Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm

Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 110


《 26.4 》

Bóng tối của năm đầu Cảnh Dụ bao trùm phủ Chiêu Vương, nội viện không một bóng người qua lại, cả phủ trên dưới đều ngầm hiểu mà để ba mẹ con họ ở bên nhau trong khoảnh khắc nặng nề này.

Lục Thư Thanh ngồi trên bậc thềm, úp mặt vào đầu gối mẹ, chỉ lộ ra đôi mắt nhìn Lục Thư Ninh đang vui vẻ chơi đùa dưới gốc mai trắng. Tạ Cánh ngồi trên đôn thêu không có lưng tựa, y chỉ có thể khẽ dựa vào cửa phòng khách, sống lưng còng xuống một cách mệt mỏi.

"Sáng mai rời khỏi nhà, rời khỏi kinh thành," Lục Thư Thanh đột nhiên lên tiếng, "Là kế sách ứng phó nhất thời mẹ nói để xoa dịu hắn ta, hay là mẹ định đi thật?"

Tạ Cánh gật đầu, sau đó lại gật đầu.

Lục Thư Thanh nghẹn lời, lại hỏi tiếp: "Mẹ sẽ đi rất xa sao ạ? Có thể nhờ ông cậu thu xếp sản nghiệp ở ngoại ô kinh thành được không? Chẳng phải nhà chúng ta cũng có chỗ ở ở Tô Hàng sao? Ở những nơi đó nhàn hạ phú quý, không có ai quan tâm đến biến động trong kinh. Hay là... Mẹ định trở về quận Trần?"

Nói đến đây, cậu lại ỉu xìu: "Không biết các chú bác anh chị ở quận Trần có bị liên lụy hay không nữa."

Tạ Cánh trầm mặc hồi lâu mới nói: "Đều không phải. Mẹ muốn đến Ung Châu."

Lục Thư Thanh phản ứng rất nhanh: "Là nơi vị sư phụ họ Hà của cha làm Thái thú ạ?"

Thấy Tạ Cánh ngầm thừa nhận, Lục Thư Thanh ngẩn ra hồi lâu mới lẩm bẩm: "Vậy... Thật sự là xa lắm."

Tạ Cánh thở dài một hơi, xoa đầu Lục Thư Thanh: "Đúng vậy, mẹ sống vô dụng hai mươi sáu năm, chưa từng tự mình đi xa đến thế, cũng chưa từng phải xa con và em gái con lâu như vậy."

Lục Thư Thanh im lặng rất lâu, bỗng nhiên thì thầm, giọng điệu chắc nịch: "Chỉ con thôi, không có em."

Tạ Cánh khẽ giật mình, chỉ thấy cậu ngước mặt lên, gần như dùng giọng cầu xin, hỏi y: "Mẹ đưa Ninh Ninh theo cùng đi, được không ạ?"

Đây là lời thỉnh cầu mà Tạ Cánh chưa bao giờ nghĩ tới. Y ngạc nhiên hỏi: "Thanh Nhi, con cũng biết mẹ luôn đối xử công bằng với con và em con, không hề thiên vị, các con chính là hai bàn tay của mẹ, thiếu đi một miếng thịt cũng đủ lấy mạng mẹ rồi. Con không muốn đi cùng mẹ sao?"

Lục Thư Thanh vội vàng lắc đầu: "Không phải con không muốn, chỉ là... Cha vẫn còn ở bên ngoài, con không đi được."

Cậu và Tạ Cánh cùng lúc thất vọng, điều này vốn dĩ có thể lường trước được, không cần phải hi vọng xa vời. Hôm nay, chỉ một tên Giáo úy cậy thế h**p người cũng dám ngang nhiên chụp lên đầu cha con họ cái tội "ngấp nghé ngôi vua", có thể tưởng tượng được, nếu Lục Thư Thanh tự ý rời khỏi thành Kim Lăng, nguy hiểm cho chính bản thân cậu, Lục Lệnh Tùng, Lục Lệnh Chân và cả Ngô Thái phi sẽ khó lường bực nào.

Không phải đến khi cha dẫn Hổ Sư rời kinh, cậu mới trở thành con tin. Từ khoảnh khắc được sinh ra với thân phận thế tử của Chiêu Vương, cậu đã là con tin rồi.

Lục Thư Thanh dõi mắt nhìn theo bước chân của Lục Thư Ninh: "Nhưng Ninh Ninh thì có thể đi được. Hơn nữa, em còn quá nhỏ, dù dì đối xử với em như con ruột, tổ mẫu và cô cũng cưng chiều em hết mực, nhưng ai có thể sánh được với mẹ ruột đây? Những ngày mẹ ở trong cung cầu xin cho nhà ngoại, Ninh Ninh không tìm thấy mẹ buồn bã đến mức nào, con nhìn cũng thấy buồn."

"Từ nhỏ, con đã nhìn thấy cha cố gắng làm một người anh trai tốt như thế nào, với cô, với thúc phụ, cả với mẹ. Chuyện này thật sự chẳng dễ dàng gì. Con biết mình phải còn lâu lắm mới có thể rời khỏi vòng tay che chở của cha mẹ, một mình bay cao, nhưng Ninh Ninh càng cần có mẹ bầu bạn hơn con. Con có thể tự chăm sóc bản thân, con hiểu được lòng dạ hiểm ác của người ngoài, tình cảnh trong nhà khó khăn, nhưng Ninh Ninh lại chưa hiểu được tất cả những chuyện này."

"Nếu như em có thể đi theo mẹ, lớn lên ở nơi núi cao sông dài cách xa kinh thành, để cả đời đừng bị kéo vào vòng phân tranh nhà đế vương, đó mới là điều may mắn nhất."

Tạ Cánh nghe cậu chầm chậm chia sẻ từng câu từng chữ, nước mắt cứ thế không kiềm được lăn xuống, lặng yên không tiếng động, nhưng y đã chẳng thể ngăn lại được nữa.

Y không muốn để Lục Thư Thanh nhìn thấy nước mắt của mình, nếu ngay cả bản thân y cũng lung lay chực ngã, vậy phải làm sao chống đỡ cho đứa trẻ vừa mới quyết tâm trở thành một người anh trai vĩ đại đây?

Tạ Cánh nghiêng mặt về phía ngoài phòng khách, nắng chiều phủ lên cả khu vườn làm mờ nhòa mọi góc sân, đến cả gấu váy trắng muốt bay lượn của Lục Thư Ninh cũng trở nên mềm mại như giấc mộng trong tiết trời ngày đông.

Có lẽ đây sẽ là ánh nắng chiều cuối cùng y được ngắm ở phủ Chiêu Vương. Lúc này, Tạ Cánh chợt bàng hoàng nhận ra, từ đầu đến cuối Lục Thư Thanh chưa từng hỏi y khi nào sẽ quay về.

Đêm hôm đó, sau khi thu xếp cho hai con lên giường nghỉ ngơi, Tạ Cánh triệu tập tất cả nha hoàn, tiểu tư, bộc phụ, gia đinh trong phủ đến nhà chính rộng rãi, đoạn lệnh mở vài hũ Mai Sơn Tuyết, châm cho mỗi người một chung đầy.

Y bước ra giữa sân, nói: "Mười sáu tuổi ta đã vào Vương phủ, đến mùng bảy tháng Giêng năm nay là tròn mười năm. Những năm qua, ta tiễn đưa vài người rời đi, cũng đón chào vài người mới đến, đương nhiên còn có những người vẫn luôn ở lại, hợp tan tựa như bèo nước, thoáng đến thoáng đi không thể đoán trước được. Nhưng dẫu đến hay đi cũng đều nhẹ nhàng, ân nghĩa chủ tớ mới là thứ nặng sâu, các vị đối với ta, có khác chi người một nhà?"

"Ngày hôm nay các vị dũng cảm quên mình, bảo vệ ta và thế tử, ta vô cùng biết ơn; các vị đã luôn vất vả vì Vương phủ, lo toan mọi chuyện, từng việc nhỏ nhặt ta khó lòng bù đắp. Nói lời cảm ơn thôi lại chẳng đủ, chỉ xin các vị nhận của ta một lạy."

Nói rồi, Tạ Cánh quỳ xuống đất, dập đầu một cái thật sâu với mọi người, vài thị nữ đến gần đỡ y dậy, nói: "Chúng nô tỳ được che chở dưới mái hiên phủ Chiêu Vương, già trẻ trong nhà đều khắc sâu ân huệ của điện hạ và Vương phi, đấy là lòng trung, sao có thể cầu bù đắp?"

Tạ Cánh quay về chỗ ngồi, nâng chung rượu lên trước: "Trước khi rời phủ, điện hạ đã để lại thư căn dặn ta phải nghe theo y chúc, chú ý ăn uống, vậy nên hôm nay không tiện uống nhiều, chỉ có thể nhấp một chút, coi như tỏ lòng."

Tôi tớ trong phủ nối gót cùng nâng chung uống cạn, hương rượu thoang thoảng lan tỏa khắp gian phòng, nhưng chợt nghe Tạ Cánh nói tiếp: "Ngoài ra, chung rượu này cũng là chung rượu từ biệt của ta."

Mọi người nghe vậy bèn đưa mắt nhìn nhau, Ngân Trù sốt ruột nói: "Vương phi vẫn chưa khỏi hẳn, làm sao có thể rời kinh thành, bôn ba đường xa được?"

Tạ Cánh cười thê lương: "Sự việc sáng nay các vị đều đã chứng kiến cả rồi. Có lẽ Vũ Lâm Vệ sẽ không dám ra tay với thế tử thật, nhưng bọn chúng chẳng cả nể gì người ngoài. Hôm nay gặp nạn là Lục Ngải, chưa biết chừng ngày mai sẽ đến lượt các vị. Nếu muốn bảo vệ phủ Chiêu Vương, ta chủ động rời đi chính là lựa chọn nhẹ nhàng nhất sau khi cân nhắc mọi điều hại."

"Như vậy, dù điện hạ và ta đều phải rời xa nơi này, nhưng thế tử vẫn ở lại, phủ Chiêu Vương vẫn còn đây, chỉ cần Vương phủ chưa sụp đổ, nó vẫn sẽ là nơi che mưa chắn gió cho mọi người."

Khắp sân lặng ngắt như tờ, sắc mặt ai nấy đều nặng nề, Tạ Cánh nói tiếp: "Tất nhiên, nếu các vị muốn nương nhờ minh chủ khác, ta tuyệt đối không ngăn cản, cũng có thể nhận một khoản bạc rồi rời đi, đã gặp nhau thì sẽ có lúc chia tay, không vướng thù hận."

"Ta chỉ có từng ấy chuyện cần nói rõ, mọi người cứ trở về nghỉ ngơi, bác Chu và Ngân Trù ở lại đây một lát, ta còn có vài lời muốn nói.

Mọi người đành tự ôm tâm sự rồi tản đi, Tạ Cánh mời hai người ngồi xuống, nói với bác Chu trước: "Bác là người được Thái phi đích thân đưa từ nhà họ Ngô tới đây, hầu hạ điện hạ trưởng thành, quán xuyến cả phủ Chiêu Vươnv to lớn, công lao vất vả không sao kể xiết. Sau này, dù bác muốn về quê an dưỡng, hay là sống hết quãng đời còn lại ở Vương phủ, điện hạ và ta nhất định sẽ phụng dưỡng như cha mẹ ruột, chăm sóc chu toàn."

Nói xong, y quay sang nhìn Ngân Trù. nhiều năm qua, cô đã sớm không còn đơn thuần là một y quan nữa, mà trở thành người xử lý mọi chuyện lớn nhỏ trong Vương phủ, dạy dỗ thế tử và quận chúa; bên ngoài giao thiệp với các thế gia đại tộc, điều hành công việc kinh doanh, dù là chuyện không thể không qua tay Tạ Cánh, Ngân Trù vẫn ở bên cạnh đỡ đần. Số tiền mà cô tích góp được thậm chí đã đủ để mở mười y quán rồi, nhưng Ngân Trù vẫn không rời đi.

Tạ Cánh thổn thức nói: "Từ ngày đầu tiên quen biết, chị đã nói muốn mở lại y quán của gia đình. Chẳng ngờ lại vô duyên vô cớ trì hoãn chị lâu như thế này, nay ta phải đi rồi, cũng sẽ không quyết giữ chị ở lại nữa."

Ngân Trù và bác Chu nhìn nhau, Ngân Trù nói: "Vương phi sao lại nói những lời xa lạ như vậy, cả đời này tôi đã không định sinh con dưỡng cái, Thanh Nhi và Ninh Ninh là do tôi một tay chăm bẵm từ lúc mới ra đời, bọn trẻ gọi tôi một tiếng dì, tôi cũng yêu thương chúng như con ruột. Năm đó Vương phủ toàn thịnh, Vương phi cứu tôi về phủ, cho tôi trở thành bồi giá, địa vị và thể diện, ngày giờ này Vương phủ gian nan, tôi há lại buông bỏ mà đi cầu vinh hoa phú quý cho bản thân?"

Bác Chu cũng nói: "Tôi cũng có ý giống Ngân Trù, phụ lão ở quê đã ly tán từ lâu, được điện hạ và Vương phi che chở, chấp nhận thu lưu lão già này ở Vương phủ ngót mười năm, đối xử tôn kính, sao tôi có thể mong cầu thứ gì xa vời được chứ?"

Nói đến đây, bọn họ đã không cần phải bộc bạch nhiều lời thêm nữa, Tạ Cánh khẽ nói: "Có lẽ ta sẽ đưa Ninh Ninh theo cùng... Chỉ đưa một mình con bé đi thôi."

Bác Chu hỏi dò: "Thế tử có biết chuyện này không?"

"Là thằng bé cầu xin ta.. Đưa em gái đi, để nó ở lại đây."

Cả hai người đều giật mình, Ngân Trù im lặng hồi lâu mới thở dài: "Từ sau khi nhà họ Tạ gặp họa, Thanh Nhi giống như trưởng thành sau một đêm vậy, tâm tư quá nặng nề, cũng quá hiểu chuyện rồi."

Bác Chu xót xa nói: "Dù thế nào đi nữa, Vương phi cũng cứ yên tâm lên đường, chăm sóc tốt cho bản thân và quận chúa. Chúng tôi ở lại Vương phủ đông người như vậy, ngoài việc tận sức bảo vệ thế tử ra thì cũng chẳng còn mong muốn gì khác."

Tạ Cánh gật đầu: "Đương nhiên là ta tin tưởng các vị, chỉ là còn một thỉnh cầu cuối cùng. Đó là sau khi ta rời đi, làm phiền mọi người thiêu hủy hết tất cả đồ đạc cũ của ta trong phủ, đừng để lại chút dấu vết nào, cứ coi như phủ Chiêu Vương... Chưa từng có vị Vương phi này đi."

Tiếng ồn dần lắng xuống, hương rượu Mai Sơn Tuyết đậm đà tỏa khắp căn phòng, Tạ Cánh đã ngồi trong trung đình vắng vẻ suốt cả đêm dài.

Mãi đến khi chân trời lờ mờ ánh lên sắc trắng, y mới đứng dậy, cầm theo chiếc đèn lồng với ánh lửa leo lét bước về phía cổng nhỏ dẫn đến vườn hoa.

Đúng vào thời điểm vạn vật héo tàn, cửa vừa mở ra, cơn gió lạnh buốt đã lập tức thổi tung áo choàng ngoài của Tạ Cánh lên. Y bước thẳng lên bậc thềm, men theo hành lang có mái che mưa nắng - nơi khách bộ hành đến thưởng ngoạn thường đi để tiến về phía trước.

Sau hòn non bộ có mấy cây quế, năm ngoái họ lại trải thảm lụa dưới gốc cây để hứng cánh hoa làm đồ ngọt, cất trữ trong kho vẫn còn chưa dùng hết; bên cạnh khung xích đu ẩn mình không xa cây quế là những phiến đá Thái Hồ tinh xảo dựng đứng, năm ấy các cô nương từng tốp từng tốp ra phơi áo váy rực rỡ sắc hè, nay hơn nửa đã trở thành vợ nhà người; còn bên phải chính là cửa sổ gian trong thư phòng của Tạ Cánh, đang không phải mùa hoa, giàn tử đằng Lục Lệnh Tùng trồng cho y chỉ còn cành lá lặng lẽ quấn quanh dưới mái hiên.

Lên đến bậc thềm cao nhất có lối đi thông thẳng đến tầng hai của tiểu lâu ở góc Tây Bắc. mấy tháng đầu khi mang thai Lục Thư Ninh, Tạ Cánh thường ngủ sớm dậy sớm, cũng vì vậy mà hay leo lên gác nhỏ vào lúc trời chưa sáng hẳn. Trước sau Trung thu, gió lùa đến mang theo chút se lạnh, cả phủ vẫn chưa thức giấc, y một mình chống tay tựa lên lan can, nhìn bầu trời xa mờ sương xanh ngắt, ngắm sao mai lặn cùng bóng trăng tàn in hắt trên màn trời. Tiếng chim chóc hót líu lo khắp nơi nhưng không hề ồn ào mà chỉ khiến lòng người thêm tĩnh lặng, thư thái. Có đôi khi cứ nhìn mãi rồi mỏi mệt, y lại xoay người chui vào lớp chăn lông mềm mại trên giường êm, đánh thêm một giấc nữa.

Băng qua tiểu lâu, đi ra từ phía bên kia, có thể thấy trên được trên thuyền đá bên bờ hồ sau vẫn còn mấy chiếc ghế đẩu nhỏ bằng tre. Không nhớ rõ trong buổi yến hội nào đó, họ từng mời nhạc công đến đây ngồi diễn tấu, xong tiệc lại quên không dọn đi. Thế là mỗi khi không thuộc nổi bài học, Lục Thư Thanh thường sẽ chạy đến đây một mình để tìm chút thanh tĩnh.

Từ hành lang dài đi thẳng xuống, qua cầu cong chính là hồ sau và Y Bích đài. Tạ Cánh chẳng biết mình đã tiêu tốn bao nhiêu thời gian ở nơi này, xuân đến gảy đàn đánh cờ, hạ về cùng các con thả thuyền nghịch nước, thu sang nghe tiếng mưa rơi trên đài sen tàn, đông tới nấu tuyết pha trà, mặc kệ cơn gió gào thét bên ngoài cửa sổ, trong làn hương ấm áp, y cùng Lục Lệnh Tùng ân ái đến tận canh ba --

Giờ đây tất cả đều đã thành dĩ vãng.

Lục Lệnh Tùng từng phàn nàn với y rằng hai bờ Tần Hoài tấc đất tấc vàng, khu vườn này thực sự chẳng rộng rãi gì, nhưng lúc này chỉ còn lại một mình y cô độc dạo bước, nơi nào cũng trống trải, nơi nào cũng tĩnh mịch. Y đã sắp phải chia xa ngôi nhà nhỏ này, cả những người bạn cũ từng ngày ngày ra vào Vương phủ năm xưa, sư hữu, đồng liêu, tân khách và thân thích,... Chỉ sợ khó có thể lại tề tựu đông đủ, nâng chén vui cười... Người cùng ta ngắm hoa ngày ấy, đếm lại giờ chẳng còn nổi một nửa.

Trời sắp sáng, Tạ Cánh chậm rãi về phòng, phát hiện hành lý của y và Lục Thư Ninh đã được sắp xếp ngay ngắn đặt trên bàn, có lẽ là do Ngân Trù sai người chuẩn bị sẵn. Hẳn là gia nhân cũng biết rõ đường đi sắp tới trắc trở gian nan, cho nên đã nhét đầy ngân phiếu và thảo dược vào bên trong cho y.

Tạ Cánh thay sang áo tơ trắng giản dị, những túi thơm, quạt gấp, dây cung, ngọc bội đeo đều chẳng còn bóng dáng. Y chỉ giữ lại đúng chiếc hộp hương bạc đựng tóc kết của hai vợ chồng, giấu vào lớp áo trong, còn miếng ngọc trắng chưa khắc xong thì nhét vào trong ống tay áo.

Y đứng lặng tại chỗ, đưa mắt nhìn quanh phòng ngủ đã gắn bó suốt mười năm, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên chiếc gương lớn trong phòng. Mặt gương phản chiếu bóng dáng đơn bạc cô độc đang nhìn y chằm chằm. Từng có biết bao buổi sớm mai, y đứng trước gương chỉnh trang búi tóc, Lục Lệnh Tùng lặng lẽ bước đến từ phía sau, bất ngờ ôm ghì lấy y vào lòng, đặt môi hôn lên đầu vai trần lộ ra, cười tươi đến nỗi mắt cong thành hai mảnh trăng khuyết.

Bây giờ, bọn họ đều phải rời khỏi nơi này rồi.

Lục Thư Thanh vẫn còn ngủ trên giường, Tạ Cánh gần như đã gom hết ý chí, ép bản thân không được vén màn ra, y không muốn tạm biệt, sợ chỉ nhìn thêm một lần thôi là sẽ không đi được nữa.

Y khoác áo choàng, xách hành lý rồi đi thẳng sang Đông phòng phía đối diện, bồng Lục Thư Ninh ra ngoài. Cứ thế đi một mạch đến phòng khách, sau lưng bỗng truyền đến tiếng hô gọi quen thuộc:

"Mẹ ơi!"

Lục Thư Thanh còn chưa kịp mang tất, sải dài bước chạy đuổi theo, nhét một chiếc lò sưởi nhỏ vào trong lòng Lục Thư Ninh: "Ninh Ninh hiếm khi đi xa nhà, đừng để giá rét làm lạnh tay em."

Dưới mắt cậu có vết thâm quầng, có thể thấy cả đêm qua cậu cũng không ngủ ngon, thế mà vẫn cười cho được. Tạ Cánh nhìn con trai gẳng gượng tỏ ra ung dung bình thản, nụ cười dùng để an ủi mẹ cứng đờ trên mặt, làm sao biết được người mẹ thấu hiểu cậu nhất chỉ cần liếc mắt đã nhận ra sự hoảng loạn của cậu rồi đâu.

"Vậy, mẹ... Con tiễn đến đây thôi."

Tạ Cánh không nói được lời nào, chỉ bước đến gần hơn, đặt lên trán Lục Thư Thanh một nụ hôn vội vàng rồi bước nhanh rời khỏi phòng khách. Cánh cửa phía sau y tàn nhẫn khép lại, đúng khoảnh khắc đó, Tạ Cánh rõ ràng nghe được tiếng nức nở không kìm nén nổi của Lục Thư Thanh vọng tới.

Trong phủ không có lấy một bóng người qua lại, không khí tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng kim bạc rơi xuống đất. Mà Tạ Cánh chỉ chăm chăm bước tới, không còn tâm trí nghĩ ngợi gì khác, cho đến khi y đẩy cửa nhà trước, ngẩng đầu lên, lập tức sững người tại chỗ --

Toàn bộ người hầu đã uống rượu Mai Sơn Tuyết đêm qua lúc này không thiếu một ai, đều đang im lặng đứng bên ngoài tiền thính, chờ tiễn y lên đường.

Tạ Cánh nghẹn ứ ở cổ họng, cơ thể khẽ run lên, từng bước từng bước đi xuyên qua đám người, càng lúc càng đến gần cổng chính phủ Chiêu Vương.

Khi chạm tay vào vòng cửa, y thật sự không nhịn được nữa mà ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy mười mấy người đồng loạt cúi chào nhưng lại im lặng không cất tiếng, đến cả một câu "thuận buồm xuôi gió" cũng không được phép thốt ra.

Cánh cửa lớn mở ra, Vũ Lâm Vệ đã chờ sẵn bên ngoài Vương phủ. Lúc này Lục Thư Ninh mới mơ màng tỉnh lại, ngái ngủ cựa quậy tay chân, từ nhỏ đến giờ em chưa từng gắt ngủ, chỉ dụi đầu vào hõm cổ Tạ Cánh, giọng lí nhí hỏi: "Mẹ ơi, có chuyện gì thế?"

"Con cứ yên tâm ngủ đi," Tạ Cánh đáp, giọng điệu nhẹ nhàng như đang hát khúc đưa tang, "Mẹ đưa con đến một nơi có thể nhìn thấy tuyết."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 111


《 27.1 — Hiện tại 》

Tháng Sáu năm Cảnh Dụ thứ tư, thiên tử đột ngột băng hà.

Không có hậu tự, cũng không lập di chiếu, quần thần bỗng chốc trở thành rắn mất đầu, nhưng đất nước một ngày không thể không có vua, tuy rằng tất thảy đều chưa rõ trắng đen, nhưng triều đình và dân chúng đã ngầm hiểu, coi dụ lệnh của Chiêu Vương – người phát động chính biến này là chỉ thị cao nhất.

Cuộc xung đột ở bên bờ Trường Giang ngoài thành Kim Lăng cũng không kéo dài lâu hơn nữa, Trịnh Kiêu cùng con trai và con gái tiếp quản việc trông coi quân Hoài Dương, Lý Kỳ dẫn đầu Hổ Sư và quân kinh kỳ áp giải Trương Diên và Trình Văn về thành; Tạ Tuấn lập tức dẫn Tuyên Thất ra ngoại ô đón đoàn người Lục Thư Ninh và Ngân Trù, tránh cho lại xảy ra bất trắc.

Lục Lệnh Tùng lệnh người giải Trương Diên đến điện Thần Long.

Mấy ngày nay, Thôi Tế Thế lãnh đạo Vũ Lâm Vệ kiếm soát cung Thái Sơ, cung nhân và nội giám cũng thường xuyên túc trực trong điện. Cửa đồng bị đẩy ra, vài tia sáng xuyên qua màn mây đen giăng đầy, keo kiệt rọi xuống mặt đất, chiếu ngay bên chân Trương Diên.

Ông không quỳ xuống, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh cũng không bắt ông phải quỳ.

Trong đại điện trống trải chỉ có ba người, để lộ ra vẻ xa cách lạnh lẽo. Trương Diên đứng ngay trên thềm ngọc dưới long ỷ, xoay lưng về phía Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng đứng giữa hai người, bên hông đeo đao, bàn tay không rời vỏ kiếm mảy may.

Tạ Cánh ngước lên nhìn xà ngang khắc chim phượng, nói khẽ: "Năm ta mười sáu tuổi lên điện thi Đình đã gặp thầy lần đầu tiên ở đây, thầy nói ta có 'cốt cách thư sinh, bụng dạ tướng soái'. Khi ấy ta không biết trời cao đất dày, không cảm thấy sợ hãi vì được khen ngợi quá lời, chỉ thấy ta là ngọc sáng, còn thầy có đôi mắt sắc sảo."

Trương Diên thờ ơ nghe, Tạ Cánh hỏi: "Thầy, thầy không nhớ sao?"

Im lặng thật lâu, Trương Diên chỉ nói: "Ngươi mới là người không nhớ."

"Lần đầu tiên ngươi gặp ta là tháng Giêng năm Kiến Ninh thứ mười hai, ngươi mới là người không nhớ."

Nghe thấy đoạn thời gian này, Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đều sững sờ.

Trương Diên quay người lại, đứng ngược sáng nhìn Tạ Cánh: "Mười lăm tháng Giêng năm Kiến Ninh thứ mười hai, ngươi vô tình gặp được một người phụ nữ ở gần dinh thự Lan Lăng Tiêu thị, bà ấy bị ngăn không cho ra ngoài, ngươi đã giúp bà ấy gửi một bức thư nhà."

Tạ Cánh không thấy rõ biểu cảm của ông, chuyện cũ nặng nề quẩn quanh trong tâm trí, vượt qua năm dài tháng rộng hiện ra trước mắt y. Trương Diên nói không sai. Năm đó y đến Kim Lăng ăn Tết, ngoại trừ vào Tây cung vấn an Ngô thị và gặp gỡ Lục Lệnh Tùng, vào tiết Thượng Nguyên, đúng là y có từng làm chuyện này.

Chuyện đã qua từ hai mươi năm trước, Tạ Cánh chỉ có thể nhớ được vài chi tiết nhỏ. Người phụ nữ kia nài nỉ gia đinh Tiêu phủ giúp bà gửi một bức thư, nhưng thái độ của gia đinh rất kiên quyết, gần như không cho phép đưa bất kì thư từ gì ra khỏi phủ. Giữa hàng tá âm thanh mừng vui của ngày lễ tết, lời cầu xin của người phụ nữ đáng thương trở nên vô cùng bắt tai.

Y đi ngang qua đó trông thấy, không ngần ngại bước đến nói, phu nhân đừng lo lắng, ta đọc qua một lần là thuộc, phu nhân cứ đưa thư cho ta xem thử, rồi nói cho ta biết muốn gửi cho người nào, nhà ở đâu, ta sẽ đến nói cho hắn nghe, đảm bảo không sót một chữ.

Gia đinh Tiêu phủ thấy y ăn mặc không giống người dân bình thường, tự biết mình không đắc tội nổi, cuối cùng đành miễn cưỡng đồng ý. Người phụ nữ cho y đọc bức thư kia rồi báo địa chỉ, dặn dò y những gì muốn truyền đạt, cảm ơn y không ngớt lời.

Sự tình sau đó y đã không nhớ rõ nữa, nhưng chỉ đơn giản là đi đến địa điểm người phụ nữ đã nói, bận rộn một hồi cũng giúp xong. Đối với Tạ Cánh, làm việc này thật sự chỉ là tiện tay mà thôi, sự việc lại quá nhỏ, thế nên đến bây giờ y chưa từng đa nghi.

Trương Diên thấy y trầm xuống, khổ sở suy tư, bèn đổi giọng nói: "Lục Lệnh Chương còn nhỏ không biết đầu đuôi Quân Giới án, nhưng hai vị, chắc là đã biết hết rồi chứ?"

Tạ Cánh vừa định gật đầu trong vô thức, Lục Lệnh Tùng đã lên tiếng: "Không đầy đủ lắm."

Hắn bình tĩnh nhìn Trương Diên, "Bọn ta không biết kết cục cuối cùng của gia quyến những cựu thần Đông cung kia – cũng chính là người thân của ông và nhóm đồng liêu ra sao."

Ánh mắt Trương Diên và hắn chạm nhau, trong khoảnh khắc toát ra vẻ thù hận rất rõ ràng: "Ngươi cũng họ Lục, lớn lên trong sự nuôi dưỡng của thiên gia, chẳng lẽ ngươi không đoán được sao?"

Ông ta lạnh lùng nói: "Ngày đó Quân Giới án thất bại, Tiêu Thái hậu bị cầm tù, Lan Lăng Tiêu thị tự biết đã thất thế, vì để trả thù các cựu thần Đông cung phản bội theo tiên đế, chúng đã định đưa những người thân của bọn ta, những người đã bị chúng giữ làm con tin suốt hơn mười năm trong Tiêu phủ ra khỏi thành, sau đó giết sạch."

"Trên đường rời kinh, chị em Đinh Ngọc, Đinh Giám có cơ hội chạy thoát, tiện đường cứu được Chung Triệu, ba người tìm cách về thành, báo cho bọn ta biết ý định của Lan Lăng Tiêu thị. Bấy giờ bọn ta đã đi tìm tiên đế, hy vọng ông ta có thể tuân theo leoif hứa hẹn lúc trước, xuất binh giải cứu những người già yếu, phụ nữ và trẻ em."

Ông nhìn Lục Lệnh Tùng chằm chằm: "Tính tình của lệnh tôn ra sao, hẳn Chiêu vương hiểu rõ hơn ai hết. Vốn dĩ ông ta đã có ý định tiếp tục dùng người thân làm con tin để khống chế bọn ta nhằm đối đầu với các sĩ tộc. Lại thêm họ Vương, họ Thôi vì lợi riêng mà ra sức giật dây — vậy nên ông ta đã làm ngơ, khóa chặt cửa điện Thần Long, chẳng ra gặp mặt bọn ta lấy một lần."

"Cuối cùng," Ông dừng lại một chút, "Lan Lăng tiêu thị đã đưa người thân của bọn ta đến một nhà kho ở phía Tây thành, nhốt kín bảy ngày bảy đêm."

"Đến khi bọn ta tìm được, nơi đó chỉ còn lại hơn một trăm cái xác ốm đói bị chôn sống!"

Tuy rằng đã đoán trước được, nhưng lòng dạ Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh vẫn không nhịn được chùng xuống, cổ họng nghẹn ứ.

"Giai đoạn cuối khi Tiêu Thái hậu vẫn còn nắm quyền, thật ra bà ấy đã phát hiện tiên đế có dị tâm nên bắt đầu mưu tính. Trước đây cứ độ cuối năm, Tiêu phủ sẽ thả cho người thân ra gặp bọn ta một lần, nhưng đề phòng sự việc bị lộ ra ngoài, tết năm Kiến Ninh thứ mười hai, Tiêu phủ đã cấm không cho bất kì ai ra vào phủ nữa, gửi thư lại càng khó khăn hơn."

Trương Diên nói bằng giọng dửng dưng, như thể đang kể lại một chuyện chẳng liên quan gì đến mình: "Đêm Thượng Nguyên năm ấy, bức thư mà ngươi gõ cửa Trương phủ đọc cho ta nghe cũng chính là bức thư cuối cùng mà vợ ta để lại."

Tạ Cánh đứng lặng tại chỗ, y nhớ đến dòng chữ 'Chiêm sự Trương Diên, vợ Đặng thị' ngắn ngủi trong danh sách mà Tiêu Thái hậu để lại. Y nhớ, trước đây mỗi lần tụ họp cùng đồng niên tại phủ Thái phó, đến khi tiệc tàn chỉ có mình Trương Diên tiễn họ ra ngoài, lặng lẽ đưa từng người rời đi; lại nhớ đến lời truyền miệng từ bao tiền bối chốn quan trường — rằng Thái phó góa vợ đã nhiều năm, lòng thương nhớ người đã khuất sâu nặng đến mức ai nghe cũng xót, ai thấy cũng đau.

Ngay khoảnh khắc ấy, Tạ Cánh bỗng chốc hiểu ra vì sao hôm đó Trương Diên lại hỏi y, rốt cuộc Lục Lệnh Tùng "không thể cứu" hay là "không muốn cứu" nhà họ Tạ.

Trương Diên từng trải qua mất mát đau đớn đến tận xương tủy, thấu hiểu sự lạnh lùng và toan tính ăn sâu trong máu người hoàng tộc. Vì vậy, ông chưa bao giờ tin vào tình cảm "sâu đậm" giữa y và Lục Lệnh Tùng.

"Người thân mất rồi, năm ấy phần lớn cựu thần Đông cung đều suy sụp, có người dứt khoát từ quan về quê. Bọn ta đều xuất thân hương dã, những năm tuổi trẻ dùi mài đèn sách còn chẳng đủ ăn, lấy gì để đòi hỏi công lý từ tiên đế đây?"

"Cũng có rất nhiều người đã vùng lên phản kháng, Hà Cáo mất con gái, Hứa Dịch và Đinh Viện đều mất vợ, Chung Thụy thì mất mẹ già... Nhưng phản kháng cũng vô ích thôi, trong mắt tiên đế và các sĩ tộc, bọn họ chẳng khác gì con sâu cái kiến. Thế là chỉ sau một chiếu chỉ giáng chức, mỗi người bị đày đi một phương. Ta và Trình Văn nuốt không trôi nỗi uất nghẹn này, bèn bàn bạc cùng những đồng liêu bị giáng chức khác âm thầm gây dựng lại lực lượng, chỉ mong có ngày rửa sạch mối hận năm xưa."

"Ta giả vờ thần phục tiên đế, mọi việc đều nghe theo sự sai khiến của ông ta, thay ông ta xoay xở giữa hai nhà họ Vương – Thôi; Trình Văn cố tình gây chuyện để bị bãi chức, mấy năm sau, Quận thủ Hoài Dương cáo lão hồi hương, ta bèn dâng tấu xin tiên đế để ông ấy thay vào chỗ trống đó."

"Đinh Viện và Chung Thụy đều chết trên đường lưu đày, ta chỉ có thể cưu mang ba đứa trẻ kia, đưa Đinh Ngọc vào biệt viện của nhà họ Ngô ở núi Thang, nhằm theo dõi tin tức từ điện Minh Loan và Chiêu Vương; sau đó đưa Đinh Giám đến chỗ thuộc hạ cũ của cha nó ở Bắc đại doanh, để nó rèn luyện trong quân ngũ; còn Chung Triệu thì chủ động tịnh thân, vào cung Thái Sơ, nhờ đầu óc lanh lợi mà chẳng bao lâu đã được tiên đế cực kỳ tín nhiệm."

Trương Diên nói đến đây thì liếc Lục Lệnh Tùng một cái, giễu cợt: "Thậm chí còn lấy được lòng tin của Chiêu Vương nữa đấy."

