mắt sáng như gương, chiếu trên dưới,

Mi, mày dài đẹp, miệng vuông vắn.

Môi, lưỡi đỏ tươi như trái chín,

Răng trắng như ngọc, đủ bốn mươi.

Trán rộng, mũi cao, khuôn mặt lớn,

Ngực hiện chữ vạn, ức sư tử,

Tay chân mềm mại, đủ luân tướng,

Hai nách đầy đặn, tay uyển chuyển.

Cánh tay dài đẹp, ngón thon nhỏ.

Da mềm, lông xoay về bên phải.

Mắt cá, đầu gối chẳng lộ xương,

Dương vật tự ẩn không dễ thấy,

Gân nhỏ bao xương, chân sơn dương,

Sáng suốt trong ngoài, sạch không bợn,

Như nước sạch trong chẳng bụi trần.

Đủ ba mươi hai tướng như thế.

Tám mươi vẻ đẹp như hiện rõ,

Nhưng thật không tướng, ngoài sắc tướng.

Mỗi mỗi tướng hiện đều tuyệt hảo,

Là tướng vô tướng, thân hiện tướng,

Chúng sanh có tướng nên tùy hiện,

Khiến cho chúng sanh hoan hỷ lễ.

Tâm thành, cung kính, ân cần lễ,

Nhân đó trừ tự cao, ngã mạn,

Được sắc thân tốt đẹp như vậy.

Chúng con nay đủ tám vạn người,

Cùng nhau đảnh lễ về nương theo.

Bậc khéo dứt tưởng, tâm, ý, thức,

Bậc thánh Vô trước giỏi điều phục.

Đảnh lễ nương theo Pháp sắc thân,

Gồm Giới, Định, Huệ, Giải, Tri kiến.

Đảnh lễ nương theo Muôn tướng tốt,

Đảnh lễ nương theo Khó nghĩ bàn.

Phạm âm như sấm vọng tám loại,

Vi diệu, trong sạch, rất sâu xa.

Tứ đế, Lục độ, Thập nhị duyên,

Tùy tâm nghiệp chúng sanh thuyết dạy.

Người nghe đều được mở tâm ý,

Dứt sạch phiền não chốn sanh tử.

Hoặc nghe, đắc quả Tu-đà-hoàn,

Tư-đà, A-na, A-la-hán.

Thành Duyên giác, vô lậu vô vi,

Hoặc Bồ Tát, chẳng sanh chẳng diệt.

Hoặc được vô lượng môn Tổng trì,

Đại tài biện thuyết không ngăn ngại.

Diễn thuyết kệ thâm sâu vi diệu,

Dạo chơi, tắm mát ao Pháp lành,

Hoặc bay, hoặc nhảy, hiện thần biến,

Ra vào lửa, nước, thân tự do.

Như vậy, tướng Pháp luân như vậy,

Thanh tịnh vô biên khó nghĩ bàn.

Chúng con lại cùng nhau đảnh lễ,

Nương theo bánh xe Pháp chuyển rồi.

Cúi đầu nương theo tiếng Phạm âm,

Cúi đầu nương theo Pháp vô thượng.

Đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp,

Cần khổ tu tập các đức hạnh.

Vì khắp trời, người, rồng, quỷ thần,

Cùng hết thảy muôn loại chúng sanh;

Đã từng dứt bỏ điều khó bỏ,

Như tài sản, vợ, con, cõi nước...

Vì Pháp, trong ngoài đều chẳng tiếc,

Đầu, mắt, tủy, não bố thí người;

Phụng trì giới thanh tịnh chư Phật,

Cho đến bỏ mạng, chẳng hủy phạm.

Nếu kẻ cầm dao, gậy hại mình,

Mắng nhiếc, mạ nhục, chẳng hề giận.

Nhiều kiếp bỏ thân, chẳng lười nhác,

Đêm ngày nhiếp tâm tại thiền định.

Học khắp hết thảy các đạo pháp ,

Trí tuệ hiểu sâu căn chúng sanh.

Cho nên nay được sức tự tại,

Đối pháp tự tại thành Pháp vương.

Chúng con lại cùng nhau đảnh lễ.

Nương theo Bậc tinh cần khó làm.

PHẨM THỨ HAI

THUYẾT PHÁP

(Phần chánh tông)

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Đại Trang Nghiêm cùng với tám mươi ngàn vị đại Bồ Tát khác đọc kệ khen Phật như vậy rồi, cùng nhau bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!

Chúng con cả thảy tám mươi ngàn Bồ Tát, nay đối với giáo pháp của Như Lai có chỗ muốn thưa hỏi, chẳng biết Thế Tôn có rủ lòng thương mà nghe chăng?”

Phật bảo Bồ Tát Đại Trang Nghiêm và tám mươi ngàn Bồ Tát ấy rằng: “Lành thay, lành thay!

Thiện nam tử, khéo biết đúng lúc thưa hỏi, hãy cứ tùy ý.

Còn chẳng bao lâu Như Lai sẽ nhập Niết-bàn.

Ta sẽ khiến cho sau đó chẳng còn ai nghi ngờ gì nữa.

Như có điều muốn hỏi, ta sẽ nhân đây mà giảng giải cho.”

Liền đó, Bồ Tát Đại Trang Nghiêm và tám mươi ngàn Bồ Tát đồng thanh bạch Phật rằng: “Thế Tôn!

Bồ Tát muốn mau thành quả Phật nên tu hành những pháp môn nào?

Những pháp môn nào có thể khiến Bồ Tát mau thành quả Phật?”

Phật bảo các vị Bồ Tát rằng: “Thiện nam tử!

Có một pháp môn có thể khiến Bồ Tát mau thành quả Phật.

Nếu Bồ Tát nào học pháp môn ấy, có thể mau thành quả Phật.”

“Bạch Thế Tôn!

Pháp môn ấy gọi tên là gì?

Ý nghĩa như thế nào?

Bồ Tát phải tu hành như thế nào?”

