Ngôn Tình Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
24/9/25
499,381
0
36
AP1GczMSKqUPwZ0b9ri81O_rWHuMpSGZQedU-mRWDAsqRlKYHVzOR3bE0hw3doehcM4v_POUPQr6svY6m9rJAZKEIPd7I9OH1YITr58e74AGzlMYUnraIjjQocYi5gr_WEksJ8_ajqejN7_rNXSsrwFxKixT=w215-h322-s-no-gm

Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Tác giả: Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Thể loại: Ngôn Tình, Cổ Đại, Ngược
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

PHẦN 1 của Trọng Tự

Phò mã của ta là một người vô cùng dịu dàng.

Lúc này, chàng đang cầm thanh trường kiếm dính đầy máu, điềm đạm cúi người che đi tầm mắt ta, sau đó cười dịu dàng nói với hạ nhân: “Là ai gọi điện hạ tới đây?”

Cung nữ thái giám co người run rẩy, không ai dám trả lời, cuối cùng chỉ có một tiểu cung nữ lên tiếng: “… là… là Tưởng công công”

Chàng “à” một tiếng, rồi phân phó cận vệ: “Đưa tới đây”

Ngửi thấy mùi máu tanh phả tới trước mặt, cơ thể ta không ngừng run lên.​
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 1


1

Phò mã của ta là một người vô cùng dịu dàng.

Lúc này, chàng đang cầm thanh trường kiếm dính đầy máu, điềm đạm cúi người che đi tầm mắt ta, sau đó cười dịu dàng nói với hạ nhân: “Là ai gọi điện hạ tới đây?”

Cung nữ thái giám co người run rẩy, không ai dám trả lời, cuối cùng chỉ có một tiểu cung nữ lên tiếng: “… là… là Tưởng công công”

Chàng “à” một tiếng, rồi phân phó cận vệ: “Đưa tới đây”

Ngửi thấy mùi máu tanh phả tới trước mặt, cơ thể ta không ngừng run lên.

Người đang nằm co giật trong vũng máu kia là hoàng huynh của ta, đương kim hoàng thượng. Lúc này huynh ấy đang rên lên vì đau đớn, miệng cất tiếng mắng nhiếc phò mã lòng dạ độc ác.

“Tuyên Giác, trẫm không bạc đãi ngươi, cái thứ lòng lang dạ sói nhà ngươi!” hoàng huynh thở hổn hển, “trẫm còn gả Nhĩ Ngọc cho ngươi! Ngươi, ngươi báo đáp như vậy sao?”

“Thần vô cùng cảm kích, vậy nên, sẽ để bệ hạ được toàn thây” Tuyên Giác nói, ta thậm chí có thể nghe ra ý cười trong giọng nói chàng, chắc hẳn đôi mắt xinh đẹp như hồ ly đó cũng đang cong lên.

Như thể mọi chuyện đều nằm trong lòng bàn tay chàng.

Ta vốn đang ngồi bệt trên mặt đất, lập tức gạt tay chàng ra, lảo đảo bổ nhào về phía hoàng huynh.

“Truyền thái ý!!! Mau truyền thái y! Ngẩn ra đó làm gì, mau đi gọi người!” ta nghe thấy tiếng hét khản đặc của mình.

Nhưng không ai dám nhúc nhích.

Bốn phương tám hướng đều có quân đội vây kín, đó đều là người của Tuyên Giác.

Ta sững sờ nhìn vào vũng máu trên đất, cơ thể đó dần không còn động đậy nữa, ta khóc nấc lên.

Tuyên Giác thở dài một tiếng, ném kiếm đi, dịu dàng nói: “Đừng nhìn hắn, điện hạ, hãy nhìn ta”

Chàng nâng mặt ta lên.

Ánh mắt chàng lấp lánh như sao, ôn hòa như nước mùa xuân.

Ta biết chàng nắm trong tay càn khôn, có thể hô phong hoán vũ, nhưng ta không thể ngờ rằng, chàng thật sự nhẫn tâm tới nhường này.

Ta cắn răng nói: “… cút! Tuyên Giác, chàng cút đi cho ta!”

Ta muốn đẩy chàng ra, lại nghe thấy chàng bình thản cười nói: “Điện hạ, ta không muốn giết nàng, vậy nên hãy nghe lời một chút, đừng làm khó cả hai ta, được không?”

Ta còn chưa kịp thốt ra hai tiếng “không được”, chàng lại nói: “Chết ở nơi này, hóa thành cát bụi, hoặc tiếp tục sống. Khanh khanh thông tuệ tới vậy, biết phải chọn thế nào, đúng chứ?”

Lí trí suy sụp của ta mau chóng bỉnh ổn trở lại.

Tuyên Giác quá hiểu ta.

Cũng giống như ta hiểu chàng.

Lúc này, cận vệ bưng một cái khay bước vào, ta không cần nghĩ cũng đoán ra đó là gì.

“Công tử” cận vệ nói, trên chiếc khay bằng sứ trắng là một đầu người đầm đìa máu, hai mắt mở to kinh hoàng, là Tưởng Minh.

Ta chết trân nhìn Tuyên Giác, không muốn nhìn khay sứ đang nhỏ máu đó nữa, ta cảm thấy giọng nói khản đặc này không còn giống như của mình: “Đêm chàng bị phạt quỳ ngoài quân cơ xứ, trời đổ tuyết lớn, Tưởng công công đã che dù cho chàng cả đêm. Chàng quả thực… vong ân bội nghĩa”

“Có ân đã báo, có oán ắt phải đòi. Ta chẳng nợ hắn gì cả” giọng nói của Tuyên Giác vẫn điềm đạm như mọi khi, “người đâu, đưa điện hạ trở lại phủ công chúa”

2

Ta bị cấm túc, chỉ có thể chắp nối những câu chuyện phiếm của hạ nhân đoán ra tình thế hiện nay.

Tuyên Giác xưng đế, bận rộn đối phó với những thế lực các phương.

Nghe nói chàng đã bỏ ra rất nhiều công sức để bảo vệ ta.

Những quần thần theo chàng tạo phản rất phật ý, nói không diệt cỏ tận gốc ắt sẽ để lại hậu họa về sau.

“Ôi, ngươi nói xem cuối cùng phò mã sẽ xử lí công chúa thế nào?”

“Này, hiện nay người ta đã là hoàng thượng rồi. Đừng có nhắc tới hai chữ phò mã này nữa. Theo ta ấy à, hoàng thượng giữ lại mạng cho công chúa đã là tốt lắm rồi, còn muốn sao nữa? Đón vào cung phong làm nương nương sao? gần đây có rất nhiều người sợ tân đế trách tội, cũng sợ đoán không ra tính khí của người, tranh nhau đem nữ nhi nhét vào cung! Vị kia còn có thể đứng hàng đầu sao? Ngươi đánh ta làm gì? Nhĩ Ngọc… điện điện điện… hạ!”

Ta đi ra khỏi bóng cây, cười khổ phất tay, ra hiệu các nàng không cần sợ hãi làm gì. Nhưng bọn họ vẫn run như cầy sấy, liên tục dập đầu.

Ta nói: “Không sao, đi đi. Có điều, ta không còn là công chúa điện hạ gì nữa rồi”

Hai người họ run rẩy lui xuống.

Cũng dễ hiểu. Ta là công chúa nhỏ nhất, từ nhỏ đã được sủng ái, phong hào Nhĩ Ngọc tượng trưng cho chữ “Tỉ”, tôn quý tới nhường vậy. Tính cách ta ngang ngược, bướng bỉnh, ngoài thân tín ra, rất nhiều hạ nhân đều sợ ta.

Nhưng bây giờ thân tín bên cạnh ta đều đã bị Tuyên Giác giết sạch, muốn sai hạ nhân làm việc cũng không tìm được ai.

Ta ngồi bên ao nước, giơ ngón tay đếm số ngày, sắp rồi. Với năng lực của Tuyên Giác, chỉ cần hơn nửa tháng là đã đủ để bình ổn triều cục.

Sau đó…

Truyền ta vào cung.

Đầu tháng thứ hai, khi hải đường vừa nở thì thánh chỉ tới, ta được triệu vào cung.

Trong lời nói của vị công công tuyên chỉ đó mang theo ý giễu cợt, sau cùng còn nhắc tới hoàng huynh đã chết của ta: “Nương nương quả thật may mắn, trước được phụ huynh yêu thương, nay lại được bệ hạ nhớ đến”

Trước đây ta nào có quỳ gối tiếp chỉ bao giờ, ta nhẫn nhịn không ném thánh chỉ vào mặt hắn, cười nói: “Bản cung cũng cảm thấy bệ hạ là người ghi nhớ chuyện xưa”

Nếu không thì đâu thể nằm gai nếm mật nhiều năm, chờ thời cơ báo thù như vậy?

Tên công công đó hiểu sai ý, hắn cho rằng ta đang nói Tuyên Giác niệm tình cũ với ta, sắc mặt bỗng chốc biến đổi, cuối cùng lúng túng cúi người, nói: “Nương nương, mời”

3

Ta được phong làm quý phi. Hậu vị để trống, ta đoán Tuyên Giác dùng nó để lôi kéo thần tử.

Quả nhiên, sau khi ta nhập cung được ba ngày, một tiểu cô nương hối hả chạy tới chỗ ta, trừng mắt hỏi: “Ngươi chính là Tạ Trùng Tự, người chiếm mất vị trí của ta sao? Thật không biết xấu hổ. Cho dù bệ hạ niệm tình xưa nghĩa cũ, tha cho ngươi một mạng, thì đáng nhẽ loại người như ngươi phải lấy cái chết tạ tội chứ, ngươi còn sống để làm gì?”

Ta: “…”

Ta lập tức ngộ ra, trong lòng cười lạnh. Tuyên Giác à, không hổ là chàng, giữ lại mạng cho ta để tận dụng làm bia đỡ đạn sao?

Ta không nói gì, bỏ cây đàn gỗ trong tay xuống, nhìn tiểu cô nương một lượt từ trên xuống dưới, nhìn đến mức khiến nàng ta nổi da gà, ta mới bật cười rồi nói: “Nha đầu nhà Điền tướng quân sao?

“… sao ngươi biết?”

“Quý nữ trong hoàng thành, bản cung biết không ít” suy nghĩ một hồi, có thể trong ứng ngoài hợp cùng Tuyên Giác cũng chỉ có mấy nhà đó mà thôi.

Ta đứng lên, dập huân hương đang cháy bên cạnh đàn: “Vào cung cùng phụ thân sao? Đừng có chạy loạn khắp nơi, trong cung nghiêm cấm xung đột, điện Minh Chính ở đằng đó, Lan Linh, đưa nàng ta đi”

Điền tiểu thư giậm chân, nói: “Này! Ngươi đợi đó cho ta!”

Ta không hiểu chuyện gì, cất giọng hỏi: “Ta đợi? Ta đợi gì mới được? Ta cũng chẳng giết cha, giết huynh đệ, giết nô tỳ, giết hết người bên cạnh ngươi, cũng không nhốt ngươi lại như một con chim hoàng yến, càng không khẩu Phật tâm xà trêu trọc ngươi. Tiểu cô nương, đừng thấy Tuyên Giác cười mà u mê quên mất bản thân là ai! Mau chóng trở về đi, trong cung không hợp với ngươi, hơn nữa…”

Ta cười nói: “Ta chiếm vị trí của ngươi ư? Trái lại ta cảm thấy, với dung mạo của ngươi vĩnh viễn không ngồi nổi vào vị trí của ta”

Oắt con miệng còn hôi sữa mà cũng dám tới gây chuyện với ta.

Cái khác không nói, chỉ riêng dung mạo, năm đó vô số văn nhân thi sĩ đã lấy mẫu đơn để ẩn dụ về ta, gọi ta là “đệ nhất mỹ nhân kinh thành”.

Thấy Điền tiểu thư khóc lóc chạy đi, các cung nữ nô tì được Tuyên Giác sắp xếp bên cạnh ta đều nín thở, có lẽ những ngày qua ta hành xử dịu dàng lễ độ, các nàng cho rằng ta dễ chung sống chăng.

Ta nói: “Lần sau, nếu còn có kẻ ngu ngốc như vậy tới thì cản hết lại ngoài cửa, đừng làm bẩn tai ta”

Các nàng ngoan ngoãn đáp lời.

Thái độ của hạ nhân chính là thái độ của Tuyên Giác. Ít nhất thì xem ra chàng không định làm gì ta.

4

Tối đó, cuối cùng ta cũng gặp lại Tuyên Giác.

Một tháng không gặp, chàng vẫn cười nói điềm đạm, toát lên vẻ dịu dàng như cũ, trên người mặc long bào đầu đội mũ miện, khiến cho dung mạo chàng càng nổi bật hơn, tuấn tú thoát tục.

Làm ta nhớ lại lần đầu gặp gỡ, chàng nhặt mũi tên của ta lên, mỉm cười trả lại ta: “Điện hạ, của người”

Ta liếc nhìn chàng, nói: “Trước thì cấm túc, sau lại ban ân huệ, đánh một gậy, cho một viên đường. Tuyên Giác, đừng có dùng cách đó để thuần hóa ta”

“Nói tới thuần hóa, ai có thể bằng được điện hạ?” Tuyên Giác vẫn gọi ta là “điện hạ” không đổi, ngồi xuống phía trước ta, “Giác không dám so bì”

Ta dừng ngón tay đang gảy đàn, im lặng phút chốc rồi lạnh nhạt lên tiếng: “Chàng tới làm gì?”

“Hai ta vẫn là phu thê, sao nào, ta không được tới ư?”

“Không sợ ta giết chàng sao?” ta gảy mạnh lên dây đàn, đầu ngón tay chảy cả máu.

Chàng đứng dậy, vươn người qua đàn, nắm lấy cổ tay ta, tiến gần lại rồi nói: “Đàn thiếu mất một dây, có điều điện hạ à, tay nàng không đủ sức dùng dây đàn siết cổ người đâu, sẽ bị thương đó”.

Chàng nhẹ nhàng lấy dây đàn giấu trong tay áo ta ra, ném sang một bên, sau đó dịu dàng xoa tay ta, dùng khăn lau đi vết máu trên ngón tay, ta muốn giãy ra liền bị chàng ấn xuống đất, khi đầu óc đang quay cuồng, nụ hôn của chàng chạm lên môi ta.

Tuyên Giác vẫn như năm đó, động tác vô cùng dịu dàng, như thể ta là châu báu trong lòng bàn tay. Sau đó, chàng cởi áo khoác của ta ra, thì thầm bên tai ta tiếng “khanh khanh” như những tháng ngày đồng sàng cộng chẩm trước đây.

Ta rất muốn khóc.

Ta biết, thân thể hay thậm chí cả cảm xúc của ta lúc này vẫn đang nói lên ta yêu chàng.

Nhưng ta càng muốn biết, rốt cục tại vì sao hai ta lại đi tới bước đường này.

Rõ ràng… ta và chàng đã ở bên nhau lâu đến vậy.

“Tiểu Hắc vẫn ở phủ công chúa, chàng sai người đem nó tới đây đi” cuối cùng, ta ôm lấy vai chàng, để mặc chàng nhịp nhàng chuyển động, từ đầu đến cuối không phát ra tiếng nào, ta bỗng mở miệng, “thái giám tuyên chỉ hôm đó không cho ta mang theo”

Tiểu Hắc là một con thỏ ta nuôi đã hơn mười năm. Tuyên Giác sững lại một lát, rồi khẽ nói: “… được”

5

Ta và Tuyên Giác gặp nhau lần đầu trong hội săn bắn mùa thu của hoàng gia.

Lúc đó, Tuyên gia vẫn chưa rơi đài, Tuyên Giác và Thích Văn Lan, con trai của Thích gia là hai nhân vật ưu tú nhất trong kinh thành, tài mạo vô song, một văn một võ.

Dường như bất kể chuyện gì, hai người họ cũng tranh đấu với nhau.

Ta quen Thích Văn Lan, tỷ tỷ ruột của hắn là phi tử được phụ hoàng sủng ái nhất, rất tinh quái hoạt bát, thường dắt đám trẻ con chúng ta đi chơi, ta và hắn cũng coi như cùng nhau lớn lên.

Còn Tuyên Giác, ta không quen.

Thậm chí chưa từng gặp lần nào.

Ta đương nhiên thiên vị Thích Văn Lan. Cho nên, khi nghe thấy các vị tiểu thư trong kinh lén lút thì thầm với nhau, cá cược xem ai là người dẫn đầu trong hội săn mùa thu, ta cõng giỏ tên trên lưng, thử cung tên của mình, khinh khỉnh nói: “Chắc chắn là huynh rồi Văn Lan, sao mấy người đó đều nói Tuyên Giác sẽ thắng nhỉ? Vì tên ẻo lả đó đẹp trai ư?”

Thích Văn Lan xuất thân nhà võ tướng, vì muốn các con trai thi đậu công danh, nên đặt tên đều có một chữ “Văn”, có điều Thích Văn Lan lại chỉ yêu thích võ nghệ, cầm kỳ thi họa dốt đặc cán mai, nhưng cưỡi ngựa bắn cung lại rất giỏi.

Khóe miệng Thích Văn Lan giật giật: “Đừng nói nữa tổ tông ơi, Tuyên Giác không kém gì ta đâu, ngươi giúp ta một việc, đừng đi ba hoa khắp nơi. Nhỡ mà thua ta biết rúc mặt vào đâu”

Ta không dám tin trợn trừng mắt, nói: “Không phải chứ hả Văn Lan, huynh không nổi á?”

Thích Văn Lan: “…”

Thích Văn Lan: “… biến biến biến”

Ta cười to, đổi sang bộ quần áo đỏ gọn gàng, cưỡi lên con ngựa Tây Vực của mình, một mũi tên trúng một con hươu đực, ở xa xa lập tức truyền tới tiếng reo hò. Thích Văn Lan cũng thúc ngực chạy tới, ta nhìn thấy một con thỏ trắng như tuyết, nói với hắn: “Xem ai bắn trúng trước!”

“Được!” Thích Văn Lan và ta cùng kéo cung, hai mũi tên lao vút ra.

Khi mũi tên có phần lông màu vàng của ta sắp bắn trúng trước Thích Văn Lan, một mũi tên không biết từ đâu bay vụt tới, vừa hay chạm phải đuôi mũi tên của ta, sau đó bay chuẩn xác vào phần lông thỏ, ghim nó trong bãi cỏ.

Thích Văn Lan giữ dây cương quay đầu lại, nói: “Tới rồi sao?”

“Văn Lan huynh” tiếng vó ngựa ở nơi không xa tiến lại gần, theo cùng với đó là một giọng nói trong trẻo dòng suối chảy róc rách.

Thích Văn Lan cười hả hê: “Ngươi làm chệch mũi tên của Nhĩ Ngọc rồi”, sau đó nói với ta: “Điện hạ, đây là Tuyên Giác”

Ta còn đang thắc mắc sao Thích Văn Lan tự nhiên lại nở nụ cười xấu xa đến vậy, lại còn nghiêm túc gọi ta là “điện hạ” nữa, mặt trời mọc đằng tây rồi sao, hóa ra hắn đang bày trò, muốn ta áp chế Tuyên Giác, kẻ vẫn luôn cướp ngôi đầu bảng của hắn này.

Ta quay đầu nhìn theo ánh mắt hắn.

Đó là lần đầu tiên ta gặp Tuyên Giác.

Năm ấy, bọn ta mới mười lăm mười sáu, Tuyên gia vẫn còn đó, Thích Văn Lan cũng chưa tới canh giữ biên cương.

Ngày đó, Tuyên Giác không giống như sau này, lúc nào cũng nở nụ cười giả tạo. Khuôn mặt đẹp đẽ thoáng chút non nớt, chàng có phần luống cuống, cuộn roi ngựa lại, nhặt mũi tên của ta lên, sau đó đưa cho ta: “Điện hạ, của người. Ta không biết điện hạ ở đây nên đã mạo phạm, mong người thứ tội”

Ta ho một tiếng, nói: “Không sao”

Sau đó lại nói với Thích Văn Lan: “Văn Lan huynh, ta thay đổi rồi. Ta không cược cho huynh nữa, ta cược hắn”

Thích Văn Lan: “?”

