Ngôn Tình Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều

Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 100: Tiền, đao, thuốc


Nghe thấy mấy chữ ‘hai đứa con trai’ bật ra khỏi miệng Tề Phong, Phùng Gia Ấu có cảm giác hai mắt tối sầm. Nếu không vì phải dìu Tạ Lãm, có lẽ nàng đã không đứng vững, ngã nhào ra đất.

Quả nhiên, Tề Phong tự xưng là “Tạ A Ông”, lấy đủ cớ để đưa tặng bảo vật, hết lần này tới lần khác mời Tạ Lãm nhập quân phủ, rõ ràng là xem hắn như con trai ruột mà vun vén.

Mà khi nói ra như vậy, ông ta cũng không sợ người ngoài không biết sự tình sẽ nghĩ rằng Tạ Lãm là con của ông ta.

Tùy Anh thì thầm hỏi Lạc Thanh Lưu:

“Chẳng lẽ Tề Phong cũng có con nuôi? Con nuôi của ông ta cũng theo Tề Chiêm Văn đến đây sao?”

Lạc Thanh Lưu khẽ đáp:

“Ta cũng không biết chuyện này. Nhưng có con nuôi cũng không phải chuyện lạ. Những quan viên nắm quyền trong triều, để thu hút lòng người và khiến họ phục tùng, thường hay nhận một số người tài giỏi làm con nuôi.”

Chỉ có Thẩm Thời Hành đam mê viết truyện là nghĩ ngợi xa hơn. Hai con mắt tò mò của hắn liên tục đảo qua lại giữa Ông Nhược Di và Tề Phong.

Một người là Đại đô đốc của Đại Ngụy, một người là Giám Quốc của Nam Cương, hai người có lập trường khác biệt, trước đây đã từng giao chiến trên chiến trường, xem nhau như kẻ thù cũ.

Một người còn cải nam trang.

Chẳng lẽ…? Có phải…?

Thẩm Thời Hành vuốt cằm, lại nhìn về phía Hàn Trầm đang hôn mê trên đất. Chỉ trong chốc lát, trong đầu hắn đã hiện ra cả chuỗi ân oán tình thù.

Dù sự thật có thế nào, hắn cũng đã có ý tưởng cho bộ truyện tiếp theo.

“Phu quân, cái kia…” Phùng Gia Ấu thực sự lo lắng cho Tạ Lãm, không biết hắn có đủ nhạy bén để nhận ra sự bất thường của Tề Phong hay không.

Dù bây giờ không nhận ra thì sau này e cũng chẳng giấu được.

Trước đây Tề Phong dám tự xưng là ‘Tạ A Ông’ để tặng miêu đao, rõ ràng là đang thử Tạ Lãm. Bây giờ nói thẳng trước mặt Tạ Lãm mấy chữ ‘hai đứa con trai’, càng chứng tỏ ông ta không thể chờ thêm nữa, muốn nhận đứa con trai tài giỏi này về. Chỉ có như vậy, ông ta mới có thể thuyết phục Tạ Lãm rời khỏi Huyền Ảnh Ti, gia nhập quân phủ và trở thành người kế thừa của mình.

Nhưng tuyệt đối không phải là lúc này.

“Chuyện gì vậy?” Tạ Lãm cúi đầu nhìn nàng.

“Không có gì.” Phùng Gia Ấu thấy hắn không có phản ứng gì khác lạ, liền không nói thêm nữa.

Thực ra, Tạ Lãm không phải là không cảm thấy gì. Ban đầu hắn cũng nghĩ đến chuyện Tề Phong nhận con nuôi, nhưng dần dần cảm thấy có gì đó không ổn. Tuy nhiên, hiện tại hắn không có thời gian nghĩ ngợi, tình thế cũng không cho phép hắn suy tính đắn đo.

Tề Phong lại lên tiếng:

“Mấy đứa đưa Nam Cương Vương đi trước, ta sẽ ngăn bọn họ.”

“Không cần Đại đô đốc phải lo.” Tạ Lãm nào chịu nhận ân huệ của ông ta, hắn ngẩng cao đầu, ánh mắt đầy khinh thường, “Ông không đến, bọn ta vẫn có thể đi được.”

Qua Nghị bị kim châm làm trọng thương, tâm trí cũng dao động, rất dễ bị Phùng Gia Ấu thuyết phục. Nhóm cận vệ hoàng thất giờ còn lại không mấy người, đều đã suy kiệt và mất ý chí chiến đấu, không đáng lo ngại. Con đường sống này là do bọn họ liên thủ giết ra, liên quan gì đến Tề Phong?

Tề Phong cũng không giận, vì lời Tạ Lãm nói không sai.

Bỏ qua lý do khiến hắn bị thương, chỉ riêng phần dũng mãnh này thôi, trong lòng Tề Phong rất tán thưởng vài hài lòng. Ông ta hỏi:

“Vậy con có thể làm được không? Chúng ta liên thủ bắt giữ Giám quốc, không cần lo lắng chuyện quân địch truy đuổi nữa.”

Từ nhát đao của Qua Nghị cản ông ta ban nãy, Tề Phong biết mình không thể giết Qua Nghị ngay lập tức, Ông Nhược Di nhất định sẽ lợi dụng lúc họ dây dưa để chạy trốn. Dù ả không phải cao thủ đệ nhất, nhưng võ công không yếu, lại đặc biệt rất giỏi chạy trốn. Trong trận chiến năm đó, ả đã trốn thoát khỏi tay ông ta mấy lần.

“Hạ quan bị thương, không thể hợp tác với ngài.” Trái lại, Tạ Lãm đã phán đoán xong tình hình địch ta trong lòng.

Nếu tiếp tục động thủ, Tề Phong sẽ bị Qua Nghị kìm chân. Và với thể trạng của hắn và Lạc Thanh Lưu hiện tại, e rằng sẽ khó vượt qua mấy tên cận vệ kia, càng không chắc sẽ cản được Ông Nhược Di đang lăm le muốn chạy và vẫn còn đầy sức lực.

Trời sắp tối, mây đen ùn ùn kéo đến, mưa lớn sắp rơi, bà ta nắm lợi thế quen thuộc địa hình, dễ dàng gọi được viện quân.

Ngay cả khi thật sự có cơ hội bắt được bà ta trước khi viện quân đến, nhưng Hàn Trầm đã thành ra thế này, nếu họ lại mang Giám quốc Nam Cương về Đô Ti Điền Nam, đúng như lời Phùng Gia Ấu nói, chính là k*ch th*ch Hành Vương và Trấn Quốc Công dấy binh phản loạn.

Kế hoạch ban đầu là phải giết ra, mang Hàn Trầm về. Nam Cương vương chưa chết, Giám quốc không đáng lo.

Tạ Lãm ôm Phùng Gia Ấu quay người.

Tề Phong nhíu mày:

“Con lại do dự như vậy sao?”

Tạ Lãm không để ý đến ông ta:

“Đi!”

Hắn bước đi vững vàng, không chút lảo đảo.

Không cần hắn phải nhắc, Lạc Thanh Lưu cúi người vác Hàn Trầm lên vai.

Lúc quay trở lại đây, hắn cưỡi chung ngựa với Tùy Anh. Sau khi đặt Hàn Trầm lên ngựa, không còn đủ chỗ nữa, hắn nói với Tùy Anh:

“Đi cùng với Thẩm công tử nhé?”

“Được.” Tùy Anh gật đầu.

Tạ Lãm đi tới hộp vũ khí của mình, cắm thanh Đường hoành đao vào vỏ, rồi đóng chiếc hộp đang mở ra như cái quạt lại.

Thấy hắn chuẩn bị xách hộp đeo lên lưng, Tùy Anh bước tới:

“Huynh bị thương ở vai, để ta mang cho.”

Trong rất nhiều lý do khiến Tạ Lãm nhất quyết liều mạng mang Nam Cương Vương đi, Tùy Anh biết luôn có một phần vì nhà họ Tùy.

Tạ Lãm không từ chối, chỉ lấy từ ngăn kéo nhỏ bên hông hộp hai lọ thuốc nhỏ. Sau đó dắt Phùng Gia Ấu đi vòng qua hộp vũ khí, cùng nhau lên ngựa.

Tùy Anh vén dây đeo bằng da của chiếc hộp, cố sức nhấc lên, đang định vác ra sau lưng thì Lạc Thanh Lưu cưỡi ngựa phi đến bên, vươn tay nắm lấy dây đeo, xách hộp khỏi tay nàng rồi đeo lên vai mình.

Tùy Anh ngẩng đầu nhìn, hắn đã giục ngựa phóng ra khỏi thành.

Trong tiếng vó ngựa dần xa, Tùy Anh hấp tấp chạy tới bên Thẩm Thời Hành:

“Thẩm đại công tử à, còn ngây người ra làm gì, không lên ngựa sao?”

Nói xong lập tức xách người đang mơ mộng tình tiết cho quyển tiểu thuyết mới, quẳng thẳng lên lưng ngựa.

Qua Nghị đứng nhìn họ đưa vương thượng ra khỏi thành, lòng âm thầm thở phào nhẹ nhõm.

Tề Phong đến thật đúng lúc, cuối cùng Qua Nghị không cần băn khoăn nữa. Đúng như lời Tạ Lãm nói, dù Tề Phong không xuất hiện, Qua Nghị cũng sẽ để Tạ Lãm và những người khác đi. Ngoài lời thề trung thành với hoàng thất, ông ta đã bị thương, không có tự tin cản được Tạ Lãm, người mà ông ta không biết giới hạn nằm ở đâu.

Có thể trước khi viện quân đến, Tạ Lãm sẽ giết được ông ta rồi bắt giám quốc.

Ông Nhược Di núp sau lưng Qua Nghị, nghiến răng nghiến lợi, thấy Tề Phong cũng định đi, liền cười lạnh sau lưng Tề Phong:

“Không thử bắt ta sao? Đường đường Đại đô đốc oai phong, lại không bằng một thiên hộ nhỏ nhoi trong Huyễn Ảnh Ti sao? Hắn nói rút lui, ngươi lập tức bỏ chạy theo? Tề Phong, ngươi già rồi.”

Tề Phong nghe bà ta nói mình không bằng Tạ Lãm, tâm trạng ngược lại rất vui vẻ, miệng cong lên, quay lại nhìn:

“Dù sao cũng tốt hơn ngươi, ít nhất ta mạnh hơn, ngươi mãi mãi là kẻ bại dưới tay ta.”

Ông Nhược Di mím môi.

Trước khi Tề Phong đi, lại nói:

“Nhưng ta không ngờ ngươi lại là một nữ nhân, thật khiến ta nhìn ngươi bằng con mắt khác.”

Ông Nhược Di không đáp, chỉ ngẩng đầu quan sát bầu trời.

Sau khi ước lượng một hồi, bà ta lập tức dẫn cận vệ rút về Nam Cương, định hội hợp với đội tiên phong đã triệu tập.

Rời khỏi thành này, muốn quay lại Đô Ti Điền Nam, không có con đường nào dễ đi.

Mà trời sắp mưa, với thân thể đây thương tích, Tạ Lãm khó có thể chạy nhanh trở về, bà ta vẫn còn cơ hội đuổi kịp bọn họ. Bà ta không thể để họ mang Hàn Trầm đi.

Một khi Hàn Trầm tỉnh lại, bà ta thực sự thất bại.

Vì dân Nam Cương tôn thờ huyết mạch hoàng gia còn hơn cả Đại Ngụy.

Bà ta dốc sức mười mấy năm, lao tâm khổ tứ, nhưng trong mắt các thủ lĩnh bộ tộc, Hàn Trầm vẫn là vị vương duy nhất họ nguyện trung thành, cho dù hắn từ nhỏ là kẻ vô chí, đầu óc đơn giản và vô dụng.

Hơn nữa, Ông Nhược Di luôn nghi ngờ, chiếc Khổng Tước Lệnh trong tay mình là giả.

Nếu các thủ lĩnh bộ tộc kiểm tra kỹ, chắc chắn sẽ phân biệt được.

Không phải vì phu quân cố tình giao đồ giả cho bà, mà bởi mấy đời Nam Cương Vương đều dùng chiếc Khổng Tước Lệnh giả này. Đây là biện pháp phòng ngừa đồ thật bị đánh cắp. Nơi cất giữ Khổng Tước Lệnh thật chỉ có người ngồi ở vị trí Nam Cương Vương mới biết.

Phu quân của bà biết, và đã nói cho con trai. Nhưng bọn họ đều giấu bà, chưa từng hé lộ nửa lời.

Nhìn mà xem.

Phu quân đối với bà có bao nhiêu cưng chiều thì sao?

Con trai đối với bà có bao nhiêu cung kính thì thế nào?

Rốt cuộc, cha con họ vẫn giữ một bí mật, xem bà như người ngoài từ tận sâu trong tâm can.

Nếu họ đã không muốn trao cho bà niềm tin tuyệt đối, cớ gì trách móc bà lòng dạ nham hiểm?



Rời khỏi tòa thành hoang, Tạ Lãm không thấy Tề Phong đuổi theo, đoán có lẽ là mình đã nghĩ quá nhiều. Tề Phong không đến vì hắn. Ông ta chỉ đến để bắt Giám quốc Nam Cương, thấy tình thế không ổn thì rút lui một mình mà thôi.

Tuy lòng vẫn còn vướng mắc, Tạ Lãm muốn bàn bạc với Phùng Gia Ấu, nhưng lại cảm thấy lúc này không thích hợp. Lỡ bàn ra chuyện gì không vừa tai sẽ khiến tình hình tệ hại hơn.

Tạ Lãm hít một hơi sâu, tạm thời gạt Tề Phong sang một bên.

Phùng Gia Ấu thấy hắn không hỏi gì, thầm thở phào.

Tạ Lãm lại đưa dây cương cho Phùng Gia Ấu, để nàng điều khiển ngựa.

Cánh tay hắn đau đến mức không thể nâng lên nổi, chật vật gỡ mảnh vải thấm đẫm máu ra khỏi vai, dùng răng mở nút lọ thuốc, đổ hết cả lọ thuốc vàng lên vết thương.

Phùng Gia Ấu nghe tiếng hắn rê.n rỉ, xót xa không để đâu cho hết.

Nàng nhớ lại:

“Phu quân, sao lúc Thẩm Thời Hành đưa hộp vũ khí, chàng không đổ thuốc ngay?”

“Nàng từng thấy ai đang giữa trận chiến mà dừng lại chữa thương chưa? Làm vậy chẳng phải mất hết khí thế sao?” Tạ Lãm bị câu hỏi của nàng chọc cười, có điều nụ cười ấy yếu ớt và mệt mỏi, “Khí thế tạo uy h**p với địch quan trọng hơn chữa chút thương tích này.”

Hắn ném bình thuốc rỗng đi, lại dùng răng mở một lọ thuốc khác. Bên trong chỉ có duy nhất một viên thuốc nhỏ được hắn nâng ngiu cẩn thận từ rất lâu, dùng để trị nội thương.

Lăn lộn ngoài giang hồ không thể thiếu ba món bảo vật: Tiền, Đao, Thuốc.

Tiền thì hắn đã dốc toàn bộ để mua đao rồi, mà tất cả những thanh đao đó cộng lại cũng không bằng giá trị của viên thuốc nhỏ này. Đây là bảo bối của hắn, cho dù là người sắp chết, nuốt vào cũng có thể cầm cự thêm ba ngày.

Phùng Gia Ấu quay đầu nhìn hắn uống thuốc, môi mấp máy muốn nói nhưng rồi tiếp tục tập trung điều khiển ngựa. Nàng không dám cho ngựa chạy quá nhanh, cố gắng chọn con đường bằng phẳng để không xóc nảy và tốc độ cũng chậm.

Tạ Lãm biết nàng muốn hỏi gì. Viên thuốc nhỏ thế này, quay lưng lại với kẻ địch, tìm một cơ hội kín đáo nuốt vào là xong. Hắn muốn giải thích để nàng hiểu thuốc này cần được uống khi khí huyết tương đối ổn định, nếu không dễ bị nghịch khí, phản tác dụng.

Nhưng hắn thật sự mệt. Ban nãy còn ráng gắng gượng chống đỡ, giờ đây khí lực như bị rút cạn, toàn thân rã rời kiệt sức. Tạm thời hắn chẳng muốn phí sức giải thích chuyện nhỏ nhặt này, chỉ ghi nhớ để sau này rảnh rỗi sẽ kể với nàng.

Lúc này hắn còn điều quan trọng hơn muốn nói, điều hắn đã nghĩ mãi.

Tạ Lãm ngả người về phía trước, dựa vào lưng Phùng Gia Ấu, hai tay vòng qua ôm chặt eo nàng, đặt cằm lên vai cô.

Nặng quá, Phùng Gia Ấu chỉ đành giữ thẳng lưng, cố gắng ngồi vững vàng để đỡ hắn.

Tạ Lãm nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc, rồi gọi khẽ:

“Ấu Nương!”

“Ừm?”

“Trên đường truy đuổi, nàng đã hỏi ta một câu, ta vừa mới nghĩ thông suốt rồi…”

Nhưng bị Phùng Gia Ấu ngắt lời:

“Chàng đừng nói nữa, giữ sức mà dưỡng thương.”

Sau khi rời khỏi thành hoang, sức lực của nàng cũng dần dần thoát đi, giọng nói bắt đầu hơi run.

Nhưng giờ hắn đang dựa vào nàng, nàng phải cố gắng mạnh mẽ.

“Thật ra ta không bị thương quá nặng đâu. Ngày xưa ta từng bị thương nặng hơn thế này, không có thuốc men gì, cắn răng chịu đựng vài ngày là qua. Huống chi giờ có thuốc, chỉ cần nghỉ ngơi chút là hồi phục được phần lớn rồi.”

Tạ Lãm nói thật lòng. Trước mười ba tuổi, tình cảnh suýt chết thế này đối với hắn là chuyện thường ngày.

“Nàng đừng lo lắng quá, ta ổn mà.”

Nghe hắn an ủi, Phùng Gia Ấu càng đau lòng hơn:

“Chàng nghỉ ngơi đi, chờ khỏe lại rồi nói cũng được mà.”

“Không chờ được!”

Tạ Lãm lau sạch máu trên mặt, rồi mới nghiêng đầu áp má vào vai nàng:

“Vì nàng bất ngờ quay lại nên rốt cuộc ta đã nghĩ thông… Nàng nghi ngờ rằng bất kể ta cưới ai, cũng sẽ đối xử với người đó giống như đối xử với nàng.

Không phải vậy đâu, nàng phải tin ta, trên thế gian này chỉ có nàng mới khiến ta làm như vậy. Vì từ trước khi chúng ta thành thân, ta đã động lòng rồi…”

Phùng Gia Ấu nghe xong, rốt cuộc hiểu ra vì sao lúc đó hắn lại ngẩn người.

Nhận ra mình đã làm hắn phân tâm giữa trận chiến, nàng sợ đến run rẩy, nghẹn ngào nói:

“Lúc đó ta nghĩ ngợi linh tinh, giận dỗi nên làm quá lên, chàng để ý làm chi? Chuyện đó đâu có quan trọng. Nhưng… nếu vì vậy mà chàng gặp nguy, thì ta… e rằng dù có chết theo chàng cũng chẳng thể tha thứ cho mình…”

Ban đầu Tạ Lãm cũng cho rằng nàng rảnh quá đi, nhưng sau khi nghĩ thông, hắn nhận ra chuyện này thật quan trọng.

Giữa vợ chồng với nhau, kiêng kỵ nhất chính là ngờ vực.

Nếu không khéo, sẽ biến thành hoài nghi chất chồng.

Hơn nữa, nghe giọng nàng vừa rồi, hắn cảm thấy nàng vẫn chưa thực sự hiểu vì sao hắn động lòng. Có lẽ, trong suy nghĩ của nàng, việc chấp nhận làm con tin cùng hắn, dè dặt an ủi hắn chỉ là chuyện nhỏ không đáng nhắc tới mà thôi.

Tạ Lãm học thức không đủ, không cách nào giải thích rõ ràng cái cảm giác “đặc biệt” ấy, mà hắn cũng chẳng muốn giải thích, càng không có sức để giải thích.

Chỉ cần nàng biết, với hắn nàng chính là người đặc biệt nhất, thế là đủ rồi.

Tạ Lãm không nói gì nữa, tựa vào vai nàng nhắm mắt nghỉ ngơi.

Phùng Gia Ấu không quấy rầy hắn, dù gió núi rít vù vù, vó ngựa dồn dập không ngừng, nàng vẫn cố hít thở thật khẽ.

Không phải nàng không hiểu lời giải thích của hắn, mà là… nàng đã không còn bận tâm đến điều ấy nữa.

Trước kia nàng lo lắng đến mất ăn mất ngủ, bởi vì nhận ra tình ý mình dành cho Tạ Lãm mỗi lúc một sâu. Chỉ một bước nữa thôi… là sẽ giao cả trái tim cho người. Nếu Tạ Lãm đối xử tốt với nàng chỉ vì bản tính hắn tốt, luôn tốt với mọi người, thì nàng nhất định sẽ thấy tổn thương.

Thế cho nên nàng mới muốn giữ lại chút gì đó cho mình, tự chừa một đường lui, từ đó mà sinh lòng trăn trở.

Nhưng từ giờ, nàng quyết định không giữ lại gì nữa. Vậy thì những do dự và phiền não trước kia tất nhiên cũng chẳng còn quan trọng.



Vì trời âm u, nên sau khi mặt trời lặn, núi non không trăng chiếu sáng, bóng đêm mênh mông.

Đường núi càng đi càng hẹp, khi sắp đến một ngã ba, Lạc Thanh Lưu nhìn thấy được Phùng Gia Ấu và Tạ Lãm đang ở phía trước, liền ghìm cương ngựa lại.

Tùy Anh và Thẩm Thời Hành ở phía sau cũng dừng lại.

Lạc Thanh Lưu nói:

“Ta giao Nam Cương Vương cho hai người một lúc, mọi người phải chen chúc rồi.”

Tùy Anh ngẩn ra:

“Huynh muốn đi đâu?”

Lạc Thanh Lưu thở dài:

“Trời sắp mưa rồi, mọi người phải tìm chỗ tránh mưa, bằng không thân thể của Tạ Thiên hộ sẽ không chịu nổi. Cũng may cơn mưa sẽ không kéo dài, nhiều lắm nửa canh giờ là có thể tiếp tục lên đường. Chỉ là… ta e quân Nam Cương sẽ đuổi kịp.”

Thẩm Thời Hành hiểu ra:

“Vậy… vị huynh đài này…”

Mặc dù đã cùng nhau trải qua một hồi hoạn nạn, nhưng Thẩm Thời Hành vẫn chưa biết người này có thân phận gì. Hắn hỏi tiếp:

“Ý huynh là muốn tách ra ở ngã ba, dụ một phần quân Nam Cương đi sao?”

Lạc Thanh Lưu chưa kịp lên tiếng, Tùy Anh đã bác bỏ:

“Không được, huynh không thể đi. Nếu muốn dẫn dụ thì để ta, với thân phận của ta, dù bị bắt họ cũng sẽ không giết ta.”

“Đại tiểu thư, đầu óc cô để đâu rồi?” Lạc Thanh Lưu nhìn đầu của nàng, chẳng biết nói làm sao, “Rồi để Giám quốc Nam Cương dùng cô làm con tin, ép ông nội cô xuất binh à?”

Tùy Anh: “…”

“Nhưng nếu huynh bị bắt, chẳng ai biết huynh là ai đâu.” Tùy Anh thầm nghĩ chắc chắn Lạc Thanh Lưu sẽ không nói mình là Thiếu giám của Thập Nhị Giám.

Thẩm Thời Hành suy nghĩ một lúc, chắp tay nói:

“Xem ra ta đi là thích hợp nhất. Cha ta là Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti, họ chắc chắn sẽ giữ ta làm con tin. Mà Trấn Quốc Công sẽ không quan tâm đến tính mạng của ta.”

“Huynh lại sáp vào xem náo nhiệt nữa hả?” Tùy Anh đang bực, quay đầu trừng mắt với hắn, “Ta và huynh ấy đi dụ địch, ít nhiều đều có cơ hội thoát thân, huynh mà đi thì chẳng khác nào tự đưa hàng.”

“Đang bàn chuyện nghiêm túc, sao cô lại mắng người rồi?” Thẩm Thời Hành không ưa cách nàng nói, th* t*c hết sức.

Lạc Thanh Lưu bất lực với hai người này, đưa tay day day trán:

“Đừng cãi nhau nữa. Ta không định tự dẫn dụ bọn họ, chỉ tạo ra chút dấu vết để đánh lạc hướng thôi, không có nguy hiểm gì đâu. Mọi người cứ yên tâm, ta sẽ đuổi kịp nhanh thôi.”

“Nhưng…” Tùy Anh lúng túng.

Nàng biết Lạc Thanh Lưu nói đúng, nhưng chẳng hiểu vì sao lòng lại thấp thỏm, cứ muốn nói ‘nhưng mà’…

Lúc này, giọng Tạ Lãm chợt vang lên:

“Không ai được đi.”

Mọi người quay sang nhìn con đường phía trước. Trong ánh sáng nhá nhem, thấy Phùng Gia Ấu và Tạ Lãm đã quay lại.

Dù Tạ Lãm đang nhắm mắt nghỉ ngơi nhưng vẫn luôn để ý tiếng vó ngựa phía sau, sợ họ bị phục kích. Khi nghe tiếng họ dừng lại, thấy phía trước là ngã ba, hắn liền biết Lạc Thanh Lưu đang định làm gì.

Lạc Thanh Lưu vội vàng bước tới vài bước, giải thích:

“Đại ca, ta không có ý coi thường huynh. Đây chính là sở trường của ta, ta biết bọn họ sẽ truy dấu vết thế nào trong mưa, và làm thế nào để làm lạc hướng họ…”

Sợ Tạ Lãm không tin còn nhắc nhở:

“Đừng quên ta thích đi trộm xác vào những đêm mưa.”

Tạ Lãm nhìn vào mắt Lạc Thanh Lưu, nhận ra hắn thực sự đã có kế hoạch kỹ lưỡng. Sau trận này, có vẻ Lạc Thanh Lưu đã lấy lại được chút dũng khí, không cho hắn đi ngược lại còn không tốt.

“Nhưng không cần thiết.” Tạ Lãm ngồi thẳng dậy trên lưng ngựa, “Ta không phải tự khen, nhưng nhìn đi, bộ dáng ta giống người cần dừng lại tránh mưa sao? Con đường này có nhiều ngã rẽ, bọn họ không đuổi kịp nhanh như vậy đâu. Chúng ta cứ đi chậm một chút là được, ta không sao.”

Nghe xong, La Thanh Lưu mới nhận ra, sắc mặt của Tạ Lãm đã khá hơn trước không ít. Chỉ mới ra khỏi thành hơn một canh giờ, không ngừng xóc nảy trên lưng ngựa mà vẫn có thể hồi phục nhanh đến vậy?

Tạ Lãm bình thản giải thích:

“Ta chẳng muốn uống viên bảo dược phòng thân, nhưng lại lo trên đường về quân doanh sẽ quá mệt, mà mấy người thì cứ thích tự ý vẽ chuyện.”

Lạc Thanh Lưu: “…”

Bảo dược hiệu quả thật. Nhưng Lạc Thanh Lưu cũng hiểu, điều cốt yếu vẫn là thể chất mạnh mẽ của Tạ Lãm.

“Nhắc mới nhớ.” Tạ Lãm cúi xuống nhìn vết thương trên vai mình, “Lẽ ra vết thương này có thể phục hồi nhanh hơn, đáng tiếc bình thuốc trị thương tốt nhất đã bị ngươi đổ phí hết rồi.”

Lạc Thanh Lưu: “…”

Ký ức khó xử ùa về, khi ấy ở bờ sông Tế, hắn bị Tạ Lãm rạch vào cổ, tức khí muốn trả đũa, liền xài hết cả bình thuốc quý của Tạ Lãm.

“Lỗi của ta. Chừng nào về kinh, ta sẽ đền mười bình thuốc quý cho đại ca.” Lạc Thanh Lưu tự nhủ nếu có thể bình an trở về, đền trăm bình cũng chẳng sao. Thứ hắn không thiếu nhất chính là tiền.

“Tự ngươi nói đấy nhé, ta không ép.” Tạ Lãm vừa dứt lời thì tai bắt được vài tiếng động nhỏ.

Phùng Gia Ấu đang dựa sát vào ngực hắn, lập tức cảm nhận sự cảnh giác từ cơ thể hắn truyền đến.

Tạ Lãm chỉ tay về phía trước:

“Đi đi, mọi người đi trước, ta nghỉ ngơi một chút rồi đuổi theo.”

Ra vẻ sợ bọn họ tiếp tục dong dài.

“Được.” Mọi người đáp lời.

Khi Lạc Thanh Lưu đi ngang qua, Tạ Lãm lại gọi: “Đợi một chút.” Rồi rút lấy thanh Đường hoành đao trong hộp vũ khí sau lưng Lạc Thanh Lưu, “Không có vũ khí trong tay, ta không yên tâm.”

Chờ khi nhóm Lạc Thanh Lưu rẽ vào con đường hẹp, bóng người và tiếng vó ngựa gần như không còn nghe thấy gì nữa, Tạ Lãm mới chậm rãi quay đầu, ánh mắt lạnh hơn cả mưa đêm nhìn về phía cánh rừng đằng sau:

“Đại đô đốc, ngài theo sau ta mãi, rốt cuộc là có ý gì?”
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 101: Cùng cha cùng mẹ


Không bao lâu sau, trong rừng vọng lại tiếng vó ngựa. Nghe như từng bước chậm rãi tiến lên, nhẹ nhàng mà thong thả, nhưng lại như tiếng trống trận dồn dập nện vào lòng người, khiến ngực Phùng Gia Ấu khó thở.

Cái gọi là nhà dột còn gặp mưa suốt đêm chẳng phải chính là lúc này ư?

Nhất định phải dồn hết thảy vào một lúc, ép Tạ Lãm phát điên mới thôi?

Phùng Gia Ấu giận đến nghiến răng, khẽ giọng nói:

“Phu quân, chàng có tin vào khả năng phán đoán của nhị thúc không?”

Tạ Lãm nhíu mày:

“Hửm?”

Phùng Gia Ấu hạ quyết tâm:

“Nhị thúc nói, cha ruột của chàng là Lục Ngự sử, chuyện này không có gì để nghi ngờ gì.”

Dù không biết lát nữa Tề Phong sẽ nói gì, và nói ra điều này bây giờ có thể gây tác dụng ngược, nhưng nàng vẫn phải lên tiếng.

Vì nàng biết, trong lòng Tạ Lãm đã bắt đầu hoài nghi.

“Trên sa mạc, khi bị nắng gắt chiếu vào, da chàng sẽ ửng đỏ rất nặng, nên thường xuyên phải đeo mặt nạ. Lục Ngự sử cũng bị hệt như vậy.”

Nói xong, nàng không nhìn Tạ Lãm, chỉ cúi quan sát bàn tay đang siết chặt chuôi đao, gân xanh nổi lên đáng sợ. Nàng đưa tay, lòng bàn tay áp lên nắm tay ấy, dịu dàng mà kiên định.

Tạ Lãm nới lỏng tay một chút.

Tề Phong cuối cùng cũng cưỡi ngựa bước ra khỏi rừng:

“Bị thương mà vẫn giữ được sự cảnh giác thế này, miễn cưỡng coi như đạt yêu cầu.”

Nghe ông ta khen, Tạ Lãm chỉ cảm thấy buồn nôn như nuốt phải ruồi:

“Có thể trực tiếp về cùng chúng ta, lại chọn lén lút bám theo sau, chỉ để xem thử khi ta bị thương có còn đủ cảnh giác hay không à?”

Tề Phong không đáp, ánh mắt chuyển sang nhìn Phùng Gia Ấu.

Tạ Lãm lập tức siết chặt vòng tay, bảo vệ người con gái trong lòng mình, đồng thời kéo mạnh dây cương, điều ngựa lệch sang một bên, khiến Tề Phong không thể nhìn thẳng vào nàng.

Rồi hắn mở miệng, giọng lạnh tanh:

“Đại đô đốc cứ việc nói thẳng, mọi chuyện về ta, nội tử đều rõ cả.”

Tề Phong thu hết mọi hành động vào mắt, khẽ cau mày. Hắn cái gì cũng tốt, chỉ có điều vướng bận nhi nữ tình trường mà đánh mất chí lớn.

Khi định lên tiếng chỉ trích, ông ta lại nhớ tới quá khứ của chính mình, lời muốn nói bỗng nghẹn lại.

Tề Phong gật đầu:

“Quả thật là có ý đó, nhưng cũng vì ở trong bóng tối tiện bảo vệ con hơn.”

Tạ Lãm muốn lập tức muốn mỉa mai: <i>“Ta cần ông bảo vệ chắc? Ông là cái thá gì?”</i>

Nhưng hắn chỉ hít sâu một hơi, cố kìm nén nói:

“Ta có tài đức gì mà khiến Đại đô đốc bận lòng đến vậy?”

Tề Phong đáp:

“Con quên rồi sao, ta muốn mời con vào quân phủ. Con là nhân tài ta coi trọng, sao có thể để vùi thây ở Nam Cương.”

Tạ Lãm mất kiên nhẫn:

“Ta đã từ chối rồi. Ta không có hứng thú với quân phủ, chỉ muốn ở lại Huyền Ảnh Ti.”

Tề Phong kiên quyết:

“Con nhất định phải đến quân phủ của ta. Ở bên ta mới là nơi con an thân lập mệnh.”

Lời này thật quá nực cười, kết hợp với vẻ tự mãn của ông ta khiến Tạ Lãm không nhịn được bật cười lớn.

Tiếng cười đầy mỉa mai.

Hắn thực sự rất muốn giết Tề Phong ngay tại đây, rồi đổ cho quân Nam Cương.

Cơ hội này thật hiếm có.

Từ lúc Tề Phong ra tay bắt Ông Nhược Di, Tạ Lãm đã lâm thầm ước lượng thực lực của ông ta. Trong tình trạng hiện tại của hắn, vẫn có thể liều một phen.

Nhưng viên Tiểu Kim Hoàn hắn uống không phải để giết Tề PHong mà để đưa Phùng Gia Ấu cùng Hàn Trầm và những người khác an toàn về quân doanh.

Không được để xảy ra bất kỳ sơ suất nào.

Tạ Lãm đang định quay ngựa rời đi thì Tề Phong lại nói thêm, giọng đầy vẻ yêu thương:

“Con lưu lạc bên ngoài bao nhiêu năm, ta chưa từng làm tròn trách nhiệm của người cha. Những gì ta nợ con đều sẽ bù đắp hết.”

Tạ Lãm đã cố gắng hết sức để không nghĩ đến khả năng ông ta từng vấy bẩn mẹ mình.

Nhưng khi nghe thấy hai chữ “người cha,” toàn thân hắn cứng đờ, mắt đỏ bừng lên:

“Tề Phong, ông rốt cuộc có thôi đi không? Ai là con trai của ông?”

Hắn muốn cúi xuống nói với Phùng Gia Ấu rằng mình không nhịn nổi nữa rồi, cảm giác nghẹn ở ngực còn khó chịu và đau đớn hơn bất kỳ vết thương nào trên người.

Mà Phùng Gia Ấu vốn cũng không muốn khuyên hắn nhẫn nhịn. Người xưa nay không chịu được âm ức như hắn, có thể nhịn Tề Phong đến giờ phút này đã là giỏi lắm. Huống chi, Tề Phong lúc này còn không ngừng “khiêu khích”. Đối lại là nàng, có lẽ cũng chẳng nhịn nổi.

Tề Phong nhíu mày:

“Con kích động như vậy, không chịu nổi áp lực sao?”

Lời vừa dứt, đao trong tay Tạ Lãm bổ thẳng vào mặt ông ta.

Tề Phong thả dây cương, nghiêng người né tránh, nhưng vẫn không kịp, cánh tay bị rạch một đường.

Chưa kịp đứng vững, Tạ Lãm đã lao tới truy sát, chém thêm một nhát nữa!

Tề Phong vội rút đao bên hông ra đỡ.

“Con bình tĩnh lại đã.” Tề Phong không sợ, chỉ lo hắn cố gắng quá sức làm tổn thương thân thể, “Con muốn biết nguyên do, ta sẽ nói rõ cho con.”

Tạ Lãm định chém nhát thứ ba, nhưng nghe vậy thì tạm dừng.

Vết thương trên vai hắn lại bắt đầu chảy máu, nhưng không giống như khi giao chiến ở thành hoang, lần này hắn chẳng cảm nhận được bao nhiêu đau đớn.

Một phần vì Tiểu Kim Hoàn có tác dụng giảm đau trong ba ngày, một phần vì cơn giận tột độ làm lu mờ cả cảm giác đau.

Máu trên tay Tề Phong cũng bắt đầu chảy dọc theo thân đao, nhưng thần sắc ông ta đầy hưng phấn:

“Con xem con đi, có chỗ nào không giống con trai ta? Tên họ Lục vô dụng kia làm gì sinh được đứa con như con?”

Tạ Lãm không muốn phí thêm một câu với ông ta:

“Ông không chịu nói thật, vậy để ta hỏi, năm đó ở trạm dịch Kinh Bắc, có phải ông phái người thảm sát cả nhà Lục Ngự sử không?”

Tề Phong đáp:
“Con thừa nhận rồi phải không? Người trước kia lẻn vào phủ ta, đến Phật đường xem tranh chính là con? Con cũng biết người trong tranh là mẹ con… Không cần chối, đường nét gương mặt và đôi mắt con rất giống bà ấy, đặc biệt là khi cười. Ngày đó ở Huyền Ảnh Ti, ta đã chắc chắn con chính là đứa con ta không cam lòng từ bỏ, đã tìm kiếm suốt hai mươi năm qua.”

Tạ Lãm chẳng buồn để ý:

“Ông trả lời câu hỏi của ta trước.”

“Không phải ta phái người đi.” Tề Phong phủ nhận, “Đó là cha ta, ông nội con. Những người đó đều là tử sĩ ông ấy đích thân nuôi dưỡng.”

Tề gia vốn là khai quốc đại tướng được phong hầu, nhưng do không ủng hộ vương gia tạo phản mà chọn bảo vệ hoàng đế, sau khi vương gia lên ngôi đã bị tước mất tước vị và gạt ra ngoài lề quyền lực.

Tề gia dần sa sút, đời sau nối tiếp đời trước càng thêm thê thảm vì thiếu thốn tài nguyên.

Mãi đến đời Tề Phong, thiên phú quân sự và chính trị của ông đã thắp lại hy vọng cho cha mình. Cha ông ta dốc hết tâm sức bồi dưỡng con trai.

“Đương nhiên, cũng phải trách tên họ Lục vô dụng kia.”

Mỗi lần nhắc đến em rể Lục Thanh Đình, Tề Phong lại giận không kìm được:

“Mẹ con được Tề gia nhận nuôi. Cha nàng và cha ta là chiến hữu, lúc cha nàng tử trận trên chiến trường, nàng mới chỉ vài tháng tuổi. Ta và nàng là thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm. Nhưng cha ta dùng tiền đồ của ta ép buộc,

Chúng ta vốn thanh mai trúc mã, tình cảm sâu đậm, nhưng cha ta dùng tiền đồ của ta bức ép nàng, buộc nàng phải gả cho tên họ Lục đó…”

Cha ông ta chọn gả Tề Tư cho một thư sinh xuất thân thấp kém chỉ vì tên đó là học trò của cựu Thủ phụ Nội Các. Nếu tên đó đỗ đạc, mai này có thể có ích cho Tề gia.

Ai ngờ, tên họ Lục kia tuy đỗ trạng nguyên thật, nhưng đầu óc trì độn!

Bao nhiêu văn võ bá quan trong triều, y chẳng nể mặt ai, gây thù chuốc oán khắp nơi, thậm chí còn khiến Tề Phong bị vạ lây.

Về sau, trong vụ kho lương Điền Trung, ngay cả con trai độc nhất của ân sư mình, y cũng dâng sớ hặc tội không thương tiếc. Vì thế mới bị điều khỏi kinh thành, chuyển đến Kinh Bắc.

“Phụ thân ta cho rằng nếu không trừ khử hắn, sớm muộn gì cũng khiến cả Tề gia gặp họa. Đúng lúc thiên hạ đại loạn, nên ông ấy tính toán muốn dùng cái chết của hắn để mở đường cho ta.”

Mặt Tạ Lãm vô cảm:

“Ông nói cha ông phái người đi làm. Vậy ta hỏi ông, ông có biết trước không?”

Tề Phong trầm mặc chốc lát rồi nói:

“Ta đã khuyên can.”

Một câu này chính là thừa nhận đã biết. Tạ Lãm siết chặt chuôi đao:

“Vậy ông đích thị là đồng phạm.”

Tề Phong không thừa nhận, bởi ông ta không lên kế hoạch, cũng chưa từng có ý định đó, chỉ không ngăn cản mà thôi:

“Con biết lúc đó mỗi ngày ở Điền Nam có bao nhiêu người chết không? Còn ta, rõ ràng có tài nhưng lại bị điều đến Liêu Đông xa xôi, giữ một chức võ quan nhỏ bé, chẳng làm được gì. Ta thực sự cần cơ hội đó. Hơn nữa, còn có thể nhân cơ hội này mang mẹ con các con trở về.”

Ông ta không chống nổi sự cám dỗ ấy.

Cũng không tin rằng trên đời có bao nhiêu người có thể cưỡng lại được.

“Chỉ tiếc rằng… đêm đó không biết đã xảy ra biến cố gì, mẹ con lại chết…” Nhắc đến chuyện này, Tề Phong thoáng buồn bã, rồi quay sang nhìn Tạ Lãm, “Ta đang muốn hỏi con, năm đó rốt cuộc ai đã giết người của chúng ta rồi cướp con đi?”

Tề Phong hận nhất kẻ năm đó đã phá hoại giữa chừng:

“Hắn khiến cha con ta xa cách gần hai mươi năm, khiến con lưu lạc bên ngoài. Chuyện này, ta nhất định phải đối mặt tính sổ với hắn. Ta thậm chí nghi ngờ, cái chết của mẹ con có liên quan đến hắn…”

Tề Phong chưa kịp nói hết, trước mắt đã loáng lên một bóng dáng. Tạ Lãm lần nữa ra tay với ông ta.

Tề Phong phản ứng rất nhanh, chỉ né mà không đánh, nhưng trong lòng dần sinh giận:

“Trước kia con không biết thì thôi, giờ đã biết, sao còn dám ra tay với ta?”

“Ông giết cả nhà ta, làm nhục mẹ ta, giờ còn muốn ra tay với nghĩa phụ ta. Ta không giết ông thì còn xứng sống trên đời này sao?”

“Người chết là cả nhà họ Lục, có liên quan gì đến con?”

Tề Phong liên tục nhượng bộ, nhưng khi bị một đao trúng chân trái, không nhịn nổi nữa, liền dốc toàn lực phản công, ép Tạ Lãm lùi lại:

“Cha ruột con là Đại đô đốc!”

Tạ Lãm lùi mấy bước mới đứng vững, miệng phun ra một búng máu. Hắn đã đánh giá thấp Tề Phong. Với thương thế hiện tại, hắn không chắc có thể thắng được ông ta, trừ khi liều một trận lấy mạng đổi mạng.

Nếu Phùng Gia Ấu không ở đây, với tâm trạng lúc này, hắn thực sự sẽ làm vậy. Nhưng hiện tại, hắn không định đánh nữa. Núi xanh còn đó, chẳng lo thiếu củi đốt.

Đột nhiên nghe thấy Tề Phong nói:

“Còn nữa, ta đã nói rồi, ta và mẹ con đôi bên đều có tình. Con có biết vụ huyết án ở dịch quán Kinh Bắc năm đó là do chính mẹ con gật đầu đồng ý không? Nàng cũng muốn ta tận dụng cơ hội này, mang con về bên ta.”

Tạ Lãm vừa quay lưng định tìm Phùng Gia Ấu thì sững sờ, đứng chết trân tại chỗ.

Trước đó, Phùng Gia Ấu cưỡi ngựa, né một bên lặng lẽ quan sát, để yên cho Tạ Lãm giải quyết mối thù riêng.

Nhưng lúc này nàng không thể không lên tiếng:

“Tề Đại đô đốc, cái gọi là “Lục phu nhân gật đầu đồng ý”, có phải là do phụ thân ngài nói với ngài không? Ta đoán đó chỉ là lời dối trá để ép ngài hạ quyết tâm mà thôi.”

Tề Phong nhìn nàng thúc ngựa tiến tới vài bước, ra chiều cực kỳ không hài lòng, phớt lờ nàng.

Phùng Gia Ấu tự nói tiếp:

“Ta dám khẳng định, Lục phu nhân chắc chắn không biết chuyện.”

Tề Phong ném ánh mắt lạnh lùng về phía nàng:

“Ngươi là đàn bà con gái, biết gì mà nói?”

Phùng Gia Ấu ngồi trên lưng ngựa, bình tĩnh nhìn lại, không hề sợ hãi:

“Nếu Lục phu nhân biết trước, bà sẽ không đánh ngất con trai mình, nhét vào thùng nước rồi giấu dưới giếng, khiến người của các ngài lục soát khắp dịch quán, mãi mới tìm ra.”

Nhờ có Tạ Triều Ninh quay lại đúng lúc mới kịp thời mới cứu được Tạ Lãm.

Phùng Gia Ấu nói:

“Phu quân ta năm đó chỉ mới vài tháng tuổi. Ngài là người luyện võ, hẳn cũng biết đánh ngất một đứa trẻ sơ sinh sẽ rất dễ gây tổn thương khó lường cho cơ thể nó. Nếu không phải bất đắc dĩ, sao Lục phu nhân sao lại nhẫn tâm làm vậy?”

Nghe nàng nói vậy, Tạ Lãm bừng tỉnh.

Đến lượt Tề Phong sững sờ. Những người được phái đi Kinh Bắc năm ấy không ai trở về, ông ta hoàn toàn không biết chuyện Tề Tư đánh ngất và giấu con mình đi.

Hơn nữa, Phùng Gia Ấu nói không sai, quả thực mọi chuyện ông ta biết được đều do cha ông ta nói lại.

Ông ta đóng quân ở Liêu Đông quanh năm, ít khi liên lạc với Tề Tư. Có lẽ vì cảm thấy áy náy với chồng, sau khi kết hôn, Tề Tư thường tránh mặt ông ta.

Cho nên lần về kinh báo cáo công tác đó, hiếm hoi với gặp nhau, vì bị sự lạnh nhạt của bà k*ch th*ch, Tề Phong uống rượu giải sầu rồi mới…

Chẳng lẽ cái chết của Tề Tư là do cha ông ta?

Thấy Tề Phong thất, Tạ Lãm khẽ nheo mắt.

Hắn siết chặt chuôi đao, nhanh chóng tính toán góc độ, bất ngờ tấn công.

Phản ứng của Tề Phong không tồi, nhưng đao của Tạ Lãm chọn góc hiểm hóc. Ông ta không kịp tránh, lại bị thương ở chân phải.

Cả hai chân đều trúng đao, dù vết thương không sâu nhưng khiến ông ta chảy máu không ngừng, cử động khó khăn.

Đã lâu lắm rồi Tề Phong không bị ai làm tổn thương như thế. Trong khoảnh khắc, ông ta động sát tâm, nhưng rồi cố gắng kìm nén, đau lòng nói:

“Không trách con, không phải lỗi của con. Nói cho ta biết, nghĩa phụ của con là ai, tất cả đều là lỗi của hắn.”

Nhìn Tạ Lãm sắp bị ông ta làm phát điên, biết rằng giết Tề Phong lúc này cũng chẳng có lợi, Phùng Gia Ấu bèn hỏi:

“Tề đại đô đốc, trước đây ngài nghĩ Lục phu nhân đồng ý vụ thảm án ở dịch quán, hiểu lầm phu quân ta là con trai ngài, ta có thể hiểu. Nhưng tại sao bây giờ ngài vẫn chắc chắn như vậy?”

Tề Phong dùng chuôi đao chỉ vào Tạ Lãm:

“Tên vô dụng họ Lục kia đi vài bước đã thở hổn hển, có thể sinh ra một đứa con trai như nó sao?”

Phùng Gia Ấu nhíu mày:

“Đó không phải bằng chứng.”

Tề Phong cũng muốn Tạ Lãm tin, liền đưa ra bằng chứng khó nói:

“Ta và mẹ nó… Nó sinh ra đúng mười tháng sau đó.”

Phùng Gia Ấu hỏi lại:

“Ông không nghĩ rằng Lục phu nhân có thể sinh non sao? Trước đó bà ấy đã từng như vậy. Con trai lớn của bà vì sinh non khó nuôi mà gửi vào chùa nhờ Phật tổ che chờ…”

Tề Phong kinh ngạc:

“Đứa trẻ đó không chết sao?”

Phùng Gia Ấu lắc đầu:

“Phu quân của ta cũng sinh non, nhưng trời sinh thể trạng cường tráng… Ta cho ông biết thêm một chuyện nữa, hai huynh đệ họ chỉ cách nhau một hai tuổi, nhưng dung mạo giống hệt nhau, như hai giọt nước. Theo hiểu biết của ta, khả năng lớn là cùng cha cùng mẹ.”


 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 102: Vậy thì đã sao


Tề Phong không tin nổi:
“Sao có thể như thế…?”

“Có gì mà không thể?” Thời gian gấp rút, Phùng Gia Ấu nói nhanh, “Ta nghĩ ngài cũng như các thế lực khác trong triều, đều đã phái người tới Thục điều tra thân thế của phu quân ta. Ai nấy đều biết với võ công của chàng, không thể nào là Tạ tài tử ở Thục, nhưng so sánh dung mạo lại không tìm ra điểm sơ hở nào.”

Tề Phong quả thực không tra ra được điều gì, nên mới phải hỏi thẳng.

Phùng Gia Ấu nhàn nhạt đáp:

“Bởi vì vị Tạ tài tử đó chính là đại ca của phu quân ta, Tạ Lâm Khê, con trai trưởng của Lục Ngự sử và Lục phu nhân. Huynh ấy còn sống, hơn nữa sống rất tốt.”

Lời này khiến Tề Phong không thể không tin. Ánh mắt ông ta thoáng dao động, lẩm bẩm:

“Con trai trưởng của nàng ấy vẫn còn sống, chuyện quan trọng như vậy, tại sao nàng ấy lại không nói với ta?”

“Phải rồi, vậy mà ngài gọi đó là đôi bên đều có tình sao? May là Lục phu nhân không nói với ngài, nếu không, Tạ Lâm Khê đã bị ngài giết từ lâu rồi.”

Phùng Gia Ấu suy đoán, với sự tàn nhẫn của Tề Phong, không đời nào ông ta nương tay chỉ vì đối phương là con của người phụ nữ mình yêu. Ông ta đối xử tử tế với Tạ Lãm chỉ vì tưởng đó là con trai mình. Nếu biết Tạ Lâm Khê vẫn còn sống, ông ta sẽ diệt cỏ tận gốc.

Phùng Gia Ấu quyết định, khi Tề Phong bị đả kích tinh thần là cơ hội tốt để ra tay. Nàng ra hiệu bằng mắt với Tạ Lãm, hãy mau chóng kết thúc.

Mọi lời lẽ hao tâm tổn sức vừa rồi đều nhằm mục đích đánh gục tinh thần ông ta trước.

Nàng và Tạ Lãm đều có cùng suy nghĩ: dù phía sau có quân Nam Cương truy đuổi, nhưng đây cũng là thời cơ tốt để giết Tề Phong.

Đi một nước cờ mạo hiểm, đổ tội giết Tề Phong lên quân Nam Cương.

Hai mươi năm đã trôi qua, kẻ chủ mưu và lâu la thực hiện đều đã chết. Vì nhiều nguyên do, vụ huyết án ở dịch quán Kinh Bắc sẽ vẫn luôn bị kết luận là do bọn cướp gây ra. Chỉ giết Tề Phong thôi thì quá dễ dàng cho ông ta, nghĩ lại đã thấy phẫn uất.

Danh vọng cả đời của Đại đô đốc bắt đầu từ Nam Cương. Vậy thì để ông ta bị hủy diệt tại Nam Cương, cũng coi như có đầu có cuối.

Tạ Lãm từ lâu đã khát khao báo thù cho gia đình, lúc này nỗi căm hận ấy dâng trào mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hắn dốc toàn lực ra tay với Tề Phong.

Tề Phong đang trong cơn hỗn loạn, chỉ sơ sẩy một chút đã bị hắn làm bị thương.

Nhưng lần này bị thương lại khiến sát ý của ông ta bộc phát. Tất cả cơn giận dữ trút hết lên Tạ Lãm!

Đòn đánh của ông ta vừa tàn nhẫn, vừa tràn đầy bi phẫn. Tại sao Tạ Lãm lại không phải là con trai ông ta?

Tại sao chứ?

Với thiên phú võ học, sự can đảm và khí phách như Tạ Lãm, đáng lẽ phải là con trai ông ta mới đúng!

Tên vô dụng họ Lục kia có tư cách gì?!

Phùng Gia Ấu như đoán được Tề Phong đang nghĩ gì, kéo cương ngựa đi vòng quanh, khóe môi nhếch lên một nụ cười chế giễu, giọng điệu mỉa mai:

“Ngài luôn miệng gọi Lục Ngự sử là ‘tên vô dụng’, nhưng hãy nhìn hai con trai của ông ấy mà xem. Một người là tài tử Đất Thục, nổi danh từ thuở thiếu niên, tài năng đủ để đoạt trạng nguyên. Người kia là thiên tài võ học, xuất sắc thế nào thì không cần ta phải nói thêm, ngay cả Đại đô đốc cũng si mê đến mức muốn nhận chàng làm con trai…”

“Ta hiểu mà, so với tên vô dụng Tề Chiêm Văn, phu quân ta quả thực giống ngài hơn. Tiếc là ngài không có phúc phần đó…”

“Câm miệng cho ta!”

Phùng Gia Ấu giẫm đúng chỗ đau khiến Tề Phong phát điên, xoay người định giết nàng.

Lúc này, thực lực của Tề Phong và Tạ Lãm tương đương nhau. Tạ Lãm đang bị trọng thương. Còn Tề Phong thì dù thể lực không vấn đề gì, nhưng tinh thần đã chịu đả kích nặng nề.