Phật dạy: “Thiện nam tử!

Pháp môn ấy gọi là Vô lượng nghĩa.

Bồ Tát muốn tu học pháp Vô lượng nghĩa ấy, nên quán sát hết thảy các pháp: từ xưa cho đến nay tánh tướng vốn không tịch, chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng sanh chẳng diệt, không phải trụ, không phải động, không tiến, không lùi, giống như hư không.

Chẳng hề có hai pháp, nhưng chúng sanh hư vọng chấp kể rằng: đây là cái này, đây là cái kia, thế này là được, thế này là mất... khởi lên ý nghĩ chẳng lành, tạo ra những nghiệp dữ, luân hồi trong sáu nẻo, chịu mọi thứ khổ độc.

Trải qua vô lượng kiếp, không thể tự ra khỏi được.

Bồ Tát quán xét thật kỹ như vậy, sanh lòng thương xót, phát tâm đại từ bi, muốn cứu bạt hết thảy khổ nạn.

“Rồi lại quán sâu vào hết thảy các pháp: pháp tướng như thế này, sanh ra pháp như thế này; pháp tướng như thế này, trụ pháp như thế này; pháp tướng như thế này, biến đổi pháp như thế này; pháp tướng như thế này, hoại diệt pháp như thế này.

Pháp tướng như thế này có thể sanh ác pháp; pháp tướng như thế này có thể sanh thiện pháp.

Các tướng trụ, dị, diệt lại cũng như vậy.

Bồ Tát quán sát bốn tướng từ khởi đầu đến cuối cùng, tất theo đó mà hiểu biết được cùng khắp tất cả.

“Kế đó lại quán xét hết thảy các pháp: trong từng giây phút chẳng hề trụ yên, liên tục sanh ra rồi diệt đi.

Lại quán xét thấy cả bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt đều đồng thời xảy ra.

Quán xét như vậy rồi, Bồ Tát hiểu rõ được căn tánh, chỗ tham muốn của từng chúng sanh.

Vì tham muốn vô lượng, nên thuyết pháp vô lượng.

Vì thuyết pháp vô lượng, nên nghĩa cũng vô lượng.

“Vô lượng nghĩa ấy từ một pháp sanh ra.

Một pháp ấy, tức là vô tướng.

Cái vô tướng như thế là chẳng có tướng nào không phải tướng.

Chẳng có tướng nào không phải tướng, gọi đó là thật tướng.

“Bồ Tát trụ yên nơi tướng chân thật như thế rồi, có phát khởi lòng từ bi sẽ đúng thật minh bạch, chẳng hề hư vọng.

Đối với chúng sanh, thật có thể cứu bạt mọi khổ nạn.

Cứu bạt khổ nạn rồi, lại thuyết pháp cho nghe, khiến được thọ hưởng sự khoan khoái, vui vẻ.

“Thiện nam tử!

Nếu Bồ Tát có thể theo như thế mà tu pháp môn Vô lượng nghĩa ấy, ắt sẽ mau đắc thành A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề.

“Thiện nam tử!

Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa này sâu xa, cao cả hơn hết, ý nghĩa chân thật, chính đáng, tôn quý hơn hết.

Ba đời chư Phật đều giữ gìn, bảo hộ; chúng ma, ngoại đạo không thể xâm nhập vào.

Tất cả tà kiến sanh tử không thể làm cho hư hoại được.

“Thiện nam tử!

Vì vậy nên Bồ Tát muốn mau thành Vô thượng Bồ-đề, nên tu học kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa thâm sâu, cao cả nhất này.”

Lúc ấy, Bồ Tát Đại Trang Nghiêm lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!

Chỗ thuyết pháp của Thế Tôn không thể nghĩ bàn.

Căn tánh của chúng sanh cũng không thể nghĩ bàn.

Pháp môn giải thoát lại cũng không thể nghĩ bàn.

Chúng con đối với các pháp mà Phật thuyết không còn nghi nan, nhưng vì tâm tánh chúng sanh còn sanh mê hoặc, nên phải thưa hỏi lại thế này.

“Bạch Thế Tôn!

Từ khi Như Lai đắc đạo đến nay, hơn bốn mươi năm, thường vì chúng sanh diễn thuyết các pháp: Nghĩa của bốn tướng, nghĩa khổ, nghĩa không, vô thường, vô ngã, không lớn không nhỏ, không sanh không diệt; một tướng vô tướng, từ xưa đến nay pháp tánh pháp tướng vốn là không tịch, chẳng đến, chẳng đi, chẳng hiện ra, chẳng biến mất.

Người nghe thuyết pháp, hoặc được Nỗn pháp, Đỉnh pháp, Nhẫn pháp, Thế đệ nhất pháp, được quả Tu-đà- hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, quả Bích-chi Phật, hoặc phát tâm Bồ-đề, được Đệ nhất địa, Đệ nhị địa, Đệ tam cho đến Đệ thập địa.

Nghĩa của các pháp đã thuyết ngày trước với nghĩa được thuyết hôm nay có gì khác nhau chăng mà nói rằng: Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa sâu xa, cao cả nhất này, nếu Bồ Tát tu hành ắt mau được thành Vô thượng Bồ-đề?

Việc ấy là thế nào?

Nguyện đức Thế Tôn rủ lòng thương xót hết thảy chúng sanh mà phân biệt rõ, giúp cho người nghe pháp hôm nay cũng như về sau không còn nghi ngờ nữa.”

Liền đó, Phật bảo Bồ Tát Đại Trang Nghiêm rằng: “Lành thay, lành thay!

Đại thiện nam tử, có thể thưa hỏi Như Lai về nghĩa Đại thừa thâm sâu, vi diệu, cao cả hơn hết như thế.

Nên biết rằng ông có thể giúp nhiều lợi ích, an lạc cho người và chư thiên, cứu bạt khổ não cho chúng sanh.

Thật là đại từ bi, có lòng tin chân thật chẳng thể hư hoại.

