Cập nhật mới

Chào mừng bạn đến với diễn đàn 👋, Khách

Để truy cập nội dung và tất cả dịch vụ của diễn đàn, bạn cần đăng ký hoặc đăng nhập. Việc đăng ký hoàn toàn miễn phí.

Dịch Khom Lưng

[BOT] Mê Truyện Dịch
Khom Lưng
Chương 130



Ngụy Thiệu sững sờ.

Hắn phản ứng lại: “Sao thế? Nàng không khỏe chỗ nào?”

Thấy nàng nằm úp sấp trên đùi mình không nhúc nhích, hắn cẩn thận ôm lấy nàng, xoay mặt lại.

Tiểu Kiều mềm nhũn tựa vào khuỷu tay hắn, nhắm chặt mắt.

“Nàng sao rồi?”

Ngụy Thiệu lại hỏi, bàn tay v**t v* đôi gò má của nàng.

Lạnh quá.

“Ta gọi thầy thuốc!”

Hắn nhẹ nhàng đặt Tiểu Kiều xuống gối, đứng dậy nhấc chân bước ra ngoài, nhưng lại bị Tiểu Kiều kéo tay áo lại từ phía sau.

“Thiếp không sao đâu.” Nàng lắc đầu, “Vừa rồi ngửi thấy mùi rượu trên người chàng, có lẽ là do không khỏe nên mới nôn.”

Ngụy Thiệu ngẩn ra, hắn đưa ống tay áo lên ngửi thử rồi vội nói: “Chết tiệt! Để ta đi tắm rửa thay y phục…”

Hắn còn chưa dứt lời, dạ dày của Tiểu Kiều lại quặn thêm lần nữa, nàng nằm rạp bên mép giường tiếp tục nôn.

Lần này nôn càng kinh khủng hơn. Hầu như đã nôn hết tất cả đồ ăn buổi tối còn chưa tiêu hóa xong, ọe lên cả đôi giày đen mà Ngụy Thiệu đang mang.

Mặt hắn biến sắc. Vừa vỗ nhẹ sau lưng nàng, vừa rướn cổ ra ngoài gọi Xuân Nương.

Giọng của hắn cực cao, gọi một tiếng đã kéo toàn bộ vú già ở Xạ Dương cư tới đây.

Xuân Nương hoảng hốt vội đẩy cửa chạy vào, nhìn thấy Tiểu Kiều mềm nhũn nằm nhoài bên mép giường, trên mặt đất và cả trên đôi giày của Quân hầu toàn là đồ nôn mửa, bà luống cuống tay chân.

“Nhanh gọi thầy thuốc tới!” Ngụy Thiệu hét lên, rồi lại cúi đầu lo lắng hỏi nàng.

Xuân Nương vừa nghe tiếng Quân hầu rống lên gọi mình ở trong phòng như kinh thiên động địa, bà còn tưởng có chuyện gì xảy ra, kinh hãi đến nỗi đổi cả sắc mặt.

Lúc chạy tới suýt chút nữa đã té nhào trước ngưỡng bậc thang.

Vào tới phòng mới biết là Tiểu Kiều nôn mửa, bà hơi ngỡ ngàng rồi vội vàng quay đầu cho người gọi thầy thuốc, sau đó cũng chạy tới bên giường.

Rốt cuộc Tiểu Kiều cũng ói xong, được Xuân Nương nâng lên nằm dựa trên mặt gối, súc miệng.

Xuân nương cầm khăn lau miệng cho nàng.

Dạ dày rỗng tuếch mới khiến Tiểu Kiều thoải mái hơn một chút. Nhưng cơ thể vẫn còn hơi uể oải, nàng nằm xuống nhắm mắt lại.

Vú già đi vào quét dọn đồ bẩn trên mặt đất.

Ngụy Thiệu cũng không buồn đổi giày, hắn đứng bên đi qua đi lại hết mấy vòng. Thấy Tiểu Kiều đã ngừng nôn được rồi, lo lắng trong lòng mới nhẹ hơn đôi chút.

Nhìn thấy đôi môi nàng nhợt nhạt không chút máu, cả người thì mềm nhũn, Ngụy Thiệu chuyển hướng sang Xuân Nương, đôi mắt lóe lên ý giận: “Cả đám người các bà hầu hạ cái kiểu gì thế hả? Tối nay nàng ấy ăn phải đồ gì không sạch sẽ đúng không?”

Tiểu Kiều mở mắt ra: “Thiếp không sao mà! Chàng đừng dữ như thế”.

Ngụy Thiệu nhịn xuống. Nhưng mà sắc mặt vẫn khó coi như trước.

Lúc đầu Xuân Nương cũng thấy kinh hoàng lắm, chờ Tiểu Kiều ói xong, bà thấp giọng hỏi dò vài câu, biết nàng không đau bụng mới thở nhẹ một hơi.

Bỗng nhiên bà nghĩ tới một điều, trái tim bỗng thình thình đập mạnh.

Bà là người hầu hạ ở bên cạnh Tiểu Kiều. Mỗi lần tới tháng bà đều biết rõ ràng.

Kinh nguyệt tháng này đã trễ mất vài ngày, hôm nay còn chưa tới.

Bỏi vì trước kia cũng từng chậm mấy lần, ngắn thì bốn, năm ngày, lâu thì nửa tháng.

Lúc đầu bà còn tưởng Tiểu Kiều có thai, nhưng mỗi lần đều uổng công vui vẻ.

Nữ quân thành hôn đã hai năm, không phải là một thời gian ngắn, vậy mà rề rà mãi chưa có tin báo hỉ.

Dần dần Xuân Nương cũng không hi vọng nữa.

Vì thế tháng này lại trễ mất mấy ngày, bà cũng không nghĩ là nàng có thai.

Không ngờ đêm nay đột nhiên lại ói đến mức đó.

Vẻ mặt Xuân Nương bỗng vui mừng khác lạ, nhưng mà mấy câu đến miệng lại cố gắng nuốt vào.

Chỉ sợ là mình lại đoán sai, làm Quân hầu vui sướng rồi lại thêm thất vọng.

Thế nên bà phải gắng nhịn mấy lời đã nhảy đến miệng rồi, vội vàng đứng dậy nhường vị trí.

Nóng ruột quá nên lại ra ngoài chờ thầy thuốc đến đây.

Ngụy Thiệu ngồi một bên mép giường, đỡ Tiểu Kiều nằm xuống.

“Nàng có muốn ăn gì không?”

Tiểu Kiều ói đến mức chẳng còn gì trong bụng, nhưng mà lại chẳng thiết ăn gì. Nàng lắc lắc đầu.

So với vừa nãy bây giờ sắc mặt nàng đã tốt hơn một chút.

Chỉ có điều khuôn mặt nhỏ nhắn vẫn tái nhợt không còn chút máu, đôi mắt khép hờ, hàng mi như cánh bướm nửa che, giống như một đóa hoa xinh xắn trong trời mưa gió.

Ngụy Thiệu đau lòng khôn xiết, chỉ hận không thể ôm nàng vào lòng để yêu thương.

“Vậy nàng ngủ trước đi, thầy thuốc sắp tới rồi”.

Vừa dứt lời hắn cũng nằm nghiêng ở mép ngoài, tay đưa xuống nhẹ, nhẹ nhàng phủ bàn tay ấm áp của mình lên dạ dày của nàng hơi buốt lạnh, từ từ xoa xoa.

Trong phòng yên ắng.

Trán nàng tựa vào cằm của hắn, nhắm mắt lại.

Được khoảng một chén trà.

Ngụy Thiệu đã không đủ kiên nhẫn mà chờ tiếp. Bên ngoài bỗng vang lên tiếng bước chân ấm áp, thầy thuốc vội vã chạy tới đây.

Xuân Nương đón ông vào, vừa đi vừa thấp giọng kể lại tình hình của Nữ quân vừa rồi.

Thầy thuốc nghe nói kinh nguyệt của nàng bị trễ, vừa nãy còn nôn mửa, buổi chiều cũng không ăn cái gì bậy bạ cả, đương nhiên ông cũng nghĩ tới dự đoán đó đầu tiên.

Vội vàng đi vào cùng Xuân Nương, sau tấm bình phong dài chấm đất khắc hoa văn chu lân và long phượng màu xanh biếc. Phía sau là bóng một nam tử trẻ tuổi cao lớn và uy vũ, bộ bào phục đen tuyền thêu kim đan mây khói và linh thú đầy tinh tế. Biết đây là Yên Hầu Ngụy Thiệu của Tín cung, hắn vội cúi chào,

Ngụy Thiệu có vẻ không vừa ý: “Sao giờ ông mới tới? Phu nhân ta vừa mới khó ở và nôn mửa. Ông nhanh tới xem xem!”

Dứt lời cũng xoay người đi vào.

Thầy thuốc dạ dạ đi vào trong phòng theo Yên Hầu. Mùi hương ấm áp phả vào cánh mũi, trên chiếc gối bằng gấm thêu vân ở trên giường, có một tiểu phụ nhân chỉ mới khoảng mười lăm mười sáu tuổi, làn da trắng sáng hơn cả tuyết, khiến người ta vừa thấy đã yêu thương, ông nào dám nhìn kĩ, cúi mắt đến bên giường, ngồi xuống cái ghế thấp mà một vú già vừa bưng tới, hai ngón tay nhẹ nhàng đặt lên mạch trên cổ tay ngọc ngà dưới một lớp áo ngủ bằng vải gấm, nhắm mắt tĩnh tâm.

Ngụy Thiệu đứng bên nhìn chằm chặp.

Nhưng chỉ chốc lát sau, thầy thuốc đã mở mắt ra, cười nói: “Mạch như hạt châu lăn, trơn tru và linh hoạt, đây là mạch tượng có thai. Vừa rồi vị bà bà nọ còn nói kinh nguyệt của Nữ quân bị trễ, cũng đúng với mạch tượng này. Chắc chắn là hỉ mạch không nghi ngờ gì nữa”.

Ngụy Thiệu sững sờ.

Một lát sau, mặt hắn từ từ chuyển sang hướng Tiểu Kiều.

Nàng nghe thấy cũng nhất thời choáng váng. Trong lòng sinh ra một cảm giác mờ mịt.

Chạm vào ánh mắt mà Ngụy Thiệu nhìn sang.

Chỉ một khoảnh khắc lặng yên ngắn ngủi.

Xuân Nương mừng rỡ thốt lên: “Nam quân có nghe không? Nữ quân có tin vui! Nếu lão phu nhân biết được không biết sẽ vui đến mức nào!”

Ngụy Thiệu quay sang thầy thuốc ngay: “Ông có chẩn sai không?”

Thầy thuốc đứng lên nói: “Quân hầu yên tâm, thần đã bắt mạch hơn hai mươi năm. Nếu mạch như này mà cũng chẩn sai được, Quân hầu có thể đập nát bảng hiệu của thần rồi. Nhưng mà lúc chẩn mạch cho Nữ quân, thần thấy khí huyết không đầy đủ. Dù sao tuổi Nữ quân hơi nhỏ, đây lại là thai đầu, thần sẽ kê một đơn thuốc để Nữ quân điều dưỡng thêm”.

Ngụy Thiệu gật đầu: “Nhanh kê đi”.

Xuân Nương tươi cười dẫn thầy thuốc đi ra ngoài kê đơn.

Trong nội thất chỉ còn có hai người bọn họ.

Rốt cuộc Tiểu Kiều mới từ từ thoát khỏi trạng thái hoang mang, dần nhận ra một chuyện.

Nàng mang thai rồi.

Ngay lúc này đây, tim bỗng dưng đập loạn.

Có một cảm giác giống như là vui sướng, nhưng không chỉ là vui sướng không thôi.

Tiểu Kiều từ từ ngước mắt lên.

Ngụy Thiệu vẫn còn đứng trước giường, hai mắt nhìn nàng thẳng tắp.

Nàng hơi động đậy.

Bờ vai mới đung đưa, Ngụy Thiệu đã lao về phía nàng, cánh tay ôm thật chặt.

Mặt Tiểu Kiều bị ép vào lồng ngực của hắn.

Nàng nhắm mắt lại, cảm nhận nhịp tim người đó đều đặn và thật nhanh.

Giống như âm thanh huyết dịch trong người hắn đang tuôn chảy.

“Phu quân, chàng choáng lắm hả? Sao lại không nói gì?”

Rốt cuộc nàng cũng mở mắt ra, ngửa mặt nhẹ giọng hỏi.

Một tay Ngụy Thiệu từ từ đưa tới trên bụng nàng, nhẹ nhàng v**t v*.

“Man Man, ở đây, ở đây hả?”

Tiểu Kiều gật đầu.

Mi mắt của hắn hơi động đậy. Nhìn bụng nàng chăm chú, sau đó đột nhiên lại ha ha cười lớn.

Tiểu Kiều cảm thấy lồng ngực của hắn khẽ rung lên.

“Man Man, nàng sắp sinh con cho ta thật rồi! Hôm nay Ngụy Thiệu ta cũng có hài tử rồi!”

Vẻ mặt hắn vui sướng tựa như điên, lại hết sức lạ thường.

Từng nụ hôn lắt nhắt như mưa rơi trên trán, gò má và cả môi.

Hắn hôn môi nàng một lúc rồi bỗng nghĩ tới gì đó, thình lình dừng lại.

“Ta lại quên mất, lúc nãy nàng nôn cũng vì mùi của ta”.

Hắn vội buông nàng ra, nhẹ nhàng đặt nàng xuống gối. Mình bước xuống giường rồi đi quanh một vòng, giống như thể không cách nào kìm nén được vui sướng trào dâng trong lòng hắn, sau đó lại vội vã ra ngoài.

Không biết hắn nói gì ngoài đó, Tiểu Kiều nghe thấy bên ngoài cửa, tiếng vú già chúc mừng và câu cảm ơn náo nhiệt ồn ào.

Một sinh mạng mới do nàng và nam nhân Ngụy Thiệu này tạo nên, không biết từ khi nào đã thai nghén trong cơ thể.

Kỳ diệu đến mức nào.

Lúc mới biết tin nàng đã hoang mang không biết phải diễn tả cái cảm giác lạ thường đó là gì, bỗng nhiên giờ biến mất.

Trong lòng nàng giờ đây lại có thêm một cảm giác vui mừng từ từ lấp trọn.
 
Khom Lưng
Chương 131



Suốt một đêm Ngụy Thiệu ngủ không ngon.

Tin sắp làm phụ thân chợt đến quá bất ngờ, khiến hắn phấn khích đến tột cùng, nhưng lại lo tướng ngủ của mình không tốt, nhỡ chân đạp phải cái bụng của Tiểu Kiều thì sao.

Vì thế cứ ngủ lại bật tỉnh nhiều lần.

Mỗi lần tỉnh lại, vừa mở mắt ra, nhìn Tiểu Kiều cuộn tròn cả người dán vào bên người mình mà ngủ, tầm mắt của Ngụy Thiệu lại không nỡ rời khỏi dung nhan điềm tĩnh như thiếu nữ trước kia của nàng ấy.

Lúc bất chợt nhớ tới mười mấy năm đằng đẵng thời thơ ấu, dường như giết chóc, chiến sự, hận thù đã chiếm hết toàn bộ sức lực của hắn.

Những đau khổ thời niên thiếu đã cướp đi hơi ấm hắn không muốn rời xa, giống như sương mai khi mặt trời chiếu tới, biến mất nhanh chóng đến vô hình vô ảnh.

Khiến cho người thiếu niên đó chỉ còn một bóng tối mờ nhạt với nữ nhân.

Vì thế từ sau lần đó, hắn bất giác không thích nữ nhân lại gần mình.

Hắn hưởng thụ cảm giác giết chóc, chiến tranh và trả thù. Tận hưởng dòng máu nóng bắn lên tung tóe từ lưỡi dao của hắn, cảm quan khiến cho mình phấn khích.

Hắn đã từng nghĩ rằng, có lẽ cả đời này, tổ mẫu là nữ nhân duy nhất mà hắn muốn ở bên từ sâu tận đáy lòng.

Thế nhưng bây giờ lại không còn thế nữa.

Hắn lấy được nàng.

Trong lòng Ngụy Thiệu ấp ôm một tình cảm dịu dàng, quả thực không biết phải biểu đạt với nàng như thế nào cho phải.

Ngay thời khắc này đây, nếu muốn hắn quỳ xuống trước mặt nàng còn nàng thì kiêu ngạo ngẩng đầu cao, nàng mới bằng lòng yêu thương hắn, Ngụy Thiệu nghĩ có lẽ mình cũng làm thế được.

Cho dù có bị nàng ấy tát nhiều lần.

Hắn chẳng buồn để tâm.

Sợ làm Tiểu Kiều tỉnh giấc, hắn không dám ôm nàng quá chặt, chỉ hơi khoanh tay lại để cơ thể mềm mại của nàng dán sát vào người hắn, cằm tựa vào vầng trán của người kia, tâm tình đầy sung sướng.

Nếu như lần này Man Man có thể sinh nhi tử cho hắn, hắn sẽ vui lắm đấy.

Hắn muốn đích thân dạy con cưỡi ngựa bắn tên, hành quân đánh giặc.

Hơn nữa, Ngụy gia vốn ít nam đinh, hắn cũng cần nhi tử để kế thừa hương khói. Lúc đi tông miếu cúng tế tổ tiên và phụ huynh, có nhi tử đồng hành với mình, trong lòng hắn chắc thấy sung túc lắm.

Nhưng nếu lần này Man Man sinh nữ nhi trước, hắn cũng vui như vậy.

Hắn vô thức mường tượng trông nữ nhi của hắn và Man Man sẽ thế nào đây nhỉ.

Có lẽ sẽ có một đôi mắt sáng long lanh như nước giống Man Man.

Hắn sẽ rất yêu rất yêu con.

Hắn muốn giành cả giang sơn tú lệ này, để nữ nhi của hắn được ngồi lên một chiếc xe dát vàng, có sáu con ngựa kéo, muôn ngàn dân chúng sẽ quỳ dưới chân con, là một tiểu công chúa cao quý nhất trên đời, cũng là công chúa nhỏ được hắn yêu thương nhất.

Một khắc trước khi nhắm mắt ngủ thiếp đi, trong lòng Ngụy Thiệu nghĩ như vậy.



Ngày hôm sau, tinh thần của Ngụy Thiệu rất xán lán.

Sáng sớm hắn gửi một phong thư cho Từ phu nhân, báo tin Tiểu Kiều có thai rồi.

Bởi vì mới mang thai không lâu, hơn nữa với thể trạng lúc này của Tiểu Kiều cũng không thích hợp để đi quãng đường dài.

Vì thế Ngụy Thiệu quyết định tiếp tục ở cạnh Tiểu Kiều ở Tín Đô một thời gian.

Đợi đến khi cơ thể của nàng khỏe mạnh hơn, hắn sẽ đưa nàng về Ngư Dương chờ sinh.



Một ngày nọ vào cuối thu Thái An năm thứ hai, Lang Gia vương Lưu Diễm tới Linh Bích.

Trên đoạn đường đi, trời thu sáng chói, khắp vùng thơm cỏ.

Nhưng mà Lưu Diễm lại không có tâm tình để thưởng thức cảnh đẹp này.

Trong con mắt của hắn chỉ có gió thu lạnh lẽo, cây rừng xơ xác, suối lặng im.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi chưa được hai tháng, đây là lần thứ ba hắn đi tới Linh Bích. Khác với hai lần trước hăng hái, nghênh ngang, lần này lại không hề giống vậy.

Mấy lần Tiết Am phát binh tới đoạt thành.

Sau hai lần dã chiến, Lưu Diễm hạ lệnh lui quân đóng chặt cửa thành, giữ chặt không ra.

Hắn biết nếu cứ đánh trực diện, cho dù không thất bại thì ba vạn binh mã mà mình tích cóp được trong suốt hai năm này cũng hao tổn nặng nề.

Hắn không trả nổi cái giá đó.

Vì vậy mới quyết định lui quân.

Nhưng mà bế quan phòng thủ kiểu này cũng không thể lâu dài. Hắn hiểu rõ điều đó.

Nếu không có viện binh, sớm muộn gì hắn cũng bị bắt như ba ba trong rọ.

Vì thế mấy ngày trước, nhân lúc đêm khuya, hắn và mấy thân vệ hộ tống lặng lẽ ra khỏi thành Tây Môn, đi theo đường mòn tới Linh Bích lần ba.



Trong hơn hai năm nay, hắn nằm gai nếm mật vẫn một lòng hướng tới, chỉ mong rồi sẽ có một ngày, hắn có thể hiên ngang bất bại giữa đất trời loạn lạc.

Bao nhiêu lần tỉnh mộng khó ngủ giữa đêm khuya, làm bạn với hắn chỉ có nỗi khuất nhục vào hai năm về trước mà hắn khắc ghi không cách nào quên được, nghiền ngẫm đắng cay.

Nữ tử mà hắn yêu tha thiết, nữ tử vốn nên thuộc về hắn, cuối cùng lại bị nam nhất khác đoạt lấy.

Kiều gia hủy bỏ hôn ước, không coi hắn ra gì, chắp tay đưa vị hôn thê của hắn cho người khác.

Nguyên nhân duy nhất chỉ vì người kia đủ mạnh mẽ.

Mà lúc đó thứ hắn có trong tay chỉ là danh hiệu thế tử Lang gia như chuyện cười.

Có lẽ trong suốt cả đời này, hắn cũng không thể nào quên được khung cảnh trong ngày tuyết hôm ấy.

Đó là lần cuối cùng hắn nhìn thấy mặt nàng.

Nàng bị Trần Thụy cướp đi từ trong tay của hắn.

Và cuối cùng hắn lại chỉ có thể quỳ gối trong màn tuyết, trơ mắt nhìn nàng ấy biến mất khỏi tầm mắt của mình.

Ngay tại thời khắc đó, Lưu Diễm tự thề với mình rằng, rồi sẽ có một ngày, dù nàng ấy đang ở bất cứ đâu, dù là thê tử của kẻ nào đi nữa, nhất định hắn sẽ đoạt lại nàng.

Nàng phải thuộc về hắn! Đã từng là vậy, đến chết cũng sẽ phải như vậy!



Thực ra hắn đã bước được một bước dài trên con đường đạt được giấc mộng của chính mình.

Giành được Từ Châu, cuối cùng cũng có thể khuếch trương thế lực nhỏ bé của Lang Gia.

Khi đó, khoảng cách tới giấc mơ ngồi lên vị trí cao nhất ở Lạc Dương chưa bao giờ rõ ràng như thế cả…

Đương nhiên hắn là người có tư cách để ước mơ điều đó.

Cả thiên hạ này vốn phải thuộc về nhà họ Lưu của hắn.

Trong số đông đảo con cháu trong tôn thất, hắn là người duy nhất được khen là chi lan ngọc thụ.

Tuyên đế băng hà, Lưu Ai, Lưu Lợi đánh nhau tơi bời vì tranh giành ngôi báu, một người thì chết, kẻ cầm tù, đế vị lại để không, năm ấy hắn chỉ mới bước sang tuổi mười bảy, từ Duyện Châu trở lại Lang Gia không bao lâu.

Tên của hắn cũng từng được triều thần Lạc Dương đề cập rất nhiều lần, họ cho rằng trong nhóm tôn thất hắn là người thích hợp với ngôi vị cao quý nhất.

Đương nhiên, những điều đó chỉ là hoa trong gương, trăng trong nước.

Và đến tận bây giờ, nhờ thời cơ loạn lạc, hắn dốc sức kinh doanh, cuối cùng Lang gia mới có thể vươn xa, chiếm được địa bàn mới, hơn nữa còn là vùng đất tốt.

Nếu có thể nuốt được vùng Từ Châu, hắn sẽ đặt được một nền móng vững chắc cho các mục tiêu xa hơn nữa.

Suy đi nghĩ lại, hắn quyết định mạo hiểm ra khỏi thành, tới Linh Bích lần nữa để cầu kiến một người mà hắn hi vọng có thể chiêu mộ được, người ta gọi là Lục Mâu tướng quân, Bỉ Trệ.

Lần đầu tiên, Bị Trệ đang bận ứng chiến với Dương Tín, hắn không gặp được.

Lần thứ hai, Bỉ Trệ từ chối hắn.

Và lần thứ ba tới đây, hắn chỉ hi vọng rằng, tinh thành sở chí, kim thạch vi khai [1].

[1] Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai: chỉ cần chân thành, không gì là không lay chuyển được.

Từ khi trận mở màn giữa Lục Mâu tướng quân và Tiết Thái bắt đầu, Lưu Diễm luôn quan tâm tới vùng đất Từ Châu cũng nhạy bén nhận ra người đó không phải kẻ tầm thường.

Sự thật được chứng mình, hắn không hề nhìn nhầm người đó.



Hai lần trước hắn tới, mặc dù Tiết Am cam đoan sẽ rút quân khỏi Hạ Khâu, nhưng Dương Tín vẫn tấn công Linh Bích như ngày trước.

Còn lần này tới đây, Dương Tín đã lui binh, Linh Bích được an bình.

Lưu Diễm không hề biết Dương Tín nghe theo lệnh Ngụy Thiệu, cũng không biết chuyện Dương Tín lui quân là làm theo chỉ đạo của người kia.

Vậy thì nhất định lần đi thuyết phục này của hắn sẽ thất bại.

Ngày đó, mặc dù đã gặp được Bỉ Trệ, Bỉ Trệ cũng cực kì tôn kính với thân phận tôn thất của mình, lấy lễ để tiếp đón, còn gọi hắn là vương.

Nhưng mà dù Lưu Diễm có nói sao đi nữa, từ đầu tới cuối Bỉ Trệ không gật đầu.

Hắn nói: “Ta chỉ là một thảo dân quê mùa, được Vương đánh giá cao nên ba lần tới chơi, ta vô cùng cảm kích, vốn cũng nên góp chút sức mọn, nhưng mà ta lại là người không chí lớn, cũng không có bản lĩnh gì hơn ai, chỉ cần an phận ở đây đã hài lòng thỏa ý, không dám làm chậm trễ đại nghiệp của vương đây, xin vương thượng chớ trách”.

Lưu Diễm cũng là người thông minh, hắn biết mình không nên ép buộc làm khó người ta.

Cuối cùng hắn khách khí đứng dậy, cáo từ trước: “Cô [2] nghe nói, phu nhân tướng quân là nữ nhi của Kiều thứ sử phủ Duyện Châu, cũng là anh em [3] với Yên hầu Ngụy Thiệu, không biết tướng quân đã từng gặp gỡ Yên Hầu chưa?”

[2] Cô: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến

[3] Từ gốc trong truyện là liên khâm, tức là anh em đồng hao, anh em cột chèo. Ở đây ý là có quan hệ anh em vì Đại Kiều Tiểu Kiều là chị em.

Bỉ Trệ đáp: “Từng gặp một lần”.

Lưu Diễm cười nói: “Yên Hầu là hào kiệt đương thời, Cô từng nghe thấy nhưng tiếc là chưa có dịp gặp gỡ. Tướng quân và Yên Hầu lại là anh em đồng hao, chẳng lẽ Yên Hầu đã tới sớm trước ta một bước, giành được lòng của tướng quân rồi?”

Bỉ Trệ vội nói: “Vương thượng nói đùa rồi. Ta và Yên Hầu chỉ mới gặp nhau có một lần, sao có chuyện giành giật gì đây được”.

Ánh mắt Lưu Diễm lóe lên, hắn hơi trầm ngâm rồi nói: “Lúc thiếu thời Cô từng gặp khó khăn, nhờ Kiều phủ lại rộng lòng cho ta ở mấy năm. Ta và phu nhân ngài tình như huynh muội, nay đến đây Cô có chút lễ mọn, mong tướng quân cho gặp mặt một lần?”



Đại Kiều gặp được Lưu Diễm trong đại sảnh.

Lưu Diễm có phong tư như dao lâm quỳnh thụ, lại ôn tồn lễ độ trước tới nay, lúc nhỏ ở lại nhà Kiều gia, Tiểu Kiều và hắn đôi bên đều tình nguyện, cho nên Đại Kiều cũng có ấn tượng tốt với hắn. Mười bảy tuổi hắn rời khỏi Duyện Châu, từ khi từ biệt cho tới giờ đã nhiều năm xa cách, lần này gặp gỡ ở nơi đây, Đại Kiều nhớ lại chuyện xưa mà sinh lòng cảm khái.

Biết chuyện của hắn và Tiểu Kiều, vì thế lúc chuyện trò nàng không hề nhắc tới Tiểu Kiều một câu nào.

Mỗi người kể lại tình hình của mình dạo gần đây, đột nhiên nàng thấy Lưu Diễm hơi chần chừ một lúc rồi hỏi: “Xin hỏi A Phạm muội muội, muội có biết dạo này Man Man thế nào không?”

Đại Kiều thoáng ngập ngừng.

“A Phạm muội muội chớ hiểu nhầm. Ta không có ý gì khác cả. Bởi vì đã từ biệt nhiều năm mà không có tin tức gì của nàng ấy, cho nên ta mới hỏi vậy thôi”.

Đại Kiều ngước mắt lên, thấy ánh mắt Lưu Diễm nhìn ra ngoài cửa sổ, vẻ mặt hơi phiền muộn.

Nàng nhớ lại kí ức thời niên thiếu, cuối cùng chỉ có thể cảm thán vận mệnh quá trêu ngươi.

Nghĩ một hồi, Đại Kiều mới đáp: “Không dám giấu diếm huynh, ta cũng có thư từ qua lại với muội ấy… Bây giờ nàng ấy sống tốt lắm, cũng đã mang thai rồi. Đa tạ Lang Gia vương nhớ tới”.

Mặc dù đã hai năm trôi qua nhưng Đại Kiều cũng có thể nhìn ra, hình như Lưu Diễm vẫn nhớ tới Tiểu Kiều, bởi vậy nàng mới cố ý cường điệu thêm như thế, cho hắn đừng nhớ nhung si mê đến vậy.

Lưu Diễm xuất thần chốc lát rồi chợt nhoẻn miệng cười: “Đa tạ muội muội đã báo tin. Ta từng nghe chuyện cũ giữa Kiều gia và Yên Hầu, vốn còn lo lắng cuộc sống của nàng không được thoải mái lắm. Bây giờ biết tin mọi chuyện đều suôn sẻ, ta cũng an tâm rồi. Trong lòng ta, nàng ấy cũng giống như muội vậy, mãi mãi là muội muội của ta. Lần tới nếu muội viết thư cho nàng ấy, có thể đồng ý lời thỉnh cầu của ta không?”

