Chào bạn!

Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn Của Tui À bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký.

Đăng Ký!

Dịch Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt

[BOT] Mê Truyện Dịch

Active member
Quản Trị Viên
Tham gia
7/9/25
Bài viết
420,166
Điểm cảm xúc
0
Điểm thành tích
36
AP1GczMGENP4Ex0MtnDkld4ETMndE2bwEE4GeiNMEovvDybSoPzrEa1tM_shvQcg_EtGXUzQ6MQZyAyNDCfw_P3iEoLwoguRdDwFCx5AtawU2mhXfQnmOnVqij7pi7SZTPqokxV9Bnzjh_ofhkEo3hl_Cqyw=w215-h322-s-no-gm

Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Tác giả: Tiêu Như Sắt
Thể loại: Ngôn Tình, Dị Giới, Huyền Huyễn, Cổ Đại
Trạng thái: Đang ra


Giới thiệu truyện:

Tên Hán Việt: Cửu Châu – Hộc Châu phu nhân (九州·斛珠夫人) - Tiêu Như Sắt (萧如瑟)
Thể loại: Dị thế, cung đình, thần thoại, OE
Hệ liệt: Cửu Châu
Người dịch: Cụt

Văn án

Đây là bộ đầu tiên trong hệ liệt “Cửu Châu”, là truyện dài miêu tả Giao tộc.

Vương Triều Đại Trưng với hậu cung, có Phương Chư, Đế Húc, và Hải thị, vừa là tình cảm gút mắt, vừa là tranh đấu, họ vì quyền lợi, cũng vì trách nhiệm của bản thân muốn bảo hộ hoà bình.

———-
Trong mịt mùng tuyết trắng khắp đất trời, chàng giương căng cánh cung sau lưng nàng. Nàng chẳng tránh chẳng né, không nấp không náu, trơ mắt nhìn chàng bắn ra mũi tên định mệnh một đi không thể trở về ấy. Từ đây, vĩnh viễn mất đi hạnh phúc…​
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 1: Tổng quan về thế giới Cửu Châu



Bài viết phục vụ cho truyện Hộc Châu phu nhân.

Cửu Châu là thế giới cổ đại kỳ ảo giả tưởng của riêng Trung Quốc do một nhóm nhà văn trên diễn đàn mạng Thanh Vận chung tay sáng tạo vào năm 2001, kể từ đó, Cửu Châu trở thành bối cảnh nền cho rất nhiều tác phẩm phim truyện kỳ ảo của giới văn học và điện ảnh Trung Quốc, Hộc Châu phu nhân là một trong số đó. Cửu Châu có những thiết lập riêng về địa lí, chủng tộc, triều đại, giờ giấc, các thiên thể và cả thần thoại cho riêng mình.

c1-OY8G.png

Bản đồ sơ lược thế giới Cửu Châu (Redraw Việt hóa: Cá Không Biết Bơi)

Tam Lục Cửu Châu

Theo lịch sử của Cửu Châu, nhà Triều – một triều đại cổ tại Cửu Châu – đã chia đại lục thành chín châu: Thương Châu, Hãn Châu, Ninh Châu, Trung Châu, Lan Châu, Uyển Châu, Việt Châu, Vân Châu, Lôi Châu. Đến những năm cuối nhà Triều, động đất và lũ lụt đã ngăn tách Cửu Châu thành ba lục: Bắc Lục, Đông Lục và Tây lục, trong đó:

– Bắc Lục gồm Thương Châu, Hãn Châu, Ninh Châu

– Đông Lục gồm Trung Châu, Lan Châu, Uyển Châu và Việt Châu

– Tây Lục gồm Vân Châu, Lôi Châu.

Bao quanh đại lục là Hạo Hãn Hải, bên trong đại lục có ba biển nước nông và nhỏ hơn lần lượt là Hoán Hải, Duy Hải và Trừ Lạo Hải. Đối với đo lường đất và biển, đơn vị đo độ dài là dặm và bước, đơn vị đo chiều cao là thước, và đơn vị đo diện tích là thác (tức một trăm dặm vuông).

Thương Châu có băng nguyên, là nơi sống của tộc người khổng lồ khoa phụ. Hãn Châu có thảo nguyên, là nơi ở của người du mục tộc Man. Ninh Châu có rừng rậm, nơi sinh sống của vũ tộc. Bốn châu Trung Lan Uyển Việt còn lại thì là đất tạp cư của tộc Hoa làm nông canh và hà lạc luyện kim. Giao nhân sống trong ba vùng biển nông Hoán Hải, Duy Hải và Trừ Lạo Hải nằm trong đại lục. Mị Linh phân bố khắp Cửu Châu.

Sáu chủng tộc

Sinh sống ở Cửu Châu có sáu chủng tộc người: nhân tộc, hà lạc, mị tộc (mị linh), giao tộc, khoa phụ và vũ tộc. Trong đó:

– Nhân tộc: là chủng tộc có các thuộc tính trung bình nhưng phức tạp nhất và có số lượng nhiều nhất với nền văn minh hoàn thiện nhất. Nhân tộc có ba vùng văn minh: Bắc Lục, Đông Lục và Tây Lục. Người Bắc Lục cư trú tại Hãn Châu, sống bằng nghề du mục, được gọi là tộc Man. Người Đông Lục sống bằng nghề nông canh, gọi là tộc Hoa Tộc, chung sống với tộc Hà Lạc và những tộc khác ở bốn châu Trung, Lan, Uyển, Việt. Khởi nguồn văn minh của nhân tộc là Tây Lục, nhưng vì dịch bệnh nên giờ chỉ còn rừng rậm, sa mạc bao trùm.

– Hà lạc: sống chủ yếu ở các khu vực đồi núi tại Việt Châu và Uyển Châu, Đông Lục, là chủng tộc rất giỏi về kĩ thuật công nghệ và có khứu giác vượt trội.

– Mị tộc: còn được gọi là mị linh, sinh ra từ các ý thức tinh thần tản mát khắp Cửu Châu, hóa thực thể bằng cách ngưng tụ, nếu thực thể chết, mị linh cũng biến mất, có khả năng thi triển bí thuật vượt xa năm tộc còn lại.

– Giao tộc: sống dưới biển, một số ít sống trong hồ lớn nối thông với biển, thân trên là thân người, th*n d*** là đuôi cá. Không xác định nguồn gốc, có truyền thuyết nói rằng giao nhân là người của một quốc gia cổ, để tránh chiến tranh đã sử dụng ma pháp thay đổi cơ thể rồi trốn xuống nước sống, cũng có truyền thuyết nói giao nhân là ngư dân bị thần tiên trong biển biến thành nô lệ. Giao nhân nam có vây cá sau lưng, giao nhân nữ trong suốt mềm mại, thế nên tướng mạo giao nam hung ác còn giao nữ thì nhu mì. Giao nhân có tóc, màu sắc đa dạng. Giao nữ buộc tóc hoặc đội mũ tơ, giao nam tầng lớp dưới thấp bị cạo đầu từ bé để lao động và chiến đấu, đỉnh đầu có hình xăm, giao nam để tóc thường là dấu hiệu của quý tộc và tầng lớp thượng đẳng. Hộc Châu phu nhân miêu tả khá kĩ chủng tộc này.

– Khoa phụ: là tộc người khổng lồ, sống rải rác ở các cao nguyên phủ tuyết Thương Châu, to gấp hai nhân tộc, số lượng ít, da dày cứng có màu đỏ, máu nóng, cao lớn vạm vỡ nhưng chậm chạp kềnh càng, có khả năng chống lạnh tốt, thính giác nhạy cảm, sức mạnh và tinh thần của chủng tộc này tỷ lệ nghịch với nhau, càng to lớn càng trì độn, càng thông minh càng nhỏ yếu.

– Vũ Tộc: phân bố ở cao nguyên và rừng rậm Ninh Châu và Lan Châu, ngoại hình giống nhân tộc nhưng nhỏ nhắn cao gầy hơn, màu da và tóc nhạt hơn nhân tộc, có cánh, trọng lượng nhẹ hơn nhân tộc, cơ bắp kém phát triển, yếu nhất về sức mạnh thể chất trong sáu tộc, thị lực tinh tường.

Triều đại

Nhân tộc Cửu Châu đến nay đã trải qua tám triều đại: Tiển – Triều – Bôn – Dận – Tiếp – Thịnh – Đoan – Trưng. Hộc Châu phu nhân diễn ra vào thời nhà Trưng.

– Nhà Tiển: Kéo dài khoảng 900 năm. Vì niên đại xa xưa nên rất ít tư liệu lịch sử, không rõ tình huống cụ thể. Nhà Tiển là triều đại cha truyền con nối đầu tiên được ghi lại trong sử sách Cửu Châu.

– Nhà Triều: Kéo dài khoảng 800 năm, là triều đại đã chia quốc thổ ra là chín châu, từ đó đại lục có danh xưng “Cửu Châu”, cuối thời nhà Triều triển khai công trình mở kênh đào song xảy ra sơ suất, bị nước biển rót ngược chia tách đại lục vốn liền nhau thành ba lục địa Đông Lục, Tây Lục, Bắc Lục, là thời kỳ chiếm hữu nô lệ thứ hai trong lịch sử, rất hưng thịnh, giai cấp thống trị là quý tộc và chủ nô.

– Nhà Bôn: Kéo dài khoảng 400 năm, là thời kì thịnh vượng của xã hội cổ đại Cửu Châu. Bắt đầu từ thời Bôn, biên giới các bộ lạc và tộc người nhân tộc không ngừng dung hợp, từng bước hình thành nên Hoa tộc. Để củng cố địa vị thống trị, nhà Bôn đã áp dụng chế độ “chia đất lập chư hầu”. Cuối thời nhà Bí, mâu thuẫn xã hội và lục đục nội bộ ngày càng gay gắt khiến quốc gia suy tàn, cuối cùng chìm trong nội loạn.

– Nhà Dận: Kéo dài 700 năm, chế độ chính trị học hỏi rất nhiều từ nhà Bôn, trung ương thực hiện tam công cửu khanh, địa phương thực hành phân đất phong hầu. Thời kì này đã lưu hành phổ biến trâu cày với đồ sắt, là thời kì giao thoa văn hóa ở Đông Lục, tộc Hoa chính thức thành hình, cũng là thời đại hoàng kim của Đông Lục.

– Nhà Tiếp: Kéo dài 120 năm.

– Nhà Thịnh: Kéo dài 300 năm.

– Nhà Đoan: Kéo dài hơn 300 năm, là triều đại do hai họ Mục Vân và Mục Như đồng thời cai trị một chính một phụ, đến cuối thời Đoan, hai họ trở mặt với nhau, chia đất nước thành Tây Đoan của họ Mục Như và Đông Đoan của họ Mục Vân.

– Nhà Trưng: Cho đến Hộc Châu phu nhân thì hiện đã kéo dài hơn 670 năm.

Thần thoại Khư Hoang

Thời Viễn Cổ, Cửu Châu không phải chỉ có vùng hỗn độn mà còn có vô số hạt bụi bay lang thang trong không gian, không phương hướng, không thời gian, cũng không có ranh giới nào cả. Lực đẩy và lực liên kết của các hạt với nhau gây ra chuyển động trong vùng hỗn độn. Khi xu hướng chuyển động dần dần phát triển, không gian vô tình bị phá vỡ bởi một kích đ*ng t*nh cờ nào đó. Sự kích động này chỉ là trật tự sắp xếp của các hạt bụi một cách ngẫu nhiên, rồi từ đó xuất hiện nên kì tích, đây là lần đầu tiên sự sắp xếp, kết hợp có trật tự xuất hiện ở vùng hỗn độn, cũng được coi đây là ý thức đầu tiên.

Trong một thời gian ngắn ở thế giới ban đầu đó, ý thức đầu tiên ấy không ngừng phát triển, chống chọi lại sức mạnh ngưng tụ của hỗn độn. Ý thức đầu tiên trong thế giới ấy được coi là vị thần đầu tiên, được gọi là Khư, hỗn độn đã sinh ra một vị thần tương ứng, một khái niệm tương ứng, là Hoang – vị thần chính của thế giới. Hoang đại diện cho lực liên kết, nhưng không có ý thức. Khư là vị thần chính của ý thức, Hoang là vị thần chính của vật chất. Hoang muốn mang không gian hỗn độn trở lại, nhưng Khư không cho phép y phá đi tạo vật của mình chỉ còn tàn tích, thế nên Khư ra sức đánh vào trung tâm của hỗn độn, từ đó tạo ra một vụ nổ lớn chưa từng có ở hỗn độn. Một phần thân thể của Hoang bị tan thành cát bụi, nhưng cơ thể chính bị ngưng tụ lại thành một quả cầu, Trái Đất. Mà Khư sau va chạm đã hoàn toàn tan biến, ý thức của y biến thành những ngôi sao bay ra khỏi vùng hỗn độn, nhưng bị giữ lại bởi sức mạnh ngưng tụ xung quanh Trái Đất. Tinh linh từ đó cũng trở thành ý thức độc lập thứ hai – Thứ Thần.

Thứ Thần là những mảnh vỡ của Khư, và họ tiếp tục loáng thoáng nhớ lại ý muốn tàn tích của Khư là ngăn thế giới hỗn loạn tái sinh lần nữa. Tuy nhiên sự gắn kết mạnh mẽ của chủ thần Hoang vẫn đang thu hút các mảnh vật chất xung quanh, và mảnh ghép của sự liên kết vật chất cuối cùng này những Tinh Linh đang nắm giữ ý thức của thần Khư, và rồi tạo thành một không gian hỗn độn một lần nữa. Các Thứ Thần hoảng sợ đã dùng một pháp ấn lên cơ thể của Hoang, họ dùng tinh hoa vật chất từ những mảnh vỡ của Hoang để tạo ra phong ấn trói buộc Hoang, bao phủ lấy thực thể của Hoang, đồng thời đem một phần ý thức của mình vào pháp ấn để tái tạo ý thức. Từ đó Sinh Mệnh sinh ra.

Trong những sinh mệnh này, sinh mệnh nhận được nhiều ý thức, đã dần phát triển thành một bộ tộc có trí tuệ. Thứ Thần hiểu rằng chỉ có sức mạnh ý thức mới khiến Hoang không thể ngưng tụ, thế nên họ đã đặt những sinh vật này ở bốn phía của Trái Đất, cũng cho các sinh vật biết được mọi thứ đều xuất phát từ sự mâu thuẫn: khao khát trật tự và bản năng chiến đấu. Thứ Thần hi vọng các sức mạnh xung đột sẽ ngăn cản các chủng tộc tiến đến với nhau, ngăn cản liên kết giữa các mảnh vỡ của Hoang, từ đó một hỗn độn mới sẽ không xuất hiện. Bất kì ý thức nào cũng đều có mâu thuẫn, Khư hy vọng sẽ thông qua chiến tranh cuối cùng mà hoàn thành trật tự thế giới mới. Mà Hoang lại âm thầm sử dụng sức mạnh của mình mà lần nữa hợp nhất thế giới thành một thể vô trật tự. Thế giới hiện nay chỉ là một mộng ảo của Khư để y thể nghiệm thế giới trong mơ của mình, Khư từ thế giới này mà hấp thụ kinh nghiệm, sáng tạo, và từ chiến thắng của Hoang mà thành lập thế giới mới. Còn Hoang, mục đích cũng chỉ là hủy diệt thế giới, đưa nó trở lại cõi hỗn độn. Tinh thần và vật chất, hỗn loạn và trật tự, là xung đột cuối cùng để cấu thành thế giới, cũng trở thành tiềm thức của mọi Sinh Mệnh.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 2: Dung nhan như bóng chớp I



Thuyền mò ngọc rời bến, cánh buồm no gió chạy suốt hai ngày. Biển đầu thu, mặt nước phản chiếu vụn nắng óng ánh chói chang làm Hải Thị không tài nào mở mắt ra nổi.

Người cha ngồi trên mạn thuyền, kéo đứa bé lại bên mình, “Hải Thị, đã nhớ hết lời cha dạy chưa?”

“Rồi ạ.” Đứa trẻ tên Hải Thị gật mạnh đầu, vỗ vỗ sợi thừng buộc ngang eo. Đây là lần đầu tiên cha mang em ra biển mò ngọc, em đã thuộc nằm lòng những gì cha dặn dò. “Chỉ cần lặn xuống, gặp được tỷ tỷ xinh đẹp thì kéo chị ấy lên, chị ấy sẽ cho chúng ta thật nhiều ngọc trai, như vậy năm nay chúng ta sẽ có ngọc cống, phải không ạ?”

Đứa trẻ chỉ chừng bảy, tám tuổi, cởi bỏ áo ngoài, thân mình đen nhẻm và khoảng ngực bằng phẳng lộ ra, đuôi tóc vàng hoe đọng muối lấm chấm, nom chẳng khác gì một đứa bé trai. Chỉ duy giọng nói như oanh hót chứng minh cho em là một bé gái.

“Cha, chú Kim, chú Trụ, con xuống đây.”

Da mặt sậm màu của cha chợt nhăn nhúm, “Hải Thị, con không sợ à?”.

Hải Thị cười giòn giã, hít một hơi thật sâu, xoay người nhảy vào biển làm mặt nước óng ánh như vàng lỏng bắn tung tóe, kéo theo sợi thừng buộc bên hông, thoắt cái em đã lặn mất tăm tựa một con cá.

Người cha quỳ trên mạn thuyền, siết chặt sợi thừng nối với Hải Thị. Một lúc sau, phỏng chừng gặp giới hạn, Hải Thị dưới biển giật giật dây thừng, giục y thả dây dài hơn. Tay người cha căng chặt, do dự. A Kim ngồi một bên im lìm, chỉ thò một tay sang vỗ vai người cha. Thoáng ngừng lại, thấy không có động tĩnh gì, A Kim vỗ mạnh hơn. Người cha run lên, tay buông lỏng, sợi thừng tức thì xoạt xoạt trượt xuống. Gân cơ người cha như bị rút sạch theo sợi thừng, cơ thể rã rời, thật lâu sau mới lạc giọng nói: “Mẹ Hải Thị còn chưa biết tôi mang Hải Thị xuống Giao Hải… Mẹ nó nhất định sẽ hận chết tôi…”

A Kim ngắc ngứ: “Đó giờ tôi không dám nói, đêm trước ngày chúng ta ra biển, lính thu ngọc cống đã đến thôn Tây Tự. Thôn Tây Tự chỉ thiếu nửa thưng ngọc không giao được thôi mà nhà với thuyền đều bị quan binh thiêu rụi cả, trai gái già trẻ bị chúng dùng xích neo trói thành một chuỗi, nói là đợi đến phiên chợ thu sẽ bán sang Hãn Châu làm nô lệ cho man di. Chuyện cống ngọc này thật sự… thật sự ép người quá đáng, ngọc trai năm nay thì ít đến quái gở. Nếu không, nếu không sao chúng ta có thể đem con…” Sau cùng chẳng đặng hết lời.

A Trụ ấp úng nói với người cha: “Đợi lát nữa Hải Thị dẫn giao nhân tới… Hay là để tôi làm đi, để anh làm không ổn, mẹ Hải Thị sẽ hận chết anh mất.”

Người cha vùi đầu vào đầu gối, mắt dại ra, lẩm bẩm: “Bất kể là ai trong các anh làm, tôi cũng sẽ hận các người cả đời. Hải Thị là đứa bé ngoan, về sau hẳn sẽ không quấy phá hại người… Để tôi tự làm, để tôi…” Giọng dần nhỏ xuống, hóa thành nghẹn ngào.

A Kim và A Trụ chẳng dám nhìn người đàn ông gầy gò bị cuộc sống bám biển giày vò quanh năm suốt tháng này nữa, ai nấy đều quay đi.

Một con hải âu đuôi đen lướt vụt qua. Khói sóng mông lung, mênh mang vô tận.

Dẫu nhân gian có lộn nhào ngàn vạn lần, giặc đói đầy đường hay thịnh thế sung túc thì vây quanh lục địa này vẫn mãi là đại dương mênh mông, bởi mênh mông mà sinh tịch mịch, vĩnh hằng trường cửu, đánh bại mọi vương triều quốc gia.

Con thuyền như hạt thóc giữa biển, mang ba người dân mò ngọc rách rưới và nỗi sầu khổ của họ bảy nổi ba chìm. Tuy rồi sẽ đến một ngày biển cả khô cạn hóa nương dâu, nhưng sự tồn tại như bụi trần của họ nào có cơ nhìn đến ngày ấy. Nỗi khổ của họ cũng như muôn sầu của trăm họ, bị vùi lấp giữa thủy triều biển khơi vĩnh viễn bất biến, bặt tiếng không hình.

Ấy là năm Thiên Hưởng thứ tư, kể từ khi nhà Trưng thay thế nhà Đoan của họ Mục Vân, đến nay hoàng thất họ Chử đã trị quốc được năm mươi ba đời. Vết thương loạn Nghi vương hãy còn chưa hoàn toàn bình phục, song mọi người lại cảm thấy vương triều Đại Đoan đã kéo dài sáu trăm sáu mươi mốt năm này vẫn có thể truyền tiếp, tựa như hoàng đế khai quốc Chử Kinh của nó vậy, có cho mình tấm thân trời ban bách chiến vô tổn. Dường như họ đã quên rằng, hoàng đế khai quốc Chử Kinh đến cùng vẫn phải chết.

“Biển Nam mênh mông phía đông Việt Châu có vùng biển Giao Hải, chu vi không quá trăm dặm. Trong biển có giao nhân, sống dưới nước như cá, mắt có thể khóc ra ngọc. Có cá mập bảo vệ cho giao nhân, ngửi thấy mùi máu sẽ nổi điên, cắn nát được thuyền con. Đế Húc mê ngọc, quan địa phương nịnh hùa ý trên, đòi ngọc gắt gao. Dân mò ngọc mò không đủ số lượng cống lên sẽ lấy thừng buộc hông trẻ con thả xuống biển, dụ giao nhân nổi lên rồi lập tức b.óp ch.ết đứa trẻ cho giao nhân chứng kiến. Tính giao nhân hiền lành, lần nào cũng rơi lệ, gặp gió ắt thành minh châu phát sáng trong đêm. Để phòng mùi máu trẻ con dẫn đến cá mập cắn người, phải bóp ngạt thở.” –《Trưng thư · Hậu phi · Hoàn Ý thái hậu》

Trăm ngàn con sóng đan xen lam bích ngầm dâng lên, ngửa đầu nhìn, ánh nắng lơ thơ xuyên qua ngấn nước, biến ảo mơ màng. Hải Thị mò lấy túi nang da trước ngực, ghé miệng hít một hơi, chầm chậm nhả bọt khí. Chuỗi bọt khí lóng lánh nổi lên mặt biển, cuối cùng hóa thành dải sáng mờ lấp lánh. Em lặn xuống sâu hơn nơi bóng tối ken dày.

Người khi chết đuối thường ôm đá dưới đáy nước. Hải Thị biết đó là bởi đáy nước có ánh sáng, những kẻ đáng thương ấy sẽ liều mạng chui xuống đó, quờ được món gì quyết không chịu buông. Rồi dần dần bóng tối tiêu tan, con đường phía trước bừng sáng. Em tự nhủ, sắp tới rồi. Hứng sáng bơi lại, mũi chân chạm đến cát trắng ấm mềm.

Hải Thị như hạ xuống từ trên trời, đặt chân lên mặt đất của một thế giới khác. Biển sâu ngăn cách mọi âm thanh, chỉ có sóng nước lưu động, ánh sáng hợp tan. Bầy cá bơi lội, san hô lỉa chỉa đong đưa như liễu. Trong bụi cành mềm màu đỏ mã não trong nhờ phía bên kia, Hải Thị nhìn ra vài đường màu sắc khác thường, bụng thắc mắc: Làm gì có san hô màu xanh trong nhỉ? Cẩn thận nương dòng nước vòng qua cụm san hô, Hải Thị bật há miệng, suýt thì sặc.

Cái mềm mại phất phơ ấy không phải là san hô mà là mái tóc dài xanh trong của một cô gái. Cô gái ấy nằm giữa bụi san hồ, biếng nhác giơ tay lên, đầu ngón tay khuấy trong nước biển ra những sợi tơ rối xanh biếc lam lạnh. Cô gái trải ngang từng sợi xanh biếc ra trước mặt, lấy lam lạnh làm đuôi, đầu ngón tay qua lại như con thoi, dệt những sợi tơ màu ấy thành một tấm lụa nhẹ tênh gần như vô hình, tư thái uyển chuyển, tựa như đang hái vô số đóa hoa huyền ảo mộng mị.

Đó chẳng phải chính là vị tỷ tỷ có thể cho họ trân châu mà cha nói đến sao? Hải Thị chụm hai chân lại, tung người bật thẳng qua.

Cô gái cả kinh. Nhưng Hải Thị đã nhào tới đầu gối nàng, khóe miệng toe toét mừng rỡ tràn ra bọt khí, nom hệt một con thú biển nhỏ đen ngây thơ. Có vẻ như cô gái cũng thích mê những sinh vật đáng yêu, ngón tay xinh xắn với lại xoa xoa mái tóc ngắn của Hải Thị, giữa ngón tay dập dờn lớp màng trong vắt màu lam.

Túi nang da trước ngực Hải Thị không còn bao nhiêu dưỡng khí, em không dám lần lữa, lập tức nắm tay cô gái, bàn chân đạp lấy đà nổi lên trên. Thân mình cô gái uyển chuyển như không xương, thoải mái uốn vặn trong nước. Hải Thị xem mà hâm mộ, bơi quanh nàng mấy vòng. Cô gái như cảm thấy thú vị, cũng bơi quanh Hải Thị, một lớn một bé vui vẻ chơi cả một đường nổi lên mặt biển, không ngừng lượn quanh nhau. Có lúc, sợi thừng buộc ngang hông Hải Thị cơ hồ quấn lấy cô gái, song chỉ thấy nàng nhẹ nhàng lắc eo là đã vươn được lên trên, tránh thoát. Họ dần rời khỏi đáy nước, bóng tối trùng trùng như nhung tơ bủa vây. Thỉnh thoảng trong bóng tối lại có đốm lửa trôi nổi vô định. Một đốm lửa bắn thẳng về phía họ, Hải Thị thò mặt lại nhìn kĩ, con cá kì quặc trên đỉnh đầu treo đèn lồng kia bị em dọa sợ, quay ngoắt bơi đi. Hải Thị muốn với tay bắt con cá đó, cô gái nghiêng người ngăn em. Như để trấn an Hải Thị hãy còn đang lăm le chưa từ bỏ ý định, cô gái dang hai tay, quanh thân chậm rãi bừng lên một quầng sáng màu trắng ngọc. Vô số những con cá kì lạ như đom đóm xúm lại quanh họ, quấn quít không đi, tươi đẹp mê người. Hải Thị dù sao cũng là trẻ nhỏ, lập tức quên khuấy chuyện bắt cá, tròn mắt thích thú ngắm nhìn.

Nước biển chung quanh đen kịt, ánh nắng rỉ xuống qua ngấn nước, bị nhuộm thành màu xanh lam. Hải Thị một tay nắm cô gái, một tay lần theo dây thừng buộc hông nổi lên trên, cảm thấy người nhẹ nhõm hơn hẳn, cuối cùng ào một tiếng, họ cùng nhô lên khỏi mặt nước.

“Cha, cha ơi!” Hải Thị vẫy tay gọi.

Cha chìa hai tay về phía họ, vớt em lên thuyền. Nách Hải Thị sợ buồn, co mình trong lòng cha cười khanh khách, lại cảm nhận được vài giọt gì đó nóng hổi nặng nề rơi lên mặt lên đầu mình. Không đợi em quay đầu ngó thử, cha bỗng đưa tay bóp lấy cần cổ yếu ớt của Hải Thị từ đằng sau. Hải Thị bị đau, chỉ biết không ngớt kêu: “Cha!” Cha không đáp lời, lực trên tay mỗi lúc một mạnh, cơ hồ xách cơ thể bé nhỏ của em lên khỏi mặt đất. Em muốn kêu tiếp nhưng cổ họng chỉ có thể bật ra những tiếng khàn khàn. Hải Thị đạp chân lung tung, hai tay cố cạy bàn tay gầy guộc của cha ra. Cạy không được, trong tai em vang lên tiếng ong ong mù mịt như tiếng vọng nghe thấy trong vỏ ốc trước lúc bão nổi, xen lẫn vào đó là tiếng cha mơ hồ: “Hải Thị, Hải Thị ngoan… Con đừng quay về thôn quấy phá… Hằng năm cha sẽ cúng thanh minh, phổ độ, rằm tháng Bảy cho con, sẽ không để con chịu đói dưới đó…”

Vậy là phải chết ư? Ngày thường cha thương em nhất, lúc này lại muốn em chết ư? Đã muốn em chết thì sao lại nghẹn ngào? Hải Thị gom hết sức lực, nghiêng đầu cắn nghiến lên tay cha. Dòng máu tanh nóng chảy vào miệng em, vị mặn như gỉ sắt. Tay cha bỗng mất lực, Hải Thị ngã ngồi xuống boong thuyền, ho sù sụ. Xuyên qua hàng lệ dâng ngập mắt, em trông thấy chú Trụ và chú Kim chẳng biết đã nhảy xuống biển từ lúc nào, đang ngụp lặn lần mò cái gì bên cạnh cô gái kia.

Cô gái kia! Nửa người cô gái kia phập phềnh trên mặt nước, lo lắng nhìn Hải Thị, trong đôi mắt xanh trong lã chã lệ rơi. Những giọt lệ ấy gặp gió tức thì chói sáng, từng hạt vào nước lập tức chìm nghỉm, chìm xuống dưới nước một hai thước rồi cũng vẫn long lanh. Hải Thị là con gái dân mò ngọc nhưng cũng chưa từng gặp loại ngọc trai thượng phẩm nhường vậy. Chú Trụ và chú Kim mừng húm ngụp lên lặn xuống, không ngừng mò những viên ngọc nên hạt từ lệ kia.

Không ai trong số họ để ý đến người cha đứng ngây ở mũi thuyền, nhìn chằm chằm một điểm nào đó trong biển. Trên bàn tay sần sùi gầy đanh của y, máu từ vết thương bị Hải Thị cắn chảy thành mấy vệt đỏ thẫm.

Tạo nghiệt, tạo nghiệt… Người cha nhìn giọt máu đã sớm hòa tan không dấu tích trong biển. Hơi tanh nhàn nhạt lan về hướng không biết trong biển sâu. Dưới đáy sóng biếc yên ả dần nổi lên một luồng nước ngầm không nhìn thấy.

Tiếng động nhỏ bé ấy thu hút sự chú ý của A Kim, gã ngẩng đầu, mặt chợt biến sắc. Xa xa dưới bầu trời quang đãng không gió bỗng dậy lên ba đào. Trong tầm mắt, mặt biển vài dặm quanh đó sôi trào. Bọt trắng cuồn cuộn từ bốn bề nhanh chóng bao vây họ, mười mấy cái vây lưng to cộ màu xám đậm trồi lên lúc ẩn lúc hiện giữa đỉnh sóng.

Vùng biển này tên là Giao Hải.

Chớp mắt, một con sóng lớn đã áp sát kề bên thuyền, song lại chậm lại thế tới, rồi nhô lên tại chỗ từng thước từng thước như dựng một bức tường phỉ thúy, che lấp ánh nắng.

“Cha, cha ơi!” Hải Thị khóc thét, bổ nhào về phía cha em lúc này sắc mặt đã như tro tàn. Bị em kéo túm, cha em hồi thần, mặt giăng kín lệ, mấp máy cánh môi khô khốc như muốn nói gì với em. Đúng lúc đó, một con sóng hung tợn cao bằng hai ba người húc đầu xuống, che phủ gương mặt cha. Trước mắt Hải Thị trắng xóa, trong tai vang ầm ầm.

Không biết qua bao lâu, mở mắt ra mới biết mình đã bị sóng đánh rơi xuống biển cả trượng, ngẩng đầu nhìn, mặt biển xanh đục như bầu trời của một thế giới khác, xác thuyền mò ngọc rải rác tứ tán. Một bóng cá khổng lồ từ đáy biển xộc thẳng lên, sượt qua bên cạnh Hải Thị, ào ào nhảy ra khỏi mặt nước rồi lại nặng nề đập xuống, chui sâu vào bóng tối. Trong bọt sóng và dòng nước chảy loạn, Hải Thị vẫn thấy rõ được bóng dáng đó. Đó là một con cá mập còn dài hơn thuyền mò ngọc, không có vảy, màu da xám tro trong nước lấp lóe ánh xanh.

Bỗng lại bịch một tiếng, có thứ gì rơi từ trên cao xuống nước, chìm xuống trước mặt Hải Thị.

Vật kia xoay mặt qua, Hải Thị suýt hét lên trong nước.

Đó rõ ràng là cha, nhưng thân chỉ còn lại một nửa.

Em lao thân thể nhỏ bé qua, liều mạng níu lấy thi thể đang chìm xuống của cha, kéo một vệt máu loang đỏ nhạt bơi lên mặt biển. Sau lưng loáng thoáng cảm nhận được dòng nước phun đẩy, nghĩ là cá mập ngửi thấy mùi máu lại đuổi từ đáy biển lên, em cắn răng quay lại nhìn, đằng xa có những ba con! Dòng chảy bộc phát náo động cuồng bạo, loài vật khổng lồ khát máu ấy áp sát lại gần. Nước mắt sợ hãi tuyệt vọng tuôn ra, hoà vào nước biển, chẳng mảy may để lại một dấu vết, chút ấm áp trong cơ thể dường như cũng theo đó tản ra.

Rốt cuộc em cũng nổi lên được khỏi mặt biển, hổn hển th* d*c, nhưng cũng chẳng còn đường nào để đi. Trời và biển bát ngát bao la, nhìn quanh chỉ thấy mù mịt. Không nơi nương tựa, không chốn bám víu.

Ôm chặt thi thể của cha, em nhắm mắt.

Dòng nước ngầm bốn phía lại dần lắng xuống.

Hải Thị nghi hoặc mở mắt, một hồi lâu mới lấy đủ dũng khí, ngụp đầu vào nước. Sâu trong nước xanh có một quầng sáng dập dờn. Mái tóc cô gái kì dị kia như tảo biển phấp phới, đang chìa một tay ra cản đường năm, sáu con cá mập. Đám cá mập hung hãn ấy vậy mà lại bị ánh sáng trắng trong tay cô gái hàng phục, co vòi chùn bước, lát sau, con nào con nấy hậm hực bỏ đi. Trong biển dần bình yên như ban đầu, vụn gỗ và quần áo lượn vòng từ từ chìm xuống.

Bấy giờ Hải Thị mới nhận ra mình đã kiệt sức, tay chân lẩy bẩy, cánh tay trái ôm cha cứng ngắc không sao cử động được. Em từ bỏ vật lộn, một lần nữa nhắm mắt, thân mình nhũn ra sa thẳng xuống.

Nhất thời, Hải Thị như hãy còn nằm trên sàn thuyền mò ngọc, vừa bừng tỉnh khỏi giấc ngủ say. Nhắm mắt không nhìn, thu tai không nghe, nhưng vẫn cảm nhận được rõ ràng làn sóng nhấp nhô dưới thân, phả vào mặt là ánh mặt trời ấm nóng. Nhưng ngay sau đó, cơn đau do da thịt bị tổn thương ập đến, gân cốt mỏi nhừ rệu rã, đầu óc ngâm ngẩm trướng đau, cũng từ từ tỉnh táo lại.

Em nhíu chặt mày, mở mắt.

Đập vào mắt là biển cả vô tận và lưng cá xám đậm, vây lưng dựng thẳng đứng bên trên như lá cờ. Hải Thị hãi hùng phát hiện ra mình đang cưỡi trên lưng cá mập, mà con cá mập này thì đang định chui vào trong nước! Em muốn bỏ trốn, lại bị đôi tay bên hông ôm chặt, tức khắc ré lên giãy giụa, sặc một ngụm nước. Lát sau, cá mập nổi lên mặt biển, Hải Thị mới bình tĩnh lại, cúi đầu nhìn đôi tay ôm em từ sau lưng, giữa ngón tay có lớp màng óng ánh màu lam trong.

Chính là cô gái đó. Dưới ánh nắng mới nhìn rõ được nàng, tai nhọn mỏng, làn da ẩm mượt, tóc xoăn xanh lam, trong con mắt lam trong chỉ có con ngươi, không có lòng trắng, dưới làn váy la mỏng là mắt cá chân nhỏ nhắn – trên mắt cá chân có hai cái vây nho nhỏ mọc hướng ra ngoài, tung tăng đung đưa vẩy nước. Hải Thị không khỏi thầm lấy làm kinh ngạc, thì ra cô gái này không phải người. Rốt cuộc cái cha bảo em xuống biển tìm là cái gì? Cô gái thấy Hải Thị quay đầu bèn chỉ chỉ ra phía trước. Nơi chân trời trước mặt lờ mờ trải một bóng hình xám nhạt. Lục địa không xa.

Cá mập bơi lúc lặn lúc nổi, trong lòng Hải Thị trống rỗng, không phải không có gì để nghĩ mà là không dám nghĩ sâu xa, chỉ dám rơi lệ, nước mắt nhỏ xuống lưng cá mập trượt mất tăm.

Cứ như vậy hơn một canh giờ, cách bờ còn dăm ba dặm, nước đã nông, cá mập không tiến thêm được nữa. Cô gái lấy từ sau lưng ra một bọc vải, buộc lên người Hải Thị. Bọc vải màu xanh nhạt biếc nhẹ, không thể tả rõ được chính xác là màu gì, nhưng rất mỏng, minh châu gói trong bọc cỡ chừng bảy tám vốc, giữa ban ngày vẫn thấm ra ánh sáng áp đảo. Cô gái nắm tay Hải Thị, dùng ngón tay viết vào lòng bàn tay em, nơi đầu ngón tay tiếp xúc tỏa ra ánh trắng, viết thành hai chữ “Lang Hoàn”, lấp lánh mờ ảo trong lòng bàn tay Hải Thị. Thì ra cô gái này tên Lang Hoàn? Lang Hoàn khẽ đẩy Hải Thị rơi khỏi lưng cá mập, tay trỏ vào bờ biển như tỏ ý bảo em về nhà. Vừa xuống nước, Hải Thị phát hiện ra hai chữ “Lang Hoàn” rực sáng, em lặn xuống chốc lát, thấy không hề bị ngạt thở bèn dứt khoát bơi hẳn nửa dặm, vẫn không cần lấy hơi. Hải Thị nhô lên mặt nước, quay đầu nhìn quanh. Lang Hoàn cưỡi trên lưng cá mập, tay áo dập dờn trong sóng biếc, không nói nửa lời, mà có lẽ nàng cũng chẳng biết nói, chỉ dõi cặp mắt xanh trong lẳng lặng nhìn theo Hải Thị.

Hải Thị nắm chặt đai bọc vải buộc ngang ngực, bơi về bờ, không quay đầu lại nữa.

“Chỉ có bấy nhiêu thôi?” Tay nom có vẻ là thủ lĩnh toán lính thò tay vào thùng gỗ quờ ngọc trai, vớt lên một vốc.

“Bẩm đại nhân, chỉ có nhiêu đó thôi ạ…” Lí trưởng thấp thỏm thưa.

Tay thủ lĩnh rút tay về, từ kẽ móng tay rơi ra một viên ngọc trai nhỏ bằng hạt gạo. “Cái này cũng gọi là ngọc trai à? Hạt cát còn to hơn ấy!” Hắn lạnh lùng đảo mắt nhìn dân thôn, mắng: “Lũ điêu dân lười biếng!”

Lí trưởng khom lưng đáp: “Bẩm đại nhân, năm nay nhiều bão, quấy nhiễu trai sò nên nuôi ngọc trai không to được. Bọn đàn ông chúng tôi ngày đêm xuống biển, kiếm từng chút một mới gom được chừng này. Ngọc trai thôn tôi cống năm trước đều là thượng hạng, mong ngài niệm tình chúng tôi trước sau như một…”

Tay thủ lĩnh tung một cước, đá thùng gỗ văng vào mặt lí trưởng, ngọc trai rơi rào rào đầy đất. “Gô cổ bọn nó giải hết đi!”

Trên một ngọn núi nhỏ đằng xa, một cỗ xe ngựa phủ vải dầu xanh đang lộc cộc lăn bánh.

Người trong xe vén một góc rèm cửa sổ lên, thấp giọng hỏi: “Thu ngọc cống à?” Tấm rèm vải dầu xanh nhìn tưởng mộc mạc mà bên trong lại lót gấm vàng, quả tình kỳ quặc.

Một thiếu niên thanh tú chạy vội tới bên cửa sổ, kính cẩn thưa: “Thưa vâng. Quan binh đang bắt người trong thôn kia, xem chừng có vẻ muốn đốt nhà ạ.”

“Quan sát thêm chốc nữa.” Người trong xe phân phó. Phía xa, trong thôn làng dưới chân núi rộ lên tiếng ồn ào, bàn tay định buông rèm dừng lại.

Một bóng dáng bé bỏng vọt vào cửa thôn, chắn giữa lính tráng và một người phụ nữ, khuôn mặt đen nhẻm lại rất quật cường, “Không được bắt mẹ tôi!”

Chẳng đợi quan binh nổi giận, người phụ nữ bỗng đứng bật dậy giữa cát bụi và lưới đánh cá, ngăn đứa bé ra sau lưng, “Hải Thị, chạy mau! Đi tìm ông ngoại và cậu con, đừng quay trở lại!”

Hải Thị không nhúc nhích mà cởi bọc vải đeo sau lưng xuống, móc một vốc ngọc trai ra giơ lên cho tay lính kia nhìn, “Ông nhìn đi, đây có phải là ngọc trai không?”

Đám người đang tan tác chạy trốn, đuổi bắt, khóc la, mắng chửi đột nhiên quên mất mình vốn định làm gì. Hồn vía của họ bị cướp mất sạch.

Hạt ngọc trai không to, cũng chẳng có màu vàng óng, xanh biếc hay đen mượt quý hiếm, có điều đều tròn trịa ít thấy. Tuy nhiên, trong sắc trời hoàng hôn, vốc ngọc trai ấy càng thêm chói lọi, rọi xuống Hải Thị còn hắt lên mặt đất một cái bóng mờ. Dạ minh giao châu, ngàn vàng khó kiếm, thế nhưng trong tay đứa bé này lại đầy ắp một nắm, vậy trong cái bọc kia còn có bao nhiêu? Thủ lĩnh toán lính đẩy mọi người ra đi lên trước, mở bàn tay, Hải Thị bèn bỏ hết ngọc trai vào lòng bàn tay hắn. Gương mặt đờ đẫn của tên thủ lĩnh được ánh ngọc chiếu sáng. Lát sau, rốt cuộc hắn cũng hồi thần, chớp mắt, cười khà khà, “Các huynh đệ, có nhìn thấy gì không?”

“Hiệu úy, bọn tôi không thấy gì hết.”

Hải Thị nghe mà trong lòng run lên.

Ánh mắt tên thủ lĩnh như sên biển dính chặt lên bọc vải Hải Thị ôm trong ngực. “Vậy chúng bay nói xem, ngọc thôn này cống đã đủ chưa?”

“Thiếu nhiều lắm.” Vài tiếng cười kiềm nén vang lên thưa thớt.

“Cái thôn rách nát này lấy đâu ra ngọc trai chứ?” Tay thủ lĩnh vừa nói vừa xé vạt áo, bỏ ngọc trai cầm trong tay vào ngực.

“Lại chẳng, ngài hiệu úy ơi, chúng tôi lục soát khắp lượt mà có thấy cái mống ngọc trai nào đâu!” Đám lính xách đao, từ bốn phương từng bước vây quanh Hải Thị, trong mắt hừng hực ánh ma trơi xanh lét của âm ty địa phủ.

Hải Thị không khỏi ôm bọc quần áo lùi một bước, lại bị tấm lưới dệt dở treo giữa cây cối sau lưng cản đường.

Tay em chạm vào một điểm lạnh lẽo nhọn hoắt trên lưới đánh cá, trong lòng không dưng tĩnh lại, bèn nắm chặt điểm lạnh kia trong lòng bàn tay, nín thở chờ đợi. Em không muốn chết, em phải sống tiếp.

Tay thủ lĩnh vung đao chém xuống cổ tay ôm bọc vải của Hải Thị. Trong sát na ánh đao bổ xuống, Hải Thị tung mình nhào về phía tay thủ lĩnh, không biết là kéo cái gì mà tấm lưới đánh cá dài hơn một trượng treo trên cây thình lình bung ra non nửa. Vì cơ thể em nhỏ nhắn, hành động mau lẹ nên lúc nhào tới trước ngực tay thủ lĩnh, đại đao trong tay hắn mới quét qua sau lưng em, chém hụt.

“Mọi người đừng ngẩn ra thế, mau chạy đi!” Hải Thị ngẩng đầu la lên, bấy giờ dân thôn mới tỉnh hồn, dắt dìu nhau chạy vội tứ tán.

Tay trái tên thủ lĩnh xách gáy áo Hải Thị, đang định vận sức thì cảm nhận giữa bụng ngâm ngẩm tê ngứa, bất chợt nhói đau. Hắn trợn trừng mắt, buông Hải Thị ra, không tin nổi bưng lấy chỗ đau. Từ chỗ đau kéo ra một sợi chỉ gai, máu chảy dọc theo sợi chỉ, chậm rãi ngưng tụ thành giọt, nhỏ xuống.

Hải Thị lùi lại một bước, thấy tay thủ lĩnh lại lần nữa vận sức muốn vung đao, em chỉ quấn sợi chỉ gai quanh bàn tay một vòng, giật ngược lại một cái thật mạnh. Một chùm máu giọt phun ra choán lấy gương mặt thơ bé của em.

Cơ thể tên thủ lĩnh theo thế giật chậm rãi đổ ập xuống. Đến chết hắn cũng chẳng hay biết, thứ không vào hẳn bụng hắn nhưng cuối cùng lại lấy mạng hắn ấy chẳng qua chỉ là con thoi dài bằng gỗ cứng mẹ Hải Thị dùng để dệt lưới đánh cá hằng ngày.

Hải Thị buông sợi chỉ gai trong tay xuống, quay đầu chạy lên ngọn núi phía sau.

Xa xa dưới núi vọng lên tiếng huyên náo, người đàn ông trong xe hỏi: “Trạc Anh, sao rồi?”

