Đô Thị  Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả

[BOT] Dịch

Quản Trị Viên
24/9/25
498,949
0
36
AP1GczN6V9VbxFQaEkaR7bqRJ2FgXOad-fx_TEgpzgia4Pt8WD9Qimh9QLgrBqmgQa0eC18Ul3gFOkJNNvfa-Ck-_9eioZurGxSbagXiVjiKskHen50TKOJcEl00C1Jf7jIzpt-DxSI15cDrf8KjZtBGb_C0=w215-h322-s-no-gm

Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Tác giả: Sở Thị Thập Lục Giới
Thể loại: Đô Thị, Đam Mỹ, Sủng
Trạng thái: Full


Giới thiệu truyện:

Khi tôi mặt dày bước vào quán trà, Diệp Thanh Hữu nói sẽ mời tôi uống trà. Tôi uống một hơi hết sạch, chỉ cảm thấy vị ngọt thanh lan tỏa khắp miệng răng môi thơm nồng nàn.

Diệp Thanh Hữu hỏi tôi cảm giác thế nào, tôi đáp tốt, trà ngon tuyệt đỉnh. Nước trà mát lạnh trong suốt, hương vị ngọt ngào như mật, mùi thơm ngào ngạt có mùi hoa quả, hoàn toàn khác với mấy loại trà đắng nhạt nhẽo mà tôi từng uống!

Diệp Thanh Hữu nói, em đánh giá rất chuẩn. Nhưng thứ vừa nãy anh đưa em uống không phải trà, mà là nước mía.

Tôi: “…”

Tôi thật lòng muốn theo đuổi anh, vậy mà anh lại mời tôi uống trà giả?!?!

Truyện cùng Series “Có lẽ tôi đã trồng một bông hoa giả”, câu chuyện của cậu bạn cùng phòng Văn (Văn) Bạch (Thọ) Hoa.

Diệp Thanh Hữu x Tạ Gia.

Đàn anh thanh cao nghệ nhân trà x Đàn em giả vờ am hiểu nghệ thuật, hài hước. Hai bên yêu thầm.

Người Phúc Kiến x Người Quảng Đông.​
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 1


Một

Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Diệp Thanh Hữu là từ cái miệng thối của Vương Đại Chúc. Một cái tên tao nhã thanh cao như vậy mà lại thốt ra từ cái miệng hôi không thể ngửi nổi, nghĩ thôi cũng thấy đó là sự ô uế thảm thương.

Đã đến lúc ép Vương Đại Chúc hình thành thói quen đánh răng mỗi ngày rồi.

Hôm đó, tôi đang ngồi trước máy tính, lập đội với Văn Bạch Hoa đánh trận trong Swords of Legends Online 3, đánh 2 đấu 2. Văn Bạch Hoa chơi Hoa Gian, tôi chơi Bổ Thiên, đến lúc nguy cấp cậu ta dùng chiêu vô địch ngắt quãng khi tôi đang đọc dòng hồi máu lớn, khiến tôi tức giận đập bàn phím, đòi đánh nhau với cậu ta. Sau trận đó chúng tôi nằm chân đối chân trên sàn đấu lạnh lẽo, dùng giọng yếu ớt mà chửi F*ck với nhau, rồi bảo sẽ không bao giờ cùng nhau làm số một thiên hạ nữa.

Vương Đại Chúc thừa cơ lao vào phá hoại tình bạn cách mạng của chúng tôi: “Gia Gia, tối nay câu lạc bộ văn học tổ chức buổi chiếu phim ở quán trà Hoà Quang, mày muốn đi không?”

Tôi: “Gia cái đầu mày. Không đi.”

Từ lâu tôi đã rất khinh thường những kẻ học làm sang như Vương Đại Chúc. Dựa vào việc nhà làm đồ cổ, hắn tự xưng là học giả hạng hai rưỡi, chỉ biết những chuyện trăng gió trong văn học cổ kim, còn những vấn đề quốc gia thì hỏi gì cũng không biết. Mỗi ngày cầm hai quả óc chó đi dạo quanh phố đã cảm thấy mình vừa tài năng vừa bảnh trai, chẳng biết ai đã cho hắn sự tự tin đó. Những buổi tiệc trà mà hắn quảng cáo, chắc chắn chỉ có đám người ô hợp tụ tập, giả vờ tri thức, than vãn vài câu vô thưởng vô phạt, rồi kết thúc bằng Chicken Soup for the Soul trên mạng xã hội.

Vương Đại Chúc còn nói, buổi chiếu phim lần này có cao nhân tới đấy. Thầy Giang dạy lịch sử Mỹ, cô Lục dạy lịch sử nghệ thuật phương Tây sẽ đến giải thích ngay tại chỗ, mày không muốn nghe một chút à?”

Tôi: Toàn là ai thế, tao không biết. Không hứng thú

Vương Đại Chúc vẫn muốn thuyết phục tôi nhưng tôi đã quay đầu hét lớn: Bách Hoa, chúng ta làm lành nhé. Đánh thêm một trận nữa, nếu thắng tao sẽ lại làm số một thiên hạ với mày.

Văn Bạch Hoa rất lạnh lùng từ chối: Không. Mày là một đứa thấy Nam Phong hồi chiêu mà không biết hồi máu.

*Nam Phong là một kỹ năng trong Swords of Legends Online 3, tập trung vào khả năng gây sát thương.

Tôi tức đến mức muốn chộp lấy bàn phím đánh nhau tiếp, Vương Đại Chúc can ngăn tôi nói Gia Gia bình tĩnh lại nào, hôm qua Bách Hoa mới bị người ta giở chiêu, mày phải thông cảm cho nó chứ; tôi bảo mình không thể bình tĩnh được, không những không muốn thông cảm mà còn muốn đặt thêm “gói tha thứ” cho cậu ta. Vương Đại Chúc hết cách, vì tình nghĩa bạn bè cùng phòng phải dùng đến chiêu cuối cùng.

Vương Đại Chúc nói, chủ quán trà là một đàn anh năm tư cực kỳ đẹp trai, cựu chủ tịch câu lạc bộ văn học, Diệp Thanh Hữu, đẹp trai mặc áo sơ mi trắng đeo kính thích đọc sách – kiểu người mà mày thích nhất đó. Vậy mày có đi hay không?!

Tôi không cần suy nghĩ đã trả lời ngay lập tức: Đi!!!

Trà thất Hòa Quang nằm sâu trong một con ngõ hẻm, tôi phải lẽo đẽo theo sau Vương Đại Chúc đi qua chín quẹo mười tám rẽ mới tìm thấy cửa tiệm.

Mặt tiền của quán trông rất trang nhã, bên trong hàng rào có một vườn ươm nhỏ trồng hoa bìm bìm, bên cạnh vườn là một ao hoa súng, trước mái ngói hiên là một chiếc bàn trà gỗ cũ. Khi chúng tôi bước vào sân, trời đang mưa lúc hoàng hôn, nước mưa nhỏ giọt trên mái hiên rơi xuống các bậc đá xanh và ao hoa súng, nghe rất êm tai.

Phía trước trà thất có một tấm rèm chuỗi hạt, được buộc sang hai bên để đón khách. Vương Đại Chúc vừa thu ô vào cửa, vừa nói với tôi rằng toàn bộ thiết kế và trang trí mặt tiền quán đều do chính chủ nhân trà thất tự tay làm khiến tôi thán phục không thôi, càng làm tôi cảm thấy người anh khóa trên này thật sự rất hợp gu tôi.

Buổi chiếu phim bắt đầu lúc 6:30, nhưng giờ mới có hơn 5 giờ thành ra chưa có ai đến, ngoài tôi và Vương Đại Chúc, chỉ có một chị gái mặc Hán phục ngồi sau quầy trà đối diện cửa ra vào để trông coi tiệm. Vương Đại Chúc nhân cơ hội chiếm lấy một bàn trà gần cửa, cố gắng khoe khoang làm màu với chút kiến thức về trà của mình. Nào là cái này là gắp trà, cái kia là bới trà, bla bla giới thiệu một tràng, rồi hỏi tôi muốn uống loại trà nào để hắn mời. Tôi nói loại đắt nhất cảm ơn, Vương Đại Chúc lập tức nhăn mặt lấy từ trên kệ xuống một gói Bích Loa Xuân.

Ba ngàn sáu một cân đấy, gói nhỏ này cũng phải hơn mấy chục rồi, Gia Gia, tao nể mày lắm rồi đấy. Vương Đại Chúc vừa nói vừa mặt mày như đưa đám đổ trà vào một ống tre chẻ đôi – sau này tôi mới học được cái đó gọi là cung nhãn trà – rồi đun một ấm nước sôi.

Khi pha trà xong, hắn rót cho tôi một chén sứ nhỏ chỉ bằng quả vải. Tôi vừa cầm lên vừa nghĩ mẹ nó gì mà một tí như này cũng đáng mấy chục tệ á? Tôi uống một ly trà sữa trân châu to đùng chỉ có 13 tệ thôi. Rồi tôi uống một ngụm và phì ra ngay lập tức.

Vừa nóng vừa đắng, cái quái gì thế này! Tôi vội vàng nhổ vào thùng chứa nước thải bên cạnh, vừa nhổ vừa nói: “Vương Đại Chúc con mẹ mày định ám sát bạn cùng phòng đấy à?”

Vương Đại Chúc vẫn chưa uống trợn to mắt: “Không thể nào, tao pha tệ đến mức ấy ư?” Nói rồi hắn không tin nổi cũng uống một ngụm.

Một giây sau, số người ôm lấy thùng nước thải phì phì tăng từ một lên hai.

Chúng tôi khổ sở nhổ xong, mỗi người rút một tờ giấy lau miệng, nhìn chén trà Bích Loa Xuân giá một cân ba ngàn sáu mà thấy hoang mang. Tôi vừa định mắng Vương Đại Chúc có phải mày cho tao uống trà giả không thì nghe thấy từ phía sau tấm rèm trong quán vang lên một tiếng cười nam thần, sau đó có người vén rèm vải bước ra khỏi phòng.

“Lá trà Bích Loa Xuân rất non mịn, cần dùng nước ở khoảng 80 độ để pha, sau khi rót nước vào phải rót trà ra ngay lập tức.” Người đó nói. “Đại Chúc, em dùng nước sôi để pha, rót trà lại chậm, trà pha ra tất nhiên sẽ cực kỳ đắng.”

Tôi quay đầu, thấy một chàng trai vừa cao vừa gầy đứng bên giá trưng bày cổ vật. Anh mặc một bộ đồ nghệ nhân trà kiểu Đường, da trắng đường nét gương mặt thanh tú, mỉm cười nhìn chúng tôi. Nhận ra tôi đang nhìn, anh nhẹ gật đầu: “Xin lỗi vì đã để các em đợi lâu. Anh là chủ trà thất Diệp Thanh Hữu.”

Lúc đó trong đầu tôi như có một màn pháo hoa nổ tung giữa bầu trời đêm.

Hồi còn thời kỳ phi chính thống tràn lan trên thế giới mọi người thường thích nói một câu, cả đời bạn sẽ gặp hai người: một người làm kinh ngạc thời gian và một người dịu dàng suốt năm tháng. Tôi luôn coi thường câu nói đó, cho đến khi gặp Diệp Thanh Hữu tôi mới cảm thấy dù có nhân đôi rồi bình phương hai điều đó lên, cũng không bằng một phần mười nghìn anh ấy đối với tôi.
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 2


Cuối cùng Vương Đại Chúc cũng nhìn thấy cứu tinh, kêu lên một tiếng rồi vội vàng bò dậy từ sau bàn trà, trả lại long ỷ: “Cuối cùng bệ hạ cũng đến! Bệ hạ ơi cứu thần!”

Diệp Thanh Hữu bật cười: “Trẫm đến cứu ngươi đây.” Nói rồi, anh xắn tay áo, ngồi xuống sau bàn trà.

Tôi không thể rời mắt khỏi anh trong suốt quá trình anh rót nước, để nguội, thử nhiệt và pha trà; những động tác uyển chuyển, thanh nhã và điêu luyện của anh đẹp mắt hơn không biết bao nhiêu lần với dáng vẻ tay giống chân của Vương Đại Chúc. Anh pha một ly trà trước thử vị, nhíu mày rồi đổ đi, sau đó mới pha một ly khác, trong lúc pha anh dùng giọng nói ấm áp dạy dỗ Vương Đại Chúc: “Dùng nước sôi pha trà xanh, rót trà lại chậm, chưa đủ đã đổ ra. Sau này ra ngoài đừng nói quen biết anh.”

Vương Đại Chúc khóc hu hu: “Sư phụ, con sai rồi, con không dám nữa!”

Diệp Thanh Hữu: “Lần sau còn thấy em chà đạp Bích Loa Xuân của anh, sau này đến quán trà em chỉ được uống nước vỏ quýt thôi.”

Vương Đại Chúc khóc còn ác hơn.

Dùng ngón chân cũng có thể đoán rằng thứ khiến Vương Đại Chúc khóc thành như vậy không phải là vỏ quýt ngọt ngào, mà rất có thể là vỏ quýt Tân Hội. Nghĩ đến cái vị khiến người ta một Phật xuất hồn, hai Phật thăng thiên của nó, tôi không khỏi rùng mình và ném cho Vương Đại Chúc ánh mắt đầy cảm thông.

Khi Diệp Thanh Hữu đang pha lượt trà thứ hai, tôi dùng khuỷu tay huých Vương Đại Chúc: “Mày gọi anh ấy là sư phụ à?”

“Đúng rồi,” Vương Đại Chúc rút một tờ khăn giấy, vờ vĩnh lau nước mũi nói: “Quán Hòa Quang có dạy nghệ thuật pha trà, tao đã học ở đây một thời gian, đàn anh Diệp dạy nên thỉnh thoảng tao gọi anh ấy là sư phụ.”

Tôi ồ một tiếng, bắt đầu suy tính.

Lúc này, Diệp Thanh Hữu đã pha xong lượt trà thứ hai, rót trà theo thứ tự cho tôi và Vương Đại Chúc. Tôi vô thức khép hai ngón tay lại gõ nhẹ lên mặt bàn, ánh mắt Diệp Thanh Hữu nhìn tôi có chút ngạc nhiên, sau đó mỉm cười, đưa tay ra bày động tác mời: “Bích Loa Xuân hái trước tiết Thanh Minh, nếm thử đi?”

Tôi lóng ngóng nâng chén trà nhỏ lên, cẩn thận nhấp một ngụm.

Không nóng còn rất thơm. Vị đắng đã gần như biến mất, chỉ còn lại mùi hương nồng đậm của lá lúa mạch xanh và vị ngọt thanh như nước suối.

Tôi nhìn chén trà với vẻ như nhìn thấy ma, không thể tưởng tượng nổi chén trà này và chén trà không biết là cái quần què gì lúc nãy lại pha từ cùng một loại lá. Xem ra Diệp Thanh Hữu thật sự có khả năng biến vịt thành thiên nga, ánh mắt tôi nhìn về anh càng thêm kính nể.

Vừa pha trà Diệp Thanh Hữu vừa hỏi tôi: “Em từng uống trà ở nhà chưa?”

Tôi phản xạ đáp ngay: “Uống, uống rồi!” Rồi vì quá căng thẳng, tôi lại thêm vào một câu thừa thãi: “Ngày nào ở nhà em cũng uống trà sáng!”

Vừa dứt lời tôi đã muốn tự tát mình. Uống trà với uống trà sáng là hai chuyện khác nhau mà?!

Tôi nghĩ mình vẫn còn cơ hội sửa chữa hình tượng, nên nhanh chóng đổi giọng trước khi Vương Đại Chúc và Diệp Thanh Hữu kịp cười: “Ha ha ha em vừa đùa đấy. Thực ra ba em hay uống trà ở nhà, như Thiết Quan Âm hay Phổ Nhị gì đó, nên em cũng uống cùng một chút.”

Tôi chăm chú quan sát phản ứng của Diệp Thanh Hữu, nụ cười của anh dường như thoáng chùng xuống trong một giây, nhưng nhanh đến nỗi tôi tưởng đó là ảo giác của mình. Anh gật đầu nói vậy cũng tốt, giờ người trẻ tuổi thích uống trà như chúng ta không nhiều. Nói xong anh lại cúi đầu tiếp tục pha trà.

Trực giác của tôi nói mình vừa nói điều gì đó khiến anh buồn, nhưng không rõ là gì nên cứ ngơ ngác. Cũng may Diệp Thanh Hữu không để bụng, anh nhanh chóng chuyển sang trò chuyện với Vương Đại Chúc, hướng dẫn chi tiết cách pha Bích Loa Xuân. Sau khi giảng giải xong anh hỏi Vương Đại Chúc nhớ chưa, hắn gật đầu như gà mổ thóc, Diệp Thanh Hữu đứng lên nói “Tốt, vậy em làm lại một lần đi.”

Mặt mày Vương Đại Chúc ngơ ngác.

Tôi suýt bật cười thành tiếng, nhìn Vương Đại Chúc run rẩy ngồi xuống “long ỷ” với ánh mắt đầy thương hại. Diệp Thanh Hữu thản nhiên cầm chén sứ nhỏ của mình đặt lên bàn khách rồi ngồi xuống bên cạnh tôi.

Tôi không ngờ lại có món quà trời ban này nên cứ nhìn chằm chằm vào anh, giả vờ như đang quan sát chiếc chén có vẽ cá đang bơi bên trong của anh rồi nhích lại gần hơn. Giữa hương thơm thanh mát của Bích Loa Xuân, tôi còn ngửi thấy mùi gì đó khác lạ, giống như mùi táo tàu cũng giống như mùi thuốc. Đó là mùi hương trên người Diệp Thanh Hữu.

Vương Đại Chúc run rẩy pha một lượt trà khác, cung kính dâng lên cho Diệp Thanh Hữu đánh giá. Anh nhấp một ngụm, trầm ngâm lúc lâu, rồi trong ánh mắt đầy mong đợi của Vương Đại Chúc anh nói: “Vỏ quýt ở kệ trà hàng thứ hai, túi giấy da bò đầu tiên.”

Vương Đại Chúc lại khóc. Tôi suýt cười lăn ra đất.

Khi chúng tôi uống xong chén Bích Loa Xuân, các thành viên khác trong câu lạc bộ văn học cũng lần lượt đến, tốp năm tốp ba tụ tập nói chuyện hoặc đến chào hỏi Diệp Thanh Hữu, anh đều lịch sự đáp lại. Sau khi uống xong, Diệp Thanh Hữu nói trà Bích Loa Xuân đã nhạt, không cần pha thêm. “Đi thôi, đến giờ xem phim rồi.”

Vương Đại Chúc lập tức đồng ý, thu dọn bàn trà. Nhân lúc Diệp Thanh Hữu đi chỉnh máy chiếu, hắn thì thầm với tôi: “Gia Gia, mày may mắn thật, vừa đến đã được uống trà do đàn anh tự tay pha. Đàn anh là nghệ nhân trà chính hiệu, bình thường chỉ khi dạy học mới đích thân pha trà, chỉ có giáo sư hay viện trưởng mới có được vinh hạnh này.”

Nghe xong tôi đột nhiên thấy rất vinh dự rất huênh hoang.

Vương Đại Chúc vẫn còn đang vất vả thu dọn trà cụ, tôi nhanh chóng bỏ rơi đồng đội con lợn này, chạy vào phòng chiếu phía sau tấm rèm. Phòng chiếu có một bàn trà dài, trên đó bày đầy các đĩa trái cây và chén trà đã rót sẵn. Diệp Thanh Hữu vẫn đang chỉnh thiết bị, vì anh phải theo dõi hoạt động của máy chiếu nên ngồi ở hàng đầu. Tôi mặt dày tiến lại gần nói với anh thị lực tôi kém mà quên mang kính, có thể ngồi cùng anh không. Anh gần như không do dự mà gật đầu đồng ý.

Tôi vui mừng rạo rực.

Bộ phim thưởng thức tối nay là Lãng mạn tiêu vong sử, kể về câu chuyện ở Thượng Hải thời xưa. Anh rể của ông trùm xã hội đen ngài Lục là gián điệp do Nhật Bản cử đến, đã giết cả nhà ngài Lục và lừa ông mang con cho hắn nuôi. Sau khi biết được sự thật, ngài Lục tìm đến cô kỹ nữ Tiểu Lục – người từng bị em rể giam giữ trong căn phòng kín và cùng cô trả thù hắn. Xuyên suốt bộ phim còn có bối cảnh chiến tranh Trung-Nhật, sau khi ngài Lục cùng Tiểu Lục trả thù em rể Nhật Bản thành công, thời đại cũ cũng kết thúc, mở ra một Trung Quốc mới.

Cốt truyện phim được xây dựng rất tối nghĩa, với những mốc thời gian đan xen khéo léo. Nếu là ngày thường xem một mình chắc chắn tôi sẽ bị cuốn vào không dứt ra được, nhưng hôm nay thì khác, vì ngồi bên cạnh tôi là Diệp Thanh Hữu. Ánh mắt tôi không ngừng lén lút chạy về phía anh, ngắm cổ tay thon dài và đường nét gương mặt tinh tế của anh. Phòng chiếu đông người, tôi ngồi rất gần anh, trong bóng tối thi thoảng lại ngửi thấy mùi hương thuốc dịu nhẹ tỏa ra từ người anh.

Tôi cảm thấy máu trong người mình như đang sôi trào, chạy ào ào, tim đập mạnh đến mức khô cả họng. Không còn cách nào khác, tôi phải nhấc chén trà lên uống một ngụm để ổn định lại nhịp tim.

Vừa uống xong tôi đã ngay ngẩn cả người. Vị trà khác hẳn với Bích Loa Xuân lúc nãy, hương vị đậm đà và sâu lắng hơn, thoang thoảng mùi thuốc và hương táo tàu, giống hệt mùi hương trên người Diệp Thanh Hữu.

Nhịp tim tôi không những không bình ổn mà còn đập mạnh hơn, gần như mất kiểm soát. Tôi không dám liếc trộm Diệp Thanh Hữu nữa, vội ngẩng đầu lên xem phim. Trên màn ảnh đang chiếu cảnh ngài Lục dùng bữa cùng nữ hoàng màn ảnh, cô ấy nói cô không thích đồ ăn Trùng Khánh, mà thích các món ăn Thượng Hải hơn, bởi vì cô thích Thượng Hải chứ không phải Trùng Khánh. Có lẽ một người thích nơi nào thì sẽ thích cả đồ ăn của nơi đó.

Ngài Lục liền đáp: “Em rể tôi mở một nhà hàng Nhật Bản ở Thượng Hải.”

Lúc này tôi nghe thấy tiếng sột soạt, quay lại thì thấy Diệp Thanh Hữu đang rót trà cho tôi bằng chén công đạo. Tôi khẽ hỏi: “Đây là trà gì vậy ạ? Em thấy ngon lắm.”

Anh đáp, mắt nhìn em tốt thật – Phúc Đỉnh Đại Bạch Trà, cũng là loại trà mà anh thích nhất.


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 3


Có người từng hỏi Einstein rằng: “Thuyết tương đối là cái gì vậy trời?” Einstein đáp rằng rất đơn giản: Khi bạn ngồi một mình cạnh lò sưởi, bạn cảm thấy thời gian trôi qua thật chậm, nhưng nếu có một cô gái xinh đẹp ngồi cạnh, bạn sẽ thấy thời gian vụt qua như một giây.

Ngồi cạnh Diệp Thanh Hữu, tôi cảm thấy lời giải thích này cực kỳ hợp lý, đáng được tặng cả số căn cước công dân luôn.

Hai tiếng của bộ phim trôi qua như một giây. Khi tôi vẫn còn đang chìm đắm trong hương táo tàu thoang thoảng trên người Diệp Thanh Hữu, thì máy chiếu đã tắt, đèn đã bật sáng, Diệp Thanh Hữu đứng trước bàn trà dùng giọng nói ấm áp phát biểu ngắn gọn và mời mọi người cùng thảo luận cảm nhận về bộ phim vừa xem.

Tôi còn có cảm nhận gì chứ? Chẳng lẽ tôi lại nói Đàn anh Diệp à, anh đẹp trai thật, người anh thật thơm sao? Nói vậy là bị đá ra khỏi trà thất ngay lập tức rồi. Nghĩ lại bộ phim vừa xem, ừ thì cảnh đẹp, lời thoại rất hay, nhưng nội dung thì sâu xa khó hiểu, mà vấn đề lớn nhất là tôi bị mù mặt, nhìn đàn ông thì mẹ nó ai cũng như nhau, nhìn phụ nữ thì cũng mẹ nó một khuôn mặt, làm sao mà phân biệt nổi ngài Lục với tên gián điệp Nhật Bản, tôi mà nói đúng thì đúng là phép màu.

Chắc sẽ có nhiều người cùng quan điểm với tôi, vì sau khi xem xong, khoảng sáu, bảy phần mười số người đã ra về. Chỉ còn có tôi, Diệp Thanh Hữu, Vương Đại Chúc ngồi cuối hàng ghế sau, thêm hai, ba người bạn trong câu lạc bộ văn học mà tôi không quen lắm và cô Lục dạy lịch sử mỹ thuật phương Tây.

Cô Lục bắt đầu trò chuyện với đàn anh Trần Quân năm ba, vừa gặm hạt dưa vừa thảo luận, còn tôi thì ngồi cạnh, im lặng gặm hạt dưa và lắng nghe họ phân tích chi tiết bộ phim, đồng thời lần theo lại cốt truyện. Vương Đại Chúc đã lấy điện thoại ra chơi game và rút thẻ, còn Diệp Thanh Hữu thì rút một quyển sổ trên giá sách xuống rồi đứng đó vẽ vời.

Đàn anh Trần Quân nói: “À em vẫn ấn tượng với cảnh về món ăn Trùng Khánh và Thượng Hải, thực sự mà nói, em cũng thấy món Thượng Hải khá ngon, haha.”

Cô Lục bật cười: “Cô ấy đâu chỉ nói về vị món ăn, mà thực sự đang sử dụng phép ẩn dụ. Cô ấy nói không thích món Trùng Khánh mà thích món Thượng Hải, thực ra là cô không thích Trùng Khánh mà thích Thượng Hải. Ngài Lục bỗng nhiên nhắc đến việc em rể của ông mở nhà hàng Nhật Bản ở Thượng Hải, điều này ngụ ý em rể ông vẫn yêu thích đất nước Nhật Bản quê hương mình hơn. Kết hợp với câu em rể từng nói <i>‘Tôi thấy mình trông như người Trung Quốc’</i>, rất dễ đoán được em rể chính là nội gián.”

“Nghe cô phân tích em mới ngộ ra!” Đàn anh Trần Quân đập tay xuống bàn. “À đúng rồi, còn cảnh ở cuối phim, khi ngài Lục qua hải quan và tháo mũ xuống… em cứ cảm giác sự sắp xếp tình tiết này có ẩn ý sâu xa nào đó.”

“Đúng thế. Trong xã hội cũ “mũ” là biểu tượng của địa vị xã hội, ngài Lục là ông trùm xã hội đen, ai dám bắt ông ta phải tháo mũ chứ.” Cô Lục vừa nói vừa cắn hạt dưa, vỏ dưa bay đầy bàn. Diệp Thanh Hữu ngay lập tức đưa cho cô một tờ giấy lau, cô gật đầu rồi gom hết vỏ hạt dưa lại vào tờ giấy. “Cuối cùng thì xã hội mới lên ngôi, mọi người đều bình đẳng. Đừng nói là bắt ông tháo mũ, nếu bảo c** q**n cũng phải tuân theo thôi.”

Hai người cười ha hả một lúc, tôi tranh thủ chen vào một câu: “Từ đó có thể thấy, cái tên Lãng mạn tiêu vong sử thực sự rất hay.”

“Đúng vậy, lãng mạn, lãng mạn, tiêu vong sử.” Đàn anh Trần Quân cứ xuýt xoa không ngớt. “Hai từ này, từ nào cũng hoa mỹ đến cực điểm.”

“Nhưng lãng mạn mà các em đang nói đến thường chỉ nghĩ đến chuyện tình yêu nam nữ.” Cô Lục vỗ tay rồi lại lấy một nắm hạt dưa để gặm tiếp. “Nhưng nếu đem cách hiểu đó vào bối cảnh này thì không hợp lý, các em nghĩ từ <i>‘lãng mạn’</i> này nên hiểu thế nào?”

“Tình cảm,” Tôi bất ngờ lên tiếng. “Em sẽ giải thích nó là tình cảm. Là tình cảm giữa người với người của thời xưa, những mối liên kết mà xã hội hiện đại hiếm khi còn tồn tại.”

Trong khoảnh khắc đó phòng trà dường như lặng đi vài giây.

Sau giây phút yên tĩnh ngắn ngủi, cô Lục dẫn đầu vỗ tay: “Nói rất hay!” Đàn anh Trần Quân cũng nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên. Nhưng với tôi điều đó không quan trọng, điều duy nhất tôi để ý là Diệp Thanh Hữu, người vẫn đang cúi đầu ghi chép, bất ngờ ngẩng lên nhìn tôi. Chỉ một cái nhìn ấy thôi đã là sự tán thưởng lớn nhất đối với tôi rồi.

Cô Lục vỗ tay xong lại tiếp tục gặm hạt dưa: “Ôi, giá mà có thêm vài người trẻ có nhận thức như vậy, chúng ta bây giờ đã không đến nỗi… Thôi bỏ đi, không nói nữa.” Cô lắc đầu đổi đề tài: “Cô rất hay hoài niệm thời còn trẻ, haha. Lúc đó cô là quản trị viên chuyên mục văn học của diễn đàn BBS trường mình, ngày nào cũng thấy mọi người tranh cãi về cách dịch một từ hoặc cách ngắt câu trên diễn đàn. Nhiều khi cãi nhau trên mạng chưa đã, nửa đêm còn trèo tường ra ngoài cãi tiếp, mà đúng là trèo tường thật đấy – sinh viên của Đại học Vũ Hán leo tường sang trường mình, sau đó ngồi trong con hẻm sau trường trên một cái ghế, cứ thế tranh luận đến tận khuya, khi vẫn chưa tìm ra kết quả thì kéo nhau ra quán nướng, gọi vài xiên và mấy lon bia, vừa ăn vừa tiếp tục tranh luận…”

Đàn anh Trần Quân tiếc nuối: “Cảnh tượng như thế này bây giờ chẳng còn thấy nữa.”