Lúc hắn hiểu ra, uất hận nói: “Thấy sắc quên bạn! Trọng sắc khinh bạn! Được lắm Nhĩ Ngọc, ta đã nhìn lầm ngươi rồi”

Tuyên Giác cũng mau chóng hiểu được bọn ta đang nói gì, tuy gương mặt trắng trẻo không có gì thay đổi, nhưng vành tai lại đỏ ửng lên. Ta và Thích Văn Lan cãi vã một hồi rồi bắt đầu bôi nhọ lịch sử đen tối của nhau, Tuyên Giác lên tiếng cắt ngang: “… cái đó, hai vị, hội săn đã bắt đầu rồi, phải tranh thủ thời gian thôi”

Lần săn đó, hai người họ đều nhường nên cuối cùng kẻ thắng cuộc lại là ta.

Khi bắn con thỏ đó, Tuyên Giác tránh không làm nó bị thương, có thể đem về nuôi được, thấy ta thích, chàng liền đưa cho ta nuôi dưỡng.

Ta đặt cho nó một cái tên tương phản với ngoại hình của nó, gọi là “tiểu Hắc”.

6

Hôm sau khi ta tỉnh lại, Tuyên Giác đã không còn bên cạnh nữa.

Toàn thân đau mỏi không có sức lực, ta gọi người tới hầu hạ, cung nữ nhìn sắc mặt ta rồi nói: “Bệ hạ thượng triều từ sớm, còn sai người đem con thỏ của nương nương vào cung”

Ta “à” một tiếng.

Trong lòng nghĩ: “E rằng phí công vô ích rồi”

Hai bên thái dương âm ỉ đau không thôi, cũng không biết có phải vì đêm qua nhắc tới tiểu Hắc nên cả đêm mới mơ thấy những chuyện thời niên thiếu hay không, trong mơ có buổi đi săn đó, có ánh đèn trong đêm mưa ở Giang Nam, còn có cả bóng hình Tuyên Giác quỳ ở quân cơ xứ, ta chỉ có thể nhìn thấy tuyết rơi lạnh lẽo phía sau tấm lưng chàng.

Đầu đau như búa bổ.

Tin tức Tuyên Giác ngủ lại cung Ngọc Cẩm truyền khắp nơi. Vậy nên trong cung ai ai cũng hiểu, vị “công chúa tiền triều” là ta đây vẫn đang đắc sủng.

Buổi trưa, Tuyên Giác bước vào với một gương mặt u ám, tay xách một chiếc lồng, bên trong có một con thỏ trắng nhỏ, hai cái tai phớt hồng linh hoạt chuyển động, vừa nhìn đã biết không phải con thỏ già lười vận động tiểu Hắc kia.

Tuyên Giác: “Có lẽ tiểu Hắc chạy mất rồi, không tìm thấy nữa, đền cho nàng con khác”

Nằm trong dự liệu cả.

Nửa tháng bị cấm túc trong phủ công chúa, Tuyên Giác bận rộn, mấy cung nữ hầu hạ ta khi đó là Tuyên Giác sai thuộc hạ tìm về.

Chúng không hiểu cách đối nhân xử thế, mặt vênh lên tận trời, đối xử với ta cũng rất tệ bạc, không nghe sai bảo. Ta chỉ đành tự mình cho tiểu Hắc ăn, khi chúng hỏi, ta tỏ vẻ tự hào nói: “Là phụ hoàng ban cho ta, rất quý giá, ngay cả một sợi lông của nó các ngươi cũng không bằng”

Ta không hề nhắc tới Tuyên Giác.

Đợi tới khi ta rời khỏi, mấy kẻ ngu dốt đó chắc chắn sẽ ra tay với tiểu Hắc.

Quả nhiên…

Tuyên Giác chắc chắn tức chết.

Dẫu sao, con thỏ đó cũng qua tay chàng nuôi dưỡng không ít lần, tình cảm không hề ít.

Ta không để ý tới Tuyên Giác, cúi đầu ra vẻ mất mát, sau đó mở lồng ra ôm con thỏ mới đó, muốn thông qua nó tạ lỗi với tiểu Hắc: “… xin lỗi ngươi”.
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 2


7

Ta lười đặt tên cho con thỏ mới này, chỉ gọi đơn giản là “tiểu Bạch”. Tiểu Bạch hoạt bát hơn tiểu Hắc, cả ngày cứ nhảy quanh người ta.

Nghe nói mấy nô tỳ kia chết rất thảm, bị lột da sống.

Ta nghe xong liền hoảng hốt.

Cho dù Tuyên Giác vẫn nở nụ cười ôn hòa, nhưng chàng thiếu niên dịu dàng chu đáo, ấm áp như gió xuân đó quả thật đã không còn nữa.

Rất nhanh đã tới giữa năm, tin tức Tuyên Giác phong hậu truyền tới.

Là con gái của Trần thái sư, Trần Mặc.

Ta từng gặp nàng ta vài lần trong cung, dung mạo không tính là tuyệt sắc, nhưng thanh nhã thoát tục, tự nhiên phóng khoáng, là một cô nương có tri thức hiểu lễ nghĩa.

Nàng ta chỉ nhỏ hơn ta ba tuổi, đã hứa hôn vài lần nhưng cuối cùng hôn sự đều không thành. Ta còn thắc mắc sao nhân duyên của cô nương này trắc trở tới vậy. Trong một buổi tiệc thưởng hoa vào năm ngoái, ta mới biết nàng ta vẫn luôn một lòng ái mộ Tuyên Giác, vậy nên mới lần lữa không gả cho ai.

Kể ra cũng đúng, gương mặt đó của Tuyên Giác, vừa nhìn là đã có thể câu mất hồn người ta. Có thiếu nữ nào lại không rung động?

Ngày đại hôn phong hậu, cung nữ trang điểm cho ta. Lan Linh giúp ta chọn trâm cài tóc, rồi chọn trang phục, ta không có hứng, chỉ nói: “Thế nào cũng được”.

Bá quan chúc mừng, âm nhạc xướng lên, màu đỏ rực cùng màu vàng chói mắt, hoa lệ ngút trời. Năm đó khi phụ hoàng cưới mẫu hậu, cũng không xa hoa tới thế.

Ta quỳ xuống theo mọi người, chìm trong đám đông, không gây chú ý, Tuyên Giác cũng không phát hiện ra ta.

Tới khi quần thần dâng tặng lễ vật, ta cũng muốn ngồi lên vị trí trên bục cao, khi Tuyên Giác nhìn thấy ta, rõ ràng chàng sững lại một chút, sau đó nhíu mày, quay sang nói: “Không phải ta đã nói để Nhĩ Ngọc nghỉ ngơi trong điện sao?”

Chàng hỏi cung nữ của ta.

“Ra ngoài giải sầu thôi” ta nói, rồi cứ thế ngồi xuống, “các nàng không khuyên được ta”.

Tuyên Giác không nói nữa, Trần Mặc muốn nói gì đó nhưng lại thôi, cuối cùng nàng ta vẫn ngồi xuống bên cạnh Tuyên Giác.

Lễ vật của đám quần thần đó quanh quẩn cũng chỉ có châu báu và tranh chữ, cố làm ra vẻ phong nhã. Có báu vật nào mà ta chưa từng thấy qua, ta chán đến mức sắp ngủ gật tới nơi, đến khi nghe thấy “Trấn quan đại tướng quân chúc…”

Ta bỗng bừng tỉnh.

Thích Văn Lan cái tên xui xẻo đó cũng dám tặng lễ vật?

Tuyên Giác nhìn sang ta, vừa hay ta cũng đang quét mắt tới. Không biết có phải ảo giác không, ta cảm thấy sau khi chàng thấy ta phấn chấn trở lại thì lông mày cau nhẹ, hàm dưới chếch xuống, đây là biểu cảm không vui.

Người dâng lễ vật là thân binh của Thích Văn Lan, hắn quỳ một gối dưới đất, chắp tay nói: “Tướng quân sai thần tới tặng lễ vật”.

Sau đó ấn khóa mở chiếc hộp ra, trong chiếc hộp dài màu gỗ là hai cái đầu người!

Hai kẻ đó đều là những tên đàn ông uy mãnh, râu quai nón xồm xoàm, đôi mắt giận dữ trợn to, hình ảnh đó khiến người ta phải khiếp sợ.

Trần Mặc ngồi ngay đầu nên chiếc hộp đó đối diện với nàng ta, nàng ta sợ hãi hét to lên một tiếng, ngã khỏi ghế rồi bổ nhào vào lòng Tuyên Giác.

Ta không nhịn nổi mà cười ra tiếng, nghe thấy thân binh kia nói đâu ra đấy: “Đây là thủ cấp của đại vương tử và nhị vương tử Thổ Phiên, chém từ mười ngày trước. Thổ Phiên tổn thất nặng nề, tương lai gần sẽ không dám xâm phạm nước ta. Tướng quân nói, lấy thứ này làm quà tân hôn tặng bệ hạ, chúc sơn hà vững mãnh thiên thu!”

Không hổ là huynh nha Thích Văn Lan.

Nghe thấy lời này, Tuyên Giác cũng chẳng thể làm gì được.

Nhưng tân hôn đã thấy máu không phải là chuyện may mắn.

Chí ít thì sắc mặt Trần Mặc đã trắng bệch cả ra, mất hết phong thái.

Lúc này, Tuyên Giác lại nhìn sang ta.

Ta thì không sợ hãi trước một màn này, mặt mày lạnh tanh quan sát, không quan tâm tới ánh mắt của chàng.

“Thích tướng quân có lòng, thiết nghĩ cuối năm hồi kinh báo cáo, sẽ có tin vui lớn hơn, trẫm rất mong chờ” Tuyên Giác nhẹ nhàng nói, “nhận lấy đi”.

Ta híp mắt.

Mỗi dịp cuối năm, để đề phòng phản loạn và thần tử bất trung, các tướng lĩnh đều phải hồi kinh báo cáo. Nếu Thích Văn Lan hồi kinh, e sẽ gặp bất trắc, dẫu sao hiện nay kinh thành cũng nằm trong tay Tuyên Giác, không phải nơi thành lũy cách xa hoàng đế kia. Nhưng nếu không về, sẽ bị chụp cái mũ phản loạn lên đầu.

Thật nan giải.

Ta dám khẳng định Tuyên Giáp không nỡ giết ta, nhưng không chắc… chàng có ra tay với Thích Văn Lan hay không.

8

Đại hôn kết thúc, ta trở lại cung Ngọc Cẩm.

Trên đường về, ta mải mê suy nghĩ, bước đi rất chậm.

Binh sĩ trong tay Thích Văn Lan không ít không nhiều, vừa tròn mười vạn. Thích thái phi và phụ hoàng tình cảm sâu đậm, khi phụ hoành băng hà, bà ấy cũng uống thuốc độc tự vẫn theo. Thích Văn Lan sinh muộn, phụ mẫu đều đã qua đời. Vậy nên hắn quả thực là một tướng quân không có phe cánh.

Một mình ở bên ngoài, không có người nhà phải lo lắng. Đây cũng là nguyên nhân mà hắn dám gây hấn Tuyên Giác. Nhưng đây cũng là giới hạn cao nhất rồi.

Mười vạn binh mã không đủ để hắn tiến đánh kinh thành, còn Tuyên Giác hiện nay căn cơ chưa ổn định, cũng sẽ không lập tức ra tay với Thích Văn Lan.

Cục diện bế tắc.

Có điều… đợi tới khi Tuyên Giác loại bỏ hết những kẻ đối địch, ổn định ngôi vị, tình thế sẽ không còn như vậy nữa.

Luận về võ nghệ hay cưỡi ngựa bắn cũng, hai người không phân cao thấp, nhưng luận về cầm kỳ thi họa, bày mưu tính kế, tên Thích Văn Lan đầu gỗ đó đấu không lại Tuyên Giác.

Mải mê suy nghĩ, nên tới khi sắp về đến cung Ngọc Cẩm ta mới phát hiện, Trần Mặc đang đứng trước cổng trong vòng vây của cung nữ, hiển nhiên là đợi ta.

Ta không có hứng thú đối phó với nàng ta, định sẽ làm lơ mà đi qua, nghe thấy cung nữ phía sau Trần Mặc lên tiếng: “To gan, thấy nương nương mà không hành lễ?”

Bước chân ta dừng lại, chậm rãi quay đầu cười nói: “Trần tiểu thư, một năm không gặp. Chúc mừng ngươi cầu được ước thấy. Lão thái sư yêu thương con gái, không ngần ngại hủy hoại thanh danh, Nhĩ Ngọc bái phục”.

Trần thái sư là các lão tam triều, là thầy giáo của hoàng huynh, là người mà huynh ấy tín nghiệm không thôi. Nếu không có ông ta trong ứng ngoài hợp, Tuyên Giác sẽ không dễ thành công tới vậy.

Nụ cười dịu dàng trên mặt Trần Mặc cứng lại, sau đó gật đầu nói: “Đa tạ tỷ tỷ chúc phúc. Bản cung thấy hôm nay tỷ tỷ không được vui nên muốn tới thăm”.

“Thăm xong chưa?” ta nghiêng đầu ra hiệu, “xong rồi thì đi đi”

“Vậy bản cung đi trước. Đêm nay ta hầu hạ bệ hạ, nếu tỷ tỷ thấy không khỏe thì hãy nghỉ ngơi nhiều một chút” nàng ta mỉm cười, bày ra dáng điệu của kẻ thắng cuộc, ung dung rời đi. Ta thương xót nhìn theo nàng ta.

Lan Linh thấy sắc mặt của ta, nghi hoặc: “… nương nương?”

Đèn lồng đung đưa trong đêm đen, phát ra quầng sáng mờ ảo, ta nói: “Ngươi có tin không, cái nàng ta đợi được sẽ là màn đêm trống rỗng? Thật tiếc cho Trần thái sư, quá chiều chuộng đứa con gái này”.

Ta vừa nói vừa sải bước tiến vào cung Ngọc Cẩm, một giọt nước mắt lăn xuống gò má.

Ta bất giác nhớ tới phụ hoàng.

Người cũng quá chiều chuộng ta.

Nên mới giữ lại mầm mống tai họa là Tuyên Giác.

Đêm đó, Tuyên Giác ở lại điện Thái Cực cả đêm, nói là có chính sự cần giải quyết. Có điều những kẻ sáng suốt đều hiểu được, tân đế hậu định sẵn sẽ chỉ là thân phận trên danh nghĩa.

Lan Linh rất ngạc nhiên, ta nói với nàng ta: “Bình thường thôi. Con người Tuyên Giác ấy à… ta phải cảm ơn chàng vì không biến ta thành mục tiêu công kích mới phải”

Nếu đêm qua chàng ở lại chỗ ta, ta sẽ bị Trần Mặc hận chết mất.

Lan Linh không biết nên nói sao, ấp úng: “… bệ hạ chung tình với nương nương, đương nhiên sẽ không để nương nương…”. Câu xu nịnh “sẽ không để nương nương khó xử” của nàng ta vẫn chưa kịp nói hết, nhớ ra ngôi vị của Tuyên Giác có được bằng cách nào, nàng ta lập tức im miệng.

Ta phất tay cho nàng ta lui. Lan Linh sự hãi rời khỏi.

9

Tám chín năm trước, rất lâu trước đây. Ngày đó, Tuyên Giác là người vô cùng dịu dàng, làm việc thận trọng chu đáo, quả thực chàng sẽ không khiến ta khó xử.

Năm đó ta vừa tròn mười sáu, cảm thấy trong cung quá tẻ nhạt nên tìm cớ xuất cung.

Mẫu hậu bị bệnh qua đời năm ta mười hai tuổi, chẳng có ai quản nổi ta. Phụ hoàng và hoàng huynh chiều chuộng ta, suy đi tính lại, liền sai Thích Văn Lan đi cùng bảo vệ.

Khuôn mặt Thích Văn Lan méo mó sắp khóc: “Thần tuân chỉ”

Sau đó tiếp nhận công việc cực nhọc này, nếu ta xảy ra chuyện sẽ bị chặt đầu.

Ta bật cười ha hả, thúc ngựa chạy về phía nam tới Giang Nam.

Kinh thành quá bí bách, khi còn nhỏ ta từng theo mẫu hậu về quê thăm người thân một lần, nằm mơ cũng muốn tới Giang Nam chơi lần nữa.

Thích Văn Lan và một nhóm thị vệ thúc ngựa chạy phía sau.

Thích Văn Lan hét lên: “Tạ Trùng Tự! Ngươi chạy chậm thôi!!! Ngựa của ông đây không bằng con hãn huyết Tây Vực đó của ngươi, nó chạy không nổi nữa rồi!”

Ta kìm dây cương giảm tốc độ, Thích Văn Lan cuối cùng cũng đuổi kịp, gương mặt anh tuấn toát đầy mồ hôi. Hắn vừa lau vừa thở phì phò, nói: “Tổ tông ơi, đi cùng với ngươi đúng là cực hình”

“Giang Nam vui lắm” ta cầm roi da chỉ hắn, “đợi tới đó rồi, huynh sẽ không nói thế nữa đâu”

Thích Văn Lan: “… ta tin ngươi mới lạ đó”

Đoàn người bọn ta vừa đi vừa nói cười tới Giang Nam. Khi đó Giang Nam mưa bụi mịt mù, cảnh sông nước vô cùng thanh nhã.

Thích Văn Lan, đứa trẻ đáng thương thường xuyên bị người nhà tống tới biên cương rèn giũa, lúc này đang ngẩn người ngắm nhìn. Có lẽ hắn không ngờ, cho dù là phồn hoa hay tao nhã, kinh thành đều không so được với Giang Nam.

Ta cải trang thành một vị công tử, lân la tới khắp các tửu lâu, thuyền hát cùng hắn.

Một ngày vào một tháng sau, ta dẫn hắn đi thuê thuyền hoa, định sẽ chèo thuyền trên sông. Nhưng lúc thuê, nghe nói chỉ còn lại một chiếc thuyền trống, hôm qua đã được một vị công tử đặt trước.

Ta có chút không vui, nói: “Trả giá gấp ba cũng không được sao?”:

“Vị công tử này…” ông chủ khó xử.

“Gấp năm”

Thích Văn Lan thấy ta như một đứa ngốc không ngừng tăng giá thì cạn lời bụm mặt lại, hắn lên tiếng: “Nếu không được thì mai lại đến thôi, cũng đâu có gấp. Mà ngươi mang đủ ngân lượng không đó?” hắn nhanh tay cản lại khi ta đang định nâng giá lên mười lần.

Chính vào lúc này, ta gặp Tuyên Giác lần thứ hai.

Chàng mặc bộ đồ trắng như tuyết, tay áo rộng rãi, lưng đeo một cây đàn gỗ, đưa một miếng mộc bài cho quản sự, chuẩn bị lên thuyền. Có lẽ nghe thấy giọng nói quen quen, chàng quay đầu lại nhìn, không dám chắc chắn: “… Văn Lan huynh?”

Thích Văn Lan: “?”

Thích Văn Lan: “Tuyên Ly Ngọc? Sao ngươi lại ở đây? Đợi đã, con thuyền này là ngươi thuê sao?”

Tuyên Giác ngập ngừng: “… là ta”

Thích Văn Lan thở phào nhẹ nhõm, kéo lấy vai ta nói: “Ôi Tạ vung tiền như rác ơi, đừng có ngẩn ra đó nữa. Chính chủ đây rồi, hỏi thẳng hắn xem có thể lên thuyền không là được”

Tuyên Giác lúc này mới chú ý tới kẻ đang giả trang thành đàn ông là ta, chàng hơi sững lại một chút, định hành lễ, nhưng như thể nghĩ ra ta không muốn lộ thân phận, nên chỉ cung kính gật đầu, nói: “Nhĩ Ngọc công tử, nếu hai vị muốn lên thuyền thì cứ lên thôi, Giác vô cùng vinh hạnh”

Vậy là hai bọn ta được lên thuyền miễn phí.

Thích Văn Lan hỏi Tuyên Giác sao lại tới Giang Nam.

Chàng ngồi sau bàn trà nhỏ, vừa gảy đàn vừa nói: “Gia phụ sai ta tới Giang Nam mua một vài cửa tiệm và đất đai”

“À, mở kho bạc nhỏ cho ngươi sao?” Thích Văn Lan gật gù, “để sau cưới thê tử hả?”

