Siêu Nhiên haruki murakami

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
218896912-256-k684684.jpg

Haruki Murakami
Tác giả: Vochinhdieu
Thể loại: Siêu nhiên
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

chân dung, nhân vật - đây là tác giả mình yêu thích Tags: chadungreviewtacgiayeuthichnhatvanhoc​
 
Haruki Murakami
giới thiệu


Đọc cmt trong bài viết của GAT thấy nhiều bạn thích nhà văn Haruki Murakami giống mình quá nên đăng lại bài này cho mn cùng đọc về tác giả yêu thích của chúng mình nè!

Cuối bài còn có tổng hợp trích dẫn hay trong sách của ông nữa!

Haruki Murakami (sinh ngày 12/01/1949 tại Kyoto, NB) là một trong những tiểu thuyết gia, dịch giả văn học người Nhật Bản được biết đến nhiều nhất hiện nay cả trong lẫn ngoài nước Nhật.

Từ thời điểm nhận giải thưởng Nhà văn mới Gunzo năm 1979 đến nay, hơn một phần tư thế kỷ hoạt động và viết lách, tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 38 thứ tiếng trên thế giới, đồng thời trong nước ông là người luôn tồn tại ở tiền cảnh sân khấu văn học Nhật Bản.

Từ nhỏ, Murakami đã chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa phương Tây, đặc biệt là âm nhạc và văn học.

Ông lớn lên cùng với hàng loạt tác phẩm của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut và Richard Brautigan, và sự ảnh hưởng của phương Tây chính là đặc điểm giúp mọi người phân biệt ông với những nhà văn Nhật khác.

Văn học Nhật thường chú trọng đến vẻ đẹp ngôn từ, do đó có thể khiến cho khả năng diễn đạt bị giới hạn và trở nên cứng nhắc, trong khi phong cách của Murakami tương đối thoáng đạt và uyển chuyển.

Murakami học về nghệ thuật sân khấu tại Đại học Waseda, Tokyo.

Ở đó, ông đã gặp được Yoko, người sau này là vợ ông.

Ban đầu ông làm việc trong một cửa hàng băng đĩa, nơi mà một trong những nhân vật chính của ông trong tác phẩm Rừng Na Uy, Watanabe Toru, đã làm việc.

Một thời gian ngắn trước khi hoàn thành việc học, Murakami mở một tiệm cà phê chơi nhạc jazz có tên "Peter Cat" tại Kokubunji, Tokyo, ông quản lý nó từ năm 1974 đến 1982.

Nhiều tiểu thuyết của ông lấy bối cảnh âm nhạc và nhan đề đề cũng nói đến một bản nhạc nào đó, gồm có Dance, Dance, Dance (của ban nhạc The Steve Miller), Rừng Na Uy của The Beatles)' và Phía nam biên giới, phía tây mặt trời (ghép từ nhan đề một bài hát South of the Border và mượn ý lại của một bài hát khác East of the Sun).

Haruki có nhiều tác phẩm nổi tiếng đã xuất bản tại Việt Nam như: Rừng Na Uy; Kafka bên bờ biển; 1Q84; Phía Nam biên giới, Phía Tây mặt trời;..Những trích dẫn của Haruki Murakami:

Thật ra, ai cũng đều rất cô đơn…

1.

Làm gì có ai thích cô đơn, chỉ là không thích thất vọng mà thôi. [Rừng Nauy]

2.

Cá nói, cậu không thể nhìn thấy nước mắt trong mắt tôi, bởi vì tôi đang ở trong nước; Nước nói, tôi có thể cảm nhận được nước mắt của cậu, bởi vì cậu ở trong lòng tôi. [Tình yêu của cá và nước]

3.

Khi ở trong ánh sáng ban ngày thì sao có thể biết được độ sâu của bóng đêm? [Lắng nghe gió hát]

4.

Nếu bạn có thể yêu ai đó với toàn bộ trái tim mình, dù chỉ một người, thì đó chính là sự cứu rỗi cuộc đời.

Thậm chí nếu bạn không thể ở bên người đó. [1Q84]

5.

Tôi vẫn luôn cho rằng con người sẽ chầm chậm mà già đi, thật ra thì không phải như vậy, con người đều sẽ già đi trong nháy mắt. [Nhảy!

Nhảy!

Nhảy]

6.

Trong một số trường hợp, sự tồn tại của một người sẽ làm thương tổn người khác. [Phía nam biên giới, phía tây mặt trời]

7.

Sau khi chúng ta tìm kiếm, rồi tổn thương, sau đó rời đi, lại còn có thể hoàn toàn tin tưởng tình yêu như trước kia, đây chính là một loại dũng khí. [Rừng Nauy]

8.

Cuộc sống của tôi là của tôi, cuộc sống của bạn là của bạn.

Chỉ cần bạn hiểu rõ mình đang tìm kiếm cái gì thì bạn cứ việc sống theo ý nguyện của bản thân.

Người khác nói gì cũng mặc kệ. [Nhảy!

Nhảy!

Nhảy]

9.

Nói chung là, năm tháng dài đằng đẵng nhưng cũng đáng giá để đợi chờ.

10.

Chúng ta học được thế giới đáng sợ ra sao, đồng thời cũng biết được thế giới cũng có thể trở nên dịu dàng, tốt đẹp biết bao.

11.

“Ngay cả khi bạn có thể quay ngược thời gian thì bạn cũng không kết thúc được nơi đã bắt đầu” [1Q84]

12.

“Nhưng có ai dám bảo chỉ thế mới là tốt đẹp nhất đâu?

Cho nên cậu cần phải chộp lấy bất kì cơ hội hạnh phúc nào mà cậu có, và đừng áy náy vì người khác nhiều quá.

Kinh nghiệm của tôi là chúng ta chỉ có độ hai hoặc ba cơ hội như thế trong đời và nếu để lỡ thì sẽ phải ân hận cho đến chết vậy.” [Rừng Na Uy]

13.

Lòng người là cánh chim đêm.

Nó âm thầm chờ đợi điều gì, rồi khi thời cơ đến nó sẽ bay vút đi thẳng tắp về phía đó. [Tsukuru Tazaki không màu và những năm tháng hành hương]

14.

Con người ta có thể lấy kí ức làm nhiên liệu để sống. [Sau nửa đêm]

15.

Nỗi đau là điều không thể tránh khỏi, nhưng chịu đựng nó hay không lại là sự chọn lựa. [Tôi nói gì khi nói về chạy bộ]

16.

Tại sao mọi người cứ phải cô đơn như thế này?

Mục đích của nó là gì?

Hàng triệu con người trên thế giới này, tất cả đều đang mong mỏi khát khao, đang tìm kiếm những người khác để thỏa mãn mình nhưng lại tự họ cô lập họ.

Vì sao?

Phải chăng Trái Đất sinh ra là chỉ để nuôi dưỡng sự cô đơn của loài người? [Người tình Sputnik]

17.

Hai con người có thể ngủ cùng một giường, nhưng khi nhắm mắt, họ lại thấy cô đơn. [Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới]

18.

Khuôn mặt chúng tôi chỉ cách nhau chưa đến một gang nhưng nàng lại ở cách tôi cả hàng năm ánh sáng. [Rừng Nauy]

19.

“- Cậu có thường ở một mình như thế không?

- Luôn là thế.

- Cậu thích cô đơn à?

- Không, chẳng ai thích cô đơn cả.

Tớ chỉ là không cố kết bạn, vậy thôi.”

20.

Những điều có thể được thấy rõ hơn trong bóng tối,” anh nói, như thể anh đã từng đọc được suy nghĩ của cô.

“Nhưng càng ở lâu trong bóng tối, càng khó quay về lại thế giới ở trên mặt đất nơi có ánh sáng.” [1Q84]

21.

Cái mà chúng ta gọi là hiện tại được hình thành từ sự tích lũy của quá khứ.

Nguồn ảnh: Page GAT

#15DayReadingChallenge

#Day02 #Tácgiảyêuthích
#15DayReadingChallenge#Day02#Tácgiảyêuthích
 
Haruki Murakami
10 CUỐN SÁCH HAY NHẤT


CỦA HARUKI MURAKAMIDựa theo đánh giá cá nhân của Matthew Carl Strecher - nhà phê bình văn học dày công nghiên cứu về Murakami, là tác giả của ba cuốn sách phân tích về Murakami và văn chương của ông.1.

CUỘC SĂN CỪU HOANG

Trong truyện, nhân vật chính đã một mình khiêu chiến với một tập đoàn đầy của cải và quyền lực.

À, và có cả một chú cừu cực ngầu đầy uy quyền nữa.2.

BIÊN NIÊN KÝ CHIM VẶN DÂY CÓT

Cuốn tiểu thuyết kể về hành trình của một người chồng hiền lành đi giải cứu vợ của mình, hiện đang bị người anh quỷ dữ giam cầm trong một khách sạn mê cung.3.

XỨ SỞ DIỆU KỲ TÀN BẠO VÀ CHỐN TẬN CÙNG THẾ GIỚI

Câu chuyện với lối tường thuật song song, khắc họa hai thế giới thay phiên nhau: một bên là Tokyo mang đậm hơi thở của tương lai; bên kia lại là một thị trấn đồng quê với một bức tường khổng lồ bao quanh.4.

1Q84

Đây là tiểu thuyết đầu tiên Murakami thử thách mình với chủ đề khá mạo hiểm về các nhóm tôn giáo thiểu số – một vết đen nhức nhối ở Nhật Bản.5.

TAZAKI TSUKURU KHÔNG MÀU VÀ NHỮNG NĂM THÁNG HÀNH HƯƠNG

Tazaki Tsukuru muốn tìm hiểu tại sao nhóm bạn cũ lại loại anh ra khỏi nhóm khi anh lên Tokyo học.

Cuộc truy tìm nguyên nhân dẫn anh đến tận Phần Lan, nơi anh đối diện với sự thật đau đớn về chính mình.6.

KAFKA TRÊN BỜ BIỂN

Chắc chắn là tác phẩm phức tạp nhất của Murakami, tiểu thuyết này xoay quanh ba nhân vật chính ở ba thế hệ khác nhau.

Cả ba cùng đi vào “thế giới bên kia”; Kafka, người trẻ tuổi nhất, ở lại đối đầu thử thách với quyết tâm trở thành “chàng trai mười lăm tuổi mạnh mẽ nhất thế giới”.7.

NGHE GIÓ HÁT

Đây là tiểu thuyết đầu tiên của Murakami, và sự thiếu hụt trong cốt truyện được đền bù bằng lối viết đầy sáng tạo.

Truyện kể về nhân vật chính với cái tên “Boku” (“tôi” trong tiếng Nhật) trong quá trình tìm lại bản ngã.8.

PINBALL, 1973

Tiếp tục chủ đề mất mát và hoài niệm trong Nghe gió hát, phần hai này khám phá mối quan hệ của nhân vật chính với Naoko, người đã tự vẫn trong năm tháng đại học của anh.9.

RỪNG NAUY

Một “Naoko” nữa - hay vẫn là Naoko kia chăng?

- là tâm điểm của tác phẩm.

Rừng Nauy xoay quanh mối tình tay ba vừa quấn quýt xác thân vừa u mặc sầu bi của Naoko-Toru-Midori.10.

NHẢY NHẢY NHẢY

Cuốn sách xoáy sâu vào “tư bản tiên tiến”, việc thương mại hoá và buôn bán mọi thứ – bao gồm cả quan hệ cơ bản giữa người với người như giữa gia đình và bạn bè.
 
Haruki Murakami
Murakami Haruki, Tôi muốn nói về các giải thưởng v


12/10/2020 - by Nguyễn Thảo Trang Tôi muốn nói về các giải thưởng văn học.

Đầu tiên, hãy nói về trường hợp cụ thể là Giải Akutagawa Ryunosuke (Giải Akutagawa).

Đây là một ví dụ sống động và liên quan đến các chủ đề tương đối trực tiếp nhưng vô cùng tinh tế, vì vậy có một số điều khó nói, nhưng đừng sợ hiểu lầm, có lẽ tốt hơn hết vẫn nên nói một vài câu ở đây.

Có thể có vài điểm tương đồng giữa việc bàn về Giải thưởng Akutagawa và bàn về Giải thưởng Văn học nói chung.

Mặt khác, nói về giải thưởng văn học có thể tương đương với nói về một khía cạnh của văn học trong bối cảnh hiện đại.

Chuyện xảy ra cách đây không lâu.

Trong một cột nội dung của tạp chí văn học nào đó viết về giải thưởng Akutagawa có đoạn: “Giải Akutagawa nhìn chung khá kỳ diệu.

Bởi vì có những nhà văn vẫn sẽ gây được tiếng vang ngay cả sau khi thua đợt bình bầu, vì vậy danh tiếng của họ lại càng bay vọt lên giời.

Và bởi vì có những nhà văn như Haruki Murakami, người đã lánh mặt khỏi giới văn chương sau khi thua giải, thế nên quyền lực của ông ta ngày càng rõ rệt.”

Tác giả của bài báo này là “Soma Yuu”, chắc hẳn là một bút danh.

Tôi thực sự đã lọt vào danh sách nhận Giải thưởng Akutagawa hai lần cách đây khá lâu, khoảng hơn 30 năm trước.

Cả hai lần tôi đều không giành được giải, và đúng là tôi cũng đang tương đối xa rời thế giới văn chương để làm việc của riêng mình.

Tuy nhiên, tôi giữ khoảng cách với giới văn chương không phải vì tôi chưa giành được (có lẽ nên nói là không thể giành được) giải Akutagawa, mà bởi vì tôi không biết gì về nơi đó mà cũng chẳng có hứng thú.

Ngẫu nhiên tìm kiếm mối quan hệ nhân quả giữa hai thứ (chắc là) vốn chẳng liên quan khiến tôi cảm thấy hoang mang.

Nhìn người ta viết vậy, có lẽ ai đó trên thế gian này sẽ ngây thơ tưởng thật: “Ồ, hóa ra Haruki Murakami không giành được giải Akutagawa nên đã tránh xa văn đàn mà đi lăn lộn kiếm ăn với đời rồi ư?”

Lơ là một chút là loại tin đồn kiểu này sẽ biến thành dư luận khắp nơi.

Tôi đã từng nghĩ rằng sử dụng lập luận và kết luận riêng biệt là nguyên tắc cơ bản để viết một bài báo chứ, không phải à?

À vâng, mặc dù tôi vẫn làm mọi thứ y như cũ, nhưng trước thì tôi bị bêu rằng “bị giới văn chương ghẻ lạnh”, còn bây giờ lại bị cho là “xa lánh văn đàn,” có khi ta phải ăn mừng vì chuyện ấy mới phải!

Một trong những lý do khiến tôi sống xa rời giới văn chương là ngay từ đầu tôi đã không có ý định “làm nhà văn.”

Tôi là một người bình thường sống một cuộc sống cực kỳ bình thường, một ngày nọ bỗng dưng nổi hứng viết một cuốn tiểu thuyết, và vừa hay cuốn tiểu thuyết đó ngay lập tức giành được giải thưởng dành cho người mới.

Vậy giới văn chương là gì, giải thưởng văn học là gì, tôi hầu như không có những kiến thức cơ bản đó.

Với lại lúc đó tôi vẫn còn “công việc chính,” cuộc sống hằng ngày nhìn chung đã đủ bận rộn, giải quyết việc này việc nọ đã đầu tắt mặt tối.

Cho dù có ba đầu sáu tay cũng không đủ, tôi không thể lo những chuyện không cần thiết.

Sau khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù không còn bận rộn như trước nữa, nhưng tôi tự nghĩ mình vẫn nên sinh hoạt điều độ, ngủ sớm dậy sớm, hầu như ngày nào tôi cũng đi tập thể dục, nhờ thế mà buổi tối tôi gần như không còn ra ngoài xã giao.

Vì vậy, tôi chưa bao giờ đặt chân đến khu Golden Gai ở Shinjuku.

Tôi hoàn toàn không chán ghét giới văn học và khu Golden Gai, chỉ là vô tình trong đời sống thực tôi không có nhu cầu cũng như thời gian rảnh rỗi để kết giao với những giới này hay qua lại chơi bời với họ, vậy thôi.

Tôi không rõ Giải Akutagawa có “ma lực” hay không, cũng chẳng biết nó có “quyền uy” gì.

Hơn nữa tôi chưa bao giờ để tâm tới những điều đó.

Ai đã giành được giải thưởng này?

Ai chưa?

Tôi không biết.

Trước đây tôi không quan tâm, mà bây giờ càng không.

Ngay cả như người phụ trách chuyên mục nói rằng Giải Akutagawa là một điều kỳ diệu, thì ít nhất cái kỳ diệu đó tôi không được hưởng.

Chắc cái giải thưởng ấy đi nửa đường thì lạc, nên cuối cùng không lết được đến chỗ tôi.

Tôi có hai tác phẩm được đề cử Giải Akutagawalà Lắng nghe gió hát và Pinball, 1973.

Nhưng thành thật mà nói (nếu được thì tôi mong bạn sẽ tin tôi từ đầu đến cuối), vào thời điểm đó, tôi cảm thấy rằng việc đạt giải hay không cũng không thành vấn đề.

Khi Lắng nghe gió hát giành được giải thưởng dành cho người mới của tạp chí văn học Gunzo, tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc từ tận đáy lòng.