“Đứa bé kia giết một quan binh, đang chạy về phía chúng ta ạ.” Thiếu niên tên Trạc Anh nói năng không cuống nhưng trong giọng lại có phần căng thẳng.

“Vậy, chúng ta thử xem vận may của nó đến đâu, xem xem nó có thể chạy tới chỗ chúng ta hay không. Nếu đứa bé này không có vận may thì về sau đi theo chúng ta cũng chỉ có một con đường chết mà thôi.” Giọng nói trong xe vẫn phẳng lặng như trước.

Trạc Anh vái nhẹ, không lên tiếng nữa. Sắc trời dần tối, tập trung lắng nghe chỉ thấy tiếng vài người đạp chân trên cỏ, loạt xoạt chạy lên núi. Không đến nửa chung trà, tiếng người đã chỉ ngoài mấy trượng, nghe động tĩnh thì có một tên lính cũng đuổi theo đứa bé kia, nhưng có vẻ như bị đứa bé kia liều mạng cắn nên kêu đau không dứt miệng. Chợt, tiếng gió bén nhọn nổi lên từng trận, hẳn là bọn lính đuổi kịp vung đao chém, tiếp đó là một tiếng ré, có lẽ đứa bé đã trúng một đao, bước chân tức khắc vấp váp lảo đảo, tiếng đạp cỏ lộn xộn, song chưa dừng lại ngay.

Trạc Anh siết chặt trong tay chuôi kim đao đeo bên hông, lòng bàn tay túa một lớp mồ hôi mỏng.

Người trong xe thấp giọng bảo: “Được rồi, đi đi.”

“Tuân lệnh!”

Giọng chưa dứt, thân hình Trạc Anh đã lao ra ngoài hai trượng. Nghe tiếng đoán hướng, cậu vươn tay xách đứa bé lên ném về phía xe ngựa, dưới chân vẫn không ngừng, đề khí xông lên trước, kim đao coong một tiếng rời khỏi vỏ, trong bóng đêm hàn quang loe lóe, dứt khoát, có tiếng áo rách máu đổ, đám lính theo tiếng gục xuống từng tên. Cuối cùng, đao chém ngang sang phải, Trạc Anh mượn kình lực nhát đao liệng nửa vòng, nhẹ nhàng đáp đất, ngước mắt lên tìm đứa bé kia, lại không khỏi nghẹn một hơi.

Đứa bé ngã sõng soài trên đất, bọc vải trước ngực bung ra, thứ lăn ra chẳng biết là vật gì mà trong bóng tối vẫn chói lòa mắt người. Thứ ánh sáng quý báu ấy vô cùng sống động, tuôn trào phập phồng như ảo ảnh. Một viên ngọc trai lăn thẳng đến dưới bánh xe, đụng vào bánh xe phát ra tiếng lanh lảnh. Rèm xe vén lên, một người xuống xe, duỗi bàn tay thon dài rắn rỏi nhặt viên ngọc lên, giơ ra trước mắt soi. Ánh ngọc long lanh chiếu sáng gương mặt người đó, cặp mắt phượng hẹp dài tuấn tú, vết đao dài chừng nửa tấc ở khóe miệng bên phải nhếch hờ, phác lên khuôn mặt đoan chính ôn hòa một nét cười như có như không.

Đứa bé bò lồm cồm trên đất, ngẩng đầu nhìn chàng, thân thể bất động nhưng tay thì chẳng rỗi nhàn, nhanh nhảu gom từng viên ngọc trai lăn lóc về lại trước ngực. Ánh mắt đứa bé như mắt thú, tuy có thần sắc sợ sệt song cũng rất minh mẫn. Không phải không trốn mà là muốn xem xét thời cơ, chờ cơ hội hành động. Chỉ cần chàng có chút ít dị động thôi, đứa bé này sẽ lập tức xoay người bỏ chạy theo bản năng, có khi còn tung một nắm đất về phía chàng.

Người đàn ông chậm rãi ngồi xổm xuống, thò một ngón tay ra đã vững vàng ấn chặt được bàn tay bé nhỏ đang ngọ nguậy của đứa trẻ. Nơi hai bàn tay chạm nhau truyền tới từng đợt run sợ đến từ cơ thể đứa bé. Người đàn ông vận sức ôm đứa bé đến trước ngực, nhưng đứa trẻ lại kháng cự, đôi mắt nhìn chòng chọc người đàn ông như đang ngó kẻ thù. Người đàn ông cũng chẳng tránh né, chỉ đưa tay vu.ốt ve gương mặt non nớt, nhỏ còn chẳng đủ một bàn tay của nó. Hai cánh tay chống cự của đứa bé run rẩy một chốc, bỗng vùi đầu vào hõm vai người đàn ông, ôm chặt lấy cổ chàng. Khóe miệng người đàn ông nở một nụ cười mơ hồ, ôm vững đứa trẻ, đứng thẳng dậy, để mặc minh châu rào rào lăn từ trên người họ xuống.

“Em tên là gì?” Người đàn ông cất tiếng điềm tĩnh hỏi.

Giọng khàn khàn lí nhí, nghẹn ngào trả lời: “Hải Thị.”

“Có bằng lòng cùng chúng ta đi lên phía bắc không?”

Hai tay Hải Thị không rời cần cổ người đàn ông một khắc, ngẫm nghĩ một hồi: “Đi lên phía bắc có thể kiếm tiền nuôi mẹ em không ạ?”

Người đàn ông im lặng đôi lát: “Làm con trai ta, ngoài an nhàn ra cái gì cũng có. Làm con gái ta, ngoài an nhàn ra cái gì cũng không có.”

“Vậy, em muốn làm con trai ngài.”

Ngực áo người đàn ông mềm mại khô ráo, thoang thoảng hương thơm. Hải Thị vùi đầu vào sâu hơn, cơ bắp mỏi nhừ trên người thả lỏng ra chút ít, giọng dần mơ hồ, nặng nề thiếp đi.

Trạc Anh thu thập giao châu vung vãi, đốt sáng một ngọn đèn lồng lụa trắng, vén rèm lên. Người đàn ông ôm Hải Thị lên xe, Trạc Anh nhảy lên càng xe, xe ngựa lặng lẽ đi về phía trước. Đèn lồng đung đưa, mái tóc quăn và con ngươi đen bóng của Trạc Anh phản chiếu ánh vàng kim trầm tối.

“Trạc Anh, năm đó lúc ta nhặt được con trong mười vạn loạn quân ở Hồng Dược Nguyên, ánh mắt con cũng hệt một con thú như thế này.”

Trạc Anh chỉ đáp lại một tiếng “Dạ” ngắn gọn.

“Chớp mắt đã bốn năm rồi.”

“Dạ.”

Họ không nói thêm nữa, bóng đêm buông màn.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 3: Dung nhan như bóng chớp II



“Chẳng lẽ ta đã già rồi? Sao cứ có cảm giác mười năm nay trôi qua còn nhanh hơn hai mươi năm trước vậy nhỉ.” Bàn tay phải gầy guộc nhón que cời đồng đỏ khêu hoa đèn. Ngọn lửa tức thì nổ lép bép, mùi long tiên hương thơm phức sực lên.

Người đối diện không đáp lời, chỉ vân vê một quân cờ đen trầm ngâm. Trong phòng lặng ngắt như tờ, một hồi lâu sau vang lên một tiếng giòn giã, quân cờ đen trong tay rốt cuộc cũng hạ xuống bàn cờ, đột nhập vào thế lực của quân trắng, trở thành một kẻ lạc lõng. Người hạ cờ bận áo trắng đường thảo (*), tuổi chỉ chừng mười sáu mười bảy, nước da màu lúa mạch, mày dài đến tóc mai, tựa như một thiếu niên tuấn tú khôi ngô, lại phảng phất dáng vẻ thiếu nữ anh khí, khó bề phân biệt.

(*) Đường thảo chỉ các loại cây dây leo thân cỏ nói chung, ở đây ý là hoa văn đường thảo thêu trên áo, vì những loại cây này có sức sống bền bỉ nên hoa văn đường thảo mang ngụ ý cát tường lâu dài.

“Nước này đi hấp tấp quá. Đánh cờ phải có lí lẽ, không thể cưỡng ép vô lí được, nhập cảnh cần từ từ.” Người khêu đèn buông que đồng, nói.

Thiếu niên áo trắng mím môi nhoẻn cười, trong anh khí lưu chuyển nét thanh lệ. “Thà bỏ vài quân cờ chứ không thể để mất tiên cơ, không phải nghĩa phụ vẫn thường dạy như vậy à? Hiện giờ nghĩa phụ vừa không nắm chắc có thể ăn được con, vừa không thể khoan nhượng cho con nghênh ngang tiến tới, người định làm sao đây?”

Người đàn ông đối diện bàn cờ dung nhan thanh thoát nghiêm nghị, phong thái từng trải trầm tĩnh, chỉ khi mỉm cười, khóe mắt xuất hiện một nếp nhăn nhỏ xíu, mới nhìn ra được dấu vết năm tháng đã kinh qua.

Trầm tư đôi chốc, người đàn ông xuống tay.

Thiếu niên cũng chẳng cần nghĩ ngợi, hạ tiếp một quân cờ.

Ngón trỏ tay phải người đàn ông gõ nhẹ lên bàn cờ.

Thiếu niên nhìn vị trí chàng chỉ, mặt không khỏi biến sắc, nhưng vẫn cố mạnh miệng: “Chưa thu quan mà, nếu cứ so nửa mục một mục (*) với người thì chắc gì con đã thua.”

(*) Giao điểm của các đường kẻ trên bàn cờ vây được gọi là mục, dùng làm đơn vị tính số đất mà 2 bên đen trắng bao vây chiếm cứ bằng quân cờ.

Người đàn ông nghe vậy ngước mắt, vết đao cũ dài nửa tấc ở khóe miệng bên phải khẽ nhếch, phác một nét cười như có như không lên khuôn mặt đoan chính mà ôn hòa. “Thế nên, Hải Thị, ta e tính khí con hãy còn bồng bột lắm, chức tham tướng Hoàng Tuyền Doanh này nếu con làm không xuể thì chẳng bằng trở về đế đô, ta sẽ thu xếp đường ra cho con.”

Hải Thị vân vê quân cờ, trầm mặc không đáp.

Tiếng gõ cửa kính cẩn vang lên, Trạc Anh cách cửa bảo: “Hải Thị, xiêm áo muội đặt đã được đưa tới, Chức Tạo Phường còn đang chờ đáp lời đó.”

Hải Thị đặt quân cờ sang một bên, nói: “Nghĩa phụ, nếu không thể cưới người con muốn lấy thì con thà tự do tự tại ở quan ngoại cả đời, không bao giờ quay về Thiên Khải nữa còn hơn.”

Ấn đường người đàn ông thoáng nhíu ra nếp nhăn rồi biến mất, mắt vẫn cụp thấp, tay phải nhón quân cờ gõ nhẹ lên bàn cờ, mãi mà không chịu hạ xuống.

Hải Thị đẩy ghế, đứng dậy mở cửa thư phòng, Trạc Anh đang chờ ngoài cửa. Người đàn ông ngẩng đầu nhìn họ sóng vai rời đi trong bóng đêm, sau cùng lặng lẽ buông một tiếng thở dài, tay phải mở ra, trong lòng bàn tay chẳng biết không dưng nhiều thêm một vết thương mới kì dị từ lúc nào.

Một ngấn máu tươi đột ngột quét qua đường chỉ tay ngang dọc rối rắm, ủ rũ nhỏ xuống vạt áo xanh, thấm loang ra một khoảng đỏ bất tường.

Trên đường ra sảnh trước Tễ Phong Quán, Hải Thị đi sóng vai với Trạc Anh.

Có cung nhân hầu hạ nơi khác tới Tễ Phong Quán biếu quà, trên đường trông thấy họ từ xa đều tránh sang một bên chỉnh trang thi lễ. Vài câu rủ rỉ lại theo gió bay vào tai hai kẻ tập võ: “Đó là hai cậu nghĩa tử của Phương công công đấy à? Hì hì, trưởng thành rồi quả nhiên phong thái hiên ngang, dung mạo còn trẻ trung tuấn tú nữa chứ, nếu là hoạn quan, nói không chừng còn có thể đối thực một phen…” Đối thực, tức cung nhân và hoạn quan cùng ăn cùng ngủ như vợ chồng, chỉ để an ủi tịch mịch mà thôi.

“Chao, con đ* mi thật không có chí khí! Phương Trạc Anh bây giờ đang giữ chức trong Vũ Lâm quân, bao giờ chúng ta được thả ra cung thì cũng coi như một hôn phối tốt đấy.”

Hải Thị nhìn Trạc Anh vẻ hài hước, chỉ thấy gương mặt trắng trẻo của cậu chàng ửng đỏ, sải bước đến là xa, cứ như làm vậy là có thể quăng những lời nhàn rỗi kia ra không bằng. Lại thoáng thoáng nghe thấy…

“Chỉ tiếc cho cậu Phương Hải Thị trẻ tuổi, chiếu chỉ bổ nhiệm vừa hạ xuống, cậu ta phải đi Bắc Cương, từ rày khó mà gặp được lắm. Ôi ôi, chẳng thà đối thực còn hơn.”

Lần này, đến lượt da mặt màu lúa mạch của Hải Thị phớt hồng. Trạc Anh hồn nhiên quên khuấy sự bối rối của mình mới rồi, im ắng cười trêu.

Hải Thị lúng túng hết sức, hậm hực giễu lại: “Năm đó lúc mới vào cung, muội hỏi mọi người đối thực là gì, cũng chẳng biết là ai nói với muội đối thực là một nam một nữ ngồi đối diện nhau ăn cơm đâu đấy, bây giờ lại giả cái đò già dặn lắm cơ.”

Trạc Anh cười dài, hai người rảo bước nhanh hơn về phía sảnh trước.

Chưởng quản Chức Tạo Phường Thi Lâm thấy họ tới, vội đặt chén trà xuống, đứng dậy vái chào, cũng không nhiều lời, lấy từ bọc giấy lụa ra một món xiêm y, giũ ra cho họ xem, trên gương mặt như vắt mì dạt dào đắc ý.

“Ái chà, Thi thúc thúc thiên vị quá đi!” Trạc Anh bật thốt.

Đó là một tấm bào tiễn tụ (*) dáng ngắn bằng gấm màu tro, kích thước ôm gọn lấy thân mình Hải Thị, sau lưng dùng đủ loại tơ xanh tím thêu một con chim cắt màu biếc, lông cánh chân mỏ tạo dáng tung bay nom y như thật, mắt điểm sắc phỉ thúy, long lanh chớp sáng. Tổng quản Phượng Đình Phương Chư đắc thế, hai nghĩa tử cũng được thơm lây, cậu lớn vào Vũ Lâm quân gần tám năm, tuổi chưa tới hăm tư đã được bổ quan hàm chính lục vị ở Vũ Lâm thiên kị; c** nh* năm nay thi võ đỗ thám hoa, đồng thời được phái đi Bắc Cương đảm nhiệm chức tham tướng của Hoàng Tuyền Doanh. Trước nay Chức Tạo Phường vẫn luôn dụng tâm nghênh tiếp, đường kim mũi chỉ may phục trang quân dụng theo đơn đặt hàng của họ đều vô cùng chỉn chu.

(*) Một kiểu ống tay áo rộng thời xưa, mép tay áo có thể dễ dàng xắn lên, tiện cho việc cưỡi ngựa bắn cung và lao động, khi cần giữ ấm thì buông mép tay áo xuống.

Hải Thị lại cảm thấy ngại ngùng: “Tấm áo này đẹp thì đẹp nhưng Thi thúc thúc ăn diện cho cháu cứ như đào kép ấy, đến Hoàng Tuyền Quan người ta lại chẳng cười cho, dẫn binh sao cho đặng?”

Thi Lâm giục Hải Thị nhân tiện mặc thử, Hải Thị nhận áo bào, tránh sang sương phòng.

Xiêm áo của Trạc Anh là triều phục chính lục vị của Vũ Lâm thiên kị, áo lót đen tuyền thêu thần thú phi liêm (*) màu đỏ tím, vạt dưới viền hoa văn sóng biển ba màu xanh bích trắng. Trạc Anh chỉ bận áo bào tiễn tụ ôm thân, đi ra sảnh chính mới khoác thêm triều phục, trang phục vừa người làm nổi bật thân hình cao ráo, không đội mão võ quan, chỉ buộc dải tơ ngũ sắc, tôn lên nước da trắng ngần và đường nét khuôn mặt mũi cao mắt sâu của cậu, hoa lệ khôn tả.

(*) Một loài thần thú trong truyền thuyết cổ đại của người Hán, được miêu tả là thân chim đầu hươu hoặc thân hươu đầu chim.

Đang ca tụng, Hải Thị đi ra khỏi sương phòng, tấm bào ngắn vừa vặn dài đến vòng eo thon thả của thiếu niên, vóc người thanh tú, nước da thì lại đậm màu hơn Trạc Anh chút ít, xán lạn động lòng người, con chim cắt biếc xanh thêu trên lưng áo sống động như thật, cặp mắt sắc sảo như đang nhìn chằm chằm người ta không dời.

“Bận trước Sưởng vương rảnh rỗi đi tới Chức Tạo Phường chỗ tôi, trông thấy hình mẫu Chá Lựu thêu, cứ cãi khăng khăng là Chá Lựu thêu hình dựa theo con chim cắt ngài ấy nuôi, cái áo này phải thuộc về ngài ấy. Ha, đừng nói đến tổ tông quy định không cho phép mang ưng khuyển vào cung, kể cả có cho, Chá Lựu sao mà trông thấy được? Tôi khuyên can hết lời, nói hình thêu này dùng chỉ đồng tinh vi do nước Chú Liên ở Lôi Châu Tây Nam cống nạp, trông thì óng ánh bắt mắt thế thôi chứ nặng lắm, lại thô ráp châm chích, võ tướng mặc còn được chứ làm thế nào cũng chẳng xứng nổi với phong thái cao quý của Sưởng vương đâu, hay là chờ tơ mới ươm xong lại bảo Chá Lựu thêu một hình dày mịn mềm mại thật sống động đưa sang cho ngài ấy. Ton hót mãi ngài ấy mới chịu thôi. Vị vương gia này thật là…” Thi Lâm vừa càm ràm vừa chỉnh sửa lại xiêm áo.

Hải Thị không tiện tiếp lời y, chỉ đành cười góp. Đến giờ Đế Húc vẫn chưa có con nối dõi, vị hoàng đệ duy nhất là Sưởng vương thì phóng túng xa xỉ, cả đế quốc to nhường ấy mà từ loạn lạc đến thống nhất chưa đến mười bốn năm đã khiến Đế Húc xảy ra lối rẽ, lại còn chẳng có lấy một ai có khả năng kế ngôi.

Trạc Anh không hé răng, chỉ đưa tay vu.ốt ve con chim cắt sau lưng Hải Thị, con chim dữ ấy như tách lụa xông ra, thần thái sáng láng.

Thi Lâm mỉm cười: “Nào dám làm lơ đại công tử đâu, con phi liêm trên áo bào của ngài cũng do một tay Chá Lựu thêu nên đấy, vì y phục của hai vị công tử, con bé này quả thực dụng công đến cố sống cố chết, cứ ru rú một mình trong phòng tối om cắm đầu vào thêu suốt ngày.”

“Vậy không được, mệt nhọc sinh bệnh thì làm sao!” Trạc Anh buột miệng.

Hải Thị quay người lại nhìn Trạc Anh, chỉ híp mắt cười không nói gì, chòng chọc làm da mặt trắng như tuyết của Trạc Anh đỏ lựng.

“Ngày mai tiểu công tử theo quân đóng giữ Hoàng Tuyền Quan, người không phận sự không thể đi tiễn, đành chúc ngài thuận buồm xuôi gió trước tại đây, cũng xin nhờ hai vị công tử thay tôi gửi lời cát tường đến Phương công công. Tôi đây xin cáo lui.” Thi Lâm dài dòng một chặp rồi chắp tay bái biệt, xoay thân mình ục ịch lui ra cửa.

Dòng nước xanh đặc chảy xuyên giữa ngón tay và kẽ tóc, muôn vàn bọt khí nhỏ vụn lấp lánh như cát bạc ào ạt nổi lên dập dềnh.

Mà nàng thì đang sa xuống giữa vũng nước biển ứ đọng dính nhớp không một âm thanh hay tia sáng, tựa như có bàn tay vô hình dẫn dắt, từ từ chìm tới chỗ sâu tối mịt chẳng biết là đâu, nhưng vĩnh viễn không thể chạm đến đáy biển.

Hải Thị mờ mịt ngửa đầu, mặt biển xanh đục như một bầu trời kì dị, càng ngày càng cao, dần vượt khỏi tầm với. Thân xác khổng lồ lập lòe ánh thép xanh im ắng lướt qua trước mặt nàng, biến mất trong bóng tối hun hút. Một đường đỏ thẫm những sợi tia lan ra, theo sóng nước dập dờn phất qua má nàng, để lại xúc cảm tanh dính lạnh băng như thịt sống.

Lang Hoàn vươn tay về phía nàng, trên gương mặt tuyệt mĩ là thần sắc nôn nóng. Truyện Hài Hước

Nàng cũng cố hết sức chìa tay cho Lang Hoàn, nhưng chỉ quờ hụt trong nước biển, vẫn từ từ chìm xuống chẳng thể xoay chuyển. Nàng tuyệt vọng nhìn hai bàn tay mình, thấy chúng mềm mại thơ bé, tỉnh ngộ nhận ra mình đã quay về tuổi nhi đồng, trong tăm tối, lòng bàn tay lờ mờ tỏa ánh bạch quang, từng nét từng vạch, mắt thấy đã sắp hoàn thành nên hai con chữ xinh đẹp.

Hải Thị mở bừng mắt, tay chân lạnh ngắt, gió heo may như nước phất qua má. Mười năm, cơn ác mộng này vẫn quấn lấy nàng.

Nàng thoáng trở mình trên gối, trông thấy cửa sổ mở toang, trong bóng đêm mênh mang, vô số đèn đuốc nườm nượp qua lại, viền dọc hai đại lộ Vĩnh An và Vĩnh Nhạc của đế đô.

“Đến giờ dậy rồi.” Phương Chư mặc triều phục đại điển sắc biếc thêu hoa văn cỏ đường, đứng bên cửa sổ ngoảnh đầu lại.

Hải Thị lặng thinh một chốc, nhỏ giọng nói: “Lại nằm mơ ạ.”

“Chừng ấy tuổi rồi vẫn sợ ác mộng à?” Người đàn ông cười khẽ.

Hải Thị cúi đầu nhìn lòng bàn tay không chút dị trạng của mình, cuối cùng vẫn khoác áo rời giường, sóng vai đứng cùng chàng. Theo lệ, cứ mỗi năm năm, Hoàng Tuyền Doanh, Thành Thành Doanh, Vũ Uy Doanh lại thay quân một lượt, năm nay biên ải căng thẳng nên mỗi nơi tăng binh thêm ba vạn, tổng cộng mười tám vạn binh mã sáng sớm mai duyệt binh ngoài Chu Tước Môn, Thiên Khải vốn đã là đô thành không ngủ, nay lại càng nhộn nhịp huyên náo.

Cuối triều Đoan, tộc Tả Kim phía bắc lục địa một lần nữa đánh phá Thiên Khải. Sau đó, quân Tây Đoan, quân cần vương và các lộ nghĩa quân giặc cỏ công thủ lẫn nhau, giẫm đạp suốt mười ba năm, tòa cố đô ngàn năm từng trang nghiêm cao quý này bị hư hại hoàn toàn. Ngày đời vua cuối cùng của nhà Đoan, Ẩn Đế Mục Vân Sênh, rốt cuộc cũng rút khỏi Thiên Khải, gió tàn thu căm căm, buổi chiều, chẳng biết từ đâu nổi lên ngọn lửa, đến trước tảng sáng hôm sau, lửa dữ trong thành đã rọi sáng trăm dặm. Từ Thương Dương Quan trông về phía bắc, khắp bồn địa đế đô rải rác tro bụi, chỉ có thành Thiên Khải là bập bùng đỏ rực, tựa một đóa hoa ăn thịt người khổng lồ, diễm lệ mà hiểm độc, trong khói mù mờ mắt vang dội tiếng cháy nổ. Anh Lâm Cung mà Mục Vân Sênh dốc hết tâm huyết giám sát xây dựng cũng chẳng may mắn thoát kiếp, dẫu cho hàng ngàn hàng vạn loạn quân và dân lưu lạc cướp đoạt trắng đêm thì số báu vật trang trí vàng bạc ngọc ngà và đá vân mẫu lát lối giành được từ trong hỏa hoạn cũng chỉ bằng một, hai phần mười.

Đô thành của nhà Trưng cũng đặt ở Thiên Khải, có điều Thiên Khải này đã là một tòa thành mới mọc lên trên đất cằn. Thiên Khải của dĩ vãng, kể cả những bức họa nửa đêm trải giấy thêm hương trong chốn sâu thẳm tại Anh Lâm Cung, đều đã rốt ráo hóa thành đá vụn than khô cùng triều Đoan. Anh Lâm Cung tinh xảo tráng lệ đã nuốt ngốn vô số tính mạng thợ xây ngự trị trong thành Thiên Khải cũng chỉ được vài năm ngắn ngủi. Nhưng vẻ đẹp như lâu đài ảo ảnh và dòng máu chảy thành sông ngầm dưới nền đá cũng đã đủ khiến người ta nhớ mãi không quên.

Nàng buông nhẹ tiếng than. Vào cái đêm lửa dữ đốt thành năm xưa, phải chăng sắc trời cũng chỉ thế này? Trong cung cũng chẳng lấy gì làm yên bình. Trong cửa cấm trồng đầy những cây phong cây thích, mỗi độ thu chín, dưới bầu trời xanh thẳm, từng cụm ráng son bừng lên như gấm đào, rọi lên lầu gác điện đài đen tuyền trắng phấn, trong tĩnh lặng trang nghiêm bỗng hiển lộ cái duyên chói rực. Hiện giờ đang là ban đêm, đèn xách lưu ly trong cung qua lại như con thoi, soi bóng cây chập chờn, chiếu lá đỏ sáng loáng phồn hoa, chỉ duy Kim Thành Cung của Đế Húc vẫn tịch mịch như cũ. Tuy triều thần đều đã rời giường chỉnh trang, mà đại để cũng biết ngày mai duyệt binh, theo lệ Đế Húc sẽ không đi, song liệu đế có đổi ý nổi hứng bãi giá Chu Tước Môn duyệt binh hay không thì cũng khó nói, thế nên trong Thiên Khải rộng lớn vẫn thâu đêm điều động nhân mã, quét tước giăng màn, chỉ e có điều sơ sót.

“Vì một ý nghĩ không chắc của thiên tử mà bao nhiêu người phải thục mạng bôn tẩu như vậy… Nhưng, thật lòng mà nói thì rất đẹp.” Hải Thị thở dài.

“Con cũng nên chỉnh trang đi. Đúng giờ Ninh nửa đêm là phải vào doanh điều binh tới Chu Tước Môn bày trận rồi, mặc dù có tham tướng cũ chiếu cố nhưng con cũng không thể lơ là.”

Triều phục của Hải Thị là cân đai chính bát vị, được đặt ngay ngắn ở đầu giường cùng nội bào sa xanh năm lớp từ cạn đến sâu. Nàng giũ lớp nội bào trong cùng màu xanh khói ra tròng lên người, thử vòng chéo đai tơ vạt trong ra sau lưng. Kể từ lúc nữ giả nam trang vào năm sáu tuổi, nàng đã tuyệt không cho ai kề bên hầu hạ, nhưng triều phục chồng chéo rườm rà, không ai trợ giúp cũng rất khó mặc.

“Nghĩa phụ…” Hải Thị khó xử cất tiếng. Gió đêm chải vuốt mái tóc dài chấm eo buông xõa của nàng, dung nhan ngày thường bất phân thư hùng thời khắc này lại mĩ miều tận xương.

Phương Chư nghiêng đầu sang một bên, nói: “Để ta gọi Trạc Anh tới chỉnh sửa cho con.”

Hải Thị mỉm cười: “Người cứ coi Hải Thị là con trai, không phải má hồng là được mà.”

“Dù mười năm qua con tập võ luyện bắn, đánh nhau với Trạc Anh từ bé đến lớn thì chung quy vẫn là một cô gái. Cũng tại ta nuôi con quá buông thả, đợi con tòng quân trở về rồi, vẫn cần chọn lấy một người thật tốt, gả con đi.”

Hải Thị nén nhịn nước mắt đã lưng tròng, ngậm cười: “Lúc nghĩa phụ làm việc trong cung, há lại không thường xuyên hầu hạ các nương nương sinh hoạt? Trạc Anh ca ca dù gì cũng là đàn ông, về lễ pháp có nhiều điều không ổn, vẫn là kính xin nghĩa phụ giúp con đi thôi.”

Dù gì cũng là đàn ông. Vào tai hoạn quan, chỉ e chẳng lời lẽ nào sắc bén hơn câu này.

Song ánh mắt Phương Chư lại như mặt hồ đóng băng, thản nhiên ung dung, chỉ đi vòng ra sau lưng Hải Thị, thắt đai áo cho nàng.

Đã đến canh giờ đêm trầm sâu nhất, gió lạnh tiết hàn lộ vi vu, không biết nơi đâu có cung nhân tiêu ma đêm dài, loáng thoáng gảy vang đôi tiếng tì bà. Hải Thị dang rộng hai cánh tay, tựa như một con phỗng tinh xảo, mặc cho chàng lấy áo lụa quần gấm bao bọc thân mình tầng tầng lớp lớp. Ngón tay Phương Chư dịu dàng chạm qua má nàng, vững vàng ấm áp, dẫu có giọt nước mắt nóng bỏng nặng nề rơi xuống tay chàng vỡ tan cũng chỉ khiến hai tay chàng ngừng lại trong thoáng chốc, chẳng mảy may run rẩy. Mái tóc đen dày của nàng cũng được chàng tỉ mỉ vấn cao, chụp mão võ quan bằng gấm huyền lên, buộc dải tơ mão chia làm năm màu, nhất nhất từng sợi thắt chặt dưới cằm, cuối cùng đeo bội đao và lệnh bài hình nghê nạm vàng lên hông nàng. Trên tua lệnh bài điểm ba viên ngọc to cỡ hạt đậu nành, le lói hàm quang dưới đèn đuốc âm u. Hải Thị nhận ra chúng được lấy từ hộc châu giao nhân tặng cho nàng khi còn nhỏ. Mím môi một lần nữa quay đầu về, nàng đã khoác lên mình dáng điệu đường đường của một võ quan thiếu niên khôi ngô vũ dũng, mắt lạnh như sương, tuyệt nhiên không còn chút lưu luyến nào.

Phương Chư cùng Trạc Anh tiễn Hải Thị đi, thuận đường tạt qua Kim Thành Cung, sửa soạn phục dịch Đế Húc rời giường.

Giữa giờ Lan, trong cung truyền lời ra, đêm qua hoàng thượng phê duyệt tấu chương mệt nhọc, hôm nay không tới Chu Tước Môn duyệt binh.

Trước bình minh, trời đất như vẩy mực, mười tám vạn tinh binh quỳ gối hô vạn tuế dậy trời, tiếng búa việt vang khắp mười dặm, đầu thành đuốc lửa liên miên, giáp trụ nhấp nhô tựa sóng biển cuồn cuộn. Dưới sự dẫn dắt của cờ xí, đại quân phân nhánh theo thứ tự rời khỏi Thiên Khải, Vũ Uy Doanh chọn đường Hà Tây lên Khuân Quan, Thành Thành Doanh đi hướng Mạc Hột Quan, Hoàng Tuyền Doanh sang tây tới Hoàng Tuyền Quan, doanh nào thay quân của doanh ấy.

Đi đến trước đèo Kỳ Việt, Hải Thị dừng ngựa. Từ Thiên Khải hướng lên phương bắc, dãy Minh Lạc như một cánh cung cứng cáp, là bình phong thiên nhiên che chở cho bồn địa đế đô, chỉ có một đường duy nhất vượt qua là con đèo rộng rãi chính giữa triền núi này, cách biển dẫn thẳng tới Hoàng Tuyền Quan xa xôi.

“Qua chỗ này rồi là không còn trông thấy Thiên Khải nữa. Lúc tôi đi Hoàng Tuyền Doanh lần đầu mới chỉ mười lăm tuổi, bước chân hãy còn nhỏ vụn, đi tới đây thì khóc òa.” Trương Thừa Khiêm đi song song với Hải Thị, đưa mắt nhìn trời, kể. Ông anh Trương Thừa Khiêm này năm nay ba mươi hai, ba mươi ba tuổi, là tham tướng bản doanh Hoàng Tuyền phái tới bàn giao danh sách lương thảo.

“Sao vậy, khi đó Trương huynh sợ à?” Hải Thị buông tuồng tiếp lời.

Trương Thừa Khiêm toe toét nhe răng: “Nào có, cuối cùng cũng không cần ở quê học cha mổ lợn nữa, có thể đánh giặc lập công, chỉ nghĩ thôi đã mừng phát khóc rồi.”

Đô thành hùng vĩ vẫn say sưa giấc nồng, trong nắng mai, lá phong cả một vùng ngoài Thừa Tắc Môn đỏ rực như khói. Có lẽ đây cũng là lần cuối nhìn thấy lá đỏ đế đô. Cũng phải, nói lời chua ngoa như vậy, gặp nhau lần nữa thì lại có thể thế nào? Hải Thị cười tự trào, phân phó chuyển hướng, giục ngựa chạy một mạch vòng qua con đèo, vứt Thiên Khải lại sau núi.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 4: Cảnh đời tựa gió bay



Từ Tuyền Minh, đại quân vượt biển tới cảng Kỳ Thành của Hãn Châu rồi đi về phía Sương Hoàn Thành. Hơn ba trăm năm trước khi Sương Hoàn Thành còn mang tên Bắc Đô, thương nhân miền bắc Lôi Châu đã mang tơ tằm lửa tới đây buôn bán, bỏ một số tiền lớn thuê thợ thủ công Đông Lục, thừa dịp ba mươi ngày tháng Bảy nắng hạn nhất trong năm, dệt tơ tằm lửa thành gấm dày, nghe nói ở cực bắc Thương Châu nơi áo giáp bị đóng băng, người ta dùng loại gấm vóc này may làm áo đơn, sương giá cũng bất khả xâm nhập, bởi vậy mà loại gấm này được gọi là gấm Sương Hoàn, vô cùng quý báu. Dần dà, đất theo tên vật, cương vực nhà Trưng cùng từ từ mở rộng lên mạn bắc, sau khi tộc Man rút lên phía bắc, người Đông Lục dứt khoát sửa tên Bắc Đô thành Sương Hoàn Thành, trở thành thủ phủ của đất Hãn Châu Đại Trưng.

Từ Sương Hoàn đi sang phía tây, cảnh vật kì thú khác hẳn Đông Lục. Dọc đường, phàm là nơi có nguồn nước, đồng cỏ đều dồi dào tốt tươi, dê bò khắp đồng, thành quách sung túc, ngoài ra thì đều là sa mạc cát sỏi, khí hậu phương bắc lạnh lẽo khắc nghiệt, cứ đến mùa đông, bộ lạc Hộc Khố tộc Man lại vượt núi Bì La rục rịch xuống nam chiếm đồng cỏ cướp gia súc, bởi vậy nên vào kỳ thay quân mùa thu mỗi năm năm, bảy vạn lính cũ trong bản doanh và ba vạn lính mới sẽ cùng trú đóng ở Hoàng Tuyền Quan, đợi đến mùa xuân mới lại phái ba vạn lính cũ rút về Đông Lục.

Khi tiên hoàng còn tại vị, tiếm vương Chử Phụng Nghi đã nhân cơ hội đế đô phòng vệ mỏng yếu vào kỳ thay quân thu đông để khởi binh tự lập, bọn phản vương Diên Niên, Tào Quang, La Tư Viễn cũng nổi dậy bốn phía cát cứ làm loạn, Đông Lục loạn lạc rối ren. Năm đó, Húc vương Chử Trọng Húc vừa tròn mười bảy tuổi, suất lĩnh Cận Kỳ Doanh và các lộ binh mã cần vương khổ chiến tám năm, thống nhất thiên hạ, đăng cơ nối ngôi, xưng là “Đế Húc”, lấy niên hiệu “Thiên Hưởng”, đến nay đã là năm Thiên Hưởng thứ mười ba. Kỳ tam đại doanh thay quân mùa thu năm nay, ngoài ba vạn lính theo thường lệ, mỗi doanh còn tăng thêm ba vạn tráng đinh, thuế binh và lao dịch tức thì biến nặng. Triều đình ít nhiều đều có lời chỉ trích đối với việc này, cũng không phải là bàn cãi về chín vạn nhân mã cỏn con mới trưng binh năm nay mà là bởi đống nhân mã này vốn là để bổ sung cho Vũ Lâm Cận Vệ và Cận Kỳ Doanh đủ hai mươi vạn quân. Một khi binh lực kinh kỳ suy yếu, quá nửa số lão thần sẽ lập tức đứng ra phản đối, cuộc phiến loạn do tiếm vương Chử Phụng Nghi châm ngòi hai mươi mốt năm trước quả thật đã để lại trong ký ức của họ dấu vết quá đỗi đau thương.

“Quái thật…” Trương Thừa Khiêm hứng gió bấc xen lẫn cát vàng, hơi nheo mắt.

Hải Thị chạy lên từ phía sau, hỏi: “Sao vậy ạ?”

“Chúng ta đi từ đông nam về phía tây, trước mùa tuyết rơi bao phủ ngọn núi vào tháng Mười hằng năm, ít nhiều đều sẽ bắt gặp vài thương khách Lôi Châu không sợ chết vận tải hồng hoa, cát bối và xạ hương tiến vào Già Mãn. Theo lý, Hoàng Tuyền Quan năm nay có tổng cộng mười ba vạn nhân mã trú đông, người Hộc Khố cũng sẽ không lựa khoảng thời gian này tới gặm xương cứng, đường đi Hãn Châu phải an toàn hơn mới đúng.” Vừa nói vừa hùng tráng dời mắt lên bàn tay nắm cương ngựa của mình, rì rầm lẩm bẩm tựa như đang giải thích với Hải Thị, lại cũng như chỉ đang độc thoại, “Nhưng một đường đến đây lại yên tĩnh khác thường, đến một mống Nam Bì, Chú Liễn, Ni Hoa La cũng chẳng có. Mẹ kiếp, lạnh thật đấy.”

“Ý huynh là người Hộc Khố đã đến Hoàng Tuyền Quan…” Hải Thị nhìn về hướng tây bắc. Sa mạc bằng phẳng vắng lặng, thinh không mù khói thập diện mai phục, biến ảo khôn lường.

“Nếu chúng tấn công Hoàng Tuyền Quan thì chúng ta đã nhận được tin tức từ lúc đi qua Sương Hoàn rồi. Nhưng bây giờ, suối mùa trong sa mạc đã khô cạn hết cả, ngoài khu vực ven sông ở núi Bì La hãy còn nước ra, những chỗ khác đều đã trơ trụi, hơn nữa còn hiểm trở không lối, chúng không xông vào Hoàng Tuyền Quan thì còn có thể đi đâu?”

Gió lớn bọc một bóng trắng quét qua trước mắt Hải Thị, đậu lên mu bàn tay nàng, nhìn kĩ, thứ như lông chim ấy lại hóa thành một giọt nước lạnh băng vẩn đục. Nàng lấy làm kinh hãi, ngẩng đầu nhìn trời, tầng mây như chì ùn ùn bất định, lơ thơ rải xuống những chấm trắng ảm đạm, gió bỗng chuyển khô hanh.

Mới cuối tháng Chín mà tuyết đã rơi rồi.

Tuyết dần dày đặc, mới qua một khắc, chẳng ngờ đã thấy không rõ con đường ngoài vài dặm phía trước. Nhất thời, trong hàng ngũ dài tựa rồng rắn nổi lên một trận hỗn loạn nhỏ, Hải Thị vừa định bảo các đội thiên kỵ trấn an binh sĩ dưới quyền thì thình lình bị Trương Thừa Khiêm tóm lấy bả vai.

“Sông băng, chúng tiến vào từ sông băng!”

“Sông băng gì cơ? Sông băng núi Phù ấy ạ? Nơi đó căn bản không thể thông hành mà!” Hải Thị bị đau, nhíu chặt mày.

“Mấy năm nay, thời tiết ấm áp khác thường, sông băng ít nhiều cũng tan ra, những khe hố sâu mấy cả trượng giữa lưỡi băng và nham thạch dần bị nước và bùn cát lấp đầy, đến mùa đông lại đóng băng nên bằng phẳng hơn rất nhiều. Nhưng kể cả thế, sông băng cũng vẫn rất trơn trượt dễ sụp nứt, căn bản không thể đi lại, nếu chấn động quá lớn còn dẫn đến núi tuyết sạt lở, thế nên số quân sĩ chúng ta để lại ở Thủy Tỉnh Đồn trước sông băng núi Phù chỉ không đến hai ngàn. Nhưng năm nay, trên đường Hãn Châu cuối tháng Chín đã có tuyết rơi, bên Hộc Khố chỉ e từ tháng Chín, không, cuối tháng Tám đã tuyết ngập đồng cỏ rồi!”

Ria mép Trương Thừa Khiêm đậu tuyết, gã lắc mạnh đầu, bông tuyết tức khắc xào xạc rơi xuống, “Thời tiết đóng băng mấy chục năm mới gặp một lần như vậy, sông băng cũng bị đông cứng dày chắc, ngoài đi từ khe núi Bì La đến Hoàng Tuyền Quan ra thì sông băng chính là con đường tốt nhất, hơn nữa địa thế gập ghềnh, dễ dàng che lấp nhân mã, nếu tôi là người Hộc Khố, tôi cũng sẵn lòng đi sông băng!”

“Họ không mang được bao nhiêu lương thảo theo, như vậy nhất định sẽ phải đi cướp?” Hải Thị vội hỏi.

Trương Thừa Khiêm nghiến răng, trên mặt nổi cộm cơ bắp rắn rỏi, “Phải, sau khi ra khỏi sông băng, cách hai mươi dặm chính là Thủy Tỉnh Đồn. Quân trú ở đó không đến hai ngàn, bách tính khai hoang cũng chỉ hơn hai ngàn người, thương khách qua lại đông tây đều dừng chân bổ sung nhu yếu phẩm ở đó. Hiện giờ chúng ta cách Hoàng Tuyền Quan năm trăm năm mươi dặm, cách Thủy Tỉnh Đồn hai trăm mười dặm, còn áp tải lương thảo trú đông cho mười ba vạn người, không thể vọng động, Thủy Tỉnh Đồn này e rằng đã…”

“Trương huynh, huynh áp tải lương thảo về doanh trại, để tôi đi Thủy Tỉnh cho!” Hải Thị bỗng đề nghị.

Trương Thừa Khiêm không khỏi quan sát lại thật kĩ vị đồng liêu thiếu niên này. Sớm nghe tham tướng mới Phương Hải Thị là thám hoa tân khoa võ cử, trước khi rời kinh Trương Thừa Khiêm chỉ mới gặp cậu ta hai lần. Lần ở Chu Tước Môn, Phương Hải Thị này mặc triều phục đại điển, phong tư thiếu niên anh tuấn oai phong, nước da lúa mạch, mắt mày thanh tú như nữ tử, lại nghe nói là con nuôi của thái giám đắc thế nên Trương Thừa Khiêm nhìn mà chán chường. Gã từng thấy không ít cậu ấm con quan, chẳng được lấy một tên nào nên trò nên trống, đã không ôm bất kì hi vọng gì, chỉ cầu cậu ta đừng chết ở biên ải khiến họ khó xử là đã mừng lắm rồi. Một đường tới đây lại cảm thấy thiếu niên này tính tình kiên nhẫn, khổ gì cũng chịu được, cứ như mượn xác người khác hoàn hồn vậy, chẳng hề quý trọng bản thân, giờ nghe Hải Thị nói thế lại đâm ra lo lắng.

“Đây là trận đầu của cậu, cũng không có ai dẫn dắt, như vậy…”

“Trương huynh, lương thảo trú đông của mười ba vạn người đều đang nằm trong tay huynh, đương nhiên không thể phân tâm, nhưng Thủy Tỉnh Đồn này chúng ta cũng không thể thấy chết mà không cứu. Bằng không, chuyện này truyền ra ngoài, về sau còn ai dám tới khai hoang?”

Trong lòng Trương Thừa Khiêm biết cậu ta nói có lí, nhưng lại sợ cậu ta là nghé con mới sinh không biết chiến trường nông sâu, chỉ đành gọi mấy thiên kị từng trải đến, phân tám ngàn tinh binh cho cậu ta, dõi mắt nhìn đội ngũ này cấp tốc chạy về phía Thủy Tỉnh Đồn trong gió tuyết mịt mù. Trương Thừa Khiêm chùi vụn tuyết dính trên râu ria, quay đầu lại ngó đại đội sau lưng, quát: “Đứng đực ra đấy hết làm gì? Mau lên! Ngày mai trước khi trời tối nhất định phải tới được bản doanh!”

Chập tối ngày kế, đại đội năm vạn hai ngàn người áp tải lương thảo trú đông đến được Hoàng Tuyền Doanh dưới chân núi Bì La. Sau khi bàn bạc, họ quyết định lệnh hai ngũ thiên kị dẫn bộ hạ của mình gấp rút tiếp viện Thủy Tỉnh Đồn. Đêm xuống, trên đường tây nam người hô ngựa hí, Trương Thừa Khiêm lao ra khỏi lều trại, chỉ thấy trời đã tối mịt, đuốc cành thông uốn lượn một đường đi tới, trên người thiếu niên dẫn đầu nhuộm đầy vết máu, mặt trắng bệch như người chết, từ xa trông thấy Trương Thừa Khiêm bèn phóng ngựa chạy lại chỗ gã.

“Sao rồi?” Trương Thừa Khiêm thấy Hải Thị xuống ngựa hơi loạng choạng, vội đỡ cậu ta.

Hải Thị nuốt nước bọt, mở đôi môi khô róc: “Tới muộn, người Thủy Tỉnh Đồn đã… chết mất già nửa.”