Con cháu thế gia khi đến một độ tuổi nhất định, trong nhà sẽ để họ tự mua sắm tài sản cho mình, đây được tính là tài sản cá nhân.

Vành tai Tuyên Giác hơi đỏ lên, còn sắc mặt vẫn bình thường, nói: “Để ta học cách quản lí thôi. Còn phải gửi một thư tới cho Tề thúc nữa”

“Gửi thư cho thứ sử Tô Châu sao?” Thích Văn Lan hiểu ra. Thứ sử Tô Châu qua lại thân thiết với Tuyên gia, hai nhà có mối quan hệ liên hôn cùng nhau.

“Ừ đúng vậy” Tuyên Giác gật đầu.

Ta ngồi một bên nghe hai người họ nói chuyện, nhưng sự chú ý lại đặt lên tiếng đàn bắt tai đang không ngừng vang lên của Tuyên Giác, ta hơi tò mò, sao chàng có thể cùng lúc làm hai chuyện như vậy nhỉ.

Vậy nên ta cất tiếng hỏi: “Ly Ngọc à, sao ngươi có thể vừa nói chuyện cùng Thích Văn Lan, vừa gảy đàn không sai nhịp như vậy?”

Ngón tay Tuyên Giác dừng lại, tiếng đàn cũng theo đó biến mất, chàng thản nhiên cười nói: “Đâu có, đây chẳng phải đã ngắt quãng rồi sao?”

Ta ngồi bắt chéo chân, khuỷu tay chống lên đầu gối, chống cằm nhìn chàng: “Bị ta quấy nhiễu thôi. Được rồi, không làm phiền hai ngươi nói chuyện nữa, ta đi ngủ trước, khi nào mặt trăng lên cao nhớ gọi ta dậy”

Chàng cười phá lên, không nói gì nữa, đổi sang một giai điệu thư thái nhẹ nhàng.

Ta vốn muốn tới ngắm trăng, hôm nay là mười sáu, trăng tròn vành vạnh, nếu không thì ta cũng chẳng nóng lòng muốn thuê thuyền tới vậy.

Sau khi ta đi ngủ, hai người họ cũng không nói tiếp nữa, chỉ còn nghe thấy tiếng đàn thánh thót vang lên, vừa trong trẻo lại êm dịu. Lúc tỉnh lại đã là nửa đêm, trên người ta được đắp một tấm chăn.

Trong thuyền hơi tối, trên bàn thắp một ngọn đèn lưu ly hình cánh hoa sen, rất đẹp.

Tiếng đàn đã biến mất, hai người kia không biết đã đi đâu, ta đang hoang mang thì nhìn thấy Tuyên Giác vén màn trong buồng ra, thấy ta đã tỉnh thì sững lại một chút, rồi cười nói: “Điện hạ tỉnh rồi, ta và Văn Lan đã chèo thuyền tới giữa sông, cũng đã làm ấm rượu, đang chuẩn bị tới gọi người”

Ta uể oải duỗi tay, cùng Tuyên Giác rời khỏi buồng, ra đến ngoài liền nhìn thấy màn đêm bao la, ánh sao lấp lánh, một vầng trăng tròn treo lơ lửng trên cao, trong mắt ngập tràn ánh sáng màu bạc, mặt nước xung quanh rộng vô biên.

Bên ngoài được bày sẵn một chiếc bàn gỗ nhỏ, một bình rượu, một ấm trà, vài đĩa điểm tâm, tao nhã vô cùng.

Ta dựa vào bàn gỗ nhỏ, cong eo xuống, chạm tay lên mặt nước, nói với Thích Văn Lan: “Được đó, đầu óc của huynh thông suốt rồi sao? Mới ở Giang Nam một tháng mà đã biết hưởng thụ rồi?”

Thích Văn Lan đảo mắt: “Là Ly Ngọc góp ý”

Ta vỡ lẽ vỗ lên vai hắn: “À, biết ngay không phải huynh mà”

Thích Văn Lan: “…”

Tuyên Giác đặt chiếc đèn lưu ly kia lên bàn, ba người bọn ta đã nói cười cả đêm trong cảnh nước non hùng vĩ dưới ánh trăng, cho tới khi trời trời sáng, thuyền từ từ cập bến, Tuyên Giác mới chỉnh đốn lại quần áo, nói lời cáo từ với bọn ta: “Hôm nay ta có hẹn tới thăm nhà Tề thúc, buổi trưa phải tới đó. Hai vị có thể tiếp tục chèo thuyền du ngoạn, thứ lỗi cho Giác phải đi trước”

Sau khi Tuyên Giác rời khỏi, ta mới sững sờ hỏi Thích Văn Lan: “Ơ? Hôm nay hắn có việc ư? Vậy sao vẫn ở cùng chúng ta cả đêm nhỉ?”

Thích Văn Lan ngáp một cái: “Hắn là như vậy đó. Cha là trung thừa ngự sử, khi dậy con đương nhiên sẽ yêu cầu cử chỉ lời nói của hắn phải chuẩn mực thôi”.

Ta vừa ngáp vừa càu nhàu: “Ông già Tuyên Đình đó, vừa nghe nhắc đến ông ta là ta thấy buồn ngủ rồi. Tuyên Giác thật đen đủi. Mau trở về khách đ**m nghỉ ngơi thôi, lạnh quá đi mất, hôm qua mặc không đủ ấm”.

Có lẽ vì ăn mặc phong phanh cộng thêm việc hóng gió sông cả một đêm, ngày hôm sau ta liền phát sốt. Mưa phùn rả rích, gió thu xào xạc, chứng phong hàn của ta trở nên nghiêm trọng.

Thích Văn Lan lòng như lửa đốt, đã tìm về mấy vị lang trung nhưng vẫn không trị khỏi được cho ta, cuối cùng đành tới tìm Tuyên Giác cùng nghĩ cách. Trong cơn mơ màng, có ai đó bắt mạch cho ta, vạt áo chàng phảng phất mũi gỗ đàn hương, chàng nói: “Gần đây có suối nước nóng, đưa điện hạ tới đó ngâm mình thôi, nhiễm phong hàn cần phải toát mồ hôi mới khỏi, có cung nữ không?”

“… bọn ta cưỡi ngựa tới đây, ai lại mang theo mấy cung nữ yểu điệu đó” Thích Văn Lan lí sự, “ngươi đợi ta đi tìm mấy nô tỳ về”.

Tuyên Giác: “…”

Hai người họ nhìn chằm chằm nhau, có lẽ cảm thấy trong đêm muộn ở một nơi xa như vậy tìm được nô tỳ đáng tin cậy là việc không thực tế, cuối cùng Tuyên Giác nói: “Vài ngày trước nghe được tin, tam hoàng tử điện hạ cũng ở Tô Châu, đợi ta đi xem hắn có mang theo cung nữ không”.

Cuối cùng, tìm được bốn cung nữ ở chỗ tam ca, hầu hạ ta ngâm suối nước nóng.

Sau khi ngâm xong, ta nằm nghỉ trong căn phòng nhỏ cạnh đó, toàn thân đổ mồ hôi.

Ngoài trời mưa vẫn đang rơi rả rích, mưa đêm ở Giang Nam, ánh nến bập bùng.

Hai người kia ngủ gà ngủ gật sau một đêm bận rộn. Nửa đêm ta tỉnh giấc, ngay lập tức nhìn thấy Tuyên Giác đang dựa bên cạnh, ánh lửa phủ lên người chàng một gam màu ấm áp, mờ ảo, đường nét trên mặt như ngọc tạc ra.

Còn Thích Văn Lan lúc này đang ôm kiếm dựa vào thành cửa nghỉ ngơi.

Ta im lặng hồi lâu, rồi lẳng lặng nói với hai người đã bận rộn cả đêm vì mình này: “Đa tạ”

Mưa phùn vẫn rơi liên miên, ánh đèn bập bùng. Trong cơn mưa đêm, ta lại chìm vào giấc ngủ, một đêm ngon giấc.

___________
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 3


10

Giấc mộng thời niên thiếu này khiến đầu óc ta mụ mị, không rõ hiện tại là ngày tháng năm nào.

Đến khi Lan Linh bưng chậu nước tới hầu hạ ta rửa mặt, ta mới hồi thần, hỏi: “Bây giờ là lúc nào rồi?”

“Hồi nương nương, đã tới giờ tỵ rồi” nàng ta nói.

“Không, ta muốn hỏi, Thái Nguyên năm thứ năm cách hiện tại đã bao lâu?”

“… Thái Nguyên năm thứ năm ạ?” nàng ta hoang mang lặp lại, rồi mới nói, “đã tám năm rồi”.

“Tám năm trước ư” ta lắc lắc đầu, nhìn hoa sen cuối hè héo úa bên ngoài cửa sổ, “ngày tháng trôi thật nhanh. Theo quy tắc, hôm nay phải tới cung hoàng hậu thỉnh an sao?”

“… đúng vậy, thưa nương nương”

Ta uể oải nói: “Cứ nói ta không khỏe, miễn một hôm”.

“Vâng”

Ta không muốn gặp rắc rối, nhưng không có nghĩa rắc rối không tìm tới ta.

Còn chưa dùng xong bữa sáng, đã thấy có cung nữ hằm hằm bước vào, trịnh trượng cất tiếng: “Ngọc quý phi nương nương thật phách lối, lần đầu tiên tới thỉnh an hoàng hậu cũng không đi. Sau này người định ngồi lên đầu hoàng hậu nương nương ư?”

Mặt ta không chút biểu cảm, nghe xong mới từ từ cất tiếng: “Mới ngồi lên đầu đã là gì, ta còn đạp nàng ta vài cái nữa kìa”.

“Người!” cung nữ bị ta chặn họng, tức giận thốt lên.

Ta nói với Lan Linh: “Trước đó ta đã nói thế nào? Chặn hết những kẻ ngu ngốc ngoài cửa. Ta không muốn gặp”.

Lan Linh toát đầy mồ hôi, nói: “Vâng vâng vâng, là nô tỳ không canh giữ cẩn thận, nương nương bớt giận”.

Cung nữ của Trần Mặc bị tống ra ngoài, ta cảm thấy bực bội không thôi.

Áp lực từ sự biến động mấy tháng nay, cộng thêm giấc mộng đêm qua và lời khiêu khích ngu ngốc vừa rồi, tất cả khiến ta muốn bùng nổ.

Mùi của thức ăn trên bàn khiến ta thấy buồn nôn, ta gạt tay, tất cả bát đĩa rơi hết xuống đất.

Cung nữ, thái giám xung quanh hoảng sợ, quỳ hết xuống, khi thấy ta không ngừng nôn mửa thì sợ hãi hét lên: “Nương nương!”

Thái y mau chóng có mặt.

Theo sau, còn có người bị kinh động là Tuyên Giác.

Ngón tay Tuyên Giác chạm lên cổ tay ta, rồi cau mày, trong mắt thoáng hiện lên sự kinh ngạc. Y thuật của chàng rất giỏi, theo lí mà nói cho dù ta có rụt tay về chàng vẫn có thể chẩn đoán ra được, không ngờ chàng lại tránh sang một bên, nói với thái y: “Ngươi bắt mạch cho Nhĩ Ngọc đi”.

Thái y run rẩy chạm lên cổ tay ta, sau một hồi lâu, khi đã chắc chắn, hắn mới quỳ sụp xuống đất, nói: “Chúc mừng bệ hạ, chúc mừng nương nương. Nương nương có thai rồi”.

Cả căn phòng tĩnh lặng như tờ.

Thái y run sợ, có lẽ cũng biết thế cục rối tinh rối mù giữa ta và Tuyên Giác, quả thực không thích hợp để sinh đứa bé này.

Ta từng vô cùng mong có con.

Nhất là sau đêm chịu lạnh cùng Tuyên Giác dưới tuyết đó, ta rất khó có con. Nhưng hiện tại…

Thôi vậy.

Tuyên Giác cũng mím môi, im lặng hồi lâu, sau đó mới cất tiếng: “Thái y và tất cả mọi người lui xuống hết đi”.

Đến khi trong phòng không còn ai, chàng mới nói: “Có giữ không?”

Ta rất muốn nói “chàng cho rằng có thể ư”, nhưng rốt cuộc vẫn nhịn lại.

Đứa bé này không thể giữ.

Nhưng… nó có ích.

Tuyên Giác đợi mãi không thấy ta trả lời, mới nói: “… nếu muốn bỏ thì nên bỏ sớm. Trì hoãn lâu sẽ không tốt cho bất kì ai”. Nói rồi, chàng lặng lẽ rời khỏi, bước chân vẫn luôn vững chãi nay có chút loạng choạng.

Ta bụm mặt, hít sâu một hơi, sau đó mới cất tiếng gọi: “Lan Linh, ngươi vào đây”.

Đợi Lan Linh tiến vào, ta nở nụ cười rạng rỡ, nói: “Trần tiểu thư vẫn chưa biết tin ta có thai đúng không? Ngươi đi cho báo nàng ta một tiếng, nhân thể xin miễn thỉnh an giúp ta, mười tháng tới e rằng ta không đi nổi rồi”.

11

Trần Mặc đương nhiên không vui.

Mấy lần chạm mặt, nàng ta ngay cả miễn cưỡng chào hỏi ta cũng không muốn, mặt mày lạnh tanh đi lướt qua. Ta cũng vậy, không hề muốn nói chuyện với nàng ta.

Nàng ta sợ ta.

Chính xác mà nói, nàng ta sợ đứa bé trong bụng ta xảy ra chuyện, ta sẽ vu oan giá họa cho nàng ta.

Nàng ta không ngu dốt, nhưng cũng chẳng thông minh.

Ta là người lớn lên trong cung cấm, có vô số cách giết người thầm lặng, xử lí mấy tiểu nha đầu như nàng ta. Nàng ta đâu có xứng để ta lấy mạng con mình ra đổi.

Ta có được một khoảng thời gian thanh bình.

Đến trung thu, đứa bé trong bụng ta đã được khoảng bốn tháng, là thời kì thai không ổn định.

Ta được nâng niu như ngọc, của ngon vật lạ, vải vóc lụa là chất thành đống, không khác gì xưa kia. Nếu đổi lại là phi tử khác, có lẽ sẽ cảm động rơi nước mắt, muốn khoe khoang với toàn thiên hạ.

Nhưng ta thì không.

Ta sai Lan Linh nói với bên ngoài rằng ta không đắc sủng, phải sống ẩn dật trong cung Ngọc Cẩm. Dẫu sao Tuyên Ngọc cũng đang tránh mặt ta, gần hai tháng nay không tới, cũng không biết chàng đang trốn tránh điều gì.

Còn Trần Mặc, nàng ta cũng có ý đồ riêng, không muốn nhiều người biết việc ta có thai. Vậy nên tin tức này chỉ được lưu truyền trong cung, không lộ ra bên ngoài.

Có thai không ai biết, nhưng không đắc sủng thì toàn thiên hạ đều hay.

Nếu ta tham dự bữa tiệc mừng trung thu, liệu có tên quan lại ngu ngốc nào, tới gây chuyện với ta không nhỉ?

Đáp án là có.

Con trai nhỏ của Vạn gia, Vạn Khai Tuấn.

Cùng là sinh sau đẻ muộn, sao Thích Văn Lan lại chẳng được chiều chuộng, thường xuyên bị tống tới bắc cương hứng gió cát nhỉ?

Có lẽ đây là sự khác biệt giữa cách nuôi dạy con của quan văn và quan võ.

Cha của Vạn Khai Tuấn, Vạn Thủ Thành, là nội các đại học sĩ, nửa triều gọi ông ta là thầy, có học trò ở khắp nơi, danh tiếng khá tốt.

Nhưng lại không dạy được đứa con trai phải tới tận năm sáu mươi tuổi mới sinh được này.

Tên Vạn Khai Tuấn này có tài, tới ca lâu tìm niềm vui còn có thể sáng tác mấy ca khúc tục tĩu, chúng thậm chí còn được lưu truyền rộng rãi bên ngoài, hắn trước nay nổi danh “thương hoa tiếc ngọc”. Hắn quả thực là con cháu của nhà quyền quý, không có sức kháng cự trước mỹ nhân.

Khi ta viện cớ say rượu, ngồi một mình bên hồ Lãm Nguyệt, thấy Vạn Khai Tuấn dẫn theo người hầu hứng chí đi tới bên hồ, chuẩn bị bẻ một cành hoa mộc tê, sau đó hắn nhìn thấy ta.

Ngay cả khi Lan Linh quát lên: “To gan, đây là Ngọc quý phi!”, hắn cũng chẳng hề để tâm, cất tiếng cười cợt: “À, ta biết rồi, là công chúa thất sủng thảm hại kia đó sao. Người ăn vận lộng lẫy làm gì, cũng đâu có ai ngắm, chắc hẳn nương nương thấy cô đơn, tủi thân lắm nhỉ?”

Ta chống cằm, tựa lưng vào ghế trong đình, dưới ánh nến u ám, thầm mắng vài tiếng trong bụng.

Thứ gan to bằng trời này.

Có điều hắn đương nhiên không nghe thấy, còn muốn tới chèn ép ta, trong lúc giằng co, mùi rượu nồng nặc trên người hắn khiến cho ta không thở nổi.

Buồn nôn quá, ta nghĩ.

Vậy nên ta cứ thế nhảy xuống hồ để gột sạch hết mùi. Trong cơn hỗn loạn, ta nghe thấy tiếng hét của Lan Linh: “Cứu với, người đâu mau tới đây! Nương nương rơi xuống hồ rồi!!!”

Hồ Lãm Nguyệt được bao quanh bởi bụi cây, rất yên tĩnh, cách yến tiệc không xa.

Ta lờ mờ nghe thấy tiếng bước chân vội vã, tiếng la hét của cung nhân và các tiểu thư thế gia, có người nhảy xuống nước, bơi về phía ta.

Là Tuyên Giác.

Dù ở trong nước nhưng vẫn có thể ngửi thấy mùi đàn hương trên người chàng, chàng truyền không khí cho ta, kéo ta lên khỏi mặt nước, không ngừng cất tiếng gọi bên tai ta: “Trùng Trùng? Trùng Trùng? Tỉnh lại đi, không được ngủ…”

Trước khi rơi vào hôn mê, trong đầu ta chỉ có một ý nghĩ duy nhất.

Đã rất lâu, rất lâu rồi không được nghe thấy Tuyên Giác gọi ta hai tiếng “Trùng Trùng” này.

12

Tên ta là Tạ Trùng Tự.

Trước khi được ban phong hào, phụ hoàng và các hoàng huynh đều gọi ta là “Trùng Trùng”.

Nhưng trẻ con thường thích đặt biệt danh cho người khác, có đứa trẻ cùng học trong học đường gọi ta là “côn trùng có lông”.

Ta òa khóc chạy tới tìm phụ hoàng mách tội, người cau mày rồi nói: “Vậy thì đặt cho con một phong hào nhé, về sau lấy đó để gọi con. Xem ai còn dám chêu chọc tiểu điện hạ nhà ta nữa”.

Vậy nên người đã đặt cho ta phòng hào “Nhĩ Ngọc” tôn quý vô cùng này.

Nhưng phụ hoàng tuy đã ban phòng hào cho ta nhưng bản thân người lại không thích gọi, vẫn tối ngày gọi ta là “Trùng Trùng”. Cả vị hoàng huynh thái tử cùng mẹ sinh ra của ta cũng vậy.

Chỉ có các hoàng huynh thứ xuất và các thân tín không quá thân thuộc mới dần gọi ta là “Nhĩ Ngọc”. Điều này như thể kéo dài khoảng cách giữa quân thần, đích thứ.

Lâu ngày, không còn ai dám gọi tên ngày nhỏ của ta nữa, chỉ có hoàng đế và thái tử mới có tư cách này.

Lúc ta tỉnh lại, các thái y đang quỳ trên mặt đất. Bọn họ lo lắng bất an, thấy ta tỉnh lại, vui mừng nói: “Nương nương tỉnh rồi! cuối cùng cũng tỉnh rồi! Mau đi báo cho bệ hạ!”