Tôi có thể hướng ra thế giới và khẳng định rằng đó là một sự kiện đánh dấu kỷ nguyên mới trong đời tôi, bởi giải thưởng này là tấm vé thông hành để tôi trở thành một nhà văn.

Tình hình sẽ rất khác nếu không có tấm vé; vì cánh cửa trước mặt đột nhiên mở ra, tôi nghĩ chỉ cần có một tấm vé như vậy thì mọi chuyện sẽ suôn sẻ.

Còn về phần giải Akutagawa thế nào, tôi hoàn toàn không có thời gian để mà suy nghĩ.

Còn một điểm nữa là tôi chưa hài lòng với hai tác phẩm đầu tiên.

Khi viết những tác phẩm này, tôi cảm thấy rằng sức viết nguyên bản của tôi chỉ phát huy được 20-30%.

Dù gì thì đây cũng là lần viết văn đầu đời nên tôi chưa hiểu rõ kỹ thuật cơ bản để viết tiểu thuyết sao cho hay.

Giờ nghĩ lại, “chỉ phát huy được 20-30% sức viết” ở một mức độ nào đó chưa chắc đã không phải điểm sáng.

Tuy nhiên, từ góc độ của một tác giả, chất lượng tác phẩm vẫn có không ít chỗ khiến tôi chưa hài lòng.

Cho nên, vé vào cửa thì không sao, nhưng với trình độ như vậy mà đạt được giải Akutagawa sau giải thưởng tân binh của tạp chí Gunzo thì e sẽ là gánh nặng quá mức.

Ở giai đoạn này mà tôi được đánh giá cao như vậy lẽ nào không phải là vượt quá tầm với sao?

Nói nôm na dễ hiểu thì là: “Hả, đến cái thể loại này mà cũng được giải à?”

Nếu dành nhiều thời gian hơn, bạn chắc chắn sẽ viết được những thứ hay hơn—tôi đã ấp ủ suy tư như vậy trong lòng.

Là một người cách đây không lâu chưa từng nghĩ đến việc viết tiểu thuyết, ý tưởng này có thể khá ngạo mạn.

Ngay đến bản thân tôi cũng cảm thấy thế.

Nhưng nếu tôi được thẳng thắn nêu lên ý kiến cá nhân thì: kẻ đến cả chút kiêu ngạo này cũng không có thì đừng nghĩ đến việc trở thành một tiểu thuyết gia làm gì.

Lắng nghe gió hát và Pinball, 1973 đều được giới truyền thông lăng-xê là “những ứng cử viên nặng ký nhất” cho Giải Akutagawa.

Mọi người xung quanh dường như đều mong đợi tôi đạt giải.

Tuy nhiên, vì những lý do nói trên, bỏ lỡ Giải Akutagawa trái lại còn khiến tôi thở phào nhẹ nhõm và đồng thời hiểu được cảm xúc của những vị giám khảo đã chấm rớt tôi: “Chà, chắc là như vậy.”

Ít ra thì tôi không hề oán hận, và cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc so bì với những tác phẩm được đề cử khác.

Vào thời điểm đó, tôi kinh doanh một quán bar nhạc jazz nhỏ ở Tokyo, hầu như ngày nào cũng phải đến quán.

Giả như tôi đạt giải và thu hút sự chú ý của mọi người, thì sợ rằng xung quanh sẽ một phen náo động và rước thêm phiền hà.

Đây cũng là một dạng tâm bệnh.

Xét cho cùng, tôi đang làm trong ngành dịch vụ; dẫu vốn không muốn gặp nhưng là khách hàng thì ta không thể không tiếp.

Nói vậy thôi chứ vẫn có vài bận thực sự chịu không nổi nên tôi đều lấy cớ lảng đi.

Tôi nhớ rằng sau hai lần được đề cử và trượt cả hai, các biên tập viên xung quanh đều nói với tôi rằng: “Lần này xem như anh Murakami đã công đức viên mãn rồi, chắc từ giờ sẽ không bị đề cử nữa đâu.”

Tôi trộm nghĩ trong lòng: “Công đức viên mãn?

Từ này nghe hơi kỳ quặc nhỉ.”

Giải Akutagawa về cơ bản là giải thưởng dành cho người mới, sau một khoảng thời gian nhất định ứng viên sẽ bị loại khỏi danh sách đề cử.

Theo một chuyên mục trên tạp chí văn học, có nhà văn đã được đề cử đến sáu lần, mà tôi mới hai lần đã thành “công đức viên mãn” rồi.

Vì sao lại thế?

Tôi không biết rõ hết ngọn nguồn, nhưng tóm lại là vào thời điểm đó, giới văn học nghệ thuật dường như đã đồng thuận rằng, “Với Murakami thế là đủ rồi,” chắc hẳn theo quy ước xưa nay.

Tuy nhiên, dù là “công đức viên mãn,” tôi cũng không cảm thấy đặc biệt thất vọng, ngược lại còn thấy thoải mái hơn, cảm giác an tâm hơn hẳn: tôi không còn phải nghĩ về Giải Akutagawa nữa.

Giành được hay không giành được giải không quan trọng, bản thân tôi thực sự không quan tâm; nhưng tôi nhớ rằng mỗi lần mình nhận được đề cử, khi cuộc bình bầu đến gần, những người xung quanh sẽ đứng ngồi không yên một cách khó hiểu và không khí có hơi buồn bực.

Có một cảm giác mong đợi kỳ lạ xen lẫn chút lo lắng.

Vừa được đề cử, lại bị giới truyền thông lôi xa mổ xẻ, phản hồi quá lớn khó tránh dẫn đến phản cảm, thế là phiền lại thêm phiền.

Chỉ mới hai lần mà tôi đã đủ chán nản, nếu tình trạng này cứ lặp đi lặp lại năm này qua năm khác… tưởng tượng thôi tôi đã thấy nặng nề.

Khổ nhất là khi mọi người an ủi.

Cứ trượt giải là bao nhiêu người đến gặp tôi và nói: “Lần này tiếc quá nhỉ.

Nhưng chắc chắn lần sau anh sẽ thắng đấy.

Tác phẩm tiếp theo anh hãy viết hay vào nhé!”

Trong thâm tâm tôi hiểu người nói (ít nhất trong hầu hết các dịp) đều có ý tốt, nhưng mỗi lần ai đó nói vậy, tôi vừa bối rối vừa không biết đáp lại thế nào, chỉ biết lúng búng “À à, ờ ờ…” rồi tắc tị.

Dù tôi có nói “Không đoạt giải cũng không sao” thì e rằng không ai chịu tin mà còn gây ngượng ngùng.

Đài NHK (ĐHT Quốc Gia Nhật Bản) cũng rất dở hơi, vẫn đang trong giai đoạn đề cử đã vội gọi điện cho tôi để mời: “Chờ ngài nhận được Giải thưởng Akutagawa xong, sáng hôm sau mời ngài đến tham gia chương trình truyền hình buổi sáng nhé.”

Công việc thì nhiều mà cũng không muốn lên TV (vì bản chất tôi không thích lộ mặt) nên tôi trả lời: “Không, tôi không đi.”

Nhưng họ đã không chịu nhượng bộ lại còn đổ lỗi cho tôi vì đã không lên truyền hình và giận tôi.

Những chuyện như thế này thường xảy ra mỗi khi tôi được đề cử, khó chịu vô cùng.

Tôi thường thắc mắc tại sao thế giới chỉ quan tâm đến Giải Akutagawa.

Cách đây không lâu, tôi bước vào một hiệu sách và phát hiện ở đó trưng đầy những cuốn sách với tựa đề kiểu như “Tại sao Haruki Murakami không giành được Giải Akutagawa?”

Tôi chưa đọc qua, không biết nội dung trong đó như thế nào—chắc tôi tự thấy xấu hổ khi mua chúng chăng?

Tuy nhiên, bản thân việc xuất bản loại sách này lại gây nghi ngờ: “Hình như có cảm giác hơi ngớ ngẩn.”

Không phải sao?

Kể cả khi ấy tôi có giành được Giải Akutagawa đi chăng nữa, tôi cũng không thể tưởng tượng ra được vì sự kiện đó vận mệnh thế giới sẽ thay đổi thế nào hay cuộc sống của tôi sẽ khác biệt ra sao.

Thế giới bây giờ có lẽ vẫn theo quy tắc cũ, còn tôi hơn 30 năm nay vẫn thế thôi (khả năng có chút sai số), đến giờ vẫn viết theo cùng một tiết tấu.

Bất kể tôi có đạt giải Akutagawa hay không, tiểu thuyết tôi viết e rằng vẫn sẽ được cùng một nhóm độc giả vui vẻ tiếp nhận, và vẫn sẽ khiến cùng một nhóm người lo lắng bất an. (Khiến nhiều người lo lắng bất an có vẻ không liên quan gì đến giải thưởng văn học mà do năng khiếu thiên bẩm của tôi).

Giả sử khi tôi đạt giải Akutagawa thì chiến tranh Iraq sẽ không nổ ra—nếu đúng như vậy, tôi tự nhiên sẽ cảm thấy có trách nhiệm, nhưng làm gì có chuyện ấy.

Đã thế thì mắc gì phải đặc cách làm một cuốn sách về chuyện tôi không đạt giải Akutagawa?

Thành thật mà nói, đây chính là điểm làm tôi oải.

Cái việc tôi không nhận được Giải Akutagawa chẳng qua chỉ là bão trong tách trà… mà đã bao giờ là bão đâu, đến tí teo gió lốc còn chưa tới, tóm lại không hề đáng kể.

Tôi có thể gặp rắc rối khi nói điều này: Giải Akutagawa chỉ đơn giản là một giải thưởng do Nhà xuất bản Văn học Nghệ thuật Xuân Thu (Bungei Shunjuu) bình chọn.

Văn nghệ Xuân Thu coi đó là một hoạt động thương mại—cho dù không nói ra chắc nịch như vậy, nhưng nếu bảo hoàn toàn không có hoạt động thương mại nào cả thì chính là nói láo.

Tóm lại, với tư cách là người viết tiểu thuyết lâu năm, nếu tôi được phép nói thẳng dựa trên cảm xúc thật của mình, thì trong số những tác phẩm của các nhà văn mới viết mà có thể khiến độc giả thật sự ấn tượng khó phai chắc năm năm mới có một lần.

Ngay cả khi hạ chuẩn xuống một chút thì cũng phải hai ba năm mới thấy.

Thế nên giờ cứ một năm hai lần lại phải bình chọn thì rõ ràng khó tránh khỏi cảm giác vàng thau lẫn lộn.

Tất nhiên, kể cả thế cũng không sao (giải thưởng ít hay nhiều đều là một dạng khích lệ hay một dạng nghi thức chúc mừng, nên nới lỏng các tiêu chí xét duyệt không hẳn là xấu), nhưng khách quan mà nói, tôi không thể không nghĩ: Mức tiêu chuẩn này e là chưa đủ để lần nào truyền thông báo chí cũng tung tin rầm rộ rồi biến thành sự kiện xã hội ồn ào.

Sự mất cân bằng này hẳn có chút kỳ dị.

Nhưng nói vậy chắc hẳn có người sẽ nghĩ: Không chỉ giải Akutagawa, tất cả các giải thưởng văn học trên thế giới kỳ thực “có bao nhiêu giá trị thực chất”?

Thế này thì thảo luận tiếp thế nào được nữa.

Không đúng ư?

Gọi tên một giải thưởng bất kỳ, từ giải Oscar của Viện Hàn lâm cho đến giải Nobel Văn học, ngoại trừ những giải thưởng đặc biệt có tiêu chí đánh giá được giới hạn ở giá trị số lượng, thì bằng chứng khách quan về giá trị căn bản không hề tồn tại.

Nếu muốn vạch lá tìm sâu thì khuyết điểm bao nhiêu cũng soi ra được; nếu muốn trân trọng đối đãi, nâng niu thế nào cũng chẳng quá đà.

Raymond Chandler đã viết về giải Nobel Văn học trong một bức thư: “Tôi có muốn trở thành nhà văn vĩ đại không?

Tôi có muốn thắng giải Nobel Văn học không?

Không, nếu việc đó ngốn quá nhiều công sức.

Thế quái nào họ lại trao giải Nobel cho quá nhiều nhà văn hạng hai nên tôi chả còn hào hứng gì nữa.

Chưa kể là tôi phải đến Thuỵ Điển và ăn vận chỉnh tề và diễn thuyết.

Giải Nobel Văn học có đáng bỏ ra từng ấy công sức không?

Bà nó, không!”

Nhà văn Mỹ Nelson Algren (với các kiệt tác The Man with the Golden Arm và A Walk on the Wild Side) đã được Kurt Vonnegut đặc biệt đề cử vào năm 1974 và giành được giải Thành tựu của Viện Hàn lâm Văn học Và Nghệ thuật Hoa Kỳ, nhưng vì mải say sưa chè chén với gái trong quán bar nên ông đã bỏ lỡ lễ trao giải.

Tất nhiên là ông ta cố tình.

Khi được hỏi về huân chương, ông ta trả lời: “Cái này ấy mà…

Hình như bị tôi quẳng đi rồi.”

Chi tiết này đã được ghi lại trong cuốn Tự truyện Studs Terkel.

Tất nhiên, hai cá nhân này có thể là những ngoại lệ cực đoan, bởi vì họ một mình một kiểu và kiên định với tinh thần nổi loạn suốt cuộc đời.

Tuy nhiên điều mà hai người cùng cảm nhận được, hay nói cách khác muốn bày tỏ với một thái độ rõ ràng, có lẽ là, “Với một nhà văn thực thụ, còn nhiều điều quan trọng hơn giải thưởng văn học.”

Một trong số đó là cái cảm giác mình đã tạo ra điều gì đó có ý nghĩa, và rằng độc giả—bất luận bao nhiêu người—có thể đánh giá đúng ý nghĩa ấy.

Chỉ cần có hai cảm xúc chân thật này thì đối với người viết, có hay không có giải thưởng đều vô nghĩa.

Xét cho cùng, cái của này chẳng qua chỉ là một hình thức phê chuẩn của xã hội hoặc giới văn học mà thôi.

Tuy nhiên, có một thực tế không thể chối cãi là trên đời nhiều khi người ta chỉ chú trọng đến những thứ có hình thái cụ thể.

Bản chất của một tác phẩm văn học dù gì cũng là phi vật thể, nên một khi được trao tặng giải thưởng hoặc huân chương, nó sẽ được cụ thể hoá.

Khi đó, mọi người trở nên hứng thú với “hình thái” này.

Tôi e rằng chính cái chủ nghĩa hình thức vốn không hề liên quan tí nào đến tính văn học này, cùng với “nhãn quan bề trên” của ban ngành có thẩm quyền hàm ý “Giải trao cho mấy người này, đến mà nhận mau” đã khiến Chandler và Algren lo ngại.

Bất cứ khi nào được phỏng vấn, tôi lại được hỏi về các chủ đề liên quan đến giải thưởng (dù ở trong nước hay ở nước ngoài, không hiểu sao cứ nhè tôi mà hỏi).

Tôi luôn trả lời: “Quan trọng nhất là có độc giả tốt.

Dù là giải thưởng văn học, huân chương hay bình luận tán dương nào đi nữa thì cũng không bằng độc giả bỏ tiền túi ra mua sách của tôi.”

Tôi trả lời đi trả lời lại không biết bao nhiêu lần đến mức phát ngán nhưng hầu như không ai thực sự tin lời tôi nói.

Đa số trường hợp đều bị bỏ qua không thương tiếc.

Nghĩ kỹ ra thì đây quả thực là một câu trả lời vừa thực tế vừa nhàm chán vô vị, nghe giống như một “phát ngôn chính thức” lịch sự.

Bản thân tôi cũng thường nghĩ như vậy.

Chí ít thì đó không phải là kiểu trả lời khiến những người làm truyền thông cảm thấy thích thú.

Nhưng có nhàm chán vô vị đến đâu thì với tôi vẫn là lời ngay ý thẳng, nên cũng chẳng còn cách nào khác.

Hỏi bao nhiêu lần nữa tôi cũng chỉ trả lời một câu đó thôi.

Khi một độc giả trả một nghìn hoặc vài trăm yên, thậm chí vài nghìn yên để mua một cuốn sách, anh ta không bao giờ có động cơ nào khác, (có thể) chỉ có một suy nghĩ thẳng thắn: “Tôi muốn đọc cuốn sách này!” hay nói cách khác là ôm lấy một tia hy vọng.

Những độc giả như vậy khiến tôi cảm thấy trân quý từ tận đáy lòng.

So sánh ư—thôi, e là cũng chẳng cần so sánh cụ thể.

Không cần phải nhấn mạnh lại câu nói này: Thứ tồn tại mãi mãi là tác phẩm chứ không phải giải thưởng.

Tôi e rằng số người còn nhớ những tác phẩm đoạt giải Akutagawa cách đây hai năm, hay những tác phẩm đoạt giải Nobel Văn học ba năm trước không nhiều.

Bạn nhớ không?

Nếu một tác phẩm thực sự hay, trải qua bao nhiêu sóng gió người ta vẫn mãi khắc ghi trong trí nhớ.

Còn về việc Ernest Hemingway có thắng giải Nobel Văn học hay không (ông ấy thắng rồi), Jorge Luis Borges giành được hay không giành được giải Nobel Văn học (ông này cũng giành được nốt), rốt cuộc có ai bận tâm?