Tráng hán thô kệch nghiến răng, lát sau hỏi tiếp: “Người Hộc Khố thì sao?”

Gương mặt thiếu niên phản chiếu ánh lửa, mắt sáng như đuốc, “Ba ngàn hai trăm người Hộc Khố, chạy bảy trăm, những tên còn lại không chịu hàng, khó khăn lắm mới giữ được hai mươi tên bắt sống. Giờ đang cấp tốc đào chiến hào ở cửa ra sông băng, phòng thủ không đủ, đang định quay về xin thêm nhân công thì vừa hay gặp được Lộc thiên kị và Trần thiên kị trên đường, nhờ họ đến Thủy Tỉnh Đồn chi viện trước, tôi trở lại báo tin.”

“Có Lộc thiên kị và Trần thiên kị là đủ rồi.” Một người đàn ông khoác áo choàng thiên thanh chẳng biết đã đứng sau lưng họ bao lâu, lúc này chợt mở lời, “Cậu không cần đi Thủy Tỉnh Đồn nữa, ở lại trong doanh đi. Đợi bao giờ đào xong chiến hào, lối sông băng này cũng coi như bị chặn, giữ ít người ở đó thôi. Chỉ sợ bọn chúng giương đông kích tây thì lại đúng lúc quan ải cần dùng người.”

Trương Thừa Khiêm khom người chắp tay, “Thang tướng quân.”

Hải Thị biết người này hẳn là chủ tướng Hoàng Tuyền Doanh Thang Càn Tự, bèn hành lễ theo. Thang Càn Tự hơn ba mươi tuổi, đóng giữ ở Hoàng Tuyền Quan chỉ mới sáu năm nhưng thanh danh đã lưu truyền khắp nơi, là một người cực kỳ dũng mãnh. Hộc Khố quấy nhiễu nhiều năm, dân đồn biên tái ôm đủ mối hận đàn ông bị giết, vợ con chịu nhục, súc vật bị bắt, thế nên mỗi lần bắt được thám tử Hộc Khố, Thang Càn Tự đều lệnh ném thám tử cho dân đồn xử trí, đợi đến khi tù binh bị hành hạ chết rồi lại lệnh binh sĩ treo những thi thể tử trạng thê thảm này lên quan. Lúc người Hộc Khố một lần nữa xâm phạm, dân đồn đã mất đường đàm phán, đương nhiên sẽ liều chết chống lại. Không ngờ nhân vật lợi hại bậc ấy mà vóc người lại chỉ trung đẳng, mặt mày có thể gọi là nho nhã, chẳng giống chủ soái một quân mà giống mưu sĩ phụ tá hơn.

Thang Càn Tự gật đầu, nói: “Nói với hỏa đầu quân mau chóng thu xếp cơm nước cho người từ Thủy Tỉnh Đồn về. Đêm nay Phương tham tướng ở chung với ta.”

Thủy Tỉnh Đồn hao tổn gần hai ngàn quân phòng thủ, tâm trạng của Thang Càn Tự và mấy tham tướng đều không thoải mái, bởi vậy nên bữa cơm này trong đại doanh ăn rất yên tĩnh. Thức ăn cũng chẳng phải nem công chả phượng gì đặc biệt, đều là gạo kê, thịt dê bò giống các binh sĩ khác, chỉ nấu kĩ hơn đôi chút mà thôi. Thân binh bưng một đĩa to ra, là dê sữa nướng nhà dân biếu tặng, rút dao cắt một tảng lớn xuống, mỗi người nhận một phần, còn cần mẫn bất chấp dầu bắn, ai nấy tự lấy dao xắt nhỏ ra ăn. Hải Thị rút bội đao, cắt một góc ra, thịt dê nướng tái hãy còn đỏ mọng, máu tức thì phun ra, cảm tưởng như lưỡi dao chém vào máu thịt người Hộc Khố vậy. Nàng không nhịn được tái mét mặt, trong ngực nôn nao cơn buồn ói.

Trương Thừa Khiên quay sang xem vị đồng liêu thiếu niên bên cạnh, ân cần hỏi: “Sao thế, không thoải mái à?”

Hải Thị cười gượng, không muốn để người ta coi thường nên không giải thích gì.

Thang Càn Tự nói: “Phương Tham Tướng còn trẻ đã đánh trận đầu, tình huống chiến đấu lại thảm khốc như vậy, nhất thời buồn nôn cũng là điều khó tránh, năm xưa mọi người đều như vậy cả, dần dà rồi quen. Chẳng qua sợ là đã bị oán khí xâm phạm, không ngại thì đến từ đường một chuyến vái lạy đi.”

Trương Thừa Khiêm vỗ mạnh đầu, “Sơ sót rồi sơ sót rồi, đáng ra phải dẫn cậu đến quân từ sớm mới phải.”

Cái gọi là quân từ thực chất chỉ là một chái nhà phía tây doanh trại chủ soái, thắp đèn chong, sau ngọn đèn mờ thờ một bức tranh cuộn. Màu giấy tuy không mới nhưng được giữ gìn rất tử tế, hẳn là đã qua tay nhiều người, không biết truyền được mấy đời rồi.

Trương Thừa Khiêm bảo Hải Thị châm ba nén hương, khom người cúi lạy rồi cắm hương vào lư trước bức tranh. Hải Thị lơ đãng ngẩng đầu, đối diện là một đôi mắt phượng hẹp dài thanh tú, thần thái hướng nội, như sâu không đáy. Tay nàng run lên, tàn hương và đốm lửa rơi xuống vết đao trên mu bàn tay, nung ra mấy chấm đỏ. Nhìn kĩ lại, thiếu niên bận quân trang trong tranh đeo trường cung, một tay đặt hờ lên khuyên đao mõm li vàng tím đeo bên hông, cùng mọi người bảo vệ chàng thanh niên ăn vận hoàng gia đứng ở giữa – Không sai, gương mặt thiếu niên mặc quân trang đoan chính ôn hòa, vết đao cũ dài nửa tấc khẽ nhếch, ngậm một nụ cười như có như không.

“Đây, đây là…” Nàng lẩm bẩm.

Trương Thừa Khiêm gật đầu, đáp: “Phải, đây chính là sáu vị đại tướng từng theo hoàng thượng dẹp yên phản nghịch suốt tám năm từ loạn Thừa Tắc Môn đến hỗn chiến Hồng Dược Nguyên khi hoàng thượng vẫn còn là Húc vương, Lục Dực Tướng lừng danh thiên hạ.”

Thang Càn Tự chăm chú nhìn bảy người hừng hực tinh thần trên bức họa, rành rọt liệt kê: “Cố Đại Thành, vốn làm cướp ở huyện Kỳ; Quách Tri Hành, vốn là tư lại nhỏ ở kho thóc Việt Châu; Cúc Thất Thất, xuất thân tì nữ làm việc nặng ở câu lan phường; Tô Minh, con trai thứ xuất của danh tướng Tô Tĩnh Phi; A Ma Lam, không rõ thân thế, vượt biển lưu vong từ nước Chân Lạp. Hai người chính giữa, một là Húc vương, cũng chính là hoàng thượng của Đại Trưng ta ngày nay, Đế Húc. Mà người con lại,” ngón tay Thang Càn Tự di chuyển tới thiếu niên quân trang, buông một tiếng thở dài gần như không nghe thấy, “Là đại thế tử của Thanh Hải công quá cố, Phương Giám Minh.”

Sâu trong giọng Hải Thị run lên nhè nhẹ: “Nhưng, Lục Dực Tướng diệt phản loạn không phải đều đã qua đời rồi sao?”

“Phải… Tọa kỵ của Quách Tri Hành nổi điên hất ông ấy xuống làm ông ấy ngã gãy cổ. Cúc Thất Thất gần ba mươi tuổi mang thai, khó sinh mà chết. Nửa năm sau, một tử tù tố cáo, thì ra A Ma Lam và Quách Tri Hành xưa nay bất hòa, sai người nhét rau lê ấu đặc sản Chân Lạp vào giữa yên và lưng ngựa, lại bôi nhựa cánh kiến lên bàn đạp, mưu hại Quách Tri Hành. A Ma Lam gặp sự bỏ trốn, trên đường chết trong loạn tiễn. Phương Giám Minh thì mắc bệnh cấp tính, đột tử.”

Lời nói ra câu nào câu nấy đều không hề vượt quá bổn phận nhưng lại hàm chứa hơi thở nguy hiểm tột đỉnh. Một tia lạnh bén nhọn theo giọng nói hờ hững của Thang Càn Tự chui vào sống lưng Hải Thị, len lỏi từng tấc lẻn sâu như muốn đóng băng xương tủy nàng.

Không phải như vậy, trong lòng Hải Thị biết rõ là không phải như vậy. Lục Dực Tướng ít nhất có một người còn sống. Nhưng vì sao Phương Giám Minh, một trong Lục Dực Tướng đột tử vì bệnh cấp tính, lại mai danh ẩn tính, sống trong thâm cung, làm tổng quản Phượng Đình Phương Chư? Cái gì đã khiến vị võ tướng trẻ tuổi từng tung hoành chiến trường, khí thế bất quần mười mấy năm trước thu lại sắc sảo, cuối cùng trở thành nam tử áo xanh hòa nhã dịu dàng nuôi dạy nàng mười năm? “Tiếp đó, Cố Đại Thành dung túng cho bộ hạ cướp bóc, bị hiệp khách dân gian đánh chết. Tô Minh đi sứ Thương Châu, còn chưa ra khỏi biên giới đã gặp phải bão cát ở tây nam Hãn Châu, mất tích trong đại mạc giữa Cư Từ và Đô Mục Lan. Khai quốc không đến năm năm, Lục Dực Tướng đã chẳng còn một ai. Thật là, mây mưa thất thường, số trời mới khó lường làm sao.”

Câu cảm khái sau cùng như vật thể có hình có chất, lạnh lẽo lướt qua da Hải Thị.

Hải Thị ngoái đầu, nhìn vị chủ soái Hoàng Tuyền Doanh ẩn trong bóng tối mờ mịt, hồi tưởng lại những lời Phương Chư nói với nàng dưới sắc đêm rực rỡ của Thiên Khải trước khi xuất chinh, ngữ khí rất mực bình thường, ung dung trước sau như một, tựa như chỉ muốn nàng đóng cửa hay mài mực cho chàng: “Ta muốn con bảo vệ Thang Càn Tự như bảo vệ ta. Nhưng một khi ta từ trong kinh gửi thư cho con, bất kể nội dung thế nào, con cũng phải giết y nhanh nhất có thể.”

Thế là cậu tham tướng mới thanh tú như một thiếu nữ gật đầu, nói với vị chủ soái chừng như bâng quơ: “Số trời khó lường, lại chẳng thế ư.”

Ba mùa xuân hạ thu ở Hoàng Tuyền Quan quá ngắn, thay đổi rõ ràng, chỉ duy mùa đông là dài đằng đẵng không có lấy một ngày hửng nắng. Tuyết rơi một cái là không ngừng lại được, cái nắp tuyết trên đỉnh núi dần lan xuống sườn núi xanh lam, nhìn từ xa nom như có loài hoa trắng nở vội trên non ngàn. Mùa đông năm nay tới nhanh mà khắc nghiệt, có thể thấy sang xuân tuyết cũng sẽ tan muộn hơn bình thường.

“Năm nay e là phải đến tháng Tư tháng Năm chim di trú biển Minh Mông mới có thể bay qua quan.” Trương Thừa Khiêm nói. Xuân thu hằng năm, chim di trú một tới một đi đều phải bay qua Hoàng Tuyền Quan.

Trên đường từ Sương Hoàn đến Hoàng Tuyền Quan, Trương Thừa Khiêm từng chỉ cho Hải Thị xem biển Minh Mông. Người Đông Lục gọi nó là biển Minh Mông chỉ bởi ban đêm mặt nước mù sương, trăng mờ không tỏ, dân vùng ven thì mọi hồ nước bất kể mặn ngọt đều gọi chung là “biển”, thế nên gán cho nó một cái tên giản tiện. Thương nhân Ni Hoa La trông hồ này thì gọi là Thố Ngạc Mục Bác, “thố ngạc” tức “biển hồ”, “mục bác” mang nghĩa trong xanh. Người Hộc Khố thì gọi nó là Khố Khố Nặc Nhi – “khoảng biển xanh biếc”.

Trên đồng nội sa mạc, chuyện nhìn núi gần mà chạy chết ngựa chẳng phải là không có, biển Minh Mông kia nom thì tưởng cùng lắm chỉ dăm ba dặm đường, song muốn tới thật thì e rằng phải phóng ngựa chạy gần nửa ngày. Hải Thị lạnh nhạt buông câu: “Tôi không thích nước.” rồi cũng không đi. Có điều, trong khói mù xa xa có thể thấy được một vũng sắc nước tăm tối, cũng chẳng biết đã đóng băng hay chưa. Từ sau năm bảy tuổi, nàng chưa từng thấy lại biển lần nào. Nước phương bắc có mênh mông bát ngát thế nào đi chăng nữa cũng vẫn có bến bờ còn biển thì không. Kí ức nước biếc mặn chát vô biên vô tận đè nặng trong lòng, làm nàng thường xuyên gặp ác mộng bừng tỉnh giữa đêm, nếm mồ hôi lạnh giăng đầy bên mép mình, là vị của nước biển.

Tương truyền vượt ra sau núi Bì La rồi đi thêm ba ngàn bảy trăm dặm nữa theo hướng tây, vào sâu trong bình nguyên đất đông cứng của Thương Châu, ở vùng cực bắc còn xa xôi hơn Băng Viêm Địa Hải, dưới núi Thiên Trì có một hồ nước rộng hơn biển Minh Mông, tên là biển Bột Khách Nhi, là đất chim di trú mùa hè tụ tập, cũng là nơi thần rồng ẩn cư. Theo truyền thuyết, thời tiền triều từng có dân thường Lan Châu bị gió lốc cuốn thẳng đến tận biển Bột Khách Nhi, khi bị cuốn đi, người nọ còn chưa tới mười chín tuổi, lúc trốn thoát trở về thì đã là ông lão tuổi gần thất thập, ngón cả bàn tay bị đông cứng rốt ráo, chỉ còn lại hai đốt, trông như bàn tay con rối bị tháo rời. Mà trong tưởng tượng của người Đông Lục thì cái gọi là cực bắc cũng chỉ đến Hoàng Tuyền Quan mà thôi.

Dãy Bì La chạy đến Hoàng Tuyền Quan thì đột ngột tách ra hai nhánh, gọi là dãy Đông Bì La và Tây Bì La. Vị trí dãy Tây Bì La thiên bắc, phía nam chân dãy có một dòng suối không đóng băng, sông Bì La bắt nguồn từ đó, chảy về hướng nam, cuối cùng nhập vào biển Minh Mông. Thế nên nơi hai ngọn núi tuyết chót vót vờn mây giao nhau bị xói mòn thành một cái lũng hẹp hình chữ “Chi (之)”, mà từ đầu nguồn suối Không Đông đi lên bắc thì có một khe núi hiểm trở nối thẳng ra Hồng Dược Nguyên ngoài đèo. Đó cũng con đường duy nhất có thể thông hành nam bắc trên dãy núi Bì La gần hai ngàn dặm. Tuy nói là thung lũng và khe núi nhưng vẫn cao hơn đất bằng ba trăm trượng, nếu có người dẫn đường đi quen thì một ngày đêm là vượt được. Sông Bì La chảy đến thung lũng dãy Đông Bì La thiên nam thì đổi dòng lặn xuống đất, đến chân núi lại nổi lên, chỉ để lại trên mặt đất một đoạn sông cạn dài hơn bốn mươi dặm đã xói mòn vào bốn vạn năm trước. Hoàng Tuyền Quan tọa lạc trên đoạn sông cạn ấy, chặn ngay tại tuyến giao thông quan trọng này, trở thành một cửa ải vững chắc khó công mạn tây bắc nhà Trưng. Qua đến phía sau dãy Bì La chính là vùng đất bằng phẳng Hãn Châu, đi thuyền xuôi nam, hơn hai ngàn một trăm dặm về phía đế đô ít có bình phong hiểm trở nào nữa, một khi Hoàng Tuyền Quan thất thủ, Hãn Châu tây bắc sẽ lập tức toang hoác cửa vào, các quận Đông Lục lâm vào thế nguy, có thể thấy được tầm quan trọng của Hoàng Tuyền Quan.

Hải Thị đứng trước đại doanh dưới chân núi, ngẩng đầu nhìn lên. Khe núi men sông quanh co đi lên, trong bóng đêm đốt mấy chục ngọn lửa sáng như minh châu. Theo lời Trương Thừa Khiêm, cứ mỗi ba canh giờ lại có hai trăm binh lính luân phiên trực ở cửa quan đợi lệnh, ngoài ra còn có một số trạm gác rải rác trên con đường mạn bắc.

“Năm nào người Hộc Khố được mùa cỏ nước sung túc thì có cầm roi đuổi chúng cũng không chịu dời bước xuống nam. Nhưng nếu năm ấy hạn hán, đóng băng, gia súc dính phải bệnh dịch thì bọn chúng… y hệt châu chấu vậy.” Trương Thừa Khiêm lắc đầu.

Vài đứa trẻ áo quần rách rưới cười đùa chạy lướt qua bên Hải Thị, vòng quanh chân lính gác cổng đại doanh lôi kéo túm bắt, kẹp anh lính gác vào giữa, đẩy anh ta cơ hồ ngả nghiêng. Anh lính canh mặt mày tươi cười, mắng yêu đám trẻ lam lũ, cho mỗi đứa một cước khẽ khàng. Hải Thị nghe đám trẻ xổ toàn tiếng man di xa lạ, lấy làm ngạc nhiên: “Nửa đêm nửa hôm sao trong quân doanh lại có trẻ con?”

Trương Thừa Khiêm chỉ lắc đầu, “Mấy người tóc đen mắt đen kia đều là người Già Mãn cả đấy, nghe nói năm nay xảy ra nạn tuyết, đói rét khổ cực quá bèn liều chết chạy tới chỗ chúng ta, mấy ngày nay đã đến vài tốp rồi.”

“Cứ thế nuôi trong doanh?”

“Sao lại nói thế, hiện giờ tuyết đang sâu, chỉ đành giữ họ lại trước, đợi được chừng ngàn người rồi thì đưa hết sang Thủy Tỉnh Đồn dạy họ kiếm sống.”

Đương trò chuyện, trên quan vọng xuống tiếng hô hoán, trên đỉnh núi có người khua đuốc. Trương Thừa Khiêm nheo mắt nhìn, “Đấy, lại một tốp nữa tới rồi. Cậu nhìn bó đuốc kia đi, trước dựng thẳng một lần có nghĩa người tới không phải địch, sau quay ngang sáu lần tức là tới sáu trăm người.”

Hải Thị lại nhíu chặt mày thả chậm bước chân, tập trung nhìn khúc sông Bì La vòng qua trước doanh trại. Đầu bếp dẫn phụ bếp đục mặt băng ven bờ, thả thùng xuống múc nước, lúc này chẳng biết tại sao lại nổi nhốn nháo.

“Sao thế?” Trương Thừa Khiêm phát hiện ra Hải Thị không đi cùng, quay đầu lại thấy cậu ta đứng bên cạnh nhóm phụ bếp.

Vị đồng liêu thiếu niên của gã chạy vội tới, chìa món đồ ướt sũng trong lòng bàn tay trái ra cho gã xem. Đó là nửa tấm mộc bài, vì sử dụng quanh năm nên đã bị sờ vuốt đến nhẵn nhụi đen bóng, vốn có khắc chữ, hiện giờ chỉ nhận ra được là nửa chữ “Tuyền (泉)”.

“Trương huynh, đây là…”

Trương Thừa Khiêm biến sắc, “Đây là lệnh bài của người trực trông coi nguồn suối!”

“Đường lên quan nhất định phải đi qua suối Không Đông ạ?”

“Phải… nhất định phải qua.”

Trương Thừa Khiêm quay đầu hạ lệnh cho binh sĩ gác cổng, “Đốt lửa làm hiệu, bảo bên trên không được mở cửa ngăn cho người vào.”

“Tôi dẫn mấy người lên trước!” Dứt lời, Hải Thị quay đi chạy về phía lều trại của mình.

“Gượm đã!” Trương Thừa Khiêm gọi thiếu niên lại, “Cậu dẫn mấy người lanh lẹ từng trải đi cùng, lên lầu treo đợi trước, mang nhiều tên theo chút.”

“Vâng!” Hải Thị đã chạy xa, tiếng cậu thiếu niên như chuông bạc xuyên qua màn đêm.

“Đừng có cứ thế chết mất đấy nhé.” Trương Thừa Khiêm chạy vào trung quân, nhủ thầm.

Hải Thị vừa guồng chân vừa lặng lẽ lau bàn tay phải vào vạt áo, nhờ thế ánh sáng trắng ngọc trong lòng bàn tay mới dần giảm bớt, cuối cùng biến mất.

Nhóm Hải Thị chạy vội một đường, không đến nửa giờ đã tới cửa quan. Tham tướng trực ban Phù Nghĩa là một người đàn ông đen gầy tháo vát tuổi chừng bốn mươi. Nghe Hải Thị vội vã thông báo dị trạng, chỉ thấy lông mày Phù Nghĩa càng nhíu càng chặt, im lặng không nói.

“Phù đại nhân?” Hải Thị hơi cau mày, dưới mũ giáp, đôi mắt trong vắt sáng rực nhìn chằm chằm Phù Nghĩa.

“Phương đại nhân, mời ngài nhìn sang bên kia.” Phù Nghĩa nói vậy, liền có binh sĩ nhường chỗ cho họ đi tới cạnh mắt tên.

Hải Thị ghé mắt nhìn xuyên qua mắt tên to chừng bàn tay, không khỏi hít khẽ một hơi.

Hoàng Tuyền Quan xây theo dáng núi, mặt tiền rất hẹp, nhưng cao và rất dốc, như một cánh cửa trên con đường chữ “Chi”. Ra khỏi quan bắc, phía đông là Già Mãn, phía tây là Hộc Khố, phóng mắt ra xa nhìn không tới biên giới hai nước, chỉ toàn đồng hoang. Đại Trưng lập quốc sáu trăm bảy mươi tư năm chưa bao giờ phạm bắc. Xây cửa quan này vốn để thông thương nên ban đầu khổ cửa còn khá rộng rãi, nhưng cũng chỉ đủ cho vỏn vẹn hai người cùng qua.

Hộc Khố lập quốc cũng mới hơn ba trăm năm, vào khoảng giữa thời trị vì của hai vị tiên đế Đế Trang và Đế Vô. Thời nhà Đoan, khí hậu phía bắc núi Đồng Vân khu vực Ninh Châu gần Hãn Châu biến hóa khắc nghiệt, một chi tộc Man tự xưng là Hộc Khố bị buộc phải rời khỏi cố hương đã định cư mấy đời của họ, từ đó lưu lạc du mục trên thảo nguyên Hãn Châu. Trong truyền thuyết Hộc Khố, bộ tộc của họ là hậu duệ thiên mã, mà thiên mã thì là con gái của rồng, trong tiếng họ, “Hộc Khố” mang ý “cháu rồng”. Những bộ tộc khác trên thảo nguyên lại khinh miệt gọi họ là “Bặc Bột Lạc” – ngựa lừa tạp chủng, thậm chí còn không thể coi là một chi tộc Man. Nhưng bộ tộc lang thang tứ xứ này lại như một con sói cô độc xa bầy, lặng lẽ trưởng thành. Họ rời cố hương được bốn trăm năm thì Ba Lam vương thống lĩnh Hộc Khố, trở thành một trong số ít những bộ tộc hùng mạnh chỉ đếm được trên đầu ngón tay tại thảo nguyên. Có người nói, dòng máu chảy trong huyết quản Ba Lam vương là máu đồng đen, máu lũng thẳm của nhà Bạc Tô Nhĩ, ông ta giáng thế là để thu hoạch mạng người, như nông dân Đông Lục thu hoạch thóc gạo vậy. Dĩ nhiên chung quy đó chỉ là tin vịt, họ Mạt Tô Nhĩ đất Thanh Dương sa sút từ rất sớm sau cái chết của Chiêu Vũ công Lã Quy Trần, đến nhà Đoan thì đã suy vong đến chẳng biết đi đâu. Trong thời đại Ba Lam vương, lãnh thổ triều Đoan ở Đông Lục mở rộng đến phía nam dãy Bì La, sau khi Hộc Khố bộ càn quét Hãn Bắc, thôn tính Tả Kim bộ, Thuần Chi bộ thì tiếp tục cử binh xuôi nam, định đánh vào Hoàng Tuyền Quan. Từ đó về sau, để dễ thủ, Hoàng Tuyền Quan xây lại cửa ngăn quan ải chỉ cho một người dắt ngựa qua cửa.

Mà trước mắt, trên lối đi chật hẹp tuyết đọng, từng cụm bóng đen thui lảo đảo đang khom lưng, yên lặng dồn đống dày đặc, đội ngũ xếp hàng kéo dài không thấy điểm cuối trong bóng tối hun hút. Thỉnh thoảng, một vài gương mặt trong đám người ngửa lên, mặt mày trắng bệch, nhìn lên lầu thành, dường như cũng chẳng ôm hi vọng gì, lại cúi xuống chìm vào bóng đen.

“Những người đó thật sự là nạn dân Già Mãn, tóc đen mắt đen. Người Hộc Khố tóc vàng mắt xanh, là một chi đặc thù trong tộc Man, liếc mắt có thể nhận ra ngay, thế này là muốn lợi dụng người Già Mãn làm tấm mộc.” Phù Nghĩa vừa nói vừa đứng dậy, cầm mũ giáp để bên tay lên.

Trên thang lầu vọng lại tiếng bước chân, vài tay hiệu úy chạy tới, truyền lệnh của Thang tướng quân: “Mở cửa phía bắc, đẩy chúng ra ngoài.”

“Mở cửa bắc à…” Khuôn mặt Phù Nghĩa đen trọn một màu, đơn giản là không nhìn ra biểu cảm, “Bao giờ đại đội đến?”

“Bẩm Phù đại nhân, Đại Vương thiên kị và Tiểu Vương thiên kị dẫn bốn ngàn người, sau canh ba sẽ đến.”

Phù Nghĩa thở một hơi thật dài, đưa tay ra sau đấm lưng, khớp xương kêu răng rắc, “Mười ba năm không lên Hồng Dược Nguyên, xương cốt cơ thể cũng già rồi.”

Một tiếng kêu the thé nho nhỏ đập vào vách núi vang vọng trùng trùng, Hải Thị nhìn kĩ, dưới lầu thành, trong chiếc áo nỉ thủng lỗ chỗ của thiếu nữ Già Mãn mắt đen lộ ra một đầu dê be bé.

“Phương đại nhân, nghe nói ngài tinh thông đủ loại võ nghệ, trong đó thạo nhất hai ngón cưỡi ngựa và bắn cung. Năm nay đỗ thám hoa kỳ thi võ, trên trường thi kỵ xạ, tài nghệ áp đảo quần hùng, toàn trường đều phải trầm trồ tán thưởng.” Phù Nghĩa đi mấy bước, bỗng quay lại nói.

“Phù đại nhân khen lầm, là nhờ chúng bạn cùng khóa nhường cho mà thôi.” Hải Thị đáp.

“Vậy xin giao lầu treo cho Phương đại nhân. Gọi mấy xạ thủ thiện nghệ đi theo Phương đại nhân đi.”

“Vâng.” Hải Thị hành lễ, đứng dậy mau mắn chạy đi.

Thực chất, lầu treo cũng chẳng phải lầu gác gì, chỉ là vài hang động tự nhiên trên đoạn vách núi dài hai ba dặm từ bắc sang đông ở Hoàng Tuyền Quan, chỉ có một con đường kề vách dốc đứng từ trong quan thông lên đến được đó, có thể nhìn xuống từ trên cao. Nói là dùng làm lầu quan sát song kỳ thực, trên quan đã lâu không có chiến sự, căn bản chưa từng sử dụng đến. Bên trong tồn trữ tên bắn, nỉ thô, dầu trẩu và một chút lương thực nước uống, chẳng khác bỏ hoang là bao.

Hải Thị lĩnh hai mươi lính bắn cung leo lên lầu treo, ẩn thân trong hang động, nín thở chờ thời. Khe suối phía nam dần có vài tiếng vang khe khẽ, một đội nhân mã vòng ra, đều là áo trắng ngựa trắng, không tiếng động lao băng băng trên mặt tuyết sáng loáng rọi người, nhân số ước chừng một trăm năm mươi.

“Hay lắm, kéo gần một nửa Kỳ Lân Doanh ra.” Tay lính nằm sấp bên cạnh vừa bôi mỡ trâu lên dây cung, vừa thấp giọng nói. “Đám người Già Mãn kia không có đường sống rồi.”

“Chúng ta có thể làm gì đây?”

Người đáp lắc đầu: “Mùa đông năm nay, bọn Man Hộc Khố e là đói phát điên rồi, cửa ngăn mở rồi chỉ sợ không đóng lại được. Xưa nay trong binh thư chỉ dạy dùng trận trâu lửa chứ không dạy dùng người sống làm tấm mộc. Để đoạt được lương thảo đại doanh chúng ta, chuyện thất đức như vậy cũng làm được, suy cho cùng không thể trách chúng ta.”

Từ trên lầu treo đã có thể thấy lờ mờ bóng dáng kỵ binh Hộc Khố lặng lẽ cưỡi ngựa hướng nam, mà Kỳ Lân Doanh thì đã dàn hàng ở cửa quan, tiếp sau là hơn bảy ngàn nhân mã đứng cách Kỳ Lân Doanh tám trượng, dàn hàng ra ngoài năm dặm dọc theo khe suối uốn khúc nơi cửa ải hiểm yếu. Trước sau kẹp giữa hai hàng ngũ giáp sắt cao ngất chực chờ phát động, sáu trăm người Già Mãn rách rưới chỉ yên lặng co ro.

“Năm nay dân Man Hộc Khố đói hỏng đầu rồi, biết quan chúng ta có lương là y như sói đói đánh hơi được mùi máu, vào Thủy Tỉnh Đồn bị tiêu diệt sạch, giờ đến Hoàng Tuyền Quan cũng dám tấn công – cơ mà, nếu lòng vòng ba ngàn dặm từ phía tây đến tìm lương thực, chỉ sợ còn chưa tìm ra lương đã chết đói hết rồi.”

“Nhìn thế trận thế kia, chuyến này tới là để liều mạng đây.”

Trong hang động u tối lạnh lẽo, tiếng người liên miên như vô số bàn tay vô hình bủa vây. Hốt nhiên, Hải Thị cảm thấy giáp chốt bạc cài trước ngực sao mà chặt ghê gớm, ngột ngạt đến nghẹt thở.

Cửa ngăn sắt đen của Hoàng Tuyền Quan nặng nề nâng lên, mười sáu bản lề bằng đồng đều to bằng miệng chén, song chuyển động lại rất đỗi yên lặng.

Trong đám người Già Mãn nổi lên những tiếng xôn xao khe khẽ, con dê con trong ngực thiếu nữ thình lình giãy ra, bốn cái vó mảnh khảnh gõ tiếng lanh lảnh, bước lên mặt tuyết. Con dê toàn thân trắng phau, trên mặt, một đường từ trán tới mũi đen bóng lông măng, hình thể nhanh nhẹ, con ngươi đen láy, xem chừng là dê con lấy giống để chuẩn bị dựng bãi chăn nuôi nên mới ôm trong lòng cả một đường mang đến. Dê con tò mò đi về phía trước hai bước, ngó rừng chân ngựa trắng toát lộ ra sau cửa ngăn nâng lên. Cửa càng nâng càng cao, mấy trăm bộ giáp bắp chân sáng bạc chọc lóa mắt người trong ánh tuyết.

Dê con thò cái cổ non mềm ra, kêu be một tiếng. Một luồng kình phong từ trên trời giáng xuống đâm xuyên qua cơ thể thơ ấu của nó, bắn tóe một vũng màu lên mặt tuyết trắng như giấy. Từ đầu thành Hoàng Tuyền Quan và trong mắt tên, lính nỏ bắn tên như châu chấu bay. Một bàn tay nhuốm đầy máu tươi rờ về phía dê con, lại bị một mũi tên gào rít ghim vào mặt tuyết.

Một tiếng huýt còi vang lên, một trăm năm mươi kỵ binh Kỳ Lân Doanh xông ra như một con thuồng luồng màu bạc, giẫm qua tuyết bùn và thi thể bừa bộn, như một con sóng dữ ập vào hàng kỵ binh Hộc Khố đầu tiên đang giục ngựa vọt tới. Người Hộc Khố một tay vung đao khuyên tay, một tay cầm khiên, trên khiên lại lộ ra mũi dùi, linh hoạt mạnh mẽ. Thời Đế Trang, Đế Vô trị vì, quân trông giữ Hoàng Tuyền Quan đã chịu thiệt không ít ở mặt này. Sau đó Võ Khố Ti đặc biệt chế tạo thương năm thước rưỡi cho Hoàng Tuyền Quan, dài ngót nghét chiều cao một người đàn ông thấp lùn, thi triển trên đường núi chật hẹp cũng rất tự nhiên, lại sắc nhọn mẫn tiệp, có thể tấn công trực diện vào khe hở rất nhỏ giữa khiên và đao của người Hộc Khố. Thế tới của Kỳ Lân Doanh hung mãnh, xa xa thấy tuyết trắng tung bay, một vạt trắng bạc xộc lên hướng bắc, nơi bạch quang lướt qua, xác người xác ngựa của Hộc Khố chất đống trên đường núi, chưa đến nửa khắc, mười mấy hàng kỵ binh Hộc Khố trận thứ nhất đã bị chọc thủng đạp chết đa số. Người Hộc Khố đằng sau cao giọng quát tháo, trận thứ hai tiến lên nghênh đón, trong Kỳ Lân Doanh lại vang một tiếng huýt còi, hơn trăm cây thương năm thước rưỡi rướm máu đồng loạt chĩa ra trước, đánh thốc vào trận, quấn lấy nhau quần thảo.

Lầu treo nằm ở phía bắc cửa quan, đối diện ngay sau lưng quân tiên phong Hộc Khố, tạo thành thế giáp công với cung nỏ trên thành.

Hải Thị quỳ một chân tại cửa hang lầu treo, mò từ bên hông ra một chiếc phàn chỉ bằng vàng nạm lưu li xanh nhạt, ngắm nghía tỉ mỉ rồi đeo lên ngón cái. Chiếc phàn chỉ này vốn dành cho nam giới, nàng đeo chê to, bèn lấy tơ xanh quấn lại như con gái khuê các bình thường quấn nhẫn vậy.

“Tên xuyên giáp.” Hải Thị vừa nói vừa hà hơi lên dây cung, một tay lấy ra ba mũi tên xuyên giáp lông diều hâu, kẹp vào giữa bốn ngón tay, ngón cái vững vàng giương căng cây cung sáu thạch, ngắm vào sau lưng trận thứ ba của Hộc Khố.

“Bắn.”

c3-iZPg.jpeg

Phàn chỉ

“Bắn ngã trận thứ năm, chúng ta thay Kỳ Lân Doanh mở con đường này. Thay nhau bắn liên tục, ta không hô ngừng không ai được phép dừng lại.” Thiếu niên võ tướng trầm thấp ra lệnh, hai mươi mốt cánh cung sáu thạch im lặng giương căng.

“Bắn!”

Tiếng dây cung loong coong như mưa rào rạch nát bầu không, người Hộc Khố bị kẹt trên đường núi không sao né tránh, hơn trăm người trận thứ ba tư năm đầu nam bị cơn mưa tên từ trận chính phía bắc chặt đứt, hứng chịu đợt tấn công như thủy triều màu bạc của Kỳ Lân Doanh, trận hình càng lúc càng mỏng, mà màn mưa tên vẫn chưa chịu dừng lại.

Đợi đến khi Hải Thị quát tiếng “Dừng”, hơn trăm người Hộc Khố chỉ còn lại vỏn vẹn hàng cuối, bị quân tiên phong Kỳ Lân Doanh chém đổ như cắt hoa màu cuối thu.

Tai Hải Thị chợt lạnh buốt, một cung thủ bên cạnh ôm vai, trên đất rơi rớt một mũi tên lông hải đông thanh người Hộc Khố thường dùng, hiển nhiên đã bị tên bắn trầy da.

Con đường dưới lầu treo đã phủ kín thi thể và loạn tiễn, bèn đưa mắt lên bắc, nhưng vì tầm nhìn lầu treo có hạn nên không thấy được gì. Nàng mạo hiểm thò đầu ra khỏi cửa hang lầu treo dõi mắt về phía bắc, thấy trong trận chính của người Hộc Khố, vài tay cung thủ đang bắn loạn tiễn lên lầu treo, ngoài ra còn có mười mấy lính bắn cung bày trận phía trước, giương cung nhắm vào Kỳ Lân Doanh đang từng bước sấn tới. Mà bên Kỳ Lân Doanh chuyến này ra trận là để cận chiến nên không trang bị khiên chắn, mắt thấy ắt phải chịu tổn thất trầm trọng.

“Hai người các anh nắm chặt chân tôi.” Hải Thị khẽ nghiến răng, co người, ngồi quay lưng về phía cửa hang, nói với hai cung thủ kề bên. Bản thân nàng thì ngậm ba mũi tên trong miệng, giữa các ngón tay kẹp thêm ba mũi, tay trái cầm cung, ngả người buông thõng lên vách đá ngoài động, treo ngược mình bắn liên hoàn ba mũi tên vào đám cung thủ trong trận chính của Hộc Khố, đều bắn không đích. Giữa chừng nàng đã sớm trông thấy một cung thủ thân hình cao lớn cường tráng trong trận, giáp trụ cũng đặc biệt bắt mắt, nghĩ là cung thủ đầu mục, bèn gỡ ba mũi tên cắn giữa răng xuống, thế như sao rơi bắn một mạch về phía kẻ nọ. Tên Hải Thị dùng có hơi chú ý, đầu tiên là hai mũi xuyên giáp, tiếp đến là một mũi lấy máu, dự tính đâm xuyên qua điểm yếu liên kết giữa giáp trụ rồi dùng tên lấy máu có rãnh bắn trọng thương địch nhân. Nàng vừa ngồi dậy thì nghe tách tách mấy tiếng, tên của người Hộc Khố liên tiếp đập lên vách đá. Hải Thị quay đầu lại nhìn, chỉ thấy cung thủ cao to kia nắm ba mũi tên đâm cùng một chỗ trên cổ họng, gầm một tiếng rút ra, xa xa trong ánh tuyết nhìn không rõ, nhưng thấy người vây quanh hắn lùi lại hai bước, hẳn là bị máu phun đầy mặt.

Hải Thị nhân loạn một lần nữa treo ngược người, cũng bất chấp loạn tiễn tung bay, chớp nhoáng bắn liên hoàn, cung thủ trong trận Hộc Khố lần lượt hét lên rồi ngã gục.

“Phương đại nhân!” Binh sĩ trên lầu treo hô hoán, hoảng hốt đến lạc giọng.

Nàng vừa dời mắt, một mũi tên đang phá không phóng tới, nháy mắt đã đến trước mặt, không thể tránh né, đến ba gờ rãnh máu trên đầu mũi tên cũng trông thấy rõ ràng.

Nàng trợn trừng đôi mắt sáng đẹp.

Cung thủ trên lầu treo nhìn xuống, chỉ có thể thấy cái cằm nhọn xinh xắn của Hải Thị ngước lên, mũi tên kia vững vàng găm giữa khuôn mặt treo ngược của nàng, thân tên rung ong ong không dứt.

Lúc này, quân tiên phong Kỳ Lân Doanh đã đụng độ với trận chính của Hộc Khố, bộ binh theo sau xông ra, nhất thời trên lối đi rộng không quá một trượng lổn nhổn nhân mã chém giết lẫn nhau, mà gã thanh niên bắn mũi tên trong trận kia thì vẫn giẫm bàn đạp dong dỏng đứng trên yên ngựa, nhìn lên lầu treo rồi mới tung mình xuống ngựa, lập tức có người mang thi thể cung thủ đầu mục chết khi trước tới. Gã thanh niên đưa tay lột mũ giáp của người chết xuống, nắm mớ tóc vàng của người đã chết, rút bội đao chặt đầu lâu xuống, giơ chiếc đầu lâu lên trước mắt hôn ba cái, lại nghe tùy tùng bên người la hét, ngước mắt nhìn, thấy một mũi tên dài bắn vọt tới, sắc mặt thoắt biến. Trong nháy mắt ấy, một người đàn ông áo bào trắng từ bên cạnh lao vội ra chắn trước gã thanh niên, chìa tay ra cản như không muốn sống nữa. Mũi tên lông hải đông thanh sượt qua lòng bàn tay y, vang tiếng vàng đá leng keng, rơi bật xuống đất. Trong trận Hộc Khố rộ lên tiếng xôn xao, tay bào trắng không mảy may thương tích, thản nhiên lùi về sau một bước, đứng hầu bên ngựa thanh niên. Thanh niên ngẩng đầu trông về đằng xa, mũi tên dài trên mặt cung thủ Đại Trưng treo ngược đã biến mất, lại nhìn kĩ mũi tên vừa bị cản mới rồi, chính là cái hắn bắn khi trước. Hẳn là cung thủ Đại Trưng đã miễn cưỡng dùng răng cắn mũi tên tới rồi thừa dịp hắn không phòng bị, rút ra bắn trả.

Nụ cười nở trên bờ môi dính máu của thanh niên Hộc Khố, hắn ngạo mạn ngoắc ngoắc ngón tay về phía vách núi rồi nhanh chóng treo đầu người lên sau yên, thét lệnh binh sĩ yểm hộ, chuyển ngựa dẫn đội quay đầu, biến mất ở khúc ngoặt phía bắc đường núi.

Hải Thị l**m răng cửa, nhổ ra một ngụm máu, nói: “Tên nam nhân này cổ quái quá, như dùng bí thuật gì vậy. Chúng ta phải nhanh chóng đuổi theo.”

“Phương… Phương đại nhân…” Một cung thủ tuổi xấp xỉ Hải Thị mấp máy môi, đứt quãng gọi.

“Sao vậy?” Hải Thị đeo cung lên lưng, ứng tiếng.

“Người Hộc Khố dựng cờ đen rồi, vương giả tử trận mới dựng cờ đen… Tôi nghe nói, họ không chôn cất mà vứt thi thể tại chỗ cho linh cẩu kền kền rỉa thịt, chỉ có phiên vương các bộ chết trên chiến trường mới mang đầu về hạ táng cùng thân thể làm bằng vàng…” Cậu cung thủ không cầm được toét miệng cười, đôi môi nhợt nhạt nứt da ứa ra từng vết máu, “Phương đại nhân, ngài đã bắn chết một vị vương đấy, một vị vương đấy!”

Người Hộc Khố tựa hồ chẳng hề ham chiến, gióng trống khua chiêng tới tấn công, lúc rút lui cũng mau như thủy triều. Hải Thị chạy như bay từ trên lầu treo xuống, giành lấy một con ngựa, không ngừng đuổi lên phương bắc, lẫn trong đại đội đuổi theo ra ngoài hơn hai mươi dặm, trước mắt đã hết đường, bèn lội ngược dòng suối đi lên, vòng qua chân núi Đông Bì La, leo lên núi Tây Bì La, chạy trọn ba mươi hai dặm khe suối đến suối Không Đông đầu nguồn sông Bì La. Từ đầu nguồn lại hướng lên bắc mới tới một lối khe nhỏ. Gần trưa hôm sau, rốt cuộc Hải Thị cũng bắt kịp bộ Phù Nghĩa dẫn đầu truy kích. Người Hộc Khố rút lui tuy nhanh nhưng không cắt đuôi bộ Phù Nghĩa ngay được, chỉ đành mặc họ không nhanh không chậm bám theo.

“Phương đại nhân thật tinh mắt, người Hộc Khố xưa nay không dùng nghi trượng, gã Tả Bồ Đôn vương kia lẫn trong đám đông, không ai nhận ra.” Phù Nghĩa chậm rãi nói, “Gã vương ấy dũng mãnh hiếu chiến, ba ngàn người tập kích Thủy Tỉnh Đồn cũng là bộ hạ của hắn, vốn để chúng đánh tiên phong dẹp đường, đại quân bám sát theo sau, ai ngờ hắn lại tự quay ngoắt sang đánh vào Hoàng Tuyền Quan, bỏ mặc ba ngàn người chẳng hay biết gì ở Thủy Tỉnh Đồn coi như đánh nghi binh. Giờ hắn chết rồi, Tả Bồ Đôn vương mới là em trai khác mẹ của gã vương cũ, nghe thám tử nói vốn cũng chẳng hòa thuận gì nên lập tức hạ lệnh lui binh.”

Trong trận Hộc Khố đã không còn cờ xí xanh biếc ban đầu, tung bay trên đầu mỗi đội là tấm vải gai đen tuyền.

“Đó chính là Tả Bồ Đôn vương mới.” Phù Nghĩa chỉ vào một thanh niên được bảo vệ tầng tầng lớp lớp cuối hàng ngũ Hộc Khố. Bóng người gã thanh niên ấy được lá cờ tang phấp phới che khuất, nhìn không rõ được, bắt mắt nhất là một cái đầu người, mái tóc vàng bện thành dây treo ở sau yên, lắc lư theo nhịp đạp tuyết của con ngựa ô vân.

Hải Thị khẽ nhíu mày, giục ngựa dấn lên hai bước. Lúc này, người Hộc Khố đã đi tới cửa ra khe núi, có thể mơ hồ trông thấy cánh đồng tuyết cực bắc mênh mông. Vừa quẹo qua nơi đầu gió, gió lớn lẫn tuyết cát quét tới, lá cờ tang xoạt một tiếng hất cao lên không trung. Trong chớp mắt đó, kẻ nọ vừa vặn hơi nghiêng mặt, để lộ một đường nét cao sâu khôi ngô. Hải Thị như bị nhét một vốc tuyết vào giữa ngực, kinh hoàng hoảng sợ. Đó là đường nét nàng đã nhìn suốt mười năm, tuyết đối không có khả năng nhận lầm.

“Trạc Anh!” Nàng lẩm bẩm.

