Tâm Linh Góc Tối

[BOT] Wattpad

Quản Trị Viên
401541028-256-k837387.jpg

Góc Tối
Tác giả: LuciferAriesVictoria
Thể loại: Tâm linh
Trạng thái: Đang cập nhật


Giới thiệu truyện:

Một câu chuyện tình trai xen lẫn yếu tố tâm linh Tags: dammykinhditrongsinhtrọng-sinhđammỹ​
 
Góc Tối
Chương 1 - Câu chuyện thứ 1: Khao khát tình thương


Đêm tháng bảy, trời tối đen như mực, trên trời không trăng không sao, chỉ có cái không khí oi nồng của mùa hè, cùng tiếng ve kêu inh ỏi.

Trong cái không khí ấy, gió thổi phớt qua cũng mang hơi nóng hầm hập như lửa than.

Cái xóm nhỏ nằm tận chót mép xã Ba Chúc, chỗ đất gò cao giáp ranh mảnh rừng chồi.

Ở đó có căn nhà lá cũ kỹ của ông Ba Dóc, nhà cất bằng lá dừa, vách ván lụp xụp, cột kèo xiêu vẹo, nằm chơ vơ ngay mép rừng chồi.

Chung quanh nhà toàn cây cối che phủ, nhìn xa xa cứ như cái ổ tối thui nằm lọt thỏm trong bụi rậm.

Ban ngày đã vắng vẻ, ban đêm lại càng âm u rờn rợn.

Bốn bề hiu quạnh, tiếng dế gáy rả rích dưới mấy gốc cây, hòa cùng tiếng ve như muốn xé toạt màn đêm, lâu lâu xen lẫn tiếng ễnh ương ồm ộp dưới ao tù sát mé rừng.

Thỉnh thoảng, có con cá rô quẫy mạnh làm mặt nước xao động, gợn lên vài vòng sóng loang loáng dưới ánh đom đóm chớp tắt.

Cả cái khúc xóm ngoài kia im bặt, chỉ còn lại nơi cuối gò này lặng ngắt như tờ.

Càng bước vô gần, cái oi bức của đêm hè dần được thế bằng cái cảm giác ớn lạnh, căn nhà ông Ba Dóc càng lộ ra rõ hơn: mái lá chằm chắp vá, mấy sợi dây mây sổ xuống như tóc người rối.

Cánh cửa gỗ cũ kỹ khép hờ, kẽ hở rịn ra ánh đèn dầu vàng vọt bên trong.

Chung quanh sân có mấy cái hũ nước phơi phèn, trên miệng còn úp ngược mấy lá bùa vẽ ngoằn ngoèo bằng mực đỏ, nước bên trong sậm màu khó ngó.

Kế bên có vài ba cái chum được che chắn kỹ, không biết bên trong chứa cái gì.

Mấy cây cỏ mọc gần quanh nhà chết khô, quéo đen lại.

Một vài nén nhang cắm lụi cụi trên đất, ở góc vườn có một cái bàn nhỏ, nhìn như cái bàn thờ, nhưng không thấy thờ Phật hay thổ địa, mà chỉ có lư hương lạnh lẽo, tàn nhang cháy cong queo.

Ngay chái nhà, treo lủng lẳng mấy món kỳ dị: lông gà, xương chó, rễ cây khô bó lại thành từng chùm, gió thổi nghe lộc cộc, rin rít như tiếng ai rên rỉ.

Trong nhà, mùi nhang trầm hăng hắc xộc ra, lẫn với mùi thuốc bắc, mùi lá khô ngai ngái, lâu lâu lại thoảng lên mùi tanh như máu khô.

Bốn bề treo lủ khủ toàn bùa chú, lá bùa vẽ mực đỏ mực đen loằng ngoằng, hình thù quái dị, dán đầy vách lá.

Trên vách còn treo mấy cái trống lắc, mõ gỗ, chuông đồng, roi mây và mấy món linh tinh chỉ ông Ba Dóc mới biết xài để làm gì.

Nhìn kỹ, có cái còn dính tơ tóc bạc phếch, có cái lấm tấm vết đỏ sậm, chẳng biết là sơn hay máu.

