Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt

Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 10: Nguyệt mọc nhật về tây III



Đêm mồng một tháng Bảy, Đoạt Hãn đâm Đế Húc, không thành, làm mấy chục cấm vệ nội thị bị thương, giữa đêm trốn lên bắc. Phó tướng Cận Kỳ Doanh Phù Nghĩa và tham tướng Hoàng Tuyền Doanh Phương Hải Thị dẫn năm trăm binh lính, nửa đêm mở Vĩnh Tộ Môn của đế đô, đốt đuốc truy nã. Một mạch băng qua ba quận Trung Lộ, Xích Sơn, Hợp An, hành trình ngàn dặm, bất kể chết ngựa. Đoạt Hãn giảo hoạt, lúc đánh lúc trốn, vương sư hao tổn gần trăm. Sau cùng chết ngoài Mạc Hột Quan giữa tháng Tám, thi thể bị quân Già Mãn cướp mất.

“Lúc đuổi tới Mạc Hột Quan là buổi chiều ngày rằm tháng Tám. Ngoài quan là lãnh thổ Già Mãn, bốn trăm kỵ binh còn lại không phải sứ giả cũng chẳng phải thương nhân, không tiện ngang nhiên võ trang tiến vào biên giới nước khác, bèn cử thám mã mặc thường phục ra quan thám thính. Mắt thấy đã qua giờ ước định, sắc trời đã tối mà mười thám mã cử đi không một ai trở về, trong thảo nguyên từng vang hai tiếng tên hiệu trước sau, sau đó không thấy tin tức gì nữa, mười người này e là đã gặp phải bất trắc.

Để phòng bạn cũ nương tay vì tình riêng, trong năm trăm nhân mã rời kinh không có Vũ Lâm quân, đều chọn từ Cận Kỳ Doanh, đa số là bộ hạ cũ Phù Nghĩa mang tới từ Hoàng Tuyền Quan. Theo lời đồn trong cung, tổng quản Phượng Đình Phương Chư vốn định đích thân truy nã Phương Trạc Anh song vì trong người trọng thương nên để một nghĩa tử khác là Phương Hải Thị thay thế. Lùng bắt nửa tháng, mấy lần đặt bẫy, mai phục, vây chặn, phía Trạc Anh chỉ một thân một mình, hành tung phiêu diêu như ma quỷ, mấy ngàn dặm đường từ Trung Châu tới Hãn Châu mà không bắt được hắn, trái lại còn để mất mấy chục tráng hán khỏe mạnh. Hôm nay lại tổn thất mười mạng người, trong bốn trăm kỵ binh còn lại dấy lên rối loạn lặng thầm.”

—《 Nội các đại khố · Tấu chương hợp điệp · Thiên Hưởng quyển · Thập tứ niên bát nguyệt 》

Phù Nghĩa ghìm chặt ngựa, nhắm mắt suy tư. Hải Thị bên cạnh nhìn gương mặt đen hắc khó phân biệt mắt mày của ông ta. Lát sau, Phù Nghĩa giơ cao tay phải lên, dứt khoát chỉ về phía trước, lạnh nhạt ra lệnh: “Xuất quan.”

Hoàng hôn thảo nguyên hừng hực diễm lệ. Chân trời xếp tầng muôn dạng bóng mây, thái dương chưa lặn, hằng nga đã mọc ở đằng đông, nhật nguyệt tinh tú sáng lóa khổng lồ, khác hẳn bầu trời nhìn thấy trong quan. Cỏ mùa hạ um tùm rậm rạp, cao ngang lưng ngựa, dưới ánh tà, mắt thấy rặng cỏ dày đặc kia như ba đào vàng rộm, từng cơn ào ạt từ phương xa mênh mông ập lại.

Trạc Anh nheo mắt, ráng chiều dát lên khuôn mặt khôi ngô của cậu một lớp đỏ vàng sáng bóng. Cậu buông lỏng cương ngựa, mặc tuấn mã dưới thân đi đi dừng dừng. Trời phương bắc tối muộn, chá lựu khắp thành trong Mạc Hột Quan nở rộ bồng bềnh, cách bảy tám dặm vẫn thấy được màu đỏ au bừng bừng chan chứa ấy. Xa xa dưới trời xanh hất lên một đường bụi đất, từ đông nam chạy sang tây bắc.

Tới rồi.

Trạc Anh thoáng kẹp chặt bụng ngựa, thớt cửu hoa cầu (*) lập tức nhanh nhẹn phóng đi.

(*) Tên một giống ngựa.

Tiếng hò hét dần lan ra, xúm về phía cậu. Cậu nghiêng người quay đầu nhìn lại, trên đồng xanh mênh mông, trong bụi vàng có một đạo quân dàn hình bán nguyệt bọc đánh từ sau, đã chỉ còn cách chừng hai dặm đường, bóng người cưỡi ngựa nhấp nhô ẩn hiện trong sóng cỏ.

Mạch máu khắp cơ thể Trạc Anh bỗng dâng lên một niềm hân hoan khôn tả. Quả nhiên cậu vẫn là một người Hộc Khố, con cháu Tự Cửu. Cậu buông tiếng cười dài, quất một roi chan chát, nằm rạp xuống thì thầm vào tai con ngựa tiếng Hộc Khố: “Phi Quang, hãy cho ta xem rốt cuộc mi có phải một con ngựa tốt không.” Phi Quang như nghe hiểu tiếng người, bỗng hí vang dội, cất vó nhảy lên, quả nhiên phi nước đại chân không dính bụi.

Trạc Anh cũng cảm thấy cơ thể mình sống lại từng tấc.

Lòng và mắt đều không vảy không màng, người nhẹ như yến, tay áo trên ngựa tung bay. Trong đồng nội vạn khoảnh hạ mướt đông cằn, đời đời giống người sinh sôi nảy nở sáng sống chiều chết, bận bịu phóng ngựa đội trời đạp đất cao giọng hát ca, sống trong hoang dã, chết tại hoang dã, nhỏ bé như rác cỏ, song sảng khoái tự đắc.

Trở lại rồi. Thật sự trở lại rồi.

“Kia là hắn hả?” Phù Nghĩa hỏi.

Hải Thị mặt không biểu cảm đáp: “Giọng đó thì hẳn là đúng.”

Phù Nghĩa cười khẩy: “Tiêu dao ghê nhỉ, còn hát nữa. Bọc đánh đi.”

“Đại nhân!” Chợt có người hô lên kinh hãi. Hướng tây bắc cũng có một đường bụi vàng cuồn cuộn cuốn tới, có người thổi kèn lá, âm thanh bén nhọn trôi nổi trong sương mù vàng hồng. Tiếng vó ngựa ngăn nắp, đội hình có trật tự, tỏ rõ được huấn luyện nghiêm chỉnh.

“Là quân Già Mãn?”

“Không phải, họ mặc thường phục!”

“Chắc chắn không sai, đám ngựa cùng màu kia đều là ngựa chiến lông vàng đốm trắng!”

Tiếng bàn tán xì xầm nhất thời truyền khắp bốn trăm kỵ binh.

“Người Già Mãn…” Phù Nghĩa nhíu mày, “Thì ra là vậy…”

Phía đông Hộc Khố tiếp giáp với Già Mãn, phía nam là bộ Tả Bồ Đôn, phía bắc là bộ Hữu Bồ Đôn, hai vương xưa nay bất hòa. Dạo gần đây, Tả Bồ Đôn vương Đoạt Lạc tựa hồ có mưu đồ với Già Mãn, Già Mãn đương nhiên phải ra sức lôi kéo Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề. Mà Trạc Anh là em trai của Đoạt Lạc, Ngạch Nhĩ Tề cần đối phó với Đoạt Lạc, thủ đoạn danh chính ngôn thuận nhất không gì bằng nâng đỡ Phương Trạc Anh tranh đoạt vương vị bộ Tả Bồ Đôn. Để bẻ ngã Đoạt Lạc, Già Mãn cũng không tiếc xuất binh tranh đoạt Phương Trạc Anh với nhà Trưng. Đáng hận là người Già Mãn lại giấu đầu hở đuôi, đổi quân trang thành quần áo dân du mục, ngày sau đàm phán rất có khả năng sẽ đùn đẩy nói là thổ phỉ cướp đi. Già Mãn xưa nay kính sợ nhà Trưng, lúc mới đầu bị bộ Tả Bồ Đôn quấy nhiễu, Già Mãn cũng từng xin Thiên Khải cứu viện, Đế Húc lại đuổi sứ giả đi, không nghe không hỏi. Ngày nay xem ra, Già Mãn đã hoàn toàn đoạn tuyệt trông cậy vào nhà Trưng.

“Nhưng, kể cả vậy,” Phù Nghĩa bực bội nói, “Dưới tình thế cấp bách, nếu cả nước Già Mãn phản công thì cũng đáng gườm đấy.” Ông ta là phó tướng Cận Kỳ Doanh, không lý gì có thể tùy tiện khai chiến ở lãnh thổ Già Mãn.

“Phù đại nhân, nếu không ngại thì hãy để mạt tướng thử một lần.” Võ tướng trẻ tuổi bên cạnh giục ngựa bước lên trước một bước, Phù Nghĩa quay đầu, trông thấy sườn mặt thanh tú như con gái của Phương Hải Thị.

Phương Trạc Anh phóng ngựa nghênh hướng quân Già Mãn, mắt thấy chỉ còn một dặm đường là vào được trận thế ngàn quân kia, muốn đuổi cũng chẳng đuổi được nữa. Phù Nghĩa gật đầu đồng ý: “Đi đi.”

Hải Thị giật dây cương trong tay, quất liền hai roi, thoăn thoắt đuổi theo, dáng người thiếu niên mảnh khảnh như muốn tan ra trong nắng chiều.

Tiếng gió vờn tai. Hải Thị thả lỏng dây cương, một tay gỡ cung mạnh sáu thạch sau lưng xuống, một tay rút từ ống tên ra một mũi tên lông chim cắt trắng, lên dây. Trái nắm phải kéo, mũi tên ngang mắt, tráng hán cũng vị tất giương nổi cây cung sáu thạch, thiếu niên này lại có thể ung dung kéo căng. Trên ngón cái tay phải cầm cung không có phàn chỉ thường dùng khi trước mà chỉ qua quýt bọc mấy vòng da thuộc.

Ý vững thần tỏ, không xằng không đoạn. Vạn niệm thành tro, vạn tâm cùng tắt.

Lúc mới tập bắn cung năm sáu tuổi, Phương Chư đã nói như thế, từ sau lưng nắm hai tay nàng, dìu dắt nàng kéo căng dây cung.

Chỉ như vậy, mũi tên rời tay mới có thể không nghiêng không lệch, bắn trúng hồng tâm. Phát bắn ấy không thể có bất kì sai sót nào, không trúng không được. Lực kéo tay phải bỗng buông nhả, mũi tên vừa rời cung, sau lưng tức thì rộ tiếng reo hò. Có thể thấy rõ mũi tên ấy sắp trúng vào nửa tim bên trái của Trạc Anh, ắt không sai lệch.

Hải Thị, quả nhiên là muội.

Trạc Anh quất ngựa phóng thẳng về phía tây, đón vầng tà dương vĩ đại đã lặn xuống một nửa, như thể chỉ cần gia roi chạy nửa giờ nữa là có thể chạy vào mặt trời. Cỏ cây bên thân rào rào đổ rạp, như rẽ sóng đón gió. Cậu không thể tránh né, mũi tên này của Hải Thị không trúng không xong. Từ nhỏ cô bé ấy đã có thiên phú cung ngựa hơn người, cậu tin nàng, nhất định trúng.

Âm thanh sắc nhọn phá không vút xuống.

Lực đạo mạnh mẽ gào thét đâm vào lưng, thân mình Trạc Anh đột nhiên gập về phía trước, ngã lăn xuống ngựa. Chất lỏng ấm áp đầm đìa chảy khắp lưng.

“Trạc Anh, đây là ván cược cuối cùng ta đánh với con. Nếu con tin vào tình cảm Hải Thị dành cho con thường ngày, tin rằng thà nó kháng lệnh cũng không chịu giết con, vậy chúng ta đánh cược trận này. Nếu thắng, con thắng được tự do, cộng thêm… bảy ngàn dặm Hãn Châu này.” Lúc thân mình bay vọt lên không trung, giọng nói và dáng điệu người đàn ông kia vẫn rành rành trước mắt.

Cậu nằm trên mặt đất ẩm ướt, nghe tiếng vó ngựa của người Già Mãn dần vây quanh mình, quân Trưng nhanh chóng bỏ đi. Cậu chống thân, gian nan ngồi dậy, mũi tên vẫn đâm sâu trên lưng. Trạc Anh rút kiếm cắt bỏ thân tên, tay phải lần đến dưới sườn trái, cởi nậm rượu bạc sát mình xuống, khóe miệng sắc cạnh nhoẻn một nụ cười khổ.

Nghĩa phụ, cả đời này chung quy người chưa từng tính sai.

Đầu mũi tên xuyên thủng nậm bạc, rượu dò mất già nửa, mà vết thương của cậu cũng sâu không quá nửa tấc.

Cậu im lặng cười lớn, mặt đầy những lệ.

Con và Hải Thị mỗi người một ý hành sự tùy hứng, ngoảnh đầu lại, hóa ra tất thảy đều nằm trong tính toán của người. Bọn con vật vã giành tính mạng với trời, chẳng qua chỉ là con rối vô tri thân quấn sợi tơ, xướng hát vở kịch mà người chọn.

Chủ quản Chức Tạo Phường Thi Lâm sợ sệt đứng đó, nhìn những ngón tay nhỏ nhắn không giống của nam tử tùy ý gõ trên mặt bàn trầm hương tạo thành một chuỗi âm thanh.

“Thật không ngờ… con cáo già này.” Người đàn ông trẻ thu hồi vẻ mặt bông lơn trước sau như một, “Chúng ta phí hết tâm tư chọn hai con cắt xanh thượng hạng, lại thành đá kê chân trong ván cờ của y. Giờ thì hay rồi, Phương Trạc Anh đã trốn ra quan ngoại, vì mang tử tội ám sát hoàng đế nhà Trưng trong mình nên thứ dân Hộc Khố không những không nghi ngờ hắn mà còn coi hắn là thiếu niên anh kiệt nhẫn nhục chịu khổ mười lăm năm trời. Mưu tính này của Phương Chư đích thực tinh vi.”

Mặt Thi Lâm sung huyết đỏ lừ: “Là tiểu, tiểu nhân không đủ lanh lợi… Không ngờ được Phương Chư gieo mầm họa lên điện hạ, mà đến Chá Lựu kia cũng giết… Đáng lẽ tiểu nhân phải nghĩ đến…”

Sưởng vương giơ tay lên ra hiệu y khỏi nói tiếp, “Chuyện này không thể trách ông. Cô nàng mù kia không chết, sau khi trở về Hãn Châu Phương Trạc Anh vẫn sẽ đối nghịch với chúng ta, nhiều thêm một cái mạng của ả mù cũng chỉ khiến tâm ý của hắn kiên định hơn thôi. Như là… Như là Mẫu Đơn tỷ tỷ dẫu không chết, ta cũng sẽ không để mặc Húc ca tiếp tục thế này.”

Dứt lời, Sưởng vương ngẩng gương mặt thanh tú lên, khẽ cười: “Ấy, vốn không nên nói điều này với ông.”

Toàn thân Thi Lâm lạnh toát.

Năm xưa, Yên Lăng đế cơ thấy phu phen thuế khóa nặng nề, căm hận Đế Húc tàn ngược vô đạo nên khuyên Sưởng vương giết vua tự lập. Sưởng vương tự cảm thấy mình phe cánh không đủ, thời cơ chưa đến, cố ý bày vẻ phóng túng chơi bời trước mặt sau lưng mọi người, đến Yên Lăng đế cơ cũng bị gạt. Đế cơ giận dữ, mấy ngày sau tự mang rượu độc đi đối ẩm với Đế Húc, không ngờ bị Vũ Lâm áo đen ngăn trở. Yên Lăng đế cơ chạy trốn, cấm quân đuổi theo tới chòi canh ngoài thành, đế cơ trúng hai mũi tên, tự rút tên đâm xuyên ngực ra, gieo mình từ chòi canh năm trượng xuống, ngã chết tại đầu đường Vĩnh Lạc. Vì muốn bảo toàn Sưởng vương nên nhận xằng mình là thứ nữ Phần Dương quận vương, chết không nhắm mắt.

“Giờ cũng chỉ đành chờ đến mùa xuân sang năm, Tả Bồ Đôn vương đúng hẹn vờ công Hoàng Tuyền Quan, thừa dịp trong kinh phòng vệ trống không…” Ngón tay vẫn gõ mặt bàn, người đàn ông trẻ dưới ánh đèn nở nụ cười lạnh lùng, “Có điều, trước đó nhất định phải bẻ gãy mọi nanh vuốt của Phương Chư đã. Mẫu Đơn tỷ tỷ thật quá ngu ngốc, không có can đảm, không có mưu trí… Cơ mà, dẫu sao ta cũng phải khiến cái chết của chị ấy trở nên có ý nghĩa.”

“Ngụy đế cơ chết, trong phủ sênh ca không đổi, khách khứa say mèm, vương gọi thị tẩm.

Trời sáng hỏi rằng: ‘Đêm qua ta có nói say không? Có nói mớ không?’ Mỹ nhân đáp: ‘Thưa không.’ Vương nói: ‘Cô nàng thông minh, cũng chỉ đến hôm nay.’ Rút gươm chém chết.”

—《 Trưng thư · Liệt vương kỷ · Bách tạp nhất · Sưởng vương 》

Trên đường về Thiên Khải, nàng đổ bệnh ngoài thành Xích Sơn. Lúc đến dịch quán, người đã nằm phục trên lưng ngựa, một mạch mê man bất tỉnh. Thỉnh lang trung tới chữa, mời đến phòng riêng bắt mạch kê đơn, nói là trúng gió cảm lạnh, con gái khí huyết hư nhược, thuận tiện kê toa thuốc tẩm bổ. Phù Nghĩa nghe xong không nói hai lời, thưởng cho lang trung một số tiền lớn. Lang trung về nhà chết bất đắc kỳ tử ngay đêm đó, tiền thưởng nhận được vừa vặn dùng vào lo liệu tang sự.

Toa thuốc quả thật đúng bệnh, song chẳng phải cao minh. Hải Thị dần hạ sốt nhưng không khỏi hẳn, Phù Nghĩa để lại vài người ở dịch quán chăm sóc, đợi nàng khỏi hẳn rồi hẵng đuổi theo đại đội. Nàng lại chẳng ngó ngàng gì tới chính mình, trời tháng Chín chớm lạnh, vẫn khoác áo mỏng đi lại khắp nơi, cũng chẳng biết đường mà tránh gió, tạo điều kiện cho cơn sốt cứ dai dẳng mãi. Chuyện về Thiên Khải cũng lùi xuống từng ngày.

Đến tháng Mười thì thêm chứng ho hen, phát sốt lúc chuyển tốt lúc trở xấu. Nàng chẳng nôn nóng, tựa như về kinh muộn một chút cũng hay, phái dần từng binh sĩ chiếu cố mình trở về.

Tháng Mười một, tuyết lông ngỗng che trời lấp đất, Hải Thị vẫn tập bắn trong sân sau dịch quán mỗi ngày.

Trong mắt như không có tên, trong tay như không có cung, tâm lặng như nước. Mũi tên mới chẻ dọc mũi tên cũ từ lông đuôi đến đầu, bổ thành hai nửa. Lặp đi lặp lại, chỉ có một hồng tâm, mũi tên hỏng dần tích thành bó, mới xem còn trầm trồ bản lĩnh như thần, xem lâu dần nhàm chán hết sức.

Cô bé đầy tớ mười lăm tuổi trong dịch quán tên là Tiểu Lục. Có lúc Tiểu Lục bưng chậu đi dưới hiên sẽ dừng chân xem nàng bắn cung, bầu má phính bị cóng đỏ lựng, mắt ngậm ý long lanh, Hải Thị chỉ thầm cười khổ.

Một ngày nọ, tự dưng Tiểu Lục nổi gan, rụt rè tới hỏi sinh nhật Hải Thị. Hải Thị thuận miệng nói cho cô bé, cô bé lại bứt rứt băn khoăn đứng lên, thoáng trù trừ rồi ngượng nghịu lấy từ trong ngực áo ra một con “bách hề”. Hải Thị có biết, cái gọi là “bách hề” là con rối ba tấc làm bằng gỗ bách, khi nào trẻ con bị đậu mùa hay người nhà ốm lâu không khỏi, phần lớn gia đình bình dân đều sẽ tiện tay làm một con bách hề, viết tên húy sinh nhật người bệnh lên, bổ con rối ra làm đôi, ý rằng để bách hề thay người ốm hứng chịu tai ách. Tiểu Lục không biết viết chữ, đành nhờ Hải Thị tự viết lên. Hải Thị chẳng tin mấy trò vu cổ này, thấy Tiểu Lục hào hứng cũng không tiện làm cô bé mất hứng. Viết xong, Tiểu Lục đặt con rối lên cọc bổ củi, lấy rìu bổ làm đôi rồi thận trọng cầm vào nhà bếp hóa, hớn ha hớn hở bưng tro tàn hóa xong ra cho Hải Thị xem. Lạ là sau đó, bệnh của Hải Thị khởi sắc thật, số ngày phát sốt dần giảm thiểu.

Lúc Tiểu Lục ra đời, loạn Nghi vương đã bình định. Quận Xích Sơn khôi phục khá sớm, lại thêm thiên nhiên giàu có sung túc, sản vật phong phú, nhân dân cũng không giống cha chú Hải Thị, đất đai khô cằn trồng trọt không được, buộc phải mò ngọc kiếm ăn trong sóng cả cá dữ. Cô bé này tuy xuất thân bần hàn, làm đầy tớ giúp việc kiếm sống nhưng vẫn có được mười mấy năm cuộc sống yên ả, hồn nhiên chất phác mà trưởng thành. Ước chừng cô chẳng hề hay biết nếu ở loạn thế, thanh xuân tươi đẹp và sự thơ ngây ấy sẽ trở thành mầm họa của cô.

Hay là cứ như vậy lấy võ lập nghiệp, làm nam nhân cả đời cũng tốt. Gắng thêm hai mươi năm, đợi đến khi dung mạo già cỗi thì chút phiền não bị thiếu nữ để mắt này cũng sẽ chẳng còn nữa. Nghĩ đến đây, tự Hải Thị cũng cảm thấy tâm như tro tàn, khẽ lắc đầu cười xoà.

Trước trạm dịch huyên náo người ngựa, quân tào già cất cao chất giọng như thanh la hỏng, réo tên cô bé đầy tớ: “Tiểu Lục! Tiểu Lục!” Tiểu Lục luống cuống ứng tiếng, lê giày loẹt xoẹt chạy về phía tiếng gọi. Tuyết rơi nhiều ngày không có khách khác đến, tất cả đều là quân lại vận chuyển tài liệu văn thư, phục vụ đặc biệt tốn sức, vừa vào cửa đã hò hét hâm rượu tới, cho ngựa ăn đi, thay ông đây hong khô nón vành, mang cơm lên cho ông ăn rồi còn lên đường, lần nào cũng giày vò Tiểu Lục đến nửa giờ.

Hải Thị ngẩng đầu lên nhìn trời, tuyết rơi dày mù mịt, đậu lên môi, dần hóa thành lạnh lẽo châm chích. Ngày ấy hỗn độn, nhìn thế nào cũng chẳng rõ ràng.

Nền nhà ọp ẹp dưới mái hiên lại vang lên một trận loẹt xoẹt, Hải Thị đưa mắt sang, Tiểu Lục bất ngờ trở lại, trong tay huơ huơ một phong thư, từ xa đã gọi inh ỏi: “Phương đại nhân, ngài có thư!” Lúc đưa tới ngón tay chạm nhau, mặt cô bé đỏ bừng.

Hải Thị lúng túng nhận thư, vừa đi vừa tháo. Thư rất mỏng, trên phong bì đề lạc khoản, đơn giản một chữ “Phương”. Ba tháng không liên lạc với chàng là chuyện hiếm có đối với Hải Thị. Nàng cắn nhẹ môi dưới, mặt hiện vẻ giận dỗi thiếu niên, thò hai ngón tay vào rút tờ giấy bên trong ra.

Tiểu Lục hào hứng theo sau nàng, bỗng ngạc nhiên khựng lại. Vị tướng quân trẻ tuổi trước mắt bỗng thẳng lưng cứng còng, lại như bị cái gì chọc phải, đột nhiên buông ngón tay. Trong phong bì trắng trơn bay xuống một tờ giấy viết thư đỏ thắm, rực chói trong tuyết như muốn đốt người. Cô bé mau mắn ngồi xổm xuống trước, định nhặt lên cho anh chàng, chợt bị đè tay xuống. Cánh tay ấy mảnh khảnh cứng cáp, nhiệt độ lòng bàn tay hơi nóng, có thể cảm nhận được rất nhiều chỗ nổi vết chai mỏng. Tiểu Lục chỉ cảm thấy trong đầu nổ ầm, tai đỏ dừ như nung.

“Đừng chạm vào nó.” Hải Thị nhíu chặt mày, thần sắc lạnh lẽo bức người, cơ hồ nổi sát khí.

Tiểu Lục nhất thời trắng bệch mặt, sắc đỏ rút sạch, nước mắt ầng ậng cũng chẳng dám chảy xuống. Vị tướng quân thiếu niên anh tuấn cởi mở này sao bỗng chốc lại khiến người ta sởn gai ốc đến thế? Hải Thị nhặt tờ giấy đỏ lên, lưỡng lự chốc lát rồi mở nó ra. Đọc nội dung bên trong, mắt mày thanh tú lộ vẻ kinh ngạc, nghiêng đầu truy hỏi Tiểu Lục: “Người đưa thư đâu?”

“Đang… đang chờ… chờ ở sảnh trước ạ.” Giọng Tiểu Lục không vững, run rẩy trả lời. Rào một tiếng, cô bé bị dọa giật bắn mình, trộm ngó, trong khoảnh sân đọng tuyết tản mạn đầy mũi tên, Hải Thị đã chẳng còn bóng dáng.

Hải Thị chạy băng băng tới sảnh trước dịch quán, đang chờ ở đó là một người lính trung niên bình thường, dung mạo phổ thông đến khó lòng ghi nhớ, nhưng lại có phần quen mắt. Trông thấy Hải Thị, người lính đứng dậy qua hành lễ, cử chỉ vững chãi như núi, khiến người ta không thể khinh thường. Phải rồi, quả đúng là từng thấy người này mấy lần trong Tễ Phong Quán, hẳn là một nhân vật có tiếng có miếng trong Vũ Lâm áo đen, có thể thấy Phương Chư rất thận trọng với bức thư này.

“Anh có mang đủ tiền theo không?” Hải Thị hỏi.

“Bẩm tiểu công tử, đủ ạ.”

“Vậy anh tự mua một con ngựa trở về, để ta cưỡi con ngựa của anh.” Hải Thị vừa nói vừa đi thẳng ra cửa tới chuồng ngựa.

Người lính cưỡi Phong Tuấn chạy nhanh nhất trong quán đến, vốn là ngựa của Trạc Anh, yên ngựa hãy còn chưa tháo xuống. Hải Thị dắt nó ra, nó cũng nhận ra Hải Thị, chớp cặp mắt đen láy ánh nước, vô cùng dễ bảo. Nàng rầu rầu vỗ lưng ngựa nhảy lên, quất một roi, Phong Tuấn lập tức vọt đi như bóng chớp.

Từ Xích Sơn Thành đến Thiên Khải phải đi sáu trăm dặm đường, hiệu Phi Phượng chữ vàng chuyên chuyển phát khẩn cưỡi khoái mã cũng phải chạy mất một ngày một đêm, đi đường bình thường lại càng cần tới năm, sáu ngày. Tuyết lớn bao phủ con đường trước mắt, Phong Tuấn phá tuyết rạch sương, chạy thẳng về phía nam.

Gió bấc tuyết bay, song cửa vang lên tiếng gõ.

Phương Chư mở bừng hai mắt. Trong tiếng gió tuyết, xa xa vọng lại tiếng vó ngựa một đường lao tới. Dấu vết kiếp sống chinh chiến nhiều năm để lại trên người chàng đã biến mất, chai do giương cung, thương do đao kiếm, dần dà đều đã bình phục, chỉ có chứng ngủ nông cảnh giác và thính lực nhạy bén là không đổi. Tiếng vó ngựa kia dừng lại cách đó chừng hai, ba dặm, hẳn là gọi Vũ Lâm đang trực ra mở Thùy Hoa Môn, rồi lại phóng ngựa chạy thẳng hướng Tễ Phong Quán, đêm sâu tĩnh lặng, tiếng càng mồn một.

Người này không phải Hải Thị thì còn có thể là ai? Hồ Sương Bình đã sớm kết băng. Nhớ lại ngày đó, ngoài song sen nở đẹp tươi, hoa ngải soi bóng xuống hồ. Nửa năm lại trôi qua như vậy.

Ngoài cửa có tiếng rảo bước thoăn thoắt, theo đó là giọng thị vệ nhỏ nhẹ khuyên can. Thị vệ kêu á một tiếng thâm thấp, chắc là bị đánh. Chàng không khỏi cười khổ. Ai mà cản nổi nàng? Hải Thị xộc vào phòng ngủ của chàng, đóng cửa phòng lại. Một đường chạy như gió, trên vai chẳng dính một bông tuyết, có điều, viền gáy áo hứng gió trước cổ thì đã tích một đường vụn tuyết mỏng. Trông nàng sấn lên trước, chàng cũng chẳng kinh ngạc, chỉ hơi nhỏm dậy, đợi nàng mở miệng. Con ngươi chàng thâm thúy nan giải, khiến người ta nhìn không ra ánh sáng tụ trong đó, như không thấy đáy, u tối đen kịt.