Lục Lệnh Tùng nghe vậy, lập tức nhớ tới cái lần hắn và Tạ Cánh gặp phải thích khách ở núi Thang vào năm Trinh Hữu thứ bảy.

Nguyên nhân bắt đầu từ một lần hắn vô tình nhắc đến chuyện muốn đi săn trước mặt tiên đế, mà khi ấy bên cạnh chỉ có hai nội giám, một trong số đó chính là Chung Triệu.

Năm đó Lục Lệnh Tùng từng nhờ Chung Triệu điều tra kỹ lai lịch của tên nội giám còn lại. Kết quả được gã báo lại chính là: người đó đã tiết lộ tin tức cho một "chủ tử" trong cung, rồi chính "chủ tử" ấy đã liên hệ với Hứa Dịch cùng những người khác, bày ra cạm bẫy, mưu sát Chiêu Vương.

Giờ nghĩ lại, kẻ vẫn luôn tự giấu mình trong cung, xuất quỷ nhập thần gọi là "chủ tử" ấy, từ đầu đến cuối căn bản đều là Chung Triệu. Trong vở kịch này, Chung Triệu chỉ đang giở trò vừa ăn cướp vừa la làng nhằm che mắt hắn, khiến hắn lơ là cảnh giác!

Lục Lệnh Tùng thầm nghĩ, hắn thật sự quá ngu ngốc. Khi ấy hắn luôn cho rằng "chủ tử" thần thông quảng đại kia nhất định phải là kẻ có địa vị cao như tiên đế hay thái hậu, mà lại hoàn toàn bỏ sót một điều, rằng ở trong cung Thái Sơ, rốt cuộc là hạng người nào nhiều nhất, mờ nhạt nhất, có thể tự do lui tới khắp nơi mà không khiến ai nghi ngờ, lại có tai nghe bốn phương, mắt thấy tám hướng?

Chính đám nội giám cung nữ thấp kém kia, những kẻ không được xem là "con người" đó mới thực sự là những kẻ biết hết mọi chuyện, liệu sự như thần.

"Vậy nên," Mỏi mệt khiến giọng Lục Lệnh Tùng khàn đi, "Ông và đám người Chung Triệu, chị em họ Đinh mới bắt tay nhau lên kế hoạch cho hai lần ám sát ta và Thanh Nhi sao."

Trương Diên hừ lạnh một tiếng: "Chỉ vài ngày sau khi Tạ Chi Vô đỗ tam nguyên, Tiên đế đã triệu ta vào cung, kín đáo hỏi ta rằng nếu gả tân khoa trạng nguyên cho Chiêu Vương, thì liệu có thể một mũi tên trúng hai đích, đồng thời lôi kéo phủ Chiêu vương và Trần quận Tạ thị vào cuộc hay không."

Ông ta lạnh giọng nói với Lục Lệnh Tùng: "Giết ngươi, tiên đế tự nhiên chẳng còn lý do gì để ban hôn nữa; giết Lục Thư Thanh, vừa khéo trừ khử được 'Gia Thụy', tiên đế sẽ không vì thế mà có khuynh hướng truyền ngôi cho phủ Chiêu vương. Hơn nữa, vợ chồng các ngươi vừa rơi vào cảnh lục đục, lại vừa mất con, e rằng cũng khó mà sống bên nhau được nữa."

"Chiêu Vương, chẳng phải ngươi luôn tự xưng mình tình sâu nghĩa nặng hay sao?" Trương Diên giễu cợt, "Ta nói thẳng cho ngươi biết, nếu như không có ngươi, không có Lục Thư Thanh, thì 'ái thê' của ngươi sẽ không phải lưu lạc đến nước này, càng chắc chắn rằng y sẽ không phí công nếm mùi đau khổ suốt mười lăm năm như vậy!"

Trong điện lặng đi một lúc, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đều không biết phải đối diện thế nào với đề tài nhạy cảm nhất chắn giữa hai người họ như một bức tường vô hình này.

Một lúc sau, Lục Lệnh Tùng mới hỏi: "Sau khi chị em nhà họ Đinh bắt cóc Thanh Nhi không thành, Đinh Ngọc tự sát, còn Đinh Giám thì rời khỏi kinh thành sao?"

"Ta đã đưa nó tới Mạc Bắc, từ đó về sau chỉ liên lạc qua thư từ, cũng chính là cái mà các ngươi gọi là..." Trương Diên ngừng lại một chút, "Thông đồng với địch phản quốc."

"Tiên đế sủng ái Lục Thư Thanh, có ý chọn Chiêu Vương kế vị, thậm chí còn sai Chung Triệu lén đưa ngọc tỷ Lam Điền truyền quốc – biểu tượng của vương quyền đến Vương phủ. Sau đó, ta viết một bức thư cho Hà Cáo, mượn của ông ta ba trăm cân ngọc liệu Lam Điền. Đợi đến Tết, ta lấy danh nghĩa Thái thú Ung Châu thăm hỏi tặng quà, đưa toàn bộ số ngọc đó vào ngõ Ô Y."

"Chuyện sau đó thì các ngươi đều biết cả rồi. Những năm cuối đời, tiên đế lại muốn giở trò cũ để dọn sạch nhà họ Vương, vậy nên ta bèn dâng cho ông ta một cái cớ. Năm Trinh Hữu thứ mười lăm, ta ẩn danh tiết lộ phương pháp hạ 'Tích Cốt Huyền' cho Vương Thục, quả nhiên không lâu sau, Chung Triệu đã chặn được âm mưu dùng chính cách đó để mưu sát tiên đế của Vương Thục và Thái hậu."

"Ban đầu, tính toán của tiên đế là mượn tay nhà họ Vương để diệt nhà họ Tạ trước, sau đó mới đích thân ra tay diệt trừ nhà họ Vương. Nhưng ông ta không ngờ rằng, còn chưa kịp động thủ thì đã bị ta và Chung Triệu g**t ch*t trước," Trương Diên mỉm cười, "Tần thái y nói là do bị vật cùn đánh trúng, không sai, đó chính là cái chân đèn trong tẩm điện."

Ngày hôm đó có thể nói là ngày sung sướng nhất trong mười năm để tang vợ của ông. Trương Diên lạnh lùng nhìn tiên đế vọng tưởng giả heo ăn thịt hổ, tự cho mình là con chim sẻ thông minh đang rình ve, nào ngờ bản thân từ lâu đã là con ve dính chặt trên cành cây, mặc người khác đưa tay bắt lấy.

Đêm hôm đó, tiên đế triệu ông và Chung Triệu vào cung, lệnh cho họ điều Vũ Lâm Vệ ra tay với nhà họ Vương. Thế nhưng người đến không phải là nghịch thần và đầy tớ từng nhẫn nhục chịu đựng bao năm, mà là những gương mặt hoàn toàn xa lạ. Bọn họ không đáp lại bất kỳ lời mắng nhiếc nào của ông ta, cũng không để ông ta có cơ hội phát ra tiếng kêu cứu nào. Ngay tại nơi này – điện Thần Long, họ đã lấy chân đèn đập gãy cổ họng của tiên đế.

"Sau đó, ta dùng Khứ Hà thể viết một mảnh giấy, tiết lộ nơi tiên đế cất giấu di chiếu cho phủ Tướng. Vương Thục vốn chẳng buồn truy xem rốt cuộc là ai đưa tin, khi đó lão ta và Thái hậu còn đang bận thay xà đổi cột, làm giả di chiếu để sớm nắm trọn quyền lực trong tay."

"Chung Triệu biến mất trong đêm. Ngay từ đầu ta đã biết nó tuyệt đối sẽ không tự ý rời đi — năm xưa bọn ta từng thề sẽ diệt sạch tông tộc thiên gia, bấy giờ mới chỉ có một mình tiên đế chết đi, làm sao nó cam lòng buông tay cho được?"

"Sau đó Trình Văn gửi thư cho ta, nói rằng thám tử ông ấy phái đến Hoài Bắc đã trông thấy Chung Triệu ở trong quân Hổ Sư, lúc ấy ta mới hiểu, thì ra là ngươi đã đưa nó đi."

Lục Lệnh Tùng nhìn Trương Diên với vẻ mặt phức tạp: "Vậy ra, người đã diệt khẩu Chung Triệu là ông và Trình Văn sao?"

Trương Diên khẽ thở dài như tiếc nuối, buồn bã nói: "Nó là một nhân tài có thể trọng dụng, tâm chí kiên định. Tiếc là lại rơi vào tay ngươi, bọn ta không thể mạo hiểm để lộ bất kỳ sơ hở nào liên quan đến đại sự."

Lục Lệnh Tùng cũng không nén được xúc động, thở dài: "Chung Triệu chưa tiết lộ điều gì. Về mưu đồ và đồng lõa của các ông, hay các ông là ai – trước khi chết, hắn chưa hề tiết lộ một chữ nào."

Mặt trời dần ngả về Tây, bóng người bị kéo dài ra và hẹp lại. Điện Thần Long càng lúc càng u ám, những đường chạm trổ trên trần nhà dần mờ đi, chìm khuất trong bóng tối, như thể có vô số thần linh đang mở mắt dõi theo màn bù trả duyên nợ ở nơi đây.

"Ta biết, thầy giết tiên đế, giết Lục Tử Phụng, giết Lệnh Chương và Chân Chân, giết cả con cái ta... Là vì mang mối thâm thù không đội trời chung với nhà họ Lục, cũng muốn ta dứt khoát đoạn tuyệt với hoàng thất, từ đây không còn vướng bận gì nữa."

Tạ Cánh thẫn thờ mở miệng, như đang tự hỏi: "Nhưng nhà mẹ của ta, Trần quận Tạ Thị cho đến giờ đều luôn dè dặt cẩn trọng, không lộ tài năng, thầy mượn ngọc liệu Lam Điền giá họa cho nhà họ Tạ, chẳng lẽ trên tay không dính máu tươi tàn sát người vô tội hay sao?"

Trương Diên chỉ bật cười cay đắng: "Tạ Chi Vô à, ta cứ tưởng ngươi ở lại Ung châu ba năm sẽ nhận ra được vài điều khác biệt. Nhưng giờ ngươi lại hỏi ra câu ấy, thật sự là chẳng tiến bộ chút nào!"

Ông từng bước đi về phía Tạ Cánh: "Đến cuối những năm Kiến Ninh, năm đầu Trinh Hữu, Trần quận Tạ thị là đại tộc duy nhất trong triều đình có thể đứng ngang hàng với Lang Nha Vương thị và Thanh Hà Thôi thị, tạo thế chân vạc mà tranh giành, đối kháng lẫn nhau. Thêm vào đó là Ngô Hưng Diêu thị - nhà mẹ của chị dâu ngươi, quý tộc bản địa đứng đầu Giang Nam, nếu lúc ấy ai trong số họ chịu mở miệng nói thêm một câu, thì cũng không đến mức tạo thành cục diện một nhà thao túng, ngang ngược hoành hành như thế."

"Nhưng ông nội, cha, chú bác, anh trai ngươi, tất cả những người họ Tạ đang tại chức trong quan trường, vào đúng thời khắc cần phải đứng ra gánh vác, họ đều lựa chọn rút lui, không ai là ngoại lệ. Năm xưa ông nội ngươi làm Tả phó xạ, rõ ràng thấy được mâu thuẫn giữa thái hậu và tiên đế ngày một sâu sắc, ông ta vẫn khoanh tay treo ấn từ quan, đưa ngươi về quê an hưởng tuổi già; cha ngươi là Ngự sử đại phu, anh trai ngươi là Hữu bổ khuyết, đều là ngôn quan nhưng lại 'cẩn ngôn thận hành', không làm tròn trách nhiệm can gián!"

Tạ Cảnh ngẩn người một lúc lâu, trong đầu vang lên những lời mà y thường nghe về gia đình ba đời làm quan của mình, đó là hai từ "thanh liêm" và "thận trọng". Nhà họ Tạ giữ mình trong sạch, vì vậy không muốn lún sâu vào những cuộc tranh đấu bè lũ xu nịnh, cũng chẳng muốn cùng tôm tép nhãi nhép nhảy múa bàn chuyện vặt vãnh; Tạ Dực và Tạ Duyễn làm quan thận trọng, luôn đề phòng không để người khác nắm được điểm yếu của mình, vì vậy họ không nói nhiều, không làm nhiều, chỉ sợ đi sai đường.

Nhưng những gì Trương Diên nói không sai. Bọn họ lẽ ra phải làm đúng công việc của một quan can gián.

"Ngươi nghĩ những bi kịch xảy ra với người thân trong gia đình bọn ta không gây nên sóng gió gì hay sao? Không hề! Họ biết hết, tất cả đều biết, nhưng chẳng ai dám nói lời nào! Tại sao hơn một trăm mạng người lại biến mất? Vì sự lơ là của họ, vì sự né tránh tai họa của họ, vì sự thận trọng quá mức của họ, vì không dám bộc lộ tài năng! Nếu nói hoàng đế là đầu sỏ, thì những dòng họ, thế gia trong khắp thiên hạ này chính là đồng phạm!"

Trương Diên nhìn quanh đại điện rộng lớn, suốt bốn mươi năm xuân qua thu lại, ông ngày ngày thức khuya dậy sớm, tay cầm thẻ chầu đứng ở nơi này, căm ghét thiên tử của mỗi triều, nhưng cũng trở thành triều thần của họ.

"Còn ngươi, Chi Vô, ta từng nghĩ ngươi không giống bọn họ."

Ông đã gần như đứng đối diện với Tạ Cánh, Lục Lệnh Tùng toan ngăn lại, nhưng bị Tạ Cánh nhẹ nhàng gạt ra.

"Mãi đến khi nghe chính miệng ngươi kể cho ta nghe rằng các người đã mưu tính 'thanh quân trắc' ra sao, ta mới hiểu ra được đợt rét đậm trời giáng vào năm ngoái, cảnh xác đói đầy đồng, nỗi khổ của dân, oán hận của dân, và cả sự bất lực khi không thể chống lại của họ, hóa ra cũng chỉ là công cụ để ngươi rửa oan cho Trần quận Tạ thị!"

Tạ Cánh nhìn thẳng vào ông, không hề phủ nhận.

"Thưa thầy... Thánh nhân luận tích không luận tâm. Nếu như Lệnh Chương không chết, hoặc là Lục Tử Phụng, hoặc là Thanh Nhi, chỉ cần một trong ba người lên nắm quyền, họ đều sẽ đi cứu bách tính của mình, đều sẽ phải thu phục lòng dân — chẳng qua chỉ là khác đường cùng đích mà thôi. Oan có đầu, nợ có chủ, dân chúng rồi sẽ tự biết mình nên hận ai, mà người đó sẽ không phải là ta."

Trương Diên chỉ bật cười lớn: "Oan có đầu, nợ có chủ! Chỉ có kẻ ngồi trên cao hưởng lợi mới có quyền được nói câu này! Còn dân đen ti tiện như cỏ rác thì không có cái quyền đó đâu! Tai họa trời giáng xuống đầu bọn họ làm gì có phân biệt oan hay không oan, thù hay không thù cơ chứ!"

"Đại Tề lập quốc lấy khoa cử làm đầu, cứ ba năm tuyển sĩ một lần, nhiều thì được vài chục người, ít thì chỉ hơn mười người! Nhưng khắp cõi nước Tề này tổng cộng có bao nhiêu người? Nhìn khắp quan trường ngày nay, những kẻ xuất thân quý tộc như ngươi, dẫu thi cử không thành thì cũng được che chở, được tiến cử nghìn đường vạn lối để bước vào chốn quan trường, ngươi xem, có bao nhiêu người như vậy? Còn những người giống đồng liêu năm xưa của ta ở Đông cung, treo cổ khổ học, vắt óc hao tâm, nhẫn nại đến khi đầu bạc tóc mới có thể đặt chân vào ngưỡng cửu phẩm, lại được bao nhiêu người?"

"Ba đời Thánh hiền nói đến 'hữu vi' là dạy dân bằng đức, chỉnh dân bằng lễ*; 'vô vi' là thuận theo thiên thời, cùng dân nghỉ ngơi. Vậy thử hỏi trong thế hệ của các ngươi, 'hữu vi' và 'vô vi' là gì? 'Hữu vi' là Lang Nha Vương thị thôn tính ruộng đất, mượn công mưu tư; 'vô vi' là Trần quận Tạ thị các ngươi khiếp nhược thất trách, ngồi không hưởng lộc! Để đến hôm nay kẻ mạnh hoành hành, kẻ yếu bị h**p đáp, người giàu càng giàu, kẻ nghèo càng nghèo, thế tộc thì ngồi chễm chệ trên cao, anh tài thì bị vùi dập nơi đáy xã hội!"

(*) Câu đầy đủ nằm trong Luận Ngữ – Học nhi: "道之以政,齐之以刑,民免而无耻;道之以德,齐之以礼,有耻且格。" → Dạy dân bằng chính trị, chỉnh dân bằng hình phạt, dân chỉ tránh tội mà không biết xấu hổ; dạy dân bằng đức, chỉnh dân bằng lễ, dân biết hổ thẹn và tự sửa mình.

"Chi Vô à, Chi Vô," Trương Diên than thở gọi tên y, "Ông nội ngươi lấy tự cho ngươi là 'Chi Vô', chẳng lẽ lại muốn ngươi đi trên một con dường mà không có chí tiến thủ hay sao?"

Câu nói cuối cùng của ông khiến đầu óc Tạ Cánh ong ong, á khẩu không biết đáp thế nào. Rồi Trương Diên bỗng chộp lấy hai khuỷu tay y, khẩn thiết hỏi: "Ta có một chuyện muốn hỏi ngươi — ngươi phải thành thật trả lời ta!"

Ông bất ngờ kéo mạnh Tạ Cánh đến trước điện, giơ tay chỉ về phía ngai vàng: "Hiện giờ ngươi đứng cách vị trí kia chỉ một bước chân mà thôi! Chỉ cần ngươi muốn, thiên hạ này sẽ nằm trọn trong tay ngươi! Ta nói rõ ràng ở đây — không có ngươi, Lục Tử Phụng và Lục Thư Thanh chẳng dễ gì ngồi vững trên ngai vàng đó đâu! Ngươi có đủ can đảm để thay thế Lục Tử Phụng không? Ngươi có đủ khí phách để đổi họ cho con mình, đổi họ cho cả giang sơn này hay không?"

Tạ Cánh ngẩng đầu, trợn tròn mắt nhìn về ngai vàng trên đài cao, cùng với bức bình phong vàng rực uy nghi phía sau, im lặng hồi lâu.

Trương Diên khẽ hừ lạnh một tiếng: "Ngày đó quả thật là ta đã không nhìn lầm ngươi, ngươi có cốt cách thư sinh, bụng dạ tướng soái, duy chỉ thiếu tâm thuật của đế vương. Suốt cả đời này, ngươi cùng lắm cũng chỉ có thể ở phía dưới người khác, làm thần làm hậu, thế là hết!"

Tạ Cánh đứng yên bất động, sững người thật lâu rồi mới gạt tay Trương Diên ra, lùi lại hai bước, cúi người hành lễ thật sâu:

"Thật hổ thẹn vì đã phụ lòng kỳ vọng sâu nặng của thầy. Ta không có cái gan ấy, cũng không có khí phách ấy. Nhưng có một câu thầy nói chưa đúng lắm."

Giọng y không lớn, nhưng lại vô cùng kiên định: "Không có ta, Lục Tử Phụng ngồi không vững ngai vàng; nhưng cho dù ta có thật sự đổi họ của giang sơn này thành họ Tạ, thì nếu không có Lục Tử Phụng, ta cũng không thể ngồi vững."

Trương Diên bật cười thành tiếng, chẳng rõ là tức đến bật cười, hay là hận vì rèn sắt mãi chẳng thành thép. Ông chỉ khẽ lắc đầu: "Vậy Chi Vô à, chúng ta cứ chờ mà xem. Họ Lục bọn họ đều là những kẻ máu lạnh. Mười mấy năm rồi, nếu còn cứ ngây thơ như thế mãi, ngươi sẽ bị hắn hại đến mức chẳng còn sót lại mảnh xương!"

Ông từ từ đưa tay nâng Tạ Cánh dậy, để y trở lại tư thế ngang hàng đối mặt. Mà chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, thần sắc, khẩu khí, cử chỉ của ông cũng đã trở về với dáng vẻ trầm ổn như chuông, vững vàng không lay chuyển của một Thái phó đương triều.

"Ta đời này ở vào vị trí gì thì làm việc vị trí đó, có ơn báo ơn, có thù trả thù. Mọi việc đã làm, bất kể thành bại, ta chưa bao giờ thẹn với lòng mình."

Tạ Cánh nhìn thẳng vào ông, ánh mắt sâu thẳm: "Thưa thầy, chuyện đã đến nước này, ta không còn gì để nói, chỉ muốn thay Thanh Nhi hỏi người một câu. Tổ phụ và ông ngoại của thằng bé mất cùng một ngày, suốt ba năm trời sau đó, thầy là người đích thân dạy dỗ, sớm tối kề cận, hễ biết đều dạy, trong lòng nó kính yêu thầy, chưa từng thua kém người thân ruột thịt."

"Sự hiền hòa, những lời khen ngợi, cùng với sự kỳ vọng mà thầy dành cho thằng bé..." Giọng Tạ Cánh khẽ run lên, "Có chút nào là thật không, thưa thầy?"

Trương Diên chỉ lặng lẽ nhìn về phía trước, ánh mắt dừng lại ở nơi nào thật lâu, nhưng đến cuối cùng, ông cũng không đáp lại chữ nào.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 112


《 27.2 》

Cửa lớn phủ Tướng ở Thanh Khê phía Đông thành Kim Lăng đã bị khóa trái từ bên ngoài, có lẽ trên cửa còn dán phong ấn, chỉ là người bên trong không nhìn thấy được.

Biến cố kinh hoàng xảy ra ở đảo Bát Quái đã nhanh chóng truyền khắp kinh thành. Lang Gia Vương thị nắm giữ đại quyền thì mưu phản, Trương Thái phó đức cao vọng trọng lại giết vua, vị thiên tử luôn ôn hòa kiệm lời băng hà vì cứu mạng thế tử Chiêu Vương. Chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi, quốc tang chưa qua lại chồng thêm một tầng đau thương nữa.

Thân là gia chủ, Vương Thục và hai người con trai đã bị tống vào ngục. Những nữ quyến còn lại, tộc nhân, gia nô đều bị giam lỏng trong phủ, ai nấy đều hoảng hốt bất an chờ đợi phán xét cho số phận của mình.

Thôi Thục Thế lặng lẽ đứng ở ngoài rìa nhóm người, nàng cao dong dỏng, thân hình mảnh mai tựa như chiếc lá liễu mỏng, cái bóng in trên tường gạch đen đặc như mực.

Đột nhiên, vợ một người anh con chú của Vương Hề cất giọng gọi nàng: "Nhị phu nhân, vừa nãy Thôi phủ phái xe ngựa đến đón, sao cô lại không đi?"

Thôi Thục Thế không nhìn cô ta, chỉ thản nhiên nói: "Tôi làm dâu nhà họ Vương đã hơn mười năm, lại thường theo sát Vương tướng, lo toan tính toán đủ điều. Nếu trong cung muốn truy xét trị tội, chẳng lẽ quay về nhà mẹ đẻ là có thể tránh được hay sao?"

Người phụ nữ kia lại nói đầy ẩn ý: "Chuyện đó ai mà nói chắc được? Em trai của cô bây giờ bỗng dưng nổi danh, đi theo Chiêu Vương lập được không ít công lao cơ mà! Huống hồ, đừng tưởng chúng tôi không biết — trước khi người nhà họ Thôi tới, xe ngựa của phủ Chiêu Vương đã tới rồi, chẳng qua cô không chịu lên thôi!"

Lời ấy như một hòn đá bị ném xuống lòng hồ, lập tức gợn lên từng đợt sóng, lan rộng. Có người kinh ngạc thốt lên: "Đến lúc nào vậy? Thật sự là xe ngựa của phủ Chiêu Vương sao? Sao tôi không thấy nhỉ?"

"Sao Chiêu Vương lại cho người tới đón cô ta? Chẳng phải năm xưa cô ta đã bị người ta —"

"Năm xưa là năm xưa, khi đó làm sao tiên đế có thể cho phép Chiêu Vương kết thông gia với phủ Thái úy nắm binh quyền chứ?"

"Suỵt! Ăn nói cho cẩn thận, về sau... 'Tiên đế' không còn là..."

Giữa những tiếng "xì xào bàn tán" cố tình để cho nàng nghe thấy, lại có người nói: "Chuyện lớn như vậy, không biết Hoàng đế có để lại di chiếu hay không, nhưng cho dù không có, thì ngôi vua... E rằng cũng sẽ lọt vào tay phủ Chiêu Vương thôi."

Người phụ nữ kia trầm ngâm một lúc: "Nói như vậy, bây giờ Chiêu Vương cũng coi như được tự do rồi, chẳng phải hắn với người vợ bị phế truất kia từng suýt gât án mạng sao? Nếu giờ được nắm quyền trong tay, ắt sẽ tuyển chọn vợ kế. Mà Thôi phủ cũng có công phò rồng khởi nghĩa..."

Thoáng chốc, tất cả đều im lặng, đồng loạt đưa mắt nhìn Thôi Thục Thế như đang suy tính điều gì.

Người phụ nữ kia bước đến trước mặt nàng, lời đầy hàm ý: "Nếu Chiêu Vương lên ngôi, chắc chắc sẽ trọng dụng Thanh Hà Thôi thị. Theo tôi thấy thì đây chính là cơ hội của Nhị phu nhân đấy. Cô xem, đến cả chuyện phát binh đoạt quyền Chiêu Vương còn dám làm, vốn cũng chẳng phải hạng chính nhân quân tử, làm gì có chuyện dâng người đến cửa mà hắn không cần?"

Không biết ai nhỏ giọng thì thầm: "Cách này... Chẳng phải Chân thị, hoàng hậu Văn Chiêu của Ngụy Văn đế cũng đi bước nữa đó sao?"

Một người họ hàng khác vội nói: "Âm mưu của bá phụ và Thái hậu chúng tôi hoàn toàn không biết gì cả, cô thường xuyên theo bên cạnh ông ấy, chắc hẳn cũng biết là chúng tôi vô tội mà!"

Người phụ nữ giả vờ lau nước mắt, khuyên nhủ: "Nhị phu nhân, suốt bao năm qua, cả nhà chúng ta vẫn luôn ở bên nhau, đã là những người thân cận nhất, làm sao chúng tôi lại không mong cô được sống tốt, được bay lên cao hóa thành phượng hoàng? Chỉ cần cô có được vinh quang, góp lời vài câu giúp những phụ nữ và trẻ em vô tội chúng tôi, để phủ Chiêu Vương xem xét giảm nhẹ hình phạt, chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn!"

Những người còn lại đồng loạt phụ họa, có một bà cô lớn tuổi khác nói: "Trần quận Tạ thị đã sụp đổ rồi, thế tử giờ không còn nhà mẹ chống lưng, dù sao thì bây giờ Nhị phu nhân cũng không có con cái, nếu có thể sinh được một cậu con trai, còn chưa biết ngai vàng sẽ thuộc về ai..."

Chồng bà ta ở bên cạnh liếc mắt ra hiệu, bà cô lập tức nhận ra mình lỡ lời, vội vàng ngậm miệng. Nhưng những người có mặt ở đây đều không nhịn được nghĩ đến cô con gái nhỏ mấy năm trước đột nhiên qua đời của Thôi Thục Thế.

Từ đầu tới cuối, Thôi Thục Thế không nói một lời, đến lúc này mới lên tiếng: "Anh chị đây thật sự đã định ra giúp tôi con đường tương lai tốt đẹp, sáng sủa rồi đấy."

Mọi người ngượng ngùng.

Nhưng Thôi Thục Thế chỉ cười. Nếu ai để ý kỹ sẽ nhận ra sự bình tĩnh của nàng lúc này quả thật có chút bất thường so với vẻ cay nghiệt thường ngày. Thế nhưng tâm trí của đám người nhà họ Vương đều đặt cả vào việc làm sao để thoát tội, chẳng ai chú ý đến biểu cảm khác lạ kia.

"Tôi đã quyết ở lại nhà họ Vương chịu tội, nếu bậc trưởng bối muốn tôi tái giá, tôi cũng không phản đối." Thôi Thục Thế điềm đạm nói, "Có điều cưới gả là chuyện lớn, nếu như không đứng trước tổ tông mà định đoạt thì có hơi bất kính. Chi bằng mời mọi người dời bước đến từ đường ở nhà sau, chúng ta cùng nhau bàn kỹ hơn?"

Mọi người nghe nàng nói vậy thì mừng rỡ không thôi, ai nấy đều gật gù đồng ý, lập tức rục rịch kéo nhau đi về phía từ đường của nhà họ Vương ở nhà sau.

Thôi Thục Thế dõi mắt nhìn theo bóng lưng bọn họ, lạnh lùng nói thêm: "Tôi sẽ quay về phòng lấy hôn thư của tôi và Nhị công tử, mong các vị —— đợi thêm một chút nữa."

Đợi đến khi người cuối cùng cũng khuất hẳn khỏi tầm mắt, Thôi Thục Thế mới cất bước. Nàng quay về phòng mình, đi đến bên chiếc rương chứa của hồi môn nặng nề phủ đầy bụi bặm trong góc tường, móc chiếc chìa khóa giấu trong ngực ra, mở ổ khóa vàng.

Nắp rương bật mở, nhưng bên trong chẳng có gì ngoài một thanh kiếm dài ánh lên hàn quang.

Cha mẹ thì đang thẩm vấn Trương Thái phó ở điện Thần Long, còn Lục Thư Thanh đang đứng thất thần một mình trên hành lang ngoài điện. Sau khi đưa Lục Thư Ninh và Ngân Trù đến chỗ Tạ Tuấn, Từ Ất và Từ Giáp đã lên đường vào cung ngay lập tức, nhưng nhìn thấy dáng vẻ ngây ngẩn của thế tử, họ cũng không dám lên tiếng hỏi han.

Lục Thư Thanh vẫn còn cảm nhận được nhiệt độ dần lạnh đi của cơ thể Lục Lệnh Chương lúc lâm chung. Cậu vô thức sờ đầu ngón tay mình, nơi ấy vừa mới chạm đến ranh giới của cái chết.

Cái chết... Sao lại có thể nhẹ nhàng đến vậy?

Vũ Lâm Vệ xếp hàng chỉnh tề, Thôi Tế Thế dẫn đầu đội ngũ từ xa tiến dần đến bên ngoài điện Thần Long. Lục Thư Thanh trông thấy chợt hoàn hồn, đứng thẳng dậy chào hỏi: "Thôi đại nhân vất vả rồi."

Thôi Tế Thế vội nói: "Thế tử không cần đa lễ. Thần tới đây là có chuyện muốn bẩm báo để điện hạ quyết định. Nhưng nếu điện hạ không tiện, thần báo với thế tử cũng như nhau. Nội – ngoại Vũ Lâm Vệ đã điểm quân xong, có nên chiếu theo lệ cũ, phân họ theo ban mà đổi ca, tiếp tục giữ chức vụ hay không?"

Lục Thư Thanh đứng ở vị trí hơi cao hơn, cậu cúi xuống nhìn Thôi Tế Thế, thầm nghĩ: Người này thực sự rất thông minh, giống hệt mẹ của A Hoàng — cũng chính là chị gái của gã, Thôi Tế Thế thông minh giống hệt như Thôi phu nhân.

Gã rất biết thời thế, không vì bản thân đứng đúng phe mà kiêu ngạo kể công, trái lại, gã nghiêm túc làm đúng bổn phận, duy trì trật tự bên trong hoàng thành, để Chiêu Vương xử lý tội thần mà không phải bận tâm đến chuyện hậu phương.

Nhưng đồng thời, gã cũng có tầm nhìn xa trông rộng, Chiêu Vương không thể phân thân, đúng lúc gặp được thế tử, gã khéo léo chọn cách hiến ân cần – nay Chiêu Vương là chủ nhân của gã, còn thế tử chính là thiếu chủ, ngày nào đó có thể cậu sẽ trở thành Thái tử Đông cung. Nếu như Chiêu Vương coi trọng, sủng ái thế tử, sẽ chẳng hiếm khi có lòng mạnh dạn trao quyền cho cậu rèn luyện, đã như vậy, sao gã phải do dự? Chẳng bằng cứ mượn chuyện ổn thỏa như thế này để thử nước. Thứ nhất là để Chiêu Vương nhìn ra được sự cung kính và lòng trung thành của gã đối với nhà họ, hai là sớm gieo vào lòng minh chủ tương lai một ấn tượng tốt đẹp.

Nghĩ vậy, Lục Thư Thanh cũng không vòng vo mà gật đầu nói: "Phiền Thôi đại nhân lo liệu, tất thảy đều cứ vận hành theo chế độ cũ là được, đợi phụ vương rảnh rỗi, ta nhất định sẽ giúp ngài bẩm báo với người."

Thôi Tế Thế nhận lệnh rời đi, Lục Thư Thanh buồn chán nhìn đoàn người quay đầu, tầm mắt lơ lửng một hồi, đột nhiên dừng lại trên một gương mặt.

Cậu quát lên: "Đợi đã!"

Thôi Tế Thế sửng sốt, nhưng vẫn lập tức đưa tay cho các tướng sĩ dừng lại: "Thế tử có việc gì cần dặn dò?"

Lục Thư Thanh bước xuống bậc thềm ngọc, đi thẳng đến trước mặt người nọ: "Ta biết ngươi."

Đối phương sợ hãi cúi thấp đầu, không dám nhìn thẳng mặt Lục Thư Thanh, Thôi Tế Thế đứng bên cạnh giải thích: "Bẩm thế tử, Dương Giáo úy đang làm việc ở Vũ Lâm Trung Vệ. Ngày hôm trước, Trung tham quân ngoan cố chống cự, chính anh ta cùng những người khác đã hợp lực khống chế, khuyên họ quy thuận Chiêu vương, lập được công lao đấy."

Nhưng Lục Thư Thanh vẫn chỉ nhìn chằm chằm vào gã kia: "Ngươi là người đã giết Lục Ngải."

Binh sĩ trái phải ngạc nhiên nhìn nhau, mặc dù không hiểu rõ tình hình, thế nhưng chẳng ai dám thở mạnh.

Cả người Dương Giáo úy kia đổ đầy mồ hôi lạnh, run như cầy sấy. Gã vốn chẳng biết Lục Ngải là ai, cũng không cần biết Lục Ngải là ai, chỉ hai chữ "đã giết" phía trước thôi cũng đủ khiến cho gã hồn phi phách tán rồi.

Trước điện lặng như tờ, hồi lâu sau, Lục Thư Thanh chỉ khẽ mấp máy, rồi lạnh lùng thốt lên một chữ:

"Thưởng."

Nói xong, cậu không liếc mắt nhìn thêm nữa mà quay người đi về phía sau điện. Anh em họ Từ nhìn nhau rồi đuổi theo sau. Bọn họ tá túc ở Vương phủ, từng nghe Lục Thư Thanh nhắc đến chuyện có người đã ra tay giết hại con vẹt yêu dấu của cậu. Từ Ất quay đầu lại trừng mắt với Dương Giáo úy, không cam lòng nói: "Bắt nạt kẻ yếu, sợ hãi kẻ mạnh! Vì sao thế tử không nhân cơ hội này báo thù cho Lục Ngải?"

Lục Thư Thanh đi phía trước, thản nhiên nói: "Mới vừa dẹp loạn, cần phải nắm bắt cơ hội trấn an lấy lòng, lãnh đạo trực tiếp của họ đã bị xử trảm, vậy thì ta càng phải đối xử tử tế với những cấp dưới này, bỏ qua chuyện cũ. Người ta chỉ biết đó là một con vẹt tầm thường, sẽ không để tâm đến ý nghĩa của Lục Ngải đối với ta. Nếu như chỉ vì một con vẹt mà ta giết hắn, ngày sau phụ vương lên ngôi hoàng đế, làm sao người có thể ngồi vững được?"

Từ Giáp không khỏi thắc mắc: "Vậy thì thế tử để cho hắn được tiếp tục làm việc trong quân Vũ Lâm là được rồi, sao lại còn ban thưởng, làm vậy chẳng phải quá hời cho hắn rồi hay sao?"

Lục Thư Thanh cũng không quay đầu lại, giọng điệu không hề dao động, như thể chỉ đang bàn chuyện thường ngày:

"Đương nhiên là ta muốn giết hắn, nhưng pháp luật Đại Tề không cho phép ta giết hắn – pháp luật sẽ không dùng tính mạng của một người để đổi với sinh mạng của một con vẹt."