Lan Linh đang lo lắng canh chừng một bên cũng bất giác thở phào nhẹ nhõm: “… quá tốt rồi”.

Như thể nghĩ tới điều gì, nàng ta chần chừ nói: “Nương nương… cái đó…”.

Ta ho lên một tiếng: “Sao?”

“… tiểu điện hạ, không còn nữa”

Nằm trong dự liệu.

“Thứ ngu dốt của Vạn gia đó thì sao?”

“… ở thiên lao ạ”

Ta từ từ nhắm mắt lại.

Lão già của Vạn gia đó quá tự phụ, tự phụ đến mức ngông cuồng dùng miệng lưỡi của văn nhân, hạ nhục thanh danh hoàng thất.

Hắn cũng đã phần nào thành công.

Trong học viện, học trò của hắn luôn bới móc, cố tìm ra lỗi sai của hoàng huynh để chỉ trích, bôi nhọ.

Từ lâu ta đã nói với hoàng huynh, phải xử lí kẻ luôn cậy già lên mặt đó, nhưng hoàng huynh chỉ cảm thán: “Khó lắm, hơn nữa những điều mà bọn họ phê bình không hẳn không đúng. Ngày trước, ta trẻ tuổi ngông cuồng, làm việc quá tàn nhẫn, để họ nhắc nhở, cảnh tỉnh ta vậy cũng tốt”.

Lão già đó cứ thế giữ được mạng.

Còn Tuyên giác, chàng là môn sinh mà hắn tâm đắc nhất, khi Tuyên gia rơi đài, hắn ta vẫn luôn tìm cách cứu người học trò này. Dù ngày đó quan điểm chính trị của Tuyên Giác và hắn khác nhau.

Ta đặt vấn đề nan giải này lên người Tuyên Giác, muốn xem xem chàng sẽ xử trí thế nào.

Nghe nói Vạn Khai Tuấn bị nhốt vào thiên lao, ta biết…

Tuyên Giác chuẩn bị ra tay với Vạn gia.

Tuyên Giác vội vã đi tới, có lẽ chàng vừa hạ triều, triều phục còn chưa thay, bộ long bào màu đen khiến phong thái chàng trì trệ đi nhiều, trên mặt hiếm khi xuất hiện nét u ám, nhưng mau chóng tiêu tan.

Chàng vẫn nở nụ cười ấm áp, nhẹ nhàng nói: “Nhĩ Ngọc, đứa bé không đáng bị kéo vào chuyện này”.

“Đứa bé không phải đã mất rồi sao?” ta nhún vai.

Chàng im lặng hồi lâu, rồi mới cất tiếng: “Như nàng mong muốn”.

Cũng không biết chàng đang nói về đứa bé hay nói về việc xử lí Vạn gia.

Tuyên Giác vẫn có việc cần xử lí, vội vã rời đi, lúc chàng đi qua hành lang, ta mới thở dài cảm thán.

“Ta từng giương cung tên, khuất phục ngựa dữ, coi thường thủ đoạn xấu xa, lét lút, cũng khinh thường những phi tử chỉ vì tranh giành thánh sủng và lợi ích mà mất đi nhân tính. Nhưng rốt cuộc ta lại trở thành người như vậy” ta cười nói với Tuyên Giác, cười đến rơi lệ, “Ly Ngọc à Ly Ngọc, coi như ta đã hiểu cảm giác năm đó của chàng”.

Bước chân của Tuyên Giác dừng lại, quay đầu nhìn ta. Sườn mặt chàng bị ánh nắng chiếu lên mờ ảo, hàng mi dài rậm khẽ run lên, như thể muốn nói gì đó.

Nhưng cuối cùng chàng không mở miệng.

Ngày hôm sau, ta tới thiên lao “thăm” Vạn Khai Tuấn.

Sắc mặt hắn phờ phạc, nhìn ta bằng ánh mắt hận thù.

“Để ngươi chết mà không hối tiếc nhé” ta thương xót nhìn xuống hắn, “là cô nương trong Xuân Oanh Đề Hiểu muốn ngươi đi ngắt hoa quế trong cung đúng không?”

Hắn trừng to hai mắt, bỗng chốc tỉnh ngộ, hàm răng nghiến chặt lại, giọng nói rít lên: “… trong cung… chỉ bên hồ Lãm Nguyệt mới có hoa mộc tê. Ngươi… nữ nhân ác độc nhà ngươi”.

Ta thở dài một hơi, nói: “Không thể nói vậy được đâu, tiểu công tử. Không ác độc thì đâu phải trượng phu. Hơn nữa việc mà cha ngươi từng làm cũng chẳng sạch sẽ hơn ta là mấy”.

Vạn Khai Tuấn tức giận nhìn ta chằm chặp, thấy ta vẫn bình thản như cũ, vẻ mặt hắn trở nên sợ hãi. Sau đó như thể nhớ ra thân phận và những chuyện ta làm ngày trước, ngã vật ra đất, gào khóc nói: “Điện hạ! Công chúa Nhĩ Ngọc! Xin tha cho thần, tha cho thần một mạng, là thần ngu dốt kiếm chuyện với người, là lỗi của thần, xin điện hạ tha mạng!”

Ta nhìn hắn một lúc, đến khi hắn dần trở nên tuyệt vọng, bỗng hỏi một câu không liên quan: “Rượu ở Xuân Oanh Đề Hiểu, vẫn ngon như vậy sao?”

“…” Vạn Khai Tuấn hoảng hốt không hiểu gì.

Ta nhấc chân rời khỏi đó, miệng lẩm nhẩm: “Vậy chắc hẳn xuân nhưỡng thu thuần vẫn là cách ủ rượu tốt nhất”.

___________

Ngoài lề một chút, Tạ Trùng Tự, phong hào Nhĩ Ngọc, tên ngày nhỏ Trùng Trùng. Tuyên Giác, tự Ly Ngọc. vậy nên mới có những cách gọi tên nhân vật khác nhau nhé.
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 4


13

Xuân Oanh Đề Hiểu là tửu lâu lớn nhất kinh thành. Các cô nương ở đó đều có giọng hát rất uyển chuyển, không kém miền sông nước Giang Nam chút nào.

Ta vô cùng thích nơi này, trước đây thường tới ăn uống thưởng rượu, ngắm nhìn những cô nương xinh đẹp.

Sau khi trở về kinh thành được vài ngày, Thích Văn Lan ủ rũ tới tìm ta. Ta hỏi hắn làm sao, hắn tức tối nói: “Mẹ kiếp đều tại ngươi! Ta bị cha đánh một trận, ông ấy nói có việc nhỏ như vậy cũng không làm được, để Nhĩ Ngọc điện hạ đổ bệnh!”

Ta “à” lên một tiếng, xấu xa nói: “Huynh thảm thật đó. Cha ta thì ban cho rất nhiều vải vóc, để ta may quần áo dày mặc, phòng ngừa đến thu đông lại cảm lạnh”.

Thích Văn Lan: “…”

Huynh ấy suýt chút nữa thì đánh nhau với ta.

Để đề phòng Thích Văn Lan làm thật, ta đưa huynh ấy tới Xuân Oanh Đề Hiểu, sau đó vỗ lên vai huynh ấy, cảm thông nói: “Bồi thường cho huynh đó. Thấy sao? không kém Giang Nam đúng không?”

“Ai chà, ở đây, còn thanh nhã hơn pháo hoa Giang Nam nhiều nhỉ?”. Có cô nương mỉm cười ôm đàn tì bà trong lòng, gảy một khúc ca thánh thót.

Thích Văn Lan và ta ngồi dựa vào lan can, hắn tuy là thiếu gia sinh ra và lớn lên ở kinh thành, nhưng lại trải qua cuộc sống rất khổ cực, không ngừng gật đầu nói: “Ừ ừ ừ, đúng đúng đúng”. Nhìn hắn giống đứa con trai ngốc nghếch nhà địa chủ biết bao.

Hắn thấy ta không để ý đến mình mà thất thần nhìn xuống con đường Chu Tước bên dưới, liền hỏi: “Sao vậy?”

Đầu ngón tay ta gõ lên lan can theo giai điệu bài hát.

Ta nhìn thấy Tuyên Giác.

Hôm nay chàng không mặc áo trắng, mà mặc một bộ đồ màu xanh của sĩ tử, sợi dây màu đen buộc tóc bay phất phơ trong gió, dáng người thẳng tắp, trong ngực ôm ba bốn cuộn tranh, không biết đang định đi đâu. Nhưng bước chân thong dong nhàn nhã, có vẻ như tâm tình đang vui vẻ.

Thấy ta không nói gì, Thích Văn Lan cũng nhìn theo ánh mắt ta, nói: “Ly Ngọc ấy à. Hắn về kinh trước chúng ta, những ngày này đang tất bật chuẩn bị cho kì thi vào mùa xuân năm tới. Trong tay hắn đang cầm gì kia, sách à?”

Ta trả lời: “Tranh”.

“Hả?” Thích Văn Lan hào hứng, “mau mau gọi hắn lên đây. Tên tiểu tử này vẽ rất đẹp, nếu nhờ được hắn vẽ cho thì đừng khách khí.”

Ta: “…”

Ta bỗng lên tiếng: “Văn Lan huynh này, huynh nói xem, nếu ta để Tuyên Giác làm phò mã của ta, chàng ấy liệu có đồng ý không nhỉ?”

“?” Thích Văn Lan bối rối nói, “hả?”

“Ta theo đuổi chàng, liệu có được không?” ta lắc lư đầu, “ôi mặc kệ vậy!”

Nói rồi, ta bẻ cây mẫu đơn quý giá trong lầu các, sau đó xém xuống bên dưới.

Bông mẫu đơn với những cánh hoa trắng như tuyết không nghiêng lệch, rơi trúng lên những cuộn tranh trong ngực Tuyên Giác.

Chàng ngạc nhiên ngước mắt lên nhìn.

Ta nở một nụ cười sáng lạn, một tay chống cằm, một tay vẫy vẫy, cất tiếng: “Muốn lên ngồi chút không?”

Chàng sững người lại, vân vê bông mẫu đơn, rồi gật đầu đồng ý, sải bước về hướng bọn ta.

Thích Văn Lan ở bên kia kinh ngạc, lắp bắp nói: “… ngươi, ngươi làm thật…?”

Ta thản nhiên: “Ừ”.

Thấy Tuyên Giác lên lầu, Thích Văn Lan hít vài hơi thật sâu mới bình tĩnh trở lại, sau đó quả quyết nói: “Tuyên Giác tính tình quân tử, không hợp với gia đình hoàng gia như ngươi. Hơn nữa, hắn không thích kiểu như ngươi đâu, thật đó. Ta lấy tình bạn mười năm với hắn ra đảm bảo”.

“…” ta lo âu, “vậy huynh nói xem ai hợp đây?”

Thích Văn Lan vỗ ngực: “Ta”.

Ta: “…”

Ta: “Huynh biến đi, huynh đúng là kẻ chuyên cản đường người khác”.

Thích Văn Lan giữ chặt lấy ta, nói: “Ngươi đừng chêu chọc hắn, thật đó. Nhĩ Ngọc, có phải ngươi nhất thời hứng thú, muốn chơi đùa không?”

“Không” ta chưa từng nghĩ như vậy, cau mày, “huynh thấy ta từng chêu đùa ai sao?”

Thích Văn Lan bị câu hỏi của ta làm cho sững người, một lúc sau mới lẩm nhẩm: “Ôi mẹ ơi…”.

Tới khi Tuyên Giác tới nơi, Thích Văn Lan đã ổn định cảm xúc, khoác vai chàng vô cùng thân thiết: “Uống rượu không, rượu ở đây khó kiếm lắm đó”.

Tuyên Giác nở nụ cười bất đắc dĩ: “Không uống” nói rồi để các cuộn tranh gọn một chỗ trên bàn.

Nhưng Thích Văn Lan cứ mời mãi, Tuyên Giác đành uống vài ly, rồi như thể tình cờ nói: “Điện hạ và Văn Lan thường tới đây sao?”

“À không” ta chống cằm, “thấy tên này bị cha đánh thảm quá nên khao hắn một bữa thôi”.

Thích Văn Lan: “…”

Hắn giơ tay đầu hàng, sợ ta sẽ lại bóc mẽ mình tiếp, đánh trống lảng sang chuyện khác: “Ly Ngọc, mau tới đây, không phải ngươi vẽ đẹp lắm sao, nể mặt vẽ tặng ta một bức đi”.

Tuyên Giác: “Được” quan hệ của chàng và Thích Văn Lan hiển nhiên rất thân thiết, trải một cuộn tranh mới ra, hỏi hắn muốn vẽ gì.

Thích Văn Lan: “Tùy ngươi”.

Có lẽ cảm thấy Thích Văn Lan không đáng tin cậy, ánh mắt của chàng chuyển sang ta.

“Vẽ hoa đi” nãy giờ ta vẫn luôn lặng lẽ ngắm nhìn sườn mặt Tuyên Giác, buột miệng thốt ra. Sau đó tự cảm thấy lời của mình cũng không uy tín.

Ánh mắt của cả ba không hẹn mà cùng nhìn vào cây mẫu đơn đã bị ta phá hoại kia.

Cả ba: “…”

Ta ho một cái: “Nếu không thì vẽ đại cái gì cũng được”.

Tuyên Giác cười thành tiếng, dịu dàng nói: “Vậy thôi vẽ hoa mẫu đơn đi”.

Tuyên Giác hạ bút như rồng bay phượng múa, tỉ mỉ vẽ từng nét, bông hoa tinh tế cùng những chiếc lá xanh mướt trên trang giấy trắng sống động như thật.

Thích Văn Lan sốt ruột chờ đợi, nghe các cô nương đàn hát đến mức sắp ngủ gật tới nơi, vậy nên hắn tới xem những cuộn tranh đã được Tuyên Giác vẽ kia.

“…đừng động vào” Tuyên Giác không kịp cản, Thích Văn Lan gạt một cái, cuộn tranh liền lăn xuống mở ra.

Từ góc độ của ta chỉ nhìn thấy một màu nâu đỏ, không rõ trên tranh vẽ gì, liền hỏi: “Vẽ gì vậy?”

Sắc mặt Thích Văn Lan hiện lên biểu cảm kinh ngạc cùng nghi ngờ, hết nhìn Tuyên Giác lại nhìn ta, môi hé ra rồi lại khép vào, nuốt lời muốn nói vào trong, một lát sau mới cất tiếng: “Không có gì”.

Tuyên Giác cũng không trả lời câu hỏi của ta, chỉ nói: “Cảm phiền Văn Lan huynh cuộn tranh lại giúp ta”.

Thích Văn Lan mặt mày ủ rũ, cúi người xuống, cuộn bức tranh lại, tới khi vẽ xong bức tranh mẫu đơn kia, Tuyên Giác không nói thêm câu gì đã vội cáo từ rời khỏi.

Ta vô cùng thắc mắc, hỏi: “Bức tranh đó rốt cuộc vẽ gì mà chàng ấy căng thẳng tới vậy?”

Thích Văn Lan liếc ta một cái, lạnh nhạt nói: “Một con chó”.

Ta: “…”

Ta đương nhiên biết bức tranh mà Tuyên Giác ôm như báu vật đó không thể vẽ một con chó được.

Nhưng Tuyên Giác không muốn người khác xem, ta cũng không thể cứ gặng hỏi mãi. Chỉ đành nhận lấy bức tranh mẫu đơn kia, sau đó phất tay, tỏ ý Thích Văn Lan muốn đi đâu thì đi đi.

Ngày đó, bầu trời quang đãng, gió thổi mát dịu, mây bay chập chờn, mọi thứ đều rất đáng yêu.

Còn mây đen thì ở tít đằng xa.

14

Vạn gia nhanh chóng rơi đài, chuyện rất rầm rộ, chẳng mấy chốc sụp đổ chỉ còn lại đống tro tàn.

Miệng lưỡi văn nhân là con dao giết người không thấy máu, Vạn các lão có thể dùng thì ta đương nhiên cũng dùng được.

Chỉ cần có cái miệng mềm dẻo là có thể đổi trắng thay đen. Huống hồ, trong trận đấu này, Vạn Khai Tuấn đâu có giành được ưu thế.

Một đứa con, danh tiết của nữ tử cùng thân phận công chúa vong quốc, dân chúng sẽ thương hại ai, căm hận ai đây?

Thậm chí còn có người kháng nghị, nói Tuyên Giác không xứng với ngai vị hoàng đế này.

Trò hề này kéo dài suốt những tháng cuối năm.

Nhưng Tuyên Giác chẳng hề lo lắng, chàng xử lí mọi chuyện đâu vào đấy, ban hành chính sách, tuyển chọn quan lại, việc nào cũng làm vô cùng tốt. Lâu dần, phong ba trong triều cũng qua đi.

Khi sắp tới tháng chạp, Trần Mặc có tới gây chuyện với ta một lần, nàng ta nghiến răng nghiến lợi nói: “Ngươi đã cho bệ hạ uống mê dược gì mà chàng…”

Nàng ta khó khăn mở miệng: “Chàng không nghỉ lại cung của ta một đêm nào!”

Ta ngồi trên giường, khoan thai mở mắt, sau đó mới nói: “Lan Linh, mang gương ra đây, để Trần tiểu thư soi”.

Trần Mặc sững sờ, đập chiếc gương đồng Lan Linh đem tới xuống đất, giận dữ nói: “Ngươi muốn làm gì?”

Ta nhắm mắt lại nói: “Để ngươi tự soi bản mặt xấu xí của mình”.

“Ngươi…” Trần Mặc tức giận hét lên.

Ta chỉ nói: “Trong bữa tiệc đón năm mới ngày trước, Trần tiểu thư gảy một khúc phượng cầu hoàng hay biết bao nhiêu. Phụ hoàng chỉ vào ngươi rồi giáo huấn ta “nhìn người ta kia kìa”. Không có được thì nên từ bỏ. Ngươi cái gì cũng tốt, vì một người mà vứt hết mặt mũi. Đâu có đáng?”

Trần Mặc run lên, rồi nói: “Ngươi thì biết gì, ngươi… thì biết gì?”

“Tự thu xếp ổn thỏa cho mình đi” ta không mở mắt, hưởng thụ ánh nắng đang chiếu trên mặt mình, “Lan Linh, tiễn khách”.

Trần Mặc ngây ngẩn rời khỏi. Về sau sống ẩn dật trong điện, không tới tìm ta gây chuyện nữa.

Ngày tết đã cận kề.

Ta vừa lo Thích Văn Lan hồi kinh, vừa lo hắn sẽ không về, khi nghe được tin Trấn quan đại tướng quân ít hôm nữa sẽ trở lại, lòng ta vẫn như lửa đốt. Nhất là khi hắn đã vào cung báo cáo, ta chỉ cầu nguyện tên ngốc đó chuẩn bị trước đường lui cho mình.

Nếu không, nhỡ Tuyên Giác nhốt hắn lại, quy chụp tội danh tạo phản cho mười vạn quân sĩ Tây Bắc thì không ai cứu nổi hắn.

Ta lo lắng không yên, quyết định đẩy cửa ra ngoài, muốn tới điện Thái Cực xem xét tình hình.

Lan Linh cản ta lại, sỡ hãi quỳ xuống đất: “Xin nương nương dừng bước! Bệ hạ nói, những ngày này nương nương phải ở trong cung, không được ra ngoài”. Nàng ta liên tục dập đầu xuống đất, “xin nương nương thương xót nô tỳ! Nếu không bệ hạ trách tội xuống…”

“Lan Linh, ngươi lấy mạng mình ra uy h**p ta?” ta bật cười, “ngươi đâu phải thân tín của ta, lấy đâu ra tự tin đến vậy?”

Nàng ta là nô tỳ Tuyên Giác chọn cho ta.

Nàng ta nhìn ta bằng mắt thê lương, ta vung tay áo trở vào điện: “Thôi, tất cả các ngươi đừng ai tới quấy rầy ta”.

Không ai dám tới chuốc lấy xui xẻo.

Ta cởi bỏ quần áo rườm rà trên người, đổi sang một bộ đồ gọn gàng, đơn giản, mở cửa sổ nhảy xuống đất, sau đó trèo qua tường, tới điện Thái Cực. Ta lớn lên trong cung nên vô cùng quen thuộc với nơi này.

