Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 120


《 28.4 》

Bên ngoài lều chủ soái Hổ Sư loạn hết cả lên, vài binh sĩ lớn tuổi quen với tập tính của chiến mã vây quanh Y Vân, nhôn nhao xào xáo trao đổi, nhằm đưa ra phương hướng cấp cứu. Tạ Cánh liên tục v**t v* lông bờm của Y Vân, tựa trán lên đầu nó, nhưng dù y có lay động cỡ nào, Y Vân cũng không mở cặp mắt ươn ướt, ôn hòa của nó ra để giao tiếp, thân mật cùng y nữa.

Thời gian dần trôi, ai nấy đều biết đã không còn cách xoay chuyển nữa, tiếng ồn dừng bặt, mọi người đều nhìn về một hướng, bầu không khí tràn ngập nỗi đau buồn khó tả.

Mãi lâu sau, Tạ Cánh khàn giọng hỏi: "Các ngươi sẽ giải quyết nó như thế nào?"

Ban đầu không ai dám đáp lời, hồi lâu mới có một vị tướng quân lên tiếng: "Theo lệ, quân mã chết trận đều sẽ được chôn ngay tại chỗ."

Nghe xong, Tạ Cánh thẫn thờ hỏi dồn: "... Ngay tại chỗ, là chôn ở đâu? Ngươi nói là phải chôn nó ở nơi này? Bên ngoài quan ải Ung Châu, nơi núi tuyết trùng điệp này, hay là bên dưới tường thành?"

Hiển nhiên vị tướng quân nọ đã sớm hiểu được suy nghĩ của y, không đành lòng đáp: "Tuy rằng vào đông trời lạnh, nhưng xác chết cũng không thể giữ được cho đến khi tới bờ Trường Giang, đưa về Kim Lăng... gần như là không có khả năng, kính mong người... Nén đau thương."

Tạ Cánh vẫn ngồi yên tại chỗ, cơ thể của Y Vân dường như đã hòa làm một với đất trời mịt mù tuyết trắng, đây là một nàng ngựa mạnh mẽ, xinh đẹp mà lại thanh thoát lạ kỳ. Nhưng dù có xuất chúng đến đâu thì nó cũng chỉ là một con ngựa bằng xương bằng thịt, không biết thông linh, chẳng thể đoán thiên cơ, càng không thể biết trước được rằng Lục Lệnh Tùng sẽ gặp đại nạn ở nơi này.

Chỉ là nó quá hiểu lòng người, quá quen thuộc với những người thân của mình mà thôi. Nhìn thấy được nỗi đau buồn của Lục Lệnh Tùng, nó đoán rằng Lục Lệnh Chân đã lâu chưa đến thăm mình thật sự sẽ không bao giờ quay về nữa; nhìn thấy tướng sĩ Hổ Sư đến chuồng chọn ngựa chiến, nó biết rằng lại sắp có chiến sự xảy ra; nhìn thấy anh em Lục Thư Thanh cả ngày ủ rũ, nó hiểu rằng người sắp ra trận chính là Lục Lệnh Tùng, hiểu rằng họ đang lo cho cha mình; nó sốt ruột chờ Tạ Cánh lên đường đến Ung châu, bởi vì chỉ có Tạ Cánh mới đủ tư cách mang theo chiếc áo choàng thấm đẫm mùi hương của Lục Lệnh Tùng, cho nó cơ hội lần theo dấu vết, không mảy may chùn bước đi tìm chủ nhân đã làm bạn cùng nó suốt hai mươi năm...

Không rõ đã qua bao lâu, Tạ Cánh lau vết máu đỏ còn vương trên khoé môi, đứng dậy, từ chối sự giúp đỡ của anh em họ Từ đang định bước tới, rồi loạng choạng bước về phía lều chủ.

Quân y đã đút canh sâm cho Lục Lệnh Tùng, kiểm tra sơ lược, không phát hiện vết thương nặng ngoài da, hơi thở của hắn cũng dần ổn định lại, bấy giờ trong lều mới có thể tạm thời thở phào nhẹ nhõm.

Tạ Cánh vẫn luôn túc trực cạnh bên, lúc này y quay sang, dặn dò Từ Giáp: "Các cậu mau chóng chuẩn bị xe ngựa và hành lý đi. Chờ thêm một hai ngày nữa, đợi khi tình hình của hắn ổn định, chúng ta sẽ lập tức lên đường về kinh."

Các thuộc hạ và quân y không dám tự tiện chạm vào thiên tử, được Tạ Cánh cho phép, họ mới dỡ áo giáp và quần áo của Lục Lệnh Tùng ra. Song khi cởi đến lớp áo lót trong cùng, tay của quân y bỗng khựng lại, anh ta trợn mắt, rồi cứ thế bất động, chẳng biết đã nhìn thấy gì.

Lòng Tạ Cánh bỗng chốc thắt lại, nhưng sợ vướng víu công việc của họ, y không dám đứng gần, vậy nên nhất thời không rõ tình huống bên đó.

Quân y nhìn mấy vị tướng quân một hồi, đôi bên mắt to đấu mắt nhỏ, ai nấy đều ngạc nhiên, rồi lại quay đầu, nhìn Tạ Cánh, rặt vẻ muốn nói mà không dám nói.

"Sao thế?" Tạ Cánh nóng ruột thốt lên: "Nói đi!"

Tinh thần của Tạ Cánh hãy còn đang mơ hồ, liếc qua bên kia, thấy trên áo là hai màu đỏ trắng hỗn độn, y chợt cảm thấy hoa mắt chóng mặt, sợ hãi cho rằng Lục Lệnh Tùng đã bị thương nặng. Nhưng đến khi chiếc áo lót đến tay, nhìn kỹ rồi, y mới giật mình phát hiện, trên áo tuy có vết máu, nhưng lại không chỉ là máu.

Y như bị sét đánh, lẩm bẩm: "Cái này là..."

Quân y thật thà cất giọng: "Bẩm hoàng hậu, đây là bút tích của bệ hạ."

Hai tiếng kia vừa thốt ra, trong lều tức thì bùng nổ, tiếng bàn tán vang lên tứ phía. Dù địa vị chủ mẫu của Tạ Cánh trong Hổ Sư xưa nay gần như chưa từng bị lay chuyển, nhưng "Vương phi" và "Hoàng hậu" là hai danh phận hoàn toàn khác biệt, có liên quan đến triều đình và quốc sự cách đây ngàn dặm, đặc biệt là vào thời điểm sống chết của Lục Lệnh Tùng còn chưa thể đoán định.

Tay Tạ Cánh mềm nhũn, chậm rãi giũ lớp vải ra, trải phẳng lên bàn. Mọi người lập tức vây lại xem, nhận ra kia rõ ràng là một thánh chỉ, lấy ngón tay làm bút, lấy máu làm mực, lấy vải làm giấy, biến nó thành một dụ lệnh sắc phong Hoàng hậu:

"Ứng thiên thuận thời, tỏ mệnh thiên thanh ban chiếu.

Con trai Tạ Văn Giới Công ở Trần Lưu – Tạ Cánh tự thuở bé đã luôn ở bên trẫm như hình với bóng, sớm tối chẳng rời; xét theo luân lý là vợ chồng, về tình nghĩa là tri kỷ tâm giao; ngày còn ở tiềm để, khanh hầu hạ bên trẫm, an ủi lòng trẫm khi còn chưa hiển đạt. Chẳng ngờ gặp cảnh tang loạn, loan phượng ly tán, ba năm phiêu bạt bụi trần bám thân, hèn mọn cúi mình dưới cửa kẻ nịnh. Giờ đây Trường Thu trống trải, Đông cung ngóng chờ, lòng trẫm vẫn hằng thương nhớ, chẳng phút giây nào dám quên.

Vì lẽ ấy, nay trẫm cao chiếu thiên hạ, ban cho khanh tỷ thụ Hoàng hậu, đáp lại lời hứa của trẫm ngày ấy, cũng phần nào vơi đi nỗi thẹn lòng vì năm đó đã ruồng bỏ, khâm thử."

Trong lều yên tĩnh hồi lâu, chẳng biết là vị nào đã lấy lại tinh thần trước, bắt giọng, chúng tướng sĩ, y quan vội vàng quỳ xuống khấu đầu, đồng thanh hô lên "Thiên tuế."

Dường như Tạ Cánh hoàn toàn không nghe thấy gì, chỉ ngẩn người đọc đi đọc lại chiếu chỉ được viết bằng máu ấy, hồi lâu chẳng thốt nổi nên lời. Rõ ràng Lục Lệnh Tùng đã viết những dòng này trong hoàn cảnh vô cùng vội vã, nét chữ nguệch ngoạc lộn xộn, có mấy chữ khó lòng nhận ra, chỉ có thể dựa vào ngữ nghĩa và hình dạng mà đoán ý.

Y nhỏ giọng tự hỏi: "Lục Tử Phụng... rốt cuộc là anh có ý gì đây, hả?"

Mọi người chỉ thấy Tạ Cánh bất chợt chạy tới bên giường, định vươn tay chạm vào Lục Lệnh Tùng, lại sợ chạm trúng chỗ bị thương, cuối cùng đành tuyệt vọng ôm lấy khuôn mặt hắn.

"Anh lại định làm gì nữa đây? Viết những lời này..." Giọng Tạ Cánh nghẹn lại, song vẫn run rẩy nói tiếp, "Viết những lời thâm tình da diết này, sống cùng giường chôn cùng huyệt để làm gì chứ? Anh đã tính sẵn trong lòng rằng sẽ gặp em dưới suối vàng, cả kiếp sau, kiếp nữa cũng trói em ở bên cạnh anh đúng chứ? Anh đang để lại di chiếu cho em đấy sao!?"

Đám người xung quanh thấy tình hình mất kiểm soát, bèn vội vàng tiến lên khuyên nhủ Tạ Cánh, muốn đưa y rời khỏi giường. Lý Kỳ cũng trầm giọng nói: "Hoàng hậu hãy giữ gìn sức khỏe, ở đây còn cần người chủ trì đại cục, tuyệt đối đừng để đau buồn khiến tinh thần rối loạn!"

Từ đầu đến cuối, Lục Lệnh Tùng vẫn chỉ nhắm nghiền mắt lại, tựa như đang ngủ say, hoàn toàn không cho Tạ Cánh lấy một lời giải thích.

Mấy ngày sau, Kim Lăng.

Giữa đêm đông rét mướt, cỏ cây xác xơ tiêu điều, Thương Long môn phía Đông cung Thái Sơ mở ra rồi đóng lại, một cỗ xe ngựa chậm rãi lăn bánh vào trong bóng tối, lặng lẽ dừng lại trước điện Thần Long. Không bao lâu sau, Ngân Trù và Tần viện phán dẫn theo một nhóm thái y đã tập trung đầy đủ ở hậu điện.

Chuyện chiếc áo thấm máu mang theo thánh chỉ của Lục Lệnh Tùng đã truyền khắp kinh thành, người ngoài không rõ nội tình, chỉ cho rằng thánh ý khó dò, nhưng dẫu sao áo chẳng áo nào bằng áo mới, người chẳng ai quý bằng người xưa, bệ hạ chinh chiến nơi xa, nhớ nhung vợ cả âu cũng chẳng phải điều gì lạ kì.

Ngân Trù vẫn luôn ở trong cung chăm sóc Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, đã sớm nhận thư của Tạ Cánh, biết được tình hình nên cũng không vội đi gặp Lục Lệnh Tùng. Cô chỉ nhẹ nhàng kéo cổ tay Tạ Cánh lại, bắt mạch cho y: "Tôi nghe nói Hoàng hậu đã đưa bệ hạ từ trong trận tuyết lớn trở về, trời lạnh như vậy, có cảm sốt gì hay không?"

Tạ Cánh lắc đầu: "May mắn là không, có lẽ nhờ mặc đủ ấm. Nhưng ta... buồn vì Y Vân đã chết, nên có nôn một ngụm máu."

Sắc mặt Ngân Trù thoáng lộ vẻ xót xa, cô thở dài một tiếng: "Mạch tượng không có gì bất thường, hẳn là do quá đau buồn nên nộ khí công tâm, cũng không mấy nghiêm trọng. Chỉ là Hoàng hậu nhất định phải chăm sóc bản thân cẩn thận, cho dù trong lòng lo cho bệ hạ và bọn trẻ, thì cũng cần phải dưỡng sức thật tốt."

Tạ Cánh đồng ý, lại hỏi Ngân Trù vài câu về tình hình của các con rồi mới để cô quay về nghỉ ngơi. Không lâu sau đó, cung nhân tới mời y vào hậu điện. Tần Viện phán bước ra hành lễ, thưa: "Thần đã xem qua, bệ hạ còn trẻ, xưa nay vốn khỏe mạnh, vết thương ngoài da chừng mười ngày nửa tháng sẽ lành. Chỉ là mấy ngày bôn ba giữa trời tuyết, thể lực tiêu hao quá mức, hàn khí xâm nhập vào cơ thể, ứ động trong ngũ tạng, vì thế mới hôn mê mãi chưa tỉnh."

Trong điện nồng nặc mùi thuốc, Tạ Cánh đứng cách vài bước, nhìn về phía Lục Lệnh Tùng đang nằm trên giường, hỏi: "Bao giờ mới tỉnh lại được?"

Tần Viện phán do dự chốc lát, rốt cuộc vẫn nói thẳng: "Thần đã kê thuốc điều trị hằng ngày cho bệ hạ, vết thương thể xác thì không khó lành. Chỉ là... nếu bệ hạ có tâm bệnh, không đủ ý chí sống, thì dù cho có linh đan diệu dược cũng chẳng ích gì."

Tạ Cánh nghe xong cũng không tỏ rõ thái độ, chỉ nói: "Làm phiền Tần Thái y chăm sóc bệ hạ thêm một lúc, ta còn chút việc cần dặn dò, sẽ quay lại ngay."

Y thay chiếc áo khoác phủ đầy bụi tuyết, vừa đi về phía chính điện, vừa dặn tùy tùng theo hầu: "Đừng quấy rầy Thái hậu và công chúa, hãy đến Đông cung gọi Thanh Nhi dậy, dẫn nó đến tiền điện gặp ta."

Lục Thư Thanh vừa lên giường nằm một lúc, còn chưa say giấc đã bị cung nhân đánh thức, đối phương thì thầm vào tai cậu: "Bệ hạ và Hoàng hậu vừa về cung, điện Thần Long truyền chỉ, mời điện hạ nhanh chóng sang đó một chuyến."

"Hoàng hậu gì cơ?" Lục Thư Thanh nhanh chóng tỉnh táo, chau mày hỏi.

Cung nhân ấp úng: "... Tạ hoàng hậu."

Lục Thư Thanh sững người. Cách đây vài ngày Tạ Tuấn bỗng dưng về kinh, cậu hỏi thăm tình hình của mẹ, anh họ chỉ nói "Còn vài việc lặt vặt, sẽ ở lại quận Trần thêm ít lâu". Nhưng hôm nay, người mẹ vốn nên còn ở quê cũ bỗng trở về cung cùng người cha đang ở Ung Châu xa xôi, nhất định là có liên quan không ít đến chuyện này.

Cậu không kịp chải chuốt rửa mặt, vội vàng khoác áo chạy ra khỏi Đông cung. Điện Thần Long không thắp nhiều đèn, vô cùng yên tĩnh, chẳng nhìn ra được dấu hiệu nào cho thấy thiên tử đã trở về, nghĩ có lẽ tình thế nguy cấp, vậy nên mới hành động trong âm thầm, giữ chuyện kĩn kẽ không công bố rộng rãi.

Bên ngoài chính điện, hai hàng nội giám đứng chắp tay, lặng lẽ đẩy mở cánh cửa đồng nặng nề.

Lục Thư Thanh lập tức nhìn thấy bóng lưng gầy gò thẳng tắp của Tạ Cánh ở giữa điện, nhưng vì e ngại tai vách mạch dừng, cậu chỉ có thể cúi người hành lễ trước: "Mẫu hậu."

Tạ Cánh ngoảnh đầu nhìn lại, đôi mắt ẩn trong bóng tối không nhìn rõ biểu cảm. Y cất cao giọng nói: "Tất cả lui xuống đi. Đêm nay, nếu chưa được bổn cung cho phép, bất kỳ ai tự tiện đến gần điện Thần Long đều giết không tha."

Bên ngoài đồng loạt vang lên tiếng đáp cung kính, cửa điện khép lại, các nội giám lặng lẽ lui đi.

Lục Thư Thanh lập tức chạy nhào đến trước mặt mẹ cậu: "Mẹ, cha mẹ về từ khi nào? Cha đâu ạ? Người bị thương rồi sao? Con muốn đến gặp cha một chút!"

Tạ Cánh chỉ bình tĩnh nhìn cậu: "Nghe này, Thanh Nhi, con không cần phải gặp cha. Nếu muốn gặp, đến lúc cần gặp con sẽ được gặp thôi."

Lục Thư Thanh khẽ giật mình, nhìn y bằng ánh mắt khó hiểu, còn chưa kịp suy nghĩ xem những lời này ẩn chứa điều gì, cổ tay cậu đã bị Tạ Cánh tóm lấy, mẹ gần như kéo cậu đi về phía ngự tọa.

Ngọc tỷ trơn bóng không tỳ vết, tỏa ra vầng sáng lấp lánh đang lẳng lặng nằm trên mặt bàn trước long ỷ.

Tạ Cánh đứng phía sau, bóp chặt lấy bả vai Lục Thư Thanh, chỉ Hòa Thị Bích cho cậu, run rẩy cất giọng: "Con có nhìn thấy không? Thanh Nhi, đây là ngọc tỷ truyền quốc, thứ mà không một ai có thể làm giả được, nó là Hòa Thị Bích khiến Biện Hòa khuất nhục, chịu hình phạt chặt chân; là Hòa Thị Bích không một vết xước được Lạn Tương Như đưa về nước Triệu; là Hòa Thị Bích được Tần Thủy Hoàng khắc thành ngọc tỷ thụ mệnh; là Hòa Thị Bích từng khiến quần hùng thời mạt Hán tranh giành, chính là Hòa Thị Bích đấy!"

Y nắm lấy tay Lục Thư Thanh, vững vàng, dứt khoát buộc cậu chạm vào góc cạnh lạnh lẽo của ngọc tỷ: "Con của mẹ, hãy giữ chặt lấy nó."

Bàn tay Lục Thư Thanh run lên dưới lòng bàn tay ấm áp của mẹ, vô thức kháng cự sự tiếp xúc giữa da thịt và ngọc thạch: "Mẹ, con... tại sao phải..."

Miếng ngọc Lam Điền giả kia tuy đã bị phá hủy công khai trước mọi người, nhưng "ngọc tỷ truyền quốc" là thứ đã mang đến tai họa cho gia đình cậu, cho gia đình bên ngoại và cuộc đời cậu, Lục Thư Thanh hiểu rõ mồn một. Cậu thừa biết phải mang thân phận nào mới được phép sở hữu phiến đá quyền lực này, giờ phút này đây, chỉ một khả năng trong muôn vàn khả năng, chỉ khi có một tình huống vô cùng đặc biệt nào đó xảy ra, cậu mới phải trở thành chủ nhân của Hòa Thị Bích.

Lục Thư Thanh nghĩ không thông, cậu rất muốn hỏi rằng "Rốt cuộc thì cha con bị làm sao vậy", nhưng trông thấy đôi mắt sắc bén hằn đầy tơ máu của mẹ, cậu lại chẳng thể thốt nên lời.

"Con đừng sợ, tất thảy vẫn chưa đến diễn biến xấu nhất, chỉ là mẹ đã nhận lấy vô vàn bài học bất lực, không thể không dạy con lo trước tính sau. Nếu như, nếu như cha con thật sự..."

Đôi ngươi của Tạ Cánh mất đi tiêu cự, y đã cố gắng hết sức, nhưng cuối cùng vẫn không thể nào nói hết được giả thiết đó. Chỉ khi ánh nhìn quay trở lại trên người Lục Thư Thanh, sự mông lung trong đáy mắt y mới tạm thời tan biến, nhường chỗ cho bản năng che chở, bảo vệ con non của chim mẹ.

Y dịu dàng nhưng dứt khoát đẩy lưng Lục Thư Thanh, buộc cậu phải bước từng bậc, từng bậc một lên thềm ngọc dẫn tới long ỷ, khẽ thì thầm:

"Con chỉ cần đi lên từng bước, vô tư ngồi vững trên vị trí này, chẳng cần quan tâm điều gì cả. Nhà ngoại của con, cô và thúc phụ con, cả Lục Ngải và Y Vân... quá khứ đẫm máu ấy đã quá nhiều rồi. Mẹ tuyệt đối sẽ không bao giờ buông tay để chuôi đao rơi vào tay kẻ khác nữa. Dù long ỷ có đổi chủ, người ngồi lên đó cũng chỉ có thể là con. Cho dù không phải con — thì cũng sẽ là em gái con. Những ai ngán đường con, mẹ sẽ thay con quét sạch từng kẻ một, nhất định sẽ không để tay con phải vấy bẩn."

"Thanh Nhi, mẹ vẫn chỉ muốn nói với con rằng, mẹ không cần con phải lập nên công trạng hiển hách gì, cũng không quan tâm con là người tài đức sáng suốt hay kẻ hồ đồ mê muội, những thứ đó không phải điều một người mẹ nên cân nhắc. Mẹ chỉ cần con được sống, chỉ khi trở thành Hoàng đế, con mới có thể sống."

Lục Thư Thanh lẻ loi ngồi trên long ỷ. Chất vàng lạnh lẽo và cứng rắn không chút nể nang để hơi lạnh thấm qua quần áo, lan khắp toàn thân cậu. Từ nhỏ đến lớn, cậu đã ra vào tẩm điện này không biết bao lần, nhưng đây là lần đầu tiên trong đời cậu ngồi lên vị trí cao như thế.

Thì ra tổ tiên của cậu, bậc cha chú của cậu, bao đời đế vương cửu ngũ chí tôn đã ngồi tại nơi đây, bễ nghễ dõi mắt nhìn xuống muôn dân.

"Nếu như ngồi ở đây," Lục Thư Thanh lên tiếng, "Con có thể bảo vệ mẹ, bảo vệ Ninh Ninh và tổ mẫu, để mọi người được tiếp tục sống... vậy cũng chẳng có gì không tốt."

Tạ Cánh nhìn sâu vào đôi mắt trong veo của cậu, cuối cùng lòng vẫn không kìm được nỗi xót xa. Y quỳ một gối xuống, kéo hai tay Lục Thư Thanh lại áp vào bên má mình, cọ nhẹ một lúc, rồi khẽ đặt vài nụ hôn lên mu bàn tay cậu.

Mười bốn năm trước, khi Lục Thư Thanh vẫn còn là một hạt mầm nhỏ đang lớn dần trong bụng y, dưới ánh hoàng hôn bên mỏm Yến Tử, Lục Lệnh Tùng đã từng nói với y rằng: "Ta mong em có được niềm vui khi sinh con ra, cũng giống như niềm vui mà con có được khi là con của em."

Được làm mẹ của những đứa trẻ ấy, được làm mẹ những đứa trẻ của y và Lục Lệnh Tùng là điều may mắn nhất, cũng là điều hạnh phúc nhất trong cuộc đời Tạ Cánh.

Tạ Cánh hơi ngước mắt lên nhìn Lục Thư Thanh: "Con ngoan, con hãy nói cho mẹ biết, ngần ấy năm cha mẹ ở bên cạnh con, con sống có vui vẻ không?"

Chóp mũi Lục Thư Thanh cay xè, trước mắt phủ một màn sương mờ, cậu không trả lời câu hỏi kia, chỉ cúi người ôm chầm lấy mẹ, vùi mặt vào vai y.

"Thanh Nhi à, cha mẹ chỉ có một tâm nguyện nhỏ nhoi này mà thôi, nhưng thật sự là quá khó khăn."

Tạ Cánh nhẹ nhàng vỗ lưng Lục Thư Thanh, khẽ giọng nói: "Một ngày nào đó, cha mẹ rồi sẽ đi trước con. Đến khi ấy, người ở bên con sẽ là em gái con, là người con yêu, là con cái của con. Nhưng con phải hiểu rằng, giữa cõi hồng trần này, số mệnh của con người chỉ mỏng như giấy bạc, sống chết lại nhẹ như lông hồng, chỉ có một chữ 'tình' là nặng hơn vạn quân."

"Một người có tình, một người chí tình, khi rời khỏi thế gian này, phần lớn đều chẳng còn gì hối tiếc."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 121


《 29.1 — Hiện tại 》

Cuối đông, noãn các điện Thần Long.

Tiếng đàn tỳ bà dồn dập vang lên từ phía bên kia màn thêu, tuy kỹ nghệ tinh xảo nhưng người gảy đàn lại chẳng dốc lòng, giai điệu không đều đặn, lúc có lúc không. Cung nhân đứng đợi bên ngoài rèm, đến khi tiếng đàn dừng hẳn mới lên tiếng bẩm báo: "Tiểu công chúa đã dậy rồi ạ."

Tạ Cánh đặt cây tỳ bà trên người xuống, đứng dậy khỏi tháp, chậm rãi bước về phía phòng ngủ. Mấy ngày nay y luôn ở lại điện Thần Long, chỉ bảo người kê thêm một chiếc giường trong noãn các để nghỉ ngơi, dường như không muốn rời khỏi nơi này dù chỉ nửa bước.