"Vì vậy, ta không chỉ muốn ban thưởng cho hắn, mà còn muốn điều hắn đến dưới tầm mắt của ta, để cho hắn sớm tối như đi trên băng mỏng, sống từng ngày với cái đầu treo lủng lẳng bên thắt lưng. Mỗi ngày trôi qua đều là một ngày lo âu thấp thỏm. Hắn chỉ biết ta từng thấy hắn giết người, nhưng lại không nhớ là ai. Ta muốn để hắn sống mãi trong nơm nớp lo sợ như thế."

"Không thể phán cho hắn tội chết, ta sẽ khiến hắn sống không bằng chết."

Anh em họ Từ đi phía sau sững người một lúc, đoạn ngẩng đầu nhìn bóng lưng có phần gầy gò của Lục Thư Thanh, trong lòng không khỏi dâng lên một cảm giác lạnh lẽo: Cậu có đủ tư cách để trở thành một Thái tử...

Và đã bắt đầu mang phong thái uy nghiêm của bậc đế vương.

Đến tận khi sắc trời bên ngoài đã tối xuống, cửa điện Thần Long mới mở ra, Trương Diên bị giải vào chiếu ngục chờ xét xử, một phó tướng Hổ Sư đang đứng chờ ngoài điện lập tức tiến lên thông báo: "Điện hạ, nhà họ Vương có chuyện rồi!"

Lục Lệnh Tùng quay đầu lại hỏi: "Chuyện gì?"

"Vừa rồi chúng tôi theo Lý tướng quân đến phủ Tướng tra soát, ngoài cửa luôn có quân kinh kỳ túc trực canh giữ, không ai ra vào được, nhưng đến khi vào trong thì chẳng thấy một bóng người. Chúng tôi lần tới từ đường ở nhà sau mới phát hiện ra — trừ Vương Thục và các con trai đã bị giam vào ngục, thì những người còn lại trong phủ, nam nữ già trẻ tổng cộng năm mươi ba mạng... Đều đã chết hết, trên người có vết chém, máu vẫn còn nóng."

"Là người trong phủ làm sao?"

Phó tướng gật đầu: "Người hành hung là Thôi thị, vợ của Vương Hề, cô ta đã cầm theo hung khí giết người đến quỳ gối bên ngoài Đại lý tự tự thú rồi."

Sắc mặt Tạ Cánh trầm xuống, vội kéo tay áo Lục Lệnh Tùng ra ngoài: "Đi thôi!"

Trên con phố dài dẫn đến Đại lý tự, người qua kẻ lại vội vã bước đi, thỉnh thoảng ngoảnh lại liếc nhìn người phụ nữ đang quỳ giữa đường, ai nấy đều tránh vội như thấy rắn rết.

Thôi Thục Thế thẳng lưng quỳ ngay trước cửa nha môn, nàng vẫn còn mặc đồ tang, áo trắng dính đầy máu, loang lổ khắp nơi.

Thế nhưng trong chính đường của Đại lý tự lại không có lấy một quan lại nào, trống huơ trống hoác.

Xe ngựa dừng lại ở phía đối diện, Tạ Cánh vén rèm, chừng như nhảy xuống xe chạy tới chỗ Thôi Thục Thế, rồi bỗng thấy thanh kiếm hãy còn vương vết máu được đặt ngay trước đầu gối nàng.

"Phu nhân..." Y khàn giọng gọi, "Tôi đã phái người của phủ Chiêu Vương đến đón từ sớm, sao cô lại không đi?"

Thôi Thục Thế không trả lời, chỉ lạnh lùng nhìn Tạ Cánh và Lục Lệnh Tùng đang theo sát phía sau y: "Hai vị đều đến thì tốt quá, rất đúng ý tôi!"

Nàng vừa dứt lời, đám tự khanh vẫn luôn núp ở sau đường thấy hai người đến thì bò lăn bò càng ra tiếp đón, cung kính hỏi: "Phu, phu nhân muốn kêu oan chuyện gì, chúng tôi nhất định sẽ phân định rõ ràng!"

Thôi Thục Thế cao giọng nói: "Thiếp thân thôi thị, xin Đại lý tự phúc thẩm vụ việc phủ Tướng báo mất trộm đồ vào năm Trinh Hữu thứ mười sáu, người báo án là Đại công tử phủ Tướng – Vương Khế cùng vợ của hắn, nghi phạm là Vương Hoàng con gái của thiếp thân, năm đó bảy tuổi, đã mất vào năm đầu Cảnh Dụ."

Đại lý tự khanh thăm dò sắc mặt Lục Lệnh Tùng, khó xử nhỏ giọng nói: "Phu nhân, vụ án này đã kết thúc từ lâu không nói, huống chi lệnh ái cũng đã qua đời, đây là chết không đối chứng, hơn nữa trộm cắp cũng chỉ là việc nhỏ..."

"Trộm cắp là việc nhỏ," Thôi Thục Thế lạnh giọng hỏi, "Vậy giết người có phải việc lớn hay không?"

Đại lý tự khanh nghẹn lời, chỉ đành lúng túng gật đầu.

Giọng Thôi Thục Thế bình tĩnh, không do dự nói: "Vương Hoàng chết không phải vì bệnh, mà giống hệt năm mươi ba thi thể còn đang nằm trong phủ Tướng lúc này —— đều là do chính tay tôi g**t ch*t!"

Nàng ngước mắt nhìn tự khanh: "Việc này có được tính là việc lớn không? Chừng đấy cũng không đủ để Đại lý tự tra lại án cũ hay sao?"

Mọi người có mặt đều trợn mắt kinh ngạc, Tạ Cánh hoảng hốt kêu lên: "Xin phu nhân ăn nói cẩn trọng! Chuyện của Vương thị vẫn còn có thể bàn bạc, mong phu nhân hãy bảo vệ mình, đừng vì một lúc nghĩ quẩn mà tự chặn đường lui!"

Thôi Thục Thế chỉ cười lạnh, ngoảnh đầu liếc y: "Vương phi cho rằng tôi chỉ đang nghĩ quẩn thôi sao? Những lời tôi nói hôm nay, từng câu từng chữ nếu có chỗ nào không thật, thì hãy để tôi xuống địa ngục cắt lưỡi, vĩnh viễn không được siêu sinh!"

Lục Lệnh Tùng bóp nhẹ cổ tay Tạ Cánh, thấp giọng nói: "Phu nhân nói vụ án mất trộm mà năm xưa họ Vương trình báo có uẩn khúc, hôm nay tại công đường, vừa hay có ta và Vương phi là hai người ngoài cuộc ở đây, không biết phu nhân có tiện kể rõ ngọn ngành từ đầu đến cuối hay không?"

Thôi Thục Thế hơi thất thần, dường như dốc cạn sức lực cả đời, phơi bày đoạn ký ức kia ra từ sâu trong tâm trí: "Cũng chẳng có gì không thể kể. Đây không phải án treo, cũng không phải kỳ án."

"Vương Khế và vợ anh ta vu hãm Vương Hoàng vào phòng bọn họ lấy trộm đồ, báo lên quan phủ, quan phủ được Vương Thục cho tiền ngậm miệng, giấu nhẹm chuyện đi. Năm đó tôi ba lần bốn lượt tìm đến Đại lý tự nhưng không ai đoái hoài, trong phủ lại có Vương Hề cản trở nhiều lần, cuối cùng vẫn không có kết quả gì."

Tạ Cánh nhớ đến lời đồn năm đó, hóa ra Thôi Thục Thế và Vương Hề đánh nhau tàn nhẫn một trận, suýt nữa lên tận quan phủ không phải vì mối hận cũ giữa hai người, mà là vì chuyện của A Hoàng.

"Về phần vì sao họ lại muốn vu hãm Vương Hoàng, đó là vì Vương Khế gọi con bé vào trong phòng, sau đó anh ta đã..." Thôi Thục Thế không biết phải nói ra câu này như thế nào, đầu mày nàng nhíu chặt, cố gắng kìm nén sự khó chịu, "... Không thành, đúng lúc bị vợ mình bắt gặp, sự việc đã đành, hai người sợ con bé tiết lộ ra ngoài bèn đổi trắng thay đen, lôi nó đến sảnh chính, đứng trước trăm khẩu trên dưới phủ Tướng, nói nó vào phòng bác trai bác gái ăn trộm đồ..."

Nàng còn chưa nói xong, dạ dày của Tạ Cánh đã co thắt, cảm giác buồn nôn dâng lên, Lục Lệnh Tùng bên cạnh cũng hiếm khi để lộ biểu cảm nặng nề.

Bọn họ cũng có con gái.

Và con gái họ cũng chỉ tầm tuổi A Hoàng lúc bấy giờ.

"Tôi không còn gì để nói nữa. các người còn muốn tôi nói gì đây? Ba cha con bọn họ đang bị giam trong chiếu ngục kia, tên súc sinh phạm tội Vương Khế, Vương Hề cha ruột của Vương Hoàng, cả Vương Thục – kẻ che đậy, bưng bít mọi chuyện – tất cả đều ở trong đó! Các người cứ đi mà hỏi! Hỏi đi! Hỏi rồi sẽ biết hết thôi!"

Thôi Thục Thế bỗng nhiên chống thanh kiếm xuống đất, dọa cho đám quan lại hai bên hoảng hốt né tránh. nàng vịn lấy chuôi kiếm, lảo đảo đứng dậy, hai mắt đỏ ngầu như tu la vừa bước ra từ biển máu, trông như đã tẩu hỏa nhập ma, nhìn lướt qua đám người đang vây quanh:

"Chuyện đó không chỉ xảy ra một lần! Người ngoài, cả nhà đều nói con bé là kẻ trộm, là đồ ăn cắp, trộm đồ ngay trong chính nhà mình, làm tổn hại nề nếp gia đình! Nhưng nói trắng ra," Nàng cười thê lương, "Bọn họ đều biết Vương Khế đã làm gì nó! Họ nói mẹ nào con nấy, nói có người mẹ giả nhân giả nghĩa như tôi thì mới đẻ ra được đứa con gái không biết giữ mình như nó, họ nói con bé là đứa vô liêm sỉ, quyến rũ cả bác ruột của mình!"

Xung quanh im ắng, từng lời Thôi Thục Thế thốt lên vang vọng như sấm rền.

"Bọn họ nói như thế suốt ba năm. Nói đến nỗi khiến A Hoàng phát điên!"

"Con bé tìm tôi, quỳ xuống, quỳ ngay trước mặt tôi!" Thôi Thục Thế cuồng loạn gào thét, "Nó không ngừng dập đầu với tôi, luôn miệng khẩn cầu, nó nói, mẹ ơi, con van xin mẹ, mẹ cho con chết đi, cho con được chết đi mẹ!"

Nàng vẫn đứng yên tại chỗ giống như đã mất hồn, chẳng biết đã ngây người bao lâu, rồi bỗng nhiên cười khẩy một tiếng, dường như thều thào thốt ra những con chữ đã cất giấu thật lâu trên đầu lưỡi: "Sau đó tôi thành toàn cho nó..."

"Tôi đã giết nó."

Ánh mắt Lục Lệnh Tùng trở nên phức tạp, thầm thở dài một hơi rồi khẽ lắc đầu. Tạ Cánh hiểu được suy nghĩ trong lòng hắn, y biết tuy Lục Lệnh Tùng có thể đồng cảm với nỗi đau khổ của Thôi Thục Thế, nhưng lại khó mà giải thích được hành vi của nàng – đây chính là nỗi bất lực của người cha, dù có thể nói hắn chính là một người cha tốt.

Thôi Thục Thế lạnh lùng gào lên: "Đương nhiên tôi có thể phơi bày hết mọi chuyện thối nát trong nhà này ra, có thể khiến cho tên súc sinh Vương Khế ấy bị thiên hạ mắng chửi đến không còn chốn dung thân! Nhưng A Hoàng thì sao? Con bé phải làm sao để ngẩng đầu lên mà sống cho đường hoàng?"

"Đương nhiên tôi cũng có thể nói với con bé rằng con không cần phải chết, mất đi trinh tiết thì có gì to tát, chết đói mới là chuyện lớn! Thủ tiết — phì! Thủ tiết cái quái gì? Cả phủ này ngoài mặt thì đạo đức nhân nghĩa, sau lưng nam trộm nữ kỹ, làm chuyện dơ bẩn chẳng khác gì cầm thú, không một ngàn chuyện thì cũng có tám trăm!"

"Đã như vậy, lời tôi nói có tính không? Thế đạo này sẽ chấp nhận sao?"

Giọng Thôi Thục Thế nhỏ dần, cuối cùng nàng chỉ tự lẩm bẩm: "Chính mình còn lấm trong bùn lầy, tôi không thể giúp con bé sống tốt, chỉ mang đến cho nó biết bao nhiêu sự sỉ nhục và đau khổ..."

"Con bé khiến tôi không thể không nhớ tới những gì cha nó, những gì Lang Gia Vương thị đã mang đến cho tôi, nhớ tới mười lăm năm tôi sống không bằng chết. Tôi thật sự rất hận nó."

Nàng có hận con không? Nàng không hận được sao?

Giờ phút này đã chẳng còn quan trọng nữa.

"Tôi không ngăn cản nó đi tìm cái chết, cũng sẽ không làm điều đó. Sự trong sạch, pháp lý, công bằng – người sống không thể lấy được!"

"Tôi giết con bé, giết những kẻ dùng miệng lưỡi đẩy nó vào đường chết, báo thù cho nó, hôm nay tôi phải lấy lại trong sạch cho nó bằng được, không phải vì con bé là con tôi, chỉ vì tôi không thể ngồi yên nhìn một người chưa từng làm chuyện xấu, vậy mà lại một lòng muốn chết vì bị hãm hại, phải gánh trên lưng tiếng xấu trơ trẽn! Nay có Chiêu Vương và Thượng thư Hữu phó xạ ở đây, đế hậu tương lai cũng ở đây, nếu Đại Lý Tự không thể xử án công bằng, nghiêm trị tội nhân Vương thị, rửa sạch oan khuất cho A Hoàng, thì nay mai cái đầu trên cổ có giữ nổi hay không, các người cũng phải nghĩ cho thật kỹ đấy!"

Đại lý tự khanh sớm đã nơm nớp lo sợ, quỳ rạp xuống đất lắp bắp: "Tiểu nhân nhất, nhất định sẽ thẩm tra, tuyệt đối sẽ không có chuyện nhân nhượng..."

Thôi Thục Thế ngẩng đầu nhìn trời, thở dài nói: "Năm đó cha lấy cho tôi cái tên này, chỉ mong tôi sống tốt với đời, làm nên nghiệp lớn, vậy mà hơn ba mươi năm thoáng chốc như khe sáng, vạn sự đều thành hư không!"

Nàng v**t v* bảo kiếm trong tay, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh đồng thời cảm nhận được ý đồ của nàng, người trước lập tức định tiến lên ngăn cản, nhưng đã bị người sau giơ tay chặn lại, khẽ khàng lắc đầu.

Thôi Thục Thế nhìn xuống váy áo lộn xộn của mình, giương mắt nhìn Tạ Cánh: "Tạ Chi Vô, quần áo của tôi bẩn rồi, cho tôi mượn tay áo một chút đi!"

Tạ Cánh chậm rãi bước lên hai bước, nhận lấy trường kiếm, dùng ống tay áo trắng như tuyết của mình cẩn thận lau sạch máu đen trên lưỡi kiếm, sau đó dùng hai tay trả kiếm cho nàng, hành lễ thật sâu.

Lúc này đây, giữa họ không còn tồn tại giới tính, dòng họ, mục đích, lợi ích cùng với vận mệnh cách biệt như ngày đêm nữa, mà đã cộng hưởng cùng một thân phận, bọn họ chỉ là hai người mẹ, một người mẹ sửng sốt và một người mẹ tuyệt vọng, một người mẹ còn sống và một người mẹ chuẩn bị tìm đến cái chết.

Thôi Thục Thế nhận lấy kiếm, nở nụ cười lạnh lẽo nhưng xinh đẹp: "Hôm nay tôi không chết vì tội tàn sát, không chết vì Thanh Hà Thôi thị, cũng không chết vì con gái A Hoàng, mà chỉ chết vì tôi, vì Thôi Thục Thế!"

Dứt lời, nàng lập tức đưa tay lên, kề kiếm ngang cổ, chỉ trong khoảnh khắc máu bắn tung tóe, mặt đất đỏ thẫm!

Tạ Cánh không hề chớp mắt lấy một lần, chỉ trơ ra nhìn Thôi Thục Thế ngửa mặt ngã xuống tựa đóa hoa quỳnh trắng trong tinh khiết không tì vết, chợt nở rồi chợt tàn, nhưng ngay cả trong giây phút bung nở ấy, trời đất cũng chỉ biết khóc thương đưa tiễn. Dòng chất lỏng nóng hổi vương đầy trên mặt y chẳng rõ là máu hay là thứ gì khác.

Tháp Lôi Phong ầm ầm sụp đổ trong thời khắc ấy, Bạch Tố Trinh lao mình bay ra, gương mặt mơ hồ không rõ nét, giống như mỗi một người trong số họ.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 113


《 27.3 》

Buổi tối, trên đường về cung, Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh ngồi đối diện nhau trên xe ngựa, bầu không khí ngưng đọng rất lâu, không ai nói gì.

Mới nãy, khi nghe được tin dữ, Thôi Tế Thế và các anh em của gã vội vàng chạy đến cổng Đại lý tự nhận thi thể người chị đã mất. Vì sự việc xảy ra quá đột ngột, mấy người họ đều đến thẳng từ nơi làm việc, hoàn toàn không ngờ sẽ phải đối mặt với tin tức thảm khốc như vậy nên không kịp chuẩn bị quan tài hay áo liệm. cuối cùng Tạ Cánh đã mang chiếc áo choàng của mình ra, dùng nó để bọc lấy di thể Thôi Thục Thế, không để nàng dính phải bụi trần.

Lục Lệnh Tùng buồn bã nói: "Theo lời Thôi Thục Thế, để che mắt người ngoài, nhà họ Vương thậm chí không cho dựng cả bia mộ trước phần mộ của A Hoàng, càng khỏi nói đến bài vị thần chủ để thờ cúng."

Tạ Cánh khẽ thì thầm: "Người đã mất nên được tôn trọng, ngày mai báo cho Thôi Tế Thế một tiếng, bảo họ đưa linh cữu của A Hoàng về lại Thôi phủ —— dù có phải chôn cách xa Thôi Thục Thế một chút, thì cũng còn hơn là để con bé nằm dưới đất một mình, chịu đựng lời ong tiếng ve."

Xe ngựa phủ Chiêu vương vừa dừng lại bên ngoài hoàng thành, đã có một tên nội giám nhanh chân chạy ra bẩm báo: "Điện hạ, vợ chồng Thái thú Ung Châu Hà Cáo đã vào kinh, tiểu nhân mời họ về phủ nghỉ ngơi trước theo lời dặn của điện hạ, nhưng Hà đại nhân lại nói có chuyện muốn bẩm báo trực tiếp với điện hạ ngay."

Khi tin tức Lục Lệnh Chân thật sự qua đời được xác nhận, cùng với quyết tâm khởi binh thanh quân trắc, Lục Lệnh Tùng đã gửi mật thư cho Hà Cáo, mời ông lập tức hồi kinh.

Hai người vén rèm lên, từ xa đã trông thấy Hà Cáo cùng phu nhân quỳ gối trước Công Xa môn, dáng vẻ như đang nhận tội.

Lục Lệnh Tùng và Tạ Cánh liếc nhau một cái rồi xuống xe, nhanh chóng bước tới hỏi: "Đại nhân và phu nhân làm gì vậy?"

Hà Cáo quay mặt nhìn thấy họ, lập tức dập đầu sát đất: "Điện hạ và Vương phi vẫn còn nhớ đến lão già vô dụng này, lại còn bằng lòng thành toàn tâm nguyện trở về kinh dưỡng già của ta và nội tử, lão hủ dù có chết vạn lần cũng không đủ để báo đáp!"

Tạ Cánh vội vàng quỳ xuống theo, nói: "Đại nhân cần gì phải như thế? Năm trước chia tay ở Ung Châu, bọn ta đã từng hứa sẽ đích thân đón đại nhân về kinh, hôm nay trăm việc bề bộn, không thể đón tiếp từ xa, ta và điện hạ mới sợ đã thất lễ với hai vị."

Hà Cáo nghẹn ngào: "Trong lòng lão hủ vẫn còn ôm hai điều hổ thẹn, nếu không được giãi bày, thật sự không còn mặt mũi nào gặp lại điện hạ và Vương phi nữa!"

Ông ngẩng đầu, nhìn lên lá cờ trắng treo trên Công Xa môn: "Chuyện thứ nhất, đó là thần không thể kịp thời nhận ra bút tích giả của Trương Diên, khiến cho Trưởng công chúa rơi vào hiểm cảnh, thậm chí không tìm được di hài, thật sự đã phụ lòng tín nhiệm và phó thác của điện hạ!"

"Chuyện thứ hai," Ông chuyển tầm mắt về phía Tạ Cánh, xót xa nói, "Ngày đó Trương Diên bỗng nhiên viết thư xin thần một lô phôi ngọc Lam Điền, thần không biết ông ta dùng để làm gì, nhưng vì xưa nay quan hệ đôi bên luôn rất tốt, thần không suy nghĩ kĩ ngọn nguồn đã đưa ngọc vào trong kinh, không ngờ đó lại trở thành chứng cứ hãm hại, giá họa cho Trần quận Tạ thị!"

"Sau đó thần trăm chiều hối hận, không biết làm sao để bù đắp sai lầm, ai ngờ gặp được Vương phi lưu lạc đến Ung Châu, vào phủ Thái thú làm việc ở phòng thu chi, thần không thể làm gì khác hơn là vội vàng giữ Vương phi ở lại phủ, để người có chốn dừng chân, nhưng trong lòng dằn vặt biết bao ngày đêm, ăn ngủ không yên."

Lời thuật lại của Hà Cáo không khác nhiều so với suy đoán trước đó của Tạ Cánh, trong lòng y ngổn ngang trăm mối, cười khổ nói: "Thật ra năm đó đại nhân cứ nói thẳng với ta cũng được."

Hà Cáo thở dài rầu rĩ: "Sao thần lại không muốn nói hết mọi chuyện ra để trút bỏ gánh nặng trong lòng cơ chứ? Chỉ là những năm qua nhìn thấy quá nhiều sinh ly tử biệt, nhân thế vô thường, thần sợ hãi, nhu nhược, cuối cùng vẫn không dám mở lời!"

Bầu không khí lặng đi hồi lâu, cuối cùng Lục Lệnh Tùng đành cưỡng ép đỡ Hà Cáo và Hà phu nhân dậy: "Lúc ta còn nhỏ, đại nhân từng dạy rằng, khi chọn hiền tài, có thể trách họ bất dũng, nhưng không thể nghi ngờ họ bất trung. Đến hôm nay, ta mới thật sự thấu hiểu ý nghĩa sâu xa trong câu nói ấy. Thân thể người phàm đều là máu thịt, mà đại nhân lại lưu lạc phương xa hơn hai mươi năm, rời xa thân thích và quê hương, trong lòng có ưu sầu mà chẳng dám lên tiếng cũng là lẽ thường tình, không thể trách cứ."

"Ngay khi thời cơ vừa chín muồi, ta đã lập tức mời đại nhân hồi kinh giúp xử lý đại sự, chính là bởi vì ta biết rõ, tuy đại nhân từng ngã lòng trên quan trường, nhưng lòng trung với phủ Chiêu Vương xưa nay chưa từng thay đổi, trời đất chứng giám. Mà bi kịch của trưởng công chúa là do Trương Diên và Đinh Giám thông đồng gây nên, sao có thể vạ lây đến người vô can?"

Nghe hắn nói xong, Tạ Cánh lặng lẽ thở phào một hơi: Lục Lệnh Tùng buộc lòng phải nhanh chóng sử dụng đạo thuật để thu phục lòng người như vậy. Bởi họ không cách nào biết được suy nghĩ của Hà Cáo năm xưa, nhưng vẫn là câu nói ấy: chỉ nhìn hành vi, không xét lòng người. Nay phủ Chiêu Vương đã khó tránh khỏi phải lên nắm quyền, Lục Lệnh Tùng cũng không thể giả vờ tín nhiệm và trọng dụng Hà Cáo.

Chủ và thần đều là người khéo léo, vậy nên Hà Cáo chọn đánh đòn phủ đầu, chủ động thổ lộ hai "tội danh" có khả năng sẽ bị truy cứu về sau, lại không quên nhắc đến ân tình từng thu nhận Tạ Cánh năm đó; còn Lục Lệnh Tùng trước hết trao cho một liều thuốc an thần, tỏ rõ đã xóa bỏ hiềm khích, rồi lại thẳng thắn khẳng định sẽ không trách phạt ông vì có liên quan đến tội sát nghiệt của vị cựu thần Đông cung kia.

Đôi bên ngầm hiểu lẫn nhau, quá khứ được gác lại từ đây, xóa bỏ ân oán, chính là đạo làm vua tôi bình thường nhất.

Tạ Cánh bước lên trước, nói: "Ta biết tiểu nữ của hai vị mất vì tai họa do Lan Lăng Tiêu thị gây nên năm đó. Nay đã về kinh, chỉ mong phu nhân có thể tiếp tục truyền dạy hội họa cho Ninh Ninh con gái ta, để con bé được sớm chiều hầu hạ bên gối, trò chuyện cùng người, cũng coi như vơi đi phần nào nỗi thương nhớ cố nhân."

Hà phu nhân liên tục gật đầu đồng ý, Lục Lệnh Tùng lại đỡ hai người lên xe ngựa: "Ta đã sai người dọn dẹp sạch sẽ Hà phủ năm xưa, mong hai vị trở về nghỉ ngơi thật tốt, khi nào ta và Vương phi giải quyết ổn thỏa mọi chuyện sẽ đến thăm, chúng ta ôn lại chuyện cũ."

Nhìn xe ngựa đưa vợ chồng Hà Cáo rời đi, Lục Lệnh Tùng đứng lặng trong bóng đêm, quay sang nói với Tạ Cánh: "Hiện giờ nhân chứng là Trương Diên, Vương Thục và Hà Cáo đều đã có mặt. Nếu có thể tìm được thánh chỉ thật năm xưa làm bằng chứng, thì có thể xác thực tội danh truyền chiếu chỉ giả của Lang Nha Vương thị. Như vậy, ta cũng có thể lật lại vụ án của nhà họ Tạ."

Tạ Cánh ngẩng đầu, đưa mắt nhìn về phía điện Lâm Hải xa xa, khẽ nói:

"Chiếu chỉ thật phần lớn hẳn là nằm ở trong cung. Xem ra, có vài chuyện... Đêm nay sẽ rõ ràng thôi."

Từ mùng mười tháng Sáu, cửa lớn điện Lâm Hải đã bắt đầu bị khóa lại, canh chừng nghiêm ngặt, thức ăn và nước uống đều được Vũ Lâm Vệ đưa vào. Khi Tạ Cánh bước vào trong điện, đã thấy Vương thị ngồi tại ghế phượng trên đài cao, trông dáng vẻ cứ như đã ngồi bất động ở nơi đó suốt mấy ngày liền.

"Ngươi có thể vào đây," bà ta cất giọng, "Hẳn là vì nhà họ Vương đã thất thế."

"Người nhà của Thái hậu đều chết cả rồi," Giọng Tạ Cánh không hề mang theo chút hả hê khi đã báo được thù, y nói: "Là Thôi thị đã giết họ."

Thái hậu không có bất kỳ phản ứng nào, mãi sau mới cất lời: "Thôi thị ở nhà họ Vương hơn mười năm, có oan báo oan, có thù trả thù, hận đến mức giết sạch cả nhà, cũng không uổng công ta nhìn trúng lòng gan dạ sáng suốt của nàng ta."

Tạ Cánh thoáng sững người: "Nàng là do bà đề bạt sao?"

"Hẳn là ngươi cũng đã biết, vào năm Trinh Hữu thứ mười lăm, Vương Thục tình cờ có được phương thuốc của Tích Cốt Huyền." Thái hậu chậm rãi nói, "Ta là người đã hạ độc tiên đế. Về sau, không biết Thôi Thục Thế phát hiện ra chuyện này bằng cách nào, nàng ta xông thẳng vào cung tự xin được cấy độc, còn cầu xin ta truyền dạy kỹ thuật hạ độc này. Ta thấy tâm chí nàng ta kiên định, có thể trọng dụng, nên mới tiến cử nàng ta với Vương Thục."

Thái hậu thở nhẹ một tiếng: "Nàng ta có thâm thù đại hận với người nhà họ Vương, ta ở trong cung không biết gì. Nhưng gia môn giờ đã sụp đổ, sống cũng chỉ chôn thân nơi lao tù, chẳng bằng chết đi cho sung sướng, còn hơn là suốt nửa đời sau cứ mãi tiếc nuối vinh quang đã mất mà héo mòn tàn tạ."

"Trước trận chiến hôm nay, Vương tướng đẩy ta lên Dao đài, để ta gánh tội bịa đặt quân tình, hại chết trưởng công chúa, e rằng không phải là ý định nhất thời, đúng chứ?" Tạ Cánh nhàn nhạt nói, "Dù sao ta cũng chưa từng thật sự được phủ Tướng tin tưởng, chỉ là một công cụ để Lang Nha Vương thị khoe mẽ rằng mình có lòng bao dung, tiện thể dùng vào những chuyện bất nghĩa mà thôi."

"Ngươi nghĩ mà xem, bá quan văn võ trong triều ai lại khờ khạo đến mức tin rằng ngươi thật lòng quy phục Lang Gia Vương thị chứ? Đương nhiên là ta hiểu rõ toan tính của ngươi." Thái hậu cười giễu, "Có điều ta vốn tưởng ngươi chỉ muốn lật lại án cho Trần quận Tạ thị, đâu ngờ sau khi cả nhà bị sao trảm, ngươi vẫn một lòng một dạ hướng về phủ Chiêu Vương, cam tâm cày ruộng cho người ăn lúa!"

"Vương Thục liệu sự như thần, mọi chuyện đều nằm trong tính toán, chưa từng có sơ suất... Từ đầu đến cuối, ông ấy chỉ tính sai một chuyện, đó là ông ấy không ngờ, giữa cả hội đường đầy sĩ mạo áo mũ kia, ngươi và Lục Tử Phụng lại là một cặp đôi ngu ngốc!"

Tạ Cánh hiểu ý Thái hậu. Những gì y và Lục Lệnh Tùng đã nói, đã làm trong ván cờ đầy rẫy chông gai và cạm bẫy này quả thực vô cùng ngu ngốc, gần như có thể nói là ngây thơ. Họ ngu ngốc đến nỗi đánh đổi cả mạng sống của mình chỉ vì hai lọn tóc kết năm xưa, ngu ngốc đến nỗi chẳng chút nghi ngờ, một lòng tin vào câu nói "nguyện có được lòng người, bạc đầu chẳng rời xa" mà thiên hạ này coi như câu đùa hề hước nhất.

Nhưng cũng chính vì sự ngu ngốc ấy, họ đã khiến Vương Thục đại bại, thua đến chẳng còn manh giáp!

"Năm đó ta đã cảm thấy lạ", Thái hậu ngồi trên cao nhìn xuống, dùng đôi mắt phượng hẹp dài đầy tính toán quét qua người Tạ Cánh, "Ngươi không tính đường cho nhà họ Tạ, không mưu cầu gì cho gia tộc mình, một mực bày tỏ lòng trung thành sắt đá, ngươi cho rằng thiên tử sẽ thấu hiểu tấm lòng của ngươi sao?"

"Từ khi áo mũ di Nam*, qua biết biết bao nhiêu triều đại, cớ sao ngôi Hoàng đế hết họ này đến họ khác đã thay nhau ngồi, mà Lang Gia Vương thị và Trần quận Tạ thị nhà ngươi vẫn đời đời kiếp kiếp làm thần tử? Muốn thay đổi cục diện, thì phải lay tận gốc rễ cái cây đại thụ này, phải nhổ sạch đám thế tộc môn phiệt, đánh cho chúng không còn ngóc đầu dậy được nữa chứ!"

(*) Cụm này bắt nguồn từ thời Đông Tấn, khi vương triều nhà Tấn (sau khi Tây Tấn bị diệt) di dời về phía nam để tránh loạn Ngũ Hồ loạn Hoa. Lúc đó, rất nhiều tầng lớp quý tộc, quan lại, trí thức, nho sĩ... đã bỏ vùng Trung Nguyên (phía bắc Trung Quốc) để di cư xuống phía nam cùng triều đình. Vì họ đều là những người ăn mặc chỉnh tề, áo mũ nghiêm chỉnh (gọi là "衣冠" – y quan), nên quá trình này được gọi là "衣冠南渡" – "áo mũ di Nam".

"Nhưng chỉ mình ngươi cam tâm tình nguyện, còn tộc nhân nhà ngươi có cam tâm tình nguyện hay không? Chỉ Trần quận Tạ thị chịu chấp nhận, vậy trăm ngàn thế tộc trên đất Trung Nguyên này liệu có chịu chấp nhận hay không? Thứ tới tay dễ dàng nhưng lại khó lòng buông bỏ, đến lúc ấy ngươi thử lên đồng viết chữ gọi hồn, hỏi thử cha anh ngươi dưới suối vàng xem họ có sẵn sàng từ bỏ thanh thế hiển hách và khối tài sản kếch xù, từ bỏ tất cả những gì mà họ sinh ra đã có hay không?"

"Phải tàn sát hàng loạt dân chúng trong thành, khói lửa liên miên, loạn lạc kéo dài suốt ngày đêm, phải dùng đến cách đơn giản mà tàn bạo để giết người cướp của, thì mới mong chấm dứt cục diện hiện tại. Thế nhưng ngươi thử nghĩ đi, nếu thật sự xảy ra bạo loạn như thế, rốt cuộc những đại tộc quyền quý sẽ bị tổn thương nặng nề hơn, hay là lê dân bách tính phải gánh chịu loạn ly nhiều hơn?"

Thái hậu nhìn thẳng vào mắt Tạ Cánh: "Xưa nay phủ Tướng chưa từng tự nhận rằng việc mình làm đều là vì dân, bọn ta làm chỉ vì nhà họ Vương mà thôi. Bọn ta luôn hiểu rõ một điều: vét sạch thiên hạ để làm giàu cho một họ thì chẳng thể bền lâu, nhưng làm giàu cho cả thiên hạ, thì họ Vương bọn ta sẽ càng thêm giàu có."

"Ta và Vương Thục phụ chính hơn bốn năm, đã từng ủy nhiệm ác quan hay chưa? Có từng vơ vét của dân, đánh sưu cao thuế nặng hay chưa? Không sai, việc cứu tế, giảm thuế, cải cách thể chế đúng là đều bắt đầu từ các quận vùng Chiết Đông như Hội Kê, Thiệu Hưng. Nhưng như thế thì đã sao? Họ là tá điền của Lang Gia Vương thị thì sao? Há chẳng phải cũng là con dân của Đại Tề hay sao? Năm lành tháng tốt, ta sẽ cho dân chúng cùng hưởng phú quý; nhưng đến khi mùa màng khó khăn, ta chỉ có thể lo cho tộc nhân của mình trước. Chỉ có như vậy, trước cảnh giá rét khắc nghiệt của mùa đông năm ngoái, ta mới có thể đảm bảo cả dòng họ ta được sống bình yên."

Tạ Cánh lạnh lùng đáp: "Các người ai nấy đều dùng chung một lý do thoái thác cả, miệng thì thanh minh bản thân tận trung với chức trách, không thẹn với dân sinh, nói ra nghe thật đường hoàng, công chính lắm! Các người là tiểu nhân thật sự, chỉ có mình ta là ngụy quân tử, đến giờ vẫn một lòng nghĩ đến mối hận diệt môn của Tạ thị, chỉ biết thù riêng!"

Thái hậu nghe vậy cười phá lên: "Cho dù là người của dòng tộc nắm giữ tướng vị đi chăng nữa, chỉ cần có chút đầu óc, ai mà chẳng bất đắc dĩ phải làm như Vương thị? Trừ phi ngươi dám thật sự đưa một kẻ xuất thân hàn môn ngồi vào vị trí kia – nhưng thử hỏi, đám công tử thế gia trong triều có chịu để yên hay không? Cứ nghĩ mà xem, nếu Trương Diên có thực quyền như Vương thị, thì ông ta cần gì phải hao tâm tổn trí, mưu tính nhiều năm như vậy?"