Vậy mà ông ta lại cố chấp muốn giết Phùng Gia Ấu.

Tạ Lãm lập tức chiếm thế thượng phong, nhanh hơn một bước lao đến trước ngựa của Phùng Gia Ấu, xoay người giáng xuống một nhát đao dữ dội.

Tề Phong dày dạn sa trường, dù tinh thần hỗn loạn, phản xạ vẫn cực kỳ nhanh nhạy.

Hầu như theo bản năng mà né được, nhưng ngay lập tức lại bị Tạ Lãm đánh tới tấp.



Nhóm Lạc Thanh Lưu đã ra khỏi con đường núi hẹp, đứng chờ Phùng Gia Ấu và Tạ Lãm.

“Đúng rồi, vị huynh đài này.” Nhàn rỗi không có việc gì, Thẩm Thời Hành chắp tay chào Lạc Thanh Lưu, “Chúng ta đã cùng hoạn nạn, vậy mà ta vẫn chưa biết huynh đài là nhân vật phương nào?”

Biết đang trong lúc chạy trốn, Thẩm Thời Hành nhẫn nhịn đến giờ mới hỏi đã là cực hạn của hắn.

Tùy Anh vội chen lời:

“Huynh ấy tên là Lạc Thanh Lưu, ân nhân cứu mạng của ta.”

Nàng sợ khi Lạc Thanh Lưu tự giới thiệu, sẽ buộc phải nhắc đến hai chữ “hoạn quan”, khiến hắn khó xử.

Thẩm Thời Hành nhíu mày:

“Ân nhân cứu mạng của Tùy tiểu thư?”

Lại nhớ đến khi nãy Lạc Thanh Lưu nói thích trộm xác đêm mưa với Tạ Lãm, trong đầu lóe lên liền hiểu ngay:

“À… hóa ra là cái người mười năm trước trong cung…”

Lạc Thanh Lưu toát mồ hôi lạnh.

Hắn biết Thẩm Thời Hành là người thông tỏ đủ chuyện thâm cung bí sử, chắc chắn đã đoán được hắn chính là kẻ trộm bị bắt trong cung mười năm trước.

Lạc Thanh Lưu vội vàng lớn tiếng ngắt lời:

“Ai dà! Đại ca đại tẩu sao còn chưa trở lại? Không lẽ đã xảy ra chuyện gì?”

Nói rồi liền quay đầu:

“Ta đi xem sao.”

Bị hắn khơi lên sự lo lắng, Tùy Anh cũng sốt sắng đi theo.

Thẩm Thời Hành nghĩ Tùy Anh đã biết mọi chuyện nên không nói gì thêm.

Lạc Thanh Lưu chậm chạp đi phía trước, lòng thấp thỏm vô cùng. Lần này xem như qua được, nhưng với thói ưa đấu khẩu giữa Thẩm Thời Hành và Tùy Anh, chẳng biết ngày nào sẽ bị lộ.

Lạc Thanh Lưu thật sự không muốn Tùy Anh biết quá nhiều.

Không muốn nàng thương hại mình.

Vừa đi vừa nghĩ cách làm sao chặn miệng Thẩm Thời Hành, chợt nghe tiếng binh khí giao nhau ở phía xa, tim hắn giật thót:

“Canh chừng Nam Cương Vương cho kỹ!”

Hắn vận khinh công, phóng người khỏi ngựa, lướt nhanh về phía trước. Đến khi thấy người đang giao đấu với Tạ Lãm chính là Tề Phong mới ghìm bước, đứng lại ở khoảng cách xa.

“Xảy ra chuyện gì vậy?” Tùy Anh và Thẩm Thời Hành kéo theo ngựa của Lạc Thanh Lưu tiến lên, vừa nhìn thấy cảnh tượng phía trước, cũng không khỏi kinh ngạc.

“Sao Tạ Thiên hộ lại đánh nhau với Tề Phong?” Tùy Anh chau mày, nhìn dáng vẻ hai người kia chẳng phải đang luận võ, mà rõ ràng là lấy mạng nhau.

“Không rõ nữa.” Lạc Thanh Lưu bối rối, “Tề Phong có vẻ không bình thường, như đang phát cuống vậy.”

Đêm tối mịt mùng, Thẩm Thời Hành nhoài người quan sát kỹ hơn:

“Đám si mê võ nghệ như bọn họ, có mấy ai không điên?”

“Tạ Thiên hộ bị thương, liệu có thắng được Tề Phong không?” Tùy Anh hỏi.

Lạc Thanh Lưu chăm chú nhìn một lúc:

“Có cơ hội thắng, và còn không nhỏ. Nhưng nếu giết được Tề Phong, e rằng chính hắn cũng phải nằm liệt giường mấy tháng.”

Tùy Anh nhíu mày:

“Vậy chúng ta làm gì? Có nên xông lên giúp không?”

Lạc Thanh Lưu cũng thấy khó xử:

“Ban nãy Tạ Thiên hộ cố ý bảo chúng ta đi trước, có lẽ vì muốn nói chuyện riêng với Tề Phong. Không chừng giữa họ có hận thù sâu đậm không đội trời chung, ta nghĩ tốt nhất là đừng xen vào, để họ tự giải quyết.”

Dù có đến giúp hẳn cũng sẽ bị Tạ Lãm đuổi đi, bảo bớt lo chuyện bao đồng. Lạc Thanh Lưu lại nói:

“Ta hiểu cảm giác này, thù càng nặng, càng muốn tự tay báo, nếu không sẽ thấy khó chịu trong lòng.”



“Tề Phong, ngài không thấy đời ngươi chẳng khác nào một trò cười sao?”

Tạ Lãm vung đao không ngừng, miệng Phùng Giai Ấu cũng không nghỉ lấy một khắc.

Đao chém vào thân thể Tề Phong.

Còn lời lẽ đâm thẳng vào tim gan ông ta.

Cả hai cùng lúc giáng xuống, hiệu quả thật đáng kinh ngạc. Đến khi Tề Phong bình tĩnh lại, thì đã gần như không chống đỡ nổi nữa. Một nhát đao dài xuyên thẳng bụng!

Ông ta cũng kịp tung một chưởng đánh trúng vai trái bị trọng thương của Tạ Lãm, làm hắn lảo đảo, lùi liền mấy bước rồi khụy xuống, một gối quỳ trên đất, đầu đao chống vào đất, gắng gượng mấy lần nhưng không thể đứng dậy nổi.

Phùng Gia Ấu ngừng nói, không còn đâm vào nỗi đau của Tề Phong nữa. Nàng nhận ra, Tề Phong vẫn còn chút nương tay với Tạ Lãm.

Không biết là vì còn lưu luyến, hay vì áy náy.

Tề Phong cũng không đứng lên được, cũng nửa quỳ trên đất giống Tạ Lãm. Máy từ bụng chảy không ngừng, lấy tay bịt cũng không cầm nổi, ông ta cười lạnh:

“Ta có là trò cười thì cũng chỉ trong mắt các ngươi thôi. Còn với thế nhân, ta vẫn là anh hùng từng lập đại công cứu nguy nơi chiến trường Nam Cương. Tên của ta vẫn sẽ mãi lưu trong sử sách.”

Phùng Gia Ấu biết ông ta nói không sai, cũng chính vì thế nàng mới liều lĩnh giết ông ta tại đây.

Để bôi một vệt đen vào cuốn sử đời ông ta.

Nàng thúc ngựa tiến đến bên Tạ Lãm, nhảy xuống đỡ lấy hắn dậy.

“Ông ta không sống nổi nữa đâu.” Tạ Lãm khó nhọc đặt chân lên bàn đạp leo lên ngựa, rồi kéo Phùng Gia Ấu lên theo, “Đi thôi, lần này chúng ta không thể trì hoãn được nữa.”

Phùng Gia Ấu gật đầu: “Ừ.”

Tạ Lãm quay đầu ngựa, trước khi rời đi, ngoảnh lại nhìn Tề Phong:

“Vậy thì sao?”

Tề Phong ngẩng gương mặt tái nhợt lên.

“Những gì ông vừa nói… vậy thì sao chứ?” Tạ Lãm dường như thật sự không hiểu.

Câu hỏi ngược cũng khiến Tề Phong bối rối.

Dù là anh hùng, dù quyền cao chức trọng, dù danh lưu sử sách.

Vậy thì sao chứ?



Phùng Gia Ấu cầm lấy dây cương từ tay Tạ Lãm:

“Để ta.”

Nàng để Tạ Lãm tựa vào vai mình như trước.

Trời tối đen, đi tới sạn đạo, Phùng Gia Ấu mới trông thấy Lạc Thanh Lưu và mọi người đứng chờ ở đó.

Phùng Gia Ấu vừa định mở lời thì Lạc Thanh Lưu đã hỏi ngay:

“Đại tẩu, người vừa rồi là ai? Sao ta chừng từng gặp bao giờ?”

Phùng Gia Ấu nhướng mày:

“Hiểu chuyện đấy.”

Ánh mắt nàng lướt qua Tùy Anh, người kín miệng nhất, rồi dừng lại ở Thẩm Thời Hành.

Thẩm Thời Hành khó tin:

“Tiểu Gia, muội nghĩ ta sẽ nói ra sao?”

Phùng Gia Ấu chỉ tay vào hắn:

“Ta sợ huynh bóng gió viết vào sách.”

Thẩm Thời Hành cạn lời:

“Ta biết nặng nhẹ mà.”

Những chuyện không nên tò mò, hắn sẽ không phí tâm suy nghĩ.

“Đi thôi.” Phùng Gia Ấu cùng Tạ Lãm đi trước.

Trừ việc lo lắng cho tình trạng của Tạ Lãm, nàng cảm thấy nhẹ nhõm không ít vì cuối cùng cũng loại trừ được mối họa Tề Phong. Về phần triều đình sẽ dấy lên phong ba gì, nàng không còn sức bận tâm nữa.

Tạ Lãm bỗng lên tiếng:

“Thật kỳ lạ.”

“Sao cơ?”

“Rõ ràng là tự tay trả thù, nhưng tại sao trong lòng lại chẳng thấy thoải mái? Cũng không phải vì… chuyện của mẹ ta.”

Phùng Gia Ấu hiểu nguyên do:

“Bởi vì Tề Phong không hoàn toàn chết dưới tay chàng.”

Tạ Lãm:

“Vậy ông ta chết vì nàng nói nhiều à?”

Phùng Gia Ấu: “…”

“Ông ta chết vì tự phụ.”

Dám một thân một mình đến Nam Cương, dám giữa lúc sau lưng còn truy binh vẫn ngạo nghễ nhận con.

Tất cả đều vì trong lòng ông ta không thực sự xem Nam Cương là mối đe dọa.

Suy cho cùng, chiến tích lẫy lừng nhất đời Tề Phong, chính là trận đại phá Nam Cương năm xưa, khiến tiên vương Nam Cương tức đến chết.

“Ông ta vẫn luôn cho rằng mình là cơn ác mộng khắc sâu tận xương tủy của người Nam Cương, rằng chỉ cần thấy mặt ông ta thôi, truy binh cũng sẽ run sợ đến mất hết tinh thần chiến đấu.”

Nhìn phản ứng của người Nam Cương khi ông ta bỏ mặt nạ ở thành hoang, quả đúng như vậy.

“Hào quang đó khiến ông ta phớt lờ những mối nguy khác.”

Nói xong hồi lâu, Phùng Gia Ấu vẫn không nghe Tạ Lãm có động tĩnh gì.

Hắn tựa vào vai nàng, mặt vùi vào cổ nàng, bất động.

Phùng Gia Ấu chú ý cảm nhận từng hơi thở phả lên da mình, thấy hô hấp vẫn đều đặn mới phần nào an tâm.

“Phu quân?” Nàng khẽ gọi.

“Ta không sao.” Tạ Lãm đáp lại, “Chỉ là nghe nàng nói ‘tự phụ’, ta lại thấy như đang bị mắng, còn ai tự phụ hơn đâu.”

Nghe giọng hắn vẫn rõ ràng, Phùng Gia Ấu mỉm cười:

“Chàng tự phụ, nhưng đâu giống ông ta. Ông ta tự phụ vì không nhìn rõ bản thân, còn chàng là vì thấu tỏ mà dám ngẩng đầu.”

Tạ Lãm bật cười:

“Giờ nàng cứ khen ta mãi, làm ta còn áp lực hơn cả lúc bị mắng, sợ mình làm sai gì đó khiến nàng thất vọng.”

Phùng Gia Ấu khẽ lắc đầu, áp gò má lạnh lên cái trán còn vương máu của Tạ Lãm:

“Phu quân trong lòng ta đã là mái nhà rồi. Ta chỉ sợ mình với tay không tới thôi, làm sao mà thất vọng cho được?”

Tạ Lãm nghe vậy thì vui sướng, ôm chặt eo nàng hơn, vùi mặt sâu hơn, khẽ thì thầm:

“Đừng lo, nếu nàng với không tới… ta sẽ tự ngã xuống.”

Phùng Gia Ấu: “…”

Nàng bật cười thành tiếng. Trước kia luôn cảm thấy lời hắn nói thật càn quấy, luôn khiến nàng tức đến nghẹn lời.

Bây giờ mới hiểu, chỉ cần cảm nhận được tâm ý trong đó thì câu nào cũng thành mật ngọt.



Cơn mưa lớn tích tụ từ lâu cuối cùng cũng đổ xuống. Vì bị Tề Phong làm chậm trễ, bọn họ không dám trú mưa, cứ thế mò mẫm trong màn đêm, dầm mưa đi tiếp.

Vượt qua sạn đạo, xuyên qua rừng cây, không một ai dám nghỉ ngơi, ai nấy đều ướt sũng, mệt mỏi thảm thương.

Phùng Gia Ấu cảm nhận được hơi nóng từ cơ thể Tạ Lãm áp sát sau cổ mình, biết rằng hắn đang sốt.

Từ khi quen biết tới nay, nàng chưa bao giờ thấy hắn bị bệnh, cũng chưa từng cảm thấy lo lắng đến vậy.

Nhưng Tạ Lãm vì căn bệnh tim của nàng mà lo lắng, ngày nào cũng giục nàng đi ngủ sớm, nhắc nhở nàng đừng suy nghĩ nhiều.

Nàng chưa bao giờ để tâm, thậm chí còn cho rằng hắn chuyện bé xé to. Nhớ lại có lần, nàng giả vờ phát bệnh để dọa hắn, khiến hắn sợ đến phát run, còn nàng thì cười nhạo hắn.

Luôn miệng chê hắn ngang ngược vô lý, nhưng giờ nghĩ lại, chính nàng mới thật sự ngang ngược.



Tạ Lãm cố gắng giữ mình tỉnh táo, thầm đếm nhịp, không để mình nhắm mắt quá mười nhịp. Khi đếm đến “mười,” hắn lại cố hết sức mở đôi mắt nặng trĩu như cánh cửa sắt.

Cho đến khi nhìn thấy một góc tường của Đô Ti Điền Nam, hắn mới thôi chống chọi, đôi mắt ấy cuối cùng khép lại hoàn toàn.

Phùng Gia Ấu biết hắn đã cạn kiệt sức lực từ lâu, nhưng không ngờ hắn lại ngã thẳng từ lưng ngựa xuống.

“Phu quân?!” Nàng hoảng hốt vương tay giữ lại, chỉ kịp túm được ống tay áo của hắn.

Nhưng làm sao giữ nổi, chính nàng cũng bị hắn kéo theo ngã xuống, cả người đè lên ngực hắn.

Khoảnh khắc đó, Phùng Gia Ấu tưởng hắn đã chết. Quên cả việc kiểm tra hơi thở hay nhịp tim, chỉ biết khóc òa trong hoảng loạn.

Chỉ khi Lạc Thanh Lưu chạy tới, nói một câu: “Đại ca kiệt sức mà ngất đi thôi,” nàng mới nguôi ngoai phần nào.



Tạ Lãm cũng tưởng mình chết thật rồi.

Bởi trong mơ, hắn lại trở về thành Hắc Thủy.

Dưới ánh nắng gay gắt, gió cát vàng bay đầy trời, những bức tường thành kiên cố hiện lên quen thuộc vô cùng.

Nghe nói khi người ta chết, linh hồn sẽ trở về quê hương, chẳng lẽ hồn hắn đã trôi dạt về đây?

Tạ Lãm sợ hãi tột độ, tưởng tượng ra cảnh Phùng Gia Ấu khóc đến ngất lịm bên thi thể mình.

Cho đến khi nhìn thấy Nhị thúc “mắt mù thọt chân” đang ngồi uống rượu một mình trên tường thành, hắn mới thở phào nhẹ nhõm, biết rằng mình chỉ đang mơ.

Từ bé đến lớn, Tạ Lãm đã quen với cảnh này – Nhị thúc ngồi ở đó, tay cầm bầu rượu nhỏ, nhìn về hướng Đông Nam xa xem, lặng lẽ uống rượu.

Đến bây giờ Tạ Lãm mới hiểu, ánh mắt ấy đang trông về kinh thành, cố hương của ông.

Tạ Lãm bước tới ngồi bên cạnh, cùng ông dõi nhìn về hướng ấy.

Nhị thúc quay đầu, dùng con mắt còn lại của mình nhìn hắn, mỉm cười hỏi:

“Sao thế, bây giờ thấy gắn bó với kinh thành rồi à?”

Tạ Lãm bất giác nhíu mày lẩm bẩm:

“Không đúng.”

Hắn nhớ ra, hiện tại Phùng Gia Ấu không ở kinh thành mà đang ở Đô Ti Nam Vân. Thế là xoay người, nhìn thẳng về phía Nam.

Nhị thúc kinh ngạc:

“Tiểu Sơn, chẳng lẽ con đã hiểu được chân lý của câu “bốn bể là nhà” rồi sao? Đi một chuyến đến Nam Cương, quê con giờ thành Nam Cương?”

Tạ Lãm nói:

“Rốt cuộc con đã hiểu được một câu.”

Tạ Lãm nhớ lại mấy câu mà Lý Tự Tu từng viết lên vạt áo trong ngày sinh nhật của Phùng Gia Ấu: “<i>Thế gian ngưỡng mộ chàng như ngọc sáng, trời khéo thương ban nàng tựa phấn ngà.”</i>*<i>Chú thích</i>

Sau đó về nhà, hắn đã cố gắng nghiên cứu bài từ đó, và nhớ kỹ câu cuối cùng: <i>“Nơi lòng an yên, chính là quê nhà.”</i>

Ngay lúc này, hắn rốt cuộc đã hiểu thấu ý nghĩa của câu ấy.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 103: Bắc hành về kinh (HOÀN CHÍNH VĂN)


Tạ Lãm kẹt trong mộng suốt một thời gian, đến khi tỉnh dậy khỏi cơn mê man đã là vài ngày sau đó.

Hắn cố gắng mở mắt, ánh sáng chói lóa đâm vào mắt nhức nhối, bèn nhắm tịt lại. Song chỉ trong thoáng mở mắt ấy, hắn kịp nhận ra đang là giữa trưa và bản thân đang nằm trong phòng ở quân doanh.

Sau khi thích nghi dần, Tạ Lãm mở mắt lần nữa, xoay đầu, nhìn thấy Phùng Gia Ấu ngồi trên chiếc ghế thấp sát giường, gối đầu lên tay, thiếp đi bên mép giường.

Làn da nàng xanh xao, quầng thâm dưới mắt đậm màu, gương mặt trắng như sứ phủ đầy nét mệt mỏi.

Hắn muốn ngồi dậy uống nước, nhưng vừa nhúc nhích, cả người đau đớn như bị dỡ từng khúc xương, nhịn không được mà run rẩy.

Phùng Gia Ấu không ngủ sâu, nghe thấy động tĩnh liền giật mình tỉnh dậy:

“Đừng cử động!”

Nàng đứng dậy rót nước, mang đến cho hắn.

Tạ Lãm nhận ra nàng đang nói với giọng mũi nghèn nghẹt.

Phùng Gia Ấu vừa rót nước vừa nói:

“Tại dầm mưa đấy! Đại phu đã khám rồi, cũng đã uống thuốc rồi, chàng đừng lo.”

Kể từ khi thoát về, cả Tạ Lãm và Hàn Trầm đều trọng thương rơi vào hôn mê.

Lạc Thanh Lưu vốn đã suy kiệt, suốt dọc đường chỉ cố cầm cự, vào đến Đô Ti Điền Nam thì không cầm cự tiếp được nữa.

Nàng và Thẩm Thời Hành đều bị cảm lạnh, chỉ có Tùy Anh là không sao, nhưng lại trở thành người bận rộn nhất, hết chăm người này lại chạy sang chăm người kia.

Phùng Gia Ấu bưng nước tới, đưa tay luồn dưới cổ Tạ Lãm giúp nâng đầu hắn lên cao chút, đỡ hắn uống nước.

Biết hắn lo lắng điều gì, nàng an ủi:

“Cổ độc trong người Hàn Trầm có cách giải, tình trạng đã ổn định rồi… Cũng đúng như chàng đoán, đêm đó quân đội của Giám quốc Nam Cương đuổi tới vách núi gần sạn đạo thì không tiếp tục đuổi theo nữa…”

Đi tiếp là xâm nhập sâu vào lãnh thổ Đại Ngụy, bọn họ buộc phải rút lui.

“Nhưng Giám quốc không cam lòng, dẫn theo đội tinh nhuệ băng qua sạn đạo tiếp tục đuổi. Có thể là bị cây lớn mà chàng chặt trước đó chắn đường, hoặc có thể mưa lớn làm sạt lở núi… nói chung là bị cản lại một hồi nên tụt lại sau chúng ta khá xa.”

“Lúc Giám quốc rút lui, suýt nữa bị quân ta đuổi kịp. Người thủ lĩnh bên cạnh bà ta liều chết chặn hậu, kiệt sức bỏ mạng.”

Người đó đúng là dũng tướng, đã trúng kim châm do nàng b.ắn ra nhưng vẫn có thể lấy một địch trăm. Nghe nói trước lúc chết, ông ta đã quay mặt về hướng Đô Ti Điền Nam quỳ rạp xuống dập đầu. Hẳn là lòng ôm nỗi hổ thẹn vì không bảo vệ được người vốn nên bảo vệ.

“Còn Tề Phong…”

Xác của Tề Phong được phát hiện bên dưới vách núi ở gần đầu sạn đạo. Chuyện này không nằm ngoài dự đoán của Phùng Gia Ấu. Ông ta không muốn thi thể mình rơi vào tay truy binh Nam Cương nên dùng chút hơi tàn nhảy xuống vực sâu, không để lại bất kỳ lời nhắn nào.

Nhưng vì đêm đó quân Nam Cương đã đi qua, người ta đều cho rằng ông ta chết dưới tay Giám quốc Nam Cương. Phía Giám quốc chẳng có bất kỳ phản ứng nào.

Phùng Gia Ấu đoán rằng bà ta sẽ không thừa nhận cũng không phủ nhận chuyện này.

Tạ Lãm lúc này mới hoàn toàn yên tâm, không còn sức lực để nói chuyện, uống xong nước lại nằm xuống, đầu óc vẫn mơ màng, lại sắp chìm vào giấc ngủ.

Phùng Gia Ấu thấy hắn mí mắt giật liên hồi tựa như đang vật lộn:

“Ngủ đi, ta ở đây canh chừng cho chàng.”

Tạ Lãm yếu ớt thò một tay ra khỏi chăn. Phùng Gia Ấu hiểu ý, liền nắm chặt lấy. Bấy giờ hắn mới dần an tĩnh lại.



Lần này Tạ Lãm ngủ suốt hai ngày, thức dậy vì đói đến cồn cào. Ăn một bát cháo loãng, tỉnh táo chốc lát thì tiếp tục ngủ thêm một ngày.

Khi tỉnh lại lần nữa, tinh thần được phục hồi quá nửa, Tạ Lãm bắt đầu có thể nói cười với Phùng Gia Ấu. Nàng không cho hắn tự tiện cử động, canh giữ hắn chằm chặp nhưng canh trộm, đến cả ăn cháo cũng phải do nàng ngồi bên giường đút từng muỗng một.

Ban đầu Tạ Lãm nhất quyết không chịu, nhưng sau mấy ngày được nàng chăm chút như thế, dần dần lại sinh ra cảm giác mê thích ngọt ngào.

Hôm nay khi đang được đút ăn như thường lệ, Phùng Gia Ấu bỗng nói:

“Hàn Trầm tỉnh rồi.”

Tạ Lãm suýt cắn trúng muỗng:

“Hắn không sao chứ?”

Ở đất Điền Nam này, thầy lang thông thạo cổ độc rất nhiều, Trấn Quốc Công đã tìm đến không ít người, cuối cùng kiềm chế được cổ độc trong đầu Hàn Trầm. Nhưng vì bị trúng độc quá lâu, chỉ có thể tạm thời ức chế, không thể hoàn toàn giải trừ.

Dù vậy, vấn đề không lớn, nếu không, Ông Nhược Di sẽ không sốt ruột muốn đưa Hàn Trầm quay về.

Khi Hàn Trầm trở lại Nam Cương, thủ lĩnh của các bộ tộc sẽ giúp hắn tìm cách phá giải. Bởi Nam Cương vốn là nơi tập trung của cao thủ cổ độc.

Tạ Lãm lo lắng cho tinh thần của Hàn Trầm.

Phùng Gia Ấu thở dài:

“Ta thấy huynh ấy không được tốt lắm, tỉnh táo rồi nhưng không thể hiện chút cảm xúc nào. Ta kể cho huynh ấy nghe chuyện xảy ra ở thành hoang hôm đó nhưng huynh ấy chỉ im lặng.”

Điều này còn đáng sợ hơn cả gào thét hay khóc lóc, nó đồng nghĩa trái tim Hàn Trầm đã tổn thương quá sâu, niềm tin cũng sụp đổ.

Tạ Lãm xốc chăn lên:

“Ta qua thăm hắn.”

Vừa đứng dậy liền hoa mắt choáng váng, suýt ngã lăn xuống.

Phùng Gia Ấu vội vàng đỡ lấy:

“Thôi đi, đại phu nói tình trạng của chàng bây giờ còn tệ hơn huynh ấy, mau nằm xuống nghỉ ngơi đi.”

Sao Tạ Lãm chịu nằm yên, hiện giờ trong Đô Ti Điền Nam chỉ có hắn là người thân thiết với Hàn Trầm, có thể an ủi được:

“Ta không yếu như nàng nghĩ đâu, mấy ngày nay nàng chăm sóc ta kỹ càng, uống không biết bao nhiêu thuốc, giờ đã gần bình phục rồi. Tại nằm lâu quá nên đầu hơi choáng thôi.”

Phùng Gia Ấu ép hắn ngồi xuống:

“Nhưng chàng đi an ủi liệu có tốt hơn không? Chàng đâu có giỏi an ủi ai, lần nào chẳng chọc Hàn Trầm tức điên lên? Giờ huynh ấy đã đau lòng lắm rồi, nếu thật sự muốn tốt cho huynh ấy thì chàng cứ để huynh ấy yên đi.”

Tạ Lãm: “……”

Nghe bực thật đấy, nhưng nghĩ kỹ lại thì… cũng đúng.

Phùng Gia Ấu nói:

“Chàng yên tâm, vừa về tới quân doanh là ta đã nhờ Bùi Nghiên Chiêu liên lạc với ám vệ Huyền Ảnh Ti, gọi Liễu Doanh Doanh tới rồi. Ta đoán một hai ngày nữa cô ấy sẽ tới nơi.”

“Doanh Doanh sẽ đến?” Tạ Lãm cuối cùng nở nụ cười, khen, “Vẫn là nàng nghĩ chu đáo nhất.”

Nói rồi lại nằm xuống, há miệng chờ ăn cháo, nào ngờ Phùng Gia Ấu đưa muỗng cho hắn.

Tạ Lãm ngớ ra:

“Ta tự ăn hả?”

“Chứ sao?” Phùng Gia Ấu nheo mắt nhìn hắn, “Chẳng phải chàng mới nói chàng không yếu ớt như ta nghĩ à?”

“Tại ta muốn qua thăm Hàn Trầm, sợ nàng không cho nên ta mới nói vậy mà.”

Tạ Lãm ôm ngực kêu “Ôi” một tiếng, yếu ớt dựa vào gối mềm, liên tục rê.n rỉ “Đau… Đau quá…”.

Đã có thể rên đau, nghĩa là… cũng chẳng còn đau bao nhiêu nữa.

Phùng Gia Ấu thầm vui trong bụng, môi hồng khẽ nhếch lên, nhưng không vạch trần hắn. Nàng lẳng lặng ngồi xuống ghế, tiếp tục đút hắn ăn cháo.

Bỗng nhiên nàng than thở:

“Tình cảm của chàng và nhị thúc chàng tốt thật đó.”

Tạ Lãm lại ngớ ra, chẳng hiểu sao nàng lại nhắc đến nhị thúc.

“Đêm đầu tiên chàng mê man, cứ liên tục gọi ‘nhị thúc’.”

“Ta gọi nhị thúc thật hả?”

“Đúng vậy, gọi cả chục lần, mà không gọi ta lần nào hết.”

Tạ Lãm ngạc nhiên:

“Sao có thể chứ?”

Hắn cố gắng nhớ lại, lúc mê man hình như có mơ thấy nhị thúc, còn mơ thấy lúc nhỏ. Nhưng mơ thấy gì thì lại không nhớ nổi nữa, chỉ còn là một mảnh mơ hồ.



Hai ngày sau, buổi tối.

Cửa phòng của Hàn Trầm bị gõ nhẹ mấy tiếng.

Bên trong không có động tĩnh, một bàn tay thon nhỏ đẩy nhẹ cánh cửa chưa khóa mà bước vào.

Liễu Doanh Doanh đi vào trong, rồi đưa tay khép cửa lại.

Trong phòng không đốt đèn, nhưng hôm nay gần đến rằm, ánh trăng vằng vặc xuyên qua lớp cửa sổ bằng vải thô của doanh trại, đủ để nhìn rõ mọi thứ trong phòng, cùng bóng người đang ngồi lặng thinh nơi mép giường.

Liễu Doanh Doanh đến gần, chậm rãi ngồi quỳ trước mặt hắn.

Không nói một lời, chỉ ngẩng đầu, lặng lẽ nhìn thẳng vào gương mặt hắn.

Mặt Hàn Trầm vốn đã gầy gò, giờ lại càng hao mòn hốc hác, mắt nàng không kìm được mà đỏ hoe.

Ban đầu hắn không nhìn nàng, cũng để mặc nàng nhìn mình.

Không biết đã bao lâu, gương mặt ấy dần dao động, đôi mắt từ từ đỏ lên, cuối cùng, hắn khom người, gục lên vai nàng.

Liễu Doanh Doanh vỗ về lưng hắn:

“Muốn khóc thì cứ khóc ra đi…”



Sáng hôm sau, Hàn Trầm chủ động đến gõ cửa phòng Tạ Lãm.

Phùng Gia Ấu ra mở, thấy là Hàn Trầm thì sững người, vội mời vào trong, bản thân thì nhẹ nhàng bước ra ngoài.

Liễu Doanh Doanh đỡ Hàn Trầm đến, sau khi hắn vào phòng, nàng ấy đứng chờ bên ngoài.

Phùng Gia Ấu chào hỏi nàng, mỉm cười nói:

“Chúng ta không gặp được mấy lần, nhưng ta lại cảm thấy thân quen với cô. Có đoạn thời gian ta còn hay so sánh hai chúng ta.”

Liễu Doanh Doanh mỉm cười: “Có phải vì tôi từng được Phùng tiên sinh phái đến bên cạnh đại ca không?”

Bị nàng ấy nhìn thấu, Phùng Gia Ấu ngượng ngùng: “Tại ta tự làm mình rối rắm…”



Thấy Hàn Trầm bước vào, Tạ Lãm ôm chăn ngồi dậy trên giường, lên tiếng xin lỗi trước:

“Xin lỗi, lúc đó ta thật sự không còn cách nào khác.”

Thấy lang nói rằng sau này Hàn Trầm vẫn có thể cầm kiếm, nhưng không thể đạt được trình độ như trước đây, dù là phân nửa. Từ hàng bậc nhất rớt xuống tầm thường, đối với Hàn Trầm chẳng khác nào tàn phế.

Hàn Trầm đi vào phòng, thấy trên giường có quần áo phụ nữ, y không tiến lại gần mà tựa vào khung cửa nói:

“Ta cũng xin lỗi người. Nếu không tại ta, ngươi đâu bị thương nặng vậy, nghe nói phải mất ít nhất nửa năm mới hồi phục hoàn toàn…”

Tạ Lãm phất tay:

“Không sao, có kết quả là tốt rồi.”

“Vậy thì chúng ta coi như hòa nhau.” Hàn Trầm khoanh tay, “Ta đến đây để nói với ngươi, khi về Nam Cương, lấy lại được quyền lực, ta sẽ viết quốc thư nhận trách nhiệm ám sát Tào Tung và thần phục Đại Ngụy.”

“Đã đoán được.”

“Nhưng ta sẽ không nhận cái chết của Tề Phong trong quốc thư. Dù sao ông ta cũng là Đại đô đốc của Đại Ngụy, tội giết ông ta quá lớn… Nhưng dù gì bên ngoài bây giờ ai ai cũng đều cho rằng Tề Phong chết trong tay người Nam Cương, không nghi ngờ đến ngươi.”

Tạ Lãm nói:

“Không sao. Ngươi không cần coi Tề Phong quan trọng như vậy, ngoài đồng minh trong triều của ông ta là Từ Tông Hiến, chắc chẳng ai mong ông ta sống.”

Hàn Trầm nói:

“Sau đó ta sẽ dùng thân phận vương gia ngoại tộc, đích thân đến kinh thành tố cáo Phó Mân, làm chứng ông ta cấu kết với mẹ ta nhiều năm… Tội danh phản quốc chắc chắn lật được ông ta.”

Tạ Lãm gật đầu.

Cho dù vậy, thảm án kho lương Điền Trung năm xưa vẫn không thể đảo ngược. Bởi dù có xuất phát từ nguyên nhân gì, tội thất trách của toàn bộ quan viên Đô Ti Điền Nam khi ấy là không thể chối cãi.

Mà Hàn Trầm lên kế hoạch việc sẽ làm chi tiết như vậy cho thấy y đã quyết tâm quay về giành lại quyền lực từ tay mẹ mình.

Tạ Lãm nhớ ra:

“Ngươi về Nam Cương làm việc, cần bọn ta giúp đỡ không?”

“Không cần.” Nhắc đến mẹ mình, Hàn Trầm rũ mắt, “Bà ấy không thể lay chuyển truyền thừa ‘Nam Cương Vương’ của ta được đâu. Huống chi trong tay ta còn giữ Khổng Tước Lệnh… Có lệnh bài này, thủ lĩnh các bộ tộc đều sẽ đứng về phía ta. Các ngươi là người nước khác, nhúng tay vào trái lại sẽ có hại cho ta.”

Tạ Lãm “Ủa” một tiếng: “Ta nhớ Khổng Tước Lệnh nằm trong tay Giám quốc mà? Lúc ngươi mất kiểm soát, bà ấy lấy trộm?”

Hàn Trầm ngập ngừng nói:

“Khổng Tước Lệnh trong tay bà ấy là giả, chỉ Nam Cương Vương các đời mới biết chỗ giấu. Và chỉ thủ lĩnh các bộ tộc mới biết cách phân biệt, cũng truyền hiểu biết này qua từng đời…”

Cha y đã bắt y thề không được nói cho bất kỳ ai biết nơi giấu Khổng Tước Lệnh. Kể cả mẹ y.

Khi đó Hàn Trầm vô cùng chán ghét hoàng tộc, cho rằng quyền lực không hiểu tình thân. Giờ y mới hiểu, mình mới là người không hiểu quyền lực.

“Thôi ngươi nghỉ ngơi đi, vài ngày nữa ta sẽ lên đường về Nam Cương.” Hàn Trầm đứng dậy.

“Ngươi thật sự không sao à?” Tạ Lãm gọi với theo, “Ta thấy ngươi hình như không ổn…”

Hàn Trầm bực mình liếc hắn:

“Không ổn chỗ nào? Bị đả kích lớn như vậy, ngươi nghĩ ta còn nhảy nhót được sao?”

“Thái độ này làm ta yên tâm rồi.” Tạ Lãm bắt đầu đuổi y đi.

Hàn Trầm vừa dợm bước ra khỏi phòng, lại dừng bước, trầm mặc một lúc rồi quay lại nói:

“Cảm ơn… Lúc tỉnh lại, nếu không biết ngươi đã liều mạng bảo vệ hai tay cho ta, có lẽ ta gục ngã thật rồi…”

Sự hi sinh của Tạ Lãm, ít nhất khiến y tin rằng trên đời này còn có ‘chân tình’.

“Người thực sự cứu ngươi là chính ngươi, muốn cảm ơn thì cảm ơn bản thân mình đi.” Tạ Lãm nói thật lòng, “Ngươi dùng chân thành đối đãi ta, cảnh báo nguy hiểm cho ta biết, nếu không, ngươi biết tính ta rồi đấy, ta đâu quan tâm ngươi có thành tàn phế hay không?”

Hàn Trầm ngẩn người, sau đó cười nhẹ:

“Ổn định Nam Cương xong, khi đến kinh thành gặp hoàng đế Đại Ngụy, ta sẽ mời ngươi uống rượu.”

“Chờ ngươi.”

“Vậy các ngươi dự định khi nào về kinh?”

“Chờ vết thương của ta lành thêm chút nữa đã, nhưng cũng không thể kéo dài lâu quá. Chắc không kịp về kinh mừng năm mới, ít nhất cũng sẽ kịp đón Tiết Thượng Nguyên…”

<i>*Tiết Thượng Nguyên 🏮: </i>
<i>Là một tên gọi khác của Tết Nguyên Tiêu, tức rằm tháng giêng âm lịch. Tiết Thượng Nguyên là một trong ba tiết lớn theo truyền thống Đạo giáo Trung Hoa: </i>

<i>Thượng Nguyên (上元): 15 tháng Giêng – gắn với Thiên Quan, thần ban phúc.</i>
<i>Trung Nguyên (中元): 15 tháng Bảy – lễ cúng cô hồn, xá tội vong nhân.</i>
<i>Hạ Nguyên (下元): 15 tháng Mười – lễ tạ ơn đất trời.</i>

<i>🎉 Phong tục làm trong ngày này: </i>

<i>Thắp đèn lồng, treo đèn hoa</i>
<i>Ăn bánh Nguyên Tiêu (bánh trôi nhân ngọt, tròn đầy)</i>
<i>Đoán chữ đố trên đèn (猜灯谜)</i>
<i>Đi chơi hội</i>
<i>Nhiều nơi còn tổ chức múa lân, múa rồng, rước đèn.</i>
<i>🧠 Ý nghĩa:</i>

<i>Là dịp kết thúc chuỗi lễ Tết Nguyên Đán.</i>
<i>Tượng trưng cho sự đoàn viên, viên mãn, cầu chúc một năm mới an lành, may mắn.</i>
<i>Gắn liền với ánh sáng, trí tuệ và lòng người hướng thiện.</i>



Nghỉ ngơi một thời gian ở Đô Ti Điền Nam, cuối tháng mười hai, Tạ Lãm và mọi người bắt đầu lên đường về kinh.

Giám quân đã chết, họ không cần phải tiếp tục theo đoàn, có thể hành động độc lập.

Tạ Lãm và Phùng Gia Ấu ngồi xe ngựa, Lạc Thanh Lưu như thường lệ thành người đánh xe. Tùy Anh và Thẩm Thời Hành chọn cưỡi ngựa.

Mới ra đến quan đạo, vẫn đi chậm, Tùy Anh vung roi ngựa:

“Thẩm Thời Hành, ngươi thấy có giống lần trước chúng ta từ Tây Bắc về kinh thành không? Cũng chỉ có mấy người chúng ta.”

Thẩm Thời Hành cũng vung roi ngựa:

“Ờ, giống. Hồi đó cũng là lần đầu ta ra ngoài, không quen cưỡi ngựa, còn bị say, giờ thì không sao nữa.”

Tùy Anh ngẩng đầu nhìn bầu trời trong sáng sau mưa, thở dài:

“Thật tốt, vẫn là chúng ta, chúng ta vẫn còn sống.”

Thẩm Thời Hành nhìn Lạc Thanh Lưu ở ghế đánh xe bên cạnh:

“Cô dùng ‘chúng ta’ không đúng rồi, lần trước Lạc huynh đâu có đi cùng.”

Vừa nói hắn vừa nghĩ bụng, anh chàng này cũng thật kỳ lạ, mỗi lần mình và Tùy Anh nói chuyện, anh ta đều thẳng người, vô thức nghiêng người lại gần.

Hình như rất quan tâm mình và Tùy Anh đang nói gì.

Nhìn không giống như đang ghen, vậy rốt cuộc là muốn làm gì?

Bị ánh mắt tìm tòi của Thẩm Thời Hành dán chặt, Lạc Thanh Lưu cảm thấy bất an, vội vàng tìm một chủ đề khác để phân tán sự chú ý:

“Thẩm huynh không biết đó thôi, lúc mọi người ở Tây Bắc, ta cũng ở đó, còn gặp mọi người nữa.”

Thẩm Thời Hành quả nhiên sửng sốt:

“Lúc nào? Sao ta không biết ?”

Tạ Lãm kéo rèm xe ngựa lên:

“Ngươi đi Tây Bắc điều tra ta?”

Lạc Thanh Lưu vội vàng giải thích:

“Ta đi điều tra người nhận chiêu an ‘Tạ Tiểu Sơn’. Khi đó gặp đại ca ở Tây Bắc cứ tưởng đại ca là người do Huyễn Ảnh Ti phái đến, cũng để điều tra chuyện này.”

Tạ Lãm nheo mắt nhìn Lạc Thanh Lưu:

“Ngươi bận rộn quá nhỉ, đang trông chừng Hành Vương ở Giang Nam, còn phải bớt thời giờ đi Tây Bắc điều tra Mười Tám Trại?”

Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người qua đường cũng biết.

<i>*Lòng dạ Tư Mã Chiêu, người qua đường cũng biết</i>:

<i>Nguyên văn: </i><i>“司马昭之心,路人皆知</i><i>”, đây là thành ngữ dùng khi nói ai đó có mưu đồ, ý định, mục đích riêng mà thể hiện quá lộ liễu, ai nhìn cũng đoán ra. </i>

<i>Thành ngữ này xuất phát từ thời Tam Quốc. </i><i>Tư Mã Chiêu (司马昭)</i><i> là con trai của Tư Mã Ý, cha của Tư Mã Viêm – người sau này lập nên nhà </i><i>Tấn</i><i>, thay thế nhà </i><i>Ngụy</i><i>.</i>

<i>Tư Mã Chiêu là quyền thần, nắm toàn bộ triều chính nước Ngụy, và </i><i>âm mưu cướp ngôi</i><i> của Ngụy đế. Âm mưu này quá rõ ràng, đến mức khiến người đương thời phải thốt lên: </i>

<i>“司马昭之心,路人皆知。”
</i><i>“Lòng dạ Tư Mã Chiêu – người qua đường cũng biết.”</i>

<i>Câu này do </i><i>Trương Xuân Hoa (vợ Tào Mao)</i><i> nói ra để chỉ sự dã tâm quá lộ liễu của Tư Mã Chiêu.</i>

Lạc Thanh Lưu cười gượng:

“À thì người có tài thì gánh vác nhiều hơn thôi.”

Tùy Anh đột nhiên cao giọng:

“Ta nhớ ra rồi! Hình như ta thật sự từng gặp huynh! Cái người bán kẹo vừng trước cửa quân phủ Tây Bắc, có phải là huynh không?

Lạc Thanh Lưu cười cười, coi như thừa nhận.

Tùy Anh tiếp tục hỏi:

“Vậy rốt cuộc huynh từng xuất hiện quanh bọn ta bao nhiêu lần nữa?”

Lạc Thanh Lưu đắc ý nháy mắt với nàng:

“Đại tiểu thư không ngại thì thử nhớ lại xem, xem cô có thể tìm ra bao nhiêu lần.”

Hiếm khi hắn lộ vẻ tinh nghịch như vậy trước mặt Tùy Anh, hàng mi dài rung khẽ theo cái nháy mắt ấy. Tùy Anh bỗng thấy tim mình tựa như cánh bướm, cũng khẽ khàng rung rinh.

Phùng Gia Ấu ngồi trong xe ngựa đọc sách, nghe tiếng trò chuyện bên ngoài.

Nàng bất giác nhận ra, nàng đâu chỉ tự rối lòng vì chuyện của Liễu Doanh Doanh.

Rất nhiều chuyện, đều như thế cả.

Một mặt nàng thấy Tùy Anh không nên bỏ lỡ Lạc Thanh Lưu, mặt khác lại lo lắng cho tương lai của hai người.

Thế nhưng trên đời này, có núi cao… thì cũng có khe sâu.

Có người muốn vươn l*n đ*nh cao chói lọi, cũng có người thích cuộc sống bình lặng, nhẹ nhàng.

Sao nàng lại tự cho mình quyền phán xét, rằng Lý phu nhân của Từ Tông Hiến nhất định là bài học cần né tránh?

Huống chi mọi chuyện còn chưa rõ ràng, cớ gì phải ôm phiền muộn vào thân?

Đang nghĩ ngợi thì bỗng thấy má mình nóng bừng.

Hoàn hồn khỏi dòng suy nghĩ, mới phát hiện Tạ Lãm đang nhìn mình — ánh mắt vừa cháy bỏng vừa chăm chú.

Phùng Gia Ấu hơi sững sờ, ngượng ngùng cuộn sách lại, gõ nhẹ lên trán hắn:

“Thương thế mới đỡ một chút, đừng có suy nghĩ linh tinh.”

Tạ Lãm ôm lấy trán, khó hiểu hỏi:

“Ta chỉ bị thương thân thể, đâu phải bị thương đầu như Hàn Trầm, sao lại không được nghĩ?”

Phùng Gia Ấu nhận ra mình hiểu lầm, xấu hổ không thôi, sợ bị hắn trêu bèn nhanh miệng hỏi:

“Vậy chàng đang nghĩ gì?”

Nhìn ánh mắt kia, hẳn là liên quan đến nàng.

Tạ Lãm tìm tư thế thoải mái:

“Nàng hỏi ta vì sao lúc mê man lại gọi nhị thúc, gần đây có thời gian là ta lại cố nhớ xem mình đã mơ thấy gì.”

“Ồ? Nhớ ra rồi à?”

“Chưa.” Tạ Lãm nhún vai, “Nhưng lại nhớ ra chuyện khác, chuyện về nhị thúc, thành Hắc Thủy và tuổi thơ của ta.”

Phùng Gia Ấu tò mò nhìn hắn.

Tạ Lãm làm ra vẻ thần bí:

“Hồi nhỏ nhị thúc hay kể chuyện cho ta nghe lắm, nàng đoán xem ta thích ai nhất?”

“Là ai?”

“Tây Sở Bá Vương.”

“Thảo nào lần trước để chàng đi uy h**p Trấn Quốc Công, chàng mang chuyện Hạng Vũ và Lưu Bang ra làm gương.”

Phùng Giai Ấu chẳng thấy ngạc nhiên, Tạ Lãm mê Tây Sở Bá Vương là chuyện rất hợp lẽ.

Tạ Lãm nói:

“Giờ nghĩ lại, chắc vì vậy mà nhị thúc suốt ngày sợ ta tạo phản.”

Phùng Gia Ấu bật cười:

“Sao lại nói vậy?”

“Vì lần nào nghe xong chuyện ta đều nói tương lai ta sẽ trở thành truyền kỳ như Tây Sở Bá Vương. Chắc vì vậy mà nhị thúc sợ ta có dã tâm xưng bá thiên hạ nên mới thấp thỏm lo âu.”

Hồi ấy hắn nói thực hùng hồn, nhưng thật ra đến chữ “truyền kỳ” có nghĩa gì còn không hiểu.

“Có thể lắm.” Phùng Gia Ấu cười, “Vậy ông ấy khuyên chàng thế nào?”

“Nhị thúc bảo, dù ta có sức nhấc núi lật trời cũng chẳng thể thành truyền kỳ như Hạng Vũ được. Ta hỏi lý do, ông ấy nói trong câu chuyện của Hạng Vũ còn có cả nàng Ngu Cơ… Anh hùng và mỹ nhân cùng đường bí lối, tự sát ở Ô Giang, bao nhiêu yếu tố hòa trộn vào nhau mới tạo nên câu chuyện khiến hậu thế nhắc hoài không chán.”

Hồi đó Tạ Lãm còn lơ ngơ, cảm thấy người vợ hoàn mỹ nhất trên đời hẳn là người như Ngu Cơ, nguyện sống chết cùng người yêu.

Thấy hắn trầm ngâm tiếc nuối, Phùng Gia Ấu không vui, cuộn sách đánh hắn cái nữa:

“Ý gì hả, chàng nghĩ ta không làm được?”

“Ta biết nàng sẽ làm được.”

Tạ Lãm nhớ lại cảnh ở thành hoang, mưa bụi giăng đầy, nàng một thân một ngựa quay trở lại. Đẹp đến nghẹt thở, khắc sâu tận tâm can.

“Nhưng nàng không thể trở thành Ngu Cơ.”

Phùng Gia Ấu trừng mắt:

“Vì ta không đẹp như Ngu Cơ trong tưởng tượng của chàng chứ gì?”

Tạ Lãm lắc đầu:

“Không phải do nàng, mà vì ta không thể làm Hạng Vũ, ta sợ có kết cục như ông ấy… Cũng từ lúc hai chúng ta chạy trốn, ta mới nhận ra mình là kẻ tham sống sợ chết… Ta chỉ mong được cùng nàng thoát thân an toàn, rồi bạc đầu bên nhau.”

Nói xong, hắn không nhìn vẻ mặt Phùng Gia Ấu, thẳng tay kéo nàng vào lòng và gục đầu lên vai nàng. Hệt như hồi chạy trốn, nương tựa vào bờ vai mảnh khảnh của nàng.

Phùng Gia Ấu biết hắn đã mệt, bèn nghiêng đầu dựa trán mình vào trán hắn, để hai người cùng nương tựa vào nhau, đỡ lấy nhau.

Xe ngựa bắc tiến, hướng đến kinh thành phủ đầy tuyết trắng.

Tuy chờ đợi phía trước là gió rét lạnh căm, nhưng lòng lại đầy ánh dương ấm áp.

Xe ngựa lắc nhẹ, Tạ Lãm đột nhiên lên tiếng:

“Sau này nàng đừng tự trách nữa nhé, đừng nghĩ rằng ta bị nàng bức ép mới đi làm quan.”

Giờ hắn đã hiểu, tất cả những điều hắn làm không phải vì ai khác.

Mà là để hoàn thành tâm nguyện của chính mình.

Mong thiên hạ thái bình an yên.

Hắn và nàng – cũng là một phần của thiên hạ ấy.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 104: Hậu Ký 1 – Luật mới


Kinh thành, Tiết Thượng Nguyên.

Trong thư lâu Phùng phủ, Phùng Hiếu An ngồi cùng Thẩm Khâu bên cửa sổ, nhóm lò sưởi ấm rượu.

Ngoài cửa sổ tuyết nhẹ bay lất phất, trời đất ngập trong gió lạnh. Thẩm Khâu quấn kín áo lông dày, còn Phùng Hiếu An chỉ mặc trường sam mỏng.

Thẩm Khâu xoa tay trước lò, cảm thán:

“Quả không hổ từng sống ở phương Bắc mười mấy năm, chịu lạnh còn giỏi hơn cả võ phu như ta.”

Vị thám hoa ngày trước, dù có phần phóng túng bất kham — uống rượu, đánh bạc, giao du với đủ hạng người — nhưng trong cốt cách vẫn luôn toát lên phong thái nhã nhặn của công tử quyền quý…

Từ Tây Bắc trở lại kinh thành, dung mạo của Phùng Hiếu An gần như không đổi, phong thái vẫn thanh tao nhã nhặn. Nhưng Thẩm Khâu nhận ra rõ ràng, cái “cảm giác mong manh” của ông đã biến mất.

Đây cũng là lý do Thẩm Khâu nhất quyết đưa Bùi Nghiên Chiêu đến Liêu Đông rèn luyện.

Phùng Hiếu An chỉ mỉm cười, thu tay áo rót rượu cho Thẩm Khâu mà không nói lời nào.

Thẩm Khâu quan sát ông, hỏi:

“Rốt cuộc đệ bị làm sao? Lúc trước nghe tin Tạ Tiểu Sơn trọng thương hôn mê, ngày nào đệ cũng như ngồi trên đống lửa. Giờ mấy đứa bình an trở về rồi, sao bộ dạng vẫn như vậy? Bị con gái làm mặt lạnh à?”

Phùng Hiếu An lúc này mới chậm rãi lên tiếng:

“Ta chỉ đang cảm khái. Lúc trước ngày nào chúng ta cũng tính toán nghĩ cách đối phó với Phó Mân…”

Dẫu sao thì ông từng bại dưới tay y, rất muốn gỡ lại ván cờ đó. Trong lòng cứ ngỡ thiên hạ này chỉ có mình và Phó Mân kia mới là kẻ ngang tài ngang sức.

“Không ngờ đám trẻ đi Nam Cương một chuyến lại giải quyết được vấn đề mà ta với y vẫn dằng dai chưa xong.”

Nghĩ đến việc trong đám trẻ ấy có cả con trai mình, Thẩm Khâu chẳng giấu nổi hớn hở, nhướng mày cười nói:

“Thế nên ta thường khuyên đệ đừng lúc nào cũng lao tâm khổ tứ. Đám trẻ bây giờ lớn hết rồi, đã có thể tự mình gánh vác.”

Phùng Hiếu An nhíu mày lo lắng:

“Nhưng chúng cũng liều lĩnh quá mức. Lần này quả thực là chín phần chết, một phần sống.”

Thẩm Khâu cũng có phần hoảng sợ:

“Đúng thế, thằng nhãi nhà ta cũng chẳng biết trời cao đất dày là gì, cứ nhất quyết đòi theo xuống Nam Cương, làm ta tức đến nổ phổi…”

Nói đến đây thì phát hiện mình đang tự mâu thuẫn, vội chữa lại:

“Ờm nhưng mà… tuổi trẻ mà không biết mạo hiểm, thì còn là tuổi trẻ gì nữa? Chúng ta thuở trước chẳng phải cũng ưa liều mạng đó sao?”