Vài hôm trước Tiêu Dao vào cung tìm y, nói rằng dạo này dạo này âm thanh của cây đàn tỳ bà thân cháy mà nàng quý nhất không còn chuẩn xác, chẳng rõ có phải do trục dây bị mòn rồi hay không, mong Tạ Cánh dành chút thời gian chỉnh lại giúp. Nào ngờ chỉ vừa đặt tay lên đàn, y đã phát hiện tiếng đàn vẫn réo rắt như nước, không hề gãy nốt hay lệch âm, bèn hiểu ngay Tiêu Dao chỉ là cố ý kiếm cớ cho y có việc làm, để tâm trí khuây khỏa đôi phần mà thôi.

Theo lý mà nói, Hoàng đế còn đang ôm bệnh chưa tỉnh, trong cung làm sao dám vọng tiếng tấu nhạc? Nhưng người gảy đàn ấy lại là Trung cung đích thân hầu hạ thuốc thang, mấy ngày đêm cực nhọc không thể ngủ yên, khúc nhạc mà y tấu tràn ngập nỗi u uất phiền muộn, ngay cả các cung nhân thân cận nghe vào cũng đau lòng đứt ruột, tự nhiên chẳng ai dám mở miệng dị nghị.

Thời gian này Lục Thư Ninh đều ở bên cạnh mẹ, em vừa rời khỏi giường, ngồi xuống trước bàn gương, mấy vị thượng cung đang hầu hạ em rửa mặt, người hầu cầm mâm son đựng trâm cài tóc và vòng tay đứng bên cạnh.

Tạ Cánh bước đến nhìn, phát hiện trong số đó còn có chiếc trâm vàng kiểu "giá vẹt" mà ngày đó Vương thị ban thưởng cho Lục Thư Ninh

Y chau mày, vươn tay chỉ vào nó, nó: "Cất cái này vào đi."

Cung nhân đang định lấy ra thì Lục Thư Ninh bỗng nâng tay lên, kéo góc áo của mẹ mình lại, lắc đầu với y.

Tạ Cánh bèn quỳ ngồi xuống bên cạnh em, nửa khuôn mặt chiếu lên mặt gương, y đưa mắt nhìn con gái: "Vì sao?"

Lục Thư Ninh nhìn cung nhân đang chải đầu cho mình, người nọ hiểu ý bèn khom người lui ra. Em nhìn sang Tạ Cánh, chân thành nói: "Khi Vương Thái hậu ban thưởng thứ này cho con, quả thực là bà ấy không có ý tốt, nhưng chủ ý thì lại không sai. Về sau con ở trong cung, tuy rằng luôn có chí thân bên cạnh bầu bạn, nhưng chiếc trâm giá vẹt này lúc nào cũng ở ngay trước mắt, liên tục nhắc nhở con rằng, con đã không còn là con gái của phòng thu chi ở phủ Thái thú nơi biên cương, không được tùy tiện dựa dẫm, nũng nịu với cha mẹ nữa."

Tạ Cánh sững sờ, ánh mắt rơi xuống chiếc trâm vàng kia, dưới ánh bình minh rực rỡ, đây là lần đầu tiên y cẩn thận quan sát món trang sức khiến mình buồn nôn ấy — sợi xích buộc trên cổ chân vẹt là thứ có thể nhìn thấy được; còn những quy tắc, khuôn mẫu mà một cô công chúa hoàng gia bắt buộc phải tuân theo lại là những xiềng xích vô hình.

"Trước khi rời khỏi Ung Châu, mẹ từng nói với con, có những con đường mà con nhất định phải tự mình bước qua. Cô đã ở điện Minh Loan đến năm mười lăm tuổi, rồi lại ở điện Hàm Chương đến năm hai mươi ba tuổi, cuối cùng cũng tự mình bước ra được. Đợi đến một ngày nào đó, khi con đã trưởng thành, có thể một mình rời khỏi hoàng cung, lúc ấy con sẽ nói lời từ biệt cây trâm vàng này."

Nghe xong lời em nói, phản ứng đầu tiên của Tạ Cánh là hốt hoảng, kết cục của "vị công chúa rời khỏi cung Thái Sơ" khiến y không rét mà run, khi Lục Thư Ninh bày tỏ cách nhìn của em về sự tự do, Tạ Cánh chợt hoảng sợ phát hiện, điều đầu tiên xuất hiện trong đầu y lại chính là nghĩ cách giữ con gái ở lại.

Y mới chỉ ba mươi mốt tuổi, còn xa mới đến cái tuổi phải sợ chim non bay khỏi tổ rồi không quay về nữa, chẳng qua là trong lòng vẫn còn sợ hãi mà thôi.

Nhưng rồi y lại không kìm được mà tự hỏi: Vào khoảnh khắc này, khi nhìn con gái mình, liệu có phải y đang tìm kiếm bóng dáng của một người khác thông qua em hay không? Liệu y có thật sự coi em là "Lục Thư Ninh" độc nhất vô nhị không, hay chỉ đang lấy em làm hình bóng thay thế cho một người đã khuất có đôi mắt, hàng mày hao hao em? Việc cưng chiều thậm chí là bao bọc quá mức ấy, có bao nhiêu phần là đang cố bù đắp vì áy náy với người đã mất? Rốt cuộc y có tư cách gì để không cho phép con gái được rời đi chỉ vì sợ đánh mất em?

Bấy giờ, Lục Thư Ninh đưa tay vào tay áo, lấy ra một vật đưa tới trước mặt Tạ Cánh, kéo y trở về thực tại.

"Thật ra, mẹ có thể không cần phải cho đi mọi thứ giống như trước đây nữa. Khi chúng ta rời khỏi nhà, một miếng cơm, một chén nước, lửa than chỉ đủ sưởi ấm một người, sợi bông chỉ đủ may một bộ quần áo, tất cả những thứ ấy mẹ đều nhường cho con, nhưng càng được mẹ che chở, con càng cảm thấy trăn trở, con cứ luôn nghĩ, phải làm sao mới có thể để mẹ đối xử với bản thân mình tốt hơn một chút đây?"

Nằm trong lòng bàn tay của Lục Thư Ninh, chính là miếng ngọc trắng trong cặp ngọc mà Tạ Cánh tự tay khắc, là độ vật thuộc về y. Mùa xuân năm ngoái khi họ lên đường về kinh, chỉ sợ khó có ngày đoàn viên, trong khoảnh khắc nản chí ngã lòng, y đã giao lại miếng ngọc cho Lục Thư Ninh.

"Ngày giờ này, chúng ta đã không còn phải lo đói rét cơ hàn nữa, nhưng con luôn cảm thấy mẹ vẫn cứ như xưa vậy, trong lòng chất đầy nỗi buồn, nặng nề tâm sự. Anh nói với con rằng khi anh còn nhỏ, mẹ rất hay cười, con không tin nên đi hỏi cha, mới biết đúng thật là như vậy, thế mà con lại chưa thấy được mấy lần."

"Nếu miếng ngọc này đã là vật mà mẹ khắc tặng cha và bản thân mình, con nghĩ tốt nhất vẫn nên trả về cho chủ cũ. Chỉ mong khi nhìn thấy nó, mẹ có thể nghĩ đến cảm giác khi tự tay trao tặng một món quà là như thế nào, sau đó sống thật lâu cùng với cảm giác ấy."

Dứt lời, Lục Thư Ninh bèn cẩn thận vuốt thẳng những sợi tua dưới miếng ngọc, rồi tự tay buộc nó vào thắt lưng của Tạ Cánh. Sau khi làm xong việc nhỏ ấy, vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt em, như thể đang được đắm mình trong vầng trăng sáng, bàn chân treo lơ lửng trên ba nghìn trượng giữa không trung, dù biển tu la có cuồn cuộn sóng dữ, cũng chẳng thể chạm vào đóa hoa sen thêu trên mũi giày em.

Tạ Cánh thoáng giật mình, vô thức đưa tay phải lên v**t v* khuôn mặt của Lục Thư Ninh. Không ngờ ống tay áo trượt xuống, để lộ vết thương Tích Cốt Huyền để lại trên cẳng tay ra trước mắt hai người.

Y cuống quít muốn che lại, nhưng Lục Thư Ninh chỉ nắm lấy cổ tay y, kéo tay áo lên tận khuỷu tay rồi kề sát mặt lại, nhẹ nhàng tựa lên vết sẹo gồ ghề, im lặng không nói gì.

Đối với Tạ Cánh, việc Lục Thư Ninh đang làm giống như một kiểu bố thí — đem quả thiện trao trả cho "người mẹ" mà em là tín đồ trung thành nhất, cũng là tín đồ sa lầy sâu nhất.

Cái tên mà năm xưa Lục Lệnh Tùng lấy cho con gái họ dường như đã mang một ý nghĩa khác. Em không may mắn có được một cuộc đời yên ổn thanh bình, nhưng lại sở hữu một trái tim sáng trong như gương.

Tạ Cánh nhặt chiếc lược lên, ôm đầu Lục Thư Ninh lại, để em tựa lên đầu gối mình, rồi thật từ tốn, chậm rãi chải chuốt mái tóc đen mượt của em.

Hạ tuần tháng chạp, trong thời khắc chuyển giao sang năm mới, Kim Lăng đổ một trận tuyết lớn.

Tính ra thì đây cũng sẽ là trận tuyết cuối cùng của năm Cảnh Dụ. Chẳng mấy chốc nữa, khi năm cũ trôi qua, triều đình đổi niên hiệu, niên hiệu của tiên đế rồi cũng sẽ hoàn toàn trở thành quá khứ.

Sáng sớm hôm ấy, cổng chính chùa Linh Cốc ở phía Đông kinh thành đóng chặt không tiếp khách. Chỉ mở cửa hông đón vào hai cỗ xe ngựa giản dị. Một vị phu nhân đầu tóc bạc trắng bước xuống khỏi xe ngựa phía trước, còn người xuống từ xe ngựa đằng sau là một mỹ nhân trẻ tuổi, y bước lên hai bước, nhanh chóng theo sau.

Vốn dĩ, nếu nói đến nơi danh tiếng lẫy lừng nhất trong kinh thành, ngôi chùa được hàng vạn thiện nam tín nữ tôn sùng thì không nơi nào sánh bằng chùa Kê Minh – đứng đầu trong "Bốn trăm tám mươi chùa Nam triều". Dù chùa Linh Cốc cũng là danh sơn cổ tự, nhưng suy cho cùng vẫn có phần kém thế hơn. Mà những năm nay, chùa Kê Minh đã trở thành nơi "giam lỏng" của Tiêu thị đã qua đời, còn khách quen ở chùa Linh Cốc là Ngô Thái phi lại được tôn làm Thái hậu đương triều, hương khói trong chùa cũng nhờ đó mà thịnh vượng hẳn lên.

Trong thiền viện, lớp tuyết mỏng đã được quét dồn về hai bên. Tạ Cánh đỡ lấy khuỷu tay của Ngô thị, né tránh mặt băng, cẩn thận dìu bà bước vào chùa: "Đường lát đá trơn trượt, mẫu thân bước đi cẩn thận."

Trụ trì đã đứng chờ trước bình phong từ trước, vừa thấy hai người đến liền bước lên, niệm một tiếng "A Di Đà Phật", rồi nói: "Điện Vô Lượng đã được quét dọn sạch sẽ, mời hai vị quý nhân dời bước."

Điện Vô Lượng được đặt tên theo pho tượng Phật Vô Lượng Thọ thờ phụng bên trong, toàn điện không dùng đến một cây gỗ hay một chiếc đinh nào, mà hoàn toàn được xây nên bằng gạch đá, bởi vậy còn được gọi là "điện Vô Lương*". Tạ Cánh sống ở Kim Lăng đã hơn mười năm, nhưng đây là lần đầu tiên y đặt chân đến nơi này. Sở dĩ có chuyến đi ngày hôm nay, là bởi khi Ngô thị đến chăm sóc Lục Lệnh Tùng, bà đã chủ động rủ Tạ Cánh đang đứng hầu bên cạnh cùng mình đến chùa.

(*) Lương (梁) là xà nhà

Ngô thị nhắm mắt lại, khép tay đặt trước ngực, quỳ xuống bồ đoàn hồi lâu rồi mà vẫn không nói lời nào. Tạ Cánh cũng không quấy rầy, chỉ đành dâng hương theo bà, y hít sâu một hơi, chợt phát hiện ra điều bản thân muốn phát nguyện quá nhiều, tức thì chẳng biết nên bắt đầu từ đâu, trong lòng trống rỗng.

Mãi lâu sau, Ngô thị bỗng lên tiếng hỏi: "Con cho rằng mẹ đến là để cầu Phật Đà phù hộ, mong Tử Phụng mau chóng tỉnh lại, có phải không?"

Tạ Cánh mở mắt ra, đối diện với ánh nhìn hiền hòa dịu dàng của bà, y khẽ gật đầu xem như thừa nhận.

Thế nhưng Ngô thị lại mỉm cười: "Mẹ đến là để trả lễ."

"Từ mùa xuân năm đầu Cảnh Dụ, lần đầu mẹ đặt chân đến đây, tới giờ đã gần tròn năm năm rồi. Mẹ đã đến rất nhiều lần, gần như lần nào cũng đều có Thanh Nhi đi cùng, cũng có một hai lần là Chân Chân theo mẹ đến. Mẹ đã từng khấn xin Phật Tổ, cầu cho Tử Phụng ra chiến trường mà không phải chịu khổ từ đao thương, cầu cho con và Ninh Ninh đi xa thuận buồm xuôi gió, cũng từng cầu cho Chân Chân sớm ngày trở về bên mẹ."

"Mỗi lần phát nguyện xong, mẹ lại sớm tối quỳ trong Phật đường ở Tây cung, lòng nóng như lửa đốt vì mãi chẳng thấy linh; đến khi nguyện thành, Tử Phụng khải hoàn hồi triều, mẹ con các con cũng về kinh, mẹ lại vội vàng mừng rỡ chạy đến trả lễ. Cứ lặp đi lặp lại như thế, lúc thì hoan hỷ tột độ, lúc lại ưu sầu khôn xiết, bị giày vò đến mức chỉ thiếu điều phát điên lên thôi."

"Huống chi, thần linh cũng có lúc không hiển linh, mẹ chỉ muốn hỏi vì sao Chân Chân của mẹ mãi chẳng thể quay về, nhưng Quan Âm Đại Sĩ lại chẳng chịu hé môi, chỉ ban cho mẹ một bài thiền kệ."

"Lòng mẹ vẫn còn chút hy vọng gặp may, thế nên lần này khi Tử Phụng xuất chinh, mẹ vẫn tiếp tục phát nguyện. Nhưng còn chưa đợi được Tử Phụng trở về, mẹ đã thấy đứa trẻ họ Tạ một mình quay lại Kim Lăng rồi. Mẹ lập tức triệu nó vào cung, hỏi rốt cuộc là quận Trần hay Ung Châu xảy ra chuyện, bảo nó không cần giấu diếm, cứ nói hết cho mẹ nghe. Sinh ly tử biệt, âm mưu dương mưu mẹ đều đã trải qua cả rồi, chẳng còn chuyện gì có thể khiến mẹ không chịu đựng nổi nữa."

Tạ Cánh sững người, hoàn toàn không biết rằng hóa ra bà từng gặp Tạ Tuấn.

"Nó kể lại đầu đuôi mọi chuyện, lúc ấy mẹ mới hay, Tử Phụng đi tìm Chân Chân là đánh cược mạng sống mà đi, con đi tìm Tử Phụng, cũng đã ôm quyết định theo cùng."

"Khi đó mẹ đã nghĩ, nếu như đến cả vợ chồng con cũng không về được, cháu trai và cháu gái của mẹ còn có thể nương nhờ cạnh ai đây? Tiêu thị khống chế phụ hoàng của Tử Phụng và anh em nó, Vương thị khống chế tiên đế, mưu đồ vì mẫu tộc, mẹ chưa bao giờ cậy nhờ gia đình mình, nhà họ Ngô cũng chưa từng lợi dụng mẹ, đôi bên đều chẳng vì lòng riêng. Đến lúc đó, cho dù có phải đứng ra che chở, hậu thuẫn cho các cháu, mẹ cũng không thẹn với lương tâm."

"Lần này mẹ đến lễ tạ thần, không phải là để tạ ơn Phật Tổ đã bảo vệ con và Tử Phụng về kinh, mà là để tạ tội với thần linh vì mẹ đã không thành tâm — trước kia không thể, về sau lại chẳng muốn thành. Từ hôm nay trở đi, mẹ sẽ không cầu chư Phật nữa, chỉ cầu ở chính mình."

Tạ Cánh chợt hiểu ra, vì sao rõ ràng biết y không hề muốn, Ngô thị vẫn cố chấp dẫn y ra ngoài một chuyến. Thì ra là bà muốn giúp y gỡ bỏ tảng đá đè nặng trong lòng.

Y có thể "thần chắn giết thần, Phật chắn giết Phật", dốc toàn lực che chở trước mặt các con, vì những người thân yêu mà không từ bất cứ thủ đoạn nào. Nhưng điều đó không có nghĩa là y không cần chỗ dựa. Sự phán xét của ôn lương cung kiệm trong nội tâm chỉ tạm thời lắng xuống chứ chưa từng biến mất. Mỗi khi đêm dài buông xuống, ở nơi không người, vào khoảnh khắc tự kiểm điểm bản thân mình, nó sẽ dằn xé y gấp bội lần.

"Chi Vô, mẹ đã ở cung Thái Sơ suốt bốn mươi năm rồi, con có biết vì sao cung điện này lại khiến thiên hạ kinh sợ không? Chẳng lẽ chỉ vì tường cao lớp lớp, điện các hoang lạnh hay sao? Không phải! Là vì ở nơi đó có người mưu tính người, người lừa gạt người, người phản bội người, người giết hại người! Gạch ngói chỉ là vật chết, còn con người mới là vật sống! Phải làm sao thì con mới không sợ hãi nơi này chứ?"

"Không cần con phải trở thành kẻ mưu mô, lừa lọc, phản bội hay kẻ nắm giữ quyền sinh sát," bà ngẩng mặt nhìn pho tượng Phật Vô Lượng trang nghiêm, "Mà cần con phải giống như chư vị Thần Phật ở trên kia, thu hết tất cả vào đáy mắt, giữ cho lòng dạ sáng trong."

Bà nắm lấy tay Tạ Cánh, đôi bàn tay của một người mẹ đang siết chặt đôi bàn tay của một người mẹ khác: "Con của mẹ, không cần sợ hãi nữa. Những ngày tháng khó khăn nhất con đều đã vượt qua được, con có nhiều lựa chọn hơn mẹ. Trong hoàng cung này, con muốn sống theo cách nào, quyền quyết định nằm trong tay con — con cứ việc mạnh dạn mà bước tiếp."

Tạ Cánh nhớ lại nỗi hoang mang của mình khi đối diện với Lục Thư Ninh, ngập ngừng hỏi, gần như không thể thốt nên lời: "Mẫu thân, người có từng hối hận không?"

Không cần y nói rõ, hiển nhiên là Ngô thị hiểu rõ y đang hỏi điều gì — bà có từng hối hận vì trong buổi chiều ráng đỏ như máu ấy, bà đã không giữ Lục Lệnh Chân lại hay không?

Bà cũng nghe ra hàm ý trong lời nói Tạ Cánh, rằng — nếu một ngày nào đó, con gái của con cũng đi trên con đường như thế, thì con phải làm sao?

Ngô thị hơi nghiêng đầu, né tránh câu hỏi đầu tiên, chỉ thở dài nói: "Đừng ngăn cản con bé."

Từ chùa Linh Cốc trở về cung phải đi qua đường Chu Tước, phủ Chiêu vương cũng nằm trên con đường ấy. Thị nữ bên cạnh khẽ hỏi Tạ Cánh: "Hoàng hậu có muốn ghé thăm tiềm để một chút không ạ? Trước đó nghe chị Ngân Trù nói, các lão bộc trong phủ đều rất lo lắng cho sự an nguy của bệ hạ và người."

Tạ Cánh trầm mặc hồi lâu, không trả lời ngay. Sao y lại không muốn về phủ cũ một chút cơ chứ? Chỉ là y sợ, một khi quay về nơi đó, bước vào thư phòng, phòng ngủ hay vườn hoa rồi thì sẽ không muốn đi nữa, y không muốn trở vào cung, lắng nghe tôn xưng mà mình đã phải cố gắng lắm mới ép bản thân làm quen được, không muốn lại tiếp tục diễn vai một Hoàng hậu hiền đức, sáng chép kinh, tối vẽ tượng trong thơ oán cung đình.

Cung nhân nhắc nhở lần nữa: "Hoàng hậu? Đã sắp qua khỏi cửa chính rồi ạ."

Tạ Cánh vẫn không lên tiếng, nhưng cuối cùng, y vẫn không nhịn được mà lặng lẽ hé màn ra, nhủ thầm trong lòng, "Chỉ nhìn từ xa thôi là được rồi."

Thế nhưng chỉ một cái liếc mắt, lòng y đã chấn động. Chỉ thấy cổng chính phủ Chiêu Vương mở hé một cánh, đầy tớ thị nữ chen chúc đứng kín phía sau bậc cửa, ngẩng đầu trông theo, chỉ mong sao xe ngựa có thể dừng lại, hoặc ít nhất cũng có thể nhìn thấy y qua ô cửa sổ. Bác Chu giờ đã già yếu, tay ông chống gậy, được người dìu đỡ đứng ngay hàng đầu.

Tạ Cánh buột miệng thốt lên: "Phu xe, đi chậm lại một chút!"

Y gần như muốn vén rèm xe lên cao hơn, nhưng lý trí lại nhắc nhở rằng, chỉ cần nói với họ thêm một câu thôi, thì hôm nay y sẽ không thể kiên quyết rời khỏi phủ Chiêu Vương được nữa.

Tin tức Lục Lệnh Tùng hôn mê bất tỉnh đã được giữ kín, Hổ Sư cũng không về triều, trong kinh hẳn vẫn cho rằng tân đế còn đang trấn thủ ở biên cảnh phía Bắc. Điện Thần Long không thể không có người chủ trì đại cục, Tạ Cánh một mình xuất hiện ở tiềm để sẽ khiến người khác lời ra tiếng vào, tóm lại là không đúng thời cơ.

Trong khoảnh khắc do dự, phủ Chiêu Vương đã khuất khỏi tầm mắt, Tạ Cánh còn muốn nhìn thêm, nhưng đã không thể nữa rồi.

Bỗng nghe tiếng Chu bá vang lên từ phía sau, giọng nói của ông khản đặc mà chậm rãi, từng chữ như mũi dùi đâm vào tim: "Chúng tiểu nhân không có phúc hầu hạ thánh giá, chỉ mong bệ hạ và hoàng hậu nơi cung cấm giữ gìn sức khỏe, chớ quên nhà cũ. Phủ Chiêu Vương vẫn như trước đây!"

Đêm 30 Tết, vì chẳng ai có lòng dạ ăn bữa cơm đoàn viên hữu danh vô thực kia, thế nên chỉ tập trung ăn tối ở điện Minh Loan. Tạ Cánh chào Ngô thị ra về, sắp xếp cho bọn trẻ yên giấc rồi một mình trở về điện Thần Long.

Y xõa tóc, rửa mặt xong, thay quần áo ngủ rồi ngồi xuống bên giường của Lục Lệnh Tùng. Hơn mười năm nay, chẳng biết đã có bao lần, y cứ thế lặng lẽ nhìn chăm chú vào gương mặt say ngủ của Lục Lệnh Tùng, sau đó đưa tay ra, nhẹ nhàng lần theo đường nét trôi chảy từ xương chân mày đến chóp mũi của đối phương.

Đa phần những lần đụng chạm đều sẽ bị Lục Lệnh Tùng nhạy bén phát hiện ra được. Nhưng mỗi khi ngủ bên cạnh Tạ Cánh, hắn thường rất lơi lỏng, chẳng hề cảnh giác, hoặc là giả vờ như chẳng nhận ra, hoặc chỉ đơn giản là mơ màng kéo tay Tạ Cánh xuống, ôm chặt y vào lòng rồi ngủ tiếp.

Hồi lâu sau, không nhận được phản hồi nào, Tạ Cánh rốt cuộc cũng dời mắt đi. Y cầm lấy miếng ngọc trắng và con dao đồng đặt trên bàn lên, thấp giọng nói:

"Dù sao bây giờ cũng rảnh rỗi, quyết định tiếp tục việc còn dang dở năm xưa, khi nào khắc xong hai miếng ngọc này em sẽ tặng lại cho anh vậy. Đã gần năm năm rồi, chẳng có năm nào kịp ăn sinh nhật cùng anh. Mùng chín tháng Năm năm tới, chúng ta lén đến biệt viện ở nùi Thang được không? Mùa hạ ở núi rừng mát mẻ, mở cửa thuỷ tạ ra nghe tiếng ếch kêu, ướp chút mơ lạnh để ăn nữa."

"Sáng nay Thanh Nhi thay anh nhận đủ lời chúc mừng từ các quan lại, trông thì rất ra dáng, chẳng có chút gì là sợ hãi, nhưng thực ra em ngồi sau rèm nhìn, thằng bé gầy đến mức gọi là thiếu niên cũng gượng miệng. Hai tháng nay, ngày nào nó cũng theo Hà đại nhân học cách coi xét trị chính, học cách đáp trả từng loại tấu chương. Trong thành có Tiêu Dao, ngoài thành có Thôi tướng quân trấn giữ, giờ đây cũng không cần quá lo lắng đến sự an toàn của mẫu thân và bọn trẻ."

"Em thật sự không biết trong đầu anh đang tính toán điều gì. Lẽ ra những chuyện này nên để em tự mình dạy dỗ cho Thanh Nhi từng chút một. Vậy mà anh lại ngang ngược ban xuống một thánh chỉ sắc phong, giờ thì hay rồi, Thượng thư đài không cho em lui tới, Chính sự đường cũng không cho em đến dự thính tấu đối nữa. Cái hoạ 'ngoại thích can dự chuyện triều chính' kia, từ nay xem như đã bị anh dứt khoát chặt đứt rồi."