Mặc dù giải thưởng văn học có thể làm rạng danh một tác phẩm, nhưng nó không thể thổi sức sống vào tác phẩm ấy.

Điều này chắc không cần phải nói rõ từng cái một đâu nhỉ.

Tôi có bị lỗ vì không giành được Giải thưởng Akutagawa không?

Tôi đã từng suy xét qua, nhưng đến một ví dụ cỏn con tôi cũng không nghĩ ra được.

Thế thì tôi đã bao giờ được hưởng lợi ích chưa?

Chà, dường như chưa từng có trường hợp nào được hưởng lợi ích vì không được giải Akutagawa cả.

Chỉ có một điều tôi hơi hơi hài lòng là danh hiệu “Nhà văn đạt giải Akutagawa” không được ghi chú bên cạnh tên tôi.

Suy cho cùng chỉ là ảo mộng—chỉ cần đặt những danh hiệu như vậy bên cạnh tên của chính mình sẽ khiến người ta có cảm giác như đang ám chỉ rằng “Lão này chỉ dùng hào quang của giải Akutagawa để có được ngày hôm nay,” ít nhiều sẽ có phần khó chịu.

Bây giờ tôi không có bất kỳ danh hiệu tử tế nào, vì vậy tôi không cần phải tiết chế, cũng không bị ràng buộc.

Tôi chỉ là Haruki Murakami (mà thôi).

Chuyện này không phải là xấu.

Ít nhất đối với tôi, nó không tệ đến vậy.

Tuy nhiên, không phải vì tôi chán ghét giải Akutagawa (như đã nói, tôi thậm chí không nghĩ về nó), mà vì tôi có chút tự hào khi được viết với “tư cách cá nhân” này cho đến tận bây giờ.

Có thể đây không phải là việc đao to búa lớn gì, nhưng đối với tôi nó vô cùng quan trọng.

Đây có thể là một phỏng đoán sơ bộ, tôi ước tính những độc giả quen đọc sách văn học không rời tay chiếm khoảng 5% dân số.

Đây là 5% độc giả cốt lõi.

Thời gian gần đây, người ta hay nói về cái gọi là “từ bỏ sách giấy,” “rời xa sách in,” tôi nghĩ điều này cũng đúng ở một mức độ nào đó.

Tuy nhiên, ngay cả khi 5% dân số này bị ép buộc “không được đọc sách” thì có lẽ họ vẫn sẽ tiếp tục đọc bằng hình thức khác thôi.

Cho dù không giống như mô tả trong tiểu thuyết 451 độ F của Ray Bradbury, mọi người đều trốn trong rừng sâu để thoát khỏi đàn áp, họ ở cùng một chỗ, đọc thuộc lòng cho người khác nghe… thì có thể những người kia vẫn bí mật trốn ở đâu đó và tiếp tục đọc sách.

Không cần phải nói, tôi cũng chính là một trong số họ.

Một khi bạn đã hình thành thói quen đọc sách—chủ yếu từ khi còn trẻ—thì rất khó để từ bỏ việc đọc một cách dễ dàng.

Cho dù bạn có sẵn YouTube hay trò chơi điện tử 3D, miễn là có thời gian rảnh (hoặc thậm chí chẳng có thời gian), bạn vẫn sẽ đọc sách.

Hơn nữa, chỉ cần trong số hai mươi người trên thế giới này có một người như vậy, tôi sẽ không quá nghi ngại về tương lai của sách và tiểu thuyết.

Về phần sách điện tử, hiện tại tôi cũng không đặc biệt lo lắng.

Sách báo cũng được, tranh ảnh cũng được (hoặc truyền miệng như 451 độ F cũng được nốt), hình thức thế nào không quan trọng, chỉ cần người thích sách đọc được sách là đủ rồi.

Điều duy nhất khiến tôi lo lắng là “Tôi có thể cung cấp tác phẩm gì cho những người này.”

Mọi thứ khác rốt cuộc chỉ là hiện tượng ngoài lề.

Bạn biết đấy, 5% tổng dân số Nhật Bản là khoảng sáu triệu người.

Có hẳn một thị trường rộng lớn như vậy, nhà văn chẳng lẽ không kiếm nổi bát cơm?

Không chỉ giới hạn ở Nhật Bản, nếu nhìn ra thế giới, số lượng độc giả tất nhiên sẽ tăng lên.

Chỉ là nếu nói đến 95% dân số còn lại, cơ hội tiếp xúc văn học trong cuộc sống hằng ngày của những người này nhìn chung không nhiều, và trong tương lai có lẽ còn ít nữa.

Hiện tượng được gọi là “rời xa sách giấy” này có khả năng ngày càng gia tăng.

Kể cả thế, có lẽ hiện tại (đây cũng chỉ là phỏng đoán sơ bộ) có ít nhất một nửa số người quan tâm đến các hiện tượng văn hóa xã hội hay giải trí trí tuệ và muốn mở sách bất cứ khi nào có dịp.

Cần phải nói rằng, đó chính là lượng khán giả tiềm năng của văn học, là “lá phiếu nổi” theo cách nói bầu cử.

Do đó, cần thiết lập những cửa sổ chuyên môn cho những người như vậy, hoặc những thứ tương tự như là phòng trưng bày.

Và (cho đến tận bây giờ) chính Giải Akutagawa đã đóng vai trò như một cửa sổ hoặc phòng trưng bày.

Nói như rượu vang thì nó giống một loại rượu Beaujolais mới, nói như âm nhạc thì giống một buổi hòa nhạc mừng năm mới ở Vienna, nói như marathon thì lại giống cuộc thi ở Hakone.

Tất nhiên là có cả giải Nobel Văn học.

Nhưng một khi chủ đề được mở rộng tới giải Nobel Văn học, mọi việc sẽ rắc rối hơn chút.

Từ khi chào đời, tôi chưa bao giờ là thành viên ban giám khảo của một giải thưởng văn học.

Không phải tôi chưa bao giờ được mời mà lần nào tôi cũng từ chối: “Thật lòng xin lỗi, tôi làm không được.”

Vì tôi cảm thấy mình không đủ tư cách để làm thành viên ban giám khảo một giải văn học.

Nếu hỏi tại sao thì lý do rất đơn giản, vì tôi là một người quá cá nhân.

Con người tôi có những quan điểm riêng, cũng như quá trình cố hữu để hình thành những quan điểm đó.

Để duy trì quá trình này, nhìn từ góc độ lối sống, có những thứ bắt buộc phải cá nhân một chút.

Nếu không như thế, rất khó viết ra mọi thứ một cách trôi chảy.

Tuy nhiên, đây chỉ là thang điểm của riêng tôi, mặc dù nó phù hợp với tôi nhưng tôi không nghĩ nó có thể áp dụng cho người khác.

Tôi tuyệt đối không muốn “ngoại trừ phương pháp của mình, những thứ khác vứt đi hết” (tất nhiên có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau trên đời này, và tôi vẫn luôn tôn trọng tất cả), nhưng cũng có những cách “không hợp với tôi” hoặc “đơn giản không hiểu nổi.”

Tóm lại, tôi chỉ có thể quan sát và đánh giá mọi thứ theo hệ quy chiếu của chính mình.

Nói một cách tích cực thì đó là chủ nghĩa cá nhân, còn nói cách khác là tự cao tự đại.

Vì vậy, khi tôi hy sinh hệ quy chiếu và thang điểm tự phê này, lấy nó làm cơ sở để đánh giá tác phẩm của người khác, thì người bị đánh giá có thể sẽ không chấp nhận được.

Nếu là một nhà văn có địa vị đã ổn định ở một mức độ nhất định thì không sao, nhưng nếu chỉ là một nhà văn mới ra mắt chưa lâu mà vận mệnh của họ lại bị thế giới quan thiên lệch của tôi kiểm soát, thì chuyện này quá đáng sợ, tôi làm không được.

Nói thế nhỡ có người tố cáo rằng thái độ này đồng nghĩa với việc từ bỏ trách nhiệm xã hội của nhà văn thì sao?

Chà, có lẽ câu này trúng tim đen rồi.

Đối với bản thân tôi, thông qua cửa thông hành “Giải tân binh của tạp chí Gunzo,” tôi đã nhận được vé vào cửa và bắt đầu sự nghiệp nhà văn của mình.

Nếu không giành được giải thưởng này, khả năng cao là tôi sẽ không thành tiểu thuyết gia.

Có khi tôi đã nghĩ “Thôi thôi bỏ đi,” từ nay về sau không bao giờ viết tiểu thuyết nữa.

Như vậy, chẳng phải là tôi cũng nên có nghĩa vụ bồi dưỡng tương tự cho thế hệ trẻ hay sao?

Ngay cả khi thế giới quan có phần thiên lệch, không phải là cũng nên cố gắng trau dồi tính khách quan tối thiểu, “Bây giờ đã đến lúc anh nên trao vé thông hành cho lớp trẻ rồi” và trao cơ hội cho họ?

Điều này cũng có lý.

Có lẽ nên đổ lỗi hết cho sự cẩu thả của tôi vì tôi chưa đủ nỗ lực.

Tuy nhiên, tôi cũng xin các bạn hãy nghĩ xem, nghĩa vụ quan trọng nhất của một nhà văn là phải liên tục viết ra những tác phẩm chất lượng hơn cho độc giả.

Tôi cũng có thể được coi là một nhà văn tích cực, hay nói cách khác là một “nhà văn đang tiến lên.”

Tôi đang làm gì lúc này?

Tôi nên làm gì trong tương lai?

Về những điều này, tôi là một người còn đang mò mẫm và không màng máu thịt xông pha trên chiến trường văn học.

Sau bao lần thừa sống thiếu chết, tôi vẫn can đảm tiến về phía trước, đây là nhiệm vụ mà tôi được giao.

Việc kiểm tra, đánh giá tác phẩm của người khác với góc nhìn khách quan và nhận trách nhiệm giới thiệu hay loại bỏ chúng không phải là công việc hiện tại của tôi.

Nếu tôi làm nó nghiêm túc—tất nhiên, vì đã nhận rồi thì chỉ có thể làm nghiêm túc thôi—chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian và sức lực, đồng nghĩa với việc tôi sẽ bị tước đi thời gian làm việc của mình.

Thành thật mà nói, tôi không có sự dư thừa đó.

Chắc ai đó có thể vẹn cả đôi đường, nhưng nội công chuyện của mình mỗi ngày thôi đã đủ để tôi rối tung lên cả rồi.

Đây không phải là kiểu tư duy ích kỷ sao?

Tất nhiên, khá ích kỷ.

Tôi không phản bác được gì, và tôi sẵn sàng chấp nhận mọi chỉ trích.

Mặt khác, tôi cũng chưa bao giờ nghe chuyện các nhà xuất bản loay hoay tìm giám khảo cho các giải thưởng văn học.

Ít ra thì tôi chưa bao giờ thấy giải văn học bị buộc phải bãi bỏ do thiếu giám khảo.

Không chỉ vậy, các giải thưởng văn học của thế giới dường như không ngừng tăng lên.

Tôi thậm chí nghĩ rằng ở Nhật Bản, dường như ngày nào cũng có giải thưởng văn học trao cho ai đó.

Vì vậy, dù tôi không trở thành giám khảo thì xem ra cũng không dẫn đến việc giảm phát “vé thông hành” và gây ra bức xúc cho xã hội.

Ngoài ra còn một vấn đề nữa.

Giả sử tôi phê bình tác phẩm của ai đó (tác phẩm được đề cử), và kết quả là người ta vặn lại: “Vậy còn tác phẩm của chính ông thì sao?

Ông có đủ tư cách để nói những lời như vậy mà không biết xấu hổ à?”

Tôi sẽ im tịt, bởi vì người ta nói có lý thật mà.

Nếu được, tôi hy vọng sẽ không gặp phải những tình huống xấu hổ như vậy.

Mặc dù vậy (tôi muốn nói rõ trước), tôi không hề có ý kiến gì về những cây bút tích cực làm giám khảo cho các giải thưởng văn học (mọi người đều bình đẳng mà).

Chắc chắn vẫn có nhiều người có thể theo đuổi mục tiêu sáng tác của họ một cách nghiêm khắc, trong khi vẫn đánh giá các tác phẩm của người mới theo lối khách quan.

Những người này có thể bật tắt qua lại công tắc trong đầu một cách khéo léo.

Hơn nữa, quả thật cần có người đảm nhận vai trò này.

Tôi cảm thấy rất kính trọng và biết ơn những người như vậy, nhưng thật không may, cá nhân tôi lại không thể làm được công việc này.

Bởi tôi nghĩ phải mất rất nhiều thời gian để nhận định các vấn đề, và tôi thường mắc sai lầm trong khi nhận định sau khi đã tiêu tốn quá nhiều thời gian.

Về giải thưởng văn học, dù là giải thưởng gì, trước giờ tôi cũng chưa từng nói quá nhiều về chúng.

Bởi vì trong hầu hết các trường hợp, việc đạt giải về cơ bản không liên quan đến nội dung, nhưng nó lại là một chủ đề rất sôi nổi trong xã hội.

Như tôi đã nói lúc đầu, tôi đọc được một bài báo ngắn về Giải Akutagawa trên một tạp chí văn học, và tôi chợt nghĩ rằng đã đến lúc bàn luận về các giải thưởng văn học như một chủ đề đương nhiên.

Nếu không làm điều này, tôi có thể bị hiểu lầm, và nếu tôi không chịu giải thích và đính chính một chút, thì những hiểu lầm này sẽ biến thành “định kiến sâu sắc” và trở thành kết luận.

Nhưng thật ra không dễ để nói về những điều này (Ầy, bạn có thấy lươn lẹo quá không?).

Bạn càng nói sự thật, lại càng giống như đang ba hoa dối trá, hoặc còn có vẻ độc đoán hung hăng nữa kia.

Nói không chừng lại bị dội ngược trở lại.

Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng đó là cách tốt nhất để khẳng định sự thật.

Trên đời này nhất định phải có người nào đó có thể hiểu hết những gì tôi muốn bày tỏ.

Ở đây, điều tôi muốn nói là “trình độ cá nhân” quan trọng hơn bất cứ điều gì đối với người viết.

Xét cho cùng, giải thưởng chỉ nên đảm nhận sứ mệnh hỗ trợ khía cạnh này một phần.

Nó không phải là kết quả đúc kết từ quá trình sáng tác trong nhiều năm của tác giả, cũng không phải là một phần thưởng, và chắc chắn càng không phải là kết luận.

Nếu một giải thưởng có thể củng cố tư cách này dưới hình thức nào đó, thì đó là một “giải thưởng tốt” cho nhà văn; nếu không phải như thế, ngược lại còn trở thành chướng ngại hay rắc rối, thì thật đáng tiếc rằng nó không phải là một “giải thưởng tốt.”

Chính vì như thế, mà Algren sẽ tiện tay vứt bỏ huân chương, và Chandler có thể từ chối đến Stockholm—tất nhiên, họ thực sự sẽ hành động thế nào trong tình huống này thì tôi không biết.

Cứ như vậy, mỗi người sẽ thấy giải thưởng có giá trị khác nhau, trong đó có lập trường cá nhân, lý do cá nhân, cũng có tư duy và cách sống của từng người nữa, không nên so sánh hay nhầm lẫn.

Đây là tất cả những gì tôi muốn nói về các giải thưởng văn học.

Không thể vơ đũa cả nắm được.

Cho nên tôi cũng chẳng muốn vơ đũa cả nắm làm gì.

Vâng, tôi ở đây lớn tiếng tranh luận, nghĩ lại thì chẳng có gì thay đổi hết.

Nguyễn Thảo Trang dịch Hà Trang hiệu đính Dịch từ bản dịch tiếng Trung “关于文学奖” trong cuốn 身為職業小說家 (Novelist As A Vocation) của Haruki Murakami
 
Haruki Murakami
giải thưởng văn học.12/10/2020 - by Nguyễn Thảo Trang


Tôi muốn nói về các giải thưởng văn học.

Đầu tiên, hãy nói về trường hợp cụ thể là Giải Akutagawa Ryunosuke (Giải Akutagawa).

Đây là một ví dụ sống động và liên quan đến các chủ đề tương đối trực tiếp nhưng vô cùng tinh tế, vì vậy có một số điều khó nói, nhưng đừng sợ hiểu lầm, có lẽ tốt hơn hết vẫn nên nói một vài câu ở đây.

Có thể có vài điểm tương đồng giữa việc bàn về Giải thưởng Akutagawa và bàn về Giải thưởng Văn học nói chung.

Mặt khác, nói về giải thưởng văn học có thể tương đương với nói về một khía cạnh của văn học trong bối cảnh hiện đại.

Chuyện xảy ra cách đây không lâu.

Trong một cột nội dung của tạp chí văn học nào đó viết về giải thưởng Akutagawa có đoạn: “Giải Akutagawa nhìn chung khá kỳ diệu.

Bởi vì có những nhà văn vẫn sẽ gây được tiếng vang ngay cả sau khi thua đợt bình bầu, vì vậy danh tiếng của họ lại càng bay vọt lên giời.

Và bởi vì có những nhà văn như Haruki Murakami, người đã lánh mặt khỏi giới văn chương sau khi thua giải, thế nên quyền lực của ông ta ngày càng rõ rệt.”