Vì nhân duyên ấy, ông sẽ mau được thành Vô thượng Bồ-đề, lại khiến cho nhiều chúng sanh hiện tại và sau này được thành Vô thượng Bồ-đề.

“Thiện nam tử!

Từ khi ta ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ-đề thành tựu A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dùng Phật nhãn quán sát thấy tất cả các pháp không thể tuyên thuyết được.

Vì sao vậy?

Vì căn tánh, lòng tham muốn của chúng sanh chẳng đồng như nhau.

Vì căn tánh và lòng tham muốn chẳng đồng nhau, nên phải dùng nhiều phương cách thuyết pháp.

Hơn bốn mươi năm qua ta dùng sức phương tiện mà thuyết pháp, thật chưa nói rõ được lẽ chân thật đệ nhất.

Vì thế mà chúng sanh tuy đắc đạo nhiều bậc khác nhau, nhưng chẳng được mau thành Vô thượng Bồ-đề.

“Thiện nam tử!

Pháp tỷ như nước, có thể rửa sạch được sự dơ nhớp.

Dù là nước giếng, nước ao, nước sông, nước biển... thảy đều rửa sạch được sự dơ nhớp.

Pháp cũng như vậy, có thể rửa sạch được sự dơ nhớp phiền não của chúng sanh.

“Thiện nam tử!

Tánh của nước chỉ là một mà thôi, nhưng giếng, ao, sông, biển... thì khác nhau.

Tánh của các pháp cũng vậy, đều rửa trừ được bụi bặm trần lao, không có khác biệt.

Tuy nhiên, Tam pháp, Tứ quả, Nhị đạo là phân biệt, chẳng phải một.

“Thiện nam tử!

Nước ở các nơi tuy đều có thể dùng để rửa sạch được cả, nhưng giếng chẳng phải là ao, ao chẳng phải là sông, sông chẳng phải là biển.

Như Lai là bậc Thế hùng tự tại đối với các pháp, thuyết diễn các pháp cũng giống như vậy.

Những pháp mà ngài thuyết ra ban đầu, khoảng giữa, về sau, thảy đều có thể trừ sạch phiền não của chúng sanh.

Tuy nhiên, ban đầu chẳng phải khoảng giữa, khoảng giữa chẳng phải về sau.

Những pháp thuyết ra, văn từ tuy là một, nhưng vào lúc đầu, khoảng giữa, về cuối lại mang nghĩa khác nhau.

“Thiện nam tử!

Ta rời khỏi cây Thọ vương đến vườn Lộc dã thành Ba-la-nại, vì nhóm ông A-nhã Câu-lân năm người mà chuyển bánh xe pháp Tứ đế, thuyết dạy rằng: ‘Các pháp xưa nay vốn không tịch, chuyển đổi không dừng nghỉ, niệm niệm sanh diệt.’

“Khoảng thời gian sau đó, ta thuyết pháp ở đây và khắp mọi nơi khác, vì chư tỳ- kheo và Bồ Tát mà phân biệt giảng thuyết Mười hai nhân duyên, Sáu ba-la-mật.

Cũng thuyết dạy rằng: ‘Các pháp xưa nay vốn không tịch, chuyển đổi không dừng nghỉ, niệm niệm sanh diệt.’

“Nay ta ở đây, diễn thuyết kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa.

Cũng lại thuyết dạy rằng: ‘Các pháp xưa nay vốn không tịch, chuyển đổi không dừng nghỉ, niệm niệm sanh diệt.’

“Thiện nam tử!

Vậy nên sự thuyết pháp lúc ban đầu, khoảng giữa, hiện nay, văn từ tuy là một nhưng nghĩa khác nhau.

Bởi nghĩa khác nhau, nên chỗ hiểu của chúng sanh cũng khác nhau.

Bởi chỗ hiểu khác nhau, nên sự đắc pháp, đắc quả, đắc đạo cũng khác nhau.

“Thiện nam tử!

Ban đầu ta thuyết Tứ đế với những người cầu Thanh văn, nhưng có tám trăm ngàn chư thiên cũng đến nghe pháp phát tâm Bồ-đề.

“Thời gian sau đó, ta giảng thuyết Mười hai nhân duyên rất thâm sâu với những người cầu quả Phật Bích-chi, nhưng có vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ-đề, hoặc được đắc nhập vào pháp Thanh văn.

“Về sau, ta thuyết dạy Mười hai bộ kinh Phương đẳng, Ma-ha Bát-nhã, Hoa nghiêm Hải không, nói việc Bồ Tát tu hành trải qua nhiều kiếp, nhưng có trăm ngàn tỳ-kheo, vạn ức người và chư thiên, vô lượng chúng sanh được đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, hoặc đắc nhập vào pháp nhân duyên của hàng Phật Bích-chi.

“Thiện nam tử!

Vì nghĩa ấy, nên phải biết rằng sự thuyết dạy tuy giống như nhau nhưng nghĩa lại khác nhau.

Bởi nghĩa khác nhau, nên chỗ hiểu của chúng sanh cũng khác nhau; sự đắc pháp, đắc quả, đắc đạo cũng khác nhau.

“Thiện nam tử!

Vậy nên từ khi ta thành đạo bắt đầu thuyết pháp, cho tới ngày nay diễn thuyết kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, chưa có khi nào mà chẳng thuyết những lẽ khổ, không, vô thường, vô ngã, chẳng phải chân, chẳng phải giả, chẳng phải lớn, chẳng phải nhỏ, xưa vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, một tướng vô tướng, pháp tánh pháp tướng chẳng đến chẳng đi; nhưng có sự chuyển đổi bốn tướng của chúng sanh.

“Thiện nam tử!

Hiểu theo nghĩa ấy, chư Phật chẳng nói hai lời, nhưng có thể dùng một thứ tiếng mà phổ ứng các thứ tiếng, có thể dùng một thân mà chỉ ra cho thấy số thân nhiều như số cát của trăm ngàn vạn ức na-do-tha vô lượng vô số sông Hằng.