Giữa gian nhà đặt một cái bàn thờ gỗ lớn cũ kỹ, trên bàn có ba cái lư hương, mỗi cái đều đầy nghẹt chân nhang, tro tràn ra ngoài, nhìn như một cái ụ đen.

Tàn nhang cháy dở cong queo rũ xuống, dính cứng lại thành từng mảng, coi y như ổ ong khô.

Khói nhang không bay thẳng mà cứ lảng vảng, quấn quýt trong gian nhà, hăng hắc nơi cổ họng, làm người ta hít vô thấy nghèn nghẹn, buồn nôn.

Trên bàn thờ không phải hình Phật hay tổ tiên, mà toàn mấy tấm bùa vàng chữ đỏ, vẽ ngoằn ngoèo, dán chằng chịt xung quanh.

Mấy cái hũ nhỏ bằng sành để lăn lóc, có cái dán nhãn “Ngũ Phương”, có cái chỉ dán miếng giấy đỏ, chẳng biết bên trong chứa gì.

Trước bàn thờ đặt một dĩa thịt bò sống đỏ lồm, mấy con ruồi bu vo ve, chẳng mấy chốc thịt thối um, giòi bọ lúc nhúc, có con bò ra khỏi dĩa, ngọ nguậy đến sát mép bàn, rồi rớt xuống đất.

Hai bên treo cặp đèn dầu leo lét, tim đèn cháy đỏ quạch, khói ám đen lên trần lá, lâu ngày thành một lớp muội đen sì.

Mỗi khi gió lùa qua vách hở, ngọn lửa đèn chập chờn, hắt bóng mấy tấm bùa rung rinh, coi cứ như có ai nhúc nhích trên vách.

Ở góc nhà đặt một bộ chõng tre, trong cái không gian khói nhang lảng bảng, ánh đèn dầu chập chờn ngay phía đầu giường, soi bóng một cậu trai gầy gò in lên vách.

Cậu đang ngồi xếp quần áo, đôi mắt cậu khép hờ, ánh lên một nỗi buồn man mác, hàng mi rũ bóng lên gương mặt có hơi hốc hác, nước da nhợt nhạt thiếu sức sống.

Cậu mặc một chiếc áo thun đen rộng thùng thình, để lộ cánh tay gầy trơ xương, bàn tay thon nhỏ, từng ngón khẳng khiu thoăn thoắt xếp từng bộ, từng bộ vào cái túi bạt lớn.

Xong xuôi hết thảy, cậu đứng dậy đi vào gian trong.

Trong này tối om, bên trong có một bộ ván ngựa lớn, bên cạnh là bàn học, tập sách trên kệ vẫn còn nguyên vẹn, chỉ là hơi cũ, trang giấy đã ngả sang màu vàng nâu.

Ở góc bên tay phải đặt một cái bàn thờ nhỏ, lư hương không giống những cái khác trong nhà, không có tàn tro chất đống lại, vài cái chân nhang cắm trên đó, nhìn qua rất bình thường.

Cậu bước tới gần, thò tay rút một cây nhang trên bàn, lấy hộp quẹt châm lửa đốt.

Một tiếng 'tách' khô khốc vang lên, ánh lửa nhỏ lóe sáng nơi đầu hộp quẹt, cơn gió nhẹ từ đâu thổi qua, ánh sáng vàng hắt ra yếu ớt, lay lắt như sắp tắt.

Đối diện di ảnh đặt ngay ngắn trên bàn, trong ảnh, người con gái gương mặt trái xoan, môi hồng răng trắng, cười rộ lên trông rất đẹp.

Mái tóc dài buông xõa, áo trắng học sinh thoáng lên vẻ ma mị lúc nửa đêm, ánh mắt cô hằn lên vẻ ngây thơ non nớt.

Đứa trẻ này...rõ ràng chỉ mới học cấp hai.

Cậu cầm nhang vái lạy, khấn: "Nguyệt ơi, nay tao lại thắp nhang cho mày, mày sống khôn thác thiêng phù hộ cho tao với ông Ba mạnh giỏi, sớm tìm ra cái người hại mày cho họ nhận quả báo.