"Ngươi thật sự cho rằng Trần quận Tạ thị diệt môn chỉ vì bị Lang Gia Vương thị thừa nước đục thả câu thôi sao? Thật sự cho rằng nhà mẹ ngươi bị thanh trừng chỉ vì không cùng chỉ hướng, vì phân tranh giữa các gia tộc thôi hay sao? Tạ Chi Vô, ngươi làm dâu hoàng gia mười mấy năm, nhưng từ đầu chí cuối, đến cả điều cốt lõi nhất mà ngươi cũng không thể nhìn thấu được!"

Thái hậu liếc y: "Các ngươi cứ việc lật đổ hoàng vị đi, đợi đến khi Lục Tử Phụng lên ngôi, thì xuất thân, lập trường, hoàn cảnh của ngươi và ta có gì khác biệt đâu? Ta ở điện Lâm Hải ngày hôm nay, cũng chính là Tạ Chi Vô ngươi mai này!"

Tạ Cánh lặng lẽ nhìn góc nghiêng khuôn mặt của Vương thị dưới ánh lửa leo lét: "Giống như bà, con cái ta cũng mang huyết thống hoàng tộc. Nhưng ta không còn nhà mẹ hậu thuẫn, thúc đẩy cũng như nâng đỡ. Đây chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa ta và bà. Đứng về phía phủ Chiêu vương là vì ta chẳng còn lựa chọn nào khác. Ngoài họ ra, ta còn có thể hướng về ai đây?"

Thái hậu mỉa mai: "Vậy thì chẳng trách ngươi tự làm tự chịu, chuốc lấy quả báo. Con trai ngươi mang họ Lục! Ngươi một lòng một dạ vì nó, nhưng rồi ngươi có biết không, nó sẽ đứng về phía cha nó, về phía tổ phụ nó, về giang sơn của nhà họ Lục!"

Lại nữa rồi, Tạ Cánh thầm nghĩ, từ người xuất thân danh môn vọng tộc như Thái hậu, đến kẻ xuất thân nơi thôn dã như Trương Diên – cả hai đều nhất trí hoài nghi hoàng thất như vậy.

Đột nhiên trong lòng dấy lên một ý nghĩ, y cẩn thận nhìn Vương thị: "... Lời Thái hậu vừa nói, rốt cuộc là đang chỉ ta, hay đang nói về chính bà?"

Thái hậu hơi sững người, nhưng Tạ Cánh đã không chần chừ, cũng chẳng nể tình mà nói tiếp: "Nghe giọng điệu vừa rồi của Thái hậu, xem ra là vẫn chưa biết kim thượng đã băng hà, càng không biết trên người Lệnh Chương cũng bị hạ Tích Cốt Huyền, đã hơn trăm ngày chưa được thay chỉ độc, chất độc đã ngấm vào tận xương, toàn thân loang lổ vết xanh tím. Dù hôm nay không chết dưới mũi tên của Trương Thái phó, người cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa!"

Tạ Cánh đã dứt lời, nhưng âm thanh vẫn vang vọng thành dư âm trong đại điện tĩnh mịch. Thái hậu đứng bất động trên bậc thềm, sau khoảng lặng dài đến nghẹt thở, bà ta mới khẽ chớp mắt một cái. Giọng bà rất đỗi bình thản, có lẽ thật sự không còn quan tâm, hoặc có lẽ đã chẳng còn chuyện gì có thể dấy lên những gợn sóng cuối cùng trong lòng bà nữa.

"Ta không biết."

"... Ta chỉ biết nó chưa từng đồng lòng cùng ta và Lang Gia Vương thị," Bà lẩm bẩm, "Ngươi xem, thứ mà nó luôn hướng về chẳng phải là giang sơn họ Lục đấy sao?"

Tạ Cánh bật cười khẽ, "Thái hậu và Vương tướng là người một giuộc, trong lòng bà không có gì quan trọng hơn việc dòng tộc mình có thể đời đời nắm giữ quyền lực to lớn, bổng lộc hậu hĩnh. Lang Gia Vương thị tuy là thần tử, nhưng thực chất lại là những kẻ khôn ngoan nhất trong đám bề tôi bất trung kia."

"Gặp gỡ một vị quân chủ khéo chơi quyền thuật, thích thao túng lòng người như tiên đế, đương nhiên quý phủ chỉ đành bó tay, nhưng Lệnh Chương, con trai bà chỉ là một quân vương vô năng! Đáng sợ nhất là khi bà không coi người khác là con người, thì người ấy cũng sẽ quên mất bản thân là con người — Thái hậu xem con trai như bàn đạp đưa nhà mẹ lên cao, thì hắn cũng sẽ xem bản thân như cọng rơm cuối cùng đè chết Lang Gia Vương thị. Tự cổ chí kim, người có thể làm nên chuyện chẳng qua là dám liều mạng mà thôi!"

"Thái hậu nói Lệnh Chương không hướng về mẹ, không hướng về nhà cậu, không hướng về Lang Gia Vương thị. Nhưng nếu cái gọi là 'hướng về' ấy, là khi hắn mới sáu tuổi, rõ ràng đã học thuộc bài nhưng sống chết không dám nói cho Thái hậu biết, chỉ vì sợ bản thân không đạt được kỳ vọng của mẹ, sợ làm mẹ thêm phiền lòng — vậy thì Thái hậu hẳn phải biết rõ hơn ta, rốt cuộc vì sao bà chưa từng nhận được một chút lòng kính yêu nào từ Lệnh Chương."

"Lục Tử Phụng nói với ta, ngày tin Trưởng công chúa qua đời truyền về cung, Thái hậu vốn đã định hạ chỉ báo cho Ngô Thái phi, nhưng đến phút cuối lại đột nhiên đổi ý, thu hồi mệnh lệnh, ngầm thuận theo khẩu dụ 'giấu điện Minh Loan' của Lệnh Chương."

Tạ Cánh thấp giọng hỏi: "Thái hậu, vào khoảnh khắc ấy, rốt cuộc trong lòng bà đã nghĩ gì? Thân làm dâu hoàng gia, thời gian bà trải qua chỉ nhiều chứ chẳng ít hơn ta — liệu bà đã thật sự nhìn thấu hay chưa?"

Thái hậu ngẩn người một lúc lâu, cuối cùng nói: "Vở kịch của gia tộc Lang Gia Vương thị đã sắp đến hồi kết rồi, ta nhìn thấu hay không thấu thì cũng chẳng thể thay đổi được gì nữa. Dù nay mai Lục Tử Phụng hay Lục Thư Thanh lên ngôi, thì quyền lực của ngươi trong triều đại trước cũng đã hơn xa ta rồi. Những gì ta nói hôm nay chỉ đơn giản là lời dạy bảo, khuyên nhủ người đến sau với tư cách Trung cung, một khi đã ngồi vào vị trí này rồi, làm sao để tự giải quyết vấn đề, đó chính là điều ngươi nên suy nghĩ."

"Hoặc là bắt đầu suy nghĩ từ chuyện trước mắt đi — di chiếu thật của tiên đế hiện giờ đang được cất giữ trên nóc điện Thần Long, ngay phía trên gương Huyền Viên. Sau khi đọc qua, có thể ngươi sẽ biết được liệu mình đã nhìn thấu hay chưa — nếu không thể, vậy thì khoan hãy quyết định mọi chuyện, biết khó mà lui vẫn chưa muộn."

"Đợi đến khi ngươi từng bước dấn sâu vào, ngụp lặn ở nơi thâm cung này hai mươi năm, đến lúc đó muốn thoát ra cũng không kịp nữa rồi."

Cung nhân đã nhận được lệnh từ trước, không cần Tạ Cánh phân phó thêm, vừa nghe Thái hậu nhắc đến nơi cất giữ di chiếu thật, họ bèn lập tức sai người đi tìm. Tạ Cánh quanh đi quẩn lại một hồi, cuối cùng quay trở lại điện Thần Long, chiếc hộp gấm đựng di chiếu của tiên đế, cùng với ngọc truyền quốc Hòa Thị Bích thật đều đã được đặt ngay ngắn trên bàn trước ngự tọa.

Cùng lúc đó, chờ đợi y còn có Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh hơi ngạc nhiên: "Sao anh không mở ra xem?"

"Cung nhân đến bẩm báo, nói nghe giọng điệu của Thái hậu, e rằng nội dung của di chiếu thật có phần nhạy cảm. Ta sợ nếu tự xem trước, ta sẽ không biết nên đối mặt với em thế nào, nên quyết định để nguyên đó không đụng đến, đợi em tới rồi cùng xem."

Cho đến lúc này, Tạ Cánh vẫn bình tâm, không có bất kì khúc mắc nào. Y chỉ khẽ cười: "Có thể là gì chứ, cùng lắm thì cũng là tiên đế chọn anh kế vị thôi. Năm xưa chẳng phải chúng ta đã mơ hồ đoán được chuyện đó rồi sao?"

Lục Lệnh Tùng nhìn lại y, không tỏ rõ ý kiến, chỉ nói: "Thế à?"

Chỉ trong một ngày một đêm, từ lúc Tạ Cánh bị Vương Thục đẩy ra gánh tội làm giả quân cơ, đến khi nhà họ Vương sụp đổ, Trương Diên vào ngục, Lục Lệnh Chương và Thôi Thục Thế lần lượt thiệt mạng, thời gian họ ở bên cạnh nhau không ngắn, nhưng thực sự không thể nói được với đối phương quá hai câu. Thậm chí Lục Thư Ninh và Ngân Trù đã được đưa về phủ bình an, họ cũng chưa kịp về gặp lấy một lần.

Tạ Cánh bước lên nửa bước, mở hộp gấm, rút cuộn di thư – khởi nguồn của mọi chuyện do chính tay tiên đế viết ra, chậm rãi trải rộng lên mặt bàn.

Có lẽ khi viết bức thư này, tiên đế đã biết rõ rằng đây chẳng qua chỉ là một miếng mồi nhử để hạ bệ Lang Gia Vương thị, cho nên trong từng câu từng chữ không hề có lấy một lời than tiếc của người đã sắp rời xa nhân thế, tính đâu ra đấy, nội dung di chiếu cũng chỉ làm rõ ba việc:

Thứ nhất, để cho hoàng trưởng tử, Chiêu vương Lục Lệnh Tùng kế thừa đại thống;

Thứ hai, lập thế tử của Chiêu vương, Lục Thư Thanh làm Thái tử. Bất kể sau này hậu vị thuộc về ai, bất kể sau này có bao nhiêu hoàng tử được sinh ra, vị trí này tuyệt đối không được thay đổi;

Thứ ba, ngày xưa thiên tử hạ chỉ Chiêu vương lấy Tạ thị làm vợ, nhà họ Tạ có tài vương tá, Tạ thị tác phong hiền hậu. Nay họ Tạ đã bị giam giữ, tân đế nên lấy hai tộc Tiêu, Vương làm gương răn mình — nếu lập Tạ thị làm hậu, ắt không thể giữ lại nhà họ Tạ; nếu muốn nhà họ Tạ được sống, Tạ thị ắt phải chết.

Tiên đế viết trên di chiếu cho Lục Lệnh Tùng rằng: "Giết ai giữ ai, con có thể tự mình quyết định."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 114


《 27.4 》Tạ Cánh siết chặt quyển trục lụa màu vàng sáng trong tay, nét chữ rõ ràng không móc nối mập mờ đập thẳng vào mắt y và Lục Lệnh Tùng

Trong nháy mắt Tạ Cánh đã rõ vì sao Lục Lệnh Tùng lại do dự: hắn hiểu thái độ sau cùng của tiên đế hơn ai hết, e rằng đã mơ hồ đoán được, cái gọi là "nhạy cảm" trong chiếu thư càng nhạy cảm hơn nhiều so với người kế vị hay vị trí Thái tử.

Y vô cùng bình tĩnh, hỏi: "Anh đã từng nghĩ qua chưa, nếu thật sự có một ngày chiếu thư này xuất hiện, tình hình lúc đó sẽ như thế nào?"

Lục Lệnh Tùng gằn từng chữ: "Dựa theo kế hoạch của phụ hoàng, khi ấy nhà họ Tạ đã bị định tội giam vào ngục, nhà họ Vương sẽ không đời nào bỏ qua cơ hội dễ như trở bàn tay ấy. Một khi phụ hoàng giả chết, Vương thị mất đi mối lo cuối cùng, nhất định sẽ lập tức ra tay diệt môn. Sau khi chiếu thư được công bố trước thiên hạ, Trương Diên sẽ vạch trần hành vi ám sát vua bằng Tích Cốt Huyền của phủ Tướng. Đến lúc ấy, ông ta có thể mượn cớ này, dùng nhẫn ban chỉ truyền lệnh cho Vũ Lâm vệ, đường đường chính chính lật đổ cả nhà họ Vương."

"Vậy nên phụ hoàng mới mượn tay họ Vương để trừ khử nhà họ Tạ trước, đợi đến khi Vương thị không còn kiêng dè gì nữa mà để lộ dã tâm, lại mượn tay Trương Diên cùng Vũ Lâm Vệ để tính sổ. Cuối cùng, ông ấy 'chết đi sống lại', dù có lập ta hay Lệnh Chương làm Thái tử, thì ông ấy cũng không cần phải lo ngoại thích đứng sau nữa. Mà ông ấy lập ta, thật ra cũng chẳng phải vì có kỳ vọng gì nơi ta, chẳng qua chỉ là để đảm bảo sau này Thanh Nhi có thể thuận lợi kế vị mà không cần phải tranh đấu thôi."

"Trương Diên và Chung Triệu phản bội đã làm loạn kế hoạch của phụ hoàng. Hai người này nặc danh tiết lộ vị trí di chiếu thật cho Vương Thục, vậy nên di chiếu giả đã được tạo ra, thay đổi Thái tử, sự lựa chọn biến thành đáp án – đây đều là cái cớ để Vương thị che đậy nhằm giúp bản thân có thể đường hoàng thượng vị. Mà phụ hoàng đã chết thật rồi, không còn cơ hội thu lưới, đối phó với nhà họ Vương nữa."

Hắn nhìn về tẩm điện phía sau điện Thần Long, nơi đó là nơi tiên đế sinh hoạt hằng ngày: "Vào đêm sao kiểm ngõ Ô Y, phụ hoàng đã triệu ta đến ngự tiền, nói với ta rằng người sẽ không trị tội em. Người nói mặc dù không thích người con dâu này cho lắm, nhưng em vẫn có công sinh ra Thanh Nhi. Người nói rằng người biết rõ ta quá sủng ái em, thế nên cho phép ta chừa lại cho em một con đường sống..."

"... Những gì phụ hoàng ghi trong di chiếu chính là một sự lựa chọn, nhưng thật ra người đã giúp ta quyết định đáp án từ trước."

Trong điện yên tĩnh rất lâu, Tạ Cánh nhìn chằm chằm vào câu "Họ Tạ có tài vương tá, Tạ thị tác phong hiền hậu" kia, ngẩn ngơ nghĩ, tiên đế chọn y trở thành Vương phi của Lục Lệnh Tùng, thậm chí mai sau trở thành hoàng hậu của hắn, là vì y đã khiến ông hài lòng ở điểm nào?

Hài lòng tướng mạo xinh đẹp thời còn nhỏ dại, lớn lên có thể được quân vương thịnh sủng của y; hài lòng vì y sinh được trưởng tử, có khả năng tận tâm nuôi dưỡng dạy dỗ; hay là hài lòng với tài năng của y, rằng y có đủ năng lực trù tính mọi chuyện giúp Hoàng đế, trở thành tể tướng nội đình mà không nhận bổng lộc?

Một mình y gánh vác vai trò của biết bao nhiêu người? Là sủng phi nịnh nọt lấy lòng thiên tử, là Trung cung nối dõi cho đế vương, là hiền thần lương tướng có thể san sẻ cùng chủ tử... Ở trong tay phủ Tướng, y là một công cụ; đến tay tiên đế, y vẫn chỉ là công cụ. Tiên đế nắm đúng điểm yếu của y, hiểu rõ rằng y nhất định sẽ tận tâm tận lực phò tá Lục Thư Thanh, ông ấy cần gì phải giết một con rối biết nghe lời như thế chứ?

Mà điều khiến Tạ Cánh thấy khiếp sợ không phải là tiên đế ra tay đẽo gọt y thành hình dạng này, mà là ông ấy đã nhìn thấu được y.

Đây chính là dáng vẻ vốn có của y.

"Em từng cho rằng tai họa của gia đình là kết cục của việc Vương thị trừ khử phe đối lập, mãi đến ngày hôm qua mới biết, hóa ra họ chỉ là vật hy sinh cho thầy cũ báo thù riêng. Em vốn vẫn còn ôm cảm giác may mắn, nghĩ nếu như không có những việc đó, nếu theo quyết định ban đầu của tiên đế, để anh kế vị làm vua, thì nhà họ Tạ chắc cũng chẳng đến nỗi phải chịu tai ương diệt tộc, có lẽ họ vẫn có thể sống an ổn đến hết đời chăng?"

"Nhưng giờ đây, khi di chiếu bày ra trước mắt, em mới hiểu vì sao Thái hậu lại nói em mãi chẳng nhìn thấu. Cho dù không có Vương thị, không có Trương Diên, tiên đế thật sự băng hà, mọi cuộc bè phái tranh đấu, thù hận mới cũ đều tan thành mây khói, thì số mệnh của gia đình vẫn sẽ bị đặt dưới lưỡi dao. Nhà họ Tạ không chết vì bè phái, không chết vì bị trút giận, cũng không phải vì thù hằn, mà là chết bởi hoàng quyền chí cao vô thượng treo lơ lửng trên đầu người suốt hàng nghìn năm qua!"

"Lùi một vạn bước mà nói, cho dù không bị ai cản trở, thì anh và em cũng hoàn toàn không biết gì về sự tồn tại của di chiếu, càng sẽ không cố ý dò xét hay tìm hiểu — nếu tiên đế băng hà, chúng ta cũng sẽ giống như toàn thể bá quan văn võ và người trong thiên hạ, cùng lúc được biết nội dung trong di chiếu! Đến lúc đó, dưới hàng vạn ánh mắt dõi theo, anh có muốn không tuân, không nghe, không chọn cũng không được!"

"Em mệt mỏi quá, Tử Phụng," Tạ Cánh thì thầm, "Thật sự chẳng dễ chịu chút nào cả."

"Em đã tưởng tượng khoảnh khắc này hàng trăm nghìn lần, cứ nghĩ bản thân sẽ thấy nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, sẽ được hả hê mà ngẩng cao đầu, sẽ cảm nhận được niềm vui sướng vì báo được thù lớn — nhưng thực ra chẳng có gì cả," y đè tay lên ngực mình, "Chỉ có một trái tim trống rỗng, vỡ vụn ở đây thôi."

"Cuối cùng em cũng hiểu được lời anh cả nói trong ngục, rằng 'em chẳng có hận thù gì cả, cũng không có kẻ thù nào chờ em báo thù'. Con người không thể sống nhờ vào thù hận được. Hận đến hận đi cho tới bây giờ, em mới nhận ra rằng mình đã chẳng còn biết phải hận ai nữa. Trương Thái phó, Chung Triệu, Thôi Thục Thế, Hà Cáo, tiên đế, thái hậu... chúng ta với họ, rốt cuộc có gì khác biệt? Không một ai trong chúng ta không đáng thương, nhưng cũng chẳng có người nào không đáng hận."

"Anh và em đã làm gì? Chỉ vì muốn bản thân được ra tay chính đáng mà lấy cái cớ mưu hại trưởng công chúa để đánh trả phủ Tướng. Chân Chân chết trận không về được, chúng ta rốt cuộc cũng không thể gặp em ấy. Em ấy đã chôn vùi đường sống của mình để báo thù cho nhà họ Tạ, giúp phủ Chiêu Vương đoạt quyền, vậy mà chúng ta còn không buông tha cho em ấy, còn lấy cái chết của em ấy để kích động cơn phẫn nộ của dân chúng, mượn danh lấy lòng người!"

Lục Lệnh Tùng trầm mặc hồi lâu mới nói: "Bọn họ không tìm thấy em ấy... Ung Châu xa xôi đến vậy, bờ sông Vô Định lạnh lẽo như thế, vong hồn nhiều không sao đếm xuể. là ta đã để lạc mất em ấy. Chân Chân chỉ có một mình, làm sao trở về được, làm sao mà em ấy trở về nổi?"

Hắn cố nén sự run rẩy trong giọng nói: "Mượn danh của Chân Chân để giành lấy thắng lợi này khiến ta cảm thấy... Buồn nôn. Nhưng càng như vậy, ta lại càng không thể không tranh giành, không thể không kháng cự. Nếu ta cứ mãi do dự, khoanh tay chờ chết, thì cha mẹ anh chị của em, hơn trăm nô bộc tỳ nữ ở nhà họ Tạ, những tướng sĩ Hổ Sư đã ngã xuống trong suốt ba năm qua —— và cả Chân Chân, đều sẽ chết một cách uổng phí!"

Lục Lệnh Tùng gần như tàn nhẫn vạch trần lớp màn che đậy, dùng những từ ngữ gay gắt nhất, cũng đâm trúng chỗ đau nhất, thẳng thắn mở lời chạm đến đề tài này, khiến cho cả hai buộc phải đối diện trực tiếp với vết thương sâu hoắm mà cái chết của Lục Lệnh Chân để lại.

"Ta nhất định phải nắm lấy cơ hội này, tự tay đưa từng kẻ đã hại chết em ấy xuống hoàng tuyền, để đời đời kiếp kiếp ghi nhớ sự bất lực và hổ thẹn của ta của ngày hôm nay."

Lục Lệnh Tùng ném di chiếu trở lại vào hộp gấm, bước lên hai bước, mạnh mẽ siết lấy vai Tạ Cánh, ép y phải nhìn thẳng vào mắt mình.

"Tạ Cánh," Hắn gọi tên y, "Em phải trưởng thành thôi."

Nghe đến đây, Tạ Cánh thoáng ngây người, bỗng chốc nhận ra "cái chết" có thể khiến cho những người còn sống thay đổi nhiều đến nhường nào. Nếu là trước kia, có lẽ Lục Lệnh Tùng sẽ nói với y rằng: "Em không cần phải trưởng thành, mọi chuyện đã có ta lo", sẽ bao dung, che chở y như cách hắn đối xử với Lục Lệnh Chân và Lục Lệnh Chương. Nhưng sau khi liên tiếp mất đi em gái và em trai, sau khi nhận ra cái chết của họ đã trở thành nền móng cho con đường phản kháng của phủ Chiêu Vương, Lục Lệnh Tùng dường như đã mất đi phần nào khả năng làm "anh trai" của mình.

Hắn nói với y rằng: "Em phải trưởng thành thôi."

Hoặc có lẽ, Lục Lệnh Tùng đã chuẩn bị sẵn sàng để nghênh đón vận mệnh từ lâu, còn người vẫn trì trệ, mãi không chịu nhìn rõ thực tại... Chỉ có mỗi mình Tạ Cánh mà thôi.

"Tử Phụng, anh có còn nhớ không?" Tạ Cánh thoáng lộ ra vẻ buồn bã, tiếc nuối nói, "Trên chiếc thuyền trở về quận Trần, anh từng nói với em, nếu cái giá phải trả là để mất em, thì anh thà không ngồi lên ngai vàng này, giao lại cho Lệnh Chương cũng được. Lúc này, có phải em nên xem đó là lời nói đùa rồi không?"

Lục Lệnh Tùng sững người một chút, rồi trầm giọng bình tĩnh đáp: "Năm đó ta vẫn còn ngây thơ, suy nghĩ mọi chuyện quá đơn giản. Khi ấy nhường ngôi Hoàng đế chẳng những không thể cứu được cả nhà họ Tạ, mà còn sẽ khiến cho bọn trẻ, mẫu phi, Chân Chân và biết bao nhiêu người vô tội khác phải bỏ mạng theo! Nhà đế vương chưa bao giờ có cái gọi là đường lui — đối thủ chỉ sợ em liều mạng sống chết tranh đấu, vậy mà em lại tự mình lùi bước, nhường nhịn ư? Em không lùi, không nhường còn có thể giành được một con đường sống, em lùi rồi, nhường rồi, thì chỉ còn đường chết mà thôi!"

"Mà nay Lệnh Chương đã không còn nữa, người duy nhất có thể gánh vác khi ta thoái thác trách nhiệm, trút bỏ mặc kệ mọi thứ chỉ còn lại một mình Thanh Nhi. Nhưng ta tuyệt đối sẽ không để con trai ta, một đứa trẻ vất vả lắm mới có được chút bình yên, lại phải sớm kết thúc tuổi thơ, từ bỏ sự tự do, từ bỏ quyền lựa chọn bạn bè và người mình yêu, chỉ mới mười bốn tuổi đã phải bước lên ngôi cao lạnh lẽo, trở thành kẻ cô độc, trong khi sau lưng là người cha vừa ích kỷ vừa hèn nhát trốn tránh!"

"Đối với sự lựa chọn mà phụ hoàng để lại, việc ta nên làm không phải là bất lực đùn đẩy hết sang cho em, bắt buộc em phải chọn giữa bản thân nhà mẹ của mình, hoặc là chịu đựng nỗi đau mất đi người thân, hoặc là tự mình đi tìm cái chết! Việc ta phải làm là đứng ở nơi cao nhất, để cho tất cả những kẻ nào muốn uy h**p ta, ngăn trở ta, xen vào chuyện ta đồng thời bảo vệ em và nhà họ Tạ đều không dám hó hé, để đây không còn là sự lựa chọn nữa!"

"Ta xin lỗi, từ nay về sau, đúng là ta và em nên coi đó là một lời nói đùa," Lục Lệnh Tùng nhìn sâu vào mắt Tạ Cánh, trong đáy mắt là nỗi thê lương vô tận, "Nhưng năm đó không phải. Nếu như em không tin, ta cũng không còn lời nào để nói."

Tạ Cánh sững người hồi lâu, lắc đầu, buồn bã nói: "Tử Phụng, dù có thế nào đi nữa, em vẫn sẽ tin tưởng anh, làm sao em lại không tin anh được chứ?"

"Anh muốn em trưởng thành, em cũng sẽ không vì lòng riêng, không vì sợ hãi chúng ta sẽ đi vào vết xe đổ của tiên đế và thái hậu mà khẩn cầu anh đừng ngồi lên chiếc ghế đó."

"Anh muốn em dạy dỗ Thanh Nhi trở thành một Thái tử xuất sắc, muốn em vào triều làm tướng giúp anh san sẻ chính sự, muốn em chạy vạy cân bằng thế lực quý tộc, hàn sĩ cùng tân quý các phương, thậm chí anh muốn triệu hạnh em, gọi em vào thần điện thị tẩm cũng được – em có thể làm tất cả những điều này, em đều sẵn lòng làm vì anh."

Tạ Cánh giơ tay lên, dùng đầu ngón tay vẽ dọc sống mũi Lục Lệnh Tùng: "Chỉ có vị trí Hoàng hậu... Vài chục năm rồi, em vẫn luôn nghĩ, dường như mình khó có thể gánh vác được."

Lục Lệnh Tùng dùng một tay nắm trọn cổ tay y: "Em hãy nói cho ta biết, nếu lúc này ta buông bàn tay này ra, em còn có thể trở lại bên cạnh ta hay không?"

Trước mắt Tạ Cánh mờ mịt, trời đã gần sáng, đêm dài tắm máu cùng nước mắt sắp qua đi, nhưng con đường phía trước của y không vì thế mà trở nên rõ ràng.

"Em không biết." Y chỉ có thể nói như vậy.

Lục Lệnh Tùng cao giọng, nghiêm túc nói: "Em đã từng nói với ta, thê tử kết tóc của ta chưa từng hối hận vì đã gả cho ta. Em nói em biết rằng mình sẽ hối hận, vậy nên nếu có một ngày em phạm phải hồ đồ, vẫn mắc kẹt trong những suy nghĩ kia, thì bắt kể ta có giam giữ em, trói chặt em bên mình, thì ta nhất định cũng phải kéo em lại cơ mà!"

Hắn cúi đầu xuống, ánh mắt dán chặt vào đôi mắt của Tạ Cánh: "Tạ Chi Vô, đời này ta sẽ vĩnh viễn không giam cầm hay trói buộc em, nhưng hôm nay, ta đưa tay ra níu kéo em, giữ chặt em, chỉ muốn hỏi em một câu — nếu như sự nhẫn nhịn và khuất nhục suốt bốn năm qua của em, những điều tiếng, giày vò cùng sinh ly tử biệt em đã chịu, cuối cùng cũng chỉ hóa thành một dấu chấm cho cuộc chia ly, vậy thì những năm tháng đau đớn và khốn khổ đó rốt cuộc có ý nghĩa gì? Điều mà em thực sự khao khát trong lòng, đến cùng là điều gì?!"

Đau đớn và khốn khổ có ý nghĩa gì? Vui vẻ và hạnh phúc lại có ý nghĩa gì? Nếu như cái chết là điều không thể tránh khỏi, vậy thì sống trên đời còn có ý nghĩa gì nữa?

Tạ cánh bỗng bật cười lạnh lẽo, nụ cười đầy vẻ châm chọc tự giễu, mang theo nỗi hoảng loạn khó nói thành lời. y hỏi ngược lại: "Em khao khát điều gì ư?"

"Anh nghĩ em bức tử thanh danh nhà họ Tạ, cam tâm làm ngựa làm chó phục tùng người là để cầu vinh hoa phú quý cho mình sao? Anh nghĩ em cẩn thận từng bước đi đến ngày hôm nay, là để cầu có được quyền cao chức trọng sao? Thánh nhân quân tử một lòng vì thiên hạ, cầu cho bốn bể thái bình, nhưng em thì không, em chẳng thèm thứ thái bình được tô son trát phấn ấy!"

"Em chỉ mong người thân nơi suối vàng có thể tha thứ cho những năm tháng bồng bột non dại của mình, chỉ mong các con đời này được làm điều chúng muốn, giữ được người mình yêu, em chỉ mong anh — em mong Lục Tử Phụng được tung hoành nơi sa trường, trấn giữ giang sơn, từ nay về sau không phải vướng bận điều gì nữa!"

Tiếng nói nhỏ dần, bầu không khí ngưng đọng rất lâu.

Mãi sau, Lục Lệnh Tùng mới dời tay từ vai Tạ Cánh xuống vòng qua lưng y, dùng chút sức kéo y vào lòng mình. Tạ Cánh không chống cự, để mặc cho hắn ôm, rồi bàng hoàng nhận ra đến cả vòng tay này cũng đã trở nên xa lạ. Ba năm ở Ung Châu dài đằng đẵng, muôn trùng xa cách cũng chẳng bằng vách ngăn hiện hữu sau khi sự thật được phơi bày, lòng dạ thấu triệt.

Chừng như bị vách ngăn lạnh lẽo này bao bọc lấy, Tạ Cánh khẽ rùng mình một cái. Y tựa vào ngực Lục Lệnh Tùng, ngẩn ngơ tự nói:

"Nguyện quân rạng rỡ như mặt trời, thả thiếp cưỡi cá, lướt sóng mà đi..."

Một lúc lâu sau, Lục Lệnh Tùng mới buông y ra, buông tay y, như y mong muốn: "Nếu như điều em muốn chính là sự tự do, vậy em đi đi, hãy đi thật xa, đi đến nơi mà bầu trời là vô tận."

Cửa lớn điện Thần Long bị đẩy ra, Tạ Cánh lảo đảo bước đến bậc cửa, y ngẩng mặt lên, ánh bình minh chói chang đã rải đầy thềm son, y mở to hai mắt, cứ thế nhìn thẳng vào chúng.

Năm mười sáu tuổi, y bước vào cánh cửa này, là người đứng đầu cả ba kỳ thi, vẻ vang rạng rỡ, không có việc gì khiến y phải rối trí phiền lòng; năm ba mươi mốt tuổi, y bước ra khỏi cánh cửa này, ngẩng đầu nhìn trời, chỉ thấy vạn trượng mây đỏ rực rỡ, mà nhân thế lại mịt mù mênh mang.

Trong điện Thần Long, Lục Lệnh Tùng đứng đơn độc ở phía sau, lưng đối lưng với Tạ Cánh. Di chiếu thật mà tiên đế để lại giờ chỉ còn là một tờ giấy vụn, ân oán đã dứt, nó cũng mất đi hiệu lực. Thế nhưng quyền lực và tâm thuật ẩn giấu giữa những hàng chữ ấy vẫn sẽ giống như u hồn, mãi mãi lượn lờ trên nóc đại điện này, ngàn năm vạn năm, vĩnh viễn không dứt.

Tạ Cánh thầm nghĩ, so với Lục Lệnh Tùng, có lẽ y đúng là người nhát gan hơn, ích kỷ hơn. Giữa bọn họ không có đúng sai, cũng không phải ai đã thay đổi hay ai còn nguyên vẹn, chỉ là một người bị ép phải trưởng thành và một người không muốn trưởng thành mà thôi — dù Lục Lệnh Tùng nói rằng hắn mong y trưởng thành, nhưng cuối cùng vẫn dung túng, che chở, thuận theo ý muốn của y. Cho đến cuối cùng, hắn vẫn không nỡ dùng cả đời u uất của Tạ Cánh làm cái giá để đổi lấy việc y có thể mãi mãi ở lại bên cạnh mình.

Vết bầm tím trên cánh tay phải bỗng dưng đau nhói, hai mắt Tạ Cánh lóa lên, nước mắt trào ra, mọi thứ trước mắt dần nhòe đi, cuối cùng chỉ còn lại cảm giác choáng váng, y loạng choạng hai bước, rồi cứ thế ngã nhào xuống bậc thềm.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 115


《 27.5 》Lục Thư Thanh đứng trong thư phòng của mẹ, sững người nhìn chằm chặp vào tấm biển "Tùng Phong Tuyết Nhất Âu" được viết bằng Khứ Hà thể.

Cuốn sách úp trên bàn vẫn dừng lại ở trang mà mấy hôm trước cậu đang đọc dở, bên dưới có một xấp giấy dày, đó là đề bài lần trước Trương Thái phó giao cho cậu ở Lan đài, Lục Thư Thanh chỉ mới viết được quá nửa, vừa vô thức cầm bút định viết tiếp, cậu đột nhiên khựng lại, cảm thấy hơi mơ hồ, cậu viết xong rồi phải đưa cho ai xem đây?

Hàn Lâm viện, Quốc Tử Giám có rất nhiều bậc học giả thông thái uyên thâm, tùy tiện chọn lấy một người, cũng chẳng có ai dám không run rẩy dè dặt mà phê xét bài văn của thế tử.

Nhưng Trương Thái phó sẽ không bao giờ xem nữa.

Lục Thư Thanh quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ, cặp câu đối treo trên cột trước cửa Đông sương phòng ở đối diện chính là chữ viết của Trương Diên, nét chữ trầm ổn, ngay ngắn chẳng hề giống với Khứ Hà thể chút nào. Bởi vì phủ Chiêu Vương xây trước, còn mẹ cậu vào phủ sau, thế nên trong nhà ngoại trừ Y Bích đài và thư phòng này, chữ của những tấm biển treo trên các cổng sân đều là do Trương Thái phó đề bút, để bày tỏ lòng kính trọng, bao năm nay chỉ sửa chữa và sơn lại, chưa từng thay đổi hay gỡ xuống.

Cũng không biết sau này có thay hay không nữa... Cậu đã sắp phải dọn ra khỏi nhà rồi, hạ nhân đang thu dọn những vật dụng thường dùng, chuẩn bị cùng cậu chuyển vào Đông cung.

Khi dọn dẹp tủ, thị nữ tìm thấy tập tranh mà năm ngoái Ninh Ninh tặng cho cậu nhân ngày sinh nhật, được mẹ cậu đặt tên là "Thỉnh thoảng thấy anh" — bèn hỏi: "Thế tử, tập tranh này có cần xếp vào rương sách cho người không?"

Lục Thư Thanh bước tới, cầm lấy tập tranh với những trang giấy đã hơi nhàu vì bị lật giở quá nhiều lần, ánh mắt rơi trên lời bạt do Trương Thái phó đề mà cậu đã thuộc nằm lòng ở trang cuối. Lời bạt ngắn gọn mà súc tích, bất kể là tranh, tác giả hay nhân vật trong tranh, Trương Diên đều đối xử như một độc bản chính thức, thậm chí còn nghiêm túc hơn cả lời tựa mà Lục Thư Ninh tự viết. Ông khen ngợi Lục Thư Ninh nắm bắt thần thái nhân vật một cách chính xác, khen bố cục và sự tinh luyện ý tưởng trong tranh của em, cũng nhắc tới tình thân đầm ấm lan tỏa trên từng trang giấy.