“Đúng vậy,” cô Lục nói. Đống vỏ hạt dưa đã chất thành một ngọn núi nhỏ, cô lại đổi sang tờ giấy lau mới rồi tiếp tục gặm. “Bây giờ lên diễn đàn BBS của trường toàn thấy gì nào? Toàn là tám chuyện nam thanh nữ tú, than phiền về việc cúp nước mất điện. Thậm chí cô còn nghi ngờ có bao nhiêu sinh viên còn dùng BBS nữa.”

Nói đến đây, cô cười lắc đầu: “Cái thời đó một đi không trở lại rồi.”

Tôi nói: “Em cũng rất khao khát cái thời đó, luôn cảm thấy tiếc nuối vì mình sinh muộn vài chục năm. Em thực sự muốn được tận mắt chứng kiến cái thời mà Bá Nha vẫn còn đứt dây, Tử Kỳ vẫn còn treo kiếm.”

Chúng tôi càng nói càng hứng, ai cũng phát biểu ý kiến đầy nhiệt huyết, nước bọt đủ làm chìm mu bàn chân, vỏ hạt dưa văng tứ tung. Trong lúc chúng tôi mải mê trò chuyện lại có thêm vài người bạn trong câu lạc bộ xin phép ra về, nói rằng đã muộn và cần trở lại ký túc xá; Vương Đại Chúc nằm bò ra bên cạnh chơi game đến sắp ngủ gật, còn Diệp Thanh Hữu vẫn ngồi yên lặng lắng nghe, không nói lời nào tiếp tục ghi chép. Cho đến khi trước mặt tôi đã chất đầy hai ngọn núi vỏ hạt dưa, người chỉ còn lại bốn, cô Lục mới nói: “Thôi, cũng gần mười một giờ rồi. Cô nhớ ký túc xá trường các em có giờ đóng cổng đúng không? Chắc chúng ta cũng nên giải tán thôi.”

Tôi và đàn anh Trần Quân đều gật đầu tiếc nuối rồi bắt đầu giúp dọn dẹp. Cô Lục vừa dọn dẹp vừa nói: “Cô thấy tính cách của con người thực sự có thể nhận ra qua những việc nhỏ nhặt, chẳng hạn như em nhìn này,” cô vừa nói vừa nhặt lên một mảnh vỏ hạt dưa trên bàn. “Cái này vừa nhìn đã biết là cô ăn, tính cô sôi nổi nên gặm hạt dưa thì vỏ nát ra hết. Nhìn cái mảnh dài nhỏ kia thì biết ngay là của Trần Quân, em ấy mỗi lần gặm ra bốn mảnh, tính cách thì rất nguyên tắc.”

Sau đó, cô chỉ vào mảnh vỏ hạt dưa của tôi: “Còn em, ăn hạt dưa chỉ tách ra một khe, vỏ còn nguyên vẹn, điều đó cho thấy tính cách em cẩn thận, chu đáo và rất điềm tĩnh.”

Tôi nói: “Không phải đâu, em thấy mình chẳng điềm tĩnh chút nào.”

Cô Lục cười: “Vậy thì chứng tỏ em muốn trở thành người như thế.”

Dọn dẹp xong, mọi người chào tạm biệt nhau trước cửa quán trà. Tôi dìu Vương Đại Chúc đang lơ mơ đi ra ngoài thì bị đàn anh Trần Quân gọi lại: “Này bạn học, đợi chút, tôi vẫn chưa hỏi tên cậu. Cậu học năm ba hay năm tư, ngành Mỹ học phải không?”

Tôi lập tức im lặng: “Đàn anh, trông em chín chắn đến vậy ạ? Em chỉ là sinh viên năm nhất thôi… học ngành Hội họa màu nước, em tên là Tạ Gia.”

“Mới năm nhất?!” Đàn anh Trần Quân trông rất kinh ngạc, quay sang hỏi Diệp Thanh Hữu: “Thanh Hữu, thật thế à?”

“Hôm nay là lần đầu em ấy đến quán trà, là bạn cùng phòng của Đại Chúc,” Diệp Thanh Hữu đáp.

Đàn anh Trần Quân nhìn tôi với vẻ bán tín bán nghi, cuối cùng mới cười xòa: “Anh thấy khí chất của em đặc biệt giống sinh viên năm tư, suýt nữa gọi là đàn anh rồi. Ôi, năm nhất à, trẻ thật tuyệt, anh cũng ước mình còn là sinh viên năm nhất…”

Tôi đáp: “… Em còn đang ghen tị với các anh năm tư vì ít bài tập hơn mà.”

Đàn anh Trần Quân cười lớn: “Thấy rồi, thấy rồi. Vây thành, vây thành.” *

“Đừng vội đi, hoạt động cuối cùng của buổi tối nay vẫn chưa kết thúc đâu,” Diệp Thanh Hữu cười nói. “Hoạt động cuối của buổi chiếu phim lần này là trao nhau lời tặng. Sau khi trao đổi cảm nhận về bộ phim, mỗi người có thể dùng một câu hoặc một chữ để diễn tả cảm xúc về buổi tối hôm nay, tất nhiên là theo nguyên tắc tự nguyện.”

Cô Lục xua tay: “Mấy đứa trẻ tự trao đổi với nhau là được rồi, cô không tham gia đâu.”

Đàn anh Trần Quân nhìn quanh, thấy không ai nói gì thì gãi đầu: “Không ai nói trước thì em đành làm kẻ ném đá dò đường thôi. Em sẽ tặng mỗi người một chữ để tóm gọn ấn tượng tối nay về mọi người nhé.” Nói rồi, anh ta chỉ vào Vương Đại Chúc đang gục trên vai tôi: “Võng.” Sau đó, anh gật đầu về phía Diệp Thanh Hữu: “Duyên.” Cuối cùng, nhìn tôi: “Tố.” *

Diệp Thanh Hữu ghi lại ba chữ đó vào sổ tay rồi ngẩng lên mỉm cười nói: “Trùng hợp thật, anh cũng chuẩn bị ba chữ, tặng mỗi người một chữ.” Nói xong, anh dùng đầu bút chỉ vào Vương Đại Chúc: “Nọa.” Nghe xong chữ này, tất cả chúng tôi đều cười phá lên. Đợi khi chúng tôi cười xong, anh mới quay sang Trần Quân: “Tri.” Cuối cùng anh nhìn tôi mỉm cười: “Trầm.” *

Tôi sững người một lúc. Mãi đến khi đàn anh Trần Quân vỗ vai tôi, nói: “Tạ Gia chỉ còn em chưa nói thôi,” lúc đó tôi mới tỉnh lại: “Chẳng lẽ chỉ mỗi em là chưa chuẩn bị gì sao? Thôi được, nếu phải nói thì em đành ứng biến vậy, em không có tài thu gọn câu chữ thành một từ như hai anh, nên đành dùng một câu hoàn chỉnh thôi.” Nói rồi, tôi chọc vào hông Vương Đại Chúc: “Đêm nghe tiếng gió mưa, biết bao hoa rụng đây.”

Mọi người lại cười ngả nghiêng trái phải. Sau đó tôi quay sang đàn anh Trần Quân nói: “Câu em tặng đàn anh là, đường xa mới biết sức ngựa.”* Cuối cùng, tôi nhìn Diệp Thanh Hữu, anh ấy đang nhìn tôi với đôi mắt đầy ý cười.

Tôi nói: “Đàn anh Diệp, đào lý không nói, dưới cây tự có lối đi.”*

Tối đó tôi về ký túc xá quẳng Vương Đại Chúc đang ngủ mơ màng trở lại giường, nhìn đồng hồ đã gần mười hai giờ.

Tôi gọi điện cho mẹ. Mẹ mắng tôi nửa đêm không ngủ muốn bị cắt thành thịt xá xíu à, tôi nói: “Mẹ ơi, con muốn học trà.”

Sau đó Vương Đại Chúc bảo rằng Diệp Thanh Hữu tặng chữ “trầm” chắc chắn là vì chê tôi béo. Tôi nói xàm mày biết gì chứ.

Ba chữ mà Diệp Thanh Hữu tặng, “nọa” là động từ, “tri” cũng là động từ, vậy “trầm” tự nhiên cũng phải hiểu là động từ.

Tôi từng nghĩ rằng nghiêng mũ là tri kỷ chỉ là một truyền thuyết. Đó là vì tôi không ngờ rằng mình có thể gặp một người như thế, một người chỉ cần gặp một lần đã nhìn thấu suy nghĩ của tôi, chỉ với một chữ, đã phá vỡ được nỗi lòng mà tôi đã đau đáu theo đuổi bấy lâu mà vẫn chưa đạt được.

<i>Phụ lục:</i>

*Vây thành: Người trong thành muốn ra ngoài, người ngoài thành lại muốn vào trong. Ý của Trần Quân là anh ta sinh viên năm tư, muốn trở lại làm sinh viên năm nhất, còn Tạ Gia sinh viên năm nhất lại muốn nhanh chóng lên năm tư.

*Võng, Duyên, Tố:

– Võng: “học nhi bất tư, tắc võng”, ý chỉ Vương Đại Chúc xem phim nhưng không nghe phần bình luận, nên chẳng thu được gì.

– Duyên: Chỉ việc quán trà của Diệp Thanh Hữu đã tạo điều kiện cho mọi người có cùng sở thích kết duyên, có thể xem đây là thiện duyên của anh ấy.

– Tố: “Tố hồi tùng chi, Đạo trở thả trường”, ý chỉ Tạ Gia muốn tìm lại miền đất lý tưởng của mình, nhưng con đường phía trước dự kiến sẽ đầy chông gai.

*Nọa, Tri, Trầm:

– Nọa: Lười biếng, thích an nhàn

– Tri: Có hai nghĩa, tìm kiếm tri thức và tìm hiểu sự sáng suốt.

– Trầm: Tạm thời chưa giải thích, sẽ được làm rõ ở phần sau.

*“Đêm nghe tiếng gió mưa, biết bao hoa rụng đây”: Ý nói Vương Đại Chúc ngủ say như chết, mọi người bàn luận xong xuôi mà cậu ta vẫn không hay biết gì.

“Đường xa mới biết sức ngựa”: Dù học hành mơ hồ, nhưng nếu bạn không học, bạn sẽ không biết được cảm giác khi đã cố gắng hết sức mà vẫn không đạt được là gì.

“Đào lý không nói, dưới cây tự có lối đi”: Ý chỉ anh chàng đẹp trai trầm lặng, quân tử duyên dáng, Tạ Gia rất muốn…?
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 4


Thứ Bảy của cùng một tuần tôi lại rảo bước vào trà thất.

Nghệ thuật pha trà chú trọng đến sáu yếu tố lớn là trà, nước, dụng cụ, nghệ thuật, con người và cảnh, thiếu một trong số đó đều không được. Trong đó, chữ “cảnh” quan trọng đến mức mà tôi cảm nhận rõ ràng ngay lúc này. Hai ngày trước khi đến đây, trà thất đông người, cảm giác như một cửa tiệm ồn ào; nhưng hôm nay nó thật rộng rãi và vắng vẻ, chỉ có vài ba người bạn trà ngồi đọc sách. Qua rèm hạt châu ở cửa và kệ cổ trong phòng, có thể lờ mờ nhìn thấy Diệp Thanh Hữu ngồi phía sau bàn giảng dạy, lật xem ghi chép. Bầu không khí khi đông người và khi vắng người hoàn toàn khác nhau, khoảnh khắc vén rèm bước vào phòng tôi như vượt qua ranh giới thời gian và không gian, từ đó mọi sự ồn ào lộn xộn phía sau rèm không thể làm phiền tôi nữa, tôi thấy yên tĩnh và tự do.

Tiếng rèm hạt châu đập vào khung cửa vang lên khiến Diệp Thanh Hữu chú ý, anh ngẩng đầu lên, qua kệ cổ mỉm cười chào tôi từ xa. Tôi đi vòng qua kệ dài để vào phòng kế, hình như anh không mấy ngạc nhiên, thần thái cử chỉ trong lúc nói chuyện đều mang nét của người chào đón cố nhân: “Đại Chúc nói với anh, em muốn đến đây học trà.”

Tôi gật đầu, hồi hộp đến mức hơi lắp bắp: “Vâng, đúng vậy. Về vấn đề học phí…”

Diệp Thanh Hữu giơ tay vẫy vẫy: “Học phí không cần vội bàn. Hoà Quang không phải là nơi lấy lợi nhuận làm mục đích, em có thể học trước. Nếu tạm thời không tiện trả, học xong từ từ thanh toán cũng được.”

“Chính sách tốt vậy ạ?” Tôi có chút sững sờ. “Thế không sợ có người cứ nợ mãi không trả sao ạ?”

“Anh tin tưởng vào tất cả những người bạn đến đây.” Diệp Thanh Hữu cười, giơ tay mời: “Ngồi đi, trước khi học hãy uống chén trà.”

Lần này anh lại pha loại trà có hương thơm dịu nhẹ của thuốc, tôi vẫn nhớ nó tên là Phúc Đỉnh Đại Bạch Trà. Tư thế anh cầm chén trà rất đẹp, ngón giữa và ngón cái cầm vào mép chén, ngón trỏ đặt trên núm của chén, cổ tay ấn vào trong. Tư thế này khiến bàn tay anh mở rộng hoàn toàn, các ngón tay thon dài, trắng trẻo, các khớp cổ tay lộ ra với góc độ đẹp nhất, khiến tôi phải nhớ đến món chân gà hấp xì dầu mà tôi luôn gọi khi ăn sáng.

Ừm. Thèm gặm quá.

Anh vừa pha trà vừa hỏi tôi: “Ở đây học viên bắt buộc phải mang theo sổ ghi chép, Vương Đại Chúc có nói với em không?”

Emmmmmmm… Tôi rất muốn hỏi ngược lại, anh nghĩ với tính cách của Vương Đại Chúc, liệu hắn có kịp nói cho em biết không?

Nhưng không sao cả! Kể từ lần tôi đã cứu vãn món trứng hấp chín bên ngoài mà sống bên trong trong nồi áp suất bằng cách nghiền nát rồi hấp lại, tôi đã dần giỏi nhất trong việc đưa ra biện pháp cấp cứu khi gặp khó khăn! Thế là tôi chợt nảy ra ý, rút điện thoại ra đặt lên bàn trà: “Mang rồi!”

Diệp Thanh Hữu hỏi tôi: “Em ghi chép bằng điện thoại à? Chụp lại rồi về nhà chép lại sao?”

“Không phải đâu, em có tải một ứng dụng ghi chú trên đám mây vào điện thoại.” Tôi vội mở điện thoại ra cho anh xem. “Ứng dụng này có thể lưu trữ ghi chú trên mạng, chỉ cần tải ứng dụng về, nhập tài khoản và mật khẩu là có thể xem ghi chú trên bất kỳ thiết bị điện tử nào.”

“Công nghệ bây giờ tiện lợi vậy sao…” Diệp Thanh Hữu nhìn qua rồi lộ ra một biểu cảm khác thường, có chút ngạc nhiên nói.

Tôi vừa định mở cho anh ấy xem nhưng rồi đột nhiên nhớ ra ghi chú của tôi toàn là mấy thứ như “Hoàng thượng, xin ngài hãy yêu thương thần” hay “Chủ tịch độc tài và chàng vợ mềm yếu… Ừm…”

Tôi lập tức rút ngay điện thoại lại. Nếu để Diệp Thanh Hữu phát hiện ra tôi toàn viết mấy thứ gay với gay thế này thì chắc tiêu đời luôn.

“Được rồi, em dùng cái này để ghi cũng được.” Diệp Thanh Hữu gật đầu.

Trà Diệp Thanh Hữu pha cũng giống như khí chất của anh ấy, hương thơm nhẹ nhàng, mang chút ấm áp. Anh rót đầy hơn nửa chén trà rồi dời bộ trà sang một bên, lục lọi dưới bàn trà lấy ra một chiếc bảng đen nhỏ: “Chúng ta vừa uống trà vừa học. Bài học đầu tiên hôm nay là về trà lễ, trà lễ bắt nguồn từ phong tục hôn nhân với ba lần trà sáu nghi lễ. Người xưa thường dùng trà để chúc phúc hôn nhân, vì họ tin rằng cây trà “trà không rời gốc, trồng là sinh con”.”

Tôi gật đầu, vội vàng ghi lại: “Trà lễ tương đương với nghi lễ hôn nhân, sinh con vững vàng, cần phải coi trọng.”

Diệp Thanh Hữu lại nói: “Điều đầu tiên của trà lễ là hình thức phải chỉnh tề, móng tay của em rõ ràng không đạt yêu cầu.”

Tôi cúi xuống nhìn móng tay cửu âm bạch cốt trảo rất gay của mình, cố gắng bào chữa: “Ngày xưa chẳng phải nói thân thể là do cha mẹ ban tặng, không nên dễ dàng làm tổn hại sao. Người học thức thì không cần phải lao động chân tay, tất nhiên là để móng tay dài, đó là biểu tượng của địa vị và tri thức. Anh đến viện bảo tàng Học viện Nhạc Lộc, sẽ thấy bức chân dung của Chu Hi, móng tay còn cửu âm bạch cốt trảo hơn em nữa.”

Diệp Thanh Hữu: “Nhưng trông lôi thôi quá.”

Tôi quật cường nhìn anh, còn anh thì bình tĩnh nhìn tôi.

Tôi đầu hàng.

Tôi: “Dạ em cắt.”

Tối hôm đó, tôi cắt hết những móng tay rất gay của mình, rồi xếp theo thứ tự trên tấm lót chuột, chụp ảnh đăng lên trang cá nhân QQ: “Tui không còn móng tay nữa, tui không còn là người có văn hóa nữa, tui là nông dân chân đất rồi hu hu huqwq.”

Diệp Thanh Hữu thả cho tôi một nút like.

Quên chưa nói. Đàn anh Diệp là một người cổ hủ, cứ tưởng biết dùng QQ là hiện đại lắm rồi, còn chẳng biết WeChat là cái gì.

Bốn buổi học đầu đều là kiến thức khái niệm, bắt đầu từ buổi thứ năm mới chính thức giảng về sáu loại trà lớn. Xanh lá, vàng, đỏ, trắng, xanh dương, đen, sau đó có riêng một buổi về Phổ Nhĩ, một buổi về trà hoa, giảng xong là bắt đầu thi chứng chỉ nghệ nhân trà cấp sơ cấp.

Chứng chỉ nghệ nhân trà của quốc gia có năm cấp bậc: sơ cấp, trung cấp, cao cấp, kỹ sư và kỹ sư cao cấp. Đàn anh Diệp là cấp kỹ sư nên khóa học của anh chỉ dạy đến cao cấp. Nghĩ đến việc sau học kỳ này tôi có thể mang về nhà một tấm chứng chỉ nghệ nhân trà để làm màu, tôi thấy cũng hơi háo hức.

Một buổi học thường kéo dài khoảng hai tiếng, nhưng đàn anh Diệp giảng bài cho tôi rất nhanh, thường chỉ cần một tiếng rưỡi là xong hết nội dung trong sách, nửa giờ còn lại tôi sẽ làm nũng anh pha cho tôi một bình trà trắng Phúc Đỉnh.

Chúng tôi thường học như thế này.

Diệp Thanh Hữu: “Cuốn sách trà đầu tiên của nước ta là…”

Tôi: “Trà thánh Lục Vũ, Trà Kinh.”

Diệp Thanh Hữu: “Trong Trà Kinh, Lục Vũ nhắc đến nước dùng để pha trà…”

Tôi: “Nước suối bên trên, nước sông ở giữa, nước giếng ở dưới.”

Diệp Thanh Hữu: “Về dụng cụ trà, nếu gọi Nghi gốm Cảnh sứ…”

Tôi: “Ấm tử sa Nghi Hưng, sứ Cảnh Đức Trấn.”

Diệp Thanh Hữu vỗ tay: “Dạy em học rất thoải mái.”

Tôi làm màu xong liền khiêm tốn vài câu: “Đâu có đâu có, đều là kiến thức văn hóa cơ bản thôi.”

Diệp Thanh Hữu cười: “Em thật khiêm nhường, thường thì sinh viên không biết nhiều về văn hóa như em đâu. Lần trước anh dạy một lớp trung cấp, có một học sinh hỏi anh tử sa là loại cát gì… Còn có chuyện nực cười hơn nữa, có người hỏi anh là trà Ô Long hay trà Thanh ngon hơn, rồi Phổ Nhĩ và trà đen khác nhau chỗ nào.”*

Tôi: “Ha ha ha ha ha ha ha a!”

Nhưng tôi không dám nhắc anh người hỏi trà Ô Long hay trà Thanh ngon hơn chính là tôi của ba ngày trước.

Sau giờ học, như thường lệ, tôi nán lại làm phiền anh để xin uống trà, cũng hỏi vài câu ngớ ngẩn như kiểu trà Ô Long và trà Thanh cái nào ngon hơn để cố duy trì cuộc nói chuyện gượng gạo. Diệp Thanh Hữu thật sự rất kiên nhẫn, từng câu hỏi một đều được anh trả lời chi tiết.

Ví dụ tôi hỏi anh tại sao trà người khác pha thì đắng, còn trà anh pha lại không đắng. Diệp Thanh Hữu nói có nhiều lý do lắm. Có loại trà bản chất đã đắng, như trà rầy cắn của Đài Loan; mỗi người có tính cách khác nhau, tâm trạng khi pha trà cũng khác, nên hương vị trà cũng khác nhau. Nhưng nguyên nhân phổ biến nhất khiến trà bị đắng là do cách pha không đúng, làm cho polyphenol trong trà tiết ra quá mức. Không phải trà anh pha không đắng, mà là anh dùng đúng cách để đối xử với trà, nên trà tự nhiên sẽ trả lại cho anh hương vị tuyệt vời nhất của nó và đó cũng là trách nhiệm của một nghệ nhân trà. Nói xong anh lại hỏi tôi, trước đây em đã uống trà của ai pha chưa?

Tôi đếm ngón tay: Vương Đại Chúc, bố em, hết rồi. À không, em còn uống một loại trà nữa, cũng không đắng!

Diệp Thanh Hữu hỏi: Trà gì?

Tôi nói: Trà đỏ đá.



<i>*Trà Thanh là một trong sáu loại trà lớn, còn có tên khác là trà Ô Long. Phân loại trà phổ biến dựa trên phương thức chế biến, trong đó Phổ Nhĩ là một loại của trà đen.</i>
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 5


Diệp Thanh Hữu bị sặc trà, ho mấy tiếng mới thở lại được: “Gia Gia, trà đỏ đá là đồ uống pha chế từ trà, không thể tính là trà chính thống được.”

Tôi rất không vui. Mới quen có mấy ngày, mà anh ấy đã học theo Vương Đại Chúc gọi tôi là Gia Gia, nghe sao mà gay ơi là gay. Dù tôi là sinh viên nghệ thuật, lại còn là sinh viên nghệ thuật đồng tính, mà đã là sinh viên nghệ thuật đồng tính thì phải là loại có thể đứng người trên nắm đấm, chạy ngựa trên cánh tay. Ngay khi tôi định thảo luận với Diệp Thanh Hữu về việc anh ấy nên gọi tôi bằng tên đầy đủ hoặc gọi bằng biệt danh “ông xã” gì đó thì có người khác bước vào trà quán: “Ha ha ha ha ha. Tạ Gia, sao em không nói là mình còn uống trà hoa cúc nữa?”

Tôi quay lại nhìn, là đàn anh Trần Quân.

Tôi nói: “Ồ, thật trùng hợp, đàn anh cũng ở đây à?”

“Không có gì trùng hợp.” Diệp Thanh Hữu nói. “Cậu ấy cũng là ông chủ ở đây.”

Tôi: …???

“Ồ, Tạ Gia chưa biết à.” Trần Quân đi vào, tự nhiên ngồi xuống cạnh tôi, cắm nhánh hoa đào cầm trong tay vào bình hoa. “Hòa Quang bây giờ là do anh và Thanh Hữu cùng phụ trách.”

Hoa đào còn rất tươi, trên cánh hoa vẫn còn đọng những giọt sương xuân. Diệp Thanh Hữu hỏi anh ta hái ở chùa Linh Tuyền phải không. Trần Quân nói đúng rồi, gọi cậu đi dạo một vòng chùa Linh Tuyền mà cậu không đi. Diệp Thanh Hữu nói, không phải tôi đang dạy cho Gia Gia à. Trần Quân nói, tôi biết, nên mang về cho cậu một nhánh xuân để làm chút ý.

Nói xong, anh ta tiện tay cầm lấy một chiếc chén trà ở phía bên trái khay trà – chỗ đó luôn có hai chiếc chén úp xuống, Diệp Thanh Hữu từng nói với tôi rằng chỉ những người thường xuyên uống trà ở đây mới đặt chén ở vị trí đó. Một cái là của Diệp Thanh Hữu, còn cái kia tôi luôn thắc mắc thuộc về ai, không ngờ lại là của Trần Quân.

À phải, trước đây tôi chưa có chén riêng, toàn dùng chén dành cho khách. Diệp Thanh Hữu nói đợi khi nào tôi có chén riêng thì có thể dùng chén của mình để uống trà, nếu đến thường xuyên thì có thể đặt chén riêng ở chỗ ngồi quen thuộc. Hì hì ha ha.

Trần Quân đặt chén trước mặt, gõ nhẹ tay lên bàn ra hiệu xin trà uống, Diệp Thanh Hữu giúp anh ta tráng chén, làm sạch dụng cụ. Trong lúc chờ uống trà, Trần Quân nói với tôi: “Hòa Quang vốn không phải do tụi anh mở, mà là do sư phụ của tụi anh mở. Sau này sư phụ lấy chồng về Quảng Đông, anh và Thanh Hữu mới tiếp quản trà thất này. Bình thường ông chủ Diệp phụ trách dạy học và nhập trà, còn anh lo quảng bá và tiếp khách.”

Diệp Thanh Hữu đùa: “Anh và ông chủ Trần cùng học chung một thầy, bây giờ em học trà với anh, thì cứ gọi cậu ấy là sư thúc.”

Trần Quân gõ nhẹ lên bàn: “Ông chủ Diệp cậu có ý gì vậy? Tôi vào học sau cậu một năm, gọi cậu một tiếng đàn anh cũng thôi đi, nhưng ở trà thất này cậu không thể quá đáng như vậy được. Rõ ràng là tôi học trà trước cậu, ở đây cậu phải gọi tôi là đàn anh mới đúng chứ!”

Diệp Thanh Hữu: “Nhưng cậu mới học năm ba.”

Trần Quân: “Không thể tính như vậy! Tôi sinh trước cậu một tháng mà…”

Diệp Thanh Hữu: “Nhưng cậu mới học năm ba.”

Trần Quân nghẹn lời không nói được gì.

Diệp Thanh Hữu làm Trần Quân cứng họng, rồi quay sang nói với tôi: “Tiết sau anh bận, Trần Quân sẽ thay anh dạy em một buổi, không vấn đề gì chứ?”

Tôi rất muốn nói là vấn đề lớn đấy, nhưng lại ngại quá không dám nói thẳng như vậy, đành phải hỏi anh: “Anh bận gì à?”

“Cậu ấy bận làm đồ án tốt nghiệp.” Trần Quân nói. “Dạo này làm việc mệt gần chết, còn bận rộn tranh thủ thời gian chạy qua khoa gốm để nặn đất… không sợ đến lúc đột tử trong phòng làm việc à.”

“Cậu tích đức chút đi.” Diệp Thanh Hữu cười nhẹ hai tiếng. “Gia Gia, sư thúc Trần của em là người Vân Nam, nhà làm đồ gốm, rất am hiểu về Phổ Nhĩ. Hơn nữa, cậu ấy còn là chủ tịch câu lạc bộ văn học, giảng cho em chắc chắn còn giỏi hơn anh.”

Trần Quân: “Giỏi lắm, Diệp Thanh Hữu, cậu đã đội cho tôi cái mũ cao rồi! Tạ Gia, anh nói em nghe, đừng nghe cậu ấy, ông chủ Diệp mới là cao thủ, là cựu chủ tịch câu lạc bộ văn học. Nếu không phải cậu ấy sắp tốt nghiệp thì cái ghế chủ tịch còn lâu mới tới lượt anh ngồi.”

Tôi hoàn toàn sững sờ.

Vậy là các anh đang muốn nói với em rằng, buổi chiếu phim hôm đó, em đã giả vờ trước mặt: Chủ (đàn) tịch (anh) câu (Trần) lạc (Quân) bộ văn học hiện tại, cựu (Diệp) chủ (Thanh) tịch (Hữu) câu lạc bộ văn học, và cả (cô) tiến (giáo) sĩ (Mỹ) tốt nghiệp đến từ đại học Tây Hoa sao???

Diệp Thanh Hữu nói thêm vài câu rồi để lại khay trà cho Trần Quân, còn mình thì quay về trường tiếp tục hoàn thành đồ án tốt nghiệp. Trần Quân mới chỉ pha được vài ấm trà, tôi liền nhận ra ngay hương vị trà đã thay đổi. Trà của Diệp Thanh Hữu pha luôn tỏa ra mùi hương thanh khiết, trong trẻo, vị trà tinh tế và ấm áp; còn trà của Trần Quân pha có vị đậm đà hơn, mạnh mẽ và đều đặn.