Mỗi một thân ấy, đều lại chỉ ra cho thấy các loại hình khác nhau nhiều như số cát của trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ sông Hằng.

Mỗi một hình ấy, lại chỉ ra cho thấy số hình nhiều như số cát của trăm ngàn vạn ức na-do-tha a-tăng-kỳ sông Hằng.

“Thiện nam tử!

Đó là cảnh giới thâm sâu không thể nghĩ bàn của chư Phật, chẳng phải chỗ mà hàng Nhị thừa có thể biết được.

Cho đến Bồ Tát Thập trụ cũng không thấu đến, chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu rõ.

“Thiện nam tử!

Vậy nên ta nói rằng kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa là vi diệu, sâu xa, cao cả hơn hết; ý nghĩa chân thật, chính đáng, tôn quý hơn hết.

Ba đời chư Phật đều giữ gìn, bảo hộ; chúng ma, ngoại đạo không thể xâm nhập vào.

Tất cả tà kiến sanh tử không thể làm cho hư hoại được.

Nếu Bồ Tát muốn mau thành Vô thượng Bồ-đề, nên tu học kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, thâm sâu, cao cả hơn hết như thế này.”

Phật thuyết như vậy rồi, liền đó tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động sáu cách.

Tự nhiên trên không mưa xuống đủ các loại hoa cõi trời như ưu-bát-la, bát- đàm-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lỵ.

Lại mưa xuống vô số các loại hương cõi trời, các loại y phục, chuỗi ngọc, châu báu vô giá trên cõi trời.

Các món ấy từ trên không trung dần dần hạ xuống cúng dường Phật và chúng Bồ Tát, Thanh văn.

Lại có những món ăn đủ trăm mùi vị được nấu ở nhà bếp cõi trời, đựng trong các chén bát cõi trời, hiện ra đầy đủ, dư dật.

Các loại cờ xí, lọng phướn, nhạc cụ vi diệu trên cõi trời được bày biện ra khắp nơi, trỗi lên âm nhạc cõi trời để ca ngợi, tán thán Phật.

Lại chấn động sáu cách lần nữa.

Các thế giới chư Phật ở phương đông, nhiều như số cát sông Hằng, cũng mưa xuống những hoa, hương cõi trời, các loại y phục, chuỗi ngọc, châu báu vô giá trên cõi trời.

Lại có những món ăn đủ trăm mùi vị được nấu ở nhà bếp cõi trời, đựng trong các chén bát cõi trời; các loại cờ xí, lọng phướn, nhạc cụ vi diệu trên cõi trời trỗi lên âm nhạc cõi trời để ca ngợi, tán thán chư Phật cõi ấy và chúng Bồ Tát, Thanh văn.

Ở phương nam, phương tây, phương bắc, bốn phương phụ, phương trên, phương dưới cũng đều như vậy.

Bấy giờ trong chúng hội có ba mươi hai ngàn vị đại Bồ Tát liền được phép Tam- muội Vô lượng nghĩa.

Hai mươi bốn ngàn vị đại Bồ Tát được vô lượng vô số môn Tổng trì, có thể chuyển bánh xe Pháp của hết thảy chư Phật ba đời, chẳng để thối lui.

Các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca- lầu-la, khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, vua đại chuyển luân, vua tiểu chuyển luân, các vua ngân luân, thiết luân..., quốc vương, vương tử, quan, dân, sĩ thứ, đại trưởng giả... và quyến thuộc trăm ngàn người tụ hội, nghe Phật thuyết kinh này rồi, hoặc được Nỗn pháp, Đỉnh pháp, Nhẫn pháp, Thế gian đệ nhất pháp; hoặc đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư- đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi Phật.

Lại có những người được Vô sanh Pháp nhẫn của hàng Bồ Tát.

Lại có những người được một môn Tổng trì, hai môn Tổng trì, ba môn Tổng trì, bốn môn Tổng trì, hoặc năm, sáu, bảy, tám, chín, mười môn Tổng trì.

Lại có những người được trăm ngàn vạn ức môn Tổng trì.

Lại có những người được số môn Tổng trì nhiều như số cát của vô lượng vô số a-tăng-kỳ sông Hằng; thảy đều có thể tùy thuận mà chuyển bánh xe Pháp chẳng để thối lui.

Có vô lượng chúng sanh phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- bồ-đề.

PHẨM THỨ BA

MƯỜI CÔNG ĐỨC

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Đại Trang Nghiêm lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn!

Thế Tôn thuyết kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa vi diệu, thâm sâu, cao cả nhất này, thật rất thâm sâu, rất thâm sâu!

“Vì sao vậy?

Trong chúng hội này, các vị đại Bồ Tát và Tứ chúng, trời, rồng, quỷ thần, quốc vương, quan, dân... những chúng sanh nào nghe kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa thâm sâu, cao cả nhất này, ai ai cũng được các môn Tổng trì, Tam pháp, Tứ quả, hoặc phát tâm Bồ-đề.

Nên biết rằng pháp này ý nghĩa chân thật, chánh đáng, tôn quý hơn hết.

Ba đời chư Phật đều giữ gìn, bảo hộ; chúng ma, ngoại đạo không thể xâm nhập vào.

Tất cả tà kiến sanh tử không thể làm cho hư hoại được.

Vì sao vậy?

Vì nghe được một pháp này có thể nắm hiểu tất cả các pháp.

Nếu chúng sanh nào nghe được kinh này, ắt được lợi ích lớn.

Vì sao vậy?

Nếu biết tu hành theo kinh này, ắt được mau thành Vô thượng Bồ-đề.

Chúng sanh nào chẳng nghe được kinh này, nên biết rằng đã mất đi lợi ích lớn, dù trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, cũng không bao giờ được thành Vô thượng Bồ-đề.

Vì sao vậy?