Khi anh em cậu chạy đến Lan đài, nài nỉ Trương Diên viết lời bạt cho tập tranh này, vị Thái phó đầu tóc bạc trắng đã híp đôi mắt mờ, ngồi trước bàn nghiêm túc lật giở, ngắm nghía từng bức tranh một.

Khi đó, cậu không ngờ Trương Diên có thể b*n r* một mũi tên nhanh và chuẩn xác như vậy.

Lục Thư Thanh buông lỏng tay, quyển sách theo quán tính tự động lật về phía trước vài trang, dừng lại ở một bức tranh vẽ cậu và cô của cậu: Lục Lệnh Chân và cậu sóng vai cưỡi ngựa, bỏ lại phía sau cả một rừng đào nở bạt ngàn trên mỏm Yến Tử.

Cậu thẫn thờ nhìn khung cảnh ấy rất lâu, rồi lại lật về trang cuối cùng nơi có lời bạt của Trương Diên, sau đó không do dự xé ra, đưa đến chỗ tim nến, đốt đi sạch sẽ.

Khi Tạ Cánh tỉnh lại, hiện ra trước mắt chính là chóp màn lạ lẫm, còn chưa lấy lại ý thức, y đã nghe thấy tiếng Lục Thư Ninh hốt hoảng kêu lên: "Mẹ!"

Em đang ghé vào sát bên giường, khoanh tay lật xem một tập tranh về hoa cỏ rất dày. Tạ Cánh nhìn thấy con gái, lập tức quên cả hỏi chuyện bản thân đang ở đâu, chỉ cau mày v**t v* gương mặt em: "Sao con gầy đi rồi?"

"Gần đây đều ở trong cung, không thể tùy ý ăn thêm thức ăn hay bánh ngọt mọi lúc như ở nhà, huống chi còn phải đến điện Minh Loan vấn an, đến viện tranh đọc sách, đến Lan đài tìm anh đều phải đi cả một quãng đường dài, ăn thì ít vận động thì nhiều, gầy đi cũng là chuyện thường thôi mà mẹ."

Tạ Cánh chậm rãi hỏi: "... Mẹ đang ở trong cung sao?"

Lục Thư Ninh gật đầu: "Dạ, mấy ngày nay mẹ vẫn luôn nghỉ ngơi ở thiên điện điện Thần Long, con nghe cung nhân nói là cha đã bế mẹ đến đây đó."

Màu lông mày của em đậm hơn Lục Thư Thanh một chút, lại thừa hưởng đôi mắt trái vải của mẹ, khi cau mày, thần thái càng thêm sinh động rực rỡ: "Sao mẹ lại ngã ở ngoài điện vậy, có phải là do mệt mỏi quá không?"

Tạ Cánh nghe vậy là biết mọi người đã không nói chuyện Tích Cốt Huyền trong người y cho con gái hay, y bèn thuận theo em, nói: "Mấy ngày nay đã ngủ rồi, giờ mẹ không thấy mệt nữa, con đừng lo. Anh con đâu?"

"Hôm nay anh về nhà dọn dẹp đồ đạc rồi, con gọi dì đến kiểm tra cho mẹ, sau đó sai người đi gọi anh."

Lục Thư Ninh nói xong thì ôm sách chạy ra ngoài. Không lâu sau màn cửa khẽ động, Ngân Trù mang canh sâm vào, nhỏ giọng nói: "Người tỉnh hẳn chưa, tôi bảo Ninh Ninh đi rồi. Vương phi có chuyện gì muốn hỏi cứ hỏi, chút nữa Thanh Nhi đến đây, chúng lại quấn quít lấy người, có một số việc sẽ không nói rõ được."

Tạ Cánh yếu ớt ngồi dậy, nhận lấy chén sứ, múc từng muỗng uống: "Chuyện Tích Cốt Huyền... Hắn biết rồi sao?"

Ngân Trù nhăn nhó làm ra vẻ mặt khổ sở, chừng như nhớ đến một ký ức dở khóc dở cười: "Đương nhiên là biết rồi. Sống cùng nhau mười mấy năm, tôi chưa từng thấy điện hạ nổi trận lôi đình như vậy, ngài ấy xách kiếm xông thẳng đến chiếu ngục, may mà có Thanh Nhi liều mình ngăn lại, nói dù thế nào cũng không thể vượt qua quốc pháp để hành tư hình được, lúc đó ngài ấy mới chịu thôi. Sau đó lập tức hạ tử lệnh cho Thượng Thư đài và Hình bộ, yêu cầu nhanh chóng xét xử vụ án Lang Nha Vương thị mưu nghịch giết vua, một khi thu được đầy đủ chứng cứ là xử trảm ngay, không cần chờ đến sau thu."

Tạ Cánh không tỏ rõ ý kiến, hồi lâu mới nói: "Lần cuối ta thay chỉ độc là mùng bảy tháng Năm, đến giờ cũng gần hai tháng rồi, cánh tay phải thành ra thế này. Chị và Tần viện phán đều đã xem qua rồi, có còn cứu được hay không?"

Ngân Trù đáp ngay: "Tôi đã điều tra cẩn thận qua sách cổ từ trước, cũng đã thương lượng với Thái y viện, nếu muốn hoàn toàn lấy hết phần chỉ độc ra khỏi cánh tay của Vương phi thì không thể tiếp tục dùng cách chữa ngọn chứ không trị gốc như thay chỉ. Nhưng như vậy, độc tố đã thấm sâu vào da thịt cũng sẽ không còn được tơ hút ra, ở lại trong cơ thể, dù có lấy được hết tơ, độc không còn lan rộng nữa, thì phần da thịt này cũng sẽ dần rữa ra, dẫn đến hoại tử."

"Cho nên cách hiệu quả nhất, cũng là cách đơn giản trực tiếp nhất —— đó là lấy hết tơ ra trước, sau đó khoét bỏ phần da thịt đã ngấm độc ra là được. May mắn là Vương phi chỉ bị trúng độc ở cẳng tay phải, nếu để giống như Đại Hành hoàng đế..." Ngân Trù tặc lưỡi, rõ ràng đã nghe nói đến trường hợp của Lục Lệnh Chương, "Chỉ sợ sẽ khó cứu."

"Nhưng cứu thì đương nhiên là cứu được thôi, chỉ là cái tên của nó đâu phải để gọi cho vui, có chỗ phải khoét sâu đến tận xương, tám chín phần mười là vô cùng đau đớn, cũng khó tránh khỏi để lại vết sẹo lớn, trông sẽ hơi đáng sợ."

Tạ Cánh nghe xong thì thở phào một hơi như trút được gánh nặng: "Ta cũng sinh hai đứa con rồi, đau thì đau thôi, chẳng có gì phải sợ cả, chỉ cần lúc dùng dao đừng để bọn trẻ nhìn thấy là được."

Ngày mùng một tháng Bảy, năm Cảnh Dụ thứ năm, tân đế đăng cơ ở điện Thần Long, cùng ngày chiêu cáo thiên hạ, tôn sinh mẫu Ngô thị làm Thái hậu, lập trưởng tử Lục Thư Thanh làm Thái tử, nguyên Thái thú Ung Châu Hà Cáo nhậm chức Tả tướng, tổng quản công việc của Thượng Thư đài và lục bộ.

Và khi lời cung của Vương Thục, Trương Diên và Trình Văn lần lượt được dâng lên, lại có thêm Hà Cáo làm chứng, chân tướng vụ án ngọc tỷ Lam Điền năm xưa cũng sáng tỏ, nỗi oan mưu nghịch đè nặng lên Trần quận Tạ thị cuối cùng cũng được rửa sạch. Lục Lệnh Tùng đích thân phá hủy thứ "đồ giả" kia, tuyên bố trước mặt trăm quan rằng kể từ nay chỉ có Hòa Thị Bích mới sở hữu hiệu lực ngang với ngọc tỷ truyền quốc tối cao.

Tổ trạch cùng ruộng đất và các tài sản khác của nhà họ Tạ cũng được hoàn trả đầy đủ, Tạ Tuấn trở về ngõ Ô Y, bắt tay kiểm kê gia sản, đồng thời liên lạc lại với thân thích ở quận Trần và Diêu thị, bù đắp cho nhau.

Lục Lệnh Tùng lại lệnh cho Lễ bộ truy phong cho Tạ Dực hai chữ "Văn Giới", vợ chồng Tạ Dực và Tạ Duyễn được quy táng tại núi Mang ở thành Lạc Dương. Người ta thường nói "Sinh ở Tô Hàng, chết chôn Bắc Mang", núi Mang là vùng đất địa linh nhân kiệt, từ xưa trung thần lương tướng đều lấy việc gửi lại xương cốt tại đây, nằm bên các bậc thánh hiền thiên cổ làm vinh dự lớn lao nhất.

Thế nhưng sau khi bàn bạc cùng Tạ Tuấn, Tạ Cánh đã dâng sớ khấu tạ thiên ân, khước từ vinh quang này, chỉ mong được đưa song thân và anh chị về mộ tổ tại quận Trần để an táng, ở bên cạnh cố nhân ở nhà cũ, bầu bạn cùng tùng bách và núi non, nguyện không bao giờ bước chân lên thiên tử đường nữa.

Lục Lệnh Tùng cũng không cưỡng cầu, chỉ dùng bút mực đỏ phê lên tấu chương của y năm chữ: "Như Tạ khanh mong muốn."

Cùng tấu chương trở về thiên điện còn có một vị nội giám lạ mặt, gã tự giới thiệu, nói rằng mình vừa được Ngô thị tuyển chọn, sai tới điện Thần Long hầu hạ: "Bên dưới chọn lọc ra mấy phong hiệu cho công chúa, nhưng bệ hạ xem qua đều không thấy vừa ý, vậy nên đã sai tiểu nhân tới đây, mong Vương phi chọn cho hai chữ."

Vừa nói xong, nội giám đã nhận ra mình lỡ lời, lúng túng cười trừ, gã thầm mắng bản thân ngu xuẩn, lẽ ra phải gọi Tạ Cánh là "Tạ đại nhân" mới đúng, dù sao người ta cũng còn giữ chức quan chính thức.

Thật ra không chỉ mỗi gã bối rối với cách xưng hô. Trong ngoài kinh thành, đám thân sĩ đại tộc lão luyện nhất trong việc đoán ý đế vương và bắt mạch gió cung đình cũng đã âm thầm bàn luận chuyện này chín chín tám mươi mốt lần rồi.

Dựa theo tình hình ngày xảy ra biến cố ở đảo Bát Quái, giữa bệ hạ và Tạ Cánh thật ra không giống như mối quan hệ lửa nước khó dung mà hai người đã thể hiện suốt hơn một năm nay. Nhưng so với những chuyện lớn như phủ Tướng hành thích vua, Trương Thái phó mưu nghịch, thì vấn đề này chẳng tính là chuyện lạ lùng gì.

Mà điều kì lạ là sau khi chính biến được dẹp yên, thái độ của bệ hạ đối với y lại rất khác thường. Hắn tuyên bố giải oan cho nhà họ Tạ, ban vinh dự được quy táng ở Bắc Mang, nghiêm trị họ Vương, nhưng lại không kết tội Tạ Cánh, rõ ràng đã thừa nhận việc y cam chịu khuất nhục, lui tới dưới mái hiên phủ Tướng suốt bấy lâu, vì chuyện kia mà tất tả ngược xuôi cũng chỉ là kế tạm thời, nhẫn nhục gánh vác nỗi khổ mà thôi.

Song, bệ hạ không chỉ chậm chạp chưa có bất kỳ động thái lập hậu nào, mà còn ban chỉ cho phép Tạ Cánh "trở về ở tại phủ Chiêu Vương", điều này quả thực rất đáng suy ngẫm.

Nếu Tạ Cánh tiếp tục ở lại thiên điện điện Thần Long, vậy thì chính là Nam viên di ái, tình nghĩa sâu đậm, thiếu mỗi một thánh chỉ sắc phong nữa thôi, y sẽ trở thành Trung cung dưới một người trên vạn người, đây chỉ là chuyện sớm muộn.

Còn nếu bệ hạ để Tạ Cánh dọn về ngõ Ô Y, thế thì cũng dễ hiểu thôi, chẳng qua là tiền duyên đã dứt, cuộc hôn nhân này kết thúc tại đây, từ nay y sẽ hoàn toàn tách khỏi hoàng gia, chỉ còn là một viên quan bình thường trong hàng vạn triều thần.

Thế nhưng hắn lại lệnh cho Tạ Cánh trở về phủ Chiêu Vương. Đó là nơi nào? Đó là "Vương phủ", là "tiềm để", là danh xưng thay thế cho những thứ bị vứt bỏ và quên lãng bởi thời đại cũ. Chính thê của thiên tử, mẫu thân của Đông cung mà lại bị gọi là "Vương phi", chuyện này vốn dĩ đã là một điều kỳ lạ khó hiểu. Vương đã không còn, vậy "Vương phi" từ đâu mà ra? Rốt cuộc bệ hạ muốn lập hậu mới, hay chỉ là nhất thời chưa nghĩ ra nên xử trí Tạ Cánh thế nào, chẳng ai có thể nhìn thấu được.

Tạ Cánh lại hoàn toàn không để ý đến cách xưng hô nhạy cảm này, y trầm ngâm hồi lâu, rồi viết lên giấy hai chữ, đưa cho nội giám nói: "Giữ tâm tĩnh để thấu hiểu bản chất là 'Minh'; sống thanh thản, hòa hợp với trời đất là 'Di', ngươi đưa cho bệ hạ xem thử có được hay không."

Ngày hôm sau, tiền điện truyền tin tới, chọn ngày cử hành lễ sắc phong Đông cung và công chúa Minh Di.

Nghi thức đăng cơ của tân đế thì giản lược đến mức gần như không có gì, chỉ cần tế trời, bái tông miếu là coi như xong. Nhưng bệ hạ lại cực kỳ xem trọng danh vị của Thái tử và công chúa, nghi lễ trang nghiêm long trọng, quyết tâm để cho cả thiên hạ thấy rõ sự quý trọng sâu sắc mà họ nhận được, cũng như địa vị cao quý và vững chắc của họ.

Mấy ngày Tạ Cánh mê man, Ngân Trù đã cho y uống rất nhiều thuốc bổ, nay tinh thần của y đã khá lên, lại chuẩn bị rời cung trở về Vương phủ, cô bèn đề nghị nên tranh thủ giải độc, không nên kéo dài thêm.

Tạ Cánh cũng không có ý kiến gì: "Chị nói lúc nào thì làm lúc ấy, chết sớm siêu sinh sớm."

Ngân Trù nghiêm túc phản bác: "Phỉ phui ngay, không cho phép nói gở."

Cô liếc trộm sắc mặt Tạ Cánh, do dự một lúc, cuối cùng vẫn nhỏ giọng hỏi: "Có cần báo cho bệ hạ biết, để ngài ấy đến bên cạnh người không?"

Ban đầu Tạ Cánh chẳng có phản ứng gì, thậm chí còn hơi khó hiểu, mãi đến khi nhận ra "bệ hạ" mà cô nói là ai, y mới chậm chạp "À" một tiếng: "Có cần thiết không?"

Vẻ mặt Ngân Trù phức tạp: "Việc này chẳng nhẹ nhàng hơn so với nạo xương trị độc là bao, dù có ma phi tán, cũng không thể hoàn toàn mất hết cảm giác đau. Nếu như có bệ hạ ở bên, Vương phi sẽ dễ chịu hơn ít nhiều."

Tạ Cánh ngẩn người suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu, nói: "Nếu đã đau đến thế, lại để cho người khác nhìn thấy thì cũng khiến thêm một người đau mà thôi."

Ngân Trù đành chịu, cô ngồi xuống bên cạnh y, hỏi: "Khó khăn lắm mới kết thúc được mọi chuyện, có thể đoàn tụ với các con, sao Vương phi lại không muốn ở lại trong cung?"

Tạ Cánh im lặng rất lâu mới nở nụ cười nhàn nhạt: "Không phải ta không muốn. Đương nhiên ta hy vọng được ở bên hắn, ta vĩnh viễn sẽ không rời xa hắn."

Y gục đầu xuống, nói nhỏ: "Chỉ là ta và hắn đều cần một chút thời gian để tỉnh táo lại, suy nghĩ thấu đáo vài chuyện. Nếu không làm vậy, chẳng lẽ ta cứ thế xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, phớt lờ hết thảy sự sống và cái chết đang ngăn cách giữa chúng ta, không có lấy một gánh nặng nào mà vào cung bầu bạn cùng hắn, thân mật cùng hắn hay sao? Cả ta và Tử Phụng, chẳng ai muốn như thế cả."

Ngân Trù thở dài: "Tôi không hiểu chữ tình, cũng chẳng nên xen vào nói lý. Chỉ có điều, sống chết là ải khó mà bệ hạ và Vương phi nên cùng nhau vượt qua, tuyệt đối không nên để nó biến thành bức tường ngăn cách giữa hai người."

Tạ Cánh ở lại thiên điện cùng con trai và con gái vài ngày, bắt đầu nhịp sống đều đặn, ăn uống thanh đạm. Khoảng thời gian đầu khi Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh chính thức chuyển vào cung ở, mọi chuyện đều bắt đầu vào nề nếp, vô cùng ổn định. Cả hai giờ đây đã trưởng thành, có lẽ vì phải nếm trải cảnh loạn ly quá sớm nên đều thấu hiểu thế sự, không ai hỏi mẹ mình rằng tại sao người không thể mãi ở lại cung Thái Sơ?

Hậu quả của khoảng thời gian bình lặng và nhàn nhã quá mức ấy chính là vào đêm Ngân Trù chuẩn bị giải độc Tích Cốt Huyền, Tạ Cánh đã phải tốn không ít công sức mới dụ được hai đứa trẻ rời đi mà không để chúng sinh nghi.

Sau lưng được kê mấy chiếc gối mềm, y nằm ngửa ra, cả người lún sâu xuống nệm, nửa người trên không mặc áo, cả cánh tay phải để lộ ra ngoài màn giường.

Lúc nhỏ khi nghe người ta kể chuyện, Tạ Cánh chỉ cảm thấy trong lúc cười nói, chuyện cạo xương trị thương cũng chỉ là một giai thoại mà thôi, hôm nay mới biết Quan Vũ* quả thật thần dũng đến nhường nào. Ngân Trù dùng một con dao nhỏ và sắc bén để khoét thịt, dù xuống tay nhanh gọn dứt khoát, nhưng "liệu pháp" này về cơ bản chẳng khác nào lăng trì. Khi cảm nhận rõ ràng miếng thịt bị khoét ra, cùng với từng lớp da thịt rời khỏi xương cốt, Tạ Cánh không kìm chế được nữa mà kêu gào thảm thiết.

(*) Quan Vũ, hay Quan Công, tự Vân Trường, là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán

Trong lúc mê man, y chợt nhớ đến vết sẹo kéo dài từ vai xuống lưng của Lục Lệnh Tùng, dù khoảnh khắc ấy chỉ thoáng qua trong chốc lát, nhưng cuối cùng cũng chẳng thể thuyên giảm phần nào nỗi đau.

Cánh tay không giống phần thân trên có thể dễ dàng được áo quần che phủ, Tạ Cánh thật sự không sợ đau, không sợ nước da trắng như tuyết không tì vết của mình bị hủy hoại, cũng không sợ những vết sẹo xấu xí dữ tợn. Nhưng về sau, mỗi lần duỗi tay chạm vào Lục Lệnh Tùng hay ôm lấy các con, vết sẹo ấy sẽ nhắc nhở họ thêm một lần về nỗi khổ sở mà bản thân đã từng trải qua, điều đó ắt hẳn sẽ khiến đôi bên đều mệt mỏi rã rời, quả thật rất khó xử.

Mặc kệ những lời mê sảng mà Tạ Cánh thốt lên khi đầu óc hỗn loạn, hay những tiếng van xin yếu ớt khi y suýt ngất đi rồi lại bị cơn đau giục tỉnh, Ngân Trù đều phớt lờ như không nghe, sắc mặt cô không hề thay đổi, tiếp tục xuống tay, bởi vì cô biết rõ, chỉ có kết thúc nhanh gọn có thể mới giúp y bớt phải chịu cơn đau giày vò.

Trong không gian mờ ảo, những hình ảnh trước mắt tối tăm hơn nhiều so với bên trong phòng. Tầm mắt của Tạ Cánh rơi lên tấm màn lụa mỏng nhẹ, y trông thấy góc nghiêng gương mặt bình tĩnh không gợn sóng của Ngân Trù, thấy cả Tần viện phán cùng mấy vị thái y, những người hầu bưng thuốc —— và bóng dáng cao lớn đứng ngay bên cạnh cửa.

Điện Thần Long dù vô cùng rộng lớn, nhưng tẩm điện của hoàng đế và thiên điện cách nhau chỉ hơn mười bước chân. Thế nhưng những ngày qua, Lục Lệnh Tùng chưa từng sai người đến hỏi thăm lấy một câu, cũng chưa từng xuất hiện trước mặt Tạ Cánh, như thể căn phòng bên cạnh hoàn toàn trống rỗng, không hề có sự hiện diện của y.

Thái độ "hờ hững" và "làm lơ" có chủ đích này đã phần nào xoa dịu nỗi bất an của Tạ Cánh khi sống trong điện Thần Long. Tuy rằng có những lúc thả hồn bay xa, y vẫn không thể kìm lòng mà nghĩ đến Lục Lệnh Tùng, từ những cuộc trò chuyện của các con và cung nhân, y thường cố đoán xem liệu rằng chuyện triều chính có đang quá nặng nhọc hay không, có cần thận trọng trước việc cân bằng giữa các thế lực mới và cũ hay không, liệu có khó để hắn thích nghi với ngai vàng hay không...

Chỉ một bước gần mà như ngàn dặm xa, tưởng chừng xem nhau như người lạ, vì sao bây giờ lại muốn đến đây?

Khi Tạ Cánh còn gắng gượng giữ được chút tỉnh táo, Lục Lệnh Tùng vẫn đứng ở chỗ cũ, không hề động đậy. Mà trong khoảnh trước khi hoàn toàn mất ý thức, mí mắt nặng trĩu sắp sửa khép lại, y chỉ kịp nhìn thấy hắn xoay người bước đi, bóng dáng cao ngất biến mất bên ngoài điện.
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 116


《 27.6 》

Để không phải gặp Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, Tạ Cánh lấy cớ nói rằng sức khỏe của mình vẫn còn yếu, không tiện hoạt động nhiều, nhưng trong lòng lại lo lắng chuyện đưa linh vị của Thôi Thục Thế và A Hoàng trở về nhà họ Thôi, thế là y bèn nhờ chúng ra ngoài cung thay mình cúng bái.

Thôi Tế Thế dẫn hai anh em họ đi đến từ đường, cung kính nói: "Bệ hạ đã ra lệnh phúc thẩm vụ mất cắp ở phủ Tướng vào năm Trinh Hữu thứ mười sáu, Thanh Hà Thôi thị vô cùng cảm kích. Chỉ là gần đây gia đình bận rộn nhiều việc, chưa kịp tạ ơn đã lại phiền chủ tử trong cung nhớ đến, nếu chị tôi và A Hoàng nơi suối vàng có linh, hẳn sẽ biết được rằng nỗi oan khuất đã được rửa sạch."

So với các nội giám trong điện Thần Long, Thôi Tế Thế ăn nói càng thận trọng hơn, gã lựa chọn từ ngữ rất cẩn thận, chỉ mơ hồ gọi Tạ Cánh là "chủ tử trong cung", vừa không mạo phạm thiên nhan, lại vừa không khiến cho Đông cung và công chúa khó xử.

Lục Thư Thanh hàn huyên vài câu rồi thay mặt cha mẹ gửi lời thương xót, sau đó Thôi Tế Thế lui ra ngoài, để họ ở lại tiếp tục làm lễ truy điệu.

Linh vị của Thôi Thục Thế và A Hoàng được lau chùi sạch sẽ, đặt ở tầng dưới linh vị của vợ chồng Thôi Thái úy đã qua đời. Về sau, khi Thôi Tế Thế và các anh em của gã qua đời, thì cũng chỉ có thể được đặt ở vị trí như vậy mà thôi, đây đã được xem là sự đối đãi cao nhất và trang trọng nhất mà người cùng thế hệ trong gia tộc có thể dành cho họ rồi.

Lục Thư Thanh dâng hương, đốt điếu văn do mẹ cậu tự viết, sau đó khẽ nói: "Thanh Hà Thôi thị thật sự biết lý lẽ, họ hiểu rằng nếu không có Thôi phu nhân, họ sẽ không có được công lao ngày hôm nay. Họ cũng biết, chỉ cần thờ cúng linh vị của Thôi phu nhân và A Hoàng chu đáo, dù chỉ vì lòng cảm kích và thương xót, cha mẹ cũng sẽ dành cho con cháu nhà họ Thôi một chút ân huệ."

Lục Thư Ninh nhẹ giọng hỏi: "Em nhớ anh và A Hoàng là bạn của nhau. Chị ấy là người như thế nào vậy?"

"Anh cũng không biết nói sao nữa... Anh không còn nhớ rõ nữa rồi." Lục Thư Thanh thì thào đáp. Người bạn cũ này của cậu thật ra chẳng mấy nổi bật, nếu không được mẹ cậu đặc biệt quan tâm, có lẽ cô bé ấy sẽ mãi mờ nhạt giữa đám đông, giống như một nhánh trúc trong rừng sâu âm u nơi người ta không biết đến, chỉ có ánh trăng sáng chiếu rọi.

"Em ấy đã cùng em vẽ lồng đèn giấy... Chắc là vào dịp Tết Nguyên tiêu. Lúc đó em còn nhỏ lắm, có nhớ gì không?"

Lục Thư Ninh tiếc nuối lắc đầu: "Những chuyện xảy ra trước khi đến Ung Châu, phần lớn em đều quên hết rồi."

Hành động cuối cùng của Thôi Thục Thế khi còn sống khiến người ta quá đỗi kinh hãi, lại diễn ra ngay trước cổng Đại lý tự vào ban ngày, đã sớm lan truyền khắp thành Kim Lăng. Lục Thư Thanh không mất nhiều công sức để biết được toàn bộ sự việc, chẳng cần phải cố gắng tìm mọi cách để dò hỏi tin tức như cậu đã làm trước khi A Hoàng qua đời.

Thực ra họ cũng không thực sự thân thiết, A Hoàng chưa từng hồi âm một bức thư nào, cậu và cô bé cũng chưa bao giờ nói chuyện riêng với nhau. A Hoàng cũng không phải là "người đã mất" đầu tiên mà cậu biết, trước đó, cậu đã mất cả gia đình nhà ngoại và Lục Ngải rồi.

Lục Thư Thanh nhìn lướt qua tên họ của A Hoàng trên linh vị, cậu không cảm nhận được nỗi buồn rõ rệt, chỉ có sự mơ hồ, một sự mơ hồ kéo dài vô tận.

"Chúng ta đi thôi," cuối cùng Lục Thư Ninh nói, "Mẹ sắp về Vương phủ rồi, em muốn ở bên cạnh người thêm chút nữa."

Hai người trở lại cung điện, nhưng vừa đến nơi đã nghe thấy tiếng người ồn ào bên trong Công Xa môn, đêm nay Vũ Lâm Vệ có mặt đông hơn ngày thường, đứng từ xa vẫn có thể nhìn thấy bóng dáng nhiều cung nhân tất bật tới lui. Lục Thư Thanh vén rèm xe lên, bỗng nhiên chau mày lại, bầu trời phía Tây Bắc sáng như ban ngày, trong tầm mắt, cậu chỉ thấy được ánh lửa đang hừng hực cháy.

Một nội giám tiến lại gần nghênh đón, chưa kịp mở miệng thông báo đã nghe Lục Thư Thanh hỏi: "Ở đâu đang bị cháy sao?"

Ở phía Tây Bắc, nằm chếch sau điện Thần Long nhưng lại cách cửa cung không quá xa – đó là điện Lâm Hải.

Nội giám gật đầu: "Là tiên Thái hậu Vương thị, sợ tội nên đốt cung tự vẫn."

Gã nội giám ăn nói rất khéo, hiển nhiên sẽ thuật lại chuyện của Vương thị thành "sợ tội tự vẫn", nhưng Lục Thư Thanh đang sững người, nên đã vô thức hỏi: "Xác định là tự vẫn sao?"

Nội giám khựng lại một chút, chừng như ngạc nhiên vì cậu hỏi như thế: "Bẩm ngài, chuyện này đều là thật, không dám lừa gạt điện hạ nửa phần. Cung nhân bị dọa sợ chạy ra ngoài, nhưng cửa điện đã khóa kín từ bên trong, dĩ nhiên là muốn triệt hết đường sống của mọi người."

Lục Thư Thanh thở dài một hơi, không hiểu vì sao khoảnh khắc này trong lòng cậu lại hiện lên một suy nghĩ, rõ ràng là cậu đang vô thức suy đoán, chẳng biết liệu đây có phải là do cha mẹ cậu lấy danh "tự vẫn", ban chết cho Vương thị hay không...

"Có phải bà ấy đã nghe phong thanh được chuyện gì hay không, sao bỗng nhiên lại chọn tự vẫn vào lúc này?"

Nội giám tiến lên hai bước, nhỏ giọng nói: "Hình bộ và Đại Lý Tự hoàn tất quá trình thẩm tra xử lý vụ án ở phủ Tướng rồi, bản án cũng đã đưa ra, cáo trạng tối nay được dâng lên điện Thần Long, bệ hạ đã có phán quyết, chỉ chờ đến sáng mai thông báo cho các quan lại thôi."

Dạo gần đây, dù Vương thị bị giam lỏng trong điện Lâm Hải, nhưng Lục Lệnh Tùng chưa từng hạ chỉ ra lệnh phong tỏa tin tức, cung nhân chỉ được phép vào không được phép ra, ngay cả khi Vương thị muốn gửi tin ra ngoài cũng hoàn toàn bất lực.

Bà ta chọn kết liễu cuộc đời bằng cách này, có lẽ vì đã nghe được tin kết cục mà cha con Vương Thục sắp phải chịu, cũng biết rằng mẫu tộc đã sụp đổ, không cần phải tiếp tục bận lòng. Hào quang lẫy lừng của Lang Gia Vương thị rồi cũng sẽ hoàn toàn hóa thành tro bụi cùng với bà ta và điện Lâm Hải.

Lục Thư Thanh trầm tư hồi lâu, Lục Thư Ninh ngồi đối diện cậu thò đầu ra hỏi: "Lửa cháy to như vậy, liệu có liên lụy đến người vô tội không?"

Nội giám lắc đầu: "Bẩm công chúa, hình như Vương thị dùng nến đốt cửa sổ, cung nhân trong điện cũng không nhiều, họ đều canh giữ ở ngoài điện cho nên đã kịp chạy ra ngoài. Dù may mắn không cháy lan sang những điện các bên cạnh, nhưng e là toàn bộ điện Lâm Hải đã bị thiêu rụi mất rồi."

"Thiêu rụi toàn bộ..." Lục Thư Ninh lặp lại câu kia. Bốn chữ này cũng có nghĩa là nếu muốn xây dựng lại điện Lâm Hải, họ sẽ phải tốn rất nhiều thời gian cùng sức người sức của, mà cha em chỉ vừa mới lên ngôi, chắc chắn sẽ không hao người tốn của để mà xây dựng rầm rộ.

Có thể tưởng tượng được, tòa cung điện biểu tượng cho quyền lực của Hoàng hậu này sẽ bị bỏ không trong một thời gian dài, như vậy, niềm hy vọng mẹ em có thể vào đó ở sẽ càng thêm mơ hồ và vô vọng.

Sau khi xuống xe ngựa, Lục Thư Ninh hỏi: "Anh sẽ về thẳng Đông cung luôn sao?"

Lục Thư Thanh suy nghĩ một chút rồi đáp: "Anh đi cùng em đến điện Thần Long, ở bên mẹ một chút, anh còn muốn nói vài lời với cha nữa."

Hai người sóng vai băng qua Công Xa môn, đi vào khoảnh sân trống trải, đưa mắt là có thể nhìn thấy được điện Thần Long đèn đuốc sáng trưng, một binh lính Vũ Lâm Vệ lặng lẽ bước đến, cung kính nói: "Việc điện hạ dặn dò, thần đã làm xong."

"Ngươi tìm thấy rồi sao?" Lục Thư Thanh nhìn không chớp mắt, chỉ hỏi.

"Trong hai đội Vũ Lâm Vệ có rất nhiều người được gọi là Trương Tam, nhưng xét về tuổi tác, quê quán, xuất thân và lý lịch thì chỉ có một người trùng khớp. Hắn còn mang theo bút tích của bệ hạ năm xưa làm bằng chứng, cũng đã chỉ ra đồng liêu từng cùng mình cứu Tạ công tử, thần đã đưa hai người tới Ngô phủ để quốc cữu nhận mặt, xác nhận không sai. Vốn định tối nay dẫn họ đến bẩm báo, không ngờ điện hạ lại ra ngoài, cho nên mới chậm trễ tới giờ này."

"Ông cậu đã nhận rồi thì không thể sai được, ngươi chỉ cần báo cho Thôi tướng quân là được rồi," Lục Thư Thanh nhàn nhạt nói, "Hãy sắp xếp cho cả hai vào đội thân vệ của Thái tử. Ngày mai, ta muốn gặp trực tiếp họ ở Đông Cung."

Dân gian vẫn truyền rằng tháng Bảy là "tháng cô hồn", quả nhiên đã mấy ngày liền, tiếng chuông tang ngân vang không dứt.

Kể từ khi Thôi Thục Thế tàn sát cả nhà họ Vương, rồi tự vẫn trước cửa Đại Lý Tự giữa ban ngày, mùi máu tanh trong không khí vẫn chưa tan hết thì vụ án mất trộm ở phủ Tướng năm Trinh Hữu thứ mười sáu đã được thẩm tra xong. Sự việc Vương Khế coi thường nhân luân, làm nhục rồi vu oan cho cháu gái ruột gây chấn động kinh thành, người người khinh miệt. Nghe nói Thái tử đã đích thân đến chiếu ngục "quan tâm đặc biệt", ra lệnh cho hình quan thi hành cung hình, người đã tắt thở ngay trong đêm, nguyên nhân tử vong không rõ.

Không lâu sau đó, tiên Thái hậu Vương thị tự thiêu, đến ngày hôm sau, hai người thân cuối cùng còn sót lại của bà ta là Vương Thục và Vương Hề cũng bị xử trảm ngoài hoàng thành, thủ cấp bị treo lên Tuyên Dương môn thị chúng trong ba ngày.

Cuối cùng là Trương Diên phạm vào tội mưu nghịch, hành thích hoàng đế cùng nhiều tội trạng khác, sau nhiều ngày tuyệt thực đã chết ở trong ngục, rơi vào số phận giống với người vợ đã khuất.

Quốc tang kết thúc, linh cữu của hai vị tiên đế lần lượt được hạ táng. Hoàng lăng Tử Kim Sơn đã phong tỏa, thế nhưng linh cữu của cố Trưởng công chúa Lục Lệnh Chân vẫn còn quàn tại điện Hàm Chương, mãi chưa được nhập thổ.

Tân đế lên ngôi tuy không tổ chức nghi lễ rườm rà, nhưng sau thu vẫn tiến hành truy cứu trách nhiệm và luận công ban thưởng, không sót việc nào.

Lục Lệnh Tùng chấn chỉnh lại Vũ Lâm Vệ, còn tàn dư của Lang Gia Vương thị trong quân kinh kỳ: kẻ giữ chức cao thì xử tử, chức trung thì điều đi nơi khác, chức thấp thì vỗ về an trí. Những tướng lĩnh như Lý Kỳ, Trịnh Kiêu, Thôi Tế Thế... từng có công phò rồng trong biến cố đảo Bát Quái lần lượt được thăng chức lĩnh hàm. Hai chị em họ Lý cũng chủ động ra trận: Lý Huống nhậm chức Giáo úy tại Nam đại doanh, Lý Dã cùng Tạ Tuấn quản lý Hạc Vệ, trấn giữ cung thành, hoàn toàn độc lập và ngang hàng với Vũ Lâm Vệ, nhưng chỉ nghe theo lệnh của Đông cung và công chúa.

Tuyên Thất lại được hoạt động công khai như tiền triều, vẫn do thiên tử khống chế. Tiêu Dao trở thành thủ lĩnh đầu tiên của Tuyên Thất được chính thức ban chức, nhận lộc, không cần phải che giấu thân phận. Lục Lệnh Tùng thực hiện lời hứa giữa hai người năm xưa, xá tội cho những tộc nhân vô tội của Lan Lăng Tiêu thị, cho phép họ trở về quê nhà từ những nơi lưu vong.