Câu nói ấy khiến Phùng Hiếu An bừng tỉnh.

Những ngày qua, ông luôn băn khoăn liệu có nên đến gặp nói chuyện với con gái, khuyên con bé về sau đừng mạo hiểm như vậy nữa. Từ việc phái Bùi Nghiên Chiêu truy bắt giám quốc Nam Cương, đến gi.ết ch.ết Tề Phong trên đường trốn chạy, con gái ông đều mang tâm thế đặt cược. May mắn là con bé thắng, nếu không…

Nhưng mối quan hệ hai cha con vốn đã căng thẳng, ông sợ mình khuyên không tới nơi, ngược lại còn khiến con bé thêm chán ghét.

Ngẫm lại, có lẽ vì đã già, từng trải nhiều thất bại, vướng bận đủ điều nên giờ bắt đầu cẩn trọng, đắn đo. Nếu là bản thân thời trẻ, hẳn ông cũng sẽ đặt cược giống con mình.

“Huynh nói đúng.” Phùng Hiếu An rốt cuộc cũng thấy nhẹ nhõm.

Trên thế gian này, chính vì luôn có những người trẻ tuổi dám dấn thân và mạo hiểm, mà cuộc sống mới tiếp tục sinh sôi nảy nở, đời đời tiếp nối.



Mặt trời chưa lặn, Tạ Lãm và Phùng Gia Ấu sửa soạn chuẩn bị ra ngoài.

Họ hẹn gặp Tùy Anh và Thẩm Thời Hành ở bờ hồ dạo chơi.

Lẽ ra có cả Lạc Thanh Lưu, nhưng vừa về đến kinh thành, hắn lập tức ‘vướng bận’, gửi tin từ trong cung ra nói không đi được, hẹn dịp khác tụ họp.

Lúc này, Phùng Gia Ấu đang trang điểm trong phòng, còn Tạ Lãm thử thanh đao mới ngoài sân.

Vẫn là một thanh miêu đao, cũng do cha hắn đưa.

Đây là thanh đao Tạ Triều Ninh dùng thay thế sau khi đưa thanh miêu đao gia truyền cho hắn. Xét về chất liệu, thanh này thậm chí còn tốt hơn đao gia truyền. Nhưng cái quý của đao gia truyền nằm ở cốt khí ẩn tàng bên trong.

Trong nghề gọi đó là “hồn đao.”

“Hồn đao” do người dùng dần dần nuôi dưỡng mà thành. Đao truyền từ đời này qua đời khác, tự nhiên hồn đao càng mạnh mẽ.

“Thiếu chủ, cậu đừng tiếc thanh đao kia nữa. Thanh này do lão gia tự tay rèn, đã theo lão gia mười mấy năm, ông ấy quý lắm đấy.”

Người nói là Tùng Yên. Sau lần hộ tống Phùng Gia Ấu đến thành Hắc Thủy, hắn không theo trở lại kinh thành. Dù sao thiếu chủ nhà hắn đã “gả” vào gia đình giàu có, chẳng cần hắn hầu hạ nữa.

Nhưng một tháng trước, nhị gia gửi thư nói thiếu chủ trọng thương, cần người chăm sóc, Tùng Yên liền vội vã chạy đến kinh thành. Dù sao, hắn học y thuật vốn cũng vì Tạ Lãm.

Trước khi đi, Tạ Triều Ninh dặn đi dặn lại, bảo nhất định phải mang theo thanh đao này, còn nhấn mạnh rằng đây là đao ông tự rèn.

“Ngươi nói đủ chưa?” Tạ Lãm bực dọc, mỗi lần hắn cầm đao lên thử là Tùng Yên thao thao lặp lại.

Tạ Lãm biết ý của Tạ Triều Ninh.

Thanh đao do ông tự tay rèn, theo ông mười mấy năm, giờ truyền lại cho hắn , đó chính là sự tiếp nối giữa hai cha con.

“Đừng tưởng như vậy là ta dễ dàng tha thứ cho ông ấy.” Nghĩ đến chuyện Tạ Triều Ninh từng nói nuôi mình như nuôi một con chó, lòng hắn vẫn âm ỉ giận.

Giọng Phùng Gia Ấu vọng ra từ trong phòng:

“Phu quân, ta chuẩn bị xong rồi, chúng ta đi thôi.”

Tạ Lãm tiện tay ném thanh đao cho Tùng Yên:

“Được.”

Tùng Yên ôm đao, nhắc nhở:

“Thiếu chủ, cậu vẫn còn yếu lắm, chịu lạnh không được đâu, tốt nhất khoác thêm áo lông…”

“Ngươi phiền phức quá.”

Phùng Gia Ấu yêu kiều bước ra khỏi phòng, dịu dàng nói:

“Phu quân, tối nay gió lớn, chàng vừa mới khỏe lên, khoác thêm áo choàng nhé?”

“Nàng chu đáo thật.”

Tùng Yên: “???”

Tạ Lãm đến tủ, từ đống áo choàng Phùng Gia Ấu chuẩn bị cho hắn, rút ra cái hắn lấy được từ tay Lý Tự Tu. Đối với hắn, đây là chiến lợi phẩm.

Vừa định khoác lên liền sực nhớ, như vậy chẳng phải sẽ gợi Phùng Gia Ấu nhớ đến Lý Tự Tu sao?

Vội vội vàng vàng cất lại, rút bừa một chiếc khác.

Ra khỏi phòng, áo choàng lụa dày thêu chỉ vàng chỉ bạc, cổ áo đính lông chồn trắng, cả người khí phái rực rỡ khiến Tùng Yên suýt nữa không nhận ra thiếu chủ nhà mình.

Hai vợ chồng vừa bước ra cổng phủ liền thấy một cỗ xe ngựa đỗ bên đường, thoạt trông thấy quen quen.

Phùng Gia Ấu nhận ra:

“Lần trước chúng ta đến gặp Từ Tông Hiến, hình như Lạc Thanh Lưu đánh xe này tới đón.”

Nhưng người cầm cương lúc này không phải Lạc Thanh Lưu, mà là một thiếu niên chừng mười lăm, mười sáu tuổi.

Thiếu niên tiến lên, cung kính nói:

“Tạ Thiên hộ, chủ nhân nhà tôi mời ngài tới Ngư Diệu Lâu uống chén rượu.”

Dừng lại một chút, rồi bổ sung:

“Thiếu giám nhà tôi cũng ở đó.”

Tạ Lãm nhíu mày:

“Chỉ mời một mình ta?”

Thiếu niên đáp:

“Vâng.”

Phùng Gia Ấu lo lắng, liệu có phải Từ Tông Hiến đã nhìn ra điều gì khả nghi từ cái chết của Tề Phong? Dẫu sao, Tề Phong là đồng minh mạnh nhất của Từ Tông Hiến, lén đi Nam Cương rồi chết đầy bí ẩn, trong lòng ông ấy hẳn sẽ sinh nghi.

Nhưng đối phương cố ý nói Lạc Thanh Lưu cũng có mặt, như thể một lời cảnh cáo, không thể không đi.

Tạ Lãm không chút e dè, không mang theo cả đao, đỡ Phùng Gia Ấu lên xe ngựa.

Thiếu niên đánh xe toàn chọn đường lớn mà đi, Phùng Gia Ấu vén rèm cửa sổ lên nhìn ra, khắp nơi đều giăng đèn kết hoa, tràn ngập không khí tưng bừng của lễ hội.

Đặc biệt khi xe đến <i>Ngư Diệu Lâu</i>*, tửu lầu này nằm trên con phố chính của kinh thành, xung quanh rộn ràng náo nhiệt vô cùng.

<i>*Ngư Diệu (鱼跃): </i><i>có nghĩa là </i><i>“cá nhảy”</i><i> hay </i><i>“cá phóng vọt lên”</i><i>, thường dùng để chỉ sự vươn mình mạnh mẽ, như trong thành ngữ </i><i>“cá vượt Long Môn” (鱼跃龙门)</i><i> — một hình ảnh ẩn dụ cho việc </i><i>vượt qua thử thách để đổi đời, đạt được thành tựu lớn</i><i>.</i>

Phùng Gia Ấu không khỏi thấy lạ. Tại sao Từ Tông Hiến lại hẹn gặp quan viên triều đình ở một nơi dễ bị chú ý như thế này? Thật chẳng giống phong cách thường ngày của ông ta.

Xe ngựa dừng trước cửa Ngư Diệu Lâu, cậu thiếu niên nhanh nhẹn nhảy xuống:

“Tạ Thiên hộ, mời.”

Trước khi xuống xe, Tạ Lãm quay lại nhìn Phùng Gia Ấu, như muốn hỏi nàng có căn dặn chi không, thật sự yên tâm để hắn tự do ứng biến trước mặt Từ Tông Hiến sao?

Phùng Gia Ấu chỉ mỉm cười, nhẹ nhàng chỉnh lại tay áo cho hắn:

“Đi đi.”

Tạ Lãm cũng không quên dặn dò:

“Trên phố đông người, nàng cứ ngồi trong xe chờ ta, đừng tùy tiện ra ngoài.”

Đợi Phùng Gia Ấu gật đầu đồng ý, hắn mới xuống xe, bước vào Ngư Diệu Lâu.

Phùng Gia Ấu ngồi đợi một mình trong xe, lòng không khỏi lo lắng tình hình bên trong, thi thoảng lại vén rèm cửa sổ lên nhìn.

Từ Tông Hiến chắc chắn không ngồi ở đại sảnh tầng trệt, nhất định sẽ ở nhã gian trên lầu. Để tránh tai vách mạch rừng, hẳn ông ấy đã bao trọn cả tầng lầu.

Có lẽ vì thời tiết lạnh giá, tất cả cửa sổ tầng hai đều đóng chặt.

Khi Phùng Gia Ấu hạ rèm cửa xuống, đuôi mắt nàng thoáng liếc thấy một bóng người — chính là Lý Tự Tu.

Y bước ra khỏi quán trà đối diện Ngư Diệu Lâu, trong lòng còn bế một đứa bé chừng năm sáu tuổi.

Phùng Gia Ấu hơi ngạc nhiên, ngẩng đầu nhìn lên tầng lầu của quán trà, liền hiểu ra.

Lý Tự Tu đi cùng mẹ mình.

Từ Tông Hiến ngồi trong tửu lâu bên trái, còn Lý phu nhân ở quán trà bên phải, một trái một phải cách nhau một con đường, lát nữa có thể đối diện qua cửa sổ mà nhìn nhau.

Còn đứa trẻ trong lòng Lý Tự Tu, e rằng chính là tiểu hoàng đế.

Giờ y đã là đế sư, hộ tống hoàng đế ngắm đèn thưởng hội cũng là lẽ thường.

Còn Từ Tông Hiến, tuy là Chưởng ấn Ti Lễ Giám, quyền uy nghiêng trời, nhưng xét cho cùng vẫn là hoạn quan thân cận phục vụ hoàng đế, đi cùng để chăm sóc cũng hợp lý.

Mà Lý Tự Tu nhân tiết Thượng Nguyên dẫn mẹ ra ngoài chơi, lại càng không có gì lạ.

Một cơ hội khéo léo để hai bên đường hoàng công khai gặp mặt.

“Lý công tử.” Phùng Gia Ấu gọi.

Nàng muốn mượn tay y, thăm dò xem Từ Tông Hiến hẹn Tạ Lãm tới có mục đích gì.

Dù phố phường ồn ào, giọng của Phùng Gia Ấu cũng không lớn, nhưng Lý Tự Tu nghe được rất nhanh, ánh mắt xuyên qua đám đông, nhìn về phía xe ngựa nàng ngồi.

Y cúi người, đặt tiểu hoàng đế xuống, giao lại cho hoạn quan bên cạnh, rồi quay người bước sang bên này, đứng ngoài xe hành lễ:

“Tạ phu nhân! Sao cô lại ở đây?”

Hỏi xong, y ngẩng đầu nhìn lên lầu của tửu lầu:

“Từ Đốc công mời Tạ Thiên hộ tới?”

Phùng Gia Ấu vén rèm cửa sổ lên nhìn theo:

“Không biết Từ Đốc công…”

Lý Tự Tu hiểu ý:

“Không có chuyện gì lớn đâu.”

Phùng Gia Ấu thở phào nhẹ nhõm, rồi lại thấy lúng túng.

Dẫu sao, hỏi xong đuổi người đi ngay thì thật không hay, nàng đành khách sáo nói:

“Lý đại nhân, phu thê ta về kinh cũng được một thời gian, lẽ ra phải mời ngài một bữa…”

“Phải là ta mời hai người mới đúng.” Lý Tự Tu ngắt lời nàng, “Hai người vào sinh ra tử ở Nam Cương, còn ta ngồi không ở kinh thành hưởng lợi, trong lòng thật áy náy. Chỉ là dạo này ta bận rộn quá, không rảnh được…”

Theo thỏa thuận giữa hai bên, công lao giành được ở Nam Cương cũng được tính cho Lý Tự Tu, mở đường để y vào Nội Các.

Tội thông đồng phản quốc của Phó Mân tuy chấn động nhưng không ảnh hưởng đến nhóm “văn thần mới nổi”. Song khi mất đi chỗ dựa Phó Mân, lại thêm bị Phùng Hiếu An chèn ép, việc Tiết thượng thư của Hộ Bộ muốn tranh vị trí trong Nội Các với Lý Tự Tu đã trở thành mộng hão.

Phùng Gia Ấu cười tươi như hoa:

“Vậy thì ta xin chúc mừng đại nhân trước, chúc ngài như nguyện, sớm ngày cải cách muối thành công.”

Lý Tự Tu tránh để ánh mắt mình dừng lại quá lâu trên gương mặt nàng:

“Không dễ dàng đâu. Cải cách muối chạm đến lợi ích của quá nhiều người, trở ngại chắc chắn không ít…”

Phùng Gia Ấu đang định nói vài câu khích lệ thì y lại đột ngột nói tiếp:

“Có lẽ sẽ bắt đầu thúc đẩy thi hành bộ luật mới trước. Sau khi ta vào Nội Các, phụ thân cô sẽ đệ trình bản luật mới do cô biên soạn, để ta đưa ra thi hành. Cũng xem như một điểm son trong công trạng của ta.”

“Nhanh vậy sao?” Phùng Gia Ấu ước chừng ít nhất cũng phải mất ba năm, “Nhưng luật mới vẫn chưa hoàn thiện lắm…”

“Không vội, quá trình đưa ra thi hành rất rườm rà, cô vẫn có thời gian chuẩn bị.”

“Vậy thì tốt quá.”

Lý Tự Tu bổ sung:

“Phụ thân cô đã gặp Từ Đốc công, hai người cũng bàn bạc qua, quyết định trình luật mới dưới danh nghĩa của cô.”

Phùng Gia Ấu kinh ngạc:

“Lấy tên của ta sao?”

Như vậy chẳng phải sẽ biến một việc vốn đơn giản thành phức tạp ư?

Hiện giờ phụ thân nàng là Đại Lý Tự khanh, nếu dùng danh nghĩa của ông hoặc nặc danh đệ trình lên Nội Các, để Lý Tự Tu thúc đẩy, sau khi Nội Các quyết định thì giao cho Từ Tông Hiến đóng dấu, theo đúng trình tự ấy thì khả năng thành công rất cao.

Nhưng nếu dùng chính danh nghĩa nàng để trình lên, e rằng triều đình trong ngoài sẽ nổi sóng gió không dứt, trở ngại vô cùng.

“Không cần làm vậy đâu.” Phùng Gia Ấu cau mày, “Tên người biên soạn luật mới thật ra chẳng quan trọng. Đừng nói đâu xa, ngay như bộ luật hiện hành, có mấy ai trong thiên hạ biết người biên soạn là ai?”

Điều nàng mong muốn chỉ là bản luật do mình biên soạn được áp dụng.

Còn về việc có ký tên hay không, nàng thật lòng không bận tâm.

Cũng giống như khi Thẩm Thời Hành viết tiểu thuyết chỉ dùng bút danh Tiêu Dao Sinh, thiên hạ chẳng ai biết tên thật của hắn.

Dĩ nhiên, nói hoàn toàn không quan tâm cũng không đúng. Dẫu sao đây cũng là tâm huyết nhiều năm của nàng. Nàng nói:

“Thế nhưng thật sự không đáng vì một chuyện nhỏ nhặt như thế mà tăng thêm trở ngại lớn cho việc thi hành luật mới.”

“Trở ngại có lẽ không lớn như cô nghĩ đâu. Dù sao cũng không giống cải cách muối, động chạm đến ít lợi ích hơn.” Lý Tự Tu phủi đi lớp tuyết trên vai, “Hơn nữa, một số nội dung trong luật mới mà trước kia cô đưa cho Thôi Thiếu khanh, ta đã đưa cho Diệp Thủ phụ xem qua, còn cùng ông ấy bàn luận. Ông rất tán thưởng, đã mấy lần hỏi tên của cô.”

Phùng Gia Ấu thở dài:

“Nhưng khi ông ấy biết người viết luật lại là nữ tử, thái độ e rằng sẽ khác hẳn.”

Lý Tự Tu cười:

“Không cần lo. Chỉ cần Từ Đốc công là người đầu tiên đứng ra phản đối, lấy cớ thân phận nữ nhi của cô mà gây đủ chuyện cản trở đả kích, thì Diệp Thủ phụ nhất định sẽ làm ngược lại.”

Phùng Gia Ấu: “……”

Như vậy, toàn bộ áp lực lại rơi lên vai Từ Tông Hiến.

Mà để Từ Tông Hiến chịu gật đầu đồng ý, chắc chắn Phùng Hiểu An đã đưa ra không ít lợi ích để thuyết phục.

Chẳng phải Phùng Gia Ấu không muốn nhận tấm lòng của cha, mà là:

“Ta thật sự cảm thấy điều này không cần thiết. Chỉ vì một cái hư danh…”

Lý Tự Tu lắc đầu:

“Đây không phải là hư danh. Nếu chuyện này thành công, cô sẽ trở thành một tấm gương. Sau này, những nữ tử Đại Ngụy có tài năng muốn thể hiện bản thân sẽ dũng cảm hơn, và cũng dễ dàng hơn rất nhiều.”

Phùng Gia Ấu thoáng sững sờ.

Lý Tự Tu nói tiếp:

“Chỉ là, trong quá trình này, cô chắc chắn sẽ đứng trên đầu sóng ngọn gió, chịu đủ mọi chỉ trích từ dư luận…”

Lúc này y mới dám nhìn thẳng vào mắt nàng, trong ánh nhìn có hỏi ý, cũng có động viên:

“Không biết cô có sẵn lòng vì họ mà gõ cánh cửa đồng nặng nề ấy không?”

Đôi đồng tử màu hổ phách co lại. Sau một lúc cân nhắc kỹ càng, Phùng Gia Ấu kiên định đáp:

“Được.”

Có Tạ Lãm bên cạnh, nàng không sợ sóng gió.

Lý Tự Tu thấy mình đã thuyết phục được nàng, trong lòng nhẹ nhõm hẳn. Nhưng rồi không kìm được mà tự giễu.

Chuyện này tuy do Phùng Hiểu An đề xuất, nhưng khi xưa, trong những lá thư gửi cho nàng, Lý Tự Tu cũng từng nhiều lần nhắc đến. Không chỉ một lần.

Y muốn nỗ lực bước chân vào Nội Các, chờ sau khi đứng vững sẽ thúc đẩy thi hành luật mới dưới tên nàng, đứng phía trước nàng che chắn mọi sóng gió.

Đó từng là sính lễ mà Lý Tự Tu muốn dâng tặng nàng.

Nhưng nhìn biểu cảm ngạc nhiên của Phùng Gia Ấu vừa rồi, cuối cùng y cũng chắc chắn một điều, những lá thư chan chứa tình ý mà y gửi, e rằng nàng chưa từng đọc trọn vẹn bức nào.

Còn bức thư mắng mỏ gay gắt mà nàng gửi lại, hẳn chỉ là trùng hợp. Nó chẳng ngầm mang ý khích lệ, cũng chẳng phải ước hẹn ngày sau gặp lại trên đỉnh cao như y từng ngây ngô tưởng tượng.

Tất cả đều là do y si mê mù quáng, tự cho là đúng, để rồi lỡ mất cơ hội quý giá.

Nhưng mà…

Dẫu kiếp này không thể cùng nàng kết làm phu thê, nhưng nếu có thể nhờ bộ luật mới mà cùng ghi danh — nàng cầm bút biên soạn, y thúc đẩy thi hành, thì…

Từ nay về sau tên của y và nàng sẽ cùng hiển hiện trên cùng một trang sử, âu cũng xem như tâm nguyện đã đạt thành.



<b><i>Tác giả có lời muốn nói:</i></b>

<i>Lão Lý à, thật sự không thể trách ai khác ngoài bản thân ngươi mà thôi!</i>
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 105: Hậu Ký 2 – Đèn hoa


Trong Ngư Diệu Lâu.

Khi Tạ Lãm bước vào nhã gian trên lầu, trong phòng ngoài Từ Tông Hiến và Lạc Thanh Lưu, còn có thêm một người nữa.

Người này ngồi quay lưng về phía cửa, Tạ Lãm không nhìn thấy mặt, cũng chẳng biết là ai. Nhưng có thể ngồi cùng bàn với Từ Tông Hiến, nếu không phải quan lớn tam phẩm trở lên, thì cũng là hoàng thân quốc thích.

Lạc Thanh Lưu thấy hắn vào phòng mà chỉ chăm chú nhìn bóng lưng người kia, bèn vội vàng bước từ sau lưng Từ Tông Hiến ra đón:

“Đại nhân, trong phòng nóng…”

Tạ Lãm tháo áo choàng, đưa cho hắn, sau đó chắp tay với Từ Tông Hiến:

“Tạ Lãm, Thiên hộ của Huyền Ảnh Ti, bái kiến Đại đốc công.”

Ánh mắt Từ Tông Hiến nhìn hắn chứa đựng vài phần dò xét.

So với lần trước mời hai vợ chồng hắn dự tiệc, Tạ Lãm dường như đã thay đổi đôi chút. Dù vẫn không chịu khom lưng, thái độ cũng chẳng kém cao ngạo, nhưng đã thêm phần chủ động. Không còn giống trước đây, khi hắn chỉ vì nể mặt phu nhân nhà mình mà miễn cưỡng tiếp chuyện.

Từ sự khác biệt nhỏ này, Từ Tông Hiến đoán rằng có lẽ hắn đã có ý định gây dựng chỗ đứng trong quan trường.

Từ Tông Hiến mỉm cười:

“Qua tiết Thượng Nguyên, từ ngày mai anh đã phải tự xưng là Trấn phủ rồi nhỉ? Vào kinh chưa tròn một năm, từ một Ti trực thất phẩm của Đại Lý Tự thăng lên làm chính tứ phẩm Bắc Trấn phủ của Huyền Ảnh Ti. Tiền đồ của Tạ Thiên hộ quả thực không thể hạn lượng…”

Thẩm Khâu đang nhắm đến quân phủ, vậy vị trí Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti về sau, ắt không ai ngoài Tạ Lãm có thể đảm nhận.

Tạ Lãm nay đã có tâm làm quan, nhưng chẳng có lòng kiên nhẫn nghe ông ấy quanh co:

“Đốc công có chuyện gì cứ nói thẳng.”

Từ Tông Hiến liếc nhìn người đối diện mình:

“Tạ Thiên hộ, vị này là Phò mã gia.”

Thì ra là Phó Mân.

Tạ Lãm đã “đấu” với ông ta lâu như vậy, nhưng đến giờ mới gặp mặt.

Phó Mân quay đầu, ánh mắt chạm ngay cái nhìn của Tạ Lãm.

Trong mắt Tạ Lãm không có hỉ nộ, thản nhiên như đang nhìn một kẻ đã chết.

Hàn Trầm vừa tiếp quản quân chính Nam Cương, tạm thời không thể đến kinh thành, nhưng quốc thư đã được gửi đến Nội Các vài ngày trước.

Tội danh thông đồng với địch phản quốc được đích thân Nam Cương Vương chỉ điểm, đám văn thần mới nổi đứng sau Phó Mân dù có gan lớn đến đâu cũng không dám lên tiếng bênh vực.

Nội Các đã giao quyền xử lý việc này cho Huyền Ảnh Ti. Phó Mân bị Thẩm Khâu giam lỏng tại phủ công chúa, vừa chờ điều tra, vừa đợi Nam Cương Vương vào kinh.

Lẽ ra ông ta phải bị áp giải thẳng vào Hắc Ngục, nhưng công chúa đã dùng cái chết để ngăn cản, nên mới đổi thành giam lỏng.

Thậm chí Từ Tông Hiến muốn gặp Phó Mân cũng phải được Thẩm Khâu gật đầu.

Vì thế, cũng không khó hiểu khi ánh mắt Phó Mân nhìn Tạ Lãm chứa đầy oán độc. Tuy thế, ngoài mặt ông ta vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, quay sang Từ Tông Hiến:

“Đốc công hẹn ta đến ôn lại tình cảm năm xưa ở thư viện, sao lại gọi hắn đến đây?”

Khóe môi Tạ Lãm thoáng nhếch lên nụ cười chế giễu:

“Ông bại dưới tay ta, nhưng chưa từng gặp ta. Đốc công chắc không muốn ông mang theo tiếc nuối, chết mà không rõ ràng.”

Chỉ là tiện miệng mỉa mai đôi câu, chẳng ngờ Từ Tông Hiến lại gật đầu:

“Quả thực không muốn huynh mang theo tiếc nuối.”

Rồi quay sang nhìn Tạ Lãm:

“Làm phiền Tạ thiên hộ đã đi một chuyến.”

Tạ Lãm: “…”

Nhìn vẻ mặt nghiêm túc của ông ta, Tạ Lãm suýt nữa hỏi: đầu ông có vấn đề à? Phó Mân từng bày kế ám sát Lý Tự Tu, thế mà Từ Tông Hiến lại còn muốn tiễn ông ta một đoạn đường sao?

Nhưng nghĩ kỹ, Tạ Lãm bỗng nhiên lại hiểu được. Năm xưa, số học sinh trong thư viện không chịu bôi nhọ viện trưởng vốn chẳng nhiều, còn sống đến giờ chỉ còn hai người họ.

Phó Mân mà chết, Từ Tông Hiến sẽ trở thành người duy nhất.

“Đã gặp rồi, hạ quan cáo từ.” Tạ Lãm không có thời gian cũng chẳng hứng thú nghe họ “ôn chuyện.”

Từ Tông Hiến gật đầu:

“Làm phiền anh đi một chuyến.”

Tạ Lãm quay người muốn đi, Lạc Thanh Lưu đưa áo choàng tới.

Tạ Lãm quay đầu hỏi Từ Tông Hiến:

“Đốc công, tục ngữ nói “có qua có lại”, ta mượn Thiếu giám của ngài đến đánh xe cho vợ chồng ta xem hội đèn lồng có được không?”

Lạc Thanh Lưu nghe mà toát mồ hôi. Hắn biết Tạ Lãm chỉ thuận miệng kiếm cớ để kéo mình đi ngắm đèn. Nhưng câu này nói ra, lại giống như tát thẳng vào mặt Đốc công vậy.

May mà Từ Tông Hiến không phải lần đầu tiếp xúc với Tạ Lãm, bèn mỉm cười đáp:

“Được thôi.”

Tạ Lãm liền dẫn Lạc Thanh Lưu rời khỏi nhã gian.

Cửa vừa đóng lại, Từ Tông Hiến quay sang Phó Mân:

“Phò mã gia cười gì vậy?”

Phó Mân nâng chén rượu, đáp:

“Ta thua rồi, nhưng muốn lấy mạng ta e rằng không dễ vậy đâu…

Ánh mắt ông ta lóe lên vài phần gian xảo, như thể vẫn chưa xuất hết chiêu:

“Ý tốt của Đốc công, ta chỉ có thể ghi nhận trong lòng mà thôi.”

Từ Tông Hiến thản nhiên nói:

“Kỳ thực, khi chứng cứ tội trạng của huynh bày ra trước mắt ta, ban đầu ta rất bối rối. Trước kia tuy chúng ta không giao thiệp nhiều, nhưng khi viện trưởng bị vu oan, huynh và ta đứng cùng một chiến tuyến, chịu đủ cực hình của Đông Xưởng, gắng gượng đến cuối cùng. Ta không sao hiểu được, người như huynh – tín nghĩa, cứng cỏi – tại sao vài năm sau lại lên kế hoạch vụ án kho lương Điền Trung, khiến cả Đô Ti Điền Nam phải chịu bi kịch còn thảm khốc hơn cả thư viện ngày xưa?”

Phó Mân vu.ốt ve chén rượu, lạnh lùng nói:

“Ngài quên rồi sao, công chúa đã cứu ta ra khỏi lao ngục, ta vốn chưa đến mức ‘gắng gượng đến cuối cùng’.”

Nếu công chúa không cứu, bản thân Phó Mân cũng không biết liệu mình có thể cầm cự đến cuối cùng không. Quỳ suốt ba ngày ba đêm trong phòng tra tấn, bị ép phải chứng kiến cảnh tù nhân bị thiến, nghe thấy những tiếng gào thét khi nhân phẩm bị xé toạc… ông nào dám chắc mình không gục ngã.

Từ Tông Hiến đáp:

“Cho đến khi ta đọc được thư của Nam Cương Vương gửi đến, mới biết anh trai của Giám quốc Nam Cương, Ông Phồn, từng vì cứu huynh mà bỏ mạng. Trước khi chết, còn cầu xin huynh chăm sóc em gái mình…

Ta lần theo đầu mối này thì phát hiện không chỉ có thế. Hóa ra công chúa trước đây không có mấy giao tình với huynh, nhưng lại rất thân thiết với Ông Phồn… Ta đoán, công chúa dùng thân phận ‘phò mã’ cứu huynh khỏi Đông Xưởng cũng là vì Ông Phồn.”

Đến đây, Từ Tông Hiến dần sáng tỏ.

<i>Ân sư như cha, thà chết cũng không phản bội, giữ trọn chữ ‘hiếu’ với thầy.</i>

<i>Thoát khỏi chốn địa ngục, coi như đã chết một lần, sống tiếp để trả ơn và đền nợ, giữ trọn chữ ‘nghĩa’ với tri kỷ.</i>

Dẫu phải chôn vùi lương tâm, tự tay gây nên cảnh sinh linh đồ thán, Phó Mân cũng chẳng nề hà.

“Ta không ngờ, người thông minh, khéo tính toán như huynh lại cố chấp đến mức này.”

Quả nhiên, con người không ai hoàn hảo.

Phó Mân không phản bác, để mặc Từ Tông Hiến nói. Cuối cùng lạnh nhạt hỏi:

“Đốc công cất công tìm ta ra đây, chỉ để giáo huấn ta sao?”

“Vừa nãy Tạ Thiên hộ không phải đã nói rồi sao, nể tình xưa cũ, ta không muốn huynh ôm tiếc nuối mà chết.”

Từ Tông Hiến lấy ra mấy tờ giấy úa vàng và một quyển trục từ tay áo, đặt lên bàn rồi đẩy qua.

Phó Mân cau mày, cầm lên xem.

Từ Tông Hiến chậm rãi nói:

“Ta luôn muốn biết, năm xưa viện trưởng say rượu làm thơ mắng gian thần, rốt cuộc là do kẻ vô liêm sỉ nào mật báo với triều đình. Sau khi vào Ti Lễ Giám, ta đã tốn không ít công sức mới điều tra ra được, đó là một nữ nhân…”

Phó Mân nhìn chằm chằm vào các lời khai mà Từ Tông Hiến thu thập được, đồng tử co rút, các ngón tay bắt đầu run rẩy.



Tạ Lãm vừa bước ra khỏi Ngư Dược Lâu, lập tức nhìn thấy Phùng Gia Ấu và Lý Tự Tu. Hai người đứng đối diện nhau bên đường, Lý Tự Tu còn bế một bé trai.

Gặp Lý Tự Tu ở nơi Từ Tông Hiến xuất hiện, Tạ Lãm không thấy bất ngờ, theo bản năng nhìn xuống vạt áo của y.

Vì đang bế trẻ, áo choàng của Lý Tự Tu mở rộng, để lộ dòng chữ trên vạt áo:

<i>“Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số.</i>

<i>Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ.”</i>*

<i>*Đây là hai câu trong bài </i><b><i>“Thước kiều tiên”</i></b><i> của Tần Quán:</i>

<i>Bài thơ viết về cuộc gặp gỡ của Ngưu Lang – Chức Nữ. Có nghĩa: </i>

<i>Chỉ một lần gió vàng sương ngọc gặp gỡ, mà hơn mọi cuộc tương phùng chốn nhân gian. </i><i>Nếu hai lòng đã bền lâu, há cần phải sớm sớm chiều chiều ở bên nhau?</i>

Mấy câu thơ ấy quá nổi tiếng, Tạ Lãm hiểu ngay, liền hỏi nhỏ Lạc Thanh Lưu:

“Lý phu nhân cũng ở đây sao?”

Lạc Thanh Lưu thì thầm đáp “Phải.” rồi ngước mắt nhìn lên tầng lầu quán trà đối diện.

Tạ Lãm hiểu ngay, liền bỏ lại Lạc Thanh Lưu, thong thả bước tới:

“Lý đại nhân, thật khéo làm sao.”

Lý Tự Tu quay sang nhìn hắn, mỉm cười lễ độ:

“Tạ Thiên hộ, đời người đâu thiếu những cuộc tương phùng.”

Bé trai trong lòng y mở to mắt hỏi:

“Tạ Thiên hộ? Ngươi chính là Tạ Lãm mà mọi người hay nhắc đến gần đây?”

Tạ Lãm nhéo má cậu bé:

“Con nhà ai mà vô lễ thế?”

Phùng Gia Ấu mỉm cười không nói, nàng biết Tạ Lãm đã nhận ra đây là tiểu hoàng dế nhưng vẫn cố tình trêu chọc.

Tiểu hoàng đế cũng chẳng giận, tiếp tục níu tay Lý Tự Tu:

“Thầy ơi, đừng đứng mãi, dẫn ta đi chơi đi!”

Lý Tự Tu liền cáo từ:

“Vậy Tạ Thiên hộ, Tạ phu nhân, hôm khác gặp lại.”

Phùng Gia Ấu mau chóng đáp lời:

“Được ạ.”

Lý Tự Tu khẽ gật đầu với họ, sau đó bế tiểu hoàng đế hòa vào dòng người.

Pháo hoa bất chợt nở rộ trên bầu trời phía trước. Du khách đồng loạt dừng chân, ngẩng đầu thưởng ngoạn ánh sáng rực rỡ.

Tiểu hoàng đế phấn khích nhưng lại thấy Lý Tự Tu nhíu mày, bèn hỏi:

“Thầy không thích pháo hoa à?”

“Không có.” Lý Tự Tu bế cậu bé bước tiếp, “Ta đang nhớ lại, năm ta trạc tuổi ngài, từng theo ông ngoại xuôi nam, tận mắt thấy chiến hỏa bùng lên…”



“Đi thôi.” Pháo hoa tắt lịm, Tạ Lãm cũng dìu Phùng Gia Ấu lên xe ngựa.

Lạc Thanh Lưu dường như không bị pháo hoa làm xao nhãng, vẫn thất thần dõi mắt nhìn lên tầng lầu của quán trà. Mãi đến khi nghe tiếng ngựa hí mới bừng tỉnh, vội trèo lên ghế đánh xe.

Bên trong xe, Tạ Lãm đang kể với Phùng Gia Ấu về chuyện gặp Phó Mân.

Lạc Thanh Lưu hơi ngã người ra sau, nhỏ giọng giải thích:

“Sau khi thân phận Giám quốc Nam Cương bị bại lộ, Đốc công nhà ta lần theo các manh mối cũ, xác định chính bà ta là kẻ năm đó ngầm bán đứng viện trưởng Nhạc Mông.”

Phùng Gia Ấu không tỏ vẻ bất ngờ, nàng vốn đã mơ hồ đoán được.

Lạc Thanh Lưu kéo cương, hướng về phía bờ hồ để hội họp với Tùy Anh và Thẩm Thời Hành,, nói:

“E rằng Phó Mân bị đánh gục rồi. Ta nghĩ ông ta không giở nổi bất kỳ thủ đoạn nào nữa.”

Phùng Gia Ấu chậm rãi nói:

“Ông ta cũng đâu còn thủ đoạn nào dùng được.”



“Ban đầu ta nghĩ thế nào cũng không ngờ đến cô ta.”

Nghe tiếng pháo hoa nổ rền ngoài phố, Từ Tông Hiến đứng dậy bước tới bên cửa sổ.

“Bởi cô ta là con gái của viện trưởng. Sau khi viện trưởng bị treo cổ chết, cô ta bị đưa vào Giáo Phường Ti, nghe nói không bao lâu sau thì chết.”

Dù có nghĩ xa đến đâu cũng chẳng ai ngờ được, ả vốn là người Nam Cương, mượn danh anh trai để trở về, rồi trở thành Giám quốc.

“Còn về động cơ… Qua những người hầu cũ còn sống của nhà họ Nhạc, ta mơ hồ đoán được chút manh mối.”

Ông Nhược Di thường xuyên bất hòa với Ông Phồn.

Từ nhỏ Ông Nhược Di đã yêu thích võ nghệ, thường xuyên cải nam trang, giả danh Ông Phồn đến võ đường tỷ thí với nam nhân. Chuyện này khiến Ông Phồn không ít lần quở trách.

Nàng ta còn thích nuôi những loại côn trùng kỳ lạ, nhiều khả năng cổ trùng. Ông Phồn cấm nàng ta nuôi những thứ này, và hễ phát hiện sẽ giẫm chết toàn bộ.

Cha nuôi của họ là danh sĩ nổi tiếng ở Đại Ngụy, Ông Phồn lo sợ hành vi của nàng ta sẽ làm tổn hại đến danh tiếng của ông nên quản nàng cực nghiêm.

“Tóm lại, bất kể Ông Nhược Di muốn làm gì, đều vì thân phận danh sĩ của cha nuôi mà bị Ông Phồn quản thúc và chỉ trích mọi bề…”

Mặt Phó Mân trắng bệch, nắm chặt mảnh giấy đã ngả vàng trong tay:

“Ta…”

Muốn nói mình không tin, nhưng vốn là người thông minh, chứng cứ rành rành ngay trước mắt, ông ta không tin cũng không được.

Thậm chí, khi biết Ông Nhược Di hạ cổ lên chính con ruột của mình từ nhiều năm trước, một ý nghĩ đáng sợ dần dần nảy sinh trong đầu. Nhưng Phó Mân đã lập tức dập tắt nó đi.

Ông Phồn đúng là thường trách mắng em gái, nhưng Phó Mân biết rõ anh ta thương yêu em mình như thế nào.

“Có thể cô ta chỉ vì nhất thời tức giận, không lường trước được việc gian thần sẽ mượn cớ bôi nhọ, hãm hại sĩ phu, ra thủ đoạn tàn độc… Cũng có thể cô ta đã lường trước hậu quả, muốn nhân cơ hội đó rời khỏi kinh thành, trở về Nam Cương với thân phận Ông Phồn…”

Những điều này giờ đây chẳng còn quan trọng nữa, quan trọng là bọn gian thần đã có được lý do.

Tất nhiên, nếu không phải lý do này, có lẽ sẽ còn lý do khác.

Ở nơi bóng tối bao trùm, vốn dĩ chẳng thể đảm bảo ngày mai được bình yên.

Từ Tông Hiến mở cửa sổ, không nhìn ngắm những ánh sáng lộng lẫy ngoài kia, mà trước tiên hướng ánh mắt về phía ô cửa sổ bên kia đường đã đóng kín, nơi có một bóng dáng đứng lặng phía sau.

Sau đó, ánh mắt ông lần theo dòng người đông đúc, dừng lại ở bóng lưng của Lý Tự Tu:

“Phó Mân, huynh đã không còn gì nuối tiếc, ta cũng vậy… Cuối cùng cũng biết được toàn bộ câu chuyện, nguồn cơn của những khổ đau giày vò suốt nửa đời trước…”



Bên hồ.

Trời đông lạnh giá, mặt hồ đóng băng, bình thường chẳng mấy ai đến đây dạo chơi. Nhưng hôm nay là Thượng Nguyên — phố phường rực rỡ, nơi đây cũng đông đúc như nêm cối.

Bờ hồ rộng rãi, rất thích hợp để thả đèn trời, lại có một gốc đại thụ cành lá sum suê, treo thẻ ước nguyện thì vừa khéo.

Tùy Anh đang buồn bực trong lòng thì nghe tiếng Phùng Gia Ấu gọi:

“A Anh.”

Nàng ngoảnh đầu, thấy Lạc Thanh Lưu cũng xuất hiện, đôi mắt đang ảm đạm chợt bừng sáng:

“Ủa, chẳng phải huynh nói không đến được sao?”

Lạc Thanh Lưu chỉ tay sang Tạ Lãm, như một lời giải thích.

“Huynh ấy chưa đến à?” Phùng Gia Ấu nhìn quanh, không thấy Thẩm Thời Hành liền hỏi.

“Đến lâu rồi.” Nhắc đến Thẩm Thời Hành, Tùy Anh bực bội trở lại, chỉ tay về phía một quầy hàng đông nghịt người, “Tên ngốc đó bỏ ra trăm lượng bạc mua một quầy hàng, đang bày hàng kia kìa.”

Cả đèn trời lẫn thẻ ước nguyện đều cần viết chữ. Mà người dân thì không phải ai cũng biết chữ, thế là quanh đây có vài văn sinh nhận viết hộ, tính tiền theo chữ.

Thẩm Thời Hành hào phóng mua cả một gian hàng, rồi viết giúp mà không lấy tiền, thế nên trước sạp người đứng xếp hàng dài dằng dặc.

Khéo làm sao, có mấy người vừa viết thẻ ước nguyện xong đi ngang qua ba người, miệng thì khen lấy khen để:

“Công tử thật phong nhã… đúng là đại thiện nhân!”

Khóe miệng Tùy Anh co giật, vì nàng biết rõ cái tên kia chẳng qua chỉ là tò mò muốn xem dân thường nguyện ước điều gì mà thôi. Nhưng lại không muốn bị phát hiện đứng dưới gốc cây đọc trộm thẻ của người khác.

“Ta thật sự rất muốn vạch mặt cái tên giả nhân giả nghĩa đó.” Trong tay nàng đang cầm một chiếc thiên đăng lớn đã mở rộng, đèn khá lớn, nếu không có người giữ giúp thì khó viết chữ.

Nàng đã nhờ Thẩm Thời Hành giúp, nhưng hắn từ chối, bảo không hứng thú với ước nguyện của nàng, còn nhìn nàng cười đầy mờ ám.

Tùy Anh càng nhìn càng thấy khả nghi, liền hỏi rốt cuộc hắn có ý gì.

Thẩm Thời Hành bắt nàng xin lỗi trước mới chịu nói, khiến nàng nổi giận chửi thêm một trận.

Lạc Thanh Lưu chỉ mong nàng nói chuyện với Thẩm Thời Hành ít đi một chút. Thấy nàng đang tức giận nghiến răng, liền bước đến:

“Để ta giữ giúp cho.”

Tùy Anh cười rạng rỡ đưa đèn cho hắn, giọng nũng nịu:

“Vẫn là huynh tốt nhất!”

Lạc Thanh Lưu suýt không giữ nổi đèn.



Tạ Lãm cùng Phùng Gia Ấu dạo bước bên bờ hồ, ngước mắt nhìn cây lớn treo đầy thẻ ước nguyện:

“Ấu Nương, nàng có muốn ước điều gì không?”

Phùng Gia Ấu khoác tay hắn, kéo dài tiếng “Ưm—” rồi nói:

“Con người không nên tham lam quá, ta đã từng ước bên cây này rồi, và nguyện vọng đó đã thành hiện thực.”

Tạ Lãm cúi đầu nhìn nàng, đôi mắt đen láy ánh lên sự tò mò.

Phùng Gia Ấu cười khúc khích:

“Nguyện vọng của ta, tất nhiên là lấy được một phu quân vừa ý.”

Tạ Lãm biết cô nói dối, nhưng không thể cưỡng lại cảm giác lâng lâng. Hắn nhướn mày tự mãn, đôi mắt cong thành vầng trăng khuyết xinh đẹp.

Một nhóm thiếu nữ đi ngang qua phía trước, Phùng Gia Ấu bất chợt chỉ về một quầy bán đèn lồng gần đó:

“Chúng ta mua một chiếc đèn lồng nhé?”

Nhìn những thiếu nữ vui tươi cầm đèn trên tay, nàng chợt nhận ra mình đã bao năm không ra ngoài chơi Tiết Thượng Nguyên. Ngày xưa nơi càng náo nhiệt, nàng càng cảm thấy cô đơn, chỉ muốn trốn trong thư lâu bầu bạn cùng bộ luật mới.

Thời gian qua đi, nàng dường như đã quên mất mình từng vui tươi như thế nào.

Tạ Lãm thấy nàng lặng nhìn dãy đèn muôn hình muôn vẻ, ánh mắt phiêu lạc, đoán được nàng đang bâng khuâng điều gì. Hắn kéo nàng đi thẳng đến quầy hàng:

“Đèn làm sẵn không thú vị, để phu quân nàng tự tay làm cho nàng.”

Đến quầy, người bán thấy hai người ăn mặc sang trọng, định giới thiệu nhiệt tình. Nhưng Tạ Lãm lại bảo Phùng Gia Ấu trả vài lượng bạc, chỉ mượn dụng cụ làm đèn phía sau quầy.

Phùng Gia Ấu kinh ngạc đứng một bên, nhìn hắn vén áo choàng, ngồi xuống chiếc ghế thấp, xắn tay áo bắt đầu làm đèn.

Hành động của hắn thu hút sự chú ý của nhiều người qua lại, bởi họ chưa từng thấy vị công tử quyền quý nào thả áo lộng lẫy quết đất, “ngồi xổm” làm đèn giữa phố như vậy.

Phùng Gia Ấu mừng rỡ:

“Chàng cũng biết làm sao?”

Tuyết rơi lớn dần, nàng bung ô giấy dầu che tuyết cho hắn.

“Ở thành Hắc Thủy, người dân đa số là người Trung Nguyên. Vào Tiết Thượng Nguyên, nếu không đánh trận, mọi người sẽ treo đèn lồng. Ta học từ nhỏ, cha ta dạy đấy.” Tạ Lãm định khoe mình không chỉ biết làm đèn lồng mà còn biết làm diều giấy.

Nhưng vì diều là do nhị thúc dạy, sợ nàng không vui nên hắn thôi không nói tiếp.

Nghe hắn nhắc đến Tạ Triều Ninh, Phùng Gia Ấu chợt nhớ đến thanh miêu đao mới được gửi tới:

“Phu quân, lúc nào rảnh chúng ta về thành Hắc Thủy đi!”

Tạ Lãm đang cắm cúi làm, tay khựng lại một thoáng:

“Nếu ta chủ động quay về, nàng nghĩ ông ấy sẽ niềm nở với ta sao? Nhất định sẽ mắng ta không có cốt khí, bị một thanh miêu đao dụ về.”

“Không liên quan đến ông ấy.” Phùng Gia Ấu đứng lâu hơi mỏi, liền ngồi xuống, vươn tay vu.ốt ve chiếc đèn hình thỏ hắn đang làm dở, “Ta muốn cùng chàng đi sông Hắc Thủy thôi.”

Tạ Lãm khó hiểu nhìn nàng:<b>“Đến đó làm gì?”

Phùng Gia Ấu mỉm cười:

“Phong tục Mười Tám Trại các chàng chẳng phải là thành thân bên bở mẫu hà, cùng bái lạy mẫu hà sao? Hôn lễ ở kinh thành của chúng ta hồi đó làm qua loa quá…”

Mặc dù tổ chức rất linh đinh nhưng khi đó cả hai người đều không thật lòng với nhau.

“Chúng ta đến sông Hắc Thủy, tổ chức lại hôn lễ theo phong tục của các chàng được không?”

“Đương nhiên là được.” Tạ Lãm đáp ngay không do dự.

Lời đề nghị này làm lòng hắn xúc động xốn xang. Khi nàng hỏi, môi nàng gần như chạm vào tai hắn, hắn còn có thể từ chối sao?

Nếu đã đến bái mẫu hà, Tạ Lãm cũng muốn ghé qua Suối Trăng dập đầu cảm tạ nữa thần mặt trăng. Giờ đây hắn hoàn toàn tin tưởng không chút hoài nghi rằng kiếp trước chắc chắn hắn đã quỳ trước Suối Trăng khấn nguyện.

Hắn và Phùng Gia Ấu nhất định là mối duyên định mệnh từ kiếp này qua kiếp khác.

Lòng vừa thầm tính toán, tay cũng vừa hoàn thành chiếc đèn hình thỏ.

“Chờ chút, ta làm thêm một cái nữa.”

Sau khi tạo dáng xong chiếc đèn, Tạ Lãm bắt đầu cẩn thận tô vẽ:

“Vẽ con sói trước nè, sau đó là con thỏ.”

Mi mắt Phùng Gia Ấu chớp liên hồi, trong lòng hiểu rõ hắn làm đèn hình con sói nhưng nhìn thế nào cũng ra một con… chẳng giống con nào cả.

Thỏ thì càng không giống thỏ, miệng nhọn hoắt, giống như một con hồ ly con.

Tóm lại là… xấu một cách vô cùng đặc biệt.

Cũng đúng thôi, Tạ Lãm chỉ nói hắn biết làm, nào có bảo là làm đẹp đâu.

Tại nàng kỳ vọng quá nhiều rồi.

Tạ Lãm không biết nàng đang nghĩ gì, vẫn một lòng một dạ chăm chú làm việc, lại còn rất vừa ý với thành phẩm của mình:

“Lát nữa mỗi người cầm một cái, con sói cho nàng, con thỏ cho ta.”

Phùng Gia Ấu: “……”

Nàng cảm thấy thật mất mặt, người bán hàng và đám khách xung quanh đã bắt đầu cười trộm.

Nhưng khi chiếc đèn được đưa đến tay, Phùng Gia Ấu lại yêu thích không nỡ buông, nâng niu trong lòng bàn tay.

Nàng mượn bút, viết năm chữ lên mỗi chiếc đèn lồng.

Tạ Lãm bên cạnh đọc lớn:

“<b>Năm năm cảnh không đổi, đời đời người bên nhau.</b>“
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 106: Ngoại truyện 1 – Tùy Anh x Lạc Thanh Lưu (Thượng)


Sau Tiết Thượng Nguyên, Tạ Lãm chính thức nhậm chức Trấn phủ của Bắc Trấn Phủ Ti thuộc Huyền Ảnh Ti.

Do lập công mà bị thương, thương thế vẫn chưa bình phục, Thẩm Khâu đặc cách cho phép hắn tịnh dưỡng thêm một thời gian.

Mấy ngày sau, Tạ Lãm cùng Phùng Gia Ấu khởi hành đi Tây Bắc.

Trên quan đạo ngoài thành, Tùy Anh nhìn theo cỗ xe ngựa ngày một xa, đoạn thở dài:

“Đường xá xa xôi, lại ngồi xe ngựa, chuyến này đi về, ít nhất cũng phải hai ba tháng.”

Lạc Thanh Lưu cũng dõi mắt nhìn về xa:

“Ta tưởng cô sẽ theo họ đến thành Hắc Thủy chơi một chuyến.”

Tùy Anh vốn không thích nơi đông đúc, nhưng tính tình nàng phóng khoáng, mê ngao du, thường không chịu ngồi yên ở kinh thành, chỉ thích nay đây mai đó.

“Nếu là trước đây, chắc chắn ta đã đi theo rồi.” Tùy Anh thở dài, “Nhưng giờ ta phải ở nhà trông chừng Tư Nguyên…”

Như lời hứa của Phùng Gia Ấu dạo trước, Tùy Tư Nguyên đã bắt đầu theo Lý Tự Tu sửa soạn bài vở.

Đêm qua, trước khi lên đường đi Tây Bắc, Tạ Lãm đặc biệt gọi Tùy Tư Nguyên sang Phùng phủ, ném cho cậu một thanh đao, bảo cậu tập làm quen trước, đợi hắn quay về sẽ dạy chiêu thức.

Nhắc đến là Tùy Anh lại đau đầu:

“Nó chẳng coi Tạ Trấn phủ ra gì, ta mà không trông, có khi nó bẻ gãy luôn cả thanh đao, nói gì đến làm quen.”

Lạc Thanh Lưu đáp:

“Cô đừng lo, đợi Tạ Trấn phủ trở về, tự khắc sẽ trị được cậu ấy.”

“Thế nên ta mới lo đó!” Tùy Anh giờ đã rõ Tạ Lãm nghiêm khắc đến nhường nào, “Cái đồ trời đánh đó nếu lỡ làm gãy đao của Tạ Trấn phủ thật … Nó hoàn toàn không hiểu được mức độ nghiêm trọng đâu!”

Tùy Anh tuy mong có người có thể trị được Tùy Tư Nguyên, nhưng nghĩ tới người đó là Tạ Lãm lại không khỏi khiếp sợ.

Lạc Thanh Lưu không nhịn được cười, song nụ cười vừa nhếch lên đã vội thu lại.

Hắn rời mắt khỏi quan đạo xa xăm, quay đầu nhìn Tùy Anh. Tuy không rõ rệt, nhưng nàng đã có sự thay đổi, chẳng còn tùy hứng như trước, trong lòng đã có nhiều bận tâm.

Mà như thế cũng là lẽ thường.

Trấn Quốc Công vì tương lai của hai chị em nàng mà nảy ý tạo phản, việc ấy chẳng phải chuyện nhỏ, đã gây cho nàng không ít ảnh hưởng.

Thân thể Trấn Quốc Công lại ngày một suy yếu, tuy Tùy Tư Nguyên có triển vọng, nhưng trước khi cậu đủ sức gánh vác phủ Trấn Quốc Công, mọi trách nhiệm đều đặt trên vai Tùy Anh.

Lạc Thanh Lưu muốn nói gì đó.

“Đi thôi.” Tùy Anh lên tiếng gọi hắn quay về thành.