"Thanh Nhi nói nó có thể vì chúng ta mà trở thành một đế vương cô độc, ngự ở nơi cao ngất lạnh lẽo kia. Ninh Ninh nói con bé có thể vì chúng ta mà nghiêm thủ quy củ lễ pháp của một công chúa. Mẫu thân nói người có thể vì chúng ta mà thay đổi nửa đời ẩn nhẫn, không tranh quyền thế, bước ra trước màn gió tanh mưa máu này."

"Nhưng đây là ước nguyện ban đầu của chúng ta sao, Tử Phụng? Những điều mà chúng ta hứa hẹn, mong chờ, chẳng lẽ không phải là các con được vô lo vô nghĩ, là cao đường không cần phải dốc lòng lo lắng hay sao? Bị thế tục dạy dỗ đến nước này, chúng ta lại chỉ có thể dựa vào nhau để 'thành toàn', mới miễn cưỡng giữ cho gia đình này không sụp đổ."

"Ngày hôm ấy... anh có nhìn thấy Y Vân không? Đó là lần cuối cùng rồi. Trước khi hồi kinh, các tướng sĩ đã đưa em đến một ngọn đồi ngoài quan ải, nơi họ đã chôn cất Y Vân, nói rằng sang xuân cỏ xanh sẽ phủ đầy triền dốc ấy. Mấy hôm trước Lý Kỳ gửi thư báo, nói rằng quân dân Ung Châu đã đặt cho ngọn đồi ấy một cái tên, gọi là 'Đọa Vân Lĩnh'. Em mang về một nhúm lông bờm của nó, cất trong hộp gấm, bây giờ đang để ngay đầu giường của anh đấy. Đợi anh tỉnh lại, chúng ta cùng về Vương phủ, chôn nó dưới gốc mai trắng, để nó bầu bạn với Lục Ngải nhé."

Tuyết cũ đè cong cành cây, cánh hoa tàn rơi rụng khắp đất, đèn cung leo lét ánh vàng. Tạ Cánh chậm rãi mà chăm chú đẽo khắc bạch ngọc, cứ thế nói liên miên suốt cả đêm, lời nói rời rạc không có đầu cũng chẳng có đuôi. Đến khi canh tàn, trời gần sáng, cuối cùng y cũng không chống đỡ nổi cơn buồn ngủ nữa, gục xuống mép giường thiếp đi, thỉnh thoảng miệng vẫn nỉ non nói mớ mấy câu.

Chiếc trung y dính máu kia đã xếp lại gọn gàng đặt trong khay vàng, được đối đãi như một tấm di chiếu có hiệu lực cao nhất. Đêm cứu được Lục Lệnh Tùng trở về, Tạ Cánh chỉ đọc qua nó một lần, sau đó chưa từng chạm vào lần nào nữa.

Ngay kia tia sáng đầu tiên của ngày mới xuyên qua ô cửa sổ giấy, chiếu lên mái tóc của Tạ Cánh, ngón trỏ của Lục Lệnh Tùng vốn bị y siết chặt trong lòng bàn tay bỗng dưng khẽ nhúc nhích một cái.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 122


《 29.2 》

Tạ Cánh mơ một giấc mơ.

Ở trong mơ, vào năm Trinh Hữu thứ bảy, Hoàng đế không ban hôn cho y và Lục Lệnh Tùng, mối quan hệ của cả hai bỗng trở thành quen sơ xa cách và khách sáo, mỗi người đều có hôn sự của riêng mình, đối phương là một người xa lạ mặt mũi mơ hồ. Tạ Cánh tiếp tục làm quan, nhậm chức Biên tu Hàn Lâm Viện, bắt đầu ngày ngày vào điện Lâm Hải dạy học, như một lẽ hiển nhiên, y có được sự tin cậy của Lục Lệnh Chương, Vương Hoàng hậu cũng lôi kéo không ngớt.

Dưới mưu ngầm kế ẩn mà Hoàng đế âm thầm sắp đặt, hai nhà Vương - Tạ tiếp tục duy trì mối thân tộc gắn bó từ thời Tấn, cùng với không biết bao nhiêu sĩ tộc và thần tử ngấm ngầm ủng hộ, đấu đá với Lục Lệnh Tùng đến mức khó phân thắng bại. Kết cục cũng không khác mấy - phủ Tướng sửa di chiếu, ép buộc Chiêu Vương rời khỏi kinh thành, vài năm sau Lục Lệnh Tùng trở về đoạt lại quyền hành, lấy lại ngai vua, nhà họ Tạ bị tội liên đới, cả nhà rơi vào kết cục sao trảm.

Về phần Tạ Cánh, thật không may, y đã chết ngay dưới lưỡi kiếm của Lục Lệnh Tùng.

Tuy nhiên, cảm giác đảo điên nhất, cũng đáng sợ nhất nằm ở chỗ, linh hồn của Tạ Cánh trong giấc mộng ấy - kẻ có số mệnh hoàn toàn khác biệt, lại như đang cư trú trong thân xác của chính y ở hiện thực - người đã bước sang tuổi ba mươi, đã là vợ, là mẹ.

Từ đầu đến cuối, y như bị nhấn chìm dưới hồ nước đen ngòm, muốn vùng vẫy, muốn thoát ra, nhưng lại bị một đôi tay mạnh mẽ đến ghê người siết rịt lấy cổ, khóa chặt tay chân, chỉ có thể trơ mắt nhìn mọi chuyện lại trượt theo vết xe đổ, chạy thẳng đến kết cục bi thảm không thể cứu vãn. Trong lòng Tạ Cánh gào lên: "Anh không nhận ra em nữa sao?", thế nhưng đối với Lục Lệnh Tùng kia, y chỉ là một kẻ thù chính trị khó giải quyết mà hắn đã giao đấu nhiều năm mà thôi.

Một khắc cuối cùng, Tạ Cánh thậm chí có thể cảm nhận được một tay Lục Lệnh Tùng nắm lấy tóc y, một tay giơ cao thanh kiếm, y chỉ kịp thét lên một tiếng "Tử Phụng" rồi đột ngột mở mắt ra, cả người rịn đầy mồ hôi lạnh, vẫn còn chưa hoàn hồn.

"... Gặp ác mộng sao?"

Tạ Cánh khựng lại, đoạn ngồi bật dậy, đưa tay vuốt gương mặt hãy còn mơ màng vì cơn buồn ngủ, xác nhận rằng mình thực sự đã tỉnh lại.

Nhìn thấy bàn tay đang lơ lửng giữa không trung của Lục Lệnh Tùng, rõ ràng là chỉ vừa nhấc khỏi tóc y, cảm giác sau gáy trong giấc mơ kia có lẽ bắt nguồn từ cái v**t v* của đối phương.

Tạ Cánh ngồi nghiêng bên mép giường của Lục Lệnh Tùng, không màng đến cơn tê dại, mỏi nhừ do tư thế ngủ gây ra, chỉ trừng to mắt, ngơ ngác nhìn chằm chặp vào hắn.

Lục Lệnh Tùng cất giọng khàn đặc: "Ta nhớ mình cứ đi dọc theo bờ Bắc sông Vô Định, tìm mãi, rồi ta chợt thấy em chạy về phía ta, khoác chiếc áo choàng màu đỏ kia... Tuyết đã ngừng rơi rồi sao?"

Tạ Cánh vô thức quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, tuyết ở Kim Lăng ngớt từ lâu. Nhưng có lẽ ở nơi tận cùng của tuyến phòng thủ phương Bắc, sâu thẳm trong lòng họ, trận tuyết đã chôn vùi mọi dấu vết tồn tại cuối cùng của Lục Lệnh Chân sẽ mãi mãi không ngừng rơi xuống.

Bên trong màn giường vang lên tiếng động khe khẽ, Tạ Cánh hoàn hồn, trông thấy Lục Lệnh Tùng chống tay ngồi dậy, y bèn cuống quýt đưa tay đỡ hắn.

Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng nắm lấy khuỷu tay y, kéo y lại gần không cho phản kháng: "Đừng quỳ ở đó nữa, lên đây nào, cho ta ôm em một chút."

Tạ Cánh cụp mắt, tránh đi ánh nhìn trực diện với hắn, nhưng cuối cùng vẫn ngồi lên sát mép giường, xoay mặt lại rồi tựa vào lòng Lục Lệnh Tùng.

"Sao em không nói gì?" Dường như hắn vẫn còn chưa tỉnh hẳn, chỉ thì thầm bên tai y, "Năm đó Trương Diên nói em sẽ bị ta hại đến chẳng còn mẩu xương, ta vẫn canh cánh câu nói đó trong lòng. Vừa sợ em sẽ tránh xa ta, lại sợ nếu cưỡng ép giữ em ở bên cạnh thật sẽ làm khổ em. Nhưng nay vừa mở mắt, thấy em vẫn ở đây, ta liền hiểu được rằng, rốt cuộc em vẫn chấp nhận chức vị Hoàng hậu nóng bỏng tay này."

Tạ Cánh chỉ run giọng nói: "Tại sao phải để lại di chiếu thấm máu đó? Nếu thật sự muốn lập em làm Hoàng hậu, sao anh không đợi an toàn trở về Kim Lăng rồi viết lên vải lụa ban cho em? Mười ngày nửa tháng thì đã sao? Mười mấy năm trước em đã không kháng nổi thánh chỉ, lẽ nào hôm nay lại kháng được? Sao anh lại phải dùng máu để viết ở ngoài trời lạnh thấu xương như thế chứ!"

Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng vuốt lưng y từng cái như trấn an, khẽ thở dài: "Chiếu thư sách phong ấy ta đã âm thầm phác thảo trong lòng vô số lần, từng lời từng chữ đều đã cân nhắc hàng trăm hàng nghìn lần, sớm đã thuộc nằm lòng. Lúc thực sự viết ra, loáng cái đã viết xong."

"Huống hồ... ta cũng không biết mình có còn trở về được hay không. Mãi đến giây phút cuối cùng, ta mới hạ quyết tâm, rằng nhất định phải để lại bản di chiếu này. Từng con chữ này đều là tâm ý của ta, không một ai, cũng không thứ gì có thể làm giả được."

Người Tạ Cánh run lên bần bật, quyết tâm lạnh lùng phản bác: "Đến cả anh cũng đi rồi, dù có di chiếu lập thần nữ Vương Mẫu đi chăng nữa thì cũng có ích gì?"

Lục Lệnh Tùng lại khẽ lắc đầu: "Thuở nhỏ đọc sử, ta từng đọc đến việc vợ cả của Tấn Cảnh đế là Hạ Hầu Huy mất sớm, nhiều năm sau vốn nên được truy phong, nhưng khi bà còn sống thì Cảnh đế vẫn là thần tử nước Ngụy, mọi người đều nói rằng bà ấy không có công lao phò tá dựng nước, cũng không có đủ đức hạnh để trở thành khuôn mẫu cho hậu cung, 'việc truy tôn không có căn cứ kinh lễ để dựa vào', danh phận bất chính, phải lần lữa mãi mà không thể định đoạt."

"Ta nghĩ, nếu lần này thật sự phải bỏ mạng về chốn hoàng tuyền, dẫu mai sau Thanh Nhi đăng cơ cũng sẽ truy phong cho em, nhưng nếu không có chính miệng ta nói, chính tay ta viết sách phong, thì trong triều đại của ta, em vĩnh viễn cũng không phải Trung cung danh chính ngôn thuận của ta, không phải người vợ duy nhất của ta, không được quang minh chính đại ghi tên vào sử sách cùng ta, cũng không thể hợp táng hoàng lăng."

Lục Lệnh Tùng kéo giãn khoảng cách giữa cả hai ra một chút, giữ lấy vai Tạ Cánh, trịnh trọng nói:

"Là do ta có lòng riêng, cho dù tình cảm vợ chồng lúc sinh thời có khô cạn, thì ta cũng muốn nhờ di chiếu này trói em lại, có chết cũng phải ở bên ta. Từ đây có hoàng thiên hậu thổ làm chứng, em không còn đường nào chối bỏ nữa."

"Nếu như tạo hóa nhẫn tâm, để ta thật sự không thể cùng em sống chung chăn gối, chết chung một huyệt, ta cũng sẽ liều cả tính mạng của mình mà giành lấy."

Tạ Cánh nhìn vào mắt Lục Lệnh Tùng, chẳng nhớ rỡ bắt đầu từ khi nào, đối phương đã quen với việc dùng ánh mắt toàn tâm toàn ý như thể trong mắt chỉ có mỗi mình y ấy để lặng lẽ dõi theo y thật lâu.

Y lẩm bẩm: "Anh chưa từng nghĩ tới sao, nếu như anh cũng giống như Chân Chân... vậy thì ý chỉ này sẽ chẳng thể nhìn thấy ánh mặt trời, người đời và em đều sẽ chẳng bao giờ biết đến nó."

"Điều này ta cũng từng nghĩ rồi - ta nghĩ nếu vậy thì cũng tốt, như thế em sẽ mãi mãi không biết được những tâm tư của ta," Lục Lệnh Tùng khẽ nói, "Ai cũng nói con người chết đi rồi thì chỉ còn được nhớ đến bởi những điều tốt đẹp, nếu em chỉ nhớ đến chuyện ta từng buông tay để em tự do, thuận theo ý em... thì ta cũng đã mãn nguyện rồi."

Hắn khẽ vuốt tóc mai rối bời của Tạ Cánh, ấn nhẹ vào má y, làn da chỗ ấy vẫn còn in dấu vết hỗn loạn của giấc ngủ bên mép giường.

Lục Lệnh Tùng mỉm cười: "Cưng à, trong chiếc áo ấy còn có một thứ, em đã nhìn thấy chưa?"

Tạ Cánh nghẹn một tiếng: "Chưa... em chỉ dám nhìn một lần thôi."

Lục Lệnh Tùng đẩy nhẹ y: "Đi đi, đừng sợ, tìm thử xem."

Tạ Cánh đành phải đứng dậy, bước đến trước khay vàng, nhẹ nhàng nhấc chiếc áo dính máu lên, lật qua lật lại xem kỹ một lượt, rồi lại nhẹ nhàng giũ ra, lúc này mới phát hiện mặt trong áo được khâu thêm một chiếc túi nhỏ.

Bên trong túi cất giấu một búi tóc đen.

Y cúi đầu nhìn xuống ngực mình trong vô thức, chiếc hộp hương bạc vẫn cài khóa chắc chắn, hoàn toàn không có dấu hiệu bị mất.

Giọng nói của Lục Lệnh Tùng vang lên sau lưng y: "Năm ấy, đêm trước khi ta rời kinh đi Hoài Bắc, em vẫn còn đang sốt mê man chưa tỉnh, lúc đó ta đã lấy đi một lọn tóc của em và mình, từ đó luôn mang theo bên người. Chuyện lén lút kết tóc trong âm thầm ấy... không phải chỉ mỗi mình em làm đâu."

Tạ Cánh quay đầu nhìn hắn, bốn mắt chạm nhau, Lục Lệnh Tùng ngồi tựa ở nơi ấy, trông chẳng khác một buổi sớm mùa đông bình thường nào đó, hờ hững phàn nàn rằng y dậy quá sớm, giục y quay lại giường, rồi cả hai ôm nhau ngủ thêm một giấc nữa.

"Tóc là bộ phận phân hủy chậm nhất, có lẽ trăm năm sau, ở trong chiếc quan tài kia, em và ta đều đã hóa thành xương trắng mục nát rồi, nhưng lọn tóc này thì vẫn còn đó, như vậy, lời thề non hẹn biển dù không vững bền, cũng vẫn có thể tồn tại lâu thêm một chút."

Đầu năm mới, thiên tử dẫn Hổ Sư khải hoàn hồi triều, đổi niên hiệu thành Diên Gia. Đông cung tuổi còn nhỏ, hoàn thành viên mãn sứ mệnh giám quốc, tai mắt sáng suốt, hành động và phán đoán chuẩn mực, khắp triều dã đều xưng là "hiền đức".

Lục Lệnh Tùng vốn không bị thương nặng, sau khi về kinh lại được điều dưỡng liên tục nhiều ngày, đến nay tỉnh dậy không lâu đã gần như hồi phục hoàn toàn. Lục Thư Thanh gỡ được trọng trách, thở phào một hơi nhẹ nhõm, bấy giờ cơn buồn ngủ tích tụ từ mùa đông mới kéo tới. Ngự thư phòng có giường ghế rộng rãi mềm mại, ban ngày quan lại vào tâu việc, Lục Lệnh Tùng ngồi phía trước nghe, còn cậu thì nằm phía sau co ro ngủ. Đang ngủ thì bỗng trở mình, vô tình lăn xuống đất bên kia, một tiếng "phịch" vang lên, dọa cho Lục Lệnh Tùng cùng các thần tử giật nảy mình.

Ngự thư phòng không "cấm cửa" Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng cũng từng nhiều lần nhắc khéo, mong rằng khi hắn tiếp kiến quần thần, tốt xấu gì Tạ Cánh cũng nên ngồi cạnh nghe, hoặc khôi phục chức Thượng Thư hữu Phó Xạ cho y, hoặc chí ít cũng đặt cho y một chiếc bàn nhỏ trong Chính sự đường, nhưng tất cả đều bị Tạ Cánh tìm cớ lảng tránh.

Mấy vị quan Binh bộ rời khỏi ngự thư phòng, Tạ Cánh mới cầm hộp cơm đi vào từ cửa ngách. Lục Lệnh Tùng vẫn còn vùi đầu vào sổ sách, không hề hay biết.

Y gõ lên góc bàn, Lục Lệnh Tùng nghe tiếng ngẩng đầu nhìn, ngạc nhiên hỏi: "Sao em lại đến đây? Ta đang chuẩn bị về điện dùng bữa trưa với em đây."

Tạ Cánh không tỏ thái độ, chỉ lấy từ hộp đồ ăn ra một bát mì ba món chay thanh đạm, đẩy đến trước mặt hắn.

Lục Lệnh Tùng không hiểu ý, nếm thử hai đũa, thấy Tạ Cánh chỉ lặng lẽ ngồi bên, có phần không tự nhiên mà quan sát sắc mặt mình, hắn chợt tỉnh ngộ: "Đừng nói là em nấu đấy nhé?"

Dường như Tạ Cánh có chút căng thẳng, do dự một lát mới gật đầu.

Lục Lệnh Tùng biết nấu ăn, cũng rất sành ăn, từ trước đến nay đều là tay lão luyện trong chuyện bếp núc, tất nhiên Tạ Cánh cũng không trông mong nhận được lời nhận xét ngang với sơn hào hải vị. Chẳng qua là mười mấy năm nay y đều ăn cơm Lục Lệnh Tùng nấu, giờ cũng muốn để đối phương nếm thử chút "tay nghề" của mình mà thôi.

Không đến nỗi khó ăn, nhưng cũng không được ngon lắm, chỉ là một bát mì nước bình thường nhất, một bát mì nước vô cùng bình thường được nấu bởi một người trưởng thành có tay chân lành lặn, đầu óc tỉnh táo.

Suy đoán của Lục Lệnh Tùng được xác nhận, hắn không nói gì thêm, chỉ cầm đũa lên, tiếp tục thong thả ăn từng miếng.

Cho đến khi mì đã hết sạch chỉ còn lại nước dùng, Tạ Cánh vẫn chưa chờ được một câu phản hồi từ hắn, trong lòng đã lạnh đi phân nữa, lại ngại không tiện mở miệng nói thẳng rằng "Dể em nếm thử xem vị có gì kì lạ, mặn nhạt chua hay là ngọt", im lặng cả buổi, y chợt xoay người hờn mát: "Thôi, mặc kệ anh, không thích ăn thì nhịn đói đi."

Tạ Cánh còn chưa kịp nhấc chân, eo đã bị Lục Lệnh Tùng vòng tay kéo lại từ phía sau: "Em vội cái gì?"

Tay hắn siết rất chặt, không cho Tạ Cánh có cơ hội giãy giụa, cứ thế mạnh mẽ kéo y trở về bên cạnh mình: "Ta còn chưa nói gì, sao em biết ta không thích ăn? Mỗi lần ta nấu cơm chẳng phải đều đợi em và bọn nhỏ nếm thử trước, còn khiêm tốn nghe phê bình nữa hay sao? Bao nhiêu năm qua làm gương cho em như thế, sao bây giờ quên sạch rồi?"

Tạ Cánh không vùng ra nổi, đành hỏi: "Vậy anh nói đi, có thích ăn không?"

Lục Lệnh Tùng đáp: "Không thích."

Thấy y quay đầu định bỏ đi, Lục Lệnh Tùng bật cười, dùng một tay giữ vững bát nước, tay còn lại vẫn khóa chặt y trước bàn.

"Thôi nào, đừng giận nữa, kẻo lại làm đổ cả bát canh."

Lúc này Tạ Cánh mới chịu thôi vùng vẫy, ngoái đầu trừng mắt nhìn người kia: "Anh thích vào bếp, chẳng lẽ là vì Vương phủ hay hoàng cung thiếu đầu bếp chắc? Hay là bọn em thiếu mỗi bữa cơm anh nấu mà phải trông chờ? Biết rõ đó là việc làm anh thích, thích biến nguyên liệu từ sống biến thành chín, thích lấy điều hòa ngũ vị làm thú vui, em mới chiều theo sở thích của anh. Vậy mà cuối cùng còn bị anh đem ra cười nhạo, lý nào lại như thế?"

Lục Lệnh Tùng nghe vậy bỗng nghiêm mặt: "Chính vì là việc ta thích, cho nên em và ta mới không giống nhau. Em là vì cuộc sống, vì Ninh Ninh, mới ép bản thân học nấu nướng cho bằng được. Nhưng em nói thật cho ta biết đi, em có thực sự thích việc đó không?"

Tạ Cánh khựng lại: "Thích hay không thì có gì quan trọng, vốn dĩ đâu đến lượt em lựa chọn."

"Đi theo ta." Lục Lệnh Tùng nắm tay Tạ Cánh, dẫn y bước đến tiền điện vắng người, vừa đi vừa nói: "Ngày xưa lưu lạc tha phương là do bất đắc dĩ, đương nhiên em buộc phải thuận theo, nhưng bây giờ đã khác rồi. Năm đó ta cưới về một viên minh châu, mười lăm năm đã trôi qua, minh châu sẽ không vì thế mà biến thành mắt cá. Nếu nói ta muốn em làm gì cho ta, thì cũng tuyệt đối không phải là xuống bếp nấu cơm."

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cùng ngồi xuống giữa bậc thang nối liền ngự tọa và sảnh đường rộng lớn. Đây là một vị trí bình thường, cũng giống như thân phận nguyên bản của bọn họ - trên có thể nhìn thiên tử, dưới có thể ngắm quần thần.

"Chi Vô," Lục Lệnh Tùng nhìn quanh mười hai cột gỗ kim ti chèo chống đỡ điện, trên mỗi cột đều có thần long uốn lượn, "Mấy ngày nay, ta vẫn luôn suy nghĩ một chuyện."

Tạ Cánh hỏi: "Chuyện gì?"

Lục Lệnh Tùng duỗi tay ra, nắm bắt thứ gì đó giữa không trung: "Đám thần tử kia ngày ngày hô gọi vạn tuế, nhưng liệu có khi nào giang sơn này vốn không thuộc về ta, cũng không thuộc về họ Lục, mà ta, thậm chí cả Đại Tề, chẳng qua chỉ là kẻ tạm thời giữ gìn mảnh đất này, chứ chẳng có quyền sở hữu thực sự?"

Tạ Cánh hơi sững lại, lắng nghe hắn nói tiếp: "Nhìn lại quá khứ, ngai vàng đổi chủ vốn là chuyện thường tình. Có đoản mệnh như Tần Nhị Thế; cũng có dài lâu như nhà Hán, chật vật lê thê suốt bốn trăm năm, nhưng lại có đến bảy nước phân tranh, tạo thế chân vạc, cuối cùng thì ai mới thật sự là chủ nhân của thần châu này? Há chẳng phải cũng chỉ là người tạm giữ quyền thế thôi sao? Hưng vong, thịnh suy vốn là đạo tuần hoàn vĩnh cửu của đất trời, vậy ta dựa vào đâu để cho rằng mình có thể phá vỡ quy luật ngàn xưa đó, khiến cho quốc tộ kéo dài nghìn đời không dứt?"

"Ta không rõ thế nào mới gọi là một minh quân, nhưng cũng sẽ không ngồi trên chiếc ghế này quá lâu. Nhưng ta nghĩ, nếu đế vương xưa nay có thể đắn đo suy nghĩ, làm việc đúng mực, xem mình là khách chứ không phải chủ, vậy thì cũng không thể coi là một người trông coi tồi tệ."

Nghe xong, Tạ Cánh ngẫm nghĩ một thoáng rồi bật cười nhàn nhạt: "Người trông coi à... Bệ hạ của em, thì ra đạo làm vua của anh là như vậy."

"Sao nào?" Lục Lệnh Tùng ghé mắt nhìn y, "Thế vị quân vương mà hoàng hậu của ta thầm ngưỡng mộ, cam tâm tình nguyện theo đuổi là người thế nào?"

Tạ Cánh lắc đầu: "Nói là theo đuổi thì có phần xa cách, mà nói là ngưỡng mộ lại hơi suồng sã. Em chỉ có thể nói rằng, từ tận đáy lòng, em tán đồng với đạo làm vua của anh."

Lục Lệnh Tùng quay hẳn về phía y, nghiêm túc nhắc lại lời đề nghị để "hậu cung tham chính" một lần nữa: "Đã như vậy, em có bằng lòng vì ta mà ra mưu hiến kế không?"