Tác giả của bài báo này là “Soma Yuu”, chắc hẳn là một bút danh.

Tôi thực sự đã lọt vào danh sách nhận Giải thưởng Akutagawa hai lần cách đây khá lâu, khoảng hơn 30 năm trước.

Cả hai lần tôi đều không giành được giải, và đúng là tôi cũng đang tương đối xa rời thế giới văn chương để làm việc của riêng mình.

Tuy nhiên, tôi giữ khoảng cách với giới văn chương không phải vì tôi chưa giành được (có lẽ nên nói là không thể giành được) giải Akutagawa, mà bởi vì tôi không biết gì về nơi đó mà cũng chẳng có hứng thú.

Ngẫu nhiên tìm kiếm mối quan hệ nhân quả giữa hai thứ (chắc là) vốn chẳng liên quan khiến tôi cảm thấy hoang mang.

Nhìn người ta viết vậy, có lẽ ai đó trên thế gian này sẽ ngây thơ tưởng thật: “Ồ, hóa ra Haruki Murakami không giành được giải Akutagawa nên đã tránh xa văn đàn mà đi lăn lộn kiếm ăn với đời rồi ư?”

Lơ là một chút là loại tin đồn kiểu này sẽ biến thành dư luận khắp nơi.

Tôi đã từng nghĩ rằng sử dụng lập luận và kết luận riêng biệt là nguyên tắc cơ bản để viết một bài báo chứ, không phải à?

À vâng, mặc dù tôi vẫn làm mọi thứ y như cũ, nhưng trước thì tôi bị bêu rằng “bị giới văn chương ghẻ lạnh”, còn bây giờ lại bị cho là “xa lánh văn đàn,” có khi ta phải ăn mừng vì chuyện ấy mới phải!

Một trong những lý do khiến tôi sống xa rời giới văn chương là ngay từ đầu tôi đã không có ý định “làm nhà văn.”

Tôi là một người bình thường sống một cuộc sống cực kỳ bình thường, một ngày nọ bỗng dưng nổi hứng viết một cuốn tiểu thuyết, và vừa hay cuốn tiểu thuyết đó ngay lập tức giành được giải thưởng dành cho người mới.

Vậy giới văn chương là gì, giải thưởng văn học là gì, tôi hầu như không có những kiến thức cơ bản đó.

Với lại lúc đó tôi vẫn còn “công việc chính,” cuộc sống hằng ngày nhìn chung đã đủ bận rộn, giải quyết việc này việc nọ đã đầu tắt mặt tối.

Cho dù có ba đầu sáu tay cũng không đủ, tôi không thể lo những chuyện không cần thiết.

Sau khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, mặc dù không còn bận rộn như trước nữa, nhưng tôi tự nghĩ mình vẫn nên sinh hoạt điều độ, ngủ sớm dậy sớm, hầu như ngày nào tôi cũng đi tập thể dục, nhờ thế mà buổi tối tôi gần như không còn ra ngoài xã giao.

Vì vậy, tôi chưa bao giờ đặt chân đến khu Golden Gai ở Shinjuku.

Tôi hoàn toàn không chán ghét giới văn học và khu Golden Gai, chỉ là vô tình trong đời sống thực tôi không có nhu cầu cũng như thời gian rảnh rỗi để kết giao với những giới này hay qua lại chơi bời với họ, vậy thôi.

Tôi không rõ Giải Akutagawa có “ma lực” hay không, cũng chẳng biết nó có “quyền uy” gì.

Hơn nữa tôi chưa bao giờ để tâm tới những điều đó.

Ai đã giành được giải thưởng này?

Ai chưa?

Tôi không biết.

Trước đây tôi không quan tâm, mà bây giờ càng không.

Ngay cả như người phụ trách chuyên mục nói rằng Giải Akutagawa là một điều kỳ diệu, thì ít nhất cái kỳ diệu đó tôi không được hưởng.

Chắc cái giải thưởng ấy đi nửa đường thì lạc, nên cuối cùng không lết được đến chỗ tôi.

Tôi có hai tác phẩm được đề cử Giải Akutagawalà Lắng nghe gió hát và Pinball, 1973.

Nhưng thành thật mà nói (nếu được thì tôi mong bạn sẽ tin tôi từ đầu đến cuối), vào thời điểm đó, tôi cảm thấy rằng việc đạt giải hay không cũng không thành vấn đề.

Khi Lắng nghe gió hát giành được giải thưởng dành cho người mới của tạp chí văn học Gunzo, tôi thực sự cảm thấy hạnh phúc từ tận đáy lòng.

Tôi có thể hướng ra thế giới và khẳng định rằng đó là một sự kiện đánh dấu kỷ nguyên mới trong đời tôi, bởi giải thưởng này là tấm vé thông hành để tôi trở thành một nhà văn.

Tình hình sẽ rất khác nếu không có tấm vé; vì cánh cửa trước mặt đột nhiên mở ra, tôi nghĩ chỉ cần có một tấm vé như vậy thì mọi chuyện sẽ suôn sẻ.

Còn về phần giải Akutagawa thế nào, tôi hoàn toàn không có thời gian để mà suy nghĩ.

Còn một điểm nữa là tôi chưa hài lòng với hai tác phẩm đầu tiên.

Khi viết những tác phẩm này, tôi cảm thấy rằng sức viết nguyên bản của tôi chỉ phát huy được 20-30%.

Dù gì thì đây cũng là lần viết văn đầu đời nên tôi chưa hiểu rõ kỹ thuật cơ bản để viết tiểu thuyết sao cho hay.

Giờ nghĩ lại, “chỉ phát huy được 20-30% sức viết” ở một mức độ nào đó chưa chắc đã không phải điểm sáng.

Tuy nhiên, từ góc độ của một tác giả, chất lượng tác phẩm vẫn có không ít chỗ khiến tôi chưa hài lòng.

Cho nên, vé vào cửa thì không sao, nhưng với trình độ như vậy mà đạt được giải Akutagawa sau giải thưởng tân binh của tạp chí Gunzo thì e sẽ là gánh nặng quá mức.

Ở giai đoạn này mà tôi được đánh giá cao như vậy lẽ nào không phải là vượt quá tầm với sao?

Nói nôm na dễ hiểu thì là: “Hả, đến cái thể loại này mà cũng được giải à?”

Nếu dành nhiều thời gian hơn, bạn chắc chắn sẽ viết được những thứ hay hơn—tôi đã ấp ủ suy tư như vậy trong lòng.

Là một người cách đây không lâu chưa từng nghĩ đến việc viết tiểu thuyết, ý tưởng này có thể khá ngạo mạn.

Ngay đến bản thân tôi cũng cảm thấy thế.

Nhưng nếu tôi được thẳng thắn nêu lên ý kiến cá nhân thì: kẻ đến cả chút kiêu ngạo này cũng không có thì đừng nghĩ đến việc trở thành một tiểu thuyết gia làm gì.

Lắng nghe gió hát và Pinball, 1973 đều được giới truyền thông lăng-xê là “những ứng cử viên nặng ký nhất” cho Giải Akutagawa.

Mọi người xung quanh dường như đều mong đợi tôi đạt giải.

Tuy nhiên, vì những lý do nói trên, bỏ lỡ Giải Akutagawa trái lại còn khiến tôi thở phào nhẹ nhõm và đồng thời hiểu được cảm xúc của những vị giám khảo đã chấm rớt tôi: “Chà, chắc là như vậy.”

Ít ra thì tôi không hề oán hận, và cũng chưa bao giờ nghĩ đến việc so bì với những tác phẩm được đề cử khác.

Vào thời điểm đó, tôi kinh doanh một quán bar nhạc jazz nhỏ ở Tokyo, hầu như ngày nào cũng phải đến quán.

Giả như tôi đạt giải và thu hút sự chú ý của mọi người, thì sợ rằng xung quanh sẽ một phen náo động và rước thêm phiền hà.

Đây cũng là một dạng tâm bệnh.

Xét cho cùng, tôi đang làm trong ngành dịch vụ; dẫu vốn không muốn gặp nhưng là khách hàng thì ta không thể không tiếp.

Nói vậy thôi chứ vẫn có vài bận thực sự chịu không nổi nên tôi đều lấy cớ lảng đi.

Tôi nhớ rằng sau hai lần được đề cử và trượt cả hai, các biên tập viên xung quanh đều nói với tôi rằng: “Lần này xem như anh Murakami đã công đức viên mãn rồi, chắc từ giờ sẽ không bị đề cử nữa đâu.”

Tôi trộm nghĩ trong lòng: “Công đức viên mãn?

Từ này nghe hơi kỳ quặc nhỉ.”

Giải Akutagawa về cơ bản là giải thưởng dành cho người mới, sau một khoảng thời gian nhất định ứng viên sẽ bị loại khỏi danh sách đề cử.

Theo một chuyên mục trên tạp chí văn học, có nhà văn đã được đề cử đến sáu lần, mà tôi mới hai lần đã thành “công đức viên mãn” rồi.

Vì sao lại thế?

Tôi không biết rõ hết ngọn nguồn, nhưng tóm lại là vào thời điểm đó, giới văn học nghệ thuật dường như đã đồng thuận rằng, “Với Murakami thế là đủ rồi,” chắc hẳn theo quy ước xưa nay.

Tuy nhiên, dù là “công đức viên mãn,” tôi cũng không cảm thấy đặc biệt thất vọng, ngược lại còn thấy thoải mái hơn, cảm giác an tâm hơn hẳn: tôi không còn phải nghĩ về Giải Akutagawa nữa.

Giành được hay không giành được giải không quan trọng, bản thân tôi thực sự không quan tâm; nhưng tôi nhớ rằng mỗi lần mình nhận được đề cử, khi cuộc bình bầu đến gần, những người xung quanh sẽ đứng ngồi không yên một cách khó hiểu và không khí có hơi buồn bực.

Có một cảm giác mong đợi kỳ lạ xen lẫn chút lo lắng.

Vừa được đề cử, lại bị giới truyền thông lôi xa mổ xẻ, phản hồi quá lớn khó tránh dẫn đến phản cảm, thế là phiền lại thêm phiền.

Chỉ mới hai lần mà tôi đã đủ chán nản, nếu tình trạng này cứ lặp đi lặp lại năm này qua năm khác… tưởng tượng thôi tôi đã thấy nặng nề.

Khổ nhất là khi mọi người an ủi.

Cứ trượt giải là bao nhiêu người đến gặp tôi và nói: “Lần này tiếc quá nhỉ.

Nhưng chắc chắn lần sau anh sẽ thắng đấy.

Tác phẩm tiếp theo anh hãy viết hay vào nhé!”

Trong thâm tâm tôi hiểu người nói (ít nhất trong hầu hết các dịp) đều có ý tốt, nhưng mỗi lần ai đó nói vậy, tôi vừa bối rối vừa không biết đáp lại thế nào, chỉ biết lúng búng “À à, ờ ờ…” rồi tắc tị.

Dù tôi có nói “Không đoạt giải cũng không sao” thì e rằng không ai chịu tin mà còn gây ngượng ngùng.

Đài NHK (ĐHT Quốc Gia Nhật Bản) cũng rất dở hơi, vẫn đang trong giai đoạn đề cử đã vội gọi điện cho tôi để mời: “Chờ ngài nhận được Giải thưởng Akutagawa xong, sáng hôm sau mời ngài đến tham gia chương trình truyền hình buổi sáng nhé.”

Công việc thì nhiều mà cũng không muốn lên TV (vì bản chất tôi không thích lộ mặt) nên tôi trả lời: “Không, tôi không đi.”

Nhưng họ đã không chịu nhượng bộ lại còn đổ lỗi cho tôi vì đã không lên truyền hình và giận tôi.

Những chuyện như thế này thường xảy ra mỗi khi tôi được đề cử, khó chịu vô cùng.

Tôi thường thắc mắc tại sao thế giới chỉ quan tâm đến Giải Akutagawa.

Cách đây không lâu, tôi bước vào một hiệu sách và phát hiện ở đó trưng đầy những cuốn sách với tựa đề kiểu như “Tại sao Haruki Murakami không giành được Giải Akutagawa?”

Tôi chưa đọc qua, không biết nội dung trong đó như thế nào—chắc tôi tự thấy xấu hổ khi mua chúng chăng?

Tuy nhiên, bản thân việc xuất bản loại sách này lại gây nghi ngờ: “Hình như có cảm giác hơi ngớ ngẩn.”

Không phải sao?

Kể cả khi ấy tôi có giành được Giải Akutagawa đi chăng nữa, tôi cũng không thể tưởng tượng ra được vì sự kiện đó vận mệnh thế giới sẽ thay đổi thế nào hay cuộc sống của tôi sẽ khác biệt ra sao.

Thế giới bây giờ có lẽ vẫn theo quy tắc cũ, còn tôi hơn 30 năm nay vẫn thế thôi (khả năng có chút sai số), đến giờ vẫn viết theo cùng một tiết tấu.

Bất kể tôi có đạt giải Akutagawa hay không, tiểu thuyết tôi viết e rằng vẫn sẽ được cùng một nhóm độc giả vui vẻ tiếp nhận, và vẫn sẽ khiến cùng một nhóm người lo lắng bất an. (Khiến nhiều người lo lắng bất an có vẻ không liên quan gì đến giải thưởng văn học mà do năng khiếu thiên bẩm của tôi).

Giả sử khi tôi đạt giải Akutagawa thì chiến tranh Iraq sẽ không nổ ra—nếu đúng như vậy, tôi tự nhiên sẽ cảm thấy có trách nhiệm, nhưng làm gì có chuyện ấy.

Đã thế thì mắc gì phải đặc cách làm một cuốn sách về chuyện tôi không đạt giải Akutagawa?

Thành thật mà nói, đây chính là điểm làm tôi oải.

Cái việc tôi không nhận được Giải Akutagawa chẳng qua chỉ là bão trong tách trà… mà đã bao giờ là bão đâu, đến tí teo gió lốc còn chưa tới, tóm lại không hề đáng kể.

Tôi có thể gặp rắc rối khi nói điều này: Giải Akutagawa chỉ đơn giản là một giải thưởng do Nhà xuất bản Văn học Nghệ thuật Xuân Thu (Bungei Shunjuu) bình chọn.

Văn nghệ Xuân Thu coi đó là một hoạt động thương mại—cho dù không nói ra chắc nịch như vậy, nhưng nếu bảo hoàn toàn không có hoạt động thương mại nào cả thì chính là nói láo.

Tóm lại, với tư cách là người viết tiểu thuyết lâu năm, nếu tôi được phép nói thẳng dựa trên cảm xúc thật của mình, thì trong số những tác phẩm của các nhà văn mới viết mà có thể khiến độc giả thật sự ấn tượng khó phai chắc năm năm mới có một lần.

Ngay cả khi hạ chuẩn xuống một chút thì cũng phải hai ba năm mới thấy.

Thế nên giờ cứ một năm hai lần lại phải bình chọn thì rõ ràng khó tránh khỏi cảm giác vàng thau lẫn lộn.

Tất nhiên, kể cả thế cũng không sao (giải thưởng ít hay nhiều đều là một dạng khích lệ hay một dạng nghi thức chúc mừng, nên nới lỏng các tiêu chí xét duyệt không hẳn là xấu), nhưng khách quan mà nói, tôi không thể không nghĩ: Mức tiêu chuẩn này e là chưa đủ để lần nào truyền thông báo chí cũng tung tin rầm rộ rồi biến thành sự kiện xã hội ồn ào.

Sự mất cân bằng này hẳn có chút kỳ dị.

Nhưng nói vậy chắc hẳn có người sẽ nghĩ: Không chỉ giải Akutagawa, tất cả các giải thưởng văn học trên thế giới kỳ thực “có bao nhiêu giá trị thực chất”?

Thế này thì thảo luận tiếp thế nào được nữa.

Không đúng ư?

Gọi tên một giải thưởng bất kỳ, từ giải Oscar của Viện Hàn lâm cho đến giải Nobel Văn học, ngoại trừ những giải thưởng đặc biệt có tiêu chí đánh giá được giới hạn ở giá trị số lượng, thì bằng chứng khách quan về giá trị căn bản không hề tồn tại.

Nếu muốn vạch lá tìm sâu thì khuyết điểm bao nhiêu cũng soi ra được; nếu muốn trân trọng đối đãi, nâng niu thế nào cũng chẳng quá đà.

Raymond Chandler đã viết về giải Nobel Văn học trong một bức thư: “Tôi có muốn trở thành nhà văn vĩ đại không?

Tôi có muốn thắng giải Nobel Văn học không?

Không, nếu việc đó ngốn quá nhiều công sức.

Thế quái nào họ lại trao giải Nobel cho quá nhiều nhà văn hạng hai nên tôi chả còn hào hứng gì nữa.

Chưa kể là tôi phải đến Thuỵ Điển và ăn vận chỉnh tề và diễn thuyết.

Giải Nobel Văn học có đáng bỏ ra từng ấy công sức không?

Bà nó, không!”

Nhà văn Mỹ Nelson Algren (với các kiệt tác The Man with the Golden Arm và A Walk on the Wild Side) đã được Kurt Vonnegut đặc biệt đề cử vào năm 1974 và giành được giải Thành tựu của Viện Hàn lâm Văn học Và Nghệ thuật Hoa Kỳ, nhưng vì mải say sưa chè chén với gái trong quán bar nên ông đã bỏ lỡ lễ trao giải.