Người nọ như nghe thấy tiếng Hải Thị, quay đầu lại, hé một nụ cười khiêu chiến, lại lần nữa ngoắc ngoắc ngón tay. Mũi cao, mắt sâu, mày rậm, gương mặt giống Trạc Anh như đúc, chỉ khác mỗi đôi mắt lấp lánh xanh lam. Thanh niên mắt lam cởi mũ giáp xuống, buông xõa mãi tóc vàng rực rỡ, cất cao giọng ra lệnh bằng tiếng Man, người Hộc Khố đồng thanh đáp lời, bỗng nhất tề giương roi quất ngựa, cấp tốc lao xuống núi. Mấy đội xông ra khe núi trước bày trận trên cánh đồng tuyết, chặn kín miệng khe yểm hộ, còn lại phi thẳng lên phía bắc không buồn ngoảnh đầu, sau khi toàn bộ rời khe núi, mấy đội yểm hộ hình cánh lúc đầu lập tức đổi trận, nhập vào đội chính, mấy ngàn nhân mã tung tuyết bụi cuồn cuộn, thoắt cái đã mất dạng nơi chân trời phương bắc.

“Đó chính là Hồng Dược Nguyên.” Phù Nghĩa ghìm cương ngựa, giơ chuôi roi vẽ một vòng trong không trung, khoanh cánh đồng tuyết phía bắc khe núi vào trong.

Trên Hồng Dược Nguyên mùa đông đọng tuyết, mùa hè hoang vu, chưa từng nở một đóa thược dược đỏ nào, tên đặt vậy là theo Hồng Dược đế cơ. Hồng Dược vốn là con gái tông thất, cũng là chị gái khác mẹ của tiếm vương Chử Phụng Nghi dấy binh nổi loạn, năm xưa hòa hiếu kết giao với Hộc Khố, đến năm ba mươi hai tuổi đã được gả qua tay ba phiên vương, rất có quyền thế. Mười bốn năm trước Chử Phụng Nghi bại trận chạy lên phía bắc, vượt Hoàng Tuyền Quan vào biên giới Hộc Khố, Hồng Dược đế cơ phái quân tới đón, khi ấy Đế Húc chưa lên ngôi cũng dẫn quân truy kích đến đây, quyết chiến bốn ngày năm đêm, giết địch hơn năm vạn, diệt sạch quân phản loạn, quân Hộc Khố tổn hại nặng nề, Cố Đại Thành trong Lục Dực Tướng chặt được đầu Chử Phụng Nghi, Hồng Dược đế cơ thì bị giẫm chết trong loạn quân, chỉ thu được đôi ba mẩu chân tay cụt. Sau trận chiến đó, hai mươi dặm bùn tuyết đồng bằng trộn lẫn máu thịt đỏ đen, năm sau gặp phải thời tiết ấm áp dị thường, trên Hồng Dược Nguyên lại mọc lên một lớp cỏ xuân mỏng tang, gia súc không ăn, người già gọi đó là cỏ xác thối.

Thời thế những năm ấy như một cơn sóng dữ vĩ đại bạc tình, ngòi bút sử quan ung dung gẩy ra một gợn sóng nhẹ, chính là mấy ngàn mấy vạn mạng người.

“Mỗi thanh minh, trên hai mươi dặm Hồng Dược Nguyên chỉ toàn là phụ nữ và trẻ con tới tế bái.” Phù Nghĩa thoáng dừng rồi tiếp: “Mười bốn năm, hiển nhiên phụ nữ đã già đi, trẻ con cũng lớn lên. Thế đạo cũng đã đến lúc yên ổn rồi.”

Lúc trở lại quân doanh, đã không còn thấy một đứa trẻ Già Mãn nào chạy nhảy nữa. Đêm ấy, người Già Mãn trong doanh mãi không thấy đồng bào vào quan, lại phát hiện ra đại quân lên núi, nhao nhao loạn lên, cuối cùng thiệt mạng toàn thể. Song, dẫu không loạn nhao nhao, họ cũng chẳng có đường sống.

“Dù sao cũng không thể để họ ra ngoài loan truyền khắp nơi là chúng ta thấy chết không cứu được.” Gương mặt Phù Nghĩa đen thui trống rỗng, vẫn chẳng nhìn ra được chút biểu cảm nào.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 5: Cỏ xanh sương phủ trắng I



Đế Húc trở nên u mê tàn bạo đã chẳng phải chuyện ngày một ngày hai. Trong suốt tám năm hằng đêm trằn trọc thao thức đợi bình minh, cái kiệt quệ trong y dường như không phải sự thanh tao nhã nhặn và trấn tĩnh cẩn thận mà là tuổi thọ. Kể từ ngày đăng cơ, ngồi trên ngai vàng đã là một thân xác vô hồn ngày một rữa nát.

Y biết mọi người đều nói vậy. Mọi người đều tránh né y, bởi y là hoàng đế, hơn nữa còn là một hoàng đế hung tàn. Từ trong cung đến ngoài triều, không ai dám chạm mắt với y, dẫu vậy, y vẫn nhìn ra mây mù của sợ hãi và thầm oán dày đặc trong cung đình. Tám năm trời đất đảo điên, trong loạn thế thập diện mai phục, y tung hoành ngang dọc đánh đông dẹp tây, trận Hồng Dược Nguyên máu chảy trôi chèo, mười dặm đỏ thẫm. Giờ đây quốc thổ chia năm xẻ bảy đã được gắn kết lại, chí ít y cũng có quyền không tiếp tục lo liệu những chuyện ngàn đầu vạn mối ấy nữa, chỉ cần thiên hạ thống nhất, mọi người sẽ tự xử lí cuộc sống của mình. Cơ mà, y ngắm chậu cây gừa xinh xắn trong tay, nhẹ nhàng ngắt rụng một nhánh cành mọc ngược, cắt sửa cây cối mà còn phải hỏi ý kiến cây thì không khỏi rầy rà quá rồi.

Hai mươi mốt năm trước, phiến loạn xảy ra vào cuối hè năm Lân Thái thứ hai mươi bảy. Năm ấy thời tiết nóng bức, trời nắng chói chang, ai nấy đều bảo là loạn tượng. Khi đó y mười bảy tuổi, lễ đại xã (*) lập xuân vừa thụ phong Húc vương. Cha y Đế Tu chết bệnh, chú ruột Nghi vương Chử Phụng Nghi mượn cớ trấn áp rối loạn trong kinh kỳ, giả tiếng cần vương tiến quân, mưu đồ soán vị. Nhất thời bốn bề binh biến, lũ lượt kéo đến dưới thành, đốt lửa giữa đêm, chiếu Thừa Tắc Môn đỏ rực nửa ngày. Binh mã thay quân của tam đại doanh đã ra đi hơn một tháng, sáu vạn nhân mã Vọng Quân Quan và Mạc Hột Quan thì đồng thời phản bội quay lại bao vây đế đô. Trong đế đô chỉ còn lại gần ba vạn quân Cận Kỳ Doanh, hai vạn lính Cấm Vệ Vũ Lâm, Thiên Khải thất thủ là chuyện đã ngã ngũ. Chỉ mình y dẫn người chống cự, mạo hiểm rút ra ba ngàn Vũ Lâm quân, muốn hộ vệ thái tử Bá Diệu mở đường máu ra khỏi đế đô, toan tính hồi sinh. Nào ngờ y khổ chiến không lùi, tự tay đâm chết ba tên lính đào ngũ và mấy chục phản quân leo lên thành, cuối cùng cầm cự được đến lúc ba ngàn Vũ Lâm quân vòng về Thừa Tắc Môn thì lại chẳng thấy bóng dáng Bá Diệu đâu. Thái tử Bá Diệu xưa nay bạc nhược yếu, còn mang khí tiết thà chết ngu muội gàn bướng, đã tuyên bố chung mạng với nước nhà, tuyệt vọng treo cổ tự sát. Tiên đế để lại bốn người con trai, người con thứ ba Thúc Vân chết sớm, con út Quý Sưởng bị đưa sang nước Chú Liễn ở Lôi Châu Tây Lục từ nhỏ làm con tin, hôm nay Bá Diệu cũng chết, đích tử hoàng thất ở Trung Châu chỉ còn lại mình y.

(*) Lễ lập đàn cúng tế thần đất thần núi, cầu phúc báo công cho trăm họ của nhà vua cổ đại.

“Uổng công ta liều chết bày một con đường sống cho hắn, Bá Diệu.” Trọng Húc chém phăng một tên phản quân leo thành rơi xuống, “Cứ thế chết mất không báo tiếng nào.”

Người trên thành ngã xuống một người lại bổ khuyết một người. Ba ngàn Vũ Lâm quân chạy đi chạy về không đến nửa giờ mà xác chết đầu thành đã chất cao nửa người, bèn dứt khoát lấy làm gỗ đá, đẩy xuống thành.

“Điện hạ… Không, bệ hạ! Xin cho chúng thần hộ vệ ngài đi Hãn Châu chiêu binh mãi mã, tiêu diệt nghịch tặc!” Vũ Lâm thiên kị mặc giáp nặng, hai đầu gối chạm đất đánh đùng một tiếng.

Trọng Húc quay đầu lại, nhìn kĩ dung mạo bị mũ giáp che khuất của vị thiên kị trẻ tuổi kia rồi mỉm cười thật khẽ, trỏ xuống lá đại kỳ chữ “Tô” nổi bật trong ánh lửa giữa muôn trùng cờ xí hỗn loạn của phản quân, “Ngươi có quan hệ thế nào với Tô Tịnh Phi?”

Giọng y không lớn, mấy người chung quanh nghe thấy câu này, trong lòng đều rùng mình.

Thiên kị trẻ tuổi ngẩng lên, dõng dạc đáp: “Con thứ Tô Minh.”

Dưới khói lửa đầu thành, gương mặt thẳng thắn vô tư, rõ ràng không quá giống thái thú Đồ Lâm Quận phiến loạn Tô Tịnh Phi.

“Tô Minh, ngươi hộ vệ ta tức là phải đối mặt với binh khí của cha ngươi đấy.” Trọng Húc mỉm cười, thân không khoác giáp, máu tươi vấy bẩn khuôn mặt trắng tựa ngọc mão của y, bèn nghiêng đầu chùi vào vai tấm bào cẩm tú.

“Trước năm mười bốn tuổi, mạt tướng không biết mình có cha, sau này cũng không có ý định nhận cha.”

“Đao ngươi đeo thì lại là loại đao thẳng lưỡi rộng thép ròng khắc hình trùng bọ mà con em nhà họ Tô thường dùng đấy nhỉ.”

“Đó là di vật của mẹ thần, mạt tướng xin thề dùng đao này quyết một phen sống mái với Tô Tịnh Phi, hôm nay xin được làm tiên phong, dọn đường thay bệ hạ, thỉnh cầu bệ hạ tác thành nguyện vọng này của Tô Minh.” Tô Minh nói đến cuối, giọng không kìm được chập chờn, mắt lấp loáng ánh nước.

“Ngươi còn trẻ, đám phản quân dưới thành lại là hạng dụng binh lão luyện, ngươi thế này chẳng phải ắt dẫn thuộc hạ chịu chết sao?”

Tô Minh quật cường mím môi không đáp.

“Vậy cũng khỏi cần. Ban nãy bao nhiêu người chết vì yểm hộ Bá Diệu đã uổng phí lắm rồi, chúng ta không chịu nổi hao tổn binh mã như vậy tiếp nữa.” Trọng Húc ngước mắt xem sắc trời, đã gần nửa đêm, trên Thừa Tắc Môn gió mạnh thổi ngược, y lấy cung khảm sừng ra, ngửa mặt bắn vút một tiếng. Tiếng vút kia khác với bất kì ai, hệt tiếng chim cắt, vang dội sắc bén.

Tiếng vút đó vừa biến mất trong bầu trời đêm thăm thẳm, trong cánh phải trận doanh phản quân dưới thành bỗng nổi lên dị động, một nhánh nhân mã mang cờ hiệu “Thanh Hải” đâm nghiêng đánh về phía cổng thành, chính là quân Lưu Thương dưới quyền Thanh Hải công. Chuyện xảy ra quá đột ngột, phản quân không kịp ứng phó, bị Lưu Thương quân phá tan hàng ngũ. Trước cổng thành là quân Hà Nguyên chủ lực của Viêm vương Chử Phụng Nghi, phản ứng nhanh nhạy, lập tức chém giết trước cổng thành, bộ Vương Diên Niên, bộ Tào Quang, bộ La Tư Viễn, bộ Tô Tịnh Phi ở hai bên và đằng sau đều là tướng trấn thủ các nơi tụ tập kéo đến, lúc này chỉ án binh bất động, không muốn cuốn bừa vào hỗn chiến. Hà Nguyên quân kẹp trái bọc phải, trận hình Lưu Thương quân càng đánh càng mỏng, dần biến thành hình một hàng dài, từ cổng thành rồng rắn ra ngoài hơn một dặm. Đúng lúc ấy, trong quân Lưu Thương bắn một tiếng vút lên trời, cùng một âm thanh với tiếng Chử Trọng Húc bắn trên Thừa Tắc Môn. Theo tiếng, cổng thành bỗng bật mở, một đội nhân mã xông thẳng ra từ đô thành.

Trận hình quân Lưu Thương tuy mỏng song vô cùng dẻo dai, khó lòng cắt đứt, Hà Nguyên quân đang khổ chiến, thình lình trong quân Lưu Thương lại vang thêm một tiếng vút, binh sĩ vốn đang lưng xây lưng đối phó với binh sĩ quân Hà Nguyên hai bên đột nhiên đồng loạt nhào lên trước chém giết, trận rồng rắn tức khắc tách thành hai hàng trái phải, mở một lối đi máu thịt dẫn từ trước cổng thành ra ngoài, hơn sáu ngàn binh mã trong đô thành lao ra theo lối đó, trận rồng rắn theo sau khép lại, lần lượt thu rút, bọc quanh sáu ngàn kỵ binh kia, tổng cộng hơn bốn vạn người cứ thế thoát khỏi đế đô. Bên cạnh thiếu niên dẫn đầu phấp phới một lá cờ đen thêu rồng cuộn chỉ vàng. Trong quân Hà Nguyên có kẻ lanh mắt đã sớm nhận ra đó chính là lá soái kỳ cao tổ bản triều sử dụng khi khởi binh năm xưa, vẫn luôn được thờ trong thái miếu cấm thành, lập tức báo với Chử Phụng Nghi.

Quân Lưu Thương lâm trận phản bội quá bất ngờ, Vũ Lâm quân và Lưu Thương quân giương lá cờ này tất là có đích tử tông thất chạy trốn, Chử Phụng Nghi tuy giành được đế đô song trong lòng vô cùng không vui, đợi đến khi quân phản loạn tiến vào cấm thành, biết được người chạy trốn không phải thái tử Bá Diệu mà là Húc vương Trọng Húc, không khỏi giậm chân bình bịch, nói: “Kẻ này hung hiểm, kẻ này hung hiểm.”

Hơn bốn vạn binh mã ra khỏi đế đô, một đường hướng bắc. Phản quân bộ La Tư Viễn cắn chặt không tha, chịu thiệt mấy lần, chỉ đành bám theo phía sau, rình cơ tấn công. Phe Chử Trọng Húc vừa đánh vừa đi, lúc đến được đèo Kỳ Việt thì đã là chính ngọ hôm sau, đội ngũ dần thu bớt.

Tô Minh thúc ngựa lên đi bên cạnh Trọng Húc, lúc lúc lại liếc y. Húc vương chỉ mới mười bảy tuổi nhưng gương mặt hoàn toàn không có vẻ ngây ngô, ánh mắt sáng rỡ sắc sảo, có thể thấy là một người lòng ôm chí lớn. Trong lòng Tô Minh không khỏi suy tư.

Thanh Hải công Phương thị là vương công khác họ hiếm hoi của bản triểu, đất phong ở quận Lưu Thương bán đảo Kình Lương vùng Lan Châu, kiêm chưởng quản Lưu Thương quân, tự phụ là một dòng nguyên huân khai quốc nên xưa nay không mấy hòa thuận với Đế Tu. Lần này Nghi vương phản loạn có câu kết với Thanh Hải công vốn cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, ngạc nhiên là ở chỗ Lưu Thương quân của Thanh Hải công đã sớm bàn xong biện pháp với Húc vương, dưới thành binh biến, trong ứng ngoài hợp, đến trận pháp dường như cũng đã được tập trận nhuần nhuyễn từ trước. Câu Húc vương nói bày một con đường sống cho Bá Diệu hóa ra có ý này.

“Húc ca, Húc ca!”

Trọng Húc nghe thấy tiếng gọi, vội vã ghìm ngựa, chỉ thấy một người cưỡi tuấn mã Hãn Châu lội ngược đại quân chạy về phía y. Tới gần, rất ư phấn khởi tháo mũ giáp, để lộ một gương mặt trắng trẻo thanh tú, hiển nhiên là một thiếu niên quý tộc, vóc dáng cao ráo, phỏng chừng kém Trọng Húc một, hai tuổi.

Trọng Húc thấy khóe miệng thiếu niên có một vết đao mới nhàn nhạt, bèn lấy tay áo mình lau vết thương cho thiếu niên, nhưng máu mãi chẳng chịu ngừng.

“Giám Minh, đệ làm sao mà hốc hác thế này?”

Thiếu niên cười tươi rói, hỏi một đằng đáp một nẻo: “Sức khỏe cha không tốt, lại phải đề phòng loạn quân giặc cỏ bốn phía nên chia một nửa Lưu Thương quân cho đệ, chỉ nói là giao hết cho huynh.”

Trọng Húc quay sang giới thiệu với Tô Minh: “Đây là đại thế tử Phương Giám Minh của Thanh Hải công. Ban nãy chính cậu ấy đã thống lĩnh Lưu Thương quân dưới thành.”

Tô Minh ôm quyền hành lễ, thầm lấy làm kinh hãi. Hơn ba vạn quân Lưu Thương kẹp trong loạn quân, đội hình vẫn chẳng loạn mảy may, biến hóa tự nhiên, cậu chàng này quả thực là hiền tài lãnh binh thượng hạng.

Buổi tối lúc dựng trại qua đêm, Trọng Húc và Phương Giám Minh ngủ cùng một lều. Vết thương nơi khóe miệng Giám Minh dính bụi đất, đã kết vảy thành một đường đỏ đậm, nom như cười như không.

“Húc ca, cái tay Tô Minh đó chẳng biết có quan hệ thế nào với Tô Tịnh Phi?” Giám Minh chợt nhổm dậy, ghé lại sát tai y hỏi nhỏ.

Trọng Húc chẳng buồn mở mắt, cất giọng trầm trầm đáp: “Chính hắn tự thẳng thắn thừa nhận là con thứ của Tô Tịnh Phi, nhưng quan hệ với Tô Tịnh Phi như nước với lửa.”

“Tin được không?”

“Tô Tịnh Phi quả thực có rất nhiều kế thất, có điều về sau nạp một ca kĩ, rất mực sủng ái, đám kế thất kia lão đuổi được thì đuổi, bán được thì bán, con rơi con rớt cả đống bên ngoài, ta thấy có vẻ là thật. Cơ mà Tô Minh này vừa nghe Bá Diệu chết đã lập tức đổi giọng gọi ta là ‘Bệ hạ’ – khôn khéo cố nhiên là tốt, nhưng quá mức khôn khéo thì thật khiến người ta khó mà không đề phòng.”

“Húc ca.”

“Hửm?”

“Chúng ta không cùng đọc sách luyện võ đã hai năm rồi đấy. Người ta chỉ coi đệ là con tin ở kinh thành mà hoàn toàn không ngờ rằng hai chúng ta thân nhau nhất, lúc đệ chảy máu chạy về, các dì còn hỏi đệ có bị huynh bắt nạt hay không cơ.”

“Truy binh không xa, mai còn phải đánh một trận ác liệt nữa, lảm nhảm ít thôi, ngủ đi.”

“Huynh muốn chong chóng đến Sương Hoàn gặp Tử Trâm tỷ tỷ chứ gì, sốt ruột ghê cơ.” Giám Minh cười nhăn nhở.

Trọng Húc không trả lời chàng, chỉ co ngón tay cho chàng một cú búng đau điếng rồi tự quay nghiêng đi ngủ, khóe miệng chẳng cầm được nhen nhóm nụ cười.

Lưu Thương quân cùng Vũ Lâm quân do Húc vương lĩnh suất vừa đi vừa đánh liên tục suốt một trăm ngày, đến mùa thu gió cuốn lá vàng thì tới được thủ phủ Hãn Châu – Sương Hoàn Thành, dọc đường thu nạp nghĩa quân và quân cần vương các nơi, nhân mã từ hơn bốn vạn tăng lên bảy vạn, Hoàng Tuyền Quan vốn đã có binh mã trú đóng, trong hè lại được phát thêm ba vạn, tổng cộng cũng được sáu vạn lính khả dụng.

Đông Lục hỗn loạn, cảng biển Tuyền Minh Thành bị tiếm vương chiếm cứ, vật tư khó bề chuyển vận; con đường phía đông Mẫn Chung đã bị phong tỏa; eo biển Oanh Ca mạn tây thường xuyên rình rập nguy cơ nổi sóng lớn, ba lối đi có đến hai đã hóa một nửa đường cùng. Mười đường vận tải tiếp tế toàn bộ Tây Lục thì đến ba bốn lệ thuộc hơn nửa vào đường thủy. Trên biển Trừ Lạo, chỉ có bọn thương nhân Lôi Châu thờ đuôi phượng thần rồng cậy có thủy thủ tộc Vũ dày dạn kinh nghiệm và thuyền mộc lan là dám qua lại giữa Tây Lục và Bắc Lục. Sương Hoàn Thành và Kỳ Châu Thành trở thành then chốt thông thương của Bắc Lục, đội buôn Lôi Châu có lực sĩ Khoa Phụ lại ngày một đông, có đội bán ngựa, có đội bán giáp trụ, có đội bán lương thực, giấy dầu, thậm chí còn có tăng lữ vu y, mưu sĩ dân gian toan tính ăn bám quân đội, đủ loại người tụ tập tại đây. Các nước Chú Liễn, Thổ Hỏa Lỗ còn phái sứ giả tới tuyên bố bằng lòng xuất binh viện trợ diệt phản, nhưng trong lòng Trọng Húc biết, đồng thời, những quốc gia Tây Lục ấy chỉ e cũng đã phái thương khách và sứ giả mang sứ mạng tương tự hướng về tiếm vương ở Thiên Khải. Trên Cửu Châu rộng lớn, cơ hồ mọi mỏ vàng mỏ bạc được biết đến đều tồn tại ở Đông Lục, cũng chính là trên lãnh địa của nhà Trưng. Hai nước Chú Liễn và Ni Hoa La giàu có nhất Tây Lục tuy còn miễn cưỡng ủng hộ Trọng Húc theo minh ước nhưng họ ắt sẽ không bỏ qua cơ hội này để đục nước béo cò, trao đổi hoàng kim giá thấp với Đông Lục.

Chú Liễn và nhà Trưng vốn có minh ước, cậu em út Quý Sưởng của Trọng Húc sang Chú Liễn học tập văn hóa ngôn ngữ của Lôi Châu, thực chất là làm con tin, Chú Liễn cũng có một công chúa được đưa tới nuôi dạy ở nhà Trưng, chuẩn bị kết hôn với đàn ông hoàng tộc. Vị công chúa đó không thích khí hậu Đông Lục, một năm ở Sương Hoàn hết sáu tháng, chính là Tử Trâm mà Trọng Húc mến mộ. Tử Trâm da dẻ láng mịn, mắt mày lúng liếng động lòng người, trời sinh tính tình dịu dàng, đến trâm thoa trang sức cũng ít dùng. Người Chú Liễn giỏi hàng hải thông thương, thờ giao nhân làm thần đuôi rồng, Tử Trâm hết lòng sùng tín, thường ngày chỉ đeo một mặt dây chuyền khắc hoa văn giao nhân của vương thất Chú Liễn, thanh khiết vô ngần.

Dưới thành Sương Hoàn, từ xa họ đã trông thấy bóng dáng áo trắng giữa gió như muốn bay đi đứng trên đầu thành, dõi mắt về con đường cuồn cuộn hồng trần dẫn tới thành.

Trọng Húc bỏ ngựa chạy lên lầu thành, Tử Trâm nhìn y chỉ mỉm cười, hồi lâu sau mới cất tiếng nói một câu: “Nửa năm không gặp, chàng đã già đi rồi.”

Ai cũng khen trải qua trăm ngày liên tục khổ chiến, mắt thấy Húc vương và nhóm tướng lĩnh trẻ tuổi lão luyện hẳn lên, đã dần có phong thái danh tướng rồi, chỉ duy Tử Trâm thương y thân hình gầy rộc, dung nhan già úa như một người đàn bà tầm thường nông cạn.

Cha anh tử nạn, đế đô mất vào tay giặc, y chưa từng để lộ một nét đau thương, nhưng chỉ vì câu ấy của Tử Trâm mà rơi lệ. Y là Húc vương, hoàng đế tương lai hay thống soái dẹp loạn đều là y cả, duy chỉ một người bình thường biết mừng biết giận, có thể ốm già là y không thể đảm đương. Trong loạn thế, chỉ còn mình nàng vẫn cư xử với y như một người có máu có thịt.

Bộ La Tư Viễn đuổi theo vây thành chưa được hai tháng thì mùa đông Hãn Châu đã tới, gió tuyết khắc nghiệt, đường cung cấp lương thảo đứt đoạn, La Tư Viễn buộc phải vượt biển rút về. Từ tháng Mười đến tháng Tư, bảy vạn người nghỉ ngơi dưỡng sức, thao luyện trui rèn ở Hãn Châu, im lìm ngủ đông đến mùa xuân năm sau. Trước sau Trọng Húc vẫn không chịu xưng đế, Tử Trâm mới cưới cũng chỉ thêm tước hiệu Húc vương phi.

Từ năm Lân Thái thứ hai mươi tám đến ba mươi mốt, thời gian trôi qua như bóng câu, bốn bề trên bản đồ nhà Trưng đều bất ổn. Chiến tranh lật nhào kéo dài, dân thường không một ngày bình yên, không ít thôn trấn chẳng có nổi một người đàn ông trưởng thành, đồng ruộng bỏ hoang, lương thực vải vóc gần như cạn sạch, nghe phong thanh còn xuất hiện việc người ăn thịt người. Hoàng tử Quý Sưởng gửi nuôi ở Chú Liễn đã từ nhi đồng lớn thành thanh niên, dưới sự nỗ lực giao thiệp trăm bề của y, Chú Liễn vẫn miễn cưỡng duy trì tiếp tế cho vương sư (*). Nếu Trọng Húc giành được ngôi báu, công chúa Chú Liễn Tử Trâm cũng sẽ thuận lý thành chương trở thành hoàng hậu Trưng triều, ấy là người Chú Liễn tính toán thế.

(*) Tức quân đội của vua.

Đến mùa xuân năm Lân Thái thứ ba mươi hai, mười bốn quận vây quanh kinh kỳ nhà Trưng đều đã khôi phục, chỉ còn kinh kỳ và ba quận cực đông giáp biển là còn nằm trong tay tiếm vương Chử Phụng Nghi. Lấy Sương Hoàn làm bồi đô (*), Trọng Húc và Lục Dực Tướng đã phát triển vương sư dưới quyền lên quy mô gần ba mươi vạn, những nơi khác cũng có gần mười vạn nhân mã nghĩa quân. Ai nấy đều cho rằng muộn nhất cũng chỉ đến mùa đông năm ấy là giành lại được kinh kỳ, bình định toàn cảnh cũng trong tầm tay. Song, đúng vào mùa hè năm đó, đại thế chớm định một lần nữa nhiễu loạn. Kỵ binh Hộc Khố ở tây bắc vượt hơn ba ngàn dặm đường trong bảy ngày, từ Ba Lâm Đạc tại Hoàng Tuyền Quan xâm nhập lãnh thổ Đại Trưng, công thẳng vào Sương Hoàn, lại không dây dưa với vương sư chặn đánh nhiều mà ỷ vào kỵ binh tháo vát nhanh nhẹn, đánh một trận rồi rút, thay vào đó cướp quấy khắp nơi. Thanh Hải công Phương Chi Dực dẫn quân đội hai quận đông bắc Hợp An và Xích Sơn vây quét phản quân Đồ Lâm quận, lại gặp phản công bỏ mình. Chử Phụng Nghi đích thân dẫn bảy vạn năm ngàn nhân mã từ kinh kỳ xuống nam, trong hai tháng đã đoạt lại được ba quận tây nam Tha Nga, Quân Châu và Li Lan, nhất thời Uyển Nam, Việt Tây giương cờ phản loạn, phản quân kinh kỳ và Quảng Lộ, Đồ Lâm ồ ạt tây tiến, thế như lang hổ.

(*) Thời phong kiến ở Trung Quốc có chế độ lưỡng kinh: ngoài kinh đô ra thì còn có một kinh đô phụ, gọi là bồi đô (陪都), thiết lập dựa trên tình hình chính trị, quân sự của đất nước, bồi đắp những thiếu sót của kinh đô, hình thành sự phối hợp giữa hai kinh.

Năm ấy, Phương Giám Minh vừa tròn hai mươi, vóc người đã rất cao, sau khi cởi áo giáp, dáng dấp lại vẫn vương nét thiếu niên thanh tú. Trong Lục Dực Tướng, chàng là người trẻ nhất, sống kiếp chinh chiến cũng đã năm năm có thừa. Chử Trọng Húc lớn hơn chàng ba tuổi, trên mặt trận cẩn trọng quyết đoán, sáng suốt nhạy bén, đã có khí thế vương giả trang nghiêm. Trong chiến sự, cứ hễ yểm hộ, tiếp ứng, bọc đánh các kiểu, hai người đều có thể ăn ý phối hợp, tâm ý tương thông, chẳng khác nào một cặp tay chân ruột thịt. Trong vương sư có rất nhiều tướng lĩnh trẻ tuổi xuất chúng, mấy năm chinh chiến đã nên tình đồng bào sâu sắc, không thiếu chuyện liều mình tiếp viện, tắm máu tử thủ, song trong lòng ai nấy đều hay, người Húc vương có thể ủy thác tính mạng cùng sợ rằng chỉ có một mình đại thế tử Thanh Hải công Phương Giám Minh.

Tháng Bảy, tin Thanh Hải công Phương Chi Dực tử trận truyền đến Sương Hoàn, thám tử lục tục bẩm báo, hai quận Lưu Thương, Hợp An lần lượt mất vào tay giặc, toàn tộc Phương thị diệt môn. Lúc tin tức truyền tới, tám vạn đại quân đang đợi xuất phát, nhắm tới Thông Bình Thành thủ phủ quận Li Lan ở Uyển Châu. Phương Giám Minh nghe tin lặng thinh hồi lâu, Trọng Húc trên lưng ngựa gọi chàng, phó soái thiếu niên khẽ ngẩng đầu, nhìn người thanh niên vừa là anh vừa là vua của mình, há miệng, chung quy chẳng đặng nên lời, lẳng lặng rời khỏi hàng ngũ, lúc trở lại, bên trong giáp trụ đã đổi thành tang phục, thoăn thoắt lên ngựa như cũ, hốc mắt hoe đỏ, trên mặt lại chẳng nhìn ra chút nào dấu lệ từng rơi.

Đội quân đi gấp mười một ngày, hạ trại ngoài cổng tây Thông Bình Thành năm mươi dặm, đầu tiên cử một số binh lực nhỏ đi chửi bới gây rối mấy ngày, phản quân mở thành nghênh chiến thì vờ rút lui, lặp đi lặp lại mãi, rốt cuộc cũng nhử được Chử Phụng Nghi tự mình dẫn quân chủ lực ra khỏi thành, bày trận khai chiến trên bình nguyên hẹp dài dọc bờ sông Li Lan.

Sông Li Lan là một nhánh của sông Kiến Thủy, từ Bạch Thủy chảy đến Liễu Nam đổ ra biển. Khúc Thông Bình Thành, bình nguyên phía nam sông rộng không quá năm, sáu dặm, lại hướng nam nên chạy dài đồi núi. Bầu trời trước bình minh trắng nhờ, núi non trùng điệp sum sê, cỏ cây trải dày trên triền núi. Đao kiếm và giáp trụ ngẫu nhiên va chạm, gây ra những rung động nho nhỏ trong không khí yên ắng. Cờ xí quân Lưu Thương đỏ tươi dưới sắc trời tối tăm bợt thành màu đen đặc – Phương Giám Minh đã là Thanh Hải công, lãnh chúa quận Lưu Thương thứ năm mươi ba của bản triều. Chẳng đen thì trắng, cây cối hắt xuống dưới chân những cái bóng màu tro, không còn loại màu sắc thứ ba nào nữa.

Trọng Húc ngẩng đầu nhìn thiếu niên trên ngựa.

Dưới áo giáp, Phương Giám Minh vẫn mặc tang phục huyền thâm, lông mày đen rậm khuất dưới mũ giáp, Trọng Húc chỉ có thể nhìn thấy đôi môi mỏng trắng nhợt của chàng mím chặt thành một đường. Thiếu niên quay đầu, Trọng Húc đoán là chàng đang nhìn y. Trong bầu không khí rạng sáng tĩnh lặng trong lành, ánh mắt chẳng nhìn đến của thiếu niên tỏa ra hơi lạnh thấu xương, một ngọn lửa giận kìm nén, tích tụ, ngọn lửa màu đen trong suốt, không nhiệt độ nhưng thiêu đốt tất thảy thành tro. Ngọn lửa giận ấy không nhằm vào Trọng Húc, cái quay cuồng trong lồng ng.ực thiếu niên là ý chí chiến đấu khát máu.

“Giám Minh.” Trọng Húc hạ giọng dặn, “Nhớ, ngày mai tấn công bao vây lúc mặt trời mọc.”

Giám Minh khẽ gật đầu, quay đầu ngựa, im lìm đi về phía một gò đất phía nam, thoắt chốc đã biến mất trong sương sớm rừng rậm xanh rì. Đội ngũ khổng lồ kéo dài thành một trục dọc, trầm mặc đi theo sau lưng chàng. Vô số bước chân và vó ngựa đạp lên bụi cỏ mới mọc đầu hè.

Thanh Hải công trẻ tuổi dẫn hai ngàn kỵ binh tinh nhuệ và ba vạn lính bộ vòng qua gò đất đi về hướng đông sáu mươi dặm, chạng vạng cùng ngày đã kín đáo đi tới ngoài cổng đông phòng thủ yếu nhất Thông Bình Thành. Chính lúc này, mây đen bốn phía kéo rợp trời, tiếp đó, mưa to dữ dội, sấm nổ dậy đất, khiến người ta nghe mà run rẩy.

Trên bình nguyên phía nam sông Li Lan, mưa rèn giáp sắt, leng keng mười dặm. Trọng Húc đã dẫn quân khai chiến với quân chủ lực của tiếm vương Chử Phụng Nghi. Trời đất mịt mù, bùn máu hỗn tạp. Dưới tiến thoái giằng co, lối đi dần tắc nghẽn vì xác chết, trong mưa lớn, bình nguyên chật hẹp cơ hồ hóa đường xuống suối vàng. Giáp trụ vương sư dày nặng, sau khi áo quần ướt nước mưa, hành động trở nên bất tiện, trong khi đó quân chủ lực của Chử Phụng Nghi đã đánh chiến ở tây nam vài năm, sớm quen với thời tiết mưa như thác đổ, thân nhẹ linh hoạt. Gần một giờ sau, vương sư đã tháo chạy tới trước đại trướng trung quân ba dặm. Trống đánh vang dội, chấn động ầm ầm như từ lòng đất chui vào tim gan sống lưng người đứng trên. Trận hình phản quân dần thu lại, một trận xung kích dạt dào khí thế đang thành hình. Hàng ngũ tiên phong của vương sư cũng dần tụ thành hình mũi nhọn, chuẩn bị liều mạng đối kháng.

Chợt, tiếng trống dừng bặt. Ngoài tiếng gầm thét của sông Li Giang đục ngầu hòa với âm thanh mưa to đập vào sống đao, giáp trụ, trên bình nguyên lặng ngắt như tờ. Kẻ đã chết chẳng còn tiếng thở mà người còn sống cũng chẳng phát ra một động tĩnh nào. Những người đàn ông im lặng thở gấp, máu bùn chảy trên mặt, nước mưa bẩn thỉu quét từ đỉnh đầu xuống làm nhòa mắt. Sau trận giao phong này, rất nhiều người đã sắp ngã nhào xuống bùn như đồng bào mình, để lại thân xác lạnh lẽo vô tri vô giác, mặc mưa to rửa sạch những vết thương trí mạng trên người.

Thình lình, trong phản quân ập tới một cơn sóng hỗn loạn từ đông sang tây.

“Nhìn kìa, trên thành!” Một tiếng la lạc giọng vang lên, chọc rách màn mưa mênh mông.

Trên bầu trời phía đông, vài đường khói báo động đâm cao, nửa khắc sau, một góc trời mưa xối xả bừng lên ánh đỏ, rất rõ ràng, trên Thông Bình Thành đã đốt lửa hiệu báo nguy.

“Là đông quân, đông quân bắt đầu công thành rồi!” Trong vương sư bỗng òa lên tiếng kêu mừng rỡ mà tàn nhẫn.

Thông Bình Thành bị vương sư đánh gọng kìm, tình thế nguy ngập. Trong trận phản quân, soái kỳ tiếm vương bắt đầu chuyển hướng sang đông, hẳn là Chử Phụng Nghi vội vã muốn về thành giải vây, chỉ để lại phản tướng La Kế Hàn và hai vạn năm ngàn phản quân khổ sở chống đỡ trên bình nguyên hẹp dài.

Chử Trọng Húc chỉ huy tây quân vương sư, vững vàng sấn sang phía đông, bộ La Kế Hàn chậm chạp vừa đánh vừa rút về Thông Bình Thành, mỗi bước đều để lại trên mặt đất nhão bùn đỏ vàng xác chết và chân què tay cụt.

Đến tối, cổng đông Thông Bình Thành bốc cháy. Phản quân trước sau thụ địch, tiến thoái lưỡng nan, mở hai cổng nam bắc, định chạy ra khỏi thành song gặp trúng phục kích, thương vong thê thảm. Trận này phản quân thiệt hại nghiêm trọng, lại đâm ra dậy lên chí khí chó cùng rứt giậu, liều chết chống trả. Quân tiên phong bộ Chử Phụng Nghi vừa trở lại cổng tây Thông Bình Thành, một nửa đông quân của Phương Giám Minh đã chia ra vào thành từ hai cổng nam bắc, tập kết xong xuôi, bày trận chờ đợi. Cổng đông vẫn cháy hừng hực trong mưa đêm, ngọn lửa bập bùng, sừng sững chói lòa sau lưng đông quân vương sư, tưởng chừng như trong không trung u ám bắc ngang cánh cổng vòm cháy rực của địa ngục.

Cổng thành đã hoàn toàn cháy ra than ra tro, đốm lửa bắn phụt, cuối cùng ầm ầm nổ tung, gỗ cháy và đồng nóng đỏ rơi vỡ lạch xạch. Khoảng một trăm binh sĩ trên đầu che khiên ập vào, dưới bối cảnh lửa cháy dữ dội, bóng dáng đen kịt của đội ngũ khiến người ta kinh hãi. Vài thớt tuấn mã theo sau đi đến, hiên ngang nhảy qua thây xác phản quân. Cú nhảy này khiến lá tinh kỳ to lớn ướt rượt trong tay người cầm cờ phần phật mở rộng, trải một vạt đỏ quạch bất tường trong ánh lửa. Lông con ngựa ô sáng bóng như gấm dưới ánh đuốc, thiếu niên trên ngựa áo đen giáp bạc, cầm một cây thương bạc nặng trịch, mũ giáp che khuất mắt chàng, nước mưa hòa lẫn máu nhỏ từ đường quai hàm kiêu ngạo xuống. Thiếu niên ngẩng đầu nhìn cổng thành đã bị đánh hạ sau lưng, cởi bỏ dây buộc mũ giáp thả rơi xuống đất nghe leng keng, lộ ra gương mặt tuấn tú khôi ngô. Trên tường trổ đầu thành, cờ xí của phản quân đang cháy.

Vết thương nơi khóe miệng thiếu niên khẽ nhếch như hé một nụ cười khó lường. Chàng chĩa mũi thương ròng ròng máu đen vào soái kỳ của Chử Phụng Nghi, quanh thân bốc cao ngọn lửa hủy diệt, hệt một sát thần.

“Chiến đấu, giết, đầu hàng cũng giết!”

Đáp lại câu ra lệnh ngắn gọn của phó soái, binh sĩ đông quân gào rống như dã thú, xông vào phản quân tựa dòng sắt thép.

Giương cung vung đao, oai rung bốn bể. Ngày mười bốn tháng Bảy năm Lân Thái thứ ba mươi hai, đại phá Thông Bình, chém một vạn năm ngàn nghịch tặc.

“Quá nửa đêm, mưa ngừng, mây tản, bầu không xanh trong giăng kín sao trời. Đêm khuya giữa hè, hơi lạnh và hơi máu bốc lên căm căm từ mặt đất, leo lên theo chân bụng người như dây mây.” – 《 Đoan thư · Liệt vương kỷ · Bách tứ nhị · Tĩnh Dực vương 》

Tây quân vương sư dần không chịu nổi áp lực mạnh mẽ từ mặt đông. Chủ lực phản quân vừa trở về đã lại bị trục xuất khỏi Thông Bình Thành, hợp lại với bộ La Kế Hàn, tổng cộng vẫn có gần năm vạn binh mã. Thành trì đã phá, đằng sau có đông quân vương sư cuồng dại như sói truy đuổi, phản quân đã thành giặc cùng đường, quay sang hướng tây liều mạng đánh.

“Đông quân tấn công trước hạn! Bọn ranh con chết giẫm đó đang làm gì vậy?” Binh sĩ tây quân lớn tiếng chửi rủa, vung đao dốc hết sức ngăn trở thế suy. Hôm sau họ mới hay tin, đêm ấy, phó soái đông quân Phương Giám Minh truyền lệnh tự phát: Ai chém được đầu tiếm vương, thưởng vàng một vạn. Tuy nhiên, cũng không phải ai trong số họ cũng sống được tới hôm sau.

Chử Trọng Húc trấn an vật cưỡi nóng nảy, từ trên gò nhỏ phóng mắt xuống theo dõi chiến cuộc. Hai quân chạm trán đã hơn bảy giở, song phương tụ tập hai mươi vạn binh mã trên bình nguyên, đến nay chỉ còn dư lại không đến chín vạn. Phản quân đột phá mé tây, vương sư mé tây chùn bước.

A Ma Lam, một trong Lục Dực Tướng, thân đeo trường cung, đứng song song với y, lo âu khôn kể: “Điện hạ, cứ cái đà này, rất nhanh sẽ rút tới cửa ra hẹp nhất của bình nguyên. Cửa ra đó sẽ hạn chế rất lớn tốc độ và hành động của vương sư, ít nhất chúng ta sẽ phải trả cái giá quá đắt lên đến mấy ngàn binh lực, hợp vây với đông quân cũng khó lòng hoàn thành.”

Trọng Húc im lặng gật đầu, mày càng nhíu chặt hơn. Chuyến này xuôi nam xuống Li Lan quận chẳng lẽ không dưng phải hao tổn hơn vạn quân sĩ, trắng tay trở về? Không chịu nổi. Y nghe thấy trong thinh không có tiếng thầm thì, giọng nhẹ mà lớn, ngập khắp nơi nơi, tạt qua đám đông hỗn chiến như một cơn gió độc. Đó là tiếng lòng của mọi người, thoát khỏi thể xác và ý thức, hội tụ thành tiếng thì thầm vận mệnh. Bàn tay cầm đao của chúng nam nhân đã mất hết tri giác, cánh tay chết lặng, vết thương nứt lộ xương, họ chỉ không ngừng chém, chém, chém.

Chỉ trong nháy mắt, Trọng Húc trông thấy vô số ánh sáng và màu sắc lưu chuyển trong kí ức, lượn vòng quanh người như gió lốc.

Một bàn tay xanh xao chết chóc của phụ hoàng không ngừng quờ quạng trong không trưng, tay còn lại cào mạnh cổ họng mình. Bệnh lạ chẩn không ra, thế tới hung hãn, một đêm đã hoăng.

Đại quân áp sát thành.

Binh sĩ áp lương trên đường Hãn Châu liên tục náo loạn, lương thảo em trai Quý Sưởng nghĩ cách tìm mua đưa từ Chú Liễn sang bị cướp quá nửa.

Thích khách lẻn vào vương phủ trong thành Sương Hoàn, Tử Trâm chịu kinh động, mất đi cái thai hai tháng.

Hốc mắt đỏ hoe của Giám Minh.

Trọng Húc siết chặt loan đao trong tay, hít thở thật sâu.

Hỡi tạo hóa, mi trêu ngươi như vậy mà tại sao… – Người thanh niên lau vết máu dính trên má, ngẩng thẳng đầu nhìn thật sâu lên bầu trời sao mây tản trời quang. Ánh mắt rét lạnh oán trách không giống muốn tìm câu trả lời mà ngược lại, tựa như đang gây hấn – Tại sao ta cứ nhất định phải nghe lệnh mi? Cao xanh bát ngát, sao buông muôn trượng. Dưới màn trời, bóng hình y bé nhỏ tột cùng.

Trọng Húc đưa loan đao sang bên tai, keng một tiếng bật ra một mũi tên rất nhỏ, tiếp đó phóng ngựa thẳng ra phía trước, phi lên trước trận như một tia chớp chẻ đôi hàng ngũ phản quân.

“Tấn công! Muốn sống thì theo ta!” Giọng nói lanh lảnh lơ lửng thật cao trên bầu không chiến trường. Mỗi một binh sĩ vương sư đều nghe thấy chủ soái của họ, quân vương của họ, cũng là lần đầu tiên họ nghe thấy hoàng đế của họ.

Tiếng đao gươm va chạm đột ngột dày đặc. Một âm thanh vĩ đại hào hùng chân thật vang lên trong bầy người. Đó là tiếng rít gào cuồng nhiệt phát ra từ phế phủ hơn bốn vạn người, thoạt đầu còn sai lệch lộn xộn, kế đến dần trở nên dõng dạc, dời núi lấp biển – Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế! Âm thanh sau lưng ấy tựa thủy triều càng dâng càng cao, nhưng Trọng Húc chẳng nghe thấy gì hết. Xộc vào giữa loạn quân đông đúc, loan đao trong tay soàn soạt vung múa, những đường cung ánh sáng dũng mãnh khốc liệt như đâm vào yết hầu vận mệnh.