Hai người đi xe ngựa của Tạ Lãm và Phùng Gia Ấu đến đây, sau khi xuống xe đưa tiễn ở đầu quan đạo, họ chỉ có thể đi bộ về.

Trạm canh ở cổng thành có chuẩn bị ngựa cho những người có thân phận, cả hai đều có thể mượn dùng, song chẳng ai buồn nhắc đến. Họ lẳng lặng vượt qua cổng thành, băng qua những ngõ nhỏ đi vào trung tâm thành.

Tùy Anh vẫn còn phiền lòng vì chuyện của Tùy Tư Nguyên, mày chau suốt quãng đường chẳng nói một lời.

Lạc Thanh Lưu không nén nổi, bèn lên tiếng:

“Tùy tiểu thư…”

Tùy Anh ngẩng đầu:

“Hửm?”

Ánh mắt Lạc Thanh Lưu dao động vài lần, đoạn chậm rãi nói:

“Trừ chuyện lo lắng cho sức khỏe của gia gia cô, những chuyện khác… cô không cần quá phiền muộn…”

Tùy Anh mỉm cười:

“Tiểu Gia và thế lực đứng sau nàng ấy sẽ giúp ta, ta biết chứ. Lần trước ở phủ Hành Vương, huynh đã nói rõ rồi. Nhưng mà…”

“Nếu cô tin tưởng, ta cũng sẽ giúp cô.” Câu này, lần trước Lạc Thanh Lưu không nói ra miệng, nhưng lần này, hắn đã tìm được lý do, “Cùng trải qua sinh tử, chúng ta hẳn cũng coi như bạn bè, phải không?”

Khi nghe câu đầu, Tùy Anh ngẩn người, tròn mắt nhìn hắn.

Nhưng sau khi nghe xong câu cuối, chẳng hiểu sao lòng nàng thoáng qua chút thất vọng.

Tùy Anh buộc miệng:

“Huynh kỳ cục thật đấy!”

Lần trước khi chạy trốn khỏi thành hoang, hắn từng bảo lý do hắn do dự có nên quay đầu hay không đều là vì nàng. Khi ấy tình thế gấp gáp, nàng không kịp hỏi rõ.

Về tới quân doanh, trong lúc chăm sóc hắn, nàng đã đem chuyện đó ra hỏi.

Hắn trả lời:

“Mạng cô là do ta cứu, ta không thể để mặc cô chết. Nếu không, những trận đòn trước đây ta chịu dưới tay Tào Tung chẳng phải là vô ích hay sao?”

Nghe xong, Tùy Anh thấy cũng có lý.

Giờ ngẫm kỹ lại, nàng phát hiện người này thường nói trước một câu lấp lửng khiến nàng hiểu lầm, khiến lòng nàng bận bịu chẳng yên… Rồi sau đó lạnh lùng bổ sung thêm câu giải thích như hắt cho nàng gáo nước lạnh.

Suy nghĩ kỹ hơn, cách cư xử của hắn đối với nàng cũng giống vậy, lúc thì tỏ vẻ xa cách, lúc lại ân cần quan tâm, thực kỳ quặc.

Rồi chợt nhớ ra hắn là hoạn quan, dường như mọi chuyện trở nên dễ hiểu hơn.

Tùy Anh thoáng hối hận vì lỡ miệng nói ra chữ “kỳ cục”, sợ hắn sẽ nghĩ ngợi nhiều. Nàng muốn giải thích, nhưng lại e càng nói càng sai, chỉ như thêm dầu vào lửa.

Nàng vội vàng đổi chủ đề:

“Lần trước huynh bảo ta nhớ lại xem, huynh từng xuất hiện quanh ta bao nhiêu lần. Ngoài lần huynh đóng giả người bán kẹo vừng trước cổng quân phủ Tây Bắc, ta thật không nghĩ ra được gì thêm…”

Giọng nàng mềm mại, khen:

“Không hổ danh là thủ lĩnh mật thám của Thập Nhị Giám, tài cải trang của huynh cao siêu ghê đó!”

Ban nãy bị nàng trách, Lạc Thanh Lưu cũng bắt đầu tự oán. Hắn biết thái độ thất thường của mình đã khiến nàng khó xử.

Nhưng khi nghe nàng bất chợt đổi chủ đề, hắn đoán ra nguyên do, sắc mặt lập tức trầm xuống, nói giọng mỉa mai:

“Chắc là do ta tầm thường quá, chẳng lọt nổi vào mắt của đại tiểu thư cô.”

“Sao lại thế được!” Tùy Anh giải thích ngay, “Huynh đã chú ý đến ta, hẳn cũng biết thú vui lớn nhất đời ta chính là ngắm mỹ nam.”

Đặc biệt là kiểu khiến người khác nhìn mà thương tiếc, chẳng hạn như các kép hát.

Lạc Thanh Lưu cũng thuộc mẫu nàng thích. Dù ngũ quan và đường nét gương mặt hắn cứng cỏi, nhưng vì ít ra nắng nên nước da nhợt nhạt, phảng phất vẻ mong manh yếu ớt.

“Nếu huynh đường hoàng xuất hiện trước mắt ta, ta sao có thể không để ý. Có khi còn ngắm thêm vài lượt ấy chứ.”

Tùy Anh nói thật lòng, nhưng nói xong lại thầm than không ổn, nghe cứ như đang trêu ghẹo hắn vậy.

Len lén liếc mắt nhìn, may quá, hắn không hiểu lầm. Dường như hắn thật sự hiểu nàng rất rõ.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện vu vơ, vô thức đã đi được một đoạn đường dài.

Chẳng mấy chốc đến một ngã ba, đi thẳng là hoàng cung, rẽ trái là về phủ Trấn Quốc Công.

Tùy Anh vốn đã chuẩn bị tinh thần để tạm biệt hắn, nhưng lại thấy hắn tự nhiên rẽ sang lối về phủ, dường như muốn tiễn nàng về nhà.

Nàng ngẩn người, lúc này mới bừng tỉnh một chuyện.

Tài cải trang của Lạc Thanh Lưu cao siêu như vậy, thế mà khi giả làm người bán kẹo vừng trước cổng quân phủ Tây Bắc lại bị nàng nhận ra.

Cũng bởi khi ấy nàng đã nhìn hắn thêm vài lần.

Và bởi từ bé nàng đã rất thích ăn kẹo vừng.

Hơn nữa sau khi bị nàng vạch trần, Lạc Thanh Lưu chẳng hề kinh ngạc, trái lại còn cười.

Cứ như thể, việc hắn chọn bán kẹo vừng, vốn chỉ để nàng có thể giữa biển người mênh mông… dừng ánh mắt lại nơi hắn một chút.

Dẫu khi đó, nàng hoàn toàn không biết hắn là ai, cũng chẳng rõ hắn có mối liên hệ gì với mình.

Trước đây Tùy Anh đã mơ hồ có cảm giác, mãi đến khoảnh khắc này mới thật sự ngộ ra, Lạc Thanh Lưu… thích nàng?

Lòng nàng bỗng chốc rối bời, suýt nữa giơ tay kéo hắn lại hỏi cho ra lẽ.

Nhưng nàng kịp thời rụt tay về.

Nàng có thừa can đảm, nhưng không chắc liệu sự can đảm này có phải là hành động lỗ m.ãng hay không, có làm tổn thương dây thần kinh nhạy cảm mong manh nào của hắn không.

Tùy Anh giống hệt ông mình, từng vô cùng căm ghét bè đảng hoạn quan, nên mới thường treo bốn chữ “thái giám chết tiệt” trên miệng.

Trước Lạc Thanh Lưu, nàng chưa từng có kinh nghiệm tiếp xúc với một hoạn quan nào. Nhất thời chẳng biết làm sao.



Khi hai người sắp đến trước cửa phủ Trấn Quốc Công, Tùy Anh thấy bên chân tường cạnh cổng có một người đang đứng, trông như đang chờ nàng.

Khoảng cách khá xa, nàng không nhìn rõ lắm:

“Ủa, ai vậy nhỉ?”

Lạc Thanh Lưu bên cạnh lạnh nhạt đáp:

“Người suýt nữa trở thành hôn phu của cô mười năm trước, con trai của ân nhân cứu mạng thứ hai của cô, Diệp Thái y. Cô không nhận ra sao?”

Tùy Anh hiểu ra:

“Diệp Thích Chu?”

Người đứng dưới chân tường ấy không rõ là nghe thấy tên mình hay cảm nhận được ánh nhìn, ngẩng đầu nhìn về phía nàng.

“Diệp công tử tìm ta có việc gì sao?”

Tùy Anh hỏi xong câu này, quay đầu nhìn sang bên cạnh thì Lạc Thanh Lưu đã biến mất. Hẳn là trước khi Diệp Thích Chu nhìn đến, hắn đã lặng lẽ tránh đi.

Tùy Anh bước về phía Diệp Thích Chu.

Hóa ra Diệp Thích Chu đến nhờ nàng giúp đỡ. Hắn muốn tìm một quyển cổ thư về y thuật, nghe nói Kho Tư Liệu của Huyền Ảnh Ti có lưu giữ, nhưng vì không quen Thẩm Thời Hành nên đến nhờ Tùy Anh mượn giúp.

Chuyện nhỏ, Tùy Anh lập tức đồng ý.

Diệp Thích Chu cảm tạ rồi rời đi.

Tùy Anh không đi vào phủ ngay, mà vòng lại chỗ Lạc Thanh Lưu biến mất. Nàng ngó quanh, Diệp Thích Chu đã đi xa nhưng hắn vẫn không xuất hiện lại.

Không chào một tiếng, cứ thế quay về cung sao?

Tùy Anh chầm chậm quay về, chân vừa đặt lên bậc thềm, đang chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa thì không nhịn được mà ngoái đầu nhìn lại một lần cuối.

Không thấy gì mới thật sự buông lòng đi vào phủ.

Khi cánh cửa đỏ chói của phủ Trấn Quốc Công đóng lại, Lạc Thanh Lưu từ chỗ ẩn mình bước ra, lặng lẽ quay đầu đi về hướng hoàng cung.



Ban ngày Tùy Tư Nguyên đến Quốc Tử Giám, Tùy Anh không cần để ý đến cậu. Nàng về phòng mình, ngồi thất thần một lúc rồi mới cầm cuốn binh thư đặt trên bàn lên đọc.

Phủ Trấn Quốc công xưa nay không thiếu binh thư, trong đó còn có cả những ghi chép tay do tổ tiên nhà họ Tùy để lại, chưa từng truyền ra ngoài, vô cùng quý giá.

Vậy mà Tùy Anh lại rất hiếm khi thực sự chú tâm nghiên cứu.

Không phải vì nàng không hứng thú với binh pháp. Sinh ra trong dòng dõi võ tướng, lại từ bé đã tập võ, nàng cũng từng mơ được ra chiến trường, làm một nữ tướng oai phong lẫm liệt.

Tuy nhiên, ở Đại Nguỵ, trừ khi thiên hạ đại loạn, lễ giáo suy tàn, còn không, nữ giới không bao giờ chạm được đến chút quyền lực nào trong quân. Khi nhận ra điều này, nàng liền từ bỏ việc học, không muốn lãng phí thời gian.

Phùng Gia Ấu đã khuyên nhủ nàng không ít lần, nàng cũng chỉ ậm ừ cho qua.

Mỗi lần bị Phùng Gia Ấu kéo đến thư phòng, nàng lại ngáp dài, gật gù muốn ngủ.

Từ nhỏ đến lớn, không biết Phùng Gia Ấu đã bao lần cuộn sách đập lên đầu nàng, nhưng cũng chẳng khiến nàng tỉnh táo hơn chút nào.

Dù phủ Trấn Quốc Công nhân khẩu thưa thớt, địa vị trong triều đình cũng gian nan, nhưng gia gia nàng luôn khỏe mạnh, lại nắm giữ binh quyền trong tay, nên nàng chưa từng có ý thức lo xa.

Nhưng hiện giờ…

Tùy Anh hiểu rõ, nàng không thể chỉ trông chờ vào việc em trai thành tài hay bạn bè giúp đỡ. Nàng phải tự mình trưởng thành, để ông nội an tâm, cũng để gánh vác gia nghiệp.

Nhưng ngoài việc nghiêm khắc dạy dỗ em trai và tính đến chuyện liên hôn, nàng hoàn toàn không biết mình nên cố gắng theo hướng nào.

Mấy ngày trước, Phùng Gia Ấu hẹn nàng ra ngoài uống trà, trò chuyện về việc triển khai luật mới.

Phùng Gia Ấu nói, luật mới sẽ được trình lên dưới tên mình, rằng một hai năm tới chắc chắn sẽ gây ra sóng gió, và nàng ấy đã chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với những chỉ trích dữ dội.

Phùng Gia Ấu còn nói thời điểm hiện tại rất thuận lợi, nàng lại có nhiều sự trợ giúp bên cạnh. Nếu còn do dự, thì những cô gái không quyền không thế khác sẽ chẳng bao giờ có cơ hội ngẩng đầu.

Tùy Anh không biết Phùng Gia Ấu có cố ý dẫn dắt mình hay không, nhưng nàng thực sự bị lời ấy lay động.

Nàng có điều kiện thuận lợi hơn người, vậy mà ngay cả ý chí để cố gắng một chút cũng không có, cứ thế buông bỏ.

Nàng không biết bây giờ bắt đầu cố gắng có quá muộn hay không, cũng không biết liệu cố gắng có mang lại kết quả gì hay không.

Dẫu vậy, cứ thử xem sao.

Ít nhất, nàng đã có một hướng đi.

Thế nhưng, mới đọc chưa được hai trang sách, nàng lại chẳng nhập tâm nổi.

Trong đầu không ngừng hiện lên hình bóng Lạc Thanh Lưu. Hắn không nói một lời đã bỏ đi, có phải vì hiểu lầm nàng và Diệp Thích Chu không?

Tùy Anh bất giác ngồi thẳng dậy, càng nghĩ càng cảm thấy có lý.

Hắn dường như mang đầy địch ý với Diệp Thích Chu. Trước đây, trong nghị sự đường ở Đô Ti Điền Nam, để thuyết phục Hành vương, hắn còn nói rằng với thân phận của mình, không cần đích thân đến phủ Tế Nam giám sát.

Thế nhưng hắn vẫn đích thân đi.

Là bởi Diệp Thích Chu cũng đang ở đó, mà nàng lại thường xuyên ở lại phủ Hành Vương?

Không kịp nghĩ sâu hơn về tâm tư của hắn, Tùy Anh vội vàng xé một mảnh giấy, viết vài dòng, muốn hẹn gặp mặt để giải thích rõ quan hệ giữa nàng và Diệp Thích Chu. Thật sự chỉ là bằng hữu bình thường, nàng không hề có tình ý gì, mà Diệp Thích Chu thì chỉ mê nghiệm thi và y thuật.

Viết xong, lần đầu tiên nàng phái người đem giấy nhắn đến “điểm liên lạc” ngoài cung mà Lạc Thanh Lưu từng kể.

Đợi từ sáng đến tối, nàng mới nhận được hồi đáp: “Mấy ngày này không rảnh.”

Tùy Anh biết hắn rất bận, chỉ đành dằn lòng.



Nhịn qua mấy ngày, đến khi thành hơn chục ngày, nàng lại viết một tờ giấy khác hẹn gặp mặt lần nữa.

Mấy ngày trôi qua vẫn không có hồi đáp. Nàng không nghĩ gì khác, chỉ lo lắng không biết hắn có gặp chuyện gì không.

Ban ngày ra ngoài, hễ thấy ai ăn mặc kín mít, nàng đều liếc nhìn đôi ba lần.

Đêm nằm ngủ, chỉ cần ngoài cửa sổ có chút gió lay cành động, nàng lập tức bật dậy, ngỡ rằng hắn đã rảnh việc tới tìm mình. Hắn vẫn ưa hành động trong bóng tối mà.

Qua mấy đêm bị giày vò, mở mắt nhìn trời sáng, Tùy Anh dần nhận ra.

Nàng hình như… động lòng mất rồi?

Mà đối phương lại là một hoạn quan?
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 107: Ngoại truyện 2 – Tùy Anh x Lạc Thanh Lưu (Hạ)


Lạc Thanh Lưu rời kinh thành hơn mười ngày, vừa xử lý xong công vụ trở về cung thì thuộc hạ mang đến một chồng giấy nhỏ.

Đều là giấy nhắn của Tùy Anh, nội dung mỗi tờ đều giống nhau: nàng muốn hẹn gặp hắn.

Phùng Gia Ấu không có ở kinh thành, Lạc Thanh Lưu thấy nàng gấp gáp như vậy, nghĩ rằng có thể nàng gặp khó khăn, liền vội vàng rời cung, đến phủ Trấn Quốc Công.

Lúc này đã là giờ Hợi ba khắc, Tùy Anh vừa mới cho nha hoàn ra ngoài, tắt đèn và lên giường nằm. Bỗng nhiên, nàng nghe thấy tiếng gõ cửa sổ.

Nàng bật dậy ngay, chạy ào đến phía cửa sổ sau.

Đẩy mở cửa sổ, thấy đúng là Lạc Thanh Lưu, Tùy Anh đặt tay lên ngực thở phào một hơi:

“Huynh làm ta sợ muốn chết!”

Lạc Thanh Lưu cũng bị dọa, bởi nàng để xõa tóc, chỉ mặc một chiếc áo ngủ mỏng. Đây là lần đầu tiên hắn thấy dáng vẻ này của nàng, Hắn chưa từng thấy nàng như vậy, nhất thời đầu óc trống rỗng, chỉ còn vang lên bốn chữ “không được nhìn bậy.”.

Hắn vội dời ánh mắt sang chỗ khác, nhờ ánh trăng lại trông thấy trên bàn dưới cửa sổ bày đầy sách vở.

Giống như sách binh pháp.

Gió lạnh thổi tới, Tùy Anh run lên vì rét, vội vàng đi lấy áo choàng:

“Chờ ta một chút.”

Đợi nàng khoác thêm chiếc áo dày rồi quay lại, Lạc Thanh Lưu mới tiếp tục nhìn nàng:

“Tùy tiểu thư, cô tìm ta gấp như vậy, hẳn phải biết ta có thể sẽ tới gõ cửa sổ chứ?”

Tùy Anh dựa vào bệ cửa sổ, nói:

“Không phải việc đó. Ta lo huynh đột nhiên mất liên lạc mười mấy ngày là vì gặp chuyện giống lần trước, mắc kẹt trong hang rắn không ra được. Mà bây giờ Tạ Trấn phủ đang ở Tây Bắc, không tới cứu huynh được.”

“Ta thường xuyên làm việc bên ngoài, rời kinh hơn mười ngày không có gì lạ cả.”

Cái lạ là, trong cả quãng thời gian ấy, hắn chưa từng nhận được nhiều giấy nhắn riêng không liên quan đến công vụ như vậy. Hắn nói tiếp

“Huống chi, dù có rơi vào hang rắn thêm lần nữa, ta cũng có thể tự cứu mình. Cô không cần lo cho ta.”

Ở thành hoang Nam Cương ấy, hắn đã nhặt lại được phần lớn dũng khí từng đánh mất khi xưa.

Trước đây, hắn chỉ muốn giữ khoảng cách với Tùy Anh để tránh tự làm khổ mình. Còn bây giờ, hắn không sợ làm bạn với nàng nữa.

Tương lai khi nàng xuất giá, hắn vẫn có thể tặng nàng một món quà thật lớn. Đối với hắn, làm được điều đó đã là sự dũng cảm rất lớn.

Ngoài điều này ra, hắn sẽ không tiến thêm một bước nào nữa.

Đó không phải là dũng cảm, mà là ích kỷ.

Tùy Anh gật đầu:

“Vậy thì tốt.”

Lạc Thanh Lưu quay lại chuyện chính:

“Vậy cô tìm ta gấp như vậy là có chuyện gì?”

Ban đầu, Tùy Anh muốn tìm hắn để giải thích về mối quan hệ giữa nàng và Diệp Thích Chu, nhưng dần dần lại thấy điều đó không còn quan trọng nữa:

“Ta tìm huynh là để nói với huynh, chuyện huynh là hoạn quan, ta thật lòng không để ý… Dù có để ý, thì cũng chỉ là vì trước đây ta từng rất ghét hoạn quan, mà cuối cùng ta lại thích chính loại người mà ta ghét nhất. Chuyện đó khiến ta cảm thấy hơi kỳ lạ thôi…”

Nói xong, nàng chăm chú nhìn Lạc Thanh Lưu.

Hôm đó, khi nhận ra Lạc Thanh Lưu thích mình, nàng cảm thấy bối rối vô cùng, đến mức không dám mở miệng nói chuyện, sợ làm tổn thương hắn.

Còn bây giờ, khi nàng chủ động bày tỏ tâm ý, bỗng thấy chẳng còn băn khoăn gì nữa.

Lạc Thanh Lưu nhẩm đi nhẩm lại câu nói thẳng thắn của nàng trong đầu hai lần, cuối cùng cũng hiểu được nàng đang nói gì.

Hắn đứng ngây người tại chỗ.

“Huynh không tin sao?”Tùy Anh tuy chỉ mới nhận ra vài ngày trước, nhưng nàng biết rõ rằng mình không phải mới động lòng gần đây.

Có thể là từ cái lần cùng nhau quay đầu trở lại khi đang bỏ trốn, hoặc cũng có thể sớm hơn nữa…

Lạc Thanh Lưu hoàn hồn, phản ứng đầu tiên là nghĩ Thẩm Thời Hành đã kể cho nàng biết chuyện hắn bị giam trong cung rồi biến thành hoạn quan.

Nàng đang bù đắp cho hắn, hay đang thương hại hắn?

Không nói lời nào, Lạc Thanh Lưu quay người bỏ đi.

“Nè!” Tùy Anh vươn tay định kéo lại, nhưng bị khung cửa sổ ngăn cản. Nàng không dám gọi to, chỉ đành trơ mắt nhìn hắn tung người lên mái nhà, thoắt cái đã biến mất.

Rời khỏi phủ Trấn Quốc công, đầu óc Lạc Thanh Lưu dường như tỉnh táo hơn đôi chút.

Nhìn vẻ mặt nàng khi nói, không giống như đã biết sự thật. Nàng vốn không giỏi che giấu cảm xúc.

Vậy thì những gì nàng nói đều là thật lòng?

Máu trong người Lạc Thanh Lưu dường như đông cứng lại trong giây lát, buộc hắn phải dừng bước.

Không kiềm chế được, hắn quay đầu, tốc độ trở về nhanh hơn cả lúc bỏ chạy.

Tùy Anh đang tức giận dậm chân, thấy hắn quay lại, nàng bất chấp việc có thể kinh động đến hộ vệ trong phủ, lớn tiếng mắng:

“Ta nói ta thích huynh, sao huynh lại làm như bị sỉ nhục vậy chứ?”

Khiến nàng không khỏi nghi ngờ, lẽ nào đều do nàng tự suy diễn rồi đơn phương?

Lạc Thanh Lưu chăm chú nhìn khuôn mặt giận dữ của nàng, rốt cuộc chắc chắn: hắn đã hiểu lầm.

Không phải bù đắp, không phải thương hại. Nàng thật tâm.

chắc chắn rằng mình đã hiểu lầm. Nàng không muốn bù đắp, cũng không Niềm vui như trút xuống sau bao năm nén lại, nhưng xen lẫn trong đó là chua xót khó tả.

“Lạc Thanh Lưu!” Tùy Anh thật sự tức giận.

Dẫu sao nàng cũng là con gái, lần đầu tiên thổ lộ tình cảm với một chàng trai, vậy mà người đó lại hững hờ, tỏ ra như chẳng để tâm.

Lạc Thanh Lưu cố nén cảm xúc, ánh mắt vẫn lẩn tránh, nhưng giọng nói lại kiên định:

“Tùy tiểu thư, ta khuyên cô nên sớm từ bỏ, hai chúng ta là không thể.”

Tùy Anh nói:

“Ta đã nói rồi, ta không quan tâm chuyện huynh là…”

Lạc Thanh Lưu ngắt lời nàng:

“Cô không thể từ bỏ phủ Trấn Quốc công, còn ta, cũng không thể từ bỏ những gì đã gây dựng bao năm ở Thập Nhị Giám. Thân phận của chúng ta định sẵn rằng chúng ta không thể nào có kết cục tốt đẹp.”

Nói xong, hắn nắm chặt tay, ép bản thân quay lưng rời đi.

“Sau này, nếu không có chuyện quan trọng, đừng tìm ta nữa.”



Lạc Thanh Lưu trở lại hoàng cung, trước khi về phòng lại bị người chặn lại:

“Thiếu giám, Đốc công mời ngài.”

Hắn liền đến gặp Từ Tông Hiến.

Đã qua giờ Tý, nhưng Từ Tông Hiến vẫn ăn mặc chỉnh tề ngồi trong thư phòng, trên án chất đầy tấu chương.

Nhưng trong tay ông lại không phải tấu chương, mà là một phong mật thư.

Lạc Thanh Lưu nhìn hoa văn trên giấy, liền nhận ra đây là mật thư hắn gửi mấy ngày trước, nội dung điều tra vụ Bố chính sứ Hồ Quảng bị tố cáo tham ô ngân quỹ cứu trợ thiên tai.

Hắn cúi người hành lễ:

“Đốc công, có vấn đề gì sao?”

“Không có. Ngươi làm việc ta há lại không yên tâm.” Từ Tông Hiến đặt mật thư xuống, cầm một tấu chương khác từ Nội Các, “Tám năm nay, kể cả hai năm đầu khi mới nhậm chức, số lần ngươi làm sai có thể đếm trên đầu ngón tay.”

Lạc Thanh Lưu cười đáp:

“Có ngài tận tình chỉ dạy, người ngu dốt mấy cũng khó mà sai sót.”

Năm ấy, khi được cứu ra khỏi tử lao, hắn chỉ mới mười sáu tuổi, xuất thân giang hồ, hoàn toàn không biết gì về triều chính. Chính Đốc công đã kiên nhẫn chỉ bảo, dìu dắt hắn trở thành tâm phúc, giao phó trọng trách.

Bởi vậy, Lạc Thanh Lưu đối với vị Đốc công này là phức tạp vô cùng: vừa kính sợ, vừa cảm kích.

Lại càng hiểu rõ, lần này Từ Tông Hiến nhắc đến “tám năm”, chính là đang dỏ hỏi rằng hắn có muốn bước từ bóng tối ra ánh sáng hay không.

Tào Tung đã chết, Từ Tông Hiến mất đi một lá chắn.

Tề Phong cũng chết, lại mất thêm một đồng minh quan trọng.

Đã đến lúc Lạc Thanh Lưu hắn phải bước ra ánh sáng chắn gió che mưa thay ông ấy.

Đúng như dự đoán, Từ Tông Hiến đặt tay lên chồng tấu chương trước mặt:

“Trước đây ta từng hỏi ngươi về giao ước mười năm của chúng ta. Nếu đã không định rời đi sau khi giao ước kết thúc, chi bằng sớm chuyển sang Ti Lễ Giám, danh chính ngôn thuận đứng bên cạnh ta, học thêm vài việc mới. Đợi một hai năm ngươi quen việc, tạo chút tiếng tăm, ta sẽ từng bước nâng ngươi lên vị trí Bỉnh bút.”

Lạc Thanh Lưu cúi đầu cung kính, muốn nói “Mọi việc đều theo sắp xếp của Đốc công.” Nhưng lời ấy mắc lại trong cổ họng, chần chừ một lúc, cuối cùng chỉ đáp:

“Vâng.”

Từ Tông Hiến nhìn hắn đầy thâm ý:

“Thanh Lưu, ngươi đang do dự.”

Lạc Thanh Lưu giải thích:

“Thuộc hạ chỉ là…”

Từ Tông Hiến ngắt lời:

“Ngươi vẫn không cam lòng. Vẫn muốn chờ mãn hạn ước mười năm, rồi rời khỏi Thập Nhị Giám, lấy lại tự do?”

“Từ lâu thuộc hạ đã không còn suy nghĩ ấy.”

Lạc Thanh Lưu nghiêm túc nói;

“Trước đây ngài từng so sánh thuộc hạ với Tạ Trấn phủ, rằng cả hai đều bị ép buộc ở lại triều đình. Chắc ngài cũng nhận ra, sau khi trở về từ Điền Nam, Tạ Trấn phủ đã tìm được ý nghĩa của việc làm quan, thuộc hạ cũng vậy… Nếu thiên hạ không yên, thì tự do cũng chỉ là chuyện viển vông.”

Từ Tông Hiến đã nhìn ra thay đổi của Tạ Lãm, nên đương nhiên càng hiểu rõ sự biến chuyển trong lòng Lạc Thanh Lưu:

“Vậy ngươi…”

Lạc Thanh Lưu ngập ngừng:

“Thuộc hạ… thuộc hạ chỉ cảm thấy mình phù hợp với bóng tối hơn.”

Từ Tông Hiến bông đùa:

“Để tiện bề rời cung, trèo tường phủ Trấn Quốc Công sao?”

Lạc Thanh Lưu giật mình, ngẩng đầu lên.

“Trước khi cứu ngươi ra khỏi lao, ta đã biết duyên nợ giữa ngươi và con bé ấy.”

Đây cũng là lý do Từ Tông Hiến chọn cứu hắn rồi dốc sức bồi dưỡng.

Lạc Thanh Lưu có vài phần giống ông.

“Cũng tốt thôi. Cô cháu gái của Tùy Kính Đường ngang ngược từ bé, từng vì giành giật một kép hát mà đánh con trai của Trình Hầu gia suýt chết, khiến lão Tùy bị luận tội tơi bời — ta vẫn còn nhớ rõ chuyện đó. Tiếng tăm như thế thì mãi vẫn không lấy chồng cũng dễ hiểu, sẽ chẳng ai nghi ngờ đến ngươi…”

Lòng bàn tay Lạc Thanh Lưu túa mồ hôi lạnh, hắn vén tà áo, quỳ xuống trước mặt ông:

“Đốc công, thuộc hạ nguyện ý tiến vào Ti Lễ Giám.”

Từ Tông Hiến nhìn hắn:

“Ngươi đang sợ sao? Cho rằng ta dùng con bé để khống chế ngươi?”

Lạc Thanh Lưu cúi đầu:

“Thuộc hạ không dám.”

Từ Tông Hiến nói rất nhẹ nhàng:

“Ngươi muốn tiếp tục ẩn mình trong tối, được, ta không phản đối. Nhưng ngươi phải biết rằng, ngươi không thể ở đó mãi được. Nhiều nhất là năm, sáu năm nữa thôi, khi con trai ta đã đứng vững trong Nội Các, ta sẽ dần rút lui. Nếu ngươi không muốn ngồi vào vị trí này, ta chỉ có thể chọn Lương Thiên. Trước nay hắn vẫn luôn ganh ghét ngươi đấy.”

Lạc Thanh Lưu kinh ngạc:

“Ngài thực sự muốn rút lui sao?”

Trước đây, Đốc công từng nhắc tới chuyện này, rằng nếu ông không rút, sự phát triển của Lý Tự Tu trong Nội Các sẽ bị hạn chế.

Phùng Hiếu An sẽ không làm mưu sĩ cho Lý Tự Tu nữa và thậm chí, phe phái của Phùng Hiếu An còn cản trở y.

Bởi vì Ti Lễ Giám và Nội Các là hai thế lực luôn kiềm chế lẫn nhau, nhằm tạo sự cân bằng. Nếu cha con Từ Tông Hiến cùng nắm giữ vị trí cao trong hai cơ quan này, sự cân bằng sẽ bị phá vỡ. Toàn bộ quyền lực của Đại Ngụy chẳng khác nào nằm gọn trong tay họ. Điều này vô cùng nguy hiểm.

Nhưng khả năng Lý Tự Tu có thể trở thành Thủ phụ Nội Các vẫn chưa chắc chắn. Trong khi đó, Từ Tông Hiến đã là người nắm giữ quyền lực cao nhất của Ti Lễ Giám.

Chỉ để đánh cược vào một khả năng có thể xảy ra với con trai mà ông lại sẵn sàng từ bỏ quyền cao chức trọng—ván cược này, thật sự quá lớn.

Từ Tông Hiến đặt tấu chương trong tay xuống, cười khổ:

“Ngươi không tin đúng không? Cả con trai ta cũng không tin. Cho nên nó vào nội các, chỉ chăm chăm muốn cải cách muối, hoàn toàn không nghĩ đến việc tiến xa hơn…”

Ông ngừng lại, nâng tay bảo Lạc Thanh Lưu đứng dậy rót cho mình một chén trà:

“Nói thật, ta rất khâm phục Phùng Hiếu An. Người này có vẻ yếu đuối trong tình cảm, nhưng chí hướng lại vô cùng kiên định. Dù rơi vào cảnh khốn cùng thế nào, ông ta vẫn luôn lấy thiên hạ làm gốc.”

Những người như vậy, triều đại nào cũng có, nhưng chưa bao giờ là số đông.

Từ Tông Hiến nay đã gần năm mươi, cái tuổi nhìn thấu nhiều chuyện trên thế gian. Ông biết quá rõ rằng, để giữ vững một tín niệm suốt cả đời là chuyện khó khăn đến nhường nào.

Sinh ra trong thời đại đen tối, ông từng mang trong mình bầu nhiệt huyết, mơ ước đề danh bảng vàng, quan cao chức trọng để quét sạch u ám triều cục.

Nhưng từ sau thảm án của thư viện, nếu không phải vì biết Lý Thanh Vãn sinh cho mình một đứa con, ông thậm chí đã từng nghĩ đến việc tự kết liễu đời mình.

Những năm tháng sau đó, ông sống lay lắt trong cung thẳm chỉ vì mong muốn duy nhất là được gặp lại mẹ con họ một lần.

Từ Tông Hiến nhận chén trà Lạc Thanh Lưu đưa tới:

“Đêm Thượng Nguyên hôm ấy, ta đứng bên cửa sổ nhìn Tự Chi bế thánh thượng bước đi giữa đám đông. Trong đầu ta bỗng hiện lên hình ảnh Tự Chi hồi năm sáu tuổi…

Hôm đó là thọ yến của Thái hoàng thái hậu, phu nhân của ta dẫn Tự Chi vào cung. Đó là lần đầu tiên ta nhìn thấy con trai mình, nhưng đáng tiếc nó đã ngủ mất, ta không thể nói với nó một câu nào…”

Từ Tông Hiến mãi mãi không quên được ngày hôm đó. Lý Thanh Vãn bế con trai đến trước mặt ông, lấy cớ bị lạc mất cung nữ, nhờ ông bế hộ một lát.

Khi Từ Tông Hiến ôm lấy con trai, đôi tay ông run rẩy không ngừng.

Sau đó, ông theo Lý Thanh Vãn, cùng đi qua con đường hành lang dài dằng dặc.

Lúc ấy mắt Từ Tông Hiến đỏ hoe, cảm thấy cuối cùng mình đã mãn nguyện, đời này không còn gì hối tiếc, thì Lý Tự Tu đang ngủ trên vai ông chợt nói mớ một câu.

Ông lắng tai thật kỹ, và nghe thấy cậu bé thì thầm: <i>Đường xa tít muôn nẻo gian truân, dẫu lên xuống vẫn phải kiếm tìm*.</i>

<i>*Hai câu thơ trích từ bài Ly Tao<b> </b>của Khuất Nguyên, thể hiện ý chí kiên định, không ngại gian nan, không bỏ cuộc trên con đường tìm kiếm chân lý, lý tưởng, hoặc đạo lý cao cả. Dù con đường phía trước dài đằng đẵng, khó khăn trùng trùng, người nói vẫn sẽ không ngừng nỗ lực và tìm tòi đến cùng.</i>

<i>Ly Tao là tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên, là bài thơ lãng mạn-trữ tình-tự thuật đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ly Tao nổi tiếng đến mức người Trung Quốc về sau coi đó là đại biểu của thơ ca. </i>

“Đường xa tít muôn nẻo gian truân…”

Từ Tông Hiến xoa nhẹ chén trà lẩm nhẩm câu thơ, rồi ngước lên cười với Lạc Thanh Lưu:

“Khoảnh khắc đó, ta nhìn con đường hành lang dài thăm thẳm phía trước, trong lòng lại bừng lên hy vọng. Con trai ta sớm muộn gì cũng sẽ bước vào quan trường. Trên con đường dài đằng đẵng này, nếu ta bế nó tiến thêm một bước dài, tương lai nó sẽ bớt được một bước ngắn…”

Lạc Thanh Lưu lặng lẽ đứng cạnh, lắng nghe câu chuyện của ông, lĩnh ngộ điều ông muốn truyền đạt.

Nếu vài năm nữa Đốc công thực sự rút lui, hắn nhất định phải giành lấy vị trí này. Bằng không, hắn sẽ không còn chỗ đứng trong Thập Nhị Giám.

Hắn có thể chuyển đến Huyền Ảnh Ti theo Tạ Lãm, còn thường xuyên gặp được Tùy Anh, nhưng khi đó những việc hắn có thể làm sẽ giảm đi rất nhiều.

Đặc biệt khi nghĩ đến những cuốn binh pháp trên bàn của Tùy Anh… Ngay cả nàng cũng bắt đầu nghĩ đến việc tiến lên phía trước, thì sao hắn có thể thụt lùi?

Huống hồ, tương lai phủ Trấn Quốc Công còn nhiều trắc trở. Nếu hắn tiến lên thêm một bước dài, Tùy Anh cũng sẽ bớt đi phần gánh nặng.

Đang ngẫm nghĩ, lại nghe Từ Tông Hiến chậm rãi nói:

“Phải rồi, đêm đó, ta còn thấy ngươi đứng dưới Ngư Diệu Lâu, ngẩng đầu nhìn tầng lầu của quán trà nơi phu nhân ta đang ngồi, nhìn rất lâu.”

Lạc Thanh Lưu vội giải thích:

“Thuộc hạ chỉ là…”

“Chỉ là tận mắt chứng kiến ta và phu nhân gặp nhau khó khăn như vậy, trong lòng lo sợ, không muốn liên lụy đến Tùy tiểu thư.”

Từ Tông Hiến đứng dậy. Lạc Thanh Lưu bước tới đỡ ông.

Ông lại vỗ vỗ vai hắn:

“Ngươi nghĩ nhiều rồi. Khó khăn của chúng ta thực ra là vì Tự Chi. Nếu Tự Chi là tên ăn chơi trác táng, dù ta có công khai hắn là con trai mình, ngang nhiên ở bên mẫu thân nó, ai có thể làm gì được ta?”

Thân là thủ lĩnh tàn bạo của hoạn đảng, giẫm lên vô số xác người để lên cao, Từ Tông Hiến vốn đã định sẵn bị người đời nguyền rủa, há còn bận tâm đến thanh danh?

“Nhưng mục tiêu của Tự Chi là Nội Các. Nó không được phép có vết nhơ. Vì thế ta và mẹ nó mới phải cẩn trọng như vậy.”

Lạc Thanh Lưu đã hiểu.

Những năm gần đây, quan hệ cha con giữa Đốc công và Lý Tự Tu khá căng thẳng.

Lý Tự Tu cho rằng Đốc công bị quyền lực làm mờ mắt, xem y như con cờ. Còn Đốc công, dù khéo ăn nói, nhưng hiếm khi biện giải cho mình, hóa ra là để Lý Tự Tu không cảm thấy áy náy.

“Còn ngươi và Tùy tiểu thư không có phiền phức như vậy, ngươi sợ cái gì?”



Lạc Thanh Lưu rời thư phòng của Từ Tông Hiến.

Khi đi lại trong cung, hắn luôn cải trang thành một thái giám cấp thấp không bắt mắt, gặp người liền ngoan ngoãn đứng lại cúi đầu khiêm nhường.

Nhưng đêm nay, vì tâm sự chất chứa, hắn không để ý đến Kim Ngô Vệ đang tuần tra.

Trong đêm tĩnh lặng, sự khác thường của hắn lại càng gây chú ý.

Kim Ngô Vệ thấy bóng dáng hắn khả nghi liền lớn tiếng quát:

“Đứng lại!”

Lạc Thanh Lưu không ngừng bước, cũng không quay đầu, chỉ rút thẻ bài Từ Tông Hiến vừa giao cho, giơ ra phía sau.

“Ti Lễ Giám, Lạc Thanh Lưu.”

Đám Kim Ngô Vệ không biết Lạc Thanh Lưu là ai, nhưng nhận ra kiểu dáng đặc biệt của thẻ bài này, liền đồng loạt cúi rạp người, cung kính tiễn bước.



Tùy Anh trước nay nào chịu nghe lời Lạc Thanh Lưu, vẫn cứ kiên nhẫn viết những mẩu giấy nhỏ hẹn gặp mặt.

Hắn không hồi đáp, cũng không đến.

Dần dà, Tùy Anh thôi không viết nữa, nhưng lại bắt đầu sai người mang những món đồ nho nhỏ đến điểm liên lạc của hắn.

Đa phần là những vật linh tinh nàng tiện tay mua được trong lúc đi chơi.

Thấy không bị trả lại, nàng càng thêm chăm chỉ, đôi khi ăn được món điểm tâm ngon, cũng phải gói hai miếng mang qua.

Chỉ trong mười mấy ngày, trên bàn trong phòng Lạc Thanh Lưu đã chất đầy những món đồ nho nhỏ ấy.

Đêm đến, hắn chống cằm, tay kia lật qua lật lại một món trong mớ quà nhỏ ấy.

Hắn biết mình nên ngăn nàng lại. Bởi nếu cứ tiếp diễn, e rằng điểm liên lạc giấu suốt tám năm chưa từng sơ hở sẽ bị lộ mất.

Nhưng mà… dù người ngoài có nhìn thấy những thứ này, cũng đâu thể ngờ nơi đây là điểm liên lạc cấp cao nhất của Thập Nhị Giám.

Và dù có nguy cơ bại lộ, Lạc Thanh Lưu cũng không đành lòng cắt đứt.

Từng món đồ nho nhỏ nàng gửi đến, tựa như từng khối đá lớn, dần dần lấp đầy hố sâu vô hình trong lòng hắn.

Ý chí vốn đã chẳng kiên định, nay lại càng chao đảo dữ dội.

Cuối cùng, hắn không khống chế nổi bản thân, chạy đến phủ Trấn Quốc Công lần nữa.

Hắn muốn khuyên Tùy Anh, khuyên nàng từ bỏ.

Nếu không, hắn mãi mãi chẳng cách nào dứt lòng.



Đã qua giờ Tý, Tùy Anh bỗng giật mình tỉnh khỏi giấc ngủ chập chờn.

Hình như nàng nghe thấy tiếng chuông đinh đang.

Là cái chuông nhỏ nàng vẫn quen dùng, ban đầu để giám sát Tùy Tư Nguyên học hành, ngăn cậu lén lút bỏ trốn. Hồi ở Đô Ti Điền Nam, nàng cũng dùng nó để trị Lạc Thanh Lưu. Sáng nay nhớ lại chuyện cũ, nàng đã mang chuông qua tặng cho hắn.

Tiếng chuông tuy nhỏ, nhưng vì quá quen thuộc, Tùy Anh nhận ra ngay.

Nàng bước đến cửa sổ, đẩy ra nhìn, lại chẳng thấy ai.

“Thanh Lưu?” Tùy Anh dựa lên bậu cửa nhìn quanh, hạ giọng gọi, “Là huynh sao?”

Không có tiếng đáp lại.

Tùy Anh thôi không ngó nghiêng nữa, tay giữ cửa sổ, nói:

“Ta nghe nói, huynh đã vào Ti Lễ Giám, từ nay không thể tự do như trước, cơ hội chúng ta gặp nhau sẽ càng ít. Giờ huynh còn muốn tránh ta sao?”

Vẫn không có ai trả lời.

Tùy Anh càng buồn bã, tự nhủ chắc mình nghe nhầm thôi.

Vừa định khép cửa lại, thì một bàn tay bất ngờ vươn từ bên trái ra, giữ chặt mép cửa.

Tùy Anh mừng rỡ, muốn mở cửa ra, lại bị hắn đè lại.

Qua lớp giấy cửa, nàng nghe thấy tiếng hắn thở dài:

“Tùy tiểu thư, cô có biết, cô đang tự chuốc khổ không?”

“Ta tự chuốc khổ hồi nào? Huynh đẩy khổ vào miệng ta thì có! Ta nói rồi, ta không để tâm huynh là hoạn quan, cũng chẳng ngại không thể gặp mặt thường xuyên. Ta đâu phải loại nữ nhân suốt ngày nhàn rỗi ngồi trong khuê phòng oán thán…”

Giọng nàng đầy ấm ức:

“Người ta thích cũng thích ta, ta vốn dĩ vui mừng lắm. Vậy mà chẳng hiểu vì cớ gì huynh hết lần này đến lần khác lẩn tránh ta, mở miệng là nói chúng ta không thể, còn quay sang trách ta tự làm khổ mình?”

Lạc Thanh Lưu tựa lưng vào tường, nhắm mắt lại.

Hắn đến để khuyên nàng, vậy mà chỉ vài lời của nàng đã khiến hắn gần mềm lòng.

Hồi lâu sau, hắn mới cất lời:

“Bây giờ cô không để tâm, nhưng ngày tháng lâu dài…”

Tùy Anh ngắt lời hắn:

“Nếu sau này ta để tâm thì ta bỏ huynh là được chứ gì. Ta đi lấy người khác, tìm một người đàn ông bình thường, sống ngọt ngào vui vẻ, sinh con dưỡng cái. Thế thì huynh còn lo cho ta làm gì? Chẳng phải nên tự lo cho mình hơn hay sao?”

Lạc Thanh Lưu: “…”

Được lắm. Nghĩ theo lời nàng, hắn liền thấy không thở nổi.

Lập tức quay người đối diện cửa sổ, kéo phăng mở cửa ra.

Tùy Anh thấy Lạc Thanh Lưu bị nàng chọc tức đến nỗi môi cũng run run, vội vàng giải thích:

“Huynh đừng giận. Thấy huynh cứ mãi không chịu để ý tới ta, ta buồn quá mới hẹn Thẩm Thời Hành đi uống rượu. Mấy lời vừa rồi là hắn dạy ta nói đó.”

Đáng chết, Thẩm Thời Hành! Dám nói mình từng viết về yêu hận tình thù của hoạn quan, còn nghiên cứu suốt nửa năm, tự nhận hiểu rõ tâm tư hoạn quan hơn ai hết.

Còn bảo đảm Lạc Thanh Lưu nghe được lời này, chắc chắn sẽ không né tránh nàng nữa.

Phải rồi, không né nữa… mà muốn chém chết nàng luôn.

Tùy Anh thấy Lạc Thanh Lưu đen mặt không nói gì, sợ hắn giận mà bỏ đi, vội vàng nhoài người ra nắm lấy cánh tay hắn:

“Huynh hiểu ta quá mà, hẳn phải biết ta không phải loại người như vậy.”

Lạc Thanh Lưu bị nàng níu lấy, chẳng hề giãy ra.

Bình tâm lại, hắn nói:

“Ta thật mong cô là loại người như vậy.”

Hắn đã không phải khó xử đến thế.

“Tùy tiểu thư, tâm nguyện bấy lâu nay của ta là mong cô cả đời an nhiên tự tại, muốn gì được nấy.”

Lạc Thanh Lưu nắm lấy cổ tay nàng, gỡ bàn tay nàng khỏi tay mình, cúi đầu, không dám nhìn nàng.

“Ta không muốn tự tay phá hủy tâm nguyện của mình.”

Hắn đã mất đi tự tại, cũng trải qua quá nhiều điều không như ý. Hắn hy vọng Tùy Anh có thể sống trái ngược với mình, thắng được tất cả những thứ hắn đã thua.

Hai người họ, nhất định phải có một người chiến thắng.

Lạc Thanh Lưu vừa quay người, liền bị Tùy Anh kéo lại. Lần này, nàng nắm lấy bàn tay hắn, tha thiết hỏi:

“Nhưng điều ta mong muốn chính là huynh, huynh có bằng lòng thành toàn cho ta không?”

Lạc Thanh Lưu: “…”

Tùy Anh không buông tha:

“Đây chẳng phải tâm nguyện của huynh sao? Huynh nói đi, có bằng lòng hay không?”

“Ta…”

Tê liệt từ bàn tay bị nàng nắm lan ra toàn thân, Lạc Thanh Lưu không cách nào nhúc nhích, cũng chẳng thể thốt ra một chữ “không”.

Hắn lại thở dài.

Biết rõ là sai, nhưng dù hắn cố ép mình nhẫn tâm đến đâu, cũng không thể đẩy nàng ra.

Hắn thực sự không nỡ.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 108: Ngoại truyện 3 – Cuộc sống thường ngày của Thẩm Thời Hành


Sáng sớm, Thẩm Thời Hành còn ngái ngủ đã bị Tùy Anh gọi ra khỏi Huyền Ảnh Ti.

Vừa ngáp ngắn ngáp dài bước tới, chưa kịp chào hỏi, liền thấy Tùy Anh nhảy xuống ngựa, tung cước quét ngang chân sau của hắn.

Tuy nàng không dùng nhiều sức, nhưng Thẩm Thời Hành chẳng có chút võ công nào, loạng choạng ngã chúi về trước mấy bước, suýt nữa thì đập mặt xuống đất.

Tùy Anh đang định mắng hắn, rốt cuộc quay qua mắng chính mình:

“Ta đúng là ngốc, sao lại tin lời ma quỷ của ngươi chứ!”

Thẩm Thời Hành ổn định lại, ngơ ngác hỏi:

“Tùy tiểu thư, cô đang nói gì vậy?”

Nói xong liền nhớ ra, cười cợt bảo:

“A, chắc là Lạc huynh đến tìm cô rồi chứ gì?”

Tùy Anh giận dữ:

“Ngươi còn dám nói mình hiểu rõ hoạn quan nhất! Tối qua Thanh Lưu suýt bị ngươi làm tức chết.”

Thẩm Thời Hành hỏi:

“Vậy sau đó thì sao? Hai người đã làm hòa chưa? Huynh ấy còn muốn tránh cô nữa không?”

“Chuyện này…” Tùy Anh ấp úng.

Thẩm Thời Hành thấy tai nàng ửng đỏ, liền chép miệng:

“Chậc, thấy chưa, thấy chưa!”

Tùy Anh lập tức nghiêm mặt:

“Chẳng liên quan gì đến ngươi hết! Là do ta tự mình giành được.”

“Được được, đều là do cô giỏi.”

Thẩm Thời Hành chẳng buồn tranh cãi với cô nàng nóng nảy này, mỉm cười chắp tay:

“Dù sao cũng chúc mừng cô đạt được ý nguyện.”

Thấy hắn trịnh trọng chúc mừng như vậy, Tùy Anh hơi ngượng ngùng. Nàng kéo dây cương, ra hiệu cho hắn lại gần:

“Nhưng ta thấy huynh ấy vẫn còn do dự, có khi nào vài hôm nữa lại đổi ý không?”

Thẩm Thời Hành xua tay:

“Yên tâm đi, giữa hai người, chỉ có Lạc huynh lo lắng cho cô mà thôi.”

Tùy Anh:

“Vậy thì tốt.”

Nói xong lại thấy không ổn, rõ ràng nàng đến đây để mắng hắn, sao lại thành hỏi ý kiến hắn rồi?

“Ta đi đây.” Tùy Anh nhảy lên ngựa.

“Khoan đã.” Thẩm Thời Hành ngăn cô lại, “Tùy tiểu thư, cô định làm gì tiếp theo? Chuẩn bị cả đời không lấy chồng thật hả?”

“Có vấn đề gì à?” Tùy Anh chưa bao giờ quan tâm đến lời đàm tiếu.

Nếu Lạc Thanh Lưu chỉ là một hoạn quan nhỏ bé, có lẽ nàng còn tự trách một chút. Vì nếu nàng không làm nữ tướng quân được, lại không chịu kết hôn, liệu có quá ích kỷ với gia tộc mình không.

“Ngươi thử nói xem, nếu ta kết hôn, liệu có tìm được ai quyền thế hơn Thanh Lưu không?”

Thẩm Thời Hành nhắc nhở:

“Nhưng cô định giải thích với ông nội mình thế nào? Ông ấy có thật sự yên tâm khi thấy cô cả đời không chồng, không con, chỉ sống với một quyền hoạn mà ngay cả gặp gỡ cũng phải lén lút không?”

Tùy Anh ngẩn ra.

Thẩm Thời Hành tiếp tục:

“Lạc huynh là hoạn quan, lại không phải loại hoạn quan tầm thường. Quan hệ của hai người mà lộ ra, danh vọng tổ tiên nhà họ Tùy tích lũy sẽ tan tành trong chốc lát. Chuyện cô cướp kép hát trước đây so ra chỉ là trò vui nhỏ nhặt. Ông cô liệu có tha thứ không?”

Tùy Anh thực sự chưa từng nghĩ đến điều này. Nếu gia gia biết chuyện, chắc chắn sẽ không đồng ý. Trước đây, ông từng nhắc nhở nàng phải giữ khoảng cách với Lạc Thanh Lưu rồi.

Nàng cúi đầu nhìn Thẩm Thời Hành:

“Vậy sao hồi trước ngươi không nhắc ta? Còn cổ vũ ta nữa?”

Thẩm Thời Hành hỏi:

“Ta nhắc, cô chịu có từ bỏ không?”

Tùy Anh lắc đầu:

“Đương nhiên là không.”

“Thì đó.” Thẩm Thời Hành mỉm cười thần bí, “Thực ra chuyện này rất dễ giải quyết.”

“Ồ?” Hai mắt Tùy Anh sáng lên, hồ hởi cúi xuống nghe.

Thẩm Thời Hành chỉ vào ngực mình:

“Cô lấy ta đi.”

Tùy Anh: “?”

“Cha ta lại bắt đầu lo cưới vợ cho ta, phiền chết đi được. Hai nhà chúng ta môn đăng hộ đối, đúng lúc cô đang cần một lá chắn, chi bằng chọn ta.”

Thẩm Thời Hành nhướn mày:

“Cha ta nhắm tới chức Đại đô đốc. Chẳng phải cô muốn làm nữ tướng quân sao? Làm con dâu Đại đô đốc thì việc này sẽ càng thuận lợi. Hơn nữa, lần trước ở Đô Ti Điền Nam, ông cô cũng khá hài lòng với ta đấy, biết chúng ta thân thiết, chắc sẽ không phản đối chuyện hôn nhân.”