Lửa than trong phòng ấm sực, bấy giờ Hải Thị mới nhận ra tay chân gò má mình đã cóng đến mất ráo tri giác, dần dần, nàng cảm nhận được hơi thở nóng bỏng do sốt cao của mình. Lửa than chẳng sưởi ấm được nàng, cái khiến nàng ấm áp trở lại là cơn bệnh trong người. Nàng gắng thò tay vào ngực, mò tờ giấy đỏ ra, vươn cánh tay chậm rãi chìa đến trước mắt Phương Chư.

“Thế này là có ý gì?” Mắt mày thanh lệ không ngăn được phẫn nộ dâng lên, “Ban thưởng à? Vì con tự tay giết Trạc Anh thay người nên dùng cái này ban thưởng cho lòng trung thành chuyên nhất của con?”

Người đàn ông cách tờ giấy đỏ nhìn nàng, lại không trả lời.

Giấy đỏ in cặp uyên ương nhũ vàng, cuốn sổ đóng kiểu gấp đầu cuối tương liên, ngụ ý đoàn viên sum vầy.

Thiếp canh hợp hôn.

Trên nửa trang giấy đỏ mở ra chỉ hé lộ hai cái tên.

Phương Giám Minh.

Diệp Hải Thị.

Nét bút ngay ngắn tròn trịa, nhìn là biết thể đài các con em thế gia được dạy từ nhỏ. Chàng dùng tên khai sinh, cũng vẫn nhớ nàng nguyên họ Diệp. Chàng biết nàng và Trạc Anh tình như thủ túc, biết bắt nàng tự tay hạ sát thủ với Trạc Anh là chuyện gian nan thế nào – Thế nên rốt cuộc chàng cũng chịu cho nàng chút bồi thường ư? Ánh nến bỗng vống cao, b*n r* tiếng nổ lép bép. Tâm huyết Hải Thị như sôi lên, ngũ tạng tựa nung, một nỗi cay đắng mắc kẹt trong họng, hơi nhoi nhoi muốn trào hẳn lên. Nắm chặt quyền, nhắm mắt, dùng hết sức bình sinh nuốt mạnh cả họng bi phẫn ấy xuống.

Lại lần nữa mở mắt, nàng tự cảm thấy kinh ngạc khi bản thân có thể bình tĩnh lạnh nhạt nói từng chữ: “Con không giết huynh ấy. Con biết sườn trái huynh ấy luôn giấu một nậm rượu, con chỉ bắn trúng cái nậm ấy. Con làm trái ý người, lần đầu tiên trong đời.” Giọng bỗng cất cao, “Nhưng, thống khoái khó tả.”

“Ta biết.” Ngữ điệu ôn hòa nhã nhặn, hơi nhuốm cười.

“Người không biết!” Chua xót đột ngột tập kích mở bung hàm răng nghiến chặt của nàng. Hải Thị cho rằng mình sẽ quát lên, song cuối cùng nói ra khỏi miệng chỉ là tiếng khàn khàn kiềm chế, “Người muốn con giết người, con chưa bao giờ hỏi thêm một câu, nhưng nếu một ngày nào đó con và Trạc Anh phải giết hại lẫn nhau thì việc gì phải để chúng con xưng huynh gọi đệ, việc gì phải để chúng con cùng ăn cùng ngủ, cùng luyện võ, cùng học bài? Con quả thật có tâm tư với người nhưng chưa bao giờ dám trông mong khả năng được hồi báo, chỉ cần không khiến người khó xử, con bằng lòng tự mình nhẫn nại, tuyệt không có nửa câu oán hận.” Trong mắt nàng lăn xuống ánh huỳnh quang bỏng rẫy, “Nhưng, nếu muốn con làm đao kiếm giết người, ưng khuyển trung thành thì cần gì phải đem một mối hôn nhân rỗng tuếch ra làm mồi câu và ngon ngọt, người cũng hơi… khinh rẻ con quá rồi!”

Người trước mắt không hề tránh né ánh mắt sắc nhọn của nàng, khuôn mặt hé cười, “Ta biết, Trạc Anh cũng biết. Con là một đứa trẻ cực kì sáng dạ, tuy ta chưa từng nói cái gì, con cũng biết phải làm thế nào. Hôm nay trên hộ tịch ở Đại Ưng, Trạc Anh đã là người chết, nhưng trong mắt người Hộc Khố thì lại là Đoạt Hãn nhĩ tát lưu vong trở về, không chịu một mũi tên này, đảng Sưởng vương nhất định sẽ không chịu để yên, Trạc Anh ở Hộc Khố cũng khó lòng có chỗ đứng. Mũi tên ấy con bắn rất khéo, vừa vặn đúng chỗ ta và Trạc Anh hi vọng.”

Hải Thị dần thay đổi sắc mặt, giăng kín hoang mang.

Phương Chư chỉ cười mỉm, tự nói tiếp: “Con quá tùy hứng, cái con muốn ta vốn không thể cho. Nhưng ta biết lần này con tủi thân nhường nào.” Trên khuôn mặt ôn hòa đoan chính, vết đao nửa tấc nhếch lên như ngậm nụ cười hờ, có thần thái trong vắt như thiếu niên bay vút, “Vả lại, cũng nhiều năm rồi ta chưa từng tùy hứng.”

Hải Thị ngơ ngác chớp chớp đôi mắt long lanh của mình, tâm tư xoay mòng mòng, còn chưa kịp hiểu rõ những lời chàng nói, tay và vai đã run lẩy bẩy, trong mạch máu chảy rần rần nỗi chua xót hạnh phúc. Một khắc sau, nàng ngẩng mặt lên, trên mặt hây hây hai vầng đỏ au.

Chàng khoác áo xuống giường, hai tay ấp lấy nắm đấm siết chặt của nàng, cạy ra từng chút, rút thiếp canh bị vo thành một cục ra, cười nho nhỏ: “Đừng bóp hỏng, còn hữu dụng. Tuy chỉ có con và ta nhưng cũng không thể không xem trọng thế được, ta đã dặn phòng bếp tối mai làm vài món cát tường.”

Bản triều quy định hoạn quan có thể cưới cung nhân làm vợ, gọi là “đối thực”, còn có người mua nhà riêng ở ngoài cung, cưới vợ bé, chẳng thèm giấu giếm mà còn lấy làm kiêu hãnh. Ai cũng biết hôn nhân của hoạn quan thực chất như thế nào, nhưng như để tranh sĩ diện, kiểu cưới xin này vẫn thường làm đủ sáu lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, nạp chinh, chỉnh kỳ, thân nghênh, nếu đón dâu ngoài cung thì lại càng phô trương. Để phòng tuổi già không ai phụng dưỡng, thu nuôi con nhà bình dân nghèo cũng chẳng hiếm lạ gì.

Nhưng, chỉ duy chàng và nàng không thể. Trước mặt mọi người, họ là tổng quản nội cung và võ tướng biên cương, cha nuôi và con nuôi, thiến hoạn và thiếu niên, mỗi một tầng quan hệ đều khiến người ta nghe sởn da gà, đi ngược với luân thường. Nếu phơi trần thân phận nữ nhi của nàng lúc này thì chuyện lấy thân phận con trai tham gia kỳ thi võ được khâm điểm thám hoa sẽ thành đại tội khi quân không thể dung thứ. Thiếp canh này nhất định không thể công khai dâng cúng trước trời đất tông tộc.

Đầu gối nàng nhũn ra, trong tai nổ vang rền. Cơn mệt mỏi không ăn không ngủ ôm bệnh bôn ba sáu trăm dặm đường đã khoét rỗng nàng. Mừng vui quá đỗi và bi thương cực độ đan xen chồng chéo cuộn trào mãnh liệt, cuối cùng như một con sóng dữ dằn nuốt chửng ý thức Hải Thị, trong lòng trống rỗng, ngã xuống bên cạnh, được Phương Chư đỡ eo ôm lấy, lại loáng thoáng nghe có người gõ cửa. Nàng gượng sức muốn đẩy chàng ra đứng thẳng dậy, bàn tay trên eo lại thắt chặt kình lực không cho cựa quậy, giọng nói hiền hòa cất lên: “Tiêu Tử à? Vào đi.”

Hải Thị chợt cảm thấy sau tai tê rần, ngay sau đó hoàn toàn chìm vào giấc nồng.

Đẩy cửa đi vào chính là người lính trung niên đến Xích Sơn Thành đưa thư, hẳn cũng toàn lực chạy theo sau, chỉ đến muộn hơn Hải Thị một giờ. Khuỷu tay Phương Chư ôm vai gầy eo thon của thiếu niên mà trên mặt người lính tên Tiêu Tử kia chẳng có chút kinh hãi nào, chỉ chắp tay sơ sơ, cũng không gọi tôn xưng mà mở miệng nói thẳng: “Tuyến Nô truyền tin, bên Sưởng vương đã định xong kế sách, mượn cớ sinh nhật sắp tới của hắn, xin hoàng thượng chấp thuận điều tiểu công tử vào vương phủ đảm nhiệm chức thị vệ trưởng cho đến đầu hạ năm sau, đường sá Hoàng Tuyền Quan thông suốt, tiểu công tử trở về đóng giữ Hoàng Tuyền Quan thì thôi. Ngoài ra, lúc Tuyến Nô nghe lén còn nghe thấy Sưởng vương gọi tiểu công tử là ‘con bé họ Phương’.”

Phương Chư đã đặt Hải Thị lên giường, rờ vầng trán trơn láng của nàng kiểm tra, nhiệt độ đã giảm bớt phần nào. Đôi mắt long lanh tươi sáng kia nhắm lại, khuôn mặt ngủ say của nàng thế mà lại yêu kiều bất ngờ.

“Hay cho một tiểu vương gia nóng nảy, định đuổi tận giết tuyệt thuộc hạ ta trước đầu xuân đấy à?” Chàng mở lời, cũng chẳng quay đầu lại mà ngắm nghía dung nhan nàng, vươn ngón tay lau lớp mồ hôi mỏng trên ấn đường nàng.

“Tổng quản…” Trước giờ Tiêu Tử ăn nói vẫn luôn thong thả ung dung, lúc này cũng không khỏi hơi lên giọng.

Phương Chư quay người lại, bình tĩnh nói: “Vốn là lỗi của ta, không nên ôm lòng cầu may. Anh trở về đi. Ngày mai đi Kỳ Việt săn bắn, anh hãy trông chừng đám Sưởng vương thật kĩ, chớ để họ gây khó dễ trước thời hạn. Hải Thị mà vào Sưởng vương phủ rồi thì khó có thể trở ra được lắm.”

“Nhưng, gió tuyết lớn thế này, có khi nào ngày mai hoàng thượng không đi săn?” Tiêu Tử hỏi.

Dưới ánh nến, sắc mặt Phương Chư hơi nhợt nhạt, “Ngày mai nếu hoàng thượng không đi săn thì tính mạng đứa trẻ này e là sắp hủy rồi.”

Sau đó Tiêu Tử ra ngoài thành một chuyến ngay trong đêm, trước khi trời sáng mới về cung. Y ôm một con ưng non vừa lấy được, ngồi trên nóc hiết sơn của Trùng Nhân Môn, trong tuyết lớn lả tả, thấy ánh đèn như hạt đậu trong trắc viện Tễ Phong Quán chong thẳng tới sáng. Giờ Lan, trong Kim Thành Cung sáng trưng thâu đêm, cung nhân bắt đầu qua lại.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 11: Nguyệt mọc nhật về tây IV



Đêm ấy nàng ngủ rất sâu, đến chiêm bao cũng chẳng thấy một giấc. Trong vòng vây của hơi thở quen thuộc, cuối cùng an tâm như thú nhỏ trở lại hang ổ, mặc cho ý thức tan rã trong bóng tối ấm áp.

Đừng tỉnh lại là được.

Nàng nhíu mày, né tránh bàn tay lành lạnh đang vỗ nhẹ trên mặt. Phảng phất như quay về năm bảy tuổi, sáng sớm không muốn dậy học chữ, nghĩa phụ tới vỗ mặt nàng, nàng vùi đầu trốn sâu trong chăn. Trạc Anh chơi xấu, lần nào cũng kéo roạt chăn ra, làm nàng hắt xì liền dăm ba cái. Hải Thị mỉm cười trong lim dim, theo phản xạ nắm chặt chăn, đề phòng Trạc Anh giật mất, qua một hồi lâu, mãi vẫn không thấy động tĩnh gì, cơn buồn ngủ ngọt ngào dần tiêu tan. Thời gian thay đổi nhanh thật, trí nhớ như một món trang sức ngọc ngà lạnh buốt dán sát tim, chưa mở mắt đã thấy lòng xót xa. Nàng đã chẳng còn là đứa trẻ tóc chải hai bím nữa, còn huynh trưởng Trạc Anh làm bạn mười năm, thiếu niên mắt đen ánh kim ấy chỉ e cũng sẽ vĩnh viễn không trở lại vui đùa cùng nàng.

Nàng mở mắt, nhắm mạnh lại rồi mở ra lần nữa.

Trạc Anh đi rồi, nơi này chỉ còn lại chàng và nàng. Phải, đây là phòng của chàng, chăn đệm màn trướng thuần một màu trắng mộc mạc thanh khiết, đượm mùi mực thoang thoảng. Gối của chàng, yêu bội ngọc tủy (*) của chàng, cổ kiếm Kinh Nghê chàng để ở đầu giường, bàn tay lành lạnh chàng áp lên má nàng nóng hổi. Trong phòng sáng ngời ánh ban mai, trên giấy dán song lấm chấm bóng tuyết như bồng bềnh, nhởn nhơ bay xuống.

(*) Yêu bội là ngọc bội đeo ở hông, ngọc tủy là một loại đá thạch anh, màu trắng chất trong.

Hải Thị chớp chớp rèm mi đen dày, “Tuyết rơi rồi.”

“Ừ.” Chàng ứng tiếng, muốn rút tay về lại bị nàng nắm lại, tiếp tục áp lên má. Tay nàng rất khẽ khàng, nhút nhát mà bối rối, như chỉ sợ chàng tỏ vẻ không vui, bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng buông tay lẩn trốn.

“Em muốn trừ bỏ quân tịch, ở lại đế đô.”

“Không thích biên quan à?” Chàng nhướng mày.

“Thích chứ.” Nàng liếc chàng, lại lập tức cụp mắt, “Nhưng biên quan cách người quá xa. Hoàng đế hay Man vương cũng vậy, em không sợ những cái này, chỉ cần người luôn ở bên em, chỉ có mình em, vậy là tuyệt nhất.”

Chàng nhất thời cứng họng, trong lòng như lấp kín băng than hỗn tạp. Ánh thu ba trong một chớp mắt ấy của nàng mênh mông mà êm dịu, song lại khiến chàng sinh lòng sợ hãi. Nàng lớn lên từng ngày, vẻ đẹp thư hùng khó phân ấy đã bộc phát diễm lệ nồng nàn. Dẫu nước da dãi nắng ngả màu vàng mật, chỉ cần buông xõa mái tóc dài là vẫn tức khắc toát vẻ phong tình xinh tươi mà chính nàng chẳng hề hay biết, không cho phép nhận lầm. Nàng trên chiến trường quyết đoán sắt thép, bình tĩnh còn hơn đấng nam nhi, ở bên cạnh chàng thì lại luôn chỉ coi mình là một đứa bé, vừa tin tưởng chàng, vừa đắm chìm trong hạnh phúc trước mắt. Mà điều duy nhất chàng có thể làm cho nàng chỉ là đưa tay đích thân phá hủy niềm hạnh phúc ngắn ngủi như bọt nước ấy.

Nàng bỗng ngẩng phắt lên, trong đôi mắt đẹp chói lọi ánh sáng, “Từ nhỏ em đã giỏi nhất võ nghệ, nhất định sẽ không làm liên lụy đến người.”

Bàn tay chàng đặt trên má Hải Thị vẫn dịu dàng, một bàn tay khác lại chậm rãi siết chặt như không muốn ai biết.

“Hôm nay hoàng thượng hành đông thú (*), em có muốn theo ta đi không?”

“Đông thú? Đi chứ đi chứ!” Vừa nghe đến đi săn, Hải Thị lập tức lên tinh thần, chân trần nhảy xuống khỏi giường, định chạy về phòng mình, “Em đi thay y phục!”

(*) Lễ đi săn mùa đông.

“Tay.”

“Dạ?” Hải Thị ngờ vực, do dự chìa một tay ra, một món đồ nhỏ bé nặng trầm lạnh như băng rơi vào lòng bàn tay nàng. Phàn chỉ vàng khảm lưu ly xanh nhạt, vì là đồ cũ truyền lại nhiều năm nên sáng bóng, đặc biệt đằm, bên trong mới quấn tơ xanh dày dặn, nàng đeo thử lên ngón cái tay phải, kích cỡ vừa vặn. Nàng nhoẻn cười với chàng, chàng cũng cười mỉm đáp lại, trong mắt lại có một xoáy nước sâu tối nàng không nhìn ra.

Tiết đại tuyết.

Mây đen dày đặc, bốn bề mịt mùng bông tuyết, Đế Húc lại cố ý muốn đi săn lúc này.

Ngày ngự giá rời thành đi săn, theo lệ, hai đại lộ Vĩnh An, Vĩnh Lạc và Thừa Tắc Môn cấm thứ dân qua lại, quầy sạp ăn uống mua bán ven đường nhất loạt ngừng kinh doanh. Hai bên đường lớn tuyết phủ năm mươi dặm giăng màn gấm cao một trượng dài miên man, để phòng xe liễn bị trượt, mặt đường còn rải đều muối biển mịn, bằng phẳng rộng rãi, vàng óng sạch sẽ, nom như lát vàng mười. Trên đường Vĩnh An, đội nghi trượng mũ áo ngũ sắc xếp thành trận vuông tươi sáng, nối đuôi nhau hành tẩu, nhất thời cờ xí mũ mão rợp kín trời.

Đại Trưng tôn sùng năm màu đen, vàng, đỏ, xanh, tím, lấy nền đen thêu rồng vàng làm cổn phục của đế hậu, những màu còn lại chia xuống lần lượt theo tước vị bậc quan, áo lông khoác ngoài mùa đông cũng không được vượt khỏi màu cấp bậc của mình. Vì theo hầu đi săn nên bách quan đều mặc trang phục kỵ xạ, cởi bỏ mũ mão, tháo vai trái triều phục xuống, để lộ thâm y (*) bên trong, vạt dài trước sau cũng vén lên buộc bên phải hông, bên ngoài khoác áo lông màu theo cấp bậc. Bình thường Hải Thị rất ít dùng áo lông, nhất thời không tìm được chiếc áo lông chồn nào màu xanh đúng phẩm cấp của mình, đành khoác áo lông cáo bạc ứng phó, rất nổi bật trong hàng ngũ võ quan, lập tức có đồng liêu tiến lại bắt chuyện. Hải Thị tự báo tên họ quê quán, chư quan nghe đến ba chữ Phương Hải Thị, trong lòng đều biết là con nuôi của Phương Chư, đưa mắt nhìn nhau chốc lát rồi cùng trầm mặc. Hải Thị cũng không nói nữa, tự giục ngựa lên trước.

(*) Một kiểu áo của người Hán cổ đại, phần trên và phần dưới có thể tách rời – nối liền tùy ý.

Đến ngã tư giao nhau giữa hai đường Vĩnh An, Vĩnh Lạc thì có tiểu hoàng môn phía trước xuống truyền tin, lệnh hàng ngũ chư quan văn võ tạm thời dừng lại. Lúc này ngự giá của Đế Húc và quan viên văn võ đã cách nhau nửa dặm, một hàng ngũ ban đầu chờ trên đường Vĩnh Lạc xen vào giữa. Người đàn ông trẻ cưỡi ngựa dẫn đầu hàng ngũ choàng một tấm áo lông cáo lửa đỏ thẫm rộng dài, mũ trùm che khuất mặt mũi, dưới vạt áo lông lộ ra bàn đạp tím vàng tinh xảo. Đỏ là màu dùng cho hoàng thân, người đàn ông trẻ kia đương nhiên là Sưởng vương không thể nghi ngờ. Sưởng vương ghìm ngựa, quay mặt về phía hàng ngũ bách quan, cũng chẳng biết là đang nhìn ai. Một hồi lâu sau, hắn giơ tay hất mũ trùm ra sau đầu, ung dung quay đầu về phía trước. Tướng mạo Sưởng vương đẹp đẽ hơn Đế Húc, thường ngày luôn bệ rạc ủ rũ, chỉ duy thần sắc trong chớp mắt mới rồi là anh tuấn dị thường. Ai thấy kinh hãi vì một chớp mắt ấy phỏng chừng rất nhanh sẽ hoài nghi mình hoa mắt – Ngay sau đó, Sưởng vương ngửa mặt lên trời ngáp dài chẳng buồn che giấu rồi mới giục ngựa dẫn thị vệ tùy tùng xếp hàng chạy lên trước, theo sát ngự giá của Đế Húc.

Đầu giờ Uyển, ngự giá đến bãi săn. Bãi săn Kỳ Việt nằm dưới đèo Kỳ Việt, ba mặt được dãy Thiên Trụ bao bọc, là vườn săn hoàng gia gần kinh thành nhất. Bản triều lập quốc tới nay đã được sáu trăm bảy mươi năm, tiết đại tuyết hằng năm đều cử hành lễ đông thú ở đây, chỉ trong loạn Nghi vương mới bị gián đoạn tám năm. Đông thú đại tuyết vốn mang ý nghĩa dùng số lượng và chủng loại cầm thú săn được bói mùa màng thu hoạch năm sau, trong số những loài săn được phải có báo, chồn, diều hâu và thỏ, lần lượt biểu tượng cho tiền tài, no ấm, mưa thuận gió hòa và tươi tốt dồi dào, sau đó dần phát triển thành điển lễ đông thú, theo thứ tự thả bốn loài động vật ra trước ngự giá, hoàng đế bắt hoặc bắn chết tượng trưng, coi như đồ tế cúng lên trời đất non sông lễ đại xã lập xuân.

Quan viên trấn thủ bãi săn thường niên được gọi là thú nhân, số lượng chừng hơn trăm người, lúc ra đón cũng tháo một bên vai triều phục, buộc vạt áo làm trang phục kỵ xạ, ngoài ra còn có một đội phụ gồm quan viên ngũ sắc xếp thành một hàng bên trái. Hải Thị thấy chư thú nhân mỗi ti một công việc, có người bê diều hâu, có người xách lồng thỏ, còn có mười sáu người chuyên vận chuyển chuồng báo, trong đó bắt mắt nhất là hai thiếu nữ khoác áo lông chuột xám tro. Hai thiếu nữ ấy dung mạo trung bình, cử chỉ không giống nữ quan, cũng không giống con gái thế gia, đều tóc đen chấm vai, không buộc không búi cũng không có trâm thoa cài tóc, áo lông chuột xám trùm kín mít từ cổ đến mắt cá chân, là kiểu trang phục hết sức vô lễ xúc phạm ở ngự tiền mà mọi người lại nhìn như không thấy. Như nhận ra ánh mắt của Hải Thị, một thiếu nữ trong đó quay đầu nhìn lại, ánh mắt hiền lành rụt rè, hệt con thỏ trắng trong chiếc lồng bên cạnh cô bé.

Đúng lúc này, quan văn phía trước nhường ra một con đường, nội thị truyền lời, nói chuẩn bị thả báo, mệnh toàn thể võ quan xếp hàng lên trước hộ giá. Hải Thị theo đại đội dắt ngựa băng qua hàng ngũ quan văn đi về phía trước, trông thấy trong Vũ Lâm cấm vệ có người lính cưỡi “Phong Tuấn” đưa thư tới Xích Sơn bữa trước. Sưởng vương và Đế Húc được Vũ Lâm và võ quan áo xanh bao quanh lớp lớp. Bộ áo lông cáo lửa và chồn đen đều bóng loáng như gấm vóc thượng hạng, là hai màu sắc rực rỡ chói mắt nhất trong những xanh đá và trắng tuyết ngợp mắt. Phương Chư ẩn thân trong nhóm nội thị, áo khoác lông chồn tía trơn, mũ trùm che mắt, dáng người vẫn rất nổi bật, đã có không ít võ quan chú ý đến chàng, thì thầm suy đoán, Phương đại tổng quản chưa từng ra khỏi cung trong lời đồn chính là người như vậy sao? Trong đám người trước mặt hơi rộ xôn xao – Báo đã ra khỏi chuồng.

Đây là loài báo gấm được thuần hoá từ nhỏ trong thượng uyển, rất thân thiết với thú nhân nuôi dưỡng, móng vuốt cũng được thú nhân cắt tỉa hằng ngày, nếu không lại quá gần thì chỉ là một con thú cảnh an toàn. Con báo mới ra khỏi chuồng bốn chân đeo chuông vàng đinh hương kêu leng keng, mờ mịt đi mấy bước, để lại dấu chân hoa mai trên mặt tuyết, sau đó phát hiện ra khuôn mặt thú nhân quen biết trong đám người, bèn hớn hở nhẹ nhàng chạy về hướng đó.

Một tiếng quát nghiêm nghị vang lên trong đám người, sát khí bùng nổ, người nghe không khỏi kính sợ kinh hãi. Chỉ thấy Đế Húc thuận tay ném áo lông chồn đen ra sau lưng, vung tay phát lực, không trung b*n r* những vòng cung sáng chói. Báo hoa gầm lên đau đớn, lập tức lồng lộn cào bới, chuông vàng lanh lảnh, khắp nơi bông tuyết bay mù. Vũ Lâm lang vây lấy, dùng quân côn trong tay đè báo gấm xuống, ước chừng phải hai mươi người mới áp đảo được con báo gấm. Dưới ánh mắt chăm chú của mọi người, Đế Húc quăng một cái rìu nhỏ bằng thép ròng găm vào giữa hai mắt báo gấm, là một vết thương trí mạng. Quan tư tế tiến lên cầu chúc xong, Vũ Lâm lang mang báo gấm đi, tất thảy bách quan quỳ xuống hô vạn tuế, ca tụng thánh vũ ngay sau đó. Đế Húc vừa nhận lại áo lông chồn đen ban nãy cởi xuống từ tay nội thị, vừa quay đầu nhìn mấy trăm văn thần võ tướng áo hoa đai ngọc quỳ rạp trên mặt đất, mắt chỉ toàn chán chường rẻ rúng.

Lúc Hải Thị ngẩng đầu lên chỉ có thể nhìn thấy bóng lưng tự khoác thêm áo lông của Đế Húc, áo lông chồn nặng nề tung bay như một đôi cánh đen to lớn bất tường.

“Điêu nữ (*) đâu?” Giọng Đế Húc hàm ý cười, như thời niên thiếu tùy hứng nghĩ ra một trò đùa ác ý.

(*) Điêu ở đây nghĩa là chồn.

Gần như đồng thời, bách quan thản nhiên nhìn sang hàng thú nhân bên trái. Hai thiếu nữ khoác áo lông chuột xám tro miễn cưỡng đi ra khỏi hàng, nhìn nhau, đều không nhịn được co ro rụt vai.

“Bộp” một tiếng nhè nhẹ, là Đế Húc gõ cán roi vào lòng bàn tay trái, tỏ vẻ hơi mất kiên nhẫn.

Sống lưng hai thiếu nữ thình lình cứng đờ, mặt không biểu cảm, chỉ có môi dưới đầy đặn tái nhợt là cùng run rẩy không dễ gì nhận ra, song cũng chẳng cách nào ngăn chặn. Hai thú nhân bước lên cởi nút cài cổ áo của họ, nhấc gáy áo choàng ra, chiếc áo lông dày dặn ấm áp lập tức không tiếng động rời khỏi cơ thể họ, lại th*c m*nh sau lưng đẩy hai cô bé vào mặt tuyết hãy còn sót vết máu tươi rói của báo gấm, tr*n tr** trong ánh mắt mấy trăm người đàn ông.

Trong áo choàng, họ cơ hồ không mặc cái gì, chỉ che tạm bằng một lớp lụa trắng cực mỏng không tay vạt ngắn, ủng cũng đã cởi ra, da trần đột ngột gặp lạnh, nổi sắc đỏ ửng yêu kiều trong tuyết.

“Đi lên trước nữa đi.” Giọng nói lạnh lùng êm tai ra lệnh, “Chia ra đi lên.”

Chân trần thiếu nữ đạp lên mặt tuyết, tuyết đọng dưới chân giá rét thấu xương, khiến nhịp bước của họ trở nên đặc biệt nhanh nhẹn cấp tốc, chẳng khác nào bước múa trên lửa.

“Dừng lại, đứng ở đó.” Đế Húc cất tiếng. Hai thiếu nữ kia bèn dừng lại trên mặt tuyết trống trải cách đó mười trượng, hai bóng trắng lẻ loi, mái tóc đen ngang vai phất phơ trong gió bấc. Các thú nhân mở lồng chồn thả hai mươi tư con chồn lông đen ra. Chồn đen ùa ra khỏi lồng, nhao nhao chạy qua mặt tuyết chui vào rừng. Chợt có mấy con chạy ngang qua bên cạnh hai thiếu nữ, tò mò sán lại vòng hai vòng quanh chân họ rồi cuộn mình, khoan khoái nằm trên mu bàn chân thiếu nữ.

Mọi người bất giác hít thở nhẹ đi hẳn. Săn chồn là vòng dễ xảy ra sơ suất nhất trong đại điển đông thú, không ai gánh nổi tội trạng đó.

Trận tuyết hôm ấy là trận lớn nhất kể từ đầu mùa đông tới nay. Bầu trời vần vũ những mảng trắng dày đặc, bông tuyết đậu lên vai hai điêu nữ như hoa liễu, tiếp xúc với nhiệt độ cơ thể lập tức tan thành dòng nước li ti. Chẳng mấy chốc, làn da thiếu nữ mất đi độ bóng mềm mại ấm áp, tuyết không tan nữa, tuyết mới rơi không ngừng, càng phủ càng dày. Tựa một cành cây không chịu nổi băng tuyết đè nặng mà gãy lìa, một điêu nữ ngã khuỵu về phía trước rồi đổ ập thẳng xuống, không còn động tĩnh gì nữa. Chồn đen bên chân cô thắc mắc vòng một vòng, ngửi ngửi mặt cô rồi ngửa đầu lên trời kêu u u. Hải Thị hít mạnh một hơi, cưỡng ép mình cụp mắt xuống.