Đại Kiều nói: “Mời Lang Gia vương cứ nói”.

“Bảo là…”

Lưu Diễm cúi mắt, thoáng trầm ngâm.

“Bảo là, trước hôm đại hôn của nàng và Yên Hầu, hoa chúc [4] thắp lên, mà ta vẫn nhớ mãi chuyện xưa, chưa kịp nói một câu chúc mừng vui vẻ, ta thấy thẹn trong lòng. Bây giờ vật đổi sao dời, thênh thang rộng mở. Nghe được tin lành mà hân hoan vui sướng, ta chúc cho muội muội vạn sự như ý. Từng câu từng chữ đều là tấm lòng của ta”.

[4] Hoa chúc: đèn hoa thắp trong phòng tân hôn

Vốn Đại Kiều còn hơi thẫn thờ, nghe câu đó nàng cũng thấy yên tâm, Đại Kiều gật đầu cười đáp: “Lang Gia vương yên tâm, ta sẽ gửi lời lại cho ngài.”

Lưu Diễm cảm tại Đại Kiều rồi cáo lui.

Bỉ Trệ tiễn hắn rời khỏi Linh Bích.

Lưu Diễm phi ngựa như tên bắn, lúc ngừng lại mặt đã hướng về phương Bắc, hắn bàng hoàng một lúc.

Tùy tùng Lưu Phiến biết chuyện lần này tới chiêu mộ Bỉ Trệ không thu được kết quả, hắn chần chờ rồi hỏi: “Từ Châu tràn ngập nguy cơ, Tiết Am thì ở ngoài, Dương Tín cũng nhìn chằm chằm nó. Bỉ Trệ lại không chịu góp sức. Bước kế tiếp Vương định làm sao đây?”

Tầm mắt của hắn từ từ quay lại, đáp lời: “Cô nghe nói, bây giờ ngay cả đứa trẻ ba tuổi ở Lạc Dương cũng hát được bài đồng dao “Tôn ở núi, chợt bước đi”. Hạnh Tốn soán vị là chuyện ắt xảy ra. Cứ chờ mà xem, một khi thiên hạ này có biến, ta sẽ có phản hồi, rồi cũng có biện pháp khác.”

Dứt lời, hắn phóng ngựa về phía trước, không quay đầu lại.
 
Khom Lưng
Chương 132



Lạc Dương.

Ngày mồng bảy, tháng mười một. Năm Bính Thân, tháng Tân Sửu, ngày Ất Mùi, là ngày được đại điển tinh quan xem là ngày hoàng đạo. Mọi điều thuận lợi.

Đêm trước ngày Ất Mùi, trong Liên Hoa Thai đèn đuốc sáng choang. Hạnh Tốn cho gọi các triều thần sẵn sàng góp sức cho mình cùng nghị sự suốt đêm.

Hạnh Tốn ngồi trên đài cao, bệ vệ đắc ý liếc nhìn quanh. Dưới trướng, quan lại thì nịnh bợ đợi lệnh, người người cười vui đến bạnh cả quai hàm, ngóng trông tin tức.

Chốc lát sau, Vệ úy Khanh Cao Chuẩn bước nhanh vào quỳ trước Hoàng Bạch.

Tấu rằng, ấu đế đã viết chiếu nhường ngôi. Tự nhận là đức bạc thẹn với ngôi vị chí tôn này, nguyện noi theo tiên hiền thời cổ, nhường lại ngôi đế cho Hạnh Tốn, chiếu cáo thiên hạ, trao ngọc tỷ đại ấn.

Cao Chuẩn báo tiếp, vào giờ lành ngày mai, các quan trong triều sẽ thăng đường, thừa tướng tiến vào điện Thiên Thu, ấu đế sẽ đích thân đưa thừa tướng lên ngai vàng, tuyên đọc chiếu nhường ngôi.

Vừa nói hết câu này, trong Liên Hoa Thai vang lên tiếng hoan hô bốn phía, chúng quan lại dồn dập quỳ xuống, hành lễ chúc mừng ngôi cửu ngũ.

Hạnh Tốn dương dương tự đắc, vui vẻ đón nhận. Trong tiếng ca tụng công đức đó, hắn nhìn thấy nhị lang Trúc Tăng đứng yên bất động, vẻ mặt như có phần do dự.

Trúc Tăng là mưu thần xưa kia của Hạnh Tốn, suốt quãng thời gian đó hắn vẫn luôn ủng hộ, bày mưu tính kế, từ Hà Nam cho đến thành Lạc Dương, cũng xem như từng trải. Giữa thời khắc người người chúc mừng, chỉ riêng mình hắn không quỳ xuống, trong lòng Hạnh Tốn thấy không vui, hắn lên tiếng đặt câu hỏi.

Trúc Tăng nói: “Không phải thừa tướng không thể lên ngôi vua, mà thời cơ bây giờ còn chưa tới! Mặc dù triều Hán đã suy yếu, tuy nhiên chính quyền lại không hề bạo ngược, vốn địa vị thừa tướng đã rất cao, nếu đột nhiên thay thế khó có thể ngăn được miệng thiên hạ, không được lòng người. Như thế cũng không sao, thần chỉ lo Ngụy Thiệu ở phương Bắc. Nếu một ngày chưa trừ được Ngụy Thiệu, thừa tướng vẫn phải tiếp tục lo về hắn. Thần biết thừa tướng một lòng muốn thảo phạt Ngụy Thiệu. Nhưng dù có tuyên bố hịch văn, chỉ trích hắn vì tội danh gây rối, tuy nhiên nếu lấy danh nghĩa Hán đế để yêu cầu chư hầu công phạt hắn, chẳng phải tốt hơn sao? Nếu thừa tướng lấy danh của Hán đế, Ngụy Thiệu mà ứng chiến có nghĩa là ngang nhiên mưu phản, chiến tranh chưa nổ ra đã thua trước một ván. Nếu thừa tướng xưng đế rồi

khởi binh, chẳng phái đã dâng cho Ngụy Thiệu cái danh nghĩa cần vương, vừa công khai gây xích mích thiên hạ, các bên liên quân cùng đối kháng thừa tướng?”

Hạnh Tốn không vui nói: “Sao ngươi lại nói lời ấy được, hủy hết sự hưng thịnh của ta? Cái gọi là vô đức để có đức. Hán đế tự nhận mình vô đức, không xứng ngồi trên ngôi vị nên mới nhường cho ta, tại sao ta lại không được lấy? Ta đã có năm trăm ngàn binh mã, dũng tướng cũng có hơn mười người, nhiêu đó cũng đủ để chặn sông, há phải sợ một thằng nhóc Ngụy Thiệu? Tháng trước phía đông ngoại thành Lạc Dương lại có Tường Thụy[1] từ trên trời rơi xuống, đoán rằng thiên hạ sẽ sắp thay chủ mới, cũng trùng với tên ta. Đó không phải là thiên dư bất thủ, phản thủ kỳ cữu[2] hay sao!”

[1] Tường thụy: điềm lành

[2] Thiên dư bất thủ, phản thủ kỳ cữu: ý là nên nắm bắt thời cơ, quyết tâm làm những gì mình muốn.

Trúc Tăng đáp lời: “Không phải là thần vọng ngôn. Cái gọi là Tường Thụy từ trên trời rơi xuống ở phía đông ngoại thành tháng trước trông có vẻ khả nghi. Bụng dạ Tô thị lại khó lường, thừa tướng không nên bị một phụ nhân đầu độc, nếu không chỉ e hối hận thì đã muộn”.

Nửa đời Hạnh Tốn vốn ngang ngược dã tâm, cho nên hắn hoàn toàn tin tưởng vào câu chuyện báo mộng điềm lành đó. Vì một lòng xưng đế, khổ nỗi lại chưa có cơ hội nào thích hợp, trong lúc do dự phân vân đó, vừa lúc xuất hiện câu chuyện báo mộng của Tô Nga Hoàng, trong lòng hắn suy nghĩ, nếu một người khó ngủ mơ thế này, năm phần bán tín bán nghi cũng biến thành bảy tám.

Nghe Trúc Tăng nói vậy, hắn giận dữ: “Ngươi to gan lắm! Ngươi có rắp tâm gì hả? Nếu không vì ở bên ta nhiều năm, cũng có chút công lao, ta sẽ trừng trị ngươi thật nặng! Ý ta đã quyết, nếu ai dám nhiều lời, chém!”

Lời này vừa nói ra, đám quần thần dưới trướng đều biến sắc, liên tục nhìn về phía Trúc Tăng, tỏ vẻ oán giận.

Trúc Tăng nhận tội lui ra, nản lòng thoái chí.

Hắn nhớ tới Hạnh Tốn trước kia khi mới vào Lạc Dương, một người trọng dụng bậc anh tài nhường đó. Bây giờ thì ngông cuồng tự đại, bên cạnh chỉ toàn người xu nịnh, hắn tin dùng Phùng Dị, Tang Thường, Phùng Chiêu, Đinh Khuất, ai mà không phải kẻ tiểu nhân. Đã thế còn không chờ đợi nổi muốn ép ấu đế nhanh thoái vị, thay vào đó đánh với Ngụy Thiệu một trận lửa xém lông mày. Với thời thế kiểu này, chỉ e thất bại đã định sẵn.

Trúc Tăng về phủ, lòng sầu não. Vào lúc bình minh, hắn nhận được mật báo, nói Hạnh Tốn nghe theo lời khuyên của Tô Nữ, muốn bắt hắn chém đầu thì kinh hãi biến sắc. May mà ở Lạc Dương cũng không có nhiều người, hắn lén lút đi qua cửa thành Nam. Vốn định tới đầu hàng Ngụy Thiệu, nhưng nghĩ tới những thủ đoạn tàn nhẫn mà Ngụy Thiệu hay dùng để đối phó kẻ thù, Trúc Tăng lại bất giác run lên, do dự một lúc rồi quay đầu chạy tới Hán Trung, quy hàng Hán Trung hầu Nhạc Chính Công.



Từ khi Tiểu Kiều mang thai đến giờ đã đến tháng thứ tư, phản ứng nôn nghén rất mãnh liệt, kinh khủng nhất là khi đến uống một hớp nước nàng cũng thấy khó chịu, từ sớm đến muộn nằm yên ở trên giường. Cũng may có Xuân Nương chăm sóc, nửa tháng trước, Chung bà bà cũng từ Ngư Dương tới Tín Đô.

Chung bà bà nói, Từ phu nhân nhận được tin mừng thì vô cùng vui sướng. Bà cố ý phái bà tới đây để cùng hầu hạ với Xuân Nương, căn dặn nàng cứ an tâm nghỉ dưỡng cho khỏe mạnh.

Có hai người ở bên dốc lòng chăm sóc, Ngụy Thiệu lại càng săn sóc hơn, giống hệt nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, mặc dù gần đây quân vụ dần bận rộn, nhưng những lúc rảnh rỗi hắn sẽ ở cạnh nàng. Vì vậy mặc dù cơ thể rất không khỏe nhưng tâm tình của Tiểu Kiều thì vui tươi thoải mái. Nàng gửi một phong thư tới Duyện Châu, báo cho phụ thân tin tức mình mang thai.

Buổi sáng người đưa tin từ Duyện Châu trở về, gửi cho nàng một phong thư trả lời.

Kiều Bình vô cùng mừng rỡ, ông dặn nàng phải nghỉ ngơi cho tốt. Còn bảo Kiều Từ đang bận rộn ở bên ngoài luyện binh, chờ nó về ông sẽ báo cho con tin mừng này.

Ông bảo bây giờ trong nhà đều rất tốt, nàng không cần lo lắng, cứ cố gắng ở bên nữ tế là được.

Tiểu Kiều đọc lại thư của phụ thân mấy lần.

Viết nhiều thì không tiện, mặc dù trong thư phụ thân không nói rõ, nhưng ông có nhắc tới chuyện đệ đệ đang bận rộn luyện binh, có thể thấy được, ở bên chỗ phụ thân vẫn chưa bỏ qua chuyện nâng cao sức mạnh của bản thân.

Lúc trước, mục đích đầu tiên mà nàng khuyên phụ thân là để tránh xử đường yến tước[3], ngày sau lâm phải đại họa ngập đầu mà không biết.

[3] Xử đường yến tước: ý chỉ cuộc sống yên ổn mà mất đi cảnh giác.

Mặc dù bây giờ Ngụy Thiệu đã bảo đảm như vậy, nhưng trong lòng Tiểu Kiều vẫn chưa hết đề phòng, tuy nhiên so với trước đã thoải mái hơn nhiều.

Nàng vẫn thấy Duyện Châu phải tự mình vững mạnh.

Trong thời loạn lạc như thế này, chỉ có binh cường mã tráng, nếu có bị tập kích, cho dù người ta tới đây vì lí do gì đi chăng nữa, mình cũng có thể xoay chuyển được.

Thay vì mỗi lần đều xin người tới giúp.

Đọc được một câu có lẽ là vô tình mà phụ thân nhắc tới, Tiểu Kiều càng thấy an lòng hơn.

Nàng ngủ một giấc đến trưa, khi tỉnh dậy cơ thể cũng thoải mái hơn nhiều, Tiểu Kiều đứng dậy trả lời thư cho người.

Sau khi viết xong hồi âm, bởi vì bây giờ đã sắp tới mùa đông, ban ngày dần ngắn, mới tới giờ Dậu ngoài trời đã tối đen, Xuân Nương cầm đèn đi vào phòng.

Chung bà bà chỉ huy hai vú già bưng bàn ăn vào trong, bày biện lên trên sạp rồi mỉm cười gọi Tiểu Kiều dùng bữa.

Nàng hỏi Ngụy Thiệu đâu.

Sở dĩ Tiểu Kiều hỏi là vì mấy ngày gần đây dù có bận thế nào, nhưng đến giờ này hắn đều về nhà cả.

Từ khi nàng mang thai, mỗi ngày phải ăn sáu bảy bữa, ăn tối sớm quá nuốt không trôi, vì vậy dạo gần đây nàng vẫn chờ hắn về nhà rồi cùng nhau dùng bữa.

Hôm nay còn chưa thấy hắn đâu.

Chung bà bà nói: “Vừa rồi Nam quân sai người về báo, có việc bận nên ngài ấy về muộn, mời Nữ quân cứ dùng cơm trước đã, không cần chờ ngài ấy”.

Ngụy Thiệu cố ý sai người về báo chắc là có việc gấp.

Tiểu Kiều không chờ đợi thêm bữa, bắt đầu ăn cơm. Sợ lại nôn ra nên sau khi dùng xong nàng đi lại trong phòng cho tiêu cơm, sau đó lại bị Xuân Nương thúc giục nhanh nằm xuống.

Ngụy Thiệu mãi chưa về.

Sau khi Tiểu Kiều mang thai, ngoài nôn nghén ra, cơ thể của nàng cũng hay mệt rã rời.

Tháng ngày trôi qua cứ ngơ ngơ ngác ngác. Nàng nằm trên giường vừa ngủ mơ màng chờ Ngụy Thiệu, không ngờ cứ thế ngủ thiếp đi.

Lúc tỉnh lại, bên tai yên ắng không biết đã giờ nào.

Không cần mở mắt ra, Tiểu Kiều cũng có thể cảm nhận được cơ thể hừng hực ngay bên cạnh, nàng biết Ngụy Thiệu ở trên giường.

Thấy hắn v**t v* gò má mình, Tiểu Kiều lim dim nhẹ nhàng ừm một tiếng, từ từ xoay người lại như một con mèo nhỏ, đưa tay ra ôm lấy vai của hắn, nằm úp sấp lên lồng ngực Ngụy Thiệu giống như thể không xương, nàng vẫn nhắm chặt hai mắt như lúc trước, ứ ớ hỏi: “Phu quân về nhà khi nào thế?”

“Ta mới về thôi”.

Nàng nghe hắn nói.

Tiểu Kiều hơi mở mắt ra, chống tay lên liếc nhìn chiếc đồng hồ nước bên trong phòng, không ngờ đã quá giờ Mùi nửa đêm.

Nàng quay sang chỗ Ngụy Thiệu: “Muộn vậy rồi sao phu quân chưa ngủ?”

Ngụy Thiệu không đáp, chỉ nhìn nàng chăm chú.

Tiểu Kiều mới ngủ một giấc dậy, đôi gò má ửng hồng. Nàng hồn nhiên không biết thần thái khi đó như ôn hương diễm ngọc, quyến rũ mê người đến ra sao.

Hơn nữa tối hôm nay, Ngụy Thiệu lại thấy cả người như nhiệt huyết sôi trào.

Cố gắng kìm nén ý nghĩ muốn tựa ngọc kề hương, hắn ôm nàng đặt xuống gối, bàn tay nhẹ nhàng phủ lên phần bụng vừa mới lộ, cười nói: “Bé con hôm nay có quấy nàng lắm không?”

Tiểu Kiều ngửa mặt, lắc đầu nói: “Hôm nay thiếp toàn ngủ thôi, đỡ hơn nhiều rồi”.

Nàng và Ngụy Thiệu bốn mắt nhìn nhau: “Có chuyện gì phải không? Sao phu quân lại về muộn thế này?”

Hơn nữa, nàng cảm thấy ánh mắt hắn nhìn mình không giống như bình thường.

“Man Man, có lẽ có một khoảng thời gian ta không thể ở bên nàng và con được”. Ngụy Thiệu nhìn nàng chăm chú rồi nói.

Tiểu Kiều ngẩn ra. Theo bản năng nàng định hỏi tại sao, lời chưa kịp ra khỏi miệng đã vội vàng sửa lại.

“Phải đánh trận nữa sao?” Nàng nhẹ giọng hỏi.

“Hạnh Tốn soán vị xưng đế. Hắn tập kích binh mã khoảng chừng năm trăm ngàn, chuẩn bị tiến tới phía Bắc Hoàng Hà, đánh ta”.

Lúc Ngụy Thiệu nói vậy, giọng điệu vô cùng bình tĩnh.

Nhưng sâu thẳm trong đôi mắt hắn, Tiểu Kiều có thể cảm giác được có ánh sáng hưng phấn lóe lên như dã thú ngửi thấy mùi máu tanh.

Tiểu Kiều ngây người.

Nàng biết rồi Ngụy Thiệu và Hạnh Tốn sẽ có một trận quyết chiến.

Sau một hồi mây mù vần vũ, quát tháo rầm trời, đại cục thiên hạ sẽ được quyết định.

Người thắng cuộc sẽ chiếm được thế cục của thiên hạ, khí thế như chẻ tre, không ai ngăn cản được.

Nếu giống như giấc mơ của nàng về kiếp trước.

Nàng cũng biết kết quả cuộc đấu đó thế nào.

Nhưng điều khác với giấc mộng kiếp trước của nàng là, Hạnh Tốn xưng đế ở Lạc Dương và mở màn cho trận đại chiến tranh cướp thiên hạ với Ngụy Thiệu lại sớm đến thế này.

Nàng càng không ngờ chuyện đó lại thình lình xảy đến trước mấy năm.



Tín Đô trở thành nơi để Ngụy Thiệu chỉ huy chiến sự chuẩn bị nghênh đón cho trận chiến lâm thời.

Không khí bao phủ tòa thành cũng bỗng chốc khẩn trương.

Vài ngày sau, rốt cuộc dân chúng cũng chú ý đến nhóm binh sĩ mặc áo giáp chỉnh tề từ bốn phương ồ ạt không dứt tới nơi này, vẻ mặt nghiêm túc của nhóm các tướng quân.

Họ bắt đầu thấp thỏm bàn tán, một cuộc chiến mới sắp xảy ra thì phải.

Dân chúng phỏng đoán cũng không sai.

Lý Điển, Lý Sùng, Trương Kiệm, Ngụy Lương…

Trong mấy ngày đó, các tướng quân thân kinh bách chiến dưới trướng của Ngụy Thiệu đều biết được tin tức, sau khi chuẩn bị công tác phòng thủ ở hậu phương, họ từ U Châu, Tịnh Châu lục tục hỏa tốc về Tín Đô.

Đại quân chuẩn bị để xuôi nam, hỏa lực tập trung vào phía Bắc Hoàng Hà.

Từ bốn phía cửa thành của Tín Đô, từ sớm đến tối, cho dù là đêm hôm khuya khoắt, thỉnh thoảng lại có khoái mã phóng như tia chớp rong ruổi ra vào, đưa tin cấp báo.

Trong đại sảnh nghị sự ở tiền đường Tín cung, đèn đuốc thắp sáng suốt cả đêm, thậm chí là thâu đêm suốt sáng.

Ngụy Thiệu và mưu sĩ của hắn, các tướng quân, quan môn quân nhu và lương thảo đều ở đó bàn bạc đối sách, thương thảo sách lược.

Họ đã có chuẩn bị từ trước cho trận đại chiến lần này.

Vì thế mặc dù không khí khá căng thẳng, nhưng tất cả đều tiến hành đâu vào đấy.

Chỉ có điều Ngụy Thiệu lại trở nên bận rộn lạ thường.

Ban ngày Tiểu Kiều không thể nhìn thấy hắn.

Buổi tối hắn hay về rất muộn.

Có khi chỉ mới tảng sáng, hắn mới ngủ một chốc rồi lại bị một tin tức nào đó từ tiền tuyến Hoàng Hà gọi hắn đi.

Nửa tháng sau, vào một ngày cuối tháng mười, cuối cùng Ngụy Thiệu cũng nghĩ ra cách ứng chiến.

Với quy mô của bản doanh đại chiến ở Lê Dương Bắc Hoàng Hà, xây hàng rào quanh trại, hai vùng Cao Đường, Phạm Tân sẽ có thế đối nhau, bên ngoài Hoàng Trì về phía Tây Nam hai trăm dặm sẽ đặt kho lương thảo, dựng phòng tuyến trận địa sẵn sàng đón địch, đánh lén vào đại quân Hạnh Tốn ở Bắc ngạn Hoàng Hà, quyết một trận đại chiến.

Sau ba ngày, hắn chuẩn bị rời khỏi Tín Đô, dẫn đại quân đi về hướng Lê Dương.

Cũng trong ngày đó, Tiểu Kiều nhận được một phong thư của Từ phu nhân.

Trong thư bà viết rất đơn giản, chỉ duy nhất một câu.

Bà nói, thay mặt Tổ mẫu tiễn Thiệu Nhi xuất binh.
 
Khom Lưng
Chương 133



Ngụy Thiệu dẫn theo bốn trăm ngàn binh mã.

Phòng tuyến ở biên cương từ Tây sang Đông kéo dài dằng dặc đến mấy ngàn cây số, quân trấn san sát, bày bố đến gần mười vạn binh mã.

Quân phiệt của triều Hán thì chia cắt, lại chiến loạn không ngừng, cách một con sông Tang Kiền, hai bên Nam Bắc là người Hán và dị tộc Hung Nô. Tuy nhiên đây cũng là thời đại hoàng kim cường thịnh nhất từ trăm năm đến giờ.

Hiện nay Đại Đan Vu Y Tà Mạc đã già rồi, mấy nhi tử vẫn tranh giành lẫn nhau, sóng ngầm cuồn cuộn, thậm chí, móng ngựa của thiết kỵ Ngụy gia từng giẫm đạp lên thảo nguyên Vương đình, thế nhưng trong lòng Ngụy Thiệu lại hết sức rõ ràng, thời gian mà dị tộc Đại Đan Vu phương Bắc quật khởi cùng tổ phụ của mình, cũng là một trong những thống lĩnh quân sự kiệt xuất nhất đếm trên đầu ngón tay mà trong đời hắn gặp.

Dưới mấy chục năm thống trị của Đại Đan Vu, nhân khẩu của Hung Nô tăng vọt, từ kỵ binh chưa đến mười vạn trong thời Tổ phụ của Ngụy Thiệu đã mở rộng đến ba trăm ngàn ngày hôm nay.

Chiến mã lại vô cùng quý giá.

Xét theo một khía cạnh nào đó, một chiến mã giá trị còn tốt hơn nhiều một binh sĩ.

Từ khi xuôi nam bị Ngụy gia áp chế mười năm nay, tộc Hung Nô dưới sự thống lĩnh của Đại Đan Vu đã chiếm được Đông Hồ, Uế Mạch, Túc Thận, và hơn mười chính quyền Lâu Lan ở phía Tây, khống chế được phần lớn Tây Vực, phía Bắc còn chinh phục được Khuất Xạ, Cách Côn, Lương Lê, có số dân ngang ngửa với một nước.

Mặc dù đã mạnh mẽ như ngày hôm nay, Ngụy Thiệu không thể không thừa nhận, tộc Hung Nô và Đại Đan Vu già yếu tuyệt đối không phải là kẻ địch mà mình có thể khinh nhờn được.

Vì thế U Châu nhất định không thể có sai sót.

Hắn để lại bộ phận binh mã này là để bảo vệ một nhánh trường thành ở biên giới phương Bắc, cũng chính là bảo đảm cho cơ nghiệp U Châu của hắn ở phía sau.

Dù khi đó có xảy ra chuyện gì, nhất định không được điều động nó.

Giờ Mão ngày mai, sau khi tế cờ xong, hắn thống lĩnh ba trăm ngàn binh mã xuôi nam, cùng với một nhóm binh lực tiên phong, quyết đấu một trận đại chiến sinh tử với năm mươi vạn đại quân của Hạnh Tốn ở Bắc ngạn Hoàng Hà.

Trong lòng Ngụy Thiệu hiểu rất rõ, đây không phải là trận chiến dễ dàng.

Hạnh Tốn bảo thủ và tự đại, nhưng thực lực của hắn lại không thể khinh thường, khí thế từ trận năm ngoái đánh bại Viên Giả, lần này lên phía Bắc nhất định sẽ rất hung hăng.

Nhưng hắn lại không thấy sợ hãi một chút nào.

Trái lại, từ khi biết được Hạnh Tốn xưng đế và muốn phát binh lên phía Bắc để chinh phạt mình, dòng máu nóng trong cơ thể hắn lại chuyển động cực nhanh, thậm chí là nhiệt huyết sôi trào.

Hắn cảm nhận được, chiến tranh mang tới một cảm giác hưng phấn trước nay chưa từng có.

Khác hẳn với những lần chiến sự to nhỏ của nhiều năm về trước.

Đây là lần đầu tiên xảy ra một trận tỷ thí với đối thủ mạnh mẽ nhất Trung Nguyên.

Mây gió vũ vần, rầm trời quát tháo, thành tựu của Nghiêu Thuấn vẫn sừng sững lớn lao, đại thế Cửu Châu sẽ bắt đầu bước sang trang sử mới.

Kết hoạch đã sắp xếp xong xuôi, chỉ chờ sáng mai tế cờ rồi xuất phát.

Đám người Công Tôn Dương, Vệ Quyền bây giờ vẫn còn ở trong phòng nghị sự, họ sốt sắng đối chiếu lại danh mục vận chuyển lương thảo, khẩu lệnh khải lễ, và những thứ vụn vặt khác, không để xảy ra sai sót dù chỉ là nhỏ nhất.

Trời sắp tối, Ngụy Thiệu cũng trở về.

Mấy ngày nay phải chuẩn bị chiến sự, sắp tới xuất binh, sự hưng phấn chiếm trọn đầu óc hắn, nhưng đến khi nghĩ tới tiểu nữ nhân đang mang thai đứa nhỏ, trong lòng hắn lại nảy sinh một cảm giác thương tiếc xót xa và không nỡ.

Hắn đi vào Xạ Dương cư, ngước mắt nhìn ánh đèn mờ nhạt lóe ra bên khung cửa, bước chân ngừng lại một chút.

Trong nửa tháng này, dù hắn có về muộn bao nhiêu, ánh đèn ở đây vẫn luôn thắp sáng chờ đợi hắn.

Hắn cất bước nhanh chân đến dưới bậc cấp, ra hiệu cho nhóm vú già đang định chào đón mình ngậm miệng, nhảy vài bước lên trên bậc thang rồi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa khép hờ.

Khẽ bước qua tấm bình phong, nhưng nàng ấy lại không nằm trên giường mà đưa lưng về phía hắn, ngồi trước bàn trang điểm. Trên mặt bàn là thùng thư đang mở.

Nàng cúi đầu hình như đang đọc thư.

Nghe thấy tiếng bước chân hắn vào, nàng đặt thư xuống rồi nhét vào phía dưới hộp trang điểm.

Ngụy Thiệu đi tới phía sau nàng, hắn ngồi quỳ chân ôm lấy hông nàng từ phía sau, bàn tay dán lên phần bụng hơi nhô ra, hắn hỏi: “Ai gởi thư thế?”

Tiểu Kiều quay mặt sang, đối diện với ánh mắt của hắn, mỉm cười nói: “Là a tỷ của thiếp ở Linh Bích. Giả tướng quân vừa mới đưa thư tới”.

Ánh mắt của Ngụy Thiệu khẽ động.

Chỉ ồ một tiếng mà không hỏi gì thêm.

Mấy ngày trước Dương Tín cũng gửi thư, mấy trinh thám nằm vùng cũng có báo tin về, Lưu Diễm đi tới Linh Bích lần nữa, muốn gặp gỡ Bỉ Trệ.

Kết quả thế nào thì chưa biết, họ chỉ thấy Bỉ Trệ đích thân tiễn Lưu Diễm ra khỏi Linh Bích.

Có thể đi tới tận ba lần cũng đủ thấy thành tâm.

Dù không xao động cũng khó mà nói được.

“Hôm nay Man Man có mệt không?”

Mặt của hắn nhích gần, hít một hơi thật sâu mùi thơm trên tóc nàng, sóng mũi lướt qua vành tai mềm mại như ngọc bạch, dịu dàng hỏi.

Tiểu Kiều đưa mắt nhìn hắn.

Lưu Diễm đột nhiên xuất hiện càng khiến tình hình Từ Châu thêm rối loạn.

Nếu Dương Tín quy phục Ngụy Thiệu, Tiểu Kiều không tin Ngụy Thiệu không biết chuyện lần này.

Nhưng ở trước mặt nàng hắn vẫn không nhắc tới một lời, giống như không có chuyện gì xảy ra.

Tiểu Kiều tựa vào lòng của hắn.

“Phu quân có nhớ Lang Gia công tử Lưu Diễm không?” Nàng bất ngờ hỏi.

Vành tai và tóc mai của hai người chạm khẽ, bàn tay Ngụy Thiệu cũng đi lên len vào vạt áo của nàng, ngón tay lướt qua áo lót.