Tạ Cánh trầm xuống hẳn, hạ mắt chăm chú nhìn nền gạch vuông lát dưới sàn đại điện. Cách mũi giày y vài bước, giữa hai phiến gạch có một đường nứt nhỏ, Tạ Cánh vẫn còn nhớ rõ, năm mười sáu tuổi, khi lên điện ứng thí, y đã quỳ đúng ở vị trí ấy, cúi đầu nhìn vào kẽ nứt nọ, lắng nghe và trả lời câu hỏi của thiên tử. Y cũng chẳng biết vết nứt ấy đã có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó sẽ còn tồn tại rất lâu - lâu hơn nhiều so với tuổi đời của những phàm nhân như họ.

Mãi sau, y mới nhỏ giọng nói: "Nếu anh nói rằng anh mong em chưởng quản quyền lực của giang sơn này, thì em xin lỗi, em không thích, cũng không muốn, em chưa từng có ý định thay trời đổi đất."

Y dừng lại một chút, nhìn Lục Lệnh Tùng: "Nhưng nếu anh nói rằng anh cảm thấy mệt mỏi, vất vả vì việc nước, có quá nhiều phiền muộn, em sẵn lòng tiếp nhận những công việc trong tay anh, bày mưu tính kế cho anh."

"Nếu như có thể san sẻ phần nào cho anh - em sẽ không nói hai lời."

Đầu xuân, băng tuyết đã tan, mỏm Yến lại khoác lên áo xanh, đế hậu đích thân chọn một mảnh đất phong thủy tuyệt đẹp bên bờ sông để làm nơi chôn cất y phục và mũ miện của cố Trưởng công chúa.

Ngày nhập táng, việc niêm quan và đóng đinh được tiến hành ngay trong điện Hàm Chương - nơi đang đặt linh cữu. Tạ Cánh nhớ rất rõ, khi quân dân Ung Châu thu liệm, họ đã đặt vào quan tài bộ chiến bào dính máu mà Lục Lệnh Chân từng mặc lúc sinh thời, vì sợ thấy vật nhớ người, từ đầu y chỉ lặng lẽ đứng sang một bên, không đến gần.

Ấy nhưng Ngô thị dường như nhìn thấu trăn trở trong lòng y, bà chỉ nói: "Đến gặp con bé lần cuối đi, quần áo mà mẹ chuẩn bị cho nó là đồ mới."

Tạ Cánh sửng sốt, vô thức bước lên, nín thở nhìn vào - bên trong quan tài là một bộ áo váy đỏ thẫm như ngọn lửa, sạch sẽ mới tinh, vòng qua eo là chiếc đai lưng ngọc mà Ngô thị tự tay làm, ánh ngọc chiếu sáng lấp lánh.

Váy áo và thắt lưng được trải phẳng dưới đáy quan tài. Thế nhưng chỉ cần nhắm mắt lại, Tạ Cánh gần như ngay lập tức có thể hình dung được dáng vẻ của chúng khi được khoác lên người Lục Lệnh Chân.

Đó là món quà y vội vã trao cho nàng qua một cánh cửa, kèm vài câu thơ tàn, trước khi nàng rời cung đến Ung Châu.

Ngô thị khẽ thở dài: "Sau thời gian hiếu thuận với phụ hoàng, con bé vẫn luôn không nỡ đụng đến, nói muốn chờ anh trai và anh dâu trở về rồi mới mặc cho hai người xem."

Chiếc hộp gỗ hẹp dài ấy chật chội và khép kín dẫu có lưu giữ tro cốt hay giam cầm xác thân Lục Lệnh Chân, thì nó cũng không thể nào nhốt được những dấu vết sống động mà nàng từng để lại trong nhân gian. Đây không giống một cỗ quan tài, mà như chiếc rương báu yêu quý nhất của người thiếu nữ, chứa đầy bảo vật kỳ trân của nàng, từ chiếc khóa trường mệnh đã vô tình đánh mất từ lâu, dây chuỗi vòng tay bện từ dây buộc tóc bị đứt, đến con dao Hồ tinh xảo cùng chiếc vỏ dao khảm đá quý...

Lục Lệnh Tùng nhìn qua những món đồ kỉ niệm này, đột nhiên nói: "Từ nhỏ Chân Chân đã rất thích Y Vân, buổi tối vận chuyển linh cữu đến thác Yến Tử cần xe ngựa, chẳng bằng để Y Vân dẫn đường, tiễn đưa em ấy đoạn đường cuối đi."

Hắn xoay mặt lại, nhìn mọi người, hỏi: "Y Vân đâu rồi?"

Trong điện tức thì yên tĩnh.

Chẳng có ai tiếp lời hắn, Ngô thị và anh em Lục Thư Thanh hết sức ngạc nhiên, các thần tử thì nhát gừng, đám cung nhân thì mù tịt không biết gì, chỉ có Tạ Cánh là cảm thấy căng thẳng.

Chiếc hộp gấm chứa đựng lông bờm của Y Vân thật ra vẫn luôn đặt trong tẩm điện của Lục Lệnh Tùng. Ngày hắn tỉnh lại đã nhắc đến Y Vân, Tạ Cánh thấy hắn còn chưa khỏi hẳn, sợ hắn lại ôm đau buồn cho nên đã viện cớ rằng "Y Vân đang dưỡng thương ở Vương phủ", mà thời điểm đó Lục Lệnh Tùng cũng không xuất cung ngay được, cho nên coi như có thể tạm thời qua mắt.

Sau đó hắn cũng đã hỏi thêm mấy lần, lần nào Tạ Cánh cũng muốn nói sự thật, nhưng rồi lại chẳng biết nói như thế nào.

Từ những ngày đầu tiên, khi tất thảy vẫn còn nguyên vẹn và tốt đẹp nhất, Y Vân đã luôn ở bên cạnh họ. Chấp nhận sự ra đi của nó chẳng khác nào tận tay nhổ bật cả những hồi ức tốt đẹp mà họ dùng để tự an ủi chính mình, điều ấy đều quá đỗi khó khăn đối với cả y và Lục Lệnh Tùng.

Không ai dám trả lời câu hỏi kia, cuối cùng Tạ Cánh mới ngập ngừng cất giọng: "Tử Phụng..."

Thế nhưng đã không còn cần thiết nữa.

Lục Lệnh Tùng đã đọc ra được điều khác lạ từ trong sự im lặng kéo dài ấy.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 123: (H)


《 29.3 》

Khi giàn hoa tử đằng bắt đầu vào mùa nở rộ, phủ Chiêu Vương lặng lẽ đón vài vị cố nhân trở về.

Trong phòng bày sẵn một chiếc ghế tựa mềm, Tạ Cánh nằm nghiêng trên đó, Lục Thư Ninh gối đầu lên vai y, mặt mày hớn hở kể cho bác Chu đang ngồi bên cạnh nghe những chuyện thú vị giữa em và anh trai trong lúc đánh cờ. Dưới gốc mai trắng trong sân, Lục Lệnh Tùng chỉ mặc một chiếc áo bào cổ tròn bình thường ở nhà, cùng Lục Thư Thanh đào một hố đất cạn bên cạnh mộ của Lục Ngải.

"Cha ơi," Lục Thư Thanh bỗng hỏi, "Y Vân đã bao nhiêu tuổi rồi ạ?"

Lục Lệnh Tùng suy nghĩ một chút, "Năm đầu tiên khi cha rời cung mở phủ, tổ phụ của con đã ban nó cho cha, khi đó nó chỉ là một con ngựa non."

Lục Thư Thanh im lặng hồi lâu, tuy rằng Y Vân đã vượt quá độ tuổi sử dụng, nhưng nếu không đi theo Hổ Sư hành quân ngàn dặm, không bôn ba chẳng ngơi nghỉ trong trận tuyết lớn kia, thì ít nhất nó còn có thể sống cho đến khi cậu cập quan.

Cậu nhìn cha mình, thấp giọng nói: "Con xin lỗi, ngày Hổ Sư xuất chinh, con đã không ngăn cản Y Vân lại."

Lục Lệnh Tùng buông xẻng xuống, kéo Lục Thư Thanh lại bên mình: "Thanh Nhi, con đồng ý với cha một chuyện được không?"

"Kể từ hôm nay, con phải dùng hai chữ "xin lỗi" thật cẩn thận, con có thể nói với mẹ con, em gái con và cả tổ mẫu, nhưng đừng nói với cha. Ở bên cạnh cha, tất cả những chuyện con làm không có chuyện gì là có lỗi với cha cả."

Lục Thư Thanh ngẩn người, vô thức gật đầu, rồi lại chợt nhận ra thêm một điểm khác biệt giữa mẹ và cha. Dù ở cả hai, cậu đều có thể cảm nhận được tình yêu và sự bao dung vô bờ bến, chưa bao giờ suy giảm, nhưng tình yêu của mẹ lại khiến người ta phải xót thương, dù Tạ Cánh chưa từng đòi hỏi cậu phải đền đáp bất cứ điều gì, Lục Thư Thanh vẫn muốn dốc hết sức mình, làm mọi thứ thật xuất sắc để y vui lòng; còn tình yêu của cha cậu thì lại bình thản như mặt hồ không gợn sóng, dù cậu có tầm thường vô năng đến đâu, Lục Lệnh Tùng chắc hẳn cũng chỉ nhẹ giọng nói: "Không làm được gì cũng chẳng sao cả".

Lục Thư Thanh thường tò mò tự hỏi, sự tự tại ấy của cha rốt cuộc đến từ đâu? Là bẩm sinh đã vậy, hay do rèn luyện mà thành? Hay đó chỉ là một vai diễn đã trở nên quen thuộc dành riêng cho người trụ cột của gia đình này?

Lục Lệnh Tùng v**t v* gáy cậu, đoạn cất giọng gọi với vào trong phòng khách: "Được rồi, đến đây đi."

Tạ Cánh nghe gọi định đứng dậy, nhưng Lục Thư Ninh vẫn cứ dính sát vào y không rời, không động đậy được, y bèn hỏi: "Đi thôi, có muốn mẹ bế con không?"

Lục Thư Ninh vui vẻ đồng ý, vươn tay vòng qua cổ y, Tạ Cánh bế em ở trước người, hỏi: "Con có biết lúc nhỏ con chỉ cao bằng một nửa bây giờ không?"

Bác Chu nhặt đôi giày thêu rơi cạnh ghế, xỏ vào chân cho em rồi mỉm cười nói: "Năm xưa Ninh Ninh rất hay trốn trong áo choàng của hoàng hậu, vừa hay kéo vạt áo trước lại là che kín được ngay."

Lúc còn nhỏ, Lục Thư Ninh thích nhất là trò trốn tìm. Không cần đến cả Hổ Sư Lệnh, em chỉ cần chui vào áo choàng lông cáo rộng của Tạ Cánh là coi như đã trốn xong. Lục Lệnh Tùng phải làm ra vẻ nghiêm túc mà đi khắp Vương phủ hỏi bé con biến mất rồi, cuối cùng phải vòng một vòng lớn mới "tình cờ" tìm thấy em trong lòng Tạ Cánh, còn phải giả vờ ngạc nhiên y như thật... Mấy trò như vậy bọn họ chơi mãi cũng không chán.

Hai người cùng đi tới dưới gốc cây, nhìn Lục Thư Thanh nâng chiếc hộp gấm đựng lông bờm của Y Vân lên, nhẹ nhàng đặt xuống đáy hố, sau đó cẩn thận lấp đất mới lên trên.

Lục Lệnh Tùng che giấu buồn vui, nhưng sắc mặt vẫn nghiêm trọng. Tạ Cánh bận bế Lục Thư Ninh, không tiện tay nên chỉ nhẹ nhàng tựa sát vào người hắn, tỏ vẻ an ủi.

"Năm đó mẹ vừa vào Vương phủ, khi hai đứa vẫn chưa ra đời, Y Vân và Lục Ngải đều ở bên cạnh mẹ đấy."

Lục Thư Thanh nghe vậy bèn quay đầu lại nhìn mẹ, Tạ Cánh vươn tay về phía cậu: "Con lại gần đây một chút, mẹ không với tới."

Cậu đứng dậy, phủi đi bụi đất trên tay vào áo rồi bước đến bên cạnh Tạ Cánh.

"Bế con không nổi nữa rồi," Tạ Cánh khoác tay ôm cậu, "Cứ đứng như vậy đi."

Y dùng giọng đủ cho bốn người nghe, nói: "Các con giỏi hơn cha mẹ nhiều lắm. Cha mẹ nhát gan, sợ phiền, lại hồ đồ ngu muội... còn các con, dù tuổi còn nhỏ đã có thể nhìn thấu được cả bài toán sống chết khó nhất đời người."

Lục Lệnh Tùng vuốt phẳng lớp đất trên mộ, nhận lấy chung rượu do hạ nhân dâng lên, rót đầy một chung, rồi rưới thức rượu Mai Sơn Tuyết đượm hương nồng say ấy xuống mộ phần. Lục Thư Thanh nhận lấy chùm tử đằng mà Lục Thư Ninh vừa hái trong vườn mang về, nhẹ nhàng đặt lên mộ.

"Anh dời nó vào trong cung cho em nhé?" Lục Lệnh Tùng nhìn nụ hoa màu tím nhạt, cất giọng hỏi.

Tạ Cánh lắc đầu: "Cứ để nó ở nhà đi. Dù có là vật yêu thích nhất đi chăng nữa, thì không phải thứ gì mình muốn mang đi cũng có thể mang đi được."

Y Vân, Lục Ngải, thậm chí cả Lục Lệnh Chân - các nàng đều là những sinh linh tuyệt mỹ do trời đất dưỡng thành, vốn dĩ không nên tồn tại trong thời thế hỗn loạn đục lầy này, càng không nên chịu đựng muôn vàn khổ nạn. Khi trở về nơi ngoài cõi trần, cũng chỉ có rượu cũ và hoa rơi như vậy mới xứng để tiễn đưa những linh hồn ấy.

Lục Thư Ninh vươn tay, muốn phủi đi lớp bụi đất trên cổ áo cha. Tạ Cánh mỉm cười nhìn con gái, không quay sang Lục Lệnh Tùng, nhưng lời nói lại dành cho hắn:

"Cũng là một lẽ thôi. Dù có không nỡ đến mấy, cũng không phải thứ gì mình muốn giữ lại là có thể giữ được. Những gì có thể làm, anh đều đã làm cả rồi. Nếu trong lòng anh vẫn còn oán trách chưa nguôi... thì đó cũng là do mệnh số đã định, con người không đủ sức đọ lại được."

Tháng Tư năm Diên Gia thứ nhất, thiên tử chính thức sắc lập vợ cả xuất thân Trần quận Tạ thị của mình làm hậu, lễ sắc phong được tổ chức ở bên ngoài điện Thần Long.

Điện Lâm Hải mà tiên Thái hậu Vương thị ở suốt ba mươi năm đã bị thiêu hủy, thiên tử báo với Công bộ rằng không cần phải phí tiền phí sức tu sửa, mà chọn điện Chiêu Dương đang bỏ trống ở phía Tây làm cung thất của Hoàng hậu, yêu chiều ban cho tiêu phòng, tất thảy đồ vật trang trí trong cung đều được tỉ mỉ đối chiếu theo nơi ở cũ mà bày biện, tùy theo ý thích của Hoàng hậu.

Vì mấy năm nay Tạ Cánh vẫn mang thân phận bị phế truất, nghiêm túc mà nói thì giữa y và Lục Lệnh Tùng đã không còn danh phận vợ chồng nữa. Theo lệ cũ, y phải tạm thời quay về nhà mẹ là Tạ phủ trước, rồi mới chờ long xa đến đón.

Đến ngày cử hành đại lễ, Lục Lệnh Tùng đích thân đến tận ngõ Ô Y để rước Tạ Cánh vào cung. Ngoài việc nghênh đón, hắn còn mang theo một "món quà" khiến hàng xóm láng giềng, bá quan văn võ cùng cung nhân nội giám theo cùng đều kinh ngạc ghé mắt nhìn - một tấm hoành phi ngự bút, đề bốn chữ lớn: "Chi Lan Ngọc Thụ".

Tạ Cánh đứng sững dưới mái hiên, Tạ Tuấn theo sau y định cất tiếng, lại bị y lắc đầu ngăn lại.

Lục Lệnh Tùng bảo người mang tấm biển "Bách Nhẫn Gia Thanh" cũ kỹ kia đến, ra lệnh: "Mang đao đến đây."

Ngày lễ long trọng không thích hợp dùng binh khí, nhưng lời thiên tử nói nhất ngôn cửu đỉnh, không ai dám bắt bẻ.

Người đứng xem chỉ thấy Lục Lệnh Tùng rút đao ra khỏi vỏ, không chút do dự giơ cao chém xuống, tấm biển cũ nát đứt lìa làm đôi, rơi xuống bậc thềm.

"Nhịn đến nay cũng đã hơn trăm năm, như vậy là đủ rồi."

Ai nấy nghe xong đều chấn động, nhưng sắc mặt Lục Lệnh Tùng thì vẫn thản nhiên như thường, hắn chỉ chuyển tầm mắt sang Tạ Cánh, bình tĩnh nhìn y: "Cửa nhà họ Tạ, vẫn nên để lời của người nhà họ Tạ tô điểm đi."

Đêm đó, ở nơi sâu thẳm nhất của điện Chiêu Dương.

Tạ Cánh quỳ gối giữa giường, đầu gối lún vào chăn đệm mềm mại. Hai tay y vịn lên khung giường mượn lực, trên người hãy còn khoác cát phục mà y mặc vào ban ngày để làm lễ, vạt áo bị vén lên trên thắt lưng, vắt vẻo trên cổ tay Lục Lệnh Tùng, bàn tay còn lại bị áo gấm che khuất thì đang giữ chặt vòng eo của Tạ Cánh.

Lục Lệnh Tùng quỳ thấp hơn y một chút, thúc vào từ phía dưới, tư thế này đi vào rất sâu, đối với Tạ Cánh đã lâu không làm chuyện chăn gối thì có hơi quá sức.

Y cau chặt đôi mày, hai mắt nhắm chặt, khó khăn chịu đựng cảm giác d**ng v*t len lỏi vào cửa huyệt chặt khít. Lục Lệnh Tùng nhanh chóng phát hiện ra y đang run rẩy, bèn ôm y vào lòng, hỏi: "Em đau à?"

Tạ Cánh quá hiểu phản ứng của Lục Lệnh Tùng mỗi khi ở trên giường cùng y, đành dùng lời lẽ dẫn dụ: "Nhanh thêm một chút nữa, vào hết đi, anh sẽ dễ chịu hơn."

Điện Chiêu Dương rộng lớn mà yên tĩnh, lại chỉ có một người ở, dù thế nào cũng khó tránh khỏi cô quạnh. Tạ Cánh không rõ liệu có phải mình đang muốn dùng cơn đau để đổi lấy một chút cảm giác chân thực, nơi cả hai có thể bên nhau dài lâu. Trước khi Lục Lệnh Tùng trở về, y chỉ dựa vào bình phong mà đọc sách, từ ban ngày đến lúc đèn dầu đã được thắp lên, đến cả thời gian trôi qua cũng chẳng đếm nổi. Gọi cung nhân một tiếng, âm thanh đáp lại truyền qua từng lớp màn rèm xa xăm, chẳng rõ là thật hay chỉ là ảo tưởng.

Sau khi Lục Lệnh Tùng tắm ra, Tạ Cánh cũng vừa nới rộng cho mình một nửa. Hắn thuận tay sờ vào g*** h** ch*n y, chỉ thấy nước nôi đầm đìa, ướt át không sao chịu nổi, vừa dùng tư thế từ phía sau để ép người kia vào trước ngực mình không bao lâu, Tạ Cánh đã giục hắn đi vào.

Lục Lệnh Tùng thở nhẹ, "Đừng vội, như vậy cũng thoải mái mà, để ta ôm em, chúng ta cứ từ từ thôi."

Hắn để Tạ Cánh tựa vào ngực mình, hai cơ thể dán chặt lấy nhau, g** th*t cọ xát cửa huyệt nóng rẫy, chậm rãi xâm nhập. Lần thứ hai Tạ Cánh sinh con đã cách đây gần mười năm, da thịt ở vùng bụng dưới không còn mềm mại, hai bên xương hông cũng hơi lộ ra, Lục Lệnh Tùng chỉ cần dùng một tay đã có thể che được trọn vẹn, thân mật x** n*n, thỉnh thoảng lại bóp một cái vào eo y.

Ngay khi vừa nuốt trọn vật kia, rốt cuộc Tạ Cánh cũng không nhịn được nữa mà ngửa cổ lên, nghẹn ngào r*n r*. Lục Lệnh Tùng ở phía sau kéo cổ áo của y xuống, không ngừng rải nụ hôn lên xương bả vai y.

Đến khi Tạ Cánh đã thích ứng với sự k*ch th*ch này, lấy lại tinh thần, bấy giờ mới phát hiện Lục Lệnh Tùng vẫn giữ nguyên tư thế, suốt cả buổi không nhúc nhích gì, y bèn hỏi: "Sao anh không làm?"

"Tỉnh rồi đấy à?" Lục Lệnh Tùng đáp, thử nhấp vài cái như thăm dò, Tạ Cánh lập tức rên lên theo từng cú thúc của hắn.

Lục Lệnh Tùng ghé sát tai y, cười: "Rên như vậy mới đúng chứ."

Ban đầu hắn làm không nhanh không chậm, đều rút ra một nửa rồi đâm vào tận nơi sâu nhất, có điều chỉ mới vài bận, Tạ Cánh đã bị hắn vần đến nỗi mồ hôi rịn đầy người: "... Anh c** đ* ra giúp em đi."

Lục Lệnh Tùng không làm theo ý của y: "Xuân còn chưa sâu, cởi hết sẽ lạnh lắm, ta buộc tóc cho em nhé, gọn gàng một chút sẽ thoải mái hơn."

Hắn thành thạo vấn mái tóc dài của Tạ Cánh thành một búi cao, chẳng biết từ đâu lại lấy ra một chiếc trâm phượng bằng vàng, cắm nghiêng vào búi tóc. Đầu phượng được chạm khắc thành dáng ngậm ngọc trai, chuỗi ngọc nối liền với tua rua rủ xuống, đong đưa chạm đến tận đuôi mày của Tạ Cánh, nhè nhẹ lay động.

Tạ Cánh liếc nhìn bằng khóe mắt, khẽ bật tiếng mắng: "Lại bày trò gì trên người em nữa thế?"

Lục Lệnh Tùng nhẹ nhàng nâng cằm y lên, dẫn dắt y quay đầu nhìn ra bên ngoài, màn lụa buông nửa, ánh đèn mờ ảo, chỉ có thể mơ hồ nhìn thấy hai thân thể quyện chặt vào nhau phản chiếu trong gương đồng: "Về sau em chính là nương nương hàng thật giá thật, có thể danh chính ngôn thuận mà thổi gió bên gối cho trẫm rồi đấy."

th*n d*** của hắn vận động nhanh hơn, Tạ Cánh cũng chẳng còn sức cãi lại. Dù đây là nỗi đau do chính y chủ động khát cầu, thì cũng đã được những cái v**t v* kiên nhẫn của Lục Lệnh Tùng, cùng sự chăm chút dịu dàng nơi điểm mẫn cảm của y dần dần xoa dịu, hóa thành từng đợt kh*** c*m bùng nổ. Nhịp r*n r* của y cùng tiếng lách cách của chuỗi ngọc bên tóc mai va vào nhau như hòa vào làm một, xen lẫn với đó còn có tiếng nước lép nhép khi g** th*t ra vào huyệt đạo ẩm ướt phát ra, trong điện lúc này chỉ còn lại đủ loại âm thanh d*m d*c chẳng cần nói cũng hiểu.

Lục Lệnh Tùng hôn lên tấm lưng trần ướt rượt mồ hôi của y, bàn tay vân vê đầu vú, Tạ Cánh ngứa ngáy vô thức cuộn mình, huyệt sau cũng thít lại, m*t chặt lấy g** th*t, k*ch th*ch khiến Lục Lệnh Từng cứng người lại rõ ràng, đành phải vỗ lên mông y nhắc nhở: "Thả lỏng một chút, đừng kẹp chặt như vậy."

Tạ Cánh nghẹn ngào mắng: "Vậy thì anh đừng hôn loạn phía sau nữa! Mồ hôi có gì ngon mà cứ l**m mãi thế!"

Lục Lệnh Tùng càng th*c m*nh hơn khiến y rên lạc cả giọng: "Mồ hôi thì có sao, thứ nước nào trên người em mà ta còn chưa thưởng thức qua chứ?"

Tạ Cánh sững sờ, lại chợt phát hiện ra dường như đúng là như vậy - nước bọt, sữa, t*nh d*ch, còn có cả máu của y, Lục Lệnh Tùng đều đã "thưởng thức" qua rồi. Cá nước giao hòa còn không đến nỗi này.

Lục Lệnh Tùng ngoài miệng muốn phân cao thấp với y, nhưng hành động thì lại chẳng so đo tính toán, hắn bóp mặt Tạ Cánh hôn y, th*n d*** lại cố tình nhấp mạnh vào, mỗi cú dập giã đều hung hăng chạm vào chỗ thịt mềm kia, một mặt cố gắng kiềm chế chỉ để bản thân không vượt đến mức đâm mở cổ t* c*ng.

Bị cơn c*c kh*** ngập đầu ập đến, Tạ Cánh muốn kêu lên, nhưng Lục Lệnh Tùng vẫn cương quyết chặn môi y hôn sâu, khiến cho y không thể nào cất giọng, tiếng rên hóa thành tiếng nức nở nghẹn ngào, kẹt lại trong cổ họng.