Mai tao lên Sài Gòn rồi, từ rày chỉ còn ông Ba thắp nhang cho mày thôi, nhưng tao hứa hè mỗi năm tao sẽ dìa thăm mày, mày ráng chờ tao nghen!"

Nhang cắm vào lư hương, khói bay tà tà xuống dưới đất.

Cậu chắp tay xá xá vài cái, rồi xoay người đi lên nhà trên, nửa chừng khóe mắt lại liếc ngang cây đờn kìm bỏ xó trong góc, cậu bước lại gần, tay vừa chạm vào thì chợt nghe tiếng mở cửa ở gian nhà trên.

Nghe tiếng bước chân gấp gáp, nghĩ hổng chừng là ông Ba Dóc về, cậu mới lên coi thử.

Vừa bước ra, chưa kịp nói tiếng nào, ông Ba Dóc đã ngạc nhiên nhìn cậu, ổng nhíu mày, quở: "ủa Nhân, sao giờ này chưa ngủ nữa mậy?

Mai là phải dậy sớm đặng kịp bắt xe đi rồi đó!"

Nhân mới trả lời: "dạ con mới xếp đồ xong, giờ mới chuẩn bị đi ngủ, mà ông Ba làm gì mà gấp gáp quá vậy?

Bộ ông định đi đâu hả?"

Ông Ba Dóc tên thật là Đỗ Thành Công, vốn hành nghề thầy pháp, nhưng lại có cái thói mê cờ bạc rượu chè, thành ra trong mắt dân trong xóm ông không được uy tín cho lắm, họ cứ nghĩ ổng nói khùng nói điên, giở ba cái trò mê tín để làm tiền.

Nhất là mấy thanh niên sinh sau đẻ muộn, dù sao thời buổi bây giờ công nghệ hiện đại rồi, hơi đâu mà đi tin ma quỷ có tồn tại.

Vậy chứ mấy ông mấy bà thì tin ông Ba xái cổ, vì hồi còn trẻ họ cũng từng thỉnh bùa của ổng về làm ăn.

Giờ già rồi kể lại cho con cháu, người thì không tin, kẻ thì bán tín bán nghi, cũng thử đi thỉnh một lá bùa về coi thử, hổng dè linh thật.

Người thì nhờ ổng coi bói, nhưng lại bị từ chối.

Ông Ba bị cái người đòi coi bói đó làm phiền mấy lần, bực quá đâm ra nói đại, kết quả là trật lất, rồi người ta đi đồn, nói ông này ổng xạo, thầy gì mà không biết coi bói.

Làng trên xóm dưới ai cũng vừa sợ vừa cười cợt ổng, rồi không biết là ai đặt cho ổng cái tên gọi ông Ba Dóc, vậy là từ đó ai cũng gọi, cái tên Ba Dóc cứ thế gắn liền với ổng tới giờ.

Hồi đó, ổng lượm được thằng Nhân ở ngoài ruộng, lúc đó ổng mới đi trừ tà ở nhà bà Năm Hơn về, trên người còn mặc nguyên bộ đồ thầy pháp.

Còn Nhân thì ngồi thụp xuống giữa ruộng lúa, co ro ôm chân, người ngợm dơ hầy, trán lấm lem máu, hai mắt láo liên sợ hãi nhìn quanh.

Ổng mới đưa cậu lên trạm y tế trên huyện, băng bó vết thương xong lại đưa cậu ra chợ ăn, nhìn cậu húp xì xụp tô hủ tiếu như chết đói.

Hỏi cậu tên gì, nhà ở đâu, cậu lắc đầu ngơ ngác, ổng định dẫn cậu thẳng lên đồn công an.

Nhưng dọc đường cậu khóc ré lên, ôm eo ổng cứng ngắt, liên mồm nói 'có ma' 'nhiều ma đang đi giữa đường'.

Lúc này ông Ba Dóc mới để ý thấy thằng nhỏ này có gì đó kỳ kỳ, ổng ngồi xổm xuống đối diện cậu, thấy con mắt cậu một bên sáng một bên tối, càng nhìn càng thấy lành lạnh.