Tùy Anh ngạc nhiên nhìn hắn:

“Vậy sau đó thì sao?”

“Sau đó thì chúng ta là phu thê hữu danh vô thực, không ai can thiệp chuyện của ai.” Thẩm Thời Hành cam đoan, “Cô không cần lo ta nảy sinh ý đồ gì. Không phải ta tự khen mình, chớ với định lực của người đã vẽ mười mấy quyển xuân cung đồ, đến cả hoạn quan cũng phải quỳ gọi ta là đại ca.”

Tùy Anh: “……”

Thẩm Thời Hành tiếp tục liệt kê những lợi ích:

“Hơn nữa, có ta giúp, sau này cô muốn gặp Lạc huynh cũng chẳng phải chuyện khó. Sau khi chúng ta thành thân liền dọn ra ngoài ở riêng, ta còn có thể mời Lạc huynh đến nhà chơi, cô nói xem có tiện hay không?”

Hắn bổ sung:

“Ta có thể giúp hai người canh chừng, không muốn thấy ta thì ta sẽ biến thật xa.”

Khóe miệng Tùy Anh giật giật. Nàng uể oải cúi người xuống, chắp tay tỏ vẻ bội phục.

Thẩm Thời Hành nhìn nàng đầy hi vọng:

“Thế nào hả, Tùy tiểu thư?”

Tùy Anh tò mò hỏi lại:

“Vậy nếu sau này ngươi gặp được cô nương ngươi thật lòng thích thì sao? Lỡ chúng ta chưa kịp hoà ly, mà người ta vì thế không muốn lấy ngươi, ngươi định tính sao? Những điều này ngươi đã nghĩ tới chưa?”

Thẩm Thời Hành không hứng thú với chuyện tình yêu bên ngoài tiểu thuyết:

“Đối phó chuyện trước mắt đã, mấy chuyện cô nói đều chỉ là viển vông.”

Tùy Anh gật gù:

“Ừ, mấy tháng trước ta cũng từng nghĩ như vậy. Nhưng nhân duyên đến lúc nào chẳng ai biết trước, hơn nữa còn đến từ lâu rồi, chỉ là ta không nhận ra thôi.”

Nếu không hiểu được sự nghiêm trọng của chuyện này, e rằng nàng đã động lòng với đề nghị của Thẩm Thời Hành rồi.

Tùy Anh ngồi thẳng người dậy:

“Thay vì bày trò qua mặt, sao không thử nói chuyện thẳng thắn với cha ngươi? Còn chuyện của ta, đợi khi nào Thanh Lưu rảnh rỗi, ta sẽ cùng huynh ấy đi Điền Nam một chuyến.”

Có vấn đề thì cứ đối mặt giải quyết. Nếu gia gia không đồng ý, vậy thì thuyết phục ông. Nếu nàng không thuyết phục được thì để Lạc Thanh Lưu nghĩ cách, đó là việc hắn nên làm.

Nói xong, Tùy Anh vung roi quất ngựa, trở về phủ.

“Haiz.” Thẩm Thời Hành thở dài thất vọng, rồi quay lại Huyền Ảnh Ti.



Thẩm Khâu bận đến quay cuồng, mãi mới rảnh được một tối ngồi ăn cơm với con trai.

Chợt ông nhớ đến Bùi Nghiên Chiêu:

“Lần trước ăn cơm ở nhà, vẫn còn đủ cả ba cha con ta.”

“Dạ phải rồi.” Thẩm Thời Hành xoa tay, “Lúc đó, vừa ngồi xuống là cha bắt đầu nói đại ca không bằng Tạ Trấn phủ, rồi ép đại ca phải đi Đô Ty Liêu Đông rèn luyện. Cha vừa ăn vừa nói, từ đầu đến cuối đại ca còn chẳng động đũa lần nào.”

“Ta toàn nói sự thật.” Thẩm Khâu nghiêm nghị, “Vào quân doanh là lựa chọn đúng đắn. Tề Phong chết đột ngột, ta đến quân phủ, vừa hay đại ca con ở Liêu Đông tích lũy chút công trạng, sau này trở về kinh có thể trực tiếp vào Quân phủ hỗ trợ ta.”

Còn Huyền Ảnh Ti thì để hết cho Tạ Lãm quản lý.

Đây là thỏa thuận ngầm giữa ông và Phùng Hiếu An.

Mặc dù là bằng hữu, nhưng họ cũng đồng thời là mối quan hệ hợp tác, hơn nữa ngay cả anh em ruột còn phải rạch ròi chuyện tiền bạc cơ mà.

Thẩm Thời Hành cầm đũa lên:

“Ý con là, chuyện công việc không thể bàn hết ở Huyền Ảnh Ti sao? Hiếm khi cha về nhà, cả nhà ăn bữa cơm mà vẫn hệt như đang ngồi trong nha môn vậy.”

Thẩm Khâu hiểu con trai có điều bất mãn. Vợ ông mất sớm, gia đình cũng chẳng giàu có, không thể nuôi nổi người hầu, một mình ông vừa làm cha vừa làm mẹ nuôi con khôn lớn.

Trước năm mười tuổi, Thẩm Thời Hành đều ăn ngủ cùng cha, hai cha con vô cùng thân thiết.

Nhưng khi quan vị của Thẩm Khâu thăng tiến, công việc và tiệc tùng ngày càng nhiều, thời gian ông dành cho con trai ngày càng ít, phần lớn đều giao cho gia nhân chăm sóc.

Thẩm Khâu thấy áy náy, hạ giọng ôn hòa:

“Không nói chuyện công việc nữa. Chúng ta nói về chuyện hôn nhân của con đi. Cha chọn người nào con cũng không vừa ý, vậy gần đây có thích ai không?”

Thẩm Thời Hành đau đầu:

“Cha ơi, bây giờ con thực sự không muốn thành thân, việc đó làm chậm trễ sự nghiệp của con.”

Thẩm Khâu còn đau đầu hơn:

“Con gọi đó là sự nghiệp hả?”

Suốt ngày viết tiểu thuyết, vẽ xuân cung đồ. Lỡ ngày nào đó thân phận “Tiêu Dao Sinh” bị lộ ra chính là con trai ông, chắc chắn ông sẽ trở thành trò cười trong triều.

Họ Thẩm của ông mấy đời đều làm võ quan, vậy mà lại sinh ra một đứa từ nhỏ không thích võ nghệ, chỉ thích đọc sách. Ban đầu ông cứ tưởng được tổ tiên nhà mình phù hộ.

Hóa ra là tổ tiên tức đến mức bốc khói.

Biết rằng không thể trông chờ gì vào hắn, Thẩm Khâu mới vội vàng muốn hắn mau mau cưới vợ sinh con, xem thế hệ sau có thể khá hơn không.

Thế nên vào đầu năm, bất chấp sự phản đối của hắn, ông đã định ra hôn sự. Vậy mà tân nương lại bị tình nhân sát hại…

Thẩm Khâu không còn mặt mũi tự ý sắp đặt lần nữa, đành lảng sang chuyện khác mà cảm thán:

“Giờ đại ca của con cũng đã đi Liêu Đông, nhà mình ăn cơm thật quạnh quẽ. Nếu như có thêm…”

Thẩm Thời Hành lập tức tiếp lời:

“Đúng thế! Ngay cả cha cũng suốt ngày ở nha môn, con một mình ở nhà ăn cơm mà lúc nào cũng nghĩ, giá như có một đứa em trai hay em gái chơi cùng thì tốt biết bao. Cha, hay là cha tái giá đi, sinh thêm vài đứa em làm bạn với con?”

Thẩm Khâu bị nghẹn đến suýt sặc, lửa giận bốc lên, muốn lật bàn ngay lập tức.

Không được giận, không được giận. Ông là quan to nhất phẩm, không thể nổi giận bừa bãi.

Thẩm Khâu hít sâu một hơi, nghiêm giọng:

“Nói vậy mà không sợ mẹ con nửa đêm về mắng trong mơ hả?”

Thẩm Thời Hành tất nhiên không sợ, vì hắn biết chắc chắn cha mình sẽ không tái giá.

Không phải vì tình cảm cha mẹ hắn sâu đậm, mà bởi vì mẹ hắn từ khi theo cha chưa từng có ngày sung sướng. Khổ sở gả vào nhà, rồi lại khổ cực mà qua đời.

Cha hắn giờ đã là người đứng trên người khác, chuyện đó trở thành nỗi tiếc nuối lớn nhất trong lòng ông, như một chiếc gai chạm vào là đau.

Thẩm Thời Hành thở dài:

“Thật ra cái sự quạnh quẽ này, gốc rễ không nằm ở việc nhà có bao nhiêu người.”

Thẩm Khâu vừa định nói, thì Thẩm Thời Hành đã búng tay một cái.

Người hầu bước tới:

“Thiếu gia, mọi thứ đã chuẩn bị xong.”

Thẩm Thời Hành đứng dậy:

“Cha, chúng ta đi thôi.”

Thẩm Khâu nghi hoặc đứng lên, đi theo con trai qua hành lang quanh co, tới một gian phòng chứa đồ nhỏ.

Trong phòng bày một chiếc bàn nhỏ, trên đó có các món ăn giống hệt trong đại sảnh, chỉ là bàn nhỏ hơn nhiều, chén bát chồng chất chen chúc trên bàn.

Thẩm Thời Hành ngồi xuống, vẫy tay ra cho cha hắn cũng tới ngồi.

Phòng chứa đồ nhỏ hẹp đến mức ngoài hai cha con, người hầu không còn chỗ đặt chân, đành đứng ngoài cửa.

Thẩm Thời Hành lại cầm đũa lên:

“Cha à, sở dĩ cha cảm thấy quạnh quẽ là vì đại sảnh nhà mình quá rộng, bàn ăn cũng quá lớn. Giờ thì có phải tốt hơn nhiều không?”

Lâu lắm rồi Thẩm Khâu không phải chịu cảnh tù túng như thế này. Hai cha con ngồi sát nhau, đến chân cũng chẳng duỗi thẳng được. Nhưng đúng là hình như không còn quạnh quẽ nữa, lòng chợt cảm thấy ấm áp tràn đầy.

Hơn nữa, khung cảnh tồi tàn này lại khiến ông nhớ về những tháng ngày cơ cực khi xưa, càng nghĩ càng thấy có lỗi với người vợ quá cố.

Quan nhất phẩm thì có gì đáng tự hào, những gì đã mất mãi mãi không thể lấy lại được.

Suy nghĩ trôi xa rồi quay trở lại, ánh mắt Thẩm Khâu nhìn con trai tràn đầy yêu thương.

Thôi vậy, cưới hay không cưới, sự nghiệp hay không sự nghiệp, cứ để nó tự quyết định. Chỉ cần khỏe mạnh và bình an là được.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 109: Ngoại truyện 4 – Tùy Anh x Lạc Thanh Lưu (thêm)


Từ khi được Thẩm Thời Hành nhắc nhở, mấy ngày nay Tuỳ Anh vẫn luôn trăn trở chuyện phải thuyết phục ông nội thế nào cho ổn thỏa.

Nàng nghĩ, trước khi trực tiếp gặp mặt, chi bằng viết một phong thư, nói đôi câu ẩn ý bóng gió giúp ông chuẩn bị tâm lý trước.

Thế nhưng khi trải giấy ra, Tuỳ Anh lại nhức đầu, chẳng biết nên viết gì cho phải.

Đôi khi nàng cũng nghĩ, nếu Lạc Thanh Lưu chỉ là một nam tử bình thường, chẳng phải hoạn quan, thì tốt biết bao. Hoặc giả nàng không phải là đích nữ phủ Trấn Quốc Công, chỉ là một cô gái bình thường nơi phố chợ, như vậy cũng không tệ.

Nhưng sự đời vốn chẳng chiều lòng người, những điều chẳng thể đổi thay thì nghĩ nhiều cũng vô ích.

Tất nhiên, câu “ta không để tâm” nàng nói với Lạc Thanh Lưu trước kia không phải lời nói suông. Dù sao, xưa nay nàng vẫn luôn cảm thấy mình có khi sẽ không gả được cho ai.

Phủ Trấn Quốc Công vì cớ gì lại ít con cháu? Cũng bởi mấy đời đều sinh ra những kẻ si tình.

Đặc biệt là cha nàng, mẹ nàng vừa mất chưa được bao lâu, ông cũng lâm bệnh mà đi theo. Có người cha như vậy, Tuỳ Anh thật chẳng thể giống biểu tỷ, vui vẻ chấp nhận chuyện phu quân có thêm vài vị thiếp thất.

Mà trong đám công tử con nhà quyền quý môn đăng hộ đối với nhà nàng, quả thực chưa thấy ai ra hồn. Đến cả Tề Chiêm Văn, người được coi là “đỡ tệ”, cũng chỉ ở mức đó thôi.

Còn chuyện sinh con đẻ cái, lại càng không muốn nghĩ đến. Mẹ nàng mất vì khó sinh, từ đó để lại trong lòng nàng nỗi sợ hãi sâu sắc.

Huống chi, nàng đâu phải chưa từng nuôi dạy trẻ con — Tuỳ Tư Nguyên chính là do nàng, một tay tỷ tỷ này nuôi lớn.

Từ lúc Tư Nguyên bập bẹ biết nói, tiếng gọi nhiều nhất chính là “A tỷ”.

Nàng nghe nhiều nhất, cũng là “A tỷ, A tỷ, A tỷ”…

Từ nhỏ đến lớn, chuyện ăn uống ngủ nghỉ của Tư Nguyên là do nàng lo liệu, khi bệnh tật là nàng canh bên, việc học hành là nàng quản thúc…

Nghĩ tới đây, thật lòng nàng chẳng muốn nuôi thêm đứa thứ hai.

Nếu đem hết những điều này nói cho gia gia nghe, chẳng biết ông có hiểu hay không? Có thể yên lòng mà chấp nhận được không?

Tuỳ Anh đang ngẩn người cắn đầu bút lông, bỗng tiếng chuông leng keng vang lên khe khẽ, kéo nàng trở về thực tại.

Nàng vội đứng dậy bước đến bên cửa sổ. Dạo này, cứ đến đúng giờ Tuất, nàng sẽ đuổi hết nha hoàn và thị vệ ra ngoài.

Nhưng kể từ lúc được điều sang Ti Lễ Giám, công việc của Lạc Thanh Lưu chất chồng như núi. Từ sau lần nàng giữ chân được hắn, suốt mười mấy ngày qua, nàng chỉ gặp được hắn vỏn vẹn hai lần.

Cửa sổ mở ra, vừa khéo bóng dáng hắn xuất hiện nơi khung cửa.

Mấy lần gặp nhau, lần nào cũng vậy, ánh mắt đầu tiên khi trông thấy nàng, hắn cứ như tên trộm bị bắt quả tang, theo bản năng muốn lảng tránh đi. Cần cố gắng một hồi, hắn mới dám đối diện ánh mắt nàng, từ từ tiến đến gần.

Không chờ nàng lên tiếng, Lạc Thanh Lưu đặt một chiếc bình sứ nhỏ trên bệ cửa sổ, ngay giữa hai người.

Tùy Anh lập tức bị thu hút, cúi đầu cầm lên: “Cái gì đây?”

“Kim sang dược.” Lạc Thanh Lưu chống tay lên bệ cửa, thừa lúc nàng đang chăm chú nhìn chiếc bình, lẳng lặng ngắm nàng không chớp mắt, “Ta nhờ người tìm mua loại tốt nhất, hôm nay vừa được chuyển về kinh nên mang đến cho nàng.”

Tính nàng bồng bột, tuy không đến mức trọng thương, nhưng va vấp trầy xước thì chẳng thiếu.

Tùy Anh liền nhớ ra:

“Là mấy lọ thuốc trị thương huynh hứa bồi thường cho Tạ Trấn phủ?”

“Ừ.”

“Kinh thành không mua được sao? Còn phải ra ngoài tìm?”

Hắn cười khẽ:

“Loại thuốc Tạ Trấn phủ dùng quý giá lắm, các tiệm thuốc không dễ gì có được. Thái y viện thì có, nhưng thuộc hàng trân phẩm, cần Thái y lệnh cho phép mới được lấy dùng.”

Từ sau khi rời khỏi Điền Nam, hắn đã sai người trong giang hồ thu mua khắp nơi, phải ba tháng mới gom được mười mấy lọ.

Tùy Anh tung tung chiếc lọ nhỏ trong tay:

“Chắc đắt lắm?”

Lạc Thanh Lưu nhẩm tính:

“Tính trung bình, cỡ hai ngàn lượng.”

Tùy Anh nghĩ bụng: đã là thượng phẩm, mười mấy lọ hết hai ngàn lượng, tức là mỗi lọ khoảng hai trăm lượng, cũng không quá đắt.

Nhưng đến khi ngẫm ra ba chữ “tính trung bình”, nàng trợn tròn mắt:

“Một lọ hai ngàn lượng?”

Thấy hắn gật đầu, Tùy Anh xuýt xoa, mười mấy bình là hơn hai vạn lượng. Dù nàng xưa nay tiêu tiền như nước nhưng nghe con số ấy cũng không khỏi giật mình.

Nàng cảm thán:

“Xem ra bổng lộc của Thập Nhị Giám không tầm thường.”

“Tiền ta dùng là tiền nhà.” Lạc Thanh Lưu đáp.

Hắn đúng là nhận được không ít thưởng từ Từ Đốc công, nhưng chưa từng động vào, vì cũng chẳng cần dùng đến.

“Tiền nhà huynh?” Tùy Anh ngó hắn, quen biết đã lâu mà chưa từng nghe hắn nhắc đến gia đình.

Chỉ biết loáng thoáng rằng nhà hắn đã không còn thân nhân, nên không dám hỏi nhiều.

Lạc Thanh Lưu nhất thời không biết nói chuyện gì với nàng, thuận miệng kể:

“Tổ tiên nhà ta theo nghề chế tạo cơ quan, ngày xưa chuyên xây dựng lăng mộ cho các vương hầu quý tộc.”

Chẳng biết bắt đầu từ đời nào, tổ tiên sinh lòng căm phẫn đám quyền quý, quay sang làm đạo mộ, chuyên trộm mộ của những kẻ họ từng phục vụ.

“Sau này cũng chuyển sang làm một số nghề khác… Nhưng tổ tiên có quy tắc: của cải trộm được, một nửa đem cúng thiện đường, một nửa để lại dùng. Làm đạo tặc phải kín đáo, của cải nhiều đến mấy cũng chẳng tiêu hết, đều chôn dưới tổ trạch.”

Mà nghề tổ truyền thì chẳng thể bỏ, đời này nối tiếp đời kia, tích lũy dần dần càng lúc càng nhiều.

Hắn vừa kể đến đây, Tùy Anh tò mò hỏi:

“Thanh Lưu, gia tộc huynh giàu có như vậy, tại sao lại đưa huynh vào cung?”

Lạc Thanh Lưu lập tức đờ người, sắc mặt trong thoáng chốc đổi qua đổi lại.

Tùy Anh nhíu mày, ánh mắt đầy nghi hoặc:

“Khi ta chín tuổi bị ngã xuống nước, huynh đã ở trong cung rồi. Huynh nhập cung từ bao giờ?”

Trừ con cái nhà quan bị tội liên luỵ mà bị đưa vào cung, thông thường chỉ có trẻ mồ côi hoặc con nhà nghèo khó mới bị bán vào đấy.

Nàng biết hắn từng là trộm nên nghĩ hẳn gia cảnh phải nghèo túng. Nhưng nghe hắn kể chuyện gia tộc, gọi hắn là công tử thế gia cũng chẳng quá lời.

“Võ công của huynh của là gia truyền sao? Ta cứ tưởng huynh học trong Thập Nhị Giám.”

Ánh mắt nàng chuyển từ khuôn mặt căng thẳng của hắn xuống đôi tay đặt trên bệ cửa.

Hắn có đôi bàn tay tuyệt đẹp, ngón tay thon dài, cực kỳ linh hoạt. Những ngón tay ấy từng kẹp lưỡi dao mỏng, giết người nhanh gọn trong chớp mắt.

Nhưng lúc này, ngón tay ấy lại hơi run, rồi nhanh chóng giấu tay ra sau lưng.

Tùy Anh nhận ra mình hỏi quá đường đột, vội nói:

“Huynh không muốn nói cũng không sao, ta chỉ tò mò thôi mà.”

Chủ yếu là thấy lạ nên buột miệng, quên mất chuyện ấy có thể khiến hắn khó xử.

“Ta…” Lạc Thanh Lưu thầm than, đúng là lắm lời thì dễ lộ sơ hở. Muốn giấu nhẹm đi, lại sợ nàng suy diễn lung tung.

Đành bịa bừa:

“Là năm ta mười hai tuổi, đại bá của ta lẻn vào hoàng cung trộm bảo vật, nhất định kéo ta theo xem cho biết. Ai ngờ bị Thập Nhị Giám phát hiện, ông ấy chạy thoát, còn ta thì bị bỏ lại…”

Xin lỗi đại bá.

“Ta bị Tào Tung nhốt vào tử lao của Thập Nhị Giám, hai năm sau mới được thả. Trùng hợp sao, vừa ra không bao lâu liền gặp nàng rơi xuống nước…”

“Thì ra là vậy.” Tùy Anh nghe xong, trong lòng ngổn ngang.

So với cảnh ngộ nghèo đói bị đưa vào cung, câu chuyện hắn kể không mấy khác biệt, nên nàng chẳng quá xúc động.

Gió xuân lùa qua hành lang, theo cửa sổ mở rộng mà ùa vào, khiến nàng bất giác rùng mình.

Tuy đã vào đầu xuân, cũng không còn lạnh mấy, nhưng nàng không hiểu vì sao hắn cứ phải đứng bên ngoài cửa sổ mà nói chuyện, chẳng có lấy chút ý định vào phòng.

Nếu nàng chủ động mời hắn vào, hắn sẽ giục nàng đi nghỉ, rồi lại bảo còn bận việc mà vội vã quay về cung.

Nhưng nếu như cứ đứng ngoài cửa sổ thế này, hắn lại có thể ở lại trò chuyện với nàng suốt đêm.

Tựa như giữa hai người phải có một rào cản nào đó, hắn mới có thể ở bên nàng, bằng không, hắn sẽ trở nên lúng túng, mất tự nhiên.

Nếu là vì ngượng ngùng, Tùy Anh chắc đã trèo luôn ra ngoài, lôi hắn vào phòng cho rồi. Nhưng nàng biết không phải vậy. Ánh mắt né tránh của hắn khi đối diện nàng, nàng từng bắt gặp ở những người khác.

Trong những kép hát, thanh quan từng được nàng cứu, có người vì tự thấy thân phận thấp kém, khi đối diện với đại tiểu thư phủ Trấn Quốc Công cũng thường lộ ra biểu cảm tương tự.

Chỉ là, nàng không hiểu vì sao Lạc Thanh Lưu lại như thế.

Hắn từng làm Thiếu giám suốt tám năm, giờ đây bước ra ánh sáng. Tuy chưa có chức quan tại Ti Lễ Giám, nhưng đi đâu Từ Tông Hiến cũng đưa hắn theo, tấu chương dâng lên đều qua tay hắn duyệt trước. Triều thần tinh ý đã bắt đầu dò xét và muốn lôi kéo hắn.

Tại sao lại thiếu tự tin đến vậy?

Tùy Anh thật sự không tài nào hiểu nổi, cũng không dám hành động tùy tiện, còn nghĩ phải tìm thời gian hỏi ý kiến của Thẩm Thời Hành.

Nàng thở dài.

Tùy Anh bắt đầu tin rằng trên đời này thật sự có chuyện “vật này khắc vật kia”.

Nàng làm gì cũng thích đơn giản, thẳng thắn, thế mà lại phải lòng một người rối ren lắt léo đến vậy.

Đến nỗi lòng dạ nàng cũng theo đó mà rối rắm hơn trước…



Sau khi Lạc Thanh Lưu rời đi, thấy trời đã gần sáng, Tùy Anh không đi ngủ mà tiếp tục viết thư.

Nàng nhất định phải viết bức thư này, bởi nếu không thuyết phục gia gia trước, với tình trạng do dự hiện tại của Lạc Thanh Lưu, chỉ cần gia gia mắng vài câu hắn chắc chắn sẽ bỏ cuộc ngay.

Lo sợ thư rơi vào tay người khác, nàng không viết tên Lạc Thanh Lưu trong thư, dù sao gia gia cũng biết rõ người đó là ai.

Viết xong, trời đã sáng rõ. Tùy Anh lập tức thả chim bồ câu mang thư đi, sau đó mới về phòng ngủ bù.

Vài ngày sau, nàng nhận được hồi âm từ Đô Ti Điền Nam.

Khi xé thư, lòng Tùy Anh thấp thỏm không yên, hai tay giữ thư cách xa người, chỉ dám hé một mắt nhìn vào.

Không ngờ gia gia chẳng hề nổi giận như nàng tưởng, trên tờ giấy chỉ viết vỏn vẹn hai câu:

<i>“A Anh, đây không phải việc nhỏ. Có nhiều cách để báo đáp ân tình, đã nhiều năm cậu ấy không nhắc tới cũng là vì không muốn ép buộc con, hãy suy nghĩ thật kỹ.”</i>

Tùy Anh đọc đi đọc lại nhiều lần, xác nhận đúng là nét chữ và giọng điệu của gia gia, lòng không khỏi kinh ngạc.

Theo cách nói của gia gia trong thư, ông không hề bất ngờ khi biết nàng lựa chọn Lạc Thanh Lưu, cũng không phản đối gay gắt mà chỉ hơi bất đắc dĩ?

Lạc Thanh Lưu từng cứu mạng nàng, ân tình này có lẽ khiến gia gia nghĩ rằng nàng muốn lấy thân báo đáp.

Nhưng trở thành tình nhân lén lút với một quyền hoạn, lại còn đánh cược danh dự của cả phủ Trấn Quốc Công, gia gia không cảm thấy cách báo ân như vậy là đi quá xa sao?

Dù nghĩ thế nào, thái độ của gia gia vẫn không hợp lý.

Tùy Anh ép bản thân phải bình tĩnh, thử sắp xếp lại mọi chuyện từ đầu.

Từ lần đầu tiên nàng gặp Lạc Thanh Lưu ở trước phủ Hành Vương, cho đến mấy hôm trước hắn kể chuyện cũ cho nàng nghe…

Bất chợt, tay nàng siết chặt, lá thư trong tay bị vò thành một nắm.

Có khi nào… Lạc Thanh Lưu đang lừa nàng không?

Chẳng có đại bá nào bỏ rơi hắn hết?

Mười năm trước, hắn vốn dĩ vào cung trộm báu vật, vì cứu nàng mà bị Tào Tung bắt giữ, chịu tra tấn suốt hai năm?

Tùy Anh không dám tin.

Nàng lập tức rút ra một tờ giấy trắng, viết hồi âm cho gia gia. Bàn tay phải cầm bút run rẩy, nàng phải dùng tay trái nắm chặt cổ tay phải để giữ ổn định.

Khác với lá thư dài dòng trước đó, lần này nàng viết ngắn gọn, chỉ để xác nhận suy đoán của mình. Thư nói rằng, dù Lạc Thanh Lưu trở thành hoạn quan vì cứu nàng, nhưng nàng chọn hắn không phải để báo ân, mà vì thật lòng yêu hắn.

Viết xong, nàng lập tức thả chim bồ câu.

Những ngày chờ hồi âm, Tùy Anh không biết bản thân đã vượt qua như thế nào.

Vài ngày sau, nàng nhận được thư đáp.

Dù lòng có muôn lời muốn khuyên răn, Tùy Kính Đường thực sự không biết mở lời thế nào. Trong thư ông chỉ miễn cưỡng viết vài chữ:

<i>“Nếu có thể an lòng, thì tùy con.”</i>

Lời này như đóng đinh vào lòng nàng, mọi hy vọng mong manh trong mấy ngày qua đều tan biến.

Nàng ngồi phịch xuống ghế, ban đầu là ngơ ngẩn, sau đó nghĩ đến ánh mắt né tránh của hắn trước đó, nàng cảm giác như có từng lưỡi dao nhọn đâm vào tim mình.



Lạc Thanh Lưu đang ngồi trong Ti Lễ Giám duyệt tấu chương. Hiện tại, mọi bản tấu dâng lên đều phải qua tay hắn trước, sau đó mới chọn lọc những việc quan trọng để trình lên Đốc công.

Hắn không cảm thấy công việc này nhàm chán, bởi trước đây hắn cũng từng xem qua không ít tình báo từ các nơi gửi về, chất chồng nhiều gấp bội so với số tấu chương này.

Chỉ khác là, tình báo thường được viết ngắn gọn, dễ hiểu. Còn tấu chương thì trông có vẻ ngay ngắn, nhưng thực chất lại ẩn chứa đầy mưu mô đấu đá.

Lạc Thanh Lưu đã ngồi xem liên tục hai canh giờ, cảm thấy hơi mệt, liền vươn vai một chút.

Tấm áo choàng trên người trượt xuống, hoạn quan hầu cạnh lập tức khom người bước tới, chỉnh lại áo cho hắn.

“Thiếu giám.”

Vừa nhận chén trà tỉnh thần từ tay người hầu, bên ngoài điện có người vào bẩm báo, đưa lên một mẩu giấy nhỏ.

Lạc Thanh Lưu mở ra xem, là Tùy Anh hẹn gặp hắn tối nay.

Kể từ đêm bị nàng kéo tay giữ lại, nàng chưa từng gửi giấy nhắn nữa.

Lạc Thanh Lưu cất giấy đi, đoán rằng nàng có chuyện muốn nói.

Nhưng khi tiếp tục xem tấu chương, tâm trí hắn bắt đầu xao nhãng. Chợt nhận thấy điều bất thường, vội rút tờ giấy đã cất trong tay áo ra xem lại.

Phát hiện trên giấy có dấu vết từng bị nước làm ướt, rồi khô lại nhăn nheo.

Lạc Thanh Lưu đứng ngay dậy:

“Nếu Đốc công tìm, cứ nói ta có việc gấp ra ngoài cung.”

“Dạ.”



Lúc này trời mới chập tối, chưa phải thời điểm thuận tiện để ra ngoài, nhưng Lạc Thanh Lưu chẳng còn tâm trí để ý đến chuyện cải trang. Hắn chỉ quấn chặt áo choàng che bộ quan phục nổi bật của Ti Lễ Giám rồi nhanh chóng rời cung.

Tùy Anh ở trong phòng, nhưng trong sân không có ai. Hắn nhảy khỏi mái nhà, đáp xuống ngay bên ngoài cửa sổ.

Hắn luôn mang theo người chuỗi chuông nhỏ nàng tặng, lần nào nàng cũng nghe thấy và ra mở cửa sổ trước.

Nhưng lần này không.

Hắn tự tay mở cửa sổ, nhìn thấy nàng nằm úp mặt trên bàn, gối đầu lên tay.

“Tùy… A Anh?” Lạc Thanh Lưu gọi nhỏ.

Tùy Anh không có phản ứng.

Nếu không phải có mẩu giấy hẹn kia, Lạc Thanh Lưu chắc sẽ nghĩ nàng đang ngủ.

Hắn nhảy qua bậu cửa sổ vào phòng.

Nhưng ngay khoảnh khắc vượt qua khung cửa, trong đầu lóe lên một sự giằng xé, như thể mình vừa vượt qua một ranh giới không nên vượt, tiến gần thêm một bước tới vực sâu.

“A Anh?” Hắn bước đến bên nàng, nhẹ nhàng đặt tay lên vai, lay khẽ.

Một lúc lâu sau, Tùy Anh mới từ từ ngẩng đầu lên, ngước nhìn hắn.

Hai mắt nàng sưng húp vì khóc. Trái tim Lạc Thanh Lưu thắt lại, còn chưa kịp đọc hiểu ánh mắt nàng, đã bị nàng nhào đến ôm chầm lấy.

Lạc Thanh Lưu không kịp đề phòng, suýt nữa bị nàng làm ngã, vội giữ thăng bằng, đồng thời theo phản xạ giơ hai tay lên cao, không dám chạm vào nàng.

Tùy Anh ôm hắn thật chặt, mặt vùi vào ngực hắn, khe khẽ thút thít vài tiếng.

Cảm giác bất an trong lòng Lạc Thanh Lưu bị tiếng nghẹn ngào của nàng xua tan. Bàn tay hắn ngập ngừng chốc lát rồi đặt lên lưng nàng, sau đó không kìm được mà ôm nàng chặt hơn.

“Sao vậy? Có ai bắt nạt nàng ư?”

Tùy Anh lắc đầu, giọng khàn đi:

“Vài ngày trước ta viết thư hỏi gia gia về binh thư. Hôm nay nhận được hồi âm, nghĩ đến sức khỏe của ông nên lòng bỗng thấy khó chịu…”

Tùy Anh không nói thật, cũng không định nói thật.

Vừa rồi nàng đã suy nghĩ rất lâu và quyết định tạm thời giả vờ như không biết gì.

Trước đây, nàng luôn khẳng định rằng mình hoàn toàn không để tâm đến việc hắn là hoạn quan. Nếu giờ lại tỏ ra quá đau buồn trước mặt hắn, chẳng phải sẽ giống như thực ra nàng vẫn rất để tâm hay sao?

Vốn dĩ nàng không hề quan tâm, và nỗi buồn này cũng chẳng liên quan gì đến chuyện đó.

Nhưng hắn quá nhạy cảm, nàng sợ sẽ không giải thích được rõ ràng. Vẫn nên chờ đến khi giữ được hắn thật chắc trong lòng bàn tay rồi hãy nói.

Nghĩ đến đây, nàng vùi mặt vào ngực hắn, lại bật cười ngốc nghếch.

Tùy tiểu thư gần đây thỉnh thoảng cũng thấy khó hiểu về chính mình. Nàng vốn chẳng phải khuê nữ sống nơi khuê phòng, còn từng tiếp xúc với không ít nam tử xuất sắc, tại sao cuối cùng lại “ngã” vào tay một hoạn quan – đối tượng mà trước đây nàng ghét nhất?

Song nàng lại vô cùng tự hào về con mắt chọn người của mình. Nhìn xem, nàng đã yêu một người đàn ông tuyệt vời biết bao nhiêu.


 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 110: Ngoại truyện 5 – Bùi Nghiên Chiêu


(Sáu năm trước.)

Kỳ khảo hạch và chiêu mộ ba năm một lần của Huyền Ảnh Ti luôn là sự kiện lớn trong kinh thành.

Khác với các kỳ thi võ cử khép kín, khảo võ của Huyền Ảnh Ti được tổ chức tại lòng chảo giữa Tiểu Hoàn Sơn, không hạn chế thân phận người đến xem. Vì vậy, từ sáng sớm, Tiểu Hoàn Sơn đã có không ít người tụ tập, bàn luận sôi nổi về những thí sinh trong võ trường.

Bùi Nghiên Chiêu lúc này đang thu mình ở góc võ trường. Thỉnh thoảng vài ánh mắt tò mò liếc nhìn về phía y, phần lớn đều vì ngoại hình nổi bật.

Bởi trong số các thí sinh, chỉ mình y là vô danh tiểu tốt.

Từ khi rời khỏi Phùng phủ, tuy đã làm việc cho Huyền Ảnh Ti, nhưng vì tuổi còn nhỏ, chức quan thấp, lại cố tình che giấu thực lực, nên trong kinh thành chẳng mấy ai biết đến y.

Ngoại trừ một người đứng trong đám đông – Phùng Gia Ấu.

Bùi Nghiên Chiêu luôn ép bản thân không nhìn lên núi, nhưng y biết Phùng Gia Ấu chắc chắn có mặt.

Trong tâm trí, y có thể mường tượng rõ ánh mắt nàng nhìn mình, đầy chất vấn, kỳ vọng, xen lẫn sự tủi thân và oán trách.

Y không muốn nhìn, cũng không dám nhìn, sợ rằng lý trí của mình sẽ sụp đổ dưới ánh mắt đó. Y chỉ có thể cúi đầu một chút, ép mình bình tĩnh, tập trung vào khảo hạch sắp tới, nhất định không được làm mất mặt nghĩa phụ.

Hôm nay, y phải làm nên tên tuổi, phải lấy thân phận một thiếu niên mười sáu tuổi mà đoạt lấy chức Thiên hộ của Huyền Ảnh Ti. Chính thức bước vào chốn quan trường, mở ra một cuộc đời mới.

Cũng là để chuộc tội cho cha mình.

Thực ra, hộ tịch của y là giả. Sau khi được Thẩm Khâu cứu về, y đã được sửa tuổi nhỏ đi.

Tuy nhiên trên thực tế, y cũng chỉ mới mười bảy. Tuổi còn nhỏ, nhưng đã trải qua nhiều bước ngoặt sinh tử.

Lần đầu tiên là năm bốn tuổi, cha y bị kết tội trong vụ án kho lương Điền Trung.

Từ một công tử quyền quý sinh ra trong nhung lụa, chỉ trong một đêm y trở thành tội đồ bị giam cầm. Chính Thẩm Khâu bất chấp khói lửa chiến loạn, vượt đường xa đưa y về kinh thành.

Lần thứ hai là khi y bảy tuổi, đang đi học thì nhận được một lá thư nặc danh.

Trong thư nói rằng, nhà họ Bùi vốn dĩ có thể tránh được kiếp nạn, tất cả đều do Phùng Hiếu An mật báo với Ngự Sử Đài chuyện cha y từng làm mất lệnh bài, nên Lục Ngự sử mới đứng ra buộc tội.

Bùi Nghiên Chiêu chưa kịp oán hận, thì thư lại kể thêm: cha y – Bùi Trác Chính – không hoàn toàn bị oan.

Ban đầu, Bùi Trác Chính, với tư cách là thủ lĩnh của Hội Đồng Minh, chỉ muốn gây quỹ để hỗ trợ tổ chức.

Dưới sự dẫn dắt của “người viết thư”, ông cấu kết với các thương nhân buôn muối lớn cùng quan viên Hộ Bộ, lợi dụng kẽ hở trong chính sách muối. Kết quả dẫn đến lượng lương thực nhập vào kho Điền Trung ít hơn con số báo cáo thực tế.

Trong suy nghĩ của Bùi Trác Chính, Nam Cương đã an phận gần trăm năm, xác suất xảy ra chiến tranh quy mô lớn là rất thấp.

Thiếu hụt một ít lương thực không đáng kể, nhưng lại có thể thu được lợi nhuận lớn từ thương nhân buôn muối, từ đó giúp Hội Đồng Minh làm nhiều việc tốt cho bá tánh.

Nhưng đã có lần đầu, thì sẽ có lần hai, lần ba…

Khối tài sản trong tay Bùi Trác Chính nhanh chóng phình to, khiến ông dần lạc lối. E sợ Phùng Hiếu An và những người khác phát hiện ra manh mối rồi khó bề giải thích, ông bắt đầu xa cách họ.

Đến khi Bùi Trác Chính nhận ra mình đã đi sai từ đầu, muốn hối cải và bù đắp thì đã quá muộn.

Nam Cương Vương bất ngờ dấy binh tiến về phía Bắc, quân Đại Ngụy nhanh chóng bại trận, kho lương Điền Trung bị phơi bày trước thiên hạ.

Bùi Trác Chính biết mình có tội, cũng sẵn sàng lấy cái chết để chuộc tội.

Nhưng đây là tội danh tru di cửu tộc, để bảo toàn cha mẹ, vợ con, ông buộc phải chấp nhận đề nghị của ‘người viết thư’, giao nộp Hội Đồng Minh để đổi lấy cơ hội thoát thân.

Bùi Nghiên Chiêu biết rõ, ‘người viết thư’ chính là ‘kẻ phản bội’ mà Thẩm Khâu luôn tìm kiếm. Nhưng y chỉ dám hỏi Thẩm Khâu xem kẻ mật báo có phải là Phùng Hiếu An không. Không dám đưa lá thư đó cho Thẩm Khâu xem.

Bởi trong suy nghĩ của Thẩm Khâu, cha y luôn là ‘nạn nhân’ bị kẻ hèn hạ nham hiểm lừa gạt mà nhất thời hồ đồ.

Song Bùi Nghiên Chiêu hiểu, những gì viết trong thư mới là sự thật. Cha y hoàn toàn tỉnh táo, nhận thức được bản thân từng bước sa vào bùn lầy.

Hiện giờ, Bùi Nghiên Chiêu đã mất đi tất cả, chỉ còn điểm tựa duy nhất là Thẩm Khâu. Y không dám tưởng tượng nếu Thẩm Khâu biết được sự thật, rồi thất vọng hoàn toàn với cha mình, thì sẽ đối xử với mình ra sao.

Y đoán, ‘kẻ phản bội’ gửi lá thư này với ý đồ giáng cho y một đòn chí mạng nhân lúc y vừa đến tuổi biết nghĩ. Muốn xem phản ứng của y, muốn nhìn thấu tính cách y, rồi cân nhắc xem y có đáng để lôi kéo hay không…

Y trở thành quân cờ đặt bên cạnh Thẩm Khâu.

Có lẽ vì y không vượt qua được ‘bài kiểm tra’, từ đó đến nay kẻ phản bội vẫn không liên lạc lại.

Lần ngoặt thứ ba trong đời Bùi Nghiên Chiêu xảy ra vào năm thứ hai sau khi biết rõ chân tướng.

Thẩm Khâu về nhà cho y biết rằng Phùng Các lão đang âm thầm chọn chồng cho cháu gái nhỏ nhà mình.

Phùng Hiếu An mất tích, nhà họ Phùng chỉ còn một mầm non duy nhất. Phùng Các lão muốn chọn một thiếu niên làm ‘con rể nuôi từ bé’ và trực tiếp dạy dỗ. Sợ rằng văn nhân bạc tình, ông chỉ muốn chọn con trai của các võ quan cấp thấp.

Bùi Nghiên Chiêu rất muốn thử, không chỉ vì y cho rằng nhà họ Phùng nợ mình, mà còn vì một lý do thực tế.

Gia cảnh nhà Thẩm Khâu túng thiếu, nuôi dưỡng hai đứa trẻ thực sự vất vả.

Nghĩa phụ của y tuy giao du với nhiều quý tộc và thương nhân giàu có trong Hội Đồng Minh, nhưng chỉ vay tiền, tuyệt đối không nhận của ai món quà nào. Và lần duy nhất vay tiền là vì nghĩa mẫu lâm bệnh nặng.

Nếu được chọn, Bùi Nghiên Chiêu muốn giảm bớt gánh nặng cho Thẩm Khâu.

Hơn nữa, khi ấy Thẩm Khâu đang muốn chuyển từ Kinh Kỳ Doanh sang Huyền Ảnh Ti, nếu có thể ‘bán’ nghĩa tử để đổi lấy một lần giúp đỡ của Phùng Các lão thì quả là đôi bên đều có lợi.

Vì thế, Bùi Nghiên Chiêu kiên quyết đòi đi, một mực bảo Thẩm Khâu phải ‘bán’ mình đi cho bằng được.

Sau khi thuận lợi bước chân vào Phùng phủ, ngoài việc học văn luyện võ, thời gian còn lại y đều ở cạnh cô bé tiểu thư nhà họ Phùng ấy.

Tuổi nhỏ đã gặp nhiều biến cố, lại sống trong nhà kẻ thù, ‘ngậm đắng nuốt cay’ mà lớn lên, tuy y chỉ là thiếu niên nhưng tâm tính đã chẳng khác gì người lớn.

Mà Phùng Gia Ấu cũng là cô bé thông minh, sớm hiểu chuyện, tâm tư chững chạc vượt xa bạn đồng trang lứa.

Từ nhỏ nàng không cha không mẹ bên cạnh, ông nội bận rộn chính sự, nàng sớm biết người trước mặt là phu quân tương lai của mình nên mọi chuyện đều ỷ lại vào y.

Còn y, vừa kinh ngạc trước tài trí và chí hướng của nàng, vừa xót thương nàng côi cút, nên cũng hết lòng chăm sóc.

Nỗi hận trong lòng y đối với Phùng Hiếu An kỳ thực không sâu sắc như Thẩm Khâu tưởng. Phùng Hiếu An có lẽ đã chết, y chẳng cần phải oán hận gì một cô bé không hay biết chuyện.

Thế nhưng, càng lớn lên, càng ở cạnh nhau lâu, khi tình cảm dần đâm chồi, những ý nghĩ ban đầu ấy lại dần đổi thay.

Y có thể không oán giận nàng, nhưng không thể chấp nhận chuyện bản thân nảy sinh tình cảm với con gái kẻ thù.

Khi nhận ra dấu hiệu đó, y liền tìm Thẩm Khâu xin ông nghĩ cách đưa mình rời khỏi Phùng phủ.

Y ra đi trong đêm, thậm chí không từ biệt Phùng Gia Ấu.

Khi ấy, Bùi Nghiên Chiêu nghĩ rất đơn giản, cả hai vẫn còn nhỏ, làm gì hiểu được tình cảm nam nữ. Chẳng qua chỉ là cảm giác gắn bó thời niên thiếu, xa cách rồi thì sớm muộn cũng phai nhạt.

Sự thật quả thực cũng là như thế. Trong Huyền Ảnh Ti, y tiếp xúc với bao điều mới lạ, trong vòng một hai năm, đã gần như quên hẳn Phùng Gia Ấu.

Nhưng sống trong cùng kinh thành, dù cố ý né tránh thì vẫn khó mà không tái ngộ.

Lần gặp lại ấy, Bùi Nghiên Chiêu kinh ngạc phát hiện nàng đã thay đổi rất nhiều. Mới đó thôi mà cô bé con trong ký ức đã hóa thành thiếu nữ xinh tươi như nhành liễu non.

Chỉ một ánh mắt giao nhau, hạt mầm tình cảm y từng dồn sức đè nén… phút chốc chọc thủng mặt đất và trỗi dậy.

Y đoán Phùng Gia Ấu cũng có cảm giác giống mình.

Một khi mầm đã nhú, không những không kìm lại được, mà còn lớn nhanh như gió cuốn.

Cùng với đó là ngọn lửa căm hận trong lòng bừng lên theo.

Tình cảm càng sâu, hận thù càng lớn.

Tại sao người tố giác lại là Phùng Hiếu An?

Là Thẩm Khâu cũng được, cớ gì lại là ông ta?

Nàng là con gái ai cũng được, tại sao cứ phải là con gái của Phùng Hiếu An?

Trong những đêm dài khó chịu đựng, Bùi Nghiên Chiêu đã tự thuyết phục bản thân hàng ngàn lần.

Phụ thân đáng bị trừng phạt, ý chí không vững, không vượt nổi cám dỗ, gián tiếp hại chết biết bao nhiêu người. Nếu phải lấy mạng trả nợ thì có đến vạn mạng cũng chẳng đủ.

Nghĩa phụ chẳng phải cũng nói rồi sao, nếu Phùng Hiếu An không đủ nhẫn tâm viết bức thư tố cáo đó, ông cũng sẽ viết. Họ không thể khoanh tay nhìn Hội Đồng Minh trở thành thanh đao trong tay kẻ gian tà.

Hắn không nên hận Phùng Hiếu An.

Càng không nên kéo ân oán đời trước vào mối quan hệ giữa y và Phùng Gia Ấu.

Nhưng… y thực sự không làm được.



Khi Bùi Nghiên Chiêu bước lên lôi đài, vẫn không nhìn lên núi.

Dưới ánh mắt chăm chú của Phùng Gia Ấu, y giao đấu với tâm trạng rối bời, nhưng chừng đó cũng đủ để chiến thắng. Đúng như yêu cầu của Thẩm Khâu, toàn vẹn bước lên, toàn vẹn rời xuống. Tất cả đối thủ đều không trụ nổi quá mười chiêu dưới tay y.

Giữa kinh thành đầy nhân tài, y một trận thành danh.

Nhưng khi cuộc khảo thí kết thúc, đám đông trên núi chuẩn bị rời đi thì xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

Một con báo dữ không biết từ đâu lao ra, tuy không gây thương tích nhưng đã khiến đám đông nhốn nháo kinh hãi, tiếng hét vang lên khắp nơi.

Lòng Bùi Nghiên Chiêu còn rối loạn hơn cả đám đông, vội vã tìm bóng dáng Phùng Gia Ấu giữa biển người. Cuối cùng cũng thấy nàng bị đám đông xô ngã xuống đất.

Bùi Nghiên Chiêu lập tức tung mình về phía nàng, nhưng khi gần đến nơi, đầu óc y bỗng tỉnh táo. Quanh nàng giờ đã an toàn, không còn nguy cơ bị giẫm đạp nữa, y hoảng hốt cái gì đây?

Ngay lúc đó, Phùng Gia Ấu dường như cảm nhận được y, quay đầu nhìn sang.

Bùi Nghiên Chiêu lập tức đổi hướng, đáp xuống bên cạnh một thiếu nữ rồi đỡ cô ấy dậy. Chiếc mũ rèm che mặt của cô gái rơi xuống, lộ ra dung nhan, nhưng y hoàn toàn không biết cô ấy là ai, cũng chẳng bận tâm. Chỉ là một tấm bia đỡ vừa khéo mà thôi.

Cô gái đỏ mặt cảm tạ, y lại không nghe lọt chữ nào, tâm trí chỉ rối bời suy đoán — liệu Phùng Giai Ấu có nhìn thấy không? Lòng thầm trách mình quá đáng, đã không giúp nàng thì thôi, sao còn đi đỡ một cô gái khác.

Lớn lên cùng nhau, Bùi Nghiên Chiêu hiểu rõ tính tình Phùng Gia Ấu. Nhìn ngoài thì phóng khoáng rộng rãi, nhưng tâm tư nàng thì nhọn như đầu kim, hay nghĩ ngợi nhiều, dễ rơi vào luẩn quẩn.

Càng nghĩ y càng hối hận, không nhịn được quay đầu nhìn Phùng Gia Ấu.

Thấy nàng nhấc váy chạy xuống núi, dáng điệu như bị trẹo chân. Y sợ nàng xảy ra chuyện, lại không nhịn được mà đuổi theo.

Phùng Gia Ấu dường như đã kiệt sức, dừng lại bên một gốc cây và từ từ ngồi xổm xuống.

Bùi Nghiên Chiêu cũng dừng lại, nấp sau một gốc cây khác gần đó.

Y loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, từ thút thít đầy kiềm chế đến bật lên không chút che giấu, khiến hai mắt y cũng đỏ hoe. Y dựa lưng vào thân cây, cố gắng khống chế bản thân, lòng bàn tay bị chính móng tay của mình bấm chặt đến rỉ máu.

Thế nhưng, những giọt nước mắt của nàng như một dòng lũ, dần phá tan tất cả hàng rào phòng ngự trong lòng y.

Cuối cùng, y không thể kiềm chế thêm nữa, bước ra từ phía sau cây, định lao về phía nàng. Trong khoảnh khắc ấy, mọi hận thù đều tan biến, đời này y chỉ muốn có nàng.

Nhưng trước khi y kịp tới, một người khác đã nhanh chân hơn, tiến đến trước mặt nàng, cúi người đưa nàng một chiếc khăn tay:

“Tiểu thư…”

“Đồ lưu manh từ đâu tới đây!” Phùng Gia Ấu vung tay hất chiếc khăn, đứng dậy, nhấc váy tiếp tục chạy xuống núi.

Ánh mắt của Bùi Nghiên Chiêu dừng lại trên người kia. Vì đã làm việc ở Huyền Ảnh Ti ba năm, y biết đó là Lý Tự Tu của phủ Trung Văn Bá. Người này đang làm việc tại Hàn Lâm Viện, gần đây vừa giành được một vị trí tại Hộ Bộ ở Kim Lăng và sắp rời kinh thành nhậm chức. Quan vị không cao, nhưng lại phụ trách quản lý muối – một chức vụ béo bở được rất nhiều người để mắt tranh giành.

Phủ Trung Văn Bá đã suy thoái nhiều năm, Lý Tự Tu không quyền không thế nhưng lại có thể giành được vị trí này, quả thực có điều gì đó bất thường.

Bởi thế, theo lệ, Huyền Ảnh Ti đã bắt đầu bí mật điều tra.

Chỉ là thân thế Lý Tự Tu trong sạch đơn giản, không tra ra điều gì lớn. Cùng lắm là thấy hắn xưa nay luôn cố ý giữ thái độ khiêm tốn, che giấu tài năng. Mà chuyện này vốn chẳng hiếm trên quan trường.

“Khương Bình, mau lại đây!” Lý Tự Tu gọi lớn.

Bùi Nghiên Chiêu nhìn thấy một thiếu niên chạy tới như bay:

“Công tử có gì căn dặn?”

Lý Tự Tu chỉ về hướng Phùng Gia Ấu vừa biến mất:

“Mau đuổi theo, xem cô ấy là tiểu thư nhà nào. Tra thêm vì sao cô ấy lại khóc đau lòng đến thế.”

Thiếu niên tên Khương Bình dường như không thể tin nổi, đứng ngẩn ra một lúc. Mãi đến khi bị Lý Tự Tu gấp gáp thúc giục, cậu ta mới vội vàng chạy đi.

Bùi Nghiên Chiêu lặng lẽ quan sát Lý Tự Tu – vẻ nho nhã, phong thái điềm tĩnh, không hề vướng chút bụi trần – cúi người nhặt chiếc khăn rơi trên mặt đất. Chiếc khăn đã dính đầy đất cát, nhưng Lý Tự Tu chẳng màng, cẩn thận giữ nó trong tay.

Bị Lý Tự Tu làm gián đoạn, cơn lũ cảm xúc trong lòng Bùi Nghiên Chiêu rút đi, để lại một mặt hồ phẳng lặng.

Y chợt nhận ra, Phùng Gia Ấu trẻ trung xinh đẹp, lại tài hoa hơn người, không có y, nàng vẫn sẽ được những người đàn ông ưu tú khác trân trọng và yêu thương. Còn y, hôm nay vừa mới gây tiếng vang trong kinh thành, tương lai cũng không thiếu những cô gái xinh đẹp sẵn sàng ngã vào lòng.

Trải qua vô số lần giằng xé, Bùi Nghiên Chiêu đã hoàn toàn chắc chắn một điều: bản thân không phải người rộng lượng, thậm chí có thể nói là cực kỳ nhỏ nhen. Hận thù tuy ít, nhưng luôn âm ỉ trong lòng, bất cứ lúc nào cũng có thể trỗi dậy khiến y đau đớn.