Nghe vậy hắn mới hơi dừng lại, sau đó lại tiếp tục đẩy mấy lớp vải vóc mỏng tanh trên người nàng, lòng bàn tay chai sạn dán lên đôi quả đào non mềm vì mang thai mà trở nên đầy đặn.

“Nhắc tới hắn làm gì?”

Ngụy Thiệu nhẹ nhàng xoa, cảm nhận sự mềm mại của chúng ở trong tay của mình.

Giọng điệu vẫn thờ ơ như cũ.

Tiểu Kiều kéo cái tay trong vạt áo mình ra, ngồi dậy khỏi lồng ngực của hắn xoay người quỳ chân lại, đối mặt cùng nhau.

“Phu quân không hỏi a tỷ của thiếp viết gì trong thư, nhưng thiếp lại muốn nói”.

Ánh mắt hắn rơi xuống trên mặt nàng.

“A tỷ nói, Lang Gia Vương ba lần tới gặp Bỉ Trệ mong huynh ấy góp sức cho hắn, nhưng từ đầu tới cuối Bỉ Trệ không hề đồng ý. A tỷ còn nói, Bỉ Trệ biết tin Dương Tín lui binh là xuất phát từ tâm ý của Yên hầu, hiểu lầm đã được hóa giải, huynh ấy không muốn nảy sinh những thị phi khác nữa”.

“Thiếp biết Bỉ Trệ là người thế nào mà, rất biết giữ lời hứa. Hắn như vậy, phu quân có yên tâm không?”

Tiểu Kiều nói thẳng mà không hề che giấu.

Ngụy Thiệu chăm chú nhìn vào đôi mắt nàng.

“Ta không thích Lưu Diễm”.

Một lát sau, hẵn bỗng nhiên nói vậy.

Chẳng liên quan gì tới những điều mà Tiểu Kiều vừa nói.

“Man Man, hắn là vị hôn phu trước kia của nàng, ta biết nàng và hắn từng tâm đầu ý hợp. Bây giờ hắn hành động như thế cũng có nghĩa là muốn tranh thiên hạ. Nếu sau này hắn rơi vào tay ta, chắc chắn ta sẽ không nể tình”.

“Nàng đừng trách ta”.

Từng chữ hắn nói rất nặng nề.

Tiểu Kiều run lên.

Đã rất lâu rồi nàng chưa từng nghĩ tới Lưu Diễm đó.

Thế nhưng ngay giờ khắc này đây, kí ức cuối cùng trong giấc mơ kiếp trước, và cả tình cảnh hai năm trước khi nàng được gả cho Ngụy Thiệu, ngày hôm sau tân hôn bị hắn đuổi về Ngư Dương, trên đường đi còn bị người kia cướp bỗng lại tái hiện ra.

Lúc đó khi nàng khéo léo từ chối hắn, ánh mắt kì lạ mà hắn nhìn chằm chằm vào nàng đến bây giờ Tiểu Kiều còn nhớ kĩ, kí ức mãi chưa phai.

Nàng trầm mặc.

“Trong thư a tỷ nàng viết có nói tới chuyện khác liên quan tới Lưu Diễm không?”

Bỗng Ngụy Thiệu lại hỏi, giọng điệu nghe như hờ hững.

Tiểu Kiều hơi chần chờ, nàng đang định lắc đầu, Ngụy Thiệu lại nghiêng người tới trước, bàn tay đưa tới lá thư bằng lụa trắng nàng nhét xuống dưới hộp trang điểm.

Tiểu Kiều không nghĩ hắn sẽ lấy thư ngay trước mặt của mình.

Lòng hơi thảng thốt.

Thấy tay hắn đã chạm tới bức thư, theo bản năng nàng đưa tay đặt lên trên tay hắn.

Ngụy Thiệu ngước mắt nhìn nàng chăm chú.

Tiểu Kiều giật mình nhận ra không thích hợp.

Trong thư Đại Kiều có nhắc tới Lưu Diễm, và trực giác của Tiểu Kiều lại không muốn Ngụy Thiệu nhìn thấy nó.

Tuy nhiên, đại chiến sắp xảy ra, nàng cũng không muốn khiến cho Ngụy Thiệu nảy sinh nghi ngờ không cần thiết.

Nếu mình ngăn cản chỉ sợ là lại phản tác dụng.

Nàng bèn buông tay, nói tiếp: “Nếu chàng muốn xem thì cứ xem cũng được”.

Ngụy Thiệu và nàng cùng nhìn nhau một lúc, ngón tay cầm lấy bức lụa trắng từ từ buông lỏng, hắn ngồi ngay ngắn lại lần nữa.

“Ta muốn nàng nói cho ta nghe”.

Giọng nói ngập tràn vẻ ra lệnh.

Tiểu Kiều thầm thở dài.

“A tỷ có nhắc tới một đoạn. Nói là hắn đã bỏ được chuyện lúc xưa, còn chúc thiếp vui vẻ”.

“Như thế không phải là tốt lắm sao?”

Nàng ung dung nói tiếp.

Vẻ mặt Ngụy Thiệu như đông lạnh, một lát sau hắn cũng không nói gì, bỗng nhiên lại khẽ mỉm cười gật đầu nói: “Phải, rất tốt”.

Nói xong hắn giang hai tay ra.

Tiểu Kiều nhào vào lòng của hắn.

Ngụy Thiệu cúi đầu hôn lên đôi bờ môi mềm mịn thơm hương của Tiểu Kiều, bỗng lại nhớ tới lời đồn đại lan truyền ở phía Nam Hoàng Hà liên quan tới chuyện Hạnh Tốn lớn tiếng muốn bắt sống được hắn, đoạt Tiểu Kiều thu vào Liên Hoa Thai.

Mặc dù hắn biết chẳng qua là phô trương thanh thế, muốn đánh vào tâm lý trước trận chiến mà thôi, ý định muốn quấy nhiễu lòng mình.

Nhưng trong đáy lòng hắn vẫn tức giận mơ hồ.

Quấn quýt lấy bờ môi nàng, càng lúc càng mạnh hơn.
 
Khom Lưng
Chương 134



Mặc dù mới là đầu mùa đông, khí hậu ở Tín Đô cũng không lạnh như thành Ngư Dương.

Nhưng vì để chăm sóc Tiểu Kiều, Xạ Dương cư ở Tín cung vẫn đốt địa long ngay dưới đất. Cả phòng ấm áp như xuân.

Nhiệt độ của Ngụy Thiệu cũng tăng nhanh nhảy vọt.

Từ khi Tiểu Kiều được chẩn mạch là có thai tới giờ, trong hai ba tháng đó, Ngụy Thiệu vẫn luôn ngủ cùng nàng.

Xuân Nương sợ Nam quân không hiểu chuyện nên mới lặng lẽ dặn Tiểu Kiều, nhất định không được sinh hoạt vợ chồng.

Sau đó Chung bà bà tới đây, bà cũng lo phu thê trẻ tuổi hằng đêm ngủ cùng giường chỉ sợ sẽ khó kìm lòng nổi, ngay trước mặt Ngụy Thiệu, bà tìm cơ hội uyển chuyển biểu đạt ý tứ trên.

Thật ra cũng không cần Chung bà bà nhắc nhở, Ngụy Thiệu cũng đã cẩn thận hết sức rồi.

Từ sau khi Tiểu Kiều có thai, bởi vì cả ngày nàng luôn thấy mệt mỏi, trong mắt hắn Tiểu Kiều chẳng khác nào cái bình lưu ly chỉ sợ đụng vào là bể ngay, đừng nói tới chuyện muốn thân thiết cùng nàng. Buổi tối nằm ngủ hắn cũng đàng hoàng hơn, chỉ lo mình gác chân sang sẽ đè lên bụng nàng.

Nhưng mà nín nhịn lâu như vậy, không nhìn thấy thì thôi, cả ngày quay về phía một mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành như vậy, lại là người của mình, chỉ có thể nhịn mà không được động, đó cũng là một kiểu giày vò.

Nghĩ đến chuyện sáng mai phải đi rồi, bỗng nhiên hắn lại không nhịn được.

Bế bổng Tiểu Kiều lên không trung, ôm tới bên giường.

Hắn nằm nhoài trước ngực nàng, tàn nhẫn ôm hôn. Hai tay cũng không hề nhàn rỗi, kéo vạt áo nàng ra.

Chiếc áo của Tiểu Kiều nửa hở, đôi vai xinh xắn trắng ngần, hai quả đào trắng nõn cao vút được che bên dưới áo, đẹp không sao tả tiết, lấp lánh chói cả mắt.

Ngụy Thiệu nhìn chằm chằm vào bữa ăn mỹ miều hoạt sắc sinh hương như sơn hào hải vị, hắn từ từ x.oa nắn bọn nó, bàn tay dần tăng lực, sau đó lại vùi đầu ép cả khuôn mặt xuống.

Một chốc lát sau, sau lưng hắn đã rịn một lớp mồ hôi nóng.

Hốt hoảng rời khỏi người nàng, ngửa mặt ngã nhào trên mặt gối, Ngụy Thiệu th* d*c hồng hộc, như thể sắp hít thở không thông, hắn lẩm bẩm: “Phòng này nóng quá… Ta thấy hơi nực…không thoải mái… ta đi tắm đã…”

Hắn dém chăn lại bao bọc quanh Tiểu Kiều rồi xoay người xuống giường vọt vào phòng tắm.

Trong phòng vang lên tiếng nước chảy ào ào.

Ngụy Thiệu đợi trong đó một lúc lâu mới kìm nén được lửa nóng hừng hực ở trong người, hắn thở dài một hơi rồi khoác bừa quần áo đi ra ngoài.

Nhìn thấy Tiểu Kiều vẫn úp mặt ở trong chăn như thế, chỉ lộ ra một khuôn mặt nhỏ nhắn, đôi gò má phấn hồng ửng đỏ. Nàng nhắm mắt lại như đã ngủ thiếp đi.

Hắn nín thở bò lên giường lần nữa, ôm lấy nàng vào lòng rồi ngây ngẩn cả người.

Áo ngủ bằng gấm phủ lên cơ thể mềm mại mịn màng không che được bao nhiên, nàng nép vào ngực hắn, không nhúc nhích.

“Man Man…”

Nhịp tim của hắn tăng nhanh, lửa nóng vừa cố gắng đè nén lại bùng cháy dữ dội.

Nhìn đôi hàng mi hơi run rẩy của nàng, hắn càng thêm khó thở.

Bỗng nhiên phía dưới bị một bàn tay nhỏ nhắn mềm nhũn vươn tới, nhẹ nhàng xoa xoa lên lớp cơ bụng chắc nịch và trơn nhẵn của mình.

“Man Man…”

Ngụy Thiệu muốn động lại không dám lộn xộn, giọng nói như run rẩy.

Bàn tay nhỏ của Tiểu Kiều tiếp tục âu yếm hắn, dần dần đi xuống.

Bờ môi thơm mềm mại dán lên khuôn ngực trần của hắn, đầu lưỡi thơm tho vừa l**m hôn, từ từ dao động, nàng ngậm lấy một bên đ** ng*c, hàm răng nhẹ nhàng cắn một cái.

Lỗ chân lông khắp người Ngụy Thiệu đều thư giãn, tóc gáy dựng đứng, không nhịn được ngâm nga.

“Không cho chàng phát ra tiếng đâu, đừng để mọi người nghe được… còn nữa, chàng phải nhắm mắt lại, không được nhìn lén… Nếu chàng dám nhìn lén thiếp mặc kệ chàng đấy…”

Giọng nói thẹn thùng của Tiểu Kiều vang lên bên tai hắn.

Ngụy Thiệu vội vàng nhắm mắt lại, khuôn mặt như xoắn chặt. Hắn đành nhẫn nhịn không dám kêu thành tiếng. Rốt cuộc cũng không sao nhịn được, yết hầu vang lên từng tiếng lụ khụ ầm ừ như hài lòng.

Giống một con mèo được nữ chủ nhân xoa đầu âu yếm khi đang phơi nắng giữa mùa đông.



Canh năm, trong ngoài Tín cung đèn đuốc sáng choang.

Đám người Lý Điển, Ngụy Lương mang theo nhóm thân vệ áo giáp sáng lòa, phóng ngựa lên đường tới Tín cung, chuẩn bị đón hắn ra khỏi thành.

Tiểu Kiều khoác chiến giáp lên người Ngụy Thiệu, cuối cùng là móc chiếc khóa long lân ở bên hông, nàng cười nói: “Tổ mẫu gửi thư, nói thiếp phải thay bà tiễn chàng xuất chiến. Thiếp và con chúng ta sẽ chờ chàng khải hoàn”.

Ngụy Thiệu gật đầu: “Yên tâm chờ ta quay lại”.

“Hôm qua quân sư nhắc nhở ta”. Hắn nghĩ tới rồi nói tiếp: “Cần đề phòng Hạnh Tốn nhân cơ hội đột kích gây rối Duyện Châu. Sau khi suy tính, ta đã để Dương Tín đợi lệnh. Nếu như quân sư đoán đúng sẽ cho hắn xuất binh trợ lực”.

Tiểu Kiều nói: “Phu quân cân nhắc chu toàn. Man Man cảm ơn chàng. Thiếp biết trận chiến lần này rất quan trọng, nếu cần phải dùng Dương Tín phu quân cứ gọi hắn đi. Hôm nay thiếp sẽ gửi thư tới Duyện Châu, nhắc nhở phụ thân sớm phòng bị kịp thời. Nếu thật sự không thể tự vệ được, đến lúc đó sẽ cầu xin sự giúp đỡ của phu quân”.

Ngụy Thiệu nhìn nàng chăm chú một lúc, khẽ vuốt cằm.

“Quân hầu, Lôi tướng quân truyền lời, các tướng quân đã chờ sẵn ở ngoài Tín cung, mời Quân hầu tế cờ duyệt binh”.

Tiếng Chung bà bà vang lên ngoài cửa.

“Phu quân nên đi thôi”.

Tiểu Kiều cười nói.

Ngụy Thiệu xoay người đi ra ngoài.

Bỗng nhiên hắn lại ngừng bước chân, trở lại bên cạnh nàng, giang tay ôm chặt nàng vào lòng.

Cánh tay mạnh mẽ xuyên qua lớp áo giáp cứng rắn, từng tấc từng tấc thấm vào xương cốt của nàng.

Hắn cúi đầu hôn lên trán nàng một cái rồi mới buông nàng ra, mở bước bước nhanh.



Phía Đông trời tảng sáng.

Tiểu Kiều đi cùng Chung bà bà và Xuân Nương, đứng trên đỉnh Đàn Đài nhìn về phía ngoài thành Nam, núi sông đồng nội, cờ bay phất phới, đại quân của Ngụy Thiệu từ từ xuất phát về phía Nam.



Thái An năm thứ hai, cuối mùa Đông, đại quân của Hạnh Tốn xuất phát từ Lạc Dương, đi qua Hổ Lao Quan, dừng lại ở bờ Nam Hoàng Hà bên ngoài Hổ Lao Quan.

Hai bên cách nhau một con sông xem chừng nhau nửa tháng. Hạnh Tốn không kiềm chế nổi, hắn phái kỳ tử Hạnh Duy cùng với Đinh Khuất tới bến đò Hổ Lao, ghép thuyền cầu[1] qua sông, ý định đánh thẳng vào bản doanh Lê Dương của Ngụy Thiệu.

[1] Thuyền cầu: thuyền nổi ghép thành mặt phẳng như một chiếc cầu nối qua sông.

Ngụy Thiệu phái Đàn Phù, Lôi Viêm, nhận một vạn nhân mã, khắp núi đồi bên bờ kia phủ kín tinh kì, cung tên bắn loạn, toàn lực ngăn cản người qua sông. Đợi tới khi quân chủ lực của Hạnh Tốn qua hơn phân nửa thì ngừng bắn, vừa đánh vừa lui, dẫn địch vào vòng vây mai phục từ trước, sau một tiếng trống lửa kinh thiên động địa, Lý Điển, Trương Kiệm, Lý Sùng, Ngụy Lương dẫn phục binh chia theo bốn đường tiến đánh, Đinh Khuất và Hạnh Duy không chuẩn bị kịp, hiệu lệnh không thỏa đáng, họ không chống lại nổi thế tiến công ác liệt nên lui về thuyền định rút binh, không ngờ mấy chục con thuyền đã bị Ngụy Thiệu sai cung thủ phục kích ở Bắc ngạn Hổ Lao quấn rơm vào hỏa tiễn thiêu trụi, trong lớp khói đặc và ánh lửa mịt mù, thuyền cầu bị hủy, không còn đường trốn, truy binh phía sau lại tiến đến. Sau một hồi ác chiến, quân sĩ Hạnh Tốn hoặc bị giết hoặc bị bắt, có người rơi xuống nước, nhiều vô kể. Hạnh Duy bị tên lạc bắn chết, Đinh Khuất dũng cảm thoát vòng vây, dẫn theo tàn binh chạy dọc về phía Tây tầm trăm dặm, cuối cùng mới tìm được chiếc đò, cướp thuyền vượt sông, cả đội quân thất bại tan tác quay trở về.

Trận đầu tiên ở Hổ Lao, Hạnh Tốn tổn hại hơi vạn binh sĩ, trận đầu thất bại còn mất cả nhi tử. Sau khi biết tin, hắn đấm ngực giậm chân, đau đến không muốn sống, thề chết phải báo thù rửa hận.

Nửa tháng sau, Hạnh Tốn làm cầu lần thứ hai. Lần này rút được bài học từ lần trước, hắn để người ở lại giữ cầu. Từ mình dẫn đại quân qua sông một lần nữa.

Lần này Ngụy Thiệu cũng tự mình thống lĩnh, ứng chiến với Hạnh Tốn ở vùng đồng cỏ phía Bắc Hoàng Hà. Hai bên dẫn theo quân chủ lực, tổng cộng đến mấy trăm ngàn người.

Ác chiến luân phiên, hai bên đều bị tổn hại.

Một đêm tối nọ nửa tháng sau, Huỳnh Dương ở phía Nam Hoàng Hạ lại xảy ra trận hỏa hoạn ngất trời.

Đây là kho lương thảo của Hạnh Tốn, bị Dương Tín, Quách Thuyên liên quân tập kích bất ngờ, lính canh phòng không chú ý nên bị lửa cháy đến sáu bảy phần mười.

Tin tức truyền ra, lòng quân của Hạnh Tốn náo loạn, Ngụy Thiệu nhân cơ hội đó dẫn trọng binh đánh tới, Hạnh Tốn không địch lại, giữa lúc quân lính hỗn loạn suýt nữa bị vây bắt, may nhờ Đinh Khuất cố gắng bảo vệ, dẫn dụ truy binh mới có thể lui về được bờ Nam.

Vì có truy binh theo chân, hắn vừa mới qua sông đã phá hủy cầu nối, mặc kệ đám tàn binh còn sót lại.

Hai trận đều thất bại, Hạnh Tốn bị thương đến nguyên khí, nhuệ khí cũng mất sạch.

Dù không cam lòng đến mấy hắn cũng không dám chủ động dấy binh nữa, thêm vào đó khí trời dần giá lạnh, Hạnh Tốn ra lệnh cho quân sĩ dựng lều vải ngay tại chỗ, đối diện với Ngụy Thiệu bên sông, giữ thế giằng co tạm thời.

Ngày hôm đó nhìn sang bờ bên kia, phóng tầm mắt tới Bắc doanh, hắn đang hậm hực than thở thì Tư Trực Tang Thường hiến kế: “Bây giờ bệ hạ đã là người cầm đầu thiên hạ, trong các chư hầu ở Trung Nguyên, ngoài Quách Thuyên, Dương Tín, những người còn lại đều hoàn toàn nghe theo. Hai người Quách Dương nghe theo lệnh Ngụy Thiệu, mưu nghịch phản loạn, sao có thể để cho hắn thong dong, đợi đến khi bệ hạ bình định được đại cục phương Bắc, bắt hai người đó khai đao cũng không muộn. Chỉ e Viên Giả có lòng riêng, bệ hạ không thể trọng dụng. Còn các chư hầu khác, Hán Trung Nhạc Chính Công là bạn ngày xưa của bệ hạ, bệ hạ xưng đế hắn cũng dâng tấu chương chúc mừng, sao bệ hạ không ban chiếu chỉ, lệnh hắn nhanh chóng dẫn binh tới đây tiếp ứng. Một là để khuếch trương thanh thế, hai là để uy h**p Ngụy Thiệu”.

Hạnh Tốn vui mừng, vội vàng sai Tang Thường hỏa tốc tới Hán Trung truyền chỉ.



Hán Trung.

Nhạc Chính Công tiếp chỉ, cung kính mời Tang Thường tới dịch xá trước. Hắn trở lại nội thất cho mời mưu sĩ Trương Yến, La Hiền cùng đến, hắn biến sắc ném thánh chỉ xuống đất, tức giận nói: “Hạnh Tốn bắt giữ ấu đế ở Tây Giao Lãnh để[2] Lạc Dương, đã thế còn dám tự xưng đế, bây giờ đấu hai trận với Ngụy Thiệu đều thất bại, ngay cả Hoàng Hà còn không vượt qua được, vậy mà dám gọi ta đi tiếp ứng?”

[2] để: dinh thự

Mưu sĩ Trương Yến nói: “Hạnh Tốn đóng quân ở phía Nam Hoàng Hà, bây giờ nhất định Lạc Dương đang trống vắng. Ta khuyên chúa công nên nhân cơ hội ngàn năm có một này, phát binh đánh chiếm Lạc Dương, sau khi có được Lạc Dương và ấu đế, ta có thể nhân danh ấu đế kêu gọi chư hầu thiên hạ cùng tiêu diệt Hạnh Tốn. Đến lúc đó trước có Ngụy Thiệu, sau có chúa công, hai bên cùng giáp công, nhất định Hạnh Tốn sẽ thất bại. Một khi Hạnh Tốn mất, chúa công lại có công cứu giá to lớn, trong thiên hạ có người nào không dám cung phụng chuẩn mực của chúa công?”

La Hiền cũng đồng tình.

Nhạc Chính Công trầm ngâm một lúc rồi nghe có người ngoài cửa nói: “Không được!”

Ngước mắt nhìn lên, đây là Trúc Tăng, người mới tháng trước từ chỗ Hạnh Tốn tới đây nhờ vả mình.

Hắn không vui nên cau mày nói: “Ngươi có kiến giải gì?”

Trúc Tăng đi vào, nói: “Nhờ có Hán Trung hầu giúp đỡ giữ ta lại. Ăn bổng lộc của người, tất nhiên phải làm việc cho người, ta cũng xin phát biểu suy nghĩ của mình. Ta đã theo Hạnh Tốn nhiều năm, cũng hiểu rõ người này. Hắn là một tên bảo thủ, dùng người không hiểu biết, mưu nhiều mà không quyết, đã thế lại mơ xa. Trước kia có Phùng Chiêu dưới trướng Lương Châu Khương Bình là có thể dùng, dũng mãnh và thiện chiến, bây giờ Phùng Chiêu mất Lương Châu, Khương Bình cũng đi, dũng sĩ dưới trướng ít có người trung thành, khó thành đại sự. Trái lại về phía Ngụy Thiệu, tuổi nhỏ lại tài cao, khí thế dũng mãnh, mạnh khó mà đỡ nổi, dưới trướng lại có nhiều binh tướng tài năng. Đây mới là kẻ địch mạnh trong đại kế thiên hạ của Hán Trung hầu. Nếu bây giờ để cho Ngụy Thiệu diệt Hạnh Tốn, chắc chắn Ngụy Thiệu sẽ theo đà xuôi nam, thế như chẻ tre, khí thôn hồng nghê[3], thiên hạ không ai có thể ngăn lại được! Mặc dù Hán Trung hầu chiếm được Lạc Dương, nhưng cũng không phải là kế hoạch lâu dài”.

[3] Khí thôn hồng nghê: ý chỉ khí phách lớn lao.

Vẻ mặt đang ngạo nghễ của Nhạc Chính Công dần trở nên nghiêm túc.

Thấy Trúc Tăng ngừng lại, hắn vội hối thúc người kia nói tiếp.

Trúc Tăng trình bày: “Theo góc nhìn của ta, Hán Trung hầu nên phát binh theo ý chỉ, cùng Hạnh Tốn thảo phạt Ngụy Thiệu. Với binh lực của Hán Trung hầu và Hạnh Tốn, trước tiêu diệt Ngụy Thiệu đã, sau đó chỉ còn lại Hạnh Tốn, một tên vượt quyền chiếm vị, với tài năng của Hán Trung hầu còn sợ gì nữa sao!”

Nhạc Chính Công mừng rỡ, đứng dậy chắp tay nói: “Ta có được sứ quân như có được châu báu! Lúc trước là ta chậm trễ, tiên sinh chớ trách”.

Hắn đáp lễ như khách quý.
 
Khom Lưng
Chương 135



Tây Giao Lãnh để ở Lạc Dương có tên là Ô Yến cung, đây là biệt uyển hoàng gia từ ngày trước, bây giờ cũng đã sớm suy tàn. Trong cung cỏ dại mọc um tùm, tơ nhện giăng kín.

Đáng thương cho Hán đế Lưu Thông, bảy tuổi đã bị xách lên ngôi Hoàng đế làm con rối, đến nay chưa được lấy một ngày an tâm. Trước kia phải chịu sự ép buộc lạm quyền của Hạnh Tốn, suốt ngày cậu nơm nớp lo sợ. Bây giờ lại bị ép nhường ngôi, chuyển tới lãnh cung này sinh sống, cậu biết Hạnh Tốn giữ lấy cái mạng mình chẳng qua chỉ để tôn vinh danh nghĩa cho người đời nhìn tới, sớm muộn hắn cũng sẽ sai sát thủ giết mình, những cận thị bên cạnh cũng suốt ngày hoảng sợ, mây đen phủ kín, mới tới nơi này chưa bao lâu đã bị bệnh, sao có thể mời thầy thuốc kê đơn? Cuối cùng phải tự sinh tự diệt.

Đảo mắt tới tháng giêng năm sau, giữa trời đông giá rét, Lưu Thông bị giam cầm ở đây tầm mấy tháng, bệnh tật hành hạ đến yếu gầy, tin tức ngoài kia thì hoàn toàn không biết.

Ngày hôm đó, cận thị Tống Khánh đang rơi lệ, bên ngoài điện bỗng vang lên tiếng hô to quát tháo ầm ĩ, xen lẫn là tiếng đao kiếm giao nhau, cậu còn tưởng Hạnh Tốn phái người tới giết mình, sợ hãi run lẩy bẩy, cận thị Tống Khánh cõng cậu chạy về phía hoa viên phía sau, chưa trốn được vài bước đã nghe thấy tiếng truy đuổi phía sau, hai người ngã xuống đất, họ nhắm mắt lại chờ mũi đao g**t ch*t, không ngờ lại nghe thấy tiếng hô: “Bệ hạ đừng sợ! Chúng ta được phái tới cứu bệ hạ ra ngoài!”

Lưu Thông mở mắt ra, nhận ra người tới là Tả Đô Hầu Vương Bá và Trưởng thừa Đổng Thành.

Năm ngoái sau khi Hạnh Tốn soán vị, chém giết quy mô lớn. Vương Bá tức giận mà chẳng dám nói gì, chỉ có thể theo nhiều người cúi đầu xưng thần. Sau đó hắn biết hoàng đế bị phế đang bị giam cầm ở Ô Yến cung, bên cạnh chỉ còn ba cận thị, ăn bữa sáng lại phải lo bữa tối, trong lòng lại càng thêm hậm hực.

Hắn và Trưởng thừa Đổng Thành vốn có quan hệ tốt,. Mấy ngày trước hai người bí mật hẹn gặp nhau, Đồng Thành kể lại tin mới biết, ít ngày nữa Hạnh Tốn muốn sát hại phế đế thì nước mắt đan xen, khẩn cầu Vương Bá cứu phế đế ra, bảo vệ ánh sáng cuối cùng của triều Hán. Vương Bá hạ quyết tâm, âm thầm phân tán người nhà trước, hôm nay hắn dẫn mấy chục vệ sĩ trung thành xông vào lãnh cung, giết hết thủ vệ trông coi rồi tới đây cứu giá.

Hai người Vương Bá, Đổng Thành quỳ xuống đất bái lạy: “Lão tặc Hạnh Tốn nghịch thiên đảo hành, người thần đều giận! Được biết lão tặc muốn sát hại bệ hạ, nhân lúc có cơ hội thần mới tới đây cứu bệ hạ ra khỏi lao tù, trước tiên cứ tới nhờ vả Tôn thất trước, đăng hịch văn kêu gọi chư hầu khắp thiên hạ cần vương, bảo vệ giang sơn triều Hán ta!”

Lưu Thông chẳng qua chỉ là một thiếu niên mười tuổi, bây giờ tay chân như nhũn hết, còn không tự đi được huống hồ là chủ ý của mình, được Vương Bá cõng ra khỏi lãnh cung, nhìn mười mấy thi thể của cung vệ trông coi mình ngổn ngang trên mặt đất, mùi máu tanh gay mũi, cậu biết Vương Bá Đổng Thành là trung thần triều Hán, họ sẽ bảo vệ mình nên trong lòng mới bình tĩnh ít nhiều.

Chưa ra được ngoài kia, truy binh từ Lạc Dương chạy tới. Không ngờ tin tức cứu người bị rò rỉ, vệ sĩ thừa Bắc Cung Hứa Kiện dẫn hai trăm truy binh đuổi tới đây.

Vương Bá Đổng Thành che chở cho Lưu Thông chạy trốn về phía tây, khoảng hơn mấy chục dặm thì truy binh phía sau đã tới. Dù Vương Bá và vệ sĩ đi theo đã liều mình chống lại, tuy vậy ít người khó chống lại đám đông, cuối cùng cũng ngã lăn dưới đất. Tình hình khó còn đường trốn thoát, Hứa Kiện vung đao, đằng đằng sát khí tiến tới đó, Vương Bá lại không hề hoảng sợ, ông đẩy Lưu Thông đang khóc lóc thảm thiết ra phía sau bảo vệ, quát tháo Hứa Kiện là chó săn, còn khóc không thành tiếng: “Giang sơn bốn trăm năm của triều Hán chúng ta lại mất ở trong tay lão tặc! Hôm nay, cho dù có mất mạng ở đây, ta cũng không bao giờ thần phục!”