Tôi vừa uống vừa nghe Trần Quân nói: “Thanh Hữu cũng muốn dạy em lắm, chỉ là cậu ấy thật sự bận quá. Dạo gần đây cậu ấy thường nhắc đến em, nói em rất thông minh, có nền tảng văn học vững, rất có năng khiếu trong việc học trà, muốn bồi dưỡng em thật tốt.”

“À, đàn anh khen quá rồi.” Tôi vội vàng khiêm tốn khiêm tốn. “Em luôn muốn học trà, cũng rất biết ơn trà thất Hòa Quang đã tạo cơ hội cho em học trà.”

Trần Quân cười ha ha: “Không cần khách sáo đâu, cậu ấy không dễ dàng khen người khác, anh quen cậu ấy bao lâu rồi mà cũng chưa nghe cậu ấy nói tốt về anh bao giờ. À, em biết tiết học tiếp theo học gì không?”

“Em biết,” Tôi vừa nói vừa mở điện thoại ra xem lại ghi chép. “Là trà đen và Phổ Nhĩ.”

“Vậy là được rồi.” Trần Quân nói. “Giờ anh sẽ nói cho em biết một quy tắc của trà thất tụi anh: Ông chủ Diệp không pha Phổ Nhĩ, cũng không dạy tiết về Phổ Nhĩ.”

“… Hả?” Tôi sững người. “Sao vậy ạ?”

“Đợi khi nào em quen thân với cậu ấy hơn, cậu ấy tự khắc sẽ nói cho em lý do.” Trần Quân nói. Anh ta nói xong, tình cờ nhìn thấy trong chén thưởng trà của Diệp Thanh Hữu còn lại nửa chén trà chưa uống hết, anh ta lập tức chậc lưỡi than thở làm ông chủ rồi thì học được cách lãng phí, nói rồi liền cầm lấy chén ấy uống cạn trong một ngụm, sau đó dùng nước sôi rửa qua chén và đặt lại chỗ cũ bên cạnh khay trà.

Tôi không kiềm được mà nhíu mày, mặt mày u ám nhìn anh ta khi anh ta thản nhiên rót thêm trà cho mình, tôi buột miệng hỏi bằng tiếng Quảng Đông: “Đàn anh Trần, anh có phải là gay không?”

Trần Quân: “??? Em vừa nói gì thế?”

“Không có gì.” Tôi đáp. “Tối nay em định luyện pha trà ở trà thất, chuẩn bị gọi đồ ăn ngoài, muốn hỏi anh có muốn gọi chung không, em định gọi gà que chiên xù.”

Trần Quân: “Ồ, ồ… Anh không ăn gà que chiên xù, cảm ơn. Em tự gọi đi.”

Một lát sau, Trần Quân nói anh ta uống nhiều nước quá phải đi vệ sinh, để tôi ngồi lại một mình bên khay trà. Đợi anh ta ra khỏi cửa, tôi dùng tốc độ sét đánh không kịp c** q**n chụp lấy chén thưởng trà của Diệp Thanh Hữu, dùng khăn giấy lau sạch rồi rửa qua một lần bằng trà trong chén của mình, sau đó tráng lại bằng nước sôi và đặt chén trở lại vị trí ban đầu.

Tâm trạng vô cùng khoan khoái.

Đến khi Trần Quân đi vệ sinh xong quay lại, tôi cảm thấy mình có thể mỉm cười rạng rỡ đối mặt với anh ta rồi.


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 6


Sau khi học xong về Phổ Nhĩ, đã đến lúc bắt đầu ôn tập để chuẩn bị cho kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp.

Kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp chia thành hai phần: phần văn và phần võ. Phần văn là thi lý thuyết trên giấy, còn phần võ là thực hành pha trà Bạch Mẫu Đơn. Để có cơ hội gặp Diệp Thanh Hữu nhiều hơn, mỗi ngày tôi đều đến Hòa Quang để luyện thực hành, làm hao mòn mất nửa bánh trà Bạch Mẫu Đơn mà anh yêu quý. Pha đến mức anh xót trà đến không chịu nổi, nói rằng tôi luyện cũng khá rồi, bảo tôi mau đi thi đi, anh cảm thấy kỹ thuật của tôi đã thành thạo, chắc chắn thi một lần sẽ qua.

Nhận được lời khẳng định từ nam thần, tôi vô cùng phấn chấn xung phong đi thi ngay lập tức.

Kỳ thi sơ cấp và trung cấp đều do Diệp Thanh Hữu làm giám khảo, chỉ có kỳ thi cao cấp mới phải nộp lên hiệp hội để xét duyệt và xếp hạng. Khi tôi pha trà, Diệp Thanh Hữu ngồi đối diện nhìn tôi, bình thường tôi pha trà rất nhẹ nhàng, nhưng giờ lại run từ cổ tay đến đầu ngón tay.

Tôi theo trà lễ chỉnh đốn trang phục, rửa tay, ngồi xuống sau bàn trà, hít một hơi thật sâu, cúi chào, rồi dùng giọng run rẩy tự giới thiệu. Sau khi giới thiệu xong là đun nước, trong lúc chờ nước sôi, tôi lần lượt giới thiệu bộ dụng cụ pha trà trên bàn với người đối diện. Giới thiệu xong thì cho trà vào bát có nắp, nước cũng đã sôi, bắt đầu rửa trà, tráng ấm chén, rồi rót nước trà lần đầu, châm trà.

Trong suốt quá trình, Diệp Thanh Hữu yên lặng và dịu dàng quan sát tôi. Lúc đó tôi hoàn toàn hiểu được tâm trạng của Lưu Mộng Mai: Khi trước mặt bạn có một người mà bạn đã mơ tưởng vô số lần, người ấy phù hợp với mọi tưởng tượng của bạn, đột nhiên từ bức tranh, từ cõi mộng của bạn bước ra ngồi đối diện, dùng đôi mắt ấm áp và mỉm cười nhìn bạn chăm chú, đầu óc bạn sẽ hoàn toàn trống rỗng, không thể suy nghĩ cũng chẳng thể nói gì.

Nước trà màu xanh vàng nhạt như cỏ non chảy ra từ chiếc bình trong suốt, rót vào chén sứ tinh xảo trước mặt, đổ đầy bảy phần. Dưới đáy chén, hai con cá chép đỏ tươi như thể đang bơi lội, sát lại gần đến mức như đang hôn nhau.

Tôi lấy lót chén đặt chén trà vào trong, hai tay cầm chén lên, cúi đầu dâng trà.

Tôi thật sự rất thích cách Diệp Thanh Hữu giải thích bước này cho tôi. Hai tay dâng trà, nâng khay ngang mày. Như thể giữa chúng tôi có mối tình lặng lẽ đã nảy sinh từ lâu.

Diệp Thanh Hữu khép ba ngón tay lại, dùng phần bụng ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn, ba ngón tay khép lại thành thế ba con rồng bảo vệ đỉnh, nâng chén trà lên, uống một ngụm. Tôi lo lắng quan sát sắc mặt của anh qua khóe mắt, vẫn là nét bình thản không có biểu hiện gì, nhưng trong lòng tôi đột nhiên nặng trĩu như một tảng đá ngàn cân. Tôi hít thở sâu một lần nữa, thầm nhắc mình phải bình tĩnh, sau đó tiếp tục rót cho anh chén trà thứ hai.

Diệp Thanh Hữu lại gõ nhẹ lên bàn.

Lần này, anh khép ngón trỏ và ngón giữa lại cong lại, làm động tác gõ bàn để cảm ơn, dùng đốt ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn.

Trà lễ có năm loại. Ở trà thất, tôi thường thấy bốn loại trong số đó: lễ chìa tay, lễ gật đầu, lễ rót trà và lễ gõ ngón tay.

Trong đó, lễ gõ ngón tay lại chia thành bốn loại: gõ một ngón, hai ngón, ba ngón và gõ ngón cong. Gõ một ngón lên bàn là để đối với người nhỏ tuổi hơn hoặc bạn bè đồng lứa; gõ hai ngón là để tỏ lòng kính trọng đối với bậc trưởng bối, cấp trên hoặc bạn bè thân thiết; gõ ba ngón là để thay mặt cho những người bạn không hiểu lễ trà cảm ơn nghệ nhân nhà. Gõ ngón cong là hình thức trang trọng hơn, thường có hai cách dùng: một là khi được bậc trưởng bối có đức cao vọng trọng rót trà, thể hiện lòng biết ơn; hai là khi khen ngợi kỹ thuật của nghệ nhân trà, ý là trà pha rất ngon.

Tôi có cảm giác như mình sắp bay lên.

Nam thần khen tôi pha trà ngon.

Nam thần khen tôi pha trà ngon!

A a a a, nam thần khen tôi pha trà ngon!!!

Tôi phấn khích đến mức không thể kiềm chế, gần như lập tức lắc lư trên bàn trà: “Thầy Diệp, thầy Diệp! Thầy xem em có qua bài thi không!”

Diệp Thanh Hữu trầm ngâm một lát, cúi xuống nhìn bảng điểm trong tay, nói: “… Em bị trừ điểm ở chỗ rất kỳ lạ.”

Một chậu nước lạnh tạt thẳng xuống đầu, tôi lập tức xẹp xuống, nhỏ giọng hỏi: “Em bị trừ điểm ở đâu ạ…?”

“Bước cuối cùng,” Diệp Thanh Hữu đưa bảng điểm cho tôi. “Sau khi khách thưởng trà xong, lẽ ra em phải hỏi cảm nhận của khách về trà và trao đổi về việc thưởng trà, nhưng em lại hỏi thẳng xem đã qua chưa.”

Tôi ỉu xìu nhận lấy bảng điểm, vừa nghĩ có lẽ mình phải thi lại, thì nghe Diệp Thanh Hữu nói tiếp: “Nhưng dù sao vẫn chúc mừng em.”

Phía trên cùng của bảng điểm, ở mục kết quả, rực rỡ một chữ “99” được tô đỏ.

Diệp Thanh Hữu nói: “Em là học viên có điểm thực hành cao nhất trong lịch sử của Hòa Quang.”

Kỳ thi thực hành đã được tôi vượt qua với kết quả gần như hoàn hảo, chỉ còn lại phần thi lý thuyết. Diệp Thanh Hữu đưa tôi hai bộ đề thi thử, bảo tôi mang về làm, làm xong thì quay lại để anh giảng giải. Tôi cứ nghĩ sau khi tốt nghiệp cấp ba sẽ không bao giờ phải gặp lại đề thi thử nữa, mà giờ lại phải đối mặt với chúng, đầu óc tôi căng phồng như hai vạn cái đầu cộng lại. Vậy mà Văn Bạch Hoa còn vừa chơi game vừa cười nhạo tôi, nói người nặng hơn một trăm cân rồi mà còn ôn lại thanh xuân, làm tôi tức đến mức suýt nhổ hết sen cậu ta trồng để nấu canh.

Đồ ỉn lười chẳng hiểu gì về tình yêu và lý tưởng!

À quên nói, gần đây Văn Bạch Hoa bị lời giới thiệu của Vương Đại Chúc ảnh hưởng mà bắt đầu trồng hoa, ngày nào cũng ôm mấy hạt sen yêu quý của mình mà hồn bay phách lạc. Tôi cảm thấy bây giờ chỉ có mình tôi là người bình thường nhất trong ký túc xá, Vương Đại Chúc thì xu hướng tính dục là ngoặc đơn, ngoặc kép và đồ cổ, còn xu hướng tính dục của Văn Bạch Hoa là thực vật. Nghĩ kỹ lại thì tôi chỉ là một tên gay thôi, dù tôi có xu hướng tính dục là gay cũng dễ được chấp nhận hơn họ nhiều.

Theo kế hoạch ban đầu, kỳ thi sẽ diễn ra vào cuối tuần. Nhưng đến thứ Năm, đàn anh Trần Quân bỗng nhiên đăng một tin nhắn trong nhóm bạn trà, nói anh ta rất thích chùa Linh Tuyền, nhưng thấy môi trường vệ sinh xung quanh chùa quá tệ, cảm thấy rất đáng tiếc. Anh ta hỏi chúng tôi xem cuối tuần có ai rảnh không, nếu rảnh thì có thể tổ chức một chuyến đạp xe đến chùa Linh Tuyền để l*m t*nh nguyện. Tôi có chút động lòng, nhưng lại lo lắng thời gian thi và việc tình nguyện sẽ trùng nhau. Đang lúc băn khoăn thì Diệp Thanh Hữu bất ngờ gọi điện cho tôi, hỏi tôi có muốn tham gia hoạt động không.

Tôi nói: “Em cũng khá hứng thú, nhưng kỳ thi…”

Diệp Thanh Hữu nói: “Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi. Thi lúc nào cũng thi được, nhưng những hoạt động như thế này rất hiếm có.”

Tôi: “Đàn anh Diệp em yêu anh.”

Thế là kỳ thi được dời lại sang tuần sau.

Trường tôi nằm ở vùng quê, quê đến mức nào ư, ngồi xe buýt đến trạm tàu điện ngầm gần nhất mất hai tiếng. Học kỳ trước có một người hàng xóm sống cùng thành phố với tôi nhưng học ở trung tâm thành phố, chúng tôi cùng xuất phát từ trường để về Quảng Châu, khi cậu ta về đến nhà, cậu gọi điện hỏi tôi đã đến đâu rồi, tôi nói mình vừa tới ga tàu cao tốc, còn chưa lên tàu nữa.

Từ trường đến bến xe buýt mất một tiếng, từ bến xe buýt đến trạm tàu điện ngầm mất hai tiếng, từ trạm tàu điện ngầm đến ga tàu cao tốc mất thêm một tiếng nữa. Hoàn toàn không có gì sai.

Từ đó có thể thấy, đường đi xe đạp đến chùa Linh Tuyền tệ đến mức nào.

Đạp xe trong 20 phút, đến khi tôi đến chùa thì người đã mệt như chó, ngồi xổm trước cổng chùa, vừa thở hổn hển vừa chào hỏi con chó vàng canh cửa, nó còn “gâu gâu” đáp lại.

Diệp Thanh Hữu thì vẫn rất ung dung, không hề đổ mồ hôi cũng không th* d*c. Tôi cứ nghĩ anh ấy suốt ngày ngồi uống trà đọc sách ở trà thất thì sẽ yếu ớt lắm, không ngờ sức khỏe lại tốt như vậy. Dáng vẻ đàn anh Trần Quân cũng rất quen thuộc, chỉ là vừa vào chùa thì bị con chó vàng đuổi chạy tán loạn. Con chó lông vàng to lớn cứ muốn đứng lên ôm lấy eo anh ta, thở phì phò l**m mặt, anh ta vừa hét “ôi trời, hôi quá” vừa chạy trốn, Vương Đại Chúc đứng phía sau cười ngả nghiêng.

Tận mắt thấy chùa Linh Tuyền, tôi mới nhận ra việc Diệp Thanh Hữu và Trần Quân gọi nơi này là “chùa” thực sự đã quá tôn vinh nó. Bốn phía đều hoang dã, giữa rừng cây ẩn hiện vài căn nhà lụp xụp như khu ổ chuột, giữa đống hoang tàn là một ngôi chùa đổ nát, không có tường, phía sau chùa là một ngọn đồi nhỏ, trên đỉnh đồi là tượng Quan Âm Nam Hải. Trong đồng hoang đầy rác nhựa và giấy ăn, ai không biết còn tưởng đây là bãi rác tái chế.

Diệp Thanh Hữu bảo với tôi ngôi chùa này do dân làng gần đó góp tiền xây dựng, có thể không được quy củ lắm, nhưng anh rất thích vì nơi đây đầy tình người. Thỉnh thoảng anh còn cùng trụ trì ở chùa uống trà luận đạo, vào cuối tuần chùa có tổ chức các buổi giảng mở cho phụ nữ và trẻ em trong làng, giảng về quốc học và giải thích kinh Phật.

Chúng tôi leo lên ngọn đồi nhỏ qua những bậc thang đá lởm chởm, lần lượt vái lạy tượng Quan Âm Nam Hải.

Tôi hỏi Diệp Thanh Hữu: “Em không theo Phật giáo, cũng phải lạy sao?” Diệp Thanh Hữu đáp: “Lạy đi, đã đến đây rồi, coi như chào hỏi cũng nên lạy một lạy. Em có thể không tôn thờ Người như một tín ngưỡng, nhưng em nên giữ trong lòng một sự kính trọng.”

Thế là tôi quỳ xuống đệm trước Phật, chắp tay trước ngực, thành kính lạy ba lạy.

Khi tôi ngẩng đầu lên, thoáng thấy trong khóe mắt tượng Quan Âm mạ vàng ấy khẽ cúi xuống, dùng một ánh mắt từ bi mà hiền hòa mỉm cười với tôi. Vừa lạy, tôi vừa nghĩ thầm, nếu chư Phật có linh thiêng, có thể nghe thấy lời cầu nguyện của chúng sinh, thì tôi xin Phật, hãy cho tôi trở thành người như đàn anh Diệp Thanh Hữu.

Xin hãy cho tôi trở thành một người thuần khiết, tập trung và luôn mang trong lòng sự dịu dàng như thế.


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 7


Đàn anh Trần Quân phát cho mỗi người một chiếc túi rác và một đôi găng tay bảo vệ môi trường, chúng tôi đứng thành hàng trên đồi đất để chụp bức ảnh phiên bản Quan Âm nghìn tay với găng tay bảo vệ môi trường làm kỷ niệm, sau đó tản ra đi thu dọn rác trong vùng đất hoang.

Việc này thực sự không hề đơn giản, cứ cúi xuống rồi đứng dậy, cúi xuống rồi đứng dậy, mới chỉ dọn dẹp được vài mét vuông mà tôi đã thở hổn hển, chỉ ước mình có thể biến thành máy hút bụi, không, phải là cơn lốc xoáy thì đúng hơn, quét một vòng là sạch sẽ cả bốn phía. Sau khi đã thu dọn được nửa túi rác, tôi dựa vào lan can đá th* d*c, Diệp Thanh Hữu đi đến hỏi tôi có mệt không, tôi nói đúng là khá vất vả. Anh ấy tháo găng tay ra lấy trong balo một chai nước đưa cho tôi, tôi ừng ực uống một hơi hết nửa chai, lúc đó mới thấy đỡ hơn đôi chút.

Nhìn quanh một lượt, Vương Đại Chúc và đàn anh Trần Quân đã chạy đi xa. Có vẻ như Vương Đại Chúc đã phát hiện ra một bờ sông phía sau ngọn đồi nhỏ, liền lớn tiếng gọi chúng tôi qua xem, còn hỏi đàn anh Trần Quân có thể câu cá rồi nướng ăn tại đó không. Trong gió văng vẳng tiếng đàn anh Trần Quân cười mắng em có gan thì cứ làm tới đi, dám sát sinh sau lưng Quan Âm? Sao không lên trời luôn đi?

Tôi cũng không nhịn được mà cười ra tiếng. Gió từ bờ sông vượt qua ngọn đồi thổi đến, mát mẻ lại trong lành. Tôi nói đàn anh Diệp, thật kỳ lạ. Chúng ta lặng lẽ làm bao nhiêu việc như thế này, không ai thấy cũng chẳng ai khen ngợi, nhưng em lại thấy rất vui.

Ai bảo không có ai thấy? Anh Diệp chỉ tay lên trời. “Các vị thần đều đang nhìn.”

Chúng tôi đã vất vả làm việc suốt cả buổi sáng ở vùng hoang dã gần chùa Linh Tuyền, đến trưa thì vào nhà ăn của chùa để cọ bữa cơm chay. Nhà ăn nằm trong khu rừng đào nhỏ bên cạnh ngôi chùa, hoa đã gần rụng hết nhưng lá thì vẫn tươi tốt. Những người ăn ở nhà ăn đều là các cư sĩ ẩn cư ở gần đó và những cụ già neo đơn trong làng, trước khi dùng cơm, tiếng chuông Phật vang lên, kinh Phật được tụng cao, sau đó các vị sư mới lần lượt phát đồ ăn cho mọi người.

Trên đường chờ ăn trưa tôi định lấy điện thoại ra chơi, nhưng bị Diệp Thanh Hữu nhẹ nhàng vỗ vào mu bàn tay, đành phải ngượng ngùng cất lại.

Dùng cơm xong, trụ trì dẫn chúng tôi đến nơi ở của các tu sĩ trong chùa để nghỉ trưa. Điều kiện không tệ như tôi tưởng cũng gần giống như ký túc xá, tôi và Diệp Thanh Hữu ở chung một phòng, còn Trần Quân và Vương Đại Chúc nói họ chưa buồn ngủ nên ra sân phơi nắng.

Đàn anh Diệp ngồi lên giường xếp bằng rồi bắt đầu thiền, anh nhắm mắt lại vẻ mặt thanh thản. Anh ấy ngồi thiền lâu đến mức tôi tưởng anh đã ngủ mất, thì đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng ồn ào của gà bay chó chạy. Tôi mở cửa sổ nhìn ra ngoài thì thấy con chó vàng đã chạy vào sân, còn Vương Đại Chúc thì đang xúi nó đuổi theo Trần Quân chạy loạn khắp nơi.

Tôi nói: “Mọi người nhỏ tiếng một chút, đàn anh Diệp đang nghỉ ngơi.”

Họ vội vàng đồng ý, đè con chó vàng xuống đất.

Mười giây sau, lại là cảnh gà bay chó chạy.

Tôi xoa thái dương định mở cửa sổ lần nữa thì Diệp Thanh Hữu nói: “Kệ họ đi, hiếm khi ra ngoài chơi một chuyến, vui là được.”

Tôi hỏi: “Đàn anh Diệp, anh chưa ngủ à?”

Diệp Thanh Hữu đáp: “Anh đang thiền.”

Người phàm tục như tôi chẳng thể hiểu nổi hoạt động tư tưởng cao thâm của anh ấy, nên ngẩn người một lát rồi khẽ hỏi: “… Chân anh không bị tê sao?”

Diệp Thanh Hữu: “… Cảm ơn em đã quan tâm. Không tê.”

Tôi thử học theo anh ngồi xếp bằng trên giường, nhưng chưa được hai phút đã chịu không nổi, đành duỗi chân ra bắt đầu xoa bóp. Trong lúc tôi đang nhăn nhó xoa bóp bắp chân, Diệp Thanh Hữu đột nhiên hỏi tôi: “Gia Gia, hôm nay ra ngoài chơi vui không?”

Tôi đáp: “Vui ạ, vui hơn ở trường nhiều. Lâu lắm rồi em mới được thoải mái thế này.”

“Em không vui khi ở trường à?” Diệp Thanh Hữu hỏi. “Anh nghe Đại Chúc nói thành tích của em rất tốt, đứng top trong lớp mà.”

“Không vui, không vui một chút nào.” Tôi ngồi co gối trên giường. “Em ở trường buồn lắm.”

“Từ nhỏ bố mẹ em đã kỳ vọng vào em rất cao, luôn mong em học ngành khoa học tự nhiên, thường xuyên nói nếu không đỗ được vào đại học trọng điểm thì coi như sống vô ích… Lần đầu tiên em không nghe lời họ là khi nói dối cuối tuần lên trường luyện thi, nhưng thực ra lại đi học vẽ.” Tôi móc lấy cái chăn, vừa nghịch vừa kể. “Sau đó vì thành tích học tập sa sút quá nhiều, bố mẹ phát hiện ra rồi mắng em một trận. Nhưng lúc đó em học tệ quá, chẳng còn cách nào khác, để có thể đỗ vào trường trọng điểm, họ đành để em tham gia kỳ thi năng khiếu nghệ thuật.”

“Tài năng hội họa của em cũng tạm được, dù bắt đầu học muộn, nhưng cuối cùng em vẫn đỗ được vào trường trọng điểm, miễn cưỡng coi như gỡ gạc lại chút thể diện cho bố mẹ. Nhưng em luôn nhớ những lời họ mắng trước kia, rằng sinh viên nghệ thuật chỉ là những kẻ học kém, không thi nổi trường nào khác, sau này chắc chắn không có tương lai, không tìm được việc làm. Vì thế sau khi vào đại học, em vẫn cố gắng học tập chăm chỉ, cố gắng vẽ thật nhiều, sợ mình sẽ thua kém người khác. Khi ở trường, ngày nào em cũng nghĩ nếu không nỗ lực bây giờ thì sẽ không có thành tích tốt, không có thành tích tốt thì sau này không có chỗ thực tập nào nhận em, không có chỗ thực tập thì sẽ không tìm được việc làm, không có việc làm thì em sẽ thất nghiệp, phải lang thang đầu đường xó chợ mà ăn xin. Dù bây giờ em mới chỉ là sinh viên năm nhất, nhưng nếu tính qua loa, em cảm thấy mình đã là kẻ ăn xin không nghề không nghiệp ngủ dưới gầm cầu rồi.”

Nói đến đây, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Con chó vàng vẫn đang cố gắng dùng hết sức mạnh để vật ngã Trần Quân còn Trần Quân thì vừa la hét vừa chạy loạn khắp nơi, trong khi Vương Đại Chúc thì hô to một tiếng đàn anh để em cứu anh, rồi túm lấy đuôi con chó vàng kéo lại.

Tôi nói: “Em thật sự rất hâm mộ mọi người. Em hâm mộ Đại Chúc vì gia đình cậu ấy có tiền, không phải lo lắng về chuyện sau này có cơm ăn không; hâm mộ Bách Hoa vì cậu ấy sống vô tư, mỗi ngày chỉ chơi game, chăm hoa và mơ tưởng sẽ tìm được bạn gái; hâm mộ đàn anh Trần Quân vì anh ấy xuất sắc, kỹ năng giao tiếp tốt nên không phải lo lắng về việc tìm việc làm sau này; và em hâm mộ đàn anh Diệp, vì sự tập trung, thuần khiết của anh đối với trà, không bị chi phối bởi những điều trần tục, sự tự tại không gì lay chuyển được của anh. Em thường nghĩ… tại sao dường như mọi người đều sống trong giấc mơ, chỉ có em đang ra sức vật lộn? Em cũng mới mười tám tuổi thôi mà, tại sao đã phải suy nghĩ nhiều như vậy? Đây là độ tuổi đáng ra em được mơ mộng mà.”

Diệp Thanh Hữu mở mắt, nhìn tôi: “Anh cũng không hiểu tại sao em lại nghĩ nhiều như vậy, có lẽ em không biết hồi anh bằng tuổi em, anh đang làm gì đâu.” Anh cười khẽ. “Hồi đó ngày nào anh cũng chơi bóng rổ, buổi tối thì đi hát karaoke với bạn bè, ăn đồ nướng, cuối tuần đạp xe đi cắm trại, chơi bời quậy phá đủ kiểu, mãi đến năm ba đại học, khi tiếp quản trà thất của sư phụ anh, anh mới ổn định lại, từ từ tập trung, chỉ chuyên tâm vào mỗi việc đó.”

Vừa nói anh vừa xuống giường, đi đến chỗ tôi xoa đầu tôi.

“Đừng tạo áp lực cho mình quá, Gia Gia,” Diệp Thanh Hữu nói với tôi. “Em chưa đến lúc phải chọn con đường nào đâu. Em vẫn đang ở độ tuổi thích hợp để mơ mộng, cứ thoải mái mà mơ đi.”


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 8


Lời của Diệp Thanh Hữu đã tiếp thêm cho tôi một sự tự tin vô cùng lớn, khiến tôi có can đảm… xin mẹ tiền học lớp nghệ nhân trà trình độ trung cấp.

Lúc tôi gọi điện cho mẹ bà đang nhảy quảng trường, vừa nhảy vừa nói: “Cái đồ không có lương tâm, chỉ khi nào hết tiền mới nhớ đến mẹ mà gọi điện! Con nhà người ta thì có bạn gái rồi mới xin tiền bố mẹ, còn con không có bạn gái, xin tiền làm gì?”

Tôi hùng hồn đầy lý lẽ đáp: “Con đang học hành mà, học hành! Học làm con vui. Con cũng muốn có bạn gái lắm chứ nhưng học hành thực sự quá vui vẻ đi!”

Mẹ tôi: “Thôi đi, thằng ranh con. Sớm muộn gì cũng ăn sạch tiền của bố mẹ.”

Tôi tức điên lên: “Con cũng kiếm được tiền mà! Con có thể tự mình nhận viết bài, mỗi đơn có thể kiếm được mấy trăm tệ, kỳ này con nhận việc viết bài đã kiếm được vài nghìn rồi. Chẳng phải mẹ bảo con phải tập trung vào việc học không cho con nhận việc ngoài sao? Nếu không thì con đâu cần phải xin tiền mẹ chớ?”

Mẹ tôi: “Được rồi được rồi, tất cả là lỗi của mẹ. Con tưởng mấy đồng nhuận bút của con đủ trả tiền gas nấu vài nồi canh sao? Con quên mất là con đang học mỹ thuật à, ra ngoài nhận viết bài gì chứ, giỏi thì bán tranh thử mẹ xem?”

Tôi: “Con đã vẽ miễn phí cho nhà mình biết bao nhiêu bức tranh trên tường rồi, mẹ có giỏi thì trả thù lao cho con đi?”

Mẹ tôi: “Thua con luôn. Cho con tiền, cầm mà tiêu, học hành cho tử tế vào, đừng bỏ bê môn chuyên ngành.”

Tôi vui vẻ chờ nhận chuyển khoản rồi chạy đến quán trà để thi viết lớp sơ cấp.

Trong quán trà Diệp Thanh Hữu đang đọc sách, anh đeo một chiếc kính gọng đen rất tri thức. Tôi buột miệng nói một câu “Đàn anh Diệp trông bạo lực thật.” Diệp Thanh Hữu ngẩng đầu, khó hiểu hỏi tôi: “Bạo lực gì? Bạo lực chỗ nào?”

Tôi: “À… ừm, cái này…”

Xấu hổ quá.

Tôi đành phải nhanh chóng phát huy khả năng chữa cháy tại chỗ của mình: “Em, ý em là, bảo lễ! Bảo thủ và rất lễ phép!”