Càng gần nàng, những cảm xúc này càng trỗi dậy thường xuyên. Khi y đau khổ, cũng sẽ không để nàng được yên.

Cuộc đời còn dài, mà hai người họ không phải không thể sống thiếu nhau, hà cớ gì phải chịu đựng nỗi dày vò này?

Bùi Nghiên Chiêu quay lưng bước đi, tự nhắc nhở mình không được phạm phải sai lầm như hôm nay. Nếu y không tàn nhẫn, nàng sẽ không hết hi vọng.

Từ giờ trở đi, y phải nhẫn tâm hơn, dứt khoát giúp nàng đoạn tuyệt.

Chỉ cần vượt qua giai đoạn này, cả y và nàng đều sẽ sống tốt hơn.

Cứ tiếp tục bước về phía trước thôi.
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 111: Ngoại truyện 6 – Từ Tông Hiến x Lý phu nhân cùng mọi người trong thư viện


(Hai mươi bảy năm trước)

Lý Thanh Vãn và Từ Tông Hiến quen nhau tại một quán cờ.

Hôm ấy là tiết Hoa Triều, theo truyền thống của Đại Ngụy, những quý nữ chưa kết hôn ở kinh thành muốn nổi danh thường sẽ tham gia hội Hoa Triều hàng năm do công chúa, quận chúa tổ chức.

Lý Thanh Vãn vốn là đích nữ của phủ Trung Văn Bá, không chỉ dung mạo xinh đẹp mà còn nổi tiếng với tài thư pháp, cầm kỳ thi họa đều thông. Cha mẹ nàng rất kỳ vọng, mong nàng nhân dịp này lộ chút tài hoa để sau này được gả cao.

Thế mà nàng lại giả bệnh, cố tình thoái thác không đi.

Sau một phen tranh cãi với song thân, nàng lén thay nam trang trốn khỏi phủ, một mình đến quán cờ.

Từ nhỏ Lý Thanh Vãn đã yêu thích chơi cờ. Nửa năm trước, nàng còn là khách quen của tất cả các quán cờ lớn nhỏ trong kinh thành.

Chỉ là dạo gần đây ít ghé lại, bởi trong những quán cờ ấy, nàng không còn tìm được đối thủ xứng tầm. Tuy nhiên, mỗi lần nàng chỉ thắng nửa quân, đôi khi còn cố ý thua để không gây chú ý.

Nửa tháng trước, người bạn chơi cờ nói với nàng, anh ta gặp một cao thủ tại một quán cờ ăn tiền. Cách đánh của người này cực kỳ giống nàng, thường chỉ thắng nửa hoặc một quân, lại còn hay nhường ván.

Sự tò mò của Lý Thanh Vãn bị khơi dậy, rảnh rỗi nàng sẽ đến quán cờ đó tìm thử, nhưng mãi vẫn chưa gặp được người ấy.

Hôm nay tâm trạng không vui, guồng chân mà đi đến, ai ngờ vừa khéo chạm mặt.

Người ấy rất dễ nhận ra, áo xanh giản dị, đầu đội mũ có rèm che kín mặt.

Thấy bên kia bàn cờ chưa có ai ngồi, Lý Thanh Vãn lập tức đi đến ngồi xuống, theo quy tắc, đặt mười văn tiền bên cạnh bàn cờ.

Khi ấy Từ Tông Hiến đang chuẩn bị rời đi, định từ chối vị ‘tiểu công tử’ này, nhưng thấy nàng chau mày, vẻ mặt u sầu, chàng lại mềm lòng, bèn ngồi xuống chơi cùng một ván.

Lý Thanh Vãn không tập trung nên thua rất nhanh, bực bội lấy ra thêm mười văn tiền để chơi ván nữa.

Ván thứ hai nàng nghiêm túc hơn nhưng vẫn thua chàng một quân cờ.

Ván thứ ba cũng vậy.

Sau khi thắng lần thứ ba, Từ Tông Hiến không cho nàng thêm cơ hội nữa, cầm lấy ba mươi văn tiền, đứng dậy rời khỏi quán cờ.

Hai người đấu ba ván cờ, mất cả một buổi chiều.

Từ đầu đến cuối, nàng không nói một lời, chàng cũng im lặng. Hai người gần nhau đến thế nhưng chưa từng trao đổi câu nào.

Dưới ánh hoàng hôn, Lý Thanh Vãn chạy ra khỏi quán cờ, lập tức sai người theo dõi Từ Tông Hiến.

Khi biết được chàng là học trò của thư viện Thịnh Cảnh, nàng liền hiểu ra lý do chàng đội mũ rèm và cố tình giấu đi thực lực.

Là một học trò, còn là học trò của đại nho Nhạc Mông, việc chàng đánh cờ cược tiền kiếm sống là điều khó chấp nhận. Nếu bị tố cáo, chàng có thể bị đuổi khỏi thư viện.

Lý Thanh Vãn ngay lập tức lấy chiếc trâm vàng yêu thích nhất, kèm theo một trăm lạng bạc, sai hạ nhân đưa cho chàng.

Ý tứ rất rõ ràng, nàng đã để mắt đến chàng.

Rèm mũ che khuất, nàng không nhìn rõ dung mạo của chàng, cũng chưa từng ngẩng đầu lên nhìn kỹ.

Nhưng qua ba ván cờ, nàng đã hiểu chàng khá nhiều.

Nàng luôn tin rằng phong cách chơi cờ của một người có thể phản ánh tính cách của người đó. Qua những nước cờ, nàng thấy được nội tâm của chàng.

Từ Tông Hiến là người quang minh lỗi lạc, quả thật không hổ là học trò của bậc đại nho Nhạc Mông.

Nhưng một khi bị dồn vào bước đường cùng, chàng lại có thể quyết đoán phá lệ, dùng chiêu hiểm phá thế, giành chiến thắng bất ngờ.

Lý Thanh Vãn luôn tôn trọng những văn nhân có cốt cách, trọng khí tiết, nhưng đôi khi nàng cũng cảm thấy họ có phần cổ hủ.

Đặc biệt trong cục diện triều chính rối ren hiện tại – gian thần lộng quyền, hôn quân mê tín một gã quốc sư giang hồ, Đông Xưởng tùy tiện làm bừa, coi mạng người như cỏ rác, từ quan đến dân đều nơm nớp lo sợ.

Các sĩ tử liều chết dâng sớ can gián, lớp này ngã xuống, lớp khác tiếp bước, kết quả chẳng thay đổi được, chỉ khiến lũ gian thần càng thêm lộng hành.

Trong tình cảnh như vậy, những người có thể đứng vững trong quan trường phần nhiều là kẻ mưu mẹo khéo léo, giỏi luồn lách. Song họ lại thường chỉ biết đến lợi ích cá nhân.

Mà Từ Tông Hiến là sự dung hòa giữa hai thái cực ấy. Chàng vừa có nguyên tắc vừa linh hoạt, vừa mang phong thái quân tử vừa không bị ràng buộc bởi tiểu tiết. Không phải loại người tầm thường.

Nàng để ý đến chàng không phải vì cho rằng chàng sẽ làm nên đại sự trong tương lai. Nàng đơn thuần ngưỡng mộ chàng, thầm thương trộm nhớ.

Nhưng kết quả nằm ngoài dự đoán: Từ Tông Hiến trả lại cả trâm lẫn bạc.

Chàng khéo léo nhắn rằng, nàng cho rằng hai người là ‘kỳ phùng địch thủ’ nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. Ẩn ý rằng trình chơi cờ của nàng chưa đủ để làm đối thủ của chàng.

Lý Thanh Vãn ngẩn người, không những không tức giận mà còn đặt lá thư lên ngực, mỉm cười.



Đây không phải lần đầu Từ Tông Hiến nhận được ‘tín vật định tình’ từ các cô gái.

Dù xuất thân hàn vi nhưng chàng vẫn là thí sinh đang chờ thi cử, lại là học trò của thư viện Thịnh Cảnh. Không ít người muốn đặt cược vào chàng, đặc biệt là vì chàng nghèo khó, không quyền không thế, rất dễ dàng tiếp cận.

Từ Tông Hiến không thích cảm giác bị coi là ‘hàng có lời’, bất kể là thứ nữ thương hộ hay tiểu thư thế gia, chàng đều từ chối như nhau.

Duy chỉ có đôi mắt long lanh đượm tình của Lý Thanh Vãn là chàng nhớ mãi.

Kết hợp với nét mặt nghiêm túc khi nàng chơi cờ, ánh mắt ấy lại càng gây ấn tượng mạnh.

Chàng không sợ Lý Thanh Vãn tức giận mà tố giác chuyện chàng đánh cờ cược tiền với thư viện, vì qua những nước cờ, chàng biết nàng không phải người nhỏ nhen.

Thế nên, khi có thời gian, chàng vẫn ghé quán cờ đó để kiếm tiền trang trải phí sinh hoạt ở kinh thành.

Các đồng môn hàn vi trong thư viện thường kiếm sống bằng cách chép sách, nhưng công việc này vừa kiếm được ít, vừa tẻ nhạt và lãng phí thời gian.

Chơi cờ là sở thích lớn nhất của chàng, vừa thư giãn lại vừa có thu nhập, cớ chi không làm?



Hôm nay, vừa đến quán cờ không lâu, Lý Thanh Vãn đã tới. Nhưng nàng không chơi cờ với chàng, chỉ đứng ngoài quan sát.

Nàng đứng mãi cho đến khi chàng rời đi mới thôi.

Lần tiếp theo, chàng lại gặp nàng quan sát.

Trong suốt quá trình, Từ Tông Hiến vài lần ngẩng đầu lên nhìn, nhận ra nàng luôn chăm chú vào những quân cờ đen trắng trên bàn, nhíu mày suy nghĩ. Chàng hiểu, nàng đang nghiêm túc học hỏi.

Chàng đã nói nàng chưa đủ tầm làm đối thủ, giờ nàng quyết tâm hiểu rõ nước cờ của chàng để một ngày vượt qua.

Từ Tông Hiến bắt đầu cảm thấy Lý tiểu thư này thú vị thật. Đằng nào nàng cũng chẳng quấy rầy, chàng cứ để mặc nàng.

Không ngờ cái ‘mặc kệ’ ấy vậy mà lại kéo dài suốt nửa năm. Ngày nắng hay mưa nàng đều đến, sáng đi tối về cùng chàng ở quán cờ.

Bản thân Từ Tông Hiến cũng không nhận ra, số lần chàng đến quán cờ càng lúc càng tăng, và thời gian đến ngày càng cố định.

Cho đến khi Lý Thanh Vãn không xuất hiện ba lần liên tiếp, chàng chơi cờ với người khác mà lòng không yên, mới mơ hồ nhận ra.

Khi Lý Thanh Vãn xuất hiện lần nữa, nàng trực tiếp ngồi đối diện chàng:

“Ta muốn thử lại một lần.”

Nửa năm qua, nàng đã thử hàng chục lần, nhưng vẫn không thể thắng chàng lần nào.

“Thật ra…” Từ Tông Hiến định nói nàng đã tiến bộ rất nhiều, gần như nắm bắt được lối chơi của chàng, khiến chàng ngày càng khó thắng.

Tuy nhiên, nếu chàng không nhường, dù mười năm nữa nàng cũng không thể thắng chàng.

Từ Tông Hiến không nói thêm gì nữa, tiếp tục đấu cờ, nhưng lòng rất muốn hỏi vì sao dạo trước nàng không đến.

Nghĩ mãi mà không thể cất lời.

Lý Thanh Vãn lại chủ động lên tiếng:

“Dạo trước ta không đến được, vì cha ta đã định một mối hôn sự cho ta…”

Bàn tay cầm quân cờ của Từ Tông Hiến khựng lại.

Lý Thanh Vãn chỉ nhìn vào bàn cờ:

“Ta vốn không ưng người đó… Nhưng người ta thích lại không thích ta. Dù sao cũng không còn lựa chọn nào tốt hơn, ta đành thuận theo.”

Mất một lúc lâu, Từ Tông Hiến mới đặt quân cờ xuống.

Lý Thanh Vãn im lặng.

Chàng cũng im lặng.

Một lúc lâu sau, Lý Thanh Vãn đột nhiên hỏi:

“Huynh nhường ta đấy à? Nhường một nước này, huynh sẽ thua thôi.”

Từ Tông Hiến giật mình, ngạc nhiên nhận ra mình đã đi sai nước.

Sự bối rối thoáng qua trên gương mặt chàng không thoát khỏi ánh mắt Lý Thanh Vãn.

Nàng cười lên, hếch cằm nói:

“Thế nào, giờ ta đủ trình làm ‘kỳ phùng địch thủ’ của huynh chưa?”

Từ Tông Hiến liền ngẩng đầu:

“Gạt ta?”

“Gạt?” Lý Thanh Vãn nhướn mày, “Chẳng phải binh pháp nói ‘binh bất yếm trá’ đó sao? Một chiêu nhiễu loạn này, sao có thể tính là gạt được?”

Nhìn chàng siết chặt quân cờ, chừng như tức giận, nàng lại giải thích:

“Ta không nói dối đâu. Dạo trước không đến đúng thật là vì chuyện hôn sự. Chỉ là ta không đồng ý, tuyệt thực mấy ngày để ép cha ta phải từ bỏ ý định.”

Từ Tông Hiến không đáp, lẳng lặng đặt quân cờ xuống bàn.

Lý Thanh Vãn nhíu mày:

“Huynh vẫn chưa chịu thua sao?”

“Thế cờ đúng là bất lợi cho ta.” Từ Tông Hiến bình thản đáp, “Nhưng chưa đến phút cuối, chưa biết ai thắng ai thua. Bỏ cuộc không phải là phong cách của ta.”

Lý Thanh Vãn cau có:

“Huynh nhường ta một lần thì sao chứ? Cứ phải tranh thắng thua bằng được với ta? Trong quán cờ, ai huynh cũng nhường, chỉ riêng ta là chưa từng? Huynh có thù oán gì với ta à?”

Từ Tông Hiến: “…”

Im lặng một thoáng, chàng nói:

“Vì ta biết rõ… huynh không thích người khác nhường mình, đúng chứ?”

Lý Thanh Vãn đáp:

“Đúng, nhưng ‘người khác’ đó không bao gồm huynh.”

Từ Tông Hiến vừa lấy thêm một quân cờ đen trong hộp cờ ra, nghe nàng nói vậy, tay khựng lại hồi lâu rồi mới cất lời:

“Lý… công tử, phụ thân công tử chọn người ấy cho… huynh, có thể huynh không xem trọng tương lai của hắn. Nhưng chỉ riêng ‘hiện tại’ của hắn thôi… cũng đã là độ cao mà cả đời này e là ta chẳng bao giờ với tới được.”

Chàng chậm rãi nói tiếp:

“Ta rất tự tin vào chính mình, nhưng thế gian vốn chẳng như bàn cờ, chẳng thể đoán trước. Ta chưa từng trông chờ vào may mắn, và cũng không muốn công tử ôm bất kỳ hi vọng nào không thực tế. Ta sợ nhường huynh lại chính là hại huynh. Ta hi vọng…

Lý Thanh Vãn im lặng lắng nghe chàng nói về lợi và hại, hết lý lẽ này đến lý lẽ khác, rườm rà mãi không dứt.

Đây là lần đầu tiên nàng nghi ngờ quan điểm ‘tính cách con người bộc lộ qua lối chơi cờ’. Từ Tông Hiến trên bàn cờ tàn nhẫn, quyết đoán bao nhiêu thì trong tình cảm lại chậm chạp, bị động bấy nhiêu.

Nhưng Lý Thanh Vãn vẫn kiên nhẫn nghe chàng nói, không chen lời, cũng không phản bác, dáng vẻ và ánh mắt ngoan ngoãn như mèo con.

Dưới đôi mắt long lanh dịu dàng ấy của nàng, Từ Tông Hiến rốt cuộc không mở miệng nói tiếp được nữa.

Chàng mân mê quân cờ trong tay một lúc lâu, rồi ném nó trở lại hộp cờ, bất lực thở dài:

“Được rồi, ta không tranh với nàng nữa, ta thua rồi.”



Thư viện Thịnh Cảnh.

Trịnh phu tử đang nói chuyện với Nhạc Mông, lý do là có học sinh tố cáo Từ Tông Hiến chơi cờ ăn tiền trong quán cờ:

“Viện trưởng, ngài thương anh ta nhà nghèo mà miễn học phí, thế mà anh ta lại làm chuyện tổn hại danh tiếng thư viện như vậy…”

Nhạc Mông cười nói:

“Chỉ là ván cờ mười văn tiền, thêm chút cược cho vui mà thôi, nào đáng gọi là đánh bạc? Trước kia ta từng đấu cờ với một phú thương Giang Tô, còn thắng được cả căn nhà giá trị ngàn vàng của ông ta đấy.”

“Cái này sao có thể so sánh được?” Trịnh phu tử nhíu mày, thăm dò nói, “Hình như ngài luôn dành ưu ái đặc biệt cho Từ Tông Hiến.”

Nếu không thì ông ta đã trực tiếp đuổi Từ Tông Hiến ra khỏi thư viện, đâu cần phải xin ý kiến viện trưởng.

Nhạc Mông không phủ nhận:

“Nếu không có gì bất ngờ, năm sau trò ấy sẽ có một chỗ trong ba hạng đầu. Chuyện đó cũng chưa đáng kể đâu, hơn thế nữa, trò ấy có tầm nhìn lớn, sau này không chừng còn làm đến Thủ phụ Nội Các.”

Trịnh phu tử thật sự bất ngờ. Trong mắt ông ta, Từ Tông Hiến luôn lặng lẽ cô độc, dù thành tích không tệ nhưng cũng không quá nổi trội, mà xử sự thì chẳng lấy gì làm đúng mực.

Nhìn ngoài thì ôn hòa nhã nhặn, nhưng bên trong lại bướng bỉnh, không chịu ràng buộc, chẳng giữ quy củ.

Nhạc Mông ngẩng lên nhìn trời, mây đen phủ kín, như báo mưa giông sắp đổ:

“Thời buổi này, kẻ giữ được mình ngay thẳng lại không đủ sức đỡ nổi thiên hạ ngay thẳng. Những lúc đại loạn, chỉ có người đặc biệt, với cách thức đặc biệt mới có thể xua tan bóng tối, cứu vãn thế cuộc.”

Trịnh phu tử thở dài, biết rằng nét u uất hiện rõ trên gương mặt Nhạc Mông là vì ông lại nhớ đến nhóm sĩ tử liều chết can gián nửa năm trước. Trong đó có cả môn sinh mà Nhạc Mông tâm đắc nhất.

Nhạc Mông nói tiếp:

“Từ Tông Hiến không phải kẻ lòng dạ bất chính. Trò ấy là người có chủ kiến và nguyên tắc riêng, lại chỉ sống theo quy củ của chính mình mà thôi. Không cần quản trò ấy, mà có quản cũng chẳng được.”

Trịnh phu tử không nói đến Từ Tông Hiến nữa, hỏi:

“Vậy ngoài anh ta, không biết trong thế hệ này của thư viện ta, ngài còn thấy ai đáng chú ý?”

Nhạc Mông đáp không chút do dự:

“Phó Mân.”

Trịnh phu tử gật đầu đồng tình. Ông ta cũng ấn tượng với Phó Mân, chàng trai này thật sự thông minh, đến mức làm ông ta phải kinh ngạc.

Không ngờ Nhạc Mông lại đổi giọng:

“Đáng tiếc, hắn trái ngược với Từ Tông Hiến, không có tâm thế rộng lớn, lập trường không kiên định… Người để cảm tính lấn át lý trí không thích hợp tranh giành nơi quan trường, chỉ hợp làm mưu sĩ phía sau những quyền thần, thưởng trăng uống rượu mà thôi…”

Trịnh phu tử cười:

“Vậy thật trùng hợp, Nhạc Phồn là người đơn giản, sau này Phó Mân có thể giúp đỡ cậu ấy.”

Nhạc Mông im lặng một lúc:

“Nhạc Phồn không thể làm quan.”



“Phò mã Đại Ngụy không thể làm quan, nếu ta cưới công chúa Vĩnh Nhàn…”

Trong hoa viên Nhạc phủ, Ông Phồn đang kéo Phó Mân ra nói chuyện:

“Lúc trước ta đã hạ quyết tâm. Thời buổi gian thần chiếm quyền, dân chúng lầm than, ta muốn góp sức làm chút gì đó, đành phụ lòng công chúa… Nhưng giờ nghĩa phụ cũng hi vọng ta làm phò mã… Hoạn đảng luôn dòm ngó thư viện chúng ta, nghĩa phụ bị vây trong nguy hiểm trùng trùng. Nếu ta làm phò mã, nghĩa phụ sẽ có thêm một tầng bảo vệ, từ đó có thể che chở cho nhiều học trò hơn…”

Phó Mân lặng lẽ lắng nghe.

Trên danh nghĩa, Ông Phồn mang họ Nhạc, là con trai của viện trưởng. Nhưng Phó Mân biết cả hai anh em họ đều mang họ Ông, thuộc dòng dõi quý tộc Nam Cương. Họ được viện trưởng nhận nuôi vì lời ủy thác của bằng hữu quá cố.

Cha của hai anh em Ông Phồn mất sớm. Trước đó, cả nhà ba người sống ẩn mình trong một con ngõ bình dân ở kinh thành, là hàng xóm với Phó Mân.

Hai cậu bé tuổi tương đương, lớn lên cùng nhau thành bạn chí cốt.

Phó Mân mồ côi cha từ nhỏ, mẹ là thợ thêu hiền lành chịu khó, chuyện gì cũng nhẫn nhịn. Thân thể yếu ớt nên cậu luôn bị bắt nạt. Lần nào Ông Phồn cũng đứng ra che chở rồi cõng cậu đội mưa gió đi tìm thầy thuốc.

Sau khi hai anh em được viện trưởng nhận nuôi, Ông Phồn nói muốn có bạn học cùng, kéo Phó Mân đến bên cạnh.

Nhờ mối quan hệ với Nhạc Mông, cuộc sống hai mẹ con Phó Mân mới đỡ chật vật phần nào. Cậu cũng được tập trung học hành, cùng Ông Phồn thi cử.

Thật ra, Phó Mân chẳng mặn mà gì với thi cử làm quan, cũng không hứng thú cứu vớt dân chúng khỏi cảnh lầm than. Bởi chính cậu và mẹ mình cũng từng là những người khốn khổ, bị dày vò bởi những đồng loại cùng tầng lớp.

Trước khi thấy rõ sự đen tối của triều cục, cậu đã nếm trải sự xấu xa của lòng người.

Từ xưa đến nay, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, kẻ yếu lại ức h**p những kẻ yếu hơn. Dù thời thế có đổi thay thế nào, điều này mãi mãi không thay đổi, cũng chẳng thể nào cứu vãn.

Thế nhưng Ông Phồn lại mang chí lớn, khi thì muốn làm Đại đô đốc, lúc lại khao khát thành Thủ phụ, miệng lúc nào cũng nhắc đến ‘bách tính’.

Vì thế, Phó Mân đã bắt đầu học mưu lược từ rất sớm, đọc binh thư ngày đêm.

Cậu cố giấu đi sự thất vọng của mình với thế gian, lo sợ Ông Phồn phát hiện ra mà cho rằng cậu không xứng đáng làm tri kỷ.

“Ngươi thấy thế nào?” Ông Phồn nói xong liền hỏi Phó Mân.

“Ta thấy thế nào cũng được,” Phó Mân đáp, “Quan trọng là trong lòng ngươi nghiêng về hướng nào.”

Ông Phồn:

“Ta đương nhiên muốn tự tay trừ khử bọn gian nịnh…”

Nhưng Phó Mân biết, sau cùng Ông Phồn sẽ chọn làm phò mã.

Tình cảm với công chúa không phải trọng tâm. Mà vì Phó Mân hiểu rất rõ lòng kính yêu của Ông Phồn dành cho viện trưởng.

Nói gì xa xôi, chỉ riêng ân tình viện trưởng dành cho mình bao năm qua vì Ông Phồn, Phó Mân cũng đã sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho ông.

Hai người đương trò chuyện thì thị nữ vào báo rằng Ông Nhược Di đã về. Ông Phồn lập tức đứng dậy đi tìm.

Phó Mân vội nhắc:

“A Phồn, A Nhược năm nay đã cập kê, là cô gái lớn rồi, ngươi nói năng nhớ chừng mực.”

Ông Phồn ngoái đầu cười trêu:

“Ngươi xót hả? Đợi năm sau ngươi thi đỗ công danh, cưới nó về nhà rồi thì ta không quản nữa!”

Phó Mân lập tức đỏ bừng mặt:

“Ta vừa nhắc ngươi giữ miệng, cái miệng ngươi đúng là…”

Ông Phồn cười lớn, rồi chạy đi tìm em gái.

Khi thấy Ông Nhược Di mặc nam trang, tay xách kiếm, hắn lập tức đuổi hết thị nữ rồi mắng như tát nước:

“Có phải muốn huynh nhốt muội lại, muội mới chịu thôi không? Muội không biết nghĩa phụ đang trong tình cảnh nào sao? Muội ra ngoài thì tỷ võ, ở nhà thì nuôi cổ. Nếu bị phát hiện, không chỉ ảnh hưởng thanh danh của nghĩa phụ mà còn có thể bị hoạn đảng lấy cớ làm lớn chuyện…”

Ông Nhược Di nghe mãi thành quen, coi như gió thoảng bên tai:

“Huynh đến đúng lúc lắm, muội định tìm huynh đây. Nghe nói nghĩa phụ muốn huynh cưới công chúa?”

Mặt Ông Phồn sa sầm:

“Thái độ này của muội là sao? Không muốn huynh cưới công chúa? Trước kia huynh nói muốn ra làm quan, chẳng phải muội còn trách huynh sao?”

Ông Nhược Di đáp:

“Muội không nên trách huynh à? Huynh quên mình là người Nam Cương rồi phải không? Cứ suốt ngày nghĩ cách cống hiến cho Đại Ngụy. Nếu triều đình Đại Ngụy tốt đẹp lên, khi họ cường thịnh, người đầu tiên họ muốn tấn công chính là Nam Cương chúng ta. Huynh có bị gì không đấy?”

Ông Phồn giận tím mặt:

“Huynh làm vậy là vì bách tính khổ sở, không phải vì Đại Ngụy. Người bị gì mới là muội! Đừng quên vì sao chúng ta phải ở Đại Ngụy. Là bởi người Nam Cương muốn thiêu chết muội! Cha dẫn chúng ta trốn đi, chính nghĩa phụ đã mạo hiểm nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn!”

“Ở Nam Cương, trẻ con ra đời khiến mẹ chết vì khó sinh đều bị thiêu sống, đó là hủ tục tồn tại hàng trăm năm, người trong tộc không nhằm vào muội. Tục lệ không chấp nhận được thì phải cố gắng thay đổi, chứ không phải phản bội.”

Ông Nhược Di lạnh lùng nói:

“Huống hồ, không phải muội cố nhớ mình người Nam Cương, mà chính nghĩa phụ luôn nhắc nhở muội.”

Anh trai nàng thoạt nhìn văn võ toàn tài, nhưng thực chất thành tựu chẳng đạt được đến mức lẽ ra phải có.

Vì Nhạc Mông cố tình kìm hãm.

Nhạc Mông không muốn Ông Phồn quá xuất sắc. Một người Nam Cương giỏi như vậy, với Đại Ngụy mà nói chính là mối họa ngầm.

“Ông ấy muốn huynh cưới công chúa, bởi vì không muốn huynh làm quan, không muốn một người Nam Cương trở thành trọng thần của Đại Ngụy.”

Ông Nhược Di nhìn thẳng vào mắt Ông Phồn, nói:

“Chính nghĩa phụ dạy muội câu này: ‘Không phải đồng tộc, lòng dạ tất khác’.”

Sự lạnh lùng trong ánh mắt nàng khiến Ông Phồn bàng hoàng:

“Nhược Di, nghĩa phụ có những toan tính đó cũng dễ hiểu. Ngoài chuyện đó ra, ông ấy yêu thương huynh muội chúng ta như con ruột. Sao muội có thể phủ nhận toàn bộ tình cảm ông dành cho chúng ta chỉ vì chút tư tâm đó chứ?”

Ông Nhược Di kéo tay anh trai, khuyên nhủ:

“Đại ca, muội nghe nói tân Nam Cương Vương có dũng có mưu. Chúng ta về Nam Cương đi, phò tá ngài ấy tấn công Đại Ngụy. Hiện giờ là thời cơ tốt nhất, Đại Ngụy đang mục ruỗng rồi… À đúng rồi, chẳng phải huynh muốn cứu bách tính Đại Ngụy sao? Cách trực tiếp nhất là lật đổ vương quyền Đại Ngụy, thay thế họ bằng chúng ta…”

Ông Phồn hất tay nàng ra, như thể không còn nhận ra người trước mặt, rồi quay lưng bỏ đi.

Ông Nhược Di nhìn theo bóng anh trai, buông một câu chửi: “Đồ ngốc u mê!”, lòng ngập tràn tiếc nuối và bất lực.

Nàng không thể đứng nhìn Ông Phồn bị trói buộc trong thân phận phò mã, sống một đời tầm thường.

Rồi sẽ đến lượt nàng.

Sau này Nhạc Mông sẽ sắp xếp hôn sự cho nàng, người được chọn chắc chắn cũng chỉ là con nhà quyền quý không thế lực.

Anh trai luôn muốn gả nàng cho Phó Mân. Nàng không thích nhưng cũng không phản đối. Vì nàng biết, Nhạc Mông sẽ tuyệt đối không đồng ý.

Phó Mân tài trí hơn người, tương lai sáng lạn, lại có tình cảm sâu đậm với anh em nàng. Nếu bị anh em nàng lôi kéo, ắt trở thành mối họa khôn lường.

Ông Nhược Di nhắm mắt lại, tay mân mê chuôi kiếm.

Hoạn đảng luôn tìm kiếm cơ hội hạ bệ Nhạc Mông và vùi dập phe thanh lưu. Nếu Nhạc Mông ngã xuống, liệu đại ca có hoàn toàn thất vọng với Đại Ngụy mà dẫn nàng quay về Nam Cương?

Sau đó khôi phục gia tộc, phò tá tân vương, nhân loạn chiếm lấy Đại Ngụy, thống nhất thiên hạ?

Nhưng Nhạc Mông…

Đúng như lời đại ca nói, ông ấy thực sự yêu thường nàng như viên ngọc quý trong tay.

Lòng vừa mềm đi thì Ông Nhược Di lại nghĩ tới tám chữ: “Không phải đồng tộc, lòng dạ tất khác”, nghĩ tới lòng riêng của ông.

Nàng là người không thể dung nổi một hạt cát trong mắt, yêu thương mà không trọn vẹn thì chẳng khác gì không yêu.

Sau bao lần tự giằng co, cuối cùng Ông Nhược Di cứng rắn hạ quyết tâm, bắt đầu tìm cơ hội giúp hoạn đảng kéo đổ Nhạc Mông.

Ba tháng sau, cơ hội ấy đến.





<b><i>Tác giả có lời cuối chương tiết lộ thêm nhiều nội dung quan trọng, xin đừng bỏ qua: </i></b>

<i>Lúc ấy Ông Nhược Di còn quá trẻ, không đủ nhạy bén với chính trị. Nàng đơn giản cho rằng việc tố cáo bài thơ Nhạc Mông từng viết chỉ khiến một mình ông gặp họa. </i>

<i>Không ngờ hoạn đảng làm lớn chuyện, gây ra thảm án thư viện, lại không ngờ anh trai nàng cũng bị hại, bị sát hại bởi Tào Tung giữa lúc hỗn loạn…</i>

<i>Nói nàng cố ý hại chết người chỉ là suy đoán của Từ Tông Hiến sau này.</i>

<i>Những sự việc xảy ra sau đó đều đã được kể trong chính văn, không nhắc lại ở đây. Nhưng xin được tóm tắt lại như sau: </i>

<i>Những học trò không chịu vu oan cho Nhạc Mông đều bị đàn áp tàn bạo. Từ Tông Hiến và Phó Mân bị bắt vào Đông Xưởng, còn Ông Nhược Di giả chết để thoát thân. </i>

<i>Phó Mân được công chúa cứu ra nhưng ngỡ hai anh em Ông gia đã chết, lòng hoàn toàn nguội lạnh, sinh ra chán ghét thế gian.</i>

<i>Trong khi đó, Ông Nhược Di trốn chạy chật vật về Nam Cương, gặp Nam Cương Vương, và Hàn Trầm ra đời.</i>

<i>Kể từ khi đi theo Nam Cương Vương, nàng bắt đầu tiếp xúc với chính trị.</i>

<i>Mang theo thù hận và dã tâm, nàng bắt đầu viết thư dụ dỗ Phó Mân. Lý lẽ không khác những gì nàng từng thuyết phục anh trai: con đường cứu thế thực sự là thống nhất thiên hạ.</i>

<b><i>Cứu thế</i></b><i> vốn là giấc mộng của anh trai nàng.</i>

<i>Phó Mân lại là người lập trường không vững, chẳng có tình cảm sâu sắc với giang sơn xã tắc. Việc y từ chối vu oan Nhạc Mông không phải vì cốt cách và khí tiết, mà đơn thuần vì lòng biết ơn.</i>

<i>Vừa hay, bốn năm sau thảm kịch thư viện, một nhóm thanh niên đã lập nên Hội Đồng Minh.</i>

<i>Minh chủ mời Phó Mân tham gia, mà vị minh chủ đó lại là một quan lớn của Đô Ti Điền Nam. Nhân cơ hội này, Phó Mân để mắt đến kho lương Điền Trung.</i>

<i>… </i>

<i>Nói về Từ Tông Hiến, như lời y từng kể với Lạc Thanh Lưu.</i>

<i>Sau biến cố kinh hoàng, chàng sống vật vờ trong cung suốt năm, sáu năm. Mãi khi ôm con trai đi đoạn đường ấy, ngọn lửa đấu tranh trong chàng mới bùng lên lần nữa.</i>

<i>Bảo chàng ‘hắc hóa’ thì không đúng. Bởi bản chất chàng vốn không phải người thuần ‘trắng’, không phải người cao thượng, chính trực, tuân thủ lễ nghĩa. Nếu không, Lý Thanh Vãn sao có thể mang thai trước khi thành thân?</i>

<i>Về việc chàng nhất quyết không bôi nhọ viện trưởng — ấy là đáy lòng chàng còn giữ một đạo làm người.</i>

<i>Con đường tiến thân của Từ Tông Hiến thể hiện rõ triết lý: </i><b><i>đánh không lại thì nhập hội</i></b><i>.</i>

<i>Với tài năng và học vấn, chàng bước chân vào ‘Quốc Tử Giám’ của Thập Nhị Giám – Nội Thư Đường, dạy học cho hoạn quan, rồi từng bước leo lên làm Chưởng ti.</i>

<i>Dùng </i><b><i>tư tưởng</i></b><i> làm vũ khí, dần dần kiểm soát toàn bộ Thập Nhị Giám.</i>

<i>Sau đó thăng chức lên Ti Lễ Giám, trở thành Bỉnh bút của ti này, cứu Lạc Thanh Lưu và xây dựng mạng lưới tình báo của riêng mình.</i>

<i>Tiếp đến, trong đêm hoàng đế băng hà, chàng liên thủ với Tề Phong – kẻ chủ động dâng mình, phong tỏa kinh thành, tắm máu hoàng cung. Đích thân đưa Đại đốc công tiền nhiệm – kẻ từng ra lệnh gây nên thảm kịch ở thư viện – </i><b><i>về chầu đất lạnh.</i></b>

<i>Tự tay trả xong món nợ máu.</i>

<i>… </i>
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 112: Ngoại truyện 7 – Tạ Lãm và Ấu Nương của hắn


Từ kinh thành trở về Tây Bắc, Tạ Lãm đưa Phùng Gia Ấu đến bên bờ Hắc Thủy tổ chức lại lễ cưới theo phong tục Mười Tám Trại.

Hôn lễ rất đơn giản, hai người cùng quỳ trước dòng sông, lần lượt tuyên thệ lời thề <i>trung thành*</i> với nhau.

<i>*</i><i>Mình cảm thấy khái niệm “trung thành” của người Mười Tám Trại, đặc biệt là với Tạ Lãm, không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa chung thủy (chỉ yêu một người), mà còn bao hàm nhiều điều sâu sắc hơn — như sự chân thành, hết lòng, dốc cạn tâm can vì người mình yêu.</i>

<i>Chỉ cần nhìn cách Tạ Lãm yêu thương và chăm sóc Ấu Nương của hắn là có thể cảm nhận rõ điều đó. Vì vậy, mình quyết định giữ nguyên chữ “trung thành” theo bản gốc.</i>

Tạ Lãm nói một câu, nàng lặp lại một câu.

Hai người nói xong, Tạ Lãm đỡ nàng đứng dậy:

“Xong rồi, lễ hoàn tất.”

Phùng Gia Ấu ngơ ngác:

“Vậy là xong rồi à?”

Tạ Lãm đang hân hoan, khóe mắt đuôi mày đều mang ý cười, bị nàng hỏi lại với giọng nghi hoặc cũng ngẩn ra, hỏi lại:

“Dọc đường chẳng phải ta đã nói với nàng rồi sao? Hôn lễ ở trại ta, chính là quỳ trước mẫu hà thề nguyền thôi.”

Đúng là hắn có nói thế thật, nhưng Phùng Gia Ấu cứ tưởng ít nhiều gì cũng sẽ có người đến dự.

Dù gì hắn cũng là thiếu trại chủ Mười Tám Trại, khách dự lễ chắc hẳn không ít. Huống chi người phương Bắc phần nhiều giỏi ca múa, nàng còn ngỡ sẽ có tiết mục rộn ràng gì đó để chúc mừng nữa kia.

Ngờ đâu chỉ có hai người, áo quần cũng là trang phục thường dân giản dị trong trại. Tất cả mộc mạc đến mức giống hệt đôi trai gái rủ nhau bỏ trốn.

May mà đây chỉ là lễ cưới bổ sung. Chứ nếu là thuở mới quen, chưa hiểu rõ con người Tạ Lãm, e rằng nàng đã ngỡ hắn cố ý qua loa với mình.

Nàng dè dặt hỏi:

“Có phải… vì Tạ Lâm Khê giả mạo thân phận của chàng, nên chúng ta phải tổ chức lén lút thế này không?”

“Lén lút á?”

Tạ Lãm nghĩ một thoáng mới hiểu ý nàng, bèn khoát tay cười:

“Không phải đâu. Hôn lễ của bọn ta vốn là như vậy. Người trong trại tin rằng thành thân là chuyện của hai người, không cần người ngoài chứng kiến. Nàng đừng nghĩ phong tục này qua loa, trong lòng bọn ta, sông Hắc Thủy thiêng liêng nhất. Nếu không thành tâm, chẳng ai dám thề nguyện trước mẫu hà đâu…”

Nghe xong, Phùng Gia Ấu nhận ra mình thất lễ, vội vã chắp tay hướng về phía sông xin lỗi rối rít.

Tạ Lãm nhìn dáng vẻ vừa cuống quýt vừa thành kính của nàng mà bật cười, ôm nàng vào lòng:

“Không biết không có tội. Yên tâm đi, mẫu hà nhà ta rộng lượng lắm, sẽ không trách nàng đâu.”

Phùng Gia Ấu vẫn chưa yên lòng:

“Phu quân, hay mình làm lại lần nữa nhé. Hồi nãy ta cứ tưởng chàng đang dạy ta…”

Nàng ngỡ họ đang tập dợt trước.

“Không cần.” Tạ Lãm nắm tay nàng xoay người bước đi, “Nàng lặn lội đường xa từ kinh thành tới tận đây, mẫu hà biết nàng thành tâm, vậy là đủ rồi.”

Sau lưng hai người có cây đại thụ bị đổ, thân to chắc nịch, vừa hay có thể ngồi nghỉ chân.

Phùng Gia Ấu quay mặt về phía sông, ngồi xuống trước:

“Nơi này chắc là chỗ chàng thích nhất dọc Hắc Thủy, đúng không?”

Tạ Lãm ngồi xuống cạnh nàng:

“Sao nàng biết?”

Phùng Gia Ấu vỗ nhẹ lên thân cây dưới mông:

“Ta nhớ cái cây này.”

Hồi trước, sau khi biết rõ thân thế và bị Tạ Triều Ninh nhục mạ, hắn tức giận bỏ đi, chính là trốn đến đây.

Giờ đưa nàng đến đây làm lễ cưới, đủ thấy nơi này có ý nghĩa đặc biệt với hắn.

“Chẳng có gì đặc biệt cả, chỉ là nơi này yên tĩnh, ít người lui tới làm phiền.”

Tạ Lãm duỗi thẳng chân, nhìn chăm chăm vào mũi giày của mình, giọng như chìm vào hồi ức.

“Hình như lúc ta mười tuổi thì phải, không nhớ rõ lắm. Khi ấy ta một mình phóng ngựa ra ngoài giết mã tặc, bị thương nặng, trên đường quay về thành Hắc Thủy thì gục ngã tại đây…”

Cách thành chẳng bao xa, vậy mà cha hắn dẫn người tìm ba ngày ba đêm cũng không thấy. Cuối cùng là hắn tự tỉnh dậy, lảo đảo lê bước quay về.

“Sao trước giờ chưa từng nghe chàng kể?”

Trên đường tới Tây Bắc, Phùng Gia Ấu liên tục bắt hắn kể chuyện thời nhỏ, vậy mà đoạn này nàng chưa từng nghe qua.

“Xem mắt nàng kìa, cứ như ta đang bịa chuyện chọc nàng ấy.”

Từ nhỏ tới lớn, số trận Tạ Lãm đánh có lẽ còn nhiều hơn số bữa cơm nàng ăn, làm sao nhớ hết nổi. Nhờ nàng hỏi tới, hắn mới sực nhớ ra.

Cũng lạ, ngoài đôi bàn tay chai dày do luyện võ, trên người hắn chẳng có vết sẹo rõ ràng nào. Nên mỗi khi kể với nàng về chiến tích lẫy lừng của mình, hắn đều thấy… thiếu khí thế.

“Nàng coi nè.” Tạ Lãm kéo vạt áo, nghiêng người để lộ bờ vai cho nàng xem.

Vết thương do một nhát chém của Hàn Trầm ở Nam Cương ngày trước, khi ấy da thịt rách toạc, thế mà chỉ mới hai ba tháng đã mờ nhạt hẳn, chẳng còn vẻ gì ghê rợn nữa. Những vết thương cũ khác trên người cũng vậy, nếu không nhìn kỹ cũng khó thấy được.

Phùng Gia Ấu đâu nghĩ hắn bịa chuyện, nhưng cái tướng than thở như thể uất ức lắm thật trêu người.

Nàng không nhịn được, đưa tay xỉ mạnh lên trán hắn:

“Chàng đúng là có phúc lại chẳng biết hưởng. Ta mà có được thể chất như chàng, nằm mơ cũng phải cười tỉnh đó!”

Ngày thường không cẩn thận trầy xước chút xíu, nàng đã sốt ruột không thôi vì sợ để lại sẹo.

Trước khi quen Tạ Lãm, nàng chẳng tin nổi trên đời lại có người mang gương mặt trắng trẻo tuấn tú thế kia mà suốt ngày chê mình xấu, đòi đi phơi nắng cho đen, cho sạm, còn muốn có sẹo cho ngầu.

Tạ Lãm chả biết giải thích sao cho xuôi, đành ngượng ngùng kéo áo lại chỉnh tề.

Phùng Gia Ấu thường chê thẩm mỹ của hắn có vấn đề, Tạ Lãm lại nghĩ bụng: khẩu vị của nàng cũng có hơn gì đâu.

Trước kia nàng rất không ưa ngày mưa, bảo rằng ẩm ướt phát bực. Vậy mà từ khi đặt chân lên đại mạc lại suốt ngày mong ngóng trời mưa.

Tạ Lãm hỏi lý do, nàng bảo: từ đêm mưa gió hiểm nguy ấy, nàng bắt đầu yêu những cơn mưa. Từ khi hai người quen nhau, nàng đã thấy vô số dáng vẻ của hắn, nhưng dáng vẻ hắn đêm ấy lạ khiến nàng rung động nhất.

Tạ Lãm ngẫm nghĩ mãi mới nhớ ra, đó là đêm ở nghĩa trang, khi bọn họ bị chặn cướp sổ sách bằng chứng.

Hôm ấy, hắn vừa giết người, vừa thuần ngựa trong mưa, ướt như chuột lột, nhếch nhác không để đâu cho hết. Đã thế còn bị tên ‘trộm xác’ Lạc Thanh Lưu lén lấy quyển xuân cung đồ giấu trong hộp binh khí. Hắn xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.

Đó là một trong số ít những đêm mà hắn chẳng muốn nhớ lại.

Đang thầm than thở trong bụng, bỗng nghe Phùng Gia Ấu hỏi:

“Phải rồi, theo tục lệ của các chàng, phu thê bái lạy mẫu hà xong, tiếp theo sẽ làm gì?”

Tạ Lãm sực tỉnh, định nói: tất nhiên là cùng nhau về nhà.

Ai ngờ Phùng Gia Ấu đã đứng khỏi thân cây, nghiêng người ngồi lên đùi hắn, tay vòng qua ôm cổ hắn.

Trời chạng vạng, nhiệt độ ngày đêm trên sa mạc chênh lệch lớn, Tạ Lãm tưởng nàng lạnh, bèn siết chặt eo nàng, ôm vào lòng.

Chợt ngẫm lại câu hỏi ban nãy, hắn mới giật mình nhận ra, nàng hỏi ‘bước tiếp theo’, là nói đến chuyện… động phòng? Còn định làm ngay trên sa mạc mênh mông?

Tạ Lãm tức thì đờ cả người. Hắn đã thua nàng cái khoản ‘gan dạ’ này từ lâu, bụng thầm bái phục khả năng ‘không biết ngại’ của nàng:

“Ấu Nương, phong tục chỗ ta… không thoáng như nàng tưởng đâu.”

Phùng Gia Ấu liếc mắt nhìn quanh, rồi nhướng mày nhìn hắn:

“Chàng vừa nói nơi này kín đáo lắm mà, chàng nằm đây ba ngày mà cha chàng còn tìm không ra kia mà?”

“Nhưng ở đây là ngoài trời, lỡ có người đi ngang thì sao…”

Tạ Lãm không biết nàng đùa hay thật, vội vàng ôm nàng đứng dậy, đi về phía con ngựa đang gặm cỏ, đặt nàng ngồi lên yên.

Hắn nhảy lên ngồi phía sau, ôm lấy nàng:

“Trời nổi gió rồi, mình về thôi. Nàng nói mai muốn đi cùng ta đến Suối Trăng mà, lỡ cảm lạnh thì không đi được đâu.”

Hắn định kéo cương, thì bị nàng đè tay lại.

Tạ Lãm nhận ra nàng hơi khác lạ, liền cúi đầu nghiêng người nhìn nàng, hỏi khẽ:

“Sao vậy?”

Phùng Gia Ấu tựa vào ngực hắn, cắn nhẹ môi. Nàng do dự mấy ngày nay rồi, cuối cùng không nhịn được mà khuyên:

“Phu quân à, y thuật của cô cô chàng cao như vậy, thay đổi được dung mạo cho Tạ Lâm Khê luôn. Nếu thân thể chàng có gì không thoải mái thì nhờ cô cô xem giúp đi. Đừng để ý mặt mũi…”

“Khoan đã…” Tạ Lãm nghe mà ngơ ngác, “Hôm qua cô cô vừa bắt mạch cho ta, bảo nội thương đã không còn đáng ngại. Chẳng phải nàng cũng ở đó, còn hỏi không biết bao nhiêu câu sao?”

Phùng Gia Ấu nói lí nhí:

“Nội thương gần khỏi thì ta biết rồi, nhưng… có phải để lại di chứng gì khó nói không?”

Lúc hắn còn dưỡng thương, nàng luôn cố ý tránh né. Giờ thì tuy chưa hoàn toàn bình phục, nhưng chuyện vợ chồng hẳn không thành vấn đề. Vậy mà mấy ngày kề cận gần đây, hắn lại chẳng tỏ ý muốn thân mật với nàng.

Chắc chắn là có vấn đề.

Tạ Lãm cố nghĩ xem “di chứng khó nói” là cái gì, đến khi hiểu ra thì suýt rớt xuống ngựa.

“Nàng cứ nghĩ đâu đâu thế hả? Ta sao có vấn đề được?”

Mặt Tạ Lãm lúc trắng lúc xanh:

“Thân thể ta thế nào ta rành nhất. Tuy không sao nữa rồi, nhưng vẫn chưa hồi phục đến mức đỉnh cấp. Còn cần nghỉ ngơi thêm mười ngày nửa tháng.”

Phùng Gia Ấu không hiểu:

“Chuyện nhỏ như vậy cũng cần chàng đạt đến ‘đỉnh cấp’ á? Ngày thường chẳng phải chàng hay đắc ý với ta, bảo ta yếu ớt, chàng còn chưa dùng đến ba thành công lực sao?”

Tạ Lãm: “…”

Phùng Gia Ấu nghi hoặc ngẩng đầu:

“Chàng nói đi.”

Tạ Lãm xấu hổ vô cùng, đành gượng gạo giải thích:

“Chuyện nhỏ thì không cần thật… Nhưng nếu lúc này có thai, thì thành chuyện lớn rồi.”

Phùng Gia Ấu bất giác cau mày — chẳng lẽ còn nguy cơ nào mà nàng chưa biết?

“Lại nghĩ bậy rồi.” Tạ Lãm đưa tay vuốt phẳng nếp nhăn giữa trán nàng,<b>“Ta không nhớ đã nghe ai nói, rằng con cái sinh ra lúc cha mẹ có thân thể tốt nhất sẽ khỏe mạnh và ưu tú hơn so những lúc khác… Không biết đúng không nhưng cẩn thận vẫn hơn…”

Phùng Gia Ấu chưa từng nghe qua chuyện này, nhưng lo lắng này của Tạ Lãm làm nàng thấy ngọt ngào vô hạn. Giống như nàng từng nói với mẫu thân, Tạ Lãm là người chồng tốt, sau này nhất định cũng sẽ là người cha tốt.

Tạ Lãm đã nói ra, liền muốn giải thích cặn kẽ:

“Nàng không biết đâu, mỗi lần nghĩ đến đứa nhỏ là ta lại đau đầu.”

Tạ Lãm đã bắt đầu lo lắng từ hồi ở sông Tế.

“Nếu con thông minh như nàng thì quá tốt rồi. Nếu có thiên phú võ học như ta, cũng không tệ. Nhưng nếu nó giống mặt kia của cả hai chúng ta… Ta cứ có cảm giác nó sẽ là một đứa vừa yếu ớt vừa không có đầu óc, lại còn chuyên khắc cha nó nữa…”

Ngẫm kỹ lại, người như hắn, hay như Thẩm Thời Hành, có lẽ vẫn còn được coi là khá tốt.

Phùng Gia Ấu: “……”

Tạ Lãm dè dặt thương lượng với nàng:

“Cho nên, chúng ta chú ý chút vẫn tốt hơn. Chờ ta dưỡng thương đến khi hồi phục hoàn toàn, đạt trạng thái đỉnh cấp rồi hãy sinh con. Như vậy sau này, nếu có lúc ta bị nó chọc tức đến hộc máu, ta chỉ cần cảm thán đây là số mệnh thôi. Đỡ phải vừa phun máu vừa tự vả, hối hận năm xưa không biết nhịn mà tự chuốc lấy trách nhiệm…”

Phùng Gia Ấu nghẹn lời:

“Thiệt là khổ cho chàng, nghĩ được đến cả chuyện xa xôi như vậy…”



<b><i>Tác giả có lời muốn nói: </i></b>

<i>A Lười à, ngươi nghĩ nhiều quá rồi. Conn trai ngươi sau này văn võ song toàn lắm, chỉ có điều… từ nhỏ đã rất sùng bái Lý Tự Tu thôi.</i>
 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 113: Ngoại truyện 8 – Trở lại kinh thành


Khác với sự ‘lo xa’ của Tạ Lãm, Phùng Gia Ấu dường như chưa từng nghiêm túc cân nhắc xem lúc nào thì thích hợp sinh con.

Thật ra hồi mới thành thân, nàng từng có ý định dùng đứa trẻ để trói buộc Tạ Lãm. Đáng sợ nhất là, khi ấy nàng còn không thấy ý nghĩ ấy có gì sai trái.

May thay, sau này nàng kịp nhận ra sai lầm, cũng bắt đầu thấy rõ những khiếm khuyết trong tính cách của chính mình. Từ khi thành phu thê với Tạ Lãm, nàng thực sự thay đổi rất nhiều, tốt đẹp hơn từng ngày.

Mà giờ khi nghe Tạ Lãm nhắc đến chuyện mong ngóng con cái, nàng cũng nghiêm túc nghĩ qua một lượt.

Con cái sinh ra xinh đẹp giỏi giang, tất nhiên là chuyện vui. Nhưng nếu không được vậy… nàng thấy cũng chẳng sao.

Trong mắt nàng, điều quan trọng là cha mẹ đủ năng lực để cho con một cuộc đời no đủ, để con được sống theo ý mình. Dẫu con có yếu ớt và đầu óc không lanh lợi, cũng chẳng phải chuyện gì to tát.

Nhưng nàng hiểu, Tạ Lãm mang trong mình nỗi cố chấp với hai chữ “cường mạnh” — xuất phát từ hoàn cảnh trưởng thành của hắn mà ra. Mười mấy năm trước, đại mạc Tây Bắc còn bị Bắc Nhung và mã tặc hoành hành, nếu không mạnh mẽ, quả thật không thể sống nổi.

Cho nên tuy xót xa trước sự hà khắc đến mức tàn nhẫn của Tạ Triều Ninh đối với Tạ Lãm, Phùng Gia Ấu vẫn có thể thông cảm cho ông.

Nhớ đến Tạ Triều Ninh, nàng lại hơi nhức đầu.

Hai người họ về thành Hắc Thủy đã mấy ngày rồi, vậy mà cha con hai người, chẳng ai chịu tới tìm ai. Rõ ràng trong lòng ai nấy đều quan tâm đến người kia, nhưng ngoài mặt lại cố chấp, không ai chịu bước trước một bước.