Tránh khỏi tầm mắt thị vệ, thấp thoáng nghe thấy tiếng cãi cọ trong điện Thái Cực truyền ra, Thích Văn Lan giận dữ gào lên: “Tuyên Ly Ngọc, ngươi điên rồi! Ngươi đã làm những chuyện tuyệt tình như vậy, ngươi bảo Nhĩ Ngọc phải làm sao? Hả?”

Khi đầu óc đang rối loạn, nghe thấy tiếng Thích Văn Lan ném vật gì đó vào Tuyên Giác, âm thanh sợ hãi của các cung nhân vang lên.

Tuyên Giác hít sâu một hơi, rồi lạnh lùng nói: “Vậy ngươi nói ta phải làm sao? Đã bao đêm ta choàng tỉnh giấc, chỉ cần nhắm mắt liền nhìn thấy thảm kịch ngày đó. Ngươi nói ta nghe, ta nên làm thế nào?”

Thích Văn Lan không nói được gì, rất lâu sau mới lên tiếng: “Buông tha bản thân… để ta mang Nhĩ Ngọc đi đi”.

Tuyên Giác lạnh lùng cất tiếng: “Thích Văn Lan, ngươi thật sự cho rằng ta không dám giết ngươi ư?”

“Vậy thì giết đi!” Thích Văn Lan tức giận đến mức bật cười, trào phúng nói, “ngươi sớm đã có ý này đúng không? Ngươi đố kị với ta”.

“Đúng” Tuyên Giác chậm rãi nói, “nhất là khoảng thời gian đó, ngươi luôn nhắc tới những chuyện khi nàng ấy còn nhỏ, ta đố kị muốn điên lên”.

Các cung nhân không một ai dám mở miệng khuyên nhủ, cũng không dám phát ra bất cứ âm thanh nào, sau khi nghe được những bí mật này, tất cả đều run lên bần bật, không biết mình có giữ nổi mạng hay không.

Hai người họ thở hổn hển như những con thú sắp sửa lao vào cắn xé nhau.

Hồi lâu sau, Tuyên Giác mới nói: “Cút về bắc cương đi. Ngươi cho rằng ngươi để lại phó tướng chờ lệnh, lấy biên quan ra uy h**p là ta sẽ không dám động tới ngươi? Bốn mươi vạn đại quân Điền Dương đang ở sa mạc Tân Cương, cách bắc cương chỉ hai ngày đường, muốn thử không?”

Thích Văn Lan đoán chừng đã đạp vào bàn một cái, tiếng giá bút rơi vỡ vang lên, hắn đi về phía cửa, để lại một câu: “Tuyên Giác, mẹ kiếp đừng có quên năm đó vì sao ông đây phải tới canh giữ biên cương!!!”

Ta đứng rất lâu dưới cây hòe già bên ngoài điện Thái Cực. Thời gian vài chục năm như bóng cây đang lắc lư, đong đưa qua lại, chia cắt thành những mảnh vụn lốm đốm. Không thể nào bắt lấy.

Đúng vậy…

Năm đó vì sao Thích Văn Lan phải tới canh giữ biên cương?

Bởi vì hắn cướp ngục. Phụ hoàng vô cùng giận dữ.

Thích lão tướng quân sửng sốt, đánh hắn hơn một trăm roi, rồi tống tới biên cương chuộc lỗi. Ông ấy còn nói, biên cương một ngày chưa ổn định, khuyển tử sẽ không trở về, xin bệ hạ tha tội.

Mà Thích Văn Lan vì sao lại cướp ngục?

Là vì Tuyên Giác.

Còn Tuyên Giác…

15

Còn Tuyên Giác phải vào ngục, là vì hoàng huynh ta.

Tin tức Tuyên gia bị tra xét bất ngờ ập tới.

Đó là một đêm đầu đông, ta đang chuẩn bị áo váy cho hội Thanh Đàm ngày mai, không biết nên mặc gì để khiến Tuyên Giác lóa mắt. Ta cũng nghĩ tới cả việc, trước nay mình chưa từng tham gia hội Thanh Đàm, không biết có nên chuẩn bị sẵn vài bài thơ để ứng phó không.

Đúng vào lúc này thì ta nhận được tin tức, trước đó ta cho thuộc hạ để mắt tới Tuyên gia.

Ta sững sờ, bàn tay đang chọn trâm cũng theo đó dừng lại, việc đầu tiên ta làm là đi tìm hoàng huynh. Huynh ấy đã lên triều chấp chính, hiểu rõ những chuyện này hơn ta.

Ta đá tung cửa, cất tiếng hỏi: “Hoàng huynh, Tuyên gia bị làm sao vậy?”

Huynh ấy đang mật đàm cùng vài mưu sĩ, bọn họ thi nhau hành lễ, hoàng huynh kêu họ lui xuống, rồi cau mày với ta: “Hành xử l* m*ng, ban đêm trời lạnh, sao lại ăn mặc mỏng manh như vậy chạy loạn khắp nơi vậy? Tiểu Thanh, lấy áo khoác cho Trùng Trùng mặc”.

Tiểu Thanh là một cung nữ làm việc lề mề.

Ta sốt rột tự mình bước tới lấy áo khoác của hoàng huynh đang treo trên giá gỗ, phủ lên người, rồi vỗ tay lên bàn nói: “Rốt cuộc là chuyện gì? Tuyên gia bị phụ hoành xử lí là vì ông già lắm miệng đó sao?”

“…” hoành huynh híp mắt nhìn ta bằng ánh mắt ngờ vực, “sao muội lại quan tâm tới Tuyên gia tới vậy? Tuyên Đình và thứ sử Tô Châu cùng vài kẻ khác có mưu đồ bất chính, đang bị điều tra”.

Ta vô cùng kinh hãi, tay áo quét qua tách trà trên bàn khiến nó rơi xuống đất, tiếng sứ vỡ vang lên, ta lầm nhẩm: “… vậy Tuyên Giác phải làm sao đây?”

“Hả? Muội nói ai?” hoàng huynh không nghe rõ, tiến gần lại nghe, sau đó lông mày cau lại, “tên tiểu tử nhà Tuyên gia sao? Muội thân thiết với hắn lắm hả?”

“Muội…” ta ngồi phịch xuống ghế, tay bụm mặt nói, “muội thích hắn hoàng huynh à… vậy nên, huynh phải nói rõ đầu đuôi cho muội, chuyện này, huynh có nhúng tay vào không?”

Hoàng huyng đương nhiên có nhúng tay vào.

Không chỉ vậy, huynh ấy còn là người lên kế hoạch. Ngay cả bức thư mà ngày đó Tuyên Giác một mình tới Giang Nam, thay cha gửi cho thứ sử Tô Châu cũng là do huynh ấy chuẩn bị sẵn nội dung, sai người mô phỏng theo nét bút rồi đánh tráo.

“Hoàng huynh, coi như muội cầu xin huynh, xin huynh hãy tới nói rõ với phụ hoàng. Người yêu thương chúng ta như vậy, sẽ không trách tội đâu, được không huynh?” ta kéo tay áo hoàng huynh.

Hoành huynh lúng túng nói: “Vô ích thôi. Chuyện này, phụ hoàng cũng biết, người đã ngầm đồng ý. Người sớm đã muốn diệt trừ Hoàng gia rồi”.

Hoàng thị là nhà mẹ đẻ của mẫu phi tam hoàng tử, thế lực to lớn, trước nay luôn ỷ vào công lao cùng hoàng đế tạo dựng thiên hạ, không đặt phụ hoàng vào mắt.

Hơn nữa, cái chết năm đó của mẫu hậu cũng có liên quan tới bọn chúng.

“Vậy huynh bảo muội phải làm sao…” ta bàng hoàng nói.

Thấy sắc mặt ta không bình thường, hoàng huynh cũng luống cuống: “Trùng Trùng, muội đừng khóc. Chúng ta cùng nghĩ cách… ta, ta không biết muội thích tên tiểu tử đó! Nếu không ta cũng không đi tới bước đường này! Ta… muội đợi ta nghĩ cách”.

Huynh ấy đi qua đi lại, rồi bực bội quay đầu: “Nhưng mà Trùng Trùng, muội thích hắn ở điểm nào? Gương mặt đó sao? Vậy thì giữ mạng hắn lại thôi!”

Ta sững người.

“Chỉ là giữ lại một phế vật, hoàng gia có thể giữ lại…”

Ta ngắt lời huynh ấy: “Muội thích sự thông minh, dịu dàng, lương thiện của chàng. Hoàng huynh à, không được đâu. Hơn nữa, với tính cách phụ hoàng, chắc chắn sẽ không giữ lại… mầm mống tai họa này”.

Phụ hoàng là một người ra tay tàn nhẫn.

Tam ti hội thẩm không tới nửa tháng, liền định tội cho “quân tạo phản” do Hoàng gia đứng đầu, trong đó bao gồm cả Tuyên gia, chém đầu toàn tộc.

Ta tới nói sẽ cứu chàng, chàng lập tức từ chối, cuối cùng không gặp mặt ta nữa.

Thích Văn Lan cũng lo lắng như ta. Cho dù thời gian gần đây, hắn và Tuyên Giác dường như có chuyện gì đó, không còn hay nhắc tới nhau nữa, nếu có thì trong lời nói cũng mang theo chút châm biếm.

Tới sát ngày hành hình, hắn không đợi nổi nữa, cầm lấy kiếm rồi dắt ngựa, nói: “Ta đi xem thế nào, nếu giờ này ngày mai vẫn không có cách, bọn họ sẽ rơi đầu”.

Thích Văn Lan vô cùng bốc đồng, hắn cứ thế cướp ngục, cứu Tuyên Giác ra ngoài. Sau đó gào lên với chàng: “Đến gặp thánh thượng đi! Có quá nhiều sơ hở trong chuyện này, đến kẻ ngu dốt như ta còn nhìn ra được, ngươi mau đi nói rõ với bệ hạ!!!”

Nhưng tất cả đều vô ích.

Ly Ngọc của ta, chàng là người kiêu ngạo biết bao.

Đêm đó tuyết rơi lớn, chàng quỳ ở quân cơ xứ, đầu cúi chạm đất, gió rét gào rít qua, phụ hoàng và quần thần sau khi nghe chàng thuật lại chi tiết mọi chuyện, hết lần này tới lần khác, từng câu từng chữ, rốt cuộc vẫn không thay đổi tội trạng của Tuyên gia.

Ban đầu chàng kỳ vọng có thể cứu Tuyên gia, về sau chỉ còn mong mỏi cứu được cha mẹ, cuối cùng trong lòng nguội lạnh.

Ta cũng quỳ bên ngoài quân cơ xứ.

Tưởng công công vội vã kéo ta lên, hoảng hốt nói: “Ôi điện hạ, người làm gì vậy! Đây không phải là muốn nô tài rơi đầu sao? Người giúp nô tài một việc, mau trở lại cung đi! Đừng nhúng tay vào chuyện này nữa”. Hắn nói nhỏ: “Mấy ngày nay, hoàng thượng đã đau đầu vì chuyện của hai nhà Tuyên Tề lắm rồi!”

Ta nói với hắn: “Đi che dù cho Tuyên Giác! Ngây ra đó làm gì, đi mau…! Nếu còn quản bản cung nữa, ta đánh gãy chân ngươi!”

Tưởng công công “ôi” lên một tiếng, dậm chân, cuối cùng vẫn tới che dù cho Tuyên Giác.

Đèn bị dập tắt, quần thần lui đi, phụ hoàng lạnh lùng ngồi ở trên cao, nhìn xuống nói: “Đừng nghĩ nữa, Tuyên Giác, trẫm cho ngươi biết, Tuyên gia không thể giữ lại. Nếu không phải Trùng Trùng nhìn trúng ngươi, thì hôm nay ngươi cũng rơi đầu rồi. Giữ lại mạng cho ngươi để Trùng Trùng không buồn, không ngày sau nó lại hận trẫm”.

Ta đã cố hết sức.

Nhưng cũng chỉ có thể khiến phụ hoàng giữ lại mạng cho Tuyên Giác.

Lảo đảo bước ra khỏi quân cơ xứ, lập tức có một đám cung nhân tới đỡ ta, còn Tuyên Giác, chàng cô độc bước đi một mình ra ngoài.

Ta gạt đám thân tín ra, đuổi theo Tuyên Giác, nói: “Ly Ngọc! Chàng đợi ta! Ly Ngọc!”

Chàng lúc này mới hồi thần, sắc mặt trắng bệch, trên lông mi còn dính băng tuyết, nói: “… đa tạ điện hạ”.

Ta định đuổi theo, nhưng bị phụ hoàng gọi lại, sắc mặt người không tốt, nhưng vẫn cố dịu giọng: “Trùng Trùng, Tuyên Ngọc không phải người dễ dàng nắm trong tay. Ta nhắc nhở con, đừng nuôi ong tay áo”.
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 5


16

Ta biết, phụ hoàng thật lòng yêu thương mình.

Khoảng thời gian sau đó, ta không ăn uống được gì, phụ hoàng thấy vậy thì làm như vô tình, hỏi: “Mấy con chim ưng mà Trùng Trùng nuôi giờ ra sao rồi?”

Ngày ta còn niên thiếu, rất thích luyện ưng thuần ngựa, ba con chim ưng hai con ngựa đều được nuôi dưỡng trong trại chăn nuôi ở ngoại ô kinh thành. Nhưng mấy năm nay, ta càng ngày càng ít tới.

Ta nói: “Lâu rồi con chưa tới xem, nên không rõ”.

Phụ hoàng chỉ là mượn lời để dẫn dắt câu chuyện mà thôi, người lại nói: “Có thời gian thì tới xem xem. Nuôi người cũng giống như chim ưng và ngựa, phải huấn luyện. Nếu không nghe lời, đánh vài roi, đây là bước đầu. Bước thứ hai, phải loại bỏ chỗ dựa của nó, không cho ăn uống, sau vài ngày thì lại bố thí cho ăn, khiến nó phải dựa dẫm phục tùng. Về sau, cảm xúc của nó sẽ trỗi dậy, hoàn toàn thuần phục con, đây là bước cuối cùng”.

Bàn tay đang cầm bánh hoa quế của ta sững lại, hồi lâu sau mới nói: “Sao phụ hoàng đột nhiên nói những điều này?”

“…” phụ hoàng thở dài, bàn tay dày rộng của người xoa lên đầu ta, “Trùng Trùng của trẫm ấy à, phải vui vẻ lạc quan. Tấm lòng cha mẹ, chỉ hi vọng con cái của mình có thể bình an, thuận buồm xuôi gió, có được những gì mình muốn thôi”.

Phụ hoàng dạy ta mưu kế của bậc đế vương, đó là may mắn của ta, nhưng ta chẳng muốn học.

Lúc này, Tuyên Giác vẫn chưa biết được chân tướng, chí ít chàng chưa biết mọi chuyện là do hoàng huynh ra tay.

Hai ta thành thân, chàng sống ẩn dật trong phủ, không còn quan tâm triều chính. Chàng thiếu niên tâm trí bừng bừng chuẩn bị cho kì thi mùa xuân khi đó, dường như không phải chàng.

Mùa đông năm đó, trên đường từ quân cơ xứ trở về Tuyên phủ, đi qua nơi hành hình, máu nhuộm đỏ cả tuyết trắng trên đường, chàng đã vượt qua thời khắc đó thế nào? Ta không dám hỏi.

Thích Văn Lan bị cha đánh một trận, bị thương không nhẹ, miệng không ngừng than thở không muốn tới biên cương. Ngày chia tay, hắn tới thăm Tuyên Giác, chỉ nói: “Ngươi nợ ta một ân huệ đó nhé”, sau đó nhìn sang ta, nhướng mày nói tiếp với Tuyên Giác, “à, đâu chỉ là một ân huệ thôi đâu”.

Tuyên Giác chỉ mỉm cười, nói: “Xin ghi tạc trong lòng”.

Ta xóa đi mọi vết tích về thủ đoạn của hoàng huynh.

Ta vốn muốn che dấu chuyện này cả đời. Nhưng, Tuyên Giác vẫn biết.

Đêm đó, chàng ngồi uống rượu một mình, tà áo xanh ẩn hiện dưới ánh trăng mờ ảo, thấy ta đứng một bên, liền cất tiếng: “Trùng Trùng, uống một ly không?”

Ta thấy sắc trời u ám, mỉm cười nói: “Trời đầy mây đen, sắp mưa rồi, để người cất đồ vào trong đã, ngày mai lại uống nhé”.

Nhưng Tuyên Giác vẫn rót rượu cho ta, giọng nói chàng rất nhẹ nhàng, hỏi ta một câu: “Trùng Trùng, nàng yêu ta ư?”

Ta dừng bước chân, cảm thấy câu hỏi này, nói đúng hơn là giọng nói của Tuyên Giác có chút bất thường, ta uống cạn ly rượu đó, rồi nói: “Sao bỗng nhiên lại hỏi như vậy? Đương nhiên ta yêu chàng rồi”. Dứt lời, ta cúi người, hôn lên trán chàng.

Tuyên Giác đột nhiên nhìn thẳng vào mắt ta, nói: “Nếu nàng không yêu ta, có phải sẽ cảm thấy chuyện Tuyên gia rơi đài chẳng đáng là gì? Cảm thấy dùng mạng của một trăm ba mươi hai người làm lá bùa, diệt trừ những kẻ đối lập, dù họ có oan khuất cũng chẳng là xá gì. Chỉ cần loại bỏ được tam hoàng tử, chỉ cần đại hoàng tử có thể đăng cơ, đều đáng phải không?”

Ta trước nay vô cùng yêu đôi mắt rực sáng của chàng. Thậm chí ngay ở lần đâu tiên gặp gỡ, trái tim ta loạn nhịp cũng chính bởi vì đôi mắt xinh đẹp như sao giữa đêm trăng này.

Nhưng giờ đây, ta lại nhìn thấy vẻ mặt bàng hoàng của mình phản chiếu trong đó.

Ta rất muốn gạt chàng, nhưng đáp án của ta cho câu hỏi đó… đúng là như vậy.

Tình cảm trong hoàng gia, tuy ít nhưng quý giá. Như tình yêu của phụ hoàng với mẫu hậu, với những đứa con mà mẫu hậu sinh ra, như tình yêu của ta giành cho Tuyên Giác.

Ngoài ra, tất cả đều là người xa lạ, đều là… con cờ.

Tuyên Giác nhìn thấu ta, biết ta định nói gì, chàng ngắt lời: “Thôi, ta hiểu rồi”. Bàn tay đang nắm chặt chén rượu của chàng dãn ra, chàng đứng lên, cố kìm nén giọng nói, cất tiếng: “… vậy luyện ưng thuần ngựa thì sao? Nàng nghĩ như vậy ư?”

Tuyên Giác đứng trong đình viện, quay đầu hỏi ta, đáy mắt ẩn chứa sự bi thương hiếm thấy.

“Ta không có!” ta phản bác theo bản năng.

Sấm sét giáng xuống, bầu trời lóe lên, soi chiếu hai cái bóng đang chồng chéo nhau của ta và chàng.

Ta bất chợt lạnh sống lưng.

Ngay cả lời đối thoại tùy hứng giữa ta và phụ hoàng mà chàng cũng biết. Tuyên Giác, chàng rốt cuộc muốn làm gì?

Ta cất tiếng hỏi.

Chàng thở dài rồi đáp lời: “… ta cũng không biết mình đang làm gì. Ta cũng không biết… ta nên làm gì nữa Trùng Trùng”.

Khoảnh khắc đó, da đầu ta tê rần.

Ta quá hiểu năng lực và thủ đoạn của Tuyên Giác. Nếu chàng thật sự muốn làm gì đó… không ai có thể cản được, trừ khi chàng chết.

Tiếng sấm sét chói tai, ta ấn chàng xuống đất, ngón tay run rẩy lướt qua quai hàm chàng.

“Ta nên giết chàng! Tuyên Giác, ta nên giết chàng!” ta bóp lấy cổ chàng, nước mắt lăn xuống gò má. Mưa rơi như trút nước, nước mắt hòa cùng nước mưa, chảy đầy trên mặt.