Cuối cùng quyết định đổi hướng, đưa cậu về nhà, làm thủ tục nhận nuôi.

Ông đặt tên cho cậu là Đỗ Thành Nhân, không mong cậu thành tài, chỉ mong cậu nên người.

Chứ đừng giống ổng, rượu chè cờ bạc bê tha.

Ông cho cậu đi học, dạy cậu làm bùa.

Dặn cậu hạn chế qua lại với người khác, bởi âm khí trên người cậu quá nặng, dễ khiến người ta bị xui xẻo.

Từ đó tới nay đã được mười năm rồi, sau này, chẳng biết là ai dở hơi, đào lại cái vụ bắt cóc năm đó.

Sự việc lên báo, công an điều tra, phát hiện người mất tích năm đó là cậu.

Vậy là tháng rồi cha mẹ ruột cậu tìm tới, muốn đưa cậu về.

Hiện giờ thủ tục chuyển hộ khẩu đã hoàn tất, thủ tục chuyển trường cũng xong xuôi, ngày mai là cậu phải lên thành phố, chuẩn bị cho tháng chín sắp tới khai giảng lớp 11.

Nghe Nhân hỏi vậy ông cũng không nhìn cậu, mà chỉ trả lời qua loa: "ờ...bà Hai ở trên huyện bả mới điện tao, nói thằng con bả bị nhập, kêu tao tới liền".

Ông mở tủ, quơ mấy bộ đồ với mấy lá bùa vô cái giỏ đệm bàng, miệng dặn: "đêm nay tao hổng dìa, sáng mày nhớ khóa cửa cẩn thận rồi mới đi nha mậy!"

Cậu 'dạ' một tiếng, dẫu thấy bữa nay ông Ba là lạ, nhưng cũng không nghĩ nhiều, mấy chuyện tâm linh thường không báo trước, bị gọi đi nửa đêm cũng là chuyện cơm bữa.

Chỉ hỏi: "anh Thành ảnh sao rồi ông?"

Ông Ba đang lục mấy lá bùa thì khựng lại, cái nhíu mày giữa ấn đường càng thêm sâu, giọng có hơi bực bội: "nhiều chuyện quá!

Cái đó để sau hỏi đi, giờ tao phải đi lẹ!"

'Anh Thành' trong miệng cậu là cái anh con út nhà bà Bảy Mót với ông Cảnh ở xóm trên, vốn là trước đây không có qua lại gì, nhưng hồi năm ngoái, không hiểu sao anh tới xóm dưới này tìm nhà trọ, nghe đâu hình như cãi nhau với ba má.

Nhà ảnh cũng có điều kiện dữ lắm, nhà mần ruộng, nhưng mấy anh chị người thì làm sếp lớn công ty, người thì du học nước ngoài.

Chỉ có anh Thành tới nay vẫn lông bông.

Không phải ảnh không học hành gì, mà ngược lại còn học rất giỏi, thành tích luôn đứng đầu lớp, thi tốt nghiệp còn đậu thủ khoa.

Nhưng mà học nhiều quá, đâm ra bệnh, hôm thi xong môn thi cuối cùng, anh Thành đột quỵ, được mấy giám thị gần đó đưa đi cấp cứu.

Lúc tỉnh lại thì đã như một người khác, không nhớ một ai, kể cả cha mẹ họ hàng.

Bụng lúc nào cũng kêu đói, ăn năm sáu tô cơm vẫn không xi nhê, có khi còn nhìn đứa con nít nhà người ta mà nước miếng chảy dài.

Người trong nhà lẫn hàng xóm ai cũng nói 'cái thằng này chắc học riết nó bị khùng luôn rồi!'.

Từ ngày tỉnh lại, hôm nào anh cũng trốn khỏi nhà đi lang thang bên ngoài, sau mới biết anh đòi xuống xóm dưới ở, cãi cha cãi mẹ đòi dọn ra ngoài cho bằng được, cuối cùng ông Cảnh mới phải đồng ý tìm nhà trọ cho ảnh, may sao người ta thương hoàn cảnh nên chịu cho thuê.