Vì chẳng biết con đường lớn thẳng tắt đến Bồ-đề, lại đi theo nẻo hiểm nguy, vướng nhiều tai nạn.

“Bạch Thế Tôn!

Kinh điển này thật chẳng thể nghĩ bàn.

Xin đức Thế Tôn đem lòng thương xót, diễn giải rộng với đại chúng chỗ thâm sâu chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Bạch Thế Tôn!

Kinh điển này từ đâu đến, sẽ đi về đâu, trụ ở nơi nào, mà lại có được vô lượng công đức, sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn như vậy, khiến người tu được mau thành quả Phật?”

Lúc ấy, đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Đại Trang Nghiêm: “Lành thay, lành thay!

Thiện nam tử!

Đúng vậy, đúng vậy!

Đúng như lời ông nói đó.

Thiện nam tử!

Ta thuyết kinh này rất thâm sâu, quả thật rất thâm sâu.

Vì sao vậy?

Vì khiến cho người tu mau thành Vô thượng Bồ-đề; vì nghe được kinh này một lần, có thể nắm hiểu được tất cả các pháp; vì có lợi ích lớn đối với chúng sanh; vì là con đường lớn thẳng tắt đến Bồ-đề, không vướng tai nạn.

“Thiện nam tử!

Ông hỏi rằng kinh này từ đâu đến, sẽ đi về đâu, trụ ở nơi nào.

Hãy khéo lắng nghe đây!

“Thiện nam tử!

Kinh này vốn từ trong nhà ở của chư Phật mà ra; sẽ đi đến chỗ phát tâm Bồ-đề của hết thảy chúng sanh; trụ vào chỗ trụ của chư Bồ Tát.

“Thiện nam tử!

Chỗ đến của kinh này là như vậy, chỗ đi là như vậy, chỗ trụ là như vậy.

Cho nên kinh này có được vô lượng công đức, sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn, khiến người tu mau thành Vô thượng Bồ- đề.

“Thiện nam tử!

Kinh này lại có mười sức mạnh công đức chẳng thể nghĩ bàn, ông có muốn nghe chăng?”

Bồ Tát Đại Trang Nghiêm thưa: “Con rất vui mừng được nghe.”

Phật dạy: “Thiện nam tử!

Thứ nhất là, kinh này có thể khiến cho Bồ Tát chưa phát tâm sẽ phát tâm Bồ-đề.

Với người không có lòng nhân từ, lại làm cho khởi lòng nhân từ; kẻ ưa giết hại khởi tâm đại bi; kẻ hay tật đố khởi tâm tùy hỷ; kẻ trói buộc nơi luyến ái khởi tâm xả bỏ; kẻ tham lam bủn xỉn khởi tâm bố thí; kẻ kiêu căng ngã mạn khởi tâm trì giới; kẻ hay sân nhuế khởi lòng nhẫn nhục; kẻ lười nhác khởi lòng tinh tấn; kẻ tán loạn khởi tâm thiền định; kẻ ngu si khởi tâm trí tuệ; kẻ chưa từng cứu độ người khác khởi tâm cứu độ; kẻ làm mười điều ác khởi tâm làm mười điều lành; kẻ thích hữu vi hướng đến vô vi; kẻ có lòng thối chuyển sanh tâm chẳng thối chuyển; kẻ theo hữu lậu khởi tâm vô lậu; kẻ nhiều phiền não khởi tâm trừ dứt.

“Thiện nam tử!

Đó gọi là sức mạnh công đức thứ nhất chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ hai chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là, nếu chúng sanh nào được nghe kinh này, dù nghe qua hết một lần, hoặc chỉ một bài kệ, cho đến chỉ một câu thôi, ắt có thể thông đạt được trăm, ngàn, ức nghĩa của các pháp.

Dù trải qua vô lượng số kiếp cũng không thể diễn thuyết cho hết các pháp đã nắm hiểu được.

Vì sao vậy?

Vì pháp hiểu được từ kinh này có vô lượng nghĩa.

“Thiện nam tử!

Kinh này ví như một hạt giống sanh ra trăm, ngàn, vạn hạt.

Trong trăm, ngàn, vạn hạt này, mỗi hạt lại sanh ra đến số trăm, ngàn, mười ngàn.

Cứ như vậy mà tăng dần cho đến vô lượng.

Kinh điển này cũng vậy.

Do một pháp mà sanh ra trăm, ngàn nghĩa.

Trong trăm, ngàn nghĩa này mỗi nghĩa lại sanh ra đến số trăm, ngàn, mười ngàn.

Cứ như vậy mà tăng dần cho đến vô lượng, vô biên nghĩa.

Vì vậy mà gọi tên kinh này là Vô lượng nghĩa.

“Thiện nam tử!

Đó là sức mạnh công đức thứ hai chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ ba chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là, nếu chúng sanh nào được nghe kinh này, dù nghe qua hết một lần, hoặc chỉ một bài kệ, cho đến chỉ một câu thôi, thông đạt được trăm, ngàn, ức nghĩa của các pháp rồi, tuy có phiền não cũng như không phiền não; ra vào chốn sanh tử lòng không sợ sệt.

Đối với chúng sanh, sanh lòng thương xót.

Đối với hết thảy các pháp, sanh lòng mạnh mẽ, dũng mãnh.

“Như người lực sĩ đủ sức gánh vác những thứ nặng nề.

Người trì kinh này lại cũng như vậy, có thể nhận lấy nhiệm vụ nặng nề là Vô thượng Bồ-đề, gánh vác chúng sanh ra khỏi đường sanh tử.

Tuy chưa độ thoát chính mình nhưng đã có thể độ cho kẻ khác.

Cũng như người chèo thuyền, dù thân mang bệnh nặng, tay chân chẳng cử động, nằm yên nơi bờ sông bên này, nhưng đã có thuyền tốt, chắc chắn, lại đủ các dụng cụ để đưa khách, liền giúp người qua bờ sông bên kia được.

Người trì kinh này lại cũng như vậy.