Chẳng biết từ lúc nào, giữa háng y đã lênh láng nước nôi, t*nh d*ch trắng đục mà y phóng xuất chảy dọc từ đỉnh xuống gốc, rồi lại tí tách chảy xuống nơi g*** h*p của y và Lục Lệnh Tùng. Khi huyệt sau cao trào co rút, Tạ Cánh hoàn toàn không quỳ nổi nữa, Lục Lệnh Tùng ôm lấy y ngã lăn xuống giường, hắn ở phía dưới nâng cao bụng y lên, d**ng v*t chôn sâu vào đường hầm nóng rẫy mà xuất khí, t*nh d*ch bị ngăn lại kín kẽ ở nơi bí hiểm kia, một giọt cũng không rỉ ra ngoài.

Ngày còn ở tuổi hai mươi mơn mởn không biết nặng nhẹ, ngày qua tháng lại đắm chìm nơi bể dục, khắp phủ Chiêu vương trong trí nhớ đều có dấu vết h**n ** mà bọn họ để lại, từ bàn chơi đàn trong thư phòng của Tạ Cánh, bàn cờ trong thư phòng của Lục Lệnh Tùng, cho đến lầu các nhỏ ở góc Tây Bắc vườn hoa, hay chiếc ghế bành trên thuyền đá, càng khỏi phải nhắc đến phòng ngủ và Y Bích đài. Trong mười lần kiểu gì cũng phải có đến hai, ba lần chưa quá nửa trận Tạ Cánh đã bị làm đến bất tỉnh, thế là đành kết thúc, mãi đến khi y mang thai Lục Thư Ninh, cả hai mới biết khắc chế, từ dạo đó về sau cũng dần bớt phóng túng chút ít.

Có lẽ đã từ rất lâu rồi, Tạ Cánh chợt nhận ra rằng mỗi lần ân ái, giữa y và Lục Lệnh Tùng đều mang theo sự nhẫn nại, kiềm chế, thậm chí... có phần "nhã nhặn giữ lễ". Cứ như thể vì sợ một ngày nào đó sẽ mất đi tất cả, cho nên vẫn luôn không thể buông mình tận hưởng trọn vẹn cơn cuồng hoan cho đến khoảnh khắc cuối cùng.

Không bao lâu sau, Tạ Cánh khẽ nhích vai, đẩy Lục Lệnh Tùng một cái, giọng nói lười biếng mà thư thả: "Anh nên về điện Thần Long rồi đấy."

Lục Lệnh Tùng vươn đầu ngón tay chạm lên vết sẹo trên cánh tay phải của y, giống như đang phác họa hoa văn nào đó. Mãi sau, hắn mới mở miệng: "Ta không đi. Dù ta có ngủ ở đây đến sáng, thì cũng có người nào dám quản ta đâu?"

"Anh chắc chứ?" Tạ Cánh ngoái đầu liếc hắn, "Bây giờ không còn như ở Vương phủ nữa đâu. Những chuyện thế này đều sẽ được ghi vào Đồng sử và Khởi cư cả đấy."

Lục Lệnh Tùng xùy một tiếng: "Còn nói được mấy lời phá hứng như vậy, xem ra em vẫn còn sức, chưa thấy đủ đúng không?"

Tạ Cánh gối đầu lên cánh tay đối phương, trêu đùa: "Cũng là muốn khuyên bệ hạ nên để ý chừng mực một chút, chỉ sợ Sử quan dùng bút pháp Xuân Thu, lấy Hán so Đường, lại ví anh với Hán Thành đế, còn em thì bị coi thành Phi Yến Hợp Đức* mà thôi."

(*) Phi Yến Hợp Đức là một cụm từ văn sử Trung Quốc, dùng để chỉ hai chị em cùng làm phi tần nổi tiếng thời Hán là Triệu Phi Yến và Triệu Hợp Đức, cả hai đều rất được Hán Thành Đế sủng ái.

Lục Lệnh Tùng hoàn toàn không chịu thua: "Ta sợ gì chứ? Dù quốc sử hay thực lục có ghi lại, ta cũng chẳng lo, sợ là sợ đám sử quan đó nghe chuyện ngại ngùng, không dám viết vào mà thôi."

Hắn trở mình, nghiêng người nằm sang bên cạnh rồi vươn tay nắm lấy lọn tóc của Tạ Cánh, vừa cầm vừa nghịch. Tạ Cánh nằm đối diện với hắn, giữa tấm màn thêu rực đỏ và ánh nến lượn lờ, ánh mắt đôi bên đều nhuộm một tầng men say.

"Minh quân hiền hậu, đời này ta và em không làm được, đợi đến khi Thanh Nhi trưởng thành, chúng ta sẽ làm thừa tướng cho nó."

Tạ Cánh khựng lại: "Anh muốn -"

"Ta muốn sau khi Thanh Nhi cập quan sẽ lập tức truyền ngôi cho nó. Ta và em sẽ lui về Vương phủ, lấy thân phận Chiêu Vương và Vương phi tiếp tục phò tá triều chính. Cho đến khi nó đủ lông đủ cánh, thực sự trở thành một vị thiên tử có thể khiến thiên hạ khuất phục, không còn cần cha mẹ phải lo liệu thay nó nữa."

"Đến cuối năm nay, Thanh Nhi đã tròn mười lăm tuổi, còn năm năm nữa mới đến lễ đội mũ thành nhân. Trong năm năm này, ta sẽ khiến cho cả cung Thái Sơ, cả triều đình, cả thành Kim Lăng và cả thiên hạ này phải thừa nhận thân phận người kế vị của nó mà không có lấy một lời dị nghị."

Lời Lục Lệnh Tùng nói ra hết sức nhẹ nhàng, nhưng trong đó lại hàm chứa đại sự quan trọng, sớm đã vượt ra ngoài phạm vi những lời ân ái trong chốn gối chăn. Tạ Cánh bất giác sững lại, Lục Lệnh Tùng khẽ vén mái tóc dài của y sang một bên, đầu ngón tay nhẹ vuốt dọc sống lưng trần mịn màng. Tạ Cánh như chìm vào cõi mơ hồ, chẳng rõ thực hư.

"Ta còn muốn để thằng bé mau chóng dọn khỏi Đông cung, vào điện Thần Long ở, nằm ngủ trên chiếc giường mà chỉ có đế vương mới được nằm kia."

Tạ Cánh ngạc nhiên hỏi: "... Thế còn anh?"

Lục Lệnh Tùng nhìn y không chớp mắt: "Ta sẽ ở điện Chiêu Dương, ngày ngày ăn nằm cùng em, sớm tối bầu bạn."

Khoảng lặng kéo dài.

Tạ Cánh chỉ nghẹn lời, y hiểu rằng Lục Lệnh Tùng đang đưa ra một lời hứa - rằng hắn sẽ không vì sợ sử quan phê phán mà sau phút ân ái, lại viện cớ lễ nghi để đưa y rời khỏi tẩm điện điện Thần Long ngay trong đêm khuya; rằng hắn sẽ không vì e ngại quần thần can gián mà giữ mãi lễ nghĩa vợ chồng hoàng gia theo khuôn phép, đến cả một chút thiên vị cũng không dám dành cho y.

Nỗi mê mang trong buổi hoàng hôn năm nào ở điện Lâm Hải, đến hôm nay rốt cuộc cũng đã lộ ra một tia sáng - y không cần phải chia sẻ Lục Lệnh Tùng với những người khác, và con của y cũng không cần phải chia sẻ cha của chúng với những đứa trẻ khác.

Tạ Cánh khom người, vòng tay ôm lấy hắn, Lục Lệnh Tùng vẫn đang nằm sấp trên người y, vây chặt y trong vòng tay mình, vừa rồi mới chỉ là lần đầu tiên trong đêm nay.

Đêm hãy còn dài, điện Chiêu Dương lại rộng lớn đến thế, thời gian dường như bất tận, cứ thế mặc cho họ vừa khóc vừa cười, vừa buồn vừa vui, được sống như một con người - một con người thực sự còn thở, còn cảm xúc, chứ không phải là một hình tượng khoác áo gấm vàng son bị đóng khung lên tranh vẽ, treo trong Thái miếu.

Tạ Cánh bỗng giật mình, thầm nghĩ hóa ra y chưa bao giờ cần phải giam mình trong nỗi buồn bế tắc, cô độc thủ giữ lầu son, chờ một con quạ rét nào đó bay ngang qua, mang đến chút ánh nắng hiếm hoi cho điện Chiêu Dương.

Bởi lẽ chính y đã sẵn có trong tay tất cả, một mặt trời tròn đầy rực rỡ.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 124: 《 Vĩ thanh 》


Quan thự của Hạc Vệ nằm ở phía Tây Nam hoàng thành, sát ngay bên Vũ Lâm Vệ, còn Tuyên Thất thì vẫn giữ nguyên địa điểm cũ, nằm bên trong cung thành. Bởi vậy, hiếm khi Tạ Tuấn có dịp gặp Tiêu Dao trên đường đi trực.

Cậu đi bộ, còn Tiêu Dao ngồi xe, một trước một sau tình cờ gặp nhau. Tạ Tuấn bước đến hành lễ: "Lâu rồi không gặp sư phụ."

Tiêu Dao vén rèm xe lên: "Lên đi, cho con ngồi nhờ một đoạn đường."

Hai thầy trò ngồi ổn định trong khoang xe, Tạ Tuấn mặc quan phục chỉnh tề, còn Tiêu Dao gần như chẳng khác gì so với trước kia, mười mấy năm ra vào Trích Tinh lâu như thế nào, bây giờ nàng vẫn vẹn nguyên như thế ấy. Nhưng Tuyên Thất là thế lực dưới trướng Lục Lệnh Tùng, nói khó nghe thì chẳng khác nào "chó săn" của thiên tử, có triều thần nào dám công khai bình phẩm Tiêu Dao chứ?

"Hôm ấy vào cung ngồi trò chuyện cùng chú của con, nghe y nói, con định qua một thời gian nữa sẽ từ chức ở Hạc Vệ à?"

Tạ Tuấn gật đầu, bùi ngùi đáp: "Vì những chuyện cũ trong nhà nên lòng con vẫn còn sợ hãi, sư phụ cũng biết rõ điều đó mà. Thật ra chuyện sư phụ vẫn tiếp nhận chức thủ lĩnh Tuyên Thất... mới là điều khiến con thật sự không ngờ tới."

Tiêu Dao cau mày: "Nhìn ta giống như người không màng danh lợi lắm sao?"

Tạ Tuấn cười, lắc đầu: "Chỉ là con cảm thấy, sư phụ chọn liên minh với bệ hạ năm xưa vì đó là di nguyện của ân nhân, dốc lòng gầy dựng bao năm chỉ để tẩy sạch tội danh cho những người vô tội trong gia tộc. Nay ân tình đã trọn, cũng là lúc người nên buông gánh nặng xuống, sống tiêu dao tự tại đi thôi."

Nghe vậy, Tiêu Dao trầm mặc một lát rồi nói: "Cái tên này là do sư phụ của ta đặt khi nhận nuôi ta. Nhưng rốt cuộc ta muốn làm điều gì, làm sao hắn có thể biết hết được?"

Nàng khẽ nhoẻn miệng cười gian xảo: "Huống hồ, sống có tiêu dao tự tại hay không đâu nằm ở chỗ mình ở nơi nào? Năm xưa ở chốn thanh lâu, bọn họ nghe ta ca hát, thổi tiêu, bây giờ gặp ta lại phải khom lưng uốn gối gọi hai tiếng 'đại nhân', chuyện đắc ý nhất trên đời chẳng phải là như thế hay sao?"

Lòng Tạ Tuấn khẽ động, cậu vô thức gật đầu, rơi vào trầm ngâm.

Xe ngựa đã đến trước cửa quan thự Hạc Vệ, Tiêu Dao mới hỏi tiếp: "Con muốn từ quan, nhưng Lý cô nương thì chưa chắc đã nghỉ việc theo con nhỉ?"

Tạ Tuấn hoàn hồn đáp: "Không đâu ạ, thứ nhất Phương Trần là người làm việc đâu ra đấy. Hai là mẹ và cậu của nàng đều đang mong nàng mở rộng tiền đồ. Nhìn ra xa, phía trước vẫn là một chặng đường rực rỡ đang chờ đợi nàng ấy."

Tiêu Dao vui vẻ nói: "Đúng là độ tuổi có thể mặc sức vùng vẫy. Nếu không phải vì thấy tội nghiệp cái tên nhóc nhà con cứ muốn làm đồng liêu với người ta để ngày nào cũng được gặp mặt, ta đã sớm mở miệng xin người từ chỗ Lục Tử Phụng để đích thân dạy dỗ rồi. Giờ thì cũng được thôi, hôm nay con từ chức, ngày mai ta đi hỏi ý Lý cô nương thử xem sao."

Tạ Tuấn bất lực gãi ót: "... Sư phụ!"

Tiêu Dao nghịch ngợm nhướng mày, thấy cậu bối rối thì bật cười, vươn đầu ngón tay cách xa một khoảng, chỉ vào lồng ngực của Tạ Tuấn: "Tuấn Nhi, trái tim nằm ở đây này."

Tạ Tuấn ngẫm đi ngẫm lại câu nói ấy, cậu xuống xe ngựa, ngẩn ngơ rảo bước vào trong sảnh quan thự. Vừa ngẩng đầu lên đã nhìn thấy Lý Dã ở đó từ trước.

Hạc Vệ là do Lục Lệnh Tùng một tay nâng đỡ, sau lại được rèn giũa dưới quyền Lục Lệnh Chân suốt mấy năm, được trải nghiệm đao thật thương thật. Tạ Tuấn tuy là thống lĩnh, nhưng trong lòng chưa từng dám chắc bản thân được mọi người tin phục hoàn toàn.

Song, lúc này Lý Dã đang ngồi ngay ngắn sau bàn làm việc, xoay nửa người về phía cậu, đang căn dặn mấy thuộc hạ đứng chờ dưới công đường. Giọng nói của cô không to, điềm đạm mà thong thả, đủ để xứng với bốn chữ "khí định thần nhàn".

Tạ Tuấn đứng ở ngoài sảnh, không quá gần cũng chẳng quá xa, lặng lẽ nhìn cô. Mãi đến khi mấy thuộc hạ lần lượt lĩnh mệnh lui ra, Lý Dã mới như cảm nhận được điều gì đó mà quay sang, bắt gặp sự hiện diện của cậu.

Có lẽ cô đã khẽ mỉm cười. Tạ Tuấn giật mình, vội vã dời ánh nhìn đi nơi khác.

Mấy năm nay Ngô thị vẫn luôn giữ thói quen không ăn sau giờ Ngọ, thường là con cháu đến Minh Loan điện dùng bữa cùng bà. Nhưng hôm nay vì bà ăn điểm tâm hơi muộn, nên đến giờ Ngọ, một nhà bốn người bèn tụ họp tại điện Chiêu Dương, cùng nhau ăn một bữa cơm đơn giản.

Người còn chưa ngồi đủ, món ăn đã lần lượt được dọn lên. Lục Lệnh Tùng vừa rửa tay xong, liếc thấy trong khay son có món vịt hồ lô hầm tiêu xanh, hắn bèn nói: "Gắp riêng mấy miếng ra đi."

Cung nhân lập tức làm theo. Lục Lệnh Tùng bưng đĩa bước sang điện phụ nơi đặt bài vị, trùng hợp trông thấy Lục Thư Ninh đang đứng trên một chiếc đôn thêu, nghiêng người cắm nhánh hoa hạnh vào bình hoa.

Trên bức tường sau bàn thờ treo một bức họa mới vẽ, nét mực còn tươi. Trong tranh là thiếu nữ vận áo đỏ, đeo kiếm sau lưng, góc tranh có đề: "Tranh vẽ Chân Chân, cháu gái Thư Ninh vẽ vào tháng Năm năm Diên Gia thứ nhất, anh dâu Cánh đề chữ."

"Có với tới không đấy?" Lục Lệnh Tùng hỏi.

"Đương nhiên rồi ạ," Lục Thư Ninh cắm thêm hoa tăng phần sinh động, rồi nhẹ nhàng nhảy xuống khỏi đôn thêu, quay đầu lại nhìn, em reo lên: "Òa, có món vịt kìa, là món cô thích ăn nhất!"

Giọng Tạ Cánh vọng ra từ chính điện: "Đồ ăn nguội cả rồi, mọi người đi đâu hết vậy?"

Thế là hai cha con cùng quay về, Lục Thư Thanh cũng vừa bước vào điện, vừa cởi áo khoác ngoài vừa lẩm bẩm: "Mẹ đúng là ngược đời thật đấy, đêm thì giục người ta đi ngủ, mới qua canh hai một khắc đã nói 'con xem, sang canh ba rồi đấy!', đến trưa thì giục người ta ăn cơm, chỉ vào rau trộn mà bảo 'đồ ăn nguội cả rồi...'."

Tạ Cánh thật sự không nghe rõ, hỏi lại: "Con nói gì thế?"

Lục Thư Thanh: "Không có gì ạ!"

Tất cả đã yên vị, Tạ Cánh thuận miệng hỏi Lục Thư Ninh: "Hôm nay con hái hoa gì cho cô con đấy?"

"Trên đường đi ngang hồ Thái Dịch con hái được hoa hạnh này, màu trắng ngọc, là mấy cành cuối cùng rồi đấy ạ. Sợ mưa thêm trận nữa là rụng hết thôi."

"Không sao, hoa hải đường ngoài Lan đài cũng nở rồi," Lục Thư Thanh nói, "Ngày mai anh hái một ít về cho."

Vì có bốn người ngồi, Lục Lệnh Tùng thấy không gian chật chội nên không gọi cung nhân gắp món mà tự mình với tay gắp một đũa măng tây. Không ngờ lại vô tình chạm vào khuỷu tay trái đang bưng chung trà của Tạ Cánh, khiến y hít sâu một hơi.

Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh nghe tiếng đều ngẩng đầu nhìn về phía mẹ. Dưới gầm bàn, Tạ Cánh dùng đầu gối khẽ thúc Lục Lệnh Tùng một cái, ngoài miệng chỉ thản nhiên nói: "Không sao, thành chung hơi nóng một chút thôi."

Lục Lệnh Tùng tự hiểu, là do tối hôm kia Tạ Cánh nằm sấp trên chiếc áo choàng lông cáo trải trong thư phòng phía tây, bị hắn ép làm đến nửa đêm, đến giờ cánh tay trái vẫn còn tê mỏi, chưa hồi phục hẳn.

Hắn bình thản dịch người lại gần, khẽ thì thầm bên tai: "Tối nay bảo người pha bồn nước ấm, ta sẽ xoa bóp cho em."

Đợi đến khi Lục Lệnh Tùng và bọn trẻ đều đã rời điện Chiêu Dương, Ngân Trù mới một mình đến từ biệt Tạ Cánh.

Hơn một tháng trước, cô đã bày tỏ ý định ra đi, cũng đã nhiều lần nhắc đến ngày đi với Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh. Thế nhưng đến lúc thực sự phải chia xa, trong lòng lại không nỡ, cô bèn giấu kín hai người, chỉ lặng lẽ rời cung.

Tạ Cánh tuy đã mơ hồ đoán được Ngân Trù sẽ đi, nhưng vẫn giữ trong lòng một tia hy vọng có thể giữ cô lại: "Tần thái y tuổi đã cao, qua Trung thu năm nay ông ấy định cáo lão hồi hương. Ta và Tử Phụng vốn định để dành vị trí Viện phán lại cho chị đấy."

Ngân Trù chỉ lắc đầu: "Ở trong nhà, làm dì của Thanh Nhi và Ninh Ninh, tôi muốn sao được vậy, nhưng vào cung, làm bảo mẫu của Thái tử và công chúa, đối với tôi đây là một công việc có chút xa vời, cũng có chút khó khăn."

Tạ Cánh hiểu rất rõ điều mà Ngân Trù muốn nói - ở Vương phủ, gần như chẳng có bao nhiêu chuyện phải cân nhắc nhân tình thế thái; nhưng ở trong cung thì khác, tốt xấu lẫn lộn, từ tiền triều đến hậu cung có vô số ánh mắt sắc như dao, đủ chuyện luồn cúi, đút lót, không sao kể xiết. Mà Ngân Trù, với tư cách là người gần gũi nhất, được Thái tử và công chúa tin cậy nhất chỉ sau tổ mẫu, ắt sẽ phải đối mặt với đủ loại rắc rối "khó lòng đưa ra ánh sáng".

Cô mỉm cười, gọi tự của y: "Chi Vô."

Tạ Cánh khẽ rùng mình, cả con đê ký ức như bị cơn lũ quét sập trong chớp mắt. Khi tiếng sênh tiêu Trích Tinh lâu năm ấy hãy còn vang vọng, khoảnh khắc cánh cửa bị xô tung ra, hình ảnh thiếu nữ xinh đẹp không chút kiêng dè buông lời mắng mỏ ấy hôm nay lại một lần nữa hiện về trước mắt y.

Không lâu trước đây, Tiêu Dao cũng từng ngồi đối diện với y, nhắc đến một chủ đề tương tự. Ngân Trù và Tiêu Dao có thể xem là hai người bạn mà Tạ Cánh thân quen nhất. Xuất thân của họ khác biệt một trời một vực, con đường mà họ chọn để có được cuộc sống yên ổn chẳng giống nhau, những ngã rẽ trong đời nơi họ dừng lại cũng hoàn toàn khác hẳn đối phương.

Song, bản tâm của họ thì lại giống hệt nhau, vững như bàn thạch, không vì sang hèn mà thay đổi, cũng chẳng vì sống chết mà lay chuyển.

"Phải rồi," y nhìn cô, khẽ mỉm cười, "Từ ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau, chị đã nói rằng muốn mở lại y quán của nhà mình. Tuy có muộn một chút - muộn đến mười sáu năm, nhưng rốt cuộc vẫn là nói được làm được."

Tạ Cánh tiễn Ngân Trù thẳng đến tận Công Xa môn, y đứng ở đầu cầu đá trắng bên hào thành, lặng lẽ nhìn xe ngựa của cô dần đi xa, hóa thành một chấm đen nhỏ, cuối cùng hoàn toàn khuất bóng, chỉ còn lại cánh cổng trống vắng im lìm.

Khách qua chớ nghe nước chảy trước cung môn, vì âm thanh ấy đã cuốn trôi cả tháng năm đời người.

Trên đường trở về điện Chiêu Dương, Tạ Cánh lững thững đi trước một mình, nội giám và cung nữ lặng lẽ theo sau cách một đoạn xa.

Quảng trường trước điện Thần Long quanh năm suốt tháng đều toát lên vẻ tịch mịch nghiêm trang, duy chỉ có đêm Giao thừa, khi hoàng đế mở tiệc ban thưởng cho bá quan, nơi này mới có đôi chút tiếng cười nói làm dịu đi sự tĩnh lặng. Chính nơi ấy, chính thời điểm ấy là lần đầu tiên Tạ Cánh gặp gỡ Thôi Thục Thế, nàng đứng bên kia ánh đèn và vô số bóng người, lạnh lùng nhìn về phía y, hoàn toàn dửng dưng với năm Trinh Hữu thứ tám sắp đến.

Giờ này Lan đài đã khóa cửa, không còn mở cho quan viên các bộ đến tra cứu điển chương nữa. Năm xưa, vì muốn tìm một chỗ thuận tiện cho cả Lục Thư Thanh và Trương Diên, Lục Lệnh Chương mới cố tình sắp xếp riêng cho cậu một gian phòng trong Lan đài. Giờ đây, Lục Thư Thanh đã có thể tùy ý sử dụng tất cả mọi nơi trong cung điện, vậy mà ngày nào cậu cũng chỉ thu mình trong căn phòng chật hẹp ấy.

Hình như gần đây trong nội bộ cung nhân bắt đầu rộ lên lời đồn điện Lâm Hải có ma, chuyện này vốn đã là "đãi ngộ" mà mỗi điện trong cung Thái Sơ đều được chia phần như nhau, chẳng có gì lạ. Có lẽ ngay lúc này, ở một nơi mà mắt Tạ Cánh chẳng thể thấy được, linh hồn mang dáng dấp hai đứa trẻ của Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Chương cũng đang ríu rít cười đùa quanh y, chạy chơi dọc theo vĩnh hạng sâu hun hút mãi không thấy điểm kết.

"Chân mệnh thiên tử" chào đời ở điện Cửu Hoa tổng cộng chẳng có mấy người, mà chết thì cũng đã chết gần hết, chỉ còn lại mỗi một mình Lục Thư Thanh. Ai mà biết được đời sau liệu còn có ai nữa không? Thật ra lúc chọn cung thất cho Hoàng hậu, Tạ Cánh đã chủ động nói dùng điện Cửu Hoa cũng được, cả cung đình này đều là mái ngói cột chạm, ngủ ở đâu mà chẳng phải là ngủ. Nhưng Lục Lệnh Tùng không đồng ý, sở dĩ vì thời điểm y hạ sinh Lục Thư Thanh năm ấy vẫn khiến hắn sợ hãi, còn Tạ Cánh không bận lòng là bởi vào lúc khó nhọc nhất, y đã nghe thấy tiếng gọi của mẹ mình, khi đó, nỗi sợ hãi trong lòng y thật sự đã chẳng còn lại bao nhiêu.

Khi Tạ Cánh bước qua cửa lớn điện Chiêu Dương cũng vừa đúng lúc mặt trời đang ngả về Tây, bọn trẻ vẫn chưa về.

Buổi chiều, Lục Thư Thanh đã ra ngoài cung chơi, Tạ Cánh nghĩ, bọn họ ngồi lên hoàng vị chẳng phải là để đổi lấy khoảnh khắc này hay sao? Để Lục Thư Thanh có thể tranh thủ nửa ngày nhàn rỗi giữa kiếp phù sinh, tạm gỡ bỏ trách nhiệm của một Thái tử, ra ngoài gặp gỡ nhóm bạn mà chính cậu tự lựa chọn, cũng rất có thể là những người sẽ trở thành nhóm cận thần do chính cậu đích thân chỉ định sau này.