Lúc Vương Bá hét lên, Đổng Thành lo lắng nhìn xung quanh như chờ đợi người nào.

Hứa Kiện đâu nghĩ nhiều như vậy, hắn giơ đao lên cao, nắm lấy cố áo của Vương Bá rồi vung đao xuống, đúng lúc đó phía sau lưng có một mũi tên xé gió lao tới, đâm thẳng vào giữa lưng Hứa Kiện, làm hắn ngã gục chết ngay tại chỗ.

Vốn Vương Bá còn tưởng hôm nay sẽ mất mạng ở đây, không ngờ lại có chuyển biết tốt, hắn nhìn thấy một đội binh mã không giương cờ hiệu vừa xuất hiện, người phía trước chỉ mới khoảng hai bốn, hai lăm tuổi, trên đỉnh đầu đội mũ sắt màu đỏ, bộ áo giáp bát bảo trên lưng, phía dưới là một con ngựa tốt, mặt như quan ngọc, thần thái anh hùng, nhìn người phi ngựa về hướng này, hắn bỗng ngây dại.

Sau khi Hứa Kiện bị bắn chết, nhóm vệ sĩ Nam cung hộ tống hắn chống lại một lúc rồi vội vàng đào tẩu.

Người kia xuống ngựa rồi nhanh chân đi tới chỗ Vương Bá, Đổng Thành.

Vương Bá vừa mới từ cõi chết trở về, hắn còn chưa dám tin. Hơn nữa không nhận ra người này nên nghi ngờ không thôi. Đến khi tướng quân trẻ tuổi kia tới gần, hắn cúi người hành lễ với Lưu Thông đang ngã ngồi trên đất, nói: “Thần, Lang Gia Lưu Diễm cứu giá trễ. Khiến bệ hạ lo lắng, tội đáng muôn chết!”

Vương Bá không thể nào ngờ được, Lang Gia vương Lưu Diễm lại có thể cứu mình giữa lúc nguy nan chẳng khác nào thiên thần ở trên trời giáng thế.

Hắn vội vàng tiến lên bái kiến.

Lưu Diễm nói: “Tả Đô Hầu là hạ thần xuất sắc của triều Hán, mặc dù ta sống ở Lang Gia nhưng cũng từng nghe tiếng. Ngài đừng làm như vậy. Ta chỉ là một tên cẩu thả ăn xổi ở thì, nghe nói Hạnh Tốn nghịch thiên đảo hành, người dân oán thán. Ta biết chuyện bệ hạ bị giam ở lãnh cung cũng tức tối không thôi, thân là con cháu nhà Hán, sao có thể làm như không thấy. Nhân cơ hội này ta tới đây cứu giá, quả là ông trời có mắt, có thể gặp gỡ mọi người ở đây!”

Vương Bá mừng rỡ, Đổng Thành bên kia cũng đứng lên bái kiến Lưu Diễm. Mấy người vội vàng bàn bạc.

Lưu Diễm trầm ngâm nói: “Lão tặc kia có để lại quân phòng ngự ở Lạc Dương. Biết bệ hạ đào tẩu nhất định họ sẽ đuổi theo ngay. Nơi này không thích hợp ở lâu, không bằng nhanh theo ta đi trước, tới dừng chân tạm thời ở Lang Gia rồi bàn bạc kĩ hơn”.

Vương Bá, Đổng Thành đồng ý ngay, họ dìu Lưu Thông, cả đoàn người nhanh chóng đi về hướng Đông. Cả đoạn đường cải trang né tránh truy binh, dãi gió dầm sương vòng vèo đổi chỗ, chịu vô vàn khổ sở.

Lưu Thông bị bệnh đã lâu ngày, lại còn chịu kinh hãi lần đó, sau khi đi bệnh tình càng trầm trọng.

Ngày hôm đó cuối cùng cũng tới được Dương Đô, cách Lang Gia chỉ còn mấy ngày đường. Trời vừa sáng, Lưu Diễm, Vương Bá, Đổng Thành đứng ngoài phòng chờ Lưu Thông thức dậy để khởi hành, đợi mãi không thấy ra, khi họ tiến vào mới phát hiện, ấu đế đã ngừng thở chết từ lúc nào không ai biết.

Mọi người kinh hãi, hai mặt nhìn nhau rồi gào khóc.

Dương Đô Lương Tể và các đời tổ phụ đều là trung thần triều Hán, sau khi nghe tin đó hắn cũng vội vàng tới chịu tang.

Sau khi khóc tang xong, mọi người lại cùng nhau bàn bạc, nhất trí đề cử Lưu Diễm lên kế vị.

Lúc đầu Lưu Diễm còn từ chối, không chịu chấp nhận, hắn tự nhận bản thân vô đức không thể ngồi lên ngôi vị đó. Mấy người Vương Bá, Đổng Thành, Lương Tể vội vàng quỳ xuống, khổ sở khẩn cầu, Lưu Diễm đành phải bất đắc dĩ bằng lòng.

Sau đó, Lang Gia được chọn tạm thời là kinh đô thứ hai, tế trời tế đất, xây dựng tỉnh đài, ban chiếu thư thông cáo thiên hạ.

Tin tức lan ra, thái thú ở Mậu Bình, Đông Lai, Hạ Mật vội vàng tới gia nhập. Triều đình ở Lạc Dương cũng nhân lúc Hạnh Tốn dẫn binh chưa về, Hữu Thái sử Đậu Vũ, Đại phu[1] Đặng Huân và hai mươi người khác, lục tục tìm tới nương tựa ở Lang Gia, ủng hộ Lưu Diễm xưng đế.

[1] Đại phu: chức quan to thời xưa, dưới quan Khanh, trên quan Sĩ.

Lang Gia lập nên triều đình nhỏ, được thiên hạ xem là triều Hán chính thống, còn Lạc Dương lại trở thành nghịch đô.

Ngày hôm đó, hạ thần diện kiến Lưu Diễm để bàn bạc về việc chinh phạt Hạnh Tốn.

Nhóm người Vương Bá, Đậu Vũ đều cho rằng, nhân lúc Hạnh Tốn đang đại chiến với Ngụy Thiệu, họ cần nhanh chóng xuất binh, chiếm lấy Lạc Dương.

Nói đến hồi kích động, mỗi người đều nước mắt lưng tròng.

Lưu Diễm cũng động viên mọi người. Sau khi để họ đi, hắn giữ Đổng Thành ở lại rồi mới hỏi: “Khanh[2] có kiến giải gì chăng?”

[2] Khanh: vua gọi quần thần.

Hai năm trước, Đổng Thành đã âm thầm trở thành tử sĩ của Lưu Diễm.

Hắn nói: “Vương Bá, Đậu Vũ chỉ có tài miệng lưỡi. Bây giờ thái thú các nơi xin gia nhập cùng bệ hạ, có điều thế lực vẫn chưa nhiều, không thể đảm đương nhiệm vụ lớn. Binh lực trong tay bệ hạ có thể sử dụng được cũng có hạn. Cho dù có chiếm được Lạc Dương, nhỡ Hạnh Tốn lui binh thì làm sao chống nổi? Bệ hạ không nên làm vậy!”

Lưu Diễm xuất thần trong chốc lát, hắn hỏi: “Trận chiến giữa Hạnh Tốn và Ngụy Thiệu lần này, khanh thấy thắng bại sẽ thế nào?”

Vào cuối năm ngoái, sau hai thất bại của Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công đã phát binh trợ lực. Đầu năm nay, nhân lúc Hoàng Hà đóng băng, liên quân quy mô lớn đã qua sông.

Hai bên đại chiến ở Cao Đường, Ngụy Thiệu xem xét thời thế, dời phòng tuyến luì về Mục Dã, sau đó mới phản công. Hắn lợi dụng cấu trúc phòng tuyến góc cạnh từ lúc trước, ngăn chặn khí thế công kích mãnh liệt của liên quân.

Sau đó thời tiết càng trở nên khắc nghiệt, bão tuyết lớn nhất suốt mấy chục năm qua, binh sĩ và quân mã hai bên bị chết cóng vô số người, tạm thời ngừng giao chiến chính diện, hai bên đóng quân ở hai phía của Mục Dã, xây dựng doanh trại, trong thế giằng co.

Đổng Thành trâm ngâm một lúc rồi nói: “Lão tặc có năm trăm ngàn binh đấu chọi với ba trăm ngàn, binh lực chiếm ưu thế. Bây giờ lại được Nhạc Chính Công xuất chiến hợp lực, khí thế mạnh mẽ. Theo góc nhìn của thần, phần thắng của Ngụy Thiệu không nhiều. Thần trộm nghĩ, nếu tên đó đắc thắng khải hoàn, nhất định hắn sẽ dẫn đại quân đến tấn công bệ hạ, với tình hình của bệ hạ bây giờ, chỉ e khó có thể chống lại”.

Lưu Diễm lặng yên không nói. Hắn hỏi tiếp: “Bên Viên Giả có tin tức gì không?”

Lưu Diễm xưng đế không lâu thì có sai người đi tới Thanh Châu tìm Viên Giả.

Cho tới nay hắn vẫn chưa đáp lời.

Đổng Thành đang định lắc đầu, Lưu Phiến lại bước nhanh vào trong, hai tay dâng một ống thư lên, quỳ báo sứ giả của Viên Giả đã tới, đang ở ngoài điện chờ bệ hạ tiếp kiến.

Lưu Diễm nhận được thư thì vội vã xem lướt qua một lần.

Viên Giả viết trong thư, các đời Viên gia đều nhận được hoàng ân, từ trước đến nay chỉ hận chưa thể báo đáp được. Bây giờ Hoàng đế đã phục hưng triều Hán, hắn vui đến nỗi rơi nước mắt, nguyện dẫn hai trăm ngàn quân mã dưới trướng sẵn sàng góp sức, dù phải ra trận cũng mong dựng lại được xã tắc.

Lưu Diễm xem xong, ánh mắt hơi dao động, hắn chuyển bức thư cho Đổng Thành.

Đổng Thành xem xong thì mừng rỡ như điên, nhưng sau đó hắn lại lo lắng tiếp, nói: “Bệ hạ, Viên Giả sẵn sàng góp sức thế này chỉ e sẽ có mưu đồ khác, bệ hạ không thể không đề phòng”.

Lưu Diễm đi tới trước cửa sổ, phóng tầm mắt ra ngoài cửa xa xa, bóng lưng hờ hững không nhúc nhích.

Hai tay hắn giữ lấy chấn song, từ từ nắm chặt, càng siết càng mạnh hơn. Khớp xương cũng trở nên trắng bệch, gân xanh nổi rõ.

Trong lòng hắn lúc này đang cuộn trào sóng lớn.

Sau thất bại năm ngoái của Viên Giả trước Hạnh Tốn, danh tiếng của hắn đã mất sạch nhưng vẫn luôn dưỡng sức.

Dù là vậy, lạc đà gầy còn tốt hơn ngựa ốm, Với thực lực của hắn ngày hôm nay, dù mình có khổ tâm mưu sự thế nào cũng không tìm ra cách.

Bây giờ hắn đã nhận lời đề nghị của mình, đồng ý tới đây cùng gia nhập, trong lòng Lưu Diễm cũng biết hắn có mưu đồ khác.

Nhưng điều đó có quan hệ gì đâu?

Bây giờ xung quanh hắn có nhiều người ủng hộ đến vậy, có ai mà không có lòng riêng?

Có người muốn giữ cái danh trung liệt thiên cổ, có người vì vinh hoa phú quý, không ít là mượn gió bẻ măng, gió chiều nào theo chiều ấy.

Hắn rất cần Viên Giả, cũng như Viên Giả bây giờ cần mượn thân phận của hắn để lấy lại uy phong.

Đã vậy rồi tại sao hắn lại không cần được?

Cho tới cuối cùng, ai thắng ai còn phải xem bản lĩnh.

Vì cái ngày này, hắn đã chịu đựng chờ rất lâu.

Hắn không thể bỏ qua một cơ hội thế này, có lẽ cả cuộc đời cũng khó mà tìm được cơ hội đó lần hai.

Mối hận thù nhà, mối nhục cướp thê, cả khoảng thời gian phải trắng đêm khó ngủ, nữ tử yêu quý trong lòng mình lại tuyệt tình nói rằng chuyện cũ không nên theo đuổi nữa, ngay lúc này đây, tất cả như hóa thành ngọn lửa hừng hực thiêu đốt nơi đáy lòng của hắn, làm máu nóng sục sôi, linh hồn như muốn thành tro bụi.

“Phụng chỉ, phong Viên Giả làm Đại Tư Mã, Đại Tướng quân, nhận kim ấn tử, mau tới cần vương”.

Hắn từ từ xoay người, bình tĩnh nói.



Trên cánh đồng Mục Dã hoang vu, gió bắc thét gào, tuyết bay đầy trời, lá cờ treo trên đỉnh doanh trướng bị gió thổi phất phơ, như thể muốn cuốn bay đi mất.

Ở vùng đất cách xa triều đình hơn bảy mươi dặm này, từng có truyền thuyết về một loài chim đỏ làm tổ, lông trắng mỏ vàng.

Giữa một ngày đông lạnh.

Đập vào mắt là cả vùng tuyết trắng mênh mang vô định.

Một ngày đông giá rét hiếm gặp suốt mười mấy năm qua.

Mặc dù trời đã vào xuân, bây giờ đã là khoảng tháng hai, nhưng khí trời chưa ấm lên chút nào.

Thời tiết khắc nghiệt khiến cho chiến sự bị cản trở nghiêm trọng.

Mỗi ngày đều có tin báo binh sĩ và chiến mã bị lạnh chết.

Số người bị đau do giá rét càng nhiều vô số kể.

Tình trạng này khiến cho Ngụy Thiệu khó có thể tổ chức tác chiến chính diện với liên quân Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công.

Những vấn đề vây khốn hắn cũng đang quấy nhiễu Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công như vậy.

Sau đại chiến ở Cao Đường lần trước, hai bên chưa từng tiến hành cuộc giao chiến chính diện trên quy mô lớn nào nữa.

Thỉnh thoảng chỉ đánh mấy trận bất ngờ không đến nơi đến chốn.

Không ai chủ động khởi xướng tiến công, cũng không ai muốn lùi về sau cả.

Cách con sông Hoàng Hà, mỗi bên đều dựng trại đóng quân, từ xa nhìn lại, chờ tới khi khí trời chuyển biến tốt hơn, họ mới có thể nắm lấy cơ hội đánh cho đối phương một đòn trí mạng.

Tình thế đối lập này kéo dài hơn nửa tháng.



Mới tới giờ Dậu, trời bắt đầu nhá nhem.

Trên giày và bắp chân Ngụy Thiệu đầy tuyết đọng, vang lên từng tiếng xì xèo, để lại từng dấu chân thật sâu trên nền tuyết.

Hắn vừa mới đi tuần sát địa hình ở Hoàng Hà quay về. Nhanh chóng bước vào nha môn, nhờ chút ánh sáng còn sót lại, hắn nhìn thấy một tên lính đang đứng trong góc hàng rào bên doanh trại, trong tay cầm một cây giáo, không nhúc nhích.

Mũ giáp và bả vai của hắn bám đầy tuyết đọng.

Ngụy Thiệu dừng bước.

Lôi Viêm vội bước tới thật nhanh.

Sai khi trở lại, vẻ mặt hắn nặng nề thấp giọng báo cáo: “Đã chết rồi”.

Ngụy Thiệu nhìn binh lính chết đứng kia, trầm mặc chốc lát rồi xoay người đi vào nha môn.

Trong đại trướng của chủ soái, Ngụy Thiệu vừa cởi chiếc mũ chiến và áo khoác dính tuyết, nghe một loạt tiếng bước chân bên ngoài, Công Tôn Dương và Vệ Quyền đã tới.

Gần đây Công Tôn Dương lại ho khan nặng hơn.

Ngụy Thiệu sợ ông không chịu được giá lạnh nên cố ý dặn dò tăng gấp đôi lượng than sưởi ấm trong doanh trướng của ông.

Thấy ông đi vào, còn chưa kịp mở lời đã ho khan vài tiếng, hắn nói vội: “Khí trời giá lạnh, tiên sinh có việc thì cứ cho người truyền lời, ta sẽ đi sang trại của tiên sinh”.

Công Tôn Dương khoác tay áo một cái, nói: “Ban ngày vừa có tin tức tới, phế đế băng hà, Lưu Diễm được Vương Bá, Đổng Thành ủng hộ xưng đế, Viên Giả sẵn sàng góp sức, được phong làm Đại Tư Mã”.

Ngụy Thiệu ngồi nghiêm túc sau án, bóng người không nhúc nhích, chỉ có đôi mắt hơi híp lại một chút.

Vệ Quyền nói thêm: “Theo lý thuyết, Lưu Diễm xưng đế, lại được hai trăm ngàn binh mã của Viên Giả trợ lực, nhân cơ hội này nếu có phát binh chiếm đánh Lạc Dương cũng là lẽ thường tình. Chỉ có điều thám tử báo lại, hắn không hề có động tĩnh gì cả, hình như không có ý công chiếm Lạc Dương”.

Ngụy Thiệu thờ ơ nói: “Có gì lạ đâu chứ. Nếu Lưu Diễm phát binh tấn công Lạc Dương vào lúc này, nhất định Hạnh Tốn sẽ lui binh về cứu, nếu vậy chẳng phải sẽ cho ta thừa cơ tận dụng sao? Hắn ta đang tính chờ ta lưỡng bại cầu thương với Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công trước, sau đó mới ngư ông đắc lợi”.

Vệ Quyền đáp: “Chúa công nói có lý. Mặc dù khí trời hôm nay rất giá lạnh, nhưng một khi bão tuyết ngừng hẳn là có thể khai chiến ngay, nhiều nhất là tới cuối tháng này. Hàng ngũ Lưu Diễm, Viên Giả thì không đáng phải sợ, trước tiên chúa công nên toàn lực ứng chiến với liên quân Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công trước đã”.

Ngụy Thiệu đứng dậy khỏi sạp nhỏ, đi quanh đại trướng chủ soái một lúc rồi dừng lại nói: “Với kết quả đối chiến bây giờ, tiên sinh và trưởng sứ có kiến giải gì không?”

Công Tôn Dương và Vệ Quyền liếc nhau một cái, nói: “Hạnh Tốn nhờ có sự giúp đỡ của Nhạc Chính Công mà nhân mã đã vượt xa chúng ta, binh kiêu tướng ngạo. Cứ theo đà này, tấn công mạnh mẽ cũng không phải là thượng sách”.

Ngụy Thiệu trầm ngâm đáp: “Suy nghĩ của tiên sinh cũng giống với ý ta. Hôm nay ta đi theo lối mòn ở bên sông Hoàng Hà, nhìn về trại địch đối diện. Mặc dù hai quân trướng của Hạnh Tốn và Nhạc Chính Công dày đặc khắp nơi nhưng hàng rào rõ ràng, bên trong còn có rào ngăn cách. Theo tin từ thám tử, mấy ngày trước, quân sĩ hai quân còn xảy ra ẩu đả…”

Hắn ngừng lại, bước nhanh tới trước án rồi lấy đũa chấm vào bình rượu, vẽ ra một vết trên mặt án, sau đó lại tách ra hai đoạn.

“Hạnh Tốn có thể liên hợp với Nhạc Chính Công, ta muốn hai người họ lục đục”.

Vệ Quyền vỗ tay cười nói: “Chúa công anh minh! Ta và quân sư tới gặp chúa công cũng là vì chuyện này. Nghe nói Nhạc Chính Công mới thu nhận một mưu sĩ tên là Trúc Tăng và rất được coi trọng. Trước kia hắn lại là phụ tá của Hạnh Tốn. Tên Trúc Tăng này có nhiều chỗ để khai thác!”
 
Khom Lưng
Chương 136



Đêm khuya, Trúc Tăng suy nghĩ về chiến sự mà mãi không ngủ được.

Hắn khoác y phục ra ngoài trướng, bây giờ tuyết đã ngừng rơi, bầu trời đen kịt như bát mực, doanh trại kéo dài đến mấy dặm, nhìn không ra điểm cuối.

Cả không gian yên lặng như tờ, từ phương hướng đại trướng chủ soái của Hạnh Tốn vang lên những tiếng đàn ồn ã.

Mặc dù cách một khoảng rất xa mà vẫn loáng thoáng nghe được nó.

Trong tiếng kèn ngân vang, chưa biết chừng đại chiến sẽ bùng nổ tức thời. Vậy mà lại có một thứ tạp âm hoàn toàn không thích hợp.

Trúc Tăng nghiêng tai lắng nghe trong chốc lát, trong lòng như ngũ vị tạp trần.

Vừa mừng vì mình đã kịp thời thoát khỏi trận doanh của Hạnh Tốn, chuyển sang dưới trướng Nhạc Chính Công, trong lòng lại thấp thỏm sầu lo.

Đại chiến đã sắp ập lên đầu, vậy mà Hạnh Tốn lại khinh người ngạo mạn, hàng đêm còn sênh ca[1] không dứt, may mà Nhạc Chính Công vẫn giữ thái độ cẩn thận đối với cuộc đại chiến lần này.

[1] Sênh ca: sênh là khèn (một loại nhạc cụ), ý chỉ ca hát, đàn nhạc.

Mặc dù người đó không nói rõ, nhưng Trúc Tăng nhìn thấu được điểm này.

Tuy số lượng liên quân nhiều gấp đôi quân số của Ngụy Thiệu, khí thế cũng mạnh mẽ vô cùng, nhưng hai người thống lĩnh cao nhất của liên quân, một người thì tự cao tự đại, một người lại nghi ngờ tư lợi, dè dặt chần chừ.

Nếu địch thủ của họ là người bình thường thì không nói, chỉ cần cho binh sĩ ra ngoài cũng có thể đè chết được đối phương.

Nhưng bây giờ, địch thủ mà họ gặp lại là bá chủ của phương Bắc, Ngụy Thiệu.

Dù Trúc Tăng chưa từng gặp gỡ Ngụy Thiệu, nhưng những tin đồn liên quan tới hắn Trúc Tăng cũng nghe ngóng được nhiều.

Nếu Ngụy Thiệu là một địch thủ dễ đối phó, vậy thì một người chỉ mới hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi khó có thể đạt tới địa vị ngày hôm nay.

Không có địa bàn của ai mà hắn không giành được. Cho dù có nhờ vào nền tảng của tổ tiên, hắn cũng đã đánh thắng từng trận một.

Ngụy Thiệu thực sự là một đối thủ đáng gờm.

Hạnh Tốn thì thôi, còn Nhạc Chính Công bên này, Trúc Tăng quyết định phải tìm một cơ hội, nhắc nhở hắn thử xem.

Nếu đã tham dự vào Bắc phạt, nhất định hắn phải toàn lực đối phó, nắm chắc cơ hội này để tiêu diệt sinh lực của Ngụy Thiệu, không để hắn có bất kì cơ hội nào để Đông Sơn tái khởi[2].

[2] Đông Sơn tái khởi: thua keo này ta bày keo khác.

Trúc Tăng lo lắng khôn nguôi, xoay người quay về trại, tắt đèn lên giường.

Trong khi hắn phải lo lắng đến mất ngủ vì cuộc chiến lần này, trong một túp lều khác cách đó không xa, có một người đêm nay chưa chợp mắt.

Cũng là một trong các mưu sĩ của Nhạc Chính Công, dù Trương Yến không được xem là người có khả năng bày mưu nghĩ kế, nhưng từ trước cho tới giờ, hắn vẫn luôn tính toán kế sách cho Nhạc Chính Công, mấy cuộc chiến sự quan trọng giành Hán Trung ngày trước, Trương Yến lập không ít công lao, vì thế mà rất được trọng dụng.

Nhưng bây giờ hắn lại cảm thấy địa vị của mình đang tràn ngập nguy cơ.

Trúc Tăng nhanh chóng thay thế hắn, nghiễm nhiên trở thành mưu sĩ mà Nhạc Chính Công coi trọng nhất.

Trong cuộc chiến Bắc phạt lần này, theo lập trường của hắn mà nói, đương nhiên hắn cũng hi vọng Nhạc Chính Công sẽ thắng.

Tuy nhiên, hắn cũng hiểu một điều, nếu thật sự đánh bại được Ngụy Thiệu, vậy thì từ nay về sau, sẽ không có ai có thể thay thế được tầm quan trọng của Trúc Tăng ở trước mặt chúa công.

Hắn thấy hơi lo lắng.

Giữa đêm khuya vẫn thắp đèn như cũ, đọc một quyển binh thư trong tay. Bên ngoài trướng vang lên tiếng bước chân xì xào trên nền tuyết, tùy tùng bên ngoài trướng bước vào, báo, mới vừa rồi thủ vệ nha môn báo lại, có một người tự xưng là Vinh Diên, đêm hôm khuya khoắt lao tới đây, muốn được cầu kiến hắn.

Trương Yến ngẩn ra.

Vinh Diên đã từng quen biết với hắn từ ngày xưa, khi họ cùng làm quan ở Lạc Dương khoảng nhiều năm về trước.

Lúc đó Vinh Diên thăng quan đến Đình Úy, vì đắc tội với Hạnh Tốn mà bị ép từ quan rồi lưu vong.

Trương Yến và hắn cũng không tính là bạn bè tri kỷ, nhưng bởi vì hai người cùng đam mê con dấu kim thạch, cho nên ngày thường cũng thỉnh thoảng gặp nhau.

Nhớ thời gian đó, hắn cũng từng than thở một hồi trước cảnh ngộ của người này.

Sau đó khi mình quay sang gia nhập dưới trướng Nhạc Chính Công. Từ biệt đã nhiều năm, không ngờ giữa đêm hôm thế này hắn lại tới thăm viếng.

Trầm ngâm một lúc, hắn để cho người hầu dẫn Vinh Diên vào đây.

Vinh Diên vừa vào hắn đã cười nói: “Sau lần từ biệt với Ích Lương huynh ở Lạc Dương, đã nhiều năm không gặp, huynh vẫn khỏe đấy chứ?”

Trương Yến cũng tùy tiện đáp lời, trong lòng hắn đã đoán được ít nhiều, Vinh Diên vừa tới từ trại địch của Ngụy Thiệu.

Chần chừ một lúc.

Do dự có nên cho người vào trói hắn lại hay không.

“Cố nhân đã có lòng đến thăm, chẳng lẽ huynh lại muốn trói đệ lại, đưa tới trước mặt chúa công của huynh để tranh công nữa sao?” Vinh Diên cười thản nhiên.

Trương Yến nóng mặt, vội hỏi: “Trường Lộ đệ hiểu lầm rồi!”

Với giao tình của hai người ngày xưa, cho dù bây giờ ai đã theo chủ nấy, nhưng đúng là hắn không thể trói người kia vậy được. Trương Yến nói tiếp: “Chắc đệ đang dốc sức cho Ngụy Thiệu phải không? Bây giờ hai quân giao chiến, không biết đêm khuya thế này đệ tới tìm ta là có chuyện gì chăng?”

Vinh Diên thay đổi vẻ tươi cười, trịnh trọng hành đại lễ với Trương Yến.

Trương Yến vội đỡ hắn dậy, nói: “Đệ làm đại lễ thế này, sao mà ta dám nhận!”

Vinh Diên thấp giọng nói: “Đệ không dám giấu giếm, lần này đệ đến là muốn đầu quân cho Hán Trung hầu”.

Trương Yến sững sờ.

“Huynh có điều không biết, nhiều năm trước đệ từ bỏ chức quan, nhờ cậy vào Ngụy Thiệu, vốn cứ nghĩ mình đã gặp được một chủ soái tài ba, có thể giúp đệ thực hiện hoài bão của cuộc đời. Nào ngờ Ngụy Thiệu lại chỉ có cái danh, tầm nhìn hạn hẹp, tri thức thì ít ỏi. Hắn không chịu dùng đệ, cho tới bây giờ đệ mới chỉ là tòng sự hành quân. Nhưng mà cũng không sao. Hiện nay hắn không biết lượng sức, muốn dùng ba trăm ngàn binh mã đánh lại liên quân của Hạnh Tốn và Hán Trung hầu, không khác nào lấy trứng chọi với đá, tự chịu diệt vong. Có câu thức thời mới là trang tuấn kiệt. Bây giờ Hạnh Tốn thì không thể đầu quân, Hán Trung hầu lại như mặt trời giữa ban trưa, nhất định sau này sẽ phượng hót cửu thiên, đệ luôn mong ngóng. Chỉ hận sức lực mình nhỏ bé, sẵn sàng góp sức chẳng chối từ. Đệ nghe nói Ích Lương huynh đang là cánh tay trái không thể thiếu của Hán Trung hầu, vì thế giữa đêm hôm khuya khoắt, đệ mới trốn ra khỏi doanh trại của Ngụy Thiệu, muốn tới nhờ vả huynh. Dù sao ngày xưa chúng ta cũng tính là tri kỉ, vì vậy đệ mới tới đây”.

Lấy một tấm bản đồ bằng da dê trải ra trên án, hắn nói: “Lúc đệ còn làm tòng sự hành quân, đệ có thể ra vào trướng chủ soái. Đây là bản đồ mà đệ sao chép lại từ tấm bản đồ kế hoạch tác chiến của Ngụy Thiệu. Trên đó có ghi lại tỉ mỉ tuyến đường điều động và đóng quân, kho lương thảo ở Lê Dương, Phạm Tân, và Hoàng Trì. Đệ nguyện ý dâng tấm bản đồ này lên để thể hiện quyết tâm sẵn sàng góp sức của mình”.

Trương Yến nhìn bản đồ, thấy đánh dấu cực kì tỉ mỉ thì mừng rỡ nói: “Một người tài giỏi như Trường Lộ đệ lại không được trọng dụng, bây giờ đã quay về chính đạo, chúa công nhà ta rất coi trọng người tài, sao có thể từ chối ngoài cửa được?”

Sau khi cất bản đồ, hắn muốn dẫn Vinh Diên tới chỗ Nhạc Chính Công, không ngờ Vinh Diên lại kéo lại.