Dẫu vậy, Phùng Gia Ấu không định khuyên can, bởi Tạ Lãm cũng chưa từng khuyên nàng phải làm hòa với Phùng Hiếu An bao giờ.

Tạ Lãm vẫn còn đang bàn với nàng:

“Vậy… nàng thấy thế nào?”

“Chàng hỏi ta làm gì? Ta chỉ lo chàng có di chứng mà lại sĩ diện giấu bệnh không chịu chữa thôi.”

Thấy hắn không sao, Phùng Gia Ấu yên tâm, nói:

“Chỉ cần chàng nhịn được thì tùy chàng.”

“Nàng còn chưa rõ bản lĩnh nhẫn nhịn của thế nào à?” Tạ Lãm bắt đầu tỏ ra tự hào, “Hồi trước nàng trăm phương ngàn kế mê hoặc ta, mà ta vẫn ngồi yên như tượng đấy thôi. Chuyện đao kiếm trong tay ta không có đối thủ chẳng phải nhờ thiên phú thôi đâu.”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng “à” một tiếng:

“Vậy mười ngày nửa tháng nữa chàng có thể hồi phục đến đỉnh cấp không? Hay là để bảo đảm, chàng dưỡng thêm… một hai năm nữa nhé?”

Tạ Lãm: “…”

Một câu liền đâm nát lòng kiêu hãnh của Tạ Lãm, hắn cuống quýt xin tha:

“Thôi tôi, ta không dám! Nửa tháng là cực hạn của ta rồi, kéo dài thêm nữa thì dù không bệnh cũng bị nhịn đến phát bệnh mất.”

Nàng đâu có biết, gần đây mỗi tối hắn phải gồng mình chịu đựng ra sao, chẳng khác nào bị tra tấn. Thuốc tránh thai hại thân, Tạ Lãm tuyệt đối không muốn nàng phải uống.

Hắn hạ thấp giọng:

“Huống hồ nếu ta thật sự có di chứng gì… người chịu khổ nhất chẳng phải là nàng sao?”

Phùng Gia Ấu ngoắc ngoắc ngón tay, Tạ Lãm liền cúi đầu ghé tai.

Nàng đưa tay che miệng, giọng như gió xuân thì thầm:

“Chàng nói sớm có phải tốt rồi không? Nếu chàng nhịn khổ quá, ta còn có cách khác giúp chàng mà.”

Tạ Lãm chau mày ngẫm nghĩ một thoáng. Dù gì cũng từng bị ép xem không ít xuân cung đồ, hắn hiểu ngay, tai đỏ ửng, khí huyết ùn ùn dồn lên đầu không cách nào khống chế, bật cười đến lắp bắp:

“Chuyện… chuyện này…”

Phùng Gia Ấu lại nghiêm mặt, nói rành rọt:

“Ta có thể đọc cho chàng nghe 《Đại học》, 《Trung Dung》, 《Luận Ngữ》, 《Mạnh Tử》. Đảm bảo nghe xong, lửa lớn cỡ nào cũng tự tắt.”

Nụ cười của Tạ Lãm đông cứng trên mặt: “…”

Hay lắm, hệt như bị dội một gáo nước lạnh từ đầu xuống chân, lạnh buốt đến tận tim gan.

Phùng Gia Ấu véo vành tai đỏ au sắp ‘bay màu’ của hắn, trêu:

“Chậc chậc, ta còn chưa bắt đầu đọc nữa mà, mới nhắc vài tên sách thôi chàng đã tỉnh táo lại rồi.”

Tạ Lãm biết nàng cố ý ghẹo mình, lắc đầu muốn tránh khỏi tay nàng, vừa thẹn vừa tức, nghiến răng ken két.

Đám tiểu thuyết kia thiển cận hết sức.

Trong đó, mấy chuyện nam nữ toàn thấy nam chính chiếm thế thượng phong, nữ chính chỉ cần bị nói vài lời trêu ghẹo đã đỏ mặt ngượng ngùng, mềm nhũn nhào vào lòng người ta.

Nhìn lại Ấu Nương của hắn xem?

Về tới kinh thành, nhất định phải mang mớ truyện ấy đập hết lên mặt Thẩm Thời Hành cho hả giận!

Tạ Lãm âm thầm mắng mình hồ đồ. Ai đời muốn học hỏi chút tình thú vợ chồng, lại nghĩ tới chuyện đọc sách Thẩm Thời Hành viết? Cái tên đó cả một người trong lòng còn chẳng có, toàn viết ra tưởng tượng vớ vẩn mà thôi!

Phùng Gia Ấu cố nén cười:

“Vậy rốt cuộc chàng đang tức giận, hay là… thất vọng đấy?”

“Thôi mà, Ấu Nương, nàng đừng trêu ta nữa.”

Tạ Lãm đã biết, luận da mặt hay cởi mở, hắn không thể đọ nổi với nàng. Dù có may mắn chiếm thế chủ động một lần, thì những ngày kế tiếp, nàng cũng sẽ bất thình lình phản công, khiến hắn trở tay không kịp.

Phùng Gia Ấu thấy trêu đủ rồi bèn cười nói:

“Mình về thôi.”

“Ừ.”

Tạ Lãm siết nhẹ dây cương, chầm chậm đưa nàng quay về hướng thành Hắc Thủy. Chẳng chuyện chi vội vã, hai người để mặc ngựa đi thong thả, như đi dạo dưới ánh trăng.

Đêm xuống, sa mạc hạ nhiệt rất nhanh. Tạ Lãm cởi áo khoác ngoài thô dày, từ phía sau choàng chặt lấy nàng. Phùng Gia Ấu cuộn mình trong áo choàng, nép vào lòng hắn, chỉ lộ mỗi khuôn mặt nho nhỏ.

Bầu trời đêm thăm thẳm trên cao, sao rải như ngọc, bốn bề sa mạc mênh mông cát đá.

Trống trải. Yên tĩnh

Giữa đất trời này, dường như chỉ còn lại hai người bọn họ.

Lòng bất giác dâng lên cảm giác hư ảo không chân thật, Phùng Gia Ấu hơi hoảng, gọi khẽ:

“Phu quân?”

Tạ Lãm đáp ngay:

“Ừ?”

“Không có gì, chỉ là… muốn gọi chàng một tiếng thôi.”

Gió đêm lùa qua, sợ cát bụi thổi rát da, nàng rụt người sâu hơn vào áo chàng, chỉ lộ mỗi đôi mắt lấp lánh.

“Vừa nãy ta chợt thấy… cứ như đang nằm mơ vậy đó.”

“Đang mơ?”

“Ừm, một giấc mơ rất đẹp… Nhưng lại rất sợ chỉ là mơ, sợ rằng sau khi tỉnh dậy, phát hiện mình chỉ trượt chân ngã đập đầu trong hội Hoa Triều, mê man một trận mà thôi… Chẳng có Xích Lưu Kim, Phùng Hiếu An không trở về, còn chàng, chàng chưa từng xuất hiện… Trong thoáng chốc ta không phân nổi đâu là mộng, đâu là thật, cảm thấy hoang mang…”

“Cảnh lạ đất lạ, trái hẳn với nơi quen thuộc nên thường sinh ra cảm giác vậy thôi. Lần đầu ta rời Tây Bắc, đến đất Thục, cũng từng có cảm giác như đang trong mơ vậy.”

Tạ Lãm cúi đầu, đặt một nụ hôn nhẹ lên tóc mai nàng, khẽ khàng trấn an:

“Yên tâm, ta ở đây.”

Mỗi khi hắn nói nhiều thì thường hóa linh tinh, nhưng khi lời lẽ ngắn gọn thì lại có sức mạnh không thể nghi ngờ. Một câu này khiến cõi lòng đang hoang mang của Phùng Gia Ấu lập tức an định lại.



Khi hai người thong dong cưỡi ngựa về đến thành Hắc Thủy, từ xa Tạ Lãm đã thấy một bóng người đứng trên thành lâu — Tạ Triều Ninh.

Đợi họ đến gần, bóng người ấy biến mất.

Tạ Lãm biết cha hắn vẫn đang đứng đó, đợi hắn bước lên. Ông đã chủ động bước một bước, dĩ nhiên hắn cũng không thể không thuận thế bước xuống.

Tạ Lãm đưa Phùng Gia Ấu về nơi ở trước, thu xếp cho nàng ổn thõa, đợi nàng thiếp đi mới quay trở ra, đi thẳng lên thành lâu.

Hắn đi về phía bóng lưng của Tạ Triều Ninh, không nhắc lại chuyện mâu thuẫn trước đây, chỉ gọi một tiếng:

“Cha.”

Tạ Triều Ninh quay đầu, ánh mắt ra chìu kinh ngạc, môi nhếch cười lạnh:

“Sao hả? Không định tính sổ chuyện trước kia ta nuôi mày như chó à?”

Tạ Lãm khoanh tay đứng cách ông vài bước, mày kiếm xếch lên, thần sắc ngang tàng chẳng nể ai:

“Mười bảy mười tám năm trước, nhà mình nghèo rớt thế kia, có muốn nuôi con như người cũng chưa chắc được ăn no hơn chó.”

Tạ Triều Ninh: “……”

Tạ Lãm nghiêm túc:

“Thôi được rồi, mấy chuyện cũ nát đó cha con mình khỏi nhắc nữa. Lần này con về, là có chuyện nghiêm túc muốn bàn.”

Tạ Triều Ninh cười khẩy:

“Cái đồ súc sinh mày cũng biết có chuyện nghiêm túc cơ à?”

Tạ Lãm sa sầm mặt:

“Cha làm ơn đừng ngắt lời được không?”

Tạ Triều Ninh khoát tay:

“Được rồi, mày nói đi.”

Tạ Lãm hơi ngập ngừng, rồi mở lời:

“Con muốn thương lượng với cha chuyện Mười Tám Trại ta nhận chiêu an của Đại Ngụy.”

Tạ Triều Ninh nhìn hắn từ đầu đến chân, cười nhạt:

“Hồi trước, hễ nhị thúc mày nhắc tới chiêu an là mày bùng nổ như pháo, làm như thể <i>‘Đại Ngụy dám phái người tới chiêu an, ta lập tức dẫn thiết kỵ san bằng bọn họ’</i>. Đến mức bọn ta ai nấy đều bị dọa không dám hé môi. Mà giờ… mới qua một năm ngắn ngủi…”

Tạ Lãm nhướng mày kinh ngạc:

“Có đến mức đó sao?”

Tạ Triều Ninh cười khẩy:

“Tính khí của mày ra sao, chẳng lẽ bản thân còn không rõ?”

Tạ Lãm thật sự không rõ lắm, chỉ thấy mình hồi đó tuổi trẻ bốc đồng, phản đối hơi to tiếng chút chút mà thôi.

Thảo nào trước kia nhị thúc cứ thấp thỏm sợ hắn tạo phản. Thì ra không phải do hắn sùng bái Hạng Vũ – Tây Sở Bá Vương.

Tạ Lãm gãi đầu cười cười:

“Lúc khuyên Nam Cương Vương quy thuận Đại Ngụy, con đã nghĩ thông rồi. Chấp nhận hay không chấp nhận chiêu an, suy cho cùng chỉ là chuyện trên danh nghĩa. Đại Ngụy muốn lấy tiếng cường thịnh thống nhất thôi, chứ căn bản không dám đưa quân trấn đóng. Tây Bắc vẫn là địa bàn của cha con mình, do con và cha định đoạt.”

Dừng một chốc rồi nói tiếp:

“Nghĩa huynh, à, đại ca con và Trình Lệnh Thư đến giờ vẫn chưa thành thân. Con nghĩ chắc là sợ lúc nào đó con không chịu nổi kinh thành sẽ về Tây Bắc giành lại thân phận thiếu trại chủ. Nếu thân phận của huynh ấy bị lộ sẽ liên lụy đến Trình Lệnh Thư. Con muốn để huynh ấy biết, thân phận thiếu trại chủ này, con nhường lại cho huynh ấy. Con đã quyết định, sẽ tiếp tục làm quan trong triều với thân phận của huynh ấy.”

Sau khi Mười Tám Trại nhận chiêu an, từ thiếu trại chủ hắn sẽ trở thành thế tử của Vương hầu. Triều đình nhiều lắm cũng chỉ ban cho một chức quan nhàn tản không thực quyền. Tuyệt đối không để hắn ngồi vào ghế Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti.

Phải biết rằng, Huyền Ảnh Ti là cấm quân thân tín của thiên tử, chỉ nghe lệnh hoàng đế, giám sát bách quan, còn có quyền ‘giết trước tâu sau’. Hiện tại thiên tử còn nhỏ, nên quyền lực trong tay Chỉ huy sứ gần như có thể một tay che trời.

Chỉ có tiếp tục dùng thân phận của Tạ Lâm Khê, hắn mới có thể trở thành quyền thần trong triều Đại Ngụy, thúc đẩy thi hành luật mới và làm nhiều hơn nữa để ổn định thời cục.

Tạ Triều Ninh khẽ gật đầu:

“Mày nghĩ kỹ thì tốt. Mày biết rồi, trước nay ta không gay gắt phản đối chuyện chiêu an như mày.”

Thực lòng mà nói ông vẫn mang tình cảm sâu đậm với Đại Ngụy bởi tổ tiên Tạ gia bao đời làm tướng. Thanh miêu đao trong tay ông chính là vật truyền thừa – để giữ nước giữ thành – của gia tộc.

Phụ thân Tạ Triều Ninh mất sớm nơi chiến trường, ông lớn lên nhờ cơm canh của trăm nhà trong quân doanh, mười hai tuổi đã khoác giáp theo quân chinh chiến. Năm xưa bị đày đến đây, đoạt lại thành Hắc Thủy từ tay Bắc Nhung, tập hợp Mười Tám Trại kháng địch. Tất cả cũng bởi ông tự biết mình là quân nhân, phải giữ lấy phòng tuyến này cho trăm vạn bá tánh phía sau.

Về sau quyết không quy thuận là vì ông phát hiện ra quan hệ giữa Tề Phong và Tạ Lãm. Ông nghi ngờ cha mẹ của Tạ Lãm đã chết trong tay Tề Phong.

Khi ấy Tề Phong đã là Đại đô đốc, vì bảo vệ Tạ Lãm mà phải đối đầu với cả triều đình.

Tạ Triều Ninh nói:

“Để ta chờ thêm…”

“Không nhận chiêu an ngay bây giờ.” Tạ Lãm ngắt lời ông.

Hắn đã tính toán hết rồi:

“Phải đợi thêm chút nữa, chờ đến khi Thẩm Khâu rời khỏi Huyền Ảnh Ti và tiến cử con kế nhiệm chức Chỉ huy sứ. Khi ấy, cha ra tay khuấy chút phong ba ở Tây Bắc, khiến triều đình tưởng nơi này bất ổn. Con sẽ chủ động xin chỉ ra tay chiêu an, còn cha thì thuận thế chấp nhận. Như vậy việc Mười Tám Trại quy thuận sẽ do một mình con xúc tiến, toàn bộ là công lao của con, đủ để bảo đảm con thuận lợi thăng chức, đứng vững trong triều.”

Phùng Hiếu An từng kể về những thay đổi của Tạ Lãm với Tạ Triều Ninh trong thư.

Dù đã biết trước, nhưng tận mắt thấy vẫn khiến ông không khỏi ngỡ ngàng:

“Chuyện này… vợ mày dạy cho à?”

Tạ Lãm hừ nhẹ khinh thường:

“Cha coi thường con quá rồi đó. Dù gì cũng lăn lộn trong quan trường tầng cao của Đại Ngụy một thời gian, tai nghe mắt thấy không ít. Mấy chuyện này chỉ là kiến thức cơ bản thôi, cần gì ai dạy?”

Tạ Lãm chưa từng bàn với Phùng Gia Ấu về mấy toan tính này. Dù hắn biết nếu để nàng ra tay, công lao từ việc chiêu an Mười Tám Trại chắc chắn sẽ được nàng xoay chuyển lớn hơn nữa.

Nhưng Tạ Lãm hiểu, Phùng Gia Ấu tuyệt đối không muốn xen vào việc này. Từ khi họ quen nhau đến nay, bất kể rơi vào hoàn cảnh nào, nàng cũng chưa từng nhắc một chữ về ‘chiêu an’ với hắn.

Trong lòng nàng, việc trở thành công cụ để triều đình ‘chiêu an’ hắn, là điều nàng không sao chấp nhận được.

Vậy thì cứ để hắn tự quyết.

Tạ Triều Ninh nghe xong, chân mày nhíu chặt.

Tạ Lãm nhìn ông với ánh mắt cảm thông:

“Bảo sao cha mang một thân bản lĩnh, lăn lộn mấy năm trời trong quân doanh Đại Ngụy mà chẳng thành được cái danh cái phận gì. Làm quan trong triều Đại Ngụy đâu phải như trên sa mạc chúng ta – nắm đấm cứng hơn thì thắng, mạnh tay hơn thì nắm quyền. Làm quan ấy à, phải biết quyền biến, mà quyền biến là gì cha hiểu không?”

Tạ Triều Ninh bị câu ấy chọc tức đến bật cười:

“Ta không hiểu? Chính vì hiểu, nên mới không muốn uốn cong cốt khí của mình.”

Tạ Lãm trầm giọng:

“Nếu chỉ liên quan đến thân mình thì cốt khí đương nhiên đáng giá hơn cả mạng. Nhưng cha thử nghĩ xem…”

Hắn nhắc đến vụ án kho lương Điền Trung:

“Nếu năm xưa cha đừng quá thanh cao, chịu nhẫn một chút leo lên vị trí cao ở Đô Ti Điền Nam. Thì lúc Bùi Trách Chính cấu kết với đám thương buôn muối, thò tay vào kho lương, với sự cẩn trọng của cha, lẽ không phát hiện ra? Có khi đã ngăn được họa lớn rồi!”

Tạ Triều Ninh nghe vậy thì sững người.

Tạ Lãm nói tiếp:

“Con đi được đến hôm nay mới nhận ra lời nhị thúc nói rất có lý.”

Hắn đưa tay sờ bên hông, mới phát hiện hôm nay mình không mang theo đao, lại nói:

“Quyền biến và đao kiếm đều là công cụ hữu dụng. Bản thân nó chẳng mang chính tà, chỉ tùy vào người sử dụng mà thành.”

Sắc mặt Tạ Triều Ninh dần trở nên nghiêm túc:

“Tiểu Sơn, ta luôn mong con thận trọng hơn, bớt xốc nổi lại. Nhưng ta cũng không muốn con sống quá uất ức, tự trói mình vào một cái ách nặng nề như vậy…”

Tạ Lãm cắt lời ông:

“Nặng thì có, nhưng không thấy uất ức.”

Nói rồi, hắn sải bước tới bên tường thành, đưa mắt nhìn ra biển cát mênh mông.

Hắn đang mặc trang phục của dân trong trại, mái tóc dài đen nhánh ngày thường luôn buộc cao, giờ buông xõa ra, được chiếc vòng tóc bằng xương giữ hờ hững. Gió đêm thổi qua, tóc bay phơ phất.

“Cha, cha thật lòng muốn làm đại trại chủ này sao? Ban đầu là vì bảo vệ dân thành, dân trại, bảo vệ cả con. Về sau lại vì sự bình yên của cả Tây Bắc…”

Hắn xoay người lại, nhìn thẳng vào mắt Tạ Triều Ninh:

“Từ năm mười ba tuổi, cha và nhị thúc đã luôn dạy con – “trên người có người, ngoài núi có núi”. Khuyên con rảnh rỗi nên ra ngoài nhiều để mở mang tầm mắt. Những năm qua, con đã thấy đủ loại âm mưu quỷ kế, cũng đã đặt chân lên biết bao non xanh nước biếc. Còn cha, mười mấy năm qua ở lại nơi bụi cát sa mạc không đổi, làm người giữ thành cô độc. Cha có từng thấy mình uất ức không?”

Tạ Triều Ninh sững sờ nhìn con trai, nhất thời không thốt nên lời.

Tạ Lãm bật cười, nhẹ nhàng nói:

“Chờ nhận chiêu an rồi, có con đứng trong triều làm chỗ dựa, cha sẽ được tự do hơn nhiều.”

Tới lúc này, Tạ Triều Ninh mới thực sự cảm nhận được — tiểu tử ngốc nhà mình giờ đã thật sự trưởng thành.

Trong lòng trăm vị ngổn ngang. Không hiểu sao, ông lại thấy hơi nhớ thằng nhóc bướng bỉnh ngày nào, cái thằng hay chọc ông tức đến đau đầu nhức óc.

Nhớ lại dáng vẻ con sói con nhe nanh trợn mắt ngày xưa… hình như cũng đáng yêu đáo để. Vậy mà sao khi ấy ông lại nổi nóng đến thế chứ?

Hai cha con lâu ngày không gặp, trò chuyện suốt đến tận nửa đêm.



Khi Tạ Lãm trở về phòng, thì thấy Phùng Gia Ấu vẫn còn thức.

Hắn vừa cởi áo vừa hỏi:

“Nàng ngủ rồi tỉnh dậy, hay là vẫn vẫn thức đợi ta?”

Phùng Gia Ấu đáp tỉnh rụi:

“Ta sợ vừa chợp mắt, liền hai cha con chàng đánh nhau ồn ào làm thức…”

Tạ Lãm dở khóc dở cười:

“Cha con ta đánh nhau ở cổng thành thì tiếng cũng đâu vang đến tận đây.”

Phùng Gia Ấu chống tay ngồi dậy, nửa thân người ló ra khỏi chăn:

“Hai người thật sự đánh nhau hả?”

“Không có.”

Tạ Lãm tháo chiếc vòng cài tóc, tiện tay vứt lên bàn, sải bước đến bên giường, cúi người ấn nàng nằm lại vào chăn:

“Bao nhiêu năm rồi ta không đánh nhau với ông ấy. Có đánh thì cũng là ông ấy cầm roi quất ta, ta chạy vòng vòng né, đợi ông ấy tức giận hết mức, ta mới ló đầu ra chịu vài roi, coi như xong chuyện.”

Phùng Gia Ấu lúc này mới thở phào, ngoan ngoãn nằm lại trong chăn.

Tạ Lãm ngồi xuống mép giường, cởi giày nhưng vẫn chưa vội nằm xuống. Hắn đứng trên thành lâu suốt cả đêm, cả người từ đầu đến chân thấm đẫm hơi lạnh đặc trưng của đêm sa mạc.

Chờ khí lạnh ấy dần tan trong hơi ấm của căn phòng, hắn mới nhẹ tay vén góc chăn, nằm xuống bên cạnh nàng.

Phùng Gia Ấu nghiêng người ôm lấy hắn. Lúc này thân thể Tạ Lãm đã ấm áp hẳn lên, trong đêm lạnh, chiếc ôm thế này vvừa sưởi ấm thân thể, lại sưởi cả lòng người.

Nàng cũng không hỏi hắn đã trò chuyện những gì với Tạ Triều Ninh. Thức suốt nửa đêm, cơn buồn ngủ dâng lên nhanh chóng, nàng rúc vào vòng tay hắn, chẳng bao lâu sau đã thiếp đi.



Sáng hôm sau, Tạ Lãm dẫn Phùng Gia Ấu đến Suối Trăng, uống không ít nước suối mát lành.

Sau đó, hai người ở lại thành Hắc Thủy thêm mười ngày, rồi lên đường trở về kinh.

Lần này họ cố ý ghé ngang Uy Viễn đạo, đến thăm Tạ Lâm Khê và Trình Lệnh Thư.

Đúng như Tạ Lãm từng nói với Tạ Triều Ninh, hắn đến gặp Tạ Lâm Khê để bàn bạc chuyện hoán đổi thân phận của hai người.

Khi Tạ Lãm và Tạ Lâm Khê đang trò chuyện trong hoa viên, Trình Lệnh Thư cùng Phùng Gia Ấu ngồi uống trà trong đại sảnh.

Trình Lệnh Thư không kiềm được, hỏi tới ba lần:

“Phu quân của ngươi thực sự quyết định tiếp tục làm quan ở kinh thành với thân phận của đại ca mình sao?”

Phùng Gia Ấu thong thả nâng chén trà, chậm rãi đáp:

“Sao ngươi quan tâm đến phu quân của ta nhiều vậy?”

Trình Lệnh Thư nghẹn lời, tức tối nói:

“Phùng Gia Ấu, ta chịu làm hòa với ngươi vì nể người là em dâu của ân nhân ta, ngươi đừng có được nước làm tới.”

Phùng Gia Ấu không trêu nữa, bật cười thành tiếng:

“Đúng vậy đó. Ngươi chuẩn bị làm tân nương đi là vừa. Chỉ có điều, hai người bọn ta không đến hôn lễ được, thân thể ta không tiện lặn lội về Tây Bắc lần nữa. Khi ấy sẽ nhờ người mang lễ đến mừng.”

Bấy giờ Trình Lệnh Thư mới nhẹ lòng, nâng chén trà nhấp một ngụm:

“Lâm Khê sẽ vui lắm. Lần ở ngoài thành Hắc Thủy, phu quân ngươi không chịu nhận chàng làm đại ca, còn xem chàng như kẻ thù, chàng đã buồn bã suốt một thời gian dài…”

“Đáng đời!” Phùng Gia Ấu hờ hững nói, “Tại anh ta lừa phu quân ta trước.”

Trình Lệnh Thư cũng không cãi, chỉ chuyển chủ đề:

“Giờ chúng ta đã là chị em dâu, ta cố gắng hòa giải với ngươi, nhưng với Tùy Anh thì tuyệt đối không.”

Phùng Gia Ấu đưa mắt nhìn nàng:

“Nói cứ như Tùy Anh muốn hòa giải với ngươi lắm vậy.”

Trình Lệnh Thư vội phân trần:

“Ta cần nói rõ một câu, ta ghét cô ta không phải vì chuyện cô ta đánh anh trai ta đâu. Anh trai ta tranh kép hát với cô ta, bị đánh què cũng là đáng đời.”

Phùng Gia Ấu cười:

“Ta biết mà, từ nhỏ ngươi đã chẳng ưa gì Tùy Anh, cảm thấy nàng ấy kiêu căng hống hách, làm đủ chuyện xằng bậy. Rồi còn ghét lây sang cả ta, cho rằng ta cùng một giuộc với Tùy Anh, hùa theo làm càn.”

“Nói ‘làm đủ chuyện xằng bậy’ thì hơi quá.” Trình Lệnh Thư nhớ lại những ân oán thưở nhỏ giữa mình và Tùy Anh, nhất thời cũng khó nói nên lời…

So với những ân oán tình thù đang trải qua lúc này, chuyện năm xưa giữa các nàng bỗng hóa trò trẻ con vặt vãnh, ngây ngô…



Chẳng mấy chốc, Tạ Lãm đã đến trước đại sảnh, gọi Phùng Gia Ấu, hai người lại tiếp tục lên đường trở về.

Khi xe ngựa bắt đầu lăn bánh, Phùng Gia Ấu thoáng lo:

“Chỉ một tuần trà ngắn ngủi, chàng thật sự có thể nói hết mọi chuyện với Tạ Lâm Khê sao?”

Chuyện hoán đổi thân phận, lại thêm huyết hải thâm cừu của cha mẹ… chẳng thể chỉ mấy câu mà rõ ràng hết được.

Tạ Lãm khoanh tay, nhếch môi cười lạnh:

“Không phải chỉ mấy câu thôi sao? Ngoài mấy lời ấy ra, ta còn gì cần nói với hắn?”

Tạ Lâm Khê từng bước giăng bẫy, lừa hắn từ Tây Bắc vào kinh thành, lại còn bắt tay với nhị thúc đào hố cho hắn nhảy. Hắn không so đo với nhị thúc là bởi ông ấy từng dạy dỗ, chăm sóc hắn.

“Còn Tạ Lâm Khê là cái thá gì mà dám coi ta như con rối trong tay, đùa bỡn như kẻ ngốc?”

Thật ra, Tạ Lãm cũng dần hiểu tấm lòng Tạ Lâm Khê với mình. Y sợ hắn tạo phản, sợ hắn làm mất mặt cha mẹ, sợ hắn đem chiến loạn gieo lên đầu bách tính. Y chỉ muốn mở cho hắn thêm một con đường, thêm một lựa chọn trong đời.

Dẫu sao, làm tặc vương ở Tây Bắc vốn chẳng phải con đường hắn tự chọn.

Mà suy cho cùng, chính toan tính ấy lại là khởi điểm cho những điều tốt đẹp. Hắn gặp được người mình yêu thương, tìm thấy phương hướng mới trong đời.

Song cho dù hiểu được điều đó, Tạ Lãm vẫn không bớt bực mỗi lần đối mặt với Tạ Lâm Khê, chẳng thể cười nổi một cái.

Bây giờ không, sau này cũng chẳng khác.

Rời phủ tướng quân một đoạn xa, Tạ Lãm mới dịu giọng lại như thường:

“Ấu nương, nàng yên tâm. Nên nói gì ta đều đã nói hết. Chỉ chuyện mẹ ta từng bị Tề Phong… ta không nói với hắn.”

Phùng Gia Ấu khẽ gật đầu:

“Chuyện đó quả thực chẳng cần thiết phải nói.”



Lúc này, Tạ Lâm Khê và Trình Lệnh Thư vẫn đứng trước cổng phủ tướng quân, dõi mắt nhìn theo chiếc xe ngựa dần khuất xa.

Trình Lệnh Thư ngẩng đầu nhìn y:

“Xem sắc mặt đệ đệ chàng, chắc vừa rồi nổi giận với chàng không ít.”

Tạ Lâm Khê lắc đầu cười:

“Mặt mũi thì đúng là không dễ coi thật, nhưng nói chuyện đâu ra đấy, không thừa một lời vô nghĩa.”

Trình Lệnh Thư không hoàn toàn tin. Trong ấn tượng của nàng, Tạ Lãm vẫn là người hung hãn từng muốn giết nàng tế cờ tạo phản ở ngoài thành Hắc Thủy.

Tạ Lâm Khê nở nụ cười nhẹ, cảm khái:

“Đệ đệ ta thực sự là người rất xuất sắc. Dù ở chốn triều đình hay nơi giang hồ hiểm ác, nó đều có thể đứng vững. Nếu song thân nơi cửu tuyền biết được, hẳn cũng mỉm cười yên lòng.”

Trình Lệnh Thư lại thở dài:

“Chỉ e những gian truân trong đó, chỉ một mình hắn hiểu rõ nhất.”

Tạ Lâm Khê thu lại nụ cười, có phần tự trách:

“Là huynh trưởng, bao gánh nặng vốn dĩ nên do ta gánh vác, rốt cuộc lại đẩy cả lên vai nó… Nhưng ta thật sự không bằng nó, cách biệt quá xa…”

Trình Lệnh Thư ngắt lời:

“Không phải lỗi của chàng. Là tại hắn quá mạnh — mạnh đến mức không còn giống người thường, căn bản chẳng thể đem ra mà so sánh.”

Tạ Lâm Khê ngẩn ra, sau đó bật cười:

“Nàng nói… cũng có lý.”



Xe ngựa rời khỏi cửa ải của Uy Viễn đạo, chạy vào đường lớn dẫn về kinh thành.

Phùng Gia Ấu vén rèm nhìn ra ngoài, thầm thở dài:

“Phu quân, rời khỏi Uy Viễn Đạo rồi, chàng càng lúc càng rời xa quê nhà đó…”

Đêm qua thiếu ngủ, Tạ Lãm đang lim dim nghỉ ngơi:

“Ngày xưa ta bỏ nhà đi cả chục lần một năm ấy chứ.”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng nhắc:

“Đâu có giống. Khi đó chỉ là rời đi tạm thời, còn hôm nay chàng đi là để sống hẳn ở kinh thành. Sau này muốn quay lại cũng chẳng dễ dàng…”

Tạ Lãm uể oải đáp:

“Cưỡi con thiên lý mã nhà ta, vài ngày là tới nơi, có phải ra ngoài cõi trời đâu. Ta muốn về thì về, ai cản được?”

Phùng Gia Ấu nhẫn nại:

“Nhưng ý nghĩa lại khác rồi.”

Tạ Lãm hiểu điều nàng ngụ ý:

“Mấy người đọc sách nhiều như nàng cứ hay thích nghĩ mấy chuyện ‘<i>ý nghĩa’</i>. Không có thì cũng cố moi ra cho bằng được, rồi thì sầu xuân buồn thu, ngâm thơ đối câu… Ta thấy toàn là tự chuốc khổ vào thân.”

Phùng Gia Ấu: “…”

Tạ Lãm cười cười nói tiếp:

“Ta thật sự chẳng thấy gì đặc biệt cả. Giờ thì chỉ thấy… buồn ngủ thôi.”

Tạ Lãm nhoài người kéo rèm xuống, khép chặt cửa sổ, rồi quay lại ngó nàng chăm chú:

“Nàng không buồn ngủ à? Lấy đâu ra sức mà nghĩ vẩn vơ vậy?”

Câu hỏi ấy kéo hồn Phùng Gia Ấu quay về hiện thực, bất giác nhớ lại chuyện tối qua.

Bị ánh mắt ấy nhìn chằm chằm không rời, má nàng nóng bừng.

Rõ ràng biết hôm nay sẽ lên đường, vậy mà đêm qua hắn đột nhiên nói thân thể đã khôi phục đến đỉnh cấp, không ngại chuyện nàng có thể hoài thai nữa.

Nín nhịn bao lâu, một khi buông thả liền như mãnh thú xổng lồng, giày vò nàng gần suốt cả đêm.

“Ngủ một lát đi.”

Tạ Lãm vươn tay kéo nàng lại gần, để nàng tựa vào ngực mình, còn hắn thì nghiêng đầu gối lên vai nàng.

Từ trước tới nay, hắn luôn là người ngẩng cao đầu cho người khác dựa vào. Nếu có ai từng bảo hắn sẽ có ngày “dính người” như chim non thế này, có lẽ đã bị hắn rút đao ra chém thẳng tay.

Nhưng từ khi bị thương, hắn đã quen gối đầu lên vai Phùng Gia Ấu. Đôi vai gầy gầy của nàng vậy mà lại mang đến cho hắn cảm giác bình yên lớn vô cùng.

Trước khi gặp Phùng Gia Ấu, thứ duy nhất khiến hắn cảm thấy an tâm chỉ có thanh đao trong tay.



Hai vợ chồng từ Tây Bắc về tới kinh thành thì đã là cuối xuân đầu hạ.

Tạ Lãm chính thức tiếp nhận chức Trấn phủ của Bắc Trấn Phủ Ti thuộc Huyền Ảnh Ti, còn Phùng Gia Ấu thì bắt đầu dốc sức chỉnh sửa bộ luật mới.

Giữa hè, Hàn Trầm từ Nam Cương ngược lên Bắc, đích thân vào triều tiếp nhận sắc phong từ tiểu hoàng đế Đại Ngụy.

Sau trăm năm ly tán, Nam Cương cuối cùng cũng được nhập lại vào bản đồ Đại Ngụy.

Vốn dĩ Hàn Trầm còn muốn dâng sớ tố cáo Phó Mân, nhưng sau khi gặp Từ Tông Hiến không bao lâu Phó Mân đã uống thuốc độc tự tận.

Lo liệu xong chính sự, Hàn Trầm ở lại kinh thành mấy ngày, cùng Tạ Lãm uống rượu không dứt.

Hai thiếu niên từng tung hoành giang hồ năm nào, trải qua bao biến cố thăng trầm, cuối cùng vẫn có thể nâng chén, cười nói thảnh thơi.

Chờ Hàn Trầm quay về Nam Cương, dưới sự sắp xếp của Phùng Hiếu An, Liễu Doanh Doanh được một vị quận vương ở đất Thục nhận làm nghĩa nữ, sau đó ban hôn cho Hàn Trầm, trở thành vương phi của Nam Cương.

Mối họa lớn từng khiến triều đình đau đầu suốt bao năm — Nam Cương — tạm thời xem như khép lại.

Tháng Mười Một, Thẩm Khâu chuẩn bị chuyển sang quân phủ nhậm chức Đại đô đốc. Theo lệ của Huyền Ảnh Ti, ông tiến cử Tạ Lãm kế nhiệm chức Chỉ huy sứ.

Tính cả thời gian làm Ti trực ở Đại Lý Tự, Tạ Lãm mới chỉ vào kinh được vỏn vẹn hai năm.

Trong triều, người phản đối hắn không ít, đặc biệt là phe văn thần mới nổi liên tục cản trở, với lý do hắn thăng tiến quá nhanh, chưa đủ năng lực.

Cho đến khi Tạ Lãm ra mặt thành công chiêu an thổ phỉ Mười Tám Trại, uy danh chấn động triều dã, khiến mọi lời dị nghị lập tức im bặt.

Dù Tạ Triều Ninh không đệ trình thư hàng, thậm chí còn chẳng buồn vào kinh nhận phong, triều đình cũng chẳng bận tâm, càng không dám truy cứu. Bởi lúc này điều họ cần chỉ là một cái ‘danh nghĩa’ để duy trì sự ổn định trên bề mặt.

Sang năm sau, Đại Ngụy đổi niên hiệu thành Vĩnh An.

Tháng Giêng năm Vĩnh An nguyên niên, Tạ Lãm chính thức lên nhậm chức Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti, dần nắm quyền chỉ huy hơn mười vạn Huyền Ảnh vệ trong khắp Đại Ngụy. Cộng thêm đội thiết kỵ Tây Bắc từng theo hắn chinh chiến, Tạ Lãm bây giờ trở thành người có thực quyền lớn nhất triều — chỉ một cái lật tay là có thể khiến thiên hạ đổi màu.

Thế nhưng, nhị thúc hắn lại cực kỳ yên tâm, còn cười bảo hắn cứ tiếp tục cố gắng.

Đầu tháng Sáu, Phùng Gia Ấu sinh hạ một bé trai.

Tên của nàng và Tạ Lãm đều do Phùng Hiếu An đặt. Tuy đến giờ nàng vẫn không chịu gọi ông một tiếng “cha”, nhưng khi Tạ Lãm đề nghị để ông đặt tên, Phùng Gia Ấu cũng không phản đối.

Lúc ấy, ngay bên cạnh Phùng Hiếu An là bản luật mới đã chỉnh sửa hoàn tất, chuẩn bị trình lên Nội Các dưới tên Phùng Gia Ấu.

Ông đặt tay lên bản luật ấy trầm ngâm hồi lâu, rồi chọn ra hai chữ: Chân Ngô.

<i>Thoát khỏi bề ngoài mà nhìn vào bản chất</i> — Tạ Chân Ngô.

Thật ra Tạ Lãm không mấy thích cái tên này.

Hắn nhờ nhị thúc đặt tên, là vì biết ông rất tài hoa. Như cái tên “Lãm” ông đặt cho hắn — lấy từ câu “Hội đương lăng tuyệt đỉnh, nhất lãm chúng sơn tiểu”<i> (Lên đến đỉnh cao, nhìn xuống thấy núi non đều nhỏ bé)</i> và hắn quả thật đã vươn tới đỉnh trong võ học.

Hắn chỉ mong nhị thúc có thể đặt cho con trai mình một cái tên thông minh, mang hàm ý sâu sắc.

Thế nhưng hai chữ “Chân Ngô” này, tuy xua tan được nỗi lo của Tạ Lãm rằng con trai mình sẽ là một cái bị thịt, song lại khiến hắn nảy sinh lo lắng khác…

Trong đầu hắn cứ hiện lên hình ảnh một tiểu đạo sĩ ông cụ non, ngày ngày giảng đạo nghĩa không dứt.

Tuy nhiên Phùng Gia Ấu lại tỏ ra rất thích — nên hắn cũng đành xuôi theo.


 
Lãm Phương Hoa - Kiều Gia Tiểu Kiều
Chương 114: Ngoại truyện 9 – Chuyện nuôi con của A Lười và Gia Dầu – HOÀN


Sau đó, Tạ Lãm bắt đầu theo tập tục kinh thành, tất bật lo tiệc đầy tháng cho cậu nhóc Tạ Chân Ngô nhà mình.

Phùng Gia Ấu thì chuyên tâm dưỡng sức, không hỏi han can thiệp gì, để mặc hắn lo liệu, coi như một phen tập tành.

Về phần mẹ nàng, Giang Hội Từ, sau khi rời khỏi Phùng gia quay về Giang gia ở Dương Châu, vẫn luôn bận rộn trông nom việc buôn bán của gia đình.

Cho đến khi mang thai Chân Ngô, Phùng Gia Ấu vẫn chưa có dịp về Dương Châu thăm bà. Hai mẹ con chỉ trao đổi thư từ. sinh nhật thì gửi quà cho nhau.

Khoảng thời gian thai nghén là lúc Phùng Gia Ấu nhớ mẹ da diết. Đôi khi rảnh rang, nàng hay thầm đoán: đến tiệc đầy tháng của con, cữu cữu chắc chắn sẽ đưa biểu ca đến, chẳng biết nương có đi cùng không?

Theo lẽ thường thì bà nên đến. Nhưng lần đó bà rời khỏi kinh thành vô cùng dứt khoát, như thể cả đời này chẳng muốn gặp lại Phùng Hiếu An nữa. Sợ là bà cũng vì thế mà chẳng muốn quay lại nơi này.

Huống chi xưa nay mẹ nàng luôn thấy con gái mình đã trưởng thành độc lập và mạnh mẽ, chẳng cần ai phải quan tâm lo lắng.

Phùng Gia Ấu hiểu cho bà, nhưng lòng lại không khỏi hụt hẫng.

Có một đêm, suy nghĩ rơi vào lẩn quẩn, nàng nằm tủi thân rấm rứt khóc. Tạ Lãm bị nàng làm cho hết hồn, dỗ dành suốt đến sáng, thậm chí còn bỏ cả buổi chầu sáng, muốn lập tức phi ngựa tới Dương Châu, rước mẹ vợ về cho bằng được.

Nhưng hắn hiểu rõ tính nết của Phùng Gia Ấu — nếu mẹ nàng có đến, nhất định phải do tự bà muốn đến. Chứ nếu do hắn cất công đi mời, e rằng còn khiến Phùng Gia Ấu chạnh lòng thêm.

Nào ngờ, Giang Hội Từ lại đã sớm lên đường bắc tiến, đến kinh thành trước ngày Phùng Gia Ấu sinh nửa tháng.

Vì muốn thuận tiện chăm con gái, bà chẳng buồn để ý lời ra tiếng vào, dọn thẳng vào khu phòng phía đông trong Phùng phủ.

Còn Phùng Hiếu An thì gần như chuyển luôn sang ở tại Đại Lý Tự, nếu không phải bắt buộc thì cũng chẳng quay về phủ làm gì.

Mãi đến khi Phùng Gia Ấu sinh xong, bé A Ngô chuẩn bị đầy tháng, Giang Hội Từ cũng sắp trở về Dương Châu, Phùng Gia Ấu vẫn còn hồ nghi: có phải cha nàng đã mời mẹ đến?

Giang Hội Từ mệt mỏi khi phải giải thích mãi:

“Nương phải nói bao nhiêu lần nữa đây? Là nương tự mình muốn đến. Con gái ruột của nương sinh con, nương làm mẹ mà còn cần ai mời?”

Nhiều năm qua, Giang Hội Từ từng không biết làm sao để đối mặt với con gái.

Bà từng tránh né nàng, mà nguyên do thật ra là vì nỗi tự ti bị kinh thành trói buộc. Bà xem mình chỉ là con gái nhà buôn, toàn thân nặng mùi tiền, đầu óc suốt ngày vướng bận chuyện nhi nữ tình trường, thấp hèn đến tột cùng.

Sau khi rời khỏi kinh thành, trở về nơi mình quen thuộc, trở về lĩnh vực mà bản thân giỏi nhất, bà dần dần lấy lại lòng kiêu hãnh.

Nghĩ lại chuyện xưa, bà càng thấy có lỗi với con. Chuyện đã qua chẳng thể bù đắp, và con gái bà đã trưởng thành, lấy được người chồng đáng tin, người làm mẹ như bà giờ chẳng còn mấy quan trọng. Chỉ trong những thời khắc như thế này, con gái mới thật sự cần đến mẹ, sao bà lại không đến cho được?

Phùng Gia Ấu không phải không tin, ngồi trên giường, vừa ngắm mẹ mình dỗ A Ngô ngủ, vừa khẽ giọng nói:

“Con chỉ nghĩ, chắc nương không muốn gặp cha…”

Thật ra Giang Hội Từ không căm ghét Phùng Hiếu An. Nếu chỉ là ghét, thì còn có thể gắng nhẫn nhịn. Sự thật là bà đang cố gắng buông bỏ, muốn bước tiếp về phía trước.

Nếu cứ gặp mặt mãi, e rằng sẽ khó giữ được sự dứt khoát. Không đến mức dao động, nhưng sẽ chuốc thêm phiền não.

Giang Hội Từ dời ánh mắt khỏi gương mặt nhỏ xíu trong tay, chuyển sang nhìn con gái:

“Nương từng vì ông ấy mà bỏ bê con gái mình. Nếu giờ vẫn vì ông ấy mà lưỡng lự không dám làm gì, vậy thì nương hòa ly với ông ấy còn có ý nghĩa gì nữa?”

Phùng Gia Ấu không trả lời được, chỉ nói:

“Dù sao, lần này nương đến ở với con suốt thời gian qua, con thật sự vui lắm. Cảm ơn nương.”

Chẳng ngờ chỉ một câu cảm ơn chân thành ấy, lại khiến lòng Giang Hội Từ đau như cắt.

Đứa bé trong tay bà với đôi mắt sáng long lanh giống hệt Phùng Gia Ấu khi còn bé.

Nước mắt bà suýt trào ra. May mà Phùng Gia Ấu đang cúi đầu, không thấy được mắt bà đang đỏ hoe.

Giang Hội Từ vội hít sâu một hơi, bế cậu nhóc bước đến bên án thư.

Trên bàn bày la liệt mấy tờ giấy tyên thành, đều là ghi chép của Tạ Lãm về việc tổ chức tiệc đầy tháng. Tuy chữ viết có phần nguệch ngoạc, nhưng từng dòng từng mục đều rất tỉ mỉ.

Giang Hội Từ bật cười:

“Nếu không tận mắt chứng kiến suốt một hai tháng nay, nương thật không tin nổi, tính tình hoang dã bất kham như Tạ Tiểu Sơn lại có thể tinh tế chu đáo như vậy.”

Không chỉ thể hiện trong mấy tờ giấy này, mà còn trong mọi việc hắn chăm sóc Phùng Gia Ấu. Từ khi bé A Ngô ra đời, mỗi đêm đều là hắn đích thân ôm con trông nom, chưa từng để bà vú bế đi.

Phùng Gia Ấu nói:

“Con đã nói với nương rồi mà, chàng là người bên ngoài thô ráp bên trong tinh tế. Tìm khắp thiên hạ khó mà kiếm được phu quân nào tốt hơn chàng.”

Trước mặt Giang Hội Từ, nàng chưa từng tiếc lời khen ngợi Tạ Lãm, nói quá lên cũng chẳng sao — mục đích là để mẹ nàng có thể yên lòng ở lại Dương Châu sống an ổn.

Giang Hội Từ lo lắng:

“Đêm trông con, chưa sáng đã phải vào triều. Con cũng nên khuyên phu quân con, có thể nhờ vú em thì cứ để vú em chăm, chớ nên vì cố quá mà hại đến thân thể.”

“Chàng ấy biết chừng mực mà. Với lại, đó là việc chàng nên làm. Con mang thai mười tháng, chẳng phải còn cực khổ hơn sao? Có ai thay con chịu giúp đâu.”

Thật lòng nàng cũng xót lắm. Năm nay Tạ Lãm vừa nhậm chức Chỉ huy sứ Huyền Ảnh Ti, giờ lại thêm vai trò làm cha, bận đến xoay như chong chóng, ngủ muộn hơn chó dậy sớm hơn gà. Nhưng hắn làm mọi việc trong vui vẻ và trong sức mình, nàng có lý do gì để ngăn cản?

“Nương à, con nói câu này nương đừng giận. Năm xưa nương thua ở chỗ lúc nào cũng hy sinh, lúc nào cũng xót cha, mới khiến ông ấy quen với việc đặt nương ở vị trí sau cùng.”

Trước kia, Phùng Gia Ấu hiếm khi tâm sự với mẫu thân, lại chẳng hiểu rõ chuyện giữa cha mẹ thuở trước, nên không dám tùy tiện đánh giá.

Nhưng qua quãng thời gian sống cùng nhau, nàng có thể khẳng định — chuyện cha sau khi về kinh vẫn không đón mẹ về ngay, phần lớn là do thói quen được mẹ nàng nuông chìu tạo nên.

“Giờ nương hòa ly với cha rồi, nhắc lại cũng vô nghĩa. Nhưng nương còn trẻ, biết đâu mai này sẽ gặp được người thật sự xứng đáng…”

Sợ bị Giang Hội Từ mắng, nàng càng nói càng nhỏ giọng.

Giang Hội Từ lại bật cười:

“Con cho rằng cứ hễ vướng vào tình cảm là nương mụ mị hết đầu óc sao?”

Phùng Gia Ấu càng không dám nói lớn:

“Thì… nương cũng chưa thử lại lần nào mà, phải không ạ?”

“Con nói vậy nương cũng chẳng phản bác được.”

Giang Hội Từ ôm bé A Ngô ngồi xuống, trầm ngâm một lúc rồi nghiêm túc nói:

“Hồi xưa nương mụ mị vì yêu thật, nhưng nương nghĩ phần lớn vì đối phương là cha con… Con nghĩ xem, trên đời này nương còn có thể gặp ai hơn được ông ấy không?”

Phùng Gia Ấu: “…”

Dù trong lòng nàng luôn thấy Phùng Hiếu An không xứng làm con, làm chồng, càng không xứng làm cha, là người tệ bạc vô cùng.

Nhưng xét về tướng mạo lẫn tài trí, ông đúng là hiếm gặp. Công bằng mà nói, nếu ông không phải cha mình, có khi Phùng Gia Ấu không hận mà còn thực lòng bội phục.

Từ lúc ông trở lại kinh thành, những gì ông làm cũng khá ra dáng một người cha mẫu mực. Có thể thấy ông đang thật tâm muốn nối lại tình cảm cha con.

Thời gian trôi qua, oán hận trong nàng nguôi dần. Dù không muốn thừa nhận, nhưng quả thật, lòng nàng đã dần nảy nở chút tình cảm cha con.

Tuy nhiên, đời này Phùng Gia Ấu quyết sẽ không bao giờ thật lòng gọi ông một tiếng “cha” trước mặt.

Cuộc đời mà, luôn có những điều tiếc nuối, như gia gia nàng cũng ra đi trong bao điều day dứt.

Phùng Hiếu An… ông ấy xứng đáng nhận lấy nỗi tiếc nuối đó.



Hai ngày nữa là đến tiệc đầy tháng của bé A Ngô. Hôm ấy tan triều, cả Phùng Hiếu An và Tạ Lãm đều không về nha môn.

Hai người cùng ngồi xe trở về Phùng phủ để chuẩn bị cho ngày lễ.

Trên xe, Tạ Lãm dè dặt nhắc:

“Nhị thúc này, tiệc đầy tháng xong là nhị thẩm sẽ rời kinh về Dương Châu đó.”

Phùng Hiếu An nhìn sang hắn:

“Chẳng phải bà ấy từ Dương Châu tới sao?”

Tạ Lãm thở dài:

“Cơ hội tốt như vậy mà thúc cứ lẩn tránh, cả ngày trốn trong nha môn, chẳng hiểu là vì cớ gì.”

Phùng Hiếu An có nỗi khổ riêng:

“Bà ấy vì con gái mà chẳng màng danh tiếng, ta thì không thể không giữ danh tiếng cho bà ấy.”

Tạ Lãm biết nhị thúc mình thật lòng với nhị thẩm:

“Nhị thúc à… nam tử hán đại trượng phu cúi đầu xin lỗi vợ mình cũng không có gì mất mặt cả.”

Phùng Hiếu An chỉ cười, không đáp.

Ông biết — việc đó chẳng có gì là mất mặt cả. Nếu có thể cứu vãn, ông sẵn lòng cúi đầu xin lỗi, thậm chí quỳ xuống cầu xin bà tha thứ cũng được.

Nhưng vấn đề thực sự giữa ông và Giang Hội Từ vẫn là câu ông đã tự thuyết phục mình buông tay khi đó:

Thứ bà muốn, ông không thể cho.

Bà luôn mong có thể chiếm lấy một chỗ thật lớn trong lòng ông. Nhưng từ trước khi gặp bà, tim ông đã chẳng còn bao nhiêu chỗ trống — phần lớn đã dành hết cho công lý và lê dân bá tánh.

Nếu cố giữ bà lại bên mình và hứa hẹn đủ điều, rốt cuộc đó cũng chỉ là lời hứa không thể thực hiện. Đến cuối cùng, trái tim bà có lẽ mãi mãi chẳng thể được lấp đầy.

Thay vì thế, chi bằng để bà rời đi, mở ra một chân trời thuộc về riêng bà, để bà có thể tìm được sự mãn nguyện ở nơi chốn khác.

Biết đâu… một ngày nào đó…

Phùng Hiếu An nắm tay lại, trong tâm trí trôi nổi trong miên man, dường như nghe thấy Tạ Lãm hỏi:

“Nhị thúc, thúc tự đẩy mình vào cảnh cô độc, bị người thân xa lánh thế này, có khi nào từng hối hận không?”

Phùng Hiếu An không né tránh, đáp thẳng:

“Không phải có từng hối hận hay không — mà là, mỗi một ngày, ta đều hối hận.

Nếu được làm lại từ đầu, ta tuyệt đối sẽ không đi gây dựng cái Hội Đồng Minh kia. Đó vốn chẳng phải con đường đúng đắn.

Ta cũng sẽ không bỏ vợ bỏ con mà chạy đến Tây Bắc, bởi có đến cả trăm cách để ta chuộc lại lỗi lầm năm xưa.

Và ta cũng không trốn biệt hơn chục năm trời, bởi hoá ra, đối mặt chẳng đáng sợ như ta tưởng.

Cầu công đạo, cứu bách tính, thực ra chẳng cần phải hy sinh đến thế. Rất nhiều việc, rõ ràng là có thể dung hòa, là do ta quá thiên lệch mà thôi..”