Tuy mang xác thân nằm trong Năm nẻo, một trăm lẻ tám bệnh nặng thường bám lấy thân, chỉ nằm yên ở bờ bên này là vô minh, già, chết; nhưng đã có thuyền tốt, chắc chắn là kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa này, có thể cứu độ được chúng sanh.

Nếu chúng sanh theo lời thuyết dạy mà làm, ắt vượt qua được con sông sanh tử.

“Thiện nam tử!

Đó là sức mạnh công đức thứ ba chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ tư chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: nếu chúng sanh nào được nghe kinh này, dù nghe qua hết một lần, hoặc chỉ một bài kệ, cho đến chỉ một câu thôi, sẽ được tư tưởng dũng mãnh, mạnh mẽ.

Tuy chưa thể tự độ thoát chính mình, nhưng có thể cứu độ cho người khác; làm quyến thuộc với chư Bồ Tát.

Chư Phật Như Lai thường hướng về người trì kinh mà diễn thuyết các pháp; được nghe rồi có thể thọ trì, tùy thuận chẳng nghịch; lại còn vì người khác mà tùy nghi thuyết rộng.

“Thiện nam tử!

Người ấy ví như vị hoàng tử mới sanh của vua và phu nhân.

Dù mới sanh ra chỉ một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, hoặc một tháng, hai tháng, cho đến bảy tháng, hoặc được một tuổi, hai tuổi cho đến bảy tuổi, tuy chưa có thể lo liệu việc nước, nhưng đã được quan và dân tôn kính, lại thường kết giao với các vị con lớn của vua.

Vua và phu nhân hết lòng chiều chuộng thương yêu, thường cùng trò chuyện.

Vì sao vậy?

Vì hoàng tử còn bé thơ.

“Thiện nam tử!

Người trì kinh này lại cũng như vậy.

Chư Phật là vua, kinh này là phu nhân, hòa hiệp nhau mà sanh ra Bồ Tát.

Nếu Bồ Tát được nghe kinh này, dù là một câu, một bài kệ, hoặc nghe qua hết một lần, hai lần, mười lần, trăm lần, ngàn vạn, ức vạn lần, cho đến nhiều lần như số cát sông Hằng, vô lượng vô số lần, tuy chưa đạt được tột cùng chân lý, chưa thể làm chấn động tam thiên đại thiên thế giới, phát tiếng Phạm âm như sấm rền mà chuyển Đại Pháp luân, nhưng đã được hết thảy Tứ chúng, Bát bộ tôn trọng, kính ngưỡng.

Được các vị đại Bồ Tát nhận làm quyến thuộc.

Thâm nhập vào các pháp bí mật của chư Phật, chỗ diễn thuyết không lỗi lầm, không bỏ mất; thường được chư Phật hộ niệm, đem lòng từ ái chở che cho.

Vì là người mới tu học.

“Thiện nam tử!

Đó là sức mạnh công đức thứ tư chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ năm chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có những kẻ nam, người nữ lòng lành, có thể thọ trì, đọc tụng sao chép kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa thâm sâu cao cả nhất này, những người ấy cho dù bị nhiều phiền não trói buộc, chưa thể lìa xa các việc phàm phu, nhưng lại có thể thị hiện đạo lớn Bồ-đề; có thể kéo dài một ngày ra thành trăm kiếp; có thể rút ngắn trăm kiếp thành một ngày, khiến cho chúng sanh hoan hỷ tin phục.

“Thiện nam tử!

Những kẻ nam người nữ lòng lành ấy cũng ví như rồng con, mới sanh được bảy ngày liền có thể kéo mây, làm mưa.

“Thiện nam tử!

Đó gọi là sức mạnh công đức thứ năm chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ sáu chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế, hoặc sau khi diệt độ, nếu có những kẻ nam, người nữ lòng lành, có thể thọ trì, đọc tụng kinh điển này, dù vẫn còn nhiều phiền não, nhưng có thể vì chúng sanh mà thuyết pháp, khiến cho lìa xa phiền não sanh tử và dứt trừ hết thảy khổ não.

Chúng sanh nghe thuyết pháp rồi tu hành đắc pháp, đắc quả, đắc đạo, so với Phật Như Lai không còn khác biệt.

Ví như vị vương tử tuy còn nhỏ tuổi, nhưng nếu vua đi tuần du hoặc gặp lúc có bệnh, ủy quyền cho vương tử ấy lo liệu việc trị nước, vương tử liền vâng lệnh truyền của vua, y theo phép tắc mà sai khiến hết thảy quan thuộc, nêu rõ chánh hóa.

Nhân dân trong nước nhờ đó mà được an ổn cũng như khi vua cai trị, chẳng khác chi cả.

“Người trì kinh này lại cũng như vậy.

Trong khi Phật tại thế hoặc đã diệt độ, tuy chưa trụ được ở Sơ, Bất động địa, nhưng cũng y theo lời giảng dạy của Phật mà diễn bày ra, chúng sanh nghe rồi hết lòng tu hành, dứt trừ phiền não, đắc pháp, đắc quả, cho đến đắc đạo.

“Thiện nam tử!

Đó gọi là sức mạnh công đức thứ sáu chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ bảy chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế hoặc đã diệt độ, nếu có những kẻ nam, người nữ lòng lành, được nghe kinh này, trong lòng vui vẻ, hoan hỷ tin nhận, cho đó là việc ít có, liền thọ trì, đọc tụng, sao chép, giảng giải, y theo pháp mà tu hành, phát tâm Bồ-đề, sanh khởi các thiện căn, vững lòng đại bi, muốn cứu độ tất cả chúng sanh khổ não.

Khi chưa tu hành Sáu ba-la-mật, Sáu ba- la-mật tự nhiên hiện ra.

Ngay trong đời này liền được Vô sanh Pháp nhẫn, phiền não sanh tử nhất thời liền dứt trừ hết sạch, thẳng lên địa vị thứ bảy của đại Bồ Tát.