<i>*Bạo lực: Bàolì; bảo lễ: bǎo lǐ</i>

Diệp Thanh Hữu vẫn nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ, tôi vội vàng đổi chủ đề: “Khụ khụ, thi cử, thi cử.”

Thực ra đề thi không khó, nhưng kỳ lạ là hầu hết các câu hỏi tôi chưa từng thấy qua. Diệp Thanh Hữu nói 70% câu hỏi đều có trong đề thi thử nhưng tôi thấy chẳng có mấy câu quen thuộc. Khi tôi nộp bài, Diệp Thanh Hữu nhận lấy rồi chấm ngay tại chỗ, chấm được một lúc anh đột nhiên hỏi tôi: “Gia Gia, em không ôn tập nghiêm túc đúng không?”

Tôi ngơ ngác: “Không, không có mà? Em rất nghiêm túc làm bài thi thử, còn chăm hơn cả ôn thi đại học nữa!”

“Thế sao em làm bài thế này?” Anh đưa bài cho tôi xem, trên cột điểm là con số 70 mấy chói mắt. “Anh đã nói rồi, 70-80% câu hỏi đều có trong đề thi thử, nếu em làm bài nghiêm túc thì không thể nào thi ra kết quả này.”

Tôi nhỏ giọng giải thích: “Thật không có mà… Em ôn tập rất nghiêm túc, mà 70 điểm chẳng phải là qua rồi sao…”

“70 điểm? Ở Hòa Quang, phải trên 90 điểm mới gọi là qua.” khuôn mặt Diệp Thanh Hữu lúc nói chẳng có biểu cảm gì, giọng còn khá nghiêm nghị. “Đề thi thử của em đâu? Đưa ra anh xem.”

Tôi rụt cổ lại, lấy đề thi thử từ trong ba lô ra đưa cho anh.

Anh nhận lấy nhìn qua vài lần, biểu cảm đột nhiên trở nên kỳ lạ, vẻ mặt như dở khóc dở cười. Tôi thấp thỏm chờ đợi kết quả phán quyết của anh, rồi anh khẽ ho hai tiếng đưa lại bài thi cho tôi.

“Anh đưa nhầm đề thi thử rồi.” Anh ngượng ngùng nói. “Lẽ ra anh phải đưa đề kiểm tra nghệ nhân trà sơ cấp, nhưng đây lại là đề thi thử nghệ nhân trà cao cấp…”

Tôi: …

Tôi đã nói mà!

Tôi dám dùng đồ cổ của Vương Đại Chúc và hoa giả của Bách Hoa để đảm bảo, với trí thông minh của tôi thì không thể nào không vượt qua được!

Tôi bực bội nhìn anh còn anh thì không hiểu ý cất hai tờ đề đi: “Anh sẽ đưa lại cho em đề ôn thi sơ cấp, tuần sau em đến thi lại.”

Tôi nói: “Anh đổ oan cho em.”

Diệp Thanh Hữu: “Anh xin lỗi…”

Tôi giận dữ nói: “Anh đổ oan cho em!”

Diệp Thanh Hữu giơ tay lên: “Được được được, anh sai rồi, anh xin lỗi, anh sẽ đền bù cho em. Em đến quán trà lâu như vậy mà chưa có chén uống trà riêng của mình, anh tặng em một chén trà được không? Em thích loại chén nào?”

Tôi nghe anh nói muốn tặng quà tôi lập tức nguôi giận, liền vừa nói vừa diễn tả cho anh: “Loại chén sứ ấy, nhỏ nhỏ một chút, trên đó có hoa văn đục lỗ!”

“Hoa văn đục lỗ?” Diệp Thanh Hữu ngẩn người một lúc rồi nói: “Em đang nói đến loại chén Linh Lung, loại có những hoa văn trong suốt nhỏ bằng hạt gạo đúng không?”

Tôi gật đầu lia lịa: “Đúng rồi! Từ nhỏ em đã muốn có một chiếc chén như vậy, chơi rất vui! Nhưng mẹ em không chịu mua cho em!”

“Được thôi, không vấn đề gì, anh sẽ tặng em một cái.” Diệp Thanh Hữu cười nói. “Tại sao mẹ em không mua cho em?”

Tôi: “Mẹ em nói những lỗ lấp lánh trên đó đều khảm nạm kim cương, nhà em không đủ tiền mua.”

Diệp Thanh Hữu: “…”

Anh ấy cố gắng nhịn cười, nhưng tôi có thể thấy anh đang rất vui.

Dù nói thi lại lần nữa, nhưng bài thi đã làm vẫn phải được giải thích lại một lần.

Diệp Thanh Hữu chỉ ra những câu tôi làm sai giảng giải một chút rồi nói: “Nền tảng văn học của em cũng khá đấy, bài cuối cùng về Thất Oản Trà Ca mà em cũng chép lại được hết.”

Ừm, tất nhiên rồi. Làm cán sự môn văn nhiều năm như vậy, chuyện khác không chắc chứ học thuộc thơ thì tôi khá là nhanh.

“Chỉ có điều câu cuối cùng ‘Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sanh’ em viết chữ hơi dày quá.” Diệp Thanh Hữu nói. ” Hai chữ ‘Tập tập’ gần như dính liền với nhau rồi.”

Tôi: “… Tập tập? Gì cơ???”

Diệp Thanh Hữu: “Sao thế?”

Tôi ghé lại nhìn: “Nhất oản hầu vẫn nhuận, nhị oản phá cô muộn. Tam oản sưu khô tràng, duy hữu văn tự ngũ thiên quyển. Tứ oản phát khinh hãn, bình sinh bất bình sự, tận hướng mao khổng tán. Ngũ oản cơ cốt thanh, lục oản thông tiên linh, thất oản cật bất đắc dã, duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh… Là vậy hả?”

Diệp Thanh Hữu: “Đúng vậy, sao thế?”

Tôi: “Không, không có gì.”

Làm sao tôi dám nói với anh ấy rằng khi chép bài, vì chữ của anh quá mảnh và dài nên tôi đã đọc nhầm chữ “tập tập” thành chữ “vũ”! Tôi đã luôn thuộc là “Duy giác lưỡng dịch vũ thanh phong sinh”! Tôi còn suy nghĩ rất nghiêm túc tại sao Lư Đồng lại viết như vậy, phải chăng uống quá nhiều trà khiến lông nách hóa thành lông vũ, biến thành đôi cánh bảo vệ mình rồi bay lên trời! Cảm thấy hoàn toàn hợp lý!

Diệp Thanh Hữu nhìn tôi với ánh mắt đầy thắc mắc, tôi lau mồ hôi lạnh, nói: “Lần sau em sẽ nhớ viết chữ giãn ra một chút.”

May mà chưa nói ra, nếu không chắc tôi bị trục xuất khỏi môn phái mất.



<i>*Tập tập: 习习; Vũ: 羽</i>

Tạm dịch bài thơ THẤT OẢN TRÀ CA (thơ về Bảy Chén Trà)

Nguồn bản dịch: https://sondacuongnhan.blogspot.com/2009/11/that-oan-tra-thi-tho-ve-bay-chen-tra.html

Nhất oản hầu vẫn nhuận,

Nhị oản phá cô muộn,

Tam oản sưu khô trường,

Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.

Tứ oản phát khinh hãn,

Bình sinh bất bình sự,

Tẩn hướng mao khổng tán.

Ngũ oản cơ cốt thanh,

Lục oản thông tiên linh.

Thất oản ngật bất dã,

Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sanh.

<i>Chén đầu hầu vị đượm nồng

Chén hai nhất tảo sạch không muộn phiền

Chén thứ ba rửa liền thực vị

Chừa lại chăng nghìn quyển thi thơ

Chén tư vừa cạn không chờ

Mồ hôi theo đấy lửng lờ tuôn rơi

Chuyện bất bình trong đời mấy độ

Cũng do đây phát lộ chân lông

Chén năm kinh mạch đều thông

Chén trà thứ sáu cõi lòng khinh an

Chén thứ bảy xem đàng chẳng đặng</i>

<i>Nghe bên tai văng vẳng khinh phong</i>
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 9


Văn Bạch Hoa trồng hoa mà trồng đến nỗi gặp vấn đề, cứ đòi dọn ra khỏi ký túc xá cho bằng được. Tôi nói dọn thì dọn đi, dọn càng sớm càng tốt, đỡ phải nuôi muỗi trong ký túc xá, cũng đỡ khiến cậu ta suốt ngày nghi ngờ tôi nấu canh sườn củ sen trong phòng sẽ làm sợ hãi mấy bông hoa giả bảo bối của cậu, ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần của chúng.

Ngày dọn phòng, cậu ta còn mời chúng tôi đến nhà mới ăn món Gà Cung Bảo kiểu Trùng Khánh, mẹ nó, nhìn cái là biết hai người họ thèm món đó, lôi tôi qua để giúp họ tiêu thụ cơm trắng đi kèm với món Gà Cung Bảo thôi. Tôi thực sự rất thèm ăn thịt, nhưng khi nhìn thấy cái nồi đỏ rực như đang bốc cháy đó, tôi lập tức rút lui, im lặng như thóc, ngồi đếm hạt cơm và chỉ ăn cơm trắng.

Tức chết đi được, đúng là bạn cùng phòng thân thiết.

Đang ăn dở thì Văn Bạch Hoa bảo phải đi tưới nước bón phân cho hoa, cho nó ăn bánh dầu cải, tôi thật sự không hiểu cậu ta bị làm sao nữa, hoa mà cũng có thể ăn cơm đúng giờ như người à? Điều kỳ diệu nhất là mẹ nó cậu ta trồng sen cơ mà, tưới nước cho hoa sen, đúng là chuyện xưa nay chưa từng nghe thấy.

Nhân lúc Văn Bạch Hoa ra ban công, Vương Đại Chúc xúi tôi ăn Gà Cung Bảo, nói “Gia Gia, mày ăn gà đi.” Tôi nói “Cảm ơn, tao không ăn gà, cũng không ăn gà cay.” Hắn lập tức thở dài khoa trương nói đồ cay mà không ăn thì cuộc đời mày còn gì ý nghĩa nữa chứ rồi ăn một miếng gà to thật to, bắt đầu nhai nhóp nhép đầy phô trương. Tôi thật sự nghiến răng tức tối, cơm trắng nấu mềm đến mấy cũng gần như nhai kêu răng rắc.

Vương Đại Chúc, đừng để tao thấy mày lén ăn xúp của tao. Nếu tao không đầu độc mày chết thì tao không mang họ Tạ.

Đột nhiên Vương Đại Chúc lại nói: “Gia Gia, gần đây tao thấy mày ngày nào cũng chạy qua trà thất. Có phải mày đang định theo đuổi đàn anh Diệp không?”

Một miếng cơm trắng trong miệng tôi b*n r* theo hình tia.

Mẹ nó, chẳng lẽ tôi thể hiện rõ ràng vậy sao? Đến mức Vương Đại Chúc có EQ thấp thế mà cũng nhìn ra à?! Tôi vội vàng rút khăn giấy ra lau sạch bàn rồi nói tao không phải, tao không có, đàn anh Diệp rõ ràng là một trai thẳng cứng nhắc, không dây dưa với trai thẳng là nguyên tắc sống của tao.

Vương Đại Chúc nói ồ, vậy thì tốt. Bình thường mày thích xem Hoàng thượng với triều thần, chủ tịch với nam trợ lý, hay phim HD với Billy tao đều không quan tâm, nhưng đàn anh Diệp người ta vô tội mà, mày đừng có mà chà đạp anh ấy. Nói xong hắn còn đâm thêm một nhát: “Tao nói vậy cũng chỉ phòng ngừa kép thôi, dù sao mày có muốn theo đuổi người ta cũng chưa chắc đuổi kịp.”

Tôi lại muốn phun cơm ra, phun thẳng vào mặt hắn.

Tôi cố nén lại cơn bốc đồng muốn phun cả đống cơm trắng vào mặt hắn rồi hỏi: “Không phải mày tự xưng là ngực rộng đến mức bất kể bạn cùng phòng yêu nam yêu nữ, yêu người yêu ma đều có thể mặt không biến sắc à, sao bây giờ lại lôi chuyện này ra với tao vậy?”

Vương Đại Chúc nói ban đầu tao cũng chẳng nghĩ gì, nhưng hôm đi l*m t*nh nguyện ở chùa Linh Tuyền, lúc mày và đàn anh Diệp nghỉ trưa trong phòng, đàn anh Trần Quân ngoài sân lén nói với tao hình như mày đang rục rịch muốn một chân với đàn anh Diệp. Anh ấy là bạn thân lâu năm của đàn anh, không nỡ nhìn anh ấy bị mày chiếm mất nên nhờ tao đánh tiếng cảnh cáo mày.

Nói xong hắn thật sự dùng đũa gõ nhẹ hai cái lên đầu tôi coi như đánh tiếng.

Tôi rất muốn đánh người. Rất muốn lao về ký túc xá nắm lấy cổ áo Trần Quân mà lắc mạnh rồi hỏi anh ta: “Anh có ăn gà que chiên xù không? Có ăn không?!”

Tôi kiềm chế cơn xung động tìm người trả thù, đập bát cơm trắng xuống bàn: “Đại Chúc, mang rượu Nhị Oa Đầu ra đây.”

Vương Đại Chúc: “Không có rượu Nhị Oa Đầu.”

Tôi: “Vậy mang rượu Giang Tiểu Bạch!”

Vương Đại Chúc: “Không có Giang Tiểu Bạch.”

Tôi: “Vậy mang bia Thanh Đảo ra!”

Vương Đại Chúc: “Không có bia Thanh Đảo.”

Tôi: “Cái này phải có chứ!”

Vương Đại Chúc: “Gia Gia, thật sự không có đâu.”

Tôi như quả bóng xì hơi nằm bẹp xuống bàn.

“Được thôi,” tôi nói, “Bia dứa, bia dứa chắc phải có chứ?!”

Bia dứa cũng không có.

Vương Đại Chúc bị tôi đánh một trận, đành phải đội gió lạnh giữa đêm khuya đi mua rượu Giang Tiểu Bạch. Uống xong hai ly rượu trắng tôi bắt đầu phát điên, ban đầu chỉ là cười hềnh hệch ha hả với mọi người, chẳng mấy chốc đã ôm gối của Văn Bạch Hoa lăn lộn khắp sàn nhà. Khi Văn Bạch Hoa quay lại sau khi vừa trò chuyện tình cảm với bông hoa giả của cậu ta, thấy tôi nằm bẹp trên đất không ra hình dạng người nữa, cả người cậu ta đơ ra như kẻ ngốc.

Văn Bạch Hoa: “Nó bị sao thế?”

“Uống say rồi,” Vương Đại Chúc nói. “Vui lắm, không tin mày thử đi?”

Nói rồi tên khốn đó gắp một miếng Gà Cung Bảo, đưa đến trước mặt tôi: “Gia Gia, a– mau ăn gà cay đi!”

Tôi đập bàn đứng dậy: “Ăn thì ăn!” Nói rồi tôi oai phong lẫm liệt cắn luôn miếng gà đỏ rực đó.

Hai giây sau, tôi bắt đầu phun lửa khắp nơi.

Vương Đại Chúc: “Hahaha, tao đã bảo vui mà. Đúng không.”

Văn Bạch Hoa: “…”

Tôi chạy khắp phòng tìm nước, suýt nữa thì lao ra ban công bê chậu hoa sen của Văn Bạch Hoa lên mà uống ừng ực. Văn Bạch Hoa đen mặt đuổi tôi và Vương Đại Chúc ra ngoài. Vương Đại Chúc kéo tôi trở về ký túc xá nhưng tôi không chịu, đứng giữa con phố vắng hét lên: “Tao muốn ăn thịt –“

Vương Đại Chúc: “Ăn ăn ăn, cho mày ăn. “

Tôi: “Muốn ăn cay — “

Vương Đại Chúc: “Ăn ăn ăn, cho mày ăn.”

Tôi: “Muốn ăn gà cay– “

Vương Đại Chúc: “… Ăn ăn ăn, cho mày ăn luôn.”

Tôi gào lên điên cuồng: “Không muốn ăn gà cay, muốn ăn… người Phúc Kiến –!”

Vương Đại Chúc: “… Cái đó tao lấy đâu ra cho mày chứ?!”

Hắn gọi điện cho Văn Bạch Hoa: “Bạch Hoa, Gia Gia điên rồi, đòi ăn người Phúc Kiến, giờ phải làm sao?”

Giọng Văn Bạch Hoa ở đầu dây bên kia nghe rõ ràng và cay nghiệt vô cùng: “Mày tìm một người Hồ Nam hoặc Tứ Xuyên đến cho nó cắn một miếng, đảm bảo cả đêm nó chỉ lo uống nước và đi vệ sinh, tuyệt đối không làm phiền nữa.”

Tôi: “…”

Đậu, Văn Bạch Hoa, đồ độc ác! Ông đây nguyền rủa mày không bao giờ có bạn gái, nguyền rủa mày bị gay đjt đến trĩ!

Rõ ràng bây giờ Vương Đại Chúc đã đứng về phe tôi, giơ ngón giữa lên trời rồi cúp máy. Hắn lôi tôi từ dưới đất lên, nửa khiêng nửa kéo về phía trà thất.

“Đi nào, Gia Gia,” Vương Đại Chúc dụ dỗ. “Tao dẫn mày đi ăn người Phúc Kiến.”

Nửa đêm mười hai giờ, cửa trà thất bị gõ vang.

Người mở cửa đón chúng tôi là Diệp Thanh Hữu, anh ấy trông rất ngạc nhiên, vẻ mặt đó giống y như lần tôi giới thiệu ứng dụng ghi chú đám mây cho anh ấy. Vương Đại Chúc vừa kéo tôi vào quán trà, vừa giải thích với Diệp Thanh Hữu: “Đàn anh Diệp, Gia Gia uống say rồi, đòi ăn người Phúc Kiến… Em đành khiêng cậu ấy đến đây, anh xem phải làm sao bây giờ?”

Đàn anh Diệp Thanh Hữu – Người Phúc Kiến hàng real: “…”

“Dẫn em ấy vào trước đã.” Diệp Thanh Hữu nói, tiến lại giúp Vương Đại Chúc dìu tôi vào nhà. “Uống bao nhiêu mà say đến mức này? Để lát nữa anh đi pha trà giải rượu cho em ấy.”

Vương Đại Chúc đáp một tiếng rồi cùng Diệp Thanh Hữu dìu tôi vào quán trà, đặt tôi lên tấm đệm mềm trước bàn. Vương Đại Chúc thở hổn hển nói mệt chết đi được, Diệp Thanh Hữu nhìn đồng hồ rồi nói: “Ký túc xá của tụi em có giờ giới nghiêm đúng không? Giờ cũng sắp tới rồi, nếu em vội thì cứ về trước.”

Vương Đại Chúc ngập ngừng nhìn tôi một cái: “Nhưng mà Gia Gia…”

“Anh sẽ chăm sóc em ấy,” Diệp Thanh Hữu nói. “Tối nay cứ để em ấy ở chỗ anh.”

Vương Đại Chúc còn hơi do dự, nhưng sau khi lấy điện thoại ra xem giờ, hắn đành cắn răng nói Vâng, phiền đàn anh nhé, nói xong, hắn thật sự bỏ đi mà không hề luyến tiếc.

Diệp Thanh Hữu tiễn hắn ra cửa trà thất, tôi liền nhân cơ hội bò dậy, thấy trên bàn có một chén nước màu xanh nhạt trong chiếc chén công đạo, phía trước còn có một cái chén trà hình con cá.

Hì hì ha ha, chắc chắn là Diệp Thanh Hữu biết tôi sẽ đến nên đã chuẩn bị trà sẵn cho tôi rồi. Tôi nghĩ thầm đầy hạnh phúc, bưng cái chén cá bơi lên uống một hơi cạn sạch. Ngọt lịm, ngon quá, uống thêm một chén nữa.

Khi Diệp Thanh Hữu quay lại, đúng lúc thấy tôi đang rót thêm một chén nước từ cái chén riêng của anh ấy rồi uống hết. Anh ngồi xuống bên cạnh hỏi tôi: “Gia Gia, cảm giác thế nào?”

“Đánh giá trà từ ba tiêu chí: màu sắc, hương vị và mùi thơm,” tôi nghiêm túc nói. “Nước trà này màu trong suốt tinh khiết, vị ngọt như mật, hương thơm nồng nàn, mang mùi hoa quả, quả là trà ngon tuyệt đỉnh!”

Diệp Thanh Hữu vỗ tay: “Đánh giá rất hay.” Khen xong, anh ấy bổ sung: “Nhưng đây là nước mía tươi mà sư thúc Trần Quân mang tới chiều nay.”

Tôi đơ mặt ra.

Đậu, Trần Quân, lại là mẹ nó Trần Quân nữa sao?!

Diệp Thanh Hữu cười khúc khích bên cạnh rồi hỏi tôi có muốn uống trà giải rượu nữa không, tôi bỗng khóc òa lên, lao vào ôm chặt lấy eo anh ấy: “Anh cũng bắt nạt em, ngay cả anh cũng bắt nạt em!!!”

“Anh bắt nạt em chỗ nào?” Diệp Thanh Hữu buồn cười xoa đầu tôi. “Gia Gia, em không thể vô lý như thế được. Rõ ràng là em tự cầm chén của anh uống nước mía, sao lại quay ra trách anh bắt nạt em chứ?”

Tôi ngẩng đầu nước mắt rưng rưng tố cáo: “Anh không biết là em thích anh nhiều như thế nào đâu! Em thích anh đến thế, vậy mà anh lại cho em uống trà giả!!!”

Biểu cảm của Diệp Thanh Hữu thay đổi ngay lập tức.

Anh ấy lập tức đẩy tôi dậy, nắm chặt cánh tay tôi gấp gáp hỏi: “Tạ Gia, vừa nãy em nói gì, nói lại lần nữa?”

Khoảnh khắc đó tôi ngỡ như trong mắt anh ấy có những tia sáng lấp lánh. Đôi mắt trong trẻo, thuần khiết, luôn mang nét cười ấy dường như bất chợt chứa đựng cả dải ngân hà, bừng sáng bởi niềm vui sướng.

Tôi nói: “Anh cho em uống trà giả!”

Diệp Thanh Hữu: “Không phải câu đó, câu trước đó nữa.”

“Em thích anh đến thế!” Tôi thẳng thắn nói. “Đàn anh Diệp, anh không biết đâu, em thích những người như anh biết bao! Từ nhỏ em đã muốn trở thành một người giống như anh!”

Ánh sao vụt tắt.
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 10


Sau khi tỉnh rượu đầu óc tôi nặng nề, đau đến mức muốn khoan sọ để cắt bỏ não ra ngoài.

Tôi mơ màng bò dậy khỏi giường. A, giường rộng quá; a, giường mềm quá; a, đây không phải giường của tôi.

Tôi lập tức tỉnh táo hẳn, hoảng hốt bò khỏi chiếc giường vừa to vừa mềm nhưng không phải của mình. Căn phòng được trang trí rất ấm cúng, giường là loại giường sàn tatami, được ngăn cách với phòng khách bằng một tấm rèm màu vàng nhạt, trên sàn trải đệm m*t màu cà phê, đi chân trần cũng thoải mái. Tôi còn tưởng Vương Đại Chúc đã nhân lúc tôi say rượu mà bán tôi đi — mặc dù sự thật cũng gần như thế — tôi lăn lộn chạy ra phòng khách, lại thấy Diệp Thanh Hữu đang ngồi sau bàn trà, vừa đọc sách vừa uống trà.

Thấy tôi từ sau tấm rèm lăn ra, anh ấy cười nhẹ nhàng: “Tỉnh rồi à?”

Tôi bối rối gật đầu.

“Tỉnh rồi thì đi rửa mặt đi, nếu vẫn thấy khó chịu thì tắm luôn cũng được.” Diệp Thanh Hữu nói. “Sáng nay chắc không có lớp, nếu rảnh thì uống với anh chén trà?”

Đầu óc tôi vẫn còn ngưng trệ, ấp úng nói: “Nhưng em không mang quần áo để thay.”

Diệp Thanh Hữu: “Nếu em không ngại thì có thể mặc đồ của anh trước. Em có ngại không?”

Tôi lắc đầu lia lịa.

Tôi cầm quần áo của Diệp Thanh Hữu vào phòng tắm, tắm rửa không phải bằng nước nóng, mà là bằng hạnh phúc.

Rốt cuộc tối qua đã xảy ra chuyện gì mà tôi không biết nhỉ! Sao tự dưng tôi lại ở nhà Diệp Thanh Hữu, sao tôi lại ngủ trên giường anh ấy và sao lại mặc quần áo của anh ấy! Làm tròn thì chẳng phải tôi và Diệp Thanh Hữu đã bắt đầu cuộc sống sau hôn nhân rồi sao? Ha ha ha ha ha ha.

Nghĩ hay lắm.

Tắm rửa xong tôi vừa cài khuy áo trà của Diệp Thanh Hữu vừa tự chế giễu mình nghĩ quá nhiều. Khi cài đến chiếc khuy cuối cùng, tôi chợt phát hiện có một vết đỏ bầm ở cổ.

Mới mấy tháng thôi mà, trời còn chưa hết lạnh, sao muỗi đã hoành hành rồi? Tôi vừa cài chiếc khuy cuối cùng vừa nghĩ chắc chắn là do trước trà thất Hòa Quang trồng quá nhiều cây cối.

Thời tiết đẹp, ánh nắng xuyên qua bậu cửa sổ đầy những chậu cây mọng nước chiếu vào phòng khách, cả căn phòng tràn ngập ánh sáng. Tắm xong tôi thấy tỉnh táo hẳn, ngồi xuống đối diện Diệp Thanh Hữu: “Đàn anh Diệp, đây là nhà anh à?”

“Ừm, anh chuyển ra từ năm hai rồi sống ở đây từ đó tới giờ.” Diệp Thanh Hữu nói, “Chỗ này nằm ngay trên tầng của trà thất Hòa Quang, đi lại cũng rất tiện.”

Chậc chậc chậc, cùng là nhà thuê mà nhà Diệp Thanh Hữu sạch sẽ ngăn nắp như một căn hộ mẫu, nhìn lại nơi ở của Văn Bạch Họa, thật chẳng khác gì một cái ổ chó.

Diệp Thanh Hữu nói: “Kế bên có tủ sách, em có thể qua xem, thích quyển nào thì cứ lấy mà đọc. Nếu không đọc hết ở đây thì có thể mượn mang về cũng được.”

“Tốt vậy ạ?” Tôi vừa nói vừa bước đến bên cạnh anh.

Nói là tủ sách, nhưng thực ra nó là một tủ trưng bày gần giống như giá để đồ cổ, một bên trưng bày các loại trà cụ và trà, một bên là kệ sách. Sách được phân loại và sắp xếp rất ngăn nắp, có sách về trà, sách tranh mỹ thuật và các loại sách văn học. Tôi lướt qua kệ sách trà, nhận thấy các thể loại đều rất phong phú, chỉ riêng sách chuyên về trà Phổ Nhĩ là không có.

Tôi rút một cuốn ra. Hình như Diệp Thanh Hữu không ngạc nhiên khi tôi chọn loại sách này, anh từ tốn nói: “Cuốn của Văn Chấn Hanh cũng không tệ”, rồi cúi xuống đọc sách của mình. Khi tôi chọn sách anh đã tráng một chiếc chén mới và đặt trước chỗ ngồi của tôi, rót cho tôi một chén trà màu cam sẫm. Tôi mở cuốn trên bàn đối diện, nhưng tâm trí tôi không hoàn toàn tập trung vào sách, thỉnh thoảng lại lén liếc nhìn Diệp Thanh Hữu qua khóe mắt.

Những vệt nắng chiếu lên chiếc áo sơ mi vải lanh màu xanh xám của anh, trông rất gọn gàng nhưng lại ấm áp. Khi anh cúi đầu đọc sách biểu cảm rất chuyên chú, không chút xao lãng, như thể mọi thứ tầm thường của trần thế đều không thể kéo anh ra khỏi thế giới nhỏ của riêng mình.

Những lời tôi nói với Vương Đại Chúc tối qua là thật lòng. Tôi sẽ không theo đuổi anh cũng không dám theo đuổi. Một người thanh khiết như trăng sáng và gió mát, tính cách cương trực, làm sao tôi dám làm vấy bẩn.

Tôi làm sao xứng với anh? Tôi chỉ là một người tầm thường, xoàng xĩnh, còn anh thì không.

Anh như một vị tiên bị đày xuống trần gian.

Để che giấu sự thất vọng của mình, tôi vội vàng cúi xuống uống một ngụm trà.

Ngay khi uống một ngụm tôi sững người.

Thật khó để diễn tả đó là hương vị gì. Khác hẳn với tất cả các loại trà mà tôi từng uống, hương vị của nó là một sự ngọt ngào sâu lắng, nhưng mùi thơm thì vô cùng kinh ngạc. Trong thoáng chốc tâm trí tôi nở hoa, liên tưởng đến rất nhiều thứ: những mảnh giấy tre đã bị thời gian làm mờ chữ, thanh kiếm rỉ sét trong những câu chuyện võ hiệp, hay cơn mưa đêm bập bùng sau mười năm giang hồ phiêu bạt. Tôi quá quen thuộc với mùi hương này, mỗi khi tôi đẩy cánh cửa gỗ cũ của thư viện, hương thơm dịu dàng, ố vàng ấy của những cuốn sách bị thời gian bào mòn sẽ xộc vào mặt, bao trùm lấy tôi hoàn toàn.

Đó là một mùi hương cổ xưa.

Tay tôi cầm chén trà run rẩy, gần như không thể giữ vững được chén trà, tôi vội vàng hỏi Diệp Thanh Hữu: “Đàn anh Diệp, đây là trà gì vậy ạ?”