Hổ Sư bị chia năm xẻ bảy nay cũng đã được khôi phục lại thành đội ngũ ba vạn quân như cũ, sẽ cùng ngự giá thân chinh Mạc Bắc, báo huyết thù cho Trưởng công chúa. Đại quân quyết định xuất phát vào ngày mười tám tháng Tám, Thái tử ở lại triều đình giám quốc, Tả tướng tân nhiệm Hà Cáo phụ chính.

Đêm trước ngày lên đường, cuối cùng Lục Lệnh Tùng cũng bước vào điện Minh Loan, quỳ xuống sau lưng mẹ mình: "Triều cục tạm ổn, mọi việc đã vào quỹ đạo, ngày mai nhi thần dẫn Hổ Sư đến phía Bắc, nhất định sẽ đưa Chân Chân về nhà."

Ngô thị đứng một mình trước cửa sổ, vừa qua Trung thu chưa bao lâu, trăng vẫn còn chưa khuyết nhiều, cả gian phòng tràn ngập ánh sáng ảm đạm như nước.

Tóc mai của bà đã bạc trắng.

"Lễ bộ đến hỏi quần áo cũ của con bé, nói bây giờ trong quan tài chỉ có quân trang dính máu, là đồ mà nó thay trước khi vội vàng rời Ung Châu, còn chưa kịp giặt, chỉ sợ sát khí nặng nề, xuống suối vàng cũng không được yên giấc."

"Con cũng đừng trách bọn họ. Đám cung nhân nói, khi còn sống Lệnh Chương đã đặc biệt ra lệnh không cho bất kì ai nhắc đến chuyện của con bé với mẹ, đến cả Vương thị cũng có lòng tốt lừa gạt mẹ. Nhưng đây là chuyện có thể giấu giếm được hay sao? Mấy lần con nói với mẹ 'Sắp kết thúc rồi', 'Sắp trở về rồi', trong lòng mẹ đã mơ hồ đoán ra được."

"Toàn bộ quần áo trong rương kia đều là quần áo của nó, hơn mười bộ đều là đồ mẹ may trong nửa năm nay đấy, con bé chưa từng mặc, cũng chưa từng nhìn thấy, mẹ nhìn hoa hết cả mắt rồi, không biết nên đưa cho họ bộ nào mới được."

"Vậy nên mẹ đã gọi Lễ bộ Thượng thư đến, mẹ nói, đẹp xấu gì thì cũng cho mẹ nhìn con bé một lần đi, chỉ một lần là được, mẹ sẽ biết ngay là nên cho nó mặc cái gì."

Ngô thị hơi xoay người lại, ngạc nhiên khi thấy con trai lớn của bà đang khom lưng quỳ gối: "Dù không thể nhận dạng, dù... Không trọn vẹn cũng không sao, mẹ vẫn không sợ, mẹ có thể chấp nhận, chỉ cần cho mẹ nhìn một lần thôi là được."

Rồi bà lặng lẽ nở nụ cười: "Nhưng ông ta nói cho mẹ biết, không có gì hết. Bọn họ trở về mà không tìm được con bé."

Lục Lệnh Tùng siết chặt nắm đấm, kiềm chế để bản thân không run lên dữ dội, lắng nghe giọng nói nghèn nghẹn của Ngô thị: "Na Tra trong truyền thuyết còn có thể lóc xương trả cha, lóc thịt trả mẹ, nhưng con bé là một người còn sống sờ sờ trên đời cơ mà! Nó là con gái của mẹ, tóc da của nó là do mẹ cho, nó là máu thịt chui ra từ trong bụng mẹ, cớ sao chẳng để lại cho mẹ thứ gì hết vậy?"

Trong điện lặng đi rất lâu, Lục Lệnh Tùng ngước mắt nhìn mẹ mình, Mỹ nhân tuổi xế chiều vốn chẳng phải điều gì đáng sợ, nhưng khiến người ta hoảng hốt chính là đôi mắt kia cũng đã già đi, trong đôi mắt ấy, hắn chỉ thấy được một điều mà suốt ba mươi hai năm qua chưa từng thấy, đó là sự tuyệt vọng vô cùng tận.

Giây phút này, bất cứ lời nói nào cũng trở thành dư thừa. Sau tất cả những gì đã qua, hắn chợt hiểu ra được cảm giác hoàn toàn mất đi niềm vui trên đời của Tạ Cánh bắt đầu từ đâu. Kể từ khi Lục Lệnh Chân chết trận, tất cả mọi sự việc, mọi biến cố, trọng trách và hiểm nguy dường như cùng lúc ập đến cuộc sống của hắn. Lục Lệnh Tùng chỉ biết vắt kiệt sức lực và tâm trí để đối phó, hắn không dám cho bản thân có cơ hội dừng lại, hiển nhiên cũng chẳng còn hơi sức mà nghĩ tới, liệu có phải trong vô thức, hắn cũng từng để lộ cảm xúc tuyệt vọng giống hệt như mẹ mình lúc này?

Trong mắt Lục Lệnh Tùng, dáng vẻ của mẹ lúc này chỉ khiến hắn cảm thấy ruột gan quặn đau; vậy thì tình cảnh của hắn hôm đó, nếu để lọt vào mắt Tạ Cánh, há lại không khiến lòng y đau như dao cắt, bi thương khôn xiết?

"Dù sống trong điện Hàm Chương lâu như vậy, nhưng con bé vẫn còn để lại rất nhiều đồ đạc ở chỗ mẹ, đến tận bây giờ, nó gần như cũng chưa chuyển đi hết tất cả, lúc nào cũng bỏ quên đồ ở điện Minh Loan. Mấy ngày nay mẹ đã sai người thu xếp lại di vật của con bé, con biết mẹ đã tìm thấy gì không?"

Ngô thị vịn lấy cánh tay Lục Lệnh Tùng, đỡ hắn đứng dậy, trong tay áo trượt ra một vật nhỏ chiếu sáng lấp lánh, bà giao lại cho hắn: "Tử Phụng, con còn nhớ thứ này không?"

Lục Lệnh Tùng cúi đầu nhìn xuống, thoáng chốc thất thần, chừng như giật mình nghĩ ngợi, khóa trường mệnh mà Lục Thư Thanh luôn đeo bên cổ không rời nửa bước sao lại rơi vào tay tổ mẫu của cậu được?

Nhưng chất ngọc làm nên thân khóa này lại không phải là ngọc Hòa Điền, chữ khắc cũng khác, trên mặt khóa còn có vài vết sứt mẻ.

"Đây là khóa trường mệnh của Chân Chân," Lục Lệnh Tùng dùng đầu ngón tay chạm nhẹ vào những vết xước, "Cái mà em ấy đã làm mất hơn mười năm trước."

Ngô thị thở dài: "Con bé cứ kêu là mất rồi, còn đổ thừa là nó chạy mất, không thấy đâu nữa, khóa ngọc mọc cánh bay đi rồi... Hóa ra từ đầu đến cuối, thứ này vẫn luôn nằm trong một góc nào đó ở điện Minh Loan."

Lục Lệnh Tùng nắm chặt khóa ngọc tròn trịa nhẵn bóng lớn cỡ hòn sỏi trong tay, từng bước chầm chậm quay trở về điện Thần Long. Hoa quế ở Kim Lăng đang độ nở rộ, hương thơm ngọt dịu trong trẻo lan tỏa khắp trong ngoài tường cao. Chỉ là tiết trời mỗi lúc một lạnh hơn, hắn đi về dưới trăng, ánh sang bạc trải đầy mặt đất, tựa như đang thật sự bước đi trên cung trăng, nơi trời mây hòa vào làm một.

Lục Thư Thanh ở Đông cung, Lục Thư Ninh ngủ lại điện Minh Loan, trong điện Thần Long ngoài các nội giám và cung nữ thì không còn vật sống nào khác. Lục Lệnh Tùng cứ thế vô thức đi đến bên ngoài bậc cửa thiên điện, lúc này hắn mới chợt nhớ ra Tạ Cánh đã dọn về Vương phủ được gần một tháng, cho dù hắn có đứng đây cả đêm cũng không thể chờ nghe được đôi ba câu lơ đễnh của y như trước nữa.

Trong điện không thắp đèn. Hắn cứ thế đứng giữa điện chừng một nén nhang, sống lưng cứng đờ cuối cùng cũng thả lỏng, rồi hắn ngồi bệt xuống sàn. xoay lưng lại với cánh cửa đồng rộng mở.

Đêm càng khuya, sương càng dày, Lục Lệnh Tùng cảm thấy làn gió lướt qua chân tóc mang theo hơi ẩm như thể trời vừa mưa xong. Hắn chỉ mặc một lớp áo mỏng, không kìm được mà khẽ rùng mình, bên má chợt có giọt nước rơi xuống, cảm giác như chạm vào ngọc, khi mới vừa chạm thì lạnh lẽo, nhưng để lâu lại trở nên bỏng rát.

Chẳng biết đã qua bao lâu, đến khi nghe thấy tiếng bước chân quen thuộc vang lên sau lưng, Lục Lệnh Tùng mới chắc chắn rằng hai mắt hắn đến giờ vẫn còn hoen đỏ.

Một chiếc áo choàng mỏng vừa phải phủ lên vai Lục Lệnh Tùng, người đến vòng tay ra trước cổ hắn, cẩn thận buộc dải áo lại. Trong lúc cử động, cánh tay phải quấn đầy những lớp băng gạc của y lộ ra khỏi tay áo, chúng vẫn chưa được tháo xuống.

Tạ Cánh cầm đèn lồng bước vào trong, đặt đèn xuống cách chân mấy bước, ánh sáng kéo cái bóng một đứng một ngồi của hai người nghiêng dài ra, trải tới tận sâu trong điện.

"Tìm ở chính điện không thấy bệ hạ đâu, cung nhân nói người đã về được một lúc rồi, nhưng ở tẩm điện cũng không có ai."

Y vòng qua phía trước Lục Lệnh Tùng, quỳ ngồi xuống, dường như cố tình lảng tránh ánh mắt của hắn, chỉ lặng lẽ đưa hai tay ra, nhẹ nhàng phủ lên nắm đấm mà hắn vẫn siết chặt từ nãy, khẽ xoa vài lượt, truyền hơi ấm cho đôi bàn tay lạnh buốt ấy.

Lục Lệnh Tùng không hề phản ứng, hắn không đưa tay ra nắm lại tay y, càng không lên tiếng hỏi y đến đây làm gì.

Tạ Cánh chỉ thấp giọng nói, nhẹ nhàng như đang kể chuyện thường ngày: "Nghe nói bệ hạ lại sắp viễn chinh. Nhưng thần đã hẹn với Tuấn Nhi sẽ hộ tống linh cữu cha mẹ cùng anh chị về quận Trần, sáng sớm ngày mai lên đường, chỉ sợ không kịp rời thành để tiễn bệ hạ."

"Đêm thu ẩm lạnh, thần sẽ không nán lại lâu, chỉ lắm lời nói thêm một câu, bệ hạ nghe xong thì hãy mau chóng về nghỉ ngơi."

"Chuyến này đến tận biên ải mênh mang, cách xa quê nhà vạn dặm," Tạ Cánh buông tay Lục Lệnh Tùng, quỳ gối lùi về sau hai bước, cúi người, dùng tư thế không thể cung kính hơn, không thể thần phục hơn, dập đầu hành lễ thật sâu trước hắn, "Thần mong bệ hạ võ vận hưng long, giương cờ tất thắng."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 117


《 28.1 》

Tạ Cánh khởi hành từ lúc trời còn chưa sáng rõ, y không mang theo nhiều gia đinh, trang bị gọn nhẹ cùng Tạ Tuấn đưa linh cữu cha mẹ, anh trai và chị dâu về quận Trần. Quan đạo phía Bắc lẽ ra đã bắt đầu bị phong tỏa từ đêm qua nhằm nhường đường cho Hổ Sư sắp viễn chinh, nhưng Tạ Cánh có thân phận đặc biệt, trong cung đã hạ chỉ, thông báo đến thủ vệ cho chú cháu y đi qua.

Khi đoàn người qua cổng thành, đã thấy có một chiếc xe ngựa đang dừng đợi ở bên đường, trong buồng xe chỉ có Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh, tuy rằng trời vẫn còn sớm, nhưng hai anh em vẫn quyết định tiễn đến tận đây.

Tạ Cánh bảo Tạ Tuấn và các tùy tùng đợi một lúc, sau đó y bước vào buồng xe: "Sao hai đứa lại đến đây? Ăn sáng rồi mới đi à?"

Lục Thư Ninh gật đầu, đưa hộp đựng thức ăn đến: "Bọn con mang ít điểm tâm đến, trên đường đi mẹ và anh có đói bụng thì ăn."

Tạ Cánh mở nắp hộp ra nhìn thoáng qua, bên trong là bánh ngọt bốn vị, đều là món ăn quen thuộc do Lục Lệnh Tùng làm.

Y sửng sốt một chút, đóng nắp hộp lại rồi nhỏ giọng nói: "Cần gì đến tiễn mẹ, cũng không phải là đi luôn không về, chẳng phải đêm qua ở trong cung đã nói chuyện rồi sao? Cùng lắm là ba tháng, chậm nhất là đến gần cuối năm mẹ chắc chắn sẽ về đến kinh thành. Các con nên đi tiễn cha thì hơn, đao thương không có mắt, chiến trường hung hiểm, ở cùng cha lâu hơn một chút mới là quan trọng."

Lục Thư Thanh đáp: "Thiên tử thân chinh phải làm lễ tế tông miếu cầu mong tổ tiên che chở, sau khi từ biệt mẹ, bọn con sẽ về ngay."

Tạ Cánh lại dặn dò: "Thời gian này Thanh Nhi phải giám quốc, mọi việc quân chính đều có thể nhờ vả Hà đại nhân và Tiêu sư phụ của con, Lý tướng quân tuy đi cùng Hổ Sư, nhưng Trịnh tướng quân và chị em họ Lý đều đáng tin cậy. Đài cao đã dựng lên cho con, giờ là lúc nên để con mạnh dạn thử cánh, lôi kéo lòng dạ những người sẽ thuộc về con. Nếu có chuyện gấp, con chỉ cần gửi thư cho cha mẹ là được."

Lục Thư Thanh đáp ứng từng việc một, Tạ Cánh căn dặn thêm vài câu nữa, lúc chuẩn bị đứng dậy rời đi, y không ngờ tay áo lại bị Lục Thư Thanh túm lấy. Vẻ mặt của cậu không được tự nhiên, dường như có lời gì không dám nói ra khỏi miệng, từ lúc bước lên xe ngựa Tạ Cánh đã nhận ra sự khác thường của cậu, y ngồi xuống trở lại, hỏi: "Thanh Nhi, con còn muốn nói gì với mẹ không?"

Cậu vẫn lúng túng, Lục Thư Ninh ngồi bên cạnh không chịu nổi, đáp thay: "Anh đang sợ đó mẹ!"

"Ninh Ninh!" Lục Thư Thanh nhỏ giọng ngăn lại.

Tạ Cánh ngạc nhiên: "Con sợ cái gì?"

Lục Thư Thanh quay đầu đi, chần chừ hồi lâu, Lục Thư Ninh lại giúp cậu bày tỏ nỗi lo lắng: "Mẹ nói chắn chắn sẽ về kinh, nhưng anh không dám tin, sợ mẹ đau buồn, oán hận Kim Lăng, về quận Trần rồi không muốn trở lại nữa."

Tạ Cánh nghe vậy giật thót, y ôm vai kéo Lục Thư Thanh lại, thân mật mà dịu dàng hỏi cậu: "Trong lòng con sợ hãi, vậy sao đêm qua lúc tạm biệt con không nói với mẹ?"

Hai hàng mi Lục Thư Thanh run rẩy: "... Con vốn đã định hỏi rồi, chỉ là trong lòng cứ thấp thỏm, không dám quyết định, nên đã hỏi Ninh Ninh trước để bàn bạc. Nhưng Ninh Ninh nói, dù mẹ có chọn ở lại quận Trần, hay là đi đến nơi nào khác, thậm chí... Thậm chí nếu mẹ chỉ muốn tìm đến cái chết — chỉ cần đó là điều mẹ thật sự muốn, thì thế nào cũng được, em đều có thể chấp nhận hết. Mẹ không cần phải ép bản thân về kinh, hoặc ở lại bên cha vì bọn con."

"Con cảm thấy Ninh Ninh nói rất có lý, hóa ra là vì con ích kỷ, cho nên không dám hỏi, sợ mẹ nghe được lại mềm lòng."

Giọng nói của c** nh* dần rồi tan mất, không chỉ Tạ Cánh im lặng, mà Lục Thư Ninh cũng hơi hoảng. đương nhiên em không nghĩ rằng phía sau câu hỏi tình cờ của anh trai lại có nhiều suy nghĩ như vậy, em bỗng chốc cảm thấy hối hận vì bản thân nhanh mồm nhanh miệng nói nỗi lo của Lục Thư Thanh cho mẹ biết, quan tâm quá ắt loạn.

Trong buồng xe yên tĩnh hồi lâu, sắc trời bên ngoài đã dần sáng, Tạ Cánh khó nhọc cất lời: "... Bên trong tim đèn không hề có cái gọi là vương quốc thu nhỏ nào hết, con người sau khi chết đi chính là âm dương cách biệt, nếu như mẹ thật sự chết đi, chúng ta sẽ vĩnh viễn không thể gặp lại nhau nữa, Ninh Ninh, con vẫn luôn hiểu mà, phải không?"

Lục Thư Ninh không đáp. Ngây thơ là một thứ xa xỉ, mà sự thật là sau khi rời khỏi phủ Chiêu Vương vào năm bốn tuổi, em đã không còn có quyền được tin vào những câu chuyện đẹp đẽ nữa. Là mẹ, là cha và anh, là người cô mất sớm và tổ mẫu già yếu, từng người họ đã thay nhau dệt nên lớp vỏ bọc ngọt ngào như mật ấy cho em. Thế nhưng em có một đôi mắt trong trẻo và sáng rõ, em đã tự mình nhìn thấy, cũng hiểu được tất cả.

Giờ khởi hành đã cận kề, không còn thời gian để nói nhiều, Tạ Cánh chỉ có thể dang tay ôm chặt cả hai đứa trẻ vào lòng. Chóp mũi lành lạnh của Lục Thư Ninh kề vào dưới cổ y, còn Lục Thư Thanh thì cúi đầu xuống, nhẹ nhàng áp má vào má y.

Cuối cùng, y nghiêm túc nhẹ giọng hứa hẹn: "Nghe đây, mẹ không lấy thân phận của một người mẹ, mà chỉ lấy danh nghĩa của Tạ Cánh để thề với các con rằng mẹ nhất định sẽ trở về. Trước khi mẹ trở lại, hai con không cần phải sợ hãi bất cứ điều gì cả."

Lục Thư Thanh và Lục Thư Ninh cúi người hành lễ trước bốn cỗ quan tài, rót rượu tiễn biệt, sau đó đứng bên trong cổng thành dõi theo đoàn người dần khuất. Sương đêm khiến cảnh thu thêm phần tiêu điều, người lên đường sớm khoác trên mình bụi gió kinh hoa rời đi. Trên quan đạo thênh thang chỉ có vài cỗ xe ngựa, cùng với bốn cỗ quan tài cô quạnh, dưới màn trời hửng sáng, đoàn xe chậm rãi lăn bánh đi xa.

Oán lại oán nơi khúc núi xa, Đi lại đi về bến sông dài.

Chẳng biết đã qua bao lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng vó ngựa, Lục Thư Thanh ngoảnh lại, ngạc nhiên thốt lên: "Y Vân? Sao ngươi lại tới đây?"

Y Vân được cậu đưa theo đến Đông cung, lúc này trên lưng nó không đeo yên, có lẽ là nhân lúc cung nhân vào chuồng ngựa cho ăn, nó đã tự ý chạy ra đây. Hiếm khi Y Vân để lộ vẻ lo lắng, nó chạy đến bên cạnh hai anh em, trông ngóng theo hướng Tạ Cánh rời đi.

"Đó là mẹ và anh họ, bọn ta đến tiễn mẹ về quê," Lục Thư Thanh phỏng đoán suy nghĩ của nó, "Cha vẫn chưa rời kinh đâu. Ngươi đến tìm cha sao? Có phải ngươi muốn đi cùng với Hổ Sư không?"

Đương nhiên Y Vân không thể trả lời cậu, nhưng hơi thở đầy bất an đã dừng bặt, nó dần bình tĩnh lại.

Tạ Tuấn sống ở kinh thành từ nhỏ, mười mấy tuổi gia đình lại gặp biến cố, cho nên tới tận bây giờ khi đã đến tuổi cập quan, cậu vẫn chưa từng về quận Trần lần nào.

Suốt một tháng nay kể từ khi quay về ngõ Ô Y, cậu đã tu sửa lại nhà cũ, chọn ra một tốp nô bộc và thị nữ mới, cố gắng khôi phục mọi thứ lại như xưa, sau đó sai người lấy danh sách các hạ nhân đã mất trong vụ án năm Trinh Hữu thứ mười bảy rồi tìm đến từng nhà một, xem người thân của họ có còn sống trên đời hay không, nếu có thì hỗ trợ tiền của, hoặc là cung cấp cho họ một công việc để nuôi sống gia đình.

Đoàn người đã đi được hơn mười dặm, rời khỏi quan đạo ở ngã ba đường, rẽ vào đường núi dẫn đến bến đò sông Hoài. Tạ Cánh vén rèm xe, y ngồi song song với Tạ Tuấn ở phía trước, đột nhiên nghe cậu mở lời: "Nếu chú thấy sống ở phủ Chiêu Vương — à không, ý con là ở tiềm để — có nhiều điều bất tiện, chi bằng cứ trở về ngõ Ô Y đi. Nhà mới vừa sửa sang xong, để trống cũng phí, bệ hạ sẽ không nói gì đâu."

Nhưng Tạ Cánh lại khẽ lắc đầu: "Thứ nhất thân phận chú vốn đã lúng túng, bây giờ lấy danh nghĩa gì để mà quay về nhà mẹ đẻ ở đây? Bên ngoài người ta thích nhất là bàn tán những chuyện kiểu này, đến lúc đó liên lụy đến mặt mũi của con và các em con thì thật chẳng hay chút nào. Thứ hai, nếu con để một 'trưởng bối' như chú ở trong nhà, sau này Lý Dã biết xử sự làm sao?"

Tạ Tuấn không tỏ rõ ý kiến, chỉ cười khổ một tiếng. Tạ Cánh thấy sắc mặt cậu như vậy, bèn bóng gió hỏi: "Mấy tháng con không ở kinh thành, công việc của Hạc Vệ đều giao hết cho một mình Lý Dã sao?"

Tạ Tuấn gật đầu: "Nghe Lý Huống nói, từ sau khi Phương Trần đảm nhiệm vị trí dẫn đầu Hạc Vệ, Lý phu nhân cũng đã buông tay, không can thiệp gì vào việc của nàng nữa. Có nàng toàn quyền phụ trách, con cũng chẳng cần phải lo đến công vụ."

Nghe vậy, Tạ Cánh biết Tạ Tuấn và Lý Dã đã tháo gỡ được khúc mắc thuở thiếu niên, thế nên cũng không nhiều chuyện xen vào thêm nữa.

Tạ Tuấn nhìn vô định về phía con đường trước mặt một lúc, rồi lại chợt hỏi: "Thời gian còn ở tiềm để, chú với bệ hạ... Đã từng cãi nhau chưa?"

Tạ Cánh đáp không chút do dự: "Dĩ nhiên là rồi."

Trong suốt những năm tháng dài đằng đẵng sớm chiều bên nhau ấy, y và Lục Lệnh Tùng không chỉ từng cãi vã, mà những va chạm lớn nhỏ cũng nhiều không đếm xuể, không động tay động chân chẳng qua là vì sức lực đôi bên quá chênh lệch, đương nhiên Lục Lệnh Tùng không thể đơn phương đánh y, nhưng nếu hai người thực sự ngang tài ngang sức, thì chuyện đánh nhau cũng chưa chắc sẽ không xảy ra.

Tuy là người quen thuộc với đối phương nhất, nhưng không phải lúc nào cả hai cũng công nhận ý kiến của nhau, phần lớn thời gian là bất đồng quan điểm. Có lúc thậm chí họ còn chẳng hiểu nổi đối phương đang nghĩ gì trong đầu, hay tại sao lại có thể đưa ra quyết định như thế. Nói ngắn gọn thì chính là: Hiểu nhưng không thấu.

Tạ Cánh vốn nổi tiếng với tính tình kiêu căng ngang ngược; còn Lục Lệnh Tùng dù là một người hiền hòa, nhưng tuổi trẻ khí thịnh, một khi nổi nóng thì cũng không chịu nhường nhịn ai. Thế nên giữa hai người không thiếu những lần cãi nhau kịch liệt, cãi đến mức nhìn kiểu gì cũng thấy đối phương chướng mắt lại càng diễn ra thường xuyên hơn. Có đôi lúc tức đến choáng váng cả đầu, y đã từng không nhịn được mà nghĩ: Rốt cuộc năm xưa mình vừa ý cái người này ở điểm nào vậy?

"Đột nhiên con lại hỏi chuyện đó làm gì?"

Tạ Tuấn cười, lắc đầu: "Con vốn gặp phải vài chuyện khó khăn, không biết nên giải quyết thế nào, định hỏi chú chỉ điểm một chút. Nhưng xem ra, đến cả thần tiên quyến lữ như chú và bệ hạ còn có lúc giận dỗi, vậy thì vấn đề của con cũng chỉ là chuyện thường tình ở đời, không thể giải quyết bừa bãi, chỉ có thể đối mặt mà thôi."

Tạ Cánh trầm ngâm một lát, rồi quyết định hỏi thẳng: "Chuyện giữa con và Lý tiểu thư, chú không thể quyết định thay con, vậy nên cũng sẽ không hỏi đến chuyện thành thân. Chú chỉ hỏi chuyện lập nghiệp thôi, con tính thế nào?"

Tạ Tuấn suy nghĩ một hồi rồi chậm rãi đáp: "Trong đầu con vốn đã tính thế này: nay chú đã không còn ở trong cung, nhà họ Tạ tuy là nhà ngoại của Đông cung, nhưng Thanh Nhi vẫn chưa kế thừa đại thống, thế lực cũng có hạn, khó gây sự chú ý. Con cứ tiếp tục đảm đương chức vụ ở Hạc Vệ, cũng xem như giúp đỡ được Thanh Nhi — lời nào khó nói, con sẽ giúp người đi nói; có chuyện rắc rối, con sẽ đứng ra giải quyết thay."

"Nhưng nếu sau này chú trở thành chủ Trung cung, có thể ở gần bên cạnh, che chở cho Thanh Nhi, vậy con nghĩ mình cũng có thể gác lại trọng trách này. Không phải vì nghi ngờ tấm chân tình của bệ hạ dành cho chú, chỉ là con đã từng một lần bước qua quỷ môn quan, nghĩ kỹ lại, công danh phú quý ấy thật sự chẳng có gì đáng để luyến tiếc cả."

Ánh mắt của cậu có chút lơ đãng: "Nhưng mà... Ông và cha vẫn luôn kỳ vọng ở con, đến cuối cùng, họ vẫn chỉ mong con bước đi trên con đường chính thống: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ."

Tạ Cánh vỗ nhẹ lên lưng cậu: "Bọn họ từng bước đi lên từ con đường ấy, trông mong con gây dựng sự nghiệp là điều khó tránh khỏi; nhưng dù kỳ vọng có lớn lao đến đâu, đứng trước máu mủ tình thân, chung quy vẫn có thể thỏa hiệp được. Nếu con thật sự có thể không lo lắng, không sợ hãi mà thuận theo lòng mình, thì ông bà, cha mẹ con ở suối vàng cũng có thể yên lòng mà thở phào một hơi rồi."

Từ lần trước Tạ Cánh trở về quận Trần đến nay cũng đã gần tròn mười năm. đầu năm nay Lục Lệnh Tùng từng đích thân đến một chuyến để cứu trợ thiên tai, tuy lúc về không kể tỉ mỉ tình hình quê cũ, nhưng Tạ Cánh cũng đoán được tám chín phần.

Nguyên quán của họ ở gần Dương Hạ, so với cảnh tượng đêm Nguyên tiêu phồn hoa mà họ đã từng dạo chơi năm xưa, giờ đây thành quách đã vắng đi quá nửa, chỉ lác đác vài hàng quán còn mở cửa, trên đường cũng chẳng có mấy bóng người.

Nguyên nhân gần như là do thiên tai, còn về tai họa xa hơn — nhà họ Tạ vốn là hào tộc lớn ở địa phương, cả dòng họ cùng thông gia cộng lại đã chiếm gần nửa dân số trong thành. Khi bị liên lụy phạm tội, đàn ông trong nhà buộc phải đi biệt xứ, những người già yếu, phụ nữ và trẻ em còn ở lại không gánh nổi gia nghiệp cũng lần lượt rời đi, đến nơi khác để mưu sinh.

Tạ Tuấn chưa từng thấy dáng vẻ của thành Dương Hạ năm xưa, ban đầu còn chưa thở dài xót xa như Tạ Cánh; nhưng đến khi quay về tổ trạch, chứng kiến khắp nơi chỉ toàn là tường đổ vách sập, cậu lại sững người tại chỗ, hồi lâu không nói nên lời.

Bên trong nhà vẫn còn vài người cùng dòng họ ở lại, nhưng đôi bên lại chẳng quen biết lẫn nhau. Ra mở cửa là một người trẻ tuổi, nghe Tạ Cánh và Tạ Tuấn giới thiệu xong, cậu ta sợ hãi quỳ xuống dập đầu, còn tưởng là trong kinh lại giáng thêm tội xuống.

Tạ Tuấn vội dìu cậu ta đứng dậy, nói rõ ý định, chàng trai mới nơm nớp lo sợ dẫn họ vào trong, vừa đi vừa giải bày: "Vào năm Trinh Hữu thứ mười bảy khi biến cố xảy ra, tổ trạch cũng bị sao kiểm, căn phòng mà Vương phi từng ở cũng đã bị đập hủy từ lúc đó. Đầu năm nay bệ hạ có trở về đây một lần, thu dọn và mang đi vài món đồ cũ, đến giờ trong nhà thật sự là trống trơn hết rồi, không còn lại gì nữa."

Tạ Tuấn nhìn quanh trong ngoài phòng khách, thì thảo hỏi: "Bệ hạ đã hạ chỉ xóa sạch tội danh cho Trần quận Tạ thị, vậy mà không có người trong họ nào trở về sao?"

Chàng trai bất lực nói: "Có ai mà lại không muốn quay về đâu, nhưng thật sự trở về được bao nhiêu người chứ? Gia đình sa sút, họ dựa vào cái gì để mà sống ổn định đây?"

Tạ Cánh bước chậm về viện cũ của mình, cửa sổ giấy rách nát bị gió thổi vang lên những tiếng phần phật hỗn loạn; bậc cửa nơi Lục Thư Thanh từng ngồi ăn cơm chiên trứng giờ chỉ còn lại một nửa. Hai cánh cửa trượt bị gió đẩy xoay ra rồi lại xoay vào, chậm rãi đong đưa, năm tháng cũng theo đó xoay vần, rồi chẳng biết đã đi đến đâu.

Trong phòng ngủ vẫn còn để lại chiếc giường khung gỗ của Tạ Cánh, đó đã từng là nơi y ngủ một mình, cũng từng là nơi y ngủ cùng Lục Lệnh Tùng. Dưới gầm giường không còn đồ vật gì cả, chú hổ vải mẹ tự tay khâu mà Lục Lệnh Tùng mang về cho y có lẽ chính là vết tích cuối cùng chứng minh rằng y đã lớn lên ở quận Trần.

Tạ Cánh cảm thấy từ sâu trong xương tuỷ dâng lên một luồng khí lạnh thấm dần ra da thịt. Lần trước, khi trở về nơi này, quyển sách lật úp trên bàn thậm chí vẫn dừng lại đúng trang mà y tiện tay lật tới trước lúc rời đi.

Trong sân, Tạ Tuấn vẫn còn đang hỏi chuyện: "Tài sản ruộng đất bị tra xét và tịch thu chẳng phải nên trả về nguyên chủ ư? Sao vẫn thành ra thế này?"

Tạ Cánh nghe không rõ câu trả lời của chàng trai nọ. Nhưng "trả về nguyên chủ"... Có thể trả lại được bao nhiêu đây? Phần lớn e là đã hóa thành tiền cứu trợ cho mùa đông năm ngoái, hoặc suốt năm năm qua, chúng đã bị tiêu sạch vào công phí của phủ nha rồi.

Y bỗng bật cười thê lương, nhưng nghĩ theo hướng tích cực thì ít ra trong hai triều của Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh sắp tới, đám quan lại kia sẽ chẳng còn cơ hội dâng tấu buộc tội "ngoại thích can chính" nữa. Một gia tộc suy tàn đến mức này, thân thích chẳng còn lòng cầu danh lợi, bản thân lại là "vợ cả của thiên tử", "sinh mẫu của Đông cung" mà chẳng được phong tước miện, y còn có thể can thiệp được vào chính sự gì đây?

May mắn hơn hết chính là phần mộ tổ tiên vẫn còn, tuy giờ đây trông tiêu điều hoang vắng, nhưng chí ít vẫn có người trông coi, thỉnh thoảng sửa sang hương khói. Tạ Tuấn đã đến chùa trong thành nhờ trụ trì chọn giờ lành ngày tốt, cuối cùng bốn vị trưởng bối cũng đã được an táng yên ổn.

Khoảnh khắc hạ huyệt không có tiếng khóc nức nở, cũng chẳng có âm thanh bi thương nào, thậm chí khó mà tìm ra được biểu hiện đau buồn trên khuôn mặt của Tạ Cánh và Tạ Tuấn. Nỗi đau trong quá khứ thật sự đã kéo dài quá lâu, quá sâu và quá nhiều. Thứ cảm xúc ấy cũng sẽ khiến con người ta mỏi mệt, có lẽ ngay tại khoảnh khắc vừa mất đi, vết thương lòng kia đã bị đục xuyên qua, để rồi suốt phần đời còn lại, mỗi lần vô tình cọ xát, những gì mà họ nếm được chỉ còn là cảm giác tê dại và đau đớn mơ hồ mà thôi.

Khi khâm liệm, Lục Lệnh Tùng đã dùng loại quan tài bằng gỗ lim quý giá nhất. Ngoài việc sắm sửa thêm đồ vàng mã, Tạ Tuấn còn đem theo tất cả di vật lúc sinh thời của ông bà cha mẹ ở ngõ Ô Y để cùng chôn theo. Nếu thật sự để tâm đến cái gọi là "lễ tang long trọng" thì Tạ Cánh đã không từ chối việc đưa cha mẹ cùng anh và chị dâu an táng ở núi Bắc Mang rồi, nhưng thật nực cười thay, dù nằm xuống kề bên có là vương hầu khanh tướng hay thân quyến áo vải, dù có được tổ chức đại tang long trọng khiến muôn người rơi lệ đi nữa, thì người đã chết rồi cũng đâu thế sống lại?

Đêm hôm đó, Tạ Cánh ở lại từ đường một mình, lau chùi sạch sẽ bốn tấm bài vị mới lập xong, y quỳ xuống, chắp tay hành lễ, sau đó hơi ngẩng mặt lên lặng lẽ nhìn vào khoảng không trước mặt.

"Mấy ngày nay con thường nghĩ, liệu cứ khăng khăng đưa mọi người về quận Trần có phải là việc làm đúng đắn hay không?"

"Kể từ lúc mọi người ra đi, khi đứng trước tất cả những lựa chọn, con đều do dự, không biết đúng sai, chẳng rõ nặng nhẹ, để hơn ba mươi năm trôi qua phí hoài. Cha từng nói có những chuyện phải đến năm ba mươi tuổi con mới hiểu được là đã đề cao con quá rồi."

"Trước khi rời kinh, Ninh Ninh đã nói với Thanh Nhi rằng, nếu như đó thật sự là điều con mong muốn, nếu sống trên đời đối với con là một chuyện đau khổ, thì dù con có chọn cái chết, con bé cũng sẽ không ngăn cản. Ấy vậy mà con lại chưa từng biết, hóa ra con gái con đã nhìn nhận chuyện sống chết và huyết nhục tình thâm như thế này."