Qua một khắc, thân hình nhỏ bé của điêu nữ còn lại cũng thoáng lảo đảo, tiếp đó thẳng tắp ngã ngửa ra sau, nằm trên tuyết như một thân cây khô. Nghi trượng hoàng gia khổng lồ trầm mặc nhìn họ. Gió càng thêm dữ tợn, tuyết mới rải rác cuộn thành từng đợt sóng màu bạc nho nhỏ, mái tóc đen của hai cô bé nhanh chóng bị vùi lấp, trước mắt chỉ còn dư lại một thế giới mới trắng tinh thuần khiết.

Hải Thị nghe thấy một tiếng siết khớp ngón tay rất khẽ. Nàng chuyển tầm mắt, trông thấy người bên trái mình. Nắm đấm người nọ lộ ra trong tấm áo lông cáo xanh siết chặt, đốt ngón tay trắng bệch, trong bàn tay cạnh sườn phải nàng nắm một ngọn roi, ngón cái cào cào lên lớp da thuộc bọc cán roi. Người đằng trước nàng thõng tay xuôi theo người, ngón trỏ gõ nhẹ đùi chừng như thong dong – đó là nơi thường đeo trường kiếm, nhưng nếu không phải ngự tiền thì không được phép đeo kiếm. Họ im lặng, nàng không nhìn thấy mặt họ. Hải Thị ngẩng đầu lên mờ mịt ngó quanh, trận vuông năm màu ngay ngắn chỉnh tề không chút lộn xộn. Trong hàng ngũ xa hoa khí thế mà yên ắng này, mọi người đang suy tư điều gì? Trong rừng cây vọng lại tiếng u u, có thêm một, hai con chồn lông đen tuyền bóng mượt thò đầu ra khỏi bụi cây, linh hoạt chạy đến cạnh đồng bạn trong tuyết, e dè ngửi điêu nữ, vừa kêu u u vừa cọ người lên má điêu nữ. Trong bụi cây vang tiếng rào rào, chồn đen chui ra hết con này đến con khác, hoàn toàn không để ý đến mấy trăm nhân loại cách đó mười trượng, tới tấp chạy lại cạnh điêu nữ, tụ họp thành hai cụm đen nhung trong sắc trắng lạnh lẽo.

Mấy chục thú nhân giương rộng bốn tấm lưới rộng bốn trượng, nhẹ chân bước về phía bầy chồn. Chồn đen không trốn không núp, chợt vài tiếng u u vang lên, thân mình còn che chở cho điêu nữ chặt hơn, chen chúc co cụm, cuối cùng bị một lưới bắt hết. Một thú nhân đưa dải rút túi lưới đến trước mặt Phương Chư, lại từ tay Phương Chư chuyển lên cho Đế Húc kéo dây bắt tượng trưng mấy chục con chồn trong túi lưới. Các thú nhân đeo bao tay da bò, thò tay vào lưới, tóm một con chồn ra, bấy giờ chúng mới vỡ lẽ tình cảnh của mình, bắt đầu hoảng loạn cào cấu, phát ra tiếng kêu nhọn hoắt như tiếng trẻ con khóc. Chồn trong túi lưới dần ít đi, mới nhìn thấy điêu nữ ngơ ngác ngồi giữa một mảng đỏ loang lổ, cách túi lưới hoảng hốt nhìn chung quanh, một lúc sau, rốt cuộc cũng hét lên một tiếng thảm thiết. Tiếng hét ấy như một lưỡi đao buốt giá chọc thủng lưới, trong chớp mắt đồng thời quét qua gáy mỗi người. Da lông loài chồn một khi hư hại dính bẩn sẽ mất đi giá trị, muốn bắt chúng không thể sử dụng đao kiếm bẫy thú, dẫu lừa được chúng vào bẫy, chúng cũng sẽ điên cuồng cắn xé lẫn nhau, cào rách tan da lông quý hiếm của nhau. Phương pháp dùng điêu nữ dụ bắt du nhập từ các nước phương Bắc có thể gìn giữ được da lông của chúng ở mức độ cao nhất, đối với những con vật vô tri hiền lành này, điêu nữ là con mồi tốt nhất, cũng có thể giảm bớt rất nhiều khả năng chúng cào xé lẫn nhau.

Đế Húc lãnh đạm ném dải rút túi lưới trong tay đi, tiểu hoàng môn lập tức bước tới nhận lấy, có người khác dâng cung tên lên.

Điêu nữ ngồi trong túi lưới, cúi đầu nhìn hai bàn tay mình. Từ mắt mũi đến tay chân cơ thể, vết thương đỏ tươi do móng chồn cào chồng chéo chằng chịt. Giá rét không thể đóng băng đau đớn, một giọt lệ từ hốc mắt chảy xuống ngón tay, đau nhói khắp chốn, sau cùng nhỏ xuống, bắn lên mặt tuyết một chấm chói mắt màu máu đào.

Trên cánh đồng băng như nở bừng chùm hoa phượng trái mùa. Mắt Hải Thị mất đi tiêu cự, chỉ còn lại hai màu đỏ trắng đơn thuần, song lại như đột ngột trải rộng trước mặt nàng ngàn dặm sắc lam mênh mông. Sắc lam nặng nề đờ đẫn dâng trào, ập xuống đầu nàng, không sao hít thở. Vây cá mập xám thép, mái tóc dài xanh trong xoắn bện, giao châu lung linh lóng lánh, binh sĩ mặt mày dữ tợn, kí ức ầm ầm vỡ tan, vô số mảnh vụn sắc bén sập xuống. Vị tanh mặn tràn ra giữa răng, lòng bàn tay phải đau ngâm ngẩm. Hải Thị cúi đầu nhìn hai tay, chẳng mảy may có một vết thương, nhưng nàng lại dần cảm nhận được dáng hình cơn nhức.

Nàng ngước mắt hoảng hốt tìm kiếm bóng chàng trong đám đông. Trong ngàn vạn người, nàng cũng có thể liếc mắt nhận ngay ra chàng, như cây sam siêu phàm trong rừng, chẳng quá to lớn nhưng tự mang khí chất kiêu ngạo tót vời, tách rời quần thể – kể cả khi gánh trên lưng thân phận nhục nhã kia. Chàng và Đế Húc đều đã trút bỏ áo lông, để một tiểu hoàng môn đứng cạnh ôm giữ, lộ ra trang phục kỵ xạ bên trong, một tay cầm trường cung tám thước dùng cho lễ nghi, tư thái vẫn oai hùng khoáng đạt như thiếu niên quý tộc.

Hơn sáu trăm bảy mươi năm bản triều, trải qua năm mươi ba hoàng đế họ Chử cai trị, trong đó không thiếu hôn quân bạo quân. Thuật giữ mạng của trăm họ không ngoài một chữ “nhẫn”, hỗn loạn to nhất trong hơn sáu trăm năm nay đã xảy ra vào hai mươi hai năm trước, những năm hôn quân trị vì khắp nơi còn ổn định hơn thời Lân Thái Đế Tu thức khuya dậy sớm, chấp pháp nghiêm minh. Đất nước này quá to lớn tinh vi, dẫu mặc kệ không quản, nó cũng có thể tự tổ chức chính mình, cầm cự thật nhiều năm – Đế vương thì rồi cũng phải chết. Mấy chục năm đời người, quá nửa hôn quân và bạo quân sống còn ngắn hơn, trong trận đọ sức giữa vạn dân và đế vương, đế vương mãi mãi là kẻ thua cuộc. Nhưng Đế Húc lại khiến họ sợ hãi. Dân gian vẫn có người trông mong Đế Húc chỉ đang bị nịnh thần che mắt nhất thời, nhưng triều thần biết y không mê muội, không ngu dốt, y hiểu rõ thế nào là thiên lý nhân đạo, cũng tự tay phá hủy. Lúc y giết chóc mắt luôn mở trừng, chẳng mảy may kiêng dè tội lỗi, đến Phương Chư tuyệt tình tàn nhẫn cũng chẳng sánh được với y. Đáng sợ ở chỗ, mười bốn năm qua đi, thân xác hai kẻ này vẫn chưa một lần nhiễm hơi thở suy tàn. Ai cũng biết thế gian không có bạo quân bất lão bất tử, nhưng thường thức mãi mãi không ngăn cản được dòng lũ sợ hãi.

Giống với việc nhìn thấy những bàn tay trầm ngâm dưới đủ loại áo lông kia, Hải Thị cũng như nghe thấy những âm thanh đè nén bên người ấy, lặp đi lặp lại câu tự hỏi câm lặng.

Tại sao hai kẻ này vẫn chưa chết?

Trong bãi săn lặng ngắt thâm trầm, khiến tiếng động của mỗi một bông hoa tuyết sáu cánh rơi xuống đều trở nên rõ ràng dễ nhận biết. Song, những câu nói xám xịt im ắng kia thì lại như vẫn ngưng đọng trong thinh không, đè ép người ta khó khăn hít thở.

Đế Húc tiện tay gẩy vang dây cung, âm thanh cao vút xuyên qua màn che trầm mặc, theo đó bỗng nổi lên vô số tiếng vỗ cánh hỗn loạn, mấy chục con chim dữ khắp bốn phương tám hướng đồng loạt ào ào rời khỏi ngọn rừng, vọt thẳng lên cao. Đó là hai mươi tư con ưng, ứng với hai mươi tư tiết khí, ngoài ra, lẫn trong đó còn có một con diều hâu cánh trắng lưng xanh, tượng trưng cho trời xanh đất vàng mưa thuận gió hòa, hoàng đế cần phân biệt ra nó, dùng trường cung tám thước tự tay bắn chết, sau đó hoàng thân và quan viên chính nhị vị trở lên bắn chết toàn bộ hai mươi tư con ưng, không thể để con nào lọt lưới.

Đế Húc tay lanh mắt lẹ, trường cung bật tiếng keng trong sát na, mũi tên tựa sao rơi, xuyên thẳng vào một bên cánh trắng của con diều hâu lưng xanh. Diều hâu đau đớn giãy giụa, thảm thiết kêu dài, xiêu vẹo chao xuống rừng cây. Đế Húc khẽ nhíu hàng mày rậm, nhanh chóng bồi thêm một mũi tên xuyên ngực, con diều hâu lập tức duỗi thẳng hai cánh, rơi xuống như một tảng đá. Quan tư tế cao giọng xướng chúc một năm bội thu, tiếp theo, Sưởng vương và các trọng thần sôi nổi giương cung lắp tên, Phương Chư cũng là một trong số đó. Như cảm ứng được ánh mắt của Hải Thị, chàng quay đầu, liếc vội về phía nàng trong đám người.

Nàng nhìn gương mặt xương xương của chàng, tâm trí rốt cuộc cũng ổn định hơn phần nào. Kể từ khoảnh khắc chàng bế nàng lên vai năm sáu tuổi, nàng đã xác định rằng thế gian nhộn nhịp này chỉ có mình chàng là chốn nương tựa. Dù chàng lạnh nhạt khắc kỷ như thế, trong lòng có một vị trí cho nàng thôi là nàng đã thấy đủ rồi.

Tầm mắt chàng lưu luyến khuôn mặt nàng chốc lát, lại thoáng chuyển sang một bên. Hải Thị nhìn theo tầm mắt chàng, trông thấy người lính đưa thư tới Xích Sơn Thành đứng sau lưng cách nàng không xa, mắt sáng rực nhìn nàng chòng chọc. Chim ưng thân xuyên mũi tên lần lượt rơi từ trên trời xuống, bách quan ngẩng đầu khen ngợi, chư Vũ Lâm lang bận bịu gỡ khoen vàng trên móng xác ưng đưa cho quan tư tế, không ai rảnh rỗi nhìn sang bên cạnh. Nàng thấy người lính kia móc từ trong ngực một bao da con, lấy ra một vật nhỏ ngọ nguậy – lông chim xám tro lơ thơ mềm mại, mỏ móng vàng nhạt – là một con ưng non trứng nở không đủ tháng, nằm trong lòng bàn tay to bè của người đàn ông nom yếu ớt đáng thương.

Bàn tay chậm rãi nắm chặt, ưng non cứng cổ, khàn giọng kêu chiếp chiếp. Thoắt chốc, trên trời vụt xuống một bóng đen to lớn, là ưng mẹ thu cánh, phẫn nộ lao xuống đỉnh đầu người lính. Hải Thị chứng kiến, bật thốt hô: “Coi chừng!” Người lính nghe thấy tiếng nàng, đưa mắt nhìn lại, trong mắt lại mang thần sắc thương hại rõ rệt, ánh mắt gã vượt qua dung mạo thân hình nàng, rơi vào sau lưng nàng, như nhìn thấu trong đó số mệnh mà chính nàng cũng chẳng cách nào giải thích.

Hải Thị cảm thấy tim mình như con ưng non kia, bị một bàn tay lạnh buốt bóp siết trong hư ảo, thành máu thịt be bét. Nàng chợt quay phắt đầu, Phương Chư đang giương cung về phía nàng.

“Tiêu Tử, mau tránh ra!” “Trần Tiêu Tử!” Chúng Vũ Lâm lang muốn cứu đồng liêu nhưng khổ nỗi trong tay không có cung tên, chỉ đành giậm chân hô hoán.

Mà Phương Chư thì đã giương căng cung. Vị trí ba người họ nằm trên một đường thẳng, nói là nàng vừa khéo đứng giữa Phương Chư và người lính tên Tiêu Tử kia chẳng bằng nói Tiêu Tử cố ý đứng sau lưng nàng, dẫn dụ ưng mẹ tới. Trong mắt người ngoài, Phương Chư giương cung không bắn là muốn cẩn thận nhắm chuẩn, nắm chắc cơ hội cứu Tiêu Tử, nhưng nàng biết, chàng đang đợi một thứ khác.

Nàng mơ hồ hiểu được chàng muốn làm gì.

Đáng ra nàng phải biết từ sớm, hạnh phúc sẽ không tới dễ dàng như vậy. Chàng là nam nhân tuyệt tình tuyệt nghĩa bậc nào, sao có thể mong ước viển vông chàng chỉ thật lòng với mình nàng. Chàng dễ dàng vứt bỏ Trạc Anh như thế, sao có thể không vứt bỏ nàng? Nhưng kỳ lạ làm sao, nàng chẳng hề tức giận, cũng không chút bi thương. Bao nhiêu năm nay, trong mắt chàng dường như luôn dựng một tấm gương ngăn cách với nội tâm, chỉ lạnh lùng phản xạ lại toàn bộ thế giới bên ngoài. Nhưng trong nháy mắt đó, mặt gương nứt ra một vết rạn, một cách sâu sắc và rõ ràng, nàng nhìn được tới đáy mắt chàng, màu đen đặc sâu hút trong đôi mắt hẹp dài của chàng sôi trào náo động, lại bị kiềm chế không thể bật khỏi hốc mắt.

Muốn tránh mũi tên này chỉ cần đá nhẹ mũi chân làm vật cưỡi dưới thân chạy đi mấy bước hoặc khom người nấp dưới bụng ngựa là được, chẳng phải việc gì khó. Nhưng chàng là xạ thủ duy nhất trên đời có thể làm tổn thương nàng, nếu chàng muốn như vậy, nàng sẽ không tránh né, đứng yên đây, đợi chàng đích thân chôn vùi cuộc đời mình.

Rõ ràng chỉ là một sát na mà có đến ngàn vạn ý niệm dâng trào vỡ đê.

Mũi tên đã rời cung.

Mang theo tiếng rít gào sắc bén, đầu mũi tên bay qua đỉnh đầu Hải Thị, đâm xuyên qua cơ thể ưng mẹ đã gần chụp xuống đầu Tiêu Tử, kình lực trên mũi tên hãy còn chưa dứt, lao vút đi ghim thẳng con ưng mẹ lông cánh dựng xù lên cây dương cách đó không xa.

Lúc này Hải Thị mới cảm thấy cõi lòng lạnh toát, mái tóc đen nàng vẫn luôn vấn cao giấu kĩ đang tung bay thật cao trong không trung. Giữa đường, mũi tên dài đã xé toạc chiếc khăn gấm nàng dùng để buộc tóc, mái tóc dài như một dòng suối thơm tho đen nhánh buông xõa xuống eo, lộng lẫy đến độ khiến người khác nghẹn cứng hô hấp. Trong mái tóc đen rối tung hỗn loạn, nàng ngẩng mặt, mắt sáng môi son, dung nhan khiến người ta khiếp sợ.

Vẻ đẹp khó bề phân biệt kia như bóng rọi mép nước, nhìn sao cũng thấy không chân thực, chỉ cảm thấy hoa mắt khó mà nhìn kĩ, là nét duyên thiếu nữ không thể nhận lầm.

Nàng không nhìn bách quan xôn xao kinh hãi, không nhìn Sưởng vương sầm mặt u ám như mây sấm, cũng không nhìn Đế Húc nhướng hàng mày trái lên ra chiều nghiền ngẫm, nàng chỉ nhìn chàng.

Gương mặt luôn lo âu sợ sệt không biết phải làm thế nào của nàng lúc này lại mang một biểu cảm quái lạ nào đó mà chàng chẳng thể hình dung, như lữ khách đi trong sa mạc nhìn thấy ảo ảnh phía xa, lại giống đứa trẻ đuổi theo đèn hoa men sông vào tết hoa đăng, như ảo tưởng khát vọng xa ngoài tầm với nhưng cũng biết rằng có làm thế nào cũng không thực hiện được. Khóe miệng ngậm một tia rung động, từng chút khuếch rộng, nhếch lên như muốn phá tung, nhưng sau cùng chỉ khó khăn mím lại thành một nụ cười thê lương. Trên gương mặt mỉm cười ấy, hai hàng lệ bỗng tuôn rơi không một dấu hiệu báo trước, tản mát thành hạt băng trong không khí lạnh lẽo.

Người đâu nhất thiết phải khổ tâm đặt bẫy, từng bước mưu tính như vậy. Chỉ cần người muốn, bất kể khó khăn nhường nào, em cũng sẽ làm được cho người. Ánh mắt nàng nói vậy.

Sau cùng, chàng không né tránh ánh mắt nàng, bình thản nhìn nàng, ấn đường hiện thần sắc mừng rỡ yên lòng mà bi thương.

Tiếng người huyên náo chung quanh dần tắt nín, mũ mão cờ xí ngũ sắc hai bên lui tản, từ trong đám đông nhường ra một lối đi, có người cưỡi ngựa thong dong đi về phía nàng. Màu áo trong ngoài của người nọ đều là sắc đen cao quý, trên ống tên và vạt áo trước buộc lên thêu dày hoa văn hình rồng bằng chỉ vàng. Tới gần mới nhìn rõ mắt mày y lạnh lùng khí khái, rất giống Sưởng vương, thần sắc tuy uể oải biếng nhác nhưng nụ cười khẽ nhếch trên khóe miệng lại khiến người ta e dè.

“Ồ, là ngươi.” Giọng nói trong trẻo êm tai, so với trước đó đã bớt đi phần nào chán chường và mất kiên nhẫn, nhiều thêm vẻ thích thú thưởng thức. Hải Thị nhận ra giọng nói đó – người ngồi trên ngai vàng như một bó gấm vóc không có mặt mũi dáng hình, vĩnh viễn ém mình trong bóng râm, Đế Húc.

Hải Thị còn chưa kịp có phản ứng gì đã cảm giác thân mình nhẹ bẫng, rời khỏi yên ngựa. Thì ra là Đế Húc vươn một tay ra ôm eo Hải Thị, nhẹ nhàng linh hoạt kéo cả người nàng qua, đặt trước người mình, thuận tay cởi bỏ áo lông cáo bạc trên người nàng, khóa nàng vào áo lông chồn đen của mình. Lông tơ chồn đen mềm mịn dày dặn, trong bề mặt như gấm đen của chiếc áo lẩn khuất những sợi lông kim màu trắng rải rác đều đặn, tục gọi là “kim giấu trong mực”, gió thổi càng ấm, sờ lên như lửa, dính nước không thấm, thỉnh thoảng có tuyết đậu vào cũng sẽ tự tan ra trong nháy mắt.

Giả mạo đàn ông tham gia thi võ vốn là tội khi quân, xử trí ra sao cũng đều không quá đáng. Quần thần thấy Đế Húc không truy cứu tất nhiên cũng sẽ không tự kiếm chuyện vô vị mà đi can gián nghiêm minh kỷ cương làm gì, nhưng trong lòng cũng sinh sầu sinh lo. Từ khi Tử Trâm hoàng hậu hoăng, Đế Húc ít gần nữ sắc, hậu cung trống vắng, trừ Thục Dung phi Đề Lan ra chỉ có một vài tần ngự, nữ sử, quanh năm hiếm khi nào cho gọi thị tẩm. Đế Húc hành sự cổ quái tùy hứng, không thể liệu trước, đầu m*t này một khi mở ra, chuyện tuyển tú hậu cung bãi bỏ đã lâu khó đảm bảo sẽ không mở lại.

Chúng thú nhân kính cẩn cụp mắt cúi đầu đứng hầu bên đường, trong túi lưới bên chân chồng chất xác mấy chục con chồn đen bị b.óp ch.ết không một tia sinh khí, điêu nữ chẳng biết đã bị đưa đi đâu, biệt tăm bóng dáng.

Lông chồn đen mềm nhẹ phất qua má Hải Thị, Đế Húc lại bọc kín nàng hơn chút ít.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 12: Nguyệt mọc nhật về tây V



Lúc Sưởng vương trở lại vương phủ đã là giờ lên đèn. Trong tôi tớ hầu hạ bữa tối có một nữ tì nhỏ tuổi mang khuôn mặt xa lạ, hẳn là mới vào phủ không lâu nên gặp gì cũng thấy bỡ ngỡ, đôi mắt sáng sủa dính chặt vào cái kê đũa ngà voi hình tọa thú, ngó mãi không thôi.

Quý Sưởng thấy buồn cười, gọi cô bé lại hỏi: “Ngươi tên là gì, quê ở đâu?”

Nữ tì nhỏ tuổi tức thì đỏ bừng mặt, lắp bắp thưa: “Bẩm vương gia. Nô tì tên Tiểu Lục, là người Xích Sơn.”

Quý Sưởng đang muốn nói tiếp thì chấp sự vội đi vào, ghé tai hắn nói gì đó, Quý Sưởng bèn đặt đôi đũa trong tay xuống, đã đứng dậy định đi rồi, lại quay đầu nhặt một chiếc kê đũa trên bàn lên ném cho nữ tì tên Tiểu Lục kia, “Chỉ là một chiếc kê đũa thôi, người cầm mấy cái chơi là được.”

Tiểu Lục vừa xấu hổ vừa lúng túng, chỉ đành cúi đầu nhìn chằm chằm kê đũa trong tay, đó là một con hổ nhỏ đẽo từ ngà voi, sống động đáng yêu. Đại a hoàn đứng một bên thấy Sưởng vương đi xa rồi mới giả đò nhéo tai Tiểu Lục, cười bảo: “Cũng may ngoài chơi ra, vạn sự chuyện khác vương gia chúng ta đều không để trong lòng, đổi lại là một chủ tử khác, em chẳng ăn đòn thì cũng ăn mắng té tát cho coi.”

Sưởng vương vào buồng trong, Phù Nghĩa lập tức đứng dậy hành lễ.

Sưởng vương thoáng gật đầu, nét cười trên mặt bay biến rốt ráo, thần sắc chuyển thành lạnh lẽo, “Lại để Phương Chư đoạt trước rồi.”

“Thuộc hạ quả thật cũng không ngờ hắn lại có thể bí quá hóa liều như thế.” Phù Nghĩa thở dài.

“Hay cho một nước dồn vào tử địa ra đường sống.” Sưởng vương cười nhạt, “Con bé kia mà vào được tay ta, có khi có thể khống chế Phương Chư thật không chừng – cũng khó trách hắn thà chắp tay đưa một mỹ nhân như vậy lên cho hoàng đế.” Im lặng chốc lát, lại nói: “Trạc Anh bên kia cũng là một nhân vật khó giải quyết, hôm nay đại tuyết đóng quan, cũng chẳng biết tình hình bên Tả Bồ Đôn vương thế nào.”

“Nghe nói dưới quyền Tả Bồ Đôn vương có một mưu sĩ Đông Lục vận binh như thần, tộc Man vô cùng kính sợ y, có người này hẳn không cần quá lo lắng.”

“Nghe ông nói vậy, ta lại đâm nóng ruột đợi không kịp tới lập xuân đây này.” Sưởng vương cười nói.

Khuôn mặt Phù Nghĩa cứng ngắc như sắt, hờ hững mở miệng: “Vương gia, thứ cho thuộc hạ vượt quyền, lại một lần nữa bị lộ tin tức, chỉ e trong phủ có tai mắt, cần phải nghĩ cách loại trừ.”

“Tôi tớ trong phủ đa phần là người trong nhà, rất đáng tin, mua từ ngoài về cũng chỉ bảy tám chục người, trong bảy tám chục người này lại chỉ có không đến hai mươi người có thể ra vào nội viện, truy hỏi từng đứa quá mức phiền toái.” Sưởng vương thở hắt một hơi, chân mày giãn ra, “Không sao, ta không thiếu người hầu hạ.”

Đêm đó chính là đêm ngay trước sinh nhật Sưởng vương, phòng bếp vương phủ nấu lầm độc khuẩn, hai mươi ba tôi tớ trúng độc phát điên bỏ mạng, thi thể vận chuyển ra khỏi vương phủ qua cửa sau, đưa tới phòng ngỗ tác (*) ở nha môn kinh kỳ, người đi đường đều lấm lét rảo bước. Một người đàn ông áo xanh đội nón tuyết đi hai bước, chân bỗng đạp trúng cái gì, nhấc ủng ra xem, trong tuyết vùi một con hổ ngà voi, chỉ to bằng ngón tay cái. Dưới nón tuyết, gã đưa mắt nhìn, xe kéo nối đuôi nhau lộc cộc đi ngang qua người gã, biến mất sâu trong đường phố lác đác tuyết rơi.

(*) Người làm nghề khám nghiệm tử thi thời cổ đại.

Người đàn ông áo xanh lại vội vã đi hai ba dặm đường, gõ cửa hông quán rượu, tiểu nhị dắt ngựa ra, sau yên buộc bọc vải dầu thuôn dài. Người đàn ông xoay mình lên ngựa, ngựa chạy chậm vài bước rồi phi nước đại. Theo hướng gã đi, trên đỉnh núi cách thành mười dặm chính là cấm thành.

Một cặp nến mạ vàng đã sắp cháy hết, vẫn nhảy nhót ánh lửa tươi đẹp. Từ hoàng hôn đến nửa đêm, mắt người đàn ông ngồi một mình dưới nến chẳng chớp lấy một cái nào, trước sau vẫn sáng trong như nước.

Dải lụa ngũ sắc thắt thành đồng tâm kết, trái phải buộc hai tước (*) rượu bầu vân mây thếp vàng. Đầu hai đôi đũa ngà khảm vàng cũng vậy, ngay ngắn buộc vào dải lụa, nối lại với nhau.

(*) Chén uống rượu ba chân thời cổ.

Vòng hoa thạch lựu trăm con, tử tô dư cam tử, bích nhu giai ngẫu, lũ kim hương dược, dao trụ hà khoái, uyên ương trá đỗ, song bách hợp xuy am tử, đầy bàn những món cát tường chúc lành không mảy may động đũa, đã dần mất đi từng chút hơi nóng, nguyên trạng nguội ngắt.

Người đàn ông chợt cảm giác được cái gì, hỏi ngoài cửa phòng: “Ai?”

“Tổng quản, là Tiêu Tử.”

Phương Chư đứng dậy, đi tới trước cửa, mở ra một khoảng rộng chừng một thước.

Tiêu Tử thân bận áo xanh, nón tuyết cũng chưa cởi, hai tay ôm một bọc vải dầu thuôn dài, trông thấy Phương Chư không khỏi ngẩn người.

Phương Chư hãy còn mặc triều phục màu xanh ban ngày, vai trái áo vẫn tháo để dưới hông, vạt áo trước sau cũng chưa cởi ra.

Tiểu Tử đưa bọc vải trong tay lên, nói: “Đại công tử sai người đưa tới, báo là tập kích doanh trại tụ cư bộ Tả Bồ Đôn vương giữa đêm, chém chết một mưu sĩ Đông Lục, đây là binh khí tay mưu sĩ đó sử dụng.”

Phương Chư bóc lớp lớp vải bóc ra, để lộ một thanh đao thẳng màu sắt xám xịt, hình dáng cấu tạo kiểu cổ, lưỡi đao rộng tấc rưỡi đã mẻ, nhưng vẫn làm rách hai ba lớp vải dầu.

“Đao thẳng lưỡi rộng chất thép của Điêu Trùng Trai. Mưu sĩ Đông Lục của Tả Bồ Đôn vương quả nhiên là Tô Minh mất tích năm xưa.” Phương Chư nâng sống đao, ngắm kĩ chữ “Trùng” tỉ mỉ khắc nơi lưỡi đao, cười nhạt: “Người này hiểu rõ thời thế nhất, lòng có thất khiếu, thông minh khéo léo cả đời, cuối cùng khó thoát đột tử dưới đao.”

Vượt qua vai Phương Chư, Tiêu Tử thoáng thấy bàn thức ăn tinh xảo đầy đặn và bát đũa hãy còn nguyên chưa động trong phòng, tưởng chừng như chủ nhân chong đèn đêm dài, lẳng lặng đợi khách tới – Mặc dù chàng cũng biết rõ người ấy sẽ không bao giờ trở lại, chính tay chàng đã đẩy nàng ra.

Lần đầu tiên Tiêu Tử phát hiện thì ra dưới mắt người đàn ông phong tư thanh cao trước mặt mơ hồ có bóng đen mệt mỏi, mà nếp nhăn nơi ấn đường giữa đêm cũng đã sâu đến chạm mắt. Hốt nhiên, Tiêu Tử lùi một bước, tay phải đặt lên chuôi đao theo phản xạ.