“Trà đen Hắc Chuyền An Hóa của Hồ Nam, trà đã qua ủ từ năm 2011.” Diệp Thanh Hữu trả lời. “Đây là trà mới nhập về quán trà hai ngày trước, anh cũng mới lần đầu thử pha. Thường ngày anh rất ít mời ai uống trà đen, bởi vì quá trình sản xuất trà đen khiến nó có một hương vị lão hóa đặc trưng mà không phải ai cũng dễ dàng chấp nhận… Sao, em rất thích loại trà này à?”

“Em rất thích hương vị của nó…” Tôi nói bằng giọng run rẩy, ánh mắt nhìn vào chén trà đầy đam mê. “Không, phải nói là em yêu nó.”

Tôi thích những thứ cũ kỹ, những thứ cổ xưa.

Chẳng hạn như những cuốn sách cũ bị ố vàng nằm trong góc phòng làm việc của ông ngoại, hay những mảnh giấy mục nát, mốc meo hoặc bị mọt đục lỗ, chẳng hạn như những chữ viết đã lắng đọng qua hàng ngàn năm. Ngay từ khi còn nhỏ tôi đã khác biệt so với những đứa trẻ khác, khi tụi nó chơi đùa với bùn dưới nhà hay hái lá cây để chơi đồ hàng tôi lại đọc sách. Tam Quốc Diễn Nghĩa, Hồng Lâu Mộng, thậm chí cả Sở Từ mà trẻ con tiểu học rất khó hiểu. Có người nói rằng chữ nghĩa là thứ nặng nề nhất trên thế gian, tôi thấy rất đúng; cũng có người nói mua sách là việc buôn bán có lời nhất, tôi cũng đồng ý tuyệt đối.

Chỉ cần bỏ ra số tiền bằng hai bữa ăn, bạn có thể mua được cả hàng ngàn năm lịch sử.

Tôi cứ mãi chấp nhất với những thứ đẹp đẽ đã xa rời tôi từ lâu, những thứ đã qua đi và không thể tái hiện lại, đồng thời trên con đường này tôi bước đi trong cô đơn. Tôi rất muốn một lần nữa được thấy chúng, dù không thể truyền thừa hay tái hiện vinh quang của chúng, chỉ cần được nhìn ngắm chúng qua cửa kính trưng bày cũng đủ.

Nhưng tôi lại là một người sợ cô đơn đến nhường nào, tôi không ngừng khao khát được hiểu, không ngừng hy vọng có người nào đó có thể hiểu được sự khát khao gần như cuồng nhiệt của tôi và cùng tôi bước tiếp, nhưng không có ai.

Vì thế tôi mới nói với chị Lục rằng, tôi rất ngưỡng mộ thời đại ấy.

Thời đại mà ngôn ngữ giữa người với người có thể giao tiếp, tư tưởng có thể hòa hợp, tôn trọng sự khác biệt mà vẫn giữ sự đồng thuận. Bây giờ xã hội đã phát triển, khoa học công nghệ đã tiến bộ, nhưng khoảng cách giữa con người lại trở nên xa xôi đến lạ. Không còn ai viết một lá thư bằng giấy úa vàng để tâm sự nỗi nhớ nhung với một người bạn thân đã lâu không gặp, cũng không còn ai sẵn sàng bỏ cả đời để tìm hiểu nguồn gốc của một điển cố. Đèn điện thay thế cho ánh nến, email thay thế cho phong bì thư, trình duyệt web thay thế cho sách in. Dưới bánh xe quay cuồng của thế giới rộng lớn, mọi người đều vội vã tiến lên, còn tôi như một hòn đá cứng đầu bị nhấn chìm trong dòng chảy, chẳng thể khuấy lên một đợt sóng nào.

Vậy nên tôi thích mùi của trà đen. Mùi hương cổ xưa, lặng lẽ ấy, là thứ tôi luôn yêu thích.

Vậy nên tôi thích Diệp Thanh Hữu. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi đã nhận ra anh ấy là người cùng loại với tôi, cũng cố chấp bước đi trên con đường ít người lui tới. Điểm khác biệt duy nhất là, tôi gần như đã bị dòng chảy thế tục làm phai nhạt màu sắc, còn anh ấy thì vẫn bước đi trên con đường cô đơn của mình một cách vững vàng, thong dong.

Việc tôi đột ngột chuyển sang học mỹ thuật ban đầu cũng không phải không có lý do. Lúc đầu, tôi muốn học văn, muốn viết tiểu thuyết cả đời, tôi nói với bố mẹ tôi muốn học khối xã hội, muốn vào khoa Văn hoặc khoa Lịch sử. Bố mẹ tôi nghĩ tôi điên rồi, vì trong mắt họ, học văn hay lịch sử thì không thể kiếm được việc làm.

Vì vậy, tôi quyết định chọn con đường vòng cứu nước. Một vị vĩ nhân đã từng nói, bản chất của người Trung Quốc là trung dung, nếu bạn cảm thấy phòng quá tối, quá ngột ngạt và muốn mở cửa sổ để thông thoáng, những người trong phòng có lẽ sẽ không đồng ý. Nhưng nếu bạn nói rằng muốn dỡ cả mái nhà, thì họ sẽ đồng ý mở cửa sổ để dung hòa. Tôi định tháo cả mái nhà – tôi lén đi học mỹ thuật, và làm ra vẻ rất yêu thích nghệ thuật muốn sống muốn chết. Tôi nghĩ như vậy bố mẹ tôi sẽ cho tôi học khối Văn, dù sao so với việc trở thành một học sinh chuyên về nghệ thuật, thì học khối xã hội ít ra cũng là con đường học vấn truyền thống.

Nhưng không ngờ, tôi lại vẽ cũng tàm tạm, còn điểm các môn văn hóa thì tụt dốc không phanh, không thể cứu vãn nổi – khi tôi cầm bài thi tiếng Anh chỉ được 15 điểm về nhà, mẹ tôi vừa khóc vừa mắng: “Con tin không, mẹ giẫm lên tờ đáp án vài cái cũng có thể được điểm cao hơn con đấy!”

Để có thể vào được một trường đại học trọng điểm, tôi bị bố mẹ thúc ép không còn lựa chọn nào khác mà phải đi học mỹ thuật.

Bài học đau thương này dạy tôi hai điều: Thứ nhất, bạn sẽ không bao giờ hiểu được sự cố chấp của các bậc phụ huynh đối với hai chữ “trọng điểm” trên bằng cấp; Thứ hai, nếu bạn gây chuyện, bạn sẽ phải trả giá.
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 11


Tình yêu tôi dành cho trà đen cuồng nhiệt như một con chó hoang bị lòi trĩ, mỗi lần đến Hòa Quang tôi đều phải gọi trà đen, pha đến mức cả quán trà đều ngập tràn hương vị lão hóa của gỗ cũ. Có lần trong quán trà không có ai, tôi tự mình say sưa pha trà gạch xanh Hồ Bắc năm 2010, thì Diệp Thanh Hữu bất ngờ cầm một cuốn sách đến ngồi đối diện tôi, nhỏ giọng bảo tôi sau này nên hạn chế uống trà đen ở trà thất.

Tôi như bị một cú đập trời giáng, ngơ ngác hỏi anh tại sao.

Diệp Thanh Hữu: “Trà ở trà thất là tài sản công hữu, một mình anh không thể tự quyết định. Nếu em muốn uống thì có thể lên lầu, chỗ anh có rất nhiều trà riêng, chủng loại phong phú hơn, chất lượng cũng tốt hơn. Em uống bao nhiêu cũng không sao, anh nói vậy hiểu không?”

Tôi hiểu rồi! Ý anh ấy là uống trà ở quán trà thì phải tính phí, nhưng nếu lên nhà anh uống thì đó là giao lưu riêng tư, uống miễn phí thoải mái!

Đột nhiên tôi cảm thấy mình càng yêu anh ấy hơn.

Tôi đã vượt qua kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp một cách dễ dàng sau khi tham gia kỳ thi thử dành cho cấp sơ cấp. Nhưng Diệp Thanh Hữu lại không thực hiện lời hứa tặng cho tôi một chiếc chén Linh Lung, anh ấy bảo vẫn chưa tìm được cái nào phù hợp với tôi. Anh càng như vậy tôi càng mong đợi, nhìn thấy chiếc chén nào mình thích tôi điều kìm lòng không mua, chỉ muốn đợi dùng chiếc anh ấy tặng.

Lớp sơ cấp chủ yếu là lý thuyết về nghệ thuật trà và kiến thức cơ bản về các loại trà. Lớp trung cấp thì bắt đầu đi sâu vào các phương pháp pha cụ thể cho từng loại trà. Mỗi ngày tôi đều được uống trà do chính tay Diệp Thanh Hữu pha, thực sự là sướng như lên trời. Sau hơn một tuần sống cuộc đời hoang phí khi uống trà theo cân thì Diệp Thanh Hữu nói sẽ tạm ngừng lớp học.

Tôi:???

Diệp Thanh Hữu nói: “Mấy ngày trước anh được bạn mời đi Chiết Giang tham quan quá trình sao chế trà xuân Long Tỉnh, tiện thể mang một ít trà mới về. Có thể sẽ đi khoảng ba, bốn ngày gì đó.”

Tôi không vui lắm nhưng cũng không tiện thể hiện ra, chỉ lặng lẽ uống trà đen và chúc đàn anh có chuyến đi vui vẻ. Diệp Thanh Hữu lại hỏi tôi: “Mấy ngày này em có tiết học nào ở trường không?”

Tôi nói: “Cũng tạm thôi… Buổi chiều có tiết chuyên ngành.”

Diệp Thanh Hữu thở dài, có chút tiếc nuối nói: “Tiếc thật. Anh còn muốn hỏi em có rảnh không, nếu rảnh thì dẫn em đi quán trà mở mang kiến thức.”

Tôi: “…! Em không có tiết!!!”

Diệp Thanh Hữu: “Nhưng vừa rồi em nói…”

“Anh nghe nhầm rồi,” Tôi đặt mạnh chén trà lên bàn, kiên quyết nói. “Vừa nãy em nói là, tuần này ngày nào em cũng không có tiết!”

Vì muốn thả thính Diệp Thanh Hữu, thậm chí tôi có thể hy sinh cả đầu và máu, không ngại bỏ cả tiết chuyên ngành.

Tôi không chút do dự gửi ngay cho phụ đạo viên một lá đơn xin phép, viết rằng “Xuân về vạn vật sinh sôi, lại đến mùa người Quảng Đông ăn người Phúc Kiến. Nếu thiếu em, người Phúc Kiến ở thành phố tụi em có lẽ sẽ không ăn hết, nên em xin phép về nhà để cùng bố mẹ bảo vệ vinh quang của người Quảng Đông.” Phụ đạo viên trả lời tôi hai chữ “Nói nhảm” đầy sức sống, nhưng vẫn đồng ý cho tôi nghỉ phép về thăm nhà.

Không uổng công tôi dùng canh hầm để hối lộ thầy suốt một học kỳ.

Chuyến đi chỉ kéo dài hai, ba ngày nên tôi không chuẩn bị nhiều, chỉ mang theo vài bộ quần áo, điện thoại và ví tiền rồi ra ngoài. Diệp Thanh Hữu nói chuyến đi này tính là công tác của trà thất, vé tàu khứ hồi anh ấy sẽ lo cho tôi, tôi hân hoan cùng anh lên tàu cao tốc, hân hoan uống trà đen anh pha bằng ly du lịch, nhìn ra ngoài cửa sổ, hoàng hôn như ngọn lửa, bốn bề rộng lớn. Tôi quay lại định gọi anh nhìn mây lửa trên trời, ai ngờ anh đã tựa vào lưng ghế, trông như đã ngủ.

Tôi lén dựa gần lại anh hơn, hơi ấm từ người anh truyền qua hai lớp áo vải lanh đến da tôi, còn nóng hơn cả mây lửa. Tôi bất chợt căng cứng cả người, rồi tàu hơi rung nhẹ, anh nghiêng về phía tôi, đầu gối lên vai tôi.

Cho tôi một cái chong chóng tre, tôi cảm thấy mình có thể xoay tròn bay vọt lên trời.

Tôi nín thở, đợi một lúc mà anh vẫn không động đậy, có lẽ thực sự đã ngủ say. Tôi không kìm được mà cúi đầu xuống nhìn, ánh sáng dịu dàng của hoàng hôn rơi trên người anh, trong khoảnh khắc ấy anh như từ một thần tiên xa vời trở thành một người bình thường ngay trong tầm tay tôi. Tôi hồi hộp đến run rẩy, lén nhấc một tay lên, anh vẫn không có phản ứng.

Tôi lấy ngón cái khẽ chạm vào môi mình, rồi như kẻ trộm nhanh chóng đặt nhẹ lên môi anh. Khi cảm nhận được sự mềm mại của đôi môi anh trên đầu ngón tay, toàn thân tôi như có dòng điện chạy qua, không ngừng run rẩy, suýt bật khóc.

Đủ rồi.

Thế này là đủ rồi.

Đây là lần thứ hai tôi đến Tây Hồ. Lần trước là vào kỳ nghỉ hè năm ngoái, đi du lịch tốt nghiệp với một nhóm bạn vừa thi xong đại học. Chuyến đó kéo dài mười ngày, chạy qua bốn thành phố là Thượng Hải, Ngô Châu, Cối Kê, Tây Hồ, ba ngày cuối cùng ở Tây Hồ. Đến Tây Hồ trời nóng lên, thẩm mỹ mệt mỏi, chạy đi chạy lại quá mệt, kết quả là bốn người chúng tôi chẳng đi đâu, chỉ đặt một khách sạn bình dân cạnh Tây Hồ rồi đánh bài ba ngày liền.

Tôi thực sự phục mình luôn.

Lần này đi coi như là nửa công nửa tư, chỗ ở và thức ăn đều cao cấp hơn nhiều so với lần trước khi cả nhóm học sinh nghèo du lịch tiết kiệm. Đến Tây Hồ, Diệp Thanh Hữu không vội lo công việc, ngược lại còn thuê một chiếc thuyền nhỏ để cùng tôi dạo chơi.

Mặt nước lăn tăn, đảo hồ phản chiếu, khung cảnh yên bình thanh tú, rất hợp với trang phục trà đạo của Diệp Thanh Hữu. Người lái thuyền chèo thuyền ra giữa hồ, tôi bất chợt nổi ý đồ xấu, múc một vốc nước hồ hắt về phía Diệp Thanh Hữu. Tôi nghĩ một người nho nhã như anh ấy chắc không có năng khiếu thể thao tốt, chắc sẽ không né được, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra mình thật ngây thơ, rõ ràng tôi đã quên mất lần trước khi chúng tôi đạp xe đến chùa Linh Tuyền, Diệp Thanh Hữu đã thể hiện sức bền và thể lực đáng sợ thế nào, thế mà anh ấy lại lách người né được, chỉ có vạt áo bị văng vài giọt nước, rồi nhanh tay quét một vốc nước từ hồ tạt lại, làm tôi ướt cả người.

Tôi viết chữ phát cáu thật to, định tạt thêm nước, nhưng bị người lái thuyền phát hiện thuyền lắc lư không vững nên ngăn cản. Diệp Thanh Hữu cứ chỉ vào quần áo ướt nhẹp của tôi mà cười suốt đường đi. Thuyền lắc lư tiếp tục trôi, đến trước một con đê dài, Diệp Thanh Hữu chỉ cho tôi xem đâu là Đoạn Kiều Tàn Tuyết, đâu là Tháp Lôi Phong, rồi hỏi tôi có nghe về câu chuyện tình giữa Hứa Tiên và Bạch Nương Tử chưa. Tôi nói tất nhiên là nghe rồi, tôi còn biết hát “Pháp Hải, ngươi không hiểu tình yêu” nữa. Diệp Thanh Hữu nói, ồ? Em hát một câu nghe thử xem?

Tôi nghĩ chắc chắn là Diệp Đồ Cổ chưa từng nghe bài hát này nên mới dám nói như vậy. Tôi bảo, thôi bỏ qua đi, em sợ hát xong bài này thì con thuyền tình hữu nghị nhỏ bé của chúng ta sẽ lật mất.

Diệp Thanh Hữu lại bắt đầu cười.

Mãi đến hôm sau chúng tôi mới đi đến quán trà để xem trà. Trà xuân mới năm nay, Long Tỉnh trước mưa, Diệp Thanh Hữu lần lượt xem qua từng loại, dẫn tôi chiêm ngưỡng tám chữ danh xưng của Long Tỉnh Tây Hồ: “sắc xanh, dáng đẹp, hương đậm, vị thanh”, dạy tôi cách phân biệt những búp trà nào có thể được tôn là “Liên Tâm” với toàn búp non, những búp trà nào có một búp một lá mang hình dáng “Kỳ Thương”, và những lá hai cánh xứng với danh xưng “Tước Thiệt”. Xem xong lá trà khô, chúng tôi ngồi xuống để thưởng thức hương vị trà, mỗi người được dâng một ly thủy tinh trụ tròn, bên trong có một ít lá trà xanh, nước sôi vừa đun được rót dọc theo thành ly trong suốt.

Những búp xanh tươi hơi ngả vàng bị dòng nước sôi cuốn lên. Lá non xanh trong nước trong suốt, chìm nổi mở ra, thật đẹp không gì sánh được. Tôi hơi ngạc nhiên nhìn Diệp Thanh Hữu, vì theo những kiến thức tôi đã học, trà xanh nên được pha ở nhiệt độ từ 80 đến 85 độ C, nếu dùng nước sôi trực tiếp, lá trà non sẽ bị hâm, kết quả là nước trà sẽ đắng đến kinh khủng. Đây lại là một quán trà lâu năm chuyên về Long Tỉnh Tây Hồ, chẳng lẽ họ không biết điều đơn giản này sao?

Diệp Thanh Hữu chỉ nhẹ nhàng vỗ lên mu bàn tay tôi, ra hiệu tôi đừng lên tiếng rồi tiếp tục trò chuyện vui vẻ với ông chủ quán trà.

Chẳng lẽ trong chuyện này còn có điều gì bí ẩn? Tôi chăm chú nhìn ly trà Long Tỉnh trước mặt. Những lá trà non mềm mại nhanh chóng nở ra trong nước trà hơi xanh nhạt, một búp một lá xoay nhẹ, quả thực là cảnh đẹp “Xuân ba triển kỳ thương”. Tôi thử kiểm tra nhiệt độ nước rồi cẩn thận nhấp một ngụm.

*”Xuân ba triển kỳ thương” là một quy trình đặc trưng trong nghệ thuật pha trà xanh. Nước nóng trong ly như những gợn sóng mùa xuân, khi trà được ngâm trong nước nóng, các búp trà dần dần mở ra, những búp lá nhọn như ngọn thương, còn những lá đã mở ra thì như lá cờ.

Một búp một lá được gọi là “kỳ thương”, còn một búp hai lá thì được gọi là “tước thiệt” (lưỡi chim sẻ). Trước khi thưởng trà xanh, người ta thường ngắm nhìn các búp trà đa dạng hình dáng, nhấp nhô trong làn nước trà trong suốt như những linh hồn xanh của sự sống đang nhảy múa, vô cùng sinh động và thú vị.

Suýt chút nữa tôi đã tìm ngay nước để phì phì phì.

Mẹ nó, đúng là giống y như thứ mà Vương Đại Chúc pha ra.
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 12


Chết tiệt, tôi cứ tưởng quán trà này có kỹ thuật pha trà đặc biệt gì, dám dùng nước sôi để pha trà, hóa ra chỉ là pha bừa. Cái lưỡi của tôi chắc đã bị Diệp Thanh Hữu làm cho kén chọn rồi, bây giờ không chịu nổi chút vị đắng nào. Chỉ cần đầu lưỡi chạm nhẹ thôi mà tôi đã cảm thấy cả khoang miệng ngập tràn vị đắng khó chịu.

Mặt tôi xanh xao nhìn Diệp Thanh Hữu vừa mặt không hề biến sắc uống ly trà Long Tỉnh “vũ khí sinh học” đó vừa trò chuyện vui vẻ với ông chủ quán trà, khen ngợi Long Tỉnh năm nay “hương thơm thanh cao, vị tươi mát ngọt ngào.” Đúng là đàn anh tôi thật sự là nhân thần.

Đợi đến khi Diệp Thanh Hữu và ông chủ quán trà thỏa thuận xong việc nhập trà, họ lại bắt đầu bàn về chuyện đi xem quá trình sao chế trà xuân tại nhà máy. Ông chủ quán trà nói mấy ngày trước mưa nhiều quá, đường bị ngập, bây giờ muốn đến nhà máy xem thì được thôi, nhưng e là không dễ đi. Diệp Thanh Hữu ngần ngừ một lát, quay lại nhìn tôi, rồi nói với ông chủ rằng thôi để dịp khác vậy.

Tôi: …???

Tự nhiên có cảm giác bị đối xử như cậu ấm chủ nghĩa tư bản yếu đuối.

Trước khi rời đi, tôi uống cạn chén trà Long Tỉnh với gương mặt xanh lét, cảm giác như mình sắp thăng thiên. Diệp Thanh Hữu cười hỏi tôi cảm thấy thế nào, tôi đáp mình đã trở thành một Tử Gia rồi.

Diệp Thanh Hữu nói: “Nếu em không quen uống thì cứ nói sớm. Mặc dù về nguyên tắc, nghệ nhân trà phải tôn trọng mỗi chén trà và không được lãng phí, nhưng nếu em không uống hết, có thể đưa cho anh uống mà.”

Tôi: “Không sao em chịu được… Khoan đã, anh vừa nói gì cơ?!”

Chén trà tôi uống rồi đưa cho anh ấy uống, vậy thì tính ra là chúng tôi đã gián tiếp trao đổi nước bọt một cách trong sáng, mà nếu tính thêm một chút nữa thì chúng tôi đã có một nụ hôn sâu đong đầy tình cảm rồi!

Tôi lập tức hối hận đến mức ruột gan cũng xanh, nhưng Diệp Thanh Hữu lại tỏ ghẹo xong thì rút lui, anh cười híp mắt nói nếu không đi xem sao trà xuân tại nhà máy, thì ngày mai chúng ta sẽ đến núi Cố Trữ.

Tôi: “Xem sao trà xuân chỉ có một lần trong năm thôi, không đi thì thực sự không sao chứ?”

“Một năm một lần đồng nghĩa năm nào cũng có mà.” Diệp Thanh Hữu vừa nói vừa đưa tay qua xoa đầu tôi. “Đây không phải là lần đầu tiên anh đi xem sao trà xuân, nhưng lại là lần đầu tiên đi chơi với Gia Gia, nên tất nhiên phải làm những việc có thể lưu lại những kỷ niệm đẹp hơn rồi.”

Tôi: “…”

Aaaaaa, đồ trai thẳng ngốc nghếch, đã không có ý định tiến xa thì còn trêu chọc làm gì!

“Núi Cố Trữ có Đại Đường Cống Trà Viện, nơi nổi tiếng với loại trà Cố Trữ Tử Tuấn, được truyền rằng chính là nơi Lục Vũ đã viết nên Trà Kinh.” Diệp Thanh Hữu nói. “Gia Gia, em không muốn đi à?”

Tôi: “Đi đi đi!”

Vừa bán đứng khí phách vừa rơi lệ đầm đìa. Hôm nay, tôi lại cảm thấy yêu đàn anh Diệp Thanh Hữu nhiều hơn rồi.

Đại Đường Cống Trà Viện nằm trên núi Cố Trữ. Đó là một ngôi chùa với mái ngói xám đen và tường trắng, trên cổng treo một tấm biển đề năm chữ “Đại Đường Cống Trà Viện”. Nói đây là nơi Lục Vũ từng viết nên Trà Kinh, thực ra trong mắt tôi thì cũng chỉ là một chiêu trò quảng bá của điểm du lịch mà thôi. Nhưng dù khinh thường thì có ích gì, thời đại đó cách xa tôi quá, nên việc có thể nhặt nhạnh được chút dư âm cũng đã may mắn lắm rồi.

Bên trong điểm du lịch có cảnh biểu diễn trà nghệ phục cổ, và cũng có những bảng giới thiệu, giải thích về cuộc đời “trà thánh” Lục Vũ và trà Cố Trữ Tử Tuấn.

Đại Đường Cống Trà Viện cũng có một phòng trà để du khách nghỉ ngơi, tại đây có thể thưởng thức trà Cố Trữ Tử Tuấn được pha bằng chén trà có nắp. Diệp Thanh Hữu nói đã đến đây rồi thì nhất định phải thử đặc sản trà ở đây, nếu không thì chẳng khác gì đi công toi.

Tôi hoàn toàn đồng ý.

Hai chén trà Tam Tài được dâng lên. Nước trà màu vàng cam, lá trà xanh non tươi mát, nhìn rất thích mắt. Tôi cầm nắp sứ men xanh của chén trà khẽ gạt đi mấy lá trà, nhấp một ngụm nước trà — hương thơm khá cao và sảng khoái, nhưng vị lại đắng.

Trà đã bị ngâm trong nước nóng quá lâu, lại còn bị đậy kín bằng nắp chén, chỉ trong chốc lát đã ngấm vị đắng. Lần này tôi đã rút kinh nghiệm, uống hai ngụm rồi chép miệng vài cái, cảm thấy hương vị đã nếm được rồi, liền mặc không biến sắc mà đẩy chén trà sang cho Diệp Thanh Hữu. Diệp Thanh Hữu là người thế nào chứ, ngay cả nước vỏ quýt Tân Hội cũng có thể uống một cách thản nhiên như thần tiên. Anh ấy cười nhẹ nhận lấy chén trà tôi đẩy sang, khẽ gạt lớp lá nổi rồi cúi đầu chậm rãi uống.

— Chén trà còn không xoay, môi anh ấy đặt đúng chỗ tôi vừa uống.

Tôi thật không biết nên khen anh ấy lòng dạ rộng lượng, hay nên trách anh ấy quá bình thản. Khi đôi môi đó nhẹ nhàng cọ xát lên miệng chén, tôi không thể không nhớ lại cảm giác mềm mại, ấm áp khi chúng áp lên ngón tay mình, khiến tôi phút chốc quên cả bản thân, tâm hồn xao động. Tôi chăm chú nhìn anh ấy đến độ hai mắt đờ ra, hận không thể lao tới cắn một cái, nhưng anh ấy bỗng ngẩng lên nhìn tôi một cái, làm tôi phải vội vã thu lại ánh mắt càn rỡ của mình.

Anh hỏi tôi: “Uống không quen à?”

Tôi rất thật thà gật đầu. Anh cười lắc đầu: “Nuông chiều em thành thói quen gì rồi đây. Được thôi, về nhà anh sẽ tự pha cho em uống.”

Tôi suýt nữa đứng dậy vỗ tay hoan hô vạn tuế.

Thời gian khá gấp, vội vàng tham quan một vòng trong Cống Trà Viện rồi chúng tôi phải trở về. Trên đường về, tôi ngồi cạnh Diệp Thanh Hữu, anh dựa vào cửa sổ xe đọc tạp chí du lịch, còn tôi cúi đầu đánh chữ trên điện thoại. Một lúc lâu yên bình trôi qua, anh bỗng hỏi tôi một câu: “Lần này em đi với anh, có cảm nhận gì không?”

Đậu hũ của nam thần ngon thật có tính không? Tôi quay đầu nghĩ ngợi, nghi ngờ nếu trả lời như vậy sẽ bị đàn anh Diệp ném ra ngoài cửa sổ xe mất. Vậy nên tôi thành thật nói: “Trà ở quán trà đắng, trà ở Cống Trà Viện cũng đắng.”

Đàn anh Diệp suýt nữa bật cười thành tiếng.

Nghe câu trả lời như vậy, anh nhìn tôi cười, ánh mắt vừa đùa cợt nhưng không mang ý chế giễu, lại có chút dịu dàng bất lực. Anh gấp cuốn sách lại, gật đầu rất nghiêm túc: “Đắng thật.”

Tôi lập tức ngẩng đầu ưỡn ngực: “Đúng không! Em đã nói mà!”

“Nhưng em có biết tại sao khi ở quán trà ấy, anh không cho em nói thật ra không?” Diệp Thanh Hữu hỏi.

Tôi thành thật lắc đầu rồi suy nghĩ một chút, nói: “Là vì lễ nghi giao tiếp sao? Giống như khi thấy họ mua trà giả không thể nói ‘trà này không được’, mà phải hỏi ‘có loại nào chất lượng tốt hơn không?"”

“Không phải.” Diệp Thanh Hữu nói.

Tôi hỏi anh: “Vậy tại sao ạ?”

“Ừm… để anh lấy ví dụ.” Diệp Thanh Hữu suy nghĩ một lúc, “Đậu hũ non ở nhiều nơi đều có, nhưng có nơi cho đường, có nơi cho muối. Anh giải thích như vậy, em hiểu được không?”

Tôi: “Ừm ví dụ này… hình như em hơi hiểu rồi.”

“Mỗi nơi có những phong tục khác nhau, từ cách ăn mặc đến ẩm thực, tất nhiên văn hóa trà cũng sẽ khác nhau.” Diệp Thanh Hữu nói. Giọng anh nhẹ nhàng, mềm mại như một tài tử Giang Nam cũ, lời nói ngập tràn sự dịu dàng. “Khi dạy em về trà trắng, anh từng nói với em rồi đúng không? Anh là người Phúc Kiến, gia đình anh từ đời này qua đời khác đều buôn trà, nên anh học theo cách pha trà chuẩn mực từ nhỏ. Sau này theo sư phụ đi khắp nơi, anh mới biết trên thế giới có rất nhiều văn hóa trà khác nhau. Ví dụ như chúng ta thường theo đuổi cách thưởng trà thanh tịnh để cảm nhận hương vị trà tốt nhất, trong quá trình uống không thêm bất kỳ phụ liệu hay hương liệu nào để tránh làm mất đi hương vị trà.”