Đi tới trước màn trướng, hắn vén lên lặng lẽ nhìn ra ngoài, sau đó xoay người tới gần rồi rỉ tai nói nhỏ: “Đệ có một tin tuyệt mật muốn báo cho huynh đài. Mấy ngày trước đệ có nghe trộm được Ngụy Thiệu bí mật bàn bạc với quân sư của hắn Công Tôn Dương ở bên ngoài quân trướng, hai người đó có nhắc tới tên của Trúc Tăng. Khi đó có một thân binh đi tới, đệ sợ bị phát hiện nên vội vàng rời đi, vì thế không nghe được toàn bộ mà chỉ nghe đại khái. Tên Trúc Tăng đó không phục vụ Hạnh Tốn, sau khi rời khỏi Lạc Dương, hắn chạy tới chỗ Ngụy Thiệu trước và được hắn giữ lại, sau đó lại về dưới trướng Hán Trung hầu. Trong lòng đệ nghi ngờ hắn là mật thám mà Ngụy Thiệu phái đi!”

Đầu tiên Trương Yến rất khiếp sợ, sau đó lại mừng rỡ như điên, hắn nắm lấy ống tay áo Vinh Diên: “Thật sao?”:

Vinh Diên nghiêm mặt nói: “Đệ không dám chắc, bởi vì lúc đó đệ không nghe được toàn bộ câu chuyện của hai người. Nhưng trong lòng cũng thấy rất nghi ngờ. Vốn đệ cũng không muốn nói. Nhưng vì chuyện này có dính líu rất nhiều, đệ cũng do dự mãi. Thế là đệ quyết định báo cho huynh đài trước cho thỏa đáng. Nhưng mà đệ nghĩ huynh không nên báo ngay mà cần phải để ý hành động của Trúc Tăng trước đã, nhỡ có hiểu lầm gì lại ảnh hưởng đến thanh danh người khác”.

Trong lòng Trương Yến còn kích động hơn cả lúc mới nhìn thấy tấm bản đồ. Hắn đi nhanh trong trướng mấy vòng, nắm chặt tay phải đánh mạnh vào tay trái như đã hạ quyết tâm, hắn nói dứt khoát: “Đúng như đệ nói, chuyện này rất hệ trọng nên không thể do dự nửa phần! Ta phải tới bẩm báo lập tức với chúa công, để chúa công đề phòng hắn nhiều hơn, nhỡ lại trúng phải gian kế của Ngụy Thiệu”.

Dứt lời, hắn dẫn Vinh Diên bí mật đi tới đại trướng chủ soái.

Nhạc Chính Công cho gọi người vào.

Trương Yến kéo Vinh Diên tới trước mặt hắn, nói rõ ý đồ mà hai người tới đây và hết lời khen ngợi.

Vinh Diên tiến lên bái kiến.

Đại chiến sắp xảy ra, hai bên đều phái mật thám đi thám thính tình hình. Nhạc Chính Công cũng thu được một số thông tin về bố cục hành quân và tác chiến của Ngụy Thiệu, từ đó mới đoán được đại ý mà thôi.

Hắn thắp nến lên nhìn kĩ tấm bản đồ mà Vinh Diên dâng tới, so với tin tình báo mà mình nhận được thì hoàn toàn trùng khớp, hắn biết ngay không phải là đồ giả.

Lý do mà Vinh Diên muốn quy phục dưới trướng của mình cũng hợp tình hợp lý.

Thế là tin ngay.

Không ngờ ngay sau đó Trương Yến lại báo cáo thêm chuyện về Trúc Tăng. Nhạc Chính Công bán tin bán nghi. Hắn trầm ngâm một lát rồi bỗng nhiên trở mặt, cầm tấm bản đồ trong tay ném xuống đất, hắn nói: “Ngụy Thiệu tưởng ta là đứa trẻ ba tuổi có thể lừa gạt được đấy à? Ngươi được hắn ta sai khiến tới đây giả bộ đầu hàng để làm kế ly gián! Thủ đoạn thế này có thể giấu được ta?”

Hắn lớn tiếng quát to, sai người tiến vào bắt trói Vinh Diên lại, đẩy ra ngoài chém đầu trước nha môn.

Trương Yến kinh hãi đến biến sắc, hắn vội vàng xin tha cho Vinh Diên.

Tuy vậy Nhạc Chính Công lại không nói lời này, mặt mày u ám.

Vinh Diên bị thân binh của Nhạc Chính Công trói chặt kéo ra ngoài, hắn không hề giải thích mà chỉ cười thật lớn, lúc đẩy tới nha môn, đao phủ cầm đao kề trước cổ, hắn vẫn còn cười đến không ngậm miệng được.

Nhạc Chính Công sai người kéo hắn về, hắn lạnh lùng nói: “Chết đến nơi rồi mà còn ngông cuồng đến vậy sao? Ngươi nghĩ quân uy của ta ở đâu hả? Có điều từ trước tới giờ ta vẫn coi trọng những con người rắn rỏi, tuy ngươi là mật thám cũng khá hợp ý ta. Nếu ngươi chịu ngoan ngoãn khai ra, ta sẽ tha cho ngươi một mạng!”

Vinh Diên ngừng cười, hắn ngẩng đầu lên đáp lại: “Đã không tin ta thì còn gì để nói? Đáng tiếc, ta còn tưởng ngài là người hổ lược long thao[3], phi anh đẳng mậu[4], là một vị chủ soái hiếm gặp trên đời. Nam nhi phải biết kiến công lập nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, vì thế trong lòng ta mới ngày ngày ngóng trông, mạo hiểm trộm tấm bản đồ của Ngụy Thiệu tới đây. Không ngờ ngài lại lấy lòng dạ hổ sói để nghi ngờ, có tiếng mà không có miếng mà thôi! Tính ra vẫn kém xa Ngụy Thiệu. Ta đã nhìn sai người rồi, hối hận thì đã muộn! Muốn giết thì cứ giết, có gì phải sợ đây?

[3] Hổ lược long thao: mưu lược như hổ, binh pháp như rồng.

[4] Phi anh đẳng mậu: anh hùng tài cao.

“Chúa công, thần có thể lấy tính mạng của mình ra đảm bảo, Trường Lộ đệ không phải là mật thám của Ngụy Thiệu! Vừa rồi đệ ấy chỉ mới nói ra nghi ngờ này trước mặt thần, còn cố gắng ngăn cản không cho thần báo lại với chúa công, nhỡ ảnh hưởng tới thanh danh của Trúc Tăng! Thần có thể làm chứng cho Trường Lộ”.

Trương Yến kích động ra mặt.

Nhạc Chính Công chăm chú nhìn Vinh Diên chốc lát, vẻ mặt u ám dần biết mất, hắn chợt cười ha ha, nhặt lại tấm bản đồ mà mình ném xuống đất, hai tay nắm chặt tay Vinh Diên, vui vẻ nói: “Chẳng qua ta chỉ mới thăm dò mà thôi! Trường Lộ đúng thật là anh hùng, hào khí làm lòng ta kính nể! Sau này ta lại có thêm một lương thần nữa, trời cao thiên vị ta đến vậy!”

Vinh Diên nở nụ cười. Hắn hành lễ bái kiến Nhạc Chính Công, còn nhận được chức quan. Trương Yến nóng ruột nhắc nhở: “Chúa công, chuyện của Trúc Tăng ta không nên trì hoãn. Cần phải lập tức bắt hắn tới đây tra hỏi”.

Nhạc Chính Công trầm ngâm.

Sở dĩ hắn bỏ Lạc Dương mà đổi sang giúp Hạnh Tốn cùng chinh phạt phương Bắc, đó là sách lược nghe theo lời Trúc Tăng.

Đại chiến sắp tới, Ngụy Thiệu ở thế yếu, ngay giữa thời khắc mấu chốt này, bỗng nhiên lại có một người tới quy hàng, mang theo tin tức Trúc Tăng là mật thám.

Đúng là khiến người ta phải cảm thấy nghi ngờ, vì vậy vừa rồi hắn mới cố ý thăm dò.

Mặc dù bây giờ đúng là Vinh Diên thật lòng quy hàng thật, nhưng về chuyện Trúc Tăng là mật thám, Nhạc Chính Công vẫn bán tín bán nghi.

Hoặc phải nói là hắn không muốn tin tưởng.

Nhạc chính Công nói tiếp: “Trường Lộ vừa mới nói đó thôi, hắn không nghe rõ toàn bộ câu chuyện giữa Ngụy Thiệu và Công Tôn Dương. Vì thế không nên động đến người khác vội, tự ta có tính toán”.

Sau đó còn dặn dò mấy ngày tiếp Vinh Diên không nên lộ mặt ra ngoài.

Tuy Trương Yến không cam tâm thật đấy, hắn chỉ hận không thể bắt Trúc Tăng tới ngay, chọc thủng bộ mặt thật của hắn, nhưng mà Trương Yến không có gan nói tiếp. Hắn và Vinh Diên cùng lui ra.

Ngày hôm sau, Nhạc Chính Công cho gọi Trúc Tăng tới đại trướng, hắn không hề nhắc tới chuyện đêm qua, chỉ hỏi về sách lược tác chiến như bình thường, trò chuyện rất vui vẻ.

Trúc Tăng nằm mơ cũng không thể ngờ rằng, mình đã bị người ta chú ý. Nghe Nhạc Chính Công hỏi về cuộc chiến, hắn vội liệt kê các sai lầm trong việc điều quân của Hạnh Tốn, còn khuyên hắn không nên khinh thường quân địch, cần phải tập trung binh tướng chuẩn bị cho đại chiến.

Mặt ngoài Nhạc Chính Công đồng ý, nhưng trong lòng lại âm thầm ngờ vực.

Cứ như thế mấy ngày, bão tuyết đã ngừng hẳn. Nhạc Chính Công tăng cường chuẩn bị cho chiến tranh. Trời vừa sáng, hắn đã nghe tiếng ồn ào náo nhiệt bên ngoài trướng.

Hắn vén màn trướng ra, thấy Đinh Khuất cầm trường kích trong tay, dẫn theo một đội tùy tùng hùng hổ như muốn xông vào trong. Nhóm người đó bị nhi tử của hắn, Nhạc Chính Tuấn dẫn người ra cản lại.

Hai bên giương cung bạt kiếm, như chuẩn bị bùng nổ.

Mặc dù Đinh Khuất có cái danh là dũng mãnh vô địch, nhưng hắn ta lại ngạo mạn vô cùng. Bây giờ Hạnh Tốn đã xưng đế, hắn lại được phong thêm tước vị, vì vậy càng ngông cuồng tự đại.

Vài ngày trước hai quân có xảy ra va chạm, chính là vì Đinh Khuất đã sai người lấy than ở bên mình gây nên.

Hạnh Tốn xưng đế, hắn lại cùng xuất binh với người ta, khó có thể trở mặt ngay lúc này.

Vì thế lúc Nhạc Chính Công nghe tin, hắn không hề ngăn cản mà cứ mặc Đinh Khuất lấy than đi. Trong lòng ghim cái gai này lại.

Lúc này đây, hắn nén cơn giận xuống, kéo Nhạc Chính Tuấn lui lại: “Trời vừa mới sáng, Đinh tướng quân tới đây để làm gì thế nhỉ?”

Đinh Khuất nhanh chân đi tới trước mặt Nhạc Chính Công, ngạo nghễ nói: “Ta phụng chỉ của bệ hạ, tới đây yêu cầu đầu một người”.

Nhạc Chính Công hơi run: “Nghĩa là sao?”

Đinh Khuất cười gằn: “Hán Trung hầu nghĩ có thể lừa gạt được bệ hạ hay sao? Trúc Tăng có lỗi với bệ hạ, bí mật chạy tới chỗ của ngài. Ngài lại dám bao che?”

Nhạc Chính Công sử dụng Trúc Tăng, hắn cũng nghĩ tới chuyện Hạnh Tốn ngay bên cạnh, vì vậy dù là trong quân yến hay gặp mặt bàn bạc, chưa bao giờ hắn để Trúc Tăng ló mặt ra.

Không ngờ Hạnh Tốn lại biết được.

Nhạc Chính Công thoáng suy nghĩ rồi nói: “Thì ra là vậy, trước kia Trúc Tăng bất cẩn đắc tội với bệ hạ, ta cũng thấy hoảng sợ vô cùng. Đợi ta gọi hắn tới tự viết một bức thư nhận tội, sau đó sẽ trình lên cho bệ hạ ngự lãm. Tướng quân cứ về trước đi”.

Đinh Khuất xoay cây trường kích trong tay, tiếng trường kích quay vòng như xé gió, hắn quát to: “Ngươi chỉ là một chư hầu mà dám không tuân lệnh bệ hạ?”

Nhạc Chính Công có hùng binh thiết giáp ở trong tay, bây giờ hắn dẫn binh tới đây, tất cả đều là vì để cùng đánh Ngụy Thiệu, ngay cả Hạnh Tốn hắn còn không thèm ngó, huống hồ tên Đinh Khuất này đây?

Lúc trước đã nhẫn nhịn một lần. Tên Đinh Khuất này lại được voi đòi tiên, hắn cười gằn: “Tướng quân uy vũ quá! Ngày đó đánh trận đầu với Ngụy Thiệu ở Hổ Lao, danh tiếng anh hùng của tướng quân khắp thiên hạ này có ai mà không biết. Ta cũng rất bội phục”.

Ở trận chiến đầu tiên tại Hổ Lao ngày đó, Đinh Khuất bị đánh đến tơi bời, may mắn có thể quay về được. Mặc dù hắn tự nhận là do nhất thời khinh địch gây nên, nhưng cuối cùng vẫn vô cùng nhục nhã. Sau này hắn mới phải liều mạng để bảo vệ Hạnh Tốn thoát khỏi vòng vây, nhờ đó mới cứu vãn lại chút ít mặt mũi.

Ấy vậy mà ngay lúc này đây, trước mặt mọi người Nhạc Chính Công lại lộ.t trần mặt hắn, sau một lúc xấu hổ, Đinh Khuất bừng cơn giận.

Hắn nhìn quanh bốn phía, xung quanh đều là người của Nhạc Chính Công. Hắn ngẫm nghĩ một phen, bỏ lại một đống câu tà ác rồi oán hận bước nhanh trong tiếng cười lớn ở phía sau.

“Phụ thân, tên tiểu nhân vô nghĩa vô liêm sỉ thế này, mình để ý đến hắn ta làm gì! Vừa rồi con còn định đánh đuổi hắn ra ngoài”.

Nhạc Chính Tuấn xả được cơn giận trong lòng, cười khoái chí.

Nhạc Chính Công dặn hắn gia tăng canh phòng ngoài doanh trại, đề phòng Đinh Khuất quay lại gây sự rồi xoay người vào trong.

Trúc Tăng nghe nói Đinh Khuất dẫn người tới đây lấy đầu mình, trong lòng còn sợ hãi, hắn vội vàng tìm tới tạ ơn Nhạc Chính Công.

Thấy ngài ấy không nói một lời mà chỉ nhìn mình đăm đăm, ánh mắt đầy quái dị, hắn chần chừ một lúc rồi hỏi: “Chúa công lo bảo vệ ta sẽ đắc tội với Hạnh Tốn hay sao?”

Giọng của Nhạc Chính Công thoáng đổi: “Ta nghe nói, trước khi đầu quân cho ta, ngươi định cống hiến sức lực cho Ngụy Thiệu?”

Trúc Tăng sững sờ: “Chúa công minh giám. Không bao giờ có chuyện này đâu”.

“Vậy mà ta lại có mật báo, ngươi chính là mật thám mà Ngụy Thiệu phái tới thăm dò bên cạnh ta?”

Trúc Tăng giật nảy mình, cuống quýt hô oan.

Nhạc Chính Công nghe hắn tự giải thích xong vẫn nửa tin nửa ngờ, đuổi hắn đi ra ngoài.

Trúc Tăng bất đắc dĩ đành phải ra ngoài trước.

Hắn vừa đi, đám người Trương Yến La Hiền lại kéo nhau đi vào.

Đại chiến sắp xảy ra, mọi người vội vàng khuyên Nhạc Chính Công không nên trở mặt với Hạnh Tốn vì chuyện của Trúc Tăng.

Nhạc Chính Công chần chừ không quyết định, đúng lúc này, ngoài trướng có tin báo khẩn cấp đưa về.

Hắn mở ra xem mà giật nảy.

Đây là thư của trưởng tử Nhạc Chính Khải đang phòng thủ ở Hán Trung gửi tới.

Trong thư viết, Dương Tín, Quách Thuyên liên hợp thành đại quân, chuẩn bị dẫn binh tới Lương Châu, bây giờ đã đi qua Lư Thị, xông thẳng tới cửa ải Thanh Nê Hoa Sơn, khí thế hung hăng, chỉ sợ sẽ không phòng thủ nổi, xin phụ thân lui binh cứu viện.

Trương Yến kinh hãi đến biến sắc, hắn nói: “Chúa công, chúng ta mắc mưu rồi. Trúc Tăng đúng là gian tế mà Ngụy Thiệu phái tới. Hắn khuyên chúa công dẫn binh theo Hạnh Tốn, hợp lực cùng g**t ch*t Ngụy Thiệu, thực ra lại là kế điệu hổ ly sơn. Nhân lúc Hán Trung ta phòng bị lỏng lẻo mà muốn cướp Lương Châu. Lương Châu là cơ nghiệp của chúa công, tuyệt đối không thể có sai lầm”.

Nhạc Chính Công nhớ lại mấy ngày nay, Trúc Tăng vẫn luôn khuyên nhủ trước mặt mình, bảo hắn không thể lui binh được, cần tập trung toàn lực vào trận chiến lần này. Bỗng nhiên hắn nhất thời tỉnh ngộ, không còn chút nghi ngờ nào nữa, mắng chửi: “Thằng oắt Ngụy Thiệu, lòng dạ hiểm ác! Lập gian kế dụ ta tới giúp lão tặc Hạnh Tốn, không ngờ sau lưng ta hắn lại mơ tưởng tới cơ nghiệp của mình”.

Trong phút chốc lòng dạ rối bời, vừa giận vừa hối hận, hắn sai người trói Trúc Tăng lại ngay, chém đầu ở nha môn. Sau đó lại vội vàng cho gọi mưu thần tới họp ở đại trướng, bàn bạc kế sách.

Mọi người biết được tin thì tức giận ngất trời, trong lúc bàn bạc chưa đưa ra kết luận, bên ngoài nha môn lại có người tới báo, họ nói đang định chém đầu Trúc Tăng thì có một đội nhân mã mặc trang phục quân đội của Hạnh Tốn tới cướp Trúc Tăng đi. Lúc đầu họ còn tưởng là người của Hạnh Tốn, sau khi đuổi theo mới phát hiện nhóm người đó đi về phía trại địch đối diện sông Hoàng Hà của Ngụy Thiệu.

Chỉ sợ bị lừa nên không ai đuổi nữa, quay về bẩm báo ngay.

Nhạc Chính Công như ói ra máu phổi, hắn lật nhào chiếc bàn ngay trước mặt, ra lệnh tấn công vào đại doanh Ngụy Thiệu.

Sau khi được nhóm người Trương Yến tận tình khuyên nhủ, họ nói Ngụy Thiệu nham hiểm đã đi đến bước này, có lẽ đã có phòng bị sẵn, không nên tùy tiện xuất quân.

Một lát sau, lửa giận trong lồng ngực Nhạc Chính Công mới dần dần bình tĩnh. Hắn bước quanh doanh trướng mấy vòng rồi nói: “Chư vị nói rất có lý. Mối thù này ta sẽ ghi nhớ kĩ, sau này tính sau! Truyền lệnh cho ta, nhanh chóng nhổ trại về Hán Trung!”



Nói về Hạnh Tốn, sau khi biết tin tên Trúc Tăng trốn thoát lại được Nhạc Chính Công sử dụng, sao hắn có thể xem như không? Trời vừa sáng, Hạnh Tốn phái Đinh Khuất dẫn người tới Tây doanh. Đinh Khuất tới đó lại bị họ chế nhạo, sao có thể nuốt được cơn giận này. Lúc trở về hắn ta lại thêm mắm dặm muối ở trước mặt Hạnh Tốn, nói mặc dù trên danh nghĩa Nhạc Chính Công đang nương nhờ bệ hạ, nhưng thực ra hắn ngông cuồng tự đại, ỷ vào mấy nhóm binh mà đến cả nhi tử của hắn cũng mắt cao hơn đầu, chẳng xem bệ hạ ra gì cả.

Hạnh Tốn không vui, hắn cho người đi gọi Nhạc Chính Công tới gặp mình đối chất. Nào ngờ có tin báo, doanh trại phía Tây có hành động lạ thường. Hạnh Tốn vội vàng phái người đến xem chuyện ra sao.

Chốc lát sao lại có tin tức tới, Nhạc Chính Công dám tự mình quyết định, hạ lệnh nhổ trại về Hán Trung.

Hạnh Tốn giận tím mặt, hắn lập tức sai Đinh Khuất đến bắt Nhạc Chính Công tới đây.

Nhạc Chính Công vừa quyết ý lui binh về cứu, nào còn quan tâm Hạnh Tốn nghĩ thế nào, sau đó còn phái Nhạc Chính Tuấn dẫn theo một phó tướng bảo vệ nơi giáp ranh giữa hai doanh trại, tăng cường lui tới.

Đinh Khuất muốn phá rào xông qua, Nhạc Chính Tuấn cũng không phải dạng vừa, sao có thể cho tên này qua được, hai bên lập tức xảy ra tranh đấu, đao kích giao nhau.

Vốn là liên quân đóng hai phía Đông Tây, bây giờ lại tự chém giết nhau, máu nhuộm hàng rào.

Hạnh Tốn nghe tin thì càng nổi giận hơn, ném gãy cả ngọn đèn. Hắn hạ lệnh chấn chỉnh hàng ngũ, đuổi theo Nhạc Chính Công để đánh cho một trận.

Tang Thường vội vàng khuyên can: “Chẳng lẽ bệ hạ không thấy có chuyện quan trọng hơn hay sao? Bệ hạ muốn Bắc phạt lấy đầu của Ngụy Thiệu. Bây giờ sự nghiệp còn chưa thành, nếu lúc này giao chiến với Tây doanh thì đúng là nội loạn, hai bên đều thiệt hại như nhau, Ngụy Thiệu lại ngư ông đắc lợi! Nếu Nhạc Chính Công muốn đi thì cứ để hắn đi. Chờ đến khi bệ hạ tiêu diệt được Ngụy Thiệu, ta lại chỉ huy đi chinh phạt Hán Trung, bắt sống Nhạc Chính Công, trị tội hắn dám lâm trận mà bỏ chạy!”

Những người còn lại cũng tận tình khuyên bảo.

Hạnh Tốn nghe vậy thì kìm nén nỗi uất hận trong lòng, cho người rút quân về doanh trại, tăng cường đề phòng Ngụy Thiệu lợi dụng để tập kích quân doanh.



Ngay đêm đó, vì Nhạc Chính Công phải đi gấp nên không kịp mang theo lương thảo và quân nhu, một mồi lửa thiêu trụi sạch.

Chỉ trong một đêm, lều trại Tây doanh khắp núi đồi biến mất, ánh lửa hừng hực trong màn tuyết.

Từ phía quân doanh của Ngụy Thiệu nằm đối diện Hoàng Hà, nhìn bằng mắt thường cũng có thể thấy rõ.

Trong đại trướng chủ soái của Ngụy Thiệu, tiếng cười như sấm dậy.

Ngụy Thiệu ngồi phía trên, Công Tôn Dương, Lý Điển, Lý Sùng, Trương Kiệm, Vệ Quyền chia ra ngồi bên dưới, đề cập đến trận hỏa hoạn ở Tây doanh đối diện, cười cười nói nói.

“Vinh Diên có an toàn không?”

Ngụy Thiệu cười xong thì đáp: “Nên sớm về mới phải. Nếu không qua vài ngày nữa, đợi tới khi Nhạc Chính Công biết được Dương Tín và Quách Thuyên chỉ dẫn năm ngàn binh mã mà phô trương thanh thế, chỉ sợ hắn sẽ gặp bất lợi”.

“Chúa công yên tâm”. Công Tôn Dương vội nói, “Ta đã bàn bạc với hắn rồi. Hắn có được sự tín nhiệm của Nhạc Chính Công nên bây giờ tính mạng không có gì nguy hiểm, không cần phải đi ngay. Nếu đi có khi lại khiến Nhạc Chính Công nghi ngờ, khi ấy kiếm củi ba năm lại đốt mất một giờ. Chờ tới khi có thời cơ thích hợp rồi quay về doanh trại”.

Ngụy Thiệu gật đầu: “Lần này Nhạc Chính Công trúng kế đều là nhờ Vinh Diên can đảm, có thể nói là có công trạng lớn. Quân sư nhớ kĩ đóng góp này của hắn, sau khi đánh xong sẽ luận công phong thưởng”.

Công Tôn Dương đáp lại.

Lúc này thân binh cũng tới báo, Trúc Tăng đã được đưa tới rồi.

Ngụy Thiệu cho người đưa hắn vào.

Trúc Tăng bị trói chéo hai tay, trong lều văng vẳng tiếng cười đùa, hắn được dẫn vào đại trướng của chủ soái.

Nhìn thấy khoảng mười người ngồi phân ra trong lều, đèn đuốc sáng trưng soi đến tận tấm bình phong bằng gỗ tử đàn ngăn cách trước sau.

Phía trên bức bình phong là hình ảnh mây khói trời xanh, hổ gầm trên núi. Một con mãnh hổ uy phong gầm gừ trấn giữ cả ngọn đồi cao cao.

Mặc dù không hề nghe thấy tiếng, nhưng dường như chấn động cả khu rừng, giống như thể chỉ một khắc tiếp theo, nó sẽ nhảy xuống giơ nanh muốn cắn, khí thế bức người, khiến cho người khác không dám nhìn thêm nữa.

Quanh tấm hổ bình, một chồng công văn bằng cuộn tre chất đầy cao hơn đỉnh.

Ở giữa là bàn của tướng quân, được chia ra lệnh tiễn và hổ phù.

Phía sau án là một nam tử khoảng chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi, không đội mũ chiến đấu, tóc vấn đội kim quan đen nhánh, trên người hắn mặc một bộ chiến giáp Kỳ Lân, khoác áo của chủ soái, eo đeo bảo kiếm, khí thế như mình rồng thân báo.

Khuôn mặt tinh anh và nghiêm nghị, hắn hơi nghiêng người trò chuyện vui vẻ với một nam tử gầy gò có ba chỏm râu ở cạnh bên, thái độ tự nhiên và phóng khoáng.

Nghe người ta báo đã đưa Trúc Tăng tới, nam tử này ngừng lại quay mặt sang, ánh mắt liếc nhìn.

Trúc Tăng đoán nam tử trẻ tuổi này ắt hẳn là Ngụy Thiệu.

Nhưng hắn lại không ngờ rằng, bá chủ phương Bắc Ngụy Thiệu trong lời đồn lại là một nhân vật xuất chúng như rồng như phượng vậy.

Càng nhìn càng sững.

Mãi đến tận khi nam tử trẻ tuổi đó ngừng cười nói, cả người ngồi thẳng, ánh mắt nhìn sang phía mình.

Quanh người hắn như xuất hiện hơi thở của chiến trường, phả ngay vào mặt.

Hắn rùng mình không dám đối mắt với người ngồi sau án.

Trong lòng tuyệt vọng.

Biết Ngụy Thiệu đặt bẫy liên hoàn mưu hại mình như vậy, cuối cùng Nhạc Chính Công lại mắc mưu lùi binh, chắc hắn cũng đoán được người đề nghị Nhạc Chính Công xuất binh giúp Hạnh Tốn là mình.

Có lẽ sẽ hận mình thấu xương.

Cứ mơ màng rơi vào tay của hắn, chỉ chờ cho tan xương róc thịt.

Nhưng không ngờ Ngụy Thiệu lại đứng dậy đi tới bên cạnh hắn, tự tay cởi dây thừng đang trói chặt lấy mình, cười nói: “Để hóa giải mối nguy của quân doanh mà ta đã khiến Tử Dực vất vả rồi. Ngươi có trách ta không?”

Trúc Tăng ngước mắt, nhìn thấy vẻ mặt tươi cười của Ngụy Thiệu thì nhất thời kinh ngạc.

Những người ngồi kia cũng đều đang nhìn mình, trên mặt rõ ý cười.

Vệ Quyền nói: “Chúa công biết huynh là người có tài, không đành lòng để huynh bị chặt đầu dưới đao nên mới cố ý cho người đi cứu viện”.

Trúc Tăng như tỉnh giấc chiêm bao, hắn vội vàng quỳ xuống dập đầu lạy rồi nói: “Được Yên hầu đánh giá cao, bỏ qua hiềm khích mà trọng dụng, Trúc Tăng nguyện quy hàng dưới trướng, báo đáp ân huệ của Yên hầu”.

Ngụy Thiệu cười ha ha, hào khí can vân, hắn sai người lấy rượu ra mời. Sau một hồi giới thiệu thì cho thân binh dẫn Trúc Tăng đi xuống.

Mấy người còn lại trong trướng cũng lục tục rời đi, cuối cùng chỉ còn lại Công Tôn Dương, hắn mới hỏi chuyện ở Duyện Châu.

Trong thời gian đại quân Hạnh Tốn dừng ở đây, giằng co cùng Ngụy Thiệu, Chu Quần Nhâm Thành từng tấn công Duyện Châu lại tới áp sát lần thứ hai.

Kiều Bình dẫn quân phản kích, Chu Quần bị đánh lùi.

Hạnh Tốn không cam lòng nên tăng cường nhân mã, phát động tấn công thêm lần nữa. Sau đó Lục Mâu tướng quân dẫn binh tới giúp đỡ Duyện Châu.

Ác chiến qua đi, không chỉ bảo vệ được Duyện Châu, mà Chu Quần cũng mất mạng cùng với loạn quân.

Hôm qua tin tức này được đưa tới trước án của Ngụy Thiệu.

“Chúa công không cần phải bận lòng thêm nữa”. Công Tôn Dương nói: “Qua hai trận chiến này, có thể thấy trong hai ba năm qua, Duyện Châu đã sẵn sàng ra trận, không còn suy yếu như xưa nữa. Không những thế còn có Bỉ Trệ cùng giúp đỡ, nhất định sẽ không còn hiểm nguy. Bây giờ liên quân sụp đổ, khí trời cũng từ từ tốt hơn, thời cơ chiến đấu ngay trước mặt, chúa công cần phải toàn lực đối phó với Hạnh Tốn”.

Hai người lại bàn bạc chiến sự, không biết màn đêm đã thăm thẳm bao giờ.

Ngụy Thiệu đích thân đưa Công Tôn Dương về lều trại.