“Sao thế?” Phương Chư hơi nhíu mày, quan sát gương mặt ngạc nhiên biến sắc của Tiêu Tử.

Chín chắn trấn tĩnh như Tiêu Tử cũng gần như không thể tin nổi vào mắt mình, chỉ nghẹn họng nhìn trân trối. Như có một lưỡi dao sắc lẹm vô hình nhanh chóng lướt qua, gã trơ mắt thấy dưới mắt trái của Phương Chư không dưng hiện ra hai vệt trắng chếch xéo, qua thêm một khắc mới rỉ ra màu đỏ.

Phương Chư ngập ngừng giơ tay lên chạm vào vết thương, đầu ngón tay dính máu. Vẻ mặt chàng ngỡ ngàng, tựa như đó không phải máu chảy ra từ dưới da chàng.

Đao thép leng keng rơi xuống đất.

“Tổng quản!” Tiêu Tử gắng hết sức đè thấp tiếng kinh hãi.

Phương Chư kinh ngạc mở to hai mắt, dùng mu bàn tay lau khóe miệng, quệt ra một vệt đỏ tươi chói – tuyệt không phải nội thương chảy máu, cũng không phải tự cắn bị thương. Tiêu Tử nhìn thấy rõ ràng đó là một vết răng nhỏ nhắn như do trẻ con cắn, hoặc là con gái. Mà một chớp mắt trước, vết răng này hoàn toàn không tồn tại. Đọc‎ t𝙧𝓊yện‎ ch𝓊ẩn‎ không‎ q𝓊ảng‎ cáo‎ ||‎ 𝒯𝘙U𝗠𝒯𝘙UY‎ Ệ𝑵.Vn‎ ||

“Không sao, anh về trước đi.” Phương Chư lạnh giọng, lại nhíu chặt mày, “Nhanh lên.”

Tiêu Tử hành lễ, xoay người rời đi, không dám nán lại thêm một khắc nào. Cái khiến người ta kinh sợ không phải những vết máu nhanh chóng thấm ra loang lổ như vật sống dưới triều phục màu xanh của Phương Chư mà là người đàn ông cao lớn trầm tĩnh trước sau như một này, thế mà chàng lại đang run rẩy không kìm được.

Phương Chư nhanh chóng đóng cửa phòng, gượng lết về cạnh bàn, đưa tay bóp tắt nến hoa mạ vàng. Sau một trận âm thanh đĩa đèn va chạm nhau be bé, trong bóng tối chỉ còn dư lại tiếng hít thở nặng nề dằn vặt.

Hận ta cũng không sao. Chỉ cần em còn sống, dù cho sống không bằng chết – chỉ cần em còn sống.

Giữa kẽ hở hít thở khó khăn vang lên tiếng cười khẽ ngắn ngủi.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 13: Tóc hoa sao chịu thấu I



Đó là mùi của biển.

Thủy triều lên xuống, trong gió mang hơi nước mằn mặn trong lành, đại dương nhấp nhô dưới ánh trăng như một viên ngọc mực. Mỗi một bước lại chìm xuống sâu hơn, nước biển lạnh mướt nồng hậu ôm lấy từng tấc, cho đến khi che ngập đỉnh đầu. Rời khỏi vùng biển đã nhiều năm mà nàng vẫn láng máng nhớ được xúc cảm dịu dàng ấy.

Vậy nhưng, trong chớp mắt trượt vào nước đó, cơ thể nàng lại bị cơn đau bất ngờ kéo thành một cánh cung giương căng, vết thương ngoằn ngoèo nứt tách như một sợi thừng đỏ thẫm lún sâu vào da thịt.

“Phu nhân!” Có người la lên khiếp hãi, kéo cánh tay nàng để nàng khỏi chìm xuống đáy nước. Sau chớp mắt căng siết ấy, toàn thân nàng bỗng mềm oặt hệt một con rối không ai thao túng, thậm chí còn không thể chống đỡ được sức nặng của đầu mình.

Ngọc Nhiễm bất chấp bọt nước văng tung tóe, vội vươn tay còn lại ra ôm vai cô gái, lại cẩn thận vén những sợi tóc ẩm ướt như tơ tằm dính chặt trên má nàng. Theo ngón tay chải vuốt, trong mái tóc rối bời lộ ra một khuôn mặt tinh xảo đến độ Ngọc Nhiễm phải nín lặng hít mạnh một hơi. Cô gái này có hốc mắt như vỏ trai, con mắt đen láy, môi tựa san hô và nước da vàng sáng, chỉ là không có thần sắc của một người sống. Nếu không phải bờ vai lộ trên mặt nước rải rộng những vết g*m c*n nho nhỏ tím đỏ thì gần như Ngọc Nhiễm đã cho rằng trong lòng mình đang ôm một con rối rồi.

Bà vốc nước trong ao tỉ mỉ cọ rửa làn da của cô gái, máu đỏ nhạt loãng nhanh chóng hòa vào nước ao trắng sữa. Ngọc Nhiễm khẽ buông một tiếng thở dài. Đêm qua, bà nghe cung nhân bàn tán cô gái này là con gái nuôi của tổng quản Phượng Đình, được nuôi như một bé trai từ bé đến lớn, từng đỗ thám hoa kỳ thi võ, nhiều năm xưng huynh gọi đệ với Vũ Lâm vạn kị Phương Trạc Anh mưu nghịch giết vua trước đây, nghĩ hẳn cũng có võ nghệ trong người, kết quả, chẳng biết đêm qua ra sao mà nàng lại thương tích khắp người thế này? Rạng sáng hôm nay, trời còn chưa hửng, hoàng thượng đã khoác áo đi từ chính tẩm ra, truyền gọi ti lễ quan dịch đình cục. Ngọc Nhiễm một đêm không ngủ trong phòng xép thiên điện, nghe tiếng lập tức đi ra định hầu Đế Húc thay y phục trước, Đế Húc lại lắc đầu, nói: “Ngọc cô, bà vào thu dọn cho phu nhân bên trong đi.” Ngọc Nhiễm đã hầu hạ trong cung hơn ba mươi năm, đến Đế Húc cũng phải gọi bà một tiếng “Ngọc cô”, đã nhìn quen sóng gió trong cung, nghe thấy âm thanh lạ giữa đêm, bà đã đoán được bảy tám phần. Song, khi đẩy cửa bước vào chính tẩm, đưa mắt nhìn, bà vẫn không khỏi giơ tay bưng miệng trong im lặng.

Trong chính tẩm như bị gió bão càn quét, tán loạn khắp đất chỉ toàn là chăn đệm gấm vóc, hai mươi tư bức màn giao sa rủ từ trần nhà thả chấm đất cũng bị xé hỏng năm ba bức, chỉ có bóng người là không thấy đâu. Quan sát hồi lâu, cuối cùng Ngọc Nhiễm phát hiện ra trong chăn gấm đen huyền thêu rồng vàng chồng chất như núi lộ ra nửa bên vai đỏ tím rã rời của cô gái, vội chạy lại, dè dặt vén chăn gấm lên, đối diện với một đôi mắt mở to, tịch mịch bệ rạc, như một vũng nước tù trong suốt cắn người.

Lúc Ngọc Nhiễm chỉ huy vài cung nhân đưa cô gái đó đến Cửu Liên Trì, Đế Húc đang dang tay cho chúng nữ quan mặc áo cho y, Ngọc Nhiễm không kìm được liếc nhiều thêm đôi chút, đáy lòng tự nhiên nảy sinh một cảm giác lạnh toát âm u. Dung nhan hoàng thượng vẫn như thường, chẳng có một vết trầy da tí xíu nào.

“Đau…” Trong hôn mê, cô gái lẩm bẩm phun ra một chữ.

Ngọc Nhiễm vội nâng khuôn mặt cô gái lên, gọi: “Phu nhân!”

Rèm mi đen đậm thoáng động đậy, cô gái mở mắt, ánh mắt mụ mẫm.

“Mẹ… Con đau quá.”

Ngọc Nhiễm nghe giọng điệu ngôn ngữ cô gái kia xa lạ, na ná tiếng địa phương miền nam, lại nhỏ nhẹ đến không cách nào phân biệt rõ, đành dịu giọng an ủi bừa: “Phu nhân, nô tì biết ngài đau, nước ngọc này tuy k.ích thích vết thương nhưng rất có hiệu quả chữa thương mờ vết, phu nhân gắng chịu thêm chốc nữa là khỏi ngay thôi.”

Ánh mắt mơ màng dần ngưng tụ trên khuôn mặt Ngọc Nhiễm, dần trở nên tỉnh táo. Hải Thị chuyển động tầm mắt, thấy rõ được người phụ nữ trung niên phục sức nữ quan nội cung trước mặt.

“… Phu nhân?” Nàng cất giọng nghi hoặc, tiếng mảnh như tơ nhện.

Ngọc Nhiễm thấy lúc này nàng nói tiếng quan thoại thì thở phào nhẹ nhõm, dịu dàng mỉm cười thông báo: “Chúc mừng phu nhân, hôm nay hoàng thượng đã hạ chỉ sắc phong ngài làm Thuần Dung phi, ban cho biệt hiệu ‘Hộc Châu phu nhân’, là phẩm cấp thuộc tam phu nhân đứng sau hoàng hậu ngang hàng với Thục Dung phi đấy ạ.”

“Hộc Châu phu nhân?” Hải Thị mờ mịt lặp lại.

“Sáng sớm nay tổng quản Phượng Đình đã sai người mang một hộc châu giao lệ quý hiếm tới, nói là khi còn nhỏ phu nhân từng gặp tiên, châu giao lệ này là của hồi môn giao nhân tặng cho phu nhân. Khi đó hoàng thượng đang truyền miệng ý chỉ sắc phong cho ti lễ quan, biết được điềm lành này rất lấy làm mừng rỡ, bèn ban thưởng biệt hiệu này, còn ban cho phu nhân nước ngọc tắm.”

Gặp tiên khi còn nhỏ.

Cơ thể Hải Thị bỗng căng cứng, nghiến răng như muốn dùng sức, song cuối cùng không vận được chút sức lực nào, buộc phải tựa trọn trọng lượng cơ thể lên Ngọc Nhiễm.

Những ngày đầu mới rời khỏi vùng biển, hễ nhắm mắt là nàng lại trông thấy biển xanh sâu thẳm cuộn lên xoáy nước ngút trời, trở thành cơn ác mộng co giật ban đêm. Chàng và Trạc Anh thay phiên nhau trông nom, quyết không mượn tay người khác để tránh người ngoài nghe được lời nàng nói mê; hộc châu giao lệ kia cũng bị chàng khóa vào kho, không ra ánh sáng suốt mười một năm, không cho phép nàng nhìn thêm lần nào, không bóc vết sẹo của nàng ra nữa. Nàng vốn tưởng rằng đây là bí mật ba người họ chôn sâu dưới đáy lòng, lâu dài không nhắc tới là nàng có thể thật sự coi mình chỉ là một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ, được chàng nhất thời nổi hứng nhận nuôi vào quán.

Nhưng, cái bị chắp tay tặng cho người khác không chỉ là thân xác có thể nói là xinh đẹp của nàng, chàng còn thình lình mở toang bộ mặt không muốn để ai biết của nàng, mặc độc rữa và máu tanh của những vết thương cũ xì xì bốc hơi dưới mặt trời ban ngày.

Hải Thị mệt mỏi nhắm chặt mắt, không muốn rơi lệ nữa.

Ngọc Nhiễm cũng bèn ngậm miệng, chỉ tiếp tục ôm vai Hải Thị rửa vết thương cho nàng, từng sợi máu nổi lên mặt nước, cả ao nước cơ hồ bị nhuộm thành đỏ nhạt.

Hải Thị nghiến răng chịu đựng đau rát khắp người, lại nghi hoặc mở mắt khi ngửi thấy hơi thở tươi mát mằn mặn quen thuộc, đảo mắt ngó quanh. Ao nước nàng ngâm mình trắng đặc như sữa bò, nhìn kĩ, hóa ra màu nước vốn xanh nhạt trong suốt, nhưng trong đó rải rác chi chít những vụn sáng rất nhỏ, chiết xạ ra bảy sắc cầu vồng dưới ánh nắng. Tuy đã rời biển hơn mười năm nhưng dù sao Hải Thị cũng là đứa trẻ xuất thân nhà mò ngọc, không khỏi kinh ngạc hô khẽ.

“Đây là nước biển… còn có… ngọc trai giã vụn…” Nàng run rẩy nâng một tay lên, khuấy khuấy nước ao, trong mắt ngập tràn căm hận và không thể tin nổi, “Chẳng lẽ thuế ngọc dâng cống hằng năm chỉ là để…” Nàng thoáng ngừng lại, giọng nói khàn khàn yếu ớt rốt cuộc bùng nổ, “Vì cống ngọc hằng năm, bao nhiêu người đã phải chết ngoài biển, chỉ là để…”

Hải Thị nói tiếp không đặng, vùi mặt xuống thật sâu trong nước, dưới nước ngọc trắng sữa có thứ gì tỏa ra ánh sáng mơ hồ.

Ngọc Nhiễm ngờ ngợ thò một tay xuống, nâng bàn tay Hải Thị trong nước lên, lòng bàn tay bừng sáng bạch quang, hai chữ “Lang Hoàn” đập vào mắt. Ngọc Nhiễm hoảng sợ buông phắt hai tay, nước hắt lên mặt, Hải Thị lập tức tuột xuống đáy ao.

“Phu nhân!” Ngọc Nhiễm lật đật mặc nguyên quần áo lội vào nước lần tìm khắp nơi, rốt cuộc cũng mò được Hải Thị, đỡ nàng dậy, vội vàng vỗ má nàng.

Hải Thị tuy tay chân bải hoải song ánh mắt sâu thẳm tỉnh táo, trên lông mày dính vụn ngọc, lấp lánh mê hoặc, “Bà yên tâm, chỉ là không có sức mà thôi. Nước biển không đuối chết được ta.”

Ngọc Nhiễm thở phào, vừa định đỡ Hải Thị lên bờ ao thì sau lưng chợt vang một giọng nam sáng sủa thảnh thơi.

“Ngọc cô, bà đi thay y phục ướt đi.”

Ngọc Nhiễm “á” một tiếng, ôm Hải Thị quay người lại, “Hoàng thượng, Phương tổng quản…”

Hải Thị tựa trong lòng Ngọc Nhiễm nhìn người tới, đôi con ngươi đen láy trên dung nhan mỹ lệ như điểm sơn – hai chấm sơn đen đặc, vô thần vô quang.

“Ngọc cô.” Đế Húc hơi nhấn giọng.

“Vâng…” Ngọc Nhiễm hoảng hốt ứng tiếng, lại không biết phải đưa Hải Thị lên bờ ao thế nào. Đế Húc đánh mắt sang người đàn ông bên cạnh, Phương Chư kính cẩn cúi đầu thi lễ, tiếp đó đi tới bên ao, sắc mặt bình tĩnh như bất kì một ngày nào trong mười bốn năm qua.

Tay áo trang phục hoạn quan xanh biếc lẳng lặng phất qua trước mắt. Tổng quản Phượng Định cúi người xuống trước mặt Ngọc Nhiễm, vươn một tay ra.

Ngọc Nhiễm giao cánh tay cô gái trong lòng cho Phương Chư, vội vã giẫm lên bậc tam cấp ra khỏi ao nước ngọc, hành lễ cáo lui.

“Phu nhân, mời ra khỏi ao tắm.” Trong đại điện Cửu Liên Trì tĩnh lặng vang vọng giọng nói ôn hòa của chàng.

Mắt Hải Thị hướng về phía chàng song cũng chẳng nhìn chàng.

“Ta không có sức.” Nàng mở cánh môi xinh đẹp. Đôi môi nàng cong cong, dẫu trong mắt chủ nhân của nó trống rỗng như nước tù thì nó vẫn mang một màu đỏ diễm lệ phóng khoáng.

“Thần sẽ đỡ tay phu nhân.”

Nàng lặng thinh, không phản đối. Chàng thoáng thêm sức, thân mình nàng tức khắc nổi lên từng tấc khỏi ao nước trắng sữa, nhẹ nhàng đến không tưởng.

Trong mắt chàng, một sợi dây nhỏ như sợi tóc dần căng lên.

Nước da vốn màu vàng mật đã hoàn toàn mất tăm sức sống, chỉ còn chừa lại đỏ, đỏ thẫm và trắng – những màu sắc của ứ bầm – làm chàng như nhớ lại năm Lân Thái thứ ba mươi tư. Năm ấy chàng ôm Trạc Anh bé nhỏ trong lòng, ngồi trên ngựa nhìn lại Hồng Dược Nguyên sau trận quyết chiến giữa hai quân, chỉ có màu trắng của tuyết và màu đỏ của máu, tang thương khắp nơi, hệt cơ thể nàng trước mắt.

Dưới mắt chàng chéo xếch hai vết thương, khóe miệng có vết răng nhỏ mịn như bị trẻ con, hoặc con gái, cắn. Ngón tay Hải Thị đỡ trên cánh tay chàng bỗng chốc co chặt, vẻ mặt kinh hoàng.

Hồi ức như một giọt mực ngấm dần vào ý thức trống không, mở rộng vô hạn với tốc độ khiến người ta khiếp hãi, một lần nữa nhốt nàng vào bóng tối.

Nàng từng cho rằng, lòng chết rồi thì cơ thể cũng sẽ theo đó chết lặng, nhưng cơ thể nàng lại vẫn muốn phản kháng.

Đêm gió tuyết vần vũ.

Nàng vùng vẫy trốn tránh sức nặng đè trên người, nếu không phải Đế Húc nhanh nhẹn nghiêng đầu đi thì ngón tay nàng đã đâm vào mắt vị quân chủ một nước này rồi. Hôn không dung phản kháng, nàng cũng cắn chẳng chút do dự. Người kia dùng một tờ thiếp canh lừa nàng về đế đô, dùng một mũi tên chuẩn xác thần diệu chôn vùi tương lai nàng, vậy thì chí ít nàng cũng phải để lại trên người vị hoàng đế chàng một lòng bảo vệ thương tích không thể xóa nhòa. Nàng tuyệt vọng giằng xé như thể chỉ cần dùng đủ sức là có thể xé nát màn đêm đáng sợ này.

Nhưng cuối cùng, những vết thương ấy lại rơi xuống người chàng.

Câu trả lời nàng vẫn hằng truy tìm đang ở ngay trước mắt, chỉ cần một khoảng thời gian bằng cái chớp mắt nữa thôi là có thể xuyên qua sương mù dày đặc, chạm tới linh hồn chàng tầng tầng che giấu. Nhưng nàng rút lui. Chỉ một ranh giới mơ hồ đã khiến nàng không đành lòng truy hỏi tận cùng.

Phương Chư lảng tránh ánh mắt nàng, lấy áo bào phủ thêm cho nàng. Tơ lụa trắng thuần trơn lạnh kề cận vết thương nàng, máu trộn lẫn nước nhuốm loang ra từng đóa đỏ tươi. Chàng nửa quỳ xuống, ngón tay thon dài đẹp đẽ sửa sang vạt áo cho nàng. Nơi da thịt tiếp xúc, nàng cảm nhận được buốt giá từ chàng.

Thời gian nhanh chóng xoay ngược, sâu trong kí ức dường như cũng từng có một đêm như vậy. Đêm ấy, chàng vấn tóc cho nàng, buộc từng dải lụa ngũ sắc cho nàng, đeo đao cứng và lệnh bài sư tử nạm vàng cho nàng. Nàng dang hai cánh tay như một con rối tinh xảo, mặc chàng tầng tầng lớp lớp bao bọc mình trong gấm vóc lụa là, ngón tay dịu dàng chạm vào má nàng từng ấm áp vững vàng như vậy.

“Được rồi, Giám Minh, chắc sứ thần Ni Hoa La cũng sắp đến rồi đấy, đệ đi giúp ta ngăn cản nửa giờ. Không cần buộc đai.” Đế Húc nhìn đốt ngón tay Hải Thị siết đến trắng bệch chỉ trong sát na, trong đôi mắt đen kịt lập lòe nụ cười lạnh, “Không, một giờ đi.”

Hai tay Phương Chư nắm đai áo Hải Thị khựng lại thoáng chốc trong không trung, cuối cùng buông xuống, xoay người định đi… mặt chợt biến sắc.

Hải Thị cúi đầu, nhút nhát mà kiên định nắm vạt áo chàng. Từ tấm bé nàng đã mang tâm tính con trai, to gan xằng bậy, mười một năm nay, đây là lần thứ hai chàng thấy nàng sợ hãi như vậy – lần đầu tiên là vào lúc mới gặp nàng.

Nàng ngẩng đầu, mắt đen láy những bi thương khẩn khoản, như hai lỗ trống đốt thủng trên gấm.

Đau đớn run rẩy như một mũi tên thoắt chốc đâm xuyên qua tim chàng. Chàng như một lần nữa trông thấy nàng năm sáu tuổi, bé bỏng nhẹ bỗng như một chiếc lông vũ mà kiên cường gian xảo tựa một con sói con, chạy thoát khỏi vòng vây đuổi giết của mười mấy quan binh, mang một thân thương tích sà vào lòng chàng.

Trong mắt Đế Húc chập chờn nụ cười như có như không.

Vết đao cũ bên khóe miệng Phương Chư bỗng mím chặt như hạ một quyết tâm nặng nề. Tay chàng rơi lên bàn tay nắm vạt áo chàng của nàng rồi chậm chạp kiên định cầm lấy, nắm vạt áo mình từng tấc rút ra khỏi bàn tay nàng, sau đó xoay người rời đi.

Thần hồn nàng cũng từng tấc rút khỏi thân xác như vậy. Thế giới trước mắt lặng lẽ sụp đổ, phong hóa, rường cột chạm trổ mục nát hóa tro, ao nước trắng ngọc khô cạn trong khoảnh khắc, thế giới này rời bỏ nàng, để lại cho nàng khoảng trống tịch mịch vô tận.

“Hiểu ra rồi?” Giọng nói lạnh lùng, ngón tay lại ấm áp, thong dong lướt qua cằm nàng, lưu luyến trên môi.

Hải Thị giật bắn hãi hùng, hít một hơi ngắn ngủi, lùi ra sau.

Đế Húc mỉm cười áp sát một bước: “Giám Minh vĩnh viễn không thể phản nghịch trẫm.”

Hải Thị lùi thêm bước nữa, chân đã bước xuống bậc thang dưới nước.

Đế Húc giơ một tay lên, cắn mu bàn tay chính mình rồi nở nụ cười điên cuồng hàm ác ý, chìa bàn tay đó đến trước mặt Hải Thị. Da thịt bằng phẳng như ban đầu, đến dấu răng cũng chẳng thấy một vết.

“Vết thương này sẽ không lưu lại trên người ta, cái chảy ra cũng không phải máu ta.”

Hải Thị lùi liền mấy bước, sơ ý giẫm trúng vạt váy, mắt thấy sắp ngã vào ao nước sâu tới eo, lại bị Đế Húc giành trước một bước đỡ eo ôm lại, cặp mắt ma mị khóa chặt lấy nàng.

“Biết tại sao không?” Trong cặp mắt ấy gợn nét cười lạnh lùng, “Ngươi cho rằng lúc mới khai quốc, dựa vào chiến công gì mà Phương Cảnh Phong có thể trở thành vị vương công khác họ đầu tiên của bản triều? Ngươi cho rằng dựa vào đâu mỗi đời thế tử Thanh Hải công Phương thị đều được vào cung nuôi dạy cùng hoàng tử? Bắt đầu từ Phương Cảnh Phong, tước vị Thanh Hải công truyền thừa đến nay vừa vặn năm mươi ba đời không nhiều không ít, đế vương Chử thị nhà ta truyền thừa đến nay cũng không nhiều không ít tròn năm mươi ba đời, tại sao?” Mắt y lạnh lẽo u tối áp sát Hải Thị, “Hơn sáu trăm bảy mươi năm qua, gần như không một Thanh Hải công nào được hưởng thọ trời. Chết trận, chết bệnh, chết đuối, chết độc, sét đánh chết, không dưng chết, tử trạng quái lạ, cả nhà mẹ góa con côi, tại sao? – Bởi, một nhà Phương thị vốn không phải chiến tướng, họ là thế gia bí thuật, là bách hề của Chử thị ta.”

Ánh mắt tĩnh lặng của Hải Thị soi thẳng vào gương mặt anh tuấn ngang tàng của Đế Húc, không nói một lời.

“Đúng vậy, đúng là loại bách hề đó, con rối gỗ bách trăm họ dùng để gánh tai ách, trừ bệnh tật thay người. Chỉ là, bách hề bình thường là vật chết, hỏng rồi cũng chỉ hỏng vậy, nhưng loại bách hề sống này thì sẽ chảy máu, sẽ chết, sử dụng phải yêu quý hết mực mới được.”

Hải Thị nhắm mắt, đôi lát sau lại mở mắt ra, trong con ngươi đã dấy lên ngọn lửa nho nhỏ.

Đế Húc không nhanh không chậm nói tiếp: “Huyết thống Thanh Hải Phương thị kỳ dị, đời đời là bách hề của đế vương Chử thị, cũng chỉ con trai Phương thị mới có thể làm bách hề của đế vương. Giữa đế vương và Thanh Hải công thường còn thân hơn quan hệ huyết thống, thế tử Thanh Hải công cũng được nuôi dưỡng trưởng thành cùng thái tử xưa nay. Mỗi một đế vương sau khi lên ngôi đều lập tức cử hành bí thuật nối mệnh, từ đó Thanh Hải công trở thành bách hề, gánh vác hết thảy đau ốm, tai ách, nguyền rủa thay đế vương. Công danh thiên thu và non sông vạn dặm đều là của đế vương, Thanh Hải công thì lấy được vinh hoa, tộc ấm, thanh danh… cùng gấp đôi khổ đau và tai ách. Miễn là Thanh Hải công còn sống, đế vương sẽ không chết. Thanh Hải công chết rồi, đế vương vẫn sống tiếp, song không thể tìm được bách hề mới nữa, khi đó, đế vương bắt buộc phải tự thân gánh vác tai ách của mình.”

“Lão Thanh Hải công đời trước sống lâu hơn Đế Tu sáu năm.” Hải Thị nói.

Đế Húc nhoẻn cười lạnh buốt, “Thỉnh thoảng cũng có chuyện như vậy. Khi đó, cả nước có mười bốn quận thì đã có chín quận nổi dậy làm phản, bao gồm cả ba quận lân cận quận Lưu Thương, Thanh Hải công bị giết trước rồi, phụ hoàng cũng khó tránh được cái chết. Trước sự uy h**p của Chử Phụng Nghi, để bảo toàn chiến lực Lưu Thương quân, lão Thanh Hải công không thể không giả vờ đồng ý gia nhập phản quân, nghe lệnh Chử Phụng Nghi giải quy ước nối mệnh, phụ hoàng lập tức bị thuật pháp phản phệ mà chết, dĩ nhiên, tuyên bố với bên ngoài là chết bệnh. Trong năm mươi ba vị đế vương bản triều tổng cộng có mười bảy vị bị giải ước nối mệnh phản phệ mà chết.”

Hải Thị cười nhạt, “Nhà họ Phương cũng hi sinh năm mươi Thanh Hải công vì Chử thị các người, thủ đoạn đối phó với những bách hề làm phản của các người cũng chẳng lấy gì làm nhân từ.”

“Đúng vậy. Hai nhà chúng ta, nói là ràng buộc thâm hậu,” Đế Húc xì một tiếng, “Chẳng bằng nói chồng chất nợ máu lẫn nhau, oan oan tương báo, từ đó không thể tách rời.”

“Nhưng nghĩa phụ đã là hoạn quan, nhà họ Phương gặp họa diệt môn trong loạn Nghi vương, sẽ không còn truyền nhân nữa.” Hải Thị khẽ cựa mình nhưng không giãy ra nổi vòng ôm của Đế Húc.

Đế Húc ung dung nói tiếp, “Giám Minh vốn phải là bách hề của Bá Diệu, năm đó phụ hoàng đột tử, còn chưa kịp truyền bí mật này cho Bá Diệu, Bá Diệu bèn cứ thế tự sát oan. Lão Thanh Hải công chết trận, lúc Phương thị diệt môn là năm Lân Thái thứ ba mươi hai, còn cách ngày trẫm lên ngôi hai năm. Năm ấy chiến dịch dưới Thông Bình Thành thê thảm chỉ đứng sau hỗn chiến Hồng Dược Nguyên, phóng mắt nhìn ra chẳng khác nào nhân gian rơi vào bể máu. Trẫm bị trọng thương trên chiến trường, mạng như chỉ mành treo chuông, A Ma Lam liều chết cướp trẫm về từ trận địch. Khi đó Giám Minh thống lĩnh đông quân, cắt đứt tin tức với trận chính, qua một ngày một đêm rốt cuộc cũng hoàn thành bao vây tiêu diệt hết phản quân, hội hợp với trận chính. Bá Diệu bảo thủ, Thúc Vân chết yểu, Nhiếp phi mẹ Quý Sưởng tranh sủng nhiều năm với mẹ trẫm, chỉ có Giám Minh là thân thiết nhất với trẫm từ nhỏ, còn gấp trăm lần những huynh đệ này. Biết trẫm trọng thương sắp chết, nó phóng ngựa xông thẳng vào đại trướng trung quân, không thay áo không cởi giáp trông nom trẫm mười chín ngày. Lúc trẫm tỉnh lại, toàn thân trên dưới không thấy một vết thương nào, còn Giám Minh thì gục xuống đất, bất tỉnh nhân sự, vết thương trúng tên máu thịt be bét trước ngực nó vốn là của trẫm. Nó thay trẫm gánh đau khổ trọng thương, tuyên bố mình mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường nửa năm mới bình phục. Những vết thương trên người Giám Minh vốn phải có một nửa là trên người ta.”

Cảm nhận được rõ ràng thân mình cô gái trong lòng càng lúc càng cứng ngắc, y ngậm nụ cười mỉm sáng trong, tiếp tục tàn nhẫn trần thuật.