“Nhưng những nơi khác lại không như vậy. Ví dụ, quán trà lớn ở Thành Đô, Tứ Xuyên, thay vì gọi là nơi tao nhã, nó giống như một sân khấu thể hiện đủ mọi trạng thái của cuộc sống, từ uống trà, ăn uống đến trò chuyện, mát-xa đều có. Còn phong cách thưởng trà Ô Long ở Triều Sán, Quảng Đông thì nghiêm cẩn hơn, chú trọng lễ nghi, bất kỳ sai sót nào cũng có thể bị coi là thiếu tôn trọng. Người Naxi có món ‘Long Hổ Đấu’ trộn rượu và trà, người Tây Tạng có trà bơ Yak nấu cùng với sữa, trà chiều kiểu Anh thì lại pha thêm đường, sữa hoặc chanh vào hồng trà. So với những văn hóa trà kỳ quặc này, cách pha trà mà em thấy ở quán trà thực ra chẳng có gì to tát — dù sao nhân viên ở đó cũng không chắc đều là nghệ nhân trà, họ nhớ trà xanh nên pha trong cốc thủy tinh trụ thẳng là đã khá thường thức rồi. Thậm chí anh từng thấy có người ở Giang Tô pha trà Bích Loa Xuân bằng nước sôi và họ còn cho rằng càng đắng càng ngon.”

Tôi: “… Quả là anh hùng dũng cảm.”

“Lần này anh đưa em đi, chủ yếu để em hiểu điều này. Anh rất vui vì em đã tự nhận ra được đôi chút.” Diệp Thanh Hữu cười nói. “Ở Hòa Quang, em học toàn những kiến thức chuẩn mực về nghệ thuật pha trà, nếu không ra ngoài sẽ khó mà phá vỡ hệ thống kiến thức cố hữu của mình, để hiểu toàn diện hơn về ‘trà’. Sử dụng cách pha hiện đại và khoa học của chúng ta rất tốt, nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải tôn trọng các văn hóa trà khác, tôn trọng cách thưởng thức trà của người khác. Ngày nay, việc uống trà chủ yếu là để cảm nhận văn hóa ẩn trong hoạt động này, chỉ cần khiến người uống cảm thấy thoải mái thì đó chính là cách thưởng thức trà tốt nhất.”

Tôi gật gù như hiểu như không: “Nhưng đôi khi em vẫn thấy… một chén trà ngon mà bị pha hỏng thì tiếc quá.”

“Cảm giác đó liên quan đến cách em nhìn nhận và cảm nhận về trà.” Diệp Thanh Hữu nói. “Khi em có hiểu biết nhất định về trà, em sẽ tự nhiên suy nghĩ: Trà đối với em là gì? Em muốn đối xử với trà như thế nào, hay nói đúng hơn là em muốn giao hòa với trà ra sao? Đến khi em tìm được câu trả lời cho những câu hỏi này, em sẽ có ‘trà đạo’ của riêng mình.”

Càng nghe tôi càng đau đầu, cảm giác như não sắp nổ tung, không nhịn được mà xoa xoa thái dương, rồi lại hỏi anh ấy: “Đàn anh Diệp, vậy anh đã tìm được trà đạo của mình chưa?”

“Trà đạo của anh là ‘đơn giản’, ‘sạch sẽ’, ‘thuần túy’,” Diệp Thanh Hữu nói. “Dù thế gian có hàng vạn loại trà, hàng vạn phong tục, anh vẫn giữ nguyên suy nghĩ ban đầu của mình. Nhân tiện anh nói thêm, trà đạo của sư phụ anh là ‘thủ, phá, ly’, trước tiên là giữ lấy cái cũ, sau đó phá vỡ nó, và cuối cùng từ cái cũ tạo ra cái mới. Thế còn Gia Gia, em đã từng nghĩ đến trà đạo của mình là gì chưa?”

Tôi cúi đầu định trầm tư suy nghĩ, nhưng anh ấy lại ngăn tôi lại, nói: “Em không cần phải vội vàng đưa ra câu trả lời. Em vừa mới bước chân vào con đường trà, khi em đi xa hơn trên con đường này, tự nhiên em sẽ tìm ra câu trả lời thôi.”

Thực ra tôi đang muốn gắng sức nghĩ ra một trà đạo thật uy phong để thể hiện, nhưng trước mặt nam thần thì thật ngại mà khoe khoang. Diệp Thanh Hữu đã nói như vậy, tôi cũng đành xấu hổ bỏ qua.

Chống cằm suy nghĩ vẩn vơ một lúc, tôi bỗng nhớ ra một chuyện tôi luôn đặt trong trái tim mà quên hỏi Diệp Thanh Hữu. Thế là tôi bật dậy hỏi anh ấy: “Đàn anh Diệp, em có một câu hỏi, không biết có nên hỏi không.”

Diệp Thanh Hữu: “Cứ nói đi.”

“Lần trước anh nhờ đàn anh Trần Quân đến giảng thay cho em về Phổ Nhĩ, đàn anh Trần Quân nói với em là anh không pha trà Phổ Nhĩ, cũng không dạy về Phổ Nhĩ; khi em ở nhờ nhà anh, em cũng thấy trên giá sách của anh không có cuốn sách chuyên nào về trà Phổ Nhĩ.” Tôi nói. “Em có thể hỏi tại sao không? Anh không thích trà Phổ Nhĩ sao?”

Khi tôi hỏi câu này, thần sắc của Diệp Thanh Hữu có sự thay đổi trong chốc lát, thoáng qua rất nhanh, khó mà nắm bắt. Nhưng tôi vẫn nhận ra, đó là một biểu cảm mà tôi nghĩ sẽ không bao giờ xuất hiện trên gương mặt anh ấy, một biểu cảm gần như… khó chịu.

Nhưng anh ấy rất nhanh lấy lại vẻ bình thản, mỉm cười hỏi lại tôi: “Sao đột nhiên lại nghĩ đến chuyện này?”

“Không có gì… đột nhiên nhớ ra thôi.” Lòng dũng cảm thoáng chốc của tôi lập tức xẹp xuống. “Nếu không tiện nói, thì coi như em chưa hỏi.”

“Không có gì không thể nói.” Diệp Thanh Hữu đáp. Vẻ mặt anh ấy đã trở lại bình tĩnh và dịu dàng, dường như không khác gì ngày thường. “Anh đã từng nói rồi, gia đình anh kinh doanh trà trắng. Vào năm 2004, trà Phổ Nhĩ bắt đầu bị đầu cơ, cho đến năm 2007 giá cả tăng vọt, có những bánh trà được bán với giá hàng chục thậm chí hàng trăm triệu. Cùng lúc đó, trà Phổ Nhĩ chiếm lĩnh thị trường, bắt đầu chèn ép không gian sống của các loại trà khác, các loại trà như trà vàng và các loại trà ít phổ biến khác lần lượt suy tàn dưới sức ép này, và xưởng trà trắng của cha anh cũng vì thế mà một thời gian dài phải đóng cửa. Khi đó, cha anh đã ép anh quỳ trước từ đường thề rằng suốt đời này sẽ không bao giờ chạm vào trà Phổ Nhĩ nữa.”


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 13


Trên đời này có ba điều khiến tôi căm hận. Vạch trần màn diễn của tôi, xuyên tạc ý tôi muốn nói và bóc mở vết thương đã đóng vảy của tôi.

Nếu ai dám làm vậy với tôi, chắc chắn tôi sẽ không do dự mà b*p ch*t hắn ngay. Nhưng cũng nhờ vào chút lòng đồng cảm còn sót lại trong người, tôi biết nếu tôi làm điều tương tự với người khác, đặc biệt là một người mà tôi trân trọng, có thiện cảm, tôi chỉ hận không thể b*p ch*t mình thay anh ấy.

Tôi vội vàng xin lỗi: “Xin lỗi em nói sai rồi. Em không nên nhắc đến những chuyện đó.” Diệp Thanh Hữu chỉ thản nhiên vẫy tay, nói: “Chuyện đó cũng gần mười năm rồi, những gì cần qua thì đã qua. Anh không trách em đâu, em đừng bận tâm.”

Dù anh nói vậy, tôi vẫn cảm thấy vô cùng áy náy, chỉ mong có thể quay ngược thời gian năm phút trước để khâu kín cái miệng lắm chuyện của mình lại. Tôi lo sợ bất an theo sau anh ấy đi về gần khuôn viên trường, mãi mà vẫn không thể tha thứ cho sự lanh chanh của chính mình.

Tôi không về ký túc xá ngay. Có vẻ như Diệp Thanh Hữu nhận ra sự áy náy của tôi, nên anh ấy mời tôi vào trà thất ngồi một chút, nói sẽ pha một ly trà cho tôi để rửa bụi đường. Sau một hồi đấu tranh nội tâm, tôi quyết định đi theo anh.

Phải cúi đầu trước sức mạnh của trà.

Vừa bước vào sân, tôi thấy cửa trà thất đang mở, một mùi hương cay nồng xộc thẳng vào mũi. Tôi nói: “Em có linh cảm không lành”, Diệp Thanh Hữu cũng nói: “Hình như có gì đó không ổn”, rồi sải bước nhanh vào trà thất, chúng tôi nhìn thấy Vương Đại Chúc và đàn anh Trần Quân… đang nấu lẩu cay ngay trên bàn pha trà.

Ôi vãi nhân lúc tôi và Diệp Thanh Hữu không có mặt, mấy người dám làm mấy chuyện này trong trà thất à? Có nhớ trà rất dễ hấp thụ mùi lạ, mùi k*ch th*ch sẽ làm hỏng vị trà không? Có nhớ trà thất phải luôn giữ sự thanh tịnh và trang nhã không? Có nhớ không được để thứ gì làm mất đi hương vị thuần khiết của trà không?”

Diệp Thanh Hữu vừa đặt hành lý xuống liền bắt đầu trách mắng Trần Quân: “Tôi đã dặn cậu là khi tôi vắng mặt, giúp tôi trông coi trà thất, hướng dẫn học viên pha trà, thế mà cậu hướng dẫn kiểu này à?”

Trần Quân múc ra một muỗng nước lẩu cay đỏ rực: “Nhìn này, trà vạn tượng hải tiêu. Pha có ngon không?”

Diệp Thanh Hữu tức đến mức bật cười. Tôi cũng chẳng biết nói gì thêm, còn Vương Đại Chúc đứng bên cạnh cứ cười hề hề, gắp một miếng cánh gà đưa đến trước mặt tôi: “Gia Gia, ăn gà đi?”

Tôi: “Vương Đại Chúc, mày muốn cay chết tao để thừa kế số trà đen An Hóa tao cất giấu phải không?”

Vương Đại Chúc nói: “vl, sao nãy giờ tao không nghĩ đến nhỉ, mau lên đàn anh Trần Quân, lấy trà quý của Gia Gia ra nấu lẩu luôn đi!”, rồi bị tôi và Diệp Thanh Hữu mỗi người thụi cho một cú vào đầu.

Hai người họ lằng nhà lằng nhằng nấu xong nồi lẩu, đàn anh Diệp Thanh Hữu phải mở hết cửa sổ trong trà thất để thông gió, vừa đuổi họ đi dọn dẹp vừa nói: “Tối nay tôi còn phải dạy Gia Gia buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh, các cậu có chừng có mực chút.”

Vương Đại Chúc và Trần Quân vội vàng rụt cổ nhận lỗi, tôi ngạc nhiên: “Nhanh vậy sao? Nghệ thuật pha trà không phải chỉ học khi sắp thi chứng chỉ trung cấp ạ?”

Diệp Thanh Hữu cười nói: “Anh đã điều chỉnh lịch học cho em. Phần lý thuyết em học nhanh quá, gần như không còn gì để dạy nữa, thực hành thì học sớm sẽ luyện tập được sớm. Vừa rồi anh cũng dẫn em đi tham quan Viện Cống Trà xem trà xanh và biểu diễn nghệ thuật pha trà, nên giờ học luôn để bắt kịp.”

Tôi vội vàng gật đầu.

Tôi đến Hòa Quang đã lâu, từng thấy Diệp Thanh Hữu pha trà nhiều lần, nhưng chưa bao giờ thấy… anh ấy thực sự biểu diễn nghệ thuật pha trà hoàn chỉnh một lần nào.

Chỉ nghĩ đến thôi cũng khiến tim tôi nhảy loạn trong lồng ngực vì mong chờ.

Buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh là một buổi học một thầy một trò. Nghĩa là trong khoảng thời gian này, cả trà thất rộng lớn của Hòa Quang chỉ có tôi và Diệp Thanh Hữu.

Diệp Thanh Hữu ngồi phía sau bàn trà, hai tay tự nhiên đặt lên khăn trà, hỏi tôi: “Các bước biểu diễn nghệ thuật pha trà lý thuyết vừa dạy em nhớ hết chưa?”

Tôi gật đầu: “Nhớ rồi ạ.”

“Vậy thì bây giờ buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà chính thức bắt đầu.” Diệp Thanh Hữu nói.

Anh khép mắt lại, hít sâu một hơi, tư thế bỗng trở nên nghiêm chỉnh. Khi anh mở mắt ra lần nữa, ánh mắt anh nhìn tôi không còn sự gần gũi như thường ngày, mà mang theo nụ cười lễ nghi, xa cách nhưng khiêm tốn.

“Chào mừng đến với trà thất Hòa Quang.” Diệp Thanh Hữu cúi người chào, nói. “Tôi là nghệ nhân trà Diệp Thanh Hữu, người phụ trách buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà hôm nay. Tôi sẽ pha trà cho ngài.”

Dù đã chuẩn bị tâm lý, tôi vẫn ngây người một lúc.

Bình thường chúng tôi hay đùa giỡn, thậm chí có lúc còn bày trò nghiêm túc để trêu chọc người khác, tôi cứ nghĩ mình đã ở rất gần Diệp Thanh Hữu rồi. Nhưng chỉ với một ánh mắt, một động tác, một câu nói đơn giản, anh ấy đã có thể lập tức kéo giãn khoảng cách giữa chúng tôi hàng vạn dặm. Anh đối xử với tôi quá tốt, đến mức khiến tôi gần như quên mất bản chất thật sự của anh ấy là một nghệ nhân trà cao quý, độc lập và cách biệt với thế gian.

Đang lúc tôi còn ngẩn ngơ, anh ấy đã bắt đầu rửa tay, đun nước, lấy trà, đốt hương, hâm chén và làm sạch dụng cụ. Trong tiếng nhạc cổ Nam âm, từng động tác của anh đều nhẹ nhàng, tao nhã, phong thái đoan trang, tập trung hoàn toàn vào việc pha trà.

Tôi vẫn nhớ, thắp hương bên bàn trà để giúp thư giãn tinh thần, gọi là “đốt hương để loại bỏ tạp niệm”; dùng nước sôi rửa sạch, khử trùng dụng cụ trà, gọi là “tâm trong sạch, thoát khỏi bụi trần”. Lời giải thích này của Diệp Thanh Hữu khi giảng cho tôi về biểu diễn nghệ thuật pha trà lúc đó không khiến tôi suy nghĩ nhiều, nhưng bây giờ tôi chợt cảm thấy điều này có chút châm biếm.

Tạp niệm đã sinh, hương có đốt cũng không thể xua đi; bụi trần luôn còn đó, tâm băng thanh cũng khó mà giữ sạch.

Tôi cảm thấy ngực mình thắt lại, hơi buồn bực đau âm ỉ. Tôi phải nín thở tập trung suy nghĩ tư tưởng, mới có thể chèo chóng tiếp tục tập trung xem biểu diễn nghệ thuật pha trà.

Ngọc hồ dưỡng thái hòa, thanh cung nghênh giai nhân, cam lộ nhuận liên tâm. Những lá trà xanh dạng sợi dài mảnh được thả vào ly thủy tinh thẳng đứng rồi ngâm trong nước nóng, cuối cùng đến phần đỉnh cao nhất trong buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà, “Phượng hoàng tam điểm đầu”. (1)

Diệp Thanh Hữu cầm ấm trà, dòng nước mảnh dẻ từ vòi ấm chảy ra, xoay quanh một vòng trong ly thủy tinh, tỏ ý chào khách. Sau đó anh nâng tay, dòng nước theo động tác của anh mà lên xuống ba lần, cuối cùng ngừng lại ở vị trí cao, tất cả động tác đều uyển chuyển mà không làm văng ra dù chỉ một giọt nước. Hai mắt tôi nhìn đăm đăm, lúc này ngọc bích đã chìm vào dòng sông trong vắt. Diệp Thanh Hữu nâng chén trà dâng đến trước mặt tôi.

Tôi bất giác nhớ lại lời anh từng nói khi giải thích về quy trình biểu diễn nghệ thuật pha trà.

“Dâng trà bằng hai tay, nâng khay ngang mày.”

<i>(Ý nghĩa: nhất mực tôn trọng nhau, yêu thương thắm thiết, trân trọng yêu thương.)</i>

Giá mà thật thì tốt biết bao.

Anh vẫn nhìn tôi, mỉm cười với tôi, vì tôi là vị khách duy nhất có mặt trong buổi biểu diễn này. Anh cầm chén trà của mình lên, giới thiệu lá trà đã nở ra như cờ và giáo, rồi nhấp một ngụm. Đây cũng là một trong những bước của biểu diễn nghệ thuật pha trà, vì nói cho cùng không phải ai cũng biết cách thưởng trà đúng, nên nghệ nhân trà sẽ uống trước để khéo léo hướng dẫn khách cách thưởng trà chuẩn.

Tôi học theo động tác của anh, nâng chén trà lên nhấp một ngụm.

Biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh mang tính thưởng thức cao hơn thực dụng, vì nước dùng trong biểu diễn thường nóng hơn nhiệt độ pha trà thông thường, lá trà bị ngâm lâu hơn trong nước nóng, nên vị trà đậm đà hơn hẳn và cũng… đắng hơn nhiều.

Đắng đến mức nào ư? Có lẽ vị đắng trong miệng lúc này chỉ kém chút so với nỗi đắng trong lòng tôi.


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 14


Diệp Thanh Hữu nói nghệ thuật pha trà đã học xong, vậy thì cuối tháng thi nhé. Rồi dặn tôi thường xuyên đến trà thất để luyện tập.

Tôi thực sự cần phải luyện nhiều hơn. Không nói đến cái gì khác, chỉ riêng một bước tinh túy nhất trong biểu diễn nghệ thuật pha trà – “Phượng hoàng tam điểm đầu” – tôi làm mãi mà không xong. “Phượng hoàng tam điểm đầu” yêu cầu nghệ nhân trà phải nâng và hạ dòng nước ba lần, kéo dòng nước cao lên rồi hứng nước ở điểm cao, sao cho lượng nước trong ba chén trà rót ra phải đều nhau; tôi thì không kéo dòng nước đủ cao thì cũng làm cho nước bắn tung tóe khắp nơi, lượng nước trong ba chén thì chẳng đều nhau trông như bị chó gặm. Luyện hơn nửa tuần, cuối cùng cũng có thể kéo ra được ba lần lên xuống, nhưng vẫn thường xuyên làm nước văng đầy bàn trà.

Trong thời gian này, Hòa Quang lại chiêu sinh một khóa học viên mới, Diệp Thanh Hữu bắt đầu dẫn dắt học trò từ lớp sơ cấp. Tôi có chút ghen tị, nhưng Diệp Thanh Hữu nói với tôi chờ đến khi lứa đàn em này học xong, tôi có thể lôi họ ra để đổ việc, giống như mỗi lần Trần Quân lười pha trà đều đẩy tôi ra làm thay. Nghe xong, nghĩ lại cũng thấy có chút mong chờ.

Khi họ học đến giờ nghỉ giữa buổi, tôi cũng đã mệt mỏi với việc luyện Phượng hoàng tam điểm đầu. Diệp Thanh Hữu liền gọi tôi qua ngồi uống trà cùng họ. Với nguyên tắc “có trà mà không uống thì là đồ vô ơn”, tôi không chút ngần ngại ngồi xuống trước bàn trà, vừa định lấy chén khách, Diệp Thanh Hữu đã gọi lại: “Gia Gia, chờ chút, để anh lấy chén riêng cho em.”

Tôi khá sững sờ: “Gì, em có chén riêng từ khi nào vậy?”

“Lần trước em thi sơ cấp, anh đã nói sẽ tặng em một chiếc chén riêng rồi mà.” Diệp Thanh Hữu nói, sau đó quay người lấy trên giá một chiếc chén sứ trắng nhỏ. “Này, chén Linh Lung em muốn.”

Đó là một chiếc chén y hệt như tôi đã mô tả, thân chén bằng sứ trắng, phía trên có lớp men trong suốt phủ lên những hoa văn hình cánh hoa rỗng. Mặc dù hình dáng không hoàn toàn cân đối, nhưng thực sự rất độc đáo.

Khi Diệp Thanh Hữu đặt chiếc chén trà nhỏ này trước mặt tôi, tôi đã vui mừng như vừa bị một quả bom hạt nhân rơi trúng đầu, cảm giác được sủng mà lo, tôi không dám tin mà hỏi: “Cái này tặng cho em ạ? Thật sự cho em ạ?”

“Đương nhiên rồi, đã hứa tặng em mà,” Diệp Thanh Hữu đáp. “Từ giờ em có thể dùng chiếc chén Linh Lung này để uống trà.”

Cô đàn em ngồi bên cạnh cũng tò mò ghé sát vào xem: “Đàn anh, đây là chén gì vậy, sao lại có lỗ thế ạ? Nước trà rót vào không bị chảy ra ngoài à?”

Tôi suýt chút nữa đã trả lời “không” theo phản xạ, nhưng rồi mắt tôi sáng lên với một ý tưởng nghịch ngợm, liền bắt đầu lừa phỉnh: “Có chảy chứ, tất nhiên là chảy rồi. Em xem, lát nữa thầy Diệp châm trà vào thì em sẽ thấy nước trà chảy qua mấy lỗ nhỏ này, như vòi sen ấy, đẹp lắm.”

Diệp Thanh Hữu không nhịn được cười, liên tục xua tay: “Đừng nghe em ấy nói vớ vẩn, sao mà chảy được, ch** n**c thì làm sao làm chén trà được chứ.”

“Hả?” Cô đàn em nghe chúng tôi nói mà rối hết cả lên, ngơ ngác hỏi: “Nhưng nó có lỗ mà, tại sao không ch** n**c ra ạ?”

“Vì nước có sức căng bề mặt,” Diệp Thanh Hữu giải thích. “Em đã từng nghe câu chuyện cổ tích về cô gái đâm kim qua đế giày da nhưng nước trong giày không chảy ra chưa? Bề mặt nước có sức căng, sẽ kéo căng qua các lỗ hở này, nên khi rót trà vào sẽ không chảy ra ngoài đâu.”

Tôi không nhịn được cười phá lên.

Thật không ngờ Diệp Thanh Hữu cũng giỏi nói đùa mà mặt vẫn rất nghiêm túc như vậy!

Sau khi uống xong hai chén trà, Diệp Thanh Hữu chuẩn bị giảng bài cho cô đàn em mới thì điện thoại của anh ấy bỗng đổ chuông. Anh cúi xuống nhìn màn hình, nét mặt bỗng trở nên vui vẻ, vừa nhấc điện thoại lên vừa nói với tôi: “Gia Gia, anh ra ngoài nghe điện thoại chút. Đàn em của em đang học về trà xanh, em phụ trách bàn trà và giảng vài kiến thức cơ bản giúp anh, anh sẽ quay lại ngay.” Nói xong, anh ấy liền đi ra phía sau tủ trưng bày để nghe điện thoại. Tiếng cười nhẹ của anh ấy vang lên từ sau tấm vách gỗ, tôi loáng thoáng nghe thấy những từ như “sư phụ”, “quay về Hòa Quang”, “khóa học cao cấp”.

Tôi có chút ngẩn ngơ. Mặc dù Diệp Thanh Hữu đã nói từ trước anh ấy sẽ để tôi thử giảng dạy cho các đàn em để rèn luyện và củng cố kiến thức, nhưng tôi không ngờ lần này lại đến bất ngờ như vậy, khiến tôi không chưa kịp chuẩn bị, hoàn toàn không biết phải giảng cái gì. Trong ánh mắt tò mò của đàn em, tôi từ từ ngồi vào vị trí chính giữa bàn trà, đúng lúc nhìn thấy cuốn sổ ghi chép mà Diệp Thanh Hữu đã mở sẵn trên bàn.

Chữ viết thanh thoát rõ ràng, dòng đầu tiên ghi: “Diệp Gia tự Thanh Hữu, hiệu là ngài Ngọc Xuyên.” Trong lòng tôi bỗng giật mình, mặt đỏ bừng, sững sờ mất một lúc mới nhớ ra đây là nội dung trong bài học về nguồn gốc và sự phát triển của trà, trích từ cuốn Văn phòng tứ phổ của Tô Dịch Giản, nói về những tên gọi trang nhã của trà trong thời cổ đại.

Bây giờ tôi đã mê mẩn đến mức chỉ cần nhìn thấy tên mình và tên Diệp Thanh Hữu xuất hiện cùng một câu là tim lại đập rộn ràng rồi sao?

Nghĩ lại, tên tôi là “Gia”, tên Diệp Thanh Hữu là “Thanh Hữu”, vậy nếu giả sử chúng tôi có thể đến với nhau, rồi cộng thêm một chút tưởng tượng có lẽ chúng tôi sẽ nhận nuôi một đứa con, và đứa con đó sẽ được đặt tên là Diệp Ngọc Xuyên… Không đúng, tại sao con tôi nhận nuôi lại phải mang họ Diệp? Nó phải mang họ tôi chứ, là Tạ Ngọc Xuyên mới đúng…

“Đàn anh Tạ Gia, đàn anh Tạ Gia?” Cô đàn em vừa hỏi tôi về chén Linh Lung lúc nãy vẫy tay trước mặt tôi. “Thầy Diệp không bảo đàn anh giảng bài cho tụi em ạ?”

“À, giảng bài… Đúng, giảng bài!” Tôi bỗng giật mình tỉnh lại, mặt đỏ bừng, ho khẽ để điều chỉnh cảm xúc rồi quay lại với bàn trà trước mặt. “Hôm nay các em học về trà xanh đúng không? Vậy để anh nói sơ qua một chút về cách pha trà xanh… Thầy Diệp đã giảng cho các em biết trà xanh thích hợp dùng loại trà cụ nào để pha chưa? Nói rồi à? Vậy được, anh sẽ làm mẫu cách pha bằng chén có nắp…”

Tôi vừa nói vừa đưa tay ra chạm vào ấm nước sôi, không ngoài dự đoán bị bỏng và rụt tay lại ngay. Đàn em lo lắng hỏi: “Đàn anh Tạ, nước này mới sôi, tay anh không đau sao?” Tôi lắc đầu, nói: “Không đau, cơ thể con người có phản xạ điều kiện, khi chạm vào thứ quá nóng thì tay sẽ tự động rút lại ngay. Các em phải nhớ rằng, nhiệt độ thích hợp để pha trà xanh là từ 80 đến 85 độ C, nếu nước quá nóng sẽ làm hỏng lá trà. Làm sao để biết nước đã đạt 80 độ? Là dùng tay kiểm tra như anh.”

Tôi nói xong liền đưa ngón tay chạm lại vào ấm nước: “Nếu nhiệt độ nước quá cao, tay các em sẽ không chịu nổi và phải rụt lại ngay. Khi ngón tay có thể đặt lên ấm nước khoảng ba đến bốn giây rồi mới phải rút ra, lúc đó nhiệt độ nước khoảng 80 độ rồi.”

Cô đàn em gật đầu nghiêm túc, còn lấy sổ tay ra ghi chép lại, khiến tôi – người luôn quen ghi chú bằng điện thoại – cảm thấy rất xấu hổ.

“Nếu gặp tình huống cần pha trà ngay cho khách mà nhiệt độ nước mãi không giảm, chúng ta có thể thực hiện một vài biện pháp để hạ nhiệt nhanh hơn – gọi là làm nguội nước. Trong nghệ thuật pha trà xanh, bước này được gọi là ‘Ngọc hồ dưỡng thái hòa’,” tôi tiếp tục giải thích, vừa nói vừa đổ nước từ ấm vào bình chuyên để làm mẫu cho sư muội. “Như thế này, nước sẽ nhanh chóng hạ xuống khoảng 80 độ.”

<i>*”Ngọc hồ dưỡng thái hòa” (玉壶养太和) là một thuật ngữ trong nghệ thuật trà đạo, đặc biệt liên quan đến quy trình pha trà xanh. Cụm từ này mô tả bước làm nguội nước sau khi đun sôi để đạt đến nhiệt độ thích hợp cho việc pha trà, thường là 80-85 độ C, nhằm tránh làm hỏng lá trà và giữ được hương vị tinh tế của trà xanh.</i>

Đàn em liền đưa tay chạm thử vào bình chuyên, lập tức bị bỏng rụt tay lại: “Nếu nhiệt độ vẫn không hạ thì sao?”

“Nếu vẫn không hạ được, chúng ta có thể áp dụng biện pháp ‘tà giáo’ một chút,” tôi cười tinh quái, “Chẳng hạn như đổ trực tiếp nước tinh khiết lạnh vào…”

“Tạ Gia!”

Đột nhiên tôi nghe thấy giọng Diệp Thanh Hữu nghiêm nghị ngăn tôi lại, tôi sững người, ngẩng đầu lên thì thấy anh ấy đã cúp máy và đi vòng qua tủ trưng bày tiến về phía tôi. Tôi vội vàng đứng lên, nhường lại bàn trà cho anh ấy: “Đàn anh Diệp…”

“Cái gì mà tà giáo với không tà giáo, không biết thì đừng có nói lung tung,” Diệp Thanh Hữu nói với tôi. Giọng điệu không quá căng thẳng, nhưng so với sự ôn hòa thường ngày của anh ấy, tông giọng này cũng có thể coi là trách mắng rồi. Sau khi khiển trách tôi, anh ấy quay sang giải thích với đàn em: “Cách mà Tạ Gia vừa nói là một biện pháp làm mát nước bình thường. Tất nhiên, trước khi thêm nước lạnh, các em phải nhớ giải thích với khách rằng đó là nước tinh khiết, sạch sẽ và có thể uống trực tiếp. Trà đã uống rồi, giờ vào học chính thức nhé.”