Anh Thành ở trong nhà trọ đó, mỗi ngày bà Bảy đều chạy xe máy tới đưa cơm nước, lấy quần áo dơ về giặt.

Mười tám mười chín tuổi đầu, anh không nghề nghỗng gì, mỗi ngày chỉ đi loanh quanh lòng vòng trong xóm.

Có hôm Nhân đi học về, đi ngang qua ruộng, thấy tụi con nít đang chọc ghẹo anh, gọi anh 'ông khùng kìa!

Ông khùng kìa!'.

Anh lượm cục đá chọi lại tụi nó, làm bộ chạy tới như muốn đuổi theo, tụi nhỏ sợ hãi bỏ chạy.

Anh quay qua thấy Nhân đứng đó, mừng rỡ chạy lại, miệng kêu 'đói, đói'.

Cậu dắt anh ra chợ, anh chỉ vào quán bánh tằm bì nước cốt dừa, cặp mắt sáng long lanh, cười đến ngây dại.

Nhân nhớ, Nguyệt cũng thích ăn bánh tằm bì, khi ăn cô luôn dặn chủ quán chan nhiều nước cốt dừa.

Mà người con trai trước mặt cậu, lại nhìn chằm chặp vào cái dĩa bánh, nước miếng chảy ròng ròng, miệng há ra như cười mà như thở hổn hển.

Anh nói: "nước cốt dừa...thêm nước cốt dừa..."

Đó là lần đầu tiên cậu với anh Thành gặp nhau, kể từ đó, không phải anh tìm cậu, thì cũng là cậu tìm anh.

Cậu đem cây đờn kìm tới nhà anh, nghe anh đờn, cậu hát, mấy bài vọng cổ mà trước đây Nguyệt dạy cậu.

Có hôm mẹ anh tới, bà kinh ngạc nhìn con trai ngồi đờn.

Cậu nói: "là con dạy ảnh đó".

Nhưng rồi chuyện cậu chơi với anh bị người ta học lại cho ông Ba Dóc nghe, ông tới nhà trọ tìm anh.

Khi đó đang vào giờ cơm chiều, bà Bảy Mót thà tin con mình bị ma nhập, cũng không tin anh bị điên.

Vậy là nhờ ông Ba giúp trục vong, tới nửa đêm mới thấy ổng hớt hải chạy về.

Ông Ba gom đủ đồ rồi, quay sang đưa cậu một gói bùa, nghiêm túc dặn: "cầm lấy, từ rày về sau mày nhớ phải giữ cái này bên người, cấm tuyệt đối quên nghe chưa?"

Cậu chưa kịp gật đầu, thì ổng đã nói: "thôi tao đi!"

Nhưng vừa quay đầu, liền thấy bà Bảy Mót dẫn theo hai người đàn ông mặc đồng phục công an xông vô nhà, phía sau là mấy người dân hiếu kỳ đi theo nhiều chuyện.

Một chú công an đứng ra, nhìn ông Ba Dóc, rồi hỏi: "cho hỏi ông có phải là Đỗ Thành Công?"

Ông Ba xanh mặt, nuốt nước miếng, nói: "dạ phải".

Chú công an nói tiếp: "ông bị tình nghi ra tay giết anh Ngô Văn Thành, mời ông đi theo chúng tôi để phối hợp điều tra!"

"Hả?

Tui...tui không có giết người!"

- ông hoảng hốt, run rẩy xua tay.

Bà Bảy đỏ mắt đứng bên cạnh, nước mắt nước mũi tèm lem, bà lao lên muốn đánh người, nhưng bị cán bộ giữ chặt.

Giọng bà vừa nghẹn ngào, vừa đau xé, vừa giận dữ uất ức: "thằng chó, mày trả con lại cho tao!!"

"Con mẹ mày!

Đồ trời đánh thánh đâm!"

"Đồ chó đẻ!!

Aaaaaaa...trả con tao lại cho tao!"