Vừa nói, ánh mắt Phùng Hiếu An vừa lướt qua Tạ Lãm, rồi dừng lại nơi khung cửa sổ đang mở.

“Nhưng nếu là một lần làm lại không mang theo ký ức, với tuổi đời, kinh nghiệm và hoàn cảnh thuở ấy, rất có thể ta vẫn sẽ đi vào vết xe cũ. Dù có làm lại bao nhiêu lần, kết cục e rằng cũng chẳng khác hôm nay là bao.

Cũng nhờ đã từng đi con đường ấy, nên bây giờ ta mới có đủ bản lĩnh để hiểu rằng: mình hoàn toàn có thể làm tốt cả hai.

Nói thế để thấy, cái gọi là hối hận, ngoài việc tự giày vò mình, e rằng cũng chẳng mang lại ích lợi gì.”

Rơi vào bước đường hôm nay… cũng là quả báo mà ông tự chuốc lấy.



Lúc Tạ Lãm trở về phủ, Phùng Gia Ấu đang ngủ bù giấc sáng.

Hắn rón rén bước đến bên nôi, thấy bé A Ngô cũng đang say giấc nồng.

Tạ Lãm cúi người ngắm nghía gương mặt bé xíu, vừa nhăn nhúm vừa xấu xí của con trai, nhìn mãi mà vẫn chưa chán.

Từ ngày con ra đời đến giờ, chỉ cần hắn ở nhà là nhất định tự tay chăm sóc, không phải vì không tin bà vú, mà vì muốn mau chóng nhập vai, làm quen với vị trí của người cha.

A Ngô sắp tròn tháng, đôi khi nửa đêm nghe thấy tiếng khóc, hắn còn tưởng mình bị ảo giác, không dám tin bản thân đã làm cha người ta.

Ngắm con chán chê, Tạ Lãm rởi khỏi nôi, đến bên giường, tháo giày quan rồi nằm xuống cạnh Phùng Gia Ấu, định tranh thủ chợp mắt với nàng một lúc. Hắn đúng là mệt đến rã rời, suốt buổi triều sáng nay cứ gật gà gật gù, chẳng biết đám đại thần cãi vã đỏ mặt tía tai vì chuyện gì.

Phùng Gia Ấu chưa ngủ sâu, vốn nằm ở mé ngoài, nghe động liền nhích vào trong một chút.

Trời đang giữa hè, trong phòng oi ả, hai người nằm gần nhau chỉ càng thêm nóng. Huống chi nàng vẫn còn trong cữ, không thể tắm rửa thường xuyên như lúc bình thường, cả người dính dính khó chịu.

Ấy thế mà Tạ Lãm cứ khăng khăng phải ôm lấy nàng từ phía sau. Cũng may người hắn xưa nay đông ấm hạ mát, tạm thời kề sát vào cũng không đến nỗi khó chịu lắm.

Phùng Gia Ấu nhận ra hắn có điều ấm ức:

“Sao vậy? Lên triều bị ai chèn ép hả?”

“Ta giờ là Chỉ huy thân quân của Hoàng thượng, ai dám chèn ép ta?”

Nhắc đến bọn quan lại kia, Tạ Lãm hừ khẽ đầy khinh bỉ:

“Loại tiểu nhân như Lý Tự Tu, vòng vo bóng gió chửi xéo ta, ta nghe không hiểu thì nhị thúc sẽ thay ta tính sổ. Dù sao đánh cọp phải có anh em, ra trận phải có cha con, hắn sánh sao được?”

Phùng Gia Ấu tủm tỉm cười:

“Vậy rốt cuộc là chuyện gì? Sáng ra còn thấy chàng hăm hở lắm mà?”

“Không có gì lớn, chỉ là lúc cùng nhị thúc về, nói chuyện đôi câu, nghe ông kể vài điều về cuộc đời…”

Tạ Lãm biết nàng không thích nghe chuyện về nhị thúc nên không kể thêm nữa, chỉ nghiêng người, dùng chóp mũi cọ cọ vào gáy nàng, thì thầm:

“Ấu nương…”

Nàng bị hắn cọ nhột, nhưng không dám nhúc nhích mạnh, sợ châm lửa lên người hắn. Từ lúc nàng mang thai đến giờ, hắn đã nhịn suốt chín tháng.

Tạ Lãm thở dài bên tai nàng:

“Trước kia ta cứ tưởng mình vô địch thiên hạ, chuyện gì cũng có thể gánh vác. Nhưng giờ nghĩ lại, nếu đặt bản thân vào thời loạn hai chục năm trước, e rằng cũng khó mà không bị dòng đời cuốn trôi.”

“Thì vốn là vậy.” Phùng Gia Ấu chưa bao giờ nghĩ thiên hạ này chỉ cần một người là có thể bình định, cũng chẳng cho rằng họ giỏi hơn tiền nhân bao nhiêu.

Miệng nói là dọn tàn cục, nhưng trên thực tế, tiền nhân đã dọn dẹp qua vô số tàn cục rồi, chỉ là vẫn còn sót lại chút rối ren chưa kịp thu xếp mà thôi.

Nàng nói:

“So với cha mẹ đời trước, chúng ta thực ra là một thế hệ rất may mắn.”

Tạ Lãm gật đầu đồng tình, lòng thầm thấy nàng nói quá đúng.

Cũng bởi vậy, họ càng phải cố gắng hơn nữa… để A Ngô sau này có thể trở thành một thế hệ còn may mắn hơn.



Đêm xuống, phủ Trấn Quốc Công.

Yến tiệc đầy tháng sắp được tổ chức ở Phùng phủ khiến không ít người đau đầu vì chuyện chọn quà mừng.

Trong số đó có cả Tùy Anh.

Thật ra từ trước khi Phùng Gia Ấu sinh nở, Tùy Anh đã chuẩn bị xong quà. Nhưng mấy hôm nay càng nhìn lại càng thấy… không đủ tấm lòng. Phùng Gia Ấu là người bạn thân nhất của nàng, mà bé A Ngô lại là con trai đỡ đầu của nàng.

Lễ vật nhất định phải thật đặc biệt mới được.

Nhưng Tùy Anh nghĩ mãi cũng không ra — với một người chẳng thiếu gì như Phùng Giai Ấu, thì còn món quà nào có thể gọi là đặc biệt nữa đây? Có thứ quý giá nào Phùng Gia Ấu muốn mà Giang gia ở Dương Châu không thể lo được chứ?

Nghĩ mãi, nghĩ mãi… rồi thiếp đi lúc nào không hay.

Trong mơ màng, nàng cảm thấy có ai đó ngồi xuống mép giường, nhẹ nhàng kéo chăn đắp lại cho nàng. Trong tiềm thức, nàng biết đó là Lạc Thanh Lưu nên không hoảng hốt hay giật mình tỉnh dậy.

Hơn một năm qua, hai người vẫn thường gặp nhau như này, nhưng nếu tính kỹ thì số lần cũng chẳng nhiều.

Trước kia, Lạc Thanh Lưu thường tới vào đầu đêm. Nhưng hai ba tháng gần đây hắn được Từ Tông Hiến cất nhắc, chức vụ ở Ti Lễ Giám ngày càng cao, việc càng lúc càng nhiều, cũng bị người ta để mắt tới nhiều hơn.

Cho nên phần lớn hắn chỉ có thể đến vào lúc nửa đêm về sáng. Mà vì còn phải theo Từ Tông Hiến lên triều sớm nên thời gian ở lại cũng chẳng được bao lâu, vừa đến đã lại phải vội vã quay về cung.

Thường thì chỉ cần nghe tiếng chuông nhỏ reo lên, Tùy Anh đã tỉnh giấc trước khi hắn bước vào phòng.

Nhưng đôi khi ban ngày mệt quá, nửa đêm nàng ngủ mê man chẳng nghe thấy chuông, Lạc Thanh Lưu cũng chẳng gọi, chỉ lặng lẽ ngồi bên giường, hoặc đến bàn sách lật xem những binh thư nàng vừa đọc trong ngày.

Mấy lần như vậy, sáng ra nàng đều chẳng hay đêm qua hắn đã đến. Về sau trong lúc trò chuyện vô tình nhắc tới nàng mới biết.

Hôm đó nàng nổi giận với Lạc Thanh Lưu không để đâu cho hết.

Giờ muốn gặp được hắn đã khó. Sau này khi Từ Tông Hiến rút khỏi trung tâm quyền lực vì con trai, cùng Lý Thanh Vãn ẩn cư, thì Lạc Thanh Lưu sẽ là Đại đốc công kế nhiệm. Họ muốn gặp nhau lại càng thêm khó.

Tuy nàng cũng có con đường riêng để đi, cũng bận rộn chẳng kém ai, không phải lúc nào cũng nghĩ về hắn. Nhưng mỗi đêm trước khi ngủ, lòng vẫn cứ mơ hồ mong đợi.

Nàng chất vấn hắn có hiểu cho cảm giác đó của nàng không?

Từ bé Tùy Anh đã sống với hai ‘gương mặt’. Đối với người ngoài nàng lúc nào cũng nóng nảy bộc trực, chẳng có chút kiên nhẫn. Nhưng đối với người nàng để tâm, lại hiền lành dịu dàng như một con mèo nhỏ.

Tất nhiên, ngoại trừ đứa em trai Tùy Tư Nguyên và cái tên đầu óc có vấn đề Thẩm Thời Hành kia ra.

Vậy nên hôm nàng nổi giận, Lạc Thanh Lưu, người luôn hiểu nàng nhất, cũng bị dọa cho sợ không nhẹ.

Nàng cho hắn hai lựa chọn: một là đánh thức nàng dậy, hai là lên giường nằm xuống bên nàng.

Sau đó Lạc Thanh Lưu có thử gọi nàng thật. Nhưng lúc ấy nàng quá mệt, ngồi dậy ngáp ngắn ngáp dài, hai mắt đỏ hoe đầy tia máu.

Từ đó về sau, mỗi khi lại gặp cảnh ấy, hắn chẳng đành lòng gọi nữa, vẫn mặc nguyên y phục, lặng lẽ nằm xuống quay mặt đối diện nàng.

Bên cạnh đột nhiên có người nằm xuống, dù có mệt đến mấy Tùy Anh cũng nhận ra hắn đã tới.

Nhưng nàng cũng không vì vậy mà được nước lấn tới. Từ chuyện hắn dám bước vào phòng nàng, rồi ngồi bên giường nàng, cho đến khi bằng lòng nằm xuống cạnh nàng…

Tùy Anh không rõ một người cố chấp như hắn đã phải vật lộn để vượt qua từng bước ấy ra sao, nhưng chắc chắn là chẳng hề dễ dàng.

Nàng nằm thêm một lúc mới chầm chậm mở mắt ra.

Vừa hay bắt gặp Lạc Thanh Lưu đang vươn tay định vén mấy sợi tóc vương ngang sống mũi nàng ra sau tai.

Hắn định rút tay về, nhưng rồi vẫn tự nhiên làm nốt động tác ấy:

“Ta làm nàng tỉnh giấc à?”

“Chàng đánh thức được ta, chứng tỏ hôm nay ta cũng không mệt lắm.”

Tùy Anh ngồi dậy, níu tay áo hắn, vừa nhăn mặt vừa than:

“Chàng đến đúng lúc lắm, ta đang đau đầu đây, không biết nên tặng gì cho Tiểu A Ngô.”

Lạc Thanh Lưu ngạc nhiên:

“Chẳng phải nàng đã chuẩn bị từ sớm rồi sao?”

Tùy Anh lắc đầu:

“Những món ấy tuy quý giá thật, nhưng ta thấy vẫn chưa đủ đặc biệt. Không đủ thể hiện tấm lòng ta dành cho thằng bé. Dù gì ta cũng là mẹ đỡ đầu của nó mà.”

Lạc Thanh Lưu khẽ cười:

“Nàng định làm mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô à?”

Tùy Anh cũng cười:

“Ta và Tiểu Gia đã hứa với nhau từ nhỏ rồi, sau này sẽ làm mẹ đỡ đầu cho con của nhau.”

Nói đến đây, nàng vội bổ sung ngay:

“Tính theo nghĩa nào đó thì ước hẹn ấy của hai đứa cũng coi như thành rồi. Ta là mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô, còn Tiểu Gia thì thành sư nương của Tư Nguyên nhà ta.”

Vừa nói xong, nàng lén liếc nhìn sắc mặt Lạc Thanh Lưu, thấy hắn không phản ứng gì mới yên tâm.

Nhưng Lạc Thanh Lưu chỉ đang cố giữ nét mặt bình thản, trong lòng thực ra không hề yên ổn.

Chỉ là thứ cảm xúc ấy lại không giống như Tùy Anh nghĩ.

Hắn đang tự trách mình.

Rất nhiều điều, hắn chẳng thể cho nàng được. Hắn nợ nàng, người chịu thiệt thòi là nàng. Thế mà nàng lúc nào cũng quá đỗi cẩn thận, lúc nào cũng sợ hắn phải chịu uất ức.

Lẽ ra… không nên như vậy.

Không thể để im lặng kéo dài, Lạc Thanh Lưu lên tiếng:

“Nói đến em trai nàng, dạo này tiến bộ nhiều đấy. Lúc nãy đi ngang qua vườn, ta thấy nó nửa đêm vẫn còn đang luyện đao.”

Thường thì mỗi lần có ai khen Tùy Tư Nguyên, Tùy Anh sẽ cười vui ngay.

Không ngờ lần này nàng lại hậm hực:

“Tạ Lãm thật quá đáng!”

Lạc Thanh Lưu bị tiếng quát bất ngờ làm giật mình.

“Hắn với Lý Tự Tu không ưa nhau, rồi lại đem em ta ra trút giận!”

Hiện tại, Tùy Tư Nguyên có hai sư phụ. Văn là Lý Tự Tu. Võ là Tạ Lãm.

Cả hai đều là kỳ tài trong lĩnh vực của mình, chỉ cần bái được một người đã là đại phúc.

Mà bái được cả hai… thì đúng là đời khổ không ai bằng.

Hai ông thầy kia chẳng ai nhường ai, ngấm ngầm so xem ai dạy giỏi hơn, xem Tùy Tư Nguyên học văn tốt hơn hay luyện võ giỏi hơn.

Dù cả hai đều dốc lòng truyền dạy, nhưng khối lượng bài vở thì thật sự khiến người ta sứt đầu mẻ trán, sống dở chết dở.

Tùy Anh vừa nói vừa tức đỏ mặt:<b>“Lý Tự Tu thì ít ra còn sót lại chút tình người. Còn Tạ Lãm – đúng là không có nửa phần nhân tính! Chỉ vì mấy hôm trước Tư Nguyên đọc thêm vài quyển sách, bỏ sót một bài đao pháp, thế mà bị bắt luyện đao suốt ba đêm liền đến tận sáng!”

Mặt Tùy Anh đỏ bừng vì tức, Lạc Thanh Lưu dỗ dành:

“Đúng là họ có phần tranh đua, nhưng chắc chắn cũng cân nhắc đến sức chịu đựng của Tư Nguyên. Nàng cũng đừng lo quá. Với lại, dạo này nó tiến bộ không ít đâu.”

“Thôi đừng nhắc nữa.” Tùy Anh xua tay, vẻ mặt đầy phiền muộn, “Nghĩ tiếp xem nên tặng gì cho Tiểu A Ngô thì hơn.”

Lạc Thanh Lưu nói:

“Nếu nàng không đặt nặng chuyện vật chất, chỉ muốn tỏ tấm lòng thôi, thì ta có một món này khá hợp. Mai ta sai người mang tới, nàng dùng làm quà là vừa đẹp.”

Tùy Anh tò mò:

“Món gì thế?”

Lạc Thanh Lưu cũng không làm bộ giấu diếm:

“Thiết hàn Yên Sơn, chuyên dùng để rèn binh khí. Thứ này hiếm lắm, ta mới lấy được mấy hôm trước, thật đúng dịp.”

Tùy Anh lập tức nghĩ đến cái hộp binh khí rực rỡ của Tạ Lãm:

“Tạ đại nhân chắc không thiếu thứ này đâu nhỉ?”

“Ta không biết hắn có thiếu hay không, nhưng chắc chắn là sẽ không chê nhiều đâu.”

Lạc Thanh Lưu cười rồi kể:

“Loại ám khí mà Tạ phu nhân luôn mang theo bên người, chính là dùng loại Hàn thiết Yên Sơn này đấy.”

Chuyện này Tùy Anh biết, Phùng Gia Ấu từng kể với nàng rằng Tạ Lãm đã nấu chảy mấy thanh đao, đích thân đúc thành.

Lạc Thanh Lưu nói thêm một việc nàng chưa biết:

“Hồi trước thành hoang gần biên giới Nam Cương, lúc bọn ta giao chiến với cận vệ hoàng thất Nam Cương, Tạ phu nhân từng dùng ám khí đó một lần, nàng nhớ không?”

“Nhớ.” Tùy Anh gật đầu.

“Khi ấy có mấy chiếc châm bắn trúng thủ lĩnh đội cận vệ, phần còn lại thì găm vào tường gần đó… Sau khi chúng ta rút về Đô Ti Điền Nam, Tạ huynh vừa tỉnh dậy khỏi hôn mê, nói năng còn chưa rõ, đã vội gọi ta tới, hỏi ta có khỏe chưa, bảo là có chuyện hệ trọng muốn nhờ.”

Chuyện đã qua khá lâu, giờ nhắc lại mà Lạc Thanh Lưu vẫn không nhịn được cười:

“Lúc đó nhìn vẻ thần bí nghiêm trọng của huynh ấy, ta còn tưởng là chuyện quốc sự gì ghê gớm. Ai ngờ đâu… lại là nhờ ta quay lại thành hoang, nhặt cho được mấy chiếc kim châm bị rơi!”

Môi Tùy Anh không nén được toét cười:

“Chàng không thật sự đi đấy chứ?”

“Ta đi chứ. Người kiêu ngạo như huynh ấy hiếm hoi lắm mới mở miệng nhờ vả. Sao ta có thể không đi được?”

Lạc Thanh Lưu xòe hai bàn tay đẹp đẽ ra, cảm thán:

“Từng cây, từng cây nhổ ra khỏi bức tường phủ đầy rêu… cũng vất vả lắm đấy.”

Tùy Anh lúc này mới thật sự tin:

“Xem ra thứ hàn thiết đó thật sự quý giá.”

Lạc Thanh Lưu giải thích:

“Chủ yếu là vì rất hiếm, không phải cứ có tiền là mua được.”

Tùy Anh lườm hắn:

“Tại chàng không thiếu tiền. Chứ phần đông mọi người dù có gặp được cũng chưa chắc mua nổi.”

Lạc Thanh Lưu ngượng ngùng gãi mũi, rồi dặn thêm:

“Nàng đừng kể chuyện này với Tạ phu nhân nhé. Tạ huynh mà biết ta lộ ra chuyện xấu hổ của huynh ấy thế nào cũng tìm ta tính sổ.”

Tùy Anh cười khúc khích:

“Chàng kể với ta, chẳng phải là để ta thay chàng ‘báo thù’ xả giận trong lòng hả?”

Lạc Thanh Lưu: “…”

“Còn bày đặt ra vẻ nữa.” Tùy Anh cười tủm tỉm liếc hắn một cái, rồi hỏi tiếp, “À đúng rồi, chàng chuẩn bị quà cho Tiểu A Ngô chưa?”

“Cũng giống nàng, ban đầu đã tính xong cả rồi, giờ nhìn lại… tự nhiên thấy vẫn chưa đủ chân thành.”

Tùy Anh không còn rầu rĩ nữa, đến lượt Lạc Thanh Lưu nhíu mày, đau đầu nghĩ ngợi.

Trong lúc mải nghĩ, hắn vô thức thốt ra tiếng lòng:

“Nàng là mẹ đỡ đầu của Tiểu A Ngô, vậy ta chính là cha đỡ đầu rồi. Thế thì phải cân nhắc lại quà tặng, chọn món nào thật xứng mới được…”

Lần đầu tiên Tùy Anh nghe hắn nói ra lời ‘xác định mối quan hệ’ như vậy, tim chợt hẫng một nhịp, ngay cả hô hấp chừng như cũng ngưng một thoáng. Nàng rất muốn nói: <i>Chàng ngốc à? Đã là cha mẹ đỡ đầu thì tặng chung một món quà là được rồi còn gì.</i>

Nhưng nghĩ vậy thôi, nàng không dám nói ra, sợ hắn bừng tỉnh không biết sẽ phản ứng kỳ quặc thế nào. Hai người họ bên nhau chưa lâu, nàng vẫn chưa hiểu hắn hoàn toàn, lo rằng bản thân không xử lý tốt được.

Vừa tỉnh dậy chưa được bao lâu, đầu óc mơ màng, thân thể cũng uể oải, thế nên Tùy Anh nhẹ nhàng ôm lấy cánh tay hắn, tựa cằm lên vai hắn.

Nàng cảm nhận được lưng hắn hơi căng cứng. Biết hắn vẫn chưa quen với những động chạm thân mật thế này, nhưng ít ra… hắn cũng không còn tránh né như trước.

Như lời Phùng Gia Ấu vẫn hay an ủi nàng: chỉ cần chịu đựng qua những ngày gian khổ, thì những tháng ngày sau đó… ắt sẽ dần dần tốt lên thôi.



Lạc Thanh Lưu rời đi, Tùy Anh cũng không ngủ thêm nữa. Nàng trở dậy thay đồ, chạy một mạch ra vườn.

Quả nhiên, Tùy Tư Nguyên vẫn đang luyện đao giữa vườn.

Nàng đứng bên kia luống hoa, lớn tiếng quát:

“Đã hai đêm liền không ngủ rồi đấy! Muốn luyện đến liệt luôn hả? Lời sư phụ thì nghe răm rắp, còn lời tỷ tỷ ruột thì bỏ ngoài tai hết rồi đúng không?!”

Tùy Tư Nguyên cúi gằm mặt, mặt mày bí xị, không dám cãi lại, mà cũng chẳng dám ngừng tay.

Tùy Anh nhìn bộ dạng khúm núm của em trai, trong lòng chua chát chẳng biết nói sao cho phải.

Ban đầu nàng lo lắng lắm, sợ Lý Tự Tu và Tạ Lãm đều không thu phục nổi tên em trai ngang tàng quậy phá của mình. Về sau mới nhận ra, tại mình kiến thức hạn hẹp.

Tên Lý Tự Tu kia chỉ cần ba tấc lưỡi, cũng đủ khiến em trai nàng ngoan ngoãn cúi đầu. Chỉ mười ngày ngắn ngủi, mà nó đã suốt ngày <i>“thầy Lý nói thế này, thầy Lý bảo thế kia”</i>…

Tạ Lãm thì lại chẳng dùng vũ lực để đè người như nàng tưởng.

Hôm từ Tây Bắc trở về, hắn tặng cho Tùy Tư Nguyên một thanh đao do chính tay hắn rèn.

Ban đầu, thằng nhóc tỏ rõ thái độ coi thường. Bởi nhìn bề ngoài, đao không có gì đặc biệt, chất liệu cũng chẳng quý hiếm, trông như làm cho có.

Nào ngờ mới vung vài lần, Tùy Tư Nguyên sửng sốt. Thanh đao ấy dường như được tạo ra để dành riêng cho cậu vậy, hợp tay, hợp sức, phát huy sở trường, tránh hết sở đoản. Quả thật là thanh binh khí vừa tay nhất từ trước tới nay.

Thế là bị ‘thu phục’ luôn. Từ đó bám theo Tạ Lãm gọi ‘sư phụ’ suốt ngày.

Thật là quá tốt.

Chỉ mong hai vị đại sư này đừng tiếp tục lấy em nàng làm công cụ tranh cao thấp, thì sẽ càng tốt hơn nữa.



Sáng hôm sau, Tùy Anh tới Phùng phủ tìm Phùng Gia Ấu để… mách tội.

Phùng Gia Ấu thì làm được gì bây giờ?

Thật sự là… chẳng làm gì được cả.

Những chuyện nhỏ không liên quan đến nguyên tắc như thế này, nếu nàng nói với Tạ Lãm, hắn chắc chắn sẽ gật đầu đồng ý ngay miệng, tỏ ra hào sảng lắm. Nhưng vừa quay lưng đã nhe răng trợn mắt, làm khó cho Tùy Tư Nguyên hơn nữa.

Huống hồ, cách Tạ Lãm dạy Tùy Tư Nguyên cũng chẳng gọi là nghiêm khắc gì cho cam — bởi với bản thân, hắn còn khắc nghiệt hơn thế nhiều.

Nghĩ đến đây, Phùng Gia Ấu nhìn bé A Ngô đang nằm trong lòng bú sữa, không khỏi dấy lên lo lắng.

Tiểu A Ngô còn hai hôm nữa mới đầy tháng, gương mặt bé con vẫn còn nhăn nheo, chưa rõ giống ai hơn, cũng chưa biết mai sau nên theo văn hay theo võ.

Đợi đến khi thằng bé lớn thêm chút nữa, nếu một ngày nào đó bị Tạ Lãm phát hiện nó có chút tư chất luyện võ, thì e là chẳng còn ngày nào yên thân đâu…

Tuy nhiên, Phùng Gia Ấu xưa nay vốn rất tin vào câu “mẹ hiền hay làm hỏng con”, nên cũng không tiện can thiệp.



Tới ngày tiệc đầy tháng, Phùng Gia Ấu không cần ra mặt. Tạ Lãm cũng chẳng bước chân khỏi phòng, chỉ ở cạnh hai mẹ con.

Hắn có thể dụng tâm tính toán từng li từng tí trong việc sắp xếp yến tiệc, nhưng kêu hắn đứng ra tiếp khách thì miễn. Chẳng học, cũng chẳng thèm học. Bữa tiệc ngoài kia xảy ra chuyện gì đã có nhị thúc hắn ra mặt rồi.

Bé A Ngô đang ngủ. Mà trẻ con một khi ngủ say thì không dễ bị đánh thức. Tạ Lãm ngồi bên nôi, tay mân mê khối hàn thiết Yên Sơn mới nhận được, mặt mày đầy thích thú:

“Thanh Lưu đúng là chịu chi vì Tùy Anh. Khối này ta từng mua được một lần, từ đó đến giờ chưa từng thấy ai rao bán nữa. Vậy mà hắn nói tặng là tặng luôn.”

Phùng Gia Ấu đang nửa nằm trên giường đọc sách, hỏi:

“Sao chàng biết là Thanh Lưu tặng cho A Anh?”

“Lần trước ta tiện tay rèn đao cho Tư Nguyên xong, hắn đến hỏi ta có thể rèn cho Tùy Anh một thanh kiếm vừa tay không.”

Tạ Lãm tuy không phải thợ rèn hạng nhất, nhưng lại rất biết tùy người mà chế, tạo ra binh khí đúng với người sử dụng vô cùng.

“Hắn nói sẽ lo phần nguyên liệu, ta thấy cũng được nên gật đầu. Sau đó chẳng nghe gì thêm, giờ nhìn khối sắt này thì chắc là nguyên liệu hắn tìm được.”

Phùng Gia Ấu thầm hiểu ra, cười khẽ:

“Thanh Lưu đối với A Anh thật không có gì để chê, là một người đàn ông hiếm có, A Anh động lòng với huynh ấy cũng phải thôi.”

Tạ Lãm nghe nàng khen người khác thì không vui chút nào, cho dù người đó là Lạc Thanh Lưu. Hắn cau mày làu bàu:

“Sao nàng không khen ta? Cái gì hắn cũng học từ ta, đến nguyên liệu rèn vũ khí cũng chọn y như ta, chẳng có lấy một chút sáng tạo nào hết!”

Phùng Gia Ấu nhìn dáng vẻ tức tối của hắn thì buồn cười nhưng nàng cố làm ra vẻ ngạc nhiên:

“Thì ra bộ kim châm trong tay áo của ta cũng làm từ loại hàn thiết này à?”

“Đúng thế.”

Phùng Gia Ấu híp mắt, giọng thong thả:

“Nhưng ta chưa bao giờ đưa nó cho Thanh Lưu xem, vậy làm sao huynh ấy nhận ra?”

Một câu hỏi khiến Tạ Lãm nghẹn họng, chau mày suy nghĩ.

Một lúc lâu sau, mới chợt nhớ ra, chính là lần nhờ Lạc Thanh Lưu tới thành hoang nhặt kim dùm mình.

Liếc sang Phùng Gia Ấu, thấy nàng cười tủm tỉm đầy ẩn ý, ánh mắt trêu chọc. Tạ Lãm lập tức hiểu ra Lạc Thanh Lưu đã bán đứng mình.

Hắn lập tức bật dậy, định chạy ra ngoài tiệc tìm Lạc Thanh Lưu tính sổ. Nhưng sực nhớ bây giờ hai người ngoài mặt không cùng phe, Lạc Thanh Lưu không đến dự tiệc

Thế là ỉu xìu ngồi xuống, nhỏ giọng biện bạch:

“Ấu Nương… không phải ta tiếc tiền đâu, chỉ là mấy cây kim ấy đều do ta tự tay mài từng cây một, vất vả như thế, mất thì tiếc lắm.”

Thật ra là tiếc tiền thật. Năm xưa mua khối hàn thiết ấy hắn đã vét sạch tiền dành dụm bao năm.

Nhưng không thể để Phùng Gia Ấu nghĩ mình keo kiệt được.

Thực ra Phùng Gia Ấu chỉ thấy buồn cười mà thôi.

Tạ Lãm đổi đề tài:

“À đúng rồi, Thẩm Thời Hành tặng gì vậy?”

Theo lệ ở kinh thành, những người quan hệ thân thiết thường gửi lễ đến từ hôm trước.

Tạ Lãm có linh cảm Thẩm Thời Hành sẽ tặng thứ gì đó kỳ quặc, nói chung là chẳng giống ai.

Phùng Gia Ấu đáp:

“Một rổ vàng. Nói là chàng cứ hay soi mói huynh ấy, tặng gì chàng cũng không vừa lòng, thế nào cũng kiếm chuyện nói cho bằng được, nên dứt khoát đưa tiền, bảo chàng tự đi mà mua.”

Tạ Lãm: “…”

Hắn lại hỏi tiếp:

“Còn Lý Tự Tu? Mang danh là đồ đệ nhị thúc, A Ngô là cháu ngoại của nhị thúc, chắc không dám đưa quà tệ đâu nhỉ?”

“Là một bộ thư pháp quý hiếm mà anh ta sưu tầm được và quý trọng, với một bộ sách vỡ lòng do chính tay anh ta soạn.”

Nàng vừa nói vừa chỉ tay về phía kệ sách đang xếp đầy ắp.

Những quyển đó nàng đã đọc hết cả rồi.

“Không hổ là đế sư. Sách viết còn hay hơn cả mấy bộ sách vỡ lòng đang lưu hành hiện giờ. Chắc không lâu nữa sẽ được ban hành rộng rãi khắp cả nước.”

Phùng Gia Ấu không khỏi thầm nghĩ, nếu năm đó ở Kim Lăng, Lý Tự Tu mà chịu gửi cho nàng bộ sách thiếu nhi kiểu này, biết đâu… nàng đã ưng y rồi cũng nên.

Tạ Lãm cười khẩy, chẳng lấy làm cảm kích chút nào:

“Thư pháp thì miễn cưỡng coi như có giá trị, nhưng mấy quyển sách vỡ lòng sắp được in đại trà toàn quốc thì có gì quý hiếm?”

Phùng Gia Ấu nhẹ nhàng nói:

“Thì in ra phát hành là bản khắc gỗ thôi, còn cái anh ta tặng cho A Ngô là bản viết tay — độc bản, chỉ có một, tất nhiên quý giá rồi.”

Tạ Lãm biết một bức thư pháp của Lý Tự Tu cũng đã đáng giá ngất ngưởng, huống chi là cả một bộ sách. Nhưng biết thì biết, hắn vẫn hừ mũi khinh khỉnh:

“Lý Tự Tu còn sống sờ sờ ra đó, ai biết sau này có viết thêm bao nhiêu bản đem tặng nữa.”

Phùng Gia Ấu không buồn tranh luận:

“Chàng nói cũng đúng.”

Lúc này, bé A Ngô trong nôi phát ra tiếng ư a.

Tạ Lãm vội vàng nhìn sang thì thấy bé m.út m.út môi vài cái, rồi lại thiếp đi.

Nói đến quà tặng… Lý Tự Tu đã mang sách vỡ lòng tặng con trai hắn, vậy thì…

Tạ Lãm tung tung khối Hàn thiết nặng trịch trong tay, nói:

“Vậy ta sẽ dùng khối hàn thiết này, rèn cho A Ngô một con dao nhỏ để chơi.”

Phùng Gia Ấu khuyên:

“Loại sắt này hiếm lắm, chàng cứ chờ thêm đã, giờ còn chẳng biết A Ngô có phải là người hợp luyện võ hay không mà.”



Sau tiệc đầy tháng, Giang Hội Từ rời kinh thành, quay về Dương Châu tiếp tục việc kinh doanh.

Lần này, Phùng Gia Ấu và Tạ Lãm cùng tiễn bà ra đến bến đò, vừa đi vừa nói cười vui vẻ.

Hoàn toàn khác với lần tiễn biệt trước đây, trong lòng Phùng Gia Ấu không còn chút buồn thương nào. Bởi nàng đã thật sự tin rằng con đường mẹ chọn là đúng đắn, và bà đang sống ngày một tốt hơn.

Còn chuyện mai sau thế nào, vẫn là điều chưa biết.

Có thể một ngày nào đó, mẹ nàng nhận ra lòng mình vẫn chẳng thể buông bỏ Phùng Hiếu An, rồi quay về đoàn tụ với ông.

Mà cũng có thể, bà sẽ gặp được một người đàn ông tốt hơn, rồi tái giá lần nữa.

Dù là kết cục nào, Phùng Gia Ấu cũng tin rằng mẹ nàng sẽ không còn sống như ngày trước — bị động và chịu đựng nữa.



Sau đó, chuyện lớn tiếp theo mà Phùng Gia Ấu phải đối mặt chính là trình luật mới lên triều đình.

Quá trình diễn ra gần đúng như lời Lý Tự Tu từng dự đoán. Sau khi Phùng Hiếu An dâng bản luật dưới tên nàng, triều đình lập tức dậy sóng.

Còn chưa đợi Nội Các kịp phản ứng, Ti Lễ Giám đã là bên đầu tiên phản đối.

Từ trước đến nay, Từ Tông Hiến vốn không hay làm việc theo kiểu cực đoan, vậy mà lần này, ông lại dẫn đầu hoạn đảng, phản đối vô cùng gay gắt. Tựa như bộ luật mới của Phùng Gia Ấu đã động đến lợi ích nào đó của bọn họ vậy.

Từ đó, Nội Các vốn nên là phe cứng rắn lại đâm ra ỡm ờ, không rõ ràng.

Sau hai năm đứng giữa cơn bão dư luận, cuối cùng bản luật do chính tay nàng biên soạn đã được triều đình phê chuẩn, định ngày đầu năm tới sẽ bắt đầu áp dụng.



Sau đợt bận rộn ấy, hai vợ chồng lại đưa nhau trở về thành Hắc Thủy một chuyến.

Khác với lần trước, lần này họ dẫn theo cả Tiểu A Ngô — lúc này đã hai tuổi rưỡi.

Nói đến chuyện A Ngô lớn lên thành thế nào, bao lo lắng trước đó của Tạ Lãm hóa ra đều là chuyện lo bò trắng răng. Bé không những chẳng phải bị thịt, mà còn vô cùng lanh lợi, biết nói sớm, thuộc thơ nhanh, đầu óc cực kỳ nhanh nhạy.

Mới có hai tuổi, khi Tạ Lãm dạy Tùy Tư Nguyên luyện võ, nhóc con đứng bên lon ton bắt chước theo. Dù thân thể mềm nhũn, nhưng dáng dấp lại giống đến tám phần.

Phùng Gia Ấu chỉ coi như nhìn cho vui, còn Tạ Lãm đã chắc như đinh đóng cột rằng bé là hạt mầm võ học, trong lòng mừng húm.

Vậy nên lần này hắn nhất quyết phải đưa A Ngô về thành Hắc Thủy một thời gian. Bản thân Tạ Lãm chưa từng dạy võ cho trẻ nhỏ, nhưng cha hắn thì lại là cao thủ trong việc đó, từng đào tạo ra một thiếu niên mười ba tuổi đã xưng bá khắp Tây Bắc.

Thế nên chuyện khai mở căn cơ võ học cho A Ngô, Tạ Lãm một lòng muốn giao cho Tạ Triều Ninh.



Dọc đường về Tây Bắc, Phùng Gia Ấu cứ nơm nớp không yên. Nàng quá rõ tính tình nghiêm khắc của Tạ Triều Ninh, không ngừng tự hỏi có cần thiết phải làm vậy không.

Cho đến khi họ đặt chân tới thành Hắc Thủy, nàng mới nhận ra mình đã nghĩ nhiều rồi.

Nàng quên mất rằng, có một loại tình thân gọi là ‘tình ông cháu’.

Tạ Triều Ninh vừa trông thấy bé A Ngô, liền lập tức từ người cha nghiêm khắc biến thành một ông nội hiền lành. Mặt mũi lạnh tanh với con trai bao nhiêu, thì nhìn cháu nội lại dịu dàng cưng chìu bấy nhiêu.

Nghe xong ý định của Tạ Lãm, ông chỉ bảo:

“Cứ từ từ, để thằng bé nghỉ ngơi mấy hôm rồi tính.”

Hôm ấy, thấy cháu trai bị nắng làm đỏ mặt, trông như thể cũng thừa hưởng cái ‘tật’ của nhà họ Lục, Tạ Triều Ninh lập tức tặng cho bé một cây dù che nắng đặc chế.

Còn liên tục dặn dò:

“Nắng sa mạc gắt lắm, da non dễ bị bỏng. Có nắng thì phải che, đừng có học thằng cha ngốc của con, khi xưa bị nắng thiêu tróc mấy lớp da.”

Tạ Lãm kinh ngạc:

“Cha! Trước kia chẳng phải cha cứ bảo con phải chịu khó ra nắng thì chân mới cứng, còn mắng con là con trai mà sợ nắng làm gì?”

Tạ Triều Ninh đáp tỉnh rụi:

“Hồi đó là vì nhà mình ăn uống chẳng ra sao, không phơi nắng thì mày lớn lên chân tay yếu ớt. Giờ thì khác rồi, có thiếu thốn gì đâu, không cần tắm nắng xương cốt cũng vững vàng, khỏi lo.”

Tạ Lãm: “…”

Khi A Ngô luyện võ mệt quá, nhõng nhẽo đòi ăn kẹo, Tạ Triều Ninh liền móc cả nắm trong tay áo ra đưa ngay.

Tạ Lãm càng thêm sửng sốt:

“Cha! Ngày xưa con chỉ mới nói muốn ăn kẹo là ăn ngay một bạt tai! Cha chẳng bảo con trai thì phải khổ mới nhớ đời còn gì?”

Tạ Triều Ninh lườm hắn:

“Hồi đó cơm còn chẳng đủ no, mày còn đòi ăn kẹo, lấy đâu ra mà cho?”

Tạ Lãm: “…”

A Ngô vừa mới nói thích thỏ con, chưa đến nửa ngày sau, Tạ Triều Ninh đã bắt hẳn một ổ đem về.

Tạ Lãm cười nhạt:

“Cha chẳng từng bảo ‘ham chơi hại thân’ sao? Trước kia con mà muốn nuôi con gì là cha cấm hết, chỉ tặng cho con mỗi con kền kền trụi lông!”

Tạ Triều Ninh nói dứt khoát:

“Cũng là câu cũ thôi. Hồi ấy người ăn còn không đủ, lấy đâu ra đồ dư mà nuôi thú cưng? Cha cho mày nuôi kền kền là bởi nó chỉ ăn xác thối, khỏi giành phần cơm của nhà mình.”

Hay lắm! Tạ Lãm cảm thấy mình sắp tức đến trào máu.

Hóa ra bao nhiêu năm trời, những lý lẽ cao vời hắn từng bị nhồi nhét hồi nhỏ, nào là “ăn khổ mới nên người”, nào là “nam nhi đại trượng phu phải thế này thế nọ”…

Tất thảy đều là… xạo sự hết!

Nguồn cơn cũng chỉ gói gọn trong một chữ: nghèo!

Vốn định ở lại thành Hắc Thủy vài ba tháng, cuối cùng Tạ Lãm chỉ cầm cự được nửa tháng đã vội vã dắt vợ con cuốn gói quay về kinh. Ở lại thêm vài ngày nữa, hắn sợ thằng bé nhà mình sẽ bị ông nội nuông chiều đến hỏng.

Phùng Gia Ấu ở thành Hắc Thủy suốt ngày xem trò vui, hôm nào cũng cười tít mắt.

Thấy dáng vẻ Tạ Lãm đêm hôm thu xếp đồ đạc bỏ chạy, nàng lại được thêm trận cười nữa.



Sau khi thất bại trong việc nhờ người khác khai mở võ học cho con, về tới kinh thành, Tạ Lãm đành tự mình ra tay, bắt đầu trực tiếp dạy Tiểu A Ngô tập võ.

Còn việc khai mở văn học thì giao hẳn cho ông ngoại Phùng Hiếu An cùng mẹ bé đảm đương, hắn tuyệt nhiên không nhúng tay vào.

Tiểu A Ngô lớn ngày một nhanh. Người ta bảo “ba tuổi nhìn ra cả đời”, ai nấy đều khen sau này lớn lên thể nào cũng văn võ song toàn.

Tạ Lãm mừng không để đâu cho hết, nhưng trong lòng lại có một nỗi bực bội không nói nên lời.

Hắn phát hiện con trai mình càng lớn càng giống người mà hắn ghét nhất kinh thành — Lý Tự Tu.

Không phải giống về vẻ ngoài, mà là cách nói chuyện, dáng điệu, từng cử chỉ, thỉnh thoảng khiến hắn có cảm giác như đang nhìn thấy một Tiểu Lý Tự Tu vậy.

Nhưng nghĩ kỹ lại, hắn nhớ nhị thúc từng nói, Lý Tự Tu và Phùng Gia Ấu không hợp nhau, bởi Lý Tự Tu khá giống ông. Vậy nên, có lẽ Tiểu A Ngô giống ông ngoại.

Tuy nhiên, đến khi Tiểu A Ngô được hơn năm tuổi, Tạ Lãm mới chính thức xác nhận một sự thật:

Thằng bé không giống nhị thúc, mà thật sự có vài phần giống Lý Tự Tu.

Lần trước lên Tây Bắc, Tiểu A Ngô đã bộc lộ căn bệnh di truyền của nhà họ Lục — chỉ cần bị nắng chiếu vào là hai má đỏ ửng không bình thường. Chứng này còn nặng hơn cả Tạ Lãm và Tạ Lâm Khê năm xưa.

Trong những ngày đông nắng nhẹ dịu của kinh thành, chỉ cần phơi nắng trưa một chút thôi, hai má bé đã đỏ ửng như thoa phấn hồng.

Tạ Lãm đích thân làm cho bé một cây dù nhỏ, cán dù có thể xoay được, tháo ra thì hóa thành một thanh kiếm ngắn. Bên ngoài là dù che nắng, bên trong kỳ thực là ám khí, gọi là dù giấu kiếm.

Lúc được tặng, Tiểu A Ngô vui mừng thích thú .

Vừa xoay người đã chạy ngay vào phòng lấy bút lông ra, mặt mày hí hửng định viết chữ lên tán dù trắng tinh.

Tạ Lãm thoáng sững lại, lập tức liên tưởng tới những vạt áo viết đầy thơ phú của Lý Tự Tu, mặt sầm xuống:

“Tiểu A Ngô, con định viết gì lên dù?”

Tiểu A Ngô chớp mắt:

“Con thấy dù này trắng quá, nên muốn viết mấy câu thơ lên cho đỡ đơn điệu.”

Quả nhiên là thế! Tạ Lãm truy hỏi:

“Tại sao? Thấy trống thì con có thể vẽ, con vẽ đẹp lắm mà, cớ gì cứ phải viết thơ?”

Tiểu A Ngô cúi gằm mặt:

“Cái này… cái này…”

Tạ Lãm nghiêm mặt:

“Ngẩng đầu lên nói cho đàng hoàng! Không cho lắp ba lắp bắp!”

Tiểu A Ngô nhỏ giọng thú nhận:

“Là con học theo Lý đại nhân.”

Tạ Lãm đương nhiên đã đoán ra:

“Cha hỏi tại sao con lại học theo hắn? Thấy thú vị lắm hả?”

Tiểu A Ngô lúng túng:

“Nương không cho con nói…”

Tạ Lãm nghe xong liền quay người đi tìm Phùng Gia Ấu, nhưng trước khi đi vẫn không quên căn dặn con trai:
“Không được viết gì lên cái dù này hết! Áo của Lý đại nhân có thể thay mỗi ngày, nhưng dù giấu kiếm của con thì không.”



Phùng Gia Ấu đang xem văn thư ở thư lâu. Thấy phu quân hằm hằm xách theo bút lông của Tiểu A Ngô bước vào, đoán ra được bảy tám phần, tim nàng giật thót.

Tạ Lãm ném cây bút xuống bàn, nhưng giọng lại không quá gay gắt:

“Ấu Nương, nàng nói ta biết coi, chuyện này là thế nào? Sao A Ngô lại học theo Lý Tự Tu? Mà nàng còn bảo nó giấu ta?”

Phùng Gia Ấu vội vàng đứng dậy, ấn Tạ Lãm ngồi xuống, nhẹ nhàng xoa lưng dỗ dành:

“Tại ta sợ chàng sẽ giận… Chuyện này ta cũng không thể làm gì khác được. Từ khi học chữ đến giờ, A Ngô đã khâm phục tài học của Lý Tự Tu, xem anh ta là thần tượng, còn lấy làm mục tiêu phấn đấu. Nó nói muốn làm đế sư, muốn vào Nội Các, làm đến chức Thủ phụ. Nhưng chuyện này cũng là suy nghĩ bình thường mà.”

Tạ Lãm cau mày:

“Nhưng vấn đề là… thằng bé gặp hắn được mấy lần đâu? Đếm trên đầu ngón tay vẫn còn dư. Sao lại thần tượng dữ vậy?”

Không lẽ tên họ Lý đó bỏ bùa con trai mình?

Phùng Gia Ấu đã nghĩ tới chuyện này từ lâu:

“Ta đoán là do bộ sách vỡ lòng anh ta tặng lúc A Ngô đầy tháng.”

Tạ Lãm sững lại:

“Sách vỡ lòng?”

Phùng Gia Ấu nhắc:

“Chính là mấy quyển sách anh ta tự tay biên soạn, gửi tặng A Ngô lúc đầy tháng ấy…”

Tiểu A Ngô được y khai mở tư tưởng, chắc chắn âm thầm bị ảnh hưởng, e là chẳng ít đâu.

Tạ Lãm nghiến răng:

“Giỏi lắm Lý Tự Tu!”

Hắn sớm biết tên đó không có lòng tốt gì mà. Con hắn còn đỏ hỏn mà y đã âm thầm ra tay rồi!

Mai gặp trên triều, nhất định phải xử y một trận ra trò!

Tạ Lãm hậm hực đứng lên, trở lại tìm con trai.

Việc cấp bách bây giờ là phải lật đổ hình tượng “thần tượng” của Lý Tự Tu trong lòng thằng bé.

Song, Tạ Lãm ‘lật’ suốt nửa năm, kết quả vẫn chẳng mảy may thay đổi.

Tiểu A Ngô bây giờ nằng nặc đòi đến bái Lý Tự Tu làm thầy!

Tạ Lãm đương nhiên không đời nào chịu.

Tiểu A Ngô cầu xin không được, bèn đổi cách, ngày nào cũng lẽo đẽo đi theo cha, lý lẽ phân tích đủ điều.

Tạ Lãm vờ như không nghe thấy.

Một ngày nọ, Tiểu A Ngô không nhịn được nữa, ấm ức kêu:

“Cha! Sao cha vô lý vậy chứ?!”

Vừa đúng lúc Tạ Lãm đang muốn ngồi xuống, đường hoàng ‘nói lý lẽ’ với con trai.

So với việc ngưỡng mộ Lý Tự Tu, thì mấy lý lẽ quanh co nói mãi không dứt của con trai mới khiến hắn đau đầu hơn cả.

Tạ Lãm bắt đầu:

“Cha nghe nói hôm qua con cãi nhau với con trai của Thị lang Công Bộ ở lớp học? Nó còn ra tay đánh con, mà con vẫn ngồi đó giảng đạo lý cho nó?”

Tiểu A Ngô gật đầu:

“Nếu con đánh lại, chẳng phải con cũng giống nó, là người không biết lý lẽ phải trái sao? Cha yên tâm, cuối cùng con nói thắng nó rồi. Nó xin lỗi con, cả thầy cũng khen con đó ạ.”

Tạ Lãm đưa tay day day thái dương, cố kiềm chế cảm xúc:

“Vậy nếu nó nhất quyết không chịu nghe, cứ đánh con thì sao? Con có biết trên đời này không phải ai cũng chịu nghe lý lẽ không?”

Tiểu A Ngô đương nhiên biết chứ. Cha bé chính là điển hình sống động cho kiểu người chẳng bao giờ chịu nghe lý lẽ!

Người ta vẫn nói: Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, con chuột sinh ra đã biết đào hang.

Tiểu A Ngô ngày ngày tự nhắc nhở mình: tuyệt đối không được nóng nảy, phải lấy đức phục người.

Còn nếu thực sự không được nữa…

Tiểu A Ngô sờ tay lên chiếc ô đeo bên hông:

“Cha, cha quên là con có dù giấu kiếm sao? Nếu thật sự gặp kẻ ngang ngược, không nghe lý lẽ, con nhất định sẽ rút kiếm.”

Nghe tới đây Tạ Lãm ruốt cuộc cũng được an ủi:

“May mà con không ngốc lắm. Cha đã nói bao nhiêu lần rồi, muốn người ta nghe lời, cuối cùng vẫn phải dựa vào sức mạnh. Chỉ có học võ cho giỏi, thì mới không bị ai bắt nạt, mới khiến thiên hạ nghe theo con.”

Tiểu A Ngô gật đầu rành rọt:

“Đúng ạ. Con phải đánh cho mấy kẻ không chịu nghe lỹ lẽ phải câm miệng, quỳ xuống, ngoan ngoãn nghe con giảng đạo lý!

Tạ Lãm chết sững:

“Con rút kiếm… là để bắt người ta nghe con giảng đạo lý?”

Tiểu A Ngô tỉnh bơ:

“Dạ vâng.”

Tạ Lãm nghiến răng:

“Tạ Chân Ngô, mớ lý lẽ vớ vẩn đó… con nhất quyết phải giảng cho bằng được hả?”

Tiểu A Ngô ngơ ngác:

“Kết quả cuối cùng là mọi người đều phải nghe con mà. Chẳng phải đúng như yêu cầu của cha sao? Con sai chỗ nào?”

Tạ Lãm: “…”

“Phải rồi, con không sai, là cha sai.” Tạ Lãm không rõ vì mình cãi không lại cậu bé hay bị cậu bé làm tức đến nghẹn họng.

Hắn quay người đi thẳng đến thư lâu tìm Phùng Gia Ấu:

“Ấu Nương…”

“Làm sao vậy?” Phùng Gia Ấu nghe giọng hắn đầy ấm ức, vội ngẩng đầu khỏi đống công văn.

Tạ Lãm bước tới, ngồi xổm xuống cạnh chân nàng, gục đầu lên đầu gối nàng:

“Hay là… chúng ta cố thêm lần nữa, sinh thêm một đứa đi. Lần này có ra một đứa ngốc cũng chẳng sao…”

Sớm biết sẽ sinh ra một đứa khiến người ta phải đau đầu như vậy, thì lúc trước hắn còn nhẫn nhịn làm gì?

Phùng Gia Ấu hiểu ngay:

“Lại bị A Ngô chọc tức phải không? Thật ra con không cố đâu, chỉ là suy nghĩ hơi… đặc biệt thôi.”

Trong đầu lúc nào cũng đầy mấy ý tưởng kỳ quặc, đến nàng còn không uốn nắn nổi.

Mà thật ra, chỗ này rất giống Tạ Lãm. Cách tư duy đều có chút ‘dị biệt’, nhưng mỗi người lại ‘dị’ một kiểu riêng.

“Không liên quan tới A Ngô. Ta thật lòng muốn có thêm một đứa nữa thôi.”

Tạ Lãm bây giờ chẳng tin mấy kinh nghiệm sinh con ngày trước nữa:

“Chọn ngày chi bằng ngay hôm nay, chúng ta sinh luôn bây giờ đi.”

Dứt lời, hắn đứng dậy, thuận thế bế bổng Phùng Gia Ấu lên khỏi ghế.

Nàng dở khóc dở cười:

“Sao chàng vẫn tùy hứng thế chứ? Lúc trước ta nói muốn sinh thêm, ai là người bảo nuôi một đứa đã đủ khổ, chẳng muốn hai ta lại khổ thêm lần nữa hả?”

Lúc A Ngô mới sinh, những ngày tháng khó nhọc nhất đều do Tạ Lãm một tay chăm lo ngày đêm. Suốt ba năm trời hắn hốc hác thấy rõ, mãi đến hai năm gần đây A Ngô lớn thêm một chút, hắn mới dần hồi phục.

“Nay đã khác xưa. Suy nghĩ con người cũng thay đổi mà.”

Tạ Lãm lúc trước đâu biết chuyện sẽ thành ra thế này, giờ chỉ muốn sinh thêm đứa nữa xem sao.

“Giờ ta cũng có cảm giác giống nàng — nhà có thêm tiếng cười vẫn là tốt hơn.”



<b><i>Tác giả có lời muốn nói:</i></b>

<i>Ngoại truyện đến đây là hết rồi, tui thấy vậy là đủ rồi ha~</i>

<i>Giờ nghỉ ngơi để dành sức viết bản thảo cho bộ tiên hiệp sắp mở tiếp theo. Các tỷ muội, hẹn gặp ở truyện sau nhé!</i>

<i>Ai đọc hết rồi thì nhớ để lại đánh giá tốt cho cái kết nhe!</i>

<i>— Toàn văn hoàn —</i>
 
Back
Top Bottom