Máu tươi nóng hổi bắn lên mặt y. A Ma Lam hô hoán, y cũng chẳng lọt tai.

Lúc hai quân vương sư đông tây cuối cùng cũng thắng lợi hợp vây, thời gian còn cách cái hẹn phát động tấn công ban đầu gần nửa giờ. Đông quân phát động tấn công sớm cơ hồ đã đẩy toàn quân vào tình cảnh hủy diệt, dẫu vậy, mắt thấy soái kỳ đông quân hiện lên trong sương đêm cuối bình nguyên, chiến cuộc đến đây đã thay đổi, binh sĩ tây quân mới phun ra một hơi từ phế phủ. Đông quân quả thật giết đỏ ngầu mắt, lại kiên quyết không chịu cho hàng, phản quân sống sót không đến ba vạn, đều quay sang vứt giáp xin tây quân tha mạng. Tiếng chiêng thu binh vang lên ba hồi, đông quân mới bắt đầu bình tĩnh lại.

Dưới soái kỳ nền đen thêu rồng cuộn chỉ vàng của Trọng Húc, A Ma Lam nheo mắt nhìn phương đông xa xa. Soái kỳ Thanh Hải quân đỏ thẫm cao chót vót trên đầu người lổn ngổn, đang lao về phía này. Đám tù binh lê chân tàn, sợ hãi né sang hai bên, tuấn mã thuần ô dưới quân kỳ Thanh Hải hiện ra, cùng với đó là vị tướng quân thiếu niên trên lưng ngựa. Khoảng cách dần rút ngắn, A Ma Lam thấy rõ trường thương của chàng đã biến mất, bên tóc mai đông vết máu ngoằn ngoèo, thương lớn thương nhỏ ước chừng hơn hai mươi chỗ, trên dưới quanh thân đều là dấu vết ác chiến để lại, nhưng đôi mắt ấy, đôi mắt thiếu niên ấy, hệt như nước thép sùng sục vừa đúc thành, còn b*n r* hoa thép và đốm lửa. Ngọn lửa hung tàn nóng nảy như muốn thiêu rụi cơ thể thiếu niên.

“Chử Phụng Nghi đâu?” Môi chàng bong tróc, vừa nói đã rớm máu. Thiếu niên l**m môi, nuốt máu tươi tanh mùi sắt xuống, “Đã tìm thấy Chử Phụng Nghi chưa?”

A Ma Lam không đáp, chỉ lắc đầu.

Ánh mắt thiếu niên tức thì hừng hực thiêu đốt. Chàng trầm mặc quay phắt đầu ngựa, đang định một lần nữa giơ roi đánh ngựa chạy về hướng đông, A Ma Lam chợt nắm chặt vai chàng. Thiếu niên không vùng ra được, trái lại bị A Ma Lam kéo vòng trở về. Chân mày chàng nhíu chặt, tay phải đã rờ lên bội đao bên hông.

“Húc vương điện hạ,” A Ma Lam thoáng dừng, chừng như đang cân nhắc tìm từ đặt câu, tiếp đó chỉ tay về phía tây, “Húc vương điện hạ đang ở trong đại trướng trung quân.”

Thanh Hải công trẻ tuổi hồ nghi nhìn gã. Người đàn ông cùng trong Lục Dực Tướng với Phương Giám Minh này khoảng ngoài ba mươi tuổi, nước da bánh mật của dị tộc Nam Hải, đường nét mặt mày sâu đậm, làm nổi bật con ngươi màu trà xanh như mắt mèo. Kể cả Trọng Húc cũng chỉ biết gã đến từ nước Chân Lạp Nam Hải, giỏi đánh bạc, giỏi thuần ngựa, giỏi cưỡi ngựa bắn cung, còn tên thật là gì, nguyên quán ở đâu, vì sao lưu vong đến Đông Lục thì xưa nay không rõ, cũng chẳng hỏi nhiều. A Ma Lam vào vương sư đi lính từ thời Đế Tu, lặng lẽ chẳng tiếng tăm gì suốt bảy, tám năm, đến mãi năm ngoái mới được Húc vương cất nhắc, trở thành cận vệ trưởng, đến nay tiếng quan thoại đã nói rất trơn tru.

A Ma Lam đưa mắt ngó chung quanh chốc lát, binh sĩ thân vệ đi theo Phương Giám Minh lùi ra sau mấy bước. A Ma Lam giục ngựa ghé lại gần thiếu niên, ngửa lòng bàn tay lên mở ra. Hơi thở của thiếu niên dừng sững, vết đao khóe miệng căng chặt, như một chiếc mặt nạ bị máu lửa vấy bẩn, khôi ngô, lạnh lẽo mà không hề có lấy chút ít sinh khí như chẳng thuộc về nhân gian.

Trong lòng bàn tay A Ma Lam là một con rối gỗ bách tinh xảo to chừng quân bài. Thân rối đã gãy thành hai nửa, trên ngực viết vài hàng chữ tiểu khải li ti, giữa vân gỗ vàng trắng tươi mới ở mặt gãy thẩm thấu sắc đỏ, trên chân tay nhỏ bé quét sơn dầu tràn ngập dấu vân tay đỏ mờ chưa khô hẳn, như vừa ngâm trong vũng máu mới đây. Giám Minh biết món đồ này – lúc xuất binh, trong ngực không ít quân sĩ đều cất một con rối như vậy, dân gian gọi là “bách hề”, dùng để ngăn cản tai họa nguyền rủa, nếu chủ nhân bất hạnh bị trọng thương mắc bệnh cấp tính thì bổ đôi con rối đốt đi, để bách hề chịu đựng tai họa thay chủ nhân, là một món đồ hộ thân. Tử Trâm tình cờ bắt gặp, bèn tự tay làm mười mấy con rối bách hề cho các tướng lĩnh không có gia thất, viết tên họ sinh nhật của từng người lên, Giám Minh và A Ma Lam cũng có một con, lúc xuất chinh cất sau miếng hộ tâm trên áo giáp.

Mà con rối trong tay A Ma Lam, họ đều nhận ra, đó là của Trọng Húc.

“Một giờ trước, điện hạ trúng tên lạc, vật này bị đầu mũi tên xuyên thủng. Để ngừa lòng quân tan rã, điện hạ nhịn đau chém thân tên xuống, chỉ để đầu mũi tên trước ngực, mãi đến khi đại cuộc đã định mới chịu để tôi đưa ngài về đại trướng. Y quan nói…” A Ma Lam chợt dừng bặt, như thể có một số lời nói ra rồi sẽ trở thành sự thật. Gã lặng lẽ đặt con rối vụn khuyết nửa vào tay Giám Minh, ngoảnh đầu khe khẽ huýt sáo, người cầm cờ lập tức giương soái kỳ nền đen thêu rồng cuộn chỉ vàng của Trọng Húc đi tới, theo A Ma Lam đi sâu vào bình nguyên đầy rẫy xác chết. Thu nhận tù binh, quét dọn chiến trường, chỉnh đốn đội hình, gã còn rất nhiều chuyện cần làm.

Áo giáp trên vai bỗng trĩu nặng không sao chịu thấu. Thiếu niên áo đen giáp bạc mở tay, cúi đầu nhìn những mảnh gỗ vụn nhầy nhụa máu trong lòng bàn tay rồi mới ngẩng lên, đá mạnh một cước vào bụng ngựa, ngựa ô hí dài, tung vó phóng về phía đại trướng phía tây trung quân.

Binh lính canh phòng chưa kịp ngăn cản, tuấn mã đã phi qua chướng ngại vật sừng hươu dựng ngoài doanh, người cưỡi ngựa rút đao khỏi vỏ, liên tiếp đánh bay mấy chuôi kim đao của cận vệ trước trướng, cả người cả ngựa cơ hồ vọt vào doanh trướng mới đột ngột thu cương ghìm ngựa. Ngựa ô giận dữ hí vang, lính cận vệ vừa định giương cung nhất tề bắn, người cưỡi ngựa đã lanh lẹ nhảy xuống, cuốn vù vào đại trướng như gió bão. Rốt cuộc cũng có người mắt sắc nhận ra, vội hô: “Gượm đã! Đó là phó soái!”

Bội đao trong tay phải đã ném ở ngoài lều, gỗ vụn nắm chặt trong tay trái hãy còn, lòng bàn tay đổ mồ hôi, đầy tay bùn đất và vết máu, chỗ bị dằm đâm đọng một chấm đỏ tươi đẹp kỳ dị.

Bên ngoài trướng không một bóng người, bên trong trướng lửa bốc hừng hực, tay chân tê cóng như ngâm vào nước ấm, ngưa ngứa sinh đau. Thiếu niên đứng lặng tại chỗ, mắt không chớp, trân trân nhìn một chuỗi vết máu nhỏ giọt to bằng đồng tiền vòng qua lều vải, đi vào trong trướng. Trong trướng thắp đèn, chiếu mấy bóng người lộn xộn lên lều bạt.

Chóp mũi y quan trưởng đậu hạt mồ hôi cỡ hạt đậu, lắc đầu quầy quậy, nhỏ giọng nói gì đó với bóng người đang nằm.

Giọng nói mát lạnh của Trọng Húc cất cao, tuy yếu ớt nhưng rất cố chấp: “Ta phải nói bao nhiêu lần nữa? Lấy ra cho ta.”

Y quan trưởng cuống đến độ cũng cất cao giọng: “Điện hạ, rút ra bây giờ không được đâu! Đầu mũi tên đang ở giữa phế phủ, nếu rút ra, máu sẽ không cầm ngay được, như vậy…”

“Bây giờ không rút chẳng lẽ để mai sau,” Trọng Húc khàn giọng phì phò, tiếng nói thều thào vụn nát, “Rút ra ngay đi.”

Y quan trưởng không đáp, chỉ xoa tay trăn trở.

Trong lều có người thò đầu ra ngó rồi bẩm vào trong: “Điện hạ, Thanh Hải công tới.”

Như định mở miệng nói gì mà lại bị sặc, Trọng Húc ho dữ dội, qua mỗi một cơn ho, tiếng hít hơi càng thêm dằng dặc khản đặc, là phổi thụ thương bị lọt khí. Người trong trướng phát hoảng, mấy giọng liền kêu to: “Điện hạ, điện hạ!” Giữa tiếng người ồn ào đến thế, Giám Minh vẫn nghe rõ được hai ba tiếng “phốc phốc” rất khẽ trên bạt lều, tựa như mấy giọt mưa rơi lên vải dầu. Mọi người bỗng nín thinh. Từ bên trong bạt lều dày nặng, dần dần có tia đào rất nhỏ thẩm thấu, men theo sợi vải ngang dọc lan rộng, thấm ra ngoài.

Trong lòng Giám Minh cả kinh, cao giọng gọi: “Húc ca!” Chưa kịp nghĩ ngợi nhiều đã vén màn che bước thẳng vào trướng.

Chư y quan đang dùng từng chồng vải bố to kềnh ấn chặt ngực Trọng Húc, người gần năm mươi tuổi rồi mà cuống run cả tay chân, đã sớm bất chấp lễ pháp, miệng không ngớt hô: “Điện hạ, ngài không muốn sống nữa đấy à!” Phương Giám Minh lùi ra sau một bước.

Toàn thân Chử Trọng Húc tái mét, thân hình tựa hồ gầy xọp đi so với thường ngày, từ cổ xuống rốn chỉ toàn máu là máu, khô rồi lại ướt, ướt rồi lại khô, trên vảy máu đã chuyển thâm đen phủ một lớp máu mới đỏ tươi, là máu vừa phun ra mới rồi. Y mấp máy môi, nhưng những người đứng hơi xa đã không còn nghe thấy lời y nữa.

Giám Minh sà vào trước giường, hoảng loạn nói không nên lời.

Trọng Húc cười nhẹ, mắt ra hiệu bảo chàng lại gần hơn. Giám Minh làm theo, thấy Trọng Húc như định cất lời, bèn ghé tai sát tới. Chỉ nghe Trọng Húc khó nhọc nói như thều thào: “Đệ xem… Dẫu chết đi cũng không thể mang theo thứ này chứ.” Giám Minh kinh hãi, cạy bàn tay phải của Trọng Húc ra, quả nhiên thấy một đầu mũi tên thép ròng đầm đìa máu, chỉ gắn với hơn một tấc thân tên.

Đúng lúc này, ngoài lều thông truyền có người từ quận Lưu Thương đưa tin đến cho Thanh Hải công. Nghe thấy ba chữ quận Lưu Thương, cổ họng Giám Minh thít lại. Trên danh nghĩa, chàng vẫn là lãnh chúa Lưu Thương quận, nhưng hôm nay cha và anh em trong tộc đã chết trận cả, Chử Phụng Nghi hạ lệnh diệt môn Phương thị, quận Lưu Thương thất thủ vào tay phản quân, là ai có thể đưa tin từ đó tới đây? Ngoài cửa doanh, người đưa tin khẩn cưỡi khoái mã chờ chàng mà đứng cũng không vững, thương tích quanh thân đều đã chuyển xấu, tỏa ra mùi tanh hôi. Trông thấy Phương Giám Minh đi ra khỏi trướng thì run rẩy móc từ trong ngực ra một phong bì, mềm oặt nhớp nhúa, hẳn là đã kinh qua mưa dầm mồ hôi ngâm. Mở phong bì ra, bên trong chỉ có một mảnh giấy rất mỏng, từ Lưu Thương đến Li Lan, đông bắc tới tây nam, đi hơn một tháng.

Giám Minh con ta: Huyết mạch Phương thị chỉ còn lại mình con, tự lo liệu ổn thỏa.

Bút tích của lão Thanh Hải công Phương Chi Dực nay đã tạ thế, có lẽ do viết trong vội vã nên con chữ xiêu vẹo, vẫn là thể đài các gia truyền đoan chính lẫm liệt.

Vốn tưởng là phong bì giấy son bị phai màu do quá trình vận chuyển trắc trở, thấy giấy viết thư bên trong cũng nhuốm đỏ một nửa kèm theo hai dấu vân tay, mới hiểu ra là máu.

Chàng biết cha đã mất rồi. Chàng là con em quý tộc, từ nhỏ đã vào cung bầu bạn đi học cùng thái tử, gặp ngày khánh điển vào triều, cha thường đến thăm chàng, chàng lại cảm thấy xa lạ. Cha cũng không giận, chỉ thản nhiên cười xòa, dúi cho chàng một, hai món đồ chơi, nếu chàng không né thì còn xoa đầu chàng. Mùa thu năm sáu tuổi, chàng bắt đầu tập bắn, cha cho chàng một chiếc phàn chỉ bằng vàng nạm lưu ly xanh nhạt, dùng lúc bắn cung để tránh dây cung cắt vào ngón tay làm bị thương. Kích cỡ phàn chỉ là dành cho đàn ông trưởng thành, mẹ dùng tơ xanh quấn nó lại, chàng đeo vừa vặn.

Trận chiến hôm nay, chàng tuy có ý muốn giết Chử Phụng Nghi báo thù song đáy lòng vẫn ôm tia cầu may. Cha chàng nom ôn hòa ấm áp nhưng nghe nói thuở thanh niên cũng từng là một người võ nghệ siêu quần, tộc Phương thị cành lá sum sê, sao có thể dễ dàng tuyệt diệt như thế? Nhưng đợi đến khi lá thư này tới được tay, tận mắt trông thấy máu phụ thân thấm ướt giấy viết, chàng mới xem như thật sự tỏ tường.

Họ đều không còn nữa. Dẫu chàng có đích thân chém đầu Chử Phụng Nghi tế trước linh cữu cũng sẽ chẳng có ai đến hồi đáp. Lời này đã chẳng thể trần tình với ai, chỉ có thể lặng lẽ cất tiếng trong đầu nói với chính mình, trống trải và thê lương không bút nào tả xiết.

Binh sĩ bị thương đã được đưa một nửa tới cạnh trung quân tạo điều kiện cho chư y quan thuận lợi cứu chữa, tiếng kêu đau bi thiết thay nhau nổi lên, có tiếng như sói con đi lạc, có tiếng như ống bễ, có tiếng có thể giống bất kì tiếng gì, chỉ không giống tiếng người. Chàng bảo anh lính đưa tin kia đi chữa trị, binh sĩ đỡ người đưa tin lầm bầm: “Người của mình còn chẳng cứu nổi nữa là. Nếu không phải đông quân bà cố nội nhà hắn tấn công sớm thì sao chết nhiều người thế được.”

Mặt trời còn chưa mọc, phương đông đã tờ mờ, xem từ xa tưởng như ngọn lửa trên Thông Bình Thành vẫn đang cháy hừng hực. Trên bình nguyên trước mắt, chàng nhìn thấy nhân mã của chàng không một ai không chịu thương, lùa tù binh đi đào hố chôn đồng bào họ. Chàng nhìn thấy trên cánh tay trái một binh sĩ phản quân trói dây thừng nối liền với tù binh bên cạnh, lê cánh tay phải đã gãy, dùng tay trái bới đất. Chàng nhìn thấy mấy vạn người này, trải qua một đêm quyết chiến, ai nấy đói rét đan xen, vẫn đang chảy máu, ngã xuống rồi thì có thể ngủ say. Chàng nhìn thấy kẻ địch chém giết lúc còn sống, một lưỡi đao hãy còn đâm xuyên vào lồng ng.ực một người khác, lại được chôn chung một chỗ, vĩnh viễn làm hàng xóm dưới lòng đất. Ở quê nhà có lẽ họ còn có vợ con già trẻ, nhưng những người đó có tìm đến đây cũng chẳng tìm lại được thân nhân nữa. Nhiều xương khô như vậy, Trương Tam, Lý Tứ, Vương Nhị, Ma Tử, ai nhận ra ai.

Chàng chẳng hề thương xót. Tuy chàng còn trẻ nhưng đã nhập ngũ nhiều năm, trong lòng biết rất rõ, nếu người bại là họ, kẻ địch chưa chắc đã có thể đối xử với họ nhân từ hơn. Chỉ là, mặt trời mới mọc chiếu sông Li Lan thành một dòng máu, mấy vạn người đón ánh ban mai chói chang nheo mắt, mười dặm bình nguyên đỏ kệch một màu, không khỏi khiến người ta cảm thấy lạnh lẽo thê lương.

Song, nếu không vì một ý nghĩ sai lầm của chàng, một số người đã chẳng phải chết. Nghĩ tới đây, chàng sực tỉnh ngộ, quay đầu rảo bước vào đại trướng, một tay nhét lá thư vào vạt áo. Lúc đi ngang qua chậu than sưởi ấm, chàng bỏ những mảnh vụn bách hề trong tay vào lửa, ngọn lửa tức khắc l**m lên rồi hạ thấp, nhấm nuốt những mảnh gỗ, không còn nhìn ra hình người.

Bên ngoài trời đã tảng sáng, trong trướng hãy còn như đêm khuya. Sắc mặt Trọng Húc tái nhợt đáng sợ, khăn vải trước ngực đã đổi mấy lượt, miễn cưỡng coi như cầm được máu, chỉ e là do trong người cũng chẳng còn bao nhiêu máu huyết để mà chảy nữa – Nếu không vì một ý nghĩ sai lầm của chàng, Trọng Húc đã không như vậy.

Thấy chàng đi vào, Trọng Húc hé mắt, khóe miệng khẽ nhếch gần như không nhìn ra.

Giám Minh nửa quỳ trước giường y, nắm ngón tay y, ngón tay thon dài lạnh như sắt đá, trong không gian tối om mơ hồ gợi lên những kí ức không lành khi còn bé.

Như vận hết sức lực khắp người, giọng Trọng Húc nhỏ nhẹ như thì thầm: “Giám Minh, đệ thống khoái hơn chưa?”

Phó soái thiếu niên chấn động, kinh ngạc ngước mắt, đụng phải ánh mắt Trọng Húc nhìn mình. Ánh mắt ấy suy nhược mơ màng, song lại ngậm cười.

Họ đều là những đứa trẻ mất cha, là người cuối cùng còn sót lại của gia tộc. Từ nhỏ đã kết bạn chơi chung, lớn lên thành đồng bào có thể giao phó tính mạng. Cõi đời này chỉ có y không cần mở miệng với chàng.

Hóa ra y hiểu cả.

Phương Giám Minh bỗng lã chã nước mắt, nức nở: “Húc ca…”

“… Sắp làm chủ soái rồi, khó coi quá đấy.” Nói đoạn, Trọng Húc nhắm mắt lại, chừng như buồn ngủ khôn cầm. Y còn sống, chẳng qua cơ thể tiêu hao cực độ này sợ rằng cũng chẳng cầm cự được mấy ngày.

Rốt cuộc, thiếu niên khóc thành tiếng.

Lúc trời sáng bảnh, Thanh Hải công xua toàn bộ đám người y quan trưởng ra khỏi đại trướng, chỉ điểm hai mươi thân vệ luân phiên canh giữ trước cửa trướng, ngoài ra bảo người mang một vạc nước lạnh, nửa cân nam châm và mấy vị thuốc độc hoạt, ngân chu vào.

Qua nửa ngày, y quan trường cần phải vào xem xét thương thế của Húc vương, thân vệ gác cửa lại cản ông ta ở ngoài, nói là Thanh Hải công có lệnh, miễn là người ở trong không ra thì người bên ngoài có là vương phi đích thân tới cũng không được phép cho vào, ai vi phạm lập tức chém, trà thuốc các loại cũng nhất loạt không cần.

Y quan trưởng nổi giận, đương khi ồn ào tranh chấp, màn cửa doanh trướng xoạt một tiếng vén lên, Thanh Hải công đi từ bên trong ra. Y quan trưởng xoay người vừa định phát cáu, nhất thời lại không nói nên lời.

Thiếu niên trước mắt đã trở thành một người khác.

Dung mạo, vóc dáng, ăn bận, nói không đặng không giống chỗ nào, nhưng chỉ trong nửa ngày ngắn ngủi, thần thái sáng láng của thiếu niên đã thu lại mất tăm, trong mắt có thêm khí phách và quyết tâm trầm chắc. Chàng đã trưởng thành thành một nam nhi trẻ tuổi.

Thanh Hải công Phương Giám Minh phái một đội ngũ nhỏ đưa y quan trưởng cùng tám vị y quan từng vào trướng chữa thương cho Húc vương về Sương Hoàn Thành, chọn một y quan trưởng khác tới thay thế chức vị, ba mươi lăm y quan cứu chữa thương binh thì có thể ở lại. Hành động này khiến tất thảy mọi người đều câm nín. Từ Hãn Châu đến Li Lan, tám vạn đại quân vương sư đi đường mất hơn một tháng, hiện giờ kể cả có áo nhẹ ngựa tốt, đi về một chuyến cũng phải chạy hăm lăm, hăm sáu ngày, đợi đến lúc y quan trưởng mới nhậm chức đến, Húc vương chỉ e đã sớm mất rồi. Có điều, nếu chủ soái đã không thể trông coi công việc thì vạn sự dĩ nhiên phải tuân theo lệnh của phó soái, mọi người chỉ đành âm thầm hồ nghi.

Phương Giám Minh bảo A Ma Lam chủ trì hành sự, A Ma Lam im lặng gật đầu, lúc xoay người chuẩn bị đi, không khỏi ngoái lại liếc thêm một lượt. Thanh Hải công trẻ tuổi đang vén màn cửa, bước vào đại trướng. Trên mặt bùn ráo nửa nơi chàng đứng có máu đọng thành một vũng con.

Đội ngũ đón y quan trưởng đi Hãn Châu gia roi ngựa chiến cả một đường, chạy chết hơn bốn mươi con tuấn mã, sau mười chín ngày đã đưa được y quan trưởng mới nhậm chức đến Thông Bình. Con rối bách hề mới vương phi Tử Trâm tự tay làm không thể đưa vào trướng, đành phải giao cho A Ma Lam tạm giữ.

Ngày thứ mười chín ấy, trong doanh trướng Húc vương chong đuốc suốt đêm, hồi đầu còn có tiếng nước chảy và dụng cụ va vào nhau, đến hai ba ngày cuối thì bên trong lại như không có một người sống nào, nếu không phải thỉnh thoảng binh lính thủ vệ nghe thấy một hai tiếng nói mớ sốt cao thì có lẽ đã thật sự cho rằng Húc vương điện hạ và Thanh Hải công đều đã qua đời. Mấy tay ngũ thiên kị nóng ruột muốn xông vào doanh trướng xem xét, A Ma Lam rút đao ngăn lại.

Y quan trưởng mới tới trong quân, hỏi thăm tình huống, có hơi đứng ngồi không yên, bèn quyết định đi chữa trị cho thương binh trước. Vừa định kê đơn thuốc bôi ngoài da khác cho quân sĩ bị lở loét vết thương thì chợt nghe bên ngoài rộ tiếng ồn ào. Vài lính bộ trẻ tuổi xông vào lều, chẳng nói chẳng rằng lôi phắt ông ta đi, kéo thẳng đến trước đại trướng.

Thì ra trong trướng có động tĩnh. Bọn binh sĩ ném đá mài đao và bát cơm xuống, ào đến tụ tập trước cửa đại trướng, mấy ngàn người chen chúc, tất cả cùng nín thở, dỏng tai lắng nghe. Tiếng nước sông Li Lan chảy từ ba bốn dặm cách đó loáng thoáng vọng tới.

Trong trướng, tiếng giáp trụ cài lại với nhau vang lách cách rõ rệt, bội đao keng một tiếng ra khỏi vỏ, phỏng chừng chủ nhân chỉ xem xét một lượt, rồi lại tra về vỏ. Tiếp đó, bước chân người nọ từ trong trướng đi ra, hướng đến màn cửa ngoài trướng. Là bước chân của một người đàn ông trẻ, mặc dù hơi yếu ớt nhưng vẫn nhẹ nhàng vững vàng – chỉ có một. Thanh Hải công không ăn không ngủ trong trướng mười chín ngày, thể lực không được tiếp hồi nên không sung túc cũng chẳng có gì lạ. Còn Húc vương, ai cũng biết, quá nửa là mất rồi.

Trong nháy mắt, nỗi khiếp sợ vốn gắng gượng đè nén trong lồng ng.ực y quan trưởng cuộn trào hết lên. Trước đó nghe Thanh Hải công sai đưa y quan trưởng tiền nhiệm về Hãn Châu, không cho người khác vào trông nom, trong lòng ông ta đã có suy đoán – Chuyến này đi Uyển Châu ắt lành ít dữ nhiều. Nhưng vợ con đều ở Sương Hoàn Thành, ông ta không thể không theo những quân sĩ này lên đường. Nếu Húc vương chết thật, Thanh Hải công sẽ là nhân vật đứng đầu vương sư, ngày sau bình định thiên hạ rồi, sang Chú Liễn đón Sưởng vương về, bản thân thì làm một tướng quân giám quốc, làm ông vua ngầm, đó là chuyện nước chảy thành sông. Húc vương dòng dõi quý tộc thiên hoàng, thi thể tất nhiên không thể không qua mắt y quan trưởng khám nghiệm. Ông ta muốn giữ cái đầu trên cổ thì buộc phải lá mặt lá trái, có điều, xem trận thế thế này, nếu ông ta nói một câu che lương tâm thì sợ là cũng chẳng thể sống sót ra khỏi quân doanh này. Ông ta lắng nghe tiếng bước chân kia dần lại gần, lòng phát run từng chặp.

Xoạt một tiếng, màn cửa đại trướng bị vén lên. Y quan trưởng rùng mình, lông tơ toàn thân như bị kéo dậy, da cũng căng lên.

Bốn phía bùng nổ tiếng gầm rú, vang rền như muốn ném thốc người ta lên trời. Thân đứng ở trung tâm vạn người, y quan trưởng đã chẳng thể phân biệt được sóng âm ấy là tức giận, thất vọng hay vui mừng, ông ta chỉ đờ đẫn nhìn người thanh niên đi ra khỏi đại trướng.

Sắc mặt người thanh niên trắng bệch như không phải người mà là một cái bóng ánh nắng hắt xuống trong thời tiết âm u, gió thổi là tan. Dẫu bàn tay vén màn cửa đang run, lông mày vẫn nhướng lên kiêu ngạo, sắc bén bức người.

Y cất tiếng.

“Ông là y quan?” Giọng nói từng sáng sủa như lưỡi đao, nay khản đặc do nhiều ngày chưa nói.

Y quan trưởng nghe thấy tiếng răng trên răng dưới của mình va vào nhau cầm cập. Ông ta vốn nên thở phào, nhưng chuyện này thật không thể tin nổi, ông ta làm nghề y suốt ba mươi năm qua chưa từng chứng kiến trường hợp nào như thế,. Trọng thương như vậy, sau mười chín ngày, sao còn có thể xuống giường đi lại? Một tay Húc vương vẫn nắm màn cửa, nheo mắt, nhìn chòng chọc ông ta, nhấn từng chữ: “Ông vào xem thử đi.” Vừa nói vừa nghiêng đầu vào trong, ánh mắt lạnh lùng trước sau vẫn không rời khỏi gương mặt y quan trưởng.

Y quan trưởng lật đật đáp “Tuân lệnh” rồi lách mình qua bên cạnh Húc vương, đi vào trong trướng, một bên nghe A Ma Lam bước lên bẩm báo, ngày đó kiểm tra, sau khi trên Thông Bình Thành đốt lửa hiệu, thì ra tiếm vương Chử Phụng Nghi không hề đích thân quay lại cứu viện mà chỉ đi sang hướng đông mấy dặm rồi bảo người nắm giữ soái kỳ, giả làm chủ soái đi vào thành, mình thì lĩnh mấy chục tùy tùng đi thẳng lên hướng bắc. Đi gấp mấy dặm đến bờ nước, tìm được thuyền ngược dòng đi xuống, trốn tới thành Bạch Thủy thì lên bờ, hiện đã lẩn về Thiên Khải.

Y quan trưởng ngoái đầu ngó lại, A Ma Lam đang trình một con rối nho nhỏ lên Húc vương. Húc vương nhận lấy món đồ, ngắm nghía hồi lâu rồi lẳng lặng cởi mảnh giáp ngực xuống, cất vào trong.

Thanh Hải công Phương Giám Minh một mình trông nom Húc vương, không ngủ không nghỉ trọn mười chín ngày, cuối cùng tinh lực đứt đoạn, thân mắc ác tật, không thể cử động, nằm liệt giường ở Thông Bình Thành ba tháng rồi về Hãn Châu nghỉ ngơi, mãi đến tháng Giêng năm sau mới quay lại mặt trận.

Số mệnh cầm cân tiểu ly, một đầu đặt linh hồn nhân loại, đầu còn lại trên bàn cân trong tay nó đặt quả cân gì hay quả cân trí mạng nhất nhất đó sẽ rơi vào đĩa cân, theo đó là lời tuyên án tử vong hạ xuống vào lúc nào, những thứ này đều là cái loài người đui mù không thể biết. Cái gọi là tai họa ngập đầu, trong lòng bàn tay đấng thần linh Khư và Hoang, có lẽ chỉ là một trong ngàn vạn hạt cát vô tình chảy giữa ngón tay.

Một năm sau, buổi tối trước trận hỗn chiến Hồng Dược Nguyên tháng Hai năm Lân Thái thứ ba mươi tư, từ Sương Hoàn truyền tới tin tức, tử sĩ bí đảng của Chử Phụng Nghi lẻn vào thành, hạ độc mạn tính vào nguồn nước, gần một vạn người tử nạn, Tử Trâm và cái thai trong bụng cũng không thể may mắn thoát khỏi. Lúc tin chết truyền đến, chàng đang ở cạnh Chử Trọng Húc, nhìn Trọng Húc há miệng song chẳng cất thành lời, chỉ siết nắm tay lẳng lặng đặt lên giáp ngực, tựa như còn có thể chạm vào một đôi bàn tay thuần khiết khác đã từng vu.ốt ve tấm kim loại lạnh băng này. Dưới giáp ngực cất con rối gỗ bách nhỏ bé. Trọng Húc ngẩng đầu nhìn bầu trời đùn mây nặng trịch, đó là ánh mắt mãnh thú phản công.

“Mi cho rằng như vậy là thắng được ta ư?” Trong màn tuyết nhẹ tựa lông ngỗng trên Hồng Dược Nguyên, Giám Minh như nghe thấy tiếng của Trọng Húc, nhưng chàng ngờ rằng đó chỉ là phỏng đoán nhất thời của chính chàng.

Phản nghịch toàn diệt trong trận hỗn chiến Hồng Dược Nguyên, Trọng Húc dẫn hai mươi vạn quân vương sư trở về Thiên Khải. Từ năm y mười bảy tuổi trốn khỏi đế đô tới nay, thời gian đã trôi qua tám năm ròng.

Đá văng cửa Tử Thần Điện khóa chặt mấy năm trời, bụi bặm sặc người. Hương tàn dính bụi còn sót lại khi xưa như một u hồn không chịu tiêu tan, bị gió dài đêm hè xé nát ném tản. Sâu trong đại điện u ám, châu ngọc hoàng kim tiêu điều trên ngai vàng mơ hồ loe lóe ánh sáng nhạt. Trọng Húc đi lên trước, nhịp bước rất chậm, như thể ngai vàng ấy cách y một con sông hư không, muốn lội nước đi qua, lại sợ bước chân đạp hẫng. Trên con đường này, bao nhiêu người đã chết vì ngăn cản y, bao nhiêu người đã chết vì bảo vệ y, lại có bao nhiêu người tay không tấc sắt, dìu già dắt trẻ, bị loạn quân như trận gió – phản quân, hoặc quân dẹp phản – quét mất tính mạng. Tiếng chân trống rỗng vọng về. Nhân sinh hai mươi lăm năm, mười bảy năm trước là cái bóng ngược phù phiếm lấp loáng ly hợp trên sóng nước, tám năm sau là vết đao nanh ác chồng chéo, từng đao từng đao, chém nát toàn bộ trái tim y. Ngày trở lại Tử Thần Điện, khóe mắt đã khắc hằn nếp nhăn, tóc mai hai mươi lăm tuổi cũng loang lổ sương giá.

Trọng Húc vươn tay, quệt bụi bặm trên ngai vàng lên nhìn ngắm hồi lâu, tiếp đó xoay người, tay áo phất rộng, ngồi xuống. Trên ngai vàng bốc lên bụi mù.

Đoàn người phủ phục bái lạy như thủy triều, từ trên đại điện xuống thềm son trùng trùng, lại kéo dài đến mỗi một ngóc ngách trong cấm thành, tiếng hô vạn tuế vang rền như sấm dậy, chấn động bầu trời đêm đế đô. Kể từ hôm nay, Húc vương Chử Trọng Húc chính thức đăng cơ, xưng Đế Húc, niên hiệu đổi thành Thiên Hưởng.

Tử Trâm thăng làm hoàng hậu. Hôm ấy, trên vị trí thuộc về hoàng hậu bên cạnh ngai vàng, bọc trong huy y thêu phượng chỉ là một bài vị, kim ngọc cẩm tú quây muôn cụm.

Phương Giám Minh đứng ở hàng đầu quần thần, ngẩng lên nhìn vị hoàng đế trẻ.

Dưới làn sóng huyên náo gột rửa, vị hoàng đế trẻ bỗng nảy sinh một nỗi mỏi mệt sâu nặng từ tứ chi bách hài. Y nhìn những người thân cận nhất từng kề vai sát cánh với mình, chẳng ừ chằng hử. Lúc này, cung nhân chăm nom đèn đuốc rốt cuộc cũng chen được qua đám người, từng ngọn từng ngọn châm sáng toàn bộ đèn đóm. Cung thất cao rộng hoa lệ như một viên minh châu toàn thân sáng rỡ, khảm nạm chính giữa cấm thành, trên đỉnh đế đô, mà chẳng một ai hay, tại đây khi trước, vị hoàng đế mới trên ngai vàng từng im lặng thút thít trong bóng tối.

Rất nhanh sau đó, người Chú Liễn đã đưa một công chúa tới, bưng kín mặt mũi dáng người suốt một đường, đến ngự tiền mới vén mười tám lớp sa đen lên, khắp điện rộ tiếng kêu kinh hãi. Vị công chúa kia mặc váy lam thêu khổng tước đỏ vàng, trên cổ rủ xuống mặt dây chuyền hoa văn thần đuôi rồng giao nhân của vương thất Chú Liễn, mắt mày thần thái rõ ràng là Tử Trâm tái sinh. Đó chính là Đề Lan, cháu gái của Tử Trâm. Đế Húc gặp Đề Lan lần đầu, nhất thời không nói nên lời, nhưng cũng chẳng quá sủng ái, đối xử với ả còn lạnh nhạt hơn phi tần bên cạnh, hậu vị cũng một mực giữ nguyên cho Tử Trâm. Chung đường trở về từ Chú Liễn cùng Đề Lan là Sưởng vương năm nay đã hai mươi mốt tuổi, Chử Quý Sưởng.

Mà vết đao trên khóe miệng Phương Giám Minh, kể từ năm Lân Thái thứ hai mươi bảy đến giờ vẫn chưa từng biến mất, khiến gương mặt trước sau đều như cười như không. Chàng thiếu niên hào hứng hớn hở như mặt trời chói lọi tháng Ba năm xưa nay tuy đã đổi về hoa phục vương công, nhưng trên mặt vẫn là thần sắc tỉnh ngộ tĩnh lặng không thể biến mất – “Vừa nhìn đã biết từng giết người.” Đó là nhận xét của Đề Lan. Đế Húc nghe xong chỉ cười cười, bản thân y thì lại chẳng từng.

Sau đó, chuỗi sự kiện mà sử sách gọi là “Tự đoạn Lục Dực” khai màn.

Thanh niên quý tộc nhà Trưng không còn lại bao nhiêu. Trong loạn thế lênh đênh ròng rã tám năm, ai chết đã chết, ai lạc đã lạc, đến mùa xuân năm Thiên Hưởng thứ hai, Đế Húc hạ chỉ lệnh thiên hạ dò la tìm hoàng thân quốc thích, người tới nhận phần lớn chỉ toàn là giả mạo.

Không lâu sau khi ý chỉ dò la tìm hoàng thân được hạ xuống, một cặp thanh niên nam nữ xuất hiện ở nha môn quận Bách Nhạn cách đó ngàn dặm, tự xưng là Yên Lăng đế cơ Chử Lâm Lang và phò mã đô úy Trương Anh Niên. Năm xưa khi bị loạn quân cuốn đi ở cung điện mùa hạ tại đất phong, Yên Lăng đế cơ gần mười ba tuổi, phò mã đô úy hai mươi tuổi. Tám năm sau, trong cung đã chẳng tìm được cung nhân thiếp thân nào từng hầu hạ họ. Hẳn trong tám năm này, đế cơ trưởng thành, lại chịu đủ phong sương khốn khó, tất nhiên không còn dung nhan năm xưa; mà người nhà phò mã đô úy Trương Anh Niên thì gặp phải giặc cướp trên đường xuống nam tị nạn, bị hại toàn bộ. Giữa giống và không giống, không ai dám kết luận, đành phải để Đế Húc đích thân định đoạt.

Đế Húc và Sưởng vương triệu kiến họ ở Kim Thành Cung. Đôi bóng người ấy chậm rãi đi lên chính điện từ con đường lát gạch, bởi chưa xác định thân phận, để tránh vượt quyền, chỉ ăn mặc bình dân, song dáng đi và phong thái thì rất cao nhã. Lúc này đang là cuối xuân đầu hè, thời tiết ấm áp, gió lướt qua dưới mái hiên, thổi chuông gió kêu lanh canh, phảng phất như trông thấy đế cơ còn thơ mới hạ giáng Trương gia, hồi cung lại mặt, bận chín lớp gấm sa của con gái hoàng gia đã xuất giá, xách theo một giỏ mẫu đơn ngọc bản cắt cành, ngọc bội đinh đang bước về phía họ. Khi đó, bao nhiêu người vật đổi thay, khốn cùng gian nguy cũng chưa từng chia tách họ nơi chân trời, trên khuôn trăng trắng nõn của đứa bé ấy cũng hãy còn chưa mang dấu vết phong sương của ngày hôm nay.

Sưởng vương đứng bật dậy, gọi nhũ danh của cô “Mẫu Đơn tỷ tỷ”, chỉ một tiếng, lệ đã rơi đẫm mặt, nhào tới như một đứa trẻ.

Chử Lâm Lang vừa khóc vừa cười, nói: “Tiểu Thất Nhi, đệ đã là người lớn rồi.”

Đế Húc đứng xa xa trên điện cười bảo: “Mẫu Đơn, năm xưa đánh cược chơi cờ còn nợ muội một cây trâm, nhiều năm như vậy, lời chồng thêm lãi, trả sạch một lượt cho muội đây.”

Tin tức đón Yên Lăng đế cơ Chử Lâm Lang trở về được bố cáo thiên hạ vào hôm sau. Tiên đế có năm cô công chúa, đến nay chỉ còn lại mình Lâm Lang sống sót, thế nên Đế Húc cưng chiều cô hết mực, ban Phượng Ngô Cung trong cấm thành làm chỗ ở, bổng lộc một trăm tám mươi vạn thạch, nô bộc năm trăm, ngoài ra còn thường bảo vật quý hiếm khác, đếm không xuể.

Khi đó, Đế Húc đã dần phớt lờ quốc sự. Ban đầu còn ngày ngày lâm triều lấy lệ, về sau dứt khoát đến triều cũng không lên, nhưng cũng chẳng đặc biệt sủng ái một phi tử hay yêu thích một món đồ chơi nào, chúng quan văn muôn khuyên can cũng không có gì để phê phán. Chỉ có các võ quan nắm trọng binh lần lượt chết đi, Thiên Hưởng năm thứ hai, trong Lục Dực Tướng đã có ba người liên tiếp chết vì ngựa lồng, khó sinh, hoạch tội.

Mồng bảy tháng Giêng năm Thiên Hưởng thứ ba, mới tinh mơ Thanh Hải công Phương Giám Minh đã yết kiến Đế Húc, lúc hoạn quan thay mặt vào thông báo, Đế Húc đang ở Dũ An Cung của Thục Dung phi Đề Lan.

“Có chuyện gì cũng chờ trẫm dậy rồi lại nói, mặc kệ hắn muốn… Ngươi vừa nói gì, ai ở bên ngoài?”

“Bẩm bệ hạ, Thanh Hải công thỉnh tấu bệ hạ, đúng là tấu chương của ngài ấy.” Hoạn quan trực đêm hạ giọng điệu the thé xuống, quỳ mọp thấp hơn.

Ngoài Dũ An Cung lặng bặt một chốc.

“Tuyên đệ ấy vào đi.”

Lúc đi vào nội điện Dũ An Cung, Phương Giám Minh có một ảo giác: Trên chiếc giường kiểu Chú Liễn to lớn lộng lẫy kia thực ra không có ai, chỉ có tầng tầng gối đệm và chăn mỏng gấm vóc, nhiều đến trượt xuống khỏi giường.

“Giám Minh, đệ cũng cảm thấy ta sai rồi?” Trong gấm vóc chồng chất, Đế Húc chậm rãi ngồi dậy, thân khoác áo bào trắng trơn.

Phương Giám Minh nhất thời dùng cách xưng hô cũ, đáp: “Húc ca, thời cuộc không yên, một mình huynh ở trong cung, đệ không an tâm.”

Đế Húc nhìn chàng một lúc lâu, khẽ nói: “Thằng bé ngốc, người ta tin nhất chính là đệ. Binh quyền thiên hạ, ngoài bản thân ta ra thì là của đệ, đệ chỉ việc yên lòng làm Thanh Hải công của đệ là được. Đừng quên, nếu đệ chết, ta cũng chẳng sống được lâu.”

Võ tướng thanh niên dưới điện tiến lên đón ánh mắt y, vết đao khóe miệng như cười như không, thần sắc quang đãng khoáng đạt. “Thần chỉ muốn khiến hoàng thượng yên lòng.”

Đế Húc nhắm mắt, tựa như hốt nhiên không tài nào nhìn thẳng được khuôn mặt thân quen tột độ ấy. Một lúc lâu sau, y lẩm bẩm: “Đề Lan, nàng dậy đi.”

Tà áo gấm sau lưng Đế Húc nhúc nhích, tấm lưng trần và mái tóc dài đen nhánh của cô gái thanh nhã mỹ lệ dần lộ ra khỏi chăn. Ả xây lưng ra ngoài màn trướng, bối rối nghi hoặc quay đầu nhìn quân vương của mình.

“Đứng dậy, sang bên kia, đứng dậy.” Đế Húc chỉ vào Phương Giám Minh. Đề Lan do dự, trở mình đứng dậy, áo gấm lướt qua cẳng chân mịn màng nõn nà của nàng, rơi xuống đất.

Tầm mắt Phương Giám Minh không mảy may tránh né.

Đế Húc nói: “Đệ nhìn nàng ta cho kĩ đi. Ta thưởng nàng ta cho đệ, hoặc thưởng nữ tử xinh đẹp hơn nàng ta cũng được – Chỉ cần đệ muốn, chỉ cần thiên hạ có, ta đều cho đệ. Đệ thật sự không lưu luyến ư? Huống hồ đệ mới chỉ hăm tư, còn chưa có con nối dõi.”

Phương Giám Minh mỉm cười: “Nhà họ Phương đời đời làm trọng thần, chưa từng nghe có nam nhi nào được chết yên lành, không phải chết trên sa trường thì cũng chết tại quan trường. Tội gì phải để trẻ con đời sau nối tiếp chịu khổ sở đấu đá giết hại như thế?”

Đế Húc giận quá hóa cười: “Được, được. Trẫm ân chuẩn, khanh muốn đi thì đi đi.”

Hoạn quan đứng trực ngoài cửa thấy Thanh Hải công ra khỏi Dũ An Cung, khom lưng thi lễ. Mãi mà không thấy Thanh Hải công rời đi, trộm ngó, Thanh Hải công trẻ tuổi đang ngửa đầu nhìn lên bầu trời đông mây giăng khi mù khi hửng.

“Tiểu Lạc Tử.”

“Dạ?” Tiểu hoạn quan nhướng hàng mày thưa nhạt đặc thù của thiến hoạn lên.

“Ngươi một lòng trung thành với hoàng thượng, như vậy tốt thật.”