Có một số việc lớn tồn đọng đã lâu, chẳng hạn như mở rộng khoa cử tuyển sĩ; cải cách chế độ ruộng đất, tiền tài thuế má; dàn xếp những mâu thuẫn giữa sĩ tộc, thứ dân và thương nhân, cùng với loạt vấn đề chiến hòa ở biên giới và thương lộ với Mạc Bắc... cho dù không thể giải quyết hết trong mấy năm Lục Lệnh Tùng tại vị, thì chí ít họ cũng phải bắt tay vào ngay để mở ra khởi đầu cho Lục Thư Thanh.

Lục Lệnh Tùng cùng Tạ Cánh quyết định cứ cách ba ngày sẽ để Lục Thư Thanh tham dự buổi tấu đối tại Chính sự đường một lần, hai người cũng sẽ có mặt, Tạ Cánh chỉ lắng nghe, không góp lời. Những tấu chương từ Thượng thư đài sẽ được các vị trưởng quan tuyển chọn kỹ lưỡng, chọn ra những việc hệ trọng, khó quyết đoán, dâng lên cho Lục Lệnh Tùng, sau đó hắn sẽ mang những việc bản thân còn chưa nắm chắc về ngự thư phòng, bàn bạc cùng Tạ Cánh sau.

Mà hầu hết thời điểm, những trình tự rườm rà như vậy đều sẽ bị bãi bỏ. Bởi lẽ ngay trong ngày cử hành đại lễ sắc phong Hoàng hậu, Lục Lệnh Tùng đã nhân đó đích thân viết ra giấy trắng mực đen, công bố rằng trên triều đình, trước chính sự, Tạ Cánh có quyền vào triều không phải quỳ trước quân vương, xưng thần không xưng thiếp, nghe chính sự không cần rèm che.

Đến chạng vạng tối, nội điện lúc nào cũng yên tĩnh đến lạ, tựa như chỉ chớp mắt thôi tất cả mọi người đã tan biến vào hư không. Tạ Cánh từng bước giẫm lên ráng chiều màu gừng, các vật bày trí trong phòng bị ánh sáng cắt thành hai nửa, một nửa căn phòng rực đậm sắc vàng, nửa kia là một mảng xám u tối thăm thẳm.

Trên chiếc tháp ở phía Tây là chồng sách nằm vương vãi lộn xộn, toàn bộ đều là những quyển mà thường ngày Lục Thư Thanh thích đọc. Cậu có thói quen ngủ trưa ở đây, các cung nhân không dám tự tiện thu dọn.

Tạ Cánh dừng lại cạnh tháp, tiện tay cầm lên một quyển sách cổ bị úp ngược xuống, phát hiện ra quyển này nằm trong một bộ bút ký tạp văn, Lục Thư Thanh đã đọc đến quyển thứ mười sáu, cũng là quyển cuối cùng. Có lẽ cũng giống như y năm đó, đến khi vừa lớn thêm được vài tuổi là không còn đủ kiên nhẫn đọc sách Thánh hiền nữa, bắt đầu suốt ngày say mê mài giũa vần thơ câu chữ, ưa thích phô diễn những lời văn tinh diệu.

Y lật mặt sách lại, mang đến bên cửa sổ sáng sủa hơn một chút, tùy chọn một đoạn, lướt mắt đọc qua: "... Lục Châu Ca Đầu vốn là bài nhạc cổ mà quân nhạc dùng để cổ vũ. Những người yêu chuộng văn nghệ đời sau mượn giai điệu ấy để sáng tác nên khúc vịnh thương cổ tích... Âm điệu bi tráng, lại lấy chuyện hưng vong xưa làm nội dung, nghe khúc ca này, người ta đều thấy buồn bã khôn nguôi..."

Chuyện hưng vong.

Tạ Cánh khẽ giật mình, ba chữ ấy nán lại trên cánh môi, lặng lẽ đọc lại một lần. Y đứng yên tại chỗ rất lâu, mãi lâu vẫn không nhúc nhích.

Ca từ trong khúc nhạc cổ kia cũng ưa viết về chuyện hưng vong, là những gì y từng lạnh mắt nhìn qua, những gì y không thể không tự mình trải qua, nhưng đó chỉ đơn giản như một nét chấm phá nhỏ bé trong bức tranh hưng vong rộng lớn - chứa đựng sự hưng vong của một vương triều, sự hưng vong của một môn phiệt, sự hưng vong của một gia tộc, sự hưng vong của một con người, xương trắng tro xanh, ngải dài đìu hiu.

Song, tất cả những thứ ấy, đứng trước dòng sông vĩnh cửu của muôn đời, trước ánh mặt trời và vầng răng tròn khuyết ngày ngày mọc lặn, thì cũng chỉ là một hạt bụi nhỏ bé mà thôi. Trăm ngàn năm trôi qua, những người như họ sớm đã dung nhập vào đất trời, hóa thành làn khói, thế nhưng sông Tần Hoài vẫn sẽ ở đó, cầu Chu Tước vẫn sẽ ở đó, dòng Trường Giang vẫn sẽ ở đó, thành Kim Lăng cũng vẫn sẽ ở đó.

Tạ Cánh chợt hồi tưởng về nhiều năm trước, nhớ đến sợi dây diều đã đứt đoạn trong tay y, và chú chim yến màu tím biếc đã bay lên tầng không mịt mờ, ẩn mình vào màn trời xa ngút ngàn dặm, từ đó chẳng còn biết tung tích.

Thế sự đổi dời, đàn én từng bay lượn trước nhà họ Vương Tạ nay chẳng biết đã về nơi đâu; chỉ có ánh tà dương đầu ngõ Ô Y là vĩnh viễn trường tồn. Thời đại mà y từng bước qua nay đã rền rĩ hạ màn, đứng cạnh hàm tước vương và phi, đế và hậu, cạnh những danh xưng dài dòng khi còn sống, cạnh những thụy hiệu rườm rà khi qua đời, ai dám nói mình mãi mãi là thiếu niên?

Lục Thư Thanh cưỡi trên chú ngựa nhỏ màu trắng mang tên "Quỳnh Nhứ" của mình, nhóm bạn đồng hành của cậu đã lần lượt lao xuống triền núi, ngoái đầu lại gọi tên cậu, giục cậu mau chóng đuổi theo. Người đã tặng cậu con bạch mã ấy đã chẳng thể trở về nữa, chỉ còn lại ngôi mộ chôn di vật nằm ở bên kia bờ sông, bầu bạn cùng cỏ thơm liền với trời xanh qua năm tháng.

Mỏm Yến Tử đắm mình trong hoàng hôn đỏ rực như máu, màn đêm dần buông lẽ ra phải đượm buồn, vậy mà nhìn khung cảnh ấy, Lục Thư Thanh lại chỉ cảm thấy có một dòng nước ấm áp dào dạt dâng lên trong lòng.

Lục Thư Ninh chào tạm biệt Hà phu nhân, cuộn bức tranh mà em mới vẽ buổi chiều lại, kẹp dưới cánh tay, từ chối lời đề nghị của nội giám muốn đưa mình lên xe ngựa, rồi chạy ra khỏi viện tranh bằng cửa bên. Cách đó một bức tường, giữa khoảnh sân rộng lớn của Thượng phục cục đã treo đầy những tấm lụa vừa được nhúng vào thùng nhuộm, đang chờ phơi dưới ánh nắng chiều để hong ra những sắc màu đều và trong trẻo nhất.

Em chạy vụt qua từng dải lụa, từ sắc hồng phấn đến vàng mơ, rồi lại lướt từ xanh xám sang tím đinh hương nhanh như một cánh chim sẻ sắp sửa vút bay lên. Ngọn gió bị kéo theo cánh tay em, cùng em rẽ một lối tắt trở về nhà, bỏ lại phía sau một vệt màu cầu vồng mờ nhạt.

Tạ Cánh đặt quyển sách xuống, cất bước đi tiếp vào trong. Trước mắt y giờ đây chỉ còn tấm bình phong khảm trai án ngữ trước nội điện, chiếm trọn tầm nhìn, có thể lờ mờ nhìn thấy bóng dáng một người đang tựa ngồi phía sau bình phong, dường như đã chờ y từ lâu.

"Anh đang ở đó à?" Tạ Cánh nhẹ giọng hỏi.

Bên trong vọng ra tiếng con cờ được đặt xuống, Lục Lệnh Tùng cất tiếng: "Ta ở đây."

"Ngồi xuống cùng ta đánh nốt ván cờ này đi," hắn nói, "Em cầm quân trắng."

Tạ Cánh bước về phía Lục Lệnh Tùng, nhưng không vòng sang phía đối diện, mà chỉ dừng lại bên này tấm bình phong. Đoạn, y chậm rãi ngồi nghiêng xuống, cách một lớp vải mỏng nửa sáng nửa tối, chăm chú nhìn ngắm góc nghiêng khuôn mặt của đối phương.

Gió nam ấp áp dịu dàng quẩn quanh trong điện, giống như ngày họ chính thức gặp nhau lần đầu - cũng vào mùa xuân này mười sáu năm về trước, mùa xuân năm Tạ Cánh mười sáu tuổi, một mùa xuân vô cùng chân thành, trong trẻo, tình ý đắm say.

Ánh nắng chiều nghiêng ngả lướt qua mái hiên, phủ lên tấm màn sa trước bình phong, bóng hoa, bóng chim, bóng người, chừng như tất thảy đều được những mũi kim tinh tế giữ lại trên nền vải, viền ngoài nhòa dần thành một đường chỉ vàng mờ nhạt, man mác nỗi buồn. Ấy chẳng phải bức tranh sơn thủy hay mỹ nhân thông thường nào khác, mà là dàn tử đằng, cây ngọc lan và đình đài hồ nước vẫn vẹn nguyên dáng vẻ của năm nào, chính là cảnh xuân sâu thẳm như biển khơi, trải dài mênh mông vô tận nhìn ra từ cửa sổ thư phòng của Tạ Cánh ở phủ Chiêu Vương.

Mười sáu năm trôi qua tựa giấc mộng, đời người đằng đẳng nỗi hận, nước mãi cuộn chảy về đông.

May thay, họ vẫn luôn khắc ghi những mùa xuân đã qua.

Cũng vì lẽ ấy, họ mới dệt thêu nàng xuân xinh đẹp lên tấm bình phong gấm, nguyện cho hương sắc của nàng mãi chẳng tàn phai.

- Kết thúc chính văn -

.
.
.

Min: Và thế là truyện cũng đi đến hồi kết rồi, đã hơn một năm kể từ ngày mình biết đến Lục Châu Ca Đầu và quyết định edit bộ truyện này, có rất nhiều điều muốn nói, nhưng mình cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu nữa, dưới đây là vài lời trải lòng (ý kiến riêng thui), cả nhà đọc vui thôi nhen ~

Về chất lượng bản edit thì chắc để các bạn đọc bình phẩm đi, vì mình cũng tự thấy phong độ của mình khá thất thường và trình còn yếu (chứ văn phong của chị Hoả hay bùng lổ hay điên đảo), nên nếu ai đọc kỹ để ý thì sẽ thấy có những lúc trong cùng một chương, có đoạn mình gõ rất ổn áp cũng có đoạn dở ẹc, mình sẽ cố gắng check raw và beta lại trong thời gian tới, nên nếu có thấy gì bất ổn thì hãy góp ý với mình nha ~

Về hình thức truyện, thì Lục Châu Ca Đầu có lối dẫn chuyện khá khác so với các tác phẩm thường thấy (có thể có nhưng mình chưa biết), đó là liên tục xen kẽ quá khứ và hiện tại chứ không tách thành 2 phần riêng biệt, cũng như việc tác giả để con của công thụ gọi thụ là "mẹ" - cho nên đây phần nào là lý do truyện kén bạn đọc, các chị em bên bển cũng nhận định như vậy (ở đây thì chắc còn vì cách hành văn, cách chọn từ ngữ edit của mình nữa), nhưng nếu để ý thì sẽ thấy rằng tất cả các chương đều sẽ có tình tiết liên quan, móc nối với nhau để gợi nhắc, giúp mình dễ dàng ghi nhớ nội dung truyện. Mình nghĩ đây là cái hay của chị Hoả, cũng là thứ khiến mình ấn tượng và chỉ muốn tiếp tục bóc tách xem diễn biến tiếp theo sẽ như thế nào thui, này thì chắc tuỳ gu mỗi người ớ kkk :3

Là một người đã đọc QT 2 lần và đang beta lại dần từ đầu, đối với cá nhân mình, Lục Châu Ca Đầu là một tác phẩm hay, từ từng câu chữ, cho đến tình tiết, tác giả đều cài cắm rất tài tình, rất thơ, mỗi một nhân vật từ chính đến phụ đều có một nét tính cách riêng biệt và số phận của riêng mình, họ đã thể hiện trọn vẹn hình ảnh của bản thân, sự xuất hiện của họ đều có lý do, cả khi ra đi cũng chẳng lu mờ.

Trong truyện, có những sự ra đi để lại nhiều nỗi buồn, nỗi tiếc nuối và đau đớn, từ con người đến những con vật giống như thành viên của gia đình, nhưng mình nghĩ, đúng như Lục Lệnh Tùng đã nói với Tạ Cánh, rằng để em được sống, không có sự ra đi nào là vô nghĩa cả, cũng như khoảnh khắc tưởng chừng suýt mất đi anh, cái chết chính là thứ liên tục khiến cho tinh thần của Tạ Cánh sụp đổ, nhưng cũng là thứ giúp em trưởng thành dù muộn màng, cũng như càng thấu hiểu, tin tưởng tình yêu mà Lệnh Tùng dành cho em hơn.

Sự sống và cái chết tuy được nhắc đi nhắc lại xuyên suốt mạch truyện nhưng chẳng hề nhàm chán, bởi lẽ mình có thể nhìn nhận nó dưới mỗi góc nhìn khác nhau của từng nhân vật khác nhau, từ suy nghĩ của những người trưởng thành, đến suy nghĩ của những đứa trẻ hãy còn non nớt, vì tình cảnh éo le mà ép mình phải lớn lên.

Nhưng rồi đâu cũng lại vào đấy mà thôi, sống chết là quy luật tuần hoàn vĩnh hằng của đất trời, miễn là trong lòng vẫn ghi nhớ, thì tình cảm sẽ mãi chẳng bao giờ mai một, cho dù người có ở tận chân trời góc bể nào đi chăng nữa.

Giờ thì đến lúc phải tạm biệt Lục Châu Ca Đầu, tạm biệt Lục Lệnh Tùng, tạm biệt Tạ Cánh, tạm biệt gia đình nhỏ của hai người rồi, mong rằng mọi người sẽ luôn hạnh phúc bên nhau, cùng nhau trải qua thêm thật nhiều mùa xuân nữa.

Cảm ơn duyên phận đã cho mình biết đến bộ truyện này, cảm ơn các bạn đọc đã ủng hộ vote, cũng như comment cổ vũ mình từ những ngày đầu tiên, giúp mình có động lực hoàn thành bộ truyện thứ hai trong nhà 💕

Vẫn còn ngoại truyện và vài mẩu truyện nhỏ trên weibo tác giả nữa, mình sẽ nhanh chóng edit và đăng tải ~ see ya
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 125: Ngoại truyện 1


"Nép tuyết ôm hương,tựa như thuở đầu"

(*) Trong chương này đại từ nhân xưng của công và thụ sẽ được đổi sang "cậu" vì tuổi còn nhỏ.

***

Tạ Cánh nắm chặt tay anh cả, chen ra khỏi biển người tấp nập vào ra dưới cổng vòm "Thiên Hạ Văn Khu". Cuối năm, hai bờ Tần Hoài rực rỡ đèn hoa, gần như toàn bộ danh gia vọng tộc trong thành Kim Lăng đều sẽ ghé qua nơi này, còn dân thường thì không hẳn đến để thưởng cảnh, mà ngắm nhìn nhân thế muôn hình vạn trạng mới là điều thú vị hơn hết thảy.

Tuy đợt tuyết cuối năm Kiến Ninh thứ mười một này rơi dày hiếm thấy, nhưng miếu Phu Tử nằm cách nhà không xa, hai anh em vẫn quyết định đi bộ ra ngoài, cũng không mang theo gia nhân. Thứ nhất là vì sợ phô trương, kéo cả đoàn người theo chen không nổi, thứ hai là ngại bị thiên hạ nhìn như đám khỉ làm xiếc giữa phố phường.

Tạ Duyễn hỏi: "Khi nãy dâng hương trong điện Đại Thành, em đã khấn điều gì thế?"

Tạ Cánh chán chường đáp: "Anh đưa em tới đây với mục đích cầu cho việc học, chẳng lẽ còn muốn em cầu duyên nữa à?"

Tạ Duyễn xoa đầu cậu: "Học nhiều không thiệt thân, nếu mai sau học thành mà đường làm quan không thuận lợi, chí ít vẫn có một lối khác để an thân lập nghiệp."

Cả hai đang trò chuyện thì bắt gặp một cỗ xe ngựa đang đậu bên đường, mấy cô gái trẻ tuổi tụ tập quanh xe cười nói, không biết là tiểu thư nhà ai, bỗng nhiên trong nhóm có một giọng nói trong trẻo vang lên, gọi: "Tạ công tử!"

Tạ Duyễn ngoái đầu lại, chỉ thấy một thiếu nữ khoảng mười bảy, mười tám tuổi, vươn tay ra khỏi áo choàng vẫy chào họ, vòng tay bằng vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời, vô cùng chói mắt.

Anh dừng bước, đoạn tiến lên chào hỏi: "Diêu cô nương."

Các chị em thiếu nữ bước lui nửa bước, chừa không gian cho hai người trò chuyện. Cô nàng nọ mỉm cười duyên dáng, cất lời: "Nghe nói Tạ công tử mới được bổ nhiệm làm Hữu bổ khuyết, dạo này giao tế tiếp khách, chắc là bận rộn lắm phải không?"

Tạ Diễn nhận ra nàng đang trêu chọc, bèn đáp: "Cô nương cứ đùa."

Thiếu nữ cũng chẳng buông tha, hạ thấp giọng xuống một chút: "Tháng trước tôi có gửi cho Tạ công tử mấy câu thơ dang dở, cũng chẳng thấy công tử gửi lại câu nào, nghĩ chắc là quý nhân hay quên, bận bịu nên ném hết ra sau đầu rồi chăng?"

"Không phải đâu mà!" Tạ Duyễn rõ ràng hơi bối rối vì chưa chi đã vội vàng phủ nhận, đang định chữa lời thì thiếu nữ đã đảo mắt, hỏi tiếp: "Vậy là sợ đồng liêu lời ong tiếng ve, nói ngài chỉ lo tư tình sao?"

Tạ Duyễn nghiêm túc giải thích: "Là vì ta cứ trăn trở cân nhắc từng câu chữ, nếu không thật trọn vẹn, sợ gửi lại cho cô xem rồi bị chê cười, nên mới trì hoãn lâu như vậy."

Thiếu nữ "ồ" lên một tiếng đầy sâu xa, lại như thể đã nhận được câu trả lời vừa ý, cô không trêu chọc nữa, giọng điệu cũng như đang bàn chuyện công việc: "Nhà tôi đã nhận được thư của quý phủ, mấy hôm nay đón nhiều khách khứa, việc vặt rối ren, vẫn chưa kịp gửi thư hồi đáp. Trưởng bối trong nhà dặn tôi chuyển lời, mùng hai nhất định sẽ đến Tạ phủ chúc Tết bác trai bác gái."

Tạ Duyễn khẽ cúi người đáp lễ, đưa mắt nhìn cô lên xe ngựa rời đi, rồi mới vỗ nhẹ vai Tạ Cánh, tiếp tục đi về nhà.

Tạ Cánh tò mò hỏi: "Đó là ai thế anh?"

Tạ Duyễn chỉ lắc đầu: "Đợi đến mùng hai em sẽ biết thôi."

Vừa về đến ngõ Ô Y, Tạ phu nhân cũng vừa mới tiễn vài vị khách nữ về xong, bà vội vàng rời khỏi sảnh chính, ngửi thấy trên người Tạ Cánh đầy mùi khói nhang, bèn giục: "Con mau đi rửa mặt chải tóc lại cho mẹ, không thể để muộn giờ vào cung được."

Tạ Cánh không tình nguyện lắm, cậu vừa mới bị chen lấn đến váng đầu hoa mắt, bây giờ chỉ muốn rúc vào chỗ không người cho lòng thanh tịnh mà thôi. c** nh* giọng hỏi: "Không đi không được sao mẹ?"

Tạ phu nhân khom người nhìn con trai, trịnh trọng khuyên bảo: "Con tưởng mẹ muốn đưa con theo lắm sao? Lần này nghe nói con về kinh đón năm mới, quý phi mới cố tình dặn dò, nói muốn được gặp con đấy, mẹ không tiện từ chối. Một chút nữa gặp người, gọi thế nào, chào làm sao, mẹ đã dặn con rồi, còn nhớ không?"

Tạ Cánh chỉ đành gật đầu một cái, sau đó lê bước trở về Nam viện thay quần áo mới.

Tạ Duyễn nhìn theo bóng lưng cậu, cảm thấy hơi nghi ngờ, anh hỏi mẹ: "Quý phi nào giờ không móc nối quan hệ với các triều thần, sao bỗng nhiên lại chỉ mặt gọi tên muốn gặp Chi Vô thế ạ?"

Tạ phu nhân khẽ giọng nói: "Nghe cha con bảo, bệ hạ có ý muốn chọn thư đồng là con cái các thế gia cho điện hạ, chỉ là bên phía Tiêu Thái hậu còn chưa lên tiếng nên vẫn chưa quyết định được. Chắc là quý phi sợ điện hạ không cẩn thận giao du sai người, nên mới muốn gọi mấy đứa trẻ vừa tuổi được chọn đến cho gặp."

Tạ Duyễn cau mày: "Chuyện đã như vậy, đợi qua tiết Thượng nguyên, cha mẹ nên mau chóng đưa Chi Vô về lại Trần Lưu thì hơn."

Tạ phu nhân thở dài: "Nhưng nếu bệ hạ đã quyết tâm, cho dù Chi Vô có được nuôi tận chân trời góc bể, thì một tờ thánh chỉ cũng sẽ đưa được nó vào cung thôi. Chỉ còn trông mong Thái hậu không gật đầu, chuyện này đừng dễ thành là được rồi."

Vào mỗi dịp lễ tết, Tạ Cánh lúc nào cũng được may cho quần áo mới mặc mãi không hết. Cậu thay sang một chiếc áo ngoài màu trắng ngà, khoác thêm áo choàng đỏ thẫm, cổ quấn khăn choàng lông cáo tuyết kín mít, nửa khuôn mặt đều vùi trong cổ áo, chỉ có đôi mắt đen lúng liếng là lộ ra ngoài.

Long xa đưa mẹ con họ Tạ đến điện Minh Loan, nội giám đã chờ trước ở ngoài điện, vội vàng bước đến đỡ hai người xuống rồi tụm năm tụm ba đưa vào trong. Trong sân trồng mấy gốc mai màu nâu nhạt, lấp ló giữa nền tuyết trắng, đây là cảnh sắc không thể thấy được ở cố trạch Trần Lưu. Tạ Cánh dừng bước, chăm chú nhìn thêm mấy lần, cho nên đi chậm hơn cung nhân phía trước nửa bước.

Chỉ nửa bước ấy thôi.

Cậu còn chưa kịp đặt chân lên bậc thềm, một thứ gì đó như pháo nổ đã bất ngờ lao đến từ phía sau, cú va chạm mạnh đến mức khiến cậu loạng choạng suýt ngã. Ngay giây tiếp theo, một vật lạnh toát đã bị nhét thẳng vào trong cổ áo lông mà cậu đang giữ ấm, áp sát vào làn da nơi cổ gáy.

Bên tai vang lên một giọng nói khỏe khoắn đầy khí thế, la lên: "Ta chán sắp chết rồi, cái thằng nhóc Lý Kỳ này, sao bây giờ cậu mới tới!" Trong khi đó, quả cầu tuyết dưới lớp khăn choàng của Tạ Cánh gặp nhiệt, sớm đã tan chảy thành nước lạnh chảy tí tách xuống cổ áo, từng giọt như kiến bò, len lỏi tới tận vai lưng.

Cậu chậm rãi quay đầu lại, nhìn chằm chặp vào thủ phạm đang trợn mắt há mồm vì biết mình vừa gây họa, còn chưa kịp mở miệng hỏi "Lý Kỳ là ai", thì cảm giác lạnh buốt đến nỗi tim gan phèo phổi cũng muốn đông cứng theo đã khiến cậu khó chịu vô cùng.

Vì thế còn chưa kịp nói ra câu nào, Tạ Cánh đánh một cái rùng mình, cái lạnh vụt một phát chạy dọc từ xương sống thẳng l*n đ*nh đầu, ép cho hai mắt cậu đỏ hoe, ngân ngấn nước.

Thật ra khi nhìn thấy chiếc áo choàng đỏ kia, Lục Lệnh Tùng đã thoáng cảm thấy kì lạ, từ khi nào mà cái tên Lý Kỳ này biết quý trọng cơ thể mình rồi, ra ngoài còn bày đặt khoác áo?

Thế nhưng cậu ta lại nghĩ, đầu năm đầu tháng mặc đồ đỏ để xua xui đuổi rủi nghe bộ cũng có lý, thế là lại tự thuyết phục mình.