Tất nhiên là ông ta cố tình.

Khi được hỏi về huân chương, ông ta trả lời: “Cái này ấy mà…

Hình như bị tôi quẳng đi rồi.”

Chi tiết này đã được ghi lại trong cuốn Tự truyện Studs Terkel.

Tất nhiên, hai cá nhân này có thể là những ngoại lệ cực đoan, bởi vì họ một mình một kiểu và kiên định với tinh thần nổi loạn suốt cuộc đời.

Tuy nhiên điều mà hai người cùng cảm nhận được, hay nói cách khác muốn bày tỏ với một thái độ rõ ràng, có lẽ là, “Với một nhà văn thực thụ, còn nhiều điều quan trọng hơn giải thưởng văn học.”

Một trong số đó là cái cảm giác mình đã tạo ra điều gì đó có ý nghĩa, và rằng độc giả—bất luận bao nhiêu người—có thể đánh giá đúng ý nghĩa ấy.

Chỉ cần có hai cảm xúc chân thật này thì đối với người viết, có hay không có giải thưởng đều vô nghĩa.

Xét cho cùng, cái của này chẳng qua chỉ là một hình thức phê chuẩn của xã hội hoặc giới văn học mà thôi.

Tuy nhiên, có một thực tế không thể chối cãi là trên đời nhiều khi người ta chỉ chú trọng đến những thứ có hình thái cụ thể.

Bản chất của một tác phẩm văn học dù gì cũng là phi vật thể, nên một khi được trao tặng giải thưởng hoặc huân chương, nó sẽ được cụ thể hoá.

Khi đó, mọi người trở nên hứng thú với “hình thái” này.

Tôi e rằng chính cái chủ nghĩa hình thức vốn không hề liên quan tí nào đến tính văn học này, cùng với “nhãn quan bề trên” của ban ngành có thẩm quyền hàm ý “Giải trao cho mấy người này, đến mà nhận mau” đã khiến Chandler và Algren lo ngại.

Bất cứ khi nào được phỏng vấn, tôi lại được hỏi về các chủ đề liên quan đến giải thưởng (dù ở trong nước hay ở nước ngoài, không hiểu sao cứ nhè tôi mà hỏi).

Tôi luôn trả lời: “Quan trọng nhất là có độc giả tốt.

Dù là giải thưởng văn học, huân chương hay bình luận tán dương nào đi nữa thì cũng không bằng độc giả bỏ tiền túi ra mua sách của tôi.”

Tôi trả lời đi trả lời lại không biết bao nhiêu lần đến mức phát ngán nhưng hầu như không ai thực sự tin lời tôi nói.

Đa số trường hợp đều bị bỏ qua không thương tiếc.

Nghĩ kỹ ra thì đây quả thực là một câu trả lời vừa thực tế vừa nhàm chán vô vị, nghe giống như một “phát ngôn chính thức” lịch sự.

Bản thân tôi cũng thường nghĩ như vậy.

Chí ít thì đó không phải là kiểu trả lời khiến những người làm truyền thông cảm thấy thích thú.

Nhưng có nhàm chán vô vị đến đâu thì với tôi vẫn là lời ngay ý thẳng, nên cũng chẳng còn cách nào khác.

Hỏi bao nhiêu lần nữa tôi cũng chỉ trả lời một câu đó thôi.

Khi một độc giả trả một nghìn hoặc vài trăm yên, thậm chí vài nghìn yên để mua một cuốn sách, anh ta không bao giờ có động cơ nào khác, (có thể) chỉ có một suy nghĩ thẳng thắn: “Tôi muốn đọc cuốn sách này!” hay nói cách khác là ôm lấy một tia hy vọng.

Những độc giả như vậy khiến tôi cảm thấy trân quý từ tận đáy lòng.

So sánh ư—thôi, e là cũng chẳng cần so sánh cụ thể.

Không cần phải nhấn mạnh lại câu nói này: Thứ tồn tại mãi mãi là tác phẩm chứ không phải giải thưởng.

Tôi e rằng số người còn nhớ những tác phẩm đoạt giải Akutagawa cách đây hai năm, hay những tác phẩm đoạt giải Nobel Văn học ba năm trước không nhiều.

Bạn nhớ không?

Nếu một tác phẩm thực sự hay, trải qua bao nhiêu sóng gió người ta vẫn mãi khắc ghi trong trí nhớ.

Còn về việc Ernest Hemingway có thắng giải Nobel Văn học hay không (ông ấy thắng rồi), Jorge Luis Borges giành được hay không giành được giải Nobel Văn học (ông này cũng giành được nốt), rốt cuộc có ai bận tâm?

Mặc dù giải thưởng văn học có thể làm rạng danh một tác phẩm, nhưng nó không thể thổi sức sống vào tác phẩm ấy.

Điều này chắc không cần phải nói rõ từng cái một đâu nhỉ.

Tôi có bị lỗ vì không giành được Giải thưởng Akutagawa không?

Tôi đã từng suy xét qua, nhưng đến một ví dụ cỏn con tôi cũng không nghĩ ra được.

Thế thì tôi đã bao giờ được hưởng lợi ích chưa?

Chà, dường như chưa từng có trường hợp nào được hưởng lợi ích vì không được giải Akutagawa cả.

Chỉ có một điều tôi hơi hơi hài lòng là danh hiệu “Nhà văn đạt giải Akutagawa” không được ghi chú bên cạnh tên tôi.

Suy cho cùng chỉ là ảo mộng—chỉ cần đặt những danh hiệu như vậy bên cạnh tên của chính mình sẽ khiến người ta có cảm giác như đang ám chỉ rằng “Lão này chỉ dùng hào quang của giải Akutagawa để có được ngày hôm nay,” ít nhiều sẽ có phần khó chịu.

Bây giờ tôi không có bất kỳ danh hiệu tử tế nào, vì vậy tôi không cần phải tiết chế, cũng không bị ràng buộc.

Tôi chỉ là Haruki Murakami (mà thôi).

Chuyện này không phải là xấu.

Ít nhất đối với tôi, nó không tệ đến vậy.

Tuy nhiên, không phải vì tôi chán ghét giải Akutagawa (như đã nói, tôi thậm chí không nghĩ về nó), mà vì tôi có chút tự hào khi được viết với “tư cách cá nhân” này cho đến tận bây giờ.

Có thể đây không phải là việc đao to búa lớn gì, nhưng đối với tôi nó vô cùng quan trọng.

Đây có thể là một phỏng đoán sơ bộ, tôi ước tính những độc giả quen đọc sách văn học không rời tay chiếm khoảng 5% dân số.

Đây là 5% độc giả cốt lõi.

Thời gian gần đây, người ta hay nói về cái gọi là “từ bỏ sách giấy,” “rời xa sách in,” tôi nghĩ điều này cũng đúng ở một mức độ nào đó.

Tuy nhiên, ngay cả khi 5% dân số này bị ép buộc “không được đọc sách” thì có lẽ họ vẫn sẽ tiếp tục đọc bằng hình thức khác thôi.

Cho dù không giống như mô tả trong tiểu thuyết 451 độ F của Ray Bradbury, mọi người đều trốn trong rừng sâu để thoát khỏi đàn áp, họ ở cùng một chỗ, đọc thuộc lòng cho người khác nghe… thì có thể những người kia vẫn bí mật trốn ở đâu đó và tiếp tục đọc sách.

Không cần phải nói, tôi cũng chính là một trong số họ.

Một khi bạn đã hình thành thói quen đọc sách—chủ yếu từ khi còn trẻ—thì rất khó để từ bỏ việc đọc một cách dễ dàng.

Cho dù bạn có sẵn YouTube hay trò chơi điện tử 3D, miễn là có thời gian rảnh (hoặc thậm chí chẳng có thời gian), bạn vẫn sẽ đọc sách.

Hơn nữa, chỉ cần trong số hai mươi người trên thế giới này có một người như vậy, tôi sẽ không quá nghi ngại về tương lai của sách và tiểu thuyết.

Về phần sách điện tử, hiện tại tôi cũng không đặc biệt lo lắng.

Sách báo cũng được, tranh ảnh cũng được (hoặc truyền miệng như 451 độ F cũng được nốt), hình thức thế nào không quan trọng, chỉ cần người thích sách đọc được sách là đủ rồi.

Điều duy nhất khiến tôi lo lắng là “Tôi có thể cung cấp tác phẩm gì cho những người này.”

Mọi thứ khác rốt cuộc chỉ là hiện tượng ngoài lề.

Bạn biết đấy, 5% tổng dân số Nhật Bản là khoảng sáu triệu người.

Có hẳn một thị trường rộng lớn như vậy, nhà văn chẳng lẽ không kiếm nổi bát cơm?

Không chỉ giới hạn ở Nhật Bản, nếu nhìn ra thế giới, số lượng độc giả tất nhiên sẽ tăng lên.

Chỉ là nếu nói đến 95% dân số còn lại, cơ hội tiếp xúc văn học trong cuộc sống hằng ngày của những người này nhìn chung không nhiều, và trong tương lai có lẽ còn ít nữa.

Hiện tượng được gọi là “rời xa sách giấy” này có khả năng ngày càng gia tăng.

Kể cả thế, có lẽ hiện tại (đây cũng chỉ là phỏng đoán sơ bộ) có ít nhất một nửa số người quan tâm đến các hiện tượng văn hóa xã hội hay giải trí trí tuệ và muốn mở sách bất cứ khi nào có dịp.

Cần phải nói rằng, đó chính là lượng khán giả tiềm năng của văn học, là “lá phiếu nổi” theo cách nói bầu cử.

Do đó, cần thiết lập những cửa sổ chuyên môn cho những người như vậy, hoặc những thứ tương tự như là phòng trưng bày.

Và (cho đến tận bây giờ) chính Giải Akutagawa đã đóng vai trò như một cửa sổ hoặc phòng trưng bày.

Nói như rượu vang thì nó giống một loại rượu Beaujolais mới, nói như âm nhạc thì giống một buổi hòa nhạc mừng năm mới ở Vienna, nói như marathon thì lại giống cuộc thi ở Hakone.

Tất nhiên là có cả giải Nobel Văn học.

Nhưng một khi chủ đề được mở rộng tới giải Nobel Văn học, mọi việc sẽ rắc rối hơn chút.

Từ khi chào đời, tôi chưa bao giờ là thành viên ban giám khảo của một giải thưởng văn học.

Không phải tôi chưa bao giờ được mời mà lần nào tôi cũng từ chối: “Thật lòng xin lỗi, tôi làm không được.”

Vì tôi cảm thấy mình không đủ tư cách để làm thành viên ban giám khảo một giải văn học.

Nếu hỏi tại sao thì lý do rất đơn giản, vì tôi là một người quá cá nhân.

Con người tôi có những quan điểm riêng, cũng như quá trình cố hữu để hình thành những quan điểm đó.

Để duy trì quá trình này, nhìn từ góc độ lối sống, có những thứ bắt buộc phải cá nhân một chút.

Nếu không như thế, rất khó viết ra mọi thứ một cách trôi chảy.

Tuy nhiên, đây chỉ là thang điểm của riêng tôi, mặc dù nó phù hợp với tôi nhưng tôi không nghĩ nó có thể áp dụng cho người khác.

Tôi tuyệt đối không muốn “ngoại trừ phương pháp của mình, những thứ khác vứt đi hết” (tất nhiên có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau trên đời này, và tôi vẫn luôn tôn trọng tất cả), nhưng cũng có những cách “không hợp với tôi” hoặc “đơn giản không hiểu nổi.”

Tóm lại, tôi chỉ có thể quan sát và đánh giá mọi thứ theo hệ quy chiếu của chính mình.

Nói một cách tích cực thì đó là chủ nghĩa cá nhân, còn nói cách khác là tự cao tự đại.

Vì vậy, khi tôi hy sinh hệ quy chiếu và thang điểm tự phê này, lấy nó làm cơ sở để đánh giá tác phẩm của người khác, thì người bị đánh giá có thể sẽ không chấp nhận được.

Nếu là một nhà văn có địa vị đã ổn định ở một mức độ nhất định thì không sao, nhưng nếu chỉ là một nhà văn mới ra mắt chưa lâu mà vận mệnh của họ lại bị thế giới quan thiên lệch của tôi kiểm soát, thì chuyện này quá đáng sợ, tôi làm không được.

Nói thế nhỡ có người tố cáo rằng thái độ này đồng nghĩa với việc từ bỏ trách nhiệm xã hội của nhà văn thì sao?

Chà, có lẽ câu này trúng tim đen rồi.

Đối với bản thân tôi, thông qua cửa thông hành “Giải tân binh của tạp chí Gunzo,” tôi đã nhận được vé vào cửa và bắt đầu sự nghiệp nhà văn của mình.

Nếu không giành được giải thưởng này, khả năng cao là tôi sẽ không thành tiểu thuyết gia.

Có khi tôi đã nghĩ “Thôi thôi bỏ đi,” từ nay về sau không bao giờ viết tiểu thuyết nữa.

Như vậy, chẳng phải là tôi cũng nên có nghĩa vụ bồi dưỡng tương tự cho thế hệ trẻ hay sao?

Ngay cả khi thế giới quan có phần thiên lệch, không phải là cũng nên cố gắng trau dồi tính khách quan tối thiểu, “Bây giờ đã đến lúc anh nên trao vé thông hành cho lớp trẻ rồi” và trao cơ hội cho họ?

Điều này cũng có lý.

Có lẽ nên đổ lỗi hết cho sự cẩu thả của tôi vì tôi chưa đủ nỗ lực.

Tuy nhiên, tôi cũng xin các bạn hãy nghĩ xem, nghĩa vụ quan trọng nhất của một nhà văn là phải liên tục viết ra những tác phẩm chất lượng hơn cho độc giả.

Tôi cũng có thể được coi là một nhà văn tích cực, hay nói cách khác là một “nhà văn đang tiến lên.”

Tôi đang làm gì lúc này?

Tôi nên làm gì trong tương lai?

Về những điều này, tôi là một người còn đang mò mẫm và không màng máu thịt xông pha trên chiến trường văn học.

Sau bao lần thừa sống thiếu chết, tôi vẫn can đảm tiến về phía trước, đây là nhiệm vụ mà tôi được giao.

Việc kiểm tra, đánh giá tác phẩm của người khác với góc nhìn khách quan và nhận trách nhiệm giới thiệu hay loại bỏ chúng không phải là công việc hiện tại của tôi.

Nếu tôi làm nó nghiêm túc—tất nhiên, vì đã nhận rồi thì chỉ có thể làm nghiêm túc thôi—chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian và sức lực, đồng nghĩa với việc tôi sẽ bị tước đi thời gian làm việc của mình.

Thành thật mà nói, tôi không có sự dư thừa đó.

Chắc ai đó có thể vẹn cả đôi đường, nhưng nội công chuyện của mình mỗi ngày thôi đã đủ để tôi rối tung lên cả rồi.

Đây không phải là kiểu tư duy ích kỷ sao?

Tất nhiên, khá ích kỷ.

Tôi không phản bác được gì, và tôi sẵn sàng chấp nhận mọi chỉ trích.

Mặt khác, tôi cũng chưa bao giờ nghe chuyện các nhà xuất bản loay hoay tìm giám khảo cho các giải thưởng văn học.

Ít ra thì tôi chưa bao giờ thấy giải văn học bị buộc phải bãi bỏ do thiếu giám khảo.

Không chỉ vậy, các giải thưởng văn học của thế giới dường như không ngừng tăng lên.

Tôi thậm chí nghĩ rằng ở Nhật Bản, dường như ngày nào cũng có giải thưởng văn học trao cho ai đó.

Vì vậy, dù tôi không trở thành giám khảo thì xem ra cũng không dẫn đến việc giảm phát “vé thông hành” và gây ra bức xúc cho xã hội.

Ngoài ra còn một vấn đề nữa.

Giả sử tôi phê bình tác phẩm của ai đó (tác phẩm được đề cử), và kết quả là người ta vặn lại: “Vậy còn tác phẩm của chính ông thì sao?

Ông có đủ tư cách để nói những lời như vậy mà không biết xấu hổ à?”

Tôi sẽ im tịt, bởi vì người ta nói có lý thật mà.

Nếu được, tôi hy vọng sẽ không gặp phải những tình huống xấu hổ như vậy.

Mặc dù vậy (tôi muốn nói rõ trước), tôi không hề có ý kiến gì về những cây bút tích cực làm giám khảo cho các giải thưởng văn học (mọi người đều bình đẳng mà).

Chắc chắn vẫn có nhiều người có thể theo đuổi mục tiêu sáng tác của họ một cách nghiêm khắc, trong khi vẫn đánh giá các tác phẩm của người mới theo lối khách quan.

Những người này có thể bật tắt qua lại công tắc trong đầu một cách khéo léo.

Hơn nữa, quả thật cần có người đảm nhận vai trò này.

Tôi cảm thấy rất kính trọng và biết ơn những người như vậy, nhưng thật không may, cá nhân tôi lại không thể làm được công việc này.

Bởi tôi nghĩ phải mất rất nhiều thời gian để nhận định các vấn đề, và tôi thường mắc sai lầm trong khi nhận định sau khi đã tiêu tốn quá nhiều thời gian.

Về giải thưởng văn học, dù là giải thưởng gì, trước giờ tôi cũng chưa từng nói quá nhiều về chúng.