Tiểu Lạc Tử cúi người, cười hì hì đáp: “Đương nhiên rồi ạ, thiến hoạn chúng tôi vào cung làm tôi tớ, không thể mang binh đánh giặc, cũng chẳng thể chia sẻ vì hoàng thượng như trạng nguyên lang, chỉ có thể hết lòng hầu hạ mà thôi.”

“Phải… Không cầm binh quyền, không làm triều chính, coi như không mưu đồ quyền vị nhất rồi.” Thanh Hải công khe khẽ hé cười, sắc mặt chừng rất vui vẻ.

Sau đó Phương Giám Minh về Lưu Thương một chuyến, xử lí điền sản nhà cửa, quay trở lại Thiên Khải rồi không hề tới yết kiến Đế Húc nữa.

Mồng bốn tháng Hai nhuận năm Thiên Hưởng thứ ba, Thanh Hải công Phương Giám Minh đau tim cấp tính từ trần, ban quốc tính, nhu đức an huề viết Tĩnh, cương khắc vi phạt viết Dực, truy phong thụy hiệu Tĩnh Dực vương.

Lại qua nửa tháng, vào ngày âm u lạnh lẽo nhất mùa đông, nội vụ giám tới báo, Phương Chư đã tịnh thân vào cung. Đế Húc lên bộ liễn đi gặp chàng, trong cung viện rộng lớn chỉ có gió bấc từng trận cuốn bay vụn tuyết.

Trong tàm phòng (*) mờ tối, chẳng biết đốt bao nhiêu chậu than mà cửa phòng đẩy ra, chỉ cảm thấy hơi nóng hầm hập phả vào mặt. Đế Húc lập tức vừa cởi lớp áo lông giao cho nội thị tùy thân ôm, vừa đưa mắt nhìn quanh. Trong phòng chỉ có một chiếc sập lùn, không có vật gì khác. Ánh đỏ mông lung của lửa than rọi lên một bàn tay buông thõng trên giường, ánh ra màu xanh chết chóc. Đế Húc rảo chân lên trước, vén phắt màn giường ra, nhất thời lùi xuống một bước. Thái giám quản sự vội dấn nửa bước tới sát bên cạnh, trông sắc mặt y lại không dám mở miệng bừa.

(*) Vốn là danh từ chỉ phòng ấm nuôi tằm, ở đây chỉ nơi thực hiện thiến hoạn, người sau khi bị thiến rất dễ trúng gió, cần vào buồng kín ấm áp, không ra gió không gặp nắng một trăm ngày vết thương mới khép lại được, bởi vậy nên gọi là tàm phòng.

Nhất thời, trong phòng lặng ngắt, chỉ nghe tiếng lửa cháy lách tách.

Thái giám quản sự suýt nữa cho rằng Đế Húc sẽ không nói thêm câu gì.

Người máu me bừa bộn trên sập lùn nhíu chặt mày, khẽ cựa mình, nhưng vì tác dụng của thuốc nên chưa thể tỉnh lại, chỉ có vết đao nơi khóe miệng vẫn bướng bỉnh như cười như không. Tấm đệm vải bông thuần trắng dưới thân bị trùng trùng máu huyết thấm ướt đông lại, cơ hồ biến thành màu đỏ tối. Máu tươi chảy xuống đệm không loang thấm cũng chẳng đông lại, đỏ thẫm chói mắt đọng thành vũng ở đó.

“Giám Minh… Đệ, tội gì?” Giọng nhỏ đến gần như hư vô, luẩn quẩn thở than.

Thái giám quản sự len lén ngó qua, trong con ngươi Đế Húc như có ánh sáng nứt tách hiển lộ, lưu chuyển muốn ra. Ánh mắt ấy khiến người ta rùng mình nhớ đến Húc vương thiếu niên giương cung ngược gió trên Thừa Tắc Môn mười một năm trước, nhưng sắc mặt lại yên ắng tao nhã như một bức tượng.

Một khắc nữa trôi qua, Đế Húc quay đầu trở ra, nói với đám người hầu hạ sau lưng: “Bãi giá, hồi cung thôi.” Y của thời khắc này như mang trên mặt thần sắc lên triều mấy năm gần đây, hờ hững dõi xuống, không nhìn cái gì, cũng chẳng để mắt cái gì. Ánh sáng trong con ngươi một chớp mắt mới rồi đã hóa thành tro – thậm chí là trước nay chưa từng cháy.

Sau đó nổi lên một truyền thuyết, trong cung có một nhánh Vũ Lâm áo đen, chuyên làm chuyện bí mật thay hoàng thượng, chấp chưởng nhánh Vũ Lâm áo đen này là một hoạn quan. Trong Cận Kỳ Doanh và các đại doanh khác cũng có thế lực của Vũ Lâm áo đen. Cố Đại Thành trong Lục Dực Tướng dung túng cho bộ hạ cướp bóc, bị hiệp khách đánh chết, nhưng trong dân gian thì lại có lời đồn rằng người giết Cố Đại Thành là nhánh Vũ Lâm áo đen kia.

Ngày ba mươi tháng Mười năm Thiên Hưởng thứ ba, Yên Lăng đế cơ mưu toan hạ độc hại Đế Húc không thành, bỏ trốn. Vũ Lâm quân đuổi theo đến chòi canh ngoài thành, đế cơ trúng hai mũi tên, la to: “Ta vốn là thứ nữ Phần Dương quận vương, tiếm đế giết cha mẹ anh em ta, sống không thể tự tay đâm tiếm đế, tình nguyện không được siêu sinh, vĩnh viễn làm ác quỷ, dây dưa đời đời!” Đoạn tự rút mũi tên xuyên ngực ra, ngửa mặt gieo mình từ chòi canh năm trượng xuống, ngã chết trên đường Vĩnh Lạc phồn hoa. Phần Dương quận vương Nhiếp Kính Vấn theo Chử Phụng Nghi nổi loạn năm xưa là em trai của Nhiếp phi thời tiên đế, cậu của Yên Lăng đế cơ và Sưởng vương, con gái lão và Yên Lăng đế cơ là chị em họ ngoại, tướng mạo giống nhau cũng chẳng quá lạ kỳ. Mà phò mã đô úy Trương Anh Niên thì tham phú quý, giúp cô ả này giả mạo đế cơ, ngày kế thẩm vấn kết thúc, lập tức bị ngũ mã phân thây trước công chúng. Dân gian lại đồn rằng Yên Lăng đế cơ kia là thật, vì muốn trợ giúp Sưởng vương soán vị nên đích thân hạ độc giết Đế Húc, nhưng để xảy ra sơ suất, vì mong bảo toàn Sưởng vương mà không tiếc bịa xằng mình là thứ nữ Phần Dương quận vương, nhảy lầu tự sát. Người đời nhiều lúc chỉ coi lời đồn ấy là chuyện tiếu lâm, Sưởng vương phóng túng chí đoản, dẫu ở dân gian cũng nổi danh, ai có bản lĩnh trát thứ bùn loãng ấy lên tường chứ.

Ngày mười một tháng Tư năm Thiên Hưởng thứ tư, người cuối cùng sống sót trong Lục Dực Tướng Tô Minh đi sứ Thương Châu, còn chưa ra khỏi biên cương đã gặp phải bão cát, mất tích trong sa mạc giữa Cư Từ và Mục Lan. Ngày tin tức truyền tới, mười lăm tháng Sáu, chính là ngày các nơi cống ngọc trai mới.

Đế Húc đặt chậu gừa trên tay xuống, cau mày nhìn hồi lâu. Cành lá cây gừa đã bị ngắt cho không còn ra hình thù gì, bèn tiện tay nhấc ấm trà mới pha trên bàn lên, nhắm chuẩn vào rễ cây trong chậu giội xuống, vừa giội vừa hỏi: “Hôm nay là tháng năm nào?”

Nội thị kính cẩn thưa: “Bẩm bệ hạ, hôm nay là mười lăm tháng Sáu, buổi sáng bệ hạ vừa xem ngọc cống năm nay đấy ạ.”

“Ta hỏi ngươi, hôm nay là năm nào.”

“… Thiên Hưởng… à… năm thứ mười bốn ạ.” Nội thị nghĩ thầm trong bụng, hình như hoàng thượng hồ đồ thật rồi.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 6: Cỏ xanh sương phủ trắng II



Gió mùa đông nam từ ngoài biển thổi vào mang theo hơi ẩm oi bức, vượt ngàn dặm từ nam lên bắc, lúc đến được đế đô thì đã ráo hoảnh, phả vào mặt ran rát, cũng chẳng đem lại được chút mưa dông mát mẻ nào. Dân kinh kỳ gọi loại gió này là gió phơn. Cùng với gió phơn, mùa hè khắc nghiệt của Thiên Khải bắt đầu.

Nhóm Hải Thị hướng nam vượt núi dãy Minh Lạc, còn chưa kịp thấy đường nét thành quách Thiên Khải trong khói bụi, cửa đèo Kỳ Việt đã cuồn cuộn nổi gió.

“Thời tiết năm nay lạ thật, trong gió này thế mà lại có hơi nước.” Hải Thị không khỏi hít sâu một hơi, đồng thời kiềm chế vật cưỡi dưới thân đang nhảy chồm muốn hí.

Phù Nghĩa cười bảo: “Nào có, chỉ là gió phơn bình thường thôi, năm nay có khi còn hanh hơn năm trước ấy chứ.”

“Nhưng mà…” Hải Thị tỏ vẻ nghi ngờ. Gió kia tuy không thể nói là mát mẻ nhưng quả thật có ngậm hơi nước, thổi hây hẩy lên làn da tiếp xúc với gió cát lâu dài của họ, cảm giác lỗ chân lông khắp người đều nở ra đôm đốp.

“Bọn ta là người Hoàng Tuyền Quan, dạng gió phơn nào ở Đông Lục đối với bọn ta cũng đều ẩm ướt dễ chịu hết. Phương đại nhân xuất thân đế đô nhỉ? Vậy thì đỡ hơn chút. Binh sĩ các quận ven biển vừa tới trú đóng đã hết chảy máu cam lại tới da nứt nẻ, thế nào cũng phải qua nửa năm một năm mới khá lên được.” Thang Càn Tự quay đầu lại, nhướng mày.

“Quê cha mạt tướng ở ven biển quận Lâm Kiệt, có điều mạt tướng lớn lên ở đế đô.” Hải Thị kính cẩn đáp.

Trong lúc nói chuyện đã đi qua cửa đèo, đến con đường đổ dốc, ngựa nhẹ nhàng chạy bước nhỏ, Hải Thị cẩn thận điều khiển ngựa, khẽ thốt một tiếng thán phục. Cửa đèo cách Thừa Tắc Môn còn hai mươi dặm đường, phóng mắt nhìn xuống đã có thể thấy một dòng nhân mã và cờ xí lớn đang chậm rãi vòng qua tường quách tập kết ngoài Thừa Tắc Môn, đó chính là thao trường tam đại doanh duyệt binh trước khi thay quân xuất phát vào mùa hè năm ngoái. Đội quân kia cờ đỏ giáp đỏ, huấn luyện nghiêm chỉnh, mỗi hai ngàn năm trăm người đến nơi lập tức xếp thành trận vuông ngang dọc mỗi chiều năm mươi người, mỗi trận cách nhau ba trượng, chỉ huy bằng cờ lệnh, hàng ngũ chỉnh tề, đứng ngồi xoay hướng rất có trật tự. Ngay từ đầu đã có sẵn mười mấy trận, nhân mã vẫn ùn ùn không dứt từ phía nam vòng qua thành tới, đồ sộ hùng tráng.

Bên cạnh cờ rồng và cờ Cận Kỳ Doanh, trên thành còn treo tinh kỳ đỏ thắm, đó là cờ của Thành Thành Doanh trú đóng Quân Quan.

“Bị đám khỉ bên Quân Quan giành trước rồi.” Thang Càn Tự lắc đầu, nói với chư tham tướng sau lưng.” Chúng ta tạm dừng chỉnh đốn đội hình cho gọn gàng đã, chớ để bọn khỉ kia chê cười.”

Hải Thị quay lại nhìn. Gió phơn vừa qua, mắt thấy thảm xanh mướt trải rộng khắp núi đã khô thành màu vàng kim xán lạn hoang liêu, trên đường núi quanh co, đội ngũ áo giáp xanh chàm như một dòng sông chảy xiết trong đó. Lệnh cho ti kỳ truyền lời xuống, sau lưng tức khắc trào lên làn sóng hô ứng hùng hồn, càng truyền càng xa, vang vọng ra hẳn dăm ba dặm bên ngoài. Cứ đến mùa hè hằng năm, trên quan lại thay quân, lính cũ rút từ tam đại doanh về đều cần quay lại đế đô duyệt binh, theo lệ tập kết ở thao trường Thừa Tắc Môn nghe tuyên chiếu, chủ soái các doanh cũng cần vào triều yết kiến báo cáo. Đằng sau họ hiện giờ cũng dẫn bốn vạn nhân mã.

Dưới núi bốc khói, một người cưỡi ngựa hiên ngang đi lên, dần trông rõ được mặt mũi dáng hình. Hải Thị phóng ngựa ra khỏi hàng ngũ, vẫy tay gọi: “Trạc Anh, Trạc Anh!”

Tiếng hô vừa dứt, Trạc Anh đã tới bên cạnh, bận y phục gọn nhẹ màu huyền, không đội mão võ, đeo trường cung, hẳn là nghe nói binh mã tam doanh thay quân trở về đã đến Thừa Tắc Môn nên cưỡi ngựa từ thao trường cấm quân chạy thẳng tới cửa đèo. Mắt mày sâu đậm tuấn tú của Trạc Anh ngập tràn nét cười, nhìn nàng một lát, nói: “Toi rồi, người chẳng cao lên tí nào cả, còn bị gió thổi cho cả mặt toàn nếp nhăn thế này.”

Đường nét tướng mạo sâu hút cao thẳng, nếu là tóc vàng mắt xanh thì rành rành là dáng dấp tộc Man, nhưng trời sinh mắt mày cậu đen láy, sống lâu ở Đông Lục, người ta chỉ nói là một chàng trai đặc biệt khôi ngô mà thôi. Hải Thị nhất thời nói không nên lời, chỉ quan sát Trạc Anh một lượt từ trên xuống dưới, bỗng ngạc nhiên hỏi: “Huynh từ thiên kị lên vạn kị lúc nào thế?”, còn trỏ vào lệnh bài đeo bên hông Trạc Anh, hoa văn sô ngu (*) nạm vàng, tua tím, rõ ràng là phù sức của võ quan vạn kị. Phẩm vị võ quan Vũ Lâm Cấm Vệ vốn cao hơn hai bậc so với võ quan phổ thông ngang hàng, vạn kị trong Vũ Lâm tương đương chính tam vị, chỉ hạn chế trong chủ soái Vũ Lâm và bốn vạn kị trưởng, cũng cùng cấp bậc với chủ soái Hoàng Tuyền Doanh Thang Càn Tự.

(*) Một loại thần thú trong thần thoại cổ Trung Quốc, được miêu tả là thân hổ đầu nghê, lông trắng vằn đen, đuôi rất dài.

Trạc Anh chỉ cười không đáp, cởi móc cài trên vai trái ra, gỡ một cái nậm hình trăng non dưới sườn xuống đưa qua. Nậm rượu mỏng vừa khéo sát thân, náu mình dưới sườn, nếu phủ thêm áo giáp áo khoác thì chẳng tìm được dấu vết nào. Hải Thị nhận lấy uống một hớp, sảng khoái quệt miệng, cười khen: “Đúng là túy cuồng, may có cái nậm rượu hay ho không lộ dấu tích này, đi đâu cũng có rượu ngon uống.”

“Nghĩa phụ giữ lại một vò Tam Hoa Nhưỡng, muội không trở lại cha không chịu mở, cuối cùng cũng ngóng được tới ngày hôm nay.” Con ngươi đen láy ánh kim của Trạc Anh ấm áp nhìn Hải Thị.

Hải Thị buông một tiếng thở dài khẽ đến không nghe thấy. Từ đầu đến cuối, cái người vĩnh viễn như cười như không ấy chỉ coi nàng là một đứa con trai. Nghĩ vậy, trên mặt bất giác lộ vẻ hiu quạnh.

Trạc Anh thúc ngựa xáp lại, thò tay vò đầu nàng. “Ta nhờ Chá Lựu bên Chức Tạo Phường may một bộ thường phục mới cho muội, cất trên giường muội rồi, về mặc thử xem.”

“Muội không phải trẻ con.” Hải Thị cười gượng, cụp rèm mi xuống, thần sắc rầu rầu.

Trạc Anh cười: “Tối nay ta và nghĩa phụ đều phải luân phiên trực ở Kim Thành Cung không thoát thân được, muội về Tễ Phong Quán nghỉ ngơi một đêm trước, mai tẩy trần bù cho muội sau.” Dứt lời liền đánh ngựa đi xuống núi.

Hải Thị buồn bã nhìn bóng dáng Trạc Anh biến mất trong khói cỏ, bỗng cảm nhận có điều khác thường, đưa mắt đảo qua, thấy Phù Nghĩa đang lộn ngược về, ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào Trạc Anh thoăn thoắt lướt qua bên cạnh y. Nàng biết ánh mắt đó, hệt như con cá chép đỏ quanh đình thủy tạ ở Tễ Phong Quán, nằm dưới lá sen, theo dõi chuồn chuồn đậu trên cạn.

Hải Thị thu tầm mắt, che giấu vẻ hoảng sợ – Trên đường núi Bì La, Phù Nghĩa cũng từng trông thấy Tả Bồ Đôn vương mới của Hộc Khố. Ánh mắt chằm chặp đó của Phù Nghĩa cũng không dấu vết chuyển nhạt, gương mặt đen thui một màu, không nhìn ra biểu cảm.

Hoàng Tuyền Doanh đóng quân bên ngoài Thừa Tắc Môn không đến nửa giờ, Vũ Uy Doanh cũng từ Mạc Hột Quan quay về, tam đại doanh tụ họp dưới thành nghe tuyên chiếu. Như thường lệ, trong bốn vạn nhân mã mỗi doanh cắt cử một tham tướng và hai vạn tinh binh ở lại bổ sung cho Cận Kỳ Doanh, còn lại cởi giáp về quê. Tham tướng Hoàng Tuyền sáp nhập vào Cận Kỳ Doanh là tham tướng Phù Nghĩa tuổi gần ngũ tuần.

Trong cung truyền lời, sáng mai chủ tướng tam đại doanh vào triều báo cáo, ngoài ra tuyên tham tướng Phương Hải Thị của Hoàng Tuyền Doanh vào yết kiến cùng.

Ban đêm, Hải Thị xin nghỉ trở về Tễ Phong Quán.

Thiên Hưởng năm thứ ba, Đế Húc ban Chiêu Minh Cung, nơi ở của người chú thứ ba của tiên đế Đế Húc, cho tổng quản Phượng Đình nội cung Phương Chư cư trú. Chiêu Minh Cung bỏ tên, được đặt lại thành Tễ Phong Quán, biểu thị khác với hoàng tộc, con nuôi nô bộc của Phương Chư cũng được cho phép sống ở đây, còn được ban đặc quyền cưỡi ngựa trong cung.

Trước loạn Nghi vương, trong cung không có người tên Phương Chư này, trong tám năm chiến loạn cũng chưa từng nghe nói có chiến công gì. Phương Chư làm nội thị, lai lịch không rõ, quyền thế hiển hách từ đâu mà ra? Có một thời dân gian triều đình từng sôi nổi chỉ trích. Đế Húc hời hợt với triều chính dù sao cũng phải có một nguyên do. Quân vương minh mẫn cơ trí nhường ấy, liên tục chinh chiến suốt tám năm chưa từng bại trận, xử lí chính vụ đâu ra đó, dù là tình cảm sâu đậm đối với vị hoàng hậu không thể sống đến ngày khôi phục đế đô kia cũng vô cùng kiên trinh cao cả, sao lại nguội lòng nản chí như thế này? Vũ Lâm áo đen đuổi đánh chư công thần phục quốc tuy hành sự bí mật song cũng dần để lộ manh mối, những võ giả không ra ngoài ánh sáng này chẳng qua chỉ là con rối, dây múa rối chằng chịt như mạng nhện, tất thảy đều buộc vào tay một tên hoạn quan – đầu sóng oán giận nhất thời chuyển hướng sang tổng quản Phượng Đình Phương Chư. Phương Chư cũng chẳng tranh với đời, đủ loại tấu chương hết lòng can gián từ khắp nơi bay tới như tuyết rơi, hoàng đế lười xem, bèn gọi Phương Chư tới đọc cho nghe. Chàng cũng bèn ngồi dưới sập ngự, mặt không lúng túng đọc thành tiếng câu chữ hầu thiến yêu nghiệt, tuyệt không kiêng kị giấu giếm. Có lời đồn rằng Phương Chư ngoại hình xấu xí, lòng dạ độc ác, cũng có người nói dung mạo chàng đẹp như con gái, lấy sắc mê chủ. Nhưng mười bốn năm qua chưa hề nghe nói Phương Chư ra khỏi nội cung một bước, ở trong cung, ngoài hầu hạ Đế Húc ra thì cũng chẳng mấy đi lại. Bất kể triều thần hay võ tướng, người ngoài cung lại càng chẳng ai biết mặt mũi tổng quản Phượng Đình ra sao.

Tễ Phong Quán nơi Phương Chư ở cũng đã thành sào huyệt nhánh Vũ Lâm áo đen trong lời đồn. Xe ngựa ra vào Tễ Phong Quán không qua kiểm tra, ban đêm cửa cấm hoàng cung đóng lại rồi, chỉ có Thùy Hoa Môn bên ngoài Tễ Phong Quán là có thể mở ra từ bên trong bất cứ lúc nào. Ngõ hẻm thế gian xì xào rằng Phương Chư đã không phải một người mà là một yêu quái sống bám bên người Đế Húc.

Lính canh cửa cấm nhận lấy môn sắc Hải Thị chìa ra, thấy trên môn sắc khắc dấu một chữ “Tễ”, mặt nhất thời lộ vẻ cả kinh, dùng cả hai tay trả lại.

Hải Thị lạnh lùng nhìn xuống tên lính canh, không nói gì, chỉ giục ngựa phóng về phía Tễ Phong Quán, lính canh cũng chẳng dám ho he.

Dẫu có đặc quyền, người của Tễ Phong Quán cũng ít khi cưỡi ngựa ra vào cấm thành, sử dụng ân điển tự mở Thùy Hoa Môn giữa đêm lại càng hiếm hoi. Hải Thị ở Tễ Phong Quán mười năm, đa phần là nghĩa phụ và Trạc Anh mang nàng trèo tường ra vào cấm thành, nhưng nàng cũng biết rõ người của Tễ Phong Quán xưa nay có quyền vào cung không xuống ngựa.

Phòng nàng vẫn được bày biện như xưa, không khác gì của một thiếu niên quý tộc, có điều, trên chiếc giường gỗ lê hoa vàng kia đặt ngay ngắn một bọc vải lụa xanh. Hải Thị cởi bọc, trải quần áo bên trong ra, nhìn rồi lại nhíu mày, thần sắc lấy làm khó xử. Xiêm áo rất đẹp, lụa giao xanh lục mát lạnh trơn nhẵn như dệt nên từ sóng biếc, bên trên điểm xuyết những chấm hải âu trắng, viền cổ áo và quanh eo là hoa văn tảo trắng phức tạp, hết thảy đều được thêu tay, hình dạng cực kì tinh xảo. Trang phục mùa hè vốn không chú trọng thêu thùa, đa phần dùng kĩ thuật nhuộm vải in hoa, chỉ sợ hình thêu dày cộm, khiến người mặc nóng bí khó chịu, quần áo rủ nặng. Nếu đường chỉ mỏng manh, tay và vạt áo cố nhiên bay bướm, song lại làm mất cái đẹp gồ nổi tinh tế của nghệ thuật thêu. Công phu thêu thùa của xiêm áo này lại chẳng tầm thường, đường chỉ tinh mịn, không hề xếp chồng chai cứng, khéo tựa Chức Nữ, hơn nữa còn chọn tơ tằm nguyên sắc mới ươm để thêu nên sáng bóng rực rỡ, tất nhiên vẫn có cảm giác gồ nổi, nhưng chạm vào lại như tuôn trào gió mát, không nhám không ráp. Hoan hô Chá Lựu cô nương, tay nghề may xiêm áo này dẫu ở Chức Tạo Phường trong cung cũng là bậc nhất, chẳng biết người thật thanh tú xinh đẹp đến nhường nào.

Hải Thị gói ghém bộ xiêm y kia thật kĩ, cứ cảm thấy có gì đó rất không ổn, cuối cùng ủ rũ ngồi xuống giường. Cải nam trang từ năm sáu tuổi, không thể để người khác hầu hạ sát mình nên chẳng biết phải mặc áo chẽn váy lót ra sao, hồi tưởng dáng dấp cung nhân ăn mặc mãi mới miễn cưỡng mặc xong, dang hai tay ra xem, lại vội vã đứng dậy, chạy đến trước bàn rót một chén trà mới, ngẫm nghĩ một hồi, đổ chén trà vào đĩa trà quan diêu (*), cúi mặt soi bóng – trong phòng nàng chưa bao giờ có gương. Soi xong lại thở dài, mặc được áo chẽn váy lót rồi, cũng không thể tiếp tục để kiểu tóc vấn trong khăn chít đầu của đàn ông nữa. Hải Thị dứt khoát tháo tung búi tóc, hai tay qua quýt chải mái tóc dài như thác đổ.

(*) Một loại đồ sứ dùng để đun nấu.

Ngoài cửa vang tiếng gõ nhè nhẹ, ban nãy Hải Thị đã cho tất cả tôi tớ lui đi, nghĩ bụng chắc là Trạc Anh tranh thủ thời gian trở về, mặt tức thì hớn hở, vén đại vạt váy quét đất lên chạy ra mở cửa.

Phòng của Hải Thị đối diện hồ Sương Bình bên trong quán, nửa mặt hồ nở rộ hoa sen. Cánh cửa mở ra, gió mát ập vào dập tắt ngọn nến. Ánh trăng cũng hắt vào như sữa bạc, tắm đẫm người ta từ đỉnh đầu đến gót chân. Hải Thị cảm thấy khoảnh khắc này, chung quanh lặng ngắt, tiếng dế râm ran như nhất thời bặt tăm.

Nụ cười cứng lại trên gương mặt màu lúa mạch của nàng, gió thổi phồng tay áo, tóc xanh đầy đầu không búi không buộc, chỉ chực tung bay.

Đoán chừng người ngoài cửa cũng hơi hơi kinh ngạc, sắc mặt chấn động, vết đao nơi khóe miệng mím thành một đường thẳng tắp.

Lối ăn mặc nam trang thường nhật đã che đi hơn nửa sắc đẹp của Hải Thị, thấy nàng đổi về trang phục thiếu nữ dậy thì, dẫu vạt xiêu đai vẹo, thần sắc ngạc nhiên nghi ngờ thì nét xinh tươi duyên dáng chẳng tự hay biết ấy vẫn choáng ngợp linh hồn. Thuở thiếu thời, có lẽ con ngươi chính chàng cũng trong vắt, giữa đen láy sáng sủa lấp lánh ánh thép lam như vậy, phải không? “Nghĩa phụ…” Hải Thị khẽ gọi.

Trong mắt Phương Chư, một luồng sáng tối xuống, tối đến hỗn độn vô quang, như bóng đen hun hút đậm đặc của thời hồng hoang ban sơ xé không ra chém không nét. Ở những chỗ khác, tuế nguyệt đều rộng lượng với chàng, đàn ông ba mươi sáu tuổi, dung mạo vóc dáng đều chỉ như mới hăm bảy hăm tám, duy chỉ có đôi mắt là không thể trở về nữa, nhưng cũng chẳng hề vẩn đục, chỉ là ánh mắt luôn cách một lớp gì đó, khó có thể lấy lại vẻ trong sáng chân thực khi xưa. Tướng quân thiếu niên tuấn tú năm đó chỉ như một giấc mộng trăm năm, là người khác rồi. Tiếng gọi của Hải Thị đã đánh thức chàng khỏi cơn ngẩn ngơ.

“Rốt cuộc con cũng trưởng thành.” Chàng thở dài, thấp giọng cười nói, “Biết mình phải xuất giá, kể ra tốt hơn hẳn suốt ngày đòi đánh đòi giết.”

Hải Thị chăm chú nhìn chàng, mặt hiện vẻ ngờ vực như ngôn ngữ chàng đang dùng là tiếng dị quốc, nàng nghe không hiểu.

“Trong lòng nếu có ai thì tìm một kẽ hở trừ bỏ quân tịch, đổi về hình dáng con gái, quay lại Tễ Phong Quán ở thêm nửa năm một năm, nghĩa phụ sẽ thay con đi thương lượng.” Chàng mỉm cười. Chàng cũng biết mình nhẫn tâm, nhìn thần sắc trên khuôn mặt xinh đẹp thuần khiết kia dần bi thiết, chàng chỉ mỉm cười nói tiếp, như khi chinh chiến thời thiếu niên, đâm đao vào ngực địch trên sa trường, sâu một tấc, sâu thêm một tấc, dưới tay cảm nhận được rõ ràng xương thịt nứt gãy, rút đao ra, máu huyết lập tức phun trào như muốn bắn tung, chàng lại chỉ mỉm cười cất lời: “Con em vương công cũng bắt hết lại.”

Giữa chân mày Hải Thị như có một cái khóa không mở ra được, bờ môi ngậm một nụ cười thê lương, nói “Ngài biết rõ, cần gì phải vậy.” rồi chợt dừng lại như bị một câu nói kẹt cứng trong họng.

“Con ngủ đi, ta quay về ngự tiền đây, lát nữa không thấy người lại nổi điên lên mất.” Chàng bỏ lại câu này rồi tiêu sái xoay người rời đi, bước chân không gấp nhưng rất dài.

Hải Thị đột nhiên lấy hai tay bưng mặt, lúc ngẩng mặt trở lại, dưới ngấn lệ ngang dọc trong lòng bàn tay lác đác lấp lánh bạch quang mờ, hai chữ vụn vỡ, Lang Hoàn.

Ngày kế, Hải Thị theo chủ soái Thang Càn Tự cùng yết kiến Đế Húc. Vì Hải Thị bắn chết Tả Bồ Đôn vương nên được thưởng một trăm lượng tiền, một cây cung khảm sừng cốt sắt khắc hoa văn dây mây thượng hạng, một trăm mũi tên đuôi chim cắt trắng. Hải Thị tạ ơn, đang định lui ra thì trên điện bỗng cất tiếng.

“Khoan đã, ngẩng đầu lên.” Giọng nói vốn được trời ưu ái mát lạnh sáng sủa không thua gì thiếu niên, nhưng lại như dây đàn nhiều năm không căng lại, mang theo những âm rung uể oải và nồng nặc thiếu kiên nhẫn. Đó là giọng của Đế Húc.

Hải Thị lưỡng lự ngẩng mặt lên. Ở nơi cao nhất sâu nhất Tử Thần Điện quây rèm châu nom như bàn thờ thần, đó là ngai vàng. Ngai vàng quá sâu, ánh nắng muôn đời chẳng thể chiếu tới. Người trên ngai cũng muôn đời ém trong bóng râm, chỉ có một bó gấm vóc không có mặt mũi hình dáng mà thôi.

Nàng lại nhận ra bóng hình người áo xanh trong màn xa bên ngai vàng. Người ấy vốn nhất quyết không theo hầu vào triều, cũng may mà những năm nay chàng cẩn thận dè dặt, hầu hạ trong Tễ Phong Quán đều là người tin được, Vũ Lâm áo đen tai mắt khắp thiên hạ, người ở ngự tiền càng không dám lỡ lời với bên ngoài nửa câu. Hôm nay, hơn trăm quan viên văn võ dưới điện, không một ai biết diện mạo của chàng – dẫu có biết, chàng cũng luôn là cái bóng mờ hầu hạ bên ngai vàng, ngẩng đầu nhìn lên, chỉ có một bóng dáng xám xanh.

Nhưng nàng nhận ra là chàng, chẳng cần lại gần, cũng chẳng cần chứng thực, cứ thế chém đinh chặt sắt biết vậy thôi. Người mình bận lòng, không cần thấy mặt mũi ngũ quan, chỉ đứng nhìn chàng giơ tay nhấc chân từ xa, dù cho ở trong ngàn vạn người cũng có thể nhận ra chàng được.

Người trên ngai vàng nói với người bên cạnh: “Đây chính là bé trai được giao nhân cứu năm đó?”

Phương Chư thấp giọng đáp: “Vâng.”

“Thằng bé này anh tuấn thật.” Người trên ngai vàng nhếch một bên khóe miệng, giọng nhỏ như thầm thì, tựa như không định cho bất kì ai nghe thấy.

Nội thị hầu hạ bên cạnh cũng kính cẩn cúi đầu như chưa từng nghe thấy, tay áo rộng dài của trang phục hoạn quan màu xanh rủ xuống nặng trĩu, không một gợn sóng.

Trong chính điện tĩnh lặng bỗng vang một tiếng “xoảng” khe khẽ, bách quan vững vàng ngồi yên, mắt cũng bình tĩnh trôi về phía phát ra âm thanh. Sưởng vương mặt mày ủ ê mò trong ngực ra một nắm bông tơ vàng trắng dính bết ướt rượt, cầm trong tay không biết xử trí ra sao, còn có vỏ trứng vỡ và lòng trắng trứng chảy xuống. Tiểu hoàng môn hầu một bên vội tiến lên nhận lấy, một người khác dâng khăn tay ướt lên, bách quan nhìn trong mắt đều cười thầm. Sưởng vương thích nhất lấy chọi ưng đùa khỉ làm thú vui, thường vời nghệ nhân giang hồ vào phủ, nuôi liền mấy năm, sáng sớm, chim muông trong các biệt viện vương phủ bay đi, đàn sáo tạp kĩ cùng luyện tập, còn náo nhiệt hơn giáo phường trong thành đến ba phần. Gần đây có lời đồn Sưởng vương lấy được một phương pháp thuần dưỡng chim cắt xanh, nói là người chủ phải đích thân ấp nở trứng chim cắt, chim non ấp ra sẽ coi người chủ như mẹ, thấu hiểu ý người, Sưởng vương nghe xong cả mừng, bèn cho là thật lấy trứng tự ấp, bất kể là nghe hát, đạp thanh hay đi ngủ, hằng ngày trong ngực đều cất một quả trứng chim cắt, đến sủng cơ cũng không cho gần người, bảo là sợ đè bẹp, thành trò cười truyền khắp kinh kỳ.

Sưởng vương giữ một chức quan suông trấn thủ ngoại ô, theo lẽ thường phải tham gia triều nghị, trong phủ Sưởng vương sênh ca đến tận nửa đêm, sáng sớm lười dậy, bình thường ba ngày có đến hai tìm cớ trúng gió cảm lạnh không lên triều, hôm nay ắt là ngủ gật trên triều, không cẩn thận đè vỡ quả trứng chim cắt cất trong ngực hắn.

Hải Thị quỳ sau lưng chủ soái Thang Càn Tự, liếc mắt ngó qua, không khỏi lặng lẽ nở nụ cười, trong oai hùng mơ hồ lấp ló nét yêu kiều thiếu nữ.

Sưởng vương cười ngượng ngùng nhìn quanh, ánh mắt quét tới chỗ Hải Thị, Hải Thị tự biết mình thất lễ, vội cụp thấp mi mắt, nhìn chằm chằm nỉ tước đỏ dưới đất. Bóng Thang Càn Tự kéo thật dài, hắt nghiêng lên nỉ tước đỏ trước mắt Hải Thị. Võ tướng lên điện, lễ pháp khác với lễ ngồi lâu của quan văn, chỉ đặt đầu gối phải xuống đất là được. Hải Thị thấy rõ bóng người kia giơ ngón tay lên, ung dung gõ ba cái lên đầu gối bên trái như ra hiệu với người nào. Văn võ cả triều đều nhìn Sưởng vương, hẳn không ai để ý đến động tác nhỏ của Thang Càn Tự. Hải Thị mím môi, lại nhoẻn cười.

Từ sâu trong đại điện nhìn lại, nụ cười nàng chẳng mảy may quyến rũ, chỉ cảm thấy thiếu niên này cởi mở trong sáng, phong lưu hàm súc khó tả thành lời.

Người trên ngai vàng nhìn trong mắt, khóe miệng hiện một nét cười nhạt.

Trên đường vào triều trở về, Trạc Anh sóng vai cùng Hải Thị. Hải Thị cố ý tách khỏi cung nhân và ngự giá, bừng bừng hứng thú lựa toàn lối nhỏ hướng vào nội cung để đi, qua Ninh Thái Môn, rẽ sang hướng tây vòng qua Nhân Tắc Cung và Dũ An Cung chính là khu vườn nhỏ phía bắc khu tụ cư của người làm tạp vụ trong cung.

“Đi tiếp thế nào ấy nhỉ?” Hải Thị chúm chím quay đầu lại, nhìn Trạc Anh.

Sắc mặt Trạc Anh hơi hồ nghi, rất nhanh sau đó trở nên lúng túng. “Phải về Tễ Phong Quán, chỉ có quay đầu lộn lại thôi.”

“Ai muốn về Tễ Phong Quán, muội muốn trực tiếp cảm ơn Chá Lựu cô nương của Chức Tạo Phường cơ.” Hải Thị híp đôi mắt dài thanh tú lại, cười nhăn răng.

Trong Chức Tạo Phường có vài sân hẻo lánh, sân Chá Lựu ở đặc biệt dễ tìm, trong tường hoa lựu nở ngập cành, giống ngọn lửa được gió thổi bùng lên, chỉ chực đốt người. Nhân buổi sáng mát mẻ, Chá Lựu bày khung thêu dưới bóng cây chá lựu ngoài nhà, trên cái ghế nhỏ bên người đặt sách vở kim kéo, đủ loại tơ sợi chia ra kẹp giữa trang sách, vùi đầu thêu thùa.

Hải Thị rón rén lại gần, thấy Chá Lựu đang thêu một đai lưng phù dung gắn châu dài mười hai thước, dùng hai sợi vàng tứ sắc vê xoắn trải lót gấm vóc lên nền sa, nhu mì tinh tế, không khỏi khẽ thở dài.

“Cô nương có việc gì à?” Chá Lựu mỉm cười ngừng mũi kim, ngước mắt lên, đôi con ngươi màu trà nhạt trong veo trông về phía Hải Thị.

Hải Thị nhất thời cứng họng. Nàng vẫn đang mặc triều phục võ quan, bó ngực búi tóc, rõ ràng là dáng vẻ thiếu niên võ tướng, sao cô gái này chỉ liếc một cái đã nhìn thấy nàng?

Chá Lựu nghiêng đầu, nhẹ giọng chào hỏi ra sau lưng Hải Thị: “Phương đại nhân, ngài tới rồi.”

Trạc Anh đáp một tiếng, nói: “Đây là em gái ta, đòi đến cảm tạ cô may áo cho nó.”

Chá Lựu mỉm cười vui vẻ, đáp: “Tiểu thư thích là Chá Lựu vui rồi.”

Đúng lúc này, gió mát thổi tới, cánh hoa màu mã não rợp kín cây nhất thời sa xuống như mưa như tuyết, như muốn rọi đỏ khuôn mặt trắng nhợt của Chá Lựu. Trang sách loạt xoạt lật giở, vài sợi tơ bện rơi xuống đất, Hải Thị vội nhặt lên, phủi sạch bụi đất rồi đưa lại vào tay Chá Lựu. Chá Lựu lần qua sách tới trục trang kiểm tra, như suy tư điều gì, nâng lại mấy sợi tơ bện kia đến trước mắt Hải Thị.

“Tiểu thư, phiền cô nói cho tôi biết, sợi nào màu lam ngọc bích, sợi nào màu tím sen đại dương?” Đôi con ngươi màu trà nhạt của Chá Lựu không mảy may như chớp như không, lại không nhìn vào mắt Hải Thị mà nhìn chằm chằm má phải của nàng.

Hải Thị ngạc nhiên quay sang liếc Trạc Anh, Trạc Anh im lặng gật đầu.

“Đây là tím, đây là lam…” Hải Thị ngập ngừng đưa ngón tay ra trỏ.

Chá Lựu nhanh nhẹn chia sợi tơ ra kẹp trở lại trang sách. “Vậy thì sợi cuối cùng là màu ngọc nhạt rồi. Cảm ơn cô, tiểu thư. Nếu không nhờ hai vị vừa vặn ở đây, tự tôi không phân biệt rồi thì gay to.”

Hải Thị ngơ ngác không thốt nên lời.

Trên đường trở về Tễ Phong Quán, Hải Thị chỉ cắm cúi đi đường, thỉnh thoảng ngước lên ngó Trạc Anh. Trạc Anh thấy nàng cứ muốn nói lại thôi, không nhịn được cười khổ: “Muội đừng bận tâm, kể cả như vậy, ta cũng cảm thấy rất mỹ mãn.”

“Nhưng, mắt Chá Lựu…”

Trạc Anh hạ giọng đáp: “Mắt cô ấy… bị hạ thuốc làm mù.”

Hải Thị khiếp sợ trợn trừng mắt.

Vẻ mặt Trạc Anh nặng nề, giọng càng trầm hơn. “Muội có biết tú sư mù đời trước không?”

Thời Đế Tu, Đồ Lâm Quận có một cô thợ thêu tài nghệ tuyệt đỉnh. Cô gái này vốn hành nghề thêu thùa, năm hai mươi sáu tuổi ốm nặng mù mắt. Mà nghề thêu vốn cũng chẳng làm được lâu, cứ đến tầm ba mươi tuổi, ai nấy gần như đều nửa mù, gặp gió là rơi lệ. Nào ngờ cô thợ thêu này không cam chịu số phận, bố trí màu sắc theo trí nhớ, bảo con gái đưa chỉ cho mình, chỉ bằng vào cảm giác hai đầu ngón tay lần sờ, trong lòng dùng mọi cách áng chừng hoa cỏ cảnh vật trông thấy khi chưa mù, tác phẩm thêu mượt mà linh động, liên tục nghĩ ra những ý tưởng tinh xảo, hơn gấp mười thợ thêu bình thường. Sau thanh danh lan xa, phụng chỉ vào cung truyền thụ tay nghề, trong cung đều gọi là tú sư. Trong loạn Nghi vương, tú sư trốn vào dân gian. Thiên Hưởng năm thứ năm, Đế Húc vời lại tú sư về, mệnh mua bé gái mồ côi trong dân gian vào cung, theo tú sư học nghệ. Thiên Hưởng năm thứ mười hai, tú sư chết bệnh, các học trò người khóc mù mắt, người tự chọc mù hai mắt, phần lớn trong đó được cho về quê quán nghỉ ngơi, ngoài ra có vài người đặc biệt xuất sắc, ở lại trong cung chuyên phụng dưỡng bề trên thêu thùa tinh vi. Chá Lựu là một trong số đó.

“Chuyện này… không khỏi quá khác thường rồi…” Hải Thị lẩm bẩm.

“Sau khi tú sư chết, sáng sớm hôm đó, tất cả học trò của tú sư đều mù. Lúc ấy có người nhảy giếng tự sát, mà những thợ thêu mù khác thì quả thật được đưa về quê quán… Nhưng họ vốn là trẻ mồ côi, số phận về quê thế nào có thể tưởng tượng được. Chá Lựu… coi như đã tốt lắm rồi.”

“Là ý của ai? Không thể là…” Trong lòng Hải Thị kinh sợ ngờ vực, “Không thể là Thi thúc thúc chủ quản đâu chứ!”

“Lúc tú sư chết bệnh, Thi thúc thúc đang chọn mua tơ mới ở Nhu Nhiên, đợi đến khi chú ấy trở về, ai bị đưa đi đã đưa đi cả rồi.” Trong con ngươi đen láy của Trạc Anh ngậm một tầng ánh kim ảm đạm, “Đêm trước khi xảy ra chuyện, người của Kim Thành Cung đã tới một chuyến ban thưởng trà hạnh nhân, riêng biệt dành cho học trò của tú sư.”

“Kim Thành Cung?” Hải Thị ngỡ ngàng sững người, “Là… hoàng thượng?”

Trạc Anh không trả lời nàng. Quay đầu nhìn lại, hoa lựu trong tường bay lả tả như mưa máu.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 7: Cỏ xanh sương phủ trắng III



Mùa hè Thiên Khải như thiêu như đốt, thủy tạ Lăng Ba Thính trong Sưởng vương phủ phía tây thành có tiếng là động phủ thủy tinh, gió đưa sen thoảng, mười dặm hồ gương, trên Lăng Ba Thính trăng nước mơ màng, ca nữ ngâm nga điệu thanh xướng.

Chấp sự tới bẩm đã mời được người bán chim cắt đến. Sưởng vương cho ca nữ lui, thị nữ buông mành trúc bốn bề thủy tạ xuống rồi nối đuôi nhau lùi ra.

Chấp sự dẫn ba tay buôn ưng tới, buổi tối nóng chưng người như vậy mà cũng trùm khăn đen, che kín đầu mặt thân cổ, quấn quanh hông hai vòng, cuối cùng thả rũ trên đầu gối. Hai tay buôn ưng trái phải quỳ rạp xuống thi lễ với Sưởng vương, chỉ duy người ở giữa đứng thẳng, Sưởng vương cũng chẳng ngạc nhiên, lười nhác hỏi: “Ưng đâu?” Tay buôn ưng dẫn đầu thoáng liếc chung quanh, không nói câu nào.

Sưởng vương cười bảo: “Cho ta xem hàng.”

Hai tay buôn ưng quỳ rạp dưới đất chợt vén khăn trùm lên, Sưởng vương khẽ híp mắt: “… Ồ, lông vũ sáng bóng thật.”

Trong lòng tay buôn ưng không hề thấy có con chim ưng chim cắt nào, cái choáng ngợp mắt người là con ngươi lam lạnh hầu như không màu và mái tóc vàng kim rực rỡ của họ.

“Là chim cắt xanh thượng đẳng nhất à?”

“Không con nào khá hơn được nữa.” Tay buôn ưng dẫn đầu nói tiếng quan thoại, hơi mang khẩu âm kinh kỳ.

“Không đáng với cái giá đó thì đừng hòng ta trả một cắc nào.” Thần sắc Sưởng vương vẫn bông lơn như trước.