Thần trí của chàng dần trở nên mơ màng, nhưng vẫn cố nhấc tay xoa lên đầu ta, nói: “Vậy hãy giết đi. Không sao. Nhà đế vương vô tình chút cũng tốt. Hơn nữa, Trùng Trùng, chết trong tay nàng, ta cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn… ta sống quá mệt rồi”.

Nhưng ta không xuống tay được.

Ta căm phẫn thu tay lại, quần áo trên người ngấm nước mưa nặng trĩu. Khi ta cố gắng đứng lên, đầu óc bỗng quay cuồng, bước chân loạng choạng ngã nhào, chàng ôm lấy ta vào lòng.

Trước khi mất hết ý thức, chỉ nghe thấy tiếng nói dịu dàng của Tuyên giác, chàng hôn lên vành tai ta, thì thầm: “Trùng Trùng, nàng quả thực nên… giết ta”.

Tuyên Giác đã bỏ gì đó vào trong ly rượu.

Ngày hôm sau tỉnh lại, đầu đau như búa bổ, ta quên hết những chuyện xảy ra vào đêm qua. Rất lâu về sau mới dần dần nhớ lại.

Ta bất chợt phát hiện, kể từ ngày ấy Tuyên Giác tuy vẫn cười nói dịu dàng như trước, nhưng ở chàng có một cảm giác xa lạ ta không thể nhìn thấu nổi.

Chàng cũng không còn gọi ta là “Trùng Trùng” nữa, mà là “Nhĩ Ngọc”.

Như những thần tử khác.

17

Lần này Thích Văn Lan vào cung, tuy gây náo loạn ở điện Thái Cực nhưng vẫn có thể an toàn rời đi.

Ta thở phào nhẹ nhõm.

Mấy năm nay, ta càng ngày càng không thể nhìn thấu suy nghĩ của Tuyên Giác, đôi khi cảm thấy chàng vẫn hoài niệm chuyện xưa, nhưng có khi lại cảm thấy, chàng ra tay quá tàn nhẫn, xa lạ.

Tới yến tiệc mừng năm mới, ta ngồi trên cao, đối mắt với Thích Văn Lan đang ở phía xa, chậm rãi nâng ly.

Gương mặt Thích Văn Lan cương nghị, anh tuấn hơn xưa. Trên sườn mặt màu lúa mạch có vết sẹo nhạt màu do đao kiếm để lại, khiến hắn càng thêm uy phong lẫm liệt. Chí ít ta có thể nhìn ra, không ít các tiểu cô nương đang lén lút quan sát hắn, rồi thì thầm với nhau.

Thích Văn Lan giật mình, nhìn ta bằng ánh mắt bực bội, uống cạn ly rượu. Ta cũng rất khoan thai, tiếp tục thưởng thức rượu hoa quả của mình.

Khi tàn tiệc, Thích Văn Lan đi thẳng tới chỗ ta, ta thẳng thừng nói: “Đừng có ngốc nữa Thích huynh, ta không muốn bị bắn chết cùng huynh đâu”.

Bàn tay hắn nắm chặt lấy bàn, hô hấp dồn dập, tức giận nhìn ta, sau đó giọng nói khàn đặc cất lên: “Vậy ngươi định làm gì?”.

“Báo thù thôi” ta cười.

Có lẽ hắn cũng từng nghe thấy Tuyên Giác nhắc tới hai chữ này. Ta có thể thấy sự đau lòng thoáng qua trong mắt Thích Văn Lan, cũng không biết hắn tuyệt vọng vì điều gì, hồi lâu sau mới lùi bước, tự mình lẩm bẩm: “…thật là một…kết cục bế tắc…”

Khi Thích Văn Lan đã rời khỏi, Tuyên Giác mới chầm chậm bước tới, hỏi: “Không đi sao?”

Ta bật cười thành tiếng, lắc đầu rồi đứng dậy. Chàng nắm chặt lấy tay ta, trong mắt có một sự điên cuồng được đè nén, chàng tiến lại gần thì thầm bên tai ta: “Ngoan quá”.

Ta nhìn vào mắt chàng, rất muốn hỏi “chúng ta thật sự phải đấu với nhau tới chết sao?”

Có lẽ, chàng cũng muốn hỏi điều này.

Trong thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, bốn bề vang lên tiếng pháo hoa, ta và chàng đứng kề vai bên nhau, tạm dừng tranh đấu, cùng ngước nhìn hàng ngàn chiếc đèn khổng minh đang bay trên trời.

Trong cung, tất cả những vật sắc nhọn đều bị cung nữ dọn sạch. Đề phòng khi cả hai đang thân mật quấn quít, ta sẽ giết Tuyên Giác.

Chàng không còn giống đêm đó, chỉ mong cầu được chết, để mặc cho ta bóp cổ, không hề phản kháng, thậm chí còn dịu dàng an ủi ta.

Chàng nói rất đúng…

Ngày đó ta nên giết chàng.

Mùa xuân, vạn vật sinh sôi, ta cuối cùng cũng thấy kiệt sức, không còn gây phiền phức cho Tuyên Giác nữa, ngày ngày chôn mình trong ngự thư phòng, đọc sách giải sầu.

Bỗng, ta tìm thấy một cái hộp giấu kín trên nóc tủ sách. Bên trên phủ một lớp bụi dày, có vẻ đã để ở đây rất lâu rồi.

Ta lấy trâm cạy khóa.

Bên trong là một cuộn tranh cũ đã hơi ố vàng, mùi mực phả tới, màu sắc trên tranh chưa hề bị phai đi.

Trong tranh, thiếu nữ mặc áo đỏ, mái tóc đen xõa tung trong gió, tay kéo cung tên thành hình bán nguyệt, ngắm chuẩn vào một con nai ở phía xa. Màu đỏ tươi tắn không hề chói mắt, ăn khớp với màu nâu xanh của thảm cỏ, xa xa là những dãy núi bao la, đất trời hòa hợp.

Lạc khoản đề “Trung thu năm Thái Nguyên thứ năm, Giác vẽ”.

Là một năm sau hội săn mùa thu.

Là năm ta ngao du tới Giang Nam.

Là năm Tuyên gia rơi đài.

Là năm mà… mọi thứ xoay chuyển.

Ta chỉ nhìn một lát liền không chịu nổi nữa, cuộn tranh cất lại vào hộp, đóng khóa, đặt về chỗ cũ.

Như chưa từng mở ra.

18

Qua một khoảng thời gian, cuối cùng ta cũng lên tiếng hỏi Tuyên Giác, câu hỏi này ta đã muốn hỏi từ lâu: “Năm đó, sức khỏe phụ hoàng bỗng đi xuống, là do chàng động tay sao?”

Nếu chàng đã có thể thăm dò được tình hình trong cung, nghe được cuộc đối thoại giữa hoàng thượng và công chúa, thì âm thầm hạ độc giết người có là gì.

Tuyên Giác đang mài mực phê tấu chương, điều động quân đội các bên, nghe thấy ta hỏi, chàng đặt bút xuống, cuối cùng chậm rãi gật đầu: “Là ta”.

Ta ném mạnh con ve bằng ngọc đang nghịch trong tay về phía chàng, chàng ngồi im không tránh. Tới khi máu chảy xuống trán chàng, thái giám cuống cuồng vội dùng khăn lau máu, chàng mới nói: “Ta đã nói rồi, khanh khanh không nên để ta sống”.

Ta đáp: “Vậy chàng cũng không nên giữ ta lại”.

Tuyên Giác không trả lời, chỉ lệnh cho cung nữ đưa ta về cung Ngọc Cẩm. Việc này coi như chấm dứt.

Thời gian thấm thoắt trôi, tới kì thi hương, nhờ ta cố ý siết lại gần nên quan hệ của ta và chàng có chút khởi sắc. Trước mặt chàng, ta vờ như lần đầu mở bức tranh đó ra, sau đó nghiêng đầu, nói: “Ly Ngọc, ta muốn cưỡi ngựa bắn tên. Có được không?”

Tuyên Giác im lặng hồi lâu, cuối cùng cười nói: “Được chứ”, rồi thì thầm bên tai ta, “mọi chuyện đều theo ý nàng”.

Hội săn mùa thu năm nay rầm rộ hơn tất cả những năm trước đó. Các binh sĩ im lặng cầm cờ đi phía trước, như thể đang tham dự một tang lễ long trọng nào đó vậy.

Ta cầm thứ vũ khí sắc bén đã lâu không được động tới là cung tên và mũi tên, cưỡi lên con ngựa hãn huyết Tây Vực.

Nó không chịu thuần phục cho lắm, phải mất thời gian nửa nén hương mới trở nên ngoan ngoãn hơn.

Các thân binh kia đều cảnh giác quan sát ta như nghênh đón quân địch, Tuyên Giác phất tay, ra hiệu bắt đầu hội săn.

Ta lười đi săn mồi, chỉ ngắm bắn vào những cái bia ở đằng xa, ba mũi tên liên tiếp không trúng.

Các binh sĩ âm thầm thở phào.

Lúc này ta mới quay đầu, nhìn về phía Tuyên Giác. Tóc trên thái dương bị gió thổi tung, chàng ấm áp như ngọc, một viên ngọc tuyệt thế vô song, trong suốt sáng lạn, không dính bụi trần, cũng không dính máu tươi.

Chàng cũng đang nhìn ta, im lặng nhắm mắt lại.

Sau đó, trong tiếng thét kinh hoàng của tất cả mọi người, ta giương cung.

Mũi tên lông vàng bắn trúng vai Tuyên Giác, ta thúc ngựa tiến sát gần, rồi lại giương cung bắn vào lồng ngực chàng.

Các binh sĩ đang chấn động cuối cùng cũng có phản ứng, dùng giáo đâm vào ngựa rồi đâm vào ta.

Tuyên Giác có lẽ muốn ngăn cản, định mở miệng nhưng cổ họng nghẹn lại, ôm lấy vết thương. Sau đó, vươn tay đón lấy người đang rơi xuống là ta.

Chàng thở dài bên tai ta, giống như khi ôm lấy ta trong đêm mưa ngày ấy: “Trùng Trùng… hà tất phải vậy?”

Kiếp này, ta và chàng đã nghe hai chữ “hà tất” này quá nhiều lần.

Tự mình nói với mình, mình nói với người khác, người khác nói với mình…

Tất cả đều là dằn vặt, đều không theo ý muốn.

“Ta… ta không buông bỏ được… cũng giống như chàng năm đó, không thể quên đi…” ta nói.

“Ta không còn mong cầu điều gì, Ly Ngọc… cha mẹ, huynh trưởng, ta chẳng còn lại gì, nhưng ta không làm sai”. Ta lẩm nhẩm nói: “Qua cầu Nại Hà, uống canh Mạnh Bà, kiếp này hai ta không ai nợ ai. Ân oán đã hết, hóa thành cát bụi”.

Ta gắng sức hôn lên cánh mi dài đang run lên của chàng: “Nếu chàng đi trước một bước, thì hãy tới xem con của chúng ta, mặt mũi ra sao, là nam hay nữ. Ta…”

Cơn đau ở ngực khiến ta run lên một hồi, tiếp tục nói: “Ta sớm đã bỏ thai rồi, ta không lấy con ra để hại người. Nó sạch sẽ, không dính vào vũng bùn của chúng ta. Còn nữa… ta đã gửi thư, Thích Văn Lan hai ngày nữa sẽ tới kinh thành, huynh ấy đã thu dọn tàn cuộc cho ta nhiều tới vậy, thêm lần này nữa cũng không sao…”

Chàng cười lên, sương mù chất chứa nơi đáy mắt bấy lâu nay cũng tiêu tan, nhưng ánh mắt vẫn thê lương như cũ: “Là thu dọn tàn cuộc cho chúng ta”.

Ta nhớ tới lệnh điều động quân sự gần đây… trong đó, có lẽ có cả thánh chỉ gọi Thích Văn Lan mau chóng trở lại kinh thành.

Trời đất bao la, gió thu khẽ thổi.

Ta từ từ nhắm mắt lại, nằm trong ngực Tuyên Giác, mất đi tất cả sức lực.

Ân oán, đúng sai đều tan biến.

Đây là kết cục không thể tránh khỏi.

Cũng là kết cục tốt nhất.
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 6: Ngoại truyện 1


Ngoại truyện 1:

Tuyên Giác gặp Tạ Trùng Tự lần đầu tiên là vào đầu xuân năm Thái Nguyên thứ ba.

Chàng vừa tan học, chân rảo bước trên nền gạch xanh của con phố Chu Tước, trở về phủ ngự sử.

Bất luận là ngoại ô hay trong thành, cảnh vật đều tươi đẹp ngập nắng, rặng liễu bên đường đang bật chồi non.

Lúc này, chàng nghe thấy phía trước vang lên mười ba hồi chiêng, tiếp theo đó là tiếng hô uy nghiêm của binh lính mở đường:

“Xa giá của công chúa, quan viên lớn nhỏ cùng dân chúng tránh sang một bên”

Mọi người tránh sang hai bên như rẽ nước.

Tuyên Giác cũng lùi lại bên đường theo đám đông, cung kính cúi đầu.

Thấp thoáng nghe thấy tiếng thì thầm bàn tán:

“Công chúa? Dưới gối thánh thượng của chúng ta còn có công chúa ư?”

“Chắc là có rồi, tiên hoàng hậu không phải đã sinh một bé gái sao…”

“Nhưng sao chưa từng nghe thấy?”

“… ta cũng chưa từng nghe, chỉ biết tới quận chúa An Vinh thôi, công chúa kiểu gì mà chẳng ai hay biết vậy”

Tuyên Giác đứng im một chỗ lắng nghe.

Những thường dân này có lẽ không biết, nhưng chàng sinh ra trong gia đình thế gia, cha lại làm quan trong triều, nên có biết được đôi chút.

Tiên hoàng hậu bị thích sát qua đời năm Minh Quang thứ mười hai, đương kim bệ hạ đau buồn không thôi, đổi nên hiệu thành Thái Nguyên.

Còn vị công chúa mà tiên hoàng hậu sinh cũng vì gặp thích khách mà bị thương hay trúng độc gì đó, ngay trong đêm được đưa ra khỏi thành điều trị.

Mấy năm nay vẫn ở lại ngoại ô.

Cũng vì lẽ đó, thiếu nữ đứng đầu trong kinh vài năm gần đây không phải công chúa, mà là quận chúa An Vinh.

Nói mới nhớ, vị điện hạ này không phải sớm đã được ban phong hào rồi sao?

Là…

Tuyên Giác bất chợt không nghĩ ra, lông mày hơi cau lại.

Bỗng, chàng nhìn thấy hai miếng ngọc bội trên eo mình, tim đập mạnh một nhịp.

À, là “Nhĩ Ngọc”.

Cũng có một chữ “Ngọc”.

Nhĩ Ngọc kết hợp lại thành chữ “tỷ”, biểu tượng của đế vương, đây quả thực là một phong hào vô cùng tôn quý.

Mà chiếc xe giá và đám tùy tùng kia cũng thể hiện tình yêu thương của hoàng thượng đối với vị công chúa này, Tuyên Giác chỉ liếc qua, không quan sát tỉ mỉ.

Chàng chỉ loáng thoáng nhìn thấy một bóng hình màu đỏ đang ngồi bên trong.

Chiếc xa giá đó rất xa hoa lộng lẫy, tiếng chuông kêu lanh lảnh, màn che được buông xuống, phía trước có mười hai người kéo, phía sau có mười hai người đi sát theo, hai cánh quạt lớn từ lông chim, bốn khung giá xung quanh để ngăn cản đám đông, mở đường.

E rằng xa giá của đương kim thánh thượng cũng không xa hoa đến nhường này.

Sau khi xe ngựa đi qua, tiếng chuông tiến lại gần.

Xa giá đi qua trước mặt, cách Tuyên Giác không tới năm thước.

Đuôi áo tung bay theo làn gió, quét qua hai miếng ngọc trên eo chàng, rồi lặng lẽ rơi xuống.

Giống như một giấc mộng xa xăm.

Tuyên Giác không kìm được mà ngẩng đầu.

Khoảng cách lúc này rất gần, có thể nhìn rõ được đường nét thiếu nữ ngồi bên trong.

Nàng đeo khăn che mặt, không thấy rõ dung mạo, chỉ có đôi mắt đang thẫn thờ ủ rũ nhìn về phía trước.

Phía trước là con phố Chu Tước rộng rãi trống trải, kinh thành không hề thay đổi, cuối phố là tường vây màu tím của hoàng cung.

Người ngồi sau bức rèm có vẻ rất buồn chán vì phải ngồi im như một con rối gỗ, như cảm nhận được ánh mắt của chàng, bỗng nhiên nàng nghiêng đầu nhìn sang.

Tuyên Giác không kịp thu lại tầm mắt, cứ thế chạm phải ánh mắt nàng.

Cây liễu bên kia đường vô cùng to lớn, cành lá sum suê, nóc xa giá sượt qua tán lá, bóng râm mờ nhạt phủ lên trên.

Bên trong, thiếu nữ sững lại một hồi, khi chàng đang bối rối, đôi mắt đó cong lên, nâng tay che miệng.

Nàng như thể đang cười.

Đợi đoàn xe giá cùng tùy tùng đi xa, tiếng mở đường cũng trở nên thấp thoáng, Tuyên Giác mới chậm rãi hồi thần, một lần nữa ngẩng đầu lên.

Chàng bỗng nhớ ra, chàng chỉ biết phong hào của vị điện hạ này, không biết tên.

Tuyên Giác vốn chỉ coi đó là một cuộc gặp gỡ vô tình, không cố ý tìm hiểu thêm.

Nhưng chàng vẫn mau chóng biết được tên của nàng.

Đó là một buổi trưa gần một tháng sau, Thích Văn Lan tới tìm chàng chơi cờ, thở hồng hộc ngồi xuống ghế, nói: “Mẹ kiếp, Tạ Trùng Tự hồi kinh rồi. Ta hôm nay mới biết tin”.

Nói rồi, nhặt một con cờ đen, nhanh như chớp hạ xuống bàn cờ mà Tuyên Giác đang tự chơi một mình.

Tuyên Giác rót trà cho hắn, đẩy tới, cất giọng hỏi: “Tạ Trùng Tự? Ai vậy?”

Họ Tạ, có lẽ là một vị quận chúa nào đó?

Thích Văn Lan nhìn hắn bằng ánh mắt cổ quái: “Ngươi không biết?”

Sau đó lại nghĩ ra: “À đúng, ngươi sao biết được. Trước năm Thái Nguyên, ngươi không sống ở Vọng Đô nên đã bỏ lỡ. Tạ Trùng Tự là cái người vừa mới hồi kinh gần đây”.

Hắn hất cằm về phía hoàng cung phía bắc, sau đó duỗi ra năm ngón tay ra, nói: “Cũng chính là Nhĩ Ngọc điện hạ, kẻ hay gây chuyện mà cha ngươi ít nhất đã năm lần dâng sớ chỉ trích đó”.

Tuyên Giác: “…”

Thích Văn Lan giục chàng: “Mau đánh đi! Tới ngươi rồi!”

Tuyên Giác dừng mạch suy nghĩ, thong thả chặn đường rút lui của quân đen, bỗng cất tiếng hỏi: “Ngươi và vị điện hạ đó thân thiết lắm sao?”

Thích Văn Lan tuy thẳng thắn hấp tấp, nhưng không phải kẻ tùy tiện, nếu không thân quen, hắn sẽ không gọi thẳng tên ra như vậy. Nghiêm túc mà nói, đây có thể quy vào tội bất kính với hoàng gia.

“Ừ, hồi nhỏ thi thoảng chơi cung nhau, sau này nàng ta tới Quỷ Cốc trị thương…” giọng nói Thích Văn Lan ngừng lại, tự biết mình lỡ miệng, nhưng ngước lên thấy sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường, lại nghĩ tới việc Tuyên Giác vốn kín miệng, có thể tin tưởng, vậy là tiếp tục chậm rãi nói, “có vài lần ta đi cùng đoàn quân tiếp tế, gửi thư cho nàng ta giúp bệ hạ. Coi như thân quen”.

Hắn bực bội gãi đầu, hạ cờ càng lúc càng ẩu, nói: “Cũng chính vì thân nhau, nàng ta hồi kinh cũng không báo với ta, nên ta mới tức chết! Hơn nữa, với tính cách nàng ta… nhất định sẽ phải chịu thiệt trước đám quý nữ kinh thành”.