Bởi vì trong hầu hết các trường hợp, việc đạt giải về cơ bản không liên quan đến nội dung, nhưng nó lại là một chủ đề rất sôi nổi trong xã hội.

Như tôi đã nói lúc đầu, tôi đọc được một bài báo ngắn về Giải Akutagawa trên một tạp chí văn học, và tôi chợt nghĩ rằng đã đến lúc bàn luận về các giải thưởng văn học như một chủ đề đương nhiên.

Nếu không làm điều này, tôi có thể bị hiểu lầm, và nếu tôi không chịu giải thích và đính chính một chút, thì những hiểu lầm này sẽ biến thành “định kiến sâu sắc” và trở thành kết luận.

Nhưng thật ra không dễ để nói về những điều này (Ầy, bạn có thấy lươn lẹo quá không?).

Bạn càng nói sự thật, lại càng giống như đang ba hoa dối trá, hoặc còn có vẻ độc đoán hung hăng nữa kia.

Nói không chừng lại bị dội ngược trở lại.

Tuy nhiên, tôi vẫn cho rằng đó là cách tốt nhất để khẳng định sự thật.

Trên đời này nhất định phải có người nào đó có thể hiểu hết những gì tôi muốn bày tỏ.

Ở đây, điều tôi muốn nói là “trình độ cá nhân” quan trọng hơn bất cứ điều gì đối với người viết.

Xét cho cùng, giải thưởng chỉ nên đảm nhận sứ mệnh hỗ trợ khía cạnh này một phần.

Nó không phải là kết quả đúc kết từ quá trình sáng tác trong nhiều năm của tác giả, cũng không phải là một phần thưởng, và chắc chắn càng không phải là kết luận.

Nếu một giải thưởng có thể củng cố tư cách này dưới hình thức nào đó, thì đó là một “giải thưởng tốt” cho nhà văn; nếu không phải như thế, ngược lại còn trở thành chướng ngại hay rắc rối, thì thật đáng tiếc rằng nó không phải là một “giải thưởng tốt.”

Chính vì như thế, mà Algren sẽ tiện tay vứt bỏ huân chương, và Chandler có thể từ chối đến Stockholm—tất nhiên, họ thực sự sẽ hành động thế nào trong tình huống này thì tôi không biết.

Cứ như vậy, mỗi người sẽ thấy giải thưởng có giá trị khác nhau, trong đó có lập trường cá nhân, lý do cá nhân, cũng có tư duy và cách sống của từng người nữa, không nên so sánh hay nhầm lẫn.

Đây là tất cả những gì tôi muốn nói về các giải thưởng văn học.

Không thể vơ đũa cả nắm được.

Cho nên tôi cũng chẳng muốn vơ đũa cả nắm làm gì.

Vâng, tôi ở đây lớn tiếng tranh luận, nghĩ lại thì chẳng có gì thay đổi hết.

Nguyễn Thảo Trang dịch Hà Trang hiệu đính Dịch từ bản dịch tiếng Trung “关于文学奖” trong cuốn 身為職業小說家 (Novelist As A Vocation) của Haruki Murakami
 
Haruki Murakami
MURAKAMI HARUKI: "MỤC ĐÍCH CHÍNH CỦA TÔI KHI VIẾT TIỂU THUYẾT VÀ TRUYỆN NGẮN LÀ


Ngay sau khi gặp Haruki Murakami ở London vào tháng 9 năm nay, tôi đã lang thang từ Piccadilly đến Hiệu sách Waterstone, một hiệu sách bị cuốn theo ảnh hưởng của nhà văn vĩ đại này.

Từ lâu tôi đã mong đợi Murakami sẽ trở thành một nhân vật đáng kinh ngạc ở Nhật Bản.

Năm ngoái, cuốn sách mới thứ 13 của Murakami "Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương" đã được người hâm mộ địa phương đặt sạch một triệu bản từ hai tuần trước khi được xuất bản chính thức.

Ngay tại Luân Đôn, độc giả cũng hưởng ứng nhiệt liệt nhà văn vĩ đại này.

Độc giả đầu tiên bên ngoài nhà sách Waterstone đã xếp hàng từ đêm qua, và hơn 600 người khác đã tham gia vào buổi sáng.

Nhân viên của Waterstone bàng hoàng cho biết, họ nghĩ rằng ngoài J.K Rowling (Harry Potter), chỉ có hai vợ chồng cựu tổng thống Clintons hoặc David Beckham mới có thể thu hút được một lượng lớn người hâm mộ như vậy.

Không có gì lạ khi giới cá cược Anh Quốc từng đưa Murakami vào danh sách đặt cược giải Nobel (tiếc là trượt vỏ chuối).Thật khó để liên hệ sự nổi tiếng ở cấp độ siêu sao này với một ông già khiêm tốn 60 tuổi mà tôi đã gặp trong phòng họp của một nhà xuất bản.

Về cá nhân, Murakami trông trẻ hơn thực tế chục tuổi, ông cho biết đây là kết quả của quá trình tập luyện nghiêm ngặt hàng ngày (chạy và bơi).

“Tôi vẫn chạy quãng đường như hồi còn trẻ, nhưng tốc độ ngày càng chậm lại."

Ông già lịch thiệp và nhẹ nhàng này cũng đặc trưng như phong cách tiểu thuyết của ông ấy, và sau một khoảng nghỉ dài hơn một chút, ông tuyên bố.

“Mọi thứ đều là tự truyện,” Murakami nói, “Nhưng đồng thời tôi cũng cải thiện mọi thứ dành cho cuốn tiểu thuyết.”

Mặt khác: “Tôi muốn tìm hiểu điều gì sẽ xảy ra trong cuốn sách tiếp theo.

Điều này sẽ giúp tôi giải thích tại sao tôi lại viết như vậy."

Dường như Murakami để lại ấn tượng rằng ông rất mắc cỡ vì những tiểu thuyết siêu hình bất thường của chính mình, cũng giống như độc giả của mình.

"Đều là vô thức cả, anh biết đấy.

Tôi viết những gì tôi muốn viết, và khi tôi viết, tôi sẽ tìm thấy những gì tôi khao khát được thể hiện."***Bản dịch tiếng Anh mới của Murakami là "Những câu chuyện kỳ lạ trong thư viện", ban đầu vốn là một bài tiểu luận châm biếm kỳ lạ được coi như truyện ngắn và đưa vào một tạp chí Nhật Bản cách đây 30 năm.

Nó đã được sửa lại vào năm 2008 và hiện đã được xuất bản ở Anh như một cuốn sách đặc biệt dành cho lễ Giáng Sinh, với đầy đủ những hình ảnh minh họa phong phú về những cuốn sách cũ từ Thư viện London.

Giống như hầu hết các tác phẩm của Murakami, đây là một câu chuyện siêu thực với những khúc mắc lặp đi lặp lại và đầy những dấu hiệu đáng ngại: Nhắm vào tuổi trẻ và sự thiếu hiểu biết một cách trừu tượng, nhưng đồng thời cũng trải qua sự tàn nhẫn, trừng phạt và mất mát.

Trong vai một người kể chuyện, cậu bé vô danh đến thư viện để tìm sách về thuế của Đế chế Áo-Hung, nhưng cậu lại bị một ông già hống hách và một con chó săn đáng sợ truy đuổi xuống lòng đất và bị giam cầm.

Vài tháng sau, cậu bé được cho biết, "Phần trên của đầu mày sẽ bị cưa đi, và tất cả bộ não sẽ bị hút sạch."

Một người kỳ lạ giả làm cừu tên là Người Cừu - người đã nhiều lần xuất hiện trong các tiểu thuyết khác của Murakami - thường xuyên đến thăm cậu bé và chiên bánh donut cho cậu ăn, và một cô gái bị câm giao tiếp với cậu qua ngôn ngữ cử chỉ.

Toàn bộ câu chuyện đột ngột kết thúc trong một bức tranh cô đơn và nỗi buồn đan xen.***"Thư viện kỳ lạ" cũng hơi giống với những đặc điểm khác trong các tác phẩm của Murakami: Không phải là người chăn cừu, mà nhân vật chính bất ngờ rơi vào thế giới hỗn mang kiểu Kafka, và bị ám bởi cô gái ma bí ẩn có vạn người mê của Murakami trong không gian dưới lòng đất đó.

Vì các tiểu thuyết siêu thực và bất thường của ông đã lặp lại một cách bạo liệt những ám ảnh này, nên việc định vị chủ đề cũng là một niềm vui lớn đối với những người hâm mộ Murakami.

Nhạc jazz.

Mì ống Ý.

Tập trung vào tai và ngón tay.Nhưng theo bản thân Murakami, ông không phải kiểu người tìm kiếm cảm hứng sáng tác.

“Ở Hoa Kỳ hay Châu Âu ,” ông nói một cách áy náy, "Mọi người luôn nói rằng bài viết của tôi mang hơi hướng hậu hiện đại hoặc ma thuật.

Nhưng tôi không hứng thú với những phong cách này.

Tôi không được coi là fan trung thành của Thomas Pynchon.

Mà với các độc giả cũng thể - tôi cũng không được gọi là nhà văn hậu hiện đại."

Ông không nghĩ vậy?

"Có thể," ông nói.

"Tôi thích Marquez.

Nhưng tôi không nghĩ phong cách của ông ta là ma thuật.

Đây là phong cách của riêng ông ta.

Tôi đoán ông ta chỉ viết theo phong cách hiện thực của riêng mình; thế giới mà ông ấy tạo ra chỉ dành cho chính Marquez.

Nó rất tự nhiên và thực tế, tôi nghĩ vậy.

Tôi cũng viết hiện thực cho chính tôi, thế giới thực cho chính tôi.

Nếu điều gì đó bất ngờ xảy ra, điều đó chứng tỏ rằng bạn đang đi đúng hướng.

Những điều có thật.

Vì vậy, nếu Người Cừu xuất hiện thì anh biết đấy, điều đó có nghĩa là anh ta có thật với tôi.

Nó không phải là một biểu tượng hay một phép ẩn dụ.

Đó chỉ là anh ấy và tôi.

"Những gì ông nói đều có lý, nhưng lễ tang tượng trưng cho các nhân vật trong tiểu thuyết của ông vẫn rất có ý nghĩa.

Trước khi chúng tôi gặp nhau, Murakami đã nói với khán giả tại hội sách rằng ước mơ cả đời của ông là ngồi trong giếng sâu.

“Vâng,” ông nói và gật đầu.

"Khi tôi viết, tôi luôn cảm thấy mình đang đi đến một nơi tối tăm.

Chỉ trong bóng tối tôi mới có thể nhìn rõ câu chuyện này.

Tôi không nghĩ mình có tài năng đặc biệt, tôi không bao giờ nghĩ như vậy.

Nhưng tôi có thể bước vào bóng tối toàn bích, hừm...

"Giọng ông nhỏ dần và sau đó vang trở lại.

"Đó là một tầng hầm!"

Murakami nói, " Và... hoàn cảnh của tôi là một chiếc tầng hầm đôi, tôi nghĩ vậy.

Nhiều người có thể đi vào một tầng hầm, nhưng trong hoàn cảnh của tôi, tôi còn có một tầng hầm khác lồng ở trong tầng hầm ấy."

Ông trầm mặc nhìn vào tôi.

"Nó tối lắm.

Thế nên, khi tôi viết "Biên niên ký chim vặn dây cót" (một bước đột phá trong những bản sách đã dịch qua tiếng Anh của Murakami), tôi cũng viết về cái giếng sâu, và nhân vật chính đang ngồi trong bóng tối, cô đơn và biệt lập dưới đáy giếng.

Đó chính xác là những gì tôi làm khi tôi viết mỗi ngày."

Ông nói, khi giải phóng khỏi tác phẩm, nhiệm vụ của người viết cũng như đối với người đọc.

"Mục đích chính của tôi khi viết tiểu thuyết và truyện là để tìm lại chính mình.

Tôi đã 65 tuổi rồi, nhưng tôi vẫn tò mò về những gì tôi đang có, những gì tôi đã có và những gì tôi sẽ trở thành.

Bạn biết đấy, tôi là một nhà văn có chút tiếng tăm.

Tôi đã viết văn được 35 năm, cũng được coi là tương đối thành công.

Tôi có một lượng độc giả trên khắp thế giới nhưng tôi không hiểu tại sao điều này lại xảy ra.

Theo tôi, điều này giống như một phép màu.

Tôi không nghĩ mình là một người vĩ đại, một người tài năng hay một người thông minh hoặc một người có năng khiếu gì cả, nhưng tôi có thể viết.

Tôi chỉ muốn tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra với tôi.

Không phải cho người khác, mà chỉ dành cho bản thân tôi thôi."****Người hâm mộ cũng rất sẵn lòng giúp đỡ.

Khi Murakami viết xong "Kafka bên bờ biển", ông đã sớm tạo một trang web cho phép độc giả và người hâm mộ chia sẻ bình luận của họ hoặc đặt câu hỏi về tác giả - một trang web tương tự như trang web "Ask me" quy mô lớn, và sau đó đã xuất bản một cuốn sách tổng hợp tất cả những bình luận của độc giả ở Nhật Bản.

"Tôi nghĩ rằng đó là một chút dân chủ," ông nói.

"Ở các thành bang Hy Lạp cổ đại, các công dân thường gặp nhau ở chợ.

Anh biết đấy, tôi quan tâm đến việc giao tiếp với độc giả nhưng tôi vẫn cảm thấy hơi mệt mỏi.

Tôi nghĩ chỉ cần nói vậy là đủ rồi.

Tôi nghĩ sự hiểu biết thực ra chỉ là tập hợp của những hiểu lầm".

Đây là khám phá của riêng tôi thôi."

"Có nhiều độc giả đã gửi ý kiến cho tôi.

Nhiều ý kiến không đúng và dường như họ đã hiểu sai điều gì đó.

Nhưng khi tôi đọc một nghìn ý kiến như vậy, tôi có cảm giác như "Họ hiểu mình nhỉ" Tôi tin vào hầu hết toàn bộ độc giả... nhưng tôi không đặc biệt tin cậy một ai."

Ông nói, tiểu thuyết của Murakami sẽ luôn bắt đầu bằng một đoạn văn đơn giản.

"Một câu văn hay một phần mở đầu bằng hình ảnh.

Đôi khi nó giống như một đoạn băng video.

Là phần mở đầu tôi vẫn xem hàng ngày, có thể tôi đã xem nó 100 lần hoặc 1000 lần và tiếp tục xem.

Rồi bỗng nhiên, tôi nói, "Được rồi, mình có thể viết cái này."

"Những cuốn tiểu thuyết này sẽ thay đổi," ông nói, "Giống như những bản giao hưởng của Beethoven.

Nam tính, vĩ đại và đầy tham vọng; thậm chí những cuốn tiểu thuyết này còn nhẹ nhàng và khiêm tốn hơn.

Và với những quyển sách ngắn thì càng khiêm tốn hơn nữa.

Tôi có thể vui vẻ với những giọng nói, vai trò và phong cách khác nhau, và đó cũng là một kiểu bài tập."*****Ngoài ra, ông còn nói, ông không thấy mình là người sáng tạo.

"Tôi luôn sùng bái những thói quen hàng ngày và sự kiên trì."

Murakami nói, " Dù chán nản, cô đơn hay buồn bã, nhưng những thói quen hàng ngày luôn có thể giúp ích cho tôi.

Tôi yêu những công việc hàng ngày.

Về cơ bản, tôi cảm thấy mình giống như một kỹ sư hoặc một người làm vườn.

Không phải là người sáng tạo gì cho cam.

Điều này quá nặng nề đối với tôi.

Tôi không phải típ người này.

Tôi chỉ tuân thủ các quy tắc mỗi ngày.

Tôi đã chạy trong 30 năm và việc chạy bộ trong 30 năm này đã mang lại cho tôi rất nhiều quyền năng đặc biệt.

Nếu bạn tập trung làm điều tương tự mỗi ngày, nó cũng sẽ cung cấp cho bạn một điều gì đó đặc biệt."

Murakami sẽ ngồi suy nghĩ về cuốn sách tiếp theo cho đến cuối năm, ông nói, nhưng ông vẫn chưa mường tượng ra được nó sẽ là gì.

“Tôi có quá nhiều đoạn văn đầu tiên trong ngăn kéo của mình.

Nó sẽ là một phần cơ bản, vì vậy có lẽ đó sẽ là một cuốn sách hay, tôi nghĩ vậy.”

Gương mặt ông rạng rỡ.

"Tôi hy vọng như thế đấy.

Hãy mạo hiểm nào!"

Tựa gốc: "Haruki Murakami: "Tôi khá nổi tiếng.

Tôi chỉ muốn tìm hiểu lý do tại sao điều đó lại xảy ra"

Tác giả: Tim Martin

Nguồn: Telegraph

Dịch: Trang Thao Nguyen

__________________________

Chatting With Authors - Nơi Trạm Đọc cùng bạn ngồi lại để lắng nghe những chia sẻ của tác giả về chính cuộc đời hay tác phẩm của họ; và đâu đó, Trạm cũng sẽ kể những câu chuyện về tác giả - những góc khuất đằng sau trang sách mà bạn đọc chưa từng biết đến.
 