Lúc định về đại trướng chủ soái, không hiểu sao hắn lại cảm thấy lòng thấp thỏm, Ngụy Thiệu xoay người, bàn chân đạp lên lớp tuyết đọng dưới đất, xì xèo đi về hướng nha môn.

Mấy binh sĩ ngoài cửa thấy hắn tới thì vội chào quân lễ.

Ngụy Thiệu khẽ vuốt cằm, cởi áo khoác trên người mình xuống, khoác lên trên người lính quèn với khuôn mặt chưa hết nét trẻ con, chỉ tầm mười sáu mười bảy tuổi. Hắn vỗ vai cậu một cái rồi tự mình ra ngoài, leo lên một gò đất đầy tuyết ở cạnh bên, quay đầu nhìn về phía dòng sông Hoàng Hà bị bóng đêm nuốt chửng và bình nguyên hoang dã, hít một hơi lạnh lại trong lành.

Ngay lúc đó, trong lòng hắn bỗng sinh ra cảm giác giữa thiên hạ bao la rộng lớn này, ngoài ta ra còn ai là hào kiệt.

Hắn từ từ thở ra một hơi dài, cuối cùng, tầm mắt hướng về bầu trời đêm xa xăm nơi đất Bắc, yên lặng một lúc lâu.

Có lẽ nàng ấy sắp sinh rồi.

Chắc mình không kịp quay về ở cạnh nàng, cùng nhau đón mừng con chào đời.

Nhưng nhất định, hắn sẽ giành lấy thắng lợi này làm món quà đẹp nhất, tặng cho nàng và đứa bé của họ sắp tới nhân gian.



Trong ánh mắt hâm mộ của bạn bè, cậu thiếu niên được Quân hầu khoác áo cố gắng kìm nén tâm tình đang kích động, ngưỡng mộ nhìn bóng người xa xa nơi mỏm đất đằng kia, như thể hòa mình cùng đêm tối.

Được chiến đấu vì Quân hầu, dù cho máu đỏ nhuộm cát vàng, cậu cũng không hối tiếc.

Trong lòng cậu thiếu niên tự nhủ.
 
Khom Lưng
Chương 137



Duyện Châu.

Chỉ khoảng hơn một tháng, địch thủ cũ Chu Quần tới trước rồi lại đến Chu Quần liên binh.

Duyện Châu gặp phải hai đợt đại quân tiến tới thảo phạt.

Kiều Bình dẫn Kiều Từ và một nhóm gia tướng binh nhì cùng bày trận, toàn lực chống lại.

Lần đầu tiên, Chu Quần bại trận, bị đánh lui.

Quân dân Duyện Châu vừa mới thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Chu Quần lại chỉnh đốn binh mã, tiến quân xâm lấn lần thứ hai.

Lần này hắn tiến hành liên quân, thanh thế còn lớn hơn lần trước, lao thẳng tới Cự Dã ở bên ngoài Duyện Châu, quyết tâm không bỏ qua cho Duyện Châu lần nữa.

Lúc đó Kiều Việt vô cùng sợ hãi, hắn cho rằng nhất định Duyện Châu không thể may mắn đẩy lùi xâm lấn như lần trước.

Sau khi bàn bạc với mưu sĩ Trương Phổ, hắn quyết định dâng thư xin hàng, cúi đầu xưng thần với Hạnh Tốn để đổi lấy an bình.

Năm ngoái Hạnh Tốn vừa xưng đế, lấy hiệu là Khương, gửi chiếu thư đến khắp cửu châu trong thiên hạ, ra lệnh chư hầu thứ sử các nơi phải vào cung hành lễ.

Lúc đó người hưởng ứng rất ít.

Thứ sử chư hầu trong thiên hạ có người khiếp sợ trước dâm uy, có người thì xem xét thời thế, có kẻ lại có tính toán khác.

Vì vậy không có ai vung cờ chống đối, cũng không ai nguyện lòng làm theo chiếu thư kia, chỉ sợ gánh cái danh là loạn thần tặc tử.

Thành Duyện Châu cũng vậy.

Nhưng tình thế lại thay đổi nhanh chóng đến mức này.

Rốt cuộc Kiều Việt không chịu nổi áp lực, đành phải đưa ra quyết định đó.

Tuy nhiên Kiều Bình lại hết sức phản đối.

Ở Duyện Châu bây giờ, danh tiếng của Kiều Bình đã lừng lẫy hơn xưa, rất nhiều gia tướng nghe lệnh ông.

Đương lúc tranh chấp với Kiều Việt, Kiều Bình lại nhận được tin báo, Lục Mâu tướng quân ở Linh Bích nguyện lòng đưa quân tới đây để cứu viện.

Kiều Việt bán tín bán nghi nhưng chỉ có thể miễn cưỡng đồng ý vậy.

Sau một hồi loạn chiến, ngay ngày hôm qua, không chỉ đại quân của Chu Quần bị đánh bại hoàn toàn, mà chính hắn cũng chết cùng loạn quân. Trong một thời gian ngắn, Hạnh Tốn không thể phát động tiến công tới Duyện Châu lần nữa.

Quân dân Duyện Châu hãnh diện không thôi.

Nếu bàn về công lao thì người đứng đầu chính là Lục Mâu tướng quân.

Giữa thiên quân vạn mã mà cứ như ra vào chỗ không người.

Chu Quần là kẻ thù cũ của Duyện Châu nhiều năm nay, sở dĩ bỏ mạng ở Cự Dã cũng là vì thua trận bỏ chạy, gặp phải binh lính mà Lục Mâu tướng quân sắp xếp, cuối cùng thì bị giết.

Nếu không có sự giúp đỡ của hắn, trận chiến lần này khó có thể đạt được thành quả huy hoàng như vậy.

Quân dân Duyện Châu không ngừng lan truyền tên tuổi của Lục Mâu tướng quân trên sa trường, ngóng trông có thể chứng kiến phong thái của hắn lúc khải hoàn.



Ngày ấy, cha con Kiều Bình trở về từ Cự Dã, lúc cưỡi ngựa vào thành, họ được dân chúng đứng chật kín hai bên hoan nghênh nhiệt liệt.

Tuy nhiên không được thấy vị tướng quân Lục Mâu trong tin đồn cùng đồng hành với họ, dân chúng cũng có phần thất vọng.

Kiều Việt dẫn người ra trước phủ đệ nghênh đón Kiều Bình khải hoàn về.

Trên mặt hắn niềm nở ý cười, nhưng nhìn kĩ có vẻ hơi miễn cưỡng.

Đón Kiều Bình vào phủ, Kiều Việt hỏi ngay: “Sao hôm nay vị Lục Mâu tướng quân đó không vào thành cùng đệ? Ta đã từng nghe danh hắn trước đây, mặc dù cầm đầu lưu dân rồi lập nghiệp, xuất thân hơi thấp kém nhưng anh hùng không cần biết ở đâu[1], lần này Duyện Châu ta nhận được sự trợ lực của hắn, ta cũng nên tự mình nói cảm ơn”.

[1] Anh hùng không hỏi xuất xứ

Kiều Bình mời ông vào thư phòng, đắn đo một lúc rồi mới nói: “Đệ đang định nói chuyện này với huynh. Không dám giấu gì huynh, Lục Mâu tướng quân không phải là người ngoài. Huynh trưởng cũng biết hắn đấy”.

Kiều Việt không rõ: “Ai?”

“Là Bỉ Trệ”.

Lúc đầu Kiều Việt còn chưa phản ứng được, ông tỏ vẻ nghi ngờ: “Bỉ Trệ là ai?”

Sau khi dừng một lúc, hình như ông cũng đã nhớ ra, hai mắt trợn tròn như không thể tin nổi: “Đệ nói, là cái tên giữ ngựa Bỉ Trệ dụ nữ nhi nhà ta sao?”

Kiều Bình gật đầu: “Đúng thế”.

Kiều Việt cứng đờ.

“Bây giờ Bỉ Trệ vẫn đang đứng ngoài thành. Hắn muốn gặp huynh trưởng, chịu đòn nhận lỗi”.

Thấy Kiều Việt không nói gì, ông bèn khuyên nhủ: “Huynh trưởng cũng mới nói đó thôi, anh hùng không cần biết ở đâu. Lúc đầu Bỉ Trệ không nên tự ý dẫn chất nữ rời nhà, hai người chưa được phụ mẫu đồng ý đã kết làm phu thê, luân lý làm người, lễ pháp đều không hợp. Nhưng hắn và chất nữ lại tâm đầu ý hợp, lúc đó cũng là hành động bất đắc dĩ. Huống hồ bây giờ chất nữ đã sinh được nhi tử, huynh trưởng lại có thêm đứa cháu, hắn cũng đã vượt xa quá khứ, tự có binh quyền, từng mấy lần giúp đỡ Duyện Châu ta ở trong cơn nguy khốn. Mong huynh trưởng có thể bỏ qua hiềm khích trước kia, đón nhận hắn. Được vậy cũng là may mắn của Kiều gia ta, cũng là may mắn của Duyện Châu!”

“Hắn từng giúp Duyện Châu mấy lần?”

“Lần trước lúc Tiết Thái tấn công Duyện Châu, hai quân bày trận ở Cự Dã, lúc đấy đệ có gặp nguy hiểm, cũng là khi hắn vừa lúc xuất hiện và ra tay cứu giúp, nhờ đó mới thoát được một kiếp. Lúc ấy đệ cũng không biết ân nhân của mình là Bỉ Trệ. Mãi sau này mới biết, vì không tiện nói rõ nên mới chưa kịp kể lại với huynh trưởng. Mong huynh trưởng đừng trách”.

Kiều Việt cảm thấy buồn bực lòng rối ren.

Tin tức đột nhiên xuất hiện này khiến cho ông không biết phải làm sao.

Mỗi khi nhớ tới ngày hôm đó, ông chỉ hận không thể bắt được tên giữ ngựa thấp hèn kia để lột da lóc thịt, bây giờ hắn lại bay thẳng đến trời xanh, chuyển mình thay đổi, lấy danh nghĩa ân nhân của Duyện Châu xuất hiện trước mặt mình.

Theo lý mà nói, ông cũng biết là Kiều Bình nói đúng.

Gặp lúc sinh thời loạn lạc, có được giúp đỡ càng nhiều thì càng tốt.

Huống hồ với thực lực tên giữ ngựa đó ngày hôm nay, đúng là rất đáng để lôi kéo.

Tuy nhiên nếu chấp nhận một tên giữ ngựa làm nữ tế[2], ông lại cảm thấy rất uất ức.

[2] Nữ tế: con rể.

Thấy Kiều Bình như còn muốn khuyên nữa, ông phiền não xua tay: “Đệ cũng mệt rồi nhỉ, đi về nghỉ ngơi trước đi đã. Chuyện này để ta suy nghĩ thêm”.

Kiều Bình cũng biết tin tức này là một chấn động không nhỏ đối với huynh, vì vậy ông cũng không ép nữa, cáo lui.

Đợi đến khi Kiều Bình vừa đi, Kiều Việt gọi Trương Phổ vào ngay, kể lại chuyện mình mới biết cho hắn nghe lần nữa, ông cau mày hỏi: “Ngươi nói xem ta phải làm sao đây? Có nên nhận tên Bỉ Trệ hay không?”

Trương Phổ cũng kinh ngạc không thôi, sau vài câu than thở, hắn trầm ngâm một lúc rồi mới nói: “Có đôi lời không biết chúa công có cho ta nói không?”

“Nói đi!”

Trương Phổ mở cửa ra quan sát, thấy không có người mới đóng cửa thật chặt, quay người sang thấp giọng nói: “Theo góc nhìn của ta, chúa công không thể dẫn tên Bỉ Trệ này vào Duyện Châu mình được”.

“Tại sao?”

“Chúa công là người đứng đầu của Duyện Châu, tuy nhiên trong hai ba năm nay, người Duyện Châu lại chỉ biết đến tên của Quận Công Đông Quận Kiều Bình, tên của chúa công có ai đề cập tới? Tám chín phần mười người dân ở Duyện Châu, mỗi khi gặp chuyện họ sẽ nghĩ đến Quận công trước hết. Chúa công nhân hậu lại nặng tình nặng nghĩa, không buồn để ý đến hư danh thế tục, tuy nhiên ta lại thấy sầu lo vì chúa công. Nếu còn tiếp tục như vậy, chỉ sợ địa vị của ngài khó bảo toàn”.

Kiều Việt biến sắc nhưng không nói lời nào.

“Không phải ta đa nghi, mà chuyện này có quá nhiều manh mối. Chúa công còn nhớ không, lần trước Nữ quân về Đông Quận một chuyến, sau khi đi Quận công lại quyết định chiêu binh mãi mã mà không buồn quan tâm tới sự phản đối của chúa công. Ý là sao? Ở trước mặt chúa công, Quận công nói là để bản thân mạnh mẽ mới chống được ngoại xâm, nhưng duới cái nhìn của ta, chỉ sợ suy tính của Quận công không đơn giản như vậy! Bây giờ hiệu quả mới hiện ra, Quận công còn muốn dẫn Bỉ Trệ trở về. Ta vừa nghe chúa công nói vậy thì không khó mà đoán ra, Quận công đã lén lút qua lại với Bỉ Trệ từ lâu. Mặc dù trên danh nghĩa hắn là nữ tế của chúa công, nhưng thực ra lại là người của Quận công. Duyện Châu có một Quận công giờ còn thêm Bỉ Trệ, sau này địa vị của chúa công sẽ sao đây? Chúa công cần cân nhắc!”

Mấy câu Trương Phổ nói đã chạm trúng vào tâm bệnh khó nói ra trong lòng Kiều Việt mấy năm qua.

Ông nghe xong mà toát mồ hôi lạnh: “May mà có hỏi ngươi một tiếng! Bằng không suýt chút nữa ta đã dẫn sói vào nhà! Ngươi nói rất có lý. Tên Bỉ Trệ này chỉ là đồ giữ ngựa, Kiều gia ta sao có thể có nữ tế thế này! Còn nữ nhi của ta dám bỏ cha bỏ tổ, ta đã không xem nó là nữ nhi mình nữa, không có nữ nhi thì còn đâu nữ tế! Chỉ có điều….”

Ông ngừng lại.

“Sao chúa công lại mặt mày ủ dột?” Trương Phổ ở bên đoán ý.

“Ta cứ tưởng chất nữ được gả cho Ngụy Thiệu thì sau này Duyện Châu ta đã có chỗ dựa vào. Không ngờ bây giờ Ngụy Thiệu muốn lo cho hắn còn không xong, nói gì tới chuyện bảo vệ Duyện Châu ta? Kiều gia ta và Hạnh Tốn vốn không phạm vào nhau. Lúc Hạnh Tốn xưng đế, khắp cửu châu thiên hạ không phải chỉ có mỗi Duyện Châu không hưởng ứng lại hắn. Lúc đó nhị đệ không chịu nghe ta nói, cứ bày đặt vạch rõ quan hệ với Hạnh Tốn. Cho dù bây giờ may mắn thoát khỏi hai lần đánh, nhưng chưa biết chừng sau này Hạnh Tốn lại khó dễ chúng ta. Nếu bây giờ ta không nhận Bỉ Trệ, nếu ngày sau Hạnh Tốn lại dẫn binh xâm lấn, Duyện Châu ta nên chống lại thế nào?”

Ông thở dài một hơi: “Lần trước thông gia với Ngụy gia để có nơi dựa dẫm, không ngờ bây giờ lại bị liên lụy, rước họa vào thân, khiến mình lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, khó xử như thế này!”

Trương Phổ đáp: “Chúa công lo lắng rất đúng, sau khi Hạnh Tốn xưng đế, hắn đã dẫn binh hùng tướng mạnh đi chinh phạt Ngụy Thiệu. Ngụy Thiệu đang ở trong thế yếu. Huống hồ bây giờ Nhạc Chính Công lại sẵn lòng góp sức, Hạnh Tốn như hổ chắp thêm cánh. Dù hai bên đang giằng co ở hai tuyến Hoàng Hà, chưa giao đấu với nhau, nhưng nếu ai có mắt đều nhìn thấy, kết cục thất bại của Ngụy Thiệu đã hiện rõ rành rành. Chẳng qua tên chưa ra khỏi nỏ, cố gắng giãy giụa đó mà thôi”.

Kiều Việt càng lo lắng, đến ngồi cũng không yên. Ông đứng dậy đi lui đi tới ở trong phòng, thở dài than ngắn.

Trương Phổ đứng bên nhìn rồi chợt nói: “Chúa công không cần phải lo lắng như vậy. Hiện tại có một cơ hội có thể giúp chúa công xoay chuyển tình thế”.

Kiều Việt dừng lại, quay đầu hỏi: “Cơ hội nào?”

Trương Phổ bước nhanh ra trước án, cầm bút viết vài chữ.

Kiều Việt đi qua nhìn.

“Lưu Diễm?”

Ông giật mình không thôi.

“Đúng thế”. Trương Phổ gật đầu, “Đây là thế tử Lang Gia trước kia từng chịu ơn Kiều gia, bây giờ hắn lại được thiên hạ ủng hộ để leo lên đế vị, có lẽ chúa công từng nghe nói”.

Kiều Việt cau mày: “Đương nhiên là ta biết. Nhưng thế này là sao? Chuyện có liên quan gì tới ta?”

Trương Phổ ghé tai lại nói: “Không dám giấu giếm ngài. Năm đó Lưu Diễm ở Đông Quận cũng tính là quen biết với ta. Mấy ngày trước hắn có cho người đưa tới một phong thư, dặn ta đưa lại cho chúa công”.

Dứt lời, trước ánh mắt kinh ngạc của Kiều Việt, hắn lấy một bức thư lụa vàng trong tay áo ra, cung kính dâng hai tay đưa tới.

Kiều Việt vội vàng nhận lấy mở ra đọc thật nhanh.

Nhất thời, lòng ông chấn động, đến nỗi ngón tay cầm thư cũng trở nên run rẩy.

Trương Phổ đứng bên thẳng thắn nói: “Hạnh Tốn mang cái danh ác độc, dù có xưng đế cũng danh không chính ngôn không thuận, sớm muộn thiên hạ cũng vùng dậy tấn công. Lưu Diễm lại chiếm hết thiên thời địa lợi nhân hòa. Văn có Vương Bá, Đổng Thành, Đậu Vũ, Đặng Huân, đều là các trọng thần lão làng có tên tuổi lớn. Võ có các thái thú từ khắp nơi quy phục, ngay cả Viên Giả cũng ủng hộ hắn xưng đế, binh cường ngựa thịnh. Trận chiến ở Hoàng Hà lần này cũng là để phân định tình hình thiên hạ. Cửu châu sau này có thể chia làm hai. Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công chiếm đóng nghịch đô, Lưu Diễm với thân phận Hán đế chính thống có được lòng thiên hạ. Bây giờ vì Ngụy Thiệu mà chúa công đắc tội với Hạnh Tốn, không còn đường lui nữa, nhưng Lưu Diễm lại cảm động, nhớ tới ơn cứu giúp, còn tự tay viết ngự sách để trống quan cao hậu tước cho chúa công. Đây là cơ hội mà ta vừa nói tới, chúa công nói xem có sai không?”

Ánh mắt Kiều Việt lóe ra thứ ánh sáng khác thường, hai tay chắp sau lưng, kích động đi mấy vòng quanh phòng, hắn chợt nghĩ ra rồi đột nhiên ngừng lại, chần chừ nói: “Chỉ là, chỗ nhị đệ của ta…”

“Chúa công đã quên ta vừa nói gì sao? Ngụy Thiệu là nữ tế của Quận công, Quận công lại chèn ép chúa công như vậy, chỉ sợ đã có lòng dạ khác, sao chúa công còn hi vọng Quận công có thể đồng tâm tận lực với mình đây?”

Sắc mặt Kiều Việt hơi khó coi. Ông bàng hoàng một lúc mới nói: “Ngươi cũng biết đó, nếu hắn không gật đầu, gia tướng bộ khúc[3] cũng không chịu nghe ta”.

[3] Bộ khúc: ban lãnh đạo, chỉ huy

Trương Phổ nói tiếp: “Ta có một kế này. Chúa công cứ đuổi Bỉ Trệ trước, chuyện này là tùy ở chúa công. Cho dù Quận công không muốn cũng không thể phản bác. Sau khi đuổi Bỉ Trệ rồi, chúa công hãy chọn một số người thân tín, nhân lúc Quận công không phòng bị phải quản thúc ông ta, nói với bên ngoài là Quận công bệnh nặng không thể bàn chính sự, đoạt hết binh quyền ở trong tay Quận công. Khi đó Duyện Châu sẽ quay về trong tay của chúa công. Đến lúc đó làm mưa gọi gió, tất cả đều là do chúa công quyết định!”

Kiều Việt do dự không quyết.

“Chúa công! Nhân từ sẽ không nắm được binh, không ác không phải là nam tử. Chẳng lẽ chúa công còn chưa rút kinh nghiệm từ những lần lòng dạ yếu mềm đến mức khó giữ được địa vị kia sao? Trận chiến này chắn chắn Ngụy Thiệu sẽ thất bại. Một khi Hạnh Tốn giết được Ngụy Thiệu, hắn sẽ chuyển tới Duyện Châu. Nếu chúa công vẫn còn do dự thì sẽ bỏ qua cơ hội nương nhờ Lưu Diễm, trăm năm cơ nghiệp ở Duyện Châu có thể hủy hoại trong một ngày. Huống hồ chúa công đâu có lấy đi tính mạng của Quận công, chẳng qua là quản thúc thôi mà. sao chúa công không quyết?”

Kiều Việt rùng mình ớn lạnh, ông cắn răng hạ quyết tâm, gật đầu nói: “Ta nghe theo ý ngươi”.

Trương Phổ mừng rỡ, quỳ lạy: “Chúa công anh minh! Lưu Diễm là anh tài mưu lược, thiên hạ một lòng phục hưng lại triều Hán. Chúa công sẽ có công ủng hộ, vinh hoa phú quý dễ như trở bàn tay!”



Mồng một tháng ba, trăng lưỡi liềm như câu.

Giữa bình nguyên hoang vu Mục Dã mênh mông vô bờ bến, xuân hàn vẫn se lạnh như trước, mùa đông lạnh mang theo màn tuyết bao trùm cả một vùng dằng dặc, mãi chẳng chịu tan.

Nhưng lúc đó ở khe đá và mỏm núi, rêu xanh đã lặng lẽ mướt màu.

Giữa trời đêm gió rít từng cơn nơi hoang dã, ngân nga nhưng không lạnh thấu xương, nếu nhắm hai mắt lại còn có thể ngửi được mùi gió xuân đong đưa và thoải mái.

Tuy rằng mùa xuân này đến với Mục Dã khá muộn màng, nhưng rốt cuộc nó cũng tới nơi đây.

Sau khi Nhạc Chính Công lui binh mấy ngày, Ngụy Thiệu đối mặt với Hạnh Tốn mấy tháng đã không kiềm chế nổi. Giữa trời đêm mù mịt tờ mờ sáng, hắn chia quân thành ba hướng, dọc theo dòng sông Hoàng Hà, với khí thế mạnh mẽ xông thẳng tới trại địch đối diện, tiến công toàn diện.

Toàn quân Ngụy Thiệu đều đã được trang bị áo giáp và thương, giáo, trận địa sẵn sàng ngăn đón địch.

Tiếng sừng trâu trầm thấp lại chấn động lòng người.

Nhất định sắp tới đây sẽ là một cuộc đại chiến đều máu chảy thành sông, chuẩn bị mở màn.

Đại chiến ngắt quãng, kéo dài khoảng ba ngày.

Hơn một năm trước, cũng ở vùng đất có tên là Mục Dã này đây, từng xảy ra một cuộc chiến tranh đến đất trời đổi sắc, trời trăng ảm đạm.

Sau khi cuộc chiến đó qua đi, có người nhận lấy cái danh là thánh quân một đời, xây dựng nên giang sơn thịnh thế tám trăm năm, người thắng được mỹ danh huy hoàng là thế.

Có người lại không được vẻ vang như vậy, sách sử cũng chẳng lời cảm ơn.

Cứ mỗi trận chiến qua đi là vạn người đổ xuống, huống hồ là là vì giang sơn xã tắc, vạn dặm non sông?

Dưới mặt đất chôn cất chiến hồn hơn một ngàn năm trước, dường như họ đã thức tỉnh vì máu tươi đao kích, những âm thanh r.ên rỉ, kêu khóc, tất cả chui lên từ lòng đất tối tăm.

Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng[4]

Gió mây thét giận, thần quỷ khóc than.

[4] Trích trong quẻ Khôn thứ sáu: ý là âm dương giao chiến, máu chảy thành sông.

Quân sĩ phấn khởi tiến công, đi đầu uống máu.

Cơ thể đã không còn là cơ thể nữa.

Chỉ còn duy nhất một suy nghĩ trong đầu, đó là đôi mắt đỏ bao phủ bởi máu tươi, nắm lấy đao thương kiếm kích, giữ chặt chiến xa ầm ầm như nước chảy, đi theo sau lá cờ.

Giết, giết, giết.



Nhạc Chính Công thống lĩnh đại quân, lấy thuyền kiều vượt qua sông Hoàng Hà tan băng, sau đó ngày đêm cấp tốc, hận không thể mọc thêm hai cánh để chạy về Lương Châu.

Sau mấy ngày hành quân rốt cuộc cũng đi đến Hoa Sơn, hắn ta bỗng thấy có điều gì không đúng.

Cả đường đi qua không thấy dấu vết mà một đại quân thường để lại.

Hỏi mấy người đi đường ở thôn trang thị trấn, họ cũng mờ mịt không biết đại quân đã từng đi qua đây.

Nhạc Chính Quân chần chừ, đúng lúc đó thám tử được cử đi trước thám thính tình hình cưỡi khoái mã quay về, báo tin trưởng tử của hắn Nhạc Chính Khải lại đưa bức thư khác.

Đại công tử nói, sau khi kiểm tra tin tình báo lần trước, hóa ra chỉ là sợ bóng sợ gió mà thôi. Dương Tín, Quách Thuyên chỉ dẫn năm ngàn binh mã, đến cử ải phô trương thanh thế, giả vờ tiến công. Mấy ngày trước nhi tử đã dẫn quân đánh bại, không cần lo lắng nữa. Xin phụ thân không cần lui binh, cứ chuyên tâm thảo phạt Ngụy Thiệu.

Nhạc Chính Công sợ đến ngây người.

Hắn xoay người sai quân gọi Vinh Diên tới đây.

Nhưng lại nghe tin báo không biết Vinh Diên đi đâu rồi.

Rốt cuộc Nhạc Chính Công cũng hiểu, hắn bị mắc mưu rồi. Vội vàng ra lệnh quay đầu lại, hỏa tốc lui binh về Mục Dã.

Nhưng mà tất cả đều đã quá muộn rồi.

Sau ba ngày, khi hắn mới đi đến nửa đường Hoàng Hà thì nhận được tin báo làm tan nát tâm can, đau không nói nổi.

Mồng một tháng ba, Ngụy Thiệu đánh tan Hạnh Tốn ở Mục Dã.

Cuối năm ngoái, lúc Hạnh Tốn bắt đầu vượt sông Hoàng Hà để Bắc phạt, thống lĩnh một đội quân năm trăm ngàn nhân mã cuồn cuộn mênh mông.

Sau một trận Mục Dã lại biến thành tro bụi.

Khi hắn trốn về đến Lạc Dương, tàn binh còn không đủ mười vạn.

Những người ngựa còn lại, có kẻ bị thương, có người tán loạn, có nhóm đầu hàng.

Ngụy Thiệu thắng.

Không chỉ thắng được hoàng đế Đại Khương, hắn còn thắng cả Nhạc Chính Công.

Nhạc Chính Công ngồi trên lưng ngựa, mở to mắt nhìn thẳng về phía Mục Dã ở phía Bắc Hoàng Hà, mãi không nói một lời.

Cả người như biến thành tượng đá.

Nhi tử của hắn Nhạc Chính Tuấn dẫn một nhóm quan lại quỳ gối trước ngựa hắn, thấp thỏm bất an.

Cả đời này Nhạc Chính Tuấn chưa từng thấy phụ thân của mình có vẻ mặt lạ lùng như vậy.

Vừa như đau thương, vừa như căm phẫn, vừa khóc, lại giống như đang cười.

Từ trước tới nay, cho dù có bị thua những trận lớn hơn thế, chắc chắn hắn cũng không thế này, khiến cho người ta càng bỡ ngỡ.

“Phụ thân”.

Hắn gọi thử.

Rốt cuộc Nhạc Chính Công cũng định thần.

Hắn thu hồi tầm mắt nhìn phía Bắc.

“Về Hán Trung”.

Bình tĩnh ra lệnh rồi quay đầu ngựa lại, từ từ phóng ngựa về phía trước.

Đi được mười mấy bước, đột nhiên Nhạc Chính Công phun một ngụm máu tươi, ngã khỏi lưng ngựa ngất xỉu tại chỗ.



Ngư Dương, cuối xuân, gió mát ấm áp và dễ chịu, cỏ mọc én bay.

Vạn vật đều bừng bừng sức sống.

Sáng sớm, khi ánh bình minh đầu tiên rọi vào ô cửa sổ của phòng sinh, một tiếng trẻ con khóc oa oa vang vọng bên trong phòng, Tiểu Kiều sinh thuận lợi.



Tháng mười một năm ngoái, Ngụy Thiệu dẫn quân tới Hoàng Hà, không lâu sau Tiểu Kiều cũng đã an thai, ổn thỏa quay trở về Ngư Dương.

Chờ đến khi gần sinh, nàng mới biết được tin tức về tình hình tác chiến của Ngụy Thiệu dọc theo sông Hoàng Hà.

Chưa bao giờ Từ phu nhân giấu giếm nàng chút gì về tình hình chiến sự, cho dù nàng mang thai đi nữa. Bất kể tin tốt hay tin xấu.

Nam nhân của nàng không bằng lòng làm một người tầm thường, thế thì là thê tử của hắn, nàng phải chuẩn bị tâm lí dù là tin tốt hay tin xấu.

Mặc dù Từ phu nhân không nói vậy với nàng, nhưng Tiểu Kiều vẫn hiểu rõ điều đó.

Lão phụ nhân đã trải qua nửa cuộc đời mới có được sự sáng suốt thế này.

Đối với chuyện lần này Tiểu Kiều cũng vô cùng cảm kích.

Bởi vì nàng cũng muốn biết tin.