“Tri Hành và Thất Thất là do ta giết. Về phần A Ma Lam, trước khi Đại Thành và Tô Minh xuống tay, Giám Minh đã cản ta. Trước sau nó vẫn luôn cảm thấy nó nợ ta, luôn muốn thay ta làm những chuyện này, bảo toàn cho ta đôi bàn tay sạch sẽ.” Ngón trỏ thon dài m.ơn tr.ớn sườn cổ Hải Thị, vòng qua chiếc phàn chỉ bằng vàng khảm lưu ly xanh nhạt tròng dây chuyền đeo trên cổ nàng, an nhàn êm ái di xuống dưới. Sắc mặt Hải Thị nhợt nhạt, cắn chặt môi, run lên khe khẽ.

“Ta và nó cứu mạng nhau chẳng phải mới một hai lần, nhưng từ nhỏ tính nó đã ôn hòa như vậy, ban ơn không nhớ, chịu ơn không quên. Biết bao chuyện phiền chán, chỉ cần là vì ta, cũng có thể nhẫn nại làm đến không một sơ hở. Còn đế vương Chử thị đời sau và đời sau nữa thì nó chẳng buồn để tâm. Bất kể làm anh em, đồng bào, vua tôi hay bách hề, những gì nó làm cho ta đều đã vượt xa chức trách đạo nghĩa. Có điều, chắc hẳn Giám Minh cũng chán ghét kiếp sống đời đời nợ nhau như vậy rồi, chán ghét cảnh gông xiềng hai gia tộc khổng lồ vào với nhau, trọn đời không được tự do như vậy. Nó thông minh hơn ta – nó dứt khoát cứ thế chặt đứt huyết mạch Phương thị, cũng chặt đứt gông cùm – từ rày trên đời sẽ không còn đế vương và bách hề nữa.”

Đế Húc bỗng cả cười, bế ngang nàng lên.

“Đi thôi, chúng ta cũng không thể ướt dầm dề đi gặp sứ thần Ni Hoa La như thế này được.”

“Phi mười sáu tuổi, giả trai trấn thủ biên cương; năm sau tùy giá đông thú, đế ái mộ, triệu vào cung, phong Thuần Dung phi, sủng ái hết mực.” –《 Trưng thư · Hậu phi · Hoàn ý thái hậu 》
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 14: Tóc hoa sao chịu thấu II



Thời tiết ấm lên sau tuyết là cái rét khó chịu đựng nhất. Giữa hè, cứ cách bốn giờ, chúng tiểu hoàng môn sẽ đổ nước đá xuống lớp gạch kép dưới sàn cung thất giúp phòng ốc mát rượi sảng khoái, sau khi vào đông thì đổi thành đổ nước nóng. Hôm nay có sứ thần Ni Hoa La Ba Nam Na Yết đến yết kiến nên trong điện còn dụng tâm đặt thêm vài lò than tinh xảo, cả sảnh đường ấm áp như giữa xuân.

Tiểu hoàng môn cảm nhận được rõ ràng một dòng mồ hôi nóng hổi ngoằn ngoèo chảy xuống, ấy vậy mà Ba Nam Na Yết vẫn ôm khư khư lò sưởi tay của y như ôm một lớp sương dày, “Nếu quân vương quý quốc không bằng lòng hạ mình cùng trò chuyện thì cứ đường đường chính chính cự tuyệt tiếp kiến tiểu thần là được, tuyên triệu trước rồi ơ hờ sau như thế chẳng lẽ là khinh Ni Hoa La chúng tôi nước nhỏ thế yếu?”

Ni Hoa La khí hậu ấm áp, lãnh thổ bao la, đậu và lúa mạch một năm ba mùa, có các nước Tích Phủ, Thổ Hỏa Lỗ là chư hầu mà sứ thần lại tự xưng nước nhỏ thế yếu, giọng điệu đã gần như là châm chọc. Mồ hôi nóng túa đẫm người tiểu hoàng môn nhất thời muốn đóng băng. Trong suốt nửa giờ vừa rồi, cậu ta chỉ sợ mình đối đáp không chu toàn gây ra tai vạ nên từ đầu chí cuối chỉ vâng vâng dạ dạ ứng phó, bây giờ e là không thể ứng phó nổi nữa rồi. Đương sốt ruột thì bỗng nghe thấy tiếng bước chân từ sau bình phong ngọc tọa trong điện vọng tới, lập tức cả mừng nhướng mày.

Ba Nam Na Yết cũng hơi nguôi giận, đứng dậy chỉnh trang áo mũ.

Bóng người vòng ra từ sau bình phong lại khiến chủ khách lang trung đang đón tiếp sứ thần thoắt chốc biến sắc. Ba Nam Na Yết trông thấy một người đàn ông phong tư cao quý mặt mày tao nhã, tuy ăn bận kiểu hoạn quan nhưng lại khiến người ta không khỏi kính nể chú ý. Chủ khách lang trung thì nhìn không chớp mắt vào lệnh bài người đàn ông đeo bên hông. Lệnh bài ngọc tủy tua tím vàng khắc hoa văn khổng tước hoa lệ, rõ ràng là phẩm cấp đại thần chính nhất vị. Tôn vinh như vậy, trong hoạn quan không nghĩ ra được người thứ hai.

Đông thú hôm qua là lần đầu tiên trong suốt mười bốn năm nay tổng quản Phượng Đình nội cung Phương Chư hiện thân trước mặt quần thần. Vị nội thần quyền thế hiển hách trong truyền thuyết ấy khoác áo lông cừu tía dày nặng, mũ trùm che khuất hơn già nửa khuôn mặt, dẫu từng cởi bỏ áo lông chồn trong ưng thú nhưng cũng chỉ trong có một khắc, mãi đến tận lúc này, chủ khách lang trung mới được chiêm ngưỡng rõ dung mạo tay quyền thần này. Trong lửa than đốt trong lò đồng có lẫn tô hợp hương và huân lục hương, hương thơm dễ chịu, gạch sàn trong xanh thấm ra hơi nóng ấm áp, loáng thoáng mang hơi thở mùa xuân, ấy vậy nhưng sống lưng chủ khách lang trung lại xộc thẳng lên một luồng giá rét thấu xương không thể ngăn chặn. Chủ khách lang trung tuổi gần lục tuần đã từng gặp mặt thiếu niên anh tuấn hay chạy theo Trọng Húc trong thời Đế Tu mấy lần – đại thế tử Thanh Hải công.

Phương Chư chắp tay thi lễ, nói: “Xin hãy đợi thêm chốc lát, hoàng thượng sẽ tới ngay sau đây.”

Trong ống tay áo gấm trơn xanh lục, vết thương mới trên mu bàn tay phải đặc biệt gây chú ý.

“Khỏi cần, trẫm đến rồi.” Sau bình phong vọng tới giọng nói sáng sủa như chuông khánh.

Sứ thần Ni Hoa La tới thăm không hề khua chiêng gióng trống, lễ nghi yết kiến cũng hết sức giản lược. Vì không phải trường hợp nghi điển nên Đế Húc chỉ ăn mặc kiểu thường phục, để biểu thị thận trọng vẫn chọn một tấm áo hoa văn sóng nước thêu mười hai con rồng đứng. Nghi trượng chỉ gồm mười hai cung nhân, mười hai nội thần, duy có một võ quan thiếu niên nhắm mắt theo đuôi bám sát bên Đế Húc là đặc biệt nổi bật trong đám người. Thiếu niên đó mặt mũi xán lạn, eo như thắt lụa, sắc mặt lại nghiêm nghị chẳng mảy may tương xứng với tuổi hoa tươi đẹp của cậu chàng.

Vị hoàng đế Đại Trưng này đã chơi bời phóng túng mười bốn năm nay nhưng quốc gia của y quá to lớn tinh vi, dẫu mặc kệ không quản, nó cũng có thể tự tổ chức chính mình, cầm cự thật nhiều năm. Định mức các loại thuế khóa thu cống tăng lên từng năm, tựa như nhạc sư từng chút kéo căng dây đàn thăm dò xem nhạc khí có thể phát ra âm cao đến mức nào, Đế Húc cũng thăm dò cực hạn mà thứ dân có thể chịu đựng được như chơi một trò đùa quái đản.

Trung Châu phong phú quặng vàng, luyện kim tinh túy nhưng lưu thông ngoài phố chợ đa phần vẫn là bạc và đồng, quá nửa số lượng vàng đều cất trong quốc khố, không thấy ánh mặt trời. Dù vậy, vàng trong thiên hạ vẫn có đến bảy tám phần mười xuất xứ từ Đại Trưng. Thiên Hưởng năm thứ mười ba, ngân lượng địa phương nộp vào quốc khố rốt cuộc cũng hết chỗ cất chứa, bèn nghĩ cách đổi thành vàng ròng với các nước phương nam, khiến giá vàng nhất thời tăng vọt, chót vót không hạ, thương nhân Tây Lục tới tấp mang thật nhiều vàng đi thuyền từ Lôi Châu chạy đến đế đô, người Đông Lục gọi là kim khách. Tuy các nước láng giềng đã đặt rất nhiều quan ải ở hải cảng nhưng vẫn không cách nào khống chế dòng vàng chảy vào Đại Trưng.

Mùa hè năm nay, đến vàng quốc khố Đại Trưng cũng chẳng có chỗ cất, ti khố giám dâng tấu xin mở rộng nhà kho, Đế Húc liếc sơ, ngự bút châu phê, từ nay về sau miễn thuế mười năm, lệnh lấy một nửa tiền của trong quốc khố ra dùng vào tu bổ đê đập và kho lương các nơi, chủ sự ti khố giám bất tỉnh giữa triều, Đế Húc cười chê: “Keo kiệt. Có vào không ra, thần giữ của đó hả.” Chỉ trong vỏn vẹn nửa cuối tháng Bảy, lượng vàng chảy ra từ quốc khố đã đạt bằng một phần ba số lượng vàng lưu thông trong nước. Mấy ngày đầu, các nước láng giềng còn vui vẻ chắc mẩm giá vàng sắp quay về như thường, ai ngờ vàng nhanh chóng trượt giá, năm Thiên Hưởng thứ mười ba, tỉ giá đã là năm mươi hai lượng bạc đổi một lượng vàng, vẫn một đường lao dốc, trước sau không có dấu hiệu dừng lại. Giá vàng các nước vừa ăn được về quốc khố đảo mắt đã giảm mạnh, trên phố chợ còn xuất hiện chuyện hoang đường hai mươi bảy lượng bạc đổi một lượng vàng. Mười mấy quốc gia ở Tây Lục và Nam Cương cứ như vậy mất đi một nửa tiền bạc, lòng dân phấp phỏng, dư luận phố phường già trẻ gái trai đều phẫn nộ khôn nguôi.

Khi ấy, kim khách Tây Lục vẫn nườm nượp vào kinh, nhận được tin tức, ai mới đi nửa đường thì lập tức quay đầu vòng về, những kim khách khác không cam lòng bán rẻ vàng thu mua giá cao ban đầu, dứt khoát mua nhà ở tôi tớ trong đế đô, định bụng chờ giá vàng tăng trở lại. Song, cũng có không ít người Tây Lục nóng lòng bán vàng đi, thương nhân Đông Lục thừa cơ ra sức đè giá, khiến họ thua lỗ nặng. Những kim khách nóng lòng bán vàng đó quá nửa là ban đầu đã cầm cố gia sản tại cố hương, vay nặng lãi để đầu cơ, thu mua vàng đến Đông Lục buôn bán, nhưng số vàng thấp thỏm hãi hùng bảo toàn suốt một đường nay đã rẻ đến cái giá xưa nay không có, mắt thấy không cách nào về quê trả nợ đúng hạn, tuyệt vọng khôn xiết. Trong vòng mấy tháng, lên phố đế đô đập vào mắt chỉ toàn là kim khách Tây Lục ngồi một mình lo suông, cũng không thiếu người tự sát. Sứ thần các nước đều đã triệu tập người thân của họ, chuẩn bị lên đường đi Thiên Khải.

Các nước Tây Lục vẫn đang trong mùa đông, không thể tới ngay, Ni Hoa La ở phía nam, sứ thần cũng đến sớm nhất, trên danh nghĩa là xử lí sự vụ an táng cho kiều bào, yết kiến Đế Húc, nhưng thực chất cũng ngầm có ý hưng sư vấn tội.

Đế Húc ngậm nụ cười lạnh lùng hàm súc, nhìn Ba Nam Na Yết hùng hồn lý luận, từ đầu đến cuối không nói một câu.

Đầu gối cong gập trong áo bào của chủ khách lang trung run lẩy bẩy. Húc vương thiếu niên kiệm lời ít nói, minh mẫn quả đoán năm xưa tại sao lại trở nên đáng sợ như vậy? Đế Húc không có hứng thú xâm lược nước láng giềng, cũng chưa từng nghe nói có động tĩnh gì về mặt lương thảo binh lính, cướp bóc của nước khác như vậy không phải để mở rộng lãnh thổ mà chỉ là đùa vui một trận – coi thiên hạ là chậu bùn, coi thứ dân là sâu kiến, coi công quỹ là tiền cược – trò đùa này mới xa xỉ làm sao! Mà cái người tay nắm cỏ chọi (*) kia thì dẫu có chơi đến hăng say thích thú cũng chưa từng ngửa mặt cười dài, chỉ không nói một câu cứ thế thưởng thức sóng gió ba thước trong chậu.

(*) Chọi cỏ

“Ba Nam Na Yết đại nhân, trẫm nghe nói quý quốc tôn giao nhân là thần tiên bảo hộ hàng hải, điềm lành tuyệt thế, giống như rồng trời trong truyền thuyết nước ta, có phải vậy không?” Giọng nam trong trẻo như thủy tinh va chạm, cơ hồ rộ lên tiếng vọng trong điện.

Ba Nam Na Yết không ngờ Đế Húc yên lặng hồi lâu, đến lúc mở miệng lại hỏi một câu như vậy, trong sự hồ nghi, chỉ đành qua quýt đáp một tiếng: “Vâng.”

“Đại nhân từng trông thấy giao nhân bao giờ chưa?”

“Chưa ạ.”

“Vậy, đợi đến sau lập xuân khi thượng sứ các nước tề tụ ở Thiên Khải, mời đại nhân tới cung cùng thưởng lãm giao nhân.”

Lò sưởi tay Ba Nam Na Yết ôm thình lình vang boong một tiếng, y cơ hồ đứng bật dậy, “Giao nhân thuộc về thần tiên, chỉ có thể gặp không thể cầu, sao có thể giam cầm trong cung?”

Bàn tay buông thõng bên người Hải Thị lặng lẽ nắm chặt, lòng bàn tay phải lành lặn buốt nhức từng cơn.

Đế Húc mỉm cười không đáp, liếc sang người đàn ông hầu hạ bên mình.

Phương Chư gật đầu, đưa mắt về phía Ba Nam Na Yết, vẻ mặt ôn hòa, trong lời nói lại hàm chứa uy thế khổng lồ, “Đón điềm lành vào hoàng cung cung phụng là bởi quốc vận nước ta hưng thịnh, chẳng lẽ đại nhân nghi ngờ quốc vận nước ta?”

Ba Nam Na Yết nói không lại, mặt đỏ chót, buồn bực nhất là đàm phán giá vàng không có kết quả, chỉ đành hậm hực chắp hai tay, đáp: “Nào có, đến lúc đó tiểu thần nhất định sẽ có mặt.”

Phương Chư thoáng liếc, Hải Thị đang nhìn chàng từ phía bên kia ngai vàng, như thể lâu đài chọc trời lung lay muốn đổ bị chặt đứt trụ chống cuối cùng, trong con ngươi nàng có thứ gì đang ầm ầm sụp xuống.

Ánh mắt tủm tỉm của Đế Húc vòng một vòng trên người Ba Nam Na Yết, lại lượn về trên người Hải Thị.

Đế Húc không lâm hạnh Phượng Ngô Cung suốt nửa tháng.

Đế Húc vô cùng sủng ái Thuần Dung phi Phương thị mới sách phong, đó là sự thật ai ai trong triều cũng biết. Phượng Ngô Cung vốn là nơi ở của thái hậu, nguy nga tráng lệ sánh ngang Kim Thành Cung, sau được ban cho Yên Lăng đế cơ. Sau nữa, đế cơ xảy ra chuyện, Phượng Ngô Cung bỏ trống mười năm rồi được ban cho vị Thuần Dung phi có biệt hiệu Hộc Châu phu nhân này.

Tiếng mõ lạnh lẽo vang lên từ chòi gác, đã qua giờ Hạn.

Nữ quan ngoài cửa bẩm báo, đêm nay hoàng thượng ngủ một mình tại Kim Thành Cung, chư cung tần phi có thể tháo nữ trang buổi tối.

Cánh cửa mở hé, Hải Thị lắc đầu, cung nữ tới hầu nàng tắm gội đành phải bưng chậu mã não nguyên trạng lui ra.

Cung thất cao rộng vắng vẻ, châu ngọc xà cừ lấp lánh dưới ánh đèn.

Hải Thị ngồi ngay ngắn trên sập, sợi dây ngọc lam quấn trên ngón tay treo một quả cầu hương tráng men. Nàng giơ cao tay rủ quả cầu hướng xuống trước mắt, tay kia thò một ngón tay ra búng nhẹ, quả cầu hương chạm rỗng lập tức xoay tròn vun vút như một chiếc hỗn thiên nghi (*) tí hon, chén hương bên trong ba lớp trục tròn lại hoàn toàn không nghiêng không đổ. Đốt trong đó là long tiên hương, còn dai dẳng hơn cả ảo ảnh lâu đài trên biển, làn khói xanh nhạt màu lục bảo bay ra từ quả cầu ngưng tụ trong không trung mãi chẳng tiêu tan. Nàng rút trâm vàng trên tóc ra, thò vào sợi khói, chậm rãi rạch khói xanh thành hai đường, tiếp đó là bốn đường, tám đường, cuối cùng nát vụn, bị nàng thổi một hơi tứ tán mất tăm như đựng đầy những sợi lông vũ hư ảo.

(*) Máy đo đạc thiên thể thời cổ, dùng để biểu diễn các hiện tượng trên trời.

Gió khuya thổi cánh cửa sổ phần phật, Hải Thị im lặng thở dài, quăng quả cầu hương sang một bên, đứng dậy đi tới trước cửa sổ, hắt lên rèm cửa cái bóng đội ngọc đeo vàng.

Nàng đưa tay vén rèm sa lên.

Dáng hình cấm thành lay động trong đêm, rộng lớn vắng lặng. Nghĩ mà chẳng biết hơn sáu trăm năm qua, bao nhiêu mỹ nhân cuộn rèm từng hắt bóng lên song cửa này, sau đó già ốm từ trần, tiêu tan trong tháng năm ngút ngàn.

Bóng mỹ nhân đậu lên cửa sổ, rèm mi chớp chớp như cánh bướm, sau đó rốt cuộc cũng mở cánh cửa ra.

Dưới hiên vi vu gió thổi, bóng dáng người áo đen treo ngược cũng chẳng né tránh, ngược lại còn thẳng thắn vô tư đối diện cùng Hải Thị.

“Anh định canh chừng đến khi nào?” Hải Thị nở nụ cười khổ nông nhạt.

“Canh đến khi tiểu công tử không trốn nữa thì thôi.” Tiêu Tử đáp.

Tiểu công tử? Nụ cười khổ của cô gái bận cung trang sâu hơn. Nàng làm gì còn dáng dấp tiểu công tử nữa? Tóc vấn đôi vân song hoàn kế (*), mỗi bên cài một đóa mẫu đơn bằng vải dệt; mày tỉa cong cong, giữa trán rủ một viên dạ minh châu giao lệ; môi tô son, thân khoác địch y hoa văn khổng tước bằng gấm trắng ngà, trong vạt áo lấp ló ngấn đỏ.

(*) Kiểu tóc vấn hai búi tạo hình đám mây.

Nàng khẽ thở dài: “Anh trở về nói với người kia, ngày nào y còn muốn ta tự tay săn ân nhân cứu mạng của mình, ngày đó ta sẽ còn nghĩ cách bỏ trốn. Dẫu kề đao ép ta tới bờ biển, xuống nước, các người cũng chẳng làm được gì đâu.”

“Tiểu công tử cũng biết đấy, hai năm nay vì chuyện giá vàng, các nước chung quanh đều rất bất mãn. Ngoài Già Mãn và Hộc Khố đang giao chiến không rảnh để ý đến, hơn nửa còn lại đều đã ngầm có động thái.” Tiểu Tử thấp giọng trần thuật. Qua lời Tiêu Tử, Hải Thị như nghe thấy tiếng người kia lạnh lùng chồng đằng sau – chất giọng thuần khiết ôn hòa, vết đao cũ bên khóe miệng ắt đang nhếch lên thành một nụ cười, “Các nước phương nam đều tôn giao nhân là thần bảo hộ thông thương hàng hải, nước ta được giao nhân bảo vệ mới có thể ít nhiều có hiệu quả hàng phục. Loạn Nghi vương bình định còn chưa được hai mươi năm, trước mắt chỉ tính riêng chuyện vàng bạc trong dân gian đã đủ hỗn loạn rồi, ngoại chiến nội loạn chỉ cần xảy ra mấy tháng, xu thế quốc thể sụp đổ trăm họ lầm than khó mà vãn hồi. Chẳng lẽ tiểu công tử lại muốn gánh tội nghiệt bỏ mặc sáu ngàn vạn mạng người?”

“Anh sai rồi.” Hải Thị hiên ngang ngẩng đầu, lạnh lùng nhìn Tiêu Tử, như đang nói với ảo ảnh sau lưng Tiêu Tử, “Cần gì phải lừa mình dối người? Tội đẩy sáu ngàn vạn người vào vực sâu chỉ có thể do hoàng đế gánh.”

Tiêu Tử hơi ngẩn người, rất nhanh lấy lại bình tĩnh, “Lệnh đường lão phu nhân hẳn đã đang trên đường vào kinh, đợi tiểu công tử đón giao nhân trở về là có thể đoàn tụ.”

“Các người, vậy mà…!” Hải Thị giận dữ tột độ, rờ tay lên hông nhưng không mò được trường kiếm thường dùng.

“Lão phu nhân hay tin tiểu công tử làm kế thất nhà giàu ở kinh thành, đón lão phu nhân vào kinh chăm sóc, ắt hẳn trong lòng vui lắm, chỉ mong sớm ngày gặp được ngài.” Đoạn, Tiêu Tử chắp tay thi lễ rồi ngửa người ra sau, hai tay bắt ngược lên mái hiên, im hơi lặng tiếng leo lên nóc điện, tung mình mấy cái đã biến mất trong màn đêm mịt mùng.

Hải Thị đứng lặng tại chỗ, rèm sa trước cửa sổ tung bay trong gió rét đêm đông.

Sáng sớm hôm sau, lúc tiến vào hầu hạ thay y phục, nữ quan phát hiện ra trong cung thất không một bóng người, chuỗi vàng xâu ngọc và địch y gấm trắng vứt bừa bộn trên mặt đất, hai đóa mẫu đơn nở rộ gấp bằng vải dệt bị gió bấc thổi một đêm đã héo rũ thất sắc.

Đoạt Hãn, em trai của Tả Bồ Đôn vương Hộc Khố Đoạt Lạc tập hợp quân đội bộ Hữu Bồ Đôn và nước Già Mãn, soán ngồi Tả Bồ Đôn vương. Đoạt Lạc chết trận, bãi cỏ và súc vật của bộ Tả Bồ Đôn vào tay người bộ Hữu Bồ Đôn một phần ba.

“Trước lập xuân, sứ thần các nước Tây Nam tụ tập tại Hãn Châu, phái quân hộ tống từ Hoàng Tuyền Quan đi đế đô, thuận tiện mang theo tin tức về biến loạn của Hộc Khố. Tả Bồ Đôn vương Đoạt Lạc quyết ý thôn tính Già Mãn, gặp phải người Già Mãn liều chết phản kích, kẻ địch xưa nay của gã, Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề, còn hứa gả hai con gái cho Đoạt Hãn, em trai Đoạt Lạc, phái quân trợ giúp Đoạt Hãn soán ngôi. Dưới tình thế hai mặt giáp công, bộ Tả Bồ Đôn liên tiếp tháo chạy, Đoạt Hãn chính tay đâm chết Đoạt Lạc, cướp ngôi Tả Bồ Đôn vương.” –《 Nội các đại khố · Tấu chương hợp điệp · Thiên Hưởng quyển · Thập ngũ niên nhất nguyệt 》

“Biên cương ổn định. Tin báo về lúc nào cũng là biên cương ổn định. Từ đông chí đến lập xuân, biên cương không hề có động tĩnh gì, người Hộc Khố không vờ công Hoàng Tuyền Quan đúng hẹn, đến dấu hiệu tập hợp đội kị binh cũng chẳng có chút nào.” Giọng Sưởng vương không lớn, thái dương lại loáng thoáng nhấp nhô gân xanh, “Tin báo duy nhất không phải biên cương ổn định thì lại là tin chết của Đoạt Lạc.” Một cuốn sổ gấp bìa gấm bị ném xuống trước mặt Phù Nghĩa, “Không có Đoạt Lạc phối hợp hãm chân ở Hoàng Tuyền Quan, bằng vào binh lực trong tay chúng ta, đối phó với Cận Kỳ Doanh và Vũ Lâm Quân là quá miễn cưỡng.”

“Vương gia.” Phù Nghĩa nhíu mày gần như không nhận ra, “Võ tướng hộ tống sứ thần vào kinh lần này là đồng bào của tôi ở Hoàng Tuyền Quan, phần lớn binh sĩ cũng là bộ hạ cũ của tôi, hơn nữa trong Cận Kỳ Doanh có hơn hai vạn quân trực thuộc quyền tôi, thêm người nhà họ Thiện nữa cũng đủ rồi. Hiện giờ con gái nuôi của Phương Chư đã không còn binh quyền, Vũ Lâm Quân cũng không đáng ngại. Không bằng vương gia tìm cớ rời kinh, đợi thuộc hạ quét sạch trong kinh rồi hẵng quay lại, đỡ lôi thôi điều tiếng.”

“Võ tướng hộ tống sứ thần tên là gì? Ông có nắm chắc được hắn không?” Trong đôi mắt nheo lại của Sưởng vương vụt lướt tia sáng.

“Hắn tên là Trương Thừa Khiêm, xuất thân dân thường, là bộ hạ cũ của Quách Tri Hành.”

“… Vậy được. Đêm qua bọn đánh cá cũng tới rồi.”

“Ồ?” Thần sắc Phù Nghĩa thoáng xao động.

Xưa nay Sưởng vương vẫn ngầm gọi Chú Liễn là “bọn đánh cá”, có thể thấy cực kì chán ghét. Thời niên thiếu hắn bị đưa sang Chú Liễn làm con tin, chịu đủ lạnh nhạt, thật khó dễ cho một đứa trẻ mười một tuổi như hắn phải cẩn thận dè dặt, minh mẫn hiếu học, bảo toàn chính mình trong cung đình. Năm mười ba tuổi, Nghi vương làm phản, cậu Quý Sưởng là Phần Dương quận vương cũng làm phản theo, Quý Sưởng lập tức sai người đưa thư từ Chú Liễn về cho Trọng Húc, lòng đau như cắt trần tình tuyệt không hai lòng, đồng thời đổi vàng bán ngọc mua lương thảo gửi về Hãn Châu, còn bị quan viên Chú Liễn mỉa mai bóc lột. Đến khi thế lực Trọng Húc dần lớn mạnh, chiến thắng đã trong tầm với rồi, thái độ của người Chú Liễn đối với Quý Sưởng mới nhiệt tình hơn. Sứ thần Bồ Do Mã khi xưa xem thường Sưởng vương còn mượn cơ hội mong cầu cậy thế, gửi một mặt quạt tơ tằm thượng hạng tới xin Sưởng vương ban chữ, Sưởng vương cũng chẳng khước từ, múa bút đề ngay. Bồ Do Mã đắc chí hả hê gắn mặt quạt vào khung quạt, khoe khoang khắp nơi. Người Chú Liễn không biết chữ Đông Lục, quá nửa chỉ khen nịnh mấy câu lấy lệ rồi thôi, năm ngàn Vũ Lâm quân đi theo thì không khỏi cười thầm – bốn chữ Sưởng vương đề là “Tiền cự hậu cung (*)”, quả là rồng bay phượng múa, có thần có khí.

(*) Nghĩa là “Trước kiêu căng sau cung kính”

Sau khi Đế Húc đăng cơ, Sưởng vương bày tỏ nguyện vọng trở về Đại Trưng, Chú Liễn không chỉ lập tức cho đi mà còn biếu tặng một đống bảo vật, dâng hiến công chúa Đề Lan. Sưởng vương hai mươi mốt tuổi lập tức tỏ tường đạo lý giấu mình, đẩy hết công lao trong tám năm loạn lạc cho Thang Càn Tự, bản thân giả bộ phóng đáng, tránh được rất nhiều tai mắt.

“Ta nói với người kia, đáp ứng mọi điều kiện chúng đưa ra, cộng thêm một cái là giết Bồ Do Mã, ta lên ngôi rồi sẽ cân nhắc để quốc khố Đại Trưng ăn lại vàng.” Sưởng vương nở nụ cười lười biếng, “Bồ Do Mã đã sống được tới bảy mươi tuổi, vụ mua bán này đã hời cho chúng lắm rồi.”

Chấp sự đưa thư báo vào, Sưởng vương vội mở ra xem, hàng mày rậm đột nhiên nhướng lên, nhìn Phù Nghĩa, “Trong cung truyền tin, Thuần Dung phi mất tích, hoàng thượng cũng không hạ chỉ tìm kiếm.”

Thiếu niên nhúng nắm tay phải vào nước biển, ánh châu trắng mờ mơ hồ lấp ló qua kẽ tay. Động tác mở bàn tay chậm rãi như sợ hãi thứ trong lòng bàn tay mình. Rốt cuộc bàn tay cũng mở ra hoàn toàn, thứ phát sáng là hai chữ viết theo hàng dọc.

Lang Hoàn.

Đôi mắt thiếu niên đông lạnh sáng trong.