Mành trúc bốn bề bỗng không gió mà rung phát ra tiếng lanh canh, từ trên đỉnh thủy tạ hạ thẳng xuống một bóng đen, trong bóng đen lấp lóe ánh xanh, sát ý mãnh liệt như một tia sét đánh thẳng xuống đỉnh đầu tay buôn ưng dẫn đầu. Chuyện xảy ra quá đột ngột, hai người đàn ông tóc vàng trái phải không mảy may cất lời, ánh mắt cũng chẳng giao nhau mà đã có một người tung mình bật lên, còn chưa kịp nhìn rõ động tác ra sao đã nghe keng một tiếng, ánh xanh kia bị đánh bay ra ngoài, găm phập vào viên gạch vuông đọng bùn bên cạnh người còn lại, kêu ong ong không dứt, thì ra là một thanh trường kiếm hở trần màu cỏ gai. Thinh không xào xạc, gió mạnh chợt nổi, ép người ta không ngẩng đầu ngước mắt lên được, mành trúc treo cột quanh thủy tạ bị gió thổi phồng lên, mấy chục đai tơ nhất tề đứt phựt, mành trúc nặng nề chợt bay tung, tiếng nghe rào rào như mưa to xối xả.

“Chà, triệu phong sư.” Sưởng vương thấp giọng lẩm bẩm, trong mắt nứt ra tia sáng khoái chá mà trầm kín.

Đó là pháp sư tu tập thuật túng phong trong truyền thuyết, bất kể ở Đông Lục hay Bắc Cương, dấu tích đều tựa tiên nhân, trăm năm khó gặp. Sau một loạt các dị tượng nơi này, đã hoàn toàn không phát hiện ra bóng đen vừa đâm bổ xuống mới rồi có khí tức gì nữa. Trong lòng Sưởng vương biết đó không phải do mình tập võ không tinh mà là bởi trận gió người đàn ông tóc vàng kia gọi tới quá dồi dào to lớn. Cú đâm bổ trên không mới rồi dẫu sắc bén như sấm sét, trong gió lớn dữ dội như vậy cũng chỉ như đốm sáng bắn tóe từ đá đánh lửa. Thời gian chẳng quá vài cái chớp mắt, hai bóng người đã đáp xuống, cách nhau sáu bảy thước, bóng đen bị một luồng gió lốc nho nhỏ bao vây chính giữa, sức gió hung hiểm như xen lẫn lưỡi dao sắc lẹm vô hình, khiến y không sao cử động được. Mà người đàn ông tóc vàng còn lại quỳ rạp trên đất hành lễ thì trầm tĩnh như núi từ đầu đến cuối, lưỡi kiếm ban nãy đang cắm ngay bên cạnh hắn, song đến thân hình hắn cũng chưa từng dao động, đôi mắt lam băng lộ vẻ dửng dưng, nhìn kĩ mới phát hiện ra một vệt trắng nông nhạt trên mặt người này, là dấu vết lưỡi kiếm cọ qua.

Hơi thở tay buôn ưng dẫn đầu vững vàng, cười trầm trầm nói: “Hay cho một cú được ăn cả ngã về không, chuyên tâm dồn chí, ý tụ một đường, trong phủ đã có nhân tài như vậy, nghiệp lớn dễ thành, việc gì phải đi xa ngàn dặm tìm mua chim cắt xanh?”

“Ông ta từng thử rồi.” Trên mặt Sưởng vương vẫn cười mỉm như thường, “Mười năm trước lúc tráng niên, liên kết với một người công lực sàn sàn như ông ta, nhưng thất bại.”

“Ồ? Thế lại thành ra là ta khinh thường cấm vệ nhà Trưng rồi.” Tay buôn ưng dẫn đầu dời mắt, nhìn sang hai người dưới sảnh, chợt bật cười: “Hóa ra là ông.”

Người bị nam tử tóc vàng cầm chân trong lồng gió nghe thấy câu ấy, ngẩng gương mặt đen nhẻm lên, vẫn hoàn toàn nhìn không ra biểu cảm gì.

“Thả ra đi, đó là tướng quân Đông Lục, không thể l* m*ng.”

Người đàn ông tóc vàng nghe vậy lập tức thu hai tay về trước ngực, chỉ thấy cơn lốc dần yếu đi, Phù Nghĩa rút hai cánh tay ra, mắt sáng quắc nhìn chằm chằm tay buôn ưng dẫn đầu.

Sưởng vương mỉm cười nói: “Không tệ, màu lông đẹp, móng mỏ sắc nhọn, chỉ mong có thể một trận thành công.”

“Nếu đại sự hoàn thành, mong điện hạ ban cho ta thù lao đúng thương lượng ban đầu.”

“Nếu chuyện này thành, nước ta sẽ không can dự vào cuộc chiến thôn tính giữa quý quốc và Già Mãn, một lời đã định. Có điều, các hạ không chịu cho người ta hay diện mạo thật, tương lai muốn trả thù lao, chẳng biết phải đưa cho ai đây.”

Dưới khăn trùm truyền ra tiếng cười khẽ, tay buôn ưng vươn tay kéo giật, khăn trùm lập tức rơi xuống hông, để lộ dung mạo cao sâu anh tuấn.

Sưởng vương khẽ a một tiếng.

“Anh là… Tả Bồ Đôn vương!” Trong mắt Phù Nghĩa bắn tóe tia lửa.

“Gặp mặt vội vàng mới có một lần trên triền núi Bì La, trí nhớ tướng quân tốt thật.” Thanh niên tóc vàng cao lớn hai mắt xanh sáng, trong trẻo có thần.

“Người này chính là tên cận vệ lúc ấy đã tay không chặn một mũi tên cho anh trên đường núi?” Phù Nghĩa lạnh lùng liếc người đàn ông trầm tĩnh vẫn quỳ một chân trên đất.

Tả Bồ Đôn vương nhếch miệng, chẳng đáp đúng sai.

“Trong cấm quân nước ta có một tên vạn kị, tướng mạo cực kì giống Tả Bồ Đôn vương, thế nên ban nãy ta mới giật mình thế.” Sưởng vương nói.

Tả Bồ Đôn vương nhướng hàng mày vàng kim. “Dung mạo cực kì giống? Tên ấy bao nhiêu tuổi?”

“Hăm tư hăm lăm gì đó.” Phù Nghĩa đáp.

“Nói vậy, ta quả thật có một đứa em trai tên Đoạt Hãn thất lạc trên chiến trường Hồng Dược Nguyên. Dung mạo vóc dáng Đoạt Hãn giống ta như đúc, gần như sinh đôi, chỉ khác mỗi thừa hưởng tóc đen mắt đen của mẹ kế ta Hồng Dược đế cơ. Lúc hỗn chiến, nó ngồi chung ngựa với ông chú Bà Đa Na vương, sau khi quân Đông Lục rút, chúng ta tìm bốn ngày bốn đêm trên chiến trường, chỉ tìm thấy thi thể của chú, đầu đã bị quân Đông Lục các người chặt mất, Đoạt Hãn thì chẳng biết đã đi đâu.”

“Tên Vũ Lâm vạn kị đó tên là Phương Trạc Anh.” Phù Nghĩa nói.

“Trạc Anh…” Tả Bồ Đôn vương trẻ tuổi rất sõi tiếng tộc Hoa mà giờ khắc này lại nhiễm nặng khẩu âm Hộc Khố, dáng vẻ như đăm chiêu hoài niệm, trong con ngươi lam óng có mạch nước ngầm phức tạp đan giăng. Lát sau, hắn tủm tỉm nhìn về Sưởng vương, mở miệng: “Chắc chắn đó chính là Đoạt Hãn, năm ấy nó chỉ mới mười tuổi.”

Năm ấy Đoạt Hãn vừa tròn mười tuổi. Nam nhi Hộc Khố cả đời chỉ cạo tóc hai lần, một lần vào năm mười tuổi, một lần trước khi chết. Dân du mục trên thảo nguyên sống bám đồng cỏ và nguồn nước, phụ nữ thụ thai khó khăn, trẻ sơ sinh chết yểu rất nhiều, thế nên trẻ con được bảo bọc yêu thương hết mực. Trước mười tuổi, các bé trai đều được coi là trẻ sơ sinh, giữ tóc máu thắt bím, vào ngày sinh nhật lần thứ mười, người nhà mới cạo tóc máu của bé trai đi, dùng rượu máu xối đầu, kể từ đó là nam nhi có thể ra chiến trường. Lúc các bộ lạc Hộc Khố giao chiến mà sát thương trẻ con có tóc máu là mang tội diệt tuyệt nhân tính, ắt gặp quả báo diệt tộc.

“Khi đó, con là một thằng bé trọc lốc, đoán chừng vừa qua sinh nhật chưa được mấy ngày.” Phương Chư nhàn nhã phe phẩy một chiếc quạt tròn, gió đêm phất tung tà áo trắng, khoan thai trang nhã.

Trạc Anh đã chẳng còn nhớ sinh nhật năm mười tuổi đó rốt cuộc ra sao. Nhưng cậu nhớ khoảnh khắc gặp Phương Chư lần đầu.

Cậu khi đó hãy còn là trẻ con, chẳng biết làm sao mà bị vứt lại một mình trên Hồng Dược Nguyên vạn quân xông xáo, ngất đi. Lúc tỉnh lại, tiếng chém giết đã lùi tới nơi xa tắp, mà rất nhiều người Đông Lục thì đã tách khỏi chiến trường, lục tục đi ngang qua cậu, chỉnh đốn lại đội hình, hoàn toàn không để đứa trẻ bé bỏng là cậu vào mắt. Cậu ngồi dậy, siết chặt con dao găm xinh xắn như đồ chơi bên hông, không biết có nên khóc hay không. Đúng lúc ấy, một thớt ngựa lông đỏ dừng lại bên cạnh cậu, thiếu niên Đông Lục trên yên cúi xuống nhìn cậu chăm chú.

Thiếu niên Đông Lục đã cởi giáp, áo bào gấm bên trong bị máu đào cát bụi nhuộm be bét, trong màu máu gồ lên hoa văn tinh xảo vốn sáng màu, mang một vẻ đẹp kinh dị. Xưa nay người Hộc Khố luôn xem thường xiêm áo lụa là của người Đông Lục, không cản được gió, không bền, xé cái là rách, ẻo lả yếu ớt như chính bọn họ vậy. Song, cũng có loại người Đông Lục thế này, thản nhiên tủm tỉm, trên mặt trên người dính máu bết khô vẫn chẳng màng ái ngại.

Con ngươi đen láy ánh kim của đứa trẻ rực sáng tột độ, nhìn chòng chọc vào thiếu niên như một con thú nhỏ, hiển hiện quyết tâm và ý chí của trẻ thơ.

“Ta hỏi con tên gì, con đáp một câu khó hiểu, ta mới nhớ ra con nghe không hiểu tiếng chúng ta.” Phương Chư đặt cây quạt tròn xuống, vươn tay châm thêm trà cho Trạc Anh.

Trạc Anh cười mờ mịt: “Con trả lời câu gì khó hiểu? Con gần như không nhớ nổi tiếng Hộc Khố ra sao nữa rồi.”

Phương Chư cũng cười: “Dài lắm, ta nghe mở đầu na ná hai chữ Trạc Anh, bèn lấy làm tên cho con.”

Trạc Anh không tiếp lời, bóng trăng trong chén trà vỡ tan ly hợp, cậu nhìn trân trân như si mê.

“Mười lăm năm, có muốn trở lại Hãn Châu không?”

Trong lòng Trạc Anh như bất chợt mở ra một khoảng trống. Hãn Châu… Cái nơi vốn tưởng rằng cả đời cũng không quay về nữa.

Nơi bình nguyên ấy, hai mùa đông hạ luân phiên vô tận, những ngày cát đá mù trời nối đuôi nhau xếp hàng chật kín từ đầu năm đến cuối năm, đồng cỏ chỉ rậm rì trong ba bốn tháng mùa hè ngắn ngủi, vội vàng đến độ mọi người chỉ có nước thả ngựa phi nước đại, chạy đằng trước lang sói, chạy đằng trước thời gian, chạy đằng trước bão tuyết sương muối, chạy bán sống bán chết đằng trước, chạy không dừng được. Cái trời ban cho dân thảo nguyên cũng chỉ có kiếp sống khắc nghiệt ấy, nhưng chính trong những ngày như thế, dân thảo nguyên vẫn có trái tim nô đùa ca hát của họ. Họ thản nhiên sinh sống, coi sinh mệnh là một ván đua ngựa đấu vật dám cược dám thua, ai chậm chạp – chết, ai trù trừ – chết, ai yếu đuối – chết, ai tài nghệ không bằng người khác – chết, tuyệt nhiên không một lời oán giận.

Vậy cố hương ta sao mà sảng khoái thỏa thuê quá, nhưng, chính vì là nam nhi Hộc Khố nên một lời hứa sánh ngang ngàn vàng, bất di bất dịch.

Trạc Anh cụp mắt nhìn chén trà thành mỏng trong tay, viền chén trong như gương dần im lìm rạn ra những đường vân băng, con ngươi như thạch anh đen loe loé ánh kim nhàn nhạt, “Hiếm hoi lắm mới thấy nghĩa phụ nói như vậy nhỉ. Con về rồi, ba năm ấy của ngài chẳng lẽ coi như bỏ? Vậy chẳng phải ngài sẽ là người uổng công vô ích thiên hạ hận nhất sao?”

Nụ cười bên khóe miệng Phương Chư sâu hơn, “Nghe nói, mấy ngàn năm trước trên thảo nguyên phương bắc có một người tên là Tự Cửu, để thuần phục thiên mã con rồng, đã tiêu tốn mười hai năm vật lộn với nó, cho đến khi người như đá, tóc như cỏ, rốt cuộc mới tìm được cơ hội cưỡi thiên mã con rồng. Thiên mã hí vang, đạp cầu vồng mây trắng ráng chiều sấm sét trong trời đất, phi nước đại mười hai năm, Tự Cửu cũng ngồi trơ trên lưng ngựa mười hai năm. Sau cùng, thiên mã con rồng cam tâm thuần phục, hóa thành một cô gái, đẻ với Tự Cửu bốn người con, bốn đứa trẻ ấy chính là tổ tiên bốn bộ Hộc Khố, cũng là cháu rồng.”

Trong nụ cười của Trạc Anh nhuốm nỗi chua xót: “Sao lại đi kể chuyện cổ tích vậy? Con còn thân với nghĩa phụ hơn mà.”

“Lần đầu tiên trông thấy con, ta đã biết con là một con ngựa bất kham, cưỡng ép thế nào cũng bất khuất, trừ phi khiến con bại trận tâm phục. Ba năm đã là hời rồi.” Phương Chư quay ra hồ Sương Bình, bờ bên kia, phòng Hải Thị đang sáng đèn.

“Cậu đã là một đấng nam nhi, như vậy, kể từ hôm nay ta sẽ không thiết lập canh phòng ngoài doanh trướng nữa, đao thương cung nỏ trong kho vũ khí tùy cậu chọn lựa. Trong vòng ba năm nếu giết được ta thì cậu được phép trở về Hãn Châu, bất kì ai cũng không thể ngăn cản. Nhưng nếu không giết được…” Võ tướng thiếu niên trên ngựa cúi người, vết đao bên khóe miệng như ngậm cười, “Cậu phải gọi ta là nghĩa phụ, nghe lời ta sai phái.”

Đứa trẻ nghe quân sĩ thông dịch, ánh kim trong con ngươi đen láy như thú nhỏ xoay vòng, phun ra một tràng tiếng Hộc Khố. Quân sĩ thông dịch nghe xong có phần lưỡng lự, Phương Giám Minh hờ hững nói: “Ngươi không đến nỗi sợ một đứa bé đấy chứ.”

Quân sĩ giận cuống lẫn lộn, trán rịn mồ hôi, “Thằng ranh đó nói, nó nói, không chỉ giết, nó còn phải nướng Thanh Hải công lên, nướng ăn…”

Phương Giám Minh cười dài, cánh tay thoắt vươn ra đã xách được đứa bé lên lưng ngựa, tiếp đó giương roi đánh ngựa lao thẳng về phía đại đội. Khi ấy, lão Thanh Hải công đã tử trận được hai năm, Phương Giám Minh kế thừa tước vị của phụ thân vào năm hai mươi tuổi, đến trận hỗn chiến trên Hồng Dược Nguyên cũng chỉ mới hăm hai.

Ba năm sau, vào Thiên Hưởng năm thứ hai, bắt đầu có người để ý thấy thiếu niên khôi ngô bên cạnh Thanh Hải công trẻ tuổi gọi chàng là “nghĩa phụ”.

Hai người ôm trong lòng quá vãng của riêng mình, lá sen trên hồ Sương Bình dập dềnh, chỉ là không ai cất lời.

“… Cơ mà, nuôi nhốt một con ngựa tốt như vậy giữa đám chó lợn đúng là phí phạm của trời. Sớm muộn gì con cũng phải về Hãn Châu. Ta nuôi con mười lăm năm, dạy con võ nghệ mưu lược là để một ngày kia nhìn con nhanh như chớp giật.” Phương Chư khẽ than.

“Nghĩa phụ, thế cục bên người chưa rõ, con nguyện ở lại Thiên Khải.” Trạc Anh vội nói.

“Gần đây trong Sưởng vương phủ bắt đầu có động tĩnh, mắt thấy biến loạn sắp đến, ta cũng muốn giữ con lại kinh thành,” Sắc mặt Phương Chư thoáng xao động, khôi phục rồi lại rầu rầu than thở, “Có điều, có vài chuyện không có con không được. Hải Thị chạm trán anh trai con rồi cũng không tránh khỏi có phỏng đoán về thân thế của con, càng đừng nói ngày ấy trên con đường đó có bao nhiêu quân sĩ. Con đã chẳng thể ở lâu trong kinh nữa rồi, phải về Hãn Châu, lại khó tránh bị đồng tộc nghi kỵ. Trước mắt chỉ có một biện pháp.” Chàng đặt quạt tròn xuống, đứng dậy, “Mấy ngày nay, huynh muội hai đứa tranh thủ tâm sự cho nhiều vào, về sau muốn gặp mặt cũng chẳng dễ dàng.”

Trạc Anh nhìn bóng lưng Phương Chư phiêu diêu đi xa, biến mất tại khúc rẽ hành lang, ngồi trở lại, vươn bàn tay phải cầm chén trà ra ngoài lan can sát mép nước. Chén trà ấy đã sớm bị Trạc Anh bóp vỡ, chỉ là bị bàn tay siết cứng hồi lâu, dùng sức rất vừa độ nên giữa những mảnh vỡ mỏng giòn như nhiều mũi dao tiếp xúc ở cùng một điểm khép chặt vào nhau không để dò một giọt nước. Bàn tay thon dài thanh tú tĩnh mạch rõ ràng kia từ từ mở ra, chén trà cũng chia năm xẻ bảy, trà xanh sứ mỏng long lanh lấp lánh dưới ánh trăng, ào ào rơi xuống hồ Sương Bình.

Nghĩa phụ, thế cục bên người chưa rõ, con nguyện ở lại Thiên Khải. Câu này như thốt lên từ miệng của chính mình năm xưa. Phương Chư chậm rãi thả bước trong thủy tạ chín khúc, không khỏi chớp mắt như buốt nhức.

“Từ bé Đoạt Hãn đã là một con sói con, không gì có thể ước thúc được nó.” Thanh niên tóc vàng trầm ngâm, “Có điều, nghe vương gia nói vậy, ta thật muốn xem xem sói con nuôi trong ổ hồ ly mười lăm năm trông như thế nào.”

“Đến ngày đúng dịp, hai con cắt xanh thượng hạng này nhất định sẽ có một trận đánh với lệnh đệ.” Ánh nước trong veo rọi lên mặt Sưởng vương.

“Chỉ tiếc ta không thể tận mắt chứng kiến.” Tả Bồ Đôn vương nghiêng đầu cười, “Còn phải tranh thủ thời gian vòng sang Mạc Hột Quan mạn tây trở về, trên đường thăm dò tình hình Già Mãn nữa.”

Trong lòng Sưởng vương biết gã Tả Bồ Đôn vương Đoạt Lạc này có khúc mắc với Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề xưa nay, sợ là nóng ruột muốn về Hộc Khố gấp, cũng không muốn để lại tung tích, bèn cười khẽ, nói: “Vậy, đêm mồng một tháng này cùng đợi tin lành thôi.”

Tả Bồ Đôn vương giấu lại mái tóc vàng và gương mặt vào khăn trùm, ngẩng đầu phóng mắt nhìn về cấm thành cách đó mười dặm. Cấm thành ngự cao trên đỉnh núi, ngẩng đầu ở bất kì đâu trong Thiên Khải cũng có thể thấy được, cung thất uốn lượn như một chuỗi minh châu.

Mười dặm lâu đài mù sương khói, vô số mái hiên ngói lưu li xanh vàng hứng ánh trăng nhấp nhô liên miên thành một khoảng biển xanh tĩnh mịch, trên đỉnh sóng ngẫu nhiên lấp lánh một hạt cát vàng, là con ngươi vàng điểm trong mắt thôn tích thú (*).

(*) Trên nóc cung điện, phủ đệ ở Trung Quốc cổ đại thường có tượng thần thú thành cặp trên sống nóc nhà, những bức tượng thú này được gọi là thôn tích thú.

Vừa mới qua canh ba. Trên nóc trùng diêm hiết sơn (*) cách mặt đất sáu trượng, Hải Thị ăn vận kiểu thiếu niên, thảnh thơi ôm đầu gối ngồi đó, cằm cũng gác trên đầu gối, nhìn tiểu hoàng môn gõ mõ và Vũ Lâm quân tuần đêm đi qua dưới chân, không ai ngờ rằng trên nóc mái hiên Ninh Thái Môn lại có một người nhàn rỗi ngồi. Ninh Thái Môn là cổng chính trục giữa ngăn cách nội cung và ngoại đình, từ đó nhìn xuống có thể thấy rất rõ mọi lối hành lang và mái hiên bốn góc của lục cung trải từ đông sang tây.

(*) Một kiểu mái nhà trong kiến trúc cổ Trung Quốc.

Ngoài cửa hông tây nam có tiếng xe ngựa, đó là đám lăng nhân quản lí kho băng ngự dụng đi lấy băng đá từ kho băng dưới dãy Ảm Lam, nhân lúc trời đêm mát mẻ vận chuyển vào cung. Hải Thị lẹ làng đứng dậy, chạy dọc theo sống nóc Ninh Thái Môn, tiếp đó nhún mình bật nhảy, không tiếng động qua lại giữa các nóc điện, nhanh chóng ẩn thân trong mái hiên Vị Ương cung, quan sát con đường từ cửa hông tây nam dẫn tới ngự thiện phòng. Xe la vận chuyển băng đá do vài người lính Vũ Lâm áp tải, chúng lăng nhân đi theo bên cạnh. Đến chỗ rẽ, một người trong đám lăng nhân tự quẹo sang đường khác, đi theo hướng tây bắc, kì lạ là mấy tay Vũ Lâm hoàn toàn làm như không thấy, những lăng nhân còn lại cũng tỉnh rụi đi thẳng về phía ngự thiện phòng.

Hải Thị chuyển động con ngươi như điểm sơn, dõi theo hướng đi của tên lăng nhân kia. Theo hướng con đường đó chỉ có thể đến Phượng Ngô cung và Dũ An cung. Sau khi Yên Lăng đế cơ xảy ra chuyện, đến nay Phượng Ngô cung vẫn bỏ trống, Dũ An cung thì là nơi ở của Thục Dung phi Đề Lan, công chúa Chú Liễn.

Dũ An cung vẫn sáng đèn, rèm cửa sổ bằng sa mỏng đỏ tím kiểu Chú Liễn phấp phới trong gió.

Hải Thị rời khỏi mái hiên, nhảy lên nóc Vị Ương cung, rảo bước đến Dụ An cung.

Người đàn ông cải trang lăng nhân đi đến cửa hông Dũ An cung, ngó một lượt hai bên trái phải, vừa định vươn tay đẩy cửa thì chim đêm trên tường cung chợt giật mình. Đưa mắt qua, một con chẳng biết là chim gì phành phạch bay đi, trên bầu không đêm lặng treo mảnh trăng lưỡi liềm lạnh lẽo. Y thở phào một hơi thật nhẹ, đẩy cửa hông khép hờ ra, lách người vào rồi cài lại cánh cửa, cũng không quan sát chung quanh mà cứ thế thành thạo chọn lối nhỏ trong vườn đi tiếp, băng qua hành lang Dũ An cung, vòng qua thiên điện của cung nhân trực ban, đi thẳng lên gác nhỏ.

Dường như cung nhân trước cửa gác nhỏ đã quen với việc nửa đêm có lăng nhân tới thăm, thi lễ rồi lập tức tránh sang một bên nhường đường.

“Chấn Sơ!” Một giọng nữ hơi khàn gọi tên tự của y, y còn chưa kịp phản ứng đã nghe thấy một đôi chân trần nuột nà chạy vụt trên sàn nhà, chớp mắt tiếp theo, có cô gái kéo áo bào diễm lệ nhào vào lòng y như cánh bướm.

“Đề Lan, sao lần nào nàng cũng không thận trọng vậy chứ.” Người đàn ông cau mày, trong mắt lại chẳng có ý trách cứ nặng nề.

Thục Dung phi môi đỏ răng trắng nở nụ cười vui vẻ, “Lần trước Thang đại tướng quân đến Thiên Khải, ừm, để thiếp nghĩ xem,” Ả ngoẹo đầu, sợi tóc đen nhánh rủ xuống, “Là chuyện của mùa hè năm ngoái rồi, thiếp mà còn thận trọng nữa thì chỉ e chưa gặp được chàng đã già rồi.”

Ả nũng nịu nói nói một hồi, lại cầm lòng không đậu dậy nỗi xót xa, thê lương nhuốm lên thần sắc.

Thang Càn Tự cười bất đắc dĩ, “Nàng nhìn nàng xem, đã hăm tám hăm chín tuổi rồi mà vẫn như trẻ con vậy, bao nhiêu năm nay chẳng tiến bộ gì cả.”

Cửa sổ mở hé, rèm sa đỏ tím phập phồng lớp lớp. Cạnh đấu củng dưới hiên treo ngược một bóng đen mảnh khảnh. Là Hải Thị.

Thì ra là vậy, Hải Thị khẽ nhướng mày. Thang Càn Tự là đại tướng trấn thủ biên cương, một khi vào kinh ắt sẽ liên miên những bữa xã giao sênh ca thù tạc, muốn gặp ai đó trong triều chẳng phải chuyện gì quá khó. Y mạo hiểm truyền tin ngay trên triều như vậy mà không phải để gặp quan viên trong triều thì tất là muốn hội ngộ người trong cung.

Hải Thị từng nghe kể, năm xưa người Chú Liễn đưa Tử Trâm công chúa tới theo thông lệ giữa hai nước, yêu cầu đổi một hoàng tử mang về Chú Liễn làm tin. Vừa hay khi đó Nhiếp phi, mẹ ruột Sưởng vương, tranh sủng địch không lại Tống phi, mẹ ruột quân vương, Sưởng vương mười một tuổi Quý Sưởng liền bị đưa sang Chú Liễn, cung nhân đi theo không phải già yếu thì cũng là non trẻ. Theo lệ, hoàng tử xuất hành phải phái một Vũ Lâm ngũ thiên kị cùng năm ngàn quân sĩ đi theo hộ tống, Binh bộ bị Tống phi xúi giục, chọn cái tên cuối cùng trong danh sách lính mới tham gia kì thi võ cấm quân năm ấy, đề bạt thiếu niên mười lăm tuổi kia lên chức ngũ thiên kị như một trò đùa, ghép cùng năm ngàn tân binh theo Sưởng vương đi Chú Liễn. Tình cảnh của đám người Sưởng vương thê lương không khác gì đi đày, đến sứ giả Chú Liễn cũng dám quát mắng vị hoàng tử này. Nhóm Sưởng vương đi được một tháng thì chồng bài thi văn môn binh pháp của cấm quân gỡ niêm phong, thiếu niên Thang Càn Tự bị phong làm ngũ thiên kị như trò đùa ấy cuối cùng đứng nhất thi văn, đuổi theo không kịp. Ba năm sau, Nghi vương làm phản, Phần Dương quận vương cũng làm phản theo, ông ta là cậu của Sưởng vương, em trai Nhiếp phi. Quý Sưởng lập tức sai người gửi thư từ Chú Liễn về cho Trọng Húc, lòng như dao cắt trần tình tuyệt không hai lòng, sau đó liên tục gửi lương thảo tình báo từ Chú Liễn qua eo biển Oanh Ca về Hãn Châu suốt tám năm, giúp ích không nhỏ. Sau khi Đế Húc đăng cơ, Sưởng vương lập tức về nước, cùng trở về còn có công chúa Đề Lan Chú Liễn hiến dâng, và ngũ thiên kị Thang Càn Tự. Dù mười năm liền không được thăng chức nhưng ngũ thiên kị hai mươi lăm tuổi cũng xem như trẻ trung. Sưởng vương hai mươi mốt tuổi cơ hồ vẫn là một thiếu niên, ngày ngày sa vào ăn chơi đàng đ**m, các hạ thần ôm kì vọng to lớn vào Quý Sưởng nhanh chóng phải thất vọng. Nghe nói, số lương thảo và mật báo từng được chuyển về trong cảnh lửa sém lông mày suốt tám năm loạn lạc đó đều do một tay Thang Càn Tự lo liệu.

Trong song cửa liên miên tiếng người, Hải Thị hơi nghiêng người, nhòm vào từ khe hở giữa rèm sa.

Thang Càn Tự bị đẩy tới sập lùn ngồi xuống, Đề Lan thì lại để chân trần ngồi bệt xuống đất như không chịu nổi nóng bức, gối đầu lên đầu gối y, “Chấn Sơ, gần đây chàng phải cẩn thận đấy. Người kia, hắn càng ngày càng quái đản, chàng mà để lộ tài năng quá, nói không chừng lại…”

“Nàng không cần phải để ý đến những chuyện này, chỉ cần sống tốt cuộc sống của mình cho ta yên tâm là được.” Thang Càn Tự vu.ốt ve mái tóc dài đen nhánh mát lạnh của Đề Lan.

Đề Lan vội ngẩng đầu nhìn y: “Chàng không biết đâu, Chấn Sơ, người kia đã chẳng còn giống người nữa rồi, thiếp…” Môi ả run run không sao nói thành lời, chỉ vén ống tay áo tơ lụa Chú Liễn xanh biếc đỏ thắm lên, trên cánh tay trắng nõn rải rác bầm tím.

“Nàng…” Thang Càn Tự đột ngột siết chặt hai nắm đấm.

“Thiếp sợ, Chấn Sơ,” Rốt cuộc, Đề Lan bật khóc, “Thiếp sợ chết, thiếp sợ thiếp chết chàng còn sống, hoặc là chàng chết thiếp còn sống. Thiếp sợ thiếp chịu đựng mười bốn năm, đến cùng vẫn chẳng thể sống cùng chàng.”

Ả chợt bám lên vai Thang Càn Tự, tuôn lệ ròng ròng há miệng cắn, không phải làm nũng, không phải hờn dỗi mà là liều mạng cắn nghiến, thật lòng muốn để lại vết thương.

Y không phải đàn ông quân ngũ cường tráng, nhập ngũ nhiều năm chưa từng động đến đao kiếm, bờ vai gầy thẳng như của một thư sinh thiếu niên, song y vẫn cắn răng chịu đựng, mặc cho ả cắn.

“Thiếp cầu khấn thần đuôi rồng mỗi ngày mỗi đêm, chỉ sợ người không chịu ban cho thiếp phúc phận ấy.” Đề Lan buông miệng, khuôn mặt nhỏ đầm đìa nước mắt vùi vào vai y, mái tóc đen che kín nửa thân, vụn vỡ lộn xộn nỉ non: “Thiếp hận chàng, thiếp hận chàng tự tay đưa thiếp cho người kia.”

“Nàng hối hận rồi ư? Hối hận đến Đông Lục cùng ta.” Thang Càn Tự nắm hai vai Đề Lan, buộc ả mặt đối mặt với mình.

“Phải.” Môi Đề Lan đẫm lệ, đỏ mọng ướt át, “Đáng ra thiếp nên chặt cụt chân chàng, giữ chàng lại Chú Liễn.”

“Sắp rồi, Đề Lan, sắp rồi, hẳn là chim cắt xanh đã được đưa vào phủ Sưởng vương trong tối nay. Chỉ cần người kia chết, ta tuyệt sẽ không thiếu nợ nàng bất cứ điều gì nữa.”

Trong mắt Đề Lan bốc lên ngọn lửa hừng hực, vui buồn lẫn lộn, “Chấn Sơ, người kia… sẽ chết chứ?”

“Nhất định.” Y cam đoan.

—— “Người kia” mà Đề Lan nhắc đến, Hải Thị bỗng kinh hãi ngộ ra, đó là Đế Húc.

Hải Thị bí mật trở về Tễ Phong Quán, phòng Phương Chư hãy còn sáng đèn, giơ tay định gõ cửa, lại chần chừ. Đương lưỡng lự, giọng nói trầm tĩnh trong cửa cất tiếng hỏi “Sao vậy”, nàng lại bỗng hạ quyết tâm đẩy cửa đi vào, thì ra Trạc Anh cũng ở đây, mới cảm thấy bớt lúng túng hơn chút.

Nghe xong lời Hải Thị trần thuật, sắc mặt Phương Chư vẫn như thường, ung dung nói: “Để Thang Càn Tự làm võ tướng thật thiệt thòi cho y quá. Sưởng vương có lòng làm phản, Thang Càn Tự theo hắn mười một năm, là bề tôi chân tay của hắn, muốn thành được chuyện phản nghịch không thể thiếu người này. Trước đây dặn con chú ý y chính là vì lẽ đó. Hôm nay tình hình có biến, sau khi trở về Hoàng Tuyền Quan, dẫu ta từ kinh thành gửi thư cho con, con cũng không cần ra tay với y. Y không chết, chuyện của chúng cũng chẳng thành được. Con ra ngoài trước đi, ta có việc cần bàn với Trạc Anh.”

Hải Thị kiên cường nén lệ hành lễ, không nói hai lời đi ra cửa. Tiếng bước chân không kiềm chế được càng ngày càng nhanh, sau cùng gần như chạy khỏi sân Phương Chư.

Trạc Anh nghe hiểu, có hơi không đành lòng, “Nghĩa phụ, không nói chuyện này cho Hải Thị biết, ngộ nhỡ…”

Phương Chư ngắt lời cậu, “Bụng dạ Hải Thị thẳng như ruột ngựa, để lộ dấu vết khéo lại không hay. Con phải về Hãn Châu, đây chính là cơ duyên hiếm có, không thể lơ là bỏ lỡ. Anh con Tả Bồ Đôn vương và chú con Hữu Bồ Đôn vương Ngạch Nhĩ Tề xưa nay bất hoà, con trở về vừa hay có việc để làm, ta cũng sẽ sai người đi hỗ trợ con.”

“… Vâng.” Trạc Anh đáp, lại như có gì muốn nói mà thôi.

Phương Chư mỉm cười, vỗ vai Trạc Anh, “Cô nương Chá Lựu kia chứ gì, ta sẽ chiếu cố cho con bé, không để nó chịu tủi.”

Trạc Anh gật đầu thật sâu, nói: “Thề không làm nhục sứ mạng.”

Phương Chư lại cười, khuôn mặt thanh nhã như thiếu niên, “Đây cũng là con đường trước mắt của chính con. Nhớ, mồng một tháng này, ta và con luân phiên trực Kim Thành Cung.”

“Nghĩa phụ…” Trạc Anh đứng dậy, chân đến cửa rồi bỗng lưỡng lự ngập ngừng, “Hải Thị, muội ấy đối với người…”

Người đàn ông bào trắng đoan chính ôn hòa không cho cậu nói thêm nữa, cười khổ lắc đầu, “Trạc Anh, ta đã thế này rồi, tội gì làm liên lụy sang một đứa bé.”

Trạc Anh ngây người một thoáng, hấp tấp hành lễ rồi chạy ra ngoài tìm suốt một đường.

Lúc tìm thấy Hải Thị, nàng đang nằm trên nóc nhà, nghe tiếng cậu tới vẫn nhắm mắt như cũ, chẳng biết là đang ngủ hay chỉ đang cáu bẳn – ngói lưu ly lồi lõm cứng lạnh như vậy, nếu không phải họ là người tập võ thì căn bản khó mà nằm yên ổn cho được, càng đừng bàn đến ngủ.

Trạc Anh cũng không nhiều lời, tự gỡ cái nậm bạc dưới sườn xuống huơ huơ trước mặt Hải Thị. Hải Thị chẳng mở mắt, đưa tay nắm nậm bạc, mở ra rồi uống ừng ực một mạch. Sảng khoái khà một hơi mới hé mắt nhìn Trạc Anh, nhoẻn cười.

Trạc Anh nằm xuống song song với nàng, hỏi: “Sao thế?”

“Cũng không có gì.” Hải Thị thấp giọng đáp, “Chỉ là ban nãy nghe Thục Dung phi nói một câu, trong lòng tự dưng khó chịu quá.”

Trạc Anh nhận lại nậm rượu về một hơi uống cạn, “Câu gì?”

“Thục Dung phi nói với Thang tướng quân là ả rất hận y, hận y tự tay đưa ả cho người khác. Muội cảm thấy sớm muộn gì nghĩa phụ cũng sẽ tự tay đưa muội cho người khác.”

Trạc Anh quay sang ngó nàng, Hải Thị lim dim như không thắng được sức rượu. Cậu nhìn vầng trăng dần ngả về tây ẩn hiện trong rừng, đã mang hình móc câu mỏng dẹt – ngày mồng một sắp tới.

Hôm sau, Trạc Anh đến Chức Tạo Phường thăm Chá Lựu. Mùa hoa đã gần tàn, trên cây đơm chùm rực rỡ như đồ mi. Sân nhỏ đã mấy ngày không có ai quét tước, mặt đất chồng lớp lớp đỏ ối. Mấy ngày trước Chá Lựu đã bị Sưởng vương phủ đón đi truyền thụ tay nghề, đến nay chưa về.

Lại một ngày trôi qua, chẳng biết tại sao Phương Chư bỗng nổi hứng uống rượu, bảo Trạc Anh đi Đề Hồ Lâu phía tây thành mua một vò Thiên Niên Bích. Trước khi Trạc Anh ra cửa, Phương Chư dặn dò: “Hôm nay Thi thúc thúc của con phái người đến Sưởng vương phủ đón Chá Lựu về cung, con đi sớm về sớm. Hôm nay không gặp được, sau này sợ rằng sẽ càng khó hơn.”

Trạc Anh vâng dạ rồi cấp tốc lui xuống, dắt con “Phong Tuấn” đắc ý nhất trong chuồng ngựa ra, đánh ngựa phóng thẳng tới Thùy Hoa Môn gần nhất.

Mười hai cấm vệ canh giữ Thùy Hoa Môn nghe thấy tiếng vó ngựa xa xa từ trong cung hướng về phía này, vừa định quay đầu xem cho rõ, nào ngờ con ngựa kia đã lướt qua trước mắt, thế như bão táp, phóng thẳng ra khỏi Thùy Hoa Môn, suýt nữa đánh lật một cỗ xe la vải xanh.

Người trong xe nghe người hô ngựa hí, vén rèm lên, một cung nhân già vội tiến lại đỡ tay cô: “Tú sư, không làm ngài sợ chứ?”

Chá Lựu lắc đầu cười nhẹ: “Không sao. Mới nãy sao thế ạ?”

“Than ôi, mụ đây cũng nào biết đâu, đám cấm vệ trẻ tuổi trong cung bây giờ càng ngày càng không có phép tắc.”

Cấm vệ thanh minh: “Bà bà, không phải chúng tôi không tận tâm với cương vị đâu, vị kia là thiên kị Phương đại nhân của chúng tôi, ngài ấy được cho phép cưỡi ngựa trong cung mà.”

Chá Lựu mỉm cười, nói: “Dì Tô, bỏ đi, chắc là người ta có việc gấp. Chúng ta đi thôi.”

Cung nhân già đỡ vững hai tay Chá Lựu: “Nào, tú sư, chúng ta đến Thùy Hoa Môn rồi, không phải xe liễn ngự dụng thì không được vào cung, để mụ đỡ ngài vào.”

Đưa Chá Lựu đến biệt viện rồi, cung nhân già lại bắt đầu lải nhải, “Dưới đất toàn hoa là hoa thế này, không được, không được” rồi cố ý để Chá Lựu ngồi trên ghế đá trong sân, tự cầm một cây chổi nhỏ đi quét sân, Chá Lựu cũng chỉ đành mặc mụ sắp xếp. Hôm ấy trời nắng đẹp, ong bướm dập dờn, chợt có cánh hoa vụn chui vào gáy áo Chá Lựu, cô bèn cúi gương mặt nhỏ nhắn như cánh sen xuống, phủi gáy như không chịu được ngứa. Nghe có tiếng bước chân dần lại gần, cô ngạc nhiên nghiêng mặt, suy nghĩ chốc lát, lộ vẻ nghi hoặc: “Ngài là…”

“Qua mấy ngày nữa chắc cây chá lựu này sẽ bắt đầu kết quả nhỉ?” Khách tới ngữ điệu ôn hòa, ấm ấp như gió xuân phả vào mặt, Chá Lựu chỉ cảm thấy giọng người nọ như đã từng nghe thấy đâu đây, lại nhất thời không nhớ nổi là ai.

“Cây chá lựu này thuộc giống hoa đỏ ngàn cánh, phàm là chá lựu ngàn cánh đều không kết quả, có kết quả, bên trong cũng không có hạt ạ.” Chá Lựu kính cẩn trả lời, bỗng giơ tay che miệng, vội vàng đứng dậy thi lễ, “Phương tổng quản, Chá Lựu vô lễ, xin ngài thứ tội.”

“Không cần phải câu nệ thế đâu.” Phương Chư cười nhẹ rồi lại khẽ thở dài, “Nói vậy, hoa đỏ rợp cây thế này cuối cùng chỉ nở suông một mùa hè vậy thôi sao.”

Chá Lựu không biết phải đáp thế nào, chỉ đành cúi mặt.

“Chá Lựu cô nương.”

“Dạ.” Chá Lựu mờ mịt ngẩng đầu lên.

“Hiện giờ Trạc Anh đang gặp nguy hiểm đến tính mạng, lửa sém lông mày.” Giọng vẫn bình thản ôn hòa, nghe không ra một gợn sóng.

Hai bàn tay khéo léo của Chá Lựu đặt trên vạt váy, im lặng nắm chặt.

“Nó là con út của Hộc Khố vương và Hồng Dược đế cơ, chỉ bằng vào dung mạo giống Hộc Khố vương tuyệt đối của nó đã đủ tư cách thừa kế ngôi vương rồi. Hiện giờ Sưởng vương câu kết với Tả Bồ Đôn vương, huynh trưởng ruột thịt của Trạc Anh, muốn vạch trần thân thế nó, mượn tay hoàng thượng diệt bỏ Trạc Anh.”

Con ngươi màu trà nhạt của Chá Lựu như chớp như không soi về phía Phương Chư như thể đôi mắt mù lòa ấy vẫn còn khả năng nhìn được điều gì trên mặt chàng.

“Ta muốn Trạc Anh về Hãn Châu nương nhờ chú nó, nhưng nó là một thằng bé ngốc trọng tình trọng nghĩa – Nó nói, không có cô đi cùng, nó sẽ không đi. Nhưng con đường phía trước hung hiểm như vậy, dẫu võ nghệ nó có siêu quần, e rằng cũng chỉ đủ tự vệ. Ta sợ thằng bé quyết ý muốn chịu chết.” Chàng không nhanh không chậm nói hết, cũng chẳng có vẻ gì là muốn đợi cô đáp lời, hồi lâu không nói thêm nữa.

Gió phơn rít gào thổi qua, đỏ tàn xanh khuyết đìu hiu như dệt cửi. Cánh hoa tựa mã não tích đầy đất bay lên vờn gió xoay tròn dưới thấp, hệt một làn sóng đào im ắng vỗ lên vạt váy cô. Chá Lựu lặng thinh quay người lại, Phương Chư phát hiện ra khóe miệng cô gái mù ngậm nụ cười kiên quyết.

“Phương tổng quản, tôi biết phải làm thế nào.”

“Cô biết?” Chàng nhướng một bên mày.

“Chỉ xin Phương tổng quản chuyển cho chàng một câu – Nếu chàng không quý trọng tính mạng mình thì cái mạng này của Chá Lựu phải mất uổng rồi.”

Phương Chư không trả lời cô, chỉ gật đầu như thể cô thật sự nhìn thấy, đoạn xoay người rời đi.

Chá Lựu nghe chàng đi xa rồi, cất tiếng gọi: “Dì Tô?”

Phịch một tiếng như cây chổi rơi xuống đất, cung nhân già tay run rẩy vòng từ sau nhà ra, hồi lâu không mở lời, chỉ quỳ xuống với Chá Lựu.

“Dì Tô yên tâm, Chá Lựu tuyệt đối sẽ không làm liên lụy tới dì, thừa dịp bây giờ không ai, dì mau đi đi.” Chá Lựu mỉm cười, vô cùng áy náy.

Cung nhân già hơi chần chừ rồi vội vã chạy ra ngoài cửa, giữa đường lảo đảo, va phải cánh cửa nghe loảng xoảng.

Chá Lựu lần mò đóng cửa, đi vào nhà, gió phơn sau lưng khuấy đảo những cánh hoa đỏ rực trong khoảng sân tịch mịch.

Đứng quầy bán rượu ở Đề Hồ Lâu đều là phụ nữ người Man, tên rượu cũng rất có phong tình, nào Lục Yêu, nào Hạt Cổ rồi Hồ Toàn đủ loại, loại Phương Chư chỉ đích danh yêu cầu là Thiên Niên Bích thì lại chưa từng được xếp vào bảng tên rượu trước quầy. Một cô gái người Man tóc đỏ trong quầy đang cúi đầu tính toán sổ sách, nghe thấy Trạc Anh gọi một vò Thiên Niên Bích, lười biếng ngẩng lên nhìn cậu, chiếc trâm tua bằng vàng kiểu Hộc Khố cắm trên búi tóc tức thì đong đưa yểu điệu, chuỗi ngọc đá lựu đá trám lấp lánh động lòng người. Cô gái quay người gọi tiểu nhị lựa một vò ngon tới rồi tiếp tục cúi đầu tính toán sổ sách, gảy đồng tiền nghe leng keng giòn giã, miệng thì lại lẩm bẩm: “Đoạt Hãn nhĩ tát.”