Từ cửa cung đến cửa điện chỉ có vài bước chân, hoàn toàn không đủ để đầu óc ngoài trêu mèo chọc chó ra thì chẳng chứa thêm được chuyện nghiêm túc nào của Lục Lệnh Tùng kịp suy nghĩ thấu đáo. Hành động nhanh hơn suy nghĩ, đến lúc nhận ra cảm giác khi ôm đối phương không đúng lắm thì quả cầu tuyết đã yên vị trong cổ áo người ta được một lúc rồi.

"Lý Kỳ" quay đầu nhìn hắn chằm chặp là một cậu trai xinh xắn nhưng lạ mặt, còn đẹp hơn Lý Kỳ thật không biết bao nhiêu lần. Ấy là "một thoáng kinh hồng" đúng nghĩa, không chỉ biết khiến hai mắt mình đỏ hoe, mà còn khiến Lục Lệnh Tùng - kẻ vừa mới tính toán xong tám mươi mốt đường lui bị ánh nhìn ấy làm cho phải sững người, đứng trân trân trên bậc thềm.

Sau đó, cậu ta chỉ thấy tiểu mỹ nhân mặt không đổi sắc vốc lấy một nắm tuyết trên lan can, đoạn vung tay lên, nhắm thẳng đầu mình mà ấn xuống.

Lục Lệnh Tùng lập tức trở nên luống cuống, cậu mất thăng bằng, kéo theo Tạ Cánh đang bị mình ôm chặt trong lòng cùng trượt xuống khỏi bậc thềm. Tuy người lăn lộn vô cùng chật vật, nhưng cậu vẫn còn sót lại chút ý thức, nhớ dùng tay đỡ sau đầu đối phương để tránh bị va đập.

Đám cung nhân xung quanh lập tức nhốn nháo hô hoán, kinh động đến cả Ngô quý phi phải đích thân ra xem: "Sao đang yên đang lành mà lại ngã thế này?"

Tạ Cánh chẳng hề cảm kích sự che chở của Lục Lệnh Tùng chút nào, dù sao thì nếu không vì cái tên oan gia này, cậu đâu cần phải chịu khổ như thế. Cậu hất tay người nọ ra, còn Lục Lệnh Tùng thì vừa xoa vai vừa chống chế với mẹ mình: "Ném tuyết, bọn con đang chơi ném tuyết thôi ạ!"

Hai người lần lượt đứng dậy, Lục Lệnh Tùng dùng khuỷu tay định huých Tạ Cánh một cái: "... Cậu gì ơi, cậu nói phải không!"

Tạ Cánh nghiêng người tránh đi, khiến cậu ta đẩy hụt, chỉ lạnh lùng hành lễ với Ngô thị: "Dạ, là con quá hiếu thắng, nên lỡ va phải điện hạ."

Ngô thị phủi nhẹ bông tuyết vương lại trên lọn tóc cậu: "Con ngoan, không cần phải câu nệ như vậy, con có thể gọi Tử Phụng là 'anh' cũng được."

Rồi bà nhìn sang con trai lớn của mình, mắt mày thanh tú như chứa đựng sự cảnh cáo, nhắc nhở: "Chơi đùa cũng phải biết chừng mực một chút, cơ thể của Chi Vô không giống con, trời lạnh dễ đổ bệnh, con dẫn thằng bé về thiên điện thay quần áo khô đi."

Cung nhân mang nước ấm và khăn đến muốn lau phía sau lưng, nơi bị nước tuyết thấm lạnh buốt cho Tạ Cánh, nhưng dường như cậu không muốn ai chạm vào mình. Lục Lệnh Tùng bèn xung phong nhận lấy trọng trách này, dù gì cậu ta cũng chẳng cần phải giữ ý như cung nhân, nửa ép nửa đùa, mạnh tay mà cũng khéo léo bắt Tạ Cánh phải lau sạch người rồi thay bộ trung y khô ráo.

Sau đó cậu lại chạy đến nhà bếp lựa một loạt các loại bánh ngọt tinh xảo bắt mắt - toàn những món chỉ để ngắm chứ chẳng mấy ai ăn, rồi bày biện đâu ra đấy lên đĩa, nâng niu bưng vào tẩm điện, định bụng dùng để tạ tội với người ta.

Ngày thường thiên điện vốn là nơi ở riêng của Lục Lệnh Tùng, bây giờ đã tạm thời nhường lại cho tiểu mỹ nhân xui xẻo bị cậu ta "hãm hại". Trong phòng vừa thơm vừa ấm như thể đang độ cuối xuân, vừa nhìn lên giường đã thấy ba nắm tuyết trắng nõn một lớn hai nhỏ đang tụm lại bên nhau.

Tiểu mỹ nhân đã mặc lại áo ngoài, ôm áo choàng ngồi xếp bằng bên lò sưởi, hơ tay sưởi ấm. Con mèo lông xù mà Ngô thị nuôi vốn chẳng biết sợ người lạ, bấy giờ đang thư thái cuộn mình trong lòng cậu, chiếc đuôi lười biếng thõa mãn ve vẩy; còn Lục Lệnh Chân thì bày bừa đủ thứ đồ chơi trên giường, trên cổ đeo chiếc khóa trường mệnh sáng loáng, nước ngọc đẹp không tì vết, càng khiến cho gương mặt phấn điêu ngọc trác của em nom như bước ra từ trong tranh.

Lục Lệnh Tùng nhìn hai người một mèo, gần như có thể tưởng tượng ra được cảm giác mềm mại, xôm xốp, ấm áp đến mức khiến thị giác như hóa thành xúc giác, cái lạnh bên ngoài phòng đột nhiên càng thêm gay gắt, bản năng thôi thúc cậu ta chen vào giữa cả ba hòng sưởi ấm.

Song, có vẻ như tiểu mỹ nhân vẫn còn giận, cậu ta cũng không dám suồng sã, đành đi tới mép giường, đưa đĩa bánh ngọt tới trước mặt người ta, làm bộ làm tịch bắt chuyện: "Không tồi, ta thấy cậu cũng nghĩa khí lắm, mời cậu ăn cái này."

Bánh sữa cuộn mè đen vừa mới ra lò, vỏ xốp nhân đặc, thơm đến mức khiến người ta phải nuốt nước bọt, thế mà Tạ Cánh chẳng buồn liếc lấy một cái, cậu chỉ cụp mắt xuống, đều tay v**t v* bộ lông xù mềm mại của con mèo trắng.

Lục Lệnh Tùng là người càng bị đẩy lùi càng hăng tiến, từ nhỏ đã luôn đấu trí cùng Lục Lệnh Chân, kinh nghiệm đầy mình, biết rõ lúc này chỉ có mặt dày lấn tới mới mong một chiêu thành công "bắt sống kẻ địch". Thế nên cậu ta chẳng hề khách khí mà đưa tay nhón một miếng điểm tâm trong đĩa, thẳng thừng đưa đến bên môi tiểu mỹ nhân, ép cậu phải hé miệng, miễn cưỡng cắn nửa miếng bánh.

Cho người ăn xong, Lục Lệnh Tùng cũng không rút tay về, cứ thế nhìn chằm chằm gò má Tạ Cánh phồng lên vì nhai bánh, rồi nuốt xuống, chừng như cảm thấy đúng là ngon thật, cậu hơi trừng mắt lên một cái, rồi bỗng cúi người nhanh nhảu ngậm lấy nửa miếng bánh còn lại, đưa vào miệng mình. Đến lúc này, rốt cuộc Tạ Cánh mới chịu ngẩng đầu lên, đuôi mắt vẫn còn vương sắc đỏ chưa tan, nhưng vẻ uất ức khi nãy thì đã biến đâu mất tăm.

Lục Lệnh Tùng vươn tay quệt nhẹ lên khóe môi cậu, lau đi vụn mè còn sót lại, tiện thể đưa ngón tay khẽ chọc lên má cậu một cái, cố tình nặn ra một nụ cười ngốc nghếch.

Nụ cười ngốc nghếch cũng chẳng tồn tại được bao lâu, bởi ngay sau đó, Tạ Cánh thật sự đã mỉm cười.

Lục Lệnh Tùng tặc lưỡi, thầm nhủ tiểu mỹ nhân quả là dễ dỗ, so với cái tính cứng đầu mà Lục Lệnh Chân đã mang theo từ trong bụng mẹ, thì đối phương đúng là như tiên giáng trần.

Ngô thị và Tạ phu nhân đang trò chuyện trong chính điện, Lục Lệnh Tùng nghĩ bụng, chỉ cần cậu ta chăm sóc ổn thỏa bên này, nói không chừng đến lúc mẫu phi truy cứu sau này, tiểu mỹ nhân còn có thể nói đỡ giúp mình đôi câu.

Nghĩ vậy, Lục Lệnh Tùng càng cảm thấy việc vun đắp quan hệ tốt đẹp là vô cùng cần thiết, bèn đặt đĩa bánh ngọt sang một bên, hai chân đá phăng giày ra trèo thẳng lên giường, kéo nửa tấm áo choàng của tiểu mỹ nhân đắp lên người mình, thành công chui vào "ổ ấm" mà cậu ta đã ngấp nghé từ lâu, bao nhiêu chí khí anh hùng lập tức bị vứt vào mộ phần chẳng chút thương tiếc.

Đầu tiên là hỏi tên đối phương: "Cậu tên gì vậy?"

Giọng nói của tiểu mỹ nhân cũng rất hay, trong trẻo, thanh thoát mà không hề điệu đà: "Tôi họ Tạ, tên một chữ Cánh."

Lục Lệnh Tùng lớn lên trong cung, đâu từng nghĩ đến chuyện có người nào mà lại chẳng biết tên họ mình, vậy nên cậu ta chẳng có chút ý thức tự giới thiệu thân phận nào, chỉ tiếp tục điều tra hộ tịch: "Cậu sinh năm nào?"

"Năm Kiến Ninh thứ ba." Tạ Cánh hỏi sao đáp vậy.

"Ta sinh năm Kiến Ninh thứ hai," Lục Lệnh Tùng mừng như bắt được vàng, "Quả nhiên ta lớn hơn cậu, mau gọi ta một tiếng anh đi."

Tạ Cánh chỉ mím môi, quay mặt sang chỗ khác, không chịu thuận theo: "Ở nhà tôi có huynh trưởng rồi."

Lục Lệnh Tùng đã chuẩn bị sẵn bài vở trong bụng, một hơi trút ra cả rổ lý lẽ hùng hồn dọa nạt tiểu mỹ nhân: "Huynh trưởng là để người ngoài kính trọng, còn anh trai là người nhà thân thiết yêu thương, sao có thể đánh đồng được chứ? Như Chân Chân này," hắn hất cằm về phía cô bé đang nghịch đuôi mèo, "Ra ngoài thì phải ngoan ngoãn gọi ta là 'hoàng huynh', nhưng một khi cửa cung đã đóng, về đến nhà mình, đương nhiên phải gọi 'anh' cho thân mật rồi."

Tạ Cánh bị lời lẽ thoạt nghe thì hồ đồ vô ích, mà ngẫm lại thấy cũng hơi có lý này làm cho nghẹn đến cau cả mày. Nhưng nhớ mẹ đã dặn "phải luôn nhường nhịn, thuận theo ý điện hạ", cậu do dự một hồi, rốt cuộc vẫn đành làm trái lương tâm, mở miệng gọi: "... Anh."

Lục Lệnh Tùng nghe một tiếng "anh" ấy mà lòng khoan khoái vô cùng, thầm nghĩ: Sự nghiệp lôi kéo làm quen đã thành công nửa đường rồi, giờ chỉ cần góp gạch xây tường thành, củng cố hậu phương là xong.

Song, cậu ta nhanh chóng nhận ra bản thân chẳng có mấy chủ đề chung để nói chuyện với tiểu mỹ nhân trước mắt. Nhìn vóc dáng cậu ấy yếu ớt thế kia, hẳn là chẳng rành rẽ gì việc múa thương luyện kiếm rồi. Nghĩ tới nghĩ lui, Lục Lệnh Tùng bỗng nhớ ra, thỉnh thoảng cô em gái nhỏ vẫn hay đòi mẫu phi kể chuyện cho nghe.

Kể chuyện nghe hay đấy chứ! Chuyện cổ tích thì ai mà chẳng thích, thanh tục đều phù hợp, người lớn trẻ con đều nghe được. Đến đoạn thú vị, người kể người nghe cùng phá lên cười, không khí vừa ấm cúng vừa vui vẻ, oán giận cũng theo đó mà tiêu tan, chẳng phải hoàn hảo quá hay sao?

Lục Lệnh Tùng lập tức cảm thấy, Lục Lệnh Chân đúng là suối nguồn trí tuệ vô tận mà cậu ta có thể khai thác mãi không cạn, nhìn cô bé chưa bao giờ thuận mắt như lúc này.

"Cậu biết kể chuyện gì không, kể nghe chơi đi." Hắn bỗng dưng buông một câu không đầu không đuôi, hạ giọng nài nỉ.

Tạ Cánh vốn đã chuẩn bị sẵn tâm thế "dù điện hạ có nói lời kinh thiên động địa đến đâu cũng phải mặt không đổi sắc mà nghe theo", kết quả lại nghe đối phương ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng chỉ đưa ra mỗi một yêu cầu giản đơn là "kể chuyện", cậu lập tức thở phào nhẹ nhõm.

Trước đây ông nội thường hay kể vài giai thoại cho cậu nghe, Tạ Cánh trầm ngâm một lát, lựa lấy một câu chuyện mới được nghe gần đây mà mình còn nhớ tương đối rõ, bắt đầu kể:

"Chuyện kể rằng vào niên hiệu Kiến An đời Hậu Hán, phủ Lư Giang có một tiểu quan tên là Tiêu Trọng Khanh kết hôn với một cô gái họ Lưu. Hai người là vợ chồng son, tình cảm sâu đậm. Nào ngờ gió đông độc ác, duyên lành không trọn, Lưu thị bị mẹ của Tiêu đuổi về nhà mẹ đẻ. Gia đình ép nàng tái giá, nàng không thuận theo, cuối cùng đành gieo mình xuống nước tự vẫn. Tiêu Trọng Khánh nghe tin, đau lòng khôn xiết, cũng treo cổ trên cây trong sân mà chết theo."

Lục Lệnh Tùng không ngờ tiểu mỹ nhân trông thì ngây thơ chẳng tỏ sự đời, vậy mà mở miệng ra lại kể một câu chuyện u sầu bi lụy, si tình khổ mệnh rồi sinh ly tử biệt thế kia. Có điều câu chuyện như vậy mà lại được Tạ Cánh kể ra bằng giọng điệu nghiêm túc như thể đang đọc một bài luận văn mới của đại nho học sĩ nào đó, khô khan đến mức khiến người ta bỗng chợt nghẹn lời.

Hồi lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới hỏi dò: "Cứ vậy... mà chết sao?"

"Cứ vậy mà chết." Tạ Cánh đáp chắc nịch.

Nhưng rồi ngay sau đó, cậu cũng nhận ra kể theo lối mộc mạc như thế e rằng khó lòng làm cho vị điện hạ trước mắt đây cảm động, bèn bổ sung thêm: "Chàng nguyện làm đá tảng kiên trung, thiếp nguyện làm hương bồ mềm yếu; cỏ bồ dẫu mảnh như tơ, vẫn một lòng quấn lấy đá chẳng rời' - bọn họ từng thề nguyện với nhau như thế."

Lời thề hẹn tuy giản dị, nhưng đến cả Lục Lệnh Tùng, người vốn chán ghét việc đọc sách, nghe xong cũng mơ hồ đoán ra được vài phần ý nghĩa. Cậu ta im bặt, chỉ dùng tay xoay vòng dây thắt lưng quanh ngón tay, chẳng biết trong đầu đang âm thầm nghĩ ngợi điều gì.

Ông nội và cha của Tạ Cánh cả đời chỉ cưới một người vợ, từ nhỏ cậu chưa từng chứng kiến cảnh một gia đình có tam thê tứ thiếp là như thế nào, thế nên đối với cậu kia cũng chỉ là một câu chuyện kể mà thôi, cậu khó lòng hiểu được Lục Lệnh Tùng im lặng là vì cớ gì.

Một lúc sau, Lục Lệnh Tùng mới lên tiếng, quả quyết nói: "Dù cứng cỏi như đá hay mong manh như ngọc, dù có ra sao đi nữa thì sau này ta cũng chỉ chấp nhận cưới một người thôi, ta chắc chắn sẽ ở bên người ấy cả đời, không bao giờ thay đổi."

Dường như hắn vẫn thấy chưa đủ, lại nhấn mạnh thêm: "Dù trời có giáng sấm sét xuống, cũng đừng hòng khiến ta quay đầu."

Tạ Cánh không hiểu vì sao bỗng dưng cậu ta lại thề độc như thế, cảm thấy vừa buồn cười vừa có phần kinh ngạc trước sự dứt khoát không chút do dự của đối phương, đành thuận miệng phụ họa: "Như vầng trăng luôn tròn, như mặt trời luôn mọc, ấy hẳn là phúc phần của người đó."

Buổi chiều, tuyết đã đọng thành một lớp dày. Vết thương vừa lành đã quên đau, Lục Lệnh Tùng xúi giục Tạ Cánh, lôi kéo cả Lục Lệnh Chân theo, len lén chuồn ra khỏi thiên điện bằng cửa sau, chạy ra sân chơi đắp người tuyết.

Cậu ta không dám đắp người tuyết quá to dễ thu hút sự chú ý, lo sợ nhỡ đâu hoàng đế đột ngột giá lâm, trông thấy lại không vui, cho người đến quét sạch đi. Vậy nên cậu ta chỉ để Lục Lệnh Chân ngồi trên đệm cói dưới hành lang, định làm một người tuyết nhỏ mô phỏng theo hình dáng của cô bé.

Lục Lệnh Chân vô cùng thích thú, hào hứng đòi hỏi: "Em còn muốn thêm một con mèo nữa."

Lục Lệnh Tùng trừng mắt nhìn cô bé: "Cho em cưỡi mèo luôn nhé, chịu chưa?"

Lục Lệnh Chân nghiêm túc chỉ đạo: "Không phải, là em ngồi, mèo ngồi cạnh em."

Lục Lệnh Tùng đành phải nặn thêm một con mèo tuyết nhỏ cỡ bàn tay, đặt bên cạnh em, đoạn gọi Tạ Cánh: "Cậu đừng có đứng nhìn không thế, lại đây giúp ta một tay đi."

Tạ Cánh mở rộng áo choàng, ôm con mèo trắng tuyết trước ngực như ôm lò sưởi, hai tay giấu vào bên trong trông chẳng khác gì đang đắp một chiếc chăn lông.

Lục Lệnh Tùng quay đầu lại thấy thế cũng cạn lời: "Ôi chao, sao lại còn ôm nó luôn rồi? Cậu thích đến mức đó à?"

Tạ Cánh khẽ lắc lư con mèo mềm mại trong lòng: "Tôi muốn sưởi tay."

Trình độ của Lục Lệnh Tùng tuy có hạn, nhưng chỉ cần phác họa sơ qua búi tóc và dáng ngồi của Lục Lệnh Chân là hình dáng đã khá giống thật rồi. Hai chân của người tuyết nhỏ duỗi ra phía trước, trông cứ như cô bé đang ngồi tựa lưng vào tường vậy.

Phần ngũ quan thì có hơi khó xử, Lục Lệnh Tùng tiện tay nhặt hai viên đá làm mắt, khiến Lục Lệnh Chân tức giận phản đối: "Mắt của em đâu có nhỏ thế!"

Tuy miệng nói vậy, nhưng trong lòng cô bé vẫn rất thích, còn tháo luôn chiếc khóa ngọc nhỏ của mình xuống, đeo lên trước ngực người tuyết.

Lục Lệnh Tùng cảnh cáo: "Em nhất định phải nhớ quay lại lấy biết chưa. Ngày mai mà trời nắng, tuyết tan rồi chẳng còn lại gì đâu. Để mất nó khéo lại thành trò cười cho người ta đấy."

Tuyết mới ngừng được một lúc lại rơi tiếp, ba người đành phải quay về trong điện. Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng cứ ngồi nói huyên thiên, khi thì bàn về những món đồ chơi mới lạ ở kinh thành, khi thì kể về các nơi chốn thú vị ở Trần Lưu, có lúc câu trước chẳng ăn nhập gì với câu sau, có lúc mỗi người nói một chuyện, vậy mà cứ thế túm tụm trong điện phụ chuyện trò suốt cả buổi chiều. Lục Lệnh Chân gối đầu lên con mèo trắng lăn qua lộn lại, nghịch hết tất cả đồ chơi của mình, đến lúc quay đầu lại phát hiện hai người kia vẫn còn đang nói chuyện đâu đâu.

Đối với Tạ Cánh, đây quả thật là lần đầu tiên trong đời. Không giống như Lục Lệnh Tùng, ít ra hắn còn có một hai người bạn nối khố, cậu vốn chẳng phải kiểu người hòa đồng, ở quê tuy cũng có không ít bạn đồng trang lứa, nhưng ngoài ông bà và thầy dạy kèm riêng ra, chẳng ai nguyện ý trò chuyện cùng cậu lâu đến thế.

Hoàng hôn buông xuống, nếu còn không cáo từ rời cung, e rằng đường về sẽ khó đi. Lục Lệnh Tùng nghe thấy tiếng các cung nhân tất bật thắp đèn dưới hành lang, bèn quay sang nói với Tạ Cánh: "Cậu hỏi xin mẹ cậu một tiếng, ở lại trong cung với ta đêm nay đi, bầu bạn với ta một đêm thôi."

Nhưng Tạ Cánh lại lắc đầu: "Đêm giao thừa thì phải đoàn viên, ở bên cạnh gia đình chứ, đêm nay tôi còn đi xem lồng đèn ngoài phố cùng với cha mẹ và anh trai nữa."

Hai mắt Lục Lệnh Tùng lập tức sáng bừng lên: "Nghe nói mỗi năm ở hồ Huyền Vũ đều thả hơn nghìn chiếc đèn trời để cầu phúc đấy, còn miếu Phu Tử, học cung thì treo câu đố đèn lồng đầy kín phố luôn!"

Song, thần sắc của cậu ta nhanh chóng tối lại: "Nhưng ta còn chưa được nhìn thấy lần nào. Đợi đến khi ta mười lăm tuổi, rời cung mở phủ rồi, nhất định phải thả bù lại hết số đèn chưa được thả trong những năm qua!"

Lúc này, dường như Lục Lệnh Tùng đã quên mất ý định ban đầu là muốn lôi kéo Tạ Cánh, chỉ coi người trước mặt như một người bạn mới kết thân được nửa ngày nhưng rất hợp tính, dặn dò: "Đến lúc đó phải cùng nhau đi đấy nhé!"

Tạ Cánh chỉ đáp cho qua, giơ tay ngoắc ngón út với Lục Lệnh Tùng, móc ngoéo trăm năm không được đổi lời.

Gần đến giờ về, có hai đứa nhỏ cứ bám riết lấy y, một đứa thì ôm chân không thả, một đứa thì quấn quít trong lòng không buông. Tạ Cánh đành phải nhẫn nại vuốt xuôi bộ lông trắng của con mèo rồi gỡ nó ra khỏi người mình, lại nhẹ nhàng vỗ lưng dỗ cho Lục Lệnh Chân ngủ say, lúc này mới rút lui được.

Còn lại một người "lớn", thật ra trong lòng cũng có chút luyến tiếc, nhưng thân là nam tử hán đại trượng phu, sao cậu ta có thể biểu lộ dáng vẻ quyến luyến bịn rịn như con nít được? Chỉ đành cố nhịn không lên tiếng, trơ mắt nhìn tiểu mỹ nhân khép chặt áo choàng, bước vào dưới tán ô giấy dầu mà mẹ cậu đang giơ nghiêng.

Ánh sáng vàng nhạt trong chiếc đèn bão lắc lư lay động, chập chờn theo bóng người khuất dần khỏi con hẻm dài.

Màu đỏ dưới màn trời đen đặc vốn dĩ đã tối sẫm, đánh mất vẻ tươi sáng vốn có của nó, thế nên chẳng ai có thể ngờ được rằng - nhiều năm sau, vị Chiêu Vương khoác áo giáp bạc, choàng chiến bào đỏ, thống lĩnh ba vạn tinh kỵ Hổ Sư lại từng có một đoạn tiền duyên âm thầm như thế.

Nhưng không thể phủ nhận, Lục Lệnh Tùng thực sự đã chờ được một lời tạm biệt thuộc về riêng cậu - một tiếng gọi "anh" chỉ thấy dáng hình, chẳng vang thành tiếng,

Tạ Cánh lặng lẽ dứt lời, kéo cao cổ áo, góc áo choàng bị gió hất tung một nửa. Trước khi hoàn toàn rời khỏi quầng sáng của đèn lồng điện Minh Loan, cậu ngoái đầu lại, lặng lẽ liếc mắt nhìn lần cuối rồi mới cam lòng bước hẳn vào màn đêm mịt mù.

Ngoái đầu nhìn lại một thoáng, hóa ra trọn vẹn một đời.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 126: Ngoại truyện 2 (Hoàn toàn văn)


"Đến cả trong mơ cũng chưa từng bước qua cầu Tạ"

Năm mười lăm tuổi, Diêu Huy đã rời quận Ngô Hưng, khi bác trai trong nhà được thăng chức làm Kinh triệu doãn, đã đưa mấy chị em của cô đến Kim Lăng để nuôi dạy. Trước đó, cô vẫn sống ở phủ đệ rộng lớn nơi quê nhà, những ngày mưa lất phất thường một mình lên lầu thêu, đẩy cửa sổ ra là có thể nhìn thấy mặt hồ Thái Hồ mịt mùng khói sóng.