Nghe nhắc tới Quỷ Cốc, Tuyên Giác liền hiểu.

Trong Quỷ Cốc có rất nhiều người giỏi y thuật, nhưng tính cách họ cổ quái khác thường, yêu ghét tùy hứng.

Vậy nên, cho dù bọn họ có thể cải tử hoàn sinh thì vẫn bị người đời xa lánh.

“Ngươi nghĩ mà xem, lúc nhỏ nàng ta đã ương bướng, nay lại ở Quỷ Cốc ba năm, đám người trong kinh chịu được vị tổ tông đó mới lạ. Dù gì cũng nên báo trước ta một tiếng, ta quen thuộc cả trong cung lẫn ngoài cung, có thể giúp nàng ta tổng kết điểm mạnh yếu của kẻ địch đúng không?” Thích Văn Lan càng nói càng tức.

Tay vỗ bàn, uống cạn nửa chén trà còn lại.

Ngón tay Tuyên Giác kẹp một quân cờ trắng, nhẹ nhàng đặt xuống bàn cờ, không mặn mà nói: “Tập trung đánh cờ đi. Đừng ăn nói hàm hồ về quý nhân nữa”.

Thích quý phi được sủng ái, Thích gia cũng được thơm lây.

Thích Văn Lan đôi lúc ăn nói không suy nghĩ, cũng không đặt bất kì ai vào mắt.

Chàng là bạn hắn nên khi cần thì vẫn phải nhắc nhở vài câu.

Sau đó, chàng hạ quân cờ, nói: “Giết”.

Thích Văn Lan lúc này mới tập trung vào ván cờ, nhìn chăm chú một lúc, ủ rũ quăng quân cờ đi, nhận thua: “Là ta phân tâm, chơi ván khác đi”.

Chơi liền ba ván, Thích Văn Lan đều bị đánh bại. Hắn chống tay lên trán kêu than: “Thấy huynh đệ đang buồn, không nhường chút được sao?”

Tuyên Giác đặt viên ngọc trở lại hộp cờ, thong dong pha ấm trà, sau cùng mới nói: “Không phải ngươi không thích ta nhường sao? Hơn nữa… ngươi cứ tự mình đa tình làm gì? Cẩn thận chuốc phiền phức tới cho người khác”.

Lời nói có hơi sắc bén, Thích Văn Lan sững lại, nghe thấy Tuyên Giác lại nói: “Trong kinh không giống Quỷ Cốc, lớn lên cũng sẽ khác khi còn nhỏ, thêm nữa, gần đây trong triều biến hóa thất thường, ngươi nên cẩn trọng một chút”.

Thích Văn Lan ngẫm nghĩ trong giây lát, mới nghiêm túc nói tiếng cảm ơn, sau đó còn nói chuyện cùng Tuyên Giác một lúc, mời đứng dậy cáo từ.

Tuyên Giác vẫn ngồi lại, nhàn nhã thong dong rửa trà cụ, cất đi.

Lúc này, chàng và Tạ Trùng Tự chỉ là người xa lạ, ngẫu nhiên chạm mặt một lần mà thôi, chưa nảy sinh lòng ái mộ.

Chỉ có ấn tượng đôi chút…

Đôi mắt đó lanh lợi, cong cong như vầng trăng khuyết.

Vì vậy, tuy Tuyên Giác có hơi nặng lời với Thích Văn Lan, nhưng đều xuất phát từ đáy lòng.

Hi vọng hắn tỉnh táo trở lại.

Nhưng vị huynh đệ này vẫn cứ lao đầu vào.

Thi thoảng nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.

Còn Tạ Trùng Tự cũng càng lúc càng vang danh.

Trước đây, quận chúa An Vinh và tiểu thư tướng phủ thường được đám văn nhân hết lời ca tụng, nhưng chỉ sau một đêm, nhân vật chính được thi ca ẩn dụ đã đổi sang người khác.

Thế nhân dùng mẫu đơn để nói về công chúa Nhĩ Ngọc.

Tuyên Giác rất ít tham gia các buổi yến tiệc, khi nghe thấy Thích Văn Lan nhắc tới chuyện này, chàng có chút kinh ngạc.

Dẫu sao nàng ấy vẫn là thiếu nữ chưa tròn mười lăm, đâu nên dùng loại hoa quốc sắc thiên hương, vua của muôn loài hoa như mẫu đơn để ẩn dụ chứ.

Chàng không nén nổi sự kinh ngạc.

Cho tới tận hội săn mùa thu năm đó, chàng lần đầu được tận mắt chiêm ngưỡng bóng hình đỏ rực kia.

Áo đỏ ngựa đỏ, xinh đẹp rực rỡ.

Dung mạo nàng lạnh lùng kiêu ngạo, nhưng cử chỉ hành động lại thẳng thắn hiên ngang.

Hệt như một ngọn lửa.

Đừng nói mẫu đơn, ngay cả dùng kim ô để miêu tả về nàng cũng không xứng.

Nói ra cũng kì lạ, khi đó ý nghĩ đầu tiên của chàng là muốn hỏi lại câu hỏi kia của Thích Văn Lan.

Trong hơn một năm nay, ở trong cung hay trong kinh thành, nàng có từng chịu thiệt không?

Nàng ăn miếng trả miếng với chúng?

Hay chỉ cau mày không thèm đặt trong lòng?

Cảm xúc của chàng hiếm khi trỗi dậy như vậy, đợi tới khi hồi thần, tên đã bay ra khỏi cung, ghim con thỏ đó xuống đất.

Chàng thầm than trong lòng.

Chỉ có thể mau chóng thúc ngựa tới, dùng roi da lấy mũi tên lông vàng của Tạ Trùng Tự lên, nói: “Điện ha, của người. Không biết điện hạ ở đây nên đã thất lễ, mong người thứ tội”.

Tạ Trùng Tự có đôi mắt hạnh rất xinh đẹp, lúc nhìn người ta, ánh mắt sáng lấp lánh, Tuyên Giác bị nàng nhìn thì có đôi chút mất tự nhiên, thấy nàng cười híp mí với mình, rồi lại quay đầu nói với Thích Văn Lan: “Văn Lan huynh, ta quyết định rồi, ta không cược cho huynh nữa, ta cược hắn”.

Thích Văn Lan sững sờ, sau đó căm phẫn nói: “Thấy sắc khinh bạn! Trọng sắc khinh bạn! ngươi, ngươi, ban nãy ngươi còn nói hắn là tên…”

Đứng trước mặt chính chủ, Thích Văn Lan khó khăn nuốt mấy chữ “tên ẻo lạ” kia lại, rồi tiếp tục lên án.

Tuyên Giác nghe một hồi, liền biết ban nãy Tạ Trùng Tự có ý gì.

Quý nữ trong kinh thành sẽ không cưỡi ngựa bắn tên, trong hội săn các nàng cũng chỉ ngồi một bên nói chuyện, cá cược xem ai sẽ dẫn đầu mà thôi.

Xem tình hình, ban đầu Tạ Trùng Tự cược cho Thích Văn Lan sao?

Vậy vừa rồi…

Chuyển sang cược cho chàng?

Tuyên Giác kìm nén sự giao động trong lòng, không ai nhìn ra được bất thường, chàng ho một tiếng: “… cái đó, hai vị, hội săn đã bắt đầu, chúng ta nên tranh thủ thời gian thôi”.

Sau khi hội săn mùa thu kết thúc, Tuyên Giác ôm con thỏ chỉ bị thương ngoài da, vẫn chạy nhảy hoạt bát kia vào lòng, sau đó hẹn ngày cùng Thích Văn Lan tụ tập, chuẩn bị rời đi.

Bỗng cảm thấy bên cạnh có ánh mắt hướng về phía mình, Tuyên Giác quay đầu lại, quả nhiên thấy Tạ Trùng Tự đang nhìn chằm chặp vào con thỏ trong ngực chàng.

Thấy chàng nhìn lại, Tạ Trùng Tự không né tránh mà còn chớp chớp mắt một cách tự nhiên.

Nhưng có lẽ vẫn đang đắn đo, nàng không mở miệng.

Tuyên Giác bất chợt nở nụ cười.

Công chúa mà phải cầu xin con mồi từ thần tử, quả thực mất hết thể thống, nhưng con thỏ trắng này vốn là của nàng mà.

Vậy nên, Tuyên Giác tặng nó cho Tạ Trùng Tự, nghe nói nàng đặt tên cho nó là “tiểu Hắc”, chàng cảm thấy rất buồn cười.

Ngoài ra còn thấy… đáng yêu.

Lần thứ nhất gặp mặt cách lần thứ hai gần hai năm. Lần thứ ba lại chỉ cách trước đó một tháng.

Yến tiệc cuối năm trong cung.

Chàng vốn không thích đông người, nhưng lần này là hoàng thượng triệu kiến.

Người muốn đánh một ván cờ cùng chàng.

Có lẽ gần đây chàng đã thắng quá nhiều ở Mặc Vận Lâu nên bị thánh thượng để mắt tới.

Yến tiệc linh đình, tuyết rơi dày đặc, có người gảy đàn, có kẻ vẽ tranh.

Tuyên Giác cùng hoàng thượng, Tạ Sách Đạo, đánh cờ trong đình viện giữa hồ.

Hồ Thái Cực chia thành hai nửa đông tây, có hình thù như trận đồ bát quái, còn ngôi đình này nằm ở trung tâm hồ.

Đình viện hình bát giác với phần mái màu đen, điểm xuyến cho mặt nước mênh mang, như một hạt bụi rơi vào cõi trần.

Bốn phía được đốt lò sưởi, vô cùng ấm áp.

Lúc này, tùy tùng đang lần lượt rót trà cho hai người đang mải mê đánh cờ kia.

Tưởng công công đưa tách trà tới bên tay Tạ Sách Đạo và Tuyên Giác, thấy hai người vẫn đang trầm tư suy nghĩ, không dám quấy rầy, chỉ mở nắp tách trà ra, thi thoảng lại kiểm tra độ nóng, thấy nguội liền đổi tách khác.

Tưởng Minh cũng hiểu chút ít về cờ, có thể nhìn ra được, quân trắng của Tuyên Giác đang chiếm thế thượng phong.

Hắn bất giác lau mồ hôi.

Đạo lí hầu hạ quân vương có rất nhiều quy tắc.

Ví dụ như đánh cờ, không thể thua quá thảm, cũng không thể thắng quá oanh liệt, phải nắm bắt được tâm tư hoàng đế.

Mỗi một trường hợp lại có một cách xử lí khác nhau.

Hôm nay, tâm tình bệ hạ không tốt lắm, quả thực không nên thắng người…

Bỗng, Tưởng Minh nghe thấy bên hồ có tiếng người truyền tới, quay đầu ra xem, liền thấy một bóng hình màu đỏ quen thuộc, hiển nhiên là Nhĩ Ngọc điện hạ.

… nhưng bên cạnh người là ai kia?

Quận chúa An Vinh sao?

Chỉ thấy Tạ Trùng Tự bước đi thong dong, một lúc sau mới quay đầu lại cau mày: “Biết sai rồi sao?”

Có lẽ vì tuyết đang rơi, cảnh vật yên tĩnh, hoặc cũng có thể do giọng nói của Tạ Trùng Tự thánh thót lanh lảnh, ở tận giữa hồ cũng nghe được rõ ràng.

“…”quận chúa An Vinh tuổi tác tương đương với Tạ Trùng Tự, cũng là một tiểu cô nương lanh lợi hoạt bát, nhưng lúc này đây nàng ấy đang cúi đầu, lí nhí nói câu gì đó, Tạ Trùng Tự nghe xong liền cau mày.

Lập tức lạnh lùng cất tiếng: “Muội cũng lắm lí lẽ nhỉ”.

Tạ Trùng Tự dùng tay gấp quạt lại, gõ nhẹ lên đầu quận chúa An Vinh, rồi nói tiếp: “Trong yến tiệc trưa nay, phụ hoàng chỉ vào Trần Mặc rồi dạy dỗ ta “xem người ta cầm kỳ thi họa xuất sắc biết bao”, ta còn không phản bác. Nàng ta làm gì muội mà muội lại đập đàn của người ta? Còn âm thầm ngáng chân người ta nữa?”

“… muội không nhìn nổi điệu bộ đó của nàng ta thôi” quận chúa An Vinh lẩm bẩm, bị vị đường tỷ mà mình yêu quý mắng, nàng ấy buồn đến mức phát khóc, “loại người như nàng ta, trước mặt mọi người ra sức thể hiện, chiếm trọn vinh quang, sau lưng lại nói xấu tỷ…”

Tạ Trùng Tự vỗ quạt vào lòng bàn tay, sau khi nghe hết lời của quận chúa An Vinh, thở dài một tiếng: “Nàng ta là người thế nào, nàng ta gây khó dễ cho ta thì liên quan gì tới muội? Hôm nay nàng ta khiêu khích muội sao? Đang yên đang lành lại đập vỡ đàn, muội nói xem việc này có đúng không? Hơn nữa, muội đi guốc trong bụng nàng ta sao mà biết nàng ta nói xấu ta? Chỉ là mấy lời đồn thổi vô căn cứ, nếu đó là giả thì không phải muội đã bắt nạt nàng ta sao? Cuối cùng…”

Tạ Trùng Tự dừng lại đôi chút, xoa đầu quận chúa An Vinh, nói: “Ta cũng đâu sống nhờ vào lời bàn tán của kẻ khác. Ta thế nào, ta ra sao thì phải do đích thân ta nói mới tính. Muội không bận lòng, kẻ khác cũng sẽ không có cớ đánh giá. Ta biết muội có ý tốt, nhưng lần sau đừng bốc đồng như thế nữa, hiểu chưa?”

Quận chúa An Vinh lúc này mới thôi nức nở, gật đầu nói: “… vậy muội đi xin lỗi nàng ta”.

Nàng ta ôm lấy cánh tay Tạ Trùng Tự, nở nụ cười hồn nhiên, cùng nhau rơi đi.

Tưởng Minh mải mê lắng nghe, lúc này mới hồi thần trở lại, nghe thấy Tạ Sách Đạo cười lớn, tâm tình như thể đã tốt lên nhiều, người bất đắc dĩ lắc đầu: “Nha đầu Trùng Trùng này bắt nạt hết người này tới người khác. Tưởng Minh, không phải năm ngoái ngươi còn nói với trẫm, quận chúa an Vinh không thích Trùng Trùng sao? Nhìn đi, không phải rất nghe lời sao?”

Tưởng Minh cười ha ha rồi nói: “Điện hạ giống người và nương nương, luôn công bằng với tất cả mọi người, đương nhiên sẽ được yêu mến”

Hắn vừa nói, vừa thay trà cho Tạ Sách Đạo, thuận tiện liếc qua bàn cờ thì kinh ngạc phát hiện, Tuyên Giác ban nãy còn chiếm thế thượng phong mà lúc này đã yếu thế đi.

Sau khi đổi xong trà, Tưởng Minh lại tỉ mỉ xem xét, hóa ra là do Tuyên Giác đã đi sai vài nước, tâm tư chàng có vẻ không ổn định, hồn đã bay đi đâu mất tiêu.

Tưởng Minh: “…”

Đánh thắng cờ thì không ổn lắm, nhưng cũng không thể lừa gạt bệ hạ vậy chứ!

May mà sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường.

Chàng im lặng quan sát thế cờ, suy ngẫm một hồi, rồi bày bố lại thế cục.

Vừa rồi chắc hẳn không để tâm vào ván cờ, nhưng có thể cứu vãn, cuối trận cầm hòa.

Chàng tính toán rất tốt, quân trắng và quân đen ngang nhau, không phân được thắng thua.

Tạ Sách Đạo cũng không để ý tới mấy nước cờ hỗn loạn vừa rồi của chàng, không mặn không nhạt khen ngợi vài câu, sau đó nở nụ cười đứng dậy, nói với Tưởng Minh: “Ha ha đi thôi, qua xem Trùng Trùng thế nào. Nha đầu này thế mà lại nhớ lời dạy của trẫm, lại còn mang ra để bắt nạt người ta. Tuyên Giác, ngươi đi làm việc của mình đi”.

“Cung tiễn bệ hạ” Tuyên Giác cung kính nói.

Sau khi Tạ Sách Đạo đi khỏi, Tuyên Giác nhìn lại bàn cờ một lúc, nhặt vài quân cờ lên, chậm rãi thở dài.

Quả nhiên không nên phân tâm.

Càng không nên…

Chàng đã hơi động lòng rồi.

Nhưng tiếng lòng của Thích Văn Lan ai nấy đều hiểu, khi cùng hắn nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.

Chàng không thể cướp người trong lòng của người khác được.

Chỉ đành tránh càng xa càng tốt vậy.

Cũng may mà chàng và nàng trước nay chưa từng qua lại.

… ngoại trừ Thích Văn Lan luôn miệng nhắc tới.

Có một lần Thích Văn Lan tìm chàng uống rượu, cuộc nói chuyện của văn nhân không thể tách khỏi bàn rượu, Tuyên Giác không từ chối, sau khi uống nửa vò rượu, cả hai đều ngà ngà say.

Thích Văn Lan bắt đầu lảm nhảm: “Trong Chuyết Chính Viên có rất nhiều động vật hoang dã. Hôm qua, ta tới đó thấy ở phía đông có ba con chim ưng, nhìn rất oai phong, móng vuốt sắc nhọn. Hỏi ra mới biết là Tạ Trùng Tự nuôi. Giỏi thật đấy, ta còn chẳng biết thuần phục chúng…”

“… đừng nói nữa” Tuyên Giác ấn tay lên mi tâm, hơi rượu bốc lên, chàng sắp say khướt rồi.

“Hả?” tên ngốc Thích Văn Lan không hiểu, “ngươi nói gì?”

“Ta nói, đừng nói nữa, Đừng nhắc tới nàng ấy, được không?” Tuyên Giác bỏ tay xuống, ánh mắt cố kiềm nén, “ta không muốn nghe”.

Thích Văn Lan gãi đầu: “Được được được, không nói, không nói nữa. Ngươi nói ta cũng phải ha, huynh đệ ra ngoài tụ tập mà cứ nhắc tới nữ nhân, ha ha ha, lần sau không nói nữa, Nào uống đi!”

Tuyên Giác vừa cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng cũng lại thấy mất mát, tiếc nuối, chàng thở dài một hơi.

Chàng chỉ muốn cách càng xa càng tốt thôi.

Nếu không, một khi tới gần, sẽ không nhịn được mà càng muốn tiến lại gần hơn.

Một khoảng thời gian về sau, chàng cố ý lạnh nhạt, giữ khoảng cách với Thích Văn Lan.

Chàng không hề biết chuyện Thích Văn Lan và Tạ Trùng Tự tới Giang Nam.

Do vậy, lúc chuẩn bị lên thuyền hoa, nhìn thấy Thích Văn Lan, Tuyên Giác hơi sững sờ, đến khi nhìn thấy Tạ Trùng Tự ăn vận như một công tử đứng bên cạnh, hô hấp của chàng như đình trệ, sau đó mới gật đầu chào hỏi.

Đã rất lâu rồi chưa gặp nàng ấy.

Như thể vì đã rời xa kinh thành, không cần chú ý các lễ tiết rườm rà, nên Tạ Trùng Tự thư thái hơn rất nhiều, cả người dựa lên quầy tính tiền, nghe thấy lời của chàng thì ngước mắt lên, vô cùng vui mừng, cười nói: “Vậy cảm ơn nhé”.

Tuyên Giác biết, có một người nữa cũng đang vui mừng, đó là chàng.

Chàng không nhịn được, dành cả một đêm trên thuyền cùng nàng, bằng không, với tính cách Tuyên Giác, nếu ngày hôm sau có việc, chàng sẽ không thức trắng đêm.

Khi nghe thấy Thích Văn Lan nói nàng trúng gió phát sốt, chàng vội vã chạy tới.

Thích Văn Lan quả thực rất lo lắng: “... mẹ ơi, nàng ta trúng gió độc, một hai năm gần đây cơ thể mới tốt lên, vậy mà lại bị trúng gió”.