Tỷ như một người dũng mãnh, giúp trừ kẻ oán nghịch cho vua.

Kẻ oán nghịch trừ xong, vua rất hoan hỷ, đem một nửa cõi nước mà phong thưởng cho.

Người trì kinh này lại cũng như vậy, so trong những kẻ tu hành là bậc dũng mãnh hơn hết.

Món pháp quý báu là Sáu ba-la-mật, tuy người chẳng cầu, mà tự nhiên hiện đến.

Kẻ oán nghịch là sanh tử tự nhiên bị diệt mất, liền chứng Vô sanh nhẫn, được phong thưởng bằng một nửa cõi nước là món báu của Phật, khiến được an ổn, vui thỏa.

“Thiện nam tử!

Đó gọi là sức mạnh công đức thứ bảy chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ tám chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế hoặc đã nhập diệt, nếu có kẻ nam, người nữ lòng lành nào gặp được kinh điển này, đem lòng kính trọng, tin nhận, chẳng khác gì như được thấy thân Phật; lại ưa thích, mến mộ kinh này, liền thọ trì, đọc tụng, sao chép, hết sức cung kính, y như pháp mà vâng làm theo; vững vàng nơi giới luật, nhẫn nhục, cùng thực hành Bố thí ba-la-mật, phát tâm từ bi sâu vững; đem kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa này thuyết rộng với nhiều người khác.

Nếu có người khi vừa mới đến chẳng tin việc tội phước, liền đem kinh này mà chỉ bảo cho, dùng đủ mọi phương tiện, cố giáo hóa cho họ được lòng tin.

Nhờ oai lực của kinh này, khiến cho người ấy hốt nhiên hồi tâm.

Đã khởi lòng tin rồi, nhờ sự dũng mãnh tinh tấn, có thể có được thế lực oai đức của kinh này, lại đắc đạo, đắc quả.

“Cho nên những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nhờ sự giáo hóa của kinh này mà ngay trong đời hiện tại được chứng Vô sanh Pháp nhẫn, lên tới Thượng địa làm quyến thuộc với chư Bồ Tát, nhanh chóng thành tựu cho chúng sanh, làm trong sạch cõi Phật, chẳng bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

“Thiện nam tử!

Đó gọi là sức mạnh công đức thứ tám chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức mạnh công đức thứ chín chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế hoặc đã nhập diệt, nếu có kẻ nam, người nữ lòng lành nào gặp được kinh điển này, vui mừng sung sướng, cho là việc chưa từng có, liền thọ trì, đọc tụng, cúng dường, lại sao chép ra, vì mọi người khác mà phân biệt giảng nói nghĩa kinh.

Người ấy liền được nhất thời dứt sạch mọi nghiệp chướng nặng nề từ đời trước, tâm liền được thanh tịnh, được đại tài biện luận, lần lượt hội đủ các ba-la- mật mà trang nghiêm đức hạnh; được các phép Tam-muội, Thủ-lăng-nghiêm Tam- muội, nhập vào môn đại Tổng trì; được sức chuyên cần tinh tấn, nhanh chóng vượt lên đến Thượng địa; có thể biến hóa phân thân ra khắp các cõi nước mười phương, cứu vớt tất cả chúng sanh khổ sở trong hai mươi lăm cảnh Hữu, khiến cho đều được giải thoát.

Cho nên kinh này có được sức mạnh như vậy.

“Thiện nam tử!

Đó là sức mạnh công đức thứ chín chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Sức công đức thứ mười chẳng thể nghĩ bàn của kinh này là: Trong khi Phật còn tại thế hoặc đã nhập diệt, nếu có kẻ nam, người nữ lòng lành nào gặp được kinh điển này, hết sức vui mừng, cho là việc chưa từng có, liền tự mình thọ trì, đọc tụng, cúng dường, lại sao chép ra, rồi y theo lời dạy mà tu hành; lại khuyến khích được nhiều người tại gia, xuất gia cùng thọ trì, đọc tụng, cúng dường, sao chép kinh này, theo như pháp mà tu hành.

Khiến cho kẻ khác tu hành, nhờ sức kinh này nên đắc đạo, đắc quả; đó đều là do sức khuyến hóa lòng lành của người trì kinh.

Nên ngay trong đời này, người ấy liền được vô lượng các môn Tổng trì.

Ở địa vị phàm phu mà tự nhiên có thể phát vô số a-tăng-kỳ lời thệ nguyện rộng lớn, có thể thừa sức cứu vớt hết thảy chúng sanh, thành tựu đức đại bi, cứu bạt những nỗi khổ rộng khắp, gom góp đủ các căn lành, làm lợi ích cho tất cả; lại tuôn mưa Pháp thấm nhuần tốt tươi cho những nơi khô hạn, dùng món thuốc Pháp mà ban cho chúng sanh, khiến hết thảy đều được an lạc; dần dần vượt lên đến Pháp vân địa, ban ân trạch thấm nhuần mọi chốn, lòng từ trải khắp nơi nơi, gồm thâu mọi khổ não của chúng sanh, khiến họ bước vào nẻo đạo.

Do vậy, chẳng bao lâu người ấy sẽ thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Thiện nam tử!

Đó là sức mạnh công đức thứ mười chẳng thể nghĩ bàn của kinh này.

“Thiện nam tử!

Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa cao quý hơn hết này có sức đại oai thần như thế, tôn quý chẳng gì bằng, có thể giúp cho phàm phu được thành Thánh quả, mãi mãi dứt lìa sanh tử, thảy đều được tự tại.

Vì vậy nên gọi tên kinh là Vô lượng nghĩa, có thể khiến cho hết thảy chúng sanh ở địa vị phàm phu sanh khởi vô lượng mầm đạo của chư Bồ Tát, làm cho cây công đức trở nên to lớn, sum sê.

Vì vậy nên kinh này cũng có danh hiệu là Sức công đức chẳng thể nghĩ bàn.”