Anh ấy ngồi lại phía sau bàn trà, còn tôi đứng ngơ ngác bên cạnh bàn, không biết làm gì, nhìn về phía anh, Diệp Thanh Hữu hờ hững liếc tôi một cái, nói: “Tạ Gia, em đi đến đài luyện tập mà tự luyện phần biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh đi. Sau giờ học, anh có chuyện muốn nói với em.”


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 15


Mặt tôi trắng bệnh, tâm hồn rã rời ngồi lại trước đài Minh Tư, ngơ ngác nhìn ba chiếc ly thủy tinh thẳng đứng trên khay trà.

Một lần nữa tôi nhận ra khoảng cách giữa tôi và Diệp Thanh Hữu lớn như như một hố sâu không thể vượt qua. Anh ấy không biết tôi có thói quen đưa ngôn ngữ mạng vào cuộc sống thực, cũng không hiểu rằng từ “tà giáo” tôi vừa nói chỉ là một lời đùa đơn giản. Đây là điều tôi luôn cố tình lờ đi – rằng chúng tôi sống trong hai thế giới hoàn toàn khác biệt, mỗi người có một hệ giá trị riêng, dù có vài sở thích chung cũng không thể che giấu sự khác biệt lớn trong thói quen sinh hoạt.

Thậm chí anh ấy còn không biết những ngôn ngữ mạng đơn giản này… Vậy những điều khác nhạy cảm hơn thì sao? Có phải trong mắt anh ấy, những trò đùa quen thuộc của chúng tôi chỉ là lời nói th* t*c, việc đùa bỡn quá trớn là sự thấp kém và còn những… mối quan hệ vượt quá tình bạn giữa những người cùng giới… chẳng phải càng đáng lo ngại hơn…

Nghĩ đến đây, cổ họng tôi lại trào lên vị đắng ngắt, càng nghĩ càng tuyệt vọng.

Có lẽ lần sau khi đến trà thất, tôi phải cẩn thận hơn khi nói chuyện… Đừng nói đến những từ ngữ bậy bạ nữa, thậm chí ngay cả những câu đùa cợt cũng phải suy xét kỹ, nhỡ đâu Diệp Thanh Hữu nghĩ tôi là một kẻ ngả ngớn và th* t*c thì rắc rối to.

Tôi vừa sợ hãi tự trách mình vừa lo lắng không biết Diệp Thanh Hữu muốn nói gì riêng với tôi. Trong lòng hoang mang đến nỗi không còn tâm trí để luyện “Phượng Hoàng tam điểm đầu”. Tay tôi cứ máy móc lặp đi lặp lại những động tác pha trà, toàn bộ suy nghĩ đều hướng về người đang giảng bài phía sau, đến mức không nhận ra nước trong chậu rửa trà đã tràn ra ngoài.

Bình tĩnh, bình tĩnh.

Tạ Gia, đừng suy nghĩ nhiều như vậy, có khi Diệp Thanh Hữu chỉ muốn chỉnh lại câu nói của mày vì mày đã đùa không đúng lúc, hoặc có chuyện quan trọng khác mà anh ấy muốn nói với mày … Đúng rồi, mày còn nhớ lúc anh ấy nghe điện thoại nói gì không? Sư phụ của anh ấy sắp trở về, có khi chỉ là chuyện này thôi, hoặc là vấn đề liên quan đến lớp cao cấp… Đúng vậy, chỉ thế thôi.

Những gì mày đã nói những gì mày đã làm, những gì anh ấy nói và làm… quên đi.

Quên hết đi.

Tôi hít thở sâu, lặp đi lặp lại ba từ “quên hết đi” trong đầu, dần dần cảm thấy nhịp tim đang loạn lạc của mình ổn định lại, tay cầm ấm nước cũng không còn run rẩy nhiều như trước nữa.

Quên hết đi.

“– Tạ Gia.”

Tay tôi run lên, nước nóng 80 độ từ vòi ấm chảy ra, văng tung tóe khắp mặt bàn.

Trái tim vừa mới bình tĩnh lại đột nhiên đập loạn lên, tựa như đang lao xuống một vực sâu không biết tên rồi vỡ tan tành.

Diệp Thanh Hữu đi vòng qua Đài Minh Tư, ngồi xuống đối diện tôi. Anh không nói nhiều, chỉ nhìn tôi một cái rồi bảo: “Diễn lại một lần Phượng Hoàng tam điểm đầu cho anh xem.”

Tôi vội vã gật đầu, sắp xếp lại ba chiếc ly thủy tinh và cầm ấm trà lên bằng đôi tay run rẩy.

Tay tôi run quá mức, khi thu nước lại thì một chuỗi giọt nước b*n r* ngoài miệng chén, chảy dài xuống thành chén như những giọt nến đang tan chảy. Tôi cứng ngắc lặp lại ba lần sai sót như thế, đặt ấm trà trở lại vị trí và thậm chí không dám nhìn Diệp Thanh Hữu.

Tôi tưởng anh ấy sẽ trách mắng tôi.

“Em làm cũng khá lắm.” Nhưng Diệp Thanh Hữu nói. “Đừng quá căng thẳng, Phượng Hoàng tam điểm đầu vốn là phần khó nhất trong biểu diễn nghệ thuật pha trà, em mới học chưa bao lâu, làm được như vậy đã rất tốt rồi.”

Tôi ngạc nhiên, liếc nhìn anh nhanh chóng. Vẻ mặt anh rất bình tĩnh, dường như hôm nay cũng giống như mọi ngày, chỉ có những lời khen ngợi và nụ cười dịu dàng, chưa bao giờ có sự phủ nhận hay chỉ trích.

Tôi lo sợ rằng anh sẽ nói thêm một câu “nhưng”, nhưng không, anh chuyển chủ đề: “Anh để em ở lại một mình vì có hai chuyện muốn nói với em. Chuyện thứ nhất là về lớp cao cấp, sư phụ của anh sẽ quay lại Hoà Quang vào tháng Năm để mở lớp cao cấp. Nếu em có hứng thú, em có thể đến học tiếp. Sau khi hoàn thành, em có thể thử thi lấy chứng chỉ nghệ nhân trà cao cấp.”

May quá, không phải để trách mắng tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lập tức lại cảm thấy nghẹt thở.

— Còn một chuyện chưa nói.

“Còn một chuyện nữa,” Diệp Thanh Hữu nói. “Anh đã muốn nói với em từ lâu, nhưng vẫn chưa biết mở lời thế nào. Hôm nay có cơ hội, anh muốn trò chuyện thật lòng với em. Tất nhiên, những gì anh nói chưa chắc đã đúng, nhưng nếu em nghe xong cảm thấy ngộ ra điều gì, thì buổi nói chuyện này không uổng công cả anh và em.”

“Gia Gia, trước tiên anh muốn nói, anh luôn luôn và vô cùng tán thưởng em. Em rất thông minh và hiểu biết rộng.” Diệp Thanh Hữu vừa nói vừa rót cho tôi một chén trà. Trà được dùng để luyện biểu diễn nghệ thuật pha trà là Bích Loa Xuân đã qua mùa, không thích hợp để uống nên anh rót cho tôi trà trắng lâu năm từ bàn pha chính. “Nhưng anh mong muốn sự xuất sắc của em sẽ thể hiện ở những nơi thích hợp. Chẳng hạn như khi em giảng bài cho đàn em lúc nãy, em phải hiểu rằng người ngồi đối diện em không hiểu sâu về nghệ thuật pha trà. Những gì em nói với cô ấy đều là định hướng và tất cả ấn tượng em để lại có thể ảnh hưởng đến nhận thức của cô ấy về trà. Vì vậy anh mong sau này khi em giới thiệu về trà cho người khác, em sẽ có thái độ nghiêm túc và lựa chọn từ ngữ cẩn thận hơn.”

Tôi gật đầu liên tục: “Em biết rồi.”

“Vấn đề này không phải đến hôm nay mới xuất hiện, anh đã muốn nói với em từ lâu nhưng chưa tìm được cơ hội thích hợp.” Diệp Thanh Hữu thở dài. “Anh không giỏi trong việc góp ý cho người khác… Em là một người bạn rất quan trọng đối với anh, nếu có thể, anh muốn mỗi câu nói với em đều là sự khen ngợi và khẳng định. Nhưng cũng chính vì em rất quan trọng với anh, vậy nên anh luôn mong muốn điều tốt nhất cho em, Gia Gia, em có hiểu ý anh không?”

“Em hiểu mà, em hiểu mà.” Tôi nhanh chóng gật đầu. “Thực ra em cũng thấy đàn anh nói rất đúng… Nếu anh đã góp ý, thì em chắc chắn sau này em sẽ chú ý hơn. Có vấn đề thì mình sửa thôi.”

Diệp Thanh Hữu mỉm cười: “Em có thể nghĩ như vậy thì thật tốt. Gia Gia, khi em nói chuyện với người khác năng lượng của em quá mạnh, lời khuyên của anh là sau này khi đối diện với các đàn em, em có thể nói chậm lại một chút, cố gắng dùng cách tiếp cận ôn hòa để dẫn dắt họ suy nghĩ, thay vì đưa ra kết luận cho họ.”

“Vâng… Em sẽ chú ý hơn.” Tôi ho khẽ hai tiếng, cảm giác như vừa bị vạch trần chuyện làm màu, hơi xấu hổ. “Đây là tính cách của em… Bạn bè em cũng đã nhắc em nhiều lần, nhưng em chưa sửa được. Em sẽ cố gắng, cố gắng thay đổi.”

Diệp Thanh Hữu mỉm cười lặng lẽ nhìn tôi, chờ tôi lắp bắp nói xong. Khi tôi nói xong, cảm giác như trút được gánh nặng, cả xuong sống như được nhẹ nhõm.

Mặc dù Diệp Thanh Hữu đã góp ý, nhưng tình huống không nghiêm trọng như tôi tưởng, cảm giác như chuyện lớn hóa thành chuyện nhỏ. Khi tôi còn đang choáng váng, Diệp Thanh Hữu lại nói: “Gia Gia, lần trước anh đã khuyên em chậm rãi suy ngẫm về trà đạo của mình, hôm nay anh vẫn muốn nhắc lại điều đó, anh hy vọng em có thể tĩnh tâm, từ từ suy nghĩ kỹ xem trà có ý nghĩa gì đối với em. Em rất tự tin về kiến thức trà của mình, đó là điều tốt; nhưng ngoài sự tự tin, em còn cần có một trái tim khiêm tốn và tôn trọng. Không chỉ đối với trà, mà đối với con người, sự việc và vạn vật cũng nên như vậy.”

“Anh mong rằng em sẽ suy nghĩ kỹ về những gì anh nói hôm nay. Ngoài ra, trong biểu diễn nghệ thuật pha trà, Phượng Hoàng tam điểm đầu tuy là một bước quan trọng, nhưng không phải là tất cả, thời gian tới nếu có thời gian rảnh, em nên đến trà thất để luyện tập toàn bộ quy trình biểu diễn nghệ thuật pha trà. Kỳ thi tốt nghiệp lớp sơ cấp của em đã đạt kết quả xuất sắc, anh tin lần này em cũng sẽ không làm anh thất vọng.”


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 16


Từ nhỏ đến lớn câu mà tôi ghét nhất là “Con tự suy nghĩ kỹ đi.” Mỗi lần tôi làm gì trái ý bố mẹ, bố tôi lại nổi trận lôi đình rượt đánh tôi một trận tơi bời, rồi nhốt tôi vào phòng, bắt tôi “tự suy nghĩ kỹ.”

Suy nghĩ cái gì mà suy với nghĩ. Có trời mới biết tôi phải tự kiểm điểm cái gì, cứ nghĩ từ chuyện con kiến chuyển nhà, heo nái trèo cây cho đến triết học nhân sinh, rồi sinh vật ngoài hành tinh xâm lược Trái Đất. Đến khi hết giờ cấm túc thì lại đúng giờ ăn cơm. Nhưng khi câu này được Diệp Thanh Hữu nói ra thì cảm giác hoàn toàn khác. Nghe xong lời anh ấy, tôi không chỉ bắt đầu suy nghĩ về triết học nhân sinh mà còn nghĩ đến triết
2642.svg

học cuộc đời.

Anh nói anh muốn góp ý cho tôi thì cứ nói thẳng ra đi, còn thêm mấy câu như “coi em là người bạn rất quan trọng,” rồi “hy vọng em sẽ tốt hơn,” nói những điều thật lòng đó làm gì. Nhỡ đâu tôi hiểu lầm thì không phải càng tệ sao.

Haizz. Yêu thầm một người là cảm giác như thế nào nhỉ? Là khi mỗi câu mình nói với người đó, mình đều cảm giác như đang tỏ tình. Và mỗi câu người đó nói với mình, dường như đều mang ý nghĩa “anh cũng thích em.”

Mặc dù Diệp Thanh Hữu đã dặn tôi thường xuyên đến trà thất để luyện biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh, nhưng thực tế… tôi đã không đi. Khụ, không phải do tôi cố ý, chỉ là bên phía trường học có quá nhiều việc phải làm. Nào là chuẩn bị tổng kết giai đoạn, rồi còn bài tập, thực sự quá bận rộn. Thêm vào đó, mấy ngày nay tôi còn cùng Văn Bạch Hoa độ kiếp trong đấu trường, xếp hạng rớt thê thảm, điểm số tụt không phanh, rớt cả mấy trăm hạng; ngày nào tôi cũng nằm dài trên sàn đấu trường lạnh lẽo, thoi thóp chửi cậu một tiếng “f*ck,” rồi bắt đầu viết truyện con heo chế giễu Văn Bạch Hoa. Viết ngày nào cậu ta cũng phá hỏng trận đấu của đồng đội, rồi đi khoe khoang cái cây cậu ta trồng từ sau năm 1949 biết thành tinh. Ông đây sẽ mở xe hoa cho mày trải nghiệm sự sợ hãi khi bị cây thành tinh thống trị.

Cái đồ ngốc Văn Bạch Hoa chẳng hề nhận ra, vừa bị tôi đùa giỡn vừa hào hứng nói muốn cưa gái, kiếm cớ rủ rê các cô em đi chơi, còn kéo thêm hai người cùng phòng chúng tôi đi làm bình phong.

Cứ vậy tội lại ít có thời gian đến trà thất hơn.

Nhưng thực sự đây là khoảng thời gian nhẹ nhàng và ít áp lực nhất kể từ khi tôi vào đại học. Mỗi ngày chỉ cần theo Văn Bạch Hoa đi chơi, rồi về nhà viết mấy bài chế giễu không cần suy nghĩ, những ngày tháng trôi qua càng thêm điên cuồng, nghĩ gì làm nấy, tự nhận là một kẻ thấp kém thì cũng chẳng cần phải giữ cái vẻ cao quý của một “người yêu văn chương” nữa. Điều khiến tôi bất ngờ nhất là mấy câu chuyện hài hước về chiếc xe hoa của Văn Bạch Hoa và hoa giả kia lại được cộng đồng mạng yêu thích. Trước đây, những bài viết nghiêm túc như tản văn, bình luận phim của tôi hầu như chẳng có ai đọc, hiếm lắm mới có vài bình luận thì toàn nói tôi giả vờ cao siêu, thật ra chỉ là làm màu. Ngược lại, mấy câu chuyện hài nhảm nhí lại được đón nhận nồng nhiệt. Tôi nghĩ mãi cũng không hiểu nổi, chỉ biết than thở: đúng là thời thế thật mẹ nó thay đổi rồi.

Sự buông thả gần như rơi vào sự sa đọa này cứ kéo dài cho đến khi tôi gọi điện cho Diệp Thanh Hữu.

Tối hôm đó, tôi, Vương Đại Chúc, Văn Bạch Hoa và hai chị gái cùng đi cắm trại ở công viên ngập nước, đánh bài suốt đêm. Đang đánh bài thì Văn Bạch Hoa với một chị gái kéo nhau ra ngoài tập thể dục, chỉ còn lại tôi, Vương Đại Chúc và một đàn chị nữa. Chúng tôi chơi được hai ván thì chị kia bảo đánh bài không vui, chi bằng chơi trò “Thật hay thách” đi. Chúng tôi đều đồng ý.

Ván đầu tiên, Vương Đại Chúc thua, phải giơ ngón tay hoa lan lên hát một đoạn Hoa Mẫu Đơn. Ván thứ hai, Vương Đại Chúc thua, lại phải giơ ngón tay hoa lan lên và hát Đôi chim trên cành. Ván thứ ba, Vương Đại Chúc thua, lại tiếp tục với bài “Cục cưng bé nhỏ đập chết cậu!”

Tôi không thể chịu nổi nữa, liền nói: “Đại Trụ, nếu mày thua thêm lần nữa, tao sẽ tự tay pha nước vỏ quýt cho mày uống, để mày được một Phật xuất hồn, hai Phật thăng thiên, ba Phật khó mà nuốt nổi, rồi chỉ cảm thấy hai bên nách mát lạnh.” Vương Đại Chúc lập tức sợ run.

<i>*Trụ và Chúc đều là: zhù</i>

Thế là đến ván thứ tư, tôi thua.

Tôi: “Vương Đại Chúc, nước vỏ quýt chắc chắn dành cho mày rồi.”

Vương Đại Chúc khóc la inh ỏi: “Gia Gia mày không thể như thế được, mày bảo tao đừng thua mà –“

Đàn chị: “Ha ha ha ha ha chơi mà thua thì đừng kêu ca, nào, nào, nào chơi thật hay thách đi, nhanh chọn một cái.”

Tôi đáp: “Thật đi.”

Vương Đại Chúc: “Hãy nói ra màu q**n l*t mà người mày thầm thích mặc hôm nay.”

Tôi: “Vương Đại Chúc, nước vỏ quýt phiên bản 2.0.”

Đàn chị: “Hỏi thế thì không được, Gia Gia cả ngày nay đi chơi với chúng ta, làm sao biết được người cậu ấy thích mặc q**n l*t màu gì chứ?”

Đàn chị nói quá đúng, quá thấu tình đạt lý. Tôi vừa định khen ngợi chị ấy vì sự thông hiểu, thì đã nghe chị nói thêm: “Thế thì gọi điện hỏi người đó luôn đi.”

Tôi: “…”

Hai người có đùa không đấy, có đùa không?!!!

Dĩ nhiên Vương Đại Chúc là vỗ tay tán thành nhiệt liệt, còn tôi thì phải đấm hắn để thể hiện sự phản đối mạnh mẽ. Sau khi tôi làm đủ trò, cãi lý đủ kiểu, cuối cùng đàn chị cũng tạm chịu nhượng bộ, giảm yêu cầu xuống: “Thôi được rồi, đổi sang một câu ít xấu hổ hơn. Đại Trụ, cậu ra đề đi.”

“Được thôi, tao sẽ giảm độ khó một chút,” Vương Đại Chúc nói, “Nhưng Gia Gia, mày không được ép tao uống nước vỏ quýt nữa đâu đấy.”

Tôi nói: “Không ép, tao hứa.”

Vương Đại Chúc nói: “Hãy gọi cho người đứng đầu danh sách liên lạc của mày trên QQ rồi nói với người đó rằng mày ghét người đó nhất.”

Tôi: “…”

Thằng cháu trai Vương Đại Chúc này, mày cố ý.

Hắn biết người đứng đầu danh sách liên lạc của tôi là ai mà, đây chẳng phải là một câu hỏi chết người à?

Vương Đại Chúc nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt chứa đầy chính nghĩa, còn đàn chị ở phía sau cũng hối thúc: “Đề bài đã đổi một lần rồi không thể thoái thác nữa đâu đấy.” Bị hai người họ nhìn chằm chằm, tôi chẳng còn cách nào, đành cắn răng bất chấp tất cả mà lấy điện thoại ra gọi.

Sau ba tiếng chuông, đầu bên kia bắt máy.

“Gia Gia?” Giọng nói quen thuộc của Diệp Thanh Hữu vang lên. “Gọi muộn thế này, có việc gì không?”

“Đàn anh Diệp,” Tôi vô cảm đọc lời thoại. “Em ghét anh nhất.”

Diệp Thanh Hữu: “…”

Vương Đại Chúc và đàn chị che miệng cười trộm trước mặt tôi.

“Em vừa nói gì…?” Diệp Thanh Hữu không chắc chắn hỏi lại. “Gia Gia, em uống rượu rồi à.”

Tôi nói: “Em không, em không có.”

Vương Đại Chúc và đàn chị ngồi đối diện, nhịn cười đến nghiêng ngả.

Diệp Thanh Hữu: “Vậy anh có thể hiểu là em đang… làm nũng với anh phải không?”

Tôi: “…”

Ôi vãi đàn anh Diệp, khả năng hiểu của anh thật thần kỳ! Anh nói thật đi, gần đây có phải anh lại nhận được lời giới thiệu lạ lùng nào của Vương Đại Chúc và đàn anh Trần Quân không, rồi đi xem mấy câu chuyện tình yêu trong sáng gì đó!

Tôi còn chưa kịp phản ứng lại khỏi cú sốc, Vương Đại Chúc và đàn chị đối diện đã bật cười to, tiếng cười suýt thổi bay cả lều cắm trại của chúng tôi. Tôi trừng mắt lườm họ từng cái, lúc này Diệp Thanh Hữu dường như cũng nhận ra tôi bị chơi khăm, liền cười phá lên ở đầu dây bên kia. Tôi nhất thời bị địch tấn công từ cả trước lẫn sau, bốn bề là quân địch, trong lòng không chỉ đơn giản là một câu “Ôi vãi” nữa.

Diệp Thanh Hữu ở bên đầu dây cười đủ rồi, cuối cùng nói với tôi: “Gia Gia, đừng chơi muộn quá, đi ngủ sớm đi. Mai còn thi mà.”

Tôi: “Excuse me…? Thi???”

Diệp Thanh Hữu nói: “Ủa? Em không nhớ à, mai là kỳ thi cấp chứng chỉ nghệ nhân trà trung cấp đó.”

Mồ hôi lạnh tôi tuôn ra như suối. Mấy ngày nay chơi bời quá đà, tôi thật sự quên mất, đừng nói đến việc thường xuyên luyện động tác Phượng Hoàng Ba tam điểm đầu ở trà thất, ngay cả đề thi thử của Diệp Thanh Hữu đưa cho tôi tôi cũng quên béng. Nhưng tôi thông minh thế này sao có thể để Diệp Thanh Hữu phát hiện sơ hở được! Vội vàng cười ha hả lấp l**m: “Hahahaha sao mà quên được, em chỉ nhất thời không nhớ ra, cứ tưởng anh nói đến bài kiểm tra giữa kỳ ở trường… Thôi khuya lắm rồi không tiện làm phiền anh nữa, em đi ngủ ngay đây, anh cũng nghỉ sớm đi nhé!”

Nói rồi tôi cúp điện thoại nhanh như chớp, thở phào nhẹ nhõm. Vương Đại Chúc lắp bắp lại gần hỏi: “Gia Gia, còn nước vỏ quýt kia…”

Tôi vô tình vô nghĩa vô cớ gây rối giơ ngón giữa với hắn: “Nước vỏ quýt Tân Hội, phiên bản 3.0.”

Trong công viên đất ngập nước, tiếng kêu than của Vương Đại Chúc vang vọng khắp màn đêm.


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 17


Cùng trò chuyện với bạn, hơn hẳn uống mười tấn chicken soup. Sau một cuộc điện thoại với Diệp Thanh Hữu, tôi lập tức từ một ỉn lười buông thả trở thành một học sinh gương mẫu chăm chỉ học hành, thề rằng sẽ thức đêm làm đề thi thử. Vương Đại Chúc và đàn chị bị tôi dọa sợ đến không thốt nên lời, bọn họ không thể chấp nhận nổi kéo cô gái vừa tập thể dục xong với Văn Bạch Hoa đi đánh bài. Để cô lập tôi – kẻ lập dị ra cắm trại mà vẫn làm đề thi thử, thậm chí họ còn chấp nhận quy tắc “ba lá bài với hai lá bài đơn” kỳ lạ của Văn Bạch Hoa khi chơi bài.

Tôi vừa nằm trong lều thều thào mắng f**k vừa rút điện thoại ra. Tôi không mang theo đề thi thử mà Diệp Thanh Hữu đã chuẩn bị sẵn, chỉ có thể lên mạng tìm kiếm tại chỗ. Nhưng tín hiệu trong công viên đất ngập nước thì tệ kinh khủng, mỗi lần lật trang mất mười phút, làm xong một bộ đề khiến tôi trằn trọc cả đêm không thể chợp mắt.

Sáng sớm hôm sau tôi mang cặp mắt thâm quầng như gấu trúc lảo đảo về trường, bay vào trà thất. Diệp Thanh Hữu có lẽ bị dáng vẻ u ám ma mị của tôi làm giật mình: “… Tối qua em không nghỉ ngơi tốt à? Em như vậy thi được không?”

Tôi thều thào trả lời: “Em cảm thấy mình… vẫn… còn cứu… được…”

Diệp Thanh Hữu: “Nếu không được thì nói, đừng cố quá.”

Tôi: “Vẫn còn… cứu thêm… một chút nữa…”

Thấy tôi kiên quyết như vậy, có lẽ Diệp Thanh Hữu đã cảm động thấu tim, thật sự đi lấy đề thi cho tôi.

Trong lúc anh ấy đi lấy đề tôi tự pha cho mình một tách trà Phổ Nhĩ đậm để tỉnh táo. Uống một ngụm đắng ngắt làm tôi tỉnh táo ngay tức thì, tưởng chừng như sinh mạng mới rực rõ. Tôi vừa uống trà Phổ Nhĩ vừa làm bài, không ngờ rằng đề thử trên mạng lại khá sát với đề thi thực tế, khoảng tám mươi phần trăm câu hỏi có thể khớp. Trừ câu cuối cùng “Hãy chia sẻ nhận thức và cảm nhận của bạn về hiện trạng ngành trà” không có đáp án chuẩn và tôi cũng chẳng biết phải viết gì, thì cơ bản các câu khác tôi đều làm được bảy tám phần.

Tôi nộp bài ngay tại chỗ, Diệp Thanh Hữu chấm ngay tại đó. Điểm số của tôi dao động khoảng 91-92, đúng như dự đoán của tôi. Để đậu kỳ thi chứng chỉ nghệ nhân trà, điểm tối thiểu là 60, nhưng yêu cầu của trường Hòa Quang vô cùng khắt khe, không được 90 điểm trở lên thì không coi là đạt. Trước đây tôi đã từng than phiền với Diệp Thanh Hữu rằng yêu cầu này quá nghiêm ngặt, nhưng anh ấy rất nghiêm túc trả lời: “Nội dung thi phần lớn là kiến thức cơ bản của ngành trà, nếu ngay cả những câu hỏi đơn giản này cũng không trả lời được thì tốt nhất đừng ra ngoài làm mất mặt nữa.”

Tôi nhìn qua các câu hỏi trên bài thi: “Dụng cụ thích hợp nhất để pha trà xanh là gì?”, “Cuốn sách về trà đầu tiên trên thế giới tên là gì và do ai viết?”, “Hãy liệt kê sáu loại trà chính và mỗi loại kể tên một loại trà cụ thể.”

Tôi lặng lẽ đồng ý với lời của Diệp Thanh Hữu.

“Bài thi viết của em đã đạt yêu cầu,” Diệp Thanh Hữu nói, trả lại bài thi cho tôi. “Nhưng lần sau đừng nước đến chân mới nhảy nữa, trạng thái tinh thần không tốt thì dễ trả lời sai lắm.”

“Cảm ơn đàn anh, em yêu đàn anh!” Tôi đón lấy bài thi chắp tay vái như các đại hiệp trong phim, khiến anh ấy phì cười. Tôi cũng ha ha cười ngây ngô theo, nói: “Đàn anh, nếu không có gì khác thì em đi đến đài Minh Tư để tiếp tục pha trà uống,” nhưng Diệp Thanh Hữu lại khoát tay áo: “Em đừng vội, thi vẫn chưa xong đâu.”

Tôi: “Hả? Anh vừa nói em đã qua trót lọt mà?”

“Là bài thi viết thôi,” Diệp Thanh Hữu cười một tiếng. “Đừng nói với anh là em quên thi chứng chỉ nghệ nhân trà trung cấp còn có phần thi thực hành nữa, phần biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh.”

Tôi lại bị bất ngờ không kịp trở tay.

Tôi đờ đẫn mất một lúc, mãi đến khi Diệp Thanh Hữu gọi “Gia Gia” đầy thân thiện thì tôi mới tỉnh lại, niềm vui khi qua bài thi viết quá rõ ràng khiến tôi quên mất còn phần thi thực hành. Thấy tôi vẫn chưa hoàn hồn, Diệp Thanh Hữu bất lực nói: “Không nhất thiết phải thi cả hai phần cùng một lúc, nếu hôm nay em mệt thì có thể thi thực hành vào hôm khác.”

Đây là lần thứ ba hôm nay anh ấy nói câu này. Nếu không nói thì có lẽ tôi đã thật sự bảo là mình chưa sẵn sàng, xin hoãn lại hai ngày để chuẩn bị kỹ hơn. Nhưng một khi anh ấy đã nói thế, tính bướng bỉnh của tôi lại trỗi dậy, tôi bảo: “Không sao, không sao, hôm nay em thi được. Nhân lúc còn hứng sau khi qua bài thi viết, em sẽ làm luôn phần thực hành để qua nốt.”

Diệp Thanh Hữu: “… Em chắc chưa?”

Tôi vung tay: “Chết sớm siêu sinh sớm, chết sớm siêu sinh sớm.”

Ánh mắt Diệp Thanh Hữu nhìn tôi bán tín bán nghi, rồi lấy ba chiếc ly thủy tinh thẳng đứng từ tủ ra đặt trên bàn trà, vừa sắp xếp vừa khuyên tôi lần cuối: “Chỉ khi nào sẵn sàng thì hẵng bắt đầu, anh không bắt buộc em phải thi hết hôm nay đâu.”