"Tuấn Nhi cũng nói thằng bé gặp phải một vấn đề nan giải, nhưng con là một kẻ vô dụng, chẳng thể giúp nó giải hoặc. Ngay cả bản thân con cũng có một khúc mắc, chẳng biết liệu cha mẹ và anh chị có thể hiển linh, chỉ đường dẫn lối cho con hay chăng?"

Bên ngoài từ đường, cả cánh đồng rộng lớn đã chìm vào giấc ngủ say. Men theo đường bờ ruộng đi xuống chính là con suối năm xưa nơi y, Lục Lệnh Tùng và Lục Thư Thanh từng nghịch nước. Ngẩng đầu nhìn lên bầu trời đêm phương Bắc, kia vẫn là dải ngân hà thời Tấn lấp lánh điểm tô cho trăng non thuở Tần.

Tạ Cánh cứ thế đứng trước cửa từ đường, dõi mắt nhìn tất cả những gì y có thể nhìn thấy.

Có lẽ cung Thái Sơ đúng là một nơi lạnh lẽo khó sống, nhưng rời khỏi nơi đó, chẳng lẽ y thật sự có thể sống cả đời tùy tâm tự tại ở một nơi nào đó khác hay sao? Từ khi mở mắt y đã lớn lên giữa khói lửa chốn thị thành, liệu có chịu đựng được nỗi cô quạnh kéo dài hàng chục năm như một ẩn sĩ nơi núi rừng hay không? Y và tộc nhân chẳng nói với nhau được mấy câu, cảnh cũ giờ cũng đã khác xưa. Đến hôm nay, quận Trần đối với y mà nói còn mấy phần xứng đáng gọi là "cố hương"?

Lục Lệnh Tùng tôn trọng y, để y được tự do; các con thấu hiểu y, cũng muốn y được tự do. Nhưng liệu rằng y có thể thản nhiên đón nhận sự thành toàn ấy?

Rốt cuộc y rời đi vì điều gì?

Đi để trốn tránh, để tìm tự do, hay chỉ vì "muốn đi" mà thôi?

Suy cho cùng, đã sinh ra trong chốn trần thế vẩn đục này thì vĩnh viễn sẽ không thể sở hữu sự "tự do" đúng nghĩa. Mà dẫu có thể chặt đứt mọi phiền muộn trên thế gian, bỏ lại thân xác này đi nữa, thì y – Tạ Chi Vô thật sự có được tự do để "tìm đến cái chết" hay không?

Nếu phải lựa chọn ngay khi vừa hay tin dữ về cái chết của Lục Lệnh Chân, thì không cần nghi ngờ gì cả, Tạ Cánh thật sự có thể đã chọn cái chết. Lúc ấy đại sự còn chưa bắt đầu, huyết thù vẫn chưa báo, sợ rằng sẽ lại có người mất mạng vì thù hận của bản thân, lại không gánh nổi cái giá quá nặng nề mang tên "sống chết", cho nên rất có khả năng y sẽ tự mình kết thúc tất cả.

Có lẽ vì Lục Lệnh Tùng đã nghĩ đến chuyện này, cho nên tất cả chi tiết tình hình chuyện xảy ra ở đảo Bát Quái, hắn đều không bàn bạc với Tạ Cánh. Hắn sợ y sẽ buông bỏ, càng sợ y khó lòng chọn lựa giữa "kiên trì" và "buông bỏ", sau đó dùng cái chết để trốn tránh.

Nhưng hôm nay tất thảy đều đã chấm dứt, những sự việc đã xảy ra không thể vãn hồi, người đã mất cũng chẳng thể sống lại. Ngăn giữa "sự sống" và "cái chết" của bản thân y chính là biết bao nhiêu sinh mạng và máu tươi đã đổ xuống, là nửa đời cay đắng gian truân của những người trần mắt thịt. Nếu như Tạ Cánh vẫn lựa chọn cái chết, vậy thì chẳng khác nào giống như lời Lục Lệnh Tùng từng nói, bọn họ đều đã "chết vô ích" cả rồi. Vứt bỏ mạng sống của chính mình là sỉ nhục tất cả những người đã liều mạng bảo vệ y, những người cố gắng giành lấy một tia hy vọng mong manh chỉ để y được sống.

Tự do mà Thôi Thục Thế từng nói trước lúc lâm chung, rằng nàng "sẽ chết vì bản thân mình", y không có tư cách để sở hữu.

Tạ Cánh bỗng chợt hiểu ra vì sao Tiêu Thái hậu lại giành cả cuối cuộc đời mình để ẩn náu nơi cửa Phật chùa Kê Minh, và vì sao suốt mấy năm nay Ngô thị ngày càng một lòng hướng thiện. Khi con người ta không tìm thấy lối thoát khỏi vận mệnh mà cũng chẳng thể chết đi, thì hướng mắt về phía Thần Phật có lẽ là con đường ít phải trả giá nhất, ít rủi ro nhất, cũng ít phải hy sinh nhất.

Từ xa vang lên tiếng lá khô bị giẫm nát, Tạ Cánh thu tầm mắt lại, chỉ thấy Tạ Tuấn khoác áo choàng dày, xách đèn lồng vội vã bước đến. Trong tay cậu còn nắm một vật gì đó, khi cách y chừng mười mấy bước, cậu đã lớn tiếng báo tin:

"Chiến báo từ Ung Châu, là thư tay của Lý tướng quân ạ!"
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 118


《 28.2 》

Dưới chân tường thành, bên ngoài cửa ải chia cắt biên giới, vùng thảo nguyên rộng lớn kia chính là rìa ranh của khu vực du mục Mạc Bắc, còn bên trong ải, cách đó không xa là mấy ngôi làng không tên thuộc hạ hạt Ung Châu.

Phóng tầm mắt nhìn về phía tường thành, có thể thấy số binh lính trú đóng gần như tăng lên gấp đôi so với hơn mười năm qua.

Trận tuyết đầu tiên ở biên ải phía Bắc đã bắt đầu rơi từ cuối thu, sông ngòi nhanh chóng bị đóng băng, nhưng để đóng thành lớp băng đủ cứng, đủ chắc để người ngựa qua lại, ít nhất cũng phải đợi đến khi tiết trời vào đông.

Phía Bắc dòng sông Vô Định, một nhánh quân Mạc Bắc có quân số xấp xỉ một sư đoàn đã chờ đợi thời cơ này từ lâu, chuẩn bị vượt sông sang bờ bên kia, áp sát quan ải.

Việc quân phòng thủ Ung Châu tăng lên khiến nhiệm vụ xuôi Nam bắt người cướp của mà chúng cần làm có mức rủi ro cao hơn những năm trước, đương nhiên lợi ích thu được cũng theo đó mà lớn hơn. Nhưng vì đầu xuân năm nay, cấp trên của chúng là Đinh Giám đã lập được quân lệnh trạng, giải quyết thành công kẻ địch là "Kiến Uy tướng quân" khiến vương đình đau đầu, cả đội ngũ được thơm lây tiếng tốt, đến mùa đông tất nhiên cũng được giao phó trọng trách tiền trạm.

Đêm mười lăm tháng Mười một, mọi chuyện vẫn như thường. Quân đội Mạc Bắc đã bắt đầu bước vào giai đoạn chuẩn bị cuối cùng. Mệnh lệnh của Đinh Giám vừa mới được truyền đi khắp toàn quân, chậm nhất là sau tối mai, chúng sẽ xuất phát qua sông.

Canh hai, tuyết lại bắt đầu rơi, ào ạt dữ gội, gió rít lên từng cơn. Đến canh ba, tuyết đã đọng lại thành một lớp dày phủ trắng đất. Lính gác gắng gượng mở mắt, đoạn đánh một cú ngáp dài. Cách đó hơn mười dặm, nơi cửa ải, ngoài ánh đèn treo cao trên tường thành thì không có gì bất thường.

Thế nhưng trong bóng tối nơi gã chẳng thể nhìn thấy, cánh cổng nhỏ bên hông thành đã âm thầm mở ra, một đội kỵ binh lặng lẽ phóng ngựa rời khỏi thành, móng ngựa được quấn chặt vải bông, tất cả binh sĩ đều không cầm đuốc, bọn họ giẫm lên lớp tuyết dày, lặng lẽ men theo hướng sông Vô Định mà đi.

Theo Lục Lệnh Tùng rời khỏi quan ải chỉ có một nửa quân số Hổ Sư, không hề tỏ thái độ nghênh chiến. Những người khác ở lại trong thành, mấy ngày này đã phối hợp cùng quân thủ thành Ung Châu gia cố phòng tuyến.

Điều này gần như có thể xem là một dấu hiệu cho thấy vị thế chiến lược của Ung Châu đang ngày càng được nâng cao. Trước đây, triều đình bận rộn đối phó với cuộc đấu đá giữa các sĩ tộc, thay ngôi đổi triều, các đáng phái và hào môn tranh giành quyền lực, vậy nên chưa từng thực sự chú ý đến nơi này. Mãi cho đến một hai năm trở lại đây, có lẽ đúng là do vận mệnh xoay vần, thành trì nơi biên ải này đã từng lần lượt che giấu oan phượng, nghênh đón tiềm long, tiễn đưa cô nhạn. Vị thái thú già một bước lên làm tể tướng, cuối cùng cũng chờ được đến ngày mây tan trăng tỏ. Quan mới nhậm chức ra tay quyết liệt, lập tức đềa ra những sách lược cứng rắn cho Ung Châu.

Suốt hơn ba mươi năm, từ niên hiệu Kiến Ninh, Trinh Hữu đến Cảnh Dụ, hai đời thiên tử đều bị ngoại thích kiềm chế mạnh mẽ, binh lực chủ yếu đóng quân trong vùng và lân cận kinh thành, bọn họ không dám, cũng không được tự tiện điều binh ra biên ải phía Bắc. Mãi cho đến nay, khi mối đe dọa hoàng quyền đã tạm thời suy giảm, triều đình mới dư sức điều thêm binh lực dẹp trừ giặc ngoại xâm.

Cách bờ sông còn mấy dặm, Lục Lệnh Tùng ghìm cương ngựa quay đầu lại. Các thuộc quan phía sau hiểu ý, không ai thổi giác mà chỉ ra hiệu bằng tay, đội quân lập tức chia ra làm hai cánh, men theo hai hướng Đông Tây vượt sông.

Lục Lệnh Tùng dặn dò: "Sau khi qua sông cứ làm theo kế hoạch. Lấy cửa hẻm núi phía Tây làm điểm, lấy bờ sông làm tuyến, đóng quân tại hai vị trí đó. Không cần chủ động khiêu khích, chỉ cần đảm bảo chúng không thể phá vòng vây là được."

Quân Mạc Bắc đóng trại để lưng tựa núi, mặt hướng về phía sông Vô Định. Một khi Hổ sư phong tỏa con đường dọc theo bờ sông và dãy núi phía Tây, bọn chúng sẽ chỉ còn lại đường núi phía sau để thoát thân. Nhưng lúc này, trận tuyết lớn đã chặn kín đường núi, lên núi tức là đi vào đường chết. Cứ như vậy sẽ lập tức hình thành nên được thế bao vây.

Các thuộc quan sôi nổi đáp lại, sau đó tự tách ra theo nhóm mình. Lục Lệnh Tùng cho ngựa dừng một lát rồi nhập vào đội quân hướng Tây, bóng dáng khuất dần vào trong màn đêm.

Trạm gác của Mạc Bắc phát hiện điều bất thường vào lúc trời tảng sáng. Đinh Giám không đích thân xuất hiện, nhưng phản ứng lại vô cùng nhanh chóng, lửa hiệu kỵ binh lập tức bùng lên, tiếng hò hét chém giết đánh dấu vị trí giao đánh cận chiến, hẳn là ở bờ sông ngoài cửa doanh trại phía Đông.

Quân Hổ sư xung trận làm đúng như lời Lục Lệnh Tùng căn dặn, đồng loạt hô lớn: "Thiên tử Đại Tề ta đến không vì việc nước, chỉ vì việc nhà! Giao nộp chủ soái Đinh Giám của các ngươi ra đây, chúng ta không cần đánh trận này!"

Chưa kịp hô đến lần thứ hai, đã có một viên tướng thông thạo tiếng Hán truyền lời về lều chủ soái. Đinh Giám nghe xong, hồi lâu mới nói: "Đừng quan tâm đến chúng. Nếu nhất thời chưa đẩy lui được thì cứ rút về doanh trại, án binh bất động. Chỉ cần liên lạc được với vương đình, bọn chúng sẽ không dám ngang ngược như thế trên bờ Bắc sông mãi đâu."

Sau đó, sắc mặt gã trầm xuống, nói thêm: "Lời ban nãy, ai dám truyền nhảm trong quân, khiến cho những kẻ không hiểu hiểu được —— g**t ch*t không tha."

Có điều, chỉ trong giây lát, trinh sát mà Đinh Giám phái về vương đình Mạc Bắc cầu viện đã từ trong trại lao vút ra như gió, phóng ngựa thẳng về phía cửa hẻm núi phía Tây.

Quân mai phục của Hổ Sư đã bố trí xong từ sớm, lớp lớp quân mã náu mình giữa núi rừng. Một viên thuộc quan trông thấy kỵ binh lao đến bèn quay lại xin chỉ thị: "Bệ hạ, có cần chặn lại không?

Lục Lệnh Tùng lắc đầu, đáp nhỏ: "Thả đi, để thăm dò thực hư xem sao."

Đợi đến khi tên trinh sát vừa khuất bóng trên con đường núi, nhóm quân Hổ Sư mai phục lập tức lộ diện chặn kín lối ra.

Không lâu sau, chiến báo từ phía Đông truyền về, thấy quân số không chiếm được ưu thế, Đinh Giám cũng không ham chiến, lập tức ra lệnh rút quân về doanh. Phía Hổ Sư cũng làm theo đúng chỉ thị của Lục Lệnh Tùng, chủ động lui binh, quay lại phòng thủ dọc tuyến bờ sông.

"Chắc là hắn sắp chuyển hướng sang phía Tây rồi." Một thuộc quan nói.

Lục Lệnh Tùng trầm ngâm: "Đinh Giám thừa biết chúng ta sẽ phong tỏa cửa hẻm núi, hắn sẽ không dại gì mà đối đầu trực diện, cùng lắm sẽ chỉ phái một đội nhỏ đến thăm dò mức độ mà thôi."

Quả nhiên chưa được bao lâu, từ xa đã thấy vài kỵ binh Mạc Bắc phi ngựa về phía hẻm núi. Vừa trông thấy vương kỳ Đại Tề, chúng lập tức quay đầu rút lui. Để bảo toàn lực lượng, Đinh Giám quả thật chỉ cử vài người đến thăm dò.

"Trước khi viện binh của vương đình đến nơi, Đinh Giám chắc chắn sẽ không mạo hiểm chủ động phá vòng vây. Bọn chúng không ngờ đường trước, đường sau, lối bên đều bị chặn cả. Lương thảo và quân nhu thiếu thốn, kéo dài chỉ càng thêm nguy."

Thuộc quan đáp: "Bây giờ chúng ta chỉ cần làm tốt vai trò chướng ngại vật này, chờ tin báo từ tường thành đưa đến nữa là được."

Hai ngày đầu bị phong tỏa, quân Mạc Bắc vẫn giữ được bình tĩnh, mặc kệ quân Hổ Sư đứng bên ngoài doanh trại hét lớn rằng "Bệ hạ chỉ cần mạng của Đinh tướng quân", chúng vẫn không để ý.

Đến ngày thứ ba, tức ngày Đinh Giám dự định vượt sông, trong quân bắt đầu bàn tán xôn xao. Quân Mạc Bắc có nhiều kinh nghiệm sa trường, dù chúng cũng khá tin phục một dũng tướng như Đinh Giám, nhưng suy cho cùng vẫn cảm thấy đây "không phải người cùng tổ tiên, lòng dạ ắt khác biệt", huống chi Đinh Giám lại là người Hán, xuất thân không rõ ràng, thế nên từ đầu chúng đã giữ lại chút hoài nghi trong lòng.

Chúng từng giao chiến với Hổ Sư nhiều lần, không có ấn tượng gì về việc phe đối thủ có thói quen dùng những lời đao to búa lớn để khiêu khích. Hơn nữa, mặc dù chỉ nghe được phiên phiến, nhưng nhận ra trong những tiếng hô gọi đó có nhắc đến tên của chủ soái cũng khiến chúng không khỏi tò mò, không biết đối phương đang nói gì.

Lời bàn tán lan đi khắp nơi đã không còn là thứ mà quân lệnh của Đinh Giám có thể trấn áp được nữa.

Chạng vạng ngày thứ ba, Lục Lệnh Tùng mở chiến báo vừa mới được chuyển từ tường thành đến. Người gửi thư là một phó quan Hổ Sư trú quân tại quan ải, trong thư viết rằng: "Vương đình Mạc Bắc không có động tĩnh, cũng không điểm binh."

Tính theo thời gian, với tốc độ phi ngựa của trinh sát được phái đi cầu viện, thì dù ba ngày qua hắn không kịp về tới vương đình, ít nhất cũng phải đi qua được một trong những điểm đóng quân gần nhất rồi, vậy mà viện binh vẫn chưa đến.

Chuyện này bắt đầu trở nên kỳ lạ.

Ngày thứ tư, rồi ngày thứ năm, quân Hổ Sư đóng tại tường thành vẫn không hề phát hiện dấu hiệu điều động binh lực từ bất kỳ cứ điểm nào của Mạc Bắc ở bên ngoài quan ải. Đồng thời, lương thảo mà Đinh Giám mang đến bờ sông Vô Định cũng gần như cạn sạch. Quân tiếp tế không thể đi vào từ đường núi phía Tây, mà nếu có quay lại để xin viện binh, thì bây giờ đội quân kia cũng phải đến nơi rồi. Trừ phi ——

Ngay từ đầu đã không hề có viện binh. Không ai đến cứu chúng cả.

Trong tình cảnh bị bao vây kín kẽ, ý nghĩ ấy vừa nhen nhóm đã lập tức lan rộng, như thể có ngọn lửa khổng lồ điên cuồng cắn nuốt.

Đám binh lính đã tập họp, đòi gặp chủ soái vài lần, trong lòng Đinh Giám cũng thấp thoáng đoán được gì đó, nhưng gã không dám nói rõ linh cảm của mình cho bất kỳ ai bên cạnh.

Ngày thứ sáu, sau khi xem xong chiến báo, Lục Lệnh Tùng nói: "Không có quân tiếp viện đâu. Với chủ nhân của Đinh Giám, hắn chỉ là một quân cờ bỏ đi mà thôi."

Vương đình Mạc Bắc thừa hiểu rằng, khi đế vị nơi Hoàng đô phương Nam xa xôi đổi chủ, thì thái độ và thủ đoạn với biên sự rất có khả năng cũng sẽ thay đổi hoàn toàn. Sự thất bại của chúng trong những trận cướp bóc suốt hai mùa đông liền đã khiến trong tộc oán thán khắp nơi. Mà nay, Chiêu Vương và Hà Cáo – những kẻ mà chúng từng đối đầu ngày trước đã trở mình nắm quyền, vì lợi ích lâu dài, chỉ sợ bọn họ cũng đang tính toán đến việc thay đổi sách lược.

Tuy nhiên, quan hệ thân tộc của người Hán ở Trung Nguyên lại không giống như họ. Có cái chết của Lục Lệnh Chân chắn ngang ở giữa, nếu Lục Lệnh Tòng nhất thời nóng lòng, bất chấp sự yên ổn của giang sơn mà khăng khăng báo thù đến cùng, thì đối với Mạc Bắc mà nói cũng là một vấn đề vô cùng nan giải — đó chính là cục diện chúng không mong thấy nhất.

Mà nay, nếu Lục Lệnh Tùng chấp nhận chủ động giữ cái chết của Lục Lệnh Chân ở mức độ thù riêng, không để nó trở thành việc nước, thì hiển nhiên vương đình Mạc Bắc cũng sẵn lòng vứt bỏ Đinh Giám – một tên người Hán với cánh tay bị tàn phế để chấm dứt đoạn ân oán này. Về sau muốn bàn chuyện tiền bạc hay đất đai cũng dễ mở lời hơn nhiều.

Sáng sớm ngày thứ bảy, cửa doanh trại bỗng nhiên mở toang không báo trước, mấy chục kỵ binh Mạc Bắc phóng ngựa lao thẳng ra ngoài. Không chờ được viện binh, cũng chẳng moi ra được lời giải thích nào từ chỗ Đinh Giám, chúng chỉ còn cách liều mạng xông vào vòng vây.

Hổ Sư không chủ động tấn công, vậy nên dù bị bao vây nhiều ngày, chúng gần như không hao tổn gì mấy. Khúc sông Vô Định trước mặt đã đóng băng cứng cáp, lại không thiếu thốn lương thảo, vì thế khi ứng chiến vẫn vô cùng ung dung.

Nhóm binh lính còn ở lại doanh trại trèo lên trạm gác, dõi mắt nhìn về phía Tây quan sát tình hình, chỉ thấy Hổ Sư vừa đánh vừa lui, dẫn dụ đám phản quân kia đến tận cửa hẻm núi thì dừng lại, nhưng họ không lập tức ra tay giết chóc, mà chỉ đứng yên, tạm thời tạo thành thế giằng co.

Một viên tướng Hổ Sư thông thạo ngôn ngữ bước ra khỏi hàng, lớn giọng nói: "Chỉ dựa vào mười mấy người các ngươi, muốn liều mình xông qua cửa ải này chắc chắn sẽ bị chết sạch. Giờ các ngươi đã phản bội, nếu lại quay về doanh, Đinh Giám tuyệt đối sẽ không tha cho các ngươi."

"Suốt một tuần nay trinh sát một đi không trở lại, chư vị hẳn đều hiểu rõ, vương đình Mạc Bắc không bằng lòng liều lĩnh đối đầu với bệ hạ mà cứu Đinh Giám. Bệ hạ nhân từ, không muốn để mối thù riêng với Đinh Giám liên lụy đến các ngươi. Nếu các ngươi bằng lòng góp sức, nghĩ cách khuyên các đồng liêu trong doanh tự nguyện giao nộp Đinh Giám, thì đồ ăn thức uống và cả đường sống, bệ hạ ắt sẽ không bạc đãi các ngươi đâu."

Phản quân nhìn nhau, không ai đưa ra quyết định. Quân lính trong doanh trại hoàn toàn không biết nội dung cuộc đối thoại của họ, chỉ nhận thấy phe đối địch dường như không có ý định tàn sát, trong lòng mỗi người đều có những suy đoán riêng.

Ngày thứ bảy, khi màn đêm buông xuống, có ánh lửa bùng lên từ phía Tây Bắc của doanh trại Mạc Bắc. Phản quân tấn công vào điểm phòng thủ yếu ớt, sau đó chia nhau vào trong doanh tìm kiếm đồng đội chúng quen biết, khiến mọi thứ trở nên hỗn loạn không sao chịu nổi.

Đinh Giám dẫn theo một đội thân vệ giao chiến với phản quân ngay bên ngoài lều soái. Có kẻ không hiểu rõ tình hình, không biết nên trung thành với chủ hay theo phe phản loạn vốn chiếm đại đa số, nhất thời tiếng hò hét vang dội, la hét, tiếng chém giết, tiếng mắng chửi vang lên hỗn loạn, xen lẫn tiếng hô từ nhóm binh sĩ Hổ Sư mai phục bên ngoài doanh trại: "Giao nộp Đinh Giám! Không liên quan đến việc nước, chỉ là việc nhà!"

Thế lửa dần lan ra, cháy đến tận cửa doanh. Chẳng bao lâu sau, Đinh Giám là người đầu tiên thoát ra khỏi nhóm phản loạn, sau lưng chỉ còn lác đác vài tên thân tín đi theo.

Hổ Sư nắm đúng thời cơ xông lên từ cánh Tây, chỉ trong chốc lát đã phá ra một lỗ hổng trong doanh trại, vô số binh sĩ Mạc Bắc lập tức tràn ra như thủy triều. Thế nhưng bọn chúng không hề quay đầu đi tìm chủ soái, chỉ ùa chạy về hướng hẻm núi phía Tây – "đường sống" mà Lục Lệnh Tùng đã hứa cho chúng.

Ngoài cổng doanh trại lửa cháy rực trời, Đinh Giám đang định nhân lúc hỗn loạn mà phá vòng vây, song vì tầm nhìn bị cản trở, gã đành liều mạng mò mẫm trong mờ mịt mà xông ra. Vừa thoát được làn khói dày đặc, gã đã thấy trước mắt có một kỵ binh tách khỏi đội ngũ phi thẳng tới, đối phương cất cao giọng quát: "Còn trốn nữa, ta chỉ coi ngươi là hạng chuột nhắt nhát gan, dám làm mà không dám nhận!"

Đinh Giám thấy rõ người trên ngựa, giật mạnh dây cương, ho khan nói: "Còn ta thật không ngờ bệ hạ lại dám thân chinh đến đây, gióng trống mang binh để trị tội ta thế này đấy. Chẳng lẽ không sợ long ỷ của ngài sẽ sớm đổi chủ hay sao?"

Lục Lệnh Tùng lật ngược trường thương trong tay: "Hôm nay ở đây sẽ chẳng có quân chủ hay vương hầu nào cả. Ta đến đây, trước nhất là vì tình đồng chí, báo thù cho Kiến Uy tướng quân; thứ hai là vì cốt nhục tình thâm, ta báo thù cho Lục Lệnh Chân, em gái đã khuất của mình. Mọi thù oán giữa ta và ngươi đều không liên quan đến việc nước!"

Đinh Giám cười lạnh: "Trưởng công chúa thân là viên tướng dưới trướng bệ hạ, bại dưới tay ta cũng đủ để ta được ghi công vào sổ sách của vương đình Mạc Bắc rồi."

Lục Lệnh Tùng không nổi giận bởi câu châm chọc kia, chỉ giục ngựa chậm rãi xoay hai vòng ngay trước trận, ngạo mạn đánh giá Đinh Giám: "Ngươi chỉ mất đi cánh tay phải, nếu thật sự không có trở ngại gì thì cũng không cần phải trốn tránh ta trong doanh mấy ngày nay chứ? Ta mà lại phải nghiêm túc đối đầu với một kẻ tàn phế cầm binh, hóa ra có thắng cũng chẳng vẻ vang gì, đã vậy trận này không đánh cũng được."

Hắn dừng lại, sắc mặt không đổi, lại nói: "Chỉ một điều này thôi, Đinh tướng quân hãy cân nhắc cho kỹ — liệu thứ mà tên tuổi của ngươi được ghi vào lần này, rốt cuộc là số ghi công, hay là sổ sinh tử đây?"

Nghe vậy, sắc mặt Đinh Giám sa sầm, có thể thấy rằng gã cũng đã tự nhận thức được rằng bản thân đã bị vương đình Mạc Bắc vứt bỏ rồi.

Lục Lệnh Tùng bình tĩnh nói: "Oan có đầu nợ có chủ, nếu như ngươi cũng giống như Trương Diên lấy lòng can đảm ngày hôm nay để giết phụ hoàng ta, giết Tiêu Thái hậu, ta vẫn còn coi trọng ngươi phần nào."

"Đinh tướng quân, đường sáng vốn đã bày sẵn ra trước mắt ngươi rồi đấy, tiếc thay ngươi không nhìn rõ, không chịu đi."

"Thủ lĩnh Tuyên Thất đến từ Lan Lăng Tiêu thị đã mai danh ẩn tích từ dạo đó, dưới tay phụ hoàng, chị ta không tìm được đường sống, ngược lại, sau khi hợp tác cùng ta, ta chưa từng nghi ngờ chị ta chỉ vì xuất thân, giờ đây đã đạt được địa vị cao. Nếu như ngươi cũng liên thủ với ta như chị ta, phụ hoàng và Tiêu Thái hậu đã có thể chết sớm hơn mười năm, phủ Tướng cũng có thể sụp đổ sớm hơn mười năm, chị gái của ngươi cũng chẳng cần phải uổng mạng, còn ngươi có thể cắm rễ đặt chân tại Bắc đại doanh, đến ngày giờ này đã sớm lập ra được vô số thành tựu, không biết có bao nhiêu thuộc hạ dưới trướng vì ngươi mà vào sinh ra tử rồi!"

"Trương Diên hành sự hồ đồ quá khích, ban đầu chị em các ngươi được ông ta cứu giúp, báo ân vốn không thể chỉ trích, nhưng ông ta chẳng màng phân biệt thị phi mà tổn thương đến người vô tội, các ngươi lại mù quáng nghe theo, đã vậy, kết cục ngày hôm nay cũng chỉ là gieo gió gặt bão mà thôi. Ngươi có khác gì những kẻ đã hãm hại cha mẹ ngươi đâu?"

Đinh Giám nhổ ra một ngụm máu, gằn từng chữ: "Bệ hạ phủi sạch mọi chuyện như vậy, lẽ nào ngươi khác bọn họ sao? Dựa vào quyền thế cùng những thứ của cải vốn chẳng thuộc về ngươi, mưu mô gian xảo giả nhân giả nghĩa. Ngươi và phụ hoàng ngươi, tổ mẫu ngươi, cả tổ tiên đời đời cao ngất trên ngai vàng của ngươi nữa — thực chất chẳng có gì khác nhau cả!"

"Ngươi dựa vào cái gì mà nắm giữ Hổ Sư? Dựa vào cái gì mà khiến tứ đại doanh và Vũ Lâm Vệ trong kinh quay giáo theo ngươi? Những gì ngươi đang nắm trong tay, cũng chính là thứ mà ngươi dùng để uy h**p bọn họ — chẳng phải đều là mạng người sống sờ sờ cả đấy sao!"

Lục Lệnh Tùng không khẳng định cũng không phủ nhận, chỉ nói: "Trong tay ta không có đao mổ, trên người ta cũng chẳng mang tội giết hại kẻ vô tội hay phản bội lừa gạt. Những người đó nay đều yên ổn ở nơi mình nên ở, có nhà có việc, không phải lo đến mạng sống của bản thân."

"Việc Tiêu Thái hậu và phụ hoàng ta từng làm, việc Trương Diên và chị em các ngươi từng làm chẳng qua chỉ là một kiểu 'kiểm soát' thấp kém và man rợ mà thôi. Những kẻ hèn nhát bất tài chỉ biết dựa vào việc uy h**p người thân yếu đuối của kẻ khác để giành quyền lực sẽ không bao giờ có đủ tư cách trở thành một bậc bề trên chân chính, phải để cho họ được sống, được làm việc, được tự lực cánh sinh, thu vào trong vòng kiểm soát mà họ hoàn toàn chẳng hay biết, thậm chí còn vui vẻ tận hưởng, đấy mới gọi là 'thống trị'!"

Nói xong, hắn nhàn nhạt nở nụ cười: "Đinh Giám, những lời vừa rồi của ngươi không thể mạo phạm trẫm."

Lời vừa dứt, cả hai gần như đồng thời hành động — Đinh Giám quấn chặt dây cương vào cánh tay phải đã cụt, tay trái nắm lấy cây kích, thúc ngựa nhảy vọt lên cao, húc văng đám binh sĩ chắn trước mặt rồi bất ngờ phóng thẳng về phía mặt sông đã đóng băng. Lục Lệnh Tùng lập tức đuổi theo sát nút, khoảng cách giữa hai người gần như chỉ chênh lệch một thân ngựa.

Hai con ngựa tốt trong ngàn vạn ngựa mới chọn được một, cùng với hai kỵ thủ trong trăm vạn người hiếm có khó tìm lập tức bỏ xa đám tướng sĩ Hán Hồ đang tạm thời rơi vào hỗn loạn. Hổ Sư đã nhận lệnh phải cẩn thận đề phòng quân phản loạn Mạc Bắc giả vờ rút lui rồi bất ngờ quay lại đánh úp, vì thế cũng không dám bám sát theo quá gần.

Đến bờ sông, vó ngựa phi trên mặt băng trơn trượt, Đinh Giám buộc phải giảm tốc đôi chút, nhờ vậy mà Lục Lệnh Tùng có thể giao chiến với gã tại chỗ. Thời kỳ đỉnh cao, gã và Lục Lệnh Tùng thắng thua luân phiên, khó phân trên dưới, nay tuy chỉ còn lại một tay, nhưng thế tấn công của Đinh Giám cũng không hề chậm chạp, chỉ là cơ hội nhắm vào sơ hở của Lục Lệnh Tùng ít đi một chút.

Thế nhưng trong cuộc giao đấu giữa những cao thủ hàng đầu, để giành thắng lợi thường chỉ cần đối phương lộ ra một chút sơ hở không đáng kể, giống như ngày hôm đó, Lục Lệnh Chân chỉ kém Đinh Giám một chút về thể lực mà thôi.

Chính nhờ chút "cản trở" nhỏ nhoi ấy, đối với Lục Lệnh Tùng mà nói đã là quá đủ rồi.

Không biết từ lúc nào gió tuyết lại nổi lên dữ dội, thương bạc vung lên từ phía dưới tránh khỏi thế gạt của kích, chém xiên sang ngang, quật trúng eo Đinh Giám khiến gã lảo đảo suýt ngã ngựa, chỉ quấn chặt lấy cán kích mượn lực mới miễn cưỡng giữ được thăng bằng. Lục Lệnh Tùng rút mũi thương về, sau đó tấn công lại từ phía bên kia, lần nào cũng nhắm thẳng chỗ hiểm, nhưng lần nào cũng dừng lại trước chiêu kết liễu.

Hắn trầm giọng quát hỏi: "Di cốt của Lục Lệnh Chân ở đâu! Ngươi đã mang con bé về để lĩnh công, hay là đã vứt bỏ nó ở nơi hoang dã rồi?"

Đinh Giám không trả lời, chỉ nhếch miệng cười lạnh, sau đó gã thúc ngựa tiếp tục men theo bờ sông lao đi như điên. Lục Lệnh Tùng nhận ra dường như gã đang cố ý dẫn mình vào sâu trong vùng tuyết trắng. Trong lòng dao động, hắn nheo mắt quan sát địa thế rồi giơ tay ném trường thương về phía trước, mũi thương lướt sát qua hông Đinh Giám, mang theo nửa mảnh giáp ngực rơi xuống nền tuyết. Chỉ chốc lát sau, ngựa của Lục Lệnh Tùng đã đuổi kịp, hắn nghiêng người vươn tay chụp lấy, trường thương đã quay lại trong tay.

Ngẩng đầu nhìn lên, con đường phía trước đã lấm tấm vết đỏ chói mắt, nhát thương vừa rồi đã khiến đối phương đổ máu.

Phó tướng phía sau lớn tiếng gọi: "Bệ hạ cẩn thận! Đừng đuổi theo nữa! Hắn đã bị thương thế kia, trời tuyết lạnh giá thế này chẳng sống thêm được bao lâu nữa đâu!"

Đinh Giám hoàn toàn bị cô lập, đã thương tích đầy mình lại không còn nơi nào để đi. Nếu như chuyến này Lục Lệnh Tùng chỉ nhằm vào việc giết gã, thì thật ra hắn đã không cần truy đuổi thêm nữa.

Nhưng vẫn còn một chuyện quan trọng nhất, hắn vẫn chưa có được đáp án.

Một màu trắng xóa trải dài đến tận chân trời, chỉ còn lờ mờ thấy được bóng dáng của tường thành và ngọn núi xa xa. Máu tươi đỏ thẫm kéo thành một vệt dài và mảnh, rồi dần bị lớp tuyết mới rơi phủ kín, xóa sạch mọi dấu vết từ nơi đã đi qua.

Chiến mã đi theo mùi máu nhờ bản năng, nó lần theo vệt đỏ tiếp tục tiến về phía trước. Lục Lệnh Tùng không đuổi sát mà giống như chim ưng lượn vòng trên cao, rình rập con mồi đang hấp hối, chỉ chực chờ đến giây phút nó trút hơi thở cuối cùng. Hắn không nóng vội, bởi vì hắn biết chắc chắn rằng sẽ có lúc đối phương không còn gắng gượng nổi nữa.

Trong gió lớn, đến cả tiếng vật nặng ngã xuống đất cũng nghe không rõ, chẳng biết đã qua bao lâu, phía sau không còn tiếng gọi của Hổ Sư nữa. Bất chợt, Lục Lệnh Tùng nhìn kỹ lại thì phát hiện lưng ngựa phía trước đã trống trơn.

Hắn lập tức thúc ngựa đuổi tới, con ngựa của Đinh Giám đã ngừng vó, ngơ ngác đứng yên như đang chờ chủ nhân ngã xuống bên cạnh móng nó đưa ra mệnh lệnh.

Lục Lệnh Tùng dừng lại tại chỗ. Đinh Giám đang nằm nghiêng trong tuyết, gã lấy tay che miệng vết thương khiến máu trào ra theo cách khác, lan tràn khắp nơi dưới thân.