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Đại Trang Nghiêm cùng với tám mươi ngàn vị đại Bồ Tát đồng thanh bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!

Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa thâm sâu, vi diệu, cao cả hơn hết mà Phật đã thuyết, ý nghĩa chân thật, chánh đáng, cao quý hơn hết, chư Phật ba đời đều gìn giữ, hộ trì, chúng ma ngoại đạo không thể xâm nhập, tất cả tà kiến sanh tử không thể làm hư hoại.

Cho nên kinh này mới có mười sức mạnh công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, làm lợi ích rất nhiều cho vô lượng hết thảy chúng sanh, khiến tất cả chư đại Bồ Tát đều được phép Tam-muội Vô lượng nghĩa, hoặc được trăm ngàn môn Tổng trì, hoặc được các địa vị trong Thập địa, các pháp nhẫn của Bồ Tát, hoặc được các quả Duyên giác, A-la- hán, chứng bốn Đạo quả.

Đức Thế Tôn thương xót đã vui lòng giảng thuyết cho chúng con nghe pháp ấy, khiến được sự lợi ích rất lớn về giáo pháp.

Thật là rất lạ, chưa từng có vậy!

Chúng con thật khó báo đáp từ ân của Thế Tôn!”

Lời ấy vừa nói xong, khắp tam thiên đại thiên thế giới liền chấn động sáu cách.

Từ trên không trung, mưa xuống các thứ hoa trời như hoa ưu-bát-la, hoa bát-đàm- ma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lỵ, lại mưa xuống vô số hương cõi trời, các thứ y phục, anh lạc, châu báu vô giá cõi trời.

Từ trên không trung, những thứ ấy dần dần hạ xuống cúng dường Phật cùng chư Bồ Tát, Thanh văn, đại chúng.

Lại có những món ăn đủ trăm mùi vị được nấu ở nhà bếp cõi trời, đựng trong chén bát cõi trời, hiện ra đầy đủ, dư dật.

Chỉ cần nhìn và ngửi các món ăn ấy, tự nhiên đã thấy no đủ rồi.

Các loại cờ xí, lọng phướn, nhạc cụ vi diệu trên cõi trời được bày biện ra khắp nơi, trỗi lên âm nhạc cõi trời để ca ngợi, tán thán Phật.

Lại chấn động sáu cách lần nữa.

Các thế giới chư Phật ở phương đông, nhiều như số cát sông Hằng, cũng mưa xuống những hoa, hương cõi trời, các loại y phục, chuỗi ngọc, châu báu vô giá trên cõi trời.

Lại có những món ăn đủ trăm mùi vị được nấu ở nhà bếp cõi trời, đựng trong chén bát cõi trời; chỉ cần nhìn và ngửi các món ăn ấy, tự nhiên đã thấy no đủ rồi.

Các loại cờ xí, lọng phướn, nhạc cụ vi diệu trên cõi trời trỗi lên âm nhạc cõi trời để ca ngợi, tán thán chư Phật cõi ấy và chúng Bồ Tát, Thanh văn.

Ở phương nam, phương tây, phương bắc, bốn phương phụ, phương trên, phương dưới đều lại cũng như vậy.

Lúc ấy Phật bảo Đại Bồ Tát Đại Trang nghiêm và tám mươi ngàn vị đại Bồ Tát rằng: “Đối với kinh này, các ông nên khởi lòng kính trọng sâu xa, y như pháp mà tu hành, giáo hóa cho hết thảy, hết lòng truyền bá, lưu hành, thường nên ân cần ngày đêm giữ gìn, bảo vệ, khiến cho chúng sanh đều được lợi ích về pháp.

Các ông đúng thật là đại từ, đại bi, đã lập nguyện thần thông mà ưa thích bảo hộ kinh này, chớ để ngưng trệ.

Về đời sau, nên lưu hành rộng khắp cõi Diêm-phù-đề, khiến cho tất cả chúng sanh đều được thấy, nghe, đọc tụng, cúng dường, sao chép ra.

Nhờ vào việc ấy, sẽ giúp các ông cũng mau đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.”

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Đại Trang Nghiêm với tám mươi ngàn đại Bồ Tát liền đứng dậy đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Phật, đi quanh Phật cả trăm ngàn vòng, rồi cùng nhau quỳ xuống, đồng thanh bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn!

Chúng con lấy làm vui thích được đức Thế Tôn đem lòng từ mẫn thuyết cho nghe kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa thâm sâu, vi diệu, cao cả hơn hết này.

Chúng con kính vâng lời dạy của Phật, sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ làm cho khắp nơi được lưu hành kinh điển này, khiến cho hết thảy chúng sanh đều thọ trì, đọc tụng, cúng dường, sao chép thêm ra.

Xin đức Thế Tôn đừng đem lòng lo lắng, chúng con sẽ dùng nguyện lực khiến cho hết thảy chúng sanh đều được oai thần phước lực của kinh điển này.”

Bấy giờ, Phật khen rằng: “Lành thay, lành thay!

Các thiện nam tử!

Nay các ông quả thật là Phật tử, đại từ, đại bi, có thể thừa sức cứu bạt khổ ách; là ruộng phước màu mỡ cho hết thảy chúng sanh; rộng vì hết thảy chúng sanh mà làm người dẫn dắt cho theo về đúng nẻo; làm chỗ nương dựa chắc chắn của chúng sanh; là bậc đại thí chủ, thường đem sự lợi ích về giáo pháp mà bố thí rộng rãi cho tất cả.”

Lúc ấy, hết thảy chúng hội đều vui mừng hoan hỷ, lễ bái đức Phật, thọ trì rồi lui ra.

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG NGHĨA

BỔ KHUYẾT TÂM KINH

Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử!

Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc.

Thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử!

Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.

Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận, vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc, vô đắc.

Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn.

Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư.

Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú.

Tức thuyết chú viết:

“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha” (ba lần)A DI ĐÀ PHẬT
 
Back
Top Bottom