Tuyên Giác không nói gì, chần chừ một lúc, cuối cùng vẫn bắt mạch cho nàng.

Đến khi nhìn thấy những vết thương dày đặc trên cổ tay nàng, chàng sững lại.

Những vết này đều là dấu răng, có lẽ nàng không nhịn nổi nên tự cắn tay mình.

Sinh ra trong hoàng gia, có rất nhiều chuyện thân bất do kỷ.

Cho dù Tạ Trùng Tự có được yêu chiều thì cũng sẽ gặp phải trắc trở, phong ba, cũng sẽ có lúc tuyệt vọng, không biết phải làm gì.

Ngón tay Tuyên Giác run lên nhưng vẫn trấn tĩnh bắt mạch cho nàng, tìm về ba bốn cung nữ, để bọn họ đưa Tạ Trùng Tự đi ngâm nước nóng cho ra mồ hôi, sau đó chàng canh giữ bên giường nàng cả đêm.

Chàng nghĩ, mình cần phải che dấu đi trái tim mình.

Chàng che giấu được một tháng, qua trung thu, ở Xuân Oanh Đề Hiểu, Thích Văn Lan đã trông thấy bức họa đó.

Khi đó Thích Văn Lan chỉ cúi đầu, không nói năng gì, nhưng ngày hôm sau liền tìm tới cửa, hắn hất tung cả bàn: “Ngươi có ý gì?”

Lúc đó, Tuyên Giác vẫn chưa chỉnh đốn lại mạch suy nghĩ, chàng ấn lên lông mày, không dám nói quá nhiều, cũng không dám phủ nhận, chỉ nói: “Như ngươi đã thấy”.

Không ngờ, sắc mặt của kẻ trước nay không làm sáng tỏ sẽ không bỏ cuộc như Thích Văn Lan lại biến đổi liên tục, không hiểu hắn nhớ tới điều gì, sau khi thốt ra vài câu khó nghe liền rời đi. Với tính khí của hắn, đây đã coi như quá dễ nói chuyện rồi.

Lần tiếp theo gặp lại Thích Văn Lan, hắn tới cướp ngục cứu chàng ra.

Thực lòng mà nói, hồi ức về những tháng ngày đó đã phai mờ trong tâm trí Tuyên Giác, giống như một giấc mộng hỗn loạn, rời rạc.

Chàng chỉ còn nhớ, gió tuyết đêm đó lạnh thấu xương, ác liệt dày vò chàng.

Tiếng gió bắc rít bên tai như thể tiếc than khóc của những linh hồn.

Tạ Sách Đạo ngồi ở trên cao, ngạo nghễ quyết định số phận của Tuyên gia, bố thí cho chàng một mạng.

Đêm đó… đã trở thành cơn ác mộng ám ảnh chàng.

Ám ảnh tới nỗi, sau này mỗi khi mơ thấy nó, chàng đều giật mình tỉnh giấc giữa đêm.

Sau khi tỉnh dậy, thấy người bên cạnh đang thở đều đều, lông mi khẽ động, dưới ánh trăng, nàng xa vời không chút chân thật.

Tuyên Giác nhìn bức thư được gấp lại, kẹp trong cuốn sách trên bàn.

Bên trong viết tất cả chân tướng về vụ án của Tuyên gia.

Cục diện chính trị của đại Tề hỗn loạn, đương kim hoàng thượng và thái tử đều độc đoán, tàn bạo như nhau, khiến bách tính phẫn nộ, người đời chỉ trích.

Tự nhiên sẽ có kẻ giang tay, muốn hợp tác cùng vị phò mã có cùng chung kẻ thù là chàng.

Phong ba đã âm thầm nổi lên từ lâu.

Tuyên Giác thu hồi ánh mắt, trong lòng chất chứa một mớ hỗn độn, chàng cúi đầu, hôn lên đôi mắt đang ngắm nghiền của Tạ Trùng Tự.

Công bằng mà nói, chàng không có hảo cảm với cha con Tạ Sách Đạo và Tạ Trị.

Bắt tay cùng những kẻ có dã tâm, âm thầm giúp đỡ chúng chiếm đoạt ngai vàng, mượn tay chúng giết người, Tuyên Giác chẳng hề có chút nao núng.

Trên thực tế, đây là một cuộc làm ăn có lãi. Vừa không phải lộ diện nhưng vẫn có thể báo thù.

Thân thế bi thảm của chàng, tính mạng của một trăm ba mươi hai người của Tuyên gia là sự bảo đảm tốt nhất.

Nhưng Tạ Trùng Tự sẽ không giữ nổi mạng nữa.

Trùng Trùng của chàng là người thông tuệ biết bao.

Có vị tân đế nào dám giữ lại mạng cho một vị công chúa tiền triều như nàng?

Trừ khi, người đăng cơ… là chàng.

Mưu kế cho dù được dàn dựng tỉ mỉ tới mấy, vẫn không cản được nàng xông vào cung, Tạ Trùng Tự thấy đôi tay đẫm máu của chàng.

Đôi mắt hạnh của nàng kinh hoàng tột độ.

Không biết vì sao, Tuyên Giác chợt nhớ tới ngày đó trên đường Chu Tước, đoàn xa giá hùng hậu nghênh đón công chúa trở lại kinh thành.

Cũng là một ngày xuân như hôm nay.

Dưới lớp màn che, đôi mắt nàng như phủ lớp sương mù, lung linh tuyệt sắc.

Còn hôm nay, đôi mắt ấy ướt đẫm lệ.

“Điện hạ, đừng nhìn hắn” Tuyên Giác thở dài rồi nói, “hãy nhìn ta”.

Nhìn ta.

Trùng Trùng.

Nàng hãy nhìn ta, được không?

Đừng nhìn Tạ Trị nữa.

Hắn… hoàng huynh của nàng, ca ca của nàng, đã bị ta g**t ch*t rồi.

Nàng càng nhìn, sẽ càng hận ta thôi.

Cho tới hôm nay, Tuyên Giác mới biết…

Mọi chuyện không thể nào trở lại được nữa.

Bất luận là lần đầu gặp gỡ trên phố, hay hội săn mùa thu, mùa đông bên hồ, hay Giang Nam mưa đổ, hoặc ngay cả tháng ngày hạnh phúc sau thành hôn, bẻ cành cắm hoa, họa mày tấu nhạc…

Đều không thể trở lại được.

Tất cả như biến thành giấc mộng đã xa cách nhiều đời.

Tỉnh mộng, khắp nơi đều có hoa rơi, không ai đón lấy.
 
Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 7: Ngoại truyện 2: Hội thanh đàm


Ngoại truyện 2: Hội thanh đàm.

Cái gọi là hội thanh đàm, chính là ngồi đàm luận về các học thuyết của Trang Tử.

Nói trắng ra thì là xem bói, mọi người cùng ngồi xuống nói chuyện cả ngày.

Tạ Trùng Tự trước nay vốn coi thường những thứ giả thần giả quỷ, năm đó nàng tới Quỷ Cốc trị bệnh, ở đó cũng có đệ tử giỏi bói toán.

Trên lưng nàng cắm đầy kim châm, thấy Giang Châu Ti đang lắc xu đồng trong mai rùa, cắn răng nói: “Sư tỷ, cho dù tỷ có giỏi bói toán thì cũng đâu hữu ích bằng việc châm kim đúng chỗ? Lần tới tỷ có thể tìm đúng huyệt vị cho ta không?”

Giang Châu Ti là một nữ tử lạnh lùng thoát tục, lúc nào cũng mặc đồ trắng, cảm giác như trong phút chốc có thể bị gió cuốn bay, nghe xong tỷ ấy liền nói: “Ta sẽ tận lực, quẻ nói, tháng sau muội sẽ tốt lên”.

Tạ Trùng Tự: “...”

Nhưng một năm sau, Tạ Trùng Tự vẫn phải châm cứu, mỗi một kim Giang Châu Ti đều phải châm ít nhất ba bốn lần.

Kể từ đó, Tạ Trùng Tự ghét cay ghét đắng trò bói toán lừa đảo này.

Có điều, nàng không ngờ tới, sẽ có một ngày, nàng tới tham dự hội thanh đàm.

Nàng đến để gặp Tuyên Giác.

Mùa thu, lá rơi xào xạc, lá phong đỏ rực như lửa, người tới chùa Hàn Sơn chật như nêm.

Ngoại trừ những người tới hành hương lễ Phật, còn có các quý nhân trong kinh thành, tới tham dự hội thanh đàm nữa.

Đất Phật linh thiêng, mọi người đều ăn vận mộc mạc. Vì để giữ hình tượng trong lòng ai đó, Tạ Trùng Tự không dám ăn mặc sặc sỡ, chỉ mặc một bộ váy áo vàng nhạt, trên búi tóc cũng chỉ cài trâm ngọc thôi.

So với màu đỏ và màu tím nàng thường mặc thì khác một trời một vực.

Nàng mang theo thị nữ là Diệp Trúc, thậm chí nàng còn không cưỡi ngựa mà ngồi xe tới.

Xe ngựa của hoàng gia dừng lại dưới chân núi, Diệp Trúc hoang mang trước sự khác thường của Tạ Trùng Tự, vén rèm ra khỏi xe, lấy ghế đẩu.

Không đợi nàng ta đỡ mình, Tạ Trùng Tự nhẹ nhàng nhảy phắt xuống, nhảy bay qua cả cái ghế đẩu, đững vững trên mặt đất. Không hề nhẫn nại trước mấy lễ tiết rườm rà kia.

Diệp Trúc: “...”

Điện hạ, sao người phải làm khổ bản thân như vậy chứ.

Lên tới nơi đã thấy có lác đác hai ba người đang nói chuyện. Cũng có người đang chơi cờ, người xem vây quanh rất đông.

Tạ Trùng Tự nhìn trái nhìn phải, chưa thấy người muốn gặp đâu, thế là nàng nhấc váy đi qua cổng chùa, đi lòng vòng ngắm nghía.

Diệp Trúc bám theo sau nàng, thì thầm: “Điện hạ, chúng ta đi vào sâu quá, quay lại thôi”.

Hơn nữa, cho dù người không vào điện bái lạy, thì ít nhất cũng nên tỏ ra tôn kính chút chứ!

Trong mắt Tạ Trùng Tự tràn đầy sự hiếu kì, vừa đi đường vừa nhìn ngó đánh giá, nói: “Ngọn núi này không lớn vậy mà chùa lại to nhỉ”.

Không biết qua bao lâu, hai người đi vào một sảnh phụ.

Nơi này như được xây cất đã lâu, trên tường đỏ loang lổ rêu xanh, phần mái màu vàng cũng đã hư hại. Nhưng tượng Phật bên trong lại rất trang nghiêm, bảo tướng hoa sáng chói, Phật Tổ cầm hoa cúi đầu, thần thái phúc hậu, nhìn xuống muốn dân.

Tạ Trùng Tự nhìn tượng Phật một lúc, khi chuẩn bị rời đi, nghe thấy tiếng một cụ ông hiền từ vang lên: “Thí chủ không ngồi một chút sao?”

Lúc này, nàng mới phát hiện, ở nơi góc tường có hai cái đệm hương bồ, một chiếc bàn gỗ, trên bàn là một ván cờ đang chơi dở.

Một lão hòa thượng mặc áo cà sa đang ngồi tự chơi cờ một mình.

Vì một vài nguyên nhân, gần đây Tạ Trùng Tự khá có hứng thú với cờ, nàng không nghĩ ngợi gì mà bước tới.

Ngồi đối diện lão hòa thượng, gật đầu nói: “Đa tạ đại sư đã có lời mời”.

Nàng chỉ định xem cờ, nhưng lão hòa thượng lại đẩy hộp cờ quân đen tới cạnh. Tạ Trùng Tự sững lại, cầm quân cờ lên.

Lão hòa thượng vừa hạ cờ, vừa nói: “Hôm nay nghe tiếng chim hỉ tước hót vang, quả nhiên có quý nhân tới. Lần trước gặp điện hạ, là khi người ba tuổi, thoắt một cái nhiều năm đã trôi qua, ngày tháng trôi thật nhanh!”

Cơ thể Tạ Trùng Tự cứng lại.

Chùa Hàn Sơn là quốc tự, phụ hoàng đã không ít lần nhờ tăng nhân reo quẻ giúp nàng.

Nghe đồn năm mười hai tuổi nàng sẽ gặp nạn, không sống sót được.

Lời đồn đó cũng từ chùa Hàn Sơn mà ra.

Nghĩ tới điều này, ánh mắt Tạ Trùng Tự chớp mắt liền biến đổi.

Lão hòa thượng không để ý, cố tìm chủ đề để nói chuyện cùng nàng, nước cờ trên tay chặt chẽ không chút sơ hở.

Tạ Trùng Tự là người nghĩ tới đâu đánh tới đó, hoàn toàn không phải đối thủ của ông.

“Ta thua rồi” Tạ Trùng Tự cũng chẳng buồn, tính cách nàng vốn vui tươi, đặt hai con cờ vào góc phải bàn cờ nhận thua.

Lão hòa thượng cười ha ha nói: “Điện hạ chơi không tồi. Ở tuổi như người, rất ít người có thể chơi quá nửa ván với ta. Còn đánh thắng được ta thì chỉ có tên tiểu tử của Tuyên gia đó”.

“Hả?” Tạ Trùng Tự bỗng hứng chí bừng bừng, “Tuyên Ly Ngọc sao?”

“Là hắn”

Tạ Trùng Tự thấy lão hòa thượng dọn cờ, mở miệng thương lượng: “Đại sư, người có thể xếp lại thế cục của ván cờ đó cho ta xem không? Ván cờ mà chàng thắng người đó”.

“...” Lão hòa thượng không biết nói sao, “bần tăng cũng cần giữ thể diện chứ”.

“Thế ván mà chàng thua người cũng được”

Lão hòa thượng: “...”

Ông ấy hiếm khi rảnh rỗi, âm thầm tới đây chơi cờ, không ngờ lại bị người ta yêu cầu phục bàn.

Lại còn bắt gặp tình yêu tràn đầy sức sống của những người trẻ tuổi nữa, thật ưu sầu!

Có điều, thấy Tạ Trùng Tự quá háo hức, lão hòa thượng nói: “Thí chủ có thể đi hỏi Tuyên công tử, trí nhớ của hắn tốt, nhớ được. Bần tăng ngay cả ván cờ vừa chơi còn quên sạch rồi đây”

Tạ Trùng Tự ngượng nghịu, thở dài một hơi: “Ôi đành thôi vậy... ta xin cáo từ trước, hội thanh đàm sắp bắt đầu rồi”

“Không cần vội vã như vậy, lão già ta cũng cần ra đó để chủ trì, chúng ta có thể đi cùng nhau” lão hòa thượng vuốt chòm râu trắng, cầm lấy cây quyền trượng của trụ trì, vừa đứng dậy, vừa chậm rãi hỏi vài câu hỏi mà thi thoảng lại xuất hiện trong hội thanh đàm, “thí chủ có tin vào số mệnh không?”

Tạ Trùng Tự tỏ ra vô cùng tôn kính, ngồi quỳ trên đệm hương bồ, đầu gục xuống, nhưng nàng vẫn giữ nguyên suy nghĩ trước đây: “Nếu ta tin, vậy thì ta đã chết lâu rồi. Trụ trì, không giấu gì người, tính mạng của ta được nhặt về từ quỷ môn quan, không phải do trời ban, cũng không phải được vận mệnh trao tặng, là ta cùng những người xung quanh gắng sức cướp về. Vận mệnh nói ta không sống quá mười hai, nhưng không phải ta vẫn sống tới tận bây giờ sao. Người nói ta phải tin thế nào?”

Lão hòa thượng nói: “Thiện tai”

Rồi tiếp tục cất tiếng: “Vậy nếu số mệnh không có duyên, cũng phải đoạt được sao?”

Tạ Trùng Tự ngẩng phắt lên, nàng luôn cảm thấy vị sư này đang ám chỉ gì đó, nhưng lại không tìm ra manh mối, chỉ có thể cau mày nói: “Đại sư nặng lời rồi. Thành sự tại thiên, nhưng mưu sự tại nhân, không đến mức phải cướp về, chỉ cần không thẹn với lòng, về sau không hối hận là được”

Sau này, Tạ Trùng Tự mới biết, duyên phận cưỡng cầu không chỉ nói tới cướp đoạt, mà còn ám chỉ nhân duyên bị ngăn cách bởi thâm thù đại hận, nhưng hai người vẫn gắng sức để bên nhau.

Lúc đó, nàng cũng mới tỉnh ngộ, cái gọi là không thẹn với lòng, hay về sau không hối hận đều quá mệt mỏi, quá mệt mỏi.

Đến khi kiệt sức, chỉ muốn lìa xa nhau.

Nhưng lúc này, lời của lão hòa thượng khiến Tạ Trùng Tự cảm thấy bị xúc phạm.

Nàng đâu có cướp đoạt công tử nhà lành! Cũng không ban thánh chỉ bắt Tuyên Giác trở thành phò mã! Nàng vẫn đang bồi dưỡng tình cảm đó thôi!

Vậy nên, Tạ Trùng Tự đứng dậy, cúi đầu một cái rồi cứ thế đi thẳng, không đợi lão hòa thượng.

Nàng không nhìn thấy, lão trụ trì quay đầu nhìn về tượng Phật tôn nghiêm, như cười, như thương xót, như than thở, cất tiếng: “Người cũng cảm thấy hồng trần quá khó đi phải không? Hai đứa trẻ này liệu có hái được trái ngọt không đây?”

Lần trước, Tuyên Giác tới, tâm trạng bất ổn, lão hòa thượng vừa nhìn liền biết chàng có tâm sự, ông hỏi bóng hỏi gió vài câu, đoán ra tình hình.

Quẻ mà ngày đó ông xem được, là đại hung.

Hôm nay, Tạ Trùng Tự tới rồi rời đi, lão hòa thượng do dự một lát, sau đó bốc lại quẻ cho hai người, khi lắc quẻ, một cái trong số đó là tốt.

Một cái khác thì xoay tròn rồi rơi xuống bên đệm, dựng đứng lên. Không tốt, cũng chẳng xấu.

Lão hòa thượng: “...”

Ông ấy sững lại.

Đây là ý gì?

Lúc ngẩng đầu, lại nhìn thấy gương mặt vẫn từ bi hỉ xả của Phật Tổ. Ông bỗng mỉm cười.

Thôi vậy, xem ra các vị trên cao coi như vẫn để đôi uyên ương này một đường sống.

Tạ Trùng Tự rảo bước rời khỏi các bức tường trùng điệp trong chùa, Diệp Trúc chạy bước nhỏ theo sau, nhỏ giọng kiến nghị: “Điện hạ, sao vừa rồi người không đợi trụ trì đại sư? Lát nữa gặp lại không phải sẽ lúng túng lắm sao”.

Tạ Trùng Tự lạnh mặt: “Ừ”

Bỗng, hai mắt nàng sáng lên, nhấc váy chạy nhào về phía trước, Diệp Trúc thở không ra hơi: “Điện hạ, người chậm...”

Diệp Trúc chưa nói hết câu, liền thấy điện hạ nhà mình đang nở một nụ cười rạng rỡ, đứng im trước mặt chàng thiếu niên vừa lên tới nơi.

Chàng trai đó lưng cõng theo cây cổ cầm, đi một mình, tua rua của miếng ngọc bội gắn trên cây đàn bay phất phơ trong gió.

Diệp Trúc chưa từng gặp Tuyên Giác, nhưng âm thầm đoán ra được người tới là ai.

Quả nhiên, trong chớp mắt, Tạ Trùng Tự chắp tay ra sau, ngón tay xoắn chặt, trên mặt không để lộ chút căng thẳng nào, nàng cười nói: “Ly Ngọc, chàng tới rồi sao?”

Rặng phong đỏ bị gió thổi tung, lá rơi xào xạc.

Có một phiến lá bập bềnh bay xuống, đậu trên mái tóc của Tạ Trùng Tự. Tô điểm cho dáng vẻ tao nhã trở nên kiều diễm.

Đôi mắt Tuyên Giác khẽ rung lên, chàng giúp nàng gạt chiếc lá đó ra, sau đó gật đầu nói: “Ừ”.
 
Back
Top Bottom