Hắn lặng lẽ quan sát trận giãy giụa ấy, thấy Đinh Giám gắng gượng ngẩng đầu lên, dùng ánh mắt chất đầy oán hận, không cam lòng nhìn mình, rồi hắn chậm rãi cất lời:

"Đạo làm vua, thuật thống trị ta đều có thể làm được, chỉ là ta không muốn làm thôi."

"Từ trước đến nay, điều ta muốn và không muốn làm, cùng với điều ta có thể và không thể làm trong đời này vốn đã không giống nhau. Nhưng chỉ một điểm ấy thôi, giữa muôn vạn phàm nhân nơi thế tục, ngươi và ta chẳng khác gì nhau."

"Khác biệt ở chỗ, ngươi vươn tay ra chỉ với được điều mà ngươi 'có thể' làm, còn khi ta vươn tay ra," Lục Lệnh Tùng ngừng một chút, "Ta có thể với được điều ta 'muốn' làm."

Hắn lấy từ trong ngực áo ra miếng ngọc trắng mà Tạ Cánh đã tặng, xoay nó trên đầu ngón tay, nhẹ nhàng lắc hai cái: "Dù ta có chết, cũng vẫn có người giúp ta hoàn thành tâm nguyện, còn có người sẵn lòng cùng ta đồng sinh cộng tử."

Hắn lạnh lùng nhìn Đinh Giám từ trên cao, giọng đầy khinh miệt, nhưng ánh mắt lại phảng phất vẻ thương xót: "Còn ngươi chết rồi, sẽ không có ai giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện cả."

Bốn bề núi phủ tuyết trắng, ngàn dặm đóng băng, người trong giấc mộng xuân khuê giờ đã hóa xương khô bên bờ sông Vô Định, trong gió chỉ còn tiếng vong linh gào khóc.

"Đinh Giám, ta thấy xót xa cho ngươi, vậy nên đã giúp ngươi hoàn thành tâm nguyện."

"Ta đã chôn cất cha mẹ và chị gái ngươi dưới chân núi Mai, lập bài vị ở cố trạch nhà họ Đinh, tìm người cúng bái đầy đủ. Phụ hoàng và Tiêu Thái hậu đã chết, Trương Diên tự vẫn, những kẻ từng lợi dụng ngươi, mắc nợ ngươi nay đã không còn sống trên đời nữa. Ngươi có oán có hận thì cũng chỉ còn cách đến âm phủ tìm họ mà đòi lại thôi. Nhưng từ đầu đến cuối, người thân của ta chưa từng mắc nợ ngươi điều gì, ta chỉ muốn biết..."

Lục Lệnh Tùng trở tay, mũi thương đảo nhanh đến mức chỉ còn lại dư ảnh, trong chớp mắt đã chĩa thẳng vào cổ họng Đinh Giám: "Di cốt của em gái ta —— ở đâu!?"

Chẳng biết Đinh Giám có nghe rõ mấy câu trước của hắn hay không, gã im lặng rất lâu, cuối cùng chỉ nói: "Ta không biết."

"Ngày cô ta chết, thuộc hạ của ta từng tìm kiếm dọc theo bờ sông, nhưng chỉ thấy vết máu kéo lê do chiến mã để lại, mãi vẫn không tìm thấy thi thể. Ai mà biết được chứ, có lẽ là bị nước cuốn đi rồi, cũng có thể là bị dã thú tha mất..."

Sắc mặt Lục Lệnh Tùng lạnh như sương tuyết, cánh tay run rẩy dữ dội, mũi thương gần như đã dán sát vào da thịt Đinh Giám.

"Đây không phải là trận tuyết đầu tiên của mùa đông," Đinh Giám nở nụ cười thê lương, hơi thở yếu ớt, "Ngươi cho rằng sẽ còn sót lại cái gì?"

Bên ngoài từ đường nhà họ Tạ, quận Trần.

Tạ Cánh xem xong chiến báo mà Lý Kỳ tự tay viết gửi tới, trầm mặc một lát rồi hỏi: "Con đã đọc chưa?"

Tạ Tuấn lắc đầu, "Sự việc nghiêm trọng, con không dám tự tiện xem."

Tạ Cánh bèn đưa bức thư cho cậu, Tạ Tuấn cúi đầu đọc, đại ý trên thư nói rằng Lục Lệnh Tùng đã đuổi theo Đinh Giám ra đến bờ sông Vô Định ở bên ngoài tường thành, Hổ Sư theo sau, nhưng không ngờ tuyết ngày càng dày, cuối cùng họ đã mất dấu. Tướng sĩ lập tức báo về Ung Châu, Lý Kỳ một mặt tạm thời giữ kín tin tức, không để lộ chút phong thanh, mặt khác lập tức phái trạm dịch đưa thư đến chỗ Tạ Cánh.

Tạ Tuấn đọc thư xong, cau mày nói: "Sao bệ hạ lại đuổi theo Đinh Giám một mình?"

"Con cũng cảm thấy lạ đúng không?" Tạ Cánh trầm ngâm, đoạn nói: "Từ trước đến nay hắn chưa bao giờ dính dáng đến hai chữ 'liều lĩnh'. Ở đây Lý Kỳ còn viết, đến cuối cùng chỉ còn lại một mình hắn, mà Đinh Giám cũng chỉ có một mình."

Tạ Tuấn suy nghĩ rồi đáp: "Nhưng nhỡ đâu ngoài tường thành còn có quân mai phục, Đinh Giám chỉ giả vờ đơn độc, nắm chắc tâm lý muốn báo thù của bệ hạ, rồi dùng nó để dẫn ngài ấy vào trận địa địch..."

Tạ Cánh phủ nhận: "Chuyện chúng ta có thể nghĩ đến, lẽ nào hắn lại không lường trước được? Đã quyết tâm đuổi theo, lại là một ngựa đấu một ngựa, vậy thì e rằng chỉ còn một khả năng — Trương Diên đã chết, Đinh Giám không còn người để 'thông đồng', gã đã hết giá trị lợi dụng, lại bị chặt mất một tay, Mạc Bắc sẽ không phái viện binh cho gã nữa. Bệ hạ đuổi theo một mình không phải là vì quá tự tin, mà là bởi một khi điều động Hổ Sư, việc này sẽ không còn là ân oán cá nhân nữa mà sẽ liên lụy đến hai nước. Giờ đây chính biến mới dứt, triều cục chưa yên, chúng ta càng không thể dấy lên sóng gió ở biên ải."

"Thân phận của hắn bây giờ đã khác rồi, trước đây là thần tử, nay đã là đế quân, hắn là người đại diện cho thái độ của cả triều đình và cả giang sơn này."

Tạ Tuấn gật đầu, trấn an: "Trước tiên chú cũng đừng hoảng, bệ hạ có kinh nghiệm sa trường, lại là người đa mưu túc trí, nói không chừng ngài ấy sẽ có cách thôi, chỉ là tạm thời không thể liên lạc với các thuộc hạ và Lý tướng quân bọn họ. Thứ hai, có lẽ vì muốn chu toàn cho Thanh Nhi và cục diện trong kinh nên mới gửi thư cho chú trước, phòng khi bất trắc, cũng không thể biết trước được."

Tạ Cánh ngẩn người nhìn ngọn đèn, câu nói mà Lục Lệnh Tùng đã nói với y ở điện Thần Long ngày hôm đó bỗng nhiên xuất hiện trong tâm trí, hắn nói "Ta nhất định phải nắm lấy cơ hội này, tự tay đưa từng kẻ đã hại chết em ấy xuống hoàng tuyền, để đời đời kiếp kiếp ghi nhớ sự bất lực và hổ thẹn của bản thân của ngày hôm nay".

Dù cho cuối cùng có thực sự báo được huyết thù, cảm giác tội lỗi vẫn sẽ đeo bám lấy Lục Lệnh Tùng suốt cả đời. Làm sao hắn có thể không tự mình đuổi đến chân trời góc bể, tự tay g**t ch*t kẻ thù được chứ?

Mãi lâu sau, Tạ Cánh mới chợt nói: "Lần này không giống trước nữa — Chân Chân là tâm ma của hắn, hắn sẽ không chịu dừng lại đâu. Nếu không nhìn thấy được kết quả, hắn tuyệt đối sẽ không chịu dừng lại."

Y rủ mắt nhìn xuống, Phi Quang vắt ngang thắt lưng y, lộ ra một góc dưới lớp áo ngoài: "... Dù cho có thật sự ngọc nát đá tan, hắn cũng sẽ làm cho bằng được."

Tạ Tuấn ngạc nhiên: "Chú muốn..."

Tạ Cánh đột nhiên giương mắt lên, nhìn Tạ Tuấn rồi chợt vỗ vai cậu, nói: "Chú phải đến Ung Châu một chuyến. Con lập tức sắp xếp hành lý, đêm nay lên đường về kinh đi, về kinh canh giữ bên cạnh em trai và em gái con, làm việc tùy theo hoàn cảnh, nhưng bảo vệ bản thân là quan trọng nhất. Nếu như có chuyện gì... bất trắc, con chỉ cần giúp chú nói với bọn trẻ hai câu là được."

Từ sâu trong lòng, Tạ Tuấn biết đây không phải chuyện đùa, nhưng Kim Lăng vẫn quan trọng hơn Ung Châu, cậu bèn nuốt lời muốn đi cùng Tạ Cánh vào lòng, chỉ đáp: "Chú cứ việc dặn dò."

Tạ Cánh đưa mắt nhìn về phía xa, trong màn đêm mịt mù tối đen không thấy năm ngón tay ấy là không biết bao nhiêu linh hồn tổ tiên của nhà họ Tạ suốt mấy đời mấy kiếp đang yên nghỉ. Mối hận của cha mẹ và anh chị nay đã kết thúc, mà trong thâm tâm y cũng thừa biết — sau này bản thân sẽ không được chôn cất cùng họ.

Người ta thường nói lá rụng về cội, nhưng nếu lá chẳng tìm được rễ, làm sao nó có thể biết được mình rơi xuống từ thân cây nào? Có lẽ ngay từ khi tất cả bắt đầu, từ khoảnh khắc y sinh ra ở Kim Lăng, mọi thứ đã là số mệnh được định sẵn trong cõi vô hình rồi. "Quê hương" trong cuộc đời vốn chỉ là một vị khách lướt ngang qua, và sẽ có một ngày y phải đứng dưới từ đường, đứng trước phần mộ tổ tiên để đưa ra quyết định rời đi.

Trong đầu Tạ Cánh, có một giọng nói bình tĩnh thì thầm: Một khi đã bước chân lên con đường hướng về phía Bắc, mảnh đất này sẽ không bao giờ có thể vô tư chào đón ngươi được nữa; ngày hôm nay, khi đã bước vào màn đêm, lần sau quay lại, ngươi sẽ chỉ là một kẻ khách nơi đất lạ mà thôi.

Y nhỏ giọng nói: "Con hãy bảo với chúng rằng chú đã nói..."

"Kim Lăng núi ấm nước êm, gió trăng vô tận, lấy cố thổ làm chăn, cùng cha con yên giấc ngàn thu, dẫu qua ngàn năm trăm kiếp cũng chẳng hề biết đến rét lạnh."
 
Lục Châu Ca Đầu - Một Lần Ly Biệt Xa Cách Ba Năm
Chương 119


《 28.3 》

Bên ngoài doanh trại Hổ Sư, thành Ung Châu, một bóng dáng nhỏ bé phi như bay, tiến dần lại gần dưới không gian một màu trắng xóa rồi dần trở nên rõ ràng. Thị lực của lính gác trên cổng thành vô cùng tốt, gã gần như nhận ra ngay người đến là ai, bèn hô to lên: "Vương phi! Vương phi đến rồi!"

Lý Kỳ đang trực đêm nghe vậy, lập tức hạ lệnh: "Mở cổng thành!", dứt lời, gã dẫn theo một nhóm phó tướng vội vàng xuống thành đón tiếp.

Tạ Cánh gió bụi đầy mặt, tóc mai rối bời, vậy mà chẳng kịp chào hỏi lấy nửa lời. Vừa mới xuống ngựa, chân còn chưa đứng vững, y đã mở lời hỏi: "Lục Lệnh Tùng đâu? Đã tìm thấy chưa?"

Lý Kỳ lắc đầu, vẻ mặt nghiêm trọng: "Tường thành và trong thành Ung Châu không thể không có người canh giữ, vì vậy mỗi ngày đều chỉ có thể điều một nhóm nhỏ thay phiên nhau đi tìm, nhưng đường bờ sông quá dài, ngày hôm kia tuyết rơi rất dữ, đến cả quân phòng thủ Ung Châu còn khó mà phân biệt phương hướng."

Tạ Cánh trầm mặc một lúc, bình tĩnh nói: "Anh chỉ cần cùng các vị tướng quân bảo vệ an toàn cho phòng tuyến Ung Châu là được, nếu như không có dư binh, ta sẽ tự đi tìm một mình."

Các tướng sĩ nhìn nhau một lúc, rồi Lý Kỳ quỳ gối hành lễ, nói: "Trước khi đi, bệ hạ có để lại cho Vương phi một món đồ, có thứ này, tất cả chúng tôi đều sẽ nghe theo lời điều động của người."

Từ Giáp lặng lẽ bước lên, dâng một vật đến trước mặt Tạ Cánh — đó là chiếc áo choàng màu đỏ thẫm dày và nặng. Tạ Cánh chậm rãi nhìn qua, chợt nhận ra áo choàng này vốn là của chính mình. Vào đúng thời điểm này năm ngoái, hai người vì công vụ mà phải chia xa, chỉ kịp gặp gỡ một đêm ngắn ngủi bên ngoài thành Hạ Phi. Giờ phút chia tay, Tạ Cánh quyến luyến không nỡ rời, cuối cùng cởi chiếc áo choàng này ra để Lục Lệnh Tùng mang theo đến phương Bắc giữ ấm.

Lý Kỳ nói: "Bệ hạ dặn chúng tôi rằng, 'thấy vật này như có trẫm ở đây'."

Tạ Cánh vươn tay ra, đầu ngón tay vùi sâu vào lớp lông mềm mịn trơn trượt, cảm nhận được làn hơi lạnh trượt lên làn da khiến y rùng mình. Nhiệt độ cơ thể của Lục Lệnh Tùng đã không còn sót lại nơi đó nữa. Y lặng lẽ hỏi thầm: Anh để thứ này lại cho em là có ý gì? Anh đã biết trước rằng em sẽ đến sao?

Thấy y thất thần, Lý Kỳ bèn ra hiệu cho những người xung quanh lùi lại vài bước, sau đó hạ giọng nói: "Thế cục trong kinh thành vẫn chưa hoàn toàn ổn định, Đông cung và công chúa còn nhỏ dại, bước tiếp theo nên đi thế nào... Vương phi tuyệt đối đừng hành động theo cảm tính."

Tạ Cánh miễn cưỡng nở một nụ cười với gã, khẽ gật đầu. Bỗng phía sau vang lên tiếng ồn ào náo động, y quay đầu lại, chỉ thấy một con tuấn mã toàn thân trắng muốt lao ra khỏi cổng thành như sao sa, hoàn toàn phớt lờ tiếng gọi lớn dồn dập của Từ Ất ở phía sau, lao thẳng về phía y.

"Y Vân!" Tạ Cánh sững người, bước lên hai bước, vòng tay siết chặt lấy cổ Y Vân, "Sao ngươi lại ở đây?"

Từ Ất th* d*c, vội vàng giải thích: "Hôm bệ hạ xuất chinh, từ tờ mờ sáng Y Vân đã chạy từ Đông cung tới, đứng chờ ở cổng thành nhất quyết đòi đi theo. Bệ hạ và Thái tử điện hạ khuyên thế nào cũng không được, đành phải chấp nhận cho nó đi cùng, ngài ấy dặn chúng thần phải chăm sóc cẩn thận. Không ngờ suốt dọc đường theo quân bôn ba, nó chẳng hề thua kém những chiến mã cường tráng khác. Từ lúc bệ hạ thất lạc đến giờ, Y Vân vẫn không chịu quay về chuồng, vừa nghe thấy tiếng của Vương phi là nó lại lao ra ngoài."

Y Vân bồn chồn dùng mũi cọ cọ vào vai Tạ Cánh, rồi lại cúi xuống ngửi lớp áo choàng dày trên người y, sau đó lại cọ vào lòng bàn tay y. Nó cứ lặp đi lặp lại hành động ấy vài lần, tựa như đang thúc giục điều gì.

Lòng Tạ Cánh khẽ dao động, y giương mắt nhìn về phía xa, chợt nhận ra mình đến dưới cổng thành chưa được bao lâu, vậy mà dấu chân để lại trên tuyết đã bị lớp tuyết mới phủ kín không thấy tăm hơi nữa.

"... Tuyết lớn không ngừng, dấu vết tới lui đều bị xóa sạch, nhưng mùi máu lưu lại lâu ngày sẽ chẳng thể dễ dàng phai đi." Y đột ngột quay ngoắt sang Y Vân, bật thốt lên đầy kinh hãi: "Ngươi vẫn nhớ rõ mùi của hắn, ngươi có thể lần theo dấu vết của hắn phải không!?"

Y Vân khẽ hí lên hai tiếng đáp lại, trong lòng Tạ Cánh như có lửa đốt, không thể chần chừ thêm nữa dù chỉ một khắc, y lập tức đeo hành trang lên lưng, tung người lên ngựa. Sau bao năm, y lại lần nữa nắm chặt dây cương của Y Vân, tay nhẹ nhàng vỗ về lên bờm nó, thì thầm: "Chúng ta cùng đi tìm hắn."

Nói đoạn, y quay người lại, hướng về đội Hổ Sư đang chờ lệnh dưới thành, cao giọng truyền lệnh: "Các huynh đệ từng cộng sự cùng ta ở Mạc Phủ, lần này phiền các vị theo ta đi một chuyến nữa. Còn lại hãy giữ nguyên vị trí, tuyệt đối không được tự ý rời khỏi cương vị. Đợi đến khi bệ hạ trở về, nếu như có bất kì lời hỏi tội, chất vấn hay khiển trách nào, một mình ta sẽ gánh chịu tất thảy!"

Giữa gió tuyết mịt mù, Tạ Cánh khoác lên mình tấm áo choàng đỏ hãy còn vương lại hơi thở của Lục Lệnh Tùng, tựa như cố nhân chưa từng rời xa, vẫn còn ôm siết lấy y trong vòng tay, khẽ thốt lên lời thề hẹn bên nhau đến bạc đầu.

Ba vạn kỵ binh tinh nhuệ của Hổ Sư đồng loạt quỳ xuống, tiếng hô vang dội tựa sấm nổ chấn động đất trời: "Cẩn tuân mệnh lệnh!"

Tuyết rơi trắng trời khiến người ta dễ quên mất khái niệm thời gian, Tạ Cánh cũng có đôi chút thảng thốt, nhưng bước chân của Y Vân thì vẫn kiên định tiến về phía trước. Có lẽ vì dấu vết mà Lục Lệnh Tùng để lại bên trong tường thành quá mờ nhạt, nên mỗi lần chọn hướng đi Y Vân đều khựng lại giây lát. Nhưng nhờ có binh lính Hổ Sư theo sát xác nhận, khả năng hắn còn ở trong phạm vi này gần như bằng không, vậy nên đoàn người cũng chẳng cần nán lại lâu, nhanh chóng rời khỏi quan ải.

Ngay khi vừa ra khỏi tường thành, càng tiến gần về phía bờ sông Vô Định, Y Vân lại càng lộ rõ vẻ bồn chồn thấp thỏm, nó vừa đi vừa liên tục lần theo mùi, tìm kiếm dọc đường bờ sông.

Để ý thấy Y Vân đặc biệt chú ý tới dòng nước, Tạ Cánh chợt nhớ lại lần trước, khi báo tin dữ của Lục Lệnh Chân, Hà Cáo có từng nhắc rằng trận chiến hôm ấy xảy ra ngay bên bờ sông Vô Định. Sau đó, lúc tìm kiếm di thể của Trưởng công chúa bọn họ cũng đã đi dọc theo con sông này.

Y bỗng nhiên nhận ra, Lục Lệnh Tùng liều mạng đuổi giết Đinh Giám, e rằng không chỉ vì báo thù, mà còn vì hắn muốn lần ra tung tích thi thể của Lục Lệnh Chân.

Sông Vô Định chảy từ hướng Tây Nam về Đông Bắc, nếu cơ thể bị cuốn vào dòng nước trôi xuống hạ lưu, rất có khả năng sẽ lạc đến vùng phía Bắc. Tạ Cánh lập tức ra lệnh cho Hổ Sư: "Tiếp tục đi về phía Bắc, hạ trại ở vùng hạ lưu sông."

Suốt dọc đường chẳng rõ ngày hay đêm, đoàn người vẫn phải cẩn thận phân biệt hướng dòng sông đã bị đóng băng rồi lại bị tuyết phủ kín. Cuối cùng, họ lấy một bãi đất bồi bằng phẳng ở hạ lưu sông Vô Định làm trung tâm, chia thành nhiều tốp tỏa ra tìm kiếm.

Y Vân rất nhạy cảm, nó thường xuyên lần ra mùi máu tươi, nhưng phần lớn chỉ là xác động vật bị thiên địch cắn xé, phơi thây giữa đồng hoang. Mãi đến tận giữa trưa ngày thứ ba, Tạ Cánh và Y Vân mới tìm đến được một ngọn đồi thoải về phía Tây Bắc. Bạch mã cúi đầu, dùng mũi húc nhẹ vào lớp tuyết mới rơi lúc sáng sớm, đoạn nó dừng lại trước một khe đá, khẽ khàng hít ngửi, rồi bỗng nhiên đứng khựng lại, bất động.

"Ngươi đánh hơi thấy gì rồi sao?" Tạ Cánh hỏi, "Là mùi máu người à? Là hắn sao?"

Im lặng chốc lát, Y Vân đột nhiên giống như phát cuồng cất vó lao đi, nó chở Tạ Cánh lao dọc theo bờ sông xông thẳng xuống phía dưới. Chớp mắt một cái, núi non và đồng hoang đã bị bỏ lại sau lưng, trước mắt họ lúc này chỉ còn lại một màu trắng kéo dài vô cùng tận.

Đà phi của bạch mã quá dữ dội, gió lớn cuốn theo những bông tuyết thô quất thẳng vào người, Tạ Cánh đành phải tạm nhấc vạt áo lên che chắn ở trước mặt. Chờ đến khi cơn gió tạm lắng, y mới ngẩng đầu phóng mắt về phía trước, cố gắng nhìn xa hết sức có thể. Chính ngay lúc đó, giữa đất trời hỗn độn chẳng khác gì mộng cảnh, trong tầm mắt Tạ Cánh thực sự xuất hiện một chấm đen!

Khoảnh khắc này chừng như ngay cả gió cũng như khựng lại, vạt áo bay phấp phới, tóc mai rối tung cùng những bông tuyết đang rơi đều đông cứng giữa không trung. Tạ Cánh và Y Vân đồng thời bắt gặp điểm màu duy nhất giữa mênh mông tuyết trắng ấy, chẳng còn để ý tới băng tuyết trơn trượt hay đá tảng lởm chởm dưới chân, Y Vân bắt đầu phi như bay về phía Lục Lệnh Tùng.

Tạ Cánh thất thanh: "Lục Tử Phụng —— "

Y Vân thực sự quá nhanh, ngay cả Tạ Cánh cũng suýt chút nữa không giữ nổi dây cương, chỉ có thể cúi rạp người xuống, ép sát mình sau cổ nó, chớp mắt đã lao tới gần.

Con ngựa mà Lục Lệnh Tùng cưỡi chẳng biết đã đi đâu về đâu, chiến bào của hắn tả tơi, giáp bạc nhuốm đầy những vết máu khô sẫm lại thành màu nâu đen, bước nông bước sâu di chuyển trong tuyết.

Có lẽ Lục Lệnh Tùng vốn không nghe rõ Tạ Cánh vừa hô gọi tên của mình, chỉ biết đáp lại giọng nói thân thuộc nhất trong đời theo bản năng. Hắn dừng chân, ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn về phía trước qua mái tóc rối bết ướt đẫm trước trán. Khi Tạ Cánh ở trên lưng ngựa vươn tay về phía hắn, Lục Lệnh Tùng cũng nắm lấy bàn tay y trong vô thức.

Đối với Lục Lệnh Tùng, chỉ dùng một tay kéo Tạ Cánh lên ngựa vốn dĩ là chuyện dễ như trở bàn tay. Nhưng lúc này hai người đã đổi vị trí, hắn khoác trên mình giáp sắt nặng hơn mười cân, còn cánh tay mà Tạ Cánh vươn ra lại chính là tay phải — cánh tay vừa mới tháo băng chưa lâu, vẫn còn hằn nguyên vết sẹo Tích Cốt Huyền để lại.

Song, trong khoảnh khắc đối mặt với người mình yêu nhất, tiềm năng của con người ta sẽ bộc phát đến mức chẳng thể nào đo lường. Tạ Cánh nghĩ, dưới Công Xa môn năm xưa, khi nắm lấy thanh kiếm Lục Lệnh Tùng đeo bên hông, có lẽ sức y còn chưa đủ mạnh, và tâm cũng chưa đủ kiên định, cho nên ông trời mới không chịu phá lệ thành toàn cho y nghịch thiên cải mệnh.

Vì vậy lúc này, Tạ Cánh buộc phải kềm chặt cẳng tay dưới của Lục Lệnh Tùng, để đối phương có thể dựa vào bản năng khắc sâu tận xương cốt từ bao năm khổ luyện, siết lấy tay y, mượn lực xoay người nhảy lên lưng ngựa, đáp xuống ngay phía sau lưng y.

Y Vân phi không ngừng vó, rồi nó xoay mình giữa không trung, tung cước băng qua sông, đạp lên băng giá, trở về theo đường cũ. Tạ Cánh rút kèn hiệu mà Lý Kỳ giao cho trước lúc xuất phát, thổi vang Hổ Sư Lệnh, thông báo cho binh sĩ tập kết, chuẩn bị xuất phát về Ung Châu.

Hai tay Lục Lệnh Tùng vòng qua eo Tạ Cánh, cả người thoát lực dựa vào lưng đối phương, lúc này, mùi máu tanh mới chậm rãi len lỏi vào khoang mũi y.

Tạ Cánh cúi đầu liếc qua một cái, lập tức nghẹn thở, chỉ thấy hai bàn tay của Lục Lệnh Tùng đã tím tái đi vì lạnh, mười ngón tay bầy nhầy máu thịt, chi chít vết thương, thậm chí hai móng tay cái còn bị mài mất quá nửa.

"Lục Tử Phụng, rốt cuộc anh đã làm gì vậy!"

Tạ Cánh nghẹn ngào gọi khẽ một tiếng, tay phải vẫn nắm chặt dây cương, tay trái thò vào bên trong áo choàng, luống cuống cởi hết dây buộc áo ngoài, trung y, áo lót, kéo tung vạt áo nửa người trên ra rồi nắm lấy hai tay của Lục Lệnh Tùng nhét vào trong áo, áp sát vào da thịt trên eo mình.

Bôn ba thời gian dài trong tiết trời băng giá, thân nhiệt của Tạ Cánh sớm đã chẳng thể gọi là ấm áp nữa, nhưng nơi yếu mềm nhất, vùng bụng được bao bọc bởi từng lớp y phục, đối với đôi tay đã lật tung từng mảng tuyết, đào xới từng tảng đá vụn của Lục Lệnh Tùng mà nói vẫn rất ấm áp.

Tạ Cánh gần như nghiến răng nghiến lợi mắng: "Nếu biết trước anh định làm ra chuyện hoang đường thế này, đêm trước ngày xuất chinh ở điện Thần Long, đáng lẽ ra em nên chặt phắt đôi tay này của anh đi cho rồi!"

Lục Lệnh Tùng tựa cằm trên vai y, ý thức của hắn đã trở nên hỗn loạn, dường như lẩm bẩm nói mấy chữ, nhưng Tạ Cánh hoàn toàn không nghe rõ.

"Anh nói cái gì? Lục Lệnh Tùng! Không được ngủ!"

Y liên tục thét lên: "Anh nói gì đi! Lúc quát em rõ ràng anh to giọng lắm mà, sao lúc này lại không nói gì thế hả!"

Đầu người phía sau chợt nặng trĩu, trán của Lục Lệnh Tùng trượt xuống, Tạ Cánh hoảng loạn trong thoáng chốc. Toan ngoảnh đầu lại xem tình hình hắn thế nào, nhưng đối phương gần như đã dồn toàn bộ trọng lượng lên lưng y, sợ nhỡ bị xóc ngựa mà rơi xuống, y chỉ đành từ bỏ ý định.

Hai hàm răng Tạ Cánh đánh vào nhau cầm cập, chờ mãi không thấy hồi đáp, y bất chợt gồng mình, cắn mạnh một phát rách lòng bàn tay mình, đưa dòng máu tươi chảy ròng ròng kề sát vào môi Lục Lệnh Tùng: "Lục Tử Phụng... Tử Phụng! Anh Tử Phụng!"

Không rõ là do máu hay do tiếng gọi ấy lay động, có vẻ như Lục Lệnh Tùng có phản ứng trở lại. các ngón tay hắn khẽ co lại, lướt qua da Tạ Cánh, thì thầm như tự nói với chính mình: "Ta tìm thấy rồi..."

Tạ Cánh lập tức hỏi: "Anh tìm thấy cái gì? Đừng ngủ! Nói cho em biết, anh tìm thấy gì rồi!"

Dường như hắn đang gắng gượng giữ cho đầu óc tỉnh táo. Giọng nói vẫn còn mơ hồ, nhưng cuối cùng Tạ Cánh cũng nghe được: "Đinh Giám nói... Chân Chân... Bị cuốn trôi theo dòng sông Vô Định... cuối cùng..."

Tạ Cánh tiếp lời: "Sông Vô Định, trôi theo dòng sông Vô Định, sau đó thì sao?"

"Ta tìm suốt năm ngày liền... Lần theo dưới chân tường thành đến tận đây, những nơi có thể tìm ta đã tìm hết một lượt, lật từng tảng đá một..."

Giọng Lục Lệnh Tùng càng lúc càng yếu ớt: "Ta chỉ tìm thấy thứ này."

Dầu ngón tay hắn lại khẽ nhúc nhích, Tạ Cánh bắt lấy bàn tay buông thõng xuống kia, luồn tay vào trong lớp áo lục lọi. Mãi hồi lâu sau, y mới lần tới được món đồ mà đối phương giấu trong tay áo, là thứ mà hắn đã nói với y.

Cảm giác khi chạm vào vật đó khiến Tạ Cánh chợt khựng lại.

Y rút tay ra ngoài, nhìn thật kỹ. nằm gọn trong lòng bàn tay y lúc này chính là chuỗi vòng tay năm xưa y đã bện cho Lục Lệnh Chân.

Phần lớn sợi chỉ màu đã đứt, hoặc cũ mòn đến mức chẳng còn nhìn ra hình dạng gì nữa, nhưng vẫn có thể mơ hồ thấy được chút màu sắc, ngoài ra còn có cả vết máu sẫm màu như gỉ sắt — không giống máu mới dính vào, hẳn là máu của chủ nhân ban đầu của nó.

Chuỗi dây buộc tóc dùng để bện vòng tay năm đó có lẽ thật sự đã từng rực rỡ tươi đẹp đến thế, cho nên cuối cùng y vẫn chẳng thể làm theo yêu cầu của Lục Lệnh Tùng, bện thêm một chiếc có nhiều màu sắc hơn cả nó nữa...

Đầu tạ cánh ong lên một tiếng, nước mắt nhanh chóng ướt nhòe cả tầm nhìn.

Thanh âm của Lục Lệnh Tùng dần trở nên nhẹ bẫng, cuối cùng như khẽ thều thào: "Chi Vô à, ta đã không còn em gái nữa rồi."

Tạ Cánh dùng khuỷu tay quệt lau nước mắt, gió cắt qua mặt rát buốt, y nghẹn ngào nói: "Lục Tử Phụng, anh không còn em trai và em gái, em cũng chẳng còn anh trai nữa rồi. Từ nay về sau anh hãy xem em như em trai ruột của mình, em sẽ thay Chân Chân cùng anh đi tiếp con đường này, được không, đừng rời xa em nữa được không? Em sẽ thay Chân Chân gọi anh là anh trai, được không, anh?"

Lục Lệnh Tùng vòng tay ôm lấy y từ phía sau, dường như khẽ đáp một tiếng: "Được."

Tạ Cánh nói năng lộn xôn, chẳng biết là nói cho Lục Lệnh Tùng nghe, hay là đang tự cảnh tỉnh, bộc lộ nỗi lòng:

"Tự do hay ràng buộc, trưởng thành hay giậm chân tại chỗ, có lẽ em sẽ canh cánh trong lòng, sẽ do dự, sẽ lưỡng lự, sẽ chẳng quyết nổi tâm ý. Nhưng sống chết thì khác, sống chết là chuyện hệ trọng, cũng là chuyện đơn giản nhất, thật ra chẳng cần suy phải nghĩ nhiều như vậy."

"Lục Tử Phụng, em chết vì anh thì có sao đâu chứ?"

Lần này, Lục Lệnh Tùng đã không còn đáp lại y nữa.

Y Vân tựa như chẳng biết mệt mỏi, nó phi qua cánh đồng tuyết, vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng, lao vút trong màn đêm hướng về ranh giới thành trì. Doanh trại Hổ Sư dần hiện rõ trong tầm mắt, ánh đèn màu cam nhạt ấm nồng như men rượu lặng lẽ lay động, toát lên vẻ bình lặng của nhân gian khói lửa, nghiêm cẩn làm tròn chức phận của mình, nửa phủ lên lều trại sáng màu, nửa rọi xuống con đường tuyết trắng.

Ít ra, đó vẫn là một biểu tượng của "sự sống".

Lý Kỳ cùng các tướng sĩ, quan viên tân nhiệm của châu quận Ung Châu, quân y, một đoàn người đông nghịt đã nhận được tin từ trước, tất cả đều đứng đợi sẵn ngoài cổng doanh. Không cần Tạ Cánh dặn dò thêm lời nào, bọn họ ăn ý lao lên, đỡ lấy Lục Lệnh Tùng từ phía sau y rồi vội vàng đưa vào lều lớn.

Tạ Cánh vội vã định theo vào, nhưng không ngờ hai chân run rẩy dữ dội, đến đứng cũng không đứng nổi, y ngã lăn từ trên ngựa xuống quỳ rạp lên mặt đất, toàn thân run lẩy bẩy, tim đập loạn lên không dứt, chỉ có thể gắng gượng chống tay để cố đứng dậy hết lần này tới lần khác.

Giữa lúc chật vật, sau lưng bỗng vang lên tiếng vật nặng ngã "phịch" xuống đất, ngay sau đó là tiếng hô hoán ngỡ ngàng của binh sĩ xung quanh.

Tạ Cánh khựng lại, một linh cảm chẳng lành như thủy triều dâng tràn khắp xương cốt tứ chi khiến y rùng mình. Y chậm rãi, cứng nhắc xoay đầu lại — lọt vào tầm mắt chỉ có một vệt mây trắng nhuốm bụi trần.

Y Vân ngã gục trên mặt đất, ánh hào quang từng phủ lên thần câu ngàn dặm kia chỉ trong thoáng chốc đã hoàn toàn lụi tắt. Ngay khoảnh khắc Lục Lệnh Tùng được đưa đến tay những người có thể cứu sống hắn, rốt cuộc Y Vân cũng buông thả một hơi tàn mà nó đã gắng gượng treo lơ lửng suốt mấy ngày qua, trả giá cho phần sinh mệnh đã bị bòn rút cạn kiệt bằng tốc độ kinh hoàng khiến người ta giật mình.

Tạ Cánh quỳ bò tới, gần như nhào người xuống ôm lấy cổ Y Vân, gào lên gọi nó đến khàn cả giọng, nhưng tiếng ù tai dữ dội khiến y chẳng nghe được gì cả. Trong chớp mắt ấy, Tạ Cánh chợt nhận ra rằng từ trong thể xác của mình, có một linh hồn nhẹ bẫng, hồn nhiên, đang chết đi một cách vô cùng chân thực mà sống động.

Y Vân cất lên một tiếng hí dài, cao vút, rồi nó co giật vài cái, cuối cùng kiệt sức mà chết.

Tạ Cánh cũng không chống đỡ nổi nữa, vì đau buồn quá độ, y nôn ra một ngụm máu.
 
Back
Top Bottom