Quan mới nhậm chức cần phải đứng vững gót chân nơi kinh thành, mà việc kết thông gia chính là con đường then chốt nhất. Bác trai không có con trai nối dõi, thế nên những phò mã được chọn cho các chị em cô chẳng có ai không phải là con cháu thế tộc vùng kinh kỳ, toàn những anh chàng trẻ tuổi tài cao. Dẫu rằng so với các nhà họ Tiêu, họ Thôi, họ Vương, thì xuất thân của Ngô Hưng Diêu thị có phần kém thế, nhưng phía sau vẫn có trăm nhà sĩ tộc ở vùng Tam Ngô, Giang Nam đất lành nghìn dặm, ngày tháng cùng nhau nương dựa hãy còn dài.

Diêu Huy là người có tính tình hòa nhã phóng khoáng, từ nhỏ đã bắt đầu giúp bác gái quán xuyến việc nhà trong phủ. Ra khỏi khuê phòng, trong nhóm bạn đồng trang lứa, cô luôn là trung tâm của những cuộc trò chuyện, người đến dạm hỏi nối gót không thấy điểm kết, nhưng người lớn trong nhà thương cô là con út nên không muốn dễ dàng hứa gả cho ai.

Cho đến dịp Trung thu năm mười tám tuổi, trong một buổi tụ tập trên hồ Mạc Sầu, cô cải trang thành con trai, lén theo các chị và anh rể ra ngoài chơi. Bắt chước văn nhân xướng họa làm thơ nối vần, không ngờ lại xuất sắc đoạt giải nhất. Trong buổi tiệc hôm ấy còn có Tạ Duyễn - con trai lớn của Ngự sử đại phu vừa mới bước chân vào chốn quan trường, sau đó anh gián tiếp dò hỏi khắp nơi, cuối cùng cũng tra ra được môn vọng của cô, rồi nhờ người anh rể cả chuyển thư, viết rằng: "Mời Diêu công tử đến hồ Mạc Sầu hồ một lần nữa vào đêm rằm tháng Chín, tiểu sinh thật lòng mong được học hỏi tài cao."

Mấy chị em vây quanh bức thư, đọc đến ba chữ "Diêu công tử" suýt nữa thì cười đến rụng răng. Nhưng cười xong lại bắt đầu bối rối, nên đi hay không đi đây? Trần quận Tạ thị là danh môn vọng tộc mấy đời, nếu không đi, làm sao có thể dễ dàng qua mặt được? Nhưng nếu đi, chẳng lẽ lại để một cô gái phải giả nam cả đời, sống dưới thân phận lang quân hay sao?

Trái lại, Diêu Huy đã có ý từ trước, trong bữa tiệc hôm ấy cô ngồi ở ghế đầu, vị công tử họ Tạ kia ngồi thứ hai, cô đã cố tình liếc qua mấy câu thơ mà anh viết, thấy cũng có chút thú vị.

Thế là cô bèn tuyên bố, đi, không những đi, mà cô còn phải đi một cách đường đường chính chính bằng đúng thân phận thật của mình.

Mười lăm tháng Chín, bên trong Úc Kim đường hồ Mạc Sầu, Tạ Duyễn tắm gội dâng hương, chuẩn bị hậu lễ, điệu bộ trông chẳng khác nào sắp sửa kết nghĩa huynh đệ với người ta, chỉ thiếu mỗi cú dập đầu gọi một tiếng "tiên sinh" nữa thôi. Diêu Huy giả vờ làm khách du ngoạn, đứng tựa bên cửa quan sát anh. Thấy tên thư sinh ngốc nghếch ấy khi thì đứng, khi thì ngồi, lúc thì ngóng cổ trông ra, lúc lại chỉnh đốn mũ áo, chẳng có lấy nửa phần phong thái của quan viên triều đình, mà trông cứ như con kiến trên chảo nóng, xoay tới xoay lui không chịu yên.

Nhìn một lúc, Diêu Huy không kìm được bỗng bật cười khẽ.

Nghe thấy tiếng cười, Tạ Duyễn hơi sững người, ngẩng đầu lên nhìn, ánh mắt dán chặt vào đối phương một lúc mới nhận ra mình thất lễ, anh cuống quít dời mắt đi, nhưng rồi có thứ gì đó trong đầu xoay chuyển, khuôn mặt trước mắt dần trở nên trùng khớp với vị "Diêu công tử" mà mình gặp cách đây một tháng, anh há hốc miệng, không thốt nên lời.

Đương thời vẫn còn theo lối cũ của lục triều, lễ giáo giữa nam nữ cũng không quá nghiêm khắc, giữa ban ngày ban mặt, chẳng có gì phải kiêng kị quá mức. Diêu Huy ung dung bước vào trong phòng, không để lại vật gì khiến người ta dễ sinh lời đàm tiếu mà chỉ nhấc bút lên, viết ba câu thơ tàn vào khoảng trống trên tấm danh thiếp mà Tạ Duyễn đã chuẩn bị sẵn. Không để lại tên họ, không báo gia môn, chỉ thản nhiên nói:

"Nếu không nối được câu cuối, thì ngài đừng đến gặp tôi."

Diêu Huy cứ ngỡ lần này lại phải chờ thêm một tháng, nào ngờ chỉ ba ngày sau, anh rể cả đã mang về nhà bái thiếp của Tạ Duyễn kèm theo câu thơ nối tiếp - lần này, anh muốn được bước chân vào cửa Diêu phủ.

Cứ thế, cuộc đối đáp từ xa ấy kéo dài đến tận cuối năm. Ban đầu, Tạ Duyễn có đến thăm nhà mà ngay cả mặt Diêu Huy cũng chẳng được gặp, chỉ có thể cúi đầu lắng nghe những câu hỏi dồn dập của bác trai. Dần dà, anh bắt đầu được giữ lại dùng bữa, rồi tiến thêm bước nữa là có thể ngồi đối diện Diêu Huy qua một chiếc bàn ăn, còn có các chị và anh rể của cô đi cùng. Sau cùng, thỉnh thoảng vô tình gặp nhau ngoài phố, hai người đã có thể tranh thủ hàn huyên đôi ba câu.

Tạ Duyễn đã bẩm báo rõ ràng mọi chuyện với cha mẹ từ sớm. Tạ Dực cân nhắc trong lòng, thấy rằng nhà họ Diêu tuy chỉ là phú quý hạng hai, nhưng cũng không quá nổi bật khiến người ta phải dòm ngó, lại vừa có thể cùng nhà họ Tạ tương trợ, cho nên đã ngầm đồng ý mối hôn sự này. Thực ra, Tạ Duyễn là chàng trai trẻ tuổi đầy triển vọng, cả ba đại thế tộc họ Tiêu, Thôi, Vương đều từng ngỏ ý gả con gái cho, nhưng Tạ Dực không dám nhận. Ông thậm chí còn âm thầm thấy may mắn vì kim thượng không có chị em gái, dưới gối chỉ có một vị trưởng công chúa còn bọc tã, hoàng thất không thể chọn Tạ Duyễn làm phò mã, chẳng lo mối nguy dính líu quan hệ với thiên gia.

Cứ như vậy, qua lại thêm vài lần, bác trai và bác gái nhà họ Diêu đã thay mặt cha mẹ quyết định hôn sự cho Diêu Huy và Tạ Duyễn, chọn một ngày lành vào mùa xuân năm Kiến Ninh thứ mười hai.

Vào mùa trăm hoa đua nở dưới mái hiên, Diêu Huy vận cát phục đỏ thẫm, được các thị nữ vây quanh, dẫn dắt từng bước vào ngõ Ô Y. Chính giữa đại sảnh phòng tân hôn của cô và Tạ Duyễn có bày một bức bình phong khảm trân bảo trải rộng cả một mặt tường. Khi người bước vào sau bình phong, chỉ thấy một chiếc bóng đỏ uốn lượn như khói sương, cánh đào đơn côi rơi xuống tận đáy bình; đến khi người ấy vòng ra lại, hai gò má đã ửng lên tựa ráng chiều, trong tay dắt một đứa trẻ tinh nghịch, vợ chồng hòa thuận.

Năm Trinh Hựu thứ bảy, con trai thứ nhà họ Tạ lên kinh ứng thí, có người phụ giúp dạy dỗ Tạ Tuấn, lúc ấy Diêu Huy mới có thể thở phào nhẹ nhõm.

Trong mắt cô và Tạ Duyễn, Tạ Cánh vẫn chỉ là một đứa trẻ chưa lớn. Tính tình ương bướng, hay làm mình làm mẩy, mỗi khi lắng nghe người khác nói chuyện, đôi mắt tròn xoe như trái vải của cậu nhóc cứ sáng rực lên. Thỉnh thoảng Diêu Huy đưa tay véo nhẹ má y, dù không mạnh tay nhưng vẫn để lại vết hằn, giống như cánh mai rơi trên nền tuyết trắng.

Ấy thế mà một thiếu niên hãy còn ngây ngô, chưa rành thế sự như y lại đột ngột phải nhận cái gọi là "thiên ân", rồi bị gả vào nhà đế vương ở nơi cao chót vót và rét lạnh kia.

Cô và Tạ Duyễn lo sợ không yên.

Hai người tuy cũng sinh ra trong chốn thế gia vọng tộc, nhưng suy cho cùng vẫn được giới hạn trong cái khung an toàn, nhiều lắm cũng chỉ quen nhìn thấy những mưu tính lợi danh, chưa tới mức phải lo cho mối nguy ảnh hưởng đến tính mạng.

Nhưng ai mà chẳng biết cửa nhà quyền quý sâu thẳm tựa biển? Huống chi đó còn là Chiêu Vương... Chiêu Vương là nhân vật nào chứ? Dù mang danh trưởng tử nhưng chỉ là con thiếp, tuổi trẻ phong lưu. Nếu sau này không thành tài thì chẳng khác nào hủy hoại em trai của họ, cả nhà đều khổ sở; nhưng nếu quá xuất chúng, lại đẩy Tạ Cánh lên đầu sóng ngọn gió, thì đó mới thực sự là cơn ác mộng không thể tránh khỏi!

Diêu Huy quỳ ở hàng thứ hai, phía trước cô là Tạ Dực đang cúi rạp mình xuống tạ ơn thánh chỉ. Xa hơn nữa, trong tay Chung Triệu đang truyền chỉ là cây phất trần đang nhẹ rũ xuống, lắc lư vang lên tiếng soạn soạt, cái bóng của nó lặng lẽ phủ lên người cô.

Cô ngồi phía bên trái, nhìn thấy vẻ lo lắng giữa hàng mày của Tạ Duyễn, nhìn sang bên phải, thấy Tạ Tuấn đang cười khúc khích chơi đùa với sợi tua rua trên góc áo.

Cô nhìn sang phía sau, nhìn thấy đôi mắt của Tạ Cánh, trong miệng dấy lên cảm giác đắng chát. Rốt cuộc ban nãy cô đã uống trà gì, mà lại vô duyên vô cớ nếm được nỗi đau khổ của cả cuộc đời này cơ chứ?

Trước ngày làm lễ, thân là chị dâu cả, Diêu Huy có vài chuyện riêng muốn nói với Tạ Cánh.

Tạ Cánh nghe đến mơ hồ, mặt cũng đỏ lên, xấu hổ đến mức rúc đầu vào tấm đệm mềm bên cạnh. Diêu Huy mỉm cười - cô vẫn phải cười, không thể không cười. Bởi cô nhìn ra được Tạ Cánh đang do dự, nhưng cũng đang chờ mong; cô nhìn ra được Chiêu vương đã thật sự dốc lòng chuẩn bị phần sính lễ phong phú rực rỡ ấy; cô nhìn ra được sợi tơ tình của tuổi trẻ đang lặng lẽ vươn mình trèo lên giàn hoa trồng giữa sân, mà cô không cần phải nói gì cả, cô đã từng đi qua quãng đường ấy.

Rồi cứ thế tiễn con công ấy bay đi. Mà khoan đã... Diêu Huy đứng sau mấy lớp khách khứa, không nhìn rõ lắm, hoặc cũng có thể là do gần đây sự vụ rối ren khiến cô nhớ sai mất rồi - trên áo bào của Tạ Cánh, đường chỉ vàng kim tuyến lấp lánh kia rốt cuộc là thêu chim công, hay là thêu phượng hoàng nhỉ?

Tạ Tuấn khẽ lắc tay cô, giọng nói non nớt vang lên, hỏi: "Mẹ ơi, chú đi mất rồi, khi nào lại về ạ..."

"Ngày mai," Diêu Huy đọc lướt bức thư nhà của Tạ Cánh xong, quay sang mỉm cười với cha mẹ chồng ngồi trên cao: "Chi Vô nói bệ hạ không được khỏe, cho nên năm nay trong cung sẽ không tổ chức tiệc Trung thu. Ngày mai từ chiều đến tối đều rảnh, con tính rủ Thanh Nhi, Ninh Ninh, thêm cả trưởng công chúa cùng đến ngõ Ô Y ngắm trăng."

Tạ phu nhân bèn dặn quản gia: "Chuẩn bị rượu thịt tươm tất, nhất định phải cẩn trọng, không được sơ suất với điện hạ và công chúa. Mấy con cua hôm qua khi bọn họ đến nộp thuế mang sang, nhớ chọn những con to nhất để đãi khách."

Diêu Huy gọi giật Tạ Tuấn, người đang lén lút chuồn đi như bôi dầu dưới chân: "Đứng lại cho mẹ!"

Tạ Tuấn cụp mắt: "Mẹ ơi, con hẹn với Lý Huống rồi, đến trễ là bị phạt rượu đấy, mẹ muốn con trai mẹ phải uống thêm mấy chung rượu sao!"

Diêu Huy cầm nửa hạt óc chó vừa tách ném thẳng vào người cậu: "Càng ngày càng hư đốn rồi! Ngày mai mời Lý cô nương và em trai con bé đến nhà chơi. Một là để cho vui cửa vui nhà, hai là cũng để chú cháu các con gặp gỡ một phen."

Tạ Tuấn nhỏ giọng lầm bầm: "Bát tự còn chưa có lấy một nét nữa mà..."

Tạ Dực bỗng lên tiếng: "Mẹ con nói đúng đấy. Nếu hai đứa các con thật sự có ý với nhau, thì nên thu xếp sớm trong mùa đông năm nay đến đầu xuân năm tới đi. Nhìn tình hình hiện tại, cũng chẳng nói trước được khi nào Hoàng thượng sẽ... Ba năm quốc tang, đêm dài lắm mộng, chậm trễ chỉ khổ cho con và con bé nhà họ Lý thôi, đều đang độ tuổi xuân, Tuấn Nhi, con hiểu không?"

Lúc này Tạ Tuấn mới nghiêm mặt, ngoan ngoãn vâng dạ, sau đó chào người lớn rồi chạy vội ra ngoài.

Kết quả ngày hôm sau hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của mọi người, nhưng cũng là lẽ thường tình, Chiêu Vương và Tạ Cánh không hiểu bị chuyện gì vướng chân, phải ở lại trong cung, còn trưởng công chúa thì dẫn theo cháu trai cháu gái về thăm nhà trước.

Mấy năm gần đây nhờ quan hệ thông gia, trưởng công chúa cũng được xem như khách quen của ngõ Ô Y. Dù sao cũng là thân phận quân thần, lễ nghi không thể lơi lỏng, nhưng cũng chính vì thế, đám thiếu niên và bọn nhỏ trong nhà lại thích nhất là khi công chúa có mặt, chả là vì tuổi tác cả đám xấp xỉ mà vai vế của nàng lớn hơn, có thể làm chủ, dẫn họ đi đây đó, thăm thú những điều mới lạ.

Ví như lúc này, Tạ Tuấn ghé tai công chúa, nhỏ giọng rủ rê: "Điện hạ đến khuyên mẹ tôi đi, xin cho chúng ta ra ngoài chơi một lát thôi, ra sông Tần Hoài ngắm hội hoa đăng, xem pháo hoa sắt ấy, nhất định sẽ về nhà trước bữa tối!"

Lý Dã mỉm cười nhìn cậu: "Điện hạ vừa đến thôi mà, anh đừng làm người khó xử."

Song, trưởng công chúa chỉ lắc tay, không để tâm lắm, hai mắt nàng lóe lên, dắt tay Lục Thư Ninh rồi nói: "Ninh Ninh, đi theo cô nào."

Hai người dắt díu nhau đến chỗ Diêu Huy.

Nhìn thấy Lục Thư Ninh, Diêu Huy mặt mày hớn hở ôm lấy em, lúc lắc cánh tay nhỏ của em, tiếng chuông lục lạc trên chiếc vòng tay bạc vang lên lanh lảnh, cô nói: "Hôn mợ một cái đi."

Lục Thư Ninh hôn chùn chụt mấy cái, sau đó xin xỏ: "Cô nói muốn dẫn anh họ và bọn con đi xem pháo hoa sắt ạ!"

Trưởng công chúa "Ối chà" một tiếng, cười giòn giã, sau đó cũng nghiêng người sang bên, thì thầm với Diêu Huy: "Chị dâu là người tốt nhất, hiểu rõ bọn em nhất, chỉ nửa buổi thôi mà, bọn em hứa sẽ về nhà trước bữa tối!"

Diêu Huy dịu dàng ngắm nhìn dung nhan kiều diễm như hoa của trưởng công chúa, chỉ một nụ cười hé nở thôi mà trời đất vạn vật dường như đã rộn ràng vào xuân. Còn cô thì chẳng thể quay lại những tháng năm ấy nữa rồi, đám nhỏ đã lớn lên, trên khóe mắt cô thì có thêm vài nếp nhăn, thế là nửa đời người đã trôi qua.

Nhưng lòng cô thì vẫn chưa già. Thiếu nữ trước mắt còn có quãng thời gian tươi đẹp dài đằng đẵng để tận hưởng, mà bản thân cô cũng có nửa đời sau thảnh thơi đang chờ đón, còn phải chờ đến lúc con cháu đầy đàn nữa kia kìa!

"Đi đi, nhưng điện hạ nhớ phải bảo vệ mình, cũng phiền người căn dặn bọn Tuấn Nhi đừng có quá chén, nhớ trông nom cả Thanh Nhi và Ninh Ninh, đừng để chúng đi lạc mất, vậy là được rồi."

Trưởng công chúa vui vẻ đáp một tiếng, kéo tay Lục Thư Ninh, hai cô cháu như hai con én non sải cánh, ríu rít bay đi, chỉ để lại tiếng cười trong trẻo như châu ngọc, đinh đang vang lên khắp lối.

Đến tối, chị em nhà họ Lý cáo từ ra về để đoàn viên với gia đình mình, những người còn lại cũng mãn nguyện mà lần lượt rút lui. Mãi đến khi vầng trăng đã treo cao giữa trời, Chiêu Vương và Tạ Cánh mới khoác lớp sương đêm vội vã trở về ngõ Ô Y.

Trước mặt cả nhà, Diêu Huy không tiện hỏi nhiều chuyện trong cung, sợ khiến cha mẹ cảm thấy ngột ngạt. Chỉ là cô để ý thấy Tạ Cánh có vẻ không mấy hứng khởi, chẳng rõ là vì mệt mỏi, hay là đã phải chịu ấm ức gì trước cặp vợ chồng đế vương cao quý nhất thiên hạ kia.

Mà ở dưới bàn nơi khuất khỏi ánh mắt của mọi người, Chiêu Vương nhẹ nhàng nắm lấy tay Tạ Cánh, rồi viết chữ lên lòng bàn tay y, hẳn là lời an ủi gì đó. Tạ Cánh còn chưa nhận được hết lời đã lườm hắn một cái đầy trách móc, nhưng rồi y chợt nghiêng người tới gần, cứ tưởng là muốn nói thầm gì đó, ai ngờ là để đặt một nụ hôn khẽ lên sau tai đối phương.

Lúc ấy Lục Thư Thanh cũng vừa chạy đến, chia với mẹ mình một chén chè hạt sen hoa quế. Tạ Cánh ăn mấy thìa, vị ngọt lan khắp đầu lưỡi khiến y cười tít mắt, lộ ra hàm răng trắng đều.

Thấy vậy, Diêu Huy cũng bật cười theo, từ nhỏ, nụ cười ngọt ngào ấy của Tạ Cánh vẫn luôn có thể làm cô vui lây, để cô cảm nhận được rằng đứa nhỏ này luôn được mỗi người trong nhà nâng niu thương mến. Khi từ biệt quê nhà và cha mẹ, đặt chân đến Kim Lăng - nơi quyền quý trải rộng khắp chốn này, cô đã từng nghĩ mình sẽ như cánh bèo trôi dạt, không ngờ lại tìm thấy ở đây một người cha và người mẹ khác, một người chồng, em chồng và cả con cháu nữa.

Cô không mang họ Tạ, nhưng ngõ Ô Y là nhà của cô.

Ánh trăng men theo từng viên gạch đá chảy tràn vào phòng, Diêu Huy nằm xuống, tấm áo ngủ màu ngà như cũng bị ánh trăng rót vào, ướt đẫm.

Cô cứ thế nhẹ nhàng thiếp đi...

Cô thiếp đi, cơn mộng như đưa cô trở về những ngày tháng dong thuyền du ngoạn trên hồ Thái Hồ. Mưa bụi mịt mùng phủ khắp chân trời chẳng thấy điểm dừng, khuê mật của cô, các chị em gái của cô vây quanh lò lửa nấu trà, bày trò chơi uống rượu phạt. Trong làn khói mơ màng đắm say lòng người ấy, từng tia, từng sợi bỗng tỏa ra, hóa thành cánh cổng ngõ Ô Y như một ảo ảnh.

Ôi Kim Lăng, ấy là Kim Lăng - cây ngân hạnh, cây lựu, cây hồng... nhà nào cũng là nhà vương công quý tộc, nhà nào cũng tường cao cửa lớn, yến nhạn dập dìu trước thềm. Giữa những lầu son gác tía ấy, dường như có một vị tiểu thư từ sau cửa ló đầu ra, mày liễu mắt cười, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu ấy chẳng phải chính là cô đấy sao.

Cô đang nhìn cái gì? Trong sân có đứa trẻ đang nô đùa cùng chú chó to lười biếng, em mặc áo hoa sặc sỡ, chạy nhảy thích chí đến mức cha mẹ cũng không nhịn được bật cười. Đó là những ngày tháng xưa cũ của cô, hay là những ngày tháng sau này?

Rồi một cơn gió bất chợt thổi qua, khói tan sương tản, tất cả đều biến mất, cô lại trở về trên mặt nước Thái hồ mênh mang...

Diêu Huy giật mình, tỉnh giấc.

Khoảnh khắc thức tỉnh, chỉ thấy gió cuốn rền vang, mưa tuôn xối xả.

Tạ Duyễn ngồi dậy, xuống giường, cô cũng nhổm dậy khỏi gối, hỏi anh: "Có chuyện gì thế?"

"Không có gì đâu," Tạ Duyễn quay đầu lại, dịu dàng đáp, "Chung Triệu đến, nói là trong cung có việc, gọi ta và cha vào một chuyến, chắc là bệ hạ không ổn lắm, có chuyện cần nói rõ, nàng cứ yên tâm, không phải chuyện gì nghiêm trọng đâu."

Diêu Huy thở phào một hơi. Trời đông bên ngoài lạnh thấu xương, dù trong phòng đặt đến mấy chậu than nhưng tay chân vẫn lạnh buốt, cô xoa hai vai, hà hơi lên lòng bàn tay, cảm thấy kì lạ, tự hỏi sao mùa đông năm Trinh Hữu thứ mười bảy lại lạnh như vậy?

Tạ Duyễn nhanh chóng thay quần áo rồi cất bước rời đi, trong lòng Diêu Huy vẫn thấy bất an, cô vươn tay ra, bắt lấy cổ tay của anh:

"Chàng phải về đấy nhé."

Tạ Duyễn cười với cô, đáp: "Ta biết rồi."

- Hết -

Comment:

Khi đọc cảnh Diêu Huy dịu dàng ngắm nhìn Lệnh Chân, trong lòng mình thật sự rất xót xa. Hai người phụ nữ có số phận khác nhau - một người tuy đã qua độ tuổi thanh xuân, nhưng Diêu Huy cũng từng có thời thiếu nữ hoạt bát và hồn nhiên nhất, và ký ức tươi đẹp ấy kéo dài đến tận bây giờ: gia đình hòa thuận, tương lai hứa hẹn con cháu đầy đàn; người còn lại là một trưởng công chúa trẻ trung phơi phới, sở hữu một cuộc đời có vô vàn khả năng, lúc bấy giờ, cô bé vẫn là đóa hoa rực rỡ chói lòa dưới đôi cánh chở che của mẹ và anh trai.

Cả hai đều không biết rằng tương lai sẽ tàn khốc đến mức nào, cửa nát nhà tan, gia đình ly tán, chỉ sau một đêm rơi từ thiên đường xuống địa ngục. Họ từng là những đóa hoa đẹp nhất ở Kim Lăng, cũng là những gốc cây vững chãi cắm rễ sâu ở nơi ấy. Diêu Huy dùng cái chết oanh liệt nhất để bảo vệ ngõ Ô Y, Lệnh Chân cũng vì nước mà hy sinh, vùi lấp thân mình trong biển tuyết trắng xóa.

Họ là những người bất hạnh, sinh mệnh bị cuốn trôi trong dòng lũ số phận, nhưng họ cũng là những người rất kiên cường - dẫu vận mệnh vô thường, họ vẫn dùng sức lực nhỏ bé của mình để bảo vệ những điều trân quý nhất trong lòng. Ngoại truyện này viết xuất sắc quá, hai người phụ nữ với hai số phận khác nhau đều mang trong mình một tinh thần vô cùng mạnh mẽ.
 
Back
Top Bottom