Trong lòng Trạc Anh chấn động. Đoạt Hãn là tên Man của của cậu, nhĩ tát là cách gọi kính trọng của người Hộc Khố với thiếu chủ của họ. Đã mười lăm năm rồi không nghe ai gọi cậu như vậy. Cậu mở miệng, tiếng Hộc Khố thốt ra đến chính cậu cũng cảm thấy xa lạ trúc trắc, “Cô là người của Đoạt Lạc?”

Cô gái người Man ngước đôi mắt xanh biếc lên, lại nhanh chóng cụp xuống, “Tả Bồ Đôn vương tránh Đoạt Hãn nhĩ tát còn chẳng kịp, sao có thể phái người đi tìm tung tích ngài? Là Hữu Bồ Đôn vương lệnh chúng tôi tới đây tiếp ứng cho Đoạt Hãn nhĩ tát.”

“Là Ngạch Nhĩ Tề thúc thúc…” Trạc Anh cảm xúc phức tạp. Anh em ruột thịt còn chẳng có thiên tính máu mủ thì chú cháu có thể trông cậy được gì đây? Chỉ coi cậu là ưng là khuyển, là một con cờ mà thôi.

Tiểu nhị mang rượu ra, buộc chắc vào lưng ngựa cho Trạc Anh.

Cô gái người Man kia vừa vun đồng tiền lên cân tiểu ly, vừa thấp giọng nói: “Trong niêm phong đất sét trên vò rượu có bản đồ các nơi tiếp ứng, có thể thay ngựa. Xin Đoạt Hãn nhĩ tát nhất định phải ra khỏi Mạc Hột Quan trong tháng Tám, sẽ có người hộ tống ngài vượt biên giới Già Mãn trở về Hộc Khố.”

Trạc Anh gật đầu, ước lượng số tiền trả lại, hơi cau mày, “Một vò tám đồng?”

Cô gái Man che miệng cười, đổi sang tiếng quan thoại, cất cao giọng: “Thiếu gia xuất thân nhà phú quý, không hay ra ngoài đi lại phải không? Hồi xưa trên phố khó gặp đĩnh vàng nhưng kể từ ngày quốc khố cứu trợ đến nay, vàng tuôn rào rào trên phố lớn như nước ấy, đã chẳng còn hiếm lạ nữa rồi. Trước mắt một đĩnh vàng chỉ đổi được bốn mươi hai đĩnh bạc, cái giá này chẳng biết còn cầm cự được bao lâu.”

Trạc Anh không tranh cãi với cô ta, ra cửa lên ngựa, thấy mặt trời đã lên lưng chừng trời, hẳn Chá Lựu đã rời Sưởng vương phủ về cung, bèn vội vã giục ngựa, chớp mắt đã lao lên đường. Tiểu nhị đang líu lưỡi thì bỗng nghe thấy tiếng ngựa hí, Trạc Anh cưỡi ngựa quay về, đứng ngoài cửa tiệm vung tay ném túi tiền lẻ ban nãy và hai đĩnh vàng khác trở lại quầy, bóng người xoay ngoắt, nhoáng cái đã lên ngựa phóng đi. Cô gái người Man kinh ngạc đưa tay lên định vuốt lại tóc mai bị bung rối, bấy giờ mới nhận ra trâm đã không còn, tiếng vó ngựa cũng đã xa.

Mùa hoa hè nở rộ hết cỡ, đã đến lúc nỏ mạnh hết đà. Phong Tuấn lướt qua, dưới trời xanh tung bay một đường hoa rụng. Trạc Anh quất từng roi, chỉ muốn mau mau chóng chóng về cung sớm được khắc nào hay khắc ấy – Chá Lựu, Chá Lựu.

Khi qua Thùy Hoa Môn, trong cửa bỗng ló ra một chiếc xe đẩy bằng gỗ, lúc này Phong Tuấn đã phóng như sắp bay, mắt thấy tránh không kịp, lính canh cổng và người đẩy xe sợ hãi la toáng chạy tứ tán. Trạc Anh nhíu mày, dứt khoát buông cương, mặc Phong Tuấn tự phân biệt phương hướng, bốn vó bật mạnh, nhảy vọt qua xe đẩy gỗ, xộc vào cửa, hất bụi chạy đi.

“Nguy hiểm quá nguy hiểm quá.” Một tên lính canh ngồi bệt trên đất hít hơi hổn hển, chống tay vào thành xe đẩy đứng dậy, bỗng hét thất thanh: “Ơ! Đây là…!” Vải trắng trùm trên xe đã bị vén lên, hóa ra là một cái xác, thân hình gầy đét, da mặt khô quắt, mặc trang phục cung nhân.

“Đây không phải là bà bà hầu hạ tú sư à? Sáng nay vào cung còn khỏe mạnh cơ mà, sao qua trưa đã chết mất rồi?”

Tiểu hoàng môn đẩy xe mặt như đưa đám: “Ai biết được, đang đi đến chỗ thềm mười mấy bậc dưới Trường Kỳ Đình thì tự dưng ngã gãy cổ, không rên một tiếng nào, đến lúc bọn tôi phát hiện ra thì đã sớm tắt thở rồi.”

Trạc Anh đưa Phong Tuấn vào chuồng ngựa, gỡ niêm phong đất sét trên miệng vò xuống, lấy bản đồ bỏ vào ngực áo rồi guồng chân chạy như bay về phía Chức Tạo Phường. Hải Thị gọi cậu, cậu cũng chẳng kịp đáp – Chá Lựu.

Chuyến này biệt ly nhiều năm, trọn kiếp cũng chưa chắc đã hẹn ngày gặp lại. Tính cô ngay thẳng điềm đạm không phiền người khác phải quan tâm, cậu biết, chẳng cần cậu dặn dò mặc thêm áo, ăn thêm cơm, bớt suy nghĩ, cẩn thận bảo trọng thế này thế kia, Chá Lựu cũng có thể lo liệu được thỏa đáng cho bản thân, nhưng cứ phải nghe chính miệng cô ưng thuận với mình mới xem như từ biệt, dẫu phải đợi chờ cũng có câu dặn dò này ở bên.

Cổng sân khóa trái, gõ mấy lần không thấy ai đáp, Trạc Anh chống tay lên bờ tường nhún người, thân mình lập tức bay nghiêng vào như én. Hải Thị theo sau đuổi đến, dừng bước trước tường viện, hai tay chống đầu gối thở hổn hển, ngước lên, gương mặt lộ vẻ đau thương cùng cực, hồi lâu không có động tác gì. Trước mặt nàng trống rỗng, chỉ có một bức tường trắng, bên trong là cây chá lựu vươn cành ra ngoài. Loài cây hoa có một không hai này của Đông Lục lẳng lặng đứng dưới bầu trời xanh, mải miết giơ cao một chùm đỏ rực, mặc gió lướt qua. Yên lặng mà tuyệt trần, khiến người ta kinh hãi trong lòng.

Hải Thị phun một hơi thở dài, tựa như muốn nôn hết những phiền muộn nặng trịch trong lòng ra.

Trong sân vắng ngắt như chết, sắc đỏ bay tung, buông thả lộn xộn như cũng biết rằng từ nay sẽ chẳng ai trông coi chúng nữa.

Từ giữa trưa đến chập tối. Bầu trời nhuộm tầng tầng sắc thái, tô lên từng vạt màu chàm, phủ thêm sắc cam rồi lại tán loang màu đỏ tím, cuối cùng đen đặc.

Then cửa rốt cuộc cũng có động tĩnh, Hải Thị dựa lưng vào cửa ngồi xổm nhảy bật dậy, quay đầu, cửa mở ra trước mặt nàng. Bộ trang phục võ quan trên người Trạc Anh vẫn chỉnh tề, đến một vết nhăn cũng không thấy, chỉ có đôi mắt đen láy ánh kim là mờ đục khói bụi. Hải Thị đưa thanh kiếm ôm trong lòng lên, nói: “Trống canh Thương vừa đánh lúc nãy, phải đi trực rồi.”

Trạc Anh im lặng nhận lấy, ngón cái khẽ đẩy kiếm ra khỏi vỏ, chỉ một tấc, giơ lên trước mắt như muốn soi trong lưỡi kiếm đôi mắt chính mình.

Sao giăng chi chít như cát bạc, song không có trăng – đêm nay là đêm mồng một.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 8: Nguyệt mọc nhật về tây I



Kim Thành Cung là cung điện không có ban đêm, trong tẩm điện sáng đèn trắng đêm – Đế Húc không thể không có ánh sáng dù chỉ một khắc. Nến trượng đã không kham nổi kiểu chong đèn như thế, trong cung dùng đèn lồng đặt dưới đất đặc chế, cách mười lăm bước đặt một chiếc. Đèn lồng cao chừng nửa người, hình trống cơm, chụp đèn làm bằng da bò trắng nguyên tấm, không dùng kim chỉ may lại mà dùng vàng nung nóng bít miệng, đồng thời tạo thành hoa văn hoa cỏ, bên trong đặt đọi đèn thép ròng do thợ thủ công Hà Lạc chế tạp, đốt nến mỡ cá kình và bấc thùa sợi, ít khói ít nhiệt, giữ sáng bền lâu. Hơn một trăm chiếc đèn này làm Kim Thành Cung từ đó không có bóng tối, mọi cử chỉ hành tung đều không thể giấu giếm.

Hành lang hun hút tĩnh lặng, hai hàng đèn da bò trắng chiếu rọi sáng sủa, hai cung nhân im lặng khom lưng đứng cuối hành lang, dung mạo trắng toát mờ nhạt, nom như hai con rối. Vạt sau chiếc áo bào nền đen thêu cầu long (*) chỉ vàng quét trên mặt sàn bạch ngọc phát ra âm thanh loạt xoạt, từng bước từng bước, không nhanh không chậm, như có vô tận thời gian để tiêu phí, hiềm mỗi nhân sinh dài dòng.

(*) Chỉ chung loài rồng, theo truyền thuyết cổ Trung Quốc, rồng có sừng gọi là long, rồng không sừng gọi là cầu.

Bỗng, bước chân dừng lại như suy tư điều gì. “Ngươi nói xem, ta sẽ chết như thế nào?” Bóng người đưa lưng về phía họ, mặt ngẩng lên, hỏi chừng như rất có hứng thú, cũng không chỉ rõ là đang hỏi ai.

Giọng nói ấy hẳn đã từng mát lạnh sạch trong như tiếng vàng ngọc rung động, ngày nay lại ngập ngụa cát sỏi mệt mỏi và phiền chán, tựa như một sợi dây đàn căng giòn, có lẽ ngay sát na tiếp theo sẽ bật ra âm biến chủy (*) quái dị.

(*) Một trong thất âm của nhạc cổ, bao gồm: cung, thương, giốc, biến chủy, chủy, vũ và biến cung.

Hai người sau lưng, người trẻ tuổi cụp mắt giữ im lặng, người lớn tuổi thì ngước mắt lên, “Bệ hạ, ngài vạn thọ…”

“Vạn thọ vô cương, bất lão bất tử đúng không?” Giọng nói êm tai mà lạnh nhạt ngắt lời chàng, chủ nhân giọng nói quay phắt lại, tay áo đen tuyền hoa lệ theo đó cuộn lên một luồng khí, “Giám Minh, trẫm đã hồ đồ đến độ cần đệ dỗ dành lừa gạt rồi sao?”

Phương Chư ngậm miệng, lùi ra sau một bước cúi đầu cáo lỗi.

Đế Húc chẳng phải người anh tuấn nhất trong bốn con trai của Đế Tu nhưng vẻ lạnh buốt khí thế trên khuôn mặt ấy lại tuyệt không tầm thường. Trong tám năm loạn lạc, người đời đều ví Húc vương trẻ tuổi như hoàng đế khai quốc Chử Kinh chuyển kiếp, một mình đương đầu với sóng dữ trong loạn thế, quát tháo vạn quân, ngày đăng cơ oai hùng như thiên thần giáng thế trong sự vây quanh của Lục Dực Tướng. Mười bốn năm qua, tuế nguyệt chưa từng tổn hại đến khuôn mặt y, gương mặt ấy, dáng vóc ấy trước sau chẳng hề thua kém hình bóng tráng niên được vẽ lại trong “Quân thần quyển”, song vẫn già đi trông thấy mỗi ngày – Bóng câu đã tẩy sạch nhuệ khí và nghiêm minh – chính là như vậy, sự già cỗi khó nói thành lời.

“Trạc Anh, ngươi thấy thế nào? Trẫm nên kết thúc thế nào mới được? Say chết? Ngã ngựa chết? Hay là chết trên giường Đề Lan?” Thấy hai người trước mặt biến sắc, Đế Húc cười càng đậm hơn. Đúng lúc này, ánh nến thuần trắng cố định xưa nay bỗng biến hóa – đèn trong Kim Thành Cung gió thổi không chập chờn, nhưng trong ánh sáng trắng hôm nay lại mơ hồ có bóng.

Cái bóng xuất hiện từ quầng sáng trắng của ngọn đèn sau lưng Đế Húc. Hình người, nom tựa bóng ma trên cửa sổ, mắt thấy từ nhạt chuyển đậm, từ hư thành thực, ngay sau đó ánh sáng rách toác, chụp đèn da bò trắng bị thủng từ trong ra ngoài, một bóng người đâm vút ra.

Trạc Anh keng một tiếng rút trường kiếm, nhảy lên, trường kiếm chém ngang ngăn trước mặt Đế Húc. Một tay Phương Chư đỡ hông Đế Húc, lùi thẳng ra sau, chớp mắt hai người đã lùi ra ngoài hai trượng, vừa chạm đất, một ngọn đèn bên cạnh bất ngờ thủng xoạt. Lần này Phương Chư thấy được rất rõ, kẻ địch vốn nấp sau đọi đèn thép ròng bên trong da bò, kề sát vách tường, ánh đèn chiếu ra ngoài nên ẩn thân được. Không khí lưu động cấp tốc, loáng thoáng tạo thành một mũi nhọn sắc bén từ trong đọi đèn lao ra, lướt về phía hai người. Phương Chư đẩy Đế Húc sang bên cạnh, bản thân cúi người xông vào, cách tấm da bò đập vào cùi chỏ kẻ kia. Kẻ kia kêu đau, ngã vào ngọn lửa phía sau, trong đèn chật hẹp, nhất thời không né được, song cũng vô cùng khí khái, nhịn đau thu tay, lẩm bẩm tiếng Man, chỉ nghe xoàn xoạt mấy đường, trên da bò lại không dưng rách ra vài lỗ thủng, thoát thân ra khỏi đèn. Người này và thích khách hiện thân mới nãy đều mặc áo trắng, tóc vàng mắt xanh, dung mạo tộc Man, hai tay trống không, tay nâng một quả cầu gió nhỏ lưu động, vì tốc độ quá nhanh nên trông như thứ gì hữu hình. Đây là một triệu phong sư. Truyền thuyết dân gian thường có loại dị nhân này, nhưng triệu phong sư thế gian từng thấy thì dẫu có dị năng thật cũng chỉ có thể thổi lên gió nhẹ nửa khắc, lấy đó hành nghề mại võ giang hồ, còn lại phần lớn chỉ là người bình thường hoặc công khai hoặc lén lút lừa tiền mà thôi. Triệu phong sư có thể hóa gió thành lưỡi đao vận dụng tự nhiên như vậy e rằng cũng là độc nhất thiên hạ.

Mà thích khách thứ nhất kia cũng không thấy hai tay có binh khí gì, bất kể kiếm thế Trạc Anh gió thổi không lọt thế nào, thân hình vẫn vươn thẳng như thiêu thân xông vào lửa, hoàn toàn không sợ chết. Trạc Anh thấy môn hộ hắn mở toang, thừa thế nghiêng thân kiếm đâm vọt tới, mũi kiếm chĩa thẳng vào cổ họng thích khách, mắt thấy sắp xuyên thủng đầu lâu, song, trường kiếm rung keng một tiếng, nghe hệt đá vàng va chạm! Mũi kiếm đã lún nhẹ vào da thịt cổ họng kẻ tộc Man, lại bị chặn cứng ở đó không sao đâm sâu thêm được. Trong lòng Trạc Anh rét lạnh, trở cổ tay biến chiêu hướng xuống chỗ mềm nhất ở cằm, mũi kiếm như đâm phải vật gì đặc biệt cứng, lại trượt ra.

“Y ngõa nội!” Trạc Anh bật thốt. Y Ngõa Nội là mật kĩ trong Thanh Tu Giáo của Hộc Khố, nghĩa là “vàng trong máu”, vốn là một chi trong bí thuật luyện kim Hà Lạc, chuyên nghiên cứu phương pháp tinh luyện vàng trong máu súc vật, mấy trăm năm vẫn không thành công, chỉ có thể luyện từ trong máu ra thép ròng, thế nên dần suy bại. Sau đó chẳng biết bằng cách nào, Y Ngõa Nội dần biến đổi thành một môn công phu hóa người thành sắt, người tu tập cũng gọi là y ngõa nội, theo truyền thuyết dung mạo không có gì khác người thường, nhưng có thể khiến da thịt như sắt. Khi còn nhỏ Trạc Anh từng thấy một vị tăng Thanh Tu Hà Lạc tu tập hai, ba chục năm, cũng chỉ có thể làm song chưởng hóa thiết, vỗ tay ra tiếng đao kiếm. Tên y ngõa nội hôm nay đến vùng da cằm mềm nhất cũng thành sắt được, chẳng khác nào bọc giáp quanh thân, binh khí khó lòng đả thương.

Tên y ngõa nội kia nghe thấy ba chữ “y ngõa nội” thì lộ vẻ kinh ngạc, nhìn chằm chằm tướng mạo Trạc Anh, cũng thất thanh kêu lên: “Đoạt Lạc nhĩ tát!”

“Ta là Đoạt Hãn.” Trạc Anh khẽ cười, khua kiếm đâm vào con mắt xanh của gã người Man. Gã Man nghiêng đầu tránh, mũi kiếm quệt lên mặt hắn tạo thành chuỗi tia lửa, hắn giơ tay lên lau mặt như chẳng coi vào đâu, dáng vẻ không đau không ngứa. Chính từ cái nhấc tay ấy, Trạc Anh nhác thấy trên ngón giữa tay phải của hắn có một chiếc nhẫn sắt thô to khảm sâu vào thịt, không khỏi nghiêm mặt, không rảnh quay lại xem tình huống sau lưng nên đành phải cất giọng gọi: “Nghĩa phụ!” Sau lưng lại không có hồi đáp.

Trong hành lang lặng gió dần nổi lên âm thanh luồng khí, thoạt đầu mỏng thưa như một vài chiếc lá khô cưỡi gió thong thả bay xuống, đáp đất ra tiếng khe khẽ, tiếp đó tựa như gió cuốn lá vàng gào thét xuyên rừng, ngàn vạn chiếc lá tiêu điều rơi xuống. Trạc Anh nghe âm thanh đó từ chậm chuyển nhanh, bỗng gió mát ập tai, vạt áo tay áo đều bị hất bay lên, mái tóc vàng của y ngõa nội trước mặt cũng phất phơ theo gió, tròng mắt xanh biếc ngậm nét cười mơ hồ. Trạc Anh nhíu mày, lòng biết Phương Chư và Đế Húc gặp phải cường địch, trước mắt chỉ có thể gắng hết sức cầm chân tên y ngõa nội này, không để chúng liên thủ. Nếu tên y ngõa nội này đã tu đến cảnh giới đại thành thì đao kiếm lại thành vướng bận rồi. Lòng hạ quyết định, trong con ngươi đen láy dấy lên ánh kim mãnh liệt, ném trường kiếm trong tay đi, hô: “Bệ hạ!” Sau lưng có tiếng bắt chụp linh hoạt, là Đế Húc nhận kiếm vào tay, dưới k.ích thích của kình lực, trường kiếm dai dẳng tiếng rồng ngâm.

Khóe miệng sắc cạnh tuyệt đẹp của Trạc Anh nhếch lên nụ cười khinh thường, vươn tay phải ra ngang người, mu bàn tay hướng lên trên, không công không thủ, chỉ vươn ra như vậy.

Đàn ông trên thảo nguyên đều biết ý nghĩa của động tác tay này, từ nhi đồng đến thành niên, đến tráng niên, thậm chí ông lão tóc mai hoa râm cũng thường vươn tay ra như vậy.

Lại đấu vật đi.

Đối phương ngẩn người, nhưng cũng nhoẻn cười, giơ tay phải phủ lên mu bàn tay Trạc Anh. Bàn tay lạnh băng cứng ngắc, chạm vào mu bàn tay ấm áp của Trạc Anh, bốc lên mùi tanh của sắt. Trạc Anh lật tay nắm lấy bàn tay đó, khuỷu tay trái phát lực thọc mạnh. Tên y ngõa nội không ngờ cậu ra tay nhanh như vậy, cả người không kìm được nghiêng về phía trước, Trạc Anh rùn một bên thân xuống, vai đón lấy hông y nội ngõa, khẽ quát một tiếng vươn người đứng thẳng, đã khiêng được toàn bộ gã đàn ông to lớn lên vai, tiếp đó thừa thế quẳng ra đầu cuối hành lang. Đấu vật Hộc Khố vốn không có quy định gì mấy về chiêu số, chỉ dựa và sức lực và độ mẫn tiệp của song phương quyết định thắng bại. Tuy hồi còn sống ở Hộc Khố, Trạc Anh chỉ là một đứa bé, nhưng quanh năm vật lộn với tráng hán trong quân cũng luyện được một thân linh hoạt nhanh nhẹn, sau khi trưởng thành càng thêm sức vóc hơn người, đã là hảo thủ đấu vật phi phàm. Thuật Y Ngõa Nội lại chú trọng chuyên tâm thanh tu, kiêng tranh đấu, tên này còn là kiệt tài trong đó, hẳn không thiện quyền thuật. Tâm tư Trạc Anh trong sáng, chỉ thoáng động não cũng nảy ra biện pháp lấy sở trường mình quật sở đoản người này.

Y ngõa nội nặng nề đập vào tường, tiếng nghe loảng xoảng như mặc giáp dày, rồi rơi xuống, xô phải cung nhân hầu hạ bên cạnh – Cung nhân! Trạc Anh thầm lấy làm kinh hãi. Trong cánh cửa đằng sau hai cung nhân kia chính là thượng thư phòng Kim Thành Cung, chỉ cần trốn vào trong cửa là có thể men theo cửa hông gọi cấm vệ tới, tại sao đã nửa khắc trôi qua rồi mà họ vẫn đứng im bất động? Vậy chỉ có thể là bởi… họ đã sớm chết rồi. Cung nhân bị y ngõa nội đụng trúng chậm rãi tựa vào bức từng ngọc thạch trắng sau lưng trượt xuống, sau đầu quệt ra một vết đỏ sệt quánh đặc, mà cung nhân còn lại thì vẫn đứng thẳng, mi mắt cụp thấp, chỉ có vàng ngọc trên đầu bị cú ngã mới rồi của y ngõa nội làm chấn động, vẫn đang rung lên không ngớt.

“Bệ hạ, ngài đi trước đi.” Phương Chư nói, ngữ điệu thường ngày ấm áp trở nên quả quyết, vang vọng như chuông trong hành lang bịt kín.

“Không.” Đáp lại chàng là một giọng nói ngậm cười lạnh lùng. Đó là Đế Húc. Tưởng chừng như năm tháng thình lình chảy ngược hai mươi năm, trong giọng nói đó toát lên uy nghi khôn tả và ngông cuồng nghịch thời.

Gió nổi xào xạc, rừng rậm cuồn cuộn tựa phong ba, như có chim di cư lao vội vào rừng, bách thú gầm rít lao vọt.

“Dực Thùy Đồ Nam, ai cũng bảo là thuật triệu phong này đã tuyệt tích thế gian, hóa ra truyền nhân lại ở tộc Man.” Đế Húc vừa như cảm thán lại tựa thích thú, “Giám Minh, sống sót kể cũng thú vị đấy.”

Người đàn ông hộ vệ phía trước cũng gợn cười, sóng vai cùng Đế Húc đi vào.

Trong hành lang đã nổi cuồng phong, ép hai người khó lòng mở mắt. Ánh nến nhún nhảy, trăm bóng chập chờn, chỉ nghe sau lưng tiếng kiếm và lưỡi dao gió va chạm nhau leng keng.

Trạc Anh nghe thấy tiếng hai người, trong lòng hơi thả lỏng, không đợi y ngõa nội trước mặt đứng lên đã tung mình nhào tới đè nghiến hắn xuống. Y ngõa nội kia lại ngẩng mặt lên, cười lạnh. Trạc Anh hiểu ý hắn – Ngươi có đánh ngã được ta cũng không giết được ta. Trạc Anh cũng cười nhạt, tay trái bẻ mặt y ngõa nội qua, khuỷu tay phải lập tức vận sức nghiền mạnh xuống đoạn khớp giữa xương gò má và xương hàm. Chỉ nghe vang tiếng két két khe khẽ như lá sắt vỡ vụn, khớp xương y ngõa nội bị đè, không kìm được há miệng ra, lại như nghĩ ra cái gì, mặt biến sắc, khục khặc phát tiếng.

“Không phục? Ta có nói là sẽ vật tay không với ngươi à? Luống cả một thân da thịt ngon lành, đầu óc thì lại ngu hết thuốc chữa.” Trạc Anh tủm tỉm, đùi tăng lực, chèn chặt hai chân muốn đạp đá lung tung của y ngõa nội.

Tên y ngõa nội hoảng loạn nghiêng đầu, nhưng cũng đã muộn, một tia sáng kim loại óng ánh đâm vụt tới, xuyên từ khoang miệng há rộng của hắn vào hàm trên, đâm thủng tủy não, con ngươi lập tức rã rời. Máu và nước bọt hỗn tạp chảy xuống khóe miệng, trong miệng nhét đầy chuỗi ngọc khảm nạm đá lựu đá trám tinh xảo.

Trạc Anh thò tay vào rút chiếc trâm tua nhuốm máu và tủy não ra. Máu tươi trong miệng y ngõa nội dần trộn lẫn sợi trắng.

Lúc này, Đế Húc và Phương Chư liên thủ đánh với một gã Man khác đang hăng, ba người quần thảo trong gió cuốn, lên xuống đan xen, kiếm quang loang loáng. Mới rồi Đế Húc nói thuật túng phong gã Man kia sử dụng là “Dực Thùy Đồ Nam”, Trạc Anh cũng từng nghe Phương Chư đề cập tới cái tên này, là bí thuật lưu truyền tiền triều, lấy ý theo côn bằng (*) cưỡi gió hành tẩu, hàm nghĩa to lớn nhanh chóng. Khi xưa, hoàng đế khai quốc nhà Trưng Chử Kinh nổi dậy ở Bồng Cảo, bách chiến lập quốc, có một võ tướng tiền triều kiên quyết không chịu hàng, khổ chiến trong vạn quân, thi triển thuật pháp này, sát thương hơn hai trăm người, sau cùng không thể trốn thoát, kiệt sức chết trận.

(*) Thần thú trong truyền thuyết cổ Trung Quốc, là sinh vật vô cùng to lớn, được ghi trong “Trang Tử – Tiêu dao du”: “Bắc Minh có cá, tên là côn. Côn to lớn không biết mấy ngàn dặm. Hóa thành chim thì gọi là bằng. Lưng bằng không biết mấy ngàn dặm; sải cánh bay, cánh như mây trời.”

Đế Húc đột nhiên ngã khỏi vòng giao chiến, thanh kiếm ba thước đứt gãy từng tấc, rơi xuống bên cạnh thi thể tên y ngõa nội đã chết. Gã Man kia lại đuổi sát tới, hoàn toàn không để tâm sau lưng lộ trần dưới song chưởng Phương Chư. Đế Húc thuận tay xách thi thể y ngõa nội lên chắn trước người, tộc Man bèn vứt kiếm dùng chưởng, mắt thấy đòn sắp giáng xuống lưng cái xác, Trạc Anh chợt tung người xô bật Đế Húc, một tay xoay bả vai thi thể, một chưởng vỗ lên chính giữa lưng, chỉ thấy tay chân thi thể kia lách cách cử động, từ trong các đại huyệt ở vai ngực b*n r* mười mấy gai sắt hình thoi. Gã Man kia giận dữ quát một tiếng, hai ngón tay b*n r* luồng khí vô hình, chớp mắt đã bắn bay mười mấy gai sắt, song không đề phòng Phương Chư đuổi theo sau lưng tập kích một chưởng. Một chưởng đó cũng chẳng quá nhanh, nhưng vô cùng tĩnh lặng, thế lớn sức trầm đóng xuống gáy gã Man, phát ra một tiếng phịch vang rền. Gã Man tức khắc sụp sống lưng, ủ rũ rơi xuống đất.

Phương Chư không để ý tới gã Man sống chết ra sao, chạy thẳng tới bên cạnh Đế Húc, đỡ y dậy. Trạc Anh cũng đứng dậy khỏi mặt đất, đi về phía gã Man kia. Sống lưng gã Man vỡ nát, giày vò vô cùng, lại không thể chết ngay, hai mắt trợn trừng muốn nứt ra. Trạc Anh ngồi xổm xuống, nhìn vào đôi mắt xanh đục ngầu của hắn. Gã Man nhìn Trạc Anh, trong mắt lướt qua tia sáng biếc cuối cùng, vùng vẫy, khò khè đứt quãng phun khí, loáng thoáng hợp thành một câu: “Trác âm, hãn sát nỗ tháp ba âm…” Đó là câu cuối cùng của rất nhiều đàn ông Hộc Khố.

Thù oán có sâu hơn nữa, người thắng cũng sẽ không từ chối thỉnh cầu như vậy.

Trác âm, hãn sát nỗ tháp ba âm – Giết ta, cho ta quang vinh chiến sĩ. Chiến đấu dũng mãnh mà chết, thành bại đều thản nhiên, là quang vinh cuối cùng. Đó cũng là câu đầu tiên đứa bé Đoạt Hãn nói với Phương Giám Minh năm xưa, khởi nguồn cho cái tên Đông Lục của cậu.

Trạc Anh mấp máy môi nhưng không ra tiếng.

Vu cát tháp na – Gặp lại dưới suối vàng.

Gã Man đọc được câu nói không tiếng của cậu liền an tâm nhắm mắt, chờ đợi một kích trí mạng hạ xuống. Trạc Anh quay người lại, mặt không đổi sắc đâm trâm tua vàng vào huyệt trung đình của hắn. Sắc mặt gã Man thả lỏng, chân mày giãn ra, tức thì loại bỏ thần sắc đau đớn.

Có tiếng bước chân lộn xộn, rốt cuộc cấm vệ cũng phát hiện ra khác thường. Trạc Anh đứng dậy, lại đỡ Đế Húc. Đế Húc không bị thương, chỉ bị máu người Man dính vào mắt, tầm nhìn mắt phải mơ hồ. Thấy Trạc Anh tới thì mỉm cười: “Trạc Anh, ngươi tuy trẻ tuổi nhưng là một hải thủ. Muốn ban thưởng gì không?”

Trạc Anh cũng gợn cười, đôi mắt như sâu không thấy đáy, dướii ánh đèn chớp sáng động lòng người, “Thần e mình quá vượt quyền.”

“Không sao. Chỉ cần trong nước có, ngươi đều có thể tự lấy.” Đế Húc dựa vào vai Trạc Anh, giơ tay lau máu trên mắt phải.

“Vậy, thần vô lễ rồi.” Nói đoạn, ánh vàng giữa ngón tay Trạc Anh lộng ngược, nhanh như cắt cắm thẳng vào ngực Đế Húc như một đường cầu vồng hung hiểm.

Đế Húc không đường tránh né, đến nụ cười trên mặt cũng không kịp thu hồi, mắt thấy phải bỏ mạng dưới một cây trâm.

Thì ra là vậy – Hai tên thích khách, một người có thuật túng phong, một người luyện máu thành sắt, giấu ở chỗ kinh mạch giao nhau khắp thân, dẫu hóa gió thành lưỡi dao không giết được Đế Húc thì vẫn có thể lấy xác để giết. Dẫu hai tên đều chết thì Đế Húc và Phương Chư cũng đã mất sức bị thương, hoàn toàn không hề phòng bị Trạc Anh đột ngột đả thương người, vẫn còn một vũ khí tuyệt mệnh để giết – đó là bẫy trong bẫy, giết trong giết.

Máu tươi bắn tung, tiếp đó trên tấm bào tơ xanh lục nhanh chóng lan ra một mảng đen ngòm. Trâm tua đâm sâu vào xương thịt, chuỗi ngọc điểm xuyết vang lên lanh canh, tiếng châu thánh thót.

“Giám Minh!” Đế Húc hét lên kinh hãi, lúc này mấy chục cấm vệ xách đao chạy tới cũng kinh hãi ngây người tại chỗ.

Đế Húc ngã ngồi trên đất, mặt nhuốm máu bẩn, trên vai tổng quản Phượng Đình Phương Chư máu chảy như suối, vẫn duy trì tư thế lấy che cho Đế Húc. Vũ Lâm vạn kị Phương Trạc Anh thì phi thân đá một thanh kiếm dưới đất lên, khơi dậy ánh chớp hỗn loạn, lao thẳng vào giữa đám cấm vệ.

Mặt Phương Chư tái xanh, một tay ấn chặt vết thương, nghiêm giọng quát: “Trạc Anh!” Máu túa ra từ kẽ ngón tay chàng.

Trạc Anh đã xông đến cửa ra hành lang, vừa đi vừa đánh, trong đao kiếm va chạm, chỉ nghe cậu lạnh lùng cất giọng trả lời: “Trên đời vốn không ai tên là Trạc Anh. Ta là Đoạt Hãn.” Tiếp đó nháy mắt đã nhảy ra khỏi đám người, vọt lên nóc trùng diêm cung điện, bặt tăm tung tích.

“Bệ hạ, con nuôi mưu nghịch, thần…” Gương mặt sáng sủa của Phương Chư nhăn lại, thấp giọng nhận tội.

Đế Húc lắc đầu, lẩm bẩm: “Giao tình giữa ta và đệ đổi được từ lấy mạng thế mạng trên chiến trường, trong lòng ta hiểu rõ. Lại nói ta mà chết đi, đệ cũng không sống được. Chỉ là…” Giọng y như mỉa mai, “Ta vốn tưởng Kim Thành Cung này là cung điện không bóng, không thứ gì ẩn núp được. Nào ngờ chính những ngọn đèn để chong này lại suýt nữa lấy được mạng ta.”

Trán Phương Chư đã rỉ đẫm mồ hôi lạnh, vết đao bên khóe miệng co rúm, “Bệ hạ, xin quý trọng long thể.”

“Không chết được… Trẫm sẽ chờ ở đây xem rốt cuộc bao giờ thiên địa càn khôn này mới giáng tội được trẫm, rốt cuộc bao giờ mới gi.ết ch.ết được trẫm! Trẫm sẽ chờ trời phạt giáng xuống.” Y hừ lạnh, “Trước lúc đó, trẫm sẽ không chết.”

Ánh mắt Đế Húc điên cuồng mà ngoan cố trừng l*n đ*nh đầu. Nơi đó chẳng có vòm trời sâu thẳm mênh mang mà chỉ có khung trần ngọc thạch trắng ơ hờ, đèn đuốc sáng trưng.
 
Hộc Châu Phu Nhân - Tiêu Như Sắt
Chương 9: Nguyệt mọc nhật về tây II



Vải trắng sạch sẽ vừa phủ lên vết thương, trong nháy mắt đã thấm đẫm vết máu. Cung nhân trẻ tuổi luống cuống tay chân, vội vàng vớ hai tấm khăn nữa đậy bừa lên, dùng sức hơi lớn làm đôi mắt hẹp dài thanh tú của người đàn ông khẽ híp lại.

“Phương tổng quản…” Cung nhân trẻ tuổi hoảng sợ ném khăn đi, rưng rưng quỳ rạp xuống đất, vai không ngừng run rẩy.

Phương Chư hờ hững liếc bóng dáng nhỏ yếu đáng thương ấy. Họ sợ chàng, cũng là điều dễ hiểu. Một thanh kiếm giết người như ngóe, dẫu không chĩa vào mặt họ song chỉ trông giọt máu từ sống kiếm lăn xuống kia cũng đủ khiến người ta kinh khiếp rồi.

“Cô đi đi, để ta thu dọn cho.” Hải Thị bận nam trang áo xanh, tựa cửa lạnh lùng mở lời.

Cung nhân nén lệ, ngước mắt ngó Phương Chư, thấy chàng không phản đối thì như được đại xá, nhẹ chân vội vàng lui ra khỏi phòng.

Xiêm áo vai trái dính máu của Phương Chư cởi xuống hông, trên vai đắp vải trắng, cũng loang lổ vệt son. Hải Thị trở tay đóng cửa đi qua, nhẹ nhàng vén khăn vải ra, tức thì lặng lẽ hít mạnh một hơi. Đường kính vết thương chẳng to hơn hạt đậu nhưng rất sâu, máu đã gần ngừng chảy nhưng vẫn như một dòng suối mảnh dài, nhuộm bả vai và cánh tay đỏ lòm. Hải Thị nhíu mày ngồi xuống bên sập, lấy vải chấm rượu lạnh lau vết máu cho Phương Chư.

Màu sắc nguyên bản của làn da dần được rửa sạch hiện ra. Mỗi một lần lau, thần sắc trong mắt Hải Thị lại tối xuống một nấc.

Vì nhiều năm không ra nắng nên làn da màu lúa mạch thời niên thiếu của Phương Chư đã phai thành màu trắng xanh. Trên bờ vai để trần dày đặc hỗn tạp những vết thương lớn nhỏ từ đỏ tím đến trắng nhợt – hình dạng như đồng tiền xuyên qua bả vai là do trúng tên, ngang dọc nổi gồ là vết đao, đen bầm cả đời khó tiêu biến là do bỏng, nóng và lạnh.

“Nghĩa phụ… Người từng giết bao nhiêu người?” Hải Thị ngâm khăn vải vào chậu rượu lạnh, màu đỏ thẫm loang ra.

“Đếm không xuể.” Người đàn ông nghiêng đầu, không hề nhìn nàng.

Khăn vải trắng muốt đã bị nhuộm thành đỏ nhạt, Hải Thị buông mi cụp mắt, cẩn thận nhẹ nhàng vòng qua vết thương mới, “Lần cuối cùng là lúc nào?”

Người đàn ông yên lặng thoáng chốc, đáp: “Bảy năm trước.”

“Bảy năm?” Ngón tay Hải Thị dừng lại. Dừng hồi lâu, nhiệt độ làn da dưới tay xuyên qua khăn vải ẩm ướt, chậm rãi thẩm thấu. Nàng nhìn ngón tay mình không chịu khống chế cuộn lại, bóp khăn vải ra vệt nước, “Bảy năm trước?”

Phương Chư vẫn im lặng.

“Người lừa con.” Hải Thị cúi thấp đầu, bả vai như dùng lực cực đại. Nàng thình lình ngẩng phắt lên, trong đôi mắt rưng rưng ngập tràn ánh sáng đau hận, “Ngay trong buổi sáng hôm nay, người đã giết Chá Lựu. Người chỉ dùng mấy câu nói đó đã g.iết ch.ết được cô ấy.”

Phương Chư chỉ một mực không nhìn nàng. Sườn mặt phong nhã thanh lệ đến thế, không buồn không vui như được tạc từ đá, ấy nhưng không chịu nhìn nàng.

“Trước khi chết, cung nhân già đó đã buột miệng mắng Chá Lựu hại mình, còn nữa…” Trên rèm mi dày đậm của Hải Thị vương ánh lệ nhỏ vụn, “Nguyền rủa người không được chết tử tế.”

Phương Chư dửng dưng nhếch miệng. Sống trong nhà công hầu, học trong vườn đế vương, chinh chiến khắp ngàn dặm, tính lại cả đời, chàng đã sớm ngộ ra thế nào là không được chết tử tế – sống còn chẳng được sống tử tế thì việc gì phải suy tính chết có được tử tế hay không? “Tại sao? Rốt cuộc người muốn Trạc Anh làm gì cho người? Huynh ấy coi trọng lời hứa hơn tính mạng, từ năm mười ba tuổi bị người thu phục đi theo đến nay, mệnh lệnh của người có lần nào huynh ấy từng làm trái? Một hoàng đế như vậy, Chá Lựu bị mù là tại ông ta, Lục Dực Tướng chết là tại ông ta, năm sáu tuổi con bị đưa vào Giao Hải mất cha lạc mẹ cũng là tại ông ta – chỉ cần một câu nói của người, huynh ấy cũng bằng lòng hi sinh tính mạng, bảo vệ một hoàng đế như thế. Dẫu Chá Lựu tự sát ngay sau khi trở về từ Sưởng vương phủ, huynh ấy muốn báo thù cũng chỉ biết tìm đến Sưởng vương phủ, sao có thể tìm đến tận hoàng đế?”

Hải Thị vươn tay. Ngón tay nàng run rẩy. Đôi mắt chàng dài đẹp thâm thúy tựa vực sâu rồng ẩn; sống mũi chàng hẹp thẳng nom hệt mũi đao; gương mặt chàng xương xương, tâm tư nặng nề. Đầu ngón tay nàng khẽ phất qua gò má chàng, như bông hoa năm cánh miên man, uổng công vãn hồi tầm mắt chàng.

“Tại sao Chá Lựu không thể không chết? Từ bé đến lớn, phàm người muốn chúng con làm gì, dẫu bao nhiêu khó khăn, chẳng cần tính mạng, bọn con cũng sẽ làm được cho người. Nhưng Chá Lựu, cô ấy thật sự không thể không chết ư? Đó chỉ là một cô gái mù! Cô ấy chết, Trạc Anh không khóc một tiếng nào, có lẽ cả đời này huynh ấy cũng chẳng khóc nổi nữa rồi!

“Thế nên cô gái mù đó không thể không chết.” Rốt cuộc mắt Phương Chư cũng nhìn thẳng Hải Thị, chậm rãi trầm thấp nói.

Một tiếng giòn giã vang lên, mặt Phương Chư bị đánh nghiêng sang một bên, trên gương mặt trắng nhợt hiện lên năm vết đỏ.

Hải Thị tóm chặt cổ áo phải của chàng, trừng mắt không sao tin nổi nhìn khuôn mặt lạnh nhạt, nước mắt vỡ tròng tuôn ra. Thì ra nàng và Trạc Anh đều là quân cờ cho ngón tay chàng tuyệt tình khua gảy. Chàng căn bản chưa từng coi Trạc Anh và nàng là con cái, thậm chí còn chẳng coi là người – ngoài Đế Húc ra, người bên cạnh vốn dĩ không coi là người. Với Hải Thị, Trạc Anh là huynh trưởng là bằng hữu, có thể uống rượu luận kiếm cùng ngựa chung xe, tình như thủ túc. Phương Chư lại là thầy, là cha, là bạn, là tia chớp ánh sáng khai thiên lập địa trong thế giới hỗn độn của nàng. Nàng vốn biết mình và chàng không có khả năng, cũng chẳng ước mong xa vời điều gì. Không hỏi quá khứ, không màng đường lui, giết người như ngóe chỉ vì một câu khen ngợi từ chàng, kết quả, lại đổi được một kết quả như vậy.

Nàng siết chặt áo chàng, nhìn xoáy vào mắt chàng, lệ như ngọc chuỗi đập xuống vết thương trên vai chàng, đau xót nhức nhối. Đứa trẻ ngây thơ mà quật cường như một con thú nhỏ không muốn rời xa chàng. Nàng là bé con chàng đích thân ôm về, tuy nhiên, chàng đã quên mất rằng nàng sẽ lớn lên. Có lúc, dẫu mặc nam trang cũng chẳng che giấu được đôi mắt mỹ lệ đó giờ vẫn mê hoặc hớp hồn.

Nàng trợn trừng đôi mắt trắng đen rõ ràng nhìn chàng. Ngón tay do dự nhấc lên từng ngón, qua một khoảng thời gian rất dài, sau cùng mở ra thành tư thế tìm kiếm nho nhỏ. Giơ cao lên một thước nữa là có thể ôm bờ vai nhỏ gầy của nàng.

Nhưng chàng không giơ lên. Tay dừng lại giữa không trung nửa khắc, bỗng nắm thành quyền, thu về hạ xuống bên người. Mặt không đổi sắc, nàng chưa từng phát hiện ra.

Vẻ đẹp của nàng như một lời sấm, không lúc nào không nhắc nhở chàng: Chàng đã sớm quyết ý chặt đứt mình, đời này đã phế.

Chàng không thể không tránh ánh mắt nàng. Dòng nước sông ngòi không bao giờ chảy ngược, số phận của họ một đi không thể trở về.

Cửa vang lên tiếng gõ khe khẽ. Người hầu trong quán cách cửa gọi: “Tiểu công tử, trong cung truyền lời tới, giục ngài lập tức lên đường.”

Hải Thị rùng mình toàn thân, đột nhiên thả tay buông vạt áo chàng ra, ngẩn ngơ đôi chốc, lại thô lỗ dùng mu bàn tay chùi nước mắt đẫm mặt, mò từ trong ngực ra một chiếc phàn chỉ bằng vàng khảm lưu ly xanh nhạt, ném lên người Phương Chư. Chiếc phàn chỉ ấy vốn Phương Chư tự dùng, nàng đeo chê to, bèn lấy tơ xanh quấn lại như con gái khuê các bình thường quấn nhẫn vậy.

Phương Chư như nhìn mà không thấy, đáp lại ngoài cửa: “Trả lời bọn họ, tiểu công tử tới ngay đây.” Giọng không mang một nét chập chờn.

Hải Thị phun ra một hơi thật sâu rồi đứng lên, đi từng bước ra cửa, chợt ngoái đầu lại, ấn đường khóa nghi hoặc và thê lương, “Nuôi con mười năm, Trạc Anh mười lăm năm, chẳng lẽ… chính là để hôm nay bọn con chém giết lẫn nhau? Rốt cuộc con có thể tin người bao nhiêu?”

Nàng cứ đứng như vậy một khắc, từ đầu chí cuối vẫn không đợi được câu trả lời của chàng.
 
Back
Top Bottom