Nửa vầng trăng sáng nhô lên cuối ba đào, sóng trắng nhỏ vụn phác họa bờ biển quanh co kéo dài. Thiếu niên tháo đai áo đặt bên chân rồi cởi xiêm áo vải xanh toàn thân, để lộ làn da cá mập xám xanh sáng bóng, cất bước vào biển. Mỗi một bước lại chìm xuống sâu hơn, nước biển lạnh mướt nồng hậu ôm lấy từng tấc, cho đến khi che ngập đỉnh đầu. Hải Thị ngẩng lên, mặt nước cách đỉnh đầu hai thước như một tấm gương phản chiếu dung nhan nàng, lờ mờ nhìn thấy trong bóng ngược ánh trăng trong veo nom tựa đốm sao. Nàng vẫn hít thở được, dấu ấn giao nhân để lại cho nàng hồi bé vẫn còn ma lực. Nàng bèn tiếp tục lặn sâu hơn vào bóng tối của biển, cho đến khi tiến vào dòng chảy ấm áp cực đại dưới đại dương. Đàn cá trích và cá hồng vịnh di trú trở về bơi hướng Bồng Lai như ngàn vạn con chim di cư tụ tập bay lượn trên trời, tà tà lướt qua ngọn rừng hải tảo. Dòng chảy mạnh như cuồng phong, cứ như chỉ cần hơi vỗ mạnh hai cánh tay là có thể bay được. Hải Thị xem la bàn nhỏ xíu trong hộp lưu ly treo trước ngực, đạp hai chân rời khỏi đáy biển, cưỡi hải lưu, để nó mang nàng đến nơi nàng muốn đến.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 15: Tóc hoa sao chịu thấu III



Mười bốn tháng Giêng, dạ yến lập xuân, nem công chả phượng, ca múa thành đàn. Sứ thần bảy nước Ni Hoa La, Nam Bì, Chú Liễn, Tích Phủ, Ương Cát Tháp, Thổ Hỏa Lỗ, Già Mãn đều nhận lời mời, tề tụ ở chính điện Quân Lôi Cung.

Đế Húc mặc cổn phục gấm đen thêu rồng vàng vờn nhật nguyệt ngũ sắc và chữ triện vạn thọ, đầu đội miện mười hai chuỗi ngọc, mặt mày uy nghiêm, thần sắc trang trọng.

Đề Lan khoác đản y song phượng ngũ sắc, được đặc cách ngồi cùng sứ thần Chú Liễn Tác Lan trên ghế đầu bên phải. Thân phận Tác Lan cao quý, là con út của Chú Liễn vương, em trai cùng mẹ với Thục Dung phi Đề Lan. Đề Lan quanh năm không rõ tin tức cố quốc, lúc này không khỏi mừng rỡ khôn xiết, trong đôi mắt đen láy như mây sấm rưng rưng ngậm lệ, nắm hai tay em trai, dùng tiếng Chú Liễn rủ rỉ tâm sự.

Sưởng vương ngồi ghế trên bên trái, thân bận bào son hai vai thêu rồng, rôm rả trò chuyện với sứ thần Ương Cát Tháp. Trong khi đó, sứ thần Ni Hoa La và Thổ Hỏa Lỗ thì đều tỏ vẻ bất an, chẳng có lòng dạ nào yến ẩm. Rượu qua ba tuần, rốt cuộc, sứ thần Ni Hoa La Ba Nam Na Yết không nhịn được, đánh mắt nhìn sứ thần Chú Liễn Tác Lan, Tác Lan cũng đưa mắt đáp lại rồi giơ bình rượu ngọc trong tay về phía Đế Húc: “Bệ hạ, nghe nói gần đây quý quốc nghênh thần đuôi rồng vào cung phụng dưỡng, có thật vậy chăng?”

Đế Húc mỉm cười nhìn Tác Lan sau rèm ngọc xanh, bình thản đáp: “Thật.”

Chư thần trên điện đều lộ vẻ kinh ngạc, xì xào bàn tán.

Ba Nam Na Yết kìm nén khiếp hãi trong lòng, chắp tay nói: “Vậy thì quả là đáng mừng. Nước tôi và Chú Liễn, Thổ Hỏa Lỗ đều coi trọng mậu dịch đường biển, hết lòng tin thần đuôi rồng. Nếu thần đuôi rồng hạ giáng quý quốc, tôi mong được thưởng thức tận mắt pháp tướng của ngài, cầu bình an cho thương khách nước tôi, xin bệ hạ tác thành.”

Đế Húc quay đầu nhỏ giọng hỏi Phương Chư, Phương Chư cúi đầu đáp: “Chuông trống đánh báo, nửa khắc trước đã qua Kế Hàn Môn.”

Ba Nam Ba Yết nhớ lần trước gặp mặt, chính hoạn quan này đã khiến y phải lúng túng khó xử, trong lòng đương nhiên không vui, bèn hậm hực uống một ngụm rượu thuần.

“Vậy à?” Tiếng cười Đế Húc mát lạnh như ngọc, “Ba Nam Na Yết đại nhân, ngài nhìn về phía nam đi.”

Dứt lời, trăm người trong điện đều quay đầu ngó ra cửa điện.

Quân Lôi Điện nằm trên trục đối xứng của cấm thành, hướng nam nhìn xuống có thể bao trọn ngoại đình cấm thành vào mắt, hướng bắc là chính điện triều nghị Tử Thần Điện và Ninh Thái Môn ngăn cách nội cung với ngoại đình. Lúc này trăng mờ mây trôi, sắc trời phía nam phớt đỏ, từ cổng chính cấm thành Khai Bình Môn đến trước Quân Lôi Điện, cung thất chín dặm đều không sáng đèn, trong bóng đêm trầm nặng chỉ thấy nóc điện lưu ly nối nhau như biển, chính giữa xuyên thủng một con đường, gọi là Vân Đạo.

Ba Nam Na Yết đứng dậy dõi mắt ra xa song chẳng thấy một động tĩnh nào, nghi hoặc quay đầu lại nhìn Đế Húc, Đế Húc tuy ngậm cười nhưng hàng mày rậm thanh tú xếch chéo vào tóc mai lại đột ngột nhướng lên, ánh mắt mãnh liệt.

Trong điện xôn xao tiếng kinh hãi.

Cấm thành xây dựa theo thế núi, Tử Thần Điện trên ngọn, độ cao của Quân Lôi Điện chỉ dưới Tử Thần Điện, từ trên điện có thể nhìn thấy Khai Bình Môn rộng bảy trượng, cao năm trượng đang chậm rãi mở ra. Giữa khe cửa hừng hực ánh đỏ, là lửa đuốc chen chúc, một người cưỡi ngựa phi vào cổng, cây đèn bằng đá hai bên Vân Đạo dẫn lửa liên tiếp, vừa châm sáng, đèn đuốc lập tức uốn lượn như rồng, đèn lần lượt sáng lên từng ngọn từng ngọn hướng về Quân Lôi Điện, rực rỡ nguy nga, dẫn dắt hàng đèn chính là người cưỡi ngựa như sấm sét kia. Vó ngựa tung bay, năm cánh cửa cấm ầm ầm mở rộng, bảy điện Càn Tuyên, Khôn Vinh, Cửu Tĩnh, Định Hòa, Văn Thành, Võ Đức, Tường Vân theo thứ tự sáng đèn, óng ánh như châu báu khổng lồ. Chẳng mấy chốc, người cưỡi ngựa đã đến dưới Quân Lôi Điện, trên ngựa hóa ra có hai người, thiếu niên nhảy xuống yên, ôm một người khác che mặt vào lòng, chân không chạm đất chạy lên điện.

Cuối hàng ghế, một người đàn ông râu quai nón đứng bật dậy, cả kinh lẩm bẩm: “Hải Thị?!” Sưởng vương liếc xem, đó chính là tham tướng Hoàng Tuyền Quan Trương Thừa Khiêm hộ tống sứ thần vào kinh chuyến này.

Gần như đồng thời, Ba Nam Na Yết kêu to một tiếng, quên cả đi giày, cứ thế chân trần chạy khỏi chỗ ngồi. Thiếu niên nhanh nhẹn lướt qua người Ba Nam Na Yết, cuốn theo mùi tanh của biển. Ba Nam Na Yết quay đầu nhìn lại, thiếu niên đã đứng trước mặt Đế Húc ở bàn trên, đuôi tóc đọng muối, thần sắc kiêu ngạo. Người trong lòng thiếu niên bọc vải ướt từ đầu đến chân, đầm đìa nhỏ nước.

Trong điện nhất thời lặng ngắt, đến tiếng hít thở tim đập của hơn trăm người cũng bặt thinh.

“Bắt được rồi?” Đế Húc nhướng một bên mày hỏi. Sứ thần ba nước Ni Hoa La, Chú Liễn và Thổ Hỏa Lỗ cùng tùy tùng mặt đều đổi sắc. Nước họ tôn giao nhân làm thần đuôi rồng, địa vị cao quý, ngày thường bất kính với giao nhân, trong mắt họ đã là dị đoan, huống hồ còn dùng chữ “bắt” đại bất kính với thần linh! Thiếu niên không nhiều lời, chỉ gỡ vải ướt trên mặt người trong lòng ra. Khăn vải vừa mở, mái tóc xoăn xanh trong tức thì rủ xuống, một lúc sau, trong tóc có thứ gì khẽ dựng lên – là một cái tai trắng ngần nhọn mỏng. Thiếu niên một tay ôm cô gái, để nàng tựa lên người mình, một tay bóc tầng tầng vải ướt ra, để lộ làn da xám trắng ẩm ướt. Cô gái đứng không vững, hai tay ôm chặt cổ Hải Thị, Ba Nam Na Yết đứng gần cô gái nhất lập tức gào thét. Trên hai cánh tay cô gái mơ hồ hiện đường vân vảy rồng, giữa ngón tay có lớp màng trong màu lam óng, giống y hệt tượng thần đuôi rồng ở Ni Hoa La, càng chẳng khác gì hình thần đuôi rồng trên mặt dây chuyền Đề Lan đeo.

Lang Hoàn nhíu chặt hàng mày xanh, đôi mắt to khác thường ngơ ngác mở ra, ngờ vực nhìn chung quanh.

Ngay đến Đế Húc cũng không khỏi thấp giọng trầm trồ.

Trong đôi mắt xanh trong của nàng chỉ có con ngươi không có tròng trắng, ánh mắt lưu chuyển, mống mắt màu bạc chiếu ra ánh châu bảy sắc, nom như xoáy nước.

Tiếng vạt áo hất tung, hai đầu gối chạm đất nổi lên bốn phía. Sứ thần ba nước Ni Hoa La, Chú Liễn và Thổ Hỏa Lỗ cùng tùy tùng rối rít rời khỏi chỗ ngồi, đi vào giữa điện cung kính quỳ xuống hành lễ với Lang Hoàn. Lang Hoàn kinh ngạc nhìn những con người quỳ lạy đầy đất, lại quay sang ngó Hải Thị, Hải Thị chỉ im lặng tỉnh bơ.

Giao nhân giơ ống tay áo giao tơ ướt đẫm che mũi miệng lại, một đốm sáng ngời lấp lánh rơi xuống, lúc chạm tới đất thì nảy bắn lên – là ngọc giao lệ. Nàng đưa một tay lên, móng tay xanh nhạt dịu dàng lướt qua má Hải Thị như mang vô hạn thương tiếc và xót xa.

Đứa trẻ đáng thương. Theo cái vu.ốt ve trơn mịn lạnh ướt, một giọng nói huyền ảo nhỏ nhẹ vang vọng trong đầu Hải Thị.

Lang Hoàn vùi mặt về lòng Hải Thị, trên gạch bùn trong (*) vang lên tiếng tí tách như tiếng nhạc. Mọi người chăm chú nhìn kĩ, thì ra là vô số giao châu ào ào rơi xuống từ trong lòng thiếu niên kia.

(*) Bùn trong là loại vật liệu làm từ bùn nhuyễn gạn lọc nung thành, tính chất trơn nhẵn, thường được dùng làm nghiên mực với khả năng đựng nước không cạn, gặp lạnh không đóng băng.

Ánh mắt Phương Chư lại chẳng hề đậu lên giao nhân. Rèm mi và đuôi tóc của thiếu niên ôm giao nhân li ti đọng muối, da bị nước biển ngâm cho trắng phờ, nom hệt một vệt u hồn. Trong mắt chàng có vụt lóe đau thương rồi biến mất.

Trong mắt nàng có mặt gương, lạnh lùng phản chiếu mọi thứ bên ngoài, đóng băng linh hồn nàng. Chàng rất quen thuộc với ánh mắt ấy – mười bốn năm qua, mỗi ngày khi rửa mặt chải đầu đều có thể nhìn thấy trong gương.

“Thế nào, Ba Nam Na Yết đại nhân.” Giọng nói trẻ trung êm tai của Đế Húc ngậm ba phần hài hước, “Nước ta đang định xây cung thất giữ thần đuôi rồng nán lại lâu dài đây.”

Ba Nam Na Yết dập đầu nói: “Bệ hạ! Ngài nhân ái khoan hậu, xin hãy trả thần đuôi rồng về biển đi! Nếu trong biển không có thần đuôi rồng, giao long sẽ liên tục xuất hiện, gây nên sóng dữ, trăm họ nước tôi…” Y không nói nổi nữa, tuôn lệ ròng ròng, chỉ dập đầu không ngớt.

Tác Lan cũng ngẩng đầu khẩn thiết nói: “Hơn nửa nhân dân nước tôi cũng sống nhờ biển cả, không có thần đuôi rồng, tình cảnh ắt sẽ khó lường. Khẩn xin bệ hạ nể tình thông gia giữa hai nước, ân chuẩn lời thỉnh cầu này.”

Sứ thần Thổ Hỏa Lỗ thì ngậm miệng nín thít, lê đầu gối đến trước bàn trên quỳ cứng tại đó, người run cầm cập.

Đế Húc tựa nghiêng lên bàn, sau mười hai chuỗi ngọc xanh rủ xuống từ mũ miện, đôi mắt phượng ngang tàng thoáng lấp lóe ánh lạnh: “Trừ phi các ngươi kết đồng minh với trẫm tại đây, thề trước thần đuôi rồng chỉ cần Oanh Ca Hải và Giáng Nam Hải một ngày không khô, tất cả con cháu hậu duệ của các ngươi sẽ vĩnh viễn không được xâm lược nước ta. Kẻ trái lời thề mãi mãi không được thần đuôi rồng chiếu cố.”

“Ngày mười bốn tháng Giêng năm thứ mười lăm, địa phương dâng cống giao nhân. Đế Húc triển lãm trước di sứ, chư di sứ đều lấy làm tin phục, bèn thiết lập liên minh lập xuân, thề giao hảo đời đời, không dấy binh lửa.” —《 Trưng thư · Bản kỷ · Đế húc 》

“Vương, ngôi sao kia tự dưng sáng lên kìa.” Trên thảo nguyên bát ngát, cậu bé tóc vàng dắt ngựa bỗng chỉ về phía chân trời.

Chàng trai trẻ dung mạo vượt trội ngồi trên ngựa ngẩng đầu nhìn lên bầu trời hướng đông nam, “À, đó là Thanh Hủ, là ngôi sao lớn hiếm hoi trên trời sao phương bắc. Nghe nói, nó là mệnh tinh của đế vương Đông Lục thế hệ này.” Hắn mỉm cười, con ngươi đen láy ánh kim, râu cằm nhú lên một lớp mỏng xanh thép, mái tóc dài buộc sau đầu, đen nhánh uốn lượn như sóng Minh Hà.

“Vậy sẽ thế nào ạ? Ông ta sẽ đánh Hộc Khố chúng ta ư?” Cậu bé ngước con ngươi xanh biếc, ngậm cỏ hỏi.

“Không biết.” Khóe miệng sắc cạnh của Đoạt Hãn nhếch lên một nụ cười lạnh nhạt, “Đó cũng không phải sáng lên – có lẽ sau cùng nó sẽ phát nổ.”

Trong hào quang xanh trắng ban đầu của Thanh Hủ lóe ra màu đỏ tươi bất thường, rung động mờ ảo như một trái tim đang đập.

Sao Thanh Hủ mọc rồi. Hải Thị ôm đầu gối, cuộn tròn trong một góc sập rộng, ngửa mặt trông lên trời, mái tóc đen như một tấm áo bao phủ cơ thể nàng.

Một đầu khác trên sập, người đàn ông nằm ngủ đắp chăn gấm ngang hông, nửa thân trên săn chắc để trần, hơi thở đều đặn, Hải Thị choàng áo, im lặng bò qua, một tay nắm vạt áo, cúi đầu nhìn mặt y.

Gương mặt người này đường nét kiêu hãnh, dù hai mắt nhắm nghiền, đuôi mắt vẫn xếch lên, lạnh lùng nghiêm nghị khó tả. Nàng thử tròng hai bàn tay vào cổ y, song trước sau vẫn chẳng siết chặt. Nếu nàng rạch một đao lên gương mặt này, vết thương sẽ chỉ xuất hiện trên gương mặt một người đàn ông khác, nếu nàng b.óp ch.ết người trước mắt, người đàn ông kia sẽ chết trước trong tay nàng; nhưng, nếu nàng hôn người này, người kia lại mãi mãi chẳng cảm nhận được.

Đế Húc mở mắt, ánh mắt sáng quắc như băng cứng.

“Biết mười bốn năm nay, trẫm nghĩ gì khi nằm trên cái giường này không?”

Hải Thị không đáp, hai bàn tay chụp cần cổ Đế Húc cũng không buông ra, ngược lại còn tăng thêm chút sức lực.

“Mười bốn năm nay, trẫm suy tưởng sớm chiều cũng chỉ có một chữ, chết.” Tiếng nói phun ra từ cặp môi mỏng của y tựa ánh trăng trong vắt óng ánh ngoài cửa sổ, “Chỉ cần bên cạnh không có đèn, trẫm sẽ không tài nào ngủ được. Dù ngủ được, chỉ cần có người trong vòng một thước quanh mình, cũng sẽ tỉnh lại. Tám năm ấy, trẫm không phải ở nhân gian mà ở trong địa ngục, đợi tám năm qua rồi, trẫm đã chẳng còn là người nữa.”

“Vạn dân cũng ở trong địa ngục, không chỉ mình ông.” Hải Thị trầm giọng đáp.

“Thứ dân có thể vứt ruộng đất trốn vào núi thẳm, có thể ôm chân địch khóc lóc cầu cạnh, có thể chết đi như cỏ dại – trẫm không thể. Bá Diệu trốn mất rồi. Hắn treo cổ tự sát, bỏ trốn trót lọt. Thúc Vân chết yểu từ lâu, Quý Sưởng mãi tận Chú Liễn, nếu trẫm cũng bỏ trốn…” Y bỗng ngừng lại, nở nụ cười khổ, “Năm ấy trẫm mười bảy tuổi, không có một thân võ nghệ đầy bụng thao lược, còn chưa từng giết ai bao giờ. Phụ hoàng đột tử, phản quân áp thành, trẫm cũng sợ chứ. Giám Minh đúng hẹn dẫn binh tới giúp ta phá vòng vây, nhưng năm ấy nó cũng mới chỉ mười bốn tuổi.”

Đế Húc nằm yên, mỗi một câu nói, tay Hải Thị lại cảm nhận được lồng ng.ực y rung rung.

“Trẫm phải gánh hết những thứ ấy. Sinh tử no ấm của nhân dân và binh sĩ, thắng bại của cuộc chinh chiến, tranh chấp nội bộ và phản bội, uy h**p đến từ các lộ tướng lĩnh cần vương nắm binh tự lập. Trẫm không thể sợ hãi, không thể thất bại, không thể trốn tránh, thậm chí còn không thể chết. Những năm loạn lạc, nhân gian chính là một bể máu. Trong tám năm ấy, trẫm cứ suy nghĩ mãi…” Trong mắt Đế Húc dần hiện thần sắc ma mị trước sau như một, “Nếu nung chảy hết đao kiếm thiên hạ đúc thành lưỡi cày, binh thư đều hóa thành phân bón, có khi nào sẽ thái bình hơn không? – Vậy không được. Con người trời sinh đã biết tranh chấp thù giết, chẳng qua vì giết nhiều rồi nên mới chú trọng đến kỹ thuật và hiệu suất, đẻ ra binh thư và đao kiếm mà thôi. Phải làm sao đây?” Đế Húc ngẩng lên nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Hải Thị.

“Chẳng bằng, trừ bỏ những tướng lĩnh mưu lược xuất chúng kia.” Môi Hải Thị run rẩy, giọng thều thào.

“Cái gọi là danh tướng chỉ đơn giản là đầu mục giết người cướp của xuất chúng. Không có họ, dân gian chỉ còn lại tranh chấp ruộng đất giữa nông phu, ẩu đả giữa cuốc và ghế. Không tốt à?” Đế Húc mỉm cười như trẻ thơ.

Hải Thị thấp giọng mắng: “Ông điên rồi.”

“Người dám nghĩ như vậy trong thiên hạ có đến vài trăm vạn, cũng chỉ mình ngươi dám nói thẳng với trẫm.” Nụ cười Đế Húc sâu hơn, dưới ánh đèn ngày đêm không tắt của Kim Thành Cung, dung mạo mang vẻ khôi ngô tà ác, “Lúc trẫm muốn sống, bao nhiêu người muốn mạng trẫm. Hôm nay trẫm đã sống chán thì lại chẳng ai chịu giết trẫm, hạ sát thủ với họ cũng không ép được họ lên đường làm phản. Thà giết người thay trẫm, thà gánh tiếng xấu thay trẫm, thà tự thương tổn chính mình – nó nhất định không chịu giết trẫm. Ngươi nhìn xem, dù trẫm cướp mất ngươi, làm ngươi thương tích khắp mình, cũng không thể khiến nó chống lại ta. Nếu trẫm tự sát thì phải gi.ết ch.ết Giám Minh trước, trẫm không làm được.” Đế Húc cầm hai tay Hải Thị, dễ dàng kéo nàng vào lòng mình, Hải Thị ngửi thấy mùi rượu thoang thoảng trong hơi thở của y, “Ngươi cũng không làm được. Ngươi cũng giống trẫm, không làm được.”

Hải Thị ngã sấp vào lòng Đế Húc, rơi lệ trong câm lặng.

“Không sao. Sắp tốt lên rồi, nhanh thôi.” Đế Húc vuốt tóc Hải Thị như đang vỗ về một đứa trẻ cùng bệnh với mình.

Đèn đuốc xán lạn xuyên thấu muôn vàn cánh cửa Kim Thành Cung, soi sáng đêm cấm thành yên tĩnh.

“Điện hạ, chính là chỗ này.” Thị vệ dẫn đường khom người thi lễ, gọi về sự chú ý của Quý Sưởng. Hắn ném cái liếc cuối cùng về phía Kim Thành Cung rồi dời mắt sang cánh cửa trước mắt.

Cửa phòng vừa mở, trân châu chất đống cả tấc trong cửa lập tức tràn ra, lăn tới chân người, long lanh chói lóa khiến người ta hoa mắt. Sưởng vương lùi lại một bước, nhặt một viên giao châu lên tỉ mỉ soi trước ánh sáng, không kìm được kinh sợ híp mắt. Chỉ là một hạt châu thôi mà phảng phất bên trong như chứa đựng trời cao biển rộng, hào quang muôn mối huyền ảo. So với lệ của Lang Hoàn, trân châu mà trai ngọc ẩn nhẫn ấp ủ, được rót năng lượng của thủy triều nhật nguyệt mà thai nghén gọt giũa nên hình chẳng khác nào mắt cá dại đờ.

Đưa mắt vào trong, sâu trong phòng tản mạn mái tóc dài xoăn xanh trong lộng lẫy như sóng biển. Chủ nhân mái tóc có vẻ khóc mệt buồn ngủ, nằm sấp dưới sàn, mặc mái tóc dài chấm đất thành dòng chảy tứ phía giữa cả sàn trân châu, trên mắt cá chân cuộn lại bên người mọc vây cá rất nhỏ. Như cảm nhận được hắn lại gần, những chiếc vây đó nhè nhẹ đung đưa. Tựa mây mù tản đi để lộ một đường biển biếc, đôi mắt xanh trong to khác thường từ từ mở ra, dáng vẻ vẫn yếu ớt nhưng ánh mắt thì sáng sủa thông thấu.

Nàng giơ một bàn tay về phía hắn, năm móng tay xanh nhạt dài một tấc, giữa ngón tay phiêu diêu lớp màng óng ánh của loài thủy tộc.

Trước giờ hắn chưa từng tin tín ngưỡng của người Chú Liễn, chỉ coi nàng là sinh vật khác loài ngụp lặn trong biển. Nhưng sinh vật khác loài này lại có vẻ đẹp biệt lập nhân thế của riêng nàng. Mắt thấy nước da sáng bóng như đồng thau mê hoặc dưới ánh nến, hắn không sao kháng cự được, thò tay ra định thử đón lấy bàn tay tinh xảo tao nhã của nàng. Nàng cũng chẳng dừng lại, chỉ chầm chậm lưỡng lự tiếp tục vươn về phía trước, cho đến khi ngón tay nàng chạm vào má hắn.

Đầu ngón tay trong suốt trơn mượt lướt qua gương mặt hắn. Đầu mối hỗn loạn của kí ức như rút ra đầu sợi vải lụa, kéo nhẹ một cái, cả thớt lụa lập tức rào rào tháo tung.

Kể từ hồi học đi, hắn đã biết đường sống yên lặng như một con mèo trong cung. Mẫu phi Nhiếp thị chưa sinh hắn ra đã thất sủng, Nhạc hoàng hậu, mẹ đẻ thái tử Bá Diệu không lâu sau đó cũng qua đời, kiêu ngạo khoa trương nhất trong cung phải kể đến Tống phi, mẹ đẻ của Trọng Húc và Thúc Vân. Cung nhân hoạn quan cố nhiên chưa từng có ý ức h**p mẹ con Quý Sưởng, nhưng cũng chẳng thèm che giấu gương mặt nịnh bợ khinh thường. Thái tử Bá Diệu không được hoàng thượng thích, tin đồn phế trưởng lập thứ đã sớm rộ lên ầm ầm. Bản thân hắn khỏi cần trông ngóng, Thúc Vân thì một mực ốm bệnh, ngôn luận của mọi người đều ngầm chỉ hướng Trọng Húc. Khi đó, hoàng thứ tử Trọng Húc và đại thế tử Thanh Hải công Phương Giám Minh là đôi thiếu niên chói lọi nhất trong cấm thành, mà hoàng tử là hắn lại chỉ có thể đứng trong xó xỉnh nhìn bóng dáng họ phóng ngựa nô đùa, cẩn thận che giấu ánh mắt hâm mộ trẻ con.

Sợi tơ nhanh chóng rút tung, nút kết tháo rời.

Hắn còn nhớ lễ hạ thú tiết đại thử năm chín tuổi, Trọng Húc và Giám Minh lén chạy ra bãi săn, ham chơi trốn vào hầm chứa băng, không cẩn thận bị thú nhân tuần núi khóa cửa nhốt bên trong.

Lúc Trọng Húc được cứu ra đã chẳng khác nào người chết, vẫn ôm chặt Giám Minh trong lòng, giữ cho lồng ng.ực Giám Minh hơi ấm cuối cùng. Hắn chạy lên sờ mặt Trọng Húc, xúc cảm cứng ngắc buốt giá đó khiến hắn sợ hãi, ngay sau đó, hắn được cung nhân vội vàng bế đi, nhường chỗ cho ngự y.

Xúc cảm lạnh băng vẫn nán lại trên đầu ngón tay, như một giọng nói ác ý. Giọng nói đó ghé vào tai hắn, bặt câm hỏi rằng: Nếu người bị nhốt trong hầm băng là hắn, liệu Trọng Húc có bất kể tính mạng che chở cho đứa em trai khác mẹ là hắn như vậy không? – Tuy nhiên, sẽ chẳng bao giờ có cái “nếu” ấy. Trọng Húc chưa bao giờ chơi chung với hắn, chưa chắc đã là ghét bỏ hay thù hằn mà có lẽ chỉ là từ nhỏ đã không được nuôi cùng một chỗ nên không hợp nhau.

Trong cung rối ren như một nồi cháo, từ trên xuống dưới đều bôn tẩu vì tính mạng của hai thiếu niên kia, không ai chú ý tới tứ hoàng tử Quý Sưởng đang tái nhợt khuôn mặt nhỏ, đứng ngoài cửa vọng nhìn.

Hai năm sau, Bồ Do Mã đưa Tử Trâm tới, để trao đổi, người Chú Liễn yêu cầu một hoàng tử của nhà Trưng mang về Chú Liễn làm tin. Chẳng có gì để nghi ngờ, người đó phải là hắn. Mẫu Đơn tỷ tỷ lấy chồng xa, ngoài mẹ ra, không ai bên cạnh cần hắn, mà mẹ thì đã sớm bệnh tình nguy kịch, không có hi vọng bình phục, cũng chẳng nhìn ra ngày chết đã định, đành phải tiếp tục trầm kha đau ốm. Dọc đường sang tây, hắn bé nhỏ yếu ớt say nắng ngủ mê man, làm lỡ giờ lên đường, cũng bị tên sứ giả Chú Liễn Bồ Do Mã kia quát mắng.

Đại Trưng dậy loạn, thế cục không rõ, đến lễ pháp miễn cưỡng người Chú Liễn cũng chẳng buồn duy trì nữa, chỉ coi hắn là một phế vật nuôi trong hoàng cung. Hắn đổi tiền bán của, thăm dò tin tức trong cung, ngũ thiên kị thiếu niên tùy tùng thì ra mật lệnh cho binh lính tâm phúc đổi quần áo lẻn vào dân gian tìm mua lương thảo, đưa về Hãn Châu – nếu phản quân soán vị lên ngôi, hắn sẽ hoàn toàn rơi vào tuyệt cảnh, nói không chừng người Chú Liễn còn coi hoàng tử tiền triều là hắn như lễ vật bày tỏ thiện chí, đưa vào tay tiếm vương Chử Trọng Nghi.

Phải sống sót.