Lần đầu tiên trong đời, nàng và đứa bé trong bụng cùng ngóng trông Ngụy Thiệu, chờ hắn trải qua một trận chiến dài đằng đẵng, không phải bình thường.

Lúc bắt đầu còn có phần bất lợi, thế trận lại từng bước chuyển dời, mãi đến cuối cùng, rốt cuộc cũng hướng tới Lạc Dương.

Sau khi đánh xong Lạc Dương, Ngụy Thiệu có thể quay về rồi.

Chờ hắn trở về, nghênh đón hắn là nữ nhi vừa chào đời của họ.



Từ phu nhân cẩn thận đón lấy cơ thể nhỏ bé được bọc lại trong tã lót từ tay bà đỡ, bà nhìn khuôn mặt bé xíu vẫn nhắm chặt mắt một lúc lâu.

Tuy rằng vừa mới rời xa cơ thể mẹ, nhưng cô bé đã đó hàng lông mi thật dài, tóc máu đen nhánh, làn da non nớt mịn màng như mỹ ngọc, lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời.

“Đáng yêu quá, đúng là một bé con xinh xắn”.

Từ phu nhân ôm cháu, giọng nói vui vẻ xuất phát từ sự hoan hỉ và vui thích trong lòng.

“Trên Hoắc Sơn thượng cổ có một linh thú tên là Phì Phì, nó giúp người ta xua đi phiền muộn. Đặt cho cô bé nhũ danh là Phì Phì nhé”.

Từ phu nhân cười nói với Tiểu Kiều.
 
Khom Lưng
Chương 138



Quanh bốn cửa thành Lạc Dương, cửa Bắc Cốc, cửa Tây Ung, cửa Nam Bình, cửa Đông Trung, tất cả đều bị đại quân của Ngụy Thiệu vây kín.

Nhóm tàn binh của Hạnh Tốn lui vào trong thành, chó cùng rứt giậu.



Sau chiến thắng ở trận Mục Dã, Ngụy Thiệu nghe theo kế sách của nhóm Công Tôn Dương, thừa thắng xông lên, tiêu diệt quân Hạnh Tốn hoàn toàn, quyết định đánh hạ thành Lạc Dương.

Hạnh Tốn dẫn theo mười vạn bại quân còn lại, trên đường rút chạy về Lạc Dương, ngang qua Hổ Lao quan, hắn còn đặt thêm hai phòng tuyến ở núi Mang.

Nhưng mà, một phòng tuyến đã bị quân Ngụy Thiệu đánh cho mất hồn tan phách, bại quân khí tàn sao có thể chống lại nhóm binh sĩ đang hào hứng bừng bừng?

Một đường dễ như trở bàn tay, thế tựa chẻ tre, trong khi chỉ mới hơn nửa tháng, dường như không gì ngăn họ được, đại quân của Ngụy Thiệu xông thẳng qua núi Mang, vượt sông Lạc Hà, chuẩn bị tiến hành cuộc chiến cuối cùng, công thành Lạc Dương.



Phía sau Ngọc đường Bắc cung.

Tô bà bà lảo đảo chạy vào từ ngoài điện.

“Sao rồi?”

Tô Nga Hoàng vội vàng lên đón.

Đập vào mắt nàng là khuôn mặt như chết cha chết mẹ của Tô bà bà, trái tim nàng chìm xuống.

Tuy vậy Tô Nga Hoàng vẫn ôm một hi vọng cuối cùng.

“Không xong rồi! Thủ vệ nói cửa thành Nam Bình sắp không giữ được nữa, chẳng mấy chốc quân của Ngụy Thiệu sẽ đánh tới Hoàng cung”.

Tô Nga Hoàng biến sắc: “Nhanh vậy sao? Đinh Khuất tới chưa?”

Tô bà bà hoảng loạn lắc đầu: “Chỗ nào cũng rối tung cả lên, tỳ không nhìn thấy Đinh tướng quân”.

Tô Nga Hoàng đẩy Tô bà bà ra, cao giọng gọi tên của thủ vệ, nàng ta cuống cuồng chạy ra ngoài, không ngờ làn váy lại mắc vào một góc đồng mạ vàng của chiếc bàn trang điểm sơn đen, tiếng vải xé toác, chiếc gương đồng bốn mặt trên bàn thoáng lung lay rồi úp nhào rơi xuống, đật vào hộp trang sức đặt trên bàn.

Cái tráp rơi xuống đất.

Tiếng vàng ngọc vỡ nát bên trong, minh châu, mã não, lưu ly, mắt mèo… đủ thứ bảo thạch trong hộp rơi tán loạn bên ngoài, xoay vòng trên mặt đất.

Tô Nga Hoàng cắn răng, mạnh tay xé rách gấu váy bị mắc lại, đạp lên đống bảo thạch chạy về phía trước.

Chưa đi được vài bước, bên ngoài đã vang lên tiếng cung nữ k** r*n thảm thiết.

Nàng đột nhiên dừng lại.

Hạnh Tốn xông vào, xuất hiện trước mặt nàng.

Bộ long bào đang mặc trên người hắn tung tóe đầy vết máu.

Chuỗi ngọc trên mũ cũng lệch qua đỉnh đầu, chao đảo theo từng bước hắn đi, phía sau chuỗi ngọc đó là một khuôn mặt vặn vẹo với ý cười châm chọc.

Trên tay hắn là một thanh trường kiếm.

Lưỡi kiếm bê bết máu, tí tách, tí tách nhỏ xuống không ngừng nghỉ.

“Chính ngươi đã hại ta đến bước này!”

Hạnh Tốn nghiến răng nghiến lợi, đi tới chỗ Tô Nga Hoàng.

Tô Nga Hoàng từ từ lùi về phía sau.

“Bệ hạ, không thể…”

Tô bà bà kêu to, bà nhào tới kéo lấy góc long bào trên người Hạnh Tốn, bị hắn đá văng ra, một mũi kiếm đâm chết. Sau khi rút kiếm ra lại tiếp tục đuổi theo Tô Nga Hoàng.

Tô Nga Hoàng quay đầu chạy nhanh vào trong điện.

Hạnh Tốn múa kiếm, truy đuổi quanh mấy thanh cột nhà.

Người hắn vốn to béo, mới nãy đã đuổi giết không ít cung nữ trên đường đi, hơn nữa mấy năm qua còn ham mê tửu sắc, nào còn sức mạnh như những tháng ngày xưa, sau mấy vòng truy đuổi, Tô Nga Hoàng bị ép tới một cột trụ lớn ở trong điện, không đường trốn chạy.

Hạnh Tốn thở hồng hộc muốn nổi điên. Hắn vung bảo kiếm định chém xuống đầu Tô Nga Hoàng.

Thân kiếm bay qua bên tai nàng, cắ/m vào chiếc cột hình trụ sơn son ngay bên cạnh.

Kiếm rung lên mấy lần rồi hất văng xuống đất.

Hạnh Tốn sải bước tiến lên, hai tay bóp lấy cần cổ của Tô Nga Hoàng còn chưa kịp chạy trốn, nghiến răng nghiến lợi bóp mạnh lấy đầu nàng.

“Chính ngươi! Nếu không nhẹ dạ cả tin ngươi, sao ta có thể thảm hại đến mức này! Tại sao lại hại ta như vậy?”

Tô Nga Hoàng liều mình giãy giụa, không thể duỗi chân ra, trên cổ như có một cái kìm sắt siết lấy không cách nào trốn thoát.

Mặt nàng ta chuyển sang màu xanh tím, dần dần không thở nổi, ngay lúc hai mắt gần trắng dã, “keng” một tiếng, chiếc mặt nạ hồ điệp bị rơi ra, khuôn mặt không trọn vẹn cũng lộ ra bên ngoài.

Lúc trước khi chịu hình phạt cắt mũi, giữa lúc khí trời nóng nực, miệng vết thương thối rữa.

Mặc dù bây giờ vết loét đã khép lại, nhưng vết sẹo lồi lõm tím đen chiếm trọn cả một bên sống mũi không trọn vẹn.

Ngày thường có mặt nạ hình cánh bướm che lên, khuôn mặt nữ tử đó xinh đẹp thu hút đến mức nào, bây giờ đáng sợ không khác nào quỷ dữ.

Hạnh Tốn sợ ngây người.

Nhìn chằm chằm khuôn mặt không trọn vẹn đó, hai tay đang bóp chặt cần cổ cũng hơi buông lỏng ra.

Một lát sau, có lẽ hắn đã hiểu ra rồi, lần thứ hai nổi giận tàn nhẫn tát nàng ta một cái.

“Cái mặt quỷ của ngươi là từ tay của Ngụy Thiệu chứ gì! Ngươi hận hắn tận xương tận tủy, thế nên mới mê hoặc đầu độc ta đúng không?”

Nghĩ tới một đời kiệt xuất, hoành hành ngang dọc của bản thân, cuối cùng lại bị một phụ nhân xấu xí chẳng khác nào ác quỷ lừa gạt hết.

Trên đỉnh đầu như có một cái búa đánh mạnh ầm ầm từng cái một, đau như muốn toác ra.

Mặc dù hắn muốn chém Tô Nga Hoàng thành trăm mảnh, nhưng cũng không thể xả hết được mối hận trong lòng.

Hạnh Tốn gầm lên một tiếng giận dữ, hai mắt trợn trừng, hắn đang định bẻ gãy cổ nàng ta, đột nhiên lại thấy đỉnh đầu mình đau nhức giống như là xương vỡ, nửa người cứng ngắc, khóe miệng cũng nghiêng về một bên, cổ tay đang bóp cũng bắt đầu run rẩy.

Ngay lúc hắn đang cố gắng dùng hết sức toàn thân để bẻ gãy cần cổ trắng mịn đó, đột nhiên thấy lòng mình mát lạnh.

Trên bàn tay đó có một cây chùy thủ.

Mũi nhọn sắc lẻm xuyên qua y phục đế vương, đâm thẳng vào da thịt, cắm sâu vào trong lòng Hạnh Tốn.

Cơ thể của hắn không ngừng run lên, hai mắt căm tức nhìn chằm chằm Tô Nga Hoàng như trước, trong miệng hắn còn phát ra tiếng ư a quái lạ.

Cả người Hạnh Tốn ngã xuống đất.

Khuôn mặt Tô Nga Hoàng trắng nhợt như quỷ dữ, nàng ta che cổ họng của mình, khổ sở ho khan vài tiếng, cuối cùng mới bò từ dưới đất lên. Thấy Hạnh Tốn còn nhìn mình chằm chặp, dáng vẻ xấu xí không cam lòng, nàng ta cười lạnh: “Ta còn tưởng ngươi cũng là một nhân vật kiệt xuất, biết đâu có thể thành sự nghiệp, bởi vậy mới chịu nhục hầu hạ cái đồ mập như ngươi, không ngờ ngươi lại chẳng được tích sự gì! Ngươi cứ an tâm mà đi đi. Nói thật cho ngươi biết, ta đã tính trước một đường rồi, thu phục được tên Đinh Khuất. Hắn luôn một lòng một dạ nghe lời ta, chuẩn bị chạy trốn nếu như thành bị phá. Chết đến nơi rồi, ngươi không lo cho mình mà còn mong kéo ta chịu tội thay? Giấc mộng xuân thu của ngươi đó!”

Nàng phun một bãi nước miếng lên cơ thể mập mạp của Hạnh Tốn đang nằm trên mặt đất, giật một góc váy bị hắn nằm đè lên.

Ngoài điện vang lên tiếng bước chân gấp gáp.

Hầu gái mà nàng phái đi chờ đợi Đinh Khuất đã chạy vào.

“Phu nhân, Đinh tướng quân phái người đến, gọi phu nhân nhanh chóng tới cửa Trạc Long chờ…”

Nàng còn chưa dứt lời, đập vào mắt là khuôn mặt chằng chịt đầy vết sẹo không đầy đủ của Tô Nga Hoàng, nàng mở to hai mắt như vừa nhìn thấy quỷ, “A” hét lên một tiếng rồi quay đầu chạy ra.

Tô Nga Hoàng vô thức sờ mặt mình một cái rồi lập tức đuổi theo.

Hầu gái nghe được tiếng bước chân thì hoảng sợ quay đầu, nhìn thấy thanh chủy thủ dính máu mà nàng nắm đằng chuôi, ánh mắt tối sầm, khuôn mặt như ác quỷ, nàng sợ hãi đến lẩy bẩy hai chân, không còn chạy nổi nữa, đầu gối mềm nhũn ngồi bệt trên mặt đất, gào khóc xin ta: “Tha cho nô tì! Nô tì vẫn luôn trung thành tuyệt đối với phu nhân! Nô tì không nhìn thấy gì cả! Nô tì bảo đảm, không nói gì ra đâu!”

Vẻ mặt Tô Nga Hoàng không có chút cảm xúc, nàng ta đâm chết hầu gái rồi quay lại nhặt chiếc mặt nạ hình cánh bướm vừa mới bị rơi ra, nhanh chóng đeo lại, che nửa mặt, sau đó mới vội vã chạy tới cửa Trạc Long.

Ngày xưa khói tím uốn quanh, ca múa yên bình với đền đài dát ngọc, hôm nay lại chìm trong sợ hãi.

Cung nữ nháo nhào quanh bốn phía, cung vệ nhân lúc cháy nhà đi hôi của, mọi thứ bừa bộn ngổn ngang.

Dưới sự hộ tống của mấy tùy tùng còn sót lại, Tô Nga Hoàng chạy nhanh tới cửa Trạc Long ở Bắc Cung.

Ấy vậy mà ở đây lại không thấy bóng ai, cũng không có người nói chờ mình ở đó.

Bên tai nàng loáng thoáng tiếng binh sĩ Ngụy Thiệu xông vào tới cửa cung Chu Tước.

Nàng hốt hoảng đi tới đi lui trên bậc thang đá bằng ngọc ở cửa Trạc Long, miệng thì nguyền rủa, tóc mai hai bên và bộ diêu vàng ngọc hình đầu phượng đung đưa theo bước chân của nàng, không ngừng rung động.

“Không đợi nữa, đi thôi”.

Nàng cắn răng rồi đột nhiên dừng bước, dẫn theo người hầu quay đầu chạy tới vườn Trạc Long, bỗng nhiên phía sau lưng vang lên tiếng bước chân hỗn độn.

Quay đầu nhìn lại, là Đinh Khuất dẫn theo một nhóm tùy tùng đang vội vàng chạy tới hướng bên này.

Tô Nga Hoàng mừng rỡ, gọi to “Đinh tướng quân”, rồi xách gấu váy chạy tới.



Từ lâu Đinh Khuất đã biết đến tên của Ngọc Lâu phu nhân, sau khi quy phục Hạnh Tốn, trong một buổi cung yến, cuối cùng hắn cũng có dịp được tận mắt trông thấy người kia.

Trong lòng thầm nghĩ.

Mặc dù nàng ấy kém xa với nhan sắc kinh động lòng người của phu nhân Ngụy Thiệu, ngày đó nhìn thoáng qua ở trên đài Lộc Ly, đến hôm nay hắn vẫn không quên được, nhưng nàng ấy lại là một phụ nhân rất hấp dẫn, mặt nạ hình cánh bướm thần bí mê lòng người.

Sau đó nữa hắn nghe nói nàng ấy được Hạnh Tốn sủng ái nhất ở trong Liên Hoa Thai, hắn lại vô thức nảy sinh lòng dạ khác.

Quay lưng với Hạnh Tốn, Đinh Khuất quỳ dưới mép váy của Tô Nga Hoàng, một lòng một dạ.

Hôm nay, thành Lạc Dương bị phá, hắn lặng lẽ rời khỏi tường thành, thấy nàng đứng chờ ở cửa Trạc Long vội vàng lên nghênh đón, hắn nói: “Phu nhân nhanh đi theo ta! Ta biết ở Tây Môn còn có một lỗ hổng, nếu cố gắng có thể tìm đường sống, ta sẽ bảo vệ phu nhân đi”.

Hắn còn chưa dứt lời, đột nhiên mặt nạ hình cánh bướm bằng vàng trên mặt Tô Nga Hoàng rơi xuống vì cả đường chạy trốn.

Bên dưới lớp mặt nạ kia là một khuôn mặt không trọn vẹn.

Ánh nắng mặt trời gay gắt lúc giữa trưa chiếu thẳng qua đỉnh đầu, từng tia nắng không gì che giấu được.

Đinh Khuất ngơ ngác dừng bước, đôi mắt trừng lớn như chuông đồng.

Tô Nga Hoàng chợt cảm thấy trên mặt mình mát lạnh, nàng ngẩng đầu lên nhìn thấy Đinh Khuất và nhóm tùy tùng sau lưng hắn đều trợn mắt nhìn mình, khi đó nàng mới ý thức được mặt nạ đã rơi ra, lúc nãy vội quá không mang chặt, vừa rồi chạy trốn nên rơi mất. Trong lòng thoáng run lên, bất giác nàng hét lên một tiếng, lấy tay áo che mặt.

“Đinh tướng quân! Ngài đừng sợ. Trước kia ta không phải thế này! Trước kia ta vốn xinh đẹp. Mọi người ở thành Lạc Dương đều gọi ta là Ngọc Lâu phu nhân. Đều tại Ngụy Thiệu đã hại ta như vậy. Ngài giúp ta chạy đi, ta sẽ giúp ngài đoạt lấy thiên hạ này.

Đinh Khuất nhìn chằm chằm khuôn mặt ngày thường vẫn được che giấu phía sau tấm mặt nạ hình cánh bướm, không sao tin nổi vào mắt mình.

Rốt cuộc hắn mới bừng tỉnh hiểu được tại sao nàng ấy chưa bao giờ cho phép mình qua đêm.

Giống như nuốt phải một con ruồi, trên mặt hắn toát lên ý xem thường và căm ghét rõ ràng, xoay người đi tiếp.

Tô Nga Hoàng kinh hãi vội vàng đuổi theo sau, nắm chặt lấy ống tay áo của hắn.

“Đinh tướng quân, từ khi sinh ra ta đã mang mệnh quý, chắc chắn rằng sau này vinh quang không gì tả nổi! Ngài phải tin ta”.

“Roẹt” một tiếng.

Đinh Khuất rút dao cắt đứt ống tay áo bị nàng kéo lấy, không thèm quay đầu lại mà nghênh ngang rời đi.

Mấy tùy tùng đi theo nàng cũng ngơ ngác nhìn chằm chằm khuôn mặt đó, họ từ từ lui về sau, nhìn nhau một cái rồi bỗng vội quay đầu, đường ai nấy trốn.

Tô Nga Hoàng ngồi phịch xuống đất, mặt mày trắng bệch, mười ngón tay còn nắm chặt ống tay áo mà Đinh Khuất cắt đi, run lên bần bật, bỗng nhiên nàng ta hét lớn: “Đinh tướng quân dừng chân! Mấy năm qua ngài có biết lão tặc Hạnh Tốn đã cướp đi bao nhiêu tiền của, giàu đến mức nào không? Trong Liên hoa Thai có cất giữ vàng bạc, nhưng mà nhiêu đó chỉ như thả muối vào trongbể. Thời gian ông ta sủng ái ta, nhân một hôm say rượu, ta từng hỏi được một nơi khác cất giấu tàng bảo! Nếu ngài dẫn ta thoát khỏi đây, ta sẽ mang tàng bảo ra báo đáp!”

Đinh Khuất chần chừ một lúc rồi dừng bước, từ từ quay đầu lại: “Ngươi nói thật sao?”

Mặc dù sắc mặt Tô Nga Hoàng vẫn còn trắng bệch nhưng đã trấn định hơn trước rồi, nàng ta khom lưng nhặt chiếc mặt nạ hình cánh bướm đeo lên lần nữa, nói: “Trước kia lão tặc Hạnh Tốn cưng chiều ta đến mức nào, người khác không biết chẳng lẽ ngài cũng không? Hỏi hắn nơi giấu tàng bảo thì có gì mà khó? Nếu ngài muốn đi thì cứ đi, ta cũng không ép buộc. Vàng bạc ở Liên Hoa Thai bây giờ đã thuộc về Ngụy Thiệu hết. Đáng tiếc, còn kho tàng bảo kia sắp sửa bị chôn theo ta rồi!”

Đinh Khuất nửa tin nửa ngờ, thấy Tô Nga Hoàng nói xong thì xoay người đi thẳng, bóng lưng ngạo nghễ.

Hắn ta dần dao động.

Những năm qua, Hạnh Tốn cướp đoạt của cải khắp thiên hạ, chia ra giấu nhiều nơi. Trong đó có một tàng bảo đặt ở Liên Hoa Thai, mọi người đều biết tới.

Ngay lúc này đây nghe Tô Nữ nói vậy, hắn mới chợt nhớ ra.

Tuy phụ nhân kia xấu xí như quỷ lại từng lừa gạt mình đến mức độ này, nhưng mà mọi người đã tới đây rồi, nếu có tàng bảo, không bằng cứ tin nàng thử xem.

Đợi tới khi ra ngoài, nếu nàng ta lừa mình thì giết cũng không muộn.

Ý tham nổi lên, Đinh Khuất đổi sắc, nói: “Phu nhân dừng chân! Đi theo ta! Nếu trễ nữa thì không chạy được đâu!”

Dân chúng ở trong thành Lạc Dương đều đóng cửa, nơm nớp lo sợ, chịu đựng qua một ngày.

Bốn phía cửa thành vang lên tiếng chém giết kêu la, cuối cùng cũng ngừng lại hoàn toàn.

Đường lớn đi thẳng tới Hoàng cung vang lên tiếng bước chân hành quân rầm rầm chỉnh đốn.

Nhưng mà dân chúng ở trong nhà vẫn nhìn thấy ánh lửa rực cháy ở ngoại thành phía Đông.

Lửa lớn hừng hực thiêu cháy suốt một đêm, ánh lửa rực sáng cả bầu trời ở phía Đông ngoại thành Lạc Dương.

Ngày hôm sau, tin truyền tới.

Yên hầu U Châu Ngụy Thiệu đã dẹp xong Lạc Dương.

Đại Khương Hoàng đế Hạnh Tốn mới làm được nửa năm đã chết.

Đại quân của Ngụy Thiệu đóng quân ở bốn phía cửa thành. Đêm qua, họ chỉ phái hai ngàn binh mã vào thành, khống chế Hoàng cung, Thái úy Tư Không, Tư Đồ Tam phủ.

Trời vừa sáng, dân chúng cả thành được thông cáo, Yên hầu có lệnh, không cho binh sĩ quấy rầy cư dân.

Rốt cuộc mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.

Ngay sau đó, một tin tức khác lại bùng nổ lan truyền.

Có người nói Kiều Nữ, phu nhân của Yên Hầu có dung mạo nghiêng nước nghiêng thành.

Hạnh Tốn từng lớn tiếng muốn cướp Kiều Nữ đưa vào Liên Hoa Thai.

Sau khi Yên hầu đánh bại Lạc Dương, chuyện đầu tiên mà hắn làm đêm qua là châm lửa đốt trụi Liên Hoa Thai.

Ánh lửa rực sáng trời đêm ngày hôm qua ở phía Đông thành Lạc Dương chính là ngọn lửa thiêu trụi Liên Hoa Thai khi đó.
 
Khom Lưng
Chương 139



Từ cuối năm ngoái, sau khi bắt đầu khai chiến giữa Hạnh Tốn và Ngụy Thiệu, cuộc tranh bá ở lưu vực sông Hoàng Hà đã trở thành tiêu điểm chú ý của chư hầu thiên hạ và thành chủ các nơi.

Thám tử đi khắp các con đường Đông Tây Nam Bắc, dò la các tin tức mới nhất, nhanh chóng đưa tin cho gia chủ của mình.

So với người khác, Kiều Bình còn quan tâm đến chiến sự này hơn.

Mặc dù ông chưa từng nghe Ngụy Thiệu gọi mình một tiếng nhạc phụ nào, nhưng cho tới bây giờ, gả nữ nhi cho hắn lâu đến vậy, ấn tượng của Kiều Bình đối với nữ tế này chỉ qua những lời kể của người ngoài về hắn, từ từ chắp vá.

Nhưng trong đáy lòng ông, không biết từ khi nào đã bắt đầu sinh ra cảm giác thân thiết với nữ tế dù chưa lần gặp mặt.

Trong những bức thư qua lại với nữ nhi suốt một năm gần đây, lúc con đề cập đến nam tử đó đã không còn khách sáo như một tiếng xưng hô giống ngày xưa.

Giữa đôi hàng chữ, vô tình còn ẩn hiện chút tình cảm phức tạp của nữ nhi.

Kiều Bình là một người văn võ song toàn, ngoài việc chiến sự, ông còn đạt được nhiều thành tựu trong thơ từ ca phú, hơn nữa đó lại là tình cảm xuất phát từ đáy lòng của con.

Kiều Bình tinh tế hơn nhiều so với những phụ thân bình thường.

Mặc dù nữ nhi không nói rõ, nhưng từ trong câu chữ, ông vẫn có thể cảm giác được, nữ nhi đã xem nam tử đó là phu quân của mình.

Huống hồ bây giờ, sắp tới đây nó cũng có con rồi.

Ông càng quan tâm tới chiến sự đó hơn.

Sau khi phái thám tử dò xét, cứ cách mỗi mấy ngày, những tin tức mới nhất liên quan tới tình hình trận đánh sẽ được đưa tới Đông Quận, chưa từng chậm trễ.

Nhưng lần này, sau khi kết thúc cuộc chiến ở Cự Dã rồi quay về Đông Quận, tin tức mới nhất liên quan tới chiến sự vẫn dừng lại ở bức thư nhận được nửa tháng trước: “Bởi vì thời tiết khắc nghiệt, Ngụy Thiệu và liên quân Bắc phạt của Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công đều cố thủ ở hai phía đối lập sông Hoàng Hà. Hắn trong thế yếu”.

Chính tin tức này và việc thám tử chậm chạp chưa trở về cũng khiến cho Kiều Bình thấy thấp thỏm bất an.

Ông lại cho một thám tử khác đi.

Giữa lúc lo lắng chờ tin nhất, đúng ngày hôm đó là lễ thọ tròn bốn mươi tuổi của Kiều Bình.

Kiều Bình cũng không có lòng dạ nào mà tổ chức, nhưng mà Kiều Việt nhất quyết muốn ăn mừng, một là vì khải hoàn đón gió sau cuộc chiến Cự Dã, không chỉ là buổi tiệc thiết đãi thứ sử trong phủ, mà còn lấy rượu để khao thưởng quân sĩ.

Đêm đó, toàn bộ gia tướng, bộ khúc ở Kiều gia tụ hội trong thọ đường, ăn uống linh đình, mọi người đều vui mừng hứng khởi. Buổi tiệc còn chưa kết thúc đã có người say khướt, được mọi người dìu đỡ ra ngoài.

Mọi người ngồi đây đều vui vẻ, duy chỉ có Kiều Từ cúi đầu uống rượu có một mình mà chẳng nói chẳng rằng, Trương Phổ cười hì hì lại gần: “Chiến sự giành phần thắng đúng là chuyện đáng mừng, lại đúng dịp mừng thọ của Quận công, tối nay phải không say không về, sao công tử lại rầu rĩ không vui?”

Kiều Từ ngoảnh mặt làm ngơ, không để ý tới hắn.

Trương Phổ thấy mọi người nhìn về phía mình thì cũng hơi lúng túng, hắn làm bộ như không có chuyện gì xảy ra, cười nói: “Ta có một tin tốt, đảm bảo công tử nghe xong nhất định sẽ vui mừng”.

Sau một tiếng ho khan, hắn thanh giọng nói: “Tả Đô Hầu Vương Bá là trọng thần triều Hán, nhà có một nữ nhi, tuổi vừa tới cập kê, xinh đẹp và tao nhã. Tả Đô Hầu nghe nói công tử tuổi trẻ anh hùng, có ý định gả nữ nhi…”

Trong thọ đường dần trở nên yên tĩnh. Tiếng cười của hắn còn chưa dứt, bỗng “rầm” một tiếng, Kiều Từ cầm chặt bình rượu trong tay, đập mạnh xuống mặt bàn, cười gằn: “Ngươi là cái thá gì? Cho dù mẫu thân ta đã trở về cõi tiên, nhưng phụ thân ta còn khỏe mạnh. Từ bao giờ chuyện hôn nhân của ta còn phải nhờ ngươi thay ta làm chủ?”

Trong thọ đường yên lặng như tờ.

Trương Phổ ngượng ngùng, ánh mắt tìm đến chỗ Kiều Việt.

Kiều Việt hơi trầm mặt: “Từ Nhi vô lễ! Sao con lại nói thế! Đây là ý của ta. Con cũng đến tuổi hôn phối rồi, vì Kiều gia nhà ta mấy đời con một, chuyện hôn nhân cần phải suy tính”.

Kiều Bình vội nói: “Tạ ơn ý tốt của huynh trưởng, đệ xin nhận lấy. Nhưng mà chỉ sợ Từ Nhi không trèo cao tới nữ nhi của Tả Đô Hầu được. Dù sao Tả Đô Hầu cũng đã có ý tốt, huynh trưởng từ chối cho thỏa đáng. Hơn nữa hiếm khi mới có dịp mọi người tụ tập như tối nay, không nên bàn bạc chuyện lúc này. Mọi người nên vui vẻ ăn uống mới phải!”

Đương nhiên Kiều Bình cũng biết, ngay lúc ông đang phải chống chọi với cuộc xâm lấn của Chu Quần ở đại chiến Cự Hoang, Lưu Diễm đã được một đám cựu thần triều Hán và Lang Gia ủng hộ lên xưng đế, lấy hiệu là Chính Quang, dùng thân phận Hán đế chính thống để ra chiếu chư hầu thiên hạ cùng cần vương, cộng phạt mưu nghịch triều đình ở Lạc Dương, tiến hành cải cách từ tận gốc, khôi phục triều Hán.

Lúc đó còn có nhóm Vương Bá, Đổng Thành, Đậu Vũ, Đặng Huân chạy quanh kêu cứu, danh tiếng chấn động cả nóc nhà.

Vì thế khi đột nhiên nghe tin Vương Bá có ý định đám hỏi, ông ngẩn ra rồi bản năng từ chối.