Trong tiếng chửi mắng của người đàn bà đang khóc con, ông Ba Dóc bàng hoàng, hết nhìn công an, nhìn bà con lối xóm bên ngoài đang xì xào bàn tán, lại quay qua sau nhìn đệ tử đang đứng chết trân, miệng lẩm bẩm: "tui không có giết người!

Tui không có giết người!..."

Ông quay sang bà Bảy, giải thích: "tui không có giết thằng Thành!

Con bà nó chết lâu rồi, trước khi làm phép tui có nói rõ với bà rồi mà!

Cái vong nhập vô nó là người khác, con bà nó chết lâu rồi!"

Lời giải thích này đương nhiên không một ai tin, ông bị hai đồng chí công an khống chế, còng tay đưa đi.

Miệng ông vẫn hét lớn: "tui không có giết người!

Tui không có giết người!"

"Các người tin tui đi!

Tui không có giết người mà!"

Trước lúc ra khỏi cửa, ông quay đầu hét về phía cậu: "nhớ kỹ lời tao, giữ chặt tấm bùa, đừng để mất!"

Nhân chỉ biết đứng lặng nhìn ông bị đưa đi, mấy người trong xóm vẫn tụ tập trước cửa, chỉ trỏ bàn tán:

"Má, tao nói có y hông, thằng cha này xạo chứ thầy pháp gì!"

"Tối ngày mê tín dị đoan, uống ba cái bùa riết lú, con Nguyệt chắc cũng do ổng hại chết chứ đâu".

"Thì bởi, ổng ám ảnh ba cái bùa riết ổng khùng, ổng giết người ta luôn, may ổng chưa giết thằng Nhân đó!

Trời, bây coi, coi ổng dán bùa khắp nhà kìa, nhìn ghê hông?"

"Mà ổng bị bắt rồi giờ thằng Nhân nó sống một mình hả?"

"Đâu có, tao nghe nói nó tìm lại được ba mẹ ruột rồi mà, nghe đâu ở trên Sài Gòn á!"

"..."

Tai cậu ù đi, chỉ nghe một cơn tức nghèn nghẹn trong lồng ngực, chạy đi xách chổi, nhắm vào đám người đó mà quét: "đi đi!

Mấy người đi hết đi!

Không ai được quyền nói thầy tôi như vậy hết!"

Mấy người họ giật mình, vội vàng tránh đi, có người quở: "trời ơi cái thằng này, mày mất dạy vừa vừa!"

"Thôi nói nó chi, nó đi theo ông Ba Dóc nó học theo thành ra khùng luôn rồi!"

Cậu đóng cửa, cánh cửa đơn sơ nhìn không khác cái vách lá là bao, không chặn được những cái miệng ngoài kia, tiếng chửi rủa vẫn còn văng vẳng.

Cậu mệt mỏi ngồi xuống ghế, ánh mắt đờ đẫn vô hồn, nhìn một vòng quanh nhà.

Cậu nhìn trên cao, mấy cái dụng cụ trừ tà ông Ba để lại, cuối cùng ánh mắt dừng lại trên dĩa thịt lúc nhúc giòi.

Cậu cứ thế nhìn, thật lâu thật lâu, cho đến khi xung quanh bốn bề im ắng.

Cậu đứng dậy, lôi từ trong tủ ra một cái túi bạt nữa, bắt ghế lấy hết mấy dụng cụ kia xuống, rồi đi vô nhà trong cầm di ảnh ra ngoài, cất cẩn thận trong túi bạt.

Xong xuôi, cậu xách hai túi bạt lớn ra khỏi nhà.

Đi trên con đường đất ngoằn ngoèo, cả một đoạn dài tối om toàn ruộng đồng với vườn hoang.

Trời không trăng, cậu lần mò trong đêm tối, đi thật lâu tới tầm hai ba giờ sáng mới thấy xa xa lác đác vài căn nhà mái tôn, đèn huỳnh quang sáng trưng dưới mái.

Cậu thẳng tiến về phía trước, bỏ lại sau lưng, lẫn trong lũy tre già, một cái bóng đỏ dõi mắt nhìn theo.
 
Back
Top Bottom