Mười năm ấy, hắn từ nhi đồng trưởng thành thành thanh niên, giống như lữ khách khát khô thoát khốn trong sa mạc cần thật nhiều thật nhiều nước, hắn cần thật nhiều thật nhiều quyền thế, bằng không ban đêm sẽ không thể ngủ yên.

Có thứ gì lạnh băng rơi liên tiếp lên mu bàn tay hắn. Hắn đột ngột bừng tỉnh khỏi thần trí mê loạn, phát hiện ra bào son của mình đã bị mồ hôi lạnh thấm ướt. Bàn tay nhỏ nhắn yêu kiều của Lang Hoàn vẫn đậu trên má hắn, trong đôi mắt xanh tuôn giọt châu ào ào.

Đừng khóc. Một giọng nói như vọng lại từ hang sâu núi thẳm khe khẽ cất lên trong đầu hắn, như mẫu thân nằm trên giường bệnh gắng sức vu.ốt ve khuôn mặt hắn. Quý Sưởng, đừng khóc.

Hắn hoảng hốt lau má, dính đầy tay áo chẳng biết là nước mắt hay mồ hôi.

Sau đó, hắn kinh ngạc ý thức được giao nhân trước mắt không hề mở miệng, giọng nói ngọt ngào mênh mông ấy đến từ sâu thẳm trong đầu hắn.

Đừng khóc.

Lang Hoàn một lần nữa lau nước mắt không kìm nén được cho hắn. Mỗi lần ngón tay nàng lướt qua da, hắn lại nghe thấy giọng nói dịu dàng kia.

Hắn khiếp sợ hất bàn tay xinh đẹp quái dị ấy ra, lùi về sau, lại bị câu nói vọng tới từ sau lưng làm giật mình căng cứng hai vai.

“Đó là cô ấy đang nói chuyện.” Hải Thị bưng một tước rượu lớn bằng bạc đứng ở cửa, lạnh lùng nói, “Giao nhân không phải thần tiên. Tuy Lang Hoàn không hiểu tiếng chúng ta nhưng có thể dựa vào chạm sờ đọc được quá khứ của chúng ta mà nhờ đó chúng ta cũng có thể nghe được tiếng nói trong lòng họ. Họ sống quá lâu dưới biển sâu, trong đôi mắt từ bi của họ, không ai trong chúng ta không phải sinh vật phù du đáng thương.”

“Vậy à?” Quý Sưởng không nhanh không chậm đứng dậy, khôi phục vẻ mặt phóng túng tùy tiện thường dùng trước mặt người khác, “Giao nhân thông minh như vậy, sao phu nhân lại có thể thuyết phục được cô ấy rời khỏi động phủ thủy tinh của mình?”

Nàng chẳng lí tới hắn, đi tới cạnh Lang Hoàn, vén y phục cẩm tú lên ngồi xổm xuống. Im lặng hồi lâu, nàng thấp giọng đáp: “Cô ấy chỉ thương xót ta mà thôi – dưới đáy biển, cô ấy cũng xoa má ta như vậy.”

Quý Sưởng lặng thinh chốc lát, lại nói: “Vậy cứ không ăn không uống thế này, liệu có chết mất không?” Chỉ mình hắn biết trong giọng nói nhởn nhơ của hắn nhuốm nhè nhẹ run sợ.

Hải Thị đưa tước rượu kề bên miệng Lang Hoàn, cũng không quay đầu lại, đáp: “Có mặt ta, cô ấy mới miễn cưỡng uống ít nước biển, người ngoài thì không được.”

“Sao không đưa vào Cửu Liên Trì ngâm nước?”

“Trong nước ngọc Cửu Liên Trì có bột ngọc trai, cứ tới gần là cô ấy lại đau lòng muốn điên.” Hải Thị nhìn Lang Hoàn uống nước biển, nhẹ nhàng vu.ốt ve mái tóc dài ẩm lạnh của nàng.

Thanh niên áo son thở dài: “Vậy, lễ tiễn thần về biển này chỉ e phải mời Hộc Châu phu nhân đồng hành rồi.”

Hải Thị ngoái đầu lại nhìn xoáy vào hắn, “Là ta đón Lang Hoàn đến đây, đương nhiên cũng sẽ đưa cô ấy nguyên vẹn trở về.”

Ánh mắt ấy hoàn toàn chẳng giống một phi tử tuyệt trần được sủng ái hết mực mà giống một thiếu niên quân trang tháo vát thanh tú, sắc sảo tỉnh táo. Nàng cũng chỉ là một quân cờ không rõ tiền đồ giữa ngón tay số mệnh, nhưng lúc nào cũng tỏa ra vẻ đẹp lẫm liệt bức người mang hình dáng lưỡi đao. Dẫu sao thời gian cũng chẳng dối lừa – Nàng còn trẻ đến thế kia mà.

Nếu nàng là một món đồ chơi quý giá có thể khóa lại cất đi, có lẽ hắn chẳng cần thiết phải phá hủy nàng. Nhưng nàng lại minh mẫn nhuệ khí như vậy. Ngày ấy đã đến ngay trước mắt, hắn nghĩ mà không khỏi nảy sinh chút tiếc nuối.

Trong gió mát đêm đông loáng thoáng ẩn chứa hơi thở pha tạp hơi nước, phả vào mặt ấm áp dị thường.

Đó là bào thai bão táp đang cựa mình.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 16: Điêu tàn gió thu lay



Nỉ đỏ thêu hoa văn hình sấm và chữ Vạn chỉ bạc chỉ vàng trải dài từ trong đại điện ra ngoài, con đường hoa lệ còn chưa thấy điểm cuối đã bị ánh nắng trắng lạnh ngoài cửa vùi lấp dấu hình.

Phương Chư đứng sau đoàn người, nhìn nàng bước từng bước trên thảm nỉ đỏ. Trĩ y nền đen lớp lớp hoa chìm quấn quít với những đóa hoa thêu nổi vàng hồng, trang nghiêm diễm lệ, tôn lên nét son nhũ đỏ bạc. Mắt phượng mi dài nặng trĩu, tựa một cặp khóa khóa kín đôi mắt từng lúng liếng trong veo. Thiếu nữ nam trang cược rượu luận kiếm khi xưa như đã bị đuổi ra khỏi cơ thể này, còn mỹ nhân điềm đạm không dính bụi trần trước mắt thì chỉ là một linh hồn đã chết mượn xác chàng chẳng hề quen biết.

Khoảnh khắc bước ra cửa Tử Thần Điện, ánh nắng lạnh lùng nhất thời làm lóa mắt nàng, nhưng nàng vẫn tiếp tục cất bước không nghiêng không lệch. Sáng sớm không gió, khắp trời tuyết nhỏ như hạt gạo thong thả rơi xuống thẳng tắp, người đen nghìn nghịt im ắng quỳ đầy đất.

Vì tiễn thần đuôi rồng về nơi cư ngụ, mồng một tháng Hai, Sưởng vương và nhóm sứ thần ba nước xuất phát từ Thiên Khải, Hộc Châu phu nhân, sủng phi của Đế Húc dẫn sáu mươi nữ quan đồng hành, tám ngàn cấm quân hộ vệ, trong đó cỗ kiệu nóc nhọn mái cong mạ vàng là tọa liễn của thần đuôi rồng và Hộc Châu phu nhân.

Khoảnh khắc leo lên cỗ kiệu, nàng thoáng ngoái đầu, ánh mắt xanh trong nhẹ lướt lên thềm son như bươm bướm vỗ cánh. Người kia vẫn đang đứng đấy – như ẩn như hiện sau trùng trùng bóng người, đó chính là vị trí của chàng từ trước tới nay.

Mắt thấy Sưởng vương nắm binh tự lập chỉ ngay trong sớm chiều, mấy ngày tới thế nào cũng sẽ xảy ra một trận binh loạn, không ở kinh thành thì cũng ở ven biển. Chuyến này tới chân trời, duyên phận mỏng manh giữa chàng và nàng hôm nay có lẽ đã đến cuối.

Cách nhau quá xa, dẫu ánh mắt có từng chạm nhau, bản thân họ cũng chẳng thể hay biết. Màn tuyết mịt mùng ngăn cách giữa hai người họ, chậm rãi mà bất khả kháng cự.

Hàng ngũ nghi trượng uốn lượn ra khỏi thành từ Kế Hàn Môn, kéo dài mấy dặm, đồ sộ tráng lệ. Đầu xuân năm Thiên Hưởng thứ mười lăm, in sâu nhất trong kí ức trăm họ lại chẳng phải hàng ngũ xa hoa này mà là sóng gió phản loạn kinh hoàng trỗi dậy vào mấy ngày sau đó, đợi đến khi tân hoàng lên ngôi thì đó đã là chuyện của cuối thu đầu đông.

Trong bảy ngày rời khỏi đế đô, từ đầu đến cuối Lang Hoàn chỉ một mực ngủ li bì trên đầu gối Hải Thị, thỉnh thoảng tỉnh dậy uống mấy ngụm nước biển. Mọi người cũng chẳng biết phải làm thế nào, chỉ có thể trơ mắt nhìn làn da mát rượi trơn ướt của Lang Hoàn mất đi độ bóng từng ngày, mái tóc dài chấm mắt cá chân ngưng tụ đọng muối, ốm gầy xác xơ như một cánh bướm sắp trôi đi theo gió, nhưng lại không chịu cho ai tới gần ngoài Hải Thị và Ngọc Nhiễm. Họ đành phải không ngừng thay phiên dùng khăn ướt thấm nước biển lên da nàng. Đêm ấy lúc đến được hành dinh nghỉ chân, rốt cuộc Hải Thị mệt nhọc quá mức, không chờ được Ngọc Nhiễm trở lại đã chìm vào giấc ngủ.

Ban đêm, Hải Thị bị đánh thức khẽ khàng, nàng ngồi bật dậy nhìn quanh, thấy Lang Hoàn vẫn yên bình ngủ bên cạnh mới thở phào nhẹ nhõm.

“Sao vậy?” Hải Thị quay sang hỏi Ngọc Nhiễm đánh thức mình, thấy trong mắt Ngọc Nhiễm mơ hồ rưng rưng, lòng không khỏi nghẹn ứ.

Ngọc Nhiễm lùi ra sau một bước, nghiêm trang quỳ xuống bên mép giường, hai tay dâng lên một chồng quần áo, nói: “Phu nhân, ngài đi đi.”

Hải Thị lật giở chồng quần áo, đều là trang phục đàn ông, thần sắc càng thêm bén nhọn: “Đi? Bà muốn ta đi đâu?”

“Phu nhân, trưa nay phó tướng Cận Kỳ Doanh Phù Nghĩa giam lỏng đại tướng Hạ Nghiêu, hiện giờ đang tụ tập binh mã, rạng sáng ngày mai lãnh hai vạn binh đánh vào cấm thành, ủng hộ Sưởng vương lên ngôi.”

“Cái gì?” Hải Thị thất thanh. Lang Hoàn bị kinh động cũng nhập nhèm hé mắt.

Ngọc Nhiễm dúi quần áo vào tay Hải Thị, khấu đầu nói: “Chuyện xảy ra quá đột ngột, tướng quân Trương Thừa Khiêm đang nghĩ cách giải cứu đại tướng Cận Kỳ Doanh Hạ Nghiêu, lấy binh phù. Ngày mai chúng ta sẽ tới được bờ biển, thuyền rồng tiễn thần chỉ có phu nhân, Sưởng vương, sứ thần ba nước và tùy tùng của mỗi người, họ nhất định sẽ thừa cơ gây bất lợi cho phu nhân, bây giờ phu nhân không đi thì khó còn cơ hội khác lắm.”

Hải Thị nhìn Ngọc Nhiễm chăm chú một lúc, nở nụ cười: “Ngọc cô, thì ra bà cũng là thuộc hạ của nghĩa phụ?”

Ngọc Nhiễm nghe vậy mỉm cười hiền hòa, khóe mắt hiện nếp nhăn: “Nô tì chỉ là một cung nhân lâu năm nhìn hoàng thượng và thế tử lớn lên mà thôi.”

Hải Thị lắc đầu cười nhẹ. Người kia ấy à, rõ ràng thân đã sa vào lớp lớp vòng vây mà vẫn canh cánh lo nghĩ thả nàng tự do. Nhưng chuyện đến nước này không khỏi đã quá muộn rồi. Chàng cứ như vậy tự tay rạch lên người nàng vết thương rồi lại uổng công bưng đá quý châu ngọc tới thoa lên vết thương nàng, thuốc trị thương tầm thường đơn giản mà nàng cần nhất thì bất kể thế nào chàng cũng cho không đặng.

Hải Thị lấy tay áo che mặt, ngồi lặng chốc lát, lúc thẳng người trở lại dường như đã có quyết định. Nàng kéo Ngọc Nhiễm dậy, hỏi: “Ngọc cô, bà có thể hỏa tốc đưa tin về đế đô không?”

Mắt Ngọc Nhiễm sáng bừng, đáp: “Có thể. Đưa tin đi lúc này, sáng sớm mai là có thể đến được đế đô.”

“Được. Vậy bà hãy bảo họ rải lời đồn trong dân gian, nói là…” Hải Thị chớp mắt, “Nói là Sưởng vương vừa ra biển thì gặp gió lốc, thuyền đắm người mất. Như thế, nếu Đế Húc bị giết, huyết thống hoàng thất sẽ đoạn tuyệt, trong phản quân tất sẽ xảy ra lục đục nội bộ vì tranh đoạt quyền lực. Đi mau.”

Ngọc Nhiễm gật đầu thật sâu, xoay người ra cửa truyền tin. Chỉ một lát sau, Ngọc Nhiễm đã đẩy cửa đi vào, dáng vẻ khấp khởi: “Tin tức đã lên đường.”

Hải Thị cũng thở phào: “Kế duy nhất hiện giờ cũng chỉ có vậy, có kịp hay không thì phải xem ý trời.”

Ngọc Nhiễm lấy đống nam trang kia ra, nói: “Phu nhân, để Ngọc Nhiễm hầu ngài thay y phục.”

Hải Thị nhẹ nhàng khoát tay, “Không gấp. Ngoài hành dinh có binh lính canh phòng, thừa dịp họ giao ban canh ba giờ Sửu đi cũng không muộn.”

“Vâng. Mời phu nhân nghỉ ngơi, giờ Sửu nô tì sẽ gọi phu nhân dậy.” Đoạn, Ngọc Nhiễm định lui ra.

“Ngọc cô.” Hải Thị gọi.

“Vâng?”

Hải Thị vuốt lại tóc cho Lang Hoàn, cầm khăn thấm ước biển lên da nàng, “Khi còn bé, nghĩa phụ là người thế nào?”

Ngọc Nhiễm ngờ người, ngay sau đó nở nụ cười ấm áp.

“Thế tử và hoàng thượng là hai đứa bé đáng yêu lanh lợi nhất trong cung khi đó. Lúc được đưa vào đông cung nuôi dạy cùng thái tử, thế tử mới chỉ năm tuổi, thường cưỡi ngựa nhỏ ra ngoài chơi với các hoàng tử. Trong các hoàng tử, thuật cưỡi ngựa của hoàng thượng cao minh nhất nên đương nhiên thế tử và hoàng thượng cũng thân thiết với nhau hơn. Hoàng thượng thiếu niên lão thành, tuy hơn thái tử mọi bề song vì mẹ đẻ xuất thân thấp hèn, đi đâu cũng bị hạn chế, trong cung hiếm có một người bạn cùng lứa, thế nên cũng rất mực yêu mến thế tử. Thái tử đối xử với ai cũng hất hàm vênh váo mà cứ đến gần ngựa là run như cầy sậy, cũng không thích xem người khác cưỡi ngựa bắn tên, thường làm mình làm mẩy không cho thế tử ra ngoài chơi với hoàng thượng.” Ngọc Nhiễm vừa nói vừa mỉm cười thở dài như chìm vào hồi ức xa xôi.

“Thế nên mỗi dịp lễ tết các hoàng tử tề tụ ngự tiền là thời điểm hoàng thượng vui vẻ nhất. Các hoàng tử khác đều lấy lòng tiên đế và thái hậu, chỉ có hoàng thượng kéo thế tử sang một bên chơi đùa. Năm hoàng thượng mười lăm tuổi, đêm Nguyên Tiêu mười lăm tháng Giêng, hoàng thượng dẫn thế tử trốn cung nhân giả trang làm công tử quý tộc ra ngoài chơi, định vào dân gian ngắm đèn. Ai ngờ còn chưa ra khỏi cung thì bị thái tử bắt gặp, bèn xúi thái tử cũng thay xiêm áo, ba người mỗi người cưỡi một con ngựa cùng đi. Nào hay trên đường Vĩnh An, vật cưỡi của thái tử bị pháo dọa sợ, đá người khác bị thương đã đành, người còn ngã khỏi yên, một chân mắc trong bàn đạp không thoát thân được, cứ thế bị lôi xềnh xệch đi mấy trượng. Khi đó thân thủ hoàng thượng đã vô cùng linh hoạt, phóng ngựa đuổi theo vật cưỡi của thái tử, nhẹ nhàng tung mình cưỡi lên, muốn khống chế con ngựa rồi kéo thái tử lên yên. Ngờ đâu con ngựa kia hoảng sợ, chồm lên lồng lộn gần như hất ngài ra khỏi yên. Lúc này thế tử đuổi theo phía sau vội vàng bắn liền năm mũi tên, tất cả đều trúng vào khoeo hai chân sau của con ngựa, con ngựa mới khụy xuống, hoàng thượng lập tức rút dao găm giết nó. Năm ngàn Vũ Lâm quân nghe tin ào ào xông vào chợ đèn, đón họ về cấm thành. Hoàng thượng và thế tử chỉ mặt mũi tái xanh, nói không ra lời, hôm sau đã lại khỏe như vâm, thái tử thì phải nghỉ ngơi trọn một tháng. Đó chính là tai vạ ầm ĩ nhất trong kinh thành năm ấy. Lúc đó thế tử mới chỉ mười một tuổi. Tiên đế vốn định phạt nặng họ, lại thương họ thân mật như vậy, đành hạ chỉ đánh mỗi đứa ba trượng cho qua chuyện. Sau đó, hai đứa bé này càng thân nhau hơn, cùng cưỡi ngựa luyện võ, nghiên cứu binh thư, dùng cờ suy diễn trận thế, y như hai cây dương kề vai sát cánh, gặp gió vươn mình. Nếu không xảy ra cuộc chiến loạn kia, họ đã chẳng đến nỗi…” Ngọc Nhiễm bỗng không kể nổi nữa, im lặng quay mặt đi.

“Ngọc cô.” Hải Thị lau khóe mắt ẩm ướt như một đứa trẻ, cười nói: “Cảm ơn bà.”

“Phu nhân, ngài biết không?” Ngọc Nhiễm quay đầu trở lại, đầu ngón tay nhón chiếc phàn chỉ vàng khảm lưu ly xanh nhạt Hải Thị đeo trên cổ lên, “Cái này là Thanh Hải công tặng cho thế tử, năm đó hoàng thượng xin xỏ mấy bận thế tử đều không cho.”

Hải Thị trầm mặc chốc lát, ngẩng lên rầu rĩ nói với Ngọc Nhiễm: “Xin lỗi, Ngọc cô, ta không đi được. Nếu ta còn có thể làm điều gì cho chàng thì ta không thể đi.”

Ngọc Nhiễm còn chưa kịp thu ngón tay nhón phàn chỉ về, mặt đã hứng một cái bạt tai nóng rát, trong tai nổ đùng đoàng không dứt.

“Lão nô láo xược!” Hải Thị đứng phắt dậy, trỏ vào trán Ngọc Nhiễm khắc nghiệt trách mắng: “Thật to gan! Đừng tưởng bà hầu hạ hoàng thượng lâu năm là có thể bất kính với chủ tử!” Nàng cao giọng gọi: “Vệ binh! Vệ binh! Mau lôi mụ tiện nhân này ra cho ta!”

Ngọc Nhiễm bưng má, ngây phỗng nhìn Hải Thị.

Vệ binh nghe thấy tiếng huyên náo đằng xa, vội chạy tới, vừa hay chứng kiến Hộc Châu phu nhân nổi giận lôi đình, giao nhân ôm chặt lấy cánh tay phu nhân, không ngừng lắc đầu rơi lệ.

“Ngày mai phải ra biển tiễn thần, không thể phá xằng sát giới, thật quá hời cho bà!” Dưới cơn thịnh nộ, hoàng phi trẻ tuổi hất vỡ chung trà trên bà, oán hận ra lệnh: “Các ngươi lôi mụ ra ngoài trông coi sát sao cho ta, ngày mai quyết không cho mụ ta lên thuyền, đợi ta tiễn thần trở về rồi sẽ từ từ trừng trị con mụ này!”

Ngọc Nhiễm ngơ ngác nhìn gương mặt nom như trẻ con, xinh đẹp mà đoạn tuyệt, chợt nhắm mắt, lệ tuôn ròng ròng, để mặc vệ binh dìu mình ra ngoài. Tên lính đi sau cùng kính cẩn đóng cửa phòng cho Hải Thị.

Lang Hoàn vẫn quỳ gối ở mép giường, ôm chặt cánh tay Hải Thị, khẩn khoản lắc tay nàng, Hải Thị lại nhắm mắt, hồi lâu không đáp lại nàng.

Chân trời đã lấp ló ban mai. Nhưng người trong kinh ấy liệu có còn kịp thấy bình minh? Trên đỉnh cấm thành.

Trên nóc trùng diêm Tử Thần Điện gió mạnh rít gào, tay áo hai người đứng sóng vai trên đó phần phật như muốn bay đi. Đường phố ngang dọc như bàn cờ, nhà cửa như hạt đậu, đế đô mênh mông thu hết vào mắt, cho đến khi tầm mắt bị dãy núi lam mờ chặn mất.

“Giám Minh, giải quy ước nối mệnh đi. Chuyện tới giờ đệ có không đồng ý nữa cũng chỉ cho ta thêm được nửa ngày tuổi thọ, còn cuốn mình vào không, chẳng có ý nghĩa gì hết.” Đế Húc nhìn xuống ngoài Khai Bình Môn, hai vạn phản quân lúc nhúc như kiến, vây quanh mười mấy chiến xa thiết giác công thành, ồn ào ầm ĩ đánh vào Khai Bình Môn.

Phương Chư lặng im một chốc, bỗng cất tiếng: “Húc ca, đệ hiểu được câu huynh nói khi đó rồi.”

“Cái gì?” Đế Húc chẳng quay đầu lại, vẫn dõi thẳng về phía trước.

“Ngày đó chúng ta ngồi ở đây, núp sau thôn tích thú và mỏ diều hâu xem trộm Quý Sưởng lên đường đi Chú Liễn, huynh nói, nếu chúng ta không sinh ra ở đây thì thật tốt biết bao.” Trong mắt Phương Chư có nụ cười ấm áp.

“Nhưng nếu chúng ta không sinh ra ở đây…” Đế Húc hiên ngang ngẩng đầu nhìn trời, kền kền ngửi thấy mùi máu đã liệng vòng xa xa, chờ cơ hội sà xuống. Y cười nhạt, không nói nữa.

Phương Chư cười bảo: “Húc ca, vẫn còn thời gian đánh một ván cờ đấy.”

Đế Húc nhìn đế đô dưới chân, lát sau, nói: “Đi thôi.”

Trong Kim Thành Cung, cung nhân đã trốn sạch bách, rương tủ nghiêng đổ, tơ lụa châu ngọc xếp đống khắp nơi. Hơn trăm ngọn đèn da bò trắng không có ai tắt, vẫn tỏa sáng lờ mờ giữa sắc trời ban ngày.

Quân cờ đen trắng đan xen trên bàn cờ phỉ thúy, thế lực tăng giảm, thôn tính đấu đá, bị hạn chế vĩnh hằng trong ngang dọc tung hoành là phù du sáng sinh chiều chết trong bàn tay khổng lồ của số mệnh. Giữa nửa bàn cờ dang dở, mấy chục năm đời người chênh vênh.

“Trận dưới Thông Bình Thành năm ấy, nếu đệ không cứu trẫm thì thật tốt biết bao. Sau khi cha đệ qua đời, thế gian đã không còn người thứ hai biết bí mật huyết mạch Phương thị, đệ không cần phải làm bách hề của ai, trẫm muốn chết được chết, đến Quý Sưởng cũng có thể lấy được ngai vàng như mong ước, cũng coi như ổn thỏa. Nhưng đệ lại không chịu.” Đệ Húc chẳng cần nghĩ ngợi, tiện tay hạ một quân cờ.

“Quen biết ba mươi năm, lấy mạng đổi mạng lẫn nhau không biết đã bao lần, là hoàng đế hay không có can hệ gì đâu.”

Phương Chư trầm ngâm một thoáng, đang định hạ một quân cờ trắng xuống thì Đế Húc bình thản hỏi:

“Kể cả trẫm cướp đi người con gái đệ yêu cũng được?”

Ngón tay hạ cờ của Phương Chư hơi khựng lại, vẫn chuẩn xác đặt một nước: “Đứa bé ấy chưa bao giờ là của đệ.”

Đế Húc ngước mắt nhìn người đối diện bàn cờ, vẻ mặt ranh mãnh như thiếu niên, trong mắt lại cất thầm đau thương: “Đệ tưởng trẫm không còn nhận ra chiếc phàn chỉ đó nữa à?”

Đáp lại y là trầm mặc kéo dài.

Đế Húc chống tay đỡ trán, giữa ngón tay vân vê một quân cờ, thái độ nhàn nhã. Giữa lúc đăm chiêu, y thoáng liếc ra cửa, nói: “Ai bảo còn thời gian đánh một ván cờ? Mới thế đã có người tìm tới cửa rồi.” Đoạn thò tay quờ bừa, đảo loạn cờ trên bàn.

Phương Chư bật cười: “Lại trò cũ, mắt thấy sắp thua là y như rằng lấy cớ bỏ ván.” Vừa nhặt từng quân trắng vào chén phỉ thúy, vừa thoải mái hỏi: “Tiêu Tử, là anh?”

Người lính áo đen xuất hiện ngoài cửa đáp: “Là tôi, tổng quản.”

“Người của đệ?” Đế Húc nhặt quân đen, hỏi.

Phương Chư đậy nắp chén cờ phỉ thúy nạm vàng, “Không hẳn.”

“Người của Quý Sưởng?” Đế Húc cũng thu dọn quân cờ, hai chén cờ ngay ngắn đặt trên bàn cờ.

Tiêu Tử đi vào cửa, lẫm liệt đáp: “Cũng không hẳn. Tự ta một mình.”

Đế Húc bật cười, nói: “Người này thú vị đấy.”

“Hôn quân.” Trường kiếm bên hông Tiêu Tử keng một tiếng rời khỏi vỏ, chỉ vào Đế Húc, “Ban đầu ta cũng không tin ngươi có thể ngu ngốc đến nông nỗi này, tình nguyện lừa mình dối người, mạo hiểm bản thân, náu trong Vũ Lâm quân mười năm, âm thầm ngăn cản âm mưu làm phản của Sưởng vương. Nhưng mười năm quả thực quá dài, dài đến độ khiến ta không nhìn thấu nổi ngươi nữa. Hôm nay giết ngươi chẳng oan uổng chút nào, là thay trời hành đạo.”

Đế Húc bỗng đứng bật dậy, tay áo rộng phất phơ, “Càn khôn bỡn cợt trẫm, trẫm cũng bỡn cợt càn khôn. Nếu trời có đạo thì vì sao không giết phứt trẫm đi mà còn phải mượn tay người phàm? Mười mấy năm trẫm hung tàn bạo ngược, vì sao đến giờ mới có báo ứng?” Y dời mắt sang Tiêu Tử, mắt mày càng thêm ngang tàng, ngông cuồng không ai bì nổi, “Là trẫm tự tay giết mình, liên can gì đến trời?”

Tiếng trống da như vạn ngựa tung vó, chấn động mặt đất lao tới. Chín điện Càn Tuyên, Khôn Vinh, Cửu Tĩnh, Định Hòa, Văn Thành, Võ Đức, Tường Vân, Quân Lôi, Tử Thần bên ngoài bị đánh chiếm hoàn toàn, Ninh Thái Môn đã bị phá, phản quân ập vào hậu cung. Tiếng trống như bước chân cự thú, tiếng gào rít hỗn tạp của ngàn vạn người dâng trào, khiến rượu bồ đào hảo hạng tím lịm trong chén dạ quang Đế Húc cầm trong tay gợn lên lớp lớp ngấn mịn. Hướng Nhân Tắc Cung, gió hất cao tinh kỳ đỏ thẫm, sóng người như mây mù mang sấm chớp ùn ùn đâm bổ về Kim Thành Cung.

Y hệt như năm xưa, phía nam sông Li Lan nhạn bay thẳng cánh. Khi đó, họ đều đương tuổi phóng ngựa vung roi, vương kỳ nền đen rồng vàng và quân kỳ Lưu Thương đỏ thẫm như máu đan xen tỏa sáng trong mưa rào.

Đế Húc quay sang Tiêu Tử, cười ngạo mạn: “Người lưu danh sử sách chỉ có thể có một, cơ hội chỉ lóe trong chớp mắt. Ngươi muốn động thủ thì làm sớm đi.”

Tiêu Tử còn chưa kịp phản ứng, sau lưng lại vang lên một giọng nói khác.

“Trần Tiêu Tử, tới bước này rồi mới phản bội chủ tử ngươi thì không khỏi quá muộn rồi.” Một người đàn ông đứng ngoài cửa rút trường đao ra, khua hờ trỏ vào Tiêu Tử từ xa. Ông ta quay lưng với ánh sáng, mặt mũi đen sì một màu.

Tiêu Tử đứng lên, nhe hàm răng trắng tinh, “Chủ tử ngươi thì đối đãi với ngươi thế nào? Hắn không yên tâm về ngươi, sắp xếp ta trà trộn vào Vũ Lâm áo đen chờ cơ hội ám sát, ngươi có từng biết có một người như ta vậy không? Tin tức trong phủ do ta tiết lộ, hắn cũng chẳng nghi ngờ đến ta, lại một hơi giết hai mươi gia nô. Ngươi nghe lời chủ tử ngươi, nhưng chủ tử của ta chỉ có chính ta.”