Haruki Murakami
ĐI TÌM PHÉP THUẬT TRONG VĂN CHƯƠNG CỦA HARUKI MURAKAMI


Dù vẫn thiếu một giải Nobel Văn học để được coi là một nhà văn vĩ đại.

Nhưng khi nhìn lại trên nhiều phương diện, thì Haruki Murakami thực sự là một tiểu thuyết gia vô cùng thành công khi ông gần như đã đạt được tất cả những gì mà một người viết mơ ước: những cuốn tiểu thuyết mỗi khi ra mắt luôn là best seller trên khắp thế giới, một văn phong hấp dẫn lẫn một phong cách riêng biệt cùng hàng triệu người hâm mộ trên khắp thế giới.

Thậm chí trên Youtube, có nhiều những video tổng hợp các bản nhạc jazz được Murakami đề cập tới trong các tiểu thuyết của mình thu hút hàng triệu lượt nghe.

Thật ngạc nhiên và khó tin là Murakami lại chưa bao giờ coi mình là một người viết thực thụ, dù ở tuổi 72 ông vẫn là một trong những nhà văn thành công nhất thế giới cũng như mỗi năm đều cho ra mắt tiểu thuyết hay truyện ngắn với chất lượng tốt nhất có thể.

“29 tuổi, tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ đến việc viết một cuốn tiểu thuyết của riêng mình.

Tôi là người chỉ có thể đọc tiểu thuyết.

Tôi đọc hàng đống tiểu thuyết, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ dù chỉ trong một khoảnh khắc là mình có thể viết một cuốn”.

Murakami cho biết lý do tại sao ông không bao giờ nghĩ tới việc trở thành nhà văn hay tiểu thuyết gia cho tới khi trong một buổi đi xem thi đấu bóng chày, thì một mặc khải đã ập xuống tâm trí mình và ông nghĩ rằng có thể viết một sách.

Ngay sau khi từ sân thi đấu về, Murakami liền bắt tay viết những dòng chữ đầu tiên của cuốn Lắng nghe gió hát – cuốn sách đầu tay của mình vào mỗi đêm khi đóng cửa quán bar do ông và vợ quản lý.

Sau đó một thời gian, Lắng nghe gió hát đã đoạt giải Tác giả mới ở Nhật Bản và phần còn lại của câu chuyện đã trở thành một lịch sử: một người chưa bao giờ nghĩ mình là nhà văn nhưng giờ lại là một trong những nhà văn được hâm mộ nhất trong làng văn chương đương đại.Cho đến bây giờ, dù đã viết những tiểu thuyết siêu thực với kết cấu vô cùng phức tạp được lồng ghép khéo léo dưới một văn phòng trôi chảy như Kafka bên bờ biển, 1Q84 hay gần đây nhất là Giết chỉ huy đội kỵ sĩ, nhưng Murakami vẫn nhắc đi nhắc lại rằng ông không hề có tố chất nào ban đầu để xây dựng nên các tiểu thuyết hấp dẫn đến như thế.

Nhiều người không tin khi cho rằng Murakami khiêm tốn và ít khi nói về bản thân.

Điều đó không sai, nhưng Murakami lại nói rất nhiều về tác giả và các tiểu thuyết mình ưa thích cũng như phong cách ông hướng tới nếu ông trở thành tiểu thuyết gia.

Đó chính là dấu hiệu duy nhất để chúng ta có thể biết được ma thuật hay phép thuật nào đã hình thành các tác phẩm và thứ văn chương hớp hồn của Murakami.

Và khi đã biết được bí mật đó rồi (Thực tế mình tìm kiếm bí mật đó cũng không khó lắm, nhưng cần nhiều thời gian để tìm và đọc từ các bài báo, bài phỏng vấn và nhiều cuốn tiểu thuyết), thì bạn sẽ sững sỡ khi nhận ra rằng Murakami có phần đúng khi tự nhận rằng mình thực sự không có tài năng như mọi người vẫn nghĩ về ông.Vậy những bí mật về chất liệu đã tạo nên phép thuật văn chương của Haruki Murakami là gì?

Cùng tìm hiểu và chia sẻ với tác giả Đức Nhân trong bài viết đầu đủ trên Spiderum tại: https://b.link/VAN-CHUONG-CUA-HARUKI-MURAKAMI#Spiderum #Spiderum_Books
#Spiderum_Books
 
Haruki Murakami
HARUKI MURAKAMI - CÂY BÚT XUẤT CHÚNG XỨ PHÙ TANG


Một nhà văn Nhật đã nói: "Kể từ khi có Murakami, chúng ta đều viết dễ dàng hơn”.

Nhắc đến Murakami Haruki, người ta nhắc đến nhà văn của giới trẻ.

Người được biết đến với những tác phẩm mang đậm chiều sâu, đưa khán giả khám phá nhiều lớp nang bất tận của cảm xúc, tâm hồn.

Ngòi bút của ông được xem là ngôi sao Thiên Lang rực sáng trên bầu trời văn chương xứ sở Phù Tang.

Ông được The Guardian gọi là một trong những tiểu thuyết gia còn sống vĩ đại nhất thế giới.

Với phong cách hành văn riêng biệt cùng những tác phẩm luôn nằm trong top “best- seller", Murakami chính là tác giả được yêu thích nhất hiện nay.Những năm đầu đờiHaruki Murakami sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 tại Kyoto.

Tuy nhiên, không gắn bó với cố đô cũ của Nhật Bản, ông lớn lên và trưởng thành tại thành phố cảng xinh đẹp Kobe.

Sinh ra trong gia đình có truyền thống giáo dục khi cả bố và mẹ đều là giáo viên dạy văn nên ngay từ nhỏ, Murakami đã tiếp xúc với các con chữ như một lẽ thường tình.Nước Nhật vào thời kỳ phát triển đã du nhập nhiều trào lưu văn hoá tân tiến trên thế giới, điều này cũng hưởng tới Murakami.

Ông tiếp cận văn hoá Tây phương và bị chi phối bởi nó qua âm nhạc và văn học.

Murakami lớn lên cùng hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn Mỹ như Kurt Vonnegut hay Richard Brautigan,..

Cùng với cái nôi chữ nghĩa thời thơ ấu từ bố mẹ và sức ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đã giúp cho ông phần nào xây dựng được phong cách riêng của mình so với những tác giả đương thời.

Nếu văn học Nhật thường chú trọng đến vẻ đẹp ngôn từ khiến cho khả năng diễn đạt bị giới hạn và trở nên cứng nhắc thì phong cách của Murakami tương đối thoáng đạt và uyển chuyển.

Điều này cũng khiến ông không ít lần vấp phải những định kiến của nền văn học xứ “mặt trời mọc" lúc bấy giờ.Trước khi xác định theo đuổi con đường viết lách, Murakami học về nghệ thuật tại Đại học Waseda, Tokyo.

Đây cũng là nơi cho ông gặp được “người đầu ấp tay gối" của mình sau này là Yoko.

Murakami bắt đầu công việc đầu tiên của mình tại một cửa hàng băng đĩa.

Thời gian vừa học vừa làm tại đây đã giúp ông có những trải nghiệm và cái nhìn đặc sắc hơn trong văn chương.

Điều này được thể hiện trong tác phẩm Rừng Na Uy khi ông miêu tả cách nhân vật Watanabe Toru làm việc.Không lâu trước khi hoàn thành việc học, Murakami cùng vợ quyết định mở một tiệm cà phê tại Kokubunji, Tokyo có chơi nhạc Jazz tên là “Peter Cat" .

Cả hai quyết định không sinh con và quản lý nó từ năm 1974 đến 1982.

Có lẽ do ảnh hưởng của thời gian này nên rất nhiều tác phẩm sau đó của ông đều lấy bối cảnh âm nhạc và tựa đề âm nhạc như “Dance, Dance, Dance”, “Rừng Na uy”, “Phía Nam biên giới, Phía tây mặt trời”,..Sự nghiệp văn chương và các tác phẩm tiêu biểu của Haruki Murakami.Dù được tiếp xúc với chữ nghĩa từ khi còn nhỏ, song Murakami lại bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình khá muộn.

Ông bắt tay vào viết tác phẩm đầu tiên của mình khi ông 29 tuổi.

Chia sẻ về điều này, ông tâm sự: “Đến năm 29 tuổi tôi mới bắt đầu viết.

Trước thời gian đó tôi chẳng có gì để viết.

Đôi khi bạn phải sống cuộc đời của chính mình cho hết sức hết lòng, hết mực chân thành, sau đó bạn mới tìm thấy một cái gì đó của riêng mình để viết.”

Tác phẩm “Lắng nghe gió hát" được Haruki Murakami nảy ra ý tưởng khi đang xem một trận đấu bóng chày vào năm 1978.

Kết thúc trận đấu, nhận ra bản thân có thể viết một câu chuyện, ông đã về nhà và bắt tay viết ngay lập tức.

Trải qua một năm khi hoàn thiện tác phẩm, ông gửi bản thảo cho nhiều nhà xuất bản nhưng hầu hết đều bị từ chối vì quá ngắn.

Tuy nhiên, khi gửi bản thảo đến tham dự một cuộc thi, cuốn tiểu thuyết đã giành giải nhất.

Sự kiện này được coi là bước đệm cho sự nghiệp của Murakami và giúp nhà văn phát triển phong cách viết lách của mình sau này.Cùng đọc đầy đủ bài viết của tác giả Bảo Bình tại đây nhé: https://b.link/Nha-van-Haruki-Murakami#Spiderum #Spiderum_Books #HarukiMurakami
#Spiderum_Books#HarukiMurakami
 
Haruki Murakami
RỪNG NAUY : TẢN MẠN VỀ TÌNH DỤC VÀ CÁI CHẾT


---------------------

Những suy tư sau khi đọc quyển Rừng Nauy của Haruki Murakami, một tác phẩm mà mình cho là rất hay, rất đáng đọc🍀 Lan man chút về giáo dục ở ta.

Có lẽ có gì khác biệt với thế giới chăng, khi từ lớp 7x trở đi có nhiều kiến thức mà với họ là phổ thông, còn ở ta thì lại là xa lạ.

Mình đã chứng kiến có nhiều bạn trẻ ngơ ngác không biết Con ngựa thành Troy, gót chân Achilles ... là gì.

Cổ Hy Lạp, La Mã còn như vậy còn nói gì đến những kiến thức về Phân tâm học, triết học, Hiện sinh, tôn giáo ...

Cho nên nói đến Hegel, Kant, Kierkegaard, Nietzsche, J.P.Sartre, K.Jasper, S.Freud, C.Jung ... họ không biết là đương nhiên. 🍀 Vì thế khi đọc những tiểu thuyết cận đại và hiện đại, chúng ta sẽ thấy khó hiểu hoặc không hiểu nổi, hoặc hiểu sai lạc rất nhiều.

Ví dụ như cuốn Rừng Nauy, một cuốn truyện mà chia rẽ khá dữ dội trong bạn đọc.

Tranh cãi rất nhiều.

Người mê thì ca ngợi hết lời, còn kẻ ghét thì chỉ trích cũng nặng nề.

Nhưng xét ra thì cả những người thích và những người không thích đều dường như chưa hiểu cốt lõi của cuốn sách này vì có lẽ thiếu đi những kiến thức như đã đề cập.🍀 Có hai đề tài mà ở người Việt dường như cấm kỵ, nên thường bị hiểu sai, méo mó.

Đó là Tình dục và Cái chết.

Nếu chúng ta có kiến thức về Phân tâm học, triết (nhất là Hiện sinh) và tôn giáo sâu sắc thì sẽ hiểu rõ về hai đề tài này và ảnh hưởng của nó trong cuộc sống.

Còn không thì như phần đông giới trẻ ở ta hiện nay sống bừa bãi và vô trách nhiệm.

TÌNH DỤC VÀ CÁI CHẾT TRONG RỪNG NAUY : HAY & TINH XẢO🍀 Tình dục, hiểu theo nghĩa nghiêm túc thì chính là phần quan trọng nhất của con người.

Nó chi phối hoàn toàn tất cả tâm tư, tình cảm, lòng ham sống, mơ ước tương lai.

Bác sĩ Trần Bồng Sơn, người nghiên cứu và viết nhiều về Phân tâm học đã nói : Người ta hay nói nhiều đến Khối Óc và Trái Tim, mà quên rằng chính Trái Thận mới quyết định chất lượng cuộc sống.

Những xung lực tình dục còn gọi là Libido chính là yếu tố quyết định cho những sáng tạo Nghệ thuật và Khoa học.Thiếu nó là một khiếm khuyết trầm trọng của con người.

Những tác phẩm lớn của loài người đều sản sinh ra nhờ những thăng hoa của nó.

Mặt khác, nếu có những sai lạc, ẩn ức thì sức tàn phá của nó cũng rất khủng khiếp.🍀 Ở ta, do ảnh hưởng của xã hội phong kiến và xã hội đạo đức nửa mùa, luôn coi nó là xấu xa, ghê tởm và cố ức chế, đè nén nó.

Rồi đến thời hiện đại cánh cửa mở tung thì chúng ta không có đủ sự giáo dục cần thiết nên cứ ngỡ tự do tình dục là quan hệ bừa bãi, vô trách nhiệm.

Từ thái cực này sang thái cực khác, đều là sai lầm cả.

Đọc kỹ cuốn truyện sẽ cho ta cái ý thức về Tình dục đúng đắn hơn.

Nó không đơn giản là “Đè nhau ra chịch”, hay “Truyện gì mà toàn là làm tình” như một số kẻ đọc sách hời hợt nghĩ. 🍀 Dĩ nhiên là quan niệm về tình dục của người Nhật khác với chúng ta nhiều.

Họ không e dè, cấm kỵ khi đề cập đến tình dục mà coi như chuyện đương nhiên giữa những người yêu nhau.

Lối viết của tác giả cũng vậy, không nửa vời mà miêu tả khá sát và trần trụi.

Nhưng đều có mục đích lột tả tâm lý chứ không hề khiêu dâm, gợi dục kiểu ngôn tình rẻ tiền.

Những nhân vật của chúng ta trong chuyện khá thoáng về Tình dục nhưng họ cũng rất có trách nhiệm.

Những sai lạc kiểu Nagasawa bị tác giả không đồng tình.

Tình dục luôn gắn với Tình yêu và ý thức của sự hòa hợp.

Những trường đoạn chàng Toru của chúng ta nằm ôm bạn gái mà không quan hệ mới thấy hay làm sao.

Còn trường đoạn cuối khi Toru và chị Reiko quan hệ thì ta thấy như một buổi hành lễ để hai người tẩy rửa những ám ảnh của quá khứ, làm sạch con người mình để bắt đầu cuộc sống mới.

Với Reiko là trở lại là người bình thường với ái, ố, hỷ, nộ và lòng ham sống cùng khả năng tiếp nhận khoái cảm.

Với Toru thì gạt bỏ mặc cảm về cái chết của Naoko, từ bỏ được ám ảnh về trách nhiệm tinh thần với nàng để dọn mình trong sạch đến với tình cảm của Midori.🍀 Nói về cái chết cũng vậy.

Chúng ta có thói quen né tránh nó bằng ý nghĩ : Ôi dào, còn lâu lắm, cứ sống thoải mái đi .

Vì không ý thức được về cái chết nên ta không có trách nhiệm thực sự với cuộc sống.

Trong câu chuyện có rất nhiều cái chết.

Mỗi cái chết cho chúng ta nhận ra cái thái độ của người trong cuộc nhìn vào nó.

Nếu như cái chết của Kizuki cho Toru một bước ngoặt của cuộc đời, một phần tuổi thơ ra đi mãi.

Chàng ta đã phải nhận thức sự hiện diện của cái chết như một phần của cuộc sống .

Ở đây có lẽ H.Murakami ảnh hưởng của Heidegger, không phải như quan niệm của Sartre.

Dù sao thì nó hiện hữu và bắt chàng ta phải ý thức về nó.

Khi bạn hiểu ra bằng thực tế rằng cuộc sống chúng ta là hữu hạn, rằng cái chết có thể tóm được chúng ta bất cứ lúc nào, thì có lẽ chúng ta sẽ biết yêu quí cuộc sống hơn, bao dung hơn, và điềm tĩnh hơn chăng.

Rồi đến cái chết của ông bố Midori thì cho Toru những cảm xúc khác về một đời người, về những nỗi niềm cần chia sẻ, về sự cần thiết của việc tìm đến nhau trong cuộc sống.

Cho đến cái chết của Naoko thoạt đầu là nỗi thất vọng ghê gớm, cảm giác bất lực, trống rỗng.

Chàng ta chạy trốn nó vô vọng.

Khi lắng lòng rồi thì mới nhận ra rằng cần phải trở lại với cuộc sống, cần phải sống tiếp với những trách nhiệm với cuộc đời.🍀 Mở đầu câu chuyện ta đã nghe vang giai điệu Rừng Nauy của The Beatles.

Rồi ta đã thấy hiện ra S.Freud với ẩn ức, tiềm thức ... và Husserl với Hiện tượng học khi nói về hồi ức.

Các bạn hãy chú ý chi tiết về những cái giếng đồng (chi tiết này còn rõ ràng hơn trong Biên niên sử chim Vặn dây cót), cái giếng mà có thể nuốt chửng bạn không tăm tích nó ẩn dụ cái gì, phải chăng những hố sâu trong tiềm thức ta.