Thực ra, khi nhìn ba chiếc ly thủy tinh được xếp ngay ngắn trên bàn, trong lòng tôi cũng chột dạ, có chút muốn bỏ dỡ giữa chừng, nhưng lời nghi ngờ đó đã vô tình tổn thương đến lòng tự trọng mỏng manh của tôi. Dựa vào điểm thực hành 99/100 ở kỳ thi sơ cấp trước, tôi ưỡn ngực lên đầy tự tin: “Em làm được!”

Diệp Thanh Hữu: “Vậy bắt đầu đi.”

Thế là tôi ngồi vào bàn trà, Diệp Thanh Hữu ngồi đối diện cầm bảng chấm điểm. Mười giây trước, tôi còn hùng hồn nói “Em làm được”, mười giây sau đầu tôi lại trống rỗng, sợ co quắp.

Bước đầu tiên làm gì ta…?

Diệp Thanh Hữu cầm bút giấy, dù bận vẫn ung dung nhìn tôi, khiến tôi đổ mồ hôi lạnh, lau mặt, đột nhiên linh cảm lóe lên: Đúng rồi, đầu tiên phải đốt hương. Tôi rút một cây hương từ ống c*m v** lư hương, nhưng lại ngơ ngác một lúc rồi mới nhỏ giọng hỏi Diệp Thanh Hữu: “Bật lửa…?”

Diệp Thanh Hữu đưa cho tôi một chiếc bật lửa.

Tôi đốt hương, sau đó luống cuống tay chân chuẩn bị cân trà. Đặt lá trà vào khay thưởng trà, tôi cầm khay muỗng trà xoay một vòng để trình bày, rồi chuẩn bị chia trà vào ly thủy tinh.

Diệp Thanh Hữu gọi tôi lại: “Em định pha trà bằng nước lạnh à?”

Tôi: “…”

Đậu, quên đun nước.

Tôi bị ngốc à, sao lại phạm phải một lỗi ngớ ngẩn thế này aaaa. Vừa thầm hét lên trong lòng, tôi vừa vội vàng đun nước.

Thời gian đun nước trôi qua dài đằng đẵng lại yên ắng, tôi và Diệp Thanh Hữu nhìn nhau, bầu không khí trở nên cực kỳ ngượng ngập.

Khi tôi gần như bị cơn ngượng ngùng làm cho chết đứng, nước cuối cùng cũng sôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm, cầm ấm nước lên để tráng chén và dụng cụ, rồi cho trà vào, đổ một ít nước để làm ướt trà.

Khi làm ướt trà, tôi phải nhấc ly thủy tinh lên và nhẹ nhàng lắc để đảm bảo lá trà tiếp xúc đầy đủ với nước. Bình thường, bước này không có gì khó khăn, nhưng hôm nay tôi suýt làm rơi ly — ly thủy tinh quá nóng, nóng đến mức ngón tay tôi đỏ bừng lên, làm tôi nghi ngờ sau khi thi xong, da tôi sẽ bị phồng rộp.

… Trong ly là nước vừa đun sôi ở 100 độ C. Lúc này, tôi mới nhớ ra mình quên để nước nguội.

Tôi hoàn toàn suy sụp: “Đàn anh Diệp, em sai rồi, em ngốc thật. Anh cứ coi như chưa thấy gì, cho em làm lại từ đầu được không?”

Diệp Thanh Hữu cúi xuống, viết viết vẽ vẽ trên bảng chấm điểm, không thèm ngẩng đầu lên.

“Tiếp tục đi.” Anh nói. “Anh đã nói với em từ trước rồi, trong quá trình biểu diễn nghệ thuật pha trà, bất kỳ tình huống bất ngờ nào cũng có thể xảy ra. Một khi buổi biểu diễn đã bắt đầu, không thể dừng lại hay làm lại. Bất kể có chuyện gì xảy ra, em phải tiếp tục biểu diễn đến cùng.”


 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 18


Thực ra Diệp Thanh Hữu nói đúng.

Dù đây không phải là buổi biểu diễn chính thức ra mắt công chúng, nhưng nó vẫn là một kỳ thi nghiêm túc và chuẩn mực. Bất kể có sự cố nào xảy ra trong quá trình, cũng không thể dừng lại hay làm lại.

Tôi cắn răng, hít một hơi thật sâu, lấy hết can đảm cầm lại ấm nước.

Sau “cam lộ nhuận tâm sen” sẽ đến bước “Phượng hoàng tam điểm đầu”. May mà mấy lần luyện tập chăm chỉ trước đó đã không phụ lòng tôi. Ba lần nâng lên hạ xuống đều đặn, sau cùng tôi thu nước một cách gọn gàng từ trên cao, nước trong ba ly được rót ra hoàn toàn đều đặn, bằng phẳng. Đây có lẽ là bước tôi làm tốt nhất kể từ khi bắt đầu biểu diễn. Ngay cả những lần luyện tập trước đây cũng không đạt đến mức hoàn hảo như lần này. Có khởi đầu tốt, các bước tiếp theo cũng tự nhiên mà suôn sẻ. Từ “Bích ngọc trầm thanh giang”, “Quan Âm phủng ngọc bình”, đến “Xuân ba triển kỳ thương”, và “Huệ tâm ngộ trà hương”, tôi hoàn thành một loạt các động tác khá mượt mà. (1)

Khi tôi cuối cùng cũng đặt ly thủy tinh trở lại bàn trà, lần lượt vào vị trí, vai tôi chùng xuống ngay lập tức, yếu ớt hỏi Diệp Thanh Hữu: “Đàn anh, em được bao nhiêu điểm…?”

“Em tự cảm thấy mình qua chưa?” Diệp Thanh Hữu không trực tiếp trả lời câu hỏi của tôi mà hỏi ngược lại.

Tôi khô khốc nói: “Chưa qua.”

Diệp Thanh Hữu cúi đầu nhìn lại bảng điểm đã đầy những ghi chú của anh: “Em tự đánh giá thử xem, lần này biểu diễn nghệ thuật pha trà chỗ nào làm tốt, chỗ nào chưa làm tốt?”

Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói: “Phượng hoàng tam điểm đầu không có sai sót, mấy bước cuối cùng cũng không gặp vấn đề lớn.”

Diệp Thanh Hữu gật đầu, ra hiệu cho tôi nói tiếp.

Tôi im lặng một lúc rồi bắt đầu khô khốc liệt kê những lỗi ngớ ngẩn mình đã phạm phải hôm nay: “Em không chuẩn bị đủ đạo cụ trước khi biểu diễn, bước đun nước và đốt hương làm sai thứ tự, khi dùng khay trà để trưng bày lá khô thì tay cầm không đúng tiêu chuẩn, trước khi ngâm trà quên làm nguội nước, giữa chừng thì không nên để sai lầm ảnh hưởng và biểu lộ ý muốn dừng biểu diễn.”

Tôi lần lượt liệt kê từng lỗi của mình, càng đếm càng thấy mình không thể tha thứ, mặt mày ủ dột nhìn Diệp Thanh Hữu, chờ anh tuyên bố kết quả. Diệp Thanh Hữu lại nhìn bảng điểm trong tay rồi hỏi lần nữa: “Còn gì nữa không?”

Mặt tôi gần như nhăn lại: “Còn nữa sao? Còn nữa… Em thật sự không nghĩ ra.”

Diệp Thanh Hữu: “Em nghĩ thêm đi.”

Tôi lướt qua toàn bộ quá trình pha trà của mình từ đầu đến cuối, rồi lại lướt từ cuối lên đầu một lần nữa, nhưng thật sự không nghĩ ra thêm lỗi nào để chỉ ra, tôi đáng thương nhìn chằm chằm vào Diệp Thanh Hữu. Diệp Thanh Hữu trầm ngâm một lúc rồi nhắc nhở: “Lục Du từng nói, ‘Nhữ quả dục học thi / Công phu tại thi ngoại.’*. Em muốn học trà, công phu cũng nằm ngoài trà.”

<i>*(Nếu như con quả muôn học làm thơ thì công phu là ở ngoài việc chữ nghĩa)</i>

Cuối cùng, tôi chợt nhớ ra điều quan trọng mà mình đã quên.

Tôi đã không rửa tay trước khi pha trà.

Rửa tay trước khi pha trà không chỉ là vấn đề vệ sinh mà còn là một nghi lễ quan trọng, thể hiện sự tôn trọng với trà và văn hóa, tinh thần của nó. Trà là loài cỏ quý hiếm của núi non, thanh khiết, xua tan phiền muộn, là thứ cỏ lá sạch và tinh khiết nhất trên đời. Dùng đôi tay bẩn để chạm vào trà không chỉ làm bẩn lá trà mà còn là sự xúc phạm và coi thường sự “thanh khiết” đó.

Lúc ấy lưng tôi lạnh toát, mồ hôi lạnh chảy dọc theo thái dương, thậm chí tôi còn không dám nhìn thẳng vào mắt Diệp Thanh Hữu. Diệp Thanh Hữu thở dài một hơi, đưa bảng điểm cho tôi: “Em tự xem đi.”

— Năm mươi điểm. Kỹ thuật không đạt, lễ tiết chưa đủ, thái độ không đúng mực. Bảng điểm đó được ghi đầy những dòng chữ dày đặc với nét bút thanh mảnh, không bỏ sót một lỗi lầm nào của tôi, từ lớn như không rửa tay, không hâm chén và dụng cụ, đến nhỏ như không mỉm cười, tư thế cầm chén không đúng, giống như một bản cáo trạng dán thẳng vào mặt tôi. Tôi lúng túng cất bảng điểm đi, cẩn thận quan sát sắc mặt của Diệp Thanh Hữu.

Không có biểu cảm gì, khóe miệng lạnh lùng khẽ cong lên, đôi mắt đen như hắc diện thạch nhìn thẳng vào tôi.

Tôi vô thức co rụt vai lại, cố gắng đưa ra một lời giải thích hợp lý cho thất bại của mình: “Khụ, đàn anh Diệp, em không cố ý… Hay là để lát nữa thi lại? Lần tới em chắc chắn sẽ qua.”

“Lúc nãy khi anh hỏi em có muốn hoãn lại một thời gian để thi hay không, em đâu có nói thế.” Diệp Thanh Hữu nói. “Anh đã cho em rất nhiều cơ hội rồi. Biểu hiện của em hôm nay hoàn toàn nằm trong dự đoán của anh, không có gì để nói nữa. Trước đây, anh đã nhắc em nhiều lần đến trà thất để luyện tập toàn bộ quy trình biểu diễn nghệ thuật pha trà, nhưng em chỉ nói suông, không hề có hành động thực tế. Khi đó, anh đã biết kết quả kỳ thi thực hành lần này của em chín phần mười sẽ như vậy.”

Tôi vội vàng nói: “Xin lỗi, nhưng dạo này em thật sự hơi bận…”

“Anh không chấp nhận bất kỳ lý do nào, tất cả chỉ là cái cớ.” Ánh mắt Diệp Thanh Hữu lạnh lùng hơn mọi ngày, lời nói cũng sắc bén đâm đau người. “Một buổi biểu diễn nghệ thuật pha trà chỉ mất chưa đến mười phút, thậm chí không lâu bằng một ván game của em. Em không phải là không có thời gian, mà là không muốn làm.”

Tôi nghẹn lời, lắp bắp xin lỗi: “Xin lỗi, em sai rồi. Là do em quá lười.”

“Không ngại nói cho em biết, anh đã hỏi Trần Quân xem em dạo này đang làm gì. Anh không định trách em vì điều đó, nhưng anh sợ nếu anh không nói, em sẽ không nhận ra hành vi của mình có gì không đúng,” Diệp Thanh Hữu nói. “Em còn nhớ chữ mà anh tặng em sau buổi xem phim hôm đó không? Chữ ‘Trầm’. Em thông minh như vậy, chắc hẳn biết phải hiểu chữ đó thế nào. Chữ mà anh tặng mỗi người đều liên quan đến việc mà họ đang làm. Đại Chúc thì tùy tiện qua loa, Trần Quân thì nhanh nhẹn ham học, còn em đang cố gắng làm cho tâm mình lắng xuống, muốn tập trung và đơn thuần làm một việc mà mình thực sự muốn làm. Anh nói đúng không?”

Nói đến đây anh dừng lại một lúc, chờ đợi câu trả lời chắn chắn của tôi. Tất nhiên anh nói đúng, tôi cũng đã thấu hiểu điều mà anh muốn truyền đạt vào đêm hôm đó và cũng bị nó làm cho xúc động mạnh mẽ, gật đầu liên tục. Thế nên anh lại hỏi tôi: “Vậy nếu em đã biết mình muốn gì, biết mình nên làm gì, tại sao lại phụ lòng nó và tại sao lại tự buông thả bản thân?”

Câu hỏi này thật khó để tôi mở miệng trả lời.

Tôi từng nghe người ta tức giận tuyên bố rằng, bản tính con người vốn xấu. Con người sinh ra đã mang tội tổ tông: kiêu ngạo, tham lam, phẫn nộ, lười biếng, tham ăn, d*c v*ng, đố kỵ – những thói xấu này bẩm sinh đã có, không ai tránh khỏi. Con người phải không ngừng mài giũa mình bằng đức hạnh, dùng đạo đức để ràng buộc bản thân, phải trải qua vô số đau khổ mới có thể chinh phục những tội lỗi nguyên thủy đó và sở hữu phẩm chất cao quý. Tôi nhớ lại mình từng giận dữ lên án sự lười biếng của Vương Đại Chúc và sự buông thả của Văn Bạch Hóa, nhưng giờ đây tôi nhận ra mình chẳng có tư cách gì. Tôi cũng chẳng khá hơn họ bao nhiêu.

Những lời chất vấn của Diệp Thanh Hữu khiến tôi chột dạ. Tôi cúi đầu, ngón tay đặt lên khăn trà, toàn thân tôi chìm trong sự hối hận và căm ghét bản thân, dao động mãnh liệt. Tôi cảm thấy hoặc mình nên tự vả một cái để ngất đi, hoặc tìm một chỗ nào đó mà chui xuống, nếu không trong giây tiếp theo, tôi sẽ chết vì xấu hổ mất.

“Tạ Gia, em quá kiêu ngạo, việc em thể hiện sự sắc bén không tốt cho em đâu,” Diệp Thanh Hữu nói. “Sự kiêu hãnh xứng đáng với tài năng của em là sự kiên định, nhưng kiêu ngạo vượt quá tài năng của mình chính là tự mãn. Anh tưởng cuộc trò chuyện lần trước đã đủ để thức tỉnh em, nhưng em không những không thay đổi mà còn trở nên tệ hơn. Người mà em làm phụ lòng không phải là anh, cũng không phải bất kỳ ai khác, mà là chính bản thân em.”

Cuối cùng Diệp Thanh Hữu nói: “Tạ Gia, em làm anh thất vọng. Nhưng điều quan trọng không phải là anh thất vọng, mà là em đừng để mình phải hổ thẹn với chính bản thân mình.”



<i>Chú thích</i> –<i> Nguồn baidu</i>

Bích ngọc trầm thanh giang

Sau khi rót nước nóng vào cốc, đầu tiên trà nổi trên mặt nước sau đó từ từ chìm xuống đáy chén. Điều này được gọi là “bích ngọc chìm dòng trong.”

Quan Âm phủng ngọc bình

Trong truyền thuyết Phật giáo, Quan Âm Bồ Tát thường bưng một bình ngọc chứa cam lộ, có thể trừ tai, giải bệnh, cứu khổ cứu nạn. Trà nghệ nhân dâng trà đã pha cho khách, gọi là “Quan Âm phủng ngọc bình”, hàm ý chúc phúc cho mọi người bình an suốt đời.

Xuân ba triển kỳ thương

Đây là một nét đặc trưng trong nghệ thuật pha trà xanh. Nước nóng trong chén như làn sóng xuân, làm cho búp trà từ từ nở ra, búp trà nhọn như mũi thương, lá trà mở ra như lá cờ. Một búp một lá gọi là “kỳ thương”, một búp hai lá gọi là “tước thiệt” (lưỡi chim sẻ). Trước khi thưởng trà, ngắm nhìn búp trà trong làn nước trong veo dao động, tựa như những tinh linh xanh đang múa vũ điệu của sự sống, rất sinh động và thú vị.

Tuệ tâm ngộ trà hương

Thưởng trà xanh cần phải “nhìn, ngửi, và nếm”. Sau khi ngắm cảnh “xuân ba triển kỳ thương”, cần ngửi hương trà. Trà xanh khác với trà hoa và trà ô long, hương trà thanh tao nhẹ nhàng, cần dùng tâm hồn cảm nhận mới có thể ngửi được hương xuân, cũng như mùi hương thanh khiết, sâu lắng của sự sống.
 
Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 19


Diệp Thanh Hữu không nói khi nào sẽ tổ chức thi lại thực hành trung cấp, cũng không đề cập khi nào lớp cao cấp bắt đầu. Anh ấy không nói tôi cũng không dám chủ động hỏi, nhắm mắt bịt tai, giả vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra, tiếp tục sống những ngày tháng bình yên của mình.

Trước khi có thể trả lời rõ ràng và tự tin những chất vấn mà anh ấy đã đặt ra, tôi sợ mình chẳng dám chủ động tìm anh ấy để nói chuyện. Tôi hoàn toàn không nghĩ Diệp Thanh Hữu lại có thể nghiêm khắc với mình như vậy, sau khi tự trách, tôi vừa thấy sợ hãi vừa tủi thân, mỗi khi nhớ lại những lời anh ấy nói tim tôi như thắt lại, cảm giác khó thở vì cảm xúc dồn nén.

Cuối cùng, thông báo về lớp học cao cấp là do Trần Quân gửi qua WeChat cho tôi, ngày tôi nhận được thông báo thì chỉ còn đúng một ngày nữa là bắt đầu học. Tôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, kinh ngạc vì đến sát ngày học anh ấy mới nói, tức giận vì sao người thay Diệp Thanh Hữu thông báo cho tôi lại là Trần Quân. Tôi giận dữ hỏi tại sao Diệp Thanh Hữu không tự mình nhắn cho tôi, Trần Quân trả lời: “Sư phụ của ông chủ Diệp trở về Hòa Quang rồi, cậu ấy đi cùng sư phụ đến triển lãm trà.”

Tôi bùng nổ phẫn nộ: “Anh ấy đi triển lãm trà mà không mang em theo sao!!!”

“Triển lãm trà năm nay chẳng có gì hay ho cả, trà sau mưa giả làm trà trước tiết Thanh minh, có túi trà thọ mi mà dám nói là trà bạch hào ngân châm, anh nghi họ cố tình làm cho anh cười chết thôi.” Trần Quân nói. “Có lẽ ông chủ Diệp sợ em đến đó uống nhầm rồi làm hỏng cái miệng được cậu ấy chiều chuộng mà… Hừ hừ hừ, anh không nói gì hết. Chiều nay em có rảnh không? Đến trà thất giúp anh chuyển bàn, lớp cao cấp lần này hơi phiền, cần sắp xếp lại bố cục trà thất.”

Quả nhiên việc bóc lột sức lao động đàn em là truyền thống của Hòa Quang. Tôi nhìn lịch trình của mình, không có việc gì, liền đồng ý.

Kết quả là khi tôi đến trà thất vào buổi chiều, không chỉ Diệp Thanh Hữu không có ở đó, mà Trần Quân cũng chẳng biết đã chạy đi đâu, chỉ có một cô bé trông cao tầm hơn mét rưỡi ngồi trước bàn trà, cúi đầu chơi điện thoại. Tôi rón rén đi tới, lén nhìn cô bé vài cái, trông còn rất trẻ, cô đeo ba lô, đúng chuẩn hình ảnh một học sinh trung học điển hình. Cô bé cũng phát hiện ra tôi đang tiến lại gần, ngẩng đầu lên mỉm cười ngọt ngào: “Anh là ai vậy?”

“Ừm… Anh là nghệ nhân trà học ở đây, tên là Tạ Gia.” Tôi hơi sững sờ rồi vội vàng nói. “Em là đàn em mới đến à? Hình như anh chưa từng gặp em trước đây.”

“Đúng vậy, hôm nay em mới đến, ông chủ Diệp dẫn em đến đây,” Cô nói, đôi mắt to lấp lánh chớp chớp. “Em tên là Lê Thiền, đàn anh cứ gọi em là Thiền Thiền là được. Đàn anh, anh pha cho em một ấm trà được không? Em ngồi đây lâu lắm rồi, khát quá, mà chẳng ai pha cho em chén trà nào.”

Vừa nói, cô tức giận hừ một tiếng. Tôi gật đầu: “Được rồi, anh sẽ pha cho em một chén… Em muốn uống trà gì?”

Cô bé đảo mắt, nói: “Hoắc Sơn Hoàng Nha, loại ba ngàn sáu một cân ấy.”

Tôi: “…”

Ôi vãi gặp ngay người biết chọn trà. Bây giờ trên thị trường rất hiếm có trà vàng để bán, gói Hoắc Sơn Hoàng Nha kia là do năm ngoái Diệp Thanh Hữu và sư phụ của anh ấy cùng mua về từ chợ trà, bất kể về chất lượng hay giá trị đều là loại tốt nhất trong trà thất. Cô bé này đúng là quá biết cách chọn trà… Khoan đã, cô ấy nói hôm nay mới đến trà thất, sao lại biết ở đây có Hoắc Sơn Hoàng Nha?

“Anh pha nhanh đi,” Lê Thiền thấy tôi đứng yên, liền thúc giục. “Ông chủ Diệp đã nói rồi, trà trong trà thất em uống thoải mái, không tốn tiền đâu.”

Tôi: “…”

Ôi trời đất! Tức quá ghen tị quá a a a a a! Tôi còn chưa được đãi ngộ như vậy, cô bé này rốt cuộc là ai chứ a a a a a!

Tôi mang cơn bực bội nện bước vào phòng trong, lấy gói Hoắc Sơn Hoàng Nha từ tủ lạnh ra, rồi đập nó lên bàn. Lê Thiền thấy tôi bước ra liền tự giác đặt chén trà lên bàn trà và dùng hai ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn.

— Ý là muốn xin trà.

Tôi đun nước làm sạch chén và dụng cụ, sau đó để nước nguội bớt. Gói Hoắc Sơn Hoàng Nha này thuộc loại trà thượng hạng, không cần rửa trà, nên tôi pha ngay nước đầu tiên rồi rót cho cô.

Khi rót nước tôi cố tình xoay dòng nước theo chiều kim đồng hồ, rót trà đầy đến chín phần. Nhưng cô bé chẳng hề nhận ra, cầm lên hớp một ngụm rồi liên tục khen ngon.

Đúng, đúng là tôi cố ý muốn trêu cô bé vừa mới đến, không biết lễ nghi về trà. Thông thường, nghệ nhân trà sẽ cầm ấm bằng tay phải, nếu xoay nước theo chiều ngược kim đồng hồ là đón khách, còn theo chiều kim đồng hồ là tiễn khách. Khi rót trà cho khách chỉ nên rót đầy bảy phần, vì bảy phần nước còn ba phần là tình nghĩa, rót đầy mười phần là trà đầy khinh khách.

Lúc này tôi bị tình yêu làm mờ mắt, sự ghen tuông thiêu đốt lý trí, hoàn toàn quên mất chiếc chén cô ấy dùng không phải là chén dành cho khách mà là chén riêng, cô ấy dùng lễ gõ tay để xin trà chứ không phải lời nói và cách cầm chén của cô ấy là chuẩn mực với động tác “tam long hộ đỉnh.”

Khi tôi đang chuẩn bị pha nước lần thứ hai, một tiếng nước xả mạnh vang lên từ bức tường bên cạnh, giống như âm thanh của bồn cầu xả nước. Ngay sau đó đàn anh Trần Quân bước ra khỏi phòng vệ sinh, kéo rèm ngăn phòng tiến vào trà thất: “Ôi trời, đúng là trưa nay không nên đi ăn cái nồi lẩu kỳ lạ đó với chị, ngồi trong toilet cả nửa tiếng… Ô, Gia Gia cũng đến rồi à?”

Tôi gật đầu, rồi chợt nhận ra Lê Thiền dường như cũng quen thân với Trần Quân.

“Chính miệng em thèm, đừng đổ lỗi cho chị — cô bé này là đồ đệ mới nhận của Tiểu Thanh Hữu đúng không? Sáng nay lúc đi dạo hội trà, em ấy còn nhắc đến em mà,” Lê Thiền vừa nói vừa cười tươi. “Trà pha cũng ngon đó, nhưng cũng xấu xa y như Tiểu Thanh Hữu, lúc nãy còn định bắt nạt chị không biết lễ nghi trà đạo cơ.”

Tôi nghi ngờ mình vừa bị điếc tạm thời, chứ không thì sao lại nghe thấy cô bé cấp ba này gọi Diệp Thanh Hữu là “Tiểu Thanh Hữu.”

Trần Quân lẩm bẩm: “Lại giả vờ trẻ con bắt nạt đàn em nhỏ, cẩn thận ổng chủ Diệp về rồi cho chị uống nước vỏ quýt.” Lê Thiền cười híp mắt uống thêm một ngụm trà, rồi gõ lên bàn ý bảo tôi rót thêm trà. Tôi không dám lơ là, cuống cuồng rót cho cô bảy phần trà, rồi run rẩy ngẩng đầu lên hỏi Trần Quân: “Đàn anh, chị đẹp này là…?”

“Ồ, bọn anh chưa từng nói với em sao?” Trần Quân nói rồi ngồi xuống bên cạnh Lê Thiền. “Người sáng lập trà thất Hòa Quang, sư phụ của anh và Diệp Thanh Hữu, Lê Thiền, người lấy chồng xa ở Quảng Đông.”

“Đáng đánh!” Lê Thiền giơ tay cao lên định đập vào đầu Trần Quân, nhưng do tay cô quá ngắn và Trần Quân né quá nhanh nên không trúng. “Chị mới hai mươi mấy tuổi thôi, già đâu mà già!”

“Thôi đi chị đã gần ba mươi rồi, tính theo phép làm tròn thì chị là thần tiên tổ sư rồi đấy,” Trần Quân nói.

Tôi cảm thấy hơi khó thở: “Đàn anh, anh nói… chị đẹp này chính là sư tổ của em?”

Trần Quân: “Đúng vậy.”

… Chuyện này khiến người ta thở không nổi.

Tôi sợ đến mức làm rơi cả cái nắp chén. Tôi không thể đếm nổi đây là lần thứ mấy tôi làm màu thất bại nữa, cảm giác lúng túng xen lẫn sự tê liệt nhè nhẹ. May mà nước pha Hoắc Sơn Hoàng Nha đã nhạt, tôi vội vàng nói muốn đi đổi trà, tranh thủ tìm cách rút lui khỏi hiện trường thảm họa này. Nhưng Lê Thiền lại gọi tôi lại: “Không cần lấy trà mới đâu, lần tới thử pha Phượng Hoàng Đơn Tùng mà chị vừa mang về nhé.”

Tôi: “Nhưng mà em không giỏi pha trà Ô Long…”

Lê Thiền vẫy tay: “Nói nghe như thể Tiểu Thanh Hữu và Trần Tiểu Quân sinh ra đã biết pha trà vậy? Cũng đều là luyện mà ra thôi.”

Thấy tôi vẫn còn có ý muốn rút lui, cô lại nói: “Chị dạy Tiểu Thanh Hữu để có người pha trà cho chị uống, Tiểu Thanh Hữu dạy em để có người pha trà cho em ấy uống, tính theo phép làm tròn thì pha trà cho em ấy cũng là pha trà cho chị rồi, nếu em không pha trà cho chị thì còn giữ em làm gì?”

Tôi: “…???”

Thì ra làm tròn số và nói xàm một cách nghiêm túc đều là truyền thống của trà thất chúng tôi à? Đã học được.

Tôi cạn lời, lặng lẽ đi đun nước pha trà. Quả thật trà mà sư tổ mang về là trà ngon, vừa mới lắc nhẹ chén thôi mà hương thơm của trà đã tràn ngập khắp bàn trà, khiến những ai bị bao quanh bởi hương thơm đều như ngất ngây. Tôi pha xong hai lượt trà, ngồi im như thóc, lắng nghe Lê Thiền và Trần Quân bàn luận về hương vị của loại Đơn Tùng này, cảm thấy mình chẳng khác gì một tên vô dụng. Khi họ trò chuyện về lịch sử của loại trà Đơn Tùng này, Lê Thiền đột nhiên hỏi tôi: “Trà Ô Long nổi tiếng khắp thế giới nhờ hương thơm nồng nàn của nó, ở Quảng Đông, sau khi người nông dân làm xong trà, thường có người đến trộm. Thế là từ đó về sau có người hỏi họ về hương thơm này, nông dân không trả lời đó là hương trà nữa, mà nói đó là một thứ khác để che giấu. Về sau, điều này còn biến thành một tên gọi của Phượng Hoàng Đơn Tùng. Tiểu Gia Gia, em đoán đó là hương gì?”

Tôi cầm chén trà lên chuẩn bị uống, vô thức hỏi: “Là gì ạ?”

Vừa thốt ra câu hỏi tôi đã thấy không ổn, vì biểu cảm của Trần Quân có gì đó rất lạ, như muốn ngăn tôi không nên hỏi lại nhưng đã quá muộn. Trong lòng tôi khựng lại rồi nghe Lê Thiền nói: “Người nông dân nói, đó là hương phân vịt.”

Tôi: “…”

Chén trà đã chạm đến môi, uống cũng không được mà bỏ cũng không xong, thật sự không từ nào diễn tả nổi sự xấu hổ này.

Mẹ nó, đáng lẽ tôi nên biết từ trước người dạy ra Trần Quân và Diệp Thanh Hữu không thể nào là người dễ đối phó được!!!


 
Back
Top Bottom