Ngoài mặt Kiều Việt không có ý phản đối, đang định mở lời thì Kiều Từ đứng dậy, nói thẳng: “Bá phụ, chuyện kết hôn của cháu thì không vội, sau này từ từ bàn cũng được. Cháu chỉ muốn hỏi bá phụ một tiếng. Lục Mâu tướng quân có ơn cứu giúp Duyện Châu ta. Trước kia thì không nói, hai lần Duyện Châu bị tiến đánh đợt này, nếu không có Lục Mâu tướng quân hợp lực chiến đấu, Duyện Châu hôm nay thế nào thì còn chưa biết được. Vậy mà bá phụ lại làm như không thấy, không chịu đón nhận sao? Thật lòng cháu nghĩ mãi cũng không sao hiểu được!”

Trong trận chiến Cự Dã, Lục Mâu tướng quân với sức mạnh thần kì, Chu Quần cũng chết vì cách bày binh bố trận của hắn, gia tướng Kiều gia hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Mọi người đều không đồng tình việc Kiều Việt không bỏ qua cho hắn, tuy nhiên với địa vị Kiều Việt, không ai dám lên tiếng nói gì. Nhưng trong lòng đều khó mà hiểu nổi.

Lúc này Kiều Từ vừa hỏi như vậy, giống như nói ra suy nghĩ trong lòng mình, mọi người đồng loạt đưa mắt nhìn Kiều Việt.

Kiều Việt vẫn trầm mặt như trước, không lên tiếng.

Trương Phổ ở bên nói lại: “Sao công tử lại bất kính với chúa công như vậy? Trước kia Bỉ Trệ chỉ là tên giữ ngựa ở Kiều gia chúng ta. Chúa công không trị tội hắn đã là khai ân quá rồi, nếu còn nhận hắn chẳng phải là trò cười cho mọi người trong thiên hạ?”

“Ta chỉ biết thời thế tạo anh hùng. Đã có anh hùng bậc này còn không nhận, lại vì xuất thân mà đẩy hắn ra ngoài! Chẳng trách Duyện Châu lại đi đến bước này, phải gả nữ nhi ra ngoài để xin người bảo vệ!”

Kiều Từ cười gằn.

Hắn vừa nói xong, bầu không khí bỗng trở nên cứng ngắc.

Kiều Việt biến sắc.

“Hỗn láo! Càng lớn càng không coi bề trên ra gì cả! Vì một thằng giữ ngựa mà dám chống đối ta!”

Kiều Bình cũng không thể làm gì khi huynh trưởng nhà mình nhất quyết không chịu nhận Bỉ Trệ.

Ông đành phải từ từ khuyên nhủ.

Nay nhi tử mới tiễn Bỉ Trệ đi, tâm tình còn hậm hực, vì thế nó mới chống đối lại Kiều Việt, ông hiểu điều đó nên cũng không trách cứ. Kiều Bình đứng lên nói: “Từ Nhi say rượu rồi! Đi xuống trước đi!”

Kiều Từ căm tức nhìn Trương Phổ một cái, đứng dậy xoay người bước nhanh khỏi yến đường.

Kiều Bình nói: “Huynh trưởng đừng trách. Từ Nhi được Lục Mâu tướng quân cứu mạn, hơn nữa lần này có thể hóa giải khó khăn của Duyện Châu cũng là nhờ người kia giúp đỡ. Nay đến cửa thành Đông Quận hắn cũng không được vào, Từ Nhi uống vài ly rượu nên trong lòng mới bất bình như thế, có điều mạo phạm huynh. Lúc về đệ sẽ nói với nó!”

Sắc mặt Kiều Việt vẫn âm trầm như trước.

Nhóm gia tướng thấy thế cũng biết có lẽ bữa tiệc này không thể ngồi thêm nữa, với lại người nào người nấy cũng bảy, tám phần say, họ bèn cùng nhau đứng lên, tụm năm tụm bảy dìu dắt ra về, tản đi không nói thêm gì nữa.

Trong thọ đường chỉ còn ba người Kiều Việt, Kiều Bình và Trương Phổ.

Trương Phổ ho khan một tiếng rồi âm thầm liếc mắt nhìn Kiều Việt.

Rốt cuộc Kiều Việt mới miễn cưỡng lộ ra ý cười, hắn nói: “Mà thôi, mà thôi, thân là trưởng bối, chẳng lẽ ta lại chấp nhặt với Từ Nhi?”

Kiều Bình cũng vội nói tạ ơn.

Nghĩ tới nhi tử vừa mới giận đùng đùng bỏ đi, ông không thấy yên lòng lắm: “Không còn sớm nữa. Đệ thấy vừa rồi huynh trưởng cũng uống không ít rượu. Thôi thì chúng ta cũng về đi, nghỉ ngơi cho sớm”.

Kiều Việt bảo: “Nhị đệ chờ chút đã. Đệ hay bận bịu, ít khi có dịp rảnh rỗi ngồi uống rượu với nhau như tối nay. Nhân dịp này huynh trưởng mời đệ một chén đã”.

Trương Phổ bưng một bầu rượu đặt lên bàn cho hắn, rót đầy ly rồi dâng lên cho Kiều Bình.

Kiều Việt nâng chén nói: “Trong cuộc chiến Cự Dã lần này, Duyện Châu ta đã hoàn toàn thắng lợi, tất cả đều nhờ công lao của nhị đệ. Huynh mời đệ một chén, uống trước rồi nói”.

Kiều Bình sững sờ, vội nhận lấy rồi uống cạn hết ly.

Trương Phổ lại rót đầy ly nữa.

“Huynh tự biết bản thân mình tầm thường, trong những năm qua nhờ có nhị đệ vất vả lo toan, Duyện Châu mới có được cục diện như thế này. Sau khi vui mừng huynh lại thấy thẹn vì ăn trên ngồi trốc. Chén thứ hai này, huynh cạn hết là vì kính đệ”.

Mặc dù bình thường hai người ít gặp nhau, lại thường hay tranh chấp, nhưng lúc này đây, giọng huynh trưởng lại hết sức ân cần, bao năm qua vất vả gian nan một mình ông lao tâm khổ tứ, cuối cùng hôm nay cũng xem như lần đầu tiên gặt quả. Trong lòng Kiều Bình cũng có nhiều cảm khái, ông khom người nói: “Huynh trưởng đừng làm thế. Nếu không có huynh đùm bọc, với sức một mình đệ thì làm được cái gì? Đệ phải kính huynh một chén mới đúng”.

Nói xong lại uống một hơi cạn sạch.

Hình như Kiều Việt cũng có phần xúc động, ông nâng chén rượu thứ ba, nói: “Hay lắm. Sau này huynh đệ ta đồng lòng, còn lo có chuyện gì không xong!”

Kiều Bình gật đầu, uống cạn rượu trong chén.

Ba chén qua đi, Kiều Bình đang định cáo lui, Kiều Việt lại nói: “Đệ chờ chút đã. Ta có một chuyện muốn nói cùng nhị đệ”.

“Mời huynh trưởng nói”.

“Không dám giấu đệ, ta đã quyết ý đưa Duyện Châu ủng hộ Hán đế, cắt đứt hoàn toàn với nghịch tặc Hạnh Tốn”.

Kiều Bình hoảng hốt: “Lưu Diễm? Chuyện đại sự thế này sao huynh không bàn bạc nửa câu với đệ?”

Kiều Việt ung dung đáp: “Ý nhị đệ là sao? Chẳng lẽ trước khi làm gì ta còn phải xin phép đệ nữa sao?”

Trong lòng Kiều Bình đầy lo lắng, vừa uống rượu vào bụng lại sôi sùng sục, nóng ruột nóng gan, trên trán và sau lưng ông đã ướt sũng mồ hôi.

“Đệ không có ý đó! Tất nhiên là phải đoạn tuyệt với Hạnh Tốn, nhưng về chuyện ủng hộ Lưu Diễm xin huynh suy nghĩ lại! Tình hình thiên hạ bây giờ vẫn còn chưa ổn định. Duyện Châu hôm nay cũng có thể tự bảo vệ được rồi. Với góc nhìn của đệ, chúng ta cứ nên quan sát trước, không nên tùy tiện góp sức với Lang Gia”.

Kiều Việt hừ mũi một tiếng: “Nhị đệ, đệ tưởng ta không hiểu lòng đệ nghĩ gì sao? Đệ còn định dựa vào Ngụy Thiệu, sau này chia cho hắn chén canh[1]. Huynh khuyên đệ, đệ đừng trông mong nữa. Bây giờ Ngụy Thiệu đã bị liên quân Hạnh Tốn, Nhạc Chính Công đè ép ở Hoàng Hà, thất bại đã định sẵn, đến thân hắn còn khó bảo toàn, đệ còn mong ngày sau hắn sẽ che chở Kiều gia sao? Lưu Diễm là Hán đế chính thống, thiên hạ một lòng, người ngoài thì không nói, ngay đến Viên Giả còn công khai ủng hộ. Hoàng ân cuồn cuộn, Kiều gia ta vốn là trung lương, mấy đời vâng mệnh chăn nuôi ở đây, bây giờ cứ thuận theo đại cục, ủng hộ Lưu Diễm. Sao đệ lại nói là hành động tùy tiện được?”

[1] Chia một chén canh: xuất phát từ thời kì tranh chấp Sở Hán, ý chỉ có tham dự quá trình sẽ được chia sẻ lợi ích về sau.

Đột nhiên Kiều Bình lại thấy lồng ngực mình tức tối, trước mắt như biến thành màu đen.

Ông gắng lấy lại bình tĩnh, nói tiếp: “Huynh trưởng có từng nghĩ tới không. Kiều gia ta kết thông gia với Ngụy gia. Bây giờ Ngụy Thiệu lâm vào hoàn cảnh khó khăn, Duyện Châu nên xuất binh giúp đỡ. Dù không giúp đỡ được thì cũng không nên có bất kì manh động nào vào thời điểm thế này. Hành động của huynh có khác nào bỏ đá xuống giếng, muốn đẩy nữ nhi của đệ tới nơi nào?”

Kiều Việt càng lạnh lùng hơn: “Nhị đệ, đệ nói tới nói lui, chẳng qua là muốn gắn sinh tử của Duyện Châu và Kiều gia ta với Ngụy Thiệu phải không? Đừng nói tới chuyện bây giờ tự thân Ngụy Thiệu còn khó bảo toàn, lùi mười ngàn bước mà nói, cho dù hắn có may mắn thoát khỏi kiếp nạn này, sau này cũng không còn lối thoát. Nhận Lưu Diễm là đế, hoặc là tự mình xưng vương. Nếu nhận Lưu Diễm là vua, quyết định hôm nay của ta cũng giống như của hắn, sao ta lại không gật đầu được đây? Nếu hắn muốn tự xưng, thế thì có khác gì tên nghịch tặc Hạnh Tốn? Nhận lấy cái tội danh mưu nghịch, Kiều gia ta cũng gặp tai ương thì thôi đi, đến lúc đó bị thiên hạ chửi bới, đệ nói xem ta phải đối mặt với liệt tổ liệt tông thế nào? Còn về chất nữ, trước kia phải gả cho Ngụy gia cũng là vì tình thế ép buộc, lúc đó trong lòng đệ còn không nỡ kia mà. Nếu đã thế, mất bò mới lo làm chuồng, không thì làm muộn vậy. Theo góc nhìn của ta, không bằng nhân cơ hội này đón con bé về đây, hai bên cắt đứt mọi quan hệ, tránh ngày sau lại liên lụy không rõ!”

Kiều Bình không thể kiềm được nữa, ông giận tím mặt: “Huynh trưởng nói vậy, đệ không thể nghe theo. Nếu huynh đã nói tới mức này thì đệ xin nói thẳng. Huynh đột ngột quyết định góp sức cho Lưu Diễm, có lẽ là vì nhận định Ngụy Thiệu sẽ bại trong cuộc chiến lần này, sợ Hạnh Tốn truy cứu trách nhiệm về sau. Cho nên bây giờ huynh nóng lòng muốn rũ sạch quan hệ với Ngụy Thiệu để tỏ mình trong sạch? Lúc trước Ngụy Thiệu kết thông gia hai nhà, tất cả đều là từ ý huynh, bây giờ chỉ mới hơi gió động cỏ lay, huynh lại muốn phản bội vứt chữ tín nữa sao, hành động này có khác gì gió chiều nào xoay chiều ấy?”

Kiều Việt cũng nổi điên: “Đệ dám nói chuyện với ta như thế à? Trong mắt đệ có còn huynh trưởng này nữa không? Đệ đừng có quên, ta mới là gia chủ của Kiều gia, là thứ sử Duyện Châu!”

Kiều Bình nói: “Đệ cũng biết huynh đệ trong nhà cãi cọ nhau thì đại họa không xa. Nhưng chỉ riêng việc này, thứ cho đệ không thể đồng ý được! Đệ khuyên huynh, đừng có xem thường Ngụy Thiệu. Cho dù bây giờ đang ở trong thế yếu, nhưng trong trận chiến này chưa chắc hắn sẽ không thắng được. Lúc trước đệ có phái thám tử đi tìm hiểu, không biết vì sao chậm chạp mãi chưa về. Tin tức hiện nay là tin nửa tháng trước. Chiến sự thay đổi trong nháy mắt, tình hình thực tế thế nào thì còn chưa biết được. Đệ đang chờ tin tức. Đệ cũng khuyên huynh nên kiên trì một chút, không nên làm chuyện hồ đồ kết thù với người thân!”

Kiều Việt trầm mặt.

“Vốn binh lực của Ngụy Thiệu đã không bằng Hạnh Tốn, giờ có thêm Nhạc Chính Công, sau trận Cao Đường đã bị đánh tan rã, lúc này mới lui về Mục Dã, nếu không có khí trời giá lạnh, chỉ e đã bị liên quân tiêu diệt rồi. Sao hắn có thể chuyển bại thành thắng được? Dưới gối ta không con, ta xem Từ Nhi như con ruột. Ta làm vậy chẳng lẽ là vì ta? Tất cả đều là suy tính cho tương lai lâu dài của Duyện Châu. Đệ không cần nói thêm gì nữa. Ta nói thật cho đệ biết, ta đã dâng tấu chương cho Lang Gia rồi. Chuyện này đệ không được phép xen vào”.

Kiều Bình bỗng thấy ngực khó chịu, tầm mắt dần trở nên mơ hồ, hai mắt như có vô số mũi kim đâm vào trong, ông nhận ra có gì đó khác lạ, quát to: “Mấy người bỏ thuốc vào trong rượu…”

Hai mắt đau nhói không nhìn thấy gì nữa.

Kiều Bình giận dữ lật ngược cả bàn ăn trước mặt, nhớ lại phương hướng vừa rồi, ông rút kiếm đâm về phía Trương Phổ đối diện. Mũi kiếm đâm vào vai Trương Phổ, hắn hét lên rồi ngã trên mặt đất.

Kiều Bình vung kiếm định chém chết tên đó, nhưng rồi độc dược phát huy tác dụng, ông loạng chòa loạng choạng, trường kiếm rơi xuống đất, cả người cũng ngã theo.

Dựa vào chút ý thức còn sót lại cuối cùng, ông cắn răng gằn giọng: “Huynh trưởng, Duyện Châu sẽ bị hủy trong tay huynh…”

Cả người Kiều Việt run lên, thấy Kiều Bình đã ngừng giãy giụa trên mặt đấtông vội chạy tới thăm dò hơi thở, hóa ra chỉ mới là hôn mê. Kiều Việt thở phào nhẹ nhõm, ông quay phắt đầu lại, giận dữ nói: “Ngươi bỏ thuốc gì vào trong rượu thế hả? Sao mắt đệ ấy không thấy gì?”

Bả vai Trương Phổ bị đâm trúng, hắn ngã ngồi trên đất, một tay che vết thương, trong lòng cũng hoang mang nghi hoặc.

Thuốc cho vào rượu là Lưu Phiến đưa cho, còn nói là không mùi không vị, nhưng tác dụng lại mạnh hơn thuốc mê bình thường đến mấy lần, hắn sợ Kiều Bình không ngất được nên cho nhiều một chút.

Kiều Bình bất tỉnh như thế này cũng nằm trong dự tính của hắn.

Nhưng hắn cũng không ngờ lại tổn thương thị lực.

Cố nén cảm giác đau đớn trên vai, hắn nói: “Chúa công đừng lo. Có lẽ là do Quận công tức giận công tâm, cho nên mới không nhìn thấy gì. Chờ ít ngày nữa sẽ dần dần tốt hơn. Việc cấp bách bây giờ là chúa công phải khống chế Quận công, sáng sớm ngày mai, ngài phải lấy tên chúa công và Quận công ra thông báo với gia tướng, bộ khúc, đợi tới khi bệ hạ đích thân tới đây, người sẽ giúp chúa công khống chế cục diện. Hán đế giá lâm, ai mà không dám phục?”

Kiều Việt cố gắng bình tĩnh lại, ông nói: “Phía Từ Nhi thì sao? Chỉ được quản thúc nó thôi, không được gây thương tích.

Trương Phổ gật đầu: “Chúa công yên tâm, ta đã sắp xếp thân tín, không có sơ hở nào”.



Kiều Từ nổi giận đùng đùng rời khỏi thọ đường, ra ngoài đón gió, nghĩ đến chuyện đại tỷ phu không được bá phụ đón nhận, nhị tỷ phu lại không biết dữ lành ở chiến sự Hoàng Hà, cậu lại không đủ lực nên càng thêm phiền muộn, cơn say xộc lên đầu nên ngủ mất.

Hôm sau, trời vừa sáng Kiều Từ đã tỉnh lại, không ngờ cửa phòng bị khóa trái.

Thủ vệ nói phụng chỉ của Quận công, bảo công tử phải hối lỗi trong phòng.

Lúc đầu Kiều Từ còn chưa suy nghĩ nhiều.

Đúng là đêm qua mình đã công khai chống lại Kiều Việt giữa đông người như vậy, thế là phạm thượng, là đại bất hiếu. Phụ thân không vui muốn mình hối lỗi cũng là chuyện bình thường.

Nhưng ngay sau đó cậu lại thấy nghi ngờ.

Mười mấy thủ vệ được phái tới, canh giữ chặt chẽ ở bên ngoài.

Đó đâu phải là bắt mình úp mặt vào tường để hối lỗi, rõ ràng là trông giữ phạm nhân.

Hơn nữa tất cả đều là người ở bên chỗ bá phụ.

Kiều Từ càng nghĩ càng thấy lạ, cậu muốn ra ngoài lại bị thủ vệ đang trông coi ngăn cản. Nhất quyết xông ra lại có cả trăm vệ sĩ từ góc khuất lao tới, nhốt cậu lại.

Kiều Từ giận dữ, cố gắng thoát thân, chạy đến giữa sân vườn thì lại vướng chân vấp ngã, bắt lại lần thứ hai.

Cứ thế suốt ba ngày.

Đến ngày thứ tư, Đinh phu nhân mang cơm tới thăm Kiều Từ.

Phó tướng phụ mệnh trông coi Kiều Từ tên là Trần Thiệu, cũng là tâm phúc của Kiều Việt. Lúc đầu hắn không chịu mở ra, nói mình chỉ nghe lệnh chúa công, dù là ai cũng không được ra vào. Lời còn chưa dứt đã bị Đinh phu nhân tát lên mặt một cái, bà tức giận: “Ta không quan tâm lão già đó nói gì, ta đưa đồ ăn cho cháu ta mà ngươi còn dám cản? Ngươi muốn giết cứ giết, nếu không nhất định ta phải đi qua cánh cửa này”. Nói xong bà đi về phía trước.

Thủ vệ không dám ngăn cản, đành phải trơ mắt nhìn Đinh phu nhân đi vào.

Trần Thiệu bất đắc dĩ chạy theo, xin được kiểm tra hộp cơm trước.

Đinh phu nhân tự tay mở nắp.

Trần Thiệu kiểm tra cẩn thận, Đinh phu nhân ở bên lạnh lùng nói: “Trần tướng quân có muốn lục soát người ta luôn không?”

Trần Thiệu vội nói: “Thuộc hạ không dám”.

Hắn chần chừ một lúc lại nghĩ thầm, có lẽ Đinh phu nhân là người mềm yếu không để ý gì đâu, bà nuôi công tử như con ruột, hôm nay biết cháu mình bị nhốt, không yên lòng nên mới tới thăm thôi. Thế là hắn để bà đi vào, đoán chắc không xảy ra gì cả.

Dặn dò thủ vệ tránh đường ra.

Đinh phu nhân cười lạnh một tiếng, cất hộp cơm đi tiếp.

Trần Thiệu vừa sai người canh giữ vừa cho người đi báo cho Kiều Việt.

Động tĩnh bên ngoài Kiều Từ đều nghe hết, Đinh phu nhân vừa tới cậu đã nhào sang lo lắng hỏi: “Bá mẫu ơi, xảy ra chuyện gì rồi? Phụ thân con có khỏe không? Sao bá phụ lại nhốt con lại…”

“Hừ! Cái ông già đó, con đừng gọi hắn là bá phụ”.

Đinh phu nhân oán hận mắng một tiếng, bà nắm tay Kiều Từ nhìn một lượt, thấy cậu không bị sao mới thở phào nhẹ nhõm: “Mấy ngày nay ta không sang nhìn phụ thân con được. Cũng không biết tình hình cụ thể như thế nào. Có lẽ cũng bị lão già kia nhốt lại”.

Lúc đầu Kiều Từ rất giận dữ, xoay người định lao ra, nhưng đến cửa lại cố gắng dừng bước, từ từ xoay người lại.

“Bá mẫu, mấy ngày nay đã xảy ra chuyện gì? Bá mẫu nói con nghe!”

Đinh phu nhân thở dài: “Lão già kia nghe theo lời Trương Phổ, quy phục Lưu Diễm! Hôm nay Lưu Diễm đến nhà ta”.

Kiều Từ sợ ngây người.



Hôm qua, Kiều Việt nghênh đón Lưu Diễm vào Duyện Châu, cho gọi gia tướng bộ khúc tới hành lễ vua tôi, sau đó ông nói đã cùng bàn bạc với Kiều Bình, nguyện dâng Duyện Châu cho Hán đế.

Bởi vì chuyện này quá đột ngột, mọi người cũng khiếp sợ một phen, hơn nữa suốt hai ngày qua họ không thấy Kiều Bình, không nghi ngờ sao được.

Ngày đó Lưu Diễm từng mạo hiểm cứu ấu đế thoát khỏi miệng cọp, trốn ra khỏi Lạc Dương, không ngờ trên đường đi, ấu đế lại bệnh nặng băng hà, sau đó lại được các cựu thần triều Hán là Vương Bá, Đổng Thành ủng hộ lên làm tân hoàng đế, là quân chủ của triều Hán chính thống.

Mọi người trong thiên hạ đều được biết chuyện này.

Bây giờ hắn lại tới Duyện Châu, gia chủ Kiều Việt thì luôn mồm xưng thần với triều Hán, cho dù những người này có nghi ngờ đi nữa cũng không thể ngang nhiên gây gổ, thậm chí có thể bị coi là mưu nghịch.

Cuối cùng, mọi người đều theo Kiều Việt hành lễ với Lưu Diễm.



“Bá mẫu không hiểu chuyện thiên hạ. Bá mẫu chỉ biết lão già ấy nghe theo Trương Phổ quy phục Lưu Diễm. Có lẽ phụ thân con phản đối nên hắn mới tính toán. Bây giờ Lưu Diễm đã khống chế Duyện Châu, các gia tướng ngày thường vẫn nghe lệnh cha con, suốt đêm qua đều bị bỏ cũ thay mới. Con đừng nên kích động, bây giờ phải chạy tới báo tin cho đại tỷ phu con, gọi hắn tới cứu phụ thân. Nếu không để chậm trễ hơn nữa, ta chỉ sợ phụ thân con có chuyện”.

Hai tay Kiều Từ nắm chặt vang thành tiếng, lồng ngực phập phồng dữ dội, cậu cố gắng kìm nén lòng mình, gật đầu đáp: “Đa tạ bá mẫu báo cho con. Con hiểu cả rồi. Xin bá mẫu nhanh rời đi, nhỡ lại bị người ta trách cứ”.

Đinh phu nhân nói: “Lão già kia vô tình vô nghĩa, không nhận nữ tế của nữ nhi ta, ta cũng không muốn nhận hắn làm trượng phu gì nữa. Sợ gì bị hắn trách mắng đây? Bên ngoài có gần trăm thủ vệ, muốn thoát ra được là tầng tầng cửa ải, một mình con chỉ sợ không chạy thoát. Con bắt ta rồi đánh ra bên ngoài”.

Kiều Từ lập tức từ chối: “Sao con có thể đẩy bá mẫu vào nguy hiểm được chứ?”

Đinh phu nhân lắc đầu, bà nhân từ v**t v* mái tóc của hắn: “Yên tâm đi. Cho dù ta và lão không còn chút tình cảm phu thê, nhưng trước mặt mọi người hắn không thể lạnh lùng để cho ta bị giết. Đợi đến khi ra khỏi thành con phải tự đào tẩu”.

Thấy Kiều Từ còn đang do dự, bà bực bội: “Phụ thân con sinh tử còn chưa biết. Duyện Châu rơi vào tay người ngoài, con thì lại bị bắt giữ ở đây. Chẳng lẽ con muốn Kiều gia bị hủy trong tay lão già đó?”

Hai mắt Kiều Từ rưng rưng lệ, cậu quỳ xuống dập đầu trước Đinh phu nhân: “Bá mẫu đại nghĩa, xin nhận một lạy của chất nhi”.

Đinh phu nhân cúi xuống đỡ cậu lên, lấy một cây đao giấu trong người ra, đưa tới: “Con bắt ta đi, ra ngoài thôi”.



Kiều Việt nghe tin vội dẫn người chạy tới, Đinh phu nhân đã bị Kiều Từ cầm dao bắt giữ, hai người đứng bên tường cửa lớn.

Mấy trăm quân sĩ vây quanh Kiều Từ và Đinh phu nhân.

Kiều Việt tức nổ phổi, ông tách binh sĩ xông lên trước, quát: “Từ Nhi, con định làm gì hả? Mau bỏ đao xuống cho ta”.

“Phụ thân ta đâu rồi? Ông gọi người ra đây. Đợi tới khi ta gặp được phụ thân thì sẽ về với ông. Muốn đánh muốn giết tùy ông cả”.

Kiều Từ nhìn ông, nói từng chữ.

Kiều Việt nhất thời chột dạ, nói không ra lời.

Trương Phổ ở bên vội nói ngay: “Công tử đừng kích động, mau thả phu nhân ra…”

“Ta đang nói chuyện với bá phụ của ta, ông là ai mà dám xen mồm vào?”

Kiều Từ quát lên.

Mặt Trương Phổ lộ ra vẻ lúng túng.

Kiều Việt lấy lại bình tĩnh, ông nói: “Hôm đó tổ chức tiệc mừng thọ, phụ thân con uống nhiều rượu, trên đường về lại bị té đập đầu vào cửa đến nỗi hôn mê. Từ Nhi cứ yên tâm, bá phụ đã mời lương y chữa trị, ít ngày nữa sẽ có chuyển biến tốt. Con để đao xuống đã, theo ta vào trước, ta dẫn con đi xem…”

Đáy mắt Kiều Từ lóe lên bóng tối, cậu không nói lời nào kéo Đinh phu nhân tiếp tục đi về phía cửa.

Quân sĩ thường ngày vốn nghe theo lời của phụ tử Kiều Bình Kiều Từ, nhìn cảnh đó dù không biết tại sao nhưng tất cả đều hướng về Kiều Từ. Huống hồ Đinh phu nhân còn ở trong tay hắn, nào có ai dám xông lên ngăn cản? Cứ vờ vịt đứng đó rồi một đường cho đi, để mặc hai người ra đến cửa.

Kiều Từ hét lên lệnh mở cửa.

Trương Phổ lo lắng sai quân sĩ ngăn cản.

Quân sĩ bị hét cũng dần dần xông tới.

Đinh phu nhân dừng bước, quay đầu lại nói: “Bệ hạ, ta biết người ở đây. Hôm nay người đã là thiên tử của triều Hán, là ngôi vị cửu ngũ, nhưng người có còn nhớ thời niên thiếu lúc gặp rủi ro phải sống nhờ nhà ta. Lúc ấy ta đã đối xử với người như thế nào? Ta không dám yêu cầu bệ hạ đáp lại gì, nhưng bây giờ bị cháu ta bắt cóc, nó muốn rời khỏi thành, bá phụ của nó lại không cho. Nếu nó không ra được chỉ sợ sẽ gây bất lợi cho ta. Bệ lạ luôn có danh là lân phượng chi lan, ta nghe nói lúc bệ hạ xưng đế, dân chúng còn ca hát linh đình, khen bệ hạ là quân chủ nhân từ nhất trên đời. Ta biết Kiều Việt nghe theo lệnh ngài. Giun dế còn có mạng, huống hồ là người sống? Xin bệ hạ nể tình cảm ngày xưa, cứu ta một mạng, ta xin đội ơn ngài!”

Ngày thường Đinh phu nhân ít giao du bên ngoài, cũng hiếm khi lộ diện, lúc này đây những lời bà nói lại như đi sâu vào lòng người.

Quân sĩ ngoái đầu nhìn theo mắt phu nhân, đúng là Lưu Diễm đứng ở sau.

Nhất thời, mấy trăm người chen chúc ở trước cửa Kiều gia, im hơi lặng tiếng.

Một lát sau, Lưu Phiến đi tới bên Kiều Việt, thấp giọng dặn dò.

Kiều Việt không cam lòng lại không thể nghe theo, ông hung ác liếc nhìn Đinh phu nhân, miễn cưỡng nói: “Thả hắn ra khỏi thành”.
 

Hệ thống tùy chỉnh giao diện

Từ menu này bạn có thể tùy chỉnh một số phần của giao diện diễn đàn theo ý mình

Chọn màu sắc theo sở thích

Chế độ rộng / hẹp

Bạn có thể chọn hiển thị giao diện theo dạng rộng hoặc hẹp tùy thích.

Danh sách diễn đàn dạng lưới

Bạn có thể điều chỉnh danh sách diễn đàn hiển thị theo dạng lưới hoặc danh sách thường.

Chế độ lưới có hình ảnh

Bạn có thể bật/tắt hiển thị hình ảnh trong danh sách diễn đàn dạng lưới.

Ẩn thanh bên

Bạn có thể ẩn thanh bên để giảm sự rối mắt trên diễn đàn.

Cố định thanh bên

Giữ thanh bên cố định để dễ dàng sử dụng và truy cập hơn.

Bỏ bo góc

Bạn có thể bật/tắt bo góc của các khối theo sở thích.

Back