Trong truyện chúng ta còn bắt gặp nhiều ẩn dụ kiểu ấy.

Có lẽ ông Murakami khá là giỏi trong xây dựng các ẩn dụ như kiểu Sphinx.

Đọc truyện của ông mà không biết tìm ra và giải nghĩa các ẩn dụ thì khó mà hiểu được.

“Hãy đừng đi ra khỏi lối mòn” , nàng Naoko đã nói vậy và “mình sẽ ko bao giờ ngã xuống giếng, nếu có cậu bên cạnh” . 🍀 Mỗi nhân vật của chúng ta đều có những bi kịch.

Đó là những tổn thương, sai lạc từ nhỏ.

Chúng gây ra những ẩn ức về tình dục.

Do đó dẫn đến những hành vi sai lạc, rối loạn nhân cách.

Bạn có thể đọc và theo dõi từng người bọn họ.

Naoko, chị gái của cô, Kizuki, Quốc xã, Midori, Reiko, Nagasawa, con bé học đàn với Reiko và kể cả Toru .

Chúng ta có thể làm như bác sĩ Sigmund Freud, tìm các dấu hiệu qua lời nói, hành vi, giấc mơ, những sai lạc để khám phá những ẩn ức ấy.

Phân tích thì dài dòng, tự các bạn hãy khám phá thử dưới góc nhìn ấy xem.

Ta sẽ hiểu và thông cảm với họ.

Mình rất thích thú khi theo dõi câu chuyện của Naoko, Reiko, Midori về tuổi thơ, về những rắc rối của họ.

Qua đó mới vỡ lẽ ra những nguyên nhân dẫn đến tính cách và số phận của họ.🍀 Về nhân vật yêu thích nhất Midori.

Mình rất thích cái tính cách mạnh mẽ, cứng cỏi, bộc trực của cô.

Có lẽ trong truyện thì Midori và Nagasawa là mạnh mẽ về tinh thần nhất.

Nhưng cô sống có ý chí và trách nhiệm hơn nhiều, có lẽ do xuất thân, nhưng phải nói rằng đó là một tính cách rất tuyệT .

Cũng may mắn cho chàng Toru của chúng ta là qua thời gian thử thách, cô ấy vẫn chờ được chàng ta .

Anh chàng thật may mắn khi có được một người yêu như thế.

Họ tìm được nhau như một Happy-end vậy.

Thật vui .🍀 Viết thêm một chút về nhận vật mà chẳng biết nên yêu hay ghét Nagasawa.

Một chàng trai dũng cảm, thông minh, có ý chí, có sức mạnh tinh thần mạnh mẽ, độc lập, có cá tính.

Nói chung khá hoàn hảo.

Một Don Juan thời hiện đại.

Nhưng có một điểm ko thể chấp nhận ở chàng ta là tính ích kỷ quá mạnh.

Chàng ta như Narcissus trong thần thoại Hy Lạp chỉ biết tự yêu mình, không có khả năng yêu thương người khác.

Có lẽ việc đánh mất một người yêu lý tưởng như Hatsumi không làm cho chàng ta tiếc nhiều bằng độc giả chúng ta.

Nhưng đó cũng là một mất mát lớn với chàng dù nhận ra hay không.

Mình yêu thích chàng ta ở cái thói quen đọc sách và cách đánh giá sách.

Mình cũng quí anh ta vì cùng yêu Gatsby, như anh ta thích Toru vậy.

Dù sao cũng là một nhân vật độc đáo.🍀 Và cuối cùng thì cũng phải nói về bản Norwaygian Wood , Rừng Nauy.

Một bài nhạc cô đơn tuyệt vời.

Nói như Reiko thì : Tụi nó (Paul và John) hiểu rõ về nỗi cô đơn, nỗi buồn của cuộc đời và cả nỗi êm dịu nữa.

Những giai điệu trầm ấm, da diết của đàn guitar như đưa chúng ta miên man trong những khu rừng bắc Âu tuyết trắng.

Mình yêu, có thể nói là rất yêu The Beatles.

Những Let it be, Yesterday, Hey Jude, All my loving, Something, Michelle,The long and winding road, Norwaygian Wood luôn cuốn hút mình (Nói nhỏ là mình cũng đàn hát khá những bản này, dĩ nhiên chỉ cho mình nghe thôi).

Các bạn hãy thử vừa đọc vừa nghe nhạc, biết đâu sẽ có cảm nhận khác hơn thì sao.👉 Về bộ phim thì mình chỉ ấn tượng đôi chút về màu sắc.

Những mảng màu ám ảnh dữ dội như tranh Van Gogh.

Còn nội dung thì theo mình ko diễn đạt hết cái hay của truyện (chỉ ý kiến cá nhân thôi nhé)

-----------------

Huy Lâm

☘️☘️☘️ (Nói chút về Nguồn gốc, lịch sử của “ rừng t-ự s-á-t”.)Một khu rừng rộng chừng 30 km2 có tên gọi Aokigahara nằm ở chân núi Phú Sĩ.

Hay còn có tên gọi khác "Rừng t-ự s-á-t".Những cái “chếch” đầu tiên tại khu rừng này xuất phát từ một hủ tục xưa của Nhật Bản gọi là "ubasute".Thời kỳ phong kiến, khi n-ạ-n đói hoành hành, người ta sẽ dẫn người già vào rừng và b-ỏ lại cho đến “chếch”.

Từ đó, lời đồn thổi về linh hồn của những người đã khuất không thể siêu thoát, ám vào cây, lại nổi lên.

Văn hóa dân gian Nhật Bản gọi những linh hồn đó là "yurei", quanh quẩn bên gốc cây.

Thậm chí, người đi bộ qua rừng từng mô tả nghe thấy tiếng khóc lóc, khiến nơi này càng thêm bí ẩn hơn.Nhưng đỉnh điểm của mọi việc bắt đầu từ năm 1960 khi lịch sử "đen tối" của rừng Aokigahara bắt đầu.

Đó là năm nhà văn Nhật Bản Seicho Matsumoto cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mang tựa "Nami no Tou" (tạm dịch: Tháo sóng), với nội dung kể về một cặp đôi yêu nhau đã tự k-ế-t L-i-ễ-u cuộc đời trong khu rừng này.

Cuốn sách trở nên nổi tiếng nhưng cũng đồng thời tạo ra "trend t-ự v-ẫ-n" ở rừng Aokigahara.

Ước tính, hàng nghìn người tới đây và tự chấ-m dứ-t cuộc đời của họ.Kể từ đầu những năm 1970, hàng năm luôn có một đội tìm kiếm nhỏ gồm cảnh sát, tình nguyện viên và các nhà báo lùng sục khắp nơi trong rừng để tìm kiếm th-i th-ể.

Họ gần như không bao giờ trở về tay trắng.Những năm gần đây, thậm chí số lượng th-i th-ể tăng lên đáng kể.

Kỷ lục cao nhất vào năm 2004 khi 108 th-i th-ể ở trạng thái ph-â-n hủy khác nhau được tìm thấy.

Năm 2010, 247 người cố gắng t-ự s-á-t trong rừng, nhưng chỉ có 54 người quay về cuộc sống.
 
Haruki Murakami
LỐI SỐNG CỦA NHÀ VĂN HARUKI MURAKAMI?


kỉ luật trong việc LUYỆN TẬP và VIẾT LÁCH.TIỂU THUYẾT GIA KHÔNG CHỈ LÀ VIẾT

ông vừa được nhắc đến là một tiểu thuyết gia đồng thời là một người chạy bộ nhiều năm dạn dày kinh nghiệm.

Với cương vị của một nhà tiểu thuyết, Murakami đã đạt được những thành công mà bất cứ một nhà văn nào cũng từng mơ ước có được.

Những tác phẩm của ông luôn nằm trong top sách best seller và được hàng triệu người hâm mộ đón nhận trên toàn thế giới.

Đến nay khi đã bước qua tuổi 70, ông vẫn liên tục viết và chưa có ý định dừng lại.

🍊 Những thói quen hằng ngày của ông đã truyền cảm hứng cho mình - một người vẫn đang hằng ngày tập viết Trong cuốn sách "Tôi nói gì khi nói về chạy bộ" Murakami có mô tả lịch làm việc của ông trong ngày như sau:

“Vậy là cuộc sống mới, giản dị và điều hoà của tôi bắt đầu.

Tôi dậy trước 5 giờ sáng và đi ngủ trước 10 giờ tối.

Người ta sung sức vào những thời điểm khác nhau trong ngày nhưng tôi dứt khoát là người của buổi sáng.

Đó là khi tôi có thể tập trung và hoàn tất công việc quan trọng tôi phải làm.

Sau đó, tôi tập luyện và làm mấy việc lặt vặt khác không cần tập trung nhiều.

Cuối ngày tôi thư giãn và không làm gì nữa cả.

Tôi đọc sách, nghe nhạc, thư thả và cố đi ngủ sớm.

Đây là khuôn mẫu chủ yếu tôi đã theo cho đến ngày hôm nay.”

Bạn có bao giờ thắc mắc rằng “Liệu trước đây Murakami đã duy trì lối sống lành mạnh như vậy?”.

Câu trả lời là “Không phải".

Lối sống lành mạnh mà ông vẫn duy trì tới ngày nay chỉ được hình thành sau khi ông bắt đầu dành toàn thời gian cho sự nghiệp viết lách.

Năm 30 tuổi, ông mở một quán rượu.

Suốt ba năm sau đó, ông điều hành và quản lý quán, ông phụ trách tất cả từ việc sắp xếp sổ sách, kiểm hàng, sắp lịch cho nhân viên đến nấu nướng, pha cocktail…Công việc khá vất vả và đòi hỏi sự tiêu tốn cả về thể chất lẫn tinh thần.

Ông thường xuyên phải thức khuya đến 2-3 giờ sáng.

Trong một bài phỏng vấn, Murakami chia sẻ rằng trong một năm đầu tiên khi trở thành nhà văn chuyên nghiệp, có những thời điểm ông hút đến 60 điếu thuốc lá trong một ngày.

Ông coi đó là một thói quen để duy trì sự tập trung cao độ.

Cho đến khi chứng kiến móng tay mình bị vàng đi, những lớp mỡ thừa trên cơ thể ngày một nhiều hơn, ông đá quyết định rằng mình phải chấm dứt thói quen này ngay lập tức.

Murakami đã chọn chạy bộ.

Năm đó, ông 33 tuổi.Kể từ thời điểm bắt đầu chạy, Murakami quan tâm kĩ lưỡng đến chế độ dinh dưỡng của của mình.

“Tôi chủ yếu ăn rau với cá là nguồn đạm chính.

Tôi cắt giảm cơm và rượu.

Đồ ngọt không phải là vấn đề vì tôi chẳng mấy khi ngó ngàng đến chúng.”

Ông là tạng người dễ tăng cân (mình cũng vậy) nên việc theo dõi chế độ ăn uống và luyện tập đều đặn mỗi ngày là kim chỉ nam để ông duy trì cân nặng lí tưởng.

Có thể thấy, hành trình theo đuổi một lối sống lành mạnh chưa bao giờ là dễ dàng, ngay cả với một tiểu thuyết gia hàng đầu thế giới.

Bạn sẽ nhận thấy rằng Murakami không phải là một người hoàn hảo.

Ông từng mắc phải những thói quen xấu, có những giai đoạn sống buông thả bản thân.

Những thói xấu ấy có thể xuất phát từ đặc thù của công việc kinh doanh, của thú vui viết lách, nhưng điều mà chúng ta đáng học hỏi ở đây là Haruki đã nhận ra “Chuyện này không thể nào tốt cho mình được.

Nếu muốn sống cuộc đời tiểu thuyết gia lâu dài, tôi cần phải tìm cách giữ cho cơ thể khỏe mạnh và duy trì cân nặng lí tưởng.”

Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, ông đã biến quyết tâm đó thành hành động.

Đó cũng là lí do vì sao bạn có thể cầm trên tay cuốn sách “Tôi nói gì khi nói về chạy bộ.”

- cuốn hồi ký ghi lại toàn bộ hành trình thay đổi đó.CUỘC SỐNG CỦA MÌNH SAU KHI HỌC HỎI TỪ MURAKAMI

Phải thú nhận rằng bản thân mình có một niềm đam mê lớn với văn chương và lối sống của Murakami nhưng mình sẽ không áp dụng một cách cứng nhắc lối sống đó.

Suy cho cùng, việc bạn ngưỡng mộ một ai đó không đồng nghĩa với việc bạn phải sao chép y nguyên cuộc sống của họ, Bạn phải biết ứng dụng linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh thực tế.Mình chủ động tối ưu. thay đổi những con số như giờ giấc, thời lượng tập luyện, thời gian làm việc, sao cho phù hợp nhất với sở thích, công việc và nhịp điệu sinh học của mình.

Dưới đây là một số thói quen mình học được từ ông:

Murakami: đi ngủ lúc 21h, dậy sớm lúc 5h

Mình: đi ngủ lúc 23 giờ, dậy lúc 7h

Murakami: chạy bộ 10km mỗi ngày, bơi 1,5km

Mình: tập gym 1 tiếng, đi bộ 3km mỗi ngày

Murakami: viết liên tục 5-6 tiếng/ngày

Mình: deepwork từ 4-5 tiếng/ngày

Murakami; nghe nhạc, đọc sách vào thời gian rảnh

Mình: thiền ngắn, nghe nhạc cổ điển, đọc sách vào thời gian rảnh.

Điều quan trọng nhất mà mình nhận ra sau khi xây dựng lịch trình sinh hoạt hằng ngày đó là PHẢI DUY TRÌ NHỊP ĐIỆU và SỰ LIÊN TỤC.

Cơ thể và tâm trí cần một lịch trình ổn định, đều đặn để vận hành, vì thế việc xây dựng chuỗi thói quen sẽ giúp bạn tối ưu cuộc sống.

---

© by Khánh Linh Trương

Mời bạn ghé thăm kênh insta growithlily của mình để đọc thêm nhiều bài viết và review sách của mình nhé ❤️
 
Haruki Murakami
viết về thế giới đã biết một cách lệch lạc


PHÍA NAM BIÊN GIỚI PHÍA TÂY MẶT TRỜI

Nội dung kể về một thằng cha có thói trăng hoa: ngủ với chị họ của nhỏ người yêu, rồi sau này lấy vợ thì lại ngủ với tình đầu 🙂)))

Tất cả các chi tiết ngoại tình trong câu chuyện được tác giả văn chương hóa lên cho lãng mạn.Ví dụ như chi tiết thằng Hajime ngủ với chị họ nhỏ người yêu, tác giả nói "tôi biết rất rõ rằng, nếu những hoàn cảnh đó lặp lại, tôi vẫn sẽ làm lại như vậy", "tôi gần như không thấy có lỗi vì đó thậm chí còn không phải là một sự phản bội"...

Ôi!!!!

Ông hoàng lãng mạn bậc thầy biện hộ.

Ông bà nói đánh kẻ chạy đi chứ k ai đánh người chạy lại, trong khi thằng này nó tắm trong cùng 1 vũng bùn tới 3 lần.Rồi chi tiết thằng Hajime chơi qua đường với mấy nhỏ ất ơ lúc vợ nó mang bầu, tác giả nói "thậm chí là còn không ý thức được là mình phản bội Yukiko".Rồi chi tiết nó ngủ với tình đầu trong khi có vợ: "tôi sẵn sàng từ bỏ tất cả, vợ con, tài sản, tiền bạc, sự nghiệp"....

Thích thế sao hồi xưa còn độc thân không đi tìm con người ta đi? lấy vợ làm gì để khổ con người ta ra?

Anh hãm thứ 2 thì không ai thứ nhất.

Hay là mốt ngày xưa nó thế?

Rồi còn "chôn vùi 8 năm tươi đẹp trong nhà xuất bản".

Không thích làm việc nhàm chán thì nhảy việc đi ủa?

Ai kề dao vô cổ bắt làm?

Thích làm nghệ thuật thì tự thân vận động đi ủa?

Cuộc đời mình mà thích đổ thừa do xui quá à.Rồi tới con Yukiko.

Bồ đá thì buồn thôi chứ mắc gì tự tử?

Rồi được kể ra như thể đáng thương lắm.

Rồi tới con Shimamoto.

Biết cách bày trò lắm.

Gì mà đột nhiên xuất hiện, rồi đột nhiên biến mất, rồi lại đột nhiên xuất hiện, lăn giường với người ta xong lại biến mất.

Thích gây sự chú ý ha gì?

Biết người ta đã có vợ rồi còn ráng gạ 🙂 .

Rồi còn bày đặt rủ đi sông để thả tro.

Tự đi mình đi má, ai đời rủ đàn ông có vợ tới chỗ vắng vẻ nắm tay đi dạo 🙂 lãng mạn quá ha? thơ mộng quá ha?

Rồi tặng đĩa nhạc, rồi cùng nhau đi nghe nhạc, rồi ngủ với người ta luôn.

Trầm cảm thì tự xử mình đi, tự nhiên muốn người ta chít chung, rồi kéo theo vợ người ta trầm cảm chungRồi là do ông tác giả này bị trầm cảm, hay Nhật Bản thời đó nó thế, mà sao tôi không thấy một nhân vật nào có tâm lý bình thường hết vậy?

(Copy trên FB)- cứ chê thế thôi rồi ai cũng u mê ko lối thoát
 
Back
Top Bottom