Gương mặt đen thui của Phù Nghĩa vẫn không một biểu cảm, kim đao trong tay bị sát ý kí.ch thích, phát ra tiếng u u xa xăm. Bức tường người yên lặng sau lưng Phù Nghĩa bỗng bị một tiếng la hoảng loạn xô tách, chưởng quản Chức Tạo Phường Thi Lâm ục ịch mặt tròn chen vào, nhón chân rỉ tai Phù Nghĩa mấy câu. Gương mặt trước sau như một cứng ngắc tựa sắt của Phù Nghĩa lộ vẻ khiếp sợ rõ ràng, kim đao trong tay lật ngược về, áp sát cần cổ ngắn ngủi không đến một tấc của Thi Lâm: “Ngươi có dám thề lời ngươi nói là sự thật không?!”

Cặp môi dày đỏ thắm như đàn bà của Thi Lâm run rẩy theo đống thịt lỏng lẻo khắp thân, lắp bắp nói: “Sao, sao tôi biết được có thật hay không… Nhưng chưa qua một buổi sáng, trong kinh đã truyền khắp rồi!”

“Ra ngoài truyền lệnh, bất kể chiến công, bậc hàm, xuất thân, tất cả người tung tin vịt đều coi là làm nhiễu loạn lòng quân trước trận, xử tử không luận tội!” Phù Nghĩa thu đao, tóm Thi Lâm đẩy thẳng vào tường người. Cơ thể tròn vo kia như một tảng đá rơi tõm vào biển, dấy lên làn sóng càng khuếch rộng càng lan xa.

Một luồng kiếm phong ác liệt thoắt chốc sượt qua tai Phù Nghĩa. Ông ta ngạc nhiên quay đầu, thấy Tiêu Tử thừa dịp mọi người không để ý đã đâm một kiếm như chớp giật vào ngực Đế Húc. Đế Húc chẳng tránh chẳng né, thân hình dong dỏng, nở nụ cười kiêu ngạo. Thân kiếm đâm sâu vào ngực Đế Húc, xuyên ra sau lưng.

Đám người náo loạn ồn ào. Tiêu Tử trợn trừng cặp mắt thất thần như tận mắt chứng kiến ác mộng khó tin nhất trong đời.

Đợi đến lúc gã nghĩ đến chuyện cần rút kiếm về, Đế Húc đã bắt được cổ tay gã. Tiêu Tử nghe thấy xương cổ tay và khuỷu tay mình lách cách gãy vụn từng tấc.

Đế Húc mặt không đổi sắc, nhưng người bên cạnh y lại chợt cúi gập người.

Trong hư không có thứ gì lạnh băng đâm thủng ngực chàng. Thoạt đầu không cảm thấy đau đớn, chàng chống tay lên bàn cờ phỉ thúy, cúi đầu nhìn ngực mình dần thấm ra máu. Rốt cuộc vẫn đi đến bước này, quả thực quá mệt mỏi. Chàng khoan khoái thở dài, cuối cùng ngẩng đầu nở một nụ cười với Đế Húc, vết đao cũ bên khóe miệng nhẹ nhàng nhếch lên. Cách năm tháng thênh thang như nước chảy, hệt như cái năm mười ba tuổi ấy, chàng sóng vai cùng Trọng Húc giương cờ thoát khỏi đế đô, trên gương mặt ngây thơ treo nụ cười không lo không sợ. Dung mạo cao ráo khôi ngô của người thiếu niên đôi mươi trên bức tranh cuộn vẽ Lục Dực Tướng đến nay như vẫn còn y nguyên.

Tường người ngoài cửa điện nhất thời lùi vài thước. Những binh sĩ này đều là lính Hoàng Tuyền Quan cũ theo Phù Nghĩa chuyển vào Cận Kỳ Doanh, ai cũng từng thành kính dâng hương trước bức tranh Lục Dực Tướng trong quân từ.

“Chẳng lẽ là…”

“Không thể sai được, là Tĩnh Dực Vương!”

“Thái giám…”

“Không, Thanh Hải công…”

“Không phải Thanh Hải công đã sớm chết rồi sao?”

Tiếng người xì xào hỗn loạn như một sợi dây thừng từ từ quấn chặt lấy ý thức tan rã. “Nhu đức an tĩnh viết Tĩnh, cương khắc vi phạt viết Dực”… Quả thực chàng đã sớm là một người chết, một bài vị sơn đen, chiếm cứ một góc không thấy ánh mặt trời trong miếu đường, phấn vàng tô thụy hiệu – Tĩnh Dực vương.

“Giám Minh.” Giọng nói sáng sủa mát lạnh chọc thủng bóng tối, tạm thời kéo thần trí chàng về. Chàng muốn nói gì đó nhưng máu đã sặc vào khí quản, mỗi lần hít thở đều bật tiếng khí suy kiệt vỡ nát và mùi tanh như sắt.

Đế Húc đỡ vai chàng, mỉm cười: “Đệ ưa sạch sẽ, vậy ta không rút kiếm ra nữa, đỡ cho đệ bị máu phun đầy mặt.”

Phương Giám Minh cũng nhoẻn cười, không nói gì, chỉ gật đầu thật nhẹ.

Đế Húc quay sang nhìn đám quân sĩ nơm nớp dè dặt áp sát tới, thò ba ngón tay ra, bẻ gãy chuôi kiếm trước ngực mình để lưỡi kiếm trong lồng ng.ực không gây trở ngại đến động tác rồi rút trường kiếm bên hông đánh cheng, nghênh ngang chỉ vào bầy người trước mắt.

Nhưng đúng lúc này, tiếng người như sóng thần tụ lại từ bốn bề. Dẫu đã ra lệnh xử tử không luận tội cũng chẳng áp chế được lời đồn kia, cuối cùng, âm thanh hội tụ từ vô số tiếng thì thầm sợ hãi rợp trời ào tới.

“Thuyền lật, Sưởng vương chết!”

Giữa mắt mày Đế Húc thình lình bừng sáng, lẩm bẩm độc thoại: “Ha, trẫm thích kết cục náo nhiệt này hơn đấy. ‘Giết hơn trăm người, kiệt sức mà hoăng’ – viết như vậy trong sử sách mới giống trẫm chứ.”

Y quát một tiếng, mũi kiếm phát ra sát khí nhanh như tia chớp, chém ngang ngàn quân, máu me nhòa mắt.

Phương Chư như trông thấy dây mây tối tăm và lạnh giá thần tốc đâm chồi một chiếc lá sống, từ trong suối vàng leo về phía mình. Kí ức hóa thành biển mây mênh mông, dâng trào muôn vẻ.

Đau đớn xuyên thấu lồng ng.ực như một mũi tên bắn vào thời gian sâu thẳm, kéo chàng lội ngược dòng. Thương tích trên ngàn vạn gương mặt dính máu vỡ vụn khép lại, nếp nhăn phai mờ, trên tóc mai nhuốm sương bạc trắng, đốm sương dần dần tan đi – tuế nguyệt băng băng chảy ngược.

Đèn hoa chập chờn.

Thiếu niên mười chín tuổi hai tay ôm đèn, ngọn lửa nhấp nháy dần đứng yên. Thiếu niên nhìn ánh đỏ tươi đẹp thấm qua kẽ tay, đó là máu tươi chảy trong cơ thể chàng được đèn đuốc soi sáng.

Chàng quay đầu nhìn người đàn ông trẻ trên giường bệnh. Từng là vị vua phục chế khí khái bất khuất, quát tháo vạn quân, lúc này chỉ như một tượng đá hình người không có hơi thở, ngoại trừ vết thương trúng tên vẫn đang ương ngạnh rỉ máu.

Thiếu niên lấy một con dao tinh xảo mỏng tang ra, không nhanh không chậm hơ trên ngọn đèn. Trên lò đất sét đỏ bên cạnh, thuốc đã sắc xong, ục ục nổi lên bong bóng to như mắt cá trên ngọn lửa liu riu. Thiếu niên đặt con dao mỏng sang một bên, đứng dậy rót thuốc vào bát, thoáng lắc, nhìn chằm chằm nước thuốc đen kịt hỗn độn đang bốc nghi ngút hơi nước trắng xóa. Ánh mắt chăm chú như một thanh kiếm mới khai đao, lạnh lẽo căm căm chiếu rọi.

Thiếu niên đặt bát thuốc xuống, lại cầm con dao lên, nhắm vào cổ tay thoáng dùng lực, rạch cổ tay mình ra. Chàng giơ cánh tay lên cao, nhìn linh dược đỏ thẫm kia nhỏ xuống như say mê, dưới ánh đèn mờ tối, máu tươi tựa châu ngọc.

Đỏ nồng đậm hòa từng tia vào đen đục ngầu, cuối cùng lặn tăm. Chất lỏng sánh đặc trong bát bỗng gợn ánh như hổ phách, càng tỏa càng sáng, dần không thể nhìn thẳng.

Kể từ hôm hoàn thành bí thuật, tính mạng của chàng và Trọng Húc đã đan xen khó gỡ, máu thịt cộng sinh, không thể chia lìa.

Giống như hai hạt giống bụi bặm, cùng ngoan cường nảy mầm khỏi lòng đất, xòe lá, dần lớn thành đại thụ che trời qua mỗi một lần bên bờ sinh tử, mỗi một trận liều mạng chém giết. Sau đó trơ mắt nhìn nó bắt đầu thối rữa từ gốc rễ mà đành chịu bó tay. Hoặc giả là sai rồi nhưng chàng không cam lòng quay đầu ở đây. Từ đầu đến cuối, người muốn buông tay không phải Trọng Húc mà là chính chàng. Là chàng lấy gông xiềng vận mệnh ràng buộc hai người, đi tới điểm cuối đời người, đi đến khi phía trước hết lối, con đường đằng đẵng gian khổ này hôm nay cuối cùng cũng tới cuối, chẳng còn cái gì có thể trói buộc nữa.

Thiếu niên tộc Man tự do rong ruổi trên thảo nguyên kia là con chim cắt xanh chàng thả ra từ hai cánh tay mình, cũng sẽ là vị vương giả cai trị Hãn Châu. Mà Hải Thị – nghĩ đến đây, một cơn đau bổ nứt khác xé toang lồng ng.ực chàng – thiếu nữ anh tư hiên ngang ấy sẽ trở lại chốn nhân gian cuồn cuộn hồng trần, lấy chồng sinh con, thi thoảng sẽ nhớ tới chàng giữa những khoảng trống của cuộc sống đời thường, cũng có thể sẽ hoàn toàn bỏ chàng vào quên lãng. Cả đời này, nàng sẽ chẳng bao giờ biết được chàng trân trọng nàng đến nhường nào. Như xạ thủ trân trọng đôi mắt mình, như trai ngọc trân trọng viên minh châu duy nhất giữa hai mảnh vỏ – chàng cũng chưa bao giờ cần nàng phải biết. Chàng nguyện trải mình thành đường, đưa nàng tới cõi an vui.

Nếu chúng ta không sinh ra ở đây.

Tiếng Đế Húc tựa sấm rền tối tăm vụt lướt bên tai.

Nếu không sinh ra ở đây thì sao? Nếu chỉ là anh em thường dân sống nơi phố chợ, có lẽ nghiệt duyên sẽ chẳng nặng nề như vậy; nếu chỉ là trai gái tầm thường trong loạn thế, ruồng bỏ phụ lòng lẫn nhau, phỏng chừng cũng chẳng đậm sâu đến mức máu chảy đầm đìa như thế.

Từng bàn tay ma quỷ tử vong quấn lên, che đậy tầm mắt chàng, gò bó hơi thở chàng. Ánh sáng trong mắt dần tan rã, cơ thể mất đi lực chống đẩy bàn cờ phỉ thúy đổ xuống đất, quân cờ đen trắng rào rào tản mát tán loạn.

Lúc này hẳn nàng đã bình an thoát hiểm rồi, nhỉ? Tầm mắt dần ảm đạm, kiếm quang như rồng múa trong tay Đế Húc dần không còn khả năng đâm xuyên bóng tối. Sát na trước sụp đổ tan tành, chàng ngưng tụ nụ cười sau cuối bạc màu xám trắng.

Màu nước biển càng lúc càng sâu như sắp ngưng kết thành một mặt gương lam tối, thuyền rồng tựa một con thoi nhỏ, vững vàng hướng về đông bắc, cắt lên mặt gương con sóng trắng như tuyết.

Gió biển mát lạnh lùa vào khoang thuyền bày trí hoa lệ qua cửa sổ, vạt váy giao sa lam lạnh biếc trong bay lên, nhẹ nhàng như một cơn gió lành nhuộm ánh sáng kỳ ảo. Trong mái tóc xanh dài phủ kín đầu gối lác đác những viên châu giao lệ như đốm sao, một chiếc tai nhọn thanh tú khẽ động đậy. Lang Hoàn dần tỉnh lại trong tiếng sóng, nhoẻn cười với Hải Thị, thần sắc vẫn yếu ớt song ánh mắt thì như sống lại một lần nữa.

Ngón tay thon dài m.ơn tr.ớn mái tóc Lang Hoàn, Lang Hoàn chợt cau mày, nhẹ nhàng nắm tay Hải Thị.

Hải Thị mỉm cười: “Lang Hoàn, bây giờ tôi cũng chỉ còn mười ngón tay này là sai bảo được thôi. Cũng may bây giờ đã ra biển rồi, chị muốn rời đi rất dễ dàng.”

Chẳng biết từ lúc nào, thanh niên bào son đã đứng lặng ở cửa khoang, tủm tỉm nhìn nàng, khoan thai nói: “Thế nào? Gân cốt tê nhũn nhưng không còn cảm nhận được đau ngứa nữa phải không? Không tới nửa giờ, mắt sẽ dần không mất đi thị giác, sau đó đến lượt câm điếc rủ nhau tới, cuối cùng ngay cả tư duy cũng chẳng nổi. Phấn hoa Mạn Đà La đặc sản của Thổ Hỏa Lỗ có mùi thơm ngọt, chỉ cần trộn một ít vào son là có thể khiến người ta chết giả ba ngày rồi mới hết hiệu lực. Nhưng cô thì chẳng cần đến ba ngày này đâu nhỉ. Bây giờ chắc hai người họ đã chết cả rồi, một mình cô sống cũng chẳng có ý nghĩa gì.”

Hải Thị ngẩng đầu, nhìn Ba Nam Na Yết và Tác Lan đang lại gần, cười lạnh: “Một mặt thề hẹn không bao giờ phái quân tiến vào Đông Lục, một mặt ngấm ngầm trợ giúp phản loạn, thái độ của các người đối với thần đuôi rồng chẳng qua cũng chỉ lá mặt lá trái như vậy.”

Một tay Tác Lan nắm gọn hai cổ tay Lang Hoàn, kéo nàng ra sau mình, giọng chế giễu: “Phu nhân, tuy Đế Húc khinh nhờn thần linh, xem thường bọn ta, nhưng tấn công cấm thành là Cận Kỳ Doanh của người Đông Lục các cô mà.”

Hải Thị đưa mắt ra ngoài cửa sổ xem sắc trời, thấp giọng nói: “Đã là giữa trưa rồi. Trong cấm thành tiếng chém giết dậy trời, lại có lời đồn rằng Sưởng vương gặp gió lốc táng thân nơi biển khơi. Hiện giờ phỏng chừng lòng dân đế đô đang hỗn loạn lắm đây.”

“Cái gì?” Sưởng vương không kìm được giật mình.

“Tốc độ lan tràn của tin vịt còn nhanh hơn ôn dịch. Thuộc hạ của ngươi không phải đang cắn xé lẫn nhau vì quốc tỉ thì chính là lòng quân tan rã, bị Trương Thừa Khiêm ngoạm từng miếng.” Hải Thị run rẩy chống tay đỡ thân mình bải hoải dậy, chậm rãi đứng lên, huy y màu huyền lộng lẫy phục sức cho lễ tế tung bay phần phật trong gió biển.

“Trương Thừa Khiêm? Thằng con nhà mổ lợn chỉ cần hai mươi vạn lượng bạc trắng là có thể mua chuộc ấy à?” Sưởng vương cả cười.

“Phải, con trai nhà mổ lợn, cũng là một trong vài chục lính tốt Giám Minh từng cứu trên chiến trường năm xưa.” Hải Thị gian nan bước từng bước về phía Sưởng vương, bỗng bật cười. Vẻ mặt tủm tỉm này của Quý Sưởng mới giống Đế Húc làm sao, sợ rằng chính hắn cũng chưa bao giờ ý thức được đâu nhỉ?

Sưởng vương cười khẩy: “Hắn có giữ được cấm thành thì cũng chẳng thể cầm cự được bao lâu. Thang Càn Tự sẽ không ngồi yên xem đế đô biến loạn không quản – dẫu không phải vì ta thì trong đế đô cũng có người y không thể không bảo vệ.”

“Thang Càn Tự tuyệt đối sẽ không rời Hoàng Tuyền Quan. Hai bộ Tả Hữu Bồ Đôn của Hộc Khố ngoài quan đã liên minh, không bao giờ hao tổn nội bộ nữa, chỉ cần Hoàng Tuyền Quan có dị động, người Hộc Khố sẽ ùn ùn kéo tới, Thàng Càn Tự vẫn còn lương tâm, đây chính là phần thắng của ta. Trương Thừa Khiêm sẽ bảo vệ Đề Lan an toàn, đó cũng sẽ là một quả cân tốt lôi kéo Thang Càn Tự.”

Nụ cười của người con gái trước mặt hả hê như vậy khiến trong lòng Sưởng vương nổi lên cảm giác không lành.

“Vương tỷ mà có mệnh hệ gì, phụ vương nhất định sẽ không bỏ qua cho các ngươi!” Tác Lan vừa giận vừa sợ.

Lời còn chưa dứt, kiếm quang đã vụt lóe, cắt một lọn tóc đen của Sưởng vương rơi xuống.

Người con gái đáng ra phải vô cùng yếu ớt lúc này lại vươn tay nhanh như chớp giật rút trường kiếm đeo bên hông Sưởng vương, đâm xéo vào ngực hắn, mẫn tiệp đến độ người ta phải kinh hãi. Song, dẫu sao độc mạn đà la cũng đã làm tê liệt tay chân nàng, cú đâm tựa mống này ngưng tụ tất thảy tâm thần sức lực của nàng, giữa chừng mất đi chuẩn xác, bị Quý Sưởng bổ ngang một chưởng, nàng không cầm cự nổi nữa, theo thế ngã khỏi cửa sổ khoang lầu tầng ba, lăn xuống sàn thuyền. Lúc Quý Sưởng thong thả xuống đến sàn thuyền, Hải Thị vừa mới dựa lưng vào mạn thuyền khó nhọc đứng dậy, mái tóc dài rối tung, hành động nhọc nhằn khó khăn.

Quý Sưởng vứt trường kiếm trong tay đi, áp sát một bước về phía Hải Thị. Nàng chẳng còn hơi sức đâu mà tránh nữa, buộc phải trơ mắt nhìn tay hắn thò tới, từng chút tóm chặt cổ áo nàng.

“Nhìn ánh mắt không chịu nhận thua như lang sói này đi, nếu là đàn ông, chỉ sợ cũng là một kiêu hùng trong loạn thế.” Không khí dần mỏng manh, nàng mất đi sức kháng cự cuối cùng, tiếng thì thầm của Quý Sưởng lởn vởn bên tai mãi không tan, “Nhưng, đàn bà dẫu sao cũng chỉ là đàn bà. Là chính tay Phương Giám Minh ép cô vào đường cùng, sao cô phải khổ sở bồi mạng mình vào vì một người như vậy?”

Hắn tàn nhẫn chậm rãi tăng thêm sức lực nơi tay, eo Hải Thị dần bị bẻ ngửa xuống, nửa người trên treo ngược trên mạn thuyền hướng ra biển, áo gấm hoa lệ dày nặng tung bay như đang múa.

Hải Thị mở mắt, thế giới vùn vụt đảo lộn, biển xanh mênh mông như bầu trời treo trên đỉnh đầu, cuộn trào mãnh liệt như có thể đổ ập xuống bất cứ lúc nào. Từ bờ môi nhợt nhạt của nàng gợi lên một nụ cười nhạt nhòa mà bướng bỉnh, thấp giọng nói: “Ngươi không hiểu được đâu.”

Nàng c*n m** d***.

Một dòng máu chói mắt từ khóe miệng chảy dọc theo gò má, uốn lượn xuống dưới. Nàng nhắm mắt với thần sắc cơ hồ là dịu dàng, để dòng máu mảnh mai trượt qua mi mắt đóng chặt, thấm vào tóc mai, tụ thành giọt trên đuôi tóc, treo rủ, rồi tựa một áng mây đỏ thẫm bé nhỏ tiêu tan không một dấu vết. Trong tiếng sóng tựa hồ dậy lên âm vọng trong vắt.

“Trong Giao Hải có gì, quý tộc hoàng gia các người sẽ không bao giờ biết được đâu.” Hải Thị một lần nữa mở mắt, dấu vết trên mặt như nước mắt đỏ ngầu, diễm lệ ma quái, “Tin đồn lưu truyền trong đế đô tuyệt chẳng phải tin vịt – chúng sắp tới rồi.”

Dưới đại dương xanh lam bát ngát, có thứ gì đang bị mùi máu tanh đánh thức.

Trên sàn thuyền vang lên một trận rào rào, giữa dao động nhấp nhô của thân thuyền, có ngọc trai lăn lóc đụng vào mạn thuyền. Đó là lệ của Lang Hoàn. Trong con ngươi xanh trong của nàng giao nhân ấy như chứa đựng mặt nước mênh mông, lặng lẽ phản chiếu bức tranh nhân gian khói lửa bốn bề.

Mà nàng thì đã nghe thấy tiếng trào dâng từ nơi sâu thẳm đang dần đến gần dưới sóng biếc yên ả.

Thuỷ triều biển người, thời tiết đổi thay. Bát hoang tứ cực, thời gian tuần hoàn. Chỉ có khoảnh khắc trước khi cái chết cuồng bạo giáng xuống này, gió mặn thổi phất vết thương, gợi cơn đau ngứa châm chích lâm râm, như xuyên thủng vết chai cứng ngắc, khiến Hải Thị cảm nhận được rõ ràng hơn bao giờ hết là mình còn sống.

Trong chớp mắt, nàng nhoẻn cười như một đứa trẻ không sợ không lo. Có lẽ đã chẳng kịp cứu vãn tòa lâu đài sập đổ này nữa rồi, cũng có lẽ, chàng đã xuống suối vàng trước nàng một bước.

Nhưng ít nhất nàng cũng có thể làm được cho chàng một chuyện cuối cùng. Sau đó nàng sẽ nhắm mắt lại, buông bỏ tất thảy cố chấp và đấu tranh, mãi mãi yên giấc dưới biển sâu – nàng mệt mỏi lắm rồi. Chàng là vết thương quanh năm không thể khép lại trong lồng ng.ực nàng, không chết đi không thể chữa lành.

Tiếng vang khổng lồ như tiếng sấm xa dậy lên từ chân trời, sóng dữ dâng từ bốn bề vây lại, trong đầu sóng như núi tuyết có thân hình to lớn màu thép xanh xẻ nước nhảy ra.

Long cốt thuyền rồng dài mười tám trượng răng rắc gãy lìa thành hai nửa trước sau, cột buồm bị sóng đè gãy như cây ngải, vô số vây lưng rợp trời xé toang mặt nước, dưới bọt nước trắng xóa quay cuồng dòng đỏ hỗn loạn. Tiếng than khóc nhỏ bé của loài người chìm nghỉm trong ba đào.

Nàng như một chiếc lá bị ném thật cao lên trời rồi rơi xuống biển với tốc độ chóng mặt.

Mặt biển xanh đục như bầu trời của một thế giới khác, ván thuyền đứt gãy và chân què tay cụt của con người điên cuồng xoay tròn trong hải lưu. Bóng hình to lớn qua lại ngang dọc, nàng cơ hồ sắp bị dòng nước xé tan.

Chuỗi ngọc.

Ngọc bội.

Gấm vóc trải bày.

Chén vàng thất bảo hoa văn cầu long, đao kiếm của người hà lạc.

Mọi cẩm tú phồn hoa đều chìm sâu xuống lòng biển vô tận. Hải Thị mỉm cười, ho ra một chuỗi bong bóng nhỏ. Chính nàng lại chẳng phải một nhân vật sứt sẹo trong vở kịch phồn hoa đó ư? Chẳng bằng cũng chìm đi thôi. Từ nay an nghỉ dưới đáy biển, trọn đời không thấy ánh mặt trời, sống cùng hàu trai, được bao quanh trong san hô hải tảo.

Nàng nhắm mắt, chìm xuống nghĩa địa tịch mịch ấy.

Trong hỗn loạn, một đôi tay mảnh khảnh kiên định quấn lấy nàng. Hải Thị mở mắt, trong tầm mắt dần trở nên mơ hồ, nàng trông thấy khuôn mặt khẩn thiết của Lang Hoàn.

Lang Hoàn, để tôi đi đi. Hải Thị mở cánh môi trắng bệch, cách dòng nước hỗn loạn, mấp máy khẩu hình với giao nhân. Lang Hoàn nôn nóng lắc đầu, đưa tay phủ lên bụng nàng. Ánh sáng trắng trong bàn tay nàng khuếch trương, bao bọc cơ thể Hải Thị. Trong trung tâm vầng sáng êm dịu có một bào thai cuộn tròn bé bỏng, yếu ớt như một con cá bột trong suốt.

Lệ nóng tràn ra hốc mắt, tiêu tan trong nước biển lạnh băng. Nàng dần không còn nhìn thấy bầu trời xanh đục kia nữa.

Hôm ấy, tám ngàn cấm quân chờ trên bờ biển thề thốt rằng họ đã trông thấy thần đuôi rồng. Thần đuôi rồng có mái tóc xoăn xanh trong diễm lệ, màng ngón lam óng như vải sa, trong mắt ngậm ánh châu bảy sắc, tựa xoáy nước khó lường chốn lòng biển sâu nhất. Nàng cưỡi cá mập rẽ sóng đi tới, trả lại Hộc Châu phu nhân về nhân gian.

Hơn mười ngày sau, sóng biển đánh vài mảnh xác vụn của thuyền rồng lên bãi cát.

Tháng Mười năm ấy, Chử Duy Doãn, đứa con sót lại của Đế Húc giáng sinh, tháng Mười một lên ngôi, xưng Đế Doãn, cải nguyên Cảnh Hành. Thuần Dung phi Phương thị sắc phong thái hậu, nhiếp chính hai mươi hai năm.

Cảnh Hành năm thứ nhất, hai bộ Tả Hữu Bồ Đôn Hộc Khố thôn tính bộ Bà Đa Na, bộ Kì Đóa Lí, bốn bộ hợp nhất, Ngạch Nhĩ Tề lên ngôi vương Hộc Khố. Cùng năm, Ngạch Nhĩ Tề đột tử, Đoạt Hãn đăng cơ.

Cảnh Hành năm thứ ba, quận Li Lan nổi loạn, nửa tháng dẹp yên.

Cảnh Hành năm thứ tư, Hộc Khố xâm lăng Già Mãn.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 17: Kết



“Mẫu hậu, có phải tay con không cao lắm không?” Phàn chỉ vàng khảm lưu ly xanh nhạt quá to, phải dùng tơ quấn gần một nửa mới có thể miễn cưỡng đeo được lên ngón cái tay phải đứa bé giương cung.

“Duy Doãn, lúc bắn tên mà trong lòng còn treo cái ‘tôi’ sẽ không chuẩn xác được đâu.” Người phụ nữ sau lưng vấn một búi tóc mộc mạc, chỉ cài duy nhất một cây trâm phượng, cười nói với đứa bé, “Quên hết lời mẫu hậu dạy rồi à?”

Vẻ mặt đứa bé bướng bỉnh, không chịu thua giương căng cánh cung nhỏ đặc chế trong tay, tiếng dây cung vừa vang lên, mũi tên bé đã c*m v** cái bia cách đó năm mươi bước, cách tâm bia không đến một tấc. Cung nhân bên cạnh reo lên hoan hô làm đứa bé rất ư đắc ý.

“Mẫu hậu, người xem kìa!” Đứa bé chạy lại nắm vạt áo nàng, trên khuôn mặt ngây thơ đã thấp thoáng đường nét ngang tàng giống hệt Đế Húc, lại có vẻ hân hoan non nớt chưa bao giờ trông thấy ở Đế Húc.

“Được, đợi bao giờ con bắn trúng tâm bia, mẫu hậu sẽ tặng con một thớt ngựa con.” Hải Thị nở nụ cười hiền, một tay xoa đầu Duy Doãn, một tay lật xem công văn vừa đưa tới.

Một đóa hoa đỏ nhỏ nhắn rơi độp lên những con chữ mực đen ngay hàng thẳng lối, chấm đỏ ấy rực rỡ như một đốm lửa muốn đốt thủng trang giấy và gấm vóc trang trí cầu kì. Ánh mắt nàng cũng theo đó chìm sâu vào hồi ức rối rắm, ngơ ngần thất lạc phương hướng.

Tháng Bảy năm ấy, Hộc Khố vương Đoạt Hãn chinh phục Cư Tư, bảy ngàn dặm Hãn Bắc cuối cùng thống nhất, các bộ đều gọi Đoạt Hãn là “Bột Lạp Cáp Hãn”, tiếng Hộc Khố nghĩa là “vua bờm đen”. Vương đô dựng lên mang tên Bàng Ca Nhiễm Ni, ý rằng “thành hoa chá lựu đỏ”. Hậu duệ y thống trị truyền thừa gần năm trăm năm, sử sách gọi là vương triều Bàng Ca Nhiễm Ni, phù hiệu vương quốc là hoa chá lựu đỏ ngàn cánh.

Ấy là mùa hè năm Cảnh Hành thứ chín, đế đô đương mùa chá lựu như lửa, gió phơn vi vu xuyên thành lùa vào, dưới bầu trời xanh bừng ánh son tàn.
 
Back
Top Bottom